Hồi 09

Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ đã hẹn trang chủ Ðỗ Hi Mạnh trên đỉnh Ngọc Bút núi Ô Lan là ngày rằm tháng ba sẽ lên núi tính sổ một món nợ cũ, nhưng lần đầu lên núi, Ðỗ trang chủ lại đi vắng chưa về, chỉ trò chuyện được với Miêu Nhược Lan một lúc thôi. Chàng xuống núi, trong lòng bồi hồi không yên, nhìn đâu cũng như thấy hình dáng của Miêu Nhược Lan, trong tai vẫn còn vang vọng tiếng nàng đàn hát. Chàng cùng Bình A Tứ và hai tiểu đồng ăn lương khô thật no bụng trong động. Thấy Bình A Tứ tuy bị thương khá nặng nhưng không nguy hiểm đến tính mạng, cảm thấy yên lòng. Chàng nằm dài dưới đất nhắm mắt dưỡng thần. Nhưng chàng vừa nhắm mắt thì khuôn mặt xinh đẹp dịu dàng của Miêu Nhược Lan lại hiện ra mồn một trong đầu.

Hồ Phỉ mở to mắt nhìn vào vách đá đen sì trong động, tiếng hát của Miêu Nhược Lan lại như thoang thoảng từ vách đá vọng ra. Chàng thở dài, nghĩ thầm:

– Ta cứ nghĩ mãi tới nàng làm gì nhỉ? Phụ thân nàng là đại cừu nhân giết phụ thân ta, tuy nghe nói lúc ấy phụ thân nàng không cố ý nhưng phụ thân ta vì vậy mà chết. Ta cả đời lẻ loi cô quạnh, không cha không mẹ, đều là do phụ thân nàng gây ra cả. Sao ta còn nghĩ tới nàng làm gì?

Nghĩ đến đây, chàng căm giận khôn nguôi, nhưng bất giác lại nghĩ:

– Lúc ấy nàng chưa ra đời, oán thù của đời trước có liên quan gì với nàng? Ôi! Nàng là thiên kim tiểu thư, ta là thằng con trai khổ sở lưu lạc giang hồ, sao lại tự chuốc lấy ưu phiền cho thêm khổ?

Nói thì nói vậy, nhưng dễ gì giũ bỏ được ưu phiền? Nếu tơ tình mà một chém là đứt đoạn thì còn đâu là tơ tình nữa!

Hồ Phỉ nằm trong sơn động gần một giờ, trong đầu cứ vương vấn hình ảnh Miêu Nhược Lan. Ngẫu nhiên chàng nghĩ:

– Có khi bọn họ sợ đối đầu không nổi ta nên bày ra mĩ nhân kế?

Nhưng lập tức chàng cảm thấy ngay ý nghĩ này đã xúc phạm nàng, trong lòng nghĩ:

– Không, không, nàng giống như tiên nữ trên trời, sao có thể làm chuyện bỉ ổi đó được? Sao ta có thể lấy lòng dạ kẻ tiểu nhân mà xúc phạm như thế?

Thấy trời đã tối dần, không sao dằn lòng được nữa, chàng nói với Bình A Tứ:

– Tứ thúc, tiểu điệt lên núi lần nữa đây! Thúc thúc cứ nằm nghỉ ở đây nhé!

Chàng thi triển khinh công, trong chớp mắt đã tới dưới chân núi, bám dây leo lên. Vừa nhìn thấy cổng sơn trang họ Ðỗ, tim chàng đã đập thình thịch. Vào đại sảnh chẳng thấy ai trong trang ra đón tiếp, chàng lấy làm lạ, lớn tiếng gọi:

– Vãn bối Hồ Phỉ xin được cầu kiền, Ðỗ trang chủ đã về chưa?

Ðánh tiếng mấy lần nhưng chẳng thấy ai trả lời, chàng hơi mỉm cười, thầm nghĩ:

– Ðỗ Hi Mạnh thật uổng mang tiếng là anh hào Liêu Ðông, có vậy mà cũng núp núp tránh tránh, làm ra vẻ thần bí. Ngươi giở gian kế thì Hồ Phỉ ta sợ chắc?

Chàng ngồi ở đại sảnh một lát, toan để lại mấy chữ sỉ nhục Ðỗ Hi Mạnh một phen rồi xuống núi, nhưng không hiểu sao lại lưu luyến không muốn rời ngay nơi này. Chàng bèn đi tới phòng phía Ðông, đẩy cửa ra, thấy bốn vách tường đều là sách, trang trí bày biện rất trang nhã. Bước vào phòng, chàng thuận tay rút ra một cuốn sách, ngồi giở ra xem, nhưng lật qua lật lại mà chẳng đọc nổi chữ nào, trong lòng chỉ lẩm bẩm câu hỏi: “Nàng đi đâu rồi? Nàng đi đâu rồi?”.

Lát sau trời càng tối, chàng lấy lửa ra đang định châm nến, bỗng nghe thấy mấy tiếng lạo xạo rất khẽ trên tuyết ở mé Ðông ngoài sơn trang. Trong lòng chợt động, biết là có cao thủ đạp tuyết đi tới. Cần phải biết, nếu đi trên đất, muốn đi khẽ thì nhón chân lên mà đi. Nhưng đi trên tuyết thì khó mà giả được, công phu cao thì bước chân nhẹ nhàng linh hoạt, công phu thấp thì bước chân nặng nề, nghe là biết liền. Hồ Phỉ lắng nghe tiếng mấy chân bước ấy, thầm nghĩ: “Phải xem cao thủ phương nào tới mới được!”. Đoạn cất giấy đánh lửa vào bọc, nghiêng tai lắng nghe.

Nhưng chàng nghe trên tuyết còn có tiếng bước chân của mấy người nữa, đều là người có võ công rất cao. Hồ Phỉ thử đếm, tổng cộng có đến năm người. Chợt nghe xa xa, thoang thoảng có ba tiếng vỗ tay, ngoài sơn trang cũng có người vỗ tay ba tiếng đáp lại. Lát sau, ngoài sơn trang có thêm sáu người nữa đến. Hồ Phỉ tuy võ nghệ cao, lại gan góc, nhưng thấy các cao thủ tập trung về đây, trong chốc lát có đến mười một người thì trong lòng cũng nghi ngại không yên, suy nghĩ: “Việc cần kíp trước tiên là rời ngay chỗ này, đối phương mời nhiều người giúp sức, một mình ta e không địch nổi”. Thế là chàng ra khỏi phòng, đang tính nhảy lên mái, bỗng nghe mái nhà có tiếng lách cách, lại có thêm người đến.

Hồ Phỉ vội vàng lui lại nấp, lắng nghe tình hình trên mái nhà, lại có thêm đến bảy cao thủ nữa. Tiếp đó nghe trên mái nhà có người vỗ tay ba cái, ngoài sơn trang đáp lại ba cái, rồi bảy người trên mái nhà nhẹ nhàng nhảy xuống sân đi thẳng vào gian chái. Chàng nghĩ kẻ thù quá đông, lần này phải ra tay đột ngột mới mong thắng nổi. Trước đó chàng đã đoán Ðỗ Hi Mạnh mời người đến trợ lực, nhưng không ngờ lại mời nhiều cao thủ đến như vậy. Chàng nghe bảy người bước về hướng cửa phòng, liền thu mình núp sau bình phong xem họ bàn tính gì, đối phó với mình như thế nào.

Chỉ nghe “tách” một tiếng, có người đánh lửa lên. Hồ Phỉ nghĩ không thể ẩn thân sau bình phong mãi được, đưa mắt tìm kiếm, thấy màn trướng trên giường rủ xuống, dưới giường không có giày, hẳn không có ai nằm trên giường, bèn đánh bạo rón rén đến vạch màn ra, ngồi lên giường rồi chui luôn vào chăn. Hành động của chàng rất nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, bảy người ở bên ngoài phòng tuy đều là cao thủ nhưng không một ai phát giác.

Nhưng Hồ Phỉ vừa chui vào chăn thì thất kinh, giật nảy mình. Tay chàng chạm phải da thịt một người, mềm mại mịn màng, thì ra trong chăn có cô gái đang ngủ. Chàng đang định lăn xuống gầm giường thì ánh lửa nhấp nhoáng trước mắt, có người đã vào phòng. Gã cầm nến soi phía sau bình phong, nói:

-Trong này không có người, chúng ta ngồi đây nói chuyện vậy.

Nói xong, gã ngồi xuống luôn.

Lúc này mùi thơm phả vào mũi Hồ Phỉ, chính là mùi thơm chàng ngửi thấy khi xướng họa cùng với Miêu Nhược Lan. Tim chàng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, thầm nghĩ:

– Chẳng lẽ người này chính là Miêu cô nương? Lần này ta đường đột với giai nhân, thật tội đáng chết vạn lần. Nhưng nếu bây giờ ta nhảy ra, mấy người kia thấy nàng cùng giường chung chăn với ta ắt bảo đã có chuyện ám muội. Thanh danh một đời của Miêu cô nương sẽ bị ta huỷ hoại. Thôi đành chờ mấy người đi khỏi, mình sẽ xuống giường tạ lỗi.

Chàng hơi nghiêng người thì mu bàn tay chạm phải da thịt trên cánh tay cô gái, cảm thấy da thịt nàng mềm mại vô cùng, tựa hồ như không mặc y phục, khiến chàng kinh hãi vội vàng rụt tay lại. Thực ra Ðiền Thanh Văn chỉ cởi bỏ áo ngoài của Miêu Nhược Lan thôi, còn y phục trong vẫn để nguyên, nhưng Hồ Phỉ lại tưởng nàng trần truồng nên nhắm mắt lại không dám nhìn, chân tay càng không dám động đậy, rồi thu mình lại, tay chân không dám nhúc nhích, co rúm người lại khẽ dịch ra phía mép giường, để khoảng cách giữa hai người xa hơn một chút.

Hồ Phỉ tuy nhắm mắt nhưng mũi vẫn ngửi thấy mùi hương ngọt ngào khiến ngây ngất người, tai nghe tim nàng đập nhanh thì không cầm lòng được lại mở mắt ra. Chàng thấy người thiếu nữ nằm ngoảnh mặt ra ngoài, khuôn mặt trắng thẹn thùng phơn phớt hồng như đóa hải đường, chẳng phải Miêu Nhược Lan thì còn ai vào đây nữa? Ánh nến rọi qua bức màn chiếu vào càng làm cho khuôn mặt trên gối ấy xinh đẹp não nùng.

Hồ Phỉ chỉ định nhìn một cái rồi lập tức nhắm mắt lại ngay, không nhìn nữa, nhưng vừa nhắm mắt thì lại nghĩ vẩn vơ không yên, thế là đành phải hé mắt nhìn nàng lần nữa.

Miêu Nhược Lan bị điểm trúng huyệt đạo, không cử động được nhưng vẫn tỉnh táo. Thấy Hồ Phỉ bỗng nhiên lên giường nằm sóng đôi với mình, lúc đầu thì kinh hoàng tột độ, chỉ sợ chàng làm điều vô lễ, nhưng cũng đành nhắm mắt phó mặc cho ý trời, cho số phận. Nào ngờ chàng vừa nằm giây lát, chẳng những không xáp lại mà còn dịch ra xa ra ngoài. Bất giác nàng bớt sợ, đâm ra hiếu kỳ, cũng hé hé mắt ra nhìn. Cái hé mắt này đúng ngay lúc Hồ Phỉ cũng hé mắt nhìn, bốn mắt nhìn nhau, chỉ cách nhau chừng hơn gang tay khiến cả hai đều ngượng chín người.

Chợt nghe ngoài bình phong có tiếng người nói:

– Trại tổng quản thật thần cơ diệu toán, không ai lường được. Người ấy kể ra không phải là tồi, cũng thực đáng là anh hùng hào kiệt “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, nhưng đã rơi vào bẫy của ngài thì dù có mọc cánh cũng không thoát được.

Người cầm nến ha hả cười lớn, đặt đài nến xuống, đi ra ngoài bình phong, nói:

– Trương hiền đệ, đừng khen mãi ta mãi thế. Việc thành rồi, ta không quên công lao của mọi người đâu!

Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan nghe hai người nói, đều giật nẩy mình. Rõ ràng những người này sắp đặt mưu kế để hại Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng. Miêu Nhược Lan không hiểu biết chuyện giang hồ thì không sao, nàng chỉ nghĩ gia gia mình võ công vô địch nên chẳng sợ ai hãm hại. Còn Hồ Phỉ thì biết Trại tổng quản là đệ nhất cao thủ Mãn Châu, nội ngoại công phu đều đạt đến mức tinh diệu, tính tình lại xảo trá hung hãn, không biết đã hãm hại bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ. Hắn là vệ sĩ thân tín số một của hoàng đế Càn Long, thế mà bây giờ lại đích thân dẫn người từ Bắc Kinh đến ngọn Ngọc Bút Phong này. Nghe như tên họ Trương nói thì chúng đang ngầm sắp đặt gian kế, dù Miêu Nhân Phượng có lợi hại đến đâu thì cũng e khó mà thoát khỏi độc thủ.

Nghe tiếng Trại tổng quản đã bước ra bên ngoài bình phong, Hồ Phỉ nghĩ không thể để mất cơ hội, liền khẽ vén màn, bàn tay phải nhằm ánh nến phất nhẹ, một luồng gió mạnh xô tới, “phụt” một tiếng làm nến tắt ngấm.

Nghe tiếng một người kêu lên:

– Ô, nến tắt rồi kìa!

Ngay lúc ấy lại có người lục tục bước vào phòng, gọi to:

– Mau châm lửa cho nến sáng lên!

Trại tổng quản nói:

– Chúng ta ngồi trong tối nói chuyện mà hay đấy. Cái tên Miêu Nhân Phượng nhạy lắm đấy. Nếu hắn đứng ngoài thấy ánh lửa, nói không chừng cá đã cắn câu mà vẫn thoát được đấy.

Mấy người nọ cũng ùn ùn phụ hoạ, nói:

– Trại tổng quản suy tính sâu xa, làm việc chu đáo, quả thực khác hẳn người thường.

Lại nghe có người khẽ đẩy bình phong lui ra. Lúc này trong phòng người ngồi đầy bốn phía, có người ngồi dưới đất, người ngồi trên ghế, lại có ba người ngồi trên mép giường.

Hồ Phỉ sợ ba người này ngồi mệt rồi ngả người ra phía sau nằm xuống thì hỏng việc, đành khẽ nhích vào phía trong giường. Như thế lại càng gần Miêu Nhược Lan, ngửi thấy hơi thở nàng thơm như mùi hoa lan, khiến tâm hồn chàng ngây ngất. Hồ Phỉ chỉ sợ chạm vào ba người ngồi ở mép giường thì hoen ố danh tiết của Miêu Nhược Lan, lại sợ râu mình tua tủa đâm vào đôi má nõn nà của nàng. Trong bụng chàng đã định sẳn, nếu bị phát giác tất phải giết hết mười tám người trong phòng này, dù mình mất mạng cũng không thể để lại một cái miệng còn sống nào làm liên lụy đến vị cô nương ngọc khiết băng thanh này.

May sao ba người kia đều ngồi ngay ngắn, không động đậy gì. Hồ Phỉ không biết Miêu Nhược Lan bị điểm huyệt, thấy nàng không tránh lùi vào phía trong, bất giác vừa sợ vừa mừng, người lơ lửng giữa tầng mây.

Lại nghe Trại tổng quản nói:

– Các vị, chúng ta xin mời Ðỗ trang chủ giới thiệu mọi người với nhau.

Nghe một người có giọng trầm đục nói:

– Ðược các vị có lòng hạ cố, đệ cảm thấy vô cùng vinh dự. Vị này là Trại đại nhân, Tổng quản ngự tiền thị vệ. Trại đại nhân uy danh chấn động giang hồ, các vị đương nhiên đã ngưỡng mộ từ lâu.

Người vừa nói chính là Ðỗ Hi Mạnh, trang chủ Ngọc Bút sơn trang. Mọi người ầm ĩ nói hùa theo “ngưỡng mộ đã lâu, ngường mộ đã lâu”.

Hồ Phỉ lắng nghe Ðỗ Hi Mạnh nêu tên giới thiệu từng người, càng nghe càng kinh ngạc. Thì ra ngoài bọn Trại tổng quản bảy người là ngự tiền thị vệ ra, số người còn lại đều là cao thủ hàng đầu đã thành danh trên giang hồ. Huyền Minh Tử phái Thanh Thành có mặt, Linh Thanh cư sĩ núi Côn Luân có mặt, Tưởng lão quyền sư Vô Cực Môn ở Hà Nam cũng có mặt. Ngoài ra, nếu không phải là chưởng môn, cao thủ hàng đầu của môn phái nào đó, thì cũng là Tổng đà chủ của bang hội này, Tổng tiêu đầu của tiêu cục kia, không một ai là không có tên tuổi. Còn bảy tên thị vệ cũng đều là những cao thủ nổi danh đã lâu trong võ lâm.

Miêu Nhược Lan trong lòng suy nghĩ ngổn ngang, thầm nghĩ:

– Ta chỉ mặc chút ít quần áo mà lại nằm trong lòng chàng. Người này có ân oán chằng chịt với gia đình ta, không biết chàng định làm gì ta đây? Hôm nay lần đầu tiên gặp mặt, cảm thấy chàng tuy tướng mạo thô kệch nhưng là một trang nam tử kì tài, văn võ song toàn. Nào ngờ chàng lại dám vô lễ với ta như vậy.

Nàng cảm thấy Hồ Phỉ đối xử với mình như thế đúng thật là không nên, nhưng không hiểu làm sao, trong lòng lại không hề có ý tức giận oán trách, trái lại còn mất tự chủ, có chút vui thích. Bên ngoài hơn chục người lớn tiếng bàn bạc nhưng nàng không để tâm nghe được một câu nào.

Hồ Phỉ lớn hơn nàng đến mười tuổi, từng trải đã nhiều, biết rằng việc trước mắt có quan hệ không nhỏ, nên tuy vừa mừng mà cũng vừa lo, tâm thần bất định. Nhưng câu chuyện của mấy người ngồi ngoài màn bàn bạc, chàng đều nghe không sót một câu. Nghe Ðỗ Hi Mạnh giới thiệu từng người, chàng gập ngón tay lại đếm. Khi đếm đến người thứ mười sáu thì Ðỗ Hi Mạnh ngừng lại, không nói nữa. Hồ Phỉ nghĩ thầm: “Bên ngoài màn có cả thảy mười tám người, trừ Ðỗ Hi Mạnh còn mười bảy người, không biết người thứ mười bảy là ai?”. Ðiều Hồ Phỉ thắc mắc thì trong phòng cũng có mấy người kĩ tính để ý. Có người hỏi:

– Thế còn vị kia là ai?

Ðỗ Hi Mạnh không đáp.

Một lúc sau, Trại tổng quản mới nói:

– Thôi được, để tại hạ nói cho các vị biết, vị ấy là Phạm bang chủ Cái Bang Hưng Hán.

Mọi người đều giật mình. Trong số đó có vài người tin tức nhanh nhạy, biết Phạm bang chủ đã bị quan gia bắt, còn những người khác chỉ biết Cái Bang xưa nay đối đầu với quan phủ, quyết không tiếp tay cho ngự tiền thị vệ. Nay đột nhiên Bang chủ xuất hiện trên núi ai nấy đều lấy làm lạ.

Trại tổng quản nói:

– Sự tình là như thế này. Các vị nhận lời mời của Ðỗ trang chủ lên núi trợ sức để đối phó với Tuyết Sơn Phi Hồ. Nhưng trước khi tóm cổ con hồ ly này, chúng ta phải khiêng một vị Bồ tát xuống núi trước đã.

Có người lên tiếng cười, hỏi:

– Kim Diện Phật ư?

Trại tổng quản đáp:

– Ðúng thế. Chúng ta làm kinh động Phạm bang chủ vốn để dụ Miêu Nhân Phượng tới Bắc Kinh cứu bạn. Trong thiên lao đã sắp đặt sẵn mọi thứ để chờ y đại giá quang lâm. Không ngờ y cũng tinh khôn, không chịu cắn câu.

Trong đám thị vệ có người hắng giọng, nhưng không nói gì.

Thì ra trong lời nói vừa rồi của Trại tổng quản có che giấu một chuyện. Miêu Nhân Phượng sao chẳng đến Bắc Kinh? Họ Miêu một mình xông vào thiên lao muốn cứu Phạm bang chủ. Tuy không cứu được người ra, nhưng một thanh trường kiếm của “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” đã giết mười một tên đại nội thị vệ. Ngay Trại tổng quản cũng trúng một nhát kiếm ở cánh tay. Tuy Trại tổng quản bố trí cực kỳ chu đáo, nhưng vì đối phương võ công quá cao nên rốt cuộc vẫn không bắt được. Ðây là mối sỉ nhục cực lớn trong đời lão, nên trước mặt người khác lão tuyệt không nhắc đến cũng phải.

Trại tổng quản nói:

– Hai vị Ðỗ trang chủ và Phạm bang chủ đều là người có nghĩa khí sâu nặng với bằng hữu, đồng lòng ra sức giúp chúng ta một tay, tại hạ thực vô cùng cảm kích. Khi nào xong việc, tại hạ sẽ tâu rõ lên hoàng thượng, thế nào cũng có phong thưởng hậu hĩnh…

Nói đến đây, bỗng nghe ngoài sơn trang loáng thoáng có tiếng chân người. Tai lão cực thính, bước chân tuy vừa khẽ vừa xa nhưng lão vẫn nghe rõ. Lão bèn hạ giọng bảo:

– Kim Diện Phật đến rồi đó. Bọn tại hạ là đương sai trong cung sẽ mai phục ở đây, còn các vị khác xin ra ngoài nghênh tiếp.

Ðỗ Hi Mạnh, Phạm bang chủ, Huyền Minh Tử, Linh Thanh cư sĩ, Tưởng lão quyền sư… đều đứng dậy ra khỏi phòng. Trong phòng chỉ còn lại bảy vệ sỹ đại nội.

Lúc này tiếng bước chân đã tới ngoài sơn trang, ai cũng không ngờ Kim Diện Phật lại đi nhanh đến thế. Thật chẳng khác gì thuyền gặp gió lớn giữa biển khơi, vừa mới thấy điềm báo là mưa to gió lớn đã ập xuống ngay; lại giống như sét đánh chẳng kịp bưng tai, ánh chớp vừa loé liền dậy sấm.

Trại tổng quản và sáu tên thị vệ đều giật mình, không hẹn mà cùng rút binh khí ra. Trại tổng quản hô:

– Nằm xuống!

Có người giơ tay vén màn toan chui vào trong giường. Trại tổng quản trách:

– Ðồ ngu! Chui vào giường thì người ta không biết à?

Người kia rụt tay lại. Thế là cả bảy người hoặc chui xuống gầm giường, hoặc trốn trong tủ, hoặc nấp sau giá sách.

Hồ Phỉ cười thầm trong bụng:

– Ngươi mắng người khác là đồ ngu, chính ngươi là đồ ngu thì có!

Hơi thở Miêu Nhược Lan phả nhẹ vào mặt chàng, không tự chủ được, chàng khẽ ghé môi qua hôn phớt vào má nàng một cái. Miêu Nhược Lan vừa sung sướng vừa thẹn, định né tránh nhưng khốn nỗi không cục cựa được.

Hồ Phỉ hôn má nàng rồi, bất giác chợt cảm thấy ngượng thay cho mình, thầm nghĩ:

– Nàng dịu dàng thanh nhã nhường kia, sao ta lại dám làm nhục nàng?

Chàng đang định dịch người ra mé ngoài, không gần sát nàng như thế nữa, bỗng nghe dưới gầm giường có tiếng lục đục của hai tên vệ sỹ, khẽ mắng nahu. Thì ra hai người này chen chúc dưới gầm giường, cùi chỏ người này thúc trúng vào mũi của người kia.

Hồ Phỉ xưa nay thích bỡn cợt với đối thủ, theo bản tính như mọi khi thì lúc này chàng sẽ tung chăn ra, tiểu một bãi thật to xuống gầm giường, làm ướt đẫm đầu bọn chúng cho hả. Nhưng vừa mới nảy ra ý này, chàng lập tức nghĩ ngay đến việc Miêu Nhược Lan còn nằm bên cạnh, sao có thể làm bậy thế được?

Một lúc sau, Ðỗ Hi Mạnh và Tưởng lão quyền sư cùng vài người nữa cười nói hỉ hả đưa một người vào phòng. Người đó chính là Miêu Nhân Phượng. Có một người cầm đài nến đi trước soi đường.

Ðỗ Hi Mạnh trong lòng thắc thỏm, không biết người nhà mình với các người hầu đi đâu hết cả, sao chẳng thấy ai. Nhưng Trại tổng quản vừa tới, tiếp theo Miêu Nhân Phượng cũng tới luôn, nên không còn lúc nào rảnh để xem xét việc nhà. Khi liếc nhìn Miêu Nhân Phượng, trại chủ thấy vẻ mặt ông ta thản nhiên, không biết trong lòng đang nghĩ gì.

Mọi người đã ngồi yên chỗ trong phòng. Ðỗ Hi Mạnh nói:

– Miêu huynh, đệ có hẹn với Tuyết Sơn Phi Hồ hôm nay tới đây để tính sổ một món nợ cũ. Miêu huynh cùng mấy vị bằng hữu có lòng trượng nghĩa, từ xa xôi tới đây trợ lực, đệ thực vô cùng cảm kích. Chỉ có điều bây giờ trời đã tối mà tên Tuyết Sơn Phi Hồ vẫn chưa tới, hẳn là nghe tên tuổi của các vị, nên y sợ quắp đuôi hồ ly mà xa chạy cao bay rồi.

Hồ Phỉ nghe nói cả giận, chỉ muốn nhảy ra vung một chưởng vào mặt hắn.

Miêu Nhân Phượng “hừ” một tiếng, quay sang hỏi Phạm bang chủ:

– Vế sau rốt cuộc Phạm huynh cũng thoát hiểm ư?

Phạm bang chủ đứng dậy chắp tay vái dài một cái, đáp:

– Miêu gia không ngại hiểm nguy, đích thân vào hiểm địa cứu đệ, ân đức đó đệ suốt đời không dám quên. Sau khi Miêu gia đại náo kinh sư không bao lâu, huynh đệ của tệ bang cũng kéo tới cứu, may mà người đông thế mạnh, lại nhờ uy phong của Miêu gia nên đệ mới may mắn thoát nạn!

Những lời này của Phạm bang chủ tất nhiên toàn là dối trá. Miêu Nhân Phượng đích thân vào thiên lao, tuy không bị Trại tổng quản bắt, nhưng sau khi đại náo một trận cũng không sao cứu được Phạm bang chủ. Còn chuyện Cái Bang xông vào thiên lao vân vân, toàn là bịa đặt.

Sau khi mưu kế không thành công, Trại tổng quản lại nghĩ ra kế khác. Gã đích thân vào thiên lao trao đổi với Phạm bang chủ, lấy cái chết ra đe dọa. Nhưng Phạm bang chủ là người cứng cỏi, mặc cho Trại tổng quản đe dọa, dụ dỗ thế nào y cũng không hề chịu khuất phục. Trại tổng quản là kẻ xảo quyệt từng trải, giỏi hiểu tâm lí người khác. Sau mấy ngày liên tục thuyết phục, lão biết đối phó với một kẻ cứng đầu như Phạm bang chủ không thể lấy lợi lộc ra nhử, cũng không thể răn đe bằng búa rìu; nhưng nếu tâng bốc y lên tận mây xanh có khi lại hiệu quả.

Thế là Trại tổng quản đích thân đón Phạm bang chủ vào Phủ tổng quản ở, sai một người giỏi xu nịnh trong đám thuộc hạ hàng ngày nói những câu nịnh bợ như “Bang chủ anh hùng vô địch”, “Bang chủ uy danh chấn động giang hồ”,..v.v… rót dần vào tai ông ta. Lúc đầu, Phạm bang chủ còn lấy làm bực mình, nhưng qua vài ngày nghe mãi những lời đường mật thì cũng thấy bùi tai, bắt đầu nói cười thích thú. Thế là Trại tổng quản đích thân xuất mã, tâng bốc lão càng cao hơn nữa. Về sau khi bàn luận đến anh hùng thời nay, Phạm bang chủ cố nhiên rất tự phụ, nhưng vẫn tôn Miêu Nhân Phượng là đệ nhất thiên hạ. Trại tổng quản cười, nói:

– Phạm bang chủ nói vậy là khiêm tốn quá. Thiết nghĩ Kim Diện Phật tuy xưng hiệu là “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, nhưng theo ý ngu đệ thì chắc gì ông ta đã thắng được bang chủ?

Ðược tâng bốc, Phạm bang chủ khoan khoái vô cùng, bụng nghĩ Miêu Nhân Phượng đương nhiên là danh tiếng cực lớn, võ công cũng cao thật, nhưng bản thân mình chưa chắc đã thua kém bao nhiêu.

Hai người nói chuyện đến nửa đêm, sáng hôm sau bỗng Trại tổng quản chuyển câu chuyện sang bàn về võ công của mình. Lát sau, các thi vệ trong Phủ tổng quản cũng đồng loạt phụ họa, đều nói hôm trước Trại tổng quản tiếp chiến với Miêu Nhân Phượng, lúc đầu hai người đánh đến hai trăm chiêu mà vẫn không phân thắng bại. Sau đó Trại tổng quản đã nắm chắc phần thắng, nếu Miêu Nhân Phượng không thừa cơ bỏ chạy thì chỉ cần một trăm chiêu nữa là họ Miêu phải thua. Phạm bang chủ nghe vậy thì sắc mặt lộ vẻ không tin.

Trại tổng quản cười, nói:

– Lâu nay đệ vẫn hâm mộ tám mươi mốt lộ Ngũ hổ đao của Phạm bang chủ là tuyệt thế vô song. Lần này bọn đệ mạo phạm oai hổ, tuy là có chỉ dụ của Hoàng thượng, nhưng một phần cũng vì các huynh đệ muốn được thấy võ công của Phạm bang chủ. Chỉ đáng tiếc là các huynh đệ đây vì tham công nên cả mười tám cao thủ trong đại nội đều ra tay, mới thỉnh được Phạm bang chủ về đây. Ngu đệ chưa từng được ra chiêu đơn đả đấu với bang chủ, thực rất lấy làm tiếc. Lúc này chúng ta chuyện trò đang cao hứng, xin lĩnh giáo Phạm bang chủ mấy chiêu ngay tại đây có được chăng?

Phạm bang chủ nghe xong, tỏ vẻ kiểu ngạo, nói:

– Cả Miêu Nhân Phượng cũng bại trong tay Trại tổng quản, thì e tại hạ không phải là địch thủ của trại tổng quản.

Trại tổng quản cười, nói

– Bang chủ quá khách sáo rồi!

Hai người nói mấy câu khách sáo rồi ngay sau đó liền so tài trong luyện võ sảnh tại phủ Tổng quản.

Phạm bang chủ sử dụng đao, còn vũ khí của Trại tổng quản thì thật lạ lùng, chỉ là một đôi lang nha bổng cán ngắn. Trại tổng quản khỏe mạnh, ra chiêu dũng mãnh, quả nhiên võ công mười phần lợi hại. Hai người quần nhau đến hơn ba trăm chiêu mà vẫn chưa phân hơn thua. Lại đấu thêm khoảng thời gian ăn xong bữa cơm thì dần dần Trại tổng quản lộ vẻ đuối sức, bị thanh đao của Phạm bang chủ dồn vào góc sảnh. Tổng quản mấy lần xông ra nhưng không thoát được đường đao vây kín của Phạm bang chủ, bất đắc dĩ đành phải lên tiếng:

– Quả nhiên Phạm bang chủ bản lãnh cao cường, tại hạ xin chịu thua.

Phạm bang chủ mỉm cười, xách đao nhảy ra khỏi vòng đấu. Trại tổng quản hầm hầm vứt đôi lang nha bổng xuống đất, than thở:

– Ta tự phụ anh hùng vô địch, nào biết núi cao còn có núi cao hơn, người giỏi lại có người giỏi hơn!

Nói rồi lấy áo chùi mồ hôi, hổn hển thở không ngớt.

Sau trận so tài ấy, Phạm bang chủ lại càng được mọi người tâng bốc lên tận mây xanh. Ông ta cũng xem đám thị vệ là bằng hữu chí cốt, còn đối với Trại tổng quản thì nói sao nghe vậy. Vị bang chủ thô lỗ thiển cận này đâu có biết Trại tổng quản cố ý nhường nhịn mình, nếu lão mà trổ hết thực lực công phu ra thì e rằng chỉ trong vòng trăm chiêu, Phạm bang chủ phải thua dưới đôi lang nha bổng mất!

Nhưng tại sao Trại tổng quản phải hao tốn nhiều sức lực, dùng trăm phương ngàn kế để thu nạp ông ta? Nguyên võ công của Phạm bang chủ tuy chưa phải cao thủ nhất đẳng, nhưng ông ta có một tuyệt kĩ gia truyền khó có ai sánh được, đó là hai mươi ba lộ Long trảo cầm nã thủ, ai bị chộp dính thì như bị đinh móc vào gân cốt. Bất luận địch nhân võ công cao cường đến thế nào, chỉ cần bất kì một bộ phận nào trên cơ thể bị ngón tay ông ta quặp vào thì lập tức bắt dính, không sao thoát ra được. Trại tổng quản nghe lời Ðiền Quy Nông, mấu chốt để lấy được kho tàng là phải bắt giữ Miêu Nhân Phượng. Nhưng kế “đặt bẫy ở thiên lao” không thành, thế là lão nghĩ tới mượn tuyệt kĩ “Long trảo cẩm nã thủ” của Phạm bang chủ. Lão nghĩ Kim Diện Phật bản lãnh cao cường, Phạm bang chủ nếu giao đấu chính diện với ông ta thì không đời nào ông ta để cho “Long trảo cầm nã thủ” chộp vào người được. Nhưng Phạm bang chủ là bạn thân của ông ta nhiều năm qua, nếu như bất ngờ đánh trộm thì có cơ hội thành công.

Miêu Nhân Phượng thấy Phạm bang chủ chắp tay vái thì cũng đứng lên vái trả lễ, miệng nói:

– Một việc nhỏ mọn, hà tất phải nhắc tới!

Rồi quay sang hỏi Ðỗ Hi Mạnh:

– Không biết tên Tuyết Sơn Phi Hồ ấy là người như thế nào, vì sao Ðỗ huynh lại kết oán với hắn?

Ðỗ Hi Mạnh đỏ mặt lên, hàm hồ nói:

– Tại hạ vốn không biết y, chẳng hiểu hắn nghe lời dèm pha của ai, bảo tại hạ giữ một vật bảo vật gia truyền của hắn, mấy lần đến đòi tại hạ. Tại hạ biết võ nghệ của hắn cao cường, bản thân đã lớn tuổi, không phải là đối thủ của hắn, cho nên mời các vị lên núi để mọi người phân giải rõ ràng. Nếu y cậy mạnh không phục thì xin các vị giáo huấn cho kẻ hậu sinh ấy một bài học.

Miêu Nhân Phượng hỏi:

– Hắn nói Ðỗ huynh lấy bảo vật gia truyền của hắn, đó là vật gì vậy?

Ðỗ Hi Mạnh đáp:

– Có bảo vật gì đâu? Hoàn toàn là bịa đặt.

Năm xưa, khi Hồ Nhất Ðao chết, Miêu Nhân Phượng buồn bực trong lòng bèn đi ngay tới Liêu Ðông tìm gặp bằng hữu và người thân cũ của Hồ Nhất Ðao để hỏi thăm chuyện cũ và những nghĩa cử của người bạn tri kỉ duy nhất trên đời này. Sau khi hỏi dò, biết Ðỗ Hi Mạnh là người quen cũ của Hồ Nhất Ðao, ông bèn lên Ðỗ gia trang trên ngọn Ngọc Bút để viếng thăm. Ðỗ Hi Mạnh không cho biết thêm được bao nhiêu về Hồ Nhất Ðao, nhưng đón tiếp Miêu Nhân Phượng cực kì chu đáo, lại đích thân đưa ông tới ngôi nhà cũ của Hồ Nhất Ðao. Lúc ấy, căn nhà đã tường xiêu vách nát, bỏ hoang từ lâu.

Từ tình nghĩa với Hồ Nhất Ðao, Miêu Nhân Phượng mới kết bạn với Ðỗ Hi Mạnh, đây là chuyện đã hơn hai mươi năm về trước. Lúc này nghe Ðỗ Hi Mạnh nói ấp a ấp úng, Miêu Nhân Phượng bèn bảo:

– Nếu vật gì đó quả thật là của Tuyết Sơn Phi Hồ thì lát nữa hắn đến đây, Ðỗ huynh trao trả cho hắn là xong.

Ðỗ Hi Mạnh cuống quýt, vội nói:

– Làm gì có bảo vật nào? Tại hạ lấy đâu ra mà trả cho hắn?

Phạm bang chủ thầm nghĩ Miêu Nhân Phượng là người sáng suốt cơ trí, ngồi lâu lúc nữa ắt thế nào cũng phát hiện ra có người mai phục trong phòng, liền vội khuyên:

– Ðỗ trang chủ, lời Miêu gia nói không sai chút nào. Vật nào cũng có chủ của nó, huống hồ lại là đồ gia bảo truyền đời? Huynh trả cho hắn là xong, hà tất phải dấy động can qua, làm tổn thương hoà khí?

Ðỗ Hi Mạnh càng cuống lên, nói:

– Huynh nói như thế, hoá ra không tin lời tại hạ sao?

Phạm bang chủ nói thêm:

– Tại hạ không rõ nguyên uỷ câu chuyện này, nhưng Miêu gia Kim Diện Phật nói như thế, nhất định là không sai. Phạm mỗ này tung hoành giang hồ, không dễ tin bất kỳ lời người nào, chỉ tin một mình Miêu gia Kim Diện Phật mà thôi.

Bang chủ vừa nói vừa đi tới phía sau Miêu Nhân Phượng, hai tay huơ lên để trợ thanh thế cho lời nói.

Miêu Nhân Phượng thấy trong lời lẽ của lão có ý thiên vị mình, thầm nghĩ:

– Y là chủ một bang nên nhìn sự việc cũng minh bạch.

Chợt ông cảm thấy huyệt Phong trì và huyệt Thần đạo sau lưng tê dại đi, liền biết là có chuyện, vội vàng vung cánh tay trái đánh ra. Nào ngờ hai yếu đại huyệt này bị Phạm bang chủ dùng “Long trảo cầm nã thủ” chộp dính, lập tức toàn thân tê dại, dù ông có võ công cao bằng trời, trăm ngón thần thông, cũng không thi triển được.

Nhưng Kim Diện Phật đã xưng hiệu “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, bình sinh trải qua không biết bao nhiêu lần cực kỳ hung hiểm, há có thể vì thế đã bó tay chờ chết hay sao? Miêu Nhân Phượng hét to một tiếng, cúi đầu thấp, dùng sức eo lưng quăng tấm thân to lớn của Phạm bang chủ qua đầu. Bọn Trại tổng quản cũng hét lớn, ai nấy từ sau chỗ nấp chui ra.

Phạm bang chủ bị Miêu Nhân Phượng quăng bay qua đầu nhưng “Long trảo cầm nã thủ” vẫn bám chặt lấy huyệt đạo như hình với bóng, người tuy ở trước mặt Miêu Nhân Phượng mà tay vẫn ở sau lưng ông ta. Miêu Nhân Phượng thấy bốn phía có người chui ra thì thầm nghĩ:

– Ta một đời dọc ngang giang hồ, không ngờ hôm nay lại bị lật thuyền nơi cống rãnh, bị độc thủ của tiểu nhân.

Ngay lúc ấy một tên thị vệ nhào tới, giơ hai tay ghì chặt lấy đầu ông. Miêu Nhân Phượng nổi cơn thịnh nộ, biết không tránh được bèn ngửa cổ ra phía sau lấy thế đánh mạnh đầu ra phía trước. Lúc này, nội kình toàn thân đều tập trung ở trán, đánh ngay vào giữa hai mắt của tên thị vệ kia, “rắc” một tiếng, tên thị vệ chết ngay lập tức. Ai nấy đều thất kinh, vốn định xô cả vào, bỗng đều đứng ngây ra cách Miêu Nhân Phượng đến mấy bước. Miêu Nhân Phượng tứ chi tê dại nhưng đầu vẫn còn chuyển động được, ông đánh đầu thành công một cú, bèn tức tốc nương theo thế đánh đầu ngang vào Phạm bang chủ. Phạm bang chủ sợ đến táng đởm kinh hồn, trong lúc nguy cấp nhưng còn kịp nhanh trí, hụp đầu xuống, áp chặt vào bụng dưới ông ta, hai tay ôm lấy eo của Miêu Nhân Phượng. Miêu Nhân Phượng tứ chi hoạt động lại, một cước đá tung tên thị vệ đứng gần mình, rồi lập tức giơ tay vỗ vào lưng Phạm bang chủ. Nào giờ vừa giơ lên nửa chừng thì tứ chi lại tê bại, phát chưởng đó không vỗ xuống được. Thì ra Phạm bang chủ lại cẩm nã huyệt đạo ở lưng của ông rồi.

Mấy đòn đánh qua trả lại diễn ra nhanh trong chớp mắt. Trại tổng quản biết chiêu đánh trộm của Phạm bang chủ chỉ có hiệu lực trong khoảng khắc, nếu hơi kéo dài, Miêu Nhân Phượng ắt sẽ hoá giải được. Lập tức lão sấn tới, giơ ngón tay điểm hai cái vào huyệt Tiếu yêu của ông. Công phu điểm huyệt của lão lúc ra tay thì chậm nhưng xuống tay rất nặng. Miêu Nhân Phượng “hự” một tiếng rồi dần hôn mê đi, toàn thân mềm nhũn.

Phạm bang chủ lúc này như nép trong vòng tay Miêu Nhân Phượng, không biết chuyện xảy ra bên ngoài, mười ngón tay vẫn nã chặt huyệt đạo của Miêu Nhân Phượng. Trại tổng quản cười, nói:

– Phạm bang chủ, huynh lập được kì công rồi, buông tay ra đi!

Lão nói đến lần thứ ba, Phạm bang chủ mới nghe được. Hắn ngẩng đầu lên nhưng vẫn chưa dám buông tay. Một thị vệ lấy trong túi ra một cái còng bằng thép ròng, còng tay chân Miêu Nhân Phượng lại. Lúc đó Phạm bang chủ mới buông tay.

Trại tổng quản cực kì kiêng dè Miêu Nhân Phượng, chỉ sợ ông lại tìm cách thoát thân, nếu vậy thì mối lo về sau sẽ vô cùng tận. Lão lấy thanh đao trong tay một thị vệ, bảo:

– Miêu Nhân Phượng, chẳng phải họ Trại ta không tốt với bằng hữu mà vì sợ bản lãnh quá cao của ngươi. Nếu không cắt đứt gân chân gân tay của ngươi thì bọn ta ăn không ngon, ngủ không yên đâu.

Lão giơ tay trái nắm lấy tay phải của Miêu Nhân Phượng, tay phải lão cầm đao toan cắt gân trên cánh tay của Miêu Nhân Phượng. Chỉ cần bốn nhát đao là Miêu Nhân Phượng lập tức thành phế nhân.

Phạm bang chủ giơ giữ tay Trại tổng quản lại, kêu lên:

– Không được làm tàn phế y! Trại tổng quản đã nhận lời tại hạ rồi, lại còn thề độc nữa mà.

Trại tổng quản cười nhạt, thầm nghĩ:

– Ngươi tưởng ta thực sự không địch nổi ngươi ư? Không cho ngươi nếm mùi lợi hại, e rằng ngươi còn rồ dại suốt đời!

Lập tức lão trầm tay xuống, vận sức ở eo, vai phải đột ngột hích luôn Phạm bang chủ. Một là cú hích này cực mạnh, hai là Phạm bang chủ không đề phòng, “bình” một tiếng, cả người Phạm bang chủ bay ra, bắn vào tấm vách ván gian phòng, làm thủng một mảng lớn. Trại tổng quản cười ha hả, giơ đao chém xuống cánh tay phải của Miêu Nhân Phượng.

Nằm trong màn, Hồ Phỉ nghe rất rõ, thầm nghĩ:

– Miêu Nhân Phượng tuy là kẻ thù giết gia gia mình nhưng vẫn là một đại hiệp đương thế, sao có thể bỏ mạng dưới tay loài chuột bọ này được?

Nghĩ rồi, chàng hét to một tiếng, nhảy vọt từ trong màn ra, phóng một chưởng đánh một tên thị vệ văng vào Trại tổng quản. Trại tổng quản không kịp đề phòng tình thế biến đổi mau kỳ lạ này, liền buông luôn thanh đao, đỡ tên thị vệ đang bay ập tới.

Hồ Phỉ thừa dịp Trại tổng quản sểnh tay, hai tay tóm hai tên thị vệ, đập đầu chúng vào nhau khiến chúng vỡ đầu ra chết tươi. Rồi Hồ Phỉ tay trái phát chưởng, tay phải ra quyền, đánh tiếp luôn hai người nữa. Trong lúc hỗn loạn, bọn họ không biết có bao nhiêu kẻ địch, nhưng thấy Hồ Phỉ vừa ra tay đã thần uy lẫm lẫm khiến ai nấy đều kinh hãi.

Hồ Phỉ đấm một quyền vào đầu tên thị vệ, tên này ngất xỉu; tay trái vung ra một chưởng, bỗng cảm thấy kẻ địch ra chiêu vừa dính vừa đẩy, khiến chưởng của chàng trượt mất. Trong lòng thầm kinh hãi, trấn tĩnh lại nhìn, chàng thấy đối thủ râu bạc quá rốn, mặt mũi hồng hào, tuy chưa biết là ai, song chiêu “Hỗn độn sơ khai” trong thủ có công của lão vừa rồi thì phải là một danh thủ nội gia, chẳng phải Tưởng lão quyền sư vô thuộc Vô Cực môn thì còn ai vào đấy nữa!

Hồ Phỉ thấy địch thủ đông người, lại toàn là cao thủ, bèn nghĩ ra một kế. Chàng nhảy vọt lên tung một cước thật mạnh vào ngực Linh Thanh cư sĩ. Linh Thanh cư sĩ luyện công phu ngoại gia, thấy chàng đá bay tới bèn vung chưởng ra chém vào sống chân Hồ Phỉ. Hồ Phỉ nương theo thế co chân lại, song thủ vung ra chộp vào đám đông. Trong phòng địa thế nhỏ hẹp, hơn mười người túm tụm lại với nhau, bọn họ có chỗ nào mà tránh. Trong tiếng hò hét, Hồ Phỉ một tay chộp được ngực Ðỗ Hi Mạnh, tay kia chộp được bụng dưới Huyền Linh Tử, dùng hai người làm binh khí, đẩy mạnh tới đám địch nhân. Bọn họ đang túm tụm một chỗ, bị chàng chộp hai người đẩy mạnh tới bằng cường lực thì sợ người của mình bị thương, nên không dám đánh lại, đành lui lại phía sau. Hơn mười người bị dồn vào góc nhà, tình thế thật khó coi.

Trại tổng quản thấy tình hình bất lợi, vội tung người nhảy vọt ra khỏi đám đông, mười ngón tay như móc sắt chộp mạnh xuống đỉnh đầu Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đang muốn dụ lão xuất thủ, thấy thế cười ha hả, nhảy vọt về phía sau mấy bước, kêu to:

– Lão Trại ơi là lão Trại, lão thật chẳng biết liêm sỉ là gì!

Trại tổng quản ngẩn người, hỏi:

– Cái gì mà không biết liêm sỉ?

Tay Hồ Phỉ vẫn nắm chặt Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử, chỗ chàng nắm đều là yếu huyệt, khiến toàn bộ công phu bản lãnh của hai người không sao thi thố được, mặc cho chàng điều khiển hai cái thân thể mềm oặt như bông của mình. Hồ Phỉ nói:

– Lão gộp sức hơn mười người, lại giở mưu gian quỷ kế mới bắt giữ được Kim Diện Phật, thế mà dám xưng là đệ nhất cao thủ Mãn Châu sao?

Trại tổng quản bị chàng nói, ngượng đỏ cả mặt, vẫy tay trái bảo mọi người dàn ra bốn góc phòng, vây chặt lấy Hồ Phỉ, miệng quát:

– Ngươi là Tuyết Sơn Phi Hồ phải không?

Hồ Phỉ cười:

– Không dám, chính là tại hạ. Trước đây tại hạ cũng có nghe nói Bắc Kinh có Trại tổng quản gì đó cũng là một nhân vật đáng kể, nào ngờ chỉ là một tên tiểu nhân vô sỉ như vậy. Thứ trứng thối giẻ rách như vậy mà cũng dám ra ngoài vênh váo tên tên hiệu ư? Mau về nhà trông trẻ nít cho rồi!

Trại tổng quản bình sinh rất tự phụ, làm sao chịu nổi những lời nhục mạ đó? Thấy Hồ Phỉ tuy râu ria đầy mặt nhưng tuổi còn trẻ, thầm nghĩ:

– Bản lãnh ngươi có cao cường đến mấy thì công lực cũng không sao thâm hậu bằng ta được!

Nhưng thấy chàng nắm chặt Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử giở lên như không, như chẳng tốn tí sức lực nào thì lại không khỏi ngầm sợ hãi, không dám mở miệng khiêu chiến. Còn đang trù trừ thì Hồ Phỉ gọi:

– Mau mau, đến đây so tài chơi nào! Nếu trong ba chiêu mà không thắng được ngươi thì họ Hồ ta xin cúi lạy ngươi!

Trại tổng quản đang khó xử, nghe nói vậy thì nghĩ thầm:

– Ta chưa chắc đã thắng được ngươi thật, nhưng dù ngươi có bản lãnh bằng trời đi nữa mà muốn thắng ta chỉ trong ba chiêu thì trừ phi ta là kẻ chết rồi!

Lão giận lắm nhưng vẫn cười, đáp:

– Ðược lắm, họ Trại ta sẵn sàng tiếp ngươi!

Hồ Phỉ hỏi:

– Nếu trong vòng ba chiêu ngươi bị ta đánh bại thì sao?

Trại tổng quản đáp:

– Tuỳ ngươi muốn xử trí ra sao cũng được. Trại mỗ ta là người thế nào, đến nước ấy còn mặt mũi nào mà sống trên đời nữa? Không cần phải nói nhiều, hãy xem chiêu đây!

Nói rồi song quyền vung thẳng ra đấm mạnh vào ngực Hồ Phỉ. Lão thấy Hồ Phỉ vẫn túm hai người Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử, chỉ e chàng dùng thân hai người này để đỡ, bèn vờ tiến sát vào, buộc Hồ Phỉ phải buông hai người kia ra để giơ chưởng lên đỡ.

Hồ Phỉ đợi quyền của lão đánh tới ngực, không tránh mà cũng không đỡ, đột ngột thót ngực lại, vô hình trung đã hóa giải hai nắm đấm đó. Trại tổng quản không ngờ chàng còn trẻ tuổi mà nội công tinh thâm đến thế, giật mình, vội nhảy lui về phía sau, đề phòng chàng vận kình phản kích. Mọi người đồng thanh hô:

– Chiêu thứ nhất!

Thực ra chiêu này là Trại tổng quản xuất thủ, Hồ Phỉ chưa phản công, nhưng bọn họ có ý bênh nhau nên cũng tính là một chiêu.

Hồ Phỉ mỉm cười, chợt ho lên một tiếng, một bãi nước bọt bắn mạnh ra, bay vào giữa mặt Trại tổng quản, đồng thời hai chân tung lên theo thế “Uyên ương liên hoàn” đá ra phía trước.

Trại tổng quản thất kinh. Muốn tránh bãi nước bọt này, không nhảy vọt lên thì phải thụp đầu khom người xuống. Nếu nhảy lên thì bụng dưới không tránh khỏi cú đá chân trái của địch thủ, nếu thụp người thì lại giơ hàm dưới ra ăn trọn cú đá chân phải của đối phương. Cả hai cách đều khó xử. Trại tổng quản đành vòng tay ngang che trước ngực để phòng thủ, thế là bãi nước bọt “phẹt” một tiếng, trúng vào giữa hai lông mày. Thật ra bãi nước bọt này trẻ con bảy tám tuổi cũng tránh được, khốn nỗi địch nhân lại ngầm phục thế đánh hung hiểm ở phía sau khiến Trại tổng quản đành trơ mắt ra lãnh đủ.

Mọi người thấy Trại tổng quản bị nhổ nước bọt vào giữa mặt mà vì đề phòng địch đột kích nên đã không dám đưa tay lên chùi, tình cảnh tệ hại đến thế nên tiếng hô “Chiêu thứ hai” không còn to như lần đầu.

Trại tổng quản nghĩ thầm:

– Ta tuy bị nhục nhưng chỉ cần thủ thật kín thì đón thêm chiêu nữa của hắn cũng chẳng khó gì. Tới lúc đó xem hắn ăn nói ra sao?

Nghĩ vậy, lão liền lớn tiếng nói:

– Còn một chiêu nữa, lên đi!

Hồ Phỉ mỉm cười, bước lên một bước, rồi đột ngột xách Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử lên đánh thẳng vào mặt Trại tổng quản. Lão đã đoán trước chiêu này, trong bụng đã tính sẵn, tự nhủ:

– Tục ngữ có câu “vô độc bất trượng phu”, trong lúc nguy cấp để bằng hữu bị thương là điều khó tránh, đó cũng là bất đắc dĩ thôi.

Thấy thân thể hai người quét ngang tới, Trại tổng quản lập tức vung mạnh hai cánh tay ra.

Hai tay Hồ Phỉ nắm chặt yếu huyệt của hai người, đợi tới khi thân thể họ sắp chạm vào tay Trại tổng quản, lập tức chàng buông tay chuyển sang chộp vào bắp thịt, nơi không có huyệt đạo.

Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử bị Hồ Phỉ túm chặt quơ trong không trung thì chới với, không còn biết thân mình đang ở đâu. Bỗng cả hai cảm thấy huyệt đạo được buông ra, tay chân cử động được thì không hẹn mà bốn tay cùng đưa ra đánh tới. Hai người họ vốn chỉ muốn thoát ra khỏi tay địch nhân, bèn liều chết một phen, đều tung ta tuyệt chiêu xưa nay của mỗi người, cực kỳ hung hãn. Chỉ nghe Trại tổng quản rống lên một tiếng, bốn chỗ trên người là thái dương, ngực, bụng dưới, cạnh nách đều đồng thời trúng đòn; y loạng choạng, không còn đứng được nữa, hai chân sụm xuống ngồi bệt xuống đất. Hồ Phỉ vừa buông hai tay đã chộp lại yếu huyệt của hai người, miệng hô “Chiêu thứ ba!”.

Lời vừa ra khỏi miệng, song thủ tăng thêm kình lực bóp vào huyệt đạo, Ðỗ Hi Mạnh và Huyền Minh Tử chưa kịp kêu đã ngất xỉu. Lần này chàng bóp huyệt đạo rất mạnh, kình lực thấu tới kinh mạch, dù được cao thủ giải cứu, không mươi bữa thì cũng phải nửa tháng hai người này mới có thể khỏi hẳn. Chàng xách hai người, thuận tay ném vào hai người khác đứng trước mặt. Hai gã này giật mình kinh hãi, sợ hai người Ðỗ, Huyền lại cho mình ăn đòn như Trại tổng quản, liền vội vàng vọt lên tránh. Nhưng Hồ Phỉ đã tung người lên trước, thừa lúc hai người này đang ở trên không chưa kịp rơi xuống, đã vung hai tay, mỗi tay bắt lấy một người, rồi quay sang hỏi Trại tổng quản:

– Các hạ nói sao đây?

Trại tổng quản ngồi bệt dưới đất, hùng tâm tráng chí tiêu tan, thất vọng trăm bề, lắp bắp nói:

– Ngươi nói sao làm vậy, còn hỏi ta làm gì?

Hồ Phỉ nói:

– Mau thả Miêu đại hiệp ra!

Trại tổng quản khua tay ra hiệu cho hai tên thị vệ. Hai người này bước tới mở còng cho Miêu Nhân Phượng.

Huyệt đạo trên người Miêu Nhân Phượng bị Trại tổng quản điểm, hai tên thị vệ kia không biết giải huyệt. Hồ Phỉ đang định giơ tay giải cứu, nào ngờ Miêu Nhân Phượng đã ngầm vận khí để tự giải. Đang lúc tự giải thì tay chân vừa được tháo còng, ông liền hít một hơi thật sâu, bụng dưới thót lại, thế là huyệt đạo tự giải xong. Chân trái ông vừa nhấc lên là đá văng Linh Thanh cư sĩ, đồng thời một quyền tung ra, “binh” một tiếng, tống bay một người khác ra ngoài.

Phạm bang chủ bị Trại tổng quản hích bay qua vách, một lúc lâu mới đứng đậy được. Lão đang tính chui qua lỗ ván thủng trèo vào thì bất ngờ người bị Miêu Nhân Phượng tống bay ra vừa khéo va mạnh vào người lão. Cú va chạm này lực đạo cực lớn, khí huyết trong người của cả hai đều nhộn nhạo, đầu choáng mắt hoa, không phân biệt được bạn thù, cả hai lập tức giở tuyệt chiêu, quấn lấy nhau đánh loạn xạ không thôi.

Linh Thanh cư sĩ tuy bị Miêu Nhân Phượng đá văng đi, nhưng dù sao lão cũng là cao thủ phái Côn Luân, võ công đã luyện đến mức độc đáo, nên khi thân mình đang bay trên không, lão liền vặn lưng một cái đảo thuận người, đầu trên chân dưới, rồi “bịch” một tiếng, lão đã ngồi trên mép giường.

Hồ Phỉ thất kinh, đang định sấn tới đẩy lão ra, bỗng cảm thấy một luồng kình phong thốc đến ngực, đồng thời bên phải người lại có tiếng kim đao xé gió bổ tới. Thì ra Tưởng lão quyền sư và một tên thị vệ cùng công tới. Nhát đao của tên thị vệ dễ tránh, nhưng chiêu “Ðấu bính đông chỉ” của Tưởng lão quyền sư thì không dễ hoá giải, chàng đành đứng vững hai chân, vận kình tiếp chiêu của ông ta. Nhưng Vô Cực Quyền nối liền liên miên như trường giang, chiêu này vừa qua thì chiêu khác đã tới, trong một lúc khiến chàng không lơi tay được.

Linh Thanh cư sĩ rơi ngồi trên mép giường, “soạt” một tiếng, kéo đứt một nửa bên màn trướng. Hắn vụt đứng lên, chân phải lại kéo lật tấm chăn đắp trên người Miêu Nhược Lan khiến người nàng lộ phần trên.

Miêu Nhân Phượng đánh đang hăng, chợt thấy trên giường có một thiếu nữ đang nằm, áo lót không che kín được người, hai má ửng hồng, ngay dơ không động đậy, chính là ái nữ độc nhất của mình. Ông hoảng quá, kêu lên:

– Lan nhi, con sao thế?

Miêu Nhược Lan không mở miệng được, chỉ ngước mắt nhìn phụ thân, vừa thẹn vừa cuống.

Miêu Nhân Phượng vươn hai cánh tay ra, lách ra được vòng vây của bốn người, đến kéo con gái dậy, nhưng thấy người nàng mềm nhũn như bông không cử động được, lúc ấy mới biết nàng đã bị cao thủ điểm trúng huyệt đạo. Chính mắt ông trông thấy Hồ Phỉ nhảy từ trong giường ra, thì ra tên này hiếp đáp ái nữ của mình. Ông giận tái cả người, không kịp giải huyệt cho con gái đã quát mắng:

– Gian tặc!

Rồi vung song quyền sấn tới đánh Hồ Phỉ.

Lúc này mắt Miêu Nhân Phượng như tóe lửa, song quyền đánh ra bằng tất cả công lực gộp lại một đời, thế đi của kình lực chẳng khác nào xô núi lấp biển. Hồ Phỉ thất kinh. Chàng đang tập trung tinh thần hoá giải chiêu thức của Tưởng lão quyền sư, không để ý tới xung quanh, không thấy Miêu Nhân Phượng kéo Miêu Nhược Lan dậy như thế nào, trong lòng cảm thấy khó hiểu, rõ ràng chàng vừa mới cứu ông ta, tại sao ông ta quay ra động võ đánh mình? Nhưng thế đánh tới của Miêu Nhân Phượng rất lợi hại, chàng không kịp cất tiếng hỏi đã vội tránh sang bên trái. Nghe “binh” một tiếng, song quyền của Miêu Nhân Phượng đã đánh trúng vào lưng Tưởng lão quyền sư.

Lão này luyện công phu hạ bàn vững như bàn thạch, một khi đã đứng mã bộ thì dù có mấy người khỏe mạnh cùng ra sức cũng không làm lão nhúc nhích nổi. Khi song quyền của Miêu Nhân Phượng đánh tới thì đúng lúc lão đang xoay lưng về phía Hồ Phỉ, nào ngờ một người đánh gấp, một người tránh nhanh, song quyền ập tới trúng ngay lưng lão. Nếu là người khác, trúng hai quyền này tất đã té ngã xuống đất, nhưng công phu hạ bàn của lão quyền sư quá tốt, nên cứng va với cứng, nghe một tiếng “rắc” vang lên, xương sống bên trong gẫy thành hai đoạn, chỉ còn thân hình mềm oặt gập làm đôi, hai chân vẫn bám vững đất, nửa thân trên đổ xuống, trán đập xuống đất, không đứng lên được nữa.

Bọn kia thấy Miêu Nhân Phượng dũng mãnh như thế thì la ó rân trời, tản ra tứ phía. Miêu Nhân Phượng chân trái quét ngang, lại đá vào Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ thấy Miêu Nhược Lan lộ người dưới ánh nến, mấy tên tâm địa bất chính đang liếc ngang liếc dọc hau háu nhìn nàng thì thầm nghĩ, việc cần nhất là phải bảo vệ tấm thân trinh bạch ấy. Chàng thuận tay kéo luôn một tên thị vệ cho đứng chắn giữa mình và Miêu Nhân Phượng, rồi lách người nhào tới bên giường, kéo chăn đắp lên người nàng. Mấy động tác này nhanh nhẹn vô cùng, mọi người chưa kịp nhìn rõ thì chàng đã bế Miêu Nhược Lan chui qua lỗ hổng bên vách ra khỏi phòng.

Miêu Nhân Phượng tung chân đá thốc tên thị vệ lên tận mái nhà, thấy Hồ Phỉ vác con gái mình chạy thì vừa giận vừa kinh hãi, quát to:

– Gian tặc, mau thả con gái ta ra!

Vừa nói ông tung người đuổi theo. Nhưng phòng hẹp người đông, bị mấy địch thủ sấn lại làm vướng tay vướng chân, mặc cho ông đấm đá, nhất thời khó mà thoát ra được.

Hồi 10

Hồ Phỉ thấy Miêu Nhân Phượng nổi giận thì thần uy lẫm liệt, trong bụng cũng thầm kinh hãi, ôm Miêu Nhược Lan không dám dừng chân. Chàng chạy một mạch tới bờ núi, một tay kéo thừng tuột luôn xuống dưới chân núi. Chàng biết gần đó có một sơn động rất ít người qua lại, liền thi triển khinh công chạy thẳng đến đó. Tuy chàng phải bế Miêu Nhược Lan nhưng người nàng rất nhẹ, hoàn toàn chẳng làm giảm tốc độ chạy chút nào.

Chừng chưa uống xong một chung trà, chàng đã bế Miêu Nhược Lan vào sơn động, quấn nàng trong chăn rồi để ngồi tựa vào vách động. Chàng thầm tính toán trong bụng:

– Nếu muốn giải huyệt đạo cho nàng thì không đụng đến người nàng không xong; còn nếu không giải cứu, nàng lại không biết nội công, càng để lâu chỉ sợ tổn hại cho sức khỏe của nàng.

Thực là vô cùng khó xử, chàng bèn lấy mồi lửa nhóm cháy một cành cây khô. Dưới ánh lửa, thấy đôi mắt Miêu Nhược Lan như gợn sóng thu, khuôn mặt ngời sáng, chàng bèn nói:

– Miêu cô nương, tại hạ tuyệt không có ý khinh bạc mạo phạm, nhưng muốn giải khai huyệt đạo cho cô nương thì khó tránh khỏi đụng chạm đến quý thể, vậy việc này nên như thế nào?

Miêu Nhược Lan tuy không thể gật đầu tỏ ý, nhưng ánh mắt nàng dịu dàng như thẹn thùng như cảm ơn, không hề có vẻ oán giận. Hồ Phỉ cả mừng, bèn thổi tắt lửa trước, đưa tay vào trong chăn khẽ ấn vào mấy huyệt đạo để làm thông kinh mạch cho nàng.

Tay chân Miêu Nhược Lan dần dần cử động được, nàng khẽ nói:

– Ðược rồi, xin đa tạ!

Hồ Phỉ vội rụt tay lại, định mở miệng nói nhưng lại không biết nói gì. Một lúc lâu sau, chàng mới nói:

– Vừa nãy mạo phạm, thực là lỗi không cố ý. Lòng này quang minh trong sáng, có trời cao chứng giám, chỉ mong cô nương thứ lỗi.

Miêu Nhược Lan khẽ đáp:

– Muội biết rồi!

Sau đó, hai người ngồi trong bóng tối, đối mặt nhau mà không nói gì. Ngoài sơn động tuy băng tuyết xuống đầy, nhưng hai người thấy lòng ấm áp, trong sơn động như có gió xuân dịu mát, nắng xuân reo vui.

Một lúc sau, Miêu Nhược Lan lên tiếng:

– Không biết gia phụ bây giờ thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Lệnh tôn là anh hùng vô địch, bọn chúng đâu phải đối thủ của lão nhân gia. Xin cô nương cứ yên tâm.

Miêu Nhược Lan khẽ thở dài, nói:

– Ðáng tiếc là gia phụ tưởng huynh… huynh không tốt với muội.

Hồ Phỉ nói:

– Cũng khó trách lệnh tôn. Tình thế hồi nãy cũng thật khó xử.

Miêu Nhược Lan đỏ mặt lên, nói:

– Gia phụ vì có chuyện thương tâm cho nên dễ kích động, xin Hồ gia đừng lấy làm lạ!

Hồ Phỉ nói:

– Chuyện gì vậy?

Vừa thốt ra lời, Hồ Phỉ biết ngay đã lỡ lời, toan nói gì đó để đánh trống lảng, nhưng nhất thời không biết nên nói gì. Chàng xưng hiệu là Tuyết Sơn Phi Hồ, ngày thường thông minh lanh lợi, cơ biến mưu trí, nhưng hôm nay trước người thiếu nữ dịu dàng thanh nhã này, không hiểu vì sao lại biến thành một người khác hẳn, tỏ ra hết sức vụng về.

Miêu Nhược Lan nói:

– Việc này nói ra thật xấu hổ, nhưng muội cũng không muốn giấu huynh, đó là câu chuyện về mẫu thân của muội.

Hồ Phỉ “à” một tiếng. Miêu Nhược Lan nói tiếp:

– Mẫu thân muội đã phạm một sai lầm.

Hồ Phỉ nói:

– Ai mà chẳng có lỗi lầm? Chuyện đó chẳng cần để bụng làm gì!

Miêu Nhược Lan chậm rãi lắc đầu, nói:

– Ðây là sai lầm lớn lắm, là việc mà một người đàn bà không thể mắc phải trong đời, dù chỉ một lần. Mẫu thân muội vì sai lầm đó mà hủy hoại một đời. Cả gia phụ cũng suýt vì nó mà hủy hoại cả một đời.

Hồ Phỉ im lặng, thầm đoán ra được mấy phần. Miêu Nhược Lan kể tiếp:

– Gia phụ là hào kiệt giang hồ, gia mẫu lại là thiên kim tiểu thư xuất thân từ nhà quan. Một lần tình cờ gia phụ cứu mạng gia mẫu, sau đó hai người thành thân. Hai người vốn không hợp với nhau lắm, thế cũng xong. Nhưng gia phụ đã làm một chuyện rất sai lầm là thường khen Hồ bá mẫu trước mặt gia mẫu.

Hồ Phỉ ngạc nhiên, hỏi:

– Khen mẫu thân tại hạ ư?.

Miêu Nhược Lan đáp:

– Ðúng thế. Hồi gia phụ tỉ võ với lệnh tôn, lão nhân gia thấy lệnh đường oai phong lẫm liệt, có khí phách hơn cả đám mày râu. Ngày thường nói chuyện phiếm, gia phụ tỏ ý hâm mộ lệnh tôn, nói rằng: “Hồ đại hiệp được vị phu nhân như thế, sống một ngày hơn người khác sống trăm năm!”. Mẫu thân muội nghe vậy, tuy không nói ra, nhưng trong lòng không vui. Sau đó, Ðiền Quy Nông của Thiên Long Môn đến nhà muội. Y tướng mạo tuấn tú, nói chuyện phong nhã, lại biết thủ thỉ làm vui lòng người. Gia mẫu trong một lúc thiếu suy nghĩ, đã bỏ muội lại, trốn đi theo y.

Hồ Phỉ nhè nhẹ thở dài, không còn biết nói gì. Miêu Nhược Lan nghẹn ngào, kể tiếp:

– Lúc ấy muội mới ba tuổi, gia phụ bế muội đuổi theo suốt đêm, lão nhân gia không ăn không ngủ suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng đã đuổi kịp họ. Ðiền Quy Nông thấy gia phụ sao dám động thủ? Còn mẫu thân muội thì ra sức bênh vực cho y. Gia phụ thấy gia mẫu thực lòng yêu y, không có cách nào khác đành bế muội đi. Về tới nhà, gia phụ ốm một trận suýt chết. Gia phụ nói với muội, nếu không vì sợ muội bị bơ vơ côi cút, sống trên đời này không ai chăm nom, thì lão nhân gia đã chết quách đi cho rồi. Liền ba năm, gia phụ không ra khỏi cửa lấy một bước, có lúc kêu lên: “Nam Lan ơi! Sao nàng dại dột như vậy?”. Tên của gia mẫu cũng có chữ Lan.

Nói đến đây, Miêu Nhược Lan hơi đỏ mặt. Phải biết thời ấy đàn bà con gái thường giữ kín tên của mình, người ngoài chỉ được biết họ mà thôi. Chỉ có những người chí thân, gần gũi nhất mới được nói cho biết tên. Miêu Nhược Lan nói thế thì cũng như là nói với Hồ Phỉ tên của mình.

Hồ Phỉ tuy không thấy vẻ mặt của nàng, nhưng nghe nàng mang câu chuyện tuyệt đối bí mật trong gia đình nàng kể cho mình nghe thì không kềm được xúc động, cuối cùng nghe nàng nói ra tên của nàng thì càng cảm thấy giống như say men rượu, lâng lâng ngây ngất, một hồi lâu mới lên tiếng, nói:

– Miêu cô nương, tên Ðiền Quy Nông bụng dạ xấu xa, chắc gì đã có tình ý với lệnh đường thật?

Miêu Nhược Lan thở dài, đáp:

– Gia phụ cũng nói như vậy, nhưng gia phụ thường tự trách mình, cho rằng nếu lão nhân gia ân cần chăm sóc mẫu thân muội hơn thì bà chẳng đến nỗi bị người khác lừa. Gia phụ xưng hiệu là “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, nhưng về mặt xử thế và giao tiếp với người thì thua xa Ðiền Quy Nông. Tên họ Ðiền lừa dối gia mẫu thực ra là muốn lấy bản đồ kho tàng gia truyền của nhà họ Miêu. Tuy y đã khiến gia đình muội tan nát, khiến muội không có mẹ từ thuở ấu thơ, nhưng rốt cuộc y vẫn uổng phí tâm cơ. Gia mẫu đã nhìn thấu tâm địa của y, nên trước lúc lâm chung đã gửi trả chiếc thoa ngọc có giấu tấm bản đồ lại cho gia phụ.

Sau đó Miêu Nhược Lan kể lại tất cả những điều Lưu Nguyên Hạc mắt thấy tai nghe lúc chui dưới gầm giường, kể tới việc bọn Bảo Thụ giật lấy tờ bản đồ, rồi dựa vào thanh quân đao của Sấm Vương và tấm bản đồ để đi tìm bảo tàng như thế nào cho Hồ Phỉ nghe.

Hồ Phỉ hầm hầm, nói:

– Lòng dạ tên họ Ðiền thật vô cùng thâm độc. Hắn sợ lệnh tôn, lại không lấy được tấm bản đồ bèn mượn tay quân qua bắt ông, để buộc ông phải giao ra tấm bản đồ. Nào ngờ lưới trời lồng lộng, cuối cùng cũng không thoát khỏi quả báo ứng! Ôi, kho tàng ấy không biết đã làm hại bao người rồi!

Ngừng giây lát rồi Hồ Phỉ lại nói:

– Miêu cô nương, gia phụ tại hạ thành thân với gia mẫu là nhờ kho tàng ấy đấy!

Miêu Nhược Lan kêu lên:

– Ôi! Thật thế sao? Mau kể cho muội nghe đi!

Nàng tuy giữ ý, nhưng dù sao cũng còn ít tuổi, lúc háo hức liền giơ tay nắm chặt lấy tay Hồ Phỉ. Có điều ngay sau đó nhận ra là không tiện bèn rụt tay về. Hồ Phỉ khẽ cầm lấy tay nàng, không chịu buông. Miêu Nhược Lan mặt đỏ lên, thôi không rút tay về nữa. Nàng cảm thấy sức nóng ở bàn tay chàng thấm sâu đến tận tim mình.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương biết mẫu thân tại hạ là ai không? Là biểu muội của Đỗ trang chủ, Đỗ Hi Mạnh đấy!

Miêu Nhược Lan càng lấy làm lạ, nói:

– Muội từ bé đã biết Ðỗ bá bá, nhưng gia phụ chưa nhắc đến chuyện ấy bao giờ.

Hồ Phỉ nói:

– Tại hạ biết được chuyện này là từ di thư của song thân để lại, thiết nghĩ lệnh tôn chưa chắc đã biết rõ chi tiết trong chuyện này. Ðỗ trang chủ lần được một vài manh mối, đoán rằng kho tàng phải ở quanh vùng Tuyết sơn này nên ở lâu dài trên núi để tìm kiếm. Có điều lão xưa nay suy nghĩ chậm chạp, lại không có cơ duyên, nên rút cục vẫn không tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Gia phụ ngầm tìm hiểu và tìm ra trước lão. Gia phụ vào trong sơn động nơi cất giấu kho tàng thì thấy phụ thân của Ðiền Quy Nông và nội tổ của cô nương chết trong sơn động. Lão nhân gia đang khai quật kho tàng thì bất ngờ gia mẫu cũng vào theo.

Bản lãnh gia mẫu cao hơn Ðỗ trang chủ nhiều. Mấy ngày liền gia phụ loanh quanh trong vùng gần đấy, nên gia mẫu đã nhìn ra được đầu mối. Bà vào tới kho tàng liền ra động thủ với gia phụ. Hai người đúng là không đánh nhau thì không quen nhau, rồi họ khâm phục lẫn nhau, thế là gia phụ ngỏ lời cầu thân. Gia mẫu nói, từ nhỏ bà được biểu ca là Ðỗ Hi Mạnh nuôi dưỡng, nếu để gia phụ lấy kho tàng thì bà có lỗi với biểu ca, hỏi gia phụ muốn lấy bà hay là muốn có kho tàng, trong hai chỉ được chọn một.

Gia phụ ha hả cười lớn, trả lời rằng có mười vạn cái kho tàng cũng không bằng gia mẫu. Lão nhân gia viết lại chuyện này trên giấy để trong sơn động, nhằm sau này hậu nhân có người nào tìm ra phải hiểu rằng thứ quý báu nhất trên đời này là tình yêu chân thành của hai trái tim cùng hạnh phúc bên nhau, chứ không phải là kho tàng trị giá liên thành.

Miêu Nhược Lan nghe đến đây bất giác mơ màng, khẽ nói:

– Tuy lệnh tôn và lệnh đường mất sớm nhưng vẫn hạnh phúc hơn song thân của muội.

Hồ Phỉ nói:

– Có điều tại hạ từ nhỏ côi cút không cha không mẹ, đáng thương hơn cô nương nhiều.

Miêu Nhược Lan đáp:

– Gia phụ mà biết huynh còn sống trên đời này thì dù phải vứt bỏ mọi thứ ông cũng nuôi nấng huynh. Thế thì chúng ta đã được gặp nhau từ nhỏ rồi.

Hồ Phỉ đáp:

– Nếu tại hạ sống trong gia đình cô nương, chỉ e lại bị cô nương ghét bỏ.

Miêu Nhược Lan cuống lên, nói:

– Không, không đời nào! Làm sao có chuyện đó? Nhất định muội sẽ đối xử rất tốt với huynh, giống như đối với ca ca ruột thịt của mình!

Hổ Phỉ nghe tim đập rộn lên, nói:

– Bây giờ mới gặp mặt nhau có muộn không?

Miêu Nhược Lan không đáp, một lúc sau mới khẽ nói:

– Không muộn đâu!

Miêu Nhược Lan ngượng một hồi rồi lại nói thêm:

– Muội rất mừng!

Xưa nay lòng luyến ái giữa nam nữ chỉ cần một lời là đủ truyền hết ý cho nhau.

Hồ Phỉ nghe được câu ấy thì mừng như điên, nói:

– Suốt đời Hồ Phỉ không dám phụ lòng!

Miêu Nhược Lan nói:

– Muội nhất định học theo Hồ bá mẫu chứ không học theo gia mẫu.

Mấy câu này nàng nói với vẻ ngây thơ nhưng ý tứ trong lời nói tỏ ra đã quyết, đó là cả đời mình trao cho Hồ Phỉ, bất kể xấu hay tốt, bất kể mai sau khổ hay sướng cũng đều chia xẻ với chàng.

Hai người nắm tay nhau, không nói gì, dường như sơn động bé nhỏ này là cả một thế giới của họ, mà quên hết mọi thứ ngoài kia.

Qua một lúc lâu, Miêu Nhược Lan mới nhắc:

– Chúng ta đi tìm gia phụ đi, đừng thèm để ý những người của Ðỗ trang chủ.

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm!

Tuy nói vậy, nhưng trong đời Hồ Phỉ chưa từng có được niềm hạnh phúc như vừa rồi, nên thực tình chàng không muốn rời sơn động. Miêu Nhược Lan cũng có cùng tâm trạng này, cảm thấy còn muốn nói chuyện với nhau, gần nhau thêm được chút nào hay chút ấy, bèn hỏi:

– Ðỗ trang chủ là bậc trưởng bối của huynh, sao huynh lại làm khó y?

Hồ Phỉ hầm hầm, nói:

– Việc này nói ra thật đáng hận. Lúc lâm chung, gia mẫu nhờ lệnh tôn trông nom nuôi nấng tiểu huynh thành người. Trong mớ tã lót của huynh, lão nhân gia có để lại một số di vật và một di thư, trong đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của tiểu huynh, quê quán họ Hồ, tên họ tổ tông cùng họ hàng thân thuộc còn sống. Sau đó xảy ra bất trắc, Bình Tứ thúc ẵm tiểu huynh chạy trốn. Tứ thúc tưởng lệnh tôn muốn hại huynh nên thấy trong di thư có tên họ của Ðỗ trang chủ bèn bế tiểu huynh tìm tới. Nào ngờ Ðỗ trang chủ sinh lòng xấu xa, muốn lấy quyển võ học bí truyền của gia phụ. Lão lại lờ mờ đoán rằng gia phụ cùng gia mẫu biết bí mật của kho tàng, nên đã lục soát số di vật mà mẹ huynh để lại cho huynh. Bình Tứ thúc biết chuyện không hay, suốt đêm bế tiểu huynh chạy trốn xuống khỏi núi, mang theo được quyển võ học bí truyền đó, nhưng gói di vật gia mẫu để lại cho tiểu huynh thì lại đánh rơi trên sơn trang. Lần này tiểu huynh hẹn với lão ta là muốn hỏi tại sao lão lại bắt nạt tiểu huynh, một đứa trẻ mồ côi, và muốn đòi lại số di vật của gia mẫu.

Miêu Nhược Lan nói:

– Ðỗ trang chủ xưa nay đối xử với người ôn hoà khiêm tốn, lại rất hiếu khách, không ngờ lại đối xử với huynh tồi tệ đến vậy.

Hồ Phỉ đáp:

– Con người này giả nhân giả nghĩa, chỉ nội việc lão mưu hại lệnh tôn đủ suy ra những việc khác…

Nói đến đây, giọng dịu hẳn lại, Hồ Phỉ nói:

– Nhưng bây giờ huynh không còn oán hận lão nữa. Nếu không có lão, làm sao huynh gặp được muội?

Đang nói đến đây, bỗng nghe văng vẳng ngoài sơn động có tiếng binh khí choảng nhau, xen kẽ với tiếng quát tháo chửi bới. Có điều những âm thanh cực trầm, cực nhỏ, Hồ Phỉ lờ mờ nhận ra được, còn Miêu Nhược Lan chỉ tưởng đó là tiếng gió lào xào lay tùng bách, tiếng tuyết rơi từ trên núi.

Hồ Phỉ nói:

– Tiếng này vang lên từ lòng đất, thật là lạ! Muội ở đây, huynh ra xem sao!

Nói xong đứng dậy. Miêu Nhược Lan vội nói:

– Không, muội đi theo huynh!

Hồ Phỉ cũng không muốn để nàng một mình trong sơn động, liền nói:

– Được!

Rồi cầm tay nàng ra khỏi sơn động, lần theo tiếng động mà đi.

Hai người thong thả đạp tuyết đi chừng mấy chục dặm. Hôm ấy là ngày rằm tháng ba, trăng đang độ tròn, ánh trăng bạc chiếu xuống ánh tuyết trắng bạc, lại phản chiếu trên làn da trắng ngần của Miêu Nhược Lan, đúng là cảnh tiên trên cõi nhân gian, nào biết đêm nay cái đêm gì? Lúc này Hồ Phỉ đã cởi áo ngoài của mình khoác lên vai Miêu Nhược Lan. Dưới ánh trăng, bốn mắt nhìn nhau, quên hết mọi chuyện, thật không còn gì vướng bận trong lòng.

Hai người thấy lòng êm dịu, những câu thơ vịnh về tình thâm gắn bó của người xưa bỗng từng câu giống như muốn thoát ra từ miệng hai người. Hồ Phỉ bất giác ngâm khẽ:

Cùng nhau cạn chén rượu mời

Nguyện xin được sống trọn đời bên nhau

Miêu Nhược Lan ngẩng đầu nhìn lên vào mắt chàng, khẽ ngâm theo:

Sắt cầm hòa điệu bền lâu

Tuổi càng cao lại càng sâu nghĩa tình

Ðó là lời đối đáp của một đôi vợ chồng trong Kinh Thi, tình ý miên man, đầm ấm vô hạn. Chợt tiếng người dưới lòng đất vang rõ hơn, hai người dừng bước, nghiêng tai lắng nghe.

Hồ Phỉ phân biệt thanh âm tinh hơn, nói:

– Bọn họ đã tìm được nơi cất giấu kho tàng, đang tranh giành chém giết nhau dưới đó.

Chàng đọc di thư của phụ thân, biết địa điểm kho tàng, đã từng vào đó mấy lần và lấy ra tờ giấy song thân để ở đó năm nào, lấy cả cây bút vàng của phụ thân Ðiền Quy Nông. Sáng hôm nay, chàng búng cây bút vàng cho Ðiền Thanh Văn là có ý cảnh cáo. Tuy biết rõ chỗ của kho tàng nhưng thể theo ý song thân, chàng không muốn khai quật nó. Lúc này căn cứ theo hướng tiếng động, chàng đoán bọn Bảo Thụ đã thấy châu báu vàng bạc mà đỏ mắt lên, đang tranh đoạt với nhau.

Hồ Phỉ đoán không sai một ly. Trong sơn động dưới đất, các bọn người của các phái Thiên Long môn, Ẩm Mã Xuyên sơn trại, Bình Thông tiêu cục đang chém giết nhau để tranh giành báu vật. Bảo Thụ khoanh tay đứng xem, chỉ cười nhạt, thầm nghĩ:

– Bọn mi cứ đâm chém nhau một hồi đi cho thỏa đi, rồi lão hoà thượng ta sẽ thong thả thu thập từng tên một.

Chu Vân Dương đang giằng co với Hùng Nguyên Hiến, hai người ôm nhau lăn lộn dưới đất. Bỗng cả hai lăn đến cạnh đống lửa. Lúc đầu cả hai đều muốn đè đối phương vào đống lửa, nào ngờ lăn lộn một lúc suýt nữa làm tắt cả lửa. Bảo Thụ mắng:

– Muốn chết cóng cả lũ hay sao mà dập lửa thế?

Lão thò chân phải móc dưới người Chu Vân Dương rồi hất tung cả hai người cùng bay lên rồi rơi bịch xuống đất.

Bảo Thụ cười khặc khặc, cúi xuống nhặt mấy thanh củi to bỏ thêm vào đống lửa. Ðang định thẳng lưng đứng lên, chợt thấy dưới ánh lửa bập bùng có hai bóng người rọi trên vách băng trước mặt. Hai bóng người này cùng đang chuyển động. Bảo Thụ giật mình quay lại nhìn, thì thấy ở cửa sơn động có hai người đứng sánh vai nhau, một người mặt có vẻ e lệ, đó là Miêu Nhược Lan, người kia râu ria tua tủa, ánh mắt lộ sát khí, đó là Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ.

Bảo Thụ “A!” lên một tiếng, vẫy tay phải ra, một xâu tràng hạt sắt bay đi. Tràng hạt lúc đầu ném ra liền như một chuỗi nhưng thực ra dây xâu đã bị lão ngắt từ trước, nên mấy chục hạt bỗng chia ra các hướng trên dưới, tả hữu nhắm vào các huyệt quan trọng trên người Hồ Phỉ và Miêu Nhược Lan. Ðây là tuyệt kỹ lão đã khổ luyện hơn mười năm, chỉ dùng trong lúc nguy cấp nhằm giữ tính mạng, chưa bao giờ dùng khi lâm địch. Lúc này, gặp đại địch, sự tình quá đột ngột, lão lập tức tung chiêu sát thủ này ra.

Hồ Phỉ cười nhạt một tiếng, bước tới một bước, che trước người Miêu Nhược Lan. Bảo Thụ thấy chàng không có công phu kì lạ nào chống đỡ thì cả mừng, thầm nghĩ:

– Thì ra ngươi chỉ làm bộ làm tịch, công phu chẳng qua có vậy. Phen này phải cho ngươi chết không đất chôn thây mới được!

Đang lúc đắc ý chợt thấy Hồ Phỉ vung hai tay áo ra, cuộn hết mấy chục hạt sắt đang vun vút bay tới, tay áo rũ mạnh, có tiếng lách tách như tiếng băng rơi, mấy chục viên sắt đã bay tạt cả sang vách băng, làm băng vỡ vụn bắn toé ra tứ phía.

Bảo Thụ thấy thế thì bở vía, vội vàng nhảy lùi ra phía sau Tào Vân Kỳ. Lão sợ Hồ Phỉ đuổi theo, liền hô lên:

– Hỏng rồi!

Hai tay chộp lấy lưng Tào Vân Kỳ, nhấc tấm thân cao lớn của hắn lên ném vào đống lửa. Lão định dập tắt lửa để Hồ Phỉ không thấy mình, nào ngờ đống lửa vừa được bỏ thêm củi khô đang rực cháy. Tào Vân Kỳ ngã vào lửa, lửa bén vào quần áo hắn khiến trong sơn động càng sáng hơn.

Hồ Phỉ thấy Bảo Thụ vừa thấy mình đã giở ngay độc thủ với mình và Miêu Nhược Lan, lại nghĩ tới những lời Bình A Tứ, đủ biết lão hoà thượng này bỉ ổi ham tiền, đã hại tính mạng phụ thân mình thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, chẳng khác gì đống lửa đang cháy trong sơn động vậy. Chàng cúi nhặt một vốc châu báu, đặt lên lòng bàn tay trái, dùng ngón tay trỏ bên phải không ngừng búng đi.

Chỉ thấy nào trân châu, san hô, bích ngọc, mã não, phỉ thuý, bảo thạch, ngọc mắt mèo… thôi thì đủ thứ vật quý hiếm bay như mưa nhắm vào người Bảo Thụ. Mỗi một thứ bắn tới đều khiến lão đau đớn kịch liệt. Bảo Thụ vọt lên, hụp xuống cố tránh, nhưng hễ ngón tay Hồ Phỉ búng ra, châu báu bắn tới đều thật chính xác, không chệch chút nào. Bảo Thụ làm sao tránh được. Người trong sơn động không ít, vậy mà số châu báu này không bắn trúng ai khác.

Nhìn thấy cảnh đó, bọn Lưu Nguyên Hạc, Ðào Bách Tuế đều nép sát người vào vách động không dám động đậy. Lúc đầu Bảo Thụ còn né đông tránh tây, sau mắt cá chân trúng liền hai viên ngọc bích, lão ngã ngay xuống, không đứng dậy được, đành kêu la lăn lộn dưới đất. Lúc nãy, lão chỉ sợ châu báu không nhiều, lúc này lão lại mong châu báu càng ít càng hay.

Hồ Phỉ càng búng kình lực càng lúc càng nặng, nhưng cố ý tránh những chỗ nguy hiểm đến tính mạng, để cho lão nếm đủ mùi cay đắng. Những người kia lùi cả vào một góc động, chăm chú nhìn xem, ai nấy hồn xiêu phách lạc, tay chân bủn rủn, ngay cả thở cũng không dám thở mạnh.

Miêu Nhược Lan thấy Bảo Thụ kêu la thê thảm quá, trong lòng không nỡ, bèn nói nhỏ:

– Người này rất xấu xa, nhưng lão bị thế cũng đủ rồi, huynh tha cho lão đi!

Bình sinh Hồ Phỉ đã trừ ác là trừ tận gốc, huống hồ người này chính là đại cừu nhân đã giết hại chết cha mẹ mình, nhưng vừa nghe Miêu Nhược Lan nói, chàng bỗng thấy mình đã được hưởng hạnh phúc cực lớn, vui vẻ vô tận, nên lòng căm giận tên đại ác nhân cũng vơi đi nhiều. Chàng bèn vung tay trái ra, hơn mười mảnh ngọc quý còn lại trên tay bắn ra, kêu lách tách một trận, găm hết vào trong vách băng.

Mọi người đều kinh hãi quá mức, thầm nghĩ: “Số châu báu ấy nếu cho Bảo Thụ nếm mùi, thì chỉ một mảnh thôi cũng đủ lấy mạng lão!”.

Hồ Phỉ trừng mắt quét từ trái sang phải, ánh mắt lướt đến mặt người nào, người ấy bất giác cúi gầm xuống, không dám chạm ánh mắt chàng. Trong hang im lặng như tờ, Bảo Thụ tuy cả người đau đớn nhưng không dám rên nửa tiếng.

Một lúc sau, chàng quát:

– Các vị tham châu báu đến thế thì ở lại trong động này mà làm bạn với châu báu nhé!

Nói xong chàng dắt tay Miêu Nhược Lan quay gót bước ra.

Cả bọn không ngờ chàng chịu buông tha bon họ dễ dàng đến thế, ai nấy đều mừng rỡ nhìn ra, khi nghe tiếng bước chân của hai người xa dần trong đường hầm. Họ cùng reo hò, rồi cúi xuống nhặt châu báu.

Hồ Phỉ cùng với Miêu Nhược Lan ra tới ngoài hai khối đá tròn, Hồ Phỉ nói:

– Chúng mình ngồi đây đợi một lát xem họ có chịu ra không. Ai ít lòng tham, chịu ra ngoài thì tha mạng người đó.

Lúc này trong động mọi người dùng tay bới nhặt lung tung, chỉ giận cha mẹ không sinh cho mình thêm vài cái tay nữa. Một lúc lâu sau, bỗng trong đường hầm vang lên mấy tiếng ầm ầm nặng nề, lúc đầu bọn họ không hiểu, sau mới nghĩ ra thì ai nấy đều hoảng sợ, mặt mày xám xịt, cùng la lên:

– Trời ơi, nguy mất rồi!

– Hắn lấp chặt lối ra rồi!

– Mau đuổi theo liều mạng với hắn!

Trong lúc nguy cấp, mọi người tranh nhau ùa ra. Ðến được chỗ hai tảng đá tròn thì hai tảng đá đó đã bị Hồ Phỉ đẩy về chỗ cũ, bít hết cửa động.

Cửa động rất hẹp, bên ngoài còn có chỗ để đẩy, còn phía trong chỉ đủ chỗ cho một người đứng. Mặt đá lại trơn bóng, không bám vào đâu được mà xê dịch, bị lấp kín như thế này, chỉ một lúc sau số nước băng sẽ đông cứng lại, nếu bên ngoài không có người đến cứu thì người trong hang động không sao thoát ra ngoài được.

Miêu Nhược Lan thấy không nỡ, nói:

– Huynh định chôn sống bọn họ hay sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Muội nói đi, trong số đó ai là người tốt, đáng được tha mạng nào?

Miêu Nhược Lan thở dài, nói:

– Trên đời này, ngoài gia phụ và huynh ra, muội không còn biết ai thực sự là người tốt cả. Nhưng huynh không thể giết hết kẻ xấu trong thiên hạ được.

Hồ Phỉ ngẩng người, hỏi:

– Tiểu huynh cũng được kể là người tốt sao?

Miêu Nhược Lan ngẩng đầu lên nhìn chàng, đáp:

– Muội biết huynh là người tốt. Khi chưa gặp huynh, muội đã biết rồi kia! Ðại ca, đại ca có biết trái tim muội đã thuộc về đại ca tự lúc nào rồi không?

Ðây là lần đầu tiên nàng buộc miệng gọi chàng là “đại ca”, nhưng âm thanh nghe thật tự nhiên, dường như đã thuận miệng quen gọi như thế từ rất lâu. Hồ Phỉ không sao kềm chế được nữa, dang tay ra ôm chặt lấy nàng. Miêu Nhược Lan cũng vòng tay ôm lại, tựa cả người vào lòng chàng. Hai người ôm lấy nhau, chỉ mong sao giây phút này kéo dài vô tận.

Hai người ôm nhau như thế không biết đã được bao lâu thì ngoài cửa động truyền vào tiếng bước chân. Hồ Phỉ thầm nghĩ:

– Hỏng rồi, mình lấp cửa đường hầm để chôn sống bọn kia thì lại có con chim sẻ rình con bọ ngựa bắt con ve, có kẻ khác lấp cửa động chôn sống mình!

Tay vẫn ôm Miêu Nhược Lan không buông ra, Hổ Phỉ gấp rút đưa nàng ra khỏi động.

Dưới ánh trăng, họ thấy trên tuyết có hai người ra sức chạy trối chết, hiển nhiên là các hào khách võ lâm đã động thủ với Hồ Phỉ trên đỉnh Tuyết sơn. Chàng cười, bảo:

– Lệnh tôn đang đuổi bọn chúng chạy đấy.

Chàng cúi xuống vốc một nắm tuyết, vận kình ra ngón tay nắm tuyết thành hòn cứng như đá. Chàng vung tay ra, hòn tuyết bay thẳng tới, trúng vào lưng một người. Người đó ngã chúi xuống không đứng dậy được. Người chạy sau thất kinh, ngoái cổ lại nhìn, thì một hòn tuyết khác bay trúng vào ngực, lập tức ngã ngửa ra. Tuy hai người té hai kiểu ngã khác nhau, nhưng cả hai đều không sao đứng dậy được.

Hồ Phỉ cười ha hả, rồi bỗng dịu giọng hỏi:

– Trái tim muội thuộc về tiểu huynh từ khi nào? Tiểu huynh nghĩ chắc không thể sớm hơn tiểu huynh được. Ngay lúc mới lần đầu nhìn thấy muội, tiểu huynh… tiểu huynh đã không còn làm chủ được bản thân nữa.

Miêu Nhược Lan thủ thỉ:

– Mười năm trước, khi mới lên bảy, muội nghe gia gia kể về song thân của đại ca, lòng muội chỉ toàn nghĩ tới đại ca. Muội tự nhủ, nếu cậu bé đáng thương đó còn sống trên đời này thì muội sẽ chăm sóc cho cậu ta suốt đời suốt kiếp, để cậu ta đưọc sung sướng, hạnh phúc, quên thủa nhỏ đã bị người ta bắt nạt, xử tệ sao đó.

Hồ Phỉ cảm kích trong lòng, không biết nói gì, chỉ biết ôm chặt nàng vào lòng. Mắt nhìn qua vai nàng, bỗng chàng thấy trên đỉnh Tuyết sơn có mấy bóng đen đang bám dây tuột xuống.

Hồ Phỉ kêu lên:

– Chúng mình chặn bọn xấu xa này cho lệnh tôn nhé!

Nói xong, chàng vận kình vào bàn chân rồi ôm Miêu Nhược Lan vụt chạy, chốc lát đã tới chân đỉnh Tuyết sơn.

Lúc này hai tên tào khách đã xuống tới chân núi, mấy người khác đang gấp rút tuột xuống theo. Hồ Phỉ đặt Miêu Nhược Lan xuống, song thủ nắm hai hòn tuyết rồi cùng lúc vung ra, hai tên hào khách la “oái” lên một tiếng ngã liền xuống đất.

Hồ Phỉ đang định vung hòn tuyết đánh bọn chưa xuống tới đất, chợt nghe lưng chừng núi có tiếng người nói vọng xuống:

– Ta thả chúng đi đấy, người ngoài đừng có cản!

Từng tiếng một trong hai câu này vang từ lưng chừng núi xuống, giọng vang lớn và rất rõ, chính là tiếng của Miêu Nhân Phượng.

Miêu Nhược Lan mừng rỡ gọi:

– Gia gia! Gia gia!

Hồ Phỉ nghe tiếng nói ấy xa ngoài trăm trượng nhưng âm thanh truyền tới chẳng khác nào người nói ở ngay trước mặt, thấy nội lực Kim Diện Phật quả thực thâm hậu hơn mình, bất giác rất khâm phục. Chàng vung hai tay ra, hai hòn tuyết nằm trong tay chàng lại cùng bay đi, lại trúng vào huyệt đạo hai người nằm dưới đất, nhưng lần trước là điểm huyệt, lần này là giải huyệt. Hai người này cựa mình mấy cái rồi chống tay đứng lên, bỏ chạy như điên.

Nghe tiếng Miêu Nhân Phượng từ lưng chừng núi lại vang lên:

– Quả nhiên hảo công phu, chỉ tiếc là học chưa đến nơi!

Lời bình gồm mười mấy chữ, mỗi tiếng lại gần thêm ra, rồi một người cao gầy bám thừng tụt xuống. Chữ “nơi” vừa ra khỏi miệng thì người này đã đứng ngay trước mặt Hồ Phỉ.

Hai người giương mắt nhìn nhau, đều không nói gì, chỉ nghe xung quanh tiếng lạo xạo, đó là tiếng bước chân trên tuyết của những kẻ lên núi lần này được thoát chết chạy tứ tán.

Dưới ánh trăng, thấy một người khập khiễng bước tới gần, chính là Đỗ trang chủ Ðỗ Hi Mạnh. Lão đưa một cái bọc dài chừng hai gang tay cho Hồ Phỉ, run run nói:

– Ðây là di vật của mẫu thân tiểu diệt, trong này không thiếu một thứ gì, tiểu diệt hãy nhận lấy đi!

Hồ Phỉ nhận lấy cái bọc, cảm thấy như có một luồng hơi nóng từ nó truyền vào tim, khiến chàng run rẩy cả người.

Miêu Nhân Phượng nhìn theo bóng Ðỗ Hi Mạnh đang lê bước xa dần trên tuyết, thầm nghĩ người này văn võ toàn tài, kết giao khắp thiên hạ, cũng xem như một hào kiệt, giao tình với mình đã hơn hai mươi năm, chỉ vì một niệm sai lầm mà thân bại danh liệt, thực đáng tiếc. Ông không biết Ðỗ Hi Mạnh và mẹ Hồ Phỉ là chỗ họ hàng gần gũi, càng không biết Hồ Phỉ là đứa con côi mà mình thương nhớ không quên trong hơn hai chục năm qua. Ông thong thả quay người lại, thấy con gái mình đang khoác áo đàn ông thẹn thùng đứng trên tuyết. Thầm nghĩ, người này tuy vừa cứu mình thoát chết, nhưng lại làm hoen ố sự thanh bạch của con gái mình, lại nhớ đến chuyện người vợ thất tiết đã mất, hận không thể giết hết bọn đàn ông vô hạnh khinh bạc trong thiên hạ. Nghĩ đến đây ngực Miêu Nhân Phượng như muốn vỡ ra, khàn khàn bảo Hồ Phỉ:

– Đi theo ta!

Nói xong sải chân bước đi.

Miêu Nhược Lan kêu lên:

– Gia gia, Hồ đại ca là…

Miêu Nhân Phượng vốn trầm mặc ít nói, xưa nay không thích nói thừa dù chỉ một tiếng, cũng không thích nghe thừa một lời nào, lúc này lại đang cơn giận bèn không cho con gái nói nữa. Thấy Hồ Phỉ đưa tay toan dắt con gái mình đi theo, ông quát to:

– To gan thật!

Miêu Nhân Phượng lướt tới giơ tay trái lên, bàn tay to bè bè như chiếc quạt nắm chặt lấy cánh tay trái của Hồ Phỉ, nói:

– Lan Nhi, con đứng đây. Ta có mấy câu cần nói với y.

Nói rồi chỉ một ngọn núi bên phải. Ngọn núi này tuy không cao vút tận mây như ngọn Ngọc Bút, nhưng phần nguy nga hiểm trở cũng chẳng kém là bao. Ông bỏ cánh tay Hồ Phỉ ra, chạy nhanh lên núi. Hồ Phỉ nói:

– Lan muội, lệnh tôn đã nói như vậy, tiểu huynh phải đi một lát đây. Muội đợi ở đây nhé!

Miêu Nhược Lan nói:

– Ðại ca nhận lời với muội một việc…

Hồ Phỉ đáp:

– Ðừng nói một việc, ngàn việc vạn việc huynh cũng theo ý muội cả.

Miêu Nhược Lan nói:

– Nếu gia gia muốn đại ca lấy muội…

Hai tiếng cuối cùng nhỏ như tiếng muỗi kêu cơ hồ không nghe được, nàng cúi mặt xuống, thẹn không ngửa mặt len.

Hồ Phỉ trao cái bọc vừa nhận từ Ðỗ Hi Mạnh lúc nãy cho Miêu Nhược Lan, dịu giọng nói:

– Muội yên tâm. Tiểu huynh giao di vật của gia mẫu cho muội. Trong thiên hạ không còn một vật ước định nào trang trọng như vật này cả.

Miêu Nhược Lan nhận lấy cái bọc, bất giác toàn thân run rẩy, khẽ nói:

– Tất nhiên muội tin huynh rồi, có điều muội hiểu tính gia gia. Nếu gia gia giận dữ thậm chí đánh mắng huynh, thì xin huynh hãy vì muội mà nhường nhịn gia gia lần này.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Ðược, tiểu huynh nhận lời!

Nhìn ra xa, bóng Miêu Nhân Phượng lúc ẩn lúc hiện giữa những mõm đá phủ tuyết trắng, đang chạy cực nhanh lên đỉnh núi. Hồ Phỉ hôn nhẹ lên má Miêu Nhược Lan, rồi đề khí chạy theo Miêu Nhân Phượng.

Chàng theo dấu chân trên tuyết mà chạy lên núi, ngoặt qua mấy khúc quanh co, thấy đường lên mỗi lúc càng hiểm trở, không dám sơ ý, chỉ e sẩy chân một cái là thịt nát xương tan. Chạy đến đoạn sau, vách núi đều là băng tuyết đông cứng, rất trơn, không có chỗ để chân bám mà lên. Chàng thầm nghĩ:

– Miêu đại hiệp cố ý chọn đường núi hiểm trở này hẳn là muốn kiểm tra võ công của mình đây!

Rồi triển khai khinh công, dốc toàn lực ra thi thố, đường núi càng hiểm trở chàng chạy càng nhanh. Lại chuyển qua một khúc ngoặt nữa, chàng bỗng thấy bóng người cao gầy đứng trên một phiến đá lồi ra bên vách núi, hình dáng nổi bật trên nền trời xanh thẫm như một cây cổ thụ khô cằn, chính là” Đả biến thiên hạ vô địch thủ” Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng

Hồ Phỉ sững người, vội vàng dừng bước, hai chân sử dụng công phu “Thiên cân trụy”, người vững chãi bên vách núi thẳng đứng. Miêu Nhân Phượng trầm giọng nói:

– Tốt, ngươi có giỏi thì tới đây!

Ông quay lưng về phía mặt trăng, mặt âm trầm nên không nhìn rõ được thần sắc.

Hồ Phỉ thở ra một hơi, đối diện với người mà mình đã nghĩ tới ngàn vạn lần này, nhất thời chàng không biết tính sao cho phải:

– Ông ta là kẻ thù giết cha ta nhưng lại là phụ thân của Miêu Nhược Lan. Ông đã khiến ta một đời côi cút buồn đau, nhưng nghe Bình Tứ thúc thúc nói ông hào hiệp trượng nghĩa, không hề có ý gì không phải với song thân mình. Ông lấy hiệu là “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ”, võ công cái thế, nhưng ta chưa phục, muốn thử xem ông mạnh hay ta mạnh?

Nhà họ Miêu của ông với nhà họ Hồ ta là thù địch nhiều đời, trăm năm nay đối đầu không dứt, nhưng ông không truyền võ công cho con gái, phải chăng thật lòng mong muốn mối thù truyền kiếp này đến đời ông thì cởi bỏ? Mới hồi nãy ta cứu tính mạng của ông, nhưng chính mắt ông thấy Miêu Nhược Lan chung chăn chung giường với ta, tin chắc ta đã giở trò vô lễ với con gái ông, không biết ông có tha lỗi cho ta không?

Miêu Nhân Phượng thấy dáng vẻ hào kiệt thô kệch, râu ria tua tủa của Hồ Phỉ thì mường tượng ra dáng vẻ Hồ Nhất Ðao năm xưa, trong lòng rung động, nhưng sau đó lại nhớ con trai Hồ Nhất Ðao đã bị người ta hại, ném xuống sông ở Thương Châu rồi. Người này tướng mạo khá giống, có lẽ là ngẫu nhiên trùng hợp mà thôi. Lại nghĩ đến chuyện hắn làm nhục con gái yêu độc nhất của mình thì lửa giận bừng bừng. Tay trái vung lên, tay phải đấm vù một cái, phóng thẳng tới ngực Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ chỉ đứng cách có vài bước chân, thấy Miêu Nhân Phượng vung quyền đánh tới, thế cực kỳ uy mãnh, đành xuất chưởng ra đỡ. Hai người quyền, chưởng giao nhau, hai bên đều thấy chấn động trong người.

Miêu Nhân Phượng từ khi so tài với Hồ Nhất Ðao đến nay, hơn hai chục năm qua chưa gặp được địch thủ nào, lúc này đường quyền của mình bị Hồ Phỉ hóa giải, biết đối phương luyện được chưởng pháp tinh diệu và nội lực thâm hậu, thì lòng hiếu thắng càng tăng. Ông vận chưởng thành luồng gió, liên tiếp ra liền ba chiêu.

Hồ Phỉ lần lượt hoá giải, đến chiêu thứ ba thì chưởng lực của Miêu Nhân Phượng cực mạnh, chàng tuy nhanh nhẹn né tránh nhưng người cũng lảo đảo mấy cái, suýt nữa rơi xuống vực. Hồ Phỉ thầm nghĩ:

– Nếu nhường nhịn nữa thì ông ta sẽ ép mình rơi chết mất thôi!

Thấy Miêu Nhân Phượng phi chân trái đá thẳng vào bụng dưới, Hồ Phỉ lập tức tay phải ra quyền, tay trái ra chưởng cũng đánh vỗ vào mặt đối phương. Chiêu đánh này khiến kẻ địch không thể không lui, cốt để hoá giải cú đá chân trái của đối phương.

Chiêu này tuy Hồ Phỉ ra tay rất nặng nhưng chưa phải toàn lực. Có điều cao thủ tỉ võ không hề có chút nhường nhịn. Miêu Nhân Phượng giơ cánh tay đón đỡ với mười thành công lực. Bốn cánh tay chạm nhau, hai tiếng tiếng “cạch cạch”. Hồ Phỉ thấy ngực âm ẩm đau, vội vàng vận khí chống đỡ.

Nào ngờ quyền pháp Miêu Nhân Phượng cương mãnh vô song, một khi đã chiếm lợi thế thì thế quyền ra càng lúc càng mạnh, không để cho địch nhân có cơ hội lấy hơi. Nếu ở chỗ đất bằng, Hồ Phỉ có thể nhảy ra khỏi vòng đấu, chạy mấy bước để tránh luồng chưởng phong của ông ta, sau đó quay trở lại đấu tiếp. Nhưng ở nơi vách đá dựng đứng này, thực là không có đất để lùi, chàng đành nghiến chặt răng, sử dụng “Xuân tàm chưởng pháp”, che kín những chỗ trọng yếu trên toàn thân.

Mọi chiêu trong “Xuân tàm chưởng pháp” đều là thế thủ, ra tay cực ngắn, tay đánh giơ chân đá không quá hai gang tay, nhưng chiêu pháp nghiêm mật vô song, toàn thân không hề lộ một chút sơ hở nào. Lộ chưởng pháp này vốn dùng khi bị người vây đánh trong tình thế bất lợi, không mong tấn công mà chỉ cần không sơ hở mà thôi. Tuy chưởng pháp này thủ rất kín đáo nhưng có một điểm hết sức bất lợi là ngay từ đầu đã đứng ở thế “không thắng” .Tên gọi “Xuân tàm chưởng pháp” có nghĩa là con tằm nhả tơ tự trói buộc mình, không thể phản kích, cho dù trong chiêu số của kẻ địch có sơ hở lớn đến mấy. Nếu không thay đổi chưởng pháp thì vĩnh viễn khó mà đánh thắng đối thủ được.

Miêu Nhân Phượng ra chiêu mỗi lúc một gấp, thấy đối phương ở trong tình thế rất bất lợi, nhưng dù ông có tấn công mạnh mẽ đến bao nhiêu, Hồ Phỉ cũng có cách hoá giải. Có điều chàng chỉ giữ thế thủ chứ không phản kích, thành thử ông không hề gặp nguy hiểm, bèn không cần phòng ngự nữa dốc toàn lực ra tấn công.

Ðánh nhau đang lúc say sưa, Miêu Nhân Phượng tung ra một quyền, Hồ Phỉ tránh được, quyền đó đánh vào vách núi, băng tuyết văng tung toé, một mảnh nhỏ văng bắn vào mi mắt trái của chàng. Mi mắt là chỗ mềm nhất, lần này ngoài dự liệu, khó phòng bị nên Hồ Phỉ thấy mắt đau nhói nhưng không dám giơ tay lên giụi, quyền cước thế là chậm đi. Miêu Nhân Phượng thừa thế xông tới, tựa người vào vách núi, bức Hồ Phỉ ra mé ngoài.

Lúc này thế ưu liệt đã rõ ràng, Hồ Phỉ nửa người lơ lửng, bàn chân phải hơi dịch ra, chỉ cần người hơi đứng không vững là rơi xuống sơn cốc ngay. Miêu Nhân Phượng lưng hướng vách núi, chiêu nào cũng bức đối phương phải lấy cứng chọi cứng. Nhưng Hồ Phỉ cực kỳ lanh lẹ, vẫn không nao núng, xuất thủ mềm dẻo trơn tru, cố sức hóa giải, quyết không đối đầu trực tiếp.

Nếu so võ công của hai người, ở trong điều kiện ngang nhau mà giao đấu, chưa chắc Hồ Phỉ đã thắng Miêu Nhân Phượng, hiện giờ thêm nhiều điểm bất lợi, làm sao có thể chống đỡ lâu được? Lại đấu thêm mấy chiêu, Miêu Nhân Phượng bỗng nhảy lên, liên tiếp tung ra ba cước. Hồ Phỉ tức tốc né tránh, nhưng thấy cước thứ ba của đối thủ vừa qua thì song quyền cùng xuất ra, đánh thẳng vào ngực mình. Hai quyền này khó mà hóa giải, chỗ Hồ Phỉ đứng lại không thể xoay trở tránh né, chàng đành cử song quyền lấy cứng chọi cứng để tiếp chiêu.

Bốn quyền chạm nhau, Miêu Nhân Phượng thét lớn một tiếng, kình lực ra tới chưởng tâm. Hồ Phỉ dao động thân mình, vội vàng vận kình phản kích. Hai người đều dồn hết công lực bình sinh vào hai lòng bàn tay. Đây là chiêu pháp lấy chứng chọi cứng, không một chút xảo thuật. Hai người khí tụ đan điền, bốn mắt nhìn nhau, không động đậy.

Miêu Nhân Phượng thấy võ công chàng cao như vậy thì không khỏi ngầm kinh hãi, thầm nghĩ:

– Mấy năm gần đây trên giang hồ im ắng, ngờ đâu trong võ lâm lại xuất hiện một nhân vật lợi hại thế này!

Ông hơi rùn hai chân, lưng đã tựa vào vách núi, một tay thu một tay đẩy, trước tiên dẫn chưởng lực của Hồ Phỉ qua một bên, sau đó mượn lực của vách núi xô mạnh ra, quát lớn:

– Rơi xuống!

Cú xô này kình lực mạnh mẽ tuyệt luân, lại mượn thêm sức phản kích của vách núi, càng khó mà chống đỡ. Hồ Phỉ thân ngươi chao mấy cái, chân trái đã hụt hẫng, nhưng hạ bàn chàng vẫn ổn định, thật không thể nào ngờ, chân phải chàng vẫn đứng vững trên bờ vực giống như một cây cọc thép. Miêu Nhân Phượng xô liên tiếp ba lần, nhưng cũng chỉ làm cho người chàng dao động, mà không thể khiến chân phải của chàng xê dịch được nửa phân.

Miêu Nhân Phượng ngầm kinh hãi và thán phục, nghĩ bụng:

– Công phu như thế có thể nói trên đời hiếm có, đáng tiếc đi lầm vào con đường tà. Tuổi hắn còn trẻ, hôm nay nếu không giết hắn, ngày sau chắc gì ta đối đầu với hắn nổi. Hắn mà thị mạnh làm ác thì trên đời này có ai khống chế hắn nổi?

Nghĩ thế, ông bỗng nhấc chân trái tung một cước, xuất chiêu “Phá bi cước”, đá mạnh vào đầu gối phải của Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ toàn thân chỉ trụ trên một chân, thấy Miêu Nhân Phượng đạp cước tới mà không có cách nào tránh được thì than thầm:

– Thôi rồi! Thôi rồi! Rốt cuộc hôm nay mình lại mất mạng dưới tay ông ta!

Trong lúc nguy cấp, cầu sống trong cái chết, chàng đạp chân phải một cái, người vọt lên hơn một trượng rồi lộn ngược như con diều hâu bổ từ trên không xuống. Miêu Nhân Phượng kêu to:

– Hay lắm!

Rồi dùng vai đầu hích mạnh ra. Song quyền của Hổ Phỉ đánh trúng vai đầu của ông ta, nhưng bị ông ta hích mạnh, bắn ra khỏi bờ vực rơi thẳng xuống dưới.

Hồ Phỉ cười thê thảm, một ý nghĩ tóe lên trong đầu như tia chớp:

– Ta từ nhỏ mồ côi khổ sở, nhưng trước khi chết được Lan muội yêu thương, thế cũng không uổng một đời.

Bỗng cánh tay chàng bị nắm chặt, cú rơi lập tức dừng ngay lại, thì ra Miêu Nhân Phượng đã kịp chộp lấy cánh tay chàng, kéo lên. Ông quát:

– Ngươi đã từng cứu tính mạng ta, bây giờ ta tha cho ngươi để đáp lại. Một mạng đổi một mạng, chẳng ai nợ nần ai. Nào, chúng ta đánh tiếp đi!

Nói rồi đứng sang một bên, song song với Hồ Phỉ, không chiếm lợi thế dựa vào vách núi nữa.

Hồ Phỉ từ trong cõi chết trở về, không còn ý chí chiến đấu nữa, chắp tay nói:

– Vãn bối không phải là đối thủ của Miêu đại hiệp, còn tỉ thí làm gì? Miêu đại hiếp muốn xử trí như thế nào, vãn bối xin nghe theo là được rồi.

Miêu Nhân Phượng chau mày, nói:

– Lúc đầu ra tay ngươi có ý nhường, lẽ nào ta không biết? Ngươi khinh Miêu Nhân Phượng ta tuổi cao sức yếu, không đáng đối thủ của ngươi chăng?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối không dám.

Miêu Nhân Phượng quát:

– Xuất chiêu đi!

Hồ Phỉ muốn giải thích việc mình cùng giường chung chăn với Miêu Nhược Lan chỉ là chuyện bất ngờ, tuyệt không có ý khinh bạc, bèn nói:

– Chuyện trong gian phòng ấy…

Miêu Nhân Phượng vừa nghe thấy hai tiếng “gian phòng” thì lửa giận bùng cháy, vỗ luôn một chưởng vào giữa mặt chàng. Hồ Phỉ đành đón đỡ. Trải qua cuộc so tài lúc rồi, chàng biết chỉ cần hơi nhượng bộ thì lập tức bị chưởng lực của ông ta chộp lấy ngay, nên đành dốc toàn lực ra thi triển. Hai người đều thí thố tuyệt nghệ bình sinh, quyền qua cước lại trên bờ vực, vừa đấu trí, vừa đấu lực, đấu quyền pháp, đấu nội công, qua hơn ba trăm chiêu cũng chưa phân thắng bại.

Miêu Nhân Phượng càng đánh càng thấy ngờ ngợ, không ngớt nhớ lại cuộc tỉ thí giữa mình và Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu năm nào. Ông đột ngột nhảy lùi ra sau hai bước, la lên:

– Dừng tay! Ngươi có biết Hồ Nhất Ðao không?

Hồ Phỉ nghe nhắc tới tên tiên phụ, nỗi buồn hận ngổn ngang trong lòng, nghiến răng nói:

– Hồ đại hiệp là anh hùng tiền bối, không may bị kẻ gian giết hại. Nếu vãn bối có phúc lão nhân gia dạy bảo mấy câu thì dù chết ngay cũng cam lòng.

Miêu Nhân Phượng thầm nghĩ:

– Phải rồi, Hồ Nhất Ðao đã mất đã hai mươi bảy năm. Người này chẳng qua cũng chỉ ngoài hai mươi tuổi, sao quen biết được? Hắn nói mấy câu nghe được lắm, nếu không vì hắn làm nhục Lan Nhi thì chỉ nghe mấy câu đó thôi, ta đã muốn kết giao bằng hữu rồi.

Rồi thuận tay, ông bẻ hai cành cây cứng cáp bên núi, nhắc nhắc thấy nặng bằng nhau, ném một cành cho Hồ Phỉ, bảo:

– Chúng ta giao đấu, quyền cước đã khó phân cao thấp, dùng binh khí để quyết sống chết vậy!

Nói rồi cầm cành cây nhứ một cái, tay trái biến thành kiếm quyết, tay phải đâm cành cây tới giống như kiếm đâm ra, đúng là Miêu gia kiếm pháp tuyệt nghệ chốn võ lâm, thiên hạ vô song. Tuy là một cành cây nhỏ nhưng khi đâm tới, thế kiếm kéo theo kình phong, vừa lợi hại vừa chuẩn xác, nếu bị đầu nhọn cành cây đâm trúng thì không khác gì bị mũi kiếm đâm trúng.

Hồ Phỉ thấy thế kiếm lợi hại, chẳng dám sơ suất, vung cành cây, hoành ngang lên đỡ. Thế đỡ này trong cương có nhu, đúng là thủ pháp bậc danh gia. Miêu Nhân Phượng sững sờ, thầm nghĩ:

– Sao võ công của hắn lại giống hệt Hồ Nhất Ðao như thế?

