Kim Dung được xem là tác giả tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng và thành công nhất tới thời điểm hiện tại. Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể nhiều lần thành phim truyền hình và phim điện ảnh.
Ngũ Bá Cương là nơi giao giới giữa hai tỉnh Lỗ, Dự; phía Đông giáp huyện Hà Trạch và huyện Định Đào tỉnh Sơn Đông; phía Tây giáp huyện Đông Minh tỉnh Hà Nam. Địa thế ở đây bằng phẳng, có nhiều ao đầm. Nhìn từ xa, Ngũ Bá Cương cũng không cao lắm, chỉ có đỉnh núi nhô lên mà thôi. Đoàn xe ngựa chạy nhanh về hướng Đông, đi không được mấy dặm thì có nhiều toán kỵ mã chạy ra nghênh đón. Họ đến trước xe liền xuống ngựa, lớn tiếng chào Lệnh Hồ Xung, lời nói rất lễ phép, cung kính.
Gần đến Ngũ Bá Cương, người ra nghênh đón càng nhiều. Những người này tự báo tên họ, Lệnh Hồ Xung nhớ không được bao nhiêu. Cỗ xe lớn ngừng trước một ngọn núi cao, trên sườn núi có một rừng tùng um tùm, lên núi là một con đường ruột dê quanh co khúc khuỷu.
Hoàng Bá Lưu dìu Lệnh Hồ Xung xuống xe thì đã có hai tên đại hán khiêng kiệu đứng bên đường chờ. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Ta ngồi kiệu mà sư phụ, sư nương và sư muội lại đi bộ, lòng thật không yên. Chàng bèn nói:
– Sư nương! Sư nương ngồi kiệu đi, để đệ tử đi bộ được rồi.
Nhạc phu nhân mỉm cười nói:
– Bọn họ chỉ nghênh đón Lệnh Hồ Xung công tử chứ đâu phải nghênh tiếp sư nương của ngươi.
Bà nói xong liền triển khai khinh công vọt nhanh lên núi. Hai cha con Nhạc Bất Quần cũng bước nhanh theo. Lệnh Hồ Xung không còn cách nào khác đành ngồi vào kiệu.
Kiệu khiêng lên núi đến một khoảng đất trống trong rừng tùng, thấy bên Đông một tốp, bên Tây một tốp người ùa ra. Những người này tướng mạo cổ quái, đều là hán tử thô lỗ của Tam sơn Ngũ nhạc.
Mọi người ùa ra như đàn ong, có người hỏi:
– Vị này là Lệnh Hồ công tử phải không?
Có người nói:
– Đây là linh dược trị thương tổ truyền của tiểu nhân, có công hiệu cải tử hoàn sinh.
Có người nói:
– Đây là nhân sâm lâu năm mà tại hạ đào được trên núi Trường Bạch cách đây hai mươi năm. Nó đã thành hình, xin Lệnh Hồ công tử thu nhận.
Có người nói:
– Đây là bảy vị danh y có bản lãnh nhất trong lục phủ ở Lỗ Đông, tại hạ mời đến để chẩn mạch cho công tử.
Bảy danh y này tay đều bị dây thừng trói thành một chuỗi, vẻ mặt âu sầu khổ não, tinh thần tiều tụy chẳng có chút nào ra vẻ danh y. Rõ ràng họ bị người này bắt đem tới, tiếng “mời” chỉ nói cho dễ nghe mà thôi. Lại có một người gánh hai sọt trúc nói:
– Đây là dược liệu quý báu trong thành Tế Nam, mỗi thứ tiểu nhân đều lấy một ít. Công tử muốn dùng loại gì, tiểu nhân đều đã chuẩn bị đủ hết để đề phòng khi cần gấp mà tìm không kịp.
Lệnh Hồ Xung thấy những người tụ tập trên Ngũ Bá Cương đều ăn mặc kỳ dị, vẻ mặt hung dữ nhưng đối với mình lại tỏ ra cung kính chân thành, tuyệt không thể nghi ngờ, bất giác hắn rất cảm động. Gần đây hắn gặp nhiều nghịch cảnh, sống chết khó nói, nên lòng dễ cảm xúc. Bầu máu nóng sôi lên trong ngực, hắn cung tay nói:
– Các vị bằng hữu! Lệnh Hồ Xung này chỉ là một tiểu tử vô danh, lại được các vị… các vị chiếu cố như vậy, thật… thật không…
Lệnh Hồ Xung nghẹn ngào không nói nên lời, liền bái xuống.
Quần hùng xôn xao nói:
– Thật không dám nhận.
– Xin mau đứng dậy.
– Chết bọn tiểu nhân rồi.
Rồi tất cả cũng đều quỳ mọp xuống đáp lễ.
Lúc này trên Ngũ Bá Cương hơn một ngàn người cùng quỳ mọp xuống, trừ sư đồ phái Hoa Sơn và Đào Cốc lục tiên. Sư đồ Nhạc Bất Quần không tiện đứng trước mặt quần hào nên đều tránh sang một bên để khỏi nhận lễ. Đào Cốc lục tiên tỉnh bơ, chỉ trỏ vào đám quần hào cười hì hì rồi nói vớ nói vẩn. Lệnh Hồ Xung cùng bọn quần hào lạy qua lạy lại một hồi, lúc chàng đứng dậy thì nước mắt đầm đìa. Chàng thầm nghĩ: Bất luận những bằng hữu nào đến đây vì mục đích gì, từ nay về sau Lệnh Hồ Xung này có vì bọn họ mà tan xương nát thịt vạn lần cũng không tiếc.
Hoàng Bá Lưu, bang chủ Thiên Hà bang nói:
– Lệnh Hồ công tử, mời công tử vào trong rạp phía trước nghỉ ngơi.
Lão dẫn Lệnh Hồ Xung và vợ chồng Nhạc Bất Quần vào một cái rạp lợp tranh. Cái rạp này vừa mới lợp xong, trong rạp có bàn ghế đầy đủ, trên bàn để bình trà và chén uống trà. Hoàng Bá Lưu phất tay một cái, bọn thuộc hạ rót rượu bưng đến, lại có người đem thịt bò khô, đùi gà và các thứ đồ nhắm bày biện đầy bàn.
Lệnh Hồ Xung bưng bát rượu, đi ra ngoài rạp lớn tiếng nói:
– Các vị bằng hữu! Lệnh Hồ Xung này và các vị lần đầu tương kiến, xin cùng nhau uống cạn chén rượu kết giao. Từ nay về sau, chúng ta có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu, bát rượu này xin mời hảo bằng hữu cùng nhau uống cạn.
Lệnh Hồ Xung nói xong, tay phải vung nhẹ hất bát rượu văng lên không trung tạo thành muôn ngàn hạt nhỏ, rơi xuống khắp nơi.
Quần hào hoan hô, hò reo chấn động. Tất cả đều nói:
– Lệnh Hồ công tử nói hay lắm! Từ nay về sau, tất cả chúng ta có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu.
Nhạc Bất Quần chau mày nghĩ: Xung nhi quá khích động, hành sự lỗ mãng buông thả, không nghĩ trước nghĩ sau. Trước mặt những người đối với hắn ra vẻ tốt đẹp thì hắn nói với bọn chúng cái gì có phúc cùng hưởng, có nạn cùng chịu. Trong những người này chỉ e không có người nào biết quy củ cả, toàn là những thứ giống như Điền Bá Quang. Bọn chúng là quân gian dâm, đạo tặc, giết người cướp của, hắn cũng có phúc cùng hưởng với bọn chúng ư? Ta là kẻ sĩ chính phái phải diệt trừ bọn ác đồ này, mà hắn lại cùng chịu nạn với bọn chúng ư?
Lệnh Hồ Xung lại nói:
– Vì sao các vị bằng hữu chiếu cố Lệnh Hồ Xung đến vậy? Tại hạ không biết tí gì cả. Nhưng biết cũng được, không biết cũng được, các vị có chuyện gì khó xử thì xin nói rõ ra. Bậc đại trượng phu quang minh lỗi lạc, không có chuyện gì mà không thể nói ra với người. Chỉ cần Lệnh Hồ Xung này có chỗ giúp được thì dù tại hạ lọt vào núi đao rừng kiếm, quyết không dám từ.
Lệnh Hồ Xung nghĩ những người này vốn không quen biết mà muốn kết giao với mình như vậy tất nhiên phải có một việc lớn mong mình tương trợ. Mình cứ đáp trả hết mình cho họ, nếu thật sự không làm được, bị chết là cùng.
Hoàng Bá Lưu nói:
– Lệnh Hồ công tử sao lại nói vậy? Các vị bằng hữu được tin công tử giá lâm, mọi người ngưỡng mộ, đều muốn chiêm ngưỡng phong thái công tử nên không hẹn mà cùng tụ tập nơi đây. Lại nghe nói công tử không được khỏe, mới mời danh y hoặc tìm dược liệu để trị, chứ đối với công tử không hề có điều chi muốn thỉnh cầu. Bọn tại hạ ở đây không cùng phe phái, biết nhau đều chỉ qua nghe danh của nhau, có người còn chưa hề biết đến. Nhưng công tử đã nói từ nay về sau có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu thì mọi người dù không phải là hảo bằng hữu cũng muốn làm hảo bằng hữu của nhau.
Quần hào đồng thanh nói:
– Đúng vậy, Hoàng bang chủ nói rất đúng.
Người dắt bảy “danh y” đi đến nói:
– Mời công tử vào trong rạp để bảy danh y chẩn mạch xem sao.
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Bình Nhất Chỉ tiên sinh là một danh y bản lĩnh cao cường còn nói thương thế của ta không có thuốc nào trị được, thì bảy danh y của ngươi làm sao có thể tìm ra bệnh của ta. Nhưng Lệnh Hồ Xung không muốn phụ hảo ý của hắn nên không từ chối, đành phải đi vào rạp tranh.
Người đó dắt bảy danh y như một xâu gà đồng kéo vào trong rạp. Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Huynh đài thả họ ra đi, chắc họ không chạy trốn đâu.
– Nếu không trị khỏi cho Lệnh Hồ công tử thì mấy cái đầu của các ngươi cũng bị kéo đứt như sợi dây này vậy.
Một danh y ấp úng:
– Tiểu… Tiểu nhân sẽ làm hết sức, nhưng bệnh, bệnh… trong thiên hạ làm sao chữa khỏi hết?
Một người khác nói:
– Nhìn mặt công tử đây đầy đủ nguyên khí, nhất định uống thuốc sẽ khá.
Mấy danh y tiến lên phía trước bắt mạch cho Lệnh Hồ Xung. Bỗng ngoài rạp có tiếng người quát:
– Cút ra ngoài cho ta, bọn lang băm này biết cứt gì.
Lệnh Hồ Xung quay đầu thấy Sát nhân danh y Bình Nhất Chỉ đến thì vui mừng nói:
– Bình tiên sinh, tiên sinh cũng đến đây ư? Tại hạ vốn nghĩ những danh y này chả ra gì.
Bình Nhất Chỉ đi vào trong rạp, chân trái vung lên binh một tiếng, lão đá một tên danh y văng ra ngoài rạp; chân phải vung lên, binh một tiếng nữa, lão lại đá một tên danh y nữa bay ra. Hán tử bắt mấy danh y rất kính nể Bình Nhất Chỉ, gã quát:
– Đệ nhất danh y đương thời Bình đại phu đến, cái thứ như bọn ngươi còn dám to gan ở đây xớ rớ làm gì nữa!
Binh, binh hai tiếng, gã cũng đá hai tên danh y văng ra ngoài. Ba tên danh y còn lại thấy vậy co giò chạy ra ngoài rạp. Hán tử đó cúi người cười gượng, nói:
– Lệnh Hồ công tử, Bình đại phu, tại hạ có điều mạo muội…
Bình Nhất Chỉ vung chân trái lên, binh một tiếng, lão đá gã hán tử đó văng ra ngoài rạp. Sự việc xảy ra trong khoảnh khắc vượt ra ngoài dự đoán của Lệnh Hồ Xung khiến hắn không khỏi ngạc nhiên. Bình Nhất Chỉ không nói lời nào. Lão ngồi xuống, đưa tay bắt mạch tay phải của Lệnh Hồ Xung, qua một hồi lâu, lão lại bắt mạch tay trái của hắn. Lão cứ đổi qua đổi lại nhiều lần rồi chau mày, nhắm mắt lại, suy tư khổ não. Lệnh Hồ Xung nói:
– Bình tiên sinh, phàm làm người sống chết có số, thương thế của Lệnh Hồ Xung khó trị, tiên sinh đã hai lần lao tâm, tại hạ cảm kích vô cùng. Tiên sinh cũng không nên lao tâm nhọc trí thêm nữa.
Ngoài rạp có tiếng ồn ào huyên náo, tiếng quần hùng xai quyền đấu rượu vang dậy khắp nơi, hiển nhiên là Thiên Hà bang đã đem rượu và đồ nhắm lên, thiết quần hào uống một bữa túy lúy. Lệnh Hồ Xung muốn bay ra bên ngoài, chỉ muốn cùng bọn quần hào náo nhiệt một phen, nhưng Bình Nhất Chỉ cứ đổi tay bắt mạch qua lại cho hắn hoài, tưởng chừng lão chẩn bệnh không ngừng. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Vị Bình đại phu này có tên tự là Bình Nhất Chỉ, tự xưng trị bệnh cho người chỉ dùng một ngón tay chẩn mạch, giết người cũng chỉ dùng một ngón tay điểm huyệt, nhưng bây giờ lão chẩn mạch cho mình đâu chỉ có một ngón? Dường như cả mười ngón tay cũng đều chẩn hết rồi.
Soạt một tiếng, một cái đầu thò vào, chính là Đào Cán Tiên, nói:
– Lệnh Hồ Xung, sao ngươi không ra đây uống rượu?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Chút nữa, lão chờ tại hạ. Đừng uống say trước.
Đào Cán Tiên nói:
– Được! Bình đại phu, đại phu chẩn mạch nhanh lên đi!
Lão nói xong liền rụt đầu ra.
Bình Nhất Chỉ từ từ rút tay về, lão nhắm mắt lại, ngón trỏ tay phải gõ nhẹ lên bàn, rõ ràng đang có điều nan giải. Lại qua một lúc lâu, lão mở mắt ra nói:
– Lệnh Hồ công tử, nội thể của công tử có bảy loại chân khí hỗ tương xung đột nhau, không thể khai thông cũng không thể giáng phục được. Đây không phải bị thương vì trúng độc, càng không phải bị phong hàn thấp nhiệt, cho nên chữa trị bằng châm cứu hay dược thạch cũng không khỏi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Từ sau cái hôm chẩn mạch cho công tử ở Chu Tiên trấn, tại hạ đã nghĩ ra một biện pháp mạo hiểm để cầu may là mời bảy vị cao thủ nội công thâm hậu, cùng thi triển chân khí để tiêu trừ bảy luồng chân khí bất đồng trong nội thể của công tử. Hôm nay, tại hạ đã mời được ba vị cùng đến, trong quần hào lại mời thêm được hai vị, không chút khó khăn gì, thêm tôn sư Nhạc tiên sinh và tại hạ thì có thể thi triển được rồi. Nhưng vừa rồi chẩn mạch cho công tử, phát hiện thấy tình thế đã thay đổi, càng phức tạp lạ thường.
Lệnh Hồ Xung dặng hắng một tiếng. Bình Nhất Chỉ nói tiếp:
– Trong những ngày qua, lại phát sinh bốn đại biến. Một là công tử đã uống mấy chục loại thuốc nóng nhiệt đại bổ, trong đó có nhân sâm, hà thủ ô, chi thảo, phục linh và các dược vật trân quý. Phương pháp chế luyện mấy loại thuốc bổ này lại là dùng để cho người thuần âm uống.
Lệnh Hồ Xung ồ một tiếng, nói:
– Đúng như vậy, thần kỹ của tiền bối thật xưa nay hiếm có.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Sao công tử lại uống những bổ dược này? Chắc là bọn lang băm nhầm lẫn, thật đáng giận.
Lệnh Hồ Xung nghĩ:
– Tổ Thiên Thu trộm Tục mệnh bát hoàn của Lão Đầu Tử đến cho ta uống vì có hảo ý, lão nào biết bổ dược cũng có phân biệt nam, nữ? Nếu nói ra nhất định Bình đại phu quở trách lão, giấu đi thì hơn.
Lệnh Hồ Xung liền đáp:
– Đó là do vãn bối tự uống nhầm, không thể trách ai được.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Lệnh Hồ công tử đâu có bị khí hư, tương phản vừa vặn, vẫn là nhiều chân khí, đột nhiên lại uống loại bổ dược vào, sao lại như vậy được? Giống như nước sông Trường Giang đã tràn đầy, sắp gây ra lũ lụt, người trị thủy đã không khai thông cho giảm mà ngược lại, còn tháo thêm nước hồ Động Đình, hồ Bà Dương đổ vào há không gây thành trận lụt lớn? Chỉ có dạng thiếu nữ tiên thiên bất túc, hư nhược vô lực uống loại thuốc bổ này mới có ích, còn nếu công tử uống vào rồi, ôi, lại càng thêm hại.
Lệnh Hồ Xung nghĩ: Chỉ mong Lão Bất Tử cô nương, con gái của Lão Đầu Tử sau khi uống máu của ta bệnh tình sẽ thuyên giảm.
Bình Nhất Chỉ lại nói:
– Đại biến thứ hai là công tử bỗng nhiên bị mất một lượng máu quá nhiều. Dựa vào bệnh trạng hiện nay của công tử sao có thể tranh đấu động võ với người? Vậy mà công tử còn hiếu dũng tranh hùng như vậy, làm sao có thể kéo dài mạng sống được? Ôi, người ta coi trọng công tử như vậy mà công tử không biết tự thương mình. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, hà tất phải gấp gáp như vậy.
Lão nói rồi lắc đầu liên tục. Lúc nói những lời này, trên mặt lão hiện ra vẻ bực bội, nếu bệnh nhân lão trị không phải là Lệnh Hồ Xung thì lão không đánh cho một chưởng cũng lớn tiếng chửi mắng. Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiền bối chỉ giáo thật đúng.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Chỉ một chuyện mất máu thì cũng được, cũng không khó điều trị. Đằng này công tử lại đi hòa mình với bọn Ngũ độc giáo ở Vân Nam, uống Ngũ tiên đại bổ dược tửu của bọn chúng.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Ngũ tiên đại bổ dược tửu ư?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Ngũ tiên đại bổ dược tửu là thứ rượu được cất theo phương pháp tổ truyền bí mật của Ngũ độc giáo từ năm loại trùng độc trân quý kỳ lạ, nghe nói mỗi con đều được nuôi dưỡng mười mấy năm, trong rượu còn có mấy chục loại kỳ hoa quái thảo để xung khắc chế ngự lẫn nhau. Người uống thứ dược tửu này vào tránh được bách bệnh, các thứ độc cũng không thâm nhập được, tăng tiến thêm hơn mười năm công lực, đó là thứ bổ dược thần kỳ nhất hiện nay. Lão phu ngưỡng mộ đã lâu, hận mình chưa được nếm qua. Nghe nói Lam Phượng Hoàng là một cô gái giữ mình như ngọc, trước nay chưa hề giao thiệp với bất cứ người nam tử nào mà lại đem dược tửu trân quý trong giáo phái của mình cho công tử uống. Ôi, thiếu niên phong lưu, đi đến đâu lưu tình đến đó, sao không biết việc ấy là tự rước họa vào thân?
Lệnh Hồ Xung chỉ cười gượng, nói:
– Lam Phượng Hoàng và vãn bối chỉ gặp nhau một lần trong thuyền trên sông Hoàng Hà, được cô ta lấy Ngũ tiên dược tửu tặng cho, ngoài ra không có dây dưa gì khác.
Bình Nhất Chỉ đưa mắt nhìn chàng một lúc rồi gật đầu nói:
– Nếu nói như vậy là Lam Phượng Hoàng cho công tử uống Ngũ tiên đại bổ dược tửu cũng là vì nể mặt người ta. Nhưng thứ rượu này uống vào càng thêm bổ thì lại càng thêm hại. Huống hồ tuy thứ rượu đại bổ thì cũng đại độc. Hừ, con mẹ nó, làm rắc rối cả lên. Ngũ độc giáo của ả chẳng qua chỉ có vài loại cổ quái dược phương tổ truyền, Lam Phượng Hoàng tiểu nữ này hiểu y lý dược lý cái rắm chó gì? Mẹ nó, quậy đến hỏng bét cả rồi.
Lệnh Hồ Xung nghe lão chửi om sòm như vậy thì biết lão này tính rất nóng nảy, nhưng thấy vẻ mặt của lão sa sầm, ngực lão phập phồng, rõ ràng là lão rất quan tâm đến thương thế của mình thì trong lòng cảm thấy áy náy. Chàng nói:
– Bình tiền bối, Lam giáo chủ cũng vì có hảo ý…
Bình Nhất Chỉ tức giận nói:
– Hảo ý, hảo ý! Hừ, những hạng lang băm giết người trong thiên hạ đâu có ai không có hảo ý? Công tử không biết mỗi ngày số người bị chết vì tay bọn lang băm còn nhiều hơn số người bị chết dưới đao kiếm giang hồ ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chuyện này cũng có thể như vậy.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Sao lại có thể như vậy. Xác thực là như vậy. Người mà Bình Nhất Chỉ này chữa trị, ả Lam Phượng Hoàng dựa vào cái gì mà nhúng tay vào? Bây giờ trong máu của công tử có chứa chất kịch độc, nếu muốn lần lượt hóa giải thì bảy luồng chân khí bị khích động, chỉ e nội trong ba canh giờ, công tử đã mất mạng rồi.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Trong máu của mình có chất kịch độc, cũng không chắc là do uống Ngũ tiên tửu. Lam giáo chủ và bốn cô gái người Miêu đã lấy máu của chính họ truyền sang cho mình. Những người này ngày đêm hòa mình với các chất kỳ độc, trong thức ăn nước uống cũng có độc, trong máu họ cũng không tránh khỏi có độc, chỉ vì họ cứ sống như vậy riết thành thích nghi nên họ không sao cả. Chuyện này không thể nói với Bình tiền bối, nếu không thì lão càng tức giận hơn.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy rồi nói:
– Y đạo dược lý của tiền bối tinh vi thâm ảo nên người thường không thể hiểu được.
Bình Nhất Chỉ thở dài nói:
– Nếu chẳng qua chỉ uống nhầm bổ dược, mất máu nhiều, uống nhầm dược tửu thì tại hạ còn có biện pháp trị được. Đại biến thứ tư này thật khiến cho tại hạ đành chịu bó tay. Ôi, tất cả đều do chính công tử mà ra!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ, đều do chính tại hạ mà ra.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Trong mấy ngày này, tại sao công tử buồn chán không muốn sống nữa? Ấy là vì lý do gì? Lần trước ở Chu Tiên trấn, tại hạ chẩn mạch cho công tử, phát hiện thương thế của công tử tuy nặng, bệnh trạng kỳ lạ nhưng tim mạch vẫn còn mạnh, sinh cơ vẫn còn. Tại hạ định kéo dài tính mệnh công tử được một trăm ngày. Trong một trăm ngày đó, bất luận thế nào tại hạ cũng phải tìm cách trị căn bệnh quái lạ của công tử. Lúc đó tại hạ đã nắm chắc như vậy nhưng không vội nói rõ cho công tử, nhưng bây giờ ngay cả một chút sinh cơ cũng không có là tại vì sao?
Nghe Bình Nhất Chỉ hỏi đến chuyện này, bất giác Lệnh Hồ Xung đau nhói trong lòng, nghĩ: Trước đây sư phụ nghi ta nuốt mất Tịch tà kiếm phổ của Tiểu Lâm tử, điều đó cũng không sao. Bậc đại trượng phu lòng không hổ thẹn, chuyện này cũng có ngày nước chảy đá bày, nhưng… nhưng cả tiểu sư muội cũng nghi ngờ ta. Vì Tiểu Lâm tử mà cô vội quên đi tất cả thì ta sống trên đời này còn vui thú gì nữa?
Bình Nhất Chỉ không đợi Lệnh Hồ Xung trả lời, liền hỏi tiếp:
– Tại hạ chẩn mạch cho công tử lại thấy có dính dáng đến tình nghiệt. Kỳ thực phụ nữ trong thiên hạ ăn nói vô vị, mặt mũi khó ưa, tốt nhất là nên tránh xa họ ra. Nếu không có cách nào tránh được thì phải hết sức nhẫn nại như con hổ phải nhịn con rắn. Sao công tử lại nghĩ không ra điều ấy mà ngày đêm tưởng nhớ họ? Như vậy thật không nên. Tùy… tùy… ôi, không biết nói thế nào đây?
Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Phu nhân của tiền bối cố nhiên ăn nói vô vị, mặt mũi khó ưa, nhưng phụ nữ trong thiên hạ đâu phải ai cũng như vậy. Tiền bối đem thê tử của mình mà suy luận ra phụ nữ trong thiên hạ thật đáng buồn cười. Nếu tiểu sư muội quả thực là ăn nói vô vị, mặt mũi khó ưa…
Đào Hoa Tiên hai tay bưng hai bát rượu to, đi vào trong rạp nói:
– Trời ơi! Bình đại phu chưa trị xong ư?
Bình Nhất Chỉ sầm nét mặt nói:
– Trị không được rồi.
Đào Hoa Tiên sửng sốt nói:
– Trị không khỏi thì làm thế nào bây giờ?
Lão quay qua Lệnh Hồ Xung nói:
– Chi bằng ra ngoài uống rượu thôi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Phải đấy.
Bình Nhất Chỉ giận nói:
– Không đi được.
Đào Hoa Tiên sợ giật bắn người, quay người đi ra, hai bát rượu văng đầy áo lão.
Bình Nhất Chỉ nói:
– Lệnh Hồ công tử, thương thế của công tử muốn trị khỏi hẳn, dù có Đại La kim tiên e cũng khó làm được, nhưng muốn kéo dài tính mạng từ mấy tháng đến mấy năm cũng có thể được. Nhưng công tử phải nghe lời tại hạ: một là không được uống rượu; hai là dẹp lòng dục vọng, nữ sắc thì vạn lần phải kiêng, đừng nói là phải kiêng mà ngay cả nghĩ đến cũng không được; ba là không được động võ với ai. Giới tửu, giới sắc, giới đấu, ba giới này làm được thì có thể sống thêm được một hai năm nữa.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả. Bình Nhất Chỉ cả giận nói:
– Có gì đâu mà cười?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Con người sống trên đời này gặp việc thích chí thì cứ làm, mà ngay cả rượu cũng không được uống, phụ nữ cũng không được nhớ, người ta đè đầu cưỡi cổ cũng không được đánh trả thì còn sống làm gì nữa? Chi bằng chết sớm cho sảng khoái hơn.
Bình Nhất Chỉ gằn giọng nói:
– Tại hạ nhất định muốn công tử kiêng cữ, nếu tại hạ không trị được bệnh của công tử thì còn gì là thanh danh?
Lệnh Hồ Xung đưa tay ra cầm tay phải của lão, nói:
– Bình tiền bối, lòng tốt của lão tiền bối khiến vãn bối cảm kích vô cùng. Nhưng con người sống chết có số, dù y đạo của tiền bối tinh thâm cũng khó có thể cứu được người phải chết; trị không khỏi bệnh của tại hạ cũng không ảnh hưởng chút thanh danh nào của tiền bối đâu.
Soạt một tiếng, lại có người thò đầu vào. Đó là Đào Căn Tiên. Lão lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung, bệnh của ngươi khỏi chưa?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Bình đại phu y đạo tinh thâm đã trị khỏi bệnh cho tại hạ rồi.
Đào Căn Tiên nói:
– Tuyệt quá! Tuyệt quá!
Lão đi vào kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung, nói:
– Uống rượu đi! Uống rượu đi!
Lệnh Hồ Xung hướng về Bình Nhất Chỉ xá dài rồi nói:
– Đa tạ tiền bối đã nhọc tâm vì tại hạ.
Bình Nhất Chỉ không đáp lễ, miệng nói lẩm bẩm.
Đào Căn Tiên nói:
– Ta đã nói nhất định là trị khỏi mà. Lão là Sát nhân danh y, trị khỏi một người thì phải giết một người, nếu trị không khỏi cho một người thì lão phải làm thế nào? Sao không nói rõ ra luôn đi?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đừng nói tầm bậy tầm bạ nữa!
Cả hai nắm tay nhau ra ngoài rạp.
