Các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, chủ yếu được sáng tác vào thời Minh – Thanh, có nội dung liên quan nhiều tới lịch sử, hình thức thể hiện dạng chương/hồi.
Trong số dân chúng ấy, có một ông lão tuổi ngoài tám mươi, tóc bạc da mồi, nhưng còn có vẻ quắc thước lắm. ông lão ấy tên Ðổng Công, học rộng, chuộng đạo đức, cả vùng ai cũng kính mến.
Ðổng Công bàn với dân chúng:
– Chúng ta chờ bọn Anh Bố đi rồi, tìm lấy xác vua làm lễ mai táng, rồi kéo sang Lạc Dương rước Hán vương về làm chủ để trả thù cho Chúa thượng.
Dân chúng đồng thanh hưởng ứng, và nói:
– Chúng tội xin theo lời lão công.
Nói xong, tụ họp hơn vài mươi chiếc thuyền, nhắm dòng hạ lưu tìm vớt xác của Hoài vương đem lên, lập đàn ma chay cúng tế, mà mai táng Hoài vương nơi Mân Châu.
Giữa lúc đó, bọn Anh Bố đã trở về Bành Thành, gặp Phạm Tăng thuật lại đầu đuôi.
Phạm Tăng thở dài, nói:
– Thôi thế thì còn ra gì nữa! Vua Nghĩa Ðế do tôi và Vũ Tín Quân lập lên để trấn an nhân tâm, nay giết đi mang tiếng trong thiên hạ, nếu còn dời đô về Bành Thành nữa sao khỏi thiên hạ chê cười. Chúng ta phải trở về Hàm Dương can ngăn việc thiên đô mới xong.
Quý Bá nói:
– Khi trước Hàn Sinh can gián, bị Bá vương giận bỏ vào vạc dầu, bây giờ ai còn dám ngăn cản nữa?
Phạm Tăng nói:
– Không liều chết ngăn cản thì rồi đây chúng ta sẽ bị chết cả bọn.
Nói xong, lưu Quý Bá ở lại Bành Thành, còn bao nhiêu thảy đều về Hàm Dương, vào yết kiến Bá vương.
Bá vượng đang thu xếp hành trang, thôi thúc bá quan hạn trong bốn hôm nữa sẽ đăng trình, xảy được tin Phạm Tăng và Anh Bố trở về tâu việc giết vua Nghĩa Ðế.
Bá vương thích chí nói:
– Thế là ta đã trừ được cái bệnh trong gan phổi rồi.
Phạm Tăng tâu:
– Bệnh gan phổi của Bệ hạ không phải ở vua Nghĩa Ðế mà là ở Hán vương. Bệ hạ trừ được Hán vương mới gọi là chữa được bệnh. Ngày nay Bệ hạ dời đô về Bành Thành ngày mai Hán vương dời đô ra Hàm Dương đó.
Bá vương lắc đầu nói:
– Quân sư chớ lo. Ðường Sạn đạo đã đốt rồi, quân Tam Tần ráo riết phòng bị, dẫu Hán vương có cánh cũng không thoát ra khỏi đất Ba Thục được.
Phạm Tăng tâu:
– Nếu Bệ hạ dời đô về Bành Thành tất Tam Tần trễ biếng, Hán vương thừa cơ hội ấy tấn binh. Ðường Sạn đạo đã đốt nhưng lòng người đã quyết, việc sửa chữa chẳng mấy chốc.
Bá vương tỏ vẻ bất bình nói:
– Hiệu lệnh đã ban, văn vũ đã chuẩn bị chỉnh tề, không thể sửa đổi được nữa. Quân sư chớ nói nhiều lời.
Phạm Tăng thấy Bá vương không nghe lời mình, hổ thẹn bước ra buồn bã sắp sửa hành trang để cùng các quan theo hộ giá.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi tiễn chân Trương Lương đi rồi lòng hồi hộp, mấy đêm không ngủ được, lo chuẩn bị hành trang lên đường.
Trước khi ra đi, Hàn Tín ghé nhà Trần Bình thăm viếng.
Trần Bình thấy Hàn Tín đến, mừng rỡ đón chào và hỏi:
– Chấp kích lang sang chơi chắc có chuyện lạ! Hay là cá sắp hóa rồng, rồng toan vượt bể?
Hàn Tín biết Trần Bình không ưa gì Bá vương, tìm lời nói thử:
– Bá vương dời đô về Bành Thành tất Hán vương thôn tính Tam Tần. Ðất Hàm Dương này e không giữ được. Ðô úy nghĩ sao?
Trần Bình đáp:
– Bá vương lấy uy vũ hàm gốc, nấu Hàn Sinh, giết Nghĩa Ðế, lại thiên đô về Bành Thành, tôi tưởng cơ nghiệp không thể nào yên được. Trong chư hầu, chỉ có Hán vương là người đại lượng, có thể mưu đồ việc lớn.
Chấp kích lang ở đây không ra gì, sao không tìm nơi khác tiến thân, tội gì sống trong khổ cực?
Hàn Tín đưa mắt nhìn quanh rồi nói nhỏ:
– Tôi có ý đó đã lâu, không dám giấu Ðô úy, ngặt vì quan san cách trở, đồn ải canh phòng rất nghiêm, không có giấy thông hành không thể nào đi lọt.
Trần Bình thở dài nói:
– Việc ấy không khó. Trong dinh tôi có văn thư ấn tín tôi sẽ cấp cho một đạo thông hành, có thể tự do đi lại. Nếu đồn ải nào hỏi thì cứ nói rằng: “Bá vương sai vào Bao Trung thám thính”.
Hàn Tín đứng dậy nói:
– Ða tạ Ðô úy. Ngài cho Tín tôi mảnh giấy này thực quý hơn ngàn vàng. Nếu Tín tôi gặp thời, đạt danh vọng, nguyện không quên ơn tri ngộ.
Trần Bình nói:
– Ngài cứ an tâm, lập chí. Sau này tôi cũng phải tìm chỗ dung thân, chừng ấy ngài ra ơn tiến cử tôi thì còn gì quý hơn.
Hàn Tín lãnh giấy thông hành, từ giã về dinh. Tối hôm ấy dặn bọn gia nhân:
– Ta bận việc đi thăm người bạn, chúng bây ở nhà phải canh phòng cẩn mật. Nói xong, lên ngựa ra đi. Vó câu khấp khểnh vầng trăng chênh chếch mái đầu. Anh hùng yên ngựa đâu quản gió sương, bóng Hàm Dương khuất dần sau những rặng núi đen sì, giữa những màn sương lạnh.
Hàn Tín ra đi đã hai hôm thế mà tuyệt nhiên không ai hay biết.
Bọn gia nhân thấy Hàn Tín không về, bàn với nhau:
– Quan Chấp kích lang đi đâu không về, chúng ta phái vào báo cho quân sư kẻo mang vạ.
Chúng kéo đến dinh Phạm Tăng, bẩm:
– Chúng con là gia nhân ở dinh quan Chấp kích lang. Cách đây vài hôm có người khách lạ đến chơi, cùng với quan Chấp kích lang đàm đạo, cách đó mấy hôm, quan Chấp kích lang lại đi biệt không về. Vì vậy, chúng con đến đây cấp báo.
Phạm Tăng thất kinh, dậm chân, thở dài than:
– Thôi! Cọp đã vào rừng rồi! Ta còn mong gì mưu việc thiên hạ. Trước đây ta đã tâu xin Bá vương một là dùng, hai là giết, thế mà Bá vương không nghe, nay còn hối sao kịp.
Nói xong, vội vã vào triều, tâu với Bá vương:
– Hàn Tín trốn rồi, bệ hạ phải cho người đuổi theo bắt lại, nếu không, nghiệp cả khó bền.
Bá vương giận dữ, vỗ án hét:
– Ðứa thất phu ấy lại dám bỏ ta mà đi ư?
Phạm Tăng nói:
– Hàn Tín là kẻ kiến thức, có thể giúp Bệ hạ làm nên đại sự, thế mà Bệ hạ đã không dùng, còn để cho hắn trốn, thất là bất lợi.
Bá vương nói:
– Nó không có thông hành thì làm thế nào ra khỏi Quan Trung được?
Liền gọi Chung Ly Muội đến bảo:
– Ngươi dẫn hai trăm quân khinh kỵ, đuổi theo bắt Hàn Tín về đây, bầm thây làm gương cho kẻ khác.
Chung Ly Muội lĩnh lệnh dẫn quân đến cửa quan An Bình thì được tin Hàn Tín đã qua khỏi cửa quan hai hôm rồi.
Chung Ly Muội trách cứ quan Tổng Trấn. Quan Tổng trấn nói:
Hàn Tín hiện có văn thư, ấn tín rõ ràng, nói là Bá vương sai đi hội Tam Tần bàn việc khẩn cấp. Tôi làm sao dám ngăn cản?
Chung ly Muội nói:
– Bây giờ quan Tổng trấn liệu có cách gì bắt Hàn Tín lại chăng?
Quan Tổng trấn lắc đầu, đáp:
– Tướng quân khó mà theo kịp. Bây giờ chỉ có cách phi báo cho Tam Tần mang quân truy mã, may ra mới bắt được
Chung Ly Muội nghe lời, phi hịch cho Tam Tần, khiến truy nã rất gấp, rồi trở về Hàm Dương tâu lại với Bá vương.
Bá vương, nói:
– Ðứa thất phu ấy, dẫu có đi đâu lại làm nên trò trống gì mà ta phải bận tâm.
Tức truyền lệnh cho bá quan văn võ sắp sửa xe ngựa thiên đô đến Bành Thành. Chỉ để Tnmg Công ở lại giữ Hàm Dương mà thôi.
Nhắc lại Hàn Tín từ khi thoát ra khỏi cửa An Bình, thẳng tới Tản Quan, đến một ngã ba kia đường chật hẹp, ngoằn ngoèo, liền giở bản đồ ra xem, tìm lối tắt vào Bao Tnmg.
Bỗng có một viên tiểu tướng tay cầm hỏa bài, xông ngựa tới hỏi:
– Người kia! Ði đâu? Có giấy thông hành chăng?
Hàn Tín xem qua, biết là người của Tam Tần, sai đi lùng bắt mình, liền giả cách nói:
– Tôi họ Lý, hiện có việc sang Bao trung, giấy thông hành có ghi rõ.
Nói xong, rút giấy thông hành trao cho viên tiểu tướng.
Viên tiểu tướng khúm núm giở ra xem, Hàn Tín thừa cơ rút thanh bảo kiếm đeo trong lưng, chém phăng một nhát, tiểu tướng rơi đầu.
Hàn Tín vội vã. buồng cương thượng lộ: Ði chưa bao xa, lại có bốn tráng sĩ đuổi theo bắt. Hàn Tín cũng theo cách ấy, cho mỗi người một nhát gươm đưa hồn về địa phủ. Ðoạn, quay ngựa nhắm hướng Tây mà chạy. Chay được một lúc Hàn Tín nghĩ thầm:
– Ta vừa giết mấy tên hỏa bài của Tam Tần, nếu cứ đường này thẳng tiến, e họ đuổi theo bắt gặp.
Liền rẽ cương sang một con đường hẻm về hướng Tây Nam.
Con đường này chung quanh núi rừng mù mịt, suối reo, đá dựng, không làm sao cưỡi ngựa được, con đường bị nghẽn, không còn lối nào sang đò Trần Thương được Hàn Tín buồn bã, lơ láo đứng nhìn bốn mặt, đâu đâu cũng rừng núi chập chùng.
Tình cờ gặp một tên phu, đang kẽo kẹt trên vai một gánh củi nặng, mò mẫm qua triền núi. Hàn Tín mừng rỡ, hỏi vội:
– Thưa lão trượng làm ơn chỉ dúm cho tiểu tử đường ra Trần Thương.
Lão tiều nghe hỏi, để gánh củi xuống, chỉ tay về phía trước, nói:
– Cứ dắt ngựa băng rừng đi tới sang rặng núi đá bên kia đến rừng Tiểu Tùng. Ði hết rừng ấy là đến khe Loan Thạch, trên khe có cầu đá, đi khỏi cầu đá thì có núi Nga Mi, phải trèo qua núi ấy mới có lối đi, nhưng phải khó khăn lắm. Ði một quãng nữa đến núi Thái Bạch, dưới chân núi có hàng cơm phải trọ lại đấy dùng cơm tối, sáng sớm mới lên đường. Hỏi lối sang núi Cô Vân đến núi Lưỡng Cước, sang đò Bắc Thủy, tới bến Hàng Khê. Ðấy là địa phận Nam Chính rồi. Nhưng nhớ phải đi đến nơi trọ trước trời tối, vì vùng núi ấy có con mãng xà rất nguy hiểm, ông phải cẩn thận lắm mới tránh được tai nạn.
Hàn Tín giở bản đồ ra xem, thấy không sai một nét nào cả. Hàn Tín cảm ơn lão tiều lên đường cất bước, giữa lúc ấy lão tiều cũng ì ạch gánh củi tên vai, xuống núi.
Hàn Tín vừa đi vừa nghĩ:
– Nếu Chương Hàm cho người truy nã, theo chân mình đến ngã ba gặp lão tiều này, và lão tiều lại chỉ đường như vậy thì mạng ta khó thoát. Vả chăng, mấy hôm nay ta lặn suối, trèo non người mỏi ngựa mệt, vô phúc mà gặp truy binh, đành phải bó tay chịu chết, chứ chống cự sao nổi! Thôi, thà ta chịu tiếng vong ân giết lão tiều phu này đi, để tuyệt lộ truy binh.
Nghĩ rồi liền quay ngựa lại gọi:
– Hời lão tiều, xin lão dừng chân cho tôi hỏi thêm điều này nữa.
Tiều phu nghe gọi, quay gánh lại. Hàn Tín bước đến chém một gươm đứt làm đôi, rồi mang xác đem vùi nơi sườn núi.
Nhìn nấm mồ oan, Hàn Tín rơi lệ, than:
– Lão tiều hỡi! Tín không phải là phường bất nhân, bạc nghĩa, chỉ vì sợ lỡ việc lớn, đành Phải hy sinh mạng lão. Mai sau Tín này được thành thân, xin đến đây làm lễ hộ tang, lập đền thờ cúng. Hồn lão có linh thiêng xin phò hộ bước bôn đào của Tín này.
Xác tiều phu đã vùi kín, Hàn Tín lên ngựa, gạt lệ bôn hành.
Người sau có thơ rằng:
Kiếm báu trao tay chửa giết thù
Giết người ân nghĩa: lão tiều phu
Hàn quân vì muốn mưu thiên hạ
Sao nỡ đem ân đáp nghĩa thù
Hàn Tín theo lời dặn của lão tiều, băng qua núi đá, sang rừng Tiểu tùng, đến khe Loan Thạch, và vất vả mấy ngày mới tới núi Thái Bạch. Dưới núi có hàng cơm, Hàn Tín xuống ngựa bước vào, gọi chủ quán đem rượu thịt ra ăn.
Rượu nồng hơi ấm, rừng núi u buồn, xa xa lơ thơ vài vầng mấy bạc lồng bóng xuống khe sâu, bơ vơ như bước chân dũng sĩ chưa định hướng, Hàn Tín thở dài, chợt nghĩ đến cái chết của tiều phu vừa rồi, bất giác ngâm một bài thơ, rồi sẵn dịp mượn bút mực để lên vách đá. Thơ rằng:
Dần bước đỉnh non cao
Gặp ghềnh theo lối nhỏ
Mây nghiêng mái trời xanh
Suối tuôn ghềnh sỏi đỏ
Ngoắt ngoéo đến muôn trùng
Gớm thay! Thật hiểm trở!
Rừng thẳm càng đi sâu
Càng đến nơi tuyệt lộ!
Trời xui gặp lão tiều
Chỉ đường đi rất rõ
Ân đức biết chừng nào?
Nghìn vàng chưa báo bổ!
Ta vì lòng lo riêng
Sợ quân theo truy nã
Sức yếu và thế cô
Vào lưới không thể gỡ!
Cắn răng rút gươm thiêng
Giết Tiều, vùi xuống hố!
Hỡi ơi Lão tiều phu
Linh thiêng xin phù hộ
Ta há bạc tình chi
Chỉ lo, về hậu lộ
Lão sống chỉ vào rừng
Suốt đời thêm cực khổ!
Ta sống để mai này
Ðem thân đi diệt Sở
Sở diệt, thiên hạ yên
Muôn dân khỏi thống khổ
Ấy vậy kẻ vong tình
Xin lão chớ oán nộ!
Mai sau được thành công
Quyệt lòng đền báo bổ
Con lão ta xin nuôi
Phú quý chung hưởng thọ
Vành trăng lả lướt soi
Chập chùng mây mờ tỏ
Hồn lão đến đây chăng?
Chứng minh lòng ta đó!
Hàn Tín đề thơ xong, ngồi gật gù đánh chén, ngâm đi ngâm lại bài thơ mãi không thôi. Thình linh, bên ngoài có một tráng sĩ, vung kiếm xông vào, xem qua bài thơ một lượt rồi quay lại hỏi Hàn Tín.
– Anh này muốn chết sao? Ðã bỏ Sở bôn đào vào đây thế mà còn dám giết người dọc đường, đề thơ lên vách! Nếu tôi bắt anh đem nạp cho Bá vương thì anh liệu làm sao?
Hàn Tín thất kinh, đẩy ly rượu sang một bên, đứng dậy nói:
– Nếu tôi không lầm, tráng sĩ là người Bao Trung, làm dân nước Hán, cớ sao lại có ý ấy?
– Tôi nói đùa đấy, xin Tướng quân hỷ xả cho. Tôi vốn họ Tân tên Kỳ, người Phú Phong, mấy năm nay vì lánh nạn nhà Tần nên theo cha tôi là Tân Kim, đến đây mở hàng cơm độ nhật. Từ thuở bé, tánh ưa cung kiếm, nên mải ham mê săn bắn, chưa nghĩ đến việc tiến thân, lập nghiệp. Ðêm vừa rồi, tôi nằm chiêm bao, thấy một con hổ từ đỉnh núi cao nơi phương Ðông chạy đến, nằm trên đám cỏ. Với giấc mộng ấy, tôi đoán chắc hôm nay thế nào cũng gặp được quý nhân. Vì vậy suốt ngày tôi ở nhà chờ tiếp đón.
– Tôi xem tráng sĩ không phải là kẻ giá áo, túi cơm. Nay thiên hạ đang loạn lạc, Hán vương chiêu hiền đãi sĩ, sao tráng sĩ không bái yết, đoạt ấn phong hầu, để thỏa lòng hào kiệt?
Tân Kỳ nói:
– Tôi có ý ấy đã ìâu, song nghĩ rằng Hán vương muốn thâu thiên hạ tất phải đem quân dẹp Tam Tần. Mà dẹp Tam Tần không có con đường nào khác hơn là đường ra núi Thái Bạch này. Vậy xin Tướng quân vào trước, lúc nào Tướng quân đem binh ra đây tôi sẽ vin tháp tùng vậy.
Hàn Tín ngạc nhiên hỏi.
– Ðường ra Tam Tần không còn đường nào khác hơn sao?
Tân Kỳ nói:
– Xưa nay chỉ theo đường Sạn đạo. Bây giờ Sạn đạo đã bị đốt rồi, người Sở cũng như người Tần, không ai biết con đường này cả. Nếu quân Hán theo con đường này kéo ra, xuất kỳ bất ý đánh một trận, tất Tam Tần phải mất.
Hàn Tín nói:
– Tráng sĩ quả là kẻ kiến thức. Nhưng, xin chớ lộ việc này với ai. Lúc tôi đem binh diệt Tần sẽ nhờ tráng sĩ làm hướng đạo.
Tân Kỳ mời Hàn Tin vào nhà trong, gọi mẹ và vợ ra giới thiệu. Cả nhà vui vẻ.
Hàn Tín và Tân Kỳ kết, làm anh em. Ðêm ấy cả hai ngủ chung giường, và mờ sáng, Hàn Tín giã biệt.
Tân Kỳ nói:
– Phía trước là núi Cô Vân, núi Lưỡng Cước, đường sá hiểm trở, lại có con mãng xà rất lớn. Khách đi đường không khéo sẽ nguy đến tính mệnh. Vậy tôi xin đưa Tướng quân đến bến Hàn Khê rồi sẽ trở về.
Hàn Tín từ chối, nói:
– Thôi xin cám ơn hiền đệ, làm như thế quá phiền phức.
Tân Kỳ nhất định không nghe, gọi gia nhân đến dặn:
– Chúng bây ở nhà trông nom quán hàng, khoản đãi khách khứa. Ta đi tiễn Hàn tướng quân vài hôm sẽ về.
Dứt lời, cầm một ngọn giáo, đeo một túi cung, theo Hàn Tín ra đi.
Không có gì vui vẻ hơn khi đường xa được người tri ngộ. Hai người trao đổi tâm tình, quên cả đường xa mệt nhọc Chẳng bao lâu đã đến bến Hàn Khê.
Tân Kỳ chỉ tay ra phía trước nói:
– Ở đây chỉ còn cách Bao Trung chừng vài dặm. Vậy tiểu đệ xin trở bước.
Hàn Tín bùi ngùi cầm tay nói:
– Chúng ta hẹn ngày tái ngộ, và ngày ấy sẽ là ngày thanh gươm yên ngựa, đem sức tài thị thố giữa ba quân.
Xưa nay, những cảnh tương biệt bao giờ cũng đeo sầu, và có bịn rịn đến đâu cũng phải đến phút giây dứt bỏ.
Hàn Tín lên ngựa ra roi, vó câu khấp khểnh. Tân Kỳ đứng nhìn theo một lúc, rồi quay lại đường cũ trở về chân núi
Nam Chính non nước huy hoàng, cảnh sắc chẳng khác nào một bức tranh thiên tạo. Hàn Tín vừa đi vừa ngắm cảnh, chẳng bao lâu đã vào chốn kinh thành. Nơi đây chợ búa đông đúc, dân chúng sống trong thanh bình thịnh trị.
Hàn Tín vào một quán trọ, chủ quán ra tiếp đón niềm nở. Hàn Tín đưa hành trang cho chủ quán và dặn cất cẩn thận.
Chủ quán mĩm cười nói:
– Quý khách cứ an tâm, xứ Hán Trung chúng tôi không phải như các xứ khác. Dẫu của bỏ rơi ngoài đường còn chẳng ai lượm, huống hồ vật cất trong nhà. Xin ngài nghỉ ngơi cho khỏe rồi ra phố tiêu khiển.
Chiều đến, Hàn Tín lên ngựa, đi dạo xem phong cảnh Hán Trung. Cửa Kiếm Các uy nghi hướng về phương Nam, đường Sạn đạo bắt sàn, uốn khúc quanh co như khúc ruột trước mặt là Ðại Giang, mông mênh sóng vỗ, đàng sau là núi Cẩm Bình, Nga Mi sừng sững như tháp Quan âm, bao bọc vùng Châu Kỳ, Châu Tương, đồng rộng ước hai ngàn dặm. Lại thêm ngọn núi Nam Mai trắng tợ tuyết, ngọn suối Bộc Bố chảy ngoằn ngoèo, có ổ Bàn Vân có lầu Thiên Hán có nhà Thạch trụ, có dinh Tứ Chiến, cảnh vật muôn màu tươi thắm, tô điểm cho giải non sông ấy một sắc thái hùng khí thiên nhiên.
Hàn Tín xem mãi không chán mắt, giục ngựa thẳng đến một tòa nha môn kia, ngoài cổng có treo tám biển đề ba chữ “Chiêu hiền quán” hai bên lại có treo hai tấm yết thị rất lớn, viết như sau:
1) Am hiểu lược thao, tinh thông binh pháp sẽ được chọn làm chức Nguyên nhung
2) Dũng cảm hơn người đủ sức phá thành chém tướng, sẽ chọn làm Tiên phong
3) Tài hay khinh khiển, võ nghệ siêu quần, sẽ được chọn vào chức Tán kỵ
4) Thông hiểu thiên văn, thạo việc phong vũ, sẽ chọn làm chức Tân hoạch.
5) Tinh tường địa đạo, thấu triết địa dư sẽ được chọn làm chức Hướng đạo.
6) Mực thước công bằng, tánh tình ngay thẳng, sẽ chọn làm chức Kỹ lục.
7) Cư biến tài tình, động việc khéo lo, sẽ chọn làm chức Nghị quân.
8) Nói năng hoạt bát, ứng đối nhanh lẹ, sẽ chọn trào chức Thuyết khách
9) Tính toán tinh tường, một mảy không lộn, sẽ chọn làm chức Thượng thư.
10) Sách vở xem rộng, hỏi đâu biết đấy, sẽ chọn làm chức Bác sĩ.
11) Chuyên tập sách thuốc, mạch lục tinh thông, sẽ chọn vào chức Quốc thủ.
12) Giỏi nghề len lỏi, thạo việc rình mò, sẽ chọn làm Thám tử.
13) Chưởng quản tiền lương, tiêu pha có độ, sẽ chọn làm chức Quân xướng.
Trong 13 khoản này, ai giỏi về khoản nào cứ tới Quán Chiêu Hiền kê khai tên họ, trình quan khảo thí. Nếu thực tài sẽ được trọng dụng ngay không phân quý tiện. Hễ hết lòng vì nước tất đoạt bước thang mây.
Cáo thị Quốc dân.
Hàn Tín đọc xong bản chiêu hiền, liền hỏi thăm dân chúng, ai là chủ tòa nha môn ấy.
Dân chúng đáp:
Ðằng công tên là Hạ Hầu Anh được Hán vương phong làm Nhữ Nam Hầu, lo việc chiêu hiền đãi sĩ đó.
Hàn Tín nghĩ thầm:
– Nếu mình mang ngay cái giốc thư của Trương Lương đến trình với Tiêu Hà xin tiến cử thì ra mình hèn quá! Tại sao ta không thi thố tài năng theo hệ thống khảo thí như mọi người, đế tỏ tài học của mình?
Liền biên tên họ, quán chỉ, nạp vào nha môn, xin yết kiến Ðằng công.
Ðằng công nghĩ thầm:
– Người này ta nghe tiếng đã lâu, vả lại, từ ngàn dặm, bỏ Sở mang đây hẳn có chí lớn.
Bèn cho quân mời Hán Tín vào, hỏi:
– Hiền sĩ đang phò Sở, vì sao lại dong ruổi đến đây?
Hàn Tín thưa:
– Hạng vương không dùng, nên tôi bỏ chỗ tối tìm đến chỗ sáng.
Ðằng công hỏi:
– Ðường Sạn đạo bị đốt, núi rừng hiểm trở, hiền sĩ làm sao đến đây được?
Hàn Tín đáp:
– Bẩm Ðại nhân, đường sá dẫu hiểm trở đến đâu cũng không cản được chí hướng con người.
Ðằng công khen:
– Thế thì hiền sĩ quả là người có chí? Vậy hiền sĩ đã xem bản văn chưa?
– Thưa đã.
– Theo các khoản ấy hiền sĩ giỏi về khoản nào?
Hàn Tín do dự một lúc rồi đáp:
– Mười ba khoản ấy vẫn chưa đủ.
Ðằng công ngạc nhiên hỏi:
– Còn thiếu khoản gì, theo ý hiền sĩ?
Hàn Tín thưa:
– Còn thiếu một khoản: “văn võ song toàn, thông hiểu vũ trụ, ra tướng vũ, vào tướng văn, trăm trận trăm thắng, lấy thiên hạ như trở bàn tay, đủ sức làm Phá Sở Nguyên Nhung…! “. Nếu Ðại nhân muốn sát hạch Tín thì phải thêm khoản ấy, còn như mười ba khoản kia chỉ là tài mọn riêng tây, dành cho những người thường, có gì đáng kể.
Ðằng công nghe nói giật nẩy người, mời Tín an tọa, và hỏi:
– Lâu nay nghe tiếng ngài, nay mới hân hạnh được hội kiến, quả thật lời đồn chẳng sai. Ngài đến đây không những do hồng phúc của chúa công tôi, mà còn đem lại hạnh phúc cho thiên hạ nữa. Vậy xin ngài vui lòng chỉ giáo.
Hàn Tín khiêm nhượng đáp:
– Ðại nhân đã rộng lượng, Tín này mới dám tỏ lời:
– Ðời nay làm tướng chỉ học thuộc lòng binh pháp mà không biết sử dụng thích đáng binh pháp. Như vậy dẫu có học thuộc hết Tôn, Ngô nhớ kỹ thao lược cũng vô ích! Làm tướng giỏi phải biết học và biết dùng.
Ðằng công hỏi:
– Thế nào là biết dùng?
Hàn Tín đáp:
– Tôi xin đan cử việc này: “Xưa, nước Tống có anh chàng học được môn thuốc gia truyền gọi là Quy thủ dược.
Phương thuốc đó chữa chứng cóng tay về mùa đông giá:rét hiệu nghiệm như thần. Hễ xoa vào tay thì không còn biết rét là gì nữa. Nhà anh ta ở gần sông, làm nghề thợ giặt, dẫu trời lạnh đến đâu anh cũng không sợ, và lấy cái nghề ấy làm kế sinh nhai, cha truyền con nối. Một hôm, có người khách mang một trăm nén vàng đến mua phương thuốc ấy. Anh ta suy hơn tính thiệt rồi nói với bọn gia nhân, làm nghề giặt chẳng qua kiếm gạo hàng bữa, chứ khi nào giàu được, chi bằng ta bán quách phương thuốc cho người này, lấy một trăm nén vàng, sống phong lưu suốt đời “. Bàn xong, anh ta nhận lấy vàng, đem phương thuốc trao cho khách. Người khách được phương thuốc, trở về nước Ngô, gặp lúc Ngô, Việt đang đánh nhau, trời đông rét mướt quân Ngô cóng tay không thể nào cầm vũ khí được Người khách đem thuốc vào yết kiến vua Ngô, thoa thuốc vào tay quân sĩ, tức thì không ai còn biết rét nữa, tung vũ khí đánh quân Việt chạy tán loạn”, ấy vậy, cùng một thứ thuốc mà người Tống dùng chỉ để làm nghề thợ giặt, còn người Ngô dùng lại dẹp được giặc, đem lại quốc hùng, dân an.
Ðằng công nghe xong, nói:
– Hiền sĩ quả là một thiên tài. Nhưng tại sao nước Sở lại không dùng?
Hàn Tín nói:
– Thưa ngài, Bá Lý Hề ở nước Ngu, nước Ngu bị mất, sang nước Tần, nước Tần được xưng vương. Như vậy đâu phải Bá Lý Hề ngụ tại nước Ngu, mà trí ở nước Tần?
Người tài bao giờ cũng có ích cho nước nhà, chỉ khác ở chỗ biết dùng hoặc không biết dùng mà thôi. Tín tôi ở Sở đã lâu dâng sớ tỏ bày hơn thiệt, thế mà Hạng Vũ không dùng, nên Tín tôi mới bỏ Sở đến đây.
Ðằng công hỏi:
– Nếu Hán vương dùng ngài, ngài sẽ làm gì để thỏa mãn chí hướng?
Hàn Tín nói:
– Tôi có thể giúp Hán vương tính thiên hạ. Trước hết lấy Tam Tần, sau đánh chư hầu, cắt hết vây cánh của Hạng vương rồi mới diệt Sở. Sở đã diệt, tất gồm thâu thiên hạ. Tôi chỉ sợ ngài tiến cử tôi không nổi, và Hán vương không biết dùng tôi mà thôi.
Ðằng công lắc đầu nói:
– Ngài nói quá lắm, tôi e việc làm không kịp lời nói chăng? Vả như Hạng Vũ sức địch muôn người, binh hùng tướng mạnh, chỉ trong ba năm trời dựng nên nghiệp cả, bốn bể quy hàng, tự cổ kim chưa ai hơn đặng, hiền sĩ dám khinh thường sao?
Hàn Tín nói:
– Không phải Tín tôi dám khoe, nếu nói mà không làm được còn gì thẹn hơn đối với lòng mình. Người Hán cho Hạng vương là vô địch, song với Tín tôi, tôi coi Hạng vương chỉ là một tuồng trẻ mi, không có gì đáng sợ.
