Nói về Dương Tiển đến núi Phi Long, nữa đường bị một hòn núi cao ngất đón lại nên phải sa xuống.
Bên núi tòng bá mịt mù, cảnh đẹp vô cùng, lại nghe tiếng hạc ré vang trời, mùi hương bay ngào ngạt.
Dương Tiển lần theo mé núi, một đổi thì đến một cái cầu, qua khỏi cầu đến một tòa lầu ngói xanh, cửa đỏ, bên trên có treo một tám biển để bốn chữ “Thanh Loan Ðẩu Khuyết”.
Dương Tiển mê mẩn trước cảnh đẹp thiên nhiên ấy, quên cả nhiệm vụ mình.
Bỗng thấy cửa tòa lầu mở ra, vài tiếng chim loan chim hạc kêu réo, tiếp đó hai nàng tiên cầm phướng, quạt đi trước, một vị đạo cô đi giữa mặc áo hồng bào, có tám nàng tiên theo sau hầu hạ, mùi hương ngào ngạc, ánh sáng chiếu lòa.
Có bài thơ rằng:
Sanh chốn diêu diêu trì thiệt cấm cung
Ðây qua non phụng cũng thung dung
Áo vàng dải ngọc xem tươi tắn
Áo đỏ mày xanh nhắm lạnh lùng
Lỡ hội bàn Ðào sa chén rượu
Nương tòa Ðâu khuyết dựa rùng thung
Biết nay mãn hạn về lầu cũ
E nổi vương mang lấy chữ tùng.
Dương Tiển trông thấy ngạc nhiên, vội ẩn mình trong rừng rậm không dám ló mặt ra, đợi các tiên cô đi qua sẽ đứng dậy độn thổ.
Nhưng lánh không khỏi những làn mắt của các tiên nương, vị đạo cô đi giữa hỏi các tiên nương hầu hạ:
– Có ai ẩn trong rừng, các ngươi đến xem thử.
Một tiên nữ vâng lệnh bước tới.
Dương Tiển biết không xong, túng thế phải ra mặt thưa:
– Ðệ tử là Dương Tiển, học trò Ngọc Ðảnh chơn nhơn, động Ngọc Tuyền, núi Kim Hà. Nay vâng lệnh Khương Tử Nha qua núi Phi Long có việc. Lúc đang đằng vân đi thẳng, không dè bị hòn núi cao đón lại, sa chân vào đây, xin tiên cô tha lỗi.
Tiên nữ về thưa lại. Nàng tiên đi giữa truyền:
– Nếu là học trò của Ngọc Ðảnh chơn nhơn thì cho phép được vào đây ra mắt.
Dương Tiển vội bước tới làm lễ.
Ðạo cô hỏi:
– Ngươi đi đâu mà lạc bước đến đây?
Dương Tiển thưa:
– Thổ Hành Tôn theo Ðặng Cửu Công trợ lực đánh Tây Kỳ. Nó có phép địa hành rất nguy hiểm, vừa rồi thiếu chút nữa nó thích khách Võ vương và Thừa Tướng. Nay tôi vâng lệnh Khương Thừa Tướng đến núi Phi Long điều tra nguồn gốc để mưu bắt nó.
Ðạo cô nói:
– Thổ Hành Tôn là học trò của Cù Lưu Tôn. Cù Lưu Tôn thả học trò đi làm bậy thì cứ kêu thầy nó xuống là xong. Người có về Tây Kỳ nói giúp rằng ta kính kiến Tử Nha. Thôi ngươi đi đi kẻo trể.
Dương Tiển bái và hỏi:
– Xin nương nương cho biết danh hiệu để đệ tử thưa lại.
Ðạo cô nói:
– Ta là Long Kiết công chúa, mẹ ta là Diêu Trì Kim Mẫu, cha ta là Hạo Thiên thượng đế. Nhân vì năm trước ta dọn hội bàn đào đãi rượu lỡ tay phạm tội, bị đầy xuống núi Phụng Hoàng ở động Thanh Loan Ðẩu Khuyết.
Dương Tiển nghe rõ, từ tạ Công chúa, đằng vân bay đi. Nhưng chỉ chốc lát lại sa xuống nữa, coi lại là một cái ao lớn, mặt ao gió thổi ào ào, sóng dậy lăn tăn. Dưới ao có một con quái thú, răng nanh như gươm bạc, miệng đỏ như chậu máu, gầm lên một tiếng, nhảy lên bờ, hai tay cầm chĩa ba đâm Dương Tiển.
Dương Tiển cười lớn nói:
– Ðồ yêu quái sao dám xâm phạm đến ta?
Nói rồi cầm gươm đâm lại. Ðánh được ít hiệp Dương Tiển vỗ tay một cái, sấm nổ vang trời, của quái thú ấy vác chĩa sắt chạy hoảng.
Dương Tiển đuổi theo đến chân núi kia có một cái hang mà miệng bằng cái thúng. Con quái ấy chun xuống miệng hang.
Dương Tiển cười nói:
– Ai thì không dám chui theo, chớ ta rượt ngươi đến tận ổ.
Nói rồi chui xuống hang, ánh sáng lờ mờ như đi vào đêm tối.
Dương Tiển trợn con mắt giữa hào quang chiếu sáng lòa. Khi đến chỗ tột cùng thì không thấy ai cả, trong hang lại có để một cây dao ba mũi, hai mép bén như gươm chiếu hào quang sáng giới, nơi cán dao có buộc một cái gói bằng vải.
Dương Tiển lấy ngọn dao và cái gói ấy lên khỏi miệng hang, mở ra xem, trong gói chỉ có một cái áo rộng màu xanh.
Dương Tiển mặc áo vào thì vừa vặn.
Lấy làm thích chí, Dương Tiển cởi áo gói lại, lấy đao ra đi.
Bỗng nghe sau lưng có tiếng kêu lớn:
– Bắt thằng ăn trộm áo.
Dương Tiển quay lại thấy có hai đứa nhỏ đang chạy theo liền trợn mắt hỏi:
– Ai là ăn trộm?
Hai thằng nhỏ nói:
– Ngươi chớ ai.
Dương Tiển nói:
– Ta đoạt của con quái thú sao chúng bay lại bảo là ta ăn trộm. Ta là Dương Tiển, học trò Ngọc Ðảnh chơn nhơn, tu hành đã lâu năm, lẽ nào lại đi ăn cắp.
Hai đứa bé nghe nói vội quỳ xuống đất thưa:
– Tôi nghe danh thầy đã lâu, vì không biết mặt lên lầm lỡ, xin thầy miễn chấp.
Dương Tiển hỏi:
– Hai ngươi tên họ là chi?
Hai đứa bé đáp:
– Hai chúng tôi là Kim Mao đồng tử ở núi Ngũ Di, xin theo thầy làm đệ tử.
Dương Tiển nói:
– Như vậy thì tốt lắm. Hai ngươi muốn thọ giáo thì đi trước qua Tây Kỳ ra mắt Khương Thừa Tướng, và nói: Ta còn qua núi Phi Long, ít hôm sẽ về.
Kim Mao đồng tử thưa:
– Nếu Thừa Tướng không dụng, hai tôi biết tính làm sao?
Dương Tiển nói:
– Hai ngươi đem cây thương và cái áo của ta đến đó làm tin.
Hai đồng tử vâng lệnh từ tạ Dương Tiển rồi độn thủy qua Tây Kỳ.
Hai anh em Kim Mao đồng tử vừa đến nơi, quân giữ cửa trông thấy liền vào báo với Tử Nha có hai vị đạo đồng xin ra mắt.
Tử Nha cho vào.
Hai đồng tử đến trước mặt làm lễ và thưa:
– Hai tôi là Kim Mao đồng tử, học trò của Dương Tiển chơn nhơn. Thầy tôi có đưa áo và đao, gặp hai tôi thu làm đệ tử, sai đem về trước ra mắt Thừa Tướng.
Tử Nha khen:
– Dương Tiển có học trò như vậy cũng hay thôi, hai ngươi sẽ ở trong thành hầu việc.
Bấy giờ Dượng Tiển đã qua đến núi Phi Long, vào động làm lễ ra ra mắt Cù Lưu Tôn.
Cù Lưu Tôn hỏi:
– Ngươi đến đây có việc chi?
Dương Tiển thưa:
– Sư bá có mất Khổn Tiên thằng không?
Cù Lưu Tôn trợn mắt đứng dậy hỏi:
– Sao ngươi biết?
Dương Tiển thưa:
– Thổ Hành Tôn theo Ðặng Cửu Công đành Tây Kỳ, dùng dây Khổn Tiên bắt hết các tướng, và trói cả Thừa Tướng Tử Nha. Tôi biết phép ấy của Sư bá, nên phải đến đây thưa chuyện.
Cù Lưu Tôn giận đỏ mặt, vỗ án hét:
– Thằng súc sanh dám trốn xuống thế gian, trộm bửu bối của ta làm cho ta mang tiếng. Thôi ngươi hãy về đi, ta sẽ theo chân xuống đó.
Dương Tiển từ tạ, trở về Tây Kỳ thưa với Tử Nha:
– Tôi đã đi qua Phi Long động trình với Cù Sư bá. Thổ Hành Tôn đúng là học trò của Cù sư bá, nó ăn cắp dây Khổn Tiên làm bậy.
Nói rồi thuật chuyện mình đi lúc đến Thanh Loan Ðẩu Khuyết và việc được đao, áo, thâu đệ tử vân vân.
Tử Nha nói:
– Ta mừng cho ngươi có hai đứa đồ đệ.
Nói về Cù Lưu Tôn sau khi nghe Dương Tiển báo tin, liền khiến đệ tử giữ động, rồi hiện hào quang bay thẳng qua Tây Kỳ, quân giữ cửa thấy Cù Lưu Tôn đến vội vào phi báo.
Tử Nha ra ngoài nghinh tiếp mời vào trướng phủ, và nói:
– Học trò anh bắt tướng rất nhiều, tôi không ngờ. Nhờ Dương Tiển sáng ý nên mới tìm ra manh mối. Vậy xin anh giúp đỡ cho tròn chung thủy, thật tôi cảm nghĩa vô cùng.
Cù Lưu Tôn nói:
– Từ lúc phá trận Thập tuyệt đến nay tôi không xem lại bửu bối chẳng ngờ thằng súc sanh đó ăn cắp trốn đi làm dữ. Nhưng chẳng hề chi, tôi đã có kế, xin đạo huynh cứ làm như vầy thế nào cũng bắt nó được.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ vô cùng.
Hôm sau một mình cởi Tứ Bất Tướng đến dinh Thương giả bộ đi thám thính.
Quân thám thính trông thấy liền vào báo với Ðặng Cửu Công:
– Chúng tôi thấy Tử Nha cỡi thú đi có một mình, không biết dụng ý gì?
Ðặng Cửu Công nói:
– Tử Nha dụng binh hay lắm, nếu đi một mình như vậy chắc có mưu kế chi đây, chúng ta chớ khá khinh khi.
Thổ Hành Tôn nói:
– Nếu thế thì may lắm, xin Nguyên soái cho tôi ra lệnh bắt Tử Nha là yên chuyện..
Ðặng Cửu Công nói:
– Tướng quân muốn đi phải giữ mình cẩn thận.
Thổ Hành Tôn tuân lệnh xách côn ra khỏi dinh, gọi Tử Nha nói:
– Khương Thượng, ngươi đã tới số mới đến dinh ta thám thính. Ta đố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.
Nói rồi đưa côn ra đánh liều. Tử Nha chống cự được ba hiệp liền giục Tứ Bất Tướng chạy dài.
Thổ Hành Tôn rượt theo, quăng dây Khổn Tiên lên quyết bắt sống Tử Nha, không ngờ Cù Lưu Tôn đứng trên mây thâu dây Khổn Tiên lập tức.
Thổ Hành Tôn dốc lòng bắt Tử Nha để sớm ban sư về trào mà cưới Thiền Ngọc, bởi đắm say mỹ sắc nên mê mẩn anh hùng, đến nổi dây Khổn Tiên không sa xuống mà Thổ Hành Tôn vẫn không để ý cứ đuổi theo Tử Nha bén gót. Khi rượt Tử Nha chạy quá một dặm đường, nhìn lại không thấy dây Khổn Tiên đâu, Thổ Hành Tôn ngỡ là dây phép đã trở lại trong túi rồi, liền thò tay vào đãy không thấy đâu cả, mới thất kinh hồn vía, không dám đuổi theo nữa.
Tử Nha day lại kêu lớn:
– Thổ Hành Tôn, ngươi dám đến đây. Dám đánh với ta ba hiệp nữa chăng?
Thổ Hành Tôn nghe nói nổi giận xách côn đuổi theo, vừa khỏi vách tường kia, xảy thấy Cù Lưu Tôn đứng đó chờ.
Cù Lưu Tôn hét lớn:
– Thổ Hành Tôn, ngươi chạy đi đâu vậy?
Thổ Hành Tôn trông thấy thầy, kinh hãi nhào xuống đất mà trốn.
Cù Lưu Tôn chỉ xuống đất một cái nói:
– Ðố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.
Tức thì đất cứng như đá, Thổ Hành Tôn chun không được. Cù Lưu Tôn đuổi theo nắm đầu, lấy dây Khổn Tiên trói cặp giò lại xách về thành Tây Kỳ.
Các tướng nghe tin bắt được Thổ Hành Tôn xúm lại coi đông lắm.
Cù Lưu Tôn quăng Thổ Hành Tôn dưới đất, Dương Tiển vội thưa:
– Xin sư bá cẩn thận kẻo nó chun xuống đất lủi mất.
Cù Lưu Tôn nói:
– Có ta đây! Không hề chi đâu.
Rồi quay lại hỏi Thổ Hành Tôn:
– Từ lúc phá trận Thập Tuyệt đến nay ta không coi lại dây Khổn Tiên, vậy ai bày ngươi ăn cắp báu vật đến giúp Ðặng Cửu Công, hãy khai cho rõ.
Thổ Hành Tôn aói:
– Lúc sư phụ đi phá trận Thập Tuyệt chưa về, đệ tử ở nhà đi dạo quanh núi, bỗng gặp một đạo sĩ cỡi cọp đi ngang qua đó, xưng là Thân Công Báo, người tu Xiển giáo, bảo tôi không có số thành tiên, chỉ được hưởng công hầu phú quí, và viết thơ giới thiệu cho Ðặng Cửu Công trọng dụng. Thưa sư phụ, tôi nghe nói đến cảnh giàu sang nên ham. Lỡ ăn cắp dây Khổn Tiên xuống phàm xin thầy hỉ xá, tha cho đệ tử một lần.
Tử Nha giả vờ nói đốt một câu:
– Ðạo huynh ơi! Thằng súc sanh này làm nhục giáo phái ta lắm, xin chém đầu cho rảnh.
Cù Lưu Tôn nói:
– Tội nó đáng chém đầu, song nghĩ lại sau này Thừa Tướng có thể dùng nó để sai khiến trong binh cơ, thêm một tướng phò Châu diệt Trụ.
Tử Nha nói:
– Ðạo huynh truyền phép địa hành cho nó không ngờ nó lại dùng phép ấy thích khách Võ Vương và tôi. May nhờ trời ra điềm trước, tôi đánh tay biết được mới giữ mình khỏi hại.
Cù Lưu Tôn nổi giận mắng:
– Súc sinh! ngươi làm chuyện động trời, nếu việc làm của ngươi thành tựu thì tội lỗi ấy ta gánh chịu hết. Ta dạy dỗ ngươi lâu nay ngươi đền ơn ta như vậy sao?
Thổ Hành Tôn năn nỉ:
– Ðệ tử thật mù quáng. Ðặng Cửu Công có một đứa con gái xin đẹp tuyệt vời hứa gả cho đệ tử, nếu đệ tử sớm dẹp được Tây Kỳ ban sư về Triều Ca, lòng đệ tử nóng như lửa đốt mong cho sớm đến ngày hạnh phúc ấy, nên đã tính chuyện hành thích Võ vương và sư thúc. Nay đệ tử hối lỗi và thưa thật mọi điều.
Cù Lưu Tôn nghe nói cúi mặt ngẩm nghĩ một hồi, rồi đánh tay xem.
Tử Nha thấy vậy hỏi:
– Ðạo huynh hình như có điều gì nghĩ ngợi.
Cù Lưu Tôn nói:
– Bần đạo vừa bói ra quả thật Thổ Hành Tôn có duyên nợ với nàng Thiền Ngọc. Việc này do trời định, không phải chuyện tình cờ. Nay hai nước thù nghịch nhau, thật khó tính.
Tử Nha nói:
– Ðặng Cửu Công là vị Nguyên soái của nhà Thương, lẽ nào gả con cho tướng Châu, trong lúc hai nước đang giao tranh.
Cù Lưu Tôn nói:
– Võ vương là người phước lớn, vả lại duyên nợ đã do trời định thì nhắm việc không khó khăn đâu, nếu nàng Thiền Ngọc về tay Thổ Hành Tôn rồi thì Ðặng Cửu Công nhất định đầu Châu.
Nay phải lựa người mưu trí đến dinh Thương làm mai mới được
Tử Nha ngẩm nghĩ một lúc rồi nói:
– Nhắm trong triều không ai đủ sức làm việc ấy chỉ có Táng Nghi Sanh họa may đi được mà thôi.
Cù Lưu Tôn nói:
– Vậy thì phải sai Táng Nghi Sanh đi gấp kẻo trễ.
Tử Nha cho đòi Táng Nghi Sanh đến thương nghị, truyền tha tội cho Thổ Hành Tôn..
Một lúc sau Táng Nghi Sanh đến hầu, Tử Nha nói:
– Ðặng Cửu Công có một gái là Thiền Ngọc hứa gả cho Thổ Hành Tôn, nay phiền quan Ðại phu đến làm mai và muốn cho xong việc phải dùng kế như vầy mới được.
Tử Nha bàn luận với Táng Nghi Sanh một hồi Táng Nghi Sanh tuân lệnh ra đi.
Nói về Ðặng Cửu Công ngồi trong dinh chờ mãi không thấy Thổ Hành Tôn trở về lòng đang lo lắng, bỗng nghe quân báo:
– Thổ Hành Tôn bị Tử Nha bắt sống rồi.
Ðặng Cửu Công kinh hãi than:
– Nếu Tây Kỳ bắt sống người này thì ta đánh sao lại.
Trong lúc Ðặng Cửu Công đang ngồi buồn vì tin Thổ Hành Tôn bị bắt, xảy thấy quân vào báo:
– Có quan Thượng Ðại phu bên Tây Kỳ là Táng Nghi Sanh đến trước cửa thành xin vào yết kiến lão gia.
Ðặng Cửu Công nói:
– Hai nước đang đánh nhau, lẽ nào chúng lại sai người sang yết kiến! Có lẽ chúng nó muốn làm thuyết khách chăng? Ta không muốn cho nó vào nói nhiều chuyện làm lay động tinh thần giao đấu của ba quân.
Nói rồi sai quân ra ngoài cửa kêu Táng Nghi Sanh nói lớn:
– Hai nước đang chiến tranh, không nên đàm đạo.
Táng Nghi Sanh nghe quân trên thành nói như vậy liền đáp:
– Hai nước tuy chiến tranh, nhưng việc sứ thần qua lại là chuyện thông thường từ xưa đến nay, lẽ nào lại không tiếp sứ. Ta nay vâng lệnh Khương Thừa Tướng đến đây có một việc cơ mật, không tiện nói công khai, phải giáp mặt Ðặng Nguyên soái mới tỏ tình được. Chúng bây vào thưa lại.
Quân vào thưa đủ mọi lời.
Ðặng Cửu Công ngồi làm thinh ngẩm nghĩ.
Thái Loan nói:
– Sẳn dịp chúng ta cho nó vào thành xem nó nói việc gì rồi sẽ tùy cơ ứng biến, nếu từ chối chúng sẽ khinh ta nhút nhát, vả việc tiếp sứ thần nước địch trong lúc hai bên đang giao tranh, không có gì tai hại.
Ðặng Cửu Công khen phải, liền truyền tả hữu mời Táng Nghi Sanh vào.
Ðặng Cửu Công ra nghinh tiếp, mời vào đại điện trà nước, và nói:
– Ðại phu với ta là hai nước cừu địch đang giao tranh, chưa tỏ thắng bại. Nay Ðại phu đến đây, nếu là việc công thì nói công, việc tư thì nói tư, chẳng nên dùng lời thuyết phục mà nhọc lòng nhau tranh luận. Lòng tôi như sắt đá, không thể ai nói mà xiêu.
Táng Nghi Sanh cười lớn và đáp:
– Nguyên soái đang cầm binh tranh thắng phụ, tôi nào dám đến đây dùng ba tấc lưỡi mà khuyên lơn. Ngặt có một việc đại sự vừa xảy ra ngoài vòng tranh chấp, cho nên tôi không ngại gian lao đến đây tỏ với Nguyên soái đôi lời.
Ðặng Cửu Công nói:
– Thế ra là việc riêng của quan Ðại Phu đối với tôi sao?
Táng Nghi Sanh nói.
– Không phải là việc tư nhưng không gọi là việc công được. Vừa rồi bên bên Tây Kỳ có bắt được một tướng, hỏi ra là rể của ngài. Thừa Tướng tôi vì tình chẳng nỡ làm hại e dứt tình ái ân của hai trẻ mà tổn đức bình sanh, nên tôi cốt qua đây để thưa với ngài định liệu lẽ nào cho nhất định.
Ðặng Cửu Công kinh hải nói:
– Tôi có người rể nào đâu mà bị Khương Thừa Tướng bắt!
Táng Nghi Sanh nói:
– Nguyên soái chớ nên từ chối. Lịnh tế là Thổ Hành Tôn.
Ðặng Cửu Công nghe nói hổ ngươi mặt đỏ gay, nói với giọng giận dữ:
– Con tôi là nàng Thiền Ngọc mồ côi mẹ từ thuở bé. Tôi xem như một trứng mỏng cầm trong tay, lẽ nào lại chịu gả cho đứa thất phu như vậy. Nay tuy nó mới mười lăm tuổi, nhưng nhiều chỗ đang cầu thân, còn Thổ Hành Tôn là người thế nào mà dám mơ ước điều đó?
Táng Nghi Sanh nói:
– Xin nguyên soái bớt giận để tôi thưa một đôi lời. Người xưa kén rể không phải cần giàu sang mà cốt có tài năng có uy danh với xã hội. Còn Thổ Hành Tôn không phải là kẻ bất tài, lại là đệ tử của Cù Lưu Tôn chơn nhơn ở Phi Long động. Bởi Thân Công Báo có oán Tử Nha nên xúi Thổ Hành Tôn xuống đầu Nguyên soái. Nay Cù Lưu Tôn xuống núi, bắt Thổ Hành Tôn tra hỏi. Thổ Hành Tôn mới khai rõ đầu đuôi.
Ðặng Cửu Công nói:
– Nó được Thân Công Báo tiến cử với tôi tại ải Tam Sơn, tôi vị tình Thân Công Báo cho làm tướng cạnh, nào có gì trọng đãi đâu.
Táng Nghi Sanh nói:
– Tuy vậy, nhưng Nguyên soái đã hứa gả nàng Thiền Ngọc cho nên nó quyết lòng chinh phạt Tây Kỳ, để đạt lời hứa ấy. Trước mắt Cù Lưu Tôn và Khương Thừa Tướng nó cứ một mực nói như vậy, và năn nỉ rằng việc hôn nhân không thành nó chết vẫn không nhắm mắt. Tôi thấy tội nghiệp không lẽ chấp nhận một phen lầm lỗi mà dứt việc trăm năm của người sao? Tôi xin Thừa Tướng tôi cầm Thổ Hành Tôn lại, để tôi sang đây báo lại cho Nguyên soái hay, xin Nguyên soái lấy lòng cha mẹ như trời đất, cho con rể vầy duyên. Tôi chẳng nài rìu búa, cốt làm việc nghĩa nhân, nếu Nguyên soái có muốn như vậy thì Thừa Tướng tôi đưa Thổ Hành Tôn về làm rể, rồi sẽ lo việc giao binh.
Ðặng Cửu Công nói:
– Ấy là Thổ Hành Tôn kiếm chuyện đỡ gạt cho khỏi chết, y làm nhẹ thể con tôi, chớ thật ra Thổ Hành Tôn có giá trị gì mà tôi hứa gả con cho nó? Xin quan Ðại phu chớ tin.
Táng Nghi Sanh nói:
– Xin nguyên soái chớ từ khước. Việc này tôi nghĩ cũng có duyên cớ, nếu Nguyên soái không nói Thổ Hành Tôn nào dám đặt điều. Tôi tưởng Nguyên soái vì một lúc nào quá chén trong tiệc khao quân, dùng lời an ủi, khích tướng nung chí anh hùng. Còn Thổ Hành Tôn tưởng ngài hứa gả thiệt nên đem lòng vọng tưởng như vậy.
Ðặng Cửu Công thấy Táng Nghi Sanh nói đúng ý mình, gật đầu khen Ðại phu nói chuyện tâm lý lắm.
– Về việc Thổ Hành Tôn thì thực ra trước đây tôi không mấy trọng dụng. Sau đó tôi thua luôn mấy trận, nhờ Thổ Hành Tôn ra tài bắt luôn mấy tướng. Tôi mở tiệc khao quân, cốt nung lòng tướng sĩ. Trong tiệc, Thổ Hành Tôn có nói, nếu tôi dùng nó làm Tiên phong thì nó dẹp Tây Kỳ không lâu. Khi ấy tôi cũng quá chén nên dùng lời kích thích nó: bảo nó hết lòng ra sức, chừng ban sư về trào tôi sẽ gả Thiền Ngọc cho. Ðó chỉ là lời khích lệ, nào có ăn thua gì. Nay nó bị bắt rồi còn mơ ước gì nữa.
Táng Nghi Sanh mỉm cười nói:
– Tuy vậy nhưng Nguyên soái là người có địa vị trong xã hội một lời đã nói ra bốn ngựa khôn theo. Việc hôn nhân là việc trọng đại, bởi Nguyên soái hứa trước nên Thổ Hành Tôn mới dám ước mơ. Nay Thổ Hành Tôn đem lời ấy nói với mọi người, ai ai cũng biết, và ai ai cũng tưởng Nguyên soái kén rể cho con chớ không một ai tin là Nguyên soái mượn con gạt tướng. Theo tôi nghĩ đó chẳng qua là một lời nói sơ hở nhưng rất có hại đến Thanh danh, nếu Nguyên soái từ chối.
– Tôi không gả con cho Thổ Hành Tôn thì việc gì hại đến thanh danh?
Táng Nghi Sanh nói:
– Thiên hạ sẽ dị nghị là Nguyên soái đem con gái mình làm mồi nhử tướng, như vậy danh tiếng của Tiểu thơ còn gì, và giá trị của Nguyên soái cũng vì đó nhẹ đi chứ.
Ðặng Cửu Công bị Táng Nghi Sanh nói ràng buộc, ngồi hổ thẹn làm thinh.
Thái Loan bước đến thưa nhỏ:
– Xin Nguyên soái đừng từ chối, hãy theo kế hoạch ấy thì tiện lắm. Tôi đã có chước hay.
Ðặng Cửu Công nghe nói, đổi giận làm vui nói:
– Thôi được. Tôi đã hứa lỡ thì cũng vì danh tiếng của con tôi mà tác thành. Vậy Ðại phu trở về thưa lại với Thừa Tướng rằng tôi sẽ hỏi ý kiến con gái tôi, và sẽ có lời phúc đáp.
Táng Nghi Sanh mừng rỡ từ giã Ðặng Cửu Công trở về thành.
Ðặng Cửu Công đưa Táng Nghi Sanh ra khỏi cửa.
Táng Nghi Sanh về đến trướng phủ thưa rõ mọi việc với Tử Nha.
Tử Nha cười ngất và nói:
– Mưu kế của Ðặng Cửu Công gạt ta sao nổi.
Cù Lưu Tôn nói:
– Ðể xem thử Ðặng Cửu Công trả lời ra sao rồi sẽ tính.
Bấy giờ Ðặng Cửu Công sau khi tiễn Táng Nghi Sanh đi rồi thì vào hỏi Thái Loan:
– Hồi nãy ngươi bảo ta chịu đỡ cho xuôi, vậy ý ngươi tính lẽ nào?
Thái Loan nói:
– Tôi muốn dùng tượng kế tựu kế, ngày mai Nguyên soái sai một người ăn nói bặt thiệp đến dinh Tây Kỳ nói với Tử Nha rằng hai nước đang giao chiến, việc cầu hôn không được tin nhau lắm, nếu Tử Nha thật lòng thì phải đem lễ vật đến dinh ta mới được. Nếu Tử Nha không dám đến thì việc ấy coi như bỏ qua, bằng Tử Nha đem lễ vật đến, dĩ nhiên sẽ không có binh tướng nhiều. Chừng ấy muốn bắt Tử Nha không khó lắm. Tử Nha mà bị bắt thì Tây Kỳ cứ như rắn không đầu, Nguyên soái chỉ đánh một trận là thành công.
Ðặng Cửu Công mừng rỡ nói:
– Kế của ngươi hay lắm. Nhưng Tây Kỳ nhiều tướng giỏi, nếu Tử Nha đem theo hầu hạ thì chúng ta làm sao đủ sức bắt nó?
Thái Loan nói:
– Chúng ta phải đãi Tử Nha ở một bàn riêng, phục giáp sĩ cho sẵn sàng, lúc nào thuận tiện, Nguyên soái ra hiệu lệnh và giáp sĩ phải xông vào tức khắc. Mọi việc phải làm chớp nhoáng mới khỏi thất bại.
Ðặng Cửu Công nói:
– Mưu trí của ngươi rất cao, việc này ta phải nhờ ngươi đi sứ sang thành Tây Kỳ mới được, nếu sai kẻ khác e hỏng việc.
Thái Loan nói:
– Nếu Nguyên soái đã tín nhiệm tôi trong việc nay, tôi quyết làm cho Tử Nha không còn lối thoát và Nguyên soái sẽ bình Tây Kỳ không khó lắm.
Rạng ngày, Ðặng Cửu Công sai Thái Loan sang thành Tây Kỳ trả lời về việc Thiền Ngọc.
Thái Loan vâng lịnh đến bên thành nói với quân sĩ:
– Ta là Tiên phuông Thái Loan, xin ra mắt Thừa Tướng.
Quân vào báo lại.
Tử Nha nói với Cù Lưu Tôn:
– Chuyện này chắc xong rồi.
Cù Lưu Tôn cũng mừng rỡ bàn với Tử Nha cho Thái Loan nhập thành.
Tử Nha và Cù Lưu Tôn đồng ra ngoài thành nghênh tiếp.
Thái Loan xuống ngựa bái một cái, và nói:
– Tôi chẳng qua là một đứa vũ phu, Thừa Tướng thương tình trọng đãi như vậy thật tôi rất mang ơn.
Tử Nha nói:
– Ngày nay hai nhà cũng như chủ, khách, xin Tướng quân chớ tự khiêm.
Thái Loan theo Tử Nha và Cù Lưu Tôn vào thành.
Sau khi tiếp nhau bằng một chén trà thân mật, Tử Nha nói:
– Vừa rồi Cù đạo huynh có bắt được Thổ Hành Tôn, lẽ ra phải xử trảm, nhưng nó năn nỉ rằng Ðặng Nguyên soái hứa gả con cho nó xin để nó sống vui niềm non nước. Chúng tôi không nỡ vì việc tình duyên mà bắt tội nó, nên sai Táng Nghi Sanh qua thưa với Ðặng Nguyên soái xem dạy lẽ nào. Nay Tướng quân đến đây chắc có tin lành.
Thái Loan đứng dậy thưa:
– Thừa Tướng hỏi đến, mạt tướng mới dám trình bày. Trước kia Nguyên soái tôi say rượu, có vui miệng hứa lỡ lời chẳng ngờ Thổ Hành Tôn lấy đó làm điều mơ ước. Nguyên soái tôi xét lại âu cũng là duyên nợ, nên cũng muốn tính cho xong tuy vậy, tiểu thơ của tôi mồ côi mẹ từ thuở bé, được Nguyên soái tôi xem như vàng ngọc. Nếu Thừa Tướng thương tình thì ngày mai là ngày tốt xin Thừa Tướng đi cùng Táng Ðại phu sang dinh Nguyên soái tôi nạp lễ vật mới được lễ thành hôn xong rồi hai bên sẽ tính đến chuyện giao binh.
Tử Nha nói:
– Ta cũng biết Ðặng Nguyên soái là người trung tín, nên muốn cậy một điều. Trước đây các đạo binh đến phạt Tây Kỳ cứ ỷ mình là binh rồng tướng mạnh, cậy chúng hiếp cô, nói gì cũng chẳng nghe, khiến lòng trung nghĩa của Tây châu không thấu tai thiên tử. Chúng tôi muốn nói điều nhân nghĩa cũng không được. Nay trời khiến việc nhân duyên, may ra đó là một cơ hội để chúng tôi tỏ bày tỏ oan ức cùng Ðặng Nguyên soái, nhờ Ðặng Nguyên soái về tâu lại với Thiên tử cho chư hầu cởi mở lòng trung. Vậy thì ngày mai tôi đem Thổ Hành Tôn đến dinh, trong bữa tiệc xin Tướng quân nghĩ tình tới nói giùm việc ấy thì ơn của Tướng quân rất trọng.
Thái Loan nhận lời, từ giã về trại.
Ðặng Cửu Công thấy Thái Loan mặt mày hớn hở liền hỏi:
– Công việc ra thế nào?
Thái Loan nói:
– Tôi ra đi thì thế nào cũng thành công.
Nói tôi kể lại mọi việc tại thành Tây Kỳ.
Ðặng Cửu Công mừng rỡ vỗ tay khen:
– Nhờ hồng phước của bệ hạ khiến Tử Nha đến đây nạp mạng.
Thái Loan nói:
– Tuy việc đã gần xong, song phải đề phòng mới được.
Ðặng Cửu Công truyền chọn ba trăm giáp sĩ mạnh mẽ, mai phục sau dinh, hể nghe đập chén rượu làm hiệu lệnh thì áp tới, bất cứ Tử Nha hay các tướng Châu đầu bằm nát như tương.
Quân sĩ đồng tuân lệnh.
Ðặng Cửu Công lại truyền Triệu Thăng dẫn một đạo binh mai phục nơi phía tả. Tôn Ðiệm Hồng lãnh một đạo binh mai phục nơi phía hữu, hễ nghe tiếng pháo nổ trong dinh thì kéo vào tiếp ứng. Lại sai con là Ðặng Tú ở trước cửa dinh với Thái Loan để phòng ngăn trở các tướng Châu. Còn Ðặng Thiền Ngọc tiểu thơ thì cầm một đạo binh phục sau dinh tiếp cứu.
Sắp đặt xong xuôi, Ðặng Cửu Công chỉ còn chờ họ đàng trai đến.
Bên kia. Tử Nha cũng thương nghị với Cù Lưu Tôn:
– Chúng ta phảì làm cách nào để phòng âm mưu của Ðặng Cửu Công mới được.
Cù Lưu Tôn cùng với Tử Nha và Táng Nghi Sanh bàn nhỏ một hồi, Tử Nha liền bảo Dương Tiển tàng hình theo bên mình bảo hộ, rồi chọn năm mươi tướng mạnh giả làm kẻ khiêng lễ vật. Tứ hiền bát tuấn đi theo hộ tống. Lại sai Lôi Chấn Tử lãnh hai ngàn quân đi phía tả, Na Tra và Hoàng Thiên Hóa kảnh hai ngàn quân đi phía hữu, Nam Cung Hoát, Kim Tra, Mộc Tra đều theo sau cứu ứng.
Các tướng tuân lệnh.
Sắp đặt đâu đó xong xuôi, lại dặn:
– Ngươi đi với ta đến dinh Thương dự tiệc cưới, hễ nghe ta ra hiệu lệnh thì lập tức ra hậu dinh bắt nàng Thiền Ngọc.