Quần hào tụ tập tứ phía uống rượu, trên đường Lệnh Hồ Xung đi qua, hễ ai rót rượu đưa mời, chàng liền uống cạn. Quần hào thấy Lệnh Hồ Xung vui vẻ tự nhiên, rượu đưa là uống, cười nói hể hả nên ai cũng thích thú, đều nói:
– Lệnh Hồ công tử hào khí ngất trời khiến ai cũng thán phục.
Lệnh Hồ Xung tiếp rượu uống liên tục khoảng mười mấy bát bỗng nhớ đến Bình Nhất Chỉ, liền rót một bát rượu to, miệng lớn tiếng hát:
– Đời nay có rượu, đời nay say…
Rồi đi vào trong rạp tranh, nói:
– Bình tiền bối, tại hạ kính tiền bối một bát.
Dưới ánh nến lập lòe, vẻ mặt của Bình Nhất Chỉ rất kỳ lạ. Lệnh Hồ Xung kinh hãi, cơn say đã tỉnh được ba phần. Lúc nhìn kỹ lão, thì mái tóc đen đã bạc trắng hết, mặt đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong vài canh giờ mà lão đã già đi mấy chục năm. Chỉ nghe lão lẩm bẩm:
– Trị khỏi một người phải giết một người, trị không khỏi một người thì phải làm sao?
Máu Lệnh Hồ Xung sôi lên, chàng lớn tiếng nói:
– Một mạng của Lệnh Hồ Xung là cái thá gì? Tiền bối hà tất phải nặng lòng như vậy?
Bình Nhất Chỉ nói:
– Trị không khỏi một người thì tại hạ sẽ tự sát, nếu không sao gọi là Sát nhân danh y được?
Lệnh Hồ Xung kinh hãi, vội chạy đến đỡ lão, thấy lão đã tắt thở chết rồi. Lệnh Hồ Xung ôm lão, không biết làm sao. Tai chàng vẫn nghe ngoài rạp tiếng ồn ào dần dần giảm đi, lòng cảm thấy thê lương. Lệnh Hồ Xung đứng lặng rất lâu, không kìm được nước mắt. Thi thể của Bình Nhất Chỉ trong tay chàng càng lúc càng nặng, chàng không còn sức ôm nữa liền đặt nhè nhẹ xuống đất.
Bỗng thấy một người đi vào rạp tranh gọi khẽ:
– Lệnh Hồ công tử!
Lệnh Hồ Xung thấy Tổ Thiên Thu, hắn buồn bã nói:
– Tổ tiền bối! Bình đại phu chết rồi.
Tổ Thiên Thu không để ý đến chuyện này, lão nói khẽ:
– Lệnh Hồ công tử, tại hạ năn nỉ công tử một việc. Nếu có người hỏi, xin công tử nói là chưa bao giờ gặp qua Tổ Thiên Thu có được không?
Lệnh Hồ Xung sửng sốt hỏi:
– Tại sao?
Tổ Thiên Thu nói:
– Cũng không sao, nhưng… nhưng… Ôi tạm biệt, tạm biệt!
Tổ Thiên Thu vội vã bước ra khỏi rạp cỏ tranh thì lại có người đi vào. Đó là Tư Mã Đại, lão nói với Lệnh Hồ Xung:
– Lệnh Hồ công tử, tại hạ có chuyện không nói ra được… không nói ra được… Chuyện này… nếu có người hỏi có những ai tụ tập trên Ngũ Bá Cương, xin công tử đừng nhắc đến tên tại hạ thì tại hạ cảm kích vô cùng.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ, nhưng tại vì sao?
Vẻ mặt của Tư Mã Đại bối rối như đứa trẻ làm chuyện gì sai bỗng bị người bắt được, ấp úng nói:
– Chuyện này… chuyện này…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ Xung không xứng đáng làm bằng hữu với các hạ, thì từ nay không dám với cao nữa.
Tư Mã Đại biến sắc, quỳ xuống bái lạy rồi nói:
– Công tử nói vậy là đào hố chôn tại hạ rồi. Tại hạ cầu xin công tử đừng nhắc tới chuyện trên Ngũ Bá Cương chỉ vì để người ta khỏi nổi giận, nhưng công tử bỗng nhiên nghi ngờ nên tại hạ mới nói thật điều đó ra. Đúng là Tư Mã Đại đánh rắm rồi.
Lệnh Hồ Xung vội đưa tay đỡ lão dậy, nói:
– Vì cớ gì Tư Mã đảo chủ hành đại lễ như vậy? Xin hỏi đảo chủ, đảo chủ đến Ngũ Bá Cương gặp tại hạ, sao lại khiến cho người ta nổi giận. Người đó có điều gì giận Lệnh Hồ Xung thì cứ trút hết vào tại hạ là được rồi…
Tư Mã Đại xua tay lia lịa, mỉm cười nói:
– Công tử càng nói càng sai rồi. Người này đối với công tử yêu còn không hết, có lý nào lại nổi giận? Ôi, tiểu nhân là một người thô thiển, thật không biết ăn nói. Tạm biệt, tạm biệt, tạm biệt… Nói tóm lại Tư Mã Đại kết giao bằng hữu với công tử, sau này công tử có điều gì sai bảo, chỉ cần truyền tin đến thì dù có xông vào nước sôi lửa bỏng, Tư Mã Đại chỉ chau mày một cái là tổ tông mười tám đời đều là quân rùa đen thối tha.
Lão nói xong liền vỗ ngực, bước ra khỏi rạp. Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ, thầm nghĩ: Người này rất thành thật với ta, không thể nghi ngờ gì nữa. Nhưng sao lão đến Ngũ Bá Cương gặp ta mà lại khiến người ta nổi giận? Mà người nổi giận không hận ta, còn đối với ta rất tốt, thiên hạ nào có chuyện kỳ cục như vậy? Nếu thật đối với ta tốt, thì khi ta kết giao nhiều bằng hữu, người đó nên vui mừng mới phải.
Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung nghĩ ra một chuyện, thầm nói: A đúng rồi, người này nhất định là tiền bối trong chính phái, rất thương yêu ta, chắc không thích ta kết giao với những hạng bàng môn tả đạo. Chẳng lẽ là Phong thái sư thúc tổ? Kỳ thực Tư Mã đảo chủ là hạng người thẳng thắn sảng khoái, có chỗ nào không tốt đâu?
Lại nghe ngoài rạp có người ho khẽ rồi có tiếng gọi khẽ:
– Lệnh Hồ công tử!
Lệnh Hồ Xung nghe tiếng của Hoàng Bá Lưu liền nói:
– Hoàng bang chủ, xin mời vào.
Hoàng Bá Lưu đi vào, nói:
– Lệnh Hồ công tử, có mấy vị bằng hữu muốn tại hạ chuyển lời chào công tử. Họ có chuyện gấp phải lập tức quay trở về lo liệu, không kịp đích thân từ tạ công tử, xin công tử lượng thứ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không cần khách sáo.
Quả nhiên, bên ngoài tiếng ồn ào giảm dần, nhiều người đã ra về.
Hoàng Bá Lưu ấp úng nói:
– Chuyện này, ui chao, thật là do bọn tại hạ lỗ mãng. Mọi người đến đây một là vì hiếu kỳ, hai là muốn ân cần tỏ lòng với công tử, không ngờ… Vốn là, người ta muốn giữ kín, không muốn phô trương, bọn tại hạ là người lỗ mãng thô lỗ, không ai hiểu được. Lam giáo chủ lại là cô nương người Miêu, chuyện này…
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói câu trước chẳng dính dáng gì với câu sau, hắn vò đầu chẳng hiểu chút gì, hỏi:
– Có phải Hoàng bang chủ muốn tại hạ đừng đề cập đến chuyện trên Ngũ Bá Cương với người ta phải không?
Hoàng Bá Lưu cười khan mấy tiếng, vẻ mặt bẽn lẽn nói:
– Người khác có thể chối cãi được còn Hoàng Bá Lưu biết chối cãi làm sao. Thiên Hà bang khoản đãi công tử trên Ngũ Bá Cương, nói gì cũng phải thừa nhận.
Lệnh Hồ Xung dặng hắng một tiếng nói:
– Bang chủ mời tại hạ uống một bát rượu, tại hạ cũng không thấy có điều gì tội lỗi. Bậc nam tử hán đại trượng phu có gì mà phải chối hay không chối.
Hoàng Bá Lưu vội cười gượng nói:
– Công tử đừng để tâm. Ôi, Hoàng mỗ thật ngu muội, nếu chuyện này hỏi trước con dâu, hoặc hỏi cháu gái thì đâu đến nỗi đắc tội với người ta, mà chính mình cũng không biết. Ôi, Hoàng mỗ thô lỗ lấy vợ từ năm mười bảy tuổi, chỉ trách vợ của Hoàng mỗ chết sớm, nên Hoàng mỗ mới chẳng hiểu tâm sự đàn bà con gái nhà người ta ra làm sao.
Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Chẳng trách sư phụ bảo bọn họ là bàng môn tả đạo. Người này nói năng thật lộn xộn. Lão mời mình uống rượu mà cần phải hỏi con dâu và cháu gái, lại trách tại vợ lão mất quá sớm.
Hoàng Bá Lưu lại nói:
– Chuyện đã đến nước này, cũng đành vậy thôi. Công tử, công tử nói đã sớm quen Hoàng mỗ, là hảo bằng hữu của Hoàng mỗ đã mấy chục năm nay có được không? Ồ không được, phải nói là có giao tình với Hoàng mỗ tám chín năm thôi. Lúc công tử mười lăm, mười sáu tuổi đã từng đánh bạc, uống rượu với Hoàng mỗ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Năm tại hạ sáu tuổi đã đánh bạc và uống rượu với Hoàng bang chủ, bang chủ quên rồi sao? Đến hôm nay mối giao tình của chúng ta đã được hai chục năm rồi.
Hoàng Bá Lưu ngây người ra, liền hiểu ra Lệnh Hồ Xung nói giỡn mình nên cười nhăn nhó, nói:
– Công tử muốn nói sao cũng được, nhưng… hai mươi năm trước Hoàng mỗ làm nghề phá nhà cướp của, toàn chuyện bậy bạ, không dám nhìn mặt ai, sao công tử lại kết giao bằng hữu với Hoàng mỗ được? Hì hì, cái này…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hoàng bang chủ thẳng thắn, đủ biết bang chủ là người quang minh lỗi lạc, nên tại hạ phải kết giao với bang chủ cách đây hai mươi năm mới được.
Hoàng Bá Lưu vui mừng lớn tiếng nói:
– Hay lắm, chúng ta là hảo bằng hữu từ hai mươi năm trước.
Lão quay đầu lại nhìn rồi nói khẽ:
– Công tử bảo trọng. Công tử là người có lòng tốt, bây giờ tuy đang bệnh nhưng có thể trị khỏi, huống chi Thánh… Thánh… thần thông quảng đại… Trời ơi!
Bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, tiếng huyên náo đều ngưng bặt. Lệnh Hồ Xung nhìn thi thể của Bình Nhất Chỉ, ngẩn ra một lúc rồi bước ra ngoài rạp, bỗng giật mình kinh hãi. Trên sườn núi tĩnh lặng, không một bóng người. Chàng cho rằng quần hào dù không uống rượu nữa thì cũng có người đi, người ở lại. Không hiểu sao trong khoảnh khắc lại biến đi hết sạch. Chàng cố lớn tiếng gọi:
– Sư phụ, sư nương!
Nhưng không ai đáp lại. Lệnh Hồ Xung gọi tiếp:
– Nhị sư đệ, tam sư đệ, tiểu sư muội!
Vẫn không ai đáp lại.
Mảnh trăng lưỡi liềm chênh chếch chiếu xuống, gió hiu hiu thổi, trên gò Ngũ Bá Cương chỉ còn lại một mình Lệnh Hồ Xung. Dưới đất toàn hũ rượu, bát đĩa, nón, áo khoác… rải rác khắp nơi. Quần hào lật đật ra đi, ngay cả những thứ này cũng không kịp thu dọn.
Lệnh Hồ Xung càng lấy làm lạ, nghĩ: Bọn họ chạy hấp tấp như vậy, làm như có nước lũ hay mãnh thú bỗng nhiên ập tới, phải trốn mau kẻo không kịp. Những hán tử này dường như không sợ trời sợ đất, bỗng biến thành những kẻ cực kỳ nhát gan, thật khiến cho người ta khó hiểu nổi. Sư phụ, sư nương, tiểu sư muội, bọn họ đi đâu cả rồi? Nếu thật sự có chuyện gì nguy hiểm tại sao lại không kêu ta một tiếng?
Bỗng nhiên lòng Lệnh Hồ Xung nổi lên một trận thê lương, cảm th ấy trời đất bao la nhưng không có được một người quan tâm đến sự an nguy của hắn. Trước đây không lâu, có quá nhiều người đua nhau đòi kết giao lấy lòng hắn mà bây giờ ngay cả những người thân là sư phụ, sư nương cũng bỏ hắn ra đi.
Lệnh Hồ Xung chua xót, mấy luồng chân khí trong cơ thể lại dâng lên, thân người loạng choạng rồi ngã lăn xuống đất. Chàng gắng gượng ngồi dậy, rên rỉ mấy tiếng nhưng một chút khí lực cũng không còn.
Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần, nghỉ ngơi một khắc, lần thứ hai lại chống chọi ngồi dậy. Không ngờ lần này vận lực quá mạnh, tai lùng bùng, trước mặt tối sầm lại. Chàng liền ngất đi.
Không biết trải qua bao nhiêu lâu, trong lúc mơ màng, Lệnh Hồ Xung nghe được mấy tiếng đàn nhu hòa, thần trí dần dần hồi phục. Tiếng đàn u nhã nỉ non lọt vào tai khiến cho tâm tình chàng đang bị kích động lập tức bình phục. Đó chính là khúc Thanh tâm phổ thiện chú mà vị bà bà ở thành Lạc Dương đã đàn. Lệnh Hồ Xung giống như người đang chơi vơi giữa biển cả bỗng thấy được một hòn đảo nhỏ, tinh thần phấn khởi, liền đứng dậy, nghe tiếng đàn từ trong rạp vọng ra.
Chàng đi từng bước, thấy cánh cửa rạp đã đóng lại.
Lệnh Hồ Xung đến cách rạp tranh mấy bước liền dừng lại, thầm nghĩ: Tiếng đàn này đúng là của vị bà bà trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương. Lúc ở Lạc Dương, bà bà không muốn cho ta thấy mặt, bây giờ nếu ta không được bà bà cho phép, làm sao có thể tự tiện đẩy cửa đi vào?
Lệnh Hồ Xung liền khom người nói:
– Lệnh Hồ Xung xin tham kiến tiền bối.
Cung đàn tình tang, tình tang mấy tiếng rồi dừng lại. Lệnh Hồ Xung cảm thấy trong tiếng đàn dường như chứa đựng đầy lời an ủi, nghe tiếng đàn lòng cảm thấy khoan khoái khôn tả, rõ ràng trên đời này vẫn còn người quan tâm đến mình, khiến chàng cảm động vô cùng.
Bỗng nghe có tiếng người nói xa xa:
– Có người gảy đàn! Sao bọn gian tặc bàng môn tả đạo chưa đi hết?
Lại nghe có tiếng oang oang của một người nói:
– Mấy tên yêu tà dâm ma lại dám đến Hà Nam quấy nhiễu thì coi bọn ta ra gì nữa.
Lão cất giọng quát:
– Các quân đê tiện nào làm huyên náo trên Ngũ Bá Cương mau báo tên cho ta.
Trung khí của lão tràn trề, thanh âm chấn động bốn phía, uy thế rất mãnh liệt.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chẳng trách Tư Mã Đại, Hoàng Bá Lưu, Tổ Thiên Thu sợ đến nỗi lập tức đào tẩu ngay. Quả là có cao thủ chính phái đến đây khiêu chiến.
Lệnh Hồ Xung mơ hồ cảm thấy bọn Tư Mã Đại, Hoàng Bá Lưu bỗng nhiên trốn sạch, không còn khí phách của nam tử hán, nhưng bây giờ bậc tiền bối này đến có thể uy hiếp quần hào, nhất định là võ công của lão cao thâm dị thường. Chàng nghĩ: Bọn họ hỏi đến ta thì thật khó trả lời, chi bằng ta lánh đi là hơn.
Lệnh Hồ Xung liền đi về phía sau rạp, lại nghĩ: Vị bà bà trong rạp chắc cũng không bị bọn họ làm khó dễ.
Lúc này tiếng đàn trong rạp cỏ đã dừng lại.
Có tiếng bước chân ba người lên núi. Họ đều “ủa” lên một tiếng, rõ ràng là rất ngạc nhiên khi thấy trên núi tĩnh lặng, không một bóng người.
Tiếng nói oang oang lại cất lên:
– Bọn đê tiện đi đâu hết rồi?
Tiếng một người nhỏ nhẹ nói:
– Bọn họ nghe nói có hai vị cao thủ phái Thiếu Lâm đến trừ ma đuổi quỷ, nên đều cúp đuôi chạy cả rồi.
Một người khác cười nói:
– Nói hay lắm, nói hay lắm! Nhưng có lẽ vì bọn chúng nghe uy danh của Đàm huynh phái Côn Luân đó.
Ba người cùng cười to.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra là hai người phái Thiếu Lâm, một người phái Côn Luân. Từ thời Sơ Đường, phái Thiếu Lâm đã là lãnh tụ của võ lâm, chỉ một phái Thiếu Lâm mà thanh uy còn cao hơn Ngũ Nhạc kiếm phái liên minh của ta, thực lực chắc cũng mạnh hơn. Chưởng môn nhân phái Thiếu Lâm là Phương Chứng đại sư trong võ lâm được mọi người khâm phục. Sư phụ thường nói kiếm pháp của phái Côn Luân độc đáo, sở trường bao gồm cả trầm hùng và khinh linh. Hai phái này liên thủ với nhau thì thật lợi hại. Có lẽ ba người bọn họ chỉ tiên phong, phía sau chắc còn có đại viện. Nhưng sư phụ, sư nương hà tất phải lánh đi.
Lệnh Hồ Xung chuyển đổi ý nghĩ, liền hiểu ra: Phải rồi, sư phụ là chưởng môn nhân của danh môn chính phái mà tụ họp với bọn Hoàng Bá Lưu thanh danh tàn tạ nên thấy cao thủ hai phái Thiếu Lâm và Côn Luân đến không khỏi bẽ bàng.
Lão họ Đàm phái Côn Luân nói:
– Vừa rồi còn nghe tiếng đàn ở trên núi, người đó lại trốn đâu mất rồi? Tân huynh, Dịch huynh, chuyện này e rằng có điều quái lạ.
Người có giọng oang oang nói:
– Đúng vậy, Đàm huynh đoán đúng lắm, chúng ta lục soát để kéo hắn ra đây.
Một người khác nói:
– Tân sư ca, để tiểu đệ vào trong rạp xem sao.
Lệnh Hồ Xung nghe nói vậy, biết người này họ Dịch, còn người nói oang oang họ Tân là huynh đệ của lão. Lão họ Dịch nói muốn đi vào rạp, bỗng trong rạp có một giọng phụ nữ trong trẻo vọng ra:
– Tiện thiếp ở đây một mình, trong lúc đêm hôm khuya khoắt, nam nữ không tiện tương kiến.
Người họ Tân nói:
– Là một mụ đàn bà.
Lão họ Dịch hỏi:
– Vừa rồi ngươi gảy đàn phải không?
Bà bà đáp:
– Đúng vậy.
Lão họ Dịch nói:
– Ngươi đàn lại mấy tiếng ta nghe thử coi.
Bà bà nói:
– Không quen biết thì sao lại đàn cho các hạ nghe.
Lão họ Tân nói:
– Hừ, có gì đâu là lạ? Mụ này cố ý ngăn cản, trong rạp nhất định có điều cổ quái, chúng ta vào xem sao.
Lão họ Dịch nói:
– Ngươi nói là phụ nữ độc thân thì nửa đêm canh ba lại lên Ngũ Bá Cương làm gì? Đúng ngươi là đồng bọn với yêu ma tà đạo. Chúng ta vào xem.
Lão nói xong rảo bước đi về phía rạp. Lệnh Hồ Xung từ nơi ẩn mình, thoắt một cái đã đứng cản ở cửa rạp, quát:
– Đứng lại!
Ba người không ngờ có người xuất hiện đột ngột, đều hơi giật mình, nhưng thấy đơn độc một thiếu niên, nên cũng không coi ra gì. Lão họ Tân lớn tiếng quát:
– Thiếu niên kia là ai? Lén lút núp trong bóng tối để làm gì?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tại hạ là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn, xin tham kiến các vị tiền bối phái Thiếu Lâm và phái Côn Luân.
Lệnh Hồ Xung nói xong, xá dài. Lão họ Dịch hừ một tiếng, nói:
– Ngươi ở phái Hoa Sơn ư? Ngươi đến đây làm gì?
Lệnh Hồ Xung thấy lão họ Tân này thân người không cao to lắm, nhưng bụng lão phình to như cái trống, chẳng trách giọng nói của lão oang oang. Một hán tử trung niên khác mình mặc trường bào màu nước tương, dĩ nhiên là người đồng môn với lão họ Dịch. Còn lão họ Đàm phái Côn Luân, lưng mang trường kiếm, mặc áo bào rộng tay, thần thái rất ung dung. Lão họ Dịch không đợi Lệnh Hồ Xung trả lời, lại hỏi:
– Ngươi đã là đệ tử chính phái, tại sao lên Ngũ Bá Cương?
Lệnh Hồ Xung vừa rồi nghe bọn họ chửi quân đê tiện thì trong lòng đã tức giận rồi, bây giờ lại nghe lão nói rất vô lễ, bèn trả lời:
– Ba vị tiền bối cũng là người trong chính phái, tại sao cũng lên Ngũ Bá Cương?
Lão họ Đàm cười ha hả, nói:
– Nói hay lắm, nói hay lắm! Ngươi có biết người phụ nữ gảy đàn trong rạp là ai không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đó là vị bà bà tuổi cao đức trọng, không tranh giành thế tục.
Lão họ Dịch bác:
– Nói bậy, nghe giọng nói người phụ nữ này rõ ràng là tuổi còn nhỏ, cái gì mà bà bà với không bà bà.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Vị bà bà này nói tiếng dễ nghe có gì đâu mà lạ. Điệt nhi của bà bà cũng lớn hơn tại hạ hai ba chục tuổi chứ đừng nói là chính bà bà nữa.
Lão họ Dịch nói:
– Ngươi tránh ra, để bọn ta vào xem sao.
Lệnh Hồ Xung dang tay ra nói:
– Bà bà đã bảo trong lúc đêm hôm nam nữ không tiện tương kiến. Bà bà không hề quen biết các vị, thì có lý do gì để gặp nữa?
Lão họ Dịch phất tay áo một cái, một luồng kình lực xô mạnh ra. Lệnh Hồ Xung đã mất hết nội lực, không sao kháng cự được, bị ngã nhào xuống đất. Lão họ Dịch không ngờ hắn lại hoàn toàn không có chút võ công, sửng sốt rồi cười nhạt nói:
– Ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn ư? Chỉ e rằng nói khoác.
Lão nói rồi đi về phía cửa rạp.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, mặt bị một mảnh đá cào một vết xước dài. Chàng nói:
– Bà bà không muốn tương kiến với các vị. Sao các vị lại vô lễ như vậy? Ở trong thành Lạc Dương, tại hạ đã từng nói chuyện với bà bà mấy lần, nhưng chưa bao giờ gặp mặt.
Lão họ Dịch nói:
– Tiểu tử này ăn nói hỗn xược. Ngươi không tránh ra có phải là muốn ta cho lộn nhào một phát nữa ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Phái Thiếu Lâm là danh môn đại phái, thanh thế và danh vọng tối cao trong võ lâm, hai vị chắc là cao thủ tục gia trong phái Thiếu Lâm. Còn vị này chắc cũng là bậc tiền bối uy danh lừng lẫy trong phái Côn Luân. Vậy mà giữa lúc đêm khuya đến ăn hiếp một bà bà, há không khiến cho hảo hán trên giang hồ chê cười hay sao?
Lão họ Dịch quát:
– Ngươi đừng nhiều lời.
Đột nhiên tay trái lão vung lên, bốp một tiếng, tát một chưởng mạnh vào má trái của Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung tuy mất hết nội lực nhưng thấy lão hạ thấp vai phải thì biết tay trái của lão sắp đánh mình, vội né tránh nhưng lưng, chân không sao cử động được. Chàng không cách nào né tránh được chưởng này, thân người bị đánh quay hai vòng, trước mặt tối sầm rồi ngồi phệt xuống đất.
Lão họ Tân nói:
– Dịch sư đệ, tiểu tử này không biết võ công, không cần phải lý luận với hắn như vậy. Yêu tà đã trốn hết rồi, chúng ta đi thôi.
Lão họ Dịch nói:
– Ở giữa hai châu Dịch và Lỗ mà bọn yêu tà tả đạo bỗng nhiên tụ tập trên Ngũ Bá Cương, rồi trong khoảnh khắc giải tán không còn ai. Chúng tụ tập cố nhiên là cổ quái mà giải tán cũng kỳ quặc. Chuyện này phải điều tra cho rõ mới được. Trong rạp cỏ này chắc có lẽ sẽ tìm được một chút manh mối.
– Dịch tiền bối, vị bà bà ở trong rạp cỏ có ân với tại hạ, chỉ cần tại hạ còn một hơi thở cũng quyết không để tiền bối mạo phạm bà bà lão nhân gia.
Lão họ Dịch cười ha hả, hỏi:
– Ngươi ỷ vào cái gì? Ỷ vào trong tay ngươi có trường kiếm này ư?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối võ nghệ thấp kém, sao dám địch lại cao thủ phái Thiếu Lâm? Nhưng vạn sự trên đời không qua được chữ “lý”. Tiền bối muốn vào trong nhà cỏ, thì hãy bước qua xác của tại hạ trước.
Lão họ Tân nói:
– Dịch sư đệ, tiểu tử này rất có khí phách, là một hán tử thẳng thắn. Thôi, mặc kệ hắn, chúng ta đi.
Lão họ Dịch cười nói:
– Nghe nói kiếm pháp của phái Hoa Sơn các ngươi có chỗ huyền bí độc đáo, còn phân ra cái gì Kiếm tông, Khí tông. Ngươi là phe Kiếm tông hay là phe Khí tông? Hay là cái gì Thí tông (phe cứt)? Ha ha, ha ha…
Lão cười rồi hai lão họ Tân và họ Đàm cũng lớn tiếng cười theo. Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:
– Ỷ mạnh làm tàng, tự xưng là danh môn chính phái cái gì? Lão là đệ tử của phái Thiếu Lâm ư? Chỉ e là khoác lác.
Lão họ Dịch tức giận vô cùng, đưa chưởng tay phải lên, toan đánh vào ngực Lệnh Hồ Xung. Trước mắt, lão đánh một chưởng này xuống thì Lệnh Hồ Xung toi mạng ngay. Lão họ Tân liền la lên:
– Khoan đã, Lệnh Hồ Xung, nếu là đệ tử danh môn chính phái thì không thể cùng người động thủ hay sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đã là người trong chính phái, thì trước khi ra tay phải ăn nói cho đường hoàng.
Lão họ Dịch từ từ đưa tay lên nói:
– Ta đếm một, hai, ba. Đến ba mà ngươi không tránh ra thì ta sẽ đánh gãy ba cái xương sườn của ngươi đó.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Đánh gãy ba cái xương sườn thì có sao đâu?
Lão họ Dịch lớn tiếng đếm:
– Một, hai…
Lão họ Tân nói:
– Tiểu bằng hữu, sư đệ của ta nói sao làm vậy, ngươi mau mau tránh ra đi.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Miệng của tại hạ cũng nói sao làm vậy. Lệnh Hồ Xung này còn chưa chết thì sao có thể để các vị vô lễ với bà bà được?
Lệnh Hồ Xung nói câu sau cùng, biết chưởng của lão họ Dịch sắp đánh tới, nên ngấm ngầm vận khí vào cánh tay phải, nhưng ngực cảm thấy đau nhói, trước mắt hiện ra ngàn vạn con đom đóm bay lập lòe.
Lão họ Dịch quát:
– Ba!