Ðằng công nói:
– Thế thì thao lược hiền sĩ chắc có lẽ giỏi lắm nhỉ?
Hàn Tín nói:
– Cái lối làm tướng phải học nhiều sách vở, biết lẽ được thua, trên thông thiên văn, dưới hiểu địa lý, còn như giỏi thao lược cũng chưa đủ.
Ðằng công liền đem sách Lục thao, Tam lược đưa cho Hàn Tín xem. Hàn Tín không cần nhìn vào sách, ngồi đọc một lượt, từ đầu đến cuối không sai chữ nào. Lại đem nhâm, cầm, độn, giáp ra nói, miệng như nước chảy mây trôi, chẳng bao giờ dứt.
Ðằng công ngồi nghe Hàn Tín ứng đối từ sớm đến chiều vẫn chưa hết. Ðằng công nói:
– Cứ như tài học của hiền sĩ, không ai bỏ rơi được.
Ngày mai tôi xin vào tâu với Hán vương.
Hàn Tín nói:
– Xin đại nhân thư thả, để cho tôi có dịp vào yết kiến Tiêu Thừa Tướng đã, rồi hai ngài cùng tiến cử, thì Hán vương mới trọng, và Tín tôi mới có danh.
Ðằng công nói:
– Hiền sĩ nói phải lắm, chiều hôm nay tôi xin vào hầu Thừa Tướng trước, rồi hiền sĩ sẽ vào sau. Thế nào Thừa Tướng cũng vui lòng cùng hiền sĩ hội kiến.
Hàn Tín cáo từ trở về quán trọ.
Chiều hôm ấy, Ðằng công sang Tiêu Hà, thuật chuyện Hàn Tín bỏ Sở về Hán, và đã đem tài năng cầu tiến thân.
Tiêu Hà nói:
– Tôi nghe tiếng người ấy đã lâu, trước kia sống trong cơ hàn, lấy nghề câu cá nuôi thân, thường xin cơm Phiếu mẫu, lại chịu nhục luồn trôn Ðỗ Trung giữa chợ, thiên hạ đều chê cười cho là thằng nhát, sau chống gươm về Sở Hạng vương phong hàm Chấp kích lang. Phạm Tăng tiến cử nhiều lần, nhưng Hạng vương nhất quyết không dùng. Dĩ vãng người ấy như thế chưa chắc Hán vương đã chịu dụng.
Ðằng công nói:
– Tiếc thay một nhân tài như vậy mà không có dịp để thi thố tài năng. Tôi chắc người này nếu được trọng dụng hẳn làm nên việc cả.
Tiêu Hà nói:
– Thế thì mai ngài mời Hàn Tín đến đây chơi, xem thế nào?
Hôm sau, Ðằng công sai quân đến nhà trọ, mời Hàn Tín đến yết kiến Tiêu Hà.
Ðến nơi, cổng kín tường cao, thâm nghiêm vô hạn, phải nhờ quan Tư hậu vào bẩm trước.
Qua một lúc, có tên Thơ lại bước ra nói:
– Xin mời hiền sĩ vào.
Hàn Tín vội theo chân vào phủ Thừa Tướng. Vào đến nơi, Hàn Tín đứng dưới thềm làm lễ, Tiêu Hà mời vào công đường, nói:
– Tôi vừa nghe Ðằng công khen hiền sĩ là bậc anh tài, nay lại hạ cố đến đây, tôi lấy làm vạn hạnh..
Hàn Tín nói:
– Tín tôi ở Sở, nghe Hán vương là bậc minh quân, Thừa Tướng là người hiền đạt, nên từ nghìn dặm đến đây.
Trước tiếp Ðằng công lấy làm phật ý, nay gặp Thừa Tướng bỗng nhiên muốn về điền lý tiêu dao, không thích đem thân chịu nhục.
Tiêu Hà nói:
– Hiền sĩ đến đây cốt đem chí bình sinh, cứu dân giúp nước, cớ sao chưa gì đã thoái bộ?
Hàn Tín nói:
– Tôi vào tiếp Thừa Tướng với ý nghĩa cao xa, chứ đâu phải vì bả vinh hoa, đem thân quy lụy? Xưa vua nước Tề muốn nghe gảy đàn sắt, nước Tần có người gảy đàn hay, vua Tề hai ba lần sai người đến triệu. Một hôm, người ấy đến nước Tề, vua Tề ngồi trong cung, đòi người ấy vào gảy đàn, người ấy không bằng lòng gảy, nói: “Nếu vua không thích, tôi không bước chân đến sân nhà vua. Nếu vua thích thì phải bày đàn, đốt hương, hết lòng kính cẩn, tôi mới đem hết tài ra làm thỏa ý nhà vua. Nay vua ngồi, tôi đứng, đãi tôi như kẻ hầu, hà tất tôi phải chiều ý vua làm chi!” ấy, người gảy đàn còn giữ tư cách của mình, huống hồ một kẻ hào kiệt nhất đời. Thừa tướng đang lúc vì nước cầu hiền, lẽ phải bắt chước Chu cũng, đang ăn cũng phải nhả cơm, đang gội đầu cũng phải vẩy tóc nghênh tiếp hiền sĩ thì mới thu phục được anh tài hết lòng giúp sức. Tín tôi đến đây, Thừa tướng tiếp đãi một cách ngạo mạn, nên không muốn ở đây một giờ nào nữa.
Tiêu Hà vội vàng đứng dậy mời Hàn Tín vào nhà trong, dắt lên thượng tọa, chắp tay nói:
– Hà tôi thất lễ với hiền sĩ, xin hiền sĩ hỷ xả cho, và xin vui lòng chỉ giáo.
Hàn Tín nói:
– Ngài vì nước cầu hiền, tôi vì nghĩa vụ đến đây, chúng ta đều là kẻ đứng ngoài quan niệm tư kỷ. Ðã hiểu nhau rồi, việc lễ nghĩa đâu còn trọng nữa! Thừa tướng muốn nghị luận việc gì trước?
Tiêu Hà nói:
– Xin hiền sĩ cho biết việc trị loạn trong thiên hạ, và cái thế nguy, an của quốc gia:
Hàn Tín trầm tĩnh đáp:
– Bẩm Thừa Tướng, cái thế tranh thiên hạ cốt ở ba điều: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa “. Quan Trung là nơi Thiên phủ, núi non hùng vĩ, đồng ruộng phì nhiêu, dân cư đông đúc, từ xưa, các bậc đế vương lấy đó làm nơi kiến đô, lập ấp nay Hạng vương không ở, thiên đô về Bành thành, thực không biết gì về địa lợi. Hạng vương đến đâu, thiên hạ cho là vô địch, nhưng chẳng qua kính trọng bề ngoài, còn bên trong đã nhuốm mầm phản loạn, dân chúng lại không phục, thế là mất hẳn điểm nhân hòa. Hạng vương giết vua Nghĩa Ðế giữa dòng Ðại giang thật vô đạo, lòng trời không dung được hành động dã man như vậy. Thế thì Hạng vương đâu phải là người đáng sợ như thiên hạ lầm.
Tiêu Hà hỏi:
– Còn Hán vương thì thế nào?
Hàn Tín nói:
– Hán trước vào Hàm Dương lấy ba điều ước pháp ban bố cho dân, khiến dân mến đức, tiếng tốt đồn khắp xa gần. Nay tuy bị dồn vào Hán Trung, nhưng Hán Trung là nơi thuận tiện có thể dưỡng uy sức nhuệ, củng cố thực lực mình được. Bọn Chương Hàm trấn ở Tam Tần, dân chúng oán vọng, mong Hán vương trở lại làm vua Quan Trung, nếu ta đem quân ra phương Ðông, chắc trăm họ vì ta mà trợ chiến, chỉ một tiếng trống cũng đủ hạ Tam Tần, lấy Hàm Dương rồi. Nếu đã lấy được Hàm Dương thì cái thế thiên hạ sẽ về ta vậy.
Tiêu Hà hỏi:
– Theo ý hiền sĩ, lúc nào mới là dịp ra quân?
Hàn Tín nói:
– Hạng vương thiên đô, chư hầu ly loạn, trăm họ đang nhao nhao chờ một minh quân làm chủ Tam Tần.
Nếu trễ nải, trong bốn nước chư hầu Tề, Ngụy, Triệu, Yên, có nước nào thu dụng được kẻ trí đem quân vào hướng Tây, trước lấy Hàm Dương sau lấy Tam Tần chẹn nơi hiểm yếu, thì quân Hán phải chết già trong đất Bao Trung này, khi nào ra khỏi được.
Tiêu Hà nghe đến câu ấy, ghé vào tai Hàn Tín nói nhỏ:
– Sạn đạo đã đốt rồi, làm thế nào mà xuất quân gấp được?
Hàn Tín mỉm cười đáp:
– Ðốt Sạn đạo, Tử Phòng cốt làm mưu cho quân Sở không để ý đến Bao Trung mà thôi, hẳn Tử Phòng đã tìm được con đường khác thay cho Sạn đạo rồi! Việc ấy làm sao bịt mắt được kẻ thức giả?
Tiêu Hà nghe Hàn Tín nói thất kinh, chắp tay nói:
– Từ khi tôi đến Bao Trung chưa được nghe ai bày tỏ kiến thức sâu rộng như thế, hiền sĩ thực là kẻ anh tài.
Nói xong, gọi quân thắng ngựa, đưa Hàn Tín về tư dinh đàm đạo. Hai ngựa song kề, tâm hồn hoan hỉ.
Ðến nơi, yến tiệc đã bày sẵn chủ khách nâng ly, và khởi đầu câu chuyện hàn huyên.
Tiêu Hà hỏi:
– Nước nhà an nguy, quân cơ lợi hại đều do người làm tướng cả, vậy hiền sĩ cho biết đạo làm tướng phải thế nào.
– Bẩm Thừa Tướng, đạo làm tướng trước nhất phải có,”năm tài” và tránh “mười lỗi”. Năm tài là: Trí, nhân, tín, dũng, trung. Trí thì biết cẩn thận, nhân thì biết thương người, tín thì không sai hẹn, dũng thì không ai dám phạm, trung thì không ở hai lòng. Còn mười điều lỗi: một là cậy vào cái dũng khinh thân mình, hai là gặp việc gấp thì nóng nảy, thiếu cẩn thận, ba là gặp lợi thì ham, bốn là vì lòng nhân không dám giết người, năm là ỷ lại vào sức mình không biết lo xa, sáu là tin mà không phòng, bảy là không chịu thu thập ý kiến mọi người, tám là việc đáng làm gấp mà do dự, chín là thiên vị, thiếu công bằng, mười là lười biếng, chỉ muốn sai người. Nếu có đủ “năm tài” và tránh được “mười lỗi” ấy, tất là tướng giỏi.
Tiêu Hà hỏi:
– Hiền sĩ xem các tướng bây giờ thế nào?
Hàn Tín đáp:
– Trong thiên hạ kẻ có dũng lại vô mưu, kẻ có mưu lại thiếu dũng, đó là chưa nói đến những cá tánh bất lợi như: tự đắc, tự mãn, khoe khoang, kiêu ngạo. Có những cá tánh ấy không thành lương tướng được.
Tiêu Hà hỏi:
– Nếu hiền sĩ làm tướng thì thế nào?
Hàn Tín đáp:
– Nếu Tín tôi làm tướng thì khác hẳn với tướng thời bây giờ. Tất cả đều theo như binh pháp, lấy văn mà dùng, lấy vũ mà định, động thì phát, tĩnh thì giữ. Lúc binh chưa ra thì tĩnh trông như núi Thái Sơn, lúc binh đã ra thì cuồn cuộn như nước sông Hoàng Hà, biến hóa như trời đất, hiệu lệnh như lôi đình. Mất có thể làm còn, yếu có thể làm mạnh; nguy có thể làm an được, cơ biến không biết đâu mà lường, quyết thắng từ ngoài nghìn dặm, binh uy không để một kẻ nào dòm ngó nổi, muôn vạn quân, trăm nghìn tướng không chỗ nào sai lầm. Lấy nhân mà dùng, lấy lễ mà dạy, lấy dũng mà khiến, lấy tín mà thờ. Cái lối làm tướng như thế, Thừa Tướng bằng lòng chăng?
Tiêu Hà thấy Hàn Tín ứng đối như nước chảy, trí tuệ thông suốt, tấm tắc khen thầm, và tự nghĩ:
– Hán vương được người này thật là phúc lớn. Cái chức Phá Sở Ðại Nguyên soái trừ Tín ra không còn ai hơn nữa?
Từ đây, Tiêu Hà giữ Hàn Tín nơi tư dinh, khiến quân hầu hạ, tiếp đãi như các bậc thượng khách.
Mặc dầu vậy, Hàn Tín vẫn giấu kỹ cái giốc thư của Trương Lương, không chịu đưa ra, chỉ dùng tài của mình để tiến thân mà thôi.
Còn Tiêu Hà từ khi gặp được Hàn Tín, lòng rất hoan hỉ, ngày đêm chuyện vãn, quên ngủ quên ăn.
Một hôm, Tiêu Hà và Ðằng công vào triều, tâu với Hán vương:
– Chúng tôi vừa chọn được một hiền sĩ, tài kiêm văn học suốt cổ kim, đáng làm Phá Sở Nguyên Nhung, xin Hán vương trọng dụng.
Hán vương hỏi:
– Hiền sĩ tên gì, quê quán ở đâu, tài năng ra thế nào?
Tiêu Hà tâu:
– Người ấy ở Hoài Âm, họ Hàn tên Tín, trước làm quan Chấp Kích Lang nước Sở, thường dâng biểu, nhưng Hạng vương không dùng nên bỏ Sở về đây..Vừa rồi, chúng tôi cùng nói chuyện, biết là bậc đại tài, dẫu Y Doãn, Tử Nha, Tôn Vũ cũng khó sánh kịp.
Hán vương cười rằng:
– Người này khi còn ở Huyện Bái ta đã nghe tiếng luồn khố Ðỗ Trung, xin cơm Phiếu mẫu, làng nước ai cũng khinh bỉ. Nay Thừa Tướng cử người này làm Ðại tướng sợ ba quân không phục, các nước chê cười, Hạng vương cho ta là người không có mắt.
Tiêu Hà nói:
– Tâu Ðại vương, xưa nhiều người xuất thân bần tiện, mà vẫn dựng nên nghiệp cả, như Y Doãn xuất thân là kẻ thất phu ở Sàn Giã, Thái Công là kẻ đi câu sông Vị, Ninh Thích là người buôn xe, Quản Trọng là kẻ tù đồ, đến lúc gặp được thời, đều tạo nên đại sự cả. Hàn Tín tuy xuất thân bần tiện song tài học tuyệt vời, nếu không dùng, tất hắn sang nước khác, xin Ðại vương xét lại.
Hán vương nói:
– Các khanh đã bảo tấu, không lẽ ta chẳng vị tình.
Thế thì cho đòi hắn vào xem.
Tiêu Hà liền sai người đến mời Hàn Tín vào bệ kiến.
Hàn Tín nghĩ thầm:
– Hán vương khinh bỉ ta thế này tất không dùng ta nổi. Tuy nhiên, ta cứ vào bệ kiến xem sao!
Liền theo gót sứ giả. Vừa vào đến nơi, Hán vương hỏi:
– Nhà ngươi từ nghìn dặm đến đây, chưa thấy rõ tài năng làm sao đại dụng được. Nay trong kho thiếu chức Chưởng lý, ta cho ngươi làm chức Liên Ngao, xem tài năng thế nào đã.
Hàn Tín tạ ơi lui ra, sắc mặt vẫn tự nhiên không hề tỏ bất mãn.
Ðằng công và Tiêu Hà thấy vậy lòng lo lắng không an.
Hôm sau, Hàn Tín đến kho, kiểm điểm thóc lúa, tính toán sổ sách, mau lẹ phi thường, không sai một mảy.
Những người coi kho thấy Hàn Tín tính toán minh bạch đều sụp lạy thưa:
– Từ khi có kho đến nay chúng tôi chưa thấy ai thần toán như ngài.
Hàn Tín vừa cười vừa nói:
– Ðó chẳng qua cái trò nô lệ thôi, có gì là thần thánh!
Tiêu Hà sai người đến thám thính, thấy Hàn Tín tài giỏi như vậy, liền mời về dinh, nói:
– Ngài học ở đâu ra phép tính toán thần diệu như vậy?
Hàn Tín đáp:
– Phép toán có nhiều lối, có số “tiểu cửu” có số “đại cửu” Nếu tinh tường các phép ấy thì dẫu bốn bể, năm châu cũng chỉ ở trong bàn tính đó. Trước kia vua Phục Hy chỉ có 64 quẻ, mà thiên biến vạn hóa, việc vũ trụ không thoát ngoài các quẻ ấy được.
Tiêu Hà nói:
– Học vấn của ngài chắc là tất chung vậy.
Hàn Tín nói:
– Thóc gạo trong “kho để lâu nay đã mục nát, xin đem ra bán cho dân, thay hạt cũ lấy hạt mới, vừa lợi cho dân, vừa ích cho nước đó là việc của Thừa Tướng!
Ngài đề nghị rất phải.. Ngày mai tôi sẽ tâu với Hán vương thi hành ngay việc ấy.
Ba hôm sau, Hán vương không ngự triều. Tiêu Hà viết sớ sai nội thị vào tâu. Hán vương phán:
– Mấy hôm nay ta bực tức, chỉ mong thoát ra khỏi Bao Trung, nhưng chưa có kế gì hay. Vì vậy không lâm triều. Ngày mai xin mời Thừa Tướng đến thương nghị.
Hôm sâu, Tiêu Hà cùng bá quan vào chầu, Hán vương kiểm điểm công việc xong, vào tiền điện cùng với Tiêu Hà nghị sự.
Hán vương nói:
– Ta ở đây đã tâu, nóng lòng muốn xuất quân, chẳng hay Thừa Tướng có kế gì chăng.
Tiêu Hà nói:
– Tâu Ðại vương, muốn xuất quân tất phải dùng một vị Phá Sở Ðại Nguyên Soái mới được.
Hán vương thở dài nói:
– Chính ta cũng đang lo về việc đó.
Tiêu Hà nói:
– Ðại vương bất tất phải lo, chỉ cần phong ngay Hàn Tín làm tứớng là xong việc.
Hán vương cười nói:
– Làm gì cái tài nhỏ nhen ấy!
Tiêu Hà tâu:
– Cứ xem tài này tất hiểu tài khác. Hàn Tín quả thực đáng làm Nguyên Nhung, không nén cố chấp.
Hán vương suy nghĩ rồi phán:
– Ừ! Nếu vậy cứ thăng cho Hàn Tín chức Tri túc Ðô Uý xem sao đã.
Cận thần ban lệnh, Hàn Tín vẫn nghiễm nhiên nhận lãnh.
Hôm sau, Hàn Tín đến dinh Ðô Uý, đem cả sổ sách ra tra xét, lương tiền, thu nộp, chi phí đâu đó rành mạch.
Khi trước, những quan Ðô Uý đến nhận chức, hay ăn lễ các người nhà kho, nên chúng bảo thế nào nghe thế ấy, dân tình thán oán, mất lẽ công bằng. Nay Hàn Tín đến, trước hết ra giấy yết thị, tra xét những kẻ nhũng lạm trước kia, cách chức tất cả, rồi đưa vào những người đứng đắn, vì vậy trăm họ hoan hỉ, tranh nhau nộp thuế. Chỉ trong nửa tháng mà thuế khóa nộp hết không thiếu một đồng tiền nào. Dân chúng mến phục, tìm đến nói:
– Từ ngài đến coi kho, dân chúng tôi chẳng ai mất một thúng thóc một đồng tiền nào. Mới mấy hôm mà lương tiền dồi dào, so với khi trước cách xa lắm.
Lại rủ nhau đến phủ Thừa Tướng, nói:
– Hàn đại nhân đến đây thực là phúc đức cho dân chúng tôi lắm. Trước kia quan coi kho tham lam, áp bức dân chúng, phù thâu tiền lúa, nay chúng tôi không còn bị nạn ấy lấy làm hoan hỉ.
Tiêu Hà an ủi:
– Hàn đại nhân là kẻ hiền tài, đâu phải coi kho mãi mãi. Chẳng qua Chúa thượng muốn thử tài người vài hôm đó thôi. Người ấy phải là Nguyên Nhung, đánh Ðông dẹp Bắc, giúp vua thâu thiên hạ, dựng cơ đồ mới xứng mặt.
Dân chúng bái lạy lui ra, Tiêu Hà nằm vắt tay lên trán nghĩ thầm:
– Hàn Tín là kẻ quốc sĩ, việc lớn việc nhỏ đều tinh tường cả… Ta phải hết lòng tiến cử, nếu không hoài mất một vị Phá Sở Nguyên Nhung.
Hôm sau, Tiêu Hà vào triều Hán vương mặt buồn bã, đòi Tiêu Hà lên điện, nói:
– Ðêm qua ta nằm mơ thấy mộng không lành, lại thêm lòng nhớ cha mẹ, vợ con nơi Bành Thành, không biết ngày nào trông thấy mặt. Nếu cứ uất ức ở đây mãi ta không thể nào vui được, Thừa Tướng có nghĩ đến việc đó chăng?
Tiêu Hà nói:
– Tâu Ðại vương, trước kia vua Cảnh Công nước Tề đi săn về nói chuyện với Án Tử: “Quả nhân mỗi khi mơ thấy triệu bất tường, thì lòng lại không vui”.
Án Tử thưa: “Triệu bất tường thế nào, xin Chúa công cho biết”. Cảnh Công nói: “Ta trông lên núi thấy hùm, nhìn xuống hầm thấy rắn…”. Án Tử nói: “Núi là chỗ hùm ở, hầm là nơi rắn ở, đó là thuận cảnh sao gọi là bất tường được. Hiện nay trong nước có ba điều bất tường mà Chúa công không biết” Cảnh Công hỏi: “Ba điều bất tường ấy là gì?”. Án Tử nói: “Nước có người tài mà không biết là một điều bất tường ; biết mà không dùng là hai điều bất tường, dùng mà không xứng với tài năng là ba điều bất tường”. Bây giờ Ðại vương mộng thấy điềm chẳng lành, chính là cái triệu có hiền sĩ mà không biết dùng đó.
Hán vương ngơ ngác hỏi:
– Nếu trong nước có người tài lẽ nào ta lại không dùng? Từ ngày ta vào Bao Trung đến nay nào có thấy ai là anh tài đâu?
Tiêu Hà nói:
– Người tài trước mặt Ðại vương không dùng, lại mong người đâu đâu thực là lạ lắm!
Hán vương bực dọc hỏi:
– Người hiền sĩ là ai? Thừa Tướng cứ nói, ta sẽ trọng dụng ngay.
Tiêu Hà nói:
– Tôi muốn tiến cử e Ðại vương khinh kẻ bần tiện, không chịu dùng, làm mất lòng người ấy, và khiến cho kẻ hào kiệt bốn phương sanh lòng chán ngán, không muốn đến làm tôi Hán vương nữa.
Hán vương nói:
– Thừa Tướng bất tất phải nói lắm. Cứ nói tên hiền sĩ ấy cho ta biết.
Tiêu Hà khấu đầu nói:
– Hiện nay bậc hiền sĩ trong thiên hạ không ai hơn Hàn Tín. Nếu Ðại vương không dùng, chắc y không chịu ở đây nữa.
Hán vương nói:
– Tước lộc đâu phải là món đồ chơi, muốn cho ai cũng được. Hàn Tín mới đến đây một tháng mà phong thưởng hai lần Nếu còn phong thưởng nữa e những tướng sĩ theo ta từ Phong Bái đến đây, cho ta là thất đáng chăng?
Tiêu Hà tâu:
– Các bậc Ðương thời xưa dùng người cốt tùy tài mà trao chức. Hàn Tín là bậc trí dũng, Ðại vương đem dùng vào việc nhỏ, không xứng đáng tài năng, vì vậy hạ thần mới phải mấy phen tiến cử. Còn như các tướng ở Phong Bái, đều kém xa Hàn Tín, Ðại vương bì sao được?
Hán vương nói:
– Thôi! Ta cũng nghe lời Thừa Tướng, nhưng phải chờ đợi hai tháng nữa, nếu Trương Lương không tiến cử ai đến đây, chừng ấy ta sẽ trọng dụng Hàn Tín cũng chẳng muộn.
Tiêu Hà bất đắc dĩ phải trở về dinh chờ lệnh.
Hôm sau, Tiêu Hà lại mời Hàn Tín đến tư dinh hỏi chuyện làm thế nào hạ được Tam Tần?
Hàn Tín cười nhạt nói:
– Tôi vẫn tưởng Thừa Tướng thông hiểu binh pháp, ngờ đâu lại chẳng biết gì cả. Phàm việc quân tùy cơ mà động, tùy thời mà biến, không thể tiên liệu hoặc dự mưu được Mà dẫu có dự mưu thì cha con cũng không nên cho biết… Vậy mà Thừa Tướng lại hỏi chuyện đó chớ.
Tiêu Hà rất khâm phục. Từ đó lại càng kính trọng hơn.
Hàn Tín trở về Công quán, cách hai tháng sau vẫn không thấy tin tức gì, nghĩ thầm:
– Nếu không khích Tiêu Hà, e Hán vương bỏ lơ, mà dẫu mình có đưa giốc thư của Trương Lương ra, tướng sĩ cũng không phục. Chi bằng lập kế làm cho Tiêu Hà sốt ruột mới xong.
Nghĩ rồi, truyền bọn môn hạ sắm sẵn một con ngựa tốt để sáng hôm sau đi sớm có việc.
Trời vừa tang tảng sáng, Hàn Tín gói ghém hành lý đề một bài thơ lên vách, rồi giục ngựa ra cửa Ðông đi thẳng.
Bọn gia nhân thấy Hàn Tín đi một cách vội vàng, đem lòng nghi ngờ, bàn với nhau:
– Thừa Tướng sai chúng ta đến đây phục dịch Hàn đại nhân, và dặn hễ Hàn đại nhân đi đâu phải cấp báo. Nay Hàn đại nhân bỗng dưng đi sớm thế này, chúng ta phải cấp báo mới được.
Chúng liền vào trình với Tiêu Hà.
Tiêu Hà hay tin tay chân bủn rủn, vội vàng đến nhà Công quán, thấy trên vách có bài thơ như vầy:
Anh hùng lở vận bước long đong
Thà chịu an thân khỏi thẹn lòng
Vó ngựa vừa xa trông cố quận
Công danh chán ngắt mặt hồng anh
Tiêu Hà dậm chân xuống đất thở dài nói:
– Ðã mấy lần ta tiến cử lên Chúa thượng, nhưng Chúa thượng không dùng, để hắn bỏ đi. Nếu không gọi hắn về thì sau này ăn ngủ sao yên!
Liền gọi mấy tên đầy tớ, mỗi người sắp một con ngựa, rồi thầy trò cùng đuổi theo.
Ra đến cửa Ðông, Tiêu Hà hỏi viên quan giữ cửa:
– Nhà ngươi có thấy Hàn Tín ra đây chăng?
Viên quan giữ cửa đáp:
– Lúc mở cửa, tôi thấy người ấy đi qua đây, giờ đã đi xa rồi.
Tiêu Hà vội thúc ngựa đuổi theo. Ðến thôn kia, hỏi thăm dân chúng.
Dân chúng đáp:
– Sáng sớm có một người cởi ngựa trắng, lưng đeo kiếm đi qua đây, nhưng bây giờ thì cách xa lắm rồi.
Tiêu Hà từ sáng sớm chưa ăn uống bởi mải theo dõi Hàn Tín cho đến chiều mới vào quán ăn qua loa vài miếng, rồi lại lên ngựa đi nữa.
Trời sẩm tối, bóng trăng non lả lướt gieo ánh vàng trên đỉnh non cao, bấy giờ Hàn Tín theo bóng trăng đi đến bến Hàn Khê. Ðêm thanh sông lạnh, núi thẳm rừng khuya, nước thu đầy dấy, Hàn Tín không làm sao lội sang được nên gò ngựa đứng xem trăng.
Tiêu Hà theo đến, nơi xa trông thấy bóng một người cởi ngựa đang tìm chỗ sang sông, lòng mừng rỡ, gọi lớn:
– Hàn Tướng quân, sao lại bạc tình đến thế?
Hàn Tín mừng không đáp. Tiêu Hà giục ngựa đến, nắm lấy cương ngụa Hàn Tín, nói:
– Ở với nhau bấy lâu, dầu sao cũng nuôi một ít tình nghĩa, nỡ nào ra đi không một lời từ giã?
Tiêu Hà vừa dứt lời thì có một bóng ngựa phi tới Tiêu Hà ngạc nhiên, thấy đó là Ðằng công Hạ Hầu Anh, mừng rỡ reo lên:
– Ngài có việc chi mà cũng đến đây.
Ðằng công đáp:
– Vừa tan buổi chầu, tôi trở về nhà nghe nói Hàn Tướng quân bỏ đi rồi, tôi vội đuổi theo để mời trở lại. Ngờ đâu Thừa Tướng lại đến trước tôi. Thế mới rõ Thừa Tướng còn giỏi hơn tôi gấp mấy.
Hàn Tín thấy Tiêu Hà và Ðằng công ân cần khẩn thiết, một lòng trung nghĩa, bất giác thở dài, nói:
– Hai ông thật là bậc trung thần hiếm có. Căn cứ vào đấy có thể nói là nghiệp nhà Hán đang hưng vượng.
Tín tôi nguyện làm kẻ môn hạ của hai ngài.
Dưới bóng trăng soi, Tiêu Hà và Ðằng công cầm chặt tay Hàn Tín nói:
– Cổ nhân đã có câu: “Sĩ vị tri kỷ giả tử” Chúng tôi biết tài Tướng quân có thể sánh với Y, Lã, Quản, Nhạc đời xưa, hết lòng tiến cử, chỉ hiềm Chúa thượng tôi chưa biết tài Tướng quân. Vạy hai tôi xin hứa với Tướng quân, nếu không tiến cử được, hai tôi cũng bỏ quan về làng, chẳng ở đất Bao Trung này nữa.
Hàn Tín bùi nhìn cảm tạ, cùng nhau so cương trở bước, về tạm trú nơi dinh Tiêu Hà.
Trong lúc Tiêu Hà và Ðằng công đuổi theo Hàn Tín thì quan hầu cận Chu Bột hay được tin, vào tâu với Hán vương:
– Các tướng ở Quan Ðông trốn đi hơn hai mươi người, trong đó có Tiêu Hà, đã hai hôm nay chưa thấy về.
Hán vương vừa giận vừa lo nói:
– Lạ thật? Các tướng khác theo ta dọc đường đến đây chẳng nói làm chi, còn Tiêu Hà giúp ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cộng khổ, nỡ nào lại bỏ ta?
Hán vương đứng ngồi không yên, bỏ ăn bỏ uống, lúc vào hậu cung, khi ra tiền điện, lòng nóng như đốt!
Ðang cơn phiền não, bỗng có quân vào báo:
– Tiêu Thừa Tướng và Ðằng công đã về.
Hán vương thở phào ra một hơi, luống cuống, vừa mừng vừa giận, mặt mày xám ngắt.
Thấy Tiêu Hà và Ðằng Công bước vào bệ kiến, Hán vương hét lớn:
– Các ngươi theo ta mấy năm nay chưa hề cách nhau, nay thấy các tướng trốn đi, các ngươi cũng trốn theo?
Tiêu Hà bình tĩnh tâu:
– Muôn tâu Ðại vương, chúng tôi phò Ðại vương, được làm đến chức Thừa Tướng, Ðại vương có phụ gì tôi, mà tôi dám bỏ đi? Sở dĩ tôi đi mấy ngày nay là để tìm một người bỏ trốn, muốn vì Ðại vương bày kế chinh Ðông khôi phục lại Quan Trung ấy thôi.
