Hồi 20: Đại hiệp cứu quốc

Dương Quá vốn muốn tách mình ra khỏi chuyện phải trái nơi đây, nhưng mắt thấy Công Tôn Chỉ hung bạo như vậy, chàng không nén được cơn giận, đang định bước ra đối đáp với hắn, thì Tiểu Long Nữ đã chạy tới đỡ Cầu Thiên Xích dậy, xoa xoa huyệt Ngọc Chẩm sau gáy cho bà ta, cầm máu, rồi xé vạt áo băng vết thương, xẵng giọng nói với Công Tôn Chỉ:

– Công Tôn tiên sinh, người này là nguyên phối phu nhân của tiên sinh, tại sao tiên sinh nỡ đối xử với bà ta như vậy? Tiên sinh đã có phu nhân, tại sao còn muốn lấy ta? Giả dụ ta lấy tiên sinh, mai này tiên sinh cũng sẽ đối xử với ta như thế chứ gì?

Mấy câu hỏi dồn dập này làm cho Công Tôn Chỉ cứng lưỡi, không thể trả lời.

Mã Quang Tá thích thú reo lên. Tiêu Tương Tử thì lạnh lùng nhận xét:

– Cô nương này nói rất đúng.

Công Tôn Chỉ quả thật si mê Tiểu Long Nữ, tuy bị nàng hỏi dồn cho cứng lưỡi, nhưng hắn không tức giận, chỉ nhẹ nhàng nói:

– Liễu muội, sao muội lại đi so mình với mụ ác bà kia? Ta nhất mực luyến ái muội còn chưa xong, nếu ta có ý xấu với muội, thì trời tru đất diệt.

Tiểu Long Nữ thản nhiên nói:

– Thiên hạ chỉ cần một mình Quá nhi yêu ta, tiên sinh có thích ta gấp trăm lần, ta cũng chẳng thiết.

Nói rồi nàng nắm chặt tay Dương Quá.

Dương Quá xúc động dị thường, nghĩ: “Cô cô đối với ta như vậy, mà ta chỉ còn được sống vài ngày, tất cả đều do tên ác tặc này”, chàng bèn chỉ mặt Công Tôn Chỉ, nói:

– Ngươi bảo ngươi không có ý xấu gì đối với cô cô ta, hứ, ngươi đẩy ta xuống tử địa, lại lừa dối cô cô ta để thành hôn, như thế gọi là tốt ư? Cô cô bị trúng độc hoa Tình, ngươi thừa biết không có thuốc cứu, song không nói rõ cho cô cô ta biết, như thế là tử tế ư?

Tiểu Long Nữ kinh ngạc, run run hỏi:

– Thật vậy à?

Dương Quá nói:

– Đừng lo, cô cô ban nãy vừa uống thuốc rồi.

Nói đoạn mỉm cười, trong lòng vừa buồn vừa vui, nghĩ: “Ta đưa thuốc cho nàng rồi, ta tình nguyện vì nàng mà chết”.

Công Tôn Chỉ nhìn Cầu Thiên Xích, lại nhìn Tiểu Long Nữ và Dương Quá, trong bụng hắn vừa đố kỵ, vừa thèm muốn, vừa tức giận, vừa hối hận, lại thất vọng, ngượng ngùng. Hắn vốn có công phu hàm dưỡng, nhưng lúc này lâm vào tình cảnh nửa muốn phát điên, liền cúi xuống rút từ dưới tấm chăn hồng “Âm dương song nhẫn”, kim đao hắc kiếm đụng vào nhau “keng” một tiếng, hắn nói:

– Được lắm, hôm nay chúng ta sẽ cùng bỏ mạng một lượt!

Mọi người không ngờ trong đêm tân hôn giao bái, Công Tôn Chỉ lại giấu hung khí dưới chăn, bất giác cùng kêu ồ lên kinh ngạc.

Tiểu Long Nữ lạnh lùng nói:

– Quá nhi, đối với kẻ ác như hắn, không nên khách khí làm gì.

Keng một tiếng, nàng cũng rút từ trong bộ hỉ phục màu hồng của tân nương ra hai thanh kiếm, chính là hai thanh kiếm Quân tử và Thục nữ. Nàng tuy không am tường thế sự, nhưng đối với ác nhân, nàng hạ thủ không hề lưu tình. Hôm trả thù cho Tôn bà bà tại cung Trùng Dương, nàng đã làm cho đệ tử phái Toàn Chân kinh hồn táng đởm, Quảng Ninh tử Hách Đại Thông suýt nữa mất mạng. Hôm nay Công Tôn Chỉ làm cho nàng không được đoàn viên với Dương Quá, nàng đã có ý định liều mình từ sớm, giấu hai thanh kiếm dưới áo cưới, chờ Công Tôn Chỉ chữa trị xong cho Dương Quá, là nàng sẽ tìm cơ hội giao đấu với hắn, nếu không thắng, nàng sẽ tự vẫn, quyết không chôn vùi sự trinh khiết ở cái xó Tuyệt Tình cốc này.

Tân khách thấy cặp phu phụ tân hôn thủ sẵn đao kiếm, đều kinh ngạc, chỉ một số ít người, như Kim Luân pháp vương, đoán trước rằng cuộc hỉ sự này tất sẽ dẫn tới một trường hung sát; nhưng khi thấy Cầu Thiên Xích vừa bị đụng đã ngã chổng kềnh, chẳng tương xứng chút nào với nội công thâm hậu mà bà ta hiển thị, thì không khỏi ngạc nhiên.

Dương Quá nhận thanh kiếm Quân tử từ tay Tiểu Long Nữ, nói:

– Cô cô, hôm nay hai ta giết tên thất phu kia, trả thù cho Quá nhi!

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Trả thù cho Quá nhi ư?

Dương Quá đau lòng, nhưng nghĩ chuyện này không nên nói rõ cho nàng biết, chỉ nói:

– Tên ác tặc kia đã hại nhiều người.

Chàng vung kiếm đâm thẳng tới sườn trái của Công Tôn Chỉ. Chàng biết trận đấu này rất hung hiểm, chất độc hoa Tình trong người Tiểu Long Nữ tuy đã được giải, nhưng bản thân chàng bị trúng độc quá sâu, nếu song kiếm hợp bích để thi triển “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, động đến chân tình, chàng sẽ bị đau buốt; thế là chàng thi triển kiếm pháp phái Toàn Chân, mỗi chiêu thức đều giữ pháp độ nghiêm cẩn. Lộ kiếm pháp này nếu do mấy lão đạo sĩ Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ xuất thủ, tất sẽ ngưng trọng, bình ổn và sâu lắng; còn Dương Quá sử thì không tránh khỏi thiếu niên lão thành, không được tự nhiên.

Công Tôn Chỉ biết sự lợi hại khi đối phương liên thủ, vừa vào trận liền thi triển “Âm dương đảo loạn nhẫn pháp”, tay trái kim đao, tay phải hắc kiếm, chiêu số hết sức hung hiểm. Kiếm pháp Toàn Chân của Dương Quá là do Vương Trùng Dương sáng tạo, tuy không hung hiểm như kẻ địch, nhưng biến hóa tinh vi, Dương Quá chỉ thủ không công, tiếp liền ba chiêu của hắn. Tiểu Long Nữ quát một tiếng, vung kiếm Thục nữ đâm sau lưng Công Tôn Chỉ.

Công Tôn Chỉ vô cùng thất vọng: “Đóa hoa tươi thắm này lẽ ra là phu nhân tân hôn của ta, bây giờ lại liên thủ với kẻ khác đánh ta”. Lại nghĩ: “Ác bà nương đột nhiên xuất hiện, bóc trần chuyện cũ, làm ta mất hết thể diện và uy tín, không chỉ không ép được Liễu muội thành hôn, mà ngay cơ nghiệp Tuyệt Tình cốc cũng không thể bảo tồn”. Tuy gặp tình huống thúc thủ nan giải, nhưng hắn vẫn ỷ thế võ công cao siêu, chỉ cần hôm nay đánh bại Dương Quá, hắn sẽ đem Tiểu Long Nữ cao chạy xa bay. Hắn không biết rằng Tiểu Long Nữ đã uống giải dược Tuyệt Tình đơn, còn nghĩ nàng sẽ sống ba mươi sáu ngày nữa, trong ba mươi sáu ngày ấy hắn vẫn muốn nàng làm vợ hắn. Càng nghĩ tà tâm càng trỗi dậy, thủ pháp càng hung bạo.

Tiểu Long Nữ sử dụng “Ngọc nữ kiếm pháp”, muốn tâm ý tương thông với Dương Quá, phát dương uy lực “Tố tâm kiếm pháp”; ai dè chàng trước sau không hề nhìn nàng, cứ vung kiếm cự địch riêng rẽ. Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Quá nhi, sao chàng không nhìn thiếp?

Dương Quá nghe giọng nàng, lòng chấn động, lập tức đau nhói ở ngực, kiếm chiêu hơi chậm lại, xoạc một tiếng, ống tay áo chàng bị hắc kiếm xé rách. Tiểu Long Nữ cả kinh, đâm liền ba kiếm, ngăn chặn đòn công kích của Công Tôn Chỉ. Dương Quá nói:

– Quá nhi không thể nhìn cô cô, cũng không được nghe cô cô nói đâu.

Tiểu Long Nữ dịu dàng hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá chỉ sợ lại gặp nguy hiểm, nên xẵng giọng đáp:

– Cô cô muốn Quá nhi chết, thì hãy nói năng âu yếm với Quá nhi!

Chàng vừa nổi giận, cơn đau hết ngay, đủ sức hóa giải chiêu kiếm của Công Tôn Chỉ.

Tiểu Long Nữ cảm thấy mình có lỗi, nói:

– Chàng đừng giận, thiếp không nói nữa vậy.

Đột nhiên nàng nghĩ: “Ô, mình đã được giải độc, chàng thì chưa! Thuốc giải có được, chàng không uống, đã dành cho ta rồi”. Nghĩ đến đó, vừa cảm kích, vừa thương chàng, thâm tình vô hạn, uy lực của “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” tăng lên tức thì, chiêu số sử ra che chở cho mọi chỗ yếu hại trên thân thể Dương Quá. Khi nàng che chở cho chàng, lẽ ra chàng phải phòng ngự giúp nàng, nhưng Dương Quá không dám liếc nhìn nàng, thành thử toàn thân nàng đầy sơ hở, rất dễ bị đòn của địch.

Công Tôn Chỉ tinh mắt, qua vài chiêu đã nhận ra sơ hở của nàng; nhưng hắn không muốn đả thương nàng, đao kiếm chỉ nhắm Dương Quá mà công kích mãnh liệt. Khi công kích thì như sóng dữ vỗ bờ, lúc phòng thủ thì tường đá sừng sững. Tiểu Long Nữ thì chỉ chăm chú bảo hộ cho Dương Quá, nên trong mấy chục chiêu, đôi bên vẫn ngang ngửa với nhau.

Lúc này Lục Ngạc đã tỉnh lại, nàng đứng bên mẹ xem cuộc đấu, thấy Tiểu Long Nữ tận lực phòng thủ cho Dương Quá, chẳng chú ý tới sự an nguy của mình, thì bất giác nghĩ bụng: “Nếu ở địa vị nàng là ta, vào lúc sinh tử hệ trọng, liệu ta có thể quên mình, chỉ lo cho chàng như vậy được chăng?” Nàng thở dài: “Ta cũng có thể làm được như Long cô nương. Tiếc rằng chàng không hề nghĩ đến ta”.

Cầu Thiên Xích bỗng nói to:

– Giả đao phi đao, giả kiếm phi kiếm!

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nghe cùng ngẩn người, chưa rõ dụng ý câu nói của bà ta. Cầu Thiên Xích lại nói to:

– Đao tức là đao, kiếm tức là kiếm!

Dương Quá đấu với Công Tôn Chỉ đây là lần thứ hai, chàng cố tìm ra chỗ bí ảo của “Âm dương đảo loạn nhẫn pháp”, chỉ thấy đối phương cây hắc kiếm thanh mảnh cứ chém mạnh, còn cây kim đao nặng nề thì lại múa lượn linh hoạt, chiêu số xuất thủ tương phản hoàn toàn với cái lý của võ học. Nhưng nếu trước sau hắn cứ lấy đao làm kiếm, lấy kiếm làm đao thì là một chuyện; đàng này cứ bất chợt hiển thị đao pháp với kiếm pháp, biến hóa khôn lường, chẳng biết đâu mà lần. Lúc này bỗng nghe Cầu Thiên Xích nói mười sáu chữ kia, thì chàng nghĩ: “Không lẽ kiếm chiêu trên đao, đao chiêu trên kiếm của hắn toàn là giả?” Mắt thấy thanh hắc kiếm chém ngang vai, rõ ràng là chiêu số của đơn đao, Dương Quá bèn thử dùng kiếm Quân tử gạt đi, hai kiếm đụng nhau, keng một tiếng, cả hai người đều thoái lui một bước. Dương Quá mới biết, rốt cuộc hắc kiếm vẫn là kiếm, đao chiêu mà hắn sử dụng chỉ cốt làm cho đối phương hoa mắt; nhưng nếu đối phương võ công non kém, ứng phó vụng về, thì vẫn có thể bị đả thương bởi đao chiêu ấy.

Dương Quá vừa thử đã thành công, thì cả mừng, chăm chú theo dõi sự sơ hở trong đao kiếm của đối phương, nghĩ bụng, hắn sử dụng chiêu số đảo loạn, tuy kỳ diệu, song lộ tử chắc chắn không thuần nhất. Bỗng nghe Cầu Thiên Xích nói:

– Tấn công đùi bên phải, tấn công đùi bên phải!

Dương Quá thấy kim đao của Công Tôn Chỉ rung rung, hạ bàn thực ra không có gì sơ hở, nhưng chàng nghĩ Cầu Thiên Xích tuy chân tay vô lực, nhưng hiểu biết võ học còn nguyên, võ công của Công Tôn Chỉ lại là do bà ta truyền thụ, bà ta nhất định biết rõ hư thực của hắn, bèn theo lời mà xuất chiêu, đâm một liếm vào đùi bên phải của hắn. Công Tôn Chỉ đưa kim đao gạt ngang, đùi bên phải được che đỡ; nhưng việc chống đỡ đó để hở vai và sườn bên trái. Dương Quá không chờ Cầu Thiên Xích chỉ điểm, trường kiếm của chàng đã đâm toạc vạt áo dưới nách Công Tôn Chỉ. Hắn làu bàu chửi, nhảy lùi lại trừng mắt nhìn Cầu Thiên Xích, quát:

– Lão khất bà, cứ chờ đó, ta sẽ không tha cho mụ đâu.

Đoạn lại vung đao kiếm tấn công Dương Quá. Dương Quá chống đỡ, Cầu Thiên Xích lại nhắc:

– Đá sau lưng hắn.

Lúc này hai người đang đối diện nhau, muốn đá sau lưng hắn là không thể được, song Dương Quá đã tin vào sự chỉ dẫn của Cầu Thiên Xích, biết lời nói của bà ta hẳn có thâm ý, bèn vòng ra phía sau lưng đối phương. Công Tôn Chỉ chém chéo kim đao ra phía sau. Cầu Thiên Xích nói:

– Đâm giữa trán hắn!

Dương Quá nghĩ: “Mình vừa vòng ra sau lưng hắn, bà ta lại bảo mình đâm vào giữa trán hắn”; chàng cũng chẳng kịp nghĩ ngợi thêm, lập tức trở lại đối diện với kẻ địch, đang định đâm vào giữa trán hắn, thì Cầu Thiên Xích lại nói:

– Đâm vào mông hắn!

Lục Ngạc đứng bên, hai lòng bàn tay ướt mồ hôi vì hồi hộp, nàng cau mày, nghĩ: “Mẹ cứ nói loạn như thế, chẳng hóa ra lại giúp cha hay sao vậy?” Nàng nghĩ nhưng không nói. Mã Quang Tá thì không nhịn được, kêu to lên:

– Dương huynh đệ, chớ mắc lừa lão thái bà, bà ta muốn huynh đệ chết mệt đó!

Dương Quá vòng ra sau, trở lại trước mấy lần, đã lờ mờ đoán ra dụng ý của Cầu Thiên Xích, nghe bà ta bảo sao, chàng làm đúng như vậy, sau vài lần di chuyển, quả nhiên phát hiện sườn bên phải của Công Tôn Chỉ lộ rõ sơ hở. Trường kiếm của chàng đâm tới, xuyên qua áo, mũi kiếm sâu vào thịt hơn một tấc, máu tươi tức thì loang đỏ vạt áo Công Tôn Chỉ.

Mọi người ồ lên, cùng đứng dậy. Bọn Kim Luân pháp vương đều đã hiểu, nguyên Cầu Thiên Xích vừa rồi không chỉ dẫn cho Dương Quá thủ thắng như thế nào, mà là dạy chàng tìm cơ hội chiến thắng trong tình thế không thể thắng; hoàn toàn không chỉ ra chỗ sơ hở trong chiêu số của Công Tôn Chỉ, mà là muốn Dương Quá dẫn dụ đối phương từ chỗ không có sơ hở trong chiêu số đến chỗ bộc lộ sơ hở. Cầu Thiên Xích chỉ điểm vài lần liên tiếp, Dương Quá lập tức lĩnh hội được tinh nghĩa của võ học thượng thừa, lòng thầm thán phục: “Kẻ địch là cao thủ, rất khó tìm ra sơ hở trong chiêu số của hắn, sự chỉ dẫn của vị Cầu lão tiền bối đáng là bài học cho ta dùng suốt đời”.

Nhưng muốn Công Tôn Chỉ bộc lộ sơ hở, không những võ công phải cao cường, mà còn phải thông thạo chiêu số mà hắn sử dụng, mới có thể trong vòng mươi chiêu, dẫn dụ hắn đi vào con đường sai lầm. Điều này chỉ Cầu Thiên Xích mới làm nổi; Dương Quá thì tuy biết cái lý như vậy, song chưa tự làm được, chàng theo lời chỉ dẫn của bà ta, liên tiếp tấn công tiền hậu tả hữu, phải sau hơn hai mươi chiêu, mới lại đâm một kiếm trúng đùi Công Tôn Chỉ.

Nhát kiếm này đâm tuy không sâu, nhưng rạch một đường dài năm, sáu tấc. Công Tôn Chỉ nghĩ: “Liễu muội cứ phòng hộ vững chắc cho tên tiểu tử họ Dương, khiến ta không đả thương được hắn; cứ đà này, hắn được lão khất bà chỉ điểm, ta sẽ bỏ mạng dưới kiếm của hắn mất”. Năm nào để tự cứu mình, hắn từng đâm chết tình nhân; bây giờ trong cơn nguy cấp, hắn cũng chẳng tha cho Tiểu Long Nữ nữa, liền vung hắc kiếm chém mạnh vào vai Tiểu Long Nữ.

Dương Quá lo sợ, vội giơ kiếm đỡ cho nàng, chỉ nghe Cầu Thiên Xích nói to:

– Đâm eo lưng hắn!

Dương Quá sững sờ, nghĩ: “Cô cô bị tấn công, làm sao ta bỏ mặc không cứu? Nhưng Cầu lão tiền bối mỗi lần chỉ dẫn đều có thâm ý, chắc đấy là chiêu vây Ngụy cứu Triệu; chàng liền chuyển mũi kiếm đâm vào mạng sườn bên phải của Công Tôn Chỉ. Bỗng nghe Tiểu Long Nữ kêu “ối”, nàng bị thương vào cánh tay, thanh kiếm Thục nữ rơi xuống đất. Công Tôn Chỉ đưa chếch hắc kiếm chống đỡ một chiêu của Dương Quá.

Dương Quá cả kinh, vội nói:

– Cô cô mau lui ra, để Quá nhi một mình đối phó với hắn.

Chàng vừa quan tâm đến Tiểu Long Nữ, ngực lại đau nhói. Tiểu Long Nữ bị thương không nhẹ, đành lùi ra, xé vạt áo băng vết thương. Dương Quá cố chống trả, chàng trừng mắt nhìn Cầu Thiên Xích vì bà ta vừa chỉ dẫn sai.

Cầu Thiên Xích cười khẩy, nói:

– Ngươi trách gì ta? Ta chỉ giúp ngươi giết địch, ai bảo ngươi đi cứu người? Hừ, cô nương kia sống hay chết đâu có can hệ đến ta? Nó chết đi còn hay hơn là đằng khác!

Dương Quá giận nói:

– Hai vợ chồng lão tiền bối đúng là một cặp tương xứng, chẳng có lương tâm gì hết!

Cầu Thiên Xích cười, cũng không giận, thản nhiên xem hai người giao đấu.

Dương Quá liếc qua về phía Tiểu Long Nữ, thấy nàng dựa vào chiếc ghế, xé vạt áo băng vết thương, đoán nàng sẽ không sao, tinh thần hăng lên, kiếm chiêu chợt biến, từ kiếm pháp phái Toàn Chân đổi sang Ngọc nữ kiếm pháp. Công Tôn Chỉ thấy kiếm pháp của chàng đang ổn trọng đoan nghiêm, đột nhiên chuyển thành khinh linh thanh thoát, như thể hóa thành một người khác, thì hắn lấy làm lạ, nghĩ: “Kẻ này ngụy kế đa đoan, lại giở trò quỉ gì đây?” Nhưng khi tiếp chiêu, cảm thấy kiếm pháp của đối phương đúng là phong cách danh gia, cùng một lộ với Tiểu Long Nữ, thì hắn không nghi ngờ nữa, kim đao hắc kiếm cùng tấn công tới.

Sau hơn mười chiêu, Dương Quá lại dần dần núng thế, để Công Tôn Chỉ đẩy chàng lùi dần. Cầu Thiên Xích mấy lần lên tiếng chỉ điểm, nhưng Dương Quá giận bà ta có ý hại Tiểu Long Nữ, không thèm nghe lời bà ta, nghĩ bụng: “Ai cần mụ la lối kia chứ?” Chàng đâm liền bốn kiếm, cất giọng ngâm nga:

Dập dồn chân ngựa, sắc áo hồng tươi.

Lỏng buông tay khấu, mê mải rong chơi.

Miệng ngâm nga, kiếm chiêu phối hợp với câu thơ, động tác múa lượn cực kỳ uyển chuyển. Công Tôn Chỉ ngẩn người, hỏi:

– Cái gì vậy?

Dương Quá lại ngâm:

Gió bay điện chớp, cảnh vùn vụt trôi

Trung Nguyên tươi đẹp, mắt ai sáng ngời

Thơ bốn chữ một câu, kiếm chiêu cũng bốn chiêu một lớp, ngâm đến câu “Gió bay điện chớp, cảnh vùn vụt trôi”, thì kiếm pháp nhanh lạ thường, ở câu “Trung Nguyên tươi đẹp, mắt ai sáng ngời”, thì lại dìu dặt uyển chuyển. Công Tôn Chỉ chưa từng gặp lộ kiếm pháp thế này, nghe đối phương ngâm thơ êm tai, thế công lập tức chậm lại, hắn ngưng thần dò đoán ý thơ, nghĩ rằng kiếm chiêu của Dương Quá phù hợp với ý thơ, chỉ cần hiểu được ý thơ, là sẽ phá giải kiếm pháp.

Lại nghe Dương Quá ngâm:

Rời gót vườn lan, ruổi ngựa Hoa san.

Sông dài như lụa, rủ xuống non ngàn.

Mắt dõi cánh hồng, tay lộng cung đàn.

Mấy câu thơ này ngâm lên hết sức tự nhiên, kiếm pháp thì đại khai đại hợp, anh tuấn hùng vĩ, nhất là hai câu cuối thì kiếm chiêu cực kỳ phiêu hốt, tưởng đông hóa tây, hướng lên mà lại đánh xuống, một chiêu hai kiếm, khó phân hư thực.

Tiểu Long Nữ lúc này đã băng bó xong vết thương, thấy kiếm pháp của Dương Quá rất đẹp mắt, bèn hỏi:

– Quá nhi, là môn kiếm pháp gì vậy, ai dạy cho chàng thế?

Dương Quá cười, đáp:

– Quá nhi tự luyện đó, cô cô bảo có được không? Ít ngày trước Quá nhi nằm dưỡng thương, cạnh giường có một quyển thơ, Quá nhi xem nên nhớ. Chu Tử Liễu tiền bối tại anh hùng yến dùng thư pháp hóa nhập võ công, Quá nhi thì lấy thi cú hóa nhập võ công, xem chừng cũng được.

Tiểu Long Nữ khen:

– Hay lắm.

Bỗng nghe Kim Luân pháp vương tán thưởng:

– Dương huynh đệ, sự thông minh của huynh đệ khiến lão nạp thán phục vô cùng. Mấy câu tiếp theo hẳn sẽ là “Cúi đầu thấu hiểu, hồn du thái huyền, Vui như ngư khách, được cá quên thuyền.”

Công Tôn Chỉ chợt nghĩ: “Lão hòa thượng đang chỉ điểm cho ta”. Cũng không cần nghĩ xem Kim Luân pháp vương có dụng ý gì, đoán rằng sau câu “Cúi đầu thấu hiểu”, kiếm tất đánh xuống, bèn vung hắc kiếm thủ trước hạ bàn, còn kim đao thì phạt ngang trung bàn.

Kim Luân pháp vương văn võ toàn tài, tuy ẩn cư ở Tây Tạng, nhưng đọc hết bách gia kinh sử của người Hán, nghe Dương Quá ngâm thơ, lão ta đã biết câu tiếp theo là gì, bèn nói toạc ra, để giúp Công Tôn Chỉ trừ khử Dương Quá. Lần này Công Tôn Chỉ quả nhiên đi trước nửa bước, kiếm chiêu của Dương Quá chưa sử ra, đã bị đối phương chặn đứng, đao răng cưa lại phạt ngang trung bàn. May mà Dương Quá nghe Kim Luân pháp vương đọc bốn câu thơ kia, thôi không sử kiếm theo thơ, mà phòng thủ trung bàn, chàng dùng ngón giữa tay trái búng vào sống đao “coong” một tiếng. Công Tôn Chỉ cảm thấy cánh tay chấn động, hổ khẩu hơi tê, hắn kinh ngạc nghĩ bụng: “Tên tiểu tử này võ công cổ quái thật!” Cái búng vừa rồi của Dương Quá chính là công phu Đạn chỉ thần công mà Hoàng Dược Sư truyền thụ, bất quá chàng công lực chưa đủ, nên chưa thể khắc địch chế thắng. Nếu là cái búng của Hoàng Dược Sư, thì cây đao kia đã văng khỏi tay Công Tôn Chỉ rồi. Tuy nhiên nhờ cái búng ấy mà trong giây lát Dương Quá từ thế hạ phong giành lại thượng phong, trường kiếm múa tít, sử dụng Ngọc tiêu kiếm pháp do Hoàng Dược Sư truyền thụ. Ngọc tiêu kiếm pháp và Đạn chỉ thần công đều lấy việc tấn công huyệt đạo của địch làm chính, kiếm phối hợp với chỉ (ngón tay), tinh vi huyền diệu, tuy công phu của chàng chưa thành thục, nhưng đông kích dồn dập một trận, Công Tôn Chỉ cũng không dễ gì đối phó.

Lúc này Cầu Thiên Xích lại nhắc:

– Hắn đâm kiếm sườn phải, đao chém ngang cổ đó!

– Hắn thọc kiếm vai phải, thủ đao sườn trái đấy!

Bà ta cứ vạch ra trước từng lộ chiêu số của Công Tôn Chỉ. Như thế này, Dương Quá tất sẽ thắng chứ không thể bại, chàng không ngâm thơ nữa, Kim Luân pháp vương sẽ chẳng còn cách gì đoán biết kiếm ý của chàng. Âm dương song nhẫn của Công Tôn Chỉ tuy là võ học gia truyền, nhưng sau một phen được Cầu Thiên Xích gạn đục khơi trong, sáng tân bổ khuyết, chỉnh đốn hoàn toàn, mọi chiêu số đều bị Cầu Thiên Xích đoán biết, dù biến hóa thế nào cũng bị bà ta vạch trần.

Đang đấu say sưa, bỗng nghe Cầu Thiên Xích nói:

– Đao kiếm của hắn cùng tấn công thượng bàn đó.

Câu này thật là tai hại, nói ra đúng vào lúc đao kiếm của Công Tôn Chỉ vừa đánh ra, không thể biến đổi giữa chừng, thừa cơ hội cho Dương Quá né tránh. Dương Quá chúi người xuống tránh, đưa ngang kiếm che lưng, ngón tay trái đã điểm vào huyệt Khí Hải ở dưới rốn một tấc rưỡi của đối phương. Dương Quá điểm trúng huyệt, cả mừng, tưởng đối phương nhất định bị trọng thương, nào ngờ Công Tôn Chỉ lại điềm nhiên tung cước đá lên cằm chàng. Dương Quá kinh ngạc, vội nhảy sang bên cạnh mấy thước, lấy làm lạ về huyệt đạo của người này. Ở trận trước, chàng dùng chuông vàng rõ ràng đánh trúng huyệt của hắn, vậy mà hắn không việc gì; chàng còn đang mải nghĩ, đao kiếm của Công Tôn Chỉ đã đánh tới. Chỉ nghe Cầu Thiên Xích nói:

– Đao kiếm của hắn giao thoa, hữu kiếm công bên trái, tả đao công bên phải.

Dương Quá lập tức cố chống trả.

Xét về công lực mà nói, Dương Quá đã không địch nổi từ sớm, may nhờ có Cầu Thiên Xích vạch ra trước các chiêu số lợi hại của Công Tôn Chỉ. Lúc này hai bên đã trao đổi bảy, tám trăm chiêu, đám đệ tử sơn cốc cố nhiên kinh hồn táng đởm, bọn cao thủ như Tiêu Tương Tử cũng hoa cả mắt, không thể đoán kết cục trận này ai thắng ai bại.

Trong đao quang kiếm ảnh, Công Tôn Chỉ há miệng mà thở phì phò, Dương Quá thì mồ hôi ướt áo, hai người tiến thoái đã không còn linh hoạt như trước nữa.

Công Tôn Lục Ngạc nghĩ cứ đấu tiếp, một trong hai người ắt sẽ trọng thương, nàng không muốn Dương Quá bại trận, cung không nỡ nhìn phụ thân ngã xuống, bèn nói nhỏ với Cầu Thiên Xích:

– Mẹ, mẹ bảo họ đừng đánh nhau nữa, hãy ngồi lại phân định phải trái thì hơn.

Câu Thiên Xích nói:

– Hừm, rót hai chén trà mang lại cho ta!

Lục Ngạc vâng lời, mang hai chén trà đến trước mặt mẹ. Cầu Thiên Xích đưa hai tay gỡ miếng vải mà ban nãy Tiểu Long Nữ đã băng vết thương trên đầu bà ta, vừa gỡ ra, máu lập tức lại chảy. Lục Ngạc thốt lên:

– Mẹ!

Cầu Thiên Xích nói:

– Không chết được đâu!

Bà ta đặt băng trên gối, hai tay bưng hai chén trà, bốn ngón mỗi tay giữ chén, ngón cái thì chấm đẫm máu tươi mà nhúng vào trong chén trà. Máu tươi tan liền trong nước trà, không còn vết tích gì. Bà ta gọi to:

– Đấu mệt cả rồi, hãy uống một chén trà rồi đấu tiếp!

Rồi sai Lục Ngạc:

– Bưng ra cho họ giải khát, mỗi người một chén!

Lục Ngạc biết mẹ vô cùng oán hận phụ thân, quyết không có hảo tâm để cho phụ thân giải khát; việc này chắc hẳn bất lợi cho phụ thân; nhưng hai chén trà này chính nàng rót ra, không hề có độc, cũng không có gì lạ, có lẽ mẹ nàng thương hại Dương Quá, song nếu không cho phụ thân nàng được uống, phụ thân sẽ không chịu dừng đấu; Dương Quá cũng không thể uống; cả hai sẽ mệt lử. Thế là nàng bước ra giữa sảnh, nói to:

– Xin hãy dùng trà!

Dương Quá và Công Tôn Chỉ đã khát khô cả cổ, nghe Cầu Thiên Xích gọi, đều dừng tay nhảy sang một bên. Lục Ngạc bưng khay trà cho phụ thân trước.

Công Tôn Chỉ nghĩ bụng, trà này do Cầu Thiên Xích sai mang ra, chắc có gì bất thường, quá nửa là bị hạ độc bèn hất tay về phía Dương Quá, nói:

– Mang cho hắn uống trước!

Dương Quá không chút lo sợ, bưng luôn chén trà, uống một ngụm nhỏ. Công Tôn Chỉ nói:

– Được rồi, ngươi hãy đưa chén trà ấy cho ta.

Hắn giơ tay nhận chén trà từ tay Dương Quá. Dương Quá cười, nói:

– Trà do con gái ngươi rót, không lẽ lại có thuốc độc hay sao?

Chàng nói rồi bưng chén trà kia uống một hơi cạn sạch.

Công Tôn Chỉ nhìn mặt Lục Ngạc, thấy sắc diện bình hòa, nghĩ: “Ngạc nhi có tình ý đối với tên tiểu tử kia, tất nhiên không hạ độc vào trà, mình đã đổi lấy chén của hắn, còn ngại gì nữa”. Bèn cũng uống cạn một hơi, rồi gõ đao kiếm vào nhau keng một tiếng, nói:

– Không cần nghỉ, hãy đấu tiếp; nếu không được mụ già kia chỉ điểm, thì ngươi có mười cái mạng cũng đã táng dưới kim đao hắc kiếm của ta rồi.

Cầu Thiên Xích băng lại vết thương trên đầu, nói:

– Công phu bế huyệt của hắn đã trở nên vô hiệu, ngươi cứ việc đánh vào huyệt đạo của hắn.

Công Tôn Chỉ sững sờ, chỉ lờ mờ cảm thấy lưỡi có vị tanh tanh của máu thì kinh hoàng. Nguyên công phu bế huyệt gia truyền của hắn có một điều đại cấm kỵ, là trong ăn uống tuyệt nhiên không được có chất tanh, nếu không công phu lập tức bị mất hiệu nghiệm. Tổ tiên hắn sợ vô ý phạm kỵ, đã nghiêm huấn mọi người trong sơn cốc này phải ăn chay; người ngoài dẫu không luyện công phu thượng thừa ấy cũng phải ăn chay theo. Hắn xưa nay phòng phạm chu đáo, ai ngờ Cầu Thiên Xích thực hiện độc kế, đem hòa máu bà ta vào trà? Dương Quá uống thứ nước trà ấy đâu có tổn hại gì, còn công phu khổ luyện một đời của Công Tôn Chỉ thì hóa thành công cốc.

Trong cơn cuồng nộ, hắn ngoảnh nhìn Cầu Thiên Xích, thấy bà ta đang ngồi đặt đĩa táo ngọt dùng để thết khách trên đầu gối bà ta, thong thả nhai táo một cách ngon lành, rồi bà ta chậm rãi nói:

– Hai mươi năm trước ta đã bảo ngươi rồi, môn công phu của gia tộc Công Tôn nhà ngươi khó luyện dễ phá, đừng luyện thì hơn.

Công Tôn Chỉ mắt như tóe lửa, vung đao kiếm lao về phía Cầu Thiên Xích. Công Tôn Lục Ngạc hoảng hốt nhào tới che trước mặt mẹ, chỉ cảm thấy tiếng gió rít ngang tai, tựa hồ có ám khí bay qua. Công Tôn Chỉ rú lên một tiếng dài, mắt phải của hắn máu chảy ròng ròng, hắn quay người chạy ra, hai tay vẫn nắm đao kiếm. Một vệt máu tươi nhỏ dưới đất, thẳng ra cửa sảnh. Chỉ nghe tiếng kêu thảm thiết càng lúc càng xa của hắn, cuối cùng tắt lặng ngoài rừng. Mọi người trong sảnh nhìn nhau, không biết Cầu Thiên Xích đả thương Công Tôn Chỉ bằng cách nào. Chỉ có Dương Quá và Công Tôn Lục Ngạc mới biết Cầu Thiên Xích vừa sử dụng công phu phun hạt táo.

Trong lúc Dương Quá và Công Tôn Chỉ giao đấu, Cầu Thiên Xích ăn táo, đã ngậm sẵn trong miệng bảy, tám hạt táo. Bà ta thấy Công Tôn Chỉ võ công đại tiến, nếu mình phun hạt táo, hắn ắt tránh được, một đòn không trúng, hắn đã đề phòng thì sau đó khó lòng đả thương hắn. Thế là bà ta trước tiên dùng trà pha máu hủy hoại công phu bế huyệt của hắn, sau đó mới thừa cơ hắn nổi giận mà đột nhiên phun hạt táo. Mười mấy năm bà ta chỉ khổ luyện một môn võ công này, kình lực mạnh mẽ, sự chuẩn xác của nó không thua bất cứ thứ ám khí lợi hại nào trong thiên hạ. Nếu Công Tôn Lục Ngạc không bất ngờ nhảy ra che chắn trước mặt, thì Công Tôn Chỉ đã không chỉ mù cả hai mắt, mà còn bị hạt táo phun trúng giữa trán, chết ngay tại trận.

Lục Ngạc không nỡ lòng nào, nàng ngây ra, gọi:

– Gia gia, gia gia!

Rồi định chạy theo xem sao. Cầu Thiên Xích quát:

– Ngươi muốn gọi gia gia, muốn đi theo hắn thì vĩnh viễn đừng nhìn mặt ta nữa.

Lục Ngạc dừng bước, tiến thoái lưỡng nan, nhưng nghĩ trong chuyện này phụ thân sai trái, thảm cảnh mẹ nàng phải chịu nặng nề hơn nhiều, hơn nữa phụ thân đã đi xa, nàng có đuổi theo cũng chẳng kịp, bèn quay lại, đứng cúi đầu im lặng.

Cầu Thiên Xích thản nhiên ngồi trên ghế, nhìn hai bên, cười nhạt, nói:

– Được rồi, hôm nay các vị tới đây là để uống rượu mừng, tiệc rượu chưa xong, há để mất hứng?

Mọi người đều lạnh gáy trước mục quang của Cầu Thiên Xích, chỉ sợ bà ta đột nhiên phun ra thứ ám khí cổ quái. Mọi người của sơn cốc đều lo ngại, bọn Kim Luân pháp vương, Doãn Khắc Tây thì ngấm ngầm phòng bị.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá thấy Công Tôn Chỉ rơi vào kết cục như vậy, cũng hết sức bất ngờ, bất giác cùng thở dài, đưa tay ra nắm chặt tay nhau; hai người tâm ý tương thông, kề vai nhau bước ra ngoài. Vừa tới cửa sảnh, thì nghe Cầu Thiên Xích đột nhiên quát to:

– Dương Quá, ngươi đi đâu vậy?

Dương Quá quay người lại, vái bà ta thật dài, nói:

– Cầu lão tiền bối, Công Tôn cô nương, chúng ta từ biệt ở đây thôi.

Chàng tự biết mạng mình không dài, nên không nói “Hẹn ngày tái ngộ”.

Lục Ngạc đáp lễ, buồn rầu im lặng. Cầu Thiên Xích mặt hầm hầm, xẵng giọng:

– Ta có đứa con gái độc nhất hứa gả cho ngươi, tại sao ngươi đã không gọi ta là nhạc mẫu, lại còn vội vàng bỏ đi?

Dương Quá ngẩn ra, nghĩ: “Lão bà hứa gả con gái cho ta, nhưng ta đâu có muốn”.

Cầu Thiên Xích nói:

– Ở đây đồ lễ, đèn nến đủ cả, tân khách cũng đông đủ, nhân sĩ võ lâm chúng ta cũng khỏi cần nhiêu khê, hai đứa ngươi bây giờ hãy thành thân luôn cho xong.

Bọn Kim Luân pháp vương thấy Dương Quá chỉ vì Tiểu Long Nữ đã phải hai phen ác đấu với Công Tôn Chỉ, lúc này nghe Cầu Thiên Xích nói thế, biết rằng lại sắp xảy ra một trận phong ba. Mọi người nhìn nhau, kẻ thì mỉm cười, người thì lắc đầu nhè nhẹ.

Dương Quá tay trái khoác tay Tiểu Long Nữ, tay phải đè lên cán kiếm Quân tử, nói:

– Mỹ ý của Cầu lão tiền bối, vãn bối vô cùng cảm kích. Nhưng vãn bối đã có ý trung nhân, quả thật không xứng với lệnh ái.

Nói rồi thong thả bước lùi, chàng sợ Cầu Thiên Xích trong cơn giận dữ lại phun hạt táo, nên tay đè cán kiếm phòng bị.

Cầu Thiên Xích giận dữ nhìn Tiểu Long Nữ một cái, lạnh lùng nói:

– Hừm, tiểu hồ ly tinh này quả nhiên quá ư xinh xắn, chẳng trách lão già thì mê muội, trai trẻ cũng điên đảo vì nó.

Lục Ngạc nói:

– Mẹ, Dương đại ca và Long cô nương sớm có ước hẹn nhân duyên, đầu đuôi thế nào, hài nhi sẽ kể cho mẹ nghe sau.

Cầu Thiên Xích quát:

– Cái gì? Ngươi coi mẹ của ngươi là hạng người nào hả? Lời ta đã hứa, há có thể thay đổi? Dương Quá, đừng nói con gái ta dung mạo xinh đẹp, hoàn toàn xứng đôi với ngươi, cho dù nó xấu như ma, hôm nay ngươi không lấy nó làm vợ thì không xong với ta.

Mã Quang Tá nghe bà ta nói năng ngang ngược, thì cười phá lên, nói to:

– Vợ chồng cốc chủ đúng là một cặp hoạt bảo, lão công ép khuê nữ nhà khác thành hôn với mình, lão bà cũng ép thiếu niên nhà người phải lấy con gái mình, muốn hay không cũng mặc ư?

Cầu Thiên Xích lạnh lùng nói:

– Đúng thế!

Mã Quang Tá cười ha hả, “bộp” một tiếng, một hạt táo đột nhiên phun tới trán y, nhanh như một tia chớp.

Không thể né tránh, Mã Quang Tá kinh hãi nghiêng đầu, hạt táo làm y gãy mất ba cái răng cửa.

Mã Quang Tá cả giận, gầm lên, xông tới. Nhưng chỉ nghe “oạch oạch” hai tiếng, huyệt Hoàn Khiêu bên chân phải và huyệt Dương Quan bên chân trái của y cùng lúc bị hạt táo bắn trúng, y ngã khuỵu xuống, không đứng dậy nổi.

Ba hạt táo bắn đi với tốc độ quá nhanh, không kịp đối phó. Dương Quá lúc thấy Mã Quang Tá cả cười, biết rằng thể nào Cầu Thiên Xích cũng sẽ hạ độc thủ, chàng rút kiếm chạy lại cứu, nhưng đã chậm một bước, vội giơ tay đỡ Mã Quang Tá dậy, giải khai huyệt đạo cho y.

Mã Quang Tá thực sự thán phục, thấy Cầu Thiên Xích tay không động, chân không giơ, chỉ mấp máy môi mà đánh ngã y, liền nhổ ba cái răng gãy ra, nói:

– Lão thái bà, bản lĩnh của bà bà cao hơn ta, ta không dám đắc tội nữa.

Cầu Thiên Xích không thèm lý đến y, trừng mắt nói với Dương Quá:

– Ngươi nhất quyết không chịu lấy con gái ta phải không?

Lục Ngạc quá thẹn trước mặt mọi người trong đại sảnh, không nhịn được nữa, rút chuỷ thủ bên hông, chĩa mũi dao vào ngực mình, nói to:

– Mẹ, mẹ còn nói thế nữa, hài nhi sẽ chết ngay tại đây cho mẹ coi.

Cầu Thiên Xích chúm môi, bộp một tiếng, một hạt táo bắn tới, trúng cán chuỷ thủ khiến nó bay ngang, cắm vào một cây cột gỗ sâu mấy tấc, dưới ánh nến còn thấy cán dao rung rung.

Mọi người kêu ồ lên, cùng sởn gai ốc.

Dương Quá nghĩ ở đây thêm chỉ phí lời, chàng búng ngón tay vào thanh kiếm kêu tinh tinh, ngâm to:

Bơ vơ thỏ trắng lạc loài

Về đông nhưng cứ nhớ hoài trời tây

Không gì bằng áo mới may

Bằng em của những tháng ngày xa xưa

Rồi chàng khoác tay Tiểu Long Nữ mà quay mình đi.

Lục Ngạc nghe hai câu “Không gì bằng áo mới may, bằng em của những tháng ngày xa xưa”, thì càng đau lòng; nàng lấy tấm áo cũ rách mà Dương Quá đã thay ra, bưng hai tay đến trước mặt chàng, nói:

– Dương đại ca, bộ quần áo cũ tuy cũ vẫn hơn đấy.

Dương Quá nhận lấy, nói:

– Đa tạ cô nương.

Chàng và Tiểu Long Nữ đều biết Lục Ngạc cố ý che chắn, để mẹ nàng không thể phun hạt táo đả thương họ. Tiểu Long Nữ mỉm cười, gật đầu tỏ ý đa tạ, Lục Ngạc khẽ hất hàm ra phía ngoài, ngụ ý bảo hai người hãy mau mau rút đi.

Cầu Thiên Xích lẩm bẩm “Không gì bằng áo mới may, bằng em của những tháng ngày xa xưa”. Bỗng bà ta cao giọng gọi:

– Dương Quá, ngươi không chịu lấy con gái ta, ngay cả tính mạng ngươi cũng không muốn giữ hay sao?

Dương Quá cười nhạt, lùi thêm một bước, chân đã đặt trên ngưỡng cửa. Tiểu Long Nữ giật mình, nói:

– Hãy khoan.

Rồi nàng dõng dạc hỏi:

– Cầu lão tiền bối, lão tiền bối có đan dược trị độc hoa Tình hay không?

Lục Ngạc vốn vẫn nghĩ đến chuyện này, phụ thân trong tay chỉ có một viên “Tuyệt Tình đơn”, Dương Quá đã đưa cho Tiểu Long Nữ uống rồi, chất độc hoa Tình trong người chàng chưa được giải, nàng chỉ còn mong mẫu thân có cách gì chữa trị; nhưng mẫu thân ắt sẽ dùng cái đó để uy hiếp Dương Quá, buộc chàng lấy nàng làm vợ; nên nàng không dám mở miệng cầu xin; bây giờ tình thế gấp gáp, nàng cũng chẳng giữ kẽ nữa, liền nói với mẹ:

– Mẹ, nếu không có Dương đại ca cứu giúp, thì mẹ còn bị hãm trong hốc đá. Dương đại ca lại không hề đắc tội với mẹ. Chúng ta có ân báo ân, mẹ hãy mau tìm cách giải độc cho Dương đại ca.

Cầu Thiên Xích cười khẩy, nói:

– Có ân báo ân ư? Có thù báo thù ư? Ân cừu trên đời há phân minh rành rọt? Công Tôn Chỉ hắn đã báo ân ta rồi đấy!

Lục Ngạc nói to:

– Hài nhi căm hận nhất kẻ ba lòng hai ý, có mới nới cũ. Nếu Dương đại ca định quên người cũ, đòi lấy hài nhi, thì hài nhi dù chết cũng quyết không lấy chàng ta.

Mấy câu này Cầu Thiên Xích nghe rất hợp ý, nhưng nghĩ kỹ thấy ngay dụng tâm của con gái, biết nó rất thích Dương Quá, nếu Dương Quá bằng lòng lấy nó, nó sẽ chịu liền, có điều là tình thế trước mắt buộc phải tính cách cứu mạng Dương Quá cái đã.

Bọn Kim Luân pháp vương, Doãn Khắc Tây chứng kiến hai phen bức hôn, chỉ nhìn nhau tủm tỉm cười. Kim Luân pháp vương đến lúc này mới biết Dương Quá trúng độc, lão ta mừng thầm, chỉ mong chàng kiên trì đến cùng, đừng đáp ứng lấy Lục Ngạc để giữ mạng. Lão chỉ lo Dương Quá ngụy kế đa đoan, giả bộ đáp ứng, lấy được thuốc giải sẽ trở mặt. Nhưng lão ta nghĩ có mặt lão ở đây, tên tiểu tử kia có giở trò gian trá, lão ta cũng sẽ vạch trần, không để Cầu Thiên Xích mắc lừa.

Cầu Thiên Xích đưa mắt quét từ đông sang tây, thong thả nhìn mặt từng người, rồi nói:

– Dương Quá, ở đây có người mong ngươi sống, có kẻ muốn ngươi chết. Chính ngươi muốn sống hay chết, hãy tự nghĩ đi.

Dương Quá quàng tay sang eo lưng Tiểu Long Nữ, hiên ngang nói:

– Hai chúng tôi đây nếu không được sống bên nhau, thì cả hai chúng tôi thà cùng chết một lần.

Tiểu Long Nữ cười tươi, nói:

– Đúng vậy!

Nàng với Dương Quá tâm ý tương thông, ái tình của hai người nồng nàn đến mức họ coi rất nhẹ đại sự sinh tử.

Cầu Thiên Xích chưa hiểu tâm tư của Tiểu Long Nữ, nói:

– Nếu ta không ra tay cứu tên tiểu tử đó, hắn sẽ mất mạng, ngươi hiểu chưa? Hắn chỉ sống được ba mươi sáu ngày thôi, ngươi hiểu chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu lão tiền bối cứu mạng, hai chúng tôi được sống với nhau vài năm, dĩ nhiên đội ơn đại đức. Còn không, chỉ sống được ba mươi sáu ngày, hai chúng tôi cũng cam lòng! Quá nhi chết, vãn bối cũng chẳng thiết sống.

Nàng nói mấy câu đó, khuôn mặt xinh đẹp thản nhiên như không.

Cầu Thiên Xích nhìn Tiểu Long Nữ, lại nhìn Dương Quá, thấy hai người ấy nhìn nhau, tình si ý thành, bà ta chưa từng trải qua hay nghĩ đến trong đời, không ngờ nam nữ trên thế gian lại yêu thương nhau đắm đuối đến thế, bất giác nhớ đến kết cục phu thê bi thảm giữa mình với Công Tôn Chỉ, thì thở dài, hai dòng nước mắt lăn trên má.

Lục Ngạc sà vào lòng mẹ, khóc, nói:

– Mẹ, mẹ trị độc cho Dương đại ca, rồi hai mẹ con mình đi tìm cữu cữu, cữu cữu rất mong nhớ mẹ, phải vậy không?

Cầu Thiên Xích ứa nước mắt, lòng tràn ngập nhu tình, nhưng nghĩ đến câu nhị ca Cầu Thiên Nhẫn viết trong thư “Từ khi đại ca bị bỏ mạng dưới tay Quách Tĩnh, Hoàng Dung…”, bản thân mình thì chân tay tàn phế, nhị ca lại đã xuất gia đi tu, nói là “buông đao đồ tể, qui y tam bảo”, như thế chẳng hóa ra mối thù của đại ca không bao giờ trả được hay sao? Dương Quá võ công không kém, hắn đã không chịu lấy con gái ta, thì ta phải sai hắn thay ta đi báo thù, cũng là một đại sự.

Nghĩ đến đó, Cầu Thiên Xích bèn nói:

– “Tuyệt Tình đơn” vốn không ít, nhưng ta đã ngâm vào thạch tín hủy đi, chỉ có ba viên. Ba viên ấy, tên gian tặc đã uống một viên, viên thứ hai khi ta say rượu, bị Công Tôn Chỉ lấy đi, sau đó Dương Quá ngươi có được ngươi đã đưa cho thiếu nữ kia uống. Trên thế gian chỉ còn một viên duy nhất, được ta cất giữ trong người đã hơn hai mươi năm nay. Sống ở Tuyệt Tình cốc mà không để sẵn trong người một viên “Tuyệt Tình đơn”, thì coi như sinh mạng không còn của mình nữa. Nay ta còn sống cũng chẳng lâu, con gái ta cũng vị tất ở lại chốn này…

Nói rồi bà ta thong thả lấy trong bọc ra viên “Tuyệt Tình đơn” độc nhất trên thế gian, dùng móng tay cắt thành hai, để một nửa viên giữa lòng bàn tay, nói:

– Viên thuốc này ta cho ngươi, ngươi không chịu làm nữ tế (con rể) ta cũng được, song ngươi phải đáp ứng làm cho ta một việc.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nhìn nhau, không ngờ cuối cùng bà ta lại có hảo tâm. Hai người tuy nói là không quan tâm đến chuyện sống chết, nhưng trước mắt có đường sống, tất nhiên hết sức vui mừng, cùng nói:

– Lão tiền bối muốn làm việc gì, chúng tôi sẽ tận lực.

Cầu Thiên Xích chậm rãi nói:

– Ta muốn ngươi đi lấy thủ cấp của hai người về giao tận tay ta.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ vừa nghe, liền đoán rằng một trong hai kẻ mà Cầu Thiên Xích muốn giết hẳn là Công Tôn Chỉ. Đối với kẻ đó, Dương Quá tuyệt vô hảo cảm, hắn đã mù một mắt, công phu bế huyệt đã không còn, tuy chưa mất võ công, song giết hắn cũng không khó; có điều hắn là cha của Lục Ngạc, mà cô nương ấy đối với chàng lại si tình; giết cha nàng ta không khỏi khiến nàng ta đau khổ, thành thử nhất thời chàng chưa biết trả lời thế nào. Tiểu Long Nữ cũng nghĩ, Công Tôn Chỉ tuy tàn ác, song hắn có ơn cứu mạng nàng; nhìn sắc diện của Cầu Thiên Xích, nếu không làm theo yêu cầu của bà ta, bà ta sẽ không đời nào trao thuốc cho Dương Quá.

Cầu Thiên Xích nhìn nhìn vẻ lưỡng lự của hai người, lạnh lùng nói:

– Ta không biết hai kẻ ấy có quan hệ thế nào với các ngươi, song không thể không giết chúng.

Dương Quá nghe giọng điệu của Cầu Thiên Xích, thì dường như không phải là Công Tôn Chỉ, bèn hỏi:

– Cầu lão tiền bối có thù với ai? Muốn vãn bối lấy thủ cấp của ai?

Cầu Thiên Xích nói:

– Ngươi không nghe nhắc tên ác tặc trong bức thư ban nãy ư? Kẻ giết hại đại ca của ta là Quách Tĩnh, Hoàng Dung gì đó.

Dương Quá cả mừng, nói:

– Thế thì hay lắm! Hai kẻ đó chính là kẻ thù giết cha vãn bối. Cầu lão tiền bối không nhờ, vãn bối cũng phải giết hai kẻ đó để trả thù.

Cầu Thiên Xích lấy làm lạ, hỏi:

– Thật vậy ư?

Dương Quá chỉ Kim Luân pháp vương, nói:

– Vị đại sư kia cũng có hiềm khích với hai kẻ đó. Chuyện của vãn bối, vãn bối từng kể cho đại sư kia biết.

Cầu Thiên Xích nhìn Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương gật đầu, nói:

– Nhưng lần ấy vị Dương huynh đệ này lại đi giúp Quách Tĩnh, Hoàng Dung gây khó dễ với lão nạp.

Tiểu Long Nữ và Lục Ngạc rất ghét cái lão hòa thượng cứ chốc chốc xui nguyên giục bị kia, cùng hầm hầm nhìn lão ta. Kim Luân pháp vương giả bộ không thấy, mỉm cười, nói:

– Dương huynh đệ, chuyện đó có chứ?

Dương Quá nói:

– Đúng. Đợi tại hạ báo thù xong cho cha mẹ, sẽ thỉnh giáo đại sư vài chiêu.

Kim Luân pháp vương chắp tay, nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Cầu Thiên Xích chìa bàn tay, nói với Dương Quá:

– Ta cũng không cần biết ngươi nói thật hay giả, ngươi hãy nhận thuốc mà uống trước đi.

Dương Quá bước tới nhận, thấy chỉ có nửa viên, thì hiểu ngay, cười, nói:

– Phải mang thủ cấp của hai người về đổi lấy nửa viên còn lại phải không?

Cầu Thiên Xích gật đầu, nói:

– Ngươi rất thông minh, nhìn một cái hiểu ngay, khỏi cần người khác nhiều lời.

Dương Quá nghĩ: “Cứ uống nửa viên này đã, còn hơn không có thuốc”. Chàng bèn bỏ thuốc vào miệng, nuốt theo nước bọt xuống bụng. Cầu Thiên Xích nói:

– “Tuyệt Tình đơn” này trên thế gian chỉ có một viên, ngươi đã uống nửa viên, nửa viên còn lại ta sẽ giấu ở một nơi bí mật. Mười tám ngày sau, nếu ngươi mang thủ cấp của hai người về đây, tất nhiên ta sẽ trao nốt cho ngươi; nếu không, dẫu ngươi có đem thân ta ra mà tra tấn hành hạ, dẫu ngươi có quăng ta trở lại hốc đá, ta cũng không cho ngươi. Cầu Thiên Xích ta nói lời như dao chém đá, nói sao làm vậy. Xin cáo biệt các vị quí khách, Dương đại gia, Long cô nương, hẹn mười tám ngày sau tái ngộ.

Nói xong nhắm mắt lại, không lý gì đến mọi người nữa.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Vì sao định thời hạn mười tám ngày?

Cầu Thiên Xích nhắm mắt, nói:

– Chất độc hoa Tình trong người Dương Quá sau ba mươi sáu ngày sẽ phát tác, vừa rồi hắn đã uống nửa viên “Tuyệt Tình đơn”, chất độc tụ vào một chỗ, khi phát tác sẽ nhanh gấp bội. Mười tám ngày sau uống nết nửa viên, sẽ lập tức giải hết độc. Bằng không… thì… hi hi!

Nói đoạn vung tay, ngụ ý bảo mọi người hãy mau lui ra.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ biết không thể lý sự thêm với người này, bèn từ biệt Công Tôn Lục Ngạc, nhanh chóng rời Thủy Tiên trang. Dương Quá lại dùng thuyền rời khỏi Tuyệt Tình cốc, cùng Tiểu Long Nữ thi triển khinh công, băng qua núi cao mà ra.

Dương Quá ở trong sơn cốc chỉ có ba ngày, song số lần gian nan nguy hiểm, kề bên cái chết, trải qua trong ba ngày ấy không phải một, hai lần, giờ chàng được cùng ý trung nhân thoát khỏi hiểm địa, thật đúng như tái sinh kiếp khác. Hai người sánh vai đứng trên núi cao, nhìn xuống u cốc, chỉ thấy rừng cây âm u một màu xanh sẫm, trong lòng phơi phới, lâng lâng như đang đứng trên mây.

Dương Quá dắt tay Tiểu Long Nữ đi đến bên gốc một cây hòe lớn, nói:

– Cô cô!

Tiểu Long Nữ tựa lưng vào thân cây, mỉm cười, nói:

– Thiếp nghĩ chàng đừng gọi thiếp là cô cô nữa thì hơn.

Dương Quá trong thâm tâm đã không còn coi nàng là sư phụ, chàng gọi nàng là “cô cô” chỉ vì thói quen, nghe nàng nói vậy, thầm vui, nhìn chăm chú vào mắt nàng, hỏi:

– Quá nhi nên gọi là gì đây?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng thích gọi là gì thì gọi, tùy ý chàng.

Dương Quá nghĩ một lát, nói:

– Thời gian sung sướng nhất đời của Quá nhi là khi sống với cô cô trong tòa cổ mộ; bây giờ Quá nhi gọi nàng là cô cô vậy thì từ giờ đến chết cứ gọi là cô cô thôi.

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Lúc thiếp đánh vào mông chàng, chàng cũng sung sướng hay sao?

Dương Quá vòng hai tay ôm nàng vào lòng, chỉ thấy hơi ấm của cơ thể nàng phảng phất hương hoa của núi rừng, thật khiến người ta say đắm, bèn âu yếm nói:

– Hai ta cứ thế này mười tám ngày, cũng đủ sướng lắm rồi, khỏi cần đi giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung làm gì nữa. Thay vì bôn ba lao lực, liều chết giao đấu, hai ta hãy sống yên ổn sung sướng mười tám ngày còn hơn.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Chàng muốn thế nào cũng được. Trước kia thiếp bắt chàng phải vâng lời thiếp, từ giờ thiếp sẽ nghe lời chàng.

Nàng bao năm lạnh lùng, nay thì từ trong lòng cho đến đầu mày cuối mắt, cả thân hình đều ôn nhu âu yếm, toàn tâm toàn ý chiều theo lời Dương Quá, lấy đó làm niềm sung sướng cao nhất.

Dương Quá ngẩn ngơ ngắm nàng, thong thả nói:

– Tại sao trong mắt cô cô có ngấn lệ?

Tiểu Long Nữ cầm tay chàng đặt lên má mình, dịu dàng nói:

– Thiếp… không biết. Chắc là tại thiếp thích chàng quá đấy.

Dương Quá nói:

– Quá nhi biết cô cô đau lòng về điều gì rồi.

Tiểu Long Nữ ngẩng lên, nước mắt ứa ra ròng ròng, ngả người vào lòng chàng, khóc nấc lên:

– Quá nhi, chàng… chúng mình chỉ còn mười tám ngày, làm sao cho đủ?

Dương Quá vỗ vỗ nhẹ vai nàng, dịu dàng nói:

– Phải rồi, Quá nhi cũng thấy không đủ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp muốn chàng cứ mãi mãi như thế này với thiếp, một trăm năm, một ngàn năm, một vạn năm.

Dương Quá nâng cằm nàng lên, đặt vào đôi môi phớt hồng của nàng một cái hôn nhè nhẹ, nói:

– Đúng, gì thì cũng phải đi giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung.

Đầu lưỡi chàng cảm thấy vị mằn mặn của nước mắt nàng, tình ý trong lòng trỗi dậy, toàn thân chàng run lên.

Bỗng nghe trên đỉnh gò cao bên trái có người cười to, nói:

– Muốn chàng chàng nàng nàng với nhau, cũng không cần vội thế.

Dương Quá ngoảnh đầu, thấy trên cái gò cách hơn mười trượng có năm người đứng kề vai nhau là Kim Luân pháp vương, Mã Quang Tá, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây; kẻ vừa nói là Kim Luân pháp vương. Chàng nghĩ mình và Tiểu Long Nữ rời khỏi sơn cốc một cách mau lẹ, không ngờ mấy người kia bám sát theo sau, hai người trùng phùng sau cơn đại nạn, ngoài đối phương ra, không còn để ý tới bất cứ ai và bất cứ cái gì khác; đang âu yếm nhau bên gốc hòe, thì bị năm người kia nhìn thấy.

Dương Quá nhớ lại trong Tuyệt Tình cốc, Kim Luân pháp vương mấy lần gây khó cho chàng, chút nữa chàng bỏ mạng vì lời lẽ của lão ta; sớm biết thế này, thì khi lão ta đang dưỡng thương trong ngôi nhà tranh trên đỉnh núi nọ, chàng lấy mạng lão ta cho xong, lại đi trị thương giúp lão; một vị tông chủ như lão mà lại đi lấy oán báo ơn. Tiếu Long Nữ thấy ánh mắt giận dữ của chàng, bèn nói:

– Mặc xác hắn, cả đời hắn cũng không có được một thời khắc sung sướng như chúng mình đâu.

Mã Quang Tá nói:

– Dương huynh đệ, Long cô nương, chúng ta hãy nhập bọn với nhau thì hơn. Ở chốn hoang sơn dã lĩnh, không rượu không thịt này, có gì đáng thăm thú đâu.

Dương Quá chỉ muốn được cùng Tiểu Long Nữ yên ổn giờ nào hay giờ ấy, lúc này lại bị kẻ khác quấy nhiễu, nhưng chàng biết Mã Quang Tá có hảo tâm, bèn đáp:

– Mã đại ca cứ đi trước, tiểu đệ sẽ theo sau.

Mã Quang Tá nói:

– Hay lắm, vậy huynh đệ mau lên một chút.

Kim Luân pháp vương cười hô hố, nói:

– Họ Mã, ngươi chờ làm gì phí công, họ còn luyến ái nhau ở chốn này mười tám ngày cơ.

Cầu Thiên Xích bảo sau mười tám ngày chất độc sẽ phát tác, mọi người trong đại sảnh đều nghe rõ; nhưng thấy Kim Luân pháp vương lúc này nhắc lại, thì Mã Quang Tá cả giận, túm lấy vạt áo Kim Luân pháp vương, nói:

– Lão trọc chết tiệt, bụng dạ lão sao mà hiểm độc thế! Cả bọn cùng đi với Dương huynh đệ tới sơn cốc, lão đã chẳng giúp Dương huynh đệ thì thôi, lại cứ nói này nói nọ là sao?

Kim Luân pháp vương cười khẩy, nói:

– Ngươi có buông tay ra không?

Mã Quang Tá nói:

– Ta không buông đấy, lão làm gì nào?

Kim Luân pháp vương đánh một quyền phải tới trước mặt, Mã Quang Tá nói:

– Ái chà, động thủ ư?

Y đưa bàn tay to như cái quạt lên chộp nắm đấm của Kim Luân pháp vương. Nào ngờ cú đấm của Kim Luân pháp vương chỉ là hư chiêu, tay trái lão ta giơ ra, túm sau lưng Mã Quang Tá, cương kình nhu kình cùng hất ra, thân hình hộ pháp của Mã Quang Tá tức thời bay xuống dốc, may nhờ da thịt dày, dốc núi lại đầy cỏ, nên y không bị trọng thương, nhưng trán sưng u tím bầm, y vừa kêu oai oái vừa bò lên.

Dương Quá thấy hai người động thủ, biết Mã Quang Tá sẽ bị đòn, vội tới giúp, mới chạy được ba bước, Mã Quang Tá đã bị hất văng đi. Mã Quang Tá tuy đần độn, song cũng biết đánh không lại lão hòa thượng, miệng vừa rên rỉ vừa kêu lên:

– Ối chao, úi chao, lão trọc đánh gãy tay ta rồi.

Kim Luân pháp vương được phong là đệ nhất quốc sư Mông Cổ, được vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt mời tới Trung Nguyên, bọn Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh vốn chưa phục, lúc này thấy lão ta ngang ngược như vậy thì tức giận, đưa mắt cho nhau. Tiêu Tương Tử nói:

– Đại sư võ công quả nhiên cao cường, không hổ danh hiệu đệ nhất quốc sư Mông Cổ.

Kim Luân pháp vương nói:

– Không dám, không dám…

Lão nhìn sắc diện, biết Ni, Tiêu hai gã định xuất thủ, mà Dương Quá và Tiểu Long Nữ thì cũng sẵn sàng ra tay, tâm ý của Doãn Khắc Tây ra sao chưa rõ. Lão tuy tự thị võ công cao siêu, nhưng nếu năm cao thủ kia hợp sức đánh lão, thì lão không thể địch nổi đã đành, chỉ e tính mạng khó toàn, nên ngoài miệng đối đáp trong đầu nghĩ cách thoát thân.

Lão không ngờ Mã Quang Tá lẻn tới sau lưng lão, giáng cho lão một quyền rất mạnh, trúng vào gáy lão. Võ công như Kim Luân pháp vương, Mã Quang Tá có đánh lén cũng khó, song lúc này lão mải chú ý tới mấy người kia, coi thường gã Mã Quang Tá đần độn, nên bị một quyền nặng như búa bổ, khiến lão nổ đom đóm mắt. Lão cả giận, thúc cùi chỏ ra phía sau, Mã Quang Tá bị thoi trúng ngực, kêu to một tiếng, gục xuống phía trước. Kim Luân pháp vương hơi nhún hai chân xuống, thân hình hộ pháp của Mã Quang Tá vừa hay đổ vắt qua vai lão, lão vác y chạy luôn xuống dốc. Mọi người kêu to, Dương Quá đuổi theo trước tiên.

Kim Luân pháp vương tuy vác một người khổng lồ nặng ngót ba trăm cân, song vẫn chạy như bay. Dương Quá, Tiểu Long Nữ, Ni Ma Tinh đều thi triển khinh công, song qua mấy chục trượng vẫn chưa đuổi kịp lão ta. Dương Quá và Tiểu Long Nữ lao nhanh hơn, sắp đến gần. Kim Luân pháp vương dừng lại, ngoảnh đầu, cười nhăn nhở, nói:

– Được, các ngươi muốn liên thủ, hay muốn đơn đả độc đấu thì bảo?

Đoạn lão đặt cái đầu của Mã Quang Tá đối diện với một tảng đá bên cạnh, sẵn sàng đập đầu gã kia vào đó.

Dương Quá vòng ra sau lưng lão ta, nói:

– Nếu lão đả thương Mã đại ca, chúng tôi sẽ liên thủ cùng tấn công.

Kim Luân pháp vương cười hô hố, đặt Mã Quang Tá xuống đất, nói:

– Kẻ đần độn như hắn, cũng được coi trọng thế ư?

Lão thò hai tay vào bọc, lúc rút ra thì tay trái bạch quang loang loáng, tay phải hoàng khí bừng bừng, ngân luân và đồng luân đã gõ vào nhau, nghe choang một tiếng, vang vọng núi rừng. Lão hỏi:

– Vị nào xông tới trước đây?

Doãn Khắc Tây cười hì hì, nói:

– Các vị chuyên về võ học, tại hạ thì lo chuyện mua bán, xin đứng ngoài quan đấu.

Kim Luân pháp vương nghĩ bụng: “Tên này không ngả theo bên nào, bớt được một kình địch”. Tiêu Tương Tử nghĩ cứ để người khác đấu với Kim Luân pháp vương trước, khi nào lão ta mỏi mệt rồi, mình sẽ nhảy vào thủ thắng, bèn nói:

– Ni huynh, võ công của huynh cao hơn tiểu đệ, mời huynh đấu trước!

Ni Ma Tinh nghe Tiêu Tương Từ nói, đã biết ý của gã kia, song tự phụ tu vi võ học độc bộ Thiên Trúc, bình sinh chưa gặp địch thủ, nghĩ mình không thắng Kim Luân pháp vương, thì cũng chẳng thể lạc bại, bèn tiện tay vác một hòn đá lớn bên dốc núi lên, nói:

– Được, tại hạ thử tài hai cái vòng tròn của đại sư.

Y vác đá đánh tới ngực Kim Luân pháp vương, hòn đá này nặng chí ít cũng ba trăm cân, mọi người thấy y không dùng binh khí, lại vác đá mà đánh, đều không khỏi kinh ngạc.

Kim Luân pháp vương cũng không ngờ gã lùn này lại có thần lực ghê gớm vậy, không dám coi thường, nghiêng người né tránh, dùng cái đồng luân quật ngang lưng Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh đưa tảng đá ra sau cản lại, đồng luân cự thạch va vào nhau, tia lửa tung tóe tứ phía. Kim Luân pháp vương cảm thấy cánh tay trái hơi tê dại, nghĩ: “Con quỉ lùn này võ công quái dị, thật không thể coi thường. Nhưng dù hắn khỏe đến mấy, vác khối đá nặng thế kia phỏng được bao lâu?” Thế là múa song luân xoay chuyển quanh người Ni Ma Tinh.

Dương Quá đỡ Mã Quang Tá dậy, rồi cùng Tiểu Long Nữ đứng xem giao đấu, thấy Ni Ma Tinh thần lực kinh nhân, võ công đặc dị, đều thầm kinh ngạc.

Hai người kia đấu một hồi, lực đạo của Ni Ma Tinh vẫn không suy giảm, đột nhiên y quát to:

– A bà tinh!

Đồng thời ném tảng đá tới người Kim Luân pháp vương.

Cú ném này là một môn võ công lợi hại của họ Thích ở Thiên Trúc, gọi là “Thích Ca trịch tượng công”. Trong kinh Phật có viết, Thích Ca Mâu Ni hồi làm thái tử, một hôm ra khỏi hoàng thành, có một con voi chắn đường, thái tử bèn túm chân con voi ném nó lên không trung, ba ngày sau con voi mới rơi xuống đất, tạo thành một cái khe sâu, nay gọi là khe Tếch Tượng (Ném voi). Cái đó dĩ nhiên là chuyện ngụ ngôn, ngụ ý Phật pháp là điều ngoài sức tưởng tượng. Sau các võ sĩ Thiên Trúc luyện thành môn ngoại công ném một vật nặng, bèn đặt tên như thế. Lúc này Ni Ma Tinh vận thần công ném đá, thấy khối đá lao vù vù về phía Kim Luân pháp vương.

Kim Luân pháp vương võ công tuy mạnh, nhưng đối với một vật nặng ngần kia, há dám chống chọi trực diện, vội nhảy tránh sang một bên. Ni Ma Tinh đột nhiên bay theo khối đá, song chưởng đẩy khối đá chuyển hướng bay, lại lao về phía Kim Luân pháp vương. Lần này đang đà bay, kình lực được gia tăng, nên khối đa bay nhanh và mạnh hơn lúc đầu.

Luận về võ công, Kim Luân pháp vương đúng là cao hơn Ni Ma Tinh, nhưng “Thích Ca trịch tượng công” là môn lão ta chưa từng đối phó, nhất thời lão trở tay không kịp, thấy khối đá đổi hướng, lại bay tới, lão ta đành nhảy tránh. Ni Ma Tinh thừa thắng truy kích, khối đá được đẩy tiếp, thế bay càng mãnh liệt thêm. Kim Luân pháp vương nghĩ bụng: “Cứ đà này, ắt mình sẽ bại dưới tay con quỷ lùn mất; phải lập tức dùng cách khác thôi. May mà hắn một mình ra đấu với mình, mình đánh chết hắn rồi, Tiêu Tương Tử sẽ không dám xông lại. Dương Quá và Tiểu Long Nữ trong người có độc, sử dụng “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” sẽ không thể như ý”.

Bỗng nghe sau núi có tiếng vó ngựa rầm rập, thế như sấm động, tinh kỳ triển động, một đội nhân mã lao tới. Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh mải đấu, không để ý. Bọn Dương Quá thấy đó là một đội kỵ binh Mông Cổ, ai nấy mang trường đao, cung nỏ. Đến cách vài chục trượng thì họ dừng lại, quan lãnh binh giơ tay làm hiệu toàn đội kìm ngựa, không tiến nữa.

Người đứng dưới cờ xem cuộc đấu giây lát, rồi giục ngựa chạy tới, gọi to:

– Dừng tay, dừng tay!

Người ấy mặc hoàng bào, tay cầm thiết cung, chính là vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt.

Ni Ma Tinh nghe tiếng gọi, bay người lên đẩy khối đá lăn xuống dốc núi, kéo theo đất đá chuyển động rùng rùng.

Hốt Tất Liệt xuống ngựa, tay trái kéo Kim Luân pháp vương, tay phải kéo Ni Ma Tinh, cười nói:

– Thì ra hai vị đang trao đổi võ công ở đây, khiến tiểu vương đại khai nhãn giới.

Hốt Tất Liệt làm gì chẳng biết hai người đánh nhau thực sự, nhưng muốn giữ thể diện cho hai bên, mới bảo họ dừng tay. Kim Luân pháp vương mỉm cười, nói:

– Vị Ni huynh này võ học hết sức độc đáo, hiếm có, hiếm có!

Ni Ma Tinh lườm một cái, nói:

– Tại hạ cứ ngỡ đệ nhất quốc sư Mông Cổ tài giỏi lắm, hóa ra… hi hi!

Kim Luân pháp vương cả giận, nghĩ bụng: “Chẳng lẽ ta không đánh lại ngươi được hay sao?” Đang định mở miệng đấu khẩu, thì Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Chốn này phong cảnh hữu tình, há có thể không uống rượu! Tả hữu, mang rượu lại, chúng ta uống vài chén nào!

Người Mông Cổ sinh trưởng giữa thảo nguyên, quen màn trời chiếu đất, coi việc ăn uống giữa rừng hoang với trong nhà không khác gì nhau, thị vệ lập tức bày mâm rượu và món nhắm trên mặt đất.

Hốt Tất Liệt nhìn Tiểu Long Nữ, nghĩ thầm: “Nhân gian lại có thiếu nữ xinh đẹp nhường này”. Thấy nàng tay nắm vai kề với Dương Quá, thần tình thân mật, Hốt Tất Liệt bèn hỏi Dương Quá:

– Vị cô nương này là ai đây?

Dương Quá đáp:

– Đây là Long cô nương, là sư phụ của tiểu nhân, cũng là thê tử của tiểu nhân.

Sau một phen xuất sinh nhập tử ở Tuyệt Tình cốc, mọi thứ lễ giáo tập tục trói buộc con người khắp thiên hạ chàng không coi ra gì nữa, chỉ muốn hết thảy mọi người trên đời đều biết Dương Quá ta là người lấy sư phụ làm vợ đấy.

Người Mông Cổ đâu có lễ giáo tôn sư trọng đạo, nam nữ cách biệt như người Hán, Hốt Tất Liệt nghe Dương Quá nói vậy không hề lấy làm lạ, biết nữ nhân này là người truyền thụ võ nghệ cho Dương Quá, thì bất giác thêm kính nể, cười, nói:

– Quả nhiên là lang tài nữ mạo, thiên sinh khuê ngẫu, vừa lứa xứng đôi, hay lắm hay lắm! Nào, mọi người cùng cạn một chén chúc mừng hai vị.

Đoạn nâng ly rượu uống cạn một hơi. Kim Luân pháp vương mỉm cười, cũng uống cạn. Mấy người kia cùng uống. Riêng Mã Quang Tá uống liền ba chén.

Tiểu Long Nữ vốn không yêu ghét gì người Mông Cổ nay nghe Hốt Tất Liệt khen nàng với Dương Quá đẹp đôi, thì sung sướng uống nửa chén, dung sắc càng thêm kiều diễm, nghĩ thầm: “Một số người Hán bảo ta và Quá nhi không được thành thân, vị vương gia Mông Cổ này nói là “hay lắm”, xem ra kiến thức của người Mông Cổ cao thật đấy”.

Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Ba hôm không thấy các vị trở về, tiểu vương nhớ quá, ngặt nỗi thành Tương Dương quân vụ khẩn cấp, không thể chờ lâu, tiểu vương bèn dặn lại đại doanh, mời các vị lập tức đến bên thành Tương Dương hợp lực. Hôm nay may gặp ở đây, thật không gì bằng.

Kim Luân pháp vương nói:

– Thỉnh vấn vương gia, quân ta công thành Tương Dương có thuận lợi hay không?

Hốt Tất Liệt cau mày, nói:

– Viên tướng giữ thành Tương Dương Lã Văn Đức vốn là kẻ bất tài, nhưng tiểu vương lo nhất khi nghe có một người là Quách Tĩnh ở đó.

Dương Quá giật mình, hỏi:

– Quách Tĩnh quả đang ở trong thành Tương Dương ư?

Hốt Tất Liệt nói:

– Vị Quách Tĩnh ấy lại là bề trên của tiểu vương, hồi trẻ từng kết giao huynh đệ với tiên vương, từng là viên ái tướng số một của tổ phụ tiểu vương Thành Cát Tư Hãn. Người ấy trí dũng song toàn, cầm quân viễn chinh Tây Vực, kiến lập đại công. Tiên vương từng dặn tiểu vương, Nam triều chúa hôn thần gian, tướng binh nhu nhược, người tuy đông song khó địch nổi tinh binh Mông Cổ chúng ta, nhưng nếu gặp Quách Tĩnh thì phải hết sức thận trọng, nhất thiết không được sơ ý. Ôi, phụ vương quả có tiên kiến, quân ta đóng binh ngoài thành Tương Dương tấn công lâu rồi vẫn chưa hạ được, tất cả chỉ tại Quách Tĩnh ở trong đó.

Dương Quá đứng dậy, nói:

– Gã họ Quách ấy có mối thù lớn giết cha của tiểu nhân, tiểu nhân xin nhận lệnh đi lấy đầu hắn.

Hốt Tất Liệt vui mừng, nói:

– Tiểu vương mời các vị anh hùng hảo hán cũng chính là vì việc ấy. Nhưng nghe đồn Quách Tĩnh võ công đứng đầu người Hán ở Trung Nguyên, lại có không ít người tài năng dị thường trợ giúp, tiểu vương mấy lần phái dũng sĩ đi hành thích, thảy đều thất thủ, bị bắt hoặc bị giết, không một ai trở về. Dương huynh đệ tuy vũ dũng, song một tay khó vỗ thành tiếng, tiểu vương muốn mời các vị anh hùng cùng trà trộn vào thành Tương Dương, hợp lực hạ thủ. Chỉ cần giết được Quách Tĩnh, thành Tương Dương ắt buông tay đầu hàng.

Bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử cùng đứng dậy ôm quyền, nói:

– Được vương gia sai khiến, chúng tôi xin tận lực.

Hốt Tất Liệt cả mừng, nói:

– Bất kể vị nào giết được Quách Tĩnh, mấy vị cùng đi đều có đại công. Riêng người đích thân hạ sát, tiêu vương sẽ tâu rõ với đại hãn, phong thưởng tước hiệu công hầu, hưởng danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ.

Bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh đối với tước hiệu công hầu không coi ra gì, nhưng nếu được phong danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ, dương danh thiên hạ, thì quả là thỏa nguyện bình sinh. Mông Cổ lúc này binh uy bốn cõi, cương giới rộng lớn cổ kim chưa từng có; cương thổ Tây Vực kéo dài mấy vạn dặm, hai phần ba Trung Quốc cũng thuộc về Mông Cổ, từ trung tâm đế quốc đến biên cương, phi ngựa thật nhanh cũng cả năm trời mới tới, nếu được phong danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ, anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ sẽ đều phải kính nể. Bởi vậy ai cũng náo nức, ngay Kim Luân pháp vương cũng sáng mắt lên.

Dương Quá thản nhiên mỉm cười, lắc đầu. Tiểu Long Nữ âu yếm nhìn chàng, nghĩ thầm: “Tước hiệu công hầu, danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ mà làm gì? Ta chỉ mong chàng bình an sống sót mà thôi”.

Mọi người lại uống rượu, rồi đứng dậy. Các võ sĩ Mông Cổ dắt ngựa tới, Dương Quá, Tiểu Long Nữ, bọn Kim Luân pháp vương nhất tề lên ngựa, theo sau Hốt Tất Liệt, cùng phi nhanh về hướng nam, đến thành Tương Dương.

Dọc đường chỉ thấy mười nhà thì chín bỏ hoang, xương phơi đầy đồng, quân Mông Cổ gặp người Hán thường ngang ngược chém giết, Dương Quá nhìn thấy rất tức giận, định ra tay can thiệp, nhưng lại nể mặt Hốt Tất Liệt, nghĩ bụng: “Quân Mông Cổ tàn bạo thế này, chúng coi người Hán ta không bằng con heo con chó, chờ ta lấy đầu Quách Tĩnh, Hoàng Dung rồi sẽ giết một số quan quân Mông Cổ tàn ác nhất cho hả dạ”.

Mấy ngày sau thì đến bên ngoài thành Tương Dương. Bấy giờ đôi bên công thủ giao chiến đã hơn một tháng, chỗ nào cũng thấy gươm giáo gãy nát, máu đọng thây phơi, đủ biết chiến sự ác liệt chừng nào.

Quân Mông Cổ được tin Tứ đại vương Hốt Tất Liệt thân chinh lâm trận, thì nguyên soái, đại tướng toàn quân nghênh đón từ ngoài ba chục dặm. Thấy đại kỳ của Hốt Tất Liệt từ xa, các tướng soái nhất tề xuống ngựa, phủ phục hai bên đường.

Hốt Tất Liệt phóng ngựa tới gần, dừng ngựa nhìn quanh hồi lâu, rồi nói:

– Hừ, thành Tương Dương đánh lâu không hạ được, chẳng hóa ra hạ thấp uy danh của Đại Mông Cổ ta ư?

Các tướng cùng đáp:

– Tiểu tướng đáng chết, thỉnh Tứ đại vương trị tội.

Hốt Tất Liệt vung roi quất một cái, con ngựa chồm lên phía trước. Chư tướng hồi lâu không dám ngửng mặt, người người run sợ.

Dương Quá thấy Hốt Tất Liệt đối đãi với chàng và bọn Kim Luân pháp vương rất mực bình dị, nhưng đứng trước chư tướng thì rất uy nghiêm, nghĩ bụng: “Quân Mông Cổ binh cường mã tráng, kỷ luật nghiêm minh, Đại Tống làm sao địch nổi?” Chàng bất giác cau mày.

Hôm sau, trời vừa sáng, quân Mông Cổ đại cử công thành, tên bay, đá rơi như mưa, hướng cả vào trong thành. Tiếp đó quân sĩ vác thang áp vào tường thành, từ bốn phía ào ào leo lên bờ tường. Trong thành phòng thủ nghiêm mật, cứ tám binh sĩ cùng giữ một cây gỗ lớn, đẩy thang của địch ra khỏi tường thành. Giao chiến hồi lâu, cuối cùng có mấy trăm binh sĩ Mông Cổ leo lên được bờ thành. Trong quân Mông Cổ tiếng reo hò rầm trời, từng đội một trăm người ào lên theo như kiến cỏ. Bỗng từ phía sau nữ tường (bờ tường thấp, trên mặt thành) một đội cung thủ xuất hiện, tên bắn ra như mưa, làm cho viện quân Mông Cổ không thể leo lên; tiếp đó một đội quân Tống cầm đuốc lao tới, đốt cháy các cây thang, những binh sĩ Mông Cổ đang leo thang rơi xuống lả tả.