Lão khua chân trái một bước, thấy Lệnh Hồ Xung tựa lưng vào cánh cửa rạp, khóe miệng hơi nở nụ cười nhạt, không có ý né tránh, lão liền đánh chưởng phải xuống.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy nghẹt thở. Chưởng lực của đối phương đã đánh tới, chàng giơ trường kiếm lên, đối chuẩn vào lòng bàn tay của lão. Chiêu kiếm này phương vị rất chuẩn xác, nhanh như chớp. Chưởng phải của lão họ Dịch đã đánh ra thu về không kịp, bị mũi trường kiếm đâm xuyên qua lòng bàn tay của lão. Lão vội rút tay về, lại soạt một tiếng, mũi kiếm rút khỏi bàn tay. Lão bị thương rất nặng, vội nhảy lùi về sau mấy trượng, tay trái rút trường kiếm sau lưng ra, tức giận tột bực. Lão la lên:
– Tiểu tặc tử này giả ngu, thì ra võ công của ngươi tuyệt lắm. Ta… ta sẽ liều mạng với ngươi.
Ba lão họ Tân, Dịch, Đàm đều là hảo thủ sử kiếm, thấy trường kiếm của Lệnh Hồ Xung nhấc lên nhưng chưa xuất chiêu, chỉ giơ lên đúng phương vị và thời gian, khiến cho chưởng của đối phương tự giáng xuống mũi kiếm của hắn. Kiếm pháp thật sự đã đạt đến cảnh giới vô cùng cao minh. Tuy lão họ Dịch vô cùng tức giận nhưng cũng không dám khinh địch, tay trái cầm kiếm, véo véo liên tiếp tấn công ba kiếm, đều là những hư chiêu thử địch. Chiêu kiếm nào cũng phóng nửa chừng thì rút về.
Tối hôm ở ngoài miếu Dược vương, Lệnh Hồ Xung liên tiếp đả thương làm mù mắt của mười lăm cao thủ. Lúc đó, nội lực của chàng tuy đã mất nhưng cũng không đến nỗi như bây giờ, lại liên tiếp bị mấy lần tổn thương, cơ hồ cánh tay nhấc kiếm lên không nổi. Trước mắt thấy lão họ Dịch liên tiếp phát ra ba hư chiêu, mũi kiếm không ngừng rung lên, hiển nhiên là kiếm pháp thượng thừa của phái Thiếu Lâm, chàng càng không muốn gây thù kết oán với lão, bèn nói:
– Tại hạ tuyệt không có ý đắc tội với ba vị tiền bối, chỉ cần ba vị rời khỏi nơi đây thì tại hạ… tại hạ xin thành tâm tạ tội.
Lão họ Dịch hừ một tiếng, nói:
– Bây giờ ngươi mới xin tha thì đã muộn rồi.
Trường kiếm của lão phóng nhanh tới, chỉ thẳng vào yết hầu của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung cử động bất tiện, biết chiêu này không sao tránh được, liền phóng kiếm ra, kiếm phát sau mà đến trước, xẹt nhẹ một tiếng, trúng vào yếu huyệt trên cổ tay của lão.
Năm ngón tay của lão họ Dịch buông ra, trường kiếm rơi xuống đất. Lúc này ánh bình minh đã ló dạng ở phương Đông, lão thấy máu tươi trên cổ tay mình nhỏ xuống đầy cỏ. Lão không tin trên đời này có chuyện như vậy, qua một lúc lão mới thở dài rồi cắm đầu chạy tuốt.
Lão họ Tân vốn không muốn gây thù kết oán với phái Hoa Sơn, nhưng thấy chiêu kiếm của Lệnh Hồ Xung tinh diệu tuyệt luân, lão cũng quyết không phải là đối thủ của hắn. Lão nghĩ đến thương thế của sư đệ bèn gọi với:
– Dịch sư đệ!
Rồi chạy đuổi theo.
Lão họ Đàm nghiêng đầu chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi hỏi:
– Các hạ là đệ tử phái Hoa Sơn thật ư?
Lệnh Hồ Xung lảo đảo muốn té, đáp:
– Đúng vậy.
Lão họ Đàm thấy Lệnh Hồ Xung bị trọng thương, tuy kiếm pháp tinh diệu nhưng chỉ cần một thời gian ngắn không cần đánh tự hắn cũng không thể đứng vững được nữa. Lão thấy đây là một cơ hội tốt cho mình, thầm nghĩ: Vừa rồi, hai tên cao thủ phái Thiếu Lâm một bị thương, một bỏ chạy dưới tay của một tên thiếu niên phái Hoa Sơn. Nếu ta đánh ngã được hắn, đem lên chùa Thiếu Lâm giao cho phương trượng chưởng môn phát lạc, không những gây được thiện cảm với phái Thiếu Lâm mà phái Côn Luân cũng được nở mày nở mặt ở Trung Nguyên.
Lão liền khua chân bước tới một bước mỉm cười nói:
– Thiếu niên kia, kiếm pháp của ngươi khá đấy. Thử tỷ đấu công phu quyền chưởng với ta, ngươi thấy thế nào?
Lệnh Hồ Xung thấy thái độ của lão thì đã đoán biết dụng ý, nghĩ người này rất xảo quyệt, so với lão họ Dịch phái Thiếu Lâm càng hung ác hơn. Chàng giơ kiếm lên nhắm vào đầu vai của lão. Nào ngờ kiếm mới đưa ra nửa đường thì cánh tay đã vô lực, choang một tiếng, trường kiếm rơi xuống đất. Lão họ Đàm vui mừng, vù một chưởng đánh mạnh vào ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung ọe một tiếng, phun ra một ngụm máu tươi.
Cự ly hai người rất gần, ngụm máu phun đúng vào người lão họ Đàm, dính đầy mặt lão, một số giọt rơi đúng vào miệng lão. Lão họ Đàm nghe thấy mùi máu tanh cũng không để ý, chỉ sợ Lệnh Hồ Xung lượm kiếm phản kích. Tay phải giơ lên, lão toan đánh ra, bỗng nhiên ngã quỵ xuống đất rồi ngất đi.
Thấy lão bỗng nhiên lại ngã lăn ra, Lệnh Hồ Xung vừa kinh ngạc, vừa vui mừng. Mặt lão họ Đàm dần dần đen sậm lại, những cơ thịt co giật, trông rất kỳ dị, chàng bèn hỏi:
– Tiền bối dùng chân lực sai rồi, đành phải tự trách mình thôi.
Lệnh Hồ Xung đảo mắt nhìn tứ phía, thấy trên Ngũ Bá Cương không một bóng người, trong rừng cây tiếng chim rộn ràng ca hót; dưới đất la liệt bình rượu, chén bát, khí giới trông rất lộn xộn. Chàng rất lấy làm kỳ. Lệnh Hồ Xung lấy tay áo lau vết máu trên miệng, nói:
– Bà bà, phúc thể bà bà vẫn an khang chứ?
Vị bà bà nói:
– Bây giờ công tử không nên lao thần nữa, hãy ngồi xuống nghỉ ngơi.
Quả thật toàn thân Lệnh Hồ Xung không còn chút khí lực, chàng liền nghe lời ngồi xuống.
Bỗng trong rạp có tiếng đàn nhè nhẹ vang lên, giống như một dòng suối mát từ từ chảy qua người, lại từ từ thấm vào tứ chi bách cốt của chàng. Toàn thân Lệnh Hồ Xung nhẹ bỗng, không còn mệt mỏi chút nào, tưởng chừng như đang lơ lửng trên mây, nhẹ như một mớ bông gòn.
Qua một lúc lâu sau, tiếng đàn càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng im bặt. Tinh thần Lệnh Hồ Xung phấn chấn, liền đứng dậy xá dài nói:
– Đa tạ bà bà nhã tấu khiến cho vãn bối thấy khỏe hẳn lại.
Bà bà nói:
– Ngươi liều mình kháng cự cường địch để ta không bị bọn côn đồ làm nhục, ta phải cảm ơn ngươi mới phải.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sao bà bà lại nói vậy? Đó là nghĩa vụ của vãn bối phải làm.
Bà bà lặng yên một lúc không nói gì, tiếng đàn phát ra thanh điệu nhẹ nhàng như thần tiên, tưởng chừng như tay gảy huyền cầm mà lòng trầm ngâm nghĩ ngợi về một chuyện khó giải quyết.
Một lúc sau bà bà nói:
– Ngươi… ngươi định đi đâu?
Bầu máu trong ngực Lệnh Hồ Xung sôi sục, cảm thấy đất trời tuy rộng lớn nhưng không có chỗ cho mình dung thân. Bất giác chàng hắng ho lên liên tục, một lúc lâu sau mới nói:
– Vãn bối… vãn bối thấy không còn chỗ nào để đến.
Bà bà nói:
– Ngươi không đi tìm sư phụ, sư nương của ngươi ư? Không đi tìm bọn sư đệ, sư muội của ngươi sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Họ… không biết đã đi đâu rồi. Thương thế của vãn bối rất nặng nên không thể đi tìm họ được. Dù có tìm được thì ôi thôi!
Lệnh Hồ Xung thở dài nghĩ: Dù có tìm được, thì sẽ ra sao đây? Bọn họ đâu cần đến mình nữa.
Bà bà nói:
– Ngươi bị thương rất nặng, sao không đi kiếm một nơi phong cảnh hữu tình, đăng lâm sơn thủy để cho lòng khuây khỏa? Tại sao lại gắng gượng để chịu đau khổ dày vò?
Lệnh Hồ Xung cười ha hả, nói:
– Bà bà nói phải lắm, chuyện sống chết của vãn bối cũng không cần bận tâm nữa. Vậy vãn bối xin cáo biệt, xuống núi du ngoạn đây.
Lệnh Hồ Xung nói xong hướng về rạp tranh xá dài rồi quay người đi, chừng được ba bước thì nghe bà bà nói:
– Ngươi… ngươi đi ư?
Lệnh Hồ Xung dừng lại đáp dạ.
Bà bà nói:
– Thương thế của ngươi rất nặng, một mình trên đường phiêu bạt, không ai chăm nom thì không an toàn đâu.
Nghe giọng nói của bà bà đầy vẻ quan hoài tha thiết, ngực chàng nóng lên, nói:
– Đa tạ bà bà lo lắng, thương thế của vãn bối trị không khỏi, có chết sớm, chết muộn hay chết ở đâu cũng thế thôi.
Bà bà nói:
– Ừ, thì ra là vậy, nhưng… nhưng…
Một lúc sau bà bà mới nói tiếp:
– Sau khi ngươi đi rồi, nếu hai tên ác đồ phái Thiếu Lâm lại đến quấy nhiễu thì ta biết chống đỡ làm sao đây? Lúc lão họ Đàm phái Côn Luân tỉnh dậy, ta e rằng hắn sẽ sinh sự với ta.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Bà bà, bà bà muốn đi đâu? Để vãn bối hộ tống một đoạn đường được chăng?
Bà bà nói:
– Vậy thì hay lắm, nhưng chuyện này có điều khó xử, sợ liên lụy đến ngươi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tính mệnh của Lệnh Hồ Xung đã được bà bà cứu thì có gì mà liên lụy hay không liên lụy nữa?
Bà bà thở dài nói:
– Ta có một kẻ thù lợi hại. Hắn đã tìm đến ngõ Lục Trúc ở Lạc Dương làm khó dễ ta. Ta lánh đến đây nhưng sớm muộn gì hắn cũng đuổi đến. Thương thế của ngươi chưa khỏi thì không thể động thủ với hắn. Ta muốn tìm một nơi hẻo lánh để tạm thời lẩn tránh, đợi có người trợ giúp thì mới tính sổ với hắn. Ta muốn ngươi hộ tống ta nhưng một là ngươi đang bị thương, hai là ngươi là một thiếu niên khỏe khoắn hoạt bát, mà đi cùng với một bà già như ta, há không khỏi buồn đến chết sao?
Lệnh Hồ Xung cười ha hả, nói:
– Vãn bối tưởng bà bà có chuyện gì khó xử, té ra là chuyện nhỏ xíu như vậy. Bà bà muốn đi đến đâu, vãn bối xin hộ tống bà bà đến đó, bất luận đến chân trời góc biển nào. Chỉ cần vãn bối chưa chết thì sẽ hộ tống bà bà đến đó.
Bà bà nói:
– Tấm lòng ngươi đúng là như vậy ư? Có thật dù chân trời góc biển ngươi cũng đưa ta đến ư?
Giọng nói bà bà tỏ ra rất sung sướng.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đúng vậy, bất luận chân trời góc biển nào Lệnh Hồ Xung này cũng hộ tống bà bà đến nơi.
Bà bà nói:
– Còn một chuyện khó xử nữa.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Lại còn chuyện gì nữa?
Bà bà nói:
– Tướng mạo của ta vừa già vừa xấu, bất cứ ai nhìn đến cũng đều sợ hãi. Cho nên ta không muốn để ai thấy mặt. Nếu không vừa rồi ba tên đó muốn vào trong rạp nhìn mặt ta cũng chẳng sao cả. Ngươi phải đồng ý với ta một chuyện: bất luận thế nào, ngươi cũng không được liếc nhìn ta; không được nhìn mặt mũi tay chân, vóc dáng, y phục, giày dép của ta.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối tôn kính bà bà, cảm động vì sự quan tâm của bà bà đối với vãn bối nên dung mạo của bà bà ra sao cũng chẳng có liên can gì.
Bà bà nói:
– Nếu ngươi không đồng ý thì ngươi cứ đi một mình đi.
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Được, được. Vãn bối xin hứa, bất luận tình cảnh thế nào cũng quyết không liếc nhìn bà bà.
Bà bà nói:
– Ngay cả bóng của ta, ngươi cũng không được nhìn.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chẳng lẽ ngay cả bóng của bà bà cũng xấu xí ư? Trên đời này bóng khó xem nhất là bọn nhà nho lưng gù mà cũng không sao. Ta và bà bà cùng đi trên con đường dài, ngay cả bóng cũng không được nhìn thì quả thật không dễ.
Bà bà thấy chàng ngần ngừ không đáp, bèn hỏi:
– Ngươi có làm được không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Làm được, làm được. Nếu vãn bối liếc nhìn bà bà thì vãn bối xin tự móc đôi mắt của mình ra.
Bà bà nói:
– Ngươi phải nhớ mới được. Ngươi đi trước, ta theo sau.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ.
Rồi hai người xuống núi, chỉ nghe tiếng bước chân rất nhẹ, bà bà đi theo phía sau. Đi được vài trượng, bà bà đưa một cành cây, nói:
– Ngươi hãy lấy cành cây này làm gậy để chống đi.
Lệnh Hồ Xung dạ. Chàng chống cành cây, từ từ bước xuống núi. Đi được một đoạn, chàng bỗng nhớ lại một chuyện, bèn hỏi:
– Thưa bà bà, bà bà có biết lão họ Đàm phái Côn Luân tên gì không?
Bà bà đáp:
– Ồ, lão là Đàm Địch Nhân, cao thủ đời thứ hai của phái Côn Luân, kiếm pháp đã học được sáu bảy thành từ sư phụ lão, nhưng so với đại sư huynh và nhị sư huynh thì lão còn kém xa. Lão to tiếng là Tân Quốc Lương, người phái Thiếu Lâm, kiếm pháp còn cao hơn cả Đàm Địch Nhân.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thì ra lão to tiếng tên gọi là Tân Quốc Lương. Lão này còn biết một chút đạo lý.
Bà bà nói:
– Sư đệ của lão gọi là Dịch Quốc Tử, lão này rất vô lại. Ngươi đã đâm một kiếm xuyên qua tay phải lão, một kiếm đả thương bàn tay trái của lão, hai chiêu kiếm thật tuyệt diệu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Phải. Vãn bối nghĩ Lam giáo chủ không có ý hại vãn bối. Bình Nhất Chỉ đại phu nói dược tửu của cô ta là thứ đại bổ.
Bà bà nói:
– Đương nhiên cô ta không hại ngươi rồi mà còn tốt với ngươi không thể tả được.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười hỏi:
– Không biết Đàm Địch Nhân có chết không?
Bà bà nói:
– Còn phải xem công lực của lão thế nào. Không biết có bao nhiêu máu độc rớt vào miệng lão.
Lệnh Hồ Xung nghĩ lại vẻ mặt Đàm Địch Nhân sau khi trúng độc, bất giác rùng mình. Lại đi hơn mười mấy trượng nữa, hắn bỗng nhớ ra một chuyện, la lên:
– Chao ôi, bà bà, xin bà bà ở đây đợi vãn bối một chút. Vãn bối phải lên lại trên núi.
Bà bà hỏi:
– Để làm gì?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Di thể của Bình đại phu còn chưa kịp mai táng.
Bà bà nói:
– Không cần đâu. Ta đã đem thi thể lão hủy rồi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thì ra bà bà đã an táng Bình đại phu rồi?
Bà bà nói:
– Cũng không phải là chôn cất đâu. Ta đã dùng thuốc hủy thi thể của lão rồi. Ở trong rạp tranh, chẳng lẽ ta phải suốt đêm nhìn xác chết của lão ư? Lúc Bình Nhất Chỉ còn sống đã khó coi rồi, nay ta hủy thi thể của lão, ngươi thử nghĩ xem có cần thiết không?
Lệnh Hồ Xung ồ một tiếng, cảm thấy vị bà bà này làm việc gì cũng khác người. Bình Nhất Chỉ có ân với chàng, sau khi lão chết phải chôn cất lão mới phải, nhưng bà bà lại dùng thuốc hủy thi thể của lão. Chàng càng nghĩ càng không yên bụng, cảm thấy dùng thuốc hủy thi thể có điều không phải nhưng không biết nói sao.
Đi được vài dặm đã đến vùng đất bằng phẳng dưới chân núi. Bà bà nói:
– Ngươi xòe tay ra.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, lòng cảm thấy kỳ cục, không biết bà bà định làm gì đây. Chàng liền xòe bàn tay ra, chỉ nghe một tiếng xẹt, một vật nhỏ từ phía sau ném đúng vào lòng bàn tay. Đó là một viên thuốc màu vàng, to khoảng đầu ngón tay út.
Bà bà nói:
– Ngươi nuốt đi rồi đến gốc cây kia ngồi nghỉ một chút.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi bỏ viên thuốc vào miệng nuốt. Bà bà nói:
– Ta đã nhờ vào kiếm pháp thần diệu của ngươi bảo vệ nên thoát hiểm, mới dùng thuốc này kéo dài mạng sống của ngươi để ngươi khỏi bị đột tử, ta không mất đi một người hộ vệ. Nhưng đối với ngươi… dù ta có lòng tốt thì cũng không phải là muốn cứu tính mạng của ngươi, hãy nhớ đó.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi đi đến gốc cây ngồi tựa lưng vào, cảm thấy trong huyệt Đan điền có một luồng khí nóng đùng đùng bốc lên, giống như có vô số tinh lực đi vào khắp kinh mạch phủ tạng toàn thân. Hắn thầm nghĩ: Viên thuốc này rõ ràng rất bổ ích cho ta. Vị bà bà cứ không thừa nhận có lòng tốt đối với ta, chỉ nói chẳng qua là lợi dụng ta mà thôi. Trên đời này chỉ có người lợi dụng người khác mà không chịu thừa nhận, còn bà bà sao lại nói ngược lại?
Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Vừa rồi, bà bà ném viên dược hoàn vào tay ta mà viên dược hoàn không bị bắn lên, rõ ràng là nội công cao cường và kình lực rất mạnh. Võ công của bà còn cao hơn ta nhiều, hà tất cần đến ta hộ vệ? Ôi, bà bà thích như vậy thì ta cứ làm theo lời bà bà là xong.
Lệnh Hồ Xung ngồi một lúc thì đứng dậy nói:
– Chúng ta đi thôi. Bà bà, bà bà có mệt không?
Bà bà nói:
– Ta mệt lắm, hãy nghỉ thêm một chút nữa.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, lòng thầm nghĩ: Người đã cao tuổi dù võ công có cao thâm đến đâu thì tinh lực cũng không bằng thiếu niên. Không nên đem ta ra để so sánh với bà bà được.
Chàng liền ngồi xuống. Một lúc lâu, bà bà mới nói:
– Đi thôi!
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, đứng lên đi trước, bà bà theo sau.
Lệnh Hồ Xung sau khi uống viên thuốc, cảm thấy người nhẹ nhõm nên đi nhanh hơn nhiều. Theo lời chỉ dẫn của bà bà, chàng cứ tìm những con đường hẻo lánh mà đi. Đi được gần mười dặm, đường núi dần dần gập ghềnh, đi thêm một lúc nữa thì chàng cảm thấy mỏi mệt. Bà bà nói:
– Ta mệt quá, muốn nghỉ một chút.
Lệnh Hồ Xung dạ rồi ngồi xuống, thầm nghĩ: Nghe hơi thở nhè nhẹ của bà bà biết bà bà chẳng mệt chút nào, rõ ràng là bà bà muốn ta nghỉ ngơi nên nói là chính bà bà quá mệt.
Nghỉ khoảng một tuần trà, hai người lại đi tiếp. Khi đi qua một thung lũng, bỗng nghe có người lớn tiếng nói:
– Tất cả ăn cơm mau lên rồi rời khỏi chỗ thị phi này.
Mấy chục người cùng đáp. Lệnh Hồ Xung dừng bước, thấy một bãi cỏ gần khe suối có mấy chục hán tử đang ngồi vòng tròn ăn cơm. Ngay lúc này những hán tử cũng đã nhìn thấy Lệnh Hồ Xung, có người nói:
– Lệnh Hồ công tử kìa!
Lệnh Hồ Xung mang máng nhận ra những người này tối hôm qua đã gặp trên Ngũ Bá Cương. Chàng muốn lên tiếng chào hỏi bỗng mấy chục người im bặt, cùng nhìn người ở sau lưng hắn.
Vẻ mặt của những người này đều rất cổ quái, có người ra vẻ kinh hãi, có người ra vẻ luống cuống sợ sệt, tựa hồ như bỗng nhiên gặp một quái sự khó hình dung, không cách nào ứng phó được. Lệnh Hồ Xung thấy vậy muốn quay đầu lại nhìn xem sau lưng mình có chuyện gì khiến mấy chục người kia bỗng nhiên ngây ra như tượng gỗ, nhưng lập tức hiểu ra: sở dĩ những người này như vậy là do họ nhìn thấy vị bà bà này. Ta đã hứa với bà bà là quyết không nhìn mặt bà.
Lệnh Hồ Xung vội quay đầu đi. Chàng dùng sức quá mạnh khiến cổ đau buốt nhưng lòng hiếu kỳ vẫn nổi lên: Tại sao bọn họ vừa thấy bà bà thì kinh hãi như vậy? Chẳng lẽ tướng mạo bà bà thật sự quái dị, trên đời này hiếm có ư?
Bỗng thấy một hán tử giơ cây trủy thủ lên đâm thẳng vào hai mắt của mình, máu tươi chảy dài xuống má. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la lên:
– Ngươi làm gì vậy?
Hán tử lớn tiếng nói:
– Tiểu nhân đã đui mắt ba ngày trước đây rồi, chẳng nhìn thấy gì cả.
Lại có tên hán tử khác rút đoản đao ra tự đâm vào hai mắt mình rồi nói:
– Tiểu nhân đui mắt đã lâu, chẳng nhìn thấy gì hết.
Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy kinh dị. Những hán tử còn lại cũng lần lượt rút trủy thủ ra, toan đâm vào mắt mình. Chàng vội la lên:
– Này, này! Khoan đã! Có gì thì nói ra, đừng tự đâm vào mắt mình nữa. Vụ này… vụ này là tại vì sao?
Một tên hán tử buồn rầu nói:
– Tiểu nhân đã lập lời thề, quyết không dám nói nửa câu ra khỏi miệng, nhưng chỉ sợ khó thủ tín.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Bà bà, bà bà cứu bọn họ đi, bảo bọn họ đừng đâm vào mắt mình nữa.
Bà bà nói:
– Được, ta tin các ngươi. Ở Đông Hải có hòn đảo Bàn Long, có ai biết không?
Một lão già nói:
– Cách phía Đông Nam huyện Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến năm trăm dặm đường biển có hòn đảo Bàn Long, nghe nói chưa ai đặt chân đến, còn rất hoang sơ.
Bà bà nói:
– Đúng là hòn đảo nhỏ đó. Các ngươi lập tức ra đi ngay, đến đảo Bàn Long mà du ngoạn rồi đừng bao giờ trở về Trung Nguyên nữa.
Mấy chục tên hán tử cùng đáp dạ, vẻ mặt vui mừng, nói:
– Chúng ta lập tức đi ngay.
Có người nói:
– Chúng ta đi dọc đường, quyết không nói với ai nửa câu.
Bà bà lạnh lùng nói:
– Các ngươi nói hay không thì có liên quan gì đến ta?
Người đó đáp:
– Dạ, dạ! Tiểu nhân ăn nói hồ đồ.
Gã liền giơ tay lên, dùng lực tát mạnh vào má mình mấy cái.
Bà bà nói:
– Đi thôi!
Mấy chục tên hán tử vắt giò chạy thật nhanh. Ba tên hán tử tự đâm vào mắt được mấy người bên cạnh dìu chạy; trong khoảnh khắc, bọn họ biến mất chẳng còn một ai.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi nghĩ thầm: Bà bà chỉ nói một câu mà khiến cả bọn phải đi ra hoang đảo ở Đông Hải, cả đời không được quay về. Vậy mà những người này còn vui mừng như được đại xá, thật khó mà hiểu nổi.
Lệnh Hồ Xung không nói gì, đi tiếp, luồng tư tưởng cứ lên xuống, cảm thấy vị bà bà đi sau mình là một quái nhân bình sinh chưa bao giờ gặp qua. Chàng nghĩ: Chỉ mong trên đường đi đừng gặp phải các bằng hữu trên Ngũ Bá Cương nữa. Bọn họ nhiệt tâm muốn trị bệnh cho ta mà đến, nếu bị bà bà bắt gặp, không tự đâm mù hai mắt thì cũng bị đày ra ngoài hoang đảo, há không oan uổng ư? Cứ như vậy thì xem ra Hoàng bang chủ, Tư Mã đảo chủ, Tổ Thiên Thu muốn ta nói chưa bao giờ gặp qua bọn họ và quần hào trên Ngũ Bá Cương, trong khoảnh khắc giải tán sạch sành sanh đều là sợ vị bà bà này. Bà bà… bà bà là một đại ma đầu đáng sợ hay sao? Nghĩ đến đây, bất giác chàng rùng mình.
Lại đi được bảy tám dặm, bỗng nghe phía sau có người lớn tiếng nói:
– Người phía trước là Lệnh Hồ Xung.
Giọng người này oang oang, vừa nghe thì biết ngay là Tân Quốc Lương của phái Thiếu Lâm. Bà bà nói:
– Ta không muốn gặp hắn, ngươi cứ nói qua loa với hắn vài câu.
Lệnh Hồ Xung đáp dạ, bỗng nghe tiếng loạt soạt, cây cối rung động. Bà bà đã nhảy vào trong một lùm cây rồi. Bỗng nghe Tân Quốc Lương nói:
– Sư thúc, Lệnh Hồ Xung đang bị thương, hắn đi không nhanh đâu.
Lúc này khoảng cách còn xa nhưng giọng nói của Tân Quốc Lương rất lớn, tuy lão chỉ nói một câu nhưng Lệnh Hồ Xung nghe rất rõ, thầm nghĩ: Thì ra lão đi với sư thúc.
Lệnh Hồ Xung bèn đứng lại, ngồi bên vệ đường đợi. Một lúc sau, tiếng bước chân trên đường vọng lại, mấy người chạy nhanh đến. Tân Quốc Lương và Dịch Quốc Tử đều có trong đó, lại có cả hai nhà sư và một hán tử trung niên. Trong hai lão tăng, một người tuổi rất cao, mặt đầy nếp nhăn, còn người kia khoảng ba mươi tuổi, tay cầm phương tiện sạn. Lệnh Hồ Xung đứng dậy, xá dài nói:
– Vãn bối Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn xin tham kiến các vị tiền bối phái Thiếu Lâm. Xin thỉnh giáo cách xưng hô của các vị tiền bối.
Dịch Quốc Tử quát:
– Tiểu tử…
Vị lão tăng nói:
– Lão nạp pháp danh là Phương Sinh.
Lão tăng đó vừa nói thì Dịch Quốc Tử liền im miệng nhưng sự tức giận hằn rõ trên mặt lão. Rõ ràng là vừa rồi lão đã phẫn uất vô cùng. Lệnh Hồ Xung cúi người nói:
– Xin tham kiến đại sư.
Phương Sinh gật đầu, vẻ mặt hiền hòa, ôn tồn nói:
– Thiếu hiệp không cần đa lễ, tôn sư Nhạc tiên sinh mạnh khỏe chứ?