Hán vương hỏi:
– Theo tìm người trốn là ai?
Tiêu Hà tâu:
– Người trốn ấy chính là Hàn Tín.
Hán vương cười nhạt, nói:
– Các tướng bỏ trốn vô số, không theo tìm ai, lại tìm Hàn Tín!
Tiêu Hà nói:
– Tâu Ðại vương, các tướng dễ tìm, duy có Hàn Tín là kẻ anh hùng bậc nhất trong thiên hạ, mất đi là mất cả giang sơn. Nếu Ðại vương chỉ muốn làm vua ở Hán Trung này, không cần về bên Ðông, thì mới không cần Hàn Tín.
Và Ðại vương không có chí lớn thì Hà tôi xin cởi áo từ quan, về sống nơi điền dã cho khỏi hổ phận tu mi.
Tiêu Hà vừa dứt lời, Ðằng công tâu tiếp:
– Tâu Ðại vương, lời. Thừa Tướng chứa đầy lòng yêu nước. Vì Ðại vương, vì thiên hạ mà nuôi chí lớn, xin Ðại vương rộng xét.
Hán vương nói:
– Các ngươi chỉ nghe hắn nói, chưa thấy được tài năng thì làm sao bảo đảm trọng trách đó. Nước nhà yên nguy, ba quân còn mất đều ở cả trong tay người tướng. Cầm ba trăm ngàn quân mã trong tay, điều khiển hơn bảy mươi viên dõng tướng, ví bằng hạ được Tam Tần, phá được nước Sở như lời các người dự đoán thì chẳng nói làm chi còn như nói mà không làm được, chẳng những đem sinh mạng ba quân chôn vùi trong lửa đỏ, mà còn gây cảnh điêu linh cho thiên hạ, gây tang tóc muôn dân, chừng ấy hối sao kịp?? Ấy vậy ta dè dặt việc dùng người.
Vả chăng. Hàn Tín lúc cha chết không làm nổi ma chay, là kẻ bất trí, đem tấm thân luồn trôn gã bán thịt, không biết nhục, là kẻ hèn hạ, làm tôi nước Sở ba năm mà chỉ làm đến chức Chấp kích bang, đó là kẻ bất tài. Lấy dĩ vãng đoán tương lai, ta cho Hàn Tín là vô dụng, nếu bậc anh tài bao giờ như thế. Các người nghĩ kỹ xem.
Tiêu Hà tâu:
– Lời nói của Ðại vương theo thông thường thì cho là chí lý. Song đây là kẻ phi thường. Kẻ phi thường có thể có những hoàn cảnh phi thường. Nếu không vậy, Hàn Tín đã đắc dụng ở nước Sở, đã làm quan lớn ở Sở, đã đem quân diệt nước Hán ta, có đâu lại tìm đến phò Hán, để ngày nay Ðại vương cùng tôi thần bàn luận. Xưa Ðức Khổng Tử bị khốn ở Trần, Sái, có phải là ngài vô năng đâu? Bị người nước Khuông vây mà chịu khoanh tay, há phải là ngài vô dũng đâu? Rồi đến suốt đời, chịu chết già, không làm nên trò gì có phải là người vô dụng đâu? Như vậy Hàn Tín chịu ăn xin, chịu luồn trôn, chỉ là hoàn cảnh đặc biệt, làm quan chỉ đến chức Chấp kích lang cũng chỉ là chưa gặp được chân Chúa. Nay hạ thần đã thông cảm con người Hàn Tín, đã hiểu thấu tài năng của Hàn Tín, đáng là bậc lương đống, đủ sức đảm đương trọng trách hạ thần đã tiến cừ. Nếu Ðại vương không dùng, hạ thần xin liều chết van xin cho được mới nghe.
Hán vương thấy Tiêu Hà hết lòng khổ gián, đem những lời thiết thạch tâu bày, lòng còn do dự, thì trời đã sẩm tối, liền phán:
– Thôi, hai khanh về nghỉ, đến mai ta sẽ thương nghị.
Tiêu Hà, Ðằng công lui về nhà, nói với Hàn Tín:
– Sáng mại vào chầu, Chúa thượng sẽ phong ngài làm tướng.
Hàn Tín nói:
– Chúa thượng chưa tin tôi, tôi e chỉ làm bận lòng hai ngài mà thôi.
Tiêu Hà nói:
– Nếu Chúa thượng không dùng Ngài, chúng tôi cũng xin vì ngài bỏ chức, không ở đây làm gì.
Ðằng Công buồn bã cáo từ trở về dinh. Tiêu Hà cũng lui gót.
Hàn Tín chép xong bài thơ, toan đi nghỉ, bỗng có quân hầu vào báo:
– Có quan Thừa Tướng đến chơi.
Hàn Tín vội vã đội khăn, mặc áo ra đón chào vào.
Ðêm khuya Thừa Tướng vẫn chưa an nghỉ sao?
Tiêu Hà đáp:
– Bận lòng vì nước, không thể nằm yên được. Có một điều muốn hỏi hiền sĩ.
Hàn Tín mời vào trong, hỏi Tiêu Hà:
– Xin Thừa Tướng cho biết ý.
Tiêu Hà nói:
– Bên Sở có Phạm Tăng vốn là người tinh tường, đã nhiều lần tiến cử hiền sĩ, chắc hiền sĩ đối với Phạm Tăng cũng có thâm tình và đã bày nhiều diệu kế?
Hàn Tín đáp:
– Phạm Tăng quả là người kiến thức, đã nhiều lần vì tôi tiến cử, nhưng Bá vương không biết nghe lời… Sau đó, Sạn đạo bị đốt, tôi có làm sớ dâng lên nói rõ việc lợi hại, nhưng Bá vương vẫn cho lời tôi là hư ngôn. Dẫu có vì vua bày kế, mà vua không nghe thì cũng chẳng ích gì.
Hàn Tín móc túi lấy ra tờ sớ lúc trước, đưa cho Tiêu Hà xem:
Tiêu Hà giật mình nói:
– Nếu Hạng vương biết nghe lời ngài thì chúng tôi suốt đời chôn thây nơi đất Bao Trung này rồi.
Hàn Tín nói:
– Bá vương không nghe lời tôi,. tôi cũng chưa có ý bội Sở. Sau khi Phạm Tăng bị Trần Bình lầm kế phản gián, phải đi sang Bành Thành, lúc ra đi ông ta có dặn Bá vương ba việc: Một là không nên để Hán vương vào Hán Trung, hai là đừng bỏ Hàm Dương về Bành Thành, ba là nên trọng dụng tôi… bằng không phải giết bỏ ngay. Tôi biết Bá vương thế nào cũng không theo lời dặn ấy, và như vậy Phạm Tăng sẽ bày kế khác để hại tôi, nên tôi mới bỏ Sở về Hán.
Tiêu Hà ngồi trâm ngâm ra dáng suy-nghĩ.
Hàn Tín hiểu ý nói:
– Ðêm khuya, Thừa Tướng đến đây ý chừng ngài cho tôi là tâm phúc với Phạm Tăng chăng? Vả lại, hôm trước ngài thấy tôi trốn đi có lẽ ngài nghĩ rằng tôi đem tin tức Bao Trung về báo với Phạm Tăng nên hỏi như thế.
Tiêu Hà vẫn trầm ngâm.không đáp. Hàn Tín nói tiếp:
– Vâng? Ngài vì nước nghĩ như thế cũng phải. Song thiết tưởng bấy lâu nay tôi cũng đã thố lộ hết tâm can với ngài rồi, vậy mà ngài còn nghi ngại? Nếu vậy, tôi đưa vật này cho ngài xem, chắc ngài không còn nghi ngờ nữa.
Dứt lời, Hàn Tín móc túi lấy giốc thư của Trương Lương đưa cho Tiêu Hà xem.
Hôm sau, Tiêu Hà đem giốc thư cho Ðằng công xem. Ðằng công vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Cả hai vội vào triều yết bái Hán vuơng.
Hán vương trông thấy thư, giật mình nói:
– Ôi chao? Té ra người của Trương Tử Phòng tiến cử Hàn Tín đã có giốc thư sao lâu nay không xuất trình?
Tiêu Hà kể lại tâm trạng của Hàn Tín, tại sao không trình giốc thư.
Hán vương mừng rỡ nói:
– Bấy lâu khanh tiến cừ mãi mà ta không tin, nay lại có giốc thư của Tử Phòng nữa, thế thì người này quả thật trang anh kiệt rồi. Xem đó đủ biết mắt ta không tinh đời làm mất lòng hiền sĩ. Bây giờ ta phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, để bỏ có cất công tiến cử của khanh bấy lâu
Tiêu Hà nói:
– Nếu Ðại vương phong cho Hàn Tín làm tướng ngay, e Hàn Tín lại bỏ trốn nữa.
Hán vương ngơ ngẩn hỏi:
– Thế thì ta phong cho Hàn Tín làm Ðại tướng quân, Hàn Tín có bỏ trốn chăng?
Tiêu Hà tâu:
– Phong làm Ðại tướng quân Hàn Tín lại càng bỏ trốn mau hơn nữa.
Hán vương cau mày hỏi:
– Tại sao vậy? Còn có chức gì hơn chức Ðại nguyên soái?
Tiêu Hà nói:
– Ðại vương phong tước bằng cách nào?
Hán vương nói:
– Vời Hàn Tín đến trước mặt, và phong chức giữa triều
Tiêu Hà nói:
– Chức Ðại nguyên soái cầm sinh mệnh muôn quân, ngàn tướng, nếu Ðại vương xem thường như vậy dẫu có phong Hàn Tín cũng không nhận.
Hán Vương hỏi:
– Vậy phải phong bằng cách nào?
Tiêu Hà nói:
– Ðại vương phải chọn ngày trai giới, lập đàn tế cáo thiên địa, như Vũ Vương phong cho Lã Vọng, mới đúng là lễ bái tướng.
Hán vương nhận lời, giao cho Tiêu Hà lập chương trình hành lễ.
Tiêu Hà mừng rỡ, về dinh thuật lại với Hàn Tín.
Hàn Tín cảm kích vô cùng.
Trong vòng mười ngày, Tiêu Hà họa một bản đồ gọi là bái tướng đàn, và thảo một chương trình hành lễ đem trình Hán vương xem.
Hán vương vui vẻ, truyện Quán Anh cứ theo chương trình ấy tiến hành việc đắp đàn, sửa lễ.
Việc Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín trừ Ðằng công ra, không nói cho ai biết, nay thấy Hán vương sai Quán Anh đắp đàn để bái tướng, mọi người đều xôn xao bàn luận.
Phàn Khoái vỗ ngực nói với mọi người:
– Tôi cùng Hán vương khởi binh ở Phong Bái, chiếm Quan Trung lại cứu giá nơi Hồng Môn, theo vào Ba Thục, cùng chung cay đắng, chẳng chút chia phôi, kẻ khó nhọc chỉ có tôi là kẻ, phen này đắp đàn phong tướng chức ấy tất về tôi
Quàn sĩ đồng nói:
– Nếu lấy nhau kẻ công thần bấy lâu thì chức ấy không lọt khỏi Phàn Khoái, Ðằng công, Chu Bột..
Chẳng bao lâu, Quán Anh đắp đàn xong, Hán vương đòi Tiêu Hà đến bàn việc.
Tiêu Hà nói:
– Ngày tốt đã chọn rồi, xin Ðại vương trai giới ba ngày, truyền các quan hiểu dụ trăm họ, quét sạch đường sá nha môn hoãn việc dụng hình, không được sát sinh, không được uống rượu.
Hán vương nhận lời. Lệnh truyền ra, mọi người đều vui vẻ mong chờ vị Ðại nguyên soái.
Ðúng ngày, Hán vương xa giá ngự ra Tướng quốc phủ, mời Hàn Tín lên xe.
Hán vương lại đích thân đẩy bánh xe một vòng, rồi đi thẳng ra Tây môn. Suốt một dãy đường, bóng cờ phất phới, tiếng chiêng trống vang trời, văn thần áo dài mũ rộng, vũ tướng áo chiến gươm trường muôn họ vui vầy, chen nhau xem cảnh lạ.
Trước đây, khi thấy đắp đàn long trọng, ai nấy có quan niệm Hán vương sẽ chọn một kẻ phi thường, ngờ đâu lúc ấy đại thấy Hàn Tín ngồi trên xe cùng đi với Hán vương. Mọi người lấy làm lạ. Vũ vương hầu là Phàn Khoái đi sau xa giá, nói với Chu Bột:
– Chúng ta muôn cay nghìn đắng theo chúa đến nay đã ngót ba năm trời, lẽ nào bây giờ lại để cho thằng chết đói đó cai quản. Kẻ trượng phu thà chết chứ không chịu nhục.
Dứt lời, xăm xăm bước đến trước xa giá, nói lớn:
– Xin Ðại vương hãy tạm dừng xa giá lại, cho hạ thần tâu một lời. Thiết nghĩ: “Hàn Tín là kẻ chết đói ở Hoài Âm, xin cơm thừa của Phiếu mẫu, chịu luồn trôn gã hàng thịt. Lúc ở Sở chỉ làm đến chức Chấp kích lang, nay về Hán chỉ cậy ở lời nói lòe loẹt, chứ thực chưa làm được công lao gì. Vậy mà Ðại vương lại thân đẩy xe, phong làm Ðại tướng, nếu Hạng vương hay được chắc phải mĩm cười, và khắp thiên hạ sẽ bảo rằng đất Hán Trung không có người, đến nỗi phải dùng thằng chết đói. Ðại tướng là một thằng chết đói thì quân sĩ còn tranh chiến với ai. Xin Ðại vương xét lại.
Hán vương chưa biết trả lời ra sao, Tiêu Hà giục ngựa tới mắng gắt lên:
– Không thế được? Nhà ngươi chỉ có thể vâng theo hiệu lệnh, cớ sao dám nói bậy! Muốn làm loạn à. Ta làm chức Tướng quốc tiến cử Ðại tướng, công việc đã định rồi, nhà ngươi dám cậy chút công nhỏ hống hách khi quân pháp sao?
Ðoạn quay lại tâu với Hán vương:
– Phàn Khoái cản xa giá, trái mệnh vua, xin Ðại Vương truyền bắt trói theo xe, sau sẽ phân xử.
Ðằng công cũng bước đến tâu:
– Ðại vương ban bố hiệu lệnh, không ai dám trái lời Phàn Khoái làm càn, giả sử các người khác cũng bắt chước như thế thì Ðại vương còn mong gì việc Ðông chinh. Xin đừng tiếc một Phàn Khoái để hỏng mất đại sự.
Hán vương tức giận, truyền bắt Phàn Khoái trói lại điệu theo sau xa giá, chờ bái tướng đăng đàn xong sẽ luận tội.
Xa giá đến trước tướng đài, một hồi chuông nổi lên, âm thanh rền rỉ. Trăm quan đều phủ phục tiếp đón. Trên đàn cờ xí phất phơ, khói trầm nghi ngút, tiếng nhạc nổi lên, viên quan hành lễ dắt Hàn Tín bước lên bậc thứ nhất.
Trên đó đã có Nhữ âm hầu là Hạ Hầu Anh đứng chờ. Hàn Tín theo nghi tiết, bứớc vào, đứng ngoảnh mặt về phía Bắc, viên quan Thái sử đọc chúc:
Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân. ngày Bính tý, Bao Trung Hán vương khiến NhỮ âm hầu là Hạ Hầu Anh lảnh cáo thần Ngũ nhạc tứ độc Ðại xuyên rằng:
Trời sinh trăm họ, đặt kẻ trông coi, vua Tần bạo ngược, giết hại sinh linh, nay đến Hạng Vũ, cũng không kém phần tàn ác, chôn quân giết chúa bạo ngược trăm phần. Nay Bang tôi vì nghĩa cứu dân, phất cờ quyết tử, mong được nước trị dân an, lòng thành kính cáo, thần minh xét soi thượng hưởng.
Quan Thái sử đọc xong, Hạ Hầu Anh tay nâng cung tên trao cho Hàn Tín, và nói:
– Hán vương có mệnh ban cung tên này, tướng quân tung hoành bốn bể.
Hàn Tín quỳ xuống, đón lấy cung tên, rồi đưa cho tả hữu theo hầu cầm giữ.
Quan hành lễ lại đưa Hàn Tín lên bậc thứ hai, ở đó quan Tướng quốc Tiêu Hà đã chờ sẵn, đứng ngoảnh mặt về hướng Tây.
Hàn Tín quay mặt về hướng Bắc, quan Thái sử đọc chúc rằng:
“Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng lân, ngày Binh tý, Hán vương khiến Tướng quốc là Tiêu Hà lảnh cáo cùng nhật nguyệt linh thần, và Lịch đại Ðế vương rằng: Tôn thần là đấng công, hiểu rõ suy xét người thiện ác. Nhà Tần bạo ngược phải diệt vong, trăm họ lại lọt vào tay Hạng Vũ lắm điều thảm khốc. Tôi vì nhân dân cứu nạn, nên chọn nhân tài, dùng Hàn Tín cầm quân chinh phạt. Dăm mong thần soi xét phù hộ cho công việc chóng thành.
Thượng hương. “
Thái sử đọc chúc xong, Tiêu Hà tay nâng phủ việt, đưa cho Hàn Tín và nói:
– Từ nay tướng quân giữ việc chinh phạt, vì dân cứu nạn, vì chúa lập công. Tướng quân nên cố gắng.
Hàn Tín quỳ xuống nhận lấy phủ việt, trao cho tả hữu cầm thay, rồi tỏ lời đáp từ.
Quan hành lễ lại dẫn Hàn Tín lên bậc thứ ba, ở đó Hán vương đã đứng sẵn, ngoảnh mặt về hướng Nam.
Giữa lúc đó, nhạc thiều trối khúc, hương khói ngạt ngào, bóng cờ tiếng trống uy nghi, rộn rã.
Quan Thái sừ bước tới, đọc chúc:
“Ðại Hán nguyên niên, tháng Trọng thân, ngày Bính tý, Hán Trung Vương Lưu Bang, kính cáo Hoàng thiên Hậu thổ.
Thiết nghĩ: Phàm người trị nước phải có điều nhân, nếu thiếu điều ấy muôn dân điêu đứng, ba hội lâm nàn. Kể từ nhà Tần gây việc biên loạn, nhân dân sầu thán, non nước đượm sầu. Thần Bang thấy thế đau lòng, muốn đem lại thái bình thịnh trị. Ngờ đâu giữa đường gặp Hạng Vũ, dùng sức làm càn, cậy oai hống hách, chôn quân, giết chúa, bạo ngược lắm điều. Bang tôi sức hèn khó chống phải vào Hán Trung dưỡng uy sức nhuệ, quyết chí tranh hùng. Nay gặp Hàn Tín, trí dũng hơn người, đáng tài cầm quân giúp nước. Vậy trao Tiết việt giữ việc chinh phạt bốn phương. Chức làm Ðại tướng, thống nhất anh hùng, cầu mong chứng giám, giúp kẻ tôi hiền, đem lại thái bình thiên hạ.
Thượng hương. “
Quan Thái sử đọc xong, Hán vương phong Hàn Tín làm Phá Sở Ðại tuớng quân, rồi lấy hổ phù, ngọc tiết, kiếm ấn, bảo kiếm trao cho Hàn Tín và nói:
– Từ nay trở đi, toàn thể tướng sĩ đều phải tuân theo hiệu lệnh của tướng quân. Tướng quân phải hết lòng vì nước, đem sức cứu dân, đạt một mục đích cao siêu, không vì lợi riêng nhỏ mọn. Giữa chiến trường, thắng bại là thường, đừng vì thua mà nản chí, đừng vì thắng mà tự kiêu, xem quân sĩ anh em, cùng chia bùi sẻ ngọt, đồng cam cộng khổ. Ðược vậy, việc cả mới mau thành, thiên hạ mới chóng yên, Tướng quân nên thận trọng…
Hàn Tín cúi đầu vâng mệnh, tâu:
– Tôi nghe trì nước phải được lòng dân, việc dùng quân phải giữ nghiêm lệnh. Dân chúng đã ngưỡng mộ, hiệu lệnh đã nghiêm minh thì dù trúc cũng phải chẻ, ngói cũng phải tan, đánh đâu chẳng thắng..
Nay hạ thần đã mãnh trọng trách, nguyện hết lòng đền ơn tri ngộ..
Hán vương nói:
– Bấy lâu, ta chỉ nghe Thừa Tướng nói, chưa rõ được tài tướng quân. Nay được tướng quân giải bày lòng ta rất hoan hỉ. Xin tướng quân vì ta lo việc quốc sự.
Hàn Tín tâu:
– Ðại vương muốn quay về phương Ðông tranh lấy thiên hạ, có phải dụng ý đối địch với Hạng vương chăng?
Hán vương đáp:
– Chính thế!
Ðại vương liệu sức mình ngày nay có mạnh hơn Hạng vương chăng?:
– Không mạnh hơn được.
Hàn Tín cung kính nói:
– Tâu Ðại vương, Hạng vương tuy mạnh thật, song tính tình nóng nảy, lấy uy áp chế, không biết dùng kẻ hiền, không biết trọng kẻ sĩ, thì cái mạnh ấy chẳng qua là cái dũng của kẻ vũ phu, không đáng sợ. Vừa rồi lại bỏ Quan Trung, thiên đô về Bành Thành, trên giết vua Nghĩa Ðế, dưới nộ chư hầu, tuy mang danh Bá chủ trong thiên hạ, song không một ai tùng phục. Thế thì cái mạnh ấy ai kể vào đâu. Bây giờ Ðại vương nhân lòng mong mỏi về Ðông của quân sĩ, phất cờ khởi chiến, chỉ một hồi trống là có thể phá vỡ Tam Tần ngay. Hạ thần dẫu bất tài cũng dám cam đoan lấy Quan Trung như trở bàn tay.
Hán vương mừng rỡ nói:
– Rất tiếc là đến bây giờ ta mới gặp được tướng quân!
Ðoạn cùng Hàn Tín xuống đàn, trở về triều. Bá quan theo sau hộ giá.
Tiêu Hà sai quân dẫn Phàn khoái đến để Hán vương vấn tội.
Hán vương nói:
– Phàn Khoái tuy là người chí thân của ta, nhưng cậy công phạm giá, là mất phong thể triều đình, cần phải trừng trị để làm gương ba quân.
Tiêu Hà ghé vào tai Hán vương tâu nhỏ:
– Phàn Khoái tuy phạm pháp, nhưng là kẻ có công lớn tình nên dung thứ. Vả lại, mới vừa phong Ðại tướng mà đã giết công thần e không lợi cho việc quân. Tuy nhiên, nếu tha ngay, sợ Phàn Khoái không bỏ tật cũ thì quân lệnh mất nghiêm, xin Ðại vương cứ hạ lệnh giao cho đình thần luận tội, hạ thần sẽ liệu bề châm chước, như thế thì phép nước mới nghiêm.
Hán vương khen phải, liền hạ chiếu rằng:
” Trẫm phong Hàn Tín làm Ðại tướng là vì đã ba lần Tiêu Thừa Tướng tiến cử, có tờ giốc thư của Tử Phòng giới thiệu và xét thấy tài năng của Hàn Tín đáng làm chức ấy. Thế mà Phàn Khoái dám cậy công cao, phạm giá khinh lờn phép nước. Nếu không trị tội còn gì thể diện triều đình. Vậy giáng chiếu giao Phàn Khoái cho triều thần, lấy phép công nghị xử. Giết một kẻ có tội mà trấn an được trăm họ là việc nên làm. Ðình thần chớ dung túng.
Nay chiếu. “
Tiêu Hà và đình thần lãnh chiếu họp nhau bàn luận.
Giữa lúc đó, có người đến báo cho Phàn Khoái hay.
Phàn Khoái sợ hãi, nói với các cận tướng:
– Nguy thay! nếu không có ai vì tôi cứu mạng e tôi chết mất.
Chu Bột cười lớn, nói:
– Việc gì mà tướng quân sợ đến thế?
Phàn Khoái đôi mắt đỏ hoe, phàn nàn:
– Nào có việc gì đâu! Chỉ vì tôi nóng nảy phạm giá.
Bây giờ Chúa thượng hạ chiếu xuống triều thần, khép tôi vào tội chết. Xin các ông làm ơn nói với Tiêu Thừa Tướng, nghĩ lại cái công cứu giá của tôi ở Hồng Môn mà dung tha tội chết cho tôi nhờ.
Chu Bột gật đầu nói:
– Ðược! Ðể tôi làm phước nói hộ cho. Tội tướng quân rất lớn, trong lúc Chúa thượng đăng đàn, bái tướng là việc trọng đại mà tướng quân dám làm càn như thế, bảo dung tha sao được. Tuy nhiên, Chúa thượng đã ban chiếu xuống triều thần nghị xử, tất có ý khoan dung, xin tướng quân đừng ngại!
Nói xong, Chu Bột cùng bọn võ tướng kéo nhau đến Tướng phủ xin vào yết kiến Tiêu Hà.
Tiêu Hà hỏi:
– Các tướng đến đây có việc gì?
Các tướng thưa:
– Chúng tôi được tin Chúa thượng giao Phàn Khoái xuống triều đình trị tội, vì vậy đến đây xin Thừa Tướng nghĩ đến công cứu giá nơi Hồng Môn, giảm tội cho Phàn Khoái.
Tiêu Hà nói:
– Nay Chúa thượng bị khốn nơi Bao Trung, ngày đêm lo tìm Ðại tướng để lo việc chinh Ðông. Hàn Tín là anh tài trong thiên hạ, Chúa thượng ủy thác việc ấy rất xứng đáng, thế mà Phàn Khoái cậy công khinh lờn phép nước, tội ấy khó dung. Tuy vậy, Phàn Khoái là các bậc công thần, làm sao tôi quên được việc cứu giá Hồng Môn, các tướng cứ yên tâm, tôi sẽ tùy nghi châm chước.
Các tướng mừng rỡ lạy tạ lui ra. Tiêu Hà cùng Lịch Sinh làm tờ nghị tội, dâng lên Hán vương:
Ðại Hán Thừa tướng là Tiêu Hà cùng đình thần cẩn án:
Xét thấy: Phàn Khoái lỗ mãng, dám ngăn xa giá, buông lời nói càn, làm mất phong thề triều đình nêu gương xấu trong tướng sĩ, phép công chiếu án, tội chết khó tha. Lại xét rằng: Phàn Khoái là bậc công thần, theo khởi nghĩa từ Phong Bái đến đây đã có công cứu giá nơi Hồng Môn. Vì vậy nay có khoan nhất thứ, nếu còn tái phạm, chiếu luật gia hình, không được miễn giảm.
Nay kính nghị. “
Hán vương xem nghị xong, xuống chỉ rằng:
– Phàn Khoái cậy công khinh mạn, đáng lẽ không tha.Nay xét lời đình thần vừa tâu, cũng tạm đung thứ.
Vậy truyền Phàn Khoái nên xét mình sửa lỗi, lập công chuộc tội theo dưới quân môn, tùy lệnh Nguyên soái.
Nếu còn có ý bất mãn, hình phạt khó tránh.
Khâm thử. “
Phàn Khoái được lệnh, mừng rỡ tạ ơn, sang yết kiến Hàn Tín để thỉnh mệnh.
Hàn Tín nói:
– Lập công là chức phận của thần tử, thủ nghĩa là đại tiết của tôi hiền. ông dẫu có công lớn, song chớ nên tự phụ, vì kẻ tự phụ không bao giờ đạt được kỳ công. Nay Chúa thượng đã tha thứ thì từ nay trở đi nên đoái công chuộc tội, danh ghi sử sách, để tiếng muôn đời. Tôi sẽ sẵn sàng che chở cho chẳng bao giờ có ý tư hiềm.
Phàn Khoái cúi đầu tạ ơn, rồi trở về triều ra mắt Hán vương.
Hán vương trông thấy Phàn Khoái ăn năn hối lỗi,
cảm kích vô cùng, bước đến cầm tay nói:
– Tướng quân cùng ta khởi nghĩa từ Phong Bái, đồng cam cộng khổ, mấy năm trời không rời nhau, tình quyến luyến như ruột thịt. ấy vậy, tướng quân cần phải làm gương cho binh sĩ bảo vệ luật pháp, đề cao thể diện triều ca, cớ sao lại nóng nảy như vậy. May mà quần thần trọng tình tôi chúa, không nỡ hại công thần, nếu có bề nào tướng quân phải ngậm hờn nơi chín suối, còn ta phải ôm lòng sầu khổ suất đời chăng?
Hán vương nói đến đây cảm động ứa hai dòng lệ.
Phàn Khoái cũng sụt sùi khóc, và nói:
– Hạ thần ngu dại, trót lỡ lầm, hối không kịp. Từ nay nguyện không dám nóng nảy nữa, đem tấm thân thừa này đền nợ quân vương.
Dứt lời, Phàn Khoái lui ra, đến dinh quan Thừa tướng lạy tạ, và nói:
– Nếu không có Thừa tướng thương tình, thì Khoái này không thoát khỏi tội chết, ơn tái tạo ấy chẳng biết lấy gì đáp đền cho xứng đáng.
Tiên Hà nói:
– Cái ngày chia đất phong vương tôi tưởng không còn xa lắm, tướng quân nên cố gắng lập công, bảo tồn lấy danh vọng.
Phàn Khoái tạ ơn, lui ra. Và từ đó, nhất nhất nghe theo mệnh lệnh của Hàn Tín, không dám sai suyển.
Cách mấy hôm, Hán vương triệu Hàn Tín vào triều hỏi:
– Ta rất nóng lòng việc Ðông qui. Chẳng hay lúc nào Nguyên soái định khởi sự.
Hàn Tín tâu:
– Hạng vương mới thiên đô về Bành Thành, không để ý đến phương Tây. Còn các nước chư hầu mới lập, nội trị chưa ổn.. Lúc này là lúc nên khởi binh. Xin Ðại vương giáng chỉ Ðông chinh, để hạ thần chỉnh đốn xuất quân tấn phát.
Hán vương nói:
– Ta sẽ y tấu.
Hôm sau, Hán vương phong Phàn Khoái làm Tiên phong, Tào Tham làm Quân chính, Ân Cái làm Giám quân, chỉnh bị binh mã, đợi ngày xuất chinh.
Hàn Tín được lệnh, lập tức thẳng đến giáo trường, tập họp binh tướng để thao diễn.
Sau khi duyệt qua một lượt, thấy quân sĩ hàng ngũ lộn xộn, quân pháp không rành, chiến thuật còn non nớt, liền gọi Lịch Tự Cơ đến nói:
– Binh mã tuy đông, nhưng trình độ chiến đấu quá kém, chỉ có thể dùng giữ thành mà thôi, chứ chưa thể đem ra đánh trận được. Xin Tiên sinh chọn cho tôi bốn mươi người chữ tốt, viết hay, dùng để sao quyển binh pháp mà tôi đã bỏ công nghiên cứu lúc bình nhựt. Sao xong, giao cho mỗi tướng một bản, cứ theo phép đó mà luyện tập quân sĩ. Chỉ trong nửa tháng, kỹ thuật chiến đấu sẽ tinh vi và lúc đó mới có thể đem đi chinh chiến.
Lịch Tự Cơ tuân lệnh lãnh binh thư trao cho các tướng sao lục.
Lịch Sinh lãnh sách đem về sai 40 người chép lại, chỉ trong hai ngày là xong. Liền đem phân phát cho các tướng theo đó tập luyện quân binh.
Hàn Tín vào triều đem công việc mình đã làm tâu lại với Hán vương, rồi truyền các tướng ra nơi giáo trường duyệt binh:
Trong lúc tập luyện có vài tên quân trĩu phép, Hàn Tín sai chém đầu làm lịnh. Ba quân đều khiếp sợ, răm rắp tuân theo.
Chỉ trong hai mươi ngày, quân nào tướng ấy đâu đó chỉnh tề, hiệu lệnh không sai một mảy.