Thổ Hành Tôn vâng lệnh, thay quần áo sạch sẽ, đợi đúng giờ đi với Tử Nha.
Ðến giờ ấy Tử Nha truyền Táng Nghi Sanh đi trước, còn Tử Nha và các tướng thủng thẳng theo sau.
Táng Nghi Sanh đến trước cửa dinh đã có Thái Loan ra nghinh tiếp, rồi cho người vào báo với Ðặng Cửu Công.
Ðặng Cửu Công mặc lễ phục, ra ngoài đón tiếp.
Táng Nghi Sanh thưa:
– Nhờ ơn Nguyên soái nhận lời nên Thừa Tướng tôi sai tôi đi trước báo tin, còn Thừa Tướng tôi đem lễ vật đến sau.
Ðặng Cửu Công nói:
– Nhọc lòng Ðại phu qua lại nhiều lần. Ngày sau tôi sẽ tạ ơn. Bây giờ chúng ta đứng đây chờ Thừa Tướng đến rồi sẽ nhập dinh.
Táng Nghi Sanh nói:
– Như vậy Nguyên Soái sẽ mỏi mệt chăng?
Ðặng Cửu Công nói:
– Cho ít lễ nghi, xin đại phu chớ ngại.
Mọi người đứng trước cửa dinh, không bao lâu đã thấy Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng, và quân ra khiêng lễ vật ước năm sáu mươi người, không có kẻ nào mang gươm bọc giáo cả.
Tử Nha đến trước cửa dinh, thấy Ðặng Cửu Công đã đến chờ, liền xuống Tử Bất Tướng.
Ðặng Cửu Công thi lễ, và nói:
– Tôi không kịp nghinh tiếp xa, xin Thừa Tướng thứ lỗi.
Tử Nha cũng đáp lễ và nói:
– Tôi nghe danh Nguyên soái là người tài đức, nhưng không biết làm sao hầu hạ để thỏa tình hoài vọng. Nay được gần nhau, thật may cho tôi lắm.
Xảy thấy Cù Lưu Tôn và Thổ Hành Tôn bước tới ra mắt.
Ðặng Cửu Công hỏi Tử Nha:
– Khương Thừa Tướng, ông nào đi với Thổ Hành Tôn vậy?
Tử Nha đáp:
– Ấy là thầy của lệnh tế, Cù Lưu Tôn tiên ông.
Ðặng Cửu Công nói:
– Tôi nghe đanh tiếng ông bấy lâu nhưng chưa biết mặt, nay ngài thương tình giáng hạ, thật phước đức biết chừng nào.
Nói rồi đồng bước vào dinh.
Tử Nha xem thấy dinh trại chưng đèn rực rỡ, yến tiệc chỉnh tề, nhưng sau màn bốc lên mùi sát khí coi có vẻ lạnh lùng lắm.
Tử Nha biết trước, liền nháy nhó Thổ Hành Tôn và các tướng khiêng lễ vật đến cho mau.
Tử Nha trao tờ sính lễ cho Ðặng Cửu Công xem.
Ðặng Cửu Công vừa xem qua thì Tân Giáp đã đốt lên một tiếng pháo làm cho Ðặng Cửu Công thất kinh hồn vía, nhìn ra thấy những quân khiêng lễ vật đều rút gươm ngắn xông vào.
Ðặng Cửu Công biết mình mắc mưu, vội chạy trốn ra phía sau.
Thái Loan, Ðặng Trung xem chừng cự không lại các tướng, cũng chạy ra đàng sau trốn mất. Bấy giờ bọn giáp sĩ đứng sau màng áp tới, nhưng ba trăm qnân mạnh cự sao lại mấy chục tướng tài.
Ðến chừng Ðặng Cửu Công cầm thương cỡi ngựa đi ra thì quân ngũ đã náo loạn. Triệu Thăng từ bên tả đánh vào, Tôn Diệm Hồng từ bên hữu tiếp ứng, đều bị hai tướng Châu là Tân Giáp, Tân Miểng đánh tơi bời.
Khi ấy Thổ Hành Tôn chạy tuốt ra sau dinh bắt Ðặng Thiền Ngọc, bị Ðặng Thiền Ngọc sẳn sàng chống cự lại. Còn Lôi Chấn Tử xông vào nhà giam cứu Hoàng Thiên Hóa với Na Tra rồi hiệp với Nam Cung Hoát tiếp ứng.
Bên dinh Thương hoàn toàn rối loạn. Kế đó Kim Tra, Mộc Tra, Long Tu Hồ kéo vào, Ðặng Cửu Công thấy tướng Châu vừa đông vừa mạnh, nhắm không thể duy trì được trận chiến, phải nhịn thua bỏ chạy.
Quân Thương không có chủ, bỏ trốn rất nhiều, đạp nhầu nhau mà chạy, chết không biết bao nhiêu.
Ðặng Thiền Ngọc đang đánh với Thổ Hành Tôn thấy cha mình bỏ chạy, còn các tướng cũng chạy theo nên cũng bỏ Thổ Hành Tôn mà bôn tẩu.
Thổ Hành Tôn biết Thiền Ngọc có tài quăng đá nên chẳng dám đuổi theo, liền quăng dây Khổn Tiên trói Thiền Ngọc, rước dâu về thành Tây Kỳ.
Bấy giờ Tử Nha và các tướng theo đuổi Ðặng Cửu Công hơn năm chục đặm rồi thâu binh trở về thành.
Ðặng Cửu Công cùng các tướng chạy đến núi Kỳ Sơn mới dừng lại kiểm điểm binh tướng thì thấy mất nàng Thiền Ngọc.
Ðặng Cửu Công than:
– Ta quyết bắt Tử Nha, không ngờ mắc kế lại mất luôn đứa con gái nữa.
Các tướng đều buồn bã không còn biết tính làm sao.
Tử Nha và Cù Lưu Tôn thắng trận về thành, các tướng đứng hai hàng hầu hạ.
Tử Nha nói với Cù Lưu Tôn:
– Bữa nay ngày tốt, cũng nên ho Thổ Hành Tôn động phòng hoa chúc.
Cù Lưu Tôn nói:
– Tôi cũng tính như vậy, không nên để dài dòng.
Tử Nha gọi Thổ Hành Tôn bảo:
– Ngươi đem Ðặng Thiền Ngọc ra sau phòng mà kết duyên cá nước. Sáng mai ta sẽ nói chuyện riêng.
Thổ Hành Tôn tuân lệnh đem Ðặng Thiền Ngọc ra sau phòng mở trói.
Tử Nha lời truyền a hoàn vào phòng hầu hạ Thiền Ngọc rất tử tế.
Thiền Ngọc hổ ngươi, khóc sùi sụt trong lúc đó các tướng đều ở trước thành dự tiệc, chỉ riêng Thổ hành Tôn vào phòng, mặt tươi như hoa nở, đùa cợt với tiểu thơ.
Ðặng Thiền Ngọc lâm vào ngỏ bí, không còn biết tránh né đi đâu được, cứ ngồi khóc mãi.
Thổ Hành Tôn tìm lời an ủi.
Ðặng Thiền Ngọc nổi giận mắng:
– Ngươi là đứa thất phu bạc nghĩa, bán chúa cầu vinh, không đáng mặt làm người trong thiên hạ.
Thổ Hành Tôn cười mơn nói:
– Tiểu thơ tuy là ngọc cành vàng, nhưng tôi cũng không phải là đứa vô danh tiểu tốt. Vả lại, trước đây tôi cũng có công trị bệnh cho tiểu thơ, và Nhạc phụ có hứa, hễ giết được Võ vương thì Nhạc phụ gả nàng cho tôi. Việc ấy ai cũng biết. Hôm trước Táng đại phu qua làm mai, nhạc phụ đã định ngày nạp lễ cưới. Thừa Tướng sợ Nhạc phụ trở lòng, nên lập kế mọn, cốt cho việc được xong xuôi, sao tiểu thơ còn buồn ý?
Ðặng Thiền Ngọc nói:
– Ðó là cha ta làm kế bắt Tử Nha, chẳng ngờ bị mắc mưu gian. Ta thà chịu chết chớ không chịu nhục.
Thổ Hành Tôn nói:
– Tiểu thơ nói sai rồi. Việc lương duyên đâu phải là chuyện nhỏ, một lời người lớn đã nói ra không thể thất tín được. Tôi vốn là học trò Xiển giáo, nghe lời Thân Công Báo lừa phỉnh mới giúp Trụ đánh Châu. Khi tôi bắt được Hoàng Thiên Hóa và Na Tra nhạc phụ dọn tiệc ăn mừng, và hứa lúc nào ban sư về nước, sẽ gả tiểu thơ cho tôi. Vì lời nói ấy tôi đem lòng yêu thương tiểu thơ, cố mạo hiểm vào thành Tây Kỳ giết Võ vương để sớm được kết duyên với nàng. Chẳng ngờ tôi bị thầy tôi bắt tội, nhưng thấy tôi với tiểu thơ vốn có duyên nợ, nên mới tính chuyện hôn nhân. Nay Trụ vương vô đạo, thiên hạ đều đầu Châu, dù binh Thương có thiên binh vạn mã cũng không thể nào thắng nổi. Lời xưa có nói: Chim khôn chọn cây lệnh mà đậu, tôi hiền tìm chúa thánh mà thờ. Ấy là lẻ tự nhiên, sao Tiểu thơ cố chấp? Còn việc tôi với tiểu thơ đêm nay, ai ai cũng biết, dầu tiểu thơ có giữ mình ngọc sạch giá trong chẳng ai tin. Xin tiểu thơ xét lại.
Ðặng Thiền Ngọc nghe Thổ Hành Tôn nói một hồi, cứ ngồi làm thinh cúi mặt.
Thổ Hành Tôn xem ý Ðặng Thiền Ngọc đã xiêu, liền bước đến nói:
– Tiểu thơ vóc ngọc mình vàng, chẳng khác đóa hoa vườn thượng uyển, còn tôi là đệ tử tiên gia, ở động Phi Long, kẻ chân trời người góc biển, được gặp nhau đây do căn duyên trời định.
Ðặng Thiền Ngọc hổ ngươi, nhắm mắt làm thinh.
Ðêm ấy Thổ Hành Tôn và Ðặng Thiền Ngọc được kết duyên cá nước hòa hiệp sắc cầm. Ấy cũng nhờ mưu của Tử Nha.
Có bài thơ rằng:
Khen cho địch quốc lại giao hòa
Khéo dụng mưu thần trí Tử Nha
Duyên nợ ai xuôi ngày gặp gở
Sương rơi lả chả một cành hoa.
Rạng ngày hai vợ chồng thức dậy cùng chải đầu rửa mặt.
Thổ Hành Tôn nói:
– Vợ chồng mình phải ra lạy tạ Khương Thừa Tướng và sư phụ để đền ơn.
Ðặng Thiền Ngọc gặt đầu, đáp:
– Việc ấy phải lẽ rồi, nhưng hôm qua thân phụ tôi bại tẩu, không biết cư trú nơi đâu, chẳng lẽ hai cha con lại phò hai nước. Xin tướng quân thưa với Thừa Tướng liệu định cách nào cho lưỡng.
Thổ Hành Tôn nói:
– Ðể tạ ơn xong rồi ta sẽ thưa với Thừa Tướng việc ấy.
Nói rồi vợ chồng đồng ra lạy Tử Nha và Cù Lưu Tôn.
Tử Nha nói:
– Ðặng Thiền Ngọc nay thuộc về tôi nhà Châu, ngặt thân phụ nàng chưa phục. Ta muốn đem binh ta đánh, song vị tình ngươi chưa biết tính sao.
Thổ Hành Tôn thưa:
– Thiền Ngọc có bàn tính việc ấy với tôi. Xin sư thúc đem lòng thương tìm kế lưỡng toàn, thiệt là ơn lớn.
Tủ Nha nói:
– Chuyện ấy không khó gì, nếu Thiền Ngọc thật tình đầu Châu thì nàng đến khuyên phụ thân nàng rất dễ.
Ðặng Thiền Ngọc quỳ thưa:
– Tôi đã quy thuận, lẽ nào dám hai lòng. Xin Thừa Tướng cho tôi gặp mặt Phụ thân tôi, thế nào phụ thân tôi cũng nghe lời tôi mà đầu Châu lập tức.
Tử Nha nói:
– Ta chẳng nghi ngờ tiểu thơ phản phúc, chỉ lo Ðặng nguyên soái không chịu phục Châu. Vậy tiểu thơ đi trước thuyết hàng, còn ta dẫn binh theo sau nghinh tiếp. Nếu Ðặng Nguyên soái không đổi ý, thì ta lập kế bắt sống đem về đây cho tiểu thư khuyên lơn.
Ðặng Thiền Ngọc y theo lời dặn.
Lúc này Ðặng Cửu Công kéo tàn quân đóng trời cách núi Kỳ Sơn vài mươi dặm. Sáng hôm ấy Ðặng Cửu Công ngồi trước trướng có Ðặng Tú, Thái Loan, Triệu Thăng, Tôn Diệm Hồng, đồng đứng hai bên hầu hạ.
Ðặng Cửu Công nói:
– Ta chinh chiến thuở nay chưa hề đại bại. Nay đã thất trận lại lạc mất con, binh tướng đang sa vào ngõ bí, không còn biết day trở làm sao.
Thái Loan thưa:
– Xin Nguyên soái sai một người về triều viện binh, đồng thời cho kẻ tả hữu đi dò xét tin tiểu thơ để biết hung kiết.
Bỗng có quân vào báo:
– Tiểu thơ lãnh một đạo binh mã, phất cờ Tây châu trở về.
Thái Loan và các tướng nghe đều kinh hãi.
Ðặng Cửu Công truyền mời vào.
Thiền Ngọc xuống ngựa vào quỳ lạy Ðặng Cửu Công.
Ðặng Cửu Công đỡ dậy hỏi:
– Công việc ra làm sao, con nói cho cha nghe thử?
Ðặng Thiền Ngọc khóc nức nở:
– Con không dám nói!
Ðặng Cửu Công hỏi:
– Có việc gì oan ức con cứ thuật lại, không sao mà sợ?
Ðặng Thiền Ngọc thưa:
– Phận con ở chốn phòng khuê, không hay biết gì hết, bởi tại thân phụ nói lỡ lời mà sanh ra tai họa. Thổ Hành Tôn bắt con về Tây Kỳ ép duyên, nay ăn năn không kịp.
Ðặng Cửu Công nghe nói nghẹn ngào, đứng làm thinh cả buổi.
Ðặng Thiền Ngọc thưa:
– Nay con đã thất tiết, phải làm vợ Thổ Hành Tôn, nên về thưa với phụ thân mọi điều, kẻo sợ Phụ thân mang họa. Bởi Trụ vương vô đạo, thiên hạ bỏ Trụ về Châu hai phần. Cứ theo cơ trời và xót lòng người cũng thấy việc thịnh suy trong thiên hạ. Rất đổi Ma gia tứ tướng, Văn Thái Sư, và các địa tiên còn phải bỏ mình. Nay con đầu Châu rồi không phải lỗi tại con, mà tại cha đã gả con cho giặc. Nếu cha nghĩ tình cha con thương trẻ mắc nạn thì bỏ tà theo chánh, chọn chúa mà thờ, chẳng những khỏi tai nạn mà gia đình cha con sum hiệp, ấy là bỏ tối tìm sáng đi theo con đường Võ Thành Vương vậy.
Ðặng Cửu Công ngẩm nghĩ:
– Nếu đánh thì đánh không lại chúng, còn về trào thì vua ắt không tha. Tấn thối lưỡng nan, còn biết làm sao được.
Qua một lúc, Ðặng Cửu Công nói với Thiền Ngọc:
– Con ơi, lẽ nào cha lại bỏ con mà hy sinh mình cho một ông vua vô đạo. Tuy nhiên khi phải phục tùng Tử Nha, cha thấy hổ thẹn lắm.
Thiền Ngọc thưa.
– Khương Thừa Tướng tính hiền đãi sĩ, không phải kẻ kiêu căng. Nếu cha chịu đầu hàng con sẽ tin cho Thừa Tướng hay, để đến đón tiếp.
Ðặng Cửu Công thuận tình, truyền quân tướng sửa soạn đầu.
Ðặng Thiền Ngọc trở về thưa lại với Tử Nha.
Tử Nha mừng rỡ, truyền các tướng đồng đi với mình đến nghinh tiếp Ðặng Cửu Công.
Nhưng đi nữa đường đã thấy Ðặng Cửu Công dẫn binh tướng qua đầu.
Tử Nha liền chào hỏi, Ðặng Cửu Công ngồi trên ngựa bái và thưa:
– Mạt tướng tài hèn trí thấp, nay đến đầu hàng, xin Thừa Tướng rộng dung tha tội.
Tử Nha giục Tứ Bất Tướng đến nắm tay Ðặng Cửu Công nói:
– Tướng quân bỏ nghịch theo thuận, xa hôn qua phò thánh chúa, ấy là tôi một triều, có gì mà khiêm nhượng.
Ðặng Cửu Công thấy Tử Nha hậu đãi rất hài lòng. Hai người sánh vai trở về thành Tây Kỳ, truyền quân mở tiệc ăn mừng.
Vợ chồng Thổ Hành Tôn vui mừng quá sức, quan quân uống rượu say sưa.
Tử Nha chờ đến sáng đưa Ðặng Cửu Công vào yết kiến Võ vương.
Lúc ấy tại ải Tỵ Thủy, HàngVinh nghe tin Ðặng Cửu Công phản Thương đầu Châu, làm suôi với Khương Thượng, liền viết sớ sai người đem đến Triều Ca.
Bấy giờ vào phiên quan Thượng đại phu Trương Khiêm thất kinh, liền ôm sớ đến lầu Trích Tinh chờ yết kiến vua Trụ.
Nội thị trông thấy Trương Khiêm liền vào tâu:
– Nay có quan đại phu Trương Khiêm vào dâng sớ.
Trụ vương giật mình, vội đòi vào hỏi:
– Trẫm không có lệnh đòi, khanh có điều gì dâng sớ cần cấp như vậy?
Trương Khiêm tâu:
– Hàng Vinh trấn ải Tỵ Thủy vừa dâng biểu về triều, hạ thần thấy việc gấp không dám trễ nãi, mới đánh liều vào cung cấm, xin bệ hạ dung tha.
Nói rồi trải tờ sớ lên long án.
Vua Trụ xem xong nổi giận hét lớn:
– Ðặng Cửu Công mang ơn trẫm không biết bao nhiêu, nay đầu giặc Tây Kỳ thì đạo vua tôi còn gì nữa. Ðể trẫm lâm triều hội bá quan, quyết bắt hết loài phản tặc mà rửa hận.
Trương Khiêm bái lạy tạ ơn, rồi lui ra ngoài.
Kế đó Trụ vương truyền giống trống đền, các quan kinh hãi, ứng hầu đủ mặt.
Sau khi triều bái xong, Trụ vương phán:
– Ðặng Cửu Công vâng lệnh chinh Tây, đã không thắng giặc thì thôi, lại gả con cho giặc, dẫn binh tướng sang đầu Cơ Phát. Tội ấy lớn biết chừng nào, các khanh có kế gì trừ quân phản nghịch.
Quan Trung giám đại phu là Phi Liêm, quỳ tâu:
– Tây Kỳ phản lại thiên triều tội rất nặng. Song các tướng chinh Tây, hễ thắng thì dâng công, bằng thất trận trở về thì bị tội nên phải đầu giặc. Cứ như vậy biết chừng nào mới bình được Tây Kỳ. Theo ý tôi, nên dùng một người quốc thích giữ việc Tây chinh. Vì hễ hoàng thân quốc thích thì coi việc nước như việc nhà, dẫu chết cũng không hàng địch.
Trụ vương nói:
– Ðạo chúa tôi cũng như hàng quốc thích lẽ nào lại chia phân trách nhiệm.
Phi Liêm tâu:
– Tuy vậy, thân sơ có chỗ khác. Tôi xin báo cáo với ngài là Ký châu hầu Tô Hộ, cầm binh đánh Tây Kỳ chắc thắng. Bởi lẽ người ấy có quyền thế nhứt trong chư hầu, và lại thân thích với bệ hạ.
Vua Trụ khen phải, liền viết chiếu sai sứ lãnh chỉ đem cờ Mao búa Việt qua Ký châu.
Nói về Thiên sứ vâng chiếu mang cờ Mao bùa Việt sanh Ký châu. Nhưng đi một nửa đường thì trời tối nên ngủ tạm. Rạng ngày tiếp tục cho đến trưa thì đến Ký châu.
Quân sĩ trong thành thấy thiên sứ vội vào báo với Tô Hộ.
Tô Hộ vội ra nghênh tiếp rước vào thành lập bàn hương án lạy rồi mới đọc chiếu.
Trong chiếu đại khái viết:
“Trẫm nghe thiên tử ban búa Việt cờ Mao cho Nguyên Nhung binh phạt nơi này. Vậy phận làm tôi phải ráng lập công đánh đuổi xâm lược để giữ an cho dân chúng. Nay Cơ Phát làm phản, lại có Tử Nha làm quân sư giết hại binh triều, nên trẫm nhờ khanh thay mặt trẫm đem binh ra Tây Kỳ dẹp loạn và trị tội đứa phản thần. Khanh hãy ráng sức tiêu diệt bọn chúng để trừ mầm loạn lạc. Khi ban sư về triều, trẫm không hề tiếc rẻ một ước muốn của khanh. Vậy khanh bắt được chiếu chỉ này phải lập tức đem quân đi đừng để chậm trễ sẽ có hại. Nay chiếu chỉ.”
Tô Hộ đọc chiếu xong, lòng mừng khấp khởi vội quỳ xuống tạ ơn, rồi truyền quân dọn tiệc đãi thiên sứ và trao vàng bạc rồi tiễn về kinh.
Thiên sứ đi rồi, Tô Hộ đặt bàn hương án, quỳ lạy tạ ơn trời đất khấn:
– Nay tôi đã khỏi hàm oan, hết mang tội với thiên hạ.
Khấn xong, Tô Hộ lại truyền quân dọn tiệc tại hậu đường cùng vợ là Dương thị phu nhơn và con là Tô Toàn Trung ăn uống vui vầy.
Tô Hộ vừa uống rượu vừa nói với vợ con.
– Vợ chồng ta rủi sanh con Ðắt Kỷ, dâng đến Triều Ca không ngờ nó cãi lời chúng ta làm nhiều điều tội ác, khiến chư hầu trong thiên hạ oán than trách móc ta không ít. Nay thiên hạ chia ba, Võ vương là người nhân đức nên chư hầu theo rất đông chiếm hết hai phần đất. Vậy nhân cơ hội hôn quân sai ta chinh phạt Tây Kỳ chúng ta thâu góp bà con kéo qua đầu Châu để khỏi mang tiếng với thiên hạ. Sau đó hiệp lực với Võ vương đem quân về đánh Trụ cứu an dân chúng, như thế chúng ta chuộc được tội lỗi và cũng để rửa tiếng của dòng họ Tô chúng ta.
Dương phu nhơn nghe chồng nói, gật đầu lia lịa đáp:
– Tướng quân tính phải lắm. Hiệp với ý hai mẹ con tôi.
Rạng ngày chư tướng vào hầu Tô Hộ nói:
– Thiên tử giáng chiếu sai ta dẹp Tây Kỳ. Vậy các ngươi hãy điểm mươi vạn quân chuẩn bị sẵn sàng đặng lên đường.
Chư tướng vâng lệnh, điểm binh mã chỉnh tề. Tô Hộ sai Triệu Binh đi tiên phuông, Tô Toàn Trung đi hậu tập. Tôn Tử Võ đi hữu dực, Trần Quang đi Tả chi, Trịnh Luân tiếp ứng.
Tế cờ xong, Tô Hộ kéo binh nhắm Tây Kỳ thẳng đến.
Một ngày kia, quân vào báo:
– Thành Tây Kỳ đã ở trước mặt.
Tô Hộ truyền quân đóng trại.
Nói về Tử Nha đang thâu các biểu của chư hầu dâng xin Võ Vương phạt Trụ. Xảy nghe quân vào báo:
– Chư hầu Ký châu là Tô Hộ đem binh đi phạt Tây Kỳ.
Tử Nha hỏi Hoàng Phi Hổ:
– Ta nghe đồn Tô Hộ dụng binh như thần, chắc ngươi rõ chớ?
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Tô Hộ tánh khí ngay thẳng, can trường. Tuy làm Quốc Trượng nhưng lúc nào ông cũng giận vua Trụ cả. Lúc tôi còn ở Triều Ca, Tô Hộ có viết thơ nói với tôi là muốn qua đầu Tây Kỳ cho đỡ nhọc. Nay Tô Hộ vâng chiếu chỉ đến đây chắc là không có ý chinh phạt mà chắc là đầu Châu đó.
Tử Nha nghe nói thở phào mừng rỡ.
Mãi đến ba ngày sau không thấy Tô Hộ đem quân đến khiên chiến, Hoàng Phi Hổ nói với Tử Nha:
– Ðã mấy ngày rồi không thấy Tô Hộ đem quân khiêu chiến tôi muốn đem binh đến dò tin tức xem sao.
Tử Nha không từ chối.
Hoàng Phi Hổ liền điểm binh, cỡi thần ngưu đến trước trại Tô Hộ kêu lớn:
– Mời Tô hầu ra nói chuyện.
Quân vào báo, Tô Hộ sai Triệu Binh ra trận.
Triệu Binh vâng lịnh cầm kích lên ngựa phát pháo kéo binh ra.
Vừa ra khỏi thành Triệu Binh đã trông thấy Hoàng Phi Hổ, nổi giận giục ngựa đến mắng:
– Phản tặc Hoàng Phi Hổ! Hưởng ân vua không lo báo đáp lại làm phản qua đầu Châu gây nhiều cảnh chết chóc, thế mà không biết xấu hổ còn vác mặt ra đây sao? Nay ta vâng thánh chỉ đến bắt ngươi đem về nạp. Vậy sao chưa xuống ngựa nạp mình còn chần chờ gì nữa!
Dứt lời, vung kích đánh nhàu.
Hoàng Phi Hổ đưa thương đánh vẹt qua một bên rồi nói:
– Hãy mau về mời chủ tướng ra để ta có chút việc muốn hỏi. Ngươi đừng dùng sức uổng công rồi ân hận không kịp.
Triệu Binh nổi giận mắng:
– Ta vâng thánh chỉ đem binh bắt ngươi, chớ không phải đem binh đến đây để phân bày phải trái, hãy mau nạp mình đây.
Nói rồi vung thương đánh với Triệu Binh đến hai mươi hiệp.
Triệu Binh đã thở khì, vung kích đâm loạn xạ.
Hoàng Phi Hổ thuận tay bắt sống Triệu Binh trên ngựa quăng xuống sai quân trói lại đem về thành.
Hoàng Phi Hổ thắng trận về ra mắt, Tử Nha hỏi:
– Tướng quân ra trận thắng bại thế nào?
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Tôi đã bắt sống được Triệu Binh đem về còn đứng chờ ngoài dinh.
Tử Nha truyền dẫn vào.
Triệu Binh vào trước tướng chẳng chịu quỳ.
Tử Nha hỏi:
– Ðã bị bắt sao còn cứng cổ?
Triệu Binh nói:
– Ta vâng thánh chỉ, phật Tây Kỳ, rủi bị bắt, các ngươi mượn chém giết thì cứ làm, đừng nói nhiều chuyện vô ích.
Tử Nha truyền đem giam vào ngục chờ sáng mai sẽ xử phân.
Còn Tô Hộ nghe quân vào báo Triệu Binh bị Hoàng Phi Hổ bắt, không nói một lời, ngồi cúi đầu làm thinh.
Trịnh Luân thấy vậy bước đến thưa:
– Hoàng Phi Hổ đáng tội lắm, xin chủ tướng sáng mai cho tôi xuất trận bắt nó đem về Triều Ca tri tội.
Tô Hộ chỉ gật đầu không nói, rồi đứng lên bước vào trướng phủ.
Sáng hôm sau, Trịnh Luân cỡi thú mắt lửa, tròng vàng, tay xách cây Gián mã xử đến trước thành khiêu chiến.
Quân vào báo, Tử Nha sai Hoàng Phi Hổ xuất trận.
Hoàng Phi Hổ tuân lệnh dẫn binh đi.
Ra khỏi thành thì Hoàng Phi Hổ thấy một tướng mặt bầm đỏ như trái táo, cỡi con thú mắt đỏ như lửa, nên hỏi lớn:
– Ngươi là ai đó?
Trịnh Luân nói:
– Ta là Trịnh Luân, bộ hạ của Tô Hộ. Còn ngươi có phải là phản tặc Hoàng Phi Hổ đó không? Sao chưa xuống ngựa chịu tội còn đừng đó?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Trịnh Luân! Ngươi hãy mau về mời chủ tướng ra đây nói chuyện cùng ta. Ngươi đừng ỷ sức mà mang họa như Triệu Binh đó.
– Trịnh Luân nổi giận, xông vào đánh nhầu Hoàng Phi Hổ liền thương lên đỡ và trả lại.
Hai bên đánh được hai mươi hiệp.
Trịnh Luân giơ Gián mã xử lên, tức thì ba đạo quân ồ ạc xông vào vây Hoàng Phi Hổ. Tiếp theo Trịnh Luân gầm lên một tiếng hai đạo hào quang từ trong lỗ mũi bay ra, làm cho Hoàng Phi Hổ mê man bất tĩnh té nhào khỏi lưng Thần Ngưu, bị quân Thương bắt trói.
Ðến khi tỉnh lại thấy mình bị trói than:
– Trận này ta bị bắt chẳng khác nào một giấc chiêm bao. Ta không phục ngươi tí nào cả.
Trình Luân không thèm nghe, gióng trống thu quân về trại, đoạn xách Hoàng Phi Hổ đến trước mặt Tô Hộ thưa:
– Tôi đã bắt sống được Hoàng Phi Hổ rồi. Chẳng hay chủ tướng dạy lẽ nào?
Tô Hộ truyền đỡ Hoàng Phi Hổ đứng đậy.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Nay tôi rủi bị phép tà bắt về đây, xin liều mình để đền ơn tri ngộ.
Tô Hộ mặt lạnh như tiền, nói:
– Tội ngươi đáng chém, nhưng ta chờ dẹp Tây Kỳ xong sẽ giải về Triều Ca trị tội.
Nói rồi truyền quân đem giam Hoàng Phi Hổ vào ngục.
Còn đám tàn quân của Hoàng Phi Hổ chạy về báo với Tử Nha về việc Hoàng Phi Hổ bị bắt.
Tử Nha kinh hãi hỏi:
– Vì cớ gì Hoàng Phi Hổ bị bắt?
Quân sĩ thưa:
– Trịnh Luân là bộ tướng của Tô Hộ, đánh với Hoàng Phi Hổ được hai mươi hiệp thì Trịnh Luân hét lên một tiếng, hai đạo hào quang từ trong lỗ mũi bay ra làm cho Hoàng Phi Hổ té nhào xuống Thần Ngưu, bị binh Thương bắt trói dẫn về dinh.
Tử Nha nghe xong, buồn bã than:
– Cũng là phép tà đạo nữa!
Hoàng Thiên Hóa nghe tin cha bị bắt, giận tức vô cùng, nhưng ngặt vì trời tối không biết tính sao đành ôm hận trở về dinh.
Rạng ngày, Hoàng Thiên Hóa xin ra trận nghe ngóng tin tức của cha.
Tử Nha ưng thuận.
Hoàng Thiên Hóa đem binh đến dinh Thương khiêu chiến.
Hoànng Thiên Hóa đứng trước cửa trại, bỗng thấy một tướng xông ra, liền nạt lớn:
– Ngươi có phải là Trịnh Luân hôm qua bắt Hoàng Phi Hổ đó không?
Trịnh Luân đáp:
– Phải. Nhưng còn ngươi là ai đó?
Hoàng Thiên Hóa không thèm trả lời, giục kỳ lân tới đánh nhầu.
Hai bên đánh được mười hiệp Trịnh Luân nhằm thể đánh không lại đưa Gián mã xử lên ngoát một cái tức thì ba đạo binh phép áp đến, tiếp theo Trịnh Luân thét lên mốt tiếng, hai đạo hào quang sáng ngời bay ra làm cho Hoàng Thiên Hóa xây xẩm mặt mày, té nhào xuống đất bị quân Thương trói lại dẫn về trại.
Trịnh Luân bắt được Hoàng Thiên Hóa liền dẫn đến trước trại rồi vào thưa với Tô Hộ rõ. Vừa thắng trận và bắt thêm được một tướng.
Tô Hộ truyền dẫn vào xem, rồi truyền đem giam vào ngục.
Hoàng Thiên Hóa vừa bước vào ngục thì thấy Hoàng Phi Hổ ngồi co ro, nói lớn:
– Cha ơi! Chúng mình bị bắt bởi tà thuật, con không phục tí nào cả.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tuy vậy mặc lòng, chúng ta đã mang ơn vua cũng nên liều mình báo quốc.
Tử Nha hay tin Hoàng Thiên Hóa cũng bị bắt nữa thì thất kinh than:
– Hoàng tướng quân bảo là Tô Hộ có ý đầu Châu, nhưng đến hôm nay, hai cha con bị Tô Hộ bắt hết. Thật tội nghiệp.
Ngày hôm sau, Trịnh Luân ỷ mình bắt được hai tướng nên ra binh rất sớm, đến trước thành khiêu chiến.
Quân vào báo lại, Tử Nha hỏi:
– Có tướng nào dám ra quân chăng?
Thổ Hành Tôn nói:
– Ðệ tử về Châu chưa lập được công lao nào, xin cho đệ tử ra trận một phen.
Tử Nha chịu cho đi.
Ðặng Thiền Ngọc lại thưa:
– Xin Thừa Tướng cho cha con tôi đi theo lược trận.
Tử Nha nói:
– Nếu vậy càng tốt.
Còn Trịnh Luân nghe trong thành phát một tiếng pháo, thấy một nàng dắt hai lông trĩ ra khỏi thành, đẹp như tiên nga.
Có bài thơ rằng:
Nàng ấy dung nhan rất mặn mà
Xưa kia từng trấn ải Nam Sang,
Nay về Tây Thổ đầu minh chúa
Hay tặng anh hùng đá Ngũ Quang.
Trịnh Luân thấy nữ chúa cỡi ngựa đi tới, còn Thổ Hành Tôn thì không thấy đâu cả. Vì Ðặng Thiền Ngọc thì cao lại cỡi ngựa, còn Thổ Hành Tôn đã thấp lại đi chân. Ðến khi Thổ Hành Tôn xông tới trước, Trịnh Luân cũng không ngờ, cứ nhìn vào cửa thành chờ tướng xuất trận.
Thổ Hành Tôn biết ý, kêu lớn:
– Thằng thất phu! Ngươi ngóng chờ ai đó?
Trịnh Luân nhìn xuống chân ngựa, thấy một thằng lùn cầm gậy sắt, cười ngất nói:
– Ngươi là thằng lùn đến đây làm chi?
Thổ Hành Tôn nói:
– Ta vâng lệnh Khương Thừa Tướng ra bắt ngươi đây.
Trịnh Luân vừa cười vừa nói:
– Ngươi làm cái quái gì mà bắt ta được? Hãy để nữ tướng kia đến giao đấu với ta.
Thổ Hành Tôn bị mắng nổi giận hét lớn:
– Thất phu! Dám nói nhức ta như thế.
Hét rồi đâm một gậy vào chân con thú của Trịnh Luân cỡi.
Trịnh Luân đưa Gián mã xử ra đỡ, nhưng ngồi trên cao, đỡ đánh hụt chạt còn Thổ Hành Tôn cứ nhảy vòng quanh đập vào đùi Trịnh Luân bôm bốp.