Lúc đầu Lệnh Hồ Xung nghe bọn họ hùng hổ đuổi tới, lòng rất hoang mang, giờ thấy hòa thượng Phương Sinh nói năng hòa nhã, thật là một cao tăng đắc đạo. Hắn biết vị cao tăng này thuộc hàng chữ “Phương” là nhân vật thuộc đời thứ nhất trong chùa Thiếu Lâm đương thời, sư huynh đệ với phương trượng Phương Chứng đại sư. Hắn đoán rằng lão sẽ không đến nỗi không biết phải trái như Dịch Quốc Tử, nên cảm thấy yên tâm, cung kính nói:
– Đa tạ đại sư đã quan tâm, tệ nghiệp sư vẫn khỏe.
Phương Sinh nói:
– Bốn người này đều là sư điệt của lão nạp. Vị sư tăng này pháp danh là Giác Nguyệt, còn đây là Hoàng Quốc Bách sư điệt, Tân Quốc Lương sư điệt và Dịch Quốc Tử sư điệt. Hai người họ Dịch, Tân ngươi đã gặp qua rồi.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Dạ đúng. Lệnh Hồ Xung xin tham kiến hai vị tiền bối. Vãn bối thân bị trọng thương, cử động bất tiện, lễ số không chu tất, xin các vị tiền bối miễn thứ.
Dịch Quốc Tử hừ một tiếng, nói:
– Ngươi bị trọng thương ư?
Phương Sinh nói:
– Ngươi đang bị thương thật ư? Quốc Tử, ngươi đả thương hắn phải không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vì nhất thời hiểu lầm, chẳng đáng gì cả. Dịch tiền bối đã phất tay áo đánh ngã vãn bối, lại đánh cho vãn bối một chưởng nữa. May mà vãn bối nhất thời chưa chết, xin đại sư đừng trách Dịch tiền bối nữa.
Lệnh Hồ Xung nói mình bị trọng thương rồi đem toàn bộ trách nhiệm đổ lên đầu Dịch Quốc Tử. Chàng nghĩ rằng Phương Sinh là vị tiền bối cao tăng chắc không thể để bốn tên sư điệt làm khó dễ mình, bèn nói:
– Sự việc trầm trọng như vậy, Tân tiền bối trên Ngũ Bá Cương đã tận mắt nhìn thấy. May được đại sư Phật giá thân lâm, vãn bối đã thỏa lòng, quyết không đề cập chuyện này trước mặt tệ nghiệp sư. Đại sư an tâm, tuy vãn bối bị trọng thương khó trị nhưng không vì thế mà dẫn đến bất hòa giữa Ngũ Nhạc kiếm phái và phái Thiếu Lâm.
Lệnh Hồ Xung nói như vậy cốt đổ lỗi mình bị trọng thương khó trị hoàn toàn do Dịch Quốc Tử.
Dịch Quốc Tử tức giận nói:
– Ngươi… ngươi… ngươi nói bậy. Ngươi đã bị trọng thương trước rồi, sao lại đổ thừa tại ta?
Lệnh Hồ Xung thở dài, lạnh lùng nói:
– Chuyện này xin Dịch tiền bối đừng nói nữa. Nếu truyền ra ngoài, há không làm tổn thương thanh danh phái Thiếu Lâm sao?
Tân Quốc Lương, Hoàng Quốc Bách và Giác Nguyệt đều khẽ gật đầu. Mỗi người đều hiểu rõ những tăng nhân thuộc hàng chữ Phương phái Thiếu Lâm đều là bậc chí tôn. Tuy phái Thiếu Lâm khác biệt với các môn phái trong Ngũ Nhạc kiếm phái nhưng vai vế so với chưởng môn nhân của Ngũ Nhạc kiếm phái thì còn cao hơn một bậc. Cho nên bọn Tân Quốc Lương, Dịch Quốc Tử thân phận đều cao hơn Lệnh Hồ Xung. Dịch Quốc Tử và Lệnh Hồ Xung động thủ vốn đã là ỷ lớn hiếp nhỏ rồi, huống chi cả hai sư huynh đệ phái Thiếu Lâm ở hiện trường mà Lệnh Hồ Xung trước khi động thủ đã bị thương nữa. Môn quy phái Thiếu Lâm rất nghiêm, nếu Dịch Quốc Tử đánh chết một hậu bối của phái Hoa Sơn thật, không bị xử tử thường mạng thì cũng bị phế truất võ công hay trục xuất khỏi môn tường. Dịch Quốc Tử nghĩ đến điều này, bất giác mặt lão trắng bệch ra.
Phương Sinh nói:
– Thiếu hiệp, ngươi qua đây để lão nạp xem thương thế của ngươi.
Lệnh Hồ Xung đi đến gần. Phương Sinh đưa tay phải bắt mạch cổ tay. Lão đặt ngón tay lên hai huyệt Đại uyên và Kinh cử , liền cảm thấy nội thể chàng phát ra một luồng nội lực cổ quái kỳ lạ hất văng ngón tay của lão ra. Phương Sinh giật mình. Lão là một trong những cao thủ trong số cao tăng đời thứ nhất của chùa Thiếu Lâm, lại bị nội lực của thiếu niên này hất văng ngón tay ra, thật là ngoài sức tưởng tượng. Lão đâu biết trong cơ thể của Lệnh Hồ Xung đã có chân khí của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng, võ công của lão tuy cao nhưng vì không đề phòng, vả lại lão cũng không thể chống nổi hợp lực của bảy cao thủ này. Lão ồ lên một tiếng, hai mắt trợn lên nhìn Lệnh Hồ Xung rồi từ từ nói:
– Thiếu hiệp, thiếu hiệp không phải là người phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối xác thực là đệ tử phái Hoa Sơn, môn đồ thứ nhất được tệ nghiệp sư Nhạc tiên sinh thu nạp.
Phương Sinh hỏi:
– Vậy thì sao thiếu hiệp lại theo bọn bàng môn tả đạo để luyện võ công tà phái?
Dịch Quốc Tử nói xen vào:
– Sư thúc, tiểu tử này quả thật đã sử võ công tà phái, không sai chút nào, hắn không thể chối cãi được. Vừa rồi, chúng ta còn thấy một phụ nữ đi theo sau hắn, sao lại trốn đi đâu rồi? Lén lút như vậy chắc không phải là thứ đàng hoàng.
– Lão là đệ tử danh môn, sao lại ăn nói vô lễ như vậy? Bà bà lão nhân gia không muốn gặp lão để khỏi phải nổi giận mà thôi.
Dịch Quốc Tử nói:
– Ngươi gọi mụ ra đi. Mụ chính hay tà, pháp nhãn của sư thúc ta chỉ nhìn qua là biết ngay không nhầm lẫn được.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sở dĩ lão và tại hạ tranh cãi với nhau là vì lão vô lễ với bà bà của tại hạ mà ra, bây giờ còn nói quấy nữa.
Giác Nguyệt nói tiếp:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp, vừa rồi bần tăng đứng trên núi cũng nhìn thấy người phụ nữ đi sau thiếu hiệp chân bước rất nhẹ nhàng, dường như không phải là một bà già.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bà bà của tại hạ là người trong võ lâm, dĩ nhiên chân đi nhẹ nhàng rồi, có gì lạ đâu?
Phương Sinh lắc đầu nói:
– Giác Nguyệt, chúng ta là người xuất gia, tại sao cứ muốn bái kiến trưởng bối nữ quyến người ta? Lệnh Hồ thiếu hiệp, trong chuyện này có rất nhiều nghi vấn, lão nạp nhất thời tham tường không hết. Quả nhiên thiếu hiệp thân bị trọng thương, nhưng nội thương quái dị này quyết không phải do Dịch sư điệt của bần tăng gây ra. Hôm nay chúng ta tương hội ở đây âu cũng là có duyên, mong thiếu hiệp sớm có ngày khỏi bệnh, sau này còn tái ngộ. Nội thương trên người của thiếu hiệp thật không nhẹ đâu. Lão nạp có hai viên dược hoàn để thiếu hiệp uống, chỉ sợ trị không khỏi…
Lão tăng nói xong đưa tay vào túi. Lệnh Hồ Xung rất kính phục lão, thầm nghĩ: Cao tăng Thiếu Lâm quả nhiên khí độ bất phàm.
Lệnh Hồ Xung cúi người nói:
– Vãn bối may mắn được gặp đại sư…
Lệnh Hồ Xung chưa nói hết câu, bỗng nghe soạt một tiếng, Dịch Quốc Tử đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, quát:
– Mụ đây rồi!
Cả người lẫn kiếm lão xông vào bụi cây, nơi bà bà đang ẩn mình. Phương Sinh quát:
– Dịch sư điệt không được vô lễ!
Chỉ nghe binh một tiếng, Dịch Quốc Tử đã từ trong lùm cây văng ra đến mấy trượng, rớt thẳng xuống đất, mặt ngửa lên trời, tay chân cựa quậy vài cái rồi nằm bất động. Bọn Phương Sinh giật mình kinh hãi, thấy đầu Dịch Quốc Tử bị thương, máu tươi chảy dài, tay vẫn còn cầm thanh trường kiếm nhưng lão đã tắt thở rồi.
Tân Quốc Lương, Hoàng Quốc Bách, Giác Nguyệt cả ba người đều tức giận, quát tháo rùm lên, mỗi lão cầm binh khí nhảy về phía lùm cây. Phương Sinh dang hai tay ra, tay áo tăng bào của lão phồng lên, một luồng kình phong ôn hòa cản ba người lại rồi hướng vào lùm cây lớn tiếng nói:
– Vị huynh đài Hắc Mộc Nhai nào ở đây?
Cây cối trong lùm cây vẫn im lặng không có tiếng đáp lại, Phương Sinh lại nói:
– Tệ phái đâu có xích mích gì với Hắc Mộc Nhai, sao huynh đài bỗng nhiên hạ độc thủ sát hại Dịch sư điệt của tệ phái?
Trong lùm cây vẫn không có tiếng trả lời. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi: Hắc Mộc Nhai ư? Hắc Mộc Nhai là nơi tổng đà của Ma giáo, chẳng lẽ… chẳng lẽ vị bà bà này lại là tiền bối trong Ma giáo?
Phương Sinh đại sư nói:
– Lão nạp và Đông Phương giáo chủ năm xưa đã có duyên gặp nhau. Đạo hữu đã ra tay giết người, hai bên ai phải ai trái, thì hôm nay phải làm cho rõ. Sao đạo hữu không hiện thân tương kiến?
Lệnh Hồ Xung chấn động tinh thần, nghĩ: Đông Phương giáo chủ ư? Lão nói là giáo chủ Đông Phương Bất Bại của Ma giáo ư? Người này hiện xưng là đệ nhất cao thủ đương thời, vậy… vậy vị bà bà này quả nhiên là người trong Ma giáo rồi sao?
Bà bà ẩn trong lùm cây vẫn không lên tiếng. Phương Sinh nói:
– Đạo hữu nhất định không chịu lộ diện thì đừng trách lão nạp vô lễ.
Lão nói rồi hai tay đưa về sau, hai tay áo liền nổi lên một luồng kình khí đẩy thẳng về phía lùm cây. Chỉ nghe những tiếng răng rắc, mấy chục cây trong lùm đều bị gãy, cành lá bay tán loạn. Ngay lúc này, vù một tiếng, một bóng người từ trong lùm cây vọt ra, tuy Lệnh Hồ Xung muốn nhìn xem tướng mạo của bà bà nhưng nhớ đến lời hứa nên vội quay người đi. Tân Quốc Lương và Giác Nguyệt cùng la hét om sòm, tiếng binh khí giao nhau như bắp rang, đã nhanh còn mạnh. Bà bà cùng với bọn Phương Sinh đã đấu với nhau rồi.
Lúc này vào khoảng giờ Tỵ, ánh mặt trời rọi xiên xuống, Lệnh Hồ Xung đã có lời tín ước, tuy lòng vừa hồi hộp vừa hiếu kỳ nhưng không dám quay đầu lại nhìn cảnh năm người tương đấu. Chỉ thấy bóng đen thấp thoáng ở dưới đất, bọn Phương Sinh bốn người vây bà bà vào giữa. Trong tay Phương Sinh không có binh khí, còn Giác Nguyệt sử thanh phương tiện sạn, Hoàng Quốc Bách sử đao, Tân Quốc Lương sử kiếm. Bà bà sử một đôi binh khí rất ngắn hình như là trủy thủ, lại giống như Nga Mi thích. Thứ khí giới này vừa ngắn lại vừa mỏng tưởng chừng như trong suốt, nhìn hình bóng in dưới đất thì không nhận ra là loại binh khí gì. Bà bà và Phương Sinh đều không lên tiếng còn bọn Tân Quốc Lương ba người la hét om sòm. Tiếng la hét rất uy mãnh.
Lệnh Hồ Xung la lên:
– Có gì thì nói, bốn người các vị là đại nam tử mà vây đánh một bà bà lão niên thì còn ra thể thống gì?
Hoàng Quốc Bách cười nhạt nói:
– Lão niên bà bà! Hì hì, tiểu tử này mắt mở trừng trừng mà nói như nằm mơ. Cô…
Lão chưa nói hết câu, nghe Phương Sinh quát:
– Hoàng… cẩn thận!
Hoàng Quốc Bách rú lên một tiếng thất thanh, dường như lão bị thương không nhẹ.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt: Võ công của bà bà này lợi hại thật! Vừa rồi Phương Sinh đại sư dùng tụ phong đánh gãy cây cối, nội lực rất mạnh nhưng bà bà lấy một địch bốn, lại còn chiếm được thượng phong.
Tiếp theo, Giác Nguyệt cũng la thất thanh, phương tiện sạn vụt khỏi tay bay qua đầu Lệnh Hồ Xung văng ra xa mấy trượng. Bóng đen chuyển động dưới đất giờ đã bớt đi hai người. Hoàng Quốc Bách và Giác Nguyệt đều đã bị loại rồi, chỉ còn Phương Sinh và Tân Quốc Lương tương đấu với bà bà.
Phương Sinh nói:
– Thiện tai, thiện tai! Ngươi hạ thủ tàn độc, liên tiếp giết ba sư điệt của lão nạp. Lão nạp không thể ra tay nương tình được nữa, đành phải toàn lực đấu với ngươi một phen.
Bốp bốp mấy tiếng liên tục, hiển nhiên là Phương Sinh đại sư đã sử khí giới nhưng khí giới của lão dường như là loại côn gỗ. Lệnh Hồ Xung cảm thấy kình phong ở sau lưng mình càng lúc càng mãnh liệt, bức bách chàng phải đi về phía trước mấy bước.
Phương Sinh đại sư vừa dùng binh khí, quả nhiên cao tăng Thiếu Lâm chẳng phải tầm thường, cục diện liền thay đổi. Lệnh Hồ Xung nghe thấy tiếng thở hổn hển của bà bà, dường như nội lực đã bị hao tổn. Phương Sinh đại sư nói:
– Quăng binh khí xuống, lão nạp không làm khó ngươi đâu. Ngươi hãy theo lão nạp về Thiếu Lâm tự, bẩm rõ với phương trượng sư huynh xin phương trượng phát lạc là xong.
Bà bà không đáp, liên tục hướng về Tân Quốc Lương tấn công vội mấy chiêu. Tân Quốc Lương chống đỡ không nổi nhảy ra ngoài vòng chiến chờ Phương Sinh đại sư tiếp đấu. Tân Quốc Lương định thần lại, múa tít thanh trường kiếm tấn công tới.
Lại đấu thêm một lúc nữa, tiếng binh khí chạm nhau thưa dần, nhưng kình phong càng lúc càng mạnh. Phương Sinh đại sư nói:
– Nội lực của ngươi không địch lại lão nạp, lão nạp khuyên ngươi mau quăng binh khí xuống theo lão nạp về Thiếu Lâm tự. Nếu không, ráng chống chọi một lúc nữa, ngươi sẽ bị nội thương trầm trọng mà thôi.
Bà bà hừ một tiếng. Bỗng nhiên một tiếng rú vang lên, Lệnh Hồ Xung cảm thấy sau cổ có mấy giọt nước văng vào, chàng đưa tay sờ thấy lòng bàn tay màu đỏ tươi, thì ra là máu. Phương Sinh đại sư nói:
– Thiện tai, thiện tai! Ngươi đã bị thương rồi, không chống chọi được nữa đâu. Lão nạp vẫn ra tay nương tình, ngươi nên biết như vậy.
Tân Quốc Lương tức giận nói:
– Mụ này là tà ma yêu nữ, sư thúc mau ra tay chém yêu tà, để báo thù cho ba vị sư đệ. Đối phó với yêu tà sao có thể từ bi được.
Tai Lệnh Hồ Xung nghe hơi thở của bà bà rất gấp, chân bước loạng choạng có thể té bất cứ lúc nào. Chàng thầm nghĩ: Bà bà bảo ta đi theo để làm bạn, thì ra là muốn ta bảo hộ cho bà bà. Bây giờ bà bà đang gặp đại nạn, làm sao ta có thể làm ngơ. Tuy Phương Sinh đại sư là vị cao tăng đắc đạo, lão họ Tân là hán tử ngay thẳng, nhưng ta cũng không nỡ để bà bà bị thương dưới tay bọn họ.
Soạt một tiếng, Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm ra, lớn tiếng nói:
– Phương đại sư, Tân tiền bối, xin hai vị dừng tay nếu không vãn bối phải đắc tội.
Tân Quốc Lương quát:
– Hắn cũng là hạng yêu tà, giết luôn cả hai.
Véo một tiếng, lão đâm một kiếm về hướng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung sợ nhìn thấy bà bà, không dám xoay người lại, chỉ né người tránh qua một bên, bà bà la lên:
– Cẩn thận!
Lệnh Hồ Xung nghiêng người, trường kiếm của Tân Quốc Lương đâm xéo lên. Bỗng nghe Tân Quốc Lương la lên một tiếng thất thanh, thân người từ bên trái của Lệnh Hồ Xung bay đi rồi rớt xuống đất. Lão cũng co giật một lúc thì xuội đơ, không biết sao lão lại bị bà bà hạ độc thủ.
Ngay lúc đó binh một tiếng, bà bà bị trúng một chưởng của Phương Sinh đại sư, bay ngửa về phía sau lùm cây.
Lệnh Hồ Xung kinh hãi gọi:
– Bà bà, bà bà, bà bà có sao không?
Bà bà ở trong lùm cây rên khẽ. Lệnh Hồ Xung biết bà bà vẫn còn sống nên cảm thấy hơi yên tâm.
Chàng nghiêng người phóng kiếm về hướng Phương Sinh, chiêu kiếm phương vị xảo diệu vô cùng, bức bách Phương Sinh phải nhảy lùi về phía sau để tránh. Lệnh Hồ Xung phóng thêm một chiêu kiếm nữa, Phương Sinh giơ binh khí lên đỡ, Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm về, đã đứng đối diện với Phương Sinh đại sư. Chàng thấy lão tăng dùng một cây bổng cũ dài ba thước làm binh khí.
Lệnh Hồ Xung sửng sốt nghĩ: Không ngờ binh khí của đại sư chỉ là một cây đoản bổng. Vị cao tăng Thiếu Lâm này nội lực quá cao cường, nếu ta không dùng kiếm thuật để chế ngự lão thì bà bà không cách nào sống được.
Lệnh Hồ Xung liền phóng ra, một kiếm trên rồi lại một kiếm dưới, tiếp theo lại phóng thêm hai kiếm, tất cả đều là những chiêu kiếm mà Phong Thanh Dương đã truyền thụ.
Vẻ mặt của Phương Sinh đại sư liền đổi sắc, nói:
– Thiếu hiệp… thiếu hiệp…
Lệnh Hồ Xung không dám ngừng lại, tự biết mình không có chút nội lực, chỉ cần do dự một chút sẽ bị nội lực của lão đánh đến, chắc hắn sẽ toi mạng, bà bà cũng sẽ bị lão bắt đưa về Thiếu Lâm tự xử tử. Lòng chàng không còn đắn đo gì nữa, liền đem các chiêu thức biến hóa ảo diệu trong Độc Cô cửu kiếm tùy ý sử ra.
Kiếm pháp Độc Cô cửu kiếm tinh diệu khôn lường, tuy nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết, những chỗ tinh vi ảo diệu nhất trong kiếm pháp chàng cũng chưa lãnh ngộ hết nhưng cũng đủ để bức Phương Sinh đại sư phải thối lui ra sau. Lệnh Hồ Xung cảm thấy máu nóng trong ngực sôi lên, cánh tay mềm nhũn khó đưa lên nổi, chiêu kiếm sử ra càng lúc càng yếu.
Phương Sinh bỗng quát:
– Buông kiếm xuống!
Tay trái của đại sư chụp vào ngực của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đã kiệt sức, chiêu kiếm phóng ra, đến nửa chừng thì cánh tay trầm xuống. Trường kiếm cũng trầm xuống nhưng vẫn phóng ra, thế kiếm đi chậm lại, tay trái của Phương Sinh đại sư đã nắm được ngực của Lệnh Hồ Xung nhưng không nhả kình lực. Lão hỏi:
– Độc Cô cửu kiếm này của thiếu hiệp…
Lúc ấy, mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung đã đâm vào ngực của đại sư.
Lệnh Hồ Xung đối với vị cao tăng Thiếu Lâm này rất kính ngưỡng, nên khi cảm thấy kiếm đã chạm vào da của đại sư thì vội dùng lực rút về. Lệnh Hồ Xung rút kiếm về lại dùng lực quá mạnh, thân người ngã về phía sau, ngồi phệt xuống đất, miệng phun máu tươi.
Phương Sinh đại sư bịt vết thương trước ngực mỉm cười nói:
– Hảo kiếm pháp! Nếu không phải thiếu hiệp kiếm hạ lưu tình thì tính mạng của lão nạp đã không còn nữa.
Đại sư không nhắc đến chính mình đã ra tay nương tình. Lão nói xong ho không ngớt. Lệnh Hồ Xung tuy kịp thời rút kiếm về, nhưng trường kiếm còn đâm vào ngực của đại sư hơn một tấc, vết thương không nhẹ. Lệnh Hồ Xung nói:
– Mạo… mạo phạm… tiền bối rồi.
Phương Sinh đại sư nói:
– Không ngờ kiếm pháp của Phong Thanh Dương tiền bối phái Hoa Sơn vẫn còn có truyền nhân trên thế gian. Năm xưa, lão nạp đã nhận đại ân của Phong tiền bối. Chuyện hôm nay, lão nạp… lão nạp không sao tự chủ được rồi.
Đại sư từ từ đưa tay vào trong áo cà sa lấy ra một gói giấy, mở ra bên trong có hai viên dược hoàn to bằng hạt nhãn, nói:
– Đây là linh dược trị thương của Thiếu Lâm tự. Thiếu hiệp hãy uống một viên đi.
Đại sư ngần ngừ rồi nói tiếp:
– Còn một viên đưa cho nữ thí chủ kia uống.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Thương thế của vãn bối trị không khỏi thì còn uống thuốc làm gì nữa! Viên này đại sư giữ lại để uống đi.
Phương Sinh đại sư lắc đầu nói:
– Không cần!
Đại sư để hai viên dược hoàn trước mặt Lệnh Hồ Xung rồi nhìn bốn thi thể bọn Giác Nguyệt, Tân Quốc Lương, thần sắc thê lương. Lão chắp tay khẽ niệm kinh văn, nét mặt dần dần hiền hòa lại, đến lúc sau gương mặt lão như phủ một làn thánh quang. Thật chỉ có bốn chữ “đại từ đại bi” mới có thể diễn tả được.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy đầu choáng váng, mắt hoa lên, khó gắng gượng được nữa. Chàng lượm hai viên dược hoàn lên, uống một viên.
Phương Sinh đại sư niệm kinh văn xong, nhìn Lệnh Hồ Xung nói:
– Thiếu hiệp, truyền nhân Độc Cô cửu kiếm của Phong tiền bối quyết không phải là hạng yêu tà. Thí chủ đầy lòng nghĩa hiệp, theo lẽ không chết trẻ. Có điều trong người thiếu hiệp bị nội thương vô cùng quái dị, không thể dùng dược liệu để trị, nên phải tu tập nội công cao thâm mới có thể bảo toàn tính mạng. Theo ý lão nạp, thiếu hiệp hãy theo lão nạp lên Thiếu Lâm tự, để lão nạp cầu khẩn chưởng môn sư huynh, đem tâm pháp nội công chí cao vô thượng của phái Thiếu Lâm truyền thụ thì mới có thể trị được nội thương cho thiếu hiệp.
Đại sư ho vài tiếng rồi nói tiếp:
– Tu luyện môn nội công này, nghiên cứu tâm pháp này thì lão nạp lại vô duyên. Chưởng môn sư huynh phái Thiếu Lâm từ bi quảng đại, nếu có duyên với thiếu hiệp thì mới truyền tâm pháp được.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đa tạ hảo ý của đại sư. Xin đợi vãn bối đưa bà bà đến nơi bình yên, nếu vãn bối may mắn còn sống thì sẽ đến Thiếu Lâm tự bái kiến đại sư và chưởng môn phương trượng.
Nét mặt Phương Sinh hiện ra vẻ kỳ dị nói:
– Thiếu hiệp… thiếu hiệp gọi nữ thí chủ đó là bà bà ư? Thiếu hiệp, thiếu hiệp là đệ tử danh môn chính phái, không thể cùng phe phái với bọn yêu tà. Lão nạp có lòng khuyên can, thiếu hiệp hãy suy xét kỹ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nam tử hán một lời đã nói, sao có thể bất tín?
Phương Sinh đại sư thở dài nói:
– Được! Lão nạp đợi thiếu hiệp đến Thiếu Lâm tự.
Đại sư liếc nhìn bốn thi thể ở dưới đất một lần nữa rồi nói:
– Bốn cái thây thúi này, chôn cũng được mà không chôn cũng được, lìa cõi trần này tất cả đều chỉ là không.
Lệnh Hồ Xung ngồi dưới đất thở hồng hộc, toàn thân đau nhức không cử động được, hỏi:
– Bà bà, bà bà… Bà bà không sao chứ?
Chỉ nghe phía sau có tiếng sột soạt, bà bà từ trong lùm cây đi ra nói:
– Chết không được đâu! Ngươi đi theo lão hòa thượng đi. Lão nói có thể trị khỏi nội thương cho ngươi. Nội công tâm pháp phái Thiếu Lâm có một không hai đương thời, sao ngươi không đi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vãn bối đã nói là hộ tống bà bà, dĩ nhiên phải hộ tống bà bà đến nơi đến chốn.
Bà bà nói:
– Ngươi đang bị thương thì còn hộ tống được cái gì nữa?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Bà bà cũng bị thương, chúng ta cùng đi thôi.
Bà bà nói:
– Ta là yêu tà ngoại đạo còn ngươi là đệ tử danh môn. Ngươi đi cùng với ta sẽ bị bại hoại danh dự đệ tử danh môn.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vãn bối vốn đã không có danh dự, mặc kệ ai nói tròn nói méo. Bà bà, bà bà đối đãi vãn bối rất tốt, Lệnh Hồ Xung không phải là người không biết điều. Bây giờ bà bà đang bị trọng thương, nếu vãn bối bỏ bà bà mà đi thì có đáng làm người không?
Bà bà nói:
– Nếu bây giờ ta không bị thương thì ngươi sẽ bỏ ta mà đi, có phải không?
Lệnh Hồ Xung sửng sốt rồi cười nói:
– Nếu bà bà không chê vãn bối là kẻ hậu sinh vô tri, muốn bầu bạn với vãn bối thì Lệnh Hồ Xung này sẽ ở bên bà bà để trò chuyện cho khuây khỏa. Chỉ e vãn bối tính tình thô lỗ, tự ý làm càn, không được mấy ngày thì bà bà không thèm nói chuyện với vãn bối nữa.
Bà bà hứ một tiếng. Lệnh Hồ Xung đưa tay về phía sau, đưa viên dược hoàn của Phương Sinh đại sư rồi nói:
– Vị cao tăng Thiếu Lâm này thật là tốt. Bà bà, bà bà giết bốn đệ tử môn hạ của lão nhưng lão vẫn tặng cho linh dược để bà bà trị thương, chính lão không chịu uống. Vừa rồi lão đấu với bà bà, có lẽ lão chưa xuất hết toàn lực.