Một hôm, Hán vương thân hành đến xem duyệt binh, trông thấy Hàn Tín mặc nhung phục oai phong lẫm liệt tinh kỳ phất phới, vũ dũng khác thường, quân tướng kỷ luật rất nghiêm, lòng tấm tắc ngợi khen.
Hàn Tín bước đến tâu:
– Tâu Ðại vương, nhờ uy đức của Ðại vương, hạ thần đã rèn luyện quân sĩ được một kỹ thuật chiến đấu khá cao. Vậy xin Ðại vương ban cho tướng sĩ lời hiểu dụ để kích thích lòng phấn đấu của họ.
Hán vương y tấu, thảo lời chỉ dụ, rồi sai một viên quan hầu cận tuyên đọc:
” Sở Bá vương Hạng Vũ tàn bạo, giết vua Nghĩa Ðế, tàn sát muôn người, lại bội ước đoạt Hàm Dương tiêm xưng vương vị. Trăm họ một lòng phẫn nộ, mong thoát cảnh lầm than. Ta, nay vì dân, khởi binh trừ loạn, phong Hàn Tín làm Phá Sở Nguyên Nhung giữ việc chinh phạt. Ấy vậy binh tướng phải một lòng tùng phục để hoàn thành nhiệm vụ trọng đại chung của chúng ta. Kẻ trung với vua, chớ lấy việc bất bình nhỏ mà trái mạng, kẻ trung với nước không vì quyền lợi cá nhân mà bỏ quyền lợi chung. Sứ mệnh thiêng liêng đang cần sự góp sức của mọi người. Ba quân phải gìn lòng trung nghĩa. Nay chỉ dụ “.
Binh tướng nghe lời chỉ dụ, im phăng phắc.
Hàn Tín lấy một tấm bảng, yết các điều luật nơi trước doanh trại như sau:
1) Nghe trống không tiến, nghe chiêng không lùi, phất cờ không dậy, ngã cờ không phục, đó là tội bội quân, phải chém.
2) Gọi đến không thưa lúc điểm quân vắng mặt, sai hẹn, trễ nải, đó là tội mạng quân, phải chém.
3) Ðêm nghe hiệu mõ không báo lại, giờ canh bỏ vắng, khẩu hiệu nói sai, cứng cổ khó răn, đó là tội hoạnh quân, phải chém.
4) Ðem oán hờn rêu rao trong quân sĩ, nói sau chủ tướng, không tuân mệnh truyền, đó là tội khi quân, cần phải chém.
5) Giáo gươm không sắc, cờ hiệu thất lạc, cung để đứt dây, tên bỏ mất cánh, đó là tội thất thoát, cần phải chém.
6) Bạ nói bạ cười, không tuân lệnh cấm, rượu chè be bét, tiết lậu quân tình, đó là tội khinh quân, phải chém.
7) Ðặt chuyện điêu ngoa, ma quái, làm rối lòng quân, khinh lờn chính lệnh, đó là tội ngoa ngữ, cần phải chém.
8) Ði đến đâu quấy nhiễu dân sự, hiếp chốc đàn bà đó là tội gian quân cần phải chém.
9) Lấy tài sản người làm của mình, đoạt công người làm công mình, đó là tội đạo quân, cần phải chém.
10) Lúc hành quân không chú ý đến lạc hàng ngũ, trái hiệu lệnh, đó là tội loạn quân, cần phải chém.
11) Giả ốm đau. lánh nặng tìm nhẹ, đó là tội trá quân, cần phải chém.
12) Không biết thương yêu, giúp đỡ đồng đội, để giặc uy hiếp mà không tiếp cứu đó là tội tệ quân, cần phải chém.
Mười hai điều cấm kẻ nào phạm, chiếu đó xử trị. Nay đặc lệnh.
Hán vương xem khắp doanh trại và đội ngũ một lượt lại xem đến tờ yết thị, tấm tắc khen thầm:
Quân mã ngày trước so với ngày nay khác một trời một vực. Trước kia như trò trẻ con, nay chẳng khác nào một mãnh hổ. Như thế lo gì việc Ðông chinh chẳng thắng.
Hàn Tín lạy tạ. Hán vương quay giá về cung.
Hôm sau, đầu trống canh năm, Hàn Tín lại đến giáo trường vào trung quân ngồi. Quan Tư thần đến trình giờ xong, Hàn Tín gọi chư tướng đến điềm diện.
Các tướng đều có mặt, chỉ thiếu quan Giám quân Ân Cái không đến.
Hàn Tín không nói gì cả, cứ đem quân ra thao diễn.
Ðến quá ngọ, Ân Cái mới ngất ngưởng từ ngoài bước vào.
Viên quan Thủ môn ngăn lại nới:
– Nguyên soái thao diễn quân mã đã nửa ngày rồi, tướng quân mới đến. Nếu muốn vào giáo trường phải đợi tôi báo với quan Tiểu kỳ giáp đã.
Nói xong, chạy vào báo với quan Tiểu kỳ giáp.
Quan Tiểu kỳ giáp lại báo với quan Chánh tư, và quan Chánh tư bẩm lên Hàn Tín.
Trong lúc đó Ân Cái đứng quắc mắt nhìn hành động của quan Thủ môn, và hét lớn:
– Gớm! Rõ là đứa tiểu nhân đắc ý! Việc gì lại nghi vệ đến thế?
Vừa dứt lời, có lệnh Hàn Tín đòi vào.
Ân Cái nghênh ngang bước vào tỏ vẻ tự đắc, không sợ sệt gì cả.
Khi đến, trước trướng, Ân Cái giơ tay vái dài, rồi đưa mắt nhìn quanh.
Hàn Tín ung dung nói:
– Trước Thánh thượng đã có lời hiểu dụ, sau đó, ta cũng có lệnh cấm, người làm chức Giám quân, cớ sao đến bây giờ mới tới. Như vậy còn gì là quân luật nữa.
– Tôi cũng muốn tuân lệnh tướng quân, song vừa rồi tôi có vài người bà con sắp phải đi xa, nên làm mâm rượu tiễn hành, vì trót uống quá chén, không đến sớm được, xin Nguyên soái thứ dung.
Hàn Tín đập tay xuống bàn hét:
– Thế ra người coi bữa rượu hơn thượng lệnh!
Dứt lời hô võ sĩ trói Ân Cái lại.
Lúc bấy giờ Ân Cái mới có ý sợ sệt, dập đầu lạy, nói:
– Xin Nguyên soái vị tình một kẻ đã có công lớn với Chúa thượng, dung tha cho…
Hàn Tín chỉ vào mặt mắng:
– Người đã làm tướng há lại không biết ngày chịu mệnh vua tức là ngày phải bỏ nhà cửa, ngày chịu việc quân tức là ngày phải xa cha mẹ! Lúc chiêng hồi trống giục tức là lúc phải quên thân mình sao? Nay đã đem thân phò chúa còn tiếc miếng ăn à?
Nói đến đây, Hàn Tín quay lại hỏi viên quan Chánh tư:
– Việc quân trễ biếng, quân luật định sao?
Quan Chánh tư là Tào Tham lấy bản điều lệ ra xem, rồi đến trước trướng bẩm:
– Bẩm Nguyên soái, theo luật là tội phạm quân, phải chém.
Hàn Tín truyền lệnh đem Ân Cái ra chém.
Ân Cái mặt như chàm đổ, đưa mắt nhìn Phàn Khoái cầu cứu.
Phàn Khoái bấy giờ cũng đã biết phép, đành đứng nhìn không dám nói lời nào.
Quân đao phủ lôi Ân Cái ra viên môn.
Có người chạy về triều báo cho Hán vương biết.
Hán vương thất kinh, truyền đòi Tiêu Hà đến phán:
– Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà đã chém mất một kiện tướng của ta, việc này e bất lợi. Thừa tướng nghĩ sao?
Tiêu Hà nói:
– Tâu Ðại vương, trước khi ra quân, hiệu lệnh phải nghiêm minh. Hàn Nguyên soái chưa ra quân mà chém tướng tức là tỏ tài làm tướng của Hàn Nguyên soái đó. Xin Ðại vương cứ ủy thác cho Hàn Nguyên soái, đừng bận rộn.
Hán vương thở dài nói:
– Ðành vậy, song Ân Cái là người chí thân của ta, theo ta từ Phong Bái đến đây, lẽ nào ta bỏ chết cho đành!
Tiêu Hà nói:
– Xưa có câu “Công pháp bất vị thân”. Ðại vương nên vì thiên hạ, vì quốc gia, đừng vì người thân mà bỏ phép nước. Bỏ một Ân Cái mà được thiên hạ thì có hại gì.
Hán vương sợ để lâu, Ân Cái chết mất, nên gọi Lịch Sinh đến bảo:
– Ngươi khá mang tờ chỉ dụ của ta, đến giáo trường truyền tha chết cho Ân Cái.
Lịch Sinh vâng mệnh, phi ngựa đến cửa quân, thấy Ân Cái đang bị trói dưới viên môn, còn quân đao phủ đang sắp sửa khai đao, liền gọi lớn:
– Khoan đã! Khoan đã? Chúa thượng có chiếu chỉ đến đây.
Miệng vừa nói, chân vừa bước sấn vào. Quan thủ môn trông thấy chạy đến cản lại, nói:
– Nguyên soái có lệnh cấm không ai được phép tự tiện vào cửa quân, cớ sao ngài lại vi phạm?
Dứt lời nắm áo Lịch Sinh lôi thẳng đến trước trướng, bẩm:
– Bẩm Nguyên soái, người này tự tiện cời ngựa xông vào quân trung, tiểu tướng không ngăn được, phải dẫn vào đây bẩm báo..
Hàn Tín thấy Lịch Sinh liền hỏi:
– Lệnh quân đã cấm, Lịch Ðại phu là người có học thức lẽ nào không biết điều ấy?
Lịch Sinh biết mình có lỗi, liền nói:
– Tôi vì có chiếu vua rất gấp nên vội vã vào đây, trái lệnh Nguyên soái, xin Nguyên soái châm chước!
Hàn Tín nói:
– À! Thế là quan Ðại phu phụng chiếu Chúa thượng đến đây sao?
Liền quay qua hỏi quan Chánh tư:
-Xông đột vào trung quân phạm tội gì?
Tào Tham thưa:
– Cũng phải chém đầu làm lệnh.
Hàn Tín ung dung nói:
– Theo luật thì thế, song Lịch Ðại phu phụng chỉ đến đây, vậy chém lấy đầu ngựa để giữ phép. Còn Ân Cái thì phải lấy đầu, không được trễ nải.
Quân đao phủ được lệnh chém đầu Ân Cái và chém đầu ngựa Lịch Sinh đem nạp trước trướng.
Ba quân trông thấy đều khiếp vía.
Lịch Sinh khỏi chết, vội vã chạy về tâu với Hán vương:
– Tâu Ðại vương, hạ thần phụng mệnh đến cứu Ân Cái bất đồ phạm phải luật “xông đột trung quân.. May mà nhờ có chiếu chỉ Ðại vương mới được thoát chết, song cũng bị chém mất đầu ngựa để thị chúng. Còn Ân Cái thì đã rơi đầu rồi, không còn cứu kịp nữa.
Hán vương nổi giận, hét:
– Ðã có chiếu chỉ của ta mà Hàn Tín vẫn không tha chết cho Ân Cái, thật là.đứa khi quân vô lễ…
Tiêu Hà vội quỳ tâu:
– Theo quân luật: Viên tướng đang cầm quân cũng có lúc không tuân mệnh vua! Ðó chính là cái quyền khổn ngoại của kẻ làm tướng, xin Ðại vương chớ nên trách.
Hán vương hỏi:
– Hàn Tín dụng ý gì mà chém Ân Cái?
Tiêu Hà nói:
– Ân Cái là người thân thích của Ðại vương. Giết Ân Cái, Hàn Nguyên soái đã trấn áp được ba quân, làm cho quân sĩ chỉ biết có chủ tướng mà không biết đến ai nữa cả. Binh pháp có nói: “Quân biết sợ chủ tướng thì đánh đâu cũng thắng, quân mà sợ ngoại địch thì không mong gì thắng được ai”. Hàn Nguyên soái làm như thế Ðại vương nên mừng mới phải.
Lịch Sinh nối lời tâu:
– Hàn Nguyên soái uy phong rất nghiêm. Tôi tưởng Hạng Vũ sau này không khỏi chết về tay Hàn Tín. Xin Ðại vương giáng chỉ ban khen, một là làm vui lòng Hàn Tín, hai là tăng khí ba quân. Uy vũ Hàn Tín càng tăng bao nhiều, tức là hồng phúc của Ðại vương càng to bấy nhiêu xin Ðại vương chớ ngại.
Hán vương thấy hai người một ý cũng đổi giận làm vui phán:
– Hai khanh đã bảo tấu, ta cũng nhận lời.
Liền viết sắc thư sai quân cận thần là Chu Nguyên Thần đem dê rượu đến cửa quân ban thưởng.
Nghe có vương mệnh đến, Hàn Tín lật đật bày hương án bái mạng.
Vương sứ đọc sắc thư như sau:
“Ðạo làm tướng nếu không trọng pháp luật thì sao chế ngự được ba quân? Tôn Vũ xưa có chém Ngu Cư mới ban hành được nghiêm pháp. Lời xưa lại có nói: ” Pháp bất vị thân “. Tôn Vũ vốn biết Ngu Cư là người yêu của vua mà vẫn phải chém. Hàn Nguyên soái biết Ân Cái là người thân của ta mà vẫn không tha. Thế mới đáng là kẻ cầm quân khiển tướng. Giết một Ân Cái mà nghìn người phải sợ, quân lực uy nghiêm, ta rất bằng lòng. Nay sai quan cận thần Chu Nguyên Thần mang dê, lợn đến thưởng Nguyên soái. Nguyên soái cứ phép mà làm, mau mau phất cờ dẹp loạn, cứu dân, khỏi phụ lòng mong của ta. Nay sắc “.
Hàn Tín nghe đọc sắc thư, cúi đầu lạy tạ, rồi theo Chu Nguyên Thần vào triều tạ ơn.
Hán vương nói:
– Ta rất hài lòng tướng quân. Từ nay tướng quân dùng phép cứ nghiêm như thế mới được.
Hàn Tín nói:
– Muôn tâu Ðại vương, hạ thần chịu ơn tri ngộ của Ðại vương dẫu bỏ thân nơi chiến trường nợ chưa đền đáp đặng. Nay nắm trong tay mấy mươi vạn sinh mệnh, nếu quân pháp không nghiêm, làm không tròn nhiệm vụ, để phụ ơn Ðại vương thì tội chăng nhỏ. Vì vậy, hạ thần đã tòng quyền khổn ngoại, may được Ðại vương tưởng đến làm cho quân sĩ thêm uy, thật hạ thần lấy làm cảm đức.
Hán vương cầm tay Hàn Tín dắt lên cùng ngồi bàn việc quân cơ. Mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu, Hàn Tín mới trở về dinh.
Cách mấy hôm sau, Hàn Tín gọi Phàn Khoái đến trướng bảo:
– Tướng quân làm chức Tiên phong, phải vì quốc gia tận lực. Nay mai Chúa thượng xuất giá Ðông chinh, mà đường Sạn đạo khi xưa đã bị Tử Phòng đốt rồi, quân mã không làm sao đi được. Nay tướng quân phải đem một vạn nhân mã, sửa sang lại con đường đó. Ta cho Chu Bột cùng Trần Vũ đi theo giúp sức, hạn trong một tháng phải sửa sang xong, nếu sai lệnh sẽ chiếu quân luật trị tội.
Tướng quân nên đi ngay, chớ vì khó nhọc mà bất bình.
Phàn Khoái nghe nói, ướt mồ hôi, sợ hãi thưa:
– Nguyên soái đã sai thì dẫu chết tôi cũng chẳng dám từ. Tuy nhiên, con đường Sạn đạo nguy hiểm vô cùng dài hơn ba trăm dặm, nếu muốn tu bổ phải ba năm chưa chắc đã xong, huống hồ chỉ trong một tháng thì làm sao hoàn thành được. Thôi, nếu Nguyên soái muốn giết Khoái này, thì Khoái này xin chịu chết ngay trước trướng.
Hàn Tín vừa cười, vừa nói:
– Tướng quân nghĩ lầm rồi? Việc gì ta lại muốn giết tướng quân! Phàm kẻ làm tôi, gặp việc không nên sợ khó, nếu sợ khó chẳng bao giờ làm được chuyện phi thường. Tướng quân tự hào là trung nghĩa, can đảm hơn người, vậy phải nhân dịp này làm cho thiên hạ thấy cái trung nghĩa và can đảm ấy, cớ sao lại lo sợ?
Phàn Khoái muốn nói nữa nhưng lại sợ phạm quân luật đành phải thở dài lui ra.
Phàn Khoái đi rồi, Hàn Tín liền ra diễn trường chỉnh đốn nhân mã, truyền chư tướng đem quân ra duyệt lại một lần nữa. Lần này pháp luật đâu đó nghiêm minh, không ai còn vi phạm nữa, chiến thuật tuyệt vời.
Hàn Tín thân đến yết kiến Hán vương, tâu:
– Hạ thần đã thao luyện quân mã xong, xia mời Ðại vương ngự lãm.
Hán vương nói:
– Lần trước đã thấy tướng quân trù hoạch khác thường, quân cơ tinh xảo. Nay lại thao luyện hơn một tháng nữa, chiến thuật tất tuyệt vời, ta cần gì phải xem nữa?
Tiêu Hà bước tới tâu:
– Ngày xuất chinh sắp đến, xin Ðại vương xem xét tường tận để an lòng ngự giá.
Hán vương theo lời, thẳng đến giáo trường, thấy cơ nào đội ấy, gươm giáo sáng lòa, cờ hiệu uy nghi, nhân mã tề chỉnh, tiến thoái có kỷ cương, ngồi đứng theo khuôn phép, liền ban lời, bảo các tướng:
– Hàn Nguyên soái dùng binh như thế này dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng chưa hơn đặng. Ta rất hài lòng, và ngợi khen tinh thần cố gắng của các tướng và toàn thể binh sĩ.
Ðoạn ngoảnh lại hỏi Hàn Tín:
– Nguyên soái liệu sức quân bây giờ đã Ðông chinh được chưa?
Hàn Tín quỳ tâu:
– Tâu Ðại vương, hạ thần đã sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo rồi, hạn trong một tháng phải xong.
Hán vương ngạc nhiên, nói:
– Sạn dạo gian nguy, lên ghềnh xuống thác, dài hơn ba trăm dặm. Công trình vĩ đại ấy dẫu ba năm chưa chắc đã xong, Nguyên soái trù liệu một tháng thì làm sao thành việc?
Hàn Tín tâu:
– Việc quân cơ có nhiều chuyện lạ, xin Ðại vương cứ an tâm, chẳng bao lâu hạ thần sẽ rước Ðại vương ngự giá Ðông chinh, xin Ðại vương đừng hỏi vội.
Hán vương hiểu ý, không hỏi nữa, mời Hàn Tín cùng mình dùng ngự thiện. Trong tiệc, Hán vương chỉ ăn qua loa, các món ngon vật lạ đều ban cho Hàn Tín hết.
Tiệc xong, Hán vương ngự giá về triều, Hàn Tín bái tiễn ra khỏi cửa quân, rồi truyền lệnh cho Phàn Khoái phải cấp tốc đi ngay.
Phàn Khoái dẫn một vạn nhân phu đến Sạn đạo, thấy núi non trùng điệp, khe suối quanh co, đèo cao chót vót vực thẳm muôn trùng, chỗ đường cũ trước kia bị đốt giờ đây cây cối um tùm, không chỗ chen chân, dấu cũ không còn nhìn thấy nữa. Cả đoàn nhân phu chỉ nhìn nhau than thở, không biết làm cách nào để khởi công.
Phàn Khoái nghĩ thầm:
– Thôi rồi! Thế này là Hàn Nguyên soái không dám phá Sở, nên sai ta đi làm cái chuyện khó khăn này để lấy cớ Sạn đạo chưa xong, không bao giờ rả quân cả.
Nghĩ rồi, Phàn Khoái nói với dân phu:
– Việc làm hiểm trở như vầy dẫu cho mời vạn dân phu, làm suất ba năm chưa chắc đã xong. Nay quân lệnh rất nghiêm, Chúa thượng lại đang tin Nguyên soái, nếu chúng ta không tiến hành ắt rơi đầu, chi bằng cứ làm, đến đâu hay đến đó.
Dân phu theo lời, xúm nhau chát cây, đốn gỗ.
Nhưng sức người yếu ớt không thấm vào đâu cả. Làm luôn mấy ngày mà chỉ phát được một đoạn đường đi không lọt một con ngựa.
Phàn Khoái ngước mặt lên trời than:
– Chà? Thật đáng giận cho Tử Phòng! Ðốt Sạn đạo làm gì để ngày nay lụy đến Khoái này?
Trọng lúc đang lo buồn chợt thấy quan Thái Trung Lục Giả dẫn một nghìn quân ky đến, đưa cho Phàn Khoái một phi hịch.
Phàn Khoái mở ra đọc. Hịch rằng:
” Ðại Hán phá Sở Nguyên soái Hàn Tín lưu ý Phàn tướng quân. Nay mai Ðại quân sẽ Ðông chinh, vậy phải kíp sửa sang Sạn đạo lập ngày đã định. Nếu quá hạn chiếu theo quân pháp trị tội. “
Phàn Khoái đọc hịch xong dậm chân kêu trời, nói:
– Nguyên soái định giết Khoái tôi rồi! Ðường sá thế này mà hạn một tháng, dẫu thợ trời cũng chưa làm xong, huống chi chúng tôi là người phàm xác thịt.
Nói rồi buồn bã dẫn Lục Giả về trại dân phu để thết đãi
Nhân lúc vắng người, Lục Giả ghé tai bảo nhỏ Phàn Khoái mấy câu:
Phàn Khoái mừng rỡ, nét buồn đổi ra nét hân hoan. Tuy nhiên vẫn làm ra vẻ khệnh khạng; nói giữa đám dân phu:
– Công trình to tát thế này mà Nguyên soái bảo một tháng phải làm xong. Khoái tôi phen này chắc chết.
Dân phu thấy vậy cũng thương thầm cho số phận Phàn Khoái.
Hôm sau, Phàn Khoái viết biểu sai người về triều dân cho Hán vương.
Biểu rằng:
” Muôn tâu Ðại vương. từ lúc hạ thần theo.phò Ðại vương đến nay không có công việc nào dám để bê trễ. Nay tu bổ Sạn đạo là công trình vĩ đại, Nguyên Soái chỉ cấp có một vạn dân phu, hẹn một tháng phải hoàn thành, nếu không phải tội chết. Thiết nghĩ: dẫu hạ thần có gắng sức đến đâu cũng vô ích. Chẳng ai có thể làm công việc quá sức người được.
Cái chết của hạ thần tất không tránh khỏi. Nếu Ðại vương thương tình, xin xuống chiếu truyền dân các quận quyện lân cận, điền bát cho một vài vạn dân phu nữa, may ra có thề gỡ được nguy cơ trước mắt!
Khoái tôi muôn phần sợ hãi cúi dâng biểu kính rin ơn trên soi xét. “
Hán vương xem biểu xong, lập tức sai Ngự sử là Chu Bột, cầm một đạo sắc, hỏa tốc đến quận Phổ An bắt một vạn dân phu giao cho Phàn Khoái.
Phàn Khoái được thêm dân phu mừng rỡ, kêu Chu Bột, Trần Vũ đến chia ra làm nhiều toán mỗi toán có một toán trưởng coi làm.
Ðoạn kề vào tai Chu Bột và Trần Vũ nói nhỏ mấy câu.
Ðêm ấy, hai tướng, mỗi người dẫn một đoàn dân phu tinh tráng thay đổi y phục, vượt núi ra đi.
Từ khi Chương Hàm được phong làm Ung vương, trấn Tam Tần, sai cháu là Chương Bình vào giữ ải Ðại Tản Quan để đề phòng quân Hán Trung.
Chương Hàm lại hạ chỉ truyền rằng: “Phải giữ vững cửa quan, hễ có tin tức gì không được án động, phải cấp báo với Tam Tần để liệu đường phòng bị.”
Nay, nhân nghe tin Hán vương dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái ; lại nghe báo Phàn Khoái làm Tiên phong, tu bổ Sạn đạo, để hưng binh Ðông chinh, Chương Bình lập tức phi báo với Ung vương.
Chương Hàm nghe báo cười lớn, nói với kẻ tả hữu:
– Hàn Tín trước kia ở Sở là một tên vác giáo theo hầu, nay bỏ Sở về Hán, chẳng qua cũng chỉ để sai khiến mà thôi, không biết vì lẽ gì mà Hán vương lại phong làm Nguyên Soái? Vả Hàn Tín là kẻ đê tiện thuở hàn vi làm lắm chuyện hèn mạt, nhất đán được phong làm tướng thì ba quân còn ai phục, làm sao điều khiển nổi chư tướng?
Lại như Sạn đạo dài ba trăm dặm, đã bị đốt phá mà tu bổ lại thì biết bao giờ mới xong? Cách hành binh ấy chẳng qua là mưu trí của đứa tiểu nhân, làm trò cười cho thiên hạ.
Tả hữu nghe Chương Hàm nói, tỏ ý can:
– Phạm quân sư đã từng căn dặn Ðại vương phải lưu tâm đề phòng quân Hán, nhất là từ khi Hán vương dùng Hàn Tín làm tướng. Nay quan trấn thủ đã cấp báo đó là chuyện chẳng lành, xin Ðại vương chớ khinh thường.
Chương Hàm nói:
– Sạn đáo là nơi hiểm trở, việc tu bổ không phải ngày tháng mà xong được. Nếu chưa sửa xong Sạn đạo dẫu quân Hán có cánh bay lên trời cũng không vượt được sang Ðông. Ngay bây giờ ta đề phòng là vô ích, chờ lúc chúng sửa gần xong Sạn đạo sẽ hay.
Chương Hàm vẫn điềm nhiên, không lo lắng gì cả.
Chương Bình thấy vậy cũng bỏ đấy, không tâu báo nữa, ngày đêm rượu chè be bét cùng với quân sĩ vui thú tiêu dao.
Rồi một hôm, bỗng có quân giữ cửa vào báo:
– Có một trăm dân phu tu bổ Sạn đạo, không chịu nổi sự khổ sở, trốn đến đây xin đầu hàng.
Chương Bình vỗ tay cười lớn, nói:
– Ta đang muốn biết nội tình của chúng. Thế là gặp dịp lắm? Hãy truyền cho chúng nó vào.
Quân sĩ vâng lệnh, ra dẫn bọn dân phu vào.
Chương Bình hỏi:
– Bọn ngươi ở xứ nào đến đây, có việc chi?
Dân phu phục xuống đất lạy dài, kêu khóc và nói:
– Chúng tôi là tráng đinh quận Phổ An, bị Hán vương bắt đi làm Sạn đạo, ngày đêm cực nhọc, đói rét, Phàn Khoái lại là người nóng nảy, đánh đập luôn tay. Vả chăng, Sạn đạo là con đường hiểm trở, mà bắt phải làm một tháng cho xong thì không thể nào làm nổi. Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Nguyên Soái, ba quân không phục bỏ trốn rất nhiều. Chúng tôi chắc không sao thành sự được Vì vậy chúng tôi đến đây, nguyện núp bóng tướng quân, đem thân lập công. Trong đoàn chúng tôi có hai người Tổng giáp võ nghệ tinh tường, có thể giúp ích cho tướng quân sau này được. Xin tướng quân vui lòng thu nhận.
Chương Bình cho gọi hai người Tổng giáp đến hỏi:
– Hai ngươi tên gì?
Bẩm tướng quân, chúng tôi là phường săn ở quận Phổ An, một người tên Diêu Long, một người tên Ngân Vũ Vì Hán vương bắt phu tu bổ Sạn đạo, không có người trông coi, nên bản quan bắt hai tôi làm Tổng giáp. Không ngờ, lúc đưa phu đến nơi, thấy Sạn đạo gian nan, công việc trăm phần cực nhọc, đã không cơm ăn, lại bị đánh đập tàn nhẫn. Chúng tôi không dám trốn về bản quận nên phải đến đây tình nguyện theo tướng quân lập thân, chờ lúc thiên hạ thái bình sẽ trở về quê quán.
Chương Bình lại hỏi:
– Vì sao Hán vương lại dùng Hàn Tín làm Ðại tướng, các ngươi có biết chăng?
Bẩm tướng quân, Hàn tín có tánh khoe khoang được Tiêu Hà phục tài tiến cử, và Hán vương nghe theo lời Tiêu Hà trọng dụng. Thực ra, tướng sĩ không ai phục cả. Chính Phàn Khoái cũng đem lòng căm giận mà chẳng dám nói ra. Lúc này Hán vương cũng vì lẽ đó mà bối rối lắm.
Chương Bình nghe hai người nói đúng với lời đồn đãi nên tin lời thu dụng ngay.
Hai người từ khi đắc dụng, tỏ ra tận tụy hơn người.
Mọi việc được giao phó đều thi hành rất chu đáo. Bởi vậy, Chương Bình rất yêu dùng. Chỉ trong một tháng đã cho hai người làm chức Ðại Kỳ Bài việc lớn nhỏ đều đem ra bàn luận.
Giữa lúc ấy Phạm Tăng đang ở Bành Thành, một hôm xem thiên văn thấy phương Tây Nam vượng khí ngất trời, các vì sao sáng đều chầu về phía ấy, biết là họ Lưu đang hưng ở Hán Trung. Lại nghe tin Hàn Tín bỏ Sở về Hán được trọng dụng, lòng rất lo lắng.
Kế có tin các nước chư hầu lăm le nổi dậy, nhất là nước Tề, binh thế mạnh lắm. Phạm Tăng liền vào triều, đem các việc lợi hại bày tỏ với Bá vương.
Bá vương đòi Quí Lương và Quí Bằng đến bảo:
– Hai người hãy đem ba nghìn quân sĩ thẳng tới Phế Khâu, hội với Ung vương, phòng cửa Tản Quan, và tuần tiểu các nơi hiểm yếu đề phòng Hán chúa.
Hai tướng lãnh mệnh đến Phế Khâu vào yết kiến Chương Hàm, chuyển lại lời dặn của Bá vương.
Chương Hàm nói:
– Chúa thượng quá lo xa, Phạm quân sư có tánh sợ địch. Việc này đâu có gì quan trọng mà phải nhọc lòng như vậy?
Bèn thuật lại việc các dân phu nơi Sạn đạo đến đầu hàng cho Quý Lương và Quý Bằng nghe.
Hai tướng đồng nói:
– Cứ như việc này dẫu Hán vương có hưng binh cũng không làm gì nổi! Lâu nay Phạm quân sư nghe tin Hán vương trọng dụng Hàn Tín đem lòng lo sợ. Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng Hàn Tín là kẻ đê tiện, không nuôi nổi thân mình, đi xin cơm ăn, chịu luồn trôn gã bán thịt, nay dẫu làm tướng cũng chẳng ai phục. Và Sạn đạo hiểm trở mười phần, dễ gì tu bổ cho xong.
Chương Hàm cười tít mắt, hối quân đặt tiệc thiết đãi Quý Lương và Quý Bằng.
Trong tiệc, Quý Lương nâng chén nói với Chương Hàm:
– Tuy chúng ta không cần lo lắng, song lệnh Bá vương đã truyền, chúng ta cũng nên điều bát nhân mã, lập thành đồn trại cho có hình thức để khỏi bị khiển trách.
Chương Hàm nghe theo, hến viết hịch truyền các quản hạt lưu tâm phòng giữ, và viết thư gởi dặn Chương Bình chớ nên trễ tràng.
Giữa lúc đó, nơi Hán Trung, Hàn Tín chuẩn bị quân mã đã xong, xin với Hán vương chọn ngày xuất quân.
Tướng sĩ hay tin đều ngơ ngác bảo nhau:
– Sạn đạo chưa tu bổ xong mà Nguyên soái chọn ngày khởi binh thì không biết phải đi lối nào?
Ai nấy đều hồ nghi, nhưng không dám hỏi.