Trong tiếng hô rầm trời trong và ngoài thành, một đội hán tử dũng mãnh xách giáo dài kiếm sắc lao ra tấn công những tên lính Mông Cổ đã leo lên mặt thành. Đội hán tử này không mặc binh phục quân Tống; người thì áo đen, kẻ lại áo xanh, khi công kích cũng không thành đội hình, nhưng thân thủ hiển nhiên là những người có võ công. Những tên lính Mông Cổ đã leo lên mặt thành đều là dũng sĩ, thuộc loại vô địch, nhưng gặp đội hán tử này, sau vài hiệp đấu, cứ lần lượt bị hạ gục, kẻ nằm vắt ngang bờ thành, người thì rơi xuống chân thành tan thây. Giữa quân Tống có một hán tử trung niên đặc biệt uy mãnh, người đó mặc bộ y phục màu xám, tay không, tung hoành ngang dọc, thấy quân Tống bị nguy chỗ nào liền lao tới giải vây; người đó lao tới đâu, binh tướng Mông Cổ đều dạt cả ra, thật y như hổ xông vào đàn dê.

Hốt Tất Liệt thân chinh đứng dưới chân thành đốc chiến, thấy hán tử kia anh dũng như thế, bất giác ngây người hồi lâu, thở dài: “Dũng sĩ thiên hạ, liệu còn ai theo kịp người đó?”

Dương Quá đứng bên, hỏi:

– Vương gia có biết ai đấy chăng?

Hốt Tất liệt chột dạ, hỏi:

– Không lẽ đó là Quách Tĩnh?

Dương Quá nói:

– Chính hắn!

Lúc này mấy lính Mông Cổ đã leo lên mặt thành bị giết chỉ còn được vài mống, có ba tên bách phu trưởng ngoan cường nhất tay cầm giáo dài, tiếp tục chiến đấu. Tên vạn phu trưởng ở dưới chân thành thổi tù và, lại dồn quân công thành, hòng tiếp ứng ba tên bách phu trưởng trên kia.

Quách Tĩnh hú một tiếng dài, chạy tới. Một tên bách phu trưởng đâm mũi giáo về phía đó, Quách Tĩnh giơ tay chộp cán giáo, hất mạnh về phía trước, đồng thời tung chân trái đá chiếc mộc của tên bách phu trưởng thứ hai bay đi. Hai tên bách phu trưởng tuy dũng cảm, nhưng chịu sao nổi một hất một cước đầy thần lực của Quách Tĩnh? Cả hai ngã lộn mấy vòng, rơi xuống đất chết tươi.

Tên bách phu trưởng thứ ba đã nhiều tuổi, tóc muối tiêu, tự biết hôm nay khó toàn mạng, vung cây đao dài chém loạn xạ, thế như mãnh hổ. Quách Tĩnh dùng tay trái túm lấy cổ tay cầm đao của hắn, hữu chưởng định giáng tới, bỗng sững lại. Tên bách phu trưởng này cũng đã nhận ra Quách Tĩnh, liền kêu lên:

– Kim đao phò mã, là đại nhân đấy ư?

Nguyên hắn là thuộc hạ của Quách Tĩnh hồi tây chinh năm nào. Hôm nay hắn là một trong những dũng sĩ leo lên mặt thành đầu tiên.

Quách Tĩnh nghĩ đến tình xưa, nói:

– Ồ, ngươi là Ngạc Nhĩ Đa phải không?

Tên bách phu trưởng thấy Quách Tĩnh nhớ được tên mình, không khỏi rơm rớm nước mắt, thốt lên:

– Thưa, chính là tiểu nhân.

Quách Tĩnh nói:

– Nghĩ đến tình xưa, hôm nay ta tha mạng cho ngươi. Lần sau còn để ta bắt gặp, đừng trách ta vô tình.

Đoạn ngoảnh đầu, sai tả hữu:

– Lấy dây buộc, thả hắn xuống dưới chân thành!

Hai tráng đinh liền dùng dây thừng dài quấn ngang bụng Ngạc Nhĩ Đa, rồi thả hắn xuống dưới chân thành.

Ngạc Nhĩ Đa là một dũng sĩ lừng danh trong quân đội Mông Cổ, bị quân Tống buộc dây thả xuống dưới chân thành, binh sĩ Mông Cổ bên dưới đều lấy làm lạ, không hiểu có biến cố gì, nhất tề lùi lại vài chục trượng; trên mặt thành cũng ngừng bắn tên xuống, đôi bên bãi đấu. Ngạc Nhĩ Đa xuống đến dưới đất, quì xuống đất lạy tạ Quách Tĩnh, nói to:

– Có Kim đao phò mã ở đây, tiểu nhân quyết không dám tái phạm hổ giá.

Quách Tĩnh đứng trên mặt thành, thần uy lẫm liệt, nói lớn:

– Chủ soái Mông Cổ nghe đây: Đại Tống và Mông Cổ năm xưa đồng tâm kết minh, hợp lực diệt Kim, nay quân Mông Cổ nhà ngươi cớ sao xâm phạm cương giới của ta, sát hại bách tính của ta? Dân chúng Đại Tống ta đông gấp mười lần dân số Mông Cổ, nếu các ngươi không mau lui binh, nghĩa binh của Đại Tống ta vùng dậy, e rằng mười mấy vạn quân Mông Cổ các ngươi sẽ không có đất mà chôn.

Mấy câu này Quách Tĩnh nói bằng tiếng Mông Cổ trung khí sung mãn, từng câu từng chữ rành rọt; tường thành tuy cao, khoảng cách quân lính hai bên lại xa, nhưng mấy vạn binh tướng Mông Cổ đều nghe rõ, không khỏi nhìn nhau thất sắc.

Một tên vạn phu trưởng dẫn Ngạc Nhĩ Đa tới trước mặt Hốt Tất Liệt, bẩm cáo nguyên do. Ngạc Nhĩ Đa kể lại năm xưa từng cùng Quách Tĩnh tây chinh, Kim đao phò mã dùng binh như thần thế nào, khắc địch chế thắng ra sao, miêu tả đâu ra đấy. Hốt Tất Liệt sa sầm mặt, quát:

– Mang ra chém đầu!

Ngạc Nhĩ Đa kêu lên:

– Oan quá!

Tên vạn phu trưởng nói:

– Tứ đại vương minh xét cho, Ngạc Nhĩ Đa có nhiều chiến công…

Hốt Tất Liệt phẩy tay, bốn vệ sĩ lôi Ngạc Nhĩ Đa ra chém đầu, mang thủ cấp lại trình. Chư tướng thảy đều kinh hãi. Hốt Tất Liệt nói với tên vạn phu trưởng:

– Ngạc Nhĩ Đa được chôn cất như một liệt sĩ, ngoài ra hãy thưởng cho thê tử hắn mười cân vàng, ba mươi nô lệ, ba trăm con cừu.

Tên vạn phu trưởng ngơ ngác không hiểu, chỉ nói:

– Vâng, vâng.

Hốt Tất Liệt nói:

– Ta đã giết hắn, lại còn ban thưởng cho gia thuộc, các ngươi chưa hiểu lý do chứ gì?

Chư tướng nhất tề cúi mình, nói:

– Thỉnh Tứ đại vương chỉ bảo.

Hốt Tất Liệt nói:

– Tên bách phu trưởng ấy đã quì lạy Quách Tĩnh, cường điệu sự lợi hại của Quách Tĩnh, làm cho lòng quân dao động, không đáng chém đầu hay sao? Nhưng hắn đã dũng cảm leo lên thành đầu tiên, chiến đấu đến người cuối cùng, há không đáng ban thưởng?

Chư tướng đều bái phục.

Như thế là quân Mông Cổ đã mất nhuệ khí. Hốt Tất Liệt biết hôm nay dù tái công thành cũng chỉ tổn thất vô ích, chẳng được gì, thấy dưới chân thành ngổn ngang mấy ngàn xác binh sĩ Mông Cổ, toàn là những chiến binh tinh nhuệ từng qua trăm trận, thì rất đau lòng. Nhìn thành Tương Dương kiên cố, phòng thủ nghiêm mật, quả không có sơ hở nào, bất giác Hốt Tất Liệt thở dài, hạ lệnh lui quân bốn mươi dặm. Hai vệ sĩ tả hữu nhìn nhau, cùng tâu:

– Tiểu nhân xin phân ưu với Tứ đại vương, gì thì cũng phải giảm bớt nhuệ khí của bọn Nam man.

Nói xong họ nhảy lên ngựa, phi tới chân tường thành, giương cung, hai mũi tên bắn lên chỗ Quách Tĩnh.

Tài cưỡi ngựa của hai người ấy đã cao, thuật bắn cung lại chuẩn, đúng là ngựa phi như bay, tên lao như chớp. Dưới chân thành chỉ nghe “phựt phựt” hai tiếng, hai mũi tên đã bay vút tới ngực và bụng Quách Tĩnh. Quách Tĩnh không thể tránh, chỉ thấy mỗi tay chộp một mũi tên, rồi vung tay phóng xuống.

Hai vệ sĩ Mông Cổ chưa kịp quay ngựa chạy về, mũi tên đã phóng cắm vào ngực, cùng ngã ngựa. Quân Tống trên mặt thành reo hò như sấm, khua cả trống trận trợ uy.

Hốt Tất Liệt rầu rĩ dẫn quân lui về phía bắc. Đại quân đi được vài dặm, thì Dương Quá nói:

– Xin vương gia đừng lo buồn, tiểu nhân sẽ vào thành lấy đầu Quách Tĩnh.

Hốt Tất Liệt lắc đầu, nói:

– Quách Tĩnh trí dũng song toàn, quả nhiên danh bất hư truyền. Hôm nay vừa gặp, ta liền cảm thấy đành hoàn toàn thúc thủ.

Dương Quá nói:

– Tiểu nhân từng sống mấy năm với gia đình Quách Tĩnh, lại từng trợ giúp hắn, đối với tiểu nhân, hắn chắc hẳn sẽ không có ý đề phòng. Người đời có câu “Giáo đâm chỗ sáng dễ tránh, tên bắn trong tối khó phòng”.

Hốt Tất Liệt nói:

– Vừa rồi trong lúc công thành, Dương huynh đệ đứng bên cạnh tiểu vương, e rằng Quách Tĩnh ở trên thành đã nhìn thấy.

Dương Quá nói:

– Tiểu nhân đã nghĩ đến việc đó, nên lúc công thành, đã cùng Long cô nương đội mũ sụp xuống trán, dựng cổ áo che gáy, Quách Tĩnh nhất định không thể nhận ra.

Hốt Tất Liệt nói:

– Nếu vậy, chúc Dương huynh đệ lập đại công, ước hẹn phong thưởng, quyết không nuốt lời.

Dương Quá đa tạ, đang định quay mình, cùng Tiểu Long Nữ cáo biệt mọi người, thì nhìn thấy vẻ mặt khác lạ của bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây, chợt nghĩ: “Mấy người kia đều lo mình đi giết Quách Tĩnh, được phong danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ, nhất định sẽ tìm cách ngăn cản, khiến mình khó thành công”, bèn nói với Hốt Tất Liệt:

– Vương gia, tiểu nhân có một điều cáo bẩm; tiểu nhân đi giết Quách Tĩnh, là để báo thù riêng, cũng là đầu lấy thủ cấp của hắn mang về đổi lấy đan dược cứu mạng, nếu nhờ phúc của vương gia mà đại sự thành công, thì tiểu nhân quyết không dám nhận danh hiệu đệ nhất dũng sĩ Đại Mông Cổ.

Hốt Tất Liệt hỏi:

– Vì sao vậy?

Dương Quá nói:

– Tiểu nhân võ công còn thua xa các vị ở đây, làm sao dám nhận danh hiệu đó? Vương gia có đáp ứng việc đó, tiểu nhân mới dám động thân.

Hốt Tất Liệt thấy chàng lời lẽ thành khẩn, đúng là ý muốn của chàng; nhìn thần sắc mấy người kia, cũng đoán ra tâm ý của chàng, bèn nói:

– Đã thế, mỗi người có chí hướng riêng, tiểu vương cũng không ép.

Bọn Kim Luân pháp vương nghe Hốt Tất Liệt nói vậy, quả nhiên đều có vẻ hài lòng.

Dương Quá quay đầu ngựa, sánh vai cùng Tiểu Long Nữ phi về phía thành Tương Dương, dọc đường quẳng mũ, áo da, phục hồi lối trang phục của người Hán, đến dưới chân thành thì trời đã tối, thấy cổng thành đóng kín, từng tốp binh sĩ trên đầu thảnh cầm đuốc đi tuần phòng. Dương Quá gọi to:

– Tại hạ họ Dương tên Quá, đến xin bái kiến Quách Tĩnh Quách đại gia.

Tướng giữ thành nghe tiếng gọi, thấy chỉ có hai người, bèn bẩm cáo với Quách Tĩnh.

Lát sau, có hai thanh niên ra đầu thành, nhìn xuống dưới, một người nói:

– Thì ra là Dương đại ca, chỉ có hai vị thôi sao?

Dương Quá thấy huynh đệ họ Võ, nghĩ: “Quách Tĩnh giết cha ta, không biết khi đó phụ thân của huynh đệ họ Võ có ở bên cạnh trợ giúp hay không?” nói:

– Võ đại ca, Võ nhị ca, Quách bá bá có ở trong thành hay không?

Võ Tu Văn nói:

– Mời vào hãy hay.

Họ ra lệnh binh sĩ mở cổng thành, hạ cầu treo, để Dương Quá và Tiểu Long Nữ đi vào trong thành.

Huynh đệ họ Võ dẫn hai người đến trước một tòa nhà lớn. Quách Tĩnh tươi cười ra cửa vái Tiểu Long Nữ một cái, nắm tay Dương Quá cười, nói:

– Quá nhi, hai người đến thật đúng lúc. Bọn Thát tử đang gấp rút công thành, có hai người đến trợ lực với ta, thật là phúc cho bách tính thành Tương Dương này.

Tiểu Long Nữ là sư phụ của Dương Quá, Quách Tĩnh dùng lễ ngang hàng đối đãi, trân trọng nhường lối vào nhà, đối với Dương Quá cũng vô cùng thân thiết.

Dương Quá bị Quách Tĩnh nắm tay kéo đi, nghĩ người này là kẻ thù giết cha mình, hận không thể rút kiếm đâm chết ngay, chỉ e ngại võ công của Quách Tĩnh, chưa dám ngang nhiên động thủ, phải gượng cười, nói:

– Quách bá bá vẫn khỏe.

Chàng căm hận nên không quì xuống khấu đầu.

Quách Tĩnh khoan dung đại độ, cũng không lưu tâm đến tiểu tiết. Tới đại sảnh, Dương Quá muốn vào nội đường bái kiến Hoàng Dung. Quách Tĩnh cười, nói:

– Quách bá mẫu của ngươi sắp lâm bồn, mấy hôm nay người không được khỏe, ngày mai gặp cũng được.

Dương Quá mừng thầm: “Hoàng Dung mưu trí hơn người, mình chỉ lo bị bà ta nhận ra chỗ sơ hở, nay bà ta sắp đến kỳ sinh nở, đúng là trời giúp ta thành công”.

Có người vào bẩm cáo:

– Lã đại soái mời Quách đại gia tới dự yến, mừng hôm nay đại thắng Thát tử.

Quách Tính nói:

– Ngươi về bẩm với đại soái, đa tạ ban yến. Ta có viễn khách quang lâm, không thể phụng bồi.

Trung quân thấy Dương Quá ít tuổi, chẳng có gì đặc dị, không hiểu tại sao Quách Tĩnh lại trân trọng với chàng như thế, đến mức từ chối dự tiệc mừng công để tiếp đãi chàng, thì không khỏi lấy làm lạ, trở về bẩm cáo với Lã Văn Đức.

Quách Tĩnh tự bày tiệc trong nhà thết đãi Tiểu Long Nữ và Dương Quá. Tham dự có Chu Tử Liễu, Lỗ Hữu Cước, huynh đệ họ Võ, Quách Phù. Chu Tử Liễu ngỏ lời cảm tạ Dương Quá về việc chàng đã lấy được thuốc giải của Hoắc Đô để trị độc cho ông ta. Dương Quá cười nhạt, nói vài lời khiêm tốn.

Quách Phù thấy Dương Quá tỏ vẻ lạnh nhạt, bèn gọi:

– Dương đại ca.

Quách Tĩnh nói:

– Phù nhi, hôm trước hài nhi bị Kim Luân pháp vương bắt giữ, nếu không được Dương đại ca xả mệnh cứu giúp, chẳng riêng gì hài nhi, mà ngay cả mẫu thân hài nhi cũng bị đại hoạn, tại sao con chưa lạy tạ Dương đại ca?

Dương Quá nói:

– Mọi người là người một nhà, hà tất phải lạy tạ?

Quách Phù không nói một lời, ngồi xuống. Trong suốt bữa tiệc, chỉ thấy nàng ta hơi cau mày, dường như có tâm sự gì, huynh đệ họ Võ luôn né tránh mục quang của nàng ta. Lỗ Hữu Cước và Chu Tử Liễu thì cao hứng thao thao bất tuyệt về trận thắng Thát tử hôm nay.

Ăn xong đã cuối canh một, Quách Tĩnh sai Quách Phù đưa Tiểu Long Nữ vào nội thất an nghỉ, còn mình thì kéo Dương Quá nằm chung một giường. Trước khi bước vào nội thất, Tiểu Long Nữ nhìn Dương Quá một cái đầy trìu mến, ngụ ý bảo chàng hãy cẩn thận. Dương Quá chỉ sợ lộ ra tâm sự, ngoảnh mặt đi, không dám nhìn nàng.

Quách Tĩnh dắt Dương Quá sang phòng ngủ của mình, khen ngợi chàng đối địch với Kim Luân pháp vương, tại tửu lâu và trong loạn thạch trận đã cứu được Hoàng Dung, Quách Phù cùng huynh đệ họ Võ; rồi hỏi sau đó chàng ở đâu. Dương Quá sợ nói nhiều lỡ lời, việc gặp Trình Anh, Lục Vô Song, Ngốc cô, Hoàng Dược Sư, chàng đều lờ đi, chỉ nói:

– Sau khi bị thương, điệt nhi nằm dưỡng thương trong một sơn cốc, rồi gặp sư phụ, bèn cùng đi tìm Quách bá bá.

Quách Tĩnh vừa cởi áo đi nằm, vừa nói:

– Quá nhi, hiện thời cường địch áp cảnh, thiên hạ Đại Tống như trứng để đầu đẳng. Thành Tương Dương là tấm lá chắn che đỡ một nửa giang sơn Đại Tống, nếu thành này thất thủ, chỉ e trăm họ của Đại Tống đều sẽ trở thành nô lệ của người Mông Cổ. Chính mắt ta từng chứng kiến thảm cảnh người Mông Cổ tàn sát dị tộc, thật khiến người ta sôi máu.

Dương Quá nghe đến đây, nhớ lại cảnh bạo hành đáng sợ của binh tướng Mông Cổ dọc đường tới đây, cũng bất giác nghiến răng căm hận.

Quách Tĩnh lại nói:

– Chúng ta luyện công học võ là để làm gì? Hành hiệp trượng nghĩa, cứu tế phò nguy cố nhiên là bổn phận, song cũng chỉ là tiểu hiệp mà thôi. Người trên giang hồ sở dĩ gọi ta là Quách đại hiệp, thật ra bởi vì kính trọng ta vì nước vì dân, xả thân trợ thủ thành Tương Dương. Song ta tài lực có hạn, không thể giải khốn cho dân, thực hổ thẹn với hai chữ “đại hiệp”. Ngươi thông minh tài trí gấp mười lần ta, tương lai nhất định sẽ hơn ta nhiều lắm. Điều này ta nói thật lòng. Chỉ mong ngươi hãy nhớ kỹ tám chữ “Vì nước vì dân, đại hiệp cứu quốc”, mai sau dương danh thiên hạ, trở thành bậc đại hiệp chân chính được muôn dân kính ngưỡng.

Những lời lẽ hết sức chân thành, khiến Dương Quá nghe mà xúc động, thấy Quách Tĩnh sắc mặt trang nghiêm, tuy biết Quách Tĩnh là kẻ thù giết cha, song cũng không khỏi kính nể, bèn đáp:

– Quách bá bá, sau khi Quách bá bá qua đời, điệt nhi nhất định sẽ ghi nhớ lời này.

Quách Tĩnh đâu ngờ Dương Quá đêm nay tới để hành thích mình, giơ tay xoa xoa đầu chàng, nói:

– Đúng, cúc cung tận tụy, chết cũng cam lòng. Nếu mất nước, Quách bá bá của ngươi tính mạng khó toàn. Nghe đồn Hốt Tất Liệt giỏi dùng binh, hôm nay hắn lui quân, vài hôm nữa ắt có một trường đại sát. Chúng ta sẽ chống trả một phen cho thật oanh liệt. Đêm đã khuya rồi, chúng ta ngủ thôi.

Dương Quá đáp:

– Vâng.

Rồi cởi áo nằm ngủ, giấu cái chủy thủ mang từ Tuyệt Tình cốc đi theo ở bên người, nghĩ: “Đợi khi mi ngủ say, ta đâm cho mi một dao; mi võ công cao cường đến mấy, cũng đâu biết mà tránh!”

Quách Tĩnh ban ngày ác chiến, đại hao tâm lực, vừa đặt mình đã ngủ luôn. Dương Quá thì ngổn ngang tâm sự, làm sao ngủ được? Chàng nằm trên giường, nghe Quách Tĩnh thở đều đều bằng mũi, hít vào thở ra rất chậm, thầm thán phục Quách Tĩnh nội công thâm hậu. Một hồi lâu sau, nghe bốn bề tĩnh lặng, chỉ vọng lại từ xa tiếng bước chân của binh lính tuần tiễu.

Thế là chàng bèn rón rén ngồi dậy, sờ cái chuỷ thủ giấu bên trong áo lót, nghĩ: “Sau khi mình đâm chết hắn, sẽ tới giết Hoàng Dung, giết luôn thai nhi sắp sinh. Đại sự thành công, sẽ cùng cô cô đến Tuyệt Tình cốc, lấy nửa viên “Tuyệt Tình đơn”. Rồi mình và cô cô sẽ về ẩn cư ở tòa cổ mộ, tận hưởng hạnh phúc nhân gian, thây kệ thiên hạ là của Đại Tống hay của Mông Cổ”.

Nghĩ đến đó, chàng rất đắc ý, bỗng nghe bên nhà láng giềng có tiếng trẻ khóc to, tiếng người mẹ ru con, đứa bé nín dần rồi ngủ. Dương Quá chột dạ, nhớ có lần giữa đường lớn chàng thấy một tên lính Mông Cổ dùng giáo dài đâm vào bụng một đứa bé mà giơ lên đùa giỡn, đứa bé chưa chết hẳn, kêu khóc thảm thiết. Chàng nghĩ: “Bây giờ ta giết Quách Tĩnh, việc không khó. Nhưng Quách Tĩnh chết rồi, thành Tương Dương khó giữ, ngàn vạn đứa bé trong thành để cho binh sĩ Mông Cổ đem ra giết hại làm trò vui hay sao? Mình báo thù riêng, làm hại sinh mạng trăm họ như vậy, liệu có nên chăng?”

Nhưng chàng lại nghĩ: “Nếu mình không giết Quách Tĩnh, Cầu Thiên Xích không đời nào cho mình nửa viên “Tuyệt Tình đơn”; mình sẽ chết, cô cô cũng không sống nữa”. Ái tình của chàng với Tiểu Long Nữ, không có việc gì trên thế gian sánh được, thế là chàng quyết ý: “Thôi, thây kệ trăm họ trong thành Tương Dương, thây kệ giang sơn của Đại Tống; khi ta bị khổ, trừ cô cô ra, nào có ai thương ta? Người đời không thương ta, hà tất ta phải thương yêu họ?” Bèn giơ chủy thủ, dồn sức ra cánh tay, chĩa mũi dao nhọn vào giữa ngực Quách Tĩnh. Trong nhà đèn nến đã tắt, nhưng Dương Quá vẫn có thể nhìn được trong bóng tối. Chàng thấy vẻ mặt Quách Tnh hiền hòa, ý định thần nhàn, ngủ rất ngon lành, nhớ đến hồi chàng còn nhỏ, Quách Tĩnh hết lòng che chở, trên đảo Đào Hoa đối xử thân thiết với chàng ra sao, không quản đường xa ngàn dặm dẫn chàng lên núi Chung Nam học nghệ, rồi còn muốn đem đứa con gái duy nhất gả cho chàng, thì chàng bất giác nghĩ thầm: “Quách bá bá một đời chính trực, quang minh lỗi lạc, thực là một người trung hậu; một người như thế, thực không thể hại phụ thân ta. Lỡ Ngốc cô thần trí mơ hồ, nói năng lung tung thì sao? Nếu ta giết lầm người tốt, thì có chết vạn lần cũng không chuộc hết tội. Thôi, việc này phải hỏi cho rõ ràng rồi hãy tính”.

Thế là chàng cất chủy thủ vào người, suy nghĩ lại mọi việc từ ngày gặp vợ chồng Quách Tĩnh đến nay. Chàng nhớ Hoàng Dung đối với chàng thần sắc không lúc nào tử tế, có mấy lần hai vợ chồng họ đang nói chuyện với nhau, vừa thấy chàng đến liền nói sang chuyện khác; vợ chồng họ có điều hệ trọng giấu chàng, đó là điều chắc chắn, không còn nghi ngờ gì. Chàng lại nghĩ: “Quách bá mẫu nhận ta làm đệ tử, tại sao chỉ dạy đọc sách, không truyền thụ một chút võ nghệ? Quách bá bá đối tốt với ta, chẳng lẽ chỉ vì đã giết hại phụ thân ta, nên trong lòng bất an, muốn bù đắp lại phần nào? Song nếu Quách Tĩnh quả thật đã giết phụ thân ta, tại sao lại không hề đề phòng ta, ngủ chung một giường cùng ta. Chàng nhìn lên đỉnh màn, trằn trọc nghĩ ngợi mãi. Quách Tĩnh tuy ngủ song vẫn cảm nhận được hơi thở không đều của Dương Quá, bèn tỉnh lại, mở mắt ra, hỏi:

– Quá nhi, không ngủ được ư? Có sao không?

Dương Quá chột dạ, nói:

– Không sao.

Quách Tnh cười, nói:

– Nếu ngươi không quen nằm chung giường với người khác, thì ta ra bàn nằm cũng được.

Dương Quá vội nói:

– Không, không sao.

Quách Tĩnh nói:

– Được, vậy thì cố ngủ đi. Con nhà võ, cần nhất là ổn định tâm thần.

Dương Quá đáp:

– Vâng.

Lát sau, Dương Quá không nín được, nói:

– Quách bá bá, năm bá bá dẫn điệt nhi đến cung Trùng Dương học nghệ, ở chân núi Chung Nam, điệt nhi từng hỏi bá bá một việc.

Quách Tĩnh nói:

– Việc gì vậy?

Dương Quá nói:

– Lúc ấy Quách bá bá nổi giận vỗ vào tấm bia, khiến các đạo sĩ phái Toàn Chân hiểu lầm, Quách bá bá có nhớ điệt nhi hỏi câu gì hay không?

Quách Tĩnh nghĩ giây lát, nói:

– Phải rồi, hôm ấy ngươi hỏi ta, phụ thân ngươi qua đời như thế nào.

Dương Quá chằm chằm nhìn Quách Tĩnh, nói:

– Không, điệt nhi hỏi Quách bá bá, rốt cuộc là ai sát hại phụ thân điệt nhi.

Quách Tĩnh nói:

– Làm sao ngươi biết phụ thân ngươi bị sát hại mà chết?

Dương Quá nghẹn ngào nói:

– Chẳng lẽ phụ thân điệt nhi tự dưng lăn ra chết hay sao?

Quách Tĩnh im lặng một lát, thở dài, nói:

– Phụ thân ngươi chết không lành, nhưng không có ai sát hại cả, mà là phụ thân ngươi tự sát hại mình.

Dương Quá ngồi dậy, tâm tình kích động dị thường, nói:

– Quách bá bá nói dối điệt nhi. Trên đời làm gì có chuyện một người tự sát hại mình? Dẫu phụ thân điệt nhi có tự sát mà chết, hẳn cũng là do có kẻ bức tử.

Quách Tĩnh đau lòng, ứa nước mắt, thong thả nói:

– Quá nhi, tổ phụ ngươi và phụ thân ta là cốt nhục khác họ, phụ thân ngươi và ta cũng từng kết nghĩa kim lan. Phụ thân ngươi nếu chết oan, ta há không báo thù cho phụ thân ngươi?

Dương Quá giận run người, định nói toạc ra: “Là mi giết hại cha ta, làm sao mi báo thù kia chứ?” Nhưng nếu nói ra, Quách Tĩnh ắt đề phòng, muốn hành thích Quách Tĩnh sẽ vô cùng khó khăn, nên chàng chỉ gật đầu im lặng.

Quách Tĩnh nói:

– Chuyện của phụ thân ngươi có rất nhiều uẩn khúc, không thể vắn tắt vài lời. Hồi trước lúc hỏi ta, ngươi còn nhỏ, chưa hiểu nổi duyên do nội tình, nên ta chưa cho ngươi biết. Hiện tại ngươi đã trưởng thành, hiểu được trắng đen phải trái. Chờ đánh lui bọn Thát tử ta sẽ kể đầu đuôi cho người hay.

Nói đoạn lại trở mình ngủ tiếp.

Dương Quá vốn biết Quách Tĩnh nói một là một, chưa bao giờ nói dối, nghe mấy câu kia thì bán tín bán nghi, tự mắng mình: “Dương Quá ơi là Dương Quá, ngươi vốn hành sự quả quyết, tại sao hôm nay cứ lưỡng lự chần chừ như thế? Không lẽ ngươi sợ võ công hắn lợi hại hay sao? Đêm nay do dự, bỏ lỡ dịp may, ngày mai để Hoàng Dung nhận ra chỗ sơ hở, chỉ e cả cô cô cũng chết không có chỗ mà chôn đó”. Chàng vừa nghĩ đến Tiểu Long Nữ, tinh thần lại phấn chấn, đưa tay sờ cái chủy thủ trong áo, con dao sát vào da thịt, ấm từ cán đến lưỡi.

Hồi 21: Ác chiến Tương Dương

Dương Quá đang định rút chuỷ thủ ra, bỗng nghe ngoài song có người gõ nhẹ ba tiếng, vội nhắm mắt nằm im.

Quách Tĩnh tỉnh giấc liền, ngồi dậy, hỏi:

– Dung nhi phải không? Có quân tình khẩn cấp chăng?

Ngoài song im lặng. Quách Tĩnh thấy Dương Quá ngủ, hơi thở đằng mũi đều đều, may đã ngủ được, không đánh thức chàng, nhẹ chân xuống giường, đi ra khỏi phòng, thấy Hoàng Dung đứng ở sân vẫy tay.

Quách Tĩnh tới gần, thấp giọng hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Hoàng Dung không đáp, kéo chồng ra hậu viện, nhìn tứ phía, rồi nói:

– Tĩnh ca ca và Quá nhi đối đáp, muội đã nghe cả. Quá nhi không có hảo ý, Tĩnh ca ca biết hay không?

Quách Tĩnh kinh ngạc, hỏi:

– Không có hảo ý là thế nào?

Hoàng Dung nói:

– Muội cảm thấy lời hắn nói sớm có ý nghi ngờ vợ chồng mình giết hại phụ thân hắn.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi có thể nghi ngờ, nhưng ta đã hứa sẽ kể tỉ mỉ nguyên do phụ thân hắn chết như thế nào cho hắn biết.

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca có thế kể hết cho Quá nhi nghe được ư?

Quách Tĩnh nói:

– Phụ thân hắn chết thảm, ta vẫn luôn tự trách mình. Dương Khang huynh đệ tuy lầm đường lạc lối, nhưng chúng ta cũng không tận tình khuyên can, không tìm mọi cách cứu y.

Hoàng Dung nói:

– Hừ, người như thế còn cứu vãn làm sao được kia chứ? Muội chỉ hận không giết y sớm hơn, nếu không mấy vị sư phụ của Tĩnh ca ca đâu đến nỗi phải táng mạng ở đảo Đào Hoa?

Quách Tĩnh nghĩ lại chuyện đó, không khỏi thở dài não nề.

Hoàng Dung nói:

– Chu đại ca bảo Phù nhi tới nói với muội, rằng lần này Quá nhi đến thành Tương Dương thần sắc có vẻ kỳ quái, lại bảo ca ca nằm ngủ cùng giường với hắn. Muội lo ngại lỡ có bất trắc, ở ngoài song theo dõi từ lâu. Muội thấy ca ca ngủ riêng chỗ khác thì hơn. Nên nhớ lòng người khó đoán, mà phụ thân hắn… rốt cuộc vì đánh một chưởng vào vai muội mà trúng độc chết đi.

Quách Tĩnh nói:

– Như thế không thể bảo là Dung nhi giết hại y được.

Hoàng Dung nói:

– Hai vợ chồng mình đều có ý giết y, kết quả là y vì đánh muội mà chết, thế thì so với việc chúng ta tự tay giết y, cũng đâu có gì khác mấy?

Quách Tĩnh trầm ngâm giây lát, nói:

– Dung nhi nói đúng. Thế thì ta không thể nói hết cho Quá nhi biết được. Dung nhi, nửa đêm rồi, Dung nhi hãy về phòng ngủ kẻo mệt. Hết đêm nay, ngày mai ta sẽ dọn vào ngủ trong quân doanh.

Quách Tĩnh biết ái thê đa mưu túc kế gấp trăm lần mình, tuy không tin Dương Quá có ác ý với mình, nhưng nàng đã nói như vậy, cũng nên nghe theo, thế là đặt tay vào eo lưng vợ, chậm rãi đi vào nội đường, nói:

– Quá nhi tận lực đoạt lại địa vị minh chủ võ lâm, chuyện đại sự quốc gia phân minh phải trái, hai phen cứu Dung nhi và Phù nhi, không nề hà nguy hiểm đối với bản thân, lòng hiệp nghĩa như thế, phụ thân hắn làm sao sánh nổi?

Hoàng Dung gật đầu, nói:

– Một trang thiếu niên như thế thật hiếm có. Nhưng trong lòng hắn có hai khúc mắc không thể gỡ nổi, một là nguyên do cái chết của phụ thân hắn, hai là tư tình giữa hắn với sư phụ. Ôi, muội phải nói khó lắm Long cô nương mới bỏ hắn mà đi, ai ngờ Quá nhi thần thông quảng đại, chẳng hiểu sao lại tìm được nàng ta. Nhìn thần tình sư đồ họ, thì từ rày không tài nào chia rẽ họ được nữa rồi.

Quách Tĩnh im lặng một lát, bỗng nói:

– Dung nhi thần thông quảng đại hơn cả Quá nhi, hãy cố nghĩ cách cứu hắn, đừng để hắn lầm đường lạc lối

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Đừng nói chuyện của Quá nhi muội không có cách, ngay cả đại tiểu thư của chúng ta, muội cũng chưa biết làm thế nào mới ổn. Tĩnh ca ca, trong lòng muội chỉ có mình ca ca, trong lòng ca ca cũng chỉ có một mình muội. Nhưng con gái chúng ta lại có đồng thời hai gã thiếu niên lang quân, cuối cùng lại không dứt khoát được với hai huynh đệ họ Võ. Chuyện đó khiến cho người làm cha mẹ khó xử biết chừng nào.

Quách Tĩnh đưa Hoàng Dung vào phòng, đợi nàng nằm xuống giường đâu đấy, đắp chăn cho vợ, rồi ngồi xuống bên cạnh, cầm tay nàng, mỉm cười. Ngót một tháng nay hai vợ chồng đều bận rộn việc quân quốc, hiếm có thời khắc yên tĩnh bên nhau. Hai người nhìn nhau im lặng, trong lòng cảm thấy dễ chịu. Hoàng Dung đưa mu bàn tay của chồng cọ nhè nhẹ vào má mình, nói:

– Tĩnh ca ca, hài tử thứ hai của vợ chồng ta, Tĩnh ca ca hãy đặt tên cho con đi.

Quách Tĩnh cười, nói:

– Dung nhi thừa biết ta không thạo việc đó, lại còn định giễu ta ư?

Hoàng Dung nói:

– Tĩnh ca ca cứ nói xem ý ca ca thế nào nào. Nam tử khắp thiên hạ, không ai bằng được ca ca đâu.

Câu này Hoàng Dung nói ra với toàn bộ vẻ thành thật sâu xa.

Quách Tĩnh cúi xuống, thơm nhẹ lên má vợ, nói:

– Nếu Dung nhi sinh con trai, chúng ta sẽ gọi nó là Quách Phá Lỗ (phá ngoại xâm), còn nếu sinh con gái…

Nghĩ một lát, cười, nói:

– Ta nghĩ không ra, Dung nhi cứ đặt tên cho con thì được.

Hoàng Dung nói:

– Khưu Xứ Cơ đạo trưởng đặt cho ca ca chữ “Tĩnh”, là để ca ca đừng quên cái nhục Tĩnh Khang. Nay nước Kim đã diệt xong, gót sắt Mông Cổ lại kéo đến giày xéo, hài nhi sinh ra trong thành Tương Dương, vậy thì gọi là Quách Tương, để mai sau nó nhớ mình đã ra đời ở chốn nào.

Quách Tĩnh nói:

– Được lắm, những mong nữ hài nhi sau này đừng quỉ quái như chị nó, lớn tướng rồi mà vẫn khiến cha mẹ lo lắng.

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Nếu chỉ lo lắng thì cũng được, đằng này… Muội chỉ mong sinh một nam hài nhi, để họ Quách có người nối dõi.

Quách Tĩnh vuốt tóc vợ, nói:

– Nam hài nhi hay nữ hài nhi cũng thế cả. Thôi ngủ đi, đừng nghĩ vẩn nghĩ vơ nữa.

Nói xong đắp kỹ chăn cho vợ, thổi tắt nến, rồi quay mình đi về phòng, thấy Dương Quá đang ngủ say, trống vừa điểm canh ba, leo lên giường ngủ tiếp.

Không ngờ hai vợ chồng nói gì với nhau, Dương Quá đã ẩn mình sau cửa nghe thấy tất cả. Quách Tĩnh, Hoàng Dung đi vào nội đường rồi, chàng cứ đứng ngây một chỗ, nghĩ đi nghĩ lại mấy câu Hoàng Dung vừa nói “Muội hận không giết phụ thân hắn sớm hơn… phụ thân hắn rốt cuộc vì đánh một chưởng vào vai muội mà trúng độc chết đi… Hai vợ chồng mình đều có ý giết y, kết quả là y vì đánh muội mà chết…” Chàng nghĩ: “Cha ta vì hai người ấy mà chết, điều đó thiên chân vạn xác, không còn nghi ngờ gì nữa. Hoàng Dung thật là giảo hoạt, đã có ý nghi ta, nếu đêm nay ta không hạ thủ, e rằng sẽ không còn dịp nào nữa.” Chàng bèn về giường nằm im, chờ Quách Tĩnh trở lại.

Quách Tĩnh mở chăn ra, nghe tiếng ngáy nho nhỏ của Dương Quá, nghĩ: “Hài từ này ngủ ngon giấc thật”, để khỏi đánh thức Dương Quá bèn rón rén nằm xuống bên cạnh. Lát sau, đang lơ mơ sắp thiếp đi, bỗng thấy Dương Quá thong thả trở mình, nhưng trong lúc trở mình vẫn cứ ngáy. Quách Tĩnh lấy làm lạ: “Bất cứ ai đang ngủ, lúc trở mình cũng đều ngừng ngáy. Hài tử này hô hấp dị thường, không lẽ khi luyện nội công hắn vận nghịch khí hay sao? Thật là bất thường!” Hoàn toàn không ngờ đấy là Dương Quá giả bộ đang ngủ say.

Dương Quá lại chậm rãi trở mình, thấy Quách Tĩnh không hay biết, bèn tiếp tục vừa ngáy nho nhỏ, vừa xuống khỏi giường. Nguyên ban đầu chàng định hành thích ở trong chăn, nhưng nghĩ khoảng cách quá gần, rất nguy hiểm, nếu lúc giãy chết Quách Tĩnh phóng ra một chưởng, chỉ e chàng khó toàn mạng, nên sau khi ngồi dậy, rút chuỷ thủ ra rồi, sợ đối phương võ công quá mạnh, bèn quyết định trước tiên hãy xuống đất, đâm một nhát trúng giữa ngực, rồi lập tức nhảy ra cửa sổ, lại lo mình ngừng ngáy sẽ làm cho Quách Tĩnh đang ngủ phát giác có chuyện, nên đã đứng dưới đất vẫn giả bộ ngáy.

Quách Tĩnh thì không hiểu nổi Dương Quá có chuyện gì, nghĩ: “Hài tử này bị bệnh mộng du hay sao? Nếu mình lên tiếng, e rằng nó giật mình, khí tức nghịch xung đan điền, sẽ lập tức bị tẩu hỏa nhập ma mất”. Thành thử Quách Tĩnh không dám động đậy, cứ dỏng tai nghe động tĩnh.

Dương Quá tay phải cầm chuỷ thủ ngang ngực, bước tới trước giường, đột nhiên vận kình ra cánh tay, đang định đâm, thì nghe Quách Tĩnh hỏi:

– Quá nhi, ngươi mơ thấy ác mộng ư?

Dương Quá hoảng hồn giật mình, nhún hai chân một cái, xoay người lao ra cửa sổ. Chàng vọt đi nhanh, song Quách Tĩnh còn bay nhanh hơn, chân chàng chưa chạm đất, hai cánh tay đã bị Quách Tĩnh tóm chặt. Dương Quá biết võ công của mình thua xa đối phương, chống cự cũng vô dụng, bèn nhắm mắt không nói. Quách Tĩnh mang Dương Quá vào, đặt ngồi xuống giường, hai tay xuôi trước đan điền, chính là tư thế luyện khí Huyền môn. Dương Quá vừa tức vừa sợ: “Không biết hắn sẽ dùng cách độc ác gì để hành hạ ta?” Chàng bỗng nhớ đến Tiểu Long Nữ, bèn hít một hơi dài, định cất tiếng gọi thật to: “Cô cô, ta đã thất thủ bị bắt, cô cô mau trốn đi”. Quách Tĩnh thấy Dương Quá đột nhiên cấp tốc vận khí, càng tưởng nhầm Dương Quá luyện công bất thường, nghĩ: “Trong lúc nguy cấp chỉ nên hít thở thong thả, chứ hô hấp gấp gáp thế này vô cùng nguy hiểm”, vội đặt bàn tay vào bụng dưới của chàng.

Đan điền Dương Quá bị Quách Tĩnh vận nội kình thâm hậu án ngữ, kêu không thành tiếng, nghĩ đến sự an nguy của Tiểu Long Nữ, cố giằng ra đến đỏ mặt tía tai, khổ nỗi đan điền và toàn thân bị chế ngự, không thể cựa quậy được.

Quách Tĩnh thong thả nói:

– Quá nhi, ngươi luyện công quá gấp, như thế gọi là dục tốc bất đạt, hãy mau ngồi yên, để ta giúp ngươi thuận khí qui nguyên.

Dương Quá ngẩn người, chưa hiểu dụng ý của đối phương, chỉ cảm thấy một luồng khí ấm từ lòng bàn tay Quách Tĩnh truyền sang đan điền của mình, hết sức dễ chịu, lại nghe Quách Tĩnh nói:

– Ngươi hãy từ từ thở ra, để luồng khí ấm từ Thủy phần đến Kiện lý, qua Cự quyết, Cưu vĩ, đến Ngọc đường, Hoa cái, thông mạch Nhâm trước đã, đừng để ý đến các kinh mạch khác vội.

Dương Quá nghe mấy câu đó, lại cảm thấy Quách Tĩnh đang truyền nội công giúp mình thông mạch, thì đã đoán được tám, chín phần, nghĩ: “Ngượng quá đi mất! Thì ra Quách Tĩnh tưởng ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, dẫn đến hành động điên khùng”. Bèn ngầm vận nội tức, cố ý dẫn lung tung đi tứ phía ngang dọc, tựa hồ không thể khắc chế. Quách Tĩnh lo lắng, gia tăng nội lực lòng bàn tay để cứu giúp Dương Quá. Phái mất nửa canh giờ mới làm cho khí tức nghịch hành của Dương Quá hoàn toàn qui thuận.

Một phen vận khí vừa qua cố nhiên làm cho Dương Quá rã rời cả người, Quách Tĩnh cũng cảm thấy rất mệt mỏi. Hai người cùng đả tọa cho đến sáng, mới phục hồi nguyên khí. Quách Tĩnh mỉm cười, nói:

– Quá nhi, đã khỏe lại chưa? Không ngờ nội lực của ngươi cũng có thành tựu như vậy, chút nữa thì ta cũng chịu không giúp ngươi được.

Dương Quá biết Quách Tĩnh đã hao tổn nhiều công lực cứu trợ chàng, không khỏi cảm động, nói:

– Đa tạ Quách bá bá cứu hộ, điệt nhi đêm qua chút nữa thì bị tàn phế tứ chi.

Quách Tĩnh nghĩ bụng: “Đêm qua trong lúc mê ngủ, ngươi dùng dao định đâm ta, may mà tự ngươi không biết, chứ nếu biết chắc sẽ hổ thẹn lắm”. Quách Tĩnh lo Dương Quá biết chuyện đó sẽ áy náy, bèn lái sang chuyện khác, nói:

– Ngươi hãy theo ta ra ngoài thành, xem xét việc phòng vụ xung quanh.

Hai người cưỡi chiến mã sánh vai ra ngoài thành. Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, nội công phái Toàn Chân là nội công chính tông trong thiên hạ, tiến cảnh tuy chậm, nhưng hoàn toàn không sợ sai phạm. Võ công các gia các phái, ngươi có thể học tất, nhưng nội công thì chỉ nên chuyên tu công phu Huyền môn mà thôi. Đợi khi quân địch lui binh, ta sẽ cùng luyện tập với ngươi.

Dương Quá nói:

– Chuyện điệt nhi bị tẩu hỏa đêm qua, Quách bá bá chớ kể cho Quách bá mẫu biết, kẻo Quách bá mẫu lại chê là điệt nhi học công phu bàng môn tả đạo của Long cô nương, làm cho Quách bá bá khổ sở một phen.

Quách Tĩnh nói:

– Dĩ nhiên ta sẽ không kể. Thực ra công phu của Long cô nương cũng không phải là bàng môn tả đạo, chẳng qua ngươi chưa lĩnh hội đầy đủ đó thôi.

Dương Quá nghĩ nếu Hoàng Dung biết chuyện, sẽ hiểu ngay chân tướng, nghe Quách Tĩnh đáp ứng không kể, thì mới an tâm.

Hai người phi ngựa về phía tây, thấy có một dòng mương nhỏ chảy ngang dưới chân núi. Quách Tĩnh nói:

– Dòng mương này tuy nhỏ, nhưng lừng danh, gọi là Đàn khê.

Dương Quá “a” lên một tiếng, nói:

– Điệt nhi nghe kể chuyện Tam quốc, Lưu hoàng thúc phóng ngựa nhảy qua Đàn khê, thì ra dòng mương ấy lại ở đây.

Quách Tĩnh nói:

– Lưu Bị ngày ấy cưỡi con ngựa tên là Đích Lư, người xem tướng ngựa bảo đó là con ngựa phản chủ. Không ngờ chính con ngựa Đích Lư ấy đã vọt qua Đàn khê, thoát khỏi truy binh, cứu sống Lưu hoàng thúc.

Nói đến đây, lại nhớ đến cha của Dương Quá là Dương Khang, thở dài nói tiếp:

– Thật ra người đời cũng đều như con ngựa Đích Lư, làm người thiện thì thiện, làm kẻ ác thì ác, người tốt kẻ xấu không nhất định. Tất cả đều do cái tâm mà ra.

Dương Quá chột dạ, liếc trộm Quách Tĩnh, thấy thần sắc có vẻ thương cảm, rõ ràng không có ý chê bai chàng, nghĩ: “Nói thì đúng, nhưng thế nào là ác, thế nào là thiện? Hai vợ chồng ngươi ngầm sát hại phụ thân ta, không lẽ lại là thiện? Nói thế mà không biết ngượng!” Chàng thán phục Quách Tĩnh mọi điều, nhưng mỗi khi nghĩ phụ thân bị chết bởi hai vợ chồng Quách Tĩnh, thì trong lòng lại sinh ác niệm.

Hai người phi ngựa một hồi, thấy bên đường có một tấm bia, trên khắc hàng chữlớn: “Đường công bộ lang Đỗ Phủ quê ở đây”. Dương Quá nói:

– Thành Tương Dương quả không tầm thường, thì ra đây là quê hương của vị đại thi nhân.

Quách Tĩnh ngâm nga:

Đại thành thiết bất như,

Tiểu thành vạn trượng dư…

Liên vân liệt chiến cách,

Phi điểu bất năng du.

Hồ lai đản tự thủ,

Khởi phục ưu Tây Đô…

Gian nan phấn trường kích,

Vạn cổ dụng nhất phu.

Tạm dịch:

Thành to thừa sức vững bền.

Thành con muôn trượng tiếp liền trời mây…

Đó rào chiến thật là kiên cố,

Dù chim bay cũng khó vượt qua.

Quân Hồ hết lối xông pha,

Tây Đô còn cách đường xa ngại gì.

Kìa lối hiểm men đi chót vót,

Đường hẹp này chỉ lọt một xe.

Giáo dài cũng khó giờ nghề,

Một người chống vạn, quen lề từ xưa.

Dương Quá nghe Quách Tĩnh ngâm thơ khảng khái hiên ngang, cũng nhẩm theo:

Quân Hồ hết lối xông pha,

Tây Đô còn cách đường xa ngại gì.

Kìa lối hiểm men đi chót vót,

Đường hẹp này chỉ lọt một xe.

Giáo dài cung khó giờ nghề,

Một người chống vạn, quen lề từ xưa.

Quách bá bá, mấy câu thơ này hay thật, của Đỗ Phủ phải không?

Quách Tĩnh nói:

– Phải, mấy hôm trước Quách bá mẫu của ngươi đàm luận cùng ta về việc thủ thành Tương Dương, đã nhớ bài thơ này của Đỗ Phủ, đã viết ra cho ta đọc. Ta rất thích, đọc mấy chục lần, nhưng chỉ nhớ được mấy câu trên. Văn sĩ Trung Nguyên người nào cũng biết làm thơ, nhưng thiên cổ Đỗ Phủ vẫn là đệ nhất thi nhân, chính là vì Đỗ Phủ ưu quốc ái dân vậy.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá bảo “Vì nước vì dân, là bậc đại hiệp”, vậy thì dẫu là văn hay võ, cũng như nhau cả.

Quách Tĩnh thấy Dương Quá đã hiểu được thế, thì cả mừng, nói:

– Văn chương kinh thư, ta không am hiểu, nhưng thiết nghĩ làm người sống trên thế gian, dù là kẻ tầm thường, chỉ cần vì nước vì dân, thì đều là hảo hán thật sự, hào kiệt thật sự.

Dương Quá hỏi:

– Quách bá bá, bá bá bảo có thể giữ vững được thành Tương Dương hay không?

Quách Tĩnh ngẫm nghĩ hồi lâu, chỉ tay về phía tây nhấp nhô gò đống, cây cối xanh tươi, nói:

– Nhân vật lừng lẫy nhất ở Tương Dương từ xưa đến nay dĩ nhiên là Gia Cát Lượng. Cách đây hai chục dặm về phía tây là Long Trung, nơi Gia Cát Lượng từng ẩn cư cày cấy. Tài thao lược trị quốc an dân của Gia Cát Lượng, kẻ thô thiển chúng ta không thể sánh nổi. Vậy mà Gia Cát Lượng từng nói “Thần chỉ cúc cung tận tụy, chết cũng cam lòng, còn thành bại cuối cùng, thần cũng không biết”. Ta cùng Quách bá mẫu của ngươi khi đàm luận về việc liệu có giữ được thành Tương Dương hay không, cũng chỉ biết tám chữ “Cúc cung tận tụy, chết cũng cam lòng” mà thôi.

Vừa nói tới dó, bỗng thấy các nạn dân chạy đến cổng thành thành từng đoàn dài, nhất thời bên ngoài tiếng gọi í ới, tiếng kêu khóc như ri.

Quách Tĩnh ngạc nhiên, nói:

– Tại sao binh lính trong thành không mở cổng thành cho dân chúng chạy vào?

Rồi phi ngựa một mạch tới chân thành, thấy binh lính sắp hàng trên mặt thành đang chĩa cung tên về phía nạn dân. Quách Tĩnh quát to:

– Các ngươi làm gì vậy? Mau mở cổng thành!

Thấy Quách Tĩnh, trên thành vội mở cổng thành để Quách Tĩnh và Dương Quá vào thành. Quách Tĩnh nói:

– Trăm họ bị quân Mông Cổ tàn sát, tại sao không để cho họ chạy vào thành?

Tướng giữ thành nói:

– Lã đại soái bảo có gian tế Mông Cổ trà trộn trong đám nạn dân, nên nhất thiết không được mở cổng thành để tránh tai họa.

Quách Tĩnh quát:

– Dù có một vài tên gian tế, há có thể vì thế mà phó mặc tính mạng hàng ngàn bách tính? Mau mở cổng thành!

Quách Tĩnh thủ thành đã lâu, mấy lần lập kỳ công, uy vọng lớn lao, tuy không quan chức, nhưng hiệu lệnh của Quách Tĩnh, tướng giữ thành không dám bất tuân, đành vừa cho mở cổng thành, vừa sai người phi báo với An phủ sứ Lã Văn Đức.

Trăm họ bồng bế, dìu dắt nhau chạy vào thành sắp dứt, bỗng thấy đằng xa bụi tung mù mịt, quân Mông Cổ từ phía bắc tràn tới. Quân Tống tản khai, nấp sau bờ thành phòng ngự. Chỉ thấy phía trước quân địch là một đoàn người áo quần lam lũ, tay cầm gậy, hàng ngũ rối loạn, cùng gọi to:

– Trên thành đừng bắn tên, chúng tôi đều là trăm họ của Đại Tống!

Núp sau lưng trăm họ là tinh binh thiết kỵ của Mông Cổ.

Từ Thành Cát Tư Hãn trở đi, quân Mông Cổ công thành đều xua bách tính của nước đối phương đi trước, lính giữ thành không nỡ bắn họ, là quân Mông Cổ bám theo sau lập tức tràn lên. Cách này vừa sát hại bách tính nước địch, vừa làm dao động lòng lính địch, có thể nói là nhất cử lưỡng tiện, tàn bạo đấy song thường thu được kỳ hiệu. Quách Tĩnh ở trong quân Mông Cổ lâu năm, dĩ nhiên biết rõ cách này, nhưng khổ nỗi không biết cách hóa giải. Chỉ thấy tinh binh Mông Cổ cầm giáo mác thúc nạn dân phải leo lên thành. Dân chúng tới mỗi lúc một gần, những người đầu tiên đang bắt đầu leo lên thang. Tương Dương An phủ sứ Lã Văn Đức cưỡi một con ngựa xanh, tuần thị trong thành, thấy tình thế nguy cấp, vội hạ lệnh:

– Giữ thành cần hơn, bắn!

Lính bắn tên xuống như mưa, dân chúng nhiều người trúng tên, rú lên ngã xuống, những người khác quay đầu chạy về phía sau. Quân Mông Cổ vung đao chém, đuổi dồn họ thành từng tốp leo lên thành.

Dương Quá đứng bên Quách Tĩnh, nhìn thảm trạng, tức giận vô cùng, chỉ nghe Lã Văn Đức thét: “Bắn!” là hàng loạt mũi tên lại bắn xuống như mưa. Quách Tĩnh thét lớn:

– Như thế không được, chớ giết lầm người tốt!

Lã Văn Đức nói:

– Tình thế nguy cấp, người tốt cũng đành phải giết.

Quách Tĩnh nói:

– Không được, sao lại đi giết lầm người tốt?

Dương Quá chột dạ, nghĩ thầm: “Không được giết lầm người tốt! Sao lại đi giết lầm người tốt?”

Quách Tĩnh nói to:

– Huynh đệ Cái Bang và các vị bằng hữu võ lâm, mọi người hãy theo ta!

Rồi chạy xuống phía cổng thành. Dương Quá chạy theo. Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, đêm qua ngươi luyện khí bị thương, hôm nay không nên dùng sức, hãy ở trên mặt thành quan sát cho ta.

Dương Quá thấy quân Mông Cổ tàn sát người Hán, coi người Hán đúng là không bằng dê chó, định theo Quách Tĩnh đi giết chúng một phen, nhưng nghe Quách Tĩnh nói vậy, đành trở lên mặt thành, không dám phân bua rằng đêm qua kỳ thực chàng không hề bị tẩu hỏa vì luyện công.

Quách Tĩnh dẫn một tốp hảo thủ võ lâm mở rộng cổng thành phía tây, xông ra, đánh vu hồi vào bên sườn quân Mông Cổ. Bọn Mông Cổ nấp sau lưng bách tính liền chia nhau ra đối địch. Đôi bên ập vào nhau, đã có hơn trăm tên Mông Cổ bị chém ngã ngựa. Thấy đội quân ngàn tên không cản nổi, đội quân ngàn tên thứ hai liền từ bên hông lao tới, vung trường đao xung sát. Quân Mông Cổ từng trải trăm trận, dũng mãnh thiện chiến, các võ sĩ do Quách Tĩnh chỉ huy tuy đều giỏi võ nghệ, song nhất thời cũng không dễ thủ thắng. Dân chúng bị dồn lên thành thấy quân Mông Cổ còn bận chiến đấu, không để ý tới họ nữa, bèn hò nhau chạy tản đi tứ phía.

Chỉ nghe từ phía đông có tiếng tù và nổi lên, tiếng vó ngựa dồn dập, hai đội quân ngàn tên Mông Cổ từ phía đó lao tới, tiếp sau lại có thêm hai đội quân ngàn tên từ phía tây ập lại, vây tròn nhóm võ sĩ Quách Tĩnh vào giữa.

Lã Văn Đức đứng trên mặt thành thấy uy thế của quân Mông Cổ như vậy thì cả sợ, không dám cho lính ra cứu.

Dương Quá đứng trên mặt thành quan chiến, trong óc cứ luẩn quẩn câu nói của Quách Tĩnh “Không được giết lầm người tất? Sao lại đi giết lầm người tốt?” Nhìn Quách Tĩnh đứng giữa trùng vây, nghĩ bụng: “Trên thành chỉ cần liên tục bắn tên, bắn chết một số bách tính, thì quân Mông Cổ không thể tấn công lên được. Quách bá bá thân lâm nguy nạn, hoàn toàn là do không nỡ giết lầm người tốt! Những người dân kia không hề quen biết gì, mà Quách bá bá còn xả thân cứu họ, vì cớ gì Quách bá bá lại giết chết phụ thân ta?”

Mắt nhìn cảnh chém giết dưới chân thành, trong óc chàng cứ quanh quẩn mấy câu hỏi: “Quách bá bá và phụ thân ta kết nghĩa kim lan, giao tình không phải tầm thường, vậy mà Quách bá bá lại hạ thủ, không lẽ phụ thân ta là kẻ xấu tuyệt nhiên không thể tha thứ?” Chàng từ nhỏ luôn tưởng tượng cha mình là một đấng nam nhi hào hiệp khảng khái, anh tuấn vũ dũng, hiếm có trong thiên hạ, bây giờ bỗng nhiên bảo chàng phải thừa nhận phụ thân là kẻ xấu kẻ ác, thì thật là không thể. Nhưng trong thâm tâm, chàng sớm lờ mờ cảm thấy cha mình thua xa Quách bá bá, có điều là mỗi lần nghĩ thế, chàng lại cố gạt bỏ ngay nó đi.

Lúc này dưới chân thành tiếng hò hét dậy trời, nhóm võ sĩ Quách Tĩnh tả xung hữu đột, song vẫn không thể thoát ra khỏi trùng vây. Chu Tử Liễu chỉ huy một đội nhân mã, huynh đệ họ Võ và Quách Phù cũng chỉ huy một đội nhân mã, muốn xông ra khỏi thành tiếp ứng, bỗng nghe tiếng tù và thổi gấp, lại thêm bốn đội quân ngàn tên Mông Cổ xông tới trước cổng thành. Hốt Tất Liệt dùng binh quả nhiên lợi hại, chỉ đợi trong thành mở cổng xông ra tiếp ứng, bốn đội quân ngàn tên kia sẽ lập tức tràn vào.

Lã Văn Đức cả sợ, cao giọng truyền lệnh:

– Cấm mở cổng thành!

Lại sai hai trăm đao phủ thủ nghiêm thủ hai bên cổng, kẻ nào dám mở cổng thành ra sẽ bị chém đầu tức thì. Đại tướng Vương Kiên chỉ huy đội quân cung nỏ từ trên mặt thành không ngớt phóng tên xuống.

Trong thành ngoài thành nháo nhào cả lên, các ý nghĩ trong đầu Dương Quá cũng đối chọi nhau, lúc thì chàng mong Quách Thành bỏ xác trong loạn quân vây hãm, lúc thì lại mong Quách Tĩnh đánh lui quân địch. Bỗng thấy thế trận của quân Mông Cổ rối loạn, mấy ngàn kỵ binh phải dạt sang hai bên như nước triều, Quách Tĩnh tay cầm giáo dài, lao ngựa đi, đằng sau các võ sĩ kết thành một khối hình vuông xung sát. Phương trận này rất nghiêm mật, chỉ giây lát đã áp tới cổng thành, Quách Tĩnh quay đầu ngựa, thân chinh cản hậu, cây giáo dài rung động, bảy tám tên lính Mông Cổ ngã ngựa. Binh tướng Mông Cổ nhất thời không dám tới gần.

Lã Văn Đức thấy Quách Tĩnh thoát hiểm thì cả mừng, vội nói lớn:

– Mở cổng! Chỉ được mở hé, không nên mở rộng!

Cổng thành được mở rộng chừng ba, bốn thước, đủ cho một người cưỡi ngựa đi vào, các võ sĩ lục tục vào thành. Lá hoàng kỳ trong quân Mông Cổ chao động, hai đội binh mã từ hai bên xông tới.

Lã Văn Đức gọi to:

– Quách Tĩnh huynh đệ! Vào thành mau! Đừng chờ người khác nữa!

Quách Tĩnh thấy bộ thuộc chưa thoát hiểm hết, đâu chịu vào thành trước, đã thế còn giục ngựa xông lên đánh hai tên dũng sĩ Mông Cố gần nhất. Nhưng đại quân đã động, giống như nước thủy triều, Quách Tĩnh tuy võ nghệ tinh thâm, sức một người làm sao ngăn nổi đại quân xung kích? Chu Tử Liễu trên mặt thành thấy tình thế nguy cấp, vội thả xuống một sợi dây dài, gọi:

Quách huynh đệ, nắm lấy này!

Quách Tĩnh ngoảnh đầu, thấy huynh đệ Cái Bang cuối cùng đã vào trong thành, có hơn mười tên lính Mông Cổ xông vào theo. Các đao phủ thủ vừa đánh chặn, vừa khép cổng thành, hai cánh cổng sắt nặng nề thong thả khép lại. Quách Tĩnh thét to một tiếng, dùng giáo đâm chết một tên thập phu trưởng, tung mình nhảy lên chộp lấy sợi dây. Chu Tử Liễu ráng sức kéo lên, Quách Tĩnh lập tức vọt lên cao hơn trượng.

Tên vạn phu trưởng đốc chiến phía Mông Cổ quát lớn:

– Bắn tên!

Lập tức cả ngàn cây cung cùng bắn. Quách Tĩnh trong lúc được kéo lên đã lường trước việc này, đã xé vạt trường bào, tay phải nắm sợi dây, tay trái cầm vạt áo múa dồn dập như một cái mộc che chắn mọi mũi tên. Chỉ có con ngựa vừa cưỡi dưới chân thành bị trúng mấy trăm mũi tên dài, trông như một con nhím khổng lồ. Chu Từ Liễu hai tay kéo nhanh, Quách Tĩnh lên cao dần.

Khi Quách Tĩnh còn cách bờ thành hai trượng, thì trong quân Mông Cổ đột nhiên phi tới một hòa thượng gầy mặc áo cà sa màu vàng, chính là Kim Luân pháp vương. Lão ta cầm lấy cung nỏ của một tên quân quan Mông Cổ, giương cung lên. Lão ta biết Quách Tĩnh và Chu Tử Liễu đều võ nghệ tinh thâm, nếu nhắm bắn vào người họ, họ nhất định tránh được, thế là lão nhắm bắn sợi dây. Mũi tên này thật độc địa, nó cách Quách, Chu hai người khoảng một trượng, cả hai không tài gì chống đỡ. Kim Luân pháp vương sợ hai người có cách hóa giải, lão liền bắn tiếp mỗi người một mũi tên. Mũi tên thứ nhất nghe “phựt” một tiếng, sợi dây dài đứt luôn, hai mũi tên sau bay nhanh về phía Quách, Chu.

Sợi dây đứt, thân hình Quách Tĩnh rơi xuống, mũi tên bắn Quách Tĩnh dĩ nhiên không trúng. Chu Tử Liễu chợt cảm thấy cánh tay nhẹ bẫng, kêu “Hỏng rồi!” thì một mũi tên đã bay đến trước mặt. Kẻ bắn mũi tên nội lực cực kỳ thâm hậu. Lúc này trên mặt thành đầy người, Chu Tử Liễu thầm biết nếu mình né đầu tránh, ắt người phía sau sẽ bị trúng thương, bèn dùng hai ngón tay trái nhắm thật chuẩn mũi tên, giơ ra hất cán mũi tên một cái, khiến nó bay chếch xuống dưới.

Quách Tĩnh thấy đứt dây, thầm kinh hãi, rơi xuống chân thành tuy có thể không bị thương, nhưng giữa vòng vây thiên binh vạn mã, làm sao thoát nổi? Lúc này quân địch đã áp sát, nếu quân ta mở cổng thành tiếp ứng, quân địch nhất định thừa cơ xông vào. Trong cơn nguy cấp không kịp nghĩ ngợi, Quách Tĩnh chạm chân trái vào tường thành một cái, thân hình vọt lên cao hơn trượng, chân phải chạm vào tường thành một cái, thân hình lại vọt lên cao hơn trượng. Môn võ công cao siêu “Thượng thiên thê” (thang lên trời) này hiếm ai đương thời nắm vững, người nào dẫu luyện thành, mỗi bước cũng chỉ lên cao được hai, ba thước mà thôi. Đằng này Quách Tĩnh leo tường thành, cứ mỗi bước vọt lên cao hơn trượng, võ công cao siêu đúng là kinh thế hãi tục. Nhất thời trên thành dưới thành im phăng phắc không một tiếng động, mấy vạn đạo mục quang đều chăm chú dồn vào thân hình Quách Tĩnh.

Kim Luân pháp vương thầm kinh hãi, biết công phu “Thượng thiên thê” phải thực hiện liền một mạch, chỉ cần giữa chừng có sự chệch choạc một chút, sẽ không thể leo lên tiếp được nữa. Lão ta bèn giương cung, phóng tiếp một mũi tên nhắm đón lưng Quách Tĩnh.

Tên đi như gió, quân sĩ trên thành dưới thành đều kêu to:

– Đừng có phóng tiễn!

Tất cả mọi người thấy Quách Tĩnh võ công kinh nhân, thật đáng khâm phục, đều mong Quách Tĩnh lên được mặt thành. Quân Mông Cổ tuy ở phe địch, song cũng sùng kính anh hùng hảo hán, thấy có kẻ đột nhiên bắn lén, thì không khỏi căm phẫn.

Quách Tĩnh nghe tiếng mũi tên xé gió sau lưng, nghĩ bụng: “Thôi nguy rồi!” đành đưa tay ra sau gạt đi. Mấy vạn binh sĩ đôi bên thấy Quách Tĩnh như có con mắt sau lưng, mũi tên bắn lén không làm gì nổi Quách Tĩnh, thì đồng thanh reo hò. Nhưng giữa tiếng reo hò rầm trời, thân hình Quách Tĩnh đã hơi trầm xuống, tuy còn cách mặt thành vài thước, mà lại không thể leo lên được nữa.

Trong lúc quân sĩ đôi bên ác chiến, trong lòng Dương Quá tựa hồ cũng có hai phe giằng xé. Nhìn Quách Tĩnh gặp nạn, thân hình được kéo lên rồi rơi xuống, sau đó lại đạp lên rồi rơi xuống, trong lòng Dương Quá mấy ý nghĩ cứ thoáng qua liền liền: “Hắn là kẻ thù đã giết cha ta, ta có giết hắn hay không? Có nên cứu hắn hay không?” Lúc Quách Tĩnh sử công phu “Thượng thiên thê” sắp lên tới mặt thành, Dương Quá đã định phát chưởng lăng không đánh cho Quách Tĩnh rơi xuống. Quách Tĩnh đang giữa không trung, không có chỗ nào mượn lực, tất nhiên sẽ bị trọng thương rơi xuống. Chàng hơi chần chừ, Quách Tĩnh đã bị Kim Luân pháp vương bắn mũi tên ngăn cản, không thể lên được nữa. Dương Quá tâm trạng rối bời, đột nhiên tay trái chộp lấy đầu sợi dây đứt mà Chu Tử Liễu đang cầm, nhoài người xuống, tay phải đã chộp được cánh tay Quách Tĩnh. Hành động rất bất ngờ, nhưng Chu Tử Liễu tùy cơ ứng biến, nhanh nhẹn dị thường, lập tức sử kình vào hai tay, để cho sợi dây kéo xuống một chút, rồi vận kình kéo lên cực gấp. Dương Quá và Quách Tĩnh vạch một vòng tròn giữa không trung, giống như hai con chim bay.

Binh sĩ trên thành dưới thành mấy vạn người nhìn cảnh ấy cùng há hốc miệng.

Quách Tĩnh đang ở giữa không trung, nghĩ bụng mình liên tiếp bị lão phiên tăng kia đánh lén, chưa có dịp trả đòn, chẳng hóa thua hắn? Thấy Kim Luân pháp vương lại lắp tên sắp bắn nữa, Quách Tĩnh chân trái vừa chạm mặt thành, tức thời chộp cung nỏ của một binh sĩ, cánh tay vượn dang ra, trường tiễn phóng ngay về phía Kim Luân pháp vương, hai mũi tên gặp nhau giữa chừng, mũi tên của Kim Luân pháp vương bị chẻ làm đôi. Lão ta ngẩn người, đột nhiên kình phong vọt tới, cây thiết cung trong tay bị gãy luôn.

Nên biết Kim Luân pháp vương và Quách Tĩnh võ công tuy ngang ngửa, nhưng Quách Tĩnh từ nhỏ đã ở Mông Cổ, được thần tiễn Triết Biệt truyền thụ thuật cung nỏ, cộng với nội lực tinh thâm, trở thành thiên hạ vô song về tuyệt kỹ cung tiễn, Kim Luân pháp vương không thể sánh kịp. Quách Tĩnh phóng liên tiếp ba mũi tên, mũi thứ nhất chẻ mũi tên đối phương, mũi thứ hai làm gãy cây cung của lão ta, mũi thứ ba nhắm cán cờ của Hốt Tất Liệt.

Lá cờ lớn này đang bay phần phật trong gió, giữa thiên binh vạn mã hiển lộ thập phần uy vũ, cán cờ bị mũi tên bắn trúng, gãy liền, lá cờ vàng tức thời xuội lơ. Quân sĩ trên thành dưới thành lại cùng kêu ồ lên.

Hốt Tất Liệt thấy Quách Tĩnh uy vũ như vậy, sĩ khí quân mình không còn, lập tức truyền lệnh thoái lui.

Quách Tĩnh đứng trên mặt thành, nhìn hàng ngũ quân Mông Cổ chỉnh tề, tuy rút lui nhưng trật tự đâu ra đó, người rút trước không vội, kẻ đoạn hậu không hoảng, bất giác thở dài, nghĩ: “Tinh binh Mông Cổ, quân Tống yếu kém quả không thể địch nổi”. Nghĩ đến quốc sự cặp lông mày rậm bất giác nhíu lại. Chu Tử Liễu, Dương Quá thấy Quách Tĩnh dương oai trong trận địa quân địch, trước mục quang vạn chúng song không hề tỏ vẻ kiêu ngạo, thì trong lòng đều thán phục.

Hốt Tất Liệt lui binh mấy chục dặm, dọc đường lặng lẽ nghĩ cách phá thành, nghĩ có Quách Tĩnh ở đó thành Tương Dương quả thật khó hạ. Kim Luân pháp vương nói:

– Điện hạ chính mắt thấy đó, nếu tên tiểu tử Dương Quá không xuất thủ cứu viện, thì hôm nay Quách Tĩnh khó mà thoát chết. Lão nạp đã sớm nhận ra, Dương Quá là kẻ phản phúc vô thường.

Hốt Tất Liệt nói:

– Không đâu! Tiểu vương cho rằng Dương Quá đúng là muốn giết Quách Tĩnh để trả thù cho cha, y là một kẻ kiên cường dũng cảm, không phải hạng tiểu nhân thâm trầm gian trá.

Kim Luân pháp vương nghĩ khác, song không dám phản bác, chỉ nói:

– Chỉ mong được như điện hạ sở liệu.

Mông Cổ lui binh, thành Tương Dương chuyển nguy thành an, An phủ sứ Lã Văn Đức cao hứng mở tiệc mừng công tại phủ nguyên soái, Dương Quá cũng được mời làm thượng khách. Mọi người ai cũng không tiếc lời tán thưởng việc chàng lanh lẹ, bất chấp hiểm nguy, lao người tương cứu Quách Tĩnh. Huynh đệ họ Võ ngồi ở bàn bên, thấy Dương Quá vừa đến thành đã lập kỳ công, thì không khỏi sinh lòng đố kỵ, chỉ sợ sau lần này, Quách Tĩnh cảm ân cứu mạng, sẽ lại đem con gái gả cho chàng. Hai huynh đệ chẳng nói chẳng rằng, chỉ buồn bã nốc rượu.

Tan tiệc, họ trở về phủ của Quách Tĩnh. Hoàng Dung mời Dương Quá vào nội đường tương kiến, nói lời tán thưởng. Dương Quá khiêm tốn từ tạ. Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi, hồi chiều ngươi dùng lực quá mạnh, ngực có bị đau tức hay không?

Quách Tĩnh lo cho Dương Quá đêm qua bị tẩu hỏa, hôm nay trên mặt thành ráng sức, dễ bị thương nội tạng.

Dương Quá sợ Hoàng Dung truy vấn nguyên do, vội nói:

– Không, không sao cả.

Rồi chàng lái ngay sang chuyện khác:

– Quách bá bá, công phu bay lên mặt thành của bá bá đúng là độc bộ võ lâm.

Quách Tĩnh mỉm cười, nói:

– Công phu ấy ta biết đã lâu, nhiều năm rồi không ôn luyện, khó tránh khỏi vụng về, nên mới bị như thế.

Kỳ thực, nếu đêm qua Quách Tĩnh không dùng chân lực trợ sức cho Dương Quá, đến nỗi hao tổn nguyên khí, thì trong lúc thi triển công phu “Thượng thiên thê”, dẫu Kim Luân pháp vương có bắn lén, cũng chẳng làm gì được, nhưng Quách Tĩnh dĩ nhiên không đả động đến chi tiết ấy, chỉ nói:

– Năm xưa Đan Dương Tử Mã đạo trưởng ở Mông Cổ truyền thụ cho ta môn công phu đó, không ngờ hôm nay lại vận dụng ở đây. Nếu ngươi thích, vài hôm nữa ta sẽ truyền thụ cho ngươi.

Hoàng Dung thấy Dương Quá thần tình hoảng hốt, trong lúc trò chuyện vẫn mải nghĩ chuyện khác, hôm nay Dương Quá ra sức cứu Quách Tĩnh là việc vạn người cùng chứng kiến, tất nhiên càng không có gì khả nghi, song Hoàng Dung vẫn không yên tâm, nói:

– Tĩnh ca ca, hôm nay muội hơi khó ở, ca ca ở lại đây với muội.

Quách Tĩnh gật đầu, nói với Dương Quá:

– Quá nhi, hôm nay mệt rồi, ngươi sớm về phòng mà nghỉ ngơi.

Dương Quá từ biệt, một mình đi về phòng, nghe tiếng trống điểm canh điểm canh hai. Chàng ngồi bên bàn, nhìn ngọn nến cháy chập chờn, lòng đầy tạp niệm. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, rồi tiếng nói nhỏ nhẹ của thiếu nữ:

– Chưa ngủ ư?

Chính là giọng nói của Tiểu Long Nữ.

Dương Quá cả mừng, chạy ra mở cửa, thấy Tiểu Long Nữ mặc bộ quần áo màu xanh nhạt, đứng đó.

Chàng hỏi:

– Cô cô có việc gì thế?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thiếp đến ngắm chàng một chút.

Dương Quá cầm tay nàng, dịu dàng nói:

– Quá nhi cũng đang nhớ đến cô cô.

Hai người sánh vai thong thả đi về phía hoa viên, trong đó cây và hoa xen nhau, mùi hương thơm ngát. Tiểu Long Nữ nhìn vầng trăng khuyết trên trời, nói:

– Chàng không thể tự tay giết y được ư? Thời gian không còn nhiều nữa.

Dương Quá vội ghé tai nàng nói nhỏ:

– Ở đây lắm tai mắt, đừng nhắc việc ấy.

Tiểu Long Nữ trân trân nhìn chàng, nói:

– Đợi đến ngày trăng tròn, thì sẽ hết hạn mười tám ngày đó.

Dương Quá kinh ngạc, gập ngón tay đếm, tính ra từ lúc từ biệt Cầu Thiên Xích, đã qua chín ngày, nếu trong một vài ngày tới không giết được vợ chồng Quách Tĩnh, chất độc phát tác thì khó lòng trở về Tuyệt Tình cốc. Chàng khe khẽ thở dài, cùng Tiểu Long Nữ ngồi xuống một tảng đá. Hai người nhìn nhau im lặng, nhu tình mỗi lúc thêm nồng nàn, quên cả chuyện cừu hận, chiến trận.

Hồi lâu sau, bỗng nghe từ phía ngoài hòn non bộ vọng lại tiếng chân, có hai người tới bụi hoa gần đấy. Một giọng thiếu nữ nói:

– Huynh còn ép muội, thì muội dùng kiếm cứa cổ chết quách cho khỏi khổ thế này.

Giọng chàng trai hờn dỗi:

– Hừ, muội tam tâm lưỡng ý, huynh không biết đấy ư? Tên tiểu tử họ Dương vừa đến thành Tương Dương, đã ra mặt trước hết thảy mọi người. Những lời muội nói dạo trước, bây giờ quên hết rồi chứ gì?

Nghe giọng, chính là Quách Phù và Võ Tu Văn. Tiểu Long Nữ nhìn Dương Quá, nháy mắt trêu chàng, ngụ ý chàng đi tới đâu cũng để vương tơ lòng, làm cho không ít cô nương phải sầu não vì chàng. Dương Quá mỉm cười, kéo Tiểu Long Nữ lại sát mình, xua xua tay, ngụ ý nàng đừng lên tiếng, hãy nghe hai người kia nói.

Quách Phù nghe Võ Tu Văn nói thế, liền cao giọng gắt:

– Đã thế, mọi lời hai ta từng nói với nhau, coi như không cả đi. Muội sẽ một mình bỏ đi thật xa, vĩnh viễn không gặp Dương Quá, hai ta cũng vĩnh viễn không gặp nhau nữa.

Nghe dường như có tiếng Võ Tu Văn kéo áo Quách Phù và bị nàng đẩy ra, giọng nàng càng giận dỗi hơn:

– Huynh co co kéo kéo gì vậy? Người ta lộ mặt hay không thì can dự gì tới muội? Cha mẹ của muội dẫu đem muội gả cho hắn, muội thà chết cũng không chịu. Gia gia nếu ép muội, muội sẽ trốn đi một nơi thật xa. Tên tiểu tử Dương Quá từ nhỏ đã lên mặt ta đây, song muội không coi hắn ra gì. Gia gia thì cứ làm như hắn quí lắm, hừ, muội thấy hắn không phải là người tử tế.

Võ Tu Văn vội hùa theo:

– Đúng, đúng vậy. Vừa rồi coi như huynh có mắt như mù, Phù muội đừng giận nữa. Từ rày huynh còn như thế, sẽ bị chết mất xác, kiếp sau hóa thành con rùa đen ngu xuẩn.

Giọng nói đã rất vui vẻ. Quách Phù cười khúc khích. Dương Quá và Tiểu Long Nữ cũng nhìn nhau mỉm cười. Một người ngụ ý: “Cô cô thấy đó, Quá nhi bị người ta ghét đến thế mà”. Người kia thì ngụ ý: “Thì ra thiếp đoán lầm, thiếp thích chàng, còn người khác không phải vậy”. Nghe giọng nói của Quách Phù, tuy có vẻ giận dỗi trách cứ, làm cho Võ Tu Văn cuống quít lo sợ, nhưng thực ra trong lòng nàng đầy sự âu yếm.

Võ Tu Văn nói:

– Sư mẫu yêu chiều muội hơn cả, muội cứ ngày đêm cầu xin sư mẫu đi. Chỉ cần sư mẫu không đáp ứng gả muội cho gã họ Dương, thì sư phụ sẽ phải chịu.

Quách Phù nói:

– Hừ, huynh thì biết gì? Gia gia tuy vẫn nghe lời mẫu thân muội, nhưng khi gặp đại sự, mẫu thân muội không dám trái ý gia gia đâu.

Võ Tu Văn thở dài, nói:

– Muội đối với huynh cũng như thế thì hay biết mấy?

Chỉ nghe “bốp” một tiếng, Võ Tu Văn kêu “Ối!”, vẻ đau đớn, nói:

– Tại sao muội lại đánh huynh?

Quách Phù nói:

– Ai bảo huynh ăn nói tùy tiện? Muội không lấy Dương Quá, nhưng cũng chẳng lấy con khỉ nhỏ là huynh đâu.

Võ Tu Văn nói:

– Được, tối nay rốt cuộc muội đã thổ lộ tâm sự, muội không chịu làm vợ ta, chỉ muốn làm chị dâu ta thôi. Ta nói cho muội biết, ta nói cho muội biết…

Chàng ta tức quá, không nói tiếp được nữa.

Quách Phù đột nhiên đổi sang giọng âu yếm:

Tiểu Võ ca ca, ca ca đối tốt với muội, đã nói cả ngàn vạn lần, muội đã biết chân tình của ca ca từ lâu. Đại ca của ca ca tuy không nói thế lần nào, song muội cũng biết Đại Võ ca ca si tình với muội. Dù muội lấy ai, thì một trong hai huynh đệ ca ca cũng đau lòng. Ca ca yêu thương muội, lại không biết lòng muội khó xử thế nào hay sao?

Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn từ nhỏ không có cha mẹ săn sóc, huynh đệ đối xử với nhau hết mực thuận hòa, nhưng vài năm trở lại đây, cả hai cùng si mê Quách Phù, tự nhiên sinh ra không ưa nhau. Võ Tu Văn cuống lên, ứa cả nước mắt ra. Quách Phù rút khăn tay đưa cho chàng ta, thở dài nói:

– Tiểu Võ ca ca, chúng mình sống bên nhau từ nhỏ, muội kính trọng đại ca của ca ca, song muội trò chuyện với ca ca thấy hợp hơn là với đại ca của ca ca. Hôm nay ca ca ép muội phải nói rõ ràng, nhưng nếu ở địa vị muội, ca ca sẽ nói sao đây?

Võ Tu Văn nói:

– Ta không biết. Ta chỉ nói với muội, rằng nếu muội lấy người khác, thì ta không sống nổi nữa.

Quách Phù nói:

– Thôi, hôm nay đừng nhắc chuyện này nữa. Hôm nay gia gia chút nữa mất mạng với kẻ địch, chúng mình ở đây cãi nhau thế này, gia gia mà nghe thấy, thì phiền phức lắm đó. Tiểu Võ ca ca, muội nói với ca ca câu này, nếu ca ca muốn được cha mẹ muội ưa thích, hãy lập nhiều chiến công có hơn không? Ca ca cứ suốt ngày bám theo muội, làm gì mà cha mẹ muội chẳng coi thường?

Võ Tu Văn nhảy cẫng lên, nói to:

– Đúng! Ta phải đi giết Hốt Tất Liệt, giải vây cho thành Tương Dương, khi đó muội có chịu lấy ta hay không nào?

Quách Phù cười, nói:

– Ca ca lập đại công, dù muội không muốn lấy ca ca, chỉ e cũng không xong. Nhưng bên cạnh Hốt Tất Liệt có bao nhiêu là vệ sĩ, chỉ riêng Kim Luân pháp vương, ngay cả gia gia còn chưa chắc đánh thắng hắn. Ca ca đừng có hồ tư loạn tưởng nữa, mau đi ngủ cho rồi.

Võ Tu Văn nhìn khuôn mặt xinh xắn của Quách Phù một hồi, rồi nói:

– Được, vậy muội đi ngủ sớm đi.

Chàng ta đi vài bước, bỗng dừng chân, ngoảnh đầu, hỏi:

– Phù muội, đêm nay muội có nằm mơ hay không?

Quách Phù cười, nói:

– Muội làm sao biết trước kia chứ?

Võ Tu Văn nói:

– Nếu có nằm mơ, muội nghĩ sẽ mơ chuyện gì?