Bà bà tức giận nói:
– Hừ! Lão chưa xuất hết toàn lực sao lại đánh ta đến bị thương? Mấy người này tự cho mình là danh môn chính phái, giả nhân giả nghĩa, ta chẳng coi ra cái thá gì.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bà bà, bà bà lấy viên thuốc này uống đi. Sau khi vãn bối uống vào quả thật thấy trong người dễ chịu một chút.
Bà bà ậm ừ nhưng không nhận lấy. Lệnh Hồ Xung nói:
– Bà bà…
Bà bà nói:
– Bây giờ chỉ có ngươi và ta, sao cứ kêu bà bà, bà bà hoài vậy? Kêu bớt đi mấy tiếng không được sao?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Dạ, kêu bớt vài tiếng có gì đâu không được? Sao bà bà không lấy viên dược hoàn này uống đi?
Bà bà nói:
– Ngươi nói linh đan của phái Thiếu Lâm trị thương rất công hiệu tức là nói thuốc trị thương mà ta cho ngươi không công hiệu. Vậy sao ngươi không lấy luôn viên còn lại của lão hòa thượng uống đi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Trời ơi, vãn bối nói thuốc trị thương của bà bà không công hiệu hồi nào, thật là oan ức cho người ta. Vả lại thuốc trị thương của phái Thiếu Lâm có công hiệu nên vãn bối muốn bà bà uống để có chút khí lực mà lên đường.
Bà bà nói:
– Ngươi thấy đi với ta buồn chán lắm phải không? Vậy ngươi cứ đi một mình đi, ta không giữ nữa.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Sao bây giờ bà bà khó tính quá vậy, cứ tìm cớ trách ta hoài? Đúng rồi, bà bà bị thương không nhẹ, người khó chịu nên đâm ra hay cáu kỉnh, ta cũng không nên trách bà. Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền cười nói:
– Bây giờ vãn bối muốn đi nửa bước cũng không nổi, dù có muốn cũng đi không được. Huống chi… huống chi… hô hô…
Bà bà tức giận nói:
– Huống chi cái gì? Lại hô hô cái gì?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Hô hô là hô hô, huống chi dù vãn bối có thể đi được vẫn không muốn đi, trừ phi phải có bà bà đi cùng với vãn bối.
Lệnh Hồ Xung vốn nói năng với bà bà rất cung kính lễ độ nhưng bà bà tính khí thất thường, không cần phải trái nên hắn cũng không giữ khuôn phép nữa. Nào ngờ bà bà lại không tức giận, bỗng nhiên lặng thinh không biết đang nghĩ ngợi điều gì. Lệnh Hồ Xung gọi:
– Bà bà…
Bà bà nói:
– Lại bà bà nữa! Cả đời ngươi chưa được kêu qua hai tiếng bà bà phải không? Kêu hoài không thấy chán ư?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Từ nay về sau vãn bối không kêu bà bà là bà bà nữa, vậy vãn bối phải kêu bà bà bằng gì?
Bà bà lặng yên, một lúc sau mới nói:
– Bây giờ chỉ có hai chúng ta ở đây, cần gì phải kêu? Ngươi mở miệng ra dĩ nhiên là để nói với ta, chẳng lẽ còn nói với ai nữa?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Có lúc vãn bối thích tự nói một mình, bà bà đừng có hiểu lầm.
Bà bà hừ một tiếng rồi nói:
– Ngươi ăn nói không đứng đắn, chẳng trách tiểu sư muội của ngươi không thích ngươi.
Câu nói này như nhát dao đâm vào vết thương lòng của Lệnh Hồ Xung. Chàng chua xót, bất giác tự nhủ: Tiểu sư muội không thích ta mà thích Lâm sư đệ chắc tại ta nói năng hành sự không đứng đắn chút nào. Thậm chí tiểu sư muội cũng không muốn lấy ta. Đúng rồi, Lâm sư đệ theo đúng mực thước, đúng là một chính nhân quân tử chẳng khác gì sư phụ ta. Đừng nói tiểu sư muội, nếu ta là con gái cũng sẽ thích Lâm sư đệ mà không thích tên lãng tử Lệnh Hồ Xung vô hạnh này. Ôi, Lệnh Hồ Xung hỡi Lệnh Hồ Xung, ngươi uống rượu quậy phá, không giữ môn quy, thật không thuốc nào trị nổi. Ta đi kết giao với tên thái hoa dâm tặc Điền Bá Quang, ngủ trong kỹ viện thành Hành Dương, tiểu sư muội chán ghét ta là phải.
Bà bà thấy Lệnh Hồ Xung lặng thinh, liền hỏi:
– Sao? Câu nói của ta làm đau lòng ngươi sao? Ngươi bực mình lắm có phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đâu có bực mình. Bà bà nói đúng lắm, vãn bối ăn nói không đứng đắn, hành sự cũng không đàng hoàng, chẳng trách tiểu sư muội không thích, sư phụ, sư nương cũng không ưa vãn bối.
Bà bà nói:
– Ngươi đừng buồn nữa. Sư phụ, sư nương, tiểu sư muội của ngươi không thích ngươi, chẳng lẽ… chẳng lẽ trên đời này không còn ai thích ngươi sao?
Bà bà nói câu này rất dịu dàng, đầy ý an ủi vỗ về. Lệnh Hồ Xung cảm động vô cùng, ngực nóng ran, cổ họng nghèn nghẹn. Hắn nói:
– Bà bà, bà bà đối đãi với vãn bối thật tốt, dù trên đời này không còn ai thích vãn bối nữa, cũng… cũng chẳng sao.
Bà bà nói:
– Cái miệng của ngươi thật dẻo, nói năng khiến cho người ta mát dạ. Chẳng trách nhân vật kiêu kỳ như Ngũ độc giáo Lam Phượng Hoàng cũng không ngớt ca ngợi ngươi. Được rồi, ngươi đi không được, ta cũng đi không được, hôm nay đành phải nghỉ lại bên sườn núi này. Cũng không biết hôm nay có bị giết không nữa.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Hôm nay không chết, không biết ngày mai có bị chết không; ngày mai không chết, không biết ngày mốt có bị chết không?
Bà bà nói:
– Ngươi nói ít đi một chút. Ngươi từ từ bò lên, ta sẽ bò theo sau.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nếu bà bà không chịu uống viên dược hoàn này của lão hòa thượng, vãn bối e rằng một bước vãn bối cũng bò không nổi.
Bà bà nói:
– Lại nói bậy bạ nữa. Ta không uống dược hoàn thì tại sao ngươi lại bò không nổi?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không bậy bạ chút nào. Bà bà không chịu uống, thì thương thế trên người không thuyên giảm, không còn tinh thần để gảy đàn thì lòng vãn bối lo lắng, sao còn có lực khí để bò đi? Đừng nói là bò đi mà ngay cả nằm cũng không còn sức mà nằm nữa.
Bà bà cười hinh hích nói:
– Nằm ở đây mà cũng cần khí lực ư?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tất nhiên rồi. Chỗ này rất là dốc nghiêng, nếu vãn bối không còn chút khí lực thì sẽ bị lăn xuống khe suối, dù không chết nát thây thì cũng chết ngộp vì nước.
Bà bà thở dài nói:
– Ngươi đang bị trọng thương không biết chết lúc nào mà còn hứng chí nói đùa mãi. Người như ngươi thật hiếm có trên đời.
Lệnh Hồ Xung khẽ ném viên dược hoàn ra phía sau nói:
– Bà bà mau uống đi.
Bà bà nói:
– Hứ, những kẻ tự cho mình là danh môn chính phái đều chẳng ra gì cả. Ta uống dược hoàn của phái Thiếu Lâm làm gì cho dơ miệng.
Lệnh Hồ Xung kêu trời ơi rồi thân người nghiêng về mé trái, thuận dốc lăn lông lốc xuống phía khe suối. Bà bà giật mình kinh hãi la lên:
– Cẩn thận!
Lệnh Hồ Xung vẫn tiếp tục lăn xuống. Sườn núi này không cao nhưng rất dài, Lệnh Hồ Xung lăn một lúc đến bên bờ suối, chân tay cố sức chống đỡ mới dừng lại được.
Bà bà gọi:
– Này, này, ngươi có sao không?
Mặt, tay của Lệnh Hồ Xung bị đá nhọn cứa rỉ đầy máu. Chàng cố nhịn đau không lên tiếng. Bà bà la lên:
– Thôi được, ta uống dược hoàn thối tha của lão hòa thượng đây, ngươi… ngươi bò lên đi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đã nói thì phải nhớ đó.
Lúc này hai người cách nhau khá xa, Lệnh Hồ Xung không đủ khí lực nên giọng nói không truyền đi xa được. Bà bà chỉ nghe loáng thoáng vài tiếng nhưng không biết hắn nói cái gì bèn hỏi:
– Ngươi nói cái gì vậy?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối… vãn bối…
Lệnh Hồ Xung thở hồng hộc, nói không ra tiếng nữa.
Bà bà nói:
– Ngươi mau lên đây, ta hứa với ngươi sẽ uống viên dược hoàn này.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, run lẩy bẩy, muốn bò lên dốc nhưng thế lăn xuống thì dễ mà bò lên thì khó như lên trời. Hắn chỉ đi được hai bước thì chân đã nhũn ra, nghiêng một cái liền ngã vào khe suối.
Bà bà đứng trên cao thấy Lệnh Hồ Xung bị ngã xuống khe suối thì lo lắm. Bà liền thuận đà lăn xuống sườn dốc, lăn đến bên người Lệnh Hồ Xung, giơ tay trái nắm chặt gót chân trái của chàng, thở hổn hển mấy cái rồi đưa tay phải nắm lưng Lệnh Hồ Xung kéo lên. Người chàng ướt sũng.
Lệnh Hồ Xung đã uống mấy ngụm nước suối, mặt mũi hoa cả lên. Chàng định thần lại, nhìn vào mặt nước trong suốt, thấy hai bóng người. Một cô nương nhỏ tuổi đang nằm sau lưng mình.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người, bỗng nghe cô nương ở phía sau ọe một tiếng, thổ ra một ngụm máu tươi nóng hổi đầy cổ chàng, sau đó cô ta nằm phục lên lưng chàng giống như người bị tê liệt.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy da thịt mềm mại của cô gái áp vào người, lại cảm thấy trên mặt phất phơ mái tóc dài của cô ta, bất giác lòng cảm thấy bâng khuâng.
Lệnh Hồ Xung nhìn lại hình ảnh dưới nước, thấy một nửa gương mặt trái xoan của cô gái, đôi mắt nhắm nghiền, hàng lông mi rất dài. Tuy hình ảnh không rõ nhưng hiển nhiên dung mạo của cô nương thật xinh đẹp, không quá mười bảy mười tám tuổi.
Lệnh Hồ Xung rất ngạc nhiên: Cô nương này là ai? Sao đột nhiên lại có vị cô nương này đến cứu ta?
Nhìn bóng dưới nước, Lệnh Hồ Xung cảm giác cô nương ở trên lưng mình đã ngất đi. Chàng muốn quay người lại dìu cô ta dậy, nhưng toàn thân mềm nhũn, ngay cả muốn nhấc một ngón tay cũng không được. Chàng tưởng mình đang trong mơ, thấy được một dung nhan diễm lệ ở khe suối trong xanh giống như đang ở tiên cảnh, lòng chỉ nghĩ: Ta đã chết rồi sao? Đã lên trời rồi sao? Qua một lúc lâu sau, nghe cô nương sau lưng nấc một tiếng rồi hỏi:
– Rốt cuộc là ngươi dọa ta hay là… hay là ngươi không muốn sống nữa?
Lệnh Hồ Xung vừa nghe tiếng cô ta nói liền giật mình kinh hãi. Giọng nói này nghe giống y giọng nói của bà bà. Chàng sợ quá, thân người phát run, miệng lắp bắp:
– Cô… cô… cô…
Cô nương nói:
– Ngươi nói cái gì? Ta cứ không uống viên thuốc thối tha của lão hòa thượng, ngươi thử tự tử cho ta xem.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bà bà, thì ra bà bà là một tiểu… tiểu cô nương xinh đẹp.
Cô nương giật mình nói:
– Sao ngươi biết? Ngươi… ngươi là đồ tiểu tử không biết giữ lời. Ngươi đã lén nhìn ta rồi ư?
Cô cúi đầu nhìn thấy bóng của mình rọi xuống rõ ràng dưới đáy nước đang đè lên lưng Lệnh Hồ Xung. Cô mắc cỡ không dám ngẩng mặt lên, vội cựa quậy tìm cách đứng dậy thì đầu gối lại mềm nhũn ra. Cô ngã vào lòng Lệnh Hồ Xung, chống đỡ vài cái lại muốn ngất đi nên đành nằm im.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy kỳ lạ vô cùng, nói:
– Tại sao cô nương lại giả thành một lão bà bà để gạt ta? Dám mạo xưng là trưởng bối, hại ta phải… hại ta phải…
Cô nương nói:
– Hại ngươi cái gì?
Mắt của Lệnh Hồ Xung cách má cô ta rất gần, thấy da của cô ta trắng như tuyết, ẩn hiện sắc hồng, liền nói:
– Hại ta dọc đường cứ phải gọi cô nương một tiếng bà bà, hai tiếng bà bà. Hừ, thật là xấu hổ. Cô nương còn thiếu tuổi để làm muội muội của ta mà cứ muốn đòi làm bà bà người ta! Muốn làm bà bà thì đợi đến khoảng tám mươi tuổi hãy làm.
Cô nương cười khanh khách nói:
– Ta có nói ta là bà bà hồi nào đâu? Tại ngươi tự gọi đó thôi. Ngươi cứ luôn miệng gọi bà bà. Vừa rồi ta còn bực mình ngươi, bảo ngươi đừng gọi mà ngươi cứ gọi, đúng không?
Lệnh Hồ Xung nghĩ câu nói này quá đúng, nhưng bị cô ta gạt lâu rồi nên chàng đã thành một tên đại ngu ngốc. Chàng ấm ức nói:
– Cô nương không cho ta nhìn mặt cô nương là đã có ý gạt ta. Nếu ta và cô nương đối mặt nhau, chẳng lẽ ta còn gọi cô nương là bà bà hay sao? Ở thành Lạc Dương, cô nương đã gạt ta rồi, thông đồng với lão Lục Trúc Ông, bắt lão kêu cô nương là cô cô của lão. Lão đã già như vậy mà cô nương là cô cô của lão, vậy thì ta không gọi cô nương là bà bà sao được?
Cô gái cười nói:
– Sư phụ của Lục Trúc Ông gọi gia gia của ta là sư thúc, vậy thì Lục Trúc Ông gọi ta là gì mới phải?
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, hỏi:
– Cô nương đúng là cô cô của Lục Trúc Ông ư?
Cô gái nói:
– Tiểu tử Lục Trúc Ông này là cái thá gì mà ta phải mạo xưng là cô cô của hắn? Làm cô cô có hay ho gì đâu?
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Ôi, ta thật là ngu, lẽ ra nên sớm biết như vậy.
Cô gái cười hỏi:
– Nên sớm biết cái gì?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Giọng nói của cô nương rất dễ nghe. Trên đời này làm gì có bà bà tám chục tuổi mà giọng nói lại trong trẻo êm tai như vậy?
Cô gái cười nói:
– Giọng nói của ta vừa gắt gỏng vừa ồm ồm như tiếng quạ kêu, chẳng trách ngươi coi ta là một lão bà bà.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Giọng nói của cô nương giống như tiếng quạ kêu ư? Ôi, thời thế đảo lộn rồi, tiếng quạ kêu nghe còn hay hơn cả tiếng chim hoàng oanh hót.
Cô gái nghe Lệnh Hồ Xung khen mình, mặt ửng hồng, lòng rất sung sướng. Cô cười nói:
– Được rồi, Lệnh Hồ công công, Lệnh Hồ gia gia! Ngươi kêu ta là bà bà lâu như vậy thì ta cũng kêu ngươi lại mấy tiếng để trả đũa; ngươi đừng xấu hổ cũng đừng tức giận.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Cô nương là bà bà, ta là công công, hai công công bà bà chúng ta há không phải là…
Lệnh Hồ Xung tính vốn lanh lợi, suýt chút nữa buột miệng nói ra “Há không phải là một đôi” nhưng chợt thấy cô gái chau mày, vẻ mặt tức giận, liền nín lại.
Cô gái tức giận hỏi:
– Ngươi nói bậy bạ gì đó?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ta nói hai chúng ta mà làm công công bà bà há không phải là… há không phải là những bậc cao nhân tiền bối trong võ lâm ư?
Cô gái biết rõ Lệnh Hồ Xung cố ý nói trớ nên cũng không tiện phản bác, chỉ e càng nói càng khó nghe. Cô tựa vào lòng Lệnh Hồ Xung, nghe hơi thở của chàng thì lòng rất xao xuyến, muốn gắng gượng đứng dậy nhưng không còn chút khí lực. Mặt đỏ lên, cô nói:
– Này, ngươi đẩy ta ra coi.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Đẩy cô nương ra để làm gì?
Cô gái nói:
– Chúng ta như vậy… như vậy… còn ra cái thể thống gì nữa?
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Công công với bà bà thì phải như vậy thôi.
Cô gái hứ một tiếng rồi gằn giọng nói:
– Ngươi còn nói vớ vẩn nữa thì ta giết ngươi đó.
Lệnh Hồ Xung run lên, nghĩ lại chuyện cô ta đã bức bách mấy chục tên đại hán tự đâm mù mắt rồi bị đày ra đảo Bàn Long ở Đông Hải nên không dám nói cười với cô nữa. Chàng nghĩ: Cô ta nhỏ tuổi mà vừa cất tay đã giết ngay bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm. Võ công cô ta cao cường, hành sự lại độc ác vô cùng, thật khiến cho người ta khó có thể tin đó là những hành động của một cô nương yêu kiều diễm lệ.
Cô gái thấy Lệnh Hồ Xung lặng thinh, hỏi:
– Ngươi lại giận nữa phải không? Đường đường là nam tử hán, sao khí độ lại nhỏ nhen như vậy?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Không phải ta giận, mà ta đang sợ, sợ bị cô nương giết.
Cô gái cười nói:
– Từ nay về sau, ngươi ăn nói cho ra quy củ một chút thì ai muốn giết ngươi làm gì.
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Cái tánh của ta vốn không theo quy củ nào hết, nếu đúng như vậy thì xem ra số trời đã định ta phải chết về tay cô nương rồi.
Cô gái cười nói:
– Ngươi đã từng gọi ta là bà bà, đối với ta rất cung kính, tỏ ra rất ngoan ngoãn. Từ nay về sau cứ như vậy mà làm.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không được! Ta đã biết bà bà là một tiểu cô nương thì không thể xem cô nương là bà bà được.
Cô gái nói:
– Ngươi… ngươi…
Cô nói hai tiếng “ngươi” thì bỗng nhiên mặt ửng hồng, không biết lòng đang nghĩ gì, liền lặng im không nói nữa.
Lệnh Hồ Xung cúi đầu xuống, thấy cô ta càng thẹn thùng lại càng xinh đẹp, không cầm lòng được nữa, liền hôn lên má cô một cái. Cô gái giật mình, bỗng phát sinh một luồng lực khí. Cô ta xoay lại, bốp một tiếng, tát một cái mạnh vào má Lệnh Hồ Xung. Tiếp theo, cô nhảy vọt lên. Nhưng lực nhảy của cô rất yếu, thân đang ở khoảng không thì lực đạo đã kiệt liền rớt xuống, lại rơi vào lòng Lệnh Hồ Xung, toàn thân mềm nhũn ra không nhúc nhích được nữa.
Cô sợ Lệnh Hồ Xung nổi cơn phóng đãng lả lơi nên cô rất nóng lòng, bèn nói:
– Nếu ngươi… ngươi còn vô lễ, thì ta giết… giết ngươi lập tức.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Cô nương giết ta cũng vậy mà không giết ta cũng vậy, dù sao thì mạng sống của ta không còn bao lâu nữa. Ta cứ muốn vô lễ với cô nương nữa thì sao?
Cô gái vô cùng sốt ruột nói:
– Ta… ta… ta…
Nhưng cô không sao nói được.
Lệnh Hồ Xung dùng hết sức, nhè nhẹ đỡ vai cô lên, rồi tự mình nghiêng người lăn qua một bên, cười nói:
– Cô nương làm sao?
Lệnh Hồ Xung nói xong liền ho lên sù sụ, vừa ho vừa thổ ra mấy ngụm máu. Nhất thời chàng nổi cơn tình ái, lỡ hôn cô gái liền hối hận vô cùng. Sau khi bị cô đánh cho một chưởng, chàng càng biết mình không phải, tuy miệng lưỡi cứng rắn, nhưng không dám cùng với cô ta gối tựa vai kề nữa.
Cô gái thấy Lệnh Hồ Xung tự lăn ra xa, không như sự suy đoán của cô, lại thấy chàng bị thổ huyết thì lòng ngấm ngầm hối hận, nhưng ngoài mặt e thẹn, khó mở miệng nói câu xin lỗi. Cô chỉ dịu dàng hỏi:
– Ngươi… ngực của ngươi đau lắm phải không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ngực không đau, nhưng chỗ khác đau dữ dội hơn.
Cô gái nói:
– Đau ở đâu?
Giọng nói của cô rất đỗi quan hoài. Lệnh Hồ Xung xoa vào má vừa bị cô tát, nói:
– Đau ở đây.
Cô gái mỉm cười nói:
– Ngươi muốn ta xin lỗi chứ gì? Thì ta xin lỗi ngươi vậy.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Ta không tốt. Bà bà, xin bà bà đừng trách.
Cô gái nghe Lệnh Hồ Xung lại mở miệng gọi mình là bà bà, nhịn không được, liền cười lên khanh khách.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Viên dược hoàn thối tha của lão hòa thượng đâu rồi? Cô nương vẫn chưa uống phải không?
Cô gái đáp:
– Ta chưa kịp lượm lên.
Cô nói rồi đưa tay chỉ lên sườn núi, nói:
– Còn ở trên đó.
Cô ngừng một lúc rồi nói:
– Ta nghe lời ngươi, chút nữa sẽ lên lấy uống dù nó có thối tha hay không.
Hai người nằm trên sườn núi. Nếu là lúc bình thường thì chỉ vọt mình lên là được, nhưng bây giờ hai người kiệt sức nên sườn núi giống như hàng ngàn ngọn núi hiểm trở cao ngất trời. Hai người ngẩng lên nhìn sườn núi rồi cúi xuống nhìn nhau buông tiếng thở dài.
Cô nương nói:
– Ta tĩnh tọa một lúc, ngươi không được quấy rầy ta.
Lệnh Hồ Xung thấy cô ta ngồi tựa vào bờ suối, hai mắt nhắm lại; ngón tay cái, ngón trỏ , ngón giữa của tay phải cùng nắm pháp quyết, rồi định lại không nhúc nhích nữa. Chàng nghĩ thầm: Phương pháp tĩnh tọa của cô ta cũng khác với mọi người, không ngồi xếp bằng.
Lệnh Hồ Xung cũng muốn định tâm lại nghỉ ngơi một lúc, nhưng khí tức nhộn nhạo, không sao yên tĩnh được. Bỗng nghe mấy tiếng ếch kêu, một con ếch vừa to vừa mập từ dưới khe suối nhảy lên. Lệnh Hồ Xung vui mừng, lòng nghĩ mình lăn lộn cả nửa ngày, bụng đã đói lắm rồi, bây giờ thức ăn ngon đưa đến bên miệng, thật là may mắn. Chàng đưa tay chụp con ếch, nào ngờ cánh tay mềm nhũn không còn khí lực, chụp một cái lại hụt. Con ếch kêu lên một tiếng rồi nhảy đi, lại kêu thêm vài tiếng nữa dường như vô cùng đắc ý, muốn trêu đùa Lệnh Hồ Xung vô dụng. Lệnh Hồ Xung thở dài. Khe suối rất nhiều ếch, lại có thêm hai con nhảy lên, chàng vẫn không sao bắt được. Bỗng một bàn tay xinh xắn trắng trẻo thò ra từ sau lưng chàng nhẹ nhàng bắt được một con ếch. Cô gái tĩnh tọa một lúc thì đã có thể hành động lại được, tuy vẫn còn mỏi mệt nhưng bắt ếch thì thật dễ dàng. Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Tuyệt quá, chúng ta có một bữa thịt ếch ăn rồi.
Cô gái mỉm cười, đưa tay ra thì bắt được một con, chỉ trong khoảnh khắc đã bắt được hơn hai chục con. Lệnh Hồ Xung nói:
– Đủ rồi. Xin cô nương đi lượm một ít củi khô để nhóm lửa, còn ta lột da moi ruột mấy con ếch này.
Cô gái nghe lời đi lượm củi khô. Lệnh Hồ Xung rút kiếm chặt đầu làm thịt ếch.
Cô nương nói:
– Cổ nhân nói: “Giết gà mà phải dùng đến dao mổ trâu”. Ngày nay, Lệnh Hồ đại hiệp dùng Độc Cô cửu kiếm để giết ếch.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Độc Cô đại hiệp ở cửu tuyền có linh thiêng biết được truyền nhân của ngài hư hỏng như vậy, thật phải tức…
Lệnh Hồ Xung định nói đến chữ “chết” thì im miệng, lòng nghĩ: Độc Cô Cầu Bại tạ thế đã lâu, làm sao có thể nói hai chữ tức chết được?
Cô gái nói:
– Lệnh Hồ đại hiệp…
Trong tay Lệnh Hồ Xung cầm con ếch đã bị chặt đầu, nói:
– Hai tiếng đại hiệp vạn lần không dám nhận. Trong thiên hạ làm gì có đại hiệp giết ếch?
Cô gái cười nói:
– Thời cổ có anh hùng giết chó, thì ngày nay sao lại không có đại hiệp giết ếch? Độc Cô cửu kiếm của ngươi thần diệu phi thường, ngay cả lão hòa thượng phái Thiếu Lâm cũng đấu không lại ngươi. Lão nói vị tiền bối họ Phong truyền kiếm pháp này cho ngươi là ân nhân của lão, chuyện ấy như thế nào?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vị sư trưởng truyền kiếm pháp cho ta là một bậc tiền bối phái Hoa Sơn.
Cô gái hỏi:
– Vị tiền bối này kiếm thuật thần thông, sao trên giang hồ không nghe tên của lão?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Cái đó… cái đó… ta đã trót hứa với lão nhân gia, quyết không tiết lộ hành tung của lão nhân gia.
Cô nương nói:
– Hừ, thật hiếm thấy. Dù ngươi có nói với ta, ta cũng không muốn nghe nữa. Ngươi có biết ta là ai không? Lai lịch thế nào không?
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Ta không biết. Ngay cả tên của cô nương là gì ta cũng không biết nữa.
Cô gái nói:
– Ngươi giấu sự việc ấy không nói với ta, thì ta cũng không nói cho ngươi biết ta là ai đâu.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tuy ta không biết, nhưng cũng đoán được tám chín phần rồi.
Cô gái hơi biến sắc, hỏi:
– Ngươi đoán được rồi ư? Tại sao ngươi đoán được?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Bây giờ còn chưa biết, đến tối thì biết rõ ràng.
Cô gái càng kinh ngạc hỏi:
– Sao phải đợi đến tối mới biết rõ?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Ta ngẩng đầu nhìn lên trời, thấy trời thiếu vì sao nào thì biết cô nương là vì sao đó giáng hạ xuống phàm trần. Cô nương đẹp giống như tiên trên trời, ở trần gian làm gì có người đẹp như vậy?
Mặt cô gái ửng hồng, hứ một tiếng nhưng lòng cô vô cùng sung sướng. Cô nói khẽ:
– Lại nói bậy nữa rồi.
Lúc này cô đã đốt lửa lên, những con ếch đã được làm thịt rửa sạch xâu vào một cành cây đặt trên lửa nướng. Mỡ ếch rớt xuống đống lửa, phát ra những tiếng xèo xèo, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Cô gái nhìn làn khói trong đống lửa bốc lên, khẽ nói:
– Ta tên là Doanh Doanh. Nói cho ngươi nghe tên ta, không biết sau này ngươi có nhớ được không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Doanh Doanh! Cái tên nghe hay quá. Nếu ta biết tên cô nương là Doanh Doanh thì quyết không gọi cô nương là bà bà rồi.
Doanh Doanh hỏi:
– Tại sao?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Hai chữ Doanh Doanh rõ ràng là tên của một tiểu cô nương, không phải là tên của lão bà bà.