Nhưng khi các cao thủ giao đấu, đao kiếm đã chạm nhau thì sau đó chiêu thức phải tung ra tới tấp, quyết không cho đối phương rảnh tay mà nghĩ ngợi. Thấy Hồ Phỉ đưa cành cây lên đỡ, sau đó hất lên. Miêu Nhân Phượng huơ kiếm phản kích, khiến chàng không thể không rút đao về đón đỡ.

Hồ Phỉ cả đời chưa từng trải qua trận đấu nào ác liệt như thế. Võ công của chàng toàn dựa vào quyển sách do phụ thân truyền lại mà luyện tập thành tựu, chiêu số tuy tinh diệu nhưng còn thiếu kinh nghiệm thực tế, công lực tuổi trẻ nên hỏa hầu còn hạn chế, chưa đạt tới mức thượng thừa. May nhờ trẻ tuổi trai tráng, tinh lực hơn hẳn đối phương, nên trong vòng mấy chục chiêu vẫn bất phân thắng bại.

Cả hai đều gặp phải những chiêu cực hiểm, nhưng đều biết dùng những chiêu số khéo léo hoá giải trong những lúc nguy cấp. Hồ Phỉ đấu say sưa mà cảm phục trong lòng:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp quả nhiên danh bất hư truyền, nếu ông ta trẻ lại hai mươi tuổi thì ta thua lâu rồi. Thảo nào năm xưa ông đấu ngang với gia gia ta, đúng là anh hùng thực sự!

Hai người biết nếu chỉ dựa vào chiêu số thì không dễ gì thắng được đối phương, mà phải chiếm được địa thế thuận lợi là dựa lưng vào vách núi thì mới mong thắng trong trận tỉ võ này. Vì thế cả hai đều cố hết sức dồn đối phương ra mép vực để giành lấy lợi thế. Nhưng cả hai đều ra chiêu rất nghiêm mật, chỉ cần người nào bước nửa bước vào phía trong là lập tức bị đối phương đâm trúng ngay.

Ðánh đến lúc như say, Miêu Nhân Phượng xuất chiêu “Hoàng long chuyển thân thổ tu thế”, đâm vụt vào ngực đối phương, mắt thấy chàng không có chỗ tránh né, mà cây đao que lại đang chém xuống mé ngoài, không kịp thu về cứu.

Hồ Phỉ thất kinh, vội giơ tay trái gạt ngang kiếm que của Miêu Nhân Phượng, tay phải ra chiêu “Phục hổ thức” chém xuống. Miêu Nhân Phượng buộc miệng kêu:

– Hay lắm!

Rồi rung kiếm khiến mấy ngón tay trái Hồ Phỉ tê buốt, vội vàng buông ra.

Miêu Nhân Phượng dấn thêm nửa bước, đang tính đâm chiêu “Thương bộ trích tinh thức”, nào ngờ vách đá cứng bên bờ vực bị họ giẫm đạp đã lâu, lúc này dần nứt lở ra. Thế kiếm của ông hướng tới phía trước, trọng lượng toàn thân dồn cả xuống chân trái phía sau, nghe hai tiếng “lắc rắc” vang lên, thế là một tảng đá kéo theo băng tuyết lao nhanh xuống vực.

Miêu Nhân Phượng bị hụt chân, cả người bất giác cũng rơi xuống. Hồ Phỉ hoảng quá vội đưa tay kéo lên. Có điều thế rơi của Miêu Nhân Phượng rất mạnh nên tuy Hồ Phỉ nắm được tay áo ông kéo lên nhưng cả hai níu kéo nhau khiến chàng cũng ngã ra ngoài mép vực. Hai người không hẹn mà cùng lộn người trong không trung, nép vào sát vách núi, thi triển công phu “Bích hổ du tường” để bò lên núi. Nhưng vách núi băng tuyết bám đầy, trơn vô cùng, khiến công phu “Bích hổ du tường” không sao thi triển được. Đừng nói con người, mà ngay cả loài thằn lằn thật e rằng cũng không thể bò lên nổi. Tuy bò lên chẳng được nhưng thế rơi nhờ đó mà chậm đi.

Hai người từ từ rơi xuống. Thấy rơi thêm độ hơn mười trượng nữa là một phiến đá nhô lơ lửng ra ngoài, họ thấy nếu rơi không đúng xuống phiến đá này thì cả hai chỉ thịt nát xương tan. Ý nghĩ đang xoay chuyển trong đầu thì họ đã rơi được trên phiến đá. Võ công hai người ngang nhau, ý nghĩ cũng giống nhau, bèn cùng thi triển công phu “Thiên cân trụy” để đứng được vững vàng.

Mặt phiến đá rất nhẵn, bị băng phủ lại càng trơn hơn. Nhưng hai người võ công cao cường, vừa rơi xuống đã định thần, nên không trượt lấy nửa bước. Chợt nghe tiếng răng rắc khẽ vang lên, phiến đá nặng hàng mấy trăm cân rung nhè nhẹ. Thì ra phiến đá này nhô ra sườn núi đã nhiều năm, đá vụn bên dưới rơi rụng dần, vốn dĩ có thể rơi xuống lúc nào không biết. Nay thêm trọng lượng của hai người nữa khiến đá vụn xen lẫn băng rơi lả tả, phiến đá mỗi lúc một rung nhiều hơn.

Hai thanh kiếm đao bằng cành cây theo người rơi xuống trên phiến đá. Miêu Nhân Phượng thấy tình thế nguy cấp quá, vội đánh một chưởng bằng tay trái, thì tay phải đã lượm được một cành cây, ngay sau đó ra chiêu “Thượng bộ vân biên bích nguyệt”, vung kiếm đâm xiên lên. Hồ Phỉ vội hụp người xuống né tránh, và cũng nhặt được cành cây lên, phản kích lại bằng chiêu “Bái phật thính kinh”. Lúc này hai người sử dụng toàn chiêu số tấn công, chiêu nào chiêu ấy cực hung hiểm, cực lợi hại, nhưng tiếng răng rắc càng lúc càng nhiều hơn, họ khó mà đứng vững chân được.

Hai người đều nghĩ:

– Phải ép cho đối phương rơi xuống, giảm bớt trọng lượng trên phiến đá thì nó mới không đến nỗi rớt ngay, có thế ta mới mong sống được.

Lúc này sống chết quyết định trong nháy mắt, ra tay không còn nể tình gì nữa. Trong khoảnh khắc họ đã giao đấu với nhau hơn mười chiêu. Miêu Nhân Phượng thấy đối phương sử dụng binh khí giống hệt đao pháp năm xưa của Hồ Nhất Ðao, thì càng ngờ vực; nhưng vì tình thế không cho phép, không hở lúc nào để mà hỏi. Một chiêu “Phản uyển Dực Ðức sấn trướng” vừa chém ra, tiếp liền theo là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Chiêu này kiếm và chưởng cùng đánh ra, thế nào cũng ép được đối phương phải rơi xuống vực, có điều từ nhỏ đã thành thói quen, nên lúc Miêu Nhân Phượng xuất chiêu này bất giác vai hơi nhô lưng lên một chút.

Lúc này trăng sáng vằng vặc, xanh biếc tầng không, trăng soi vách đá thành một vùng sáng rỡ. Vách đá đó toàn là băng tuyết đông lại trong vắt, sáng chẳng khác gì gương, phản chiếu rõ phía sau lưng Miêu Nhân Phượng. Nhìn thấy cảnh ấy, Hồ Phỉ nhớ lại tình hình phụ thân cùng Miêu Nhân Phượng tỉ thí năm xưa qua lời kể của Bình A Tứ. Lúc ấy mẹ chàng đang ở đằng sau lưng ông ta, bà đã đặng hắng để ra hiệu; còn lúc này sau lưng ông ta là một tấm gương, không cần người ngoài nhắc nhở cũng biết chiêu tiếp theo phải là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí”. Hồ Phỉ bèn nhanh tay ra chiêu “Bát phương tàng đao thức”, chiếm lấy tiên cơ.

Thế là chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” của Miêu Nhân Phượng mới ra được nửa chừng thì cả người đã bị thanh đao bằng cây của Hồ Phỉ chộp lấy. Lúc này, Miêu Nhân Phượng không còn nghi ngờ gì nữa, biết rằng người đang ở trước mặt ông phải có gốc rễ sâu xa với Hồ Nhất Ðao, than rằng: “Báo ứng! Báo ứng!” rồi nhắm mắt chờ chết.

Hồ Phỉ giơ thanh đao bằng cành cây lên, chỉ một chiêu là chém cho Miêu Nhân Phượng ngã xuống vực, nhưng chàng nhớ đã từng nhận lời với Miêu Nhược Lan là sẽ không hại tính mạng ông ta. Nhưng nếu không bổ kiếm xuống, để ông ta ra hết chiêu “Ðề liêu bạch hạc thư sí” thì mình cũng chết. Lẽ nào vì nhường đối phương để chuốc lấy cái chết?

Trong chớp nhoáng đó, trăm ngàn ý nghĩ ngổn ngang trong lòng Hồ Phỉ:

– Người này đã từng hại chết song thân ta, khiến ta côi cút khổ sở một đời, nhưng ông ta lại có hào khí ngang trời, là một đại anh hùng hào kiệt, lại là phụ thân của ý trung nhân, theo lẽ đó thì không thể chém đao xuống được. Nhưng nếu không chém thì bản thân ta đừng hòng thoát chết, mà ta đang ở tuổi tráng niên, chịu chết được sao? Còn nếu giết ông ta, lúc trở về còn mặt mũi nào gặp Miêu Nhược Lan nữa? Nếu suốt đời tránh mặt nàng, không gặp nhau thì sống trên đời trong lòng rất thống khổ, sống không bằng chết.

Lúc đó Hồ Phỉ khó nghĩ vạn phần, thực không biết nhát đao này nên chém xuống hay không? Chàng không muốn chém đối phương nhưng cũng không muốn mình mất mạng.

Nếu Hồ Phỉ không phải là người hào hiệp trọng nghĩa khí thì nhát đao đó tất nhiên đã chém xuống rồi, chẳng cần trù trừ. Nhưng một người dù khảng khái hào hiệp đến đâu cũng không thể dễ dàng bỏ đi tính mạng mình. Trong lúc này, muốn quyết đoán thật là ngàn vạn lần khó khăn…

Miêu Nhược Lan đứng trong tuyết đợi rất lâu, rất lâu mà không thấy hai người trở lại, bèn thong thả mở cái bọc mà Hồ Phỉ giao cho nàng. Trong bọc là mấy chiếc áo, một đôi giày trẻ sơ sinh và một mảnh vải vàng làm bọc. Dưới ánh trăng thấy rất rõ bảy chữ “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ” thêu bằng chỉ đen trên đó. Ðây chính là mảnh vải năm xưa phụ thân nàng lấy ra quấn vào người Hồ Phỉ.

Nàng đứng trên tuyết dưới ánh trăng, nhìn mấy cái áo và đôi giày của trẻ sơ sinh, trong lòng dậy lên biết bao tình cảm êm đềm, không sao tả xiết.

Rốt cuộc Hồ Phỉ có bình yên trở về gặp lại nàng hay không? Nhát đao của chàng rốt cuộc có chém xuống hay không?

Hậu ký

Đoạn cuối của “Tuyết Sơn Phi Hồ” là một kết thúc lửng lơ, không có kết cục khẳng định. Rốt cuộc nhát đao của Hồ Phỉ có chém xuống hay không, xin để cho bạn đọc tự tưởng tượng lấy.

Bộ tiểu thuyết này công bố năm 1959, hơn mười năm qua từng có mấy vị bằng hữu và nhiều độc giả không quen biết muốn tôi viết một kết cục khẳng định. Sau khi suy nghĩ kỹ lưỡng, tôi cảm thấy giữ nguyên kết cục như vậy thì hay hơn, dành cho các độc giả một khoảng trống để tưởng tượng. Còn dư vang bất tận và hàm súc thích đáng cũng là một sự thú vị. Tự trong lòng tôi đã từng nghĩ ra bảy tám kết cục khác nhau, có lúc nghĩ những kết cục khác nhau đó cũng là một cách hưởng thụ tuyệt thú. Nhát đao của Hồ Phỉ có chém xuống hay không, là lựa chọn của Hồ Phỉ, mà mỗi bạn đọc đều có thể dựa vào cá tính của mình, dựa vào cách đối nhân xử thế và cách nhìn đối với thế giới này mà có cách lựa chọn khác nhau.

Liên quan đến cái chết của Lý Tự Thành, có mấy thuyết:

  1. Thuyết thứ nhất, theo “Minh sử”, là ông bị thôn dân giết chết tại Cửu Cung sơn. Thời bấy giờ cũng có tin đồn rằng ông bị thần linh sát hại.
  2. Thuyết thứ hai, theo “Minh ký” thì ông bị thôn dân bắt, không thoát được, bèn thắt cổ tự vẫn.
  3. Thuyết thứ ba, theo “Minh quý bắc lược” thì ông bị bệnh mà mất tại La Công sơn.
  4. Thuyết thứ tư, theo “Phong Châu ký” thì ông chạy trốn đến Hiệp sơn, xuống tóc đi tu. Đến năm bảy mươi tuổi, ngồi mà viên tịch.
  5. Thuyết thứ năm, theo sự tưởng tượng của cuốn tiểu thuyết “Ngô Tam Quế diễn nghĩa”, thì ông bị Ngưu Kim Tinh hạ độc thủ.

Tiểu thuyết lịch sử có quyền tưởng tượng tự do, điều đó bất tất phải luận bàn. Còn theo sự khảo cứu của người sau thì đều có các điểm đáng ngờ.

Trong tấu chương của Hà Thắng Giao, có viết:

“Sấm vương chết là điều có chứng cứ xác đáng, còn thủ cấp của Sấm vương vẫn chưa dám khẳng định. Nay xin kính cẩn hồi báo trước sự thực… Đường đi thì hiểm trở, lại thêm trời tối nên không có cách gì để kiểm nghiệm được thủ cấp của y. Hôm nay nhận được thủ cấp của kẻ bị giết trong tay hương binh, mà hương binh ban đầu cũng chẳng hay biết…”

Không có được thủ cấp của Lý Tự Thành, đó cũng là một điểm mơ hồ.

Trong tấu sớ của Trương A Tế Cách đời Thanh, viết:

“Có hàng binh nói rằng Tự Thành trốn vào Cửu Cung sơn, bị thôn dân bắt chết, bèn thắt cổ tự vẫn, thi thể bị hủy nát không phân biệt được”.

Cái đầu bị hủy nát thì cũng không thể nào kiểm nghiệm chính xác phần thi thể được.

Trong “Danh đàm chí” của Giang Tra, có tuyển chọn bài: “Lý Tự Thành mộ chí”, toàn văn như sau:

Phong châu chí của Hà Lân nói: Về cái chết của Sấm vương, dã sử ghi rằng ra khỏi thành ở La Công sơn, còn Minh sử thì ghi rằng ra khỏi thành ở Cửu Cung sơn, rồi chết về tay thôn dân, đó là một thuyết. Nay nếu căn cứ La Công sơn ở tại Kiềm Dương, còn Cửu Cung sơn ở tại huyện Thông sơn, mà gọi là ra khỏi thành, thì đều là sai lầm cả. Cô giáo thụ họ Tôn nói với tôi rằng: ”Thực ra Lý Tự Thành chạy trốn ra Phong Châu. Đến vùng Thanh thì đổi ngựa trạm, cùng hơn mười tên kỵ mã chạy đến đập Cổ Ngưu, thuộc khu vực huyện Kim An ngày nay. Rồi đổi ngựa đi tiếp, một mình trốn đến vùng Thạch Môn ở Hiệp Sơn làm thầy tăng. Đến nay mộ vẫn còn”.

Tôi lấy làm lạ, một mình đến Hiệp sơn. Thấy bên cạnh chùa có một ngôi mộ đá, đề mấy chữ đại tự “Phụng Thiên Ngọc hòa thượng”, phía trước có bia mộ, do môn đệ là Dã Phất ghi, không rõ hòa thượng là người ở đâu. Một vị ông tăng niên kỷ ngoài bảy mươi, biết rõ chuyện ở Hiệp Sơn, bảo rằng vào năm Thuận Trị thứ nhất vị hòa thượng này vào chùa, tu theo Luật tông, không nói rõ mình từ đâu đến, giọng nói như là người ở miền tây. Mấy năm sau, có một vị tăng đến, nói rằng mình là đồ đệ, hỏi tông môn, nói hiệu là Dã Phất, người vùng Giang Nam, phụng sự hoà thượng cực kỳ kính cẩn. Hòa thượng mất vào tháng hai năm Giáp Thìn đời Khang Hy, thọ khoảng bảy mươi tuổi. Lúc lâm chung có di ngôn cho Dã Phất, lúc đó ông tăng còn bé không được nghe. Trong chùa còn di tượng, nhìn kỹ thấy trán cao má hõm, mắt diều hâu, mũi bọ cạp, tướng mạo rất hung dữ, giống như những điều được miêu tả trong Minh sử. Tự Thành lấy hiệu là Phụng Thiên Xướng Nghĩa đại nguyên soái, về sau lại tự xưng là Tân Thuận vương. Còn cái tên Phụng Thiên Ngọc hòa thượng chẳng qua chỉ là thêm vào một điểm để tránh chữ húy. Dã Phất tự xưng là môn đệ Luật tông, phụng sự thầy cực kỳ kính cẩn, có phải đó là bề tôi ngày trước?

Về cái chết của Tự Thành ở Cửu Cung sơn, Minh sử chép:”Quân ta đưa người quen biết đến để kiểm chứng, nhưng xác đã hủy nát không nhận dạng được”. Còn theo lời của vị ông tăng kể, giọng nói miền tây là đã đủ thấy sai rồi.”

Các chữ “Tây nhân” và “Tây âm” ghi trong mộ chí là chỉ người và thổ âm vùng Giáp Tây. Lý Tự Thành là người huyện Mễ Chỉ, vùng Giáp Tây. Lý Tự Thành bị chột một mắt, do khi vây hãm thành Khai Phong bị Trần Vĩnh Phúc bắn trúng. Đây là đặc điểm rất dễ nhận biết, mà vị ông tăng khi tả lại Phụng Thiên Ngọc hòa thượng lại chẳng đề cập gì đến, đây là điểm rất đáng ngờ.

Lý Tự Thành trước đó bị quân Minh truy đuổi gắt gao đến thế cùng lực kiệt, đã từng phải một lần giả chết, vào năm Sùng Trinh thứ mười hai. Thuở nhỏ ông đã đi tu. Trong bài khảo cứu “Lý Sấm vương” của A Anh có nói “… Tự Thành lại xuất gia để kiếm sống, cái đó gọi là “nghề cũ quen tay”, huống gì “được thì làm vua, thua thì làm sư” là một khuôn sáo lâu đời trong lịch sử Trung Quốc.

Trong tiểu thuyết có thêm thắt một ít bối cảnh lịch sử thì không nhất thiết phải hoàn toàn giống với sự thật, mà chỉ cần đừng sai lệch với những sự kiện trọng đại là được. Còn đối với những sự kiện lịch sử chưa định luận được, thì tác giả tiểu thuyết sẽ chọn một điểm nào đó để phát huy. Có điều các tiểu thuyết cũ như Ngô Tam Quế diễn nghĩa hoặc Thiết quan đồ thuật lại chuyện cũ của Lý Tự Thành lại khác quá xa với những điều đã được mọi người công nhận. Ví dụ chuyện cung nga họ Phí đâm chết tướng quân Lý Nham của Sấm vương cũng là điều quá lố.

Sau khi Tuyết Sơn Phi Hồ được đăng báo vào năm 1959, không có nhà xuất bản nào chịu nhận in thành phụ bản. Theo chỗ tôi biết thì phụ bản có đến tám loại. Có loại một bản, có loại hai bản, có loại bảy bản. Các nhà xuất bản tự phân thành chương tiết, tự ghi đề mục, chưa hẳn phù hợp với ý đồ của tác giả. Có bản in lại kèm theo hình vẽ, là điều tác giả không thích.

Bản in lại lần này có hiệu đính, trước hết là căn cứ theo tờ “Minh báo vãn báo” (Minh báo buổi chiều), khi in cũng có chỉnh sửa, vì các câu trong sách mười phần thì hết sáu bảy cần phải sửa lại. Các nhân vật như Bình A Tứ, Đào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc, đều là hạng người thô lỗ, mà khi kể lại chuyện xưa thì ngữ khí lại quá văn hoa, còn nếu như sửa lại cho hợp với thân phận của họ, thì trên giấy lại đầy dẫy các chữ “con mẹ nó!”, cũng không khỏi có vẻ thô tục bát nhã. Tác giả tài sức có hạn, cũng không biết phải làm sao hơn.

Tuyết Sơn Phi Hồ đã có một bản dịch tiếng Anh, từng được đăng tải trên nguyệt san “Bridge” ở New York.

Tuyết Sơn Phi Hồ và Phi Hồ ngoại truyện tuy có liên quan với nhau nhưng vẫn là hai bộ tiểu thuyết độc lập, nội dung không buộc phải khớp hẳn nhau. Theo lý mà nói, thì khi Hồ Phỉ gặp Miêu Nhược Lan ắt phải nhớ nghĩ đến Viên Tử Y và Trình Linh Tố. Nhưng nếu dựa vào bản thân bộ Tuyết Sơn Phi Hồ mà nói, thì tựa hồ không cần phải để điều này xuất hiện dưới góc độ tiểu thuyết mà chỉ cần xuất hiện trong tâm hồn của Hổ Phỉ. Mà thực ra khi viết bộ Tuyết Sơn Phi Hồ, thì trong lòng tác giả vẫn chưa có hai nhân vật Viên Tử Y và Trình Linh Tố.

Hồi 01: Phong nguyệt vô tình

Ẩn ẩn ca thanh quy trạo viễn

Ly sầu dẫn trước Giang Nam ngạn

Bờ thu Việt nữ hái sen,

Vờn tay áo lụa ẩn khoen xuyến vàng.

Hái hoa hoa ánh mặt nàng,

Lòng đây chỉ khốn nỗi quàng tơ vương.

Hỏi dòng Kê Xích phong sương,

Mù thâm khói nhẹ chung đường bạn đâu?

Chèo về ca vẳng bến đầu,

Bờ lan một dải mây sầu Giang Nam.

Tiếng hát nhẹ nhàng uyển chuyển vang vang trên mặt hồ. Tiếng hát phát ra từ một chiếc thuyền nhỏ, có năm thiếu nữ đang vui vẻ vừa cười nói, ca hát, vừa hái sen. Bài ca các nàng đang hát là bài từ “Điệp luyến hoa” của đại từ nhân Âu Dương Tu thời Bắc Tống sáng tác, miêu tả đúng cảnh thiếu nữ người Việt hái sen, tuy chỉ vỏn vẹn có năm mươi chữ, nhưng thời gian giờ giấc, mùa trong năm, địa điểm, cảnh vật, cùng dung mạo, đồ trang sức, y phục, tâm tình của các thiếu nữ Việt, mọi thứ đều được miêu tả hết sức sinh động, nhất là hai câu sau, trong tả cảnh có kể chuyện, trong chuyện kể có ẩn tình, từ gần đến xa ý tứ vô cùng. Âu Dương Tu làm quan ở miền Giang Nam lâu năm, du sơn ngoạn thủy nhiều nơi, thơ ông rất giàu tình ý. Người đời Tống bất luận quan chức quí nhân hay thường dân xóm nhỏ, khi lấy nước bên bờ giếng, khi bẻ liễu trên bờ sông, khi hái sen trong hồ, đều thường thích thú ngâm ngợi các bài từ của ông.

Bấy giờ vào thời Nam Tống Lý Tông, ở vùng hồ Gia Hưng. Gần tiết Trung thu, lá sen tàn dần, hạt sen chắc mẩy. Tiếng hát vọng tới chỗ một đạo cô đang ngồi bên hồ. Đạo cô lặng lẽ ngồi dưới hàng liễu đã lâu, làn gió lay động tà áo bào màu vàng nhạt của bà ta, thổi tung mái tóc lòa xòa phủ gáy, bao ý nghĩ ngổn ngang trong đầu, thật đúng là trong lòng trăm mối tơ vò. Chỉ nghe tiếng hát xa dần, vẫn là ca từ của Âu Dương Tu, nhưng đã là bài khác, nghe văng vẳng trong gió câu “Trăng gió vô tình người đổi dạ, dấu xưa như mộng nát tan lòng…”(°) ((°)風月無情人暗換, 舊游如夢空腸斷–Phong nguyệt vô tình nhân ám hoán, cựu du như mộng không trường đoạn, Điệp luyến hoa – Âu Dương Tu.)

Lời ca chưa dứt, đã nghe tiếng cười khúc khích từng chặp. Vị đạo cô thở dài, giơ tay trái, nhìn lòng bàn tay nhuốm đầy máu tươi, lẩm bẩm một mình: “Có gì đáng cười kia chứ? Lũ trẻ hát mà chẳng hiểu nỗi tương tư sầu khổ, cái ý thương cảm trong bài từ”. Cách phía sau đạo cô hơn mười trượng, có một lão nhân râu dài, áo bào xanh, cũng ngồi bất động, chỉ khi nghe câu “Trăng gió vô tình người đổi dạ, dấu xưa như mộng nát tan lòng…” thì mới khe khẽ thở dài. Con thuyền nhỏ lướt trên mặt nước phẳng như gương. Năm thiếu nữ trên thuyền, có ba nàng mười lăm mười sáu tuổi, hai nàng kia đều lên chín. Hai thiếu nữ ít tuổi nhất là chị em họ, cô chị họ Trình tên Anh; cô em họ Lục tên Vô Song, hơn kém nhau nửa tuổi.

Ba thiếu nữ lớn vừa hát vừa chèo thuyền ra khỏi đám lá sen, Trình Anh nói:

– Biểu muội nhìn kìa, vị lão bá kia vẫn còn ngồi ở đó.

Cô bé vừa nói vừa chỉ về phía lão nhân ngồi dưới gốc liễu. Lão nhân đầu tóc rối bù, râu tua tủa như lông nhím, râu tóc còn đen mướt, chứng tỏ tuổi còn trẻ, vậy mà mặt đầy các nếp nhăn sâu như một ông cụ bảy tám mươi, mình bận chiếc áo dài màu lam, trước ngực quàng lên cổ một chiếc yếm dãi của trẻ sơ sinh, trên yếm thêu cảnh con mèo hoa đuổi bướm, chiếc yếm dãi đã sờn rách từ lâu.

Lục Vô Song nói:

– Ông già quái dị ấy ngồi đó đã nửa ngày, sao chẳng thấy động đậy gì hết?

Trình Anh nói:

– Đừng gọi là ông già quái dị, hãy gọi là “lão bá bá”. Biểu muội mà gọi là ông già quái dị, thì người ta sẽ giận đấy.

Lục Vô Song cười nói:

– Như thế mà còn không phải là ông già quái dị nữa sao? Già thế kia mà còn đeo yếm dãi. Lão ta mà giận, râu tóc dựng ngược lên, trông càng vui mắt.

Nói đoạn cô bé nhặt một cái gương sen trong thuyền ném về phía quái khách.

Chiếc thuyền cách vị quái khách mấy trượng, Lục Vô Song tuy ít tuổi, nhưng sức ném đã không yếu, lại rất chuẩn. Trình Anh vội gọi:

– Biểu muội!

Định ngăn lại, nhưng đã không kịp, chỉ thấy cái gương sen bay thẳng tới mặt vị quái khách. Quái khách hất hàm một cái, đã ngậm được cái gương sen, chẳng buồn giơ tay cầm, dùng lưỡi điều khiển mà nhai cả cái gương sen rau ráu. Năm thiếu nữ thấy quái khách nhai tuốt cả vỏ lẫn hạt sen, chẳng sợ đắng, thì nhìn nhau kinh ngạc rồi cùng cười khúc khích, chèo thuyền vào bờ rồi bước lên bờ hồ.

Trình Anh tới bên cạnh quái khách, giật giật vạt áo của lão ta, nói:

– Lão bá bá, ăn như thế không ngon đâu.

Cô bé lấy trong giỏ ra một cái gương sen, bẻ lấy mười mấy hạt sen, rồi lại bóc vỏ xanh, tách vứt cái tâm đắng, mới đưa cho quái khách. Quái khách nhai vài miếng, cảm thấy thơm ngon hơn hẳn thứ vừa ăn ban nãy, thì nhoẻn miệng cười với Trình Anh, gật gật gù gù.

Trình Anh lại đưa cho quái khách mấy hạt sen nữa, quái khách bỏ tất vào mồm nhai nghiến ngấu, rồi ngửa mặt lên trời, nói:

– Có theo ta chăng?

Đoạn lão sải bước đi về hướng tây.

Lục Vô Song kéo tay Trình Anh, nói:

– Biểu tỷ chúng mình đi theo xem sao đi.

Ba thiếu nữ lớn hơn nhưng nhát gan, vội can:

– Mau về nhà thôi, đừng đi xa mà bị mẹ mắng cho đấy.

Lục Vô Song dẩu môi làm trò quỷ, thấy quái khách đã đi một quãng xa, bèn nói:

– Biểu tỷ không đi thì thôi.

Đoạn buông tay Trình Anh mà đuổi theo quái khách. Trình Anh trước giờ luôn luôn chơi đùa với biểu muội, nay không bảo được nó về thì đành đi theo nó vậy. Ba thiếu nữ lớn hơn mấy tuổi nhưng non gan, chỉ gọi với theo vài tiếng thì quái khách và hai chị em Trình, Lục đã trước sau khuất vào bãi dâu xanh.

Quái khách đi rất nhanh, thấy hai cô bé chân ngắn theo không kịp, đã mấy lần dừng lại chờ, cuối cùng sốt ruột, bèn dang hai cánh tay dài, mỗi tay kẹp một cô bé vào nách mà đi như bay. Hai cô bé chỉ nghe gió ù ù bên tai, cỏ cây đất đá hai bên đường cứ vùn vụt trôi qua trước mắt. Lục Vô Song cảm thấy sợ, vội kêu:

– Đặt điệt nhi xuống, đặt điệt nhi xuống thôi!

Quái khách chẳng buồn lý đến, lại còn lướt đi nhanh hơn.

Lục Vô Song bèn ngẩng lên, há mồm cắn thật mạnh vào cạnh bàn tay lão ta một cái. Cạnh bàn tay của quái khách dai cứng, khiến mấy cái răng non của Lục Vô Song đau tê đi, cô bé đành nhả ra, không cắn nữa, nhưng chẳng chịu yên, cứ la hét ầm lên. Trình Anh thì lẳng lặng không nói gì.

Quái khách chạy một chặng nữa rồi mới đặt hai cô bé xuống đất. Chỗ này là một bãi tha ma, Trình Anh sợ tái mặt, riêng Lục Vô Song thì mặt mày đỏ gay. Trình Anh nói:

– Lão bá bá chúng điệt nhi muốn về nhà thôi, chúng điệt nhi không chơi với lão bá bá nữa đâu!

Quái khách đưa mắt nhìn cô bé một cái, không nói gì. Trình Anh thấy ánh mắt của quái khách chứa đựng một nỗi buồn ảm đạm hết sức đáng thương, thì không khỏi động lòng trắc ẩn, bèn nhẹ nhàng nói:

– Nếu không có ai chơi với lão bá bá thì ngày mai lão bá bá hãy tới bên hồ, chúng điệt nhi sẽ lại bóc hạt sen mời lão bá bá ăn.

Quái khách thở dài, nói:

– Đúng thế, mười năm rồi không có ai chơi đùa với ta.

Đột nhiên lão ta quắc mắt, giận dữ quát to:

– Hà Nguyên Quân đâu? Hà Nguyên Quân đâu rồi?

Trình Anh thấy lão ta bỗng dưng trở mặt, thì sợ hãi, ấp úng nói:

– Điệt nhi…điệt nhi… điệt nhi không biết.

Quái khách túm lấy tay cô bé, lắc lắc thân hình cô bé mấy cái, gằn giọng, hỏi:

– Hà Nguyên Quân đâu?

Trình Anh sợ quá, nước mắt lưng tròng, nhưng cố không để nước mắt trào ra. Quái khách nghiến răng nói:

– Khóc đi, khóc đi! Sao ngươi không khóc hả? Mười năm trước, ngươi bằng ngần này đây. Ta không bằng lòng gả ngươi cho hắn. Ngươi bảo ngươi không nỡ xa ta, nhưng không thể không đi theo hắn. Ngươi bảo ngươi rất cảm kích ân tình của ta, rất đau lòng khi phải xa ta. Hừ, toàn những lời dối trá. Nếu ngươi thật sự đau lòng, tại sao ngươi không khóc hả?

Lão ta hầm hầm nhìn Trình Anh. Trình Anh sợ mất mật rồi, nhưng nước mắt vẫn chưa trào ra. Khi quái khách nắm cánh tay lắc người cô bé, cô bé cắn môi, nghiến răng chịu đau, nghĩ thầm: “Ta không khóc, quyết không khóc!”. Quái khách nói:

– Hừ ngươi nhất định không chịu rơi một giọt nước mắt vì ta, ta còn sống làm gì kia chứ?

Đột nhiên lão ta buông tay Trình Anh, cúi người xuống, đập đầu vào một tấm bia nghe “Bịch” một tiếng, quái khách lập tức ngã lăn bất tỉnh. Lục Vô Song gọi:

– Biểu tỷ, chạy mau.

Rồi kéo Trình Anh quay người chạy đi. Trình Anh chạy được vài bước, thấy quái khách đầu bê bết máu, thì trong lòng không nỡ, nói:

– Hình như lão bá bá đập đầu chết rồi, mình lại coi xem sao.

Lục Vô Song nói:

– Người chết biến thành ma thì phải?

Trình Anh giật mình, vừa sợ lão ta biến thành ma, vừa sợ lỡ lão ta đột nhiên hồi tỉnh, lại tóm lấy tay mình mà nói nhưng lời điên khùng kỳ quái, nhưng thấy lão ta mặt mũi chan hòa máu tươi, trông thật đáng thương, thì tự nhủ: “Lão bá bá không hóa thành ma đâu mà phải sợ, lão bá bá sẽ không túm lấy mình nữa đâu!”, cô bé đánh bạo từ từ lại gần, gọi:

– Lão bá bá, đau lắm phải không?

Quái khách rên một tiếng, không trả lời. Trình Anh bạo hơn, lấy khăn tay chặn chỗ vết thương lại cho lão ta. Nhưng lão ta đập đầu quá mạnh, vết thương quá nặng trong giây lát máu xối ra làm ướt sũng cả cái khăn. Trình Anh bèn dùng tay trái ấn chặt vết thương, một lát sau thì máu ngừng chảy. Quái khách mở mắt he hé, nhìn thấy Trình Anh ngồi bên cạnh, thì thở dài:

– Ngươi lại đi cứu ta làm gì thế? Sao không để ta chết quách cho xong.

Trình Anh thấy lão ta hồi tỉnh, cả mừng, hỏi nhẹ:

– Lão bá bá đầu có đau lắm không?

Quái khách lắc đầu, buồn rầu nói:

– Đầu không đau, nhưng lòng đau.

Trình Anh nghe vậy, lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Đầu thủng một miếng lớn lại bảo đầu không đau, nhưng lòng đau là sao nhỉ?”. Rồi chẳng cần hỏi thêm, cô bé bèn cởi dây lưng băng vết thương cho lão ta.

Quái khách thở dài, đứng dậy, nói:

– Ngươi quyết không chịu gặp lại ta, thế thì chúng ta chia tay ở đây hay sao? Ngươi không chiu rơi một giọt nước mắt vì ta hay sao?

Trình Anh nghe giọng lão ta hết sức thương tâm, lại thấy khuôn mặt xấu xí của lão tuy bê bết máu, nhưng đầy vẻ cầu khẩn, thì bất giác mủi lòng, hai dòng nước mắt trào ra. Quái khách thấy nước mắt của cô bé, thì sắc mặt nửa vui sướng, nửa đau buồn òa lên khóc.

Trình Anh thấy ông lão khóc một cách đau khổ, thì nước mắt cô bé cứ ứa ra ròng ròng, cô bé đưa hai tay bíu lấy cổ ông lão. Lục Vô Song nhìn cảnh hai người chẳng hiểu sao đứng ôm nhau mà khóc, thì thấy buồn cười quá, nhịn không được, liền cười phá lên.

Quái khách nghe tiếng cười, ngửa mặt thở dài:

– Phải rồi, miệng bảo vĩnh viễn không xa rời ta, nhưng vừa mới lớn đã quên hết những lời đã nói, chỉ còn nhớ mỗi cái gã mặt trắng mới quen thôi. Ngươi cười sung sướng lắm hả!

Quái khách cúi đầu, chăm chú nhìn Trình Anh, nói:

– Đúng, đúng, ngươi đúng là bé Nguyên Quân của ta. Ta không cho ngươi đi, ta không cho phép ngươi đi theo tên súc sinh mặt trắng ấy đâu.

Nói rồi lão ta túm chặt lấy Trình Anh.

Lục Vô Song thấy lão già nổi cơn kích động, thì không dám cười nữa.

Quái khách nói:

– Nguyên Quân, ta đã tìm được ngươi rồi. Hai cha con ta về nhà thôi. Từ nay trở đi con sẽ mãi mãi ở bên cha.

Trình Anh nói:

– Lão bá bá ơi, cha của điệt nhi chết từ lâu rồi.

Quái khách nói:

– Ta biết, ta biết mà. Ta là nghĩa phụ của con, con không muốn thế hay sao?

Trình Anh khẽ lắc đầu:

– Điệt nhi làm gì có nghĩa phụ.

Quái khách tức giận đẩy cô bé ra, quát to:

– Nguyên Quân, đến nghĩa phụ mà mi cũng không chịu nhận hả?

Trình Anh đáp:

– Lão bá bá ơi, điệt nhi là Trình Anh, chứ không phải là Nguyên Quân của lão bá bá.

Quái khách lẩm bẩm:

– Mi không phải là Nguyên Quân ư? Không phải là Nguyên Quân của ta ư?

Lão ngẩn người một lát, rồi nói:

– Ờ, hai mươi năm trước, Nguyên Quân mới lớn bằng ngươi bây giờ. Nguyên Quân bây giờ lớn quá rồi, đâu cần đến cha nữa. Trong lòng nó chỉ có mỗi mình tên súc sinh Lục Triển Nguyên mà thôi.

Lục Vô Song ồ lên một tiếng, hỏi:

– Lục Triển Nguyên ư?

Quái khách chăm chú nhìn Lục Vô Song, hỏi:

– Ngươi quen biết Lục Triển Nguyên phải không?

Lục Vô Song mỉm cười, nói:

– Dĩ nhiên điệt nhi quen biết vì người ấy là bác ruột của điệt nhi.

Quái khách đột nhiên hầm hầm tức giận, chộp lấy hai vai Lục Vô Song, hỏi:

– Hắn…hắn…tên… súc sinh ấy hiện giờ ở đâu? Mau dẫn ta đến gặp hắn.

Lục Vô Song tuy hoảng sợ, nhưng lại tức cười, nói:

– Bá bá của điệt nhi ở gần đây thôi, lão bá bá muốn gặp bá bá của điệt nhi thật à? Hì hì!

Quái khách nói:

– Phải, phải, ta tìm bên hồ Gia Hưng suốt ba ngày qua chính là để tính sổ với tên súc sinh ấy. Này bé con, ngươi dẫn ta đi, ta sẽ không làm gì ngươi đâu.

Giọng lão ta đã dịu lại, lão ta buông tay ra. Lục Vô Song dùng tay phải xoa xoa vai trái, nói:

– Lão bá bá bóp vai điệt nhi đau quá. Bá bá của điệt nhi ở chỗ nào, điệt nhi quên mất rồi.

Quái khách trợn ngược đôi lông mày, định nổi giận, nhưng nghĩ chẳng nên bắt nạt một đứa bé con, nên đổi giận làm lành, mỉm cười, thò tay vào túi, nói:

– Ồ, là công công không tốt, công công sẽ đền cho điệt nhi. Công công có kẹo cho điệt nhi đây.

Nhưng tay lão ta không rút ra khỏi túi, chắc là không tìm được cái kẹo nào.

Lục Vô Song vỗ tay cười, nói:

– Lão bá bá không có kẹo, nói dối không biết ngượng. Thôi được điệt nhi sẽ cho lão bá biết bá bá của điệt nhi đang ở đâu.

Rồi cô bé chỉ tay về phía có hai cây hòe cao cao ở đằng xa, nói:

– Bá bá của điệt nhi ở chỗ ấy đấy.

Quái khách vươn hai cánh tay dài, lại kẹp hai cô bé vào nách mà đi như bay về phía hai cây hòe. Lão ta đi vội, gặp dòng mương rộng cản đường, lão nhảy phốc qua dễ dàng. Loáng một cái, ba người đã tới bên hai cây hòe. Quái khách đặt hai cô bé xuống, thấy dưới gốc hòe có hai ngôi mộ, một ngôi có tấm bia đề sáu chữ “Lục công Triển Nguyên chi mộ” tấm bia thứ hai có bảy chữ “Lục môn Hà phu nhân chi mộ”.

Cỏ trên hai ngôi mộ rất dày và xanh, rõ ràng an táng đã lâu.

Quái khách ngây người nhìn tấm bia, lẩm bẩm:

– Tên súc sinh Lục Triển Nguyên chết rồi ư? Chết khi nào vậy?

Lục Vô Song cười hì hì, đáp:

– Đã ba năm rồi.

Quái khách cười nhạt, nói:

– Chết khéo lắm, chết khéo lắm, chỉ tiếc là ta không thể tự tay lấy đi cái mạng chó của hắn.

Nói đoạn lão ngửa mặt lên trời cười ha hả, tiếng cười vọng đi rất xa, nghe đầy vẻ sầu khổ bi thương, chứ không có chút gì gọi là vui mừng.

Lúc này trời đã sắp tối, một màn sương mờ mờ phủ lên cỏ cây. Lục Vô Song kéo áo Trình Anh, nói nhỏ:

– Chúng mình về thôi.

Quái khách nói:

– Tên súc sinh chết rồi, Nguyên Quân còn ở lại làm gì? Ta phải đón nó về nước Đại Lý. Này bé con, ngươi mau đưa ta đi tìm bà cô… của ngươi, thê tử của bá bá ngươi ấy mà.

Lục Vô Song chỉ tấm bia thứ hai, nói:

– Lão bá chưa đọc à? Bà ấy cũng chết rồi.

Quái khách đứng bật dậy, quát to như sấm:

– Ngươi vừa nói là thật hay giả? Nó cũng chết rồi ư?

Lục Vô Song mặt trắng bệch, run run nói:

– Cha điệt nhi bảo rằng sau khi bá bá của điệt nhi mất, thì cô của điệt nhi cũng chết theo. Điệt nhi không biết đâu, điệt nhi không biết rõ đâu. Lão bá đừng dọa điệt nhi sợ lắm!

Quái khách đấm ngực, kêu to:

– Nó chết rồi, nó chết rồi ư? Đâu có thể như thế, ngươi còn chưa gặp lại ta, quyết không thể chết được. Ta đã hẹn ngươi mười năm sau nhất định ta sẽ tới thăm ngươi kia mà. Tại sao ngươi không… không chịu chờ ta kia chứ?

Quái khách vừa hét vừa nhảy như một con hổ điên, bỗng dưng đá một cái vào gốc hòe, khiến cây hòe lớn lung lay mạnh, cành lá rào rào. Trình Anh và Lục Vô Song nắm tay nhau lùi ra xa, đâu dám tới gần.

Chỉ thấy quái khách đột nhiên ôm vòng thân cây hòe mà lay như định nhổ nó lên. Nhưng cây hòe to chắc thế kia, ai mà nhổ nổi? Quái khách rống lên:

– Ngươi, chính miệng ngươi tự nói mà, chẳng lẽ đã quên rồi sao?

Giọng lão nhỏ dần. Lão ngồi phệt xuống, hai tay vận kình, một luồng khí nóng từ đỉnh đầu từ từ bốc lên như hơi nước sôi, các bắp cơ trên hai cánh tay cuồn cuộn, lão nhổm dậy, tì lưng bốc cây hòe lên, miệng thét “Lên này”. Nhưng gốc hòe trước sau không hề suy suyển, chỉ nghe “rắc” một tiếng lớn, nửa thân cây phía trên bị gãy rời. Quái khách ôm nửa thân cây gãy đó, ngây ra, nói:

– Chết rồi, chết rồi.

Đoạn hất nó ra xa, nó bay đi chẳng khác gì một cây dù. Quái khách đứng trước mộ, lẩm bẩm:

– Không sai Lục môn Hà phu nhân chính là Nguyên Quân rồi.

Mắt lão hoa lên, hai tấm bia hóa thành hai bóng người, một là thiếu nữ trắng trẻo tươi như hoa, một là thiếu niên cao lớn, tuấn tú. Hai người sánh vai bên nhau.

Quái khách trừng mắt mắng:

– Mi quyến rũ đứa con gái ngoan của ta, ta phải giết mi.

Lão giơ ngón trỏ tay phải chúi người thẳng tới, chọc mạnh vào giữa ngực gã thiếu niên, chợt cảm thấy đau buốt như gãy ngón tay; thì ra lão chọc đúng vào tấm bia đá, hình bóng gã thiếu niên đã không còn nữa. Quái khách cả giận, quát:

– Mi chạy đi đâu nào?

Rồi song chưởng đánh ra, bộp bộp hai tiếng, trúng vào tấm bia. Lão càng đánh càng giận, càng giận thì chưởng lực càng mạnh, sau hơn mười chưởng, hai bàn tay đã bê bết máu tươi. Trình Anh lòng không nỡ, lên tiếng can:

– Lão bá bá, đừng đánh nữa, càng đánh càng đau tay mình mà thôi.

Quái khách cưới ha hả, nói:

– Ta không đau, ta phải đánh chết tên súc sinh Lục Triển Nguyên mới được.

Lão đang cười, chợt ngừng bặt, ngẩn ra một lát, nói:

– Ta phải nhìn mặt ngươi, ta không thể không nhìn mặt ngươi.

Hai tay lão giơ ra, mười ngón tay như mười cái dùi cắm xuống ngôi mộ có tấm bia “Lục môn Hà phu nhân chi mộ”. Cánh tay lão gồng lên, móc luôn hai tảng đất khỏi mộ. Rồi chỉ thấy hai bàn tay lão như hai cái lưỡi xẻng cứ liên tiếp hất từng vốc đất của ngôi mộ lên.

Trình Anh và Lục Vô Song sợ mặt cắt không còn hột máu, không hẹn mà cùng quay người bỏ chạy.

Quái khách mải đào mộ, không để ý. Hai cô bé chạy một hồi, qua mấy khúc quành, không thấy lão ta đuổi theo, mới đỡ lo. Hai đứa không biết đường, vừa đi vừa hỏi thăm thôn dân, mãi khi trời tối hẳn mới về tới cổng lớn của Lục gia trang.

Lục Vô Song há miệng gọi to:

– Không hay rồi, không hay rồi! Cha ơi, mẹ ơi, mau ra đi, có lão già điên khùng đang đào mộ vợ chồng đại bá bá đó.

Cô bé chạy vội vào đại sảnh, thấy phụ thân là Lục Lập Đỉnh đang ngẩng đầu, ngẩn ngơ nhìn lên tường.

Trình Anh cùng theo vào đại sảnh, hai cô bé đưa mắt nhìn lên tường, thấy trên đó in rõ ba hàng bàn tay máu, hàng trên hai bàn tay, hàng giữa hai bàn tay, hàng dưới năm bàn tay, tổng cộng chín bàn tay đỏ như máu.

Lục Lập Đỉnh nghe tiếng gọi của con gái, vội hỏi:

– Con bảo sao?

Lục Vô Song nói:

– Thưa cha, có lão già điên khùng đang đào mộ vợ chồng đại bá.

Lục Lập Đỉnh kinh ngạc, đứng dậy quát:

– Nói nhảm!

Trình Anh nói:

– Thưa di trượng, là thật đấy ạ.

Lục Lập Đỉnh biết con mình nghịch ngợm tinh quái, còn Trình Anh thì trước giờ không khi nào bịa chuyện, bèn hỏi:

– Sự việc thế nào?

Lục Vô Song bèn liến thoắng kể lại câu chuyện vừa xảy ra.

Lục Lập Đỉnh thầm biết không ổn, chẳng chờ con kể hết, vội giật lấy cây đơn đao treo trên tường, chạy tới khu mộ phần của huynh tẩu. Đến nơi, Lục Lập Đỉnh thấy chẳng những hai ngôi mộ của huynh tẩu đã bị đào bới, mà ngay hai cỗ quan tài cũng bị bật nắp. Lúc nghe con bảo có kẻ đào mộ, chàng có nghĩ đến chuyện này, nhưng khi tận mắt nhìn thấy, thì bất giác trống ngực đập thình thình. Hai cái xác trong quan tài đều biến mất, các thứ vôi, giấy, bông lót trong quan tài bị bới tung tóe. Lục Lập Đỉnh định thần thấy trên nắp hai quan tài có rất nhiều vết cạy của dụng cụ bằng sắt, không khỏi vừa bi phẫn, vừa kinh nghi, không biết tên ác tặc cướp xác có mối thâm cừu đại oán thế nào với huynh tẩu, mà sau khi họ chết, hắn còn trút giận vào xác họ như vậy. Chàng bèn cầm đao đuổi theo. Toàn bộ võ công của chàng đều do huynh trưởng Lục Triển Nguyên truyền thụ, tính chàng giản dị, gia đạo lại đầm ấm, cả đời an nhàn no đủ, chưa từng hành tẩu giang hồ, có thể nói là chưa hề từng trải, kém tháo vát, chạy tìm tung tích kẻ ăn trộm xác cũng chẳng biết cách, chạy loanh quanh một hồi lại trở về bên mộ đứng ngẩn một hồi, đành trở về nhà.

Chàng vào đại sảnh, ngồi xuống ghế tiện tay đặt cây đơn đao cạnh ghế chăm chú nhìn vết chín bàn tay máu in trên tường, nghĩ thầm: “Lúc lâm chung, ca ca từng nói ca ca có kẻ thù là một đạo cô, tên Lý Mạc Sầu, ngoại hiệu “Xích Luyện tiên tử”, võ công đã cao, hành sự lại tàn bạo như lang sói, dự tính rằng mười năm sau khi ca ca kết hôn Lý Mạc Sầu sẽ đến tìm vợ chồng ca ca báo thù. Lúc lâm chung, ca ca nói: Huynh bị bệnh hiểm nghèo bất trị, mối oán cừu này với Lý Mạc Sầu thế là không báo được. Ba năm nữa khi nàng ta đến báo thù, dẫu thế nào đệ cũng phải khuyên tẩu tẩu tránh đi thật xa. Mình đã nuốt lệ nhận lời, nào ngờ ngay tối hôm ca ca qua đời, tẩu tẩu đã tự vẫn theo chồng. Ca ca mất đã ba năm, xem chừng đã đến lúc đạo cô tới báo thù. Nhưng vợ chồng huynh tẩu cùng chết cả rồi, oán thù coi như xóa sạch, đạo cô còn tới làm gì kia chứ. Ca ca còn bảo, đạo cô trước khi giết người, thường in vết bàn tay máu trên tường hoặc cánh cổng nhà nạn nhân, mỗi bàn tay tức là đạo cô sẽ giết một người. Nhà mình kể cả đầy tớ nam nữ cũng chưa quá bảy người, sao mụ nữ ma đầu ấy lại in những chín bàn tay máu? À, phải rồi, mụ ta in vết bàn tay xong, mới biết huynh tẩu đã chết, bèn sai người đi đào mộ lấy xác chăng? Mụ nữ ma đầu này độc ác quá chừng… Hôm nay mình ở nhà suốt ngày, không hiểu mụ ta in các bàn tay máu lúc nào nhỉ? Mụ ta ra tay bí ẩn như thế, người này…người này…”.

Nghĩ đến đây, Lục Lập Đỉnh không khỏi lạnh sống lưng. Có tiếng chân rón rén phía sau, rồi hai bàn tay mềm nhỏ bịt hai mắt Lục Lập Đỉnh, tiếng con trẻ hỏi “Phụ thân ơi phụ thân đoán xem hài nhi là ai nào?”. Đấy là trò chơi mà Lục Vô Song từ nhỏ thích đùa với phụ thân. Năm lên ba, một lần Lục Vô Song dùng tay bịt mắt phụ thân, hỏi: “Phụ thân ơi, phụ thân đoán xem hài nhi là ai nào?” khiến phụ mẫu được một phen cười thoả thích, từ đó, mỗi lần thấy phụ thân buồn rầu cô bé lại chơi trò đó để phụ thân vui. Có khi Lục Lập Đỉnh đang rất tức giận, được đứa con gái yêu bày trò đó, chàng cũng nguôi giận liền. Nhưng tối nay chàng không còn bụng dạ nào đùa với con, chàng gỡ tay nó ra, nói:

– Ta không rỗi, hài nhi ra chỗ khác mà chơi!

Lục Vô Song ngẩn người, từ nhỏ cô bé luôn được phụ mẫu cưng chiều, chưa bao giờ nó bị phụ thân hắt hủi như thế, nó dẩu môi, định mè nheo với phụ thân, nhưng chợt thấy người đầy tớ già A Căn hớt hải chạy vào bẩm báo:

– Thiếu gia, ngoài kia có khách ạ.

Lục Lập Đỉnh phẩy phẩy tay, nói:

– Ngươi ra bảo ta đi vắng.

A Căn nói:

– Bẩm thiếu gia, vị đại nương ấy không phải muốn gặp thiếu gia, mà là người qua đường xin nghỉ nhờ một đêm.

Lục Lập Đỉnh kinh ngạc hỏi:

– Sao, là nữ khách ư?

A Căn đáp.

– Vâng, vị đại nương ấy còn mang theo hai cậu bé rất kháu khỉnh.

Lục Lập Đỉnh nghe nói nữ khách có mang theo hai đứa bé, thì hơi yên tâm, hỏi:

– Bà ta không phải là đạo cô chứ?

A Căn lắc đầu:

– Thưa không ạ. Bà ta ăn vận sạch sẽ, xem chừng là một vị quý phái đấy ạ.

Lục Lập Đỉnh nói:

– Được, người mời bà ta vào phòng khách nghỉ ngơi, hãy mời họ ăn uống tử tế.

A Căn vâng lệnh lui ra. Lục Vô Song nói:

– Hài nhi cũng ra xem sao đây.

Liền chạy theo.

Lục Lập Đỉnh đứng dậy, đang định vào nội thất bàn với nương tử cách ứng phó với kẻ địch, thì Lục nhị nương đã bước ra sảnh. Lục Lập Đỉnh chỉ cho nương tử thấy các vết bàn tay máu, rồi lại kể việc hai ngôi mộ bị đào bới mất xác. Lục nhị nương cau mày hỏi:

– Biết đưa hai đứa nhỏ đi tránh ở đâu bây giờ?

Lục Lập Đỉnh chỉ tay lên tường, nói:

– Hai đứa nhỏ cũng đã bị mụ ma đầu kia liệt vào số bàn tay máu, chỉ e muốn tránh cũng chẳng xong. Ôi, vợ chồng ta luyện võ mấy năm chỉ uổng công, kẻ địch lọt vào nhà mà chúng ta chẳng hay biết, thế… thế…

Lục nhị nương nhìn bức tường trắng, tay nắm lưng ghế nói:

– Sao những chín bàn tay máu? Cả nhà ta hiện chỉ có bảy người.

Vừa nói, chân tay nàng bủn rủn, nhìn phu quân mà nước mắt lưng tròng. Lục Lập Đỉnh giơ tay dìu vợ, nói:

– Nương tử, việc đã thế này, cũng đừng nên lo sợ. Hai bàn tay hàng trên là vợ chồng huynh tẩu, hai bàn tay hàng dưới tất nhiên là ngụ ý hai ta. Hàng dưới, hai bàn tay đầu là Vô Song với Trình Anh, ba bàn tay cuối cùng là A Căn và hai tỳ nữ. Thế là hết sạch cả nhà.

Lục nhị nương run giọng:

– Vợ chồng huynh tẩu ư?

Lục Lập Đỉnh nói:

– Không biết mụ ma đầu ấy với huynh tẩu có oán thù gì lớn, mà huynh tẩu chết rồi, mụ ta còn sai người đào mồ lên làm nhục di thể họ.

Lục nhị nương hỏi:

– Chàng bảo lão già điên khùng là do mụ ta phái tới ư?

Lục Lập Đỉnh nói:

– Dĩ nhiên.

Lục nhị nương thấy mặt phu quân lấm lem bụi đất và mồ hôi, thì dịu dàng nói:

– Chàng về phòng rửa mặt thay áo, nghỉ một lát đi, rồi hãy hay.

Lục Lập Đỉnh cùng nương tử sánh vai đi vào phòng trong, nói:

– Nương tử, cả nhà họ Lục hôm nay dẫu có chết, cũng phải chết sao cho xứng với uy danh của huynh tẩu mới được.

Lục nhị nương lòng chua xót, đáp:

– Chàng nói rất phải.

Hai người đều nghĩ, Lục Lập Đỉnh tuy hoàn toàn vô danh, nhưng vợ chồng huynh trưởng Lục Triển Nguyên và Hà Nguyên Quân nổi tiếng giang hồ hiệp nghĩa, danh tiếng của Lục gia trang ở Gia Hưng được hết thảy mọi người trong võ lâm trước nay kính nể.

Hai vợ chồng đi vào hậu viện, bỗng nghe có tiếng động trên đầu tường bao phía đông. Lục Lập Đỉnh bèn chạy lên che cho nương tử, ngẩng đầu nhìn, thấy trên bờ tường có một cậu bé đang hái hoa lăng tiêu, lại nghe có người ở dưới chân tường nói: “Cẩn thận, kẻo ngã”. Thì ra là Trình Anh và Lục Vô Song đang cùng một cậu bé khác đứng dưới chân tường. Lục Lập Đỉnh nghĩ thầm: “Hai cậu bé kia chắc là con của người đến ngủ nhờ, sao lại biết ra đây chơi đùa nhỉ?”.

Cậu bé trên bờ tường hái được một bông hoa, Lục Vô Song gọi:

– Cho tớ, cho tớ nào!

Cậu bé trên bờ tường mỉm cười, ném bông hoa xuống chỗ Trình Anh. Trình Anh giơ tay đón bông hoa, rồi đưa cho biểu muội. Lục Vô Song dỗi, vứt luôn xuống đất, lấy chân giẫm lên mấy cái nói:

– Tưởng báu lắm đấy, ta không thèm.

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh thấy mấy đứa nhỏ hồn nhiên chơi đùa, chẳng biết đại họa đẫm máu sắp ập xuống Lục gia trang, thì thở dài, cùng đi vào phòng. Trình Anh thấy Lục Vô Song giẫm nát bông hoa, nói:

– Biểu muội tức lắm phải không?

Lục Vô Song dẩu mỏ, nói:

– Muội không cần nó, muội tự hái được.

Đoạn nhún chân một cái, nhảy lên, túm được một cành đằng la có hoa chĩa thấp, lại đánh đu lấy đà bay lên cao mấy thước, túm lấy một cành ngân quế. Cậu bé trên bờ tường vỗ tay gọi:

– Lên đây với tớ đi!

Lục Vô Song hai tay nắm cành quế đánh đu vài lần, rồi buông tay cho người bay lên bờ tường.

Cô bé mới luyện qua một chút khinh công, động tác này quả vô cùng nguy hiểm. Chỉ vì bực cậu bé không tặng hoa cho nó, lại tặng cho Trình Anh, mà nó chạm lòng tự ái hiếu thắng, bất kể ba bảy hai mươi mốt gì hết, đu người phóng lên tường. Cậu bé kia ngạc nhiên, kêu to:

– Cẩn thận!

Rồi chìa tay ra đón. Nếu cậu ta không giơ tay đón, Lục Vô Song chắc có thể bíu lấy bờ tường, nhưng đang lơ lửng trên không, thấy cậu bé giơ tay đón đỡ, Lục Vô Song lại quát: “Tránh ra!” rồi xoay mình để tránh hai tay cậu bé. Động tác xoay mình trong không trung là một thứ khinh công tuyệt kỹ, cô bé từng thấy cha mình sử dụng, nhưng ngay cả mẹ nó còn chưa làm nổi, thì một cô bé như nó sao đủ khả năng? Nó vừa xoay mình, thì mấy ngón tay đập vào bờ tường, nó kêu lên một tiếng “Ôi chao!”, rơi thẳng xuống.

Cậu bé ở dưới chân tường thấy Lục Vô Song rơi xuống, vội vọt tới, giơ tay đỡ. Tường cao hơn một trượng thân thể cô bé tuy nhẹ, nhưng lực rơi từ trên cao xuống rất mạnh, cậu bé ở dưới chân tường ôm được ngang người cô bé thì cả hai đứa cùng ngã oạch xuống, nghe rất nặng nề. Nghe cạch cạch hai tiếng, Lục Vô Song bị gãy chân trái, còn cậu bé thì thái dương đập vào một cục đá, lập tức máu chảy loang mặt.

Trình Anh và cậu bé thứ hai thấy chuyện chẳng lành, vội xúm lại giúp. Cậu bé từ từ ngồi dậy, lấy tay bịt vết thương trên trán. Lục Vô Song thì ngất lịm.

Trình Anh ôm biểu muội, gọi to:

– Di trượng ơi, a di ơi, mau ra đây!

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh nghe gọi, từ trong nhà chạy ra, thấy hai đứa trẻ bị thương, lại thấy một phụ nữ trung niên từ chái nhà phía tây chạy ra, chắc là ngươi xin ngủ nhờ. Chỉ thấy người ấy bế Lục Vô Song vào trong sảnh, không lo cầm máu trước cho cậu bé, mà lại nắn chỗ xương gãy cho Lục Vô Song. Lục nhị nương lấy chiếc khăn tay băng trán cho cậu bé, rồi lại bên xem vết thương của con gái.

Người thiếu phụ kia điểm huyệt Bạnh Hải ở phía trong cái chân bị gãy và huyệt Ủy Trung ở sau đầu gối để giảm đau cho Lục Vô Song, hai tay thiếu phụ nắn nắn hai bên chỗ xương gãy để chuẩn bị bó kẹp lại. Lục Lập Đỉnh thấy động tác của bà ta lanh lẹ, điểm huyệt thành thạo, thì lòng đầy nghi vấn, hỏi:

– Đại nương là ai, quang lâm tệ trang có gì chỉ giáo chăng?

Người thiếu phụ ấy chỉ chăm chú tiếp cốt cho Lục Vô Song, ậm ậm ừ ừ, không trả lời.

Đúng lúc đó, trên mái nhà bỗng có tiếng cười ha hả, rồi một giọng nữ nói:

– Chỉ tính mấy mạng chín người trong Lục gia trang, những kẻ còn lại hãy mau mau rời khỏi đây.

Ngươi thiếu phụ đang nắn xương nghe tiếng nói trên mái nhà, giật mình, bất giác bóp hai tay một cái, “cạch” một tiếng nhẹ , Lục Vô Song đau quá kêu tướng lên, lại ngất đi.

Mấy người cùng ngẩng đầu, chỉ thấy cạnh mái hiên có một đạo cô trẻ, ánh trăng chiếu vào khuôn mặt, trông nàng ta trạc mười lăm mười sáu tuổi, sau lưng giắt thanh trường kiếm, kiếm luyện huyết hồng, phát tiếng kêu u u trong gió. Lục Lập Đỉnh nói to:

– Tại hạ Lục Lập Đỉnh, người có phải là môn hạ của Lý tiên cô?

Tiểu đạo cô nhếch mép, nói:

– Ngươi biết thế thì tốt! Ngươi hãy mau giết hết vợ con, nô bộc, rồi tự vẫn, để ta đỡ phí thêm chút sức lực.

Lời này nói ra nhơn nhơn thong thả, thật không còn coi đối phương ra gì.

Lục Lập Đỉnh nghe mấy câu đó thì sợ phát run, nói:

– Ngươi… ngươi…

Nhất thời chưa biết ứng phó thế nào, cũng định nhảy lên mái nhà liều mạng một phen, nhưng nghĩ đối phương còn nhỏ tuổi, lại là nữ giới, thật không tiện động thủ; chàng đang trù trừ, bỗng thấy có người vút qua bên cạnh, chính là thiếu phụ qua đường xin ngủ nhờ, tay cầm trường kiếm, phi thân lên mái nhà tỉ thí với tiểu đạo cô.

Thiếu phụ mặc bộ quần áo màu tro, tiểu đạo cô mặc bộ đạo bào màu hoàng hạnh, dưới ánh trăng chỉ thấy hai vệt màu xám màu vàng bay lượn kèm theo ba đạo hàn quang, đôi lúc phát ra tiếng binh khí chạm nhau. Lục Lập Đỉnh được huynh trưởng truyền dạy võ công, tuy chưa từng giao đấu với kẻ địch, nhưng nhãn quang của chàng cũng khá, có thể nhận biết rõ ràng kiếm chiêu của hai người. Thấy thanh trường kiếm trong tay tiểu đạo cô chợt thủ chợt công, đang công trở về thủ, kiếm pháp vô cùng lợi hại. Thiếu phụ thì ngưng thần đối phó, nhằm chỗ sơ hở của đối thủ mà xuất chiêu. Bỗng nghe “keng” một tiếng, hai kiếm chạm nhau, thanh trường kiếm của tiểu đạo cô văng lên trời, nàng ta vội lùi ra sau, nói:

– Ta phụng mệnh tới giết cả nhà họ Lục, ngươi là ai mà lại đến đây lo chuyện bao đồng?

Thiếu phụ cười khẩy nói:

– Sư phụ ngươi có giỏi thì phải sớm tìm Lục Triển Nguyên mà tính sổ, nay thừa biết Lục Triển Nguyên đã chết, lại đến tìm người khác để trút giận mà không biết ngượng hay sao?

Tiểu đạo cô vung tay phải, ba chiếc ngân châm bay đi, hai chiếc nhắm vào thiếu phụ, chiếc thứ ba phóng xuống Lục Lập Đỉnh đang đứng dưới sân. Không ai ngờ việc đó, thiếu phụ vung kiếm gạt, Lục Lập Đỉnh thì giơ hai ngón tay kẹp được chiếc ngân châm.

Tiểu đạo cô cười nhạt, nhảy xuống đất, chỉ nghe tiếng chân chạy như bay như biến. Thiếu phụ trở xuống thấy Lục Lập Đỉnh tay cầm chiếc ngân châm, vội nói:

– Mau ném đi!

Lục Lập Đỉnh y lời làm theo. Thiếu phụ dùng kiếm cắt một phần vạt áo của mình, buộc chặt cổ tay phải của Lục Lập Đỉnh.

Lục Lập Đỉnh giật mình, hỏi:

– Ngân châm tẩm độc ư?

Thiếu phụ đáp:

– Là chất cực độc đó!

Rồi lấy một viên thuốc đưa cho Lục Lập Đỉnh bảo nuốt ngay. Lục Lập Đỉnh cảm thấy hai ngón trỏ và giữa tê dại, sưng phù lên. Thiếu phụ bèn dùng mũi kiếm nhể vào đầu hai ngón tay ấy, máu đen nhỏ ra từng giọt từng giọt. Lục Lập Đỉnh cả sợ nghĩ thầm: “Ngón tay ta chưa bị sây sát, ta chỉ kẹp chiếc ngân châm mà còn nhiễm độc như thế, nếu để chiếc ngân châm đâm vào người thử hỏi còn gì mạng sống?”. Bèn thi lễ với người thiếu phụ, nói:

– Tại hạ có mắt không thấy Thái Sơn, xin mạo muội thỉnh vấn quý tính đại danh.

Thiếu phụ nói:

– Quan nhân nhà tiểu phụ nhân họ Võ, là Võ Tam Thông.

Lục Lập Đỉnh giật mình, nói:

– Thì ra là Võ tam nương. Nghe kể Võ tiền bối là môn hạ của Nhất Đăng đại sư ở Vân Nam Đại Lý, có phải vậy chăng?

Võ tam nương đáp:

– Chính thế, Nhất Đăng đại sư là sư phụ của quan nhân nhà tiểu phụ nhân. Tiểu phụ nhân học được chút võ nghệ thô thiển, thật là múa rìu qua mắt thợ, làm trò cười cho Lục gia.

Lục Lập Đỉnh rối rít đa tạ ân đức. Chàng từng nghe huynh trưởng kể rằng bình sinh các cao thủ võ học phải kể trước hết môn đệ của Nhất Đăng đại sư. Nhất Đăng đại sư vốn là quốc quân của nước Đại Lý, sau khi rời ngôi đi tu, có bốn đại đệ tử “Ngư Tiều Canh Độc” theo hầu, trong đó nông phu (Canh) chính là Võ Tam Thông, là người có hiềm khích với huynh trưởng, nhưng còn việc kết oán thế nào, thì huynh trưởng không nói rõ. Nay Võ tam nương đã không coi chàng như kẻ địch, lại còn ra tay đánh đuổi đệ tử của “Xích Luyện tiên tử”, duyên do vì sao thật là khó hiểu. Mấy người trở vào sảnh đường. Lục Lập Đỉnh ôm nữ nhi vào lòng, thấy nó đã tỉnh lại, sắc mặt nhợt nhạt, nhưng cố nhịn đau không khóc, thì chàng bất giác thấy thương nó quá. Võ tam nương thở dài, nói:

– Đệ tử của nữ ma đầu kia chạy đi rồi, thì mụ ta sẽ thân chinh đến ngay. Lục gia, không phải là tiểu phụ nhân này coi thường Lục gia, nhưng hai vị dẫu có tiểu phụ nhân trợ giúp, cũng không tài nào địch nổi mụ ta. Song tiểu phụ nhân nghĩ rằng có bỏ chạy cũng vô ích, chi bằng đành phó mặc ý trời, chúng ta cứ chờ mụ ta đến vậy!

Lục nhị nương hỏi:

– Mụ ma đầu ấy rốt cuộc có thâm cừu đại oán gì với nhà chúng tôi vậy?

Võ tam nương nhìn Lục Lập Đỉnh một cái, nói:

– Không lẽ Lục gia chưa kể cho phu nhân biết hay sao?

Lục nhị nương đáp:

– Phu quân bảo chỉ biết việc này có liên quan đến huynh tẩu của chàng, còn chuyện mắc mứu tình ái thế nào, chàng cũng không rõ lắm!

Võ tam nương lại thở dài, nói:

– Thế cũng phải! Tiểu phụ nhân là người ngoài, có nói cũng không sao. Lệnh huynh Lục Triển Nguyên mười năm trước từng qua Đại Lý. Thời ấy “Xích Luyện tiên tử” Lý Mạc Sầu, người mà ngày nay võ lâm nghe nhắc tới đã kinh hồn táng đởm, còn là một thiếu nữ xinh đẹp dịu dàng, chưa hề xuất gia. Cũng là oan nghiệt từ kiếp trước, sau khi Lý Mạc Sầu gặp lệnh huynh, đôi bên nảy nở ái tình. Sau đó trải qua nhiều biến cố tranh chấp, lệnh huynh lại thành hôn với lệnh tẩu Hà Nguyên Quân. Nói đến lệnh tẩu không thể không nhắc tới chuyết phu (chuyết phu: lời nói khiêm nhường, chỉ người chồng của mình). Chuyện này kể ra thật ngượng, nhưng hôm nay tình thế quẫn bách, tiểu phụ nhân này đành nói ra vậy. Lệnh tẩu Hà Nguyên Quản vốn là nghĩa nữ của phu phụ tiểu phụ nhân.

Hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng ồ lên. Võ tam nương xoa nhẹ vai cậu bé bị thương nhìn ngọn nến, nói:

– Lệnh tẩu Hà Nguyên Quân cô khổ từ nhỏ, phu phụ tiểu phụ nhân đem về nhà nuôi dưỡng, nhận làm nghĩa nữ, vô cùng yêu thương. Sau Hà Nguyên Quân quen biết lệnh huynh, đôi bên tình đầu ý hợp, muốn kết thành phu phụ. Chuyết phu một là không muốn gả chồng xa, hai là tính tình cố chấp, bảo người Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy, bởi vậy nhất quyết không cho phép. Hà Nguyên Quân bèn trốn nhà đi theo lệnh huynh. Đúng ngày thành hôn, chuyết phu và Lý Mạc Sầu cùng tới gây chuyện với cặp vợ chồng tân hôn. Tại tiệc cưới có một vị cao tăng chùa Thiên Long ở Đại Lý đã ra tay ngăn chặn, buộc hai người phải nể mặt, để cho đôi vợ chồng tân hôn được sống bình yên trong mười năm. Chuyết phu và Lý Mạc Sầu bấy giờ đành phải hứa nội trong mười năm không gây khó dễ với hai vợ chồng họ. Chuyết phu sau đó phẫn uất quá, hóa thành người điên điên khùng khùng, bất kể bạn hữu và tiểu phụ nhân này khuyên can thế nào, cũng không nguôi ngoai, cứ tính từng ngày. Hôm nay chính là hết hạn mười năm, ai ngờ lệnh huynh và lệnh tẩu đã… Ôi hạnh phúc mười năm cũng chưa được hưởng trọn. Nói đoạn cúi đầu, vẻ buồn bã.

Lục Lập Đỉnh nói:

– Như thế, kẻ đào mồ lấy di thể của huynh tẩu ta chính là tôn phu.

Võ tam nương cả thẹn, nói:

– Vừa rồi nghe hai tiểu thư trong phủ kể, thì đúng là chuyết phu rồi.

Lục Lập Đỉnh cao giọng:

– Hành động của tôn phu thật quá ư sai trái. Thù oán đâu có gì ghê gớm, huống hồ huynh tẩu của ta đã chết, dẫu có thâm cừu đại oán, kể như cũng xóa sạch, đằng này lại đi đào bới mộ phần, lấy mất di thể, như vậy đâu phải là anh hùng hảo hán?

Luận về vai vế, vợ chồng họ Võ là bề trên, nhưng Lục Lập Đỉnh trong lúc tức giận, nói năng bất chấp tôn ti. Võ tam nương thở dài:

– Lục gia trách cứ cũng phải, chuyết phu tâm trí thất thường, lời lẽ cử chỉ thường không có tình có lý gì cả. Hôm nay tiểu phụ nhân mang hai con nhỏ tới đây là để phòng chuyết phu ở đây quậy phá. Trên đời này, e rằng chuyết phu chỉ còn nể đôi chút một mình tiểu phụ nhân nữa thôi.

Đoạn quay sang bảo hai đứa con.

– Các ngươi hãy khấu đầu thay phụ thân các ngươi tạ tội với Lục gia và Lục nhị nương đi.

Hai cậu bé sụp xuống lạy.

Lục nhị nương vội đưa tay đỡ dậy, hỏi tên. Cậu bé bị thương vào trán tên là Võ Đôn Nhu, là anh, còn cậu em tên là Võ Tu Văn. Hai anh em hơn kém nhau một tuổi, đứa mười hai, đứa mười một. Hai người con của danh gia võ học lại đều mang cái tên văn chương nho nhã. Võ Tam nương nói, hai vợ chồng bà đứng tuổi mới có con, thấm thía sự hiểm ác trong võ lâm, cho nên chỉ mong các con bỏ võ theo văn, song hai đứa con trai của họ vẫn cứ thích võ, chẳng hợp với cái tên của chúng chút nào.

Võ tam nương kể xong, lại buồn bã thở dài, nghĩ thầm chuyện này chỉ nên dừng ở đây, phần tiếp theo chẳng nên kể cho người ngoài biết. Vốn khi Hà Nguyên Quân mười bảy mười tám tuổi, thì đẹp như tiên nữ, kiều mị khả ái, Võ Tam Thông đối với nàng tựa hồ không đơn thuần chỉ có tình nghĩa phụ nghĩa nữ. Do thân phận hào hiệp trong võ lâm, Võ Tam Thông không thể cho phép mình có cử chỉ lời lẽ vượt quá giới hạn, tâm sự cứ uất kết lại, đột nhiên thấy nàng phải lòng một chàng trai Giang Nam, thì không kìm được cơn cuồng nộ. Còn về câu nói “Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt, hoàn toàn không đáng tin cậy” thì ngoài cái ý chê bai ý trung nhân của Hà Nguyên Quân ra, Võ Tam Thông còn từng bị Hoàng Dung đánh lừa, tuy sau đấy hòa giải với Hoàng Dung, Quách Tĩnh song cái ý nghĩ “Dân Giang Nam gian trá giảo hoạt” đã hằn sâu trong tâm trí Võ Tam Thông.

Võ tam nương nói:

– Nào ngờ chuyết phu không đến, “Xích Luyện tiên tử” đã tới phủ này tìm cách báo thù.

Vừa nói đến đây, bỗng nghe trên mái nhà có tiếng gọi:

– Nhu nhi, Văn nhi, ra đây ta bảo!

Tiếng gọi đột nhiên vang lên, trước đó không hề nghe thấy tiếng chân giẫm trên mái ngói, hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh cùng giật mình, biết là Võ Tam Thông tới. Trình Anh và Lục Vô Song cũng nhận ra giọng nói của lão quái khách nhai gương sen.

Chỉ thấy một bóng người lướt qua. Võ Tam Thông từ trên mái nhà bay xuống, mỗi tay kẹp một đứa con lại phi thân lên mái nhà. Võ Tam nương kêu to:

– Này, này, tướng công hãy nói qua với Lục gia và Lục nhị nương, tướng công đã mang hai bộ di thể đi đâu thế? Hãy mau mang trả lại.

Võ Tam Thông chẳng buồn ngoái đầu, đã mất hút đằng xa.

Lão chạy loạn một hồi, chạy vào một cánh rừng, đột nhiên bỏ Võ Tu Văn xuống, chỉ cắp Đôn Nhu mà chạy đi mất tăm. Rốt cuộc lão bỏ một đứa con ở giữa rừng.

Võ Tu Văn gọi to:

– Cha ơi, cha ơi!

Cậu bé thấy phụ thân cắp ca ca chạy xa đã mấy chục trượng, chỉ nghe tiếng lão từ xa văng vẳng:

– Ngươi cứ đợi đó, ta sẽ trở lại ẵm ngươi.

Võ Tu Văn biết cha mình hành sự khi mê khi tỉnh, điên điên khùng khùng, nên cũng chẳng lấy làm lạ. Đêm tối một mình ở trong rừng kể cũng sợ, nhưng nghĩ cha sắp trở lại đón mình, nó bèn ngồi xuống một gốc cây chờ. Chờ lâu lắm rồi, vẫn không thấy cha quay lại, nó tự nhủ “Mình đi tìm mẹ thôi”. Thế là nó lần ngược lại đường tới đây.

Nhưng đường sá ở miền Giang Nam dọc ngang chằng chịt giữa ban ngày còn khó nhận biết, nữa là trong đêm tối. Cậu bé càng đi đường càng hẹp, đã mấy lần bước cả xuống ruộng, hai chân dính đầy bùn, cuối cùng lại tiến vào một cánh rừng, bước cao bước thấp, nhìn bốn phía toàn một màu đen mịt mùng. Nó lo sợ phát khóc, miệng gọi to:

– Cha ơi, cha! Mẹ ơi, mẹ!…

Đêm thanh vắng, nào có ai đáp lời? Chợt nghe có mấy tiếng kêu, ấy là tiếng cú rúc. Cậu bé từng nghe kể rằng loài cú rất thích đếm số lông mày của con người, ai mà bị nó đếm đúng lông mày có bao nhiêu sợi, người ấy sẽ chết liền. Nó bèn đưa đầu ngón tay vào miệng nhúng nước bọt, bôi lên lông mày cho dính vào nhau, để con cú không đếm được.Nhưng tiếng cú cứ kêu mãi, cậu bé bèn tựa vào thân cây, dùng các ngón tay bịt chặt hai hàng lông mày, không dám động đậy, trống ngực cứ đập dồn. Một lát sau thì nó díp mắt lại, ngủ thiếp đi. Ngủ đến sáng hôm sau đang mơ màng thì nghe có mấy tiếng kêu lanh lảnh. Võ Tu Văn mở mắt ra, ngẩng mặt nhìn lên, thấy có hai con chim ưng cực lớn dang rộng cánh bay lượn trên bầu trời. Sải cánh của chim phải tới mấy trượng. Từ nhỏ nó chưa từng thấy có con chim ưng nào lớn ngần này, nó chăm chú ngắm, vừa lạ vừa thích quên rằng nó chỉ có một mình, tưởng ca ca nó vẫn ở bên cạnh buột miệng gọi:

– Ca ca, mau đến xem chim ưng này!

Bỗng nghe phía sau lưng có hai tiếng hú rất trong, là tiếng của một cô bé. Hai con chim ưng lớn lượn vòng rồi từ từ sà xuống. Võ Tu Văn ngoảnh đầu nhìn lại, thấy một cô bé từ sau thân cây bước ra, giơ tay lên trời vẫy vẫy. Hai con chim ưng cụp cánh đậu xuống ngay bên cạnh. Cô bé nhìn Võ Tu Văn, hai tay vuốt lưng hai con chim ưng, nói:

– Điêu nhi giỏi, điêu nhi ngoan lắm!

Võ Tu Văn nghĩ thầm: “Thì ra hai con chim ưng này là Điêu nhi đây”, chỉ thấy hai con chim ưng nghển cổ, đậu dưới đất mà còn cao hơn cô bé, trông rất hùng dũng.

Võ Tu Văn bước tới gần, nói:

– Hai con điêu nhi này nhà bé nuôi phải không?

Cô bé nhếch mép có vẻ xem thường nói:

– Đây không biết đằng ấy, không chơi với đằng ấy.

Võ Tu Văn cũng chẳng giận, giơ tay vuốt lưng con điêu nhi. Cô bé bỗng huýt một tiếng sáo, cánh bên trái của con điêu nhi đột nhiên hất mạnh ra, Võ Tu Văn không đề phòng, bị ngã sóng xoài.

Cậu lồm cồm bò dậy, nhìn cặp điêu nhi nói:

– Hai con chim này cừ thật, biết nghe lệnh của bé. Ta về nhà cũng phải bảo phụ thân ta bắt một cặp điêu nhi về nuôi chơi mới được.

Cô bé nói:

– Phụ thân đằng ấy mà đòi bắt được điêu nhi?

Võ Tu Văn bị giội liền ba gáo nước lạnh thì hơi ngượng, bây giờ mới nhìn kỹ thấy cô bé mặc áo lụa xanh nhạt, cổ đeo một chuỗi ngọc, mặt trắng mịn như sữa, đôi mắt sinh động, lông mày dài thanh tú. Võ Tu Văn tuy còn nhỏ song cũng cảm nhận được sắc đẹp tuyệt vời của cô bé, bất giác muốn gần gũi, nhưng thấy thái độ lạnh nhạt của cô bé, nó cảm thấy sờ sợ.

Cô bé dùng tay phải vuốt ve lưng điêu nhi, đưa mắt nhìn Võ Tu Văn một lượt từ đầu xuống chân, hỏi:

– Tên đằng ấy là gì? Sao lại đi chơi một mình?

Võ Tu Văn đáp:

– Ta à? Ta tên là Võ Tu Văn, ta đang chờ phụ thân ta. Còn bé tên gì?

Cô bé dẩu môi hừ một tiếng, nói:

– Đây không chơi với trẻ đi hoang.

Đoạn quay người bỏ đi. Võ Tu Văn sững người, nói:

– Ta không phải là trẻ đi hoang.

Vừa nói cậu vừa đi theo cô bé.

Võ Tu Văn thấy cô bé kém mình hai, ba tuổi, người thấp chân ngắn, cậu chỉ cần rảo bước sẽ đuổi kịp; nào ngờ cậu vừa thi triển khinh công, thì cô bé bước nhanh hẳn lên, trong giây lát đã bỏ cậu rớt lại phía sau, xa đến mấy trượng. Cô bé chạy vài bước nữa, đứng lại, ngoảnh đầu hỏi:

– Này, đằng ấy có thể đuổi kịp đây không?

Võ Tu Văn nói:

– Dĩ nhiên là kịp.

Lập tức đuổi theo.

Cô bé vừa chạy vừa ngoái đầu lại, đột nhiên nấp vào sau thân một cây tùng. Võ Tu Văn đuổi tới gần, cô bé liền giơ chân trái ngáng chân Võ Tu Văn một cái. Võ Tu Văn đang chạy, không đề phòng, lập tức người ngã chúi về phía trước. Cậu vội sử chiêu “Thiết thụ trang” để giữ thăng bằng. Cô bé lại tung chân phải đá vào mông cậu thật mạnh. Võ Tu Văn tức thì ngã sấp mặt xuống, mũi đập vào một hòn đá nhọn máu cháy ròng ròng, loang lổ cả vạt áo.

Cô bé thấy máu thì hoảng sợ, vội bỏ chạy, bỗng đằng sau có tiếng quát:

– Phù nhi, điệt nhi lại bày trò khi dễ người khác phải không?

Cô bé không ngoảnh đầu, chối cãi:

– Ai bảo thế? Hắn ta tự vấp ngã đấy chứ, đâu liên quan gì tới cháu? Công công đừng có mách cha cháu đấy.

Võ Tu Văn xoa xoa mũi, kỳ thực cũng không đau mấy, chỉ là thấy máu tươi dính tay thì hơi hoảng. Cậu nghe cô bé nói, ngoảnh đầu nhìn thấy ông già thọt chống gậy sắt, râu tóc như sương, người gầy, hai mắt toàn lòng trắng, thì ra đã mù.

Chỉ nghe lão nhân lạnh lùng nói:

– Ngươi đừng tưởng ta không nhìn thấy. Ta đã nghe thấy hết. Ngươi còn nhỏ đã xấu tính thế này, lớn lên sẽ hỏng đấy.

Cô bé liền chạy tới đỡ một cánh tay lão nhân, giọng van vỉ:

– Đại công công ơi, đừng mách cha cháu nhé, được không nào? Cậu ta ngã chảy máu mũi, công công chữa cho cậu ta đi!

Lão nhân bước tới, tay trái nắm cánh tay phải của Võ Tu Văn, giơ ngón tay phải day day mấy cái cạnh huyệt Văn Hương. Máu mũi vốn đã sắp ngừng chảy, sau vài cái day liền ngưng hẳn. Võ Tu Văn cảm thấy năm ngón tay của lão nhân nắm cánh tay mình cứ như một cây kìm bằng sắt, vừa dài vừa cứng thì hơi sợ, thử giằng ra, nhưng không cựa quậy được. Cậu bèn sử chiêu tiểu cầm nã thủ mà mẹ cậu đã dạy để thoát ra. Lão nhân không ngờ cậu bé lại có thủ pháp khôn khéo như vậy, tuy bị tuột tay ra song lại chộp ngay được cổ tay cậu bé. Võ Tu Văn vận sức cố giằng ra, nhưng không được.

Lão nhân nói:

– Tiểu huynh đệ đừng sợ, cháu họ gì vậy?

Võ Tu Văn đáp:

– Điệt nhi họ Võ.

Lão nhân nói:

– Giọng nói của cháu không phải của người vùng này. Cháu từ đâu tới đây? Cha mẹ cháu đâu?

Nói rồi vị lão nhân buông cổ tay cậu bé ra. Võ Tu Văn nhớ lại từ đêm qua tới giờ chưa gặp cha mẹ không biết họ đang ở đâu, nước mắt lưng tròng, chỉ muốn khóc òa. Cô bé nhăn mặt trêu cậu:

– Ê xấu quá, mắt đỏ hoe sắp khóc nhè rồi kìa!

Võ Tu Văn hiên ngang nói:

– Không đời nào ta khóc!

Rồi cậu kể qua việc mẹ cậu ở Lục gia trang chờ địch, cha cậu xốc nách anh trai cậu chạy đi, còn cậu bị lạc trong rừng cả đêm qua. Cậu kể khá lộn xộn nhưng lão nhân cũng hiểu được bảy, tám phần. Lão nhân lại hỏi thêm, biết gia đình cậu bé từ nước Đại Lý tới, cha cậu tên là Võ Tam Thông, có môn võ công giỏi nhất là “Nhất dương chỉ”.

Lão nhân nói:

– Phụ thân cháu là môn đệ của Nhất Đăng đại sư phải không?

Võ Tu Văn mừng nói:

– Vâng, thế ra công công cũng quen biết hoàng tộc chúng cháu ư?

Nguyên trước kia ở nước Đại Lý, Võ Tam Thông làm Tổng quản Ngự lâm quân dưới quyền Quốc công cựu đế Đoàn Trí Hưng. Về sau Đoàn Trí Hưng xuất gia, lấy pháp danh Nhất Đăng. Nhưng mỗi lần kể chuyện cũ với hai đứa con, Võ Tam Thông vẫn cứ dùng câu “Hoàng tộc chúng ta thế này thế nọ”, nên Võ Tu Văn cũng quen miệng gọi cha là “hoàng tộc”.

Lão nhân nói:

– Ta chưa có cơ duyên bái kiến lão nhân gia, nhưng có nghe đại danh “Nam đế” từ lâu, nên rất khâm phục. Cha mẹ cô bé này từng chịu ân huệ rất lớn của lão nhân gia. Như thế, chúng ta không phải là người ngoài. Cháu có biết kẻ địch mà mẹ cháu đang chờ là ai không?

Võ Tu Văn nói:

– Cháu nghe mẹ cháu nói với Lục gia, thì kẻ địch tên là Xích Luyện Xà hay Xích Luyện Sầu gì ấy.

Lão nhân ngẩng đầu, lẩm bẩm:

– Xích Luyện Xà ư?

Đột nhiên dộng mạnh cây gậy sắt, nói to:

– Là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu phải không?

Võ Tu Văn mừng đáp:

– Đúng, đúng rồi! Chính là Xích Luyện tiên tử!

Lão nhân lập tức tỏ vẻ nghiêm trang, nói:

– Hai cháu hãy ở đây chơi, chớ rời khỏi chỗ này nửa bước. Để ta đi xem sao.

Cô bé nói:

– Đại công công, cháu cũng đi.

Võ Tu Văn cũng nói:

– Cháu cũng đi.

Lão nhân vội ngăn:

– Ấy chớ, ấy chớ! Hai cháu không đi được! Mụ nữ ma đầu ấy hung ác lắm, ta không địch nổi mụ. Chẳng qua biết bằng hữu gặp nạn, không thể không đi. Hai cháu phải nghe lời ta.

Đoạn chống nạng, cầm gậy đi rất nhanh.

Võ Tu Văn thán phục nói:

– Lão công công vừa mù vừa thọt mà đi nhanh thật!

Cô bé dẩu môi, nói:

– Thế có gì lạ? Khinh công của cha mẹ ta đây, đằng ấy mà thấy mới giật mình kia.

Võ Tu Văn hỏi:

– Cha mẹ của bé cũng vừa mù vừa thọt à?

Cô bé cả giận, đốp lại:

– Hừ, có cha mẹ đằng ấy vừa mù vừa thọt thì có!

Lúc này trời đã sáng bạch, nông phu đã ra nương rẫy làm việc, nam nữ vừa làm vừa hát sơn ca. Lão nhân là người vùng này, tuy mù hai mắt, nhưng thuộc đường, cứ vừa đi vừa hỏi, không lâu đã tới cổng Lục gia trang. Từ xa đã nghe tiếng binh khí va nhau chan chát. Nhà Lục Triển Nguyên là quan thân thế gia trong vùng, lão nhân chỉ là thường dân, tuy cũng là người có tiếng am hiểu võ học ở Gia Hưng, nhưng không hề qua lại. Lão nhân thừa biết võ công mình thua xa Xích Luyện tiên tử, tới đây chẳng qua chỉ nộp thêm cái mạng già, nhưng nghĩ chuyện này liên quan đến đệ tử của Nhất Đăng đại sư, là người có ân tình lớn với gia đình lão nhân, nên không thể khoanh tay, bèn rảo bước xông tới. Chỉ nghe trên mái nhà có bốn người đang giao đấu. Lão nhân dỏng tai, qua tiếng binh khí chạm nhau, biết một bên có ba người, bên kia có một người nhưng ba không địch nổi một, đã hoàn toàn rơi vào thế hạ phong.

Đêm qua, khi Võ Tam Thông ôm hai đứa con chạy đi, vợ chồng Lục Lập Đỉnh quá đỗi kinh ngạc, không hiểu dụng ý của Võ Tam Thông. Võ tam nương thì có vẻ mừng, nói:

– Chuyết phu thường ngày điên điên khùng khùng, ít khi thông đạt sự lý như lần này.

Lục nhị nương hỏi lý do, Võ tam nương cười không giải thích, chỉ nói:

– Tiểu phụ nhân cũng không biết mình đoán có đúng hay không, nhưng chờ một lúc nữa sẽ rõ.

Đêm đã về khuya, Lục Vô Song nằm ngủ trong lòng người cha; Trình Anh cũng mơ màng díp mắt lại. Lục nhị nương định bế hai đứa trẻ vào buồng ngủ, thì Võ tam nương nói:

– Hãy chờ chút nữa.

Bỗng nghe trên mái có tiếng gọi:

– Tung lên đây.

Chính là giọng nói của Võ Tam Thông. Khinh công của lão ta thật cao siêu, lão đi tới trên mái ngói mà hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh chẳng hay biết tí gì.

Võ tam nương đón bé Trình Anh, ẵm ra cửa sảnh mà tung lên. Võ Tam Thông ở trên đón lấy. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh còn đang kinh dị thì Võ tam nương lại ẵm Lục Vô Song tung lên.

Lục Lập Đỉnh cả kinh hỏi giật giọng:

– Làm gì thế?

Chàng vọt lên mái nhưng tứ phía tối om, không còn thấy Võ Tam Thông và hai đứa trẻ đâu nữa. Chàng định co giò đuổi theo, thì Võ tam nương gọi:

– Lục gia đừng đuổi theo. Chuyết phu có hảo ý đó.

Lục Lập Đỉnh bán tín bán nghi, nhảy trở xuống, run giọng hỏi:

– Hảo ý thế nào?

Lúc này Lục nhị nương đã hiểu ra, nói:

– Võ Tam gia sợ nữ ma đầu sát hại bọn trẻ, cho nên mới mang chúng tới giấu một chỗ an toàn đó.

Lục Lập Đỉnh là người trong cuộc bị lú lẫn, nghe vợ nói thì tỉnh ngộ, nói:

– Phải rồi, phải rồi!

Nhưng nghĩ đến chuyện Võ Tam Thông mang di thể của huynh tẩu đi mất, thì chàng lại không yên tâm.

Võ tam nương nói:

– Chuyết phu từ ngày Hà Nguyên Quân thành hôn với lệnh huynh, hễ gặp con gái lại nổi giận, không hiểu vì sao, cuối cùng gặp hai vị tiểu thư quý phủ lại không giận nữa, thật là ngoài sở liệu. Lúc chuyết phu đến mang Nhu nhi, Văn nhi đi, tiểu phụ nhân thấy chuyết phu nhìn hai tiểu thư mấy lần, đầy vẻ quan hoài và ưu ái, hệt như đối với Hà Nguyên Quân ngày xưa! Quả nhiên chuyết phu trở lại mang hai tiểu thư đi. Ôi, ước gì từ nay chuyết phu đổi tính, không còn hồ đồ nữa!

Nói đoạn thở dài hai tiếng liền rồi tiếp:

– Hai vị cứ nghỉ một chút đi, mụ ma đầu kia không biết lúc nào đến, cứ ngồi canh cánh chờ mụ thì chỉ tổ mệt mà thôi.

Vợ chồng Lục lập Đỉnh ban đầu lo lắng cho tính mạng của nữ nhi và điệt nhi, nên trong lòng thảng thốt, cử chỉ lời lẽ đều thất thố; bây giờ đã an tâm hơn về chúng, nên chỉ tập trung vào việc chống địch, ý chí đại tăng. Họ mang sẵn binh khí, ám khí bên người; ngồi trong sảnh, nhắm mắt dưỡng thần. Hai vợ chồng sống với nhau mười mấy năm, thường ngày vì chuyện gia đình lắm khi cự nự cằn nhằn lẫn nhau; bây giờ nghĩ rằng cường địch có thể xộc tới bất cứ lúc nào, theo lời Lục Triển Nguyên và Võ tam nương, thì mụ ma đầu võ công cao cường, hành sự tàn bạo, chắc bảy phần là mình khó lòng thoát chết, vợ chồng còn được ở bên nhau không nhiều, bất giác họ tựa sát vào nhau, tay trong tay.

Rất lâu sau, giữa cảnh đêm khuya tịch mịch, bỗng nghe từ xa vẳng lại tiếng hát nhẹ nhàng êm dịu, khoảng cách rất xa, mà nghe rõ từng lời: “Vấn thế gian, tình thị hà vật. Trực giáo sinh tử tương hứa?”. Mỗi tiếng lại đến gần hơn, người hát đi quá nhanh, nghe thấy chữ “hứa”, thì người hát đã tới ngoài cổng.

Ba người kinh hãi nhìn nhau, bỗng “rầm rầm”, “rắc rắc”, các then gỗ cài cổng ngoài cửa trong cùng gãy rời, hai cánh cổng mở toang ra, một đạo cô vô cùng xinh đẹp mỉm cười thong thả bước vào, mình mặc đạo bào màu hoàng hạnh, chính là Xích Luyện tiên tử Lý Mạc Sầu đã tới.

A Căn lúc ấy đang quét sân, bước ra quát hỏi:

– Ai đó?

Lục Lập Đỉnh vội gọi:

– A Căn lui vào ngay!

Nhưng không kịp nữa. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần một cái, A Căn đã vỡ đầu, chết không kịp ngáp.

Lục Lập Đỉnh cầm đao xông ra, Lý Mạc Sầu hơi lách mình vọt qua chỗ chàng, vung cây phất trần đánh chết liền hai tì nữ, rồi cười hỏi:

– Hai đứa bé gái kia đâu?

Vợ chồng Lục Lập Đỉnh thấy mụ ta trong chớp mắt đã giết chết ba người, thừa biết đại họa lâm đầu, cùng nghiến răng vung đao kiếm từ hai bên đánh vào. Lý Mạc Sầu định vung cây phất trần đánh trả, thấy Võ tam nương cầm kiếm đứng một bên, bèn cười, nói:

– Có người ngoài nhúng tay vào, thì ta không tiện giết người ở trong nhà!

Giọng nói của đạo cô nhẹ nhàng uyển chuyển, thần thái kiều mị, cộng với đôi mắt sáng, hàm răng trắng, da dẻ nõn nà, quả là một mỹ nhân tuyệt sắc.

Cũng chẳng thấy đạo cô nhún chân thế nào, mà mụ ta đã nhẹ nhàng bay lên mái nhà. Vợ chồng Lục Lập Đỉnh và Võ tam nương cùng phi lên theo.

Lý Mạc Sầu vung cây phất trần gạt vũ khí của cả ba người ra, nhẹ nhàng nói:

– Lục nhị gia, ca ca của các hạ nếu còn sống, chỉ cần chàng ta lên tiếng cầu xin và đoạn tuyệt với con tiểu tặc Hà Nguyên Quân, thì ta sẽ tha chết cho cả gia đình các hạ. Nay thì ôi thôi, vận số của các người không may, các người có trách thì trách ca ca nhà các người, đừng có trách ta!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Ai cần ngươi tha?

Chàng vung đao chém. Võ tam nương và Lục nhị nương xông vào giáp công. Lý Mạc Sầu thấy Lục Lập Đỉnh võ công vào loại trung bình, nhưng tư thế bước chân xuất đao, xoay mình phách chưởng thì hệt như ý trung nhân Lục Triển Nguyên ngày nào, trong lòng dịu lại muốn được xem lâu hơn một chút, chứ nếu ra đòn hạ sát ngay, thì trên đời chẳng bao giờ còn được ngắm “đao pháp Lục gia Giang Nam” nữa. Thế là đạo cô chỉ đánh đỡ lấy lệ, cứ mặc cho ba đối thủ xoay vòng xung quanh, trong lòng còn ngổn ngang bao tình ý.

Đột nhiên Lý Mạc Sầu hú lên một tiếng nhẹ, nhảy khỏi mái nhà, lao xuống chỗ một lão nhân thọt cầm cây thiết trượng đang đứng bên dòng mương. Chân chưa chạm đất, cây phất trần đã nhắm ngay chỗ yếu hại của đối phương mà đánh tới, hoàn toàn không thèm phòng bị, chỉ muốn sát hại đối phương ngay tức thì.

Lão nhân nghe rõ lai chiêu của kẻ địch, cây thiết trượng quét ngang thật lẹ, rồi chọc ngay vào cổ tay đạo cô. Cây thiết trượng là thứ vũ khí thô nặng, vốn chỉ dùng để quét ngang, nay lão nhân lại sử dụng khẩu quyết chữ “thích”, coi cây thiết trượng như thanh kiếm, xuất chiêu khinh linh phiêu dật. Lý Mạc Sầu khẽ rung cây phất trần, các sợi ngân ti quấn ngay lấy đầu cây thiết trượng, miệng quát:

– Rời tay!

Hàng ngàn sợi ngân ti mượn hết lực đâm của cây thiết trượng để giằng nó đi. Lão nhân thấy hai cánh tay bị chấn động mạnh, suýt nữa để văng mất cây thiết trượng; trong lúc nguy cấp thừa thế vọt lên, thân hình bay chéo trên không, mới hóa giải được xảo kình của cây phất trần, trong bụng nghĩ thầm: “Mụ ma đầu này quả nhiên danh bất hư truyền”. Chiêu “Thái công điếu ngư” vừa rồi của Lý Mạc Sầu, mượn ý của tích “Tự cắn câu, lấy sức của chính kẻ địch mà đoạt vũ khí của địch”, bao lâu nay hễ sử đều được, lần này không ngờ thất bại, mụ nghĩ thầm: “Lão già thọt này là ai vậy? Rốt cuộc có công phu gì đây?” Mụ nhảy sang bên, thấy hai mắt lão nhân đảo lên toàn lòng trắng, thì ra là người mù, chợt hiểu, nói:

– Các hạ là Kha Trấn Ác!

Lão nhân vừa mù vừa thọt chính là người đứng đầu “Giang Nam thất quái”, Phi Thiên Biển Bức Kha Trấn Ác.

Năm xưa Quách Tĩnh, Hoàng Dung sau khi tham gia cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn, được Hoàng Dược Sư chủ trì lễ thành hôn, tới Đào Hoa đảo qui ẩn.

Hoàng Dược Sư tính nết quái dị, không thích náo nhiệt, ở cùng con gái và con rể vài tháng đã chán, bèn để lại một bức thư, nói rằng muốn tìm một nơi thanh tịnh nhàn cư, rồi lẳng lặng bỏ đi. Hoàng Dung biết tính phụ thân, tuy không muốn xa phụ thân, nhưng cũng chẳng nghĩ ra được cách gì. Lúc đầu còn bảo chỉ vài tháng phụ thân sẽ có tin về, nào ngờ biền biệt cả năm trời vẫn không có tin tức gì. Hoàng Dung nhớ phụ thân và sư phụ Hồng Thất Công, bèn cùng Quách Tĩnh đi tìm. Hai vợ chồng hành tẩu giang hồ mấy tháng liền, chưa kết quả gì đành phải trở về Đào Hoa đảo, bởi lẽ Hoàng Dung đã có thai.

Hoàng Dung tính nết điêu ngoa tai quái, không lúc nào chịu yên, khi có thai làm gì cũng bất tiện, nên càng hay bực dọc, gắt gỏng với chồng. Người phải chịu đựng dĩ nhiên là Quách Tĩnh. Chàng biết tính ái thê, mỗi khi nàng cáu bẳn vô lý, chàng chỉ cười cười không chấp, nếu Hoàng Dung tức quá, thì chàng lựa lời an ủi hoặc trêu chọc cho nàng phì cười mới thôi.

Thấm thoắt mười tháng trôi qua, Hoàng Dung sinh một đứa con gái, đặt tên là Quách Phù. Khi có thai, nàng không thích có con; nhưng sau khi sinh con ra rồi, nàng lại hết mực cưng nựng nó. Thành thử con bé chưa đầy tuổi mà đã bướng bỉnh quá thể. Quách Tĩnh lắm khi thấy chướng mắt, quở trách con thì Hoàng Dung lại bênh nó chằm chặp; thành thử nó càng lớn càng ngang ngạnh khó bảo.

Khi Quách Phù lên năm, Hoàng Dung bắt đầu dạy võ cho con. Từ đây các thứ chim muông, thú vật, côn trùng trên đảo đều gặp tai ương, hoặc bị vặt trụi lông, hoặc bị cắt đuôi. Từ chỗ là nơi thanh tịnh để ẩn sĩ tu tâm dưỡng tính, Đào Hoa đảo cuối cùng hóa thành nơi gà bay chó chạy xáo xác. Quách Tĩnh một là quen chiều vợ, hai là cũng rất yêu đứa con gái ngang ngạnh, mỗi khi nó phạm lỗi, chàng định quở mắng, đánh đòn nó, thấy nó giả bộ nhăn nhó xin tha, chàng lại mềm lòng thở dài, cánh tay đã giơ lên lại từ từ buông xuống.

Mấy năm nay Hoàng Dược Sư và Hồng Thất Công biệt vô âm tín, vợ chồng Quách Tĩnh Hoàng Dung luôn nhớ hai vị lão niên. Quách Tĩnh mấy phen đi đón đại sư phụ Kha Trấn Ác, mời sư phụ tới Đào Hoa đảo an hưởng tuổi già. Nhưng Kha Trấn Ác thích bầu bạn với những người ở phố chợ, lấy trò uống rượu đánh bạc làm vui, không muốn cuộc sống thanh tịnh ở Đào Hoa đảo, lần nào cũng khước từ. Một lần Kha Trấn Ác không chờ Quách Tĩnh tới đón, tự mình đến đảo. Nguyên vì gần đây lão gặp vận xui, càng đánh bạc càng thua, mắc nợ quá nhiều, không có gì trả, đành lánh đến nhà đồ đệ để trốn nợ. Quách Tĩnh Hoàng Dung thấy sư phụ đến thì cả mừng, giữ rịt sư phụ ở đảo, nhất định không để đi đâu nữa. Hoàng Dung dần dần biết rõ nguyên do, ngầm sai người đi trả hết các món nợ bài bạc cho sư phụ. Kha Trấn Ác không hay biết, không dám trở về Gia Hưng, nhàn rỗi chẳng có việc gì, đành chơi đùa với Quách Phù vậy.

Thấm thoắt đã mấy năm, Quách Phù lên chín. Hoàng Dung nhớ phụ thân, muốn cùng Quách Tĩnh rời Đào Hoa đảo đi tìm kiếm. Kha Trấn Ác bảo cũng muốn đi. Quách Phù cũng đòi đi theo bằng được. Sau khi bốn người rời đảo, bàn đến hành trình, Kha Trấn Ác nói:

– Đi đâu cũng được, trừ vùng Gia Hưng.

Hoàng Dung cười, nói:

– Đại sư phụ, các món nợ của sư phụ con đã trả giùm sư phụ xong cả rồi.

Kha Trấn Ác cả mừng, nói:

– Thế thì hãy tới vùng Gia Hưng trước.

Đến Gia Hưng, bốn người trú ở khách điếm. Kha Trấn Ác dò la tin tức qua những người quen cũ, có người kể mấy hôm trước có thấy một lão nhân mặc áo bào xanh ngồi một mình uống rượu ở lầu Ân Vũ, hỏi diện mạo, thì rất giống Hoàng Dược Sư. Quách Tĩnh, Hoàng Dung cả mừng, bèn đi khắp vùng Gia Hưng tìm kiếm. Sáng nay Kha Trấn Ác dẫn Quách Phù mang theo đôi chim điêu vào rừng chơi, bất ngờ gặp Võ Tu Văn ở đó.

Kha Trấn Ác đấu với Lý Mạc Sầu vài hiệp, thì biết mình không phải là đối thủ của đạo cô, nghĩ thầm: “Nữ ma đầu này võ công cao thật, chẳng kém gì Mai Siêu Phong hồi trước”. Lão vội bảo vệ môn hộ thật kín. Lý Mạc Sầu thầm tán thưởng: “Mình từng nghe chàng Lục Triển Nguyên vô lương tâm kể rằng trong các nhân vật tiền bối của chàng ở Gia Hưng, có Giang Nam Thất Quái, võ công cao cường, thu nhận một đệ tử lừng danh là đại hiệp Quách Tĩnh. Lão già này đứng đầu Giang Nam Thất Quái, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão già yếu, lại vừa mù vừa thọt, mà vẫn còn tiếp nổi hơn mười chiêu của ta”. Chỉ nghe vợ chồng họ Lục cùng Võ tam nương vừa quát tháo vừa đánh tới sau lưng, Lý Mạc Sầu chủ ý đã định: “Muốn hạ Kha Trấn Ác không khó, nhưng để vợ chồng Quách Tĩnh hỏi đến thì không ổn. Thôi hôm nay phải tha cho lão già vậy”. Bèn giơ cây phất trần chọc thẳng vào giữa ngực Kha Trấn Ác như một mũi thương. Các sợi ngân ti của phất trần tuy mềm, nhưng đã mượn xảo kình, lại nhắm vào đại huyệt yếu hại, thành thử cú đâm này rất lợi hại.

Kha Trấn Ác dộng cây thiết trượng xuống đất, mượn thế nhảy ra sau. Lý Mạc Sầu sấn tới một bước, tưởng là tiến chiêu truy kích, ai ngờ đột nhiên ngửa người cực nhanh ra phía sau, ưỡn lưng rất dẻo. Vai Lý Mạc Sầu còn cách Võ tam nương chưa đầy hai thước. Võ tam nương giật mình, vội vung tả chưởng vỗ xuống mặt Lý Mạc Sầu. Eo lưng của Lý Mạc Sầu nhẹ như một bông hoa cúc khẽ đung đưa trước gió, đã tránh từ sớm, nghe bộp một tiếng, Lục nhị nương liền bị trúng một chưởng vào bụng dưới.

Lục nhị nương trúng chưởng ngã ngửa ra. Lục Lập Đỉnh thấy vợ bị thương, bèn vung tay phải ném cây đơn đao về phía Lý Mạc Sầu rồi giang hai tay lao tới, định ôm chặt lấy mụ ta để cùng chết. Lý Mạc Sầu còn là xử nữ trinh bạch, vốn bị thất tình, rất ghét trò đụng chạm nam nữ, lúc này thấy Lục Lập Đỉnh nhào tới ôm thì nổi cơn lôi đình, dùng cán phất trần gạt rơi đơn đao, rồi thuận thế vung lên đánh chặn; nghe cộp một tiếng, trúng đỉnh đầu Lục Lập Đỉnh.

Việc hạ gục vợ chồng Lục Lập Đỉnh xảy ra trong chớp mắt, Kha Trấn Ác và Võ tam nương muốn cứu cũng chẳng kịp. Lý Mạc Sầu cười hỏi:

– Hai đứa bé gái đâu?

Không đợi Võ tam nương trả lời, Lý Mạc Sầu đã xộc vào gia trang, lục soát khắp nơi, nhưng không tìm thấy Trình Anh và Lục Vô Song. Lý Mạc Sầu lấy cây đuốc trong bếp, mang vào kho củi phóng hỏa, rồi nhảy ra ngoài, cười nói:

– Ta không có gì sai quấy với Đào Hoa đảo và Nhất Đăng đại sư, mong hai vị lui về cho.

Kha Trấn Ác và Võ tam nương thấy Lý Mạc Sầu quá ư hung tàn, thì cả giận, thiết trượng và kiếm thép cùng đánh tới. Lý Mạc Sầu nghiêng mình tránh thiết trượng, vung phất trần quấn lấy thanh kiếm của Võ tam nương. Hai luồng kình lực từ phất trần truyền ra, một kéo vào, một đẩy ra, nghe “cách” một tiếng; thanh kiếm gãy đôi, phần mũi kiếm đâm về phía Võ tam nương, phần chuôi kiếm thì văng về phía Kha Trấn Ác.

Võ tam nương bị mất kiếm, cả kinh, càng không ngờ mụ ma đầu có thể dùng phất trần làm gãy kiếm, lại dùng ngay hai đoạn kiếm gãy tấn công hai người. Phần mũi kiếm bay nhanh tới, Võ tam nương vội cúi đầu né tránh, chỉ cảm thấy lạnh cả đỉnh đầu, nửa thanh kiếm bay qua, hớt ngọt một mảng tóc. Kha Trấn Ác nghe tiếng rít của kim khí trong không trung, liền giơ trượng gạt văng được đoạn chuôi kiếm đi. Nghe tiếng gọi của Võ tam nương, vị lão nhân xoay tít cây trượng tiến công. Tay trái của lão tuy nắm ba mũi ám khí “Độc tật lê”, nhưng lão nghĩ, nghe đâu Lý Mạc Sầu có loại “Băng phách ngân châm” âm độc dị thường, mình mù lòa không nhìn thấy, chớ nên khích mụ ta sử dụng ám khí lợi hại làm gì; vì vậy tuy tình thế nguy ngập, lão vẫn không dám phóng “Độc tật lê”. Lý Mạc Sầu trước sau đối với lão vẫn hạ thủ lưu tình, nghĩ thầm: “Nếu ta không giở thủ đoạn, chỉ e lão già mù này không biết là ta nhường nhịn”, liền vặn người dùng các sợi ngân ti phất trần cuốn lấy đầu cây trượng. Kha Trấn Ác chỉ cảm thấy có một sức mạnh ghê gớm tính đoạt lấy cây thiết trượng của lão; lão vội vận sức giằng lại. Nào ngờ sức vận ra tới đầu mút cây trượng, thì lực đoạt đột nhiên biến mất; trong chớp mắt, lão cảm thấy tứ chi bủn rủn không còn chút sức lực nào cả. Lý Mạc Sầu dùng tay trái hất cây trượng sang một bên, bàn tay đã áp nhẹ vào ngực Kha Trấn Ác, cười nói:

– Kha lão gia tử, “Xích Luyện Thần chưởng” đánh vào ngực lão rồi nè!

Kha Trấn Ác lúc này đã hết bề chống đỡ, giận dữ nói:

– Nữ ác tặc, ngươi cứ việc ra đòn, chớ lắm lời!

Võ tam nương thấy vậy, vội lao tới cứu. Lý Mạc Sầu nhún mình nhảy lên, giơ tay vuốt qua mặt Võ tam nương một cái, cười nói:

– Ngươi dám đánh đuổi đồ đệ của ta, lá gan cũng không nhỏ.

Rồi cười khanh khách, nhún nhẩy vài cái, đã mất hút đằng xa.

Võ tam nương chỉ cảm thấy bàn tay mềm mại của mụ ta vuốt qua mặt rất dễ chịu, rồi cái lưng của mụ ta đã khuất vào phía sau một cây liễu. Võ tam nương vừa rồi tiếp chiêu mụ ta tuy chỉ vài hiệp, nhưng chiêu nào cũng hiểm tử hoàn sinh, phải dốc toàn lực, nên bây giờ chân tay rã rời, không muốn động đậy nữa. Kha Trấn Ác thì vừa rồi tưởng như có tảng đá đè ngực, khó thở vô cùng, phải từ từ hít mấy hơi, mới điều hòa được hô hấp.

Lát sau, Võ tam nương gắng gượng đứng dậy, chỉ thấy khói đen bốc mù mịt, Lục gia trang đã chìm trong biển lửa. Lửa táp hơi nóng mỗi lúc một gần.

Kha Trấn Ác vội đỡ vợ chồng Lục Lập Đỉnh lên, nhưng thấy cả hai chỉ còn thở thoi thóp, thì nghĩ thầm: “Nếu di chuyển hai người này, chỉ e họ chóng tắt thở hơn, song cũng không thể bỏ mặc họ ở đây, phải làm sao bây giờ?”

Đang lưỡng lự, chợt nghe từ xa có tiếng gọi:

– Nương tử, nàng có sao không?

Chính là tiếng gọi của Võ Tam Thông.

Hồi 02: Con của địch nhân

Võ tam nương đang bối rối chưa biết làm sao, bỗng nghe tiếng gọi của phu quân thì vừa mừng vừa bực nghĩ bụng lão già điên khùng chẳng hiểu làm trò gì ở đâu mà mãi giờ này mới tới. Chỉ thấy Võ Tam Thông áo quần rách rưới, ngực đeo cái yếm dãi hồi nhỏ Hà Nguyên Quân từng mang, chạy tới hỏi:

– Nương tử, nàng có sao không?

Ngót mười năm nay, Võ tam nương chưa bao giờ thấy phu quân quan tâm đến mình như vậy, thì trong lòng cả mừng, nói:

– Thiếp ở đây này.

Võ Tam Thông ào tới, hai tay cắp hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh lên, nói:

– Mau đi theo ta.

Lời chưa dứt, đã phóng đi liền. Võ tam nương và Kha Trấn Ác chạy theo sau.

Võ Tam Thông chạy vòng vèo mấy dặm, dẫn hai người đến một cái hầm nấu rượu rất lớn. Cái nhà hầm này bỏ hoang đã lâu. Võ tam nương bước vào nhà hầm thấy Đôn Nhu, Tu Văn hai đứa con bình an, thì lập tức yên tâm, thở phào nhẹ nhõm.

Huynh đệ Võ Tu Văn đang chơi trò xếp sỏi với Trình Anh và Lục Vô Song. Trình Anh và Lục Vô Song thấy hai vợ chồng Lục Lập Đỉnh như thế thì ôm lấy họ, vừa khóc vừa gọi.

Kha Trấn Ác nghe Lục Vô Song khóc gọi cha gọi mẹ, thì sực nhớ đến lời lẽ của Lý Mạc Sầu, vội kêu lên:

– Chao ôi, hỏng rồi, chúng ta đã dẫn quỷ vào nhà, mụ nữ ma đầu kia sẽ đến đây mất!

Võ tam nương nghe vậy thì hoảng sợ, hỏi:

– Tại sao?

Kha Trấn Ác nói:

– Mụ nữ ma đầu ấy muốn giết hại hai bé gái nhà họ Lục, nhưng mụ chưa biết chúng ta nấp ở đâu đó thôi…

Võ tam nương lập tức tỉnh ngộ, nói:

– Phải rồi, mụ ta cố ý không giết hai chúng ta, rồi bí mật bám theo.

Võ Tam Thông cả giận, nói:

– Con nữ quỷ Xích Luyện Xà này âm hồn không tan, để ta đấu với nó.

Rồi lão đứng chắn ngay cửa nhà hầm

Lục Lập Đỉnh bị vỡ đầu, nhưng còn chút việc riêng cần trăn trối, nên cố nhịn đau lấy sức, nói với Trình Anh:

– A Anh, hãy… lấy tấm khăn ở túi… túi ngực ra cho ta.

Trình Anh quệt nước mắt thò tay vào túi áo ngực của Lục Lập Đỉnh lấy ra một tấm khăn. Đó là tấm khăn tay bằng lụa trắng, bốn góc thêu bốn bông hoa hồng đỏ thắm, cạnh mỗi bông hoa thêu một chiếc lá xanh; lụa trắng đã ngả màu vàng nhưng màu hoa và lá thì vẫn tươi nguyên, trông y như hoa lá thật. Lục Lập Đỉnh nói:

– A Anh, điệt nhi hãy quàng tấm khăn này lên cổ, nhất thiết không được cởi ra, nghe chưa?

Trình Anh không rõ dụng ý, nhưng di phụ đã dặn thế, thì cô bé phải gật đầu vâng lời.

Lục nhị nương vốn đau tới mức thần trí mơ hồ, nghe thấy giọng nói của phu quân, bèn mở mắt ra, nói:

– Sao không cho Song nhi? Chàng hãy trao cho Song nhi đi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Không, làm sao ta có thể phụ lời ủy thác của cha mẹ nó?

Lục nhị nương nói:

-Chàng… chàng nỡ nào coi con mình không bằng người ngoài?

Nói đoạn hai mắt lộn lên toàn lòng trắng, tiếng nói tắt lịm.

Lục Vô Song không biết cha mẹ giằn vặt nhau điều gì, chỉ khóc gọi:

– Mẹ ơi! Cha ơi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Nương tử, nàng thương Song nhi, thì để con nó đi theo chúng ta có hơn không?