Hán vương nghe Hàn Tín xin thỉnh giá xuất chinh, liền đòi Tiêu Hà vào hỏi:
– Phàn Khoái sửa sang Sạn đạo chưa xong, Hàn Nguyên soái lại xin xuất quân là ý làm sao?
Tiêu Hà cũng không biết được, xin phép sang dinh Hàn Tín để hỏi cho tường tận.
Tiêu Hà đến nơi, Hàn Tín vội vàng mũ áo ra đón chào.
Tiêu Hà theo Hàn Tín vào thính đường, hỏi nhỏ:
– Nguyên soái vừa xin thỉnh giá xuất chinh, Chúa thượng rất nghi ngờ về việc Sạn đạo chưa làm xong, không biết quân sĩ phải đi lối nào, nên sai tôi đến hỏi Nguyên soái.
Hàn Tín mỉm cười nói:
– Thừa tướng khéo giả vờ hỏi tôi. Trước kia Tử Phòng đốt Sạn đạo tất đã tìm ra lối khác rồi. Việc ấy lẽ nào Thừa tướng không biết đến.
Tiêu Hà ngập ngừng nới:
– Tôi cũng biết, nhưng không rõ lắm. Và lại Chúa thượng thấy Nguyên soái sai Phàn Khoái đi sửa Sạn đạo, đem lòng nghi hoặc, xin Nguyên soái nói rõ phương lược để Chúa thượng an tâm.
Hàn Tín nhìn quanh, thấy không có ai, liền kế tai nói nhỏ với Tiêu Hà:
– Ðó là cái kế giả danh đi sửa Sạn đạo cho bọn Chương Hàm không phòng bị. Chúng ta lẻn đi lối Trần Thương, chỉ trong năm ngày có thể đến Tản Quan được. Chừng ấy Chương Bình dẫu có cánh cũng không thoát khỏi tay ta. Không cần mất một mũi tên cũng lấy được Tản Quan rồi. Ngu ý định thế, xin Thừa tướng về tâu lại với Chúa thượng.
Tiêu Hà mừng rỡ liền trở về tâu với Hán vương.
Hán vương nghe xong, lòng rất hân hoan, cho là diệu kế ; liền truyền lệnh văn vũ sắp sửa xa giá Ðông chinh.
Hôm sau, Hàn Tín đến giáo trường, kiểm điểm nhân mã, tất cả hơn bốn mươi lăm vạn, chia làm bốn đại đội.
Lại sai nha tướng Tôn Hưng đến thay cho Phàn Khoái đôn đốc việc sửa Sạn đạo, và chỉ để ở đấy ba nghìn dân phu mà thôi, còn bao nhiêu rút về điều dụng.
Trong bốn đạo quân, Phàn Khoái thống suất đội thứ nhất, đi tiên phong, đem theo tám viên bộ tướng, gặp núi mở đường, gặp suối bắc cầu, gặp khó khăn phải phi báo cho hậu quân biết.
Chu Anh thống suất đội quân thứ hai, đem theo mười viên kiện tướng, thấy đạo tiên phong thắng thế thì thúc quân, thấy thất bại thì tiếp ứng. Nếu gặp việc nguy cấp phải báo cho hậu quân biết.
Hàn Tín bản thân thống lanh đội quân thứ ba, đem theo bốn mươi viên kiện tướng. Trong đó lại chia ra làm bốn đội nhỏ, tiến thoái theo hiệu lệnh đã định.
Sau cùng, là đội quân thứ tư do Hán vương cùng các quan văn vũ thống lĩnh. Hàn Tín lại sai Phó Khoan và Chu Xương giám phu để hộ giá.
Ðiều bát xong, Hàn Tín mời Hán vương ngự xa giá ra nơi đồi cao, để xem lễ xuất quân.
Hán vương thấy quân dàn theo chín cung, bốn tượng, tinh kỳ rực rỡ, hiệu lệnh nghiêm minh, tùy theo tài sức của mỗi người mà dùng, lòng rất cảm phục.
Hàn Tín bước đến trước xa giá tâu:
– Hạ thần xin đem quân đi trước hai ngày. Ðại vương sẽ ngự giá theo sau. Qua khỏi cửa quan hạ thần xin nghênh tiếp.
Hán vương nhậm lời, Hàn Tín ra lệnh ba quân lên đường tấn phát:
Hai hôm sau, Hán vương xa giá lên đường. Nhân dân già trẻ dắt nhau ra nơi vệ đường lạy mừng tâu:
– Chúng tôi sinh trưởng ở Bao Trung, chưa lúc nào được xem binh tướng hùng mạnh như vầy.
Hán vương hớn hở hỏi Tiêu Hà:
– Trước đây ta đã truyền cho Thừa tướng tập hợp các bô lão để hiểu dụ, chẳng hay Thừa tướng đã làm cái chuyện đó chưa?
Tiêu Hà tâu:
– Muôn tâu Ðại vương, mấy hôm nay bá tánh thấy Ðại vương sắp sửa Ðông chinh, đoán rằng Ðại vương thế nào cũng lấy Hàm Dương, đóng đô ở đó, nên đem lòng mến tiếc, cùng nhau rủ đến tỏ lòng ái mộ. Hiện nay đủ mặt cả ở trước đường.
Hán vương nói:
– Nếu vậy Thừa tướng truyền chỉ cho họ đến đây.
Tiêu Hà lãnh mệnh, bước ra truyền chỉ. Dân chúng ùa nhau kéo đến đứng vòng quanh xa giá chật mạch, một hàng dài ước độ vài dặm đường.
Hán vương bước xuống xe. Một bô lão thay mặt bước đến quỳ xuống đất tâu:
– Tâu Ðại vương, từ khi Ðại vương đến đất Bao Trung, mưa thuận gió hòa, muôn dân lạc nghiệp, ngoài đường không ai nhặt của rơi, trong nhà tối không cần đóng cửa. Thật là cảnh tượng đời Nghiêu, Thuấn thuở xưa. Chúng tôi chưa có dịp đền đáp. Nay Ðại vương kéo quân chinh phạt phương Ðông chắc là nhất cử công thành biết thuở nào dân Bao Trung chúng tôi còn thấy mặt long nhan nữa.
Vị bô lão vừa dứt lời, dân chúng đều phục xuống đất khóc òa. Tiếng khóc vang ra xa hơn năm dặm.
Hán vương cũng động lòng rơi lệ, nói:
– Ta vì muốn cho thiên hạ thoát khỏi ách bạo tàn của Bá vương, nên phải xa dân chúng Bao Trung này. Lòng ta thực không nỡ. Nay ta để Thừa tướng Tiêu Hà ở lại đây bảo bọc, giữ việc trị an cho muôn dân.
Dân chúng đều giơ tay reo to:
– Nếu được Tiêu Thừa tướng ở lại đây, thật là hành phúc cho dân chúng tôi lắm.
Hán vương sai viên quan cận thần đọc lời hiển dụ.
Dụ rằng:
Xưa đấng minh vương trị dân cột lấy nhân nghĩa làm đầu, trước hết phải nặng về giáo hóa. Ta từ khi đến đất này, sớm tối chăm lọ trau dồi đạo đức cốt đem cái gương ấy cho trăm họ noi theo. Vậy nay hiểu dụ cho ai nấy biệt, trong đời sống không có gì quý hơn là đạo đức.
Ðạo đức giúp cho loài người tạo một đời sống tươi đẹp tuyệt vời. Một nhà có gia trưởng, một làng có hương trưởng.
Làm gia trưởng phải dạy bảo con em, tôn trọng nghĩa nhân, thấm nhuần đạo lý. Cha tỏ lòng nhân, con đội chữ hiếu, anh thuận, em kính, lấy lễ giáo làm phương châm, đó là hạnh phúc của gia đình. Làm hương trưởng phải biết thương dân, phải mưu cơm áo cho mọi người, khuyến khích nghề nghiệp, sĩ, nông, công, thương, đều là những nghề quí hóa! Sĩ thì tư minh nghĩa lý, chăm chỉ học hành, nông thì lo cày cấy cho thóc lúa dồi dào, công thì phải chuyên nghề nghiệp, tập luyện cho tinh, thương thì phải thật thà lấy chữ tín làm danh dự. Như thế, thôn xóm tất yên vui, ai ai mà không lạc nghiệp. Còn như muốn được an cư, mỗi người phải tự coi mình có trách nhiệm với lệ luật. Chớ cờ bạc, dâm đãng, chớ ganh tị kiện cáo nhau, chớ trộm cắp rượu chè. Mọi quyền lợi cá nhân đều đặt dưới tình thương nhân loại.
Như thế phong tức sẽ thuần mỹ, trăm họ thái bình, đó là hạnh phúc của làng.
Mấy lời truyền dụ, bá tánh phải ghi lòng. Nay dụ. “
Lúc đó là đầu tháng tám, năm ất vị, Ðại Hán nguyên niên.
Hán vương truyền dụ xong, nói với Tiêu Hà:
– Thừa tướng ở lại Bao Trung vỗ an trăm họ, giúp dân cày cấy làm ăn, lấy nhân đức thay cho hình phạt, gần người hiền, xa kẻ dữ, chứa sẵn lương thực để cấp cho quân lính. Ðó là trách nhiệm của Thừa tướng.
Tiêu Hà cúi lạy, lãnh vương mệnh.
Hán vương truyền lệnh ba quân lên đường, nhắm hướng Ðông tiến phát.
Nhắc lại Hàn Tín lãnh ba đội quân đi trước, ra khỏi bao Trung, không theo lối Sạn đạo, mà theo đường nhỏ đến Cô Vân, vòng theo chân núi Lưỡng Cước.
Tuy khúc đường hiểm hóc, song nhờ Phàn Khoái đi trước đốn cây xẻ đường, bắc cầu, chẳng bao lâu đã đến sông Hán Khê.
Nơi đây, đàng sá rộng rãi nhơn, Hàn Tín nói với chư tướng:
– Ngày trước tôi một người một ngựa, đang đêm trốn đến sông Hán Khê này, gặp khi nước đang dâng cao, không sang sông được Tiêu Thừa tướng đuổi theo kịp, thỉnh tôi về, nếu không hôm nay tôi đã ở Hoài Âm rồi.
Chư tướng đều nói:
– Ðó thật là lòng trời muốn giữ Nguyên soái ở đây phò Hán diệt Sở đó. Vậy xin lưu lại nơi đây một vật kỷ niệm.
Hàn Tín liền sai dựng một tấm bia đá trên đỉnh núi, khắc tám chữ: “Hán Thừa tướng thỉnh Hàn Tín chi lộ “.
Ðoạn truyền quân sĩ sang sông thẳng tiến.
Ðường tuy rộng, nhưng đá gập ghềnh, quanh co, tướng sĩ đều phải xuống ngựa đi bộ, lúc lội suối, lúc trèo đèo lúc leo ghềnh, khi xuống dốc, thật vất vả.
Mặc dầu khổ cực. song quân sĩ phần nhiều ở phương Ðông, nay được dịp hồi hương, lòng hân hoan ấy thắng mọi gian lao.
Ðoàn quân đang ồ ạt tiến bước, bỗng có quân tiền đội trở lại báo:
– Bẩm Nguyên soái, phía trước, nơi rừng rậm, có một con rắn độc dài hơn hai trượng, hai mắt long lanh, miệng há đỏ chót, trông rất ghê sợ, đang nằm giữa đường, xin Nguyên soái liệu định.
Hàn Tín nói:
– Rắn chặn ngang đường chỉ nên sai cung thủ dùng tên độc mã bắn, còn các pháo thủ phải chuẩn bị sẵn để phòng cứu nguy.
Chúng quân được lệnh, cung tên sẵn sàng, kéo nhau núp nơi khe núi để mưu hạ thủ rắn độc.
Giữa lúc đó, có một viên tướng từ trung quân bước ra, nói với Hàn Tín:
– Một con rắn chặn đường có gì mà Nguyên soái phải dùng nhiều người như thế! Cho đến con Giao Long dưới bể, một mình tôi cúng có thể giết được kia mà!
Ba quân nghe nói giật mình, tranh nhau đến xem kẻ nào đã táo bạo nói câu ấy.
Viên tướng vừa xin đi chém rắn là Tín Vũ Hầu Ngân Hấp.
Ngân Hấp vốn là trang dũng tướng, đem thân phò Hán vương lâu nay, nhưng chưa có dịp trổ tài.
Hàn Tín thấy Ngân Hấp thân hình vạm vỡ, ăn nói khí phách, cả mừng, nói:
– Tướng quân tuy có sức mạnh, song nơi đây rừng núi âm u, khí hậu độc địa, loài rắn đó lại nguy hiểm, tướng quân phải đề phòng cho lắm mới được.
Nói xong rót ba chén rượu thưởng Ngân Hấp, rồi sai bộ tốt dẫn đường đưa Ngân Hấp đến nơi có rắn độc.
Lúc ấy trời đã mờ tối, vành trăng chênh chếch đỉnh non Ðông, Ngân Hấp trông xa nơi khe núi, dưới ánh sáng vàng nhạt thấy hai đốm lửa to bằng cái thúng chói lòa.
Càng đến gần, khí tanh ngạt mũi, hơi lạnh buốt xương. Mấy tên bộ tốt chỉ chỗ ánh sáng nói với Ngân Hấp:
– Hai đốm đỏ chói lòa đó là hai mắt của rắn độc. Nếu ta đến gần sẽ bị nó thở hơi ra như khói. Hơi độc ấy ai thở vào cũng bị té xỉu chết ngay, xin tướng quân liệu định.
Ngân Hấp nổi giận cầm gươm nhảy đến khe, hét lên một tiếng như sấm.
Rắn độc cất đầu lên cao nghêu, uốn mình lướt tới, dài thườn thượt đến mấy trượng, miệng phun khói mù mịt.
Ngân Hấp lách mình sang một bên, nhường cho rắn đến gần. Rắn độc vừa há mồm chực đớp, bị Ngân Hấp chém một nhát đứt làm hai đoạn, đầu rơi xuống suối, máu tuôn ồng ộc như thác đổ.
Quân sĩ vỗ tay reo hò. Hàn Tín dẫn chư tướng đến xem, ai nấy đều kinh khủng, khen Ngân Hấp là kẻ phi thường.
Chư tướng hỏi Hàn Tín:
– Con rắn dài hơn thế này chắc có lẽ đã sống hơn trăm năm nay?
Hàn Tín nói:
– Ðời thượng cổ, núi Côn Lôn chu vi ba vạn dặm, thế mà có một con rắn quấn khắp vòng núi. Ấy vậy, trước kia loài thú dữ còn đáng sợ hơn thời bây giờ.
Tướng sĩ nghe nói le lưỡi, lắc đầu.
Hàn Tín truyền tấn binh. Ði gần đến núi Thái Bạch, Hàn Tín gọi Lư Quán đến bảo:
– Lúc trước tôi qua đây có gặp một người tên Tân Kỳ, kết làm anh em, hẹn ngày tái ngộ. Người ấy có hàng cơm dưới núi, phiền tướng quân đến báo trước cho Tân Kỳ hay, ta sẽ đến thăm viếng để tỏ tình tri ngộ.
Lư Quán lĩnh mệnh ra đi. Một lúc lại trở về nói:
– Dưới núi Thái Bạch có độ vài mươi nóc nhà..
Nhưng tháng bảy vừa rồi bị một trận lụt tràn ngập, dân cư đã rời bỏ nơi ấy, dời đến ở phía núi bên Bắc, chưa rõ Tân Kỳ có ở đấy hay không.
Hàn Tín thở dài, kéo quân đèn chân núi Thái Bạch quả thấy cửa nhà xiêu vẹo, không còn một bóng người, bốn bề hoang lạnh đìu hiu.
Ðoàn quân lại tiến bước. Vừa qua khỏi mấy cụm núi nhỏ, bỗng có quan tuần tiễu chạy về báo:
– Trước mặt có một tráng sĩ đang đuổi một con mãnh hổ chạy vòng chân núi.
Hàn Tín vội cưỡi ngựa đến gần xem, thấy tráng sĩ đầu đội mũ da hổ, mình mặc áo da beo, chân đi giày da báo, tay cầm cây đinh ba, đuổi theo một con cọp rất lớn.
Cọp bị đuổi, lồng lên chạy, vừa lúc gặp quân sĩ kéo đến, cọp định vồ lấy vài tên. Nhưng tráng sĩ lanh tay, phóng đinh ba trúng ngay giữa trán, cọp té quy xuống, nằm giẫy đành đạch.
Hàn Tín thấy tráng sĩ chính là Tân Kỳ, liền truyền một bộ tướng chạy đến, gọi lớn:
– Hỡi tráng sĩ, có Hàn Nguyên soái đến tìm, xin tráng sĩ mau mau yết kiến.
Tân Kỳ nghe gọi vội vàng lội qua suối, đến chỗ gò cao, trông thấy Hàn Tín liền sụp lạy.
Hàn Tín cầm tay đỡ dậy, Tân Kỳ nói:
– Tiểu đệ nghe Nguyên soái sửa soạn chinh Ðông lại sai người tu bổ Sạn đạo, ngỡ là Nguyên soái đi đường ấy nên sắp sửa vào Hán Trung ứng hầu, nhưng vì chưa được lệnh mẫu thân nên còn nấn ná. Nay may gặp Nguyên soái đến đây, thật vạn hạnh.
Hàn Tín nói:
– Từ khi cùng hiền đệ giã biệt, ta mải lo việc nước không viết thư thăm được, thật có lỗi. Nay nhân đi ngang qua đây cố tìm đến thăm cho thỏa tình mong ước. Vậy nhà hiền đệ ở nơi nào?
Tân Kỳ nói:
– Nay hiền huynh đã làm Nguyên soái Hán triều, nhà tiểu đệ nghèo nàn, mái tranh cột sậy, e đến đó mất đi thể diện chăng?
Hàn Tín nói:
– Ðã là anh em cố cựu, ai còn kể nghèo sang. Xin hiền đệ đừng nghĩ như thế mà phụ lòng nhớ mong của ta!
Tân kỳ nói:
– Hiền huynh đã có lòng chiếu cố. vậy cứ đi thẳng lối này, đến chân núi đá kia là nhà của tiểu đệ.
Hàn Tín đem vài mươi tên quân tùy tùng, theo Tân Kỳ. Ðối ngựa song song qua mấy chòm cây rậm, đến một vùng nhà độ vài mươi nóc. Trong đó có một ngôi nhà có vẻ sạch sẽ rộng rãi hơn, Tân Kỳ xuống ngựa, đón Hàn Tín vào rồi mời mẹ và gọi vợ ra chào.
Hàn Tín lấy một trăm lạng vàng trao cho Tân Kỳ làm lễ chúc thọ thân mẫu. Tân Kỳ không nhận.
Hàn Tín nói:
– Ðó là lộc của vua ban, ta thành tâm kính dâng lão mẫu, hiền đệ nên vì ta nhận lấy, giao cho đệ phụ phụng dưỡng. Còn hiền đệ nên theo ta đi phò vua lập công, một mai tên ghi sử sách, như thế mới khỏi uổng tấm thân nam tử
Tân Kỳ vâng lời, nhận lấy vàng trao cho vợ, và pha trà khoản đãi.
Hàn Tín lại nói:
– Chỗ này rừng thiêng nước độc, hiền đệ không nên lưu gia quyến nơi đây trong lúc tòng quân. Ta sẽ viết thư đưa về Nam Chính bẩm với Tiêu Thừa tướng cho người đến rước về đó cấp dưỡng, hiền đệ mới yên lòng theo ta chinh phạt.
– Chúng ta đã kết nghĩa anh em, thì gia quyến của hiền đệ là gia quyến của ta, cần gì phải bận tâm như thế.
Nói xong viết thư giao cho quan Quân Chính, đưa gia quyến Tân Kỳ về Nam Chính.
Tân Kỳ thu xếp hành trang để kịp ngày ra đi.
Hàn Tín nói:
– Ðây đến Tản Quan chỉ còn hai ngày đường nữa mà thôi, hiền đệ quen thuộc lối, vậy hãy nhập vào đoàn hướng đạo, giúp Phàn Khoái tiến đến Tản Quan gấp.
Hàn Tín lại gọi Phàn Khoái và Hạ Hầu Anh đến dặn:
– Hạ Hầu tướng quân tìm một nơi cho quân sĩ nghỉ ngơi chớ nên kinh động, đợi khi tiền quân qua được cửa quan rồi bấy giờ sẽ sung chức Tiên phong vượt sang Phế Khâu đánh với Chương Hàm. Còn Phàn tướng quân thì hiệp với Tân Kỳ lãnh đội quân thứ hai làm cứu viện.
Hai tướng tuân lệnh kéo quân ra đi.
Hàn Tín lại sai quân thám thính, biết được quân Hán vương mới vừa đến Hán Khê, bèn sai người đến ngã ba đường nơi chân núi để tìm mả tiều phu lúc nọ.
Quân sĩ tuân lệnh, tìm kiếm khắp nơi, rồi trở về báo:
– Chỗ dốc núi bên đường kia có một mô đất, chắc là mộ của người ấy.
Hàn Tín liền sai chặt gỗ, đóng quan tài, và sắm đồ khâm liệm, cải táng cho tiều phu, bên trên có dựng tấm bia, để mấy dòng chữ:
” Ngày mồng bảy tháng tám, mùa thu năm ất vị tức là năm thứ nhất nhà Ðại Hán, quan Phá Sở Ðại Nguyên soái Hoài Âm Hàn Tín vì nghĩa sĩ tiều phu lập bia… “
Ðoạn lập miếu, cắt người ở đó phụng thờ, bốn mùa hương khói.
Nhắc qua việc bên Sở, quan trấn thủ Tản Quan là Chương Bình từ khi được hai tướng Diêu Long và Ngân Vũ đem dân phu đến đầu hàng, ngày ngày sai quân lính đi thám thính xem Sạn đạo tu bổ đã xong chưa.
Một hôm, có quân về báo:
– Sạn đạo vẫn chưa tu bổ xong, mà người đốc công nay không phải Phàn Khoái nữa.
Chương Bình hỏi:
– Ai đến thay cho Phàn Khoái vậy?
Quận sĩ thưa:
– Viên nha tướng tên Tôn Hưng, còn dân phu mỗi ngày một ít đi, việc Ðông chinh cũng không nghe thấy động tĩnh gì nữa.
Diêu Long nói:
– Người Hán Trung chỉ thị uy thế thôi, chứ tài nào thoát ra khỏi Bao Trung được?
Ngân Vũ nói:
– Mấy năm nay Bao Trung được mùa, dân tình sung mãn, Hán vương chỉ hưởng lạc, đâu còn nghĩ đến việc lớn
Chương Bình nói:
– Cứ xem Hán vương dùng Hàn Tín đủ biết con người thấp thỏi, không có con mắt tinh đời rồi.
Ba người đang bàn luận, bỗng có quân vào báo:
– Phàn Khoái dẫn quân đến cửa quan đốc quân đánh thành.
Chương Bình nghe báo tái mặt, vội vã cấp báo cho Chương Hàm biết để đem quân đến cứu, và bàn với Diêu Long, Ngân Vũ:
– Phàn Khoái đã đến đây, ta phải ra quân cự chiến.
Vậy hai ngươi đốc quân canh bốn mặt thành cho Nghiêm ngặt.
Hai người đồng thanh nói:
– Xin tướng quân cứ an lòng. Chúng tôi nguyện tận lực
Chương Bình dẫn ba ngàn quân xuống cửa Ðông, thấy quân Phàn Khoái đội ngũ chỉnh tề, giáo gươm sáng chói, đàng sau có Tân Kỳ áp hậu, sát khí đằng đằng.
Phàn Khoái ngồi trên ngựa, mặt hầm hầm như than lửa đỏ, thấy Chương Bình kéo quân ra, hét lớn, nói:
– Bọn bây đem hai mươi vạn quân Tần đầu Hạng Vũ để cho Hạng Vũ chôn sống cả. Nay lại còn tham danh làm tướng, chẳng hổ lắm sao?
Chương Bình cũng quát lớn nói:
– Hán vương nhà ngươi được thụ phong nơi Bao Trung lẽ ra phải an phận chăn dân, giữ đạo chư hầu, cớ sao còn dám phạm đến đất đai ta? Nếu muốn sống phải kéo quân về kẻo hối không kịp.
Phàn Khoái nổi giận, cầm kích đâm thẳng tới.
Chương Bình đưa dao ra đỡ. Giao chiến được hai mười hiệp, Chương Bình đuối sức, quất ngựa bỏ chạy.
Tân Kỳ lập tức xua đạo hậu quân đuổi theo.
Chương Bình chạy vào thành đóng kín cửa lại.
Phàn Khoái và Tân Kỳ đắc thắng thu quân về trại.
Hôm sau, Phàn Khoái dự bị các hỏa pháo, hỏa tiễn, kéo đến dưới thành khiêu chiến.
Chương Bình đóng cửa, có thủ không ra.
Phàn Khoái chẳng biết làm sao, còn đang nghĩ kế thì có tin Hàn Nguyên soái đã kéo quân đến nơi.
Phàn Khoái và Tân Kỳ vội vã ra khỏi trại ba dặm nghênh đón.
Hàn Tín đến cửa Tản Quan, xem xét mọi nơi, thấy được ám hiệu của mình, biết Chương Bình đã trúng kế, đang trọng dụng Diêu Long và Ngân vũ, liền truyền quân đốt hỏa pháo và bắn hỏa tiễn tung vào cửa quan.
Quân canh rối loạn, không dám lên mặt thành chống giữ.
Chương Bình nóng ruột, thân dẫn quân sĩ lên mặt thành.
Lúc đó Ngân Vũ, Diêu Long và một trăm dân phu đầu hàng trước kia, cũng đều cầm giáo lên mặt thành cả.
Hàn Tín giơ roi quất ngựa đến nói:
– Chương Bình? Bá vương nhà ngươi vô đạo giết vua Nghĩa Ðế, bội ước với Hán vương, lòng dân căm phẫn.
Nay ta đem quân đến đây quyết dẹp loạn, trừ đứa hung tàn, cứu muôn dân. Nếu ngươi giác ngộ đầu hàng sẽ khỏi tội chết.
Chương Bình nói:
– Ta đây là quý tộc của Ung vương, làm sao lại hàng đứa luồn trôn thiên hạ.
Chương Bình vừa dứt tiếng thì Diêu Long và Ngân Vũ xông đến bắt Chương Bình trói lại. Một trăm dân phu đều bao quanh, cầm binh khí canh giữ.
Ngân Vũ giơ gươm lên trời nói lớn:
– Hỡi binh sĩ, Hán vương là một minh quân, giàu đạo đức đáng cho chúng ta tôn thờ. Nếu kẻ nào đầu hàng sẽ được thu dụng, kẻ nào chống lại sẽ rơi đầu.
Quân sĩ trong thành thấy chủ tướng đã bị bắt, đều bỏ vũ khí, quì móp xuống đất.
Diêu Long, Ngân Vũ sai mở cửa giải Chương Bình ra.
Hai người này đâu phải ai xa lạ, chính là Chu Bột và Trần Vũ, tướng của Hán Vương. Trước đây Hàn Tín sai Lục Giả đến Sạn đạo bảo Phàn Khoái sai Chu Bột và Trần Vũ giả cách đầu hàng. Ðợi khi Hàn Tín đến thì dùng đá dựng ở cửa quan làm ám hiệu, và lợi dụng lúc Hàn Tín công thành bắt Chương Bình.
Ðó là kế “Minh tu Sạn đạo, ám độ Trần Thương”.
Vì vậy chỉ trong mười hôm, Hàn Tín đã hạ được Tản Quan, đệ nhất kỳ công trong bước đường Ðông chinh của Hàn Tín.
Hàn Tín vào thành, vỗ an trăm họ, rồi sai dọn dẹp các công thự để chờ đón rước Hán vương.
Quân sĩ giải Chương Bình đến, Hàn Tín truyền rằng:
– Ngươi là cháu Chương Hàm, làm quan với Sở, trấn thủ ải này, nay bị bắt đáng lẽ phải chém, song người là đứa đê hèn, dẫu có chém cũng chỉ bẩn gươm, nên ta giao người cho quan Quân Chính quản thúc trong quân để sai khiến. Nếu có hành động nào ngang ngạnh chẳng toàn mạng.
Chương Bình mừng rỡ dập đầu xuống đất lạy tạ, rồi lủi thủi theo quân sĩ bước ra.
Bỗng có tin báo xa giá Hán vương đã gần đến Tản Quan.
Hàn Tín liền đem văn vũ ra khỏi thành mười dặm tiếp đón.
Hán vương thấy hạ được Tản Quan, lòng vui khôn tả truyền chỉ cho Hàn Tín được lên ngựa theo về Tản Quan.
Hán vương nói:
– Tản Quan là chỗ yết hầu của Tam Tần, Nguyên soái không tốn một tên quân mà hạ được, khiến cho Tam Tần nghe tin phải vỡ mật, công ấy thật đáng khen.
Hàn Tín tâu:
– Nay Tản Quan vừa lấy được, Tam Tần chưa kịp phòng bị, xin Ðại vương tạm đình giá lại đây, để hạ thần đem quân đánh Phế Khâu, bắt sống Chương Hàm, thu phục Tam Tần xong sẽ xin nghênh giá. Ðại vương cứ truyền chỉ tiếp vận binh lương, và kíp tu bổ cho xong Sạn đạo để tiện lối đi lại.
Hán vương nhậm lời, truyền định đô nơi Tản Quan, giao cho Hàn Tín xuất quân chinh phạt.
Hàn Tín truyền đem Chương Bình ra, cắt mất một tai, thả cho về Phế Khâu để khích lệ Chương Hàm.
Ngay lúc đó, ở Phế Khâu, Chương Hàm mới vừa được tin Phàn Khoái đánh phá Tản Quan rất gấp.
Chương Hàm thất kinh bàn với các tướng:
– Ta cứ tưởng Sạn đạo chưa làm xong nên Hán vưong không thể nào vượt ra khỏi Bao Trung, ngờ đâu chúng lại kéo đến Tản Quan mau như vậy? Việc đã đến nỗi này, vậy phải báo cho hai xứ Lịch Dương và Ca Nô phòng bị mới kịp.
Nói xong, sai Mã Thông và Tôn Anh điểm binh mã đi cứu Tản Quan.
Bàn bạc chưa xong, bỗng thấy Chương Bình ôm cái tai bị cắt đứt chạy về, khóc lóc, kể lể tự sự.
Chương Hàm toát mồ hôi, than thầm:
– Phạm quân sư trước kia đã có ủy thư tâu với Bá vương: “Nếu không dùng Hàn Tín thì nên giết đi”. Nay để Hàn Tín trốn về Hán, hối sao kịp nữa!
Chẳng bao lâu lại có quân vào báo:
– Quân Hán rầm rộ kéo đến, chỉ xa cách đây mấy dặm.
Chương Hàm tức giận, vỗ án hét:
– Ta thề giết cho được thằng luồn trôn này mới hả giận.
Các tướng bàn:
– Ðại vương chớ nên khinh địch. Hàn Tín có lắm quỉ kế, xem như việc lấy Tản Quan vừa rồi đủ biết thao lược dường nào?
Chương Hàm hét lớn:
– Ta cầm quân ra trận đã hơn ba mươi năm, trải hơn trăm trận, há lại sợ cái thằng bất cố liêm sỉ ấy sao?
Liền cầm thương lên ngựa, khai thành, dẫn quân sĩ ra đấu chiền.
Lúc ấy Hạ Hầu Anh đã đến Phế Khâu trước một hôm, nhưng chưa thấy Chương Hàm động binh nên chưa dám khiêu chiến, truyền quân hạ trại cách Phế Khâu năm mươi dặm để chờ Hàn Tín đến.
Hàn Tín vừa đến nơi, kêu Hạ Hầu Anh dặn nhỏ:
– Chương Hàm là một dũng tướng của nhà Tần trước kia, nếu dùng sức không thắng nổi. Phải dụng mưu mới thành công được. Tướng quân ra trận, phải làm như vậy như vậy.