Doanh Doanh cười nói:
– Ngày sau ta cũng sẽ thành một lão bà bà, nhưng không đổi tên, vẫn gọi là Doanh Doanh.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Cô nương không thể thành lão bà bà được. Cô nương đẹp như vậy, đến tám chục tuổi thì cũng vẫn còn là một tiểu cô nương đẹp tuyệt vời.
Doanh Doanh cười nói:
– Nếu vậy thì thành yêu quái sao?
Một lúc sau, Doanh Doanh nghiêm sắc mặt nói:
– Ta đem tên mình nói cho ngươi nghe, ngươi không được tùy tiện gọi lung tung.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Tại sao vậy?
Doanh Doanh đáp:
– Không được là không được, vì ta không thích.
Lệnh Hồ Xung lè lưỡi nói:
– Cái này không cho, cái kia thì cấm, sau này ai làm…
Lệnh Hồ Xung nói đến đấy, thấy nét mặt Doanh Doanh sa sầm thì vội im ngay. Doanh Doanh hứ một tiếng. Lệnh Hồ Xung nói:
– Vì sao cô nương lại tức giận? Ta nói sau này ai làm đồ đệ của cô nương, thì phải chịu khổ sở trăm bề.
Lệnh Hồ Xung muốn nói là “chồng” nhưng thấy tình thế không ổn vội đổi thành “đồ đệ”. Doanh Doanh biết tỏng ý đó, nên nói:
– Ngươi đã không đứng đắn lại không thành thực, nói ba câu thì đã có hai câu tào lao. Ta… ta không muốn cưỡng ép cái gì cả, ai thích nghe ta nói thì nghe còn không thích nghe thì mặc ai.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Ta thích nghe cô nương nói chuyện mà.
Trong câu này của Lệnh Hồ Xung hàm chứa ba phần trêu ghẹo. Doanh Doanh chau mày giống như sắp nổi giận nhưng lập tức mặt cô đỏ lên, liền quay mặt đi.
Lúc này, cả hai không ai lên tiếng. Bỗng ngửi thấy mùi khét, Doanh Doanh la lên hai tiếng “trời ơi”. Thì ra nguyên xâu ếch trong tay cô bị cháy. Cô tức giận nói:
– Tại ngươi mà ra cả.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Cô nương nên nói là vì cô tức giận ta mới nướng mấy con ếch cháy đen như vậy.
Lệnh Hồ Xung giành lấy một con ếch cháy, xé cái đùi bỏ vào miệng nhai ngon lành rồi luôn miệng khen:
– Ngon quá, ngon quá! Hỏa hầu thế này mới đến nơi đến chốn, trong vị ngọt có vị đắng, thật là khổ tận cam lai, trên đời này không có món nào ngon như vậy.
Doanh Doanh nghe hắn tán một hồi, phải bật cười khanh khách. Cô cũng cầm ếch xé thịt ăn.
Lệnh Hồ Xung giành ăn mấy con ếch cháy nhất, còn những con không bị cháy mấy thì dành cho Doanh Doanh. Hai người ăn xong xâu ếch, mặt trời ấm áp chiếu vào người, cả hai quá mệt, không biết nhắm mắt ngủ đi tự bao giờ.
Hai người cả đêm qua không ngủ, lại bị thương nên ngủ rất say. Trong giấc mơ, Lệnh Hồ Xung thấy mình và Nhạc Linh San cùng luyện kiếm trong thác nước, bỗng có thêm một người là Lâm Bình Chi, chàng và Lâm Bình Chi cùng đấu kiếm, nhưng tay không có chút lực khí, muốn liều mạng sử Độc Cô cửu kiếm, lại không nghĩ ra chiêu nào. Lâm Bình Chi phóng kiếm đâm vào ngực, bụng, đầu, vai của chàng trong khi Nhạc Linh San đứng cười ha hả. Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa tức giận, la lên:
– Tiểu sư muội, tiểu sư muội…
Lệnh Hồ Xung kêu mấy tiếng liền giật mình tỉnh dậy, nghe giọng nói dịu dàng:
– Ngươi nằm mơ thấy tiểu sư muội ư? Cô ta đối với ngươi như thế nào?
Lệnh Hồ Xung chua xót nói:
– Có người muốn giết ta mà tiểu sư muội bỏ mặc, còn… còn cười nữa.
Doanh Doanh thở dài, nhẹ nhàng nói:
– Trán ngươi đổ mồ hôi ướt đẫm kìa.
Lệnh Hồ Xung đưa tay áo lên lau. Bỗng nhiên một cơn gió lạnh thổi tới khiến chàng run lên.
Chàng nhìn thấy bầu trời đầy sao, đã giữa đêm rồi.
Lệnh Hồ Xung ngưng thần lắng nghe, quả nhiên có tiếng bước chân của ba người từ xa vọng lại.
Qua một lúc sau, nghe một người nói:
– Ở đây còn hai cái xác nữa.
Lệnh Hồ Xung nhận ra giọng nói của Tổ Thiên Thu. Một người khác nói:
– Ồ, đây là một hòa thượng của phái Thiếu Lâm.
Đó chính là Lão Đầu Tử. Lão phát hiện thi thể của Giác Nguyệt.
Doanh Doanh từ từ rút tay về, nghe Kế Vô Thi nói:
– Ba người này đều là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, sao đều chết ở đây? Ồ, người này là Tân Quốc Lương, cao thủ phái Thiếu Lâm.
Tổ Thiên Thu nói:
– Ai mà lợi hại ghê gớm, giết một lúc cả bốn tên cao thủ phái Thiếu Lâm!
Lão Đầu Tử ấp úng hỏi:
– Chẳng lẽ… chẳng lẽ là nhân vật trên Hắc Mộc Nhai? Không chừng chính là Đông Phương giáo chủ?
Kế Vô Thi nói:
– Xem ra cũng có thể lắm. Chúng ta mau đem bốn cái xác này chôn đi để khỏi bị người phái Thiếu Lâm phát hiện.
Tổ Thiên Thu nói:
– Nếu đúng là nhân vật của Hắc Mộc Nhai hạ thủ thì bọn họ cũng không sợ phái Thiếu Lâm biết, không chừng người giết còn cố ý để thi thể lại đây nhằm thị uy với phái Thiếu Lâm.
Kế Vô Thi nói:
– Nếu muốn thị uy thì họ đã không để xác ở nơi hoang dã này. Bọn ta không tình cờ qua đây thì mấy cái xác này cũng sẽ bị chim thú ăn hết, chưa chắc bị người khác phát hiện. Nếu Nhật Nguyệt thần giáo muốn thị uy, thì đã bêu đầu ở thị trấn đông người, đề rõ là đệ tử phái Thiếu Lâm, mới khiến cho phái Thiếu Lâm mất mặt.
Tổ Thiên Thu nói:
– Đúng vậy, có lẽ sau khi giết bốn người, nhân vật Hắc Mộc Nhai tiếp tục truy kích địch nên chưa kịp chôn mấy cái xác.
Lại nghe tiếng cả ba người dùng binh khí đào đất để chôn bốn cái xác. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ba người này và Hắc Mộc Nhai Đông Phương giáo chủ nhất định có quan hệ sâu sắc, nếu không thì việc gì phải phí sức như vậy.
Bỗng nghe Tổ Thiên Thu ồ một tiếng, nói:
– Đây là một viên dược hoàn.
Kế Vô Thi đánh hơi mấy lần, nói:
– Đây là linh dược trị thương của phái Thiếu Lâm, có công hiệu cải tử hoàn sinh, chắc ở trong túi mấy đệ tử Thiếu Lâm rớt ra.
Tổ Thiên Thu hỏi:
– Sao ngươi biết?
Kế Vô Thi nói:
– Nhiều năm trước, ta đã từng thấy qua chỗ lão hòa thượng Thiếu Lâm.
Tổ Thiên Thu nói:
– Nếu là linh dược trị thương thì thật tuyệt. Lão huynh, ngươi lấy nó cho Lão Bất Tử cô nương uống để trị bệnh cho cô.
Lão Đầu Tử nói:
– Sự sống chết của tiện nữ không quan trọng lắm, chúng ta mau đi tìm Lệnh Hồ Xung công tử đưa cho công tử uống.
Lệnh Hồ Xung cảm động vô cùng, thầm nghĩ: Đây là viên dược hoàn Doanh Doanh đánh rơi. Làm sao có thể đến gặp Lão Đầu Tử để xin lại cho cô ta uống?
Lệnh Hồ Xung quay đầu lại, dưới ánh trăng mờ ảo, thấy Doanh Doanh tủm tỉm cười làm ra vẻ ngây thơ lãng mạn, nụ cười làm xao xuyến lòng người. Thật không thể tin trước đây không lâu cô ta đã giết liền bốn tên cao thủ Thiếu Lâm.
Nghe tiếng lấp đất đá, ba người đã chôn xong bốn cái xác chết rồi. Lão Đầu Tử nói:
– Bây giờ có một vấn đề nan giải. Dạ miêu tử, ngươi nghĩ giúp ta.
Kế Vô Thi hỏi:
– Vấn đề gì?
Lão Đầu Tử đáp:
– Bây giờ nhất định Lệnh Hồ công tử đang ở cùng với… với Thánh cô. Nếu ta tặng viên dược hoàn này tất đụng phải Thánh cô; Thánh cô tức giận đem ta giết đi cũng không sao, có điều như vậy sẽ mạo phạm đến Thánh cô, Thánh cô sẽ tức giận, đó mới là cái nguy lớn.
Lệnh Hồ Xung liếc nhìn Doanh Doanh, thầm nghĩ: Thì ra bọn họ gọi cô nương này là Thánh cô, lại đối với cô nương sợ hãi đến vậy. Tại sao cô ta nhất cử nhất động đều phải giết người?
Kế Vô Thi nói:
– Hôm nay trên đường đi, chúng ta gặp ba tên mù mắt, có thể khiến họ làm việc này được. Sáng sớm mai chúng ta đuổi theo, bắt bọn họ đem viên dược hoàn này đưa cho Lệnh Hồ công tử. Bọn họ mù cả rồi, dù có biết Thánh cô và Lệnh Hồ công tử cùng đi với nhau cũng không bị mang họa sát thân.
Tổ Thiên Thu nói:
– Ta thấy hơi nghi ngờ, sở dĩ ba người này tự khoét mắt chắc là vì đã thấy Thánh cô và Lệnh Hồ Xung đi cùng nhau.
Lão Đầu Tử vỗ đùi nói:
– Đúng vậy, nếu không như vậy thì sao ba người họ bỗng dưng lại tự đâm mù mắt mình? Còn bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm này chỉ e cũng gặp vận xui, trong lúc vô tình chạm phải Thánh cô và Lệnh Hồ công tử.
Cả ba người lặng thinh hồi lâu. Lệnh Hồ Xung càng lúc càng thấy hoài nghi. Bỗng nghe Tổ Thiên Thu thở dài nói:
– Chỉ mong sao thương thế của Lệnh Hồ công tử mau lành để Thánh cô và Lệnh Hồ công tử sớm thành thần tiên quyến thuộc. Hai người họ ngày nào mà chưa thành thân thì trên giang hồ khó được bình an.
Trong bóng đêm mờ ảo, thấp thoáng mặt cô ửng hồng, nhưng ánh mắt lộ vẻ tức giận. Lệnh Hồ Xung sợ cô ta nhảy ra hạ sát bọn Lão Đầu Tử ba người, liền đưa tay phải nhè nhẹ nắm chặt tay trái cô. Hắn cảm thấy toàn thân cô phát run lên, không biết vì e thẹn hay vì tức giận.
Tổ Thiên Thu nói:
– Chúng ta tụ tập trên Ngũ Bá Cương khiến Thánh cô tức giận đùng đùng. Kỳ thực nam nữ yêu nhau là chuyện thường tình. Lệnh Hồ công tử là một hào kiệt phong lưu anh tuấn, Thánh cô là cô nương mỹ miều, quả thật xứng đôi. Sao Thánh cô là nhân vật phi thường như vậy mà lại học cái thói thẹn thùng e lệ của thiếu nữ thế tục? Rõ ràng lòng Thánh cô rất yêu Lệnh Hồ công tử nhưng không muốn cho ai đề cập đến, càng không để lộ cho ai thấy được. Đây không phải… không phải là điều phi lý sao?
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra là vậy. Không biết lời họ nói có đúng không? Bỗng Lệnh Hồ Xung cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn của Doanh Doanh cựa quậy muốn tuột khỏi tay mình. Chàng vội dùng sức nắm chặt lại, sợ cô ta nổi giận thì sẽ giết ngay bọn Tổ Thiên Thu.
Kế Vô Thi nói:
– Tuy Thánh cô là nhân vật hàng đầu trên Hắc Mộc Nhai, Đông Phương giáo chủ trước nay cũng chưa bao giờ làm cô phật lòng nhưng cô vẫn là một cô nương nhỏ tuổi. Trên đời này những cô nương nhỏ tuổi lần đầu yêu một nam tử thì dù lòng có yêu đến đâu ngoài mặt vẫn làm ra vẻ lạnh nhạt. Lần này chúng ta ton hót nịnh bợ Lệnh Hồ công tử tuy có hảo ý nhưng đã khiến cho Thánh cô tức giận. Chỉ trách chúng ta đều là hán tử thô lỗ, không hiểu tâm sự của nữ nhi. Tụ họp trên Ngũ Bá Cương cũng có chừng mười người phụ nữ, cứ theo tính cách của bọn họ thì chẳng khác gì bọn nam tử hán. Quần hào tụ hội trên Ngũ Bá Cương ton hót khiến Thánh cô tức giận. Chuyện này nếu đồn ra ngoài thì bọn chó má trong danh môn chính phái sẽ cười đến rớt cả răng mất.
Lão Đầu Tử lớn tiếng nói:
– Thánh cô đã có ơn với chúng ta nên huynh đệ chúng ta phải cảm ơn báo đức, chỉ mong có thể trị khỏi bệnh cho ý trung nhân của Thánh cô. Bậc đại trượng phu ân oán phân minh, có ân báo ân có thù báo thù, có gì sai đâu? Tên rắm chó nào dám cười nhạo bọn ta thì lão tử sẽ rút gân, lột da hắn.
Lúc này Lệnh Hồ Xung mới hiểu rõ. Trên đường đi, quần hào nịnh nọt hắn như vậy đều là vì Thánh cô Doanh Doanh này. Còn chuyện bỗng nhiên quần hào trên Ngũ Bá Cương chạy tháo thân cũng là vì Thánh cô không muốn người ngoài đoán biết tâm sự của cô ta rồi đem đồn đại trên chốn giang hồ khiến cô ta tức giận. Lệnh Hồ Xung lại chuyển đổi ý nghĩ: Thánh cô là một cô nương nhỏ tuổi mà có thể khiến cho bao nhiêu anh hùng hào kiệt đều lấy lòng ta, dĩ nhiên là một nhân vật có địa vị kinh thiên động địa trong Ma giáo. Nghe Kế Vô Thi nói ngay cả Đông Phương Bất Bại có hiệu xưng là Đệ nhất võ công thiên hạ mà cũng chưa bao giờ làm phật ý cô ta. Lệnh Hồ Xung ta chỉ là một tên vô danh tiểu tốt trong võ lâm, chưa hề quen cô ta, chẳng qua chỉ qua tiếng đàn cách một bức rèm trúc trong ngõ hẻm ở Lạc Dương, không thể nói có chút tình ý gì. Có phải vì Lục Trúc Ông hiểu nhầm ý cô ta mà truyền ra ngoài khiến cho Thánh cô tức giận ghê gớm như vậy?
Tổ Thiên Thu nói:
– Lão Đầu Tử nói không sai. Thánh cô có đại ân đại đức với chúng ta, chỉ mong mối nhân duyên này trọn vẹn để Thánh cô hạnh phúc suốt đời, dù chúng ta có tan xương nát thịt, có chết cũng không hối tiếc. Vụ trên Ngũ Bá Cương bị lộ tẩy cũng có sao đâu? Có điều… có điều Lệnh Hồ công tử là đồ đệ phái Hoa Sơn lại ở vào tình thế không đội trời chung với Hắc Mộc Nhai, muốn kết thành mối lương duyên mỹ mãn này, ta e sẽ gặp nhiều trở ngại.
Kế Vô Thi nói:
– Ta có một kế này. Tại sao chúng ta không bắt Nhạc Bất Quần, chưởng môn nhân phái Hoa Sơn rồi uy hiếp, ra lệnh cho lão phải chủ trì cuộc hôn nhân này?
Tổ Thiên Thu và Lão Đầu Tử cùng nói:
– Kế này của Dạ miêu tử thật tuyệt! Việc không nên chậm, chúng ta lên đường đi bắt Nhạc Bất Quần ngay.
Kế Vô Thi nói:
– Có điều Nhạc tiên sinh là chưởng môn của một phái, nội công kiếm pháp rất cao. Chúng ta động thủ với lão, một là khó thắng nổi, hai là dù bắt được lão, lão thà chết chứ không khuất phục thì làm sao?
Lão Đầu Tử nói:
– Vậy thì chúng ta đành phải bắt vợ và con gái của lão để uy hiếp.
Tổ Thiên Thu nói:
– Đúng vậy! Nhưng chuyện này phải làm thật bí mật, không thể để cho người ngoài biết kẻo phái Hoa Sơn bị mất mặt. Nếu Lệnh Hồ công tử biết chúng ta đắc tội với sư phụ của công tử thì nhất định công tử sẽ rất đau lòng.
Ba người bàn kế hoạch làm thế nào để bắt Nhạc phu nhân và Nhạc Linh San. Doanh Doanh đột nhiên lớn tiếng nói:
– Này, ba tên to gan dám làm càn, mau cút ngay để bổn cô nương khỏi phải nổi giận!
Lệnh Hồ Xung bỗng nghe cô ta lên tiếng thì sợ giật bắn người. Hắn liền thò tay nắm chặt tay cô ta. Bọn Kế Vô Thi vô cùng kinh hãi. Lão Đầu Tử nói:
– Dạ… dạ… tiểu nhân… tiểu nhân… tiểu nhân…
Lão nói liên tục ba tiếng “tiểu nhân” rồi kinh hoảng quá độ, không nói tiếp được nữa. Kế Vô Thi nói:
– Dạ, dạ! Bọn tiểu nhân ăn nói bậy bạ, Thánh cô đừng tin thật. Sáng mai bọn tiểu nhân xin đi Tây Vực, không bao giờ quay về Trung Nguyên nữa.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lại có thêm ba người xung phong tự đi đày.
Doanh Doanh đứng dậy nói:
– Ai bảo các ngươi đi Tây Vực? Ta có một chuyện yêu cầu ba ngươi làm cho ta.
Bọn Kế Vô Thi vui mừng, đồng thanh nói:
– Xin Thánh cô dạy bảo, bọn tiểu nhân phải tận tâm tận lực.
Doanh Doanh nói:
– Ta muốn giết một người, nhất thời chưa tìm được hắn. Các ngươi truyền lệnh xuống giùm ta: vị bằng hữu nào trên giang hồ giết được người này thì ta sẽ trọng thưởng.
Tổ Thiên Thu nói:
– Không ai dám nói đến chuyện được Thánh cô trọng thưởng. Thánh cô muốn giết người nào, ba huynh đệ tiểu nhân dù phải truy đuổi đến tận chân trời góc biển cũng phải giết cho bằng được hắn. Nhưng không biết tên tặc tử này là ai mà dám cả gan đắc tội với Thánh cô?
Doanh Doanh nói:
– Các ngươi chỉ có ba người làm sao nghe rộng trông xa được, phải lập tức truyền ngôn ra mới được.
Ba người cùng đáp:
– Dạ, dạ!
Doanh Doanh nói:
– Các ngươi đi đi!
Tổ Thiên Thu hỏi:
– Dạ, xin hỏi Thánh cô muốn giết tên ác tặc to gan nào?
Doanh Doanh hừ một tiếng, nói:
– Người này họ Lệnh Hồ, tên Xung, là đệ tử phái Hoa Sơn.
Cô vừa nói vậy thì cả bốn người Lệnh Hồ Xung, Lão Đầu Tử, Kế Vô Thi, Tổ Thiên Thu đều giật mình kinh hãi, không ai dám lên tiếng.
Qua một lúc, Lão Đầu Tử mới ấp úng:
– Chuyện này… chuyện này…
Doanh Doanh gằn giọng nói:
– Chuyện này sao? Các ngươi sợ Ngũ Nhạc kiếm phái nên không dám động đến đệ tử phái Hoa Sơn phải không?
Kế Vô Thi nói:
– Đã làm việc cho Thánh cô, đừng nói Ngũ Nhạc kiếm phái mà ngay cả Ngọc Hoàng đại đế, Diêm La lão tử cũng phải ra tay. Bọn tiểu nhân sẽ tìm cách đi bắt Lệnh Hồ… Lệnh Hồ Xung giao cho Thánh cô xử lý. Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu, chúng ta đi thôi.
Lão Đầu Tử nghĩ bụng: Chắc Lệnh Hồ công tử đã làm gì đắc tội với Thánh cô. Người trẻ tuổi càng thương yêu nhau thì càng dễ giận nhau. Năm xưa, ta và má má của Bất Tử thân mật mặn nồng nhưng đâu có ngày nào không cãi vã, đánh nhau? Ôi, Bất Tử hài nhi đã mang bệnh từ trong bụng mẹ, đâu phải vì lúc má má mang thai hài nhi mình đã đánh một chưởng mạnh vào bụng má má Bất Tử, làm tổn thương thai nhi? Dù sao cũng phải đi mời Lệnh Hồ công tử về để Thánh cô tự đối phó với công tử.
– Ai bảo các ngươi đi bắt hắn? Nếu Lệnh Hồ Xung còn sống trên đời này ngày nào thì ngày ấy thanh danh trong sạch của ta còn bị tổn thương. Giết hắn sớm chừng nào thì ta hả dạ sớm chừng đó.
Tổ Thiên Thu ấp úng nói:
– Thánh cô…
Doanh Doanh nói:
– Được, các ngươi có giao tình với Lệnh Hồ Xung, không muốn thay ta làm chuyện này cũng không sao. Ta sẽ sai người khác truyền tin cũng được.
Ba người nghe cô nói vậy tưởng thật, liền cùng cúi người nói:
– Xin tuân lệnh của Thánh cô!
Lão Đầu Tử lại nghĩ: Lệnh Hồ công tử là một người nhân nghĩa, hôm nay Lão Đầu Tử phụng mệnh Thánh cô, không thể không đi giết công tử. Sau khi giết công tử rồi, Lão Đầu Tử sẽ tự tử theo công tử.
Lão lấy từ trong túi ra viên linh dược trị thương để xuống đất. Ba người quay lưng đi xa dần.
Lệnh Hồ Xung nhìn Doanh Doanh, thấy cô ta cúi đầu trầm tư, thầm nghĩ: Cô ta vì muốn bảo toàn thanh danh của mình mà ra lệnh giết ta. Muốn giết ta thì đâu có khó gì?
Hắn liền nói:
– Cô nương muốn giết ta thì tự động thủ được rồi, hà tất phải làm nhọc sức người khác.
Lệnh Hồ Xung từ từ rút trường kiếm ra, xoay chuôi lại đưa cho Doanh Doanh. Doanh Doanh nhận trường kiếm, rồi khẽ nghiêng đầu nhìn Lệnh Hồ Xung chằm chằm. Lệnh Hồ Xung cười ha hả, ưỡn ngực ra. Doanh Doanh nói:
– Ngươi sắp chết đến nơi rồi còn cười gì nữa?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chính vì sắp chết cho nên phải cười cho đã.
Doanh Doanh nhấc trường kiếm lên, co tay lại, làm thế toan chém xuống. Bỗng cô quay người đi, dùng sức liệng trường kiếm ra xa. Trong đêm tối, trường kiếm lóe sáng thành một đường. Choang một tiếng, trường kiếm đã văng xa rồi.
Doanh Doanh dậm chân nói:
– Chỉ tại ngươi mà ra cả, khiến cho trên giang hồ bao nhiêu người đều cười nhạo ta. Chúng cho là cả đời ta… cả đời ta không ai thèm ưa, nên ta phải tìm trăm phương ngàn kế cầu cạnh ngươi. Ngươi… ngươi có gì hay ho đâu mà khiến ta từ nay về sau chẳng thể nhìn mặt ai nữa?
Bỗng cô khóc òa lên khiến Lệnh Hồ Xung luống cuống. Tình cảm dâng trào, chàng liền hiểu ra: Thánh vị của cô ta trên giang hồ rất được tôn kính, biết bao anh hùng hào kiệt đều rất kính sợ cô ta, tất nhiên cô ta rất kiêu ngạo. Mà cô ta lại là một thiếu nữ, tính vốn bẽn lẽn, bỗng nhiên ai ai cũng nói cô yêu ta nên khó tránh khỏi khiến cho cô không vui. Cô ta bảo bọn Lão Đầu Tử truyền tin như vậy, chưa chắc là muốn giết ta thật, chẳng qua là để cải chính mà thôi. Cô ta đã nói như vậy tất nhiên không ai nghi ngờ mình đang ở cùng với cô ta nữa.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nhỏ nhẹ nói:
– Đúng là ta không tốt, làm tổn thương đến thanh danh của cô nương. Bây giờ ta xin cáo từ.
Doanh Doanh đưa tay áo lên lau nước mắt hỏi:
– Ngươi tính đi đâu?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Đi bước nào biết bước đó, đến đâu cũng được.
Doanh Doanh nói:
– Ngươi đã hứa hộ tống ta, sao bây giờ bỏ đi một mình?
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Ta không biết trời cao đất dày nên hứa những lời vô vị như vậy khiến cô nương cười cho. Võ công của cô nương cao cường đâu cần người bảo hộ? Một trăm tên Lệnh Hồ Xung cũng không bằng một cô nương.
Lệnh Hồ Xung nói xong liền quay người bỏ đi.
Doanh Doanh vội nói:
– Ngươi đừng đi!
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Tại sao?
Doanh Doanh nói:
– Bọn Tổ Thiên Thu đã truyền lời ra ngoài, trong vòng mấy ngày thì giang hồ không ai không biết, lúc đó ai cũng muốn giết ngươi, tiền đồ của ngươi đầy chông gai, đừng nói ngươi đang bị trọng thương, dù ngươi đang lành mạnh cũng khó thoát khỏi họa sát thân.
Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:
– Lệnh Hồ Xung này có chết vì lời nói của cô nương cũng không sao.
Lệnh Hồ Xung nói xong, lượm trường kiếm tra vào vỏ, tự biết mình không có sức để leo nên thuận theo khe suối mà đi. Doanh Doanh thấy Hồ Xung đi càng lúc càng xa liền chạy theo gọi:
– Này, ngươi đừng đi!
Lệnh Hồ Xung nói:
– Lệnh Hồ Xung ở cùng với cô nương chỉ có làm phiền cô thôi, thà tự bỏ đi còn hơn.
Doanh Doanh nói:
– Ngươi… ngươi…
Cô cắn môi, lòng rất bồn chồn. Thấy Lệnh Hồ Xung vẫn không chịu dừng, cô liền chạy thêm mấy bước nói:
– Lệnh Hồ Xung, ngươi định ép ta phải tự miệng nói ra mới vừa lòng phải không?
Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:
– Nói cái gì? Ta không hiểu.
Doanh Doanh lại cắn môi rồi nói:
– Ta bảo bọn Tổ Thiên Thu truyền tin là muốn giữ ngươi… muốn ngươi mãi mãi ở bên ta, không xa rời ta một bước.
Sau khi cô nói câu này, người phát run lên, đứng không vững nữa. Lệnh Hồ Xung vô cùng ngạc nhiên hỏi:
– Cô nương… cô nương muốn ta làm bạn ư?
Doanh Doanh nói:
– Đúng vậy! Sau khi bọn Tổ Thiên Thu truyền tin ra, ngươi chỉ có bầu bạn bên cạnh ta mới có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ ngươi là một tiểu tử không màng sự sống chết, vậy thì… vậy thì ta đã hại ngươi rồi.
Lệnh Hồ Xung cảm động thầm nghĩ: Thì ra cô nương này thật sự yêu ta, nhưng trước mặt mấy tên hán tử, cô ta thà chết chứ không chịu nhận đã yêu ta.
Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền quay người đi đến trước mặt cô, đưa tay nắm chặt hai bàn tay, cảm thấy hai lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi lạnh ngắt. Chàng nói khẽ:
– Sao cô nương lại khổ não như vậy?
Doanh Doanh nói:
– Ta sợ.
Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Sợ cái gì?
Doanh Doanh đáp:
– Ta sợ ngươi là một tiểu tử ngu ngốc không nghe lời ta, muốn dấn thân vào chốn giang hồ nguy hiểm, chỉ e không đến ngày mai thì bị chết dưới tay những kẻ thối tha không đáng giá một đồng xu.