Nguyên tấm khăn thêu hoa hồng này là vật hứa hôn của Lý Mạc Sầu tặng Lục Triển Nguyên ngày trước. Hoa hồng là thứ hoa cà độc dược lừng danh ở nước Đại Lý. Còn lá xanh Lý Mạc Sầu coi là tượng trưng cho chàng trai họ Lục mà nàng ta yêu thương. Lúc lâm chung, Lục Triển Nguyên biết rằng hết thời hạn mười năm, Võ Tam Thông và Lý Mạc Sầu thể nào cũng tìm đến gây sự, người em trai thì võ nghệ tầm thường, không thể địch nổi, chẳng biết làm sao, bèn đưa tấm khăn cho người em, dặn kỹ rằng, nếu Võ Tam Thông tìm đến trước đòi báo thù, có thể tránh được thì tránh, không tránh được mà động thủ ắt thua, nhưng cũng không lo mất mạng. Riêng Lý Mạc Sầu thì mấy năm gần đây khắp giang hồ lừng tiếng bạo tàn, mụ ta đến tất là đại họa, lúc nguy cấp hãy quàng tấm khăn này vào cổ có thể nữ ma đầu sẽ niệm tình cũ mà nương tay cho.

Lục Lập Đỉnh cao ngạo, trước sau không chịu dùng tấm khăn ấy để xin mụ nữ ma đầu tha mạng.

Trình Anh là con gái người anh đồng hao của Lục Lập Đỉnh. Cha mẹ cô bé khi còn sống đã nhờ Lục Lập Đỉnh nuôi dưỡng nó. Lục Lập Đỉnh nhận trọng thác, trách nhiệm chưa tròn, bây giờ đại nạn lâm đầu, bèn đem tấm khăn cứu mạng trao cho đứa cháu. Lục nhị nương mẫu tử tình thâm, thấy chồng chẳng nghĩ đến con gái thì bàng hoàng, cộng với cơn đau có sẵn, ngất lịm đi. Trình Anh thấy di mẫu vì chuyện tấm khăn mà phiền não, vội đưa chiếc khăn cho Lục Vô Song nói:

– Biểu muội, di mẫu bảo đưa cho muội, muội cầm lấy đi!

Lục Lập Đỉnh nói:

– Song nhi, đó là của biểu tỷ, con đừng nhận.

Võ tam nương nhìn cảnh đó, nói:

– Để ta cắt tấm khăn làm hai, mỗi tiểu thư cầm một mảnh, được chăng?

Lục Lập Đỉnh muốn nói, nhưng đã hết hơi, chỉ gật đầu. Võ tam nương liền xé tấm khăn làm hai đưa cho mỗi cô bé một mảnh. Võ Tam Thông đứng ở cửa nhà hầm, nghe sau lưng có tiếng khóc, tiếng gọi, không hiểu chuyện gì, ngoảnh nhìn vào trong, chợt thấy má bên trái của Võ tam nương đen như than, má bên phải vẫn bình thường, thì không khỏi kinh hãi, chỉ mặt vợ, hỏi:

– Vì lẽ gì… lại như thế?

Võ tam nương đưa tay sờ má, hỏi:

– Làm sao kia?

Chỉ thấy má bên trái tê dại bì bì, không có cảm giác gì, thì giật mình, nhớ Lý Mạc Sầu trước khi bỏ đi có đưa tay vuốt má mình một cái; không lẽ cái vuốt nhẹ của một bàn tay mềm ấm lại là hạ độc thủ hay sao?

Võ Tam Thông đang định hỏi thêm, bỗng nghe bên ngoài cửa nhà hầm có tiếng người cười, nói:

– Hai con nhãi ở đây phải không? Bất kể chúng nó sống hay chết, cũng ném ra đây cho ta coi. Nếu trái lời, ta sẽ cho một mồi lửa để tất cả các người biến thành than.

Giọng nói trong trẻo, ngân vang, dịu dàng.

Võ Tam Thông vội nhảy ra ngoài cửa nhà hầm, thấy Lý Mạc Sầu đứng sừng sững trước mặt, thì vô cùng kinh ngạc “Mười năm không gặp, lẽ nào nàng ta vẫn trẻ trung xinh đẹp hệt như xưa?” Hồi gặp tại tiệc cưới của Lục Triển Nguyên, Lý Mạc Sầu khoảng hai mươi tuổi, bây giờ ba mươi; song trừ tấm áo đạo bào, còn nước da vẫn trắng trẻo nõn nà như xưa. Cây phất trần trong tay nàng khẽ rung động, thần thái thật là nhàn nhã, đôi mắt nhung huyền, chẳng có vẻ gì là một nữ ma đầu giết người không chớp mắt. Võ Tam Thông thấy cây phất trần rung rung, chợt nhớ mình để vũ khí trong nhà hầm, nếu trở vào lấy, e rằng Lý Mạc Sầu sẽ thừa cơ xông vào sát hại bọn trẻ, thấy cạnh cửa hầm có một cây dẻ thân to bằng bắp chân, bèn dùng hai tay bẻ gãy luôn, lấy làm binh khí.

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Sức vóc ghê thật!

Võ Tam Thông xoay ngang thân cây, nói:

– Lý cô nương, mười năm không gặp, cô nương khoẻ chứ?

Trước kia Võ Tam Thông gọi Lý Mạc Sầu là cô nương; ngày nay Lý Mạc Sầu đã xuất gia tu đạo, Võ Tam Thông vẫn không thay đổi cách xưng hô. Mười năm rồi Lý Mạc Sầu không còn nghe ba tiếng “Lý cô nương”, giờ đột nhiên nghe thấy, lòng bỗng xúc động, tình ý hồi thiếu nữ chợt trỗi dậy; nhưng lại nghĩ, lẽ ra mình đã có thể chung sống với ý trung nhân, nào ngờ thế gian lại có một thiếu nữ khác là Hà Nguyên Quân, làm cho nàng mất hết thể diện, cô đơn thê thảm suốt đời thế này. Thế là trong giây lát bao nhiêu nhu tình mật ý đều hóa thành oán độc chất chồng. Võ Tam Thông cũng bị mất người mình yêu, tuy tình cảm có khác so với Lý Mạc Sầu, nhưng cũng coi như đồng bệnh tương lân, thế nhưng hôm ở tiệc cưới của Lục Triển Nguyên ra về, Võ Tam Thông lại chính mắt nhìn thấy Lý Mạc Sầu ra tay sát hại hơn hai mươi người già trẻ trai gái nhà Hà lão quyền sư; bây giờ nhớ lại vẫn còn rợn gáy. Hà lão quyền sư không hề quen biết Lý Mạc Sầu, đôi bên vô oán vô cừu, cũng không dính dáng gì với Hà Nguyên Quân; chỉ vì gia đình Hà lão quyền sư mang họ Hà, mà Lý Mạc Sầu trong lúc đau khổ đã đang tay giết sạch cả nhà người ta. Già trẻ nhà ấy đến lúc chết vẫn không một ai biết vì lẽ gì họ bị giết. Bấy giờ Võ Tam Thông không hiểu duyên do, nên không can thiệp, sau mới biết là Lý Mạc Sầu chẳng qua giận cá chém thớt, thất tình mà làm vậy thôi; thì đối với Lý Mạc Sầu từ đó lão vừa hận vừa sợ. Lúc này nhìn thấy vẻ dịu dàng vừa thoáng hiện trên mặt nàng ta đã lập tức chuyển thành cái nhếch mép cười khẩy, thì lão không khỏi lo cho tính mạng hai đứa bé gái trong nhà hầm.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta đã in dấu chín bàn tay trên tường nhà họ Lục, hai bé gái kia không thể không giết. Võ tam gia, mong các hạ nhường lối cho.

Võ Tam Thông nói:

– Hai vợ chồng Lục Triển Nguyên đã chết rồi, hai vợ chồng người em trai của hắn cũng đã bị Lý cô nương hạ độc thủ; còn mỗi hai bé gái, cô nương hãy tha cho chúng nó.

Ly Mạc Sầu lắc đầu, dịu dàng nói:

– Võ tam gia, xin hãy nhường lối cho.

Võ Tam Thông nắm chặt cây dẻ, nói:

– Lý cô nương, cô nương độc ác quá. Nguyên Quân…

Hai tiếng “Nguyên Quân” vừa nói ra Lý Mạc Sầu sắc mặt biến đổi hẳn, nói:

– Ta từng thề độc, rằng kẻ nào trước mặt ta nhắc đến tên con tặc nhân ấy, thì kẻ đó và ta chỉ có một người được sống mà thôi. Trên sông Nguyên giang ta từng giết mười sáu nhà thuyền, chỉ vì chiêu bài hành nghề của họ mang cái tên xấu xa đó, việc ấy chắc các hạ biết rồi chứ? Võ tam gia, như thế là các hạ tự chuốc lấy họa, không thể oán trách ta.

Nói đoạn vung cây phất trần đánh xuống đầu Võ Tam Thông.

Tuy chỉ là một cây phất trần nhỏ bé, song Lý Mạc Sầu ra đòn vừa nhanh vừa mạnh, đòn mới tới gần mà mái tóc của Võ Tam Thông đã bay loạn lên. Lý Mạc Sầu biết Võ Tam Thông là cao đệ của Nhất Đăng đại sư, tuy điên điên khùng khùng, nhưng vô công quả vào loại phi phàm, cho nên mụ ra đòn là hạ sát thủ. Võ Tam Thông đưa tay trái lên, thân cây gạt mạnh qua. Lý Mạc Sầu thấy thế đến lợi hại, thân mình theo gió trôi ra, không đợi thân cây ngừng lại, mụ đã vọt tới tấn công trực diện. Võ Tam Thông thấy mụ ta tấn công vào vòng trong, tay phải liền giơ ngón trỏ điểm tới trán Lý Mạc Sầu. Phép điểm huyệt “Nhất dương chỉ” này tuy không thật lẹ, nhưng biến ảo khôn lường, khó bề chống đỡ. Lý Mạc Sầu dùng chiêu “Đảo đả kim chung”, thân hình trong chớp mắt đã lùi ra xa hơn một trượng. Võ Tam Thông thấy Lý Mạc Sầu chợt vào chợt ra, trong chớp mắt đã tiến thoái mấy lần, thầm thán phục, bèn múa thân cây buộc Lý Mạc Sầu phải ở ngoài xa hơn trượng; nhưng chỉ cần lơi lỏng một chút, là nàng ta đã nhanh như chớp xông vào gần, nếu Võ Tam Thông không có môn “Nhất dương chỉ” lợi hại, thì lão đã thua lâu rồi. Nhưng cứ thế kéo dài, thân cây vốn nặng nề càng múa càng mất sức; Lý Mạc Sầu cứ mỗi lúc một tiến vào gần hơn. Đột nhiên cái bóng vàng rung động, Lý Mạc Sầu nhảy vọt lên ngọn cái cây dẻ mà Võ Tam Thông đang cầm, vung cây phất trần từ phía trên đánh xuống. Võ Tam Thông cả kinh, đảo ngọn thành gốc để hất Lý Mạc Sầu xuống đất. Lý Mạc Sầu cười khanh khách, đạp trên thân cây mà xông vào. Võ Tam Thông vươn tay sử “Nhất dương chỉ”. Lý Mạc Sầu hơi uốn cái lưng ong, đã lùi về đằng ngọn. Mấy chục chiêu tiếp theo, dù Võ Tam Thông rung lắc quét đập cái thân cây dẻ thế nào, Lý Mạc Sầu trước sau vẫn cứ đứng đè lên nó, tìm chỗ sơ hở của đối thủ mà tấn công.

Võ Tam Thông cảm thấy quá tốn sức, thân hình Lý Mạc Sầu tuy không nặng, nhưng cũng thêm vài chục cân cộng với cái thân cây; huống hồ nàng ta đứng đè thân cây như thế, thân cây đâu có thể đánh được nàng ta, trong khi nàng ta có thể đánh người, tức là nàng ta ở vào thế bất bại. Võ Tam Thông thấy mình sa vào thế hạ phong, biết rằng chỉ cần lão sơ sảy một chút, lão dẫu có mất mạng cũng chẳng sao nhưng tất cả già trẻ trong nhà hầm sẽ chết hết dưới tay Lý Mạc Sầu, nên lão liền dồn sức vào hai cánh tay, múa thân cây dẻ thật gấp để hất văng nàng ta đi.

Đấu thêm một lúc nữa, bỗng nghe sau lưng có tiếng nói to của Kha Trấn Ác:

– Phù nhi, cháu cũng tới đó ư? Mau gọi điêu nhi tới mổ con nữ ác nhân kia đi!

Tiếp đó có tiếng một bé gái luôn miệng gọi chim, từ trên trời có đôi chim trắng sà xuống, chính là hai con chim điêu khổng lồ của Quách Phù. Đôi chim điêu chia hai phía tấn công Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu thấy thế công của hai con chim điêu rất nguy hiểm, bèn lộn người một vòng xuống bên dưới cây dẻ, dùng chân trái móc vào thân cây. Hai con chim điêu mổ xuống không trúng, dang cánh bay lên cao. Giọng bé gái lại gọi mấy tiếng. Đôi chim điêu lao xuống lần thứ hai, bốn chân chim như bốn cái móc sắt cùng chộp xuống bên dưới cây dẻ. Lý Mạc Sầu từng nghe đồn vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung ở Đảo Hoa đảo có nuôi một cặp chim điêu lớn hết sức tinh khôn; lúc này nàng ta thấy hai con chim điêu chia nhau tấn công, đối với hai con chim này, nàng ta chẳng ngán, nhưng chỉ lo vợ chồng Quách Tĩnh đang ở gần đâu đây thì nguy. Nàng ta tránh mấy lần, rồi vung cây phất trần một cái đánh vào cánh con chim cái, chỉ nghe nó kêu mấy tiếng đau đớn, vài cái lông trắng và dài bay lả tả trong không trung.

Quách Phù thấy chim bị thương, thì gọi to:

– Điêu nhi, đừng sợ! Mau cắn ác nhân!

Lý Mạc Sầu ngoảnh về phía tiếng nói, thấy một bé gái mặt trắng như ngọc, mi mục như họa, chợt nghĩ thầm: “Nghe đâu Quách phu nhân là mỹ nhân trong số anh hiệp thời nay, không biết so với ta thì sao? Bé gái này không lẽ là con của Hoàng Dung?”

Vừa nghĩ thế, tay nàng ta hơi chậm lại. Võ Tam Thông thấy có hai con chim điêu trợ lực, liền dồn sức vào hai cánh tay, hất mạnh cả cây lẫn Lý Mạc Sầu lên không trung. Lý Mạc Sầu không ngờ cuối cùng lão lại giở quái chiêu này, thân hình bị văng lên cao mấy trượng. Hai con chim điêu thấy nàng ta bay lên, bèn lao tới mổ.

Nếu là đang ở dưới đất, Lý Mạc Sầu chẳng ngán gì hai con chim điêu nhưng bây giờ nàng ta lơ lửng trên không, đâu có chỗ tựa để chống đỡ loài chim? Trong lúc gấp rút, Lý Mạc Sầu vung cây phất trần bảo vệ đầu và mặt, phóng từ tay áo ba mũi “Băng phách ngân châm”, một mũi nhắm tới ngực Võ Tam Thông, hai mũi nhắm tới hai con chim điêu. Hai con chim điêu vội vọt bay lên cao, song ngân châm bay quá nhanh, sượt vào vuốt con chim đực.

Võ Tam Thông lúc ấy đang ngẩng đầu lên, chợt một tia ngân quang lóe sáng, lão vội lăn sang bên để tránh; mũi ngân châm đã trúng vào bắp chân bên trái của lão. Võ Tam Thông lăn xong định đứng lên ngay, nào ngờ chân trái không nghe theo ý muốn nữa. Lão cố lấy sức để đứng lên, nhưng cả chân phải cũng đã tê dại, lão ngã sấp ngay xuống, hai tay đỡ vội, thế rồi đành nằm bất động.

Quách Phù gọi to:

– Điêu nhi, điêu nhi, mau tới đây!

Hai con chim đã bay xa, không ngoái đầu lại. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Này bé, bé họ Quách phải không?

Quách Phù thấy nàng ta diện mạo xinh đẹp dịu dàng dễ gần, chẳng có vẻ gì là “nữ ác nhân” cả, thì đáp:

– Vâng, điệt nhi họ Quách. Còn cô cô họ gì?

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Lại đây, ta dẫn bé đi chơi nào.

Nàng ta thong thả bước tới, định cầm tay Quách Phù. Kha Trấn Ác vội từ trong nhà hầm lao ra, giơ thiết trượng chắn trước mặt Quách Phù, nói:

– Phù nhi! Cháu hãy vào trong ngay!

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Sợ ta ăn thịt nó chăng?

Vừa lúc ấy, có một thiếu niên ăn mặc rách rưới, tay trái ôm một con gà trống, miệng hát nghêu ngao, nhảy chân sáo tới, thấy trước cửa nhà hầm có người, bèn hỏi:

– Các vị đến nhà ta làm gì đấy?

Cậu ta đến trước mặt Lý Mạc Sầu và Quách Phù, ngắm nghía hai người, rồi cười, nói:

– Chà chà, đại mỹ nhân quá xinh đẹp, tiểu mỹ nhân quá thanh tú, hai cô nương cùng tới tìm ta đó chăng? Họ Dương ta mấy khi có nhiều bằng hữu xinh đẹp thế này.

Thiếu niên vẻ mặt tươi cười, nói năng vô cùng lưu loát.

Quách Phù dẩu môi, giận dữ nói:

– Tiểu khiếu hóa, ai bảo ta đến tìm ngươi?

Thiếu niên cười nói:

– Cô nương không tìm ta, sao lại đến nhà ta?

Nói đoạn chỉ tay vào nhà hầm, ngụ ý đó là nhà của cậu ta. Quách Phù nói:

– Hừ, cái xó hôi hám như thế, ai mà thèm đến?

Võ tam nương thấy phu quân ngã sấp xuống đất, chưa biết sống chết thế nào, lo quá, vội từ trong nhà hầm lao ra, cúi xuống gọi:

– Tam ca, có sao không?

Võ Tam Thông rên một tiếng lưng động đậy mấy cái, vẫn không nhổm dậy được. Quách Phù nhìn ra xa, không thấy đôi chim điêu, cất tiếng gọi to:

– Điêu nhi, điêu nhi, mau trở về đây!

Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Dây dưa dễ lắm chuyện rắc rối, để vợ chồng Quách Tĩnh tới đây thì phiền to” liền mỉm cười, tiến thẳng vào trong nhà hầm. Võ tam nương vội bật dậy, xoay người vung kiếm cản đường, nói:

– Không được vào đó!

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Đây là dinh thự của tiểu huynh đệ kia, đâu phải là chỗ của ngươi?

Tả chưởng của nàng ta chộp thẳng lấy mũi kiếm, nhưng sắp chạm đến, thì lòng bàn tay hơi xoay nghiêng, ba ngón tay đẩy vào sống kiếm, mũi kiếm bị hất về phía trán của Võ tam nương, làm sượt một chút da. Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Đắc tội!

Nói rồi cắm cây phất trần vào vạt áo, cúi đầu tiến vào trong nhà hầm, một tay túm lấy Trình Anh, tay kia túm lấy Lục Vô Song, nhấc bổng lên, không xoay mình, khẽ nhún chân trái, vọt ra khỏi hầm, tiện thể còn tung cước đá văng cây thiết trượng của Kha Trấn Ác.

Cậu thiếu niên lam lũ thấy nàng ta đả thương Võ tam nương, lại bắt hai thiếu nữ, nghe tiếng kêu cứu của Trình Anh và Lục Vô Song, cảm thấy quá bất bình, liền lao tới ôm chặt lấy Lý Mạc Sầu, nói:

– Này đại mỹ nhân, cô nương đến dinh của ta đánh người bắt người, cũng chẳng thèm chào hỏi gì chủ nhân của nó cả, thật quá vô lý, mau thả người ra!

Lý Mạc Sầu hai tay còn vướng hai cô bé, không đề phòng, chàng thiếu niên lại dang tay ôm chặt lấy mình, chỉ cảm thấy có vòng tay lạ ôm hai bên eo, chẳng hiểu sao đột nhiên toàn thân bửng lửng, bèn vận lực vào lòng bàn tay, hất nhẹ hai cô bé ra xa mấy thước, tiếp đó chộp lấy lưng cậu thiếu niên. Từ mười tuổi trở đi, Lý Mạc Sầu chưa hề đụng chạm da thịt với nam giới; sống đến ba mươi tuổi vẫn còn là xử nữ. Hồi nàng ta si mê Lục Triển Nguyên, trước sau hai người luôn giữ lễ với nhau; trên giang hồ có không ít nam tử thấy nàng ta xinh đẹp, khó tránh động tình khởi tâm, nhưng chỉ cần thần sắc để lộ tà tâm, lập tức kẻ đó sẽ bỏ mạng bởi “Xích luyện thần chưởng” của nàng ta. Ai ngờ hôm nay cuối cùng lại để cho một cậu thiếu niên ghì chặt. Lý Mạc Sầu túm lấy cậu ta, đã định dồn lực ra lòng bàn tay, đánh giập nát tim phổi của cậu ta; nhưng vừa rồi nghe cậu ta tán thuởng sắc đẹp của mình bằng lời lẽ chân thành, trong bụng không khỏi có phần thích thú; lời lẽ đó nếu là của một nam nhân lớn tuổi nói ra, chắc nàng ta đã chán ghét; đằng này lại là của một cậu thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, cho nên nàng ta chợt mềm lòng, không ra tay nữa.

Bỗng nghe trên trời có tiếng chim điêu kêu gấp, cặp chim điêu từ xa bay trở lại, lại nhào xuống tấn công. Lý Mạc Sầu phất tay áo bên trái, hai mũi “Băng phách ngân châm” phóng ra. Đôi chim điêu lúc trước từng dính đòn thứ árn khí lợi hại này, vội vã bay vút lên cao; nhưng mũi ngân châm bắn ra nhanh lạ thường, đôi chim điêu bay lánh tuy nhanh, song ngân châm còn lẹ hơn. Cặp chim điêu hoảng hốt kêu to. Lý Mạc Sầu mắt thấy lần này hai con ác điểu khó thoát chết, nàng ta đang hoan hỉ, bỗng nghe hai tiếng “chíu chíu”, có hai vật nhỏ bay vút lên trời với tốc độ dị thường, vừa nghe tiếng phát ra, trong nhớp mắt đã đánh rơi hai mũi ngân châm xuống đất.

Loại ám khí đi nhanh hơn tiếng động kia có uy lực thật ghê gớm, Lý Mạc Sầu cả kinh, vội buông cậu thiếu niên ra, nhảy tới nhặt lên xem, hóa ra chỉ là hai viên sỏi tầm thường, liền nghĩ thầm: “Người phóng hai viên sỏi này võ công cao thâm khôn lường, ta không phải là đối thủ, nên tránh trước đi là hơn”. Nghĩ vậy, liền quay mình, giơ chưởng vỗ vào sau lưng Trình Anh. Lý Mạc Sầu muốn giết hai cô bé Trình, Lục trước, rồi sẽ tính sau.

Bàn tay sắp chạm tới lưng Trình Anh thì Lý Mạc Sầu nhìn thấy cổ cô bé quàng tấm khăn lụa thêu hoa hồng lá xanh, chính tấm khăn mà nàng ta dành bao tâm tình vào đường kim mũi chỉ thêu tặng ý trung nhân. Lý Mạc Sầu sững người, thu hồi chưởng lực; bao nhiêu nhu tình mật ý trong giây lát trỗi dậy trong lòng, nghĩ thầm: “Chàng tuy thành thân với con nữ tặc họ Hà, song thủy chung chàng vẫn không quên ta. Tấm khăn này đưa ra là có ý xin ta tha cho hậu nhân của chàng. Có nên tha hay không đây?” Nhất thời khó quyết định vậy hãy đập chết Lục Vô Song đi đã. Cây phất trần vung lên, nhắm lưng Lục Vô Song quật xuống, chợt nàng ta lại thấy cổ cô bé này cũng quàng tấm khăn y hệt. Lý Mạc Sầu ồ lên một tiếng, nghĩ thầm: “Sao lại có những hai tấm khăn? Tức thị có một tấm khăn là giả”. Cây phất trần sắp đánh tới, liền được cuộn về.

Đúng lúc đó, tiếng “chíu” ban nãy lại xé gió, một viên sỏi bay thẳng tới sau lưng Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần ra sau lưng. Viên sỏi bắn trúng vào cán cây phất trần, nàng ta cảm thấy hổ khẩu đau nhói, lòng bàn tay phát nhiệt, toàn thân chấn động. Một viên sỏi nhỏ mà kình lực như thế, người phóng nó đi phải có võ công thế nào, khỏi nói cũng biết. Lý Mạc Sầu không dám chần chừ vội túm lấy Lục Vô Song, thi triển khinh công, lướt đi như một làn gió, thoáng một cái đã mất hút.

Trình Anh thấy biểu muội bị bắt đi, gọi to:

– Biểu muội, biểu muội!

Rồi chạy theo. Nhưng với cước lực của Lý Mạc Sầu, cô bé Trình Anh theo sao kịp? Đất Giang Nam sông hồ ngang dọc khắp nơi, Trình Anh chạy một hồi, thì bị một dòng sông nhỏ chắn trước mặt, bèn theo bờ sông mà chạy, vừa chạy vừa gọi. Bỗng thấy có một cái bóng vàng vút qua chiếc cầu phía bên trái, một người từ bờ bên kia lao sang. Trình Anh ngẩn người, Lý Mạc Sầu đã đứng ngay trước mặt nó, không thấy có Lục Vô Song kẹp dưới nách.

Trình Anh thấy Lý Mạc Sầu quay lại thì cả sợ, đánh bạo hỏi:

– Biểu muội của ta đâu?

Lý Mạc Sầu thấy cô bé da trắng ngần, diện mạo xinh xắn, thì lạnh lùng nói:

– Mi xinh xắn thế này, mai sau lớn lên, không làm cho kẻ khác đau khổ, thì tự mình sẽ đau khổ, chi bằng chết sớm đi là hơn. Thế gian bớt được một chút phiền não.

Cây phất trần đưa ra sau, rồi đánh về đằng trước, cú đòn này sẽ làm cho Trình Anh vỡ đầu nát ngực.

Nhưng cây phất trần đang đánh về phía trước thì bị một vật gì đó giữ chặt lấy. Lý Mạc Sầu cố kéo cũng vô ích. Nàng ta cả kinh, ngoảnh đầu định nhìn xem sao, thì thân hình bị nhấc bổng lên cao rồi hất ngược ra phía sau hơn một tượng mới rơi xuống. Lý Mạc Sầu kinh hoàng, tả chưởng che ngực, dồn lực vào cây phất trần mà quật mạnh ra phía sau, nhưng nào thấy chạm vật gì đâu. Nàng ta từng đánh lớn nhỏ mấy trăm trận, chưa lần nào gặp cảnh quái dị thế này, trong óc chợt lóe lên ý nghĩ “Yêu tinh chăng? Ma quỉ chăng?” Liền dùng chiêu “Hỗn nguyên thức” múa cây phất trần hộ thân trong vòng năm thước, rồi mới quay mình nhìn lại.

Chỉ thấy đứng cạnh Trình Anh là một quái nhân cao gầy mặc áo bào xanh, mặt không có chút thần sắc gì, nửa giống người sống, nửa giống tử thi, vừa nhìn thấy đã khó chịu bực bội khó nói nên lời. Lý Mạc Sầu bất giác lùi lại hai bước, nhất thời thật không ngờ trong võ lâm lại có một nhân vật lợi hại thế này, đang định mở miệng hỏi, thì người kia cúi đầu nói với Trình Anh:

– Này bé, nữ nhân này là kẻ hung ác, bé hãy đánh nó đi.

Trình Anh đâu dám động thủ, ngẩng lên nói:

– Điệt nhi không dám đâu.

Quái nhân hỏi:

– Bé sợ chi? Cứ đánh đi.

Trình Anh vẫn không dám. Quái nhân đặt tay vào lưng Trình Anh mà đẩy nó về phía Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu gặp tình huống bất thường, cũng không dám ứng phó theo lối thông thường, nghĩ rằng sử dụng cây phất trần không phải là cách hay, bèn giơ tay trái ra đón bắt, vừa chạm vào sườn của Trình Anh thì khuỷu tay tê dại đi, không tài nào nhấc nổi cánh tay ấy lên. Trình Anh húc đầu vào ngực Lý Mạc Sầu, một tay thuận thế vả đánh bộp một cái, trúng ngay mặt nàng ta.

Lý Mạc Sầu cả đời chưa lần nào bị nhục đến mức này, trong cơn cuồng nộ, chẳng còn e dè gì nữa, vung mạnh cây phất trần mà quật xuống, nhưng chỉ thấy hổ khẩu tê dại, cán cây phất trần văng đi, suýt nữa rời khỏi tay, hóa ra quái nhân vừa búng một hòn sỏi trúng cán cây phất trần. Trình Anh thì đã đứng thẳng người lại.

Lý Mạc Sầu biết rằng hôm nay xui xẻo, nếu không tìm cách thoát thân cho nhanh, e sẽ nguy đến tính mạng; bèn cười nhạt, quay mình đi liền, chạy được vài bước, hai ống tay áo phất về phía sau, nhiều tia ngân quang chớp chớp, hơn chục mũi “Băng phách ngân châm” cùng bắn về phía quái nhân áo xanh. Nàng ta phóng ám khí, không cần ngoảnh đầu, không cần xoay mình, song các mũi ngân châm toàn nhắm vào chỗ yếu hại của đối phương. Quái nhân không ngờ tài sử dụng ám khí của đối phương lợi hại như vậy, vội phi thân về phía sau. Các mũi ngân châm bay nhanh, song quái nhân phi thân còn nhanh hơn, chỉ thấy các mũi ngân châm rơi lả tả ở trước mặt quái nhân. Lý Mạc Sầu thừa biết mười mấy mũi ngân châm vừa rồi khó lòng bắn trúng quái nhân, chỉ cốt đẩy lão ta ra xa; vừa nghe tiếng gió do lão ta phi thân phát ra, Lý Mạc Sầu lại vung tay áo, một mũi ngân châm bay thẳng về phía Trình Anh. Nàng ta biết mũi ngân châm này thể nào cũng trúng đích, sợ quái nhân áo xanh xông tới động thủ, bèn chạy vội qua cầu, lẩn vào một bãi dâu.

Quái nhân kêu lên “Ôi chao!” chạy tới đỡ Trình Anh, thấy mũi ngân châm dài cắm vào vai cô bé thì mặt biến sắc, ngẫm nghĩ giây lát, rồi ẵm cô bé bước nhanh về phía Tây.

Ở chỗ Kha Trấn Ác, mọi người thấy Lý Mạc Sầu rốt cuộc vẫn bắt Lục Vô Song mang đi, thì đều kinh hãi. Cậu thiếu niên rách rưới nói:

– Ta phải đi xem sao.

Quách Phù nói:

– Có gì đáng xem? Nữ ác nhân sẽ đá chết đằng ấy cho coi.

Cậu thiếu niên cười, hỏi:

– Cô nương đá chết ta ấy ư? Thì không gặp nhau nữa là cùng.

Nói rồi chạy nhanh về phía Lý Mạc Sầu vừa bỏ đi. Quách Phù nói:

– Đồ ngu! Không phải ta bảo ta đá chết ngươi.

Cô bé không biết rằng cậu thiếu niên vừa bóng gió nhiếc cô là “nữ ác nhân”.

Cậu thiếu niên chạy một hồi, bỗng nghe đằng xa có tiếng Trình Anh gọi “Biểu muội, biểu muội!” Cậu chạy vài chục trượng nữa về phía đó, song không thấy bóng cô bé đâu cả.

Cậu nhìn quanh, thấy dưới đất có mười mấy mũi ngân châm, thân ngân châm có khắc hoa văn hết sức tinh vi. Cậu cúi nhặt một mũi ngân châm, cầm bên tay trái, bỗng nhìn thấy có một con rết lớn cạnh mũi ngân châm khác lật ngửa bụng lên, giãy giụa mấy cái rồi chết. Cậu cảm thấy thú vị, cúi xem kỹ, thấy có nhiều chú kiến chết; một đàn kiến đang bò thành hàng dài; cậu dùng mũi ngân châm gí vào con kiến nào, con ấy liền xoay lòng vòng rồi chết cứng. Thử gí vào mấy con côn trùng cũng thấy y như vậy.

Cậu cả mừng, nghĩ bụng dùng mũi ngân châm này đi bắt chuồn chuồn thì tha hồ thích; đột nhiên tay trái tê đi không còn cảm giác, cậu giật mình nghĩ thầm: “Ngân châm có độc! Cầm nó trong tay quá ư nguy hiểm!.” Cậu vội ném nó đi, thấy cả hai lòng bàn tay đã biến thành màu đen, lòng bàn tay trái thì đen như mực. Cậu sợ hãi, cọ cọ lòng bàn tay vào đùi, nhưng tay trái tê dần từ cẳng tay lên khuỷu. Hồi nhỏ cậu từng bị rắn độc cắn, may mà thoát chết; hồi ấy quanh chỗ bị rắn cắn, cũng tê dại bì bì không cảm giác như thế này, cậu biết là nguy ngập, lo không kìm nổi, khóc òa lên.

Cậu bé bỗng nghe sau lưng có tiếng nói:

– Này bé con, đã biết lợi hại rồi hả?

Giọng nói oang oang chói tai, nghe như từ lòng đất dội lên. Cậu vội quay mình, bất giác cả kinh, thấy có một người đang chống đầu xuống đất, hai chân khép lại chĩa thẳng lên trời Cậu lùi mấy bước, hỏi:

– Người … người là ai?

Người kia hai tay đẩy xuống đất, thân vọt đi ba thước, đáp xuống trước mặt cậu, nói:

– Ta là ai ư? Ta mà biết ta là ai thì đã tốt.

Cậu bé hoảng sợ cuống cuồng bỏ chạy. Chỉ nghe sau lưng mấy tiếng “hịch, hịch”; ngoảnh lại, thì hồn xiêu phách lạc, hóa ra người kia dùng tay thay chân ; mỗi tay cầm một cục đá, hai chân chĩa lên trời, cứ thế mà di chuyển mau lẹ vô cùng, chỉ cách lưng cậu vài thước.

Cậu cố chạy nhanh hơn, cắm đầu cắm cổ mà chạy; bỗng nghe “hịch” một tiếng to, người kia đã vọt qua đầu cậu, đáp xuống trước mặt cậu. Cậu kêu lên: “Mẹ ơi!” rồi quay đầu chạy, nhưng bất kể chạy về hướng nào, quái nhân kia vẫn vọt tới chặn đằng trước. Cậu có hai chân mà không bằng một người đi bằng hai tay. Quái nhân đã tới gần hơn, cậu liền phát chưởng đẩy ra, nhưng tay đã tê dại từ lúc nào, mồ hôi túa ra đầm đìa, cậu không biết làm thế nào, hai chân bủn rủn, ngồi phệt xuống đất.

Quái nhân nói:

– Ngươi càng chạy lung tung, chất độc trong người phát tác càng nhanh đó.

Cậu bé khôn ngoan quì ngay xuống cầu xin:

– Xin lão công công cứu mạng cho điệt nhi với.

Quái nhân đáp:

– Khó cứu, khó cứu!

Cậu bé nói:

– Lão công công có bản lĩnh cao cường như thế, nhất định cứu được điệt nhi.

Lời này khiến quái nhân hết sức khoái chí, lão mỉm cười, nói:

– Làm sao ngươi biết ta có bản lĩnh cao cường?

Cậu bé nghe lão dịu giọng chắc có hi vọng, vội nói:

– Lão công công đi bằng tay còn nhanh hơn người ta chạy, thế gian này chẳng ai bằng được lão công công.

Lời này cậu tiện miệng nói ra, đâu ngờ câu “Thế gian này chẳng ai bằng được lão công công” lại đánh trúng vào chỗ yếu của quái nhân. Lão cười ha hả, nói:

– Lộn ngược đầu xuống, để ta coi thử.

Cậu bé nghĩ thầm, phải rồi, mình đứng thuận, lão đứng ngược thì nhìn không rõ; lão đã không thích đứng thuận, thì mình phải lộn ngược vậy. Bèn chống đầu xuống đất, tay phải của cậu vẫn còn cảm giác. Quái nhân nhìn kỹ cậu một chút, cau mày ngẫm nghĩ.

Cậu bé chống đầu thế này, nên nhìn rõ diện mạo của quái nhân: mũi cao, mắt sâu, râu bạc trắng, ngắn và cứng; thấy quái nhân lẩm bẩm gì đó rất khó nghe. Cậu bé sợ quái nhân không chịu cứu, liền năn nỉ:

– Lão công công ơi, xin hay cứu điệt nhi với.

Quái nhân thấy cậu bé mày thanh mục tú, xem chừng cũng mến nó, nói:

– Được, cứu người không khó, nhưng ngươi phải đáp ứng ta một việc.

Cậu bé nói:

– Lão công công bảo gì, điệt nhi cũng xin vâng lời. Lão công công muốn điệt nhi đáp ứng việc gì?

Quái nhân mỉm cười, nói:

– Chính ta đang muốn ngươi đáp ứng như thế đó. Ta bảo gì, ngươi cũng phải vâng lời.

Cậu bé nghi ngại:

– Lão công công bảo gì cũng phải nghe ư? Chẳng lẽ bảo điệt nhi ăn cứt chó, điệt nhi cũng phải ăn hay sao?

Quái nhân thấy cậu bé do dự, thì tức giận nói:

– Được, thì cho ngươi chết!

Nói rồi đẩy tay một cái, thân vọt ra xa mấy thước. Cậu bé sợ lão bỏ đi, vội lao theo để cầu xin, nhưng cậu chưa học được cách đi bằng tay; phải đảo người lại, mới chạy theo van nài:

– Lão công công, điệt nhi đáp ứng. Lão công công bảo gì, điệt nhi cũng phải nghe.

Quái nhân xoay người lại, nói:

– Được người thề đi.

Cậu bé lúc này tay trái đã tê dại đến vai, càng nghĩ càng sợ, đành thề.

– Nếu lão công công cứu được mạng điệt nhi, trừ hết chất độc khỏi người điệt nhi, thì điệt nhi nhất định sẽ vâng lời lão công công. Nếu điệt nhi không vâng lời, thì chất độc cứ việc trở lại người điệt nhi.

Bụng nghĩ thầm. “Từ nay mình không bao giờ đụng tới ngân châm, thì chất độc làm sao có thể trở lại người mình được? Nhưng không hiểu mình thề như thế, lão ta đã chịu chưa đây?”

Cậu bé liếc mắt, thấy sắc mặt quái nhân có vẻ rất hài lòng, thì nghĩ thầm: “May quá, lão ta tin lời mình rồi”. Quái nhân gật đầu, dùng tay bóp bóp cánh tay cậu bé mấy cái, nói:

– Ngoan, ngoan, ngươi là một đứa bé ngoan.

Cậu bé cảm thấy cánh tay đỡ hẳn tê dại, bèn nói:

– Lão công công hãy nắn thêm tay cho điệt nhi đi.

Quái nhân cau mày, nói:

– Ngươi đừng gọi ta là lão công công, hãy gọi ta là cha!

Cậu bé nói:

– Phụ thân điệt nhi mất sớm, điệt nhi không có cha!

Quái nhân quát:

– Câu thứ nhất ta nói, ngươi đã không chịu vâng lời, đứa con như ngươi phỏng còn ra gì!

Cậu bé nghĩ thầm: “Thì ra lão ta muốn mình gọi lão là cha”. Từ nhỏ, cậu chưa hề biết mặt phụ thân; mẹ cậu bảo cậu chưa ra đời thì cha cậu đã chết, từ trước đến giờ nhìn cảnh cha con nhà người khác, cậu rất muốn có cha, nhưng thấy quái nhân cử chỉ quái dị, điên điên khùng khùng, thì cậu chẳng muốn gọi lão là cha chút nào.

Quái nhân quát:

– Ngươi không chịu gọi ta là cha, được lắm. Khối kẻ muốn gọi ta là cha, ta đâu chịu.

Cậu bé nghĩ cách đánh lừa quái nhân để lão ta chữa trị cho nó. Quái nhân đột nhiên lẩm bẩm gì đó như niệm thần chú, rồi bỏ đi. Cậu bé vội gọi:

– Cha ơi, cha đi đâu vậy?

Quái nhân cười ha hả, nói:

– Con ngoan của ta, nào lại đây, ta dạy cho con cách trừ khí độc khỏi thân thể nào.

Cậu bé lại gần. Quái nhân nói:

– Con bị trúng độc bởi “Băng phách ngân châm” của ả nữ quái Lý Mạc Sầu, giải độc thật không dễ.

Rồi lão truyền khẩu quyết và phép hành công, dặn đây là cách đảo ngược khí tức, phải thực hiện tư thế trồng cây chuối, đầu chống đất, chân lên trời, khí huyết nghịch hành, khí độc sẽ đi ra từ chỗ nó đi vào thân thể. Vì cậu mới tập lần đầu, nên mỗi ngày chỉ có thể đẩy ra một chút, chừng một tháng mới có thể giải hết độc.

Cậu bé rất thông minh, nghe một lần là nhớ, làm theo lời dặn, quả nhiên cảm giác tê dại giảm dần.

Vận khí xong, các đầu ngón tay chảy ra vài giọt máu đen. Quái nhân vui mừng, nói:

– Tốt lắm. Hôm nay luyện thế đủ rồi. Mai con lại theo cách đó mà luyện. Chúng ta đi thôi.

Cậu bé ngạc nhiên:

– Đi đâu ạ?

Quái nhân nói:

– Người là con của ta, cha đi đâu, ắt con phải theo tới đó.

Vừa nói tới đây, thì trên trời có mấy tiếng kêu của chim điêu, hai con chim điêu lớn bay ngang qua đầu. Quái nhân ngây người nhìn đôi chim điêu, lấy tay gõ trán, cau mày suy nghĩ vẻ khổ sở, đột nhiên tựa hồ nhớ ra điều gì, sắc mặt đại biến, thốt lên:

– Ta không nên gặp họ, không nên gặp họ.

Đoạn vọt đi, mỗi bước vọt khá dài, sau mười bước vọt, đã khuất hẳn vào trong bãi dâu.

Cậu bé gọi:

– Cha ơi, cha!

Rồi chạy theo. Vòng qua một cây liễu lớn, bỗng thấy sau gáy có luồng gió thổi mạnh, đấy là do đôi chim điêu kia bay lướt qua đầu, đáp xuống đằng trước. Ở phía rừng liễu có một nam một nữ, đôi chim điêu đậu xuống vai mỗi người một con.

Nam là một chàng trai mặt to mày rậm, ba mươi tuổi, mép lún phún ria; nữ chừng hai sáu hai bảy tuổi, diện mạo tú lệ, đôi mắt vô cùng sinh động, nhìn cậu bé, rồi nói với chàng trai:

– Chàng bảo cậu bé kia giống ai?

Chàng trai chăm chú nhìn cậu bé, rồi nói:

– Nàng bảo nó giống…

Chàng chỉ nói bốn tiếng ấy thì ngừng lời, không nói nữa

Hai người ấy chính là vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Hôm nay họ đang ngồi trong một quán trà thăm dò tin tức của Hoàng Dược Sư, thì thấy xa xa lửa bốc ngút trời, lát sau có người chạy đến báo tin: “Lục gia trang bị cháy!” Hoàng Dung chợt nhớ chủ nhân Lục Triển Nguyên của Lục gia trang ở Gia Hưng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm, tuy nàng chưa kiến diện, nhưng nghe danh từ lâu, người trên giang hồ thường nhắc đến “Giang Nam lưỡng cá Lục gia trang” chính là muốn nói tới Thái hồ Lục gia trang và Gia Hưng Lục gia trang. Lục Triển Nguyên hoàn toàn có thể sánh ngang Lục Thừa Phong, chẳng phải loại thường. Hỏi thăm, biết nơi bị cháy là gia trang của Lục Triển Nguyên. Hai vợ chồng vội dời gót, khi đến nơi, lửa đã gần tàn, gia trang chỉ còn là đống tro nóng, có mấy tử thi cháy đen, không thể nhận ra mặt mũi được nữa. Hoàng Dung nói:

– Vụ này có điều kỳ quái.

Quách Tĩnh hỏi:

– Điều gì?

Hoàng Dung nói

– Lục Triển Nguyên khá nổi tiếng trong võ lâm, phu nhân là Hà Nguyên Quân cũng là một nữ hiệp thời nay. Nếu chỉ là một đám cháy bình thường, tại sao gia nhân lại có người bị chết cháy? Hắn là có kẻ thù tới phóng hỏa.

Quách Tĩnh nghĩ một chút, nói:

– Đúng thế, chúng ta dò xem kẻ nào phóng hỏa, vì sao lại hạ độc thủ như thế?

Hai người đi vòng gia trang một lượt, không thấy dấu vết gì. Hoàng Dung bỗng chỉ bức tường đã đổ một nửa, nói:

– Chàng xem, cái gì kia?

Quách Tĩnh ngẩng nhìn, thấy có mấy vết bàn tay máu đen kịt vì ám khói, trông rất đáng sợ; tường đổ nên có dấu bàn tay chỉ còn một nửa. Quách Tĩnh giật mình, thốt ra miệng:

– Xích Luyện Tiên Tử!

Hoàng Dung nói:

– Nhất định là nàng ta. Nghe đồn Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu võ công cao cường, âm độc vô tỉ, chẳng khác gì Tây Độc hồi nào. Nàng ta giá lâm Giang Nam, chúng ta phải đấu với nàng ta một phen mới được.

Quách Tĩnh gật đầu, nói:

– Bằng hữu võ lâm đều bảo nữ ma đầu Lý Mạc Sầu rất khó trị. Vợ chồng mình giá tìm được nhạc phụ thì đỡ quá.

Hoàng Dung cười nói:

– Càng nhiều tuổi, càng nhát gan.

Quách Tĩnh nói:

– Không sai chút nào. Càng luyện võ, càng biết là mình kém.

Hoàng Dung cười, nói:

– Quách đại gia khiêm nhường quá! Thiếp thì càng luyện võ càng thấy mình lợi hại hơn.

Hai người ngoài miệng cười nói, trong bụng vẫn ngầm để phòng, nhìn quanh tứ phía; bên một cái ao nhỏ, họ thấy có hai mũi “Băng phách ngân châm”, một mũi ngân châm rơi ở bờ ao, một nửa ngập dưới nước, có mấy con cá vàng trong ao chết nổi bụng trắng trên mặt nước, đủ hiểu ngân châm độc đến mức nào. Hoàng Dung dùng hai cái que gắp mũi ngân châm, bọc thật kỹ trong một cái khăn, cất vào túi. Hai người lại đi ra xa tìm kiếm, thì gặp đôi chim điêu và cậu thiếu niên rách rưới.

Quách Tĩnh nhìn cậu thiếu niên có khuôn mặt quen quen, nhất thời chưa nhớ ra cậu bé giống ai. Mũi chàng ngửi có mùi lạ, hít hít vài cái, cảm thấy đầu óc váng vất. Hoàng Dung cũng ngửi thấy mùi lạ đó, hình như tỏa ra từ ngay bên cạnh, bèn ngoảnh lại quan sát, thấy chân trái con chim đực có vết thương, quả nhiên mùi hôi thối phát ra từ đây. Hai người kinh ngạc, xem kỹ vết thương, tuy chỉ xước da, vậy mà chỗ đó sưng to, thịt đã thối. Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Bị thương vì cái gì mà lợi hại thế nhỉ?” Bỗng thấy tay trái của cậu thiếu niên đen nhẻm, bèn nói:

– Cậu bé kia cũng bị trúng độc hay sao ấy?

Hoàng Dung bước tới, cầm bàn tay cậu thiếu niên xem sao, rồi vén tay áo nó, lấy mũi dao trích chỗ cổ tay để nặn máu độc; thấy máu chảy ra vẫn màu hồng tươi thì hơi lạ: tại sao bàn tay cậu bé đen nhẻm thế này, mà máu lại không có độc? Nàng không biết rằng cậu thiếu niên được quái nhân dạy cách dồn chất độc ra đầu các ngón tay, nhất thời chất độc chưa lan lên cao. Nàng lấy trong bọc ra một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn”, nói:

– Hãy nhai nát, rồi nuốt xuống.

Cậu thiếu niên nhận viên thuốc, ngửi thấy mùi thơm dễ chịu, cho vào miệng nhai nát, thì cả miệng thơm lừng, vị mát ngọt lạ thường thấm xuống tận đan điền. Hoàng Dung lấy ra hai viên nữa, cho mỗi con chim điêu ăn một viên.

Quách Tĩnh trầm ngâm một lúc, rồi đột nhiên há miệng hú một tiếng dài. Cậu thiếu niên tai ong ong, bị bất ngờ giật nảy mình, nhưng nghe tiếng hú vọng đi xa dần, khiến chim muông tứ phía hoảng sợ bay nháo nhác, các cành liễu bên cạnh rung động không ngừng. Tiếng hú thứ nhất chưa dứt, Quách Tĩnh đã hú tiếp tiếng thứ hai, hai tiếng hú chồng lên nhau, nghe như thiên binh vạn mã lao đi.

Hoàng Dung biết chồng mình phát tín hiệu khiêu chiến với Lý Mạc Sầu, nghe chàng vừa phát ra tiếng hú thứ ba, thì nàng hít một hơi sâu vào đan điền, cũng hú một tiếng dài. Tiếng hú của Quách Tĩnh vang trầm hùng tráng, tiếng hú của Hoàng Dung thì trong trẻo lảnh lót. Tiếng hú của hai người hòa vào nhau, giống như một cánh chim bằng lớn và một cánh chim nhỏ sánh vai bay lên cao, càng lúc càng lên cao, cánh chim nhỏ vẫn không tụt hậu so với cánh chim bằng. Hai người ở Đào Hoa đảo dày công khổ luyện, nội lực đạt tới cảnh giới cao siêu, hai tiếng hú cùng phát ra, đúng là vang vọng chín tầng mây, cả mấy dặm quanh vùng đều nghe rõ.

Quái nhân nghe thấy tiếng hú đó thì càng lẩn tránh đi nhanh hơn.

Còn quái nhân áo xanh đang ẵm Trình Anh, nghe tiếng hú thì cười ha hả, nói:

– Các người cũng tới rồi ư, lão tử tránh xa một chút, để khỏi nhiều lời.

Lý Mạc Sầu đang cắp Lục Vô Song chạy gấp, nghe tiếng hú, liền dừng bước, vung cây phất trần, quay người lại, cười khẩy, nói:

– Quách đại hiệp danh chấn võ lâm, nhưng ta phải xem chàng ta có chân tài thực học hay không cái đã.

Bỗng sau hai tiếng hú ban đầu, lại nghe có tiếng hú theo trong trẻo lảnh lót, hai tiếng hú hòa quyện vào nhau, nửa cương nửa nhu, càng tăng uy lực. Lý Mạc Sầu giật mình, thầm biết không địch nổi, lại nghĩ vợ chồng người ta hành tẩu giang hồ có đôi, nương tựa lẫn nhau, mình thì cô đơn một thân, thế là chẳng thiết gì nữa, thở dài não nuột, túm lấy lưng Lục Vô Song mang đi.

Lúc này Võ tam nương đã dìu chồng, cùng hai đứa con từ biệt Kha Trấn Ác đi rồi. Kha Trấn Ác chỉ lo Lý Mạc Sầu quay trở lại hãm hại Quách Phù, đang tính dẫn cô bé đi tìm một chỗ lẩn trốn, chợt nghe thấy tiếng hú của vợ chồng Quách Tĩnh thì cả mừng. Quách Phù gọi:

– Cha ơi, mẹ ơi!

Rồi chạy ngay đi.

Một trẻ một già theo hướng tiếng hú chạy đến trước mặt vợ chồng Quách Tĩnh. Quách Phù sà vào lòng Hoàng Dung cười nói:

– Mẹ ơi, đại công công vừa đánh đuổi một nữ ác nhân phải vắt chân lên cổ mà chạy, bản lĩnh của lão nhân ghê thật.

Hoàng Dung thừa biết con bé bịa chuyện, chỉ cười cười. Quách Tĩnh chặn luôn:

– Con nít nói gì phải thật thà.

Quách Phù lè lưỡi, cười hỏi:

– Đại công công bản lĩnh không ghê, làm sao lại là sư phụ của cha?

Sợ phụ thân quở mắng thêm, cô bé lảng ra chỗ khác, rủ cậu thiếu niên:

– Đằng ấy hãy đi hái vài bông hoa tết làm mũ cho đây đội đi nào!

Cậu bé bèn cùng đi với Quách Phù. Quách Phù thấy lòng bàn tay cậu đen như nhọ nồi, thì nói:

– Tay đằng ấy dơ quá, đây không chơi với đằng ấy nữa. Đằng ấy cầm vào hoa, chỉ tổ làm cho hoa mất thơm.

Cậu bé đáp:

– Ai thích chơi với cô nương kia chứ?

Nói rồi rảo bước bỏ đi.

Quách Tĩnh gọi:

– Tiểu huynh đệ, chất độc trong người tiểu huynh đệ chưa trừ được, nó phát tác thì nguy đấy.

Cậu bé ghét nhất là bị kẻ khác coi thường, câu nói vừa rồi của Quách Phù khiến cậu đau lòng, cậu bèn ngẩng đầu bỏ đi, làm như không hề nghe thấy tiếng gọi của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh chặn trước mặt, nói:

– Tiểu huynh đệ bị trúng độc, để ta chữa trị cho rồi hãy đi cũng chưa muộn.

Cậu bé nói:

– Đây không quen biết đấy, khỏi cần đấy lo hộ.

Cậu bé định lách qua bên cạnh mà đi. Quách Tĩnh thấy sắc diện, mặt mũi cậu bé giống hệt một người quen cũ, bèn nói:

– Tiểu huynh đệ họ gì vậy?

Cậu bé lườm Quách Tĩnh một cái, lách người định vọt qua, Quách Tĩnh liền chộp lấy cổ tay cậu. Cậu bé giằng mấy cái không được, liền đấm mạnh một quyền vào bụng dưới của Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh mỉm cười, không thèm chấp. Cậu bé định rút tay về đấm tiếp, nào ngờ tay bị dính ở bụng Quách Tĩnh, không tài nào co về được. Cậu đỏ bừng cả mặt, vận sức đẩy mạnh, chỉ thấy đau tay mình, vẫn không bứt tay ra nổi. Quách Tĩnh cười, nói:

– Tiểu huynh đệ chịu nói họ tên, ta sẽ buông ra.

Cậu bé nói:

– Đây họ Bồ tên Mi Đầy.

Quách Tĩnh nghe vậy thì thất vọng, thả lỏng cơ bụng. Chàng không biết rằng cậu bé kỳ thực định nói là “Bố của mi đây”. Cậu bé rút được tay về, nghĩ thầm: “Mi bản lĩnh khá đấy, bố của mi không bằng mi”.

Hoàng Dung thấy diện mạo của cậu bé quá giống một người nọ, không dằn lòng được, bèn thử cậu một lần nữa, cười nói:

– Tiểu huynh đệ, cậu muốn làm cha của chồng ta, thành bố chồng của ta ư?

Tay trái nàng ấn vào gáy của cậu bé. Cậu bé cảm thấy lực ấn rất mạnh, liền vận sức phản kháng.

Hoàng Dung lập tức thu lực về; cậu bé không làm chủ được mình, ngã ngửa ra sau. Quách Phù vỗ tay cười to. Cậu bé cả giận, lồm cồm bò dậy, lùi mấy bước, đang định mở miệng chửi, thì Hoàng Dung bước tới đặt tay lên vai cậu, chăm chú nhìn vào mắt cậu, thong thả nói:

– Điệt nhi họ Dương tên Quá, mẹ điệt nhi họ Mục, đúng chưa nào?

Cậu bé chính là Dương Quá, đột nhiên bị Hoàng Dung gọi đúng họ tên, thì sửng sốt, khí huyết nhộn nhạo, chất độc ở tay hồi xung, trí óc mơ hồ, ngất đi.

Hoàng Dung vội đỡ người cậu bé. Quách Tĩnh xoa bóp cho cậu mấy cái, thấy cậu bé hai mắt nhắm nghiền, răng cắn phải lưỡi, chảy cả máu, không tỉnh lại. Chàng vừa lo vừa mừng, nói:

– Nó… nó là con của huynh đệ Dương Khang.

Hoàng Dung thấy Dương Quá trúng độc quá nặng, nói nhỏ:

– Chúng ta hãy mang ngay nó về khách điếm, vào thành cắt thuốc cho nó.

Nguyên Hoàng Dung thấy cậu bé có diện mạo rất giống Dương Khang, sực nhớ ngày trước ở khách điếm Trung Đô, Vương Xứ Nhất có thử xem võ công của Mục Niệm Từ là do ai truyền thụ, giơ tay ấn gáy Mục Niệm Từ, Mục Niệm Từ không chúi về phía trước, mà lại ngửa ra đằng sau, đó chính là phép luyện công vận khí độc môn của Hồng Thất Công; cậu bé này nếu là con của Mục Niệm Từ, thì võ công mà cậu ta luyện tất nhiên cùng một lộ, Hoàng Dung là đệ tử của Hồng Thất Công, dĩ nhiên nắm chắc yếu quyết luyện công của bản môn, nên nàng vừa thử là biết ngay chân tướng của cậu bé.

Quách Tĩnh liền ôm Dương Quá, cùng Kha Trấn Ác, Hoàng Dung, Quách Phù và đôi chim điêu trở về khách điếm. Hoàng Dung kê đơn, điếm tiểu nhị đến dược điếm cắt thuốc. Gia Hưng tuy là đại ấp thông thương với kinh đô, nhưng dược điếm nhất thời không có đủ các vị thuốc như trong đơn. Quách Tĩnh thấy Dương Quá trước sau vẫn hôn mê không tỉnh thì hết sức lo ngại. Hoàng Dung biết từ ngày Dương Khang mất đi, chàng thương nhớ khôn nguôi, hôm nay bất ngờ gặp đứa con nối dõi của Dương Khang, dĩ nhiên mừng không để đâu cho hết. Song Dương Quá lại bị trúng độc, chưa biết sống chết thế nào, bèn nói:

– Chúng ta phải tự đi hái thuốc thôi.

Quách Tĩnh thầm biết, chỉ cần có chút hi vọng, nàng sẽ an ủi chàng ngay, đằng này nhìn sắc diện lo lắng của nàng, chàng càng lo thêm, bèn dặn Quách Phù không được tùy tiện đi đâu, rồi hai vợ chồng chàng cùng đi tìm dược thảo.

Dương Quá ngủ mê mệt đến lúc trời tối vẫn chưa tỉnh lại. Kha Trấn Ác mấy lần ghé vào chỗ cậu bé, cũng đành bó tay, độc tính của ám khí “Độc tật lê” của lão và độc tính của “Băng phách ngân châm” hoàn toàn khác nhau, không thể lấy thuốc giải loại này dùng cho loài kia. Lão lại sợ Quách Phù lẻn đi đâu, nên cứ phải canh chừng việc nó ngủ.

Dương Quá hôn mê cũng không biết bao nhiêu lâu, tự dưng cảm thấy có ai xoa bóp ngực mình, thì tỉnh lại, mở mắt, thấy một bóng đen vọt ra ngoài qua lối cửa sổ. Cậu gượng dậy, lần theo mép bàn, ngó ra ngoài cửa số, thấy một người trồng cây chuối ở trên mái hiên, chính là quái nhân muốn cậu gọi là cha sáng nay. Thân hình lão ta cứ đung đưa như sắp ngã từ trên mái xuống đất

Dương Quá vừa ngạc nhiên vừa mừng, nói:

– Các hạ đấy à?

Quái nhân nói:

– Tại sao không gọi ta là cha?

Dương Quá gọi:

– Cha!

Nhưng trong bụng nghĩ thầm: “Ta là cha mi thì có”. Quái nhân lấy làm thích chí, nói:

– Leo lên đây.

Dương Quá bám khung cửa để leo lên mái, nhưng sau khi bị trúng độc, người yếu ớt, không đủ sức, hai bàn tay nắm chỗ giọt tranh không chắc, người bị tuột xuống, bất giác kêu “Ối!”

Quái nhân giơ tay túm lưng cậu bé, nhẹ nhàng kéo lên mái nhà, đảo người đứng ở tư thế bình thường, định nói gì đó, bỗng nghe ở căn phòng phía Tây có tiếng người thổi tắt phụt ngọn nến, biết là đã bị phát hiện tung tích, liền ôm Dương Quá chạy đi. Lúc Kha Trấn Ác nhảy lên mái nhà, thì bốn phía đã im lặng như tờ.

Quái nhân cắp Dương Quá chạy tới một bãi hoang ngoài trấn, đặt cậu xuống, nói:

– Ngươi hãy theo cách ta đã dạy, đẩy khí độc ra khỏi cơ thể đi.

Dương Quá y lời làm theo. Bằng thời gian uống hết một ấm trà, cậu chích mấy giọt máu đen ra từ các đầu ngón tay, ngực cậu thấy nhẹ hẳn đi. Quái nhân nói:

– Ngươi quả rất thông minh, dạy một lần là biết cách làm, còn linh lợi hơn so với con trai ta ngày trước. Ôi, con trai ta!

Lão nhớ đến đứa con chết sớm, bất giác nước mắt lưng tròng, lão xoa đầu Dương Quá, thở dài nhè nhẹ.

Dương Quá từ nhỏ đã mất cha, khi cậu mười một tuổi mẹ cũng bị bệnh qua đời. Mục Niệm Từ lúc lâm chung, có dặn con rằng cha cậu chết ở miếu Thiết Thương tại Gia Hưng, cậu hãy hỏa táng mẹ, đem tro về chôn ở bên cạnh ngôi miếu đó. Dương Quá làm theo lời mẹ dặn, từ đó cậu lưu lạc ở Gia Hưng, trú ngụ trong cái hầm rượu bỏ hoang, ngày ngày đi ăn trộm vặt. Mục Niệm Từ có dạy cho cậu một chút võ công, nhưng một là bản thân người mẹ chưa mấy giỏi giang, lúc chết con còn nhỏ, nên cũng chưa dạy được nhiều. Vài năm qua, Dương Quá ở đâu cũng bị người ta khinh bỉ, chửi mắng; quái nhân này không biết gì về cậu, nên dĩ nhiên đối xử tốt với cậu. Dương Quá thấy quái nhân bộc lộ chân tình với cậu, thì rất cảm động, ôm lấy cổ lão, gọi:

– Cha, cha ơi!

Từ hồi lên ba, cậu những mong mình có một người cha thương yêu, bảo vệ cậu. Có lần cậu nằm mơ cậu có một người cha anh hùng hiền từ, nhưng tỉnh dậy thì cha bỏ đi đâu mất, thế là cậu khóc òa lên. Lúc này tâm nguyện bao năm của cậu được đền bù, hai tiếng “cha ơi” được cậu gọi lên với tất cả lòng trìu mến thân thiết.

Khi mới gặp quái nhân, Dương Quá bị lão buộc cậu phải gọi lão là cha, thực tình cậu không muốn chút nào. Giờ đây hai người tâm linh tương thông, quả thật thân thiết như cha con, giả sử người kia gặp nguy nan, thì người này sẵn lòng vì người kia, dầu chết cũng cam. Quái nhân cười sung sướng, nói:

– Con giỏi quá, con ngoan quá, hãy gọi cha lần nữa đi con.

Dương Quá y lời, lại gọi “Cha ơi” và ngả đầu vào ngực lão.

Quái nhân cười, nói:

– Con ngoan của ta, để ta truyền cho con thứ võ công đắc ý nhất của ta.

Nói đoạn lão rùn mình xuống, miệng lẩm bẩm ba tiếng, hai tay đẩy ra, chỉ nghe rầm một tiếng lớn, bức tường đất phía trước đổ xuống, đất bụi bay tung tóe.

Dương Quá ngẩn người há hốc mồm mà nhìn, lè lưỡi thán phục, hỏi:

– Là thứ võ gì thế, con học được không cha?

Quái nhân nói:

– Cái này gọi là “Cáp mô công”, chỉ cần con khổ luyện, thì sẽ học được.

Dương Quá hỏi:

– Sau khi con học được rồi, sẽ không ai làm nhục con nữa phải không?

Quái nhân trợn mắt, nói:

– Kẻ nào dám làm nhục con trai ta, ta sẽ bóc gân lột da nó.

Quái nhân này chính là Tây Độc Âu Dương Phong.

Từ sau cuộc luận kiếm trên đỉnh Hoa Sơn, bị Hoàng Dung làm cho hóa điên, mười năm nay Âu Dương Phong đi khắp chân trời góc biển, lúc nào cũng tự hỏi: “Rốt cuộc ta là ai?” Phàm những nơi quen thuộc, lão đều tìm đến, ở lâu lâu vùng đó, chỉ mong tìm biết mình là ai. Mấy tháng nay lão quanh quẩn ở Gia Hưng, cũng là vì lẽ đó. Nhưng năm gần đây, lão nghịch luyện Cửu Âm chân kinh, nội lực tiến triển rất nhiều, đầu óc cung tỉnh táo hẳn lại, tuy vẫn còn điên điên khùng khùng, nhưng các chuyện cũ đang dần dần nhớ lại, riêng mình rốt cuộc là ai, thì đến giờ lão vẫn chưa nhớ ra.

Âu Dương Phong đem tâm pháp nhập môn “Cáp mô công” truyền thụ cho Dương Quá. “Cáp mô công”của lão là công phu tuyệt đỉnh của võ học trong thiên hạ, biến hóa tinh vi, ảo diệu vô cùng, việc tu tập nội công càng hết sức gian nan, luyện không đúng cách, sẽ bị trọng thương, thậm chí có thể thổ huyết mà chết; cho nên hồi trước ngay Âu Dương Khắc là con đẻ mà lão cũng chưa truyền thụ. Bây giờ lão quá cảm động, thần trí lại đang lúc mơ hồ, chẳng cân nhắc nặng nhẹ, lại đem dạy ngay cho đứa nghĩa tử mới nhận. Dương Quá chưa có căn cơ võ công, tuy thuộc làu khẩu quyết nhập môn, nhưng làm sao có thể lĩnh hội ý tứ bên trong? Bản tính thông minh lanh lợi, những chỗ chưa rõ cậu liền tự ý miễn cưỡng lý giải. Âu Dương Phong dạy chán chê rồi, nghe cậu lý giải lung tung, thì cả giận, đã định giáng cho vài cái tát, nhưng dưới ánh trăng, thấy cậu bé mặt mũi tuấn mỹ, quá ư khả ái, hơn cả đứa con ruột Âu Dương Khắc ngày trước, thì không nỡ đánh, hạ tay xuống, nói:

– Con mệt rồi, đi về nghỉ đi, ngày mai ta sẽ dạy tiếp

Dương Quá từ lúc bị Quách Phù chê tay cậu nhơ bẩn, cậu đâm ghét lây cả nhà cô bé, bèn nói:

– Con đi với cha, không về kia đâu.

Âu Dương Phong chỉ chưa nhớ chuyện của mình, chứ chuyện thế sự thì lão chẳng chút hồ đồ, lão nói:

– Đầu óc ta có một vài điều còn lú lẫn, chỉ sợ làm cho con vất vả. Giờ con cứ về đi, chờ ta nghĩ ra một việc cha con ta sẽ ở với nhau, mãi mãi không phân ly, được chứ con?

Dương Quá từ ngày mẹ mất, chưa bao giờ được nghe ai nói với cậu những lời thân thiết như thế, bèn nắm tay lão, dịu dàng nói:

– Cha sớm đến đón con, cha nhé.

Âu Dương Phong gật đầu:

– Ta vẫn ngầm theo con, bất kể con ở đâu, ta cũng biết hết. Kẻ nào bắt nạt con, ta sẽ đánh vỡ mặt hắn ra.

Rồi lão cắp Dương Quá đem trở lại khách điếm.

Kha Trấn Ác từng sang tìm Dương Quá, sờ soạng trên giường không thấy cậu, ra khắp xung quanh khách điếm tìm một lượt, cũng chẳng thấy đâu, thì lo lắm. Lần thứ hai sang tìm, thì Dương Quá đã trở về; lão đang định hỏi vừa rồi cậu đi đâu, bỗng nghe có tiếng gió lướt trên mái nhà. Lão biết có hai người võ công rất cao cường vừa lướt qua trên đó. Lão vội ôm Quách Phù sang đặt nằm cạnh Dương Quá, rồi cầm thiết trượng ngồi canh ở cửa sổ; chỉ lo hai kẻ kia là địch, đi xong sẽ quay lại. Quả nhiên tiếng gió từ xa lại lướt tới trên mái nhà, tiếng một người hỏi:

– Nàng bảo người ấy là ai?

Người kia đáp:

– Lạ thật, lạ thật, chẳng lẽ là lão ta?

Thì ra là hai vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung. Kha Trấn Ác lúc này mới yên tâm, mở cửa cho họ vào, Hoàng Dung hỏi:

– Đại sư phụ ở đây có chuyện gì không?

Kha Trấn Ác đáp:

– Không.

Hoàng Dung nói với Quách Tĩnh:

– Chẳng lẽ chúng mình nhìn nhầm người?

Quách Tĩnh lắc đầu:

– Không đâu, chín phần là người ấy.

Kha Trấn Ác hỏi:

– Ai thế?

Hoàng Dung kéo dải áo Quách Tĩnh, ý bảo đừng nói. Nhưng Quách Tĩnh không dám giấu ân sư, nói:

– Là Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác bình sinh căm ghét Âu Dương Phong, vừa nghe tên thì bất giác mặt biến sắc, thấp giọng hỏi:

– Âu Dương Phong ư? Hắn vẫn chưa chết ư?

Quách Tĩnh nói:

– Vừa rồi chúng con đi hái thuốc về, thấy trên mái nhà có bóng người, thân pháp vừa nhanh vừa lạ, vội đuổi theo thì đã mất hút. Trông rất giống Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác biết Quách Tĩnh xưa nay nói năng ổn trọng, chắc chắn. Chàng đã bảo là Âu Dương Phong, thì quyết không thể là kẻ khác.

Quách Tĩnh nhớ lo cho Dương Quá, chàng cầm nến tới bên giường, thấy sắc mặt cậu bé hồng nhuận, hơi thở đều đều, chính đang ngủ say, thì không khỏi vui mừng, nói với vợ:

– Nàng nhìn này, cậu bé khỏe.

Kỳ thực Dương Quá giả vờ ngủ, cậu nhắm mắt nghe ba người nói chuyện. Cậu loáng thoáng nghe biết nghĩa phụ tên là Âu Dương Phong, ba người này rõ ràng không ưa Âu Dương Phong, thì bất giác mừng thầm.

Hoàng Dung lại gần, lấy làm lạ; trước khi đi, rõ ràng khí độc lan lên cánh tay cậu bé, sau mấy canh giờ ắt phải sưng phù tím đen, đằng này khí độc lại tiêu đi, thật quái lạ. Vợ chồng nàng đi cả ngày vẫn chưa kiếm đủ các vị thuốc thiếu, thôi tạm giã nát mấy thứ thảo dược kiếm được cho cậu bé uống vậy.

Hôm sau vợ chồng Quách Tĩnh cùng Kha Trấn Ác mang hai đứa trẻ rời Gia Hưng đi về hướng đông nam; quyết định trước hết trở về Đào Hoa đảo, chữa trị xong cho Dương Quá, rồi tính sau. Tối hôm ấy, họ nghỉ ở khách điếm, Kha Trấn Ác và Dương Quá ở một buồng, vợ chồng Quách Tĩnh và Quách Phù ở một buồng.

Vợ chồng Quách Tĩnh ngủ đến nửa đêm, chợt nghe trên mái nhà có tiếng “cạch” rồi tiếng kêu lớn của Kha Trấn Ác ở buồng bên. Quách Tĩnh, Hoàng Dung vội bật dậy lao ra cửa sổ, thấy Kha Trấn Ác đang tay không ác đấu với người trên mái nhà; đối thủ thân cao, tay dài, chính là Âu Dương Phong. Quách Tĩnh cả sợ, chỉ lo Âu Dương Phong lấy mạng ân sư của chàng, đang định nhảy lên trợ giúp, thì thấy Kha Trấn Ác kêu to và ngã từ trên mái xuống. Quách Tỉnh phi thân ra, đúng lúc đầu của Kha Trấn Ác sắp đập xuống đất, chàng nhẹ nhàng đỡ gáy lão nhấc lên, rồi mới nhẹ nhàng đặt lão xuống, hỏi:

– Đại sư phụ, có thụ thương không ạ?

Kha Trấn Ác nói:

– Chưa chết được đâu, mau chặn Âu Dương Phong lại!

Quách Tĩnh đáp:

– Vâng.

Rồi chàng nhảy lên mái nhà.

Lúc đó ở trên mái nhà Hoàng Dung múa song chưởng đang giao đấu dữ dội với đối thủ mười năm chưa gặp. Thời gian qua, võ công của nàng đại tiến, nội lực cường kình, xuất chưởng càng biến hóa ảo diệu; Âu Dương Phong đấu hơn mười chiêu rồi mà chưa chiếm được chút lợi thế nào.

Quách Tĩnh nói:

– Âu Dương tiên sinh, chớ có đến phá đám.

Âu Dương Phong nói:

– Người bảo sao, người vừa gọi ta là gì thế?

Vẻ mặt lão ngơ ngác, trong giây lát đối với Hoàng Dung, lão chỉ thủ, không tiến công, trong óc hai chữ Âu Dương tựa hồ gợi lại một cái gì rất mật thiết. Quách Tĩnh định nói tiếp, thì Hoàng Dung đã nhận ra bệnh mất trí nhớ của Âu Dương Phong chưa đỡ, vội nói:

– Tiên sinh tên là Việt Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương!

Âu Dương Phong sững sờ, hỏi lại:

– Ta là Việt Tiền Tôn Lý, Chu Ngô Trần Vương ư?

Hoàng Dung lại nói:

– Tiên sinh là Phùng Trịnh Chử Vệ, Tưởng Thẩm Hàn Dương.

Nàng kể ra đủ các họ, khiến đầu óc Âu Dương Phong vốn đã mơ hồ, nghe gọi liền một mạch ngót hai chục cái họ, lại càng hồ đồ thêm, hỏi:

– Ngươi là ai? Ta là ai?

Chợt nghe sau lưng có tiếng quát:

– Ngươi đã giết hại năm huynh đệ tốt của ta, lão độc vật kia!

Tiếng quát chưa dứt, thiết trượng đã đánh tới, chính là Kha Trấn Ác. Vừa nãy Kha Trấn Ác bị chưởng lực của Âu Dương Phong đẩy ngã từ trên mái xuống đất, nhờ Quách Tĩnh đỡ kịp, chưa bị thương, bèn chạy vào buồng lấy cây thiết trượng ra đấu. Quách Tĩnh kêu to:

– Sư phụ hãy cẩn thận!

Cây thiết trượng cách lưng Âu Dương Phong chưa đầy một thước, nghe keng một tiếng, cây thiết trượng bị đánh bật lại, Kha Trấn Ác không cầm được, để nó văng xuống sân, lão cũng phải nhảy xuống theo.

Quách Tĩnh biết sư phụ không việc gì, nhưng nếu để Âu Dương Phong thừa thế nhảy xuống truy kích thì nguy, bèn quát:

– Tiếp chiêu!

Chân trái hơi khuỵu, hữu chưởng vẽ một vòng tròn rồi đẩy ngang ra, chính là chiêu “Kháng long hữu hối” trong “Hàng long thập bát chưởng”. Một chiêu này đêm ngày khổ luyện, hồi mới học đã lợi hại, sau mười năm khổ công, đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh; lúc vừa đẩy ra, trông rất đơn giản, nhưng một khi gặp trở lực, trong giây lát sẽ có mười ba đạo hậu kình hùng mạnh dồn dập tràn tới, rắn chắc mấy cũng sẽ bị đập tan. Đấy là diệu cảnh chàng ngộ ra được từ “Cửu Âm chân kinh”, tính từ thời trai trẻ của Hồng Thất Công đến giờ, chưa một ai luyện được chiêu số ảo diệu này.

Âu Dương Phong vừa đánh bật Kha Trấn Ác khỏi mái nhà, chỉ cảm thấy một làn gió nhẹ thổi tới mặt, thế gió tuy không mạnh, nhưng đã khiến lão khó thở, thì biết là lợi hại, vội rùn người xuống, song chưởng cùng đẩy ngang ra, chính là “Cáp mô công” đắc ý nhất đời của lão. Ba chưởng giao nhau, thân thể hai người cùng chấn động. Quách Tĩnh gia tăng chưởng lực, đạo này tiếp đạo khác, ào ào như sóng dồn; Âu Dương Phong thân mình lao đao như sắp ngã, song chưởng lực của Quách Tĩnh càng gia tăng, thì lực phản kích của lão cũng tăng theo.

Hai người không đấu với nhau đã hơn mười năm, lần này trùng phùng ở Giang Nam, đều muốn thử xem đối phương tiến bộ tới mức nào. Hồi Hoa Sơn luận kiếm, Quách Tĩnh chưa phải là đối thủ của Âu Dương Phong, nhưng giờ đã khác, võ công của chàng đại tiến, Âu Dương Phong tuy nghịch luyện “Cửu Âm chân kinh” cũng có điều tâm đắc, song một thuận một nghịch, rốt cuộc thuận phải thắng nghịch. Lần này giao đấu, Quách Tĩnh đã hoàn toàn ngang hàng với lão, khó phân cao thấp. Hoàng Dung muốn phu quân một mình thủ thắng, nên chỉ đứng bên quan sát, không nhảy vào hợp kích.

Ở miền Nam, mái nhà khác hẳn ở miền Bắc. Ở miền Bắc, mái nhà phải chịu đựng băng tuyết mùa Đông chất đống, nên được làm thật vững chắc; còn từ sông Hoài trở xuống miền Nam, mái nhà lợp ngói hai lớp, lấy gọn nhẹ làm chính. Quách Tĩnh và Âu Dương Phong đang đấu chưởng lực với nhau, lực thông hai chân; sau thời gian uống hết một ấm trà, bỗng nghe dưới chân răng rắc, rồi sầm một tiếng lớn, rui mè, mấy cái tay đòn bị gãy cùng lúc, mái nhà sụp xuống để hổng một lỗ lớn, cả hai người cùng rơi xuống.

Hoàng Dung giật mình, cũng nhảy xuống dưới qua lỗ hổng, chỉ thấy hai người vẫn tiếp tục đấu chưởng lực với nhau, mấy cái tay đòn gãy đè lên một người khách trọ. Người ấy đang ngủ sực tỉnh, đâu ngờ họa giáng từ trên trời xuống, thấy hai chân đã bị gãy nát, đau đớn kêu như bị chọc tiết. Quách Tĩnh không nỡ dùng lực dưới chân để đỡ làm khổ người vô tội; Âu Dương Phong thì chẳng thèm lý đến sự sống chết của người khác. Lực của đôi bên vốn ngang nhau, nhưng do Quách Tĩnh dưới chân không dùng lực trụ, chưởng bên trên không có nguồn, dần dần sa vào thế hạ phong. Chàng dùng đơn chưởng đấu với song chưởng của đối phương, lực toàn thân dồn vào hữu chưởng, tay trái tuy không làm gì, song cũng không thể dùng lực gì được. Hoàng Dung thấy chồng thân hơi ngả ra sau, tuy chỉ vài tấc, nhưng rõ ràng đã là bại thế, nàng bèn kêu lên:

– Này Trương Tam Lý Tứ, Hồ Đồ Vương Bát, hãy tiếp chiêu!

Một chưởng nhẹ nhàng vỗ tới vai Âu Dương Phong.

Chưởng này xuất chiêu tuy nhẹ nhưng là công phu thượng thừa của “Lạc Anh thần kiếm chưởng pháp”, khi trúng vào thân thể kẻ địch, kình lực sẽ thấu vào nội tạng, dẫu là danh gia hạng nhất như Âu Dương Phong cũng không tránh khỏi nội thương. Âu Dương Phong thấy nàng lại gọi mình bằng một thứ họ tên kỳ quái, hơi ngẩn ngơ, thấy đòn đã đánh tới, bèn đẩy mạnh song chưởng, đẩy chưởng lực của Quách Tĩnh bật ra nửa thước, rồi trong sát-na ấy phóng một trảo vào đầu vai Hoàng Dung, năm ngón tay như năm cái móc sắt quặp vào da thịt nàng.

Một trảo này phát ra, cả ba người cùng kinh ngạc. Âu Dương Phong chỉ cảm thấy các đầu ngón tay buốt nhói, thì ra lão đã chộp trúng cái túi lông nhím trên người nàng, vội buông tay ra. Đúng lúc ấy, chưởng lực của Quách Tĩnh lại dồn tới, Âu Dương Phong hồi chưởng chống đỡ, trong lúc nguy cấp, ai nấy xuất toàn lực, nghe “bình” một tiếng, hai người cùng bật ra, bụi bặm bay tứ tung, tường nhà rung rinh. Thì ra hai người vừa dùng cương chưởng, trong bóng tối không nhìn rõ thân hình đối phương, bao nhiêu sức mạnh của “Hàng long thập bát chưởng” và “Cáp mô công” rốt cuộc giáng vào vai của đối phương. Hai người phá thủng tường văng ra ngoài, nửa mái nhà phía bên này sụp xuống. Hoàng Dung tuy không bị thương vì trảo vừa rồi, nhưng mặt hoa cũng tái đi vì sợ, nàng cũng vội phi thân ra ngoài. Chỉ thấy Âu Dương Phong và Quách Tĩnh đứng bất động cách nhau nửa trượng, hiển nhiên đều đã bị nội thương nghiêm trọng.

Hoàng Dung không kịp tấn công địch, tới đứng bên cạnh bảo vệ phu quân. Nàng thấy hai người nhắm mắt vận khí, rồi không hẹn mà cùng hộc ra một ngụm máu tươi. Âu Dương Phong nói:

– “Hàng long thập bát chưởng”, hừ, gớm thật, gớm thật!

Lão cười như điên rồi chạy đi, loáng một cái đã biến mất tăm.

Lúc này trong khách điếm đã nhốn nháo cả lên, tiếng gọi nhau í ới loạn xạ. Hoàng Dung biết không thể ở đây thêm nữa, bèn ôm lấy con gái từ tay Kha Trấn Ác, nói:

– Sư phụ hãy vác Tĩnh ca ca, chúng ta rời khỏi đây thôi!

Kha Trấn Ác vác Quách Tĩnh đi về hướng Bắc. Đi một đoạn, Hoàng Dung chợt nhớ đến Dương Quá không biết lúc này cậu bé chạy đâu, nhưng nghĩ phu quân nàng đang bị trọng thương, mọi chuyện khác hãy gác lại tính sau.

Quách Tĩnh đầu óc vẫn tỉnh táo, chỉ bị chưởng lực của Âu Dương Phong làm cho tức thở, trong lúc được Kha Trấn Ác vác đi, chàng điều hòa hô hấp, vận khí thông mạch, đi chừng bảy, tám dặm thì các mạch đã thông, bèn nói:

– Đại sư phụ, đỡ lắm rồi.

Kha Trấn Ác đặt chàng xuống, hỏi:

– Khỏe rồi cơ à?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– “Cáp mô công” lợi hại thật!

Thấy Quách Phù ngả đầu vào vai mẹ ngủ ngon lành, chàng hỏi:

– Còn Quá nhi đâu?

Kha Trấn Ác nhất thời chưa nghĩ ra Quá nhi là ai, chẳng biết trả lời thế nào. Hoàng Dung nói:

– Chàng cứ yên tâm, ta tìm một chỗ nghỉ đã, rồi thiếp sẽ trở lại tìm nó.

Lúc này trời đã sắp sáng, đã có thể lờ mờ nhận biết cây cối, nhà cửa ven đường. Quách Tĩnh nói:

– Thương thế của ta không đáng ngại, ta cùng đi tìm với nàng.

Hoàng Dung cau mày, nói:

– Thằng bé ấy tinh nhanh lắm, chàng khỏi cần lo cho nó.

Vừa nói tới đó, bỗng sau bức tường trắng bên đường có một cái đầu nhỏ nhô lên rồi thụp xuống ngay. Hoàng Dung vụt tới tóm được, chính là Dương Quá. Cậu bé cười hì hì, nói:

– A di, các vị vừa mới tới phải không? Điệt nhi chờ ở đây khá lâu rồi.

Hoàng Dung lòng đầy ngờ vực, nhưng chỉ nói:

– Thế thì hãy đi theo chúng ta!

Dương Quá cười cười theo sau. Quách Phù mở mắt ra, hỏi:

– Đằng ấy đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Ta đi bắt dế, xem chúng chọi nhau mới khoái.

Quách Phù hỏi:

– Có gì mà khoái?

Dương Quá nói:

– Ai bảo không khoái? Một con dế to đánh nhau với một con dế già. Con dế già thua, có hai con dế con đến giúp. Ba con dế đánh một. Con dế to nhảy qua nhảy lại, đá con này, cắn con kia, hì hì, lợi hại thật…

Quách Phù lắng nghe, hỏi:

– Sau đó thế nào?

Dương Quá nói:

– Ngươi bảo không khoái, còn hỏi làm gì?

Quách Phù ớ họng, tức lắm, ngoảnh mặt đi.

Hoàng Dung nghe cậu bé nói, rõ ràng nó ám chỉ chê bai Kha Trấn Ác cùng vợ chồng nàng, khen Âu Dương Phong, bèn hỏi:

– Điệt nhi thử nói cho a di biết, cuối cùng thì bên nào thắng?

Dương Quá cười cười, thản nhiên đáp:

– Điệt nhi đang thích thú xem trận đấu của mấy con dế, thì các vị tới; lũ dế thấy động, bỏ chạy hết cả.

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Đúng là cha nào con ấy”, nàng không khỏi cảm thấy hơi khó chịu.

Trong lúc nói chuyện, họ tới một thôn. Hoàng Dung vào gặp chủ nhân một tòa nhà lớn. Người này rất hiếu khách, nghe nói có người bị thương sinh bệnh, vội sai quét dọn sương phòng tiếp đãi.

Quách Tĩnh ăn hết ba tô cơm, ngồi trên giường nhắm mắt dưỡng thần. Hoàng Dung thấy phu quân khí định thần nhàn, biết là đã qua cơn nguy hiểm, chỉ ngồi bên cạnh bảo vệ. Nàng nghĩ đến việc từ khi gặp Dương Quá đến giờ, cậu bé này còn nhỏ tuổi song lại có nhiều điểm lạ lùng khó hiểu; dẫu có tra vấn, nó cũng sẽ không nói thật. Nàng nghĩ bụng phải cẩn thận để ý các hành động của nó mới được. Ăn bữa tối xong, ai nấy đi ngủ.

Dương Quá ở chung một buồng với Kha Trấn Ác. Nửa đêm, cậu len lén ngồi dậy, nghe tiếng thở của Kha Trấn Ác, biết là lão đang ngủ say, bèn mở cửa buồng, lẻn ra ngoài, đến bên tường, bám lấy một cành quế, đu người lên bờ tường, nhảy xuống. Bên ngoài có hai con chó ngửi thấy hơi người liền sủa lên. Dương Quá đã chuẩn bị sẵn từ ban ngày hai mẩu xương, bây giờ cậu lấy trong túi ra ném cho chó. Hai con chó ngoạm lấy mẩu xương, lập tức thôi sủa.

Dương Quá đi về hướng tây nam, chừng bảy, tám dặm, thì đến trước miếu Thiết Thương. Cậu đẩy cửa miếu, gọi:

– Cha ơi, con đến đây!

Chỉ nghe bên trong có tiếng ừm, chính là tiếng Âu Dương Phong. Dương Quá cả mừng, lần tới bàn thờ, tìm được cái giá cắm nến, đốt mẩu nến cháy dở, thấy Âu Dương Phong nằm trên mấy tấm bồ đoàn ở trước bức tượng thần, sắc diện uể oải, hơi thở yếu ớt. Tình trạng thụ thương của lão cũng giống như Quách Tĩnh, có điều là Quách Tĩnh đang tuổi tráng niên, phục hồi mau chóng, còn lão thì đã bước sang tuổi già, tinh lực kém sút hẳn.

Nguyên đêm hôm trước ở khách điếm, Dương Quá ngủ cùng buồng với Kha Trấn Ác, lúc nửa đêm Âu Dương Phong lại tới gặp cậu. Kha Trấn Ác tỉnh giấc, động thủ với Âu Dương Phong. Sau đó Quách Tĩnh, Hoàng Dung lần lượt tham chiến. Dương Quá ở bên nhìn thấy cả. Cuối cùng Âu Dương Phong và Quách Tĩnh cùng bị thương, Âu Dương Phong bỏ đi. Dương Quá nhân lúc hỗn loạn, không ai chú ý đến cậu, bèn lẳng lặng chạy theo Âu Dương Phong. Thoạt đầu Âu Dương Phong chạy quá nhanh, Dương Quá theo không kịp; nhưng rồi thương thế phát tác, Âu Dương Phong đi chậm dần. Dương Quá đuổi kịp, dìu lão nghỉ lại bên đường. Dương Quá tự biết, nếu cậu không quay trở lại, Hoàng Dung, Kha Trấn Ác sẽ đi tìm, e nguy lây đến tính mạng của nghĩa phụ, bèn hẹn với Âu Dương Phong sẽ gặp nhau ở miếu Thiết Thương. Miếu Thiết Thương có can hệ đến cả hai người, nên vừa nhắc tới là biết ngay. Sau đó Dương Quá một mình chờ ở bên đường cho đến lúc gặp gia đình Quách Tĩnh. Nửa đêm hôm nay cậu mới tìm tới đây.

Dương Quá lấy trong bọc ra bảy, tám cái bánh bao, đặt vào tay Âu Dương Phong, nói:

– Cha ơi, cha ăn đi.

Âu Dương Phong cả ngày hôm nay nhịn đói, sợ đi ra ngoài gặp kẻ thù, chỉ nằm lỳ trong miếu. Ăn hết mấy cái bánh, tinh thần phấn chấn hẳn lên, lão hỏi:

– Bọn chúng ở đâu?

Dương Quá kể lại mọi chuyện.

Âu Dương Phong nói:

– Gã họ Quách bị một chưởng của ta, trong vòng bảy ngày khó mà phục hồi, con vợ hắn phải săn sóc chồng, không dám đi đâu; hiện giờ chúng ta chỉ ngại mỗi lão già mù Kha Trấn Ác. Đêm nay lão ta chưa tới, ngày mai sẽ tới. Chỉ tiếc là ta không có sức. Ô, hình như là ta đã giết các huynh đệ của lão ta, chẳng nhớ là bốn hay năm đứa gì đó…

Nói đến đây tự dưng lão ho sặc sụa.

Dương Quá ngồi dưới đất, nghĩ thầm: “Mình phải bố trí vài vật nhọn ở dưới chân, lão già mù mà tới đây sẽ khiến cho lão bị thương một phen mới được”.

Thế là cậu lấy bốn cái giá cắm nến trên bàn thờ xuống, vứt các mẩu nến thừa lưu cữu đi, đặt ở cửa ra vào, lại bưng một cái bát hương leo lên đặt trên bậu cửa miếu.

Cậu ngó quanh, muốn bố trí vài thứ có thể hại người, thấy hai phía đông tây trong điện treo hai quả chuông lớn, mỗi quả chuông phải ba người dang tay ôm mới xuể, chắc nặng ngàn cân. Đỉnh quả chuông có móc sắt, móc vào giá gỗ lớn. Miếu Thiết Thương nhiều năm không tu bổ, lắm chỗ hoang tàn, nhưng hai quả chuông và cái giá gỗ thì vô cùng vững chắc, không suy suyển gì hết. Dương Quá nghĩ thầm: “Lão mù mò đến đây, ta sẽ leo lên trên cái giá treo chuông, cho lão tha hồ mà tìm ta”.

Dương Quá cầm cái giá cắm nến định vào hậu điện tìm mấy thứ phòng thân, bỗng nghe ngoài đường có tiếng cây thiết trượng chống xuống đất lộc cộc, thì biết là Kha Trấn Ác đã tới, vội thổi tắt nến, nhưng lại nghĩ thầm: “Lão mù đâu có nhìn thấy gì mà ta phải tắt nến đi”. Nghe tiếng lộc cộc càng lúc càng gần, Âu Dương Phong vội ngồi dậy, muốn dồn chút sức tàn vào hữu chưởng, định ra đòn trước, một chưởng đánh chết ngay đối phương. Dương Quá thì chìa cái cọc nến ra phía ngoài, rồi đứng bên cạnh Âu Dương Phong, nghĩ bụng mình dẫu võ nghệ thấp kém, cũng phải trợ giúp nghỉa phụ, liều mạng một phen với lão mù.

Kha Trấn Ác cho rằng Âu Dương Phong bị trọng thương, không thể đi xa, gần đây có miếu Thiết Thương, chính là nơi thời trước Âu Dương Phong hay ghé tới, lão ta cũng chẳng dám trú nhờ nhà dân, chắc chỉ còn trốn ở miếu Thiết Thương; lại nghĩ đến năm huynh đệ phải chết thảm dưới tay Âu Dương Phong, nay có cơ hội báo thù, lẽ nào bỏ qua? Lão ngủ đến nửa đêm, thức dậy gọi khẽ hai tiếng “Quá nhi, Quá nhi!” không thấy trả lời, đoán là cậu bé ngủ say, chẳng lại gần kiểm tra, mà vượt tường đi ra. Hai con chó đang gặm xương, thấy lão già chỉ gầm gừ vài tiếng, không sủa.

Kha Trấn Ác thong thả đi đến trước miếu Thiết Thương, dỏng tai nghe, quả nhiên trong miếu có tiếng thở. Lão bèn gọi to:

– Lão độc vật kia, kẻ mù lòa này đến tìm ngươi, có giỏi thì mau ra đây.

Nói đoạn dộng mạnh cây thiết trượng xuống đất. Âu Dương Phong chỉ sợ hao tổn nguyên khí ở đan điền, không dám lên tiếng.

Kha Trấn Ác gọi mấy lần, không nghe tiếng trả lời, bèn dùng cây thiết trượng đẩy cửa miếu, bước vào, chỉ nghe “kịch” một tiếng, một vật nặng rơi trúng đầu, đồng thời chân trái đạp phải cái cọc nến, mũi cọc chọc thủng giày, đâm vào gan bàn chân đau nhói. Nhất thời chưa rõ nguyên do vì sao, lão vung cây thiết trượng đánh văng cái bát hương lớn trên đầu, ngả người ngồi phệt xuống đất, lăn một cái, để gan bàn chân khỏi bị đâm sâu; nào ngờ cạnh mình còn có mấy cái giá cắm nến nữa, có cái đâm vào vai, có cái đâm vào sườn đau điếng. Lão rút ra quẳng đi, máu chảy ra liền. Lúc này lão không dám coi thường, nghe tiếng thở của Âu Dương Phong, lão quơ bàn chân đi trước dò đường mà tiến từng bước một, khi còn cách Âu Dương Phong ba thước, thì lão vung cao cây thiết trượng, quát:

– Lão độc vật, hôm nay ngươi có gì để nói nữa không?

Âu Dương Phong đã dồn sức lực toàn thân vào cánh tay phải, chờ cây thiết trượng của đối phương đánh xuống, sẽ đẩy tay ra để đôi bên cùng chết. Kha Trấn Ác tuy biết kẻ thù bị trọng thương, song chưa biết rốt cuộc thương thế ra sao, cây thiết trượng chưa đánh xuống vội, chờ đối thủ phát chiêu trước sẽ biết đối thủ còn được bao nhiêu sức lực. Hai người cùng căng thẳng, cùng bất động.

Kha Trấn Ác nghe tiếng thở nặng nề của đối thủ; bỗng thấy hiện ra hình ảnh và giọng nói của năm huynh đệ kết nghĩa như Chu Thông, Hàn Bảo Câu, Nam Hi Nhân… tựa hồ họ thúc giục lão mau hạ thủ, thì lão không chờ thêm nữa, quát lớn một tiếng, sử chiêu “Tần vương tiên thạch”, vung cây thiết trượng bổ xuống. Âu Dương Phong khẽ né mình, đang định phát chưởng, cánh tay giơ lên nửa chừng thì hết sức, buông thõng ngay xuống. Chỉ nghe “cạch” một tiếng lớn, các tia lửa bắn tung tóe, đầu cây thiết trượng đập xuống nền gạch của miếu. Kha Trấn Ác đánh hụt, ra tiếp đòn thứ hai, cây thiết trượng quét ngang người đối phương; nếu là ngày thường, Âu Dương Phong chỉ khẽ hất tay cũng làm cho cây thiết trượng văng đi; nhưng hiện tại lão không còn chút hơi sức nào, đành ngã lăn xuống nền để tránh. Kha Trấn Ác sử dụng “Hàng ma trượng pháp”, ra chiêu liên tiếp. Âu Dương Phong càng tránh càng chậm, cuối cùng bị một đòn trúng vào vai trái.

Dương Quá ở bên cạnh thấy vậy rất muốn trợ giúp nghĩa phụ, nhưng tự biết võ nghệ thấp kém, xông vào chỉ tổ mất mạng.

Kha Trấn Ác giáng liền ba đòn trúng người Âu Dương Phong. Âu Dương Phong có nội lực phải nói là vô cùng thâm hậu, tuy không còn sức đánh trả, nhưng có thể tránh né hóa giải, làm cho mỗi đòn của đối phương đều trượt sang bên; cho nên tuy da thịt trầy xước, song gân cốt nội tạng không bị tổn thương. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, nghĩ bụng lão độc vật kia bản lĩnh quả phi thường, mỗi đòn đánh tới, rõ ràng đều trúng, mà sao mười thành kình lực thì bị lão ta hóa giải đến chín thành; lần này phải liên tiếp giáng cây thiết trượng vào đầu lão ta, xem lão ta còn tránh nổi nữa chăng.

Âu Dương Phong né đầu mấy lần, thân mình đã bị trùm bởi trượng phong, thầm kêu khổ, nếu bị cây thiết trượng đập trúng đầu, thì còn gì là tính mạng. Trong lúc tuyệt vọng, bèn nhào tới, túm lấy ngực đối phương. Kha Trấn Ác giật mìmh, cây thiết trượng đã ở ngoài, khó lòng đánh địch, đành giơ tay đẩy ra. Hai người cùng ngã lăn.

Âu Dương Phong không dám buông tay, tay trái sờ eo lưng đối phương, đột nhiên chạm phải một vật cứng, bèn chộp lấy thì ra là một con dao nhọn.Con dao này Trương A Sinh thường gọi là Đồ ngưu đao. Là gọi thế thôi, chứ đâu có dùng để chọc tiết bò bao giờ. Con dao nhọn này sắc như nước. Từ khi Trương A Sinh bị chết bởi tay Trần Huyền Phong ở vùng sa mạc Mông Cổ, Kha Trấn Ác luôn nhớ đến nghĩa đệ, nên đeo Đồ ngưu đao ở bên mình, không lúc nào rời. Âu Dương Phong rút được con dao, xoay cổ tay đâm vào sườn đối phương. Lúc ấy, Kha Trấn Ác buông cây thiết trượng, hữu quyền vung ra, đấm cho Âu Dương Phong một quả lộn vòng tròn. Âu Dương Phong mặt mũi tối sầm, mơ hồ ném con dao về phía Kha Trấn Ác. Nghe tiếng gió, Kha Trấn Ác vội né tránh, bỗng “boong” một tiếng ngân nga, thì ra con dao ném trúng quả chuông trong điện. Lực ném tuy yếu, nhưng lưỡi dao quá bén, nên cắm vào chuông, thân dao vẫn rung rung.

Dương Quá đứng bên, lưỡi dao bay qua, suýt nữa chạm vào má cậu, cậu hoảng hồn vội leo lên cái giá treo chuông.

Âu Dương Phong chợt hiểu, liền bò ra sau quả chuông. Lúc này tiếng chuông còn ngân, Kha Trấn Ác không thể nghe thấy hơi thở của Âu Dương Phong, phải dỏng tai lên. Ánh trăng trong đại điện chiếu chếch, thấy lão đầu tóc rối bù, tay chống thiết trượng, nghênh nghênh mặt, trông rất đáng sợ. Dương Quá đã phát hiện điều quan trọng, cậu liền rút con dao khỏi quả chuông, dùng cán dao gõ liên hồi vào quả chuông để át tiếng thở của cậu và của Âu Dương Phong.

Kha Trấn Ác nghe tiếng chuông, nhào nhanh tới, thì Âu Dương Phong đã lánh ra sau quả chuông. Kha Trấn Ác phang thiết trượng một cái, trúng quả chuông, tiếng chuông vang lên lần này đúng là đinh tai nhức óc. Dương Quá cảm thấy màng nhĩ buôn buốt. Kha Trấn Ác thì cứ dùng thiết trượng gõ vào quả chuông, tiếng này chưa dứt, tiếng sau lại vang lên, càng lúc càng to. Âu Dương Phong nghĩ bụng nguy mất, nghe tiếng chuông thế này, Hoàng Dung sẽ đến tiếp viện. Bèn thừa cơ tiếng chuông len lén chuồn khỏi hậu điện. Ai ngờ Kha Trấn Ác thính tai kỳ lạ, giữa tiếng chuông lớn vẫn phân biệt được âm thanh nhỏ nhẹ; nghe thấy tiếng bước chân của Âu Dương Phong di chuyển, lão vờ như không biết, tiếp tục gõ chuông, chờ lúc Âu Dương Phong đi cách quả chuông dăm bước, lão mới bất ngờ nhảy ra chặn trước, vung thiết trượng đánh xuống đầu Âu Dương Phong.

Âu Dương Phong tuy mất hết sức, nhưng đời lão từng trải bao phen sóng gió, những trò hư hư thực thực lúc tiếp chiến, làm gì che nổi mắt lão? Thấy vai phải của Kha Trấn Ác hơi nhấc lên, lão đã biết ý định của đối phương; chờ khi thiết trượng vung lên, lão lại nấp vào phía sau quả chuông. Sau khi bị trọng thương, lão khó bề đi lại, nhưng lúc này chuyện sống chết chỉ trong gang tấc, tự dưng nội lực thâm hậu từ mấy chục năm bỗng phát ra, ngay lão cũng không ngờ.

Kha Trấn Ác cả giận, quát:

– Ta không đánh chết ngươi, thì cũng phải làm cho ngươi chết mệt mới được!

Liền đuổi quanh quả chuông.

Dương Quá thấy hai người chạy quanh quả chuông mấy vòng, nếu kéo dài, nghĩa phụ sẽ không còn sức, giữa lúc nguy cấp bèn nghĩ ra một kế, nằm trên giá treo chuông cứ múa tay liên tục. Âu Dương Phong đang chăm chú tránh né sự truy đuổi của kẻ địch, nên không nhìn thấy cậu; lại chạy thêm hai vòng nữa quanh quả chuông, mới thấy bóng Dương Quá hắt xuống đất, cậu bé đang cố ra hiệu bảo lão tránh đi. Lão chưa hiểu ý, nhưng nghĩ bụng nó đã bảo mình tránh đi, ắt có dụng ý; thế là lão bèn mạo hiểm chạy ra ngoài.

Kha Trấn Ác dừng bước bất động, muốn nhận biết hướng chạy của kẻ địch. Dương Quá liền tụt hai chiếc giày khỏi chân, ném ra phía hậu điện, “bạch bạch” hai tiếng, hai chiếc giày rơi xuống đất. Kha Trấn Ác lấy làm lạ, rõ ràng nghe Âu Dương Phong chạy ra phía cửa miếu, tại sao lại có tiếng động ở hậu điện? Trong lúc lão đang phân vân, thì Dương Quá dùng con dao nhọn chặt cái giá gỗ treo chuông. Cái giá thì to, sức chặt của Dương Quá thì yếu, con dao tuy sắc, nhưng chặt mấy nhát làm sao đã gãy được giá? Nhưng quả chuông quá nặng, cái giá treo bị chém lõm mấy nhát liền, cuối cùng chịu hết nổi sức nặng của quả chuông. Nghe “rắc rắc” mấy tiếng, cáí giá treo chuông gãy hản, quả chuông khổng lồ ụp xuống đúng chỗ Kha Trấn Ác đang đứng.

Kha Trấn Ác sớm nghe thấy tiếng động lạ phía trên, đang lấy làm lạ lắm, thì quả chuông đã rơi xuống, vội giơ thẳng cây thiết trượng lên; nghe “kịch” một tiếng lớn, mép quả chuông đè trúng cây thiết trượng; Kha Trấn Ác thừa dịp lăn ra khỏi đáy chuông; chỉ nghe “sầm sầm” mấy tiếng cực mạnh, cây thiết trượng gãy đôi, quả chuông lăn nghiêng, hích mạnh vào vai Kha Trấn Ác, đẩy lão bắn ra ngoài cửa miếu, lão lộn mấy vòng liền, mũi chảy máu, trán bị rách một mảng to. Kha Trấn Ác không nhìn thấy gì, chẳng hiểu sự cố từ đâu mà ra, chỉ sợ trong miếu có quái vật linh thiêng gì chăng, đành bò dậy bỏ đi.

Âu Dương Phong ở bên nhìn thấy cũng không khỏi kinh ngạc, bất giác thốt lên:

– Ghê thật! Con ta giỏi thật, thông minh thật!

Dương Quá từ trên bò xuống, mừng rỡ nói:

– Lão mù sẽ không dám tới nữa.

Âu Dương Phong nói:

– Lão mù thù ta sâu hơn bể, lão còn hơi sức, thể nào cũng tìm đến.

Dương Quá nói:

– Thế thì chúng ta mau đi thôi.

Âu Dương Phong lắc đầu, nói:

– Ta bị thương rất nặng, không chạy xa được.

Cơn nguy cấp qua rồi, lão chợt cảm thấy chân tay rã rời, một bước cũng không lê nổi. Dương Quá vội hỏi:

– Thế thì phải làm sao?

Âu Dương Phong ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Có cách này, con hãy chặt rơi nốt quả chuông kia xuống, để ta nấp bên trong quả chuông.

Dương Quá hỏi:

– Làm sao cha chui ra được?

Âu Dương Phong nói:

– Bảy ngày sau, khi ta phục hồi nguyên khí, ta sẽ tự có cách thoát ra. Trong bảy ngày đó, lão mù có tìm đến báo thù, cũng chẳng làm gì được ta. Chỉ cần cái con Hoàng Dung ấy không tới, thì chẳng có gì đáng ngại.

Dương Quá nghĩ thầm ngoài cách đó, chẳng còn cách nào khác, hỏi lại cho rõ, biết rằng nghĩa phụ hoàn toàn có thể ra khỏi quả chuông không cần ai giúp sức, lại hỏi:

– Suốt bảy ngày cha không ăn uống gì mà chịu nổi ư?

Âu Dương Phong nói.

– Con hãy kiếm cho ta một chậu nước trong, còn có vài cái bánh bao đây, thế là đủ sống bảy ngày.

Dương Quá vào bếp tìm được cái chậu nhỏ, đổ đầy nước, bưng lại, rồi dìu Âu Dương Phong leo lên ngồi lọt bên trong quả chuông thứ hai. Âu Dương Phong dặn:

– Con cứ đi theo Quách Tĩnh, ngày sau cha sẽ tự đến tìm con.

Dương Quá vâng lời, chém gãy cái giá treo chuông. Quả chuông rơi xuống, chụp kín Âu Dương Phong ở bên trong.

Dương Quá gọi “cha ơi” liền mấy lần, không thấy trả lời, nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông không thể nghe thấy, cậu đang tính bỏ đi, chợt nghĩ một kế. Cậu xuống bếp, tìm một cái chậu nhỏ đổ nước vào, đặt dưới đất, rồi trồng cây chuối, tay trái chống trong chậu nước, làm theo cách nghịch hành kinh mạch mà Âu Dương Phong đã dạy, dồn máu độc ra. Cách này rất mệt người, cậu chỉ đẩy được mười mấy giọt máu đen ra mà mồ hôi ướt đầm cả đầu tóc. Cậu ngồi nghỉ một lát, rồi xé mảnh vải buộc vào đầu cái ống thẻ, nhúng vào chậu nước hòa lẫn máu độc mà quét lên khắp quả chuông, để nếu lão mù Kha Trấn Ác có tới định lật ngửa quả chuông, sẽ bị trúng độc.

Lại nghĩ thầm nghĩa phụ ở trong quả chuông bảy ngày sẽ bị ngạt thở, bèn dùng con dao nhọn khoét một khe hổng rộng gần bằng nắm tay ở dưới nền gạch xanh, chỗ mép quả chuông. Dưới gạch là đá cứng, lưỡi dao bị gãy. Cậu không biết đây là con dao quý, nó chẳng phải của mình, gãy rồi thì vứt đi; rồi cậu phục xuống, nói vào cái khe hở:

– Cha ơi, con đi đây. Cha mau tới đón con nhé. Mặt ngoài quả chuông có chất độc, khi chui ra, cha nhớ cẩn thận đấy.

Rồi cậu ghé tai xuống khe hở, chỉ nghe thấy giọng nói yếu ớt của Âu Dương Phong:

– Con giỏi lắm, ta không sợ chất độc, chất độc phải sợ ta. Con cứ yên chí, ta nhất định sẽ tới đón con.

Dương Quá đứng một lúc, tần ngần lưu luyến, rồi mới chạy về khách điếm. Lúe leo tường vào, cậu rón rén, sợ Kha Trấn Ác phát hiện, nhưng lúc vào buồng cậu mới biết Kha Trấn Ác vẫn chưa về

Sáng hôm sau, bỗng nghe có tiếng gậy gõ cồng cộc vào cánh cửa buồng. Dương Quá thức dậy, chạy ra mở cửa, thấy Kha Trấn Ác tay chống một cây gậy gỗ, mặt tái mét, vừa bước qua cửa thì ngã sấp xuống. Dương Quá thấy hai tay lão đen sì, quả nhiên lão lại tìm tới chỗ Âu Dương Phong, rốt cuộc đã trúng phải chất độc do cậu bố trí. Cậu mừng thầm, nhưng giả bộ kinh ngạc, gọi to:

– Đại công công, sao vậy?

Quách Tĩnh, Hoàng Dung nghe tiếng, chạy sang, thấy Kha Trấn Ác nằm dưới đất, thì cả kinh. Hiện thời Quách Tĩnh có thể đi lại được, nhưng không có sức; Hoàng Dung vội ôm Kha Trấn Ác đặt lên giường, hỏi:

– Đại sư phụ, sư phụ làm sao vậy?

Kha Trấn Ác lắc đầu, không nói. Hoàng Dung thấy lòng bàn tay sư phụ ám đen, thì tức giận nói:

– Lại là nữ tặc họ Lý. Quách Tĩnh ca ca, chờ thiếp đi gặp nó.

Nói đoạn xiết dây thắt lưng, bước ra.

Kha Trấn Ác nói nhỏ:

– Không phải tại nữ nhân ấy.

Hoàng Dung dừng bước, quay lại hỏi:

– Vậy thì là ai?

Kha Trấn Ác cảm thấy đối với một kẻ không còn sức trói gà mà lão cũng không đối phó nổi, lại để bị thương thế này, thì quả là đồ vô tích sự. Lão cứ ngậm tăm, không chịu nói ra nguyên do tại sao lão bị thương. Hai vợ chồng Quách Tĩnh biết tính sư phụ, lão đã không muốn nói mà còn hỏi sẽ khiến cho lão tức giận. Vả lại, tình trạng trúng độc của lão cũng không nguy hiểm lắm, uống một viên “Cửu hoa ngọc lộ hoàn” sẽ đỡ liền.

Hoàng Dung nghĩ thầm, hiện thời Quách Tĩnh và Kha Trấn Ác bị thương, Lý Mạc Sầu thì hiểm độc khôn lường; trước tiên cần đưa hai người bị thương và hai đứa trẻ về Đào Hoa đảo, sau đó sẽ trở lại tính sổ. Buổi sáng nghỉ ở khách điếm, buổi chiều nàng thuê thuyền đi về hướng đông.

Dương Quá thấy Hoàng Dung không đi tìm Âu Dương Phong, thì mừng thầm, lại nghĩ: “Cha ta chỉ sợ Quách bá mẫu đến tìm, chẳng lẽ một đại mỹ nhân yêu kiều như Quách bá mẫu mà lại còn lợi hại hơn cả lão Kha Trấn Ác hay sao?”

Thuyền đi nửa ngày, gần tối thì đậu lại bên bờ sông, nhà thuyền nổi lửa nấu cơm. Quách Phù thấy Dương Quá chẳng thèm để ý đến nó, nó vừa tức vừa buồn, đứng tựa mạn thuyền nhìn ra ngoài, bỗng thấy dưới một gốc liễu có hai đứa bé đang khóc sướt mướt, nhìn kỹ thì chính là hai anh em Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn. Quách Phù gọi to:

– Này, các cậu làm gì ở đó?

Võ Tu Văn ngoảnh đầu, trông thấy Quách Phù, thì đáp:

– Hai ta đang khóc, tiểu cô nương không thấy hay sao?

Quách Phù hỏi:

– Tại sao khóc? Bị mẹ đánh đòn à?

Võ Tu Văn trả lời:

– Mẹ ta vừa chết rồi!

Hoàng Dung nghe vậy, giật mình nhảy lên bờ, thấy hai cậu bé đặt tay lên thi thể người mẹ mà khóc một cách đau đớn. Võ tam nương mặt mày đen sạm, chết đã nhiều giờ. Hoàng Dung hỏi Võ Tam Thông đâu rồi, Võ Đôn Nhu nói:

– Phụ thân của điệt nhi không biết đi đâu ấy.

Võ Tu Văn nói:

– Mẫu thân điệt nhi hút chất độc ra cho phụ thân điệt nhi, hút ra bao nhiêu là chất độc. Phụ thân điệt nhi khỏi độc, thì mẫu thân điệt nhi lại bị chết. Phụ thân điệt nhi thấy mẫu thân điệt nhi chết, thì lại phát điên phát khùng. Chúng điệt nhi gọi mà phụ thân điệt nhi mặc kệ, cứ bỏ đi.

Nói rồi cậu bé lại khóc. Hoàng Dung nghĩ thầm: “Võ tam nương xả thân cứu phu quân, thật là một nữ nhân nghĩa liệt”, bèn hỏi:

– Hai điệt nhi có đói không?

Huynh đệ Võ Tu Văn gật đầu.

Hoàng Dung thở dài, bảo nhà thuyền đưa hai cậu bé xuống thuyền ăn cơm, vào trấn mua một cỗ quan tài, tối hôm ấy chưa kịp chôn cất Võ tam nương; sáng hôm sau mới mua một mảnh đất để mai táng. Huynh đệ Võ Tu Văn quỳ bên mộ khóc to.

Quách Tĩnh nói với vợ:

– Hai đứa trẻ này không còn cha mẹ, chúng ta đem về Đào Hoa đảo, từ nay nàng sẽ tốn thêm sức lo liệu cho chúng đó.

Hoàng Dung gật đầu, khuyên hai đứa trẻ, dẫn xuống thuyền, đi ra đến biển, thuê chiếc thuyền lớn mà ra Đào Hoa đảo ở biển Đông.

Hồi 03: Cầu sư Chung Nam

Quách Tĩnh ở dưới thuyền tiềm vận thần công, mấy ngày sau thương thế đã giảm quá nửa. Hai vợ chồng nhắc đến việc mười năm gặp lại Âu Dương Phong, thấy lão ta chẳng hề suy yếu, võ công cao cường hơn xưa; nếu một chưởng vừa rồi mà đánh trúng ngực Quách Tĩnh, có lẽ chàng phải dưỡng thương mươi bữa nửa tháng mới đỡ. Hai người nhắc đến Hồng Thất Công, không biết hiện giờ lão nhân ở đâu, thật là nhớ quá chừng. Hoàng Dung tuy ẩn cư ở Đào Hoa đảo, song vẫn còn giữ địa vị bang chủ Cái Bang; mọi việc trong bang tạm ủy quyền cho Lỗ Hữu Cước thay mặt nàng phân xử. Chuyến đi Giang Nam vừa rồi, nàng định hội kiến các vị trưởng lão trong bang bàn một số việc, tiện thể dò la tin tức Hồng Thất Công, nhưng Quách Tĩnh bị thương, đành phải trở về đảo. Sau đó hai người nói đến Dương Quá, Hoàng Dung bèn gọi cậu bé vào hỏi chuyện trước đây. Dương Quá kể chuyện mẹ cậu lâm bệnh qua đời, cậu thì lưu lạc ở Gia Hưng; vợ chồng Quách Tĩnh nghĩ đến giao tình với Mục Niệm Từ, đều không khỏi thương cảm.

Đợi Dương Quá ra ngoài khoang thuyền, Quách Tĩnh nói:

– Ta có một tâm nguyện, nàng chắc cũng biết đó. Lần này may mắn gặp Quá nhi, thế là tâm nguyện của ta có thể đạt được.

Ngày trước phụ thân của Quách Tĩnh là Quách Khiếu Thiên kết nghĩa huynh đệ với ông nội của Dương Quá là Dương Thiết Tâm, khi đó hai người vợ của họ đang có thai. Hai vị ước định với nhau, nếu cùng sinh con trai, sẽ cho kết nghĩa huynh đệ; nếu cùng sinh con gái, cho kết nghĩa kim lan tỷ muội, nếu một bên sinh con trai, bên kia sinh con gái, sẽ kết thành phu phụ. Sau hai nhà cùng sinh con trai, nên Quách Tĩnh kết nghĩa huynh đệ với cha của Dương Quá là Dương Khang. Tiếc rằng Dương Khang nhận giặc làm cha, làm nhiều việc bất nghĩa, cuối cùng chết thảm ở miếu Thiết Thương, Gia Hưng. Quách Tĩnh vẫn còn nhớ hẹn ước cũ, nên vừa rồi chàng nói vậy. Hoàng Dung sớm biết tâm ý của chàng, lắc đầu nói:

– Thiếp không bằng lòng.

Quách Tĩnh ngạc nhiên hỏi:

– Vì sao?

Hoàng Dung đáp:

– Phù nhi làm sao có thể lấy tên tiểu tử ấy.

Quách Tĩnh nói:

– Cha nó tuy sai trái, nhưng Quách, Dương hai nhà mấy đời giao hảo, ta thấy nó tướng mạo thanh tú, thông minh lanh lợi, từ nay ở với chúng ta, lo gì sau này không nên người.

Hoàng Dung nói:

– Thiếp sợ nó quá thông minh đấy.

Quách Tĩnh nói:

– Nàng không phải là quá thông minh đó sao? Thông minh thì có gì là không tốt?

Hoàng Dung cười, nói:

– Thiếp lại thích một ca ca ngốc nghếch như chàng cơ.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Phù nhi sau này lớn lên, chắc gì đã giống nàng, thích một gã ngốc nghếch. Hơn nữa, ngốc nghếch như ta đây, chỉ e thiên hạ không có người thứ hai nữa đâu.

Hoàng Dung làm mặt giận, nói:

– Hiếm quá nhỉ! Đừng tưởng nhé!

Hai vợ chồng cười nói mấy câu, Quách Tĩnh lại trở lại chủ đề cũ:

– Cha ta có di mệnh, Dương Thiết Tâm thúc phụ lúc lâm chung cũng có ủy thác cho ta. Đối với Dương Khang huynh đệ và Mục Niệm Từ, ta chưa thật tận tâm. Nếu ta không lấy Quá nhi làm thân nhân, thì hóa ra có lỗi với cha ta và Dương thúc phụ hay sao?

Nói rồi thở dài, đầy vẻ buồn bã. Hoàng Dung dịu dàng nói:

– May mà hai đứa đều còn nhỏ, việc ấy chưa có gì phải vội. Sau này nếu Quá nhi quả không tệ lắm, thì chàng muốn sao sẽ được vậy thôi.

Quách Tĩnh đứng dậy, vái một cái thật dài, nghiêm trang nói:

– Đa tạ nàng đã bằng lòng, ta thật vô cùng cảm kích.

Hoàng Dung cũng nghiêm trang nói:

– Thiếp chưa bằng lòng đâu. Thiếp chỉ nói rằng để xem sau này Quá nhi thế nào đã.