Trịnh Luân rán chịu được ít hiệp, mệt quá, mồ hôi toát ra như tắm, liền ngoát đoàn quân ô Nha tới.
Thổ Hành Tôn nghe Trịnh Luân gầm một tiếng, hai luồng khói trong lỗ mũi Trịnh Luân xịt ra, tức thì Thổ Hành Tôn hồn xiêu phách lạc bị quân ô nha bắt trói.
Khi Thổ Hành Tôn tỉnh lại thấy mình bị trói, le lưỡi than:
– Lạ thật!
Còn Ðặng Thiền Ngọc thấy chồng bị bắt vội giục ngựa đến hét lớn:
– Thất phu chớ cậy tài bắt tướng.
Nói rồi chém một gươm.
Trịnh Luân né tránh.
Ðặng Thiền Ngọc đuổi theo. Mặc dầu vậy, Ðặng Thiền Ngọc cũng lấy đá Ngũ quang ném vào mặt Trịnh Luân ré một tiếng sống mũi sưng vù vội giục thú chạy về dinh, ôm đầu không dám ngó lại.
Bấy giờ quân của Trịnh Luân đã dẫn Hành Tôn đến trước trại.
Trịnh Luân vào trướng trình chuyện.
Tô Hộ trông thấy sống mũi sưng vù hỏi:
– Hôm nay tướng quân thất quân sao?
Trịnh Luân thưa:
– Tôi bắt được một thằng lùn, nhưng lại bị nữ tướng ném cục đá vào mắt, đau quá nên phải chạy về.
Tô Hộ hỏi:
– Trịnh Luân, cái thằng lùn ở đâu?
Trịnh Luân truyền quân dẫn Thổ Hành Tôn vào giao cho Tô Hộ phân xử.
Tô Hộ trông thấy Thổ Hành Tôn cười ngất ngoài dinh chém quách.
Thổ Hành Tôn nói:
– Chém ta mất công để ta đi về cũng được.
Tô Hộ cười lớn:
– Thằng khùng! Ai cho mấy về mà mày nói thế.
Thổ Hành Tôn nói:
– (bị mất câu này)
Quân sĩ cười rộ dẫn Thổ Hành Tôn ra ngoài, vừa mới rút dao thì Thổ Hành Tôn đã chun xuống đất.
Quân sĩ thất kinh vào thưa với Tô Hộ:
– Chúng tôi vừa chém nó thì nó nhào xuống đất một cái, rồi không thấy đâu nữa.
Tô Hộ khen:
– Bên Tây Kỳ nhiều tướng lạ tài phép như vậy hèn chi binh Thương đánh hoài không thắng.
Trịnh Luân thấy Tô Hộ khen tướng địch nổi giận lấy thuốc thoa mặt cho lành vết thương để rạng ngày ra trận báo cừu.
Hôm sau Trịnh Luân khiêu chiến, gọi cho được nữ tướng giao phong, quân vào báo lại, Thiền Ngọc xin kéo quân ra thành.
Tử Nha nói:
– Không nên đâu! Hôm nay nó cố báo cừu, chúng ta không nên chọc giận nó làm gì.
Na Tra nói:
– Ðệ tử xin lãnh binh ra thành cho.
Nói rồi cầm giáo lên xe, phát pháo khai thành ra trước mặt Trịnh Luân hỏi:
– Ngươi phải là Trịnh Luân không?
Trịnh Luân gật đầu:
– Ngươi đã biết tên la còn dám ra đây chịu chết?
Na Tra cầm giao đâm liền.
Trịnh Luân trổ tài cự chiến. Ðánh được ít hiệp Trịnh Luân tính ra tay trước, liên ngoắt ba ngàn binh phép ùa tới.
Na Tra thấy binh ô Nha người nào cũng cầm câu móc và dây dài, lòng kinh hải. Xảy nghe Trịnh Luân gầm một tràng, hai luồng khói trắng từ trong mũi bay ra. Song Na Tra không phải là thai phàm, nên không bị mê man.
Trịnh Luân thấy Na Tra không té, thất kinh nghĩ thầm:
– Thầy ta truyền phép này mầu nhiệm lắm, sao ngày nay lại chẳng linh. Liền gầm lên một tiếng thứ hai nữa, vẫn không hiệu nghiệm.
Trong lòng hoảng hốt, Trịnh Luân gầm lên tiếng thứ ba.
Na Tra cười ngất hỏi:
– Ngươi mắc chứng bịnh gì mà rên hoài vậy?
Trịnh Luân nổi giận hỗn chiến một hồi.
Na Tra lấy Càng Khôn Quyện quăng ra, trúng nhằm vai Trịnh Luân quá nặng, làm cho Trịnh Luân gãy xương đứt gân, gần té xuống đất, vội bỏ chạy về dinh.
Tra Tra kéo quân vào thành, thưa hết mọi điều.
Tử Nha mừng nếu vậy thì không có gì đáng lo.
Còn Tô Hộ thấy Trịnh Luân bại trận liên tiếp, thương tích rất nặng, ngồi đứng không yên, liền mượn cớ ấy mà an ủi:
– Trịnh tướng quân ơi! Nay lòng trời đã vậy, chừng ta cưỡng lại cũng chẳng ích gì. Khi trước chư hầu đều theo Châu đánh Trụ. Bởi Văn Thái Sư gieo nhiều ơn nghĩa, nên không ai nở động binh. Nay Thái Sư đã từ trần. Hôn quân càng dâm bạo, chúng ta có đem thân bỏ nơi ch:ến trường cũng chẳng được tiếng trung quân ái quốc. Thật là đau lòng. Ðời xưa, con trai vua Nghiêu là Ðơn Châu vì tâm tánh không hiền, nên lúc vua Nghiêu băng hà, thiên hạ không theo Ðợn Châu mà theo vua Thuấn. Ðến đời con vua Thuấn là Khương Quân, cũng ít đức, nên lúc vua Thuận băng hà, thiên hạ không theo Khương Quân và theo vua Hạ Võ. Nay thiên hạ loạn ly, máy tạo chuyển vật giang sơn sẽ về người có đức. Tướng quân bị thương là trời ra điềm cho chúng ta đó, chúng ta nên thuận trời về với Châu, phạt người vô đạo.
Trịnh Luân giả làm mặt giận nói lớn:
– Quân hầu nói sai rồi! Quân hầu là quốc thích, lẽ nào đem mệnh ví với các trận mà đầu Châu. Hễ nước còn thì quốc thích còn, nước mất thì quốc thích mất. Quân hầu mang ơn Trụ vương rất lớn, chánh cung hưởng lộc thiên tử rất nhiều, lẽ nào thấy giặc mạnh mà đầu hàng, thấy nước yếu mà bỏ vua. Tôi không muốn quân hầu mang tiếng bất nghĩa, nên đem xương thịt trả ơn vua, phơi thây đền nợ nước. Mất thân tôi chẳng tiếc, chỉ sợ ô danh mà thôi.
Tô Hộ nói:
– Tướng quân nói cũng phải. Song lời xưa có câu: Chim khôn chọn cây mà đổ, tôi hiền tìm chúa thành mà thờ. Ông Y Doản bỏ Kiệt đầu Thành Thang vẫn không mất tiếng tốt. Hoàng Phi Hổ cũng là quốc thích, lại làm đến vì Vương, song thấy hôn quân lỗi đạo đành bõ Trụ đầu Châu. Ðặng Cửu Công có trí, biết cơ trời thay đổi, không đem thân làm trâu ngựa cho kẻ bạo tàn chúng ta nếu cố chấp tức thì đến lúc ăn năn không kịp.
Trịnh Luân nói:
– Tuy quân hầu có ý đầu Châu, nhưng tôi lại không thích phò giặc. Vậy xin cứ cho tôi ra trận chừng nào tôi chết, quân hầu bỏ Trụ đầu Châu cũng chẳng muộn.
Tô Hộ vào phòng ngẩm nghĩ suốt buổi, rồi truyền Tô Toàn Trung dọn tiệc rượu. Qua canh hai, đợi các tướng ngủ hết, Tô Hộ sai Tô Toàn Trung mở trói cho cha con Hoàng Phi Hổ thỉnh ra trước trướng và tạ lỗi rằng:
– Tôi đã có lòng đầu Châu từ lâu, song chưa tiện dịp.
Hoàng Phi Hổ đáp lễ và nói:.
– Tôi nhờ đức tái sanh, cũng như ơn cứu tử. Khi trước tôi nghe quân hầu nói về Châu nên lòng cảm mến, mới xin ra trận để cùng quân hầu đàm đạo, chẳng ngờ bị Trịnh Luân không chịu về mời quân hầu, lỗi dùng tà thuật mà bắt. Nay quân hầu đã cởi mở lòng thành, dẫu việc khó khăn đến đâu chúng tôi cũng giúp được.
Tô Hộ nói:
– Lòng tôi muốn phò Châu đã lâu, song không gặp dịp. Nay nhân vâng sắc chỉ đi chinh phạt quyết thừa cơ quy thuận Tây Kỳ mặc dầu Trịnh Luân vẫn khăng khăng không chịu, tôi đã khuyên Trịnh Luân hết lời, nhưng không kết quả. Tôi chẳng biết tính sao phải dọn một tiệc riêng để đãi đại vương và công tử, một là tạ lỗi hai là thố lộ tâm tình.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Nếu quân hầu muốn đầu Châu thì phải lo liệu cho sớm, còn Trịnh Luân nghịch mạng, phải dùng kế trừ.
Tô Hộ đãi ba tuần rượu, rồi đứng dậy nói:
– Xin đại vương chịu phiền đi ngõ sau về thưa lại với Thừa Tướng là lòng tôi đã biết quy thuận.
Nói rồi đưa cha con Hoàng Phi Hổ ra khỏi dinh.
Cha con Hoàng Phi Hổ về đến thành đã hết canh ba.
Quân canh tuy biết tiếng Hoàng Phi Hổ nhưng không dám mở cửa phải vào báo với Tử Nha.
Tử Nha truyền lệnh cho Hoàng Phi Hổ vào ra mắt, và hỏi:
– Tướng quân đã bị bắt sao trốn khỏi về đây?
Hoàng Phi Hổ bày tỏ mọi việc và nói:
– Bởi Trịnh Luân nghịch với quân hầu nên chưa thu xếp được. Ðợi ít bữa sẽ có tin sau.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ vô cùng.
Trong lúc đó hai cha con Tô Hộ bàn tính với nhau để tìm kế đầu Châu.
Tô Hộ hỏi con:
– Nay Trịnh Luân không thuận biết tính làm sao?
Tô Toàn Trung thưa:
– Thừa dịp Trịnh Luân còn đang bịnh, gởi thơ bảo Tử Nha đem quân đến cướp trại bắt sống Trịnh Luân thế nào Trịnh Luân cũng phải chịu chết. Nếu để lâu Tử Nha sinh nghi thì khó lòng lắm.
Tô Hộ nói:
– Kế ấy rất hay, song Trịnh Luân là người nghĩa, chúng ta đối xử như vậy sao phải.
Tô Toàn Trung nói:
– Miễn đừng giết chết Trịnh Luân thì thôi.
Tô Hộ theo kế hoạch trù tính đêm sau sẽ tin cho Tử Nha biết.
Có bài thơ rằng:
Tô hầu có ý muốn về Châu
Ngặt gã Trịnh Luân chả chịu đầu
Cũng bởi Tử Nha còn hoạn nạn
Khiến nên tà mị đến nơi chầu.
Nói về Trịnh Luân bị Na Tra đánh sưng vai, tuy có thoa thuốc nhưng vẫn chưa lành, ngày đêm rên siết, ăn ngủ không yên, lại nghe chủ tướng có ý đầu Châu, còn mình bị thương không ra trận được.
Rạng ngày, Tô Hộ sửa soạn viết thư để tôi bắn vào thành Tây Kỳ. Hẹn giờ Tử Nha đem binh cướp trại.
Xảy nghe quân báo:
– Có ông đạo sĩ mặt xanh, ba con mắt, mặc đại hồng bào, xin vào ra mắt lão gia
Tô Hộ không biết phép cung kính các đạo sĩ, nên nói:
– Truyền cho vào trại.
Ðạo sĩ không nghe thỉnh, lòng bất mản muốn trở về song sợ mất lòng Thân Công Báo, nghĩ thầm:
– Thì cứ vào dinh xem thử thế nào rồi sẽ liệu.
Bèn vuốt giận bước vào ra mắt.
Tô Hộ thấy đạo sĩ đi đến, không rõ việc gì liền hỏi:
– Ðạo nhân đến đây có việc gì chỉ dạy?
Ðạo sĩ nói đến đây giúp lão tướng quân đánh Tây Kỳ, bạt hết phản tặc giải về cho thiên tử.
Tô Hộ hỏi:
– Ðạo sĩ là ai? Từ đâu đến?
Ðạo sĩ nói:
– Tôi ở Hải đảo đến đây, xin nghe bài thơ này:
Nước yến bay ngang chẳng đụng thuyền
Châu lưu thiên hạ viếng thần tiên
Xuất hồn khỏi xác người không thấy
Cởi gió nương mây phép rất thiêng:
Bờ cỏi Cửu Long danh trọng vọng
Học trò Triệt giáo tiếng lưu truyền
Nghe tên Lữ Nhạc đều kinh hải
Bốn biển nào ai dám chẳng kiêng.
Lữ Nhạc ngâm xong bài thơ nói tiếp:
– Tôi ở Cửu Long đảo, núi Thanh Danh, họ Lữ tên Nhạc. Bởi vì Thân Công Báo cầu khẩn nên đến đây trợ chiến với tướng quân, sao tướng quân có ý nghi ngờ như vậy?
Tô Hộ nghe nói bồi hồi.
Lữ Nhạc chẳng khiêm nhường liền ngồi xuống.
Xảy nghe bên trại có tiếng rên, Lữ Nhạc hỏi:
– Ai rên vậy?
Tô Hộ nghĩ thầm:
– Ðể bảo Trịnh Luân đem vết thương ra đây cho đạo sĩ này thấy mà chứng kiến, không dám phách lối nữa.
Nghĩ rồi đáp:
– Người này là đại tướng Trịnh Luân, bị tướng Tây Kỳ đả thương, đau đớn như vậy.
Lữ Nhạc nói:
– Bảo người ấy ra đây cho tôi xem thử.
Quân sĩ đỡ Trịnh Luân ra trước. Lữ Nhạc xem vết thương rồi cười lớn nói:
– Ấy là dấu Càn Khôn Quyện, để ta cho một viên thuốc thì lành liền, không hề gì cả.
Nói rồi lấy bầu thuốc trong túi da beo, đem một viên tán nhỏ hòa với nước đắp vào chỗ vết thương, giây lát Trịnh Luân lành như cũ.
Trịnh Luân mừng quá đến tạ ơn Lữ Nhạc, xin được thu nhận mình làm đồ đệ.
Lữ Nhạc nói:
– Ngươi đã kêu ta bằng thầy thì ta giúp cho ngươi thắng trận.
Tô Hộ nghe nói than:
– Ta sắp đặt mưu kế vừa xong thì có đạo sĩ ở đâu đến phá đám.
Còn Trịnh Luân thấy Lữ Nhạc không bàn đến việc ra quân, liền thưa:
– Sư phụ đã đến giúp Thương, xin cho phép đệ tử ra đánh với Tử Nha một trận.
Lữ Nhạc nói:
– Ta có bốn tên đồ đệ cũng sắp tới nơi. Ðợi chúng nó đến thì giúp ngươi lấy được Tây Kỳ không khó nhọc.
Cách vài ngày sau, có bốn đạo sĩ đến trước cửa dinh hỏi thăm:
– Chẳng hay thầy tôi là Lữ đạo trưởng có mặt trong dinh không? Xin vào thưa giùm một chút.
Quân sĩ vào báo.
Lữ Nhạc nói:
– Ðó là bốn tên học trò của ta, Trịnh Luân hãy ra thỉnh vào.
Trịnh Luân vâng lịnh ra trước cửa dinh thấy một người mặt đen, một người mặt đỏ, một người mặt trắng, một người mặt vàng mình cao mười sáu thước, người mặt nào thì bận áo màu nấy, bốn sắc khác nhau.
Trịnh Luân bái và nói:
– Thầy cho mời bốn sư huynh vào trại.
Bốn đạo sĩ theo vào làm lễ rồi đứng hầu hai bên.
Lữ Nhạc nói:
– Vì cớ sao mà các ngươi đến trễ như vậy?
Người mặt xanh thưa:
– Tôi nán lại luyện phép cho xong nên trễ mất mấy ngày.
Lữ Nhạc nói:
– Trịnh Luân mới thọ giáo, từ nay cùng sư môn với các người.
Bốn đạo sĩ vội chào hỏi.
Trịnh Luân thưa:
– Xin bốn vị sư huynh cho tôi biết danh hiệu.
Lữ Nhạc chỉ từng người nói: Âu Thiên Lân, Châu Tín và Dương Văn Huy.
Trịnh Luân mừng rỡ mở tiệc đãi đằng.
Các vị đạo sĩ chuyện trò đến canh ba mới đi nghỉ.
Hôm sau Tô Hộ ra khách, thấy có bốn đạo sĩ thì lòng không vui.
Lữ Nhạc nói với bốn người học trò:
– Bữa nay các ngươi luân phiên nhau đi khiêu chiến Tây Kỳ.
Châu Tín vâng lệnh Lữ Nhạc cầm gươm đến trước thành.
Quân Châu trông thấy vào báo:
– Có một đạo sĩ đến khiêu chiến.
Tử Nha bảo:
– Mấy hôm nay không giao chiến, nay có đạo sĩ đến chắc là gặp phải việc không hay.
Liền quay sang hỏi các tướng:
– Có ai dám ra trận đầu?
Kim Tra thưa:
– Ðệ tử xin ra sức.
Tử Nha gật đầu.
Kim Tra cầm bửu kiếm ra thành, thấy đạo sĩ mặt xanh, áo xanh, tóc đỏ, liền lướt tới hỏi lớn:
– Ðạo nhân tên chi, dám đến đây phá rối?
Châu Tín nói:
– Ta ở Cửu Long đảo, họ Châu tên Tín, không phải vô cớ mà ta đến đây đâu, vì nghe các ngươi cậy phép Ngọc Hư hại người nên mới phải xuống đây cho biết ai cao ai thấp.
Nói rồi chém liền.
Kim Tra đưa gươm ra đỡ.
Hai bên giao đấu một hồi, Châu Tín bỏ chạy, Kim Tra đuổi theo.
Châu Tín liền lấy cái Khánh trong túi giơ lên ngay mặt Kim Tra gõ bốn tiếng.
Kim Tra lắc đầu vài cái, chạy thẳng về thành la hoảng hốt:
– Ðau đầu quá! Ðau đầu quá!
Tử Nha thấy mặt Kim Tra nhợt nhạt như tờ giấy vàng, thất kinh hỏi:
– Vì cớ nào lại hốt hoảng như vậy?
Kim Tra thưa hết các việc cho Tử Nha nghe, rồi chạy ra sau dinh ôm đầu nằm vùi, rên rỉ không dứt.
Hôm sau thì có quân vào báo:
– Có đạo sĩ khác đến khiêu chiến.
Tử Nha hỏi:
– Có ai dám ra trận chăng?
Mộc Tra xin đi.
Tử Nha gật đầu.
Mộc Tra vừa ra thành đã thấy một đạo sĩ ba chòm râu dài đuộc, gương mặt tợ rằm, mặc áo vàng, đầu chừa hai vá, liền hét lớn:
– Ngươi tên họ là chi, dùng tà thuật gì làm cho anh ta đau đầu?
Ðạo sĩ nói:
– Ngươi lầm rồi. Ta là Lý Kỳ, còn người làm cho anh ngươi nhức đầu là Châu Tín đạo huynh ta đấy.
Mộc Tra nổi giận nói:
– Như thế chúng bay đều là một lũ tà ma ngoại đạo cả.
Nói rồi chém một nhát. Lý Kỳ tiếp đánh được bảy hiệp liền xách gươm chạy dài.
Mộc Tra theo đuổi, Lý Kỳ lấy cây phướng đưa ngay mặt Mộc Tra rung lên ít cái, Mộc Tra toàn thân lạnh toát, run cầm cập không đuổi theo nổi nữa.
Lý Kỳ liền trở về thành.
Còn Mộc Tra hết lạnh tới nóng, cởi áo đi về ra mắt Tử Nha, miệng la ôi ối:
– Nguy rồi! Chắc chết! Chắc chết!
Tử Nha hỏi.
– Vì sao lại rên la như vậy?
Mộc Tra nói không được, nhào xuống đất mình nóng hực như lửa than.
Tử Nha bảo quân sĩ đỡ Mộc Tra ra sau dinh dưỡng bệnh.
Ðoạn hỏi các quan lược trận:
– Vì sao có việc lạ lùng?
Quan lược trận thưa rõ mọi việc xảy ra, Tử Nha không hiểu hai đạo sĩ này đã dùng phép gì xưa nay chưa hề nghe thấy, lòng buồn bã vô cùng.
Lý Kỳ về trại, Lữ Nhạc hỏi:
– Bửa nay ngươi đánh với ai?
Lý Kỳ thưa:
– Ðệ tử giao đấu với Mộc Tra, đùng phướng phép rung lên thì Mộc Tra bại tẩu.
Lữ Nhạc vui vẻ, ngâm lên bài thơ:
Chẳng uổng công rèn luyện
Cho hay phép rõ ràng
Luyện trong lò táo hóa
Rung trước mặt nhân gian
Rồng cọp đều kinh hải
Yêu tinh thấy kinh hoàng
Thần tiên vương phép ấy
Tánh mạng cũng không toàn.
Lữ Nhạc ngâm dứt, Trịnh Luân bước đến thưa:
– Phép ấy chưa bắt được ta tướng nào, sao đệ tử nghe thầy khen như vậy?
Lữ Nhạc nói:
– Ngươi chưa rõ sự mầu nhiệm của nó, phép ấy lợi hại phi thường, tuy dùng nó dễ dàng, mà giết tướng không biết bao nhiêu. Cần gì phải cầm gươm vào trận dùng sức giao tranh.
Trịnh Luân nghe nói khâm phục chẳng cùng.
Hôm sau, Lữ Nhạc truyền Châu Thiên Lân:
– Ngươi đi đánh một chuyến kẻo từ trên núi cuống đây mà ngồi nhà mãi cũng buồn.
Châu Thiên Lân tuân lệnh cầm gươm đến trước thành kêu lớn:
– Trong thành Tây Kỳ có ai giỏi thì ra đánh với ta?
Tử Nha vừa rồi thấy hai tướng bị thương lạ, nên nhăn mặt làm thinh.
Lôi Chấn Tử bước tới thưa:
– Ðệ tử xin ra thành trừ đứa phách lối ấy.
Tử Nha nói:
– Ngươi phải cẩn thận chớ khinh địch.
Lôi Chấn Tử tuân lệnh kéo quân ra ngoài thấy một đạo sĩ mặt đỏ, choàng áo hồng bào liền hỏi:
– Ngươi là người quái gở, từ đầu đến đây hại anh em ta mang bệnh?
Châu Thiên Lân cười lớn:
– Ngươi đừng đem tướng mạo kỳ quái ra đây mà dọa ta? Ta không bao giờ biết sợ ai. Ta là Châu Thiên Lân ở Cửu Long đảo, còn ngươi tên họ là gì, khai cho ta biết.
Lôi Chấn Tử nói:
– Ta coi ngươi như cỏ rác, tài phép bao nhiêu mà dám cự với ta là Lôi Chấn Tử.
Nói rồi cất cánh bay lên, cầm kiếm đập xuống.
Châu Thiên Lân đưa gươm ra đỡ, nhưng ở trên đánh xuống lợi hơn ở dưới đánh lên, Châu Thiên Lân cự được ít hiệp rồi bỏ chạy. Lôi Chấn Tử bay theo bị Châu Thiên Lân dùng gươm phép chỉ lên, làm cho Lôi Chấn Tử sa xuống đất, thất kinh bỏ chạy về thành.
Tử Nha thấy Lôi Chấn Tử chạy hoảng vào tướng phủ, vội hỏi:
– Vì sao vậy?
Lôi Chấn Tử làm thinh, chỉ lắc đầu hai cái đã ngã xuống đất.
Tử Nha xem xét không thấy có dấu vết gì cả, không biết tại sao bị thương, liền khiến quân khiêng ra sau dinh tịnh dưỡng:
Còn Châu Thiên Lân về thưa với Lữ Nhạc:
– Ðệ tử ra khiêu chiến, đánh với Lôi Chấn Tử, chưa đầy vài hiệp, đệ tử lấy gươm phép chỉ một cái, Lôi Chấn Tử mang bệnh sa xuống đất tức thì.
Lữ Nhạc rất đẹp lòng, khen ngợi không dứt.
Bữa sau, Lữ Nhạc sai Dương Văn Huy ra trận.
Quân vào báo:
– Có một đạo sĩ lại đến khiêu chiến ngoài thành.
Tử Nha thất kinh nghĩ thầm:
– Mỗi ngày chúng đổi một người, chẳng khác trận Thập Tuyệt trước kia, không biết chúng đông đến bực nào?
Long Tu Hồ thưa:
– Hôm nay đệ tử xin ra trận
Tủ Nha nhận lời.
Long Tu Hồ nhảy phóng ra ngoài thành, thấy một đạo sĩ mặt chầy đen như lọ, râu tóc dựng ngược lên, mình mặc hắc bào, hai con mắt sáng giới, liền hỏi:
– Ai đến khêu chiến đó?
Dương Văn Huy thấy một con quái vật cầm binh, thất kinh hỏi:
– Ngươi là giống gì mà hình thù quái gở?
Long tư Hồ nói:
– Ta là học trò của Khương Thừa Tướng tên là Long Tu Hồ.
Dưong Văn Huy nổi giận giơ gươm báu chém liền, nhưng bị Long Tu Hồ quăng đá tới tấp, không dám xáp vào, phải dang ra xa tránh né.
Ðược một lúc, Dương Văn Huy trá bại, Long Tu Hồ đuổi theo.
Dương Văn Huy lấy cây roi phép vụt Long Tu Hồ một cái, Long Tu Hồ kinh hãi chạy riết vào thành, hai tay vẫn liệng đá hoài không thôi, làm cho các vách tường bị lở. Khi xông đến tướng phủ, Long Tu Hồ vẫn còn quăng đá rầm rầm.
Tử Nha thấy vậy thất kinh liền khiến qnân bắt trói lại.
Quân sĩ tuân lệnh dừng câu móc giật Long Tu Hồ té nhào.
Long Tu Hồ sôi bọt mép, không nói được nửa lời, đôi mắt trợn ngược, cứ nhìn thẳng lên trời mà thôi.
Tử Nha không rõ các đạo sĩ ấy dùng phép gì, ngồi buồn than với Dương Tiển:
– Thầy ta có nói ta bị ba mươi sáu đạo binh đến đánh Tây Kỳ, đến nay ta tính đã được ba mươi đạo rồi. Chẳng ngờ có bốn đạo sĩ dùng phép độc hại bốn đệ tử như vầy, biết làm sao trừ nổi.
Bỗng có quân vào báo nữa:
– Ngoài thành có một đạo sĩ ba con mắt đến khiêu chiến.
Dương Tiển nói:
– Năm ngày có năm người đến khiêu chiến, chẳng biết bên binh Thương có bao nhiêu đạo nhân Triệt giáo, xin sư thúc ra thành dò xét tình thế mới có cách cự địch được.
Tử Nha khen phải, liền khiến các đệ tử đồng theo mình bảo vệ.
Lữ Nhạc thấy Tử Nha ra trận, quân ngũ tề chỉnh, tướng tá uy nghiêm, lòng khen thầm:
– Thật chẳng khác Phong Hậu đời xưa.
Còn Tử Nha trông thấy dưới cây phướng vàng có một đạo sĩ ba con mắt, mình mặc hồng bào, cởi con lạc đà tròng mắt vàng, tay cầm gươm báu thì hét lớn:
– Ðạo huynh từ đâu đến đây, cớ gì lại đánh bọn đệ tử tôi bị thương?
Lữ Nhạc nói:
– Ta là Lữ Nhạc ở Cửu Long đảo, quyết đến đây bắt ngươi.
– Ðạo huynh là người tu hành há chẳng biết lẽ trời xưa nay hễ thuận thì còn nghịch thì mất. Bởi Trụ Vương vô đạo, trời khiến giang sơn nhà Thương thuộc về nhà Châu. Hiện nay non Kỳ phụng gáy, thánh chúa ra đời, các chư hầu đều trổ tài hào kiệt phò minh quân, thế mà đạo huynh lại đi phò bạo chúa, chống với số trời làm chi?
Lữ Nhạc cười lớn:
– Bởi ngươi ỷ Xiển giáo thần thông, khinh khi Triệt giáo, nên ta sai bốn đồ đệ ta ra trước để ngươi thấy lợi hại thế nào. Cho nên hôm nay ta thử sức với ngươi cho biết tài cao thấp.
Tiếp đó Lữ Nhạc ngâm một bài thơ:
Học trò Triệt giáo trước là ta
Luyện phép huyền công đâu phải tà?
Học độn ngũ hành là chuyện nhỏ
Thập thông vạn pháp mới tay già
Nghe lời Công Báo lòng thêm tức
Phải đến Tây Kỳ hại Tử Nha
Nếu đã biết thời mau sớm liệu
Hàng đầu cho dứt việc can qua.
Tử Nha nghe ca cười lớn, nói:
– Nếu vậy đạo huynh nghe lời Thân Công Báo mà đến đã chẳng khác Triệu Công Minh và các tiên nương ở Tam Tiên đảo. Mấy người ấy rốt cuộc cũng không còn. Nay đạo huynh đến đây lại bước theo con đường ấy.
Lữ Nhạc nổi giận mắng:
– Tử Nha, ngươi tài phép bao nhiêu dám buông lời kiêu ngạo. Lời Thân Công Báo nói với ta quả không sai.
Nói rồi giục lạc đà đến giơ gươm chém Tử Nha.
Tử Nha đưa gươm ra đỡ.
Dương Tiển cầm thương giục ngựa đến trước, hét:
– Xin sư thúc khoan giao đấu đã. Ðể đệ tử bắt nó.
Nói rồi đâm Lữ Nhạc một giáo thật mạnh. Na Tra, Hoàng Thiên Hóa cũng xông vào vây Lữ Nhạc vào giữa.
– Thật uổng công hết sức, mình đã bắt được cha con Hoàng Thiên Hóa đem về, chủ tướng lại lén thả mất.
Than rồi giục thú đến cản Hoàng Thiên Hóa lại, hét:
– Hoàng Thiên Hóa! Có ta đến đây.
Hoàng Thiên Hóa thấy mặt cừu nhơn nổi giận xông vào hổn chiến.
Na Tra sợ Hoàng Thiên Hóa bị Trịnh Luân bắt nữa, liền lướt tới kêu lớn:
– Hoàng công tử hãy đánh với Lữ Nhạc, để tôi bắt Trịnh Luân cho.
Nói rồi xông vào cự chiến với Trịnh Luân.
Trịnh Luân biết không thể thâu hồn Na Tra được nên bỏ miếng cũ, lại coi chừng Càn Khôn Quyện.
Còn Dương Tiển đánh với Lữ Nhạc, có Hoàng Thiên Hóa giúp sức. Kế đó lại có Thổ Hành Tôn cũng xông vào vây Lữ Nhạc.
Lữ Nhạc thấy tướng Châu mỗi lúc một đông, nhắm một mình khó cự, liền rùng mình một cái, hiện ra ba đầu sáu tay. Một tay cầm Hình Thiên Ấn, một tay cầm phướng hình ôn, một tay cầm gươm Chỉ ôn, một tay cầm chuông Ôn dịch, còn hai tay nữa cầm song kiếm chống cự với ba tướng.
Tử Nha xem thấy kinh hãi, Dương Tiển biết Tử Nha sợ quá liền giục ngựa ra ngoài, gọi Kim Mao đồng tử đưa đạn vàng và cung, nhắm bắn vào cánh tay Lữ Nhạc.
Hoàng Thiên Hóa cũng giục Kỳ Lân nhảy trái ra ngoài, lấy Hỏa Long Tiêu nhắm vào đùi Lữ Nhạc quăng tới.
Tử Nha thấy vậy cũng quăng roi Ðả Thần Tiên lên.
Lữ Nhạc bị ba bửu bối tấn công một lúc, liền nhào xuống lạc đà độn thổ trốn mất..
Trịnh Luân thấy Lữ Nhạc bại tẩu, lớ quớ bị Na Tra đâm một giáo nhằm bả vai, gần sa xuống lưng thú nên phải bỏ chạy.
Tử Nha truyền lịnh thu quân về thành.
Lúc ấy cha con Tô Hộ đứng trước cửa dinh, thấy Trịnh Luân bị thương, Lữ Nhạc bại tẩu, mừng rỡ nhủ thầm:
– Ðáng kiếp! Những đứa ỷ tài ỷ phép.
Lữ Nhạc chạy về dinh thở dốc vì bị roi Ðả Thần Tiên đánh trúng đổ hào quang.
– Khương Thượng tuy thắng được một trận, nhưng không thể cứu nổi cả thành.
Vừa nói vừa lấy thuốc thoa cho Trịnh Luân. Chốc lát Trịnh Luân cũng lành mạnh như cũ.
Ðến canh ba, Lữ Nhạc truyền bốn người đồ đệ, mỗi người lãnh một bầu thuốc ôn đơn, độn thổ đến thành Tây Kỳ. Còn Lữ Nhạc cởi Lạc đà đến đó điều khiển. Trong thành Ðông, Tây, Nam. Bắc đều vãi ôn đơn là thứ thuốc độc vô cùng tai hại. Qua đến canh năm mấy thầy trò mới về trại.
Bấy giờ thành Tây Kỳ bị nhiễm độc, các ao giếng đều đầy cả ôn đơn. nhưng quân sĩ không biết cứ dùng nước ấy mà nấu ăn. Vua quan, văn võ, tướng sĩ, dân chúng đều một loạt mắc bệnh không dậy nổi. Chỉ hai ngày, trong thành không còn một người dậy nấu cơm, nhà không thấy khói, đường vắng người đi, chỉ nghe tiếng rên rỉ mà thôi.
Các đệ tử tiên gia cũng đều mang bệnh ấy chỉ trừ Na Tra, bởi cốt bông sen, Dương Tiển có huyền công nên mạnh dạn như thường.
Na Tra vào thăm Võ vương còn Dương Tiển lo chăm sóc Thừa Tướng. Ai nấy mặt mày xụi lơ.
Na Tra nói với Dương Tiển:
– Nội thành chỉ có anh em ta khỏi bệnh, nếu Lữ Nhạc kéo binh đến cướp lấy, làm sao?
Dương Tiển nói:
– Không hề chi đâu. Ðây chắc là tai nạn của sư thúc, chớ Võ vương là chơn thánh, phước đức như sông núi, chắc cũng có thần tiên đến cứu.
Hai người lo lắng đêm ngày, chạy ra chạy vào các nơi để săn sóc.
Còn Lữ Nhạc sau khi vãi thuốc độc xuống thành Tây Kỳ trở về đến với Tô Hộ:
– Ta giúp Tướng quân thành công, khỏi dùng đến gươm giáo, giết trọn thành Tây Kỳ.
Tô Hộ ngồi làm thinh, tỏ vẻ không tin.
Bữa sau Trịnh Luân thưa với Lữ Nhạc:
– Tôi coi thành Tây Kỳ vắng vẻ không một bóng người thấp thoáng, chắc tướng sĩ đều mang bịnh hết, xin sư phụ cho tôi đem một đạo binh đến phá thành bắt tướng, trả thù cho sư phụ.
Lữ Nhạc nói cũng được, bằng không nội trong năm ngày nữa trong thành cũng chết rục.
Trịnh Luân liền kéo binh ra quyết đột nhập vào thành rửa hận.