Quách Phù mỉm cười, nói:

– Quá nửa muội sẽ nằm mơ gặp một con khỉ nhỏ.

Võ Tu Văn cả mừng, nhảy chân sáo mà đi.

Tiểu Long Nữ và Dương Quá ngồi phía sau bụi hoa nghe câu chuyện của hai người, không khỏi nhìn nhau mỉm cười, nghĩ hai người ấy, một thì si mê khổ sở, một thì tâm ý bất định, thật không sao sánh được với mối thâm tình của hai người mình, yêu thương nhau dù chết cũng không ân hận, trong lòng vô cùng sung sướng.

Võ Tu Văn đi rồi, Quách Phù ngồi lại một mình trên ghế đá, ngây ngây nhìn vầng trăng xuất thần một hồi lâu, thở dài một tiếng não nuột. Bỗng nhiên từ sau hòn non bộ đối diện có một người bước ra, nói:

– Phù muội, sao lại thở dài?

Chính là Võ Đôn Nhu. Dương Quá và Tiểu Long Nữ hơi ngạc nhiên, nghĩ chàng ta đã đến chỗ kia từ trước hai người, nếu chàng ta đến sau, hai người không thể không biết.

Quách Phù hơi giận, nói:

– Thì ra những gì muội nói với đệ đệ của ca ca, ca ca đều đã nghe hết cả rồi chứ gì?

Võ Đôn Nhu gật đầu, đứng đối diện xa xa với Quách Phù, nhưng ánh mắt chàng ta thì đầy vẻ đắm đuối. Hai người im lặng một hồi, Quách Phù hỏi:

– Ca ca muốn nói gì với muội thì nói đi!

Võ Đôn Nhu đáp:

– Không có gì. Huynh không nói thì muội cũng biết.

Nói đoạn thong thả quay mình bỏ đi.

Quách Phù nhìn theo Võ Đôn Nhu, thấy chàng ta đi khuất xa vào phía sau hòn non bộ, không hề ngoảnh lại một lần, nghĩ: “Bất luận là đại Võ hay tiểu Võ, giá trên thế gian chỉ có một người, có phải là hơn không?” Nàng thở dài, một mình đi về phòng.

Dương Quá chờ Quách Phù đi xa, cười hỏi:

– Nếu cô cô là nàng ta, cô cô sẽ lấy ai?

Tiểu Long Nữ nghiêng đầu nghĩ một lát, nói:

– Lấy chàng.

Dương Quá cười, nói:

– Không tính Quá nhi. Quách cô nương không thích Quá nhi chút nào. Quá nhi nói giả dụ cô cô là nàng ta, trong hai huynh đệ họ Võ, cô cô sẽ chọn lấy ai?

Tiểu Long Nữ “ừm” một tiếng, thầm so sánh huynh đệ họ Võ, cuối cùng lại nói:

– Thiếp vẫn chọn chàng.

Dương Quá cười sung sướng, lại cảm kích, vòng tay ôm nàng vào lòng, âu yếm nói:

– Người ta tam tâm nhị ý, cô cô của Quá nhi chỉ yêu một mình Quá nhi thôi.

Hai người tựa vào nhau, sung sướng ngồi đó cho đến khi trời sáng. Phương đông đã rạng, hai người vẫn chưa muốn rời nhau. Bỗng thấy một gia đinh hớt hải chạy tới, bẩm rằng Quách gia mời Dương đại gia vào sảnh đường có yếu sự cần thương lượng.

Dương Quá thấy thần tình của bộc nhân ấy, biết là có việc khẩn cấp, bèn từ biệt Tiểu Long Nữ, theo bộc nhân đi vào nội đường. Bộc nhân nói:

– Tiểu nhân chạy tìm khắp nơi, hóa ra Dương gia thưởng hoa trong hoa viên.

Dương Quá hỏi:

– Quách đại gia đợi ta lâu rồi phải không?

Bộc nhân thấp giọng nói:

– Hai vị Võ thiếu gia tự dưng không biết đi đâu, Quách đại gia và Quách phu nhân đều rất lo lắng, Quách cô nương thì đã khóc mấy lần rồi!

Dương Quá chợt hiểu nguyên do: “Huynh đệ họ Võ giành nhau lấy sư muội, đều muốn lập kỳ công, chắc là đã ra khỏi thành để đi hành thích Hốt Tất Liệt”. Vào tới nơi, chỉ thấy Hoàng Dung mặc bộ quần áo rộng, ngồi một bên, dung sắc tiều tụy, Quách Tĩnh thì cứ đi đi lại lại, Quách Phù hai mắt đỏ hoe, chực khóc. Có hai thanh kiếm đặt trên bàn.

Quách Tĩnh vừa thấy Dương Quá, liền nói:

– Quá nhi, ngươi có biết huynh đệ họ Võ sang doanh trại quân địch làm gì hay không?

Dương Quá nhìn Quách Phù một cái, nói:

– Hai vị Võ huynh sang doanh trại quân địch ư?

Quách Tĩnh nói:

– Đúng vậy. Bọn trẻ các ngươi có chuyện gì đều nói với nhau, ngươi có đoán được chúng sang doanh trại quân địch làm gì hay không?

Dương Quá nói:

– Điệt nhi không hề lưu tâm. Hai vị Võ huynh cũng không nói gì với điệt nhi cả. Chắc là thấy khó giải vây cho thành Tương Dương, hai vị Võ huynh nôn nóng, định sang doanh trại quân địch giết đại tướng Mông Cổ, nếu thành công thì lập kỳ công.

Quách Tĩnh thở dài, chỉ hai thanh kiếm trên bàn, nói:

– Có lẽ thế, nhưng chúng thật không biết lượng sức mình, vũ khí đều bị người ta tước mất và gửi trả về nhà.

Chuyện này bất ngờ với Dương Quá, chàng đoán chắc rằng huynh đệ họ Võ sẽ thất bại. Trí tuệ và võ công của hai người ấy, làm sao đương đầu nổi với bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây kia chứ? Không ngờ chỉ trong vòng mấy canh giờ, binh khí của hai người cũng đã bị gửi trả lại. Quách Tĩnh cầm một phong thư bị hai thanh kiếm đè lên, đưa cho Dương Quá, nhìn Hoàng Dung một cái, hai người cùng lắc đầu. Dương Quá mở thư ra xem, thấy viết:

“Đệ nhất hộ quốc pháp sư đại Mông Cổ Kim Luân pháp vương kính gửi Quách đại hiệp trong thành Tương Dương. Đêm qua, tình cờ gặp hiền đồ của Quách đại hiệp là huynh đệ họ Võ, tục ngữ có câu “Danh môn tất xuất cao đệ”. Lão nạp ngưỡng mộ phong thái Quách đại hiệp từ lâu, những mong có dịp hội kiến. Bữa trước tại anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng, chúng ta gặp nhau ngắn ngủi, chưa kịp đàm luận sâu xa, nay viết thư này kính mời Quách đại hiệp đại giá, tới quân doanh uống vài ly rượu, chỉ giáo cho đôi điều, thật là vinh hạnh. Tôn giá tới nơi, nhị vị hiền đồ sẽ lập tức bình an trở về”.

Lời lẽ trong thư khiêm nhường, tựa hồ chỉ mời Quách Tĩnh sang trò chuyện, nhưng ý tứ rõ ràng là bắt huynh đệ họ Võ làm con tin, Quách Tĩnh phải sang đón mới thả về. Quách Tĩnh đợi Dương Quá xem xong thư, hỏi:

Thế nào?

Dương Quá nghĩ bụng: “Quách bá mẫu mưu trí hơn ta nhiều lần, ta có diệu kế, lẽ nào bà ta không biết? Bà ta gọi ta tới bàn, dụng ý duy nhất là muốn ta và cô cô cùng đi với Quách bá bá sang doanh trại quân địch. Quách bá bá sang doanh trại quân địch, bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử hợp lực có thể đánh bại, nhưng không dễ bắt giết được Quách bá bá. Có ta và cô cô cùng đi, Quách bá bá ắt có cách thoát thân”. Lại nghĩ: “Nhưng nếu ta và cô cô đột nhiên trở giáo, một là xuất kỳ bất ý, hai là ưu thế đôi bên quá chênh lệch, bấy giờ lấy mạng Quách Tĩnh dễ như trở bàn tay. Ta không nỡ đích thân ra tay, mượn tay bọn Kim Luân pháp vương lấy mạng Quách Tĩnh, há chẳng hay lắm sao?” Bèn mỉm cười, nói:

– Quách bá bá, Quá nhi cùng sư phụ đi theo bá bá thì được. Quách bá mẫu đã thấy Quá nhi cùng sư phụ liên kiếm đánh bại Kim Luân pháp vương, ba người cùng đi, kẻ địch muốn bắt ở lại cũng không nổi.

Quách Tĩnh cả mừng, cười, nói:

– Ngươi thông minh lanh lợi, ngoài Quách bá mẫu ngươi ra, không ai theo kịp ngươi. Ý của Quách bá mẫu ngươi cũng đúng như vậy.

Dương Quá nghĩ: “Hoàng Dung ơi Hoàng Dung! Người thông minh nhất đời, hôm nay cũng bị mắc mưu ta rồi”, chàng nói:

– Không nên chậm trễ, chúng ta nên đi ngay. Quá nhi và sư phụ sẽ đóng giả làm hai kẻ theo hầu Quách bá bá, để tôn thêm khí phách anh hùng đơn đao phó hội cho Quách bá bá.

Quách Tĩnh nói:

– Tốt lắm!

Quay sang Hoàng Dung, nói:

– Dung nhi, nàng đừng lo, có Quá nhi và Long cô nương đi cùng, dù xông vào đầm rồng hang hổ, ba chúng ta cũng sẽ bình an trở về.

Vừa sửa áo, vừa nói:

– Cho mời Long cô nương.

Hoàng Dung lắc đầu, nói:

– Không, ý của muội là chỉ cần một mình Quá nhi đi cùng Tĩnh ca ca. Long cô nương là một khuê nữ xinh tươi, chúng ta không nên để nàng ta phải đi vào chốn hung hiểm. Muội muốn Long cô nương ở lại với muội.

Dương Quá sững người, lập tức hiểu ý: “Quách bá mẫu quả nhiên có ý đề phòng mình. Bà ta giữ cô cô lại làm con tin, để mình không dám trở mặt. Nếu mình đòi cô cô đi cùng, chỉ càng tăng thêm sự nghi ngờ”, bèn lặng thinh không nói.

Quách Tĩnh thì nói:

– Long cô nương kiếm thuật tinh diệu, nếu đi cùng sẽ trợ giúp được rất nhiều.

Hoàng Dung nói:

– Phá Lỗ, Tương nhi của ca ca sắp chào đời, có Long cô nương ở bên cạnh, muội mới có thể yên lòng.

Quách Tĩnh vội nói:

– Phải, phải đấy. Ta thật hồ đồ. Quá nhi, hai ta đi thôi.

Dương Quá nói:

– Để Quá nhi nói với cô cô một tiếng.

Hoàng Dung nói:

– Ta chuyển lời với nàng ta thì được rồi. Hai người sang doanh trại địch, nếu nửa ngày chưa thấy về, ắt là có chuyện lớn.

Dương Quá biết rằng đấu trí với Hoàng Dung thì chàng chỉ có thua, nhưng còn Quách Tĩnh chất phác thật thà, không phải là đối thủ của chàng, sau khi sang doanh trại quân Mông Cổ, chàng thừa sức đề phòng với Quách Tĩnh, sau đó trở về cứu Tiểu Long Nữ cũng chưa muộn, thế là liền theo Quách Tĩnh rời thành.

Quách Tĩnh cưỡi con ngựa quí màu huyết, Dương Quá thì cưỡi con ngựa gầy lông vàng, cước lực của cả hai con đều nhanh, chưa đầy nửa giờ đã tới đại doanh quân Mông Cổ.

Hốt Tất Liệt nghe báo Quách Tĩnh đã tới, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, vội cho mời vào trướng. Quách Tĩnh bước vào vương trướng, thấy một vương gia trẻ tuổi ngồi giữa, mặt vuông tai to, hai mắt lõm sâu, bất giác sững lại: “Người này giống phụ thân Đà Lôi của y như đúc”. Nghĩ đến hồi trẻ có tình thâm nghĩa trọng với Đà Lôi, nay đã âm dương đôi ngả, Quách Tĩnh không khỏi thương cảm, chút nữa thì rơi nước mắt.

Hốt Tất Liệt đứng dậy nghênh đón, vái sát đất, nói:

– Tiên vương sinh thời vẫn thường nhắc đến Quách Tĩnh thúc thúc anh hùng đại nghĩa, tiểu điệt ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được thấy tôn nhan, thật là bình sinh như nguyện.

Quách Tĩnh vái đáp lễ, nói:

– Đà Lôi an đáp và ta tình hơn cốt nhục, hai mẹ con ta từ nhỏ đã được ơn mưa móc của Thành Cát Tư Hãn và sự trợ giúp của lệnh tôn. Lệnh tôn hồi trẻ rực rỡ như ánh dương, không may bất ngờ tạ thế, khiến ta nhớ đến lại đau lòng.

Hốt Tất Liệt thấy Quách Tĩnh lời lẽ chân thành thì rất xúc động, dẫn kiến bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây, rồi mời Quách Tĩnh ngồi trên.

Dương Quá đứng sau lưng Quách Tĩnh, giả bộ không quen biết mọi người. Bọn Kim Luân pháp vương không biết chàng đi cùng Quách Tĩnh sang đây với dụng ý gì, thấy chàng lờ mọi người đi, họ cũng không nói gì với chàng. Mã Quang Tá vừa mở miệng “Dương huynh…” chữ “đệ” chưa kịp thốt ra, thì Doãn Khắc Tây đã véo mạnh vào đùi y một cái, y kêu “Gì vậy?” Doãn Khắc Tây đã ngoảnh mặt làm ngơ. Mã Quang Tá không biết ai véo mình, làu bàu chửi, quên luôn việc chào hỏi Dương Quá.

Quách Tĩnh ngồi, sau khi uống một bát rượu sữa ngựa, chưa thấy huynh đệ họ Võ, đang định hỏi, thì Hốt Tất Liệt quay sang tả hữu phân phó:

– Mau mời hai vị Võ gia.

Vệ sĩ tả hữu vâng lệnh bước ra, dẫn vào Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn. Chân tay hai người bị trói bằng dây gân bò, bước đi rất khó khăn, chỉ có thể nhích dần từng chút một. Huynh đệ họ Võ thấy sư phụ thì hổ thẹn, cùng thốt lên:

– Sư phụ!

Và cúi gằm, không dám ngẩng mặt lên.

Huynh đệ họ Võ tham công mạo hiểm, tự tiện rời thành, gây náo loạn, Quách Tĩnh vốn mười phần giận dữ, nhưng thấy cả hai quần áo xộc xệch, người có vết máu, rõ ràng trải qua một phen ác chiến mới thất thủ bị bắt, lại đang bị trói chặt, không khỏi chuyển giận thành thương, nghĩ cả hai tuy sai phạm, nhưng cũng là vì nước vì dân, bèn ôn tồn nói:

– Nhân sĩ võ học, một đời thất bại vô số lần, cũng là chuyện thường.

Hốt Tất Liệt giả bộ trách mắng tả hữu:

– Ta bảo các người hãy khoản đãi tử tế hai vị Võ gia, sao lại vô lễ với họ như thế? Mau mau cởi trói.

Tả hữu vâng lệnh cởi trói cho hai người, nhưng sợi gân bò sau khi thít quá chặt, đã ăn sâu vào da thịt, nhất thời không cởi được ngay. Quách Tĩnh bước tới, cầm hai đầu sợi dây gân bò buộc trước ngực Võ Đôn Nhu, kéo nhẹ ra hai phía, “phựt” một tiếng, sợi dây đứt liền, tiếp đó lại giật đứt sợi dây trói Võ Tu Văn. Công phu ấy trông tựa hồ nhẹ nhàng, không có gì đáng nói, kỳ thực phải có nội công thâm hậu mới làm nổi.

Bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây nhìn nhau, thầm tán thưởng võ công của Quách Tĩnh. Hốt Tất Liệt nói:

– Mau bưng rượu ra tạ tội với hai vị Võ gia.

Quách Tĩnh thầm nghĩ, chuyến sang đây hôm nay chắc chắn không êm thấm, thể nào cũng xảy ra ác chiến, huynh đệ họ Võ nếu không về cho sớm, mình sẽ phải phân tâm chiếu cố, bèn chắp tay vái tứ phía, nói:

– Tiểu đồ mạo muội vô trạng, được vương gia cùng các vị giáo huấn, huynh đệ xin cảm tạ.

Rồi quay sang nói với huynh đệ họ Võ:

– Các ngươi về trước bẩm cáo sư mẫu, bảo ta hội kiến với con trai của cố nhân, xong xuôi sẽ về ngay.

Võ Tu Văn nói:

– Sư phụ, sư phụ…

Đêm qua y hành thích không thành, bị Tiêu Tương Tử bắt giữ, biết trong doanh trại quân địch quả nhiên cao thủ như ruồi, không khỏi lo cho sự an nguy của sư phụ. Quách Tĩnh phẩy tay, nói:

– Mau về đi! Các ngươi bẩm cáo với An phủ sứ, rằng hãy nghiêm thủ cổng thành, bất kể có biến cố gì cũng không được mở cổng thành, đề phòng quân địch tập kích.

Mấy câu này được nói ra sang sảng thần uy, cốt để bọn Hốt Tất Liệt biết rằng dù mình có gặp chuyện bất trắc, thành Tương Dương cũng quyết không đầu hàng.

Huynh đệ họ Võ thấy sư phụ thân chinh mạo hiểm cứu mình thì vừa cảm kích, vừa hối hận, không dám đa ngôn, bái biệt sư phụ trở về thành.

Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Hai vị hiền đồ sang đây hành thích tiểu diệt, chắc Quách thúc phụ không biết.

Quách Tĩnh gật đầu, nói:

– Ta không hề biết trước việc đó. Hai đứa trẻ không biết trời cao đất dày, sang đây làm loạn.

Hốt Tất Liệt nói:

– Phải rồi, thiết tưởng tiểu diệt với Quách thúc phụ tương giao ba đời, Quách thúc phụ nể tình cố nhân, tất không làm vậy.

Quách Tĩnh nghiêm nghị nói:

– Điều đó chưa hẳn, đứng trước công nghĩa, phải coi nhẹ tư giao. Năm nào Đà Lôi cầm quân công phá thành Tương Dương, ta từng có ý hành thích nghĩa huynh, để đánh lui quân địch, song bấy giờ gặp lúc Thành Cát Tư Hãn lâm trọng bệnh, Mông Cổ lui quân, nên nghĩa kim lan của ta mới vẹn toàn. Cổ nhân đại nghĩa diệt thân, thân nhân còn có thể trừ diệt, huống hồ bằng hữu?

Mấy câu nói thẳng thừng, bọn Kim Luân pháp vương, Doãn Khắc Tây nhìn nhau biến sắc. Dương Quá nghĩ bụng: “Phải rồi, đâm chém nghĩa huynh nghĩa đệ vốn là trò đùa của Quách Tĩnh. Không biết phụ thân ta năm xưa có sai phạm gì đến nỗi bị hắn hạ độc thủ? Quách Tĩnh ơi là Quách Tĩnh, không lẽ trong đời ngươi chưa từng sai phạm điều gì hay sao?” Nghĩ đến đây, lòng oán hận lại trỗi dậy.

Hốt Tất Liệt thản nhiên, ngậm cười, nói:

– Đã vậy sao Quách thúc phụ còn bảo hai vị hiền đồ làm loạn?

Quách Tĩnh nói:

– Hai đứa hắn học nghệ chưa thành, không tự lượng sức, đòi sang hành thích, làm sao thành công? Hai đứa hắn bị bắt là chuyện nhỏ, để cho ngươi tăng cường đề phòng, người sau muốn sang hành thích thật không dễ chút nào, đó là chuyện lớn.

Hất Tất Liệt cười ha hả, nghĩ: “Từ lâu nghe Quách Tĩnh trung hậu chất phác, nói năng vụng về, nào ngờ miệng lưỡi của y cũng quá ư sắc sảo”. Kỳ thực Quách Tĩnh trong bụng nghĩ gì thì nói ra như vậy, chỉ vì ý nghĩ trong bụng thông đạt, cho nên lời lẽ mới lợi hại.

Bọn Kim Luân pháp vương thấy Quách Tĩnh một mình tay không, dám sang đứng giữa thiên binh vạn mã của Mông Cổ mà không run sợ, khí phách như thế bọn họ không thể bì kịp, đều thầm khâm phục.

Hốt Tất Liệt thấy Quách Tĩnh hiên ngang, cũng không khỏi hỉ ái, nghĩ thầm nếu chiêu nạp được người này thì hơn là lấy mười tòa thành Tương Dương, nói:

– Quách thúc phụ, Triệu Tống vô đạo, vua hôn mê, dân khốn khổ, gian nịnh đương triều, trung thần hàm oan, tiểu điệt nói không sai chứ?

Quách Tĩnh nói:

– Không sai, hoàng đế Lý Tông là hôn quân vô đạo, tể tướng Giả Tự Đạo là một tên đại gian thần.

Mọi người nghe vậy đều ngẩn ra, hoàn toàn không ngờ Quách Tĩnh lại thẳng thắn chỉ trích quân thần triều Tống như thế.

Hốt Tất Liệt nói:

– Đúng, Quách thúc phụ là đại anh hùng hảo hán đời nay, tội gì phải bán mạng cho bọn hôn quân gian thần?

Quách Tĩnh đứng dậy, sang sảng nói:

– Quách mỗ này há để cho bọn hôn quân gian thần lợi dụng? Chỉ vì căm hận quân Mông Cổ tàn bạo, xâm lăng cương thổ nước ta, giết hại đồng bào ta, nên Quách mỗ ta đêm bầu nhiệt huyết của mình hiến cho ngàn vạn bách tính Thần Châu.

Hốt Tất Liệt vỗ tay xuống mặt bàn, nói:

– Nói rất hay, mọi người xin kính Quách thúc phụ một bát rượu.

Đoạn nâng bát rượu sữa ngựa lên uống cạn một hơi. Bọn tùy tùng thầm nóng ruột, chỉ sợ Hốt Tất Liệt nghĩ đến giao tình đời trước, lại xúc động trước lời lẽ của Quách Tĩnh mà để cho Quách Tĩnh về thành, sau muốn bắt lại cực khó, nhưng thấy Hốt Tất Liệt nâng bát rượu, thì cả bọn cũng đành phải uống theo mỗi người một bát. Vệ sĩ lại rót rượu vào đầy bát của mọi người.

Hốt Tất Liệt nói:

– Quí bang có một vị lão phu tử từng nói: “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.” (Dân là quí, rồi đến xã tắc, vua là nhẹ). Câu đó thật chí lý. Chỉ người có đức ở cao trên hết, mới lấy được thiên hạ. Đại Mông Cổ ta triều chính thanh bình, bách tính an cư lạc nghiệp, các đắc kỳ sở (ai muốn gì được nấy). Đại hãn Mông Cổ không nỡ nhìn con dân nam triều bị hãm trong vòng thống khổ, không có người cứu giải, nên mới điếu dân phạt tội (cứu dân, trừ bạo ngược), cử quân nam chinh, không ngại vất vả. Tâm ý đó không khác gì Quách thúc phụ, có thể nói là anh hùng sở kiến lược đồng. Nào chúng ta hãy cạn thêm một bát rượu nữa.

Bọn Kim Luân pháp vương nâng bát rượu lên môi. Quách Tĩnh hất mạnh ống tay áo, kình phong quạt đi, các bát rượu trên tay mọi người đều rơi xuống vỡ tan.

Quách Tĩnh quát to:

– Im đi! Quân Mông Cổ các ngươi từ khi xâm Tống đã giết hại dân chúng, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Trăm họ Đại Tống gia phá nhân vong, bao nhiêu người đã bỏ mạng bởi đao tiễn quân Mông Cổ, làm gì có chuyện điếu dân phạt tội?

Một cái hất mạnh ống tay áo, tuy bất ngờ, song bọn Kim Luân pháp vương thân mang tuyệt nghệ, vậy mà các bát rượu trên tay vẫn bị đánh rơi, họ đều cảm thấy mất mặt, cùng đứng bật dậy, chỉ chờ Hốt Tất Liệt phát tác là sẽ lập tức động thủ.

Nào ngờ Hốt Tất Liệt ngẩng mặt cười một tràng, nói:

– Quách thúc phụ anh hùng vô địch, binh tướng Mông Cổ ai nhắc đến cũng đều kính phục, hôm nay chính mắt chứng kiến, quả nhiên danh bất hư truyền. Tiểu vương bất tài, không dám làm tổn thương tình nghĩa của tiên phụ, bữa nay chỉ nói chuyện vui, không đàm luận quốc sự được chăng?

Quách Tĩnh chắp tay, nói:

– Đà Lôi có người con rộng lượng, chư vương Mông Cổ không ai sánh kịp, sau này tất sẽ gánh vác trọng nhiệm quốc gia. Ta có lời này thành thật khuyến cáo, không biết có muốn nghe hay chăng?

Hốt Tất Liệt nói:

– Xin lắng nghe lời giáo huấn của Quách thúc phụ.

Quách Tĩnh xoa tay, nói:

– Nam triều ta đất rộng người đông, coi trọng khí tiết. Nhân tài đâu đâu cũng có, từ cổ đến nay, không hề khuất phục dị tộc. Mông Cổ tuy nhất thời nhanh chóng mở rộng cương giới, nhưng sau này nhất định sẽ bị đuổi về vùng sa mạc phương bắc, bấy giờ nguyên khí bị tổn thất nặng nề, hối hận không kịp, mong vương gia suy nghĩ cho kỹ.

Hốt Tất Liệt cười, nói:

– Đa tạ minh giáo.

Quách Tĩnh nghe câu đáp giả dối, liền nói:

– Vậy thì từ biệt, có ngày gặp lại.

Hốt Tất Liệt ôm quyền, nói:

– Tiễn khách!

Bọn Kim Luân pháp vương nhìn nhau kinh ngạc, rồi cùng nhìn Hốt Tất Liệt, nghĩ: “Dễ gì cá chui vào lưới, há có thể thả hổ về rừng?” Nhưng Hốt Tất Liệt đã khách sáo tiễn khách ra khỏi vương trướng, bọn họ cũng không tiện động thủ.

Quách Tĩnh bước ra khỏi trướng, nghĩ: “Hốt Tất Liệt cử chỉ bất phàm, quả là kình địch”, nháy mắt với Dương Quá, rảo bước đến chỗ buộc ngựa. Bỗng nhiên từ bên hông xông ra tám gã đại hán Mông Cổ, gã đi đầu nói:

– Ngươi là Quách Tĩnh phải không? Ở bên thành Tương Dương ngươi đã sát hại bao nhiêu huynh đệ của ta, hôm nay còn tới quân doanh Mông Cổ bọn ta huy võ dương oai. Vương gia thả cho ngươi đi, chứ bọn ta thì không.

Hắn thét một tiếng, tám gã đại hán cùng ùa tới, dùng thủ pháp đánh vật Mông Cổ, mười sáu cánh tay túm lấy Quách Tĩnh.

Thuật đánh vật của người Mông Cổ vốn vô địch thiên hạ, tám gã đại hán này lại là đệ nhất hảo thủ trong quân Mông Cổ, Hốt Tất Liệt cho mai phục bên ngoài trướng để bắt sống Quách Tĩnh. Nhưng Quách Tĩnh từ nhỏ lớn lên trên đất Mông Cổ, cười ngựa bắn cung đánh vật thành thạo từ nhỏ, thấy tám người ùa tới bèn múa hai tay, chân phải móc khèo, lập tức bốn gã đại hán bị Quách Tĩnh lẳng ra hơn một trượng, bốn gã còn lại thì ngã cả xuống đất. Quách Tĩnh sử dụng chính là thuật đánh vật chính tông của người Mông Cổ chẳng qua có căn cơ võ công, kình lực chân tay mạnh mẽ dị thường, thử hỏi tám gã đại hán làm sao địch nổi? Phía ngoài vương trướng của Hất Tất Liệt có một đội thân binh ngàn tên, người người đều giỏi thuật đánh vật, nhìn thủ pháp lợi hại của Quách Tĩnh đánh ngã cùng lúc tám hảo thủ trong quân, thần kỹ chưa từng thấy, thì không hẹn cùng đồng thanh reo hò.

Quách Tĩnh ôm quyền lắc lắc, cầm mũ xoay một vòng tung lên trời, đó là nghi thức đáp tạ người xem khi đô vật thắng trận, quan binh lại hoan hô như sấm. Tám gã đại hán lồm cồm bò dậy, sững sờ nhìn Quách Tĩnh, chưa biết nên xông vào hay là rút lui.

Quách Tĩnh bảo Dương Quá:

– Đi thôi!

Chỉ nghe tiếng tù và nổi lên dồn dập, đội quân ngàn tên chạy qua chạy lại, thì ra Hốt Tất Liệt điều động binh mã vây chặt Quách Tĩnh và Dương Quá thành nhiều lớp. Quách Tĩnh thầm kinh ngạc, nghĩ: “Hai người dẫu có bản lĩnh thông thiên, làm sao thoát được trùng vây quân mã? Không ngờ để đối phó với một mình ta, Hốt Tất Liệt lại “hưng sư động chúng” (điều động quá nhiều binh mã). Lo Dương Quá khiếp sợ, Quách Tĩnh giữvẻ mặt thản nhiên như không, nói:

– Hai ta có khoái mã, chỉ cần xông lên, đoạt lấy hai tấm khiên, đề phòng quân địch bắn ngựa.

Rồi ghé tai nói nhỏ:

– Đầu tiên chạy về hướng nam, sau đó ngoặt lên phía bắc.

Dương Quá ngẩn người: “Thành Tương Dương ở mạn nam, tại sao lại chạy về phía bắc? À phải, binh mã của Hốt Tất Liệt tập trung ở mạn nam, đề phòng hai người chạy về thành Tương Dương, nên mạn bắc tất nhiên bỏ trống. Đầu tiên chạy về hướng nam, sau đó ngoặt lên phía bắc, làm cho quân địch bất ngờ, trở tay không kịp, như thế mới thừa cơ vượt được vòng vây. Mình phải ngăn Quách Tĩnh lại bằng cách nào đây?”

Dương Quá đang nghĩ, thấy từ trong vương trướng của Hốt Tất Liệt có mấy bóng người lao ra chặn hậu, tiếp đến tiếng loong coong rền rĩ, đồng luân và thiết luân đã bay về phía hai con ngựa, chính là Kim Luân pháp vương ra tay ngăn chặn hai người thoát thân. Quách Tĩnh thấy thế bay của song luân quá cương mãnh, không dám giơ tay bắt, vội cúi đầu, hai tay ấn cổ hai con ngựa, hai con ngựa quì chân trước xuống, song luân vừa vặn bay qua đầu ngựa, lượn một vòng trong không trung, trở về tay Kim Luân pháp vương. Trong giây lát ấy Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây đã chạy tới trước mặt hai người. Kim Luân pháp vương và Tiêu Tương Tử cũng lao tới, bốn kẻ vây tròn lấy hai người.

Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử đều là đệ nhất cao thủ, khi động thủ với người quyết không ỷ đông thủ thắng, nhưng Quách Tĩnh võ công quá mạnh, mỗi người kia đều muốn được phong danh hiệu “Đệ Nhất dũng sĩ Mông Cổ” chỉ sợ kẻ bên cạnh đoạt trước, chỉ thấy bạch quang, hoàng quang loang loáng, bốn người đều đã cầm binh khí trong tay. Kim Luân pháp vương cầm kim luân, Doãn Khắc Tây cầm ngọn nhuyễn tiên đính vàng ngọc, Tiêu Tương Tử cầm cây can bổng giống như cây gậy đưa đám, binh khí của Ni Ma Tinh cổ quái nhất, là một cây linh xà đoản tiên (roi ngắn), cứ thò thò thụt thụt trong tay hắn như lưỡi con rắn.

Quách Tĩnh nhìn dáng chạy và thủ pháp rút binh khí, thấy trong bốn người ấy, Doãn Khắc Tây tựa hồ võ công kém hơn, liền vung song chưởng đánh trước mặt Tiêu Tương Tử. Tiêu Tương Tử chọc cây can bổng vào lòng bàn tay Quách Tĩnh. Quách Tĩnh thấy đầu cây can bổng bịt sắt màu trắng, buộc một sợi dây màu trắng, giống như cây gậy mà người con trai chống khi đưa tang, đoán người này võ công cao thâm, binh khí sử dụng cổ quái, tất có chỗ đặc dị, tay phải bèn chuyển hướng, dùng chiêu “Thần long bãi vĩ” chộp lấy cái kim tiên của Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây đang định ra đòn, thì đầu cái kim tiên đã nằm trong tay đối phương, bèn thuận theo đà kéo của đối phương mà lao cả thân mình tới bên Quách Tĩnh, tay trái đã loang loáng một mũi chuỷ thủ. Chiêu này lấy công làm thủ, là một tuyệt chiêu trong mười tám tiểu cầm nã thủ.

Quách Tĩnh thốt lên “Hảo!” hai tay cùng thi triển cầm nã thủ, tay phải vẫn nắm cái kim tiên không buông, tay trái thì đoạt chuỷ thủ. Lúc này tay phải đoạt binh khí trong tay phải của đối phương, tay trái đoạt binh khí trong tay trái đối phương, hai tay đã thành cái thế bắt chéo nhau. Mũi chuỷ thủ của Doãn Khắc Tây đâm tới, kẻ địch không thể không buông cái kim tiên để tránh mũi dao, ai ngờ kẻ địch đoạt luôn cả chuỷ thủ.

Lúc ấy kim luân của Pháp vương và cây can bổng của Tiêu Tương Tử đồng thời đánh tới. Quách Tĩnh giật cái kim tiên không được, quát to một tiếng, một luồng canh khí từ cái kim tiên truyền sang. Ngực Doãn Khắc Tây như bị giáng một nhát búa, mắt nổ đom đóm, miệng hộc ra một ngụm máu tươi. Quách Tĩnh đã buông cái kim tiên, đưa tay về chống đỡ. Doãn Khắc Tây tự biết mình bị thương không nhẹ, chậm rãi lùi ra xa, ngồi xuống đất vận khí đan điền, không để thổ huyết thêm.

Bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh thấy Quách Tĩnh vừa vào trận đã đả thương Doãn Khắc Tây, đều vừa mừng vừa lo, mừng vì bớt được một kẻ tranh giành danh hiệu “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ”, lo vì Quách Tĩnh lợi hại như thế, e rằng mình cũng bị hạ thủ. Thế là ba người không dám mạo hiểm tấn công, thủ giữ môn hộ thật nghiêm.

Quách Tĩnh kiến chiêu chiết chiêu, quan sát kỹ binh khí đặc dị của Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh. Cây can bổng rõ ràng được rèn bằng thép tinh, nhưng ngoài sức nặng và vẻ chắc chắn, nhất thời chưa biết còn có gì lạ hay không. Binh khí hình rắn của Ni Ma Tinh thì hết sức cổ quái, y như một con rắn độc, thân rắn uốn lượn mềm mại, đính theo vô số viên bi nhỏ bằng sắt, đầu rắn đuôi rắn đều nhọn hoắt. Lợi hại nhất là khi thân rắn uốn lượn, thì không thể đoán biết đầu rắn đuôi rắn chọc về hướng nào, chỉ thấy ngọn thiết xà đoản tiên trong tay Ni Ma Tinh chợt bay vọt lên, chợt bò ngoằn ngoèo bên dưới, biến ảo đa đoan, linh động vạn trạng. Quách Tĩnh hồi xưa từng thấy chiêu số cây xà trượng của Âu Dương Phong, quái xà trên đầu cây trượng là rắn thật, mà là rắn cực độc, còn binh khí hình rắn của Ni Ma Tinh dù lợi hại, nhưng là vật vô tri, xuất chiêu thu chiêu nhất định phải có qui củ khả tầm, nên chỉ có Kim Luân pháp vương là đáng gờm nhất.

Bốn người trao đổi mấy chiêu, bỗng nghe một người gầm lên như hổ, hùng dũng bước tới, sừng sững như một con trâu mộng, chính là Mã Quang Tá. Y cầm một cây côn bằng đồng vừa thô vừa dài, từ phía sau lưng Ni Ma Tinh bổ xuống đầu Quách Tĩnh. Bốn vị cao thủ đang giao đấu hăng say, ai nấy nghiêm thủ môn hộ, tuyệt không có sơ hở nào. Chưởng phong của Quách Tĩnh, kim luân của Pháp vương, cây can bổng của Tiêu Tương Tử, cây thiết xà của Ni Ma Tinh đan nhau qua lại, thành một lưới lực. Cây côn của Mã Quang Tá giáng xuống, chạm vào lưới lực của bốn đại cao thủ kia, tuy vô thanh vô tức, song cây côn bị hất ngược lên. Mã Quang Tá cảm thấv không ổn, quát to một tiếng, dồn lực ra hai cánh tay, ghìm cây côn giữa không trung, chỉ như thế mà máu tươi đã chảy thành dòng ở hai hổ khẩu. Y kêu to:

– Tà môn, tà môn!

Rồi vận kình, lại đánh mạnh xuống.

Kim Luân pháp vương đối diện với Mã Quang Tá, biết đòn này giáng xuống, Mã Quang Tá sẽ khốn khổ, lão ta chỉ nhếch mép cười. Dương Quá nhìn rõ, biết Mã Quang Tá khỏe như vâm, song võ công chưa bằng một thành của Quách Tĩnh, y xuất thủ cương mãnh thế kia, nếu Quách Tĩnh sử dụng “Hàng long thập bát chưởng” chính diện đối địch, thì Mã Quang Tá còn gì mạng sống? Dù Quách Tĩnh không hạ độc thủ, song đụng phải binh khí của Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh, thì Mã Quang Tá thể nào cũng thụ thương, Dương Quá cảm mến gã hộ pháp chất phác, ngốc nghếch, từng mấy lần bênh vực chàng, thấy cây côn của y giáng xuống tất bị họa, bèn gọi to:

– Mã Quang Tá, tiếp chiêu!

Chàng đâm một nhát kiếm tới sau lưng Mã Quang Tá. Mã Quang Tá ngẩn ra, cây côn sững lại giữa không trung, ngạc nhiên nói:

– Dương huynh đệ, sao huynh đệ lại động thủ với ta?

Dương Quá nói:

– Đại ca ngốc lắm, vẫn chưa hiểu hay sao? Mau lùi ra xa nào!

Trường kiếm rung động, chàng đâm liền mấy nhát, khiến Mã Quang Tá chân tay luống cuống, liên tiếp thoái lui. Mã Quang Tá chân dài và to, mỗi bước rộng bằng hai bước của người thường, lùi hơn mười bước, đã cách xa hẳn chỗ Quách Tĩnh. Mã Quang Tá thấy kiếm quang cứ loang loáng trước mặt, phải toàn lực chống đỡ cũng không còn thời gian để nghĩ xem vì sao Dương Quá đột nhiên lại công kích y.

Dương Quá chờ Mã Quang Tá lùi thêm vài bước nửa, mới chĩa mũi kiếm xuống đất, nói nhỏ:

– Mã đại ca, đệ vừa cứu mạng đại ca đó, đại ca có biết hay không?

Mã Quang Tá nói to:

– Cái gì?

Dương Quá nói nhỏ:

– Đại ca nói khẽ thôi, đừng để bọn họ nghe thấy.

Mã Quang Tá trợn mắt, hỏi:

– Vì sao? Ta không sợ Quách Tĩnh.

Lời y vang to, đối với y, đó chỉ là giọng nói bình thường nhưng người nghe tưởng chừng y quát lên vậy. Dương Quá nói:

– Được rồi, đại ca đừng nói nữa, hãy nghe đệ nói đây.

Mã Quang Tá gật gật đầu. Dương Quá nói:

– Quách Tĩnh biết sử dụng yêu pháp, chỉ cần miệng niệm thần chú, là có thể lấy đầu kẻ khác, đại ca tránh xa ra thì hơn.

Mã Quang Tá trợn tròn hai mắt, bán tín bán nghi.

Dương Quá có ý cứu mạng Mã Quang Tá, nghĩ bụng nếu bảo Quách Tĩnh võ công cao cường, thì Mã Quang Tá sẽ không chịu thua, song nếu bảo Quách Tĩnh biết yêu pháp, quá nửa là Mã Quang Tá sẽ tin, lại nói:

– Đại ca giáng một côn xuống đầu hắn, côn chưa chạm vào đầu đã bật ngược lên, chẳng cổ quái lắm sao? Gã người Hồ buôn châu báu võ công rất lợi hại, vì sao vừa xuất thủ đã bị hắn đả thương?

Mã Quang Tá đã tin bảy, tám phần, lại gật gật đầu, nhìn về phía Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử.

Dương Quá đoán y đang nghĩ gì, nói:

– Lão hòa thượng vẽ bùa, trao bùa cho Tiêu Tương Tử và gã lùn, có bùa thì không sợ yêu pháp. Lão ta có cho đại ca lá bùa nào hay không?

Mã Quang Tá đáp:

– Không hề.

Dương Quá nói:

– Thấy chưa, lão trọc khốn kiếp không đáng là bằng hữu, lão ta cũng không cho đệ, trở về chúng ta sẽ tính sổ với lão ta.

Mã Quang Tá nói:

– Đúng thế, vậy chúng ta phải làm sao?

Dương Quá nói:

– Hai ta tụ thủ bàng quan, tránh càng xa bọn họ càng tốt.

Mã Quang Tá nói:

– Dương huynh đệ là người tốt, đa tạ huynh đệ nói cho ta biết.

Đoạn chống cây côn, từ xa quan sát nhóm Quách Tĩnh bốn người giao đấu.

Quách Tĩnh lúc này thi triển tuyệt học võ lâm “Hàng long thập bát chưởng”. Ba người kia vây chặt xung quanh, nghĩ rằng Quách Tĩnh nội lực thâm hậu đến mấy, cũng không thể cầm cự lâu dài. Họ không biết ngót hai chục năm nay Quách Tĩnh chăm luyện “Cửu Âm chân kinh”, ban đầu chân lực không hiển lộ, sau vài chục chiêu, kình lực của “Hàng long thập bát chưởng” chợt mạnh chợt yếu, chợt nhả chợt thu, đang chí cương lại sinh ra chí nhu, là thần công mà ngay cả Hồng Thất Công năm xưa cũng chưa lĩnh ngộ được. Quách Tĩnh dùng nó đương đầu với ba đại cao thủ, không những không núng thế, mà còn có thể nhắm chỗ sơ hở của đối phương mà phản kích, càng đấu càng thanh thoát tự nhiên.

Dương Quá đứng ngoài quan sát, thán phục vô cùng. Trong tòa cổ mộ, chàng từng luyện “Cửu Âm chân kinh” nhưng không có người chỉ dẫn, không biết chân kinh thần kỳ đến thế. Chàng bèn dùng công quyết chân kinh ấn chứng chưởng pháp của Quách Tĩnh, tức thì ngộ ra không ít quyền lý vô cùng ảo diệu, lòng thầm ghi nhớ, quên bẵng mối huyết hải thâm cừu và ý định đẩy Quách Tĩnh vào tử địa.

Võ công của Kim Luân pháp vương vốn ngang ngửa với Quách Tĩnh, Quách Tĩnh tuy có được không ít kỳ ngộ, song Kim Luân pháp vương lớn hơn hai mươi tuổi, cũng tức là có công lực nhiều hơn hai chục năm, hai người nếu đơn đả độc đấu, ngoài ngàn chiêu vẫn khó phân thắng bại. Lại thêm hai cao thủ Tiêu Tương Tử và Ma Tinh trợ lực, pháp vương thủ thắng vốn không khó, nhưng “Hàng long thập bát chưởng” của Quách Tĩnh quả thật uy lực quá mạnh, cộng với chưởng pháp có vận dụng “Thiên Cang Bắc Đẩu trận pháp” của phái Toàn Chân, một người mà như biến thành bảy, ngay từ đầu lại đả thương Doãn Khắc Tây, ba đối thủ trước lo giữ mình, không dám phóng tay công kích, nên tuy Quách Tĩnh lấy một địch ba, cũng vẫn ngang ngửa.

Lại đấu thêm mấy chục chiêu, kim luân của Pháp vương, đoản xà tiên của Ni Ma Tinh dần dần phát huy uy lực. Quách Tĩnh nghĩ: “Cứ đà này, cuối cùng mình sẽ không địch nổi. Quá nhi đấu với gã hộ pháp đằng kia, gã đó võ công tầm thường, mình phải nhanh chóng hội hợp với Quá nhi để tìm đường thoát thân”. Bốn người toàn lực quyết đấu, không để mắt, nên không biết rằng Dương Quá và Mã Quang Tá ở ngoài xa hơn mười trượng chỉ xem họ giao đấu.

Bỗng nghe một tiếng thét lạ, cây can bổng của Tiêu Tương Tử từ trên không bổ xuống. Quách Tĩnh nghiêng người né tránh, đột nhiên thấy trước mặt ám đen, từ đầu cây can bổng phun ra một luồng khói đen, mũi ngửi thấy mùi tanh lợm giọng, đầu óc hơi choáng váng. Quách Tĩnh biết là cây can bổng chứa chất độc, vội lùi lại. Tiêu Tương Tử thấy đối phương rõ ràng đã hít phải chất cực độc phả ra từ cây can bổng của hắn, mà lại không ngất đi, thì không khỏi kinh hãi, nghĩ: “Dẫu là mãnh thú như sư tử, hổ báo, hít phải “Độc sa thiềm thừ” của ta cũng ngất đi liền, đằng này hắn không sao, kỳ lạ thật”. Hắn lại xông tới, phóng “Độc sa thiềm thừ” một lần nữa.

Tại hoang sơn tỉnh Hồ Nam năm nào, Tiêu Tương Tử đang luyện công, từng nhìn thấy một con cóc từ trong cỗ quan tài thủng phun ra chất “Độc sa thiềm thừ” làm cho một con mãng xà lớn trúng độc quằn quại. Thế là Tiêu Tương Tử bắt cóc, lấy chất độc dịch, chế luyện thành “Độc sa thiềm thừ”, giấu vào trong lòng cây can bổng. Đuôi cây gậy có chốt, chỉ cần ấn ngón tay một cái, chất “Độc sa thiềm thừ” sẽ phun ra, từ trên phun xuống, uy lực càng mạnh. Hắn đã từng thử dùng mấy lần đối phó với mãnh thú, mãng xà, đều hiệu nghiệm tức thời. Không ngờ Quách Tĩnh nội lực thâm hậu, lại đủ sức kháng ngự chất kịch độc.

Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh tuy không ở phía chính diện, chỉ hít sơ sơ một chút khí “Độc sa thiềm thừ”, đã tức ngực nôn nao, vội chạy ra xa. Tiêu Tương Tử đã nhét giải dược vào trong mũi, xông qua lớp khói đen mà truy kích. Quách Tĩnh giáng một chưởng “Kiến long tại điền” vào đầu gối hắn. Tiêu Tương Tửđưa cây can bổng đỡ gạt, chưa kịp phóng độc đã bị chưởng lực đẩy văng ra xa năm thước.

Quách Tĩnh thấy cây thiết đoản xà của Ni Ma Tinh ở gần bèn sử chiêu “Tiềm long vật dụng” đánh ra. Ni Ma Tinh vội giơ cây thiết đoản xà gạt đi, tay phải hắn nắm đuôi rắn, tay trái cầm đầu rắn, giơ lên ngang ngực chống đỡ. Đâu ngờ lực của chưởng này không nhắm vào giữa ngực, tuy lòng bàn tay Quách Tĩnh đối diện với giữa ngực hắn, mà là tỏa ra xung quanh. Ni Ma Tinh giơ ngang ngực đỡ, không thấy gì, biết là nguy hiểm, thì mặt và bụng dưới đã cảm thấy chưởng lực, may nhờ thân hình lùn tịt, hành động mau lẹ, vội nhoài người xuống đất mà lăn mấy vòng ra ngoài như một trái cầu.

Quách Tĩnh thấy có thể thừa dịp, gọi to:

– Quá nhi, đi thôi!

Đoạn nhảy mấy bước ra chỗ trống. Kim Luân pháp vương thấy Quách Tĩnh thoát khỏi vòng vây, liền lao tới. Sau lưng Quách Tĩnh cách binh tướng Mông Cổ chỉ vài trượng, mười mấy cây giáo dài chĩa tua tủa về phía mình. Quách Tĩnh hai tay gạt giáo, chộp hai tên binh sĩ ném về phía Kim Luân pháp vương, nói:

– Đón lấy này!

Kim Luân pháp vương nếu giơ tay đón, tất Quách Tĩnh sẽ chạy xa hơn, lão ta bèn nghiêng người, dùng vai trái hất một cái, làm cho hai tên lính bay đi hơn một trượng, rồi lao theo Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh biết rằng chỉ cần đánh lại một chiêu, sẽ lập tức bị Kim Luân pháp vương bám riết, chỉ sau vài chiêu, Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử lại xông đến, lúc ấy thật khó bề thoát đi, bèn đoạt hai cây giáo dài mà đâm về phía sau. Quách Tĩnh chân không dừng bước, sau lưng lại như có con mắt thứ ba, một mũi giáo đâm vai phải, một mũi giáo đâm vào ngực Kim Luân pháp vương, kình lực rất mạnh. Kim Luân pháp vương vội lẳng kim luân ra, keng keng hai tiếng, hai mũi giáo cùng gãy, nhưng khi nhìn Quách Tĩnh thì thấy đã lẫn vào trong quân Mông Cổ.

Quân Mông Cổ phụng mệnh Hốt Tất Liệt, xếp thành nhiều lớp dày đặc bên ngoài vương trướng để bắt sống Quách Tĩnh, lúc này để Quách Tĩnh xông vào giữa trận, binh tướng bắt không nổi, giết chẳng xong, chỉ nghe gươm giáo va nhau, tiếng hô hoán vang động, chỉ cản trở bọn Kim Luân pháp vương ba người truy kích mà thôi.

Quách Tĩnh ẩn mình trong quân mã, giống như vào rừng dày, xem ra còn dễ thoát thân hơn ở chỗ trống trải. Sau vài cái nhún, Quách Tĩnh vọt tới trước ngựa một tên bách phu trưởng, kéo hắn xuống ngựa, vọt lên yên, xông xáo ngang dọc, đột nhiên vòng ra phía sau, phi ngựa thật nhanh, miệng huýt sáo. Con ngựa quí hãn huyết đứng đằng xa, nghe tiếng chủ gọi, phóng đến như bay.

Dương Quá ở xa nhìn con hãn huyết phóng qua trước mặt chàng về phía Quách Tĩnh, thầm kêu “Hỏng mất!” Chàng nghĩ chỉ cần Quách Tĩnh cưỡi trên lưng con ngựa quí hãn huyết, thì Hốt Tất Liệt có tập trung binh mã khắp thiên hạ, cũng không thể đuổi kịp. Trong lúc gấp gáp, chàng chợt kêu to:

– Ối, đau quá trời!

Rồi lảo đảo chực ngã, miệng nói nhỏ với Mã Quang Tá:

– Đừng nói gì cả, mau tránh ra, càng xa càng tốt!

Tiếng kêu đau vận khí từ đan điền, tuy trong đám quân tạp loạn, Quách Tĩnh ắt nghe thấy, tất sẽ đến cứu, nếu Mã Quang Tá đứng bên cạnh, không chừng sẽ bị quách Tĩnh cho một chưởng chết tươi. Mã Quang Tá rất chịu nghe lời Dương Quá, tuy chưa hiểu dụng ý của chàng, song vẫn chạy về phía vương trướng.

Quách Tĩnh nghe tiếng kêu của Dương Quá, quả nhiên nôn nóng, không đợi con hãn huyết chạy tới, đã lập tức quay đầu ngựa lại xông vào trận, phóng đến chỗ Dương Quá. Kim Luân pháp vương đã hiểu ý Dương Quá, để cho Quách Tĩnh lướt qua bên cạnh, không ngăn cản, rồi quay mình chặn đường rút của Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh phi ngựa đến trước mặt Dương Quá, gọi:

– Quá nhi, sao thế?

Dương Quá giả bộ lảo đảo, nói:

– Gã đại hán không phải địch thủ của tiểu điệt, nhưng chẳng hiểu vì sao tiểu điệt vừa vận chân lực, liền có luồng khí dội ngược, đan điền đau nhói như bị dao đâm.

Câu nói dối này không có điểm nào sơ hở, Mã Quang Tá võ công tầm thường, y vừa đánh một côn, Quách Tĩnh đã nhận biết, Dương Quá nếu bảo bị y đả thương, Quách Tĩnh sẽ sinh nghi, nhưng bảo là chàng vận khí bị dội ngược, thì nhìn bề ngoài không tài gì thấy được. Huống hồ đêm trước Quách Tĩnh đã tưởng lầm Dương Quá luyện công bị tẩu hỏa, vừa rồi kịch đấu, nội thương lại tái phát, cũng là chuyện thường.

Quách Tĩnh thấy chàng tay trái đặt ở bụng dưới, trán vã mô hôi, thương thế hẳn không nhẹ, vội nói:

– Mau ngồi sau lưng ta, ta đưa ngươi thoát đi.

Dương Quá giả bộ nói:

– Quách bá bá cứ thoát đi, tính mạng điệt nhi không đáng gì, Quách bá bá mới là rường cột của thành Tương Dương. Quân dân đều trông cậy vào một mình Quách bá bá.

Quách Tĩnh nói:

– Ngươi vì ta mà đến, làm sao ta có thể bỏ ngươi lại? Mau mau lên ngựa.

Dương Quá chần chừ do dự, Quách Tĩnh cúi xuống kéo chàng lên sau lưng mình, thì con ngựa bị trúng nhiều mũi tên, hí lên đau đớn, gục xuống chết. Quách Tĩnh trong đời trải bao phen hung hiểm, tình thế càng nguy cấp, dũng khí càng gia tăng, bình tĩnh ứng phó, nói:

– Quá nhi, đừng sợ, chúng ta nhất định thoát khỏi chốn này.

Đoạn đứng thẳng người dậy, cõng Dương Quá chạy về phía bắc.

Lúc này Kim Luân pháp vương, Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử lại đánh tới. Quách Tĩnh nhìn bốn phía quân mã dồn lại, vòng vây siết chặt hơn lúc trước. Dưới lá đại kỳ bên vương trướng, Hốt Tất Liệt tay bưng bát rượu, đứng quan chiến cùng với một hòa thượng, giơ tay chỉ chỉ trỏ trỏ, rõ ràng nắm chắc phần thắng, thần tình cực kỳ đắc ý.

Quách Tĩnh quát to một tràng, cõng Dương Quá lao về phía Hốt Tất Liệt, chỉ sau vài lần nhấp nhô đã tới gần trước mặt. Thân binh hộ vệ hai bên cả kinh, mười mấy người chĩa đao, giáo dài ngăn chặn. Quách Tĩnh chưởng phong ù ù, một thân binh bị chưởng lực hất văng ra xa, chỉ vài bước nữa là chưởng lực có thể đánh tới chỗ Hốt Tất Liệt. Bọn thân binh liều chết cản đường, song địch sao nổi thần dũng của Quách Tĩnh? Kim Luân pháp vương thấy nguy cấp, phóng kim luân tới đầu Quách Tĩnh, Quách Tĩnh cúi đầu tránh, chân vẫn không dừng bước.

Dương Quá nghĩ: “Nếu Quách Tĩnh tóm được Hốt Tất Liệt, quân Mông Cổ tất ném chuột sợ vỡ lọ quí, phải để Quách Tĩnh thoát thân. Mình chưa hạ thủ, còn đợi khi nào?” Nhưng lại lên tiếng hỏi:

– Quách bá bá, phụ thân điệt nhi quả là tội ác quá lớn, Quách bá bá không thể không giết ư?

Quách Tĩnh sững lại, lúc này đâu có thời gian suy nghĩ, thuận miệng đáp luôn:

– Phụ thân ngươi nhận giặc làm cha, phản quốc hại dân, người người đều căm hận, muốn trừ bỏ.

Dương Quá nói:

– Được.

Thế là chàng không còn do dự gì nữa, giơ thanh Quân tử kiếm lên, đâm vào gáy Quách Tĩnh.

Đột nhiên một đạo bạch quang loáng qua trước mắt, một cây can bổng gạt kiếm của chàng đi. Dương Quá nhìn, thấy đó là cây can bổng của Tiêu Tương Tử, kinh ngạc nghĩ: “Mình đâm Quách Tĩnh, sao hắn lại ngăn cản? À phải rồi, nếu Quách Tĩnh chết bởi kiếm của ta, thì danh hiệu “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ” sẽ thuộc về ta. Hừm, ta giết Quách Tĩnh là để báo thù cho cha, chứ thứ hư danh kia, ta đâu có thiết?” Chàng đâm nhanh mấy nhát, đánh bật cây can bổng của Tiêu Tương Tử, rồi thu kiếm về, lại đâm sau lưng Quách Tĩnh. Tiêu Tương Tử lại dùng cây can bổng gạt ra.

Lúc này Quách Tĩnh mải dùng chưởng lực đối phó với kim luân của Pháp vương và thiết đoản xà của Ni Ma Tinh, không hề biết Dương Quá đang giở trò ma sau lưng mình, cứ ngỡ chàng đang dốc lực chống chọi Tiêu Tương Tử, nói:

– Cẩn thận, cây can bổng của hắn có thể phóng độc.

Kim Luân pháp vương và Ni Ma Tinh đối diện với Quách Tĩnh, nhìn rõ, thấy Dương Quá hai lần sắp đắc thủ, đều bị Tiêu Tương Tử gạt ra, bèn đồng thanh quát:

– Tiêu Tương Tử, giở trò gì vậy?

Tiêu Tương Tử cười nham hiểm, vung cây can bổng đánh Quách Tĩnh, Quách Tĩnh nghiêng mình né tránh. Dương Quá lần thứ ba định hạ độc thủ, Tiêu Tương Tử lại dùng cây can bổng gạt trường kiếm của chàng. Quách Tĩnh lo Dương Quá đang bị nội thương, sợ chàng không chống nổi cây can bổng, bèn đánh về phía sau, vào ngực Tiêu Tương Tử, một chưởng. Tiêu Tương Tử vội thoái lui mấy bước.

Lúc này Dương Quá không còn ai ngăn cản, lại giơ kiếm đâm vào gáy Quách Tĩnh. Nào ngờ Tiêu Tương Tử sợ Dương Quá đắc thủ, vừa thoái lui đã chọc cây can bổng tới yếu huyệt sau lưng chàng, buộc chàng phải thu kiếm về tự cứu mình trước đã. Quách Tĩnh hữu chưởng đang tỷ đấu với nội lực thượng thừa của Kim Luân pháp vương, phát hiện mình và Dương Quá cùng ngộ hiểm, thì không nghĩ đến mình, mà quay lại cứu Dương Quá trước, tả chưởng sử chiêu “Thần long bãi vĩ”, đánh trúng cây can bổng, khiến Tiêu Tương Tử toàn thân nóng bừng, bộ mặt lạnh bỗng chốc đỏ tía.

Đúng lúc ấy, Ni Ma Tinh lăn đến, thiết xà đánh ra, đầu rắn đã chạm đến sườn trái Quách Tĩnh. Nội kình toàn thân của Quách Tĩnh có bảy thành đang đối phó với Kim Luân pháp vương, ba thành đánh bật cây can bổng của Tiêu Tương Tử, không còn gì chống đỡ thiết xà. Trong cơn nguy cấp, sườn trái bỗng co vào nửa thước, coi như tránh được đòn lợi hại nhất, song đầu rắn cũng đâm ngập vào bên sườn mấy tấc.

Quách Tĩnh vận khí, dùng cơ nhục đẩy ra, để đầu rắn không đâm sâu thêm được, đồng thời tung cước đá Ni Ma Tinh lộn đi vài vòng. Ni Ma Tinh thấy thiết xà đâm trúng chỗ yếu hại, chiêu này chắc chắn lấy mạng Quách Tĩnh, danh hiệu vinh quang “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ” đã sắp thuộc về hắn, hắn cả mừng, không ngờ đối phương lại có công phu lợi hại, cú đá của Quách Tĩnh trúng ngực, làm gãy luôn ba dẻ xương sườn của hắn.

Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh cùng lúc bị đánh bại, song Kim Luân pháp vương thì thừa cơ đẩy chưởng lực tới. Quách Tĩnh sườn trái đã thủng khí môn, không thể tiếp tục chống chọi, chí cảm thấy một luồng đại lực bài sơn đảo hải ập tới, nếu vận sức chống đỡ sẽ bỏ mạng tại chỗ, đành xuôi tay, dùng nội công thượng thừa hơn hai mươi năm của thân mình tiếp nhận chiêu này, người lảo đảo hộc ra một ngụm máu tươi. Mạng tuy nguy cấp, Quách Tĩnh vẫn còn lo cho Dương Quá, nói:

– Quá nhi, mau đi lấy ngựa, ta chặn địch cho ngươi.

Dương Quá chính mắt thấy Quách Tĩnh liều mạng cứu chàng, máu nóng bỗng trào dâng, còn nghĩ gì đến thù cũ? Chàng nghĩ: “Quách bá bá tình nghĩa sâu nặng, nếu ta không lấy mạng mình để cứu mạng Quách bá bá, thì sống trên thế gian cũng uổng”. Chàng bèn từ trên lưng Quách Tĩnh nhảy xuống đất, múa thanh kiếm Quân tử thành một vòng kiếm hoa bảo vệ Quách Tĩnh, thế như mãnh hổ, chiêu nào cũng là chiêu liều chết. Kim Luân pháp vương và Tiêu Tương Từ ngẩn cả ra, gọi:

– Dương Quá, ngươi làm gì vậy?

Dương Quá không trả lời, đâm Kim Luân pháp vương một kiếm, mũi kiếm rung rung, lại đâm Tiêu Tương Tử một nhát. Hai người kia thấy mắt chàng đỏ ngầu, thần tình đại dị, bất giác cùng lùi hai bước, cho rằng Dương Quá muốn danh hiệu vinh quang “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ”, độc chiếm công lao giết chết Quách Tĩnh.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi đừng lo cho ta, hãy mau thoát đi.

Dương Quá nói:

– Quách bá bá, là điệt nhi hại bá bá, hôm nay điệt nhi sẽ cùng chết với Quách bá bá.

Kiếm quang loang loáng, chàng chỉ bảo vệ Quách Tĩnh, không nghĩ gì đến sự an nguy của mình.

Kim Luân pháp vương và Tiêu Tương Tử nhất tề vung binh khí tấn công Quách Tĩnh. Nhưng kiếm chiêu của Dương Quá hết sức linh động, không để cho hai kẻ kia tới gần. Mấy ngàn binh mã Mông Cổ vây xung quanh, hò reo rầm trời, nhìn ba người ác đấu.

Quách Tĩnh luôn miệng giục Dương Quá mau thoát đi, nhìn chàng nhất mực bảo vệ cho mình, thì vừa nóng ruột, vừa cảm kích, xúc động nội thương, không gắng gượng được thêm, hai gối mềm đi, ngồi phệt xuống đất.

Ni Ma Tinh bị gãy ba dẻ xương sườn, vẫn cố nhịn đau, giơ thiết xà chậm rãi lại gần để giết Quách Tĩnh. Dương Quá đâm liền mấy nhát kiếm, cúi xuống xốc Quách Tĩnh lên lưng, xông ra ngoài. Chàng võ công vốn đã không bằng Kim Luân pháp vương, giờ lại cõng thêm Quách Tĩnh, làm sao chịu nổi? Đấu vài hiệp nữa, xoẹt một cái, cánh tay trái của chàng bị kim luân của Pháp vương rạch một vết dài.

Hồi 22: Nữ hài tội nghiệp

Quách Tĩnh và Dương Quá thấy không còn đường thoát, bỗng trong quân Mông Cổ binh tướng tản khai, một vị lão nhân thọt tay trái cầm thiết quải, tay phải múa thiết chùy, xung sát lao tới, gọi to:

– Dương công tử, mau chạy ra ngoài, có ta chặn hậu cho.

Dương Quá nhận ra đó là lão thợ rèn, đệ tử của đảo Đào Hoa Phùng Mặc Phong, thì rất kinh ngạc, mải đấu nên cũng không kịp nghĩ vì sao người ấy lại đột nhiên tới đây.

Nguyên Phùng Mặc Phong bị người Mông Cổ trưng nhập vào quân đội để sửa chữa binh khí, đã bí mật giết chết một viên thiên phu trưởng, một viên bách phu trưởng của Mông Cổ. Phùng Mặc Phong hành động kín đáo, chưa bị địch phát hiện. Hôm nay nghe tiếng quân sĩ hô hoán, từ trên chỗ cao ngó thấy Quách Tĩnh và Dương Quá bị vây, bèn múa cây thiết chùy mở đường máu xông vào.

Dương Quá vui mừng, vung kiếm đánh ra. Pháp vương dùng kim luân đón đỡ đồng thời cả kiếm chiêu lẫn cây thiết chùy của Phùng Mặc Phong, chỉ khi cây can bổng của Tiêu Tương Tử đâm tới lưng Quách Tĩnh, lão ta mới ngừng tấn công Dương Quá, để chàng hồi kiếm cứu Quách Tĩnh. Song khi kim luân của Pháp vương đánh tới Quách Tĩnh, thì Tiêu Tương Tử cũng dùng cây can bổng gạt đi. Nếu hai người đó không tranh công với nhau, thì Dương Quá dẫu xả thân tử chiến, Quách Tĩnh cũng đã sớm bỏ mạng rồi. Danh hiệu “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ” mà bữa nọ Hốt Tất Liệt hứa hẹn cốt mong mọi người dũng mãnh, nào ngờ lại khiến họ ngăn cản lẫn nhau, hóa ra đại phản tác dụng. Nhưng tính mạng của Quách Tĩnh tuy giữ được nhất thời, quân Mông Cổ tứ bề đã vây chặt như thành đồng vách sắt. Kim Luân pháp vương và Tiêu Tương Tử tranh tiên. Ni Ma Tinh cố nén đau, cũng đang tìm chỗ sơ hở để ra đòn độc.

Đến lúc này Quách Tĩnh và Dương Quá đã đấu hơn nửa canh giờ, vầng dương đã hơi chếch. Pháp vương múa kim luân, chiêu số đột biến, đụng vào thanh kiếm Quân tử của Dương Quá. Kiếm Quân tử chém sắt như bùn, kim luân lập tức bị mẻ một miếng. Pháp vương tiện thể lẳng nó đi, cái kim luân bay tới với một tốc độ kinh người. Dương Quá sợ trúng người Quách Tĩnh, không dám né tránh, hồi kiếm gạt nó đi, cái kim luân bay chếch, lại sượt vào cánh tay phải của chàng, vết thương tuy không sâu, nhưng trúng mạch máu, máu tươi tức thời trào ra, trong vòng vài chiêu, chàng cảm thấy cánh tay yếu dần, mà kẻ địch thì tấn công dồn dập, không có lúc nào rảnh tay để băng bó, cầm máu vết thương.

Phùng Mặc Phong vung cây thiết chùy dốc sức cứu viện, nhưng Kim Luân pháp vương liên tiếp tung chưởng, khiến Phùng Mặc Phong phải vất vả chống đỡ, ngay bản thân mình cũng khó giữ mạng sống. Tiêu Tương Tử thấy có cơ hội, vội vung cây can bổng gạt thiết đoản tiên của Ni Ma Tinh, rồi vọt tới, bổ cây can bổng xuống đầu Quách Tĩnh, định phóng “độc sa”.

Dương Quá cả kinh, trong cơn nguy cấp giơ tay trái chộp đầu cây can bổng, tay phải thuận thế đâm ra một kiếm. Lúc này môn hộ toàn thân chàng để ngỏ, Kim Luân pháp vương chỉ cần giáng một đòn nhẹ cũng đủ lấy mạng chàng, song lão ta có ý mượn tay chàng đánh Tiêu Tương Tử, để lão ta đẩy Phùng Mặc Phong ra, đưa tay chộp lấy sau lưng Quách Tĩnh, cốt bắt sống đối phương, lập được kỳ công. Tiêu Tương Tử không ngờ Dương Quá lại liều mạng như vậy, thân hình hắn chưa chạm xuống đất, cây can bổng đã bị Dương Quá nắm lấy, bạch quang loang loáng trước mắt, mũi kiếm đã đâm tới ngực, trong tình thế đó hắn đành buông cây can bổng, ngả người ra sau để bảo toàn tính mạng.

Phùng Mặc Phong cùng thi triển chùy và quải đánh gấp tới lưng Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương tay phải đưa luân gạt đỡ phía sau, keng keng hai tiếng, hổ khẩu hai tay Phùng Mặc Phong ứa máu, tay trái lão vẫn chộp sau lưng Quách Tĩnh. Phùng Mặc Phong gầm lên một tiếng, quăng cả chùy lẫn quải, dang hai tay ôm chặt lấy Kim Luân pháp vương, cả hai người cùng ngã lăn ra đất. Kim Luân pháp vương cả giận, vung chưởng đánh vào vai Phùng Mặc Phong, khiến cho lục phủ ngũ tạng của lão thọt lộn tùng phèo cả lên. Phùng Mặc Phong ở trong quân mắt thấy giặc Mông Cổ tàn bạo, xua dân đi đánh thành Tương Dương, thấy Quách Tĩnh một lòng tử chiến đánh lui quân địch, lão không quen biết gì Quách Tĩnh, càng không biết Quách Tĩnh là con rể của sư phụ lão, chỉ biết nếu Quách Tĩnh chết, thì thành Tương Dương khó đứng vững, thế nên lão quyết ý, thà mình bị đao kiếm băm vằm, cũng phải cứu cho Quách Tĩnh thoát hiểm. Kim Luân pháp vương xuất chưởng nhanh và mạnh, bộp bộp mấy cái, Phùng Mặc Phong lập tức gãy xương đứt gân, nội tạng trọng thương, nhưng hai tay của Phùng Mặc Phong vẫn ghì chặt, mười ngón tay hằn sâu vào da thịt của Pháp vương.

Binh tướng Mông Cổ vốn đứng ngoài quan đấu, biết Kim Luân pháp vương nhất định thành công, không vào góp tay, đột nhiên thấy Kim Luân pháp vương ngã chỏng gọng, Tiêu Tương Tử thì bật ra xa, bèn ùa vào.

Tình thế lúc này, dẫu Quách Tĩnh không bị trọng thương, thì Quách Tĩnh và Dương Quá hai người võ công mạnh mấy, cũng khó lòng chống chọi đồng thời ngàn vạn binh tướng. Dương Quá thở dài “Thế là hết!”. Chàng vung cây can bổng của Tiêu Tương Tử múa loạn lên, đột nhiên nghe “tách” một tiếng, từ đầu cây can bổng phun ra một luồng khói đen, mười mấy binh tướng Mông Cổ trước mặt lập tức ngã xuống. Thì ra trong lúc vung cây can bổng, vô tình chàng đã chạm vào cái chốt phóng “Độc sa thiềm thừ” của nó. Dương Quá hơi kinh ngạc, chợt hiểu, cõng Quách Tĩnh chạy đi. Quân Mông Cổ tràn tới như thủy triều, mỗi lần chàng ấn chốt, khói phun ra, hàng chục binh tướng Mông Cổ lại ngã rạp. Binh tướng Mông Cổ tuy thiện chiến, song ai cũng tin có thần có ma, thấy mỗi lần Dương Quá vung cây can bổng, khói lại phun ra, hàng chục binh tướng ngã xuống, liền kêu to:

– Hắn có yêu pháp đấy, mau tránh ra!

Thân binh cận vệ của Hốt Tất Liệt dũng cảm tuyệt luân, nghĩ quân lệnh của vương gia như sơn, tuy thấy nguy hiểm, vẫn cứ lao tới. Dương Quá vung cây can bổng, khói phun ra, hàng chục tên lại ngã gục. Chàng huýt sáo miệng, con ngựa gầy phi tới. Dương Quá gắng sức đặt Quách Tĩnh lên lưng ngựa, cảm thấy tay chân rã rời, chính mình không còn đủ sức lên ngựa, đành đưa tay vỗ vỗ nhẹ vào mông nó, nói:

– Ngựa ơi, ngựa ơi, hãy phóng đi mau!

Con ngựa như có linh tính, thấy chủ không có sức nhảy lên lưng nó, nó ngẩng cổ hí một tiếng dài, chân vẫn không chạy đi. Dương Quá thấy quân Mông Cổ từ bốn phía đang tới gần, nghĩ độc sa trong cây can bổng dù lợi hại, song cũng sắp cạn, giơ kiếm lên định ấn vào mông ngựa giục nó chạy đi, song lại không nỡ, chỉ nói:

– Ngựa ơi, phóng đi nào!

Chàng ấn chuôi cây can bổng vào mông ngựa. Nhưng lúc này không còn sức, động tác không chuẩn xác, lại ấn cây bổng vào đùi Quách Tĩnh. Quách Tĩnh đang nửa mê nửa tỉnh, đột nhiên bị đau ở đùi, mở mắt ra, liền túm ngực Dương Quá kéo lên trên yên ngựa. Con ngựa hí một tiếng dài vui mừng, tung vó lao đi.

Chỉ nghe tiếng tù và dồn dập tứ phía, Quách Tĩnh huýt sáo miệng, con ngựa quí hãn huyết chạy theo, đại đội binh mã Mông Cổ cũng lao tới. Con ngựa hồng chạy bên con ngựa vàng, chốc chốc lại cọ cọ vào người Quách Tĩnh. Dương Quá biết con ngựa vàng tuy là tuấn mã, nhưng còn thua xa con ngựa hồng, bèn hít một hơi dài, ôm Quách Tĩnh nhảy sang lưng con ngựa hồng. Đúng lúc ấy, nghe sau lưng có tiếng loong cong, là kim luân bay tới. Dương Quá đau lòng nghĩ : “Phùng lão đã bị Pháp vương giết rồi”. Chàng thấy tiếng kim luân bay tới rất gần, vội cúi rạp người trên lưng ngựa, hi vọng kim luân bay qua trên đầu, nhưng nghe âm thanh hóa ra lại ở dưới thấp, ngang chân con ngựa hồng.

Nguyên Kim Luân pháp vương sau khi đánh chết Phùng Mặc Phong thì đứng dậy, thấy Quách Tĩnh và Dương Quá đã lên ngựa, lão đuổi theo không kịp, bèn ném kim luân, nhắm đánh thật thấp bên dưới. Lão tính rằng nếu kim luân có đánh chết Dương Quá, thì con ngựa hồng vẫn chở Quách Tĩnh thoát đi được, chỉ có đánh trúng chân con ngựa, mới thật sự thành công.

Dương Quá nghe kim luân bay tới, bèn giơ kiếm gạt đi. Chàng thừa biết mình đã kiệt sức, nhát kiếm này khó lòng chống đỡ, nhưng không còn cách nào khác, thấy kim luân cách chân con ngựa chưa đầy hai thước, bèn giơ kiếm che chân ngựa, không ngờ rằng con ngựa hồng đã hăng lên, lao đi càng lúc càng nhanh, kim luân vẫn cách chân con ngựa chừng hai thước, không thể gần hơn. Dương Quá cả mừng, biết kim luân sẽ bay chậm dần, quả nhiên khoảng cách tăng lên ba thước, rồi bốn thước, năm thước, cuối cùng “cạch” một tiếng, nó rơi xuống đất.

Dương Quá đang mừng, bỗng nghe sau lưng tiếng con ngựa vàng hí lên đau đớn, nó bị trúng tên vào giữa bụng, ngã vật xuống, hai mắt nhìn chủ đầy lưu luyến. Dương Quá đau lòng, bất giác nước mắt ứa ra.

Con ngựa hồng phóng đi như tia chớp, nhanh hơn lưu tinh, giây lát đã bỏ truy binh xa mãi phía sau. Dương Quá ôm Quách Tĩnh, hỏi:

– Quách bá bá, thế nào rồi?

Quách Tĩnh ậm ừ rất nhỏ. Dương Quá thăm dò đằng mũi, thấy Quách Tĩnh hơi thở thô nặng, biết nhất thời chưa việc gì, đỡ lo phần nào, không gắng gượng thêm được nữa, lờ mờ phục xuống lưng ngựa, mặc cho con ngựa hồng đưa đi. Đột nhiên thấy trước mặt có vô số quân mã tới bắt Quách Tĩnh, chàng liền vung trường kiếm, thét to:

– Không được giết Quách bá bá của ta!

Chàng đâm chém hai bên loạn xạ, trước mắt lờ mờ người này kẻ nọ, múa kiếm một hồi, cuối cùng hình như chàng ngã ngựa, miệng còn quát:

– Hãy giết ta đi, giết ta đi, tại ta không tốt, đừng giết Quách bá bá.

Rồi trời đất quay cuồng, chàng ngất đi.

Không biết bao nhiêu lâu sau thì chàng tỉnh lại, gọi to:

– Quách bá bá, Quách bá bá, thế nào rồi? Đừng giết Quách bá bá!

Chỉ nghe bên cạnh một giọng nói dịu dàng:

– Quá nhi, cứ yên tâm, Quách bá bá tĩnh dưỡng đôi chút sẽ khỏe.

Dương Quá tỉnh hẳn, mở mắt thấy Hoàng Dung thần sắc vô cùng cảm kích. Phía sau Hoàng Dung là một người nước mắt lưng tròng, âu yếm chằm chằm nhìn chàng, chính là Tiểu Long Nữ. Dương Quá kinh ngạc hỏi:

– Cô cô, sao cô cô tới đây? Cô cô cũng bị quân Mông Cổ bắt ư? Chạy mau đi, chạy mau đi, mặc kệ Quá nhi.

Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Quá nhi đã về đến nhà, đừng sợ. Chúng ta đều đang bình yên ở trong thành Tương Dương.

Dương Quá thở dài, cảm thấy tứ chi và toàn thân rã rời, lại nhắm nghiền mắt. Hoàng Dung nói:

– Quá nhi đã tỉnh rồi, không đáng ngại, cô nương hãy ở lại đây với Quá nhi.

Tiểu Long Nữ đáp ứng, hai mắt không rời Dương Quá. Hoàng Dung đứng dậy, đang định ra khỏi phòng, bỗng nghe “cạch” một tiếng nhẹ trên mái nhà, mặt hơi biến sắc, tay trái phẩy tắt ngọn nến.

Dương Quá thấy tối sầm, lại tỉnh, ngồi bật dậy. Chàng chỉ bị ngoại thương, do mất nhiều máu cộng với cuộc ác chiến kiệt sức, nên bị ngất đi, nhưng vừa rồi đã được nằm nghỉ nửa ngày, Hoàng Dung cho chàng uống linh dược trị thương bí truyền của đảo Đào Hoa là “Cửu hoa ngọc lộ hoàn”, chàng trẻ tuổi khỏe mạnh, đã hồi phục quá nửa, thấy có kẻ địch trên mái nhà, lập tức sẵn sàng chống trả.

Tiểu Long Nữ chắn trước mặt chàng, nói nhỏ:

– Quá nhi đừng động, có thiếp ở đây.

Chỉ nghe trên mái có tiếng cười hô hô, tiếp đến tiếng nói sang sảng:

– Tại hạ đến gửi thư, chẳng lẽ Nam triều tiếp khách trong bóng tối? Nếu có chuyện không tiện để người ngoài trông thấy, thì tại hạ sẽ đến vào lúc khác vậy chăng?

Nghe giọng nói chính là đệ tử của Kim Luân pháp vương là vương tử Hoắc Đô. Hoàng Dung nói:

– Lễ tiết của Nam triều tùy người mà tiếp, thanh thiên bạch nhật đón tiếp quí khách quang minh chính đại, còn đêm tối thì tiếp hạng khách không mời mà đến.

Hoắc Đô cứng họng, nhẹ nhàng nhảy xuống sân, noi:

– Xin hãy chuyển thư này cho Quách Tĩnh Quách đại hiệp.

Hoàng Dung mở cửa phòng, nói:

– Mời vào nhà.

Hoắc Đô thấy trong phòng tối như mực, không dám bước vào, nói:

– Thư ở ngoài này, xin mời ra nhận.

Hoàng Dung nói:

– Tự xưng tân khách, sao không vào nhà?

Hoắc Đô cười khẩy, nói:

– Quân tử không vào chỗ hiểm, đề phòng ám toán đả thương.

Hoàng Dung nói:

– Trên thế gian há có bậc quân tử đem bụng dạ tiểu nhân đi đo lòng người?

Hoắc Đô nóng mặt, nghĩ bụng Hoàng bang chủ miệng lưỡi sắc sảo, đấu khẩu khó chiếm thượng phong, chi bằng im lặng, bèn căng mắt nhìn vào trong, hai tay chìa bức thư ra.

Hoàng Dung chĩa cây gậy trúc tới trước mặt Hoắc Đô. Hoắc Đô giật mình, nhảy lùi lại mấy thước, bức thư đã không còn trên tay nữa. Thì ra Hoàng Dung đã dùng đầu gậy khều dính phong thư. Hoàng Dung đã sắp lâm bồn, bụng to, không muốn tiếp khách, càng không muốn để kẻ địch nhìn thấy. Hoắc Đô hốt hoảng, nhuệ khí đột nhập vào thành đã giảm đi tám, chín phần, nói to:

– Thư đã chuyển, hẹn tối mai gặp lại.

Hoàng Dung nghĩ: “Thành Tương Dương để cho ngươi tự tiện ra vào, làm như trong thành không có người hay sao?” Bèn tiện tay cầm bình trà trên bàn hất một cái. Nước trà nóng bỏng vừa pha từ trong bình qua vòi bay nhanh ra sân.

Hoắc Đô sớm đã toàn thần đề phòng, sợ trong phòng bắn ra ám khí. Nhưng nước trà bay ra vô thanh vô tức không có tiếng gió như các loại ám khí, đến lúc phát giác thì cổ, ngực và tay phải đã bị trúng nước nóng như người phải bỏng, kinh hãi kêu “Ôi!” nhảy tránh sang một bên.

Hoàng Dung đứng bên cửa, nhân lúc hắn chưa đứng vững, gậy trúc chĩa ra, thi triển tự quyết chữ “bạn” (kéo ngã) trong Đả cẩu bổng pháp, giật một cái làm cho hắn ngã xuống. Hoắc Đô bật ngay dậy, nhưng Đả cẩu bổng lại khoèo một cái, cái giật thứ nhất nếu tránh được, tức thời nhảy đi, may ra tránh nổi cái khoèo thứ hai, đằng này cái thứ nhất đã bị ngã, muốn tránh cái thứ hai đâu có dễ? Chỉ thấy dưới chân vướng vít, ngã xuống, đứng lên lại ngã xuống mấy lần.

Hoắc Đô võ công vốn không kém, nếu chính thức động thủ với Hoàng Dung, cuối cùng dĩ nhiên hắn thua một bậc, song không đến nỗi ngay từ đầu đã bị đẩy ngã túi bụi thế này, chẳng qua khi nước trà nóng bỏng hắt vào người, hắn ngỡ mình bị trúng một thứ nước thuốc cực độc nào đó, phen này khó giữ mạng sống. Đang lúc bàng hoàng thì bị Hoàng Dung tập kích, chiêu thứ nhất đã bị đánh ngã, chiêu thứ hai càng không còn chỗ chống đỡ, cứ ngã giúi giụi sưng trán giập mũi.

Lúc ấy huynh đệ họ Võ nghe tiếng chạy tới. Hoàng Dung quát:

– Bắt tên tiểu tặc cho ta!

Hoắc Đô tình cấp trí sinh, biết là chỉ cần đứng lên sẽ lại bị khoèo ngã, bèn kêu “Ôi chao!” một tiếng thật to, giả bộ bị ngã rất đau, cứ nằm im không bò dậy. Huynh đệ họ Võ cùng sấn tới đè xuống, cây quạt nan bằng sắt của Hoắc Đô lập tức điểm huyệt đùi hai người, khiến cả hai cùng bị đẩy ngã, hắn gạt cây gậy trúc của Hoàng Dung, bay người dậy, bật lên bờ tường, ôm quyền, nói:

– Hoàng bang chủ, bổng pháp thật lợi hại, đồ đệ thì đúng là đồ bị thịt!

Hoàng Dung cười, nói:

– Ngươi đã trúng độc thủy, người khác ai thèm đụng tới thân xác ngươi?

Hoắc Đô nghe vậy cả sợ, nghĩ : “Thứ độc thủy làm bỏng da ấy có mùi trà, không biết là loại dược vật cổ quái gì nữa?” Hoàng Dung đoán tâm ý của hắn, nói:

– Ngươi bị trúng độc, mà tên gọi của độc thủy là gì cũng không biết, bị chết một cách mờ ám thì nhắm mắt sao nổi? Thôi để ta nói cho ngươi biết, thứ độc thủy ấy tên là “Tý Ngọ kiến cốt trà”.

Hoắc Đô lẩm bẩm “Tý Ngọ kiến cốt trà”. Hoàng Dung nói:

– Đúng thế, chỉ cần da thịt dính một giọt, toàn thân sẽ rữa nát lòi xương ra, bị giờ Tý không qua nổi giờ Ngọ, bị giờ Ngọ không qua nổi giờ Tý. Ngươi còn sống được sáu giờ, mau về nhà đi!