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Những người đó đều là những hán tử đầy nhiệt huyết, họ đối với cô nương rất tốt mà tại sao cô lại khinh rẻ họ như vậy?
Doanh Doanh nói:
– Bọn chúng cười giễu ta ở sau lưng vì ta muốn giết ngươi, chúng không phải là thứ hán tử thối tha đáng chết sao?
Lệnh Hồ Xung không nhịn được, bật cười nói:
– Cô nương bảo bọn họ giết ta, giờ tại sao lại trách bọn họ? Vả lại họ cũng không dám cười sau lưng cô nương đâu. Cô nương nghe Kế Vô Thi, Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu bàn luận về cô nương, nói năng rất kính cẩn, đâu có chút gì dám giễu cợt cô nương đâu?
Doanh Doanh nói:
– Bọn chúng không cười ngoài miệng nhưng cười trong bụng.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy khó mà nói lý cũng khó mà cãi được, đành nói:
– Được, cô nương không cho ta đi thì ta ở đây bầu bạn với cô nương cũng được. Ôi, bị người ta chém thành mười bảy mười tám mảnh chắc cũng chẳng hứng thú gì.
Doanh Doanh nghe Lệnh Hồ Xung đồng ý không đi, mừng rỡ như nở hoa trong lòng, nói:
– Cái gì chẳng hứng thú? Làm như bị cực hình vậy.
Lúc nói câu này, mặt cô nghiêng lại. Dưới ánh trăng sao mờ ảo, gương mặt trắng như tuyết của cô dường như phát ra một luồng sáng êm dịu.
Lòng Lệnh Hồ Xung xao xuyến thầm nghĩ: Kỳ thực cô nàng này còn đẹp hơn tiểu sư muội nhiều, lại đối đãi với ta tốt như vậy. Nhưng… nhưng… lòng ta làm sao có thể quên được tiểu sư muội?
Doanh Doanh không biết Lệnh Hồ Xung đang nghĩ đến Nhạc Linh San. Cô hỏi:
– Cây đàn ta tặng cho ngươi đâu rồi? Mất rồi có phải không?
Lệnh Hồ Xung nói:
– Đúng vậy, trên đường hết tiền xài, ta đem nó đến tiệm cầm đồ mất rồi.
Lệnh Hồ Xung vừa nói vừa lấy cái túi sau lưng xuống, đem cây đoản cầm ra. Doanh Doanh thấy Lệnh Hồ Xung gói cẩn thận, đủ thấy hắn đối với vật mình tặng rất trân trọng. Lòng cô rất vui, nói:
– Một ngày ngươi phải nói mấy câu cà rỡn thì lòng mới dễ chịu phải không?
Cô nhận cây đàn, khẽ dạo mấy ngón, rồi tấu lên khúc Thanh tâm phổ thiện chú. Cô hỏi:
– Ngươi học thuộc khúc này chưa?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Còn kém xa lắm.
Lệnh Hồ Xung lắng nghe tiếng đàn ưu nhã dưới ngón tay cô, cảm thấy rất sảng khoái.
Nghe một lúc, chàng nhận ra tiếng đàn hiện nay khác lúc cô đàn ở trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương; nó giống như chim hót líu lo đầu cành, như tiếng suối róc rách, tiếng tình tang làm mê đắm lòng người. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Tuy cùng một khúc điệu nhưng âm tiết lại khác nhau. Thì ra khúc Thanh tâm phổ thiện chú này còn có nhiều biến hóa.
Bỗng nghe bựt một tiếng, một dây huyền cầm bị đứt. Doanh Doanh chau mày rồi tiếp tục tấu, qua một lúc lại đứt thêm một sợi nữa. Lệnh Hồ Xung nghe tiếng đàn của cô đượm ý buồn phiền, cầm chỉ Thanh tâm phổ thiện chú kỳ thú dị thường, lúc tấu đến khúc kỳ dị thì huyền cầm bựt một tiếng, lại đứt thêm một sợi nữa.
– Ngươi ngồi bên cạnh người ta quấy nhiễu thì sao mà đàn cho được?
Lệnh Hồ Xung nghĩ: Ta ngồi yên lặng, có quấy nhiễu cô ta hồi nào đâu?
Nhưng rồi chàng liền hiểu ra: Chính cô ta tâm thần bất định mà lại đổ thừa do mình.
Lệnh Hồ Xung không muốn tranh biện với cô ta nữa. Chàng nằm trên cỏ nhắm mắt dưỡng thần, vì quá mệt mỏi nên không biết ngủ đi tự lúc nào.
Hôm sau tỉnh dậy, chàng thấy Doanh Doanh đang ngồi rửa mặt bên khe suối. Cô ta rửa mặt xong, lấy lược chải tóc. Cánh tay cô đẹp như ngọc, tóc dài chấm đất khiến lòng hắn bất giác ngẩn ngơ.
Doanh Doanh quay đầu lại, thấy Lệnh Hồ Xung đang ngẩn ngơ nhìn mình, mặt cô ửng hồng, cười nói:
– Ngủ như quỷ, bây giờ mới thức.
Lệnh Hồ Xung ngại ngùng nói:
– Ta đi bắt ếch tiếp để xem có đủ sức không.
Doanh Doanh nói:
– Ngươi nằm nghỉ thêm chút đi, để ta đi bắt cho.
Lệnh Hồ Xung gắng gượng muốn đứng dậy, nhưng tay chân nhũn ra. Hắn cố vận chút lực thì khí huyết trong ngực lại nhộn nhạo, lòng cảm thấy phiền não, nghĩ bụng: Chết thì chết, sống thì sống, chứ cứ dở sống dở chết như vậy khác nào một phế nhân. Đừng nói người ta nhìn vào đã khó ưa mà chính mình cũng chán ghét.
Doanh Doanh thấy nét mặt Lệnh Hồ Xung không vui liền an ủi:
– Nội thương của ngươi chưa chắc không trị được. Nơi đây thật yên tĩnh, không có chuyện gì rắc rối, từ từ dưỡng thương, hà tất phải sốt ruột?
Khe suối này rất yên tĩnh, từ buổi tối bọn Kế Vô Thi ba người đi qua thì hoàn toàn không có người lai vãng. Hai người đã ở đây hơn mười ngày. Nội thương của Doanh Doanh đã sớm bình phục, mỗi ngày cô đi hái quả dại, bắt ếch làm thức ăn, nhưng Lệnh Hồ Xung mỗi ngày một gầy đi. Cô ép chàng phải uống viên dược hoàn mà Phương Sinh đại sư để lại, tấu cầm khúc để ru chàng ngủ, nhưng thương thế của chàng vẫn không đỡ chút nào.
Lệnh Hồ Xung tự biết mình sắp chết, nhưng tính chàng vốn phóng khoáng, chẳng lấy vậy làm buồn, hằng ngày vẫn cười nói với Doanh Doanh.
Doanh Doanh tính vốn tự đại nhưng thấy Lệnh Hồ Xung mỗi khắc đều có thể đột ngột ngã lăn ra chết nên cô đối với hắn càng dịu dàng, chiều chuộng hắn đủ điều. Gặp lúc cô không nhịn nổi thì nổi nóng chút ít nhưng liền hối hận rồi xin lỗi hắn ngay.
Hôm ấy, Lệnh Hồ Xung ăn xong hai trái đào, liền cảm thấy khó chịu, nửa mê nửa tỉnh rồi thiếp đi.
Trong lúc mơ màng, nghe có tiếng ai khóc nức nở. Chàng hé mắt ra thấy Doanh Doanh nằm phục bên chân mình, cô đang khóc. Lệnh Hồ Xung giật mình, toan muốn hỏi vì sao cô khóc, bỗng hiểu ra: Cô ta biết ta sắp chết nên quá đau lòng.
Lệnh Hồ Xung liền đưa tay trái nhẹ nhàng vuốt mái tóc dài của cô rồi cười gượng nói:
– Đừng khóc, đừng khóc! Ta còn sống tám chục năm nữa mà, đâu có đi Tây Thiên sớm như vậy.
Doanh Doanh vừa khóc vừa nói:
– Ngươi càng ngày càng gầy nhom, ta… ta… ta cũng không muốn sống nữa.
Lệnh Hồ Xung nghe cô nói vừa thành khẩn vừa đau đớn, bất giác cảm động vô cùng. Ngực nóng lên, chàng cảm thấy trời đất quay cuồng, máu không ngớt trào lên cổ họng, rồi ngất đi không biết gì nữa.
Lệnh Hồ Xung hôn mê không biết qua bao nhiêu ngày, có lúc hơi tỉnh lại, thân người như bay bổng trên tầng mây, không bao lâu lại ngất đi, chập chờn lúc mê lúc tỉnh, có lúc chàng mơ hồ cảm thấy dường như có người đút nước cho mình, có lúc lại cảm thấy có người lấy lửa sưởi khắp thân mình. Tay chân chàng không cách nào cử động được, mí mắt cũng không mở ra nổi.
Hôm ấy thần trí hơi tỉnh táo, chàng cảm thấy huyệt Mạch môn hai cổ tay bị ai nắm chặt, một luồng khí nóng từ hai tay truyền vào, xung đột với những luồng chân khí trong nội thể.
Toàn thân Lệnh Hồ Xung khó chịu vô cùng. Chàng chỉ muốn há miệng la lên nhưng la không ra tiếng, thật giống như bị cả ngàn ngọn đao chém chặt, vạn nhục hình tàn khốc.
Lệnh Hồ Xung mê man như vậy không biết qua bao nhiêu ngày, chỉ cảm thấy mỗi lần chân khí truyền vào thì bớt đau đớn hơn một chút. Lòng hơi hiểu ra, chàng biết có một người nội công cao thâm đang trị thương cho mình. Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Chẳng lẽ là sư phụ sư nương mời tiền bối cao nhân đến cứu tính mạng ta? Doanh Doanh đi đâu? Sư phụ sư nương đâu? Sao ta không thấy tiểu sư muội?
Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San thì khí huyết trong ngực lại nhộn nhạo lên, liền mê man không biết gì nữa.
Cứ như vậy, ngày ngày có người đến truyền nội lực cho Lệnh Hồ Xung. Hôm ấy, sau khi được truyền chân khí, thần trí Lệnh Hồ Xung tỉnh táo hơn trước. Chàng nói:
– Đa… đa tạ tiền bối, tại hạ… tại hạ đang ở đâu?
Nói xong, từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một gương mặt đầy nếp nhăn đang lộ ra nụ cười hiền từ.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy gương mặt này rất quen thuộc. Chàng mơ màng nhìn lão một lúc, thấy người này đầu không có tóc, trên đầu có chín đốt tàn nhang, là một hòa thượng. Chàng loáng thoáng nhớ ra, nói:
– Đại sư… đại sư là Phương… Phương… đại sư…
Lão hòa thượng vẻ mặt vui mừng, mỉm cười nói:
– Hay lắm, hay lắm! Thiếu hiệp nhận ra lão nạp rồi. Lão nạp là Phương Sinh.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Phải, phải. Tiền bối là Phương Sinh đại sư.
Lúc này Lệnh Hồ Xung phát giác mình đang nằm trên chiếc chõng tre trong một gian nhà nhỏ, mình đắp chăn, trên bàn đặt một ngọn đèn như hạt đậu phát ra ánh sáng vàng nhạt.
Từ đó về sau cứ sáng chiều, Phương Sinh đến gian nhà nhỏ dùng nội lực trị thương cho Lệnh Hồ Xung. Qua hơn mười ngày, Lệnh Hồ Xung đã có thể ngồi dậy, tự ăn cơm được. Nhưng mỗi lần chàng hỏi Doanh Doanh đâu, tại sao mình có thể đến được đây thì Phương Sinh chỉ mỉm cười chứ không đáp.
Hôm nay, Phương Sinh lại truyền chân khí cho Lệnh Hồ Xung, rồi nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp, bây giờ tính mạng của thiếu hiệp đã có thể tạm thời bảo toàn rồi. Nhưng công phu của lão nạp chỉ có hạn, vẫn không cách nào hóa giải mấy luồng chân khí dị chủng trong cơ thể thiếu hiệp được. Trước mắt chỉ có thể kéo dài ngày nào hay ngày đó, e rằng không qua một năm thì nội thương của thiếu hiệp tái phát như cũ. Lúc đó dù có Đại La kim tiên cũng khó cứu được tính mạng của thiếu hiệp.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Ngày trước, Bình Nhất Chỉ Bình đại phu cũng nói với vãn bối như vậy. Đại sư tận tâm tận lực cứu chữa cho vãn bối, vãn bối cảm kích vô cùng. Một người sống lâu hay mau đều do thiên mệnh, công lực đại sư có cao hơn nữa cũng không thể hành sự trái với mệnh trời.
Phương Sinh lắc đầu nói:
– Nhà Phật không tin thiên mệnh, lão nạp chỉ nói về duyên pháp. Ngày trước lão nạp đã từng nói với thiếu hiệp rằng trụ trì của bổn tự là Phương Chứng sư huynh nội công uyên thâm, nếu thiếu hiệp có duyên với người thì có thể người sẽ truyền bí thuật Dịch cân kinh cho thiếu hiệp. Gân cốt cũng có thể chuyển dời huống chi hóa giải mấy luồng nội tức dị khí này? Bây giờ lão nạp dẫn thiếu hiệp đi bái kiến phương trượng, mong thiếu hiệp ứng đáp cho khéo.
Lệnh Hồ Xung từng nghe thanh danh của phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm, lòng rất vui mừng, đáp:
– Phiền đại sư dẫn kiến phương trượng. Dù vãn bối không có duyên, không được phương trượng đại sư rủ lòng thương nhưng được bái kiến vị cao tăng đương thời là cơ hội ngàn năm một thuở.
Lệnh Hồ Xung từ từ đứng lên choàng áo khoác vào, theo Phương Sinh đại sư ra khỏi phòng.
Vừa ra ngoài phòng, ánh nắng rực rỡ khiến Lệnh Hồ Xung lóa mắt, giống như đi vào một cảnh giới khác. Tinh thần hắn rất sảng khoái.
Lệnh Hồ Xung đi rất khó khăn vì hai chân mềm nhũn. Hắn phải bước từ từ, đưa mắt nhìn các tòa điện đường có lối kiến trúc hùng vĩ. Trên đường đi, chàng gặp rất nhiều tăng nhân. Từ xa họ đều nép sang một bên, hướng về Phương Sinh cúi đầu thủ lễ rất cung kính. Đi qua ba dãy hành lang dài, đến ngoài một gian thạch thất, Phương Sinh gọi một chú tiểu lại nói:
– Phương Sinh có chuyện muốn cầu kiến phương trượng sư huynh.
Chú tiểu đi vào bẩm báo rồi liền quay lại chấp tay nói:
– Phương trượng mời vào.
Lệnh Hồ Xung theo sau Phương Sinh, đi vào trong thất, thấy một lão tăng thân người nhỏ thó ngồi trên bồ đoàn. Phương Sinh cúi người hành lễ nói:
– Phương Sinh bái kiến phương trượng sư huynh. Xin dẫn kiến Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ thiếu hiệp, đồ đệ phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung bèn quỳ xuống khấu đầu hành lễ. Phương trượng Phương Chứng hơi nghiêng người, đưa tay phải ra nói:
– Thiếu hiệp, miễn lễ, mời ngồi.
Lệnh Hồ Xung bái xong rồi ngồi xuống bồ đoàn phía dưới Phương Sinh, thấy Phương Chứng đại sư dáng người tiều tụy, thần sắc hiền hòa, cũng không đoán được là bao nhiêu tuổi. Lòng chàng ngấm ngầm sửng sốt: Không ngờ vị cao tăng danh chấn đương thời tướng mạo lại hiền hòa như vậy. Nếu không biết trước thì không ai ngờ được lão là chưởng môn một môn phái lớn nhất trong võ lâm.
Phương Sinh đại sư nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp đã trải qua hơn ba tháng điều dưỡng, đã đỡ nhiều rồi.
Lệnh Hồ Xung giật mình: Thì ra, ta hôn mê bất tỉnh đã hơn ba tháng rồi, ta cứ tưởng chỉ mới hai mươi mấy ngày.
Phương Chứng nói:
– Hay lắm!
Lão quay qua nói với Lệnh Hồ Xung:
– Thiếu hiệp, tôn sư Nhạc tiên sinh chấp chưởng phái Hoa Sơn là người nghiêm chính ngay thẳng, thanh danh lừng lẫy giang hồ, xưa nay lão nạp vô cùng kính phục.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy nói:
– Không dám. Vãn bối thân bị trọng thương, hôn mê không biết gì, may nhờ Phương Sinh đại sư cứu chữa, thì ra đã hơn ba tháng. Sư phụ và sư nương của vãn bối chắc cũng bình an?
Đáng lẽ sư phụ, sư nương Lệnh Hồ Xung có bình an hay không thì hắn không nên hỏi người ngoài nhưng bởi vì lòng hắn lúc nào cũng nhớ họ nên buột miệng hỏi ra như vậy.
Phương Chứng nói:
– Nghe nói Nhạc tiên sinh, Nhạc phu nhân và bọn đệ tử phái Hoa Sơn bây giờ đang ở Phúc Kiến.
Lệnh Hồ Xung an tâm nói:
– Đa tạ phương trượng đại sư cho biết.
Lệnh Hồ Xung không nén được chua xót: Sư phụ và sư nương rốt cuộc đã dẫn tiểu sư muội đến nhà Lâm sư đệ rồi.
Phương Chứng nói:
– Mời thiếu hiệp ngồi. Nghe Phương Sinh sư đệ nói, kiếm thuật của thiếu hiệp rất tinh thâm, đã được chân truyền của tiền bối Phong lão tiên sinh phái Hoa Sơn, thật là đáng mừng.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Vãn bối không dám.
Phương Chứng nói:
– Phong lão tiên sinh quy ẩn đã lâu, lão nạp tưởng rằng Phong lão tiên sinh đã tạ thế, nhưng lão vẫn còn trên thế gian khiến người nghe vui mừng khôn xiết.
Lệnh Hồ Xung dạ. Phương Chứng từ từ nói:
– Sau khi thiếu hiệp bị thương, vì người ta nhầm lẫn, đưa nhiều loại chân khí truyền vào nội thể thiếu hiệp nên khó mà hóa giải được. Phương Sinh sư đệ đã nói rõ cho lão nạp biết. Lão nạp tham tường tỉ mỉ, chỉ còn cách luyện tập Dịch cân kinh, nội công bí yếu của tệ phái, mới có thể dùng nội công bản thân mà trục hóa dần. Nếu dùng ngoại lực miễn cưỡng điều trị cho thiếu hiệp thì có thể kéo dài mạng sống một thời gian mà thật ra chẳng khác gì lấy nước muối uống cho đỡ khát, khiến cho mối họa càng sâu dày hơn. Trong ba tháng nay, Phương Sinh sư đệ đã dùng nội lực để kéo dài mạng sống cho thiếu hiệp, khiến trong thân thể của thiếu hiệp lại có thêm một luồng chân khí nữa. Thiếu hiệp thử vận khí thì sẽ biết.
Lệnh Hồ Xung hơi vận khí, quả thấy nội tức trong huyệt Đan điền cuồn cuộn lên, khó mà ức chế được. Chàng đau đến thấu tim, thân người lảo đảo, trán toát mồ hôi lạnh ngắt.
Phương Sinh chấp tay nói:
– Phương Sinh bất tài khiến cho thiếu hiệp thêm đau khổ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Sao đại sư lại nói như vậy? Đại sư vì vãn bối mà tận tâm tận lực, hao tổn nhiều công lực thanh tu. Vãn bối như người được sống lại, thật muốn bái lạy đại sư đã ra ân tái tạo.
Phương Sinh nói:
– Không dám. Năm xưa Phong lão tiên sinh có đại ân đại đức với lão nạp, chuyện này chẳng qua lão nạp cũng chỉ báo đáp một phần ân đức của Phong lão tiên sinh mà thôi.
Phương Chứng ngẩng đầu lên nói:
– Đệ tử Phật môn lấy từ bi làm gốc, đã biết thiếu hiệp bị nội thương như vậy thì lão nạp đương nhiên phải tận tâm cứu giải. Thần công Dịch cân kinh đó do Thiền tông sơ tổ Đạt Ma lão tổ ở Đông Thổ sáng chế ra. Thiền tông nhị tổ Huệ Khả đại sư được lão tổ truyền lại. Huệ Khả đại sư vốn có pháp danh là Thần Quang, là người ở Lạc Dương, từ nhỏ đã thông suốt Khổng học và Lão học, tinh thâm huyền lí. Lúc Đạt Ma lão tổ trụ trì bổn tự, Thần Quang đại sư lên chùa xin thụ giáo thêm. Đạt Ma lão tổ thấy sở học của Thần Quang đại sư phức tạp, kiến thức hơn người, rất thâm sâu nên tự cho mình thông minh, khó lĩnh ngộ được nguyên lý Thiền, liền cự tuyệt không thu nạp. Thần Quang đại sư khổ cầu rất lâu, vẫn không được nhập môn liền cầm trường kiếm lên chém đứt cánh tay trái của mình.
Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, thầm nghĩ: Vị Thần Quang đại sư này tha thiết với việc học đạo mà kiên nghị đến vậy.
Phương Chứng nói:
– Đạt Ma lão tổ thấy Thần Quang đại sư thành tâm như vậy mới thu nhận làm đệ tử, đổi tên là Huệ Khả, về sau được Đạt Ma lão tổ truyền y bát và truyền Thiền tông pháp thống. Sở học của Đạt Ma lão tổ và nhị tổ là đạo lớn của Phật pháp, dựa theo kinh Lăng già mà minh tâm kiến tánh. Danh tiếng võ công của tông phái lão nạp tuy được lưu truyền trong thiên hạ, nếu thực ra chỉ học sau này thì không thể đủ được. Năm xưa, Đạt Ma lão tổ chỉ truyền thụ cho bọn đệ tử một ít pháp môn để rèn luyện thân thể, thân thể khỏe mạnh thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì mới dễ lĩnh ngộ. Nhưng đệ tử môn hạ đời sau thường mê học võ, lấy ngọn mà bỏ gốc, không theo tông chỉ võ công mà năm xưa lão tổ truyền thụ. Thật đáng buồn!
Phương trượng nói vậy rồi lắc đầu mấy cái. Một lúc sau Phương Chứng lại nói:
– Sau khi lão tổ viên tịch, nhị tổ tìm thấy một quyển kinh văn ở bên bồ đoàn của lão tổ, đó chính là Dịch cân kinh. Quyển kinh văn này nghĩa lý thâm ảo, nhị tổ gắng sức nghiên cứu nhưng không giải được, lòng nghĩ Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm, để lại quyển kinh này bên bức tường, tuy ngôn từ sơ sài nhưng nhất định không phải tầm thường. Ngài đi khắp nơi tìm gặp cao tăng để cầu giải diệu đế. Nhưng thời đó nhị tổ đã là cao nhân đắc đạo, nhị tổ lão nhân gia đã khổ tâm suy nghĩ mà không giải được nên chuyện muốn cầu một bậc trí tuệ uyên thâm hơn nhị tổ trên đời này thì thật là khó. Cho nên suốt hơn hai mươi năm, mật nghĩa của kinh văn vẫn chưa có thể giải được. Một ngày nọ, nhị tổ gặp tuyệt đại pháp duyên, được cùng nhà sư ở Thiên Trúc pháp hiệu là Ban Thích Mật Đế tại núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên đàm luận Phật học, ý hợp tâm đầu. Nhị tổ lấy quyển Dịch cân kinh ra cùng với Ban Thích Mật Đế nghiên cứu. Hai vị cao tăng ở trên đỉnh Nga Mi cùng nhau lý giải, trải qua bốn mươi chín ngày, cuối cùng cũng không hiểu hết.
Phương Sinh chấp tay niệm:
– A Di Đà Phật. Thiện tai, thiện tai!
Phương Chứng phương trượng nói tiếp:
– Nhưng Ban Thích Mật Đế đại sư là một vị cao tăng về Thiền tông Phật học. Cho đến hai mươi năm sau, trên đường đi Trường An, nhị tổ gặp một vị thanh niên tinh thông võ nghệ, nhị tổ cùng người này đàm luận ba ngày ba đêm mới lĩnh ngộ hết bí ảo võ học trong Dịch cân kinh.
Phương trượng ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Vị thanh niên này là khai quốc đại công thần của Đường triều, về sau phò tá Thái Tông bình định rợ Đột Quyết, ra biên cương là tướng võ, vào triều đình làm quan văn, được phong tước Lý Vệ Công bình định. Sở dĩ Lý Vệ Công lập được kỳ công tuyệt thế như vậy, xem ra cũng nhờ vào Dịch cân kinh không ít.
Lệnh Hồ Xung ồ một tiếng thầm nghĩ: Thì ra Dịch cân kinh có nhiều lai lịch như vậy.
Phương Chứng lại nói:
– Công phu của Dịch cân kinh bao quát các mạch của con người, liên hệ đến tinh thần ngũ tạng; tròn trịa mà không tan, đi mà không dứt, khí từ trong phát sinh, huyết từ ngoài truyền vào. Sau khi luyện thành kinh này thì động lực phát, vừa tích tụ vừa phóng ra, tự nhiên mà thi triển, xuất ra ở thời điểm mà nó tự xuất, như nước triều dâng, như tiếng sấm dậy. Thiếu hiệp, luyện Dịch cân kinh này chẳng khác nào con thuyền nhỏ đương đầu trên làn sóng dữ, đợt sóng dâng lên hạ xuống thì con thuyền nhỏ cũng cao lên hạ xuống, đâu cần phải dùng lực? Nếu muốn dùng lực thì cũng đâu có lực mà dùng? Có lực cũng không biết dùng vào đâu.
Lệnh Hồ Xung liên tục gật đầu, cảm thấy đạo lý này thật uyên bác tinh thâm, cùng với đạo lý về kiếm thuật mà Phong Thanh Dương dạy có nhiều điều tương đồng.
Phương Chứng lại nói:
– Chỉ vì uy lực của Dịch cân kinh này như vậy nên mấy trăm năm nay không phải kỳ nhân thì không truyền, không có duyên cũng không truyền, dù là đệ tử xuất chúng của bổn phái, nếu không có phúc duyên cũng không được truyền. Như Phương Sinh sư đệ, võ công rất cao, trì giới cũng rất tinh nghiêm, là nhân vật kiệt xuất của bổn tự mà không được sư phụ đời trước truyền thụ kinh này.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dạ. Vãn bối không có phúc duyên này, không dám vọng tự can cầu.
Phương Chứng lắc đầu nói:
– Không phải. Thiếu hiệp là người có phúc duyên đó.
Lệnh Hồ Xung vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, trái tim đập thình thịch, không ngờ bí mật tuyệt kỹ hàng đầu của Thiếu Lâm, ngay cả Phương Sinh đại sư là vị cao tăng của Thiếu Lâm cũng không được truyền thụ mà mình lại có duyên.
Phương Chứng từ từ nói:
– Phật môn quảng đại, chỉ độ cho người có duyên. Thiếu hiệp là truyền nhân của Phong lão tiên sinh, đây là duyên thứ nhất; thiếu hiệp đến Thiếu Lâm tự của lão nạp là duyên thứ hai. Nếu thiếu hiệp không luyện Dịch cân kinh thì phải mất mạng, riêng Phương Sinh đại sư nếu luyện tập dĩ nhiên sẽ có ích, nhưng không luyện cũng không hại gì, chỗ phân biệt này lại là duyên thứ ba.
Phương Sinh chấp tay nói:
– Lệnh Hồ thiếu hiệp phúc duyên thâm hậu, Phương Sinh cũng được an ủi.
Phương Chứng nói:
– Sư đệ, tính sư đệ vốn cố chấp, cái chí lý của môn giải thoát “vô tướng, vô tác” này, sư đệ vẫn chưa thấu triệt, vấn đề sinh tử cũng chưa thấu đáo. Có điều ta không truyền Dịch cân kinh cho sư đệ thật sự là sợ sau khi đệ nghiên cứu luyện tập môn võ học thượng thừa này thì chìm đắm vào nó, không tránh khỏi hoang phế chính nghiệp tham thiền.
Vẻ mặt Phương Sinh lo sợ. Lão đứng lên cung kính nói:
– Sư huynh giáo hối phải lắm.