Hạ Hầu Anh nhất nhất tuân theo, hành động có vẻ thận trọng lắm.
Lúc Chương Hàm kéo quân đến nơi, đã thấy Hạ Hầu Anh dàn quân đợi sẵn hàng ngũ chỉnh tề, gươm đao rợp đất.
Chương Hàm giục ngựa đến hét:
– Chúa ngươi đã được thụ phong nơi Hán Trung, lẽ phải giữ gìn cương thổ, sao lại nghe lời đứa luồn trôn đến đây quấy rối?
Hạ Hầu Anh nói:
– Vua Nghĩa Ðế có ước, ai vào Quan Trung trước thì được làm vua Quan Trung. Chúa ta vào trước, thế mà Hạng Vũ dám trái lời, tự lập lên làm vua, giết vua Nghĩa Ðế đày Chúa ta vào Ba Thục. Thật là vô đạo. Nay ta đem quân vấn tội chúng bay là bọn theo đóm ăn tàn, lẽ phải tự xấu hổ bó mình chịu tội, sao lại dám đối địch?
Chương Hàm nổi giận vung đao đâm tới. Hạ Hầu Anh rước đánh. Vừa được vài mươi hiệp, Hạ Hầu Anh giả thua bỏ chạy về trại. Chương Hàm đuổi theo, Hạ Hầu Anh không vào trại mà rẽ cương cho ngựa chạy ngược lên đỉnh núi gần đó, gọi Chương Hàm, nói:
– Chương Hàm, ngươi có giỏi thì lên đây chúng ta tranh thắng phụ.
Chương Hàm cười lớn, nói:
– Hán tặc! Mi đã thua mà còn phách lối à?
Hạ Hầu Anh múa tít lưỡi gươm đáp:
– Nhà ngươi già rồi, gân cốt suy nhược, đối địch với ta sao lại? Sở dĩ ta bỏ chạy là muốn dụ ngươi lên đây để giết cho quân sĩ hai bên trông thấy rõ chứ đâu phải ta thua ngươi.
Chương Hàm không nén được giận, giục ngựa lên núi cùng Hạ Hầu Anh đấu chiến. Ðánh vừa được mười hiệp, Hạ Hầu Anh lại lui chạy vào rừng thông, Chương Hàm đuổi theo hét lớn:
– Quân phách lối, hãy để cái đầu lại đó cho ta rồi sẽ chạy!
Nhưng Chương Hàm vừa qua khỏi mé rừng, bỗng nghe một tiếng pháo hiệu nổ vang, bên đường một đoàn quân xông ra chân lại.
Chương Hàm thấy tướng cầm đầu đoàn quân ấy là Hàn Tín, nổi giận hét:
– Thằng luồn khố kia! Hôm nay gặp ta mi tận số rồi.
Hàn Tín không thèm đáp lại, cầm kích nhắm ngay đầu Chương Hàm đánh xuống. Chương Hàm né khỏi. Hai bên đánh nhau được mười hiệp, Hàn Tín bỏ chạy, Chương Hàm tức giận đuổi theo. Ðàng sau hai tên bộ tướng của Chương Hàm là Quý Lương và Quý Hằng đốc quân theo kịp, cản lại, nói:
– Xin Ðại vương chớ vào sâu trận địa, e trúng kế Hàn Tín chăng?
Chương Hàm nói:.
– Thằng hèn mạt ấy tài cán gì mà sợ. Ta quyết đuổi theo lấy đầu, dẹp cho xong giống phản loạn. Hai ngươi cứ thúc quân tiếp ứng.
Chương Hàm vừa nói vừa dứt lời, bỗng có quân đến báo:
– Hàn Tín bị trại vương đuổi gấp quá nên cả người và ngựa đều lọt xuống khe núi. Hạ Hầu Anh cùng chư tướng đang tìm cách cứu lên. Nếu Ðại vương đến ngay thì có thể bắt sống Hàn Tín được.
Chương Hàm lấy làm lạ, dắt Quý Lương và Quý Hằng lên chỗ cao xem, quả thấy trước mặt có một hang núi đầy bụi rậm. Trên sườn núi có một số quân sĩ đang lấy dây thòng xuống.
Chương Hàm đắc ý nói:
– Phen này thằng luồn khố tận mạng rồi.
Liền đốc quân nhắm hang núi ấy tiến tới. Nhưng khi đến nơi không thấy tên quân Hán nào cả xung quanh toàn cây cối và đá dựng chập chồng.
Lúc bấy giờ quân sĩ của Chương Hàm ùa tới quá đông không làm sao trở lại được nữa. Cửa hang chật, người ngựa lộn xộn chẹt lối đi. Chương Hàm còn do dự, thì trên núi có tiếng pháo nổ, tiếp theo đó ngọn lửa, chẳng biết từ đâu bốc cháy ngất trời, sau trước khói tỏa ngùn ngụt.
Quân sĩ thất kinh, lui tới không thông, đạp nhau chạy, lớp chết, lớp gãy chân, tiếng kêu vang cả góc trời.
Quý Lương và Quý Hằng nới với Chương Hàm:
– Phía trước rừng này có con đường hẻm dẫn đến Phượng Lĩnh, xin Ðại vương theo đường ấy lánh nạn may ra khỏi chết.
Chương Hàm theo.lời, cùng hai tướng bỏ ngựa chạy bộ đến Phượng Lĩnh, người người mệt gần ngất hơi.
Ngồi trên tảng đá, nghỉ được một lúc, Chương Hàm nói với hai tướng:
– Chỗ này không thể ở lâu được. Chúng ta không khí giới không còn ngựa, nếu quân Hán đuổi theo lấy gì tự vệ. Chi bằng chúng ta cố gắng sang bên kia núi, tìm một cái đồn nghỉ đỡ, sáng máu sẽ liệu.
Quý Lương nói:
– Ðại vương nghĩ thế cũng phải, song biết đường nào đi bây giờ.
Lúc đó trời đã tối, ngoài ánh sáng của ngọn lửa bọc cháy nơi hang núi, ánh trăng cũng đã bắt đầu soi tỏ những khóm cây cao. Quý Lương đưa mắt nhìn xa rồi chỉ tay về phía trước nói:
– Chỗ hốc núi kia có ánh đèn, chắc có nhà người ở, chúng ta lần mò đến đó hỏi thăm.
Ba người mò mẫm dắt nhau đến chỗ có ánh đèn. Ðó là điếm Ðại Trấn, có hơn ba trăm nhà ở, nhưng đêm khuya dân chúng đóng chặt cửa, ngủ yên phăng phắc.
Gần đó, đại có một cái miếu, ba người lần vào, nằm trên bệ đá nghỉ chân.
Quá nhọc mệt, không ai còn muốn màn bạc gì nữa cả và họ ngủ thiếp đi lúc nào không hay biết.
Gần đến nửa đêm, bên ngoài có tiếng vó ngựa bước rộn ràng, Quý Lương giật mình thức dậy, dòm qua khe cửa sổ thấy một toán quân đang đi lùng quanh nơi đấy.
Một người trong bọn nói:
– Cửa hang kia có lửa, ta chớ nên khinh tiến.
Không biết Ðại vương ở nơi nào, hay đã bị thương trong đám loạn quân rồi?
Quý Lương nhận ra tiếng người Sở, mừng rỡ gọi Chương Hàm và Quý Hằng dậy, mở cửa chạy ra.
Thì ra đó là Sở tướng Mã Thông.
Mã Thông thấy Chương Hàm mừng rỡ nói:
– Khi Ðại vương đuổi theo Hán tướng, Chương Bình đoán biết thế nào. Ðại vương cũng mắc mưu Hàn Tín nên sai tôi đem một toán quân cứu ứng. Tôi lãnh một nghìn quân đi đến giữa đường thấy nơi ven núi lửa cháy ngất trời, biết là Ðại vương đã mắc kế, nhưng không dám tiến, phải vòng sang mé Tây Nam để phòng ngừa. Trời tối, không biết Ðại vương ở đâu, cho quân Sĩ bủa tìm khắp nơi, may gặp Ðại vương nơi đây, thật may mắn.
Mã Thông sai quân sĩ nấu cơm đem dâng cho Chương Hàm ăn xong thì trời đã rực sáng. Chương Hàm cùng các tướng lên ngựa, theo Mã Thông quanh vế lối cũ.
Ðến Phế Khâu, Chương Bình và Tôn An hay tin đem quân ra tiếp đón vào thành.
Trận ấy, tiền quân của Chương Hàm chết quá nửa, chỉ còn vài nghìn người sống sót trở về, nhưng phần nhiều bị thương khá nặng.
Chương Hàm hối hận, truyền quân đóng chặt cửa thành để an dưỡng. Kế đó, sai người đến hai xứ Lịch Dương và Cao Nô xin điều binh cứu viện.
Chương Hàm phân phối công việc vừa xong thì có tin Hàn Tín kéo quân đến vây thành.
Chương Hàm tức giận vỗ bàn hét:
– Trước đây ta làm tướng nhà Tần, uy đanh lừng lẫy trong sáu nước ai nghe đến danh ta cũng đều khiếp vía. Nay đường đường một vương vị, đứng đầu Tam Tần, há lại sợ thằng luồn trôn, phải đóng cửa thành cố thủ sao? Ba quân hãy chỉnh tề đội ngũ mở cửa thành ra đánh. Ta quyết sống thác với Hàn Tín phen này.
Quý Lương và Quý Hằng can:
– Ðại vương không nên nóng nảy. Hàn Tín lợi dụng sự nóng nảy của Ðại vương mà thủ thắng, xin Ðại vương cứ yên tâm tịnh dưỡng vài ngày rồi sẽ liệu.
Chương Hàm mặt vẫn hầm hầm, ngồi đứng không an. Bên ngoài có quân vào báo:
– Quân của Hàn Tín đứa nằm đứa ngồi, có đứa cởi áo quần chỉ vào thành mắng nhiều lời rất thô bỉ.
Chương Hàm nghiến răng, dắt chư tướng lên vọng địch lầu trông ra, quả nhiên thấy quân Hán làm đủ trò ngáo nghễ.
Chương Hàm nói nhỏ với các tướng:
– Hàn Tín đắc thắng trận vừa qua, nay đã kiêu ngạo chẳng khác Hạng Lương lúc trước ở Ðịnh Ðào. Ðó là triệu chứng bại vong của Hàn Tín rồi.
Quý Lương nói:
– Người ta lúc thắng trận ai cũng kiêu. Hễ thắng mà kiêu là điều tối ky trong binh pháp. Nếu Ðại vương áp dụng phương pháp phá Sở trước kia tất Hàn Tín không tránh được cái nạn Ðịnh Ðào.
Tôn An nói:
– Hạng Lương trước kia ít mưu lược, nay Hàn Tín nhiều quỉ kế, Ðại vương phải suy tính cho kỹ chớ khinh thường…
Chương Hàm mỉm cười nói:
– Hôm qua vì ta cố thắng nên mới mắc lầm gian kế. Hàn Tín đâu có gì đáng gọi là quan trọng. Cứ xem như hàng ngũ quân Hán trước mặt đó, cũng biết quân lực chẳng ra gì.
Chương Hàm xuống thành, truyền chư tướng điểm quân, dự bị sẵn sàng để tối đến đi cướp trại Hán.
Lại gọi Quý Lương và Quý Hằng đến dặn:
– Hai tướng đem ba nghìn quân ra Nam môn tuần tiễu. Ta sẽ đem một vạn quân ra cửa Tây cướp trại địch.
Còn Chương Bình vì bị thương nên để lại giữ thành.
Lúc bấy giờ Hàn Tín liệu chừng việc khiêu khích mình đã thành công liền sai Phàn Khoái và Sài Vũ đem ba ngàn quân ra đóng nơi phía Bắc, Hạ Hầu Anh và Chu Bột đem ba nghìn quân đóng ở phía Nam, Ngân Hấp đem năm ngàn quân phục ở tả trại, Lư Quán và Quán Anh đem năm ngàn quân phục ở hữu trại, còn mình kéo hết đại binh lùi ba mươi dặm hạ trại.
Hàn Tín phân phối xong thì trời cũng vừa tối. Bên kia, Chương Hàm cũng đã kiểm điểm quân mã, bố trí sẵn sàng chỉ chờ đến canh ba là mở cửa thành kéo ra.
Thời gian âm thầm trôi trong lo lắng. Trống canh ba vừa điểm, quân Chương Hàm im chiêng lặng trống, người ngậm thẻ, ngựa bó lạc, kéo ra.
Quý Lương ra cửa Bắc, Mã Thông ra cửa Nam, Chương Hàm ra cửa Tây. Cả ba đạo quân nhất tề kéo đến trại Hán một lượt.
Nhưng khi đến nơi, thấy dãy trại không người, bốn bề vắng ngắt. Chương Hàm thất kinh, biết mình đã trúng kế, liền truyền lệnh lui ra.
Hời ôi! Hùm thiêng đã sa bẫy, còn hối sao kịp nữa?
Một tiếng pháo lệnh nổ vang, hai bên quân phục nổi dậy đánh ập vào tên bắn như mưa. Quân Chương Hàm lớp chết, lớp bị thương, tranh nhau bỏ chay.
Chương Hàm nhờ mấy viên kiện tướng bảo vệ, thoát ra được. Nhưng dọc đường lại bị một mũi tên, suýt té xuống ngựa. Tả hữu phải xúm lại đỡ và dìu đi.
Cũng trong lúc ấy, Quý Lương ra cửa Bắc, đi chưa đến trại địch đã bị đạo quân của Phàn Khoái đón lại đánh. Quý Lương bất ngờ chống cự không lại phải bỏ chạy. Phàn Khoái vì chưa có tướng lệnh nên không dám đuổi theo.
Còn Mã Thông và Tôn An ra cửa Nam, đi đến giữa đường Tôn An nói với Mã Thông:
– Hàn Tín lắm quỉ kế, tôi e Ðại vương lầm mưu! Chúng ta không khéo nguy mất. Chi bằng cứ tạm đóng quân lại đây nghe động tinh đã. Nếu quả quân Hán không đề phòng, chừng ấy chúng ta tiến binh cũng chưa muộn.
Còn nếu quân ta bị thua, thì ta rút về theo đường lớn Phế Khâu để ứng cứu. Như vậy lưỡng toàn hơn.
Mã Thông nói:
– Ông lo xa như thế cũng phải? Nhưng nếu Ðại vương hỏi đến cái tội trái quân lệnh thì sao?
Tôn An nói:
– Không sao! Phàm làm tướng ra trận phải tùy cơ ứng biến, cứ gì mỗi mỗi phải theo lệnh vua.
Mã Thông và Tôn An bàn luận xong đóng quân lại, sai người thám thính. Chẳng bao lâu, quân thám lưu về báo:
– Quân ta bị lầm mưu Hàn Tín. Ðại vương đã bị thua to, nhị vị tướng quân mau cứu ứng.
Hai người tức khắc kéo quân vòng ra đường lớn đến Phế Khâu. Vừa đến nơi, gặp quân Hán đuổi theo Chương Hàm rất nguy cấp.
Hai tướng ra sức chống cự, vừa đánh vừa chạy, giải thoát cho Chương Hàm.
Hàn Tín thấy có quân tiếp viện, liền ra lệnh thu quân.
Các tướng hỏi:
– Chương Hàm đã kiệt lực, sao Nguyên soái không cho đuổi bắt, lại thu quân?
Hàn Tín nói:
– Binh pháp có câu.” Ðuổi giặc không nên đuổi đến bước đường cùng “. Vả lại Chương Hàm cũng là tay danh tướng không nên khinh thường. Ðợi sáng mai sẽ chuẩn bị công tiếp.
Chương Hàm chạy về đến Phế Khâu vết thương đau nhức lạ lùng, liền đòi ngự y vào băng bó, rồi khiến quân canh giữ bốn mặt thành để chờ quân cứu viện.
Hôm sau, Hàn Tín đem quân vây thành Phế Khâu, dùng hỏa pháo công phá rất ngặt ba quân đều đóng trại quanh thành, tạo một vòng vây mấy lớp.
Thành Phế Khâu là thành cũ, đời nhà Châu, chu vi có núi cao bao bọc, một bên ăn thông với dòng sông lớn gọi là Bạch Thủy, bờ thành cao, hào lũy sâu, địa thể rất kiên cố. Quân Hán đánh mãi không phá nổi.
Thúc Tôn Thông và Chương Thoáng thấy vậy vào bẩm với Hàn Tin:
– Thành Phế Khâu không phải chốc lát mà hạ được. Quân các quận, huyện lại lần lượt kéo về cứu ứng. Nếu chậm ít ngày Tư Mã Hân và Ðổng Ể khởi binh, chúng ta khó thắng. Xin Nguyên soái liệu định.
Hàn Tín cười và nói:
– Các tướng có lòng lo lắng, thật đáng khen. Song việc này tôi đã có kế hoạch sẵn, chỉ trong vòng vài hôm nữa là thành Phế Khâu phải vỡ.
Các tướng nghe nói lui ra, ai nấy chỉnh đốn quân ngũ của mình.
Chiều hôm ấy, Hàn Tín cùng Tào Tham đem vài mươi kiện tốt lên chỗ đồi cao, đưa mắt nhìn về phía sông Bạch Thủy. Hàn Tín nói:
– Dưới chân thành, con sông Bạch Thủy chảy vòng quanh từ Tây Bắc sang Ðông Nam, làn nước rất mạnh. Nếu ta dùng bao cát đắp ngang mặt sông, cho nước dâng lên, tràn vào thành, quân địch ắt phải vào bụng cá hết.
Tào Tham nói:
– Nguyên soái định kế rất thần diệu. Tôi xin lãnh lãnh cái việc đó cho.
Ðêm ấy, Tào Tham lãnh một nghìn quân lẻn ra phía Nam thành Phế Khâu, dùng túi cát lấp dòng sông.
Bấy giờ vào tiết tháng tám, nước thu đầy dấy, bờ vừa đắp xong nước đã tràn vào thành Phế Khâu, bốn mặt tường cao, xung quanh núi dựng, nước chảy vào như róc.
Chương Hàm đang dưỡng bệnh, nghe quân báo, vội vã ra chỗ cao xem, thấy nước lai láng, thất kinh, cùng bọn Quý Lương, Quý Hằng, Mã Thông, Tôn An đem quân sĩ và gia quyến lên ngựa chạy ra phía Bắc mở lối trốn vào rừng.
Hàn Tín đem quân đuổi theo, truy kích. Một mặt sai Tào Tham tháo nước, không cho vào thành nữa, một mặt đốc quân chiếm thành.
Dân chúng trong và các quận, huyện lân cận, thấy Chương Hàm đã bỏ trốn, quân Hán thế mạnh, liền rủ nhau đến quy hàng.
Hàn Tín vỗ an dân thứ, rồi sai người về Tản Quan rước Hán vương qua Phế Khâu.
Thế là Tam Tần đã lấy được một phần vậy.
Trong lúc đó, Tái vương là Tư Mã Hân và Ðịch vương là Ðổng Ể hay tin Phế Khâu bị vây, sửa soạn đem quân đến giúp, bỗng được tin Chương Hàm bỏ thành chạy trốn, Phế Khâu và các quận, huyện đất Ung đã thuộc về tay Hán Vương rồi.
Ðổng Ể sợ hãi gọi mưu thần là Lý Chi đến đàm luận.
Ðổng Ể nói:
– Hàn Tín mới hạ được Phế Khâu, binh thế đang mạnh, án binh mã Lịch Dương ít ỏi, cự sao cho lại, nay phải họp sức với Tái vương mới chống nổi.
Lý Chi nói:
– Tình thế nguy ngập, Ðại vương nên cho người về Bành Thành tâu xin Bá vương phát binh cứu ứng mới có thể thắng nổi Hàn Tín.
Còn đang bàn bạc thì đã có tin báo:
– Quân Hán kéo đến chật đường, đi đến đâu quận, huyện đều quy phục. Hiện nay, tiền đội Hàn Tín chỉ có cách Lịch Dương trăm dặm.
Ðổng Ể vội sai Ðại tướng Cảnh Xương, phó tướng Ngô Luân, đem một vạn quân đóng cách thành hai mươi dặm ngăn địch. Lại tự mình thống suất một vạn quân đóng ngoài thành để làm thanh thế.
Chẳng bao lâu, Hàn Tín kéo quân đến như sóng tràn nước vỡ, người ngựa, gươm giáo bời bời.
Cảnh Xương và Ngô Luân lập tức dàn quân đón đánh.
Hàn Tín thúc ngựa ra trước trận, nói lớn:
– Hai tướng Trung Tần hãy mau xuống ngựa đầu hàng để được toàn mạng.
Hai tướng tức giận, vung gươm thúc ngựa đến đánh. Ðàng sau, Phàn Khoái và Vũ Dương lướt tới đỡ thương.
Bốn tướng đánh nhau hai mươi hiệp, Cảnh Xương bị Phàn Khoái đâm một kích ngã xuống ngựa. Ngô Luân không dám đánh giục ngựa chạy trở về.
Hàn Tín huy động ba quân đuổi theo, đến Lịch Dương vừa gặp Ðổng Ể hoành thương hét:
– Thằng luồn trôn kia, mi là đứa tiểu nhân đắc ý, dám đến đây vô lễ ư?
Hàn Tín cười lớn hơn:
– Ðổng Ể, nhà ngươi là một đứa đầy tớ của Chương Hàm. Ðến như Chương Hàm còn phải thua ta nữa huống hồ ngươi..
Chưa được vài hiệp, Phàn Khoái xông ra trợ lực, Ðổng Ể không chịu nổi phải bỏ chạy.
Hán tướng là Tân Kỳ và Quán Anh đã thụ mật kế của Hàn Tín, mỗi người đem ba nghìn tinh binh vòng ra đường nhỏ bên Ðông thành Lịch Dương đánh ập lại.
Ðồng Ể bị bọc hậu, phải thúc quân dồn lại. Quân Hán vây phủ trùng điệp, không hở một chỗ nào. Ðổng Ê sợ hãi đứa trơ trơ giữa vòng vây. Hàn Tín thúc ngựa đến hét lớn:
– Muốn khỏi chết hãy mau xuống ngựa đầu hàng.
Ðổng Ể xét thấy không còn cách gì chống đối nữa, vội vã buông thương xuống đất nói:
– Thôi? Ta chịu đầu hàng.
Quân sĩ áp lại bắt trói, giải về trại.
Hàn Tín bước vào truyền mở trói cho Ðổng Ể, và kéo ghế mời ngồi.
Ðổng Ể phục xuống đất nói:…
– Tôi là một tù nhân, được Nguyên soái tha chết là vạn hạnh rồi, có đâu dám vô lễ.
Hàn Tín đỡ dậy nói:
– Ông là danh tướng nhà Tần, nay đã thọ phong vương tước, lại bỏ Sở đầu Hán, khiến cho trăm họ thoát cảnh đao binh. Hành động ấy đáng trọng thưởng, nên coi đó là một nghĩa cử vậy.
Ðổng Ể thấy Hàn Tín niềm nở lòng mừng khấp khởi cùng ngồi nói chuyện.
Hàn Tín nói:
– Nay tôi cùng ngài đều làm tôi nhà Hán, tôi có một việc phiền đến ngài.
Ðổng Ể thưa:
– Xin Nguyên soái cứ dạy.
Hàn Tín hỏi:
– Hiện Tái vương Tư Mã Hân đang đóng quân ở Cao Nô, nghe quân Hán đến đây tất xuất quân đối địch. Như thế chỉ làm khổ dân mà chẳng ích gì. Vầy phiền ngài viết một phong thư bàn việc thiệt hơn với Tư Mã Hân, khuyên Tư Mã Hân nộp khoản qui hàng. Tôi sẽ tâu với Hán vương cứ y tước cũ mà phong cho hai ông để cùng nhau chung sức giúp nhà Hán dựng nghiệp cả, vãn hồi thái bình cho thiên hạ.
Ðổng ể mừng rỡ nói:
– Xin Nguyên soái cứ đem quân tiến đánh. Tôi sẽ viết thư sai mưu sĩ Lý Chi đem đến Cao Nô khuyên Tái vương ra hàng.
Nói về Tư Mã Hân ở Cao Nô, hay tin Thượng Tần và Trung Tần đã thuộc về Hán, ngày đêm lo sợ, truyền quân kéo ra ngoài thành đóng cách hai mươi dặm để phòng bị.
Một hôm, quân tuần báo tin có sứ của Ðịch vương là Lý Chi đến yết kiến.
Tư Mã Hân cho vào Lý Chi đệ trình phong thư của Ðổng Ể.
Tư Mã Hân mở ra đọc. Thư rằng:
“Ðịch vương Ðổng Ể kính thư Tái vương túc hạ.
Nhà Tần vô đạo, chư hầu ly loạn, nước Sở nổi lên thôn tính trên hạ. Tuy nhiên Bá vương bạo ngược thiếu đức không thể cầm quyền được lâu. Theo lời hứa của vua Hoài vương trước kia, lẽ ra Hán vương phải được làm vua Quan Trung, thế mà Bá vương bội ước, dùng uy lực bức kẻ hiền lương. Hán vương, đạo đức cao dày, đáng làm minh chúa. Nay lại dùng Hàn Tín làm Nguyên soái mưu lược như thần, binh pháp không kém Tôn Ngô. Như việc minh tu Sạn đạo, ám độ Trần Thương, dùng trí lấy Tản Quan, tháo nước thu thành Phế khâu, thật trong đời chẳng ai sánh kịp.
Binh Hán đang mạnh, thế như chẻ tre đi đến đâu thắng đến đây, tôi đã thuận thứa thiên ý, về với Hán triều, tước lộc chẳng mất, ưu đãi hơn xưa. Vậy có đôi lời tỏ bày lợi hại xin Ðại vương xét kỹ. Nay kính.”
Tư Mã Hân xem thư xong nổi giận mắng:
– Ta chưa hề giao chiến với Hàn Tín một trận nào, sao đành chịu bó tay đầu giặc? Ðại trượng phu đâu lại tham sống cầu vinh.
Nói xong xé nát phong thư, lấy chân chà dưới đất, và khiến quân đuổi Lý Chi ra.
Lý Chi thở dài nói:
– Ðại Vương quân không đầy hai vạn, tướng chỉ có mấy viên, bị cô lập nơi Cao Nô, còn Bá vương thì ở xa, làm sao cứu viện kịp. Vả Ðại vương trí không bằng Hàn Tín, dũng không hơn Phàn Khoái, tôi e chẳng sớm lo việc ngày sau hối không kịp.
Tư Mã Hân lại càng giận dữ hơn, vung gươm hét lớn:
– Lý Chi, ngươi khinh ta không có trí dũng. Ðể ta đánh một trận giết Phàn Khoái, bắt sống Hàn Tín cho mà xem.Lúc đó ta sẽ tặng cho nhà ngươi lưỡi gươm này để xuống suối vàng theo quân phản phúc.
Lý Chi không hề sợ hãi, ung dung nói:
– Vâng, nếu Ðại vương ra trận mà giết được một tên quân nhỏ, tôi cũng xin ngửa cổ cho Ðại vương chém, đừng nói chi đến chuyện giết Phàn Khoái, bắt Hàn Tín.
Tư Mã Hân truyền giam Lý Chi vào ngục, rồi kiểm điểm quân mã, sai Phó tướng Lưu Lâm và Vương Thủ Ðạo lãnh một vạn quân làm tiên phong, tự mình đem bốn vạn quân ra khỏi thành Cao Nô giáp giới đất Lịch Dương hạ trại.
Quân đi theo Lý Chi trở về báo lại việc Tư Mã Hân xé thư, giam Lý Chi, Ðổng Ế đỏ mặt, vội đến trung quân nói với Hàn Tín:
– Tư Mã Hân là đứa phách lối, khó dụ hắn được!
Hàn Tín mỉm cười nói:
– Hắn chỉ là một mảnh thịt trên thớt,. ta bắt ìúc nào chẳng được. Nói vừa dứt lời, có quân thám thính vào báo:
– Tư Mã Hân lập kế đem quân hạ trại, cách thành hai mươi dặm.
Phàn Khoái nói:
– Xin Nguyên soái cho tiểu tướng đem quân bắt Tư Mã Hân.
Hàn Tín nói:
– Tướng quân muốn đi cũng được song phải theo kế ta, làm như vầy mới thắng.
Phàn Khoái lãnh mệnh. Chiều hôm ấy đến bàn với Ðổng Ể:
– Tư Mã Hân thực đáng giận, hắn dám xé thư và giam sứ của ngài, tôi muốn tìm kế gì bắt hắn cho được để trị tội
Ðổng Ế nói:
– Phải, tôi cũng đang lúc tức giận, và cố tìm mưu bắt cho được hắn. Vậy tướng quân có ý gì hay xin cho biết.
Phàn Khoái nói:
– Muốn bắt Mã Hân tất phải đem một người thân quyến của ngài trói lại, rồi tôi cùng độ trăm người dẫn sang trại Tư Mã Hân giả cách trá hàng, tất nhiên hắn tin và cho ở trong quân. Sáng mai, ngài đến trại hắn đòi thân quyến tất nhiên hắn phải ra đối khẩu. Chừng ấy tôi thừa cơ bắt hắn trói lại điệu về, chẳng khó chi.
Ðổng Ể khen:
– Kế ấy diệu lắm. Tôi có đứa con lớn tên Ðổng Thực, khỏe mạnh lạ thường, tướng quân trói nó lại, đem đi trá hàng rất tiện.
Phàn Khoái mừng rỡ, tuyển một trăm kiện tốt, cùng bọn Sài Vũ thay đổi thường phục, trói Ðổng Thực, lẻn ra con đường hẻm thành Lịch Dương, đi sang trại Tư Mã Hân.
Quân Tư Mã Hân bắt vào hỏi lai lịch rồi dẫn đến trình Tư Mã Hân.
Tư Mã Hân hỏi:
– Chúng bay qua đây cốt trá hàng chăng?
Phàn Khoái nói:
– Chúng tôi nguyên là quân Sở, theo Ðịch vương trấn thủ Lịch Dương. Chẳng ngờ Ðịch vương phản Sở, đầu Hán. Nay mai Hàn Tín phát giao chúng tôi vào Bao Trung biết bao giờ trông thấy vợ con, quê quán. May sao Ðịch vương sai chúng tôi cùng trưởng từ ra thành thám thính, chúng tôi liền bắt trói Ðổng Thực đem nộp cho Ðại vương, xin Ðại vương trị tội đứa bội phản, và thu dùng chúng tôi, vì chúng tôi là người bản thổ.
Tư Mã Hân trông thấy Ðổng Thực, con lớn của Ðổng Ể, tức giận hét:
– Cha mày cùng ta làm tôi nước Sở, được phong vương tước há phải hèn mọn gì mà đem thân đầu thằng luồn trôn giữa chợ, sao không biết nhục?
Mắng xong, truyền đem đem Ðổng Thực cùng với Lý Chi, đợi khi bắt được Ðổng Ê sẽ giải một lượt về Bành Thành trị tội. Còn bọn sĩ tốt đều lưu lại trong quân sử dụng.
Sáng hôm sau, Ðổng Ể cỡi ngựa đến trước trại, khiến quân nói lớn:
– Ðịch vương mời Tái vương ra hội kiến.
Tư Mã Hân nghe báo, mặc giáp lên ngựa ra cửa trại, thoáng thấy Ðổng Ể, mặt hầm hầm hét:
– Kẻ đã đem thân đầu hàng đứa luồn trôn thì còn mặt mũi nào đến đây trông thấy ta nữa!
Ðổng Ể nói:
– Tái vương, nhà ngươi không biết thiên đạo, không hiểu nhân tâm? Bá vương giết Tử Anh, vì vua của chúng ta, lẽ nào lại không báo thù, còn theo phò quân địch. Như thế nhà ngươi gọi là trung quân, ái quốc sao! Ta bỏ Sở về Hán, trên báo thù vua, dưới hợp lòng người, theo kẻ hiền, diệt đứa nịnh, lẽ ấy hiển nhiên, sao ngươi ngu muội như vậy? Ta viết thư nói lẽ phải trái nhà ngươi đã không nghe lại còn giam sứ, và bắt con trai ta, hành động ấy dung tha sao được?