Hoắc Đô biết Hoàng bang chủ Cái Bang võ công đã cao cường, mưu trí lại khiến người khác khó lường, phụ thân là Hoàng Dược Sư sở học cực kỳ sâu xa, hai chữ “Dược Sư” đủ cho thấy tinh thông dược lý, Hoàng Dung thông minh tài trí cộng với sở học gia truyền, việc điều chế “Tý Ngọ kiến cốt trà” thật dễ như trở bàn tay, nhất thời hắn đứng ngây trên bờ tường, chưa biết nên chạy ngay về, hay là cúi đầu xin ban cho giải dược.

Hoàng Dung biết Hoắc Đô không phải kẻ ngu, bảo độc thủy cũng chỉ lừa hắn được một lúc, rồi hắn sẽ biết, bèn nói:

– Ta với ngươi vốn không thù oán, nếu ngươi không nói năng vô lễ, thì cũng không đáng phải mất mạng.

Hoắc Đô nghe câu nói có ngụ sinh cơ, bèn cũng chẳng nghĩ đến thân phận thể diện gì nữa, nhảy xuống sân, vái sát đất, nói:

– Tiểu nhân vô lễ, mong Hoàng bang chủ thứ tội!

Hoàng Dung nấp sau cánh cửa, búng nhẹ ngón tay ra cho hắn một viên “Cừu hoa ngọc lộ hoàn”, nói:

– Nuốt ngay đi!

Hoắc Đô giơ tay đón viên thuốc, cho là tiên đan cứu mạng, nào dám chậm trễ, vội cho vào miệng, chỉ cảm thấy một mùi thơm mát thấu tận đan điền, toàn thân dễ chịu vô cùng, thì lại vái sát đất, nói:

– Đa tạ Hoàng bang chủ ban dược!

Đoạn từ từ bước lùi, đến tận chân tường mới xoay người nhảy lên, vội vã ra khỏi thành.

Hoàng Dung thấy Hoắc Đô đã đi xa, thở dài nhè nhẹ, giải huyệt cho huynh đệ họ Võ, nhớ đến câu nói của Hoắc Đô “bổng pháp thật lợi hại, đồ đệ thì đúng là đồ bị thịt!” Tuy đã dùng mưu hạ nhục kẻ địch, song trong lòng không một chút đắc ý, dùng Đả cẩu bổng pháp đánh ngã Hoắc Đô, dĩ nhiên lấy sự khéo léo là chính, nhưng cũng cảm thấy hơi đau âm ỉ trong bụng, bèn ngồi xuống ghế điều tức một hồi.

Tiểu Long Nữ thắp nến. Hoàng Dung mở thư ra đọc. Thư viết:

“Đệ nhất hộ quốc pháp sư Mông Cổ Kim Luân pháp vương kính gửi Quách đại hiệp túc hạ: Cuộc gặp hôm nay được thấy phong thái túc hạ, lão nạp thỏa nguyện bình sinh. Cũng định đêm nay tới đàm luận, nhưng e túc hạ chẳng ưng. Thôi thì sáng mai tái ngộ, xin đừng từ chối thiện chí của người từ phương xa ngàn dặm lặn lội tới đây”.

Hoàng Dung lo lắng, đưa thư cho Dương Quá và Tiểu Long Nữ xem, nói:

– Thành Tương Dương tuy kiên cố, song không thể cản được cao thủ võ lâm. Quách bá bá của ngươi bị trọng thương, ta lại không tiện dùng sức, ngày mai cường địch tấn công, phải làm sao đây?

Dương Quá nói:

– Quách bá bá…

Tiểu Long Nữ lườm chàng một cái, ánh mắt đầy vẻ trách móc. Dương Quá biết nàng trách mình đã bất chấp tính mạng cứu sống Quách Tĩnh, nên không nói nữa. Hoàng Dung sinh nghi, lại hỏi:

– Long cô nương, Quá nhi cũng chưa lại sức, chỉ có thể trông cậy vào Long cô nương và Chu Tử Liễu đại ca chống địch mà thôi.

Tiểu Long Nữ vốn không quen giả dối, nghĩ sao nói vậy, thản nhiên nói:

– Tiểu nữ chỉ bảo vệ cho Quá nhi, người khác sống chết thế nào, không liên can đến tiểu nữ.

Hoàng Dung càng thấy kỳ quái, không tiện nói thêm, nói với Dương Quá:

– Quách bá bá bảo rằng phen này chỉ trông cậy vào ngươi được thôi.

Dương Quá nghĩ mình đã mấy phen định hại Quách Tĩnh, lòng thầm hổ thẹn, nói:

– Tiểu điệt vô năng, làm cho Quách bá bá trọng thương.

Hoàng Dung nói:

– Ngươi hãy nằm nghỉ thêm đi, khi kẻ địch tới, nếu chúng ta không có sức, thì dùng mưu vậy.

Rồi quay sang nói với Tiểu Long Nữ:

– Long cô nương, hãy theo ta, ta có vài lời muốn nói với cô nương.

Tiểu Long Nữ do dự, nói:

– Quá nhi…

Từ lúc Dương Quá trở về thành, Tiểu Long Nữ không rời giường chàng nửa bước, nghe Hoàng Dung bảo nàng ra ngoài nói chuyện, nàng lo Dương Quá lại bị thương. Hoàng Dung nói:

– Kẻ địch đã nói rõ ngày mai mới đến, đêm nay chắc sẽ vô sự. Chuyện ta sắp nói với cô nương, có liên quan đến Quá nhi.

Tiều Long Nữ gật đầu, nói nhỏ dặn Dương Quá đề phòng cẩn thận, rồi mới theo Hoàng Dung ra khỏi phòng.

Hoàng Dung dẫn Tiểu Long Nữ tới phòng mình, đóng cửa vào, hỏi:

– Long cô nương, cô nương muốn giết vợ chồng ta phải không?

Tiều Long Nữ dẫu tính nết thật thà, nhưng không đến nỗi ngu ngốc, nàng có ý giết vợ chồng Quách Tĩnh để cứu mạng Dương Quá, nếu Hoàng Dung dùng lời lẽ vòng vo, chắc nàng sẽ để lộ thực tình, đằng này Hoàng Dung nhắm đúng tính cách của nàng, hỏi thẳng một câu như vậy. Tiểu Long Nữ ấp a ấp úng:

– Tiểu… tiểu nữ… Các vị đối tốt với tiểu nữ như vậy tiểu nữ sao lại… lại muốn giết các vị?…

Hoàng Dung thấy nàng đỏ mặt, biết mình đoán trúng, liền nói:

– Cô nương khỏi cần giấu ta, ta biết từ đầu rồi. Quá nhi bảo vợ chồng ta hại chết phụ thân nó, nó phải giết vợ chồng ta để báo thù. Cô nương tâm ái Quá nhi, nên muốn giúp nó hoàn thành tâm nguyện đó.

Tiểu Long Nữ bị Hoàng Dung đoán trúng, không thể nói dối, biết Dương Quá đã để lộ chuyện, im lặng một lát, rồi thở dài, nói:

– Tiểu nữ thật sự không hiểu.

Hoàng Dung hỏi:

– Không hiểu cái gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Quá nhi hôm nay tại sao lại xả thân cứu Quách đại gia về đây? Quá nhi và Kim Luân pháp vương đã ước hẹn là sẽ cũng nhau hạ sát Quách đại gia kia mà.

Hoàng Dung nghe mà kinh hãi, tuy đoán biết Dương Quá có ý xấu, song hoàn toàn không ngờ Dương Quá lại đi câu kết với người Mông Cổ, bèn giả bộ như đã biết việc đó, nói:

– Chắc là Quá nhi thấy Quách đại gia đối với nó tình nghĩa sâu nặng, nên đến lúc quyết định, nó không nỡ hạ thủ.

Tiểu long Nữ gật đầu, buồn bã nói:

– Sự đã thế này, thì cũng chẳng còn gì để nói. Quá nhi đã thà xả thân cứu người, thì tùy chàng vậy thôi. Tiểu nữ đã sớm biết chàng là người tốt nhất trên đời, chàng thà chết chứ không chịu sát hại kẻ thù.

Hoàng Dung chưa hiểu mấy câu của Tiểu Long Nữ có ngụ ý gì, nhưng nhìn vẻ sầu khổ của nàng, bèn an ủi:

– Mối thù giết cha của Quá nhi còn có nhiều mắc mứu bên trong, rồi đây thong thả vợ chồng ta sẽ nói rõ cho nó biết. Nó bị thương không nặng, điều dưỡng vài bữa sẽ khỏe, cô nương đừng buồn.

Tiểu Long Nữ nhìn Hoàng Dung một hồi, đột nhiên hai dòng nước mắt lăn dài trên má, nghẹn ngào nói:

– Quá nhi… Quá nhi chỉ còn sống được bảy ngày, điều dưỡng vài bữa mà làm gì?

Hoàng Dung kinh ngạc, vội hỏi:

– Sao lại chỉ còn sống được bảy ngày? Cô nương nói mau đi, chúng ta nhất định sẽ có cách cứu nó.

Tiểu Long Nữ chậm rãi lắc đầu, nhưng cuối cùng cũng thuật lại sự việc ở Tuyệt Tình cốc, Dương Quá trúng độc hoa Tình ra sao, Cầu Thiên Xích cho chàng nửa viên “Tuyệt Tình đơn”, hạn trong mười tám ngày phải giết vợ chồng Quách Tĩnh, mang thủ cấp về mới cho nốt nửa viên còn lại thế nào, khi chất độc hoa Tình phát tác sẽ khổ sở ra sao, mà trên thế gian chỉ có nửa viên “Tuyệt Tình đơn” kia mới cứu sống được Dương Quá mà thôi.

Hoàng Dung càng nghe càng lạ, không thể ngờ huynh đệ Cầu Thiên Trượng, Cầu Thiên Nhẫn lại còn có người em gái là Cầu Thiên Xích, dẫn đến mối họa này.

Tiểu Long Nữ kể xong nguyên ủy, nói:

– Quá nhi chỉ còn sống được bảy ngày, dù đêm nay có giết hai người, cũng vị tất kịp về Tuyệt Tình cốc, tiểu nữ còn sát hại hai vị để làm gì? Tiểu nữ chỉ muốn cứu sống Quá nhi, còn chuyện thù hằn của phụ thân chàng, tiểu nữ chẳng cần biết.

Hoàng Dung ban đầu chỉ tưởng Dương Quá có ý xấu là để báo thù cho cha, đâu ngờ bên trong còn nhiều mắc mớ như vậy, hôm nay Dương Quá tận lực cứu Quách Tĩnh, tức là tự giết mình, tấm lòng nhân hiệp xả kỷ vị nhân thật là hiếm có trên đời. Hoàng Dung thong thả đứng dậy, thảng thốt đi đi lại lại, mưu trí tuyệt luân mà nay không có cách gì, lại nghĩ chỉ vài giờ nữa, cường địch đối phương kéo đến tấn công, tuy mình an ủi Dương Quá “nếu chúng ta không có sức, thì dùng mưu vậy”. Nhưng dùng mưu gì đây? Có mưu gì bây giờ?

Tiểu Long Nữ toàn tâm toàn ý thâm ái Dương Quá. Trái tim Hoàng Dung thì chia đôi, một nửa dành cho chồng, một nửa dành cho con, chỉ nghĩ : “Làm sao để Tĩnh ca ca và Phù nhi bình an”. Lại nghĩ : “Quá nhi có thể xả thân vì người, ta há không bằng hắn?” Bèn khảng khái nói với Tiểu Long Nữ:

– Long cô nương, ta có một cách cứu được tính mạng Quá nhi, cô nương có chịu làm theo lời ta hay chăng?

Tiểu Long Nữ cả mừng, toàn thân run rẩy, nói:

– Tiểu nữ… tiểu nữ… dù phải chết, chết không có gì khó, dù phải làm việc gì khó gấp mười lần chết… tiểu nữ cũng… cũng…

Hoàng Dung nói:

– Được việc này chỉ có ta và cô nương biết, nhất thiết không được lộ ra, ngay cả Dương nhi cũng không cho biết, nếu không sẽ mất linh.

Tiểu Long Nữ luôn miệng đáp ứng. Hoàng Dung nói:

– Ngày mai cô nương và Quá nhi liên thủ bảo vệ Quách đại gia, qua cơn nguy rồi, ta sẽ trao thủ cấp của ta cho cô nương, để Quá nhi cưỡi con ngựa hãn huyết về đổi lấy Tuyệt Tình đơn cho kịp.

Tiểu Long Nữ sững người hỏi:

– Phu nhân nói gì vậy?

Hoàng Dung dịu dàng nói:

– Cô nương tâm ái Quá nhi hơn cả tính mạng mình, phải không nào?

Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Phải, vì sao phu nhân biết?

Hoàng Dung cười nhạt, nói:

– Bởi vì ta tâm ái trượng phu cũng hệt như cô nương vậy. Cô nương chưa có hài nhi, chưa biết tình mẫu tử thế nào đâu, nó không thua gì tình nghĩa phu thê. Ta chỉ mong cô nương bảo vệ chồng con của ta bình yên, chứ không muốn gì hơn.

Tiểu Long Nữ trầm ngâm không đáp. Hoàng Dung lại nói:

– Nếu cô nương không liên thủ với Quá nhi, thì không thể đánh lui Kim Luân pháp vương. Quá nhi đã mấy phen xả thân cứu vợ chồng ta, ta cứu Quá nhi một lần không được hay sao? Con ngựa hãn huyết ngày đi ngàn dặm, chưa đầy ba hôm là về đến Tuyệt Tình cốc. Ta nói để cô nương biết, Cầu Thiên Xích và phụ thân của Quá nhi là do một tay ta sát hại, không liên quan gì đến Quách đại gia. Cầu Thiên Xích nhìn thấy thủ cấp của ta, dẫu chưa hoàn toàn hài lòng, cũng không thể không trao nốt giải dược cho Quá nhi. Sau đó hai người nếu có thể vì nước vì dân tiếp tục chống địch thì tất nhiên là hay nhất, nếu không dù hai người ẩn cư lánh đời trong thâm sơn u cốc, ta cũng vô cùng cảm kích.

Điều này được nói ra rành mạch, ngoài cái đó, quả không còn cách nào khác. Mấy hôm rày Tiểu Long Nữ chỉ nghĩ cách làm thế nào giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung để cứu mạng Dương Quá, lúc này nghe chính miệng Hoàng Dung nói như vậy, trong lòng lại cảm thấy muôn phần áy náy, cứ lắc đầu rồi nói:

– Thế không được, thế không được!

Hoàng Dung đang định giải thích, bỗng nghe Quách Phù gọi ngoài cửa:

– Mẹ, mẹ ơi, mẹ đang ở đâu?

Giọng nói rất hốt hoảng. Hoàng Dung giật mình, hỏi:

– Phù nhi, chuyện gì vậy?

Quách Phù đẩy cửa bước vào, bất chấp sự hiện diện của Tiểu Long Nữ, sà vào lòng mẹ, nói:

– Mẹ, đại Võ ca ca và tiểu Võ ca ca…

Đang nói thì Quách Phù khóc nấc lên. Hoàng Dung cau mày, hỏi:

– Lại có chuyện gì?

Quách Phù nghẹn ngào nói:

– Huynh đệ… Võ ca ca ra bên ngoài thành đánh nhau.

Hoàng Dung cả giận, xẵng giọng:

– Đánh nhau với ai? Huynh đệ chúng nó đánh lẫn nhau ư?

Quách Phù ít khi thấy mẹ giận như vậy, không khỏi lo sợ, run run nói:

– Vâng, hài nhi bảo họ đừng đánh nhau, nhưng bảo mãi họ cũng không nghe, nói… nói rằng nhất định sống mái một phen… họ… nói sẽ chỉ có một người trở về, người thua dẫu không chết, cũng sẽ không trở về… gặp hài nhi nữa.

Hoàng Dung càng nghe càng giận, nghĩ bụng tính mạng quân dân cả thành Tương Dương đang trứng để đầu đẳng, thế mà huynh đệ họ Võ lại vì chuyện tranh giành một cô nương mà tàn sát lẫn nhau. Hoàng Dung giận quá, làm động đến thai nhi, bụng đau quặn, trán vã mồ hôi, gằn giọng:

– Hẳn là ngươi ở giữa giở trò quỉ, ngươi mau nói thật tỉ mỉ cho ta nghe, không được giấu gì hết.

Quách Phù nhìn Tiểu Long Nữ một cái, hơi đỏ mặt, nói:

– Mẹ!

Tiểu Long Nữ nghĩ đến Dương Quá, chẳng hơi đâu nghe Quách Phù kể lại chuyện nhị Võ tranh nhau, bèn đi về chỗ Dương Quá, vừa đi vừa nghĩ đến những lời Hoàng Dung vừa nói.

Quách Phù đợi Tiểu Long Nữ ra khỏi phòng, nói:

– Mẹ, nhị Võ ca ca sang doanh trại Mông Cổ hành thích Hốt Tất Liệt, thất thủ bị bắt, khiến cho gia gia bị trọng thương, toàn do hài nhi không tốt. Việc ấy hài nhi không nói, chẳng hóa ra uổng công cha mẹ thương con hay sao?

Rồi nàng thuật lại huynh đệ họ Võ cùng lấy lòng nàng thế nào, nàng bảo họ phải giết giặc lập công để cha mẹ hài lòng ra sao. Hoàng Dung rất tức giận, song không mắng nhiếc, chỉ hầm hầm nhìn con.

Quách Phù nói:

– Mẹ bảo con phải làm thế nào kia chứ? Huynh đệ họ mỗi người đều có cái hay, con không biết thích ai hơn. Con bảo họ phải giết giặc lập công, chẳng phải đó là tâm ý của cha mẹ hay sao? Ai bảo họ vô dụng, vừa đi đã bị bắt?

Hoàng Dung nói:

– Võ công của chúng nó không mạnh, ngươi còn lạ gì nữa.

Quách Phù nói:

– Dương Quá thì sao? Dương Quá chỉ hơn nhị Võ ca ca vài tuổi, sao vẫn địch nổi Kim Luân pháp vương và làm náo loạn doanh trại quân Mông Cổ, mà đâu có bị bắt?

Hoàng Dung biết con gái từ nhỏ được mình nuông chiều đã quen, nó thừa biết sai vẫn cố cãi bướng, nên không truy vấn chuyện đã qua, chỉ hỏi:

– Đã về thành rồi, hà cớ gì lại ra ngoài thành đánh nhau?

Quách Phù nói:

– Mẹ, tại mẹ đấy, chỉ vì mẹ bảo họ là hai tên đồ đệ bị thịt.

Hoàng Dung ngẩn người, hỏi:

– Ta nói thế bao giờ?

Quách Phù nói:

– Con nghe nhị Võ ca ca nói, hồi nãy Hoắc Đô trao chiến thư, mẹ sai nhị Võ ca ca bắt hắn, họ bị hắn điểm huyệt, nên mẹ mắng họ là đồ bị thịt.

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Tài nghệ kém người, còn biết nói sao? “Đồ đệ bị thịt” là Hoắc Đô hắn nói đó.

Quách Phù nói:

– Hoắc Đô hắn nói, mà mẹ không cải chính, tức là thừa nhận. Nhị Võ ca ca ức lắm, hai người nói này nói nọ, dẫn đến tranh cãi với nhau, đệ bảo huynh xuất thủ bắt Hoắc Đô quá chậm, huynh trách đệ chắn trước mặt, làm vướng chân tay. Đôi bên cãi nhau mỗi lúc một hăng, cuối cùng rút kiếm động thủ. Con bảo: “Hai người đánh nhau trong thành, để mọi người nhìn thấy, còn ra thể thống gì? Gia gia đang bị thương, hai người làm cho gia gia tức giận, thì muội sẽ không thèm nhìn mặt hai người nữa đâu”. Thế là họ nói: “Được, hai ta ra ngoài thành đánh nhau vậy”.

Hoàng Dung ngẫm nghĩ một lát, chán ngán nói:

– Trước mắt bao nhiêu việc nguy nan, chuyện này ta không quản nữa. Chúng nó thích gây sự thì mặc chúng.

Quách Phù níu cổ mẹ, nói:

– Mẹ, lỡ một trong hai người ấy bị tổn thương, thì con biết làm sao?

Hoàng Dung nổi giận:

– Chúng nó bị thương trong khi đánh địch, thì ta mới phải lo. Huynh đệ ruột thịt mà đánh lẫn nhau, có chết cũng đáng đời.

Quách Phù thấy thần sắc của mẫu thân nghiêm nghị, khác hẳn sự nuông chiều thường ngày, thì không dám nài nỉ, ôm mặt chạy đi.

Trời rạng sáng. Hoàng Dung một mình trong phòng, tuy giận huynh đệ họ Võ, nhưng đã nuôi dưỡng chúng từ nhỏ, nên cũng không thể bỏ mặc, lại nghĩ tới đại nạn hôm nay, bất giác nước mắt ứa ra. Nhớ đến thương thế của Quách Tĩnh, bèn đi sang phòng của chồng xem sao.

Quách Tĩnh đang ngồi vận công trên giường, sắc diện tuy nhợt nhạt, nhưng khí tức đã điều hòa, biết rằng chỉ cần nghỉ ngơi vài ngày sẽ đỡ, tình cảnh này lại làm cho Quách Tĩnh nhớ đến hồi trẻ, có lần hai người cùng dưỡng thương trong mật thất ở thôn Ngưu Gia phủ Lâm An.

Quách Tĩnh từ từ mở mắt, thấy có ngấn lệ trên mặt vợ, nói:

– Dung nhi, đã biết thương thế của ta không nguy hiểm, sao còn lo lắng? Dung nhi phải nghỉ ngơi mới được đó.

Hoàng Dung nói:

– Vâng. Mấy ngày nay Quách Phá Lỗ hoặc Quách Tương của Tĩnh ca ca trong bụng đạp dữ, chắc đòi gặp gia gia.

Hoàng Dung sợ Quách Tĩnh lo lắng, không nhắc đến việc Hoắc Đô chuyển chiến thư và huynh đệ họ Võ ra ngoài thành đánh nhau. Quách Tĩnh nói:

– Nàng hãy bảo nhị Võ tuần thị thủ thành, kẻ địch biết ta bị thương, e sẽ thừa cơ tập kích.

Hoảng Dung gật đầu đáp ứng. Quách Tĩnh lại nói:

– Thương thế của Quá nhi thế nào rồi?

Hoàng Dung chưa kịp trả lời, chợt nghe bên ngoài có tiếng chân, rồi giọng Dương Quá nói:

– Quách bá bá, điệt nhi chỉ bị ngoại thương, uống Cửu hoa ngọc lộ hoàn của Quách bá mẫu rồi thì không sao cả.

Đoạn đẩy cửa bước vào, nói:

– Điệt nhi đã ra bờ thành quan sát một vòng, mọi người đấu chí rất cao, chỉ riêng huynh đệ Võ gia…

Hoàng Dung ho một tiếng, nháy mắt với Dương Quá, chàng lập tức hiểu ý, nói tránh đi:

– Huynh đệ Võ gia bảo rằng Quách bá bá vì họ mà bị trọng thương, nếu quân địch kéo đến, họ quyết tử chiến để báo đáp ân đức của Quách bá bá.

Quách Tĩnh thở dài, nói:

– Sau chuyến này, hai đứa chúng nó cũng khôn ra được một chút, không nghĩ là việc thiên hạ quá dễ dàng nữa.

Dương Quá nói:

– Quách bá mẫu, cô cô không đi cùng với Quách bá mẫu hay sao?

Hoàng Dung nói:

– Ta trò chuyện với Long cô nương một lát, chắc là nàng ta về phòng ngủ rồi. Từ lúc ngươi bị thương về nàng ta chưa hề chợp mắt.

Dương Quá “ừm” một tiếng, nghĩ bụng Tiểu Long Nữ nói chuyện xong với Hoàng Dung, tất trở lại cho chàng biết, có điều là khi nàng trở lại, chàng đã ra ngoài mặt thành quan sát. Nguyên khi mới đến thành Tương Dương, chàng nhất tâm nhất ý giết vợ chồng Quách Tĩnh, nhưng sau mấy ngày ở bên, thấy hai người một lòng vì nước, không hề nghĩ đến bản thân, thì chàng rất cảm động. Tại quân doanh Mông Cổ, thấy Quách Tĩnh xả thân cứu hộ chàng, chàng mới quyết từ bỏ ý định giết vợ chồng họ, ngược lại, sẽ tận tâm báo đáp. Chàng tự biết chỉ còn bảy ngày nữa là chất độc hoa Tình sẽ phát tác, cốt sao trong thời gian ngắn ngủi còn lại làm được một hai việc tốt khỏi uổng làm người trên thế gian. Chàng cũng đoán Quách Tĩnh bị trọng thương, quân địch sẽ thừa cơ tấn công, nên vừa lại sức một chút đã ra ngoài mặt thành quan sát việc phòng bị.

Lúc này nhớ đến Tiểu Long Nữ, chàng định đi tìm nàng, bỗng nghe trên mái nhà, cách xa hơn mười trượng, vang lên tràng cười dài, tiếp đó có tiếng kim luân và thiết luân va nhau, chính là Pháp vương đã tới.

Quách Tĩnh hơi biến sắc, tiện tay kéo Hoàng Dung nấp ra phía sau mình. Hoàng Dung nói nhỏ:

– Quách ca ca, thành Tương Dương hệ trọng, hay là tình ái của hai ta hệ trọng hơn? Ca ca hệ trọng hơn, hay là muội hệ trọng hơn?

Quách Tĩnh buông tay Hoàng Dung, nói:

– Đúng, quốc sự trên hết!

Hoàng Dung cầm cây gậy trúc đứng trấn bên cửa, nghĩ bụng những lời mình nói với Tiểu Long Nữ, nàng ta chưa kịp kể lại với Dương Quá, không biết Dương Quá sẽ xuất thủ chống địch, hay là thừa cơ vừa báo tư thù, vừa để đổi lấy thuốc giải? Dương Quá tâm tính phù động, thiện ác khó biết, nếu hắn trở giáo theo giặc, thì đại sự ôi thôi, cho nên Hoàng Dung tuy cầm gậy trấn giữ cửa phòng, nhưng mục quang lại theo dõi Dương Quá.

Lời nói giữa hai vợ chồng Quách Tĩnh vừa rồi, Dương Quá nghe mà cảm thấy kinh tâm động phách. Chàng đã quyết ý trợ giúp Quách Tĩnh, cũng là vì cảm động trước đại nhân đại nghĩa của Quách Tĩnh, nay nghe bốn chữ “quốc sự trên hết”, lại nhớ hôm trước ở bên ngoài thành Tương Dương, Quách Tĩnh có nói “Vì nước vì dân, mới là bậc đại hiệp”, “cúc cung tận tụy, chết cũng cam lòng”, lòng bỗng nhẹ nhõm, nhìn vợ chồng Quách Tĩnh tình nghĩa sâu nặng với nhau, nhưng lúc lâm nguy, cả hai chỉ lo nghĩ cho đất nước trước tiên, bản thân chàng thì chỉ nghĩ đến mối thù riêng và ái tình giữa mình với Tiểu Long Nữ, có lúc nào nghĩ gì đến đại sự quốc gia? Có lúc nào nghĩ đến nỗi thống khổ của trăm họ trong thiên hạ? So với họ, chàng thấy mình quá thấp hèn.

Lúc này, câu mà Hoàng Dung từng dạy chàng hồi nhỏ ở đảo Đào Hoa “sát thân thành nhân, xả sinh thủ nghĩa” bỗng sáng rõ trong óc dị thường, thế là chí khí trỗi dậy. Nhìn cường địch trước mặt, sinh tử tồn vong chỉ trong đường tơ kẽ tóc, nhiều điều bình thời không nghĩ đến hoặc chưa hiểu, đột nhiên trở nên sáng tỏ lạ lùng. Tâm trí chàng vươn cao, tựa hồ thân hình cũng cao lớn hẳn lên, thần thái bừng sáng, dường như đã biến thành một người khác.

Bao nhiêu ý nghĩ diễn ra trong óc chàng, kỳ thực chỉ trong giây lát. Hoàng Dung thấy sắc mặt Dương Quá từ mơ hồ trở nên ngượng ngùng, từ cảm động trở nên kiên định, không biết chàng đang nghĩ gì, bỗng nghe chàng nói nhỏ:

– Quách bá mẫu cứ yên tâm!

Rồi chàng rút kiếm Quân tử chạy ra ngoài cửa. Kim Luân pháp vương mỗi tay cầm một cái luân, đứng trên mái nhà, cười nói:

– Dương huynh đệ, ngươi lươn lươn lẹo lẹo, sáng nắng chiều mưa, thành kẻ tiểu nhân phản phúc, thật là quá đáng.

Nếu là ngày trước, Dương Quá nghe câu đó hẳn đã nổi giận, nhưng lúc này chàng suy nghĩ đơn giản, tâm cảnh thanh thản, nghĩ thầm: “Lão nói không sai, phải đến hôm nay, tâm ý ta đã quyết. Dù sống trăm năm hay một giờ, ta vĩnh viễn không phản phúc nữa”, bèn cười nói:

– Pháp vương, lão nói đúng đấy. Chẳng hiểu ma xui quỉ khiến thế nào, ta lại giúp Quách Tĩnh chạy về. Nhưng từ khi vào thành Tương Dương, không biết ẩn thân nơi đâu, ta tìm mãi vẫn chưa ra, đang hối hận và chán nản đây. Lão có biết Quách Tĩnh trốn ở đâu hay không?

Đoạn nhảy lên mái nhà, đứng cách Kim Luân pháp vương vài thước.

Kim Luân pháp vương liếc chàng, nghĩ bụng tên tiểu tử này quỉ kế đa đoan, không biết hắn nói thật hay giả, cười hỏi:

– Nếu ta tìm thấy hắn thì sao?

Dương Quá đáp:

– Thì ta sẽ đâm một nhát.

Kim Luân pháp vương nói:

– Hừ, ngươi dám đâm hắn thật ư?

Dương Quá nói:

– Ai bảo là đâm Quách Tĩnh?

Kim Luân pháp vương ngạc nhiên:

– Vậy thì ngươi đâm ai?

Xoẹt một cái, kiếm Quân tử đâm vút tới sườn trái Kim Luân pháp vương, Dương Quá cười, nói:

– Dĩ nhiên là đâm lão!

Đôi bên đang cười nói, đột nhiên Dương Quá đâm đối phương một nhát, chiêu số dĩ nhiên rất lợi hại, lại bất ngờ ở khoảng cách rất gần, Kim Luân pháp vương nếu võ công chỉ như Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh, thì đã mất mạng vì nhát kiếm này rồi. Lão ta trong cơn nguy cấp biến chiêu thần tốc, vận kình vào cánh tay trái hất nhanh lưỡi kiếm ra, nhưng kiếm Quân tử vô cùng sắc nhọn, đã rạch một đường dài, sâu gần một tấc, trên cánh tay lão ta, máu tươi chảy ròng ròng.

Kim Luân pháp vương biết Dương Quá giảo hoạt, nhưng hoàn toàn không ngờ chàng lại đột nhiên xuất chiêu vào lúc này, khiến lão ta vừa đột nhập thành Tương Dương đã bị thương, mất cả nhuệ khí, liền cả giận, kim luân trong tay phải tức thời tấn công liên tiếp hai chiêu, thiết luân trong tay trái cũng đánh ra. Dương Quá không lùi một bước, địch đánh ba chiêu, chàng cũng đánh trả ba kiếm, cười, nói:

– Trong quân Mông Cổ, ta bị kim luân của lão đả thương, bây giờ mới trả được một nhát kiếm. Kiếm của ta có phần cổ quái đấy, lão biết hay không hả?

Ngân luân của Pháp vương không ngừng công kích, song lão không nhịn được, phải hỏi:

– Có gì cổ quái?

Dương Quá cười, nói:

– Cái sự cổ quái ấy không phải do ta, lão chớ trách ta.

Pháp vương nói:

– Hoa ngôn xảo ngữ, quân vô liêm sỉ! Cái gì mà đừng trách ngươi?

Dương Quá dương dương đắc ý, nói:

– Thanh kiếm này ta mang theo từ Tuyệt Tình cốc, Công Tôn Chỉ có bôi thuốc độc, nay mai lão trúng độc không chết, thì cứ đi tìm Công Tôn Chỉ mà tính sổ với hắn.

Kim Luân pháp vương giật mình, nghĩ bụng không lẽ kiếm của Công Tôn Chỉ có bôi thuốc độc, nửa tin nửa ngờ, lão xuất chiêu chậm lại. Kỳ thực lưỡi kiếm đâu có bôi thuốc độc. Dương Quá nhớ lúc Hoàng Dung dùng nước trà nóng dọa Hoắc Đô, tự biết võ công không địch nổi Kim Luân pháp vương, bèn dùng lời lẽ làm cho đối phương bối rối tinh thần, thấy nói một câu đã hiệu nghiệm, liền chăm chú phòng ngự, thừa cơ đánh trả một chiêu, không để cho đối phương có thời gian băng bó vết thương. Vết thương ở cánh tay trái của Kim Luân pháp vương tuy không nặng, nhưng máu cứ chảy không cầm, dù không trúng độc, để lâu cũng sẽ đại giảm tinh lực, lão thấy tình thế này nên tốc chiến, thế là vung ngay song luân tấn công tới tấp.

Dương Quá biết tâm ý của lão, dùng kiếm phòng thủ nghiêm mật dị thường. Kình lực của song luân càng lúc càng mạnh, kim luân chém dọc, ngân luân phạt ngang, Dương Quá thấy không cản nổi, bèn nhảy tránh. Pháp vương xé vạt áo định băng vết thương, Dương Quá lập tức đâm kiếm tới. Cứ thế mấy lần, Kim Luân pháp vương chờ lúc chàng nhảy tránh, lão cũng nhảy lùi để đôi bên cách xa nhau, lão vội vã băng bó vết thương, cảm thấy chỗ đó có đau, nhưng không tê dại, ngứa ngáy, xem chừng lưỡi kiếm không bôi thuốc độc, bụng yên tâm phần nào.

Lúc này ở phía đông nam nghe có tiếng binh khí va chạm mạnh. Dương Quá liếc về phía đó, thấy Tiểu Long Nữ đang vung kiếm giao đấu với Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh. Cây can bổng của Tiêu Tương Tử đã bị Dương Quá đoạt mất trong chiến trận với quân Mông Cổ, lúc hôn mê không biết Dương Quá vứt đi đâu, lúc này Tiêu Tương Tử lại cầm một cây can bổng giống hệt về hình dạng, chỉ không biết trong có chứa độc sa hay không. Dương Quá nghĩ hai vợ chồng Quách Tĩnh ở trong phòng bên dưới, nếu để Kim Luân pháp vương phát hiện, tai họa sẽ không nhỏ, phải dụ lão ta ra càng xa càng tốt, nhưng phải làm việc đó thật khéo, thế là chàng bèn nói:

– Cô cô, Quá nhi tới giúp cô cô đây!

Chàng nhảy mấy bước đã tới sau lưng Ni Ma Tinh, giơ kiếm đâm hắn.

Kim Luân pháp vương bị Dương Quá ám toán, dĩ nhiên tức lắm, nhưng mục đích chuyến đột nhập này là giết Quách Tĩnh, còn nhát kiếm cả tên tiểu tử kia để tính sổ sau cũng không muộn, thế là lão cất tiếng gào to:

– Quách Tĩnh Quách đại hiệp, lão nạp tới thăm đây, tại sao Quách đại hiệp không ra tiếp khách?

Lão gọi mấy tiếng, bốn bề không ai đáp lời, chỉ nghe phía tây bắc vọng lại tiếng hò hét, chính là hai đệ tử của lão, Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba, đang vây đánh Chu Tử Liễu. Lão thấy Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ đấu với Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh thắng bại khó phân, bên dưới nhà tiếng người ồn ào, đó là binh tướng giữ thành biết có kẻ địch đột nhập, nên kéo tới bắt gian tế. Kim Luân pháp vương biết quân sĩ không làm gì nổi lão, nhưng quân số quá đông, sẽ làm cho lão vướng víu chân tay, nên gọi to:

– Quách Tĩnh bớ Quách Tĩnh, uổng anh danh một đời của nhà ngươi, hôm nay hóa thành con rùa đen rụt cổ nơi nao?

Lão gọi thách đấu một hồi, rồi chửi rủa thậm tệ, song vẫn không thấy hình bóng Quách Tĩnh, thì nghĩ : “Thành Tương Dương vạn hộ nhân gia, biết tìm hắn trốn chỗ nào? Hắn cam tâm nhịn nhục, để hắn dưỡng thương xong, thì càng khó đối phó hơn”. Lão nghĩ giây lát, nảy ra độc kế, bèn nhảy từ trên mái nhà xuống đất, tìm thấy đống củi, cỏ ở nhà sau, lấy dụng cụ đánh lửa đốt lửa, châm cháy bốn, năm chỗ, rồi lại nhảy lên mái, nghĩ rằng khi lửa cháy lớn, kẻ trốn trong nhà sẽ phải chạy ra.

Dương Quá tuy tiếp chiến với Tiêu Tương Tử, nhưng ánh mắt vẫn chốc chốc theo dõi Kim Luân pháp vương, thấy lão ta đột nhiên phóng hỏa đốt nhà, hai phía nam bắc căn phòng của Quách Tĩnh đều có khói bốc lên, thì lo lắng, chút nữa bị thiết xà của Ni Ma Tinh quét ngang ngực, vội thót bụng nhảy tránh. Nếu không phải hôm qua Ni Ma Tinh bị Quách Tĩnh đánh gãy ba dẻ xương sườn, thì vừa rồi Dương Quá đã bị trọng thương bởi độc chiêu của hắn. Dương Quá nghĩ : “Hú vía!” Lại nghĩ : “Quách bá bá bị trọng thương, Quách bá mẫu sắp lâm bồn, lửa cháy lớn, nếu hai người không chạy ra khỏi nhà, tất bị chết thiêu, mà chạy ra, ắt chạm trán lão giặc trọc”. Bèn đành để một mình Tiểu Long Nữ đương đầu với hai đại cao thủ, chàng đâm gấp Tiêu Tương Tử hai nhát kiếm, rồi nhảy xuống đất, xông qua màn khói đi tìm vợ chồng Quách Tĩnh.

Chỉ thấy Hoàng Dung đang ngồi bên giường Quách Tĩnh, khói dày từ cửa sổ tràn vào. Quách Tĩnh nhắm mắt vận công, Hoàng Dung hai mày hơi cau, sắc diện thản nhiên, thấy Dương Quá bước vào thì mỉm cười. Dương Quá thấy hai người không hề hoảng hốt, thì cũng yên tâm, chợt nghĩ ra một kế, nói nhỏ:

– Điệt nhi đi dẫn dụ kẻ địch, Quách bá mẫu mau dìu Quách bá bá tạm lánh đến một chỗ yên ổn.

Đoạn chàng khẽ nhấc lấy chiếc mũ khỏi đầu Quách Tĩnh, vọt ra ngoài qua song cửa.

Hoàng Dung ngẩn người, chưa hiểu Dương Quá bày trò gì, thấy màn khói dồn tới gần, bèn đưa tay đỡ Quách Tĩnh, nói:

– Chúng mình chuyển sang chỗ khác.

Vừa định dùng sức, đột nhiên bụng quặn đau, bất giác thốt lên tiếng “Ối!” đành ngồi xuống giường, lòng đại hận: “Con quỉ con, không sớm không muộn, nhè đúng lúc này mà ra đời, định hại chết cha mẹ sao con?”

Dương Quá nhảy ra ngoài cửa sổ, thấy bốn bề binh sĩ hò hét, người thì xách nước dập lửa, người thì bắn tên lên mái nhà. Chàng nhảy tới sau lưng một binh sĩ mặc áo xám, điểm huyệt, chụp cái mũ của Quách Tĩnh lên đầu người ấy, rồi cõng anh ta, nhảy lên mái nhà, kiếm vung loạn xạ.

Lúc này Tiểu Long Nữ đang đấu với Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh, Chu Tử Liễu thì đấu với Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba, đều đã núng thế. Kim Luân pháp vương thì đang múa song luân cách mặt Quách Phù chỉ vài tấc, truy vấn nàng về chỗ ở của cha mẹ nàng. Quách Phù đầu tóc rối bời, trường kiếm đã bị Kim Luân pháp vương làm gãy mũi, đành nghiến răng chống đỡ, coi như không nghe thấy câu hỏi của đối phương, trong bụng tức giận nghĩ: “Nhị Võ ca ca nếu không ra ngoài thành đánh nhau, có phải bây giờ ba người liên thủ, sợ gì lão giặc trọc này?” Không nhịn được, nàng buột miệng nói:

– Được, hai người cứ tranh giành nhau đi, bất kể ai thắng, cũng đừng có vác mặt về gặp ta nữa!

Kim Luân pháp vương ngạc nhiên hỏi:

– Cô nương nói gì vậy? Rốt cuộc thì Quách Tĩnh đang ở đâu?

Lão đang chờ câu trả lời của Quách Phù, bỗng thấy Dương Quá cõng một người chạy về hướng tây bắc, người được cõng hẳn là Quách Tĩnh, thế là lão bỏ Quách Phù, đuổi theo Dương Quá. Bọn Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh, Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba thấy vậy cũng bỏ đối thủ, chạy theo Kim Luân pháp vương. Chu Tử Liễu không dám chậm trễ, lao theo để hỗ trợ Dương Quá hộ vệ Quách Tĩnh.

Lúc Dương Quá nhảy lên mái nhà, chạy qua chỗ Tiểu Long Nữ, đã nháy mắt với nàng, mỉm cười, Tiểu Long Nữ biết chàng lại bày mưu lừa địch, chưa hiểu là kế gì, thấy địch đông và mạnh, nàng không yên lòng, cũng định đuổi theo giúp chàng, bỗng nghe dưới nhà vọng lên mấy tiếng khóc oa oa của trẻ sơ sinh. Quách Phù vui mừng nói:

– Mẹ sinh tiểu đệ rồi?

Đoạn nhảy xuống sân. Tiểu Long Nữ nổi lòng hiếu kỳ, biết Dương Quá đa mưu túc trí, lúc nãy mỉm cười tức là bảo nàng cứ yên tâm, bèn xuống xem hài nhi Hoàng Dung vừa sinh thế nào, rồi sẽ tính sau.

Kim Luân pháp vương đuổi gấp, càng lúc càng gần Dương Quá, mừng thầm: “Để xem phen này mi có thoát nổi tay ta hay không?” Thấy kẻ Dương Quá cõng đầu đội chiếc mũ hôm qua Quách Tĩnh đội, hẳn đúng là Quách Tĩnh.

Khinh công phái Cổ Mộ mà Dương Quá học được có thể nói là thiên hạ vô song, tuy cõng theo một người, nhưng càng chạy xa thêm bước nào, Quách bá bá sẽ càng bớt nguy hiểm chừng ấy. Chàng cắm đầu chạy, Kim Luân pháp vương nhất thời chưa đuổi kịp. Sau khi chạy một hồi trên mái, nghe tiếng chân ngay sau lưng, Dương Quá liền nhảy xuống đất, chạy lòng vòng trong các ngõ phố để trốn Kim Luân pháp vương.

Khinh công của Dương Quá tuy cao hơn Kim Luân pháp vương, nhưng phải cõng một người, nếu ở ngoài đồng trống, chắc đã bị đuổi kịp, nhưng đây là các ngõ ngách dễ dàng lẩn trốn, cho nên Kim Luân pháp vương chưa đuổi kịp. Hai người cứ chạy lòng vòng. Tiêu Tương Tử, Ni Ma Tinh và Chu Tử Liễu trước sau cũng chạy tới.

Kim Luân pháp vương bảo Ni Ma Tinh:

– Ni Ma huynh, hãy chặn ở đầu hẻm, để ta vào lùa con thỏ ấy ra.

Ni Ma Tinh trừng mắt, nói:

– Tại sao ta phải nghe lệnh của lão kia chứ?

Kim Luân pháp vương nghĩ gã lùn người Thiên Trúc này không chơi được, bèn nhảy lên bờ tường, đưa mắt tứ phía, thấy Dương Quá cõng Quách Tĩnh đang đứng nghỉ ở một góc tường gần đó. Lão cả mừng, rón rén bò tới gần, đang định nhảy xuống chộp, thì Dương Quá thét to một tiếng, chạy vào trong một đám khói dày, biến mất tăm.

Kim Luân pháp vương phóng hỏa cốt buộc Quách Tĩnh phải chui ra. Lúc này khói bao trùm nhiều chỗ, hóa ra khó tìm người. Lão đang ngó nghiêng, bỗng nghe có tiếng Đạt Nhĩ Ba “Đây rồi!” Kim Luân pháp vương lần về phía đó, thấy Đạt Nhĩ Ba đang vung cây kim chử đấu với Dương Quá. Kim Luân pháp vương nhảy vọt đến, trước hết chặn đường rút của Dương Quá. Dương Quá vọt tới bên Đạt Nhĩ Ba, ngân luân của Pháp vương đã bay tới.

Thế bay của ngân luân như gió, Dương Quá không kịp tránh, ngân luân xoẹt qua vai chàng, hớt đi một mảng lưng của người chàng cõng. Kim Luân pháp vương cả mừng, quát:

– Trúng rồi!

Dương Quá bất kể người kia sống chết, lại phóng chạy.

Dương Quá chạy tới đầu hẻm, chợt nghe một giọng khê nồng:

– Tiểu tử, đầu hàng đi!

Chính là Tiêu Tương Tử cầm can bổng phục ở đầu hẻm. Lúc này Dương Quá trước có kẻ chặn, sau có truy binh, ngẩng mặt lên, trên bờ tường có Ni Ma Tinh chực sẵn. Dương Quá tung mình nhảy lên bờ tường, Ni Ma Tinh dùng thiết xà đánh thẳng xuống đầu muốn buộc chàng phải nhảy xuống đường hẻm. Dương Quá nghĩ mình đã dụ địch hồi lâu, Quách Tĩnh và Hoàng Dung nhất định đã thoát cơn nguy hiểm, bèn hất gã binh sĩ trên lưng về phía Ni Ma Tinh, nói:

– Quách Tĩnh đây, cho ngươi đấy!

Ni Ma Tinh kinh ngạc và vui mừng, nghĩ Dương Quá phản phúc đột nhiên lại đầu hàng, đem đại công trao sang tay hắn, bèn giơ tay đón lấy. Dương Quá tung cước đá một cái trúng mông, hất hắn xuống đường hẻm. Ni Ma Tinh reo to:

– Ta tóm được Quách Tĩnh rồi, ta trở thành “Đệ nhất dũng sĩ Mông Cổ” rồi!

Tiêu Tương Tử và Đạt Nhĩ Ba há để cho hắn độc chiếm công lao, xông tới giành giật. Ba người kéo chân tay gã binh sĩ kia mỗi người về một phía, sức kéo ghê gớm, xé luôn xác người kia thành ba mảnh, chiếc mũ đội đầu rơi ra. Ba người nhìn kỹ, thì ra không phải Quách Tĩnh, đều đứng ngây tại chỗ, không biết nói gì.

Kim Luân pháp vương thấy Dương Quá cõng Quách Tĩnh mà chạy, sớm đoán tất có mưu kế gì, lão không đuổi theo nữa, thấy ba tên kia đột nhiên đứng ngây tại chỗ, thì lão chửi:

– Hừ, tên tiểu tử khốn kiếp!

Lão nghĩ hôm nay nếu không tìm được Quách Tĩnh, nhất định phải giết tên tiểu tử Dương Quá gian trá phản phúc cho khỏi uổng công đột nhập thành Tương Dương.

Nhưng lúc này không biết Dương Quá đã trốn chỗ nào. Lão nghĩ thầm: “Dương Quá đã cõng Quách Tĩnh giả, đánh lừa ta tốn bao thời gian đuổi theo, tức là Quách Tĩnh vẫn ở chỗ gần nơi ta phóng hóa. Hắn đã dùng gian kế, thì ta tương kế tựu kế để tóm hắn vậy”. Bèn chạy về chỗ đang cháy mạnh nhất.

Dương Quá nấp dưới mái hiên một nhà nọ, quan sát động tĩnh, thấy Kim Luân pháp vương lại cắm cổ chạy về phía phòng ở của Quách Tĩnh. Chàng không biết Quách Tĩnh đã lánh đi xa chỗ đó chưa, trong lòng lo lắng, bèn bám theo. Chỉ thấy Kim Luân pháp vương chạy về gần đó, từ trên mái nhà nháy xuống đất, gọi to:

– Bớ Quách Tĩnh, thì ra ngươi vẫn chui rúc ở đây, mau ra tiếp lão nạp nào!

Dương Quá cả kinh, đang định nhảy xuống, bỗng nghe có tiếng binh khí va nhau, rồi tiếng kim Luân pháp vương quát to:

– Quách Tĩnh, đầu hàng cho mau!

Thì ra Kim Luân pháp vương dùng kim luân và thiết luân tự gõ vào nhau. Dương Quá cười thầm : “Lão giặc trọc, chút nữa thì ta mắc lừa lão, lão giả vờ vụng quá. Quách Tĩnh bị trọng thương, làm sao có thể dùng binh khí giao đấu với lão, sao lại cứ leng keng liên tiếp như thế kia chứ? Lão muốn lừa ta, ta nấp ở đây xem lão giở trò quỉ gì nữa”.

Bỗng nghe Pháp vương quát to:

– Dương Quá, lần này thì ngươi nhất định phải chết này!

Dương Quá ngạc nhiên: “Sao lần này ta lại phải chết?” Lập tức chàng hiểu: “Lão không dụ được mình ra, bèn dụ Quách bá bá ra cứu mình”. Lại nghe Pháp vương cười hô hố, nói:

– Dương Quá bớ Dương Quá, hôm nay ngươi được chết bởi tay ta, cũng coi như không uổng đâu.

Lời vừa dứt, từ trong đám khói có một bạch y thiếu nữ xông ra, vung kiếm đâm Pháp vương. Dương Quá gọi:

– Cô cô, Quá nhi ở đây cơ!

Nhưng Pháp vương đã múa kim luân chặn Tiểu Long Nữ lại. Nguyên Pháp vương la hét ầm ĩ, làm như Dương Quá đang gặp hung hiểm, Tiểu Long Nữ nghe vậy lo lắng, xông ra động thủ với lão ta. Dương Quá chạy tới, mỉm cười với Tiểu Long Nữ, sử “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, kiếm quang bao quanh người lão. Pháp vương thầm kêu khổ: “Phen này mình tự chuốc họa vào thân, để cho hai đứa chúng nó song kiếm hợp bích mất rồi”. Bốn bề khí nóng rừng rực, khói lửa lan rộng mù mịt.

Pháp vương cố sử dụng song luân chống đỡ song kiếm của hai người, vừa lùi gấp vào góc tây bắc. Dương Quá nói:

– Hôm nay không thể để cho lão ta đào thoát, phải diệt mầm họa này.

Mũi kiếm rung rung, thân theo kiếm đâm nhanh tới sau lưng Pháp vương.

Pháp vương từ sau lần thất thủ bởi “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, vẫn suy ngẫm cách đối phó với pho kiếm pháp này. Lão biết hai người song kiếm hợp bích, ảo diệu vô cùng, hai người tâm linh hợp nhất, thành một cao thủ võ học bốn chân bốn tay, khó lòng chống đỡ, lúc này trong cơn nguy cấp, biết pho “Ngũ luân đại chuyển” của mình có nhiều sơ hở, cũng đành phải thử thi thố một phen, liền thò tay vào bọc, thế là vù vù vù trong không trung bay vòng ba cái luân, mỗi tay cầm một luân. Ngũ luân kim, ngân, đồng, thiết (sắt), diên (chì) nặng nhẹ, lớn nhỏ khác nhau, lão liên tiếp liệng ra, cái bay theo mặt phẳng, cái bay theo mặt nghiêng.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ lập tức cảm thấy hoa cả mắt, hơi hoảng. Dương Quá đâm sang mé tả hai nhát kiếm, thân hình dựa sang bên phải. Tiểu Long Nữ hiểu ý kiếm Thục nữ đâm liên tiếp mấy nhát, chân di động dựa vào người Dương Quá. Hai người thấy chiêu số của địch quái dị, phải phòng thủ nghiêm mật, nhận rõ chiêu thuật của đối phương, rồi mới phản kích.

Ngũ luân của Pháp vương cứ bay vòng, lão thấy kiếm khí của hai người tung hoành, kết thành một đạo kiếm võng (tấm lưới đan bằng kiếm), ngũ luân uy lực tuy mạnh, song không thể lọt qua kiếm võng, thì tự than: “Ta thi triển ngũ luân mà chẳng làm gì nổi hai tên tiểu quỉ này song kiếm hợp bích”. Lão đang thất vọng, bỗng trong bọc của Tiểu Long Nữ phát ra hai tiếng khóc “oa oa” của trẻ sơ sinh. Không riêng Pháp vương, mà cả Dương Quá cũng kinh ngạc, chiêu số của cả ba người đều chậm lại.

Tiểu Long Nữ khẽ vỗ vỗ tay trái vào bọc, nói:

– Bé ngoan đừng khóc, hãy xem ta đánh lui lão hòa thượng này.

Nào ngờ đứa bé càng khóc to hơn. Dương Quá hỏi nhỏ:

– Quách bá mẫu phải không?

Tiểu Long Nữ gật gật đầu, đâm một kiếm về phía Pháp vương.

Pháp vương dùng kim luân gạt kiếm, lão nghe không rõ câu hỏi của Dương Quá, nhất thời chưa hiểu Tiểu Long Nữ ôm theo đứa bé sơ sinh để làm gì, nhưng nghĩ nàng bận bịu như thế, kiếm pháp tất đại giảm uy lực, bèn dùng kim luân tấn công tới tấp về phía nàng.

Dương Quá tiếp lấy thế công của Pháp vương, hỏi nhỏ:

– Quách bá bá, Quách bá mẫu đều ổn cả chứ?

Tiểu Long Nữ đáp:

– Hoàng bang chủ đã đưa Quách đại gia thoát khỏi đám cháy…

Bỗng “choang” một tiếng, nàng gạt đồng luân trong tay trái Pháp vương, lại nói:

– Lúc ấy tình thế nguy cấp, cái xà nhà sắp rơi xuống, thiếp bèn chộp lấy nữ hài nhi này…

Dương Quá đâm một kiếm vào đùi bên phải của Pháp vương, hóa giải diên luân của lão ta tấn công Tiểu Long Nữ, nói:

– Là nữ hài nhi ư?

Chàng nghĩ Quách Tĩnh đã có con gái, lần này sẽ sinh nam hài nhi, ai dè lại là một nữ hài nhi, thì hơi bất ngờ. Tiểu Long Nữ gật đầu, nói:

– Là nữ hài nhi, chàng mau đón lấy này…

Đoạn tay trái thò vào bọc, định đưa đứa bé sang cho Dương Quá.

Nhưng trong tiếng khóc của đứa bé, Pháp vương công kích dữ dằn, ba cái luân bay phía trên sẵn sàng đánh xuống đầu, hai cái luân trong tay lão càng thêm lợi hại. Dương Quá toàn lực chống đỡ vất vả, làm sao có thể tiếp nhận đứa bé? Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng mau ẵm đứa bé, cưỡi con ngựa hãn huyết mà…

Song luân của Pháp vương đánh tới trước mặt hai người, Tiểu Long Nữ chưa nói hết câu. Lúc này tâm trí mỗi người một ngả, “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” giảm hẳn uy lực.

Dương Quá nghĩ chỉ có mình đỡ lấy đứa bé, Tiểu Long Nữ mới không bị phân thần thất thủ, bèn dần dần xích lại bên nàng, Tiểu Long Nữ cũng đang định trao đứa bé cho Dương Quá, hai người tâm ý hợp nhất, song kiếm lại múa tít, buộc Pháp vương lùi hai bước. Tiểu Long Nữ tay trái trao đứa bé qua, Dương Quá chính đang chìa tay đón, bỗng thiết luân bay chếch tới, đụng vào đứa bé. Tiểu Long Nữ sợ đứa bé bị thương, bèn buông nó ra, tay trái chộp lấy thiết luân. Thiết luân bay đến uy mãnh, mép thiết luân sắc như đao kiếm, nhưng Tiểu Long Nữ mang bao tay bằng sợi kim ti, vừa chạm thiết luân liền thuận thế hất nó bay ra ngoài, vòng lên trên, rồi chộp luôn nó.

Lúc ấy Dương Quá đã tiếp lấy đứa bé, thấy Tiểu Long Nữ chộp được thiết luân, thốt lên:

– Hay lắm!

Cái thiết luân này nếu nhắm đánh Tiểu Long Nữ, thì nàng không thể chộp được, nhưng vì nó nhắm đánh đứa bé, nên nàng mới đắc thủ. Tiểu Long Nữ chộp được thiết luân thì rất cao hứng, song vẻ mặt vẫn thản nhiên, bắt chước chiêu thức của Pháp vương, dùng thiết luân tấn công đối phương, gọi là dùng gậy ông đập lưng ông.

Pháp vương vừa ngạc nhiên vừa hổ thẹn, ngũ luân bị mất một cái, “Ngũ luân đại chuyển” tức thời bị hóa giải, lão thu hồi hai luân, hai tay chỉ còn sử dụng kim luân và ngân luân.

Dương Quá tay trái ẵm đứa bé, nói:

– Hai chúng ta hãy giết lão giặc trọc này, mọi việc tính sau.

Tiểu Long Nữ nói:

– Được!

Tay trái cầm thiết luân che ngực, cùng với Dương Quá song kiếm nhất tề tấn công. Trong tay nàng có thêm một loại binh khí lợi hại, lại rảnh tay vì không phải lo cho đứa bé, lẽ ra uy lực phải tăng mạnh, nào ngờ sau mấy chiêu kiếm pháp vẫn không hài hòa với Dương Quá. Nàng càng đấu càng lấy làm lạ, không biết rằng diệu chỉ của “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” là hai người sử kiếm thuần nhất chung tình, bây giờ nàng lại có thêm cái thiết luân, chẳng khác gì có kẻ thứ ba xen vào giữa đôi tình nhân, như vậy làm sao tâm ý tương thông? Làm sao có thể hóa lòng nàng thanh lòng chàng? Hai người nhất thời chưa ngộ ra điều đó, lại đấu mấy hiệp, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Tiểu Long Nữ nóng ruột, nói:

– Hôm nay đấu không lại hắn, chàng mau mang đứa bé đến Tuyệt Tình cốc đi thôi…

Dương Quá đã hiểu dụng ý của nàng: Bây giờ nếu cưỡi con ngựa hãn huyết rời thành, thì nội nhật bảy ngày nhất định sẽ đến Tuyệt Tình cốc, tuy không lấy được thủ cấp của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, nhưng mang con gái của họ về, hai vợ chồng Quách Tĩnh bị mất ái nữ, sẽ tìm đến đây, bấy giờ Cầu Thiên Xích có thể tìm cách trả thù. Như thế, Cầu Thiên Xích sẽ phải bằng lòng trao nốt nửa xiên tuyệt Tình đơn” cho chàng. Đợi khi giải độc xong rồi, chàng sẽ có cách cứu đứa bé thoát hiểm. Kế hoãn binh của chàng, Cầu Thiên Xích không thể không chấp nhận. Nếu là hai ngày trước đây Dương Quá sẽ không chút do dự đi ngay, nhưng bây giờ chàng đã vô cùng khâm phục tấm lòng son của Quách Tĩnh đối với đất nước, chàng thật không nỡ vì mình mà đẩy đứa bé sơ sinh của Quách Tĩnh vào vòng hung hiểm. Nếu bây giờ mang đứa con của Quách Tĩnh đến Tuyệt Tình cốc, bất kể thế nào cũng là thừa cơ người ta gặp nguy, không phải là hành vi của bậc đại trượng phu, bởi vậy, chàng nghĩ một lát, rồi nói:

– Cô cô, thế không được!

Tiếu Long Nữ nói:

– Chàng…

Đang nói thì kim luân của Pháp vương làm rách vai áo bên trái của nàng. Dương Quá nói:

– Làm như thế, Quá nhi còn mặt mũi nào nhìn Quách bá bá? Còn mặt mũi nào sử thanh kiếm này?

Chàng giơ thanh kiếm Quân tử. Tâm ý chàng đã thay đổi, Tiểu Long Nữ thì toàn tâm toàn ý mong giải độc cho chàng, nghe chàng muốn đối xử tử tế với kẻ thù giết cha, muốn làm một bậc quân tử có đức, thì bất giác kinh ngạc dị thường. Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ, song kiếm càng khó phối hợp. Pháp vương thừa thế, thúc cùi chỏ trúng vai trái của Dương Quá.

Dương Quá cảm thấy nửa người tê dại, đứa bé chàng ẵm rơi xuống khỏi tay chàng. Ba người ác đấu trên mái nhà, đứa bé lúc này bị rơi xuống dưới đất. Dương Quá và Tiểu Long Nữ cùng kêu lên thảng thốt, muốn nhảy theo để đỡ, nhưng làm sao cho kịp?

Pháp vương nghe hai người đối đáp, đã biết đứa bé là con của Quách Tĩnh và Hoàng Dung, nghĩ đã không bắt được Quách Tĩnh, thì đành bắt con gái Quách Tĩnh làm con tin, rồi ép Quách Tĩnh đầu hàng, há không phải là một kỳ công? Thấy tình thế khẩn cấp liền vung tay phải, kim luân lập tức bay theo, đón đỡ bên dưới cái bọc bọc đứa bé.

Kim luân cách mặt đất dăm thước, bay theo đón đỡ bên dưới đứa bé, rồi bay ngang. Cả ba người cùng từ trên mái nhà nhảy xuống để đón lấy. Dương Quá đứng gần nhất, thấy kim luân bay thấp dần, sắp rơi xuống đất chàng bèn lăn một vòng tới đón lấy cả kim luân lẫn đứa bé, để đứa bé khỏi bị tổn thương. Đột nhiên từ bên cạnh có một cánh tay dài của ai đó vươn tới, chộp mất kim luân và đứa bé, phóng chạy đi liền.

Dương Quá đứng dậy, Pháp vương và Tiểu Long Nữ cũng chạy tới chỗ chàng. Tiểu Long Nữ nói:

– Là sư tỷ đấy.

Dương Quá thấy người kia mặc áo đạo bào màu vàng nhạt, tay phải cầm cây phất trần, nhìn sau lưng đúng là Lý Mạc Sầu, không biết từ đâu lại đến thành Tương Dương. Chàng biết người này tính nết nóng nảy, xuất thủ cực kỳ tàn bạo, đứa bé rơi vào tay mụ ta thì hậu quả sẽ tai hại vô cùng, bèn lập tức đuổi theo.

Tiểu Long Nữ gọi to:

– Sư tỷ! Sư tỷ! Đứa bé ấy có liên can lớn, sư tỷ mang nó đi đâu vậy?

Lý Mạc Sầu không hề ngoảnh lại, nói:

– Phái Cổ Mộ ta mấy đời đều là xử nữ, ngươi lại sinh con mà không biết xấu hổ hay sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không phải là hài nhi của muội đâu, sư tỷ mau trả lại cho muội.

Nàng gọi mấy lần, khí lực giảm sút, tức thời tụt lại phía sau hơn mười trượng. Thấy ba người chạy về phía bắc, nàng không đuổi theo nữa.

Lúc này binh mã trong thành kéo đến, tiếng hò hét râm ran, hoặc đốc thúc cứu hỏa, hoặc truy tìm gian tế, Tiểu Long Nữ chạy ra phía mặt thành, thấy Lỗ Hữu Cước dẫn một nhóm bang chúng Cái Bang đi tuần ở cửa bắc, đề phòng địch thừa cơ từ bên ngoài tấn công vào thành khi bên trong có đám cháy, thấy Tiểu Long Nữ, bèn hỏi:

– Long cô nương, Hoàng bang chủ và Quách đại hiệp có khỏe không?

Tiểu Long Nữ không trả lời, hỏi lại:

– Có thấy Dương công tử và Kim Luân pháp vương, có thấy một nữ nhân ẵm đứa bé qua đây hay không?

Lỗ Hữu Cước chỉ ra bên ngoài thành, nói:

– Ba người đã nhảy ra ngoài mà đi rồi.

Tiểu Long Nữ sững sờ, tường thành cao ngần này, võ công giỏi mấy nhảy xuống cũng gãy chân gãy tay là nhẹ, làm cách nào ba người kia nhảy xuống bình yên? Đang định hỏi, bỗng nhìn thấy một đệ tử Cái Bang đang dắt con ngựa hãn huyết của Quách Tĩnh, bèn nghĩ : “Quá nhi dù đoạt lại được đứa bé mà không có con ngựa quí này, thì làm sao về Tuyệt Tình cốc cho kịp?” Nàng bèn vọt tới, cầm cương ngựa, nói với Lỗ Hữu Cước:

– Tiểu nữ có việc gấp ở ngoài thành, tạm dùng con ngựa này.

Lỗ Hữu Cước chỉ nghĩ đến Quách Tĩnh và Hoàng Dung, lại hỏi:

– Hoàng bang chủ và Quách đại hiệp có khỏe không?

Tiểu Long Nữ nhảy lên lưng ngựa, nói:

– Hai người khỏe, nhưng đứa bé Hoàng bang chủ vừa sinh đã bị nữ nhân kia cướp đi, tiểu nữ phải đoạt lại mới được.

Lỗ Hữu Cước giật mình, vội ra lệnh mở cổng thành.

Cổng thành chỉ mở vài thước, cầu treo chưa kịp hạ xuống, Tiểu Long Nữ đã phóng ngựa ra. Con hãn huyết thần tuấn phi phàm, vó sau nhún mạnh một cái đã bay qua dòng mương hộ thành. Binh tướng trên thành thấy cảnh ấy đồng thanh reo hò.

Tiểu Long Nữ ra ngoài thành, thấy ở một góc dưới chân thành có xác hai binh sĩ máu thịt bầy hầy, một con chiến mã cũng nằm vỡ đầu gãy chân, phóng tầm mắt ra xa, chỉ thấy núi non xanh xanh, đồng hoang khô cằn, không thấy bóng ba người đâu cả. Nàng bồn chồn lo lắng, vỗ vỗ bờm ngựa, nói:

– Mã nhi, mã nhi, ta đi cứu ấu chúa của ngươi đây, mau đưa ta đi đến nơi nào!

Không biết con ngựa có hiểu tiếng người hay chăng, nó nghển cổ, hí một tiếng dài, tung vó phi về hướng đông bắc.

Nguyên Dương Quá và Kim Luân pháp vương đuổi theo Lý Mạc Sầu đến bờ thành, đều nghĩ tường thành cao thế kia, Lý Mạc Sầu không còn đường lui, tất phải dừng lại. Nào ngờ Lý Mạc Sầu túm ngay lấy một binh sĩ, ném xuống chân tường và nhảy theo. Đợi lúc thân hình binh sĩ kia sắp chạm đất, chân trái Lý Mạc Sầu liền đạp vào vai người đó một cái, triệt tiêu hết thế rơi, thân hình nhẹ nhàng đáp xuống mặt đất, ngay cả đứa bé trong bọc cũng không bị chấn động, còn gã binh sĩ kia thì gẫy cổ chết không kịp kêu một tiếng.

Kim Luân pháp vương chửi thầm: “Nữ nhân quá ư lợi hại!” Lão bắt chước y hệt, cũng quẳng một binh sĩ xuống và nhảy theo.

Dương Quá quyết không nỡ làm như thế với con người. Chàng đẩy một con chiến mã xuống bên dưới tường thành, lúc nó sắp chạm đất thì chàng đạp lưng nó nhảy lên, con ngựa ngã vỡ đầu gãy chân mà chết, chàng bình yên đáp xuống, đuổi theo sau Kim Luân pháp vương. Hôm trước chàng đại chiến trong quân doanh Mông Cổ, bị Kim Luân pháp vương đánh bị thương hai chỗ, tuy không nặng, nhưng mất nhiều máu, hôm nay lại khổ chiến mấy giờ, quả đã yếu sức lắm, nhưng nghĩ đứa bé bất luận rơi vào tay Lý Mạc Sầu hay Kim Luân pháp vương đều lành ít dữ nhiều, nên vẫn gắng sức đuổi theo.

Ba người cước trình vốn đều mau lẹ, nhưng Lý Mạc Sầu ẵm thêm đứa bé, Pháp vương thì cánh tay bị thương, lưỡi kiếm rốt cuộc có bôi thuốc độc hay không chưa rõ, chốc chốc cứ lo chất độc phát tác, không dám dùng lực nhiều, bởi vậy mỗi người đều chạy không nhanh bằng lúc khác, chạy được vài dặm, thành Tương Dương đã ở xa sau lưng, khoảng cách giữa ba người vẫn là hơn chục trượng, Pháp vương đuổi không kịp Lý Mạc Sầu, Dương Quá đuổi không kịp Pháp vương.

Lý Mạc Sầu chạy thêm một hồi, thấy phía trước đồi núi nhấp nhô, chạy vài dặm nữa, vào đến rừng núi, thì gia tăng cước bộ, cốt vào một sơn cốc để dễ bề thoát thân. Lý Mạc Sầu nghe Tiểu Long Nữ bảo đứa bé này không phải là con nàng ta, nhưng thấy Dương Quá quyết chí đuổi theo, thì đoán chắc đó là nghiệt chủng của chàng với Tiểu Long Nữ, chỉ cần nắm giữ đứa bé, thì sẽ có thể buộc Tiểu Long Nữ truyền thụ “Ngọc nữ tâm kinh” cho mụ. Ba người chạy lên cao dần, bốn phía là rừng cây, sơn đạo hiểm trở. Pháp vương nghĩ nếu không chặn lại e nữ nhân kia sẽ lẩn vào chỗ cây cối râm rạp thì càng khó tìm. Lão chưa từng động thủ với Lý Mạc Sầu nhưng thấy khinh công của mụ cao siêu, hẳn phải là kình địch, ngũ luân của lão đã mất đi hai cái, cũng không định phóng luân khỏi tay, nhưng tình thế cấp bách, không thể chần chừ thêm, thế là quát to:

– Bớ bà nương kia, mau đặt đứa bé xuống sẽ được tha mạng, nếu trái lời thì đừng trách lão hòa thượng vô tình.

Lý Mạc Sầu cười khanh khách, càng chạy nhanh hơn. Pháp vương vung tay phải, ngân luân vạch một đường cầu vồng màu trắng, xé gió bay tới sau lưng Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghe lai thế của binh khí kẻ địch rất lợi hại, không dám coi thường, đành xoay người lại, cầm cây phất trần chờ đợi, thấy ngân luân vòng gấp, ngân quang chói mắt, nếu để cây phất trần đụng luân, sẽ bị nó tiện gãy, đành né người tránh. Pháp vương sấn tới hai bước, đồng luân phóng đi, thoạt tiên nó bay ra ngoài, rồi mới vòng trở lại. Lý Mạc Sầu vẫn chưa dám tiếp chiến, phải lùi ba bước, cong người, dùng khinh công thượng thừa né tránh. Khoảng cách với Pháp vương chỉ còn chưa đầy ba trượng. Pháp vương tay trái đón lấy ngân luân, tay phải phóng diên luân đánh tới vai trái của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu múa cây phất trần thành vạn điểm kim châm khiến Pháp vương hoa mắt. Diên luân của Pháp vương hóa giải chiêu đó, tay phải lão tiếp lấy chiếc đồng luân bay về, hai tay giao nhau, ngân đồng hai luân đụng vào nhau, choang một tiếng vang động sơn cốc hồi lâu. Lúc này ngân luân bên tay trái đã chuyển sang tay phải, đồng luân bên tay phải đã chuyển sang tay trái, trong lúc di chuyển hai luân, lão thi triển sát chiêu. Lý Mạc Sầu gặp đại địch thì tinh thần phấn chấn, không ngờ lão hòa thượng cao gầy này lại xuất chiêu mạnh mẽ, thần tốc như thế, mụ liền thi triển sở học bình sinh mà ứng chiến.

Hai người đấu mấy chiêu, thì Dương Quá đuổi tới. Chàng đứng bên ngoài vài trượng quan sát, vừa điều hòa hơi thở, vừa chờ cơ hội đoạt lại đứa bé. Chàng thấy hai người càng đấu càng nhanh, ba cái luân bay lượn, một cây phất trần lật lên lật xuống. Nói về võ công và nội lực, Pháp vương đều cao hơn một bậc, huống hồ Lý Mạc Sầu tay còn phải ẵm đứa bé, nội dưới trăm chiêu, mụ ta ắt phải thua. Nào dè ban đầu mụ ta sợ binh khí của Pháp vương đả thương đứa bé, nhưng mỗi lần cái luân sắp đụng đứa bé, Pháp vương lại vội vàng thu chiêu, Lý Mạc Sầu nghĩ một chút liền ngộ ra: “Lão trọc muốn cướp đứa bé, tức thị không lấy mạng nó”. Với tâm tính độc ác của mình, dĩ nhiên mụ không cần quan tâm đến sự sống chết của người khác, một khi đã nhận ra tâm tư của Pháp vương, mỗi khi Pháp vương tung sát thủ, mụ không ngần ngại giơ đứa bé che đỡ chỗ yếu hại của mình, thế là đứa bé chẳng những không hề vướng víu, mà còn trở thành một tấm khiên cực kỳ uy lực, chỉ cần giơ nó ra, mọi tuyệt chiêu hung hiểm của Pháp vương đều phải lập tức thu hồi.

Pháp vương liên tiếp đánh mấy luân, đều bị Lý Mạc Sầu dùng đứa bé hóa giải, Dương Quá thấy vậy thì rất lo, hai người kia chỉ cần xuất thủ thiếu chuẩn xác một chút, còn gì là tính mạng đứa bé? Chàng đang định ra tay đoạt lấy đứa bé, thì thấy Pháp vương dùng ngân luân đánh từ ngoài vào trong, đồng luân từ tay trái cũng bay ra, song luân tạo thành một cái vòng ôm quanh hai vai Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu hơi đỏ mặt, thầm chửi Pháp vương xuất chiêu không giữ thể diện trang nghiêm của người xuất gia, bèn vung cây phất trần ra phía sau hất ngân luân đi, tay trái ẵm đứa bé che trước ngực. Pháp vương sớm tính đến điều này, lão búng ngón tay trái cho đồng luân đột nhiên bay chếch, tấn công mặt Lý Mạc Sầu.

Đồng luân cách Lý Mạc Sầu chưa đến một thước, đột nhiên bay chếch lên mặt, lai thế kình cấp dị thường, thực không dễ chống đỡ. Phải nói là Lý Mạc Sầu một đời tung hoàng giang hồ, trải vài trăm trận lớn nhỏ, kinh lịch lâm địch nhiều hơn hẳn Pháp vương, trong cơn nguy cấp liền ngửa người ra sau, hai chân bám vững như đóng đinh xuống đất, cây phất trần trả đòn, đánh vào vai đối phương. Pháp vương vội né vai cho cây phất trần sượt qua, tả chưởng thuận thế chém mạnh xuống vai trái của Lý Mạc Sầu. Cánh tay của Lý Mạc Sầu lập tức tê dại vô lực, khẽ kêu “Ôi chao!” nhảy tránh ra, cảm thấy tay nhẹ bẫng, đứa bé đã bị Pháp vương đoạt mất.

Pháp vương đang cả mừng, bỗng nghe tiếng gió bên cạnh, Dương Quá nhào tới đoạt lấy đứa bé rồi lăn đi ngay, trường kiếm múa tít thành một đạo kiếm võng che chắn phía sau, tiếp đó chàng đứng thẳng dậy, trường kiếm sử chiêu “Thuận thủy thôi chu”, ngăn chặn không cho hai kẻ địch tới gần. Nguyên chàng thấy đứa bé nằm trong tay Pháp vương, chỉ chậm một phiến khắc sẽ khó bề đoạt lại, bèn thừa lúc lão ta ẵm chưa chắc, nhào tới giành lấy, đứa bé truyền qua tay ba người chỉ trong giây lát.

Lý Mạc Sầu khen:

– Dương Quá, thủ pháp khá lắm!

Pháp vương cả giận, song luân cùng tấn công, tiếng ngân bất tuyệt. Dương Quá đâm kiếm nhứ nhứ, quay người định chạy, bỗng nghe sau lưng tiếng gió ù ù, Lý Mạc Sầu đã vung cây phất trần chặn lối, cười, nói:

– Dương Quá, đứng lại! Hãy đấu với lão hòa thượng, rồi sẽ tính sau!

Dương Quá thấy đồng luân của Pháp vương đã bay tới trước ngực chưa đầy nửa thước, đành dùng kiếm chống đỡ.

Hai người giao đấu liền mấy ngày, chiêu số, nội công của đối phương đều biết rõ, xuất thủ đều lấy nhanh đánh nhanh, chỉ thấy hai thân hình di động, ba đạo bạch quang bay lượn trên dưới, thoáng chốc đã đấu hơn hai chục chiêu. Lý Mạc Sầu thầm kinh ngạc:

– Sao mới cách ít ngày, mà võ công của tên tiểu tử đã tiến đến bước này?

Kỳ thực võ công của Dương Quá cố nhiên có bước tiến dài, một phần vì chàng tự biết mình còn được sống không lâu, để báo đáp ơn dưỡng dục của Quách Tĩnh, chàng quyết ý liều chết, gặp hiểm chiêu thường không tự cứu, lấy hiểm chiêu đánh trả hiểm chiêu, buộc Pháp vương phải biến chiêu. Dương Quá không lo cho tính mạng của mình, song lại lo cho sự an nguy của đứa bé, không như Lý Mạc Sầu dùng đứa bé che chắn nơi yếu hại của mình. Tuy chàng thấy lúc Pháp vương đấu với Lý Mạc Sầu, lão tránh đả thương đứa bé, song chàng nghĩ đây là đứa con của Quách Tĩnh, thật không dám sơ xuất mạo hiểm chút nào, chỉ lo bảo vệ đứa bé, thành thử càng lúc càng bị Pháp vương dồn vào thế cực kỳ hung hiểm.

Pháp vương thấy Lý Mạc Sầu chẳng thèm lo cho đứa bé, thì lão ta cố tránh đụng phải đứa bé, còn bây giờ thấy Dương Quá lo cho đứa bé, thì lão ta lại tấn công nhắm vào đứa bé nhiều hơn là nhắm vào Dương Quá. Điều đó làm cho Dương Quá luống cuống chân tay, không chống đỡ nổi, gọi to:

– Lý sư bá, mau giúp đệ tử đánh lui lão trọc, chuyện khác sẽ tính sau không muộn.

Lý Mạc Sầu biết Pháp vương sẽ không đả thương đứa bé, bất chấp Dương Quá lớn tiếng xin cứu trợ, mụ cứ chắp tay sau lưng, vẻ nhàn tản.

Lại đấu một hồi, Dương Quá cảm thấy ngực đau âm ỉ, biết nội lực của mình không bằng đối phương, sẽ không thể cầm cự lâu, lâu rồi không nghe đứa bé khóc, sợ có chuyện gì, giữa lúc túi bụi vẫn cúi đầu nhìn đứa bé một cái, thấy khuôn mặt nhỏ mi thanh mục tú, vô cùng xinh xắn, đang mở to đôi mắt đen láy nhìn chàng. Dương Quá vốn bất hòa với Quách Phù, song đối với nữ hài trong bọc này chàng bỗng có thiện cảm lạ thường: “Ta lúc này liều mạng vì bé, nếu may mắn cứu sống bé, bảy ngày sau ta chết đi, bé sẽ lớn lên như tỷ tỷ của bé, liệu lúc ấy bé có còn nhớ đến ta?” Quá xúc cảm, chàng ứa nước mắt.

Lý Mạc Sầu ở bên ngoài thấy Dương Quá thế cùng lực kiệt, sắp bỏ mạng bởi song luân, định xông vào cứu viện, nhưng lại nghĩ : “Tên tiểu tử này võ công đại tiến, vừa hay có lão hòa thượng diệt trừ hắn, khỏi lo sau này”. Thế là mụ tiếp tục tụ thủ bàng quan.

Trong ba người, Pháp vương võ công cao nhất, Lý Mạc Sầu tàn ác nhất, nhưng luận về quỉ kế đa đoan, thì họ thua Dương Quá. Sau cơn xúc động, chàng lập tức nghĩ cách thoát thân: “Quách bá mẫu từng kể chuyện Tam Quốc, rằng hồi ấy Tào Ngụy mạnh nhất, Thục Hán chống Tào, liên minh với Tôn Quyền”. Lý Mạc Sầu đã không chịu giúp mình, thì mình giúp Lý Mạc Sầu vậy, bèn đâm liền hai kiếm ngăn chặn Pháp vương, rồi lùi nhanh hai bước, đột nhiên trao đứa bé cho Lý Mạc Sầu, nói:

– Cho sư bá đấy!

Việc này hoàn toàn bất ngờ đối với Lý Mạc Sầu, mụ ta chưa rõ dụng ý của chàng, thuận tay đón lấy đứa bé.

Dương Quá nói:

– Lý sư bá, mau ẵm đứa bé chạy đi, để đệ tử ngăn chặn lão giặc trọc cho!

Chàng đâm hai kiếm, không cho Pháp vương tới gần. Lý Mạc Sầu nghĩ : “Thì ra hắn tưởng mình sẽ nể tình sư môn, không sát hại đứa bé, trong cơn nguy cấp bèn trao đứa bé cho mình, thật không còn gì bằng”. Mụ không ngờ hiểm kế của Dương Quá chĩa mũi dùi ác đấu sang phía mụ. Mụ vừa chạy thì Pháp vương lập tức bỏ Dương Quá, dùng ngân luân tấn công sau lưng mụ. Chiêu này cực nhanh, Lý Mạc Sầu vừa dợm bước chạy, ngân luân đã như hình với bóng, bay tới sau lưng mụ. Lý Mạc Sầu không còn cách nào khác, đành quay lại dùng cây phất trần chống đỡ.

Dương Quá thấy mưu kế hữu hiệu thì thở phào nhẹ nhõm. Chàng lo cho đứa bé, không tụ thủ bàng quang chờ hai đấu thủ lưỡng bại câu thương, làm ngư ông đắc lợi mà hít một hơi dài, tiếp đó vung kiếm tấn công Pháp vương.

Lúc này là chính ngọ, ánh nắng qua kẽ lá rọi xuống dưới. Dương Quá phấn chấn, trường kiếm càng đắc tâm ứng thủ, nghe “keng” một tiếng, đồng luân bị kiếm Quân tử chém mẻ một miếng. Pháp vương thầm lo, xuất chiêu càng lợi hại hơn. Dương Quá chợt nghĩ ra một kế, nói:

– Lý sư bá! Sư bá hãy cẩn thận với cái luân kia. Nó bị kiếm của đệ tử đánh mẻ, đã dính độc, sư bá đừng để nó chạm vào da thịt.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Tại sao?

Dương Quá nói:

– Vì kiếm của Dương Quá có bôi thuốc độc rất lợi hại!

Ban nãy Pháp vương bị kiếm Dương Quá rạch một đường ở cánh tay, vẫn ngay ngáy lo lưỡi kiếm có bôi thuốc độc, nhưng đánh nhau hồi lâu, vết thương không có dị cảm, lão đã yên tâm, bây giờ nghe Dương Quá nhắc đến, bất giác lại giật mình : “Công Tôn Chỉ là kẻ nham hiểm, chỉ sợ lưỡi kiếm quả có bôi thuốc độc”. Vừa nghĩ thế, nhuệ khí lập tức giảm hẳn.

Lý Mạc Sầu vung cây phất trần, nói:

– Quá nhi, hãy dùng kiếm có độc mà đâm lão ta.

Đoạn vung tay, làm như phóng ám khí ra. Pháp vương múa luân che chắn vùng ngực. Lý Mạc Sầu vừa rồi hư trương thanh thế, thấy Pháp vương võ công cao cường, có phóng băng phách ngân châm cũng vô ích, chỉ cần ngăn trở lão ta, thế là thoát ra khỏi uy lực của song luân.

Pháp vương tuy nghi ngờ kiếm của Dương Quá có bôi thuốc độc, song vết thương không ngứa, cũng không sưng, quả không muốn đi chuyến này phải về tay không, thấy Lý Mạc Sầu bỏ chạy, bèn đuổi gấp.

Dương Quá nghĩ cứ đánh đuổi kiểu này, không biết bao giờ mới chấm dứt, để cho đứa bé phải chịu cảnh phong hàn giữa trời, dù có cứu được, sau này cũng khó nuôi, chỉ có hai người hợp lực đánh lui Pháp vương, mới là thượng sách, bèn gọi to:

– Lý sư bá, không cần chạy nữa! Lão giặc trọc bị trúng độc rồi, chẳng sống được lâu nữa đâu.

Lời vừa dứt, chỉ thấy Lý Mạc Sầu chui vào một cái hang trên sườn núi.

Pháp vương sững lại, không dám xông vào. Dương Quá không biết Lý Mạc Sầu cướp đứa bé để làm gì, chỉ sợ mụ ta hạ độc thủ, chàng sớm đã bất kể hiểm nguy, liền giữ kiếm che ngực, xông vào hang, thấy ngân quang loang loáng, chàng vung kiếm gạt rơi ba mũi băng phách ngân châm, nói:

– Lý sư bá, là đệ tử đây!

Trong hang tối om, nhưng hai mắt chàng đã quen nhìn trong bóng tối, thấy Lý Mạc Sầu tay trái ẵm đứa bé, tay phải còn cầm mấy cái băng phách ngân châm, chàng bèn xoay mình ra phía ngoài để thể hiện thiện ý, nói:

– Hai chúng ta hãy liên thủ đánh lùi lão giặc trọc đã.