Quách Tĩnh vái xong, vừa đứng thẳng người lên, nghe nàng nói vậy, không khỏi thất vọng, nói:

– Dương Khang huynh đệ từ nhỏ ở trong vương phủ nước Kim nên mới nhiễm nhiều cái xấu. Quá nhi ở trên đảo với chúng ta, quyết không thể hư hỏng được. Huống hồ tên của nó hồi trước do chính ta đặt. “Quá” nghĩa là có lỗi. Nay đổi tên đi thì được

Hoàng Dung cười, nói:

– Tên gọi đâu có gì quyết định. Chàng là Quách Tĩnh, có yên tĩnh chút nào không? Từ nhỏ chàng đã chạy nhảy y hệt một con khỉ đó thôi.

Quách Tĩnh trố mắt cứng họng. Hoàng Dung mỉm cười, nói sang chuyện khác.

Thuyền đã tới Đào Hoa đảo. Quách Phù tự dưng có thêm ba người bạn cùng trang lứa, hết sức vui thích.

Dương Quá sau khi uống thuốc giải của Hoàng Dung, đã giải hết chất độc còn lại trong cơ thể. Hiềm khích giữa cậu với Quách Phù lúc mới gặp nhau, sau ít hôm là hai đứa trẻ cùng quên ngay. Hồi này bốn đứa bé bắt dế cho chọi nhau làm trò vui.

Hôm nay Dương Quá từ trong nhà ra, lại đi bắt dế. Đi qua Đạn Chỉ các, Lưỡng Vong phong, vừa vòng qua Thanh Tiếu đình, cậu bỗng nghe thấy sau núi có tiếng cười nói, bèn chạy về phía đó, thấy Quách Phù và huynh đệ họ Võ đang vạch cỏ lật đá, cũng đang tìmbắt dế. Võ Đôn Nhu cầm một cái ống trúc, Quách Phù thì bưng một cái chậu sành.

Võ Tu Văn lật một hòn đá lên, vù một cái, một con dế to tướng nhảy ra. Võ Tu Văn nhào tới, chụp cả hai tay, reo lên vui mừng. Quách Phù nói:

– Cho tớ, cho tớ!

Võ Tu Văn bắt con dế, nói:

– Ừ, cho cậu này.

Con dế này đầu vuông, càng to, lưng mập, trông rất oai phong. Võ Tu Văn nói:

– Con dế này là đại tướng quân vô địch đây; mấy con dế của Dương ca ca chọi không lại nó đâu.

Dương Quá chưa chịu, rút mấy cái ống trúc ra, chọn một con dế hung mãnh nhất cho chọi với con dế to kia. Chơi được vài hiệp, con dế lớn há to miệng, cắn một cái vào bụng con dế của Dương Quá, hất con kia ra khỏi chậu sành, rồi giương cánh mà kêu đầy vẻ đắc ý. Quách Phù vỗ tay reo:

– Con của ta thắng rồi!

Dương Quá nói:

– Đừng vội mừng, còn con dế nữa.

Nhưng ba con dế cậu chọn đều bại trận, con thứ ba thậm chí bị cắn đứt đôi.

Dương Quá vẻ mặt buồn thiu, nói:

– Chả chơi nữa!

Cậu quay mình bỏ đi. Bỗng nghe từ một đám cỏ phía sau có ba tiếng “ri ri ri”, chính là tiếng dế kêu, nhưng khá lạ. Võ Đôn Nhu nói:

– Lại một chú dế nữa.

Cậu bé gạt cỏ ra, đột nhiên nhảy lùi lại, kêu lên hốt hoảng:

– Rắn, có rắn!

Dương Quá ngoảnh lại, thấy một con rắn cạp nia cuộn mình trong cỏ, nghển đầu thè tia lưỡi. Dương Quá nhặt một hòn đá, nhắm kỹ ném tới, trúng ngay đầu con rắn. Nó quằn quại vài cái rồi chết. Chỉ thấy cạnh chỗ con rắn nằm có một con dế nhỏ đen trùi trũi, tướng mạo rất xấu xí, giương cánh phát ra tiếng ri ri.

Quách Phù cười, nói:

– Dương ca ca, ca ca bắt con quỉ đen ấy chứ?

Dương Quá nghe giọng cô bé có ý châm biếm, bèn tức khí nói:

– Bắt thì bắt!

Liền tóm luôn con dế đó. Quách Phù cười, nói:

– Ca ca bắt con quỉ đen ấy làm gì, đòi chọi với con đại tướng quân của muội chăng?

Dương Quá nói:

– Chọi thì chọi, con quỉ đen cũng đâu để cho người ta khinh thường nó.

Liền bỏ con dế đen ấy vào chậu của Quách Phù.

Lạ thay, con dế lớn thấy con dế nhỏ lại có vẻ sợ hãi, cứ nem nép một chỗ. Quách Phù và huynh đệ họ Võ ra sức hò la trợ uy cho nó. Con dế đen nghển đầu nhảy tới, con dế lớn không dám nghênh chiến, chỉ chực nhảy ra khỏi chậu. Con dế nhỏ liền nhảy lên theo, cắn một cái trúng đuôi con dế lớn, hai con dế cùng rơi xuống; con dế lớn xoay xoay vài cái, rồi lật ngửa bụng lên mà chết. Thì ra trong loài dế có một giống thích sống chung với độc trùng; sống chung với rết thì gọi là “Ngô công suất”(dế rết); sống chung với rắn độc thì gọi là “Xà suất” (dế rắn). Giống “Xà suất” có nhiễm khí độc, nên mọi con dế khác đều kinh sợ. Con dế mà Dương Quá bắt được chính là một con “Xà suất”. Quách Phù thấy con đại tướng quân bị chết thì buồn bã, nghĩ thế nào, lại nói:

– Dương ca ca, cho muội con dế đen của ca ca đi.

Dương Quá nói:

– Cho thì không tiếc, có điều là ban nãy muội chửi nó là con quỉ đen kia mà?

Quách Phù dẩu môi, nói dỗi:

– Không cho thì thôi, tưởng báu lắm!

Rồi đổ con dế ra khỏi chậu, lấy chân giẫm chết nó. Dương Quá cả giận, máu nóng bốc lên đỏ cả mặt, liền vung tay tát Quách Phù một cái thật mạnh.

Quách Phù ớ ra, chưa biết có nên khóc hay không. Võ Tu Văn liền nói:

– Ơ, tên tiểu tử đánh người hả!

Rồi đấm một quả vào ngực Dương Quá. Võ Tu Văn gia học uyên nguyên, từ nhỏ đã được cha mẹ dạy võ, võ công có căn cơ hẳn hoi, cú đấm này có lực đạo không nhẹ. Dương Quá cả giận, cũng giáng trả một quyền, Võ Tu Văn vội né tránh, Dương Quá đuổi theo; Võ Đôn Nhu bèn ngáng chân một cái, Dương Quá ngã sấp xuống. Võ Tu Văn quay lại, cưỡi lên lưng Dương Quá. Võ Đôn Nhu cũng làm theo bốn quả đấm cứ thế đấm túi bụi xuống người Dương Quá.

Dương Quá lớn hơn hai cậu kia một, hai tuổi; nhưng hai tay không địch nổi bốn tay. Huynh đệ họ Võ lại từng luyện võ công thượng thừa, còn Dương Quá mới chỉ học qua chút võ công thô thiển do mẹ truyền cho, nên không thể đối phó, đành nghiến răng chịu đựng, không kêu một tiếng. Võ Đôn Nhu nói:

– Mi xin tha, huynh đệ ta sẽ tha cho mi.

Dương Quá nhiếc:

– Nói thối như cứt!

Võ Tu Văn thấy vậy lại đấm cho hai quả. Quách Phù đứng bên cạnh thấy huynh đệ họ Võ trả thù giúp mình thì trong bụng thích thú.

Huynh đệ họ Võ biết rằng nếu đánh vào đầu vào mặt Dương Quá sẽ gây thương tích, Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn thấy sẽ trách mắng, nên hai đứa chỉ đấm đá vào thân mình Dương Quá. Quách Phù thấy hai đứa đánh dữ, cũng hơi sợ, nhưng sờ lên mặt thấy nóng rát vì cái tát vừa nãy, thì bất giác kêu lên:

– Đấm mạnh vào, đánh đi!

Huynh đệ họ Võ nghe Quách Phù khích lệ, càng đánh mạnh hơn.

Dương Quá nằm dưới đất, nghe Quách Phù nói thế thì nghĩ thầm: “Con a đầu kia độc ác như vậy, sau này ta quyết trả thù”. Nó cảm thấy lưng, mông, hai cánh tay đau như giần, càng lúc càng khó chịu đựng. Huynh đệ họ Võ luyện công từ bé, quyền cước có lực, người lớn bình thường cũng khó chịu nổi, Dương Quá từng luyện chút nội công, nếu không thì đã chết ngất từ lâu. Nó cắn răng chịu đựng, hai tay quờ quạng loạn xạ dưới đất, chợt tay trái vớ được một vật vừa lạnh vừa trơn, chính là con rắn cạp nia nó đập chết ban nãy, bèn vung tay quất mạnh con rắn về phía sau.

Huynh đệ họ Võ thấy vậy kêu lên hoảng hốt. Dương Quá thừa cơ lật người lại, quai tay thật mạnh một quyền, trúng mũi Võ Đôn Nhu, rồi cắm đầu chạy. Huynh đệ họ Võ tức giận đuổi theo. Võ Đôn Nhu trúng đòn vào mũi, tuy không đau lắm, nhưng máu chảy be bét ra mặt. Quách Phù thích xem cảnh náo nhiệt, cứ luôn miệng giục:

– Bắt lấy nó, bắt lấy nó!

Dương Quá chạy một hồi, ngoảnh lại, thấy Võ Đôn Nhu mặt nhoe nhoét máu, biết rằng nếu để huynh đệ họ Võ tóm được, thì sẽ bị đánh tệ hại hơn, thế là nó cắm cổ mà chạy, đến chân ngọn núi Thí Kiếm phong, thì cứ thế lao lên trên, càng lúc càng lên cao.

Huynh đệ họ Võ không chịu buông tha, vẫn mải miết đuổi theo. Quách Phù lên tới lưng chừng núi thì dừng lại, ngẩng đầu quan sát. Dương Quá chạy một hồi, thấy trước mặt là một cái khe rộng, không còn đường chạy tiếp. Hồi trước Hoàng Dược Sư mỗi khi nghĩ ra một chiêu thức mới, đều nhảy vọt qua cái khe này để lên đỉnh núi hiểm trở thử chiêu. Dương Quá thì làm sao có thể nhảy qua? Nó nghĩ thầm: “Ta nhảy qua cái khe này dẫu có chết, còn hơn để cho hai tên tiểu tử thối tha kia tóm được”. Nó bèn quay mình lại, quát to:

– Các ngươi còn tiến lên một bước, ta sẽ nhảy qua khe vực đấy!

Võ Đôn Nhu sững lại, Võ Tu Văn nói:

– Ngươi nhảy thì nhảy, ai sợ ngươi kia chứ? Ngươi có dám nhảy không?

Nói rồi cậu tiếp tục leo lên.

Dương Quá cả giận, đang định nhảy qua khe, bỗng thấy bên cạnh có một tảng đá to gác lên mấy hòn đá khác nhỏ hơn, trông hơi chênh vênh. Trong cơn cuồng nộ, nó đâu còn nghĩ gì đến hậu quả, bèn giơ tay vần một hòn đá nhỏ bên dưới; tảng đá to bên trên quả nhiên hơi lay động. Nó liền ra phía sau tảng đá, dùng hai tay đẩy thật mạnh, tảng đá lăn ngay xuống sườn núi.

Huynh đệ họ Võ thấy Dương Quá đẩy tảng đá, biết là nguy hiểm, vội co mình, sẵn sàng né tránh. Tảng đá kéo theo vô số bụi đất lăn ầm ầm qua bên cạnh huynh đệ họ Võ, đè nát các bụi cây nó gặp trên đường, cuối cùng lăn ùm xuống biển. Võ Đôn Nhu hoảng quá, trượt chân một cái, lăn xuống. Võ Tu Văn vội túm lấy người ca ca; hai đứa đứng không vững, cùng lăn xuống đến sáu, bảy trượng, may gặp một thân cây lớn chắn lại, mới không lăn tiếp.

Hoàng Dung ở trong nhà, nghe tiếng động xa xa, vội chạy ra, đến chân ngọn Thí Kiếm phong, chỉ thấy bụi đất mù mịt, Quách Phù đang nấp cạnh một bụi cỏ ở lưng chừng núi, sợ không khóc nổi, huynh đệ họ Võ thì mặt mũi bê bết máu. Nàng chạy lên ôm con gái vào lòng, Quách Phù khóc òa lên một hồi, rồi mới mếu máo kể việc Dương Quá vô cớ tát nó ra sao, huynh đệ họ Võ bênh nó đánh Dương Quá thế nào, Dương Quá lăn tảng đá định đè chết huynh đệ họ Võ ra sao. Bao nhiêu lỗi nó dồn vào Dương Quá tất cả, còn việc nó giẫm chết con dế của Dương Quá và huynh đệ họ Võ đấm đá Dương Quá thì nó lờ đi không kể. Hoàng Dung nghe xong, ngẩn người một lát, thấy một bên má con gái đỏ hằn vết các ngón tay, cái tát quả không nhẹ, thì rất thương con, vội an ủi nó.

Lúc này Quách Tĩnh cũng đã chạy tới, thấy huynh đệ họ Võ sây sát cả mặt mày, hỏi nguyên do, nghe xong rất buồn. Lại lo Dương Quá gặp chuyện bất trắc, vội chạy lên đỉnh núi tìm kiếm. Nhưng tìm trước kiếm sau đều không thấy tung tích cậu bé đâu cả. Chàng cất tiếng gọi to:

– Quá nhi, Quá nhi!

Tiếng gọi vang xa mấy dặm, song thủy chung vẫn không thấy Dương Quá ló mặt ra hoặc lên tiếng trả lời. Quách Tĩnh chờ một lúc, càng thêm lo lắng, bèn về nhà chèo một chiếc thuyền đi quanh đảo tìm kiếm, đến khi trời tối cũng chẳng biết Dương Quá ở đâu.

Nguyên Dương Quá sau khi lăn tảng đá xuống, thấy huynh đệ họ Võ cũng lăn xuống dốc núi, xa xa Hoàng Dung đang chạy tới, biết phen này nó sẽ bị trách phạt, bèn nép mình trong một kẽ đá. Nó nghe rõ tiếng Quách Tĩnh gọi, nhưng không dám trả lời. Nó cứ nép trong kẽ đá, không dám động đậy, ráng chịu đói, nhìn trời và biển cùng sẫm dần, tứ phía không một tiếng người; một hồi sau trên trời có ánh sao, gió lạnh thổi. Nó ra khỏi kẽ đá, nhìn xuống bên dưới, thấy các cửa sổ nhà đều sáng đèn, thiết tưởng cảnh vợ chồng Quách Tĩnh, Kha Trấn Ác, Quách Phù cùng huynh đệ họ Võ cả thảy sáu người đang quây quần quanh bàn ăn đầy các món cá thịt, bất giác nó nuốt nước miếng mấy lần. Nó lại nghĩ, chắc mọi người đang chê trách nó, thì trong lòng ấm ức vô cùng. Nó cứ đứng đó, giữa đêm tối, trước gió biển, nghĩ cảnh cả đời mình cứ bị người ta khinh rẻ, quả là đáng oán giận.

Thực ra Quách Tĩnh tìm không thấy nó, chẳng thiết ăn uống gì. Hoàng Dung thấy phu quân buồn phiền, biết có khuyên chàng cũng chả nghe, nên nàng cũng không ăn, imlặng ngồi bên cạnh chàng. Sáng hôm sau hai người lại đi tìm.

Dương Quá bị đói nửa ngày và một đêm, sáng sớm hôm sau, nó lẻn xuống chân núi, bắt mấy con ếch bên bờ suối, lột da, vun lá khô nướng ếch mà ăn. Mấy năm lưu lạc, nó vẫn làm như thế để qua ngày. Bây giờ nó sợ Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn thấy khói, nó liền chui vào nướng trong một cái hang. Nướng xong, nó dập lửa ngay, mới ăn. Nó nghe tiếng Quách Tĩnh gọi “Quá nhi”, thì nghĩ thầm: “Định gọi ta về để đánh đòn, thì ta chả về đâu”.

Tối hôm ấy nó ngủ trong hang. Đang mơ mơ màng màng, bỗng thấy Âu Dương Phong tiến vào, nói:

– Này con, ta đến dạy con võ công, để con khỏi bị hai thằng lỏi nhà họ Võ bắt nạt.

Dương Quá cả mừng, đi theo ra khỏi hang, thấy Âu Dương Phong ngồi xổm, miệng lẩm bẩm mấy tiếng, song chưởng đẩy ra. Dương Quá bắt chước làm theo, bỗng Âu Dương Phong vung quyền đánh tới, nó không tránh kịp, bộp một cái trúng ngay đỉnh đầu, đau quá, nó kêu tướng lên và bật dậy.

Lại cộp một cái, đầu va vào đá, nó giơ tay xoa đầu, thấy nổi cục u rất đau. Thì ra vừa nãy nó nằm mơ. Bất giác nó thở dài, nghĩ thầm: “Cha mình lúc này chắc đã khỏi, đã chui ra khỏi cái chuông. Không biết bao giờ cha mới tới đón mình, dạy võ công thật sự cho mình, để mình khỏi bị người ta ở đây bắt nạt.” Nó ra khỏi hang, nhìn đường chân trời, chỉ thấy lác đác vài ngôi sao trên các ngọn cây, nhớ lại giấc mơ ban nãy, nhớ lại khẩu quyết Cáp mô công dùng cho quyền cước mà Âu Dương Phong truyền cho nó khi còn ở Gia Hưng. Nó rùn mình ngồi xuống, song chưởng đẩy ra, làm động tác giống như trong mơ, nhưng không đạt.

Nó đứng trên sườn núi, nhìn biển rộng mênh mang, vắng lặng, thấy lòng vô cùng trống trải, cô đơn; bỗng nghe văng vẳng từ biển đưa tới tiếng gọi “Quá nhi, Quá nhi”. Nó liền chạy xuống chân núi, kêu lên:

– Con ở đây, con ở đây.

Nó đã tới chân núi, chạy ra bãi cát. Quách Tĩnh từ xa nhìn thấy, cả mừng, vội chèo thuyền lại gần, nhảy lên bãi cát. Dưới ánh sao, hai người chạy về phía nhau.

Quách Tĩnh ôm Dương Quá vào lòng, chỉ nói:

– Mau về ăn cơm thôi.

Chàng xúc động, lời nói có phần nghẹn ngào. Về đến nhà, Hoàng Dung dọn cơm cho Quách Tĩnh và Dương Quá ăn, mọi người không ai nhắc đến chuyện hôm kia cả.

Sáng hôm sau, Quách Tĩnh gọi Dương Quá, huynh đệ họ Võ, Quách Phù tới đại sảnh, lại mời Kha Trấn Ác đến, bảo bốn đứa trẻ khấu đầu trước linh vị Giang Nam lục quái, rồi chàng thưa với Kha Trấn Ác:

– Đại sư phụ, đệ tử xin sư phụ ân chuẩn, cùng sư phụ thu nhận bốn đồ tôn.

Kha Trấn Ác vui vẻ nói:

– Hay lắm, ta chúc mừng con.

Quách Tĩnh bảo Dương Quá, huynh đệ họ Võ khấu đầu trước Kha Trấn Ác, rồi hành lễ bái sư với vợ chồng chàng. Quách Phù cười, hỏi:

– Mẹ, con có vái không?

Hoàng Dung nói:

– Tất nhiên là có.

Quách Phù cười hì hì khấu đầu với ba người.

Quách Tĩnh nghiêm trang nói:

– Từ hôm nay trở đi, bốn các ngươi là sư huynh đệ.

Quách Phù cười, nói xen vào:

– Không, còn là sư huynh muội nữa.

Quách Tĩnh lườm con, nói:

– Ta chưa nói xong, không được nói leo.

Chàng ngừng một chút, rời tiếp:

– Từ nay trở đi các ngươi phải tương thân tương ái, có phúc cùng hưởng, gặp nạn cùng chịu. Nếu còn tranh giành đánh lộn với nhau, ta sẽ không tha.

Nói đoạn chàng nhìn Dương Quá một cái. Dương Quá nghĩ thầm: “Bá bá tất nhiên sẽ bênh con gái, từ giờ mình lờ nó đi là xong”.

Kha Trấn Ác nói một vài môn qui của Giang Nam thất quái cho bốn đứa trẻ biết, đại để là không được cậy mạnh khinh người, không được lạm sát người vô tội.

Quách Tĩnh nói:

– Sở học võ công của ta rất tạp, ngoài căn cơ do Giang Nam thất hiệp truyền thụ, ta còn luyện nội công của giáo phái Toàn Chân, võ công của hai đại tông đông nam là Đào Hoa đảo và Cái Bang. Làm người không được quên gốc, hôm nay ta trước hết dạy cho các ngươi công phu độc môn của Kha đại sư tổ của các ngươi.

Chàng đang định nói khẩu quyết, Hoàng Dung thấy Dương Quá cúi đầu xuất thần, sắc mặt có vẻ gì rất lạ, trông y hệt dáng dấp Dương Khang ngày trước, thì bất giác thấy ghét, nghĩ thầm: “Phụ thân nó tuy không phải do chính tay ta giết, nhưng cũng có thể nói đã chết trong tay ta, không thể nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà để sau này nó gây đại họa”. Nghĩ vậy, nàng đã có chủ định, bèn nói:

– Chàng một mình dạy cả bốn đứa, sẽ rất vất vả; Quá nhi cứ để thiếp dạy cho.

Quách Tĩnh chưa trả lời, Kha Trấn Ác đã vỗ tay cười, nói:

– Thế thì hay lắm! Như vậy sẽ có thể so sánh xem đệ tử của ai giỏi hơn.

Quách Tĩnh trong bụng cũng mừng, chàng biết nàng thông minh gấp trăm lần chàng, cách dạy chắc sẽ hay hơn, nên cũng vui vẻ bằng lòng.

Quách Phù sợ cha nghiêm khắc, nói:

– Mẹ, con cũng muốn mẹ dạy cơ.

Hoàng Dung cười, nói:

– Con quen làm nũng mẹ, như thế luyện võ không xong, phải để cha con dạy mới được.

Quách Phù nhìn trộm phụ thân, thấy phụ thân đang nhìn nó chằm chằm, nó vội ngoảnh đi, không dám nài nỉ thêm.

Hoàng Dung nói với phu quân:

– Hai ta định qui củ, chàng không được dạy Quá nhi, thiếp cũng không được dạy ba đứa kia. Bốn đứa cũng không được truyền thụ cho nhau, nếu không sẽ rối loạn hết cả, chỉ có hại mà thôi.

Quách Tính nói:

– Điều đó tất nhiên.

Hoàng Dung nói:

– Quá nhi, ngươi đi theo ta.

Dương Quá ghét Quách Phù và huynh đệ họ Võ, nghe Hoàng Dung bảo không cùng học võ với ba đứa kia, thì rất hợp tâm ý, bèn theo Hoàng Dung đi vào nội đường.

Hoàng Dung dẫn nó vào thư phòng, lấy trên giá sách xuống một quyển, nói:

– Sư phụ của người có bảy vị sư phụ, người ta gọi các vị đó là Giang Nam thất quái. Đại sư phụ chính là Kha công công, nhị sư phụ là Diệu thủ thư sinh Chu Thông, hiện tại ta trước hết dạy cho ngươi công phu của nhị tổ sư.

Đoạn giở quyển sách kia ra, đọc rõ: “Tử viết: học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ?”(°) ((°)Học thì theo đó mà tập, há chẳng vui sao? Có bạn từ phương xa đến, há chẳng vui sao?) .

Thì ra đấy là bộ Luận ngữ. Dương Quá lấy làm lạ, không dám hỏi, chỉ đọc theo và nhận mặt chữ.

Mấy ngày liền Hoàng Dung chỉ dạy nó đọc sách, trước sau hoàn toàn không nhắc gì đến võ công. Một hôm học xong, Dương Quá một mình đi ra núi dạo chơi, nghĩ đến Âu Dương Phong lúc này không biết đang ở đâu, nhớ quá bèn làm động tác trồng cây chuối. Tập động tác ấy một hồi, theo khẩu quyết Âu Dương Phong truyền thụ mà nghịch hành kinh mạch, trồng cây chuối rồi, tung người bật dậy, hét một tiếng, song chưởng đẩy ra, cảm thấy toàn thân khoan khoái dễ chịu vô cùng, mồ hôi vã ra như tắm. Nó không biết rằng chỉ một lần luyện công như thế, nội lực đã có phần tiến triển. Võ công do Âu Dương Phong sáng tạo là một môn công phu thượng thừa cực kỳ lợi hại, Dương Quá ngộ tính rất cao, tuy mới học được chút ít, nhưng cứ thế luyện tập thì nội lực cũng khá dần.

Từ đó trở đi, ngày ngày sau khi nghe Hoàng Dung dạy kinh thư, mỗi lúc nhàn rỗi, Dương Quá lại ra chỗ núi vắng luyện công. Nó vốn không định luyện thành một môn võ nghệ kinh nhân, mà chỉ vì mỗi lần luyện như thế nó đều cảm thấy toàn thân khoan khoái dễ chịu, không luyện thì nhớ.

Dương Quá lẳng lặng luyện tập, Quách Tĩnh và Hoàng Dung không hề hay biết. Hoàng Dung dạy cậu bé học chữ, chưa đầy ba tháng đã học hết quyển Luận ngữ. Dương Quá có trí nhớ lạ thường, đối với kinh nghĩa trong sách, nó không thắc mắc gì cả. Thực ra Hoàng Dung cũng không muốn dạy chữ cho nó, nàng thường nghĩ thầm: “Thằng bé này thông minh tài trí không kém gì mình, nếu nó thành một kẻ giống như cha nó, lại học võ công, thì sẽ là mối họa không nhỏ, chi bằng cho nó học văn, làm theo lời dạy của thánh hiền, may ra còn chút ích lợi”. Thế là nàng cố kiên nhẫn dạy chữ, dạy hết “Luận ngữ”, thì chuyển sang “Mạnh Tử”.

Mấy tháng rồi mà Hoàng Dung không nhắc gì đến võ công, Dương Quá cũng không hỏi. Từ sau ngày đánh nhau với Quách Phù và huynh đệ họ Võ, nó cũng chưa lần nào cùng chơi với ba đứa kia; một mình càng ngày càng cảm thấy cô đơn, nghĩ Quách Tĩnh tuy nhận nó làm đệ tử, song không hề truyền thụ võ công cho nó. Nó vốn đã không phải là đối thủ của huynh đệ họ Võ, chờ Quách Tĩnh dạy cho hai đứa kia nửa năm, nếu có tái đấu, chắc nó sẽ bị hai đứa kia đánh chết. Nó định bụng, hễ có dịp là nó sẽ lập tức rời bỏ hòn đảo này.

Chiều hôm ấy, sau khi học mấy dòng trong sách “Mạnh Tử”, Dương Quá rời thư phòng, ra bờ biển dạo chơi. Nhìn các lớp sóng bạc đầu ngoài khơi, nó thầm nghĩ không biết đến bao giờ mới thoát khỏi chốn này.

Ngắm cánh chim hải âu trắng bay lượn, nó thèm muốn được tự do như chim trời. Đang mải ngắm cảnh, nó bỗng nghe từ phía rừng đào vọng lại tiếng hô. Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, nó lẻn tới, nấp sau một thân cây xem sao, thì ra Quách Tĩnh đang dạy quyền cước cho huynh đệ họ Võ ở một bãi trống giữa rừng. Chiêu đang dạy có tên là “Thác lương hoán trụ”, một chiêu thuộc cầm nã thủ. Quách Tĩnh miệng nói, chân tay làm động tác mẫu, bảo huynh đệ họ Võ làm theo. Dương Quá chỉ nhìn một lần là nắm ngay được cái cốt lõi của chiêu thức, trong khi huynh đệ họ Võ học đi học lại vẫn không nắm được yếu lĩnh. Quách Tĩnh bản tính chất phác, biết rằng dạy và học võ có cái cam khổ của nó, không ngần ngại dạy đi dạy lại.

Dương Quá thở dài, nghĩ thầm: “Quách bá bá nếu chịu dạy ta, ta đâu có ngu xuẩn như hai đứa kia.” Nó buồn bã trở về phòng nằm ngủ. Bữa tối ăn xong, đọc vài trang sách, nhưng cảm thấy chán, nó lại ra bờ biển, tập thử quyền cước do Quách Tĩnh dạy, sử chiêu kia mấy lần, cảm thấy đã thành thạo, nghĩ thầm: “Nếu ta cứ học lỏm võ công, bảo đảm huynh đệ họ Võ dẫu học được nhiều đến đâu cũng chẳng làm gì nổi ta”.

Nhưng rồi nó lại nghĩ: “Quách bá bá đã không chịu dạy, hà tất ta học lỏm làm gì? Hừ, bây giờ Quách bá bá có cầu ta đi học, ta cũng chẳng thèm học. Giỏi lắm thì đánh chết người ta là cùng chứ gì?”. Nghĩ tới đây, nó vừa kiêu ngạo, vừa cảm thấy chán ngán, tựa lưng vào vách đá, nghe tiếng sóng vỗ rì rào mà ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, Dương Quá không ăn cơm, cũng không vào thư phòng đọc sách. Nó mò được mấy con hào to dưới biển, đốt lửa nướng ăn, nghĩ bụng: “Ta không ăn cơm nhà họ Quách, cũng chẳng đến nỗi chết đói”. Nhìn những chiếc thuyền lớn thuyền nhỏ neo cạnh bờ, nó nghĩ thầm: “Thuyền lớn ta chèo không nổi, thuyền nhỏ thì không đi được xa, làm cách nào thoát khỏi chốn này kia chứ?”. Chán ngán nửa ngày, chẳng biết làm gì, nó liền ra sau một tảng đá thực hiện động tác trồng cây chuối, luyện nội công theo cách Âu Dương Phong đã dạy.

Đang luyện tới lúc khí huyết lưu thông nhanh, toàn thân khoan khoái, đột nhiên phía sau lưng có người gọi to, Dương Quá giật mình, lập tức đảo người đứng lên, nhưng chân tay tê dại, không đứng ngay lên được. Thì ra Quách Phù và huynh đệ họ Võ đi tới. Phía sau tảng đá vốn hoàn toàn yên tĩnh, không ai bén mảng; nhưng cây cối đường đi lối lại trên Đảo Hoa đảo đều được bố trí theo sự biến đổi của Ngũ hành sinh khắc, Quách Phù và huynh đệ họ Võ không dám đi lại lung tung, chỉ quanh quẩn chơi đùa ở những chỗ quen thuộc. Vừa rồi chúng bắt gặp Dương Quá đang trong trạng thái luyện công. May mà lúc này công lực của Dương Quá rất nông cạn, nếu không, khi bị ba người cùng gọi như thế, kinh mạch sẽ tán loạn, bị tê liệt ngay tại chỗ.

Quách Phù vỗ tay cười, nói:

– Dương ca ca làm trò quỉ gì ở đây thế?

Dương Quá dựa vào vách đá, từ từ đảo người dậy, lườm cô bé một cái rồi quay người đi. Võ Tu Văn nói:

– Này, Quách sư muội hỏi ngươi, tại sao ngươi lại vô lễ lờ đi như thế?

Dương Quá lạnh lùng hỏi:

– Mi làm gì được nào?

Võ Đôn Nhu tức giận, nói:

– Chúng mình đi chơi đi, đừng trêu chọc con chó điên.

Dương Quá nói:

– Đúng đấy, chó điên thấy người là cắn; người ta đang yên lành ở đây, ba con chó điên tự dưng kéo đến sủa loạn cả lên.

Võ Đôn Nhu tức giận hỏi:

– Ngươi bảo ba con chó điên hả? Ngươi chửi bọn ta hả?

Dương Quá cười khẩy:

– Ta chỉ chửi chó, không chửi người.

Võ Đôn Nhu tức quá, nhào tới đấm một quyền, Dương Quá tránh được. Võ Tu Văn nhớ lời sư phụ từng răn, sư huynh sư muội không được đánh nhau; vội kéo tay huynh trưởng lại, nói với Dương Quá:

– Dương đại ca, đại ca học võ công của sư nương, ba chúng tôi học võ công của sư phụ; mấy tháng nay chưa biết ai tiến nhanh. Bọn ta hãy thử vài chiêu, đại ca có dám hay không?

Dương Quá định nói “Ta không may mắn như các người, sư nương không hề dạy võ cho ta”. Nhưng vừa nghe câu “đại ca có dám hay không?” bằng một giọng đầy vẻ khinh miệt, thì không nói câu kia nữa, hừ một tiếng, lạnh lùng liếc xéo Võ Tu Văn. Võ Tu Văn nói:

– Chúng mình đấu thử vài chiêu, bất kể ai thắng ai thua, cũng không được mách với sư phụ, sư nương; nếu có bị vỡ đầu, cũng phải nói là do mình bị ngã. Ai thua thì phải cúi đầu tự nhận mình là đồ chó; đồ ngu. Dương đại ca, đại ca có dám hay không?

Câu “đại ca có dám hay không?” vừa dứt, trước mắt tối sầm, Võ Tu Văn đã bị Dương Quá đấm một quả rất mạnh vào mắt trái, lảo đảo suýt ngã. Võ Đôn Nhu cả giận, nói:

– Ngươi tự dưng đánh vào mặt người khác như thế à?

Rồi lập tức thi triển quyền pháp do Quách Tĩnh dạy, đấm một quyền vào vùng thắt lưng Dương Quá.

Dương Quá không biết cách tránh, bị trúng đòn. Nó thấy Võ Đôn Nhu lại tung cước đá tới, thì chợt nhớ đến chiêu thức hôm qua Quách Tĩnh truyền thụ cho huynh đệ họ Võ, liền rùn chân phải, tay trái đẩy vào bắp chân phải của đối phương đang đá tới, chính là chiêu “Thác lương hoán trụ” trong cầm nã thủ pháp, tuy không phải là thứ võ công tinh thâm gì, nhưng khi lâm địch rất có tác dụng. Hôm qua Quách Tĩnh đã dạy cho huynh đệ họ Võ, chúng học rồi, nhưng khi vận dụng thì không linh hoạt khôn khéo bằng Dương Quá học lỏm. Võ Đôn Nhu bị cú đẩy ấy mà ngã bắn ra xa.

Võ Tu Văn bị trúng quyền vào mắt, vốn giận lắm, lại thấy huynh trưởng bị ngã, liền xông lại, quyền trái vung lên, Dương Quá tránh sang trái, không biết rằng trong quyền thuật cận chiến, chiêu số tiên hư hậu thực, quyền phải của Võ Tu Văn mới là đòn thực, chỉ nghe hự một tiếng, gò má bên phải của Dương Quá trúng một quả đấm mạnh. Võ Đôn Nhu bò dậy, cũng xông tới. Huynh đệ họ Võ ra đòn có bài bản, mấy tháng qua đã được Quách Tĩnh chỉ bảo, Dương Quá làm sao địch nổi? Thoáng chốc nó đã bị trúng bảy, tám đòn quyền cước vào đầu, vào mặt, vào lưng. Nó nổi khùng, nghĩ thầm: “Cho các ngươi đánh chết ta, ta cũng không bỏ chạy”. Hai tay nó đấm ra loạn xạ, không theo bài bản nào hết.

Võ Tu Văn thấy Dương Quá nghiến răng liều mạng, thì hơi hoảng, nhưng đang chiếm thượng phong, không muốn đấu thêm, bèn nói:

– Ca ca thua rồi, chúng tôi tha cho ca ca, không đấu nữa.

Dương Quá nói:

– Ai cần ngươi tha?

Rồi sấn tới đấm vào mặt Võ Tu Văn. Võ Tu Văn tay trái gạt ra, tay phải túm lấy ngực áo kéo mạnh một cái, đúng lúc ấy Võ Đôn Nhu đấm mạnh vào phía sau lưng Dương Quá, Dương Quá lập tức ngã sấp xuống. Võ Đôn Nhu hai tay túm tóc, đè đầu Dương Quá, hỏi:

– Ngươi chịu thua hay chưa?

Dương Quá tức giận nói:

– Ai chịu thua con chó điên là mi?

Võ Đôn Nhu giúi mặt Dương Quá xuống cát, nói:

– Ngươi không chịu thua, thì cho ngươi chết ngạt này.

Dương Quá mắt mũi miệng toàn cát là cát, không thở được, trong giây lát toàn thân như muốn nổ tung.

Võ Đôn Nhu hai tay đè đầu nó, Võ Tu Văn thì cưỡi sau gáy nó, Dương Quá vùng vẫy không thoát, đúng lúc tức thở hết chịu nổi, bỗng nội lực mà thời gian vừa qua nó luyện theo kiểu của Âu Dương Phong trỗi dậy, nó cảm thấy một luống khí ấm từ đan điền dâng lên, toàn thân đột nhiên tràn trề tinh lực, nó bật ngay dậy, mở mắt ra, song chưởng cùng đánh tới.

Đòn này trúng ngay vào bụng dưới của Võ Tu Văn. Võ Tu Văn kêu ối, ngã ngửa ra, ngất đi liền. Chưởng lực này là tuyệt kỹ Cáp mô công của Âu Dương Phong, uy lực dĩ nhiên không sánh được với thần công của Âu Dương Phong, Dương Quá vận dụng cũng chưa thạo, nhưng nó tự phát đánh ra trong lúc nguy khốn, Võ Tu Văn không tài gì chịu nổi.

Võ Đôn Nhu chạy lại, thấy huynh đệ nằm thẳng cẳng bất động, hai mắt trắng dã, tưởng là Võ Tu Văn đã bị Dương Quá đánh chết, thì cả kinh vừa khóc vừa kêu to:

– Sư phụ, sư phụ, đệ đệ của con chết rồi, đệ đệ của con chết rồi!

Nó chạy về gọi Quách Tĩnh. Quách Phù sợ quá, cũng chạy theo.

Dương Quá nhổ cát ra khỏi miệng, chùi cát trên mặt, cảm thấy toàn thân rã rời, cử động khó khăn vô cùng. Nó nhìn Võ Tu Văn nằm thẳng cẳng bất động, lại nghe Võ Đôn Nhu kêu to đệ đệ của con chết rồi, thì nó hoảng hốt, chẳng hiểu xảy ra chuyện gì, chỉ biết là rắc rối to, nhưng không còn sức để chạy trốn.

Chẳng mấy chốc đã thấy Quách Tĩnh, Hoàng Dung chạy như bay tới. Quách Tĩnh ôm Võ Tu Văn lên, xoa bóp vùng ngực bụng cho nó. Hoàng Dung tới bên cạnh Dương Quá, hỏi:

– Âu Dương Phong ở đâu, hắn đang ở đâu?

Dương Quá lẳng lặng không trả lời.

Hoàng Dung hỏi:

– Môn “Cáp mô công” ấy, hắn dạy cho ngươi khi nào?

Dương Quá nửa như nghe thấy, nửa như không; ánh mắt thất thần nhìn phía trước, miệng mím chặt, sợ nói ra. Hoàng Dung thấy nó như thế, thì túm hai cánh tay nó, giục giã:

– Nói mau! Âu Dương Phong ở đâu?

Dương Quá trước sau vẫn im lặng.

Lát sau, Võ Tu Văn được Quách Tĩnh xoa bóp đã tỉnh lại, tiếp đó Kha Trấn Ác cùng với Quách Phù cũng chạy đến. Kha Trấn Ác nghe Quách Phù kể Dương Quá trồng cây chuối, lại đánh chết Võ Tu Văn, nghĩ bụng tên tiểu tử ấy là truyền nhân của Âu Dương Phong, thì oán hận trào sôi trong lòng, nghe Hoàng Dung hỏi dồn Âu Dương Phong ở đâu mà Dương Quá không thèm nói, lão liền bước tới, giơ cao cây thiết trượng, gằn giọng quát hỏi:

– Tên gian tặc Âu Dương Phong đang ở đâu? Ngươi không nói, ta đập chết ngươi!

Dương Quá lúc này đã bất cần, nó nói to:

– Người ấy không phải là gian tặc, người ấy rất tốt. Lão muốn đập chết thì cứ việc, đây chẳng nói đâu.

Kha Trấn Ác cả giận, vụt cây trượng xuống. Quách Tĩnh kêu to:

– Đại sư phụ, đừng…

Chỉ nghe “Bộp” một tiếng, thiết trượng sượt qua đầu Dương Quá, cắm xuống cát. Nguyên Kha Trấn Ác nghĩ đánh chết thằng bé không ổn, nên đập chệch đi.

– Ngươi nhất định không chịu nói hả?

Dương Quá nói to:

– Lão có giỏi thì cứ việc đánh chết ta, ta sợ gì lão mù kia chứ.

Quách Tĩnh xông tới, giáng cho nó một cái tát:

– Ngươi dám hỗn xược với sư tổ gia gia hả?

Dương Quá cũng chẳng buồn khóc, chỉ lạnh lùng nói:

– Các người cũng khỏi cần động thủ, muốn lấy mạng ta, thì ta chết cho xong.

Nói xong nó chạy xuống biển.

Quách Tĩnh quát:

– Quá nhi quay lại!

Dương Quá chạy nhanh hơn. Quách Tĩnh định vọt tới kéo lại, Hoàng Dung nói nhỏ:

– Hãy khoan?

Quách Tĩnh dừng bước, thấy Dương Quá đã lội xuống biển, sắp chìm trong sóng nước, thì hoảng hốt nói:

– Nó không biết bơi, Dung nhi, chúng ta hãy xuống cứu nó lên!

Hoàng Dung nói:

– Không chết được, đừng có vội.

Một lát vẫn không thấy Dương Quá trồi lên, nàng thầm thán phục ngạo khí của thằng bé, liền lao xuống biển. Nàng giỏi bơi lội, đối với nàng, việc cứu một người sắp chết đuối gần bờ dễ như trở bàn tay. Nàng đưa Dương Quá lên bờ, dốc nước biển ra khỏi bụng nó. Thằng bé từ từ tỉnh lại.

Quách Tĩnh nhìn sư phụ, nhìn nàng, hỏi:

– Làm thế nào bây giờ?

Hoàng Dung nói:

– Món này nó học từ trước khi ra đảo. Nếu Âu Dương Phong ra đây, chúng ta nhất định phải biết chứ.

Quách Tĩnh gật đầu. Hoàng Dung hỏi:

– Tu Văn thế nào rồi?

Quách Tĩnh nói:

– Chỉ e phải tĩnh dưỡng một, hai tháng.

Kha Trấn Ác nói:

– Ngày mai ta trở lại Gia Hưng.

Hai vợ chồng Quách Tĩnh nhìn nhau, tự hiểu ý định của sư phụ nhất quyết không sống cùng một chỗ với truyền nhân của Âu Dương Phong. Hoàng Dung nói:

– Đại sư phụ, nơi đây là nhà của sư phụ, sư phụ hà tất phải nhường cho tên tiểu tử này?

Tối hôm ấy, Quách Tĩnh gọi Dương Quá vào buồng, nói:

– Quá nhi, chuyện qua rồi, mọi ngươi không nhắc đến nữa. Ngươi vô lễ với sư tổ gia gia, không thể làm môn hạ của ta được nữa, từ nay ngươi chỉ được gọi ta là Quách bá bá. Quách bá bá của ngươi không biết cách dạy, chỉ sợ làm cho ngươi hư hỏng. Vài hôm nữa ta sẽ đưa ngươi đến cung Trùng Dương ở núi Chung Nam, xin Trường Xuân Tử Khưu Chân Nhân của giáo phái Toàn Chân thu nhận ngươi làm môn hạ. Võ công phái Toàn Chân là võ học chính tông, ngươi sẽ ở cung Trùng Dương tu tâm dưỡng tính, mong sao sau này trở thành một chính nhân quân tử.

Dương Quá đáp:

– Vâng, Quách bá bá!

Vậy là nó đã đổi cách xưng hô, không còn nhận Quách Tĩnh làm sư phụ nữa.

Hôm nay Quách Tĩnh dậy sớm, từ biệt đại sư phụ, ái thê, nữ nhi, huynh đệ họ Võ, dẫn Dương Quá đáp thuyền đến Chiết Giang, lên bờ. Chàng mua hai con ngựa, cùng Dương Quá ngày đi đêm nghỉ, thẳng lên hướng bắc. Dương Quá chưa cưỡi ngựa bao giờ, nhưng nó có chút nội công, tập vài bữa là quen. Nó trẻ người nên hiếu kỳ, thường thường phóng ngựa chạy trước Quách Tĩnh.

Ít ngày sau, hai người qua Hoàng Hà, đến Thiểm Tây. Bấy giờ nước Đại Kim đã bị Mông Cổ tiêu diệt, từ sông Hoàng Hà trở lên hoàn toàn là thiên hạ của ngươi Mông Cổ. Thời niên thiếu, Quách Tĩnh từng là đại tướng trong quân đội Mông Cổ chàng chỉ sợ gặp lại thuộc hạ cũ của quân đội Mông Cổ sẽ rất rắc rối, bèn đổi hai con ngựa lấy hai con lừa gầy xấu xí, mặc bộ quần áo rách rưới, giả làm một Hán tử thường dân. Dương Quá cũng mặc áo vải thô, đầu quấn một cái khăn xanh, cưỡi con lừa gầy, vừa xấu xí vừa đi chậm, nên suốt ngày cậu bé cứ càu nhàu với con vật.

Hôm nay tới Phàn Châu, đã là địa hạt núi Chung Nam. Vị đại tướng khai quốc Phàn Khoái thời Hán sơ từng lập ấp ở đây, nên gọi là Phàn Châu. Dọc đường đồi núi trập trùng, tùng bách tươi tốt, xen lẫn ruộng nước, rất giống cảnh sắc ở Giang Nam.

Dương Quá từ hôm rời Đào Hoa đảo, lòng buồn rười rượi, không lần nào nhắc đến chuyện trên đảo, lúc này đột nhiên nó nói:

– Quách bá bá, vùng này rất giống phong cảnh Đào Hoa đảo của chúng ta.

Quách Tĩnh nghe nó nói “Đào Hoa đảo của chúng ta” thì cảm động, nói:

– Quá nhi, từ đây tới núi Chung Nam không bao xa. Ngươi chịu khó học nghệ vài năm, ta sẽ tới đón ngươi về Đào Hoa đảo.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Suốt đời điệt nhi sẽ không bao giờ trở lại đó nữa.

Quách Tĩnh không ngờ thằng bé còn ít tuổi mà lại nói những lời quyết tuyệt như thế, thì ngẩn ra, nhất thời chưa biết nói sao, một lát mới hỏi:

– Ngươi giận Quách bá mẫu lắm ư?

Dương Quá đáp:

– Điệt nhi đâu dám? Quách bá mẫu giận điệt nhi thì có.

Quách Tĩnh thấy nó nói đúng, cũng không tiện nói thêm.

Hai người đi lên một cao nguyên. Giữa trưa thì tới một tòa miếu ở trên đỉnh. Quách Tĩnh thấy cổng miếu đề ngang ba chữ lớn “Phổ Quang tự”, bèn xuống lừa, buộc vào một gốc thông ở bên ngoài, vào trong miếu xin cơm chay. Trong miếu có bảy, tám tăng nhân, thấy Quách Tĩnh ăn mặc lam lũ, thì họ tỏ ra hết sức lạnh nhạt, lấy bảy, tám cái bánh bao đưa cho hai người ăn.

Quách Tĩnh và Dương Quá ngồi trên ghế đá dưới gốc thông ăn bánh, ngoảnh đầu, bỗng thấy sau gốc thông có một tấm bia đá, bị cỏ cao che khuất, lộ ra hai chữ “Trường Xuân”. Quách Tĩnh chợt động tâm, bước tới vạch cỏ xem, thấy tấm bia có khắc một bài thơ của Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ. Thơ viết:

Trời xanh hỡi mau nhìn cõi thế

Cớ sao không cứu tế muôn người

Ngày đêm máu chảy đầu rơi

Nín hơi nuốt tiếng chết đời vô danh

Ngửa mặt khóc trời xanh chẳng biết

Tạo nhân gian kể xiết công lao

Bình yên bỗng dậy ba đào

Nhìn dân chém giết làm sao cho đành?

Quách Tĩnh thấy bài thơ này, nhớ lại bao chuyện cũ trên đại sa mạc Mông Cổ hơn mười năm trước, cứ sờ tấm bia mà ngây người im lặng, nghĩ sắp được gặp lại Khưu Xứ Cơ thì thầm vui trong lòng.

Dương Quá hỏi:

– Quách bá bá, tấm bia viết cái gì vậy?

Quách Tĩnh nói:

– Đây là một bài thơ của Khưu tổ sư. Lão nhân gia thấy người đời đa tai đa nạn, thì vô cùng đau lòng.

Chàng giải thích hàm nghĩa các câu thơ, rồi nói:

– Khưu Chân Nhân võ công dĩ nhiên trác tuyệt, song tấm lòng thương dân của Người càng làm cho người ta khâm phục. Phụ thân ngươi hồi trước từng là đệ tử đắc ý của Khưu tổ sư. Khưu tổ sư nghĩ đến phụ thân ngươi, nhất định sẽ đối tốt với ngươi. Ngươi hãy chịu khó học nghệ, tương lai tất có đại thành.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá, điệt nhi muốn thỉnh vấn Quách bá bá một chuyện.

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi muốn hỏi chuyện gì?

Dương Quá nói:

– Phụ thân của điệt nhi chết như thế nào?

Quách Tĩnh mặt biến sắc, nhớ đến sự việc ở miếu Thiết Thương, vùng Gia Hưng, người hơi run, rầu rĩ không nói.

Dương Quá hỏi:

– Kẻ nào giết phụ thân của điệt nhi vậy?

Quách Tĩnh không trả lời.

Dương Quá nhớ mỗi lần nó hỏi mẹ nó vì sao cha chết, sắc mặt mẹ nó đều rất lạ, cứ né tránh không trả lời. Nó cảm thấy Quách Tĩnh tuy đối với nó rất thân ái, nhưng Hoàng Dung thì lại tỏ ý khó chịu; nó còn ít tuổi thật, song cũng cảm thấy bên trong tất có ẩn tình, bây giờ không nín được, bèn nói to:

– Phụ thân của điệt nhi là do Quách bá bá và Quách bá mẫu giết hại phải không?

Quách Tĩnh cả giận, vỗ tay xuống tấm bia đá, gằn giọng:

– Ai dạy ngươi nói năng hồ đồ như vậy?

Trong cơn thịnh nộ, cái vỗ tay của chàng khiến tấm bia đá lung lay chao đảo. Dương Quá thấy chàng quá giận, vội cúi đầu, nói:

– Điệt nhi biết lỗi rồi, từ nay không dám nói năng hồ đồ nữa, xin Quách bá bá đừng giận.

Quách Tĩnh vốn yêu thương nó, nghe nó nhận lỗi thì nguôi giận ngay, đang định an ủi nó vài câu, bỗng nghe phía sau có tiếng “ôi” đầy vẻ kinh ngạc. Chàng ngoảnh đầu lại, thấy hai trung niên đạo sĩ đứng ở cửa miếu, nhìn chàng chằm chằm rất khó chịu. Cái vỗ của chàng vào tấm bia đá hẳn đã làm cho hai đạo sĩ chú ý.

Hai đạo sĩ nhìn nhau, rồi đi ra khỏi miếu. Quách Tĩnh thấy bước đi của họ lất nhẹ, rõ ràng là họ có võ công, nghĩ bụng chỗ này cách núi Chung Nam không xa, hai đạo sĩ kia chắc là người của cung Trùng Dương. Hai vị đó trạc tứ tuần, rất có thể là đệ tử của Toàn Chân Thất Tử. Từ khi về ẩn cư tại Đào Hoa đảo, chàng không có liên lạc tin tức gì với nhóm Mã Ngọc, nên không quen biết các đệ tử môn hạ của phái Toàn Chân, chỉ biết mấy năm gần đây, các vị như Hưng Vượng, Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất của phái Toàn Chân đều thu nhận không ít đệ tử, danh tiếng trong giới võ lâm ngày càng lẫy lừng; họ thường hành hiệp trượng nghĩa, cứu nguy giải khốn, làm biết bao điều tốt, bất luận là ai hễ nghe nhắc đến phái Toàn Chân đều hết sức kính nể. Chàng nghĩ mình lên núi bái kiến Khưu Xứ Cơ chính là đồng hành với hai vị đạo sĩ kia.

Chàng bèn rảo bước ra cổng miếu, thấy hai đạo sĩ đã cách xa hơn mười trượng, chốc chốc lại ngoái đầu lại. Quách Tĩnh gọi:

– Xin nhị vị đạo huynh dừng chân, tại hạ có lời thỉnh vấn.

Tiếng chàng vang như sấm, xa gần đều nghe rõ; hai đạo sĩ đã không dừng chân, lại còn rảo bước thêm. Quách Tĩnh ngạc nhiên nghĩ thầm: “Không lẽ họ điếc?”. Chàng hơi sử kình xuống chân, vài lần khởi lạc đã vọt tới ngang tầm, rồi vượt qua họ, xoay người lại, nói:

– Xin chào nhị vị đạo huynh.

Hai đạo sĩ thấy thân pháp của chàng thần tốc như thế thì lộ vẻ kinh hoàng, thấy chàng cúi mình hành lễ, lại ngỡ chàng vận nội công để ám toán, vội tránh ra hai bên, cùng hỏi:

– Các hạ muốn gì?

Quách Tĩnh nói:

– Nhị vị có phải là đạo huynh của cung Trùng Dương núi Chung Nam hay chăng?

Đạo sĩ gầy gò cau mặt, nói:

– Vậy thì sao?

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ là người quen cũ của Trường Xuân Chân Nhân Khưu đạo trưởng, muốn lên núi bái kiến Khưu đạo trưởng, phiền hai vị chỉ đường.

Đạo sĩ tướng ngũ đoản cười khẩy, nói:

– Có giỏi thì tự đi lấy!

Đột nhiên xuất chưởng cực nhanh. Quách Tĩnh đành tránh sang bên phải. Nào ngờ vị đạo sĩ gầy gò đã quen luyện võ hợp kích đạo sĩ ngũ đoản, lập tức xuất chưởng từ mé phải đánh sang bên trái, dồn Quách Tĩnh vào giữa. Hai chiêu này gọi là “Đại quan môn thức”, là chiêu số cao minh của phái Toàn Chân, Quách Tĩnh lẽ nào không biết? Chàng thấy hai đạo sĩ chẳng hỏi nguyên do, tự dưng xuất chiêu rất nặng tay đả thương người khác, thì không khỏi ngạc nhiên, chưa hiểu vì sao họ lại nhầm lẫn như vậy, bèn không hóa giải, cũng chẳng né tránh, chỉ nghe “bình bình” hai tiếng, song chưởng của hai đạo sĩ đều đánh vào mạng mỡ chàng.

Quách Tĩnh trúng hai chưởng đó, đã biết võ công của họ như thế nào; chàng nghĩ, luận về công lực, hai người này quả là đệ tử của Toàn Chân thất tử, coi như cùng vai vế với chàng. Khi chịu đòn của hai đạo sĩ, chàng đã vận nội lực chống đỡ, vừa vặn để mình không bị tổn thương, mà đối phương cũng không bị đau đớn bởi lực phản kích.

Hai đạo sĩ khổ luyện mười năm tuyệt chiêu vừa rồi, vậy mà đánh vào người đối thủ lại như đấm bị bông, thì kinh ngạc quá đỗi, liền cùng hét to, cùng nhảy lên, tung cước đá mạnh vào ngực Quách Tĩnh. Quách Tĩnh lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Đệ tử phái Toàn Chân đều là người có đạo, đối xử thân thiện với người khác, tại sao tự dưng chẳng hỏi duyên cớ gì lại đánh người thế này?” Thấy hai đạo sĩ sử dụng cước pháp “Uyên ương liên hoàn thoái”, chàng cũng chẳng đếm xỉa gì, chỉ nghe mấy tiếng bình bịch, bồm bộp, ngực chàng liên tiếp trúng các cú đá.

Hai đạo sĩ mỗi vị đá liền mấy cái, các đầu ngón chân như đá vào bao cát, mềm mềm dễ chịu; thấy kẻ bị đòn thần định khí nhàn, nhơn nhơn như không, thì càng sửng sốt hơn lần trước, nghĩ thầm: “Tên tặc tử này sao lại giỏi đến thế? Các sư phụ, sư bá của ta cũng không có được công phu như hắn. Họ nhìn kỹ, thấy chàng mày rậm mắt to, thần tình chất phác, y phục vải thô, chẳng khác gì một nông phu, không chút dị dạng, thì bất giác cả hai đứng ngẩn ra, không nói nên lời.

Dương Quá thấy hai đạo sĩ hết đấm lại đá Quách Tĩnh, Quách Tĩnh không hề trả đòn, thì nó tức giận bước tới quát:

– Hai lão đạo sĩ thối tha, tại sao lại đánh bá bá của ta?

Quách Tĩnh vội ngăn lại, nói:

– Quá nhi, không được thế, mau lại bái kiến hai vị đạo trưởng.

Dương Quá ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Quách bá bá sao lại phải sợ họ thế nhỉ?”.

Hai đạo sĩ nhìn nhau, soạt soạt hai tiếng, cùng rút kiếm ra. Đạo sĩ lùn sử chiêu “Thám hải đồ long” đâm tới hạ bàn Quách Tĩnh, đạo sĩ gầy thì sử chiêu “Canh phong tảo diệp” chém vào đùi phải của Dương Quá.

Với nhát kiếm của lão lùn đâm mình, Quách Tĩnh hoàn toàn không chú ý, nhưng thấy đòn của đạo sĩ gầy hiểm ác, thì chàng bực bội nghĩ bụng: “Thằng bé này vô oán vô cừu với các người, tại sao lại nỡ dùng độc thủ, định chém đứt chân nó ư?”. Chàng bèn hơi nghiêng người, dùng cạnh bàn tay trái đánh nhẹ vào cán kiếm đạo sĩ lùn, “Thuận thủy thôi chu” hẩy khẽ sang bên trái. Lưỡi kiếm của đạo sĩ lùn tự dưng đưa sang đụng vào kiếm của đạo sĩ gầy, nghe keng một tiếng. Tuyệt kỹ lấy địch đánh địch của Quách Tĩnh vốn biến hóa từ công phu tay không đấu với đao kiếm mà ra, đừng nói địch thủ có hai người, dẫu có đến chín mười người cùng tán công, chàng cũng thừa sức lấy đao kẻ này đánh kiếm kẻ kia, lấy giáo kẻ này đánh roi kẻ kia, lấy địch đánh địch, lấy ít thắng nhiều.

Hai đạo sĩ cảm thấy cổ tay tê tê, hổ khẩu đau nhức, liền nhảy ra hai bên, tức giận nhìn chàng, vừa kinh hãi vừa thán phục, lại hè nhau vung kiếm đánh tới.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Công phu căn cơ “Thiên Cang Bắc Đẩu trận” sơ luyện của hai người tuy là kiếm pháp thượng thừa, nhưng chỉ có hai người, kiếm thuật lại chưa luyện đến nơi đến chốn, phỏng có ích gì?”. Chàng sợ Dương Quá bị mũi kiếm của hai đạo sĩ đụng tới, bèn né tránh song kiếm, giơ tay phải ôm lấy Dương Quá, nói:

– Tại hạ là người quen của Khưu Chân Nhân, hai vị hà tất đùa dai.

Đạo sĩ gầy nói:

– Ngươi có mạo nhận là người quen của Mã Chân Nhân cũng vô ích.

Quách Tĩnh nói:

– Mã Chân Nhân quả thực cũng từng truyền thụ võ công cho tại hạ.

Đạo sĩ lùn tức giận nói:

– Tên tặc tử nói nhăng nói cuội, không chừng Trùng Dương tổ sư của bọn ta cũng từng dạy võ công cho ngươi.

Đoạn đâm kiếm tới giữa ngực chàng.

Quách Tĩnh thấy hai đạo sĩ hiển nhiên là môn hạ của phái Toàn Chân, song lại coi chàng như kẻ thù, thật là không hiểu gì hết. Tình nghĩa giữa chàng với Toàn Chân Thất Tử chẳng phải tầm thường, lại nghĩ Dương Quá phải đến cung Trùng Dương học nghệ, không thể đắc tội với đạo sĩ trong cung, nên chỉ né tránh chứ không đánh lại.

Hai đạo sĩ vừa ngạc nhiên vừa lo sợ, sớm biết đối phương võ công cao hơn hẳn họ, khó lòng chế ngự; hai người ra hiệu cho nhau, bỗng nhiên kiếm pháp biến ảo, cứ nhắm trước ngực, sau lưng Dương Quá mà đánh tới, toàn là các chiêu số hiểm độc trí mạng. Quách Tĩnh thấy các chiêu kiếm hiểm độc, không lưu chút dư địa, toàn nhắm tới thằng bé, thì không thể không tức giận, thấy đường kiếm của đạo sĩ lùn đâm mạnh tới, liền giơ hai ngón trỏ và giữa của tay phải kẹp lấy lưỡi kiếm, cổ tay hơi xoay vào trong một chút, cùi chỏ thúc tới sống mũi đối phương. Đạo sĩ lùn cố giằng kiếm lại không được, thấy cùi chỏ của chàng thúc tới, nếu trúng mặt thì không chết cũng bị thương, đành buông kiếm nhảy lùi.

Lúc này võ công của Quách Tĩnh đúng là muốn sao được vậy, bất kể giơ tay vung chân thế nào cũng đạt. Hai ngón tay phải của chàng hơi trầm, thanh kiếm kia đã chúi mũi xuống, hất cán lên trên; đúng lục đạo sĩ gầy chém xuống gáy Dương Quá, “keng” một tiếng, trúng vào cán kiếm hất lên. Đạo sĩ gầy bị chấn động toàn thân, cánh tay phải tê dại, cũng đành buông kiếm, nhảy sang bên cạnh. Cả hai cùng kêu:

– Dâm tặc lợi hại, đi thôi?

Rồi quay người bỏ chạy.

Quách Tĩnh trong đời từng bị chửi không ít, nào là đồ ngu, thằng ngốc; cũng có khi là xú tặc, tên tiểu tử thối tha; nhưng hai chữ dâm tặc thì đây là lần đầu tiên bị người ta chửi vào mặt. Chàng vẫn ôm Dương Quá, đuổi tới sau lưng hai đạo sĩ thì nhún chân phải một cái, vọt qua đầu họ, chân vừa chạm đất liền quay mình quát:

– Các người chửi ta là gì?

Đạo sĩ lùn kinh hãi, nhưng vẫn nói cứng:

– Ngươi không vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long, thì lên núi Chung Nam làm gì?

Y nói xong, sợ Quách Tĩnh động thủ, vội lùi lại ba bước.

Quách Tĩnh ngẩn người, nghĩ thầm: “Ta mà vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long ư? Thiếu nữ họ Long là ai? Vì sao ta phải vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long? Ta đã có Dung nhi, cần gì phải lấy ai khác?”. Nhất thời chàng chưa nghĩ ra. Hai gã đạo sĩ thấy chàng đứng sững ra đó, vội lách qua một bên, chạy lên núi.

Dương Quá thấy Quách Tĩnh xuất thần, khẽ níu:

– Quách bá bá, hai đạo sĩ đi rồi.

Quách Tĩnh như kẻ tỉnh mộng, nói:

– Ừ, họ bảo ta vọng tưởng lấy thiếu nữ họ Long, người ấy là ai thế?

Dương Quá nói:

– Điệt nhi cũng không biết, hai đạo sĩ kia không phân biệt phải trái trắng đen, chưa chi đã động thủ, hẳn là họ nhận lầm người.

Quách Tĩnh muốn cười chẳng xong, nói:

– Chắc thế, sao ta nghĩ không ra nhỉ? Ta đi thôi!

Dương Quá nhặt hai thanh kiếm hai đạo sĩ bỏ lại.

Quách Tĩnh nhìn cán kiếm, thấy khắc rõ ba chữ “Cung Trùng Dương”. Hai người đi lên núi, đi hơn một canh giờ, đã qua Kim Liên các, đường từ đây lên hiểm trở, khuất khúc hơn, nhiều mỏm đá cheo leo. Qua Nhật Nguyệt nham thì trời sẩm tối, đến Bão tử nham thì trăng non xuất hiện ở chân trời. Mái đá này trông thật kỳ dị, hình thù giống như một người mẹ ôm con. Hai người nghỉ một lát, Quách Tĩnh hỏi:

– Quá nhi, mệt chưa?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Thưa chưa.

Quách Tĩnh nói:

– Tốt, thế thì ta đi tiếp.

Lại đi một hồi, thấy đằng trước có một khối đá lớn chắn đường, hình thù âm u đáng sợ, từ trên cao chĩa xuống như một bà lão còng nghiêng ngó. Dương Quá hơi sợ; bỗng nghe sau tảng đá có tiếng động, rồi bốn đạo sĩ nhảy ra, tay người nào cũng lăm lăm trường kiếm, lẳng lặng chặn đường.

Quách Tĩnh bước lên hành lễ, nói:

– Tại hạ là Quách Tĩnh ở Đào Hoa đảo, lên núi bái kiến Khưu Chân Nhân.

Một đạo sĩ dáng cao bước tới, cười nhạt, nói:

– Quách đại hiệp lừng danh thiên hạ, là lệnh tế (con rể) của Hoàng lão tiền bối ở Đào Hoa đảo, há trơ tráo như ngươi? Mau mau xuống núi cho rồi.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Ta làm gì mà bảo ta trơ tráo?” nhưng cố nén bực, nói:

– Tại hạ quả là Quách Tĩnh, xin các vị dẫn kiến Khưu Chân Nhân sẽ rõ.

Đạo sĩ cao quát to:

– Ngươi lên núi Chung Nam định trổ tài, đúng là chán sống mất rồi. Không để cho ngươi thấy đôi chút lợi hại, ngươi lại ngỡ cung Trùng Dương toàn là những kẻ vô dụng.

Câu này rõ ràng ngụ ý chê trách hai đạo sĩ lùn và gầy. Lời chưa dứt, đã xông tới sử chiêu “Phân hoa phất liễu” đâm kiếm vào sườn Quách Tĩnh. Quách Tĩnh lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Mười năm ta không hành tẩu giang hồ, mọi qui củ trên đời đã thay đổi cả rồi sao?” Bèn né mình tránh, định nói, thì ba đạo sĩ còn lại cùng vung kiếm dồn chàng và Dương Quá vào giữa. Quách Tĩnh nói:

– Bốn vị muốn tại hạ phải làm thế nào mới tin tại hạ đúng là Quách Tĩnh?

Đạo sĩ cao quát:

– Trừ phi ngươi đoạt được kiếm của ta.

Nói đoạn lại đâm một kiếm thẳng tới ngực chàng, đường kiếm khinh linh, không mạnh không cứng như đơn đao, mà vô cùng linh hoạt.

Quách Tĩnh hơi bực, nghĩ thầm: “Đoạt được kiếm của ngươi thì khó gì?”, thấy mũi kiếm đâm tới, bèn bật ngón trỏ vào ngón cái mà búng ra, “coong” một tiếng, đạo sĩ cao không giữ nổi thanh kiếm, để nó bay lên trời; ba tiếng “coong” liên tiếp, ba thanh kiếm của ba đạo sĩ kia cũng bị chàng búng văng đi cả, trông loang loáng dưới ánh trăng. Dương Quá hỏi to:

– Các vị đã chịu tin hay chưa?

Quách Tĩnh lúc bình thường xuất thủ luôn có ý chừa dư địa cho đối phương, lúc này chàng giận vị đạo sĩ cao xuất chiêu vô lễ, mới sử dụng đến diệu kỹ “Đạn chỉ thần thông”. Công phu ấy là tuyệt học của Hoàng Dược Sư truyền cho chàng. Mấy năm ở trên đảo chàng đã luyện thành thạo; với nội lực thâm hậu, khi sử dụng thật lợi hại vô cùng.

Bốn đạo sĩ cùng bị văng mất kiếm mà vẫn chưa hiểu đối phương sử dụng thủ pháp gì. Vị đạo sĩ cao nói:

– Tên dâm tặc biết tà pháp, ta rút thôi.

Nói đoạn nhảy ra phía sau tảng đá hình bà lão; ba đạo sĩ kia cũng chạy theo, loáng một cái đã lẫn vào bóng đêm.

Quách Tĩnh lần thứ hai bị gọi là “Tên dâm tặc”, rồi còn biết “tà pháp”, thì vừa bực vừa buồn cười, nói:

– Quá nhi, hãy nhặt mấy thanh kiếm kia đặt lên tảng đá bên đường.

Dương Quá y lời, đặt cả sáu thanh kiếm lên một tảng đá; nó vô cùng thán phục võ công của Quách Tĩnh, môi cứ mấp máy định nói: “Quách bá bá, điệt nhi không muốn theo học mấy gã đạo sĩ thối tha đâu. Điệt nhi muốn học võ nghệ của Quách bá bá cơ”. Nhưng nghĩ đến nhiều chuyện trên Đào Hoa đảo, nó lại đành nuốt câu ấy xuống bụng.

Hai người đi qua hai khúc quành, thấy phía trước đường rộng ra, chợt nghe tiếng binh khí leng keng, từ trong lừng tùng nhảy ra bảy đạo sĩ, người nào người nấy cầm trường kiếm.

Quách Tĩnh thấy bảy người sắp thành thế trận, bên trái bốn người, bên phải ba người, chính là “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”, thì giật mình, nghĩ thầm: “Dính vào thế trận thì hơi rắc rối đây”. Chàng không dám coi thường, hạ giọng nói nhỏ với Dương Quá:

– Ngươi ra sau tảng đá đằng kia chờ ta, xa xa một chút để ta khỏi bị phân tâm vì ngươi.

Dương Quá gật đầu, nó không muốn tỏ ra non kém trước các đạo sĩ, bèn tụt quần, nói to:

– Quách bá bá, điệu nhi đi ị đây.

Rồi nó chạy ra phía sau một tảng đá lớn. Quách Tĩnh thầm vui: “Thằng bé này thông minh linh lợi gần bằng Dung nhi, chỉ mong nó đi theo chính đạo, học lấy điều tốt”.

Khi chàng ngoảnh lại nhìn bảy đạo sĩ, thấy họ đứng quay lưng về phía ánh trăng, không thấy rõ mặt, song có sáu vị râu dài, đều đã đứng tuổi, người thứ bảy thân hình nhỏ bé, hình như trẻ hơn. Chàng nghĩ thầm: “Phải sớm lên núi bái kiến Khưu Chân Nhân nói rõ sự nhầm lẫn, kẻo cứ bị vướng chân mãi thế này”, liền lao tới chiếm vị trí sao Bắc Cực ở bên trái.

Bảy đạo sĩ thấy chàng không nói gì, đột nhiên phóng nhanh sang bên trái, họ chưa hiểu dụng ý của chàng, đạo sĩ đang ở vị trí sao Thiên Quyền liền hú nhỏ một tiếng, khiến sáu đạo sĩ kia cùng chạy sang bên trái, định vây Quách Tĩnh vào giữa. Ai ngờ bảy người vừa di chuyển, thì Quách Tĩnh đã chiếm tiên cơ, vọt sang bên phải hai bước, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vốn định để ba người ở cán gáo (sao Bắc Đẩu) phát động tấn công, nhưng thấy phương vị mà Quách Tĩnh chiếm giữ quái dị, trường kiếm của ba người không sao đánh tới được, trong khi môn hộ của cả bảy người đều để hở, không phòng vệ được cho nhau, cả bảy người đều có thể bị chàng tấn công; bèn vung tay trái, làm hiệu cho trận thế chuyển ra sau. Nào ngờ đạo sĩ sắm vai sao Dao Quang vừa di chuyển, Quách Tĩnh đã lại vọt lên hai bước, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, làm cho thế trận của bảy đạo sĩ lại lâm vào tình trạng khó công khó thủ.

“Thiên Cang Bắc Đẩu trận” là công phu cực thượng thừa của phái Toàn Chân, luyện tới mức lô hỏa thuần thanh, do bảy cao thủ phối hợp sử dụng, thì có thể nói là vô địch thiên hạ. Tiếc rằng Quách Tĩnh thừa biết chỗ bí ảo của trận pháp này, chỉ cần chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, thì sẽ là chủ sai khiến tôi tớ, bảy đạo sĩ sẽ như bị trói chân trói tay, không thể thi thố gì được. Hơn nữa, bảy đạo sĩ này luyện chưa thành thục, chứ nếu là trận pháp do các vị như Khưu Xứ Cơ, Mã Ngọc chủ trì, thì đâu có để kẻ khác dễ dàng chiếm lĩnh vị trí sao Bắc Cực. Tám người liên tục thay đổi phương vị, song Quách Tĩnh luôn luôn nắm quyền chủ động, lẳng lặng chiếm giữ vị trí cốt yếu.

Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Khu nhiều tuổi khôn ngoan, đã nhận ra sự không ổn, bèn quát:

– Biến trận!

Bảy đạo sĩ liền tản khai, tả xung hữu đột, chạy đông chạy tây cuồng loạn, những tưởng làm rối trận pháp để mê hoặc mục quang kẻ địch, rồi bất ngờ bảy đạo sĩ lại đã sắp thành thế trận. Thế trận đã từ chính tây chuyển sang đông nam. Thế trận vừa hình thành, đạo sĩ sắm vai sao Thiên Toàn và đạo sĩ sắm vai sao Thiên Hoàng liền vung kiếm xông lên, bỗng thấy đối thủ đứng ở cán sao Bắc Đẩu, vị trí chính bắc, hai chân không ra hình chữ Đinh, chữ Bát, song chưởng giao nhau, vẻ mặt mỉm cười, thì hai vị này nghĩ thầm: “Nếu mình xông lên, hai vị trí Khai Dương, Thiên Toàn sẽ bị trọng thương mất, đành đứng lại, ngẩn ngơ. Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Khu quát to:

– Công không được thì mau lui về!

Đạo sĩ sắm vai sao Thiên Quyền vừa ngạc nhiên vừa tức giận, lớn tiếng điều khiển sáu đạo sĩ liên tục biến đổi thế trận. Dương Quá không hiểu sự lý, chỉ thấy bảy đạo sĩ cứ chạy vòng quanh như điên; trong khi Quách Tĩnh cứ hoặc đông hoặc tây, hoặc nam hoặc bắc, chỉ di chuyển vài bước, vậy mà bảy đạo sĩ trước sau vẫn chưa dám công kích chàng một chiêu. Nó càng quan sát càng thú vị, bỗng nó thấy Quách Tĩnh song chưởng cùng đánh ra, miệng kêu:

– Đắc tội!

Chàng bất ngờ nhảy hai bước sang bên trái. Lúc này Bắc Đẩu trận đã hoàn toàn bị chàng khống chế, khi chàng lao sang bên trái, nếu bảy đạo sĩ không theo sang, tất cả bọn họ sẽ bị hở lưng, không thể phòng ngự, mà đó là điều vạn phần hung hiểm trong võ học; thế là họ đành lao theo sang bên trái. Quách Tĩnh lao nhanh thì họ cũng phải lao nhanh, Quách Tĩnh bước chậm thì họ cũng phải bước chậm. Gã đạo sĩ ít tuổi nội lực kém nhất, sau khi bị Quách Tĩnh điều chuyển gấp gáp mười mấy vòng, đã cảm thấy mắt hoa, khó thở, chỉ chực ngã, nhưng thầm biết Bắc Đẩu trận chỉ cần thiếu một người, sẽ vỡ trận, nên y đành nghiến răng, cố giữ cho vững.

Quách Tính tuy không còn ít tuổi, nhưng từ khi cùng Hoàng Dung về Đào Hoa đảo ẩn cư, ít giao thiệp với thế giới bên ngoài, vẫn còn phần nào tính trẻ con, thấy bảy đạo sĩ cứ chạy nháo nhào cũng thích thú, nghĩ thầm: “Hôm nay bỗng dưng vô cớ ta bị các người nhiếc là tên dâm tặc, bảo ta sử dụng yêu pháp, thế thì ta phải sử dụng yêu pháp thật cho các người coi”, bèn gọi to:

– Quá nhi, xem ta sử yêu pháp này!

Đột nhiên chàng nhảy lên một khối đá cao. Bảy đạo sĩ kia đã hoàn toàn bị chàng khống chế; chàng nhảy lên chỗ cao, nếu bọn họ không nhảy lên theo, thì nhược điểm của trận thế sẽ bộc lộ ra hết, có vài người còn chần chừ, thì đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vội quát lớn, lệnh cho tất cả cùng nhảy lên trên khối đá kia.

Bảy đạo sĩ chân chưa đứng vững, Quách Tĩnh đã phi thân sang một cây tùng, chàng giữ cự ly không xa, cũng không gần so với bảy đạo sĩ, vẫn chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, có điều là ở trên cao nhìn xuống, muốn tấn công rất tiện. Bảy đạo sĩ thầm kêu khổ: “Không hiểu tên đại ma đầu này từ đâu tới, phái Toàn Chân ta hôm nay chẳng còn chút thể diện nào”, ai nấy vội tìm các cây thích hợp làm chỗ đặt chân để nhảy sang.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Xuống cả này.

Chàng nhảy khỏi cây tùng, giơ tay tóm lấy chân vị đạo sĩ đứng ở vị trí sao Khai Dương. Cái lợi hại nhất của Bắc Đẩu trận pháp là tả hữu hô ứng, hỗ trợ cho nhau, khi Quách Tĩnh tấn công Khai Dương, thì Dao Quang và Ngọc Hoành không thể không nhảy xuống giúp sức; và nếu hai đạo sĩ ấy làm như thế, thì Thiên Quyền, Thiên Khu cũng phái nhảy xuống theo; trong giây lát toàn trận đều chuyển động.

Dương Quá ở bên đứng xem, càng xem càng ngạc nhiên và thích thú, nghĩ thầm: “Giá có ngày ta học được tài nghệ của Quách bá bá, thì dẫu sau đó suốt đời khổ sở, ta cũng cam lòng. Nhưng làm sao ta có thể học được tài nghệ của Quách bá bá? Chỉ có con a đầu Quách Phù và huynh đệ họ Võ có cái diễm phúc đó thôi. Quách bá bá thừa biết võ công phái Toàn Chân thua xa mình, sao còn đưa ta đến học nghệ mấy lão đạo sĩ thối tha này kia chứ?”. Nó càng nghĩ càng buồn, buồn phát khóc lên được. Nó ngoảnh đi, không thèm xem nữa, nhưng chỉ một lát, nó lại quay lại xem vậy.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Bây giờ chắc các người tin ta là Quách Tĩnh rồi. Mình cũng không nên làm quá, để còn giữ thể diện cho Khưu Chân Nhân. Thấy bảy đạo sĩ đang chuyển gấp, chàng bèn đứng lại, ôm quyền, nói:

– Bảy vị đạo huynh, tại hạ đã đắc tội nhiều, xin được các vị dẫn đường cho.

Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền tính nóng nảy, thấy đối phương võ công cao cường, tinh thông Bắc Đẩu trận pháp, càng cho rằng chàng không có thiện ý với bổn giáo, bèn quát:

– Dâm tặc, ngươi dốc lòng điều nghiên trận pháp của bổn giáo, mưu đồ thật là thâm độc. Hai ngươi định lên núi Chung Nam giở trò vô liêm sỉ, phái Toàn Chân ta ghét ác như kẻ thù, quyết không khoanh tay đứng nhìn.

Quách Tĩnh ngạc nhiên hỏi:

– Thế nào là giở trò vô liêm sỉ?

Thiên Khu nói:

– Xét võ công của ngươi, hẳn ngươi không phải hạng hạ lưu, bần đạo khuyên ngươi hãy mau xuống núi là hơn.

Giọng nói của lão rõ ràng thể hiện sự khâm phục đối với võ công của Quách Tĩnh. Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ từ phương nam xa xôi ngàn dặm đến đây, có việc bái kiến Khưu Chân Nhân, làm sao có thể chưa gặp lão nhân gia một lần đã xuống núi kia chứ?

Thiên Quyền hỏi:

– Ngươi nhất định đòi gặp Khưu Chân Nhân, rốt cuộc là có dụng ý gì?

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ từ nhỏ đã nhận đại ân của Mã Chân Nhân và Khưu Chân Nhân, hơn mười năm rồi chưa gặp lại, hết lòng thương nhớ. Lần này tại hạ đến còn có một việc cầu xin.

Thiên Quyền nghe vậy thì càng ghét hơn. Nguyên trong giang hồ, người ta coi trọng nhất hai chữ ân cừu. Có khi thù oán sâu xa, lai nói là đến đền ơn, kỳ thực cốt để báo thù. Khi đó họ nói đại loại thế này:

– Hai mươi năm trước, tại hạ được các hạ chặt mất một cánh tay, ân đức ấy, há dám quên sao? Hôm nay tại hạ tới để đền đáp cái đại ân đó.

Còn câu có việc cầu xin, thường thường cũng không phải là thiện chí; chẳng hạn kẻ cướp thường nói:

– Huynh đệ bọn ta đói rách, cầu xin lão huynh một việc, hãy cho bọn ta vay vài vạn lượng bạc.

Hiện tại phái Toàn Chân có đại địch, đạo sĩ Thiên Quyền mang sẵn thành kiến, nghe những lời nói tử tế của Quách Tĩnh lại cứ nghĩ ngược đi, bèn nói:

– Chỉ e tệ sư phụ Ngọc Dương Chân Nhân cũng có ơn với nhà ngươi.

Quách Tĩnh nghe vậy, liền nhớ hồi nhỏ ở phủ Triệu Vương, Ngọc Dương Tử Vương Xứ Nhất không quản nguy hiểm, gắng sức chống đám tà ma, xả thân cứu giúp, quả thực ân tình không nhỏ, liền nói:

– Thì ra đạo huynh là môn hạ của Ngọc Dương Chân Nhân. Ngọc Dương Chân Nhân quả có ân huệ lớn đối với tại hạ, nếu người cũng đang ở trên núi, thì không gì may mắn bằng.

Bảy đạo sĩ đều là đệ tử của Vương Xứ Nhất, họ cùng nổi giận quát to, vung kiếm đánh nhanh tới bảy chỗ trên người Quách Tĩnh. Quách Tĩnh cau mày, nghĩ bụng mình càng khiêm nhường, đối phương càng hung hãn, thật chẳng hiểu tại sao; giá có Hoàng Dung bên cạnh, nàng sẽ biết ngay nguyên nhân, chàng bèn tiến xéo đi, chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, cao giọng hỏi:

– Tại hạ là Quách Tĩnh ở Giang Nam, tới đây quả thật không có ý xấu, các vị bảo tại hạ phải làm gì thì mới chịu tin.

Thiên Quyền nói:

– Ngươi đã đoạt sáu thanh kiếm của đệ tử phái Toàn Chân, sao không đoạt nốt bảy thanh kiếm của bọn ta?

Đạo sĩ sắm vai Thiên Toàn từ đầu im lặng, đột nhiên lên tiếng:

– Tên dâm tặc chó má, ngươi định trổ tài lấy lòng trước nữ tử nhà họ Long, chẳng lẽ có thiện ý với phái Toàn Chân bọn ta thực sao?

Quách Tĩnh tức giận, nói:

– Cô nương họ Long là ai, Quách Tĩnh này không hề quen biết.

Thiên Toàn cười ha ha, nói:

– Ngươi dĩ nhiên không quen biết nàng ta, trên đời há có nam nhân nào quen biết nàng ta? Ngươi có giỏi thì hãy chửi nàng ta một câu thật to xem nào?

Quách Tĩnh ngẩn người, nghĩ thầm: “Nữ tử nhà họ Long chẳng biết là người như thế nào, làm sao tự dưng vô cớ ta lại đi chửi bới người ta?”, bèn nói:

– Tại sao tại hạ lại chửi nàng ta kia chứ?

Ba bốn đạo sĩ cùng tranh nhau nói:

– Ngươi đã không khảo tự xưng rồi đó.

Quách Tĩnh càng nghe họ buộc tội cho chàng thì càng hồ đồ, nghĩ bụng chỉ có cách xông lên cung Trùng Dương, gặp Mã Ngọc, Vương Xứ Nhất, Khưu Xứ Cơ, thì tất cả sẽ rõ, bèn lạnh lùng nói:

– Tại hạ phải lên núi, các vị còn ngăn cản thì đừng trách tại hạ vô lễ.

Bảy đạo sĩ cầm kiếm tiến lên hai bước. Đạo sĩ sắm vai Thiên Toàn nói lớn:

– Các hạ đừng dùng tà pháp, chúng ta hãy chỉ dùng võ công để phân cao thấp.

Quách Tĩnh cười, trong lòng đã có chủ ý, nói:

– Tại hạ cứ thích một chút yêu pháp; các vị nghe đây, hai tay của tại hạ không chạm tới vũ khí của các vị, mà vẫn có thể đoạt cả bảy thanh kiếm cho coi.

Bảy đạo sĩ đưa mắt nhìn nhau, sắc mặt đều tỏ vẻ không tin, trong bụng nghĩ thầm: “Ngươi tuy võ công cao cường, nhưng lẽ nào không dùng hai tay mà lại có thể đoạt được kiếm của bọn ta? Dẫu ngươi có luyện công phu tay không đoạt gươm giáo đến mức tối cao, thì cũng vẫn cứ phải sử dụng đôi tay”. Đạo sĩ sắm vai Thiên Khu bèn nói:

– Được, bọn ta xin lĩnh giáo tứ cước thần công của các hạ.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ cũng không cần dùng chân; tóm lại là chân tay, vũ khí của các vị, tại hạ sẽ hoàn toàn không chạm tới; nếu tại hạ chạm tới, coi như tại hạ bị thua, sẽ phải tự quay xuống núi.

Bảy đạo sĩ nghe chàng nói thế đều ngán ngẩm. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền vung kiếm, lập tức khởi động trận pháp vây chàng lại.

Quách Tĩnh nghiêng người lao đi chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, rồi bước nhanh sang bên trái Bắc Đẩu trận. Thiên Quyền biết sự lơi hại, vội điều động Bắc Đẩu trận chuyển sang bên phải. Hai người đấu với nhau, tất phải quay mặt về phía kẻ địch, nếu kẻ địch vòng ra sau lưng mình, mình không thể không quay người lại để nghênh địch. Lúc này phía mà Quách Tĩnh hướng tới chính là phía sau lưng cốt tử của Bắc Đẩu trận, không cần xuất thủ tấn công, bảy đạo sĩ cũng phải di chuyển trận pháp để đối mặt với chàng. Quách Tĩnh cứ một mạch chạy hướng sang bên trái, không hề xoay người, chỉ hoặc nhanh hoặc chậm, hoặc thẳng hoặc xéo, chỉ một mực chạy sang mé trái. Chàng đã chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực, bảy đạo sĩ không thể không theo chàng chạy sang mé trái.

Quách Tĩnh càng lúc càng chạy nhanh, cứ như ngựa phi, thân hình lắc một cái, người đã vọt xa mấy trượng. Công phu của bảy đạo sĩ cũng chẳng tầm thường, tuy ở tình thế bị động, song trận pháp của họ không hề rối loạn; bảy vị trí Thiên Khu, Thiên Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang đều được giữ vững và chuẩn, chỉ có điều là phải bị động chạy theo mà thôi. Quách Tĩnh cũng phải thầm thán phục: “Môn hạ phái Toàn Chân quả nhiên bất phàm”. Chàng đề khí chạy nhanh gần như chân không chấm đất.

Bảy đạo sĩ thoạt đầu còn cố chạy theo, nhưng càng lâu, thì khinh công cao thấp càng lộ rõ. Ba vị trí Thiên Khu, Thiên Quyền, Ngọc Hoành công phu cao hơn, chạy nhanh hơn; bốn đạo sĩ còn lại dần dần tụt lại sau, Bắc Đẩu trận thế lộ ra chỗ sơ hở, khuyết trống. Họ không khỏi giật mình, nghĩ thầm: “Nếu lúc này kẻ địch xuất thủ công trận, e rằng bên ta đã hết bề chống đỡ”; nhưng tình thế lúc này cũng không thể lo cho người bên cạnh, ai cũng chỉ đem nội lực bình sinh mà chạy như bay xung quanh Quách Tĩnh.

Trẻ con chơi đùa, lấy dây buộc cục đá mà xoay vòng tròn, xoay đến lúc thật nhanh thì đột nhiên buông sợi dây ra, cục đá sẽ mang theo sợi dây bay đi rất xa. Lúc này vòng quay của “Thiên Cang Bắc Đẩu trận” xoay gấp, cũng gần giống như thế; bảy đạo sĩ chạy như điên quanh Quách Tĩnh, trường kiếm giơ cao trên đầu, chạy càng nhanh thì tay giữ kiếm càng không chắc, tựa hồ có một sức mạnh kéo văng nó đi vậy.

Đột nhiên Quách Tĩnh quát to:

– Buông tay!

Rồi chàng phi thân vút qua. Bảy đạo sĩ xuất kỳ bất ý, đành nhào theo gấp, cũng chẳng biết tại sao bảy thanh kiếm cùng tuột tay họ, trông như bảy con ngân xà, bay thẳng vào cánh rừng tùng cách xa hơn mười trượng. Quách Tĩnh đột nhiên dừng bước, ngoảnh đầu lại cười hi hi.

Bảy đạo sĩ tái mặt, đứng ngây bất động, song mỗi người vẫn giữ đúng phương vị của mình, trận thế vẫn nghiêm chỉnh. Quách Tĩnh thấy sau một hồi chạy cuồng loạn vừa rồi mà trận pháp không rối loạn, đủ biết công phu luyện tập thường ngày của họ quả không nhỏ. Đạo sĩ sắm vai Thiên Quyền hô nhỏ một tiếng, bảy đạo sĩ rút vào phía sau vách núi.

Quách Tĩnh gọi:

– Quá nhi, ta lên núi thôi.

Nào ngờ chàng gọi liền mấy tiếng, không nghe Dương Quá trả lời. Chàng vội tìm xung quanh một hồi, không thấy bóng thằng bé đâu cả, chỉ thấy dưới gốc cây vứt lại một chiếc giày nhỏ. Quách Tĩnh giật mình,, nghĩ thầm: “Thì ra ngoài bảy đạo sĩ, còn một đạo sĩ khác đứng ngoài xem trộm, đã bắt Dương Quá mang đi”. Nhưng nghĩ chẳng qua các đạo sĩ nhận lầm người, chứ phái Toàn Chân hành hiệp trượng nghĩa, quyết không gây khó dễ với một cậu bé, chẳng cần quá lo; bèn đề khí chạy lên đỉnh núi. Chàng ẩn cư hơn mười năm ở Đào Hoa đảo, tuy ngày ngày luyện võ công, nhưng đã lâu không giao đấu với ai, lắm lúc cũng buồn tẻ, hôm nay được giao đấu một trận kịch liệt với các đạo sĩ; chiêu nào chiêu nấy đắc tâm ứng thủ, thì trong lòng không khỏi cảm thấy mãn ý.

Lúc này sơn đạo càng chênh vênh, có lúc phải dán sát người vào vách núi mà đi lên; đi chừng nửa canh giờ, bỗng mây đen che lấp mặt trăng, núi rừng tối tăm. Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Nơi này mình không thông thuộc địa thế, các đạo sĩ có thể bày nguỵ kế, mình phải đề phòng mới được”. Bèn thong thả tiến từng bước một.

Lại đi một hồi, mây hết che lấp mặt trăng, núi rừng lại sáng, Quách Tĩnh cảm thấy dễ chịu, chợt nghe từ phía sau núi vọng lại tiếng thở của nhiều người. Tiếng thở của con người tuy không to, nhưng nhiều người thì Quách Tĩnh nghe rất rõ. Chàng vội siết lại dây lưng, rẽ ra sau núi.

Trước mặt là một bãi đất hình tròn cực rộng, núi non bao quanh, dưới chân núi có một hồ nước lớn sóng lấp lánh dưới ánh trăng. Cạnh hồ nước có hơn một trăm đạo sĩ, ai cũng mũ vàng áo xám, tay cầm trường kiếm, kiếm quang loang loáng.

Quách Tĩnh định thần nhìn kỹ, thấy các đạo sĩ cứ bảy người một nhóm, sắp thành mười bốn “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”. Cứ bảy “Thiên Cang Bắc Đẩu trận” nhỏ lại sắp thành một “Thiên Cang Bắc Đẩu trận” lớn. Từ Thiên Khu đến Dao Quang, thanh thế thực là ghê gớm. Hai đại “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”, một chính một kỳ, tương sinh tương khắc, dựa dẫm vào nhau. Quách Tĩnh kinh ngạc nghĩ thầm: Bắc Đẩu trận pháp kiểu này, mình chưa từng nghe Khưu Chân Nhân nói tới, chắc là mới được phát minh mấy năm nay, cao thâm hơn so với Bắc Đẩu trận pháp do Trùng Dương tổ sư sở truyền. Chàng bèn chậm rãi bước tới.

Chỉ nghe một người trong trận hô nhỏ, chín mươi tám đạo sĩ liền tản ra, người trước kẻ sau, trận thế biến ảo, vây luôn Quách Tĩnh vào giữa. Người nào người nấy trường kiếm chỉ xuống đất, chăm chú nhìn Quách Tĩnh, không nói một lời.

Quách Tĩnh ôm quyền, cúi mình xoay vòng, nói:

– Tại hạ thành tâm lên bảo sơn bái kiến các vị đạo trưởng Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, Vương Chân Nhân, mong các vị đạo huynh đừng ngăn cản.

Một đạo sĩ râu dài trong trận nói:

– Các hạ võ công cao cường, sao không tự trọng, lại kết bạn với yêu nhân? Bần đạo thành thật khuyên các hạ điều này, xưa nay nữ sắc làm hại người, các hạ chớ để công phu tu luyện mấy chục năm bị phế bỏ trong một ngày. Phái Toàn Chân chúng ta không quen biết các hạ, hoàn toàn không có sai sót gì với các hạ, tại sao các hạ lại theo bọn yêu nhân lên núi làm loạn? Mong các hạ hãy lập tức xuống núi, sau này còn có dịp gặp lại.

Giọng nói của lão rất trầm, từng lời đều rành rọt, chứng tỏ nội lực thâm hậu, ngữ ý khẩn thiết, thành thật khuyến cáo.

Quách Tĩnh lại vừa bực mình vừa tức cười, nghĩ thầm: “Các đạo sĩ này chắc là nhận lầm mình với kẻ nào đó, giá có Dung nhi đi cùng, thì sẽ không có sự hiểu lầm này”, bèn nói:

– Yêu nhân nữ sắc gì gì, tại hạ đều không biết, hãy để tại hạ gặp các vị đạo trưởng Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, thì tất cả sẽ rõ.

Đạo sĩ râu dài lạnh lùng nói:

– Các hạ chấp mê không ngộ, cứ đòi lĩnh giáo Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, thì trước hết hãy phá Bắc Đẩu đại trận của bọn ta đã.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ có một mình, võ công thấp kém, làm sao dám đương đầu với tuyệt nghệ của quí giáo? Xin các vị trả lại cho đứa bé mà tại hạ mang theo, và dẫn kiến Giáo chưởng Chân Nhân cùng Khưu Chân Nhân.

Đạo sĩ râu dài quát to:

– Ngươi chớ phách lối, bỡn cợt thêm nữa, trước cửa cung Trùng Dương núi Chung Nam há có thể cho phép tên dâm tặc như ngươi nói nhăng nói cuội?

Nói đoạn giơ kiếm chém lên không trung, tiếng ong ong ngân dài hồi lâu. Các đạo sĩ khác cũng làm như vậy, chín mươi tám thanh kiếm tua tủa, kiếm quang đan thành tấm lưới ánh sáng, tiếng ngân ù ù như gió.

Quách Tĩnh chán ngán nghĩ thầm: “Đại trận của họ kỳ chính tương phản, một mình ta làm sao chiếm giữ vị trí sao Bắc Cực thứ hai kia chứ? Chuyện hôm nay thật là quá nan giải”. Chàng chưa quyết định thế nào, thì đại trận của chín mươi tám đạo sĩ đã từ hai phía tả hữu hợp vây, kiếm quang đan vào nhau, quả là một con ruồi cũng khó lọt qua. Đạo sĩ râu dài nói:

– Mau rút binh khí ra. Phái Toàn Chân không đánh kẻ tay không!

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Bắc Đẩu đại trận dĩ nhiên khó phá, nhưng muốn đả thương ta đâu có dễ. Các người tuy đông, uy lực tuy lớn, nhưng công lực mỗi người một khác, tất có sơ hở; cứ xem trận pháp của họ một lát hãy hay.” Đột nhiên chàng lẳng lặng xoay mình, chạy sang phương vị tây bắc, sử chiêu “Tiềm Long vật dụng” trong “Hàng long thập bát chưởng”, đẩy chéo ra thật mạnh. Bảy đạo sĩ trẻ tuổi chuyển kiếm sang tay trái, cùng giơ hữu chưởng, dùng lực liên hợp của bảy người mà chống lại chiêu này của chàng. Chiêu này của Quách Tĩnh đã được luyện tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, lực đẩy ban đầu cố nhiên rất mạnh, nhưng lực thu lại sau đó mới càng lơi hại. Bảy đạo sĩ dồn sức đẩy lại mãnh lực của chàng, không ngờ đột nhiên có một lực kéo mạnh về phía trước; bảy người đứng không vững, cùng ngã sấp mặt xuống; tuy bật dậy được ngay, nhưng mặt mũi ai nấy dính đất cát, thật là hổ thẹn.

Đạo sĩ râu dài thấy chàng xuất thủ lợi hại, một chiêu đã làm cho bảy sư điệt bị ngã, không khỏi giật mình, liền hú một tiếng dài, dẫn động mười bốn Bắc Đẩu trận liên hợp trùng trùng với nhau, thiết tưởng chưởng lực của kẻ địch dẫu mạnh gấp mười lần, cũng chẳng thể dùng hai tay đẩy nổi chín mươi tám người.

Quách Tĩnh nhớ lại trận đại chiến năm xưa chàng cùng Hoàng Dung giao đấu với Cái Bang, đối thủ võ công tuy không mạnh, nhưng khi họ hợp lực, thì mình khó bề chống đỡ, cho nên chàng không dám cường công ngạnh chiến với các đạo sĩ, mà chỉ thi triển khinh công lướt qua lướt lại tìm chỗ sơ hở trong trận thế.

Chàng lướt sang đông, vọt sang tây, dẫn động trận pháp biến đổi, sau thời gian uống cạn một ấm trà, đã hiểu rằng chỉ dựa vào sức của mình thì không thể phá nổi trận thế này. Một là chàng không muốn đả thương đối phương. Hai là trận pháp quá ư chặt chẽ, không có chỗ nào sơ hở. Ba là chàng suy tính chậm chạp; trong khi trận pháp biến ảo nhanh chóng, dẫu có sơ hở chàng cũng chẳng nhận ra ngay. Dưới ánh trăng, chỉ thấy kiếm quang như nước, bóng người như sóng, tới lui dồn dập không ngừng.

Đấu thêm một lát, thấy trận thế dần dần thu hẹp, khoảng trống để né tránh mỗi lúc ít dần, khó thêm, Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Ta phải rút ra khỏi trận, xông thẳng lên cung Trùng Dương mà gặp Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng thôi”. Chàng ngẩng nhìn tứ phía, thấy trên sườn núi phía tây có vài chục gian nhà, vài tòa kiến trúc lớn, đoán cung Trùng Dương chắc ở đó, bèn lướt nhanh sang phía đông, nhảy vọt mấy lần, rồi ngoặt sang phía tây.

Các đạo sĩ thấy thân pháp của chàng đột nhiên tăng nhanh, lướt đi vùn vụt như một tia chớp, khiến họ hoa cả mắt, thế công liền sững lai. Đạo sĩ râu dài nói:

– Tất cả cẩn thận, đừng trúng ngụy kế của tên dâm tặc.

Quách Tĩnh cả giận, nghĩ thầm: “Quanh đi quẩn lại họ cứ gọi ta là tên dâm tặc. Cách gọi này mà truyền ra giang hồ, thì ta còn mặt mũi nào kia chứ?”. Lại nghĩ bụng: “Trận pháp là do lão đạo sĩ râu dài chủ trì, chỉ cần hạ gục lão ta là có thể phá vỡ thế trận. Bèn lao thẳng về phía đạo sĩ râu dài. Nào ngờ một trong những điều huyền diệu của trận pháp này là dụ địch tấn công chủ soái, các tiểu trận sẽ thừa cơ bao vây, tấn công, dồn kẻ địch vào tử địa. Quách Tĩnh chỉ chạy được bảy, tám bước thì cảm thấy không ổn, áp lực phía sau gia tăng, hai bên sườn cũng cũng đều bị dồn ép lại, chàng định chuyển sang mé phải, thì mười bốn thanh trường kiếm của hai tiểu trận cùng đâm thẳng tới trước mặt. Phương vị của mười bốn thanh kiếm này được bố trí thật khôn khéo, khiến cho chàng muốn né tránh phía nào cũng chẳng xong.

Quách Tĩnh thân lâm hiểm cảnh, trong lòng không chút run sợ, chỉ là nỗi tức giận càng lúc càng tăng, nghĩ thầm: “Các người nhận lầm ta với tên dâm tặc yêu nhân nào đó, người xuất gia lấy từ bi làm gốc, sao chiêu thức nào cũng đều là sát thủ cả thế? Chẳng lẽ các người định lấy mạng ta sao? Vậy mà còn bảo là phái Toàn Chân không đả thương người tay không vũ khí”. Bèn nhảy xéo vài bước, tung cước phải đá lộn nhào một tiểu đạo sĩ, đồng thời tay trái đoạt luôn thanh kiếm của y, thấy bảy thanh kiếm mé phải cùng đâm tới, thì chàng vung kiếm tay trái một cái, tám thanh kiếm chạm nhau, cách một tiếng, cả bảy thanh kiếm đều gãy, riêng thanh kiếm trong tay chàng nguyên vẹn. Thanh kiếm chàng đoạt được cũng như mọi thanh kiếm khác, không sắc bén quí giá gì hơn, chẳng qua chàng vận lực ra đầu mũi kiếm, nên đánh gãy đồng loạt cả bảy thanh kiếm kia mà thôi.

Bảy đạo sĩ tái mặt, đứng ngẩn cả ra, hai tiểu Bắc Đẩu trận bên cạnh vội chuyển sang hỗ trợ. Quách Tĩnh thấy mười bốn người đó đều đặt tay trái lên vai người bên cạnh, sức lực của cả mười bốn người đã hợp thành một, thì chàng nghĩ thầm: “Phải thử xem công lực của mình tới đâu nào?”, liền giơ kiếm kiềm chế thanh kiếm của người đạo sĩ thứ mười bốn.

Đạo sĩ đó vội kéo vào phía trong, nào ngờ thanh kiếm trong tay y như bị giữ chặt tại chỗ, không tài gì lay động nổi. Mười ba người kia ai nấy vận sức, định dùng hợp lực của mười bốn người để kéo kiếm về.

Quách Tĩnh chính muốn dẫn dụ họ hợp lực, vừa cảm thấy lực kéo tăng mạnh, bèn quát to “Hãy cẩn thận!”, cánh tay phải của chàng hất mạnh, giống như đẩy vào một vật cực lớn, nghe một loạt tiếng cách cách, mười hai thanh kiếm bị gãy, hai thanh kiếm cuối cùng thì bay lên trời. Mười bốn đạo sĩ kinh hãi vội vàng nhảy tránh. Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Công lực của mình chưa thật tinh thuần, còn hai thanh kiếm chưa bị đánh gãy”. Thế là các đạo sĩ càng thận trọng hơn. Hai mươi mốt đạo sĩ tuy bị mất kiếm, nhưng họ vận chưởng thành gió, uy lực chẳng hề giảm sút. Quách Tĩnh vừa rồi đánh gãy kiếm của đối phương, vẫn chưa vừa ý lắm, cảm thấy trận thế của họ càng siết chặt thêm, không hiểu Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng mấy năm qua có sáng tạo gì mới cho Bắc Đẩu trận, nếu họ biến hóa cao minh, mình không hóa giải được, e rằng khó thoát bị họ bắt sống, thôi thì đành ra tay trước, bèn quát to:

– Các vị đạo huynh còn không nhường lối thì chớ trách tại hạ không lưu tình.

Đạo sĩ râu dài thấy quân mình đã chiếm thượng phong, cho rằng tài nghệ của Quách Tĩnh cũng chỉ đến thế là cùng, dẫu có đánh gãy cả chín mươi tám thanh kiếm, cũng không thể thoát khỏi Bắc Đẩu đại trận, nghe chàng nói vậy, lão chỉ mỉm cười, không thèm trả lời, chỉ siết chặt thêm trận pháp.

Quách Tĩnh rùn mình xuyên sang góc đông bắc, chỉ thấy hai tiểu Bắc Đẩu trận theo sang như hình với bóng, thì ngón tay chuyển động, thanh kiếm trong khoảnh khắc nhấp nhấp liền mười bốn lần, mười bốn hàn tinh dường như đồng thời chọc tới, mỗi cái chọc đều trúng vào huyệt Dương Cốc ở mé ngoài cổ tay phải của các đạo sĩ. Đây là công phu tối thượng thừa trong kiếm pháp, sử kiếm như gió như chớp, điểm đánh tới không sai một li, tưởng chừng đồng thời bắn ra mười bốn cái ám khí vậy.

Quách Tĩnh xuất thủ nhẹ nhàng, các đạo sĩ chỉ cảm thấy cổ tay hơi tê, các ngón tay vô lực, mười bốn thanh kiếm cùng rơi cả xuống đất. Ai nấy kinh hãi nhảy vội về phía sau, nhìn xem vết thương ở cổ tay thế nào, chỉ thấy chỗ huyệt Dương Cốc hơi đỏ, không bị chảy máu, mới biết tài nghệ điểm huyệt của đối phương quá tài tình. Họ kinh hãi, nghĩ bụng: “Tên dâm tặc này tuy vô liêm sỉ, nhưng không độc ác; chứ nếu hắn thẳng tay, thì tất cả đã mất bàn tay rồi”.

Như thế là đã có ba mươi lăm thanh kiếm văng khỏi tay. Đại sĩ râu dài bực lắm, thừa biết đối phương chưa hạ tuyệt thủ, mà phái Toàn Chân đã mất cả thể diện, nếu để cho một cường địch như chàng xông vào bổn cung, thì hậu họa không nhỏ, bèn liên tiếp phát lệnh, siết chặt trận thế, cho rằng chín mươi tám đạo sĩ hợp vây tứ phía, đối phương chỉ có một đường chết mà thôi.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Các đạo huynh thật không biết xấu tốt, nói nhẹ không xong, đành dằn mặt họ vậy”. Tả chưởng đưa xéo, hữu chưởng đẩy sang trái. Bảy đạo sĩ của một Bắc Đẩu trận liền chuyển sang tiếp chiêu. Quách Tĩnh vội vọt tới vị trí sao Bắc Cực. Bắc Đẩu trận thứ hai lập tức tấn công chàng. Lúc này có cả thảy mười bốn Bắc Đẩu trận, cũng tức là có mười bốn vị trí sao Bắc Cực. Quách Tĩnh không có thuật phân thân, nên không thể cùng lúc chiếm giữ mười bốn vị trí trọng yếu. Chàng thi triển thuật khinh công, vừa chiếm vị trí sao Bắc Cực của Bắc Đẩu trận thứ nhất, lại lập tức chạy sang chiếm vị trí sao Bắc Cực của Bắc Đẩu trận thứ hai; cứ thế xoay chuyển mấy lần, trận pháp bắt đầu có vẻ rối loạn.

Đạo sĩ râu dài thấy tình thế bất lợi, vội hạ lệnh cho các đạo sĩ tản xa ra, giữ vững trận thế, lấy tĩnh chế động; biết rằng nếu mọi người cứ xoay chuyển theo Quách Tĩnh, chàng ta chạy nhanh như thế, tất sẽ làm loạn thế trận; còn nếu cố thủ bất động, mười bốn vị trí sao Bắc Cực cách xa nhau, thì dù Quách Tĩnh có thân pháp nhanh đến mấy, cũng chẳng thể cùng lúc chiếm lĩnh.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Vị đạo huynh này tinh thông yếu quyết trận pháp, quả nhiên tùy cơ ứng biến rất linh hoạt. Họ đã đứng bất động một chỗ, thì ta thừa cơ xông vào cung Trùng Dương vậy”. Nhưng chàng lại nghĩ bụng: “Ồ, không được rồi, có lẽ Mã đạo trưởng, Khưu đạo trưởng đều không ở trong cung Trùng Dương, nếu không, mình đấu với các đạo sĩ lâu như thế, lẽ nào hai vị đó không hay biết?”. Chàng ngẩng đầu nhìn về phía cung Trùng Dương, chỉ thấy ở một góc đạo quán loang loáng ánh binh khí, tựa hồ có người đang giao đấu; nhưng vì xa đây nên khó nhìn rõ và cũng không thể nghe tiếng binh khí va chạm.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Kẻ nào cả gan đến cung Trùng Dương động thủ? Sự việc tối nay quả là khó hiểu!”. Chàng rất muốn tới đằng kia xem cho rõ, thì mười bốn Thiên Cang Bắc Đẩu trận đã lại xáp tới gần hơn. Chàng nóng lòng sốt ruột, tả chưởng sử chiêu “Kiến long tại điền”, hữu chưởng sử chiêu “Cang long hữu hối” cùng đánh ra hai phía tả hữu, thấy bốn mươi chín người của Bắc Đẩu đại trận bên trái tiếp chiêu bên trái của chàng; còn bốn mươi chín người của Bắc Đẩu đại trận bên phải thì tiếp chiêu bên phải. Chàng lập tức biến chiêu, chiêu “Kiến long tại điền” biến thành chiêu “Cang long hữu hối”, còn chiêu “Cang long hữu hối” thì biến thành chiêu “Kiến long tại điền”.

Tài nghệ hai tay sử dụng cùng lúc hai chiêu số khác nhau đã hiếm, giữa chừng lại biến chiêu cho nhau, thì các đạo sĩ càng chưa từng thấy, từng nghe. Bắc Đẩu đại trận bên trái vốn định tiếp chiêu “Kiến long tại điền”, còn Bắc Đẩu đại trận bên phải định tiếp chiêu “Cang long hữu hối”, thế đánh của hai chiêu này tương phản, các đạo sĩ mỗi bên đều dồn sức đánh trả; nào ngờ giữa chừng chàng lai hoán đổi chiêu số; chỉ thấy thân hình chàng xuyên qua khe hẹp giữa hai trận; bốn mươi chín đạo sĩ bên trái và bốn mươi chín đạo sĩ bên phải cùng phát lực đánh tới phía trước, đâu còn kịp dừng tay? Chỉ nghe rầm một tiếng lớn, hai Bắc Đẩu đại trận đâm sầm vào nhau, kiếm gãy tay đau, trán sưng mắt bầm, hơn ba chục người ngã chổng kềnh.

Đạo sĩ râu dài chủ trì Bắc Đẩu trận pháp tuy lanh lẹ né tránh, không bị đồng đạo đả thương, nhưng cũng lao đao một phen, cả giận quát tháo, gấp gáp chấn chỉnh trận thế, chỉ thấy Quách Tĩnh chạy như bay xuống phía hồ Ngọc Thanh dưới chân núi, bèn đem mười bốn tiểu trận đuổi theo. Võ công của phái Toàn Chân vốn thanh tịnh vô vi, lấy nhu khắc cương, nay chủ soái động nộ, chính là phạm điều đại kỵ trong võ công phái Toàn Chân, không còn tỉnh táo, nói gì đến việc quan sát địch tình, tùy cơ ứng biến.

Quách Tĩnh chạy tới bên hồ Ngọc Thanh, thấy trước mặt ánh nước loang loáng, tay phải cầm kiếm liền chặt một cành liễu to trên bờ hồ, quăng kiếm đi, rồi dùng hai tay lẳng cành liễu ra tận giữa hồ. Đoạn chàng nhún chân, thân hình bay đi, đầu chân phải chạm xuống cành liễu, cành liễu hơi chìm xuống, thì chàng đã mượn sức vượt sang bờ hồ bên kia.

Các đạo sĩ ào ào đuổi theo không kịp dừng chân, chỉ nghe nhiều tiếng ùm ùm liên tiếp, bốn năm chục người nhảy tõm cả xuống hồ. Mấy chục người khác vấp vào lưng người đằng trước mới dừng lai được trên bờ hồ. Một số đạo sĩ không biết bơi, sau khi ngã xuống hồ, vùng vẫy chới với, các đạo sĩ biết bơi phải vội vã tiếp cứu. Các đạo sĩ bên hồ Ngọc Thanh ướt lướt thướt, hò hét ầm ĩ, thành một đám hỗn loạn.

Hồi 04: Môn hạ Toàn Chân

Quách Tĩnh thoát được sự níu chân của các đạo sĩ, đề khí chạy tới cung Trùng Dương, bỗng nghe tiếng chuông boong boong chính từ trong cung Trùng Dương vọng ra. Tiếng chuông gấp gấp, như truyền đi tiếng xin cấp cứu. Quách Tĩnh ngẩng nhìn, thấy tòa hậu viện của đạo quán có lửa bốc cao, chàng không khỏi kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra hôm nay phái Toàn Chân quả nhiên bị kẻ địch đại công kích, ta phải mau đến tiếp cứu”. Nghe tiếng các đạo sĩ ở phía sau hô hoán ầm ĩ đuổi theo, bây giờ chàng mới hiểu rằng họ cứ tưởng lầm chàng là kẻ địch, hiện thời trong kia nguy cấp, họ sẽ quyết liều mạng với chàng, chàng bèn bỏ mặc họ đó lao lên núi.

Chàng thi triển thân pháp, vọt đi vài trượng một lần, lát sau đã tới trước cung Trùng Dương, chỉ thấy lửa cháy đùng đùng, khói dày cuộn cuộn, nhưng lạ thay, trong cung Trùng Dương vô số đạo sĩ mà chẳng thấy một ai ra cứu hỏa.

Quách Tĩnh thầm kinh ngạc, thấy mười mấy dãy đạo quán nằm rải rác trên núi, hậu viện đang cháy mạnh, nhưng tòa nhà chính thì chưa bén lửa, trong đó đầy tiếng huyên náo, tiếng binh khí va nhau. Quách Tĩnh nhún chân nhảy lên bức tường cao, thấy một cái sân rộng lố nhố đầy người, chính ở đấy người ta đang đánh nhau chí tử. Định thần nhìn kỹ, thấy bốn mươi chín đạo sĩ áo vàng dàn thành bảy Bắc Đẩu trận, đánh trả hơn một trăm tên địch. Bọn địch cao thấp lố nhố, đứa mập đứa gầy, y phục không giống nhau, võ công khác phái, kẻ dùng binh khí, kẻ thì tay không, từ bốn phương tám hướng ào ạt tấn công bảy Bắc Đẩu trận. Xem chừng một số tên địch võ công không kém, quân số lại đông, cho nên phái Toàn Chân đã lâm thế hạ phong. Có điều là bọn địch đánh riêng lẻ, bảy Bắc Đẩu trận thì tiếp ứng cho nhau, trận thế chặt chẽ, cho nên kẻ địch tuy mạnh, vẫn chưa làm gì nổi họ.

Quách Tĩnh định lên tiếng hỏi, chợt nghe trong đại điện ù ù tiếng gió, ở đó đang có người giao chiến, căn cứ âm thanh, thì võ công của những người trong đại điện cao hơn hẳn phía ngoài này. Quách Tĩnh bèn nhảy xuống sân, lách mình qua khe hở của ba Bắc Đẩu trận để lướt vào đại điện. Các đạo sĩ kinh hãi, sử kiếm định ngăn chàng lại, nhưng kẻ địch đang tấn công mạnh, họ không thể phân thân đuối theo chàng.

Trong đại điện vốn có mười mấy cây đuốc lớn sáng rực, nhưng lúc này ánh lửa từ phía hậu điện đã lấn hết ánh sáng của chúng; chỉ thấy có một dãy bảy cái bồ đoàn, bảy đạo sĩ ngồi xếp bằng trên đó, tả chưởng nối nhau, ai nấy giơ hữu chưởng chống đỡ sự vây công của hơn mười địch thủ.

Quách Tĩnh không nhìn bọn địch, mà nhìn bảy vị đạo sĩ trước. Thấy ba vị lão niên, bốn người trẻ tuổi. Ba vị lão niên chính là Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất. Bốn người trẻ tuổi, chàng chỉ biết một người là Doãn Chí Bình. Bảy người, từ vị trí Thiên Khu đến Dao Quang, dàn thành Bắc Đẩu trận, ngồi bất động. Phía trước bảy người có một đạo sĩ phủ phục dưới đất, không rõ sống chết, chỉ thấy mái tóc bạc phơ, không nhìn thấy mặt. Quách Tĩnh thấy các đạo sĩ đã nguy cấp, thì nhiệt huyết trào lên, bất kể kẻ địch là ai, chàng liền quát to như sấm:

– Tặc tử to gan, dám tới cung Trùng Dương làm loạn!

Hai tay chàng giơ ra túm lấy lưng hai tên địch, định hất ngã chúng, nào ngờ cả hai tên đều là hảo thủ, hai chân bám chắc xuống đất, không hề chao đảo. Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Bọn này cũng không đến nỗi tầm thường, chẳng trách hôm nay phái Toàn Chân bị núng thế”. Chàng đột nhiên buông tay, quét chân một cái. Hai tên kia đang sử dụng công phu “Thiên cân trụy” chống đỡ lực tay của chàng, không ngờ chàng lại biến chiêu, thân hình cả hai liền bị bay ra cửa.

Bọn địch thấy đối phương có cao thủ tới tiếp tay, đều ngạc nhiên, nhưng cho rằng mình đã cầm chắc phần thắng, nên chủ quan, chỉ có hai tên tiến lại gần, quát:

– Ngươi là ai?

Quách Tĩnh chẳng buồn nói, song chưởng cùng đẩy ra. Hai tên kia chưa đến gần đã bị chưởng lực của chàng đẩy văng đi, đập lưng vào tường, hộc cả máu mồm. Bọn còn lại thấy chàng vừa ra tay đã đả thương liền bốn người, thì cả kinh, nhất thời chưa có tên nào dám xông lại.

Các vị Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất nhận ra chàng, vui mừng khôn xiết, nghĩ thầm: “Người này đã tới, thì phái Toàn Chân thoát nạn !”

Quách Tĩnh không để ý tới bọn địch, chàng quì xuống khấu đầu với các vị đạo trưởng, nói:

– Đệ tử Quách Tĩnh bái kiến.

Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất mỉm cười, gật đầu, giơ tay hoàn lễ. Doãn Chí Bình bỗng nói:

– Quách huynh chú ý.

Quách Tĩnh nghe sau gáy có tiếng gió, biết có kẻ ám toán, không đứng dậy, chống nhẹ hai tay xuống đất, tung hai chân lên đánh trúng huyệt “Hồn Môn” ở lưng hai kẻ đánh lén phía sau, hai tên đó tức thời khuỵu xuống; Quách Tĩnh thả hai chân xuống thì đè ngay lên hai cái bị thịt đó.

Mã Ngọc mỉm cười, nói:

– Tĩnh nhi đứng lên đi, hơn mười năm không gặp, võ công của con đại tiến rồi?

Quách Tĩnh đứng lên, nói:

– Mấy tên kia cần xử thế nào, xin đạo trưởng cứ phân phó.

Mã Ngọc chưa kịp trả lời, Quách Tĩnh nghe sau lưng có hai người cùng cất tiếng cười ha ha rất quái dị.

Chàng bèn quay lại, thấy hai người; một khoác hồng bào, đầu đội mũ vàng, thân hình khô gầy, là một Tạng tăng trung niên. Người thứ hai mặc cẩm bào màu vàng nhạt, tay cầm cây quạt gấp, trang điểm như một công tử quí phái, tuổi ngót ba mươi, vẻ mặt cao ngạo. Quách Tĩnh thấy hai người này phong độ trầm ổn, khác hẳn bọn địch còn lại, thì chàng không dám coi thường, bèn ôm quyền, nói:

– Hai vị là ai? Tới đây có việc gì chăng?