Na Tra trông thấy thất kinh nói với Dương Tiển:
– Binh Thương kéo đến quá đông chúng ta không còn một tên lính thủ thì thành, cự sao lại.
Dương Tiễn nói:
– Ðể tôi làm kế này cho binh địch phải lui.
Nói rồi hốt đất và nhổ cỏ vãi lên mặt thành, miệng niệm thần chú, tức thì hóa ra muôn binh ngàn tướng đứng trên mặt thành chật ních.
Trịnh Luân vừa kéo binh đến, thấy binh tướng đông hơn trước nên chẳng dám phá thành, liền kéo quân trở về thưa với Lữ Nhạc.
Lữ Nhạc lấy làm lạ, sai người đi thám thính xem hư thiệt thế nào.
Còn Dương Tiển làm phép ấy chỉ tạm đỡ mà thôi, trong một giờ ba khắc thì binh tướng biến mất, thành Tây Kỳ trở lại cảnh vắng vẻ như cũ.
Na Tra lo sợ, nếu binh Thương biết được chắc khó lòng gạt gẩm.
Bỗng nghe trên không có tiếng hạc kêu, rồi Huỳnh Long chơn nhơn hạ xuống.
Dương Tiển và Na Tra đều bước ra làm lễ.
Huỳnh Long chơn nhơn hỏi Dương Tiển:
– Thầy ngươi đã tới chưa?
Dương Tiển thưa:
– Thầy tôi chưa thấy đến.
Huỳnh Long chơn nhơn vội vào thăm Tử Nha, Võ vương, rồi trở lên mặt thành thì thấy Ngọc Ðảnh chơn nhơn vừa đến.
Huỳnh Long hỏi:
– Sao đại huynh đến trể vậy?
Ngọc Ðảnh nói:
– Tôi hóa hào quang bay, nên không theo kịp cánh hạc.
Nói rồi quay qua bảo Dương Tiển:
– Nay Lữ Nhạc dùng chất ôn độc hại thành Tây Kỳ, ngươi phải qua Hỏa Vân động ra mắt Tam Thánh đại sư xin thuốc về đây mới cứu nổi.
Dương Tiển tuân lệnh đằng vân thẳng đến động Hỏa Vân.
Ðộng này mây xanh tám cõi, mây phủ bốn phương, hoa cỏ muôn màu, trông đẹp mắt lắm.
Dương Tiển đến nơi không dám vào, đứng chờ ngoài cửa cả buổi mới thấy một đạo đồng bước ra, Dương Tiển đón lại nói:
– Tôi là Dương Tiển, học trò Ngọc Ðảnh chơn nhơn nay thầy tôi dạy tôi đến đây ra mắt Tam Thánh lão gia, xin đạo huynh làm ơn thưa lại.
Ðạo đồng hỏi:
– Ngươi biết Tam Thánh là ai mà dám kêu Ðại lão gia?
Dương Tiển bái và thưa.
– Ðệ tử biết không rõ.
Ðạo đồng nói:
– A ngươi không biết thì ta không chấp làm gì. Ba vị Thánh nhân gọi là Tam Hoàng tức là: Phục Hy, Thần Nông và Huỳnh Ðế.
Bây giờ Dương Tiển mới rõ nói:
– Thật tôi dốt nát, nếu không nhờ đạo huynh dẫn giải tôi không sao hiểu thấu.
Ðồng tử vào động, giây phút trở ra nói:
– Ba vị hoàng gia đợi ngươi vào ra mắt.
Dương Tiển vào động, thấy ba ông, ông ngồi giữa có mọc cặp sừng, ông ngồi bên tả mặc áo da cọp màu xanh lá cây, ông ngồi bên hữu đội mão như vua. (Ấy là Phục Hy ngồi giữa, Thần Nông ngồi bên tả, Huỳnh Ðế ngồi bên hữu. Vì các triều vua ấy qua đến triều Huỳnh Ðế mới bắt đầu có áo mão.)
Dương Tiển quỳ tâu:
– Tôi là Dương Tiển, vâng lệnh thầy tôi là Ngọc Ðảnh chơn nhơn đến lạy Hoàng gia xin thuốc.
Vua Phục Hy hỏi:
– Ngươi muốn xin thuốc gì?
Dương Tiển nói:
– Lữ Nhạc là đồ đệ của Triệt giáo xuống thần giúp Tô Hộ đánh Tây Kỳ, chẳng biết dùng tà thuật gì mà làm cả thành từ quan quân đến dân chúng đều đau hết, không một người dậy nổi. Xin Hoàng gia lấy lòng nhân đức cứu dân.
Vua Phục Hy nói với Thần Nông:
– Chúng ta làm vua, kế chế ra bùa Bát quái, người nếm thuốc cứu dân, sau nữa chế ra lễ nhạc giáo hóa, thế gian chẳng hề ly loạn. Nay vận nhà Thương đã suy, bốn biển giặc giã bởi Trụ Vương dâm bạo, nên trời khiến nhà Châu ra đời, thế mà Thân Công Báo cải mệnh trời, thỉnh Tà đạo xuống trần sát hại sinh linh, thật là đại ác. Ngự đệ cũng nên cứu giúp Võ vương để chứng tỏ nghề thuốc không phải vô ích.
Thần Nông đáp:
– Hoàng huynh nói phải lắm.
Liền vào sau dinh lấy ba viên thuốc hòa với nước, truyền đem về cứu thành.
Dượng Tiển tâu:
– Cả thành hơn mấy trăm vạn người, làm sao chỉ có ba viên thuốc mà cho uống khắp được?
Thần nông nói:
– Dân chúng trong thành nhiểm bệnh ôn dịch do Lữ Nhạc chế ra ôn đơn mà ám hại. Bệnh này không cần uống thuốc, cứ đem thuốc ấy về rảy bốn cửa thành, tự nhiên hơi độc phải tan.
Dương Tiển lấy thuốc từ tạ ra đi, Thần Nông gọi lại nói:
– Hãy khoan. Ta cho ngươi giống cỏ đem về Tây Kỳ truyền bá trong dân chúng, hễ ai nghe mắc bệnh truyền nhiễm thì tìm cỏ ấy mà uống ắt hết bệnh.
Thần Nông nói rồi ra sau động nhổ một cây cỏ trao cho Dương Tiển.
Dương Tiển tâu:
– Xin Hoàng gia cho đệ tử biết cỏ ấy tên gọi là chi, để về nhân gian truyền bá.
Than Nông phán:
– Hãy nghe ta ngâm bài kệ này:
Cho hay Lữ Nhạc hại lê dân
Ôn dịch truyền ra độc thấu gân
Một vị Sài hồ sanh núi báu
Trị tiêu truyền nhiểm hiệu như thần.
Dương Tiển lạy tạ, cầm vị thuồc Sài hồ và ba viên thuốc độn thổ trở lại Tây Kỳ thưa các việc với Ngọc Ðảnh chơn nhơn.
Ngọc Ðảnh chơn nhơn truyền đem thuốc rảy bốn mặt thành, dân chúng đều hết bịnh.
Thuốc thần hiệu nghiệm mau như chớp
Bệnh dịch tiêu trừ mạnh thể xưa.
Cách bảy bữa sau, Lữ Nhạc nói với các đệ tử:
– Nhắm chừng hôm nay thành Tây Kỳ đã chết hết rồi.
Tô Hộ nghe nói buồn bã, đêm ấy lén đến thành Tây Kỳ dò xét, binh tướng trên thành vẫn nhộn nhip như thường cờ xí rộn ràng, giáo gươm lởm chởm.
Tô Hộ nghĩ thầm:
– Mấy tên đạo sĩ này chỉ được khoe khoang và dối gạt, ta làm nhục một bữa cho chừa thói ấy.
Nghĩ rồi trở về dinh, cho mời Lữ Nhạc đến, hỏi:
– Phép của thầy có linh nghiệm chăng?
Lữ Nhạc nói:
– Tôi luyện phép ôn đơn đã ba ngàn năm, linh nghiệm như thần, không thể nào tả nổi.
Tô Hộ cười thầm nói:
– Nếu thuốc linh nghiệm tại sao đến hôm nay thành Tây Kỳ quân sĩ vẫn đông nghẹt, tướng tá vẫn mạnh như hùm, dân chúng qua lại trên thành đông như hội.
Lữ Nhạc nghe nói ngạc nhiên:
– Lẽ nào có chuyện như vậy?
Tô Hộ nói:
– Thì việc trước mắt, tôi làm sao nói dối được. Tôi đâu phải là kẻ thần tiên dùng phép để gạt gẫm người ta.
Lữ Nhạc ra trước dinh, nhìn qua phía thành Tây Kỳ thấy quân tướng lao xao, chẳng khác lúc trước, kinh ngạc nói:
– Mấy hôm nay tôi luôn luôn sai người thám thính thấy trên thành vắng vẻ, không một tiếng chó sủa, không một bóng người, tại sao hôm nay có việc lạ lùng.
Liền đánh tay xem mới biết rõ các việc, liền hét lớn:
– Ngọc Ðảnh chơn nhơn sai người đến Hỏa Vân động xin thuốc về cứu cả thành rồi.
Nói rồi truyền bốn người đồ đệ và Trịnh Luân, mỗi người lãnh ba ngàn binh thừa lúc quân dân trong thành mới ngoắc ngoải kéo vào giết một trận cho biết tay.
Trịnh Luân tuân lệnh vào xin binh đi phá Tây Kỳ.
Tô Hộ biết Lữ Nhạc không thể nào đánh lại Tử Nha nên cấp cho một muôn hai nhân mã.
Châu Tín lãnh ba ngàn binh sĩ kéo đến Ðông môn. Châu Thiên Lân lãnh ba ngàn binh mã kéo đến Tây môn. Lý Kỳ lãnh ba ngàn quân kéo qua cửa Nam môn. Dương Văn Huy lãnh ba ngàn quân kéo sang cửa Bắc môn với Lữ Nhạc, còn Trịnh Luân đi sau ứng tiếp
Khi ấy Na Tra đứng trên thành thấy binh Thương kéo tới liền thưa với Huỳnh Long chơn nhơn:
– Trong thành binh tướng mới mạnh, còn yếu lắm, nay binh Thương đến vào thành, biết làm sao cự lại?
Huỳnh Long chơn nhơn nói:
– Ngươi đừng lo. Ta đã có cách đối phó.
Nói rồi sai Dương Tiển lên cửa Ðông, mở hết cửa thành cho địch kéo vào, lại sai Na Tra đến cửa Tây mở bét cửa thành cho địch tràn vào, còn Ngọc Ðảnh chơn nhơn và Huỳnh Long chơn nhơn một người mở cửa phía Bắc, một người mở cửa phía Nam, đứng chờ binh Thương vào thành hỗn chiến.
Nói về Châu Tín lãnh ba ngàn quân đến Ðông môn, thấy cửa thành mở rồi liền kéo binh rần rộ xông vào.
Dương Tiển cầm cấy đao ba mũi, gọi lớn:
– Châu Tín, ngươi đến đây nạp mạng. Ta đố ngươi chạy đâu cho khỏi.
Nói rồi đâm tới một đao.
Châu Tín rán sức bình sanh giao đấu.
Lý Kỳ lãnh ba ngàn nhân mã dẫn đến Tây môn, mới xông vào thành đã bị Na Tra chận lại đánh.
Châu Thiên Lân kéo ba ngàn binh mã xông vào cửa Nam thành.
Gặp Ngọc Ðảnh chơn nhơn đón lại.
Còn Lữ Nhạc và Dương Văn Huy kéo binh đến cửa Bắc thành.
Huỳnh Long chơn nhơn cỡi hạc bay ra hét lớn:
– Lữ Nhạc! Ngươi khinh địch hãm thành, nay mắc kế còn chạy đường nào nữa?
Lữ Nhạc thấy Huỳnh Long chơn nhơn liền hét lớn:
– Ngươi tài phép gì mà dám nói cao như vậy?
Nói rồi rút bửu kiếm chém liền.
Huỳnh Long chơn nhơn đưa gươm ra đỡ.
Lữ Nhạc hiện ra ba đầu sáu tay mà đánh. Ấy là chơn tiên cự với Chúa ôn hoàng dịch lệ.
Bầy giờ Dương Tiển cự với Châu Tín tại Ðông môn, vừa được ít hiệp, Dương Tiển sợ để lâu binh Thương vào thành hại bá tánh liền ném con Hạo Thiên Khuyển lên cắn ngang cổ Châu Tín.
Châu Tín mắc xô con chó bị Dương Tiển chém một đao rụng đầu, linh hồn bay lên đài Phong thần.
Dương Tiển đánh binh Thương chạy vỡ rồi đi qua cửa khác ứng tiếp.
Na Tra đánh với Lý Kỳ tại Tây môn, đánh được ít hiệp, Nay Tra bèn quăng Càn Khôn Quyện lên đánh nhằm Lý Kỳ ngã lăn. Na Tra đâm tiếp một giáo linh hồn Lý Kỳ bay lên đài Phong thần.
Ngọc Ðảnh chơn nhơn đánh với Châu Thiên Lân ở cửa Nam.
Qua một hồi giao đấu, Ngọc Ðảnh quăng gươm trảm tiên chém Châu Thiên Lân đứt làm hai đoạn, hồn Châu Thiên Lân cũng bay lên đài Phong thần.
Chỉ còn Huỳnh Long chơn nhơn tại Bắc môn đánh không lại Lữ Nhạc liền giục hạc bay vào thành.
Lữ Nhạc và Dương Văn Huy đuổi theo.
Dương Văn Huy hét lớn:
– Huỳnh Long chơn nhơn chạy đi đâu cho khỏi chết?
Na Tra thấy Lữ Nhạc và Dương Văn Huy đuổi theo Huỳnh Long, giục xe đến hét lớn:
– Lữ Nhạc, đừng hành hung, có ta đến trợ chiến.
Nói rồi xông tới đâm liền. Bỗng có Dương Tiển và Ngọc Ðảnh chơn nhơn cũng đến kịp hiệp lực nhau đánh Lữ Nhạc.
Bên Lữ Nhạc chỉ có một mình Dương Văn Huy sống chết với thầy, còn Trịnh Luân kéo đạo quân tiếp viện vào thấy mặt Na Tra đã thất kinh bỏ trốn mất.
Bấy giờ Tử Nha bệnh mới giảm, còn yếu lắm. Có các đồ đệ là Lôi Chấn Tử, Kim Tra, Mộc Tra, Long Tu Hồ, Hoàng Thiên Hóa, Thổ Hành Tôn đứng hầu một bên.
Bỗng nghe tiếng trống rung dậy đất, quân ó vang trời thất kinh hỏi:
– Vì sao bốn mặt thành đều náo động vậy?
Các đệ tử đều thưa:
– Chúng tôi không rõ.
Lôi Chấn Tử nói:
– Ðể tôi đi xem thử.
Nói rồi vỗ cánh bay lên. Giây phút trở lại thưa:
– Lữ Nhạc khinh địch hảm thành, Dương Tiển, Na Tra và hai vị đạo sư đang hổn chiến.
Các đệ tử nghe nói nổi giận đồng la lên:
– Hôm nay không giết Lữ Nhạc còn đợi chừng nào.
Cả năm người đều ra thành, Tử Nha cản lại không kịp.
Kim Tra đến nơi, kêu Dương Tiển và Na Tra, nói:
– Hai anh em ráng giữ gìn đừng cho Lữ Nhạc chạy khỏi.
Nói rồi quăng Ðộn Long Thun lên.
Lữ Nhạc biết phép ấy lợi hại lắm, thất kinh vỗ đầu con lạc đà bay lên như gió.
Dương Văn Huy thấy vậy cũng chạy theo thầy.
Bấy giờ trong thành bắt được một mớ binh Thương rất đông. Chúng xin đầu hàng hết.
Thày trò Lữ Nhạc bay đến một hòn núi kia dừng chân lại nơi một cội tòng nghỉ mệt, Lữ Nhạc than với Dương Văn Huy:
– Ngày nay bại trận, danh tiếng không còn. Ta phải đi tìm một vài anh em đến báo thù mới được.
Nói vừa dứt tiếng bỗng nghe xa xa có tiếng ngâm:
Ráng đỏ khói đen ẩn bấy lâu
Không vinh, không nhục, cũng không sầu
Chẳng say tửu ấc say mùi ầhú
Không nếm công danh nếm phép mầu
Mới chỉ tay tiên hùm cúi mặt
Vừa quăng chày báu quỉ bay đầu
Ðừng chê tuổi nhỏ thần thông thấp
Yêu mị tà ma cả thảy thâu.
Lữ Nhạc nhìn lại thấy một người nửa tiên nửa tục, mình mặc áo đạo, đầu đội kim khôi, cầm Gián ma xử vừa đi, vừa ca.
Lữ Nhạc đứng dậy hỏi:
– Ðạo sĩ là ai? Ði đâu đó?
Người kia đáp:
– Ta là Vi Hộ, học trò Ðạo Hạnh Thiên Tôn, núi Kim Ðình, động Ngọc Ốc, vâng lịnh thầy xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha quá ngũ quan, phạt Trụ. Nay nhân dịp bắt Lữ Nhạc lập công.
Dương Văn Huy nghe nói nổi giận hét lớn:
– Ngươi tài cán bao nhiêu mà dám phách lối.
Vừa nói vừa chém Vi Hộ một nhát.
Vi Hộ đỡ gươm và cười:
– À! Té ra ta gặp may! Không tìm mà gặp Lữ Nhạc ở đây.
Ðánh được ít hiệp Vi Hộ quăng Gián ma xử lên. Vũ khí này như cây chày nện vải luyện phép rất hay, cầm trên tay thì nhẹ như bông, nhưng đánh nhằm người thì nặng như núi. Ðó là một vũ khí lợi hại phi thường.
Dương Văn Huy đỡ không nổi bị Giản ma xử nện bể đầu, linh hồn bay thẳng lên đài Phong thần.
Có bài thơ rằng:
Trong lò Bát quái luyện hằng lâu
Chày Gián ma xử rất nhiệm mầu
Vi Hộ ngày sau thành Hộ pháp
Văn Huy ???? gặp nát gan đầu.
Lữ Nhạc thấy Văn Huy bị chày phép đánh nát óc, nổi giận lướt tới hét:
– Yêu nghiệt. Dám khi ta sao?
Liền vung gươm chém.
Vi Hộ đánh được bảy hiệp, quăng Gián ma xử lên, Lữ Nhạc biết cự không lại, độn thổ trốn mất.
Vi Hộ thâu Gián ma xử, thẳng đến thành Tây Kỳ, gọi quân bảo vào thưa với Tử Nha rằng:
– Có đạo đồng xin ra mắt sư thúc.
Tử Nha truyền thỉnh vào trong, Vi Hộ vào làm lễ và thưa:
– Ðệ tử là Vi Hạ học trò Ðạo Hạnh Thiên Tôn ở núi Kim Ðình, động Ngọc ốc, vâng lệnh thấy đến hầu sư thúc giúp việc chiến chinh. Ði dọc đường đệ tử đánh Lữ Nhạc chạy mất và giết được một đạo sĩ không biết tên chi.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ, dọn tiệc đãi đằng.
Còn Lữ Nhạc chạy về Cửu Long đảo, cố tình luyện những cây lọng phép để ngày sau lập trận Ôn hoàng báo oán.
Bấy giờ Tô Hộ thấy Lữ Nhạc chạy mất, Trịnh Luân thất trận về dinh, liền khuyên Trịnh Luân đầu Châu.
Trịnh Luân vẫn không chịu.
Tô Hộ nghĩ mình mắc tội với Tử Nha nhiều lắm, nên ngày đêm rầu rĩ, tính không biết làm sao để đầu Châu cho trọn.
Tô Toàn Trung nói:
– Hay là cha con mình bỏ cả binh tướng sang đầu một mình.
Tô Hộ nói:
– Ta có con gái là Ðắt Kỷ đang làm Chánh cung tại triều, nếu không kéo cả binh gia đến quy hàng, thế nào Thừa Tướng cũng nghi kỵ.
Toàn Trung cũng không biết làm sao, ngậm buồn than thở.
Ðây nói về động Vân Tiêu, núi Thái Hoa ông Xích Tinh Tử đang ngồi luyện phép bỗng có Bạch hạc đồng tử vâng lịnh Nguyên Thỉ đem giấy tới.
Xích Tinh Tử quì nghe đọc, rồi đứng dậy tạ ơn.
Bởi Tử Nha đã gần đến ngày đăng đàn bái tướng, cầm quân qua năm ải phạt Trụ, nên Giáo chủ Xiển giáo triệu tập một ngày hội chư tiên.
Bạch Hạc đồng tử thông báo xong, giã từ lui gót, Xích Tinh Tử thấy học trò mình là Ân Hồng đứng hầu hạ liền nói:
– Số ngươi ít phước không thành tiên. Nay Võ vương là thánh chúa ra đời, sư thúc ngươi là Tử Nha gần làm Nguyên soái cử binh vào lấy năm ải, hội chư hầu nơi Mạnh Tân để cùng cứu dân phạt Trụ. Ta muốn sai ngươi xuống Tây Kỳ trợ lực với sư thúc ngươi cho thuận lòng trời nhưng chỉ sợ có một điều.
Ân Hồng hỏi:
– Thầy ái ngại điều gì mà chẳng nói?
Xích Tinh Tử nói:
– Vì ngươi là con vua Trụ chắc ngươi không chịu đầu Châu.
Ân Hồng nói:
– Ðệ tử tuy là con Trụ vương song có thù nặng với Ðắt Kỷ. Bởi phụ vương tôi nghe lời Ðắt Kỷ mới khoét mắt và đốt hai tay mẹ tôi là Khương hậu chết tại Tây cung. Lòng tôi ngày đêm khôn quên hận cũ, quyết bắt Ðắt Kỷ mổ gan, trả thù cho mẫu thân tôi, dẫu tôi có chết cũng đành.
Xích Tinh Tử nói:
– Tuy ngươi nói vậy, song sợ sau này đổi ý.
Ân Hồng nói:
– Lẽ nào đệ tử đám cãi lệnh tiên sư.
Xích Tinh Tử mừng rỡ lấy áo Tử Thọ tiên y, Thủy Hỏa Phong và Âm Dương Cảnh cầm trong tay và dặn:
– Sau này ngươi đến ải Giai Mộng sẽ gặp bà Hỏa Linh thánh mẫu, vị tiên nương này đầu đội mão kim hà, hào quang chiếu ra ba bốn mươi trượng, vì vậy người khác không thấy được bà ta, trái lại bà ta trông người khác rất rõ. Nếu gặp phép ấy, ngươi phải dùng chiếc áo tiên này thì mới trừ được. Còn đây là kiếng Âm Dương, một phía màu trắng, một phía màu đỏ, chiếu bên trắng thì tướng địch chết giấc, còn chiếu bên đỏ thì tướng địch hoàn hồn. Còn Thủy Hỏa Phong là vật để cầm tay làm khí giới. Thôi, ngươi xuống Tây Kỳ cho kịp, không bao lâu ta cũng đến đó trợ lực.
– Vì tưởng tình thầy trò trao hết báu vật cho nó, song nó là con Trụ vương, nếu nó phản phúc mình mới tình làm sao đây?
Nghĩ rồi gọi Ân Hồng lại.
Ân Hồng trở vào quì thưa:
– Sư phụ còn dạy điều gì?
Xích Tinh Tử nói:
– Thầy tin lòng con, trao hết bửu bối. Con chớ nên cãi lời thầy phò Trụ đánh Châu.
Ân Hồng nói:
– Không nhờ thày cứu mạng thì đã chết rục xương rồi, còn đâu sống đến ngày nay. Con nào dám cải lời thầy, quên ơn dạy dỗ.
Xích Tinh Tử nói:
– Hoàn cảnh hay làm thay đổi lòng người, cho nên lời nói không có gì cầm chắc được.
Ân Hồng không biết nói sao, liền thề rằng:
– Nếu con cải lời thầy thân thể con sẽ hóa thành tro bụi.
Xích Tinh Tử nói:
– Hễ thề thì mắc, thắt thì rối, chớ có dễ ngươi. Thôi con đi đi và phải nhớ lời.
Ân Hồng liền độn thổ thẳng xuống Tây Kỳ.
Ði được một buổi, bỗng thấy lòng buồn, mến cảnh nước non, liền trồi đầu lên, thấy một núi cao ngất, phong cảnh tốt tươi, hoa cỏ sum suê.
Ân Hồng đang mải mê với cảnh đẹp, xảy nghe trong từng rậm tiếng chiêng inh ỏi, có một người chạy ra, mặt đen như lọ, hai con mặt tròn vo như hai cái lục lạc, chân mày rậm, cỡi ngựa ô mặc giáp vàng, cầm giản bạc, lướt lên núi nạt lớn:
– Ngươi là đạo đồng ở đâu dám đến đây thám thính.
Nói rồi đập một giản.
Ân Hồng đưa giáo ra đỡ, hai bên hỗn chiến một hồi chưa rõ hơn thua.
Bỗng có một người từ dưới đất trồi lên, gọi người mặt đen nói:
– Anh đừng sợ, có tôi trợ chiến.
Người mới đến đội mão đầu cọp, mặt đỏ, râu đài, cầm giáo đồng, xông đến trợ chiến với người mặt đen, cố giết cho được Ân Hồng.
Ân Hồng cự không lại, sực nhớ đến tấm kiếng Âm Dương của thầy mình cho, liền dùng thử xem phép có mầu nhiệm không cho biết.
Ân Hồng vừa đưa kính lên, chiếu bề trắng vào mặt hai tướng, hai tướng ấy lập tức sa xuống đất, nằm bất tỉnh.
Ân Hồng mừng quá không ngờ báu vật của tiên gia thần thông đến thế. Trong lúc đang mừng rỡ thì phía sau núi lại có thêm hai tướng nữa xông tới.
Hai tướng này một người mặt trắng, một người mặt vàng, tóc cụt, râu rìa, cầm giáo bạc, mặc áo đỏ, lướt tới chém Ân Hồng.
Ân Hồng sợ quá sẵn kiếng phép còn cầm trên tay, vội chiếu tức thì. Một tướng sa xuống ngựa, còn một tướng thấy Ân Hồng phép thuật như vậy bỏ chạy ra xa, quì gối lạy lục thưa:
– Xin đại tiên rộng lượng dung tha cho kẻ thất lễ.
Ân Hồng nói:
– Ta không phải là tiên, mà là con trai của Trụ Vương. Ta là Ân Hồng nhị điện hạ.
Người ấy vội lạy sát đất, nói:
– Chúng tôi không biết Ðiện hạ đến đây, không tiếp nghinh, xin Ðiện hạ tha tội.
Ân Hồng nói:
– Các ngươi không phải là giặc, ta không giết làm gì.
Nói rồi lấy kiếng chiếu vào mặt ba người về phía màu đỏ, tức thì ba người ấy tỉnh lại như thường.
Ba người lồm cồm ngồi dậy, chưa hiểu việc gì cả, trợn mắt nhìn Ân Hồng mắng:
– Yêu đạo, dám khi dễ chúng ta sao!
Người kia gọi lớn:
– Ba anh chớ nên thất lễ! Ngài là Ân Ðiện hạ chứ không phải đạo đồng.
Ba người nghe nói đều quỳ lạy, Ân Hòng hỏi:
– Bốn vị tên họ là chi?
Người lớn tuổi hơn giới thiệu:
– Bốn chúng tôi là Bàng Hoằng, Lưu Phủ, Tuân Chương, và Tất Hoàn đều chiếm cứ núi Nhị Long, tụ đảng tại Huỳnh Phong lảnh.
Ân Hồng nói:
– Ta xem bốn ngươi không phải thảo khấu, thật đáng bậc anh hùng, vậy hãy theo ta đến Tây Kỳ phò châu diệt Trụ.
Lưu Phủ hỏi:
– Ðiện hạ là dòng giống Thành Thang. Sao lại không phò Trụ diệt Châu, lại phò Châu đánh Trụ.
Ân Hồng nói:
– Tuy phụ vương là cha ta, song lỗi đạo cang thường, theo tà bỏ chánh nên chư hầu không phục, thiên hạ không thương. Nay ta không dám cãi trời, phải phò Châu, giết Ðắt Kỷ mà cứu dân. Chẳng hay binh mã các ngươi được bao nhiêu?
Bàng Hoằng nói:
– Nội trại tôi có hơn ba ngàn binh mã.
Ân Hồng nói:
– Ngươi theo ta đến giúp Tây Kỳ thế nào cũng được hiển vinh
Bốn tướng vòng tay thưa:
– Nếu được Ðiện hạ dìu dắt thì chúng tôi xin làm kẻ tùy tùng để Ðiện hạ sai khiến.
Nói rồi mời Ân Hồng về trại thết đãi một bữa, kiểm điểm binh mã, dựng cờ Tây Châu, đốt trại kéo đi.
Ân Hồng và bốn tướng đang nhằm Tây Kỳ thẳng tới, thình lình có một người cỡi cọp chạy đến. Quân sĩ trông thấy thất kinh la lớn:
– Cọp dữ! Cọp dữ!
Người cỡi cọp xuống lưng thú, nói:
– Không sao! Cọp ta nuôi, có ta đây nó không dám ăn ai mà sợ. Hãy báo với Ân điện hạ, có ta xin ra mắt.
Mấy tên quân đi đầu trở lại bảo với Ân Hồng.
Ân Hồng vốn là đệ tử của thần tiên, nghe nói có đạo sĩ xin ra mắt thì tỏ vẻ kính trọng, liền mời đến.
Ðạo sĩ này mặt trắng, râu dài, bước đến bái Ân Hồng.
Ân Hồng đáp lễ và hỏi:
– Ðạo trưởng là ai?
Ðạo sĩ nói
– Tôi là Xiển giáo, đệ tử cung Ngọc Hư, cùng đạo với sư phụ của Ðiện hạ.
Ân Hồng bái và nói:
– Thế thì tôi gọi bằng sư thúc, chẳng hay sư thúc có việc gì chỉ dạy?
Ðạo sĩ nói:
– Ta là Thân Công Báo đi ngang qua đây gặp Ðiện hạ nên phải viếng thăm. Chẳng hay Ðiện hạ đi đâu vậy?
Ân Hồng nói:
– Nay đệ tử vâng lệnh thầy đến Tây Kỳ phò Võ vương diệt Trụ.
Thân Công Báo làm mặt giận nói:
– Có lẽ nào như vậy. Ngươi kêu vua Trụ là gì?
Ân Hồng nói:
– Vua Trụ là cha đẻ của tôi.
Thân Công Báo hét lớn:
– Trong thiên hạ không có ai phò người dưng đánh lại cha mình bao giờ.
Ân Hồng nói:
– Phụ vương tôi vô đạo, các chư hầu làm phản, nhơn dân không kính phục, dù có con thảo chúa cũng không cứu nổi.
Thân Công Báo cười nhạt:
– Ngươi là người con bất hiếu bất nghĩa, dù cha mẹ có lỗi đến đâu con há lại đi đánh cha mẹ sao? Anh em ruột thịt người ta có chém nhau cũng chém bề sống, không ai chém bề lưỡi bao giờ? Kẻ nào khiến ngươi làm cái chuyện phi nhân như vậy?
Ân Hồng nói:
– Thầy tôi thông hiểu thiên cơ, tinh thông lý số, biết thế nào giang sơn cũng về nhà Châu, nếu tôi nghịch lòng trời thì mất mạng.
Thân Công Báo nói:
– Thầy ngươi mang tiếng là kẻ tu hành, sao lại nói chuyện ác như vậy, nếu nói là Trụ Vương bạo ngược, nên trời phạt, thì người sai con xuống đánh cha không phải ác độc gấp mấy lần Trụ vương hay sao? Ngươi đừng nghe một lũ độc tài ấy biểu làm loạn nhân gian, gây sóng gió cho cuộc sống loài người.
Ân Hồng nói:
– Không phải tôi dám phụ tình cha con, song Ðắt Kỷ đã khoét mắt, đốt tay mẹ tôi, tôi quyết phò Châu, bắt Ðắt Kỷ mà trả thù.
Thân Công Báo nói lớn:
– Thật là dại dột. Ngươi đã tiêm nhiễm giáo điều của Xiển giáo rồi, đưa ra một lý lẽ mơ hồ, buộc mọi người phải chung sức làm theo ý kiến độc tài của họ. Ta hỏi ngươi, nếu thù với Ðắt Kỷ ngươi cứ việc bắt Ðắt Kỷ đem chém đi không được hay sao mà phải phò Châu đánh cha ngươi, lấy hết giang san của cha ngươi đưa cho người khác. Ngày kia, ngươi phá hết Tông miếu của Thành Thang, trừ hết hoàng tộc, rồi ngươi chết xuống suối vàng còn mặt mũi nào nhìn thấy tổ phụ, chỉ có những bọn giả nhân giả nghĩa mới bảo người làm điều phi nhân như vậy.
Ân Hồng nói:
– Nhưng phụ vương tôi bạo ngược, làm cho khí số Thành Thang phải dứt, tôi làm sao cứu vãn nổi. Như phò Trụ diệt Châu là trái với ý trời.
Thân Công Báo nói:
– Ý Trời là gì? Có phải ngươi muốn nói vì Trụ vương vô đạo nên thiên hạ oán hận và theo phò kẻ khác không? Nếu vậy thì trời là kẻ có quyền lực sao không giết kẻ ác đi, để cho ngôi vua về tay kẻ khác, lại chủ trương một cuộc đao binh, giết hàng loạt dân chúng, làm cho kẻ vô tội bị máu đổ xương rơi, cảnh thảm khốc rơi vào đầu mọi người. Họ có tội gì? Tướng lảnh nhà Thương có tội gì? Nhân dân nhà Thương có tội gì?
Ân Hồng nghe Thân Công Báo nói một hồi mặt ngơ ngáo, nói:
– Nhưng khí số nhà Thương đã hết…
Thân Công Báo nói:
– Ai định cái khí số ấy? Nếu ngươi thấy Trụ vương vô đạo thì trở về cùng với triều thần truất phế, đưa người nhân đạo lên ngôi, trừ Ðắt Kỷ, đem lại cho dân chúng hạnh phúc thái bình, ấy là đạo làm con, tại sao lại giúp người khác đánh cha mình, mà gọi là thuận lòng trời. Trời có bảo làm con đánh cha là nhân đạo không?
Ân Hồng thấy Thân Công Báo nói có lý, cúi đầu ngẩm nghĩ một hồi rồi nói:
– Lời thầy luận cũng phải, song tôi đã lỡ lời thề với sư phụ tôi, nên phải phò Châu đánh Trụ.
Thân Công Báo hỏi:
– Ngươi thề làm sao?
Ân Hồng nói:
– Tôi thề nếu tôi không phò Châu đánh Trụ thì thân thể tôi bị nát như tro.
Thân Công Báo nói:
– Có bao giờ thân thể lại nát như thế được, ấy là lời thề không quan hệ. Mà ví dầu thân thể có nát như tro còn sung sướng hơn phải mang tiếng bất hiếu, bất trí, bất nhân, bất nghĩa. Nếu như ngươi hồi tâm, nghe theo lời ta, kéo xuống đánh Châu trước dẹp loạn sau về cũng cố triều đình, đwm lại nhân đức thì lòng dân sẽ qui về, và ngươi sẽ trị vì thiên hạ.
Ân Hồng nghe theo lời Thân Công Báo, nói:
– Ðạo trưởng nói rất phải. Tôi sẽ phò Trụ diệt Châu.
Thân Công Báo nói:
– Như vậy mời đúng với nhân luân. Hiện nay Tô Hộ đang đánh với Tử Nha tại Tây Kỳ, ngươi đem binh đến đó trợ chiến. Ta đi thỉnh một vị thần thông quảng đại, ít ngày sẽ đến giúp ngươi.
Ân Hồng nói:
– Tô Hộ là cha Ðắt Kỷ, mà Ðắt Kỷ là cừu nhân của tôi, lẽ nào tôi chung sống với kẻ thù?