Chàng cầm kiếm giữ cạnh cửa hang.

Pháp vương đoán hai người nhất thời chưa dám xông ra, bèn ngồi xuống bên ngoài cửa hang, cởi băng ra xem vết thương, thấy chỗ đó hồng tươi, không có dấu hiệu trúng độc, lấy tay ấn vào, có cảm giác hơi đau, lại thử vận công, tứ chi bách hạch không có chỗ nào bế tắc, thì vừa mừng vừa giận, mừng vì lưỡi kiếm của Dương Quá không hề bôi thuốc độc, giận vì mắc lừa tên tiểu tử, lo ngay ngáy cả nửa ngày trời. Nhìn vào hang, thấy cửa hang cỏ mọc cao, chỉ vừa rộng cho một người chui vào, thân hình lão cao lớn, chui vào đó xoay trở rất bất tiện, e rằng sẽ bị người nấp bên trong ám toán.

Lão chưa nghĩ ra cách gì, bỗng nghe có tiếng gọi của gã lùn người Thiên Trúc là Ni Ma Tinh:

– Đại hòa thượng, lão đang ở đâu?

Pháp vương đáp:

– Lão nạp ở đây, có ba con thỏ chui vào hang, lão nạp phải lùa chúng chạy ra.

Ni Ma Tinh sau khi vào thành Tương Dương, trên đường trở về quân doanh Mông Cổ, từ xa nhìn thấy ba chiếc luân của Pháp vương bay lượn, biết lão ta đang động thủ, bèn định rõ phương hướng, chạy đến, thấy lão ta đang chăm chú theo dõi cửa hang, thì mừng thầm, hỏi:

– Quách Tĩnh trốn vào trong cái hang ấy ư?

Pháp vương nói:

– Hừ, một con thỏ đực, một con thỏ cái, một chú thỏ con.

Ni Ma Tinh càng mừng, nói:

– Ồ! Trừ vợ chồng Quách Tĩnh, còn có cả tên tiểu tử Dương Quá.

Pháp vương không buồn để ý đến lời nói của Ni Ma Tinh, nhìn tứ phía, đã có chủ định, đi vơ cỏ khô và củi ném trước cửa hang, đốt lửa. Lúc này gió tây nam thổi mạnh, đẩy từng luồng khói dày vào trong hang.

Khi Pháp vương chất củi, Dương Quá đã biết ý đồ của lão ta, chàng nói với Lý Mạc Sầu:

– Đệ tử đi sâu vào hang, xem có lối khác thoát ra hay không.

Rồi chàng đi vào trong, chừng bảy, tám trượng thì đến chỗ tận cùng, liền quay ra, nói nhỏ:

– Lý sư bá, bọn chúng hun khói, chúng ta phải làm thế nào?

Lý Mạc Sầu nghĩ : “Xông ra thì đấu không lại lão hòa thượng, nấp trong hang dĩ nhiên chết ngạt, chỉ còn cách vứt bỏ đứa bé, một mình thoát đi, mình với lão hòa thượng vô oán vô cừu, lão ta sẽ không bám theo mình nữa”. Thế là mụ chẳng lo, chỉ cười khẩy.

Lát sau, khói dồn vào hang càng dày hơn, Dương Quá và Lý Mạc Sầu nín thở, nhất thời không sao, nhưng đứa bé thì vừa ho vừa khóc. Lý Mạc Sầu cười nhạt, hỏi:

– Ngươi thương nó lắm hả?

Dương Quá đã ẵm đứa bé mà xả thân ác đấu, trong lòng nảy sinh tình yêu thương nó, nghe nó khóc ngằn ngặt, bèn nói:

– Để đệ tử ẵm nó cho!

Chàng giơ hai tay, lại gần hai bước. Lý Mạc Sầu quát:

– Đừng lại gần ta! Ngươi không sợ băng phách ngân châm ư?

Dương Quá lùi lại, nghe bốn chữ “băng phách ngân châm”, bỗng nhớ lại hồi nhỏ, lần đầu tiên gặp Lý Mạc Sầu, chàng chỉ cầm ngân châm trong tay một lát, thân đã bị trúng độc. Chàng liền xé vạt áo, bọc mấy ngón tay phải, đi ra gần cửa hang nhặt ba cái ngân châm mà Lý Mạc Sầu phóng lúc chàng bước vào hang, chàng cắm chuôi ngập dưới đất, chĩa mũi nhọn lên trên chừng một tấc, lại phủ một chút cát mỏng che mũi ngân châm khỏi sáng. Lúc này bên ngoài cửa hang chất củi cỏ, khói lại dày, nên Pháp vương và Ni Ma Tinh không nhìn thấy chàng làm gì ở bên trong.

Dương Quá bố trí xong, trở vào, nói nhỏ:

– Đệ tử đã có kế đánh lui kẻ địch, sư bá hãy nựng cho đứa bé đừng khóc.

Rồi chàng nói to:

– Hay quá, đằng sau hang có lối ra, chúng ta đi mau thôi!

Giọng nói đầy vẻ mừng rỡ. Lý Mạc Sầu kinh ngạc, còn ngỡ quả thật có lối thoát ra khỏi hang. Dương Quá ghé tai nói rất nhỏ:

– Là giả đó, đệ tử muốn đánh lừa lão trọc.

Pháp vương và Ni Ma Tinh nghe tiếng reo vui mừng của Dương Quá, tiếp đến trong hang im lìm, tiếng khóc của đứa bé nhỏ dần rồi lặng hẳn, tưởng rằng mấy người trong hang đã chuồn ra cửa hậu. Ni Ma Tinh không nghĩ nhiều, phóng ngay sau dốc núi để đón đầu. Pháp vương khôn ngoan hơn, lão nghe kỹ tiếng khóc của đứa bé chỉ nhỏ đi, chứ không phải xa dần, biết là Dương Quá giả trá, lừa cho lão ra sau núi sẽ mang đứa bé thoát ra cửa trước, bèn cười thầm, nghĩ : “Cái kế điệu hổ ly sơn của ngươi cũng đòi mang ra thi thố với ta ư?” Bèn nấp ở bên cạnh cửa hang, lăm lăm ngân luân, chờ Dương Quá bước ra.

Dương Quá gọi:

– Lý sư bá, lão trọc đi rồi, chúng ta ra thôi.

Rồi chàng hạ giọng, nói rất nhỏ:

– Chúng ta cùng kêu thét dụ lão trọc vào hang.

Lý Mạc Sầu chưa rõ mưu kế của Dương Quá, nhưng biết tên tiểu tử này cực kỳ giảo hoạt, chính mụ từng bị vài vố với chàng, chắc chàng đã bố trí đâu ra đó, mụ nắm đứa bé trong tay, chỉ cần đuổi được Pháp vương đi, lo gì không đem đứa bé đổi lấy “Ngọc nữ tâm kinh”, bèn gật đầu.

Hai người cùng kêu lên “Ôi chao!” Dương Quá giả trang bị thương rất nặng, rên rỉ nói:

– Sư bá… tại sao lại… hạ độc thủ… với đệ tử?

Rồi nói nhỏ:

– Sư bá hãy giả vờ sắp bỏ mạng.

Lý Mạc Sầu liền nói to:

– Được, hôm nay dù… ta bị chết bởi tay ngươi, cũng không thể để cho ngươi… sống sót.

Càng về cuối, tiếng nói càng lịm dần như đứt hơi. Pháp vương ở bên ngoài nghe vậy cả mừng, nghĩ hai người tranh giành đứa bé, chưa ra đến bên ngoài đã tàn sát lẫn nhau, xem chừng đều lưỡng bại câu thương. Lão ta sợ rằng đứa bé cũng bị chết, thì không còn gì để uy hiếp Quách Tĩnh, bèn gạt củi, xông vào hang, mới đi được hai bước, chợt thấy gan bàn chân trái đau nhói.

Lão ứng biến cực nhanh, lập tức nhún mạnh chân phải, bật ra khỏi hang, lúc chân trái chạm đất thì đùi tê dại, suýt nữa bị ngã. Với nội công thâm hậu, dù có bị chém vài nhát, khi nhảy như thế lão cũng vẫn đứng vững như thường, đằng này… Lão biết gan bàn chân đã đạp phải ám khí cực độc, định cởi hài ra xem sao, thì Ni Ma Tinh trở lại, nói:

– Tên tiểu tử đánh lừa đấy, đằng kia không có lối ra, Quách Tĩnh và vợ hắn vẫn còn ở trong hang.

Pháp vương không cởi hài nữa, thản nhiên nói:

– Ni Ma huynh đoán đúng, nhưng trong hang không hề thấy động tĩnh gì, chắc là chúng nó bị ngất đi vì hun khói rồi.

Ni Ma Tinh cả mừng, không ngờ cuối cùng hắn lại có dịp bắt sống Quách Tĩnh. Hắn cũng chẳng nghĩ tại sao Pháp vương không đoạt lấy công lao đó, hắn múa thiết xà che đỡ chỗ yếu hại trước mình, tiến thẳng vào trong hang. Ba mũi băng phách ngân châm Dương Quá đã cắm giữa lối, bất kể kẻ tiến vào là ai cũng sẽ giẫm trúng. Ni Ma Tinh đạp chân phải trúng ngân châm, bị đau chưa kịp dừng, thì chân trái cũng đạp trúng mũi ngân châm khác. Thiên Trúc là xứ nhiệt đới nóng bức, người nước ấy đi chân đất, Ni Ma Tinh cũng không đi hài, tuy da bàn chân dày như da bò, nhưng ngân châm rất sắc nhọn, đã cắm sâu vào da thịt hơn tấc. Ni Ma Tinh tính khí táo tợn, cái đau nhỏ dưới chân hắn không coi ra gì, dùng thiết tiên quét sát đất một lượt, nghĩ không còn cái gai nào nữa, đang định bước tiếp vào để bắt sống vợ chồng Quách Tĩnh, thì hai chân bỗng tê dại, đứng không vững, ngã khuỵu xuống, mới biết đã trúng độc, vội lăn ra khỏi hang. Ra đó, hắn thấy Pháp vương cởi hài, chân trái bị sưng tím, đang vận khí ngăn chất độc lan rộng.

Ni Ma Tinh cả giận, chửi:

– Lão trọc khốn kiếp, lão thừa biết bị trúng độc, sao còn nói để ta mắc lừa?

Pháp vương mỉm cười, nói:

– Ta mắc lừa, huynh cũng mắc lừa, ai thiệt hơn ai kia chứ?

Ni Ma Tinh không nén nổi cơn giận, quát lớn:

– Ni Ma mỗ hôm nay cóc cần bắt Quách Tĩnh nữa, đã thế ta cùng chết với lão trọc khốn kiếp!

Hai chân hắn đã tê hệt, hắn dùng tay trái đẩy xuống đất, lăn mình tới, thiết xà trong tay phải quật xuống đầu Pháp vương. Pháp vương giơ đồng luân gạt thiết xà, tiếp đó thúc ngang cùi chỏ một cái. Ni Ma Tinh không tránh được, bị trúng đòn vào vai.

Ni Ma Tinh gân cốt tuy săn chắc, nhưng bị cú thúc đau điếng, nổi trận lôi đình, bất kể sống chết, ôm ghì lấy Pháp vương mà há to mồm cắn một cái trúng huyệt Khí Xả ở cổ Pháp vương. Nếu là lúc khác, Pháp vương đâu để cho hắn lại gần ôm lấy mình? Dù có ôm được, cũng không đời nào có thể cắn trúng đại huyệt của lão? Nhưng lúc này Pháp vương biết rằng bàn chân bị trúng độc châm rất nặng, lão phải dồn toàn bộ nội lực chống lại khí độc, không để cho khí độc chạy qua huyệt Khúc Tuyền nằm giữa bắp chân và bắp đùi. Làm được như thế, dù bị phế bỏ một bên chân cũng không đến nỗi mất mạng, cho nên lúc Ni Ma Tinh lăn tới, lão đã không còn nội lực, chỉ dùng ngoại công chống trả. Ni Ma Tinh thì dốc toàn lực cắn vào huyệt đạo đối phương, giữ chặt răng tại chỗ.

Pháp vương khoèo chân phải một cái, hai chân của Ni Ma Tinh đã liệt, cả hai người cùng ngã chổng kềnh. Pháp vương dùng tay đẩy đối phương ra, nhưng đại huyệt bị chế ngự, lực cánh tay yếu hẳn, làm sao đẩy nổi? Lão đành đưa bàn tay ra sau, úp lên huyệt Đại Chùy ở gáy, đề phòng Ni Ma Tinh hạ độc thủ lấy mạng lão ta. Hai người vốn là đệ nhất cao thủ, nhưng sau khi bị trúng độc, đánh nhau cận thân kiểu này thì cả hai chẳng còn giữ thể diện gì nữa.

Hai người lăn dưới đất, lăn dần đến mép vực. Pháp vương thấy trước, kêu to:

– Mau buông tay ra, chỉ tiến thêm chút nữa, cả hai sẽ đều lăn xuống vực nát xương bây giờ!

Nhưng Ni Ma Tinh lúc này đã mất hết lý trí. Hắn không vận khí chống chọi chất độc nên nội lực thâm hậu hơn hẳn Pháp vương, cứ dùng sức mà đẩy tới, Pháp vương không chặn lại nổi. Thấy còn cách mép vực chỉ vài thước, bên dưới là vực sâu, Pháp vương tình cấp trí sinh, gọi to:

– Quách Tĩnh ra kìa!

Ni Ma Tinh giật mình, hỏi:

– Nó đâu?

Hắn nói, thế là răng đã buông huyệt đạo của Pháp vương. Pháp vương vận sức vào tả chưởng, đánh vào mặt Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh biết mắc lừa, cúi đầu tránh, cong lưng húc thẳng. Chưởng này của Pháp vương vốn chỉ cốt Ni Ma Tinh phải lùi ra sau, lão quên mất rằng hai chân của đối phương đã trúng độc, không còn tuân theo sự điều khiển, làm sao lùi ra sau được nữa? Thấy đối phương không lùi, mà còn húc về phía mình, Pháp vương kinh hãi, cơ thể cả hai lại ôm lấy nhau, bỗng cảm thấy bên dưới trống không, cả hai cùng rơi xuống vực.

Lý Mạc Sầu thấy kỳ mưu của Dương Quá thành công, thầm thán phục tên tiểu tử quả nhiên lợi hại, nghe tiếng hai kẻ ở bên ngoài quát tháo ẩu đả, biết đã không còn nguy hiểm, bèn cất bước đi ra khỏi hang, thì vừa hay nghe tiếng rú kinh hãi của Pháp vương cùng Ni Ma Tinh phát ra khi bị rơi xuống vực.

Mép vực cách cửa hang hơn mười trượng, lại có một khối đá che khuất, nên từ trong hang không nhìn được, không biết hai người kia gặp chuyện gì, Lý Mạc Sầu nói:

– Này tiểu tử, họ làm trò gì vậy?

Dương Quá không ngờ hai người kia lăn xuống vực, trầm ngâm nói:

– Lão trọc rất xảo quyệt, chúng ta giả trang đấu nhau bị thương, không chừng lão ta cũng bắt chước y hệt để lừa chúng ta.

Lý Mạc Sầu cũng nghĩ thế, nói nhỏ:

– Hừ, hắn định lừa ta ra khỏi hang để lấy thuốc giải của ta.

Mụ chậm rãi tiến ra cửa hang để ngó ra ngoài xem thử, Dương Quá nói:

– Cẩn thận, có ngân châm ở dưới đất.

Lời vừa buột miệng, chàng liền hối hận: “Hà tất có thiện chí nhắc nhở nữ ma đầu?”

Lý Mạc Sầu giật mình, vội thu chân lại. Lúc này lửa ở cửa hang đã tắt, trong hang lại tối mò, mụ không thể nhìn trong bóng tối như Dương Quá, không biết ba mũi ngân châm cắm ở chỗ nào, nếu cứ đi liều, tất đạp phải. Tuy mụ có thuốc giải, nhưng chất độc của ngân châm rất mạnh, chữa trị sẽ đau đớn, hơn nữa, khi đó Dương Quá sẽ thừa cơ tấn công, chỉ e tính mạng cũng khó giữ, bèn nói:

– Ngươi mau thu dọn ngân châm, còn đứng ngây ở đó làm gì thế?

Dương Quá nói:

– Hãy đợi một chút, để hai người kia chết vì chất độc, chúng ta sẽ ra cũng không muộn.

Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, quả thật mụ e ngại Dương Quá, ở trong cái hang tối mò đầy rẫy nguy hiểm, võ công của mụ chưa chắc đã hơn, mưu trí càng thua kém, cứ cúi đầu nghĩ cách ra khỏi hang.

Bên ngoài hang tĩnh lặng, hai người trong hang mỗi người im lặng theo đuổi ý nghĩ của mình. Đột nhiên đứa bé khóc to, từ lúc chào đời nó chưa được bú, bây giờ đói bụng.

Lý Mạc Sầu nói:

– Sư muội đâu rồi? Nàng ta đến hài tử của mình bị đói cũng bỏ mặc ư?

Dương Quá nói:

– Ai bảo đó là hài tử của cô cô? Đấy là con gái của Quách Tĩnh Quách đại hiệp.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, ngươi đem uy danh Quách đại hiệp đe dọa ta, tưởng ta sợ ư? Nếu là con của kẻ khác, ngươi đâu lo lắng cho nó đến thế? Chắc nó là nghiệt chủng của hai sư đồ nhà ngươi.

Dương Quá cả giận, gằn giọng:

– Đệ tử quyết ý kết hôn với cô cô thật đấy, nhưng đôi bên chưa thành thân, làm sao có con kia chứ? Sư bá nói thế không biết ngượng mồm hay sao?

Lý Mạc Sầu cười khẩy, bĩu môi nói:

– Ngươi bảo ta ngượng mồm, sao ngươi và sư phụ ngươi lại xằng bậy với nhau?

Dương Quá đối với Tiểu Long Nữ kính nể như thần thánh, đâu cho phép kẻ khác miệt thị nàng như vậy. Chàng càng tức giận, quát:

– Sư phụ của ta băng thanh ngọc khiết, sư bá chớ có ăn nói hồ đồ.

Lý Mạc Sầu nói:

– Băng thanh ngọc khiết ư? Tiếc rằng vết son trinh nữ trên cánh tay đã không còn.

Xoẹt một tiếng, Dương Quá đã rút kiếm đâm tới ngực Lý Mạc Sầu, nói:

– Sư bá chửi ta không sao, nhưng xuất ngôn làm nhục sư phụ ta, thì hôm nay ta quyết liều chết với sư bá.

Chàng đâm liền ba nhát. Kiếm pháp đã cao, chàng lại nhìn rõ trong bóng tối, Lý Mạc Sầu toàn phải nghe tiếng gió mà chống đỡ, tuy chưa sơ suất, nhưng chỉ vài chiêu đã nguy hiểm bội phần, may mà Dương Quá sợ đánh rát quá, Lý Mạc Sầu sẽ đả thương đứa bé, nên chàng chưa hạ độc thủ.

Hai người đấu hơn mười chiêu, đứa bé bỗng lại khóc to, lần này khóc hồi lâu không nín.

Dương Quá lo lắng, lập tức thu kiếm, run giọng hỏi:

– Sư bá làm cho nó bị thương hay sao vậy?

Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá quan hoài đứa bé như vậy, càng tin rằng nó là hài nhi thân sinh của chàng, nói:

– Hiện thời nó chưa chết đâu, nhưng nếu ngươi không nghe lệnh ta, thì ngươi biết rồi đấy, ta đủ gan bóp chết nó.

Dương Quá lạnh xương sống, biết mụ ta giết người không chớp mắt, đừng nói một đứa bé sơ sinh, ngay cả một gia đình hàng chục mạng người, mụ cũng giết không còn một mống chỉ vì lý do không đâu, chàng nói:

– Sư bá chỉ cần đừng vũ nhục sư phụ đệ tử, thì đệ tử dĩ nhiên sẽ vâng lệnh sư bá.

Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá đấu dịu, biết rằng chỉ cần đứa bé ở trong tay mình, Dương Quá sẽ không dám làm gì, bèn nói:

– Được, ta sẽ không chửi sư phụ ngươi. Bây giờ ngươi đi ra, xem hai người kia bị trúng độc thế nào rồi.

Dương Quá bước ra, nhìn tứ phía, không thấy Pháp vương và Ni Ma Tinh đâu cả, chàng sợ Pháp vương ngụy kế đa đoan, nấp chỗ nào đó, nên dùng kiếm đâm vào mấy bụi cỏ rậm, không thấy gì lạ, mới trở vào hang, nói:

– Không thấy họ đâu, chắc là sau khi trúng độc, họ đã chạy đi xa rồi.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, đã trúng độc ngân châm của ta, làm sao chạy đi xa được kia chứ? Ngươi hãy nhổ ba cái ngân châm cho ta coi.

Dương Quá nghe đứa bé khóc đã lâu, nghĩ cần phải đi kiếm thức ăn cho nó, vội dùng vạt áo nhổ ngân châm, đưa cho Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu cất ngân châm vào bao, ra khỏi hang.

Dương Quá theo sau, hỏi:

– Sư bá mang đứa bé đi đâu?

Lý Mạc Sầu nói:

– Đem nó về nhà của ta.

Dương Quá vội nói:

– Sư bá cần đứa bé để làm gì, nó có phải do sư bá sinh ra đâu kia chứ?

Lý Mạc Sầu đỏ mặt, rồi xẵng giọng nói:

– Đừng nói vớ vẩn. Ngươi hãy mang “Ngọc nữ tâm kinh” đến cho ta, ta sẽ trao đứa bé cho ngươi, không đụng đến một sợi tóc của nó.

Đoạn thi triển khinh công đi về hướng bắc.

Dương Quá theo sau, nói:

– Sư bá phải cho nó bú đã chứ?

Lý Mạc Sầu quay đầu lại, mặt đỏ bừng, quát:

– Tên tiểu tử này nói năng lung tung, không ra thể thống gì cả!

Dương Quá ngạc nhiên:

– Ô hay, sao lại bảo đệ tử nói năng không ra thể thống gì? Đứa bé không được bú thì nó chết mất à?

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta là xử nữ giữ thân như ngọc, làm sao có sữa để cho nó bú?

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lý sư bá, Dương Quá bảo phải cho nó bú, dĩ nhiên không phải bú sữa sư bá…

Lý Mạc Sầu không nhịn được cười, mụ ở vậy không lấy chồng, cả đời chỉ quen với đao kiếm, việc nuôi con quả thật không biết tí gì, hỏi:

– Lấy sữa đâu cho nó bú? Cho nó ăn cơm có được không?

Dương Quá nói:

– Sư bá thử xem nó đã mọc răng hay chưa?

Lý Mạc Sầu nhìn miệng đứa bé, lắc đầu:

– Không có chiếc răng nào.

Dương Quá nói:

– Chúng ta đến một bản làng nào đó, tìm một nữ nhân đang nuôi con nhỏ, cho đứa bé bú nhờ là được.

Lý Mạc Sầu mừng rỡ, nói:

– Ngươi quả nhiên đầy mưu trí.

Hai người lên mỏm núi, nhìn tứ phía, thấy ở thung lũng phía tây có khói bếp bốc lên. Họ thi triển khinh công, chẳng mấy chốc đã đến một cái bản nhỏ. Xung quanh thành Tương Dương, các thôn trang thị trấn gần đường lớn, đã bị quân Mông Cổ phá hủy, chỉ còn vài bản làng nhỏ trong núi rừng heo hút.

Lý Mạc Sầu đẩy cửa, xộc vào các nhà, đến nhà thứ tư, thấy có một thiếu phụ đang cho con bú, đứa bé hơn một tuổi.

Lý Mạc Sầu cả mừng, giằng đứa bé đang bú ra đặt trên giường lò, rồi đặt nữ hài nhi vào lòng thiếu phụ kia, nói:

– Hài nhi này đói, ngươi mau cho nó bú đi.

Đứa con của thiếu phụ trên giường lò khóc tướng lên, thiếu phụ thương con, vội bế lấy nó. Dương Quá thấy thiếu phụ để hở ngực, vội ngoảnh mặt đi, chỉ nghe Lý Mạc Sầu quát:

– Ta bảo ngươi cho đứa bé của ta bú, ngươi không nghe hả? Ai cho phép ngươi bế con ngươi?

Nghe hịch một cái, Dương Quá giật mình ngoảnh lại, thấy đứa con của thiếu phụ bị ném xuống chân tường, đầu bê bết máu, không biết còn sống hay chết. Thiếu phụ quá đau đớn, đặt đứa con của Quách Tĩnh đấy, nhào tới bế con của mình, vừa khóc vừa gọi. Lý Mạc Sầu cả giận, vụt cây phất trần xuống lưng thiếu phụ.

Dương Quá vội giơ kiếm cản lại, nghĩ : “Thiên hạ sao lại có nữ nhân ngang ngược đến thế không biết?”, miệng thì nói:

– Lý sư bá, sư bá đánh chết chị ta, thì người chết làm sao cho bú được nữa?

Lý Mạc Sầu quát:

– Ta lo cho hài nhi của ngươi, ngươi lại đi lo chuyện bao đồng?

Dương Quá nghĩ : “Đã nói rõ không phải là hài nhi của mình, mụ cứ một mực bảo là con của mình; mà nếu là con của mình, tại sao còn nói mình lo chuyện bao đồng?” Chàng chỉ cười, nói:

– Đứa bé đói quá rồi, hãy để cho nó bú đi đã.

Đoạn chàng đưa tay bế đứa bé. Lý Mạc Sầu chĩa cây phất trần ngăn lại, nói:

– Ngươi dám cướp đứa bé hả?

Dương Quá đành lùi bước, cười nói:

– Thôi thôi, đệ tử không bế nó nữa.

Lý Mạc Sầu bế đứa bé lên, định đưa cho thiếu phụ, quay lại, thì thiếu phụ đã chạy đâu mất. Nguyên chị ta thấy hai người tranh chấp, đã ôm con mình trốn đi lối cửa sau. Lý Mạc Sầu cả giận, chạy ra sân, thấy thiếu phụ đang ôm con chạy đi, mụ vung cây phất trần đánh tới, hai mẹ con thiếu phụ lập tức vỡ đầu nát óc chết liền. Mụ tiếp tục tìm phụ nữ có sữa trong bản, nhưng gặp toàn nam giới. Mụ tức giận châm lửa đốt mấy nhà rồi mới rời bản.

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu hung bạo, thầm thở dài, lặng lẽ đi sau mụ. Hai người đi mấy dặm giữa sơn dã, đứa bé khóc đã mệt, ngủ thiếp đi trong bọc của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu đang đi, chợt kêu “Ôi” và dừng bước, thấy hai con báo gấm nhỏ đang đùa giỡn vật nhau. Mụ bước tới, định đá con báo nhỏ đi, bỗng từ trong bụi cỏ gần đó vang lên một tiếng hộc, một con báo gấm lớn lao vọt ra. Lý Mạc Sầu giật mình, nhảy dạt sang bên trái. Con báo lớn lập tức chuyển mình, lại nhảy bổ tới, giơ chân trước để vồ. Lý Mạc Sầu vụt cây phất trần một cái, trúng giữa hai mắt nó. Con báo đau đớn rống lên, càng hung hãn hơn, nhe hàm răng sắc nhọn, nằm phục dưới đất, hai con mắt xanh lè nhìn chằm chằm kẻ thù, chờ cơ hội lao tới.

Lý Mạc Sầu vung tay trái, hai mũi ngân châm phóng đi, nhắm tơi cặp mắt của con báo lớn. Dương Quá kêu :

– Hãy khoan!

Chàng dùng kiếm gạt hai mũi ngân châm, ngay lúc đó con báo cũng đã tung mình nhảy lên cao hơn một trượng, từ trên không nhào xuống. Dương Quá cũng nhảy lên, sau khi múa kiếm đánh rơi hai mũi ngân châm, chàng dùng hữu chưởng giáng một đòn vào gáy con báo. Con báo bị đau gầm to, rơi xuống đất, lại chồm dậy, lao tới Dương Quá. Dương Quá né người tránh, tả chưởng đánh ra, chưởng này sử năm thành nội lực, con báo trúng đòn lăn một vòng về phía sau.

Lý Mạc Sầu lấy làm lạ, hai mũi ngân châm của mụ vốn đã có thể giết con báo, vì sao Dương Quá lại xuất thủ cứu con báo, để rồi phí sức đánh nhau với nó? Thấy chàng một hữu chưởng, một tả chưởng, khiến con báo ngã xuống chồm lên, lại ngã xuống, nhưng đòn của chàng tránh vị trí yếu hại của con báo, nghe tiếng gầm của nó mỗi lúc một nhỏ dần, sau khi bị hơn mười chưởng của Dương Quá, con báo hết chịu nổi, liền bỏ chạy. Dương Quá chộp lấy đuôi nó để kéo lại, nhưng chộp hụt. Chàng đang định thi triển khinh công đuổi theo, thấy con báo chạy đi vài trượng, thì quay lại kêu mấy tiếng, gọi hai con báo nhỏ chạy theo. Dương Quá chợt nảy ra một ý, hai tay chàng chộp gáy hai con báo nhỏ, giơ cao chúng lên.

Con báo mẹ thương con, thấy con mình bị bắt, nó bất chấp tính mạng của mình, lại nhảy bổ tới chỗ Dương Quá. Dương Quá ném hai con báo nhỏ về phía Lý Mạc Sầu, nói:

– Sư bá giữ hộ, đừng đánh chết chúng!

Rồi chàng cũng tung mình nhảy lên, còn cao hơn cả con báo mẹ, đáp xuống giữa không trung trúng lưng nó, túm lấy hai tai nó ghì xuống. Con báo giãy giụa, nhưng toàn thân bị chế ngự, cái mồm bị ghìm xuống đất.

Dương Quá gọi:

– Lý sư bá, hãy lấy vỏ cây tết hai sợi dây để trói bốn chân con báo.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, ta không rỗi rãi cùng đùa với ngươi.

Mụ quay người đi. Dương Quá vội nói:

– Ai đùa kia chứ? Con báo mẹ này có sữa đó!

Lý Mạc Sầu chợt hiểu, mừng rỡ, cười nói:

– Ngươi giỏi lắm!

Liền bóc vỏ cây, bện thành mấy sợi dây, trước hết buộc chặt mồm con báo, rồi trói hai chân trước, chân sau của nó lại.

Dương Quá phủi bụi trên mình, mỉm cười, đứng dậy. Con báo không cựa quậy được, ánh mắt lộ vẻ sợ hãi. Dương Quá xoa đầu nó, cười, nói:

– Bọn ta xin mi làm vú em một chút thôi, chứ không giết mi đâu.

Lý Mạc Sầu ôm đứa bé kề miệng nó vào vú con báo. Đứa bé đói ngấu, tức thì há miệng mút lấy núm vú. Con báo mẹ rất nhiều sữa, đứa bé bú một lát đã no, nhắm mắt ngủ liền.

Lý Mạc Sầu và Dương Quá nhìn đứa bé bú, ánh mắt không rời khuôn mặt nhỏ nhoi xinh xắn của nó, thấy nó ngủ ngon rồi, vẻ mặt hơi lộ vẻ tươi cười, thì hai người cảm thấy trong lòng hết sức dễ chịu, cũng nhìn nhau cười.

Nụ cười này làm cho sự đề phòng vốn có giữa hai người đối với nhau tan biến. Lý Mạc Sầu sắc mặt dịu dàng, miệng lẩm nhẩm hát, tay vỗ vỗ nhẹ đứa bé.

Dương Quá lấy cỏ mềm trải dưới một gốc cây thành cái ô, nói:

– Sư bá hãy đặt bé ngủ ở đây?

Lý Mạc Sầu liền xua xua tay làm hiệu đừng nói to, kẻo đứa bé thức giấc. Dương Quá lè lưỡi, thấy đứa bé ngủ ngon, chàng thở dài nhẹ nhõm, quay đầu lại, thấy hai con báo nhỏ đang rúc đầu vào vú mẹ chúng.

Bốn bề thoang thoảng mùi hoa, gió thổi nhẹ, sát khí không còn, người và thú cùng yên ổn.

Dương Quá mấy ngày trải qua bao biến cố, đến lúc này mới cảm thấy phần nào thư thái, mặc dù cạnh chàng bên này là nữ ma đầu giết người không chớp mắt, bên kia là một con thú dữ.

Lý Mạc Sầu ngồi bên đứa bé sơ sinh, thong thả phe phẩy cây phất trần đuổi muỗi rừng cho bé. Cây phất trần này đã giết không biết bao nhiêu người, nhân sĩ võ lâm thấy nó ai cũng kinh hồn táng đởm, lúc này lần đầu tiên trong đời mụ ta dùng nó làm việc lành. Dương Quá thấy mụ ta chăm chú nhìn đứa bé, sắc mặt chợt vui chợt buồn, lúc cảm động, lúc thanh thản, thì chàng cũng nhớ lại nhiều chuyện trong đời mình. Chàng không biết thân thế của Lý Mạc Sầu, chỉ nghe Trình Anh và Lục Vô Song kể sơ sơ, nghĩ mụ ta hành sự tàn ác ngang ngược ắt là do phải từng trải một phen cực kỳ khốn khổ, chàng vốn lâu nay căm hận mụ, giờ bất giác có ý thương hại mụ.

Một hồi lâu, Lý Mạc Sầu ngẩng đầu lên, bắt gặp cái nhìn của Dương Quá, hơi sững sờ, nói nhẹ nhàng:

– Trời sắp tối rồi, tối nay làm gì đây?

Dương Quá nhìn tứ phía, nói:

– Chúng ta không thể mang vị vú em này đi theo, vậy hãy tìm một cái hang trú tạm, ngày mai sẽ định sau.

Lý Mạc Sầu gật đầu.

Dương Quá đi tìm trước sau, phát hiện một cái hang khả dĩ qua đêm, bèn lấy cỏ mềm trải hai cái ổ, một lớn một nhỏ trong đó, nói:

– Lý sư bá, sư bá nghỉ ngơi một chút, để đệ tử đi tìm thức ăn.

Nửa canh giờ sau, chàng trở về, mang theo ba chú thỏ rừng, mười mấy trái cây dại. Chàng cởi dây buộc mõm con báo, cho nó ăn một con thỏ. Rồi nhóm lửa nướng hai con còn lại để mình và Lý Mạc Sầu ăn.

Xong đâu đấy, chàng nói:

– Lý sư bá, sư bá ngủ đi, đệ tử sẽ nằm canh ở bên ngoài.

Chàng lấy sợi dây dài, buộc ngang giữa hai cây, nằm trên đó.

Bản sự này là tâm pháp luyện công của phái Cổ Mộ, Lý Mạc Sầu nhìn thấy không lấy làm lạ. Trừ có thời gian đồng hành với nữ đệ tử Hồng Lăng Ba, suốt đời mụ một mình lai vãng, đêm nay có Dương Quá đi cùng, được chàng hầu hạ chu đáo, khác hẳn tình cảnh những ngày đơn độc giữa hoang sơn dã lãnh, bất giác mụ thở dài.

Hồi 23: Thủ túc tình cừu

Dương Quá ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe từ phía tây bắc vọng đến từng chập tiếng chim điêu, âm thanh không được trong trẻo, nhưng rất có khí thế. Chàng nổi tính hiếu kỳ, lần theo âm thanh tìm đến. Nghe tiếng chim điêu lúc kêu lúc dừng, vang vọng hơn hẳn tiếng kêu của cặp chim điêu trên đảo Đào Hoa. Chàng đi xuống thấp dần, rồi tiến vào một sơn cốc, lúc này tiếng chim điêu đã gần phía trước, chàng nhẹ bước, vén cành cây mà nhìn, bất giác không khỏi kinh dị.

Phía trước là một con chim điêu thân hình cực lớn, cao hơn cả con người, diện mạo hết sức xấu xí, lông thưa, tựa hồ bị người ta vặt đi già nửa; màu vàng vàng đen đen, hiển nhiên vô cùng bẩn thỉu, diện mạo thì có phần giống cặp chim điêu trên đảo Đào Hoa, nhưng xấu xí hơn rất nhiều. Con chim điêu xấu xí này mỏ khoằm, có cái mào to đỏ như máu, trên thế gian có ngàn loài chim, chưa thấy loài mãnh cầm nào dị dạng như nó. Nó sải bước đi đi lại lại, nghển cao đầu trông khí khái uy vũ.

Con chim điêu xấu xí kêu một hồi, chỉ nghe phía bên trái có tiếng phì phì, dưới ánh trăng bốn con độc xà màu ngũ sắc nhất tề lao như tên bắn tới chỗ con chim điêu. Con điêu mổ liền bốn cái, bốn con độc xà chết tươi, cú mổ nào cũng chuẩn xác, nhanh nhẹn, y như một đệ nhất cao thủ võ lâm. Thần kỹ mổ chết tươi bốn con độc xà khiến Dương Quá há mồm kinh ngạc, từ chỗ coi thường con chim điêu xấu xí, hóa thành khâm phục nó. Con chim điêu há to mồm, nuốt một con độc xà vào bụng. Dương Quá nghĩ: “Bắt con chim điêu này đem về đấu với cặp chim điêu của Quách Phù, chắc không thể thua”. Chàng đang nghĩ cách bắt con chim điêu, bỗng ngửi thấy mùi tanh nồng nặc, chắc là có một con mãng xà bò tới gần.

Con chim điêu ngẩng cao đầu, kêu khẹc khẹc liền ba tiếng, tựa hồ khiêu chiến với kẻ địch. Chỉ nghe vù một cái, một con mãng xà đầu to như cái bát lớn, hình tam giác, vắt mình từ trên cây cao đối diện lao xuống tấn công con chim điêu. Con chim điêu không hề né tránh, mà ngẩng cao đầu, cái mỏ khoằm mổ nhanh trúng mắt bên phải con mãng xà. Cổ con chim điêu vừa ngắn vừa thô, tưởng đâu không tiện chuyển động, ai dè nó co duỗi nhanh như tia chớp, Dương Quá tuy rất tinh mắt, cũng không nhìn rõ nó đã mổ trúng mắt con mãng xà như thế nào.

Con mãng xà mù mắt phải, đau đớn, há miệng táp trúng cái mào đỏ như máu của con chim điêu. Dương Quá cũng bị bất ngờ, thốt lên tiếng “Ối”. Con mãng xà đớp trúng, cái thân dài hai trượng từ trên cây đột nhiên trườn xuống, cuốn quanh thân hình con chim điêu mấy vòng, Dương Quá thấy con chim điêu khó bề toàn mạng.

Dương Quá không muốn con chim điêu bị hại bởi con mãng xà, bèn nhảy ra, vung kiếm chém con mãng xà; đột nhiên con chim điêu bật cánh bên phải ra vỗ vào tay Dương Quá một cái thật mạnh, khiến thanh kiếm Quân tử của chàng văng khỏi tay, bay ra xa mấy trượng. Chàng đang kinh ngạc, thì thấy con chim điêu mổ lia lịa vào thân con mãng xà, mỗi cú mổ lại làm cho máu con mãng xà bắn phọt ra. Dương Quá nghĩ: “Chẳng lẽ ngươi nắm chắc phần thắng hay sao mà không muốn ta giúp một tay?”

Con mãng xà siết chặt vòng quấn, con chim điêu ráng sức chống chọi, lông dựng đứng cả lên. Thấy con chim điêu không chịu nổi, Dương Quá nhặt một cục đá to nện liên tiếp vào thân con mãng xà, vòng siết của con mãng xà hơi lỏng ra, con chim điêu lại nghển cổ mổ nhanh một cái vào mắt trái con mãng xà. Con mãng xà cắn lung tung, lúc này nó đã mù cả hai mắt, đâu còn có thể cắn trúng cái gì. Hai cái vuốt của con chim điêu quặp chỗ bảy tấc đầu mãng xà, đè gí xuống đất, trong khi cái mỏ vẫn mổ lia lịa. Con chim điêu như có thần lực, con mãng xà toàn thân quằn quại, nhưng đầu bị đè gí dưới đất, một hồi lâu thì chết thẳng cẳng.

Con chim điêu ngẩng lên, kêu to ba tiếng, rồi quay sang phía Dương Quá, kêu mấy tiếng dịu dàng.

Dương Quá nghe tiếng kêu của con chim điêu có vẻ thiện ý, bèn thong thả tới gần, cười nói:

– Điêu huynh, huynh thần lực kinh nhân, tại hạ thán phục, thán phục.

Con chim điêu kêu khẽ vài tiếng, bước tới bên chàng, giơ cánh đụng nhẹ vào vai chàng. Dương Quá thấy con chim điêu thông linh như thế, thì rất mừng, đưa tay vuốt ve lưng nó.

Con chim điêu dùng mỏ ngậm vạt áo của Dương Quá mà kéo kéo, rồi nhả ra, bước đi trước. Dương Quá biết nó có dụng ý, bèn theo sau. Con chim điêu xấu xí đi nhanh dị thường, trên lớp cỏ cao trong sơn cốc, nó đi như ngựa phi, Dương Quá phải thi triển khinh công mới theo kịp. Con chim điêu đi xuống thấp dần, vào một thâm cốc. Lại đi hồi lâu, tới trước một cái hang lớn, con chim điêu cúi đầu ba cái, kêu ba tiếng, rồi ngoảnh lại nhìn Dương Quá.

Dương Quá thấy nó tựa hồ hành lễ với cái hang, nghĩ: “Có lẽ đây là nơi trú ngụ của một vị cao nhân tiền bối, con chim điêu này hẳn là được vị đó thuần dưỡng, vậy mình cũng phải giữ lễ mới được”. Chàng bèn quì xuống, vái mấy cái, nói to:

– Đệ tử Dương Quá khấu kiến tiền bối, xin lượng thứ cho cái tội tự tiện tới đây.

Chàng đợi một lát, không có ai trả lời.

Con chim điêu lại kéo gấu áo chàng, bước vào hang. Trong hang tối om, không biết có kỳ sĩ võ lâm, hay là quái vật gì của rừng rú, chàng rất hồi hộp, nhưng đã không màng chuyện sống chết, nên cứ bước vào.

Cái hang này rất nông, đi chưa đầy ba trượng, đã hết. Trong hang ngoài một cái bàn và một chiếc ghế đá, không có vật gì khác. Con chim điêu chĩa mỏ vào một góc hang kêu vài tiếng, Dương Quá thấy ở đó có một đống đá cao cao lổn nhổn, trông như mộ phần, chàng nghĩ: “Chắc là nơi vị kỳ nhân nằm xuống, tiếc rằng con chim điêu không biết nói, ta không thể biết thân thế của vị đó”. Chàng ngẩng đầu, thấy trên vách hang hình như có khắc chữ, nhưng bị rêu phủ, không thể nhìn rõ trong bóng tối. Dương Quá đốt một cành củi khô, xoa xoa lớp rêu, quả nhiên hiện ra ba hàng chữ khắc sâu vào đá bằng vũ khí nhọn. Ba dòng chữ viết:

“Tung hoành giang hồ hơn ba chục năm, giết sạch cừu khấu, đánh bại mọi anh hùng, thiên hạ không có đối thủ, chẳng còn cách nào khác, đành ẩn cư thâm cốc làm bạn với chim điêu. Ô hô, bình sinh chỉ mong có một địch thủ mà không được, thật đáng buồn”.

Bên dưới đề “Kiếm ma Độc Cô Cầu Bại”.

Dương Quá đọc đi đọc lại ba dòng chữ mấy lần, vừa ngạc nhiên vừa thán phục, cũng cảm nhận được nỗi buồn cô đơn của vị kỳ nhân tiền bối không tìm được đối thủ kia, người đành vào thâm cốc ẩn cư, không hiểu võ công cao siêu bậc nào mà được người đời gọi là “Kiếm Ma”. Ngoại hiệu “Cầu Bại” ắt là đi khắp thiên hạ tìm người có thể đánh thắng mình mà không tìm được, cuối cùng về nhắm mắt xuôi tay chốn này, kết thúc một đời oanh liệt.

Chàng cúi đầu hồi lâu, rồi giơ que củi cháy quan sát trong hang một lát, không tìm thấy di tích nào khác, trên nấm mộ cũng không có vật gì biểu thị, chàng đoán rằng sau khi vị kỳ nhân qua đời, con chim điêu đã lấy đá đắp lên trên thế này.

Chàng cảm thấy kính ngưỡng vị dị nhân tiền bối, bèn sụp xuống trước mộ vái bốn cái. Con chim điêu thấy chàng có lễ giáo với mộ phần, dường như rất vui, nó giơ cánh đụng nhẹ vài lần vào vai chàng.

Dương Quá nghĩ: “Vị Độc Cô tiền bối trong di ngôn gọi chim điêu là bạn, chú thần điêu này tuy là giống vật, song là tiền bối của mình, mình gọi chim điêu là “huynh” quả là phải phép”. Bèn nói:

– Điêu huynh, hai ta giải cấu tương phùng, cũng là có duyên. Tại hạ xin từ biệt, điêu huynh ở lại làm bạn với mộ phần của Độc Cô tiền bối, hay là đi theo tại hạ nào?

Thần điêu kêu mấy tiếng, coi như trả lời. Dương Quá không hiểu ý, chỉ thấy nó đậu bên cạnh ngôi mộ đá không đi theo. Chàng nghĩ: “Các vị tiền bối võ lâm chưa hề nhắc đến Độc Cô Cầu Bại, vậy thì người ấy phải là nhân vật sống bảy, tám chục năm về trước. Thần điêu sống ở đây lâu như thế, lưu luyến đất này, tất sẽ không đi theo ta”. Chàng đưa tay ôm cổ chim điêu, vỗ về thân thiết một hồi, rồi mới ra khỏi hang.

Bình sinh ngoài tình lưu luyến với Tiểu Long Nữ, chàng chưa từng có một ai tri kỷ, hữu hảo, đêm nay gặp chim điêu, tuy một người một chim, nhưng sau khi ở trong hang với nhau lại lưu luyến không nỡ rời, đi vài bước lại quay đầu nhìn. Mỗi lần chàng quay đầu lại, chim điêu kêu lên một tiếng, đôi bên đã cách nhau mấy chục trượng, trong bóng tối chim điêu vẫn nhìn rõ như thường, mỗi lần Dương Quá quay đầu lại, chim điêu lại kêu lên một tiếng. Dương Quá bỗng thấy nhiệt huyết trào dâng, liền nói to:

– Điêu huynh hỡi điêu huynh, tại hạ còn sống chẳng được mấy ngày nữa, chờ xong việc đứa bé của Quách bá bá, sau khi vĩnh biệt cô cô, tại hạ sẽ trở lại đây, nằm xuống bên cạnh mộ Độc Cô đại hiệp, coi như không uổng tấm thân.

Đoạn chàng chắp tay vái dài, rồi rảo bước.

Nghĩ đến ấu nữ của Quách Tĩnh, chàng nhặt thanh kiếm Quân tử, vội trở về hang; vừa tới cửa hang, đã nghe Lý Mạc Sầu nói:

– Ngươi đi đâu về thế? Vừa nãy có một cô hồn dã quỷ, cứ đi qua đi lại than khóc sụt sùi, khó chịu quá chừng!

Dương Quá nói:

– Làm gì có ma quỉ nào?

Lời chưa dứt, bỗng nghe có tiếng khóc to từ xa vọng tới.

Dương Quá kinh ngạc, nói nhỏ:

– Lý sư bá, sư bá hãy trông nom đứa bé, cứ để đệ tử đối phó với hắn.

Chỉ nghe tiếng khóc tới càng lúc càng gần, một người vừa khóc vừa than:

– Khốn khổ thân ta, khốn khổ thân ta? Vợ đã bị người giết hại, hai đứa con lại đi tàn sát lẫn nhau.

Dương Quá nhìn kỹ, dưới ánh trăng thấy một đại hán đầu bù tóc rối, ôm mặt khóc to, đi lòng vòng rất nhanh, quần áo rách nát, không nhìn rõ mặt.

Lý Mạc Sầu nói:

– Hừ, thì ra là một gã điên, ngươi mau đuổi hắn đi, kẻo hắn làm đứa bé thức giấc bây giờ.

Gã đại hán kia vẫn vừa khóc vừa than:

– Trên thế gian ta chỉ còn hai đứa con, chúng lại đi đánh giết nhau, thử hỏi lão già này còn sống để làm gì kia chứ?

Tiếng khóc thật ai oán não nề. Dương Quá chợt nghĩ: “Không lẽ là người ấy?” chàng bèn thong thả ra khỏi hang, gọi to:

– Có phải Võ lão tiền bối đó chăng?

Người kia khóc lóc giữa chốn hoang sơn lúc nửa đêm vì quá đau khổ, không ngờ chốn này lại có người, bèn nín khóc, quát hỏi:

– Ngươi là ai? Lén lút làm trò quỉ gì ở đây?

Dương Quá nói:

– Tiểu nhân là Dương Quá, tiền bối có phải là Võ Tam Thông Võ lão tiền bối hay chăng?

Người kia chính là Võ Tam Thông, phụ thân của huynh đệ họ Võ. Tại phủ Gia Hưng năm nào, lão bị thương bởi ngân châm của Lý Mạc Sầu, ngất lịm đi, lúc tỉnh lại thấy vợ là Võ tam nương phủ phục dưới đất, đang hút máu độc từ miệng vết thương trên đùi trái của lão. Võ Tam Thông giật mình kinh hãi, nói:

– Tam nương, chất độc ngân châm lợi hại vô cùng, sao nàng lại hút như thế?

Đoạn vội đẩy vợ ra. Võ tam nương nhổ ra một ngụm máu độc, mỉm cười, nói:

– Máu đen đã chuyển sang màu hồng, không việc gì nữa.

Võ Tam Thông thấy hai gò má của vợ đã đen sạm lại, bất giác cả kinh, run run nói:

– Tam nương, nàng… nàng…

Võ tam nương xả thân trị độc cho chồng, biết mình sắp chết, đưa tay xoa đầu hai đứa con, nói nhỏ:

– Sau khi tướng công thành thân với thiếp, tướng công cứ luôn rầu rĩ không vui. Bước đi lầm lẫn đã hết bề cứu vãn. Thiếp chỉ mong tướng công nuôi dưỡng hai con nên người, làm cho chúng suốt đời hữu ái và hòa thuận với nhau…

Lời chưa dứt, đã tắt thở.

Võ Tam Thông quá xúc động, bệnh điên lại tái phát, nhìn hai đứa con trai gục đầu xuống xác mẹ mà khóc, lão cũng không hiểu gì, lẳng lặng bỏ đi.

Lang bạt giang hồ điên điên khùng khùng như thế mấy năm, bệnh điên của lão cũng đỡ dần. Tứ Thủy Ngư Ổn sau khi tham dự anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng trở về, dọc đường đồng hành với bằng hữu võ lâm, lúc nhàn đàm nghe họ nhắc đến một nhân vật rất giống sư đệ Võ Tam Thông của mình, cất công tìm kiếm, cuối cùng gặp được.

Võ Tam Thông biết tin hai đứa con trai đã trưởng thành thì cả mừng, bèn tìm đến thành Tương Dương, đúng lúc Kim Luân pháp vương đột nhập vào thành, Quách Tĩnh bị thương nặng, Hoàng Dung lâm bồn. Võ Tam Thông sau khi gặp Chu Tử Liễu và Quách Phù, nghe tin hai con mình ra ngoài thành đánh nhau, nhớ lại lời vợ nói lúc lâm chung, thì vô cùng đau khổ, vội đi tìm, phát hiện có tiếng binh khí va chạm trong một ngôi miếu đổ nát, bèn chạy vào, đúng là thấy Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn đang đấu kiếm với nhau trong đó. Lão xa con đã lâu, nay hai con đã trưởng thành, khó lòng nhận ra, nhưng nhìn chúng tay phải sử kiếm, tay trái sử dụng “Nhất dương chỉ”, bèn quát dừng.

Huynh đệ họ Võ gặp lại cha, sung sướng ứa nước mắt, nhưng vừa nhắc đến Quách Phù, hai huynh đệ lại chẳng ai chịu nhường ai. Võ Tam Thông tức giận mắng chửi, hoặc ôn tồn khuyên nhủ hai con đừng tâm ái Quách Phù, cũng đều vô ích. Huynh đệ họ Võ trước mặt cha không dám tỏ ý thù hằn nhau, nhưng chỉ cần người cha đi đâu đó một lát, huynh đệ hai người lại tranh cãi nhau. Họ hẹn nửa đêm hôm nay sẽ tới chốn hoang sơn quyết một phen thắng bại. Võ Tam Thông nghe lén chuyện đó, bi phẫn vô cùng, đến trước chỗ họ hẹn nhau để ngăn chặn cuộc quyết đấu. Lão càng nghĩ càng đau lòng, nên vừa rồi khóc hu hu như vậy.

Võ Tam Thông đang trong tâm trạng như thế, bỗng thấy có một gã thiếu niên từ trong hang bước ra, liền quát to:

– Ngươi là ai? Tại sao biết tên ta?

Dương Quá nghe lão thừa nhận, bèn nói:

– Võ lão bá, tiểu điệt là Dương Quá, hồi nhỏ cùng sống với nhị huynh Đôn Nhu và Tu Văn tại phủ Quách đại hiệp trên đảo Đào Hoa, rất ngưỡng mộ uy danh của Võ lão bá.

Võ Tam Thông gật đầu, nói:

– Ngươi tới đây làm gì? Phải rồi, Đôn Nhu và Tu Văn hẹn quyết đấu ở đây, ngươi là kẻ làm chứng. Ngươi đã quen biết với hai đứa ấy, tại sao không tìm cách ngăn chúng? Lại còn xúi bẩy cho chúng đánh nhau, còn gọi là bằng hữu được sao?

Giọng càng về cuối càng xẵng, lão đem trút cơn giận dữ xuống đầu Dương Quá, miệng nói, chân bước, vung bàn tay hộ pháp để giáo huấn cho tên tiểu tử một trận.

Dương Quá thấy lão râu tóc dựng đứng, thần uy lẫm lẫm, thiết nghĩ tự dưng chẳng nên động thủ với lão ta làm gì, bèn lùi hai bước, cười nói:

– Tiểu điệt không hề biết nhị vị Võ huynh đến đây tỷ võ, xin lão bá đừng trách lầm người.

Võ Tam Thông quát:

– Còn hoa ngôn xảo ngữ ư? Nếu ngươi không biết trước, tại sao còn chờ sẵn ở đây? Thế gian rộng lớn, cớ gì nhà ngươi mò đến chốn hoang sơn cùng cốc này?

Dương Quá chưa biết nên giải thích thế nào với lão ta. Võ Tam Thông thấy chàng lúng túng, cho rằng chàng không phải là người tử tế, hồi trẻ lão bị thất tình, mỗi khi gặp một thanh niên tuấn tú, lão lại có ác cảm, lão nghĩ bụng: “Tên tiểu tử này chắc gì quen biết hai đứa con ta, hắn lén lút ở đây, chắc là có gian kế”. Bèn vung hữu chưởng vỗ xuống vai Dương Quá. Chàng vội né tránh, chưởng của Võ Tam Thông đánh trượt, lão liền chuyển sang thúc cùi chỏ. Dương Quá thấy đối phương xuất chiêu kình lực trầm hậu, chàng không dám coi thường, lại né tránh. Võ Tam Thông nói:

– Hảo tiểu tử, khinh công khá lắm, mau rút kiếm ra động thủ nào!

Lúc ấy đứa bé ở trong hang chợt thức giấc, khóc oa oa mấy tiếng. Dương Quá nghĩ: “Lão này có mối thù sát thê với Lý Mạc Sầu, để họ giáp mặt nhau, khó tránh cảnh tử đấu, mình khó bảo hộ được đứa bé”. Bèn cười, nói:

– Võ lão bá, tiểu điệt là vãn bối, đâu dám động thủ với lão bá? Nhưng nếu lão bá cứ coi tiểu điệt là kẻ xấu, thì đành vậy, tiểu điệt xin nhường lão bá ba chiêu, nếu lão bá không đánh chết được tiểu điệt, thì lão bá phải lập tức rời khỏi chốn này, thế nào?

Võ Tam Thông cả giận, quát:

– Tên tiểu tử cuồng vọng, vừa rồi ta ra đòn lưu tình, chưa hạ độc thủ, ngươi dám coi thường ta ư?

Ngón trỏ tay phải của lão sử công phu “Nhất dương chỉ”. Lão khổ luyện mấy chục năm, công lực thâm hậu. Dương Quá thấy ngón tay trỏ của lão rung động, thế đến tuy chậm, nhưng các đại huyệt của chàng ở nửa thân trên đã nằm trong tầm khống chế của ngón tay đó; chàng chưa biết đối phương sẽ điểm huyệt nào, bèn dùng ngón giữa búng ngón trỏ của lão ta, chính là chàng sử dụng công phu “Đạn chỉ thần thông” của Hoàng Dược Sư.

“Đạn chỉ thần thông” và “Nhất dương chỉ” nổi danh ngang nhau mấy chục năm, nhưng Dương Quá công lực còn nông, sở học ngắn ngủi, học rồi lại chưa chuyên tâm khổ luyện, làm sao sánh nổi Võ Tam Thông chuyên tâm mấy chục năm? Hai ngón tay đụng nhau, Dương Quá chỉ cảm thấy cánh tay mình chấn động, toàn thân phát nhiệt, chàng phải loạng choạng lùi năm, sáu bước, mới không bị ngã.

Võ Tam Thông nghĩ: “Hừ, tên tiểu tử này quả nhiên từng sống ở đảo Đào Hoa”. Một là nể mặt Hoàng Dược Sư, hai là thấy chàng còn nhỏ tuổi mà đã chống đỡ nổi tuyệt kỹ “Nhất dương chỉ” của lão, lão đâm ra mến mộ, nói:

– Chỉ thứ hai tới, nếu không đỡ được thì đừng đỡ, để khỏi chấn thương nội tạng, ta không muốn lấy mạng ngươi đâu.

Rồi lão sấn tới mấy bước, lại xuất chiêu, lần này nhắm vào bụng dưới của Dương Quá.

Các yếu huyệt phía dưới mà chiêu này khống chế còn rộng hơn chiêu trước, cả mười hai đại huyệt vùng bụng, từ U Môn, Thông Cốc, xuống đến Trung Chú, Tứ Mãn, đến tận Hoành Cốt, Hội Âm, đều bị đe dọa. Dương Quá thấy thế đến cực nhanh, nếu dùng “Đạn chỉ thần thông” ngăn lại, e không chỉ gãy ngón tay, mà nội tạng cũng bị chấn thương, bèn sử gấp một chiêu “Cầm tâm vận thông”, xoẹt một cái, kiếm Quân tử được rút khỏi bao, chắn trước bụng hai tấc. Ngón tay của Võ Tam Thông sắp chạm lưỡi kiếm, vội thu về, chiêu thứ ba lập tức tiếp nối, nhắm tới mi tâm Dương Quá, thiết tưởng chàng không sao đưa kiếm lên che đỡ nổi. Dương Quá thấy thế đến quá lẹ, không thể hóa giải, trong cơn nguy cấp liền sử dụng công phu “Cửu Âm chân kinh”, rùn người xuống chui qua háng Võ Tam Thông. Chiêu này tuy mau lẹ, nhưng tư thế bần tiện, mất hết thể diện; có điều chàng là vãn bối, chui qua háng tiền bối cũng không đáng ngại.

Võ Tam Thông không kịp thốt lên một tiếng “ái chà” thì đối phương đã vỗ nhẹ một chưởng xuống vai trái của lão, tiếp đó nghe Dương Quá vừa cười vừa nói:

– Võ lão bá, chiêu thứ ba của lão bá quá lợi hại.

Võ Tam Thông ngẩn người, xuôi tay lùi ra, buồn bã nói:

– Hừm, đúng là thiếu niên anh hùng, lão nạp vô dụng.

Dương Quá vội tra kiếm vào bao, cúi mình nói:

– Tiểu điệt tránh chiêu của lão bá trông thật khó coi, nếu là tỷ võ thật sự, coi như tiểu điệt đã thua rồi.

Võ Tam Thông cảm thấy được an ủi phần nào, thở dài, nói:

– Cũng không hẳn thế. Vừa rồi nếu ngươi đâm ta một kiếm sau lưng, thì ta đã mất mạng. Lão nạp thô lậu, đánh không lại một gã oắt con thông minh lanh lợi…

Lời chưa dứt, bỗng nghe từ xa có tiếng bước chân, có hai người sánh vai đi tới. Dương Quá kéo tay áo Võ Tam Thông, hai người nấp vào sau một bụi cây. Hai người kia đến gần, chính là Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn.

Võ Tu Văn dừng bước, nhìn tứ phía, nói:

– Đại ca, chỗ này địa thế rộng rãi, ở đây được rồi.

Võ Đôn Nhu nói:

– Được!

Hắn vốn ít nói. Xoẹt một cái, trường kiếm đã rút hỏi bao. Võ Tu Văn không rút kiếm, nói:

– Đại ca, hai ta từ nhỏ mồ côi mẹ, phụ thân bỏ đi xa, hai ta sống bên nhau chưa từng hơn thua nửa câu, hôm nay đến nước này, đại ca không trách huynh đệ chứ?

Võ Đôn Nhu nói:

– Huynh đệ, chuyện này là định mệnh, hai ta đều không tự quyết được.

Võ Tu Văn nói:

– Bất kể ai sống ai chết, suốt đời cũng không được để lộ chuyện này, kẻo gia gia và Phù muội đau lòng.

Võ Đôn Nhu gật đầu, nắm cánh tay Võ Tu Văn. Huynh đệ hai người lặng lẽ nhìn nhau hồi lâu.

Võ Tam Thông thấy hai con nói năng với nhau ôn tồn, rõ ràng có thâm tình, thì cũng được an ủi, định bước ra, mắng chúng không nên hành động ngu xuẩn hồ đồ, bỗng nghe cả hai đứa con cùng nói to:

– Thế thôi!

Và cùng nhảy lùi lại. Võ Tu Văn đâm liền ba kiếm, dưới ánh trăng chỉ thấy ánh kiếm loang loáng, xuất thủ mau lẹ dị thường. Võ Đôn Nhu đỡ gạt cả, chiêu thứ ba mới đánh trả hai kiếm, nhát nào cũng nhắm chỗ yếu hại của Võ Tu Văn. Võ Tam Thông nhìn thấy giật mình, song Võ Tu Văn đã né mình tránh được.

Giữa chốn hoang sơn chỉ nghe tiếng song kiếm đụng nhau liên miên bất tuyệt, huynh đệ hai người cứ lăn xả vào nhau mà đâm chém, xuất thủ không một chút dung tình, khiến Võ Tam Thông vừa lo lắng vừa đau lòng. Cả hai đều là con ruột, từ nhỏ lão vốn yêu thương chúng như nhau, giờ thấy hai đứa đánh nhau như hai kẻ thù, cứ đà này ắt có một trong hai đứa tử thương, nếu lão quát dừng, tất chúng sẽ ngừng đấu. Nhưng hôm nay không đấu, ngày mai chúng ta sẽ lại quyết một phen sống mái, lão đâu có thể kè kè ở bên chúng để ngăn chặn? Lão càng nhìn càng đau lòng, nghĩ mà cám cảnh cho mình, nước mắt cứ chảy ròng ròng.

Dương Quá từ bé có hiềm khích với huynh đệ họ Võ, sau này trùng phùng, đôi bên cũng chẳng ưa gì nhau. Chàng vốn đã sẵn thành kiến, cũng chẳng độ lượng, thấy hai kẻ đó đánh nhau, lúc đầu cũng thích thú; nhưng nhìn Võ Tam Thông đau khổ thế kia, nghĩ mình còn sống được vài ngày, chợt nghĩ: “Ta một đời chưa làm việc gì có ích cho người khác, sau khi ta chết, cô cô dĩ nhiên sẽ đau lòng, ngoài ra, nhớ đến ta chỉ có vài hồng nhan tri kỷ như Trình Anh, Lục Vô Song, Công Tôn Lục Ngạc mà thôi. Hôm nay, ta phải làm một việc tốt để Võ lão bá suốt đời nhớ đến ta mới được”. Ý đã quyết, chàng ghé tai nói nhỏ với Võ Tam Thông:

– Võ lão bá, tiểu điệt có một kế có thể làm cho hai vị lệnh lang bãi đấu.

Võ Tam Thông ngảnh đầu, quệt nước mắt nhìn chàng, vẻ cảm kích, nhưng bán tín bán nghi, không biết chàng có diệu kế gì cởi bỏ mối xung đột kia.

Dương Quá nói nhỏ:

– Có điều phải đắc tội với hai vị lệnh lang, mong lão bá đừng trách.

Võ Tam Thông nắm chặt hai tay chàng, xúc động nói không nên lời. Thời trẻ lão không được nếm mùi tình ái, lấy vợ chỉ là theo lệnh cha mẹ, sau đó bị tình nghiệt trói buộc, nhưng từ ngày vợ chết, nhớ ân tình người vợ xả thân cứu mình, mối tình si của lão đối với Hà Nguyên Quân nhạt dần, bao nhiêu tình thương lão dồn cho con, chỉ mong hai đứa con bình yên hòa thuận, thì dù lão chết cũng cam lòng. Trong cảnh tuyệt vọng lúc này, đột nhiên nghe Dương Quá nói vậy, thật y như gặp Bồ tát cứu khổ cứu nạn.

Dương Quá nhìn thần sắc của lão, bất giác chạnh lòng: “Nếu cha ta còn sống, chắc cũng yêu ta như vậy”. Chàng dặn:

– Dù thế nào lão bá cũng không được để cho họ phát giác, nếu không kế sách sẽ mất linh.

Lúc ấy huynh đệ họ càng đấu càng ác liệt, họ cùng sử dụng Việt nữ kiếm pháp. Đây là công phu vốn do Hàn Tiểu Oanh trong Giang Nam thất quái truyền thụ, hai người từ nhỏ đã cùng luyện với nhau không biết bao nhiêu lần, nhưng đêm nay là trận sống mái, nên đôi bên chiết chiêu khác hẳn ngày thường. Võ Tu Văn nhanh nhẹn khinh linh, sấn tới lui về, nhắm chỗ sơ hở tấn công. Võ Đôn Nhu nghiêm thủ môn hộ, thi thoảng đâm một kiếm, chiêu thức hiểm ác, kình lực trầm hùng.

Dương Quá nhìn một hồi, nghĩ: “Quách bá bá võ công cao cường, quán tuyệt đương thời, nhưng đệ tử tựa hồ chưa nắm được thủ pháp, huynh đệ họ Võ tư chất bình thường, xem ra chưa học được hai thành võ công của Quách bá bá”. Đột nhiên chàng cười to, thong thả bước ra.

Huynh đệ họ Võ kinh ngạc, nhảy lùi lại, nhận ra Dương Quá, thì cùng quát to:

– Các hạ tới đây làm gì?

Dương Quá cười, đáp:

– Thế hai vị tới đây làm gì?

Võ Tu Văn cười nhạt, nói:

– Huynh đệ ta nửa đêm vô sự, ra đây luyện kiếm.

Dương Quá nghĩ: “Tiểu Võ cơ trí, nhanh miệng nói dối”, chàng cười khẩy, nói:

– Luyện kiếm đến mức bất chấp tính mạng, hì hì, dụng công như thế là sao?

Võ Đôn Nhu giận nói:

– Các hạ đi chỗ khác thì hơn, chuyện riêng của huynh đệ ta, không cần các hạ quản.

Dương Quá cười khẩy, nói:

– Nếu quả thật hai vị luyện công, tại hạ dĩ nhiên không quản làm gì. Nhưng trong lúc xuất chiêu, hai vị toàn nghĩ đến Phù muội của tại hạ, tại hạ không quản sao được?

Huynh đệ họ Võ nghe năm chữ “Phù muội của tại hạ” thì chấn động, bất giác tay cầm kiếm đều run run.Võ Tu Văn gằn giọng:

– Các hạ hồ thuyết bát đạo gì vậy?

Dương Quá nói:

– Phù muội là thân sinh nhi nữ của Quách bá bá và Quách bá mẫu phải không nào? Đại sự hôn nhân trước hết phải theo ý muốn của cha mẹ, đúng thế chứ? Quách bá bá từ sớm đã hứa gả Phù muội cho tại hạ, hai vị lại vờ làm như không biết, ở đây quyết đấu tranh giành vị hôn thê của tại hạ, hai vị có còn coi Dương Quá này là người nữa hay chăng?

Lời lẽ của chàng thật nghiêm trang, huynh đệ họ Võ lập tức cứng lưỡi. Họ biết Quách Tĩnh đúng là luôn có ý chọn Dương Quá làm con rể, chỉ riêng Hoàng Dung và Quách Phù chưa ưng, bây giờ đột nhiên bị Dương Quá nói trúng tâm sự, huynh đệ nhìn nhau, không biết đối đáp thế nào. Võ Tu Văn nhanh trí, cười khẩy, nói:

– Hừ, vị hôn thê, nói nghe dễ thế! Hôn sự đã có môi giới hay chưa? Các hạ đã có lễ dạm hỏi hay chưa? Có lễ đính hôn hay chưa?

Dương Quá cũng cười khẩy, nói:

– Được, thế hai vị đã có cha mẹ đến thưa chuyện, có môi giới gì hay chưa?

Thời nhà Tống trọng nhất lễ giáo, đại sự hôn nhân không thể thiếu việc cha mẹ và có môi giới đến thưa chuyện. Huynh đệ họ Võ vốn quyết thắng bại một phen, kẻ bại sẽ tự sát, người thắng sẽ cầu hôn với Quách Phù, khi ấy Quách Phù không còn sự lựa chọn nào khác, tất bằng lòng, bấy giờ sẽ cầu xin vợ chồng Quách Tĩnh; không ngờ Dương Quá lại nhảy ngang vào. Võ Tu Văn ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Sư phụ có ý gả Phù muội cho các hạ, có thể có việc đó. Nhưng sư mẫu có ý gả nàng cho một trong hai huynh đệ ta. Hiện thời cả ba chúng ta đều chưa có danh phận, rồi đây Phù muội thuộc về ai, điều đó chưa thể nói trước.

Dương Quá ngửa mặt cười ha hả.

Võ Tu Văn thấy chàng cười mãi không thôi, giận nói:

– Cười cái gì kia chứ? Tại hạ nói sai hay sao?

Dương Quá nói:

– Phải, sai quá, sai quá rồi. Quách bá bá cố nhiên thích tại hạ, Quách bá mẫu lại càng thích hơn, hai vị huynh đệ làm sao sánh nổi tại hạ kia chứ?

Võ Tu Văn nói:

– Hừ, các hạ chỉ bẻm mép, có ai tin được?

Dương Quá cười, nói:

– Tại hạ cần gì phải bẻm mép? Quách bá mẫu cũng đã hứa gả Phù muội cho tại hạ từ lâu, nếu không tội gì tại hạ chịu tận lực cứu nhạc phụ nhạc mẫu kia chứ? Tất cả chỉ là vì Phù muội đó. Các hạ nói đi, sư mẫu của các hạ có tự bảo sẽ gả Phù muội cho huynh đệ các hạ hay không nào?.

Huynh đệ họ Võ nhìn nhau, quả nhiên sư mẫu chưa lần nào nói đến việc đó, cũng không hề ngụ ý gì việc đó, hay là sư mẫu đã hứa gả cho tên tiểu tử họ Dương thật rồi? Huynh đệ vốn định sống mái với nhau, bây giờ xuất hiện cường địch, hai người bất giác xích lại gần nhau.

Dương Quá bữa nọ nghe lén được cuộc trò chuyện giữa Quách Phù với huynh đệ họ Võ, chàng cố ý để cho họ đố kỵ với mình, bèn cười, nói:

– Phù muội từng kể với tại hạ, hai vị ca ca họ Võ cứ bám riết lấy nàng, nàng đành phải khéo nói để cả hai người cùng vui. Hô hô, trên thế gian làm gì có một thiếu nữ cùng lúc tâm ái hai nam nhân kia chứ? Phù muội của tại hạ đoan trang trinh thục, càng không có lý nào như thế. Tại hạ nói thực với hai vị đây, hai vị cùng thích Phù muội, nhưng Phù muội không thích cả hai vị đâu.

Rồi chàng nhại giọng Quách Phù bữa nọ, nói:

– Tiểu Võ ca ca, ca ca quí muội, tâm ái muội, nhưng không biết lòng muội có bao nhiêu điều khó nói hay sao? Đại Võ ca ca, ca ca sao lạ thế, có muốn nói gì với muội thì nói đi?

Huynh đệ họ Võ tái mặt. Mấy câu ấy là của Quách Phù nói riêng với họ, bấy giờ hoàn toàn không có kẻ thứ ba, nếu nàng ta không tự kể lại, làm sao Dương Quá hay biết kia chứ? Hai người lòng đau như cắt, nghĩ Quách Phù trước sau không chịu hứa hôn, thì ra là vì thế.

Dương Quá nhìn thần sắc hai người, biết kế của mình đã thành, nghiêm nghị nói:

– Tóm lại, Phù muội là vị hôn thê của tại hạ, mai này tại hạ và nàng bách niên hảo hợp, bạch đầu giai lão, tương kính như tân, tử tôn…

Chàng nói đến đây, bỗng nghe phía sau có tiếng thở dài, nghe như của Tiểu Long Nữ, bèn buột miệng thốt lên hai tiếng “Cô cô!” không thấy tiếng trả lời, chợt hiểu đấy là âm thanh do Lý Mạc Sầu ở trong hang phát ra, nữ nhân đó quyết không thể chạm trán với huynh đệ họ Võ, chàng bèn nói to:

– Huynh đệ hai vị tự tác đa tình, chỉ làm trò cười cho người khác. Tại hạ nể mặt nhạc phụ nhạc mẫu, chuyện này bỏ qua cho hai vị. Hai vị hãy mau trở về thành Tương Dương, giúp nhạc phụ nhạc mẫu của tại hạ thủ thành, đó mới là việc nên làm.

Chàng cứ luôn miệng nhắc gọi vợ chồng Quách Tĩnh là nhạc phụ nhạc mẫu. Huynh đệ họ Võ thất vọng nắm lấy tay nhau. Võ Tu Văn buồn rầu nói:

– Được, Dương đại ca, chúc đại ca và Quách sư muội phúc… phúc thọ vô cương. Huynh đệ tại hạ sẽ đi thật xa, trên thế gian coi như không có huynh đệ tại hạ nữa.

Nói xong cả hai cùng quay người đi.

Dương Quá mừng thầm, nghĩ hai người đã căm hận chàng, ắt căm hận cả Quách Phù, từ đây trở đi sẽ hữu ái hòa mục với nhau, như mong muốn của người cha già.

Võ Tam Thông nấp sau bụi cây, nghe Dương Quá nói một phen khiến cho hai ái nhi của lão không đánh nhau nữa, thì cả mừng, thấy hai đứa dắt nhau bỏ đi, không nén nổi, bèn gọi to:

– Nhu nhi, Văn nhi, ta sẽ cùng đi với các ngươi.

Nhị Võ nghe tiếng cha gọi, sững lại, cùng thốt lên “Gia gia!”. Võ Tam Thông vái Dương Quá một cái thật dài, nói:

– Dương huynh đệ, ân tình hậu ý của huynh đệ, lão phu xin ghi nhớ suốt đời.

Dương Quá bất giác cau mày, sao lão lại đi nói câu ấy trước mặt nhị Võ. Võ Tu Văn đã sinh nghi, nói:

– Đại ca, lời tiểu tử vừa nói chưa chắc đã là thật.

Võ Đôn Nhu không nhanh trí, nhanh miệng bằng tiểu đệ, nhìn cha, rồi nhìn Võ Tu Văn, gật đầu.

Võ Tam Thông thấy sự tình như vậy, vội nói:

– Đừng hiểu lầm, ta không nhờ Dương huynh đệ đến khuyên hai ngươi đâu.

Huynh đệ họ Võ vốn chỉ hơi nghi, nghe phụ thân nói hớ như vậy, lập tức nghĩ đến việc Dương Quá và Quách Phù lâu nay bất hòa với nhau, Dương Quá có tình ý với Tiểu Long Nữ, những lời vừa rồi quá nửa là bịa đặt. Võ Tu Văn nói:

– Đại ca, chúng ta hãy trở vào thành Tương Dương hỏi Phù muội cho rõ ràng.

Võ Đôn Nhu nói:

– Phải, kẻ khác hoa ngôn xảo ngữ, chúng ta không thể mắc lừa.

Võ Tu Văn nói:

– Gia gia, hãy cùng tới thành Tương Dương. Sư phụ, sư mẫu là người quen cũ của gia gia, gia gia đến thăm họ luôn thể.

Võ Tam Thông ấp úng:

– Ta… ta…

Lão đỏ mặt, không biết nói sao, định nghiêm nghị trách mắng hai đứa con về tội ác đấu, nhưng lại sợ chúng vâng lời trước mặt, sau lưng lại quyết sống mái với nhau.

Dương Quá lạnh lùng nói:

– Võ nhị ca, hai chữ “Phù muội”, hai vị không được gọi nữa. Từ rày trở đi, tại hạ không cho phép hai vị chẳng những nhắc đến, mà ngay cả nghĩ thôi cũng không được.

Võ Tu Văn tức giận nói:

– Hừ, thiên hạ lại có kẻ ngang ngược vô lý thế ư? Hai chữ “Phù muội” ta đã gọi bảy, tám năm nay, không chỉ gọi hôm nay, mà mai sau còn gọi như thế. Phù muội, Phù muội, Phù muội của ta…

Bỗng “bốp” một tiếng, Võ Tu Văn đã bị Dương Quá cho một cái tát.

Võ Tu Văn nhảy lui hai bước, gằn giọng nói:

– Được, họ Dương kia, đã nhiều năm chúng ta chưa đánh nhau.

Võ Tam Thông quát:

– Văn nhi, sao tự dưng lại đi đánh nhau?

Dương Quá quay sang, nghiêm trang nói:

– Võ lão bá, rốt cuộc lão bá sẽ đứng về bên nào?

Nói về lý, Võ Tam Thông tất nhiên sẽ giúp con mình, nhưng Dương Quá vừa rồi làm như thế hiển nhiên cốt để ngăn chặn hai đứa con của lão tàn sát lẫn nhau, thành thử lão cứng lưỡi, không trả lời được. Dương Quá nói:

– Đã thế, xin lão bá cứ ngồi yên một chỗ, tiểu điệt sẽ không đả thương đến tính mạng họ, mà họ cũng không thể đả thương nổi tiểu điệt, lão bá hãy xem cảnh náo nhiệt một lúc.

Dương Quá ít tuổi hơn nhiều, nhưng Võ Tam Thông bất giác nghe lời chàng, ngồi xuống một tảng đá.

Dương Quá rút kiếm Quân tử, hàn quang nhoáng lên, “phập” một cái, chặt đứt ngang thân một cây tùng lớn. Phần ngọn cây tùng đổ rạp sang một bên, chỗ thân cây bị chém ngang phẳng lì. Huynh đệ họ Võ thấy kiếm của chàng sắc bén như thế thì nhìn nhau tái mặt. Dương Quá tra kiếm vào bao, cười, nói:

– Đối phó với hai vị, đâu cần dùng kiếm?

Chàng thuận tay bẻ một cành cây tuốt lá, thành một cây bổng dài ba thước, nói:

– Tại hạ bảo nhạc mẫu rất quí tại hạ, hai vị chưa chịu tin, vậy tại hạ chỉ sử dụng cây bổng này, hai vị cứ việc sử kiếm cùng đánh. Hai vị vừa có thể sử dụng võ công do nhạc phụ nhạc mẫu tại hạ truyền thụ, vừa có thể sử dụng Nhất dương chỉ do Chu sư thúc của hai vị truyền thụ, tại hạ sẽ chỉ sử dụng võ công do nhạc mẫu truyền thụ; nếu tại hạ sử nhầm công phu của môn phái khác, coi như tại hạ bị thua.

Nhị Võ vốn sợ Dương Quá võ công cao cường, lần trước thấy chàng hai phen ác đấu với Kim Luân pháp vương, chiêu số quái dị, họ không hiểu nổi; lúc này nghe chàng luôn miệng nhạc phụ nhạc mẫu, tựa hồ Quách Phù đã thật sự là vợ chàng, bảo họ không căm tức sao được? Huống hồ chàng ngạo mạn, lấy một địch hai, dùng cành cây đấu với kiếm sắc, còn bảo chỉ giới hạn trong việc sử dụng công phu mà Hoàng Dung truyền thụ riêng cho chàng, huynh đệ họ Võ nghĩ bụng họ đã chiếm ba phần lợi thế, nếu không thắng chàng, thì cũng chẳng còn mặt mũi nào sống trên đời.

Võ Đôn Nhu cảm thấy thắng như vậy không vẻ vang gì, lắc đầu, định lên tiếng, thì Võ Tu Văn đã cướp lời:

– Được, đấy là các hạ tự cao tự đại, chứ không phải huynh đệ tại hạ nài ép các hạ. Nếu các hạ sử dụng nhầm võ công của phái Toàn Chân hoặc phái Cổ Mộ thì sao?

Hắn nghĩ chàng võ công tuy cao, chẳng qua là dựa vào học được công phu thượng thừa của phái Toàn Chân và phái cổ Mộ, chứ hồi ở đảo Đào Hoa, đánh nhau với huynh đệ họ, chàng đã bị no đòn, đâu có bản lĩnh gì?

Dương Quá nói:

– Chúng ta tỷ võ lần này, không phải vì oán hận hồi nhỏ, cũng không vì oán hận hôm nay, mà chỉ vì Phù muội. Nếu tại hạ thua, mà còn nhìn Phù muội một lần, nói với Phù muội một câu, thì sẽ là hạng vô liêm sỉ, không bằng con heo con chó. Nhưng nếu hai vị thua thì sao?

Câu vừa rồi cốt để buộc huynh đệ họ Võ cũng phải nói y như vậy. Võ Tu Văn đành nói:

– Huynh đệ tại hạ mà thua, cũng sẽ vĩnh viễn không gặp Phù muội nữa.

Dương Quá hỏi Võ Đôn Nhu:

– Còn các hạ thì sao?

Võ Đôn Nhu tức giận, nói:

– Huynh đệ ta đồng tâm nhất ý, há có dị ngôn?

Dương Quá cười, nói:

– Hay lắm, nếu hôm nay hai vị bị thua mà không giữ lời, thì sẽ là hạng vô liêm sỉ, không bằng con heo con chó, phải vậy chăng?

Võ Tu Văn nói:

– Phải. Các hạ cũng vậy. Tiếp chiêu!

Đoạn trường kiếm đâm nhanh tới đùi Dương Quá. Võ Đôn Nhu cũng đâm vào sườn trái của chàng, thành thế tả hữu giáp công.

Dương Quá nhảy lên, nói:

– Huynh đệ đồng tâm, chém đứt kim loại, huynh đệ hai vị liên thủ, quả nhiên lợi hại.

Võ Đôn Nhu chém tới, Dương Quá vẫn né tránh, chưa đánh trả, nói:

– Thê tử như quần áo, huynh đệ như chân tay, quần áo rách, có thể vá, chân tay đứt, không liền lại! Câu thơ ấy, hai vị từng nghe rồi chứ?

Võ Tu Văn nói:

– Các hạ chớ nhiều lời. Sư mẫu truyền thụ riêng cho các hạ công phu gì, sao không đem ra thi triển?

Võ Đôn Nhu không nói một lời, chỉ lẳng lặng vung kiếm.

Dương Quá nói:

– Được, cẩn thận này, công phu tinh diệu mà nhạc mẫu tại hạ truyền thụ là đây!

Nói đoạn giơ cây bổng sử tự quyết chữ “Bạn” (móc giật) trong Đả cẩu bổng pháp, đồng thời ngón trỏ tay trái điểm nhứ vào huyệt đạo của Võ Đôn Nhu. Võ Đôn Nhu vội lùi ra sau né tránh, Võ Tu Văn kêu “ái”, đã bị cây bổng giật ngã một cái.

Võ Đôn Nhu thấy huynh đệ bất lợi, đâm nhanh một nhát kiếm tới Dương Quá. Dương Quá nói:

– Đúng, huynh đệ ruột thịt, có nạn cùng chịu.

Cây bổng di động, nhoáng một cái đã đập “bộp” một cái vào mông Võ Đôn Nhu. Cây bổng di chuyển không nhanh, nhưng toàn đánh vào bộ vị đối phương không ngờ tới, Đả cẩu bổng pháp biến ảo vô phương, quỉ thần khó lường. Võ Đôn Nhu trúng đòn tuy không đau, nhưng rõ ràng đã thua một chiêu, thầm lo sợ.

Võ Tu Văn bật dậy, nói:

– Đấy là Đả cẩu bổng pháp, đâu phải công phu sư mẫu truyền thụ riêng? Chẳng qua khi sư mẫu truyền thụ cho Lỗ Hữu Cước, các hạ học lỏm được vài chiêu, không được tính.

Dương Quá giơ cây bổng ra, Võ Tu Văn lại ngã “oạch” một cái, bổ nhào về phía trước, Võ Đôn Nhu vội phạt ngang trường kiếm bảo hộ cho huynh đệ.

Dương Quá chờ Võ Tu Văn bò dậy, cười, nói:

– Ba chúng ta cùng nhìn thấy, tại sao tại hạ học được, hai vị thì không? Nhạc mẫu tại hạ chỉ nói cho Lỗ trưởng lão biết khẩu quyết, còn chiêu số sau đó nhạc mẫu truyền thụ riêng cho tại hạ. Ngay cả Phù muội của tại hạ cũng không được biết, hai vị hiểu sao nổi?