Phương Chứng gật nhẹ, biểu thị ý khích lệ. Một lúc sau thấy vẻ mặt Phương Sinh lộ vẻ tươi cười, lão mới vui mừng lại gật đầu. Lão quay qua Lệnh Hồ Xung nói:
– Bên trong chuyện này vốn có một trở ngại lớn, bây giờ cũng vượt qua được. Từ Đạt Ma tổ sư đến nay, Dịch cân kinh này chỉ truyền cho đệ tử bổn tự, không truyền cho người ngoài. Cho nên thiếu hiệp phải quy đầu làm môn hạ Thiếu Lâm tự, làm đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm.
Lão ngừng một lúc lại nói tiếp:
– Nếu thiếu hiệp không tỵ hiềm, chịu làm môn hạ của lão nạp là đệ tử thuộc hàng chữ Quốc, thì tên sẽ đổi thành Lệnh Hồ Quốc Xung.
Phương Sinh vui mừng nói:
– Chúc mừng thiếu hiệp. Bình sanh phương trượng sư huynh của lão nạp chỉ thu nhận hai người đệ tử, đó là chuyện ba mươi năm về trước. Thiếu hiệp làm đệ tử chân truyền của phương trượng sư huynh lão nạp, không những được truyền thụ võ học cao thâm của Dịch cân kinh mà mười hai môn tuyệt nghệ Thiếu Lâm phương trượng sư huynh của lão nạp tinh thông cũng có thể lượng tài của thiếu hiệp mà truyền thụ cho. Lúc đó nhất định thiếu hiệp có thể làm rạng danh môn phái của lão nạp, trong võ lâm lại xuất hiện một kỳ nhân.
Lệnh Hồ Xung đứng lên nói:
– Đa tạ ý tốt của phương trượng đại sư, vãn bối cảm kích vô cùng, nhưng vãn bối là đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn, không thể cải đầu minh sư khác được.
Phương Chứng mỉm cười nói:
– Lão nạp nói trở ngại thì cũng chỉ nói để cho có nói thôi. Thiếu hiệp, bây giờ thiếu hiệp đã không còn là đệ tử phái Hoa Sơn rồi, chỉ e thiếu hiệp chưa biết.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, run run nói:
– Vãn bối… vãn bối… tại sao không còn là môn hạ phái Hoa Sơn?
Phương Chứng lấy một phong thư từ trong tay áo ra nói:
– Mời thiếu hiệp xem qua.
Lão khẽ phóng bàn tay một cái, phong thư bay thẳng đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.
Lệnh Hồ Xung đưa hai tay đón lấy, cảm thấy toàn thân chấn động, không kìm được ngạc nhiên: Vị phương trượng đại sư này quả nhiên nội công cao thâm khôn lường, chỉ một phong thư mỏng như vậy mà có thể truyền được nội lực thâm hậu vào để phóng qua.
Lệnh Hồ Xung thấy trên phong thư có đóng ấn đỏ “Chưởng môn phái Hoa Sơn”, phong thư đề:“Cẩn trình chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm”, chín chữ này viết ngay ngắn, nét bút nghiêm trang, đúng là đích thân sư phụ Nhạc Bất Quần chấp bút. Lệnh Hồ Xung linh tính có chuyện chẳng lành, hai tay run run rút bức thư ra, xem một lượt. Chàng thật không thể tin nổi trên đời này lại có chuyện này, lại xem một lượt nữa, liền cảm thấy trời đất quay cuồng, ú ớ mấy tiếng rồi ngã lăn xuống đất.
Lúc tỉnh dậy, Lệnh Hồ Xung thấy mình đang ở trong lòng Phương Sinh đại sư. Chàng chống tay đứng dậy, không kìm được khóc òa lên. Phương Sinh hỏi:
– Vì sao thiếu hiệp đau lòng đến vậy? Chẳng lẽ tôn sư có điều chi bất trắc?
Lệnh Hồ Xung đưa trả bức thư lại cho Phương Sinh nghẹn ngào nói:
– Xin đại sư coi đi.
Phương Sinh cầm bức thư, thấy bức thư viết: “Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn dập đầu sát đất, trình thư lên chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm: Kẻ hèn này bất đức, chấp chưởng môn hộ phái Hoa Sơn, đã lâu không vấn an đại sư, thật là khiếm khuyết. Nay nghịch đồ tệ phái là Lệnh Hồ Xung tính khí ương ngạnh, nhiều lần vi phạm môn quy, gần đây còn kết giao với yêu nghiệt, hòa mình cùng bọn thổ phỉ. Bất Quần bất tài, tuy đã nghiêm huấn trừng trị vẫn không hiệu quả. Để duy trì chính khí võ lâm, bảo toàn danh dự chính phái, bổn phái đã trục xuất nghịch đồ Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn hộ. Từ nay về sau, tên nghịch đồ này không còn là đệ tử của tệ phái, nếu hắn cấu kết với dâm tà, gây họa cho giang hồ thì Nhạc Bất Quần mong các bằng hữu chính phái tru diệt hắn đi. Thư bẩm lên rất hoảng sợ, nói không hết ý, mong đại sư lượng thứ”.
Phương Sinh xem xong cũng rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ không ra lời gì để an ủi Lệnh Hồ Xung. Lão liền đưa bức thư lại cho Phương Chứng, thấy Lệnh Hồ Xung nước mắt đầm đìa, lão thở dài nói:
– Thiếu hiệp, thiếu hiệp giao du với người trên Hắc Mộc Nhai thì không nên.
Phương Chứng nói:
– Các chưởng môn nhân chính phái chắc đều đã nhận được thư của tôn sư và truyền xuống môn hạ. Dù thiếu hiệp không bị thương thì chỉ cần ra khỏi cửa bổn tự cũng gặp lắm chông gai trên giang hồ vì các đệ tử môn hạ chính phái đều coi thiếu hiệp là thù địch.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nhớ lúc ở bên khe suối, Doanh Doanh cũng nói như vậy. Bây giờ không những những kẻ bàng môn tả đạo muốn giết mình mà môn hạ của chính phái ai ai cũng coi mình là địch. Thật là trời đất bao la nhưng không còn chỗ dung. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ đến thâm ân nghĩa trọng của sư môn, sư phụ và sư nương đối với mình xưa nay như phụ mẫu, không những đã có ân đức truyền nghệ mà còn có ân đức dưỡng dục. Không ngờ tính ta ngông cuồng nên bị trục xuất khỏi sư môn. Chàng cho rằng lúc sư phụ viết bức thư này chắc còn đau lòng hơn nữa. Nhất thời chàng vừa đau lòng vừa hổ thẹn, hận không đập đầu tự tử đi cho rồi. Trong làn nước mắt mờ mờ, Lệnh Hồ Xung thấy Phương Chứng và Phương Sinh hai vị đại sư đều lộ vẻ thương xót. Bỗng nhiên chàng lại nhớ đến chuyện Lưu Chính Phong muốn rửa tay gác kiếm thối xuất võ lâm, chỉ vì kết giao với Khúc Dương trưởng lão Ma giáo mà bị mất mạng dưới tay phái Tung Sơn. Có thể thấy chính tà không đội trời chung, ngay cả Lưu Chính Phong là người nghệ cao thế lớn như vậy cũng không tránh khỏi, huống chi chàng là thiếu niên đơn độc không người thân thuộc, hèn hạ không đáng nói. Lại nữa, còn tụ hội quần tà trên Ngũ Bá Cương, gây ra chuyện động trời như vậy?
Phương Chứng từ từ nói:
– Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn. Dù là gian nhân không từ thập ác, mà biết hồi tâm hối lỗi, Phật môn cũng mở rộng. Thiếu hiệp còn nhỏ tuổi, nhất thời sẩy chân, vô tình kết giao với bọn phỉ, chẳng lẽ không còn đường sám hối? Mối liên quan giữa thiếu hiệp và phái Hoa Sơn dù đã bị đứt đoạn, nhưng từ nay về sau làm môn hạ Thiếu Lâm của lão nạp, sửa đổi lỗi lầm, làm lại cuộc đời, thì trong võ lâm cũng chẳng có ai làm khó dễ gì thiếu hiệp nữa.
Phương Chứng nói mấy câu này rất dịu dàng, nhưng lại nghiêm nghị vô cùng.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bây giờ ta không còn đường nào để đi, nếu nương dựa vào môn hạ phái Thiếu Lâm, không những có thể học được nội công thần diệu, cứu được tính mệnh mà uy danh của phái Thiếu Lâm trên giang hồ khiến không ai dám sinh sự với đệ tử của Phương Chứng đại sư.
Nhưng lúc này, ngực chàng lại bùng lên chí khí quật cường. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Bậc đại trượng phu không thể ngang nhiên tự lập giữa trời đất, phải chai mặt nương tựa vào phái khác để mà cầu an thì còn gì là anh hùng hảo hán? Trên giang hồ ngàn vạn người muốn giết ta, cứ để bọn họ giết cho rồi. Sư phụ không cần ta, trục xuất ta ra khỏi phái Hoa Sơn, thì ta độc lai, độc vãng cũng có sao đâu?
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác bầu nhiệt huyết bùng lên miệng khô khốc, chỉ muốn uống mấy chục bát rượu mạnh. Cái gì sinh tử môn phái, buồn phiền số mạng đều gạt ra ngoài hết. Ngày trước, lòng chàng lúc nào cũng canh cánh hình bóng của Nhạc Linh San, nhưng bây giờ cô cũng như người dưng nước lã thôi.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy, quỳ xuống trước mặt Phương Chứng và Phương Sinh, cung kính khấu đầu mấy cái. Hai lão tăng cho rằng Lệnh Hồ Xung đã quyết ý quy đầu phái Thiếu Lâm, nét mặt lộ vẻ tươi cười.
Lệnh Hồ Xung đứng dậy lớn tiếng nói:
– Vãn bối đã không được sư môn dung tình, không còn mặt mũi nào cải đầu phái khác. Hai vị đại sư có lòng từ bi, vãn bối cảm kích vô cùng. Bây giờ xin bái biệt.
Phương Chứng ngạc nhiên, không ngờ thiếu niên này lại tuyệt không sợ chết như vậy.
Phương Sinh khuyên:
– Thiếu hiệp, chuyện này có liên quan đến sự sống chết của thiếu hiệp, không nên sinh cường hiếu thắng nhất thời.
Lệnh Hồ Xung cười hề hề, quay người đi ra. Lòng chất chứa bao nỗi bất bình, chân bước càng nhanh ra khỏi Thiếu Lâm tự.
Lệnh Hồ Xung ra khỏi chùa, lòng cảm thấy thê lương. Chàng ngẩng mặt lên trời cười một tràng rồi thầm nghĩ: Người trong chính phái coi ta là thù địch, người trong tà đạo ai cũng muốn giết ta, chắc Lệnh Hồ Xung khó sống qua ngày hôm nay. Để coi ai lấy cái mạng của ta đây.
Chàng đưa tay mò lên người, túi chẳng còn tiền, lưng không có kiếm, ngay cả cây đoản cầm của Doanh Doanh tặng cũng không biết biến đâu rồi, thật là chẳng còn gì, liền đi xuống núi.
Lệnh Hồ Xung đi đến lúc gần tối, thấy Thiếu Lâm tự đã cách xa rồi, người đã mỏi mệt, bụng đói meo, thầm nghĩ: Ta đi đâu kiếm chút gì ăn đây?
Bỗng nghe tiếng bước chân, bảy tám người từ phía Tây chạy đến, toàn là người mặc võ phục, đeo binh khí, rất vội vã. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn này muốn giết ta, cứ động thủ ngay đi để ta khỏi nhọc sức đi kiếm cơm ăn. Ăn no cũng phải chết, hà tất đi kiếm ăn làm chi cho mệt?
Lệnh Hồ Xung liền đứng ở giữa đường, hai tay khoanh trước ngực, lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung ở đây! Muốn giết ta thì tới đây!
Nào ngờ mấy tên hán tử lúc chạy đến trước mặt Lệnh Hồ Xung chỉ liếc nhìn hắn một cái rồi né người chạy tiếp.
Một người nói:
– Đồ điên!
Lại một người khác nói:
– Đúng, đừng sinh sự với hắn để lỡ đại sự.
Một người khác nói:
– Nếu để lão trốn mất, thật là hỏng bét.
Trong khoảnh khắc bọn họ đã chạy xa rồi. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra bọn họ truy nã một người nào đó.
Tiếng bước chân của mấy người vừa im thì tiếng vó ngựa ở phía Tây vọng đến, năm kỵ mã phi nhanh như gió, lướt qua bên mình Lệnh Hồ Xung. Chạy qua hơn hai mươi trượng, bỗng một kỵ mã đứng lại, trên ngựa là một phụ nữ trung niên nói:
– Khách quan, xin hỏi khách quan có thấy một lão già mặc áo bào trắng không? Người này cao ốm, lưng mang một thanh loan đao.
Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:
– Không thấy.
Người phụ nữ không nói nữa, quay đầu ngựa lại đuổi theo bốn kỵ mã kia. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn họ truy đuổi một lão già mình mặc áo bào trắng ư? Bây giờ không có việc gì, ta đi xem vụ náo nhiệt này cũng hay.
Lệnh Hồ Xung bèn rẽ qua hướng Đông mà đi. Đi chưa được khoảng một bữa ăn, phía sau lại có hơn mười người đuổi đến. Sau khi những người này vượt qua Lệnh Hồ Xung, một lão già khoảng năm chục tuổi quay lại hỏi:
– Huynh đệ, huynh đệ có thấy một lão già mặc áo bào trắng, người cao ốm, lưng mang loan đao không?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Không thấy.
Lệnh Hồ Xung lại đi một lúc nữa, đến một ngã ba đường, nghe tiếng nhạc ngựa ở phía Tây Bắc, ba kỵ mã phóng nhanh đến. Cả ba đều là thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Người đi trước vung roi ngựa hỏi:
– Này, cho hỏi, huynh đài có thấy một…
Lệnh Hồ Xung tiếp lời:
– Các hạ muốn hỏi một lão già ốm cao, mặc áo bào trắng, lưng mang loan đao có phải không?
Cả ba đều lộ vẻ vui mừng cùng nói:
– Đúng rồi, hắn ở đâu?
Lệnh Hồ Xung thở dài nói:
– Tại hạ chưa gặp qua.
Người thanh niên đứng trước tức giận quát:
– Ngươi giỡn mặt với lão tử ư? Người chưa gặp, sao lại biết lão?
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Chưa gặp qua thì không thể biết được sao?
Người thanh niên vung roi ngựa lên toan đánh xuống đầu Lệnh Hồ Xung thì một thanh niên khác nói:
– Nhị đệ, đừng sinh sự nữa, chúng ta mau đuổi theo.
Gã thanh niên toan đánh Lệnh Hồ Xung liền hừ một tiếng, rồi vung roi ngựa lên trời, thúc ngựa phóng đi.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Mấy người này cùng truy tìm một lão già mặc áo bào trắng, không biết vì chuyện gì? Ta đi xem vụ náo nhiệt này chắc vui lắm, nhưng nếu bọn chúng biết ta là Lệnh Hồ Xung thì nhất định sẽ giết ngay tại chỗ.
Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác hơi sợ nhưng lại chuyển ý nghĩ: Bây giờ cả hai phe chính tà đều muốn lấy mạng ta, ta cố lén lút cũng chỉ kéo dài chút hơi tàn, sống được mấy ngày cũng không tránh khỏi bị rơi đầu. Như vậy cái chết của ta có dài thêm một ngày cũng đâu hay ho gì? Chi bằng tới đâu hay tới đó để xem cái mạng ta rơi vào tay ai.
Lệnh Hồ Xung liền theo lối ba con ngựa vừa lao đi, cát bụi còn tung bay, mà tiến. Phía sau Lệnh Hồ Xung lại có một tốp nữa chạy đến, cũng đều hỏi thăm về lão già cao ốm, mình mặc áo bào trắng, lưng mang loan đao. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Những người cùng truy đuổi lão già mặc áo bào trắng đó đều không biết lão đang ở đâu nhưng tất cả đều chạy tìm một hướng, thật là kỳ lạ.
Lệnh Hồ Xung đi thêm hơn một dặm, xuyên qua một rừng tùng, trước mặt bỗng nhiên hiện ra một vùng đất bằng phẳng, người đứng đông nghẹt, ít ra cũng có sáu bảy trăm. Khu đất này rất rộng nên sáu bảy trăm người đứng tụm lại cũng chỉ chiếm một khoảnh nhỏ. Một con đường lớn chạy thẳng đến đám đông. Lệnh Hồ Xung đi theo con đường hướng về phía trước.
Đi gần đến nơi, thấy giữa đám đông có một ngôi lương đình nho nhỏ, đó là nơi để người lữ hành nghỉ ngơi giữa vùng hoang dã nên được dựng lên sơ sài. Đám đông vây quanh lương đình cách khoảng vài trượng chứ không ai dám lại gần.
Lệnh Hồ Xung đi gần thêm hơn mươi trượng, thấy trong đình có một lão già mặc áo bào trắng ngồi sờ sờ ra đó, trơ trọi một mình. Lão già ngồi bên một cái bàn uống rượu, nhất thời hắn chưa nhìn thấy được, lưng lão có mang loan đao hay không. Tuy người này ngồi nhưng dường như còn cao hơn cả người thường đứng.
Lệnh Hồ Xung thấy lão bị quần địch vây khốn, nhưng vẫn thản nhiên uống rượu, bất giác sinh lòng kính ngưỡg. Bình sinh những anh hùng hảo hán chàng từng nghe thấy tuyệt chưa có người nào có hào khí ngất trời như vậy. Lệnh Hồ Xung từ từ đi về trước, nhập vào đám đông.
Đám người vây quanh không rời mắt khỏi lão già mặc áo trắng nên khi Lệnh Hồ Xung đến, chẳng ai để ý tới. Lệnh Hồ Xung ngưng thần nhìn lão già, thấy dung mạo của lão thanh mảnh, chòm râu bạc trắng lơ thơ rủ dài xuống tới ngực, tay cầm bát rượu, mắt đăm đăm nhìn ra xa đến tận chân trời, chẳng thèm liếc mắt nhìn bọn người vây quanh mình một cái. Trên lưng lão có đeo một cái túi, sau lưng lão không có loan đao. Thì ra ngay cả binh khí lão ta cũng không đeo bên mình.
Lệnh Hồ Xung không hề biết lai lịch của lão, cũng không biết vì sao có nhiều người trong võ lâm muốn làm khó lão, càng không biết lão là chính hay tà. Có điều chàng khâm phục hào khí ngất trời của lão, xem bên mình như chẳng có ai. Không hiểu sao chàng cảm thấy đồng cảnh ngộ với lão, liền nảy ra một ý, bước lên phía trước, lớn tiếng nói:
– Xin chào tiền bối, tiền bối uống rượu một mình không ai bầu bạn, không tránh khỏi sự buồn tẻ. Vãn bối xin bồi rượu tiền bối.
Lệnh Hồ Xung đi vào quán lương đình, vái lão một cái rồi ngồi xuống.
Lão già quay đầu lại, ánh mắt sắc bén như hai luồng điện lạnh lùng nhìn Lệnh Hồ Xung, thấy hắn không mang binh khí, mặt lại tiều tụy, là một thiếu niên chưa từng quen biết. Mặt lão lộ vẻ ngạc nhiên, chỉ hừ lên một tiếng chứ không trả lời. Lệnh Hồ Xung bưng hũ rượu lên, rót vào cái bát để trước mặt lão, rồi lại rót vào một bát nữa, nâng lên uống, nói:
– Mời tiền bối!
Hà một tiếng, chàng uống cạn bát rượu. Rượu này cực mạnh, uống vào miệng như dao cắt, lại giống như nuốt phải than đỏ vào bụng. Hắn lớn tiếng khen:
– Hảo tửu!
Một hán tử giọng ồm ồm ngoài lương đình quát:
– Tiểu tử kia mau cút đi. Chúng ta sắp liều mạng với lão già này, đừng đứng ở đây mà làm vướng chân vướng tay chúng ta.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tại hạ uống rượu với lão tiền bối, có cản trở gì các hạ đâu?
Lệnh Hồ Xung lại rót thêm một bát rượu, ực một tiếng. Chàng ngẩng cổ uống cạn bát rượu rồi giơ ngón tay cái lên khen:
– Hảo tửu!
Bên trái có người lạnh lùng nói:
– Tiểu tử cút ngay, đừng ngồi đó nữa mà chết uổng mạng. Bọn ta phụng mệnh Đông Phương giáo chủ đi bắt phản đồ Hướng Vấn Thiên. Nếu kẻ nào đến quấy rối sẽ bị chết thê thảm.
Lệnh Hồ Xung nhìn về phía người vừa nói, thấy một hán tử ốm nhom, mặt vàng vọt, mình mặc áo đen, lưng thắt đai màu vàng. Đứng bên cạnh hắn có khoảng hai ba trăm người mặc cũng áo đen, lưng thắt dây đai đủ các màu sắc. Bỗng Lệnh Hồ Xung nhớ lại ngày trước ở ngoài thành Hành Dương, Khúc Dương trưởng lão của Ma giáo cũng mặc áo đen, hình như lưng lão cũng thắt đai màu vàng. Gã ốm nhom đó nói là phụng mệnh Đông Phương giáo chủ truy nã phản đồ, vậy người này cũng là giáo chúng trong Ma giáo. Phải chăng gã ốm này cũng là trưởng lão của Ma giáo?
Lệnh Hồ Xung lại rót thêm một bát rượu, ngửa cổ uống cái ực rồi khen:
– Hảo tửu!
Lệnh Hồ Xung nhìn qua lão già mặc áo trắng tên là Hướng Vấn Thiên, nói:
– Hướng tiền bối, vãn bối đã uống ba bát rượu của tiền bối. Xin đa tạ, đa tạ!
Bỗng nghe có người ở phía Đông quát:
– Tiểu tử này là khí đồ Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung liếc mắt nhìn, nhận ra người nói là Hầu Nhân Hùng, đệ tử phái Thanh Thành. Bây giờ chàng mới nhìn kỹ lại, bên cạnh gã còn có không ít nhân vật trong Ngũ Nhạc kiếm phái.
Một đạo sĩ lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ Xung, sư phụ ngươi nói ngươi hòa mình với yêu tà, quả nhiên không sai. Hai tay tên Hướng Vấn Thiên này nhuốm đầy máu của anh hùng hiệp sĩ, ngươi hòa mình cùng với hắn làm gì? Mau cút đi kẻo bị băm nát như tương bây giờ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Vị sư thúc này thuộc phái Thái Sơn phải không? Tại hạ và vị tiền bối này chưa bao giờ quen biết, nhưng vì thấy mấy trăm người vây một mình lão thì chẳng ra gì cả. Có bao giờ Ngũ Nhạc kiếm phái lại liên thủ với Ma giáo đâu? Song phương chính tà tại sao lại cùng nhau đối phó với một mình Hướng tiền bối, khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười?
Đạo sĩ tức giận nói:
– Bọn ta liên thủ với Ma giáo hồi nào? Bọn Ma giáo truy nã phản đồ của họ còn bọn ta phục thù thay các vị bằng hữu đồng môn đã táng mệnh dưới tay tên ác tặc này. Hai chuyện không có liên can gì với nhau cả.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Hay lắm, hay lắm, chỉ cần các vị lấy một chọi một thì tại hạ tình nguyện ngồi uống rượu ở đây để xem cuộc náo nhiệt.
Hầu Nhân Hùng quát:
– Ngươi là cái thá gì? Mọi người hãy giết tiểu tử này trước rồi tính sổ lão họ Hướng sau.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Nếu giết một mình Lệnh Hồ Xung sao phải cần đến nhiều người động thủ? Xin mời Hầu huynh lên đây là đủ rồi.
Hầu Nhân Hùng đã từng bị Lệnh Hồ Xung đá một cước rớt xuống tửu lâu, biết võ công của mình không bằng nên không dám tiến lên động thủ với hắn. Gã đâu biết nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết, dĩ nhiên còn thua xa ngày trước. Còn những người khác dường như kỵ úy Hướng Vấn Thiên nên cũng không dám xông vào lương đình.
Hán tử ốm nhom của Ma giáo quát:
– Họ Hướng kia, chuyện đến nước này thì ngươi mau theo bọn ta đi gặp giáo chủ, xin giáo chủ lão nhân gia xá tội cho, chưa chắc không còn đường sống. Ngươi cũng là anh hùng của bổn giáo, chẳng lẽ muốn đấu nhau cho tan xương nát thịt để người ta cười chê ư?
Hướng Vấn Thiên hừ một tiếng, nâng bát rượu uống cạn, bỗng nghe những tiếng leng keng phát ra.
Lệnh Hồ Xung thấy hai tay lão bị cột bằng một sợi dây xích, vô cùng kinh ngạc, nghĩ: Thì ra lão là tù vượt ngục, ngay cả xích tay cũng chưa tháo ra.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy đồng tình với lão, lại nghĩ: Người này đã không thể kháng cự được thì mình phải giúp lão chống đỡ một lúc để chết luôn ở đây cho xong. Nghĩ vậy liền đứng dậy, hai tay chấp sau lưng lớn tiếng nói:
– Vị Hướng tiền bối này tay còn bị xích làm sao có thế động thủ với các vị được? Tại hạ uống ba bát rượu của tiền bối lão nhân gia nên có nghĩa vụ phải giúp tiền bối chống đỡ cường địch. Ai muốn động thủ với Hướng tiền bối thì phải bước qua xác Lệnh Hồ Xung này trước.
Hướng Vấn Thiên thấy Lệnh Hồ Xung khùng khùng điên điên, bỗng dưng lại đưa đầu ra che chở cho mình. Bất giác lão rất ngạc nhiên, hỏi khẽ:
– Tiểu tử, tại sao ngươi muốn giúp ta?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Giữa đường gặp chuyện bất bình, phải rút đao tương trợ.
Hướng Vấn Thiên hỏi:
– Đao của ngươi đâu?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tại hạ sử kiếm nhưng đáng tiếc không có kiếm.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Kiếm pháp của ngươi thế nào? Ngươi ở phái Hoa Sơn, e rằng kiếm pháp không cao minh lắm.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Không những kiếm pháp chẳng cao minh mà tại hạ lại đang bị trọng thương, nội lực mất hết nên càng hỏng bét.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Ngươi chẳng hiểu gì cả. Được, để ta lấy kiếm cho ngươi.
Chỉ thấy thoáng một cái, lão đã xông về phía quần hào. Trong nháy mắt ánh đao lóe lên, mười mấy binh khí cùng nhắm Hướng lão chém tới. Hướng Vấn Thiên nghiêng người né tránh, lao đến gần một đạo sĩ phái Thái Sơn. Đạo sĩ vung kiếm phóng ra, thoáng một cái Hướng Vấn Thiên lạng người ra sau lưng lão, khuỷu tay trái thúc ngược lại. Bụp một tiếng, lão đánh trúng lưng của đạo sĩ. Lão vung tay một cái, hai thanh trường kiếm trong tay lão đạo sĩ bị dây xích trong tay lão quấn đi. Lão điểm chân phải vọt người về lại lương đình. Mấy cái vọt người của lão thần tốc vô cùng, quần hào chính phái muốn chặn lão lại cũng không kịp. Một tên hán tử đuổi rất nhanh, đến cách lương đình khoảng mấy thước, giơ đơn đao lên chém xuống. Hướng Vấn Thiên giống như có mắt sau lưng, không quay đầu lại, chân trái đá ngược ra sau, mũi chân trúng ngực gã hán tử. Gã hán tử rú lên một tiếng bay thẳng ra, đơn đao tay phải thế chém quá mạnh, chát một tiếng, gã lại chém lên đùi phải của mình.
Đạo nhân phái Thái Sơn loạng choạng mấy cái rồi ngã lăn, máu tươi trong miệng không ngừng phun ra. Mấy chục tên giáo chúng Ma giáo reo lên như sấm:
– Hướng tả sứ thân thủ tuyệt diệu!
Hướng Vấn Thiên mỉm cười, chắp tay hướng về phía bọn Ma giáo đáp tạ tiếng khen, sợi dây xích trong tay lão kêu leng keng. Lão hất tay một cái, phập một tiếng trường kiếm đã cắm lên bàn rồi nói:
– Cầm kiếm đi.
Lệnh Hồ Xung vô cùng khâm phục, thầm nghĩ: Người này oai trấn quần hào, quả nhiên thân thủ thật phi thường. Chàng không đưa tay rút kiếm mà nói:
– Võ công Hướng tiền bối cao cường như vậy, vãn bối hà tất phải khoa trương sự kém cỏi ở đây.