Thân Công Báo nói:
– Bây giờ là lúc ngươi gánh vác nợ nước, chưa phải lúc nghĩ đến thù nhà. Lúc nào ngươi dẹp yên bốn biển, chỉnh đốn đến triều đình ngồi trên ngôi cửu ngũ, chừng ấy ngươi muốn báo thù rửa hận không khó.
Ân Hồng bái và thưa:
– Lời thầy đạy phải lắm.
Thân Công Báo nói xong giã từ, cỡi cọp ra đi.
Cũng vì Công Báo nhiều lời nói
Khiến nổi Ân Hồng nát thịt xương.
Khi ấy Ân Hồng bỏ cờ Châu dựng cờ Thương, kéo xuống Tây Kỳ, thấy Tô Hộ đang đóng trại dưới thành.
Ân Hồng truyền Bàng Hoằng mời Tô Hộ ra mắt.
Bàng Hoằng vâng lệnh đến trước cửa thành kêu lớn:
– Có Ân nhị điện hạ mời Tô hầu ra mắt cho mau.
Quân vào báo, Tô Hộ nghĩ thầm:
– Ðiện hạ trước kia gió bay mất rồi, nay sao còn Ðiện hạ nào nữa? Vả lại ta vâng sắc chỉ chinh Tây, đương nhiên là một vị Ðại thần, ai lại dám gọi ta ra mắt.
Nghĩ rồi truyền quân đòi sứ vào, quân dắt Bàng Hoằng đến trước trướng.
Tô Hộ thấy Bàng Hoằng mặt mày hung dữ, liền hỏi:
– Ngươi là binh tướng của ai, và Ðiện hạ nào sai ngươi đến đây?
Bàng Hoằng nói:
– Tôi chỉ biết vâng lệnh Nhị điện hạ vào đây thỉnh lão tướng quân.
Tô Hộ ngẩm nghĩ rồi nói:
– Năm trước Ân Giao, Ân Hồng đã bị gió bay, nay còn Nhị điện hạ nào nữa?
Trịnh Luân nói:
– Năm trước bị gió bay có lẽ do thần tiên cứu mạng, nay thấy quốc gia ly loạn nên thần tiên cho xuống trần chăng? Xin quân hầu đến đó xem thử thế nào?
Tô Hộ nghe lời dắt Trịnh Luân đi đến.
Bàng Hoằng vào báo.
Ân Hồng truyền tả hữu mời vào.
Tô Hộ, Trịnh Luân bước tới đồng bái và nói:
– Chúng tôi mặc giáp trong mình làm lễ không trọn. Chẳng hay Ðiện hạ là chi phái nào của Thành Thang?
Ân Hồng nói:
– Ta là dòng chánh, Nhị điện Ân Hồng. Bởi phụ vương ta nghe lời Ðắt Kỷ hại mẹ con ta, trói anh em ta nơi pháp trường, nhưng chưa kịp xử tử thì có tiên đến cứu đem về núi tập luyện võ nghệ. Nay ta đến đây trợ ngươi, ngươi không biết ta sao?
Trịnh Luân mừng rỡ nói:
– Nay gặp Ðiện hạ đây thật Thành Thang có phước.
Ân Hồng truyền Tô Hộ hiệp binh một chổ, rồi ra khách và nói:
– Mấy bữa nay ngươi đánh với Võ vương thắng bại lẽ nào.
Tô Hộ thuật hết mọi việc.
Ân Hồng liền đổi sắc phục.
Rạng ngày Ân Hồng dẫn binh đến dưới thành khiêu chiến xưng mình là Ðiện hạ nhà Thương.
Quân vào báo.
Tử Nha ngẫm nghĩ nói:
– Trụ vương không con nay lại có Ðiện hạ nào khiêu chiến?
Hoàng Phi Hổ thưa:
– Trụ vương có hai người con trai là Ân Giao và Ân Hồng, bị gió thổi bay mất, có lẽ ngày nay trở về chăng? Ðể rồi ra xem thì biết chơn giả.
Nói rồi mấy cha con đồng ra thành.
Hoàng Phi Hổ thấy Ân Hồng mặc quần áo theo vương phục, có bốn tướng đứng hầu hai bên, Trịnh Luân theo sau hộ vệ, liền hỏi tên họ.
Ân Hồng xa cách Hoàng Phi Hổ hơn mười năm, nên không hay việc Hoàng Phi Hổ phản Trụ, liền đáp:
– Ta là Nhị điện hạ Ân Hồng. Còn ngươi là ai mà dám cả gan làm phản? Nay ta phụng chỉ chinh Tây, nếu các ngươi hàng đầu thì thôi bằng không, cả xứ Tây Kỳ này thành tro bụi.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi là Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ vâng lệnh Khương Thừa Tướng xuất quân.
Ân Hồng nghĩ thầm:
– Ở Tây Kỳ cũng có Hoàng Phi Hổ nữa sao?
Nghĩ rồi nói lớn:
– Các ngươi chớ cậy Tử Nha là học trò núi Côn Lôn mà chết không chỗ chôn xác.
Nói rồi đâm tới một thương.
Hoàng Phi Hổ đưa đao ra đỡ, hai bên hỗn chiến một hồi.
Hoàng Phi Hổ đánh với Ân Hồng được hai mươi hiệp, thì Ân Hồng đánh đỡ không kịp vì cây giáo của Hoàng Phi Hổ như thần, đánh nhiều miếng hiểm ác.
Bàng Hoằng lướt tới trợ lực, Hoàng Thiên Lộc xông ra cản trở.
Lưu Phủ múa đao chạy tới bị Hoàng Thiên Tường đón lại giao công.
Tuân Chương nổi nóng nhảy vào vòng chiến.
Một mình Hoàng Thiên Tường mà cự với hai tướng vẫn cầm đồng.
Tất Hoàn cầm cặp búa xông vào, bị Hoàng Thiên Hóa ngăn đỡ.
Bấy giờ Ân Hồng liệu thế một mình không cự lại nên trá bại, Hoàng Phi Hổ đuổi theo bị Ân Hồng dùng Âm Dương kiếng chiếu vào mặt làm cho Hoàng Phi Hổ té nhào xuống ngựa bất tỉnh.
Trịnh Luân lập tức bắt trói Hoàng Phi Hổ.
Hoàng Thiên Hóa nóng lòng, bỏ Tất Hoàn sang cứu Hoàng Phi Hổ.
Ân Hồng thấy Hoàng Thiên Hóa cầm song chùy cỡi kỳ lân biết là người có phép liền lấy kiếng chiếu vào mắt, Hoàng Thiên Hóa mê man té xuống kỳ lân bị quân bắt trói. Còn Tuân Chương thấy Hoàng Thiên Tường nhỏ tuổi khinh khi chẳng đề phòng bị Hoàng Thiên Tường đâm một giáo trúng đùi, Tuân Chương bại tẩu.
Ân Hồng thấy đã bắt được hai tướng, liền gióng kiểng thâu quân về trại.
Quân thua chạy về phi báo, Tử Nha thất kinh hỏi duyên cớ.
Hoàng Thiên Tường kể lại đầu đuôi.
Tử Nha buồn bã vô cùng.
Ân Hồng thắng trận về dinh, truyền dẫn cha con Hoàng Phi Hổ vào rồi dùng kiếng phép chiếu vào mặt cho cha con Hoàng Phi Hổ tỉnh lại.
Cha con Hoàng Phi Hổ mở mắt thấy mình bị trói, tức giận căm gan.
Hoàng Phi Hổ mắng Ân Hồng:
– Ngươi không phải nhị điện hạ.
Ân Hồng nạt lớn:
– Sao ngươi biết không phải?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Nếu ngươi là Nhị điện hạ, sao ngươi không biết ta là Hoàng Phi Hổ. Năm trước ta tha hai vị Ðiện hạ tại ngã ba, và tâu với Trụ Vương xin tội, lẽ nào ngươi không nhớ?
Ân Hồng nói:
– Nếu vậy là Hoàng tướng quân đại ân nhân đây sao?
Nói rồi bước xuống mở trói cho Hoàng Phi Hổ, lại truyền tha trói cho Hoàng Thiên Hóa và hỏi:
– Sao tướng quân lại đầu Châu?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Tôi xấu hổ quá, không đủ can đảm nói hết nỗi lòng mình với nhị Ðiện. Bởi Trụ vương vô đạo, giởn cợt với vợ tôi lại giết cả em tôi nữa. Tội ác mỗi ngày một dữ, không kể sao cùng. Nay thiên hạ ba phần đã theo nhà Châu hết hai rồi, tôi cũng là kẻ bạc phước, bị Trụ vương phụ bạc nên cũng phải đầu Châu, tránh chỗ dữ, vô vô chổ lành. Nếu Nhị điện hạ tha chết cho tôi thật là ơn sâu nghĩa trọng.
Trịnh Luân cản lại:
– Ðiện hạ không nên tha tội kẻ phản thần.
Ân Hồng nói:
– Ngày trước Hoàng tướng quân ra ơn cứu ta, nếu nay ta giết đi mang tiếng bất nghĩa. Lần này ta trả ơn, nếu lần sao bắt được sẽ gia hình theo phép.
Nói rồi truyền trả y giáp lại, và dặn:
– Hoàng Tướng quân! Hôm nay ta trả ơn, sau này chớ nhắc đến nữa. Nếu ngày sau có ra trận phải giữ gìn để khỏi ăn năn.
Cha con Hoàng Phi Hổ đồng lạy tạ ơn, chạy thẳng về thành ra mắt Tử Nha tỏ mọi việc sau trước.
Tử Nha khen:
– Như vậy thì Ân Hồng tỏ ra là người có đức độ.
Còn Trịnh Luân thấy Ân Hồng tha cha con Hoàng Phi Hổ lòng không vui.
Ân Hồng nói:
– Trước kia người ta cứu mình khỏi chết lẽ nào mình lại quên ơn. Ta nhắm Hoàng Phi Hổ cũng chẳng tài cán bao nhiêu, sau này ta bắt không khó gì.
Trịnh Luân thưa:
– Trước kia tôi đã bắt Hoàng Phi Hổ một lần, cũng vì nó trốn thoát mà sinh ra rối rắm sau này nếu Ðiện hạ bắt được nên chặt đầu lập tức, đừng để nó nói nhiều lời vô ích.
Rạng ngày Ân Hồng dẫn binh tướng đến dưới thành mời Tử Nha ra nói chuyện.
Tử Nha nói với các tướng:
– Hôm nay các ngươi cùng ta ra trận xem cho rõ cái kiếng phép lợi hại thế nào.
Nói rồi dẫn các tướng xuất trận.
Ân Hồng thấy Tử Nha kéo binh ngũ phương ra thành, có các đệ tữ theo hầu hạ liền ngồi trên ngựa cầm kích điểm mặt Tử Nha:
– Khương Thượng! Khi trước ngươi là tôi nhà Thương sau nay lại đầu Châu làm phản?
Khương Thượng nói:
– Từ xưa nay hễ chúa thánh thì tôi hiền, chúa bất minh thì tôi làm loạn. Trụ vương dâm ác không thương dân, không kể xã tắc, thiên hạ ly loạn mười phần, các chư hầu đều bất phục, đâu phãi chỉ mình Tây Kỳ chống lại? Số trời đã định, Ðiện hạ cũng chẳng nên cưỡng lại số trời mà mang họa.
Ân Hồng nổi giận nạt lớn:
– Có tướng nào ra bắt Khương Thượng cho ta.
Bàng Hoằng xách cặp giản vỗ ngựa xông ra, bên kia Hoàng Thiên Hóa cản lại giao công.
Tất Hoàn lướt tới bị Dương Tiển đón lại.
Khi ấy Tô Hộ và Tô Toàn Trung đứng dựa cửa coi Ân Hồng cùng Tử Nha đánh nhau. Hai bên giáp chiến tối trời.
Ðược ba bốn hiệp, Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên đánh Ân Hồng, chẳng ngờ Ân Hồng trong áo giáp có mặc tiên y tuy roi đánh nhằm mà không hại.
Tử Nha thấy vậy liền thâu Ðả Thần Tiên lại.
Na Tra đánh với Bàng Hoằng mấy hiệp rồi quăng Càn Khôn Quyện lên, Bàng Hoằng bị Càn Khôn Quyện đánh trúng hạ mã.
Na Tra đâm một giáo chết tươi.
Ân Hồng thấy vậy hét lớn:
– Thất phu, dám giết đại tướng ta.
Nói rồi bỏ Tử Nha, qua đánh với Na Tra để trả thù.
Còn Dương Tiển đánh với Tất Hoàn ít hiệp, bắt Hạo Thiên Khuyển quăng lên, con chó nhảy lên táp vào cổ Tất Hoàn.
Tất Hoàn lính quýnh bị Dương Tiển chém một dao rụng đầu.
Ân Hồng thấy hai tướng mình bị chết, nổi giận lấy kiếng chiếu vào mặt Na Tra, nhưng Na Tra không hề gì hết.
Ân Hồng chiếu luôn bốn lần vẫn không có hiệu nghiệm, liền cất kiếng đánh liều.
Dương Tiển thấy Ân Hồng dùng kiếng Âm Dương lại không bị roi Ðả Thần Tiên đánh trúng, vội nói với Tử Nha:
– Người này có phép hộ thân lại có kiếng phép, xin sư thúc chớ nên lại gần nó.
– Ngươi liệng Ân Hồng một cục đá trợ lực với Na Tra.
Ðặng Thiền Ngọc tuân lệnh ném đá Ngũ Quang trúng nhằm mũi Ân Hồng làm cho Ân Hồng đổ hào quang, hét lên một tràng giục ngựa chạy dài.
Cũng bởi áo tiên không phủ mặt
Cho nên Ðiện hạ mũi sưng vù.
Na Tra thừa dịp đuổi theo, đâm Ân Hồng một giáo, nhưng Ân Hồng trong mình có mặc tiên y, chẳng hề chi cả, Na Tra kinh hãi không dám đuổi theo.
Tử Nha liền thu quân về thành.
Còn Ân Hồng chạy một đổi, nghĩ lại tấm kính phép mình bỗng nhiên không hiệu nghiệm thì buồn bã vô cùng. Ân Hồng có ngờ đâu Na Tra là cốt bông sen, không phải thai phàm.
Rờ vào sóng mũi, Ân Hồng thấy sưng húp, nổi giận nói một mình:
– Khương Thượng! Nếu ta không trả được thù này không phải kẻ trượng phu.
Bấy giờ Khương Thượng về đến trướng phủ, hội các đồ đệ lại để bàn kế.
Dương Tiển nói:
– Lúc nãy tôi thấy Ân Hồng dùng kiếng Âm Dương. Phép này chính là của Xích Tinh Tử. Nếu không phải Na Tra thì đã mất mạng rồi.
Tử Nha nói:
– Lẽ nào Xích Tinh Tử lại có đồ đệ là Ân Hồng.
Dương Tiển nói:
– Việc này rất lạ, xin sư thúc cho đệ tử qua núi Thái Hoa hỏi lại sư bá xem sao.
Tử Nha suy nghĩ hồi lâu rồi mới đồng ý cho đi.
Dương Tiển nóng lòng độn thổ đến núi Thái Hoa, vào động Vân Tiêu ra mắt Xích Tinh Tử.
Xích Tinh Tử hỏi:
– Ngươi đến đây có chuyện gì?
Dương Tiển giả vờ nói:
– Tôi vâng lệnh Thừa Tướng đến mượn kiếng Âm Dương trừ tướng Trụ, xong việc xin trả lại sư bá.
Xích Tinh Tử nói:
– Hôm trước ta đã đưa cho Ân Hồng, đệ tử của ta xuống Tây Kỳ để giúp Tử Nha, lẽ nào nó có phép báu trong mình lại không nói?
Dương Tiển nói:
– Nay tôi đếu cầu sư bá cũng vì Ân Hồng không đến đầu Châu giúp sư thúc, mà lại đem phép báu đánh Tây Kỳ.
Xích Tinh Tử nghe nói, giậm đất than:
– Bởi ta lầm nên giao hết phép báu cho nó, chẳng ngờ thằng khốn đó lại hại ta. Thôi, ngươi về trước, ta sẽ theo chân xuống Tây Kỳ lập tức.
Dương Tiển tạ ơn, độn thổ trở về.
Tử Nha thấy Dương Tiển về đến liền hỏi:
– Ngươi đến hỏi việc ấy, Xích Tinh Tử nói sao?
Dương Tiển thưa:
– Ân Hồng quả là học trò của sư bá. Sư bá sai xuống giúp Tây Kỳ, chẳng ngờ Ân Hồng trở lòng giúp Trụ. Sư bá sắp xuống đến nơi.
Tử Nha nghe nói nóng nảy vô cùng.
Cách ba bữa, có quân vào bảo:
– Xích Tinh Tử lão gia đến phủ.
Tử Nha vội vàng ra tiếp rước.
Xích Tinh Tử vào trước trướng nói:
– Tôi xin chịu tội vì tôi có sai Ân Hồng xuống giúp Châu phạt Trụ, chẳng ngờ nó cãi lời khuấy loạn như vầy.
Tử Nha nói:
– Sao đạo huynh đưa Âm Dương kiếng cho nó làm gì?
Xích Tinh Tử nói:
– Các phép của tôi, tôi đều giao cho nó, chẳng những Âm Dương kiếng mà đến Tử Thọ tiên y tôi cũng đưa cho nó mặc để phòng thủy hỏa, đao binh sau này. Không biết nó nghe lời ai dụ dỗ dọc đường mà trở lòng như vậy. Thôi, để mai tôi bắt nó đem về chịu tội.
Rạng ngày Xích Tinh Tử cầm gươm ra trận kêu quân sĩ bảo:
– Các người vào nói với Ân Hồng ra cho ta dạy việc.
Ân Hồng đang nằm dưỡng bệnh, trông cho mau mạnh để đánh báo cừu xảy nghe quân vào báo:
– Có một đạo nhân gọi Ðiện hạ ra nói chuyện.
Ân Hồng không ngờ thầy mình xuống núi, liền dẫn Tân Chương, Lưu Phủ nổi pháo kéo binh ra trận, thấy Xích Tinh Tử đứng trước mặt thất kinh bái một cái và nói:
– Xin thầy tha tội. Ðệ tử mặc giáp trong mình làm lễ không trọn.
Xích Tinh Tử nói:
– Ngươi đã thề nặng lời với ta trên động sao lại đánh Tây Kỳ? Hễ thề thì mắc, thắt thì rối, ta e xương thịt ngươi sẽ thành tro. Hãy xuống ngựa theo ta về Tây Kỳ chịu lỗi họa may gỡ được lời thề. Còn cãi lời ta họa đến tức thì ăn năn sao kịp.
Ân Hồng nói:
– Xin sư phụ bớt giận cho đệ tử thưa lại vài lời. Ðạo làm con xưa nay cứ lấy theo điều hiếu thảo thì dù cha có lỗi con cũng không nên hỏi tội cha, lẽ nào con lại theo giặc đánh lại cha mình. Dầu Tiên, Phật, Thánh, Thần cũng phải giữ lấy hiếu đạo nếu đạo làm người không tròn thì làm Tiên Thánh sao đặng? Không lẽ thầy dạy con giết cha đầu giặc sao?
Xích Tinh Tử cười lớn, nói:
– Trụ vương bạo ngược, không giữ can thường, giết hại tôi trung, đắm mê tửu sắc, nên trời dứt bỏ nhà Thương mới sanh Châu Võ lên ngôi sửa trị cho trăm họ yên lành. Nếu ngươi phò Châu thì còn nối nghiệp Thương một cõi, bằng cãi lời dạy e đứt họ Ân. Ta chắc Trụ vương quả tàn nhẫn nên di họa đến con cái, khiến con cái chết không được vuông tròn. Hãy mau mau xuống ngựa đặng thầy gỡ họa cho.
Ân Hồng nói:
– Xin thầy về núi tu hành. Con không muốn lỗi tình phụ tử, cũng không lỗi nghĩa thầy trò. Chừng nào con đẹp giặc Tây Kỳ xong sẽ về núi lạy thầy chịu tội.
Xích Tinh Tử nổi giận nói:
– Súc sanh. Dám cãi lệnh thầy buông lời vô lễ.
Nói rồi liền chém một gươm, Ân Hồng đưa kích ra đỡ, và thưa:
– Nỡ nào thầy vị tình Tử Nha mà giết đồ đệ?
Xích Tinh Tử nói:
– Võ Vương là chúa thánh ra đời, Tử Nha là tôi hiền trở mặt, lẽ nào ta dám nghịch thiên, binh vực một đứa học trò bạc nghĩa?
Ân Hồng nói:
– Tình nghĩa thầy trò rất trọng, nỡ nào thầy tuyệt tình. Nếu thầy không châm chế thì còn gì tình cha con, nghĩa sư đệ?
Xích Tinh Tử nổi giận mắng lớn:
– Nghịch đồ vong ân bội nghĩa, chớ nói nhiều lời.
Nói rồi chém một gươm nữa.
Ân Hồng cũng đưa kích ra đỡ và thưa:
– Sư phụ buộc đệ tử bỏ tình cha con, rồi lại buộc đệ tử lỗi tình sư đệ.
Xích Tinh Tử nổi giận chém một gươm nữa.
Ân Hồng nói:
– Con đã kính thầy ba lần mà thầy vẫn buộc con làm một đứa đệ tử bất nghĩa sao? Nếu thầy còn chém con một lần nữa tức thầy đã bắt con tuyệt tình đó.
Xích Tinh Tử nổi giận chém liền.
Ân Hồng đỡ ra và nói:
– Thầy đã coi tình phụ tử không ra gì thì con cũng coi tình thầy trò như cỏ rác. Thôi, con đành lỗi đạo vậy.
Nói rồi đánh Xích Tinh Tử một kích. Hai thày trò giao đấu với nhau một hồi.
Ân Hồng lấy kiếng phép ra, Xích Tinh Tử biết nằm trong thế gậy ông đập lưng ông, nên hóa hào quang bay mất.
Về đến tướng phủ, Xích Tinh Tử ta mắt Tử Nha.
Tử Nha hỏi:
– Công việc ra làm sao?
Xích Tinh Tử thuật hết mọi điều. Các đồ đệ đều không phục, chê Xích Tinh Tử giáo huấn không nghiêm, để cho đồ đệ lộng hành dám đánh thầy như vậy.
Xích Tinh Tử phần buồn bực, phần hổ thẹn, tìm chỗ nghỉ ngơi dưỡng tinh thần.
Còn Ân Hồng thấy thầy mình sợ kiếng phép bỏ chạy thì hiu hiu tự đắc trở lại và thương nghị với Tô Hộ quyết đem binh phá Tây Kỳ.
Giữa lúc đó lại có quân vào báo:
– Có một đạo sĩ đến ngoài dinh, xin vào ra mắt.
Ân Hồng truyền thỉnh vào dinh, thấy đạo sĩ ấy dị hình dị tướng, hai răng nanh mọc dài, miệng như hàm ếch, mặt tợ võ dưa, dùng xương người ta làm hột bề đeo trước cổ, lại lấy một chiếc sọ người làm xái bầu quảy tòn teng, tai mắt mũi họng hơi xông ra như một cái lò đang nấu khói.
Ân Hồng và các tướng thấy vậy đều kinh hải.
Ðạo sĩ ấy bước tới hỏi:
– Nhị Ðiện hạ là ông nào?
Ân Hồng nói:
– Tôi là Ân Hồng nhị điện. Chẳng hay thầy ở núi nào, đến đây có việc gì chỉ dạy?
Ðại sĩ nói:
– Ta là Nhất Trí Tiên, họ Mã, tên Nguyên ở núi Khô Lâu, động Bạch Cốt vì Thân Công Báo đến cầu khẩn nên ta phải đến đây giúp Ðiện hạ.
Ân Hồng mừng rỡ nói:
– Như vậy rất may mắn, chẳng hay đạo sư dùng chay hay mặn?
Mã Nguyên nói:
– Bần đạo dùng mặn đã quen.
Ân Hồng truyền dọn rượu thịt đãi đằng, và kể lại việc chinh chiến nơi Tây Kỳ.
Mã Nguyên nói:
– Bần đạo đã đến đây phải cùng Tử Nha giao đấu một trận.
Ân Hồng nói:
– Thế thì ngày mai Ðạo sư ra binh cũng được.
Rạng ngày Mã Nguyên đến dưới thành mời Tử Nha ra nói chuyện.
Quân vào báo:
– Ngoài thành có một đạo sĩ mời Thừa Tướng ra trận.
Số ta đã bị ba mươi sáu đạo binh đến đánh, thì dù có tránh né cũng chẳng khỏi. Liền dẫn binh tướng ra thành.
Tử Nha thấy hình dạng kỳ quái, tay cầm gươm linh, mình mặc đến đỏ, liền hỏi:
– Chẳng hay đạo nhân danh hiệu là gì?
Mã Nguyên nói:
– Ta là Nhất Tri Tiên, tên Mã Nguyên. Thân Công Báo đã nhờ ta xuống giúp quân hầu, đánh Tây Kỳ bắt Khương Thượng. Bởi các ngươi khoe tài Xiển giáo, khi dễ chúng ta nên ta phải đến đây so tài để rõ ai cao thấp?
Tử Nha nói:
– Thân Công Báo cừu oán với tôi, nên xúi Ân Hồng cải thầy nghịch thiên làm loạn. Ðạo nhân là người tu hành, nghe chi đứa tiểu nhân, giúp người lỗi đạo?
Mã Nguyên cười lớn, nói:
– Ân Hồng là con vua Trụ đem binh phạt Châu, nhà ngươi gọi là nghịch thiên? Nếu Ân Hồng đầu chúng bây, đánh chúa giết cha, chúng bây mới gọi là thuận sao? Các ngươi đòng tiếng là đệ tử cung Ngọc Hư, cao minh đạo đức, nay ta nghe lời nói không chúa không cha này thật chẳng phải kẻ hành đạo. Nay ta không giết các ngươi còn đợi chừng nào nữa?
Nói rồi nhảy chém một gươm, Tử Nha vung roi đánh lại.
Ðược vài ba hiệp, Tử Nha quăng roi Ðả Thần Tiên lên. Song Mã Nguyên không có tên trong bảng Phong Thần nên roi đánh không được.
Mã Nguyên đưa tay cấp lấy cây roi dắt vào lưng.
Tử Nha kinh hải, mặt biến sắc.
Giữa lúc đó có một tướng từ bên ngoài nhảy vào, đầu đội Kim khôi, mình mặc giáp sắt, lưng mang ngọc đái, cầm siêu đao nói lớn:
– Xin Thừa Tướng dừng tay, để tôi trị nó cho.
Tử Nha coi lại thì đó là quan vận lương bên Tầng châu, tên Mạnh hổ tướng quân Võ Vinh.
Võ Vinh giải lương đến, thấy ngoài thành đang giao đấu, nên xông vào trợ chiến với Tử Nha. Võ Vinh lại là một dũng tướng múa siêu đao như thần, Mã Nguyên không sao đánh lại, liền niệm chú lâm râm, tức thì cái sọ người mang sau lưng bỗng hiện ra một cánh tay thần, ngón nào ngón ấy to bằng quả bí, nắm cổ Võ Vinh xách lên cao vật xuống.
Mã Nguyên lướt tới một chân đạp lên đùi Võ Vinh một tay cầm đùi kia xé tét ra làm hai hai móc lấy trái tim cầm ăn ngon lành như ăn một cái bánh.
Lão vừa ăn vừa nói:
– Khương Thượng! Ta bắt được ngươi cũng làm như vậy. Nói cho ngươi biết mà giữ thân.
Ai nấy đều kinh khủng.
Thổ Hành Tôn hét lên:
– Mã Nguyên có ta đây ngươi đừng hành động dã man như vậy.
Nói rồi xách côn vào đánh.
Mã Nguyên thấy thằng lùn chạy tới, cười híp mắt nói:
– Mày làm cái trò gì vậy?
Thổ Hành Tôn nói:
– Ta quyết bắt ngươi trừ bạo.
Nói rồi vung gậy đập liền.
Mã Nguyên nổi giận đánh với Thổ Hành Tôn, nhưng Thổ Hành Tôn lanh lẹ lắm, lòn qua, chụp lại cầm gậy đập vào đít, vào lưng Mã Nguyên, làm cho Mã Nguyên đau quá, tức giận niệm chú lâm râm, chiếc sọ người hóa ra cánh tay thần, nắm đầu Thổ Hành Tôn vật xuống đất.
Chẳng ngờ Thổ Hành Tôn có phép địa hành, chân vừa chấm đất đã biến mất.
Mã Nguyên không thấy Thổ Hành Tôn đâu, tưởng tay thần vật mạnh quá Thổ Hành Tôn đã nát thây rồi.
Ðặng Thiền Ngọc đứng ngoài thấy chồng mình như vậy nóng lòng quăng ra một cục đá, trúng vào mặt Mã Nguyên đổ hào quang.
Mã Nguyên đỡ gạt một hồi rồi lại niệm chú lâm dâm, cái sọ người cũng hiện tay thần, nằm đầu Dương Tiển vật xuống.
Mã Nguyên vừa bị một viên đá của Thiền Ngọc, tức giận xé Dương Tiển, móc trái tim ăn. Ăn xong, Mã Nguyên nói với Tử Nha:
– Bữa nay ta no rồi, trái tim ngươi để dành bữa khác.
Nói rồi trở về dinh.
Ân Hồng ra rước vào dọn tiệc thết đãi.
Mã Nguyên và các tướng đều ăn mừng thắng trận.
Còn Tử Nha về thành rầu rĩ, than:
– Mã Nguyên dữ tợn, ăn sống người ta, thuở nay ta chưa từng thấy người tu hành nào như vậy? Chẳng biết Dương Tiển có phép chi thoát chết không?
Các tướng đều buồn bã không biết sự việc sẽ ra sao.
Bấy giờ Mã Nguyên uống rượu với Ân Hồng và các tướng cho đến canh hai. Bỗng Mã Nguyên cau mày, mồ hôi như tắm.
Ân Hồng hỏi:
– Hình như trong người đạo sư có việc gì đau đớn?
Mã Nguyên nói:
– Ta bị đau bụng.
Trịnh Luân nói:
– Chắc đạo sư vừa ăn thịt sống nên không tiêu. Hay uống rượu cho thật nhiều may ra khỏi bịnh.
Mã Nguyên truyền hâm rượu nóng, uống vào một hồi lại thấy đau thêm, ruột sôi như sấm.
Trịnh Luân nói:
– Hay là đạo sư chột bụng. Xin ra đằng sau trại cho tiện.
Mã Nguyên gượng gạo bước liểng xiểng ra sau dinh.
(Nguyên nhân vì Dương Tiển dùng phép huyền công, biến một viên thuốc xổ thành trái tim người, Mã Nguyên ăn vào mới bị đau bụng như vậy).
Mã Nguyên đi tả suốt ba ngày, chân tay rũ liệt, nằm dài thở hổn hển.
Còn Dương Tiển lúc ấy trở về thành, thuật chuyện với Tử Nha:
– Tôi gạt nó ăn nhằm thuốc xổ, đại tiện ba ngày chưa dứt. Nhắm chừng sáu bảy ngày nữa nó ra trận vẫn chưa nổi. Trong thời gian hoãn chiến, chúng ta sẽ tìm mưu.
Bỗng có Na Tra vào báo:
– Văn Thù quảng pháp Thiên tôn đến.
Tử Nha liền ra nghinh tiếp.
Văn Thù vào phủ chào Xích Tinh Tử và nói:
– Chúng ta chúc mừng Tử Nha gần đến kỳ đăng đàn bái tướng.
Tử Nha nói:
– Nay Ân Hồng cải lời thầy giúp Tô Hộ, lại có Mã Nguyên hung dữ còn đó, tôi không biết làm sao trừ cho được.
Văn Thù nói:
– Tôi đang lo việc Mã Nguyên đến đây quấy rối, làm trể ngày rằm tháng ba là ngày đăng đàn bái tướng nên phải vội đến đây.
Tử Nha mừng rỡ nói:
– Nếu được đạo huynh giúp sức trừ Mã Nguyên, thì còn lo gì nữa. Chẳng biết đạo huynh định liệu thế nào?
Văn Thù nói:
– Muốn bắt Mã Nguyên thì dùng kế mới được.
Nói rồi kề tai Tử Nha dặn nhỏ một hồi.
Tử Nha tuân lệnh truyền Dương Tiển làm theo kế ấy. Còn Tử Nha cũng sắp đặt sẳn sàn. Ðúng vào giờ Thân cỡi Tứ Bất Tướng đến ngoài dinh Thương thám thính, cốt làm cho binh Thương trông thấy.
Quả nhiên, binh Thương vào báo với Ân Hồng:
– Bẩm Ðiện hạ, có Tử Nha đi một mình đến dinh ta dòm ngó.
Ân Hồng vội hỏi Mã Nguyên.:
– Khương Thượng đến dinh ta thám thính chẳng biết có ý gì?
Mã Nguyên nói:
– Hôm trước ta lầm mưu Dương Tiển đến nổi bị kiệt sức, nay tuy chưa phục hồi, song cũng đủ sức bắt Tử Nha để rửa hận.
Nói rồi vội vàng ra khỏi trại, trông thấy Tử Nha đang đứng một mình, Mã Nguyên giận dữ hét lớn:
– Khương Thượng! Ngươi đã đến số rồi chạy đi đâu cho khỏi?
Mã Nguyên vung kiếm chém liền, Tử Nha cũng lướt đến. Ðánh được vài hiệp, Tử Nha trá bại Mã Nguyên đuổi theo.
Mã Nguyên đuổi theo Tử Nha một lúc nhưng không kịp vì con Tứ Bất Tướng của Tử Nha chạy rất mau còn Mã Nguyên bệnh mới lành, trong người thiếu sức.
Mã Nguyên nghĩ thầm:
– Ta hơi đâu mà rượt nó cho mệt, cứ về dinh an nghỉ ngày mai sẽ bắt nó cũng chẳng muộn.
Tử Nha thấy Mã Nguyên dừng chân không đuổi theo thì quay lại gọi lớn:
– Mã Nguyên, ngươi không dám đuổi theo ta nữa sao?
Mã Nguyên nói:
– Ta tha cho ngươi sống một đêm nữa, ngày mai ta ra trận bắt ngươi cũng chẳng muộn.
Tử Nha nói:
– Nếu ngươi đến chổ đất bằng kia giao đấu với ta ba hiệp thì ta mới phục tài ngươi.
Mã Nguyên trong người hơi mệt, nhưng nghe Tử Nha nói khích không chịu được, ngước mặt đáp:
– Ngươi tài cán gì mà ta không dám đánh.
Nói rồi, rán sức đuổi theo.
Tử Nha đánh hai ba hiệp rồi chạy nữa.
Mã Nguyên nổi giận hét:
– Ngươi định dụ ta sao? Ngươi muốn làm gì vậy?
Tử Nha nói:
– Ta lập kế gạt ngươi đến hòn núi kia bắt ngươi đem về mổ ruột, nếu ngươi sợ thì trở về, đừng đuổi theo ta nữa.
Mã Nguyên giận đỏ mặt nói:
– Tử Nha, ngươi khinh ta thái quá, ta quyết bắt cho được ngươi nếu không chẳng làm người. Dù ngươi có chạy đến cung Ngọc Hư ta cũng theo đến nơi, đừng nói chuyện đến hòn núi nào hết.
Mã Nguyên trợn mắt phồng mang đuổi theo Tử Nha đến một chân núi kia, thấy rừng rậm, cây cao, còn Tử Nha biến đi đâu mất dạng.
Mã Nguyên thấy đã mỏi chân, bèn ngồi trên bàn thạch, dưới cội tùng nghỉ mệt. Vì trời đã tối, định sáng hôm sau sẽ tìm đường về trại.