Võ Tu Văn không biết Dương Quá từng có những cuộc kỳ ngộ, khi Hồng Thất Công và Âu Dương Phong tỷ võ bằng cách đấu khẩu, đã nói chiêu số cho chàng nghe; hắn nghĩ lời Dương Quá quá nửa là thật, nếu không làm sao chàng chỉ nghe khẩu quyết mà có thể sử cây bổng, trong khi hắn chẳng hiểu gì. Hắn cố cãi lý:

– Cái đó là do phẩm cách của từng người, Đả cẩu bổng pháp vốn chỉ do bang chủ Cái Bang sử dụng, chúng ta vô tình nghe thấy, chưa được lệnh sư mẫu, ai dám học lỏm? Chỉ có hạng tiểu nhân ti tiện mới để bụng ghi nhớ. Các hạ không biết xấu hổ, không sợ người ta chê cười hay sao?

Dương Quá cười ha hả, nhứ nhứ cây bổng, bộp bộp hai tiếng, đánh trúng lưng hai người. Huynh đệ họ Võ vội nhảy lùi, đỏ bừng cả mặt. Dương Quá cười, nói:

– Hiện tại không có người đối chứng, tại hạ dù có đánh thắng hai vị bằng Đả cẩu bổng pháp, hai vị cũng chỉ tâm phục, khẩu chẳng phục. Thôi được, tại hạ sẽ sử dụng môn công phu mà nhạc mẫu bí mật truyền thụ cho tại hạ để hai vị thấy.

Chàng nhìn Võ Đôn Nhu, lại nhìn Võ Tu Vãn, hỏi:

– Võ công của nhạc mẫu tại hạ là do ai truyền thụ?

Võ Tu Văn tức giận đáp:

– Các hạ không biết ngượng mồm, cứ một điều nhạc mẫu, hai điều nhạc mẫu, bọn ta không nói chuyện nữa.

Dương Quá cười, nói:

– Sao lại để ý chuyện vặt đó? Được, tại hạ hỏi huynh, trước khi sư mẫu của huynh bái Hồng lão bang chủ làm sư phụ, võ công là do ai truyền thụ?

Võ Tu Văn nói:

– Sư mẫu bọn ta là con gái của Đào Hoa Hoàng đảo chủ, võ công là do Hoàng đảo chủ đích truyền, thiên hạ ai mà chẳng biết?

Dương Quá nói:

– Đúng, hai vị sống ở đảo Đào Hoa lâu năm, có biết tuyệt kỹ của Hoàng đảo chủ là công phu gì hay không?

Võ Tu Văn nói:

– Hoàng đảo chủ bác đại tinh thâm, văn tài võ lược, môn nào cũng thông, đâu phải chỉ có một tuyệt kỹ.

Dương Quá nói:

– Nói thế cũng đúng, luận về kiếm, Hoàng đảo chủ sử dụng kiếm pháp gì?

Võ Tu Văn nói:

– Các hạ biết rồi sao còn hỏi? Ngọc tiêu kiếm pháp của Hoàng đảo chủ độc bộ võ lâm, lừng danh thiên hạ, người trên giang hồ ai chẳng biết.

Dương Quá nói:

– Hai vị đã gặp Hoàng đảo chủ hay chưa?

Võ Tu Văn nói:

– Hoàng đảo chủ vân du thiên hạ, xuất quỉ nhập thần, ngay sư phụ, sư mẫu cũng khó tìm gặp Hoàng đảo chủ, bọn tiểu bối chúng ta làm sao có duyên kiến diện?

Dương Quá nói:

– Thế Ngọc tiêu kiếm pháp của Hoàng đảo chủ, hai vị đã được thấy hay chưa?

Võ Tu Văn cười khẩy, nói:

– Có một năm vào dịp sinh nhật Hoàng đảo chủ, sư mẫu mở tiệc mừng, tiệc xong sư mẫu có sử một lần, huynh đệ tại hạ và Phù muội được ngắm một phen. Bấy giờ Dương huynh đã đến phái Toàn Chân tìm minh sư rồi.

Dương Quá cười, nói:

– Đúng, sau đó nhạc mẫu tại hạ… thôi được, sau đó sư mẫu của huynh có bí mật truyền thụ Ngọc tiêu kiếm pháp cho tại hạ.

Huynh đệ họ Võ đưa mắt nhìn nhau, đều chưa tin, nghĩ dạo trước Dương Quá tuy bái Hoàng Dung làm sư phụ, nhưng họ biết sư mẫu chỉ dạy chàng học chữ, đọc sách, chứ không hề dạy võ công; cho nên khi đánh nhau với hai người ở đảo Đào Hoa, chàng không phải là đối thủ của họ, cuối cùng đả thương Võ Tu Văn, theo Kha công công nói, là môn Cáp mô công của Tây độc Âu Dương Phong. Thiết tưởng Ngọc tiêu kiếm pháp là công phu tinh diệu, ngay Quách Phù là ái nữ duy nhất còn chưa được sư mẫu truyền thụ. Dương Quá từ khi ở núi Chung Nam trở về, mỗi lần gặp sư mẫu đều ngắn ngủi, sư mẫu dù có ý truyền thụ Ngọc tiêu kiếm pháp cho Dương Quá, cũng chưa có thời gian rảnh rỗi.

Dương Quá giơ cây bổng lên múa nhẹ, nói:

– Nhìn coi, đây là “Tiêu sử thừa long”!

Chàng lấy cành cây thay kiếm, chĩa nhanh, “bộp” khẽ một tiếng, đã trúng ngực Võ Đôn Nhu. Nếu đổi cây bổng là thanh kiếm sắc nhọn, thì Võ Đôn Nhu đã bị đâm xuyên qua ngực, còn gì mạng sống.

Võ Tu Văn hành động cực nhanh, trường kiếm đâm tới sườn phải của Dương Quá, song vẫn bị chậm một bước, Dương Quá đã thu cây bổng về, thúc trúng đùi bên phải của Võ Tu Văn, chiêu này đánh sau mà đến trước, mũi kiếm chưa chạm thân thể đối phương, thì cổ tay đã bị cây bổng chọc trúng, thanh kiếm sẽ tuột khỏi tay. Hắn vội thu kiếm biến chiêu, chân trái đá ra, cây bổng của Dương Quá lại chọc tới vai Võ Đôn Nhu, thân người sấn tới theo cây bổng, không tránh mà hóa ra tránh cước của Võ Tu Văn. Võ Tu Văn đá hụt, Võ Đôn Nhu thì vội đưa kiếm che đỡ môn hộ mới không bị trúng đòn thêm.

Sau vài chiêu, nhị Võ đã rối loạn chân tay, cố thủ còn chưa xong, nói gì thi triển kiếm pháp đối phó với cây bổng của đối phương? Dương Quá miệng gọi tên chiêu số:

– Sơn ngoại thanh âm, Kim thanh ngọc thần, Phụng khúc trường minh, Hướng cách lâu đài, Trác ca trung lưu…

Cây bổng đâm chọc liên tiếp, tiêu sái tự nhiên, chiêu nào cũng tấn công, chưa đợi nhị Võ hóa giải chiêu này đã xuất chiêu tiếp theo dồn dập, buộc nhị Võ kề vai nhau chống đỡ, không dám rời nhau nửa bước. Huynh đệ họ Võ từng xem Hoàng Dung sử kiếm pháp này, chỉ biết là nó tuấn nhã hoa tiêu, đâu ngờ lại diệu dụng đến thế. Nghe Dương Quá gọi tên các chiêu số, tựa hồ ngày trước Hoàng Dung từng nói qua, hai người bị chế ngự, tình thế quẫn bách, đau lòng nghĩ rằng Ngọc tiêu kiếm pháp chắc quả thật do Hoàng Dung truyền thụ riêng cho Dương Quá. Họ đâu biết Dương Quá từng nhiều ngày ở bên Hoàng Dược Sư, được Hoàng Dược Sư đích thân truyền thụ hai tuyệt kỹ Ngọc tiêu kiếm pháp và Đạn chỉ thần công?

Dương Quá thấy hai người thần sắc thê thảm, cũng không nỡ; nhưng nghĩ phải làm đến cùng, đã giúp Võ Tam Thông thì giúp đến nơi đến chốn; hôm nay nếu không làm cho hai gã này tâm phục khẩu phục, vĩnh viễn không dám nhìn mặt Quách Phù, thì hai gã sẽ còn vì nàng ta mà tàn sát nhau một mất một còn mới thôi. Trị bệnh phải trị tận gốc, thế là chàng tiếp tục thi triển Ngọc tiêu kiếm pháp dồn ép huynh đệ họ Võ, khiến họ càng đấu càng kinh hãi, phải nghiến răng chống trả một cách tuyệt vọng.

Việt nữ kiếm pháp mà huynh đệ họ Võ học được vốn cũng là môn kiếm pháp cực kỳ lợi hại, nhưng họ chưa luyện đến hỏa hầu, Quách Tĩnh lại vụng về, không biết giải thích tường tận cái huyền diệu tinh vi của môn kiếm pháp ấy cho hai gã đệ tử. Cho nên nhị Võ nếu tỷ thí với hảo thủ giang hồ thì chắc thắng, còn đấu với Dương Quá tất nhiên không nổi, mà tự họ cũng không hiểu vì sao. Ngọc tiêu kiếm pháp Dương Quá cũng chưa luyện kỹ, có điều võ công của chàng cao hơn hai gã kia mấy bậc, huống hồ hai gã vừa đau lòng vừa tức giận, khó tránh xuất thủ bấn loạn.

Dương Quá không hạ độc thủ, song từ từ truyền nội lực ra cây bổng. Nhị Võ đấu một hồi, cảm thấy cây bổng trong tay đối phương dường như có sức hút rất mạnh, cứ dẫn kiếm của họ chệch đi, khi thì sang bên phải, khi thì sang bên trái, không trúng đích. Lực hút của cây bổng mạnh đến mức cuối cùng dẫn kiếm của hai gã đâm lẫn nhau. Võ Đôn Nhu đâm Dương Quá một chiêu, lại suýt trúng người Võ Tu Văn; còn Võ Tu Văn đâm Dương Quá một kiếm, song Võ Đôn Nhu phải dốc sức chống đỡ mới không bị trúng đòn.

Dương Quá cười một tràng dài, nói:

– Cái tinh diệu của Ngọc tiêu kiếm pháp không dừng ở đó, hãy cẩn thận này!

Cây bổng của chàng đụng vào lưỡi kiếm của Võ Đôn Nhu, cây bổng chẳng hề hấn gì, trong khi Võ Đôn Nhu cảm thấy tay mình bị kéo mạnh ra ngoài, thanh kiếm mấy lần bị tuột khỏi tay, y phải cố ghìm lại, cây bổng của Dương Quá thuận thế đẩy chếch đi, luôn cả thanh kiếm của Võ Tu Văn cũng bị hút lấy, bị kéo xuống, cả hai mũi kiếm cùng chĩa xuống sát đất. Nhị Võ ráng sức rút về, thì chân trái của Dương Quá đã đạp lên hai cán kiếm, còn cây bổng thì chọc nhẹ lần lượt vào yết hầu từng gã, kèm theo tiếng cười, hỏi:

– Đã phục chưa?

Nếu đổi cây bổng thành vật nhọn sắc, thì hai gã đã đứt họng, dù chỉ là cây bổng, song dùng lực mạnh, thì hai gã cũng sẽ bị trọng thương. Nhị Võ mặt xám ngoét, không nói một lời. Dương Quá nhấc chân trái về lùi lại ba bước, thấy thần sắc nhị Võ thì nhớ lại hồi nhỏ từng bị hai gã ẩu đả làm nhục, hôm nay mới cho hai gã bẽ mặt, chàng không khỏi đắc ý.

Lúc này huynh đệ họ Võ không còn nghi ngờ gì nữa, tin chắc Dương Quá quả nhiên được Hoàng Dung truyền thụ tuyệt kỹ, nhưng từ nhỏ cả hai đã si mê Quách Phù, nếu bại trận này, sẽ vĩnh viễn không thể gặp nàng ta, thật không cam lòng; lại nghĩ cuộc đấu vừa khởi đầu đã bị đối phương chiếm tiên cơ, sau đó toàn phải luống cuống chống đỡ, chưa thi triển được võ nghệ sở học, ngay môn Nhất dương chỉ mới luyện cũng chưa kịp thi thố. Võ Tu Văn đột nhiên nói to:

– Đại ca, nếu chúng ta dừng tay, thì sống trên đời còn có ý vị gì nữa? Chi bằng hãy liều chết cùng hắn!

Võ Đôn Nhu nói:

– Đúng thế!

Hai gã lại xông tới, cũng không buồn nghiêm thủ các vị trí yếu hại, mà chỉ dốc sức tấn công.

Biến chiêu kiểu này, quả nhiên uy lực tăng mạnh, hai gã chỉ công không thủ, liều chết một phen với Dương Quá. Cây bổng của Dương Quá nhắm vào chỗ yếu hại của họ, họ cũng bất chấp, tay phải sử kiếm, tay trái thì thi triển môn Nhất dương chỉ, quyết lấy mạng đối phương. Dương Quá cười, nói:

– Được, đấu thế này mới thú vị một chút!

Chàng quẳng cây bổng đi, luồn lách như tia chớp giữa hai thanh kiếm. Nhị Võ càng hung hăng hơn, song vẫn không sao đâm trúng đối thủ.

Võ Tam Thông nhìn ba người động thủ, nhất thời mong Dương Quá đắc thắng, để hai đứa con của lão ta tuyệt tình với Quách Phù, song khi thấy hai đứa con liên tiếp gặp hiểm chiêu, có lúc lại mong chúng đánh bại Dương Quá, tâm trạng cứ thay đổi không ngừng.

Bỗng nghe Dương Quá hú một tiếng dài, búng ngón tay vào hai thanh kiếm của nhị Võ, tinh tinh hai tiếng, hai thanh kiếm bay lên trời. Dương Quá tung mình nhảy lên, mỗi tay chộp một thanh kiếm, cười, nói:

– Công phu Đạn chỉ thần công này cũng là do nhạc mẫu tại hạ truyền thụ đó.

Đến bước này, huynh đệ họ Võ tự biết đấu thêm với chàng sẽ càng thêm nhục. Dương Quá đảo chuôi kiếm, tung nhẹ trả lại, nói:

– Xin lỗi đã đắc tội.

Võ Tu Văn nhận kiếm, rầu rĩ nói:

– Thôi, tại hạ vĩnh viễn không còn gặp Phù muội nữa.

Đoạn đưa kiếm lên cứa ngang cổ tự vẫn. Võ Đôn Nhu cùng một ý như huynh đệ, cũng đưa kiếm lên cứa ngang cổ tự vẫn. Dương Quá kinh ngạc, bay người tới búng hai thanh kiếm ra ngoài, hai lưỡi kiếm đụng nhau cùng gãy đôi.

Lúc ấy Võ Tam Thông cũng nhảy vào, mỗi tay tóm cổ một đứa con, xẵng giọng nói:

– Hai ngươi vì một đứa con gái mà tự kết liễu tính mạng mình, thật uổng là một trang hảo hán.

Võ Tu Văn ngẩng lên, buồn bã nói:

– Gia gia, gia gia… cũng vì một nữ nhân… mà đau khổ suốt cả đời đó thôi? Hài nhi…

Lời chưa dứt, hắn thấy trên mặt phụ thân nước mắt ròng ròng, chợt nghĩ hai gã tàn sát lẫn nhau, quả thật làm cho người cha già đau lòng, thế là hắn khóc nấc lên. Võ Tam Thông buông tay, ôm hắn vào lòng, tay trái cũng ôm Võ Đôn Nhu, cha con ba người dính thành một chùm. Võ Đôn Nhu nghĩ mình luôn chân tình tâm ái Quách Phù, thế mà nàng ta ngấm ngầm thân mật với Dương Quá, ngay cả sư mẫu cũng đánh lừa huynh đệ y, đem tuyệt nghệ bình sinh truyền riêng cho đứa con rể tương lai, xem ra người ngoài toàn là hạng giả dối, chỉ có tình phụ tử huynh đệ mới là chân tình, bèn gục đầu vào ngực cha mà khóc nấc lên.

Dương Quá sau khi hành hạ huynh đệ họ Võ một chập, thấy ba cha con họ bây giờ đã thương yêu nhau, thì vô cùng đắc ý, nghĩ thầm tuy mình chỉ còn sống được mấy ngày, song trước khi chết cũng đã làm một việc tốt.

Chỉ nghe Võ Tam Thông nói:

– Hài tử ngu ngốc, đại trượng phu lo gì không có vợ? Nữ hài tử họ Quách đã không có chân tình với các ngươi, hà tất còn nhớ đến nó? Đại sự trước mắt ba cha con ta là gì hả?

Võ Tu Văn ngẩng đầu, nói:

– Phải báo đại cừu cho mẹ.

Võ Tam Thông đanh giọng, nói:

– Đúng thế! Cha con ta dẫu phải đi khắp chân trời góc bể, cũng phải tìm bằng được nữ ma đầu Lý Mạc Sầu!

Dương Quá kinh hãi, nghĩ: “Phải mau đưa ba người này ra chỗ khác, Lý sư bá mà nghe thấy câu vừa rồi thì phiền lắm”. Chàng chưa kịp làm gì, thì nghe tiếng cười lạnh lùng của Lý Mạc Sầu từ trong hang vọng ra:

– Hà tất phải đi khắp chân trời góc bể? Lý Mạc Sầu ta chờ ở đây đã lâu.

Đoạn từ trong hang bước ra, tay trái ẵm đứa bé, tay phải cầm cây phất trần, gió thổi bay bay tà áo, thần thái tự nhiên.

Cha con họ Võ không thể nào ngờ nữ ma đầu lại xuất hiện vào lúc này tại đây, Võ Tam Thông gầm lên một tiếng, lao tới, Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn đã bị gãy kiếm, mỗi người nhặt thanh kiếm gãy, sấn tới tả hữu giáp công. Dương Quá nói to:

– Bốn vị hãy khoan động thủ, nghe tại hạ nói một lời đã.

Võ Tam Thông mắt đỏ ngầu, nói:

– Dương huynh đệ, để giết con ma đầu này rồi nói sau.

Vừa nói, tả chưởng và hữu chỉ đã thi triển liên tiếp ba sát chiêu. Huynh đệ họ Võ thì tuy sử dụng hai thanh kiếm gãy, nhưng đánh gần như dùng chủy thủ, cũng có uy lực không nhỏ. Dương Quá biết họ có mối huyết cừu, quyết không chịu nghe lời khuyên giải của chàng, chỉ sợ đứa bé bị thương, chàng nói:

– Lý sư bá, hãy đưa đứa bé cho đệ tử ẵm.

Võ Tam Thông sững sờ, lùi hai bước, hỏi:

– Tại sao Dương huynh đệ lại gọi mụ ta là sư bá?

Lý Mạc Sầu cười, nói:

– Sư điệt thân ái, hãy đánh chặn phía sau lão điên, đứa bé cứ để ta ẵm cũng được.

Mụ vừa tiếp ba chiêu của Võ Tam Thông, thấy công lực đại tiến, hơn hẳn năm nào đôi bên động thủ ở phủ Gia Hưng, huynh đệ họ Võ cũng không phải hạng tầm thường, ba người ấy liều chết tấn công thì mụ cũng không dễ gì đối phó, mụ bèn cố ý gọi Dương Quá là “sư điệt thân ái” để cho ba người phân tâm. Võ Tam Thông quả nhiên trúng kế, nói:

– Nhu nhi, Văn nhi, hai ngươi đề phòng gã họ Dương, để mình ta trừng trị nữ ma đầu.

Dương Quá xuôi tay lùi ra, nói:

– Tại hạ không giúp bên nào, nhưng các vị nhất thiết không được đả thương đứa bé.

Võ Tam Thông thấy Dương Quá lùi ra, phần nào yên tâm hơn, dồn lực vào chưởng mà sấn tới. Lý Mạc Sầu vung cây phất trần chống đỡ, nói:

– Hai vị tiểu Võ công tử, vừa nãy ta thấy hai công tử hành sự cũng là kẻ đa tình, không như hạng nam nhân bạc hạnh vô tình vô nghĩa đáng ghét. Nghĩ riêng việc đó hôm nay ta tha chết cho hai công tử, vậy cả hai hãy mau chạy đi!

Võ Tu Văn tức giận nói:

– Tặc tiện nhân, mụ ác bà nương chó má kia, cái gì mà đa tình với chả vô tình?

Rồi xông tới, liên tiếp tung sát chiêu. Lý Mạc Sầu nổi giận nói:

– Xú tiểu tử không biết tốt xấu!

Cây phất trần chuyển động từ trong ra ngoài, xoay một vòng, đụng hai thanh kiếm gãy của nhị Võ, cả hai cảm thấy ngực bị chấn động mạnh, kiếm gãy suýt nữa thì tuột khỏi tay. Võ Tam Thông phóng một chưởng tới, Lý Mạc Sầu đưa cây phất trần về cản, mới giải nguy cho nhị Võ.

Dương Quá chậm rãi tới phía sau Lý Mạc Sầu, chỉ chờ chiêu số của mụ ta hơi ngưng lại, chàng sẽ lập tức cướp lấy đứa bé. Nhưng ba cha con họ Võ đánh rát, buộc Lý Mạc Sầu phải vung cây phất trần bảo hộ toàn thân, không có kẽ hở nào để chàng lợi dụng. Chàng thấy cha con họ Võ xuất thủ không nể nang, úy kỵ gì đối với đứa bé, lỡ nó bị thương, thật chàng sẽ không biết nói sao với vợ chồng Quách Tĩnh? Chàng kêu to:

– Lý sư bá, mau đưa đứa bé cho đệ tử!

Rồi chàng sấn lên, vung chưởng gạt cây phất trần, định đoạt lấy đứa bé. Lúc này Lý Mạc Sầu đứng giữa bốn người, trước sau tả hữu đều là địch thủ, cũng định trao đứa bé cho Dương Quá, song mụ lại tiếc, nên quát to:

– Ngươi mà tiến bước nữa, ta sẽ bóp chết nó tức thì.

Dương Quá cả sợ, đành dừng lại.

Lý Mạc Sầu chỉ hơi phân tâm, tả chưởng của Võ Tam Thông đã vỗ tới, ngón trỏ tay phải thì điểm trúng huyệt đạo bên sườn mụ ta. Lý Mạc Sầu lập tức cảm thấy nửa người tê dại, loạng choạng chực ngã. Mụ tiện thể tung chân đá văng cây kiếm gãy khỏi tay Võ Đôn Nhu, vụt ngọn cây phất trần xuống đầu Võ Tu Văn. Võ Tam Thông túm lưng Võ Tu Văn kéo gấp về phía sau mới giúp hắn tránh thoát đòn truy hồn đoạt mệnh của mụ ta. Lý Mạc Sầu bị thương không nhẹ, vung cây phất trần mở đường chạy vào hang.

Võ Tam Thông cả mừng, nói:

– Tặc tiện nhân đã trúng một chỉ của ta, hôm nay khó lòng chạy thoát.

Huynh đệ họ Võ định xông vào hang, Võ Tam Thông nói:

– Hãy khoan, đề phòng độc kế của tặc tiện nhân, chúng ta hãy canh chừng ngoài này, nghĩ cách thật hay đã…

Lời chưa dứt, bỗng nghe một tiếng gầm lớn, rồi từ trong hang một con báo gấm lớn lao ra.

Con mãnh thú đột nhiên xuất hiện, ba cha con Võ Tam Thông đều cả kinh, trong giây lát ngân quang loáng lên, từ dưới bụng con báo phóng ra mấy mũi ngân châm. Điều này lại càng hoàn toàn bất ngờ; Võ Tam Thông võ công tinh thâm, ứng biến thần tốc, kịp bay người lên, ngân châm bay qua bên dưới, nhưng nhị Võ huynh đệ thì cùng kêu “ối!” Lý Mạc Sầu đã từ phía dưới bụng con báo lật người, cưỡi trên lưng mãnh thú, cây phất trần giắt sau lưng, tay trái ẵm đứa bé, tay phải túm gáy con báo, phát ra một tràng cười. Con báo gấm lao vào hẻm núi.

Sự việc cũng hết sức bất ngờ đối với Dương Quá, chàng thấy con báo chạy đi, vội chạy theo, gọi to:

– Lý sư bá…

Võ Tam Thông thấy hai đứa con gục ngã không bò dậy nổi, bèn dang tay ôm lấy Dương Quá, nói:

– Hôm nay ta liều chết với ngươi.

Dương Quá không phòng bị, bị lão ôm cứng, vội nói:

– Lão bá mau buông ra, để tiểu điệt cướp lại đứa bé!

Võ Tam Thông nói:

– Thôi thì cả bọn cùng chết với nhau một thể!

Dương Quá thi triển tiểu cầm nã thủ để gỡ tay lão ta, nhưng Võ Tam Thông nổi cơn điên, cứ ôm chặt ngang bụng chàng.

Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu đã cưỡi con báo phóng đi mất hút, không thể đuổi kịp được nữa, thở dài nói:

– Lão bá ôm tiểu điệt làm gì kia chứ? Mau cứu nhị vị lệnh lang thì hơn!

Võ Tam Thông mừng rỡ:

– Phải, phải rồi! Huynh đệ biết cách cứu chữa phải không?

Nói xong lão buông Dương Quá ra.

Dương Quá cúi xuống nhìn huynh đệ họ Võ, thấy Võ Đôn Nhu bị trúng ngân châm vào vai, Võ Tu Văn bị trúng ở đùi, chất độc lan nhanh, trong giây lát hai người đã thở hổn hển, ngất đi không biết gì. Chàng xé vạt áo Võ Đôn Nhu, bọc ngón tay mình để rút hai mũi ngân châm ra khỏi người nhị Võ. Võ Tam Thông vội hỏi:

– Huynh đệ có giải dược hay không?

Dương Quá thấy nhị Võ trúng độc khó cứu, lặng lẽ lắc đầu.

Võ Tam Thông phụ tử tình thâm, lòng như dao cắt, nhớ lại vợ lão từng hút độc cho lão mà chết, đột nhiên lão chồm tới chỗ Võ Tu Văn, định hút máu từ vết thương ở đùi cho hắn. Dương Quá kinh hãi, kêu to:

– Đừng làm thế!

Chàng tiện tay điểm huyệt Đại Chùy ở lưng lão ta. Võ Tam Thông không đề phòng, bị ngã xuống, không cử động được, giương mắt nhìn hai đứa con, lệ chảy ròng ròng.

Dương Quá chợt nghĩ: “Dăm hôm nữa, chất độc hoa Tình trong người mình sẽ phát tác, sống thêm hay bớt đi dăm ngày thật chẳng có gì khác nhau, huynh đệ họ Võ là kẻ tầm thường, nhưng Võ lão bá là người chí tình, rất hợp với tâm ý của mình, Võ lão bá cả đời bất hạnh, mình hiến cho lão bá năm ngày để cha con Võ lão bá đoàn tụ mà nhớ mãi đến mình”. Thế là chàng ghé miệng vào hút máu độc ra khỏi vết thương ở đùi Võ Tu Văn, nhổ đi mấy ngụm; xong lại cứu Võ Đôn Nhu.

Võ Tam Thông nhìn cảnh ấy, lòng cảm kích bội phần, ngặt vì đã bị điểm huyệt, không làm gì được. Dương Quá hút máu độc cho nhị Võ một hồi, miệng có cảm giác từ vị đắng chuyển sang vị mặn, đầu óc càng lúc càng choáng váng, biết mình trúng độc đã sâu, cố hút thêm vài ngụm, nhổ ra, rồi ngã ra ngất lịm.

Không biết ngất đi bao lâu, dần dần thấy có nhiều bóng người lờ mờ diễu qua trước mặt, muốn nhìn cho rõ, càng lờ mờ thêm; cuối cùng chàng cũng mở mắt ra được, chỉ thấy Võ Tam Thông mừng rỡ nhìn chàng, reo lên:

– Hay quá, hay quá!

Đột nhiên lão quì xuống, rập đầu mười mấy cái liền, nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ đã… cứu sống… cứu sống hai đứa con ta, cũng cứu sống cái mạng già này.

Lão lồm cồm bò dậy, rồi lại khấu đầu với một người khác, nói:

– Đa tạ sư thúc, đa tạ sư thúc!

Dương Quá nhìn về phía người kia, thấy người ấy mặt đen, mũi cao mắt sâu, diện mạo hơi giống Ni Ma Tinh, tóc ngắn râu quăn, râu tóc bạc phơ, tuổi đã cao. Dương Quá chỉ biết Võ Tam Thông là đệ tử của Nhất Đăng đại sư, không biết lão còn có một vị sư thúc là người nước Thiên Trúc, chàng muốn ngồi dậy, nhưng cảm thấy không có chút sức lực nào; nhìn quanh, thấy mình đang nằm trên giường, chính là căn phòng chàng đã ở trong thành Tương Dương; chàng mới biết là mình chưa chết, còn có thể gặp lại Tiểu Long Nữ, bất giác thốt lên hai tiếng:

– Cô cô, cô cô!

Một người tới bên giường, đặt nhẹ tay lên trán chàng, nói:

– Quá nhi, hãy nghỉ đi, cô cô của ngươi có việc ra bên ngoài thành.

Đó là Quách Tĩnh. Dương Quá thấy Quách Tĩnh đã khỏe, thì rất mừng, nhưng chợt nghĩ: “Quách bá bá bị thương hồi phục, tất đã qua bảy ngày bảy đêm, chẳng lẽ mình bị hôn mê nhiều ngày như thế hay sao? Mà chất độc hoa Tình trong người mình tại sao chưa phát tác?” Chàng ngạc nhiên, đầu óc lại mơ hồ, ngất đi.

Chàng tỉnh lại lần thứ hai, thì là đêm khuya, bên đầu giường có một ngọn nến hồng cháy sáng, Võ Tam Thông ngồi cạnh giường đăm đăm nhìn chàng. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Võ lão bá, tiểu điệt không sao đâu, lão bá đừng bận tâm, hai vị Võ huynh đều khỏe cả chứ?

Võ Tam Thông nước mắt lưng tròng, chỉ gật đầu, không nói nên lời.

Dương Quá bình sinh chưa từng được ai cảm kích đến như vậy, cảm thấy áy náy, bèn lái sang chuyện khác, hỏi:

– Chúng ta làm cách nào về được thành Tương Dương?

Võ Tam Thông đưa tay áo quệt nước mắt, nói:

– Chu sư đệ của lão phu được Long cô nương ủy thác, đem con ngựa quí hãn huyết tới cho Dương huynh đệ, thấy bốn người chúng ta đều nằm lăn dưới đất, mới vội cấp cứu mang về.

Dương Quá ngạc nhiên, nói:

– Sao sư phụ của tiểu điệt lại biết tiểu điệt ở đó? Sư phụ của tiểu điệt có việc khẩn cấp gì, đến nỗi phải nhờ Chu lão bá mang ngựa cho tiểu điệt kia chứ?

Võ Tam Thông lắc đầu, nói:

– Lão phu về đến thành Tương Dương thì không gặp được Long cô nương. Chu sư đệ bảo rằng nàng ta còn trẻ, võ công xuất thần nhập hóa, tiếc thay lần này lão phu không có duyên bái kiến. Ôi, anh hùng thiếu niên tài ba như thế, lão phu bảo với Chu sư đệ rằng cánh già như lão phu sống cũng bằng thừa.

Dương Quá nghe Võ Tam Thông ca tụng Tiểu Long Nữ, giọng nói chân thành, thì trong lòng rất mừng, xét về lứa tuổi, Võ Tam Thông đáng bậc cha chú của Tiểu Long Nữ, song lão lại dùng hai chữ “bái kiến”, tức là nhìn đệ tử mà kính nể sư phụ. Dương Quá mỉm cười, nói:

– Thương thế của tiểu điệt…

Võ Tam Thông cướp lời:

– Dương huynh đệ, trong võ lâm có người gặp nạn, ra tay cứu giúp cũng là chuyện thường, nhưng xả thân cứu người như huynh đệ, hơn nữa, lại cứu hai đứa con vừa đắc tội lớn với Dương huynh đệ, thì trừ sư phụ của lão phu ra, không ai có thể làm nổi…

Dương Quá không ngừng lắc đầu, bảo lão ta đừng nói thêm. Võ Tam Thông cứ nói tiếp:

– Lão phu nếu gọi huynh đệ là ân công, chắc huynh đệ không chịu, nhưng nếu huynh đệ còn gọi lão phu là lão bá, thì rõ ràng là huynh đệ coi Võ Tam Thông này chẳng ra gì.

Dương Quá tính sảng khoái, lâu nay không câu nệ tiểu tiết, chàng đã quyết ý lấy Tiểu Long Nữ làm vợ, phàm những gì trái với lễ tục, phép xưng hô thông thường, chàng đều ưa thích, thế là liền nói:

– Được, vậy thì tiểu đệ sẽ gọi lão bá là Võ đại ca. Có điều trước mặt hai vị lệnh lang mà xưng hô như vậy không được tiện lắm.

Võ Tam Thông nói:

– Cái gì mà không tiện? Mạng sống của chúng nó là do huynh đệ cứu vớt, chúng có làm trâu ngựa cho huynh đệ cũng đáng.

Dương Quá nói:

– Võ đại ca, đại ca khỏi cần đa tạ tiểu đệ. Tiểu đệ bị trúng độc hoa Tình, vốn không sống được lâu nữa, việc hút chất độc giúp hai vị lệnh lang thật không đáng gì.

Võ Tam Thông lắc đầu, nói:

– Dương huynh đệ, không nên nói thế. Đừng nói là chất độc trong người huynh đệ chưa chắc đã khó trị, dù là vô dược khả cứu, phàm người ta sống thêm giờ nào hay giờ ấy, dẫu một khắc cũng quí. Trên thế gian không có người trường sinh, dẫu võ công thông thiên, cuối cùng rồi cũng chết, cho nên người người đều thích sống ghét chết.

Dương Quá cười, hỏi:

– Chúng ta về thành Tương Dương được mấy hôm rồi?

Võ Tam Thông nói:

– Hôm nay đã là ngày thứ bảy.

Dương Quá ngơ ngác, nói:

– Đáng lý tiểu đệ đã bị chất độc phát tác mà chết, sao vẫn còn sống, lạ thật!

Võ Tam Thông mừng rỡ, nói:

– Sư thúc của lão phu là vị thần tăng nước Thiên Trúc, trị thương liệu độc, phải nói là đệ nhất trong thiên hạ. Hồi trước sư phụ của lão phu uống nhầm độc dược do Quách phu nhân gửi đến, chính vị sư thúc ấy chữa khỏi. Lão phu phải đi mời sư thúc tới mới được.

Đoạn xăng xái ra khỏi phòng.

Dương Quá mừng thầm: “Có lẽ khi mình hôn mê, vị thần tăng nước Thiên Trúc đã cho mình uống thứ linh đan diệu dược gì chàng, ngay cả chất độc của hoa Tình cũng hóa giải được. Ôi, không biết cô cô đi đâu nhỉ? Nếu cô cô biết mình không phải chết, hẳn sẽ sung sướng lắm!” Vừa nghĩ thế thì tim đau nhói, ngực đột nhiên như bị búa đập, đau đớn không thể chịu nổi, phải kêu to một tiếng. Từ sau hôm uống nửa viên “Tuyệt Tình đơn” của Cầu Thiên Xích, chàng chưa bị đau đến mức này lần nào, chắc là dược tính của nửa viên thuốc ấy đã hết, mà chất độc trong cơ thể chưa bị giải trừ, đành túm ngực, nghiến răng chịu đựng, mồ hôi túa ra đầy đầu.

Đang đau đớn chết đi sống lại, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng niệm Phật hiệu “Nam mô a di đà Phật”, vị thần tăng nước Thiên Trúc chắp tay bước vào. Võ Tam Thông theo sau, thấy thần sắc nhăn nhó của Dương Quá thì cả kinh, hỏi:

– Dương huynh đệ, huynh đệ làm sao vậy?

Rồi lão quay sang phía vị thần tăng, nói:

– Sư thúc, chất độc phát tác, sư thúc mau cho uống thuốc giải độc!

Vị thần tăng không hiểu lời Võ Tam Thông, bước tới bắt mạch cho Dương Quá. Võ Tam Thông nói:

– Quên mất!

Đoạn lão chạy đi gọi sư đệ Chu Tử Liễu tới. Chu Tử Liễu biết tiếng Phạn, sẽ làm thông dịch.

Dương Quá bớt đau, kể lại cho vị thần tăng Thiên Trúc nghe tỉ mỉ nguyên do chàng bị trúng độc hoa Tình. Vị thần tăng hỏi kỹ về hình dạng loài hoa đó, kinh ngạc nói:

– Loài hoa ấy có từ thời thượng cổ, đã tuyệt chủng từ lâu, trong Phật điển có câu: “Ngày ấy hoa Tình hại vô số người, Văn Thù Sư Lợi bồ tát dùng đại trí tuệ lực hóa giải, thế gian từ đó không còn lưu truyền”. Nào ngờ ở Trung Thổ vẫn còn. Lão nạp chưa từng nghe loài hoa này, thật không biết làm thế nào hóa giải độc tính của nó.

Sắc mặt của vị thần tăng lộ vẻ thông cảm. Nghe Chu Tử Liễu dịch xong, Võ Tam Thông nói:

– Sư thúc từ bi, sư thúc từ bi!

Vị thần tăng chắp tay, miệng niệm “A di đà Phật!” nhắm mắt, cúi đầu trầm tư. Trong phòng tĩnh lặng, không ai dám lên tiếng. Một hồi lâu, vị thần tăng mở mắt ra, nói:

– Dương cư sĩ đã hút chất độc cho hai sư điệt tôn của lão nạp, cứ như chất độc của Băng phách ngân châm, thì chỉ hút vài ngụm vào miệng, sẽ chết ngay tại chỗ; song Dương cư sĩ đến lúc này vẫn khỏe, mà chất độc hoa Tình đến kỳ phát tác rồi cũng chưa nặng lắm, tức là đã lấy độc trị độc, hai chất cực độc khắc chế lẫn nhau, Dương cư sĩ được hưởng thiện quả chăng?

Chu Tử Liễu gật gật đầu thông dịch, Dương Quá cũng cảm thấy lời nói đó có lý.

Vị thần tăng lại nói:

– Tục ngữ có câu “Thiện hữu thiện báo”, Dương cư sĩ xả thân cứu người, không có gì từ bi hơn thế, chất độc này tất sẽ được giải.

Võ Tam Thông nghe Chu Tử Liễu dịch xong, vui mừng reo lên:

– Vậy xin sư thúc mau mau thi cứu.

Vị thần tăng nói:

– Lão nạp phải đi Tuyệt Tình cốc một chuyến.

Dương Quá, Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu cùng ngẩn người, nghĩ lộ trình đến Tuyệt Tình cốc không gần, vừa đi vừa về tốn không ít ngày. Vị thần tăng nói:

– Lão nạp phải tận mắt nhìn thấy hoa Tình, thử nghiệm độc tính của nó, mới có thể điều chế giải dược. Trước khi lão nạp trở về, Dương cư sĩ chớ nghĩ ngợi đến các kỷ niệm tình tứ, nếu không sẽ bị đau đớn lần sau dữ dội hơn lần trước. Nếu để tổn thương đến chân nguyên khí, sẽ hết phương cứu chữa.

Dương Quá chưa đáp ứng, Võ Tam Thông đã nói to:

– Sư đệ, chúng ta cùng đi Tuyệt Tình cốc, buộc lão khất bà kia phải trao giải dược.

Chu Tử Liễu lần nọ bị Hoắc Đô hạ độc, Dương Quá đã dùng kế lấy được thuốc giải, vốn có ý báo đáp, bèn nói:

– Đúng thế, hai ta cùng hộ tống sư thúc, hai ta cưỡng chế mụ ta, sư thúc thì điều chế giải dược, cả hai cách đều tốt.

Sư huynh sư đệ hết sức hăng hái, vị thần tăng Thiên trúc thì chăm chú nhìn Dương Quá, cau cau mày có vẻ lo lắng.

Hồi 24: Ý loạn tình mê

Dương Quá thấy con ngươi mắt màu xanh của vị thần tăng nước Thiên Trúc có ánh lạ, khóe miệng có vẻ thương cảm, nghĩ chất độc trong người mình khó trị, đến mức vị thần tăng trị độc này cũng phải thúc thủ, thì cười nhạt, nói:

– Đại sư có điều gì, xin cứ cho biết, đừng ngại.

Vị thần tăng nói:

– Chất độc hoa Tình khác hẳn các loại độc vật khác. Chất độc gắn kết với tình, cái hại nối liền với tâm. Lão nạp thấy Dương cư sĩ có căn tình rất sâu, gắn kết với chất độc kia, khó giải vô cùng. Dù lấy được nốt nửa viên Tuyệt Tình đơn nọ, cũng vị tất đã diệt được căn. Nhưng nếu cư sĩ vung tuệ kiếm chém đứt sợi tơ tình, thì chất độc kia chẳng cần uống thuốc, cũng tự khỏi. Chúng tôi đi Tuyệt Tình cốc, chẳng qua là mỗi người cố hết sức mình, chứ tám chín phần là tùy ở cư sĩ đó.

Dương Quá nghĩ: “Muốn ta không còn tình ý gì với cô cô, thì hà tất sống thêm làm gì kia chứ? Chi bằng cứ để chất độc phát tác mà chết đi cho xong”.

Nhưng ngoài miệng vẫn nói:

– Đa tạ đại sư chỉ giáo.

Chàng định bảo Võ Tam Thông và Chu Tử Liễu đừng phí công đi Tuyệt Tình cốc, nhưng nghĩ hai người ấy nghĩa khí sâu nặng, có nói họ cũng chẳng chịu nghe, nên thôi.

Võ Tam Thông cười, nói:

– Dương huynh đệ, huynh đệ cứ an tâm tĩnh dưỡng, đừng nghĩ ngợi gì. Sớm mai chúng tôi sẽ lên đường, sẽ nhanh chóng trở về; trị xong căn bệnh cho huynh đệ sẽ thích thú uống rượu mừng huynh đệ và Quách cô nương.

Dương Quá sững người, nhưng chuyện này không thể nói vắn tắt vài câu, đành đáp ứng, nhìn ba người đi ra, khép cửa lại, chàng nhắm mắt ngủ liền.

Chàng lại ngủ mấy canh giờ nữa, tỉnh lại nghe tiếng chim ríu rít, biết trời đã rạng. Mấy ngày liền không ăn, bụng đói cồn cào, thấy đầu giường có đặt bốn cái bánh, chàng cầm lấy ăn, mới ăn hai miếng, bỗng nghe có tiếng chân người, tiếng kẹt cửa, rồi cánh cửa phòng được đẩy nhẹ ra.

Lúc này cây nến hồng ở đầu giường cháy còn một tấc, chưa tắt, Dương Quá thấy người bước vào là Quách Phù, mặc bộ quần áo màu hồng nhạt, sắc mặt hơi giận. Dương Quá ngẩn người, nói:

– Quách cô nương, cô nương dậy sớm thế.

Quách Phù hừ một tiếng, không trả lời, ngồi xuống chiếc ghế trước giường, lông mày thanh tú hơi cau, đôi mắt to giận dữ nhìn chàng một hồi lâu, không nói một lời.

Dương Quá bị nàng nhìn, trong lòng bất an, mỉm cười nói:

– Quách bá bá bảo cô nương tới nói gì với tại hạ phải không?

Quách Phù nói:

– Không phải!

Dương Quá bị giội hai gáo nước lạnh như thế, giá lúc khác, chàng đã quay mặt vào tường, thây kệ nàng ta, nhưng lúc này thấy thần sắc của nàng rất lạ, chưa đoán biết nàng sớm tinh mơ đã tới phòng mình về chuyện gì, lại hỏi:

– Quách bá mẫu sau khi sinh bình an, đã khỏe hẳn rồi chứ?

Quách Phù càng tăng vẻ mặt lạnh lùng, nói:

– Mẹ của bổn cô nương có khỏe hay không, khỏi cần huynh quan tâm.

Trên thế gian ngoài Tiểu Long Nữ ra, Dương Quá không hề nhường ai, hôm nay bị Quách Phù lấn lướt như thế, ngạo khí dần sinh, nghĩ bụng: “Phụ thân mi là Quách đại hiệp, mẫu thân là Hoàng bang chủ, thì mi tưởng là mi giỏi lắm ư?” Bèn hừ một tiếng. Quách Phù nói:

– Huynh hừ cái gì?

Dương Quá không trả lời, lại hừ tiếng nữa. Quách Phù lớn tiếng:

– Bổn cô nương hỏi huynh hừ cái gì?

Dương Quá cười thầm: “Rốt cuộc cô nàng không nhịn nổi, mình mới hừ hai cái, cô nàng đã cuống lên”, nói:

– Tại hạ khó chịu trong người, hừ vài cái cho dễ chịu hơn.

Quách Phù tức giận:

– Khẩu thị tâm phi, hồ thuyết bát đạo (nói một đằng, nghĩ một nẻo, ăn nói hồ đồ) đã thành nết xấu khó sửa, đúng là hạng tiểu nhân hèn hạ.

Dương Quá bị nàng nhiếc móc thậm tệ, chợt nghĩ: “Hay là những lời mình bịa ra với huynh đệ họ Võ đã bị nàng ta hay biết?” Thấy nàng tuy giận dữ, nhưng dung nhan kiều mỹ, thì không khỏi thương thương. Tính chàng vốn có ba phần phong lưu, không nhịn cười được, nói:

– Quách cô nương, cô nương giận tại hạ về những lời tại hạ nói với Võ gia huynh đệ phải không?

Quách Phù gằn giọng:

– Huynh nói gì với họ, hãy tự nhắc lại cho bổn cô nương nghe coi?

Dương Quá cười, nói:

– Tại hạ chỉ muốn điều tốt đẹp cho họ, tránh cho hai anh em ruột quyết đấu một mất một còn, khiến người cha già đau lòng mà thôi. Là Võ lão bá kể lại với cô nương phải không?

Quách Phù nói:

– Võ lão bá vừa gặp bổn cô nương đã chúc mừng, tâng bốc huynh tận mây xanh. Thanh danh thanh bạch của… bổn cô nương đâu phải là thứ để huynh nói năng tùy tiện như thế?

Nói đến đây, giọng nàng nghẹn ngào, nước mắt lăn dài trên mặt.

Dương Quá cúi đầu không nói, lòng thầm hối hận, đêm nọ chàng đã cao hứng uốn ba tấc lưỡi, càng nói càng đắc ý với huynh đệ họ Võ, không ngờ làm tổn hại thanh danh của Quách Phù, trót dùng lời lẽ khinh bạc mất rồi, bây giờ không dễ thu thập.

Quách Phù thấy chàng cúi đầu im lặng, thì càng tức, vừa khóc vừa nói:

– Võ lão bá kể rằng đại Võ ca ca, tiểu Võ ca ca đánh không lại huynh, bị huynh ép cho từ nay không dám nhìn mặt bổn cô nương. Điều đó có đúng hay không?

Dương Quá thở dài, nghĩ: “Võ Tam Thông thật là chẳng biết cân nhắc gì cả, ai lại đi kể câu ấy với nàng ta kia chứ?” Biết không thể giấu, chàng đành gật đầu. nói:

– Tại hạ hồ thuyết bát đạo, quả thật không nên, nhưng tại hạ thực không có ý xấu, mong cô nương lượng thứ.

Quách Phù lau nước mắt, tức giận nói:

– Lời nói tối hôm qua là để làm gì?

Dương Quá ngạc nhiên:

– Tối hôm qua nói gì kia chứ?

Quách Phù nói:

– Võ lão bá báo, đợi khi trị thương xong cho huynh, sẽ uống rượu mừng huynh… với bổn cô nương… tại sao huynh đáp ứng mà không biết ngượng?

Dương Quá thầm kêu khổ: “Thôi hỏng mất rồi! Thì ra câu chuyện đêm qua, nàng ta cũng nghe được”.

Chàng đành biện hộ:

– Lúc ấy tại hạ mơ mơ màng màng, không nghe rõ lời của Võ lão bá.

Quách Phù biết chàng nói dối, lớn tiếng:

– Huynh bảo mẹ của bổn cô nương bí mật dạy võ cho huynh, đã sớm nhắm huynh làm con rể, có chuyện đó hay không?

Dương Quá bị nàng căn vặn xấu hổ đỏ bừng cả mặt, nghĩ: “Mình nói đùa với Quách cô nương, dẫu bị coi là khinh bạc vô lại cũng chẳng sao, bởi vì mình chẳng phải là chính nhân quân tử gì cả. Nhưng mình bịa chuyện Quách bá mẫu bí mật dạy võ cho mình,việc này không phải chuyện thường, dù thế nào cũng không để Quách bá mẫu hay biết”, vội nói:

– Quách cô nương, đều do tại hạ nói năng không thận trọng, xin cô nương chớ cho Quách bá bá và Quách bá mẫu biết chuyện.

Quách Phù cười khẩy:

– Huynh đã sợ gia gia, sao còn dám bịa chuyện bêu xấu mẫu thân của bổn cô nương?

Dương Quá vội nói:

– Tại hạ hoàn toàn không có ý bất kính đối với Quách bá mẫu, hôm ấy tại hạ chỉ muốn Võ gia huynh đệ dứt hẳn tình niệm, cho nên ăn nói thiếu cân nhắc…

Quách Phù là bạn thanh mai trúc mã với huynh đệ họ Võ, có tình ý với cả hai người, biết tin Dương Quá đánh lừa để họ dứt tình với nàng, vĩnh viễn không nhìn mặt nàng, thứ hỏi làm sao nén được giận dữ? Nàng lại lớn tiếng hỏi:

– Việc đó bổn cô nương thư thả sẽ tính sổ sau với huynh. Còn muội muội của bổn cô nương? Huynh đã mang bé đi đâu?

Dương Quá nói:

– Phải đó, mau mời Quách bá bá tới đây, tại hạ đang định thưa với Quách bá bá.

Quách Phù nói:

– Gia gia đã xuất thành đi tìm muội muội. Huynh… huynh là kẻ tiểu nhân vô sỉ, định mang muội muội của bổn cô nương đi đổi lấy thuốc giải. Hừ tính mạng của huynh đáng giá quá, còn tính mạng muội muội của bổn cô nương thì không đáng gì.

Dương Quá từ đầu vẫn hổ thẹn, nhưng nghe nhắc đến đứa bé, thì chàng không có gì phải hổ thẹn với trời đất, liền cứng cỏi nói:

– Tại hạ một lòng một dạ muốn giành lại lệnh muội, mang về cho gia nương của cô nương, chứ Dương Quá ta hoàn toàn không có ý định mang bé đi đổi lấy thuốc giải.

Quách Phù nói:

– Thế muội muội của bổn cô nương đâu rồi?

Dương Quá nói:

– Bị Lý Mạc Sầu mang đi mất, tại hạ giành lại không được, rất hổ thẹn. Chỉ cần tại hạ nhất thời chưa bị chết, mà khỏe lại, tại hạ sẽ lập tức đi tìm bé.

Quách Phù cười khẩy, nói:

– Lý Mạc Sầu là sư bá của huynh phải không? Hai người cùng trốn trong hang, phải vậy không?

Dương Quá nói:

– Phải, Lý Mạc Sầu tuy là sư bá của tại hạ, nhưng vốn bất hòa từ lâu với sư phụ của tại hạ.

Quách Phù nói:

– Hừ, bất hòa từ lâu, tại sao mụ ta lại nghe lời huynh, mang muội muội của bổn cô nương đi đổi lấy thuốc giải cho huynh?

Dương Quá đứng bật dậy, tức giận nói:

– Quách cô nương chớ nói bậy, Dương Quá ta tuy là kẻ tiểu nhân, song không hề có ý đó.

Quách Phù nói:

– “Không hề có ý đó” ư? Chính miệng sư phụ huynh nói ra điều ấy, chẳng lẽ là giả?

Dương Quá hỏi:

– Sư phụ tại hạ nói gì?

Quách Phù đứng thẳng dậy, chỉ mặt chàng, hầm hầm nói:

– Chính miệng sư phụ huynh nói với Chu bá bá, rằng huynh và Lý Mạc Sầu cùng ở trong hoang cốc, nhờ Chu bá bá mang con ngựa hãn huyết của gia gia bổn cô nương đến đó cho huynh, để huynh mang muội muội của bốn cô nương đi Tuyệt Tình cốc…

Dương Quá kinh nghi bất định, nói:

– Không sai, sư phụ tại hạ đúng là có ý đó, muốn tại hạ hãy mang muội muội của cô nương đi trước, lấy được nửa viên Tuyệt Tình đơn rồi sẽ tính, nhưng đó chỉ là kế sách tạm thời, không có ý hại muội muội của cô nương…

Quách Phù ngắt lời:

– Muội muội của bốn cô nương ra đời chưa đầy một ngày, huynh đã đem giao cho một ác nhân giết người không chớp mắt, còn bảo là không có ý hại muội muội của bổn cô nương. Huynh là một tên ác tặc lang tâm cẩu phế! Hồi nhỏ huynh cô khổ bơ vơ, gia nương ta đối với huynh thế nào hả? Nếu không đưa huynh về nuôi dưỡng ở đảo Đào Hoa, liệu huynh có được như hôm nay? Nào ngờ huynh lấy oán trả ân, đưa kẻ địch tới, thừa cơ gia nương ta không được khỏe, cướp mất muội muội của ta mang đi…

Nàng càng mắng càng hăng, Dương Quá nhất thời làm sao biện bạch? Sau khi trúng độc thân thể suy yếu lại vừa ức vừa lo, “oạch” một cái, chàng ngã xuống giường ngất đi.

Một hồi sau, chàng dần dần hồi tỉnh. Quách Phù lạnh lùng nhìn chàng, nói:

– Không ngờ huynh còn có chút liêm sỉ, tự biết tâm địa như thế thì trời đất khó dung…

Dương Quá thở dài, nói:

– Nếu tại hạ quả có ý như vậy, tại sao tại hạ không mang muội muội của cô nương đi Tuyệt Tình cốc?

Quách Phù nói:

– Vì chất độc phát tác trong người huynh, đi xa không tiện, mới nhờ sư bá của huynh đi giùm. Hừ, nhưng mà người tính chẳng bằng trời tính. Bổn cô nương nghe sư phụ của huynh nói với Chu bá bá, bèn đem con hãn huyết giấu đi, để sư đồ huynh không thực hiện được gian kế…

Dương Quá nói:

– Thôi được, cô nương thích nói sao thì cứ nói, tại hạ cũng không cần tranh biện nữa. Sư phụ của tại hạ đi đâu rồi?

Quách Phù hơi đỏ mặt, nói:

– Thế mới gọi là thầy nào trò ấy, sư phụ của huynh cũng không phải là người tử tế.

Dương Quá cả giận, đứng dậy nói:

– Cô nương nhiếc mắng ta, ta nể mặt gia nương cô nương mà bỏ qua nhưng nếu cô nương dám nói xấu sư phụ ta…

Quách Phù nói:

– Sư phụ của huynh thì sao? Ai bảo nàng ta nói năng không đứng đắn.

Dương Quá nghĩ: “Cô cô thanh khiết không nhuốm một chút bụi trần, không đời nào nói năng không đứng đắn”, bèn nói:

– Chẳng qua cô nương có tà tâm, nên mới bẻ cong lời lẽ của sư phụ ta.

Quách Phù vốn không định thuật lại lời của Tiểu Long Nữ, nghe Dương Quá nói vậy thì nổi giận, nói:

– Nàng ta bảo, Quách cô nương, Quá nhi tâm địa thiện lương, chàng một đời cô khổ, mong cô nương hãy đối đãi tốt với chàng; lại bảo, cô nương với chàng vốn là.. một cặp xứng đôi vừa lứa! Cô nương hãy bảo chàng quên ta đi, ta không trách chàng đâu. Nàng ta còn đưa một thanh bảo kiếm cho bổn cô nương, nói là kiếm Thục nữ gì đó, hợp với kiếm Quân tử của huynh chính là… một cặp đẹp đôi. Như thế chẳng phải là nói năng không đứng đắn hay sao?

Quách Phù vừa ngượng vừa giận, đem nói lại nguyên xi mấy câu tuyệt vọng của Tiểu Long Nữ, chỉ có giọng điệu là không giống.

Dương Quá nghe mỗi câu như một nhát búa bổ vào đầu, choáng váng không hiểu tại sao Tiểu Long Nữ lại nói như vậy, chờ Quách Phù nói xong, chàng từ từ ngẩng đầu lên, ánh mắt có dị quang, quát:

– Cô nương bịa chuyện, sư phụ ta không khi nào nói thế! Kiếm Thục nữ đâu, nếu không đưa ra được, tức là cô nương bịa chuyện lừa người!

Quách Phù cười khẩy, đưa tay ra sau lưng rút thanh trường kiếm, thân kiếm đen tuyền, chính là kiếm Thục nữ.

Dương Quá tuyệt vọng, nói bừa đi:

– Ai thèm cặp đôi với cô nương kia chứ? Thanh kiếm này rõ ràng là của sư phụ ta, cô nương đã lấy trộm, cô nương đã lấy trộm nó!

Quách Phù từ nhỏ quen nết kiêu ngạo, ngay cha mẹ nàng cũng phải chiều nàng ba phần, huynh đệ họ Võ thì thiên ưng bách thuận, nào ai dám nặng lời với nàng thế này? Nàng thuật lại lời Tiểu Long Nữ chỉ vì Dương Quá nói khích, ai dè chàng lại trả lời như vậy, làm như là nàng muốn lấy chàng, còn chàng lại không thèm. Quách Phù cả giận, định vung kiếm chém chàng, song lại nghĩ: “Chàng ta kính trọng sư phụ của chàng như vậy, thì ta kể phắt chuyện kia cho chàng tức mà chết”.

Lúc này Quách Phù giận quá mất khôn, không nghĩ gì đến hậu quả tệ hại của câu chuyện nàng sắp kể, nàng tra kiếm vào vỏ, ngồi xuống ghế, cười khẩy, nói:

– Sư phụ của huynh tướng mạo mỹ lệ, võ công cao cường, quả nhiên hiếm có trên đời, song có một việc không ra gì.

Dương Quá hỏi:

– Đó là việc gì?

Quách Phù nói:

– Chỉ tiếc nàng ta thiếu đứng đắn, lén lén lút lút đi lại với đạo sĩ phái Toàn Chân.

Dương Quá nổi giận, nói:

– Sư phụ ta có mối thù với phái Toàn Chân, làm sao có chuyện lén lút đi lại với họ?

Quách Phù lạnh lùng nói:

– Nói lén lút đi lại là còn nhã nhặn đấy. Có những điều bổn cô nương là phái nữ không tiện nói ra đâu.

Dương Quá càng nghe càng tức, cao giọng:

– Sư phụ ta băng thanh ngọc khiết, cô nương còn nói bậy nửa câu, ta sẽ vả vỡ miệng cho coi.

Quách Phù cau mày, thản nhiên nói:

– Đúng, nàng ta làm được, song bổn cô nương không tiện nói ra. Một thiếu nữ băng thanh ngọc khiết, thế mà lại đi ôm ấp một gã đạo sĩ hôi hám.

Dương Quá quát:

– Cô nương bảo sao?

Quách Phù nói:

– Bổn cô nương chính tai nghe thấy, chẳng lẽ còn không phải? Có hai đạo sĩ phái Toàn Chân tới thăm gia gia bổn cô nương, trong thành đang rối loạn, gia nương không được khỏe, không thể tiếp khách, sai bổn cô nương tiếp đãi tân khách…

Dương Quá quát:

– Rồi sao?

Quách Phù thấy Dương Quá tức giận, trán nổi gân xanh, hai mắt đỏ vằn, thì mừng thầm, nói:

– Hai đạo sĩ ấy một người tên Triệu Chí Kính, một người tên Doãn Chí Bình, có hai kẻ đó hay không?

Dương Quá hỏi:

– Rồi sao?

Quách Phù cười nhạt, nói:

– Bổn cô nương sai người bố trí nơi ăn nghỉ cho họ, cũng chẳng để tâm. Nào ngờ nửa đêm có một đệ tử Cái Bang đến báo cho bổn cô nương biết, hai vị đạo sĩ đang đấu kiếm với nhau trong phòng…

Dương Quá hừ một tiếng, biết Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình vốn bất hòa, có đánh nhau cũng không có gì lạ.

Quách Phù kể tiếp:

– Bổn cô nương nổi tính hiếu kỳ, rón rén đến bên song cửa nhìn vào, thấy hai đạo sĩ đã thu kiếm ngừng đấu, song còn đang đấu khẩu, lão họ Triệu bảo gã họ Doãn cùng với sư phụ của huynh đã thế này thế nọ với nhau, gã họ Doãn không phủ nhận, chỉ trách lão họ Triệu không nên nói lớn chuyện đó ra như vậy…

Dương Quá hất tung chăn khỏi người, ngồi bật dậy ở mép giường, quát:

– Thế này thế nọ với nhau là thế nào?

Quách Phù hơi đỏ mặt, vẻ ngượng ngập, nói:

– Làm sao bổn cô nương biết? Chẳng lẽ là việc hay ho? Vị sư phụ quí hóa của huynh làm việc gì thì chỉ có nàng ta mới biết thôi.

Giọng nói của nàng đầy vẻ khinh miệt. Dương Quá vừa tức vừa nóng, tâm trí bấn loạn, vung tay, “bốp” một tiếng, tát Quách Phù một cái thật mạnh, Quách Phù tối tăm mặt mũi, nửa bên má lập tức sưng đỏ, nếu không phải Dương Quá bị bệnh sức lực suy yếu, thì nàng đã gãy mấy chiếc răng rồi.

Quách Phù cả đời đâu có khi nào bị nhục thế này? Trong cơn cuồng nộ, nàng rút phăng kiếm Thục nữ, đâm luôn vào cổ Dương Quá.

Dương Quá tát nàng một cái, nghĩ: “Ta đắc tội với ái nữ của Quách bá bá và Quách bá mẫu, Quách Phù là công chúa trong thành Tương Dương, Quách bá bá và Quách bá mẫu một mực chiều chuộng, ta làm sao có thể ở lại chốn này?” Chàng thò chân xuống đất đi hài, thấy Quách Phù đâm kiếm tới, chàng cười khẩy, tay trái hồi dẫn, tay phải giơ ra nhứ nhứ, đoạt luôn thanh kiếm Thục nữ.

Quách Phù bị thua liền hai chiêu, càng giận thêm, thấy ở đầu giường có một thanh kiếm, liền chộp lấy, rút khỏi bao, chém xuống đầu Dương Quá. Dương Quá thấy hàn quang loáng một cái, giơ thanh kiếm Thục nữ lên chống đỡ, nào ngờ sau bẩy ngày hôn mê, chàng xuất thủ vô lực, thanh kiếm mới giơ lên tới trước ngực thì cánh tay đã mềm rũ; Quách Phù chém vát đi một chút, keng một tiếng, hai kiếm đụng nhau, thanh kiếm Thục nữ rơi xuống đất.

Quách Phù bị nhục bởi một cái tát, nghĩ: “Ngươi hãm hại muội muội của ta, thật là đê hèn, độc ác, hôm nay ta giết ngươi trả thù cho muội muội. Gia gia và mẹ cũng sẽ không trách ta”. Nàng thấy Dương Quá ngã phệt xuống đất, không còn sức chống đỡ, chỉ giơ tay phải lên che trước ngực, ánh mắt không một chút van xin, bèn nghiến răng, tăng thêm sức cho cánh tay, chém kiếm xuống.

Hôm ấy Tiểu Long Nữ cưỡi con ngựa quí đuổi theo Dương Quá và Kim Luân pháp vương, song đi nhầm hướng. Con ngựa hồng chạy một mạch hơn chục dặm, nàng quay đầu ngựa tìm kiếm, thì không còn biết Dương Quá đi về hướng nào nữa. Nàng nóng ruột, thấy mỗi khắc trôi qua, tính mạng của Dương Quá càng nguy khốn thêm, cứ phi ngựa lòng vòng ba bốn chục dặm quanh thành Tương Dương tìm kiếm. Con ngựa hãn huyết tuy phi nhanh, nhưng hoang cốc kia quá heo hút, mãi đến nửa đêm, nàng mới nghe loáng thoáng từ xa tiếng khóc của Võ Tam Thông. Nàng tiến đến gần, không lâu nghe thấy tiếng huynh đệ họ Võ đấu kiếm với nhau, rồi tiếng nói của Dương Quá. Nàng cả mừng, sợ Dương Quá gặp kình địch, nàng định ở trong bóng tối kín đáo tương trợ, nên xuống ngựa, buộc ngựa vào một gốc cây, nấp sau một tảng đá quan sát Dương Quá đối địch.

Việc nhìn lén không sao, nhưng khốn nỗi nàng cứ nghe Dương Quá luôn miệng bô bô rằng chàng đã đính ước với Quách Phù từ sớm, gọi Quách Phù là “vị hôn thê” của chàng, gọi vợ chồng Quách Tĩnh là “nhạc phụ nhạc mẫu”. Tiểu Long Nữ càng nghe càng kinh tâm động phách, nghe chàng kể Quách Tĩnh, Hoàng Dung đã chọn chàng làm rể, bí mật truyền thụ võ công, nàng còn thấy Dương Quá tức giận với huynh đệ họ Võ, không cho phép họ được nhìn mặt Quách Phù. Mỗi câu nói của Dương Quá như một tiếng sét bên tai nàng, tâm trí hồ đồ, tựa hồ vũ trụ vạn vật trong giây lát đã thay đổi hoàn toàn. Nếu là người khác, thấy lời nói và việc làm của Dương Quá khác hẳn với mấy năm qua, ắt sẽ sinh nghi, chờ sau sự việc này sẽ hỏi lại chàng cho rõ; nhưng Tiểu Long Nữ thì lòng dạ như thuỷ tinh trong suốt, không nhuốm bụi trần, không biết gì về thủ đoạn dối trá của nhân gian. Dương Quá bẻm mép, hồ thuyết bát đạo với kẻ khác, song đối với nàng thì bao năm nay chưa từng nói đùa một câu, nên nàng vẫn tin hoàn toàn vào lời nói của chàng. Mắt thấy huynh đệ họ Võ không địch nổi Dương Quá, nàng tự thương mình, bất giác thở dài não nuột. Lúc ấy Dương Quá nghe thấy, buột miệng gọi “Cô cô”, Tiểu Long Nữ không trả lời, che mặt bỏ đi. Dương Quá lại tưởng là do Lý Mạc Sầu phát ra, chàng nghe nhầm, nên không để ý thêm.

Tiểu Long Nữ dắt con ngựa hãn huyết đi loạn một hồi trong hoang cốc, nghĩ đi ngẫm lại, không biết nên làm thế nào. Nàng đã hơn hai mươi tuổi, nhưng cả đời sống trong tòa cổ mộ, không hiểu gì về thế sự, kiến thức chẳng khác một hài đồng hồn nhiên ngây thơ, nàng nghĩ: “Quá nhi đã định thân với Quách cô nương, tất nhiên sẽ không thể lấy ta. Thảo nào vợ chồng Quách đại hiệp nhất quyết không cho Quá nhi kết thân với ta. Quá nhi sở dĩ trước nay không nói cho ta biết, là vì chàng sợ ta đau lòng. Ôi, chàng đối với ta thật là tốt!” Lại nghĩ: “Quá nhi chần chừ, không chịu hạ sát Quách đại hiệp để báo thù cho cha, ban đầu ta không hiểu chút gì, thì ra hoàn toàn là vì Quách cô nương, như vậy xem chừng tình nghĩa của chàng với Quách cô nương cũng rất sâu nặng. Nếu bây giờ ta mang ngựa tới cho chàng, chàng lại nghĩ đến lòng tốt của ta, mai sau lại thay đổi hôn sự với Quách cô nương thì phiền. Thôi thì ta một mình trở về tòa cổ mộ, thế gian này chỉ khiến ta tâm loạn ý phiền mà thôi”.

Nghĩ một hồi, ý niệm đã quyết, tuy lòng đau như cắt, nhưng nghĩ việc cứu mạng Dương Quá là hệ trọng, bèn gấp trở vào thành Tương Dương, nhờ Chu Tử Liễu mang con ngựa hãn huyết đến hoang cốc cho Dương Quá. Lúc ấy trong thành Tương Dương thích khách đã bỏ đi xa, Quách Tĩnh, Hoàng Dung chưa khỏe lại, tình thế rối rắm. Chu Tử Liễu văn võ toàn tài, đồng tâm hiệp lực với Lỗ Hữu Cước gánh vác trọng trách giữ thành. Giữa lúc ấy, Tiểu Long Nữ dắt con ngựa quí tới, nhờ Chu Tử Liễu mang đi trao cho Dương Quá, nói Dương Quá phải lập tức đi Tuyệt Tình cốc, mang đứa bé sơ sinh đi đổi lấy linh đan giải độc, khiến Chu Tử Liễu nghe mà chẳng hiểu gì hết. Chu Tử Liễu hỏi vài câu cho rõ, Tiểu Long Nữ tâm thần phiền loạn, không muốn nhiều lời, chỉ bảo hãy đi mau cho, chậm khắc nào, tính mạng Dương Quá thêm nguy hiểm khắc ấy.

Lúc ấy Quách Phù đang ở bên cạnh Chu Tử Liễu, song Tiểu Long Nữ cũng chẳng ngại ngần, nàng nghĩ: “Mang muội muội đi Tuyệt Tình cốc vài hôm cũng không sao, chẳng qua để cứu mạng vị hôn phu của cô nương, cô nương tất nhiên cũng ưng thuận”. Tiểu Long Nữ nhắc đến tên Dương Quá, không khỏi bi thương, lời chưa nói hết, lệ đã lăn dài, bèn chạy về phòng, gục xuống gối mà khóc to lên.

Chu Tử Liễu không biết gì đầu đuôi, nghe mấy câu nói không đầu không đũa của Tiểu Long Nữ, không hiểu nàng nói gì, nhưng nghe câu “hãy đi mau cho, chậm khắc nào, tính mạng Dương Quá thêm nguy hiểm khắc ấy”, nghĩ phải đến hoang cốc một chuyến đã, tới đó sẽ liệu. Chu Tử Liễu quyết định ra khỏi thành, ngó tới con ngựa hãn huyết, đã không thấy đâu, hỏi một thân binh, người ấy bảo Quách cô nương đã dắt đi, tìm Quách Phù không được, Chu Tử Liễu thở dài, nghĩ các cô nương thật khó hiểu. Lo cho sự an nguy của Dương Quá, Chu Tử Liễu chọn mấy đệ tử Cái Bang, cùng họ phi ngựa tới hoang cốc theo lời mô tả của Tiểu Long Nữ, thấy Dương Quá với huynh đệ họ Võ nằm ngất dưới đất, Võ Tam Thông thì đang vận khí giải huyệt, nhớ câu “chậm khắc nào, tính mạng Dương Quá thêm nguy hiểm khắc ấy” quả không sai, vội cấp cứu chở về thành Tương Dương, vừa may có vị sư thúc từ nước Thiên Trúc sang, liền nhờ sư thúc cứu chữa.

Tiểu Long Nữ nằm khóc một hồi, càng nghĩ càng đau lòng, nước mắt không kìm lại được. Nàng khóc đã ướt đầm cả vạt áo, nàng đưa tay lấy khăn ở thắt lưng để lau nước mắt, thì chạm vào thanh kiếm Thục nữ, nghĩ: “Ta trao thanh kiếm này cho Quách cô nương, cho họ thành đôi, cũng là một việc tốt đẹp”. Nàng si ái Dương Quá, bất cứ việc gì có ích cho chàng, nàng đều sẵn lòng làm, thế là ngồi dậy, cũng chẳng lau nước mắt, đi tìm Quách Phù.

Lúc này đã nửa đêm, Quách Phù đã ngủ, Tiểu Long Nữ không chờ người vào báo, mở cửa sổ, nhảy vào phòng, gọi Quách Phù dậy, nói:

– Hai người vốn là một cặp đẹp đôi…

Đúng như Quách Phù sau đó thuật lại với Dương Quá. Rồi Tiểu Long Nữ trao thanh kiếm Thục nữ cho Quách Phù, quay đầu đi luôn. Quách Phù chưa hiểu gì, hỏi:

– Long cô nương bảo sao cơ?

Tiểu Long Nữ không đáp, nhảy ra cửa sổ. Quách Phù ngó đầu ra, gọi:

– Long cô nương, mau quay lại đây!

Song Tiểu Long Nữ cứ cắm đầu mà đi, không buồn ngoảnh lại.

Tiểu Long Nữ cúi đầu bước tới hoa viên, một bụi hoa hồng lớn tỏa hương thơm thơm, nàng nhớ hồi ở chân núi Chung Nam, cùng với Dương Quá luyện “Ngọc nữ tâm kinh” bên bụi hoa, hôm nay sư đồ hai người có muốn ở bên nhau, đã không còn dịp nữa.

Nàng đang ngẩn ngơ, bỗng nghe từ ngôi nhà mé trái vọng tới tiếng nói:

– Sư đệ cứ mở miệng lại nhắc đến Tiểu Long Nữ, thử một ngày không nhắc đến nàng ta có được hay không?

Tiểu Long Nữ kinh ngạc: “Ai mà lại luôn miệng nhắc tên ta vậy?” Bèn dỏng tai nghe, giọng thứ hai nói:

– Đây là phủ của người ta, sư huynh nói nhỏ chứ, lỡ người ta nghe thấy, còn gì là thanh danh phái Toàn Chân chúng ta?

Người thứ nhất nói:

– Sư đệ còn nghĩ đến thanh danh phái Toàn Chân chúng ta ư? Thế cái đêm nọ ở núi Chung Nam, cái khoái lạc mê hồn… ha ha.

Tiếng nói dừng ở dó, tiếp theo là tiếng cười giễu cợt.

Tiểu Long Nữ kinh hãi, sinh nghi: “Chẳng lẽ cái đêm Quá nhi ân ái với mình, hai gã đạo sĩ kia đã nhìn thấy?” Nghe giọng nói của hai người, nàng đã biết đó là Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính; nàng bèn rón rén tới bên cửa sổ phòng họ mà nghe. Lúc này hai đạo sĩ nói nhỏ, nhưng khoảng cách giữa họ với nàng rất gần, thành thử nàng nghe rõ từng lời.

Doãn Chí Bình có vẻ giận dỗi, nói:

– Triệu sư huynh, sư huynh cứ không ngừng hành hạ đệ, rốt cuộc là để làm gì?

Triệu Chí Kính nói:

– Sư đệ thừa biết rồi.

Doãn Chí Bình nói:

– Sư huynh muốn đệ làm gì, đệ đều đáp ứng, đệ chỉ xin sư huynh đừng nhắc tới chuyện đó nữa, vậy mà sư huynh càng lúc càng làm già. Có phải sư huynh muốn đệ phải chết trước mặt sư huynh hay chăng?

Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Ta cũng không biết, ta chỉ không nhịn được, cứ phải nhắc đến mới xong.

Doãn Chí Bình đột nhiên lên cao giọng:

– Sư huynh tưởng đệ không biết chăng. Sư huynh ghen tức, không có được thời khắc thần tiên như đệ được hưởng chứ gì?

Câu này nghe rất lạ, Triệu Chí Kính không trả lời, hình như muốn cười khẩy mà không cười được.

Lát sau, Doãn Chí Bình nói:

– Đúng thế, đêm ấy nàng ta bị Âu Dương Phong điểm huyệt không cựa quậy được bên bụi hoa hồng, cho nên đệ được ân ái với nàng như sở nguyện. Phải rồi, đệ không nói thì sư huynh cũng chẳng thể biết, đúng thế không? Đệ kể cho sư huynh biết, thế là sư huynh cứ không ngừng gây khó dễ với đệ, hành hạ đệ… Nhưng đệ cũng không hối hận, không hối hận chút nào đâu.

Càng về cuối, giọng nói của y càng ôn tồn nhẹ nhàng.

Tiểu Long Nữ nghe mấy câu ấy thì lòng trĩu nặng, tai như ù đi: “Không lẽ là hắn, chứ không phải Quá nhi tâm ái của ta? Không, không phải hắn, quyết không phải hắn, hắn bịa ra, phải là Quá nhi”.

Lại nghe Triệu Chí Kính nói, giọng lạnh lùng:

– Phải rồi, sư đệ không hối hận chút nào. Sư đệ cũng không định kể cho ta biết, nhưng trong bụng sướng quá, không kể ra thì không chịu được. Được, ta sẽ ngày ngày nhắc nhở sư đệ việc ấy, nhưng tại sao sư đệ lại sợ nghe kia chứ?

Đột nhiên nghe mấy tiếng bình bình, đó là Doãn Chí Bình đập đầu vào tường, nói:

– Sư huynh nói đúng, có nói cho cả thiên hạ cùng biết, đệ cũng chẳng sợ… Không, không, Triệu sư huynh, sư huynh bảo gì đệ cũng đáp ứng, chỉ xin đừng nhắc chuyện ấy nữa.

Tiểu Long Nữ trong một đêm nghe thấy hai chuyện lớn làm tan nát cõi lòng, nàng mơ hồ đứng ngoài song, tuy nghe hai đạo sĩ trong phòng nói chuyện tiếp nhưng nàng không còn hiểu ý họ nữa.

Lại nghe Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Chúng ta là người tu đạo, nếu rơi vào ma chướng, thì phải dùng định lực vô thượng mà chống lại. Ta sở dĩ luôn nhắc đến Tiểu Long Nữ là cốt cho sư đệ nghe mãi đâm chán ghét nàng ta, là có ý giúp sư đệ tu luyện.

Doãn Chí Bình nói nhỏ:

– Nàng là tiên nữ hóa thân, đệ làm sao có thể ghét nàng kia chứ?

Đột nhiên cao giọng, nói:

– Thôi, sư huynh đừng giả bộ tử tế nữa, tâm địa độc ác của sư huynh, chẳng lẽ đệ không biết? Sư huynh một là ghen tức với đệ, hai là căm hận Dương Quá, muốn làm toáng chuyện này ra, để làm cho sư đồ hai người ấy di hận suốt dời.

Tiểu Long Nữ nghe hai chữ “Dương Quá”, thì giật mình, lẩm bẩm “Dương Quá, Dương Quá”, bất giác cảm thấy một sự âu yếm lạ thường, chỉ mong hai đạo sĩ kia cứ nói tiếp về chàng, chỉ cần nghe người khác nhắc đến tên chàng, nàng đã rất sung sướng.

Triệu Chí Kính cũng cao giọng, bực bội nói:

– Nếu ta không làm cho tên tiểu tử ấy bị một phen đau khổ, thì khó mà trút bớt nỗi tức giận, có điều…

Doãn Chí Bình nói:

– Có điều là Dương Quá võ công quá mạnh, hai chúng ta không phải là đối thủ của hắn, phải không?

Triệu Chí Kính nói:

– Cũng không hẳn thế. Võ công bàng môn tả đạo của hắn thì đâu có gì đáng nói? Võ công Huyền môn của phái Toàn Chân ta là võ thuật chính tông trong thiên hạ, sợ gì tên tiểu tử? Doãn sư đệ, sư đệ cứ chờ xem, ta sẽ làm cho hắn phải què cụt, khiến hắn muốn sống không được, muốn chết cũng chẳng xong. Bấy giờ được nhìn cảnh Tiểu Long Nữ của sư đệ đau xót, chắc cũng thú vị lắm.

Tiểu Long Nữ lạnh xương sống, nếu là lúc khác, chắc nàng đã xông vào phòng, cho mỗi đạo sĩ một nhát kiếm hết đời, nhưng lúc này nàng đang tuyệt vọng, chỉ cảm thấy toàn thân bải hoải vô lực, tứ chi khó cử động.

Doãn Chí Bình cười nhạt, nói:

– Võ công Huyền môn chính tông của chúng ta vị tất theo kịp võ công bàng môn tả đạo của người ta.

Triệu Chí Kính tức giận, nói:

– Đồ ngu, ngươi là tên phản đồ của phái Toàn Chân! Ngươi đã ăn nằm với Tiểu Long Nữ, lại còn đi tán thưởng võ công của kẻ khác!

Doãn Chí Bình nhiều lần bị nhục, lúc này không nhịn được nữa, quát:

– Sư huynh chửi ai? Nên nhớ đừng có cạn tàu ráo máng!

Triệu Chí Kính cho rằng mình nắm đối phương trong tay, chỉ cần đem việc này nói ra ở cung Trùng Dương, thì Mã sư bá chưởng giáo tiền nhiệm, Khưu sư bá chưởng giáo hiện nhiệm sẽ xử tử Doãn Chí Bình, cho nên bao nhiêu lần lão vũ nhục Doãn Chí Bình mà y không dám phản kháng; bây giờ nghe y cãi hỗn, thiết nghĩ nếu không chế ngự y, thì kế lớn của lão khó thành công, bèn sấn tới giáng cho một chưởng.

Doãn Chí Bình không ngờ sư huynh động thủ, vội cúi đầu, bốp một cái, bị trúng vào gáy, người loạng choạng suýt ngã. Y nổi giận, rút kiếm đâm sư huynh.

Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Giỏi, ngươi dám động thủ với ta.

Lão rút kiếm đánh trả. Doãn Chí Bình gằn giọng:

– Để cho sư huynh hành hạ mãi, đàng nào cũng chết, chi bằng hôm nay để sư huynh giết luôn cho rồi.

Đoạn sấn tới, mũi kiếm rung rung. Y là đệ tử số một của Khưu Xứ Cơ, võ công so với Triệu Chí Kính không thua kém gì. Hai người sở học chiêu số hoàn toàn giống nhau, động thủ khó phân cao thấp; nhưng y uất ức đã lâu, lúc này liều chết với sư huynh, trong khi Triệu Chí Kính có mưu đồ khác, không muốn lấy mạng y, bởi vậy sau vài chục chiêu, Triệu Chí Kính đã bị dồn vào một góc phòng, lâm thế hạ phong.

Hai đạo sĩ đấu kiếm trong phòng, đệ tử Cái Bang hay biết liền đi báo tin cho Quách Phù. Quách Phù đang ngủ, vội khoác áo chạy tới, thấy Tiểu Long Nữ đứng ngoài song, bèn gọi:

– Long cô nương!

Tiểu Long Nữ ngẩn ngơ xuất thần, như không hề nghe thấy. Quách Phù nổi lòng hiếu kỳ, không vào phòng ngay, mà cũng nấp ngoài song, chỉ nghe Triệu Chí Kính vừa chống đỡ, vừa luôn miệng nói những lời châm chọc xấu xa động chạm đến Tiểu Long Nữ.

Quách Phù nghe lời lẽ nhơ nhuốc của hai dạo sĩ ở bên trong, không tiện nghe thêm, định bỏ đi; chỉ thấy Tiểu Long Nữ cứ đứng ngây ra đó, không tức giận gì trước những lời lẽ kia, thì lấy làm lạ, bèn hỏi nhỏ:

– Những điều họ nói là thật ư?

Tiều Long Nữ gật gật đầu, nói:

– Cũng chẳng biết… có lẽ… có lẽ…

Quách Phù cảm thấy khinh miệt, hừ một tiếng, bỏ đi chẳng thèm ngoái lại.

Triệu, Doãn hai đạo sĩ đánh nhau bên trong, nghe tiếng người nói ngoài song, bèn ngừng đấu, cùng hỏi to:

– Ai đó?

Tiểu Long Nữ chậm rãi đáp:

– Là ta đây.

Doãn Chí Bình toàn thân run rẩy, hỏi:

– Ta là ai?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiểu Long Nữ!

Ba tiếng ấy vừa nói ra, không riêng Doãn Chí Bình, mà cả Triệu Chí Kính cũng như rơi xuống hố băng. Tại anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng, chỉ một chưởng của nàng chắn trước ngực, Triệu Chí Kính đã bị trọng thương, phải tĩnh dưỡng nhiều ngày; động thủ với nàng, quả thật thất bại là cái chắc. Lão không thể ngờ Tiểu Long Nữ cũng có mặt ở thành Tương Dương, những lời vừa rồi, tám chín phần đã bị nàng nghe thấy, nhất thời hồn xiêu phách lạc, chỉ nghĩ: “Làm sao trốn cho thoát?”.

Doãn Chí Bình tâm trạng dị thường, không nghĩ đến việc bỏ trốn. Y giơ tay mở cửa sổ, thấy cạnh bụi hoa có một bạch y thiếu nữ lẳng lặng đứng đó, chính là người mà y ngày đêm tưởng nhớ, là Tiểu Long Nữ diễm lệ vô song trên thế gian!

Doãn Chí Bình ngây ngất hỏi:

– Là nàng đó ư?

Tiểu Long Nữ đáp:

– Phải, là ta, những lời các người vừa nói đều là thật cả ư?

Doãn Chí Bình gật đầu:

– Là thật! Nàng cứ việc giết ta đi!

Đoạn xoay ngược chuôi kiếm, chìa ra ngoài cửa sổ. Tiểu Long Nữ mắt có dị quang, lòng buồn khổ vô hạn, bi phẫn cùng cực, chỉ nghĩ dù có giết một ngàn người, một vạn người, nàng cũng không còn là một cô nương trong trắng, vĩnh viễn không còn có thể thâm ái Dương Quá như trước, nhìn thanh kiếm chìa ra, nàng không cầm lấy, chỉ nhìn Triệu, Doãn, hai người, chưa có chủ định gì.