Công tứ quí phái nói:

– Thế các hạ là ai? Ở đây làm gì?

Khẩu âm của y lơ lớ, rõ ràng không phải là người Trung Thổ.

Quách Tĩnh nói:

– Tại hạ là đệ tử của mấy vị sư trưởng đây.

Công tử quí phái cười khẩy, nói:

– Không ngờ phái Toàn Chân lại còn có nhân vật cỡ này.

Tuổi y còn kém Quách Tĩnh vài năm, nhưng giọng điệu lời lẽ ra vẻ ta đây già dặn, kẻ cả. Quách Tĩnh đã định nói rõ rằng mình không phải là đệ tử của phái Toàn Chân, nhưng nghe giọng điệu của y, thì chàng hơi khó chịu, vốn không thạo nói năng, chàng cũng chẳng cần nhiều lời, chỉ nói:

– Hai vị có thù oán gì với phái Toàn Chân, tại sao lại hưng sư động chúng, phóng hỏa gây rối?

Công tử quí phái cười nhạt, nói:

– Ngươi là hậu bối của phái Toàn Chân, chỗ này không phải là chỗ để ngươi nói năng.

Quách Tĩnh nói:

– Các người tới đây thế này không khỏi quá ư ngang ngược.

Lúc này đám cháy lan đến gần, xem chừng chẳng mấy chốc sẽ cháy lan tới tòa nhà chính của cung Trùng Dương. Công tử quí phái xoè ra cụp vào cây quạt, tiến lên một bước, cười, nói:

– Mấy vị bằng hữu này đều do ta đưa đến, ngươi chỉ cần tiếp nổi ba mươi chiêu của ta, thì ta sẽ tha chết cho đám đạo sĩ thối tha này.

Quách Tĩnh thấy tình thế gấp gáp, không cần nhiều lời, tay phải chộp luôn lấy cây quạt kéo về phía mình; nếu gã công tứ quí phái không chịu buông cây quạt thì thân hình gã sẽ bị kéo sang. Công tử quí phái bị kéo, cố nhiên không buông cây quạt, thân hình chỉ lắc lư mấy cái. Quách Tĩnh thầm ngạc nhiên: “Người này còn ít tuổi mà chịu nổi cái kéo của ta, cách vận nội lực của y rất giống môn hộ của Tạng tăng Linh Trí Thượng Nhân, song khôn ngoan linh hoạt hơn Linh Trí Thượng Nhân nhiều chắc là một phái ở Tây Tạng. Cái khung của cây quạt đúc bằng sắt, chính là một thứ vũ khí”. Chàng bèn tăng lực ở tay, quát:

– Buông này !

Sắc mặt của gã công tử quí phái đột nhiên xuất hiện màu tím, nhưng tan đi ngay. Quách Tĩnh biết gã vận gấp nội công chống đỡ, nếu chàng lúc này gia tăng kình lực, chỉ cần trên mặt gã xuất hiện ba lần sắc tím, thì nội tạng của gã sẽ bị trọng thương, thiết nghĩ người này luyện được công phu ấy hoàn toàn không dễ, nên chàng không nỡ nặng tay đả thương gã; chỉ mỉm cười, đột nhiên buông tay ra. Công tử quí phái thầm biết đối phương võ công cao hơn hẳn gã, chẳng qua muốn giữ thể diện cho gã, nên mới không đoạt lấy cây quạt mà thôi, bèn nhảy lùi lại, mặt đỏ bừng, nói:

– Thỉnh vấn quý tính đại danh của các hạ?

Giọng nói đã rất lễ độ. Quách Tĩnh nói:

– Tiện danh của tại hạ không đáng nhớ, các vị Mã Chân Nhân, Khưu Chân Nhân, Vương Chân Nhân ở đây đều là ân sư của tại hạ.

Công tử quí phái bán tín bán nghi, nghĩ bụng vừa rồi đấu chán chê với các lão đạo sĩ, thấy họ chỉ có “Thiên Cang Bắc Đẩu trận” là lợi hại, nếu đánh riêng từng người, thì không một ai địch nổi gã, ai ngờ họ lại có một đệ tử lợi hại nhường này; bèn ngắm kỹ Quách Tĩnh từ đầu xuống chân, thấy chàng diện mạo chất phác, hết sức bình thường, quần áo vải thô, chẳng khác gì một nông phu, vậy mà võ công thì cao thâm khôn lường, bèn nói:

– Các hạ võ công kinh nhân, tại hạ vô cùng thán phục, mười năm nữa xin trở lại lãnh giáo. Ở đây tại hạ còn một tục vụ chưa làm xong, bây giờ xin cáo từ.

Nói đoạn gã chắp tay chào. Quách Tĩnh ôm quyền đáp lễ nói:

– Mười năm nữa, tại hạ xin chờ sẵn ở đây.

Công tử quí phái quay mình đi ra khỏi đại điện, đến cửa, nói:

– Cuộc giao đấu giữa tại hạ với phái Toàn Chân hôm nay tại hạ tự nhận mình thua. Chỉ mong các vị phái Toàn Chân hãy lo chuyện của mình, đừng ngăn cản việc riêng tư của tại hạ.

Theo qui củ giang hồ, một người đã tự nhận mình thua trong cuộc giao đấu, rồi đã ước hẹn thời gian tái đấu, thì từ nay đến lúc hẹn đó, đôi bên dẫu có gặp nhau ở chỗ đường hẹp, cũng không được động thủ.

Quách Tĩnh nghe gã nói vậy, liền đồng ý ngay, nói:

– Điều đó dĩ nhiên.

Công tử quí phái mỉm cười, dùng Tạng ngữ nói vài câu với Tạng tăng, đang định bước ra, thì Khưu Xứ Cơ đột nhiên đề khí quát:

– Khỏi cần đợi mười năm, Khưu Xứ Cơ ta sẽ đến tìm ngươi.

Tiếng quát của Khưu Xứ Cớ làm rung mái ngói, chứng tỏ nội lực của lão đạo sĩ vô cùng thâm hậu.

Công tử quí phái thấy ong ong trong tai, giật mình nghĩ thầm: “Lão đạo sĩ này nội lực chẳng kém chút nào, thì ra ban nãy họ chưa dốc toàn lực”. Gã không dám dừng lại thêm, rảo bước đi ra. Gã hồng bào Tạng tăng hậm hực nhìn Quách Tĩnh một cái , rồi cùng bọn kia lũ lượt kéo ra.

Quách Tĩnh thấy bọn kia có không ít kẻ diện mạo đặc biệt, hoặc mũi cao râu rậm, hoặc tóc vàng mắt sâu, hoàn toàn không phải người Trung Thổ, thì lòng đầy nghi vấn, chỉ nghe tiếng binh khí va chạm và tiếng giao đấu huyên náo ngoài sân lắng dần, biết kẻ địch đang rút lui.

Bảy vị đạo sĩ trong điện đứng dậy, vị đạo sĩ nằm phủ phục vẫn bất động. Quách Tĩnh bước lại cúi nhìn, thì ra Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông, mới biết là các vị đạo trưởng tuy bị nguy song vẫn ngồi ngay bất động, là để bảo vệ sư đệ đồng môn. Chàng thấy Hách Đại Thông mặt vàng như nghệ, hô hấp thoi thóp, hai mắt nhắm nghiền, rõ ràng bị trọng thương. Quách Tĩnh cởi đạo bào cho lão, bất giác giật mình, thấy trên ngực có một dấu bàn tay xòe năm ngón, màu tím sẫm, thấm sâu vào trong da thịt, thì nghĩ thầm: “Võ công của kẻ địch đúng là một phái ở Tây Tạng, đây là công phu Đại thủ ấn”. Chưởng không có độc, song công lực không thua gì Linh Trí Thượng Nhân năm nào. Chàng lại bắt mạch, may là mạch hồng, có lực, biết Hách Đại Thông là Huyền môn chính tông, tu luyện nhiều năm, nội lực thâm hậu, sẽ không nguy đến tính mạng.

Lúc này hỏa thế từ phía hậu viện đang lan tới gần. Khưu Xứ Cơ ôm Hách Đại Thông, nói:

– Chúng ta ra ngoài thôi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Đệ tử có mang theo một đứa bé, không biết ai đang giữ nó? Liệu nó có bị nguy hiểm vì lửa chăng?

Các vị đạo trưởng toàn tâm chống địch, chưa biết chuyện đó, nghe chàng nói, đều hỏi:

– Là con của ai vậy? Nó đâu rồi?

Quách Tĩnh chưa kịp trả lời, bỗng nhoáng trong ánh lửa có một bóng đen , rồi một cậu bé từ trên xà nhà nhảy xuống, cười nói:

– Điệt nhi đây ạ.

Chính là Dương Quá. Quách Tĩnh cả mừng, hỏi:

– Sao Quá nhi lại trốn trên xà nhà?

Dương Quá cười đáp:

– Quách bá bá đấu với bảy đạo sĩ thối tha …

Quách Tĩnh quát:

– Nói bậy, mau bái kiến tổ sư gia !

Dương Quá lè lưỡi, khấu đầu với Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất; tới trước mắt Doãn Chí Bình, nó thấy người này còn trẻ, bèn quay sang hỏi Quách Tĩnh:

– Vị này không phải là tổ sư gia phải không ạ? Điệt nhi nghĩ không cần lạy tạ.

Quách Tĩnh nói:

– Vị này là Doãn sư bá, mau khấu đầu.

Dương Quá trong lòng không chịu, nhưng đành phải khấu đầu. Quách Tĩnh thấy nó không khấu đầu với ba vị đạo sĩ trung niên, thì quát:

– Quá nhi, sao vô lễ như vậy?

Dương Quá cười đáp:

– Điệt nhi đã khấu đầu xong rồi, các vị mau kẻo không kịp, Quách bá bá đừng trách điệt nhi.

Quách Tĩnh hỏi:

– Cái gì không kịp?

Dương Quá nói:

– Có một đạo sĩ bị trói ở nhà bên kia, nếu không sang cứu, chỉ e chết cháy.

Quách Tĩnh vội hỏi:

– Ở nhà nào? Nói mau !

Dương Quá chỉ tay về phía đông, nói:

– Hình như ở bên đó, cũng không biết ai trói nữa.

Nói rồi nó cười hì hì.

Doãn Chí Bình nhìn nó một cái, chạy vội sang sương phòng phía đông, thấy không có ai, liền chạy sang tịnh thất, nơi các đệ tử đời thứ ba tu luyện nội công, vừa đạp cửa ra, thì thấy bên trong mù mịt khói, một đạo sĩ bị trói vào chân giường, miệng kêu ú ớ, tình thế đã nguy kịch. Doãn Chí Bình liền rút kiếm, cắt dây trói, cứu đạo sĩ đó ra.

Lúc này Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Quách Tĩnh, Dương Quá đều đã ra khỏi đại điện, đứng trên dốc núi nhìn hỏa thế. Phía hậu viện, lưỡi lửa lem lém, ánh lửa ửng đỏ cả một khoảng không, nguồn nước trên núi vốn không đáng kể, chỉ có dòng suối nhỏ thường ngày lấy nước uống, dùng để cứu hỏa thật không thấm tháp gì. Mọi người đành trơ mắt nhìn tòa hậu viện sừng sững dần dần sụp đổ hóa thành đống tro tàn. Chúng đệ tử phái Toàn Chân hợp lực chia cắt đường lửa, không cho lan rộng sang các dãy nhà khác. Mã Ngọc tính rất bao dung, bình thản; Khưu Xứ Cơ thì nóng nảy, càng già càng nôn nóng hơn, nhìn lửa cháy đùng đùng cứ nghiến răng chửi rủa.

Quách Tĩnh chính đang định hỏi kẻ địch là bọn nào, vì sao lại hạ độc thủ, thì Doãn Chí Bình cắp một đạo sĩ béo mập từ trong khói chạy ra. Đạo sĩ kia cứ ho sặc sụa vì khói, nước mắt nước mũi ròng ròng, vừa nhìn thấy Dương Quá thì y cả giận, nhảy xổ tới. Dương Quá cười hi hi, nấp ngay vào sau lưng Quách Tĩnh. Gã đạo sĩ mập chẳng biết Quách Tĩnh là ai, túm ngực chàng đẩy sang một bên để tóm lấy Dương Quá, nào ngờ như chạm vào một bức tường, không xê dịch được chút nào. Gã đạo sĩ mập sững lại, giơ tay chỉ Dương Quá mà mắng:

– Thằng lỏi con, mi định hại chết cha mi.

Vương Xứ Nhất quát:

– Tịnh Quang, ngươi nói gì vậy?

Gã đạo sĩ mập tên Lộc Thanh Đốc, là một đồ tôn của Vương Xứ Nhất, vừa thoát hiểm cảnh chết cháy, trông thấy Dương Quá liền nhào tới bắt nó, chẳng để ý có Chưởng giáo Chân Nhân, sư tổ gia và Khưu sư tổ đều đang ở bên cạnh, nghe tiếng quát của Vương Xứ Nhất mới biết là mình vô lễ, toát mồ hôi lạnh, cúi đầu xuôi tay, nói:

– Đệ tử đáng chết !

Vương Xứ Nhất hỏi:

– Rốt cuộc là có chuyện gì?

Lộc Thanh Đốc nói:

– Là do đệ tử vô dụng, xin sư tổ gia cứ trách phạt.

Vương Xứ Nhất hơi cau mày, nói:

– Thì có ai bảo ngươi hữu dụng đâu? Ta hỏi ngươi có chuyện gì?

Lộc Thanh Đốc thưa:

– Thưa, thưa, đệ tử phụng mệnh Triệu Chí Kính Triệu sư thúc, đứng canh ở hậu viện, sau đó Triệu sư thúc dẫn thằng lỏi … thằng … thằng …

Gã định nói “thằng lỏi con”, nhưng nghĩ trước mặt các vị sư tổ không được vô lễ, bèn sửa lại:

– …Thằng bé này đến, giao cho đệ tử, bảo nó là do đại địch của bổn giáo đưa tới, bị Triệu sư thúc tóm được, sai đệ tử canh giữ nó cẩn thận, không cho nó chạy thoát. Đệ tử bèn dẫn thằng bé này vào tịnh thất kia; ngồi một lát, thằng … thằng bé này bày quỉ kế, nói là muốn đại tiện, xin đệ tử cởi dây trói tay cho nó. Đệ tử tưởng nó là một đứa bé, cũng không sợ nó chạy mất, mới cởi trói cho nó, ai ngờ nó ngồi vào cái bô giả vờ đại tiện, lát sau đột nhiên đứng dậy, hắt cái bô phân và nước tiểu vào người đệ tử …

Lộc Thanh Đốc kể tới đây, Dương Quá phì cười, Lộc Thanh Đốc giận dữ nói:

– Thằng … thằng bé này, mi cười cái gì?

Dương Quá ngẩng mặt lên trời, vừa cười vừa nói:

– Đây cười mình, đấy quản được chăng?

Lộc Thanh Đốc định đấu khẩu với Dương Quá, thì Vương Xứ Nhất nói:

– Đừng có hơn thua với một đứa bé, hãy kể tiếp xem.

Lộc Thanh Đốc nói:

– Vâng, vâng, sư tổ gia chưa biết đấy, thằng bé này giảo hoạt vô cùng. Đệ tử thấy nó hắt phân về phía mình, vội né tránh, thì nó cười cười bảo, ấy chết, đây lỡ tay làm bẩn quần áo của đằng ấy …

Mọi người thấy Lộc Thanh Đốc bắt chước giọng nói của Dương Quá nhắc lại lời nó, thì đều cười thầm.

Vương Xứ Nhất cau mày, định đuổi gã đồ tôn cho khuất mắt.

Lộc Thanh Đốc kể tiếp:

– Đệ tử bực quá, xông tới định đánh nó, nào ngờ nó lại ném cả cái bô phân vào người đệ tử, đệ tử quát to, mi giở trò gì thế, vội sử chiêu “Cấp lưu dũng thoái”, tung cước đá trúng cái bô văng đi, không ngờ trượt chân bị ngã … cái thằng … thằng bé này lại thừa lúc đệ tử hoảng hốt, rút thanh bội kiếm của đệ tử, chĩa kiếm vào đầu đệ tử, bắt đệ tử phải ngồi im, nếu cựa quậy nó sẽ cho biết tay. Đệ tử đành phải ngồi im. Nó tay trái cầm kiếm, tay phải lấy dây thừng trói đệ tử vào chân giường, lại cắt một vạt áo nhét vào miệng đệ tử. Sau đó hậu viện bị cháy đệ tử đi không được, kêu chẳng xong, may có Doãn sư thúc, chứ không thì sẽ bị thằng bé này làm cho chết cháy.

Nói đoạn gã hậm hực nhìn Dương Quá.

Mọi người nghe gã kể xong, nhìn Dương Quá, lại nhìn gã, thấy một đằng gầy gò bé nhỏ, một đằng cao to mập mạp, không khỏi cười ồ lên.

Lộc Thanh Đốc không hiểu vì sao bị mọi người cười, đưa tay gãi gáy, chân tay bối rối.

Mã Ngọc cười, nói:

– Tĩnh nhi, đứa bé này là con của ngươi đó ư? Chắc nó học được bản lĩnh của mẫu thân nó, nên cơ linh phải biết.

Quách Tĩnh nói:

– Thưa không, nó là con của nghĩa đệ Dương Khang, khi phụ thân nó mất, nó còn trong bụng mẹ đấy ạ.

Khưu Xứ Cơ nghe hai tiếng Dương Khang thì nhìn kỹ Dương Quá, quả nhiên thằng bé mặt mũi có nhiều nét hao hao Dương Khang. Dương Khang là tục gia đệ tử duy nhất của lão nhân, tuy tham đồ phú quí, nhận giặc làm cha, nhưng Khưu Xứ Cơ mỗi khi nhớ đến, đều cho là mình không biết giáo huấn, để cho hắn sa vào con đường lầm lạc; nay nghe hắn có kẻ nối dõi, thì vừa thương cảm, vừa vui mừng, vội hỏi thật kỹ.

Quách Tĩnh kể vắn tắt thân thế của Dương Quá, rồi bảo rằng chàng mang nó đến đây để bái nhập môn hạ phái Toàn Chân. Khưu Xứ Cơ nói:

– Tĩnh nhi, võ công của ngươi từ lâu đã cao hơn bọn ta, sao không tự truyền thụ cho nó?

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện này đệ tử xin bẩm cáo sau. Hôm nay đệ tử lên đây, đắc tội với quá nhiều đạo huynh, thật là áy náy, xin tạ tội với các vị đạo trưởng, xin được lượng thứ cho.

Rồi chàng kể lại việc bị các đạo sĩ cho là kẻ địch, phải liên tiếp động thủ. Mã Ngọc nói:

– Nếu Tĩnh nhi không kịp tới cứu viện, e rằng phái Toàn Chân khó tránh đại bại. Tất cả đều là người một nhà, không cần nói đến chuyện đắc tội gì nữa.

Khưu Xứ Cơ lông mày lưỡi mác đã dựng lên từ nãy, chờ sư huynh chưởng giáo nói xong, liền nói:

– Chí Kính chủ trì chiến trận bên ngoài, bất phân địch ta, thật là vô dụng. Ta đang lấy làm lạ, chuyện này kể ra thì dài, để ta dẫn ngươi đi xem cái này.

Nói đoạn quay sang gật gật đầu với Mã Ngọc và Vương Xứ Nhất, rồi quay mình đi ra sau núi. Quách Tĩnh nói với Dương Quá:

– Quá nhi, hãy ở đây chờ ta, đừng đi đâu cả.

Rồi chàng đi theo Khưu Xứ Cơ, thấy lão đạo sĩ đi nhanh ra sau núi, vẻ hăng hái y hệt thời trẻ.

Hai người tới một đỉnh núi. Khưu Xứ Cơ bước lại phía sau một tảng đá lớn, nói:

– Ở đây có khắc chữ.

Lúc này sắc trời mờ tối, phía sau tảng đá lớn càng tối hơn, Quách Tĩnh đưa tay sờ, quả nhiên thấy trên mặt đá có chữ, bèn sờ tay theo hàng chữ mà đọc nhẩm, hóa ra là một bài thơ như sau:

Tử Phòng ôm mộng phản Tần

Nhặt hài ba lượt dưới chân thạch kiều

Một tay phò tá Hán triều

Chống trời trụ đất cao siêu không cùng

Công thành rũ áo ung dung

Lui về theo gót Xích Tùng ngao du

Kỳ nhân cùng với kỳ thư

Có đâu tìm kẻ thiên tư tầm thường

Toàn Chân khởi tự Trùng Dương

Thanh cao khoát đạt một phương anh hùng

Dựng cờ đánh đuổi Khuyển Nhung

Vận trời khó cưỡng thu lòng mộ sâu

Ban sơ truyền đạo nhiệm màu

Hai tiên kim cổ gặp nhau chốn này

Chung Nam núi ấy hôm nay

Điện thờ cao vút tầng mây trập trùng

Quách Tĩnh dùng ngón tay ấn theo các nét bút viết trên đá, bỗng kinh ngạc thấy các nét bút hoàn toàn phù hợp với ngón tay, nghĩa là người ta đã dùng ngón tay viết trên đá, thì chàng buột miệng thốt lên:

– Dùng ngón tay viết trên đá !

Khưu Xứ Cơ nói:

– Việc này mà kể ra thì người nghe phải kinh hoàng, nhưng đúng là dùng ngón tay viết trên đá !

Quách Tĩnh lấy làm lạ, nói:

– Chẳng lẽ thế gian có người thần tình như vậy thật sao?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Bài thơ trên do hai người viết, cả hai người ấy đều là nhân vật kiệt xuất trong võ lâm. Người viết tám câu đầu có thân thế vô cùng đặc biệt, văn võ toàn tài, phiêu dật tuyệt luân, tuy không phải là thần tiên, song cũng là nhân kiệt trăm năm mới có.

Quách Tĩnh hết sức ngưỡng mộ, vội hỏi:

– Vị tiền bối đó là ai vậy? Đạo trưởng có thể dẫn kiến cho đệ tử được bái hội hay chăng?

Khưu Xứ Cơ đáp:

– Ta cũng chưa được gặp vị đó. Ngươi hãy ngồi xuống đây, nghe ta kể cho biết duyên do sự việc hôm nay.

Quách Tĩnh vâng lời ngồi xuống một táng đá, nhìn lửa lụi dần ở lưng núi, nghĩ thầm: “Tiếc rằng lần này Dung nhi không cùng đi với ta, nếu không có phải đã được nghe Khưu đạo trưởng kể cho nghe kỳ tích rồi?”.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ý tứ bài thơ thế nào, ngươi có hiểu được không?

Quách Tĩnh hiện đã là trung niên, nhưng Khưu Xứ Cơ nói với chàng cứ như thể chàng còn là một thiếu niên hơn mười năm trước; Quách Tĩnh cũng cảm thấy nên như vậy, bèn đáp:

– Tám câu đầu là nói về Trương Lương. Câu chuyện ấy đệ tử từng nghe Dung nhi kể, nên cũng hiểu được, rằng Trương Lương có nhặt giày cho một lão nhân ở dưới cầu; lão nhân bảo trẻ nhỏ dễ dạy, truyền cho Trương Lương một quyển sách lạ. Về sau Trương Lương phò tá Hán Cao Tổ khai quốc, được tôn là một trong ba “Hán hưng tam kiệt”, cuối cùng thành công liền xin lui về ẩn cư, làm bạn với những cây tùng đỏ. Còn tám câu sau nói về sự tích tổ sư Trùng Dương, đệ tử không hiểu cho lắm.

Khưu Xứ Cơ hỏi:

– Ngươi có biết tổ sư Trùng Dương là ai không?

Quách Tĩnh sững người, đáp:

– Tổ sư Trùng Dương là sư phụ của đạo trưởng, là tổ sư khai sáng phái Toàn Chân, tại cuộc luận kiếm ở Hoa Sơn, là đệ nhất võ công thiên hạ.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế, nhưng còn thời trẻ thì sao?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– Đệ tử không biết.

Khưu Xứ Cơ nói:

– “Kiêu kiêu anh hùng tư, Thừa thời hoặc cát cứ”.

Ân sư của ta không phải ngay từ đầu đã làm đạo sĩ. Thời niên thiếu, người học văn, sau mới luyện võ, là một vị anh hùng hảo hán tung hoành giang hồ, vì căm ghét quân Kim xâm lược, cướp đất của chúng ta, giết hại dân ta, mà người đã giương cờ khởi nghĩa, đánh lại quân Kim, chiếm thành giữ đất, xây dựng ở Trung Nguyên một sự nghiệp oanh liệt. Nhưng về sau quân Kim quá mạnh, ân sư liên tục đánh thua nhiều trận, tướng sĩ thương vong gần hết, người mới phẫn chí xuất gia. Bấy giờ ân sư xưng là “Hoạt tử nhân”, ở trong một ngôi mộ cổ trên núi Chung Nam này mấy năm liền, không ra khỏi mộ một bước, ngụ ý là tuy sống đấy, nhưng coi như đã chết, không muốn đội trời chung với quân Kim. Ba chữ “Hoạt tử nhân” là hàm ý như vậy.

Quách Tĩnh nói:

– Thì ra thế.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Mấy năm sau, cố nhân hảo hữu, đồng bào cựu bộ của ân sư liên tiếp đến thăm, khuyên người rời mộ dựng lại sự nghiệp. Ân sư đã không còn chí hướng như xưa, lại cảm thấy không còn mặt mũi nào nhìn bằng hữu cũ chốn giang hồ, nên thủy chung vẫn không rời mộ. Tám năm sau, có một kình địch ngày trước của ân sư tới bên mộ nhục mạ ân sư suốt bảy ngày bảy đêm, ân sư hết bề nhịn nổi, liền ra khỏi mộ để giao đấu. Ai ngờ người kia phá lên cười ha hả, nói:

– Đã ra khỏi mộ, tức là sống lại rồi, thì không được vào mộ nữa.

Ân sư bỗng ngộ ra, mới biết kình địch nhục mạ mình là vì thiện ý, không muốn mình chôn vùi tài nghệ trong mộ. Thế là hai người hóa thành bằng hữu, cùng hành tẩu giang hồ.

Quách Tĩnh nghĩ đến phong cách hiệp nghĩa của tiền bối, bất giác chăm chú, hỏi:

– Vị tiền bối đó là ai vậy? Chắc là một trong bốn đại tông sư, không phải Đông Tà, Tây Độc, thì là Nam Đế, Bắc Cái?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Không phải. Luận về võ công, người ấy còn cao hơn cả bốn đại tông sư, nhưng vì là nữ, không xuất đầu lộ diện, nên ít ai bên ngoài hay biết.

Quách Tĩnh nói:

– Ồ, thì ra là nữ.

Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Vị tiền bối đó đối với ân sư rất có tình ý, chỉ mong kết thành phu phụ với ân sư. Bấy giờ hai người cứ không ngừng gây sự với nhau, chẳng qua cũng vì vị tiền bối đó cố ý gần gũi với ân sư; có điều là nàng quá kiêu hãnh, nên nhất quyết không muốn thổ lộ tình ý trước. Lâu ngày tất nhiên ân sư cũng hiểu thôi, nhưng mối thù của đất nước chưa nguôi, ân sư thường nói, chưa diệt Hung nô, không tính chuyện gia thất. Trước thâm tình hậu ý của vị tiền bối kia, ân sư giả ngây không biết. Vị tiền bối thì lại cho rằng ân sư coi thường nàng ta, nên oán hận vô cùng. Hai người vốn đã từ thù hóa thành bạn, bây giờ lại vì ái tình mà hóa thành thù địch, hẹn nhau tỷ võ quyết thắng một phen trên núi Chưng Nam.

Quách Tĩnh nói:

– Đâu cần phải thế.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng vậy ! Ân sư biết rõ thiện ý của nàng, nên nhất mực nhường nhịn. Ai ngờ nàng ta tính nết ngang ngạnh, nói:

– Huynh càng nhường nhịn, tức là càng coi muội chẳng ra gì.

Ân sư hết cách, đành phải động thủ với nàng ta. Bấy giờ hai vị tiền bối tỷ võ với nhau ở chính chỗ này đây; đấu mấy nghìn chiêu, ân sư không nặng tay, nên mãi vẫn khó phân thắng bại. Nàng ta tức giận, nói:

– Huynh hoàn toàn không có ý giao đấu với muội, vậy định coi muội là hạng người như thế nào?

Ân sư nói:

– Tỷ võ khó phân thắng bại, thì ta tỷ văn vậy.

Nàng ta nói:

– Cũng được, nếu muội thua, suốt đời muội sẽ không nhìn mặt huynh, để cho huynh khỏi chướng mắt bẩn tai.

Ân sư hỏi:

– Nếu muội thắng thì sao?

Nàng ta đỏ mặt, chẳng biết trả lời thế nào, cuối cùng nghiến răng, nói:

– Thì huynh phải cho muội trú trong “Hoạt tử nhân mộ”.

Câu này của nàng thật là văn vẻ, ngụ ý là nếu nàng thắng, thì sẽ cùng ân sư chung sống trong ngôi mộ. Ân sư thấy quá khó, tự liệu võ công cao hơn nàng một bậc, bị buộc thế này thì đành phải thắng nàng, để tránh mọi sự rắc rối về sau, bèn hỏi nàng cách thi đấu.

Nàng nói:

– Hôm nay chúng ta mệt rồi, tối mai hãy phân thắng bại.

Hoàng hôn hôm sau, hai người lại gặp nhau ở đây. Nàng nói:

– Trước khi thi đấu, hãy định qui củ đã.

Ân sư hỏi:

– Còn định qui củ gì nữa?

Nàng ta nói:

– Nếu huynh đắc thắng, muội sẽ tự vẫn tại chỗ, thế là không bao giờ còn thấy mặt nhau. Nếu muội thắng, thì huynh phải cho muội trú trong “hoạt tử nhân mộ”, suốt đời nghe muội sai bảo, không được làm trái bất cứ việc gì. Nếu không, huynh sẽ phải xuất gia, hoặc làm đạo sĩ, hoặc làm hòa thượng. Dù làm đạo sĩ hay hòa thượng, thì cũng phải xây dựng tự quán trên núi, ở bên muội mười năm.

Ân sư đã hiểu thầm: “Suốt đời nghe muội sai bảo, tức là ta phải lấy nàng làm vợ. Nếu không, phải làm hòa thượng hoặc đạo sĩ, thì sẽ khỏi phải lấy nàng. Ta nỡ nào thắng nàng, buộc nàng tự sát kia chứ? Nhưng ở trên núi với nàng mười năm thì cũng khó đây!”. Ân sư cứ lưỡng lự mãi. Thực ra, về diện mạo cũng như võ công, nàng ta đều vào hàng đệ nhất, mối thâm tình của nàng cũng không phải không khiến cho ân sư động tâm; nhưng chẳng hiểu sao, nói đến chuyện kết thành phu phụ, thì dường như hai người không có duyên phận. Ân sư trầm ngâm hồi lâu, đã quyết định, người này nói sao làm vậy nàng ta mà thua ắt sẽ tự sát; thôi thì ta quên mình theo người, bất kể thi kiểu gì, ta cũng thua nàng cho rồi, bèn nói:

– Được, cứ thế.

Nàng nói:

– Cách thi văn của chúng ta cực dễ. Hai bên dùng ngón tay khắc trên tảng đá này vài chữ, ai viết đẹp hơn thì thắng.

Ân sư nói:

– Dùng ngón tay làm sao có thể khắc chữ trên đá?

Nàng nói:

– Cái đó gọi là thi công phu sử dụng đầu ngón tay, xem ai khắc được sâu hơn.

Ân sư lắc đầu, nói:

– Huynh không phải là thần tiên, làm sao có thể dùng ngón tay khắc chữ trên đá kia chứ?

Nàng ta nói:

– Nếu muội làm được, thì huynh chịu thua chứ?

Ân sư lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, nghĩ bụng thế gian quyết không thể có chuyện đó, đây chính là dịp chấm dứt trò thi đấu, thành cục diện bất phân thắng bại, bèn nói:

– Nếu muội có tài như vậy, dĩ nhiên là huynh chịu thua. Nếu muội không làm được, thì hai ta bất phân cao thấp, khỏi cần tỷ thí gì nữa.

Nàng ta cười, nói:

– Được rồi, huynh chuẩn bị làm đạo sĩ đi thì vừa.

Nói xong tay trái nàng xoa xoa trên mặt đá một hồi lâu, ngẫm nghĩ, nói:

– Muội nên khắc chữ gì cho hay nhỉ? Ồ, xưa nay người xuất gia, thì vị anh hùng hào kiệt số một là Trương Tử Phòng. Trương Tử Phòng chống quân Tần tàn bạo, không ham danh lợi, chính là tiền bối của huynh.

Thế là nàng dùng ngón trỏ tay phải viết chữ trên đá, ân sư thấy ngón tay nàng đưa tới đâu, vụn đá rơi lả tả tới đó, quả nhiên thành từng hàng chữ một, thì sửng sốt quá đỗi. Những chữ nàng viết trên đá chính là tám câu đầu của bài thơ này. Ân sư quá thán phục, không còn gì để nói, ngay tối hôm đó, dọn ra khỏi “hoạt tử nhân mộ”, để cho nàng vào ở trong đó. Hôm sau thì ân sư xuất gia làm đạo sĩ, cạnh “hoạt tử nhân mộ” xây dựng một đạo quán nho nhỏ, là tiền thân của cung Trùng Dương bây giờ.

Quách Tĩnh vô cùng ngạc nhiên, đưa ngón tay sờ sờ lần nữa, quả nhiên không phải là tạc hay khắc, mà là dùng ngón tay ấn mạnh để viết trên đá, bèn nói:

– Công phu dùng ngón tay của vị tiền bối ấy quả thật kinh hồn.

Khưu Xứ Cơ ngửa mặt lên trời cười ha hả, nói:

– Tĩnh nhi, việc đó đã lừa được ân sư, lừa được ta, lừa được cả ngươi nữa. Nhưng nếu nội tướng (vợ) của ngươi bấy giờ có mặt ở đó, thì chắc chắn sẽ không bị lừa.

Quách Tĩnh tròn mắt hỏi:

– Không lẽ có sự dối trá trong đó?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Dối trá thì không. Ngươi thử nghĩ xem, thời nay luận về chỉ lực thì ai đứng số một?

Quách Tĩnh nói:

– Tất nhiên là “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế. Nếu sử dụng “chỉ thượng công phu” xuất thần nhập hóa của Nhất Đăng đại sư, dẫu khắc chữ trên gỗ cũng vị tất đã được, huống hồ viết chữ trên đá? Mà nàng ta thì không phải là Nhất Đăng đại sư. Ân sư làm đạo sĩ rồi, nghĩ mãi vẫn không hiểu nổi chuyện này. Sau đó nhạc phụ ngươi là Hoàng Dược Sư tiền bối có lên núi Chung Nam, ân sư biết Hoàng Dược Sư tiền bối là bậc túc trí đa mưu, mới kể lại chuyện và thỉnh giáo. Hoàng đảo chủ nghĩ hồi lâu, rồi cười ha hả, nói:

– Ta cũng có thể làm được, nhưng công phu như thế hiện chưa luyện xong. Một tháng sau ta sẽ trở lại.

Nói rồi Hoàng đảo chủ cười cười xuống núi. Một tháng sau Hoàng đảo chủ trở lại thật, cùng ân sư tới bên tảng đá này. Vị nữ tiền bối nọ viết cả thảy tám câu, đến “Dị nhân dữ dị thư, Tạo vật bất khinh phó” thì dừng, ngụ ý muốn ân sư làm theo Trương Lương, lánh đời xuất gia. Hoàng đảo chủ tay trái xoa xoa trên mặt đá hồi lâu, đột nhiên giơ tay phải, dùng ngón tay viết trên đá từ câu “Trùng Dương khởi Toàn Chân” đến câu “Điện các lăng vân vụ” thì dừng, toàn là những lời ca tụng ân sư cả.

Ân sư thấy các chữ cũng hằn sâu vào đá không khác gì lần trước, thì càng kinh ngạc hơn, nghĩ thầm: “Tài nghệ của Hoàng Dược Sư hiển nhiên hơn ta một bậc, làm cách nào mà luyện được chỉ lực lợi hại đến thế không biết?”. Trong bụng đầy nghi vấn, đột nhiên giơ ngón tay ấn vào mặt đá một cái, thì lạ thay, mặt đá lõm vào thành một cái lỗ như thế này đây.

Nói xong Khưu Xứ Cơ kéo ngón tay Quách Tĩnh tới một chỗ trên mặt đá. Quách Tĩnh dùng ngón tay trỏ ấn vào thấy lọt một đốt, thì nghĩ thầm: “Không lẽ mặt đá chỗ này đặc biệt mềm, không như chỗ khác”, bèn vận kình ra đầu ngón tay trỏ, ấn thử, thì đau ngón tay mà đá thì chẳng suy suyển gì.

Khưu Xứ Cơ cười nói:

– Ngốc nghếch như ngươi thì chẳng nghĩ ra được bí quyết đâu. Vị nữ tiền bối kia trước khi dùng ngón tay viết chữ, đã dùng bàn tay trái xoa xoa hồi lâu trên mặt đá, nguyên trong lòng bàn tay có giấu một loại “hóa thạch đan” làm cho mặt đá mềm đi, bằng thời gian cháy hết một que nhang mới cứng trở lại. Hoàng đảo chủ đoán biết như thế, mới xuống núi tìm thảo dược, chế hóa thạch đan, viết được y như vị nữ tiền bối kia.

Quách Tĩnh im lặng hồi lâu, nghĩ thầm: “Nhạc phụ của ta tài trí chả kém gì vị nữ tiền bối kia, nhưng không biết hiện giờ nhạc phụ đang ở đâu”.

Khưu Xứ Cơ không rõ tâm sự của Quách Tĩnh, kể tiếp:

– Ân sư hồi mới làm đạo sĩ, trong tâm hết sức bất bình, nhưng đọc nhiều sách đạo rồi, cuối cùng đại triệt đại ngộ, hiểu rằng tất cả đều là duyên pháp; lại nghiền ngẫm diệu chỉ thanh tịnh hư vô, khổ tâm tiềm tu, làm sáng danh giáo phái. Nếu không có sự kích động của vị nữ tiền bối kia, hẳn trên thế gian đã chẳng có giáo phái Toàn Chân, Khưu mỗ cũng không có ngày hôm nay, Quách Tĩnh ngươi cũng không biết giờ này ở đâu.

Quách Tĩnh gật đầu, hỏi:

– Không biết vị nữ tiền bối húy danh là gì, hiện còn sống hay chăng?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Vị nữ tiền bối đó hồi ấy hành hiệp giang hồ, hành tích bí ẩn lạ thường, rất ít người biết được mặt nàng. Trừ Ân sư ra, e rằng trên thế gian không còn ai biết họ tên thật của nàng ta. Ân sư cũng không nói cho ai biết. Nàng ta đã từ trần từ trước khi diễn ra cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất, nếu không với võ công và tính nết như thế, lẽ nào nàng ta lại không tham gia?

Quách Tĩnh gật đầu, nói:

– Đúng thế. Không biết có để lại truyền nhân hay chăng?

Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Rắc rối chính là ở chỗ này. Vị nữ tiền bối ấy bình sinh không thu nhận đệ tử, chỉ có một a hoàn hầu cận, hai người khổ thủ ở trong nhà mộ, hơn mười năm không ra ngoài. Bao nhiêu võ công kinh nhân, vị nữ tiền bối đều truyền thụ cả cho a hoàn. Nữ a hoàn ấy không đặt chân vào chốn giang hồ, dĩ nhiên không ai hay biết. Nữ a hoàn đó có thu nhận hai đệ tử. Một người họ Lý, chắc ngươi có biết, trên giang hồ người ta vẫn gọi nàng ta là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Quách Tĩnh ồ lên một tiếng, nói:

– Nàng Lý Mạc Sầu tính nết tàn độc thì ra xuất thân từ đấy.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ngươi đã gặp Lý Mạc Sầu rồi ư?

Quách Tĩnh lắc đầu, nói:

– Dạ chưa. Đệ tử chưa gặp mặt, chỉ thấy mấy nạn nhân bị nàng ta hạ sát vô cùng tàn bạo, xem ra còn ác độc hơn cả Thiết Thi Mai Siêu Phong ngày trước.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Ngươi không đả thương nàng ta cũng là cái hay, nếu không sẽ hết sức phiền toái. Sư muội của Lý Mạc Sầu họ Long …

Quách Tĩnh chột dạ, hỏi:

– Có phải là thiếu nữ họ Long hay không?

Khưu Xứ Cơ mặt hơi biến sắc, hỏi:

– Sao, ngươi cũng gặp nàng ta rồi ư? Vì chuyện gì thế?

Quách Tĩnh đáp:

– Đệ tử chưa hề gặp người đó, chỉ là khi lên núi, mấy lần đệ tử cứ bị các vị đạo huynh chửi là yêu nhân dâm tặc, bảo rằng đệ tử vì thiếu nữ họ Long mà đến, khiến đệ tử chẳng hiểu đầu cua tai nheo sao cả.

Khưu Xứ Cơ cười to, rồi thở dài, nói:

– Cung Trùng Dương gặp kiếp nạn cũng đáng. Nếu không có sự ngộ nhận ấy, thì “Thiên Cang Bắc Đẩu đại trận” đã chặn đứng được bọn tà ma kia, ngươi đã nhanh chóng lên trên núi, Hách sư đệ cũng chẳng đến nỗi bị trọng thương.

Thấy vẻ mặt ngơ ngác của Quách Tĩnh, Khưu Xứ Cơ nói tiếp:

– Hôm nay là ngày thiếu nữ họ Long tròn mười tám tuổi.

Quách Tĩnh tiếp lời:

– Thì ra là nàng ta tròn mười tám tuổi.

Nhưng một thiếu nữ tròn mười tám tuổi, tại sao lại liên quan đến đại họa, thì chàng không hiểu gì cả.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Thiếu nữ họ Long tên là gì, người ngoài chẳng ai hay biết. Bọn tà ma ngoại đạo gọi nàng ta là Tiểu Long Nữ. Chúng ta cũng cứ tạm gọi nàng ta như vậy. Mười tám năm về trước, một đêm nọ, bên ngoài cung Trùng Dương bỗng dưng có tiếng khóc trẻ thơ, đệ tử trong cung vội ra xem, thấy một đứa bé sơ sinh quấn tã đặt dưới đất. Cung Trùng Dương nhận nuôi dưỡng một đứa bé sơ sinh dĩ nhiên là không tiện chút nào, song người tu hành lấy từ bi làm gốc, không thể bỏ mặc một đứa bé sơ sinh.

Hôm ấy sư huynh chưởng giáo và ta không có trên núi, các đệ tử chưa biết làm thế nào, đột nhiên có một phụ nữ trung niên từ sau núi tới nói:

– Đứa bé này thật đáng thương, để ta mang nó về nuôi!

Các đệ tử chẳng mong gì hơn, bèn giao đứa bé cho người phụ nữ ấy. Khi Mã sư huynh và ta về cung, mọi người kể chuyện đó, miêu tả diện mạo của người phụ nữ kia, bọn ta mới biết người đó chính là a hoàn sống trong “hoạt tử nhân mộ”. Người ấy và Toàn Chân Thất Tử bọn ta từng gặp nhau mấy lần, nhưng không hề trò chuyện với nhau. Hai bên cách nhau tuy rất gần, nhưng vì bề trên đôi bên có chuyện bất hòa, cho nên đôi bên không quan hệ gì với nhau. Bọn ta nghe kể chuyện kia, cũng không để tâm.

Sau này nữ đệ tử Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu xuống núi, hành sự tàn ác, võ nghệ cực cao, gây một phen sóng gió ngả nghiêng trong giang hồ. Phái Toàn Chân mấy lần thương nghị định trừng trị nàng ta, nhưng cuối cùng vẫn không ra tay vì nể mặt vị đạo hữu ở trong mộ. Bọn ta viết một bức thư gửi sang ngôi mộ, lời lẽ vô cùng khách khí. Nhưng sau khi đưa thư sang đó, mãi vẫn không thấy hồi âm, người phụ nữ kia cứ dung túng cho Lý Mạc Sầu như cũ, không quản thúc gì hết.

Mấy năm sau, một hôm trên nhà mộ treo lên một cây phướn trắng. Bọn ta biết là vị đạo hữu kia đã từ trần, thế nên sáu huynh đệ bọn ta sang đó thăm viếng. Lễ viếng ở bên ngoài nhà mộ vừa xong, thì từ trong nhà mộ có một thiếu nữ mười ba mười bốn tuổi bước ra đáp lễ, cảm tạ, nói:

– Lúc sư phụ lâm chung, có bảo đệ tử thưa với các vị đạo trưởng, là người kia hoành hành tác ác, sư phụ tự có cách chế ngự, xin các vị đừng lo ngại.

Nói xong quay người đi vào. Bọn ta định hỏi cho rõ, thì nàng ta đã đi vào trong mộ. Ân sư từng có di huấn, bất cứ ai là môn hạ của phái Toàn Chân đều không được bước vào trong nhà mộ. Nàng ta đã đi vào rồi thì thôi, có điều ai nấy lấy làm lạ, vị đạo hữu kia đã chết, thì làm sao còn có cách chế ngự đệ tử kia chứ? Thấy thiếu nữ cô đơn đáng thương, bọn ta thường đưa sang tặng một số lương thực vật dụng, nhưng lần nào thiếu nữ cũng để nguyên, sai một người tỳ nữ mang trả lại. Bọn ta thấy thiếu nữ này cũng muốn lánh đời như tổ sư và sư phụ của nàng ta, nhưng nàng ta đã có một tỳ nữ hầu hạ, nên bọn ta cũng chẳng hơi đâu lo thay cho người khác. Sau đó bọn ta bận rộn công việc ở khắp nơi, ít ở trong cung. Tin tức về cô nương ấy bọn ta cũng hiếm khi nghe nói, chả biết thế nào. Lý Mạc Sầu thì tự dưng không nghe nói gây sự gì trên giang hồ cả. Bọn ta cho rằng vị đạo hữu kia quả có diệu sách để lại, nên rất khâm phục.

Mùa xuân năm ngoái, ta cùng Vương sư đệ đến vùng Tây Bắc có công việc, tại nhà một vị đại hiệp ở Cam Châu, có nghe được một cái tin đáng sợ, rằng một năm sau, bọn tà ma ngoại đạo từ bốn phương sẽ tụ tập ở núi Chung Nam để hành sự. Núi Chung Nam là căn cứ địa chủ yếu của phái Toàn Chân, bọn chúng tới tất nhiên là để gây sự với bổn giáo, há có thể không đề phòng? Ta cùng Vương sư đệ còn e tin này không đích xác phái người đi các nơi dò la, quả nhiên không phải là tin bịa đặt. Có điều là bọn chúng tới núi Chung Nam không phải để tấn công bổn giáo, mà là có mưu đồ đối với nàng Tiểu Long Nữ trong “Hoạt tử nhân mộ”.

Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Đối với một thiếu nữ nhỏ tuổi, lại không hề ra bên ngoài, sao lại có chuyện sinh oán kết cừu với bọn tà ma ngoại đạo?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Rốt cuộc nội tình ra sao, cũng chẳng liên quan gì tới chúng ta, kể ra cũng không cần can thiệp. Nhưng một khi bọn tà ma ngoại đạo đến núi Chung Nam, chúng ta không thể khoanh tay đứng ngoài, thế là mới tìm cách thám thính, thì biết việc này là do sư tỷ của Tiểu Long Nữ gây nên.

Quách Tĩnh hỏi:

– Do Lý Mạc Sầu ư?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đúng thế. Nguyên sư phụ của hai nàng dạy võ cho Lý Mạc Sầu được mấy năm, thấy bản tính của nàng ta độc ác, bèn bảo rằng nàng ta học nghệ đã thành, có thể hạ sơn. Hồi sư phụ còn sống, Lý Mạc Sầu tuy hành ác, song vẫn có vài phần nghi ngại. Khi sư phụ qua đời rồi, nàng ta mượn có viếng tang, xông vào lục lọi trong tòa cổ mộ, định đuổi sư muội ra ngoài. Nàng ta tự biết chưa được học hết võ công của sư tổ và sư phụ, muốn lục lọi trong mộ xem có bí kíp võ công nào để lại hay chăng. Nào ngờ trong nhà mộ bố trí rất nhiều cơ quan xảo diệu, Lý Mạc Sầu phí bao tâm cơ mới qua được hai cửa, ở cửa thứ ba nàng ta nhìn thấy một bức di thư của sư phụ. Sư phụ của nàng ta sớm đã dự liệu việc nàng ta sẽ tới đây, bức thư này chờ nàng ta từ lâu, trong đó viết, vào ngày mỗ tháng mỗ năm mỗ, sư muội của nàng sẽ tròn mười tám tuổi, từ lúc ấy sẽ bắt đầu đảm nhận cương vị chưởng môn phái. Di thư còn dặn nàng ta phái sửa chữa lỗi lầm đã phạm, nếu không ắt khó có được kết cục tử tế; cũng nói rõ, nếu nàng ta còn làm điều ác, sư muội của nàng ta sẽ lấy tư cách chưởng môn mà thanh lý môn hộ.

Lý Mạc Sầu tức giận, cứ xông vào cửa thứ ba, song bị trúng độc kế mà sư phụ của nàng ta sắp đặt từ trước; nếu không có Tiểu Long Nữ chữa trị cho, thì có lẽ đã mất mạng tại chỗ. Lý Mạc Sầu biết lợi hại, đành rút lui, nhưng đâu dễ cam tâm bó tay? Sau đó nàng ta còn mấy phen lọt vào, nhưng đều thất bại chua cay. Lần cuối cùng nàng ta động thủ với sư muội. Bấy giờ Tiểu Long Nữ còn chưa đầy mười lăm tuổi, song võ công đã hơn hẳn sư tỷ, chẳng qua hạ thủ lưu tình, chứ không thì việc lấy mạng Lý Mạc Sầu chẳng có gì khó…

Quách Tĩnh nói xen vào:

– Chuyện đó chỉ e giang hồ đồn đại không đích xác.

Khưu Xứ Cơ hỏi:

– Tại sao?

Quách Tĩnh nói:

– Ân sư của đệ tử là Kha đại hiệp từng đấu hai trận với Lý Mạc Sầu, bảo rằng võ công của nàng ta quả rất độc đáo. Ngay một cao đồ của Nhất Đăng đại sư là Võ Tam Thông Võ đại ca mà cũng bại dưới tay nàng ta, thì Tiểu Long Nữ chưa đầy hai mươi tuổi, dù bản lĩnh đến mấy, cũng khó lòng thắng nổi.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Đấy là Vương sư đệ nghe một vị bằng hữu trên giang hồ kể thế, còn Tiểu Long Nữ có giỏi hơn Lý Mạc Sầu hay không, không có người thứ ba chứng kiến, thì ai mà biết được, chỉ là giang hồ đồn đại như vậy. Tức thị Lý Mạc Sầu đem lòng oán hận, biết rằng sư phụ thiên vị, dành công phu tối thượng thừa truyền cho sư muội, bèn loan tin đi, rằng vào ngày mỗ tháng mỗ năm mỗ Tiểu Long Nữ ở “Hoạt tử nhân mộ” sẽ tỷ võ chiêu thân (đấu võ kén chồng).

Quách Tĩnh vừa nghe bốn chữ “tỷ võ chiêu thân” liền nhớ đến chuyện của Dương Khang, Mục Niệm Từ ở Bắc Kinh, bất giác ồ khẽ một tiếng.

Khưu Xứ Cơ biết tâm ý của chàng, cũng thở dài, nói:

– Lý Mạc Sầu loan tin, rằng nếu có ai thắng được Tiểu Long Nữ, chẳng những Tiểu Long Nữ sẽ lấy người đó làm chồng, mà bao nhiêu thứ kỳ trân dị bảo, bí kíp võ công có trong mộ sẽ đem tặng hết.

Bọn tà ma ngoại đạo vốn không biết Tiểu Long Nữ là người như thế nào, nhưng nghe Lý Mạc Sầu loan tin khắp nơi, rằng sư muội của nàng ta có diện mạo xinh đẹp hơn nàng ta rất nhiều. Mà Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu thì vô cùng xinh đẹp, là một mỹ nhân hiếm có trong võ lâm, sư muội còn đẹp hơn, thì quả là hấp dẫn.

Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Như thế có gì là lạ? Dung nhi của ta còn đẹp hơn nàng ta trăm lần ấy chứ”.

Khưu Xứ Cơ nói tiếp:

– Trong số nhân vật yêu tà chốn giang hồ, số kẻ say mê Lý Mạc Sầu không ít. Nhưng nàng ta không ưng ai hết; kẻ nào hơi tỏ ra vô lễ với nàng ta, nàng ta liền hạ độc thủ; giờ nghe nói sư muội của nàng ta diện mạo xinh đẹp bội phần, lại công khai tỷ võ chiêu thân, thì ai mà chẳng muốn tới thử một phen?

Quách Tĩnh chợt hiểu ra, nói:

– Thì ra bọn người kia đều tới cầu thân. Chẳng trách các vị đạo huynh cứ nhiếc đệ tử là yêu nhân dâm tặc.

Khưu Xứ Cơ cười ha hả, lại nói:

– Bọn ta thám thính được rằng một số kẻ yêu tà chẳng coi phái Toàn Chân ra gì. Chúng tụ tập rất đông người kéo đến núi Chung Nam, nếu bọn ta ra tay can thiệp, chúng sẽ vin cớ đó mà thừa cơ nhổ luôn cái gai trong mắt chúng là phái Toàn Chân. Ta cùng Vương sư đệ biết được tin đó, bèn quyết ý đối đầu với bọn yêu tà một phen, liền gửi thiếp mời, tập hợp các đời đạo lữ bổn giáo, tới cung Trùng Dương trước mười ngày. Chỉ có Lưu sư ca và Tôn sư muội ở Sơn Tây chưa về kịp. Bọn ta một mặt thao diễn “Thiên Cang Bắc Đẩu trận pháp”, một mặt gửi thư sang nhắc Tiểu Long Nữ đề phòng. Nào ngờ thư chuyển sang rồi, chẳng thấy hồi âm gì hết.

Quách Tĩnh nói:

– Hay là Tiểu Long Nữ đã không còn ở trong tòa cổ mộ?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Không phải, từ đỉnh núi nhìn sang, hàng ngày vẫn thấy khói bếp nơi đó bốc lên. Ngươi xem, ở chỗ kia kìa.

Nói rồi giơ tay chỉ sang phía Tây. Quách Tĩnh nhìn theo, thấy hơn mười dặm phía đó xanh xanh, toàn là rừng cây, chẳng biết “Hoạt tử nhân mộ” ở chỗ nào; tưởng tượng một thiếu nữ mười tám tuổi suốt ngày đêm ở trong nhà mộ, nếu là Hoàng Dung, chắc nàng sẽ buồn chết đi được.

Khưu Xứ Cơ lại kể:

– Sư huynh sư đệ bọn ta bố trí chống địch. Năm ngày trước, các lộ thám thính báo về, rằng trong đám yêu tà, lợi hại nhất có hai tên đại ma đầu. Chúng hẹn nhau tụ tập trước ở chùa Phổ Quang dưới chân núi, dùng tay vỗ bia đá làm hiệu lệnh. Ngươi vô ý vỗ vào tấm bia, lại hiển thị công lực ghê gớm, hèn chi bọn đồ tôn vô dụng của ta kinh hoảng là phải.

Hai tên đại ma đầu danh tiếng thực không vừa, năm nay chúng vừa mới tới Trung Nguyên, mà đã chấn động cả võ lâm. Ngươi ẩn cư ở Đào Hoa đảo, cách biệt hẳn nên không biết đó thôi. Gã công tử quí phái là vương tử của Mông Cổ, nghe đâu là con cháu cận hệ của Thành Cát Tư Hãn. Kẻ đi bên cạnh gọi y là vương tử Hoắc Đô. Ngươi ở bên Mông Cổ nhiều năm, biết rõ vương tộc Mông Cổ, chắc phải biết lai lịch hai kẻ đó?

Quách Tĩnh lẩm bẩm nhắc lại mấy lần bốn tiếng “Vương tử Hoắc Đô”, nhớ lại diện mạo cử chỉ, xem y giống ai, cảm thấy y dung mạo tuấn nhã, cao ngạo song có phần giảo hoạt. Thành Cát Tư Hãn có cả thảy bốn người con trai, trưởng tử Thuật Xích mau lẹ dũng mãnh, thứ tử Sát Hợp Đài tính nết nóng nẩy mà thực khôn ngoan, con trai thứ ba Oa Khoát Đài hiện làm hoàng đế Mông Cổ, tính cách khoan hòa, con thứ tư Thi Lôi cương cường hơn người, tướng mạo cả bốn người đó đều khác hẳn vương tử Hoắc Đô.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Cũng có thể hắn tự đề cao thân phận, khoe khoang thế chăng. Võ công của hắn thuộc phái Tây Tạng. Đầu năm nay tới Trung Nguyên, hắn xuất thủ đả thương Hà Nam Tam Hùng, sau tại Cam Lương lại một mình giết chết Lan Châu Thất Bá, tiếng tăm lừng lẫy cả một góc trời. Bọn ta không ngờ hắn lại tới dính vào vụ này. Gã Tạng tăng đi cùng tên là Đạt Nhĩ Ba, trời ban thần lực, võ công cùng một lộ với Hoắc Đô, hình như là sư huynh hoặc sư thúc của Hoắc Đô thì phải. Gã là hòa thượng, dĩ nhiên tới đây không phải để mong lấy Tiểu Long Nữ, chắc là chỉ để trợ giúp Hoắc Đô.

Những tên dâm tặc khác thấy hai tên đại ma đầu này xuất hiện, thì đều từ bỏ ý định cầu thân; nhưng Lý Mạc Sầu từng loan tin khắp nơi, rằng trong ngôi mộ cổ có vô số vật quí hiếm, rồi các thứ bí kíp võ công, như chưởng phổ “Hàng long thập bát chưởng”, chỉ pháp “Nhất Dương chỉ” đều đủ cả. Bọn gian tặc tuy bán tín bán nghi, nhưng thiết nghĩ chỉ cần lên núi, mở toang tòa cổ mộ, thì ít nhiều cũng được chia phần, thế là cuối cùng có đến hơn trăm tên kéo lên núi Chung Nam. Bắc Đẩu trận của bọn ta vốn có thể quét sạch bọn hạ lưu ấy ngay dưới chân núi, dẫu không tóm cổ bọn chúng, thì cũng không để cho chúng tới gần cung Trùng Dương. Nào ngờ có chuyện nhận lầm ngươi, để bọn gian tặc đốt phá hậu viện… Thôi không nhắc việc đó nữa.

Quách Tĩnh rất áy náy, định nói vài lời tạ tội. Khưu Xứ Cơ phẩy tay, cười nói:

– “Ung dung cất một tiếng cười, Tây hồ mây đó trên trời vẫn trăng”[1]. Cung điện cũng chỉ là vật ngoại thân, cả tấm thân còn chẳng tiếc, tiếc gì mấy thứ vật ngoại thân? Ngươi tu luyện nội công hơn mười năm nay, chẳng lẽ còn chưa hiểu thấu điều đó sao?

Quách Tĩnh cũng cười, đáp:

– Vâng !

Khưu Xứ Cơ cười, nói:

– Thực tình khi nhìn thấy tòa hậu viện của cung Trùng Dương bốc cháy, lòng ta cũng như lửa đốt; bây giờ mới bình tĩnh lại đấy. So với sự bình thản của Mã sư ca, sự tu luyện của ta quả là còn thua xa.

Quách Tĩnh nói:

– Bọn gian tặc tự dưng xông lên đốt phá, đạo trưởng tức giận là phải.

Khưu Xứ Cơ nói:

– Trong lúc Bắc Đẩu đại trận dốc toàn lực ngăn chặn ngươi, thì hai tên đại ma đầu dẫn bọn gian tặc thừa cơ xông tới trước cung Trùng Dương. Vừa xông tới, chúng liền phóng hỏa đốt đạo quán, Hách sư đệ xuất trận đấu với vương tử Hoắc Đô. Hách sư đệ quá khinh địch, còn Hoắc Đô lại có võ công hết sức quái dị. Hách sư đệ lúc xuất thủ hơi nóng vội, ngực bị trúng một chưởng. Bọn ta vội dàn trận hộ vệ. Nhưng Bắc Đẩu trận thiếu mất một người là Hách sư đệ, đệ tử thay thế công lực chênh lệch quá xa, thành thử uy lực của trận pháp chỉ có hạn. Ngươi mà không đến kịp, thì hôm nay phái Toàn Chân đại bại rồi. Bây giờ nghĩ lại, nếu các đệ tử canh giữ dưới chân núi không nhận lầm địch ta, thì cố nhiên bọn hạ lưu kia không thể xông lên núi, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô phải liên thủ đấu với Bắc Đẩu trận; bọn ta thua thì không thua, nhưng sẽ không thắng được hai tên ấy một cách sảng khoái như ngươi…

Vừa nói đến đây, bỗng nghe phía Tây vang lên tiếng tù và rền rĩ. Quách Tĩnh nghe tiếng tù và, bất giác nhớ đến sa mạc cát vàng mênh mông ở Mông Cổ.

Nghe một hồi, thấy tiếng tù và ẩn ý giết chóc, tựa hồ khiêu chiến với người. Khưu Xứ Cơ tức giận, nhìn cánh rừng phía Tây, nói:

– Nghiệt chướng, nghiệt chướng ! Tĩnh nhi, tên gian tặc kia hẹn với ngươi mười năm, vọng tưởng trong thời gian đó hắn tha hồ hoành hành, còn ngươi thì không tiện can thiệp. Hừ, thiên hạ làm gì có chuyện để cho hắn xứng tâm toại ý như thế? Chúng ta đi thôi !

Quách Tĩnh nói:

– Là vương tử Hoắc Đô ư?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Dĩ nhiên là hắn. Hắn đang thách thức Tiểu Long Nữ đó .

Vừa nói, Khưu Xứ Cơ vừa đi như bay xuống núi. Quách Tĩnh vội theo sau.

Hai người đi xuống hơn một dặm, nghe tiếng tù và thổi càng gấp hơn, lẫn trong tiếng tù và còn có tiếng binh khí va nhau, hẳn là Đạt Nhĩ Ba cũng đã xuất thủ. Khưu Xứ Cơ tức giận nói:

– Hai danh gia võ học, thế mà lại hợp sức bắt nạt một thiếu nữ, thật không còn ra thể thống gì.

Rồi chạy nhanh hơn. Phút chốc hai người đã tới lưng núi, vòng qua một vách đá dài. Quách Tĩnh chỉ thấy trước mặt là một cánh rừng lớn. Ngoài bìa rừng đứng lố nhố hơn một trăm người, chính là bọn yêu tà ban nãy vây đánh cung Trùng Dương. Hai người bèn nấp sau một vách đá quan sát động tĩnh.

Chỉ thấy vương tử Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba ngồi bên nhau. Hoắc Đô thổi tù và. Đạt Nhĩ Ba tay trái cầm một cái chày màu vàng gõ vào chiếc xuyến vàng đeo bên cổ tay phải, phát ra tiếng canh canh hòa với tiếng tù và, hai tên đó đang đòi Tiểu Long Nữ phải ra gặp chúng. Chúng gây náo loạn một hồi, trong rừng vẫn tĩnh lặng, không có âm thanh gì trả lời.

Hoắc Đô đặt chiếc tù và xuống, nói to:

– Tiểu vương Mông Cổ Hoắc Đô kính mừng sinh nhật Tiểu Long Nữ.

Lời vừa dứt, trong rừng có ba tiếng đàn tình tính tang, tựa hồ Tiểu Long Nữ gảy đàn trả lời. Hoắc Đô cả mừng, lại nói:

– Nghe Long cô nương dương ngôn thiên hạ, hôm nay tỷ võ chiêu thân, tiểu vương bất tài, cũng đến cầu giáo, thỉnh Long cô nương ban tiếp vài chiêu.

Bỗng nghe tiếng đàn bật mạnh, có ý giận dữ. Bọn yêu tà không hiểu âm luật, song cũng đoán biết tiếng đàn có ý đuổi khách.

Hoắc Đô cười nói:

– Tiểu vương gia thế tôn quí, tư mạo chẳng phải tầm thường đôi bên xứng đôi vừa lứa, cô nương là hiệp nữ thời nay, khỏi cần thẹn thùng.

Lời vừa dứt, tiếng đàn càng bật ra cao hơn, tựa hồ có ý chỉ trích.

Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba đưa mắt cho nhau. Đạt Nhĩ Ba gật đầu. Hoắc Đô nói:

– Cô nương đã không chịu đi ra, thì tiểu vương đành vào vậy.

Nói đoạn giắt chiếc tù và, vung tay phải, sải bước đi vào rừng. Quần hào ào theo sau như bầy ong vỡ tổ, tên nào tên ấy nghĩ bụng: “Ngay danh tiếng lừng lẫy như phái Toàn Chân mà còn không cản nổi bọn ta, thì một thiếu nữ cô thân như Tiểu Long Nữ chống chọi sao được?”. Chỉ sợ kẻ khác vào được trong nhà mộ trước, lấy mất báu vật mang đi trước mình, nên tên nào tên nấy tranh nhau xông tới.

Khưu Xứ Cơ quát lớn:

– Đây là chốn cựu cư của tổ sư phái Toàn Chân, Trùng Dương Chân Nhân, các ngươi mau xéo đi.

Bọn kia nghe tiếng quát hơi sững sờ, nhưng chân chúng không hề dừng bước. Khưu Xứ Cơ giận dữ nói:

– Tĩnh nhi, động thủ !

Hai người rời vách đá, đang định xông tới, bỗng nghe quần hào kêu la chạy thục mạng ra khỏi cánh rừng.

Hai người ngẩn ra, chỉ thấy mấy chục tên vắt chân lên cổ mà chạy, rồi Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba cũng cắm đầu chạy ra, dáng điệu thảm hại bằng mấy lần lúc rút khỏi cung Trùng Dương. Hai người cảm thấy lạ lùng, nghĩ thầm: “Không biết Tiểu Long Nữ dùng cách gì mà đuổi được quần tà?”. Thoáng nghĩ như vậy, đã thấy tiếng vo vo từ xa đến gần, dưới ánh trăng có vô số vật nhỏ màu trắng từ trong rừng bay ra, lao thẳng vào đầu vào mặt quần tà. Quách Tĩnh lấy làm lạ, hỏi:

– Cái gì thế nhỉ?

Khưu Xứ Cơ lắc đầu không đáp, chăm chú nhìn; chỉ thấy một số kẻ chạy chậm bị các vật nhỏ kia lao vào đầu liền ngã xuống, ôm đầu mà kêu la như bị chọc tiết. Quách Tĩnh kinh ngạc nói:

– Thì ra là đàn ong, nhưng sao lại màu trắng?

Trong lúc chàng nói, thì lại thêm dăm người nữa bị ong đốt. Mười mấy người lăn lộn trong rừng, kêu rú thảm thiết. Quách Tĩnh nghĩ thầm: “Bị ong đốt thì buốt thật, nhưng không lẽ bầy ong này có độc tính dị thường hay sao?”. Chợt có một bầy ong như khói đặc tràn tới trước mặt chàng và Khưu Xứ Cơ. Nhìn thế tấn công hung mãnh của bầy ong, khó bề chống đỡ, Quách Tĩnh định quay đầu chạy, thì thấy Khưu Xứ Cơ hít hơi vào đan điền rồi há miệng thổi mạnh về phía bầy ong. Bầy ong đang tràn tới, đột nhiên phát hiện có luồng gió mạnh thổi đón đầu thì dạt ra. Khưu Xứ Cơ thổi xong hơi thứ nhất, liền thổi tiếp hơi thứ hai. Quách Tĩnh cũng bắt chước làm theo, hai người tạo ra một luồng gió khá mạnh, bầy ong chịu không nổi, mấy trăm con phải tránh sang hai bên, bay đi đuổi theo bọn Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba.

Mười mấy kẻ lăn lộn dưới đất kêu như cha chết mẹ chết, có kẻ nói:

– Tiểu nhân biết lỗi rồi, xin Tiểu Long Nữ tiên cô cứu mạng cho !

Quách Tĩnh kinh ngạc, nghĩ thầm: “Mấy tên kia toàn là phường tham sống sợ chết, nhưng có bị chặt chân tay, chúng cũng không kêu la khiếp đến thế. Bầy ong này quả nhiên lợi hại thật !”.

Chỉ nghe trong rừng cây vọng ra mấy tiếng đàn, rồi trên các ngọn cây có một làn hơi trắng nhạt lan tỏa. Hai người ngửi trước mùi hương hoa thơm ngọt. Lát sau thì tiếng vo vo từ xa lại gần, bầy ong ngửi thấy mùi thơm bay trở lại, thì ra là Tiểu Long Nữ đốt hương gọi ong về.

Khưu Xứ Cơ là láng giềng của Tiểu Long Nữ mười tám năm, mà không hề biết nàng ta có bản sự đó, vừa thán phục, vừa thích thú, nói:

– Sớm biết vị phương lân (láng giềng quí hóa) thần thông quảng đại như thế, phái Toàn Chân đã khỏi cần đa sự.

Câu này tuy nói với Quách Tĩnh, nhưng lão đạo trưởng đề khí phát ra, có ý để Tiểu Long Nữ nghe thấy. Quả nhiên tiếng đàn trong rừng cây chậm lại, dìu dặt khoan hòa, như thể cảm tạ cao nghĩa. Khưu Xứ Cơ cười to cao giọng nói:

– Cô nương bất tất đa lễ. Bần đạo Khưu Xứ Cơ dẫn đệ tử Quách Tĩnh đến kính chúc sinh nhật của cô nương.

Tiếng đàn vang lên hai tiếng tình tang, rồi im hẳn.

Quách Tĩnh nghe mấy người kia kêu la thảm thiết, bèn nói:

– Đạo trưởng, mấy người này ta nên cứu như thế nào đây?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Long cô nương ắt có cách xử trí, chúng ta đi thôi !

Hai người quay mình đi trở về hướng đông. Dọc đường Quách Tĩnh lại xin Khưu Xứ Cơ thu nhận Dương Quá làm môn hạ. Khưu Xứ Cơ thở dài, nói:

– Thúc phụ Dương Thiết Tâm của ngươi là bậc hào kiệt, há để tuyệt tự? Dương Khang bị kết cục xấu xa như thế, ta cũng có lỗi một phần. Ngươi cứ yên tâm, ta sẽ tận tâm kiệt lực dạy dỗ thằng bé ấy nên người.

Quách Tĩnh cả mừng, đang đi quì ngay xuống bái tạ.

Hai người vừa đi vừa trò chuyện, đã về tới trước cung Trùng Dương. Trời cũng đã sáng. Chúng đạo sĩ đang thu dọn tàn tích đám cháy hậu viện.

Khưu Xứ Cơ tập hợp chúng đạo sĩ, giới thiệu với Quách Tĩnh. Chỉ vị đạo sĩ râu dài chỉ huy Bắc Đẩu trận, đạo trưởng nói:

– Đây là Triệu Chí Kính, đại đệ tử của Vương sư đệ. Trong số các đệ tử đời thứ ba, y luyện được võ công vững vàng hơn cả, giao cho y dạy dỗ Dương Quá là được.

Quách Tĩnh đã giao đấu với Triệu Chí Kính, biết võ công của vị đạo sĩ này quả là cao cường, thì cả mừng, liền bảo Dương Quá hành lễ bái sư với Triệu Chí Kính, bản thân chàng cũng trịnh trọng cảm tạ.

Chàng lưu lại ở núi Chung Nam vài ngày, dặn dò Dương Quá thật tỉ mỉ, rồi mới cáo biệt mọi người, trở về Đào Hoa đảo.

Khưu Xứ Cơ nhớ lại hồi trước dạy võ công cho Dương Khang, để cho y sống trong nhung lụa ở vương phủ, cuối cùng y phạm phải sai lầm lớn, nghĩ thầm: “Xưa nay nghiêm sư xuất cao đồ, bổng đầu xuất hiếu tử (Thầy nghiêm trò mới giỏi, roi vọt con mới có hiếu). Lần này đối với Dương Quá phải quản giáo chặt chẽ, để thằng bé khỏi lặp lại sai lầm của cha nó”; bèn gọi Dương Quá tới, nghiêm nghị giáo huấn một hồi, dặn nó khắc khổ luyện tập, vâng theo mọi giáo huấn của sư phụ, nhất thiết không được lười nhác.

Dương Quá phải ở lại trên núi Chung Nam, vốn đã không muốn chút nào, bây giờ tự dưng lại bị giáo huấn nghiêm khắc, trong lòng vô cùng chán ngán, đành nuốt lệ vâng dạ, chờ lúc Khưu Xứ Cơ đi rồi, nó mới khóc òa lên. Bỗng nghe có tiếng nói lạnh lùng sau lưng:

– Sao, tổ sư gia nói điều gì không phải với ngươi hả?

Dương Quá giật mình nín khóc, ngoảnh đầu lại, thấy chính là sư phụ Triệu Chí Kính, thì nó vội buông xuôi tay, nói:

– Không ạ.

Triệu Chí Kính nói:

– Vậy tại sao ngươi lại khóc?

Dương Quá đáp:

– Đệ tử nhớ Quách bá bá quá ạ.

Triệu Chí Kính vừa rồi rõ ràng nghe Khưu sư bá nghiêm nghị giáo huấn thằng bé, thế mà nó lại nói thác đi là nó nhớ Quách Tĩnh, thì trong bụng rất khó chịu, nghĩ thầm: “Thằng bé này mới một tí tuổi đầu mà đã giảo hoạt như thế, nếu không nghiêm trị, lớn lên làm sao uốn nắn?” Bèn nghiêm mặt quát:

– Ngươi dám nói dối sư phụ hả?

Dương Quá chính mắt thấy các đạo sĩ phái Toàn Chân bị Quách Tĩnh đánh cho tơi tả, lại thấy các vị đạo trưởng như Khưu Xứ Cơ bị bọn yêu tà Hoắc Đô dồn vào thế thua to, may nhờ có Quách Tĩnh kịp đến cứu viện, thì nó cho rằng các đạo sĩ này võ công toàn thuộc hạng bình thường. Đối với Khưu Xứ Cơ nó còn không phục chút nào, huống hồ đối với Triệu Chí Kính? Cũng tại Quách Tĩnh nhất thời sơ ý, không nói rõ cho nó biết, rằng võ công của phái Toàn Chân là võ học chính tông, hồi trước võ công của Vương Trùng Dương là đệ nhất thiên hạ, cao thủ các gia các phái không một ai địch nổi. Quách Tĩnh sở dĩ thắng các đạo sĩ là bởi họ chưa luyện đến tuyệt đỉnh, chứ không phải do võ công phái Toàn Chân non kém. Dương Quá cho rằng vợ chồng Quách Tĩnh không muốn thu nhận nó làm đồ đệ, nên mới giao bừa cho người khác dạy võ cho nó, hơn nữa, chính mắt nó chứng kiến cảnh các đạo sĩ gãy kiếm, thua tơi bời, dẫu Quách Tĩnh có giải thích thế nào, nó cũng chẳng tin. Lúc này nó thấy sư phụ mặt mày khó coi, thì nghĩ thầm: “Ta bái người làm sư phụ, chẳng qua là chuyện bất đắc dĩ, giả dụ ta có luyện được võ công bằng người, thử hỏi có tác dụng quái gì? Chỉ là một cái bị thịt chứ gì? Đừng có hầm hầm với ta như vậy !” Nó bèn ngoảnh mặt đi, không trả lời.

Triệu Chí Kính cả giận, quát to hơn:

– Ta hỏi ngươi, ngươi dám không thưa hả?

Dương Quá nói:

– Sư phụ muốn đệ tử thưa sao thì đệ tử thưa vậy.

Triệu Chí Kính nghe nó nói hỗn, thì không nén được giận, vẩy ngược bàn tay một cái, “bốp” một tiếng, Dương Quá bị một cái tát mạnh đỏ rát cả má; nó liền khóc tướng lên và bỏ chạy. Triệu Chí Kính đuổi theo túm lại, hỏi:

– Ngươi chạy đi đâu?

Dương Quá nói:

– Mau buông ta ra, ta không thèm học võ của lão đâu!

Triệu Chí Kính càng tức, quát:

– Ngươi nói gì hả, thằng lỏi con?

Dương Quá nổi khùng, đốp lại:

– Xú đạo sĩ, cẩu đạo sĩ, mi có giỏi cứ đánh chết ta đi!

Thời bấy giờ, phận sự sư đồ rất được coi trọng; trong võ lâm, sư đồ y như cha con, sư phụ dẫu có muốn giết chết đệ tử, đệ tử cũng không dám chống lại. Đằng này Dương Quá dám mở miệng chửi lại sư tôn, quả là chuyện đại nghịch chưa từng thấy. Triệu Chí Kính giận tím mặt, vung chưởng đánh vào mặt nó. Dương Quá bỗng nhiên nhảy lên, ôm lấy cánh tay sư phụ, há mồm cắn chặt lấy ngón trỏ tay phải của Triệu Chí Kính.

Dương Quá từ khi được Âu Dương Phong truyền cho bí quyết nội công, ngấm ngầm tu luyện, cũng có được chút căn cơ. Triệu Chí Kính trong cơn giận dữ, lại nghĩ nó còn là đứa bé, nên không hề đề phòng, bị thằng bé ôm chặt cánh tay mà cắn ngón tay, giằng chưa ra. Ngạn ngữ có câu, mười ngón tay liền với tim, ngón tay bị đau là khổ sở nhất. Triệu Chí Kính đấm mạnh một quả vào vai Dương Quá, quát:

– Ngươi muốn chết hả? Mau buông ra !

Dương Quá nổi điên, lúc này dù kề dao vào cổ nó, nó cũng không buông không nhả, lúc vai nó bị đau nhói, nó liền nghiến răng cắn mạnh, “cắc” một tiếng,Triệu Chí Kính kêu lên “Ối chao !” ngón tay đã gãy xương. Quyền trái của Triệu Chí Kính giơ lên, đập xuống đỉnh đầu Dương Quá, khiến nó ngất đi, lão mới cậy hàm nó, rút được ngón tay ra, chỉ thấy cả ngón tay máu đầm đìa, xương ngón tay bị gãy, tuy có thể nối lại, nhưng từ nay cái ngón tay ấy sẽ kém hẳn, có phần tổn hại đến võ công. Triệu Chí Kính cả giận, đá vào người thằng bé mấy cái.

Triệu Chí Kính xé tay áo Dương Quá lấy một mảnh vải buộc vết thương lại, nhìn tứ phía, may không có ai cả; nghĩ bụng chuyện này mà để người ngoài biết, giang hồ loan tin đi, bảo Triệu Chí Kính phái Toàn Chân bị tên đệ tử trẻ con cắn gãy xương ngón tay, thì thực là mất hết thể diện; bèn bưng một chậu nước lạnh tới vẩy vào mặt cho Dương Quá tỉnh lại.

Dương Quá vừa tỉnh, nó lại vùng vẫy đánh lại. Triệu Chí Kính túm lấy ngực nó, quát:

– Đồ súc sinh, ngươi quả thật không thiết sống nữa hả?

Dương Quá chửi lại:

– Cẩu tặc, tên đạo sĩ thối tha, đồ râu dê, để cho Quách bá bá ta đánh cho bò lê bò càng dưới đất mà xực cứt chó, mi là tên súc sinh thì có !

Triệu Chí Kính vung chưởng lên, lần này có phòng bị, Dương Quá làm sao có thể đánh lại và xông tới gần? Trong giây lát nó bị liền mấy cú đá lộn nhào. Triệu Chí Kính muốn đánh nó thế nào chẳng được, nhưng nghĩ nó rốt cuộc là đồ đệ của mình, nếu nặng tay quá, sư phụ sư bá hỏi tới biết ăn nói ra sao. Song Dương Quá cứ liều chết đánh lại, tựa hồ có mối thù không đội trời chung, tuy liên tiếp bị đòn đau, nó vẫn cứ lăn xả vào mà đấm đá.

Triệu Chí Kính đánh thằng bé rồi, trong lòng hối hận, thấy nó tuy bị thương, song càng đánh càng hăng, cuối cùng không còn cách nào khác, đành điểm huyệt ở sườn nó. Dương Quá nằm bất động dưới đất, ánh mắt đầy vẻ hằn học. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi là một tên nghịch đồ, đã chịu hay chưa?

Dương Quá giương mắt nhìn, không hề có ý khuất phục. Triệu Chí Kính ngồi xuống một tảng đá, thở hổn hển. Tỷ võ quá chiêu với cao thủ, hồi lâu Triệu Chí Kính cũng chưa bao giờ thở hổn hển thế này; lần này chân tay thì không mệt, nhưng trong lòng thì chán ngán, giận dữ khó trấn tĩnh.

Một thầy một trò hằn học nhìn nhau, Triệu Chí Kính vẫn chưa nghĩ ra cách trị thằng bé ngỗ nghịch hỗn xược, đang chán ngán, bỗng có tiếng chuông gióng giả vang lên, triệu tập đệ tử toàn giáo. Triệu Chí Kính giật mình, nói với Dương Quá:

– Ngươi không ngỗ nghịch nữa, thì ta tha cho ngươi.

Nói rồi đưa tay giải huyệt cho nó.

Nào ngờ Dương Quá bật dậy, lại xông vào. Triệu Chí Kính lùi hai bước, giận quát:

– Ta không đánh ngươi, ngươi còn muốn gì?

Dương Quá hỏi:

– Từ nay lão còn đánh ta nữa hay thôi?

Triệu Chí Kính nghe tiếng chuông giục giã, không dám chậm trễ, đành nói:

– Nếu ngươi ngoan ngoãn, ta đánh ngươi làm gì?

Dương Quá nói:

– Thế thì được. Sư phụ, lão không đánh ta, ta sẽ gọi lão là sư phụ. Lão còn đánh ta một lần nữa, ta sẽ vĩnh viễn không chấp nhận lão.

Triệu Chí Kính đành cười khổ, gật đầu, nói:

– Chưởng giáo chiêu tập môn nhân, mau đi theo ta.

Thấy Dương Quá quần áo xộc xệch, mặt mày chỗ sưng chỗ tím, sợ người ngoài tra hỏi, Triệu Chí Kính sửa sang qua loa cho nó, rồi dắt tay nó chạy đến tập trung trước cung.

Lúc Triệu Chí Kính dẫn Dương Quá tới nơi, thì chúng đạo sĩ đã tề tựu. Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất ba vị ngồi quay mặt về phía mọi người. Mã Ngọc vỗ tay ba cái, nói to:

– Trường Sinh Chân Nhân và Thanh Tịnh Tản Nhân từ Sơn Tây có báo tin về, rằng ở đó tình thế nguy ngập. Bổn tòa cùng hai vị sư đệ thương nghị, quyết định rằng Trường Xuân Chân Nhân và Ngọc Dương Chân Nhân dẫn theo mười đệ tử sáng mai sẽ đi cứu viện.

Các đạo sĩ nhìn nhau, người thì có vẻ kinh hãi, người thì hăng hái. Khưu Xứ Cơ liền gọi tên mười đệ tử nói:

– Các ngươi lập tức thu xếp hành lý, sáng sớm mai cùng Ngọc Dương Chân Nhân và ta đi Sơn Tây. Thôi, giải tán.

Các đạo sĩ tản đi, bây giờ mới bàn tán, nói:

– Lý Mạc Sầu chẳng qua là một nữ nhân, thế mà Trường Sinh Tử Lưu sư thúc cũng không làm gì nổi mụ ta ư?

Có người nói:

– Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn sư thúc chẳng phải cũng là nữ nhân đó sao? Đủ thấy nữ nhân lắm người tài giỏi, chớ nên coi thường.

Có người nói:

– Khưu sư bá với Vương sư thúc đi chuyến này, chắc Lý Mạc Sầu sẽ phải thúc thủ chịu trói thôi.

Khưu Xứ Cơ tới bên Triệu Chí Kính, nói:

– Ta cũng định đem ngươi đi, nhưng sợ chậm việc học hành của Quá nhi, nên không lấy ngươi đi theo nữa.

Thấy mặt mày Dương Quá có nhiều vết sây sát, bèn hỏi nó:

– Ngươi đánh nhau với ai vậy?

Triệu Chí Kính sợ sư bá biết sự tình, tất quở trách nặng, vội liên tiếp đưa mắt ra hiệu cho Dương Quá.

Dương Quá vốn đã có chủ ý, thấy Triệu Chí Kính lo cuống lên, thì vờ như không biết, cứ ậm ậm ừ ừ. Khưu Xứ Cơ giận hỏi:

– Kẻ nào đánh ngươi đến mức này? Rốt cuộc là ai có lỗi? Nói mau!

Triệu Chí Kính nghe giọng nói nghiêm khắc của sư bá, thì càng cuống lên.

Dương Quá nói:

– Không phải đánh nhau, mà là đệ tử bị ngã chỗ dốc núi.

Khưu Xứ Cơ không tin, bực hỏi:

– Ngươi nói dối. Đang dưng sao lại bị ngã? Vết thương trên mặt ngươi cũng không phải do bị ngã.

Dương Quá nói:

– Ban nãy sư tổ gia giáo huấn đệ tử phải chịu khó học nghệ…

Khưu Xứ Cơ nói:

– Phải, rồi sao?

Dương Quá nói:

– Sau khi sư tổ gia đi rồi, đệ tử nghĩ giáo huấn của sư tổ gia rất đúng, từ nay đệ tử phải cố gắng hết sức để khỏi phụ kỳ vọng của sư tổ gia.

Nghe mấy câu hoa ngôn xảo ngữ ấy, sắc mặt của Khưu Xứ Cơ dịu lại, ừ một tiếng. Dương Quá nói tiếp:

– Nào ngờ bỗng nhiên có một con chó điên ở đâu chạy đến, chẳng nói chẳng rằng xông vào cắn, đệ tử đá đuổi nó đi, con chó điên càng lúc càng hung hăng. Đệ tử đành quay người bỏ chạy, vì không cẩn thận, bị trượt chân ngã xuống dốc núi. May có sư phụ của đệ tử tới, cứu được đệ tử.

Khưu Xứ Cơ bán tín bán nghi, đưa mắt nhìn Triệu Chí Kính, ngụ ý hỏi những lời vừa rồi của thằng bé là thật hay không. Triệu Chí Kính cả giận, nghĩ thầm: “Thằng khốn, tên tiểu tử thối tha, ngươi dám chửi ta là con chó điên”, nhưng trong tình thế này đành cho qua chuyện, nên gật đầu nói:

– Là đệ tử cứu nó lên ạ.

Khưu Xứ Cơ bấy giờ mới tin, nói:

– Sau khi ta đi, ngươi hãy truyền thụ huyền công bản môn cho nó, cứ mười ngày sẽ do sư bá chưởng giáo phúc tra một lần, chỉ điểm yếu quyết.

Triệu Chí Kính chẳng muốn chút nào, nhưng lời sư bá sao dám cãi, đành cúi mình đáp ứng. Dương Quá lúc này vừa buộc được sư phụ tự nhận là con chó điên thì quá thích thú, không để ý nghe lời nói của Khưu sư tổ.

Chờ Khưu Xứ Cơ đi xa mười mấy bước rồi, Triệu Chí Kính lửa giận bốc lên, không kìm nổi, lại giơ tay định đánh xuống đầu Dương Quá. Dương Quá gọi to:

– Khưu sư tổ !

Khưu Xứ Cơ ngạc nhiên ngoảnh lại, hỏi:

– Gì vậy?

Bàn tay của Triệu Chí Kính giơ lên lưng chừng, không dám đánh xuống, y đành miễn cưỡng đưa lại gãi gãi đầu tóc của mình. Dương Quá chạy về phía Khưu Xứ Cơ, nói:

– Sư tổ gia đi rồi, đệ tử không có ai bênh vực, ở đây có nhiều vị sư bá sư thúc muốn đánh chửi đệ tử.

Khưu Xứ Cơ nghiêm mặt, quát:

– Nói bậy. Làm gì có chuyện đó?

Bề ngoài nghiêm nghị, nhưng nội tâm thì Khưu Xứ Cơ rất hiền từ, nghĩ thằng bé mồ côi đáng thương, bèn nói:

– Chí Kính, ngươi hãy săn sóc tử tế thằng bé này, nếu có xảy ra chuyện gì, ta về sẽ hỏi tội ngươi đó.

Triệu Chí Kính lại đành đáp ứng.

Tối hôm đó sau bữa ăn, Dương Quá thong thả đi tới tịnh thất của sư phụ, gọi:

– Sư phụ?

Giờ là lúc truyền thụ võ công. Triệu Chí Kính đã ngồi xếp chân bằng tròn từ lâu trên giường, nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này quá ư ương ngạnh, đã thành con ngựa bất kham; sau này võ công cao cường, thì ai có thể chế ngự được nó? Nhưng Khưu sư bá và sư phụ dặn ta dạy võ công cho nó, ta đâu có thể trái lời”. Nghĩ mãi vẫn chưa biết nên làm thế nào, thấy Dương Quá thong thả bước tới, ánh mắt láo liên, dáng điệu nửa như cười cợt, thì Triệu Chí Kính càng tức giận, bỗng nhiên nghĩ ra: “Có cách rồi, nó chưa biết tí gì về công phu bản môn, ta chỉ truyền thụ khẩu quyết huyền công cho nó, chứ không dạy nó phép tu luyện. Dẫu nó thuộc lòng mấy trăm câu ca quyết, cũng chẳng ích gì. Nếu sư bá, sư phụ hỏi đến, ta sẽ bảo nó không chịu dụng công”. Chủ ý đã định, Triệu Chí Kính bèn dịu dàng nói:

– Quá nhi, lại đây nào.

Dương Quá hỏi:

– Sư phụ có đánh hay không đấy?

Triệu Chí Kính nói:

– Ta truyền công phu cho ngươi, chứ đánh ngươi làm gì?

Dương Quá thấy thần tình của Triệu Chí Kính thật ngoài dự liệu, bèn từ từ lại gần, trong bụng sẵn sàng đề phòng, sợ sư phụ có ngụy kế gì chăng. Triệu Chí Kính thấy hết, nhưng giả như không biết, nói:

– Công phu của phái Toàn Chân là luyện từ trong ra ngoài, không như công phu ngoại gia luyện từ ngoài vào trong. Bây giờ ta truyền cho ngươi tâm pháp bản môn, ngươi phải nhớ cho kỹ.

Rồi đọc khẩu quyết nội công nhập môn của phái Toàn Chân một lượt. Dương Quá chỉ nghe một lần là thuộc. Nó nghĩ thầm: “Con dê già râu dài này căm ghét ta, lẽ nào lão chịu truyền công phu thật sự cho ta kia chứ? Chắc lão sẽ dạy ta mấy câu khẩu quyết giả vô dụng đấy thôi”. Lát sau, nó giả bộ quên, hỏi lại Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính đọc lại đúng như lần trước. Hôm sau, Dương Quá lại tái vấn sư phụ, nghe sư phụ đọc đúng như hôm qua, nó mới tin là không phải khẩu quyết giả.

Cứ thế mười ngày, Triệu Chí Kính chỉ truyền thụ khẩu quyết, còn cách tu luyện thực tế ra sao, thì y không nói một lời. Ngày thứ mười, Triệu Chí Kính dẫn Dương Quá lên gặp Mã Ngọc, bẩm rằng đã truyền thụ tâm pháp bổn môn, rồi bảo Dương Quá đọc cho sư tổ chưởng giáo nghe.

Dương Quá đọc một mạch từ đầu chí cuối, không sai một chữ. Mã Ngọc cả mừng, luôn miệng khen thằng nhỏ thông minh. Mã Ngọc là đạo sĩ đôn hậu khiêm xung, lòng dạ quân tử, đâu nghĩ đến việc Triệu Chí Kính có ngụy kế.

Hết hạ sang thu, hết thu sang đông, thấm thoắt đã mấy tháng, Dương Quá nhớ nằm lòng bao nhiêu là khẩu quyết, nhưng công phu thực tế thì chẳng học được tí gì, nói về nội công võ nghệ, nó chẳng khác gì khi mới lên núi. Hồi đầu chỉ học khẩu quyết, Dương Quá biết là sư phụ không chịu dạy võ tử tế cho nó, nó cũng chẳng nghĩ ra cách gì. Thấy sư tổ chưởng giáo Mã Ngọc hiền lành, có mách với Mã Ngọc, Mã Ngọc cũng chỉ trách cứ Triệu Chí Kính vài câu là cùng; e rằng lão dê già râu dài tìm cách hành hạ nó, đành chờ Khưu sư tổ về sẽ hay. Nhưng dăm tháng rồi vẫn không thấy Khưu sư tổ trở về. Hơn nữa, đối với võ công của phái Toàn Chân, Dương Quá vốn coi thường, học cũng được mà không học cũng chẳng sao, có điều là bị Triệu Chí Kính lừa dối như thế, trong bụng nó ngày càng căm hận, ngoài mặt vẫn giả bộ vâng lời. Triệu Chí Kính thầm đắc ý, nghĩ bụng: “Mi hỗn hào với sư phụ, để xem ai bị thiệt?”

Chẳng mấy chốc tới tháng Chạp. Theo môn qui của phái Toàn Chân truyền từ thời Vương Trùng Dương, mỗi năm ba ngày cuối tháng Chạp các đệ tử môn hạ đều so tài với nhau, kiểm tra sự tiến bộ của từng người sau một năm luyện tập. Các đệ tử thấy ngày so tài sắp đến, đều miệt mài luyện tập.

Hôm ấy môn hạ đệ tử của Toàn Chân Thất Tử chia nhau thành bảy nhóm so tài. Các đồ tử đồ tôn của Mã Ngọc thành một nhóm. Các đồ tử đồ tôn của Khưu Xứ Cơ của Vương Xứ Nhất, đều thành một nhóm. Đàm Xứ Đoan tuy đã chết, song các đồ tử đồ tôn của họ Đàm vẫn rất mạnh. Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ nghĩ họ Đàm mất sớm, dành ưu ái nhiều hơn cho các đệ tử của họ Đàm, nên các dịp so tài cuối năm, các đệ tử đó cũng không thua kém gì đệ tử của sáu vị còn lại. Năm nay cung Trùng Dương gặp họa, trên dưới phái Toàn Chân đều nghĩ, phái Toàn Chân tuy được tôn là võ học chính tông trong thiên hạ, nhưng các môn phái khác trong võ lâm ngày càng có nhiều cao thủ xuất hiện, uy danh của phái Toàn Chân bị lung lay, nên ai nấy chịu khó tu luyện hơn hẳn mọi năm.

Giáo phái Toàn Chân do Vương Trùng Dương khai sáng. Vương Trùng Dương là tổ sư sáng lập. Toàn Chân Thất Tử (Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ…) là đệ tử thân truyền của Vương Trùng Dương, thuộc đời thứ hai. Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình, Trình Dao Ca là môn đồ của Thất Tử, thuộc đời thứ ba. Dương Quá là đệ tử thuộc đời thứ tư. Chiều nay, các đệ tử của Ngọc Dương Tử như Triệu Chí Kính, Thôi Chí Phương … tề tựu ở một sân bãi góc đông nam để so tài. Vương Xứ Nhất đi vắng, việc so tài do đại đệ tử Triệu Chí Kính chủ trì. Các đệ tử đời thứ tư hoặc diễn quyền cước, hoặc sử đao thương, hoặc phóng ám khí, hoặc hiển nội công, đều do Triệu Chí Kính phân định thứ tự.

Dương Quá nhập môn muộn nhất, xếp sau cùng, thấy không ít tiểu đạo sĩ hoặc thiếu niên tục gia võ nghệ thành thạo, ai nấy có sở trường của mình, thì nó đã chẳng ngưỡng mộ, lại còn ôm lòng căm giận. Triệu Chí Kính thấy nó luôn tỏ vẻ bất bình, bèn có ý để nó lộ cái xấu ra, chờ hai tiểu đạo sĩ đấu khí giới với nhau xong, liền gọi to:

– Dương Quá bước ra !

Dương Quá ngẩn người, nghĩ thầm: “Lão chưa truyền cho ta chút võ nghệ gì, gọi ta ra làm chi?” Triệu Chí Kính lại gọi:

– Dương Quá, ngươi có nghe thấy hay không vậy? Mau bước ra !

Dương Quá đành tiến ra, cúi mình, nói:

– Đệ tử Dương Quá, tham kiến sư phụ !

Môn hạ phái Toàn Chân phần lớn là đạo sĩ, song cũng có không ít đệ tử tục gia như Dương Quá, vẫn hành lễ theo lối tục gia.

Triệu Chí Kính chỉ một tiểu đạo sĩ vừa thắng trong cuộc tỷ võ, nói:

– Nó cũng suýt soát tuổi ngươi, ngươi hãy tỷ thí với nó.

Dương Quá nói:

– Đệ tử không biết tí võ nghệ nào, làm sao có thể tỷ thí với sư huynh?

Triệu Chí Kính giận nói:

– Ta đã truyền thụ công phu cho ngươi cả nửa năm trời, sao lại bảo rằng không biết tí võ nghệ nào? Trong nửa năm ấy ngươi làm trò gì?

Dương Quá không biết trả lời ra sao, cúi đầu im lặng. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi lười nhác, ham chơi, không chịu dụng công, quyền cước tự nhiên lúng túng. Ta hỏi ngươi, sau hai câu “Tu chân hoạt kế hữu hà bằng? Tâm tử quần tình niệm bất sinh” (Tu luyện cuộc sống thật dựa vào cái gì? Để lòng chết đi, mọi ý nghĩ hết sinh ra) tiếp đến câu gì?

Dương Quá nói:

– “Tinh khí sung dựng công hành cụ, Linh quang chiếu diệu mãn thần kinh” (Tinh khí đầy đủ thì thành công, ánh sáng linh thiêng soi rọi tâm thần).

Triệu Chí Kính nói:

– Đúng lắm, ta lại hỏi ngươi, sau hai câu “Bí ngữ sư truyền ngộ bản sơ, Lai thời vô khiếm khứ vô dư (Lời dạy bí truyền của sư phụ nới hiểu ra, đến khi sử dụng đến không thiếu không thừa) là câu gì?

Dương Quá đáp:

– Lịch niên trần cấu khi ma tận, Thiên thể linh minh diệu thái hư (Lau sạch bụi trần bao năm, cả tinh thần trong cơ thể tỏa sáng đến vô cùng).

Triệu Chí Kính mỉm cười, nói:

– Hay lắm, không sai một chữ. Ngươi cứ việc dùng mấy câu pháp môn ấy mà tỷ thí với sư huynh.

Dương Quá lại ngẩn ra, nói:

– Đệ tử không biết mà.

Triệu Chí Kính trong bụng đắc ý, ngoài mặt lại giả bộ cả giận, quát:

– Ngươi chỉ học thuộc khẩu quyết, chẳng chịu luyện công, bây giờ một mực chối từ, mau tỷ thí đi.

Mấy câu khẩu quyết kia tuy là yếu chỉ tu luyện nội công, dạy người thu tâm tức niệm, luyện tinh dưỡng khí; nhưng mỗi câu đều phối hợp với vài chiêu quyền cước, gộp lại sẽ thành một môn quyền pháp nhập môn đơn giản của phái Toàn Chân. Các đạo sĩ chính tai nghe Dương Quá đọc thuộc làu làu, không sai một chữ, nhưng thấy thằng bé lâm chiến lại run sợ, người tốt bụng thì nói lời khích lệ, kẻ xấu bụng thì buông lời châm biếm. Các đệ tử phái Toàn Chân phần đông đều là người lương thiện, nhưng vì Quách Tĩnh hôm lên núi Chung Nam đã đánh cho họ một trận đại bại, đắc tội với nhiều người, nên có một số đạo sĩ giận cá chém thớt, giận lây Dương Quá, chỉ mong nó gặp chuyện này chuyện nọ, tuy chưa hẳn là ác ý, nhưng bớt được chút ấm ức trong lòng thì cũng là chuyện thường tình.

Dương Quá thấy mọi người thúc giục, vài người còn lạnh lùng châm biếm, thì nổi giận, nghĩ thầm: “Thì hôm nay ta liều mạng với các ngươi một phen”, bèn nhảy vào vòng, múa hai tay, tấn công tới tấp gã tiểu đạo sĩ kia. Gã tiểu đạo sĩ kia thấy nó vừa nhảy vào chẳng hề hành lễ, cũng không khiêm tốn cầu giáo theo đúng môn qui, đã đấm đá như một kẻ điên, thì rất đỗi kinh ngạc, cứ liên tiếp thoái lui. Dương Quá sớm đã bất cần sống chết, cứ xông tới tấn công. Gã tiểu đạo sĩ kia đã lùi mấy bước, thấy hạ bàn của Dương Quá sơ hở, bèn nghiêng người gạt chân một cái sử chiêu “Phong tảo diệp lạc”, gạt vào chân Dương Quá. Dương Quá không biết cách tránh, đứng không vững, ngã sấp mặt xuống, chảy cả máu mũi.

Các đạo sĩ đứng ngoài thấy Dương Quá ngã đau, có kẻ cười ồ. Dương Quá bò dậy, cũng chẳng buồn lau máu mũi, chúi đầu xông tới phía tiểu đạo sĩ kia. Tiểu đạo sĩ kia thấy nó hung hăng quá, vội né sang bên. Dương Quá xuất chiêu chẳng theo pháp độ gì hết, nó giơ cả hai tay ôm lấy chân trái đối phương. Tiểu đạo sĩ hữu chưởng giáng ngay xuống vai nó; chiêu “Khi ma trần cấu” này vốn dùng để hóa giải khi hạ bàn bị tập kích, nhưng Dương Quá ở Đào Hoa đảo chưa học võ nghệ, ở cung Trùng Dương cũng không được truyền thụ công phu thực dụng, nên không hiểu gì về chiêu số của đối phương, chỉ nghe “bộp” một cái, vai đã trúng đòn khá nặng, đau thấu xương. Nó càng thua càng hung hăng, dùng đầu húc luôn vào đùi phải của đối phương, tiểu đạo sĩ kia đứng không vững, ngã ngửa xuống đất. Dương Quá vung nắm đấm đánh thẳng xuống đầu tiểu đạo sĩ.

Tiểu đạo sĩ kia đang bại nhưng cầu thắng, thúc cùi chỏ lên ngực Dương Quá, thừa lúc nó đau đớn, đã bật ngay dậy, thừa thế đẩy một cái khiến Dương Quá ngã liền, chính là chiêu “Vô khiếm vô dư”, rồi cúi đầu, nói:

– Dương sư đệ khiêm nhượng !

Đồng môn so tài, một khi đã phân rõ thắng bại thì phải dừng tay; nào ngờ Dương Quá cứ như con hổ điên cuồng lao tới; vài ba chiêu đã lại bị đánh ngã, nhưng nó càng đánh càng hung dữ, quyền cước cũng càng lúc càng nhanh hơn.

Triệu Chí Kính gọi:

– Dương Quá, ngươi thua từ lâu rồi, còn tỷ thí gì nữa?

Dương Quá không thèm đếm xỉa, cứ thế xông tới. Các đạo sĩ lúc đầu còn thấy tức cười, nghĩ thầm: “Sao phái Toàn Chân ta lại có đứa đánh đấm ngu xuẩn như thế?” Sau thấy nó nhắm mắt liều mạng, chỉ sợ tai họa, vội can:

– Thôi, thôi, dừng lại đi, sư huynh sư đệ đấu thử, đừng có đánh thật.

Đấu thêm một hồi, tiểu đạo sĩ kia đã có ý khiếp hãi, chỉ né tránh, không dám để nó tới gần. Tục ngữ có câu “Một người liều mạng, vạn người khó đương”. Dương Quá ở núi Chung Nam đã tích oán khí hơn nửa năm trời, lúc này có dịp phát tiết ra hết. Gã tiểu đạo sĩ kia tuy võ công hơn hẳn Dương Quá, nhưng không hề có ý chí quyết đấu hăng say như nó; thấy không địch nổi, đành cứ thế chạy quanh. Dương Quá đuổi theo sau, nhiếc:

– Tên đạo sĩ thối tha, mi đánh được ta rồi, định bỏ chạy hả?

Lúc này mười người đứng ngoài thì tám chín là đạo sĩ nghe nó chửi loạn hết “đạo sĩ thối tha”, lại “đạo sĩ khốn kiếp”, thì vừa giận vừa tức cười, ai ai cũng nói:

– Tên tiểu tử này phải quản giáo ra trò mới được.

Gã tiểu đạo sĩ kia bị đuổi gấp, hốt hoảng gọi to:

– Sư phụ, sư phụ!…

Mong Triệu Chí Kính lên tiếng bảo ngừng. Triệu Chí Kính quát liền mấy lần, Dương Quá vẫn bất chấp.

Giữa lúc ấy, trong số người đứng ngoài có một đạo sĩ béo mập quát to, bước ra, thộp gáy Dương Quá, nhấc bổng lên, rồi bốp bốp bốp ba tiếng, giáng liền ba cái tát mạnh, khiến một bên má của nó lập tức sưng đỏ lên. Dương Quá bị người kia tát cho tối tăm mặt mày, nhìn lại, thì ra dó chính là Lộc Thanh Đốc, đạo sĩ có oán thù tới nó. Hôm Dương Quá lên núi, Lộc Thanh Đốc bị nó đẩy vào cảnh suýt chết cháy, sau đó bị sư huynh sư đệ châm chọc, bảo y bản lĩnh còn thua cả một thằng nhóc con. Gã ôm hận trong lòng, hôm nay thấy Dương Quá làm loạn thế này thì hết nhịn nổi, bèn bước ra động thủ.

Dương Quá vốn quyết đấu, thấy Lộc Thanh Đốc, càng không sợ gì; có điều là đang bị gã tóm gáy nhấc lên, không làm gì được. Lộc Thanh Đốc cười gằn, lại bốp bốp bốp tát thêm ba cái, nói:

– Mi không vâng lệnh sư phụ, là tên phản đồ của bản môn, ai cũng có quyền đánh mi.

Nói rồi lại giơ tay định đánh tiếp.

Sư đệ của Triệu Chí Kính là Thôi Chí Phương thấy Dương Quá khi xuất thủ hình như không biết chút công phu gì của bản môn, vốn biết Triệu Chí Kính tâm địa hẹp hòi, e rằng bên trong có ý gì khác, giờ thấy Lộc Thanh Đốc ra tay quá mạnh, sợ sẽ đả thương Dương Quá, bèn quát:

– Thanh Đốc, dừng tay !

Lộc Thanh Đốc nghe tiếng quát của sư thúc, tuy không muốn, vẫn phải thả Dương Quá xuống, nói:

– Sư thúc có điều chưa biết, tên tiểu tử này vô cùng giảo hoạt, nếu không nghiêm khắc giáo huấn, e rằng bản giáo không còn qui củ gì nữa.

Thôi Chí Phương không thèm để ý đến Lộc Thanh Đốc, bước tới trước mặt Dương Quá, thấy hai má nó sưng lên, mũi miệng dính máu, thần tình rất đáng thương, bèn dịu giọng nói:

– Dương Quá, sư phụ ngươi đã dạy ngươi võ nghệ, sao ngươi không dụng công luyện tập, lại đấm đá sư huynh loạn xạ lên như thế?

Dương Quá hậm hực nói:

– Sư phụ cái gì lão ta? Lão ta chẳng dạy chút võ công nào cả.

Thôi Chí Phương nói:

– Ta nghe ngươi đọc khẩu quyết thuộc làu làu, không sai một chữ kia mà.

Dương Quá nghĩ đến Hoàng Dung ở Đào Hoa đảo dạy nó đọc thuộc lòng tứ thư ngũ kinh; những kinh thư mà Triệu Chí Kính dạy nó ớ đây cũng chẳng dính dáng gì tới võ công, bèn nói:

– Ta chẳng muốn thi đỗ trạng nguyên, học thuộc mấy thứ ấy có ích lợi gì?

Thôi Chí Phương giả bộ nổi giận, muốn thử xem có đúng là nó không biết chút võ công nào của bản môn hay chăng, bèn nghiêm mặt nói:

– Sao ngươi có thể nói năng vô lễ với tôn trưởng như vậy?

Rồi giơ tay đẩy vào vai nó một cái.

Thôi Chí Phương là một cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, võ công tuy chưa bằng Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình, song nội ngoại kiêm tu, công lực khá tinh thâm. Cú đẩy vừa rồi, Thôi Chí Phương dùng lực có tính toán, tay vừa chạm vai, cảm thấy vai Dương Quá hơi nghiêng, nội lực tự sinh, đẩy lực của Thôi Chí Phương lại non nửa, tuy nó lảo đảo vài bước, nhưng không bị ngã. Thôi Chí Phương kinh ngạc, lòng đầy nghi vấn, nghĩ thầm: “Nó còn nhỏ tuổi, nhập môn chỉ mới nửa năm, làm sao lại có công lực như thế? Nó đã có nội lực như vậy, trong cuộc tỷ thí vừa rồi không thể nào lại đấm đá lung tung vậy được, không lẽ quả thật có sự giả trá?” Thôi Chí Phương đâu biết rằng Dương Quá đã tu tập nội công theo cách Âu Dương Phong truyền thụ, có tiến bộ rõ rệt. Tu luyện nội công theo phái Bạch Đà sơn rất dễ dàng, tiến triển cực nhanh, không như nội công phái Toàn Chân cầu căn cơ thực tế. Luyện tập trong mười năm đầu, công lực của đệ tử phái Bạch Đà sơn tiến triển nhanh hơn hẳn đệ tử phái Toàn Chân. Nội công của hai phái vốn khác hẳn nhau, Thôi Chí Phương tùy thủ đẩy một cái như thế, dĩ nhiên khó lòng phân biệt sự khác nhau đó.

Dương Quá bị đẩy, cảm thấy ngực khó thở, chỉ biết là Thôi Chí Phương ra tay đánh nó. Lúc này nó chẳng còn sợ trời sợ đất gì hết, dù là chính Khưu Xứ Cơ tới đây nó cũng xông tới động thủ, thử hỏi nó sợ gì Thôi Chí Phương với chả Thôi Chí Viên? (phương viên: vuông tròn). Nó bèn cúi đầu húc thẳng vào bụng dưới của Thôi Chí Phương. Thôi Chí Phương chẳng buồn bẩn tay với một đứa bé, y mỉm cười, né tránh một cái, nhất định muốn biết công phu thật của Dương Quá, nên nói:

– Thanh Đốc, ngươi hãy quá chiêu với Dương sư đệ, chú ý có chừng mực thôi, đừng quá nặng tay !

Lộc Thanh Đốc chỉ chờ có thế, lập tức sấn tới trước mặt Dương Quá, tả chưởng đánh dứ, Dương Quá né người sang bên phải, Lộc Thanh Đốc hữu chưởng tung ra, chiêu “Hổ môn thủ” này kình lực không nhỏ, “bộp” một cái, trúng ngực Dương Quá. Nếu Dương Quá không từng luyện qua nội công theo phái Bạch Đà sơn, thì phải hộc máu mồm ra rồi. Tuy không bị thế, nhưng ngực nó cũng đau ghê gớm, mặt trắng bệch đi. Lộc Thanh Đốc thấy một chưởng chưa đánh ngã Dương Quá, cũng thầm lấy làm lạ, hữu quyền lại đánh vào mặt. Dương Quá giơ cánh tay ra đỡ, khổ nỗi nó không hiểu gì quyền lý, không biết cách hóa giải đơn giản nhất, hữu quyền của Lộc Thanh Đốc dẫn xéo đi, tả quyền phóng nhanh ra, “hự” một tiếng, trúng vào bụng dưới của Dương Quá, khiến nó đau oằn cả người lại. Lộc Thanh Đốc hạ thủ không dung tình, cạnh bàn tay phải lại chém ngay xuống gáy, tựa hồ y muốn đánh cho đối phương phải ngất đi luôn để trả mối thù ngày nào. Ai ngờ thân hình Dương Quá chỉ lảo đảo vài cái, rồi lại đứng vững, chỉ thấy mặt mũi tối tăm, không còn khả năng đánh lại.

Thôi Chí Phương lúc này đã biết đích xác là Dương Quá không hề biết võ công, bèn gọi:

– Thanh Đốc, dừng tay !

Lộc Thanh Đốc nói với Dương Quá:

– Tên tiểu tử thối tha, mi đã phục ta hay chưa?

Dương Quá chửi:

– Tên đạo sĩ khốn kiếp, sẽ có ngày ta giết ngươi?

Lộc Thanh Đốc cả giận, hai quyền liên tiếp đánh vào sống mũi Dương Quá. Dương Quá thấy trời đất tối sầm, lảo đảo sắp ngã, không biết tại sao đột nhiên có một luồng khí nóng bốc thẳng lên từ đan điền, mắt thấy quyền thứ ba của Lộc Thanh Đốc lại đánh tới mặt, chẳng còn cách gì né tránh, thì tự dưng hai gối khép lại, miệng quát một tiếng, một chưởng đẩy ra, trúng vào bụng dưới của Lộc Thanh Đốc. Chỉ thấy thân hình béo mập của Lộc Thanh Đốc bỗng bay ngang, kéo theo một lớp bụi đất, bắn ra xa hơn một trượng, nằm thẳng cẳng bất động.

Các đạo sĩ đứng ngoài thấy Lộc Thanh Đốc cậy lớn hiếp bé, đánh Dương Quá hơi ác, đều tỏ ý bất bình. Bậc trưởng bối, trừ Triệu Chí Kính, đều lên tiếng ngăn cản, nào ngờ sự việc biến đổi kỳ lạ, Lộc Thanh Đốc rốt cuộc lại bị chưởng lực của Dương Quá đánh ngã, nằm thẳng cẳng bất động, thì ai nấy kinh ngạc, cùng chạy lại xem sao.

Thứ nội lực “Cáp mô công” này Dương Quá vốn chưa biết cách sử dụng, chỉ là trong lúc nguy cấp liều mạng, tự nhiên nó lại phát ra, lần thứ nhất ở Đào Hoa đảo, nó đánh cho Võ Tu Văn ngất lịm; mấy tháng sau, nội lực đã tăng tiến, sự căm hận của nó đối với Lộc Thanh Đốc càng sâu xa hơn so với huynh đệ họ Võ, kình lực do tâm sinh, cuối cùng đánh cho đối phương bắn văng ra xa. Chỉ nghe các đạo sĩ kêu loạn lên:

– Ôi chao, hỏng rồi, chết rồi !

– Tắt thở rồi, chắc là vỡ nội tạng !

– Mau bẩm báo tổ sư chưởng giáo !

Dương Quá biết là mình đã gây đại họa, nhân lúc hỗn loạn, cũng chẳng kịp nghĩ ngợi gì, nó cắm đầu chạy.

Các đạo sĩ mải xem Lộc Thanh Đốc sống chết ra sao, nên không ai lưu tâm đến việc Dương Quá bỏ chạy.

Triệu Chí Kính thấy Lộc Thanh Đốc hai mắt trợn ngược, chưa rõ sống chết thế nào, vừa kinh hãi vừa tức giận, gọi to:

– Dương Quá, Dương Quá, ngươi học thứ yêu pháp gì vậy hả?

Y võ công tuy cao, nhưng trưởng thành ở trong cung Trùng Dương, kiến văn hạn hẹp, không biết đó là thủ pháp “Cáp mô công”. Y gọi mấy lần, không thấy Dương Quá trả lời. Các đạo sĩ ngoảnh cả lại, thì đã không thấy bóng dáng Dương Quá đâu nữa. Triệu Chí Kính liền truyền lệnh cho mọi người chia nhau truy nã, thiết tưởng một thằng bé trong giây lát làm sao có thể trốn đi đâu được?

Dương Quá cắm đầu chạy, cứ chọn những chỗ nhiều bụi cây mà lao đến; chạy một hồi, nó nghe thoạt tiên ở sau lưng, rồi ở bốn phía, vang lên tiếng gọi:

– Dương Quá, Dương Quá, mau ra đây?

Nó càng hoảng, càng chạy loạn lên, đột nhiên trước mặt có bóng một dạo sĩ, người ấy đã trông thấy nó, đang chạy lại. Dương Quá vội quay mình, thì phía tây cũng có một đạo sĩ khác, nói:

– Đây rồi, nó đây rồi!

Dương Quá vội thụp người xuống, chui đại qua một bụi cây. Đạo sĩ kia thân hình cao to, chui qua không lọt, đành đi vòng bụi cây để tìm, thì Dương Quá đã chạy mất rồi.

Dương Quá chui qua bụi cây, cứ thế chạy thẳng một hồi, nghe tiếng người xa dần, nó vẫn chưa dám dừng chân. Nó tránh mọi đường đi, toàn đạp cỏ mà chạy, đến khi toàn thân mỏi nhừ, cơ hồ không còn sức cựa quậy, nó mới ngồi bệt xuống một hòn đá mà nghỉ. Nghỉ một lúc, nó tự nhủ: “Phải trốn thôi, trốn mau thôi!”. Nhưng hai chân nó tường như nặng ngàn cân, cố đứng lên vẫn không được. Bỗng nó nghe sau lưng có tiếng cười hi hi, nó giật mình, ngoảnh lại, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, nhìn thấy một đạo sĩ đang trợn mắt nhìn nó, người kia có bộ râu dài, chính là Triệu Chí Kính.

Đôi bên gườm gườm nhìn nhau, trong giây lát cả hai cùng bất động. Dương Quá đột nhiên kêu to, quay người bỏ chạy. Triệu Chí Kính đuổi theo, giơ tay chộp sau lưng. Dương Quá cúi gấp về phía trước, cách được vài tấc, suýt nữa thì bị tóm. Nó tiện thể nhặt một hòn đá, ném về phía sau. Triệu Chí Kính né người tránh, đuổi nhanh hơn, khoảng cách đôi bên ngắn dần. Dương Quá chạy như điên mươi bước nữa, bỗng thấy trước mặt là một cái khe sâu; chẳng còn đường nào khác, cũng không biết dưới kia là thâm cốc hay sơn khê, không kịp nghĩ ngợi gì hết, nó lăn đại xuống.

Triệu Chí Kính tới bên mép khe, nhìn xuống bên dưới, thấy Dương Quá lăn xuống theo vách cỏ xanh, bên dưới là một cánh rừng. Từ chỗ này xuống dưới đó khoảng cách phải bảy, tám trượng, Triệu Chí Kính không dám lăn theo, mà chạy đường vòng để xuống dưới đó, dần theo vết cỏ rạp mà Dương Quá để lại, tiến vào cánh rừng, một quãng sau thì không còn dấu vết gì nữa; rừng cây càng lúc càng dày, che hết cả ánh sáng mặt trời. Triệu Chí Kính đi thêm hơn chục trượng, sực nhớ đây là khu vực “Hoạt tử nhân mộ” chốn cựu cư của Trùng Dương tổ sư năm xưa, bổn phái đã có nghiêm qui, bất cứ ai cũng không được xâm nhập. Nhưng để cho Dương Quá trốn thoát vào đấy, thì Triệu Chí Kính không cam lòng, bèn lớn tiếng gọi:

– Dương Quá, Dương Quá, mau ra đi?

Gọi mấy lần, cánh rừng vẫn tĩnh lặng như tờ. Triệu Chí Kính đánh bạo tiến thêm vài bước, trong bóng tranh tối tranh sáng, thấy có một tấm bia đá, cúi nhìn, tấm bia khắc bốn chữ “Người ngoài dừng bước”. Triệu Chí Kính do dự, cất tiếng gọi to:

– Tên tiểu tặc Dương Quá, nếu không chịu ra, ta mà bắt được sẽ đập chết ngươi !

Tiếng quát vừa dứt, từ trong rừng bỗng nghe có tiếng vo vo lạ tai, rồi một bầy ong trắng từ các kẽ lá bay ào ào tới.

Triệu Chí Kính cả kinh, vung tay áo đuổi bầy ong. Y nội lực thâm hậu, luồng kình lực tạo ra từ ống tay áo vốn không nhỏ, nhưng vung vẩy được mấy cái, thì bầy ong tản làm hai bọn, một bọn tấn công phía trước mặt, một bọn thì ào tới từ phía sau gáy. Triệu Chí Kính càng kinh hãi không dám chậm trễ, hai tay áo cứ phất như bay, bảo vệ toàn thân. Bầy ong tản ra bu vào trên dưới, tứ diện bát phương dồn dập tấn công. Triệu Chí Kính không dám chống đỡ nữa, dùng tay áo che đầu che mặt, chạy ra khỏi cánh rừng.