Tư Mã Hân nói:
– Ta quyết bắt cả bọn người để rửa nhục, hãy mau trở về kêu Phàn Khoái ra đây chịu chết trước.
Tư Mã Hân vừa nói dứt lời, bỗng sau lưng có một người nhảy đến, bóp vào cổ Tư Mã Hân hét:
– Ta chính là Vũ Dương hầu Phàn Khoái đây.
Hàng trăm quân trá hàng theo Phàn Khoái áp đến, Phàn Khoái nói lớn:
– Hỡi quân sĩ Hạ Tần! Nếu muốn sống hãy mau bỏ khí giới qui hàng lập tức.
Quân sĩ đồng thanh nói:
– Chúng tôi xin tình nguyện đầu hàng.
Lưu Lâm và Vương Thủ Ðạo là hai tướng tiên phong của Tư Mã Hân trông thấy quân sĩ mình hạ khí gần hết, biết việc không xong đành chịu bó tay.
Quân Hán bắt bọn Tư Mã Hân bỏ vào tù xa, giải đến nạp cho Hàn Tín.
Hàn Tín mắng:
– Sở vương là thù của nhà Tần, Hán vương có ân với Tử Anh, lẽ nên bỏ Sở đầu Hán để trung với chúa cũ, sao nhà ngươi lại ngoan cố?
Tư Mã Hân cúi đầu không đáp. Phàn Khoái thấy vậy nói với Hàn Tín:
– Tái vương trước kia thụ phong với Sở là điều bất đắc dĩ, nay Tái vương đã đến đây, xin Nguyên soái khoan dung mà tâu với Chúa thượng phong cho vương tước, để Tái vương đội ơn hết lòng phò Hán.
Hàn Tín theo lời, sai quân tháo cũi thả Tư Mã Hân ra. Tư Mã Hân mừng rỡ cúi lạy tạ ơn.
Hôm sau, Hàn Tín lại sai sứ đến báo với Hán vương việc Lịch Dương và Cao Nô đã định, nay xin rước xa giá đến phủ Tam Tần để định mưu thu phục Quan Trung.
Chẳng bao lâu, xa giá Hán vương đến. Hàn Tín đem chư tướng, Ðổng Ế và Tư Mã Hân ra nghênh đón.
Hán vương bước xuống xe, gọi Hàn Tín đến ủy lạo:
– Ngày trước Tiêu thừa tướng ba lần tiến cử, nay Nguyên soái ra quân ba lần thắng giặc, thật tài của Nguyên soái không phụ lòng ngưỡng vọng của Tiêu thừa tướng.
Hàn Tín phục lạy, tâu:
– Ðó không phải do tài của hạ thần mà do đạo đức của Chúa công. Chính đạo đức của Chúa công đã làm cho quân uy của hạ thần như gió bão.
Hán vương nói:
– Nay Tam Tần đã định, Hàm Dương có thể thu phục rất dễ dàng. Chẳng hay Nguyên soái định ngày nào khởi binh?
Hàn Tín tâu:
– Lấy Hàm Dương không khó, chỉ e Chương Hàm trốn lên Ðào Lâm, cách Phế Khâu không xa. Nếu ta kéo đại binh đến Hàm Dương tất Chương Hàm thừa cơ chiếm lại Phế Khâu. Phế Khâu mất, đường vận lương của ta bị bế tắc, thật là điều đáng lo.
Hán vương hỏi:
– Thế thì phải làm sao bây giờ?
Hàn Tín nói:
– Tâu Ðại vương, hạ thần thiết tưởng giết rắn phải trừ nọc, Ðại vương đóng quân nơi đây, để hạ thần kéo quân thẳng đến Ðào Lâm, trừ cho được Chương Hàm thì mới an lòng được.
Hán vương khen ngợi vô cùng. Hôm sau, Hàn Tín đem bọn Phàn Khoái, Chu Bột, Sài Vũ, Tân Kỳ và một đoàn quân mã thẳng đến Ðào Lâm.
Bấy giờ Chương Hàm vết thương mới vừa bình phục, đang dự tính sai sứ về Bành Thành viện binh khôi phục Phế Khâu, xảy nghe quân báo Hàn Tín đem đại binh đến, Chương Hàm giận dữ nói:
– Phen này ta quyết giết cho được đứa luồn trôn mới nghe.
Tôn An bàn:
– Ðại vương hiện giờ cô thế. Theo ý tôi chỉ nên đắp thành cao cho quân cố thủ chờ viện binh. Nếu ra đánh e mắc gian kế của Hàn Tín nữa.
Chương Hàm nói:
– Quân cứu viện Bành Thành đến đây rất xa xôi. Nếu cứ cố thủ, quân mòn, tướng hết sau này làm thế nào thắng giác được. Kể hoạch của ta là phải tốc chiến, tốc thắng mới bảo vệ được thực lực.
Nói xong, Chương Hàm truyền Mã Thông, Quý Lương, Quý Hằng và Tôn An dẫn năm ngàn quân ra đóng ngoài trước để làm thanh viện. Phân phối xong, quân Hán cũng vừa kéo đến.
Hàn Tín giơ roi chỉ vào thành gọi Chương Hàm nói:
– Chương Hàm, mau ra đây dâng đất cho ta khỏi mất công đánh đập.
Chương Hàm tức giận khai thành kéo quân ra.
Ðàng sau Phàn Khoái và Chu Bột đốc quân ùa tới, tiếng chiêng trống vang trời. Chương Hàm cầm cự được một lúc, liệu thế chống không nổi, cho quân lui dần.
Hàn Tín giền sai Tân Kỳ và Sài Vũ lẻn ra sau trận đánh ập lại.
Chương Hàm bị dồn quân, hàng ngũ hỗn loạn, tiến thoái lưỡng nan, vừa giận vừa thẹn, máu uất xông lên, vết thương trước kia lại nứt ra, đau đớn lạ thường.
Biết không thể nào giải vây được, nếu để giặc bắt mang nhục, Chương Hàm đành rút gươm tự vận.
Quý Lương và Quý Hằng cũng chết trong đám loạn quân.
Mã Thông thấy Chương Hàm chết, liền quay ngựa đầu hàng. Hàn Tín thu phục Mã Thông công với Tôn An vào thành phủ dụ trăm họ.
Hàn Tín nói Mã Thông:
– Hiện nay trong thành Ðào Lâm còn bao nhiêu nhân mã?
Mã Thông nói:
– Bẩm Nguyên soái, nhân mã trong thành không còn được năm trăm, tướng tá không còn ai; chỉ có dân cư mà thôi.
Hàn Tín truyền lệnh vào thành, ban bố hiệu lệnh, đặt người trấn giữ rồi dắt bọn hàng tướng về Cao Nô yết kiến Hán vương.
Hán vương phong chức cho các hàng tướng, cho theo trong quân để lập công.
Sau hai ngày chỉnh đốn quân ngũ, Hàn Tín tiến binh thẳng đến Hàm Dương.
Quan trấn thủ Hàm Dương là Tư Mã Di và Lã Thần, từ khi nghe Tam Tần bị mất, đã cho người báo với Bá vương hay, để xin quân cứu ứng. Nhưng mãi đến nay vẫn chưa thấy đến.
Cả thành Hàm Dương đang ấp ủ lo âu, thì bỗng nghe báo quân Hán đã kéo đến nơi.
Tư Mã Di bàn với Lã Thần:
– Thành Hàm Dương quân mã chẳng bao nhiêu, cứu binh lại không đến. Dân trong thành cảm nghĩa Hán vương thuở trước, ai cũng mong hàng, nay phải làm sao?
Lã Thần nói:
– Bổn phận ta phải giữ thành, không thể trì hoãn. Vậy đêm nay cho người cấp báo về Bành Thành, thế nào Phạm quân sư cũng có chước hay.
Hai tướng bàn bạc xong, một mặt cho người về Bành Thành cấp báo, một mặt điểm quân thủ thành chờ viện binh.
Hàn Tín kéo binh đến thấy cửa thành đóng chặt, nghĩ thầm:
– Thành Hàm Dương rất kiên cố, không thể lấy sức phá nổi, phải dùng kế mới xong.
Liền gọi Mã Thông đến dưới trướng nói:
– Nhà ngươi mới đầu Hán chưa có công gì. Nay ta sai ngươi đem những quân của Chương Hàm vừa đầu hàng, kéo cờ Sở, giả làm viện binh của Bành Thành, gạt chúng mở cửa, kéo ập vào làm nội công ngoại kích. Nhà ngươi dám làm việc đó chăng?
Mã Thông thưa:
– Lệnh Nguyên soái truyền, tôi đâu dám chẳng tuân, nhưng không có phê văn của Bá vương tướng giữ thành đâu chịu mở cửa để quân ta kéo vào.
Hàn Tín nói:
– Ðiều đó không sợ Ta đây có bản văn cũ của Bá vương trước kia, trong đó có ấn tín, để ta sai người tẩy đi viết lại thì xong.
Nói rồi, mở thắp, kiếm mấy bức phê văn của Bá vương phát giao Tam Tần, mà Hàn Tín bắt được trước đây gọi Lý Bình vào tẩy bỏ chữ cũ, điền lại chữ mới, đoạn sao cho Mã Thông đem mật kế thi hành.
Mã Thông cùng Tôn An đem năm ngàn hàng tốt, dùng hiệu cờ nước Sở, qua sông Kinh Vị lẻn theo đường hẻm ra phía Ðông Nam, thẳng đến Ba Ðăng chạy tắt về Hàm Dương.
Hàn Tín lại sai Phàn Khoái, Chu Bột, Ngân Hấp đem một vạn quân lẻn theo sau, rồi xin Hán vương tạm đóng quân cách thành hai mươi dặm để chờ tin tức.
Bọn Mã Thông kéo đến dưới thành đưa phê văn lên. Tư Mã Di và Lã Thần nhận thấy ấn tín của Bá vương liền truyền quân mở cửa thành cho vào.
Mã Thông nói:
– Tôi lãnh lệnh kéo quân đi trước báo tin, đại binh sẽ đến sau cứu ứng.
Mặt trời vừa chen lặn, đường xa, một toán quân kéo đến, bụi cát mịt mù.
Mã Thông nói:
– Ðó là quân viện của Bá vương sai.đến.
Tư Mã Di mở cửa thành bái mạng và truyền lệnh cho cựu binh sáng sớm sẽ nhập thành.
Tuy nhiên, đội quân cứu đó không tuân lời, cứ xống xộc thẳng tới.
Viên quan giữ cửa bước ra ngăn cản, bị tướng đi đầu của đoàn quân ấy chém một dao rơi đầu.
Tư Mã Di thất kinh, truyền quân đóng cửa thành lại nhưng không kịp nữa. Viên tướng đi đầu đã nhảy tới chém luôn Tư Mã Di một dao chết tốt.
Quân sĩ trong thành rối loạn. Một tướng đem đầu Tư Mã Di treo lên ngọn giáo, nói lớn:
– Chúng ta không phải là cứu binh của Hạng Vũ sai đến mà chính là bộ tướng của Hán vương đến đây lập kế mở cửa thành. Nay Tư Mã Di đã chết, ba quân nên đầu hàng để khỏi mang họa.
Quân dân trong thành nghe nói đến Hán vương, đồng phục xuống đất hô lớn:
– Chúng tôi xin hàng phục và xin rước Hán vương vào thành.
Phàn Khoái thấy lòng dân hâm mộ, mừng rỡ, sai cắm cờ Hán khắp bốn mặt thành rồi sai người đi thỉnh giá.
Hai hôm sau, xa giá Hán vương đến, trăm họ đón tiếp rất nồng nhiệt. Hán vương đem lời phủ dụ:
– Ta, từ khi Bá vương bội ước, đày vào Bao Trung, ngỡ không còn gặp được dân chúng Hàm Dương. Ngờ đâu, trời không phụ kẻ có lòng, cứu dân trừ loạn, nên khiến ta đến được nơi đây. Vậy trăm họ cứ an cư lạc nghiệp, giữ lấy bổn phận làm dân.
Dân chúng cảm động rơi nước mắt. Hàn Tín sai quân dọn dẹp cung điện, rước Hán vương vào ngự, rồi đem bộ tướng đến triều kiến.
Hán vương truyền bày tiệc khao thưởng ba quân.
Vua tôi vui say rộn rã.
Hàn Tín tâu:
– Nay Hàm Dương tuy đã định, song ngoài Quan Ðông còn có Ngụy Báo và Thân Dương chưa quy phục! Nếu Hạng vương đem binh họp với hai Phiên vương ấy đánh vào ba mặt e quân ta khó chống nổi.
Hán vương hỏi:
– Thế thì phải làm sao?
Hàn Tín tâu:
– Nay phải tìm một người có tài du thuyết, đủ sức nói cho Sở di binh sang đánh Tề, để tôi thừa cơ đem quân đánh Thân Dương và Ngụy Báo. Hễ Quan Ðông bình được thì phá Sở không khó.
Hán vương hỏi:
– Trong các mưu sĩ có ai đủ tài làm việc này chăng?
Lời hỏi vừa dứt, quan Ðại phu Lục Giả bước ra tâu:
– Ngày trước Ðại vương vào đánh Tần, tôi từ Lục Dương theo hầu. Lâu nay vào Bao Trung, vắng tin tức gia đình vợ con. Nay tôi xin tình nguyện đến Lạc Dương thăm nhà rồi thừa cơ dụ Thân Dương về đầu Hán. Sau đó, tôi lại đến Bình Dương dụ Ngụy Báo. Trong hai xứ ấy ắt có một xứ nghe lời tôi.
Hán vương mừng rỡ liền ban cho Lục Giả mười cân vàng làm lộ phí.
Ngay ngày hôm ấy, Lục Giả từ tạ trở về Lạc Dương, ghé về thăm cha mẹ, vợ con.
Cha mẹ Lục Giả nói:
– Từ khi con theo Hán vương vào Nam Trịnh, cha mẹ ở nhà nhờ ở Thân Vương Bai người cung cấp cơm áo ; do đó cả nhà được no ấm. Nay con về đây cũng nên vào yết kiến Thân Vương để tạ ơn.
– Từ lúc Lục Ðại phu theo Hán vương, ta bi cô độc, muốn bàn việc gì không người mưu sĩ. Nay Lục Ðại phu trở về, lại ghé thăm ta, kể cũng quí lắm.
Nói xong, truyền đòi Lục Giả vào.
Lục Giả bước vào thi lễ, Thân Vương cầm tay nói:
– Ðại phu vắng nhà đã ba năm, lúc nào ta cũng mong nhớ, gia quyến Ðại phu được ta săn sóc chu toàn, chắc Ðại phu cũng được hài lòng chứ?
Lục Giả nói:
– Tôi theo Hán vương đi đánh Tần định xong việc về ngay, không ngờ Hán vương cố lưu tôi đại. Vả Hán vương là kẻ nhân đức, tôi không nỡ bỏ nên phải theo vào Bao Trung. Vừa rồi Hán vương trở về lấy Tam Tần, định Hàm Dương, tôi nhân đó xin phép về thăm gia quyến, được biết Ðại vương có lòng quảng đại, bảo tồn gia đình tôi, ơn ấy dẫu thịt nát xươiig tan tôi cũng chưa đáp đền đặng.
Thân Vương vui vẻ hỏi:
– Hán vương được dân chúng khen là nhân đức, có thật vậy chăng?
Lục Giả liền nói:
– Thực vậy, Hán vương là bậc khoan nhân, đại độ, biết trọng hiền sĩ, biết quý kẻ. nghèo, dùng Hàn Tín chưa đầy hai tháng mà đã hạ được Tản Quan, phá Tam Tần, thu Hàm Dương, quân kéo đến đâu dân chúng đều ngưỡng mộ, thế mạnh như chẻ tre, uy như vũ bao ố. Chẳng bao lâu ắt gồm thâu thiên hạ.
Thân vương gật đầu nói:
– Ta nghe Hán vương có đức, cũng muốn qui phục, nhưng thấy Sở còn đang mạnh, rủi Bá vương biết được lòng ta, ắt không thoát khỏi tai nạn.
Lục Giả nói:
– Trước kia thì Sở mạnh thật, nhưng bây giờ Hán lại mạnh hơn nhiều. Hàn Tín dụng binh như thần, khó ai sánh kịp. Nếu nay mai quân Hán có đến Lạc Dương, Ðại vương cũng nên nghênh tiếp để tránh cho dân. chúng nạn binh đao.
Thân vương nói:
– Ta xin nghe theo lời Ðại phu.
Lục Giả toan đem lời thuyết phục, nhưng thấy Thân Vương có lòng ưu ái, đem lòng quyến luyến muốn ở lại Lạc Dương cũng không muốn trở về Hán nữa.
Ngày tháng trôi qua, Hán vương chờ mãi không thấy Lục Giả trở về, ngày đêm buồn bực.
Bỗng một hôm, có người báo Trương Lương ở Tam Ðiền ra, sắp đến Tân Phong. Hán vương mừng rỡ sai Quán Anh và Tào Tham ra ngoài địa giới nghênh tiếp.
Hàn Tín được tin cũng sai hai tùy tướng là Tiết Âu và Trần Bái đi đón.
Chẳng bao lâu, Trương Lương đến nơi, Hán vương đi chân không thân hành ra cửa Thừa Ðức cầm tay Trương Lương nói:
– Tiên sinh đã đến đây ư? Ngài đi du lịch nơi đâu, để cho ta trông mòn con mắt.
Trương Lương sụp lạy tâu:
– Tôi từ khi bái biệt Chúa Công dẫu ở xa song tấm lòng không một chút xao lãng. Khi ra đi, tôi có hứa ba việc lớn: Một là nói cho Hạng vương thiên đô sang Bành Thành hai là xui sáu nước phản Sở, ba là tìm cho Chúa công một vị Phá Sở Nguyên soái. Nay, ba việc ấy đã làm xong, mới dám đến đây triều kiến.
Hán vương tươi cười đỡ Trương Lương dậy, và nói:
– Tiên sinh chẳng quản gian lao khổ sở, ta vì mưu việc lớn, ngày nay ta được ra khỏi Bao Trung là nhờ công Tiên sinh hết cả, dẫu khắc vào bia đá, lưu lại ngàn đời ta cũng chưa thỏa dạ.
Trương Lương triều bái xong, cùng văn võ bá quan hội diện, Hàn Tín đến trước mặt Trương Lương nói:
– Ðội ơn Tiên sinh tiến cử, Chúa thượng đặc cách tin dùng, trọn đời tôi chẳng dám quên.
Trương Lương nói:
– Chúng ta đều là những kẻ vì vua vì nước, thì việc dẫn dắt nhau chỉ là nhiệm vu chung. Hơn nữa, chỉ có một tháng mà Nguyên soái đã hạ được Tam Tần, làm cho tôi cũng được thơm lây.
Hán vương truyền mở tiệc mừng, bá quan đủ mặt.
Vua tôi nâng chén chúc nhau, cuộc vui kéo dài mãi cho đến tối mới mãn.
Hôm sau, Hán vương cho mời Hàn Tín và Trương Lương vào hội diện.
Hán vương nói:
– Lạc Dương vây Bình Dương chưa lấy đặng. Hai xứ ấy tuy nhỏ nhưng quan hệ cho việc tiến binh. Lục Giả lãnh mệnh du thuyết mãi đến nay chưa về, nếu quân Sở kéo đến đây thì biết làm thế nào?
Trương Lương nói:
– Lục Giả về Lạc Dương là nơi quê cha đất tổ, thế nào cũng đem lòng lưu luyến, không nỡ dụ Thân Vương.
Còn Ngụy Báo là kẻ hư danh, lâu nay khoe khoang tự phụ, chắc gì Lục Giả đã dụ nổi. Hai xứ ấy tôi phải đi một
phen mới xong việc được.
Hàn Tín nói:
– Tôi cũng đã nghĩ hai xứ ấy nếu không có Tiên sinh thì không thu phục được. Lục Giả ra đi chẳng qua viện cớ để về thăm nhà đó thôi.
Hán vương nói:
– Ðành vậy song Tiên sinh cách biệt đã lâu, nay mới về lại đi nữa, lòng ta không yên.
Trương Lương nói:
– Thiên hạ chưa định, chưa thể ngồi yên mà nhàn rỗi được. Nay tôi làm một tờ biểu, sai người dâng về Bành Thành, gạt Bá vương đem quân đánh Tề, không chú ý đến ta. Trong lúc đó, ta có đủ thì giờ chinh phục hai xứ kia.
Sau khi Trương Lương từ biệt Hán vương, một mặt viết biểu sai người đem về Bành Thành dâng cho Hạng Vương, một mặt đem mấy tên đầy tớ đắc lực lẻn đến hai xứ Bình Dương và Lạc Dương.
Nhắc lại, Hạng Vũ ở Bành Thành, một hôm thiết triều đàm đạo việc nước, bỗng có thủ quan ở Hàm Dương sai người về cầu cứu.
Cứu binh chưa phát, thì lại được tin Hàm Dương thất thủ, Hán vương chiếm đóng rồi, các quận, huyện đều hàng phục.
Hạng vương nổi giận vỗ án hét:
– Ðứa thất phu ấy tài cán gì mà dám phá Tam Tần, lấy Hàm Dương. Nếu ta không bắt sống được Lưu Bang và Hàn Tín thề không trở về đây nữa.
Phạm Tăng nói:
– Trước kia tôi đã tỏ ý một là dùng Hàn Tín, hai là giết đi để trừ hậu hoạn, Ðại vương không nghe, bây giờ thì đã muộn.
Hạng vương nói:
– Chương Hàm già yếu, còn lũ Tư Mã Hân, Ðổng Ể là lũ bất tài, nên mới bị Hàn Tín mưu lừa. Nếu quân ta kéo đến, Lưu Bang và Hàn Tín trốn đi đâu cho thoát.
Hạng vương nói vừa dứt lời thì có tin Trương Lương ở nước Hàn, sai người dâng mật biểu, và đem cả bức phản thư của nước Tề đến trình.
Hạng vương truyền chỉ cho vào.
Sứ giả vào bệ kiến, Hạng vương mở mật biểu ra xem.
Biểu rằng:
” Tư đồ nước Hàn là Trương Lương, cúi đầu thành khẩn Tây Sở Bá vương khán hạ.
Lương tôi đội ơn không giết, được về bản quốc mai táng vong quân. Từ ấy đến nay tiêu dao non nước, khi vào núi hái cỏ chi, lúc đến khe xem nước biếc, cốt lánh mùi phú quí, vinh hoa. Tuy nhiên, dẫu không màng danh lợi ơn vua cũng chẳng hề quên. Vừa rồi, Hán vương cho mời, nhưng tôi đã từ thác, không ham địa vị, công hầu. Hai nước Tề, Lương lại cho người đến triệu tôi luôn, tôi lấy cớ bệnh hoạn từ chối. Vua hai nước ấy biết không dùng tôi được, nên sau có truyền hích đến bản quốc, rủ cùng phản Sở, nói lắm điều ngông cuồng. Tôi đội ơn Ðại vương lẽ nào lân quốc manh tâm làm loạn mà không mật báo? Tôi liệu kiến thức Hán vương chẳng qua chỉ cầu được Hàm Dương, như lời ước trước kia là đã mãn nguyệt rồi, không bao giờ dám cả gan đánh Sở. Duy có Tề và Lương hai nước ấy âm mưu thôn tính thiên hạ, chí không phải nhỏ. Xin Ðại vương, trước phát binh vấn tội Tề, Lương, trừ mầm phản loạn, sau sẽ xem Hán vương có hành động gì khác chăng. Nếu Hán vương có nuôi mầm phản Sở thì chừng ấy ra uy trừ khử cũng chưa muộn. Cái nguy của Ðại vương là Tề và Lương, xin Ðại vương suy xét. “
Hạng vương xem tờ biểu xong đại mở bức hịch của Tề vương ra xem.
Hịch rằng:
” Chúng tôi thiết nghĩ, ngôi trời dành cho người có đức kẻ thất đức không thể trị thiên hạ được. Xét như Hạng vương vào Quan Trung bội ước với Hán vương chôn sống mấy vạn người vô tội, giết vua Hoài vương chiếm đoạt thiên hạ, hành động ấy trái với nhân đạo, trái với lòng người. Chẳng những chư hầu chúng ta có trách nhiệm diệt ác sùng thiện, mà khắp trong dân chúng ai cũng muốn trừ Hạng vương để cứu sinh linh. Nay xin kính đệ hịch văn thông đạt chư hầu, quí quốc nên vì nhiệm vụ chung phát binh cùng giết đứa vô đạo là Hạng Tịch để đem lại ngôi trời cho người biết trọng nhân nghĩa. Muôn dân sẽ cảm phục.”
Hạng Vũ đọc Xong, mặt giận hầm hầm, vỗ án hét:
– Hai đứa thất phu sao dám vô lễ dường ấy. Ta thề diệt Tề, Lương trước, rồi sẽ trừ Hán sau.
Phạm Tăng vội vã can:
– Xin Ðại vương nguôi giận. Ðó là kế Trương Lương sợ quân ta đánh Hán, nên giả hịch văn khích Ðại vương, khiến quân ta lo đánh Tề, Lương mà không động gì đến Hán.
Hạng vương nói:
– Thật ra Tề và Lương đang mạnh hơn Hán, nếu hai nước ấy có ý phản loạn mà không lo trừ trước thì làm thế nào được?
Phạm Tăng nói:
– Nếu Ðại vương muốn phạt Tề, Lương trước thì phải truyền hịch cho hai xứ Lạc Dương và Bình Dương phòng bị cẩn mật đừng để cho quân Hán tràn xuống mặt Ðông mới xong.
Hạng vương theo lời, truyền hịch phát binh đánh. Giữa lúc đó, Trương Lương đến Bình Dương, vào nội thành xem phong cảnh, non sông tươi đẹp, khí hậu ôn hòa, rõ là nơi vua Nghiêu trước kia lập nghiệp, nay thuộc về Tây Ngụy, người, vật phồn thịnh, sông núi xây nên thành quách thiên nhiên, tạo thành chốn thủy tú sơn kỳ, khiến cho khách hậu sanh chạnh lòng hoài cổ.
Trương Lương đến trước Ngụy vương cung, sai tả hữu vào báo với Ngụy vương.
Ngụy Báo (tức Ngụy vương) phán hỏi quần thần:
– Trương Lương đột nhiên đến đây hẳn có điều gì khác các ngươi có biết chăng?
Quan Ðại phu Chu Thúc tâu:
– Trương Lương là một tay thuyết khách lợi hại không kém Tô Tần, Trương Nghi. Nay đến đây tất dùng lời dẫn dụ, Ðại vương nên để ý mới được.
Ngụy Báo gật đầu nói:
– Không ngại gì! Nếu hắn dụng lời thuyết khách ta đã sẵn có thanh bảo kiếm đây.
Chu Thúc can:
– Ấy chết! Trương Lương được tiếng là người hiền, ai nấy đều khâm phục. Ðến như Bá vương còn chưa nỡ giết ; xin Ðại vương dùng lời tiếp đãi, chớ nên dụng uy. Chỉ cần không nghe lời hắn là đủ.
Ngụy Báo liền truyền tả hữu an tọa, và đòi Trương Lương vào chầu.
Trương Lương bước vào thi lễ, Ngụy Báo hỏi:
– Nghe nói tiên sinh đang ở dưới cờ Hán vương, nay nhục lâm đến tệ bang hẳn có điều chỉ giáo?
Trương Lương nói:
– Khi trước Hán vương qua tệ quốc, mượn tôi đem đi đánh Tần. Việc xong, tôi đã trở về nước Hàn rồi. Mới đây Hán vương phá Tam Tần, định Hàm Dương, lại cho người đến mời tôi nữa. Từ ngày tôi trở về nước đã có ý rời bỏ phú quí công danh, không nghĩ đến cuộc đời trần thế, lấy cảnh vật tiêu dao. Tuy nhiên, Hán vương là bậc anh quân, đầy lòng nhân nghĩa, không đến e vô lễ. Vì vậy tôi phải đến yết kiến. Nay nhân đường về, ghé ngang qua đây tiện dịp vào thăm Ðại vương.
Ngụy Báo nghe nói mừng rỡ, đặt tiệc khoản đãi.
Trong lúc uống rượu, Ngụy Báo hỏi:
– Hiện nay sáu nước tung hoành, Hán, Sở giao chiến, theo cao ý của Tiên sinh thi việc hưng thịnh, tồn vong như thế nào, xin nói cho ta nghe thử?
Trương Lương nói:
– Nếu luận về thế sự thì xưa nay đạo đức bao giờ cũng tồn tại. Hán, Sở đang tranh nhau, mặc đầu Hán còn đang yếu, nhưng có ngày thành đạt. Sở tuy mạnh, nhưng có lúc phải diệt vong. Bằng chứng là chỉ trong vòng hai tháng. Hán vương phá Tam Tần, định Hàm Dương đến đâu dân chúng đều ngưỡng mộ. Yếu tố ấy quyết định cho tương lai. Vì, đã nói đến việc thiên hạ phải lấy lòng dân làm gốc. Hiện nay lòng dân không ai không hướng về Hán vương. Ðến như tôi, một kẻ không màng công danh phú quí việc đời gạt bỏ ngoài tai, thế mà được lời mời, không nỡ bỏ qua, phải đến tận nơi yết kiến. Còn như chư hầu hai nước lớn nhất là Yên, Tề vừa rồi cũng nạp cống xưng thần với Hán. Như thế đủ biết sự nghiệp nhà Hán sau này tất thịnh.
Ngụy Báo nghiêng mình, bưng chén rượu trao cho Trương Lương, và hỏi tiếp:
– Cứ như ý của Tiên sinh thì Hán vương sau này tất đoạt thiên hạ, lên ngôi thiên tử. Tôi tự nghĩ, tôi được thụ phong nơi đây nhưng khó giữ vững địa vị lâu dài. Nghe lời nói của Tiên sinh tôi muốn thuộc ý với Hán, chẳng hay Tiên sinh có vui lòng tiến cử chăng?
Trương Lương nói:
– Lương tôi vốn hâm mộ Ðại vương là người hiền, vì vậy đi qua đây phải vào yết kiến. Nếu Ðại vương muốn về Hán cũng không khó khăn gì. Hán vương là bậc đạo đức, khoan hậu, Ðại vương về Hán sẽ không mất vương vị mà còn được hưởng nhiều phú quý.
Chu Thúc đứng sau bình phong, thấy Trương Lương thu phục được Ngụy Báo, liền bước ra tâu:
– Xin Ðại vương chớ nghe lời Trương Lương, lỡ Bá vương hay được phát binh phạt Ngụy thì làm sao chống nổi? Tương lai chưa thấy, nhưng thực tại Sở mạnh hơn Hán nhiều.
Trương Lương nhìn Chu Thúc cười khanh khách, không nói.
Chu Thúc lấy làm lạ hỏi:
Trương Lương nói:
– Tôi cười Ðại phu là kẻ nông cạn, chỉ thấy được việc trước mắt mà không hình dung nổi việc tương lai. Vả chăng cái thế yếu mạnh không phải ở chỗ nhiều quân nhiều tướng, mà là ở chỗ có thắng hay là không thắng.
Chu Thúc đưa mắt nhìn Trương Lương, ngơ ngác hỏi:
– Tiên sinh muốn nói cái mạnh cái yếu như thế nào?
Trương Lương nói:
– Chương Hàm trấn thủ nơi Thượng Tần, quân hai mươi vạn, so với quân Hán thì quân Chương Hàm đông gấp năm lần, thế mà Hàn Tín chỉ dùng một trận thủy chiến, Chương Hàm phải tự sát. Như thế việc yếu mạnh không phải ở quân lực mà là ở chỗ biết thời thế.
Chu Thúc hỏi:
– Thế nào là biết thời thế?