Triệu Chí Kính nhận ra cơ hội, biết nữ nhân này thần trí thất thường, e rằng đã phát điên, bây giờ chưa chạy đi còn chờ lúc nào? Lão kéo tay Doãn Chí Bình, cười, nói:

– Mau chạy đi thôi, nàng ta tha không giết sư đệ đó!

Đoạn chạy ra cửa. Doãn Chí Bình đã không còn hồn vía gì, bị kéo tay, liền chạy theo. Triệu Chí Kính thi triển khinh công, chạy gấp. Doãn Chí Bình ban đầu được sư huynh kéo đi, sau mấy trượng cũng tự thi triển khinh công. Hai người đầu sư học nghệ còn trước cả Quách Tĩnh, chỉ giây lát đã chạy tới bên cửa đông của thành Tương Dương.

Bên cổng thành có hơn mười đệ tử Cái Bang đang cùng quan binh tuần tiễu. Người đứng đầu đám đệ tử Cái Bang nhận ra Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình, biết hai người là cao thủ phái Toàn Chân, xét về địa vị còn là sư huynh của Quách Tĩnh, nghe Triệu Chí Kính nói có việc gấp cần ra khỏi thành, may là lúc này bên ngoài hoàn toàn không có quân địch, họ bèn hạ lệnh mở cổng. Cổng vừa mở đủ cho một người qua, Triệu, Doãn, hai người đã chạy ngay ra. Cổng thành định đóng lại, thì một bóng trắng đã vút ra theo. Người đứng đầu đám đệ tử Cái Bang lên mặt thành nhìn ra, nhưng lúc này trời vẫn chưa sáng, ngoài mấy trượng không nhìn rõ là ai cả, hỏi mấy người ở bên cạnh, họ cũng không thấy phái Toàn Chân, người này nghĩ rằng mình bị hoa mắt sau mấy ngày canh gác vất vả.

Triệu, Doãn, hai người không dừng bước, chạy mấy dặm mới đi chậm lại. Triệu Chí Kính dùng tay áo lau mồ hôi trán, nói:

– May quá, hú vía!

Lão nhìn lại phía sau, hai gối chợt mềm nhũn suýt ngã, thì ra cách lão mươi trượng, bạch y thiếu nữ vừa dừng chân, chăm chăm nhìn lão, chính là Tiểu Long Nữ. Triệu Chí Kính hoảng sợ buột miệng kêu “ối”, lão cứ ngỡ đã bỏ nàng ở trong thành, nào ngờ nàng vẫn bám theo sau, vậy mà lão không hề nghe thấy tiếng chân nàng. Thế là lão lại kéo Doãn Chí Bình cắm đầu chạy.

Chạy hơn mười trượng, ngoảnh lại, lão thấy Tiểu Long Nữ vẫn bám theo như cũ, nhưng bây giờ đã ở gần hơn, chỉ cách ba, bốn trượng. Triệu Chí Kính lục thần vô chủ, lại chạy, song lão không dám ngó lại phía sau, vì mỗi lần ngó lại chỉ càng thêm sợ, hai chân dần dần vô lực, lão nói:

– Doãn sư đệ, lúc này nàng ta muốn giết hai ta thật dễ như trở bàn tay, chắc nàng ta có mưu đồ gian ác gì chăng.

Doãn Chí Bình ngạc nhiên, nói:

– Có mưu đồ gian ác gì kia chứ?

Triệu Chí Kính nói:

– Ta đoán nàng muốn bắt sống chúng ta, vạch tội lỗi của sư đệ trước mặt anh hùng thiên hạ, làm cho phái Toàn Chân không thể ngẩng mặt lên được nữa.

Doãn Chí Bình giật mình, lúc này y đã không nghĩ đến sự sống chết của bản thân nữa; nếu Tiểu Long Nữ vung kiếm giết y, cũng không chống đỡ; nhưng y từ nhỏ làm môn hạ của Khưu Xứ Cơ, sư ân sâu nặng, thanh danh của phái Toàn Chân nếu do y mà mất, thì không thể được, nghĩ đến đó, y lạnh cả sống lưng, bèn dồn sức xuống chân, kề vai với Triệu Chí Kính mà chạy thật nhanh.

Hai người cứ cắm đầu chạy giữa chốn đồng hoang, có lúc không nhịn được, ngó về phía sau, thấy Tiểu Long Nữ vẫn cứ ở phía sau vài trượng. Khinh công của phái Cổ Mộ thiên hạ vô song, Tiếu Long Nữ đuổi theo hai người có thể nói là không hề tốn sức; có điều là nàng chưa biết xử trí hai gã đạo sĩ này như thế nào, nên cứ bám theo sau, không để cho họ tách xa.

Triệu, Doãn, hai người thấy Tiểu Long Nữ cứ bám riết như thế, thì càng sợ hãi, chạy từ sáng sớm đến trưa, lại chạy từ trưa sang giờ Mùi, chạy bốn năm canh giờ, nội lực tuy thâm hậu, cũng đã khó chịu đựng thêm, hơi thở hổn hển, chân bước chậm dần. Lúc này mặt trời chang chang trên đầu, không khí nóng bức, hai người mồ hôi mồ kê nhễ nhại. Lại chạy một hồi, cả hai vừa đói vừa khát, thấy phía trước có một dòng mương, thì nghĩ: “Dù có bị bắt, cũng mặc”. Cả hai bèn nhào tới dòng mương, vục nước mà uống.

Tiểu Long Nữ thong thả tới phía thượng du của dòng mương, cũng vục nước uống mấy ngụm. Dòng nước trong veo in hình một bạch y thiếu nữ, xinh đẹp như tiên nữ. Tiểu Long Nữ chỉ thấy lòng trống rỗng, đau khổ, song nàng thản nhiên hái một bông hoa trên bờ mương, cài lên mái tóc, soi bóng dưới nước, ngẩn ngơ xuất thần.

Triệu, Doãn, hai người vừa uống nước, vừa liếc trộm Tiểu Long Nữ, thấy nàng tựa hồ hồn lìa khỏi xác, đã quên mọi việc trước mắt, bèn đưa mắt cho nhau, lẻn về phía sau lưng nàng, lảng đi xa dần, thi thoảng ngó lại, thấy nàng vẫn nhìn xuống dòng nước; thế là cả hai chạy thật nhanh, không lâu tới một con đường lớn.

Hai người tưởng đã thoát hiểm, nào dè Doãn Chí Bình vừa ngoảnh lại, đã thấy Tiểu Long Nữ bám theo đằng sau. Doãn Chí Bình tái mặt, nói:

– Thôi rồi, Triệu sư huynh, chết chạy chẳng thoát nổi, nàng ta muốn giết thì cũng đành chịu vậy!

Y dừng bước. Triệu Chí Kính nổi giận, nói:

– Ngươi chết cũng đáng, còn ta tại sao phải chết theo ngươi?

Đoạn lại kéo tay sư đệ, Doãn Chí Bình nản chí, không muốn chạy nữa. Triệu Chí Kính vừa tức vừa sợ, lại tát cho Doãn Chí Bình một cái. Doãn Chí Bình quát:

– Sư huynh lại đánh ta ư?

Tiểu Long Nữ thấy hai gã đạo sĩ lại đánh nhau, thì lấy làm lạ.

Lúc ấy có hai người phóng ngựa đến, đó là hai binh sĩ Mông Cổ truyền đạt quân lệnh. Triệu Chí Kính chợt nảy ý định, nói nhỏ:

– Cướp ngựa! Hai ta giả bộ đánh nhau, đừng để cho Tiểu Long Nữ nghi ngờ.

Đoạn vung chưởng đánh tới, Doãn Chí Bình giơ tay gạt đi, đánh trả một chưởng; Triệu Chí Kính lùi mấy bước, hai người tiến dần ra giữa lộ. Hai kỵ sĩ Mông Cổ bị cản đường, gò ngựa lại. Triệu, Doãn, hai người liền vọt tới, kéo hai binh sĩ xuống đất, nhảy lên lưng ngựa mà phi nhanh về hướng bắc.

Hai con ngựa ấy đều là tuấn mã, chạy rất nhanh. Hai người ngó lại, không thấy Tiểu Long Nữ đuổi theo, mới yên tâm. Đi hơn mười dặm, đến một ngã ba, Triệu Chí Kính nói:

– Tiếu Long Nữ thấy hai ta phi về hướng bắc, bây giờ ta nên đổi sang hướng đông.

Rồi rẽ sang bên phải. Gần tối thì hai người đến một thị trấn nhỏ.

Hai người chạy từ sáng sớm, chưa ăn gì, đã quá đói mệt, bèn tìm một phạn điếm, sai tiểu nhị dọn lên một chậu thịt bò, ba cân bánh. Triệu Chí Kính ngồi vào bàn, hơi trấn tĩnh, nghĩ lại cảnh huống hôm nay, thật ngượng ngùng, cũng không hiểu tại sao Tiểu Long Nữ bám sát phía sau mà không ra tay. Doãn Chí Bình mặt xám ngoét, cúi đầu như kẻ mất hồn. Bữa ăn được dọn lên, hai người vừa cầm đũa, thì có tiếng huyên náo ngoài phạn điếm, rồi tiếng quát:

– Hai con ngựa này là của ai? Sao lại ở đây?

Nghe rõ là khẩu âm người Mông Cổ.

Triệu Chí Kính đứng lên, bước ra cổng, thấy một quân quan Mông Cổ dẫn theo bảy tám binh sĩ, đang chỉ hai con ngựa của hai người mà quát hỏi. Chủ quán sợ hãi, chỉ lắp bắp:

– Quân gia, đại nhân!

Triệu Chí Kính bị Tiểu Long Nữ đuổi cả một ngày, chưa biết trút giận vào ai, bèn ưỡn ngực bước tới, nói:

– Ngựa của mỗ đó! Hỏi làm gì?

Gã quân quan kia hỏi:

– Ngựa này lấy đâu ra?

Triệu Chí Kính nói:

– Ngựa của ta, can hệ gì đến ngươi?

Hiện thời từ thành Tương Dương về phía bắc thuộc quyền cai trị của quân Mông Cổ, dân chúng Đại Tống bị quân Mông Cổ đàn áp, đâu có ai dám vô lễ với quan binh Mông Cổ như thế? Gã quân quan thấy Triệu Chí Kính thân hình cao lớn, lưng đeo kiếm, cũng ngán ngại ba phần, hỏi:

– Ngựa ngươi mua hay là dắt trộm?

Triệu Chí Kính nổi giận:

– Mua với chả dắt trộm cái gì? Là do bọn ta nuôi lớn đó.

Gã quân quan phẩy tay, quát:

– Bắt lấy hắn!

Bảy tám tên lính rút binh khí vây quanh. Triệu Chí Kính tay đè đốc kiếm, hỏi:

– Vì lẽ gì đòi bắt người?

Gã quân quan cười khẩy:

– Đồ dắt trộm ngựa! Đúng là kẻ to gan, dám dắt trộm ngựa của quân mã đại doanh!

Nói rồi hắn vạch đám lông ở chân sau hai con ngựa, lộ ra chữ Mông Cổ được in vào đó bằng sắt nung. Nguyên ngựa chiến của quân Mông Cổ đều có dấu in bằng sắt nung, nói rõ thuộc doanh nào bộ nào để tiện phân biệt. Triệu Chí Kính cướp ngựa từ tay binh sĩ Mông Cổ, không hề biết chuyện đó; bây giờ mới thấy, còn cố cãi:

– Ai bảo đây là ngựa chiến của quân Mông Cổ? Ngựa của đạo quán ta có dấu in bằng sắt nung là phạm pháp ư?

Gã quân quan cả giận, nghĩ từ ngày tiến đánh phương nam đến nay, chưa từng gặp kẻ cuồng đồ nào ngang ngạnh thế này, bèn đưa tay túm ngực Triệu Chí Kính. Triệu Chí Kính tay trái chộp cổ tay gã quân quan, tay phải thì túm sau lưng gã mà giơ gã lên cao, xoay ba vòng trên không rồi lẳng gã ra ngoài. Gã quân quan bay đi, rơi xuống chỗ mấy cái vò cái chậu của phạn điếm, vò chậu bị vỡ nghe loảng xoảng một hồi; gã quân quan bị thương khắp mình vì các mảnh vỡ, máu chảy nhoe nhoét, chưa bò dậy được. Mấy tên lính vội chạy tới cứu hộ, dìu gã ta lên, đâu còn dám tính đến việc bắt giữ kẻ ăn trộm ngựa?

Triệu Chí Kính cười ha hả, trở vào bàn ăn. Sau cuộc rối loạn vừa rồi, các phạn điếm trong thị trấn đều đóng cửa; thực khách đều vội vã bỏ đi hết; họ nghĩ quân Mông Cổ bạo ngược vô cùng, lần này gã quân quan bị người Hán đánh như thế, e rằng quân Mông Cổ sẽ trả thù, giết toàn trấn đi không chừng. Triệu Chí Kính ăn vài miếng, bỗng thấy chủ quán bước tới, quì xuống đất, liên tiếp khấu đầu. Triệu Chí Kính biết chủ quán sợ liên lụy, cười đứng dậy, nói:

– Bọn ta cũng ăn no rồi, ngươi đừng sợ, bọn ta đi đây.

Gã chủ quán mặt như chàm đổ, vẫn cứ vái lạy.

Doãn Chí Bình nói:

– Gã sợ hai ta đi rồi, quân Mông Cổ đến đòi người.

Doãn Chí Bình vốn tinh minh cường cán, chỉ do đối với Tiểu Long Nữ y si tâm cuồng luyến mới không biết hành xử, chứ thường ngày y xử sự kỳ thực hơn hẳn Triệu Chí Kính, cho nên Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ đều có ý sẽ để y tiếp nhiệm chức chưởng giáo, lúc này y đã có chủ ý, bèn bảo chủ quán:

– Mau mang rượu ngon ra đây, việc đạo gia làm, đạo gia sẽ gánh chịu, các người không làm gì phải sợ.

Chủ quán vâng dạ rối rít, đứng dậy sai mang rượu ngon tới.

Gã quân quan bị thương không nhẹ, được bọn lính dìu lên ngựa. Triệu Chí Kính cười, nói:

– Doãn sư đệ, hôm nay đã bị một phen khó chịu, chờ ở đây sẽ đánh chúng một trận tơi bời cho bõ tức.

Doãn Chí Bình chỉ hừ một tiếng, nhìn bọn lính dìu tên quân quan bỏ đi, điếm tiểu nhị bưng các món ăn ngon ra bàn.

Triệu, Doãn, hai người ăn uống một hồi, Doãn Chí Bình đột nhiên đứng dậy, đánh một chưởng cho tiểu nhị đứng hầu bàn ngã quay lơ. Chủ quán cả kinh, ba chân bốn cẳng chạy tới, cười nịnh:

– Tên tiểu tử ấy không biết hầu hạ hai vị, thật đáng chết, xin đạo gia bớt giận…

Lời chưa dứt, Doãn Chí Bình đã tung cước đá khẽ cho gã ngã lăn chiêng. Triệu Chí Kính tưởng y thần trí mơ hồ lẫn lộn, gọi:

– Doãn sư đệ, sư đệ…

Doãn Chí Bình đẩy cái bàn bên cạnh cho chén đĩa rơi xuống đất vỡ tan, lại đánh ngã hai điếm tiểu nhị nữa, điểm huyệt họ, rồi xoa tay, nói:

– Khi quân Mông Cổ kéo tới, nhìn thấy phạn điếm của các người bị thế này, chúng sẽ không giận các người, hiểu chưa? Các người cứ đánh nhau một trận cho sứt đầu mẻ trán càng tốt đấy.

Mọi người đại ngộ, khen là diệu kế, bèn đánh lộn, xé rách quần áo của nhau, làm cho mặt mũi thâm tím. Một canh giờ sau, nghe ngoài đường có tiếng vó ngựa, mấy con ngựa phi tới. Mọi người trong phạn điếm giả bộ ngã lăn ra đất, kêu loạn cả lên:

– Ui chao, đánh chết người ta rồi!

– Trời ơi, đau quá!

– Xin đạo gia tha mạng!

Tiếng vó ngựa quả nhiên dừng ở ngoài phạn điếm, bốn quân quan Mông Cổ bước vào, theo sau là một Tạng tăng cao gầy cùng một gã người Hồ lùn và đen. Gã người Hồ bị cụt hai chân, mỗi tay cầm một cây quải trượng. Quân quan Mông Cổ thấy trong phạn điếm bừa bãi, thì cau mày quát lớn:

– Mau dọn cơm rượu cho các lão gia xơi, còn phải đi nữa!

Chủ quán nghĩ: “Thì ra bọn này là đám khác, nếu đám kia quay trở lại, thì phải làm thế nào?” Còn đang chần chừ, thì mấy gã quân quan vụt roi tới tấp, chủ quán vâng dạ, bò dậy, sai các điếm tiểu nhị dọn bàn ăn.

Vị Tạng tăng kia chính là Kim Luân pháp vương, còn gã người Hồ là Ni Ma Tinh. Hai người hôm nọ bị trúng “Băng phách ngân châm”, ôm nhau lăn xuống vực. May trên sườn núi có một cây lớn, Kim Luân pháp vương giơ tay trái túm lại được. Lúc ấy Ni Ma Tinh đã nửa mê nửa tỉnh, vẫn ôm chặt Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương nhìn tứ phía, vận kình vào tay trái đẩy một cái, hai người cùng lăn xuống một đám cỏ dày bên sườn núi, rồi từ đó lại lăn xuống dốc hơn mười trượng nữa, tới đáy vực mới dừng. Cả hai đều sây sát mình mẩy, mặt mũi.

Kim Luân pháp vương gỡ vòng tay của Ni Ma Tinh ra, quát:

– Rốt cuộc ngươi có buông ta ra không?

Ni Ma Tinh mơ mơ màng màng, không còn sức phản kháng, buông tay trái, song tay phải vẫn còn túm sau lưng Pháp vương. Pháp vương cười khẩy, nói:

– Hai chân ngươi đã trúng độc nặng, chẳng lo tự cứu, cứ ôm lấy ta làm gì?

Hai câu ấy như sét đánh ngang tai, Ni Ma Tinh cúi đầu nhìn, thấy hai bắp chân mình đã sưng tím, biết nếu không cấp cứu, sẽ khó thoát chết, bèn rút cây thiết tiên ở sau lưng ra, nghiến răng, chém mạnh hai nhát đứt lìa hai chân, máu tuôn ra xối xả, người ngất đi luôn. Pháp vương thấy Ni Ma Tinh dũng quyết như vậy, rất thán phục, lại nghĩ hắn đã cụt hai chân, không còn đáng ngại nữa, bèn đưa tay điểm hai huyệt Khúc Tuyền ở khoeo chân hắn, trước tiên cầm máu, sau đó lấy thuốc bôi lên vết thương, xé áo băng lại.

Các võ sĩ Thiên Trúc phần lớn đã luyện thuật chịu đau như nằm ngủ trên phản cắm đinh nhọn, ngồi trên đao kiếm, Ni Ma Tinh càng thành thạo thuật đó. Vừa được cầm máu, hắn đã tỉnh lại, ngồi dậy, nói:

– Hay lắm, đại sư đã cứu mạng tại hạ, oán cừu đôi bên coi như xong.

Pháp vương mỉm cười cay đắng, nghĩ: “Ngươi tuy bị mất đôi chân, song chất độc trong người đã ra hết, ta thì không được như ngươi”. Bèn ngồi vận công, đẩy khí độc từ bàn chân ra ngoài, hơn một canh giờ sau thì nặn ra một bãi nước màu đen, mệt muốn đứt hơi.

Hai người tại hoang cốc dưỡng thương mấy ngày, Pháp vương dùng nội công thượng thừa đẩy chất độc ra khỏi cơ thể, vết thương của Ni Ma Tinh đã đỡ, hắn bẻ hai cành cây làm quải trượng, cùng rời hoang cốc. Không lâu thì gặp bốn quân quan Mông Cổ, cùng đi về đại doanh của Hốt Tất Liệt, đến thị trấn này thì gặp Triệu, Doãn, hai người.

Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính nhìn thấy Pháp vương thì thất sắc, nhìn nhau. Hai đạo sĩ tại anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng từng thấy Pháp vương hiển thị võ công, quả thật kinh thế hãi tục, lại nghĩ hai đệ tử của lão ta là Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba năm nọ tới cung Trùng Dương, chư tử phái Toàn Chân còn khó địch nổi, bây giờ gặp lão ta ở đây, thực là đáng sợ. Hai người đưa mắt cho nhau, bụng nghĩ cách thoát thân.

Tại anh hùng đại yến, hào kiệt Trung Nguyên hàng mấy ngàn người, Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình biết mặt Pháp vương, còn Pháp vương thì không biết hai đạo sĩ. Pháp vương tuy thấy cảnh tượng ẩu đả trong phạn điếm, nhưng thời buổi này nơi nơi bị tàn phá, lão cũng chẳng cho là lạ. Chuyến đột nhập thành Tương Dương lần này, lão đại bại trở về, gặp Hất Tất Liệt sẽ quá mất mặt, lão đang nghĩ cách biện hộ sao đây, nên cũng chẳng bụng dạ nào để ý đến hai đạo sĩ đang ngồi ăn.

Đúng lúc ấy, bên ngoài phạn điếm náo loạn, một tốp quan binh Mông Cổ xông vào, vừa thấy Triệu, Doãn hai người liền hô hoán bắt giữ. Doãn Chí Bình thấy Pháp vương ngồi gần cửa, nếu chạy ra, ngang qua đó dễ bị lão ta xuất thủ, bèn nói nhỏ:

– Thoát lối cửa sau!

Đoạn đẩy đổ cái bàn ăn, chén bát vỡ loảng xoảng, hai người bật dậy, chạy ra cửa hậu.

Doãn Chí Bình sắp tới cửa hậu, ngó lại, thấy Pháp vương cầm ly rượu, vẻ trầm ngâm, hình như không để ý tới cảnh náo loạn trong phạn điếm, thì mừng thầm: “Lão ta không ra tay thì hay quá!” Bỗng một bóng đen lướt tới, gã lùn người Tây Vực vung quải trượng đánh xuống vai Doãn Chí Bình. Triệu, Doãn hai người chưa gặp Ni Ma Tinh, thấy hắn thân pháp mau lẹ, xuất thủ hung hãn, vội rùn người né tránh. Ni Ma Tinh một trượng đánh hụt, biết hai đạo sĩ không phải hạng tầm thường, bèn sử dụng hai cây quải trượng chặn lối thoát của hai người. Hai đạo sĩ cùng rút kiếm đâm Ni Ma Tinh, buộc hắn thoái lui để lấy lối thoát ra.

Ni Ma Tinh võ công tuy cao hơn Triệu, Doãn hai người, nhưng hắn mới bị cụt hai chân, nguyên khí chưa phục hồi, giờ một mình đấu với hai cao thủ, sau vài chiêu đã không địch nổi. Pháp vương thong thả bước tới, thấy mũi kiếm của Triệu Chí Kính đâm vào ngực Ni Ma Tinh, Ni Ma Tinh giơ quải trượng chống đỡ, thì trường kiếm của Doãn Chí Bình đã chọc tới sườn bên phải của Ni Ma Tinh, chiêu số này rất hiểm, Ni Ma Tinh không thể không quẳng cây trượng mà nhảy về đàng sau. Pháp vương bước đến, vừa vặn thân hình Ni Ma Tinh vọt lên, lão bèn dùng tay trái đỡ mông cho Ni Ma Tinh, tay phải đặt vào cánh tay của hắn. Lúc ấy quải trượng của hắn chưa tách khỏi kiếm của Triệu Chí Kính, nội lực của Pháp vương truyền qua cây trượng, Triệu Chí Kính cảm thấy cánh tay phải tê dại, nửa bên ngực nóng bừng, keng một tiếng, trường kiếm rơi xuống đất.

Ni Ma Tinh nội lực không đủ, nhưng biến chiêu cực nhanh, thấy Triệu Chí Kính để rơi kiếm, lập tức thu quải trượng về dính với kiếm của Doãn Chí Bình. Pháp vương lại đặt tay phải vào cánh tay của Ni Ma Tinh. Doãn Chí Bình đã thấy sai lầm của Triệu Chí Kính, liền vận lực phản kích, ai ngờ nội lực của Pháp vương vừa cương vừa nhu, “cạch” một tiếng, kiếm của y đã gãy đôi. Pháp vương nhẹ nhàng đặt Ni Ma Tinh ngồi xuống, hai tay ấn xuống hai đầu vai của Triệu, Doãn hai người, cười nói:

– Các hạ vị vốn không quen biết, hà tất phải động võ? Thân thủ thế này đúng là thuộc hàng đệ nhất kiếm sĩ Trung Nguyên, chúng ta hãy ngồi đàm luận đôi chút được chăng?

Pháp vương xuất thủ không có gì lạ, nhưng hai đạo sĩ không tránh kịp, chỉ cảm thấy như có vật nặng ngàn cân đè xuống vai, đành vận lực chống đỡ, đâu dám đáp lời? E rằng nếu mở miệng, nội tức buông lỏng một chút, xương cốt từ vai xuống thắt lưng sẽ bị gãy nát.

Lúc này quan binh Mông Cổ đã vây xung quanh, dẫn đầu là một gã thiên hộ. Gã biết Kim Luân pháp vương là pháp sư hộ quốc của Mông Cổ, Tứ đại vương Hốt Tất Liệt rất kính nể lão ta, nên gã vội hành lễ, nói:

– Quốc sư gia, hai đạo sĩ này ăn trộm ngựa chiến, ẩu đả quan binh, xin quốc sư gia…

Gã vừa nói vừa nhìn Doãn Chí Bình, đột nhiên hỏi:

– Vị này có phải là Doãn Chí Bình Doãn đạo gia hay chăng?

Doãn Chí Bình gật đầu, chưa nhận ra người kia là ai. Pháp vương hơi giảm lực ấn vai hai người, nghĩ: “Hai đạo sĩ này tuổi trạc tứ tuần, mà nội công đã thâm hậu thế này thực không dễ”. Gã thiên hộ Mông Cổ cười, nói:

– Doãn đạo gia không nhận ra tiểu nhân ư? Mười chín năm trước chúng ta từng ở sa mạc Hoa Thích Tử Mô nướng thịt bò mà ăn. Tiểu nhân là Tát Đa đây.

Doãn Chí Bình nhìn kỹ, vui mừng nói:

– À đúng rồi, đúng rồi! Các hạ để râu dài, nên tại hạ không nhận ra!

Tát Đa cười, nói:

– Tiểu nhân bôn ba đông tây nam bắc mấy vạn dặm, râu tóc đều bạc cả, còn Doãn đạo gia tướng mạo vẫn không thay đổi lắm. Chẳng trách Thành Cát Tư Hãn bảo rằng các vị tu đạo đều là thần tiên.

Rồi gã quay sang nói với Pháp vương:

– Quốc sư gia, vị đạo gia này thời trước từng được Thành Cát Tư Hãn mời sang Tây Vực, hóa ra là người một nhà cả.

Pháp vương gật đầu gù, thu tay khỏi vai hai người.

Năm xưa Thành Cát Tư Hãn có mời Khưu Xứ Cơ sang Tây Vực tương kiến để học hỏi về thuật trường sinh. Khưu Xứ Cơ vạn lý tây du, đem theo mười chín đệ tử; Doãn Chí Bình là môn hạ đại đệ tử, dĩ nhiên được đi cùng. Thành Cát Tư Hãn phái hai trăm quân mã cung phụng, hộ vệ sư đồ Khưu Xứ Cơ. Hồi ấy Tát Đa chỉ là một tên tiểu tốt, nên nhớ rõ Doãn Chí Bình. Gã chinh chiến bốn phương hai mươi năm, được thăng đến chức thiên hộ, không ngờ tình cờ gặp lại Doãn Chí Bình ở đây thì cả mừng, vội gọi cơm rượu thết đãi, một mực cung kính với Doãn Chí Bình, chuyện trộm ngựa đánh quan binh coi như không có. Tát Đa hỏi thăm tỉ mỉ về Khưu Xứ Cơ và mười tám đệ tử, nhắc lại chuyện thời trai trẻ một cách đầy hứng khởi.

Pháp vương cũng từng nghe danh Khưu Xứ Cơ, biết đó là đệ nhất cao thủ phái Toàn Chân, thấy Triệu, Doãn hai người võ công không kém, nghĩ nội công kiếm thuật của phái Toàn Chân quả nhiên danh bất hư truyền, vừa rồi may mà lão vừa xuất thủ đã chiếm tiên cơ, nếu không cũng phải sau vài chục chiêu mới mong thủ thắng.

Đột nhiên từ ngoài cửa thoáng hiện một bóng người tiến vào, đó là bạch y thiếu nữ. Ni Ma Tinh, Pháp vương và Triệu, Doãn hai đạo sĩ cùng giật mình, vì người ấy chính là Tiểu Long Nữ. Chỉ riêng Ni Ma Tinh không sợ hãi, nói to:

– Chào tân nương tử của Tuyệt Tình cốc!

Tiểu Long Nữ khẽ gật đầu, chọn một cái bàn nhỏ trong góc ngồi xuống, không để ý gì tới mọi người, nói nhỏ với điếm tiểu nhị, gọi một bữa ăn chay.

Triệu, Doãn hai người sắc mặt lúc xanh, lúc trắng, nhấp nhổm không yên. Pháp vương cũng sợ Dương Quá sẽ tới, bình sinh lão chẳng sợ gì, chỉ sợ Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ song kiếm hợp bích, thi triển “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”. Ba người ấy mỗi người một tâm sự, không trò chuyện, chỉ cúi đầu ăn uống. Triệu, Doãn hai người vốn đã ăn no, nhưng nếu bây giờ cứ ngồi im thì dễ bị nghi ngờ, đành tiếp tục ăn uống vậy.

Tát Đa thì cao hứng, hỏi:

– Doãn đạo trưởng đã gặp Tứ vương tử của chúng tôi hay chưa?

Doãn Chí Bình lắc đầu. Tát Đa nói:

– Vương tử Hốt Tất Liệt là vị công tử thứ tư của Tứ vương gia Đà Lôi, anh minh nhân hậu, người người trong quân ngưỡng mộ. Tiểu tướng chính đi bẩm cáo quân tình. Hai vị đạo gia nếu không bận việc, hãy cùng đi với tiểu tướng được chăng?

Doãn Chí Bình tâm trí để đâu đâu, lại lắc đầu. Triệu Chí Kính thì chợt có chủ ý, bèn hỏi Pháp vương:

– Đại sư cũng đi gặp Tứ vương tử phải không?

Pháp vương nói:

– Phải. Tứ vương tử là nhân kiệt đời nay, hai vị không thể không gặp.

Triệu Chí Kính vui mừng nói:

– Hay lắm, chúng tôi cùng đi với đại sư và Tát Đa tướng quân vậy.

Lão đưa tay dưới gầm bàn cấu khẽ vào đùi Doãn Chí Bình một cái, nháy mắt ra hiệu. Tát Đa cả mừng, rối rít nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Doãn Chí Bình cơ trí tài cán đều hơn hẳn Triệu Chí Kính, nhưng vừa gặp Tiểu Long Nữ thì lập tức hồn vía mơ hồ, phải một lát sau mới hiểu dụng ý của Triệu Chí Kính, là muốn dựa vào sự che chở của Pháp vương để thoát sự truy sát của Tiểu Long Nữ.

Mọi người dùng bữa xong, ra khỏi phạn điếm, lên ngựa đi. Pháp vương không thấy Dương Quá xuất hiện, thì yên tâm nghĩ: “Phái Toàn Chân là một đại chính phái của võ lâm Trung Nguyên, nếu thu phục phái này trợ giúp Mông Cổ, thì thực là một kỳ công. Ngày mai gặp vương gia, cũng có chuyện để khỏi bẽ mặt”. Liền có ý thu nạp Triệu, Doãn hai người.

Lúc này trời sắp tối, mọi người đi một quãng, nghe có tiếng lóc cóc phía sau, ngó lại, thấy Tiểu Long Nữ cưỡi một con lừa theo sau đàng xa. Pháp vương nghĩ: “Một mình nàng quyết không phải là đối thủ của ta, tại sao nàng cả gan cứ bám theo sau? Hay là có gã Dương Quá mai phục đâu đó ám trợ?” Lão lần đầu tiếp xúc với Triệu, Doãn hai người, sợ lỡ có gì bị mất uy phong, bèn làm như không biết.

Mọi người đi đến nửa đêm, đến một cánh rừng. Tát Đa lệnh cho quân sĩ dừng nghỉ, mọi người xuống ngựa, ngồi nghỉ dưới gốc cây. Tiểu Long Nữ cũng xuống lừa, ngồi tựa gốc cây, cách mọi người hơn chục trượng. Nàng hành động càng kỳ bí, Pháp vương càng thận trọng, không dám liều lĩnh xuất thủ. Triệu Chí Kính thấy Ni Ma Tinh từng chào hỏi Tiểu Long Nữ, không biết Tiểu Long Nữ và Pháp vương có hiềm khích gì, không dám nhìn về phía nàng. Nghỉ nửa canh giờ, mọi người lại lên ngựa đi tiếp, rời cánh rừng, nghe tiếng lóc cóc phía sau, là Tiểu Long Nữ vẫn đi theo.

Đến lúc trời sáng hẳn, Tiểu Long Nữ vẫn cách đoàn người hơn chục trượng. Lúc này tới chỗ đồng trống, Pháp vương đưa mắt nhìn ra xa, trong vòng một dặm không một bóng người, bỗng nảy sinh ác niệm: “Ta bình sinh tung hoành vô địch, đến Trung Nguyên lại liên tiếp thất bại bởi Dương Quá và Tiểu Long Nữ song kiếm hợp bích. Hôm nay nàng ta cứ bám theo sau hẳn chẳng có thiện ý, có lẽ ta phải giết quách nàng đi, dù nàng có kẻ trợ giúp, cũng không đến cứu kịp. Nàng chết rồi, trên thế gian không còn kẻ nào đủ sức ngăn ta được nữa”. Pháp vương tâm niệm đã quyết, đang định ghìm ngựa đứng lại, bỗng nghe phía trước vang lên tiếng lục lạc, ngoài xa vài dặm bụi tung mù mịt, một đoàn nhân mã phóng tới.

Pháp vương ân hận: “Nếu biết hậu viện của Tiểu Long Nữ bây giờ mới tới, thì ta phải hạ độc thủ sớm hơn một chút”. Chợt nghe Tát Đa kêu lên kinh ngạc:

– Kỳ quái!

Pháp vương thấy từ xa có bốn con lạc đà phi tới, con đi đầu hàng bên phải trên lưng cắm một lá cờ lớn bay phần phật trong gió, chính là soái kỳ của Hốt Tất Liệt, song không thấy có người cưỡi trên lưng bốn con lạc đà. Tát Đa nói:

– Vương gia đã tới!

Đoạn tế ngựa lên đón, cách đoàn lạc đà nửa dặm, thì xuống ngựa, cung kính đón chờ ở bên đường.

Pháp vương nghĩ: “Vương gia tới, thì ta chưa tiện giết Tiểu Long Nữ”. Lão tự lượng thân phận, nếu để Hốt Tất Liệt thấy lão ra tay hạ sát một thiếu nữ đơn độc, thì khó tránh khỏi bị xem thường, lão bèn thong thả tới chỗ Tát Đa, chỉ thấy có một người ngồi ở khoảng giữa bốn con lạc đà, trên không trung, râu tóc và lông mày bạc trắng, miệng cười tươi, chính là Chu Bá Thông.

Chỉ nghe Chu lão nhân nói từ xa:

– Hay lắm, lão hòa thượng, gã đen lùn, hay lắm, chúng ta lại trùng phùng ở đây, còn thêm một tiểu cô nương kiều diễm nữa kìa.

Pháp vương lấy làm lạ, người này sao lại có thể ngồi giữa không trung thế kia? Đợi khi đôi bên tới gần, mới nhìn rõ, thì ra từ đầu bốn con lạc đà có dây kết thành một cái võng, Chu Bá Thông ngồi trên cái võng đó.

Chu Bá Thông vậy là vẫn chưa đến cung Trùng Dương, cũng ít khi lai vãng với Mã Ngọc, Khưu Xứ Cơ, nên Triệu Chí Kính và Doãn Chí Bình không biết mặt lão nhân. Hai gã tuy từng nghe sư phụ kể có một vị sư thúc tổ một mình du hí nhân gian, nhưng đã lâu lắm không có tin tức gì, chắc vị đó đã qua đời. Bây giờ hai gã gặp Chu Bá Thông, đều không nghĩ đấy là sư thúc tổ của mình. Pháp vương hơi cau mày, nghi người này võ công kỳ diệu, thật không dễ đối phó, bèn hỏi:

– Vương gia đến sau phải không?

Chu Bá Thông chỉ ra sau lưng, cười nói:

– Ba, bốn chục dặm đằng ấy là vương trướng của hắn. Đại hòa thượng, ta khuyên lão lúc này đừng tới đó thì hơn.

Pháp vương hỏi:

– Vì sao?

Chu Bá Thông nói:

– Hắn đang nổi cơn lôi đình, lão tới đó không chừng bị hắn cắt phăng cái đầu trọc của lão đó.

Pháp vương nói:

– Hồ thuyết bát đạo! Vương gia sao lại nổi cơn lôi đình?

Chu Bá Thông chỉ lá cờ trên lưng con lạc đà, cười nói:

– Thì vương kỳ của vương gia bị ta lấy trộm mất, làm sao hắn không nổi cơn lôi đình kia chứ?

Pháp vương sững sờ, hỏi:

– Lão lấy trộm vương kỳ để làm gì?

Chu Bá Thông nói:

– Hòa thượng biết Quách Tĩnh chứ?

Pháp vương gật đầu, nói:

– Thì sao?

Chu Bá Thông cười nói:

– Quách Tĩnh là huynh đệ kết nghĩa của ta. Hai huynh đệ ta hơn mười năm chưa gặp lại, ta nhớ hắn quá, muốn đến thăm hắn. Hắn ở thành Tương Dương, đánh nhau với quân Mông Cổ, ta lấy trộm vương kỳ của vương gia Mông Cổ làm quà cho hắn.

Pháp vương cả kinh, nghĩ bụng việc này không ra thể thống gì, thành Tương Dương đã không hạ được, vương kỳ lại bị cướp mất, thật mất hết thể diện, phải tìm cách đoạt lại vương kỳ mới xong.

Chu Bá Thông quát một tiếng, mười sáu cái chân của bốn con lạc đà cùng cuốn gió chạy về hướng tây, rồi chạy vòng trở lại. Lá cờ bay phần phật trong gió. Chu Bá Thông đứng thẳng người, tay cầm bốn dây cương điều khiển lạc đà phóng đi, trông cứ như một vị lão tướng bát diện uy phong.

Chỉ thấy lão nhân đắc ý phi phàm, phóng bốn con lạc đà tới gần, miệng quát “Họ!” bốn con lạc đà lập tức dừng chân, đủ biết tay lão cầm cương khỏe như thế nào, Chu Bá Thông cười, nói:

– Đại hòa thượng, mấy con lạc đà của ta có khá hay không?

Pháp vương giơ ngón tay cái lên, vẻ tán thưởng:

– Khá lắm, rất đáng phục!

Trong óc Pháp vương vẫn đang nghĩ cách đoạt lại vương kỳ. Chu Bá Thông vung tay trái, nói:

– Đại hòa thượng, tiểu cô nương, Lão Ngoan đồng đi đây!

Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính nghe ba tiếng “Lão Ngoan đồng”, cùng buột miệng thốt lên:

– Sư thúc tổ ư?

Rồi cùng xuống ngựa. Doãn Chí Bình nói:

– Thưa có phải đây là Chu lão tiền bối của phái Toàn Chân hay không?

Chu Bá Thông đưa mắt đảo qua đảo lại, nói:

– Hừ, sao hả? Tiểu đạo sĩ hãy mau khấu đầu.

Triệu, Doãn hai người đã định hành lễ, nghe lão nhân nói năng cổ quái, chợt sững lại vì sợ lạy nhầm người. Chu Bá Thông hỏi:

– Hai đứa ngươi là môn hạ của gã mũi trâu nào?

Doãn Chí Bình cung kính đáp:

– Triệu Chí Kính là môn hạ của Ngọc Dương tử Vương đạo trưởng, còn đệ tử Doãn Chí Bình là môn hạ của Trường Xuân tử Khưu đạo trưởng.

Chu Bá Thông nói:

– Hừ, tiểu đạo sĩ phái Toàn Chân càng đời sau lại càng thua kém đời trước, ta thấy các ngươi cũng chẳng ra gì.

Đột nhiên hai chân lão hất hai chiếc hài về phía hai người.

Doãn Chí Bình thấy chiếc hài bay không nhanh, dù có trúng vào mặt cũng không sao, không dám thất lễ, vẫn cúi mình hành lễ; Triệu Chí Kính thì lại giơ tay ra chộp. Nào ngờ hai chiếc hài bay đến cách mặt hai gã chừng ba thước đột nhiên bay vòng trở lại. Triệu Chí Kính chộp hụt, nhìn chiếc hài bên trái bay vòng sang bên phải, chiếc hài bên phải bay vòng sang bên trái, gần chạm nhau giữa không trung, rồi bay trở về chỗ Chu Bá Thông. Chu Bá Thông giơ hai chân đi luôn vào hai chiếc hài bay về.

Việc này tuy chỉ là trò đùa, nhưng nếu không có nội lực cực kỳ thâm hậu thì không tài gì điều khiển hai chiếc hài bay đúng chỗ như thế. Pháp vương và Ni Ma Tinh đã từng thấy Chu Bá Thông hất các mũi giáo trong vương trướng của Hốt Tất Liệt, nên nhìn trò hất đôi hài không lấy làm lạ. Nhưng Triệu Chí Kính giơ tay chộp hụt chiếc hài thì không khỏi kinh ngạc, với võ công của mình, Triệu Chí Kính có thể dùng tay chộp mọi thứ ám khí lợi hại, đã chộp là trúng, đằng này chiếc hài đã bay chầm chậm như thế mà hắn không tóm được, thì không còn hoài nghi nữa, vội cùng với Doãn Chí Bình vái dài, nói:

– Đệ tử Triệu Chí Kính khấu kiến sư thúc tổ.

Chu Bá Thông cười ha ha, nói:

– Nhãn giới của Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất quá thấp kém, đi thu nạp hạng đệ tử vô dụng. Thôi ta miễn cho, ai cần các ngươi vái lạy?

Đoạn lão hô to:

– Xung phong!

Bốn con lạc đà vểnh tai cong đuôi, tung vó chạy đi.

Pháp vương phi thân xuống ngựa, chắn phía trước bốn con lạc đà, hai tay ghìm đầu hai con lạc đà đi trước, miệng quát:

– Hãy khoan!

Bốn con lạc đà đang chạy bị lão ta ấn lùi trở lại hai bước.

Chu Bá Thông cả giận, nói:

– Đại hòa thượng, muốn đánh nhau phải không? Lão Ngoan đồng mười năm nay chưa gặp đối thủ, đang ngứa tay, lại đây nào, hai ta đấu với nhau vài hiệp!

Lão Ngoan đồng bình sinh hiếu võ, nhưng mấy năm gần đây võ công càng luyện càng cao, muốn tìm đối thủ thật khó; biết Pháp vương là đại cao thủ, bèn bước tới động thủ. Pháp vương xua tay, nói:

– Lão nạp bình sinh không động thủ với hạng người vô sỉ. Lão muốn đánh thì cứ việc, lão nạp không đánh trả đâu.

Chu Bá Thông cả giận, nói:

– Lão dám bảo ta là hạng người vô sỉ hả?

Pháp vương nói:

– Lão thừa biết lão nạp không có mặt trong quân doanh, còn đến lấy trộm vương kỳ, như thế chẳng phải là hạng người vô sỉ hay sao? Lão tự biết không địch nổi lão nạp, nên nhè lúc lão nạp đi vắng, mới dám mò tới lấy trộm. Hừ, Chu Bá Thông, lão thật không biết ngượng nữa rồi.

Chu Bá Thông nói:

– Được, ta không địch nổi lão, vậy hai ta đấu một hồi sẽ biết.

Pháp vương lắc đầu, nói:

– Lão nạp đã bảo là không động thủ với hạng người vô sỉ. Quả đấm của lão nạp rất có cốt cách, đánh nhau với hạng người vô sỉ, nó sẽ bị thối ba năm sáu tháng mới hết mùi.

Chu Bá Thông tức giận nói:

– Cứ như lão thì phải làm sao?

Pháp vương nói:

– Lão phải đưa trả vương kỳ cho lão nạp mang về, đêm nay lão hãy đến lấy trộm, lão nạp sẽ giữ ở trong doanh trại. Bất kể lão dùng cách gì, miễn sao lấy được, thì lão nạp khâm phục Lão Ngoan đồng là đại đại anh hùng hảo hán.

Chu Bá Thông không thể chịu nổi khi bị nói khích, bị đánh đố, việc càng khó, lão càng muốn làm cho bằng được, thế là lão lấy vương kỳ xuống, quẳng cho Pháp vương, nói:

– Cầm lấy này, đêm nay ta sẽ đến lấy cho coi.

Pháp vương giơ tay đón lấy cán cờ, mới biết lực ném không phải tầm thường, vội vận sức chống đỡ, song vẫn phải lùi hai bước mới đứng vững được.

Bốn con lạc đà vốn định chạy, bị Pháp vương đè chặn lại, lúc này lão ta đã buông tay ra, cả bốn con lạc đà bỗng vọt một cái xa hơn hai trượng, phóng nhanh đi. Mọi người nhìn theo sau lưng Chu Bá Thông xa dần, lát sau chỉ thấy bốn con lạc đà là bốn cái chấm đen.

Pháp vương trao vương kỳ cho Tát Đa, nói:

– Đi thôi!

Pháp vương nghĩ Lão Ngoan đồng hành sự xuất quỷ nhập thần, khó bề đoán biết, tất phải dùng mưu gì đây mới thủ thắng? Lão ngồi trên lưng ngựa mải nghĩ, chưa ra kế gì, ngó lại phía sau, thấy Triệu, Doãn hai người ghé tai nhau thì thầm, thi thoáng lấm lét nhìn về phía Tiểu Long Nữ, có vẻ sợ hãi. Pháp vương nghĩ: “Cô nương kia hẳn là bám theo hai gã đạo sĩ”, bèn lên tiếng thăm dò:

– Doãn đạo huynh, đạo huynh và Long cô nương có quen biết nhau hay chăng?

Doãn Chí Bình lập tức tái mặt, chỉ ậm ừ không nói rõ. Pháp vương đoán việc đó ắt phải có duyên cớ, lại hỏi:

– Hai vị đắc tội với Tiểu Long Nữ, nàng ta tìm hai vị để trút giận, phải không? Nàng ta lợi hại lắm, hai vị mà đối đầu với nàng ta, chỉ e lành ít dữ nhiều đó.

Chuyện giữa Doãn Chí Bình và Tiểu Long Nữ, lão ta không biết gì, song nhìn vẻ hoảng sợ của Triệu, Doãn hai người và hỏi vài câu thăm dò, lão đã đoán ra.

Triệu Chí Kính thừa dịp, nói:

– Nàng cũng đắc tội với đại sư, hôm ở anh hùng đại yến, đại sư từng bại dưới kiếm của nàng ta, mối thù ấy không thể không báo.

Pháp vương nói:

– Hừ, Triệu đạo huynh cũng biết ư?

Triệu Chí Kính nói:

– Mọi chuyện lan truyền thiên hạ, hào kiệt võ lâm ai mà không biết.

Pháp vương nghĩ: “Gã đạo sĩ này cũng lợi hại đây. Mình định dùng gã chế ngự địch thủ, gã lại khích mình ra tay giúp gã thoát nạn”, bèn nói:

– Long cô nương định lấy mạng hai vị. Hai vị không địch nổi nàng ta, muốn lão nạp bảo hộ chứ gì?

Doãn Chí Bình tức giận nói:

– Doãn mỗ chết thì chết, không thèm nhờ vả kẻ khác, huống hồ đại sư chắc gì đã thắng nổi nàng ta.

Pháp vương thấy Doãn Chí Bình nói rất hiên ngang, không một chút giả dối, thì nghĩ bụng: “Chẳng lẽ mình đoán sai?” Nhất thời lão chưa biết tâm ý hai đạo sĩ thế nào, bèn cười cười, nói:

– Nàng ta song kiếm hợp bích với tên tiểu tử Dương Quá, tất nhiên có chỗ lợi hại. Nhưng hiện tại nàng có một mình, lão nạp muốn lấy mạng nàng ta thật dễ như trở bàn tay.

Triệu Chí Kính lắc đầu, nói:

– Chỉ sợ vị tất. Trên giang hồ người người đều nói, tại anh hùng đại yến ải Đại Thắng, Kim Luân pháp vương bị Tiểu Long Nữ đánh bại.

Pháp vương cười, nói:

– Lão nạp tu luyện mấy chục năm, đạo huynh dùng cách nói khích chỉ uổng công thôi.

Pháp vương nghe Triệu Chí Kính nói, biết hắn quả thực mong lão động thủ với Tiểu Long Nữ. Trước lúc Chu Bá Thông xuất hiện, lão vốn định giết Tiểu Long Nữ, nhưng bây giờ lão phải đối phó với việc Chu Bá Thông sắp đến lấy trộm vương kỳ, nếu lão giết Tiểu Long Nữ, thì không còn gì để kiềm chế hai đạo sĩ, bèn giả bộ nhàn hạ, chắp tay nói:

– Vậy lão nạp đi trước một chút vậy. Hai vị lo liệu xong xuôi công việc với Long cô nương, hãy đến đại doanh cũng được.

Nói đoạn phóng ngựa đi.

Triệu Chí Kính lo cuống lên, nghĩ chỉ cần Pháp vương bỏ đi, Tiểu Long Nữ sẽ sấn tới, sư huynh đệ hắn sẽ phải chịu hình phạt khổ sở mức nào, nhớ lại nỗi đau đớn cái lần hắn bị bầy ong độc đốt ở núi Chung Nam, thì hắn sợ hết hồn, thấy Pháp vương không chỉ võ công cao cường, mà còn mưu trí hơn hẳn hắn, hắn vội tế ngựa theo mà gọi:

– Đại sư, thư thả đã. Tiểu đạo chưa biết đường, phiền đại sư chỉ dẫn, tiểu đạo không dám quên đại đức.

Pháp vương nghe mấy tiếng “không dám quên đại đức” thì mỉm cười, nghĩ: “Chắc gã họ Triệu này đắc tội với Long cô nương mới sợ hãi như thế, còn gã họ Doãn thì không liên can”; bèn nói:

– Cũng được, không chừng rồi lão nạp cũng có việc nhờ cậy đạo huynh đó.

Triệu Chí Kính vội nói:

– Đại sư có gì sai khiến, tiểu đạo xin sẵn lòng.

Pháp vương và Triệu Chí Kính sánh vai mà đi, tiện thể dò hỏi tình hình phái Toàn Chân, Triệu Chí Kính không giấu chuyện gì. Doãn Chí Bình ngơ ngẩn đi cách phía sau một quãng, cũng chẳng để ý hai người nói những chuyện gì.

Pháp vương nói:

– Thì ra Mã đạo trưởng cao tuổi tịnh thoái, không quan tâm đến giáo vụ, nghe nói Khưu đạo trưởng hiện nhiệm chưởng giáo cũng đã cao tuổi rồi.

Triệu Chí Kính nói:

– Phải, Khưu sư bá cũng đã ngoài bảy mươi.

Pháp vương nói:

– Thế thì khi Khưu đạo trưởng từ nhiệm, sẽ chuyển giao chức vị chưởng giáo cho tôn sư Vương đạo trưởng.

Câu này chạm ngay tới tâm sự của Triệu Chí Kính, hắn nói:

– Gia sư cũng đã nhiều tuổi, Toàn Chân lục tử những năm gần đây tinh nghiên cái học số mệnh, tục vụ của chưởng giáo quá nửa sẽ giao cho Doãn sư đệ của tiểu đạo.

Pháp vương nhìn sắc mặt khó chịu của Triệu Chí Kính, nói:

– Lão nạp thấy vị Doãn đạo huynh võ công tuy cao, nhưng còn thua Triệu đạo huynh, còn về sự khôn ngoan, thì thua xa đạo huynh lắm lắm. Trọng nhiệm chưởng giáo phải do đạo huynh gánh vác mới đúng.

Mấy lời này Triệu Chí Kính để trong lòng đã bảy, tám năm nay, hôm nay được Pháp vương nói ra hộ, thật như cởi tấm lòng, càng lộ rõ vẻ oán hận. Toàn Chân lục tử cho Doãn Chí Bình đứng đầu các đệ tử đời thứ ba, tức là đã minh định y sẽ tiếp nhiệm chức chưởng giáo. Ban đầu Triệu Chí Kính chẳng qua chỉ không phục trong bụng, sinh lòng đố kỵ; nhưng từ khi nắm được tội lỗi của Doãn Chí Bình, thì hắn nung nấu ý đồ tranh đoạt chức vị chưởng giáo. Doãn Chí Bình làm nhục Tiểu Long Nữ, phạm đại giới của giáo phái, nếu các vị sư tôn hay biết, tính mạng y khó giữ. Nhưng Triệu Chí Kính tự biết mình tính nết nôn nóng thô lỗ, không được Toàn Chân lục tử yêu mến, các sư huynh đệ đồng môn cũng phần lớn bất hòa với hắn, dẫu Doãn Chí Bình có thân bại danh liệt, chức chưởng giáo cũng không đến tay hắn, nên hắn chỉ giấu kín trong lòng mà thôi.

Pháp vương nhìn mặt đoán tâm tư, nghĩ: “Mình giúp hắn giành được chức chưởng giáo, hắn sẽ một dạ trung thành với mình. Phái Toàn Chân thế lực hùng mạnh, tín đồ đông đảo, có giáo phái ấy trợ giúp là thuận lợi lớn cho cuộc nam chinh của vương gia, đó là một chiến công lớn, e rằng còn hơn cả việc giết Quách Tĩnh”. Pháp vương thầm trù tính, không nói chuyện với Triệu Chí Kính nữa.

Buổi trưa, mọi người đến đại doanh của Hốt Tất Liệt. Pháp vương ngoảnh lại, thấy Tiểu Long Nữ cưỡi con lừa dừng lại ngoài xa một dặm, nghĩ: “Có nàng ta ở bên ngoài, chẳng lo hai gã đạo sĩ không cắn câu”.

Khi mọi người bước vào vương trướng, Hốt Tất Liệt đang hết sức buồn phiền về chuyện mất cờ. Nên biết vương kỳ là biểu trưng của ba quân, trong lúc chinh chiến, thiên binh vạn mã đều nhìn vương kỳ mà tiến thoái, đúng là vật trọng yếu số một trong quân. Đột nhiên ma xui quỉ khiến thế nào lại có kẻ lấy mất, thật không khác gì thua một trận lớn. Hất Tất Liệt thấy Pháp vương mang vương kỳ về thì cả mừng, vội ra đón.

Hốt Tất Liệt hùng tài đại lược gần bằng Thành Cát Tư Hãn, vừa nghe Pháp vương dẫn kiến Triệu, Doãn hai người là cao thủ phái Toàn Chân, thì lập tức tỏ ý mến mộ và thu nạp, quên ngay chuyện mất cờ, sai bày tiệc rượu thết đãi tân khách. Doãn Chí Bình tâm thần bất định, lúc nào cung chỉ vẩn vơ nghĩ đến Tiểu Long Nữ. Triệu Chí Kính là kẻ rất trọng danh vị, được vị vương gia Mông Cổ đối đãi niềm nở thì sung sướng vô cùng.

Hốt Tất Liệt không nhắc gì đến việc Pháp vương đi hành thích Quách Tĩnh, chỉ luôn miệng khen ngợi sự tận tụy của Ni Ma Tinh đến mức tự phế bỏ cả hai chân, tại tiệc rượu mời Ni Ma Tinh ngồi ở vị trí thượng khách, liên tiếp rót rượu mời, khiến Ni Ma Tinh hết sức cảm kích, nghĩ bụng chỉ cần Hốt Tất Liệt lại ra lệnh, thì dẫu phải xông vào biển lửa, hắn cũng không từ nan. Những người khác thấy Ni Ma Tinh được đối đãi như vậy, cũng lấy làm xúc động.

Tiệc xong, Pháp vương đưa Triệu, Doãn hai người sang nghỉ ở trướng bên cạnh. Doãn Chí Bình mệt mỏi, nằm xuống ngủ liền. Pháp vương nói:

– Triệu huynh, hai ta ra ngoài tản bộ một lát.

Hai người sánh vai ra khỏi trướng.

Triệu Chí Kính nhìn kỹ, thấy Tiểu Long Nữ ngồi dưới một gốc cây đằng xa, con lừa buộc bên cạnh, bất giác mặt biến sắc. Pháp vương làm như không thấy, lại hỏi han về tình hình bên trong giáo phái Toàn Chân.

Đạo giáo thời Bắc Tống vốn chỉ có một phái Chính Ất, do Trương Thiên Sư ở núi Long Hổ, tỉnh Sơn Tây thống suất. Từ khi người Kim xâm lấn Trung Hoa, tôn thất nhà Tống chạy xuống phía nam, Đạo giáo chia thành ba phái mới, là phái Toàn Chân, phái Đại Đạo, phái Thái Ất, trong đó phái Toàn Chân mạnh nhất, các đạo sĩ phái này hành hiệp trượng nghĩa, cứu khổ tế bần. Bấy giờ phương bắc nằm trong tay dị tộc, bách tính quá ư thống khổ, thấy triều đình không có khả năng phục hồi, lê dân thường coi phái Toàn Chân là cứu tinh. Thời ấy có bài vè: “Trung Nguyên rối ren, Nam Tống yếu hèn, hào kiệt thiên hạ, chẳng biết theo ai… Trùng Dương tông sư, Trường Xuân chân nhân, vạn vật siêu nhiên, dạy người vô vi, hóa thành hữu vi, tịnh an Đông Hoa, chỉ chờ minh chúa…” Bấy giờ từ sông Dương Tử trở lên phía bắc, thế lực của phái Toàn Chân và Cái Bang còn mạnh hơn cả quan phủ. Triệu Chí Kính thấy Pháp vương đãi hắn nồng hậu, trong lòng cảm kích, nghe lão ta hỏi gì đều trả lời tường tận, nào sự phân bố lực lượng bản giáo, nào tình hình các trọng trấn, nhất nhất đều nói hết cả ra.

Hai người vừa đi vừa nói, dần dần đến chỗ vắng vẻ không người. Pháp vương thở dài, nói:

– Triệu đạo huynh, quí giáo có được qui mô như hiện nay, thật không dễ. Lão nạp vô lễ, nói thẳng câu này: Các vị Mã, Lưu, Khưu, Vương đạo trưởng đều quá ư hồ đồ, sao lại có thể trao đại nhiệm chưởng giáo vào tay Doãn đạo huynh kia chứ?

Triệu Chí Kính mấy ngày nay chỉ tính chuyện sau khi Doãn Chí Bình tiếp nhiệm chức chưởng giáo, Toàn Chân lục tử lần lượt qua đời, hắn sẽ buộc sư đệ phải nhường chức chưởng giáo lại cho hắn. Nhưng hắn không biết từ nay đến lúc thành công phải chờ bao nhiêu năm nữa, giờ nghe Pháp vương đề cập, thì bất giác thở dài, lại nhìn về phía Tiểu Long Nữ một cái.

Pháp vương nói:

– Long cô nương là chuyện nhỏ, lão nạp chỉ vung tay là có thể kết liễu sinh mạng nàng ta, thực không đáng ngại. Chức vị chưởng giáo không thể để lọt vào tay hạng bất tài, đó mới là việc cần kíp.

Triệu Chí Kính nói:

– Nếu đại sư có thể chỉ giáo, tiểu đạo suốt đời xin vâng lệnh.

Pháp vương sáng mắt, dõng dạc nói:

– Quân tử nhất ngôn, sau này đừng có hối hận.

Triệu Chí Kính nói:

– Lẽ đương nhiên.

Pháp vương nói:

– Được, lão nạp sẽ lo liệu để trong vòng nửa năm đạo huynh trở thành chưởng giáo phái Toàn Chân.

Triệu Chí Kính cả mừng, nhưng việc này quá khó, nên hắn còn bán tín bán nghi. Pháp vương nói:

– Đạo huynh chưa tin chứ gì?

Triệu Chí Kính nói:

– Tiểu đạo tin, tin chứ. Đại sư diệu pháp thông thần, tất có cách hay.

Pháp vương nói:

– Quí giáo và lão nạp không can hệ gì đến nhau, lẽ ra ai làm chưởng giáo cũng thế cả. Nhưng không hiểu sao lão nạp vừa gặp đạo huynh đã thấy thân thiết, muốn xuất thủ tương trợ.

Triệu Chí Kính cảm động không để đâu cho hết.

Pháp vương nói:

– Bước thứ nhất, chúng ta phải làm cho đạo huynh có được người ủng hộ thật mạnh trong giáo phái. Ở quí giáo hiện thời ai là người có vai vế tôn kính nhất?

Triệu Chí Kính nói:

– Chính là sư thúc tổ Chu Bá Thông gặp trên đường hôm nay.

Pháp vương nói:

– Đúng thế. Nếu lão ta chịu giúp đạo huynh, thì Doãn đạo trưởng sẽ không thể là đối thủ của đạo huynh.

Triệu Chí Kính vui mừng nói:

– Phải đấy, Mã sư bá, Khưu sư bá, sư phụ của tiểu đạo đều gọi lão ta là sư thúc. Lời nói của Chu Bá Thông tất có sức nặng. Nhưng không hiểu đại sư có diệu kế gì khiến Chu sư thúc tổ giúp cho tiểu đạo?

Pháp vương nói:

– Hôm nay lão nạp đánh cuộc với Chu Bá Thông, muốn lão ta đến lấy trộm vương kỳ. Đạo huynh bảo liệu lão ta có đến hay không?

Triệu Chí Kính nói:

– Dĩ nhiên lão sẽ đến.

Pháp vương nói:

– Lá vương kỳ ấy đêm nay sẽ không treo trên cột cờ, mà sẽ được giấu vào một chỗ an toàn bí mật. Trong đại doanh Mông Cổ có hàng ngàn mái lều, Chu Bá Thông có tài thông thiên triệt địa, cũng không thể nào tìm thấy vương kỳ trong một đêm.

Triệu Chí Kính nói:

– Đúng thế!

Trong bụng hắn nghĩ: “Đánh cuộc kiểu ấy, có thắng cũng chẳng vẻ vang gì”. Pháp vương nói:

– Chắc đạo huynh cho rằng đánh cuộc kiểu ấy, có thắng cùng chẳng vẻ vang. Nhưng lão nạp làm thế chỉ là để giúp đạo huynh thôi đó.

Triệu Chí Kính sững sờ nhìn Pháp vương, chưa hiểu dụng ý.

Pháp vương đưa tay vỗ vỗ nhẹ vào vai Triệu Chí Kính, nói:

– Lão nạp sẽ nói cho đạo huynh biết chỗ giấu vương kỳ, đạo huynh lại mách cho Chu Bá Thông biết để lão ta tìm thấy, há chẳng phải là lập kỳ công hay sao?

Triệu Chí Kính cả mừng, nói:

– Đúng, đúng, làm thế nhất định sẽ được Chu sư thúc tổ vừa lòng.

Nhưng nghĩ lại, nói:

– Nhưng như thế chẳng hóa ra để đại sư bị thua cuộc hay sao?

Pháp vương nói:

– Chúng ta kết giao bằng hữu, chỉ toàn tâm toàn ý vì nhau, chuyện thắng bại vinh nhục của bản thân có gì đáng kể?

Triệu Chí Kính quá cảm kích, nói:

– Ân đức của đại sư, không biết lấy gì báo đáp.

Pháp vương mỉm cười, nói:

– Đạo huynh trước tiên giành được sự trợ giúp của Chu Bá Thông trong quí giáo, sau đó lão nạp sẽ giúp đạo huynh trù hoạch mọi việc, khi đó chỉ e đạo huynh có không muốn làm chưởng giáo cũng không xong.

Đoạn giơ tay chỉ sang bên trái, nói:

– Chúng ta đến sườn núi kia xem thử.

Cách đại doanh hơn một dặm có mấy quả núi nhỏ, hai người thoáng chốc đã tới trước núi. Pháp vương nói:

– Chúng ta hãy tìm một cái hang để giấu vương kỳ bên trong.

Hai quả núi đầu không có cái hang nào, hai người sang đến quả núi thứ ba, nơi đây cây cối um tùm, có nhiều hang. Pháp vương nói:

– Núi này hay lắm.

Thấy một cái hang ở giữa hai cây du lớn, cửa hang kín đáo, nhìn qua khó phát hiện, bèn nói:

– Đạo huynh hãy nhớ chỗ này, lão nạp sẽ giấu vương kỳ vào đây. Đạo huynh sẽ dẫn Chu Bá Thông tới mà lấy.

Triệu Chí Kính vâng dạ rối rít, mừng rỡ vô hạn, nhìn vị trí đó thật kỹ, nghĩ không thể nào lẫn được. Hai người trở về đại doanh, không bàn việc đó nữa.

Ăn cơm chiều xong, Triệu Chí Kính trò chuyện với Doãn Chí Bình, nhưng Doãn Chí Bình tâm trí để ở đâu đâu, hỏi chuyện này lại đáp chuyện khác. Trời tối dần, đã vào canh một, Triệu Chí Kính lặng lẽ ra khỏi khu vực doanh trướng, ngồi trên một gò cát, nhìn quân kỵ vệ tuần tiễu qua lại cực kỳ nghiêm mật, nghĩ: “Muốn lọt vào đại doanh một bước thật khó, vậy mà Chu sư thúc tổ ra vào như chơi, lấy được vương kỳ mang đi, bản lĩnh quả là quá ư cao cường”.

Bầu trời trên đầu tím thẫm dần, giống như một cái lều khổng lồ trùm xuống đại doanh của quân Mông Cổ, sao lấp lánh, chòm Bắc Đẩu bảy ngôi rất sáng, hắn nghĩ: “Nếu đúng như lời Pháp vương, ba tháng sau ta trở thành chưởng giáo, bấy giờ danh tiếng lẫy lừng, ba ngàn đạo quán trong thiên hạ, tám vạn đệ tử thảy đều nghe hiệu lệnh của ta, ha ha, muốn lấy mạng tên tiểu tử Dương Quá thật dễ như trở bàn tay”. Hắn càng nghĩ càng đắc ý, đứng dậy, căng mắt nhìn, thấy lờ mờ bóng Tiểu Long Nữ vẫn ngồi dưới gốc cây nọ, lại nghĩ: “Long cô nương quả nhiên kiều diễm vô song, ta thấy còn ưa, chẳng trách Doãn Chí Bình mất hết hồn vía vì nàng ta. Anh hùng hào kiệt muốn nên đại sự, há có thể mê muội vì nữ sắc?”

Đang dương dương tự đắc, bỗng thấy một bóng đen từ phía tây vút qua rất nhanh, luồn lách trong các doanh trướng, phút chốc đã tới dưới chân cột cờ treo vương kỳ. Người ấy tay áo rộng thùng thình, râu tóc bạc phơ, chính là Chu Bá Thông.

Hồi 25: Nội ưu ngoại loạn

Chu Bá Thông ngẩng lên, đỉnh cột cờ không thấy vương kỳ thì sững sờ. Lão chỉ nghĩ Pháp vương chắc sẽ mai phục cao thủ bốn phía để ngăn chặn, lão sẽ nhân dịp này đánh một trận tơi bời cho sướng tay; ai dè không thấy vương kỳ trên cột cờ, đưa mắt tứ phía, thấy hàng ngàn doanh trướng trùng trùng điệp điệp, biết tìm nơi nào?

Triệu Chí Kính định lên tiếng gọi, song lại nghĩ: “Bây giờ nói cho lão ta biết ngay thì chưa hay. Hãy cứ để lão ta tìm chán không thấy, hết cách, chán nản hoàn toàn, mình mới nói cho biết nơi giấu vương kỳ, lão ta mới thật sự chịu ơn mình”. Bèn nấp sau một doanh trướng, chăm chú theo dõi Chu Bá Thông. Thấy Chu Bá Thông leo thoăn thoắt lên đỉnh cột cờ. Triệu Chí Kính thầm kinh ngạc: “Chu sư thúc tổ tuổi chưa đến một trăm thì cũng đã ngoài chín mươi, dẫu tu luyện thì cũng khó tránh gân cốt suy yếu, vậy mà thân thủ của lão ta vẫn nhanh nhẹn thế kia, hơn cả thiếu niên, thật là dị nhân trong võ lâm”.

Chu Bá Thông leo lên tới đỉnh cột cờ, mắt nhìn tứ phía, thấy tinh kỳ bay phấp phới tới vài ngàn lá, song không có vương kỳ. Lão tức giận gọi to:

– Bớ Kim Luân pháp vương, lão đem vương kỳ giấu biến đi đâu rồi?

Tiếng gọi vang dội, truyền đi rất xa giữa không gian rộng lớn, sau đó từ dãy núi nhỏ xa xa vọng về. Pháp vương đã bẩm cáo Hốt Tất Liệt việc này, thông truyền toàn quân, cho nên trong quân nghe rõ, nhưng không một ai đáp lời.

Chu Bá Thông lại gọi:

– Pháp vương, lão không trả lời, thì ta chửi cho đó.

Chờ một lát, vẫn không có ai lên tiếng, Chu Bá Thông bèn chửi:

– Xú Pháp vương, Cẩu Pháp vương, ngươi như vậy là đáng mặt anh hùng hảo hán ư? Như thế có khác gì con rùa đen chui vào hang không dám ló đầu ra!

Đột nhiên mé đông có tiếng gọi:

– Lão Ngoan đồng, vương kỳ ở đây này, có giỏi thì đến mà lấy!

Chu Bá Thông tụt xuống khỏi cột cờ, vội chạy về phía đó, hỏi:

– Ở đâu?

Nhưng chẳng một ai trả lời. Chu Bá Thông nhìn vô số doanh trướng, chả biết tìm ở đâu.

Bỗng nghe xa xa mé tây có người gọi:

– Vương kỳ ở đây, vương kỳ ở đây!

Chu Bá Thông lao vút về phía đó, tiếng người kia vẫn gọi, nhưng nhỏ dần rồi tắt hẳn. Chu Bá Thông chạy một quãng, không còn biết tiếng gọi phát ra từ doanh trướng nào, lão bèn cười hô hô, nói:

– Xú Pháp vương, mi muốn chơi trò ú tim với ta ư? Chờ ta phóng hỏa thiêu trụi đại doanh Mông Cổ, xem mi có chịu chui ra hay không.

Triệu Chí Kính nghĩ: “Nếu lão ta phóng hỏa thật thì hỏng hết”, bèn chạy tới, nói nhỏ:

– Chu sư thúc tổ, chớ nên phóng hỏa!

Chu Bá Thông nói:

– À tiểu đạo sĩ, là ngươi! Vì sao không nên phóng hỏa?

Triệu Chí Kính bịa chuyện:

– Bọn họ cố ý dụ sư thúc tổ phóng hỏa, trong một số doanh trướng gài sẵn địa lôi, sư thúc tổ phóng hỏa, địa lôi sẽ nổ làm cho người đốt tan xác.

Chu Bá Thông giật mình, nói:

– Quỉ kế của bọn chúng độc ác thật!

Triệu Chí Kính thấy Chu Bá Thông đã tin, lòng khấp khởi, nói:

– Đồ tôn dò biết được quỉ kế của chúng, chỉ sợ sư thúc tổ không nhìn kỹ, nôn nóng phóng hỏa, nên đứng chờ sẵn ở đây.

Chu Bá Thông nói:

– Ừ, hóa ra ngươi có hảo tâm; ngươi không nói, làm sao Lão Ngoan đồng ta biết chúng gài sẵn địa lôi?

Triệu Chí Kính nói nhỏ:

– Đồ tôn hết sức mạo hiểm, dò được chỗ bọn chúng cất giấu vương kỳ, sư thúc tổ hãy đi theo đồ tôn sẽ thấy.

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Không được, không làm thế được! Nếu ta tìm không thấy, thì ta nhận thua là xong.

Đánh cuộc lấy trộm vương kỳ, đối với Lão Ngoan đồng cũng là một trò chơi; nếu để Triệu Chí Kính chỉ dẫn mà thắng cuộc, thì còn gì thú vị; trò chơi đòi hỏi đôi bên thật thà, quang minh lỗi lạc, tối kỵ hành động mờ ám.

Triệu Chí Kính hoàn toàn bất ngờ, nghĩ: “Lão ta có biệt hiệu Lão Ngoan đồng, dĩ nhiên tính nết khác hẳn mọi người, phải đánh lừa lão ta thôi”, bèn nói:

– Đã thế, đồ tôn sẽ đi lấy trộm vương kỳ, xem sư thúc tổ tìm thấy trước, hay là đồ tôn.

Đoạn thi triển khinh công, chạy về phía mấy quả núi nhỏ ở phía bên trái, chạy mấy trượng, ngó lại, thấy Chu Bá Thông theo sau, hắn bèn chạy nhanh tới quả núi thứ ba, miệng tự hỏi:

– Bọn họ bảo họ giấu vương kỳ trong một cái hang ở giữa hai cây du lớn, chỗ nào có hai cây du nhỉ?

Hắn cố ý tìm chỗ này chỗ nọ, song không lại gần cái hang Pháp vương đã nói. Bỗng nghe tiếng reo của Chu Bá Thông:

– Ta tìm thấy trước ngươi rồi!

Đoạn chui vào cái hang giữa hai cây du lớn. Triệu Chí Kính mỉm cười, nghĩ: “Lão tìm thấy vương kỳ, công chỉ dẫn của ta không nhỏ; huống hồ ta ngăn lão phóng hỏa, lão còn coi ta có ơn cứu mạng lão. Việc đó còn hay hơn cả trù tính của Pháp vương”. Hắn đắc ý đi về phía cửa hang.

Bỗng nghe Chu Bá Thông rú lên:

– Độc xà, độc xà!

Triệu Chí Kính cả kinh, chân phải đã bước vào cửa hang, vội rút ra, hỏi to:

– Sư thúc tổ, trong hang có rắn độc ư?

Chu Bá Thông nói:

– Không phải rắn… không phải rắn…

Tiếng nói nghe yếu dần.

Điều này ngoài dự liệu của Triệu Chí Kính, hắn vội lấy một cành củi khô châm lửa, chĩa vào trong cửa hang, thấy Chu Bá Thông nằm dưới đất, tay trái cầm một lá cờ cứ vẫy vẫy như thể chống đỡ một con quái vật nào đó. Triệu Chí Kính vội hỏi:

– Sư thúc tổ, sao vậy?

Chu Bá Thông nói:

– Ta bị… độc vật… độc vật… cắn trúng…

Nói đến đó, cánh tay xuội dần, không vung vẩy được nữa.

Triệu Chí Kính thấy Chu Bá Thông vào hang bị thương, nghĩ với võ công của lão, dẫu bị thương vào chỗ yếu hại, cũng không đến nỗi nào, ai dè lại còn vật gì lợi hại như thế? Hắn lại thấy lá cờ Chu Bá Thông cầm kia chỉ là một lá cờ thông thường, không phải là vương kỳ, thì cả sợ: “Thì ra Pháp vương bảo ta lừa Chu Bá Thông vào hang, mai phục độc vật bên trong để lấy mạng Chu Bá Thông”. Lúc này hắn chỉ lo chạy trốn, đâu còn nghĩ đến sự sống chết của Chu Bá Thông, cũng chẳng dám xem thương thế của sư thúc tổ thế nào, bị con vật gì cắn, hắn quẳng que củi cháy, quay người chạy đi.

Que củi chưa rơi xuống đất, đã có người nhặt lên, chỉ nghe người ấy nói:

– Bỏ mặc cả bậc tôn trưởng hay sao?

Giọng nói êm dịu như tiếng khánh ngọc, lửa chiếu rõ màu áo trắng và khuôn mặt mỹ lệ, vẻ hoàn toàn thản nhiên của Tiểu Long Nữ. Triệu Chí Kính sợ đến nỗi cuống cả chân, líu cả lưỡi; không thể ngờ nàng lại đứng phía sau hắn gần như thế, rất muốn chạy, song không nhấc bước nổi.

Kỳ thực Tiểu Long Nữ giám thị từ xa, nhất cử nhất động của Triệu Chí Kính đều bị nàng giám sát. Khi hắn dẫn Chu Bá Thông đi vào núi, Tiểu Long Nữ liền theo sau; Chu Bá Thông dĩ nhiên là biết, nhưng không buồn để ý, còn Triệu Chí Kính thì không biết gì.

Tiểu Long Nữ nhặt que đuốc, soi về phía Chu Bá Thông, thấy mặt lão ẩn hiện khí màu xanh. Nàng lấy đôi găng bằng sợi kim loại đeo vào tay, nhấc cánh tay của lão lên xem thử, bất giác giật mình, thấy ba con nhện to bằng miệng cái chén uống rượu đang cắn chặt vào ba ngón tay của Chu Bá Thông.

Loài nhện này hình dạng cổ quái, toàn thân có sọc xanh, đỏ màu tươi rói, ai nhìn cũng kinh tâm động phách. Tiểu Long Nữ biết mọi con vật độc màu sắc càng tươi thì độc tính càng lợi hại. Ba con nhện độc cắn ngón tay Chu Bá Thông, nàng dùng một cái que gẩy con nhện mấy cái, nó vẫn không nhả ra. Nàng bèn vung tay phải, ba mũi Ngọc phong châm phóng trúng ba con nhện độc. Kình lực phóng châm vừa vặn đâm chết ba con nhện, chứ không đụng tới da thịt Chu Bá Thông.

Nguyên loài nhện này gọi là “Thái tuyết thù”, sống ở đỉnh núi tuyết vùng Tây Tạng, là một trong ba vật cực độc trong thiên hạ. Kim Luân Pháp vương mang “Thái tuyết thù” đến Trung Nguyên để thi tài cao thấp với danh gia dụng độc. Khi vào thành Tương Dương hành thích Quách Tĩnh, lão không nghĩ đến việc sử độc nên không mang theo “Thái tuyết thù”. Sau khi bị trúng Băng phách ngân châm của Lý Mạc Sầu, trở về đại doanh, lão giận lắm, bèn lấy cái hộp đựng “Thái tuyết thù” mang bên mình, chỉ mong tái ngộ Lý Mạc Sầu sẽ cho mụ ta biết thế nào là độc vật của Tây Tạng. Tình cờ lão lại đánh cuộc với Chu Bá Thông, gặp gã đạo sĩ Triệu Kính rắp tâm làm chưởng giáo, lão mới đem giấu một lá cờ cuốn vào trong hang, thả ba con “Thái tuyết thù” bên trong lá cờ. “Thái tuyết thù” ngửi thấy mùi da thịt người, lập tức cắn chặt, hút no máu mới nhả ra, độc tính cực mạnh, không thuốc nào cứu nổi, ngay cả Kim Luân Pháp vương cũng không biết cách cứu chữa.

Ngọc phong châm của Tiểu Long Nữ có bôi chất cực độc của nọc ong trên núi Chung Nam, tuy độc tính không bằng “Thái tuyết thù”, song cũng vô cùng lợi hại, khi mũi châm xuyên vào cơ thể con “Thái tuyết thù”, cơ thể loài nhện này lập tức sinh ra một chất kháng độc. Nhện độc ăn các con trùng độc khác mà không bị trúng độc là hoàn toàn nhờ ở chất kháng độc đó. Chất kháng độc từ mồm con “Thái tuyết thù” phun vào máu Chu Bá Thông, phun vài lần thì nó chết. May mà Tiểu Long Nữ vội cứu người, lại nhìn con nhện độc đáng sợ, mới phóng ám khí, hóa ra lại giải cứu được chất cực độc trong thiên hạ.

Tiểu Long Nữ thấy ba con nhện độc chết rơi xuống đất, xanh xanh đỏ đỏ trông mà rùng mình; lại thấy Chu Bá Thông nằm thẳng cẳng, chắc cũng đã tắt thở. Nàng đối với Chu Bá Thông có lòng cảm kích, thường nghĩ nếu lão không dẫn Dương Quá đến Tuyệt Tình cốc thì nàng đã thành hôn với Công Tôn Chỉ; bây giờ mỗi khi nhớ lại, lại sởn gai ốc. Ai ngờ cuối cùng Chu Bá Thông bỏ mạng ở đây, thật đáng thương. Bỗng nàng thấy Chu Bá Thông vẫy vẫy tay trái, nói nhỏ:

– Con gì cắn ta mà… ghê thế không biết?

Lão chống tay định ngồi dậy, nhưng mới nhổm lên đã khuỵu xuống. Tiểu Long Nữ thấy lão chưa chết thì cả mừng, giơ que đuốc soi xung quanh, không thấy có dấu vết nhện độc mới yên tâm, hỏi:

– Lão tiền bối không sao chứ?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Hình như chưa chết, chết quá nửa, sống non nửa…ha ha…

Lão định cười phá lên, nhưng tự dưng chân tay co rúm, không cười nổi nữa.

Chỉ nghe bên ngoài hang có kẻ cười to, váng cả tai, rồi nói:

– Lão Ngoan đồng, đã lấy được vương kỳ hay chưa?

Kẻ đó chính là Kim Luân Pháp vương.

Tiểu Long Nữ tay trái bóp tắt ngay que đuốc, nàng đi bao tay, nên không sợ lửa. Chu Bá Thông nói nhỏ:

– Trò chơi này Lão Ngoan đồng ta thua cuộc rồi, chỉ e tính mạng cũng bị ngươi lấy mất. Xú Pháp vương! Nhện độc của ngươi là loài gì mà lợi hại đến thế?

Pháp vương thầm kinh hãi: “Lão ta đã bị “Thái tuyết thù” của ta cắn rồi, sao lại chưa chết, giọng nói vẫn khỏe thế không biết? Có lẽ lão ta cũng chỉ chịu đựng thêm được một lát nữa thôi, thế là diệt trừ xong một cường địch”.

Chu Bá Thông lại nói:

– Tên tiểu đạo sĩ Triệu Chí Kính, ngươi lừa ta vụ này thật là quá tệ. Ngươi hãy mau về bảo Khưu Xứ Cơ xử ngươi đi!

Triệu Chí Kính ở bên ngoài, nấp sau lưng Kim Luân Pháp vương, nghe mà lạnh người, nghĩ: “Việc này làm sao mình có thể về bẩm báo với Khưu sư bá kia chứ?”. Kim Luân Pháp vương cười, nói:

– Triệu đạo sĩ khá lắm. Vương gia của lão nạp sẽ khải bẩm với đại hãn, phong cho y là chưởng giáo Chân nhân phái Toàn Chân.

Miệng nói vậy, bụng nghĩ: “Chu Bá Thông mà chết, Triệu Chí Kính không thoát khỏi liên can, từ đây sẽ suốt đời bị ta khống chế. Hắn là kẻ tài trí bình thường, không hiểu rằng một lão già điên điên khùng khùng như Chu Bá Thông tuy vai vế bậc trên, nhưng dễ gì được Khưu Xứ Cơ tin theo lời lão ta, để cho hắn làm chưởng giáo kia chứ?”.

Chu Bá Thông cả giận, chất độc trong cơ thể lão tuy đã tiêu trừ được quá nửa, song độc tính của “Thái tuyết thù” không phải là thứ con người chịu nổi, chỉ một lượng nhỏ đủ giết nhiều người, Chu Bá Thông chỉ để thoát một chút chân khí, liền ngất đi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Kim Luân Pháp vương, lão đánh không nổi người ta, lại đi dùng nhện độc hại người, có còn giống tôn chủ một phái nữa không? Hãy mau đưa giải dược cứu trị lão gia tử!

Pháp vương ngó vào, thấy chu Bá Thông ngất đi, tưởng lão đã chết, vô cùng đắc ý, nghĩ Tiểu Long Nữ làm sao đối phó nổi với lão ta, nhớ lúc ban ngày Triệu Chí Kính bảo lão ta bị bại dưới tay nàng, bèn quyết ý bắt sống nàng để hiển thị uy phong. Lão ta sấn tới cửa hang, chĩa tay tóm lấy Tiểu Long Nữ, miệng nói:

– Giải dược đây, cô nương hãy nhận lấy!

Tiểu Long Nữ vung tay, sợi dây chuông bay ra, kêu loong coong, điểm tới huyệt Kỳ Môn của đối phương.

Pháp vương nghĩ: “Hôm nay nếu ta không bắt sống được ngươi, chẳng hóa để cho tên Triệu đạo sĩ chê cười ta hay sao?” Lão lắc mình tránh cái chuông, rút ngay song luân ra, gõ vào nhau “keng” một tiếng rát tai. Tiểu Long Nữ xuất thủ chưa trúng, điều khiển quả chuông điểm huyệt Đại Chùy sau lưng lão ta, biến chiêu cực nhanh. Pháp vương nhảy tránh mấy thước, miệng khen:

– Công phu như cô nương hiếm gặp trong đám nữ lưu!