Bầy ong vù vù đuổi theo, chúng bay cực nhanh, cứ bám riết không tha. Triệu Chí Kính chạy sang phía đông, bầy ong đuổi theo sang đông; Triệu Chí Kính chạy sang phía tây, bầy ong đuổi sang tây, y vung tay áo hơi chậm một chút, có hai con ong lợi dụng khe hở bay ngay vào, mỗi con đốt một cái vào má phải của Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính lập tức cảm thấy ngứa ngáy kinh khủng tựa hồ lục phủ ngũ tạng đều phát ngứa. Y nghĩ thầm: “Hôm nay ta bỏ mạng ở đây mất thôi !” Rồi y không đứng vững được nữa, ngã lăn mấy vòng xuống cái dốc cỏ ở bìa rừng, miệng la ôi ối. Bầy ong bay quanh thân hình y một lúc rồi bay trở vào rừng.

Hồi 05: Hoạt tử nhân mộ

Dương Quá lăn xuống khe, rơi vào đám cỏ dày trong rừng, rồi ngất lịm đi. Không biết bao lâu sau, bỗng cảm thấy thân thể đau buốt, mở mắt ra, thấy vô số những con ong trắng bay quanh nó, trong tai chỉ toàn nghe tiếng vo vo vù vù, toàn thân phát ngứa lạ lùng, trước mắt mờ mờ ảo ảo, rồi lại ngất đi.

Khi tỉnh lại, chỉ thấy có một thứ nước ngọt, thơm và mát lạnh, từ từ chảy vào cổ họng; nó mơ mơ màng màng nuốt xuống bụng, thấy dễ chịu vô cùng, bèn he hé mắt, thì thấy cách hai thước có một bộ mặt xấu xí, mọc đầy mụn cơm, đang chăm chú nhìn nó. Dương Quá sợ quá, suýt nữa lại ngất đi. Người kia dùng tay trái cậy hàm dưới của nó, tay phải cầm một cái chén, rót nước ngọt vào miệng nó.

Dương Quá cảm thấy cái ngứa dị thường trong người đã bớt, lại phát hiện mình đang nằm trên giường, biết là người kia cứu chữa cho nó, bèn mỉm cười, tỏ ý cảm tạ. Người kia cũng cười, rót nước ngọt vào miệng nó xong, đặt cái chén xuống bàn. Dương Quá thấy nụ cười của người phụ nữ ấy vô cùng xấu xí, nhưng lại hàm chứa một sự hiền từ ôn nhu, thì nó cảm thấy ấm lòng, nói:

– Bà bà ơi, đừng để sư phụ đến bắt điệt nhi.

Xú kiểm lão phụ (Bà già mặt mũi xấu xí) dịu dàng hỏi:

– Hài tử ngoan, sư phụ của con là ai thế?

Dương Quá đã lâu lắm không được nghe giọng nói dịu dàng quan thiết như thế, ngực nó bỗng bồi hồi ấm áp, bất giác nó khóc òa lên. Lão phụ tay trái cầm tay nó, không khuyên nhủ gì, chỉ hơi mỉm cười, nghiêng đầu nhìn nó, ánh mắt đầy vẻ âu yếm, tay phải vỗ vỗ nhẹ lưng nó; chờ nó khóc một hồi, mới nói:

– Con đã dễ chịu hơn chưa?

Dương Quá nghe giọng nói hiền hòa, bất giác lại khóc òa lên. Lão phụ lấy khăn lau nước mắt cho nó , an ủi:

– Hài tử ngoan, đừng khóc, đừng khóc; chỉ lát nữa sẽ hết đau thôi.

Lão phụ càng dỗ, Dương Quá càng khóc nức nở.

Bỗng bên ngoài tấm màn cửa có một giọng trong trẻo vang lên:

– Tôn bà bà, hài tử đó cứ khóc mãi không nín, thì làm thế nào?

Dương Quá ngẩng đầu nhìn, chỉ thấv một bàn tay trắng như ngọc vén tấm màn che, rồi một thiếu nữ bước vào. Thiếu nữ ấy mặc bộ đồ lụa trắng, tưởng như thân hình ở trong lớp sương mù, trạc mười bảy, mười tám tuổi, trừ mái tóc đen, toàn thân trắng như tuyết, khuôn mặt tú mỹ tuyệt vời, có điều là da dẻ trắng xanh, thiếu màu hồng. Dương Quá đỏ mặt, vội nín bặt, cúi đầu xấu hổ, nhưng vẫn đưa mắt nhìn trộm thiếu nữ một cái, thấy nàng đang nhìn mình, nó vội cúi mặt xuống.

Tôn bà bà cười, nói:

– Ta hết cách rồi, nàng lại dỗ nó vậy.

Thiếu nữ tới bên giường, xem vết ong đốt trên đầu Dương Quá, đưa tay sờ sờ góc trán, xem nó có bị sốt hay không. Bàn tay nàng vừa chạm vào trán, Dương Quá lập tức cảm thấy lạnh giá lạ thường, bất giác nó run cầm cập. Thiếu nữ nói:

– Không sao, ngươi đã uống mật ong, nửa ngày thì khỏi. Ngươi chạy vào rừng làm gì vậy?

Dương Quá ngẩng mặt lên, gặp ánh mắt của nàng, cảm thấy thiếu nữ thanh lệ tú nhã, càng nhìn càng ưa, song thần sắc lạnh lùng, đúng là thanh khiết như băng tuyết, cũng giá lạnh như băng tuyết, thật chẳng biết nàng mừng hay giận, buồn hay vui, tự dưng nó cảm thấy sờ sợ, nghĩ thầm: “Cô nương này là pha lê, hay là người tuyết? Rốt cuộc là người hay ma? Hay là thần đạo tiên nữ?” Nghe lời nói kiều nhu uyển chuyển, nhưng giọng nói tựa hồ không một chút ấm áp, thì nó ngẩn ngơ, không trả lời.

Tôn bà bà cười, nói:

– Vị Long tỷ tỷ là chủ nhân ở đây, Long tỷ tỷ vừa hỏi gì, sao ngươi không đáp?

Bạch y thiếu nữ tú mỹ này hóa ra là Tiểu Long Nữ, chủ nhân của “Hoạt tử nhân mộ”. Nàng đã mười tám tuổi, có điều sống lâu trong nhà mộ, không có ánh nắng, nội công tu luyện lại theo con đường khắc chế tâm ý, nên trông trẻ hơn các thiếu nữ cùng trang lứa tới mấy tuổi. Tôn bà bà là a hoàn của sư phụ nàng, từ ngày sư phụ qua đời, hai người cùng ở trong nhà mộ với nhau. Hôm nay nghe tiếng ong, biết có kẻ xông vào cánh rừng bên ngoài nhà mộ, Tôn bà bà đi ra xem sao, thấy Dương Quá đã trúng độc ngất lịm, bèn cứu nó. Lẽ ra, theo qui củ ở đây bất cứ người ngoài là ai, cũng không được vào trong nhà mộ nửa bước, nam giới bước vào càng phạm đại kỵ; nhưng Dương Quá còn nhỏ, hơn nữa người đầy thương tích, Tôn bà bà không nỡ, nên phá lệ cứu nó.

Dương Quá ngồi dậy, từ trên giường đá nhảy xuống đất khấu đầu với Tôn bà bà và Tiểu Long Nữ, nói:

– Đệ tử Dương Quá, bái kiến bà bà, bái kiến Long cô cô.

Tôn bà bà tươi cười vội đỡ nó dậy, nói:

– À, vậy là Dương Quá, khỏi cần đa lễ.

Tôn bà bà sống trong nhà mồ đã mấy chục năm, không giao thiệp với người ngoài, lúc này thấy Dương Quá diện mạo tuấn tú, cứ chỉ lễ độ, thì trong bụng rất vui thích. Còn Tiểu Long Nữ chỉ hơi gật đầu, ngồi xuống chiếc ghế đá cạnh giường. Tôn bà bà nói:

– Sao ngươi lại tới đây? Tại sao lại bị thương? Kẻ nào đánh ngươi đến mức tệ hại thế này?

Tôn bà bà hỏi dồn dập, không đợi Dương Quá trả lời, bước ra, mang vào mấy cái bánh, luôn miệng giục nó ăn.

Dương Quá ăn hết mấy cái bánh, rồi đem thân thế của mình ra kể một mạch từ đầu chí cuối. Nó vốn khéo mồm khéo miệng, kể về cảnh ngộ của mình khiến người nghe phải mủi lòng. Tôn bà bà không ngớt thở dài, chốc chốc xen vào vài lời, toàn là bênh Dương Quá, nào bảo Hoàng Dung thiên vị con gái, hành sự bất công; nào chê Triệu Chí Kính lòng dạ hẹp hòi, hiếp đáp con trẻ. Tiểu Long Nữ không biểu lộ thanh sắc, chỉ thản nhiên ngồi nghe, khi Dương Quá nhắc đến Lý Mạc Sầu, nàng đưa mắt nhìn Tôn bà bà.

Tôn bà bà nghe Dương Quá kể xong, kéo nó vào lòng, nói:

– Tội nghiệp cho con!

Tiểu Long Nữ thong thả đứng dậy, nói:

– Thương thế của ngươi không sao cả, Tôn bà bà hãy đưa nó sang bên đó!

Tôn bà bà và Dương Quá cùng sững sờ. Dương Quá kêu to:

– Đệ tử không về, chết cũng không trở về bên đó.

Tôn bà bà nói:

– Cô nương, đứa bé này nếu trở về cung Trùng Dương, sư phụ của nó sẽ gây khó dễ với nó.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà đưa nó sang, bảo sư phụ của nó đừng gây khó dễ cho nó.

Tôn bà bà nói:

– Ôi, chuyện của môn phái bên đó, chúng ta chẳng quản được đâu.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà mang theo một bình mật ong sang, rồi nói thế, lão đạo sĩ sẽ không thể trái lời.

Giọng nói của nàng rất uy nghiêm, khiến người ta khó bề phản kháng. Tôn bà bà thở dài, đã biết tính nàng, có nói thêm cũng vô ích, chỉ nhìn Dương Quá, ánh mắt đầy vẻ thương hại.

Dương Quá đứng phắt dậy, vái hai người một vái nói:

– Đa tạ bà bà và cô cô trị thương, đệ tử đi đây!

Tôn bà bà nói:

– Ngươi đi đâu thế?

Dương Quá ngẩn người giây lát, rồi nói:

– Thiên hạ rộng lớn, đi đâu mà chẳng được.

Trong bụng quả thật nó chưa biết nên đi đâu, nên sắc mặt bất giác lộ vẻ bối rối. Tôn bà bà nói:

– Hài tử, không phải cô nương của chúng ta không cho ngươi ở lại, mà là nơi này có nghiêm qui, không cho người ngoài bước vào, ngươi đừng buồn.

Dương Quá hiên ngang nói:

– Bà bà nói gì vậy? Chúng ta sau này sẽ còn gặp nhau mà.

Thằng bé bắt chước lối nói năng của người lớn, nhưng giọng nói thì còn của trẻ con, Tôn bà bà nghe vừa tức cười vừa thương hại. Thấy nó nước mắt lưng tròng, đang cố không khóc, thì Tôn bà bà quay sang nói với Tiểu Long Nữ:

– Cô nương, giữa đêm hôm thế này, hay là để sáng mai nó đi?

Tiểu Long Nữ khẽ lắc đầu, nói:

– Bà bà không lẽ đã quên qui củ của sư phụ rồi sao?

Tôn bà bà thở dài, đứng dậy, nói nhỏ với Dương Quá:

– Lại đây, hài tử, ta cho con một thứ đồ chơi.

Dương Quá đưa mu bàn tay chùi mắt, cúi đầu đi ra cửa, nói:

– Đệ tửkhông cần, đệ tử có chết cũng không về chỗ bọn đạo sĩ thối tha.

Tôn bà bà lắc đầu, nói:

– Ngươi không biết đường, để ta dẫn đi cho.

Tôn bà bà đi ra, cầm tay nó. Vừa ra tới cửa buồng, Dương Quá thấy trước mắt tối mò mò, nó phải để Tôn bà bà dắt đi, chỉ biết là vòng hai chỗ quành, không hiểu Tôn bà bà trong bóng tối làm cách nào nhận biết các chỗ rẽ.

Nguyên “Hoạt tử nhân mộ” tuy gọi là mộ phần, nhưng thực ra là một cái nhà kho rất lớn ngầm dưới lòng đất. Trước khi nổi dậy chống Kim, Vương Trùng Dương đã điều động mấy ngàn nhân lực xây dựng mấy năm mới xong, cất giấu ở đây khí giới, lương thực, làm căn bản cho một dải Sơn – Thiểm, bên ngoài có hình dạng một ngôi mộ, để che tai mắt của quân Kim. Lại sợ quân Kim tấn công vào, nên bên trong bố trí vô số cơ quan xảo diệu để chống ngoại địch. Sau khi nghĩa binh thất bại, Vương Trùng Dương lui về đây ẩn cư. Vì bên trong mộ có rất nhiều phòng, lối đi lắt léo, người ngoài vào trong, dẫu bốn phía đèn đuốc sáng rực, cũng dễ bị lạc lối, nói chi trong bóng tối bưng lấy mắt như thế này.

Hai người ra khỏi tòa cổ mộ, đang đi trong cánh rừng, bỗng nghe bên ngoài có tiếng nói to:

– Môn hạ đệ tử phái Toàn Chân Doãn Chí Bình phụng mệnh sư phụ bái kiến Long cô nương.

Âm thanh ở xa, rõ ràng là từ bên ngoài cấm địa truyền vào. Tôn bà bà nói:

– Ngoài kia có người tìm ngươi đó, hượm hãy ra.

Dương Quá vừa sợ vừa tức, người run lên, nói:

– Bà bà khỏi cần lo cho đệ tử, dám làm thì dám chịu, đệ tử đã lỡ tay đánh chết người thì cứ để người ta giết đệ tử đền mạng.

Nói đoạn nó sải bước mà đi. Tôn bà bà nói:

– Ta cùng đi với ngươi.

Tôn bà bà cầm tay Dương Quá dắt đi qua cánh rừng, tới chỗ bìa rừng trống trải. Dưới ánh trăng đã thấy sáu, bảy đạo sĩ đứng thành một hàng, lại có bốn đạo sĩ hỏa công khiêng hai người bị thương là Triệu Chí Kính và Lộc Thanh Đốc. Các đạo sĩ thấy Dương Quá thì không hẹn mà cùng tiến lên mấy bước.

Dương Quá gỡ tay Tôn bà bà ra, bước lên, nói to:

– Ta đây, các người muốn băm muốn vằm thế nào thì cứ việc.

Các đạo sĩ không ngờ một đứa bé lại cương ngạnh như thế. Một đạo sĩ tiến lại túm cổ Dương Quá lôi đi.

Dương Quá cười khẩy, nói:

– Ta có chạy đâu mà ngươi phải cuống lên thế?

Đạo sĩ đó là đại đệ tử của Triệu Chí Kính, sư phụ của y vì Dương Quá mà bị ong đốt, đau đớn chết đi sống lại, chưa biết có giữ được tính mạng hay không. Y vốn thập phần ngưỡng mộ sư phụ, nghĩ rằng là đồ đệ mà ngỗ nghịch với sư phụ như Dương Quá, thật là cực kỳ vô pháp vô thiên, nghe Dương Quá nói cứng, y đấm luôn một quyền vào đầu nó.

Tôn bà bà vốn định nói chuyện tử tế với các đạo sĩ, thấy Dương Quá bị người ta lôi đi xềnh xệch, đã rất khó chịu, đột nhiên lại thấy nó bị đánh, thì cả giận, nén sao nổi? Tôn bà bà bèn sấn tới, phất tay áo một cái, gã đạo sĩ kia chỉ thấy cổ tay đau nhói, đành buông Dương Quá ra, định hỏi vì sao, thì Tôn bà bà đã ôm Dương Quá quay lưng bước đi.

Cứ tưởng Tôn bà bà là một lão phụ yếu ớt, nào ngờ xuất thủ đoạt người quá mau lẹ, các đạo sĩ còn đang ngẩn ra, thì Tôn bà bà đã mang Dương Quá đi ra xa hơn một trượng. Ba đạo sĩ chạy theo, quát:

– Để người lại!

Tôn bà bà dừng chân, ngoảnh đầu, cười khẩy:

– Các ngươi muốn gì?

Doãn Chí Bình biết các nhân vật của “Hoạt tử nhân mộ” có mối quan hệ sâu xa với sư môn, không dám đắc tội, vội quát các đạo sĩ:

– Các ngươi lui lại, không được vô lễ trước mặt tiền bối.

Rồi y bước tới, cúi đầu hành lễ, nói:

– Đệ tử Doãn Chí Bình bái kiến tiền bối.

Tôn bà bà nói:

– Để làm gì?

Doãn Chí Bình nói:

– Hài tử này là đệ tử của phái Toàn Chân, thỉnh tiền bối giao lại cho.

Tôn bà bà cau mày, gằn giọng:

– Trước mặt ta, các ngươi còn đánh đập nó như thế, thử hỏi về đến đạo quán, các ngươi sẽ còn hành hạ nó như thế nào? Muốn ta giao lại, đừng hòng!

Doãn Chí Bình nén giận, nói:

– Đứa bé này ngang bướng hết sức, khi sư diệt tổ, đại hoại môn qui, người trong võ lâm lấy việc kính trọng sư trưởng làm đầu, tệ giáo có trách phạt nó cũng là việc cần làm.

Tôn bà bà tức giận, nói:

– Cái gì mà khi sư diệt tổ, chỉ mới nghe một phía.

Rồi chỉ Lộc Thanh Đốc đang nằm trên cáng, nói:

– Thằng nhỏ tỷ thí với tên đạo sĩ mập kia, là qui củ của riêng phái Toàn Chân các người. Nó vốn không muốn tỷ thí, các người bắt nó phải tỷ thí. Đã tỷ thí, tất nhiên có người thắng kẻ thua, tên đạo sĩ mập vô dụng như thế, còn trách ai kia chứ?

Tôn bà bà tướng mạo vốn xấu xí, lúc giận dữ mặt mày trông càng đáng sợ hơn.

Trong lúc đang nói, lại có thêm hơn mười đạo sĩ nữa tới, đều đứng sau Doãn Chí Bình, họ to nhỏ với nhau, không biết bà bà lớn tiếng kia là ai.

Doãn Chí Bình nghĩ thầm việc đả thương Lộc Thanh Đốc vốn không thể trách Dương Quá, nhưng trước mặt người ngoài không thể để mất uy phong, bèn nói:

– Chuyện này đúng sai thế nào, chúng đệ tử tất sẽ bẩm cáo rõ với sư phụ chưởng giáo, tùy lão nhân gia công bằng xử trí. Thỉnh tiền bối hãy giao lại hài tử kia cho đệ tử.

Tôn bà bà cười khẩy:

– Chưởng giáo của các người mà lại xử công bằng ư? Phái Toàn Chân từ Vương Trùng Dương trở đi, chẳng có lấy một người tử tế. Nếu không, tại sao đôi bên ở sát bên nhau, mà không hề lai vãng?

Doãn Chí Bình nghĩ thầm: “Đấy là các người không chịu lai vãng với bọn ta, sao lại trách cứ phái Toàn Chân? Lời mụ vừa nói dám nhục mạ cả Chân Nhân sáng lập phái Toàn Chân, thật quá ư vô lễ”. Nhưng không muốn vì chuyện này mà tranh cãi làm tổn thương hòa khí đôi bên, chỉ nói:

– Thỉnh tiền bối thành toàn, tệ giáo nếu có chỗ nào đắc tội, chưởng giáo bên chúng đệ tử sẽ sang tạ tội với tiền bối.

Dương Quá ghé tai nói nhỏ với Tôn bà bà:

– Gã đạo sĩ ấy có rất nhiều quỉ kế, bà bà đừng để gã đánh lừa.

Tôn bà bà mười tám năm qua nuôi dưỡng Tiểu Long Nữ trưởng thành, trong thâm tâm chỉ mong được nuôi dưỡng một nam hài nhi, lúc này thấy Dương Quá thân thiết với mình, thì hết sức cao hứng, thế là tâm ý đã quyết: “Gì thì gì cũng không để bọn chúng đem tháng bé đi”, bèn cao giọng nói:

– Ngươi định mang đứa bé về là để hành hạ nó chứ gì?

Doãn Chí Bình ngẩn người, nói:

– Đệ tử có tình đồng môn với vong phụ của đứa bé này, không khi nào gây khó dễ với cô nhi của vong hữu, mong lão tiền bối cứ yên tâm.

Tôn bà bà lắc đầu, nói:

– Lão bà tử không quen nghe những lời hứa suông của người ngoài. Ta đi thôi.

Nói đoạn đi vào rừng.

Triệu Chí Kính đang nằm trên cáng, vết ong đốt ngứa ngáy hết sức khó chịu, nghe Doãn Chí Bình đấu khẩu với Tôn bà bà hồi lâu không xong, càng nghe càng tức, đột nhiên từ trong cáng nhỏm dậy, lao đến trước mặt Tôn bà bà, quát:

– Đứa bé này là đệ tử của ta, muốn đánh chửi gì là quyền của ta. Không để sư phụ quản đệ tử, võ lâm lại có thứ qui củ như thế sao?

Tôn bà bà thấy một bên má Triệu Chí Kính sưng như đầu heo, nghe y nói, biết y là sư phụ của Dương Quá, nhất thời chưa biết đối đáp ra sao, đành cưỡng từ đoạt lý, nói:

– Ta không cho phép ngươi quản nó đấy, thì đã sao?

Triệu Chí Kính quát:

– Đứa bé này là thế nào với mụ? Mụ dựa vào cái gì mà thọc tay can thiệp?

Tôn bà bà sững người, quát to:

– Nó đã không còn là môn hạ của phái Toàn Chân các người. Đứa bé này đã cải bái Tiểu Long Nữ cô nương của nhà ta làm sư phụ, nó tốt hay xấu, trong thiên hạ chỉ có một mình Tiểu Long Nữ cô nương được quản nó mà thôi. Các người chớ có làm cái chuyện bao đồng.

Lời này vừa dứt, các đạo sĩ nhao nhao cả lên. Nên biết, theo qui củ võ lâm, nếu chưa được sư phụ cho phép, quyết không được bái người khác làm sư phụ, dù có gặp minh sư có bản lĩnh cao hơn sư phụ mình hàng chục lần, cũng không được thay lòng đổi dạ, đi theo người kia; nếu không sẽ là tên đại nghịch đồ, bị đồng đạo võ lâm khinh bỉ. Năm xưa, sau khi Quách Tĩnh bái Giang Nam Thất Quái làm sư phụ, lại học võ nghệ của Hồng Thất Công, song trước sau vẫn không gọi Hồng Thất Công là sư phụ, mãi sau này được các vị như Kha Trấn Ác chính thức cho phép, mới định danh phận sư đồ với Hồng Thất Công. Vừa rồi, Tôn bà bà bị Triệu Chí Kính dồn cho cứng lưỡi không thể đối đáp, Tôn bà bà lại không giao thiệp với các nhân sĩ võ lâm nên không biết qui củ, bạ đâu nói đó, không ngờ phạm điều đại kỵ. Các đạo sĩ phái Toàn Chân phần đông vốn thương hại Dương Quá, cảm thấy Triệu Chí Kính xử sự không hay, nhưng nghe Dương Quá dám công nhiên phản xuất sư môn, là điều chưa từng có từ ngày sáng lập tới giờ, nên ai nấy đều phẫn nộ.

Triệu Chí Kính thấy chỗ vết ong đốt lại đau buốt nhức nhối, vốn đã rất khó chịu, chỉ cảm thấy nếu liều chết một phen có khi lại sảng khoái, bèn nghiến răng hỏi Dương Quá:

– Dương Quá, việc đó có thật hay không?

Dương Quá vốn không biết trời cao đất dày gì hết, thấy Tôn bà bà bênh vực nó mà tranh cãi với Triệu Chí Kính, từ giờ dẫu Tôn bà bà có bảo nó làm ngàn vạn việc đại ác, nó cũng nhất nhất vâng lời, huống hồ chỉ là việc cải đổi sư môn, chính là ý nguyện của nó; đừng nói là bái Tiểu Long Nữ làm sư phụ, dù có bái con heo con chó làm sư phụ, nó cũng nhận luôn không chút do dự, thế là nó liền cao giọng đáp:

– Này tên xú đạo sĩ, lão dê già râu dài tặc đầu cẩu não kia, lão đánh ta, ta còn nhận lão làm sư phụ nữa sao? Phải đấy, ta đã bái Tôn bà bà làm sư phụ, lại còn bái Long cô cô làm sư phụ đấy.

Triệu Chí Kính tức giận, ngực như muốn nổ tung; bèn phi thân tới, hai tay chộp vai Dương Quá. Tôn bà bà chửi:

– Xú tạp mao, ngươi muốn chết hả?

Tay phải đánh vào cổ tay Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính là đệ nhất cao thủ trong đám đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, nói về võ công, còn cao hơn Doãn Chí Bình, tuy thân thụ trọng thương, nhưng xuất thủ còn cực kỳ dũng mãnh. Hai người đụng tay vào nhau, cả hai cùng bật lùi hai bước, Tôn bà bà hừ một tiếng nói:

– Hảo tạp mao, cũng không phải hạng bất tài.

Triệu Chí Kính một trảo chưa trúng, trảo thứ hai liền chộp tới. Lần này Tôn bà bà không còn dám coi thường y, vội né tránh, một cước từ trong váy vô ảnh vô tông phóng ra. Triệu Chí Kính nghe tiếng gió, đang định tránh, thì đột nhiên vết ong đốt ngứa ngáy kinh khủng, bất giác rú lên, ôm đầu thụp xuống, đòn cước của Tôn bà bà liền phóng tới sườn y, thân hình của y tung lên, miệng y vẫn la oai oái.

Doãn Chí Bình lướt tới hai bước, giơ tay đỡ Triệu Chí Kính, giao cho đệ tử phía sau. Y thấy xú bà bà có chiêu số võ công kỳ dị, biết là khó địch nổi, bèn huýt một tiếng sáo, sáu đạo sĩ từ hai bên ập lại, dàn thành “Thiên Cang Bắc Đẩu trận”, vây Tôn bà bà và Dương Quá vào giữa.

Doãn Chí Bình quát:

– Đắc tội!

Hai đạo sĩ ở vị trí sao Thiên Khu, Dao Quang đã tấn công tới. Tôn bà bà không hiểu trận pháp, giao đấu vài chiêu đã biết lợi hại, lại chỉ có một mình đối phó với bảy người, sau hai ba chục chiêu đã hung hiểm bội phần; mọi đòn công kích của Tôn bà bà đều bị Doãn Chí Bình điều động Bắc Đẩu trận hóa giải dễ dàng, trong khi thế công của Bắc Đẩu trận thì cứ liên miên bất tận. Đấu thêm mươi chiêu nữa, hữu chưởng của Tôn bà bà bị hai đạo sĩ giữ chặt lấy. Mé bên trái lại có hai đạo sĩ đánh tới, Tôn bà bà đành buông Dương Quá, dùng tay trái chống đỡ; chỉ nghe Bắc Đẩu trận phát ra một tiếng sáo, hai đạo sĩ tiến lại chộp lấy Dương Quá.

Tôn bà bà thầm kinh hãi: “Tên đạo sĩ này quả có chút bản lĩnh, lão bà tử đối phó không lại rồi”. Vừa xuất cước đẩy lùi hai đạo sĩ, Tôn bà bà vừa khẽ phát từ miệng ra tiếng u u. Tiếng u u đó thoạt tiên rất nhỏ, các đạo sĩ không để ý, nhưng nó cứ liên tiếp phát ra, dồn lên nhau, mỗi lúc một lớn dần.

Doãn Chí Bình từ lúc giao đấu với Tôn bà bà, đã toàn thần phòng bị. Y biết rằng vị nữ tiền bối hồi trước sống ở “Hoạt tử nhân mộ” có võ công hoàn toàn ngang ngửa với tổ sư khai sáng bổn giáo; hậu nhân của vị đó dĩ nhiên cũng không phải hạng tầm thường; nghe tiếng u u , y ngỡ là thuật truyền âm nhiếp tâm, vội trấn tĩnh tinh thần, đề phòng bị địch chế ngự; nhưng nghe một hồi, âm thanh đó không hề gia tăng, tâm thần của mình không hề có biểu hiện dao động, đang lấy làm lạ, thì bỗng nhiên đại kinh thất sắc, vì nghe từ xa có tiếng vo vo hưởng ứng tiếng u u của Tôn bà bà. Doãn Chí Bình vội nói to:

– Mọi người mau rút lui!

Các đạo sĩ ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Bên ta đang chiếm thượng phong, chẳng mấy chốc sẽ bắt sống một già một trẻ, lão bà bà kêu vớ vẩn thế kia thì có gì đáng sợ?” Đột nhiên từ trong rừng một đàn ong trắng ào ạt bay ra, đâm bổ xuống đầu mọi người. Các đạo sĩ đã thấy Triệu Chí Kính khổ sở vì bị ong đốt như thế nào, lập tức hồn xiêu phách lạc, cắm đầu bỏ chạy. Đàn ong bay riết đuổi theo.

Tôn bà bà thấy các đạo sĩ khó tránh mối nguy bị ong đối thì phá lên cười ha hả; bỗng một lão đạo sĩ từ trong rừng tiến ra, tay giơ cao hai cây đuốc, đầu cây đuốc khói đen đặc bốc lên ngùn ngụt, khua khua chắn đường đàn ong. Đàn ong tức thời đại loạn, nháo nhác bay đi xa. Tôn bà bà cả kinh, nhìn kỹ lão đạo sĩ, thấy người kia râu tóc bạc phơ, mặt rất dài, trông bộ dạng chắc là một cao thủ của phái Toàn Chân, bèn hỏi:

– Này, lão đạo kia là ai? Tại sao lại xua tan bầy ong của ta?

Lão đạo sĩ cười, nói:

– Bần đạo Hách Đại Thông, bái kiến bà bà.

Tôn bà bà tuy không giao thiệp với người trong võ lâm, nhưng vì ở ngay bên cạnh cung Trùng Dương, nên cũng biết Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông là một trong bảy đại đệ tử của Vương Trùng Dương, nghĩ hai tiểu đạo sĩ Triệu Chí Kính, Doãn Chí Bình còn gây khó dễ được với mình, thì Hách Đại Thông tất nhiên lợi hại hơn nhiều. Ngửi mùi khói đặc bốc ra từ hai cây đuốc, Tôn bà bà lợm giọng, thiết tưởng đuốc kia làm bằng một loại thảo dược dùng để hun chống độc trùng, bầy ong không chịu nổi đã bỏ đi, đành gằn giọng, nói:

– Lão hun mất đàn ong của cô nương nhà ta, liệu mà bồi thường, sau này ta sẽ tính sổ với lão.

Rồi ôm Dương Quá mà chạy vào rừng.

Doãn Chí Bình hỏi:

– Hách sư thúc, có đuổi theo hay không ạ?

Hách Đại Thông lắc đầu, nói:

– Sáng giáo Chân Nhân đã định nghiêm qui, không được vào đó, hãy về bàn kỹ, tính sau.

Tôn bà bà dắt Dương Quá đi vào nhà mộ. Hai người trải qua hoạn nạn vừa rồi, càng trở nên thân thiết hơn. Dương Quá lo Tiểu Long Nữ vẫn không chịu thu nạp nó, Tôn bà bà nói:

– Ngươi yên tâm, ta sẽ nói đến lúc Long cô nương thu nạp ngươi mới thôi.

Đoạn bảo nó ngồi nghỉ trong một gian thạch thất, còn tự mình đi nói với Tiểu Long Nữ.

Dương Quá đợi hồi lâu, không thấy Tôn bà bà quay lại, càng chờ càng nóng ruột, nghĩ thầm: “Long cô nương chắc không chịu thu lưu, dẫu Tôn bà bà có nài nỉ cô nương đáp ứng, ta ở đây cũng vô vị”. Nghĩ thế, lòng đã quyết, nó đứng lên bước ra.

Vừa ra tới cửa, thì Tôn bà bà hối hả trở lại, hỏi:

– Ngươi đi đâu vậy?

Dương Quá nói:

– Bà bà, đệ tử đi đây, khi nào lớn một chút, đệ tử sẽ tới thăm bà bà.

Tôn bà bà nói:

– Không, ta sẽ đưa ngươi tới một nơi không ai bắt nạt ngươi.

Dương Quá nghe vậy, biết Tiểu Long Nữ quả nhiên không chịu thu lưu nó, thì không khỏi buồn lòng, cúi đầu nói:

– Không cần thế đâu. Đệ tử là một kẻ ngang bướng, dù đến đâu, người ta cũng không ưa đệ tử. Bà bà đừng lo cho đệ tử mà phí sức.

Tôn bà bà thuyết phục Tiểu Long Nữ mãi mà nàng ta vẫn không chịu, trong lòng đã có phần tự ái, lại thấy Dương Quá đáng thương, nhiệt huyết liền dâng lên, nói:

– Hài tử, người khác không cần ngươi, song ta thích ngươi. Ngươi hãy đi theo ta, dù ở đâu, bà bà cũng sẽ ở bên ngươi.

Dương Quá cả mừng, nắm lấy tay Tôn bà bà. Hai người đi ra cửa nhà mộ. Tôn bà bà tự ái, cũng chẳng buồn quay lại lấy quần áo, đưa tay sờ túi, thấy cái lọ mật ong, nhớ rằng mình cần giao cho Triệu Chí Kính chữa độc, gã đạo sĩ thối tha ấy tuy tàn ác, nhưng chưa đáng tội chết, hắn mà không uống thứ mật này, thì khó tránh hậu hoạn vô cùng, bèn dắt Dương Quá đi về phía cung Trùng Dương.

Dương Quá thấy Tôn bà bà đi gần tới cung Trùng Dương, thì giật mình, hỏi nhỏ:

– Bà bà, mình còn đến đây làm gì?

Tôn bà bà nói:

– Đưa giải dược cho gã sư phụ thối tha của ngươi.

Chẳng mấy chốc đã tới trước đạo quán. Tôn bà bà nhảy lên bờ tường, đang định nhảy xuống sân, thì giữa đêm khuya tĩnh mịch đột nhiên các hồi chuông gióng giả cất lên dồn dập gấp gáp. Tôn bà bà biết là mình đã lọt vào trùng vây, không khỏi thầm kinh hãi.

Phái Toàn Chân là một đại tông phái trong võ lâm, bình thời việc bố trí canh phòng đã nghiêm mật dị thường, hôm nay liên tiếp xảy ra nhiều chuyện, bốn phương tám hướng đều có người canh giữ. Thấy có kẻ xâm nhập, tức thời có sự cảnh báo truyền tin, chúng đệ tử trong cung chia nhau nghênh địch. Có lớp bao vây kẻ địch đã xâm nhập, có lớp ra chặn hậu viện của kẻ địch từ ngoài xa.

Tôn bà bà chửi thầm: “Lão bà tử đến đây có phải để đánh nhau đâu mà lắm trò thế?” bèn cao giọng gọi to:

– Triệu Chí Kính, mau ra đây, ta có lời muốn nói với ngươi.

Từ trong đại điện, một trung niên đạo sĩ bước ra, nói:

– Đêm hôm khuya khoắt xông vào tệ giáo, có gì chỉ giáo?

Tôn bà bà nói:

– Đây là thuốc trị khi bị ong độc cắn, hãy nhận lấy!

Nói rồi ném cái lọ đựng mật ong vào. Đạo sĩ kia giơ tay đón bắt, bán tín bán nghi, nghĩ thầm: “Mụ ta sao lại có hảo tâm mang cho giải dược?” hỏi to:

– Là thuốc gì vậy?

Tôn bà bà nói:

– Khỏi cần hỏi nhiều, hãy cứ đưa cho Triệu Chí Kính uống hết cả đi, khắc thấy công hiệu.

Đạo sĩ kia nói:

– Bần đạo làm sao biết bà bà có hảo tâm hay là tịch ý, đây là giải dược hay là độc dược? Bà bà đã làm cho Triệu sư huynh khổ sở như thế, sao tự dưng lại nảy sinh cái tâm Bồ tát như vậy?

Tôn bà bà nghe đạo sĩ kia nói thế, chẳng hóa ra hảo tâm của mình lại biến thành ý xấu hạ độc hại người, thì không nén nổi giận dữ, đặt Dương Quá xuống đất, vọt tới cướp lại lọ mật ong, mở nút lọ, bảo Dương Quá:

– Há miệng ra!

Dương Quá không rõ dụng ý nhưng cũng vâng lời há miệng. Tôn bà bà dốc hết chỗ mật trong lọ vào miệng Dương Quá, nói:

– Được thế này thì chúng hết nghi là độc dược. Quá nhi, ta đi thôi!

Đoạn dắt Dương Quá đi lại bên tường.

Đạo sĩ kia tên Trương Chí Quang, là đệ tử thứ hai của Hách Đại Thông, lúc này mới hối hận rằng lẽ ra không nên nghi ngờ như vậy; xem chừng Tôn bà bà mang tới đúng là giải dược, Triệu Chí Kính nếu không có thuốc giải, e khó sống được, vội chạy chắn trước mặt, dang hai tay, cười nói:

– Lão tiền bối hà tất nóng nảy như thế? Bần đạo nói đùa một câu, lão tiền bối đã tưởng thật ư? Đôi bên là láng giềng nhiều năm, dẫu gì cũng có chút tình, hì hì, đã là giải dược, thì xin lão tiền bối ban cho.

Tôn bà bà ghét lời lẽ giảo hoạt, cử chỉ khiếm nhã của gã đạo sĩ, cười khẩy, nói:

– Giải dược chỉ có một lọ, muốn thêm cũng chẳng có. Thương thế của Triệu Chí Kính, ngươi hãy tự nghĩ cách chữa trị cho hắn!

Đoạn phẩy ngược bàn tay lại một cái, nói:

– Ngươi bất kính với tiền bối, cái này là để giáo huấn ngươi.

Một chưởng xuất thủ cực nhanh, Trương Chí Quang không kịp né tránh, “bốp” một tiếng, má y bị trúng đòn, chỉ thấy rát bỏng.

Hai đạo sĩ đứng bên cổng thấy vậy, mặt biến sắc, cùng nói:

– Dẫu là tiền bối, cũng đâu được phép gây sự trước cung Trùng Dương?

Một dùng tả chưởng, một dùng hữu chưởng, từ hai phía hợp kích đánh vào. Tôn bà bà đã lĩnh giáo qua công phu Bắc Đẩu trận lợi hại của phái Toàn Chân, lúc này thân nhập trọng địa, đâu dám ham chiến? Tôn bà bà vội luồn qua khe hở giữa hai chưởng, ôm Dương Quá vọt lên bờ tường.

Mắt thấy trên bờ tường không có ai, Tôn bà bà sắp đặt chân trên bờ tường, đột nhiên từ bên ngoài bờ tường có một người vọt lên, quát:

– Xuống này!

Rồi song chưởng đẩy thẳng vào mặt Tôn bà bà. Tôn bà bà còn đang lơ lửng trên không, không có chỗ mượn lực, đành giơ tay phải hoàn chiêu, đơn chưởng đụng phải song chưởng, hai người cùng bật lại sau, mỗi người đáp xuống một bên bờ tường. Sáu bảy đạo sĩ liền gọi nhau, dồn Tôn bà bà vào một góc tường.

Sáu, bảy người này đều là hảo thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, được lựa chọn chuyên để bảo vệ đại điện đạo cung. Trong giây lát, họ đã thay nhau lần lượt tấn công mấy lần. Tôn bà bà bị dồn vào một góc tường, muốn cắp Dương Quá thoát ra, nhưng bị sáu, bảy người ấy tạo nên bức tường người mấy phen đẩy trở lại.

Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Trương Chí Quang chỉ huy việc phòng thủ đại điện thấy kẻ địch đã không còn khả năng làm gì được nữa, bèn ra lệnh đốt nến. Hơn chục cây nến lớn chiếu sáng tứ phía đại điện, thấy rõ Tôn bà bà mặt mày thảm đạm, bộ mặt xấu xí đáng sợ. Trương Chí Quang nói:

– Thủ trận dừng chiêu.

Bảy đạo sĩ giao đấu với Tôn bà bà cùng nhảy lùi lại, hai tay để trước ngực, ai giữ phương vị người nấy.

Tôn bà bà hít một hơi dài, cười khẩy, nói:

– Phái Toàn Chân uy chấn thiên hạ, quả nhiên danh bất hư truyền. Mười mấy tên trai tráng khốn kiếp lại hợp lực ăn hiếp một lão thái bà và một tiểu hài tử, hì hì, quả là lợi hại, lợi hại!

Trương Chí Quang đỏ mặt, nói:

– Chúng tại hạ chỉ tróc nã thích khách dám xông vào cung Trùng Dương, dù là lão thái bà hay nam tử hán thì cũng như nhau, thẳng lưng xông vào, thì phải cúi lưng đi ra.

Tôn bà bà cười nhạt, nói:

– Thế nào gọi là cúi lưng đi ra? Có phải bắt lão thái bà phải bò qua cổng chăng?

Trương Chí Quang ban nãy bị một chưởng rát bỏng, đau lạ thường, dễ gì bỏ qua, nói:

– Bà bà muốn ra khỏi đây, cũng không khó, chỉ cần làm theo ba điều kiện. Thứ nhất, bà bà đã thả ong đốt Triệu sư huynh, thì hãy để lại giải dược. Thứ hai, đứa bé này là đệ tử của phái Toàn Chân, chưa được Chân Nhân chưởng giáo cho phép, làm sao dám tùy ý phản xuất sư môn? Bà bà phải giao nó lại. Thứ ba, bà bà tự tiện xông vào cung Trùng Dương, thì phải khấu đầu tạ tội trước Trùng Dương tổ sư.

Tôn bà bà cười ha hả, nói:

– Ta đã sớm nói với cô nương nhà ta, rằng bọn đạo sĩ phái Toàn Chân toàn hạng người không ra gì, lời của lão thái bà nào có sai? Lại đây, lại đây đi, để ta khấu đầu tạ tội với ngươi nào!

Nói đoạn cúi đầu, quỳ xuống.

Điều này hoàn toàn bất ngờ đối với Trương Chí Quang. Y đang ngẩn người, thì thấy Tôn bà bà cúi mình, một tia hàn quang nhoáng lên, một thứ ám khí đã bắn tới. Trương Chí Quang kêu “Ối!” vội tránh, nhưng ám khí bay quá nhanh, “bộp” một cái, đã trúng góc mắt bên trái của y, thứ ám khí ấy vỡ nát, khiến trán của Trương Chí Quang be bét máu. Nguyên Tôn bà bà thò tay vào túi rút cái lọ đựng mật ong ban nãy đã cho Dương Quá uống hết mật, dùng thủ pháp ám khí độc môn ném đi. Võ công của Tôn bà bà là do nữ lưu sáng tạo, chiêu số thủ pháp toàn một loại âm nhu, biến ảo đa đoan; chiêu “Tiến cứ hậu cung” này càng khó lường, tuy chỉ là một cái lọ rỗng, nhưng ở gần ném tới bất ngờ, Trương Chí Quang không tránh kịp.

Các đạo sĩ thấy Trương Chí Quang mặt mũi be bét máu, cùng thét lên tức giận, rút binh khí soàn soạt. Các đạo sĩ phái Toàn Chân đều sử trường kiếm. Trong giây lát ở sân loang loáng kiếm quang. Tôn bà bà đứng đó cười khẩy, thầm biết hôm nay khó thoát; nhưng tính nết ngang ngạnh, gừng càng già càng cay, không chịu khuất phục, ngoảnh sang hỏi Dương Quá:

– Hài tử, ngươi có sợ không?

Dương Quá thấy các thanh kiếm, đã nghĩ thầm: “Nếu Quách bá bá ở đây, thì đám đạo sĩ đông mấy ta cũng chẳng sợ. Nhưng dựa vào tài nghệ của Tôn bà bà, thì không thoát khỏi đây được”. Nghe Tôn bà bà hỏi, nó cao giọng nói:

– Bà bà, cứ để bọn họ giết đệ tử cho xong. Việc này không liên quan gì tới bà bà. Bà bà mau đi đi!

Tôn bà bà nghe cậu bé nói cứng cỏi như thế, lại thấy nó chỉ nghĩ đến lão bà, thì càng thương yêu nó, bèn cao giọng, nói:

– Bà bà sẽ cùng chết với ngươi ở đây, để cho bọn đạo sĩ thối tha kia được toại ý.

Đột nhiên Tôn bà bà quát một tiếng trợ oai, lao nhanh tới, hai tay chặt vào cổ tay của hai đạo sĩ, vừa chặt vừa đoạt kiếm của họ. Công phu tay không đoạt vũ khí của Tôn bà bà quá kỳ dị, xảo diệu phi phàm. Hai đạo sĩ không đề phòng, trong chớp mắt đã bị đoạt mất kiếm.

Tôn bà bà trao một thanh kiếm cho Dương Quá, nói:

– Hài tử, ngươi có dám động thủ với bọn đạo sĩ thối tha hay không?

Dương Quá nói:

– Đệ tử dĩ nhiên không sợ. Chỉ tiếc là không có người ngoài ở đây.

Tôn bà bà hỏi:

– Người ngoài ở đây làm gì?

Dương Quá nói:

– Phái Toàn Chân uy danh cái thế, cái hành động anh hùng bắt nạt cô nhi lão phụ này không có người ngoài đem kể rộng ra, chẳng phải đáng tiếc hay sao?

Dương Quá vừa nghe Tôn bà bà nói với Trương Chí Quang, đã hiểu ngụ ý bên trong. Lời nói của nó nghe trong trẻo, đúng là giọng trẻ con.

Các đạo sĩ nghe câu đó, quá nửa tự cảm thấy xấu hổ, nghĩ thầm, cậy đông giao đấu với một bà già và một đứa bé, dẫu có thắng cũng chẳng vẻ vang gì. Có người nói nhỏ:

– Ta đi bẩm cáo sư bá chưởng giáo, để người xử lý.

Lúc này Mã Ngọc tĩnh tu một mình ở một tịnh thất nhỏ sau núi, cách đây hơn mười dặm, mọi sự vụ trong giáo phái giao cho Hách Đại Thông xử lý. Người vừa nói là đệ tử của Đàm Xứ Đoan. Người ấy cảm thấy sự việc nghiêm trọng, liên quan tới danh dự của phái Toàn Chân, phải do chưởng giáo đích thân chủ trì mới được.

Trương Chí Quang bị chiếc lọ vỡ làm bị thương nhiều chỗ trên mặt, máu tươi che mắt trái, trong cơn thịnh nộ không kịp suy xét, nghĩ có thể con mắt trái đã bị ám khí làm hỏng, sư bá chưởng giáo thì tính nết hiền lành, ắt sẽ hạ lệnh thả người, thế thì mình mất không con mắt hay sao, bèn quát to:

– Trước hết hãy bắt mụ ác bà nương cho ta, rồi hãy đi thỉnh sư bá chưởng giáo phát lạc. Các vị sư đệ, bắt lấy mụ kia!

Thiên Canh Bắc Đẩu trận thu hẹp dần. Thấy Tôn bà bà chỉ còn cách bó tay chịu trói, nào ngờ bảy đạo sĩ tấn công chỉ còn cách Tôn bà bà ba bước, mà Tôn bà bà vẫn múa kiếm phòng thủ chặt chẽ dị thường, không ai có thể tiến lại gần. Trận pháp do Trương Chí Quang chủ trì, vốn có thể thay đổi cách tiến công, nhưng y chỉ sợ ám khí của đối phương có độc, nếu y xuất thủ giao đấu, máu lưu thông mạnh, chỉ e độc tính mau phát tác hơn, nên y chỉ đứng ngoài, bịt mắt trái, quan sát và ra lệnh, trận pháp thiếu y bị kém hẳn uy lực.

Các đạo sĩ đánh lâu không hạ được, càng nóng ruột thêm, Tôn bà bà bỗng quát một tiếng, quẳng kiếm trong tay đi, sấn lên ba bước, thộp ngực một đạo sĩ trẻ, giơ hắn ngang trên đầu, nói gằn giọng:

– Xú tạp mao, rốt cuộc các ngươi có nhường đường hay không thì bảo?

Các đạo sĩ còn đang sững sờ, thì từ phía sau họ bỗng có một người vọt ra, giơ tay chộp lấy cổ tay Tôn bà bà. Tôn bà bà còn chưa nhìn rõ mặt người ấy, đã cảm thấy cổ tay tê dại, gã đạo sĩ trẻ đã bị người kia đoạt mất, tiếp đó kình phong quạt tới mặt, người ấy đã lại tấn công. Tôn bà bà nghĩ thầm: “Người này xuất chưởng quá nhanh”, vội hồi chưởng chống đỡ. Hai chưởng vỗ vào nhau nghe “bốp”, Tôn bà bà lùi lại một bước.

Người kia cũng lùi lại, nhưng chỉ nửa bước, chưởng thứ hai lại đánh tới, không chút nể nang. Tôn bà bà đánh trả một chiêu, song chưởng giao nhau, Tôn bà bà lại lùi một bước. Người kia tiến lên nửa bước, chưởng thứ ba lại đánh tới. Chưởng này ra chiêu quá lẹ, buộc Tôn bà bà liên tiếp lùi lại ba bước. Tôn bà bà vẫn chưa kịp nhìn rõ mặt địch thủ, chưởng thứ tư đã đánh tới. Sau lưng Tôn bà bà đã chạm tường, không còn chỗ để lùi lại. Tôn bà bà giơ chưởng chống đỡ, người kia quát:

– Bà bà hãy để giải dược và đứa bé lại.

Tôn bà bà ngẩng nhìn, thấy người kia râu tóc bạc phơ, khí tím đầy mặt, chính là Hách Đại Thông, người đã dùng đuốc xua đuổi đàn ong trong rừng; sau khi trao đổi ba chưởng, Tôn bà bà đã biết Hách Đại Thông nội lực thâm hậu hơn hẳn bà ta, nếu đối phương dồn thêm công lực, bà ta không thể chịu nổi; nhưng tính cương ngạnh, Tôn bà bà thà chết không khuất phục, nói:

– Muốn bắt thằng bé, phải giết được lão thái bà trước đã.

Hách Đại Thông biết Tôn bà bà có quan hệ sâu xa với tiên sư, không muốn đả thương, ra đòn rất nể nang, nói:

– Hai bên lân cư mấy chục năm, hà tất vì một đứa bé mà tổn thương hòa khí?

Tôn bà bà cười nhạt, nói:

– Ta sang đây vốn có hảo ý tặng thuốc, lão cứ hỏi đệ tử của mình ắt biết ta nói thật hay không.

Hách Đại Thông ngoảnh đầu lại, đang định lên tiếng hỏi đệ tử, thì Tôn bà bà đột nhiên tung một cước đá vào hạ bàn của Hách Đại Thông.

Cú đá này vô ảnh vô tông, thân bất động, quần bất động, lúc Hách Đại Thông phát giác ra, thì mũi chân đối phương đã đá tới bụng dưới, muốn lùi lại cũng không kịp, trong lúc nguy cấp bèn dồn lực vào chưởng, hất mạnh Tôn bà bà văng đi.

Cú đẩy này hàm chứa nội lực huyền công thượng thừa của phái Toàn Chân mà Hách Đại Thông tu luyện mấy chục năm, chỉ nghe sầm một tiếng, một mảng tường gạch bị thủng, Tôn bà bà hộc ra một ngụm máu to, từ từ gục xuống.

Dương Quá cả kinh, phục xuống người Tôn bà bà, kêu to:

– Các ngươi muốn giết người, thì cứ giết ta là được, sao lại giết Tôn bà bà.

Tôn bà bà mở mắt ra, mỉm cười, nói:

– Hài tử, ta cùng chết với con là được rồi.

Dương Quá dang hai tay che cho Tôn bà bà, lưng hướng về phía các đạo sĩ, không lo gì cho sự an nguy của nó cả.

Hách Đại Thông hạ thủ nặng tay, thấy đối phương bị thương thì rất hối hận, đâu còn có ý định tấn công. Lão đạo sĩ muốn cúi xuống xem Tôn bà bà bị thương thế nào, để đưa thuốc trị thương cho lão bà, nhưng bị Dương Quá che lấp, không nhìn được, chỉ ôn tồn nói:

– Dương Quá, ngươi hãy dịch ra, để ta xem thương thế của bà bà.

Dương Quá không tin, cứ ôm chặt lấy Tôn bà bà. Hách Đại Thông giục mấy lần, nó vẫn không nghe, lão đạo sĩ sốt ruột gỡ tay nó ra. Dương Quá gào tướng lên:

– Xú đạo sĩ, tặc đạo sĩ. Các ngươi giết ta được rồi, ta không cho các ngươi giết bà bà của ta.

Đang ầm ĩ thế, bỗng nghe sau lưng có tiếng nói lạnh lùng:

– Hiếp đáp ấu nhi, lão phụ như vậy, gọi là anh hùng hay sao?

Hách Đại Thông nghe giọng nói trong trẻo, lạnh giá, thì giật mình, chỉ thấy một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp đứng ở cửa đại điện, y phục trắng như tuyết, ánh mắt lạnh lẽo đáng sợ. Một hồi chuông cất lên ở cung Trùng Dương, trong vòng mươi dặm các đạo sĩ đã được bố trí nhiều lớp, phòng thủ nghiêm mật dị thường, thế mà thiếu nữ kia lọt vào tận đây, không hề có ai cấp báo, chẳng hiểu nàng ta lọt vào bằng cách nào.

Hách Đại Thông hỏi:

– Cô nương là ai? Có gì kiến giáo?

Thiếu nữ quắc mắt nhìn lão đạo sĩ, không đáp, tới bên cạnh Tôn bà bà. Dương Quá ngẩng lên, buồn bã nói:

– Long cô cô, lão đạo sĩ tàn ác kia đánh … đánh chết bà bà rồi!

Bạch y thiếu nữ chính là Tiểu Long Nữ. Tôn bà bà mang Dương Quá rời khỏi nhà mộ, sang đạo quán, xuất thủ, nàng bám theo phía sau đều nhìn thấy rõ cả, tưởng Hách Đại Thông không hạ sát thủ, nên thủy chung không lộ diện. Nào ngờ tình thế xoay chuyển bất ngờ, Tôn bà bà rốt cuộc bị trọng thương, nàng phải ra cứu, thì đã không kịp. Hình ảnh Dương Quá quên mình bảo vệ Tôn bà bà, nàng cũng thấy cả. Nhìn nó nước mắt lưng tròng, nàng gật đầu, nói:

– Ai rồi cũng chết cả, chuyện đó thường tình.

Tôn bà bà nuôi dưỡng nàng từ nhỏ, hai người không khác gì mẫu tử. Nhưng Tiểu Long Nữ mười tám năm nay chỉ sống những ngày bình lặng, cộng với từ nhỏ nàng tu luyện nội công, tu đến mức không còn chút tình hỉ nộ ai lạc, nhìn Tôn bà bà trọng thương hết cứu, không tránh khỏi đau lòng, nhưng cảm xúc đó chỉ thoáng qua giây lát, sắc mặt nàng vẫn không có gì thay đổi.

Hách Đại Thông nghe Dương Quá gọi “Long cô cô”, biết thiếu nữ mỹ mạo kia là Tiểu Long Nữ, người đã đánh đuổi vương tử Hoắc Đô, thì càng kinh hãi. Nên biết việc vương tử Hoắc Đô thảm bại bỏ chạy, mấy tháng nay đã truyền khắp giang hồ; Tiểu Long Nữ chưa hề xuống núi Chung Nam một bước, song danh tiếng của nàng đã lừng lẫy võ lâm.

Tiểu Long Nữ thong thả ngoảnh lại nhìn các đạo sĩ một lượt. Trừ Hách Đại Thông nội công thâm hậu, tâm thần bình tĩnh ra, tất cả các đạo sĩ còn lại bất giác đều run rẩy trước nhãn quang lạnh như băng giá của nàng.

Tiểu Long Nữ cúi xuống, hỏi Tôn bà bà:

– Bà bà cảm thấy thế nào?

Tôn bà bà thở dài, nói:

– Cô nương, cả đời ta chưa cầu xin cô nương điều gì. Bây giờ ta chỉ cầu xin cô nương một điều, cô nương không bằng lòng thì thôi.

Tiểu Long Nữ hơi cau đôi mày thanh tú, hỏi:

– Bây giờ bà bà muốn gì?

Tôn bà bà chỉ Dương Quá, nhất thời chưa nói nên lời. Tiểu Long Nữ nói:

– Bà bà muốn ta chiếu liệu cho nó chứ gì?

Tôn bà bà cố hít một hơi, nói:

– Ta cầu xin cô nương chiếu liệu cho nó suốt cả đời, không để cho nó bị thiệt thòi với người khác, cô nương có đáp ứng hay không?

Tiểu Long Nữ lưỡng lự:

– Chiếu liệu cho nó suốt đời ư?

Tôn bà bà gằn giọng:

– Cô nương, nếu lão bà tử này không chết, cũng sẽ chiếu liệu cho cô nương suốt đời. Hồi cô nương còn nhỏ, mọi việc ăn uống, tắm rửa, cứt đái… chẳng phải đều do một tay lão bà tử này lo liệu đó sao? Cô nương… cô nương đã báo … đáp gì chưa ?

Tiểu Long Nữ cắn môi, nói:

– Được, ta đáp ứng bà bà.

Trên bộ mặt xấu xí của Tôn bà bà thoáng hiện nụ cười, lão bà nhìn Dương Quá, môi mấp máy, tựa hồ muốn nói.

Dương Quá biết ý, ghé tai lại gần, nói nhỏ:

– Bà bà có gì muốn dặn đệ tử phải không?

Tôn bà bà nói:

– Ngươi… ngươi cúi thấp chút nữa.

Dương Quá y lời, ghé tai sát miệng Tôn bà bà. Tôn bà bà nói:

– Long cô cô của ngươi cũng không ai thân thích, ngươi… ngươi… cũng…

Nói tới đó, Tôn bà bà đột nhiên hộc máu ra, làm ướt cả một bên má và ngực áo của Dương Quá, rồi nhắm mắt mà chết. Dương Quá gọi to:

– Bà bà! Bà bà!

Nó quá đau lòng, không nhịn được, khóc òa lên.

Các đạo sĩ đều mủi lòng, Hách Đại Thông càng ân hận, tới trước thi thể Tôn bà bà cúi đầu hành lễ, nói:

– Bà bà, ta lỡ tay đả thương Tôn bà bà, thực không cố ý. Tội đó ta chịu, cũng là số Tôn bà bà không may. Bà bà cứ yên nghỉ!

Tiểu Long Nữ đứng bên không nói gì. Chờ Hách Đại Thông nói xong, hai bên gườm gườm nhìn nhau.

Tiểu Long Nữ cau mày, nói:

– Sao, lão không chịu tự sát để tạ lỗi, chờ ta động thủ hay sao?

Hách Đại Thông sững sờ, nói:

– Cái gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Giết người đền mạng, lão tự sát là xong, bổn cô nương sẽ tha mạng cho các đạo sĩ khác.

Hách Đại Thông chưa kịp trả lời, các đạo sĩ đứng gần đã nhao nhao la ó. Lúc này ở đại điện tập trung ba bốn chục đạo sĩ, họ tranh nhau chỉ trích:

– Tiểu cô nương, mau đi đi! Bọn ta sẽ không gây khó dễ với cô nương!

– Nói nhăng nói cuội! Cái gì mà tự sát thì xong, tha cho các đạo sĩ khác?

– Một thiếu nữ trẻ người non dạ, không biết trời cao đất dày là gì!

Hách Đại Thông nghe các đạo sĩ nhao nhao nói, thì xua tay ngăn lại.

Tiểu Long Nữ làm như không nghe thấy lời nói của các đạo sĩ, thong thả thò tay vào túi rút ra một vật màu trắng, là hai cái bao tay bằng lụa, nàng đi bao tay vào, rồi nhẹ nhàng nói:

– Lão đạo sĩ, đã tham sống sợ chết, không chịu tự sát thì hãy rút binh khí ra cùng ta động thủ!

Hách Đại Thông cười buồn bã, nói:

– Bần đạo đã lỡ tay đả thương Tôn bà bà, không muốn động thủ làm gì nữa. Cô nương mang Dương Quá rời khỏi đây cho yên chuyện.

Hách Đại Thông nghĩ rằng Tiểu Long Nữ đuổi được vương tử Hoắc Đô chẳng qua là nhờ sức của đàn ong, một thiếu nữ ít tuổi như nàng ta, dẫu võ công có chỗ bí hiểm, thì cũng chỉ như Tôn bà bà là cùng, thôi thì để cho nàng ta mang Dương Quá đi, một là nể tình sư môn đôi bên thời trước, hai là sau khi ngộ sát Tôn bà bà, Hách Đại Thông cảm thấy bất an, chỉ muốn nhường nhịn mà thôi.

Không ngờ Tiểu Long Nữ chẳng thèm lắng nghe lời nói của Hách Đại Thông, tay trái hất nhẹ, một dải lụa trắng bỗng bật ra, bổ thẳng tới mặt Hách Đại Thông. Sự việc vô thanh vô tức, trước đó không hề có dấu hiệu gì báo trước, dưới ánh nến chỉ thấy cuối dải lụa trắng buộc một hòn bi màu vàng. Hách Đại Thông thấy nàng xuất chiêu thần tốc, binh khí lại là thứ cực kỳ kinh dị, nhất thời chưa biết nên chống đỡ cách nào. Hách Đại Thông đã nhiều tuổi, hành sự ổn trọng, tuy tự cho rằng võ công mình cao hơn hẳn đối phương, song lão đạo sĩ cũng không dám tiếp chiêu, phải né thân tránh sang bên trái.

Nào ngờ dải lụa trắng của Tiểu Long Nữ lại có thể vẫy vùng trong không khí, Hách Đại Thông nhảy tránh sang bên trái, dải lụa trắng cũng bay sang bên trái, chỉ nghe “coong coong coong” ba tiếng liền, trái bi vàng phát ra ba tiếng chuông, mỗi tiếng kèm theo đòn điểm huyệt, nhắm tới ba huyệt Nghênh Hương, Thừa Khấp, Nhân Trung trên mặt. Phép điểm huyệt này quá lẹ, nhận huyệt quá chuẩn, thực là công phu hạng nhất trong võ lâm. Lại kèm theo tiếng chuông do trái bi vàng phát ra, tuy không to, nhưng nghe thập phần kinh dị, gõ vào tai muốn đứng tim hết hồn. Hách Đại Thông cả kinh, vội sử “Thiết bản kiều” thân ngả ra sau, dải lụa trắng vút qua cách mặt chỉ vài tấc. Lão đạo sĩ sợ dải lụa trắng lại đánh tới, và đây cũng là độ tinh thuần võ công của lão, trong lúc ngả người ra sau như thế, toàn thân bỗng xê dịch sang bên cạnh ba thước. Tài nghệ đó cũng rất bất ngờ đối với Tiểu Long Nữ, “coong” một tiếng, trái bi vàng đánh xuống chạm đất. Vừa rồi nàng dùng trái bi vàng điểm huyệt liên tiếp, Hách Đại Thông trong lúc nguy cấp đã sử dụng xảo chiêu tránh được.

Hách Đại Thông đứng thẳng dậy, mặt biến sắc. Các đạo sĩ không phải là đệ tử, thì cũng là sư điệt, bao lâu nay vốn thán phục võ công của lão, thấy lão tuy chưa bị thương, chiêu vừa rồi thoát hiểm thật là khéo léo, ai cũng kinh hãi. Bốn đạo sĩ nhất tề chĩa kiếm tấn công Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ nói:

– Được lắm! Lẽ ra phải sử dụng binh khí sớm hơn!

Hai tay cùng phất, hai dải lụa trắng như hai con rắn ngoằn ngoèo phóng ra, coong coong hai tiếng, rồi lại coong coong hai tiếng nữa, huyệt Linh Đạo ở cổ tay bốn đạo sĩ đều đã bị trái bi vàng điểm trúng, keng keng bốn tiếng, kiếm của họ đã rơi xuống đất. Các đạo sĩ thảy đều biến sắc, không còn ai dám tiến lên tấn công.

Hách Đại Thông thoạt đầu cứ tưởng Tiểu Long Nữ võ công tầm thường, nào ngờ vừa động thủ đã suýt thua nàng ta, không khỏi không lo sợ, liền cầm lấy một thanh kiếm của đệ tử, nói:

– Long cô nương công phu cao cường, bần đạo thất kính, hãy xuất cao chiêu để bần đạo lĩnh giáo.

Tiểu Long Nữ gật đầu, coong coong hai tiếng, dải lụa trắng quét ngang từ trái sang phải.

Xét về vai vế, Hách Đại Thông cao hơn một bậc, Tiểu Long Nữ trước khi động thủ lẽ ra phải kính trọng bậc trên, nhường trước ba chiêu; đằng này nàng vừa tiến tới đã hạ sát thủ, chẳng còn theo qui củ võ lâm gì hết. Hách Đại Thông nghĩ thầm: “Nữ hài nhi này võ công tuy cao, nhưng tựa hồ nó chẳng hiểu gì cả. Rõ ràng là chưa bao giờ lâm địch tiếp chiến, có mạnh mấy cũng không đáng sợ”. Bèn tay trái để theo kiếm quyết, tay phải vung trường kiếm chiết giải dải lụa trắng của nàng ta.

Các đạo sĩ đứng quanh nhiều lớp, ngưng thần quan chiến. Dưới ánh nến lung linh, chỉ thấy một bạch y thiếu nữ, một lão đạo áo xám, dải lụa bay như cầu vồng, trường kiếm động như chớp, một bên má hồng, một bên tóc bạc, càng đấu càng kịch liệt.

Hách Đại Thông múa lấy chục đường kiếm nóng lạnh, chỉ luận riêng về kiếm pháp, thì trong phái Toàn Chân lão đứng thứ ba thứ tư; vậy mà đấu đã mấy chục chiêu với một cô nương, rốt cuộc vẫn chưa chiếm được chút nào lợi thế. Hai dải lụa của Tiểu Long Nữ cứ uốn lượn như linh xà, điều chuyển như ý, hai trái bi vàng không ngừng phát tiếng coong coong, càng khiến người ta kinh tâm động phách. Hách Đại Thông đánh lâu không thắng, tuy chưa sa vào thế hạ phong, nhưng thiết tưởng với thân phận thịnh danh đã lâu trong giang hồ, giả dụ sau trăm chiêu có đánh thắng được một thiếu nữ, thì cũng chẳng vẻ vang gì, thế là trở nên nôn nóng, kiếm pháp biến đổi từ nhanh sang chậm, chiêu thức tuy chậm hẳn lại so với lúc trước, song kình lực dồn cho thanh kiếm thì lớn gấp vài lần. Ban đầu lưỡi kiếm còn né tránh sự chuyển dẫn của dải lụa, bây giờ uy lực đã tăng, liền chuyển sang thế đuổi chém dải lụa trắng.

Đấu thêm vài chiêu, nghe coong một tiếng, trái bi vàng và lưỡi kiếm đụng nhau; Hách Đại Thông nội lực thâm hậu, hất trái bi vàng bắn ngược vào mặt Tiểu Long Nữ, rồi thừa thế truy kích, trong tiếng hoan hô của các đạo sĩ, mũi kiếm lướt theo dải lụa trắng, đâm thẳng tới cổ tay Tiểu Long Nữ, buộc nàng nếu không buông dải lụa trắng ra, ắt cổ tay sẽ bị trúng kiếm. Ai ngờ Tiểu Long Nữ tay phải lật nhanh một cái, đã chộp lấy lưỡi kiếm, rắc một cái, thanh kiếm bị gãy làm hai đoạn.

Các đạo sĩ cùng kêu lên kinh hãi, Hách Đại Thông nhảy vội ra phía sau, tay cầm đoạn kiếm gãy, ngẩn người sững sờ. Hách Đại Thông làm sao có thể ngờ nổi, một cái bao tay mỏng mảnh dệt bằng tơ lụa, lại là một thứ binh khí sắc bén do sư tổ nàng ta truyền lại, tuy nó mềm và mỏng, song đao kiếm chẳng những không làm gì nổi, mà còn bị nó bẻ gãy như chơi.

Hách Đại Thông sắc mặt trắng bệch, bị đại bại, nhất thời chưa biết cái bao tay của Tiểu Long Nữ có cơ quan xảo diệu gì, chỉ biết quả thật nàng ta đã luyện được công phu thượng thừa đao thương bất nhập, thì run run nói:

– Được được được, bần đạo chịu thua. Long cô nương, cô nương cứ việc mang thằng bé kia đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lão đánh chết Tôn bà bà, nói mỗi câu chịu thua là xong ư?

Hách Đại Thông ngửa mặt lên trời cười ha hả, buồn bã nói:

– Ta quả thật quá hồ đồ!

Rồi đưa thanh kiếm gãy miết ngang qua cổ họng. Bỗng keng một tiếng, tay bị chấn động, một đồng tiền từ ngoài tường bắn vào, đánh rơi đoạn kiếm gãy xuống đất. Hách Đại Thông nội lực thâm hậu, muốn đánh rơi thanh kiếm khỏi tay lão, hoàn toàn không phải chuyện dễ. Hách Đại Thông kinh ngạc, nhưng qua công phu dùng đồng tiền búng rơi kiếm, biết rằng sư huynh Khưu Xứ Cơ đã về tới, ngẩng đầu lên, nói:

– Khưu sư ca, tiểu đệ vô năng, làm nhục lây bản giáo, tùy sư ca xử lý.

Chỉ nghe từ bên ngoài tường vang lên tiếng cười hồn nhiên, rồi tiếng nói:

– Thắng bại là chuyện thường, nếu mỗi lần thua lại cắt cổ, thì sư ca của đệ có đến mười tám cái đầu cũng không đủ.

Lời chưa dứt, Khưu Xứ Cơ tay cầm trường kiếm đã từ bên ngoài tường nhảy vào.

Khưu Xứ Cơ tính tình hào sảng, khi phiền não hay đùa bỡn, chĩa kiếm đâm tới cánh tay Tiểu Long Nữ, nói:

– Môn hạ phái Toàn Chân Khưu Xứ Cơ xin thỉnh giáo láng giềng cao quý.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lão đạo sĩ này cũng vui tính đấy.

Tả chưởng giơ ra, lại đã nắm lấy trường kiếm của Khưu Xứ Cơ. Hách Đại Thông vội kêu to:

– Sư ca, cẩn thận!

Nhưng không kịp nữa, Tiểu Long Nữ dồn sức ra tay, Khưu Xứ Cơ dồn sức ra lưỡi kiếm, lực tay của người này đấu với lực tay của người kia, rắc một cái, trường kiếm lại gãy đôi. Nhưng Tiểu Long Nữ cánh tay bị tê dại, ngực đau tức. Chỉ một chiêu nàng đã biết Khưu Xứ Cơ võ công cao hơn hẳn Hách Đại Thông, “Ngọc nữ tâm kinh” của mình thì nàng chưa luyện thành, thực không thể thắng nổi lão đạo sĩ, bèn ném đoạn kiếm gãy xuống đất, tay trái kẹp thi thể Tôn bà bà, tay phải cắp Dương Quá, nhún hai chân, thân hình nhẹ nhàng bay lên, qua bờ tường mà ra ngoài.

Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông và cái đạo sĩ thấy Tiểu Long Nữ tự nhiên biểu lộ tuyệt kỹ khinh công, thì nhìn nhau kinh ngạc. Khưu, Hách hai người đã giao đấu với nàng, biết nàng võ công tuy tinh, song rốt cuộc vẫn chưa bằng mình, riêng công phu khinh thân như thế kia thì quả là chưa từng thấy. Hách Đại Thông thở dài, nói:

– Thôi rồi, thôi rồi!

Khưu Xứ Cơ nói:

– Hách sư đệ, sư đệ tu tập đạo pháp bao nhiêu năm mà vẫn không chịu đựng nổi một thất bại cỏn con hay sao? Mấy sư huynh sư đệ bọn ta đi Sơn Tây chuyến vừa rồi cũng chả kết quả gì, nhưng có sao đâu?

Hách Đại Thông hỏi:

– Thế nào, không ai bị tổn thương chứ?

Khưu Xứ Cơ nói:

– Chuyện hơi dài, chúng ta đi gặp Mã sư ca đi.

Nguyên Lý Mạc Sầu sau khi giết mấy người trong gia đình Lục Lập Đỉnh ở Gia Hưng, liền lên mãi vùng Sơn Tây, tại Phổ Bắc giết thêm mấy vị hào kiệt, cuối cùng kích động sự công phẫn; thủ lĩnh võ lâm đương địa bèn gửi thiếp mời anh hùng hảo hán khắp nơi tới vây công. Phái Toàn Chân cũng nhận được thiếp mời. Bấy giờ Mã Ngọc và Khưu Xứ Cơ bàn với nhau, cùng cho rằng Lý Mạc Sầu tuy tác ác đa đoan, nhưng sư tổ của nàng ta có mối quan hệ sâu xa với Trùng Dương tiên sư, tốt nhất là nên đứng ra hòa giải, dành cho nàng ta một con đường sống mới; thế là Lưu Xứ Huyền và Tôn Bất Nhị hai người lập tức đi Phổ Bắc. Nhưng Lý Mạc Sầu hành tung ngụy bí, chợt ẩn chợt hiện, Lưu, Tôn hai người không làm gì được nàng ta, nàng ta lại còn giết thêm mấy hảo hán ở Phổ Nam, Phổ Bắc.

Sau đó Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất dẫn mười đệ tử đi cứu viện. Lý Mạc Sầu tự biết một mình không thể địch nổi số đông hảo thủ, bèn thách đấu với người của Khưu, Vương. Ngày tỷ thí thứ nhất, Tôn Bất Nhị giao đấu, bị Lý Mạc Sầu ngầm hạ độc thủ, bị nàng ta dùng “Băng phách ngân châm” đả thương. Tiếp đó nàng ta thân chinh mang tặng giải dược, khiến huynh đệ Khưu Xứ Cơ không thể không nhận. Như thế, coi như các đạo sĩ phái Toàn Chân đã chịu ân tình của Lý Mạc Sầu, theo qui củ sẽ không được coi nàng ta là địch nữa. Mọi người đành nhìn nhau cười khổ, thu xếp ra về. May mà Khưu Xứ Cơ nóng lòng về trước, không cùng Vương Xứ Nhất du lãm Thái Hàng sơn, mới kịp cứu mạng Hách Đại Thông.

Tiểu Long Nữ ra khỏi cung Trùng Dương, đặt Dương Quá xuống đất, ôm thi thể Tôn bà bà cùng Dương Quá trở về “Hoạt tử nhân mộ”. Nàng đặt thi thể Tôn bà bà xuống chiếc giường Tôn bà bà vẫn nằm, rồi nàng ngồi xuống chiếc ghế bên giường, chống tay lên cằm, ngẩn ngơ im lặng. Dương Quá phục xuống thi thể Tôn bà bà mà khóc tấm tức hồi lâu. Tiểu Long Nữ nói:

– Người chết rồi, còn khóc làm gì? Ngươi có khóc nữa, Tôn bà bà cũng chẳng nghe được đâu.

Dương Quá sững người, cảm thấy lời lẽ của nàng ta quá tàn nhẫn vô tình, nhưng nghĩ cho kỹ, thì cũng đúng thế thật, lại càng đau lòng hơn, bất giác lại khóc òa lên.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nhìn nó, sắc mặt hoàn toàn thản nhiên, một hồi lâu sau, nàng mới nói:

– Ta mai táng bà bà thôi; hãy đi theo ta.

Nàng ôm thi thể Tôn bà bà đi ra khỏi phòng. Dương Quá chùi nước mắt, đi theo sau. Lối đi trong nhà mộ không có đèn đuốc gì, nó phải căng mắt ra cũng nhìn không rõ cái bóng trắng của Tiểu Long Nữ, nên bám sát theo, không dám chậm nửa bước. Tiểu Long Nữ quẹo qua quẹo lại mấy lần, đi một hồi, đẩy một cánh cửa đá rất nặng, lấy trong túi ra bùi nhùi đánh lửa, châm vào hai đĩa đèn dầu trên một cái bàn đá. Dương Quá nhìn tứ phía, không khỏi lạnh người run rẩy, thấy trong một tòa đại sảnh bày một dãy năm cỗ quan tài bằng đá; nhìn kỹ, thấy hai cỗ quan tài đậy nắp rất khít, ba cỗ quan tài kia để hở nắp một nửa, cũng không biết bên trong có thi thể hay không.

Tiểu Long Nữ chỉ cỗ quan tài thứ nhất bên phải, nói:

– Bà bà tổ sư ngủ ở đây.

Chỉ cỗ quan tài thứ hai ở bên phải, nói:

– Sư phụ ngủ ở đây.

Dương Quá thấy nàng chỉ cỗ quan tài thứ ba ở bên phải, tim đập dồn, hồi hộp không biết nàng sẽ nói ai ngủ ở đó. Nắp cỗ quan tài này không đậy kín, lỡ có xác người trong đó thì mục nát mất hay sao? Chỉ nghe Tiểu Long Nữ nói:

– Tôn bà bà ngủ ở đây.

Dương Quá mới biết cỗ quan tài này còn để trống, thì thở dài nhẹ nhõm; nó nhìn hai cỗ quan tài còn lại, lòng hiếu kỳ nổi dậy, nó hỏi:

– Còn hai cỗ quan tài kia?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ Lý Mạc Sầu của ta ngủ ở một cỗ, ta ngủ một cỗ.

Dương Quá ngẩn người, nói:

– Lý Mạc Sầu… Lý cô nương cũng sẽ về đây ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ của ta đã an bài như vậy, sư tỷ sẽ phải trở về. Nơi đây còn thiếu một cỗ quan tài, bởi vì sư phụ ta không dự liệu có ngươi tới đây.

Dương Quá giật mình, vội nói:

– Đệ tử không, đệ tử không đâu!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã đáp ứng Tôn bà bà sẽ chiếu liệu cho ngươi suốt đời. Ta không rời khỏi chốn này, thì tất nhiên ngươi cũng sẽ ở đây.

Dương Quá nghe nàng nhơn nhơn nói đến đại sự sống chết, thì cũng chẳng kiêng dè, nói:

– Cứ coi như cô cô không cho đệ tử ra khỏi đây, khi nào cô cô chết, đệ tử sẽ rời chốn này.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã nói sẽ chiếu liệu cho ngươi suốt đời, thì ta sẽ không chết trước ngươi.

Dương Quá nói:

– Vì sao? Cô cô lớn tuổi hơn đệ tử kia mà!

Tiểu Long Nữ nói:

– Trước khi chết, dĩ nhiên ta sẽ giết ngươi trước.

Dương Quá lại giật thót, nghĩ thầm: “Chưa chắc đâu. Ta có chân, ta không biết trốn đi hay sao?”

Tiểu Long Nữ đến bên cỗ quan tài thứ ba, đẩy nắp ra, ôm thi thể Tôn bà bà định đặt vào, Dương Quá cảm thấy không nỡ, nói:

– Hãy cho đệ tử nhìn bà bà một lúc nữa.

Tiểu Long Nữ thấy nó mới quen Tôn bà bà chưa được một ngày, mà đã nặng tình như thế, bất giác cảm thấy khó chịu, cau cau mày, cứ ôm thi thể đứng bất động. Dưới ánh đèn dầu leo lét, Dương Quá thấy Tôn bà bà mặt mũi sống động như còn sống, lại muốn khóc òa lên. Tiểu Long Nữ nhìn nó một cái, đặt thi thể Tôn bà bà vào trong quan tài, đẩy nắp lại, cạch một tiếng, cái nắp đậy rất khít với cỗ quan tài.

Tiểu Long Nữ sợ Dương Quá lại khóc, không nhìn nó nữa, nói:

– Ra thôi!

Phất tay áo trái một cái, hai đĩa đèn dầu cùng tắt, lập tức tối đen như mực. Dương Quá sợ nàng nhốt nó trong mộ thất, vội theo ra ngay.

Ở trong hầm mộ không phân biệt ngày đêm. Hai người đã gặp đủ chuyện suốt nửa ngày, bây giờ đều đã mệt. Tiểu Long Nữ bảo Dương Quá nằm ngủ ở buồng của Tôn bà bà. Dương Quá từ nhỏ một mình lưu lạc giang hồ, thường tá túc qua đêm ở các ngôi miếu hoang, lá gan vốn to, nhưng bây giờ bảo nó ngủ một mình trong mộ thất, nghĩ đến mấy người chết nằm trong quan tài đá, nó sợ hãi vô cùng. Tiểu Long Nữ nói mấy câu, vẫn không thấy nó thưa, bèn hỏi:

– Ngươi có nghe thấy không đó?

Dương Quá nói:

– Đệ tử sợ.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Sợ cái gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử không biết. Đệ tử không dám ngủ một mình.

Tiểu Long Nữ cau mày, nói:

– Thế thì ngủ cùng buồng với ta vậy.

Bèn dẫn nó sang buồng của mình.

Nàng đã quen với bóng tối. Bây giờ vì Dương Quá nàng mới thắp một cây nến. Dương Quá thấy nàng tú mỹ tuyệt luân, y phục trên người lại trắng bong như tuyết không lấm bụi trần, thì cứ ngỡ rằng khuê phòng của nàng hẳn phải được trần thiết cực kỳ trang nhã, ai ngờ bước vào buồng thì hết sức thất vọng, thấy bên trong trống trải, chẳng khác gì nơi để mấy cỗ quan tài. Một tấm đá xanh dài làm giường, trên giường có trải tấm đệm cỏ, một tấm vải màu trắng làm chăn, ngoài ra không còn vật gì khác.

Dương Quá nghĩ thầm: “Không biết mình nằm ở đâu? Chỉ sợ nàng bắt ta nằm dưới đất”. Vừa nghĩ thế, thì Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi lên giường của ta mà nằm!

Dương Quá nói:

– Như thế không nên, đệ tử nằm dưới đất được rồi.

Tiểu Long Nữ cau mặt, nói:

– Ngươi muốn ở lại đây, ta bảo gì, ngươi đều phải vâng lời. Ngươi đã quen ẩu đả với bọn đạo sĩ, chuyện ấy quên đi. Nếu ngươi dám chống lệnh ta, ta sẽ lập tức giết ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô cô khỏi cần dữ dằn như vậy, đệ tử vâng lời thì được chứ gì.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi còn dám cãi hả?

Dương Quá thấy nàng trẻ trung xinh đẹp mà làm bộ dữ tợn như thế, thì lè lưỡi không nói nữa. Tiểu Long Nữ nhìn thấy, nói:

– Ngươi thè lưỡi làm gì vậy? Không phục ta phải không?

Dương Quá không đáp, tụt giày, leo lên giường nằm.

Vừa nằm xuống giường, đã thấy lạnh thấu xương; nó sợ quá, nhảy luôn xuống đất. Tiểu Long Nữ thấy nó sợ cuống, tuy không hài lòng, nhưng suýt nữa phì cười hỏi:

– Làm sao vậy?

Dương Quá thấy ánh mắt nàng cười cười, thì cười nói:

– Cái giường này kỳ quái lắm, hóa ra cô cô trêu chọc đệ tử.

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt nói:

– Ai trêu chọc ngươi làm gì, cái giường nó vốn như thế, mau lên giường nằm đi.

Nói đoạn lấy từ góc buồng một cây chổi, nói:

– Mồi lần ngươi tụt xuống đất, ta sẽ đánh ngươi mười cái cán chổi.

Dương Quá thấy nàng nghiêm mặt, đành leo lên giường nằm. Lần này có đề phòng, không sợ nữa, chỉ cảm thấy dường như dưới tấm đệm cỏ là các lớp băng dày, càng nằm lâu càng thấy lạnh, bất giác toàn thân run bần bật, hai hàm răng gõ vào nhau cầm cập. Nằm một lát nữa, khí lạnh thấu xương, thật không tài nào chịu nổi.

Nó nhìn về phía Tiểu Long Nữ, thấy mặt nàng nửa cười nửa không, có vẻ khoái trá trước sự đau khổ của kẻ khác, thì nó thầm bực tức, nghiến răng chống chọi với cái lạnh. Chỉ thấy Tiểu Long Nữ lấy một sợi dây chão, móc một đầu dây vào một chiếc đinh trên tường, dòng sợi dây ngang buồng, móc đầu dây bên kia vào một chiếc đinh trên bức tường đối diện, sợi dây cách mặt đất một khoảng cao bằng người, rồi nàng nhẹ nhàng nằm vắt ngang sợi dây, lấy sợi dây làm giường, tiếp đó tay trái phẩy một cái, chưởng phong quạt tắt luôn ngọn nến.

Dương Quá vô cùng thán phục, nói:

– Cô cô, ngày mai cô cô dạy cho đệ tử bản sự đó được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bản sự này có đáng gì? Ngươi mà chịu khó học, ta có rất nhiều bản sự lợi hại dạy cho ngươi.

Dương Quá nghe Tiểu Long Nữ chịu thực tâm dạy võ cho nó, thì nó quên hết mọi sự oán trách ban đầu, cảm động quá, nước mắt tự nhiên ứa ra, nó nghẹn ngào nói:

– Cô cô, cô cô đối tốt với đệ tử, vậy mà lúc đầu đệ tử lại oán trách cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đuổi ngươi đi, ngươi có oán trách ta, cũng chả có gì là lạ.

Dương Quá nói:

– Đệ tử chỉ mong cô cô đừng giống như sư phụ hồi trước của đệ tử, dạy đệ tử toàn những thứ vô dụng.

Tiểu Long Nữ nghe giọng nó run run, thì hỏi:

– Ngươi rét lắm à?

Dương Quá nói:

– Vâng, cái giường này bên dưới kỳ quái thế nào ấy, nằm cứ lạnh thấu xương.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Ngươi không muốn nằm cái giường này hả?

Dương Quá nói:

– Đệ tử… đệ tử không muốn.

Tiểu Long Nữ cười khẩy:

– Hừ, ngươi không muốn, trong khi biết bao nhiêu cao thủ võ lâm thiên hạ muốn nằm cái giường này mà không được đó.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Họ muốn chịu tội sống hay sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, ta nuông chiều ngươi, ngươi lại cho là phải chịu tội sống, thật không biết gì tốt xấu cả.

Dương Quá nghe vậy, xem chừng nàng bảo nó nằm cái giường này không phải do ác ý, thì dịu giọng cầu khẩn:

– Cô cô, cái giường lạnh này tốt ở điểm nào, cô cô có thể nói cho đệ tử biết được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi nằm cái giường này suốt đời, tự khắc sẽ biết nó tốt ở chỗ nào. Bây giờ thì nhắm mắt lại, không được nói nữa.

Trong bóng tối nghe tiếng quần áo của nàng khẽ sột soạt tựa hồ nàng trở mình. Đã nằm ngủ trên một sợi dây mà còn trở mình tùy ý, thật là ngoài sức tưởng tượng.

Hai câu cuối của nàng nghe nghiêm lạnh, Dương Quá không dám hỏi thêm, bèn nhắm mắt cố ngủ. Nhưng từng luồng hơi lạnh từ bên dưới thấm lên, nghĩ đến Tôn bà bà nó lại đau lòng, làm sao ngủ được?

Một hồi lâu, nó gọi khẽ:

– Cô cô, đệ tử chịu không nổi nữa.

Chỉ nghe tiếng thở đều đều của Tiểu Long Nữ, chắc nàng đã ngủ. Nó gọi nhỏ hai lần nữa, vẫn không có tiếng trả lời, thì nghĩ thầm: “Mình xuống đất nằm, chắc nàng ta chẳng biết đâu.” Bèn rón rén tụt khỏi giường, đứng dưới đất, không dám thở mạnh.

Nào ngờ vừa định cất bước, thì Tiểu Long Nữ đã nhỏm dậy, chộp lấy tay trái của nó bẻ quặt ra sau lưng, ấn nó ngồi xuống đất. Dương Quá kêu lên, thì Tiểu Long Nữ đã cầm cây chổi quất vào mông nó.

Dương Quá biết rằng có xin tha cũng vô ích, nên cắn răng nhịn đau. Năm cái quất đầu tiên rất đau, từ cái thứ sáu, Tiểu Long Nữ đã nhẹ tay dần, đến hai cái quất cuối cùng thì chỉ còn đụng vào da mà thôi. Đánh xong mười cái, nàng nhấc nó ném lên giường, quát:

– Còn thế nữa, còn bị đánh.

Dương Quá nằm trên giường, không dám hó hé, chỉ nghe nàng ném cây chổi vào góc buồng, rồi lại nằm vắt ngang dây thừng mà ngủ. Tiểu Long Nữ ngỡ thằng bé sẽ khóc lóc ầm ĩ, không ngờ nó nằm im thin thít, bèn hỏi:

– Sao ngươi không kêu khóc?

Dương Quá nói:

– Kêu khóc mà làm gì? Cô cô muốn đánh thì sẽ đánh, có xin tha cũng vô ích.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, ngươi trong bụng chửi thầm ta chứ gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử không chửi thầm cô cô đâu. Cô cô tốt hơn lão sư phụ trước của đệ tử rất nhiều.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Vì sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô tuy đánh đệ tử, nhưng trong bụng lại thương, càng đánh càng nhẹ tay, sợ đệ tử bị đau.

Tiểu Long Nữ thấy nó nói đúng tâm sự của mình, thì hơi đỏ mặt, may mà trong bóng tối Dương Quá không nhìn được, nàng làu bàu:

– Hừ, ai thương ngươi kia chứ, lần sau ngươi không vâng lời, ta sẽ nặng tay hơn đấy.

– Cô cô đánh đau hơn nữa, đệ tử cũng vẫn thích.

Tiểu Long Nữ nguýt nó:

– Tặc cốt đầu (đồ quỷ), ngươi một ngày không bị đòn, khéo ngủ không ngon.

Dương Quá nói:

– Nếu đánh đệ tử là người thương đệ tử, thì đệ tử chả buồn chút nào, còn vui là đằng khác, vì ngươi ấy mong cho đệ tử thành người tốt. Còn nếu là người ghét đệ tử, thì dù chỉ mắng đệ tử một câu, trừng mắt nhìn đệ tử một cái, sau này đệ tử lớn lên sẽ tìm kẻ đó tính sổ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi thử kể xem, những ai thương ngươi, những ai ghét ngươi.

Dương Quá nói:

– Việc đó thì đệ tử nhớ rất kỹ. Những kẻ ghét đệ tử thì khỏi cần nhắc tới, vì nhiều lắm. Còn thương đệ tử thì có người mẹ quá cố của đệ tử này, nghĩa phụ này, Quách Tĩnh bá bá, Tôn bà bà và cô cô.

Tiểu Long Nữ cười khảy:

– Ta đâu có thương ngươi. Tôn bà bà nhờ ta chiếu liệu cho ngươi, thì ta chiếu liệu cho ngươi. Kiếp này ngươi đừng hi vọng ta có hảo tâm với ngươi.

Dương Quá vốn đã rét run cầm cập, nghe nàng nói thế thì vã mồ hôi lạnh, nén giận, hỏi:

– Đệ tử có gì không tốt, mà cô cô ghét đệ tử đến thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi tốt hay xấu thì can hệ gì đến ta? Ta cũng không ghét ngươi. Cả đời ta ở trong phần mộ này, ai ta cũng không thương, ai ta cũng chẳng ghét.

Dương Quá nói:

– Thế thì chán lắm. Cô cô đã đi ra ngoài bao giờ chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta chưa hề rời khỏi núi Chung Nam, bên ngoài bất quá cũng chỉ có núi có cây, có mặt trăng mặt trời, chứ có gì hay?

Dương Quá vỗ tay, nói:

– Ôi, đúng là cô cô sống uổng cả một đời. Dưới thành ấp có bao nhiêu thứ hay vô cùng.

Rồi nó kể lại đủ thứ lạ mà nó nhìn thấy trong quãng đời lưu lạc từ nhỏ của mình tới giờ. Nó vốn khéo mồm khéo miệng, lúc này lại thêm giấm thêm ớt, càng kể càng bịa thêm lắm điều ly kỳ cổ quái, biến ảo đa đoan. May mà Tiểu Long Nữ mười tám năm nay chưa hề rời khỏi núi Chung Nam, nó khoa trương bịa đặt gì, nàng cũng đều tin cả, cuối cùng bất giác thở dài.

Dương Quá nói:

– Cô cô , đệ tử dẫn cô cô đi chơi một chuyến nhé?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đừng nói bậy! Tổ sư bà bà đã có di huấn, người nào đã sống ở “Hoạt tử nhân mộ” sẽ không được rời khỏi núi Chung Nam một bước.

Dương Quá chột dạ, nói:

– Chả lẽ cả đệ tử cũng không được rời khỏi núi Chung Nam?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tất nhiên không được.

Dương Quá nghe vậy cũng không lo lắm, nghĩ thầm: “Đào Hoa đảo là hòn đảo chơ vơ giữa biển, ta đến đó cũng có thể rời khỏi đó, ngôi nhà mồ này làm sao nhốt nổi ta?” lại hỏi:

– Cô cô bảo Lý Mạc Sầu Lý cô nương là sư tỷ của cô cô, hẳn cũng đã sống ở “Hoạt tử nhân mộ”, sao vẫn được rời khỏi núi Chung Nam đi các nơi?

Tiểu Long Nữ nói:

– Lý sư tỷ không vâng lời sư phụ ta, bị sư phụ ta đuổi đi đấy.

Dương Quá cả mừng, nghĩ thầm: “Có qui củ hay thế thì cứ vậy mà làm theo, bao giờ mình muốn bỏ đi, mình chỉ cần không vâng lệnh, để nàng ta đuổi đi là được”. Nhưng nó nghĩ dự định đó phải giấu kín, không được lộ ra, kẻo mất linh.

Hai người trò chuyện, Dương Quá nhất thời quên cái lạnh; nhưng chỉ cần ngừng nói một lát, toàn thân lại run rẩy, nó liền mở miệng cầu khẩn:

– Cô cô tha cho đệ tử đi, đệ tử không muốn nằm cái giường này chút nào.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi đánh nhau với cả sư phụ của phái Toàn Chân, không chịu mở miệng xin tha, sao bây giờ lại thoái chí thế à?

Dương Quá cười, nói:

– Ai đối xử xấu với đệ tử, đánh đập đệ tử, đệ tử một câu cũng không chịu thua. Ai đối xử tốt với đệ tử, đệ tử có thể tình nguyện chết vì người đó, huống hồ mở miệng xin tha.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hừ, đừng tưởng là ta đối tốt với ngươi.

Tiểu Long Nữ từ nhỏ được sư phụ và Tôn bà bà dạy dỗ, nuôi dưỡng, mười tám năm chỉ bầu bạn với hai lão bà bà. Hai người ấy tuy đối với nàng cực tốt, chỉ do sư phụ muốn nàng luyện “Ngọc nữ tâm kinh”, nên từ nhỏ đã bảo phải nàng gạt bỏ mọi cái tình hỉ nộ ai lạc, hễ thấy nàng khóc nàng cười, lập tức trách phạt rất nặng. Tôn bà bà dẫu là người nhiệt thành, cũng không dám cản trở sự tu luyện của nàng, sao cho nàng có được cái tính khí lạnh lùng, tàn nhẫn, đơn độc. Nay Dương Quá vừa tới, người này tâm nhiệt như hỏa, tuổi lại còn nhỏ, lời lẽ cử chỉ đương nhiên khác hẳn hai vị lão bà bà. Tiểu Long Nữ nghe Dương Quá nói, thừa biết là không nên, nhưng vẫn cứ trò chuyện với nó không biết mệt. Lúc đầu nàng thu nhận Dương Quá chỉ vì nể lời thỉnh cầu của Tôn bà bà, nhưng sau nghe Dương Quá bảo nàng là người đối tốt với nó, nàng tự dưng cũng cảm thấy đúng thế thật.

Dương Quá nghe giọng nàng không có vẻ gì là tức giận, bèn rên thật to:

– Trời ơi lạnh quá, rét quá, đệ tử chịu hết nổi mất thôi.

Kỳ thực, dù rất lạnh, song cũng chưa đến nỗi phải rên rỉ quá như thế.

Tiểu Long Nữ nói:

– Im đi, để ta kể cho ngươi biết lai lịch của cái thạch sàng (giường đá) này.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Hãy quá, đệ tử không rên nữa, cô cô kể mau đi.

Tiểu Long Nữ kể:

– Ta nói anh hùng khắp thiên hạ đều muốn nằm cái giường này chẳng phải là để đánh lừa ngươi đâu, cái giường này được chế từ một loại hàn ngọc cổ, giúp ích rất nhiều cho việc tu luyện nội công thượng thừa.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Không phải làm bằng đá ư?

Tiểu Long Nữ cười khẩy, nói:

– Ngươi bảo ngươi đã thấy không ít vật cổ quái, nhưng đã thấy có thứ đá nào lạnh như thế này chưa? Thứ này tổ sư bà bà phải tốn bảy năm tâm huyết, đến miền đất băng giá cực bắc, đào sâu qua lớp băng dày mấy trăm trượng, mới lấy lên được thứ hàn ngọc này. Nằm ngủ trên cái giường ngọc này mà luyện nội công, thì một năm bằng mười năm tu luyện bình thường đó.

Dương Quá vui mừng nói:

– Thì ra nó có cái hay như thế.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thoạt tiên ngươi nằm ngủ trên cái giường này, sẽ cảm thấy giá lạnh không chịu nổi, phải vận công lực toàn thân chống lạnh, lâu dần thành tự nhiên, lúc nằm ngủ cũng là lúc luyện công. Người ta luyện công, dù là người cần mẫn nhất, mỗi ngày cũng phải ngủ ba, bốn canh giờ. Nên biết, đạo luyện công là hành động nghịch thiên, khí huyết vận hành không giống lúc bình thường. Nhưng mỗi khi nằm ngủ, khí huyết tự nó lại vận hành theo kiểu cũ, thế là công phu luyện tập ban ngày mười phần bị hao mất chín. Nhưng nếu nằm ngủ trên cái giường này, thì trong lúc ngủ chẳng những không bị hao tốn công lực đã luyện ban ngày, mà còn gia tăng công lực.

Dương Quá tức thời lĩnh ngộ, nói:

– Thế thì ban đêm nằm ngủ trên tuyết cũng có cái tốt.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không đâu. Một là băng tuyết hút cái nóng của cơ thể, tan thành nước; hai là thứ hàn ngọc này lạnh gấp mấy lần băng tuyết. Cái giường bằng hàn ngọc này còn có cái hay khác nữa, phàm tu luyện nội công, tối kỵ là tẩu hỏa nhập ma, bình thường luyện nội công, phải dùng một nửa tinh thần đề kháng tâm hỏa. Thứ hàn ngọc này là vật chí âm chí hàn trong thiên hạ, người tu đạo nằm ngồi trên nó, tâm hỏa tự thanh, do vậy, lúc luyện nội công có thể tha hồ dũng mãnh tinh tiến, như thế chẳng phải sẽ luyện nhanh hơn hẳn người khác đó sao?

Dương Quá cả mừng, nói:

– Cô cô, cô cô đối với đệ tử tốt quá, cô cô cho đệ tử nằm ngủ trên cái giường này, đệ tử sẽ không sợ huynh đệ họ Võ và Quách Phù. Lão Triệu Chí Kính của phái Toàn Chân tuy luyện nội công lâu hơn đệ tử, nhưng đệ tử cũng sẽ đuổi kịp.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Tổ sư bà bà đã có di huấn, đã sống ở nhà mồ này, thì phải tu tâm dưỡng tính, nhất thiết không được có ý cạnh tranh với người khác.

Dương Quá vội nói:

– Chẳng lẽ bọn chúng hiếp đáp đệ tử, lại còn hại chết Tôn bà bà, mình cũng tha cho ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Người ta ai cũng phải chết, Tôn bà bà không chết bởi tay Hách Đại Thông, thì vài năm nữa tự mình cũng sẽ chết. Sống thêm vài năm, chết sớm vài năm thì cũng thế mà thôi. Chuyện báo cừu rửa hận, từ rày không được nhắc với ta nữa.

Dương Quá cảm thấy lời nói trên tuy có lý, nhưng vẫn có chỗ chưa đúng, song nhất thời nó chưa nghĩ ra được cách bác bỏ. Vừa lúc ấy, khí lạnh lại thấm vào người từng đợt một, nó lại run rẩy toàn thân. Tiểu Long Nữ nói:

– Để ta dạy ngươi cách chống cái lạnh khi nằm trên chiếc giường này.

Thế rồi nàng truyền cho nó mấy câu khẩu quyết cùng pháp môn tu tập nội công, chính là công phu căn cơ nhập môn của phái nàng. Dương Quá y lời luyện theo, trong giây lát đã cảm thấy khí lạnh giảm hẳn, đến khi nội tức chuyển sang vòng thứ ba, thì nó cảm thấy toàn thân phát nhiệt, không còn sợ băng giá nữa, ngược lại còn cảm thấy thoải mái dễ chịu khi nằm trên cái giường đá kia, hai mắt vừa nhắm lại, đã lơ mơ thiếp đi. Ngủ chừng nửa canh giờ, hơi ấm tan hết, hơi lạnh của cái giường làm cho nó tỉnh giấc, nó lại theo cách đã học mà dụng công. Cứ thế ngủ rồi tỉnh, tỉnh rồi ngủ nhiều lần trong đêm, sáng hôm sau thức dậy không hề cảm thấy mệt mỏi, thì ra chỉ trong một đêm tu luyện, mà nội lực đã có tiến bộ.

Hai người ăn sáng xong, Dương Quá mang bát đĩa vào bếp rửa sạch, rồi trở ra đại sảnh. Tiểu Long Nữ nói:

– Có một việc ngươi cần biết rõ. Nếu ngươi thật sự bái ta làm sư phụ, thì suốt đời sẽ phải nghe lời ta. Nếu ngươi không bái ta làm sư phụ, ta cũng vẫn truyền võ nghệ cho ngươi, sau này khi nào ngươi thắng nổi ta, ngươi có thể dựa vào võ công mà ra khỏi “Hoạt tử nhân mộ”.

Dương Quá không hề đắn đo, nói:

– Đệ tử tất nhiên bái cô cô làm sư phụ, dù cô cô không truyền võ nghệ cho đệ tử, thì đệ tử cũng vẫn vâng lời cô cô.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô, cô cô trong lòng đối tốt với đệ tử, đệ tử không biết hay sao?

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt, nói:

– Ta đối với ngươi tốt hay không, từ nay ngươi không được nhắc đến. Ngươi đã bái ta làm sư phụ, thì ra hậu sảnh làm lễ.

Dương Quá theo nàng ra hậu sảnh, thấy ở đó chẳng bày biện đồ đạc gì, chỉ có mấy bức vẽ chân dung treo trên hai bức tường đông tây. Trên bức tường bên tây treo bức vẽ chân dung hai cô nương. Cô nương thứ nhất hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, đang soi gương chải đầu. Cô nương thứ hai là a hoàn mười bốn mười lăm tuổi, tay bưng chậu rửa mặt, đứng hầu bên cạnh. Hiện lên trong gương là cô nương lớn tuổi hơn, với dung mạo cực đẹp, ánh mắt ẩn chứa sát khí. Dương Quá nhìn một chút, trong lòng bất giác nảy sinh sự kính phục.

Tiểu Long Nữ chỉ cô nương lớn tuổi, nói:

– Vị này là tổ sư bà bà, ngươi hãy khấu đầu.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Tổ sư bà bà sao lại trẻ như vậy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Khi vẽ thì còn trẻ, về sau sẽ không trẻ nữa.

Dương Quá cứ vấn vương mãi với câu “Khi vẽ thì còn trẻ, về sau sẽ không trẻ nữa”, tự dưng thấy buồn, ngẩn ngơ nhìn bức chân dung, nước mắt bỗng ứa ra.

Tiểu Long Nữ không biết nó đang nghĩ gì, chỉ thiếu nữ trong vai a hoàn, nói:

– Đây là sư phụ của ta, ngươi hãy khấu đầu.

Dương Quá nghiêng đầu nhìn bức chân dung, thấy phong thái thiếu nữ ấy sinh động, vẻ mặt hết sức ngây thơ non nớt, thế mà về sau lại trở thành sư phụ của Tiểu Long Nữ, thì nó không dám đa tưởng nữa, vội quì xuống khấu đầu.

Tiểu Long Nữ đợi nó đứng dậy, mới chỉ bức chân dung treo trên bức tường bên đông, nói:

– Ngươi hãy nhổ nước bọt vào gã đạo sĩ đó.

Dương Quá nhìn, thấy bức chân dung vẽ một đạo sĩ thân hình cao lớn, lưng đeo trường kiếm, ngón trỏ tay phải chỉ về góc đông bắc, có điều là đạo sĩ quay lưng lại nên không thấy mặt. Dương Quá rất lạ, hỏi:

– Người này là ai? Sao lại phỉ nhổ y?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là giáo chủ giáo phái Toàn Chân Vương Trùng Dương, môn phái chúng ta có một qui củ, sau khi vái tổ sư bà bà, thì phải phỉ nhổ hắn.

Dương Quá cả mừng, nó vốn hết sức căm ghét phái Toàn Chân, nay bổn môn lại có qui củ như thế, bèn nhổ một bãi nước bọt thật to vào lưng Vương Trùng Dương trên bức vẽ, nhổ xong cho là chưa đủ, lại nhổ nữa, đang định nhổ lần thứ ba, thì Tiểu Long Nữ nói:

– Đủ rồi.

Dương Quá hỏi:

– Tổ sư bà bà của chúng ta hận Vương Trùng Dương lắm phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng vậy.

Dương Quá nói:

– Đệ tử cũng thế. Tại sao không hủy bức chân dung hắn đi, còn treo ở đây?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta cũng không biết, chỉ nghe sư phụ và Tôn bà bà bảo rằng nam tử trong thiên hạ không có lấy một người tốt.

Đột nhiên nàng nghiêm giọng, nói:

– Sau này ngươi lớn lên, liệu hồn đừng có làm việc xấu, ta sẽ không tha cho đâu.

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên là cô cô sẽ tha cho đệ tử.

Tiểu Long Nữ định dọa nó để ngăn chặn, nào ngờ nó lại trả lời như vậy, cũng chưa biết bắt bẻ nó thế nào, bèn quát:

– Mau vái sư phụ.

Dương Quá nói:

– Sư phụ dĩ nhiên phải vái, song cô cô trước tiên phải đáp ứng đệ tử một việc đã, nếu không thì đệ tử sẽ không vái.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm: “Nghe Tôn bà bà bảo, xưa nay trước khi thu nhận đồ đệ , chỉ có sư phụ yêu cầu đệ tử đáp ứng điều này điều nọ, há có chuyện đệ tử đòi sư phụ đáp ứng?” Có điều là tính nàng trầm tĩnh, hoàn toàn không tức giận, nói:

– Điều gì, ngươi nói ta nghe coi.

Dương Quá nói:

– Đệ tử trong lòng coi cô cô như sư phụ, kính trọng cô cô, cô cô bảo gì đệ tử cũng vâng lời, nhưng ngoài miệng đệ tử sẽ không gọi sư phụ, chỉ gọi cô cô.

Tiểu Long Nữ hơi lạ, hỏi:

– Vì lẽ gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử đã trót bái lão xú đạo sĩ phái Toàn Chân làm sư phụ, lão ta đối với đệ tử không tốt, đệ tử nằm mơ cũng chửi sư phụ. Cho nên gọi là cô cô thì hơn, để khi đệ tử chửi sư phụ, không liên lụy gì tới cô cô.

Tiểu Long Nữ không cười nổi, cảm thấy cách nghĩ của thằng bé này kể cũng thú vị, bèn nói:

– Được, ta đáp ứng.

Dương Quá liền cung kính quì xuống, khấu đầu trước Tiểu Long Nữ đủ tám cái nói:

– Đệ tử Dương Quá hôm nay bái Tiểu Long Nữ cô cô làm sư phụ. Từ nay trở đi, Dương Quá vĩnh viễn vâng lời cô cô. Cô cô có gặp nguy hiểm, Dương Quá sẵn sàng xả mệnh bảo vệ cô cô; nếu có kẻ xấu bắt nạt cô cô, Dương Quá nhất định sẽ giết hắn.

Kỳ thực hiện tại Tiểu Long Nữ võ công cao hơn Dương Quá không biết bao nhiêu lần mà kể, nhưng Dương Quá thấy nàng yếu đuối tú nhã, bất giác nảy sinh khí khái nam tử hán che chở nữ nhi yếu đuối, càng nói càng hăng hái. Tiểu Long Nữ nghe giọng thành khẩn của nó, tuy còn đầy tính khí trẻ con, song nàng cũng không khỏi cảm động.

– Ngươi có gì mà cao hứng thế? Bản sự của ta không thắng nổi lão Khưu Xứ Cơ phái Toàn Chân, càng không thể sánh với Quách bá bá nhà ngươi.

Dương Quá nói:

– Họ có giỏi mấy, cũng chẳng can hệ gì tới đệ tử. Chỉ có cô cô chịu thật lòng dạy võ công cho đệ tử mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thực ra học võ cũng vô dụng. Chẳng qua ở đây không biết làm việc gì, thì ta dạy võ cho ngươi.

Dương Quá nói:

– Cô cô, môn phái của chúng ta tên là gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Từ khi Tổ sư bà bà nhập cư “Hoạt tử nhân mộ” đến nay, không hề giao thiệp với các nhân vật võ lâm, môn phái của chúng ta cũng chẳng mang tên gọi nào. Sau Lý sư tỷ ra ngoài hành tẩu giang hồ, người ta gọi nàng là đệ tử “phái Cổ Mộ”, vậy ta cứ gọi là “phái Cổ Mộ” thì được.

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Ba chữ “phái Cổ Mộ” nghe không hay!

Nó vừa bái sư nhập môn, đã chỉ trích tên gọi của bổn môn, Tiểu Long Nữ cũng chẳng bực, nói:

– Tên gọi nghe hay hay dở thì đã sao? Ngươi chờ ta ở đây, ta đi đằng này một chút.

Dương Quá nghĩ một mình nó ở trong nhà mộ thì cả sợ vội nói:

– Đệ tử cùng đi với cô cô.

Tiểu Long Nữ trừng mắt nhìn nó, nói:

– Ngươi bảo sẽ vĩnh viễn vâng lời ta, vậy mà câu thứ nhất của ta, ngươi đã không nghe rồi.

Dương Quá nói:

– Đệ tử sợ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nam tử hán đại trượng phu, sợ cái gì? Thế mà còn đòi bênh ta đánh kẻ xấu cơ đấy?

Dương Quá nghĩ một chút, nói:

– Thôi được, cô cô đi mau về nhé.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Chưa thể nói trước, còn xem có chóng bắt được nó không đã.

Dương Quá ngạc nhiên hỏi:

– Bắt cái gì vậy?

Tiểu Long Nữ không trả lời, bước ra.

Tiểu Long Nữ đi rồi, trong nhà mồ hoàn toàn vắng lặng. Dương Quá không biết nàng đi đâu, bắt kẻ nào, nghĩ nàng sẽ không rời núi Chung Nam, chắc là bắt đạo sĩ phái Toàn Chân, chỉ chưa rõ nàng bắt ai, bắt về tất nhiên để hành hạ kẻ đó một phen, thật là lý thú, nhưng nàng trơ trọi một mình, mong rằng sẽ không việc gì. Nó nghĩ lung tung một hồi, bước ra đại sảnh, theo hành lang đi về phía tây, đi chưa đến mười bước, trước mắt tối đen. Nó sợ lạc đường, bèn men theo tường đi ngược trở lại, không ngờ đi hai chục bước vẫn không thấy ánh đèn trong đại sảnh. Nó hốt hoảng bước nhanh hơn về phía trước. Đã lạc lối, còn hoảng loạn, sẽ càng lạc đi xa hơn. Nó đi vội, cứ vấp hết chỗ này chỗ kia, trong bóng tối chỉ thấy toàn là các ngã ba, không tài gì trở lại đại sảnh. Nó cất tiếng gọi to:

– Cô cô, cô cô, mau cứu đệ tử!

Chỉ có tiếng vọng lại âm vang trong nhà mồ.

Nó chạy loạn một hồi, chỉ thấy đất dưới chân lầy lội, hóa ra nó đã ra khơi khu vực nhà mồ, vào một đoạn địa đạo nào đó. Nó càng hoảng thêm, nghĩ thầm: “Ta lạc lối trong khu vực nhà mồ, cô cô còn dễ tìm được. Bây giờ ta lạc ra đây, cô cô tìm chán không thấy, ngỡ ta bỏ trốn, chắc sẽ buồn lắm”. Nó không dám đi tiếp, sờ soạng gặp một hòn đá, nó bèn ngồi xuống, định khóc to lên mà không khóc nổi.

Nó cứ ngồi thế hơn một canh giờ, bỗng nghe văng vẳng có tiếng gọi: “Quá nhi, Quá nhi!” Nó cả mừng, đứng bật dậy, kêu to:

– Cô cô, đệ tử ở đây!

Nhưng tiếng gọi “Quá nhi” nghe cứ xa dần. Dương Quá cuống quít, gào thật to:

– Đệ tử ở đây.

Dương Quá giật mình, nhưng lập tức mừng rơn, nói:

– Cô cô, cô cô đến mà sao đệ tử chả nghe thấy gì cả?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi mò tới đây làm gì?

Dương Quá nói:

– Đệ tử bị lạc lối.

Tiểu Long Nữ hừ một tiếng, cầm tay nó dắt đi, tuy trong bóng tối, song nàng đi như ngoài chỗ sáng, quẹo chỗ này rẽ chỗ kia, nhanh nhẹn lạ thường. Dương Quá hỏi:

– Cô cô, làm cách nào cô cô nhìn thấy vậy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta cả đời sống trong bóng tối, tự nhiên khỏi cần ánh sáng.

Chẳng mấy chốc Tiểu Long Nữ đã dắt nó về tới đại sảnh. Dương Quá thở dài nhẹ nhõm, nói:

– Cô cô, ban nãy đệ tử lo quá.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Lo cái gì? Đằng nào ta chẳng tìm thấy ngươi?

– Không phải Dương Quá lo chuyện ấy, mà là lo rằng cô cô tưởng đệ tử bỏ đi, sẽ buồn bã trong lòng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi bỏ đi, ta khỏi cần giữ đúng cam kết với Tôn bà bà, làm gì phải buồn bã trong lòng?

Dương Quá nghe, cảm thấy vô vị, hỏi:

– Cô cô, cô cô bắt được chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bắt được rồi.

Dương Quá nói:

– Cô cô bắt về làm gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Bắt về cho ngươi luyện tập võ công. Nào, đi theo ta!

Dương Quá nghĩ thầm: “Thì ra cô cô bắt gã đạo sĩ thối tha để cho ta đấm đá tùy thích, tốt nhất là bắt được sư phụ Triệu Chí Kính, sau khi bị cô cô chế phục, hắn chỉ việc để cho ta đấm đá thỏa thích, không được chống đỡ”, vừa khoái trá nghĩ thầm như thế, nó vừa đi theo sau.

Tiểu Long Nữ quẹo vài lần, đẩy một cánh cửa, bước vào một gian thạch thất có ánh đèn. Gian thạch thất này rất nhỏ, hai người đứng xoay chuyển hơi khó; trần lại thấp, Tiểu Long Nữ giơ tay lên gần chạm tới. Dương Quá không thấy đạo sĩ nào, ngạc nhiên hỏi:

– Gã đạo sĩ cô cô bắt về đâu rồi?

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Đạo sĩ nào?

Dương Quá nói:

– Cô cô chẳng bảo cô cô đi bắt người về cho đệ tử luyện công đó sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ai bảo là ta đi bắt người? Xem đây này.

Nàng cúi xuống một góc thạch thất, nhấc lên một cái túi vải, cởi nút buộc miệng túi, dốc nghiêng, từ trong túi bay ra ba con chim sẻ. Dương Quá kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra cô cô đi bắt chim sẻ”.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy bắt cả ba con chim sẻ lại cho ta, không được làm rụng lông hoặc đau chân chúng.

Dương Quá vui vẻ nói:

– Được ngay!

Nó chộp bắt con chim, nhưng chim sẻ nhanh nhẹn dị thường, bay chỗ này chỗ nọ, Dương Quá thở hổn hển, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, đừng nói là bắt, ngay chỉ chạm vào thân con chim cũng chưa chạm nổi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi bắt thế sao được, để ta dạy cách cho.

Rồi nàng dạy nó cách với cao luồn thấp, cách chộp tóm. Dương Quá biết rằng nàng muốn thông qua việc bắt chim sẻ mà truyền thụ võ công, nên cố ghi nhớ quyết khiếu; có điều là hiểu và ghi nhớ thì dễ, nhưng nhất thời vận dụng thì chẳng dễ chút nào.

Tiểu Long Nữ để mặc nó một mình luyện tập trong gian thạch thất ấy.

Hôm ấy Dương Quá không bắt được một con chim sẻ nào; ăn tối xong, nó luyện công trên chiếc giường hàn ngọc. Ngày thứ hai bắt chim, lúc nhảy đã cao hơn vài tấc, xuất thủ cũng nhanh hơn một chút. Đến ngày thứ năm, cuối cùng nó bắt được một con chim sẻ. Nó mừng khôn xiết, vội chạy đi khoe với Tiểu Long Nữ. Không ngờ nàng lạnh lùng nói:

– Bắt được một con thì ra gì, phải tóm được cả ba con.

Dương Quá nghĩ thầm: “Đã bắt được một con, thì sẽ bắt được ba con thôi”. Đâu ngờ việc đó không dễ, hai hôm liền, nó vẫn không bắt được con nào.

Tiểu Long Nữ thấy ba con chim sẻ đã quá mệt và gầy, nàng cho chúng ăn tấm, rồi thả ra ngoài trời.

Nàng lại bắt ba con chim sẻ khác về cho Dương Quá luyện tập. Đến ngày thứ tám, Dương Quá mới bắt liền một mạch được ba con chim sẻ. Tiểu Long Nữ nói:

– Hôm nay cần sang cung Trùng Dương.

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Sang làm gì?

Tiểu Long Nữ không đáp, dẫn nó ra khỏi nhà mồ. Bảy ngày qua Dương Quá không nhìn thấy ánh sáng mặt trời, vừa ra ngoài nó liền bị chói mắt cơ hồ không mở ra nổi.

Hai người tới trước cung Trùng Dương, Dương Quá hồi hộp, chốc chốc lại liếc trộm Tiểu Long Nữ, thấy nàng thần sắc thản nhiên, không thể đoán tâm ý của nàng thế nào, chỉ nghe nàng cao giọng gọi:

– Triệu Chí Kính, mau ra đây!

Hai người đến trước cửa cung, đã có người phi báo vào bên trong, tiếng gọi của Tiểu Long Nữ chưa dứt, hai tiểu đạo sĩ đã dìu Triệu Chí Kính đi ra, chỉ thấy Triệu Chí Kính hình dung tiều tụy, hai mắt lõm sâu, đã không thể tự đi đứng được nữa. Các đạo sĩ thấy hai người tới, đều đặt tay ở cán kiếm, hầm hầm nhìn họ.

Hồi 06: Ngọc Nữ tâm kinh

Tiểu Long Nữ lấy ra một cái lọ nhỏ, đưa vào tay Dương Quá, nói to:

– Đây là loại mật trị ong độc, hãy trao cho Triệu Chí Kính.

Dương Quá vừa thấy mặt Triệu Chí Kính đã nghiến răng tức giận, nhưng không dám trái ý nàng, bèn bước nhanh tới, đặt cái lọ xuống đất, phía trước mặt Triệu Chí Kính.

Các đạo sĩ nghe nói Tiểu Long Nữ đến trước cung, tưởng nàng ta sang đây tìm cách báo thù cho Tôn bà bà, một mặt tăng cường phòng bị, một mặt phi báo các bậc sư tôn Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ; ai ngờ cuối cùng nàng ta sang đây là để tặng thuốc giải độc, thì kinh ngạc, không biết nói sao.