Qua canh ba, xảy nghe tiếng pháo nổ, tiếng binh ó vang trời, lồng đèn sáng như sao, Mã Nguyên ngó lên núi thấy Tử Nha và Võ vương đang ngồi uống rượu, còn hai bên tướng sĩ hô lớn:
– Ðêm nay Mã Nguyên mắc kế, chết không chỗ chôn thây!
Mã Nguyên nổi giận xách gươm chạy tuốt lên đỉnh núi, nhưng đến nơi thì đèn đuốt tắt hết, trời tối nghịt, không thấy Tử Nha đâu cả, bỗng thấy quân sĩ vây dưới chân núi tở mở, đèn đuốc rạng ngời.
Có tiếng người gọi nhau rất lớn:
– Chớ cho Mã Nguyên chạy trốn.
Mã Nguyên tức giận xách gươm chạy xuống chân núi thì lại thấy tối mò, đèn đuốc tắt hết, không có một bóng người, nhìn lên chót núi thì thấy Tử Nha đang ngồi uống rượu với Võ vương như lúc nãy.
Báo hại Mã Nguyên cứ xách gươm chạy lên chạy xuống suốt đêm, cố tìm bắt Tử Nha nhưng không được, sức đã gần kiệt, mệt đến le lưỡi, hai chân rũ liệt không còn muốn bước nữa.
Bấy giờ trời đã sáng, Mã Nguyên không còn thấy ánh đèn, bèn nằm trên tảng đá, nghĩ thầm:
– Ta về dinh Thương dưỡng sức rồi sẽ xuất quân vây thành bắt Tử Nha cũng chẳng muộn.
Song chưa kịp cất bước thì Mã Nguyên lại nghe gần đây có tiếng rên rỉ rất thảm thiết.
Mã Nguyên lần đến chổ có tiếng rên chợt thấy một người đàn bà nằm trên thảm cỏ, đôi mắt nhắm riệt cứ lăn lộn mãi.
Mã Nguyên hỏi:
– Ngươi là ai? Tại sao nằm đây rên rỉ?
Người đàn bà nghe hỏi mở mắt thưa:
– Xin thầy làm phước cứu tôi.
Mã Nguyên nói:
– Ngươi bị tai nạn gì? Ta phải làm sao để cứu ngươi?
Người đàn bà rên rỉ:
– Tôi là vợ của một dân giả, về thăm nhà cha mẹ, đi đến đây rủi bị đau bụng thình lình. Nhờ thầy làm ơn vào xóm xin cho tôi chút nước nóng uống đỡ, nếu không chắc tôi phải chết.
Mã Nguyên nhìn bốn phía rồi nói:
– Ở đây không có nhà ai, làm sao có nước nóng uống?
Người đàn bà nói:
– Thầy ơi, ráng làm phước cứu tôi với. Thày là kẻ tu hành. Lời xưa có nói: cứu sống một người hơn lập một trăm ngôi chùa. Thày cứu tôi, cũng như cha mẹ tôi sanh ra lần nữa.
Mã Nguyên suốt đêm chạy đã mệt, phần đói bụng, này ra một ý kiến, nói với người đàn bà:
– Thế nào ngươi cũng chết, vậy thì xin giúp cho ta một bửa no lòng, tròn vẹn cả hai.
Ngươi đàn bà nói:
– Nếu thầy cứu tôi khỏi chết tôi sẽ đải thầy một bữa chay.
Mã Nguyên nói:
– Không phải ta muốn bắt người làm tiệc, ta muốn ăn thịt ngươi đó. Suốt đêm ta bị Khương Thượng phỉnh gạt nên đói lắm. Nay ngươi sống đi cũng chẳng ích gì, thà giúp ta một bụng.
Người đàn bà nói:
– Thày đừng dọa người bệnh. Thầy là kẻ tu hành đâu phải cọp mà ăn thịt người?
Mã Nguyên lúc này đã đói quá, không thèm cải lẩy nữa, cứ việc theo ý mình làm, đạp chân lên đùi người đàn bà, nắm chân xé ra móc lấy trái tim ăn.
Nhưng lạ lùng làm sao, người ấy bên trong trống rỗng, không có bộ đồ lòng. Tuy vậy Mã Nguyên cứ việc mò hoài. Xảy thảy một vị đạo sĩ cầm gươm bước đến.
Mã Nguyên biết là Văn Thù quảng pháp Thiên Tôn, tính rút tay ra chống cự. Ai ngờ hai bàn tay dính vào trong bụng người đàn bà rút không ra. Túng thế Mã Nguyên định rinh cả cái tử thi chạy trốn, nhưng hai chân lại dính liền với tử thi nữa, không biết làm sao được, dãy dụa một lúc té nhào xuống đất.
Xem lại thì không phải tử thi của đàn bà, mà Mã Nguyên bị dây Khổn Tiên trói vào một tảng đá lớn.
Mã Nguyên túng thế phải năn nỉ:
– Xin Ðạo huynh ra ơn dung tánh mạng.
Văn Thù nói:
– Ngươi là đứa ác tâm, ăn thịt người không biết tanh thì để làm gì không giết.
Nói rồi đưa gươm lên muốn chém, xảy nghe đàng sau có tiếng nói lớn:
– Ðạo huynh khoan chém đã.
Văn Thù quay lại thấy một vị Ðạo sĩ mặt vàng, ít râu, mình mặc đạo bào, đầu chừa hai vá.
Ðạo sĩ chào Văn Thù.
Văn Thù đáp lễ và hỏi:
– Chẳng hay đạo huynh từ đâu đến, có việc gì chỉ dạy xin cho biết?
Ðạo sĩ nói:
– Nếu Ðạo huynh không biết tôi, xin nghe bài thơ này:
Lòng ở từ bi đã bấy chầy
Thanh nhàn Cực lạc tại phương Tây
Một lòng đạo đức hằng khuyên dỗ
Sáu ngả luân hồi khỏi chuyển vây
Lặn lội vớt người sa biển khổ
Dắt dìu cứu thế bước thang mây
Ðã nguyền tế độ ơn lâm nạn
Vì việc nhân gian mới đến đây.
Ngâm xong, đạo sĩ nói tiếp:
– Bần đạo là Chuẩn Ðề, làm Tây phương Giáo chủ. Mã Nguyên là người ngoại ngạch không có tên trong bản Phong Thần. Xin đạo huynh cho tôi đem về Tây Phương đặng làm đệ tử, ấy là ân đức của đạo huynh đó.
Văn Thù nghe nói cười lớn:
– Tôi từng nghe tiếng ngài là Giáo chủ Tây phương, thương người như thương thân, muốn kẻ dữ sửa nét làm lành, ngài đã dạy như vậy tôi đâu dám cãi.
Chuẩn Ðề lấy dao cạo thí phát cho Mã Nguyên, rồi hỏi:
– Ðạo hữu vì học theo môn phản ác nên mắc nạn này. Chi bằng bỏ tư tưởng ấy, theo ta về Tây phương lần chuỗi bồ đề tránh khỏi kiếp trầm luân.
Mã Nguyên thưa:
– Nhờ ơn Phật từ bi cứu nạn, tôi xin cải ác tùng thiện.
Nói vừa dứt tiếng đã thấy tảng đá biến mất. Ấy là phép huyền công của Dương Tiển.
Mã Nguyên gởi Ðả Thần Tiên trả lại cho Tử Nha, rồi theo Chuẩn Ðề về Tây phương tu niệm.
Văn Thù thấy Mã Nguyên đã theo Chuẩn Ðề rồi, liền trở về thành.
Tử Nha ra rước vào trướng hỏi thăm các việc.
Văn Thù đưa trả roi phép lại cho Tử Nha rồi thuật rõ việc Chuẩn Ðề thu đồ đệ.
Tử Nha nửa mừng nửa lo. Mừng là Mã Nguyên đã trừ được, còn lo là lo Ân Hồng ngăn trở, e trễ kỳ bái tướng đăng đàn.
Xảy thấy quân vào báo:
– Có Từ Hàng chơn nhơn đến ra mắt.
Tử Nha lật đật ra rước vào trong, lễ phép hỏi:
– Ðạo huynh đến dạy việc chi?
Từ Hàng nói:
– Tôi nghe Ân Hồng cãi lời thầy, phá rối Tây Kỳ sợ trể ngày bái tướng, nên phải xuống đây tính kế.
Xích Tinh Tử nghe nói mừng rỡ, hỏi:
– Ðạo huynh tình dùng phép gì mà trị nó?
Từ Hàng hỏi Tử Nha:
– Khi phá trận Thập tuyệt, sư đệ có mượn Thái Cực Ðồ của Ðại Lão gia nay còn đó hay trả rồi?
Tử Nha nói:
– Lúc phá trận xong tôi có sai người đến trả nhưng Ðại Lão gia không nhận, bảo sau này có việc dùng đến. Vì vậy Thái Cực Ðồ vẫn còn nơi đây.
Từ Hàng nói:
– Có Thái Cực Ðồ thì bắt Ân Hồng chẳng khó gì.
Ðoạn quay qua nói với Xích Tinh Tử:
– Ðạo huynh phải làm theo kế này mới được.
Xích Tinh Tử nói:
– Xin đạo huynh chỉ dạy.
Từ Hàng bàn luận với Xích Tinh Tử một hồi.
Xích Tinh Tử y lời, song thấy kế ấy quá tàn nhẫn lòng không nỡ.
Từ Hàng biết ý nói:
– Kỳ bái tướng của Tử Nha đã đến, nếu chúng ta để trể việc, ta mang tội với Thiên tiên.
Xích Tinh Tử cực chẳng đã phải nghe theo kế ấy, nói với Tử Nha
– Sư đệ ra thành dụ Ân Hồng đến đây để tôi bắt nó.
Tử Nha tuân lệnh sửa soạn ra đi.
Lúc này Ân Hồng thấy Mã Nguyên đi biệt không về, lòng không vui nói với Tuân Chương và Lưu Phủ:
– Mã đạo trưởng không về e dữ nhiều lành ít. Ngày mai ta phải ra binh đánh với Khương Thượng để dò tin tức Mã đạo trưởng mới được.
Trịnh Luân nói:
– Nếu không tính kế ra binh thì biết bao giờ mới trừ được Tây Kỳ.
Hôm sau, Ân Hồng sắp sửa xuất quân, đã có quân vào báo:
– Ân Hồng! Ngươi cãi lời thầy ngày nay thân thể ngươi phải hóa ra tro bụi. Còn ăn năn sao kịp?
Ân Hồng nổi giận đâm Tử Nha mặt giáo.
Tử Nha đưa gươm báu ra đỡ. Hai đàng đánh nhau được ít hiệp.
Tử Nha trá bại, nhưng không chạy về thành mà chạy ra phía mé rừng.
Ân Hồng lập tức truyền Lưu Phủ, Tuân Chương đuổi theo để vây bắt.
Xích Tinh Tử đang đứng phía Nam, thấy học trò mình theo đuổi Tử Nha biết thế nào cũng mang họa, động lòng rơi lụy than:
– Ngươi cãi ta mắc lời thề. Số ngươi không trốn khỏi.
Nói rồi trương bức họa đồ ra, Thái Cực Ðồ biến thành một cái cầu vồng.
Tử Nha giục thú lên cầu chỉ Ân Hồng nói:
– Ngươi có giỏi thì lên cầu này đánh với ta ba hiệp.
Ân Hồng nói:
– Dầu trăm hiệp ta cũng chẳng sợ gì ngươi.
Nói rồi giục ngựa chạy lên cầu.
Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng chạy mất, chỉ còn một mình Ân Hồng trên cầu mà thôi.
Ân Hồng hoảng hốt tâm ý mê loạn, hễ tưởng gì thấy nấy, Ân Hồng nghi có phục binh tức thì binh phục áp tới, Ân Hồng ra sức đánh một hồi, binh phục tan hết. Ân Hồng quyết đi tìm Tử Nha cho được, xảy thấy Tử Nha đến đánh một trận rồi biến đi.
Ân Hồng lại mơ ước:
– Phải chi ta trở về được Triều Ca thăm viếng thân phụ kẻo lâu ngày mong nhớ.
Xảy thấy Triều Ca trước mặt. Ân Hồng nhớ đến Hoàng quí phi là người thương mình như con đẻ, thì lại thấy mình đang đứng ở Tây cung, Hoàng quí phi đứng trước cửa.
Ân Hông xuống ngựa làm lễ, rồi nghĩ rằng:
– Phải đến Hình Khánh cung viếng Dương quí phi.
Tức thì thấy mình đang đứng ở Hình Khánh cung và Dương quí phi đứng trước mặt.
Ân Hồng chào hỏi, Dương quí phi chẳng nói gì hết.
Ân Hồng lại nhở đến mẹ mình, xảy nghe bà Khương hậu kêu lớn:
– Ân Hồng, ngươi biết ta chăng?
Ân Hồng nhìn rõ mẹ mình, liền kêu lớn:
– Mẹ ơi! Hay là con chết xuống âm ti nên gặp mẹ.
Khương Hoàng hậu nói:
– Oan gia! Ngươi chẳng nghe lời thầy nên phò Trụ đánh Châu. Hễ thề thì mắc, thắt thì rối, nay ngươi lên Thái Cực Ðồ thì xương thịt hóa thành tro, còn sống sao được nữa.
Ân Hồng nghe nói khóc lớn:
– Xin mẹ cứu con với.
Khương Hoàng hậu biến mất.
Ân Hồng giật mình như tĩnh lại, nghe tiếng Xích Tinh Tử nói:
– Ân Hồng! Ngươi biết ta là ai chăng?
Ân Hồng nghe tiếng thầy hỏi liền thưa:
– Con ở đâu thế này?
Xích Tinh Tử thấy học trò mình như vậy cũng động lòng thương nói:
– Bởi con không nghe lời ta nên ngày nay phải chết trong Thái Cực Ðồ rồi.
– Bây giờ ăn nữa thì đã muộn, thầy biết cứu làm sao. Trước kia ai đã xui cho đánh Châu cho mắc lời thề độc.
Ân Hồng thưa:
– Tôi lầm nghe lời Thân Công Báo nên cãi lời thầy, xin thày cứu mạng.
Xích Tinh Tử thấy vậy lòng không nỡ.
Từ Hàng ở trên mây kêu lớn:
– Số trời định như vậy, dám cãi hay sao nếu để trể giờ lên đài Phong Thần không kịp.
Xích Tinh Tử rơi lụy, cuốn bức họa đồ. Giây phút giũ một cái người ngựa đều nát ra tro, duy có mấy món bửu bối còn lại mà thôi.
Ân Hồng hóa ra trận gió, bay lên đài Phong Thần.
Có bài thơ rằng:
Ân Hồng nghe tiếng họ Thân bày
Muốn đánh Tây Kỳ cậy phép hay
Quên nghĩa thầy trò day mũi bạc
Ngày nay xương thịt hóa tro bay.
Xích Tinh Tử thấy học trò tan nát như tro, tủi lòng khóc lớn:
– Thiên hạ thấy ta giết đệ tử như vậy, chắc không ai dám theo ta học đạo nữa.
Từ Hàng khuyên:
– Ðạo huynh nói sai rồi. Mã Nguyên không có tên trong bảng Phong Thần nên có Phật cứu, còn Ân Hồng trời đã định số chết non, khóc lóc làm gì.
Ba vị tiên trưởng trở về tướng phủ.
Tử Nha tạ ơn ba vị đều nói:
– Ðợi đến ngày bái tướng chúng tôi sẻ đạo đưa Thừa Tướng chinh Ðông. Bây giờ chúng tôi xin trở về động.
Nói rồi ba vị tiên trưởng đều hóa hào quang bay đi hết.
Bấy giờ quân thám thính chạy về báo với Tô Hộ:
– Ân điện hạ đuổi theo Tử Nha, xảy thấy hào quang sáng lòa bao trùm Ân điện hạ. Sau đó chúng tôi không thấy nữa. Còn Trịnh Luân, Tuân Chương và Lưu Phủ không biết đi đâu.
Tô Hộ bàn với con:
– Chúng ta mau lợi dụng việc này bắn thơ vào hành Tây Kỳ tin cho Tử Nha đến cướp dinh, rồi chúng ta dẫn gia quyến đến đầu Châu.
Tô Toàn Trung thưa:
– Nếu không có Lữ Nhạc và Ân Hồng thì cha con mình đầu Châu đã lâu rồi.
Tô Hộ viết thư xong sai Tô Toàn Trung thừa đi đêm tối bắn vào thành Tây Kỳ.
Ðêm ấy nhằm phiên Nam Cung Hoát đi tuần, bắt gặp mũi tên có buộc phong thơ liền đem đến trình với Tử Nha.
Trong thơ đại khái như sau:
“Tây chinh nguyên soái, Ký châu hầu Tô Hộ trăm lạy dâng thơ cho Khương Thừa Tướng.
Từ trước tôi đã muốn đầu Châu, nay được chiếu chỉ sai đi chinh phạt. Tôi sẳn lòng xếp giáp quyết chí dâng binh, ngặt vì Trịnh Luân và Lữ Nhạc ra sức giao công, kế gặp Ân Hồng và Mã Nguyên chống chế. Bây giờ những người ấy đã đền tội, chỉ còn có một Trịnh Luân chưa chịu phục tùng. Vậy mai này xin Thừa Tướng cướp dinh, để cha con tôi có dịp trở về ánh sáng, phạt Triều Ca, giết Ðắt Kỷ, kẻo để họ Tô mang tiếng với đời.
Tô Hộ kính dâng thơ.”
Tử Nha xem xong mừng rỡ, rạng ngày truyền năm cha con Hoàng Phi Hổ đi tiên phuông, Na Tra đi hậu tập, Nam Cung Hoát đi phía tả, Ðặng Cửu Công đi phía hữu, sắp đặt xong xuôi đợi canh hai xuất trận.
Ngày hôm ấy, Trịnh Luân, Tuân Chương và Lưu Phủ trở về gặp Tô Hộ bàn:
– Ðiện hạ rủi mất rồi, chúng ta phải dâng sớ về triều viện binh mới được.
Tô Hộ ậm ừ, đợi đến đêm tối Tử Nha đến cướp dinh. Binh tướng không ai hay biết, riêng gia đình Tộ Hộ lén gói ghém đồ đạc gọn gàng.
Vào nửa đêm hôm ấy, các đạo binh Châu đã mai phục, một tiếng pháo lớn nổ vang, năm cha con Phi Hổ áp vào.
Nam Cung Hoát đánh thốc vào phía tả, Ðặng Cửu Công đốc chiến nơi hữu dinh.
Trịnh Luân thất kinh cỡi thú mắt lửa tròng vàng, cầm gián ma xử ra cự địch, gặp ngay cha con Hoàng Phi Hổ đánh nhau kịch liệt.
Lưu Phủ thấy Ðặng Cửu Công vào dinh hữu thì xua binh chận lại đánh nhầu.
Tuân Chương gặp Nam Cung Hoát ở tả dinh, vội ra uy đối địch.
Trong lúc dinh Thương bị náo loạn, Tử Nha lại sai quân tiếp ứng đánh nhau lở đất long trời.
Riêng cha con Tô Hộ thì không tham gia đến chiến cuộc, dẫn trọn gia quyến mình vào cửa thành Tây Kỳ.
Bấy giờ Ðặng Cửu Công đánh với Lưu Phủ, Lưu Phủ cự không lại bị Ðặng Cửu Công chém bay đầu.
Còn Tuân Chương đánh không lại Nam Cung Hoát, liền giục ngựa bỏ chạy, rủi gặp Hoàng Thiên Tường đâm một thương nhào xuống ngựa, binh Châu thừa thắng tràn vào phá dinh Thương như vào chỗ không người.
Ðặng Cửu Công rảnh tay đến trợ chiến với Hoàng Phi Hổ, vây Trịnh Luân vào giữa.
Trịnh Luân một mình cự với sáu tướng làm sao cho lại, bị Ðặng Cửu Công nắm trúng dây đai vật xuống đất.
Binh Châu bắt trói đem vào thành đặng lập công.
Rạng ngày, Tử Nha ra khách, các tướng vào hầu, thưa lại các việc cướp dinh bắt tướng, kế đó, có quân vào báo:
– Cha con Tô Hộ xin đến hầu.
Tử Nha mời vào.
Tô Hộ và Toàn Trung chưa kịp thi lễ, Tử Nha đã bước đến mời ngồi và nói:
– Quân hầu nhơn đức và khẳng khái, thiên hạ ai cũng biết. Nay thuận cơ trời, bỏ chỗ tối về chỗ sáng, chừng cậy thế thần tiên, thiệt là tay hào kiệt. Tôi yêu kính biết chừng nào.
Tô Hộ thưa:
– Cha con tôi tội nặng, nhờ ơn Thừa Tướng rộng dung.
Tử Nha truyền dẫn Trịnh Luân vào.
Trịnh Luân đứng làm thinh, trợn hai con mắt nhìn Tô Hộ và Toàn Trung như muốn ăn tươi nuốt sống.
Tử Nha nói:
– Trịnh Luân! Người tài phép bao nhiêu mà dám nghịch mạng. Nay đã bị trói sao chẳng quỳ xuống hàng đầu!
Trịnh Luân nạt lớn:
– Thất phu! Ta với ngươi là hai nước cừu địch, nay rủi kế chủ ta, nên ta mới bị ngươi bắt. Ta quyết lòng chịu chết, đừng khi ta nhiều lời.
Tử Nha truyền dẫn ra ngoại thành xử trảm.
Tô Hộ quỳ xuống thưa:
– Trịnh Luân nghịch mệnh trời, Thừa Tướng giết cũng phải, song nghĩ người ấy trung nghĩa, tài phép cũng cao, nay đang lúc dụng người, một tướng hay không dễ kiếm. Xin Thừa Tướng rộng dung.
Tử Nha bước xuống đỡ Tô Hộ dậy, vừa cười vừa nói:
– Ta cũng rõ Trịnh Luân trung nghĩa, nên lấy oai để quân hầu có cớ mà dụ dỗ nó. Nay quân hầu đã xin, lẽ nào ta hẹp lượng.
Tô Hộ mừng rỡ, vội ra ngoài dụ dỗ Trịnh Luân.
Trịnh Luân thấy Tô Hộ bước tới, cúi mặt làm thinh.
Tô Hộ nói:
– Trịnh tướng quân ơi! Lời xưa nói: Biết thời là kẻ hào kiệt, sáng trí mới gọi hùng anh. Nay Trụ vương vô đạo không kể đến giang sơn xã tắc làm cho nước nhà điên đảo, thiên hạ lầm than, chúng ta là lũ tôi thần lẽ nào cớ cắm đầu phò một bạo chúa mà không thấy cái hại trước nhân dân. Chỉ có những vì vua nhân đức mới làm cho nước mạnh dân giàu, Võ vương nhân đức có thừa, bốn biển anh hùng đều dốc lòng phò trợ. Cơ trời đã vậy, chúng ta chống lại làm sao. Nếu tướng quân chịu đầu thì ta thưa với Thừa Tướng dùng vào việc cử binh phạt Trụ cứu dân lành, như vậy là nghĩa, là nhân, là biết thời biết vận.
– Sở dĩ ta ép tướng quân là thấy tướng quân là bậc anh hùng trung liệt, không nỡ để thác oan, nếu tướng quân chịu chết vì một ông vua bạo ngược thì thiên hạ chẳng gọi tướng quân là trung đâu. Cũng như hiện nay các chư hầu đều bỏ Trụ đầu Châu, chẳng lẽ họ là những người bất trung cả sao? Lời xưa nói nói: Chim khôn chọn cây lành mà đổ, tôi hiền tìm chúa thánh mà phò, nếu phò vua Trụ mà được tiếng trung, thì ta đây là hàng quốc thích ngồi hưởng giàu sang, lấy triều đình điều khiển thiên hạ chẳng sướng hay sao mà đi đầu một đứa khác để phải cúi luồn. Tướng quân phải xét kỷ kẻo uổng thân.
Trịnh Luân nghe Tô Hộ nói dường như tĩnh giấc chiêm bao, thở dài một tiếng đáp:
– Nếu không nhờ quân hầu dạy dỗ thì tiểu tướng đã liều mạng rồi. Ngặt vì tôi vừa xúc phạm với Thừa Tướng, e Thừa Tướng không dung.
Tô Hộ nói:
– Thừa Tướng là người rộng lượng, đức độ cao dầy, lẽ nào chấp nhứt việc nhỏ, Tướng quân đừng nghi nan, để ta vào thưa lại.
Nói rồi vào bái Tử Nha, thuật lại mọi điều.
Tử Nha cười lớn:
– Trong lúc chiến chinh, ai vì chủ nấy, nay đã quy hàng thì coi như người một nhà, đâu còn cố chấp.
Nói rồi truyền tả hữu ra mở trói cho Trịnh Luân.
Trịnh Luân vào quỳ lạy thưa:
– Tôi không biết cơ trời nên nhọc lòng Thừa Tướng. Nay Thừa Tướng ban ơn không giết, tôi lẽ nào không phục tùng.
Tử Nha bước xuống đỡ Trịnh Luân dậy, an ủi:
– Ta biết tướng quân trung nghĩa, trong đời ít kẻ sánh bằng. Chỉ tại vua thất đức, không phải tại tướng quân bất trung. Nay chúa ta trọng hiền đãi sĩ, Tướng quân phải hết lòng phò tá, chớ nên nghi ngờ.
Trịnh Luân mừng rỡ tạ ơn.
Tử Nha dắt Tô Hộ đến ra mắt Võ vương và tâu:
– Ký châu hầu Tô Hộ nay đã về Châu, xin vào ra mắt.
Võ vương mời Tô Hộ đến, và khuyên:
– Ta ở Tây Kỳ giữ đạo làm tôi, không dám phạm luật, chẳng biết vì cớ nào mà thiên tử đem binh chinh phạt mãi. Nay khanh về với nước ta thì ta với khanh đối với nhà Thương cũng vẫn giữ niềm thần tử, đợi thiên tử tu nhơn tích đức, ta sẽ tính việc với khanh.
Nói rồi quay lại bảo Tử Nha:
– Tướng phụ thay mặt ta dọn yến tiệc thết đãi Tô hầu.
Nói về ải Tị Thủy, Hàng Vinh nghe tin Tô Hộ đầu Châu thì thất kinh, liền viết biểu dâng về Triều Ca cấp báo.
Ngày ấy gặp lúc quan đại phu Phương Kiển Xuân thâu sớ, xem thất kinh mắng lớn:
– Tô Hộ chịu ơn vua, lẽ nào bán chúa cầu vinh, thật không phải kẻ nhân nghĩa trên đời vậy.
Mắng rồi ôm sớ vào cung, tìm hỏi quan thị ngự:
– Chẳng hay Thiên Tử ngự tại đâu?
Quan Thị Ngự thưa:
– Thiên tử đang ở tại lầu Trích Tinh.
Phương Kiển Xuân đến dưới lầu đợi chỉ. Tả hữu xem thấy tâu lại.
Trụ vương truyền đòi vào.
Kiển Xuân vào làm lễ ra mắt.
Trụ Vương phán hỏi:
– Khanh có chuyện gì cần tâu với trẫm đó?
Phương Kiển Xuân tâu:
– Quan Tổng binh ải Tị Thủy là Hàng Vinh vừa dâng sớ về triều báo tin Ký châu hầu Tô Hộ đã đầu Cơ Phát rồi. Hạ thần trộm nghĩ Tô Hộ chịu ơn thiên tử rất dày, nay lại đầu hàng địch, tội không phải nhỏ.
Trụ vương tiếp lấy tờ sớ, xem xong nổi giận hét lớn:
– Tô Hộ là hàng quốc thích, được trẫm trọng đãi mười phần mà còn bỏ trẫm đầu giặc thì biết còn ai tin được nữa. Thôi, khanh hãy lui ra, để trẫm liệu định.
Lúc ấy Ðắt Kỷ núp sau màn, hiểu rõ sự tình, đợi Phương Kiển Xuân đi rồi, liền bước ra quì mọp trước mặt Trụ Vương khóc lớn nói:
– Thiếp ở chốn thâm cung, nhờ ơn vua yêu dấu, dẫu nghiền xương, lóc thịt đền bù vẫn chưa xứng đáng. Nay chẳng biết cha thiếp nghe lời ai mà đầu Châu, thật tội đáng tru di cả họ. Xin bệ hạ chém đầu thần thiếp bêu ngoài cửa thành mà chịu tội với thiên hạ, họa may bá quan, trăm họ thấy được đức công minh của Bệ hạ mà trọng xã tắc trải lòng trung. Ðó là thần thiếp đem chút ơn mọn đáp lại thâm ân.
Nói rồi cúi mặt trên đầu gối của Trụ vương khóc thảm thiết.
Trụ vương xem thấy động lòng, đỡ Ðắt Kỷ dậy và nói:
– Ái khanh ơi! Tô Hộ đầu Tây Kỳ chẳng liên can gì tới khanh cả, vì ái khanh lâu nay ở trong thâm cung, làm sao rõ được lòng cha. Ái khanh hãy đứng dậy, đừng buồn rầu mà hao tổn tinh thần. Dầu trẫm có mất hết giang sơn cũng không phải do ái khanh mà sợ.
Ðắt Kỷ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn.
Sáng hôm sau, Trụ vương lâm triều phán hỏi bá quan văn võ:
– Tô Hộ phản trẫm đầu Châu, tội rất trọng. Ai dám thay mặt trẫm đem binh đến Tây Kỳ bắt Tô Hộ gia hình.
Quan đại phu Lý Ðịnh tâu:
– Khương Thượng nhiều mưu trí, khéo dụng binh nên những tướng cầm binh chinh phạt Tây Kỳ, nếu không tử trận thì cũng hàng đầu, chưa ai có thể rửa nhục Triều đình. Nay phải dùng tướng giỏi mới mong thắng giặc. Tôi xin tiến cử Trương Sơn, người này chinh chiến đã lâu, tánh tình cẩn thận, nếu cầm binh chinh phạt có thể dẹp loạn ban sư.
Vua Trụ nghe nói mừng rỡ liền hạ chiếu sai người đem đến ải Tam Sơn, phong Trương Sơn làm Nguyên soái cử binh đánh Tây Kỳ.
Thiên sứ vâng lệnh đến ải Tam Sơn thì trời đã tối, bèn vào quán trọ nghỉ ngơi, rạng ngày mới sai quân vào báo tin cho Trương Sơn biết.
Trương Sơn nghe có chiếu vua đến, vội dẫn hai tướng là Lý Cẩm và Tiên Báo đồng đến quán trọ rước thánh chỉ đem về phủ, đặt bàn hương án quỳ nghe Thiên sứ tuyên đọc:
“Chinh phạt là quyền thiên tử, thành công nhờ chức Nguyên nhung. Cơ Phát xưng vương tại Tây Kỳ, nghe lời Tử Nha nghịch mạng. Binh triều thường thất trận, quân giặc lại lớn oai. Quả nhân muốn thân chinh, nhưng triều thần can gián chỉ rằng sức tướng còn có thể đạp nổi Tây Kỳ, không muốn động đến xe rồng làm cho muôn dân khổ sở.
Nay ý định tiến cử Trương Sơn thay mặt quả nhơn đem binh vấn tội. Vậy khanh rán sức để trẫm an lòng. Hễ ban sư trẫm sẽ chia đất thưởng công, chẳng quên lời bái tướng.
Tiệc mãn, thiên sứ từ giã ra về, Trương Sơn đợi Hồn Cẩm đến, giao ải cho Hồng Cẩm trấn giữ rồi mới cử binh ra đi.
Ngày ấy, Trương Sơn khiến Tiên Báo và Lý Cẩm làm tả hữu tiên phuông, dẫn mười vạn binh đi trước. Tang Nguyên và Mã Ðức là hai viên tướng cạnh theo sau. Binh thế mạnh như rồng, sức người như gió bão.
Trương Sơn ngày đi đêm nghỉ, chẳng bao lâu đã đến Tây Kỳ, liền truyền quân đóng trại nơi cửa thành phía Bắc, rồi họp chư tướng bàn kế ra binh.
Tiên Báo thưa:
– Quân ta đi đường xa ngàn dậm, mới đến nơi còn mệt mỏi, nếu Nguyên soái xuất quân gấp khó thắng trận đầu.
Trương Sơn khen:
– Tướng quân nói phải lắm, song cũng không nên chểnh mảng làm nhục lòng quân. Vậy thì cho quân sĩ canh phòng cẩn mật, đề phòng Tử Nha cướp trại.
Bấy giờ Tử Nha đang sai Tân Giáp sắm thêm khí giới cho kịp ngày bái tướng đăng đàn, lại truyền Hoàng Phi Hổ bảo thợ may làm một số cờ đỏ thật nhiều để dùng trong quân ngũ không để lộ một sắc cờ nào khác.
Hoàng Phi Hổ lấy làm lạ hỏi:
– Cờ xí là con mắt của quân binh. Xưa nay ra trận ai cũng dùng cờ ngũ sắc để phân biệt trước sau tả hữu, và nhờ đó hàng ngũ khỏi lộn xộn. Nếu Thừa Tướng dùng một màu đỏ thì quân sĩ sẽ không phân biệt được Nam, Bắc, Ðông, Tây, khó bề tấn thối. Hay là Thừa Tướng có mưu kế gì khác xin chỉ rõ cho tôi biết?
Tử Nha vừa cười vừa nói:
– Vì tướng quân chưa hiểu: Màu đỏ thuộc hỏa, mà chúa ta ở phương Tây thuộc kim. Loài kim không có lửa rèn thì chẳng thành khí được. Ấy là ngũ hành tương khắc mà tương sanh. Tuy ta dùng một màu cờ, nhưng ngù cờ thì lại có đủ năm sắc vàng, xanh, trắng, đỏ, đen, quân binh ta sẽ nhìn vào ngù cờ mà phân biệt được Ðông, Tây, Nam, Bắc. Ta nghĩ không hại chi mà sợ.
Hoàng Phi Hổ khen:
– Ý kiến Thừa Tướng rất hay.
Bỗng có tám trăm chư hầu đều dâng biểu đến xin Võ vương hội tề tại Mạnh Tân để họp binh đánh Trụ.
Tử Nha nói với các tướng:
– Việc này cần phải dè dặt, vì ta e chúa công còn kính nhà Thương, không nỡ đem binh phạt Trụ.
Giữa lúc Tử Nha và các tướng đang bàn luận thì có quân thám mã vào báo:
– Trụ vương sai Trương Sơn làm Nguyên soái đem binh phạt Tây Kỳ, hiện đã kéo đến nơi và đóng trại ở Bắc môn.
Tử Nha hỏi Ðặng Cửu Công:
– Trương Sơn dụng binh như thế nào?
Ðặng Cửu Công thưa:
– Trương Sơn làm Nguyên soái, trước đây thay tôi trấn Tam Sơn. Người này chỉ có sức mạnh, chớ không có phép tắc gì hết.
Qua bữa sau có tin Trương Sơn kéo quân đến trước thành khiêu chiến.
Tử Nha hỏi các tướng:
– Ai muốn ra đánh trận đầu?
Ðặng Cửu Công xin xuất trận.
Tử Nha nhận lời, Ðặng Cửu Công kéo binh ra thành, thấy một tướng mặt đỏ, tay cầm siêu đao, xem lại là Tiên Báo.
Ðặng Cửu Công kêu lớn nói:
– Tiên tướng quân, hãy về nói với Trương Sơn ra đây cho ta nói chuyện.
Tiên Báo điểm mặt Cửu Công mắng rằng:
– Phản tặc! Thiên tử không phụ ngươi, phong làm đại tướng, ngươi không biết đền ơn đáp nghĩa lời đầu giặc đánh vua, còn mặt mũi nào sống trong trời đất
Ðặng Cửu Công bị mắng hổ thẹn, không biết lời nào cãi lẽ, túng thế phải nói đùa:
– Tiên Báo! Ngươi là đứa thất phu, biết chi mà nói phách, rất đỗi Văn Thái Sư còn không bảo tồn tánh mạng, huống chi các ngươi là lũ chuột, sức mấy mà dám phạt Tây Kỳ.