Trương Lương nói:
– Trong thế chiến có ba điều lợi: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Về thiên thời, Hán vương trảm xà khởi nghĩa, ứng theo lòng trời, mặt rồng mũi cao, đi đứng có tường vân hiện thực là chân mệnh đế vương. Về địa lợi, Hán vương lui vào Ba Thục chỉnh đốn quân binh, chiếm Quan Trung là nơi đế đô quan trọng, lợi khí bừng bừng. Về nhân hòa Hán vương đem đạo đức đãi mọi người, bốn phương tùng phục, chư hầu mến yêu. So với Bá vương điều đó thật không có. Trước vào Quan Trung bội ước, giết Hoài vương, chôn sống mấy vạn dân, đem uy vũ trấn áp nhân tình, tuy bên ngoài bá tánh tùng phục, nhưng bên trong chan chứa oán hờn. Thời thế như vậy mà quan Ðại phu không thấy sao?
Chu Thúc bị Trương Lương nói một hồi, tinh thần rối loạn, không còn biết đường nào cãi lại.
Ngụy Báo đứng phắt dậy nói:
– Trương Tiên sinh luận rất cao kiến, nhà ngươi mau mang tả hàng biểu, chuẩn bị lễ vật để sang đầu Hán. Nếu sau này Hạng vương có đem binh phạt Ngụy, sẽ cùng Hán vương đồng tâm chống Sở đó mới thật la kế vạn toàn.
Trương Lương ung dung nói tiếp:
– Ðại vương muốn hàng Hán thì cứ sai người đem biểu đến dâng, không cần phái nhờ đến Lương tôi làm chi.
Vì nếu Lương tôi dự vào việc này e mang tiếng là thuyết khách mà Ðại vương vốn không ưa kẻ thuyết khách, chực thanh bảo kiếm để xử tội kẻ ấy kia mà.
Ngụy Báo và Chu Thác nghe Trương Lương nói, cả hai đều thẹn đỏ mặt nghĩ thầm:
– Quái lạ! Trương Lương có phép gì mà lại hiểu thấu được lòng kẻ khác?
Ngụy Báo đỡ lời:
– Xin Tiên sinh chớ nghĩ thế? Ta đâu dám nghi Tiên sinh là thuyết khách, và đâu có ý xâm phạm đến Tiên sinh. Tiên sinh là bậc siêu nhân ở đời này ai mà chẳng biết. Xin Tiên sinh vui lòng tiến cử cho.
Bấy giờ Trương Lương mới nhận lời đảm đương việc tiến dẫn.
Hôm sau, Trương Lương cùng Chu Thúc đến Hàm Dương, Hán vương hay tin mừng rỡ triệu vào yết kiến.
Chu Thúc bước vào quỳ lạy dâng biểu và các đồ cống lễ.
Hán vương sai mở biểu tuyên đọc.
Biểu rằng:
” Tây vương ngụy Báo cúi đầu trình tấu.
Trộm nghe, sông ngòi trăm nẻo, chung qui tụ về biển sâu, chim chóc ngàn nơi, cuối cùng tìm về cây rậm. Nước Ngụy tôi ở về phía Tây, ít chiêm Vương Hóa. Mới đây nghe Bệ hạ chế phục Tam Tần, Chương Hàm nộp mạng phú an Bách việt, Tề, Sở sợ uy. Thiên hạ qui tâm, chư hầu ngưỡng mộ, ấy vậy mệnh trời đã định, Bệ hạ là chủ muôn người, tôi xin tuân theo lẽ trời xưng thần nộp cống, ngữa mong soi xét, được hầu hạ long nhan “
.
Hán vương nghe lời biểu, lòng rất hân hoan, truyền mở tiệc khoản đãi Chu Thúc rất hậu.
Chu Thúc mừng rỡ, nghĩ thầm:
– Trung Lương khen Hán vương là bậc nhân đức, lời ấy quả không sai.
Hôm sau, Chu Thúc xin về, Hán vương truyền Trương Lương thảo phúc thư trao Chu Thúc đem về nước, lại ban ân tứ rất hậu.
Chu Thúc về đến nơi, ca tụng đạo đức của Hán vương với Ngụy Báo.
Ngụy Báo mừng rỡ mở thư ra xem.
Thư rằng:
” Hán vương kính trao Ngụy vương túc hạ.
Bang tôi nghe tiếng tức hạ đã lâu! Túc hạ là dòng dõi Tất Công nhà Châu, trót lầm theo phiên thần nước Sở, Bang tôi vẫn lấy làm tiếc. Nay túc hạ kết hiếu với tệ bang, hiệp lực đồng tâm, an bang tế thế, Bang tôi rất vui mừng, từ nay an nguy có nhau, lấy nhiệt tâm tương trợ. Túc hạ có lòng, Bang tôi lấy làm may mắn “.
Ngụy Báo đọc thư xong, sai tả hữu đem cất vào thủ viện, đoạn mở tiệc ăn mừng.
Thế là Tây Ngụy đã bội Sở về Hán rồi.
Trương Lương du thuyết Tây Ngụy đã thành công, liền đến Lạc Dương, đem theo Phàn Khoái, Quán Anh và một nghìn nhân mã. Lúc đi đường, Trương Lương dặn hai tướng cứ y kế mà làm. Hai tướng tuân lệnh.
Vua Lạc Dương là Thân Dương từ khi được Lục Giả trở về, chọn ngày họp mặt bàn quốc sự.
Một hôm, đang bàn bạc, bỗng có quân báo:
– Trương Lương từ Hàm Dương sang đây, và xin vào yết kiến.
Thân vương hỏi Lục Giả:
– Trương Lương thân hành đến đây chắc có điều quan trọng?
Lục Giả nói:
– Trương Lương đến tất vì Hán vương mà thuyết khách. Ðại vương đã có lòng về Hán, cũng nên mời Trương Lương vào tiếp đãi tử tế. Còn nếu Ðại vương một lòng phò Sở thì bắt quách Trương Lương giải về Bành Thành lãnh thưởng. Phạm Tăng vốn ghét Trương Lương, nếu Ðại vương bắt Trương Lương đem nạp thế nào cũng được Phạm Tăng tán tụng công đức Ðại vương trước mặt Bá vương. Như thế là nghiệp lớn của Ðại vương thêm vững bền.
Thân vương nói:
– Ta đã thụ phong với Sở lẽ nào bỏ Sở về Hán.
Lục Giả nói:
– Nếu vậy tôi xin lánh mặt. Lúc Trương Lương vào, Ðại vương không cần hỏi lời nào cả, chỉ truyền bắt Trương Lương là đủ.
Vua tôi bàn định xong, sai môn hạ ra gọi Trương Lương vào.
Trương Lương nghĩ thầm:
– Thân Dương bàn định một lúc lâu mới gọi ta, tất Lục Giả bày kế gì đây. Tuy nhiên, ta đã phòng bị trước thì còn lo gì nữa.
Nghĩ rồi, thong dong bước vào. Nhưng chưa kịp thi lễ Thân Vương đã chống gươm đứng lên trên thềm quát lớn:
– Trương Lương, ngươi đến đây tất du thuyết cho Hán vương. Trước đây Bá vương có chiếu chỉ, hễ gặp Trương Lương thì phải bắt giải nạp. Nay ngươi đến nước ta thực là hợp lúc.
Nói xong hô vũ sĩ bắt trói. Vũ Sĩ ra tay, bắt Trương Lương trói lập tức, không cho nói nửa lời.
Trói xong, Thân Vương truyền Quách My lãnh một ngàn quân, áp giải Trương Lương về Bành Thành.
Quách My vừa giải Trương Lương ra khỏi điện, Lục Giả bước ra nói với Thân vương:
– Quách My đến yết kiến Bá vương sợ không đủ trí khôn để ứng đối. Vậy tôi xin theo về Bành Thành, trước là để dò xem Bá vương đánh Tề, Lương như thế nào, sau là thông hiếu với Phạm Tăng, để Phạm Tăng rõ được thiện ý của Ðại vương.
Thân vương nghe nói rất vừa lòng, lập tức sai sắm sửa lễ vật để Lục Giả sang Bành Thành.
Lục Giả bái tạ, thẳng tiến lên đường, lòng riêng khấp khởi tự hào mình đã làm được một việc kỳ tuyệt.
Ngờ đâu Quách My giải Trương Lương đi chưa đầy hai mươi dặm, bỗng nghe trước mặt, trong khu rừng, có tiếng chiêng trống vang rền, rồi từ bên trong xông ra một tướng, hùng hổ quát lớn:
– Quân mã nào? Áp giải ai? Ðịnh đi đâu? Muốn sống phải nạp ba trăm cân vàng thì mới qua được.
Quách My vỗ ngựa đến nói:
– Ta là Ðại tướng ở Lạc Dương, phụng mệnh vua giải phạm nhân đến Bành Thành dâng nộp Bá vương. Nhà ngươi có mắt, có tai tất biết oai vũ của Bá vương rồi. Vậy nên nhường lối ta đi, kẻo mất đầu đó.
Viên tướng ấy nổi giận nói:
– Bá vương và Thân vương của bây ta coi như đứa con nít, đừng đem ra dọa vô ích.
Nói xong, tướng ấy cầm kích nhảy đến đánh. Quách My vội vàng nghênh chiến.
Chưa đầy hai hiệp đã bị tướng ấy phóng cho một kích, Quách My nhào xuống ngựa chết tươi.
Quân sĩ thấy vậy, vội vã điệu Trương Lương vào rừng lẩn trốn.
Tuy nhiên, tướng ấy đuổi theo rất gấp.
Vừa được ba bốn dặm thì gặp Lục Giả dẫn ba, bốn tên tùy tùng từ Lạc Dương đi đến.
Tướng ấy hét:
– Hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi.
Lục Giả thất kinh, nhìn kỹ té ra tướng ấy là Phàn Khoái.
Phàn Khoái hối quân trói Lục Giả lại, rồi chạy thẳng vào rừng giải cứu cho Trương Lương.
Khi Trương Lương được mở trói, trông thấy Lục Giả bị trói gô bên gốc cây, mỉm cười trách:
– Ngươi đã theo Hán vào Bao Trung ba năm rồi, Hán vương đối đãi với ngươi không bạc, cớ sao ngươi lại nỡ phản phúc?
Lục Giả nói:
– Tôi đi theo Hán vương cũng như Tiên sinh bỏ Hàn phò Hán vậy. Tiên sinh không quên được Hàn thì làm sao tôi quên được Ngụy?
Trương Lương cười lớn nói:
– Ngươi dẫu biện bác thế nào cũng không che được tội lỗi! Ðã đành rằng ngươi không nỡ quên Ngụy. Tuy nhiên, lấy cái cớ không quên ấy để phản phúc thật là kẻ tầm thường. Ngươi thấy ta có bao giờ phản Hán không?
Ngươi đem ta so sánh với ngươi là việc ngu xuẩn.
Lục Giả nói:
– Tôi đã hỏi vua Ngụy thờ Sở hay thờ Hán, vua Ngụy nhất định thờ Sở, vì vậy tôi mới hiến kế bắt Tiên Sinh để vua Ngụy trọn bổn phận làm Sở thần.
Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét:
– Lục Giả bắt Tiên sinh nộp Sở để tỏ lòng trung của Thân vương ; vậy thì ta bắt Lục Giả về nạp cho Hán để tỏ lòng trung của ta, nói làm chi cho nhiều.
Dứt lời, bắt Lục Giả bỏ vào tù xa, giải về hướng Tây.
Quân của Thân vương theo giải Trương Lương thấy vậy bỏ chạy về Lạc Vương cấp báo.
Thân vương được tin, vội vã điểm một nghìn quân cấp tốc đến nơi. Nhưng chỉ thấy núi rừng hiu quạnh, không có một bóng người nào..
Còn đang do dự, bỗng gặp ba bốn hành khách, vác hành lý từ con đường lớn đi vào.
Thân vương sai quân hỏi thăm, khách đáp:
– Chúng tôi vừa ở con đường ấy đến đây, không gặp một nhân mã nào cả.
Ðang cơn sốt ruột, bỗng nơi ven rừng có một tiếng pháo lệnh, Phàn Khoái vung kích ra chặn giữa đường hét lớn:
– Ta tha chết cho đó, nhà ngươi hãy mau xuống ngựa quy hàng.
Thân vương đánh vài hiệp, thấy Phàn Khoái mạnh quá, liệu bề cự không lại, thúc ngựa chạy vào mé rừng.
Trời tối mịt, Thân vương chạy được một lúc, bỗng vấp vào một dây giăng ngang, cả người ngựa đều té xỉu.
Quân Hán bắt Thân Vương trói lại.
Phàn Khoái ra lệnh thâu quân, dẫn Thân Vương đem nạp cho Trương Lương.
Trương Lương trông thấy Thân vương vội bước đến mở trói mời ngồi, và nói:
– Lương tôi phụng mệnh đến mời Ðại vương họp binh đánh Sở, chẳng ngờ Ðại vương chưa đợi Lương tôi thưa, đã bắt ngay nộp Sở. Lương tôi buộc lòng phải bày mưu như vậy. Xin Ðại vương nghĩ kỹ hàng phục Hán đi.
Thân vương nói:
– Việc đã đến thế này tôi còn cưỡng lại được sao?
Vậy tôi xin mời Tiên sinh đến Lạc Dương để tôi thu xếp công việc rồi sẽ theo về Hán.
Trương Lương bằng lòng, cùng với Phàn Khoái kẻo về Lạc Dương.
Khi đến dưới thành, Thân vương đã thấy trên thành cắm cờ Hán. Một viên tướng chỉ xuống nói lớn:
– Ta là Hán tướng Quán Anh, phụng mệnh quân sư đến đây lấy thành. Nhà ngươi còn chỗ đâu mà trở về đây nữa.
Thân vương hoảng sợ, nghĩ thầm:
– Trương Lương là bậc thần nhân.
Lúc đó, Trương Lương thúc ngựa đến, gọi Quán Anh nói:
– Hãy mở cửa thành cho vào.
Cửa thành mở, Trương Lương dắt Thân vương vào.
Ðược một lúc lại có quân báo:
– Một toán quân Hán tiếp ứng, cầm quân là Chu Bột và Sài Vũ, hiện ở ngoài thành, muốn vào yết kiến Quân sư.
Trương Lương truyền hai tướng vào, hỏi ra mới biết, sau khi Trương Lương ra khỏi Hàm Dương, Hàn Tin sợ Trương Lương thiếu binh lực, nên cắt hai tướng ấy dẫn ba ngàn tinh binh theo sau đề phòng tiếp cứu. Nhưng hai tướng đến nơi thì đã được tin Trương Lương lấy Lạc Dương rồi.
Thân vương ngơ ngác nghĩ thầm:
– Hán vương có bầy tôi trí dũng như vậy, cơ nghiệp thế nào cũng thành. Nay mình về Hán là phải lắm rồi.
Hôm sau, Trương Lương đem Thân Vương, Lục Giả cùng các tướng trở về Hàm Dương phục lệnh.
Hán vương mừng rỡ, tiếp đón Thân Vương rất hậu, lại tha tội cho Lục Giả, sung vào làm tùy phái nơi dinh Nguyên soái.
Một hôm Hàn Tín bàn với các mưu sĩ:
– Nay nơi Lạc Dương và Tây Ngụy đã bình xong, Chúa thượng hằng mong việc Ðông Chinh, ngặt vì đức Thái công hiện nay còn ở Phong Bái, nằm trong tay của Hạng vương, các ngài có kế gì hay chăng?
Ðại tướng Vương Lăng đứng dậy nói:
– Tôi có hai người bạn thân tên Chu Cát và Chu Lợi, hiện đóng ở Nam Dương, quân sĩ hơn ba vạn. Tôi xin đưa tin cho hai người ấy mật đưa đức Thái công và hộ tống gia quyến đến đây.
Hàn Tín nghe nói mừng rỡ, liền tâu với Hán vương sai Vương Lăng đi đón Thái công.
Nhắc lại Bá vương, ở Bành Thành cử binh đi đánh Tề, Lương, việc chưa xong, xảy ra có quân báo:
– Ngụy Báo và Thân vương đều đã hàng Hán cả rồi.
Bá vương nổi giận, muốn cử binh đánh Hán, Phạm Tăng can:
– Hiện nay Tề, Lương chưa hạ được, chư hầu ly tán. Nếu Ðại vương Tây chinh, thì Bành Thành khó giữ. Chi bằng sai người đến Phong Bái bắt Thái Công đem về đây câu thúc, rồi truyền các lộ canh phòng cẩn mật, đợi khi hạ được Tề sẽ đề binh đánh Hán.
Bá vương nghe lời, sai bộ tướng Lưu Tín đêm một nghìn quân, lẻn sang đường Phong Trạch đến huyện Phong Bái bắt Thái công và gia quyến cả thảy 125 người, niêm phong tài sản, giao cho quan huyện coi giữ, rồi giải về Bành Thành.
Nhưng vừa đi được hơn ba mươi dặm, bỗng nghe trong rừng có tiếng pháo nổ, ba viên Ðại tướng là Vương Lăng, Chu Cát và Chu Lợi xông ra, chặn ngang đường, đánh giết Lưu Tín, cướp tù xa, đưa Thái công dong ruổi.
Toán quân Sở bị thua, chạy về báo với Bá vương, Bá vương nổi giận, sai Chung Ly Muội và Anh Bố đem ba ngàn quân đuổi theo.
Lúc ấy bọn Vương Lăng đã đưa Thái Công đến thành Hàn Nam, bỗng thấy phía sau cát bụi bay nghịt trời.
Vương Lăng nói với Chu Cát và Chu Lợi:
– Quân Sở đuổi theo, hai ông phải đi đoạn hậu, để tôi hộ vệ Thái công và gia quyến đi trước.
Chu Cát và Chu Lợi theo lời, đóng quân lại bên vệ đường thẳng mấy chốc, Chung Ly Muội và Anh Bố đã đuổi kịp. Chu Cát và Chu Lợi xông ra ngăn cản, nhưng đánh không lại, hai tướng đều tử trận. Hơn ba ngàn quân Hán đều đã bỏ chạy tán loạn.
Anh Bố và Chung Ly Muội thấy trời đã tối, không dám đuổi theo. Ðóng quân lại một nơi đợi sáng hôm sau sẽ truy nã.
Vương Lăng được tin hai bạn mình từ trận, đêm ấy vội đưa Thái công suốt đêm băng rừng vượt núi, không dám dừng chân. Ði được hai ngày thì bọn Anh Bố đuổi theo kịp.
Ðang cơn bối rối, bỗng trong rừng có một đạo quân xông ra, cờ đề hai chữ “Hán tướng”.
Cầm đầu đạo quân ấy là Chu Bột và Trần Vũ. Hai tướng xông ra chặn Anh Bố và Chung Ly Muội lại.
Vương Lăng thừa cơ hội phò gia quyến Thái công thoát qua khỏi núi.
Anh Bố và Chung Ly Muội đuổi theo suốt mấy ngày, người mỏi, ngựa mệt, nay gặp Hán tướng đánh sao cho lại, hai bên giao chiến một hồi, quân Anh Bố đuối sức lui dần.
Chung Ly Muội bàn với Anh Bố:
– Quân Hán đến cứu viện, thế mạnh lắm, quân ta đường xa địch không nổi, chi bằng thừa lúc trăng sáng ta rút quân là hơn.
Anh Bố nghe lời ra lệnh lui binh.
Vương Lăng bảo hộ Thái công về đến Hàm Dương, Hán vương được tin ra khỏi thành nghênh tiếp.
Cha con gặp nhau, gia đình đoàn tụ, nỗi mừng tràn ngập cả kinh thành.
Giữa lúc đó Anh Bố và Chung Ly Muội kéo tàn quân trở lại Bành Thành, mặt buồn rười rươi, vào yết kiến Bá vương tâu trình tự sự.
Bá vương hỏi:
– Vương Lăng là người thế nào lại lắm mưu chước như vậy?
Phạm Tăng nói:
– Vương Lăng là một mưu tướng, lại là người chí hiếu. Năm trước, Vương Lăng tụ đảng ở Nam Dương rồi theo phò Hán vương. Hiện nay mẹ Vương Lăng còn đang ở với người con thứ hai là Vương Trạch, làm nghề cày ruộng nơi huyện Bái. Nếu ta bắt được Lăng mẫu đến đây, rồi sai người dụ Vương Lăng, ắt Vương Lăng vì hiếu về hàng Sở.
Bá vương lập tức sai người đến huyện Bái, bắt Lăng mẫu dẫn về Bành Thành, và dụ rằng:
– Ta nghe con mụ là Vương Lăng, hiền hòa, dễ dạy, nếu mụ bảo Vương Lăng về hàng Sở, ta sẽ phong tước Vạn hộ hầu, cả nhà đều hưởng lộc trời. Mụ hãy viết một phong thư, ta sai người đem đến.
Lăng mẫu chỉ cúi đầu không đáp.
Phạm Tăng mật tâu với Bá vương:
– Xin cứ giam Lăng mẫu một nơi, sai người trông coi tử tế chờ khi quân Hán đến cướp cõi, bấy giờ có kế hay.
Bấy giờ Hán vương ở Hàm Dương, quân thế mỗi lúc một lừng lẫy, liền gọi quần thần bàn việc đánh Sở.
Hàn Tín tâu:
– Quân ta dẫu mạnh, nhưng bên Ðông còn có Ân vương ngăn trở, phải phục được Ân vương đã. Vả lại, tuế tinh năm nay chưa được lợi, xin cứ chiêu tập hào kiệt, luyện tập quân sĩ, chờ đến sang năm sẽ hay.
Hán vương khen phải. Hàn Tín liền bái biệt, lĩnh quân đi đánh Ân vương, kéo đến Hà Nội, cách năm mươi dặm hạ trị.
Ân vương là Tư Mã Ngang biết trước, đã sai quân đóng đồn. Cách bên ngoài ba mươi sáu dặm, và cắt quân phòng thủ bốn mặt thành, rồi hội các tướng thương nghị.
Ân vương hỏi triều thần:
– Hàn Tín quân nhiều thế mạnh, lại lắm chước quỉ, mưu thần, ta phải dùng cách gì để địch lại?
Mưu sĩ Ðỗ Văn Ðại nói:
– Cứ như ý tôi, chỉ nên phòng thủ cẩn mật, đoạn sai người về Bành Thành phi báo với Bá vương, chớ nên khinh chiến.
Ðại tướng Tôn Dần nói:
– Hàn Tín ở xa đến đây, người mỏi, ngựa mệt, ta cần phải đánh ngay, nếu diên trì khó thắng.
Phó tướng Ngụy Hanh nới:
– Ðánh là phải, nhưng việc cầu cứu cũng cần thiết.
Ân vương nghe lời, một mặt sai người phi báo về Bành Thành, một mặt sai Tôn Dần điểm quân xuất trận.
Hàn Tín vừa hạ trại xong, Tôn Dần đã đến ngay trước dinh khiêu chiến.
Hàn Tín vỗ ngựa ra, hét lớn:
– Ân vương nhà ngươi không biết cơ trời, không rõ nhân thế. Hiện nay chư hầu đều hàng phục Hán triệu, nước ngươi nhỏ bé, sao dám kháng cự?
Tôn Dần nói:
– Hán vương nhà ngươi cướp được Hàm Dương, như vậy cũng đủ lắm rồi, cớ sao còn đem lòng tham dấy loạn khắp nơi! Thật không biết biết sức mình.
Phàn Khoái đứng sau nghe nói, nổi giận, vỗ ngựa tới đâm nhầu một kích. Tôn Dần rước đánh. Hai bên đánh đến năm mươi hiệp mà vẫn chưa phân thắng bại.
Ngụy Hanh thấy Tôn Dần không địch nổi Phàn Khoái, liền xem đến đánh giúp. Bên kia, Tiết Ân và Trần Bái thấy vậy cũng xông ngựa vào trợ lực với Phàn Khoái.
Trận chiến bừng sôi, bụi cát bay nghịt trời.
Ân vương đứng trên thành trông thấy, vội vã đem một đạo quân, mở cửa thành ra tiếp ứng.
Hàn Tín cũng vội vã sai Chu Bột, Sài Vũ, Lư Quán và Ngân Hấp ra đối địch.
Ân vương đánh một hồi, liệu thế không thắng nổi, bèn thu quân vào thành. Hàn Tín xua quân đuổi theo vây hãm.
Nhắc lại, sứ thần của Ân vương tuân lệnh đến Bành Thành cầu cứu.
Nhưng đến nơi Bá vương đã đem quân đi đánh Tề, Lương nên vắng mặt.
Sứ giả lại thân hành đến địa phận Tề, Lương để dâng thư.
Bá vương được thư, mở ra xem, nổi giận hét lớn:
– Không ngờ thằng thất phu Lưu Bang ngày nay dám hoành hành như vậy.
Liền gọi Phạm Tăng đến hỏi:
– Nay Tề, Lương chưa hạ được, nếu giải binh đi cứu Hà Nội e lòng quân chán nản. Ta định sai người đi thế có được chăng?
Phạm Tăng nói:
– Hàn Tín không phải là tay vừa. Ðại vương không thân chinh thì không ai địch nổi. Tuy nhiên, việc đánh Tề Lương đã lỡ, không thể bỏ đi được, xin Ðại vương sai Hạng Trang, Quí Bố đem ba vạn quân thẳng đến Hà Nội phòng bộ, chờ khi hạ được Tề Lương sẽ di binh đến phá Hán. Chừng ấy, ta có thể điều binh chư hầu trợ lực nữa.
Bá vương nghe lời theo, sai Hạng Trang và Quý Bố đem binh cứu Hà Nội.
Lúc bấy giờ, Hàn Tín vây Hà Nội mấy ngày mà không phá nổi, nên mật nghị với chư tướng rằng:
– Hà Nội thành cao, hào sâu, Ân vương cố thủ mãi, khó mà phá vỡ được. Nếu để diên trì, Bá vương cho quân đến cứu viện, làm nội ứng ngoại hiệp, quân ta tất bị đẩy lui Các tướng phải lãnh mật kế ta thi hành như thế mới được.
Chư tướng vâng lệnh, chia nhau theo nhiệm vụ cắt đặt lại sai dọn dẹp, thu xếp hành trang giả cách lui quân.
Quân canh trên thành thấy vậy vào báo với Ân vương.
Ân vương lên mặt thành xem, quả thấy quân Hán rút lui dần, vòng vây thưa thớt, hến gọi mưu sĩ Ðỗ Văn Ðại đến bàn:
– Có lẽ Hàn Tín nghe được tin Bá vương sắp đưa binh đến đây cứu viện, nên sợ mà rút lui chăng?
Ðỗ Vạn Ðại nói:
– Hàn Tín rất nhiều quỷ kế, không thể lường được. E rằng hắn giả cách lui quân để gạt ta đuổi theo rồi phục binh cướp thành? Ðại vương cần phải xem xét kỹ càng kẻo lầm mưu đó.
Ân vương liền sai vài tên quân ra khỏi thành vài mươi dặm, thám thính địch tình.
Vừa ra đến nơi, gặp mấy tên quân Hán đang khuân vác hành trang có vẻ hấp tấp lắm.
Quân thám thính của Ân vương giả cách hỏi:
– Sao các anh không đánh thành lại sắp sửa ra về?
Mấy tên quân Hán đáp:
– Ðánh thành để chịu chết sao? Hôm qua có tin Bá vương đem quân từ Hà Bắc đến đây tiếp cứu. Hán vương không dám đối địch với Bá vương, nên sai người triệu Hàn Nguyên soái về. Nhân mã đã lui hết cả rồi, chỉ còn một số chúng tôi ở lại khuân vác những đồ nên ở lại mà thôi.
Quân thám thính mừng thầm, trở vế báo lại với Ân vương.
Ân vương nói:
– Thế thì ta đem quân truy kích ắt chúng sẽ không còn manh giáp mà trở về.
Liền ra lệnh cho Tôn Dần, Ngụy Hanh dẫn một vạn quân đuổi theo. Còn mình, cũng đem một vạn quân làm hầu ứng. Trong thành chỉ để hơn năm trăm ngàn nhân mã.
Tôn Dần và Ngụy Hanh đuổi theo quân Hán hơn năm mươi dặm vẫn không thấy động tĩnh gì cả. Hai bên đường cây cối um tùm. Trời đã xế bóng, Tôn Dần truyền đóng quân tạm nghỉ. Bỗng nghe trong rừng rậm có tiếng pháo nổ, tiếp theo có tiếng vó ngựa dồn dập.
Tôn Dần và Ngụy Hạnh còn đang ngơ ngác, thì trong rừng xông ra hai viên đại tướng Chu Bột và Sài Vũ.
Hai tướng này không nói gì cả, huơi đao lược chiến.
Ðánh một hồi, đạo quân của Tôn Dần và Ngụy Hanh bị cắt ra làm hai đoạn. Tôn Dần liệu chống chế không nổi, liền thu quân bại tẩu.
Ngụy Hạnh thấy tiền quân bị thua, cung rút lui, không dám tiến.
Ðàng sau, Ân vương dẫn đạo quân hậu vệ vừa đến nơi, bỗng thấy đàng sau lửa cháy ngất trời người ngựa đều bấn loạn, không biết đàng nào lẩn tránh. Hai bên rừng quân phục của Hàn Tín nổi dậy chém giết quân của Ân vương vô số.
Ân vương toan ra lệnh mở huyết lộ để tháo lui thì bỗng bị Phàn Khoái sảy ngựa đến bắt sống giữa đám loạn quân.
Tôn Dần và Ngụy Hanh trốn ra khỏi vòng vây, đi tìm Ân vương, nhưng không thấy đâu cả, chỉ thấy quân Hán trùng trùng điệp điệp, tiếng la hét dậy trời.
Bóng tối bắt đầu rùm cả núi rừng, mùi lửa, mùi thịt khét, lẫn với mùi tạnh hôi xông lên không chịu nổi.
Hai tướng không biết nơi nào chạy nữa, đành núp dưới gốc cây để chờ sáng sẽ hay. Chẳng ngờ Hàn Tín đứng trên gò cao, sai quân đốt đuốc đi tìm. Ðến nơi thấy hai người đang ôm nhau núp bóng.
Trương Hán hét lớn:
– Hai tướng Hà Nội! Ân vương nhà ngươi đã bị bắt rồi hãy đầu hàng mau kẻo chết!
Tôn Dần và Ngụy Hạnh sợ hãi, tình nguyện đầu hàng.
Hàn Tín liến thu quân, kéo đến mặt thành.
Trong lúc đó Phàn Khoái, sau khi bắt được Ân vương, gạt Ðỗ Vạn Ðại mở cửa thành rồi. Nên lúc Hàn Tín đến thì đã cắm toàn cờ Hán.
Quân giữ cửa thấy Hàn Tín đến, vội vã mở cửa nghinh tiếp.
Hàn Tín vào truyền dẫn Ân vương đến mở trói mời ngồi và nói:
– Xin đại vương cứ tự nhiên cho.
Ân vương khúm núm thưa:
– Tôi là tù mất nước, Nguyên soái không giết đã là may lắm rồi, dám đâu đồng tọa.
Hàn Tín nói:
– Ðại vương chớ nên quá khiêm tốn. Hán vương là bậc khoan nhân, đại độ, chuyên lấy nhân nghĩa đãi mọi người. Dẫu kẻ có tội cũng không nỡ giết. Nếu Ðại vương chịu đầu Hán, góp công trong việc trừ Hạng Vũ, tôi chắc chắn ngôi vương tước không mất.
Ân vương mừng rỡ, truyền lệnh cho các tướng, huyện quy hàng. Thế là Hàn Tín đã bình định xong Hà Nội, liến viết tiệp sai người về Hàm Dương báo tin.
Lúc bấy giờ Hạng Trang và Quý Bố mời lẽo đẽo dẫn cứu binh đến nơi.
Vừa được tin Hàn Tín đã chiếm thành rồi, Quí Bố bàn với Hạng Trang:
– Thành đã bị chiếm, Ân vương đã đầu giặc, chúng ta còn làm cách nào được nữa. Chi bằng trở về báo với Bá vương liệu định.