Dương Quá đặt lọ xuống, nhìn Triệu Chí Kính một cái đầy vẻ khinh miệt, rồi ngoảnh đầu đi về.

Lộc Thanh Đốc nhìn thấy Dương Quá thì lửa giận bốc lên, gọi:

– Tên tiểu tử phản xuất sư môn kia, cứ thế mà bỏ đi được ư?

Lần trước y bị Dương Quá dùng “Cáp mô công” đánh ngất lịm, tuy nhất thời ngừng thở, nhưng Dương Quá công lực quá non yếu, nên y bị thương không nặng, được Khưu Xứ Cơ xoa bóp cho vài cái, nằm nghỉ vài ngày, là khỏi liền; lúc này y chạy như bay tới, định trả mối thù hôm trước.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, hôm nay tạm chưa đánh trả.

Dương Quá nghe tiếng bước chân sau lưng, rồi tiếng chưởng phong, biết là có kẻ chộp tới gáy mình. Tại “Hoạt tử nhân mộ”, nó đã nằm ngủ tám ngày trên chiếc giường hàn ngọc, đã luyện tám ngày cách bắt chim sẻ; Tiểu Long Nữ đã dạy nó tuy chỉ là cách bắt chim sẻ, song đó cũng là cái tinh túy của khinh công phái “Cổ Mộ”; hiện giờ công phu của nó so với lần so tài cuối năm đã khác xa. Đúng lúc, không sớm không muộn, Lộc Thanh Đốc sắp chộp tới gáy thì nó liền thụp người xuống trườn đi, tiện tay giật cái mép vạt áo của Lộc Thanh Đốc. Lộc Thanh Đốc không thể ngờ chỉ trong ít ngày, khinh công của Dương Quá lại tiến nhanh như vậy, trong lúc cả giận không tránh khỏi khinh địch, cúi chộp không trúng, thân hình hơi chúi, lại bị kéo vạt áo, y đứng không vững, ngã sấp mặt xuống đất.

Lúc y lồm cồm bò dậy, thì Dương Quá đã chạy về bên cạnh Tiểu Long Nữ. Lộc Thanh Đốc quát to, định lao tới đánh nữa, bỗng có một người lướt ra, tựa hồ chân không chấm đất, nắm cánh tay kéo y trở vào chỗ mọi người. Lộc Thanh Đốc bị nắm cánh tay, nửa người lập tức tê dại, định mở miệng chửi, ngẩng nhìn thấy người kia là sư thúc Doãn Chí Bình, thì vội bậm môi lại.

Doãn Chí Bình nói to:

– Đa tạ Long cô nương tặng thuốc.

Đoạn cúi mình hành lễ. Tiểu Long Nữ chẳng thèm nhìn, cầm tay Dương Quá, nói:

– Đi về nào.

Doãn Chí Bình nói:

– Long cô nương, Dương Quá là đệ tử môn hạ phái Toàn Chân, cô nương cưỡng hành thu nạp hắn, việc ấy rốt cuộc xử lý sao đây?

Tiểu Long Nữ hơi sững, nói:

– Ta không thích nghe la lối.

Rồi nắm cánh tay Dương Quá lướt nhanh vào rừng.

Doãn Chí Bình, Triệu Chí Kính và các đạo sĩ nhìn nhau kinh ngạc.

Hai người về đến “Hoạt tử nhân mộ”, Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, công phu của ngươi có tiến bộ, nhưng ngươi đánh gã đạo sĩ mập rất không đúng.

Dương Quá nói:

– Tên đạo sĩ ấy đã đánh đệ tử tàn tệ, tiếc rằng hôm nay đệ tử chưa đánh hắn. Tại sao cô cô bảo đệ tử không được đánh hắn?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không phải ta bảo ngươi không được đánh, mà là bảo ngươi đánh không đúng cách. Ngươi khỏi cần kéo hắn ngã, mà để hắn tự mình ngã ngửa ra kia.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Thế thì hay quá, cô cô hãy dạy cho đệ tử đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta là ngươi, ngươi làm đạo sĩ mập, nào, ngươi hãy bắt lấy ta xem nào.

Dương Quá cười hi hi, giơ tay chộp lấy gáy nàng. Tiểu Long Nữ như có mắt ở sau lưng, Dương Quá chạy nhanh, nàng cũng chạy nhanh; Dương Quá chạy chậm, nàng cũng chạy chậm lại, luôn luôn giữ khoảng cách chừng ba thước. Dương Quá nói:

– Đệ tử bắt được cô cô này!

Nó nhào tới, Tiểu Long Nữ không tránh né.

Dương Quá thấy hai tay sắp chộp được gáy nàng, nào ngờ lúc hai bàn tay sắp hợp vào nhau, Tiểu Long Nữ chợt lùi chéo về phía sau, thoát khỏi vòng tay của nó. Nó vội thu tay về để bắt nàng, vì động tác thu gấp gáp ấy ngược với thế đứng, nên chân không vững, ngã ngửa luôn một cái, lưng đau như giần.

Tiểu Long Nữ đưa tay đỡ nó đứng thẳng dậy, Dương Quá vui mừng nói:

– Cô cô, cách này hay thật, thân pháp của cô cô làm sao nhanh đến thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi tập bắt chim sẻ một năm thì sẽ thành.

Dương Quá nói:

– Đệ tử đã bắt được rồi mà.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Hừ, như thế mà gọi là biết cách à? Võ công phái “Cổ Mộ” ta dễ thạo vậy ư?

Bèn dẫn Dương Quá tới một gian thạch thất mới, dài rộng gấp đôi gian thạch thất nó đã bắt chim sẻ. Ở đây có sáu con chim sẻ. Buồng rộng thế này, bắt được chim sẻ dĩ nhiên khó hơn nhiều. Tiểu Long Nữ lại dạy một vài thuật khinh công và phép cầm nã, mươi ngày sau, Dương Quá đã có thể bắt một mạch cả sáu con chim sẻ.

Sau đó gian thạch thất càng lúc càng rộng, số lượng chim sẻ cũng càng lúc càng nhiều, cuối cùng Dương Quá tập bắt tám mươi mốt con chim sẻ trong đại sảnh. Tâm pháp của phái “Cổ Mộ” quả nhiên thần diệu, cái giường hàn ngọc trợ giúp đặc biệt hữu hiệu cho việc tu luyện nội công, chỉ trong ba tháng, Dương Quá đã bắt được tám mươi mốt con chim sẻ trong đại sảnh. Tiểu Long Nữ thấy nó tiến bộ quá nhanh, cũng vui mừng, nói:

– Bây giờ chúng ta đã có thể ra ngoài nhà mồ bắt chim sẻ.

Dương Quá ở lỳ trong nhà mồ ba tháng, cảm thấy quá ư tù túng, nghe nói được ra ngoài luyện công, thì mừng lộ ra mặt. Tiểu Long Nữ nói:

– Đừng vội mừng, công phu này khó luyện lắm đó. Tám mươi mốt con chim sẻ, không được để cho một con nào bay đi cả.

Hai người đi ra ngoài nhà mồ, lúc này đang là tháng Ba mùa xuân, cây lá xanh non. Dương Quá hít sâu mấy hơi, cảm thấy hương hoa thơm mát tràn vào lồng ngực, dễ chịu vô cùng. Tiểu Long Nữ mở nghiêng miệng cái túi vải, chim sẻ từ trong túi lũ lượt bay ra; lúc này hai bàn tay với mười ngón búp măng của nàng dang rộng, tay vẫy, tay phẩy, buộc những con chim sẻ đang giương cánh bay đi phải quay trở lại. Bầy chim được sổ lồng, lẽ nào không bay đi tứ phía? Nhưng lạ thay, song chưởng của Tiểu Long Nữ chỉ làm như thế, mà toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ đều quần tụ ở trước mặt nàng trong phạm vi ba thước.

Chỉ thấy hai cánh tay nàng bay lượn, hai bàn tay uốn lượn tựa hồ hóa thành cả ngàn bàn tay, làm cho toàn bộ tám mươi mốt con chim sẻ bay cách nào cũng không thoát ra khỏi vòng vây của hai bàn tay nàng. Dương Quá cứ đứng há hốc mồm mà nhìn, vừa kinh ngạc, vừa thích thú, nó định thần, nghĩ thầm: “Cô cô đang dạy ta một bộ chưởng pháp kỳ diệu, hãy mau ghi nhớ”. Bèn chăm chú quan sát thật kỹ, nàng giơ tay ngăn chặn thế nào, thu cánh tay, phát chưởng ra sao, từng chiêu từng thức thật rõ ràng đâu ra đấy. Dương Quá quan sát một hồi, tuy chưa hiểu chỗ tinh vi của chưởng pháp, nhưng đã không còn vạn phần ngơ ngác như lúc đầu.

Tiểu Long Nữ làm như thế một hồi lâu, rồi song chưởng tách rộng, xoay mu bàn tay vào trong, bầy chim sẻ không còn bị níu giữ, lập tức bay lên trời. Tiểu Long Nữ phất mạnh hai ống tay áo, hai luồng gió quạt ra, bầy chim sẻ rơi xuống lả tả, kêu chíp chíp loạn một hồi rồi mới vỗ cánh bay đi từng con.

Dương Quá cả mừng, níu tay áo Tiểu Long Nữ, nói:

– Cô cô, Quách bá bá của đệ tử cũng chẳng có được bản sự này.

Tiểu Long Nữ nói:

– Bộ chưởng pháp này của ta gọi là “Thiên la địa võng thế” là công phu nhập môn của võ công “phái Cổ Mộ”, ngươi hãy chịu khó học.

Rồi truyền cho Dương Quá mười mấy chiêu chưởng pháp. Dương Quá học từng chiêu một. Trong vòng mười ngày, nó đã học xong tám mươi mốt chiêu “Thiên la địa võng thế”, luyện tập thành thạo. Tiểu Long Nữ bắt một con chim sẻ, lệnh cho nó chặn giữ. Thoạt tiên nó chỉ chặn được một lát, con chim sẻ đã lọt qua khe hở hai tay nó bay đi. Tiểu Long Nữ đứng bên cạnh, giơ tay bắt con chim sẻ trở lại. Dương Quá tiếp tục thi triển chưởng pháp, nhưng xuất chiêu hoặc chưa đủ nhanh, chặn giữ không chuẩn xác, chỉ vài chiêu con chim sẻ lại sổng đi, Tiểu Long Nữ lại chặn giữ để nó tiếp tục luyện tập.

Cứ thế luyện tập không mệt mỏi, hết xuân qua hạ, ngày càng tiến bộ. Dương Quá thông minh dĩnh ngộ, cần mẫn dụng công, số chim sẻ chặn giữ được ngày càng tăng, đến sau Trung thu, nó đã luyện xong bộ chưởng pháp “Thiên la địa võng thế”, khi thi triển, nó có thể ngăn giữ được tám mươi mốt con chim sẻ. Nếu có con nào bay thoát, thì chỉ là vì công lực của nó chưa thuần mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi đã luyện xong bộ chưởng pháp này, nếu gặp lại gã đạo sĩ mập, thì chẳng tốn sức cũng đã có thể làm cho hắn ngã lộn mấy vòng.

Dương Quá nói:

– Nếu đệ tử động thủ với Triệu Chí Kính thì sao?

Tiểu Long Nữ không đáp, nghĩ thầm: “Quan sát thân thủ của Triệu Chí Kính hôm giao đấu với Tôn bà bà, nếu y không bị ong đốt, thì Tôn bà bà chắc gì đã thắng. Công phu của ngươi hiện giờ còn thua xa Triệu Chí Kính”. Dương Quá tự hiểu hàm ý sự im lặng của Tiểu Long Nữ, bèn nói:

– Hiện tại đệ tử đánh chưa nổi lão ta cũng không sao, vài năm nữa sẽ thắng lão. Cô cô, võ công của “phái Cổ Mộ” ta lợi hại hơn phái Toàn Chân đấy nhỉ?

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu nhìn cái trần bằng đá của thạch thất, nói:

– Câu này trên đời chỉ có hai người là ta và ngươi tin mà thôi. Lần trước ta động thủ với Khưu Xứ Cơ phái Toàn Chân, võ công của ta không bằng lão, điều đó hoàn toàn không phải là phái Cổ Mộ không bằng phái Toàn Chân, mà chỉ là do ta chưa luyện xong công phu tinh diệu nhất của bổn phái đó thôi.

Dương Quá vốn vẫn lo về việc Tiểu Long Nữ khó thắng nổi Khưu Xứ Cơ, nghe nàng nói vậy, thì vui mừng, hỏi:

– Cô cô, là công phu gì thế? Luyện khó lắm ư? Cô cô hãy bắt tay luyện tập đi được không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta kể cho ngươi chuyện cũ, để ngươi biết lai lịch bổn phái. Trước lúc ngươi bái ta làm sư phụ, ta đã bảo ngươi bái lạy tổ sư bà bà. Tổ sư bà bà họ Lâm, tên Triệu Anh. Mấy chục năm trước, trong võ lâm, hai người võ công cao nhất là tổ sư bà bà và Vương Trùng Dương. Hai người vốn khó phân cao thấp, sau Vương Trùng Dương do tổ chức nghĩa binh chống quân Kim, ngày đêm bận rộn mọi việc; trong khi tổ sư bà bà chuyên chú luyện võ, cuối cùng tổ sư bà bà cao hơn Vương Trùng Dương một bậc. Nhưng tổ sư bà bà vốn không hỏi đến tục sự trong võ lâm, không ưa khoe khoang, nên hầu như chẳng ai biết danh tiếng của tổ sư bà bà trên chốn giang hồ. Sau Vương Trùng Dương khởi nghĩa thất bại, phẫn uất ẩn cư trong “Hoạt tử nhân mộ”, suốt ngày không có việc gì, lấy việc nghiền ngẫm võ công làm thú; trong khi tổ sư bà bà tâm tình kém vui, lại bị hai đợt bệnh nặng, nên võ công của tổ sư bà bà lại thua Vương Trùng Dương một bậc. Cuối cùng hai người tỷ võ với nhau không rõ theo kiểu gì, Vương Trùng Dương phải để cho tổ sư bà bà được cư trú trong nhà mồ này. Nào, để ta dẫn ngươi đi xem cái di tích do hai vị tiền bối để lại.

Dương Quá vỗ tay, nói:

– Thì ra cái nhà mồ này là do tổ sư bà bà cướp được từ tay Vương Trùng Dương. Sớm biết như thế, đệ tử ở đây càng thấy khoái.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, dẫn nó sang một gian thạch thất. Dương Quá thấy gian thạch thất này có hình dạng rất lạ, phía trước hẹp, phía sau rộng, thành hình cái thang, bên đông hình bán nguyệt, bên tây hình tam giác, bèn hỏi:

– Cô cô, gian thạch thất này sao có hình dạng kỳ quặc thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là nơi Vương Trùng Dương nghiền ngẫm võ học, đằng trước hẹp luyện chưởng, đằng sau rộng sử quyền, mé đông tròn thử kiếm, mé tây tam giác phóng tiêu.

Dương Quá đi đi lại lại trong phòng, chỉ cảm thấy cao thâm khôn lường.

Tiểu Long Nữ chỉ tay lên trần, nói:

– Sự tinh diệu của võ công Vương Trùng Dương đều ở đó.

Dương Quá ngẩng nhìn, thấy trần nhà khắc đầy phù hiệu hoa văn, có lẽ là dùng vật nhọn khắc nên, chỗ sâu chỗ nông, không theo qui tắc nào cả, nhất thời không hiểu gì hết.

Tiểu Long Nữ bước tới mé đông, giơ tay đẩy vào chỗ hình bán nguyệt, một khối đá lớn từ từ xê dịch, mở sang một gian thạch thất khác. Nàng cầm nến, cùng Dương Quá bước sang đó, gian này hoàn toàn đối xứng và tương phản với gian bên kia, phía trước rộng, phía sau hẹp, bên tây tròn, bên đông hình tam giác. Dương Qúa ngẩng nhìn, thấy trần nhà cũng khắc đầy phù hiệu hoa văn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là nơi chứa đựng bí mật võ công của tổ sư bà bà. Tổ sư bà bà đoạt được tòa cổ mộ này là nhờ mưu trí, chứ luận về thực lực võ công, thì quả chưa bằng Vương Trùng Dương. Sau khi vào cư trú nơi này, tổ sư bà bà trước hết tìm hiểu một số môn võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa ở đây, rồi nghiền ngẫm sáng chế cách khắc chế môn võ công đó, cái đó cũng khắc ở đây cả.

Dương Quá vui mừng, nói:

– Hay quá chừng! Bọn Khưu Xứ Cơ, Hách Đại Thông võ công dù cao mấy, cũng không thể hơn Vương Trùng Dương, cô cô chỉ cần học được võ công của tổ sư bà bà, là chắc chắn sẽ đánh thắng đám đạo sĩ thối tha kia.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi nói đúng, chỉ tiếc rằng không có người giúp ta.

Dương Quá hiên ngang nói:

– Đệ tử sẽ giúp cô cô.

Tiểu Long Nữ nhìn nó một cái, nói:

– Ngươi làm sao có đủ bản sự?

Dương Quá đỏ bừng cả mặt, xấu hổ vô cùng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Môn võ công này của tổ sư bà bà gọi là “Ngọc nữ tâm kinh”, phải có hai người cùng luyện, trợ giúp lẫn nhau. Hồi trước tổ sư bà bà cùng luyện với sư phụ của ta. Tổ sư bà bà luyện xong không lâu thì qua đời, sư phụ của ta vẫn chưa luyện thành.

Dương Quá chuyển ngượng thành vui, nói:

– Đệ tử là thuộc hạ của cô cô, thì cũng có thể cùng luyện với cô cô.

Tiểu Long Nữ trầm ngâm, nói:

– Cũng được. Để xem. Bước thứ nhất, ngươi hãy luyện thành các môn võ công của bổn phái. Bước thứ hai là học võ công của phái Toàn Chân. Bước thứ ba sẽ luyện “Ngọc nữ tâm kinh” để khắc chế võ công phái Toàn Chân. Hồi sư phụ ta qua đời, ta mới mười bốn tuổi, đã học xong võ công bổn môn, còn võ công phái Toàn Chân thì chỉ mới bắt đầu học, nói gì đến “Ngọc nữ tâm kinh”. Bước thứ nhất ta có thể dạy ngươi, bước thứ hai và bước thứ ba thì ta và ngươi sẽ cùng luyện tập.

Từ hôm ấy, Tiểu Long Nữ truyền thụ nội công, chưởng pháp, quyền pháp, binh khí, ám khí của phái Cổ Mộ cho Dương Quá; hai năm sau thì Dương Quá đã được truyền thụ đầy đủ; nhờ sự trợ giúp của cái giường hàn ngọc, tiến bộ cực nhanh, chỉ riêng công lực chưa thâm hậu mà thôi. Võ công phái Cổ Mộ do nữ nhân sáng tạo ra, ba đời sư đồ đều là nữ nhân, khó tránh tình trạng nhu linh có thừa mà trầm hậu còn thiếu. Dương Quá bản tính khinh động bộp chộp, các môn võ công phái này cũng hợp với nó.

Tiểu Long Nữ càng lớn càng mỹ lệ tuyệt luân. Năm nay Dương Quá đã mười sáu tuổi, thân hình cao lớn dần, giọng nói hơi ồm ồm, đã thành một trang thiếu niên tuấn tú, chứ không còn là một đứa bé như lúc tới nhà mồ. Nhưng Tiểu Long Nữ sống với nó đã quen, vẫn cứ coi nó như một đứa trẻ. Dương Quá đối với sư phụ ngày càng kính trọng, hai năm vừa qua không một lần nào làm trái nàng. Tiểu Long Nữ vừa định làm gì, nó không đợi sư phụ mở miệng, đã làm tốt việc đó. Song Tiểu Long Nữ tính nết vẫn lạnh lùng, thờ ơ như trước, không hề vui cười, thân ái chút nào với nó. Dương Quá cũng không vì thế mà phật lòng. Tiểu Long Nữ có khi gảy đàn, tiếng đàn của nàng cũng bình hòa lãnh đạm. Dương Quá đứng bên lẳng lặng nghe.

Một hôm Tiểu Long Nữ nói:

– Võ công phái Cổ Mộ ta ngươi đã học xong, từ ngày mai chúng ta sẽ luyện võ công phái Toàn Chân. Các môn võ công đó luyện được thực chẳng dễ; hồi trước sư phụ ta cũng không rõ lắm; ta lại càng không lĩnh hội được bao nhiêu. Chúng ta sẽ luyện từ đầu. Chỗ nào ta hiểu chưa đúng, ngươi cứ nói nghe chưa.

Hôm sau hai người tới gian thạch thất hình dạng kỳ quặc nọ, dựa theo các phù hiệu hoa văn do Vương Trùng Dương năm xưa khắc trên trần mà luyện tập.

Dương Quá luyện mấy ngày, bây giờ căn cơ võ công của chàng đã khá, rất nhiều chỗ vừa động tới đã hiểu thấu, mọi việc tiến triển cực nhanh. Nhưng mươi ngày sau, tự dưng mấy hôm liền càng luyện càng bế tắc, đã không tiến, lại còn thụt lùi.

Tiểu Long Nữ cùng chàng nghiền ngẫm lý giải, cũng cảm thấy nghi nan trùng trùng. Dương Quá nôn nóng, bực bội ra mặt. Tiểu Long Nữ nói:

– Hồi ta cùng luyện võ công phái Toàn Chân với sư phụ, luyện được ít ngày, thì rất khó tiến triển. Rồi tổ sư bà bà tạ thế, ta không còn biết hỏi ai được nữa. Ta hiểu rằng do không biết khẩu quyết, thì chẳng thể nghĩ ra cách gì. Ta từng bảo ta sẽ sang phái Toàn Chân lấy trộm khẩu quyết, bị sư phụ mắng cho một trận nên thân. Thế là môn công phu này đành gác lại, dẫu nó là võ công phái Toàn Chân, không luyện cũng chẳng sao cả. Ngươi cũng đừng bực tức mà làm gì. Việc này không khó, chúng ta chỉ cần lẻn sang bắt một tên đạo sĩ phái Toàn Chân mang về, buộc hắn truyền thụ khẩu quyết nhập môn thì được thôi. Nào, ngươi hãy đi theo ta.

Câu nói ấy chợt nhắc Dương Quá nhớ rằng Triệu Chí Kính từng truyền thụ cho nó “Toàn Chân đại đạo ca”, trong đó có câu: “Đại đạo sơ tu thông cửu khiếu, Cửu khiếu nguyên tại Vĩ Lư huyệt, Tiên tòng Dũng Tuyền cước để xung, Dũng Tuyền xung khởi tiệm chí tất. Quá tất từ từ chí Vĩ Lư , Nê Hoàn đỉnh thượng hồi thi cấp, Kim tỏa quan xuyên hạ thước kiều, Trùng lâu thập nhị hàng cung thất (Đạo lớn mới tu thông chín lỗ, chín lỗ vốn khởi đầu từ huyệt Vĩ Lư. Thoạt tiên xung huyệt Dũng Tuyền dưới chân, từ huyệt Dũng Tuyền xung lên đầu gối, qua đầu gối chạy dọc lên Vĩ Lư, đến huyệt Nê Hoàn thì gấp rút quay lại, đi xuống bên dưới cầu Hỉ Thước, nhiều lần qua lại mười hai cung), thế là nó liền đem ra đọc thuộc lòng.

Tiểu Long Nữ suy nghĩ kỹ về ý nghĩa câu ca, nói:

– Xem chừng đấy chính là yếu quyết của võ công phái Toàn Chân, ngươi đã thuộc rồi thì còn gì bằng.

Bèn bảo Dương Quá đọc thuộc lòng khẩu quyết mà Triệu Chí Kính từng dạy. Thứ mà Triệu Chí Kính truyền cho dạo trước đúng là bí quyết căn bản của nội công thượng thừa phái Toàn Chân, chẳng qua y không truyền thụ cách sử dụng, các tên gọi như Dũng Tuyền, Trùng lâu thập nhị, Nê Hoàn, y cũng không hề giải thích, Dương Quá chỉ việc học thuộc, học thuộc rồi để đó cũng vô dụng. Bây giờ Tiểu Long Nữ vừa suy nghĩ đã có thể vạch ra điểm cốt yếu, Dương Quá tức thời hiểu rõ. Trong vòng mấy tháng, hai người đã tham cứu lĩnh ngộ hết tinh yếu võ công mà Vương Trùng Dương khắc họa trên trần phòng.

Một hôm hai người trong thạch thất vừa đối kiếm xong, Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Hồi đầu ta xem thường võ công phái Toàn Chân, cho rằng tuy họ xưng là võ học chính tông trong thiên hạ, song chẳng qua cũng chỉ đến mức này. Nhưng hôm nay ta mới biết nó quả là cao thâm khôn lường. Hai ta tuy biết hết bí quyết pháp môn của họ, nhưng muốn luyện đến mức đắc tâm ứng thủ, kình lực tự nhiên dồn ra, thực không biết bao nhiêu năm tháng mới luyện thành.

Dương Quá nói:

– Võ công phái Toàn Chân tuy tinh diệu, nhưng tổ sư bà bà đã lưu lại cách khắc chế, dĩ nhiên sẽ thắng được bản sự của họ. Cái đó gọi là núi này cao lại có núi khác cao hơn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Từ mai, chúng ta phải luyện “Ngọc nữ tâm kinh”.

Hôm sau, hai người tới gian thạch thất thứ hai, dựa vào các phù hiệu khắc họa trên trần phòng mà luyện công. Việc này dễ hơn hẳn so với việc luyện tập võ công của phái Toàn Chân. Pháp môn do Lâm Triệu Anh nghĩ ra để khắc chế võ công của Vương Trùng Dương vốn bắt nguồn từ võ học của bà ta.

Mấy tháng sau, hai người đã luyện xong ngoại công “Ngọc nữ tâm kinh”. Có lúc Dương Quá sử kiếm pháp phái Toàn Chân, Tiểu Long Nữ thì dùng Ngọc nữ kiếm pháp hóa giải; có lúc Tiểu Long Nữ sử Toàn Chân kiếm pháp, còn Dương Quá thì dùng Ngọc nữ kiếm pháp khắc chế. Ngọc nữ kiếm pháp quả nhiên là khắc tinh của Toàn Chân kiếm pháp, chiêu thức nào cũng áp đảo chiêu thức của phái Toàn Chân, bước nào cũng đối đầu và chiếm tiên cơ; Toàn Chân kiếm pháp bất kể biến hóa cách nào, cũng không thoát nổi sự chế ngự của Ngọc nữ kiếm pháp.

Ngoại công đã luyện xong, chuyển sang luyện nội công. Nội công phái Toàn Chân bác đại tinh thâm, muốn nghĩ ra cách thắng được nó, thật không phải chuyện dễ. Lâm Triệu Anh quả là thông minh vô cùng, lại không tìm lối đi riêng, mà từ bàng môn tả đạo chiếm thượng phong. Tiểu Long Nữ ngẩng nhìn đồ hình trên trần, trầm ngâm không nói, cứ thế mấy ngày im lặng, nhíu mày suy ngẫm.

Dương Quá nói:

– Cô cô, môn này luyện khó lắm ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Hồi trước ta nghe sư phụ bảo nội công của tâm kinh này phải có hai người cùng luyện, ta cứ ngỡ chỉ việc hợp tu với ngươi, nào ngờ như vậy chưa đủ.

Dương Quá vội hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Cả hai cùng là nữ mới ổn.

Dương Quá nói:

– Một nam một nữ thì đã sao? Nam nữ thì có gì khác?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Khác chứ. Ngươi hãy nhìn xem trên trần khắc các hình gì nào?

Dương Quá nhìn lên chỗ nàng chỉ tay, thấy ở một góc trần nhà khắc vô số hình người, phải tới bảy, tám chục người, nhưng hình dạng tựa hồ toàn là nữ nhân, tư thế mỗi người một khác, từ toàn thân có nhiều tia nhỏ li ti tán xạ ra bên ngoài. Dương Quá chưa hiểu nguyên do, quay lại nhìn nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Tâm kinh nói rằng khi luyện công, hơi nóng toàn thân bốc lên ngùn ngụt, cần tập ở nơi thoáng mát và rộng rãi, không có người, cởi bỏ hết quần áo mà tập, để cho hơi nóng lập tức phát tán, không đọng lại chút nào trong cơ thể; nếu không nó sẽ tích uất bên trong, nhẹ thì gây trọng bệnh, nặng thì làm chết người.

Dương Quá nói:

– Thế thì chúng ta cứ việc cởi bỏ quần áo mà luyện tập.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lúc tập, hai người phải dùng nội lực đạo dẫn phòng hộ cho nhau, ta và ngươi một nam một nữ, cởi hết quần áo ra ngồi bên nhau thì còn ra thể thống gì?

Dương Quá hai năm nay chuyên tâm luyện công, chẳng hề nghĩ đến chuyện mình và sư phụ nam nữ hữu biệt; lúc này cảm thấy mình và sư phụ cùng trần truồng ngồi đối diện nhau mà luyện công thì quả thực không ổn; còn không ổn ở chỗ nào, thì cũng không thể nói thành lời. Tiểu Long Nữ hiện tại đã hai mươi tuổi, nhưng từ nhỏ sống trong nhà mồ, có thể nói là nàng chẳng biết gì về thế sự, yếu chỉ tu luyện bổn môn lại khắc chế thất tình lục dục; cho nên sư đồ hai người tuy là thiếu niên nam nữ, nhưng sớm tối bên nhau, một bên lạnh lùng, một bên cung kính, không có bất cứ điều gì vượt quá lễ giáo. Giờ đây nói đến việc cởi bỏ quần áo để luyện công, chỉ cảm thấy đó là một nan đề, chứ cũng không có ý niệm gì khác. Dương Quá bỗng nói:

– Có cách rồi! Hai ta có thể ngồi trên cái giường hàn ngọc mà luyện.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nhất thiết không được. Hơi nóng bị cái giường hàn ngọc bức hồi, luyện được vài hôm, ta và ngươi sẽ chết mất.

Dương Quá ngẫm nghĩ một lát, hỏi:

– Vì sao cứ nhất thiết phải hai người cùng luyện? Chúng ta mỗi người luyện một chỗ, đệ tử gặp điều gì chưa hiểu, sẽ thỉnh giáo cô cô sau cũng được.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không được, môn nội công này hết sức gian nan, bất cứ lúc nào cũng sẽ nhập lối rẽ, nếu không có người bên cạnh trợ giúp, sẽ bị tẩu hỏa nhập ma, phải có hai người giúp nhau mới có thể vượt qua nguy hiểm.

Dương Quá nói:

– Luyện môn nội công này quả nhiên phiền phức.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng ta hãy luyện ngoại công cho thành thục, cũng đủ đánh bại các đạo sĩ phái Toàn Chân rồi. Huống hồ cũng chẳng cần sang đánh nhau với họ, mà dẫu có thắng họ, cũng vô ích. Môn nội công này không luyện cũng chẳng sao.

Dương Quá nghe sư phụ nói vậy, liền đáp ứng; chàng cũng không lưu tâm đến việc đó nữa.

Một hôm sau khi luyện công, chàng ra khỏi nhà mồ, bắt hoẵng bắt thỏ về làm thức ăn. Đánh quỵ một con hoẵng rồi, chàng lại đuổi theo một con thỏ xám. Con thỏ chạy vụt bên này bên nọ nhanh nhẹn lạ thường; hiện thời khinh công của chàng đã rất cao, song nhất thời chàng chưa thể bắt được con thỏ. Tính trẻ con trỗi dậy, chàng không chịu phóng ám khí đả thương con thỏ, mà muốn thi khinh công với nó, dồn cho nó đến lúc kiệt sức không chạy nổi mới thôi. Một người một thỏ chạy mỗi lúc một xa, con thỏ chạy vào một thung lũng, đột nhiên chui qua một bụi hoa hồng lớn.

Bụi hồng này dài tới vài trượng, tầng tầng lớp lớp hương thơm ngan ngát. Dương Quá chạy vòng bụi hoa hồng, thì con thỏ đã biến mất. Chàng đuổi nó quá lâu cũng thấy thương nó, dù bắt được nó cũng sẽ thả ra; giờ không thấy thì thôi. Nhưng thấy bụi hoa hồng như có một tấm bình phong, hoa đỏ cành lá xanh, trông rất đẹp mắt, bốn phía có bóng cây bao phủ, tựa hồ một tòa phòng ốc bằng hoa lá cành do thiên nhiên kết thành. Chàng chợt nảy ra một ý, bèn chạy về kéo Tiểu Long Nữ ra xem.

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Ta không thích hoa, ngươi thích thì cứ ra đấy mà chơi.

Dương Quá nói:

– Không, cô cô, đây đúng là chỗ rất tốt cho hai ta luyện công, cô cô ở bên này bụi hoa, đệ tử ở bên kia bụi hoa, mỗi người cứ việc cởi y phục, không ai nhìn thấy ai cả, chẳng phải tuyệt diệu hay sao?

Tiểu Long Nữ nghe rất có lý. Nàng nhảy lên cây, nhìn tứ phía, thấy đông nam tây bắc đều một màu xanh cây lá tĩnh mịch, văng vẳng tiếng suối rì rào, tiếng chim líu lo, không một dấu chân người, quả là một nơi luyện công cực tốt, bèn nói:

– Ngươi chọn được chỗ tốt, tối nay ta ra đây luyện công.

Canh hai tối hôm ấy, hai người ra chỗ bụi hoa hồng. Ban đêm, mùi hoa càng đậm đà. Tiểu Long Nữ đem pháp môn khẩu quyết tu tập “Ngọc nữ tâm kinh” nói ra một hồi, Dương Quá hỏi những chỗ chưa rõ, rồi hai người sang hai bên bụi hoa hồng, cởi hết quần áo, bắt đầu luyện tập. Dương Quá chìa tay trái qua bụi hoa, chạm vào bàn tay phải của Tiểu Long Nữ, hễ trong lúc luyện tập ai gặp chỗ khó, thì người kia nhận cảm ứng sẽ lập tức vận công trợ giúp.

Hai người từ đó lấy đêm làm ngày. Buổi tối họ luyện công, ban ngày nghỉ ngơi trong cổ mộ. Hồi này đang là mùa hạ nóng bức, ban đêm dụng công càng mát mẻ; cứ thế hơn hai tháng bình an vô sự. “Ngọc nữ tâm kinh” gồm chín đoạn hành công. Tối nay Tiểu Long Nữ đã luyện tới đoạn thứ bảy, Dương Quá cũng luyện tới đoạn thứ sáu. Hai người ở hai bên bụi hoa hồng tự luyện tập, toàn thân hơi nóng bốc lên ngùn ngụt, hòa với mùi hoa thêm nồng. Trăng đã lên tới đỉnh đầu, luyện thêm nửa canh giờ nữa, thì họ đã luyện xong đoạn thứ bảy và thứ sáu. Đột nhiên phía sau núi vọng lại tiếng bước chân, giọng nói, có hai người vừa nói chuyện vừa đi tới chỗ họ.

Môn “Ngọc nữ tâm kinh” này, đơn số hành công là “Âm tiến”, còn song số là “Dương thoái”. Dương Quá đang luyện công phu “Dương thoái”, có thể dừng lúc nào tùy ý. Tiểu Long Nữ đang luyện công phu “Âm tiến”, phải liền một mạch, không được ngắt quãng giữa chừng, dù chỉ chút ít. Lúc này nàng đang dụng công đúng giây lát hệ trọng nhất, không hề nghe thấy tiếng bước chân và giọng nói. Dương Quá thì nghe rất rõ, chàng giật mình, vội đẩy khí đan điền ra khỏi cơ thể, thổ nạp ba lần, dừng việc luyện công. Chỉ nghe hai người kia đi tới gần, giọng nói rất quen, thì ra là Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình. Hai người ấy càng nói càng lớn tiếng, họ đang cãi nhau.

Triệu Chí Kính nói:

– Doãn sư đệ, sư đệ có chối cũng vô ích. Ta sẽ bẩm cáo Khưu sư bá để người tra xét.

Doãn Chí Bình nói:

– Sư huynh cứ bức đệ làm gì vậy? Tưởng đệ không biết chăng? Chẳng qua sư huynh chỉ muốn đứng đầu các đệ tử đời thứ ba, để sau này ngoi lên chức vị chưởng giáo mà thôi.

Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Sư đệ không giữ thanh qui, đã phạm đại giới của bổn giáo; làm sao còn có thể làm đệ tử thủ tòa được nữa?

Doãn Chí Bình nói:

– Đệ phạm đại giới gì kia chứ?

Triệu Chí Kính quát to:

– Giới luật thứ tư của giáo phái Toàn Chân là dâm giới!

Dương Quá ẩn sau bụi hoa hồng, chỉ thấy hai đạo sĩ đứng đối diện với nhau. Doãn Chí Bình sắc diện xanh xao, dưới ánh trăng trông càng tái mét, gằn giọng nói:

– Dâm giới cái gì?

Vừa hỏi, vừa đặt tay lên đốc kiếm. Triệu Chí Kính nói:

– Từ bữa sư đệ gặp ả Tiểu Long Nữ, ngày ngày tâm thần ngơ ngẩn, hồ tư loạn tưởng, trong tâm trí sư đệ có đến ngàn vạn lần cứ mơ tưởng ôm ấp Tiểu Long Nữ. Bổn giáo yêu cầu tu tâm dưỡng tính. Sư đệ cứ mơ tưởng như thế chẳng phải phạm dâm giới là gì?

Dương Quá đối với sư phụ kính trọng hết mực, nghe Triệu Chí Kính nói vậy, thì bất giác nổi giận, càng căm ghét hai gã đạo sĩ kia hơn. Chỉ nghe Doãn Chí Bình nói:

– Nói nhăng nói cuội, trong bụng đệ nghĩ gì, sư huynh cũng biết được sao?

Triệu Chí Kính cười khẩy:

– Sư đệ nghĩ gì trong bụng, dĩ nhiên ta không biết; nhưng ban đêm sư đệ nói mơ, người bên cạnh nghe thấy được chứ? Sư đệ viết ra giấy bao nhiêu cái tên Tiểu Long Nữ, người ta không nhìn thấy hay sao?

Doãn Chí Bình rùng mình, không nói gì. Triệu Chí Kính dương dương đắc ý, từ trong túi lấy ra một tờ giấy, giơ giơ nhứ nhứ, nói:

– Đây có phải là bút tích của sư đệ hay không? Ta sẽ giao cho chưởng môn Mã sư bá và tọa sư Khưu sư bá để họ xử.

Doãn Chí Bình không nhịn nổi nữa, xoẹt một tiếng, kiếm đã rút khỏi bao, đâm vào ngực Triệu Chí Kính.

Triệu Chí Kính né người tránh, nhét tờ giấy vào túi, cười nhăn nhở, nói:

– Ngươi định giết người diệt khẩu hả? Đâu có dễ!

Doãn Chí Bình không nói gì, đâm nhanh ba kiếm, nhưng mỗi đòn Triệu Chí Kính đều tránh được. Đến nhát kiếm thứ tư, thì keng một cái, Triệu Chí Kính cũng đã rút kiếm ra, hai kiếm đụng nhau, tiếp đó hai người giao đấu kịch liệt gần chỗ bụi hoa hồng. Hai người cùng là cao thủ trong số đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, một người là đệ tử số một của Khưu Xứ Cơ, người kia là đệ tử số một của Vương Xứ Nhất, võ công kẻ tám lạng, người nửa cân. Doãn Chí Bình nghiến răng lăn xả tấn công, Triệu Chí Kính thì vừa đấu vừa châm chọc vài lời để kích nộ đối phương, làm cho đối phương rối trí.

Dương Quá đã học hết kiếm pháp của phái Toàn Chân, nhìn hai người kia giao đấu, tiến kích thoái thủ, chiêu số tuy biến hóa đa đoan, song phần lớn nằm trong liệu định, nghĩ thầm bản sự mà cô cô đã dạy quả nhiên không sai. Chỉ thấy hai người kia đấu mấy chục chiêu, Doãn Chí Bình toàn sử dụng chiêu số tiến công, Triệu Chí Kính thì không ngừng di chuyển cước bộ, cười khẩy, nói:

– Cái gì ta biết, ngươi hiểu cả; cái gì ngươi biết, ta đều đã luyện qua, muốn giết ta ư, đừng hòng!

Y phòng thủ rất chặt chẽ, Doãn Chí Bình đánh trối chết, nhưng chiêu số nào cũng đều bị đối phương hóa giải. Họ đấu một hồi nữa, Dương Quá thấy hai người không ngừng di chuyển về phía chỗ ngồi của Tiểu Long Nữ, thì cả kinh, nghĩ thầm: “Hai tên tặc đạo nếu tới sát chỗ cô cô thì nguy hiểm quá!” Bỗng Triệu Chí Kính đột nhiên phản kích, buộc Doãn Chí Bình phải lùi lại. Y tiến gấp ba chiêu, Doãn Chí Bình lùi liền ba bước. Dương Quá thấy hai người xa dần sư phụ, đã mừng thầm, nào ngờ Doãn Chí Bình bỗng dưng chuyển kiếm sang tay trái, tay phải tung một chưởng đánh tới ngực Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính cười, nói:

– Ngươi dẫu có ba đầu sáu tay, cũng khó làm gì nổi ta.

Đoạn dùng tả chưởng nghênh tiếp. Đôi bên kiếm đâm chưởng đánh, cuộc đấu càng thêm dữ dội.

Tiểu Long Nữ tiềm tâm nội dụng, trước sau vẫn không để ý gì tới ngoại giới. Dương Quá thấy hai đạo sĩ tới gần mấy bước, trong bụng lại lo lắng bội phần; khi thấy họ lùi xa vài bước, mới phần nào yên tâm.

Đang hồi kịch liệt, Doãn Chí Bình bỗng quát to giận dữ, liên tiếp tung hiểm chiêu, không buồn né tránh, cứ thế xông tới. Triệu Chí Kính thầm biết không ổn, biết sư đệ đang lâm vào tình cảnh khó ăn khó nói, thà bị đâm chết, còn hơn để người ngoài biết việc thầm yêu trộm nhớ của mình. Triệu Chí Kính tuy bất hòa với Doãn Chí Bình, song hoàn toàn không định hại chết y, thế là lập tức bị núng thế; đấu thêm vài chiêu, Doãn Chí Bình tả kiếm đâm ngang, hữu chưởng đánh thẳng, đồng thời chân trái gạt ngang một cái, chính là tuyệt chiêu “Tam liên hoàn” của phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính vọt lên cao hơn một trượng, vung kiếm đánh xuống. Doãn Chí Bình trường kiếm rời khỏi tay, ném mạnh về phía đối phương, miệng quát một tiếng, song chưởng cùng đánh ra.

Dương Quá thấy mấy chiêu vừa rồi biến ảo lợi hại, đã ngoài tầm hiểu biết của chàng, bất giác lòng bàn tay vã mồ hôi lạnh, thấy Triệu Chí Kính lơ lửng trên không, thế nửa hư nửa thực, xem chừng hai chưởng kia sắp đánh cho y gãy rời xương cốt. Ai dè giữa lúc nguy cấp dị thường như vậy, Triệu Chí Kính bỗng lật người trên không, lùi gấp cả trượng, nhẹ nhàng đáp xuống đất.

Nhìn thế đáp xuống của Triệu Chí Kính đúng chỗ Tiểu Long Nữ ngồi bên khóm hoa, Dương Quá cả kinh, không kịp nghĩ ngợi, đứng bật dậy, song chưởng đẩy vào lưng của Triệu Chí Kính, sử chiêu “Thái lâu phao cầu”, dồn sức ra tay, đẩy tấm thân hộ pháp của Triệu Chí Kính bắn ra xa hơn một trượng. Nhưng hiện thời nội lực của chàng chưa đủ, sử kình quá mạnh, sức dồn vào cánh tay, hạ bàn thành hư, chân đứng không vững, thân chúi đi, chân trái giẫm lên một cành hoa; cành hoa ấy lập tức bật lại, chạm nhẹ vào mặt Tiểu Long Nữ.

Chỉ là một cái chạm nhẹ, nhưng Tiểu Long Nữ đã giật mình cả kinh, mồ hôi vã ra như tắm, vội vận gấp nội tức từ đan điền lên, nhưng không vận nổi, ngất lịm ngay đi.

Doãn Chí Bình bất ngờ thấy Dương Quá xuất hiện, lại bất ngờ nhìn thấy ý trung nhân trong mộng của mình đang ẩn thân cạnh một bụi hoa, thì ngây người, thực không biết là thật hay ảo. Lúc đó Triệu Chí Kính đã đứng trên mặt đất, dưới ánh trăng cũng đã nhìn rõ dung mạo của Tiểu Long Nữ, liền nói:

– Hay chưa, thì ra cô nàng dụ gã trai ra đây.

Dương Quá cả giận, quát:

– Hai tên đạo sĩ thối tha không mau xéo đi, ta sẽ tìm các ngươi tính sổ.

Chàng thấy Tiểu Long Nữ ngã ngửa nằm bất động, nhớ lời nàng dặn, lúc luyện công phải dành toàn lực phòng hộ cho nhau, dù chỉ một con nai con thỏ vô ý chạy tới, cũng có thể gây nên đại họa, vừa rồi nàng bị giật mình kinh hãi, mối nguy không nhỏ, thì chàng cả sợ đưa tay sờ trán nàng, thấy lạnh như băng, vội lấy áo đắp lên người nàng, rồi ôm nàng, gọi:

– Cô cô, cô cô không sao chứ?

Tiểu Long Nữ ừm một tiếng, không đáp. Dương Quá hơi yên tâm, nói:

– Cô cô, chúng ta về nhà đã, sau này sẽ giết hai tên tặc đạo kia.

Tiểu Long Nữ toàn thân vô lực, nằm gọn trong vòng tay chàng. Dương Quá rảo bước đi qua bên cạnh hai người kia. Doãn Chí Bình đứng ngây như phỗng. Triệu Chí Kính thì cười ha hả, nói:

– Doãn sư đệ , ý trung nhân của sư đệ đang được kẻ khác ôm ấp sờ mó kìa, sư đệ giết ta, sao bằng giết hắn!

Doãn Chí Bình như không nghe thấy, im như thóc.

Dương Quá nghe bốn chữ “ôm ấp sờ mó” thì cả giận, nhẹ nhàng đặt Tiểu Long Nữ xuống đất, để nàng tựa lưng vào một gốc cây, rồi bẻ một cành cây cầm tay, chỉ Triệu Chí Kính quát:

– Ngươi vừa nói nhăng nói cuội cái gì?

Hai năm trước Dương Quá còn là một cậu bé, nay đã trở thành một chàng trai cao lớn; Triệu Chí Kính thoạt tiên còn chưa nhận ra, nhưng nghe tiếng quát của chàng lần thứ hai, ánh trăng lại soi rõ khuôn mặt chàng, thì y đã nhận ra đệ tử cũ của mình, vừa rồi lại bị chàng đánh văng đi, thì cả giận, thấy nửa thân trần của chàng lõa lồ, y quát:

– Dương Quá, thì ra là nhà ngươi, tên súc sinh!

Dương Quá nói:

– Ngươi chửi ta còn được, nhưng ngươi vừa chửi cô cô của ta cái gì?

Triệu Chí Kính cười ha hả, nói:

– Người ta bảo phái Cổ Mộ là phái các cô nương, từ xưa chỉ truyền nữ, không truyền nam, toàn là các xử nữ băng thanh ngọc khiết; hóa ra lại ô uế thế kia, lén lút thu nhận thiếu niên để hưởng lạc thú giữa màn trời chiếu đất!

Tiểu Long Nữ lúc này tỉnh lại, nghe mấy câu ấy, tức quá vừa điều thuận khí tức, lại nghịch chuyển, hai khí dội nhau, ngực tức khôn tả, biết đã bị nội thương, chỉ thốt được một câu:

– Ngươi nói láo, bọn ta không hề…

Máu đã phun ra ồng ộc từ miệng.

Doãn Chí Bình và Dương Quá cùng cả kinh, cùng chạy tới bên. Doãn Chí Bình hỏi:

– Cô nương làm sao thế?

Rồi cúi xuống xem thương thế của nàng. Dương Quá tưởng y có ý gia hại, bèn dùng tay trái đẩy vào ngực y. Doãn Chí Bình thuận tay hất ra. Dương Quá đối với võ công của phái Toàn Chân đã biết hết mọi chiêu, lật bàn tay một cái, tóm được cổ tay Doãn Chí Bình, trước kéo sau đẩy, khiến Doãn Chí Bình ngã ngửa.

Hiện thời võ công của Dương Quá thực ra còn thua xa Doãn Chí Bình, nếu dùng võ công phái khác mà đấu với Doãn Chí Bình, thì nhất định chàng sẽ thua. Nhưng Lâm Triệu Anh hồi trước đã nghiền ngẫm cách khắc chế võ công của phái Toàn Chân, mỗi chiêu mỗi thức đều phối hợp đâu ra đấy, có điều là sau khi sáng tạo chưa từng đem ra sử dụng, cho nên đệ tử phái Toàn Chân không ngờ rằng trên đời lại có thứ võ công khắc chế môn phái của họ. Lúc này Dương Quá đem ra sử dụng, Doãn Chí Bình không kịp đề phòng, tâm thần lại đang bị kích động, không thể chống đỡ, tuy chưa bị đánh ngã, song cũng phải lùi ra xa hai trượng, tới bên cạnh Triệu Chí Kính.

Dương Quá nói:

– Cô cô mặc xác bọn chúng, đệ tử dìu cô cô về nhà đã.

Tiểu Long Nữ thở hổn hển, nói:

– Không, ngươi hãy giết hai tên kia, đừng… đừng để chúng đem chuyện của… ta ra kể bên ngoài…

Dương Quá nói:

– Vâng.

Chàng xông lên, cành cây trong tay chọc tới ngực Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính coi thường, dùng trường kiếm phạt nhẹ cành cây. Nào ngờ Dương Quá sử dụng chính là chiêu thức khắc chế kiếm pháp của phái Toàn Chân, đầu cành cây rung một cái, phẩy trúng huyệt đạo ở cổ tay Triệu Chí Kính. Y thấy cổ tay tê dại, biết là nguy rồi. Dương Quá tả chưởng phách ngang, đánh thẳng tới má bên trái, thế phách mạnh mẽ, không thể chống đỡ. Triệu Chí Kính muốn giữ trường kiếm, tất mặt sẽ trúng chưởng; còn muốn tránh đòn, ắt phải buông kiếm khỏi tay.

Triệu Chí Kính võ công cao cường, trong cơn nguy cấp không hề bấn loạn, vội buông kiếm khỏi tay, cúi đầu né tránh, tiếp đó tả chưởng đưa ra để chộp lại thanh kiếm. Đâu ngờ Lâm Triệu Anh mấy chục năm trước đã sớm liệu chiếm tiên cơ, nghĩ ra đối sách đối phó với sự biến chiêu lợi hại của cao thủ phái Toàn Chân. Triệu Chí Kính dùng chiêu này để cầu thắng trong lúc bại, nào dè Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã luyện thành thạo cách chiết giải chiêu này. Dương Quá đã đoạt kiếm của địch, thấy tả chưởng của y vụt ra, chàng bèn chém luôn vào bàn tay đó. Triệu Chí Kính cả kinh, vội rụt tay lại. Dương Quá đã chĩa mũi kiếm vào ngực y, miệng quát:

– Nằm này!

Chân trái của chàng móc một cái. Triệu Chí Kính bị mũi kiếm chĩa vào chỗ yếu hại, đứng im không nhúc nhích, bị cú móc đó tức thời ngã ngửa. Dương Quá giơ kiếm đâm xuống bụng dưới của y.

Bỗng sau lưng có tiếng gió, một mũi kiếm đâm tới kèm theo tiếng quát:

– Ngươi dám sát sư ư?

Dương Quá đang thế công, lại bị đánh phía sau, vừa ngạc nhiên vừa tức giận, không nghĩ ngợi gì, xoay kiếm chống trả, keng một tiếng, hai kiếm đụng nhau. Doãn Chí Bình thấy Dương Quá xoay kiếm đã nhanh lại chuẩn, bất giác thầm thán phục; tự dưng cảm thấy kiếm của mình bị kéo đi. Y kinh ngạc, vội vận nội lực đoạt lại. Nội lực của y dĩ nhiên thâm hậu, trường kiếm của Dương Quá cuối cùng lại bị hút đi. Dương Quá chính là dụ cho Doãn Chí Bình làm như thế, chỉ giữ kiếm một chút, rồi đột nhiên phóng kiếm, song chưởng đánh thẳng tới trước ngực Doãn Chí Bình; song chưởng nhất kiếm đồng thời đánh tới, Doãn Chí Bình võ công cao mấy cũng không đỡ nổi lối tập kích quái dị này.

Lúc này Doãn Chí Bình đành vứt kiếm, hồi chưởng, giơ tay ngang ngực chống đỡ, song y gập cánh tay quá sâu rất khó phát kình; cũng may công lực của Dương Quá còn non, chưa thể đánh gãy ngay hai cánh tay của y; nhưng y đã thấy chấn động mạnh, ngực đau nhói, hai cánh tay tê dại, vội thoái lui ba bước, vận khí bảo vệ yếu huyệt trước ngực. Triệu Chí Kính đã thừa cơ đứng dậy. Dương Quá song kiếm trong tay, tấn công cả hai người.

Hai đạo sĩ chỉ sau vài chiêu đã bị một thiếu niên vừa ra khỏi lều cỏ đánh cho tay chân rối loạn, thì vừa kinh ngạc vừa cả giận, cũng không dám coi thường nữa. Hai đạo sĩ kề vai bên nhau, sử dụng chưởng pháp, chỉ thủ không công, muốn thăm dò kiểu cách võ công của đối phương trước đã, rồi sẽ tính sau. Dương Quá tuy hai tay hai kiếm, mà đối phương chỉ tay không, song họ thủ rất nghiêm mật, chàng không thể ra tay bất ngờ như lúc đầu. Trong kiếm thuật của “Ngọc nữ tâm kinh” hoàn toàn không có chiêu số khắc chế quyền cước của phái Toàn Chân. Nên biết Lâm Triệu Anh cho rằng dùng kiếm đánh kẻ tay không, có thắng cũng không phải là con nhà võ, là tự hạ mình, nên bà ta không hề nghĩ đến chuyện đó; thứ nữa, Triệu, Doãn hai người công lực dĩ nhiên thâm hậu hơn nhiều, họ liên thủ phòng vệ để không bị bại; Dương Quá hai tay hai kiếm, đâm ngang chém dọc, vẫn không làm gì được, cuối cùng rơi vào thế hạ phong. Triệu Chí Kính chưởng lực trầm hậu, không ngừng áp chế đường kiếm của chàng.

Doãn Chí Bình đã định thần, nghĩ thầm hai người bề trên hợp lực đấu với một gã thiếu niên thì không ra gì, biết bên mình nắm chắc phần thắng, lại nghĩ đến sự an nguy của Tiểu Long Nữ, bèn quát:

– Dương Quá, ngươi mau dìu cô cô của ngươi về nhà, cứ ở đây quấn lấy bọn ta làm gì?

Dương Quá nói:

– Cô cô hận các ngươi nói nhăng nói cuội, bảo ta phải giết các ngươi trước đã.

Doãn Chí Bình đánh một chưởng làm thanh kiếm bên trái của Dương Quá lệch đi, đoạn nhảy sang trái ba bước, hô:

– Dừng tay!

Dương Quá nói:

– Ngươi muốn chạy ư?

Doãn Chí Bình nói:

– Dương Quá, ngươi muốn giết hai sư huynh đệ ta, có mà khó hơn lên trời. Chi bằng săn sóc cho cô cô của ngươi đi thì hơn. Chuyện hôm nay, Doãn mỗ ta nếu đem đi kể nửa câu, sẽ lập tức tự sát để tạ tội, nếu ta nuốt lời…

Nói đến đây, y đột nhiên đảo người chộp lấy thanh kiếm ở tay trái của Dương Quá, nói:

– Thì sẽ như cái ngón tay này!

Rồi y giơ đứng bàn tay trái ra, tay phải cầm kiếm vừa đoạt chém đứt luôn ngón út và ngón vô danh tay trái.

Hành động này nhanh như tia chớp, Dương Quá không đề phòng, ngẩn người ra, biết lời của Doãn Chí Bình quả là thật lòng, nghĩ thầm: “Mình đấu cùng lúc với cả hai lão, quả nhiên khó thắng, chi bằng hãy giết lão họ Triệu trước đã”, bèn quát:

– Doãn Chí Bình, lão chặt ngón tay ích gì? Trừ phi lão chặt đầu đi thì ta mới tin.

Doãn Chí Bình cười buồn, nói:

Dương Quá nói:

– Thế thì được!

Dương Quá tiến lên hai bước, đâm kiếm vào ngực Triệu Chí Kính đang ở phía sau lưng.

Chiêu “Mộc lan hồi xạ” này âm độc vô cùng. Triệu Chí Kính đang chăm chú nghe hai người nói với nhau, thình lình bị Dương Quá bất ngờ đánh trộm, khi phát hiện ra thì mũi kiếm đã đâm tới bụng dưới. Y cảm thấy hơi đau, liền vận khí đan điền, làm cho bụng dưới co về phía sau nửa thước, chân phải tung cú đá cực nhanh vào thanh kiếm trong tay Dương Quá. Dương Quá không chờ y co chân về, giơ tay điểm vào khoeo chân, trúng ngay huyệt đạo. Triệu Chí Kính tuy thoát chết, nhưng đứng không vững, ngã ngửa giơ chân phải lên trước mặt Dương Quá.

Dương Quá giơ tay đón bắt thanh kiếm từ trên rơi xuống, chĩa vào cổ họng Triệu Chí Kính, nói:

– Ta từng bái lão làm sư phụ, lạy lão tám cái; bây giờ lão đã không còn là sư phụ của ta nữa, mau trả lại ta tám cái lạy đó.

Triệu Chí Kính giận muốn ngất đi, tím mặt lại. Dương Quá hơi nhấn mũi kiếm vào da thịt ở cổ y. Triệu Chí Kính nói:

– Ngươi muốn giết thì cứ giết, khỏi cần lắm lời.

Dương Quá đang định ấn mạnh mũi kiếm xuống, bỗng nghe Tiểu Long Nữ nói sau lưng:

– Quá nhi, giết sư phụ không hay đâu, ngươi hãy bảo hắn thề… không tiết lộ chuyện hôm nay, rồi tha cho hắn!

Dương Quá coi lời nói của Tiểu Long Nữ như thần minh, nghe nàng nói vậy, bèn nói:

– Lão thề đi.

Triệu Chí Kính tuy cả giận, nhưng giữ mạng cần hơn, bèn đáp:

– Ta không kể là được rồi, cần gì phải thề bồi?

Dương Quá nói:

– Không, lão phải thề độc mới được!

Triệu Chí Kính nói:

– Được, chuyện hôm nay, chỉ có bốn người ở đây biết. Nếu ta đem kể với người thứ năm, thì ta sẽ thân bại danh liệt, phải rời khỏi sư môn, bị đồng đạo võ lâm khinh miệt, chết không toàn thây!

Tiểu Long Nữ và Dương Quá đều không am hiểu thế sự, chỉ biết Triệu Chí Kính quả đang thề độc. Doãn Chí Bình nhận ra trong lời thề của Triệu Chí Kính có ý khác, định nhắc Dương Quá, song lại nghĩ không tiện giúp người ngoài; chỉ thấy Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ chạy rất nhanh ra sau núi. Máu tươi từ chỗ hai ngón tay bị chém đứt vẫn chảy ròng ròng, y ngẩn ngơ đứng đó, không hề thấy đau.

Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ về đến ngôi cổ mộ, đặt nàng xuống chiếc giường hàn ngọc. Tiểu Long Nữ nói:

– Ta bị trọng thương, làm sao còn có thể chống chọi khí lạnh?

Dương Quá ồ một tiếng, nghĩ thầm: “Thì ra cô cô bị thương rất nặng”, bèn bế nàng sang phòng bên cạnh. Sau khi nàng nhường chiếc giường hàn ngọc cho Dương Quá nằm, thời gian đầu nàng ở chung một phòng với chàng; hơn một năm sau mới dọn sang phòng bên cạnh. Tiểu Long Nữ vừa nằm xuống, lại ộc ra một ngụm máu tươi. Nửa thân trên để trần của Dương Quá vấy toàn những máu là máu. Tiểu Long Nữ thở hổn hển vài cái, lại phun ra một ngụm máu nữa. Dương Quá cả sợ, chân tay luống cuống, chỉ ứa nước mắt.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nói:

– Ta thổ hết huyết ra thì thôi, có gì mà phải thương tâm như vậy?

Dương Quá nói:

– Cô cô đừng chết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi sợ chết lắm à?

Dưng Quá kinh ngạc, hỏi:

– Đệ tử ấy ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta trước khi chết tất nhiên sẽ giết ngươi trước.

Câu này hai năm trước nàng từng nói một lần với Dương Quá, chàng đã quên đi rồi, ai dè bây giờ nàng nhắc lại. Thấy sắc mặt chàng đầy vẻ kinh dị, Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ta không giết ngươi, chết rồi ta còn mặt mũi nào gặp Tôn bà bà? Ngươi một thân một mình trên thế gian, lấy ai chiếu liệu cho ngươi?

Dương Quá trong óc hoảng loạn, không biết nói gì.

Tiểu Long Nữ vẫn cứ thổ huyết, song thần tình lại rất bình tĩnh, tựa hồ chẳng có chuyện gì. Dương Quá chợt nảy một ý, chạy đi rót một bát mật ong lại cho Tiểu Long Nữ uống. Thứ mật ong này quả có thần hiệu, chỉ lát sau nàng không còn thổ huyết nữa, nằm ngủ mê mệt trên giường. Dương Quá phần nào yên tâm, vừa sợ vừa mệt, không chịu thêm được nữa, bèn ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào tường mà ngủ thiếp đi.

Không biết bao lâu sau, đột nhiên chàng cảm thấy cổ họng lành lạnh, chợt choàng tỉnh. Sau hai năm sống trong nhà mồ, tuy chưa thể nhìn rõ mọi vật trong bóng tối rõ như Tiểu Long Nữ, song chàng cũng đã có thể đi lại không cần đèn nến. Chàng mở mắt ra, thấy Tiểu Long Nữ ngồi ở mép giường, tay cầm trường kiếm, mũi kiếm chĩa vào cổ chàng, thì chàng giật mình nói:

– Cô cô! Cô…

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Quá nhi, thương thế của ta không xong mất rồi, bây giờ ta giết ngươi, rồi hai ta cùng đi gặp Tôn bà bà nào!

Dương Quá chỉ thốt được hai tiếng:

– Cô cô!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi thấy sợ lắm à? Đừng lo, nhanh lắm, chỉ đâm một nhát kiếm là xong thôi.

Dương Quá thấy nàng có ánh mắt lạ, biết nàng sẽ lập tức hạ sát thủ, bỗng ham sống vô cùng, chẳng nghĩ ngợi gì hết, vội lăn một vòng, tung chân đá thanh kiếm trong tay nàng.

Tiểu Long Nữ tuy bị nội thương rất nặng, song thân thủ vẫn nhanh nhẹn chẳng khác gì mọi khi, liền nghiêng người tránh cước của chàng, mũi kiếm lại chĩa ngay vào cổ chàng. Dương Quá sử dụng liên tiếp mấy chiêu thuật, nhưng chiêu thức nào cũng bị Tiểu Long Nữ hóa giải, trường kiếm của nàng cứ như ảnh tùy hình, trước sau vẫn cách cổ chàng không đầy ba tấc. Dương Quá sợ vã mồ hôi toàn thân, nghĩ thầm: “Hôm nay không giữ được mạng này, thể nào cũng bị cô cô giết mất thôi”. Trong lúc nguy cấp, song chưởng cùng đẩy ra, tưởng nàng bị thương vô lực, chiêu số dẫu tinh diệu, nhưng làm gì có sức để đối chưởng với mình.

Tiểu Long Nữ thừa biết dụng ý của chàng, chỉ né người để chưởng lực của chàng sượt qua bên vai nàng, miệng nói:

– Quá nhi, đấu làm chi?

Mũi kiếm rung vài cái, sử chiêu “Phân hoa phất liễu” cực kỳ xảo diệu, ngỡ đánh bên tả mà thực ra đánh bên hữu, lại đã chĩa thẳng cổ họng Dương Quá. Nàng vận lực, chính đang định đâm chàng, chợt nhìn thấy ánh mắt van lơn của chàng, thì lòng đau thắt lại, trước mắt tối sầm, toàn thân rã rời, keng một tiếng, thanh kiếm rơi xuống nền, nàng liền ngất đi.

Vừa rồi Dương Quá chỉ còn đợi chết, ai dè vào khoảnh khắc cuối cùng, nàng lại ngất đi. Chàng ngẩn ngơ, đúng là tử lý đào sinh, vội chạy ra khỏi nhà mồ. Chỉ thấy ánh nắng chói chang gió nhẹ hoa thơm, chim hót líu lo, khác hẳn quang cảnh âm u ảm đạm trong ngôi cổ mộ.

Dương Quá đã bớt sợ, liền thi triển khinh công, chạy nhanh xuống núi, đường núi càng xuống dưới càng dễ đi hơn, giữa trưa thì chàng đã xuống đến chân núi. Chàng không thấy Tiểu Long Nữ đuổi theo, thì phần nào yên tâm, mới đi chậm lại. Đi một hồi, bụng đói sôi lên từng chập. Chàng từ nhỏ bôn ba giang hồ, kiếm thức ăn là biệt tài của chàng, chàng nhìn tứ phía, thấy sườn núi phía tây có một nương ngô, bèn qua đó bẻ lấy năm bắp ngô. Chàng nhặt mấy que củi, đang định đốt lửa nướng ngô, bỗng nghe sau cây có tiếng bước chân nhè nhẹ, có người đi tới.

Chàng trước tiên giấu vội mấy bắp ngô, để tránh bị nông phu bắt quả tang mình lấy trộm, rồi liếc về phía kia, thấy một đạo cô trẻ trung, mặc đạo bào màu hoàng hạnh, thong thả nhẹ bước tiến lại. Sau lưng đạo cô giắt hai thanh kiếm, sợi dây màu đỏ trên đốc kiếm bay phần phật trước gió. Dương Quá nghĩ đạo cô hẳn là người của cung Trùng Dương trên núi, đa phần là đệ tử của Thanh Tịnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị. Chàng đang sợ, không dám sinh sự, cúi đầu làm như đang nhặt củi.

Vị đạo cô kia tới trước mặt, hỏi:

– Này, lên núi đi đường nào?

Dương Quá nghĩ thầm: “Cô nàng là đệ tử phái Toàn Chân, tại sao lại không biết đường lên núi, hẳn là không có ý tốt”. Bèn không ngoảnh đầu, đưa tay chỉ lên núi, nói:

– Cứ theo con đường lớn kia mà đi thì được.

Đạo cô thấy chàng nửa thân trên ở trần, cái quần thì cũ quá thể, đang nhặt củi bên đường, đoán chàng là một gã nông phu tầm thường. Nàng tự phụ xinh đẹp, nam giới gặp nàng đều nhìn chằm chằm hồi lâu, gã thiếu niên này lại chẳng thèm nhìn nàng lấy một cái, không lẽ là kẻ mù, bất giác hơi bực, nhưng lại nghĩ thầm: “Bọn nông phu ngu xuẩn thì hiểu cái gì kia chứ?” bèn nói:

– Ngươi đứng lên coi, ta có điều muốn hỏi.

Dương Quá đối với mọi kẻ thuộc phái Toàn Chân trên dưới đều ghét, nên giả bộ câm điếc, làm như không nghe thấy. Đạo cô nói:

– Này tiểu tử ngu ngốc, lời ta nói ngươi có nghe thấy hay không vậy?

Dương Quá đáp:

– Nghe rồi, nhưng ta không thích đứng lên.

Đạo cô thấy chàng nói vậy, thì mỉm cười, nói:

– Ngươi thử nhìn ta coi, ta bảo ngươi đứng lên đó!

Hai câu này thanh âm kiều mị, dịu dàng và ngọt ngào. Dương Quá nghĩ thầm: “Giọng nói này lạ thế?” bèn ngẩng đầu nhìn, thấy nàng da trắng nhuận, má đỏ hồng, đôi mắt long lanh đang nghiêng nghiêng nhìn mình, tựa hồ không hề có ác ý, chàng nhìn một cái rồi lại cúi xuống nhặt củi.

Đạo cô thấy vẻ mặt của chàng hoàn toàn trẻ con, tuy đã nhìn rõ nàng, mà không hề động lòng, thì cũng không giận, nghĩ bụng: “Thì ra là một đứa bé ngây thơ”. Nàng lấy trong bọc ra hai đĩnh bạc, gõ vào nhau nghe canh cách, nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi vâng lời ta, ta sẽ cho ngươi hai đĩnh bạc này.

Dương Quá không muốn rắc rối, nhưng nghe lời nói lạ lùng, muốn thử xem dụng ý của đạo cô là gì, bèn giả vờ ngây ngô, cứ trân trân nhìn đĩnh bạc, hỏi:

– Cái thứ sáng sáng ấy là gì vậy?

Đạo cô cười nói:

– Là bạc đấy. Ngươi muốn có quần áo mới, có gạo trắng nấu cơm, có gà mái tơ, đều có thể mang thứ này đi mua được cả.

Dương Quá giả bộ không hiểu, nói:

– Đạo cô lừa ta, ta không tin đâu.

Đạo cô cười nói:

– Ta lừa ngươi hồi nào chưa? Tiểu tử, tên ngươi là gì?

Dương Quá nói:

– Ai cũng gọi ta là Thằng Ngố mà đạo cô không biết à? Thế đạo cô tên là gì?

Đạo cô cười nói:

– Thằng Ngố, ngươi cứ gọi ta là Tiên cô thì được. Mẹ ngươi đâu?

Dương Quá nói:

– Mẹ ta vừa mới chửi ta một trận, đã lên núi kiếm củi rồi.

Đạo cô nói:

– Này, ta cần một cái rìu, ngươi hãy về nhà lấy mang cho ta mượn.

Dương Quá há hốc mồm trợn mắt kinh ngạc, trông càng giống một kẻ ngớ ngẩn, lắc đầu quầy quậy, nói:

– Không được đâu, rìu của nhà ta không cho ai mượn đâu. Cha ta mà biết ta đem cho mượn, sẽ lấy đòn gánh phang ta mất.

Đạo cô cười nói:

– Cha mẹ ngươi nhìn thấy bạc sẽ mừng rơn, không đánh chửi ngươi đâu.

Đoạn ném đĩnh bạc về phía Dương Quá.

Dương Quá giơ tay chộp, nhưng giả vờ chộp hụt, để đĩnh bạc rơi trúng vai, khi đĩnh bạc lăn xuống, chàng lại giơ chân phải chân trái lung tung, miệng kêu:

– Úi chao, úi chao, cô cô đánh ta! Ta đi mách mẹ ta đây!

Rồi chẳng buồn nhặt đĩnh bạc, miệng la ôi ối, chạy vội đi.

Đạo cô thấy chàng ngốc nghếch lại thích thú, mỉm cười cởi dây lưng, vung về phía chân phải của Dương Quá. Dương Quá nghe tiếng gió, ngoảnh đầu lại, thấy thế đến của dải thắt lưng thì kinh ngạc: “Đây là võ công của phái Cổ Mộ ta! Chẳng lẽ nàng không phải là đạo cô phái Toàn Chân?” chàng không tránh, cứ để dải thắt lưng quấn vào chân phải, ngã xuống đất, toàn thân thả lỏng để cho đạo cô kéo tới bên cạnh, trong bụng lo sợ: “Nàng ta lên núi, không lẽ định tấn công cô cô?”

Chàng vừa nghĩ đến Tiếu Long Nữ, không biết lúc này nàng sống chết ra sao, tự nhiên nóng ruột vô cùng, tâm niệm đã quyết, dẫu có bị mất mạng trong tay Tiểu Long Nữ, cũng phải lên gặp nàng cho bằng được. Chàng đang nghĩ vậy, thì đạo cô đã kéo chàng tới trước, thấy chàng tuy mặt mày lấm bẩn, nhưng mi thanh mục tú, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử tuy ngớ ngẩn, nhưng rất tuấn tú, đúng là một cái gối thêu hoa, trong nhồi toàn cỏ”, nghe chàng la lối ầm ĩ, thì mỉm cười, nói:

– Thằng Ngố, ngươi muốn sống hay muốn chết nào?

Nói rồi rút kiếm, chĩa vào ngực chàng.

Dương Quá thấy nàng sử chiêu “Cẩm bút sinh hoa”, chính là kiếm pháp đích truyền của phái Cổ Mộ, thì càng nghi vấn “Người này chắc là đệ tử của sư bá Lý Mạc Sầu, lên núi tìm cô cô của ta, hẳn là không có ý tốt; trông thủ pháp vung dây lưng, rút trường kiếm, thì võ công cao cường đây, mình phải giả bộ ngây ngô đến cùng, để nàng ta không đề phòng”. Bèn lộ vẻ hoảng hốt, cầu xin:

– Tiên cô, tiên cô đừng… giết ta, ta vâng lời mà.

Đạo cô cười, nói:

Dương Quá lắp bắp:

– Ta vâng, ta vâng lời mà.

Đạo cô phất sợi dây lưng một cái, nó đã quấn quanh lưng mình, phong thái thật là phiêu dật, siêu thoát. Dương Quá thầm tán thưởng: “Hay thật” song ngoài mặt hết sức thản nhiên. Đạo cô nghĩ bụng: “Cái Thằng Ngố này làm sao hiểu nổi tài nghệ của ta, nó chả khác gì một kẻ mù”, bèn nói:

– Ngươi mau về nhà lấy rìu ra đây.

Dương Quá vâng lời chạy về phía một ngôi nhà tranh trong xóm, cố ý giẫm chân bành bạch vụng về, thân hình ngả ngả nghiêng nghiêng, đạo cô trông rất chướng mắt, dặn với theo:

– Đừng nói cho ai biết đấy, đi mau rồi trở lại ngay, nghe chưa?

Dương Quá ngó vào một ngôi nhà, thấy bên trong không có ai, chắc người ta đi làm ngoài đồng cả rồi. Chàng lấy một cái rìu chẻ củi treo trên vách, thuận tay vớ luôn cái áo cũ vắt trên thành ghế, trở lại chỗ cũ với vẻ ngớ ngớ ngẩn ngẩn.

Chàng tuy đánh lừa đạo cô, trong bụng vẫn nghĩ đến sự an nguy của Tiểu Long Nữ, sắc mặt không giấu được vẻ lo lắng. Đạo cô bực bội, nói:

– Tại sao ngươi cứ xị mặt ra thế? Mau cười lên ta coi!

Dương Quá nhe răng, cười hi hi vài tiếng. Đạo cô hơi cau mày, nói:

– Ngươi hãy đi theo ta lên núi!

Dương Quá vội nói:

– Không, không, mẹ ta dặn ta không được đi lung tung.

Đạo cô quát:

– Ngươi không vâng lời, ta chém chết ngươi bây giờ!

Nói đoạn tay trái véo tai nó, tay phải vung kiếm làm bộ sắp chém xuống. Dương Quá rống lên như heo bị chọc tiết:

– Ta đi, ta đi mà!

Đạo cô nghĩ thầm: “Thằng Ngố ngu như bò này chính là kẻ ta cần dùng”. Thế là nàng liền đi lên núi.

Khinh công của nàng không kém, dĩ nhiên nàng đi cực nhanh. Dương Quá thì bước thấp bước cao, lẽo đẽo theo mãi phía sau, đi một hồi lại ngồi bệt xuống, lau mồ hôi, thở hổn hển. Đạo cô luôn miệng giục chàng nhanh chân. Dương Quá nói:

– Đạo cô đi nhanh như thỏ ấy, ta làm sao theo kịp?

Đạo cô thấy mặt trời đã ngả chiều, nóng ruột, quay lại nắm cánh tay chàng mà chạy nhanh lên núi. Dương Quá giả bộ theo không kịp, chân nọ vấp chân kia, đột nhiên đá mạnh vào bắp chân đạo cô một cái.

Đạo cô kêu “ối chao!” quát:

– Ngươi muốn chết hả?

Nhưng thấy chàng thở hồng hộc, đoán là chàng mệt lử thật, bèn đặt tay trái vào lưng chàng mà dìu, thi triển khinh công, đi nhanh lên núi; thấm thoắt đã đi được mấy dặm.

Dương Quá được nàng dìu đi, sau lưng cảm thấy làn da ấm mềm của cơ thể nàng, mũi ngửi thấy mùi hương nữ nhi, chàng không tốn chút hơi sức nào mà được nàng dìu lên núi. Đạo cô chạy một hồi, ngó thấy mặt chàng tươi cười, có vẻ khoái trá lắm, thì tức giận, đẩy chàng ngã phịch xuống đất, quát:

– Ngươi khoái chí lắm hả?

Dương Quá nói:

– Úi chao, đau quá, tiên cô làm cho ta đau mông quá chừng!

Đạo cô vừa bực vừa tức cười, nói:

– Ngươi ngốc nghếch từ khi nào vậy?

Dương Quá nói:

– Từ khi mới sinh ra đấy. Tiên cô này, mẹ ta bảo ta họ Trương, chứ không phải họ Thằng đâu. Còn Tiên cô họ Tiên chứ gì?

Đạo cô nói:

– Ngươi cứ việc gọi ta là Tiên cô, cần gì phải biết họ của ta.

Đạo cô chính là Hồng Lăng Ba, đại đệ tử của Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, là tiểu đạo cô từng bị Võ tam nương đánh đuổi trước khi Lý Mạc Sầu tới giết cả nhà Lục Lập Đỉnh.

Dương Quá muốn biết họ tên nàng ta, ai dè nàng ta không chịu tiết lộ.

Đạo cô ngồi xuống một tảng đá, vuốt vuốt mái tóc huyền bị gió thổi rối. Dương Quá liếc nhìn nàng ta, nghĩ thầm: “Đạo cô kể cũng xinh xắn, nhưng chưa bằng Quách bá mẫu, càng thua xa cô cô của ta.” Hồng Lăng Ba nhìn Dương Quá, cười nói:

– Thằng Ngố, ngươi ngắm ta để làm gì hả?

Dương Quá nói:

– Ngắm thì ngắm, sao lại hỏi để làm gì? Đạo cô không cho ta ngắm thì thôi, tưởng lạ lắm sao?

Hồng Lăng Ba cười:

– Ừ thì ngươi cứ ngắm đi! Thế nào, ngươi thấy ta có đẹp hay không?

Nàng lấy trong túi ra một chiếc lược bằng ngà voi, chải đầu.

Dương Quá nói:

– Đẹp thì có đẹp, nhưng chưa… chưa được.

Hồng Lăng Ba hỏi:

– Chưa được làm sao?

Dương Quá nói:

– Chưa được… trắng lắm.

Hồng Lăng Ba vốn tự phụ có nước da trắng hồng, nghe chàng nói thế thì không khỏi nổi giận, đứng dậy, nói:

– Thằng Ngố, ngươi muốn chết, ngươi bảo ta chưa đủ trắng trẻo hay sao?

Dương Quá lắc đầu, nói:

Hồng Lăng Ba quát:

– Ai có thể trắng trẻo hơn ta?

Dương Quá nói:

– Tối hôm qua nằm bên ta có cái trắng trẻo hơn.

Hồng Lăng Ba hỏi:

– Là ai? Tẩu tẩu của ngươi hay là mẫu thân ngươi?

Nàng ta định bụng sẽ giết chết nữ nhân nào trắng trẻo hơn mình.

Dương Quá nói:

– Đều không phải, là con cừu trắng của nhà ta.

Hồng Lăng Ba chuyển nộ thành tiếu, nói:

– Đúng là Thằng Ngố, sao lại so sánh người với súc sinh? Thôi đi nào!

Lại nắm cánh tay Dương Quá đi nhanh lên núi.

Khi tới con đường lớn dẫn tới cung Trùng Dương, Hồng Lăng Ba rẽ sang hướng Tây, đi về phía “Hoạt tử nhân mộ”. Dương Quá nghĩ thầm: “Quả nhiên nàng ta tìm cô cô của mình”. Đi một hồi, Hồng Lăng Ba lấy tấm địa đồ trong túi ra, tìm kiếm đường đi. Dương Quá nói:

– Tiên cô, đằng trước không đi được đâu. Trong rừng có ma đó.

Hồng Lăng Ba nói:

– Sao ngươi biết?

Dương Quá nói:

– Trong rừng có ngôi mộ lớn, trong mộ có ác quỉ, không ai dám tới gần.

Hồng Lăng Ba mừng thầm: “Hoạt tử nhân mộ quả nhiên ở đấy rồi”. Nguyên Hồng Lăng Ba mấy năm qua được sư phụ truyền thụ, võ công tiến nhanh, ở Sơn Tây đã giúp sư phụ đánh bại quần hào võ lâm, càng được Lý Mạc Sầu yêu mến. Khi nghe sư phụ đàm luận chuyện giao đấu với chư tử phái Toàn Chân, có nói nếu luyện thành “Ngọc nữ tâm kinh” thì sẽ chẳng sợ gì mấy lão đạo sĩ thối tha; tiếc rằng quyển sách ghi chép môn võ công ấy cất trong ngôi cổ mộ trên núi Chung Nam. Hồng Lăng Ba hỏi sư phụ tại sao không đến ngôi mộ nọ mà luyện “Ngọc nữ tâm kinh”, thì Lý Mạc Sầu ậm ừ, nói rằng đã giao ngôi mộ cho tiểu sư muội, sư tỷ sư muội bất hòa nặng nề, lâu nay không hề lai vãng. Lý Mạc Sầu cực kỳ hiếu thắng, việc mấy phen nàng ta xông vào “Hoạt tử nhân mộ” lùng sục, bị đánh đuổi ra, nàng ta không hề kể cho đệ tử biết, lại bảo Tiểu Long Nữ tiểu sư muội còn nhỏ tuổi, võ công bình thường; nàng là sư tỷ không tiện cậy lớn bắt nạt nhỏ. Hồng Lăng Ba ra sức khuyên sư phụ đi lấy tâm kinh. Thực tình thì Lý Mạc Sầu cũng không lúc nào quên, nhưng đối với các cơ quan trong ngôi cổ mộ, nàng ta trước sau vẫn không hiểu nổi, nên chưa dám hành động, nghe đệ tử giục thì chỉ mỉm cười không đáp.

Hồng Lăng Ba nhắc mấy lần, thấy sư phụ chẳng bảo không, cũng chẳng nói là có, bèn tự lưu tâm hỏi sư phụ tỉ mỉ về đường đi lối lại trên núi Chung Nam, lén vẽ một tấm địa đồ, không biết rằng Lý Mạc Sầu thực ra chưa hề kể hết cho đệ tử . Lần này sư phụ phái Hồng Lăng Ba đi Tràng An giết một cừu gia, làm xong việc, Hồng Lăng Ba bèn đến núi Chung Nam, vô tình gặp Dương Quá, bèn sai Dương Quá mang theo rìu để chặt gai góc, mở rộng lối vào ngôi cổ mộ.

Dương Quá nghĩ bụng mở đường mà đi kiểu này thì có cả năm cũng không đến được ngôi mộ, nhưng cứ giả vờ ngớ ngẩn làm theo lệnh nàng ta. Mở đường đến nửa canh giờ, trời sắp tối, chưa đi được một dặm, còn xa mới đến chỗ nhà mồ. Nghĩ tới Tiểu Long Nữ, lòng chàng nóng như lửa đốt, nghĩ thầm chi bằng dẫn đạo cô đến luôn đó, xem nàng ta có gì cổ quái; bèn vung rìu chém bừa mấy nhát, nhắm một hòn đá mà bổ thẳng xuống, lửa văng tung tóe, lưỡi rìu lập tức mẻ quằn đi. Chàng kêu to:

– Úi chao, úi chao, chỗ này có hòn đá, rìu bị mẻ rồi, về nhà cha ta sẽ đánh ta mất. Tiên cô, ta … ta phải quay về thôi.

Hồng Lăng Ba vốn đang hết sức nóng ruột, thấy theo cách này thì tối nay không thể nào tới ngôi mộ nổi, chỉ mắng:

– Thằng Ngố, không về được!

Dương Quá nói:

– Tiên cô có sợ ma hay không?

Hồng Lăng Ba nói:

– Ma quỉ sợ ta thì có, gặp ác quỉ ta chém một nhát thì nó đứt làm hai mảnh ngay.

Dương Quá hỏi:

– Tiên cô không lừa ta chứ?

Hồng Lăng Ba đáp:

– Ta lừa ngươi để làm gì kia chứ?

Dương Quá mừng rỡ, nói:

– Ác quỉ đã sợ Tiên cô, thì để ta dẫn Tiên cô đến chỗ ngôi mộ lớn, ác quỉ hiện ra, Tiên cô phải ôm chặt nó đấy nhé!

Hồng Lăng Ba cả mừng, nói:

– Ngươi biết đường đến chỗ ngôi mộ lớn ư? Mau dẫn ta đi!

Dương Quá sợ nàng ta nghi ngờ, cứ đòi nàng ta phải hứa nhất định sẽ giết ác quỉ, Hồng Lăng Ba luôn miệng an ủi, bảo chàng cứ yên tâm, dẫu có mười con ác quỉ hiện ra, nàng cũng chém chết cả mười.

Dương Quá nói:

– Mấy năm trước, ta có tới chăn cừu gần chỗ ngôi mộ lớn. Một hôm ta đang ngủ chợt tỉnh dậy, lúc ấy đã nửa đêm, ta thấy từ trong nhà mồ bước ra một con ma mặc áo trắng, ta sợ quá cắm đầu chạy, bị vấp ngã một cái, đầu còn vết sẹo đây này.

Nói đoạn chúi đầu lại gần để Hồng Lăng Ba sờ. Dọc đường chàng được nàng ta dìu đi, lúc ấy cảm thấy người nàng tỏa ra mùi thơm mát như hoa lan, người chàng lâng lâng dễ chịu; bây giờ thừa dịp nói bịa ra thế để cúi đầu sát người nàng. Hồng Lăng Ba cười, nói:

– Thằng Ngố!

Nàng đưa tay sờ sờ, đâu có thấy vết sẹo nào, song cũng chẳng để bụng, chỉ giục:

– Mau dẫn ta đi nào!

Dương Quá cầm tay nàng dẫn sang con đường bí mật đi tới ngôi mộ cổ. Lúc này đã gần nửa đêm, trăng sao đều mờ tối, Dương Quá kéo tay Hồng Lăng Ba, cảm thấy ấm và mềm, lấy làm lạ, nghĩ thầm: “Cô cô và nàng ta đều là nữ, tại sao tay cô cô giá lạnh như băng, còn nàng lại mềm ấm?” Chàng bất giác bóp bóp, cọ cọ mấy cái. Nếu trong võ lâm có kể nào dám vô lễ với Hồng Lăng Ba, hẳn nàng đã rút kiếm lấy mạng y; nhưng nàng nghĩ đây chỉ là một thằng ngớ ngẩn, nàng lại đang cần đến nó, hơn nữa nàng thấy nó cũng tuấn mỹ, trong bụng cũng thinh thích, nên không giận, nghĩ thầm: “Thằng Ngố này kể ra cũng chưa đến nỗi quá ngu, nó còn biết là ta xinh đẹp”.

Đi một hồi nữa thì Dương Quá đã đưa Hồng Lăng Ba tới trước nhà mồ. Lúc rời khỏi đây, vì hoảng loạn, chàng đã quên đóng cửa mộ. Chàng thấy phiến đá lớn làm cửa mộ vẫn để lệch sang một bên, thì trống ngực đập dồn, nghĩ thầm: “Mong sao cô cô không chết, để ta còn được gặp cô cô một lần nữa”. Lúc này chàng cũng chẳng còn bụng dạ nào nghịch ngợm với Hồng Lăng Ba nữa, chỉ nói:

– Tiên cô, ta đưa Tiên cô vào, nếu ác quỉ ăn thịt ta, ta hóa thành ma, thì sẽ vĩnh viễn bám riết lấy Tiên cô đấy.

Hồng Lăng Ba nghĩ thầm: “Lạ nhỉ, sao tự dưng Thằng Ngố lại bạo dạn hẳn lên như thế?” Nàng cũng không còn thời gian suy nghĩ, trong bóng tối vội bám sát theo, nàng từng nghe sư phụ nói rằng trong ngôi mộ đường đi lối lại quanh co rắc rối, chỉ cần nhầm một bước, sẽ rơi ngay vào mê lộ; nàng thấy Dương Quá không chút do dự, cứ đi xăm xăm, rẽ chỗ này, quẹo chỗ kia, đẩy cửa đá chỗ này chỗ kia, tựa hồ thông thuộc lạ thường. Hồng Lăng Ba bắt đầu sinh nghi: “Lối đi trong ngôi mộ đâu có gì rắc rối, Không lẽ sư phụ đánh lừa ta, sợ ta tìm vào một mình chăng?” Chẳng mấy chốc Dương Quá đã dẫn Hồng Lăng Ba tới phòng ngủ của Tiểu Long Nữ ở giữa ngôi nhà mồ. Chàng đẩy nhẹ cánh cửa, dỏng tai nghe, không thấy động tĩnh gì, đang định gọi “cô cô!” chợt nhớ Hồng Lăng Ba đang ở bên cạnh, bèn nói:

– Đến nơi rồi!

Hồng Lăng Ba lúc này vào sâu trong nhà mồ, tuy võ nghệ cao, gan lớn, cũng hồi hộp lo lắng, nghe Dương Quá nói thế, vội lấy bùi nhùi ra đánh lửa, thắp vào cây nến để trên bàn, chỉ thấy một bạch y thiếu nữ nằm trên giường. Nàng sớm liệu, rằng trong ngôi mộ sẽ gặp sư thúc Tiểu Long Nữ, không ngờ lúc này sư thúc nằm trên giường kia, không rõ đang ngủ say hay không thèm để ý tới nàng, bèn nói:

– Đệ tử Hồng Lăng Ba, bái kiến sư thúc!

Dương Quá há hốc mồm, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, toàn thần chăm chú theo dõi sự động tĩnh của Tiểu Long Nữ, thấy nàng không hề cử động, hồi lâu mới “ừ” khẽ một tiếng. Từ lúc Hồng Lăng Ba lên tiếng, đến lúc Tiểu Long Nữ trả lời, Dương Quá nôn nóng dị thường, hận không thể bước tới ôm sư phụ mà khóc òa lên. Nghe sư phụ trả lời, lòng chàng như trút được gánh nặng, chàng mừng quá, không kìm nổi nữa, khóc nấc lên. Hồng Lăng Ba hỏi:

– Thằng Ngố, ngươi làm sao vậy?

Dương Quá nghẹn ngào, nói:

– Ta… ta sợ quá.

Tiểu Long Nữ từ từ xoay mình lại, nói nhỏ:

– Ngươi đừng sợ, ta vừa chết một lần rồi, thấy không có gì khó chịu cả.

Hồng Lăng Ba nhìn dung nhan tú lệ tuyệt tục của Tiểu Long Nữ, thì kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thế gian lại có một mỹ nữ tuyệt sắc thế này ư?” không khỏi tự thẹn rằng mình xấu xí, lại nói:

– Đệ tử Hồng Lăng Ba bái kiến sư thúc.

Tiểu Long Nữ nhẹ nhàng hỏi:

– Sư tỷ của ta đâu, cũng tới đây chứ?

Hồng Lăng Ba nói:

– Sư phụ của đệ tử sai đệ tử đến trước, thỉnh vấn sức khỏe của sư thúc.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy ra khỏi đây, nơi này đừng nói là ngươi, ngay cả sư phụ nhà ngươi cũng không được phép bước vào.

Hồng Lăng Ba thấy Tiểu Long Nữ mặt xanh mét, ngực loang lổ vết máu, nói năng như bị hụt hơi, rõ ràng đã bị trọng thương, thì không cần đề phòng nữa, hỏi:

– Tôn bà bà đâu ạ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tôn bà bà mất lâu rồi. Ngươi mau ra khỏi đây.

Hồng Lăng Ba càng yên tâm, nghĩ thầm: “Đúng là duyên trời xảo hợp, không ngờ Hồng Lăng Ba ta lại trở thành truyền nhân của “Hoạt tử nhân mộ”. Thấy Tiểu Long Nữ chẳng sống được mấy chốc nữa, chỉ lo Tiểu Long Nữ đột nhiên chết đi, không ai biết “Ngọc nữ tâm kinh” cất giấu chỗ nào, vội hỏi:

– Sư thúc, sư phụ sai đệ tử đến lấy “Ngọc nữ tâm kinh”. Sư thúc giao nó cho đệ tử, đệ tử sẽ lập tức trị thương cho sư thúc.

Tiểu Long Nữ trường kỳ tu luyện, thất tình lục dục đã bị nàng áp chế, có cũng như không, có thể nói là vạn sự chẳng để trong lòng, nhưng hiện giờ bị trọng thương, mất đi sự kiềm chế, nghe Hồng Lăng Ba nói thế thì vừa lo vừa giận, lại ngất lịm đi. Hồng Lăng Ba sấn tới, day day nhân trung của nàng mấy cái, Tiểu Long Nữ mới tỉnh lại, nói:

– Sư tỷ ta đâu? Ngươi thỉnh sư tỷ lại đây, ta có điều… muốn nói.

Hồng Lăng Ba nghĩ rằng bí kíp thượng thừa của bổn môn cuối cùng sắp lọt vào tay mình, thì sốt ruột sốt gan, cười khẩy một tiếng, rút ra hai chiếc ngân châm dài, gằn giọng, nói:

– Sư thúc, sư thúc nhận biết loại ngân châm này chứ, mau đưa “Ngọc nữ tâm kinh” cho đệ tử, nếu không đừng trách đệ tử vô lễ.

Dương Quá từng bị khổ sở vì món “Băng phách ngân châm”, chỉ vô ý nắm trong tay mà bị nhiễm chất kịch độc, nữa là bị nó đâm vào người? Thấy tình thế nguy cấp, chàng kêu to:

– Tiên cô, chỗ kia có ma, ta sợ!

Nói rồi nhào tới ôm sau lưng Hồng Lăng Ba, thuận tay điểm luôn hai huyệt Kiên Trinh và Kinh Môn. Hồng Lăng Ba nằm mơ cũng không ngờ Thằng Ngố lại có võ công thượng thừa, đang định mắng nó nói năng hồ đồ, thì toàn thân đã tê dại, ngồi tê liệt dưới đất. Dương Quá lo nàng ta biết cách tự thông kinh mạch, lại ấn mạnh tay vài cái vào huyệt Cự Cốt của Hồng Lăng Ba, rồi nói:

– Cô cô, nữ nhân này quá tệ, đệ tử dùng ngân châm đâm cho cô ả vài cái nên chăng?

Nói rồi dùng vạt áo quấn hai ngón tay, nhặt ngân châm lên.

– Quá nhi, hãy đóng cửalại, đề phòng sư tỷ của ta vào đây.

Dương Quá đáp:

– Vâng!

Vừa định quay ra, bỗng nghe sau lưng vang lên giọng nói kiều mị của nữ nhân:

– Sư muội, mạnh giỏi chứ? Ta vào từ nãy rồi.

Dương Quá cả kinh xoay mình, dưới ánh nến thấy sừng sững đứng choán cửaphòng là một đạo cô xinh đẹp, mắt hạnh má đào, khóe miệng nửa cười nửa không, chính là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu.

Khi Hồng Lăng Ba dò hỏi đường tới “Hoạt tử nhân mộ” Lý Mạc Sầu đã đoán chừng thể nào đệ tử cũng sẽ tự đến lấy trộm “Ngọc nữ tâm kinh”, việc sai Hồng Lăng Ba đi Tràng An giết người, thực ra là cố ý sắp đặt. Lý Mạc Sầu kín đáo theo sau, thấy rõ Hồng Lăng Ba gặp Dương Quá như thế nào, vào trong nhà mộ, đòi Tiểu Long Nữ giao tâm kinh ra sao, bị trúng kế thất thủ thế nào. Thân pháp của Lý Mạc Sầu quá mau lẹ, cước bộ quá nhẹ nhàng, nên Hồng Lăng Ba và Dương Quá không hề phát giác được. Đến lúc này, Lý Mạc Sầu mới hiện thân.

Tiểu Long Nữ gượng ngồi dậy, nói:

– Sư tỷ!

Rồi ho sặc sụa. Lý Mạc Sầu lạnh lùng chỉ Dương Quá, hỏi:

– Kẻ này là ai? Tổ sư bà bà đã di huấn, không một gã nam tử thối tha nào được đặt chân vào “Hoạt tử nhân mộ”, tại sao sư muội lại cho nó ở đây?

Tiểu Long Nữ ho dồn dập, không thể trả lời. Dương Quá đứng che phía trước nàng, cất giọng sang sảng, nói:

– Đây là cô cô của ta, mọi việc ở đây khỏi cần đạo cô đa quản!

Lý Mạc Sầu cười nhạt, nói:

– Người đóng vai Thằng Ngố khá lắm!

Cây phất trần vung vẩy, vù vù vù xuất liền ba chiêu. Ba chiêu này tuy phát xuất trước sau, nhưng tựa hồ tới cùng một lúc, chính là chiêu số lợi hại của võ công phái Cổ Mộ; cao thủ của phái khác nếu không hiểu sự huyền ảo của nó; sẽ lập tức bị Lý Mạc Sầu đánh cho gãy rời xương cốt. Môn võ công này Dương Quá luyện tập đã quen, tuy công lực không thâm hậu bằng Lý Mạc Sầu, song cũng dễ dàng né tránh chiêu số “Tam yến đầu lâm” của nàng ta.

Lý Mạc Sầu thu hồi cây phất trần, thầm ngạc nhiên, thấy thân pháp né tránh của Dương Quá chính là võ học bản môn, thì gằn giọng hỏi:

– Sư muội, tên tiểu tặc này là ai?

Tiểu Long Nữ sợ lại thổ huyết, không dám cao giọng, chỉ nói nho nhỏ:

– Quá nhi, hãy bái kiến đại sư bá đi.

Dương Quá nói:

– Hừ, như thế cũng đi làm sư bá ư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi ghé tai lại đây, ta có điều cần dặn.

Dương Quá nghĩ sư phụ muốn khuyên chàng khấu đầu trước Lý Mạc Sầu, trong bụng không muốn, nhưng vẫn ghé tai. Tiểu Long Nữ nói khẽ, nghe như tiếng muỗi kêu:

– Cạnh chân giường trong góc, có một phiến đá trồi lên, ngươi hãy dùng lực đẩy phiến đá sang bên trái, rồi nhảy ngay lên giường với ta.

Lý Mạc Sầu tưởng rằng Tiểu Long Nữ đang dặn đệ tử cúi đầu cầu xin mình, trước mặt nàng ta là sư muội trọng thương và một tên tiểu tử hậu bối, chẳng có gì đáng ngại; nàng ta cần nghĩ cách hay để buộc sư muội trao “Ngọc nữ tâm kinh” ra.

Dương Quá gật đầu, nói to:

– Vâng, đệ tử bái kiến đại sư bá!

Chàng đưa tay sờ sờ cạnh chân giường trong góc, quả nhiên có một phiến đá trồi lên, bèn dùng lực đẩy mạnh sang bên trái, rồi nhảy ngay lên giường. Chỉ nghe ken két vài tiếng, chiếc giường đá đột nhiên hạ xuống. Lý Mạc Sầu kinh ngạc, biết trong nhà mồ chỗ nào cũng có cơ quan, sư phụ ngày trước thiên vị, giấu nàng ta, chỉ bày vẽ cho sư muội biết cách điều khiển các cơ quan đó. Nàng ta liền giơ tay chộp lấy Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ lúc này không có sức đề kháng, chiếc giường tuy hạ xuống, nhưng Lý Mạc Sầu hành sự cực nhanh, giơ tay kéo nàng ra khỏi chiếc giường. Dương Quá cả kinh, dồn sức đánh một chưởng vào tay Lý Mạc Sầu, chỉ cảm thấy mắt tối sầm, xình xình hai tiếng, chiếc giường đá đã tụt xuống tầng dưới của thạch thất, mảng trần phía trên tự động bật lên, ngăn cách sư đồ mỗi bên hai người, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba ở tầng trên, Tiểu Long Nữ và Dương Quá ở tầng dưới.

Dương Quá lờ mờ nhìn thấy hình như có bàn ghế, bèn lại bàn đốt bùi nhùi, thắp ngọn nến cháy dở ở trên bàn. Tiểu Long Nữ nói:

– Ta không đủ máu, khó vận công trị thương. Song dẫu ta không bị thương, thì ta và ngươi cũng không đấu nổi sư tỷ ta…

Dương Quá nghe ba chữ “không đủ máu”, không đợi nàng nói xong, liền đưa tay trái lên, nhắm chỗ đường gân máu, cắn mạnh một cái, tức thì máu tươi chảy ra. Chàng kề vết thương vừa cắn vào bên miệng Tiểu Long Nữ, để máu tươi chảy ròng ròng vào trong miệng nàng.

Tiểu Long Nữ toàn thân vốn lạnh ngắt, giờ máu nóng chảy vào bụng, thân thể ấm dần, nhưng nàng biết cách này không ổn, định phản đối thì Dương Quá đã liệu trước, giơ tay điểm huyệt ở thắt lưng khiến nàng không cử động được. Một lúc sau, thấy máu tươi ngừng chảy, Dương Quá lại cắn cho nó chảy tiếp; sau đó cắn gân máu bên tay phải. Sau vài lần rót máu tươi như thế, chàng cảm thấy đầu váng mắt hoa, toàn thân vô lực mới ngồi xuống, giải huyệt cho nàng. Tiểu Long Nữ chằm chằm nhìn chàng hồi lâu, không nói gì, chỉ thở dài, tự hành luyện công. Dương Quá thấy cây nến sắp cháy hết, thì châm cây nến mới.

Hai người cùng ngồi luyện công. Dương Quá là để bổ dưỡng khỏi mệt mỏi sau khi mất máu. Tiểu Long Nữ sau khi được uống máu tươi của Dương Quá, thì tinh thần tươi tỉnh hẳn, hai canh giờ sau tự biết tính mạng không còn nguy hiểm, nàng mở mắt ra, mỉm cười với chàng. Dương Quá thấy hai má nàng trước trắng nhợt, lúc này đã phơn phớt hồng, thì cả mừng, nói:

– Cô cô, cô cô khỏe lại rồi.

Tiểu Long Nữ gật gật đầu. Dương Quá mừng không để đâu cho hết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng ta tới buồng của Tôn bà bà, ta có điều muốn nói với ngươi.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô không mệt chứ?

Tiểu Long Nữ đáp:

– Không sao.

Nàng giơ tay đẩy vào một cơ quan mấy cái, khối đá chuyển dịch, để lộ ra một lối đi. Lối đi dẫn tới đâu, Dương Quá hoàn toàn không biết. Tiểu Long Nữ dẫn chàng đi trong bóng tối, vòng quá vòng lại một lát thì tới buồng của Tôn bà bà.

Nàng thắp nến, lấy quần áo của Dương Quá gói thành một bọc, đặt vào đó đôi vòng tay bằng vàng của mình. Dương Quá đứng ngây nhìn nàng, lấy làm lạ, hỏi:

– Cô cô làm gì vậy?

Tiểu Long Nữ không trả lời, lại đặt hai lọ mật ong vào trong bọc. Dương Quá mừng, nói:

– Cô cô, chúng ta ra khỏi nhà mồ phải không? Thế thì hay quá!

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hãy đi cho may mắn, ta biết ngươi là một người tốt, ngươi đối xử rất tốt với ta.

Dương Quá cả kinh, nói:

– Cô cô, sao lại…?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta đã thề với sư phụ, suốt đời không rời khỏi nơi này. Trừ phi… trừ phi… hừ, ta không đi đâu.

Nói rồi buồn bã lắc đầu.

Dương Quá thấy nàng sắc mặt trang nghiêm, giọng nói kiên định, rõ ràng quyết ý không cho chàng phản bác, thì không dám nói nữa, nhưng việc này quá hệ trọng, nên cuối cùng chàng đánh bạo nói:

– Cô cô, cô cô không đi, thì đệ tử cũng không đi. Đệ tử ở đây với cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lúc này sư tỷ của ta hẳn đang chặn ở lối ra khỏi mộ, muốn buộc ta giao “Ngọc nữ tâm kinh”. Võ công của ta, thua xa sư tỷ, ta lại đang bị nội thương, dĩ nhiên đấu không nổi, phải vậy không?

Dương Quá đáp:

– Vâng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lương thực chúng ta để dành, ta nghĩ may lắm đủ cho hai mươi ngày, ăn thêm mật ong, lâu nhất cũng cố duy trì được một tháng. Sau một tháng sẽ ra sao?

Dương Quá nói:

– Chúng ta cứ xông ra, dẫu không đánh bại sư bá, cũng có thể trốn thoát.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Nếu ngươi biết võ công và tính khí của sư bá, thì sẽ hiểu là chúng ta không thể nào trốn thoát nổi. Bấy giờ sẽ không chỉ bị nhục nhã, mà sẽ khổ sở vô cùng trước khi chết.

Dương Quá nói:

– Đã thế thì một mình đệ tử càng khó lòng trốn thoát.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không, ta sẽ khích sư tỷ đấu với ta, dụ sư tỷ đi sâu vào trong mộ, ngươi sẽ thừa cơ trốn thoát. Sau khi thoát ra, ngươi hãy đẩy tảng đá bên trái lấp cửa mộ, gạt cái chốt ở mặt trong, để hai khối đá vạn cân sập xuống, vĩnh viễn lấp kín cửa mộ.

Dương Quá càng nghe càng kinh hãi, nói:

– Cô cô, cô cô sẽ biết cách mở chốt để thoát ra chứ?

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hồi Vương Trùng Dương khởi sự chống quân Kim, mưu đại sự, đã dùng tòa thạch mộ này làm kho cất giấu tiền lương binh khí. Bên trong có nhiều cơ quan, bố trí chặt chẽ, phía trên cửa mộ lại bố trí hai khối đá nặng vạn cân, gọi là “Đoạn long thạch”, vạn nhất khởi nghĩa chưa nổ ra, mà quân Kim đã dò la, kéo tới đánh trước, quả bất địch chúng, thì Vương Trùng Dương sẽ cho hai khối đá ấy sập xuống, bít kín cửa mộ mà chết; những tên địch lọt vào trong mộ cũng chẳng thể sống sót mà trở về. Bởi “Đoạn long thạch” đã sập xuống, thì không tài gì mở ra được nữa. Ngươi biết đó, lối vào trong mộ rất hẹp, chỉ để cho một người đi, dẫu cả ngàn tên địch lọt vào trong mộ, cũng chỉ có thể sắp thành một hàng thật dài, một người đứng bên cửa mộ bị bít kín, dù khỏe đến mấy, cũng không tài gì lay chuyển nổi khối đá vạn cân. Lão đạo sĩ sắp đặt như vậy, là có ý thà chết cũng buộc quân địch phải chết theo. Sau khi cuộc kháng Kim thất bại, Vương Trùng Dương lui về sống một mình trong mộ, chúa nước Kim biết được chỗ ở của lão đạo sĩ, từng lần lượt phái mấy chục cao thủ đi giết lão đạo sĩ, song đều bị lão đạo sĩ hoặc bắt sống, hoặc giết chết, không một ai chạy thoát. Sau chúa nước Kim đột tử, hoàng đế kế vị không biết nguyên ủy, bèn bỏ qua cho Vương Trùng Dương, do vậy hai “Đoạn long thạch” không hề được sử dụng. Khi lão đạo sĩ rời khỏi ngôi mộ này, lão đạo sĩ đã nói cho tổ sư bà bà biết hết các cơ quan bố trí trong mộ.

Dương Quá càng nghe càng kinh ngạc, ứa nước mắt, nói:

– Cô cô, Dương Quá sống chết gì cũng sẽ ở bên cạnh cô cô.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi ở bên ta có gì hay đâu kia chứ? Ngươi từng bảo ở thế giới bên ngoài có đủ thứ thích thú, ngươi hãy rời nơi đây, ra sống ngoài đó cho sướng. Với võ công hiện thời của ngươi, bọn đạo sĩ sẽ không thể gây khó dễ gì với ngươi. Ngươi lừa được Hồng Lăng Ba, xem ra còn thông minh hơn ta nhiều, từ nay khỏi cần ta chiếu liệu cho ngươi nữa.

Dương Quá bước tới ôm lấy nàng, khóc, nói:

– Cô cô, nếu đệ tử không được ở bên cạnh cô cô, thì cả kiếp sống này sẽ chẳng còn gì là sung sướng.

Tiểu Long Nữ lâu nay tính nết vốn lạnh lẽo tuyệt tình, lời lẽ cứng rắn nghiêm nghị, không cho phép kẻ khác cãi lại; chẳng rõ vì sao nghe câu vừa rồi của Dương Quá, bất giác nhiệt huyết dâng lên, mắt cay cay, như sắp ứa lệ. Nàng kinh hãi, nhớ lại lúc sư phụ lâm chung cứ dặn đi dặn lại: “Công phu luyện tập của con là môn võ công thượng thừa dứt bỏ thất tình, lục dục. Mai sau nếu con lại ứa nước mắt vì người khác, xúc động chân tình, thì chẳng những tổn hại lớn cho võ công, mà còn nguy đến tính mạng, con phải nhớ kỹ đó.” Bèn đẩy Dương Quá ra, lạnh lùng nói:

– Ta bảo gì, ngươi phải theo đó mà làm.

Dương Quá thấy nàng đột nhiên nghiêm nghị, thì không dám nói thêm. Tiểu Long Nữ khoác cái bọc lên vai chàng, gỡ thanh trường kiếm treo trên tường, đặt vừa tay chàng, giọng đanh lại:

– Chờ lúc ta bảo ngươi đi, thì ngươi lập tức đi ngay, ra khỏi cửa mộ rồi, hãy cho hai khối đá lớn sập xuống. Sư bá của ngươi cực kỳ lợi hại, thời cơ chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, ngươi có vâng lời ta hay không?

Dương Quá nghẹn ngào nói:

– Đệ tử xin vâng lời.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi không vâng lời ta, ta chết xuống âm phủ sẽ vĩnh viễn hận ngươi. Thôi đi nào!

Nói đoạn dắt Dương Quá đi ra cửa.

Dương Quá trước đây chạm tay nàng, đều thấy lạnh như băng; bây giờ bị nàng cầm tay kéo đi, lại cảm thấy bàn tay nàng lúc nóng lúc lạnh, khác hẳn mọi khi; nhưng cũng không còn bụng dạ nào nghĩ xem vì sao, vội đi theo nàng. Đi một hồi, Tiểu Long Nữ sờ sờ lên tường đá, nói nhỏ:

– Họ ở bên trong, ta sẽ dụ sư tỷ ra, ngươi hãy chạy ra lối cửa ở góc tây bắc. Nếu Hồng Lăng Ba đuổi theo ngươi, ngươi hãy dùng “Ngọc phong châm” đả thương nó.

Dương Quá tâm loạn như tơ vò, gật đầu đáp ứng.

“Ngọc phong châm” là ám khí độc môn của phái Cổ Mộ, ngày trước Lâm Triệu Anh có sáng chế ra hai thứ ám khí cực kỳ lợi hại, là “Băng phách ngân châm” và “Ngọc phong châm”. “Ngọc phong châm” là loại kim châm mỏng manh như sợi tóc, chế bằng sáu phần vàng, bốn phần thép, tẩm qua chất độc của loài ong bò vẽ, tuy mỏng manh, nhưng chất vàng rất nặng, nên khi phóng có thể bay xa. Có điều là thứ ám khí này cực độc, Lâm Triệu Anh chưa từng sử dụng; từ trung niên trở đi, võ công đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa, càng không cần dùng đến nó. Sư phụ của Tiểu Long Nữ nhân vì Lý Mạc Sầu không chịu thề chung thân sống trong cổ mộ để tiếp nhận y bát, sau khi truyền cho nàng ta “Băng phách ngân châm”, không truyền cho “Ngọc phong châm” nữa.

Tiểu Long Nữ ngưng thần giây lát, ấn vào cơ quan trên vách, có tiếng ken két, tường đá từ từ xê dịch sang bên trái. Hai dải dây lưng của nàng lập tức vung ra, một tấn công Lý Mạc Sầu ở bên tả, một tấn công Hồng Lăng Ba ở bên hữu, thân hình sấn tới nhanh nhẹn vô cùng. Lúc này Lý Mạc Sầu đã giải huyệt cho Hồng Lăng Ba từ lâu, mắng đệ tử mấy câu, đang tính toán phương vị trong mộ, tìm lối ra khỏi thạch thất, thì đột nhiên bị Tiểu Long Nữ tấn công, cả hai sư đồ cùng giật mình. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần đánh bật dải thắt lưng của Tiểu Long Nữ. Cây phất trần và dải thắt lưng đều là vật cực mềm, lấy nhu địch phu, nhưng Lý Mạc Sầu công lực hơn hẳn, nên hai binh khí chạm nhau, dải thắt lưng của Tiểu Long Nữ liền bị bật lại.

Tiểu Long Nữ cuốn dải thắt lưng bên trái về, dải thắt lưng bên phải đánh tiếp, trong giây lát đã công liền mấy chiêu, hai dải thắt lưng yêu kiều sinh động. Lý Mạc Sầu vừa ngạc nhiên vừa tức giận: “Sư phụ quả nhiên thiên vị, chưa hề truyền thụ cho ta môn này”. Lý Mạc Sầu thấy chẳng cần hạ sát thủ, một là chưa lấy được “Ngọc nữ tâm kinh”, nếu giết Tiểu Long Nữ, thì khó lòng tìm được cái gì trong tòa nhà mồ này; hai là cũng muốn biết rốt cuộc thì sư phụ dạy cho sư muội những môn võ công lợi hại nào.

Hồng Lăng Ba lâu nay tự phụ khôn ngoan giỏi giang, không ngờ hôm nay bị mắc lừa một gã thiếu niên, suốt nửa ngày trời cứ tưởng gã là một kẻ ngớ ngẩn, lúc này cả giận, thấy sư phụ giao đấu với sư thúc, bèn quát:

– Thằng Ngố, mi quả là một tên tiểu tặc đáng ghét!

Hai tay hai kiếm, tiến lên nửa bước, nói:

– Ngươi hãy nhìn đây, xem ta cắt mũi xẻo tai ngươi.

Rồi song kiếm tiên tiếp đâm chém, tấn công liền mấy chiêu. Dương Quá thấy đối phương lợi hại, đành rút kiếm chống đỡ. Nếu là lúc khác, hẳn chàng đã nói vài lời châm chọc, đùa bỡn với nàng ta; nhưng lúc này nghĩ đến cảnh sắp phải biệt ly với Tiểu Long Nữ, mắt rưng rưng lệ, nhìn mọi vật mờ mờ, chỉ thuận tay chống đỡ chứ không có ý trả đòn. Hồng Lăng Ba thấy chàng xuất thủ vô lực, ngỡ chàng bản lĩnh tầm thường, càng tự trách mình lúc trước quá sơ ý để chàng điểm trúng huyệt đạo.

Lý Mạc Sầu đấu với sư muội hơn mười chiêu, cây phất trần lật một cái, cuốn lấy dải thắt lưng bên trái của Tiểu Long Nữ, cười, nói:

– Sư muội, hãy xem bản lĩnh của sư tỷ ngươi.

Rồi vận sức ra tay, dải thắt lưng lập tức bị đứt thành hai đoạn. Giao đấu bằng đao kiếm thông thường, dùng binh khí của mình đánh gãy binh khí của đối phương đã khó; cây phất trần và dải thắt lưng đều là vật cực mềm, vậy mà Lý Mạc Sầu có thể dùng cương kình làm đứt dải thắt lưng, thật còn khó gấp mười lần. Làm được việc đó, nàng ta lộ vẻ đắc chí.

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Bản lĩnh của sư tỷ thế nào đây?

Nửa dải thắt lưng đứt tung ra, quấn lấy phần sợi của cây phất trần, còn dải thắt lưng bên phải thì bay tới cuốn lấy cán gỗ cây phất trần, một bên kéo sang trái, một bên kéo sang phải, “rắc” một tiếng, cây phất trần gãy rời làm đôi. Việc này luận về công lực, so với việc Lý Mạc Sầu làm đứt dải thắt lưng, thì thua xa, song Tiểu Long Nữ xuất thủ cực lẹ, vận kình xảo diệu, làm cho Lý Mạc Sầu không kịp trở tay.

Nàng ta vứt cây phất trần, tay không sấn tới đoạt dải thắt lưng, dồn Tiểu Long Nữ liên tiếp thoái lui.

Lại đấu hơn mười chiêu nữa, Tiểu Long Nữ đã lùi tới trước bức tường bên đông, đằng sau đã hết chỗ lùi, nàng bỗng đẩy tay vào tường một cái, nói:

– Quá nhi, đi mau!

Có tiếng ken két, góc đông bắc chợt hé ra một cái khe. Lý Mạc Sầu kinh ngạc, vội xoay mình định cản Dương Quá. Tiểu Long Nữ quẳng dải thắt lưng, sấn tới, song chưởng cùng hạ sát thủ. Lý Mạc Sầu đành quay lại chống đỡ. Tiểu Long Nữ quát:

– Quá nhi, còn chưa đi mau!

Dương Quá nhìn Tiểu Long Nữ, biết không còn cách nào nữa, nói:

– Cô cô, đệ tử đi đây!

Vút vút vút chàng đột tiến ba kiếm vào trước mặt Hồng Lăng Ba; nàng ta cứ ngỡ kiếm chiêu của chàng tầm thường, nào ngờ đột nhiên kiếm thế quá lợi hại, trong lúc nguy cấp đành nhảy lùi lại. Dương Quá cúi mình lao qua khe cửa mở, ngoảnh đầu nhìn Tiểu Long Nữ lần cuối.

Tiểu Long Nữ đang tay không đối chưởng với sư tỷ, tuy trong tình trạng bị thương nặng, nhưng do luyện tập “Ngọc nữ tâm kinh”, sau mấy chục chiêu vẫn có thể không bị núng thế; nhưng nhìn bóng Dương Quá vút qua khe cửa, nghĩ từ nay vĩnh viễn không còn gặp lại, bỗng ngực nóng ran, mắt cay cay, tựa hồ sắp ứa nước mắt. Bao năm nay nàng chẳng hề xúc động chân tình, hôm nay hai lần chực khóc, không khỏi cả kinh. Cao thủ đối chưởng, đâu được phép thiếu tập trung chú ý? Lý Mạc Sầu thấy sư muội hơi ngẩn ra, lập tức lợi dụng sơ hở, chộp ngay lấy huyệt Hội Tông ở cổ tay trái, đưa chân gạt một cái. Tiểu Long Nữ đứng không vững, ngã phệt xuống.

Dương Quá ngoảnh đầu lại, đúng lúc thấy Tiểu Long Nữ bị sư tỷ gạt ngã, Lý Mạc Sầu nhào tới sắp sát hại sư phụ, thì máu nóng bốc lên, chàng thét:

– Không được hại cô cô của ta.

Đoạn nhảy vọt trở vào, ôm chặt lấy ngang eo lưng Lý Mạc Sầu. Cái ôm này không trong chiêu số bất cứ môn phái nào cả; là hành động tự nhiên giữa lúc nguy cấp mà thôi. Lý Mạc Sầu chỉ định bắt sống sư muội, không ngờ Dương Quá nhảy trở vào, bị chàng ôm chặt lấy, nhất thời chưa gỡ ra được.

Lý Mạc Sầu tuy ra tay tàn bạo, hành động ngang ngược, bất chấp tập tục; song nàng ta giữ thân như ngọc, phiêu bạt giang hồ ngần ấy năm mà vẫn còn là xử nữ; tự dưng bị Dương Quá ôm chặt, cảm thấy một luồng hơi ấm của nam tử từ sau lưng truyền lan khắp cơ thể, người bửng lửng, bất giác toàn thân mềm nhũn, hai má nóng bừng, cánh tay vô lực. Tiểu Long Nữ thừa cơ điểm yếu huyệt ở cổ tay sư tỷ, nhưng mũi kiếm của Hồng Lăng Ba cũng đã đâm tới lưng Dương Quá.