Nói rồi vung đó tới chém, Tiên Báo rán hết sức chống đỡ.
Ðánh được ba mươi hiệp Tiên Báo thương pháp rối loạn bị Ðặng Cửu Công chém một đao rơi đầu. Binh Thương vỡ loạn, Ðặng Cửu Công xách đầu Tiên Báo về nạp cho Tử Nha, Tử Nha mừng rỡ truyền dọn tiệc khao thưởng.
Trương Sơn hay tin Tiên Báo bị Ðặng Cửu Công chém giữa trận, nổi giận kéo quân đến thành khiêu chiến, quyết giết Ðặng Cửu Công trả thù cho Ðại tướng.
Quân vào báo lại với Tử Nha, Ðặng Cửu Công xin xuất trận.
Ðặng Thiền Ngọc xin theo cha lược trận.
Ðặng Cửu Công vừa ra khỏi cửa thành.
Trương Sơn trông thấy mắng lớn:
– Phản tặc! Triều đình chẳng phụ ngươi, sao ngươi trở lòng đầu giặc. Ta quyết bắt ngươi đưa về Triều Ca cho vua xử tội.
Ðặng Cửu Công nói.
– Ngươi làm đại tướng mà không biết thời vận, khác chi trâu ngựa mặc áo quần, Trụ vương thất đức ham dâm vô đạo, các chư hầu phản Trụ đầu Châu. Còn ngươi khư khư treo phò một kẻ bạo ngược, trái lòng trời nghịch ý dân, sao gọi là chính nghĩa. Nếu nghe lời ta nói, xuống ngựa đầu Châu cũng không mất công hầu mà giữ tròn tánh mạng bằng cãi lời ta ăn năn không kịp.
Trương Sơn nổi giận mắng:
– Thất phu! Ðã phản vua phản nước còn dụng lý lẽ dụ người. Ta không bắt ngươi nghiền xương, ta không phải tài làm đại tướng.
Nói rồi đâm một giáo. Ðặng Cửu Công đưa thương ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp, Ðặng Cửu Công toát mồ hôi, không sao bì lại sức mạnh của Trương Sơn.
Thiền Ngọc biết cha mình yếu sức, liền ném vào mặt Trương Sơn một cục đá.
Trương Sơn bị Ngũ quang thạch trúng nhằm sống mũi, gần té xuống yên, thất kinh quất ngựa chạy dài.
Cha con Ðặng Thiền Ngọc đại thắng thâu quân vào thành.
Trương Sơn mặt sưng húp, về đến dinh nằm lì một đống, lòng căm tức không sao vui được.
Bỗng có quân vào báo:
– Có đạo sĩ đến trước dinh xin ra mắt.
Trương Sơn truyền mời vào thấy người ấy là một đạo nhân, đầu chừa hai vá, vai mang một lưỡi gươm, bước tới thi lễ. Trương Sơn gượng ngồi dậy cúi chào.
Ðạo sĩ thấy mặt Trương Sơn sưng vù sống mũi bầm đen, liền hỏi nguyên do.
Trương Sơn nói:
– Tôi ra trận đánh với Cửu Công, bị nữ tướng lén quăng vào mặt tôi một cục đá, làm cho mặt mày đổ lửa phải bại tẩu chạy về.
Ðạo sĩ mỉm cười nói:
– Ðể tôi cho một chút thuốc lành liền.
Nói rồi lấy thuốc hòa với nước xức vào mặt Trương Sơn. Giây lát mặt Trương Sơn không còn đau đớn gì nữa.
Trương Sơn mừng quá hỏi thăm:
– Ðạo sư từ đâu đến?
Ðạo sĩ nói:
– Ta là Võ Dực tiên ở Bồng Lai đảo đến đây giúp sức với tướng quân.
Trương Sơn mừng rỡ nói:
– Nếu vậy thì thật may mắn.
Rạng ngày Võ Dực tiên đến thành mời Tử Nha ra nói chuyện.
Quân vào báo.
Tử Nha nói:
– Ta bị ba mươi sáu đạo binh đến đánh Tây Kỳ, nay tính đã được ba mươi hai đạo rồi, còn bốn đạo nữa không lẽ từ chối.
Nói rồi truyền các tướng kéo binh ra thành.
Na Tra với Hoàng Thiên Hóa đi một cặp, Kim Tra với Mộc Tra đi một cặp, Vi Hộ với Lôi Chấn Tử đi một cặp, Dương Tiển và Thổ Hành Tôn đi sau cùng.
Tử Nha đến trước trận vòng tay chào Võ Dực tiên, và nói:
– Chẳng hay đạo hữu danh hiệu là chi? Ðến đây dạy lẽ nào xin cho biết?
Võ Dực tiên nói:
– Bần đạo ở núi Bồng Lai, hiệu là Võ Dực. Còn ngươi có phải là Tử Nha, học trò của Nguyên Thỉ tại núi Côn Lôn không? Ta không can hệ gì đến ngươi, sao ngươi dám hăm ta, đòi rút gân và nhổ lông cánh. Ngươi cậy quyền phép nào mà khinh ta như vậy?
Tử Nha bái và thưa:
– Ðạo hữu nghe lầm, trách oan tôi như vậy, chớ thực tình tôi chưa từng quen với đạo hữu bao giờ, chưa biết đạo hữu là ai, làm gì có chuyện hăm dọa.
Võ Dực tiên nghe Tử Nha nói, cúi đầu ngẫm nghĩ:
– Tử Nha nói cũng phải, có lẽ Thân Công Báo đã gạt ta chăng!
Liền ngó Tử Nha tỏ ý dò xét:
– Ngươi nói nghe cũng có lý, song chẳng lẽ người ta đặt chuyện vu vơ? Ta cho ngươi biết, lần sau chớ vô lễ như vậy. Nếu không chừa thói ấy, chắc ta không dung tình. Thôi ngươi hãy về thành, ta cũng trở về núi.
Tử Nha chưa kịp truyền lịnh lui binh.
Na Tra nghe giọng nói tự cao tự đại của Võ Dực tiên không sao chịu nổi lướt tới nói lớn:
– Yêu đạo! Ngươi dám khi dễ sư thúc ta như vậy à!
Vừa nói vừa đâm Vô Dực tiên một giáo.
Võ Dực tiên trợn mắt nhìn Tử Nha:
– Nếu vậy ngươi ỷ có thằng oắt con này khinh bỉ ta.
Nó rồi vung gươm chém lại.
Hoàng Thiên Hóa giục kỳ lân đến đánh tiếp một chùy, Lôi Chấn Tử quạt cánh bay lên trời giáng xuống một côn, Thổ Hành Tôn cũng chạy về trợ chiến. Rồi Dương Tiển giục ngựa vào chém một đao, áp vây Võ Dực tiên chẳng khác kiến bâu cục đường.
Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đánh nhằm vai Võ Dực tiên, Hoàng Thiên Hóa phóng Toàn Tâm đinh khoan lủng cánh tay mặt.
Thổ Hành Tôn đập trên đùi một gậy, Dương Tiển quăng Hạo Thiên Khuyển cắn cổ.
Võ Dực tiên la lên một tiếng vội vàng độn thổ đi mất.
Tử Nha cũng thâu binh về thành thưởng công các tướng.
Võ Dực tiên về đến trại Trương Sơn ra nghênh tiếp và an ủi:
– Ðạo trưởng hôm nay vì mắc kế nên mới bị thương. Việc binh gia thắng bại lẽ thường, có gì lo lắng.
Võ Dực tiên nói:
– Ta sơ ý không để phòng, bị chúng nó ỷ đông làm hỗn.
Nói rồi lấy thuốc trong giỏ hoa lam uống vào ít hoàn, chẳng bao lâu thương tích đều lành mạnh.
Võ Dực tiên nói với Trương Sơn:
– Ta vì lòng từ bi không nỡ sát hại, thế mà bọn này cố xúc phạm, ta không thể bỏ qua. Thôi, hãy đem rượu ra đây cho ta uống rồi đêm nay ta dùng phép làm cho thành Tây Kỳ hóa ra biển lửa, không một người nào sống sót nổi.
Trương Sơn mừng rỡ, hối quân dọn tiệc đãi đằng Võ Dực tiên cho đến lúc mặt trời lặn.
Bấy giờ Tử Nha ngồi trong trướng phủ, xảy thấy một trận gió thổi tới làm rơi miếng ngói trước thềm liền đánh tay xem, biết thành Tây Kỳ có nạn, liền vội tắm rửa cầm gươm làm phép đảo hải, đem nước biển Bắc đổ vào thành Tây Kỳ.
Còn Nguyên Thỉ hay việc ấy cũng vội lấy bình lưu ly đựng nước Tam quang thần thủy đổ trên biển Bắc, trợ lực Tử Nha.
Ðến canh ba, Vô Dực tiên hiện thành hình chim đại bàng, xòe hai cánh che khuất nửa khung trời, xem thấy trên thành Tây Kỳ đầy nước biển, thì cười ngất, nói:
– Khương Thượng dốt nát, không rõ sức lực của ta. Dẫu nước bốn biển dồn lại đây ta tát một hồi cũng hết, sá gì một biển mà đỡ được cả thành sao?
Nói rồi rán sức bình sanh, hai cánh quạt một lượt. Quạt bảy tám chục cái, xem lại không cạn chút nào.
Võ Dực tiên cứ tát mãi cho đến canh năm, coi lại trời đã sáng mà nước vẫn y nguyên.
Báo hại Vỡ Dực tiên lông lá ướt đẫm, mệt muốn đứt hơi, lòng đói như cào, thở dài:
– Ta không ngờ có chuyện lạ lùng như vậy. Nay trân thế ta ra nổi này, nếu trở vào dinh, tướng sĩ trông thấy sẽ chế nhạo ta không ít, chi bằng tìm nơi nào thanh vắng, kiếm vật thực lót lòng, đợi mình mẩy khô khan rồi sẽ tính kế khác.
Nghĩ rồi vỗ cánh bay sang một hòn núi kia, thấy một đạo sĩ đang ngồi dưới chân núi, hình như lâm dâm tụng niệm gì đó.
Võ Dực tiên vì đói quá sanh ra bạo tàn, tính bắt lấy đạo sĩ ấy ăn cho đỡ dạ.
Ðạo sĩ ngồi đưới chân núi, thấy một con chim Ðại bàng giơ vút nhọn bay xớt qua tính bắt mình, liền chỉ một cái, tức thì Ðại bàng sa xuống đất.
Ðạo sĩ đưa tay lau mặt, và nói:
– Ðại bàng điểu! Ngươi dám toan xợt ta sao?
Võ Dực tiên thưa:
– Không dám giấu đạo sư, tôi đi đánh Tây Kỳ đói quá, không có vật gì lót lòng, tính làm hổn, không dè thầy pháp thuật cao siêu, xin rộng tình dung thứ.
Ðạo sĩ nói:
– Nếu đói bụng sao không nói cho ta biết đặng ta chỉ chỗ cho, lại đi làm chuyện vô đạo như vậy. Nhưng thôi, ngươi có đói bụng thì hãy bay xuống núi Tử Vân cách đây hai trăm dậm, hiện có các thầy tu đang làm chay, không thiếu chi đồ ăn. Vậy ngươi hãy đi mau kéo trể.
Võ Dực tiên lạy tạ liền vỗ cánh bay bổng rồi sa xuống núi Tử Vân, hiện nguyên hình thì thấy các đạo sĩ đang ngồi nói chuyện, xảy có một đạo đồng bưng nước đi lên.
Vô Dực tiên bước đến nói:
– Tôi mới đi đến.
Ðạo đồng nhìn vào mặt Võ Dực tiên nói:
– Ðạo sĩ thật xui xẻo, phải chi đến sớm một chút nữa thì cỗ bàn còn, bây giờ thì cỗ bàn hết, biết làm sao.
Võ Dực tiên hầm hầm nói.
– Ðừng bào chữa, ngươi lựa người mà đãi thì sao gọi là công bình.
Ðạo đồng nói:
– Nay lỡ bữa hết, xin thầy mai đến sớm.
Võ Dực tiên trợn mắt cãi lại.
Một đạo sĩ trông thấy hỏi, đạo đồng thưa:
– Có một đạo sĩ đến muộn, cỗ bàn hết không còn đãi đằng, nên đạo sĩ này la lối chớ không có chuyện gì xảy ra cả.
Ðạo sĩ hỏi đạo đồng:
– Ngươi hãy xem lại coi còn bánh trái gì không?
Ðạo đồng nói:
– Dạ. Bánh thì còn.
Võ Dực tiên nói:
– Nếu còn bánh thì đem đây cũng được.
Ðạo đồng đi vào bưng ra một mâm bánh.
Võ Dực tiên ngồi xuống ăn hết tám chục cái bánh.
Ðạo đồng lại hỏi:
– Ðạo sĩ dùng nữa thôi?
Võ Dực tiên nói:
– Nếu còn đem thêm càng tốt.
Ðạo đồng liền đem bánh ra.
Vô Dực tiên ăn đến một trăm lẻ tám cái mới thôi.
Ăn uống no nê, Võ Dực tiên hiện hình chim bay đi, ý muốn về Tây Kỳ đánh phá, nhưng khi bay ngang qua lão đạo sĩ lúc nãy, bị ông ta chỉ tay một cái, Võ Dực tiên không còn bay được nữa nên sa xuống và la lớn:
– Ôi! Ðứt ruột tôi! Chắc chết quá đạo sĩ ơi!
Vừa la Võ Dực tiên vừa lăn lộn, ôm bụng kêu gào, vẻ mặt thật đáng thương hại.
– Bẩm đạo sĩ! Tôi chỉ ăn có ba cái bánh sao bây giờ đau bụng quá chắc phen này tôi chết mất.
Ðạo sĩ vẫn điềm nhiên nói:
– Nếu ăn vào không chịu thì mửa ra, có gì đâu mà rên la.
Võ Dực tiên nghe nói vội moi cổ cho mửa ra. Nhưng lạ lùng tay khi mửa ra thì cục nào cục nấy như trứng gà, dính liền nhau như dây chuỗi khiến cho Võ Dực tiên thất kinh, mặt cắt không còn chút máu.
Bỗng đạo sĩ lau mặt hét lớn:
– Võ Dực tiên! Thật là đồ quái tặc. Ngươi đã nhìn ra ta chưa?
(Ðạo sĩ ấy là Nhiên Ðăng, khi nãy sợ Võ Dực tiên biết nên phải lau mặt giả hình, nay lau mặt hiện nguyên hình lại).
Võ Dực tiên thất kinh, sửng sốt nhìn Nhiên Ðăng không nói một lời.
Nhiên Ðăng điểm tay vào mặt mắng:
– Ngươi là loài yêu nghiệt! Tử Nha vâng lệnh Nguyên Thỉ xuống phạt Trụ phò Châu để cứu muôn dân trong cảnh binh lửa, sao ngươi dám cãi mệnh trời, đánh Tử Nha, lại còn muốn ăn thịt ta nữa.
Mắng rồi, phất tay áo bảo Huỳnh Cân lực sĩ:
– Ðem treo cổ thằng này vào cội tòng chờ khi phạt Trụ rồi phân xử nó sau.
Võ Dực tiên nghe nói, khóc lóc, năn nỉ:
– Xin đạo sư tha tội cho kẻ lầm đường. Bởi tôi nghe lời xúi giục nay quá ăn năn, không dám phá Tây Kỳ nữa.
Nhiên Ðăng nói:
– Nếu ngươi đã biết ăn năn. Vậy ngươi chịu làm đệ tử ta thì ta tha tội cho.
Võ Dực tiên cúi lạy nói:
– Ðệ tử xin theo thầy tu niệm cho thành chánh quả.
Nhiên Ðăng chỉ tay một cái, xâu chuỗi rơi xuống đất.
Võ Dực tiên mới hay một trăm lẻ tám cái bánh mình vừa ăn đó là xâu chuỗi hột.
Nhiên Ðăng thâu chuỗi xong dẫn Võ Dực tiên về núi Linh Tựu.
Nói về núi Cửu Tiên, động Ðào Nguyên, ông Quảng Thành Tử bấy giờ đang ngồi trong động, bỗng thấy Bạch Hạc đồng tử đem trát đến.
Quảng Thành Tử lật ra xem thì thấy Nguyên Thỉ viết: Tử Nha gần bái tướng, các đệ tử phải đến Tây Kỳ mà đưa.
Quảng Thành Tử xem xong tạ ơn, Bạch Hạc đồng tử bay về động.
Quảng Thành Tử thầm nghĩ:
– Nay Tử Nha gần đem binh đánh năm ải, ta nên cho Ân Giao xuống Tây Kỳ giúp đỡ Tử Nha trước thăm xứ sở, sau giết Ðắt Kỷ trả thù cho mẹ.
Nghĩ rồi, kêu lớn:
– Ân Giao đâu, ra ta dạy việc.
Ân Giao đang ở sau động, nghe thầy kêu vội chạy vào quì thưa:
– Thầy đòi con dạy việc chi?
Quảng Thành Tử ân cần nói:
– Võ Vương nay hội chư hầu tại Mạnh Tân để phạt Trụ. Vậy nay đã đến lúc con trả được thù. Thầy muốn sai con xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha phạt Trụ, ý con nghĩ thế nào?
Ân Giao thưa:
– Cha con nghe lời Ðắt Kỷ và gian thần giết vợ lại còn làm cho mẹ con phải thác oan. Thù ấy không bao giờ nguôi. Nay thầy cho đi, con đâu dám trái.
Quảng Thành Tử vui vẻ nói:
– Vậy con hãy ra sau động Ðào Nguyên, dựa gành Sư Tử tìm một binh khí đem về đây đặng thầy truyền võ nghệ và phép tắc đặng xuống núi lập công báo thù.
Ân Giao vâng lịnh ra đi. Ði đến cầu đá, bỗng thấy một cái động như đền đài lầu các.
Ân Giao nghĩ thầm:
– Xưa nay thầy không cho ta đến chốn này, nay sai đến tìm binh khí, thật là chuyện lạ. Nhưng chẳng lẽ thầy lại hại ta. Cứ nhắm mắt ta vào đại thử xem sao.
Nghĩ rồi, Ân Giao bước qua cầu đá, từ từ đẩy cửa bước vào, thấy trong động có bốn ghế đá và một cái bàn, trên bàn có bảy hột đậu hơi thơm bốc lên nghi ngút.
Ân Giao không thể nhịn được, liền đưa tay bóc ăn thử một hột, thấy thơm ngon khác thường, nên Ân Giao ăn hết không còn một hột. Ăn uống xong, Ân Giao ngồi nghĩ:
– Thầy sai đi tìm binh khí, ta lại trái lời vào đây phá phách, thật là tội lớn.
Nghĩ rồi liền lên bước ra khỏi động, trở lại cầu đá. Bỗng nơi vai Ân Giao kêu rắc một tiếng, Ân Giao giật mình nhìn lại thấy vai mình mọc thêm hai cánh tay. Tiếp đó bốn cánh tay mọc thêm nữa, và hai cái đầu ở cổ lòi ra cộng tất cả là ba đầu sáu tay.
Ân Giao sảng sốt, không biết vì cớ gì, bỗng nghe trước có tiếng Bạch Vân đồng tử gọi lớn:
– Sư huynh! Thầy cho đòi anh vào hầu lập tức.
Ân Giao trợn con mắt nhìn Bạch Vân đồng tử chẳng ngờ lại có thêm một con mắt giữa trán nữa, tức là Ân Giao có ba đầu mà ba con mắt.
– Sư huynh hiện quỷ rồi!
Quảng Thành Tử bước ra thấy Ân Giao như vậy đã không quở trách lại vỗ tay khen:
– Nhà Châu có phước lớn nên mời khiến tướng dữ ra phò. Việc này lạ lắm, nhưng chưa hề chi.
Nói rồi dắt Ân Giao ra động Ðào Nguyên dạy nghề đánh kích.
Khi Ân Giao đã thành thuộc, Quảng Thành Tử lại trao các bửu bối như Phiên Thiên Ấn, Lạc Hồn Chung, Thư Hùng kiếm cho Ân Giao và nói:
– Ngươi xuống Tây Kỳ trước, ít ngày nữa ta cũng đến sau.
Ân Giao lãnh các báu vật, lạy tạ.
Quảng Thành Tử nói:
– Ta còn một lời này cần dặn dò ngươi. Ta đã trao hết bửu vật cho ngươi tức là ta mong ước ngươi giúp Võ vương, thâu năm ải phạt Trụ cứu dân, nếu một mai người cãi lời ta, làm khác đi sẽ bị tru diệt.
Ân Giao thưa:
– Công sư phụ dạy dỗ bao nhiêu năm trời, lẽ nào con dám cải mạng, vả lại cha tôi bạo ngược, giết vợ hại con, thù Ðắt Kỷ chưa phai trong lòng, con quyết chí xuống đầu Châu hiệp lực với sư thúc đánh năm ải, phá Triều Ca, bắt Ðắt Kỷ bằm xương trả oán.
Quảng Thành Tử nói:
– Nhưng tình đời hay thay đổi, trần thế ảnh hưởng xấu xa, thì chỉ sợ xa thầy, con bị sa ngã.
Ân Giao nói:
– Nếu con đổi lòng, con sẽ bị lưỡi cày cầy nát thây.
Quảng Thành Tử nghe nói mừng rỡ.
Ân Giao từ giã độn thổ xuống thành Tây Kỳ.
Ði được một đỗi, Ân Giao trồi đầu lên gặp một hòn núi lớn, hoa quả xanh tươi, bả tòng rậm rạp. Ân Giao chưa biết đây là đâu, lơ láo nhìn thì nghe trong rừng rậm có tiếng thanh la khua vang, rồi bên rừng xuất hiện một tướng cỡi ngựa hồng, có ba con mắt, tay cầm cặp bản lang nha xông tới hét lớn:
– Người ba đầu tên chi, dám đến đây dọ thám dinh trại ta!
Ân Giao nói.
– Ta là Thái tử Ân Giao có việc đi ngang qua đây, sao ngươi dám vô lể.
– Ðiện hạ có việc gì lại đi qua núi Bạch Long này?
Ân Giao nói:
– Ta vâng lịnh sư phụ xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha.
Nói chưa dứt lời đã thấy một tướng khác cũng ba con mắt, nhưng có ba chòm râu dài, mặt tợ dồi phấn, đầu đội ngân khôi, mang bạch giáp cỡi ngựa kim, cầm giáo xông đế hỏi lớn:
– Ai đó vậy?
Người mặt xanh đến trước nói:
– Ân Ðiện hạ đấy, hãy xuống ngựa ra mắt cho mau.
Người mặt trắng liền xuống yên làm lễ, rồi nói:
– Xin mời Ðiện hạ về trại.
Ân Giao thấy hai người đối xử thâm tình như vậy, không từ chối, theo về trại lập tức. Ðến nơi, hai người mời Ân Giao ngồi lên cao, rồi cùng nhau quì móp dưới đất.
Ân Giao vội đỡ hai người dậy, và nói:
– Nhị vị tướng quân tên họ là chi?
Người mặt xanh thưa:
– Tôi là Ôn Lương, còn người ấy là Mã Thiện, lâu nay chiếm cứ núi này làm kế mưu sinh.
Ân Giao nói:
– Ta xem hai vị đều là tay hào kiệt, tại sao không giúp nước lập công, hưởng lộc triều đình, mà sống với núi non hư danh tiết. Nếu hai vị theo tôi xuống Tây Kỳ, phò Châu đánh Trụ, tôi hết lòng hướng dẫn.
Người mặt trắng thưa:
– Ðiện hạ là dòng dõi Thành Thang, tại sao lại phò Châu đánh Trụ, xin dạy cho chúng tôi biết.
Ân Giao nói:
– Khí số nhà Thương đã hết, Châu Võ vương ra đời. Vả lại cha ta bạo ngược, làm nhiều việc thất đức, nên vận nước đổi dời. Ta không thể cãi mệnh trời theo phò kẻ dữ.
Mã Thiện và Ôn Lương đều khen phải, hối quân dọn tiệc đãi.
Ân Giao, khen điểm binh mã, dựng cờ Châu, cùng nhau kéo đi một lượt.
Ðoạn quân đi được hai mươi dậm, qua khỏi núi Bạch Long thì bỗng có tiền quân chạy trở lại báo tin:
– Có một đạo sĩ cỡi cọp đến đây, xin ra mắt điện hạ.
Ân Giao truyền quân đóng trại, rồi mời đạo sĩ vào.
Ðạo sĩ xuống lưng hùm, vào yết kiến Ân Giao.
Ân Giao hỏi:
– Ðạo trưởng từ đâu đến, có điều gì chỉ dạy?
Ðạo sĩ nói:
– Ta là đệ tử núi Côn Lôn, họ Thân, tên Công Báo, vì thấy điện hạ đi ngang đây nên phải vào yết kiến. Chẳng hay điện hạ kéo binh đi đâu vậy?
Ân Giao nói:
– Tôi vâng lệnh sư phụ xuống Tây Kỳ giúp đỡ Tử Nha.
Thân Công Báo vừa cười vừa nói:
– Ðiện hạ nói gì ta không rõ. Vua Trụ là người thế nào đối với điện hạ?
Ân Giao nói:
– Trụ vương là cha đẻ của tôi.
Thân Công Báo cười mỉa mai:
– Thật là chuyện lạ lùng! Trên thế gian ta chưa thấy người con nào lại giúp người dưng đánh cha mình. Ai bày ngươi làm cái chuyện ngỗ nghịch ấy?
Ân Giao nói:
– Tuy Trụ vương là cha tôi, song khi số nhà Thương đã hết. Võ Vương là vua chân chánh, thiên hạ đều phục tùng, mệnh trời định, tôi đâu dám cãi lại.
Thân Công Báo nói:
– Cha ngươi làm những việc gì gọi là ác!
Ân Giao nói:
– Cha tôi ham dâm vô đạo, giết vợ hại con, không lo việc trị dân, chỉ nghĩ đến tửu sắc.
Thân Công Báo nói:
– Trụ vương thất đức đã đành, nhưng kẻ sai ngươi xuống trần giết cha, phản chúa thì kẻ ấy còn vô đạo hơn Trụ vương nhiều. Cha mẹ là tình thiêng liêng, dù có lỗi đạo với con, con cũng không nên trách, huống hồ lại giúp cho người dưng đi giết cha mình thì còn đạo lý gì nữa. Trời nào lại bảo con phải giết cha là thuận theo lẽ trời!
Ân Giao làm thinh có vẻ nghĩ ngợi.
Thân Công Báo thấy Ân Giao có vẻ xiêu lòng, nói tiếp:
– Cha ngươi tuổi đã già, không bao lâu nữa cái cơ nghiệp kia sẽ về tay ngươi sửa trị, ngươi dại khờ tin theo lời phỉnh phờ của bọn vô đạo, giúp người khác để đoạt lấy cơ nghiệp mình thì không còn gì dại dột hơn.
Ân Giao nói:
– Ðạo trưởng luận cũng có lý, song thầy tôi đã dạy, tôi không thể trái lời.
Thân Công Báo nói:
– Ngươi đừng mê muội, tưởng những kẻ dạy dỗ ngươi là nhơn đức. Họ không có gì nhơn đức cả. Nếu họ nhân đức thì không khi nào họ sai ngươi xuống giết cha ngươi, không khi nào họ đem Thái Cực Ðồ đốt em ngươi là Ân Hồng thành tro bụi, trong lúc Ân Hông đã ăn năn hối lỗi trước giờ chết.
Ân Giao nghe nói thất kinh hỏi:
– Em tôi vì sao mà chết?
Thân Công Báo nói:
– Người ta biểu em ngươi đi giết cha ngươi, em ngươi không chịu làm việc bất hiếu, nên đã bị Tử Nha dùng Thái Cực Ðồ đốt ra tro.
Ân Giao nghe nói rối lòng, hỏi:
– Chuyện ấy quả thật như vậy sao?
Thân Công Báo nói:
– Ta không bao giờ nói dối, việc ấy thiên hạ ai cũng biết. Bây giờ Trương Sơn đang cầm binh đánh Tây Kỳ, nếu không tin ngươi xuống đó hỏi Trương Sơn thì rõ.
Ân Giao nghe nói tủi lòng khóc lớn.
Thân Công Báo nói:
– Ngươi cứ xuống Tây Kỳ, nếu quả Ân Hồng không bị giết thảm thiết như vậy, thì ngươi sẽ đầu Châu, còn đúng như lời ta nói, thì ngươi phải giữ bổn phận làm con, làm anh, đem thân giúp nước rửa thù, thì mới gọi là nghĩa là nghĩa. Ta sẽ đi tìm một người tài phép xuống giúp ngươi.
Nói rồi cỡi cọp đi thẳng.
Ân Giao ngại ngùng, tuy kéo binh xuống Tây Kỳ mà lòng ngổn ngang trăm mối:
– Em ta không cừu oán với ai, lẽ nào người ta xử tệ như vậy? Nếu Tử Nha quả thiệt giết em ta, ta quyết rửa thù cho hả giận.
Khi Ân Giao đến Tây Kỳ đã thấy dinh trại binh Thương đóng tại đó.
Ân Giao sai Ôn Lương đến hỏi, thì quả là trại của Trương Sơn.
Bấy giờ Trương Sơn trông ngóng Võ Dực tiên đã hai ngày mà không thấy trở lại, lòng buồn bực không yên, bỗng thấy quân vào báo:
– Có một vị tướng đến mời Nguyên soái ra mắt Ðông cung điện hạ.
Trương Sơn ngồi ngẫm nghĩ:
– Ðông cung điện hạ là Ân Giao mất tích đã lâu, sao nay có mặt nơi Tây Kỳ?
Nghĩ rồi truyền tướng ấy vào trại.
Ôn Lương bước vào ra mắt, Trương Sơn hỏi:
– Tướng quân từ đâu đến, có việc chi cần dạy?
Ôn Lương đáp:
– Tôi vâng lịnh điện hạ Ân Giao, mời tướng quân ra mắt.
Trương sơn nói:
– Ðông cung trước kia bị gió bay mất, lẽ nào còn Ðông cung sao?
Lý Cẩm ngồi một bên quay lại nói với Trương Sơn:
– Có lẽ là sự thật, xin Nguyên soái đến đó xem thiệt hư lẽ nào cho biết.
Trương Sơn y lời cùng Lý Cẩm theo Ôn Lương ra khỏi trại.
Ôn Lương vào trước thưa với Ân Giao:
Trương Sơn đã tuân lệnh điện hạ đến đây.
Ân Giao truyền cho vào, Trương.Sơn vào đến nơi thấy một người ba đầu sáu tay ngồi trước điện, liền hỏi:
– Chẳng hay điện hạ thuộc tông phái nào?
Ân Giao nói:
– Ta là Nhứt điện Ân Giao.
Rồi thuật các chuyện cũ xảy ra tại Triều Ca cho Trương Sơn nghe.
Trương Sơn mừng rỡ, làm lễ bái yết.
Ân Giao nói:
– Tướng quân có rõ chuyện Ân Hồng chăng?
Trương Sơn thưa:
– Nhị điện đem binh chinh phạt Tây Kỳ, bị Tử Nha dùng Thái Cực Ðồ đốt nát thành tro rồi.
Ân Giao khóc rống lên một tiếng, nhào xuống đất chết ngất. Các tướng đỡ dậy khuyên giải.
Ân Giao nói:
– Em ta tình cốt nhục làm sao quên thù này được.
Nói rồi bẻ gãy cây cờ lịnh tiễn, thề rằng:
– Nếu ta không giết Khương Thượng để báo thù cho em ta thì ta sẽ như cây cờ này.
Sáng hôm sau, Ân Giao kéo binh ra trận kêu tên Tử Nha ra thành hội kiến.
Quân vào báo, Tử Nha dẫn binh tướng ra thành, Na Tra thấy hai tướng theo hầu và Ân Giao đều có ba con mắt, liền nói nhỏ với Tử Nha:
– Ba người này có chín con mắt, cộng thành bốn người rưỡi.
Ân Giao lướt tới hỏi lớn:
– Tử Nha là ai?
Tử Nha giục Tứ Bất Tướng đến đáp:
– Ta là Thừa Tướng Tử Nha đây, còn ngươi tên họ là chi?
Ân Giao hét:
– Ta là Nhất điện Ân Giao. Sao ngươi dám dùng Thái Cực Ðồ hại em ta thành tro.
Tử Nha nói:
– Ấy là lỗi tại Ân Hồng, không phải ta muốn sát hại.
Ân Giao nổi giận, gầm lên một tiếng, không thèm tranh luận với Tử Nha, lướt tới đâm Tử Nha một kích.
Na Tra vung giáo cản lại, nói:
– Có ta cùng ngươi đối địch, chớ làm hỗn với sư thúc ta.
Ân Giao đánh với Na Tra được ít hiệp, lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên đánh nhằm vai Na Tra một cái gần muốn sụm, Na Tra té xuống xe. Hoàng Thiên Hóa vung song chùy đến cản lại, các tướng Châu cứu Na Tra về thành.
Hoàng Thiên Hóa đánh với Ân Giao được ít hiệp bị Ân Giao dùng chuông Lạc Hồn rung lên, Hoàng Thiên Hóa tâm thần hỗn loạn nhào xuống đất, bị Trương Sơn lanh tay bắt trói.
Hoàng Phi Hổ thấy con bị bắt nóng lòng giục Thần ngưu đến đánh.
Ân Giao không thèm giao tranh, lấy Lạc Hồn rung vài cái, Hoàng Phi Hổ mê man té xuống lưng trâu, bị Mã Thiện, Ôn Lương bắt trói nữa.
Dương Tiển thấy Ân Giao dùng Lạc Hồn chung sợ Tử Nha lâm nguy, liền giống chiêng thu quân về thành.
Tử Nha bại trận, về trước trướng ngồi buồn bã, Dương Tiển bước đến thưa:
– Thật là lạ lùng.
Tử Nha hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Ân Giao dùng Phiên Thiên Ấn đả thương Na Tra, phép ấy là của Quảng Thành Tử sư bá, tại sao Ân Giao có được?
Tử Nha nói:
– Chẳng lẽ Quảng Thành Tử cho Ân Giao mượn bửu bối đánh ta?
Dương Tiển nói:
– Thừa Tướng đã quên câu chuyện Ân Hồng rồi sao. Biết đâu trong trường hợp này cũng xảy ra câu chuyện đáng buồn như vậy.
Tử Nha ngồi làm thinh ngẩm nghĩ không nói.
Bấy giờ Ân Giao thắng trận về dinh, truyền đem cha con Hoàng Phi Hổ đến trước trướng, hỏi:
– Ngươi là ai đó?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Ta là Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ.
Ân Giao lấy làm lạ, hỏi lại:
– Tây Kỳ cũng có Hoàng Phi Hổ sao?
Trương Sơn nói:
– Chính là Hoàng Phi Hổ ở Triều Ca, phản chúa đầu Châu, gây ra chinh chiến. Nay cha con nó bị Ðiện hạ bắt, thật lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt.
Ân Giao nghe rõ, vội bước xuống mở trói cho Hoàng Phi Hổ và nói:
– Người này là ân nhân của ta. Trước kia nếu không nhờ Võ Thành Vương thì anh em ta đã mất mạng rồi, đâu còn sống đến ngày nay
Hoàng Phi Hổ hỏi:
– Ðiện hạ trước kia bị gió thổi bay đi mất, sao ngày hôm nay trở về được?
Ân Giao không dám nói rõ tên thầy mình, sợ đối phương biết được nguồn gốc, nên nói trớ rằng:
– Hai đó ta được một vị tiên ở Hải đảo cứu đem về nuôi, nay ta xuống đây quyết rửa hờn cho em ta. Còn tướng quân sao lại đầu Châu.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Trụ vương càng ngày càng vô đạo, sát hại trung thần, ham dâm lạc họa, đến nhị vị Ðiện hạ là tình máu mủ mà Trụ Vương còn đem chém đi, huồng hồ chúng tôi chỉ là lũ bộ hạ.