Tiểu Long Nữ nằm ngửa dưới đất, thấy kiếm đánh tới vội lăn sang trái, kéo Dương Quá cùng Lý Mạc Sầu sang một bên, nhát kiếm của Hồng Lăng Ba lạc không. Tiểu Long Nữ bật dậy, quát:

– Quá nhi, đi mau!

Dương Quá đang ôm chặt Lý Mạc Sầu, nói:

– Cô cô, cô cô hãy đi đi! Đệ tử ôm cứng rồi, sư bá không đi đâu được.

Lý Mạc Sầu trong giây lát vụt nghĩ bao nhiêu điều biết tình thế nguy cấp, sống chết chỉ trên đầu sợi tóc nhưng bị Dương Quá ôm chặt, hồn vía đê mê, dễ chịu khôn tả, không muốn vùng vẫy gì hết. Tiểu Long Nữ lấy làm lạ: “Sư tỷ võ công cao siêu, sao lại bị Dương Quá chế ngự không cựa quậy được thế nhỉ?” Thấy tay kiếm bên trái của Hồng Lăng Ba lại đâm về phía Dương Quá, bèn giơ hai ngón tay búng vào thân kiếm trong tay phải của nàng ta, thanh kiếm này văng vào thanh kiếm bên trái, keng một tiếng, Hồng Lăng Ba cảm thấy hai hổ khẩu tê dại, hai thanh kiếm cùng rơi xuống đất, nàng ta giật mình nhảy lùi ra sau.

Hai kiếm va nhau, bắn ra mấy tia lửa, trong cái nhoáng lên của vài tia lửa ấy, Lý Mạc Sầu nhận thấy ánh mắt kỳ dị của sư muội, thì bất giác xấu hổ, nói:

– Tên tiểu tử thối tha, muốn chết hả?

Liền vận sức vào hai cánh tay, gỡ tay thoát khỏi vòng ôm của Dương Quá, bật dậy, phát chưởng tấn công Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ đang chăm chú nhìn Dương Quá, bỗng phát hiện chưởng phong của Lý Mạc Sầu, không kịp hóa giải, đành giơ chưởng chống đỡ, chỉ cảm thấy chưởng lực của sư tỷ khá nặng, khiến nàng đau tức cả ngực, thấy Dương Quá lao tới giúp mình, bèn quát:

– Quá nhi, ngươi không chịu vâng lời ta thật sao?

Dương Quá nói:

– Cô cô bảo gì, đệ tử cũng nghe, nhưng riêng câu này thì không. Cô cô, sống chết gì đệ tử cũng ở bên cô cô.

Tiểu Long Nữ nghe chàng nói chân thành, lại xúc động chân tình, thấy Lý Mạc Sầu lại vung chưởng đánh tới, tự biết lúc này công lực đại tổn, không thể chống đỡ, vội kéo Dương Quá, cúi đầu vọt qua khe cửa.

Lý Mạc Sầu như hình với bóng, giơ tay chộp sau lưng nàng, miệng nói:

– Chớ có đi!

Tiểu Long Nữ phẩy tay ra phía sau, hơn mười chiếc “Ngọc phong châm” phóng ra. Lý Mạc Sầu ngửi thấy mùi mật thơm ngọt, biết là ám khí lợi hại, vội ngả người bật ra đằng sau, húc ngay phải Hồng Lăng Ba, khiến cả hai cùng ngã ngửa.

Chỉ nghe mấy tiếng chíu chíu, nhiều chiếc “Ngọc phong châm” cắm lên bức tường đá, tiếp đó hai tiếng kèn kẹt, Tiểu Long Nữ sau khi kéo Dương Quá thoát ra khỏi thạch thất, đã khởi động chốt đóng chặt cửa lại.

Hồi 07: Trùng Dương di ngôn

Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ chạy theo thông đạo ra khỏi nhà mồ, vui mừng không biết để đâu cho hết, dưới ánh sao hít mấy hơi dài, nói:

– Cô cô, đệ tử đi hạ hai phiến “Đoạn long thạch” để chôn vùi hai nữ nhân xấu xa kia ở trong mộ đây.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hãy khoan, chờ ta trở vào trong ấy đã.

Dương Quá kinh ngạc, vội hỏi:

– Vì sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ đã dặn ta phải canh giữ tòa nhà mồ này thật tốt, không để kẻ khác chiếm giữ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta lấp kín cửa nhà mồ, họ chết còn đâu mà chiếm giữ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nhưng như vậy thì ta cũng không vào được nữa. Lời dặn của sư phụ, vĩnh viễn ta không dám làm trái, không thể giống như ngươi!

Nói rồi trừng mắt nhìn Dương Quá một cái. Dương Quá máu nóng trào lên ngực, giơ tay nắm lấy cánh tay nàng, nói:

– Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô thì được mà.

Tiểu Long Nữ cố nén lòng, sợ xúc động, một câu cũng không nói nữa, gỡ tay chàng ra, bước qua cửa mộ vào trong, nói:

– Ngươi hạ phiến đá xuống đi!

Nàng quay lưng ra ngoài, chỉ sợ chính mình đổi ý, cũng không ngoảnh nhìn Dương Quá lần cuối cùng.

Dương Quá tâm ý đã quyết, hít một hơi thật sâu toàn là mùi hương hoa và cây cỏ tươi mát, ngẩng đầu nhìn trời, muôn ngàn ngôi sao nhấp nháy không thôi, nghĩ thầm: “Đây là lần cuối cùng ta được ngắm trời sao”. Chàng đến mé trái tấm bia mộ, theo lời chỉ dẫn từ trước của Tiểu Long Nữ, vận sức đẩy một tảng đá lớn, quả nhiên bên dưới có một hòn đá tròn. Chàng kéo mạnh hòn đá ấy lên, thấy lộ ra một lỗ hổng, một dòng cát mịn từ trong lỗ chảy rất nhanh ra ngoài, hai khối đá lớn phía trên cửa mộ từ từ hạ xuống. Hai khối “Đoạn long thạch” này nặng cả vạn cân, hồi Vương Trùng Dương xây mộ, phải dùng sức cả trăm người mới lắp đặt chúng đúng vị trí. Bây giờ “Đoạn long thạch” đã lấp kín vĩnh viễn cửa mộ; Lý Mạc Sầu, Tiểu Long Nữ, Hồng Lăng Ba võ công cao mấy, cũng không tài gì ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ nghe tiếng hai khối đá nặng sập xuống, không nén được nữa, nước mắt trào ra, ngoảnh đầu nhìn lại. Dương Quá chờ lúc hai khối đá hạ xuống cách mặt đất chừng hai thước, đột nhiên sử chiêu “Ngọc nữ đầu thoa”, thân hình như một mũi tên bay vèo qua khoảng trống vào trong. Tiểu Long Nữ kêu lên kinh ngạc, Dương Quá đã đứng thẳng người dậy, cười nói:

– Cô cô muốn đuổi đệ tử ra cũng không kịp nữa rồi.

Lời chưa dứt, sầm sầm hai tiếng mạnh; hai khối đá lớn đã sập tới đất.

Tiểu Long Nữ vừa kinh ngạc vừa vui mừng, quá xúc động, suýt nữa ngất đi, phải tựa lưng vào tường đá thở hổn hển. Hồi lâu, nàng mới nói:

– Thôi được, hai ta cùng chết với nhau vậy.

Rồi nàng dắt tay Dương Quá đi vào nội thất.

Sư đồ Lý Mạc Sầu đang tìm kiếm cơ quan ở bốn phía, sờ chỗ này, nắn chỗ kia, không theo một trật tự nào cả, ruột nóng như lửa, bỗng thấy hai người trở lại, thì mừng hết chỗ nói. Lý Mạc Sầu vọt tới sau lưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá để chặn đường rút của hai người. Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Sư tỷ, để muội dẫn sư tỷ tới một chỗ.

Lý Mạc Sầu không đáp, nghĩ thầm: “Trong cái nhà mồ này, chỗ nào cũng có các cơ quan, chỉ một mình sư muội biết, nếu sư muội muốn lừa ta, ta thật khó đề phòng”.

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội đưa sư tỷ đi bái kiến linh cữu sư phụ, sư tỷ không muốn đi thì thôi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội khỏi cần mượn danh sư phụ để lừa ta.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, không đáp, đi ra cửa. Lý Mạc Sầu thấy ngôn ngữ cử chỉ của Tiểu Long Nữ có một sự uy nghiêm tựa hồ buộc người ta không được phản kháng, sư đồ hai người bèn đi theo sau, có điều là từng bước sẵn sàng đề phòng bất trắc. Tiểu Long Nữ dắt tay Dương Quá đi trước, cũng chẳng sợ sư tỷ ở đằng sau ám toán, dẫn họ đi tới gian đặt các cỗ quan tài đá.

Lý Mạc Sầu chưa từng đến gian này, nghĩ đến ơn giáo dưỡng của sư phụ, thấy hơi thương cảm, nhưng lại nghĩ sư phụ thiên vị, thì từ thương chuyển thành giận, rốt cuộc không khấu đầu trước linh cữu sư phụ, nói:

– Sư đồ ta sớm đã đoạn tình tuyệt nghĩa, sư muội dẫn ta đến đây làm gì?

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Ở đây còn hai cỗ quan tài trống, một dành cho sư tỷ một dành cho muội. Sư tỷ thích cỗ nào, thì hãy chọn đi.

Nói rồi giơ tay chỉ hai cỗ quan tài.

Lý Mạc Sầu cả giận, nói:

– Sư muội dám đùa giỡn với ta hả?

Liền xuất chưởng đánh tới ngực Tiểu Long Nữ, ai dè Tiểu Long Nữ thấy đòn chẳng buồn tránh. Lý Mạc Sầu sững lại, nghĩ thầm: “Chưởng này đủ đánh chết ngươi”, cạnh bàn tay còn cách ngực Tiểu Long Nữ vài tấc thì thu về, Tiểu Long Nữ tâm bình khí hòa, nói:

– Sư tỷ. “Đoạn long thạch” ở cửa mộ đã sập xuống rồi!

Sắc mặt Lý Mạc Sầu lập tức tái nhợt đi; các cơ quan trong mộ, nàng ta không biết nhiều, riêng cái cơ quan lợi hại nhất ở cửa nhà mồ là “Đoạn long thạch” dùng để lấp kín cửa thì biết rõ. Hồi trước sư phụ từng gặp đại địch, gần như khó địch nổi, chút nữa đã tính hạ “Đoạn long thạch” xuống để chặn địch ở bên ngoài; nhưng sau dùng “Băng phách ngân châm” và “Ngọc phong châm” đả thương được kẻ địch mới thôi. Nào ngờ cuối cùng sư muội lại nhốt chết nàng ta ở đây, thì kinh hoàng nói, giọng run run:

– Sư muội biết có lối khác thoát ra, phải không?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– “Đoạn long thạch” đã sập xuống, cửa mộ làm sao còn mở ra được nữa, sư tỷ chẳng lẽ không biết hay sao?

Lý Mạc Sầu thộp ngực áo của Tiểu Long Nữ, gằn giọng nói:

– Sư muội đánh lừa ta?

Tiểu Long Nữ thản nhiên, nói:

– “Ngọc nữ tâm kinh” mà sư phụ lưu lại ở bên kia kìa, sư tỷ muốn xem thì lại đó mà xem. Muội và Quá nhi ở đây, sư tỷ muốn giết, cứ việc ra tay; nhưng sư tỷ muốn sống ra khỏi cái nhà mồ này thì muội thấy chẳng có đường nào đâu!

Bàn tay của Lý Mạc Sầu nắm ngực áo thả lỏng dần, nàng chăm chú nhìn sư muội, thấy sắc mặt của sư muội hoàn toàn hờ hững, biết là sư muội không nói dối, bèn đổi ý, nói:

– Cũng được, để ta giết chết hai sư đồ các ngươi trước vậy?

Rồi vung chưởng đánh vào mặt Tiểu Long Nữ.

Dương Quá sấn lại, chắn ngay phía trước Tiểu Long Nữ, nói:

– Sư bá hãy giết ta đã?

Lý Mạc Sầu hạ tay xuống, chưa dồn sức ra tay, hầm hầm nhìn Dương Quá, hỏi:

– Ngươi che chở cho nàng ta, tức là sẵn lòng vì nàng ta mà chết, phải vậy không?

Dương Quá đáp, giọng sang sảng:

– Đúng thế!

Lý Mạc Sầu dùng tay trái rút phắt thanh kiếm đeo ở lưng Dương Quá, chĩa vào cổ chàng, gằn giọng:

– Ta chỉ muốn giết một người. Ngươi hãy nói lại lần nữa, ngươi chịu chết hay nàng ta chết?

Dương Quá không đáp, chỉ nhìn Tiểu Long Nữ mỉm cười. Lúc này hai người đã không còn nghĩ gì đến chuyện sống chết, Lý Mạc Sầu bất kể giết ai thì cũng vậy mà thôi.

Lý Mạc Sầu thở dài, nói:

– Sư muội, lời thề của sư muội coi như không còn nữa; sư muội có thể xuống núi.

Tổ sư phái Cổ Mộ Lâm Triêu Anh năm xưa si mê Vương Trùng Dương, nhưng hai người không thành được phu thê. Lâm Triêu Anh đau khổ, định ra môn qui, phàm là người được truyền y bát, tất phải thề suốt đời sống trong nhà mồ, không được rời khỏi núi Chung Nam; song nếu có một nam tử cam tâm tình nguyện chết thay, thì lời thề coi như được xóa bỏ. Có điều là không được cho nam tử biết trước điều đó. Lâm Triêu Anh cho rằng mọi nam tử trên thế gian đều vô ân bạc tình, anh hùng hiệp nghĩa như Vương Trùng Dương còn thế, huống hồ kẻ khác? Chắc chắn không thể có một nam tử nào cam tâm tình nguyện chết thay cho người mình yêu; giả dụ có được một nam tử như thế, thì đệ tử đời sau của Lâm Triêu Anh có theo nam tử đó xuống núi cũng không uổng phí một đời.

Lý Mạc Sầu gia nhập sư môn sớm hơn Tiểu Long Nữ, lẽ ra được truyền y bát, nhưng không chịu thề suốt đời không xuống núi, nên sau đó Tiểu Long Nữ trở thành người được chân truyền.

Lúc này Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá chân thành đối đãi với Tiểu Long Nữ, thì không khỏi vừa ngưỡng mộ, vừa đau buồn; nhớ lại sự phụ bạc của Lục Triển Nguyên đối với mình, bèn nói:

– Sư muội, ngươi thật có phúc.

Bèn đâm mạnh kiếm vào cổ Dương Quá.

Tiểu Long Nữ thấy sư tỷ hạ độc thủ thật sự, thì không thể không cứu, bèn hất tay trái, hơn mười chiếc “Ngọc phong châm” phóng ra.

Lý Mạc Sầu nhún hai chân, nhảy sang bên tránh những chiếc châm độc. Tiểu Long Nữ đã kéo Dương Quá chạy ra cửa, ngoảnh lại nói:

– Sư tỷ, lời thề của muội còn hay hết hiệu lực cũng thế cả. Bốn chúng ta sẽ cùng chết trong cái nhà mồ này. Muội không muốn nhìn mặt sư tỷ nữa, mỗi người hãy chết theo cách của mình.

Nàng giơ tay ấn vào góc tường, cửa đá sập xuống, lại ngăn cách bốn người ở hai nơi.

Tiểu Long Nữ tâm tình kích động, nhất thời khó cất bước. Dương Quá dìu nàng đi tới buồng của Tôn bà bà ngồi nghỉ. Chàng rót mật ong ra chén, mời nàng uống một chén, chàng cũng uống một chén. Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Quá nhi, ngươi sao lại cam nguyện chết thay ta?

Dương Quá nói:

– Thiên hạ chỉ có cô cô đối tốt với đệ tử, lẽ nào đệ tử không chết thay cho cô cô?

Tiểu Long Nữ im lặng, lát sau mới nói:

– Sớm biết thế này, hai ta cũng chả cần trở lại nhà mồ cùng chết với họ. Nhưng nếu không quay trở vào thì làm sao biết ngươi cam nguyện chết thay ta, lời thề của ta cũng chưa thể bỏ.

Dương Quá nói:

– Chúng ta nghĩ cách thoát ra khỏi mộ được chăng?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi không biết kiến trúc của cái nhà mồ này xảo diệu thế nào, chúng ta không thể thoát ra ngoài được đâu

Dương Quá thở dài não nuột.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi hối hận rồi phải không?

Dương Quá nói:

– Không, đệ tử được ở bên cạnh cô cô, thế giới bên ngoài lại chẳng có ai yêu thương đệ tử.

Tiểu Long Nữ dạo trước không cho phép Dương Quá nhắc đến hai chữ “yêu thương” nên Dương Quá cũng không dám nhắc đến; lúc này tâm tình của nàng đã thay đổi, nghe hai tiếng ấy cảm thấy rất ấm lòng, bèn hỏi:

– Thế sao ngươi lại thở dài?

Dương Quá nói:

– Đệ tử nghĩ giá như hai ta cùng xuống núi, thiên hạ có nhiều trò chơi thú vị, hai ta ở bên nhau thì sung sướng vô cùng.

Tiểu Long Nữ từ lọt lòng lớn lên trong nhà mồ, bao năm nay lòng như nước ao tù, sư phụ và Tôn bà bà chưa bao giờ kể cho nàng biết sự việc ở thế giới bên ngoài, dĩ nhiên nàng không hề tưởng tượng, lúc này nghe Dương Quá nhắc đến, bất giác tâm sự như sóng trào, nhiệt huyết cứ từng đợt trào dâng trong ngực, định vận khí khắc chế, nhưng vẫn không sao trấn tĩnh được; thì không khỏi kinh dị, tự thấy bình sinh chưa bao giờ trải qua cảnh này, nghĩ chắc là do sau khi bị trọng thương, khó phục hồi công lực. Nàng không biết rằng dùng tĩnh công áp chế thất tình lục dục, vốn là hành sự trái tự nhiên, chỉ khắc chế bản thân mình, chứ hoàn toàn không thể nhờ đó mà tiêu trừ được tình dục. Bây giờ nàng đã hơn hai mươi tuổi bất ngờ gặp nạn, lại có một thiếu niên sẵn lòng chết thay cho nàng, thì khó tránh khỏi xúc động chân tình, đủ mọi cảm xúc ào ra như vỡ đê. Nàng ngồi trên giường vận công một hồi, thấy nóng lòng sốt ruột, bèn xuống đất đi đi lại lại, càng đi lại càng sầu muộn, bèn gia tăng cước bộ, chạy loanh quanh. Dương Quá thấy hai má nàng hồng lên, thần tình kích động, từkhi biết nàng đến nay chưa thấy cảnh này lần nào, thì không khỏi kinh hãi. Tiểu Long Nữ chạy một hồi, lại ngồi xuống giường nhìn Dương Quá, thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan thiết, trong lòng bỗng xúc động: “Nhưng ta với chàng đều sắp chết cả rồi, đôi bên còn phân biệt sư đồ cô điệt làm gì kia chứ? Giá chàng lại ôm ta, ta sẽ không đẩy chàng ra, mà để cho chàng ôm chặt lấy ta”.

Dương Quá thấy mắt nàng long lanh, ngực nàng phập phồng, tưởng ra thương thế tái phát, vội hỏi:

– Cô cô, có sao không?

Tiểu Long Nữ dịu giọng, nói:

– Quá nhi, lại đây nào.

Dương Quá y lời tới bên giường. Tiểu Long Nữ cầm lấy bàn tay chàng, đưa lên xoa xoa nhẹ má mình, hỏi nhỏ:

– Quá nhi, có thích ta không?

Dương Quá chỉ thấy mặt nàng nóng bừng bừng, thì lo cuống lên, run run hỏi:

– Cô cô bị đau ngực hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Không, ta cảm thấy rất dễ chịu. Quá nhi, ta sắp chết rồi, ngươi hãy nói cho ta biết, có thật là ngươi thích ta hay không?

Dương Qua nói:

– Đương nhiên, trên thế gian chỉ có cô cô là thân nhân của đệ tử mà thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu có một nữ nhân khác đối với ngươi cũng tốt như ta, thì ngươi có tốt với người ấy hay không?

Dương Quá nói:

– Ai tốt với đệ tử, đệ tử cũng sẽ tốt với người ấy.

Chàng thấy bàn tay nàng đang cầm tay mình run run, rồi lạnh hẳn đi, sắc mặt nàng đang ửng hồng bỗng lại tái trắng như mọi khi.

Dương Quá lo lắng hỏi:

– Đệ tử nói saiư?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu ngươi còn thích nữ nhân khác trên thế gian, thì đừng thích ta là hơn.

Dương Quá cười, nói:

– Hai ta còn vài hôm nữa đã chết rồi, đệ tử còn thích nữ nhân nào khác sao được? Chẳng lẽ đệ tử đi thích Lý Mạc Sầu và nữ đồ đệ của sư bá hay sao?

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Ta hồ đồ thật. Nhưng ta vẫn muốn nghe chính miệng ngươi thề với ta một điều.

Dương Quá hỏi:

– Điều gì nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta muốn ngươi nói, từ nay trong lòng ngươi chỉ có một mình ta, nếu có nữ nhân khác, thì ta sẽ giết chết ngươi.

Dương Quá cười, nói:

– Đừng nói đệ tử vĩnh viễn không có nữ nhân khác, mà giả dụ đệ tử không tốt, không vâng lời cô cô thì cũng đáng bị cô cô giết.

Thế rồi chàng liền thề:

– Đệ tử Dương Quá suốt kiếp này trong lòng chỉ có một mình cô cô; nếu về sau thay lòng đổi dạ, thì khỏi cần cô cô đến giết, chỉ cần nhìn thấy mặt cô cô, là đệ tử sẽ tự sát.

Tiểu Long Nữ rất hài lòng, nói:

– Ngươi nói rất hay, vậy thì ta yên tâm rồi.

Nàng cứ nắm chặt tay chàng không buông. Dương Quá cảm thấy từng luồng hơi ấm từ tay nàng truyền sang.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ta thật không tốt.

Dương Quá vội nói:

– Không đâu, cô cô lúc nào cũng tốt.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Hồi trước ta đối với ngươi quá dữ, thoạt đầu còn đuổi ngươi đi, may mà Tôn bà bà giữ ngươi lại. Nếu ta không đuổi ngươi đi, thì Tôn bà bà đã chẳng bị chết!

Nói đến đây, bất giác nước mắt muốn trào ra.

Nàng từ năm tuổi bắt đầu luyện công, từ đấy không khóc bao giờ; lúc này khóc trở lại, tâm thần chấn động mạnh, khớp xương toàn thân kêu tanh tách, tựa hồ nội lực đang rời bỏ thân thể. Dương Quá kinh hãi, gọi:

– Cô cô, cô cô làm sao… thế?

Lời chưa dứt, bỗng có tiếng ken két, cánh cửa đá mở ra, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đã tiến vào. Nguyên Lý Mạc Sầu nghĩ rằng “Đoạn long thạch” đã ập xuống, đằng nào cũng chết, chẳng cần e ngại các cơ quan mai phục nguy hiểm gì nữa, cứ xông xáo bừa đi, cuối cùng vượt qua liền mấy gian thạch thất, đến gian buồng của Tôn bà bà.

Nàng ta cứ tưởng là gặp vận may, không động chạm tới cơ quan vây khốn, không biết rằng các cơ quan trong mộ vốn được bố trí để chống đại đội quân Kim, toàn làm bằng đá lớn, vừa thô vừa nặng, phải có người vận hành thì mới hoạt động, Tiểu Long Nữ đã không định ám toán, thì các cơ quan ấy cũng không hoạt động.

Dương Quá lập tức đứng chắn cho Tiểu Long Nữ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Ngươi tránh ra, để ta nói chuyện với sư muội.

Dương Quá sợ Lý Mạc Sầu gian trá, hãm hại sư phụ, đáp:

– Sư bá có gì cứ nói là được.

Lý Mạc Sầu trừng trừng nhìn chàng hồi lâu, thở dài, nói:

– Nam tử như ngươi, quả trong thiên hạ hiếm thấy.

Tiểu Long Nữ bỗng đứng dậy, hỏi:

– Sư tỷ, sư tỷ bảo y tốt hay không tốt?

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội chưa từng xuống núi, không biết lòng người trên thế gian hiểm ác, người nặng tình nặng nghĩa như y khắp thiên hạ không tìm được người thứ hai đâu.

Lý Mạc Sầu đã bị trúng thương trên tình trường, vô cùng bi phẫn, nên khó tránh khỏi nói quá, cho rằng trên thế gian không có lấy một nam tử chân tình.

Tiểu Long Nữ rất vui, nói nhỏ:

– Thế thì có y cùng chết theo muội, cũng không uổng phí một đời của muội.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, rốt cuộc thì y là người thế nào với sư muội? Sư muội đã lấy y rồi à?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, y là đồ nhi của muội. Y bảo là muội đối tốt với y; nhưng rốt cuộc tốt hay không tốt, chính muội cũng không biết.

Lý Mạc Sầu lấy làm lạ, lắc đầu, nói:

– Sư muội, để ta coi cánh tay của sư muội xem nào.

Nói rồi tay trái khẽ nắm tay Tiểu Long Nữ, tay phải vén ống tay áo của sư muội, thấy trên làn da trắng như tuyết có một điểm hồng, chính là vết son trinh nữ mà sư phụ chấm ở đó, gọi là “Thủ cung sa”.

Lý Mạc Sầu thầm thán phục: “Hai người này sống kề bên nhau trong nhà mộ, mà vẫn giữ lễ, sư muội vẫn là xử nữ trinh trắng”. Bèn vén ống tay áo của mình, vết son trinh nữ đỏ hồng như máu; hai cánh tay ngọc giơ cạnh nhau, thật khiến người động lòng. Có điều là Lý Mạc Sầu chẳng thể làm gì khác, đành giữ thân nguyên vẹn, còn sư muội thì lại có người tình nguyện vì nàng mà chết, sướng khổ cùng ở bên nhau mãi mãi; nghĩ đến đây, Lý Mạc Sầu không khỏi thở dài não nuột, buông tay Tiểu Long Nữ ra.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Sư tỷ có điều gì muốn nói với muội?

Lý Mạc Sầu vốn định nhiếc móc sư muội một phen, rằng đã dụ dỗ nam tử, làm bại hoại sư môn, để sư muội trong lúc vừa thẹn vừa tức sẽ vô tình tiết lộ lối ra khỏi nhà mồ; nhưng lúc này không thể làm thế được nữa; nàng ta ngẫm nghĩ giây lát, lại có chủ ý, nói:

– Sư muội, ta tới đây để xin lỗi sư muội.

Tiểu Long Nữ hoàn toàn bất ngờ, nàng vốn biết vị sư tỷ tâm cao khí ngạo, không đời nào chịu cúi đầu trước người khác, câu nói vừa rồi không hiểu có dụng ý gì, bèn thản nhiên nói:

– Sư tỷ làm việc của sư tỷ, muội làm việc của muội, ai việc nấy làm, khỏi cần xin lỗi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội, hãy nghe ta nói. Chúng ta là nữ nhân, cái phúc lớn nhất của cả một đời là có một đức lang quân chân tình. Cổ nhân có câu “Muốn tìm báu vật dễ không, tình lang được kẻ hết lòng khó thay”(°) ((°)易求無價寶 , 難得有情郎-Dị cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang (Tặng lân nữ, Ngư Huyền Cơ – Đường). Số mệnh của ta hẩm hiu, thôi khỏi nói làm gì. Gã trai này đối với sư muội tốt quá, sư muội quả thật chẳng còn thiếu cái gì nữa.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Muội đúng là rất sung sướng. Quá nhi vĩnh viễn sẽ không phụ bạc muội, muội biết chứ.

Lý Mạc Sầu buồn bã nói:

– Thế thì sư muội hãy xuống núi mà sống cho sướng đời mới phải. Thế giới tươi đẹp, hai người như đôi uyên ương cùng đậu cùng bay, thưởng tâm lạc sự, thật sung sướng tận cùng.

Tiểu Long Nữ ngẩng lên, xuất thần giây lát, nhẹ nhàng nói:

– Đúng vậy, tiếc rằng đã muộn mất rồi.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Sao lại muộn?

Tiểu Long Nữ nói:

– “Đoạn long thạch” đã sập xuống, dẫu sư phụ tái sinh, chúng ta cũng chẳng tài gì thoát khỏi nơi đây.

Lý Mạc Sầu thất vọng, phí cả một phen thuyết phục, những mong gợi ý ham sống cho sư muội, để sư muội vốn thông thuộc địa hình tòa nhà mồ mà tìm một lối thoát, ai dè chẳng kết quả gì, chỉ là vô vọng, nàng ta đổi sang tức giận, sát ý nảy sinh, cổ tay lật nhẹ, giơ chưởng đánh xuống đỉnh đầu sư muội.

Dương Quá đứng bên nghe hai người đối đáp với nhau, chợt thấy Lý Mạc Sầu bỗng nhiên hạ sát thủ, trong lúc hoảng loạn tự nhiên rùn mình xuống, quát một tiếng, song chưởng đẩy ra, sử dụng “Cáp mô công” do Âu Dương Phong truyền thụ. Món này chàng học mấy năm trước, từ hồi vào sống trong nhà mồ thì không luyện nữa, nhưng nó khắc sâu trong trí não, vào lúc nguy cấp nhất tự dưng bật ra.

Một chưởng của Lý Mạc Sầu chưa vỗ xuống đầu Tiểu Long Nữ, thì đột nhiên phát giác có luồng chưởng phong cực kỳ lợi hại từ bên cạnh ào sang, vội hồi chưởng chém ngang xuống. Dương Quá tu tập hai năm trong nhà mồ, nội lực đã mạnh, lực đẩy đã mạnh hơn xưa rất nhiều, sầm một tiếng, Lý Mạc Sầu bị đẩy bay vào bức tường đá phía sau, chắc là đau điếng.

Lý Mạc Sầu cả giận, xoa xoa hai tay vào nhau, trong thạch thất mùi tanh lan rộng, ngửi phải chỉ muốn nôn oẹ. Tiểu Long Nữ biết vừa rồi một đòn của Dương Quá may mắn đắc thủ, chứ một khi sư tỷ thi triển công phu Xích Luyện thần chưởng lợi hại, thì nàng và Dương Quá hợp lực cũng không chống đỡ nổi, bèn kéo tay Dương Quá chạy ra cửa buồng.

Lý Mạc Sầu vung chưởng đánh tới, nào ngờ bàn tay đang ở giữa chừng, thì má bên trái bỗng bị một cái tát, tuy không đau, nhưng nghe tiếng “bốp” rất vang, rồi giọng nói của Tiểu Long Nữ:

– Sư tỷ muốn học “Ngọc nữ tâm kinh”, thì đây!

Lý Mạc Sầu đang sững sờ, thì má phải lại trúng một chưởng nữa. Nàng ta biết công phu “Ngọc nữ tâm kinh” của sư phụ vô cùng lợi hại, vừa rồi Tiểu Long Nữ xuất thủ cực nhanh, thế chưởng biến ảo như thần, hiển nhiên là kiểu cách võ công bản môn, song nàng ta lại hoàn toàn không hiểu sự ảo diệu của nó, đây hẳn là công phu “Ngọc nữ tâm kinh”, trong bụng khiếp vía, trơ mắt nhìn Tiểu Long Nữ dắt Dương Quá đi sang gian khác, đóng cửa buồng này lại. Nàng ta đưa tay sờ má, nghĩ thầm: “Đấy là sư muội thủ hạ lưu tình, chứ nếu dùng sức vào hai chưởng vừa rồi, thì mình đã mất mạng.” Lý Mạc Sầu không biết rằng môn võ công ấy Tiểu Long Nữ vẫn chưa luyện thành, chưởng pháp tuy tinh diệu, song chưởng lực không thể đả thương người khác.

Dương Quá thấy sư phụ đường hoàng giáng cho Lý Mạc Sầu hai cái tát thì vô cùng cao hứng, nói:

– Cô cô, công phu “Ngọc nữ tâm kinh” của cô cô, Lý Mạc Sầu địch chẳng nổi…

Lời chưa dứt, bỗng thấy Tiểu Long Nữ cứ run rẩy như không kiềm chế được, hoảng sợ hỏi:

– Cô cô có sao… sao không?

Tiểu Long Nữ run run đáp:

– Ta… ta lạnh quá…

Vừa rồi nàng đánh hai chưởng, tuy dùng lực rất nhẹ, nhưng sau khi bị trọng thương nguyên khí chưa phục hồi, việc dùng sức gây tổn hại không nhỏ. Nàng cả đời luyện công trên giường hàn ngọc, vốn là vật chí hàn, lúc này không còn sức chế ngự, giống như người bị chìm xuống dòng sông băng, cái lạnh thấm vào tận xương, hai hàm răng cứ đánh vào nhau cầm cập. Dương Quá vội hỏi:

– Làm thế nào bây giờ?

Chàng cuống lên, ôm chặt Tiểu Long Nữ vào lòng, định dùng hơi ấm của mình giúp nàng đỡ lạnh; ôm một lát, chàng cảm thấy thân thể Tiểu Long Nữ càng lúc càng lạnh, dần dần chính mình cũng không chịu nổi.

Tiểu Long Nữ tự biết nội lực của mình đang mất đi từng chút, từng chút một, bèn nói:

– Quá nhi, ta không xong mất, ngươi… ngươi bế ta đến chỗ đặt quan tài đi.

Dương Quá đau lòng vô cùng, không nói nên lời, nhưng chàng lại nghĩ, mấy người chỉ sống vài ngày nữa thôi, bây giờ chết cùng với nàng thì cũng vậy, thế là vui vẻ nói:

– Vâng.

Chàng bế nàng đến gian thạch thất đặt quan tài, đặt nàng ngồi trên nắp quan tài, đốt nến. Dưới ánh nến, cỗ quan tài to nặng càng tương phản với sự mảnh dẻ yếu đuối của Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngươi mở nắp cỗ quan tài… kia ra, đặt ta vào trong đó.

Dương Quá nói:

– Vâng!

Tiểu Long Nữ cảm thấy giọng nói của chàng không lộ chút gì thương cảm, thì hơi lạ; Dương Quá mở nắp cỗ quan tài, bế nàng đặt nhẹ nằm vào trong, rồi chàng cũng chui vào nằm trở đầu đuôi với nàng. Hai người nằm chung, vừa vặn không còn chỗ dư.

Tiểu Long Nữ vừa hoan hỉ vừa lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi làm gì vậy?

Dương Quá nói:

– Đệ tử đương nhiên ở bên cạnh cô cô. Để cho hai nữ nhân xấu xa nằm chung cỗ quan tài bên kia.

Tiểu Long Nữ thở dài thật sâu, trong lòng thập phần bình an, cái lạnh của cơ thể không ghê gớm như trước nữa. Nàng đưa mắt nhìn Dương Quá, thấy chàng cũng đang chăm chú nhìn nàng. Thân hình hai người áp sát vào nhau, đầu nàng nóng bừng, chỉ mong chàng choàng tay ôm chặt lấy mình, song Dương Quá lại đặt hai cánh tay thẳng dọc hai bên đùi tựa hồ sợ chạm vào người nàng không bằng.

Tiểu Long Nữ cảm thấy hơi ngượng ngùng, má đỏ bừng, quay mặt đi không dám nhìn chàng nữa, đầu óc mê loạn một hồi. Bỗng nhiên nàng thấy ở nắp quan tài tựa hồ có viết chữ, căng mắt nhìn, quả đọc được mười sáu chữ to: “Ngọc nữ tâm kinh, kỹ áp Toàn Chân. Trùng Dương nhất sinh, bất nhược vu nhân” (Tuyệt kỹ “Ngọc nữ tâm kinh” lấn át phái Toàn Chân. Một đời Vương Trùng Dương chẳng hề thua kém người). Mười sáu chữ viết bằng mực đậm, bút lực cứng cát. Lúc này nắp quan tài mới đậy một nửa, nhìn nghiêng thấy rõ rành rành. Tiểu Long Nữ ngạc nhiên kêu lên:

– Câu ấy ngụ ý gì vậy?

Dương Quá nhìn theo ánh mắt nàng, thấy dòng chữ, ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Do Vương Trùng Dương viết phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chắc thế. Vương Trùng Dương muốn nói rằng “Ngọc nữ tâm kinh” của chúng ta tuy thắng được võ công phái Toàn Chân, nhưng bản thân lão đạo sĩ thì hoàn toàn không thua kém tổ sư bà bà của chúng ta, có phải vậy chăng?

Dương Quá cười:

– Lão đạo sĩ ấy khoác lác.

Tiểu Long Nữ nhìn kỹ lại mười sáu chữ kia, thấy sau đó còn viết tiếp nhiều chữ nữa, nhưng chữ nhỏ hơn, nằm đầu này khó đọc, bèn nói:

– Quá nhi, hãy ra khỏi quan tài đi?

Dương Quá lắc đầu:

– Đệ tử không ra đâu.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Ra một lát, rồi lại trở vào với ta.

Bấy giờ Dương Quá mới chịu bò ra.

Tiểu Long Nữ ngồi dậy, bảo Dương Quá đưa đĩa nến, nàng chuyển đầu về phía ngược lại để đọc các chữ nhỏ. Ở tư thế này, các chữ trở thành ngược, nàng đọc chầm chậm hai lần, bỗng cảm thấy tay rã rời, đĩa nến chao nghiêng, rơi xuống ngực, Dương Quá vội nhặt lên, đỡ nàng ra khỏi quan tài, hỏi:

– Sao, các chữ ấy viết gì vậy, cô cô?

Tiểu Long Nữ sắc mặt tái đi, định thần lại, thở dài, nói:

-Thì ra sau khi tổ sư bà bà qua đời, Vương Trùng Dương có trở lại nhà mồ.

Dương Quá hỏi:

– Lão trở lại làm gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương đến viếng tổ sư bà bà. Lão đạo sĩ thấy tổ sư bà bà khắc để lại trên trần nhà “Ngọc nữ tâm kinh”, hóa giải toàn bộ võ công của phái Toàn Chân. Lão đạo sĩ bèn viết ở mặt trong nắp quan tài này, nói rằng những chiêu thức mà tổ sư bà bà của chúng ta hóa giải chẳng qua chỉ là thứ võ công thô thiển của phái Toàn Chân mà thôi, chứ “Ngọc nữ tâm kinh” làm sao địch nổi võ công thượng thừa của phái Toàn Chân?

Dương Quá nói:

– Hừ, tổ sư bà bà đã chết rồi, lão ta nói thế nào chả được.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng lão có lưu lại cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh” trong một gian thạch thất khác, hậu nhân có duyên tới đó khắc biết.

Dương Quá nổi tính hiếu kỳ, nói:

– Cô cô chúng ta đi xem đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Vương Trùng Dương viết rằng gian thạch thất đó ở dưới gian này. Ta sống cả đời ở đây mà không biết dưới chỗ này còn có một gian thạch thất khác.

Dương Quá nói, giọng cầu khẩn:

– Cô cô chúng ta nghĩ cách xuống đó xem đi.

Lúc này Tiểu Long Nữ đối với Dương Quá đã không còn nghiêm nghị như trước nữa, người lại đang mệt mỏi, nghĩ nên chiều chàng thì hơn, bèn mỉm cười nói:

– Được thôi.

Nàng nhìn quanh gian thạch thất, ngẫm nghĩ, cuối cùng chăm chú nhìn đáy cỗ quan tài mình vừa nằm một lát, nói:

– Thì ra cỗ quan tài này cũng là do Vương Trùng Dương để lại, dưới đáy có chỗ mở.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Ồ đệ tử biết rồi, đấy chính là lối xuống gian thạch thất bên dưới.

Bèn chui vào cỗ quan tài, sờ bốn phía, quả nhiên gặp một chỗ lõm bằng bàn tay, chàng bèn bẩy lên, nhưng không suy suyển chút nào. Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy đẩy sang bên trái trước, rồi mới kéo lên.

Dương Quá làm theo lời, chỉ nghe cạch một tiếng, đáy cỗ quan tài bật lên. Chàng mừng rỡ nói:

– Được rồi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hãy khoan, để cho uế khí tản bớt đi đã.

Dương Quá đứng ngồi nhấp nhổm, mới được một lát đã giục:

– Cô cô, thế nào?

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Nôn nóng như ngươi, không biết sẽ theo ta được mấy năm đây.

Nàng thong thả đứng dậy, cầm đĩa nến, cùng Dương Quá theo lối đáy cỗ quan tài đi xuống, bên dưới có các bậc đá, hết mươi bậc đá quả nhiên tiến vào một gian thạch thất.

Nơi đây cũng không có gì lạ. Hai người không hẹn cùng ngước nhìn lên trần nhà, thấy trên đó chi chít chữ viết và phù hiệu, góc cuối cùng bên phải viết bốn chữ to “Cửu Âm chân kinh”.

Hai người chưa biết rằng “Cửu Âm chân kinh” chứa đựng cảnh giới võ học tối cao, nhìn một hồi, chỉ thấy khó hiểu nổi chỗ ảo diệu của nó. Tiểu Long Nữ nói:

– Nghe bảo công phu này lợi hại vô cùng, nhưng đối với chúng ta lại hoàn toàn vô dụng.

Dương Quá thở dài, định cúi xuống không xem nữa, bỗng phát hiện ở góc tây nam trên trần nhà có vẽ địa đồ, hình như không liên quan gì đến võ công, bèn hỏi:

– Cái gì kia?

Tiểu Long Nữ nhìn theo tay chỉ của Dương Quá, chỉ nhìn thoáng qua, lập tức người cứng đơ ra, không cử động.

Nàng đứng như tượng đá một hồi, nhìn bức địa đồ xuất thần. Dương Quá sợ hãi, kéo kéo vạt áo của nàng, hỏi:

– Cô cô sao thế?

Tiểu Long Nữ kêu “ôi” một tiếng, rồi gục đầu vào ngực chàng khóc nấc lên. Dương Quá dịu dàng hỏi:

– Cô cô lại bị đau chỗ nào phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, không phải.

Lát sau, mới nói:

– Chúng ta có thể ra khỏi chốn này.

Dương Quá cả mừng, nhảy cẫng lên, hỏi:

– Thật ư?

Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Bức địa đồ kia vẽ lối đi bí mật ra khỏi mộ.

Nàng thông thạo địa hình trong nhà mồ, nên vừa nhìn là hiểu ngay hàm nghĩa của bức địa đồ đó.

Dương Quá mừng không để đâu cho hết, nói:

– Hay quá! Thế sao cô cô lại khóc?

Tiểu Long Nữ nuốt nước mắt, cười, nói:

– Ta từ trước vốn không sợ chết, vì suốt đời ở trong nhà mồ, chết sớm hay chết muộn thì có gì khác nhau? Hai hôm nay, ta lại nghĩ muốn ra bên ngoài xem sao. Quá nhi, cho nên ta vừa sợ vừa mừng.

Dương Quá kéo tay nàng, nói:

– Cô cô, cô cô cùng đệ tử đi với nhau, đệ tử sẽ hái hoa cho cô cô cài đầu, bắt dế cho cô cô chơi, thế nhé?

Chàng tuy đã lớn, nhưng vẫn nghĩ đến mấy trò chơi thích thú của trẻ con. Tiểu Long Nữ chưa chơi đùa với người khác bao giờ, nghe chàng nói với vẻ đầy cao hứng, thì cũng chăm chú nghe, tuy nghĩ thầm: “Phải mau ra khỏi đây thì hơn”, nhưng thân thể rã rời vô lực, lại chưa muốn rời nhà mồ. Lát sau quá mệt, nàng không chịu nổi nữa, từ từ ngả đầu vào vai Dương Quá. Dương Quá nói một hồi, không thấy nàng trả lời, ngoảnh sang, thấy nàng hai mắt lim dim, hơi thở rất nhẹ, rõ là đang ngủ say. Chàng tự dưng cũng thấy mỏi mệt, nhắm mắt lại ngủ thiếp đi lúc nào không hay.

Không biết bao lâu sau, đột nhiên thắt lưng đau tức, huyệt Trung Khu ở lưng bị người điểm huyệt, chàng bừng tỉnh, định bật dậy kháng cự, gáy liền bị người khác tóm lấy, ấn xuống, không cựa quậy nổi; ngoảnh nhìn, thấy sư đồ Lý Mạc Sầu cười cười đứng bên cạnh, sư phụ cũng đã bị điểm huyệt. Thì ra Dương, Long hai người chưa từng trải cách phòng thân ứng địch trên giang hồ, trong lúc quá vui mừng đã không trở lên đậy đáy cỗ quan tài lại để cho Lý Mạc Sầu phát hiện, mò xuống đây đánh lén thành công.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:

– Gớm nhỉ, không ngờ lại có một chốn thú vị như thế này để hai đứa ngươi chui xuống hưởng phúc. Sư muội, hãy cố nghĩ xem, không chừng lại có lối thoát ra khỏi mộ cũng nên.

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội dẫu có biết, cũng không nói với sư tỷ đâu.

Lý Mạc Sầu vốn tin lời nói lúc trước của Tiểu Long Nữ là thật, “Đoạn long thạnh” đã sập xuống, không còn hi vọng gì thoát ra khỏi mộ, nhưng câu nói vừa rồi của sư muội, với giọng điệu và sắc mặt, hiển nhiên là sư muội biết đường thoát ra. Lý Mạc Sầu nghe thế thì cả mừng, nói:

– Sư muội quý hóa, hãy dẫn ta ra khỏi nhà mồ, từ nay ta sẽ không gây khó dễ cho sư muội nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ tự vào được thì hãy tự tìm cách mà thoát ra, vì sao phải nhờ muội dẫn dắt?

Lý Mạc Sầu vốn biết tính sư muội quật cường cố chấp, ngay sư phụ lúc sinh thời cũng phải nhường nàng ta vài phần, dùng cách cưỡng bức thì chẳng ăn thua gì, nhưng bây giờ là lúc sống chết, gì thì gì cũng phải cưỡng bức mới xong; thế là giơ tay điểm mạnh vào huyệt Thiên Đột trên gáy và huyệt Ngũ Khu ở mông của hai người. Huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của Âm Duy và mạch Nhâm trên cơ thể người, huyệt Ngũ Khu là nơi giao hội của Túc Thiếu Dương đới mạch; Lý Mạc Sầu đã sử dụng thủ pháp điểm huyệt bí truyền của phái Cổ Mộ, biết rằng không lâu sau hai người sẽ bị ngứa ngáy toàn thân đến mức không chịu nổi, phải nói ra lối đi bí mật.

Tiểu Long Nữ nhắm mắt vào, không thèm nhìn nữa. Dương Quá nói:

– Nếu cô cô của ta biết lối thoát ra, thì hai ta còn ở lại đây làm gì kia chứ

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Câu nói của nàng ta vừa rồi đã tiết lộ, không giấu nổi ta đâu. Sư muội ta dĩ nhiên biết lối ra, chờ hai ngươi lấy lại sức thì mới đi đó thôi. Sư muội, rốt cuộc sư muội có chịu nói hay không thì bảo?

Tiểu Long Nữ nhẹ nhàng nói:

– Sư tỷ ra bên ngoài, chẳng qua chỉ nghĩ cách sát hại người khác, thế thì đừng ra là hơn.

Lý Mạc Sầu ngồi ôm gối bên cạnh, cười hi hi không nói. Lát sau, Dương Quá bắt đầu cảm thấy khó chịu, nói:

– Hừ, Lý Mạc Sầu, tổ sư bà bà truyền thụ thủ pháp điểm huyệt là để ngươi đối phó với kẻ địch, hay là để bắt nạt người đằng mình vậy? Ngươi sử dụng để hãm hại sư muội của ngươi, như thế có tội với tổ sư bà bà hay không?

Lý Mạc Sầu mỉm cười, nói:

– Ngươi gọi trống không ta là Lý Mạc Sầu, thế là đôi bên không phải người một nhà nữa rồi.

Dương Quá ghé tai nói nhỏ với Tiểu Long Nữ:

– Dù thế nào cô cô cũng chớ nói cho Lý Mạc Sầu biết lối ra bí mật, nàng ta không biết, thì sẽ chưa dám giết chúng ta; chỉ khi biết rồi, nàng ta mới lập tức hạ độc thủ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ừ, ngươi nói đúng lắm, ta chưa nghĩ ra đấy.

Lúc này nàng nằm ngửa dưới đất, mở mắt ra là nhìn thấy bức địa đồ vẽ trên trần nhà. Nàng nghĩ thầm: “Không thể để sư tỷ thấy bức địa đồ kia được; mình đừng nhìn lên chỗ ấy nữa”. Năm xưa Vương Trùng Dương khi biết Lâm Triêu Anh qua đời trong nhà mồ, nghĩ đến mối tình si mà Lâm Triêu Anh cả đời dành cho mình, mối ân tình ấy quả không nhỏ, nay âm dương đôi ngả, lòng đau đớn muôn phần, bèn theo lối đi bí mật vào trong nhà mồ, không để cho đệ tử của Lâm Triêu Anh hay biết, đứng ngắm di dung của vị cựu lữ giang hồ hồi lâu, khóc lóc một hồi, mới đi xem lại một vòng tòa nhà mồ do mình xây dựng năm nào, thấy bức chân dung của mình do Lâm Triệu Anh vẽ quay lưng ra ngoài, lại thấy hai gian thạch thất trên trần khắc đầy phù hiệu. Thấy thuật rõ võ công “Ngọc nữ tâm kinh” hết sức tinh vi ảo diệu, mỗi chiêu đều là khắc tinh của võ công phái Toàn Chân, thì bất giác tái mặt, lập tức rời tòa nhà mồ.

Lão đạo sĩ một mình vào rừng sâu, dựng lều cỏ, ba năm liền không xuống núi, nghiền ngẫm cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh”, tuy một số chỗ có thành tựu, nhưng cuối cùng vẫn không tạo thành một bộ võ công hoàn chỉnh. Lão đạo sĩ chán nản, càng khâm phục tài trí của Lâm Triêu Anh, cam bái hạ phong, không nghiên cứu nữa.

Hơn mười năm sau, tại cuộc Hoa Sơn luận kiếm, lão đạo sĩ có được kỳ thư “Cửu Âm chân kinh”. Lão quyết ý không luyện võ công ghi trong bộ kinh đó, nhưng bị tính hiếu kỳ thôi thúc, bèn mở ra xem một lượt.Thời đó võ công của Vương Trùng Dương đã là đệ nhất thiên hạ. Các tinh nghĩa bí ẩn hàm chứa trong “Cửu Âm chân kinh” đọc qua một lần, suy nghĩ mất hơn mười ngày thì hiểu tất thảy, VươngTrùng Dương ngẩng mặt lên trời cười vang, trở lại “Hoạt tử nhân mộ”, tại gian thạch thất kín đáo nhất trong tòa nhà mồ, khắc lên trên trần tinh yếu của “Cửu Âm chân kinh” đồng thời chỉ rõ cách hóa giải “Ngọc nữ tâm kinh”. Lão đạo sĩ đoán biết mấy cỗ quan tài trống sẽ được đệ tử của Lâm Triêu Anh sử dụng; chắc là lúc lâm chung họ sẽ tự chui vào quan tài nằm chờ chết, lúc đó họ sẽ đọc thấy rằng tổ sư của phái Toàn Chân một đời không chịu thua kém ai; thế là ở mặt trong tấm thạch thiên của mỗi cỗ quan tài trống, lão viết mười sáu chữ, để hậu nhân của Lâm Triệu Anh biết rằng võ học của tổ sư sáng phái Toàn Chân không phải là thứ mà “Ngọc nữ tâm kinh” có thể khắc chế.

Đấy chỉ là xuất phát từ tính hiếu thắng của Vương Trùng Dương, chứ lão đạo sĩ không hề có ý tiết lộ “Cửu Âm chân kinh”, bởi vì khi đệ tử của Lâm Triêu Anh được thấy “Cửu Âm chân kinh”, thì họ đã thoi thóp hấp hối, chỉ có thể mang theo bí mật xuống âm phủ mà thôi.

Vương Trùng Dương và Lâm Triêu Anh đều là bậc kỳ tài võ học, nguyên là một cặp tạo hóa sinh ra, hai người vốn không bị chia rẽ bởi sóng gió bể tình của kẻ thứ ba, cũng không hề bị chia rẽ bởi oán cừu của thân hữu sư đồ. Vương Trùng Dương thoạt tiên chỉ chuyên tâm đại sự kháng Kim, không lúc nào nghĩ đến tư tình nhi nữ; sau khi khởi nghĩa thất bại, lui vào sống một mình trong nhà mồ, Lâm Triêu Anh tới an ủi, nhu tình cao nghĩa, cảm động sâu xa, nhưng bấy giờ Vương Trùng Dương đã chán nản hết thảy, thế là thành mối tình thiên trường hận, chàng thì xuất gia làm đạo sĩ, nàng thì ôm hận lầm lũi sống trong tòa nhà mồ. Nguyên do bên trong, các đệ tử như Khưu Xứ Cơ không hay biết, ngay giữa hai người Vương, Lâm cũng khó nói với nhau, chỉ qui về hai chữ “vô duyên” mà thôi. Họ không biết rằng, “vô duyên” chỉ là “quả”, còn “nhân” là hai người võ công đều cao, quá ư tự phụ, mỗi lần đôi bên đàm luận võ học, thì không ai chịu ai, cứ cạnh tranh với nhau cho đến lúc chết. Lâm Triêu Anh thì sáng tạo “Ngọc nữ tâm kinh” khắc chế võ công phái Toàn Chân, còn Vương Trùng Dương không chịu thua kém, đem “Cửu Âm chân kinh” khắc trong mộ. Có điều là Vương Trùng Dương cho rằng, “Ngọc nữ tâm kinh” là do Lâm Triệu Anh tự sáng tạo ra, còn mình thì phải dựa vào di thư của người khác, so ra kém một bậc, nên sau đó lão đạo sĩ tự khiêm nhường, thường dặn đệ tử phải theo cái đạo nghiêm khắc với mình, nhường nhịn người khác, nhận phần thiệt thòi.

Về bức địa đồ bí mật ở trên trần, thì đã khắc ngay từ hồi mới xây dựng tòa nhà mồ. Nguyên đề phòng nếu nhà mồ bị quân Kim trường kỳ vây khốn, thì sẽ theo lối đi bí mật thoát ra. Lâm Triệu Anh không biết điều này, chỉ biết một khi “Đoạn long thạch” sập xuống, ta với địch sẽ cùng chết; không ngờ Vương Trùng Dương khi xây dựng tòa nhà mồ, mưu đại sự khôi phục Trung Nguyên, tràn đầy hùng tâm tráng chí, há chịu để mình bị dồn vào tuyệt địa? Sau này, khi Vương Trùng Dương nhường lại tòa nhà mồ, sợ Lâm Triệu Anh chế giễu rằng mình dự phòng tẩu thoát, mất cái khí khái của nam nhi, nên không nói cho nàng ta biết lối đi bí mật thoát ra khỏi mộ, cũng là do tính hiếu thắng mà nên.

Tiểu Long Nữ không dám nhìn lên chỗ địa đồ, chỉ đưa mắt nhìn sang góc khác; đột nhiên thoáng thấy bốn chữ nhỏ “Bí quyết giải huyệt”, vội nhìn kỹ chỗ đó, cả mừng, suýt nữa không kiềm lòng được, cơ hồ muốn reo lên. Bí quyết chỉ rõ cách tự thông huyệt đạo, nếu trong khi tu luyện nội công bị tẩu hỏa, bế tắc huyệt đạo, thì có thể dùng cách này tự đả thông. Ai luyện tới “Cửu Âm chân kinh”, võ công ắt đã đạt tới cảnh giới hạng nhất, thì rất hiếm khi để cho kẻ khác điểm trúng huyệt đạo; bí quyết này vốn dùng để đối phó với ma đầu do nội tâm mình sinh ra. Nhưng đối với tình cảnh hiện thời của Tiểu Long Nữ, nó quả là diệu pháp cứu mạng.

Nàng nghĩ thầm: “Ta có đả thông được huyệt đạo, cũng không địch nổi sư tỷ, hóa ra vô dụng”. Bèn nhìn kỹ kinh văn trên trần, xem có môn võ công nào có thể sử dụng ngay tức thời để chế ngự Lý Mạc Sầu hay chăng; nhưng xem qua một lượt, thấy rằng môn dễ nhất cũng phải vài chục ngày mới luyện thành, thì nàng thôi không nhìn thêm nữa, sợ Lý Mạc Sầu theo mình đưa mắt nhìn lên trần sẽ phát hiện bức địa đồ và “Cửu Âm chân kinh”. Cũng may Dương Quá cứ luôn miệng đấu khẩu với Lý Mạc Sầu, nên vị sư tỷ rất khôn ngoan tinh ý kia mới không để ý đến ánh mắt của Tiểu Long Nữ. Nàng đột nhiên nảy ra một ý, mở mắt học thuộc “Bí quyết giải huyệt” và “Bí quyết nhịn thở” trong “Cửu âm chân kinh”, rồi ghé tai truyền lại cho Dương Quá. Dương Quá lập tức lĩnh hội. Tiểu Long Nữ dặn nhỏ :

– Trước tiên hãy giải huyệt.

Dương Quá sợ sư đồ Lý Mạc Sầu phát giác, cứ luôn miệng nói loạn cả lên:

– Úi chao, Lý sư bá, sư bá hạ thủ quá ư tàn ác, đúng là có tội với tổ sư bà bà, lại càng có tội với bà bà của tổ sư bà bà, với thái bà của bà bà…

Hai người ngầm vận công dựa theo “Bí quyết giải huyệt” do Vương Trùng Dương khắc trên trần, nội công của họ vốn có căn bản, nên trong giây lát đã giải khai hai huyệt bị điểm. Hai người bề ngoài không để lộ động tĩnh, song Lý Mạc Sầu phát hiện không bình thường, liền đứng dậy, quát:

– Làm gì thế?

Tiểu Long Nữ bật dậy, lật tay xuất chưởng đánh nhẹ vào vai Lý Mạc Sầu, chính là võ công thượng thừa trong “Ngọc nữ tâm kinh”. Lý Mạc Sầu hoàn toàn không ngờ sư muội lại có thể tự giải huyệt, cả kinh, vội nhảy lùi lại. Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ có muốn thoát ra hay không?

Lý Mạc Sầu nghe vậy cả mừng, nàng ta tự phụ võ công cao cường, tài trí càng ít ai sánh kịp, mới rồi lại bị tiểu sư muội, một kẻ chưa từng nếm mùi đời, cho hai cái tát, không khỏi tức giận dị thường, nhưng nghĩ lại tạm phải nín nhịn, cốt ra khỏi nhà mồ rồi trị sư muội cũng chưa muộn, sư muội tuy có vài chiêu quái dị, song đã mất sức; ban nãy tựa hồ không phải thủ hạ lưu tình, mà là không còn sức lực, chả có gì đáng ngại, bèn cười nói:

– Thế mới đúng là sư muội tốt bụng, ta xin lỗi sư muội nhé, sư muội dẫn ta đi nào.

Dương Quá nghĩ thầm đây là cơ hội tốt để ly gián sư đồ nàng ta, bèn nói:

– Cô cô của đệ tử bảo rằng chỉ có thể dẫn một trong hai vị ra khỏi chốn này, sư bá nói xem là dẫn sư bá, hay đồ đệ của sư bá?

Lý Mạc Sầu nói:

– Tên tiểu tử lắm lời này, mau câm miệng lại cho ta coi.

Tiểu Long Nữ chưa rõ dụng ý của Dương Quá, nhưng bênh vực chàng, nói:

– Đúng thế, muội chỉ có thể dẫn một người ra, nhiều hơn thì không được.

Dương Quá cười, nói:

– Sư bá, hay là để cho Hồng sư tỷ cùng chúng tôi thoát ra thì hơn, sư bá đã nhiều tuổi, sống ngần ấy đủ rồi. Hồng sư tỷ dung mạo lại xinh đẹp hơn hẳn sư bá.

Kỳ thực Lý Mạc Sầu tuy hơn cả chục tuổi, nhưng xinh đẹp hơn hẳn Hồng Lăng Ba, nghe vậy thì càng tức giận, nhưng không nói gì. Dương Quá nói:

– Thôi được, chúng ta đi thôi! Cô cô đi trước dẫn đường, đệ tử đi thứ hai. Người đi sau cùng sẽ không thể ra khỏi nhà mồ.

Tiểu Long Nữ lúc này đã hiểu ý, khẽ cười, cầm lấy tay Dương Quá. Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba không hẹn mà tranh nhau đi thứ ba, hai người cùng chen ra cửa, chỉ sợ Tiểu Long Nữ bấm chốt đóng cửa, bỏ người cuối cùng ở lại trong nhà mồ. Lý Mạc Sầu giận dữ nói:

– Ngươi dám chen trước ta.

Tay trái giơ ra, đặt ngay lên vai Hồng Lăng Ba. Hồng Lăng Ba biết sư phụ xuất thủ tàn bạo, nếu không dừng bước, sẽ lập tức bỏ mạng dưới tay sư phụ, đành nhường Lý Mạc Sầu đi trước, trong bụng vừa hận vừa sợ.

Lý Mạc Sầu bám sát theo Dương Quá từng bước, không dám cách xa, chỉ thấy Tiểu Long Nữ quẹo ngang rẽ dọc, càng đi càng xuống thấp. Đồng thời chân giẫm phải bùn, thì biết rằng đã rời khỏi khu vực nhà mồ. Nhưng nhìn trong bóng tối, thấy có quá nhiều chỗ rẽ. Đi thêm một hồi, đường quá dốc, nếu bốn người võ công non kém, thì đã ngã lăn xuống từ sớm. Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Núi Chung Nam vốn không cao lắm, đi lối này chắc không lâu nữa sẽ tới chân núi”.

Đi xuống dốc chừng nửa canh giờ, đường bớt dốc dần, song khí ẩm càng lúc càng tăng, sau đó nghe tiếng chảy rì rào, rồi chân đã đặt xuống nước; càng đi nước càng cao dần, tới gối, tới bụng, rồi ngập tới ngực. Tiểu Long Nữ hỏi nhỏ Dương Quá:

– “Bí quyết nín thở” ngươi còn nhớ hay không?

Dương Quá hạ giọng đáp:

– Thưa còn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Khi nín thở rồi, cứ yên tâm mà lội dưới nước.

Dương Quá nói:

– Vâng, cô cô cũng hãy cẩn thận.

Tiểu Long Nữ gật đầu.

Lúc này nước đã ngập tới cổ họng. Lý Mạc Sầu cả kinh, hỏi:

– Sư muội, sư muội có biết bơi không đấy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Muội từ lúc sinh ra chỉ sống trong nhà mồ, làm sao biết bơi?

Lý Mạc Sầu hơi yên tâm, bước dài một bước, không ngờ dưới chân hụt hẫng, nước xộc ngay vào miệng, nàng cả kinh, vội lùi lại, nhưng Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã hụp xuống nước, đến bước này, phía trước dẫu là rừng đao biển kiếm, nàng ta cũng phải lao tới, chợt sau lưng bị Hồng Lăng Ba túm chặt lấy áo; vội hất tay lại đằng sau một cái khá mạnh, song áo vẫn bị túm chặt. Lúc này tiếng nước réo ào ào, nước chảy rất mạnh, Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba đều không biết bơi, bị cuốn trôi đi.

Lý Mạc Sầu võ công tuy cao thâm, lúc này cũng hết hồn, hai tay chới với túm loạn cả lên, bỗng chạm vào một vật, vội túm chặt lấy, hóa ra là cánh tay trái của Dương Quá. Dương Quá đang nín thở, được Tiểu Long Nữ dắt tay đi dưới nước, từng bước tiến lên phía trước, không ngờ bị Lý Mạc Sầu túm tay, bèn vận cầm nã thủ pháp gỡ ra, song Lý Mạc Sầu đã túm được, đời nào chịu buông? Dương Quá cố thoát ra mấy lần không xong, sợ dùng sức quá độ, sẽ uống nước vào bụng, đành để im cho nàng ta túm vậy.

Bốn người lôi kéo nhau đi dưới nước bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, Tiểu Long Nữ và Dương Quá đã tức thở hết chịu nổi, hai người đã uống no một bụng nước, thì may sao nước chảy chậm lại và địa thế lên cao dần, chẳng bao lâu đã nhô đầu lên khỏi mặt nước. Lại đi chừng tàn một nén nhang, càng đi phía trước càng sáng, cuối cùng ra tới một cái hang đá. Hai người kiệt sức, trước tiên vận khí nôn hết nước trong bụng ra, rồi mới nằm nghỉ.

Lúc này Lý Mạc Sầu vẫn nắm chặt cánh tay của Dương Quá. Chàng phải gỡ mãi mới xong. Tiểu Long Nữ điểm huyệt trên vai hai thầy trò sư tỷ, rồi mới đặt họ nằm xuống một tảng đá tròn, dốc cho nước trong bụng họ chảy ra đằng miệng.

Một hồi lâu sau, Lý Mạc Sầu kêu mấy tiếng, tỉnh lại trước, thấy ánh nắng chói chang, quả nhiên được thấy lại ánh sáng ban ngày, nhớ lại cảnh nguy khốn vừa trải qua trong nhà mồ và dòng suối ngầm, thì không lạnh mà run, tuy nửa thân trên tê dại, nhưng trong lòng dễ chịu hơn hẳn khi trước. Một hồi lâu nữa thì Hồng Lăng Ba cũng tỉnh lại.

Tiểu Long Nữ nói với Lý Mạc Sầu:

– Sư tỷ, hai người đi đâu thì đi?

Sư đồ Lý Mạc Sầu hai tay tê dại, nửa thân dưới hành động như thường, liền đứng dậy, lẳng lặng nhìn nhau một cái, rồi người trước kẻ sau bước đi.

Dương Quá đưa mắt nhìn tứ phía, chỉ thấy cây xanh bạt ngàn, ánh nắng chan hòa phía trên, lòng dạt dào vui sướng, nói:

– Cô cô, cô cô thấy có đẹp không?

Tiểu Long Nữ gật đầu, mỉm cười. Hai người nhớ lại tình cảnh mấy hôm rồi, tưởng như ở kiếp khác.

Xung quanh tĩnh mịch không một tiếng người, nguyên cái hang này ở dưới chân núi Chung Nam, một nơi vô cùng hoang vắng. Tối hôm ấy hai người nằm ngủ trên cỏ dưới một gốc cây.

Hôm sau tỉnh dậy, theo lời Dương Quá thì phải đi du ngoạn một chuyến, nhưng Tiểu Long Nữ chưa từng nhìn thấy thế giới phồn hoa, chưa biết thế nào, nên rất lo ngại, nói:

– Không, ta cần trước hết dưỡng thương cho khỏe, rồi hai ta luyện nết “Ngọc nữ tâm kinh” đã.

Dương Quá đánh vào đầu mình một cái, nói:

– Đáng chết? Tên tiểu tử hồ đồ này đáng ăn đòn. Đệ tử quên mất cả việc cô cô đang bị thương.

Chàng nghĩ sau khi xuống núi, lại cùng sư phụ cởi bỏ quần áo mà luyện công, thực là hết sức bất tiện, bèn giúp Tiểu Long Nữ vận công trị thương.

Không đầy nửa tháng, Tiểu Long Nữ đã khỏi nội thương. Dưới gốc một cây tùng lớn, hai người dựng hai gian nhà tranh nhỏ để tránh mưa gió. Dương Quá thích mùi hoa nồng đậm, nên trồng trước gian của mình các thứ như hoa hồng, hoa nhài. Tiểu Long Nữ thì thích đạm nhã, bảo lá tùng có mùi thơm mát, hơn hẳn các thứ kỳ hoa dị thảo, cho nên trước cửa gian của nàng cứ để tự nhiên, chỉ có dã thảo mà thôi.

Sư đồ hai người ban ngày thì ngủ, ban đêm luyện công. Mấy tháng sau, Tiểu Long Nữ luyện xong trước, thêm vài tháng nữa, Dương Quá cũng luyện thành.

Hai người diễn đi diễn lại hết sức thành thạo rồi, Dương Quá lại nhắc đến chuyện nhập thế.

Tiểu Long Nữ cảm thấy cứ sống yên ổn như thế này là được, khỏi phải vướng bận việc gì khác trên thế gian, song nghĩ Dương Quá lưu luyến hồng trần, khó lòng chịu giam mình ở chốn rừng núi hoang vu thế này, bèn nói:

-Quá nhi, võ công hai ta tuy đã tiến hơn hẳn trước nhưng nếu đem so với Quách bá phụ, Quách bá mẫu của ngươi thì sao?

Dương Quá nói:

– Dĩ nhiên là còn thua xa.

Tiểu Long Nữ nói :

– Quách bá phụ của ngươi truyền võ công cho con gái và huynh đệ họ Võ, khi hai ta gặp bọn họ, sẽ bị bọn họ làm nhục.

Vừa nghe vậy, Dương Quá đứng bật dậy, tức giận nói:

– Bọn họ còn làm nhục đệ tử, đệ tử há để họ yên lành?

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Ngươi đánh không lại bọn họ, còn đòi này nọ.

Dương Quá nói:

– Thì cô cô giúp đệ tử.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ta không địch nổi Quách bá mẫu của ngươi, thì cũng vô dụng.

Dương Quá cúi đầu không đáp, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

– Nể mặt Quách bá phụ, đệ tử sẽ không tranh chấp với họ nữa.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm: “Dương Quá ở trong nhà mồ hơn hai năm, đã luyện nội công phái Cổ Mộ cho nên tính nóng bớt hẳn, thật là tốt.” Kỳ thực là do Dương Quá đã lớn, hiểu thêm sự lý, nghĩ Quách Tĩnh đối với chàng quả rất chân tình, chàng lấy làm cảm kích, cam nguyện nhường nhịn; huống hồ chàng cũng chẳng có thâm cừu đại oán gì với Quách Phù và huynh đệ họ Võ; chẳng qua đôi bên chỉ vì tranh nhau con dế mà đánh nhau, bây giờ nghĩ lại, đúng là chuyện trẻ con.

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi, ngươi chịu nhường nhịn người khác thì không còn gì bằng. Nhưng nghe ngươi nói, ở bên ngoài, dù ngươi chịu nhường nhịn người khác, song người ta vẫn cứ bắt nạt ngươi, nếu hai ta không luyện võ công mà Vương Trùng Dương để lại, thì khi gặp người võ công cao cường, hai ta vẫn không địch nổi.

Dương Quá biết nàng vẫn chưa muốn rời bỏ chốn thanh tịnh này, nên không nỡ làm phật ý nàng, bèn nói:

-Cô cô, đệ tử vâng lời cô cô, từ ngày mai trở đi, chúng ta bắt đầu luyện “Cửu Âm chân kinh”.

Thế là hai người lại sống trong sơn cốc hơn một năm nữa. Tiểu Long Nữ và Dương Quá theo lối đi bí mật quay lại “Hoạt tử nhăn mộ”, bỏ ra mấy ngày học thuộc lòng di khắc của Vương Trùng Dương, mới trở ra bắt đầu luyện tập. Sau hơn một năm, nội công ngoại công của cả hai người đều tinh tiến.

Nhưng di khắc của Vương Trùng Dương ở trong mộ chỉ là pháp môn đối phó với “Ngọc nữ tâm kinh”, chỉ là một phần nhỏ của “Cửu Âm chân kinh” mà thôi. Sở học của hai người nếu so với Quách Tĩnh, Hoàng Dung thì còn thua xa, song hai người không biết điều đó.

Một hôm luyện võ xong, hai người đều cảm thấy rất có tiến cảnh. Dương Quá thì hết sức vui sướng, Tiểu Long Nữ lại rầu rĩ không vui. Dương Quá luôn niệng nói cười để giải sầu cho nàng, Tiểu Long Nữ vẫn không nói năng gì. Dương Quá bây giờ đã học xong di khắc của Vương Trùng Dương, nếu nói phải hoàn toàn quán thông, thì chả biết đến ngày nào năm nào; chứ bí ẩn quyết khiếu của thứ võ công đó thì chàng đã hiểu hết cả; chỉ cần tiếp tục luyện tập công phu sẽ càng cao thâm, uy lực sẽ càng mạnh mẽ.

Đoán biết Tiểu Long Nữ không muốn xuống núi, chưa tìm ra lý do giữ chàng ở lại nên mới buồn rầu như thế, chàng bèn nói:

– Cô cô, cô cô không muốn xuống núi, thì hai ta vĩnh viễn ở đây cũng được.

Tiểu Long Nữ vui mừng, nói:

– Hay quá…

Hai chữ “hay quá” vừa buột ra, nàng ngừng luôn, biết rằng Dương Quá vì mình mà miễn cưỡng ở lại, thì mình cũng chẳng thể vui sướng thật sự, thế nên buồn bã nói tiếp:

– Để mai hãy hay.

Bữa tối nàng không ăn, đi vào gian của mình ngủ sớm.

Dương Quá ngồi ngẩn ngơ trên cỏ một lúc, mãi khi trăng sau núi mọc lên, chàng mới vào gian của mình nằm ngủ. Ngủ đến nửa đêm, nghe mơ màng có tiếng gió ù ù, âm thanh gấp gáp, đáng ngại. Dương Quá choàng tỉnh, dỏng tai nghe, đúng là có tiếng quyền, chưởng phong của hai người đang đánh nhau. Chàng vội chạy sang cửa gian nhà của sư phụ, gọi nhỏ:

– Cô cô, cô cô có nghe gì không?

Lúc này chưởng phong vù vù, nghe rõ hơn trước, lẽ ra Tiểu Long Nữ đã phải nghe thấy, song bên trong vẫn không có tiếng trả lời. Dương Quá gọi thêm hai lần, đẩy cánh cửa, thấy giường trống, sư phụ đã không nằm ở đó. Chàng vội vàng chạy về phía có tiếng động, chạy hơn mười trượng, chưa thấy người giao đấu, nhưng nghe chưởng phong đã biết một người chính là sư phụ, còn chưởng phong của đối thủ thì trầm hùng lợi hại, võ công dường như cao hơn sư phụ.

Dương Quá lao tới, dưới ánh trăng thấy Tiểu Long Nữ đang giao đấu kịch liệt với một người thân hình rất cao lớn. Tiểu Long Nữ tuy thân pháp khinh linh, nhưng đối phương võ công cao siêu, nàng bị chưởng lực của y chế ngự, chỉ miễn cưỡng chống đỡ mà thôi.

Dương Quá cả kinh, kêu lên:

– Sư phụ, có đệ tử đây!

Chàng vọt tới chỗ hai người, vừa đối diện với người kia, thì không khỏi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, thì ra cái người cao lớn, râu ria tua tủa như lông nhím kia chính là nghĩa phụ Âu Dương Phong xa cách đã lâu.

Chỉ thấy Âu Dương Phong đứng sừng sững như núi, đòn chưởng cứ thong thả tung ra liên tiếp, Tiểu Long Nữ chỉ tránh né chứ không dám đối chưởng.

Dương Quá kêu lên:

– Là người một nhà, xin đừng đấu nữa.

Tiểu Long Nữ hơi sững, nghĩ thầm gã hán tử điên khùng râu ria kia mà lại là người một nhà ư, thân pháp hơi chậm lại; một chưởng đánh xéo của Âu Dương Phong đã đánh thẳng tới mặt nàng, chưởng thế mạnh mẽ ghê gớm. Dương Quá kinh hãi, sấn tới, thấy tả chưởng của Tiểu Long Nữ đã đụng hữu chưởng của Âu Dương Phong, biết sư phụ công lực thua xa nghĩa phụ, thời khắc lâu một chút tất bị nội thương, liền giơ năm ngón tay đẩy nhẹ vào cùi chỏ bên phải của Âu Dương Phong, chính là công phu thượng thừa “Thủ huy ngũ huyền” trong “Cửu Âm chân kinh” mà chàng mới học được. Chàng luyện tuy chưa thành thạo, nhưng ra đòn đúng chỗ, Âu Dương Phong thấy cánh tay hơi tê, toàn thân mất lực.

Tiểu Long Nữ chớp ngay lấy thời cơ, thấy thế địch hơi yếu đi, thì lập tức tung đòn; trong chớp mắt này, Âu Dương Phong toàn thân vô lực, chỉ cần một ngón tay ra đòn cũng đủ khiến lão bị trọng thương. Dương Quá lật tay giữ lấy bàn tay của sư phụ, đứng xen giữa hai người, cười nói:

– Xin hai vị dừng tay, là người một nhà cả.

Âu Dương Phong chưa nhận ra Dương Quá, chỉ thấy gã thiếu niên này võ công rất cao, không thể xem thường, tức giận hỏi:

– Mi là ai? Cái gì mà người một nhà với chả hai nhà?

Dương Quá biết nghĩa phụ điên điên khùng khùng, chỉ sợ lão đã quên biến mình, bên kêu to:

– Cha ơi, con đây, nhi tử của cha đây mà.

Câu này tràn ngập tình cảm. Âu Dương Phong ngẩn ra, kéo tay chàng, xoay mặt chàng ra phía ánh trăng mà nhìn, đúng là nghĩa nhi mấy năm nay lão tìm kiếm khắp nơi, bây giờ một là thân hình đã cao lớn, hai là võ nghệ cao cường nên ban đầu khó bề nhận ra. Lão lập tức ôm chầm lấy Dương Quá, kêu to :

– Hài nhi, ta tìm con khổ sở biết bao?

Hai người ôm chặt nhau, cùng ứa nước mắt.

Tiểu Long Nữ vốn lãnh đạm, chỉ biết trên đời có một mình Dương Quá là người nhiệt tình như lửa, lúc này thấy Âu Dương Phong cũng như thế, thì đối với việc xuống núi càng lo ngại, ngồi lặng im một bên, lòng buồn bã.

Âu Dương Phong từ ngày chia tay với Dương Quá ở miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng, trốn trong chiếc chuông lớn khiến Kha Trấn Ác không làm gì được. Lão tiềm vận thần công, trị liệu nội thương, sau bảy ngày đêm nội lực đã phục hồi, nhưng vết ngoại thương bởi thiết trượng của Kha Trấn Ác thì vẫn chưa đỡ. Lão chui ra khỏi chuông, tới khách điếm dưỡng thương hai mươi ngày nữa, nội thương ngoại thương đều khỏi cả, liền đi tìm Dương Quá.

Nhưng đã một tháng trôi qua, đất trời bao la, biết tìm đâu tung tích của đứa con nuôi? Lão nghĩ bụng: “Hài tử chín phần mười ra Đào Hoa đảo”, bèn thuê một chiếc thuyền nhỏ, giong buồm tới Đào Hoa đảo, ban ngày không dám lại gần đảo, ban đêm mới lên bờ ở sau núi. Lão tự biết không địch nổi hai người Quách Tĩnh, Hoàng Dung; lại không biết Hoàng Dược Sư vắng mặt ở đảo, nghĩ mình có bản lĩnh gấp đôi, cũng chẳng địch nổi ba cha con họ; vì thế ban ngày phải trốn trong một cái hang cực kỳ hoang vu, ban đêm mới dám len lén tuần du. Trên đảo bố trí kỳ diệu, lão cũng chả dám đi lại tùy tiện.

Cứ thế hơn một năm, lão vẫn thận trọng vạn phần, ban ngày không dám rời hang nửa bước, không phát giác được tung tích Dương Quá, mãi một buổi tối nọ, tình cờ nghe huynh đệ Võ Tu Văn trò chuyện, mới biết Quách Tĩnh đã đưa Dương Quá đến giáo phái Toàn Chân học nghệ. Âu Dương Phong cả mừng, lập tức lấy trộm thuyền rời đảo, tìm đến cung Trùng Dương, núi Chung Nam.

Nào ngờ bấy giờ Dương Quá đã làm náo loạn cả phái Toàn Chân, vào sống trong “Hoạt tử nhân mộ”. Việc đó quả là nỗi nhục lớn đối với phái Toàn Chân, nên mọi người trong giáo phái đều tuyệt nhiên không nhắc tới, Âu Dương Phong tìm thiên phương bách kế cũng không dò la được chút tin tức gì.

Lão lặn lội xung quanh núi Chung Nam hàng trăm dặm, đâu biết Dương Quá đang ở trong lòng đất, dĩ nhiên tìm chẳng ra.

Đêm nay tình cờ lão đang đi trong sơn cốc, bỗng thấy một bạch y thiếu nữ ngồi bó gối dưới ánh trăng mà thở dài. Âu Dương Phong điên điên khùng khùng hỏi:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả? Ngươi có trông thấy nó hay không?

Tiểu Long Nữ nhìn lão một cái, không thèm để ý.

Âu Dương Phong sấn tới, giơ tay chộp lấy cánh tay nàng, quát:

– Này, hài nhi của ta ở đâu hả?

Tiểu Long Nữ thấy lão ta xuất thủ mạnh mẽ, võ công cao cường, bình sinh chưa từng gặp, các cao thủ phái Toàn Chân không thể sánh bằng, thì nàng không khỏi kinh hãi, vội sử thủ pháp tiểu cầm nã để thoát ra.

Âu Dương Phong đã chộp phải trúng, ai dè đối phương lại nhẹ nhàng khôn khéo hóa giải được, thì cũng chẳng buồn hỏi nàng là ai, tay trái tung đòn liền. Hai người giao đấu với nhau không một chút nguyên do.

Nghĩa phụ nghĩa tử hàn huyên một hồi. Âu Dương Phong thần trí nửa tỉnh nửa mê, chuyện quá khứ đã kể không thật rõ, mà đối với những gì Dương Quá thuật lại cũng chẳng hiểu mấy, chỉ biết mấy năm rồi Dương Quá lúc nào cũng ở bên cạnh Tiểu Long Nữ luyện công, lão nói to:

– Nàng ta võ công không bằng ta, hà tất theo nàng luyện? Để ta dạy cho con.

Tiểu Long Nữ đâu có so bì với lão ta, nàng nghe vậy chỉ cười nhạt, tự lánh sang một bên.

Dương Quá cảm thấy khó xử, nói:

– Cha ơi, sư phụ đối với con rất tốt.

Âu Dương Phong thấy ghét, nói:

– Nàng ta rất tốt, còn ta thì không tốt hay sao?

Dương Quá cười, nói:

-Cha cũng rất tốt. Trên đời này chỉ có hai vị đối xử rất tốt với con.

Lời kể của Âu Dương Phong tuy không rõ ràng, nhưng Dương Quá cũng biết mấy năm nay nghĩa phụ lặn lội tìm kiếm mình khắp nơi, thật là thiên tân vạn khổ.

Âu Dương Phong nắm lấy bàn tay Dương Quá, cười hi hi ngớ ngẩn một hồi, rồi nói:

Dương Quá hỏi:

– Là kỳ công gì vậy?

Cặp lông mày rậm của Âu Dương Phong dựng ngược, lão quát:

– Ngươi là con nhà võ, mà có hai đại kỳ công cũng không biết, thử hỏi ngươi bái nàng ta làm sư phụ có được cái gì?

Dương Quá thấy Âu Dương Phong chợt vui chợt giận, không khỏi lo ngại, nghĩ thầm: “Bệnh của nghĩa phụ thế này, chẳng biết bao giờ mới khỏi?” Âu Dương Phong cười ha hả, nói:

– Hừ, để ta dạy cho con. Hai đại kỳ công, thứ nhất là “Cáp mô công”, thứ hai là “Cửu Âm chân kinh”. Trước tiên ta dạy cho con công phu nhập môn của “Cáp mô công”.

Nói đoạn liền đọc khẩu quyết. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Cha đã dạy con rồi, cha quên rồi sao?

Âu Dương Phong gãi gãi đầu, nói:

– Thì ra con đã học qua, thế thì còn gì hay bằng, vậy con làm thử ta coi.

Dương Quá sau khi vào “Hoạt tử nhân mộ”, không còn luyện công phu kinh dị mà Âu Dương Phong từng truyền thụ cho chàng lúc này nghe lão nói vậy, bèn làm theo. Tại Đào Hoa đảo chàng đã luyện, bây giờ vận dụng thêm nội công thượng thừa, lập tức diễn đâu ra đấy. Âu Dương Phong nói:

– Khá lắm, khá lắm! Nhưng như thế chưa đủ, chỉ nhìn đẹp mắt chứ vô dụng. Thôi để ta đem quyết khiếu truyền hết cho con mới được?

Rồi hoa chân múa tay, miệng thao thao bất tuyệt, cũng chẳng cần biết Dương Quá có nhớ nổi hay không, cứ nói liên tục một chập về “Cáp mô công”, lại một chập về “Cửu Âm chân kinh”. Dương Quá nghe một hồi, thấy mỗi câu đều có hàm nghĩa sâu xa, đã phồn tạp lại cổ quái, nhất thời làm sao có thể lĩnh hội nhiều chừng ấy?

Âu Dương Phong nói một hồi, bỗng liếc sang thấy Tiểu Long Nữ ngồi gần đó, bèn kêu lên:

– Úi chao, hỏng rồi, không được để cho ả sư phụ của con nghe lén.

Lão tới trước mặt Tiểu Long Nữ, nói:

– Này con tiểu a đầu, ta đang truyền võ công cho hài nhi của ta, ngươi đừng có mà nghe trộm.

Tiểu Long Nữ nói:

– Võ công của lão có gì quý hóa, ai thèm nghe trộm?

Âu Dương Phong nghiêng đầu nghĩ một chút, nói:

– Được thế thì ngươi đi ra chỗ khác đi.

Tiểu Long Nữ dựa vào gốc cây, lạnh lùng nói:

– Tại sao ta lại phải làm theo lời của lão? Ta thích đi thì đi, không thích đi thì thôi.

Âu Dương Phong cả giận, lông mày trợn ngược, giơ tay như sắp trảo vào mặt nàng, song Tiểu Long Nữ coi như không thấy. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi, cha chớ nên đắc tội với sư phụ của con.

Âu Dương Phong thu tay về, nói:

– Thôi được, thế thì bọn ta đi ra chỗ khác vậy, nhưng ngươi không được bám theo nghe lén đấy.

Tiểu Long Nữ nghĩ thầm nghĩa phụ của Dương Quá là một kẻ vô lại, nàng chẳng buồn đếm xỉa đến nữa, ngoảnh đi không đáp; không ngờ sau lưng đột nhiên tê dại, thì ra Âu Dương Phong bất ngờ điểm huyệt sau lưng nàng. Lão xuất thủ cực lẹ, Tiểu Long Nữ lại không hề đề phòng, đến lúc muốn chống cự thì toàn thân đã khó bề cử động. Âu Dương Phong lại điểm thêm một huyệt ở thắt lưng nàng, cười nói:

– Này con tiểu a đầu, đừng lo, chờ ta dạy võ cho con ta xong, ta sẽ trở lại thả ngươi ra.

Nói xong cười lớn mà đi. Dương Quá chính đang mải ghi nhớ “Cáp mô công” và “Cửu Âm chân kinh” do nghĩa phụ truyền thụ, cảm thấy một số khẩu quyết luyện công có sự lẫn lộn không rõ, song diệu dụng cực nhiều, không có gì nghi ngờ, nên chú tâm suy nghĩ, không biết Tiểu Long Nữ bị đánh lén. Âu Dương Phong bước tới cầm tay chàng, nói:

– Chúng ta lại đằng kia, không cho tiểu sư phụ của con nghe trộm.

Dương Quá nghĩ thầm, Tiểu Long Nữ cần gì phải nghe trộm, nghĩa phụ dẫu có muốn truyền cho nàng, nàng cũng không chịu học; nhưng biết nghĩa phụ tâm tính thất thường, cũng chẳng nên tranh cãi với lão làm gì, bèn đi theo lão.

Tiểu Long Nữ ngồi phệt xuống đất, vừa bực tức vừa buồn cười, nghĩ bụng mình luyện võ cũng khá tinh thâm, song lại chưa có kinh nghiệm lâm địch, sau khi bị Lý Mạc Sầu ám toán, lại bị lão râu xồm điên khùng này đánh lén, bèn vận “Cửu Âm thần công” tự thông huyệt đạo, hít một hơi dài, xung hướng huyệt đạo mấy lần, ai dè hai chỗ huyệt đạo chẳng những không có dấu hiệu giải khai, mà còn ê ẩm hơn, thì không khỏi kinh hãi. Nguyên thủ pháp của Âu Dương Phong nghịch chuyển với “Cửu Âm chân kinh”; nàng dùng di pháp của Vương Trùng Dương xung giải mấy lần, chỉ thấy huyệt đạo đau đau, thì không dám thử thêm, nghĩ thầm lão khùng truyền dạy xong trở lại giải huyệt, nàng cũng chẳng có việc gì phải vội, thế nên cũng không lo lắng, ngẩng đầu nhìn bầu trời sao một lát rồi ngủ thiếp đi.

Rất lâu sau, cảm thấy trên mắt có sự đụng chạm, nàng có khả năng nhìn mọi vật trong bóng đêm rõ như ban ngày, song lần này không thấy gì, hóa ra hai mắt đều bị người ta dùng băng vải bịt lại. Tiếp đó có người vòng tay ôm lấy nàng. Người đó lúc mới ôm còn rụt rè, sau cứ bạo dạn dần lên. Tiểu Long Nữ vô cùng kinh hãi, há miệng để kêu to, song miệng lưỡi khó cử động, lại bị người kia dùng miệng mà hôn vào miệng nàng. Thoạt tiên nàng còn tưởng Âu Dương Phong giở trò cường bạo, nhưng khi người kia áp mặt vào má nàng, thì da dẻ nhẵn nhụi, không có râu. Nàng không sợ nữa, tình dục nảy sinh, đoán là Dương Quá lại đùa giỡn với nàng.

Chỉ cảm thấy hai tay chàng càng lúc càng lộn xộn, thong thả cởi quần áo nàng ra. Tiểu Long Nữ không thể cử động, đành để người kia muốn làm gì tùy ý, vừa thinh thích, vừa ngượng ngùng.

Âu Dương Phong thấy Dương Quá cực kỳ thông minh, lão truyền thụ khẩu quyết, chàng tuy không lĩnh hội hết, nhưng ghi nhớ cực nhanh. Lão thích chí, càng nói càng cao hứng, thao thao bất tuyệt mãi đến khi trời sáng mới nói xong yếu chỉ hai đại kỳ công, Dương Quá lẳng lặng ghi nhớ, rồi nói:

– Hài nhi cũng đã học “Cửu Âm chân kinh” nhưng lại khác hẳn với những gì cha nói là vì sao?

Âu Dương Phong nói:

– Nói bậy, ngoài thứ này ra, làm gì còn có thứ “Cửu Âm chân kinh” nào khác?

Dương Quá nói:

– Tỷ như luyện thuật “Dịch cân đoạn cốt”, cha bảo bước thứ ba là khí huyết nghịch hành, xung huyệt Thiên Trụ. Sư phụ con lại bảo ý thủ đan điền, thông huyệt Chương Môn.

Âu Dương Phong lắc đầu, nói:

– Không đúng, không đúng, hừ, khoan đã…

Lão vận hành theo lời Dương Quá, bỗng thấy nội lực phát triển, ý cảnh khác hẳn. Lão tự nghĩ không thể ngờ rằng kinh văn mà Quách Tĩnh chép cho lão kỳ thực đã bị thay đổi, bất giác đầu óc rối loạn, lão lẩm bẩm một mình:

– Sao nhỉ, cuối cùng là ta sai, hay là ả sư phụ của ngươi sai? Sao lại có chuyện lung tung như thế?

Dương Quá thấy nghĩa phụ tròn mắt, ngơ ngơ ngẩn ngẩn, gọi liền mấy tiếng lão cũng chẳng đáp, sợ lão lại nổi cơn điên, trong lòng rất lo, bỗng nghe có tiếng soạt, một bóng người lướt sau một gốc cây cách xa mấy trượng, thấp thoáng một góc áo đạo sĩ màu vàng. Nơi đây không dấu chân người, sao lại có kẻ lạ mò tới? Hơn nữa hắn lại lén lén lút lút, hiển nhiên không có thiện ý, bất giác chàng nghi ngờ, vội vã đuổi theo. Người kia cước bộ cực nhanh, chạy như bay, chỉ thấy sau lưng, thì ra là một đạo sĩ. Dương Quá gọi:

– Này người kia, là ai vậy? Đến đây làm gì?

Chàng thi triển khinh công, đuổi thật gấp. Đạo sĩ kia nghe tiếng gọi càng chạy nhanh hơn.

Dương Quá dấn lên, thân hình lao đi như một mũi tên, giơ tay túm được vai người kia, kéo lại, thì ra là Doãn Chí Bình phái Toàn Chân. Dương Quá thấy y áo mũ không tề chỉnh, mặt lúc đỏ lúc trắng, bèn quát hỏi:

– Ngươi làm trò gì thế?

Doãn Chí Bình là thủ tòa đệ tử đời thứ ba của phái Toàn Chân, võ công cao cường, thường ngày cử chỉ rất đường hoàng, nhưng không hiểu vì sao lúc này vẻ mặt lại hết sức bối rối, không nói nên lời. Dương Quá thấy y sợ hãi, nhớ lại ngày nào y tự chặt hai ngón tay để thề, kể ra không phải là kẻ xấu, bèn buông vai y, ôn tồn nói:

– Đã không có việc gì, thì hãy đi đi!

Doãn Chí Bình vừa vội vã bước đi, vừa mấy lần ngoảnh lại sợ sệt nhìn chàng.

Dương Quá cười thầm: “Gã đạo sĩ này hồn vía lên nây, trông thật tức cười”. Chàng quay về chỗ hai gian nhà tranh, thấy từ sau gốc cây chìa ra hai chân của Tiểu Long Nữ, hoàn toàn bất động, tựa hồ nàng đang ngủ. Dương Quá gọi :

– Cô cô?

Chàng gọi liền hai tiếng, không thấy nàng thưa, bên vòng ra sau gốc cây, thấy Tiểu Long Nữ nằm đó, mắt bị một mảnh vải bịt kín.

Dương Quá hơi kinh ngạc, cởi mảnh vải ra, thấy ánh mắt nàng thần sắc lạ lùng, đầy vẻ thẹn thùng.

Dương Quá hỏi:

– Cô cô, ai bịt mắt cô cô thế?

Tiểu Long Nữ không trả lời, ánh mắt thoáng lộ vẻ trách móc. Dương Quá thấy thân thể nàng bất động, hình như bị điểm huyệt, giơ tay lay lay nàng, quả nhiên nàng không cử động gì được, chàng chợt hiểu nguyên do: “Chắc là nghĩa phụ dùng phép điểm huyệt nghịch kình, điểm huyệt cô cô, nếu không thì cô cô đã tự giải huyệt được rồi”. Thế là chàng bèn dựa theo cách Âu Dương Phong vừa dạy, đả thông huyệt đạo cho nàng.

Không ngờ sau khi Dương Quá đã giải huyệt cho nàng, người nàng vẫn cứ mềm nhũn ngả hẳn vào người chàng, tựa hồ xương cốt toàn thân nhũn đi vậy. Dương Quá đỡ vai nàng, nói:

– Cô cô, nghĩa phụ đệ tử hành sự thất thường, mong cô cô đừng giận.

Tiểu Long Nữ giấu mặt vào ngực chàng, nói:

– Ngươi hành sự thất thường thì có, không biết xấu còn chê người khác?

Dương Quá thấy cửchỉ của nàng khác hẳn mọi khi, thì đâm hoảng, ấp úng:

– Cô cô, đệ tử… đệ tử…

Tiểu Long Nữ ngẩng mặt lên, có vẻ giận, nói:

– Chàng còn gọi ta là cô cô ư?

Dương Quá càng hoảng thêm, nói:

– Đệ tử không gọi là cô cô, chẳng lẽ lại gọi là sư phụ hay sao?

Tiểu Long Nữ mỉm cười ngượng nghịu, nói:

– Chàng đã làm thế đối với ta, ta còn có thể là sư phụ của chàng được sao?

Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Đệ tử… đệ tử làm gì kia?

Tiểu Long Nữ vén tay áo lên, để lộ cánh tay trắng ngần như ngọc, điểm son trinh nữ màu đỏ đã biến mất, nàng xấu hổ nói:

– Chàng nhìn xem.

Dương Quá không hiểu gì hết, vò đầu bứt tai, nói:

– Cô cô, đệ tử không hiểu gì cả.

Tiểu Long Nữ bực mình:

– Ta đã bảo chàng đừng gọi ta là cô cô nữa.

Tiểu Long Nữ thấy chàng lộ vẻ hoảng sợ, lòng bỗng nảy sinh muôn phần trìu mến, dịu dàng nói:

– Môn hạ phái Cổ Mộ chúng ta mấy đời toàn là xửnữ truyền xử nữ. Sư phụ của ta điểm một dấu son trinh nữ ở đây, đêm qua… đêm qua chàng… làm thế với ta, bây giờ dấu son trinh nữ có còn nữa không?

Dương Quá nói:

– Đêm qua đệ tử làm gì với cô cô kia chứ?

Tiểu Long Nữ đỏ mặt, nói:

– Đừng hỏi nữa. Dạo trước ta sợ xuống núi, bây giờ khác rồi, bất luận chàng đi đâu, ta cũng cam tâm tình nguyện đi theo chàng.

Dương Quá cả mừng, reo lên:

– Cô cô, hay lắm!

Tiểu Long Nữ nghiêm mặt, nói:

– Đấy, chàng lại gọi ta là cô cô rồi. Chẳng lẽ chàng không chân tình với ta hay sao?

Nàng thấy Dương Quá không trả lời, thì sốt ruột, run giọng, hỏi:

– Rốt cuộc chàng coi ta là người thế nào?

Dương Quá chân thành nói:

– Cô cô là sư phụ của đệ tử, cô cô thương đệ tử, dạy đệ tử, đệ tử xin thề suốt đời kính trọng cô cô, vâng lời cô cô.

Tiểu Long Nữ cao giọng:

– Chẳng lẽ chàng không coi ta là thê tử của chàng?

Dương Quá chưa bao giờ nghĩ đến việc đó, đột nhiên bị nàng hỏi đến thì ngớ ra, chưa biết trả lời thế nào cho phải, lẩm bẩm một mình: “Không, không, cô cô không thể làm thê tử của ta, ta làm sao xứng nổi? Cô cô là sư phụ của ta, là cô cô của ta”.

Tiểu Long Nữ giận run cả người, bỗng ọe ra một ngụm máu tươi.

Dương Quá chân tay luống cuống, chỉ kêu lên:

– Cô cô, cô cô!

Tiểu Long Nữ thấy chàng vẫn cứ gọi như thế, thì hầm hầm nhìn chàng, liền giơ tả chưởng đánh xuống đỉnh đầu Dương Quá, song đòn ấy trước sau vẫn không đánh xuống; ánh mắt nàng từ não hận chuyển thành oán trách, từ oán trách lại chuyển thành thương yêu; nàng thở dài, nhẹ nhàng nói:

– Đã thế, từ rày chàng đừng gặp mặt ta nữa.

Rồi phất tay áo, quay người chạy xuống núi.

Dương Quá gọi to:

– Cô cô, cô cô đi đâu vậy? Đệ tử cùng đi với.

Tiểu Long Nữ quay mặt lại, nước mắt lưng tròng, thong thả nói:

– Chàng còn gặp mặt ta, chỉ e… chỉ e ta… ta không làm chủ được mình, khó bề tha chết cho chàng.

Dương Quá nói:

– Cô cô trách đệ tử không nên học võ công của nghĩa phụ phải không?

Tiểu Long Nữ buồn rầu nói:

– Chàng học võ công của người khác, ta đâu trách làm gì?

Đoạn quay mình đi thẳng.

Dương Quá sững sờ, không biết mình có lỗi gì, thấy bóng áo trắng của nàng xa dần, cuối cùng biến mất ở chỗ quành của sơn đạo, thì bất giác bi phẫn khóc tướng lên. Ngẫm đi nghĩ lại, thực không biết mình đắc tội gì với sư phụ, tại sao thần tình của nàng lại kỳ dị như thế, lúc thì nhu mì âu yếm, lúc lại oán hận quyết tuyệt? Vì sao nàng lại bảo muốn làm thê tử của ta, lại không cho phép ta gọi nàng là cô cô? Nghĩ chán chê, tự nhủ thầm: “Việc này chắc chắn liên quan đến nghĩa phụ, ắt là nghĩa phụ đã đắc tội với sư phụ”.

Thế là chàng đi tới trước mặt Âu Dương Phong, chỉ thấy lão mắt mở trừng trừng, ngồi không động đậy. Dương Quá nói:

– Cha ơi, cha đắc tội thế nào với sư phụ của con vậy?

Âu Dương Phong nói:

– Cửu Âm chân kinh, Cửu Âm chân kinh.

Dương Quá hỏi:

– Tại sao cha lại điểm huyệt sư phụ con, để sư phụ con tức giận đến thế?

Âu Dương Phong nói:

– Rốt cuộc là nghịch xung huyệt Thiên Trụ, hay là thuận thông huyệt Chương Môn.

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Cha ơi, vì sao sư phụ con lại bỏ đi? Cha nói đi, cha đã làm gì?

Âu Dương Phong nói:

– Sư phụ người là ai? Ta là ai? Ai là Âu Dương Phong?

Dương Quá thấy lão lại nổi cơn điên khùng, thì vừa sợ hãi, vừa đau lòng, ôn tồn nói:

– Cha ơi, cha mệt rồi, cha con mình vào trong nhà nghỉ thôi.

Âu Dương Phong đột nhiên lộn người trồng cây chuối, chống đầu xuống đất, nói to:

– Ta là ai? Ta là ai? Âu Dương Phong đi đâu rồi?

Hai chân lão múa loạn lên, thân hình di chuyển nhanh chóng, đi bằng hai tay, nhanh như gió xuống núi. Dương Quá gọi to:

– Cha ơi?

Chàng định kéo lão lại, bị lão phóng cước đá cho một cái trúng cằm, may mà lão không dùng lực mạnh. Dương Quá đứng không vững, ngã ngửa ra sau, lúc đứng thẳng dậy, thì Âu Dương Phong đã đi xa ngoài chục trượng.

Dương Quá đi mấy bước, bỗng dừng chân, ngẩn người giây lát, Âu Dương Phong đã biến mất dạng. Dương Quá nhìn tứ phía, chỉ là cảnh núi rừng tĩnh mịch, thoảng có tiếng chim hót. Chàng cuống lên, gọi to:

– Cha ơi, cô cô ơi! Cha ơi, cha ơi!

Lát sau tứ phía sơn cốc hồi âm vọng lại “Cha ơi, cô cô ơi?”

Mấy năm vừa qua chàng với Tiểu Long Nữ không rời nhau nửa bước, vừa như mẫu tử, lại như chị em, giờ đây bỗng dưng không hiểu vì sao nàng lại tuyệt tình bỏ đi, lẽ nào chẳng làm cho chàng ruột đứt từng đoạn? Chàng quá đau lòng, tưởng muốn đập đầu vào đá mà chết quách.

Nhưng trong lòng còn chút hi vọng; sư phụ đã bỗng dưng bỏ đi, chắc sẽ bỗng dưng trở lại. Nghĩa phụ tuy có đắc tội với nàng, song nàng nghĩ ta hoàn toàn không phạm lỗi gì tự nhiên nàng sẽ trở lại tìm chàng.

Đêm ấy chàng ngủ sao yên? Hễ nghe một tiếng động nhỏ, chàng đều tưởng là Tiểu Long Nữ trở về, lại vội bò dậy, gọi to “Cô cô!” chạy ra đón; và lần nào cũng thất vọng buồn bã. Sau đó chàng không nằm nữa, chạy ra sườn núi, căng mắt nhìn bốn phía, mãi cho tới lúc trời sáng hẳn, chỉ thấy dưới đáy sơn cốc sương mù như mây, trời đất mênh mông, song chỉ có mỗi một người là Dương Quá mà thôi.

Dương Quá vỗ vào ngực, chợt nghĩ: “Sư phụ không trở về, thì ta đi tìm nàng, chỉ cần gặp được nàng, bất kể nàng muốn đánh muốn chửi ta thế nào, ta cũng sẽ không rời nàng. Nàng muốn đánh chết ta thì cứ để nàng đánh”.

Lòng đã quyết, tinh thần lập tức phấn chấn, chàng vơ đại quần áo vật dụng của hai người gói lại, đeo sau lưng rồi đi xuống núi. Cứ đến chỗ nào có nhà dân, chàng lại hỏi thăm có thấy một bạch y thiếu nữ xinh đẹp hay chăng. Nửa ngày trời, hỏi thăm mười mấy hương dân, ai cũng lắc đầu bảo không thấy. Dương Quá nóng lòng sốt ruột, khi hỏi thăm lời lẽ không tránh khỏi thiếu lễ độ; một số hương dân thấy chàng còn ít tuổi mà luôn miệng hỏi về một thiếu nữ xinh đẹp nào đó, thì họ có phần bực mình, có người hỏi lại, thiếu nữ kia là thế nào với chàng. Dương Quá đáp:

– Các hạ khỏi cần biết, ta chỉ hỏi các hạ có nhìn thấy bạch y thiếu nữ đi qua đây hay không?

Người được hỏi bĩu môi giễu cợt. Một lão nhân đứng cạnh kéo áo chàng, chỉ con đường nhỏ ở mé đông, cười nói:

– Tối qua lão phu thấy có một tiên nữ đi về hướng đông, lão phu cứ ngỡ là Quan Thế Âm Bồ Tát giáng trần, không ngờ lại là hiền thê của tiểu huynh đệ…

Dương Quá chưa nghe xong đã vội vái tạ, rồi cắm đầu chạy về hướng đó, chỉ nghe sau lưng tiếng cười ồ, chàng cũng chàng để ý, đâu biết rằng lão nhân thấy chàng trẻ tuổi vô lễ, đã cố tình đánh lừa chàng.

Chạy độ một tuần trà, trước mắt có ngã ba, không biết nên rẽ hướng nào. Chàng nghĩ thầm: “Cô cô không thích ồn ào, chắc sẽ chọn nơi nào hẻo lánh”, bèn quẹo sang một con đường mòn nhỏ bên trái, không ngờ đường này càng đi càng rộng dần, sau mấy đoạn quành, lại thông ra một con đường lớn. Từ hôm qua đến giờ chàng chưa có chút gì vào bụng, thấy trời sắp tối, bụng đói cồn cào, nhìn phía trước nhà cửa san sát, là một thị trấn, bèn rảo bước, tìm một khách điếm, bước vào gọi cơm ăn.

Điếm tiểu nhị bưng ra một suất ăn thông thường.

Dương Quá ăn vài miếng, cổ họng cứ nghẹn lại khó nuốt, thì không ăn nữa, nghĩ thầm: “Dù trời tối, mình cũng phải đi tìm cô cô, bỏ lỡ đêm nay, chỉ e mãi mãi không được gặp lại”. Thế là chàng buông đũa, gọi:

– Điếm bạn, ta hỏi ngươi một câu.

Điếm tiểu nhị cười, nói:

– Thiếu gia có gì sai bảo ạ? Món ăn không hợp khẩu vị chăng? Tiểu đích sẽ dọn món khác hầu thiếu gia.

Dương Quá xua tay lia lịa, nói:

– Không phải chuyện ăn uống, ta hỏi ngươi, ngươi có thấy một bạch y cô nương mỹ mạo ghé qua đây chăng?

Điếm tiểu nhị ngẫm nghĩ, nói:

– Bạch y à, ồ vị cô nương ấy mặc đồ tang ư? Gia đình có thân nhân qua đời à?

Dương Quá sốt ruột, hỏi:

– Rốt cuộc là có hay không?

Điếm tiểu nhị đáp:

– Cô nương thì có, đúng là mặc đồ màu trắng…

Dương Quá mừng rơn, hỏi:

– Nàng đi lâu chưa?

Điếm tiểu nhị nói:

– Đi lâu rồi? Nhưng mà thiếu gia ơi, cô nương ấy không hay đâu…

Đột nhiên y hạ thấp giọng, nói:

– Tiểu đích khuyên thiếu gia đừng tìm nàng ta thì hơn.

Dương Quá cả mừng, biết là đã lần theo tung tích cô cô vội hỏi:

– Nàng ta… làm sao?

Điếm tiểu nhị nói:

– Tiểu đích hỏi thiếu gia câu này, thiếu gia có biết nàng ta giỏi võ hay không đã?

Dương Quá nghĩ thầm: “Sao ta lại không biết?” bèn đáp:

– Biết chứ, nàng ta giỏi võ lắm.

Điếm tiểu nhị nói:

– Thế thì thiếu gia còn đi tìm nàng ta làm gì, nguy hiểm đấy!

Dương Quá hỏi:

– Rốt cuộc là có chuyện gì?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia hãy cho tiểu đích biết, bạch y mỹ nữ là người thế nào với thiếu gia đã.

Dương Quá hết cách, biết rằng nếu không nói vài điều về Tiểu Long Nữ, thì điếm tiểu nhị sẽ không chịu cho biết hành tung của nàng, bèn nói:

– Nàng ta là… tỷ tỷ của ta, ta cần tìm nàng.

Điếm tiểu nhị nghe vậy liền tỏ vẻ kính nể hơn, nhưng lại lắc đầu lẩm bẩm:

– Không giống, không giống…

Dương Quá sốt ruột, túm lấy cổ áo điếm tiểu nhị, quát:

– Rốt cuộc ngươi có chịu nói hay không thì bảo?

Điếm tiểu nhị lè lưỡi, nói:

– Đúng, đúng, giờ thì giống!

Dương Quá quát hỏi:

– Cái gì mà lúc thì không giống, lúc lại giống?

Điếm tiểu nhị nói:

– Thiếu gia, hãy buông tay ra đã, cổ họng tiểu đích bị nghẹn không nói được đây này, kể ra nói cũng được nhưng mà…

Dương Quá nghĩ gã này tính nết như thế, mình có dùng vũ lực cũng bằng thừa, liền buông tay. Điếm tiểu nhị ho vài tiếng, nói:

– Thiếu gia, tiểu đích bảo không giống, bởi vì cô nương… tỷ tỷ của thiếu gia vừa trẻ vừa xinh hơn thiếu gia, trông là muội muội thì đúng hơn là tỷ tỷ. Còn bảo giống, là vì cả hai vị đều nóng như lửa, động một tí đã giở vũ lực.

Dương Quá nghe vậy thì cả mừng, tươi cười, nói:

– Tỷ tỷ của ta động võ với người khác hả?

Điếm tiểu nhị nói:

– Chứ sao nữa, không chỉ động võ, mà còn đánh bị thương mấy người, thiếu gia xem đây.

Gã chỉ vết đao kiếm chém mặt bàn, đắc ý nói:

– Nguy hiểm thật, tỷ tỷ của thiếu gia võ công tài quá, một đao mà chém đứt tai cả hai vị đạo gia.

Dương Quá cười, hỏi:

– Đạo gia nào?

Chàng đoán thầm chắc hai gã đạo sĩ phái Toàn Chân bị Tiểu Long Nữ giáo huấn một phen. Điếm tiểu nhị nói:

– Hai vị ấy…

Nói tới đó, mặt liền biến sắc, nhún vai, quay người đi.

Dương Quá đoán có chuyện gì, không đuổi theo gã mà bưng đũa bát lên lùa cơm vào miệng; mắt thì liếc vội thấy từ ngoài cổng khách điếm có hai đạo sĩ sánh vai nhau tiến vào. Hai người đó trạc hai mươi sáu, hai mươi bảy tuổi, băng tai, tới ngồi xuống bàn bên cạnh. Gã đạo sĩ lông mày rậm liên tiếp hối thúc mang cơm rượu lên. Điếm tiểu nhị cười cười, nháy mắt ra hiệu với Dương Quá, rồi bĩu môi. Dương Quá làm như không trông thấy, cúi đầu ăn. Chàng biết được tin tức của Tiểu Long Nữ thì vui mừng, ăn hết một bát rồi, đang ăn thêm bát nữa. Chàng mặc bộ quần áo vải thô do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, trông giản dị, lại lấm bụi hơn một ngày đêm qua, trông chàng y hệt một thiếu niên bình thường ở thôn quê. Hai gã đạo sĩ bàn bên cạnh cũng chằng để ý tới chàng, trò chuyện nho nhỏ với nhau.

Dương Quá cố ý nhai thật to, nhưng lại dỏng tai chăm chú nghe xem hai đạo sĩ nói gì.

Chỉ thấy gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Bì sư đệ, theo sư đệ thì hai vị Hàn, Trần tối nay có đến đúng hẹn hay không?

Gã đạo sĩ thứ hai cằm bạnh, giọng ồ ồ, đáp:

– Hai vị ấy đều là hán tử chắc chắn bên Cái Bang, rất thân với Thân sư thúc, Thân sư thúc đã mời, họ thể nào cũng đến.

Dương Quá liếc mắt, thấy hai đạo sĩ đều lạ mặt, nghĩ thầm: “Cung Trùng Dương có hàng ngàn đạo sĩ, mình không quen họ, họ cũng chẳng nhận ra mình; song họ đều biết mình là tên tiểu tử từ bỏ giáo phái Toàn Chân, đừng để họ nhìn thấy mặt là hơn. Hừ, họ đánh không lại cô cô của ta, lại phải đi nhờ bọn ăn mày giúp sức”. Gã đạo sĩ lông mày rậm nói:

– Không chừng đường xa quá, tối nay họ không đến kịp…

Gã đạo sĩ họ Bì nói:

– Ồ Cơ sư huynh, việc đã như thế, lo lắng cũng vô dụng, một mình nàng ta thì…

Gã đạo sĩ lông mày rậm họ Cơ, vội nói:

– Uống rượu đi nào, đừng nhắc đến nó.

Rồi gọi điếm tiểu nhị, sai chuẩn bị một gian phòng để đêm nay nghỉ ở đây.

Dương Quá nghe hai đạo sĩ nói chuyện với nhau, nghĩ rằng cứ bám theo họ hẳn sẽ có thể gặp được sư phụ, nghĩ vậy lòng mừng vô hạn. Chờ họ đi ngủ, chàng cũng bảo điếm tiểu nhị bố trí cho chàng một phòng nhỏ bên cạnh họ.

Điếm tiểu nhị cầm đèn, ghé tai Dương Quá nói nhỏ:

– Thiếu gia hãy cẩn thận đó, tỷ tỷ của thiếu gia cắt mất tai của hai đạo gia, họ chuẩn bị trả thù đó.

Dương Quá nói nhỏ:

– Tỷ tỷ của ta tính rất hiền, sao lại cắt tai của người ta thế?

Điếm tiểu nhị cười nhăn nhở, thấp giọng nói:

– Nàng ta đối với thiếu gia thì hiền, nhưng đối với người khác chẳng hiền tí nào. Tỷ tỷ của thiếu gia đang ăn cơm ở đây, hi hi, có đúng là tỷ tỷ hay không? Tiểu đích chưa tin lắm, nhưng thôi, cứ coi như tỷ tỷ, một đạo gia ngồi bàn bên nhìn chân nàng ta mấy lần, thế là nàng ta nổi giận, rút kiếm ra động thủ liền…

Điếm tiểu nhị cứ thao thao bất tuyệt, còn định kể tiếp. Dương Quá thấy gian bên đã tắt đèn, vội xua tay ra hiệu bảo hắn ngừng lời, trong bụng nghĩ thầm: “Hai gã đạo sĩ thối tha kia hẳn là thấy cô cô xinh đẹp, cứ nhìn chằm chằm, khiến cô cô tức giận. Hừ, giáo phái Toàn Chân làm gì có người nào tửtế kia chứ?” Lại nghĩ thầm: “Cô cô từng đến cung Trùng Dương động thủ, hai gã đạo sĩ kia tất nhiên nhận ra cô cô”.

Chờ điếm tiểu nhị đi ra, chàng tắt đèn lên giường, quyết ý đêm nay không ngủ, đọc thuộc lại lần nữa bí quyết hai đại thần công mà Âu Dương Phong truyền thụ, song hai bí quyết đó quá ư thâm ảo, Âu Dương Phong lại truyền thụ tạp loạn vô chương, chàng chỉ nhớ được vài ba phần là cùng, lúc này cũng không dám tập trung suy ngẫm, sợ mải nghĩ sẽ không biết được động tĩnh ở buồng bên. Lặng lẽ canh chừng như thế đến nửa đêm, bỗng ngoài sân có hai tiếng bịch bịch nhẹ, có người vượt tường nhảy vào. Tiếp đó cửa sổ buồng bên cạnh khẽ kẹt một tiếng. Gã đạo sĩ họ Cơ hỏi:

– Có phải hai vị Hàn, Trần đó chăng?

Một người ngoài sân đáp:

– Đúng vậy.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Mời vào!

Cửa buồng mở ra, đèn được thắp sáng. Dương Quá dỏng tai lắng nghe bốn người kia nói chuyện.

Đạo sĩ họ Cơ nói:

– Bần đạo là Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền, bái kiến Hàn, Trần hai vị anh hùng.

Dương Quá nghĩ thầm: “Giáo phái Toàn Chân xếp thứ tự theo bốn chữ ‘Xứ Chí Thanh Tịnh’, hai gã đạo sĩ này là đệ tử đời thứ tư trong phái Toàn Chân, không hiểu là môn hạ của Hách Đại Thông hay Lưu Xứ Huyền”. Nghe một người giọng the thé nói:

– Hai ta nhận được thiếp mời của Thân sư thúc các vị, đi suốt ngày đêm tới đây. Kẻ tiểu tặc ấy tài giỏi lắm sao?

Cơ Thanh Hư nói:

– Nói ra thật hổ thẹn, sư huynh đệ tại hạ đấu với nàng ta một trận, không thể địch nổi.

Người kia nói:

– Võ công của nữ nhân ấy thuộc môn phái nào?

Cơ Thanh Hư đáp:

– Thân sư thúc nghi rằng nàng ta là truyền nhân của phái Cổ Mộ, tuy ít tuổi nhưng thân thủ rất lợi hại.

Dương Quá nghe ba chữ “phái Cổ Mộ” thì bất giác khẽ “à” một tiếng.

Chỉ nghe Cơ Thanh Hư nói:

– Nhưng khi Thân sư thúc nhắc đến phái Cổ Mộ, tiểu a đầu ấy lại nói lời khinh bỉ Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu, hóa ra không phải.

Người kia nói:

– Đã thế thì cũng chẳng có gì ghê gớm. Ngày mai hẹn nhau ở đâu?

Cơ Thanh Hư nói:

– Thân sư thúc và nàng ta hẹn nhau, chính ngọ ngày mai sẽ gặp nhau ở Sài Lang Cốc, cách đây bốn chục dặm về phía tây nam, đôi bên tỷ võ quyết thắng. Đối phương có bao nhiêu người, hiện vẫn chưa biết. Chúng tại hạ đã có hai vị cao thủ anh hùng Hàn, Trần của Cái Bang áp trận trợ quyền, thì không sợ bọn họ đông người.

Một giọng già dặn hơn nói:

– Được, trưa mai huynh đệ ta sẽ tới đó, Hàn lão đệ, chúng ta đi nào.

Cơ Thanh Hư tiễn hai người kia ra cửa, nói nhỏ:

– Nơi đây cách cung Trùng Dương không xa, chuyện tỷ võ này không thể để các vị sư bá Mã, Lưu, Khưu, Vương hay biết, nếu không chúng tại hạ sẽ bị trách phạt rất nặng.

Người họ Hàn cười ha hả, nói:

– Thân sư thúc của các vị đã nói rõ trong thư rồi, nếu không thế, cung Trùng Dương cao thủ nhiều như mây, hà tất phải nhờ hai người ngoài bọn ta trợ giúp?

Người họ Trần nói:

– Ngươi cứ yên tâm, bọn ta quyết không tiết lộ phong thanh là được. Đừng nói sáu vị chân nhân Mã, Lưu, Khưu, Vương, Hách, Tôn hay biết, mà các vị sư bá, sư thúc khác của hai ngươi cũng không biết được.

Hai đạo sĩ cùng khen phải. Dương Quá nghĩ thầm: “Các người liên thủ với nhau ăn hiếp cô cô của ta, lại sợ người phe khác hay biết, hừ, lén lén lút lút, thật là gian xảo”.

Chỉ nghe bốn người bàn thêm vài câu, rồi Hàn, Trần hai người vượt tường mà ra, Cơ Thanh Hư và Bì Thanh Huyền tiễn theo ra bên ngoài.