Ân Giao không đợi Hoàng Phi Hổ nói hết ngắt lời:
– Thôi được, ta không hạch hỏi việc đó làm gì, mỗi người có một ý muốn riêng, phản Trụ hay phò Trụ là do lòng ngưỡng mộ của Tướng quân, trước kia Tướng quân tha anh em ta khỏi chết, nay ta đáp đền ơn ấy. Vậy từ nay Tướng quân đừng ra trận giao tranh với ta nữa, vì nếu bắt được lần thứ hai ta sẽ chiếu quân luật xử trị.
Cha con Hoàng Phi Hổ không dám nói nhiều lời, cúi đầu tạ ơn, trở về dinh thuật lại mọi việc với Tử Nha.
Hôm sau, Ân Giao nóng lòng ra binh bắt Tử Nha báo thù.
Mã Thiện thưa:
– Xin cho tiểu tướng ra binh bắt Tử Nha cũng được, cần gì phải nhọc sức Ðiện hạ.
Ân Giao nhậm lời, Mã Thiện kéo quân ra thành khiêu chiến.
Quân vào báo, Tử Nha hỏi:
– Có tướng nào đám ra bắt Mã Thiện chăng?
Ðặng Cửu Công liền cầm đao lên ngựa kéo binh ra khỏi thành, thấy viên tướng có ba con mắt, đang diệu võ dương uy, liền nỏi:
– Ngươi tên họ là chi mà dám vô lễ như vậy?
Mã Thiện nói:
– Ta là đại tướng quân Mã Thiện.
Ðặng Cửu Công không xưng tên, lướt ngựa tới chém đùa.
Mã Thiện đưa thương ra đỡ. Ðánh được vài hiệp, Ðăng Cửu Công dùng sức mạnh áp đảo cây thương của Mã Thiện rồi bắt sống Mã Thiện ném xuống đất hối quân trói lại dẫn về thành.
Tử Nha thấy bắt được tướng địch, truyền dẫn vào.
Mã Thiện đứng trợn ba con mắt nhìn Tử Nha.
Tử Nha nạt lớn:
– Thất phu, đã bị ta bắt sao không chịu quỳ?
Mã Thiện cười lớn, mắng:
– Phản tặc! Ngươi là đối thủ của ta, kẻ thù của chủ tướng ta, nay bắt được ta muốn làm gì thì làm, tại sao nghĩ đến chuyện quỳ lạy.
Tử Nha nổi giận truyền Nam Cung Hoát đem ra ngoài xử trảm.
Nam Cung Hoát tuân lệnh, đem Mã Thiện ra ngoài chém một đao, chẳng ngờ đầu Mã Thiện không rụng, lưỡi đao chém xong thì đầu Mã Thiện liền lại như cũ.
Nam Cung Hoát thất kinh, vào báo lại với Tử Nha:
– Thật là quái gở. Tôi vâng lệnh chém Mã Thiện một nhát, nhưng nó không rơi đầu.
Tử Nha lấy làm lạ liền dắt các tướng ra khỏi dinh, đến pháp trường xem thử.
Các tướng không tin mỗi người chém một nhát, nhưng không ai chém đứt đầu Mã Thiện được. Cứ lưỡi đao vừa xớt qua cái đầu của Mã Thiện liền lại như cũ. Vi Hộ nổi xung giơ Gián ma xử đập trên đầu Mã Thiện một cái, Mã Thiện vẫn như không. Ai nấy le lưỡi lắc đầu, không biết dùng cách gì giết Mã Thiện cho được.
Tử Nha nói:
– Các ngươi hãy đùng lửa Tam muội mà đốt thế nào đến cũng tan xác, ta xem chắc là loại yêu quái gì đây.
Na Tra, Mộc Tra, Kim Tra, Lôi Chấn Tử họp lực dùng lửa Tam muội đốt một hồi, Mã Thiện thấy lửa cháy cười lớn nói:
– Thôi ta kiếu các ngươi trở về kẻo đã làm mất thì giờ các ngươi nhiều lắm rồi.
Lời nói vừa dứt, Mã Thiện đã biến mất.
Tử Nha xem thấy chẳng vui, trở vào trướng cùng các tướng thương nghị.
Dương Tiển thưa:
– Tôi xin qua núi Cửu Tiên hỏi thăm sư bá Quảng Thành Tử về việc Ân Giao, sẳn tiện đến núi Chung Nam mượn kiếng chiếu yêu của Vân Trung Tử đem về đây rọi thử Mã Thiện là giống gì hóa xác thì mới trừ nó được.
Tử Nha nhậm lời, Dương Tiển liền độn thổ qua núi Cửu Tiên vào động Ðào nguyên làm lễ Quảng Thành Tử.
Quảng Thành Tử nói:
– Ta vừa sai đệ tử ta là Ân Giao đến giúp Tây Kỳ, không biết nó đã tới chưa?
Dương Tiển nói:
– Phải Ân Giao là người trẻ tuổi có ba đầu sáu tay không?
Quảng Thành Tử nói:
– Chính là nó đó. Ta sai nó xuống trước còn ta thì đợi ngày Tử Nha đăng đàn bái tướng đem binh phạt Trụ ta sẽ đến tiển hành.
Dương Tiển nói:
– Thế thì rối lắm!
Quảng Thành Tử hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Dương Tiển nói:
– Ân Giao không vâng lời sư bá xuống giúp Tây Kỳ, mà cầm binh đánh lại Khương Thừa Tướng, dùng Phiên Thiên Ấn đánh Na Tra gần sụm vai, nội thành không ai dám cự, nên tôi phải lên đây hỏi thăm sư bá dạy lẽ nào.
Quảng Thành Tử nghe nói hét lớn:
– Súc sinh! Nó cải lời ta chắc sanh họa ra! Ta giao hết bửu bối cho nó để giúp Tây Kỳ, ngờ đâu nó lại làm loạn.
Dương Tiển nói:
– Trước kia Ân Hồng cũng cải lời Xích Tinh Tử sư thúc, và cuối cùng cũng mang họa.
Quảng Thành Tử nói:
– Thôi, ngươi về trước, ta sẽ theo chân xuống Tây Kỳ ngay bây giờ.
Dương Tiển từ tạ độn thổ thẳng sang núi Chung Nam, vào yết kiến Vân Trung Tử, thưa:
– Nay có một người đánh Tây Kỳ gọi là Mã Thiện, chém, đốt đều chẳng chết, không biết vật gì hóa hình, nên tôi phải đến mượn kiếng chiếu yêu của sư thúc đem về rọi thử, xong việc xin trả lại.
Vân Trung Tử nhậm lời, trao kiếng phép cho Dương Tiển.
Dương Tiển tạ ơn độn thổ thẳng về thành Tây Kỳ.
Tử Nha thấy Dương Tiển trở về mừng rỡ hỏi:
– Ngươi đến hỏi thăm Quảng Thành Tử việc ấy ra sao?
Dương Tiển thuật hết mọi chuyện, và nói:
– Ðệ tử đã muợn được kiếng chiếu yêu của sư thúc Vân Trung Tử, ngày mai thế nào cũng bắt được Mã Thiện.
Tử Nha mừng rỡ, liền sai Dương Tiển dẫn binh đến dinh Thương khiêu chiến để tìm tông tích Mã Thiện.
Dương Tiển kéo binh đến trước cửa dinh, gọi lớn:
– Mã Thiện, chớ khoe tài, hôm nay ta đến lấy đầu ngươi đây.
Quân vào báo, Ân Giao sai Mã Thiện cầm binh.
Mã Thiện mới ra khỏi trại, Dương Tiển đã lấy kính chiếu yêu rọi vào mặt, thấy trong kiếng hiện lên một ngọn đèn đỏ rực, mỉm cười nghĩ thầm:
– A, té ra nó là ngọn đèn hiện thân, hèn chi chém không đứt, đốt không sợ.
Nghĩ rồi cầm giáo lướt tới đâm liều.
Mã Thiện rước đánh được ba mươi hiệp.
Dương Tiển trá bại chạy dài, Mã Thiện không đuổi theo, trở về dinh thưa với Ân Giao:
– Dương Tiển đánh một lúc bỏ chạy, tiểu tướng sợ chúng dùng mưu nên không đuổi theo.
Ân Giao nói:
– Ðại tướng cầm binh phải biết tùy thời tùy lúc, biết người biết ta, đó mới là người trí.
Nói rồi truyền quân mở tiệc vui vầy, khao thưởng tướng sĩ.
Còn Dương Tiển thấy Mã Thiện không đuổi theo cũng thu binh vào thành.
Tử Nha hỏi:
– Mã Thiện là vật gì biến hình?
Dương Tiển nói:
– Nó hiện ra trên mặt kiếng một ngọn đèn sáng rực, không rõ lý lịch thế nào.
Vi Hộ nói:
– Theo tôi biết thì có ba ngọn đèn lâu năm, một ngọn nơi cung Huyền Ðô, một ngọn nơi cung Ngọc Hư, một ngọn tại núi Linh Tựu. Chưa chắc ngọn nào thành hình, xin Dương huynh đi dò xét mới biết được.
Tử Nha nói:
– Như vậy Dương tướng quân phải ra công một lần nữa, đến các nơi ấy hỏi thăm.
Dương Tiển tuân lệnh, tức thì độn thổ đến cung Ngọc Hư trước.
Ðến nơi thấy Bạch Hạc đồng tử đứng trước động, Dương Tiển hỏi:
– Chẳng hay ngọn đèn trong cung Ngọc Hư còn hay tắt?
Bạch Hạc đồng tử chạy vào trong xem lại. rồi đáp:
– Ngọn đèn lưu ly của Thiên Tôn vẫn còn cháy.
Dương Tiển biết không phải, liền giã từ Bạch Hạc đồng tử đến núi Linh Tựu, vào động Huyền Giác làm lễ Nhiên Ðăng.
Nhiên Ðăng hỏi:
– Ngươi có chuyện gì đây?
Dương Tiển hỏi:
– Ngọn đèn lưu ly của đạo trưởng còn cháy không?
Nhiên Ðăng nhìn lên bàn thấy đèn tắt, liền nói lớn:
– Con yêu này trốn đi rồi.
Dương Tiển trình hết các việc, Nhiên Ðăng nói:
– Ngươi về trước, ta sẽ theo sau.
Dương Tiển từ tạ Nhiên Ðăng, độn thổ trở về.
Tử Nha được Dương Tiển thưa hết các việc, mừng rỡ vô cùng.
Bỗng có quân vào báo:
– Quảng Thành Tử đạo nhân đến xin ra mắt.
Tử Nha liền ra rước vào.
Quảng thành Tử chịu lỗi, và nói:
– Bần đạo không ngờ sự đại biến. Ân Giao tắc tệ, tội ấy thật do bần đạo thất trách. Ðể bần đạo gọi nó vào đây tạ tội.
Tử Nha nói:
– Nhờ Ðạo huynh giúp đỡ tôi kẻo công việc trể tràng.
Quảng Thành Tử liền đến trước dinh Thương gọi lớn:
Liền nai nịt cỡi ngựa ra, thấy Quảng Thành Tử đang đứng chờ, Ân Giao cúi đầu thưa:
– Ðệ tử mang giáp trong mình, làm lễ không trọn xin thầy tha cho.
Quảng Thành Tử thấy Ân Giao mặc vương phục, nổi giận hét:
– Súc sanh! Ngươi thề trên núi với ta như thế nào mà bây giờ ngươi trở lòng như vậy?
Ân Giao khóc và nói:
– Xin sư phụ cho phép con thưa vài lời. Con đã thề với sư phụ chẳng bao giờ dám đổi ý. Khi xuống trần con có gặp Mã Thiện và Ôn Lương, sau đó lại gặp Thân Công Báo khuyên con phò Trụ. Tuy nhiên con không kể lời ấy, vì biết cha mình là người bạo ngược, mắc tội với thiên hạ đã nhiều. Con chỉ hận có một điều là Tử Nha đem Thái Cực Ðồ đốt Ân Hồng là em trai con thành tro bụi. Em con thù oán gì, mà Tử Nha đối xử như vậy? Sư phụ bảo con phải theo phò kẻ thù, đánh lại cha con, thì dù lòng con có là đất đá, không biết tri giác, cũng không thể nhịn nổi. Thầy hiểu cho tâm trạng con.
Quảng Thành Tử nói:
– Ngươi không rõ, Thân Công Báo là kẻ thù của Tử Nha nên kiếm lời nói gạt. Chuyện ấy do em ngươi liều lĩnh, không chịu nghe lời thầy, và cũng do số trời định cả.
Ân Giao mỉm cười cay đắng:
– Xin sư phụ nghĩ lại. Con không kể lời nói của Thân Công Báo làm gì. Chẳng lẽ em con tự nhiên chạy vào Thái Cực Ðồ cho chết hay sao? Còn số trời định thì số trời có bảo Tử Nha đem Thái Cực Ðồ giết em con không? Tại sao Tử Nha tạo ra chuyện ác tâm như vậy? Rồi bảo là do trời định? Nay lòng con thảm thiết quá, không thể nào khác hơn là giết Tử Nha để rửa hận. Xin thầy về núi nghỉ ngơi, để con liều mình giết Tử Nha rồi sẽ đầu Châu lấy năm ải.
Quảng Thành Tử nói:
– Ngươi không nhớ lời thề của ngươi hay sao?
Ân Giao nói:
– Ðệ tử nào không nhớ, song chết vì lời thề cũng đành, sống làm chi một mình cho đời thêm tủi nhục.
Quảng Thành Tử nỗi giận chém một gươm.
Ân Giao đưa kích ra đỡ và nói:
– Sư phụ bênh Tử Nha, không kể đến nghĩa thầy trò, sao gọi là nhân đạo, thiên đạo?
Quảng Thành Tử chém tiếp một gươm nữa. Ân Giao cũng đỡ ra và nói:
– Sư phụ cố tình buộc con vào thế bí, phải mang tiếng thất lễ với thầy ư? Sư phụ muốn có một đứa đệ tử hèn hạ, quên tình cha con, anh em theo phò một kẻ thù không?
Quảng Thành Tử nói:
– Ấy là số trời đã định. Nếu ngươi không biết ăn năn hối cải thế nào cũng uổng công ta dạy dỗ.
Ân Giao nói:
– Nếu trời bắt con phải bỏ thù em, bỏ hiếu cha, để cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của một kẻ giết em, đánh cha mình thì thà con cãi lại mệnh trời để bị bỏ xác còn hơn.
Quảng Thành Tử nổi giận chém bồi một gươm nữa, Ân Giao khóc lớn:
– Thầy đã không tưởng tình thầy trò, thì đệ tử làm saogiữ được đạo kính vì. Thôi thì đành chịu làm đứa thất phu vậy.
Nói rồi đâm Quảng Thành Tử một kích.
Quảng Thành Tử cũng hét lên một tiếng, hai thầy trò đánh nhau một lúc.
Quảng Thành Tử kinh hãi, biết Phiên Thiên Ấn là một báu vật lợi hại, liền hóa ra hào quang bay về thành.
Trước đây Quảng Thành Tử trao Phiên Thiên Ấn cho Ân Giao đi đánh giặc, không ngờ Ân Giao lại dùng chính Phiên Thiên Ấn đánh thầy.
Quảng Thành Tử chạy vào thành, mặt mày buồn xo, Tử Nha trông thấy hỏi:
– Ân Giao đã chịu phép chưa?
Quảng Thành Tử nói:
– Nó bị Thân Công Báo mê hoặc, tôi khuyên không được, nổi giận chém nó vài gươm, nó lấy Phiên Thiên Ấn ném trả nên tôi phải chạy về đây.
Tử Nha không rõ Phiên Thiên Ấn là báu vật lợi hại như thế nào mà Quảng Thành Tử phải kinh hãi như vậy thì có quân vào báo:
– Có Nhiên Ðăng đại sư đến.
Tử Nha và Quảng Thành Tử ra cửa rước vào, Nhiên Ðăng nói:
– Cái đèn lưu ly của tôi nó cũng đi khuấy ông thật là thiên số.
Tử Nha nói:
– Trời khiến sao chịu vậy, biết trốn vào đâu.
Nhiên Ðăng nói:
– Ân Giao là chuyện lớn, còn Mã Thiện là chuyện nhỏ, để bần đạo thâu Mã Thiện về cho rảnh rang rồi sẽ tính đến việc Ân Giao.
Tử Nha nói:
– Xin tuân theo ý kiến quyết định của đạo trưởng.
Nhiên Ðăng nói:
– Muốn bắt Mã Thiện, ngươi phải làm kế này giúp ta mới được.
Liền kề tai dặn nhỏ Tử Nha một hồi, Tử Nha vâng lời cầm roi, lên lưng Tứ Bất Tướng, đến trước cửa trại Thương kêu lớn.
– Mã Thiện hôm nay ta quyết chém đầu ngươi.
Quân vào báo lại Ân Giao nghĩ thầm:
– Hôm qua sư phụ ta vừa bỏ chạy, nay lại Tử Nha đến khiêu chiến một mình, e chúng lập mưu giết ta như giết Ân Hồng trước kia chăng?
Nghĩ rồi sai Mã Thiện ra trận xem thử thế nào.
Mã Thiện tuân lệnh cầm thương ra trận, thấy Tử Nha vểnh râu chửi mắng.
Mã Thiện nói:
– Thằng già hỗn quá! Sao dám chửi ta nhiều lời như vậy?
Tử Nha nói:
– Ngươi có tài phép chém không bay đầu, ta chửi một chập cho ngươi mất đầu chơi.
Mã Thiện giận quá, khua đao tới chém, Tử Nha đánh được ít hiệp rồi bỏ chạy về hướng Nam, Mã Thiện dừng ngựa không đuổi theo, Tử Nha thấy vậy quay ngựa lại chửi nữa. Mã Thiện giận quá chịu không nổi, quất ngựa đuổi theo. Chừng hai dặm đường đến một cội dương, Mã Thiện không thấy Tử Nha đâu, thấy một đạo sĩ bước ra chặn mặt, nói:
– Mã Thiện, ngươi biết ta chăng?
Vì Nhiên Ðăng làm phép ẩn mặt nên Mã Thiện không biết, liền đâm Nhiên Ðăng một giáo.
Nhiên Ðăng lấy đèn lưu ly trong tay áo quăng lên, Mã Thiện xem lại biết là thầy mình, kinh hãi ẩn mình không kịp, bị đèn lưu ly hút vào.
Nhiên Ðăng cười lớn, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem đèn về núi trước.
Bấy giờ quân thua chạy về báo với Ân Giao:
– Mã tướng quân theo đuổi Tử Nha thấy một luồng hào quang xông lên, rồi Mã tướng quân biến mất chỉ còn con ngựa mà thôi!
Ân Giao nghe nói lấy làm lạ, liền dẫn quân đến thành khiêu chiến.
Tử Nha liền mời Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đến thương nghị.
Nhiên Ðăng hỏi Quảng Thành Tử:
– Ân Giao bị Thân Công Báo xúi giục làm loạn, nay đạo huynh tính lẽ nào?
Quảng Thành Tử nói:
– Tôi trao hết báu vật cho nó rồi, nay không biết cách nào để thu hồi lại.
Bỗng có quân vào báo nữa:
– Ân Giao gọi quyết tên Thừa Tướng ra trận.
Tử Nha sợ Phiên Thiên Ấn, không biết có nên xuất trận hay không.
Nhiên Ðăng nói:
– Tử Nha có Hạnh Huỳnh Kỳ vật che thân rất bảo đảm, Phiên Thiên Ấn làm gì được mà lo.
Tử Nha nghe lời liền dẫn quân ra thành nói với Ân Giao:
– Ân Giao! Ngươi cãi lời thầy dạy, không nhớ lời thề thế nào cũng bị lưỡi cày đâm trúng bụng. Nếu thuận theo ta, xuống ngựa hàng đầu may ra thoát nạn.
Ân Giao cười lớn:
– Nếu ta theo phò ngươi mà tránh lời thề thì ta chết còn hơn. Ngươi tàn nhẫn đốt em ta ra thành tro bụi, thù ấy ta quyết không đội trời chung.
Nói rồi đâm Tử Nha một kích.
Tử Nha đưa gươm báu ra đỡ.
Hai người đánh với nhau một hồi, Ôn Lương xông vào trợ chiến, Na Tra đón lại giao công.
Ôn Lương quăng Bạch Ngọc hoàn đánh Na Tra, Na Tra quăng Càn Khôn Quyện lên nghe một tiếng chát tai.
Bạch Ngọc hoàn vỡ vụn, nát như tro.
Ôn Lương hét lớn:
– Ngươi phá phép báu của ta, ta không thể dung ngươi được.
Nói rồi hỗn chiến với Na Tra. Na Tra quăng Kim chuyên lên đánh nhằm lưng Ôn Lương gần sa xuống đất.
Dương Tiễn thừa thế bắn Ôn Lương một viên đạn bể đầu chết tốt.
Ân Giao thấy Ôn Lương bị chết, nổi giận ném Phiên Thiên Ấn lên đánh Tử Nha.
Tử Nha thất kinh, xổ Hạnh Huỳnh Kỳ ra, lập tức muôn đạo hào quang chiếu sáng loà, hàng ngàn bông sen rơi xuống, che chở khắp mình Tử Nha, Phiên Thiên Ấn không dám rơi xuống.
Tử Nha liền quăng roi Ðả Thần Tiên lên, đánh trúng lưng Ân Giao, Ân Giao sa xuống ngựa, Dương Tiễn bước tới chém đầu, may nhờ Trương Sơn, Lý Cẩm lanh tay đỡ thương.
Ân Giao độn thổ chạy mất.
Tử Nha thắng trận thâu quân về thành, Nhiên Ðăng nói với Quảng Thành Tử:
– Phiên Thiên Ấn khó thu về được, mà ngày bái tướng đăng đàn của Tử Nha gần đến, nếu để trễ tội của đạo huynh không tránh khỏi.
Quảng Thành Tử nói:
– Xin đạo trưởng tìm kế gì trừ nó kẻo tôi mắc tội oan.
Nhiên Ðăng nói:
– Ở đây không có phép gì trị được nó biết tính làm sao?
Quảng Thành Tử ngồi làm thinh buồn bã.
Lúc này Ân Giao cũng về dinh, trong người đau đớn vì vừa bị một roi chí tử, không biết làm cách nào giết Tử Nha để trả thù cho Ân Hồng.
Bỗng có quân vào báo:
– Có một đạo sĩ xin vào ra mắt.
Ân Giao truyền mời thì thấy một vị đạo sĩ mặt đỏ như trái táo, râu tóc cũng đỏ hoe mình mặc áo đỏ, đội mão đuôi cá, bước đến xá Ân Giao.
Hỏi ra thì hay đó là La Tuyên ở Hỏa Long động, hiệu là Diêm Trung tiên. Do Thân Công Báo đến thỉnh cầu nên đến giúp Ân Giao.
Ân Giao mừng rỡ vô cùng, dọn tiệc đãi đằng.
La Tuyên nói:
– Bần đạo lâu nay ăn chay đã quen nên không dùng đồ mặn.
Ân Giao truyền đem cơm chay đãi La Tuyên rất hậu.
La Tuyên ở lại dinh đã ba hôm mà không nhắc gì đến việc giao tranh.
Ân Giao hỏi:
– Ðạo trưởng đến giúp tôi sao không tính kế đánh Khương Tử Nha.?
La Tuyên nói:
– Ta có hẹn với một người bạn. Ðợi người ấy đến đây rồi tính ra binh cũng chẳng muộn.
Ngày hôm sau quân vào báo:
– Có một đạo sĩ tìm đến trước cửa dinh.
Ân Giao và La Tuyên truyền ra nghinh tiếp, thấy đạo nhân này mọc râu quai nón, mặt vàng, thân thể vạm vỡ.
Ân Giao liền mời ngồi và tiếp đãi rất hậu.
La Tuyên hỏi đạo sĩ:
– Vì sao hiền đệ đến trễ vậy?
Ðạo sĩ đáp:
– Tiểu đệ cần luyện thêm một phép nữa cho hoàn bị rồi mới đến đây hiệo lực với sư huynh.
Ân Giao hỏi:
– Chẳng hay nhị đạo sư danh hiệu là gì?
Ðạo sĩ mới đến đáp:
– Bần đạo là Lưu Hoàn ở Cửu Long đảo.
Ân Giao truyền dọn tiệc đãi đằng hai vị đạo sư rất hậu.
Rạng ngày La Tuyên và Lưu Hoàn đến trước thành Tây Kỳ kêu quân mời Tử Nha ra nói chuyện.
Quân vào báo, Tử Nha dẫn quân ra ngoài thành, thấy La Tuyên khác thường, liền nói với các đồ đệ:
– Người này xem chẳng khác cục lửa đỏ.
Các đồ đệ thưa:
– Ðạo Triệt giáo nhiều người dị tướng, trông mà ghê.
La Tuyên giục ngựa tới hỏi:
– Ngươi phải Khương Tử Nha chăng?
Tử Nha nói:
– Phải. Còn đạo huynh từ đâu đến, xin cho biết danh hiệu?
La Tuyên nói:
– Ta là La Tuyên, hiệu Diêm Trung Tiên ở Hỏa Long đảo, bởi ta nghe ngươi ỷ tài phép cung Ngọc Hư làm nhục Triệt giáo ta nhiều lắm, nên ta phải đến đây tranh tài cao thấp. Ta thiết tưởng chỉ cần ta và ngươi tranh tài mà thôi, đừng sai học trò nhỏ ra múa men làm gì cho mất công, uổng mạng.
Nói rồi liền chém tới một gươm, Tử Nha múa gươm xông vào giao đấu.
Ðánh được một lúc, Na Tra nổi nóng xông vào, Lưu Hoàn bước ra cản lại.
Dương Tiễn, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử, Thổ Hành Tôn, Vi Hộ đồng áp tới trợ chiến với Tử Nha, La Tuyên đỡ không kịp, chuyển mình một cái biến thành ba đầu sáu tay cự với các tướng.
Ðánh một hồi, La Tuyên đập Hoàng Thiên Hóa một bánh xe nhào xuống đất, Kim Tra và Mộc Tra vội lướt tới cứu Hoàng Thiên Hóa đem về thành.
Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên lên đánh La Tuyên gần hạ mã, vội độn thổ trốn mất.
Còn Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đánh Lưu Hoàn đổ hào quang.
Lưu Hoàn thất kinh lui về trại.
Trương Sơn khi ấy lược trận, quan sát thấy sức mạnh của các tướng Châu vô cùng lợi hại, nên thở dài:
– Cơ nghiệp Thành Thang sau này thế nào cũng về tay Võ Vương rồi.
Khi Trương Sơn trở vào dinh thì Lưu Hoàn và La Tuyên cũng về đến, người nào bộ tướng cũng xơ rơ, La Tuyên ân cần tiếp đãi và tìm lời an ủi.
La Tuyên nói:
– Vì ta vô ý bị Tử Nha đánh một roi gần hạ mã.
Liền lấy thuốc trong bầu ra uống, và nói với Lưu Hoàn:
– Ta không muốn giết nhiều mạng, thế mà chúng nó quyết tranh tài, biết làm sao? Ðêm nay ta sẽ đốt hết thành Tây Kỳ, không để sống sót một tên lính nào thì chúng nó mới thấy được phép thuật màu nhiệm của ta.
Lưu Hoàn nói:
– Nếu không trổ tài chúng tưởng thế gian này chỉ có Xiển giáo là thần thông hơn hết.
Ðêm ấy vào lối canh ba, La Tuyên và Lưu Hoàn lấy Vạn Lý Vân Yên là thứ tên lửa, đem ra bắn mù mịt vào thành Tây Kỳ, lửa dậy phừng phừng.
Thầy trò Tử Nha thấy thắng trận không đề phòng, đến chừng bá tánh trong thành kêu la mới hay.
Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đồng ra ngoài quan sát.
Riêng Võ Vương thấy lửa thất kinh, quỳ dưới đất lạy trời van vái rằng:
– Cơ Phát có tội nên trời trừng phạt thế này, xin đốt toàn gia quyến tôi mà thôi còn bá tánh xin dung tha kẻo tội.
Võ Vương vừa vái vừa khóc òa, nhưng lửa mỗi lúc mỗi cháy dữ hơn biến thành Tây Kỳ thành một hòn núi lửa cao ngất.
La Tuyên và Lưu Hoàn chưa hài lòng, còn làm phép đổ cả bầy quạ lửa cả muôn con bay vào đốt khắp thành, còn trên không trung thì sai hai con rồng lửa phun lửa xuống.
Thật là một trận chiến ác liệt. Nhân dân thành Tây Kỳ kinh khiếp.
Bấy giờ Long Kiết Công chúa tại núi Phụng Hoàng đã có lòng giúp Tử Nha đánh Trụ, nay thấy La Tuyên hóa phép dữ đốt thành, liền thừa dịp này chữa lửa làm ơn, liền sai Bích Vân đồng nhi quăng lưới Vụ Lộ càn khôn mà bắt bầy quạ lửa. Vụ Lộ là sương mù, thuộc thủy, khi bủa ra thì bầy quạ lửa sa vào chết hết, nên lửa tắt tức thì.
La Tuyên không rõ nguyên nhân nào mà bầy quạ lửa biến mất hết, nhìn lên trời cao thấy một vị tiên cô đang cỡi loan xanh, mặc áo đỏ đầu đội mão đuôi cá, nhan sắc thoát trần, liền kêu lớn:
– Ai cỡi chim loan đó? Sao dám bắt quạ lửa của ta?
Long Kiết công chúa cười lớn:
– Ta là Long Kiết công chúa, ngươi tài phép bao nhiêu mà dám sanh ác tâm như vậy? Ngươi nên xa lánh chốn này kẻo mang họa.
La Tuyên nổi giận quăng bánh xe Ngũ Long lên.
Long Kiết công chúa cười lớn:
– Phép tắc ngươi chỉ chừng đó thôi sao?
Nói rồi lấy bình Tứ Hải đưa ra, thâu bánh xe vào đó, tức thì rồng lửa ra biển.
La Tuyên nổi giận lấy tên lửa bắn Long Kiết công chúa.
Long Kiết công chúa dùng Nhị Long kiếm phóng lên, chém Lưu Hoàn đứt làm hai khúc.
La Tuyên thấy bạn mình bị hại, hiện ba đầu sáu tay, lấy ấn Chiếc Thiên quăng công chúa.
Long Kiết cầm gươm chỉ một cái, ấn sa xuống tức thì, rồi quăng luôn gươm nhị long lên.
La Tuyên biết cự không lại, giục ngựa Xích yên chạy dài.
Gươm Nhị long bay theo chém con ngựa Xích yên một cái, ngựa té nhào.
La Tuyên rơi xuống đất độn thổ trốn đi.
Long Kiết công chúa bèn hóa mưa chữa lửa cho thành Tây Kỳ.
Dân chúng trong thành thấy lửa tắt hết, đồng reo mừng nói lớn:
– Thật nhờ hồng phước của minh quân, mới khiến trời mưa cứu cả thành khỏi chết.
Bá quan dầm mưa đến thăm nhau suốt đêm không ai ngủ được.
Trờo mờ sáng có quân vào báo:
– Một vị Tiên cô giáng trần, xin vào thành thăm viếng.
Tử Nha mừng rỡ ra rước vào, thì thấy cô nương ấy là Long Kiết công chúa.
Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử ra mắt tạ ơn.
Tử Nha hỏi:
– Vì đâu công chúa đến nơi này, xin chỉ dạy.
Long Kiết công chúa nói:
– Trước kia ta phạm lỗi tại hội bàn đào, nên mẹ ta là Diêu Trì kim mẫu bị đày xuống Phụng Hoàng san. Nay ta thấy La Tuyên đốt thành Tây Kỳ, nên làm mưa giải cứu, nhân dịp ở lại đây giúp Thừa Tướng chinh Ðông, lập công đền tội, để sau này trở lại cung tiên.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ, truyền a hoàn dọn một nhà riêng cho công chúa ở.
Bấy giờ thành Tây Kỳ tuy dân chúng thoát nạn hỏa tai, nhưng thành quách hư hại rất nhiều, phải tốn công phu mới sửa chữa được như xưa.
Còn La Tuyên chạy đến núi, mệt thở không ra hơi, ngồi xuống bàn thạch, dựa vào gốc tùng ngẫm nghĩ:
– Ta bị Long Kiết công chúa thâu hết phép, thù này biết thuở nào nguôi.
Giữa lúc đó đàng sau có tiếng người ngâm:
Lánh chốn hồng trần khỏi thị phi,
Nửa đời áo mão ở thành trì
Kích dài một trượng người kiêng sức,
Tháp nặng ngàn cân cọp khiếp uy
Ẩn mặt trước còn nương thạch động,
Trổ tài nay mới xuống Tây Kỳ
Biết thời Trụ mạt, Châu đương thịnh,
Cái mạng La Tuyên cũng hiểm nguy.
La Tuyên nghe ca ngó lại thấy một người đội mão kim khôi mình mặc đạo phục, tay cầm kích liền hỏi:
– Ngươi là ai mà dám ngạo nghễ ta như vậy?
Người kia đáp:
– Ta là Lý Tịnh nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha đoạt thâu năm ải. Ta không thể làm lễ ra mắt nên mới mượn tạm cái đầu của ngươi.
La Tuyên nổi giận đứng dậy chém một gươm, Lý Tịnh liền đâm lại.
Hai người hỗn chiến một hồi lâu, Lý Tịnh quăng Huỳnh Kim bửu tháp kên, và kêu lớn:
– La Tuyên! Ngươi trốn đâu cho thoát.
La Tuyên tránh không kịp bị bửu tháp sa xuống đầu.
Giết La Tuyên rồi, Lý Tịnh liền đằng vân xuống Tây Kỳ, tìm vào trướng phủ.
Kim Tra, Mộc Tra thấy cha mình đến, mừng rỡ vào bẩm với Tử Nha:
– Có cha tôi là Lý Tịnh xin vào ra mắt.
Nhiên Ðăng nói với Tử Nha:
– Người này trước kia là tôi vua Trụ, làm đến chức Tổng Binh.
Tử Nha nghe nói mừng rỡ, rước vào thành hậu đãi, ai nấy đều vui vẻ.
Riêng Quảng Thành Tử thấy Ân Giao ngăn trở, sợ trễ kỳ bái tướng đăng đàn, liền hỏi Nhiên Ðăng:
– Nay Ân Giao không chịu phép, biết liệu làm sao?
Nhiên Ðăng nói:
– Phiên Thiên Ấn là bửu bối lợi hại, nếu không có cờ Ly Ðịa diệm quang tại cung Huyền Ðô, cờ Thanh Liên bửu sắc bên Tây Phương, và cờ Hạnh Huỳnh thì khó bắt Ân Giao được. Nay cờ Hạnh Huỳnh đã có, nếu mượn được hai cây cờ nữa là xong.
Quảng Thành Tử nói:
– Học trò tôi làm bậy, tôi phải ráng sức đi mượn cho được hai cây cờ đó.
Nói rồi lập tức độn thổ đến cung Huyền Ðô, song không dám vào, cứ đứng ngoài cửa mà chờ.
Bỗng có Huyền Ðô đại pháp sư bước ra.
Quảng Thành Tử bái chào và nói:
– Xin đạo huynh làm ơn bẩm lại với sư bá lão gia, tôi xin vào ra mắt.
Huyền Ðô đại pháp sư vào thưa lại.
Lão Tử nói:
– Ðừng bảo Quảng Thành Tử vào đây mất công, ngươi đem cây cờ Ly Ðịa diệm quang cho nó mượn.
Huyền Ðô pháp sư vânh lệnh đem cờ trao cho Quảng Thành Tử và nói:
– Thầy dạy đạo huynh khỏi vào, đem cờ về kẻo trễ.
Quảng Thành Tử bái tạ trở về Tây Kỳ, giao cờ lại cho Tử Nha.