Hai người giao đấu trong cái hang hẹp, phúc chốc đã mười mấy chiêu. Pháp vương nếu cứ công kích mạnh, Tiểu Long Nữ hẳn không chống nổi; nhưng hôm trước lão xông vào hang, đã bị thương vì Băng phách ngân châm của Lý Mạc Sầu, suýt nữa mất mạng; võ công của Tiểu Long Nữ và Lý Mạc Sầu cùng một lộ, chiêu số của nàng còn xảo diệu hơn Lý Mạc Sầu, cái gương hôm trước còn đó, lão đâu dám quên? Huống hồ trong hang có ba con “Thái tuyết thù”, nếu để chúng cắn, sẽ lập tức bỏ mạng, nên tuy nôn nóng, lão cũng không dám mạo hiểm cường công. Trong bóng đêm, chỉ nghe tiếng song luân và tiếng chuông vàng như tiếng nhạc.

Triệu Chí Kính đứng ngoài xa, nghe tiếng binh khí của hai người, cứ giật mình thon thót, nghĩ cái chết của sư thúc tổ tuy không phải do hắn cố ý gia hại, nhưng vẫn khó tránh tội, mà cái tội giết bề trên, bất kể môn phái nào trong võ lâm cũng không dung tha; nếu Pháp vương giết được Tiểu Long Nữ thì hay nhất, nhưng nếu Tiểu Long Nữ chiến thắng, hoặc giả nàng thoát thân, tin này truyền đi, thì phải làm sao đây? Hắn cứ lùi dần từng bước, tay đặt trên đốc kiếm, người bất giác run rẩy, nghe tiếng binh khí càng lúc càng dồn dập, thì mồ hôi vã ra như tắm.

Pháp vương tuy võ công cao hơn Tiểu Long Nữ, nhưng luân thì ngắn, mà sợi dây chuông của đối phương lại dài, không vào trong hang khó lòng thủ thắng, đã đấu sáu, bảy chục chiêu, vẫn chưa chế ngự được đối phương. Tiểu Long Nữ thấy Chu Bá Thông nằm bất động, có lẽ đã chết, muốn cứu trợ cũng không thể ngưng đấu. Hai người đấu trong bóng đêm, nàng tinh mắt hơn hẳn Pháp vương, thấy lão ta vung chéo ngân luân chếch sang bên phải, để lộ sườn phải, bèn hồi chuyển sợi dây chuông đánh tới đó, đồng thời vung tay trái, tung mười mấy mũi Ngọc phong châm về phía thượng, trung, hạ bàn lão ta.

Từ khoảng cách gần, Ngọc phong châm bắn ra lại không một tiếng động, đợi lúc Pháp vương phát giác thì các mũi châm chỉ còn cách thân lão chưa đầy một thước, phải nói võ công của lão quá cao siêu, lão lật ngân luân chặn đòn chuông, đồng thời nhún hai chân, tung mình lên cao hơn trượng, mười mấy mũi Ngọc phong châm đều bay qua bên dưới gót chân lão. Lão sức lực mạnh, thân vọt lên cao, hai cánh tay vung rộng, song luân và sợi dây chuông cùng tuột khỏi tay hai người, bay lên không trung, cao đến mươi trượng, thành một vệt sáng, hai vệt tối giữa không trung.

Tiểu Long Nữ không đợi Pháp vương đáp xuống, đã phóng tiếp Ngọc phong châm. Pháp vương đang ở lưng chừng trời, võ công cao mấy cũng không thể né tránh, lúc này khoảng cách tuy xa, nhưng tình thế rất hung hiểm.

Tuy nhiên, lúc tung mình vọt lên, Pháp vương đã tiên liệu đối phương sẽ tấn công tiếp, bèn hai tay nắm hai vạt áo phẩy ra, đúng lúc Ngọc phong châm bay tới, mấy chục mũi châm ghim cả vào hai vạt áo. Lão cười hô hô đáp xuống đất, giơ tay đón bắt song luân đang rơi xuống. Hai lần thoát hiểm đều nhờ võ công tuyệt đỉnh và thông minh cơ biến, đã thế còn đoạt luôn cả sợi dây chuông của Tiểu Long Nữ.

Một chân vừa chạm đất, Pháp vương sấn ngay tới cửa hang, cười gọi:

– Long cô nương, còn chưa đầu hàng hay sao?

Lão ta sợ Tiểu Long Nữ mai phục, chưa dám xông thẳng vào. Tiểu Long Nữ không biết đối phương ngại điều gì, nàng đã mất binh khí, ám khí đã phóng gần hết, chỉ còn mươi mũi Ngọc phong châm thủ sẵn nơi tay, nép mình bên cửa hang, không lên tiếng.

Pháp vương chờ một lát, không thấy động tĩnh, bèn nảy ra một kế, tay phải cầm song luân, tay trái cầm vạt áo đột nhiên quẳng song luân vào trong hang, cách cửa hang vài thước, một trước một sau, chân nhảy vào theo, đạp lên song luân, đề phòng có châm độc cắm dưới đất; tay trái thì phẩy vạt áo che chắn thân mình. Hai cái vạt áo cắm mấy chục mũi Ngọc phong châm đã trở thành một thứ binh khí lợi hại, lão cười, nói:

– Kẻ khác có lang nha bổng, còn ta có thứ lang nha bố (tấm vải) này, hãy thử nếm sự lợi hại của nó, bớ Long cô nương!

Lời chưa dứt, đột nhiên tay trái lão bị kéo căng, Tiểu Long Nữ đã giật vạt áo của lão. Nàng đeo bao tay, đừng nói lang nha bố, ngay cả lang nha bổng nàng cũng dám chộp lấy như thường.

Pháp vương bị bất ngờ, vội vận kình giằng lại. Giây lát đó, mười mũi Ngọc phong châm từ tay Tiểu Long Nữ được phóng ra. Pháp vương thầm kêu nguy rồi, tình cấp trí sinh, tiện tay lão chộp luôn Chu Bá Thông đang nằm dưới đất, đưa lên che chắn cho mình, rồi sử chiêu “Đảo thái thất tinh bộ” chạy gấp ra khỏi hang. Trong đời lão từng trải qua vài phen đại chiến, nhưng lần này sống chết chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bất giác khiến lão toát mồ hôi hột, phải đứng cách cửa hang xa xa mà thở.

Mười mấy mũi Ngọc phong châm đều găm cả vào người Chu Bá Thông. Tiểu Long Nữ khẽ thở dài, nghĩ bụng lão nhân đã chết mà thân xác còn bị hành tội, không ngờ bỗng nghe Chu Bá Thông kêu lên:

– Đau, đau, nhưng dễ chịu, lại có con gì cắn ta thế?

Tiểu Long Nữ kinh ngạc và vui mừng, hỏi:

– Chu Bá Thông, lão còn sống ư?

Nàng không hiểu lễ giáo, gọi trống không họ tên Lão Ngoan đồng.

Chu Bá Thông nói:

– Hình như đã chết rồi, nhưng rồi sống lại. Cũng chẳng biết là sống chết thế nào nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Lão tiền bối không chết thì càng hay. Cái lão Pháp vương hung ác kia, tiểu nữ đánh không nổi.

Nàng lấy cục nam châm ra hút các mũi Ngọc phong châm khỏi người Chu Bá Thông. Chu Bá Thông chửi:

– Tên cẩu tặc Pháp vương kia thật quá đáng, nhân lúc ta chết còn chưa hoàn hồn, hắn lại phóng những mũi châm li ti vào người ta.

Tiểu Long Nữ không dừng tay hút các mũi Ngọc phong châm, mỉm cười, nói:

– Các mũi châm này là của tiểu nữ phóng ra đấy.

Rồi nàng kể sơ qua trận ác đấu vừa xong, lại hỏi:

– Ngọc phong châm của tiểu nữ có bôi nọc ong độc, lão tiền bối có cảm thấy khó chịu lắm không?

Chu Bá Thông nói:

– Rất dễ chịu, cô nương hãy chọc cho ta vài mũi đi.

Tiểu Long Nữ tưởng lão nói đùa, lấy ra một cái lọ ngọc nhỏ, nói:

– Thứ mật ong đựng trong này có thể giải độc Ngọc phong châm, lão tiền bối hãy uống một chút đi.

Chu Bá Thông xua tay lia lịa, nói:

– Không, không, mấy mũi châm của cô nương cắm vào người ta, ta cảm thấy đau đau nhưng rất dễ chịu, dường như đó là khắc tinh của nhện độc vậy.

Tiểu Long Nữ vẫn tưởng Lão Ngoan đồng nói nhảm, nhưng thấy lão kiên quyết không chịu uống, thì nàng cũng không ép, xem chừng Lão Ngoan đồng nội công thâm hậu khôn lường, ngay nhện độc cắn cũng không giết chết lão, trúng bao nhiêu mũi Ngọc phong châm cũng chẳng việc gì. Kỳ thực loài ong mật đốt người tuy có đau, có chất độc, song chất độc ấy có thể chữa khỏi một số bệnh, nhất là bệnh phong thấp; cho nên phàm những người nuôi ong trong thiên hạ, không ai bị bệnh phong thấp. Tiểu Long Nữ và Chu Bá Thông đều không am hiểu y lý, không biết Ngọc phong châm lấy độc trị độc, đã giải phần lớn chất độc của “Thái tuyết thù”.

Pháp vương ở bên ngoài nghe tiếng nói của Chu Bá Thông, giọng nói khỏe khoắn như thường, thì càng kinh hãi, nghĩ chẳng lẽ người này là thần tiên hay sao? Phải nhân lúc Chu Bá Thông chưa phục hồi nguyên khí, xông vào kết liễu lão, nếu không sau này chẳng còn dịp nào. Ban nãy vào hang bất thành, song luân lại nằm cả trong đó, thế là lão ta bèn vung sợi dây chuông lấy được của Tiểu Long Nữ, gọi:

– Long cô nương, ta mượn binh khí của cô nương đây.

Đoạn lão vung dây tiến vào hang. Võ công của lão xuất thần nhập hóa, binh khí nào cũng có thể sử dụng thành thạo, sợi dây gắn chuông của Tiểu Long Nữ tuy là vật lạ, nhưng lão ta có thể sử dụng như một cây nhuyễn tiên, lại đánh ra từ xa, không sợ đối phương dùng ám khí tấn công.

Tiểu Long Nữ chợt nổi tính hiếu kỳ, nàng nhặt ngân luân và diên luân của Pháp vương vứt dưới đất lên, gõ vào nhau “keng” một tiếng, nói:

– Được, chúng ta đổi binh khí đánh nhau một phen.

Tay phải đẩy ngang ra, chợt thấy diên luân quá nặng, đành thu về che trước ngực.

Pháp vương nghĩ mình cớ lợi thế, đột nhiên sấn tới, vươn cánh tay đoạt lại song luân.

Tiểu Long Nữ lùi một bước, tay trái ném ngân luân tới, nhưng động tác ném luân chỉ là hư chiêu, nàng thừa thế ném để phóng ra mấy chục mũi Ngọc phong châm. Số châm này đều hút từ thân thể Chu Bá Thông, độc tính chỉ còn non nửa, có trúng cũng không nguy hiểm lắm. Lần này Pháp vương sớm có phòng bị, không đón lấy ngân luân, mà nhảy tránh hẳn sang một bên, các mũi Ngọc phong châm đều rơi xuống đất.

Chu Bá Thông cười hô hô, nói:

– Hay lắm, lão giặc trọc tới, cô nương cứ phóng châm, chờ ta phục hồi nguyên khí, sẽ tóm cổ hắn đánh cho một trận nát đít ra.

Tiểu Long Nữ nói:

– Ngọc phong châm, tiểu nữ phóng hết rồi, chẳng còn mũi nào nữa.

Chu Bá Thông kinh ngạc, gãi gáy, nói:

– Thế thì hơi nguy đó.

Hai người một già một trẻ đều thật thà, nghĩ sao nói vậy.

Pháp vương thì vô cùng mưu trí, song không biết tính nết của Chu Bá Thông và Tiểu Long Nữ, không tin rằng thiên hạ lại có kẻ nói thật chỗ yếu của mình ra, nghĩ: “Ngươi bảo Ngọc phong châm đã phóng hết, đừng hòng đánh lừa ta; ngươi định dụ ta lại gần để phóng châm chứ gì?” Tiểu Long Nữ nói thật, hóa ra lại làm cho Pháp vương sợ không dám xông vào; thêm nữa, hôm trước lão giẫm phải châm của Dương Quá, nhớ lại cái cảnh Ni Ma Tinh phải tự chém đứt hai cẳng chân mà kinh.

Trời rạng dần. Chu Bá Thông ngồi vận công, muốn dùng nội công thượng thừa đẩy nốt chất độc ra khỏi cơ thể. Nhưng độc tính của “Thái tuyết thù” cực mạnh, mỗi lần lão vận khí, ngực lại tức và nôn nao muốn ọe, toàn thân đau đớn khó chịu. Ngừng vận khí thì không sao. Thử ba lần đều thế, bèn bỏ, thở dài nói:

– Lão Ngoan đồng lần này không đùa được nữa rồi!

Pháp vương ở bên ngoài ngó trộm vào, không biết đối phương đang gặp khó khăn, nghĩ: “Không ổn, Lão Ngoan đồng đang vận nội công kìa!” Lão chợt nảy kế mới, lấy ra cái hộp vàng đựng nhện độc “Thái tuyết thù”, mở nắp, hơn chục con “Thái tuyết thù” lúc nhúc bên trong, lúc này ánh dương vừa lóe, chiếu rõ các sọc vằn xanh đỏ của lũ nhện độc “Thái tuyết thù”. Lão dùng cái kẹp làm bằng sừng tê giác, kẹp một sợi tơ nhện, nhẹ nhàng gắn vào mép cửa hang. Sợi tơ mang theo một con “Thái tuyết thù”. Lão gắn như thế mười mấy sợi tơ, bầy nhện độc “Thái tuyết thù” trong chiếc hộp đã được thả ra hết, các sợi tơ chăng ngang dọc cửa hang. Bầy nhện độc “Thái tuyết thù” bị đói đã lâu, chúng lập tức chăng ngang chăng dọc, kết thành mạng nhện, chưa đến nửa canh giờ, cửa hang đã bị chăng kín bởi mười mấy cái mạng nhện. Tiểu Long Nữ và Chu Bá Thông thoạt tiên nhìn cảnh đó còn thấy thú vị, chưa xuất thủ can dự; sau nhìn bầy nhện độc xanh xanh đỏ đỏ chạy qua chạy lại trên các mạng nhện, thì cả hai cùng tâm phiền ý loạn.

Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Tiếc rằng tiểu nữ đã phóng hết Ngọc phong châm, nếu không mỗi mũi châm có thể giết một con nhện độc đáng ghét kia.

Chu Bá Thông nhặt một que củi định phá các mạng nhện, bỗng thấy một con bướm bay gần cửa hang lập tức bị dính vào mạng nhện. Côn trùng một khi sa vào mạng nhện, thường sẽ giãy giụa hồi lâu, nếu khỏe hơn, sẽ phá mạng nhện mà thoát đi. Đàng này con bướm tuy to xác, nhưng vừa sa vào mạng nhện đã ngất lịm, không cựa quậy được. Tiểu Long Nữ thận trọng nói:

– Đừng động tới, mạng nhện có độc.

Chu Bá Thông giật mình, ném que củi đi. Nguyên Pháp vương lúc thả “Thái tuyết thù” trước cửa hang, không hề có ý định dùng mấy cái mạng nhện mỏng manh kia ngăn chặn hai người, mà chỉ mong hai người ra tay hủy mạng nhện, các sợi tơ nhện dính một hai sợi vào người thì chất độc sẽ giết họ.

Chu Bá Thông nhìn nhện ăn con bướm, lại ngồi xếp bằng tròn, nghĩ: “Huyền công của ta nhất thời không dễ phục hồi, thì cứ ngồi chờ vậy”. Tiểu Long Nữ thì nghĩ: “Cục diện này kéo dài đến bao giờ không biết? Cũng chẳng hiểu Lão Ngoan đồng đã đẩy hết chất độc trong người hay chưa?” Nàng hỏi:

– Lão tiền bối vận công khử độc, thêm một ngày nữa có đủ không?

Chu Bá Thông thở dài:

– Đừng nói một ngày, một trăm ngày cũng không đủ.

Tiểu Long Nữ kinh hãi:

– Thế thì phải làm sao?

Chu Bá Thông cười, nói:

– Nếu lão giặc trọc kia chịu mang cơm cho chúng ta, thì ở trong hang vài năm cũng không phải là dở.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hắn chẳng chịu mang cơm cho đâu.

Nàng thở dài, nói:

– Nếu có Dương Quá bên cạnh, thì tiểu nữ ở trong hang suốt đời cũng được.

Chu Bá Thông tức giận, nói:

– Ta có chỗ nào không bằng Dương Quá? Hắn giỏi hơn ta ư? Ta bồi tiếp cô nương thì có gì không được?

Hai câu nói lung tung của lão lại không làm cho Tiểu Long Nữ bực bội, nàng chỉ thản nhiên nói:

– Dương Quá biết sử dụng kiếm pháp phái Toàn Chân, tiểu nữ cùng chàng song kiếm hợp kích, sẽ đánh cho lão hòa thượng kia chạy bán sống bán chết.

Chu Bá Thông nói:

– Kiếm pháp phái Toàn Chân thì có gì là hay? Chẳng lẽ ta không biết sử? Dương Quá sử giỏi hơn ta chắc?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiểu nữ cùng Dương Quá song kiếm hợp kích, gọi là “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, phải là tiểu nữ tâm ái chàng, chàng tâm ái tiểu nữ, thì mới có thể khắc địch chế thắng.

Chu Bá Thông vừa nghe đến chuyện tâm ái nam nữ thì lập tức hoảng sợ, xua tay lia lịa, nói:

– Thôi thôi, ta không tâm ái cô nương, cô nương cũng chớ có tâm ái ta. Ta nói cho cô nương hay, sống trong hang vài năm cũng chẳng có gì ghê gớm. Hồi trước ở đảo Đào Hoa, ta từng một mình sống mười mấy năm trong hang, không có ai làm bạn, đành tự mình đấu với mình; bây giờ có cô nương bên cạnh, có nói có cười, khác hẳn hồi trước.

Lão tự đắc về khả năng của mình, đi tính kế sống lâu ngày trong hang.

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, hỏi:

– Tự mình đấu với mình là thế nào?

Chu Bá Thông vô cùng đắc ý, liền kể qua thuật phân tâm nhị dụng, tay nọ đánh tay kia cho nàng nghe. Tiểu Long Nữ chợt nghĩ: “Nếu mình học được thuật đó, tay trái sử kiếm pháp phái Toàn Chân, tay phải sử Ngọc nữ kiếm pháp, thì cũng thành Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp chứ gì? Chỉ sợ luyện môn công phu ấy tốn nhiều thời gian lắm”, bèn nói:

– Công phu ấy chắc khó học lắm.

Chu Bá Thông nói:

– Bảo khó thì cực khó, bảo là dễ thì cũng cực dễ. Có kẻ cả đời học không xong, có người chỉ vài hôm đã luyện được. Cô nương biết hai gã nhóc con Quách Tĩnh, Hoàng Dung chứ?

Tiểu Long Nữ gật đầu. Chu Bá Thông nói:

– Cô nương bảo trong hai kẻ đó, đứa nào thông minh hơn?

Tiểu Long Nữ nói:

– Quách phu nhân thiên linh bách lợi, tiểu nữ nghe Dương Quá bảo rằng trên thế gian e rằng không ai thông minh mưu trí cho bằng. Quách đại hiệp thì tư chất quá bình thường.

Chu Bá Thông cười, hỏi:

– Cái gì mà bảo là tư chất quá bình thường? Nói rằng là hắn quá ngu ngốc thì có. Còn ta, cô nương bảo ta khôn hay ngu?

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Tiểu nữ thấy lão tiền bối tuy đã nhiều tuổi, song vẫn còn ngớ ngẩn, nói năng hành sự có phần điên điên khùng khùng.

Chu Bá Thông vỗ tay, nói:

– Đúng, cô nương nói không sai tí nào. Cái thuật tay nọ đấu tay kia là do ta nghĩ ra, sau đó ta dạy cho Quách Tĩnh, hắn chỉ luyện vài ngày đã xong. Nhưng khi hắn dạy cho mụ vợ hắn, mà cô nương bảo là kẻ thông minh hiếm có trên thế gian, thì Hoàng Dung học mãi không được. Ta còn tưởng Quách Tĩnh hắn ngu ngốc, không biết cách dạy, ta đích thân truyền thụ, ai ngờ bài thứ nhất “tay trái vẽ hình vuông, tay phải vẽ vòng tròn”, con nhóc ấy cũng không làm nổi. Nghĩa là có người học được ngay, có kẻ học cả đời chẳng xong. Dường như càng khôn ngoan, càng khó luyện thành.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không lẽ người khôn học công phu đó lại thua người ngu? Tiểu nữ chẳng tin.

Chu Bá Thông cười hi hi, nói:

– Ta thấy cô nương phẩm mạo tài trí tương tự như con nhóc Hoàng Dung, võ công cũng ngang ngửa với nó. Cô nương đã không tin, hãy thử dùng ngón trỏ tay trái vẽ dưới đất hình vuông, đồng thời dùng ngón trỏ tay phải vẽ vòng tròn xem nào.

Tiểu Long Nữ y lời dùng hai ngón trỏ vẽ dưới đất, nhưng hình vuông lại hơi tròn, còn hình tròn thì lại hơi vuông. Chu Bá Thông cười ha hả, hỏi:

– Thế nào? Làm chưa được chứ gì?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, ngưng thần thủ nhất, tâm địa không minh, hai ngón tay giơ ra tự nhiên, tay trái vẽ một hình vuông, tay phải vẽ một vòng tròn, vuông tròn đâu ra đấy.

Chu Bá Thông kinh ngạc, ấp úng nói:

– Cô nương… cô nương… từng luyện hồi trước rồi phải không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chưa, vẽ thế này đâu có gì khó kia chứ?

Chu Bá Thông gãi gáy, hỏi:

– Cô nương vẽ bằng cách nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Tiểu nữ cũng không biết, trong óc không nghĩ gì cả, cứ giơ tay vẽ mà thôi.

Đoạn nàng tay trái viết ba chữ “Lão Ngoan đồng”, tay phải đồng thời viết ba chữ “Tiểu Long Nữ”, chữ nào chữ ấy ngay ngắn như do cùng một bên tay viết ra vậy. Chu Bá Thông cả mừng, nói:

– Cái này nhất định là bản lĩnh mà cô nương học được từ trong bụng mẹ.

Rồi lão dạy cho nàng cách tả công hữu thủ, tả kích hữu cự, đem kỳ công độc nhất vô nhị mà lão lĩnh hội được hồi ở đảo Đào Hoa truyền thụ cho Tiểu Long Nữ. Kỳ thực yếu quyết căn bản của thuật tay nọ đấu tay kia là bốn chữ “phân tâm nhị dụng”. Phàm những người đa mưu túc trí, tâm tư phức tạp, việc này nghĩ chưa xong đã nghĩ sang việc khác. Thời Tam quốc, Tào Tử Kiến đi bảy bước làm xong bài thơ, thời Ngũ Đại, Lưu Vân dụng binh, một bước nghĩ ra trăm kế, những người như thế không tài gì học được cái thuật tay nọ đấu tay kia này. Tiểu Long Nữ từ nhỏ đã luyện công phu diệt trừ thất tình lục dục, tám chín tuổi đã luyện tới mức lòng như nước lặng, sau này tuy việc si luyến Dương Quá có làm hao tổn công phu đó, nhưng lúc này tâm linh nàng bị tổn thương, tình ý bị triệt bỏ, huyền công năm xưa được phục hồi tám chín phần. Nội công phái Cổ Mộ mà nàng tu luyện vốn do Lâm Triêu Anh sáng tạo lúc tình trường thất ý, gần giống tâm trạng nàng lúc này, nên Chu Bá Thông vừa truyền thụ, nàng lập tức cảm ứng đại ngộ, luyện được liền. Chu Bá Thông, Quách Tĩnh, Tiểu Long Nữ đều là những người chất phác đôn hậu, lòng vô tạp niệm; còn những người như Hoàng Dung, Dương Quá, Chu Tử Liễu có luyện cả đời cũng không xong.

Chu Bá Thông chưa trừ hết chất độc trong cơ thể, nhưng miệng giảng tay vẽ thì đâu ra đấy. Tiểu Long Nữ gật gù, thầm hình dung tay phải sử Ngọc nữ kiếm pháp, tay kia sử kiếm pháp phái Toàn Chân, vài giờ sau lòng đã quán thông, nói:

– Tiểu nữ hiểu hết rồi.

Hai tay biểu diễn vài chiêu, cảm thấy hoàn toàn như ý; Chu Bá Thông thì há hốc miệng, nói:

– Kỳ quái, kỳ quái!

Pháp vương và Triệu Chí Kính ở bên ngoài cửa hang, nghe tiếng hai người nói chuyện rôm rả bên trong, lắng tai chỉ nghe lõm bõm câu được câu chăng.

Tiểu Long Nữ ngẩng lên, thấy hai kẻ kia thò đầu ngó nghiêng, bèn đứng dậy, nói:

– Chúng ta đi thôi!

Chu Bá Thông ngơ ngác, hỏi:

– Đi đâu?

Tiểu Long Nữ nói:

– Ra ngoài bắt lão giặc trọc phải đưa giải dược cho lão tiền bối.

Chu Bá Thông vuốt vuốt chòm râu dài, nói:

– Cô nương có chắc sẽ đánh bại hắn hay không?

Vừa nói đến đó, bỗng nghe tiếng vo vo, một con ong mật bị sa vào mạng nhện, đang ra sức vùng vẫy. Lúc trước con bướm to tướng sa vào mạng nhện bị chết ngất ngay, còn con ong nhỏ bé này tựa hồ không sợ độc tính của “Thái tuyết thù”, mạng nhện cuối cùng bị rách một lỗ. Một con nhện độc đứng rình, chưa dám bò vào, phải chờ một hồi lâu, khi con ong hết chịu nổi, ngất đi, nó mới nhào tới cắn.

Tiểu Long Nữ trong toà nhà mồ có nuôi một đàn ong, quanh năm bầu bạn với bầy ong, thạo cách điều khiển ong. Nàng nhìn con ong bị nạn, trong lòng không nỡ, đột nhiên nảy ra ý nghĩ: “Nhện độc hình dạng gớm ghiếc, nhưng bầy ong vị tất đã sợ chúng”. Nàng lấy trong túi một lọ mật ong, đặt giữa lòng bàn tay, mở nút lọ, vận nội lực, truyền hơi ấm từ lòng bàn tay vào trong lọ; lát sau một mùi mật thơm mát lan tỏa qua mạng nhện ra bên ngoài.

Chu Bá Thông lấy làm lạ, hỏi:

– Cô nương làm gì vậy?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đây là một trò chơi, lão tiền bối có muốn xem hay không?

Chu Bá Thông reo lên:

– Thế thì hay lắm, đâu, cho ta xem với?

Tiểu Long Nữ chỉ mỉm cười, tiếp tục truyền hơi ấm vào lọ mật.

Dạo này trong núi hoa dại nở rộ, tứ phía đều có rất nhiều ong mật, chúng ngửi thấy mùi mật thơm, tức thì từ bốn phía bay tới, hết con này con khác bay vào trong hang, bị vướng mạng nhện, chúng vùng vẫy không ngừng, có con bị nhện độc cắn chết, có con đốt nhện độc. “Thái tuyết thù” tuy là loài nhện cực độc trong thiên hạ, nhưng bị nhiều con ong đốt thì dần dần cũng lăn ra chết.

Chu Bá Thông nhìn cảnh đó một cách khoái trá. Kim Luân Pháp vương và Triệu Chí Kính ở bên ngoài thì trợn mắt há mồm, không biết làm thế nào. Ban đầu “Thái tuyết thù” còn chiếm ưu thế, chỉ chết vài ba con, ong mật thì đã chết dăm chục con; nhưng ong mật càng lúc càng ào ào bay tới, ban đầu chỉ mươi con lẻ tẻ, sau thì từng đàn, từng tổ, chẳng mấy chốc màng nhện bị phá tan, mười mấy con nhện độc chết sạch. Triệu Chí Kính từng bị khổ sở vì ong đốt vội lẳng lặng lẩn vào bụi cây phía xa mà tránh né. Kim Luân Pháp vương thì tiếc đứt ruột vì đàn “Thái tuyết thù” của lão ta bị diệt không còn một mống, cứ tưởng là do bầy ong mật biết đồng tâm giết địch, không biết rằng đàn ong mật bay đến là do Tiểu Long Nữ dẫn dụ; lão ta vẫn nghĩ cách làm sao buộc Chu Bá Thông và Tiểu Long Nữ ra khỏi hang để lấy mạng hai người.

Tiểu Long Nữ chấm ngón tay vào lọ mật ong, rồi búng búng mật về phía Pháp vương, miệng huýt sáo; hàng ngàn con ong mật liền xoay mình bay ra khỏi hang, lao về phía Pháp vương.

Pháp vương hốt hoảng, vội vàng bỏ chạy. Thuật khinh công của lão ta cao cường, bầy ong mật tuy bay nhanh, nhưng thân pháp của lão ta còn nhanh hơn, thoáng chốc đã vọt ra xa hơn chục trượng. Chỉ thấy thân hình lão như một sợi khói đen xa dần, bầy ong mật đuổi không kịp, tự tản đi.

Tiểu Long Nữ giậm chân, miệng nói:

– Tiếc thật, tiếc thật!

Chu Bá Thông hói:

– Tiếc cái gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Để hắn chạy đi mất, không lấy được giải dược.

Nguyên nàng búng mật ong sang hai bên người Pháp vương là cốt để bầy ong mật bao vây lão ta, không cho thoát. Nhưng lũ ong này chỉ là một bọn ô hợp, không được thuần dưỡng như đàn ong của nàng ở tòa cổ mộ, không biết cách dàn thành trận thế bao vây và tấn công. Vậy mà Chu Bá Thông đã vô cùng bái phục, coi đây là trò chơi lý thú hơn mọi trò lão từng biết, lão vỗ tay tán thưởng, quên cả việc cơ thể lão chưa giải hết độc.

Tiểu Long Nữ thấy mạng nhện ở cửa hang đã tan, bèn bước ra ngoài, giơ tay vẫy:

– Ra được rồi!

Chu Bá Thông nhảy ra, ngã xuống huỵch một cái kêu:

– Không ổn, không ổn, không còn sức mấy.

Lão run rẩy toàn thân, răng đánh vào nhau canh cách; cái ngã làm cho chất độc Thái tuyết thù còn trong người phát tác, lão như bị rơi xuống hố băng, lạnh thấu xương, mặt mũi xám ngắt lại.

Tiểu Long Nữ kinh hãi, hỏi:

– Lão tiền bối sao thế?

Chu Bá Thông run cầm cập, nói:

– Cô nương… mau dùng châm… đâm vào người ta… mấy cái.

Tiểu Long Nữ nói:

– Châm của tiểu nữ có độc.

Chu Bá Thông nói:

– Càng có độc… càng tốt.

Tiểu Long Nữ nghĩ vừa rồi bầy ong mật ác chiến với lũ nhện độc, hình như nọc ong chính là khắc tinh của nhện độc, bèn nhặt một mũi Ngọc phong châm ở dưới đất, thử chích vào cánh tay Chu Bá Thông. Chu Bá Thông kêu:

– Dễ chịu quá, chọc nữa đi!

Tiểu Long Nữ chích liền mấy cái, thấy đã hết độc, bèn đổi mũi Ngọc phong châm khác, tổng cộng chích mười mấy mũi châm, thì Chu Bá Thông hết run, thở phào, cười nói:

– Lấy độc trị độc, thật là kỳ diệu!

Bèn thử vận khí, cảm thấy chất độc vẫn còn trong cơ thể, vỗ mạnh đầu gối một cái, nói:

– Long cô nương, chất độc ở châm của cô nương vừa không đủ, vừa không được tươi.

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Vậy thì để tiểu nữ gọi ong đến đốt lão tiền bối.

Chu Bá Thông giục:

– Đa tạ cô nương, mau gọi đi?

Tiểu Long Nữ mở nút lọ mật ong, dụ ong đến đốt Chu Bá Thông. Lão Ngoan đồng cởi áo, để cho bầy ong đốt toàn thân, một mặt ngầm vận thần công, trước hết hấp thụ nọc ong vào đan điền, rồi dùng chân khí đưa đến các đại huyệt toàn thân. Chừng ăn xong một bữa cơm, chất độc đã giải trừ hết, ong đốt thấy đau nhói, bèn kêu to:

– Đủ rồi đủ rồi, đốt nữa thì toi mạng!

Bèn cầm áo lên mặc vào người.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, đuổi ong đi, thấy sợi dây chuông vứt một bên, thuận tay nhặt lên, hỏi:

– Tiểu nữ muốn đến núi Chung Nam, lão tiền bối có đi cùng hay không?

Chu Bá Thông lắc đầu, nói:

– Ta còn có việc cần làm, cô nương hãy đi một mình thôi!

Tiểu Long Nữ nói:

– À phải, lão tiền bối còn đến thành Tương Dương giúp Quách đại hiệp.

Nhắc đến ba chữ “Quách đại hiệp”, nàng liền nhớ đến Quách Phù và Dương Quá, bèn buồn bã dặn:

– Chu lão tiền bối có gặp Dương Quá thì đừng kể việc đã gặp tiểu nữ.

Nàng thấy Chu Bá Thông miệng lẩm bẩm gì đó, thần sắc rất bí ẩn, lát sau, lão đột nhiên ngẩng đầu, hỏi:

– Cô nương bảo sao?

Tiểu Long Nữ nói:

– Không có gì, hẹn ngày tái ngộ.

Chu Bá Thông tâm trí để đâu đâu, chỉ gật đầu, vẫy tay.

Tiểu Long Nữ quay mình đi, qua một thung lũng, bỗng nghe tiếng gọi, tiếng huýt sáo của Chu Bá Thông, tựa hồ lão đang chỉ huy bầy ong. Nàng hiếu kỳ, lặng lẽ quay trở lại, nấp sau một gốc cây nhìn ra, thấy Chu Bá Thông một tay cầm lọ mật ong, đang hoa chân múa tay hò hét. Nàng sờ vào túi, lọ mật ong của nàng đã không cánh mà bay, chẳng hiểu bị Lão Ngoan đồng lấy trộm lúc nào. Lúc này có mấy con ong ngửi mùi mật thơm bay đến, nhưng không tuân theo sự điều khiển của lão, cứ bay lòng vòng xung quanh lọ mật ong.

Tiểu Long Nữ không nhịn được, cười một tiếng, từ sau gốc cây bước ra, nói:

– Để tiểu nữ dạy cho lão tiền bối!

Chu Bá Thông thấy mình bị bắt quả tang thì xấu hổ đỏ bừng cả mặt, cắm đầu chạy như bay xuống núi.

Tiểu Long Nữ cười ha ha, nghĩ Lão Ngoan đồng thật là một người lý thú. Tiếng cười của nàng vang vọng trong cánh rừng tĩnh mịch thê lương. Cả một đêm đấu trí đấu lực với Kim Luân Pháp vương, có Lão Ngoan đồng náo loạn bên cạnh; giờ đây kẻ địch đã bỏ chạy, bằng hữu cũng đã đi xa, trên thế gian chỉ còn lại bơ vơ một mình nàng, hai giọt nước mắt bất giác lăn dài.

Nàng đi sau Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính suốt cả lộ trình, chỉ cảm thấy hai kẻ đó vô cùng đáng ghét, dẫu có băm vằm chúng thành trăm mảnh, cũng khó giải mối hận trong lòng. Nàng ra tay, cả hai đạo sĩ sẽ mất mạng ngay, nhưng giết chúng rồi thì sao? Lúc này nàng chợt nhớ đến chúng, thì lẩm bẩm một mình: “Phải đi tìm chúng mới được!” Nàng xuống núi, cưỡi con lừa được nàng thả cho gặm cỏ ở chân núi.

Nàng đi trên con đường lớn một quãng, bỗng thấy phía trước bụi tung mù mịt, tinh kỳ rợp trời, tiếng vó ngựa rầm rầm như tiếng sấm, đại đội quân mã đang hành tiến về phía nam, đó là đại quân Mông Cổ lại đi tấn công thành Tương Dương. Tiểu Long Nữ nghĩ: “Giữa thiên binh vạn mã thế kia, tìm sao được hai gã đạo sĩ?” Bỗng thấy có ba người phóng ngựa từ dốc núi ngang qua chỗ nàng, cả ba đều trang phục đạo sĩ. Tiểu Long Nữ tự hỏi: “Tại sao lại có thêm một gã?” Nhìn kỹ, chính là Doãn Chí Bình, Triệu Chí Kính và một đạo sĩ trẻ. Tiểu Long Nữ liền cho lừa chạy theo sau họ.

Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính nghe tiếng chân lừa lóc cóc, thấy Tiểu Long Nữ thì đều biến sắc. Đạo sĩ trẻ tuổi hỏi:

– Triệu sư huynh, nữ nhân kia là ai vậy?

Triệu Chí Kính nói:

– Đó là đại địch của giáo phái chúng ta, sư đệ đừng đánh tiếng.

Đạo sĩ trẻ giật mình, run giọng hỏi:

– Là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu chăng?

Triệu Chí Kính nói:

– Không phải, là sư muội của Lý Mạc Sầu.

Đạo sĩ trẻ này tên là Kỳ Chí Thành, một đệ tử của Khưu Xứ Cơ. Y chỉ biết Lý Mạc Sầu từng nhiều lần giao đấu với các sư bá, sư phụ, sư thúc; chư tử phái Toàn Chân từng bị bại dưới tay mụ ta, nữ nhân kia là sư muội của Lý Mạc Sầu, tất không phải người tử tế.

Triệu Chí Kính liên tiếp quất roi vào mông ngựa, Doãn Chí Bình và Kỳ Chí Thành cũng phi nhanh, một lát đã bỏ Tiểu Long Nữ ở đằng xa. Nhưng con lừa của Tiểu Long Nữ cước lực dẻo dai, nó không phi nhanh, nhưng lúc nào cũng chạy nước kiệu. Ba con ngựa kia phóng nhanh bốn, năm dặm, thì thở dốc, chạy chậm dần, nên không bao lâu sau con lừa đã đuổi kịp. Triệu Chí Kính vung roi đánh ngựa, nhưng nó đã mệt, bị đánh đau mấy cũng chỉ chạy nhanh được vài trượng mà thôi.

Kỳ Chí Thành nói:

– Triệu sư huynh, đệ và sư huynh hãy quay lại chặn đánh kẻ địch, để Doãn sư huynh thoát thân.

Triệu Chí Kính sầm mặt, nói:

– Tưởng dễ chặn lắm, sư đệ muốn mất mạng hả?

Kỳ Chí Thành nói:

– Doãn sư huynh phải gánh vác trọng nhiệm chưởng giáo, chúng ta dù sống chết cũng phải bảo vệ cho Doãn sư huynh được bình yên.

Nguyên chuyến này Kỳ Chí Thành phụng mệnh sư phụ Khưu Xứ Cơ đi triệu Doãn Chí Bình về cung Trùng Dương tiếp nhiệm chức vị chưởng giáo.

Triệu Chí Kính không thèm nói nữa, nghĩ: “Ngươi thật không biết trời cao đất dày chừng nào, bản lĩnh như ngươi mà đòi chặn đánh nàng ta?” Kỳ Chí Thành thấy sắc mặt hầm hầm của hắn, cũng không dám nhiều lời, gò cương chờ Doãn Chí Bình đi tới, nói nhỏ:

– Doãn sư huynh, sư huynh thân thể ngàn vàng, xin hãy đi trước một quãng cho.

Doãn Chí Bình lắc đầu, nói:

– Cứ mặc ta!

Kỳ Chí Thành thấy Doãn Chí Bình bình thản như không, thì rất thán phục, nghĩ: “Chẳng trách sư phụ muốn Doãn sư huynh tiếp nhiệm chức vị chưởng giáo; chỉ riêng khí độ thế này, các hạ đệ tử đời thứ ba đã chẳng ai theo kịp”. Y không biết Doãn Chí Bình lúc này tâm trạng đặc dị, nếu Tiểu Long Nữ muốn giết, y sẽ giơ cổ cho nàng chém chứ không có ý định kháng cự. Triệu Chí Kính thấy hai người không vội vã, cuối cùng hắn cũng không bỏ chạy một mình; may mà thấy Tiểu Long Nữ không hề có ý động thủ, hắn cứ đi một quãng lại thấp thỏm ngó về phía sau.

Bốn người, ba trước một sau, lẳng lặng đi về phía bắc. Lúc này tiếng hành quân rầm rập của đại quân Mông Cổ cùng tiếng tù và đã chìm dần. Trăm họ né tránh quân địch, hai bên đường lớn mười nhà thì chín nhà bỏ hoang, chẳng có bóng người, ngay cả gà chó cũng không, muốn tìm một ngôi nhà tử tế để nghỉ đêm cũng không có nốt.

Đêm ấy bọn Doãn Chí Bình vào nghỉ đêm trong một ngôi nhà cửa ngõ trống tuếch. Triệu Chí Kính và Kỳ Chí Thành nhìn trộm ra ngoài, thấy Tiểu Long Nữ chăng một sợi dây giữa hai thân cây, nằm vắt vẻo trên dây. Kỳ Chí Thành thấy công phu đó thì kinh hãi, riêng Doãn Chí Bình nằm im một góc, không để ý gì hết. Đêm ấy Triệu Chí Kính trằn trọc lo sợ, không dám chợp mắt, chỉ nghe nếu ngoài kia có động, hắn sẽ bỏ chạy tức thì.

Sớm hôm sau bốn người lại đi tiếp. Triệu Chí Kính cả đêm thấp thỏm không ngủ, bây giờ ngồi trên lưng ngựa ngủ gật. Kỳ Chí Thành và Doãn Chí Bình đi sóng đôi bên nhau ở phía sau bảy, tám trượng, Kỳ Chí Thành không nhịn được, nói:

– Doãn sư huynh, sư huynh và Triệu sư huynh võ công mỗi năm qua các lần khảo hạch, đệ đều chứng kiến, có thể nói mỗi vị có sở trường riêng, khó phân cao thấp. Nhưng nói về sự độ lượng, thì hai vị khác hẳn nhau.

Doãn Chí Bình cười khổ, hỏi:

– Sư phụ và mấy vị sư bá sư thúc lần này bế quan, đệ có biết độ bao nhiêu lâu hay không?

Kỳ Chí Thành nói:

– Sư phụ bảo nhanh thì ba tháng, chậm thì một năm, cho nên phải triệu gấp sư huynh về tiếp nhiệm chưởng giáo.

Doãn Chí Bình ngẩn ngơ xuất thần, lẩm bẩm một mình:

– Sư phụ võ công cao đến mức đó, không biết còn tu luyện môn gì nữa?

Kỳ Chí Thành nói nhỏ:

– Nghe đâu năm vị chân nhân muốn tìm cách phá giải võ công phái Cổ Mộ.

Doãn Chí Bình à một tiếng, bất giác ngoảnh về phía sau nhìn Tiểu Long Nữ.

Nguyên tại anh hùng đại yến ở ải Đại Thắng, Tiểu Long Nữ và Dương Quá xuất thủ đánh đuổi sư đồ Kim Luân Pháp vương, võ công trác tuyệt, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị và Triệu, Doãn hai người tận mắt chứng kiến. Huống hồ trong thư phòng của Quách Tĩnh, Dương Quá không hề vung tay nhấc chân mà làm cho Triệu Chí Kính lao đao; sau đó Tiểu Long Nữ chỉ một chiêu đã đánh trọng thương Triệu Chí Kính. Thủ pháp của hai người ấy thế nào, Tôn Bất Nhị tuy đứng ngay bên cạnh cũng nhìn chẳng rõ, tựa hồ võ công phái Toàn Chân không chịu nổi một đòn công kích của phái Cổ Mộ, nghĩ mà kinh hồn. Sau lại nghe nói Dương Quá và Tiểu Long Nữ song kiếm hợp bích, đánh cho Kim Luân Pháp vương một trận đại bại, phái Toàn Chân trên dưới đều chấn động. Chư tử phái Toàn Chân nghĩ Hách Đại Thông lỡ tay giết chết Tôn bà bà, Lý Mạc Sầu, Tiểu Long Nữ và Dương Quá sẽ có ngày tới cung Trùng Dương báo thù. Đối phó với một mình Lý Mạc Sầu đã thúc thủ, nếu lại thêm hai nhân vật lợi hại Dương, Long thì chịu sao nổi? Chuyện hiềm khích giữa Lý Mạc Sầu với Tiểu Long Nữ, bọn họ không hề biết.

Trong Toàn Chân thất tử, Đàm Xứ Đoan mất sớm, lúc này Mã Ngọc cũng mới qua đời, chỉ còn lại năm người. Lưu Xứ Huyền làm chưởng giáo nửa năm thì giao cho Khưu Xứ Cơ tiếp nhiệm. Cả năm người tuổi đều đã cao, tinh lực suy yếu, nghĩ trong số đệ tử đời thứ ba, thứ tư hoàn toàn không có nhân vật kiệt xuất, nếu phái Cổ Mộ tìm đến trả thù, nếu năm người còn sống, may ra có thể chống trả một phen; song nếu mười năm nữa bọn Tiểu Long Nữ mới đến, thì phái Toàn Chân hiệu xưng võ học chính tông trong thiên hạ chỉ có một con đường đại bại. Bởi thế năm người quyết định bế quan tịnh tu, cố tìm ra một môn võ công lợi hại để đối địch với phái Cổ Mộ, vì vậy họ cho gọi Doãn Chí Bình về tiếp nhiệm chức chưởng giáo.

Bọn Doãn Chí Bình ngày đi đêm nghỉ, đi về hướng tây bắc. Tiểu Long Nữ vẫn đi sau non một dặm.

Hôm ấy đến địa phận Thiểm Tây, Kỳ Chí Thành hỏi Doãn Chí Bình:

– Doãn sư huynh, chúng ta về cung Trùng Dương. Không lẽ Long cô nương có mỗi một mình cũng dám đuổi theo chúng ta về tận đó?

Doãn Chí Bình ậm ừ, quả thật không đoán biết dụng ý của Tiểu Long Nữ. Suốt dọc đường y cứ suy nghĩ mãi: “Nàng định vạch tội ta trước năm vị chân nhân hay sao? Hay là nàng định vung kiếm đại sát phái Toàn Chân cho bõ tức? Hay là chẳng qua nàng trở về nơi ở cũ là tòa cổ mộ, nên cùng đường với ta? Hay là… chẳng lẽ… chẳng lẽ nàng thấy ta một lòng si luyến nàng, nên cuối cùng nàng có tình ý với ta?”

Nghĩ đến đó, y bất giác đỏ bừng cả mặt, tự hổ thẹn về sự vọng tưởng của mình; nhưng hiện thời y đã không màng tới sinh tử vinh nhục của mình nữa, nên nỗi lo sợ cũng nhạt dần.

Lại đi mấy ngày nữa thì đến chân núi Chung Nam. Kỳ Chí Thành rút một mũi tên, bắn chéo lên trời.

Lát sau, có bốn đạo sĩ đội mũ vàng từ trên núi chạy xuống, cúi mình hành lễ với Doãn Chí Bình, nói:

– Thanh Hòa Chân nhân, chân nhân đã về, mọi người chờ đợi đã lâu.

Doãn Chí Bình có đạo hiệu “Thanh Hòa”, nhưng ngoài đệ tử thân truyền của y, lâu nay không một ai xưng hô như thế. Bốn đạo sĩ kia đều là đệ tử đời thứ ba, lẽ ra xưng hô với y là sư huynh sư đệ, trong đó có một người nhiều tuổi hơn hẳn y. Nay bốn người này đột nhiên đổi cách xưng hô, Doãn Chí Bình cảm thấy ngượng nghịu, vội xuống ngựa đáp lễ, khiêm tốn nói:

– Bốn vị sư huynh xưng hô như thế, tiểu đệ đâu dám nhận.

Đạo sĩ nhiều tuổi nhất trong bốn người là đệ tử của Mã Ngọc, nói:

– Năm vị sư thúc có pháp chỉ, chỉ chờ Thanh Hòa Chân nhân về tiếp nhiệm chức chưởng giáo. Còn về đại lễ nhậm chức, thì đợi khi nào Khưu sư thúc khai quan sẽ tiến hành.

Doãn Chí Bình hỏi:

– Sư phụ và bốn vị sư bá bế quan bao lâu rồi?

Người kia nói:

– Đã hơn hai mươi ngày.

Đang nói, bỗng nghe trên núi tiếng nhạc vang lên, mười sáu đạo sĩ thổi sáo gõ sênh dàn thành hàng ở hai bên đường nghênh tiếp, lại có mười sáu đạo sĩ khác cầm pháp khí như kiếm gỗ, bát sắt, thấy Doãn Chí Bình tới thì nhất tề cúi mình hành lễ, tiền hô hậu ủng, đi ngược lên núi, bỏ Triệu Chí Kính tụt lại đằng sau. Triệu Chí Kính vừa tức giận vừa ghen tị, nghĩ: “Đợi khi chức chưởng giáo rơi vào tay ta, để xem bọn ngươi sẽ nói sao?”

Gần tối, mọi người đã tới bên ngoài cung Trùng Dương. Hơn năm trăm đạo sĩ trong cung dàn thành hàng từ đại điện ra bên ngoài sơn môn mươi trượng; chỉ nghe tiếng chuông, tiếng trống rùng rùng, mấy trăm đạo sĩ cúi mình đón chào. Nhìn cảnh trang nghiêm long trọng đó, Doãn Chí Bình đang tuyệt vọng bỗng thấy phấn chấn, có mười sáu đại đệ tử hộ vệ hai bên, y trước tiên tới chính điện Tam Thanh khấu đầu ba vị Nguyên thủy thiên tôn, Thái thượng đạo quân và Thái thượng lão quân, sau đó tới hậu điện khấu đầu trước di tượng tổ sư sáng giáo Vương Trùng Dương, rồi tới điện thứ ba, nơi Toàn Chân thất tử vẫn ngồi thương nghị, khấu đầu trước bảy cái ghế trống, cuối cùng trở lại chính điện.

Đệ tử thứ hai của Khưu Xứ Cơ là Lý Chí Thường lấy pháp chỉ của chưởng giáo chân nhân ra tuyên đọc, nói Doãn Chí Bình tiếp nhiệm chưởng giáo. Doãn Chí Bình quì xuống nghe chỉ, vừa cảm kích vừa hổ thẹn, liếc trộm Triệu Chí Kính đứng một bên, thấy hắn vẻ mặt nửa cười nửa không, đầy vẻ châm biếm.

Doãn Chí Bình nghe pháp chỉ xong, đứng dậy, đang định nói vài lời khiêm tốn với chúng đạo sĩ, bỗng thấy từ bên ngoài có một đạo sĩ đi vào, nói to:

– Khải bẩm chưởng giáo chân nhân, có khách tới.

Doãn Chí Bình ngây người, không ngờ Tiểu Long Nữ lại đường đường chính thức bái hội, thực chưa biết phải đối phó thế nào, bây giờ muốn chạy cũng không xong, đành nói:

– Mời vào!

Đạo sĩ kia quay ra, dẫn hai người khách vào. Mọi người vừa thấy họ, đều hết sức kinh dị, Doãn Chí Bình càng kinh ngạc hơn, một trong hai người là quan viên Mông Cổ, người thứ hai là Tiêu Tương Tử, y từng gặp trong vương trướng của Hốt Tất Liệt.

Viên quan Mông Cổ sang sảng nói:

– Đại hãn bệ hạ có thánh chỉ, sắc phong cho chưởng giáo giáo phái Toàn Chân.

Đoạn hắn đứng giữa đại điện, lấy ra một cuộn lụa vàng mở ra, tuyên đọc:

– Sắc phong cho chưởng giáo giáo phái Toàn Chân làm “ Đặc thụ thần tiên diễn đạo đại tông sư, Huyền môn chưởng giáo, Văn túy khai huyền hoàng nhân quảng nhiều đại chân nhân, chưởng quản chư lộ đạo giáo sở…”

Đọc đến đây, thấy không có ai quì xuống nghe chỉ, hắn nói to:

– Chưởng giáo phái Toàn Chân tiếp chỉ!

Doãn Chí Bình bước tới cúi mình hành lễ, nói:

– Chưởng giáo tệ giáo Khưu Chân nhân đang tọa quan, hiện do tiểu đạo tiếp nhiệm chưởng giáo, sắc phong của đại hãn Mông Cổ không phải dành cho tiểu đạo, nên tiểu đạo không dám bái lĩnh.

Viên quan Mông Cổ cười, nói:

– Ngọc âm của Đại hãn bệ hạ, Khưu Chân nhân vốn kính nể Thành Cát Tư Hãn, nay tuổi đã cao, không biết còn sống hay không. Sắc phong này vốn không định dành cho Khưu Chân nhân, ai làm chưởng giáo phái Toàn Chân thì cứ bái lĩnh sắc phong.

Doãn Chí Bình nói:

– Tiểu đạo vô đức vô năng, thực không dám bái lĩnh.

Viên quan cười, nói:

– Đừng khách khí nữa, hãy mau lĩnh chỉ.

Doãn Chí Bình nói:

– Vinh dự bất ngờ, tiểu đạo không dám nhận. Mời đại nhân vào hậu điện dùng trà, chờ tiểu đạo thương nghị một chút với các vị sư huynh đã.

Viên quan rất không hài lòng, cuộn thánh chỉ lại, nói:

– Cũng được! Không biết phải thương lượng bao nhiêu lâu?

Bốn đạo sĩ lo việc tiếp đãi tân khách bèn mời viên quan Mông Cổ và Tiêu Tương Tử vào hậu điện dùng trà.

Doãn Chí Bình mời mười sáu đại đệ tử vào một phòng riêng, nói:

– Việc lớn này, tiểu đệ không dám quyết, xin được nghe cao kiến của các vị sư huynh.

Triệu Chí Kính cướp lời, nói:

– Đại hãn Mông Cổ đã có mỹ ý như vậy, ta nên lĩnh chỉ. Đủ thấy bổn giáo ngày càng hưng vượng, ngay cả Đại hãn Mông Cổ cũng không dám coi thường chúng ta.

Nói đoạn cười cười đắc ý.

Lý Chí Thường lắc đầu, nói:

– Không được, không được! Mông Cổ xâm lăng nước ta, sát hại trăm họ, làm sao chúng ta lại đi nhận sắc phong của địch?

Triệu Chí Kính nói:

– Năm xưa Khưu sư bá từng nhận chiếu thư của Thành Cát Tư Hãn, vượt ngàn dặm sang Tây Vực, Doãn chưởng giáo và Lý sư huynh cũng tùy hành, đã có tiền lệ như vậy, sao lại không nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ kia chứ?

Lý Chí Thường nói:

– Thời ấy Mông Cổ đối địch với Đại Kim, chưa xâm lăng nước ta, hơn nữa còn kết minh với Đại Tống; mỗi thời một khác, không thể coi như nhau.

Triệu Chí Kính nói:

– Núi Chung Nam thuộc Mông Cổ quản hạt, đạo quán của chúng ta cũng đều nằm trong cảnh nội Mông Cổ, nếu không nhận sắc phong, bổn giáo sẽ gặp đại họa.

Lý Chí Thường nói:

– Triệu sư huynh nói sai rồi.

Triệu Chí Kính cao giọng:

– Sai thế nào, Lý sư huynh chỉ điểm cho coi.

Lý Chí Thường nói:

– Chỉ điểm thì không dám, nhưng xin hỏi Triệu sư huynh, tổ sư sáng giáo của chúng ta Trùng Dương Chân nhân là người như thế nào? Các vị sư phụ của bọn ta Toàn Chân thất tử là những người như thế nào?

Triệu Chí Kính ngạc nhiên, nói:

– Tổ sư gia và các vị sư phụ hoằng đạo hộ pháp, là các cao nhân trong Tam Thanh giáo.

Lý Chí Thường nói:

– Họ đều là các bậc đại trượng phu đội trời đạp đất, ái quốc ưu dân, người nào cũng từng vào sinh ra tử huyết chiến với quân Kim.

Triệu Chí Kính nói:

– Đúng thế, Trùng Dương Chân nhân và Toàn Chân thất tử danh chấn giang hồ, trong võ lâm ai mà chẳng kính phục?

Lý Chí Thường nói:

– Vậy thì các vị chân nhân bản giáo không một ai sợ cường địch, quyết chí cứu giáo dân khỏi vòng tai họa, dù phái Toàn Chân có gặp đại họa, chúng ta cũng không sợ. Đầu có thể rơi, chí không thể nhụt.

Mấy câu này hùng hồn đại nghĩa, Doãn Chí Bình và mười mấy đại đệ tử đều xúc động.

Triệu Chí Kính lạnh lùng nói:

– Chỉ có Lý sư huynh không sợ chết, còn mọi người đều là phường tham sống sợ chết chắc? Tổ sư gia sáng nghiệp gian nan, bổn giáo có qui mô như hôm nay, là nhờ tổ sư gia và bảy vị sư trưởng tốn bao nhiêu tâm huyết. Bây giờ giao lại, chúng ta xử trí không thích đáng, đem bản giáo oanh liệt hủy hoại đi mất, thì còn mặt mũi nào xuống gặp tổ sư gia dưới suối vàng? Khi năm vị sư trưởng khai quan, chúng ta sẽ ăn nói ra sao?

Mấy lời nghe cũng có lý, khiến vài đạo sĩ lập tức lên tiếng phụ họa. Triệu Chí Kính lại nói:

– Người Kim là kẻ tử thù của bản giáo, Mông Cổ đã diệt nước Kim, chính là đã giúp cho bản giáo. Năm xưa tổ sư gia khởi nghĩa không thành, buồn quá lui về ẩn cư trong tòa cổ mộ; hồn người ở trên trời có linh thiêng, biết người Kim đã mất nước tan quân, chắc cũng rất sung sướng.

Một đệ tử khác của Khưu Xứ Cơ là Vương Chí Thản nói:

– Người Mông Cổ sau khi diệt Kim, nếu hòa hảo với Đại Tống chúng ta, dĩ nhiên chúng ta sẽ lấy lễ thượng quốc mà đối đãi. Đàng này đại quân Mông Cổ tràn xuống phương nam, cấp công thành Tương Dương, giang sơn Đại Tống nguy kịch, chúng ta đều là dân Đại Tống, há có thể nhận sắc phong của nước thù địch?

Đoạn hướng sang Doãn Chí Bình, nói:

– Chưởng giáo sư huynh, nếu sư huynh nhận sắc phong, sẽ là một tên đại Hán gian, một tội nhân thiên cổ của bổn giáo. Vương Chí Thản ta dẫu đầu lìa khỏi cổ, cũng không để cho sư huynh làm như vậy.

Giọng nói đã đanh lại.

Triệu Chí Kính đứng phắt dậy, đập mạnh tay xuống bàn, quát:

– Vương sư đệ, sư đệ muốn động võ phải không? Sư đệ dám vô lễ như vậy với chưởng giáo chân nhân ư?

Vương Chí Thản gằn giọng. nói:

– Bọn ta chỉ nói đạo lý. Còn chuyện động võ, ta đây không ngán.

Đôi bên mỗi bên quyết giữ ý mình, không nhân nhượng nhau, xem chừng sắp tuốt kiếm vung quyền đánh nhau đến nơi, một đạo sĩ tóc hoa râm xua tay lia lịa, nói:

– Các vị sư đệ, hãy bình tĩnh nói chuyện với nhau, đừng nóng nảy.

Vương Chí Thản hỏi:

– Theo ý sư huynh thì sao?

Đạo sĩ đó nói:

– Theo ý ta, thì… thì… người xuất gia lấy từ bi làm đầu, cứu được người dân nào, là tăng thêm đức hiếu sinh ngần ấy… Bọn ta… nếu nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ, sẽ tận lực can ngăn quân thần binh tướng Mông Cổ đừng lạm sát; năm xưa Khưu sư thúc chẳng phải đã nhờ thế mà cứu được tính mạng bao nhiêu người đó sao?

Có mấy đạo sĩ phụ họa:

– Đúng, đúng lắm!

Một đạo sĩ lùn lắc đầu lia lịa:

– Tình thế ngày nay không thể so với hồi trước. Tiểu đệ theo sư phụ tây du, chính mắt thấy binh tướng Mông Cổ tàn sát cướp bóc dân chúng. Nếu đi nhận sắc phong, đầu hàng Mông Cổ, tức là hùa theo kẻ bạo ngược, có thể cứu mươi cái mạng sống nào đó, nhưng quên rằng có hàng vạn dân chúng vì thế mà phải chết.

Vị đạo sĩ lùn này tên là Tống Đức Phương, một trong mười chín đệ tử tùy hành cùng Khưu Xứ Cơ tây du.

Triệu Chí Kính cười khẩy, nói:

– Ngươi đã gặp Thành Cát Tư Hãn, ta vừa rồi cũng gặp vương tử Hốt Tất Liệt, người này chiêu hiền đãi sĩ, khoáng đạt đại độ, đâu có gì tàn bạo?

Vương Chí Thản nói:

– À, thì ra ngươi phụng mệnh Hốt Tất Liệt, về đây làm gian tế!

Triệu Chí Kính tức giận, quát:

– Ngươi bảo sao?

Vương Chí Thản nói:

– Kẻ nào nói giúp cho bọn Mông Cổ, kẻ đó là Hán gian.

Triệu Chí Kính đột nhiên bật dậy, giáng một chưởng xuống đỉnh đầu Vương Chí Thản. Có hai đệ tử của Khưu Xứ Cơ, một người là Kỳ Chí Thành cùng vung chưởng gạt đòn của Triệu Chí Kính ra. Triệu Chí Kính càng giận thêm, nói:

– Được, đệ tử môn hạ của Khưu sư bá cậy đông, trượng thế khinh người hả?

Bắt đầu náo loạn thì Doãn Chí Bình vỗ tay một cái, nói:

– Xin các vị sư huynh hãy ngồi xuống, nghe tiểu đệ nói đã.

Chưởng giáo phái Toàn Chân xưa nay uy quyền cực lớn, các đạo sĩ đều ngồi xuống, không dám tranh cãi nữa.

Triệu Chí Kính nói:

– Phải đấy, chúng ta hãy nghe chưởng giáo chân nhân phân phó, chưởng giáo bảo nhận sắc phong thì nhận, bảo không nhận sắc phong thì thôi. Đại hãn sắc phong cho chưởng giáo, chứ có phải cho người khác đâu mà đi cãi nhau?

Hắn tưởng Doãn Chí Bình có tội đã bị hắn nắm chắc thì sẽ không dám làm trái ý hắn. Bọn Lý Chí Thường, Vương Chí Thản biết Doãn Chí Bình vốn người trung nghĩa, việc này cứ để y quyết, khỏi cần tranh náo, thế là ai nấy nhìn Doãn Chí Bình, chờ nghe lời y.

Doãn Chí Bình chậm rãi nói:

– Tiểu đệ vô đức vô năng, nay nhận trọng nhiệm chưởng giáo, không ngờ ngày đầu tiên đã gặp đại sự này.

Nói xong ngẩng lên, ngơ ngẩn xuất thần. Mười sáu đại đệ tử cùng chăm chú nhìn y, trong phòng im phắc không một tiếng động.

Một hồi sau, Doãn Chí Bình mới nói tiếp:

– Bổn giáo do Trùng Dương tổ sư sáng lập, đến Mã Chân nhân, Lưu Chân nhân, Khưu Chân nhân được phát dương lớn mạnh. Tiểu đệ tiếp nhiệm chưởng giáo, làm sao dám trái lời giáo huấn của bốn vị Vương, Mã, Lưu, Khưu Chân nhân? Chư vị sư huynh, hiện nay đại quân Mông Cổ tiến đánh thành Tương Dương, xâm lăng quốc thổ nước ta, sát hại bách tính. Nếu bốn vị chưởng giáo tiền bối có mặt ở đây, liệu các vị ấy có nhận sắc phong hay không?

Mọi người nghe câu hỏi, nghĩ đến cách hành xử của Vương Trùng Dương, Mã Ngọc, Lưu Xứ Huyền, Khưu Xứ Cơ: Vương Trùng Dương từ trần đã lâu, các đệ tử đời thứ ba đều không biết mặt. Mã Ngọc khiêm hòa đôn hậu, xử sự theo lối thanh tịnh vô vi. Lưu Xứ Huyền vô cùng kín đáo, các đệ tử khó đoán biết tâm ý, còn Khưu Xứ Cơ thì tính nóng như lửa, trung nghĩa hơn người. Mọi người nghĩ đến Khưu Xứ Cơ không hẹn cùng nói:

– Khưu chưởng giáo tất nhiên không nhận.

Triệu Chí Kính thì nói lớn:

– Hiện tại chưởng giáo là sư đệ, chứ không phải là Khưu sư bá!

Doãn Chí Bình nói:

– Tiểu đệ tài đức tầm thường, không dám trái lời giáo huấn của sư phụ. Huống hồ tiểu đệ tội lỗi nghiêm trọng, chết chưa hết tội.

Nói đến đây, y cúi đầu im lặng.

Các đạo sĩ không hiểu hàm ý lời nói của y, trừ Triệu Chí Kính, còn ai cũng cho rằng y khiêm tốn nói thế, riêng câu “tội lỗi nghiêm trọng, chết chưa hết tội” có phần quá đáng. Triệu Chí Kính nói:

– Hừ, như vậy tức là sư đệ không chịu nhận sắc phong chứ gì?

Doãn Chí Bình đáp:

– Tiểu đệ bản thân không có gì đáng nói, nhưng danh dự của bổn giáo thì không thể để bị tổn hại dù chỉ một chút.

Giọng nói của y dần dần trở nên khẳng khái hiên ngang:

– Hiện nay hào kiệt tứ phương chính đang kết nghĩa chống ngoại xâm. Phái Toàn Chân hiệu xưng võ học chính tông, nếu đầu hàng Mông Cổ thì chúng ta còn mặt mũi nào nhìn anh hùng thiên hạ?

Các đạo sĩ Lý Chí Thường, Tống Đức Phương, Kỳ Chí Thành, Vương Chí Thản cùng reo to:

– Chưởng giáo sư huynh nói rất chí lý!

Triệu Chí Kính phẩy tay áo, hầm hầm bước ra khỏi phòng, đến cửa còn ngoảnh lại cười khẩy, nói:

– Chưởng giáo, nói thì hay lắm. Hừ, hậu quả thế nào, chắc sư đệ chưa hiểu đâu.

Đoạn hắn rảo bước đi.

Các đạo sĩ cùng tán thưởng Doãn Chí Bình quyết đoán sáng suốt, mấy gã đạo sĩ phụ họa theo Triệu Chí Kính thì cảm thấy ngượng, lặng lẽ bỏ ra.

Doãn Chí Bình lặng lặng trở về đan phòng của mình, biết Triệu Chí Kính bị thất ý sẽ không chịu thua, nhất định sẽ tố cáo tội lỗi của y với mọi người. Khi y tuyên xưng không nhận sắc phong, y đã quyết ý lìa trần; mấy tháng nay y lo sợ, bị hành hạ giày vò khổ sở, nghĩ sau khi sẽ được giải thoát hết thảy, thì trong lòng tự nhiên thanh thản; thế là y cài then cửa, rút kiếm đưa lên cứa cổ tự vẫn.

Đột nhiên từ sau giá sách có một người bước ra chộp lấy thanh kiếm của Doãn Chí Bình, người đó chính là Triệu Chí Kính, hắn nói:

– Sư đệ hủy hoại danh dự của bản giáo, lại định chết đi, bỏ mặc mọi việc hay sao? Long cô nương chờ ở ngoài kia, khi nàng ta tiến vào tố cáo, thì bọn ta biết đối đáp sao đây?

Doãn Chí Bình nói:

– Được, vậy tiểu đệ sẽ ra tự vẫn trước mặt nàng ta để tạ tội vậy

Triệu Chí Kính nói:

– Dẫu sư đệ có tự vẫn, cũng không chấm dứt được chuyện đó. Khi năm vị sư trưởng khai quan, nhất định sẽ truy hỏi. Danh dự của phái Toàn Chân bị mất, sư đệ thành kẻ có tội muôn đời.

Doãn Chí Bình không chịu đựng nổi, đột nhiên ngồi phệt xuống đất, ôm đầu lẩm bẩm:

– Sư huynh bảo phải làm thế nào đây? Muốn chết cũng không xong

Vừa nãy trước nhiều người, y nói năng hùng hồn, bây giờ chỉ có một mình với Triệu Chí Kính, y lại không còn sức tự chủ được nữa. Triệu Chí Kính nói:

– Được, sư đệ chỉ cần nghe ta một việc thì vụ Long cô nương ta bỏ qua cho sư đệ, danh dự của bản giáo và của sư đệ đều nguyên vẹn, không có hậu họa nào hết.

Doãn Chí Bình nói:

– Sư huynh muốn tiểu đệ nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ chứ gì?

Triệu Chí Kính nói:

– Không, không! Ta không đòi sư đệ phải nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ.

Doãn Chí Bình thấy nhẹ người, mừng rỡ nói:

– Vậy là việc gì? Sư huynh nói đi, tiểu đệ sẽ làm theo.

Nửa canh giờ sau, chuông trống trong đại điện cùng vang rền triệu tập đạo chúng toàn cung. Lý Chí Thường phân phó các sư đệ là môn hạ của Khưu Xứ Cơ cùng đệ tử của họ giấu sẵn binh khí trong người, đề phòng việc Doãn Chí Bình không nhận sắc phong làm cho Triệu Chí Kính và phe cánh gây chuyện gì chăng. Đại điện đông nghịt người, thần sắc của các đạo sĩ đều căng thẳng.

Chỉ thấy Doãn Chí Bình từ hậu điện chậm rãi bước ra, mặt nhợt nhạt, đứng giữa điện, nói:

– Các vị sư huynh, tiểu đạo phụng mệnh Khưu chưởng giáo tiếp nhiệm chưởng giáo, không ngờ bị bệnh cấp tính, không thể chữa trị…

Câu nói bất ngờ khiến cho mười mấy đạo sĩ không hẹn kêu “Ôi!” Doãn Chí Bình nói tiếp:

– Trọng nhiệm chưởng giáo, tiểu đạo đã không thể gánh vác, vậy tiểu đạo lệnh cho đại đệ tử của Ngọc Dương tử là Triệu Chí Kính tiếp nhiệm chưởng giáo!

Câu này nói ra, đại điện đang im phăng phắc, tức thời bọn Lý Chí Thường, Tống Đức Phương, Vương Chí Thản lớn tiếng phản đối:

– Khưu chân nhân muốn Doãn sư huynh tiếp nhiệm chưởng giáo, trọng nhiệm ấy há có thể giao cho kẻ khác?

– Sư huynh chưởng giáo đang khỏe mạnh, sao tự dưng lại mắc bệnh bất trị?

– Chuyện này chắc có mưu mô lớn bên trong, sư huynh chưởng giáo chớ có mắc lừa kẻ gian.

Các đệ tử đời thứ tư không dám nói to, chỉ chụm đầu, rỉ tai nhau xôn xao nghị luận, đại điện nhốn nháo cả lên. Lý Chí Thường trừng mắt nhìn Triệu Chí Kính, thấy hắn ta thản nhiên chắp tay sau đít, coi như không nghe thấy lời nói của mọi người.

Doãn Chí Bình hai tay làm hiệu cho mọi người im lặng, nói:

– Việc xảy ra đột ngột, chẳng trách các vị không rõ lý do. Bổn giáo hiện lâm đại họa, tiểu đạo lại từng làm một việc quá sai trái, lúc này dẫu có tự sát để tạ tội cũng không thể cứu vãn được.

Nói đến đây, thần sắc vô cùng thảm hại, dừng một chút, nói tiếp:

– Tiểu đạo suy đi nghĩ lại, chỉ có sư huynh Triệu Chí Kính tài đức cao siêu, mới có thể đưa bổn giáo vượt qua đại nạn. Xin các vị sư huynh sư đệ vứt bỏ thành kiến, xuất lực phò tá Triệu sư huynh làm rạng danh bổn giáo.

Lý Chí Thường khẳng khái nói:

– Người nào không có lỗi? Sư huynh chưởng giáo nếu quả thật có lỗi lầm, thì đợi năm vị sư trưởng khai quan sẽ bẩm cáo, chịu trách phạt là được. Còn việc nhường chức vị chưởng giáo, chúng tôi không thế nào chấp nhận.

Doãn Chí Bình thở dài, nói:

– Lý sư đệ, hai chúng ta giao hảo nhiều năm, tình như cốt nhục. Việc hôm nay, mong sư đệ lượng thứ cho nỗi khổ tâm bất đắc dĩ của ngu huynh, đừng làm khó nữa.

Lý Chí Thường đầy nghi ngờ, nhìn kỹ Doãn Chí Bình, thấy thần sắc y quả có chứa nỗi khổ tâm khó nói, giọng chứa đựng vẻ cầu khẩn thiết tha, thì cúi đầu không nói nữa, chỉ suy nghĩ phương cách. Vương Chí Thản nói:

– Sư huynh chưởng giáo muốn nhường thật sự, hãy đợi năm vị sư trưởng khai quan sẽ bẩm cáo, mới không làm lỡ đại sự.

Doãn Chí Bình rầu rĩ nói:

– Sự việc cấp bách, không thể chờ lâu.

Vương Chí Thản nói:

– Được, nếu đúng như vậy, thì trong số các sư huynh sư đệ cùng lứa, không phải không có những vị tài đức song toàn hơn Triệu sư huynh. Sư huynh Lý Chí Thường đạo lực cao thâm, sư đệ Tống Đức Phương hành sự tài cán, hơn hẳn Triệu sư huynh là người tất cả không phục.

Triệu Chí Kính tính cách nóng nảy, không nhịn được lâu, bèn cười khẩy, nói:

– Còn kẻ nào dám làm dám chịu như sư huynh Vương Chí Thản hay không?

Vương Chí Thản tức giận nói:

– Tiểu đệ bất tài, thua xa các vị sư huynh sư đệ; nhưng so với Triệu sư huynh, thì tự nghĩ mình còn hơn một bậc.

Triệu Chí Kính cười gằn, ngẩng đầu nhìn lên mái nhà, vẻ mặt cực kỳ ngạo mạn. Vương Chí Thản nói to:

– Võ công kiếm thuật của tiểu đệ dĩ nhiên không phải là đối thủ của Triệu sư huynh, nhưng tiểu đệ chí ít cũng không biết làm Hán gian.

Triệu Chí Kính sa sầm mặt, quát:

– Ngươi có giỏi thì nói rõ ra coi, ai làm Hán gian?

Hai người đấu khẩu càng lúc càng dữ.

Doãn Chí Bình nói:

– Các vị đừng tranh cãi nữa, hãy nghe tiểu đạo.

Triệu, Vương hai người ngừng cãi, song vẫn hầm hầm nhìn nhau. Doãn Chí Bình nói:

– Qui củ lâu nay của bổn giáo, chức chưởng giáo bao giờ cũng do chưởng giáo tiền nhiệm chỉ định, hoàn toàn không do đồng đạo bổn giáo tiến cử, có phải vậy không?

Mọi người cùng đáp:

– Phải!

Doãn Chí Bình nói:

– Bây giờ tiểu đạo chỉ định Triệu Chí Kính làm chưởng giáo của bổn giáo, mọi người không được tranh cãi. Triệu sư huynh, hãy lại đây nghe dặn.

Triệu Chí Kính dương dương đắc ý, bước lên cúi mình hành lễ.

Vương Chí Thản và Tống Đức Phương định nói, thì Lý Chí Thường kéo tay áo, nháy mắt với hai người, họ biết Lý Chí Thường hành xử mưu trí, tất có cách khác, nên không tranh cãi thêm. Lý Chí Thường nói nhỏ:

– Doãn sư huynh chắc là bị Triệu Chí Kính khống chế, không dám phản kháng. Chúng ta cần bí mật nắm rõ mưu gian của Triệu Chí Kính đã. Hiện tại Doãn sư huynh đã nói như vậy, nếu tranh cãi thêm, chỉ lộ rõ sự đuối lý của chúng ta mà thôi.

Vương, Tống hai người gật đầu khen phải, cùng mọi người tham gia lễ giao tiếp chức vị chưởng giáo.

Trong một ngày, phái Toàn Chân có hai người trước sau tiếp nhiệm chưởng giáo, chúng đạo sĩ hoặc tỏ sự bất bình, hoặc thầm lấy làm lạ.

Nghi lễ tiếp nhiệm chưởng giáo hoàn tất, Triệu Chí Kính ngồi giữa, sai đệ tử đích truyền của hắn hộ vệ ở hai bên, nói:

– Cho mời thiên sứ của đại hãn bệ hạ Mông Cổ.

Hai chữ “thiên sứ” vừa nói ra. Vương Chí Thản không kìm được định lên tiếng chỉ trích, Lý Chí Thường vội dùng mắt ra hiệu ngăn lại. Một lát sau, bốn đạo sĩ đưa viên quan Mông Cổ cùng Tiêu Tương Tử ra đại điện.

Triệu Chí Kính vội ra cửa điện nghênh đón, tươi cười nói:

– Mời vào, mời vào!

Viên quan Mông Cổ phải chờ lâu đã bực mình, giờ lại không thấy Doãn Chí Bình ra đón, mặt mũi càng khó coi; một đạo sĩ tiếp khách biết ý, nói:

– Chức vị chưởng giáo bổn giáo từ lúc này do vị Triệu Chân nhân đây tiếp nhiệm.

Viên quan ngẩn ra, đổi từ giận sang vui, cười nói:

– Thì ra là vậy, cung hỉ cung hỉ!

Đoạn ôm quyền hành lễ. Tiêu Tương Tử đứng sau y hai bước, vẻ mặt lầm lì, không biểu lộ hỉ nộ.

Triệu Chí Kính khúm núm dẫn viên quan Mông Cổ vào đại điện, nói:

– Mời đại nhân tuyên thị thánh chỉ.

Viên quan mỉm cười, nghĩ: “Phải là người như ngươi làm chưởng giáo mới đúng. Cái gã ban nãy làm cho người ta khó chịu.” Y rút thánh chỉ, hai tay mở ra. Triệu Chí Kính quì xuống, nghe viên quan tuyên đọc:

– Sắc phong chưởng giáo phái Toàn Chân làm…

Lý Chí Thường, Vương Chí Thản thấy Triệu Chí Kính công khai nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ, thì đưa mắt cho nhau, xoẹt xoẹt mấy tiếng, hàn quang loang loáng, các thanh kiếm được rút ra từ dưới áo đạo bào. Vương Chí Thản và Tống Đức Phương sấn nhanh tới, hai mũi kiếm đã gí vào hậu tâm Triệu Chí Kính. Lý Chí Thường quát:

– Bổn giáo lấy trung nghĩa làm đầu, quyết không đầu hàng Mông Cổ. Triệu Chí Kính phản bội tổ tông, làm trái ý trời lòng người, không thể tái nhiệm chưởng giáo.

Bốn đại đệ tử khác cũng tuốt kiếm vây quanh viên quan Mông Cổ và Tiêu Tương Tử.

Biến cố diễn ra đột ngột. Triệu Chí Kính tuy sớm biết bọn Lý Chí Thường không phục, nhưng uy quyền của chưởng giáo cực lớn, xưa nay không ai dám chống lại, hắn đã giữ chức đó tức là trở thành thủ lĩnh tối cao trong giáo phái, pháp chỉ do hắn đưa ra, ngay năm vị sư trưởng cũng không thể phản đối, ai ngờ đối phương lại dám động võ với chưởng giáo. Lúc này huyệt đạo yếu hại ở sau lưng hắn đã bị hai mũi kiếm chế ngự; hắn tức giận chứ không sợ, quát:

– Cuồng đồ to gan, dám phạm thượng làm loạn ư?

Vương Chí Thản quát lại:

– Gian tặc! Ngươi dám cử động thì thân thể ngươi sẽ có hai cái lỗ xuyên suốt đó!

Triệu Chí Kính võ công vốn cao hơn Vương, Tống hai người, nhưng vừa rồi bị bất ngờ, bị hai người khống chế lúc đang quì dưới đất, đã hoàn toàn ở thế hạ phong. Hắn đã bố trí mười mấy tên thân tín hộ vệ, có giấu binh khí trong đạo bào, nhưng bọn Lý Chí Thường, Vương Chí Thản đều là đệ tử đích truyền của Khưu Xứ Cơ, người thường rất có uy vọng trong bản giáo, nay họ đột nhiên nhất tề xuất thủ, bọn tâm phúc của Triệu Chí Kính cũng không dám động đậy. Có vài kẻ định rút binh khí ra, đều bị đối phương điểm huyệt. Kẻ đả thương Tôn bà bà là Trương Chí Quang, kẻ từng đấu với Lục Vô Song ở Sài Lang cốc là Thân Chí Phàm, đệ tử của Triệu Chí Kính là Lộc Thanh Đốc cũng nằm trong số đó.

Lý Chí Thường nói với viên quan Mông Cổ:

– Mông Cổ và Đại Tống đã thành nước thù địch, chúng tôi là dân Đại Tống, há có thể nhận sắc phong của Mông Cổ? Mời hai vị trở về, sau này gặp nhau ở biên cương, chúng tôi sẽ tiếp đón hai vị theo cách khác.

Mấy lời này được nói ra rất kiên quyết, nhiều đạo sĩ trong điện reo hò hưởng ứng.

Viên quan Mông Cổ đứng trước mũi kiếm không chút hoảng hốt, cười khẩy nói:

– Các vị hôm nay khinh cử vọng động, không biết tốt xấu, cơ nghiệp lớn của phái Toàn chân sắp bị hủy hoại trong một buổi, đáng tiếc lắm thay!

Lý Chí Thường nói:

– Giang sơn Thần Châu đều đã bị tàn phá, một giáo phái nhỏ của chúng tôi có gì đáng kể? Các hạ không rời khỏi đây cho nhanh, lỡ có người vô lễ, tiểu đạo vị tất có thể ngăn họ được!

Tiêu Tương Tử bỗng lạnh lùng nói xen vào:

– Vô lễ như thế nào, làm thử ta coi!

Hắn vươn hai tay đoạt luôn hai thanh kiếm của Vương Chí Thản và Tống Đức Phương. Triệu Chí Kính lập tức vọt dậy, hai tay sử chiêu “Bạch vân xuất tụ” che hậu tâm, đứng bên cạnh viên quan Mông Cổ. Tiêu Tương Tử tay trái đưa một thanh kiếm cho Triệu Chí Kính, tay phải đâm một kiếm về phía Lý Chí Thường. Lý Chí Thường giơ kiếm đỡ, cảm thấy cánh tay hơi tê, vội vận lực chống trả, cạch cạch, cả hai thanh kiếm cùng gãy.

Tiêu Tương Tử đoạt kiếm, đâm kiếm, mau lẹ vô cùng, chỉ trong chớp mắt, tiếp đó vung tay áo, song chưởng cùng cung, đánh bật trường kiếm của bốn đại đệ tử phái Toàn Chân ở bên cạnh. Hắn sử liền ba chiêu, đánh bại bảy cao thủ phái Toàn Chân, mấy trăm đạo sĩ trong đại điện đều kinh hãi trước võ công cao cường của một kẻ trông y như một cái thây ma.

Triệu Chí Kính vốn coi khinh võ công của mấy người như Vương Chí Thản, Tống Đức Phương, vừa rồi lại bị họ trước mặt bao người chế ngự không ngẩng đầu lên được, làm sao không tức giận. Bây giờ có kiếm trong tay, hắn liền đâm luôn về phía Vương Chí Thản. Chiêu “Đại giang đông khứ” này là chiêu số cực kỳ lợi hại trong kiếm pháp phái Toàn Chân, mũi kiếm ù ù đâm thẳng tới bụng dưới Vương Chí Thản.

Vương Chí Thản tránh vội về phía sau. Triệu Chí Kính hạ thủ không chút lưu tình, quyết lấy mạng Vương Chí Thản, hắn vươn dài cánh tay, mũi kiếm sắp tới bụng Vương Chí Thản, mọi người nhìn Vương Chí Thản khó lòng thoát chết, đều lặng đi; đột nhiên có một người vung tay áo cuốn mũi kiếm sang một bên, cạch một tiếng, kiếm gãy đôi, Vương Chí Thản lùi ra sau, hai thanh kiếm hai bên chĩa vào, ngăn Triệu Chí Kính lại. Người vừa xuất thủ chính là Doãn Chí Bình.

Triệu Chí Kính cả giận, chỉ mặt Doãn Chí Bình quát:

– Ngươi… ngươi… dám như vậy?

Doãn Chí Bình nói:

– Triệu sư huynh, sư huynh chính miệng đáp ứng không nhận sắc phong của Mông Cổ, tiểu đạo mới nhường chức chưởng giáo cho sư huynh, tại sao trong giây lát đã nuốt lời?

Triệu Chí Kính nói:

– Hừ, ban nãy ngươi hỏi ta: “Sư huynh muốn tiểu đệ nhận sắc phong của Mông Cổ chứ gì?” Ta bảo: “Không, ta không đòi sư đệ nhận sắc phong của Mông Cổ”. Ta nói sao làm vậy. Người nhận sắc phong của Mông Cổ là ta, chứ đâu phải ngươi.

Doãn Chí Bình nói:

– Thì ra vậy, thì ra là vậy, ngươi quá xảo quyệt!

Lúc này Lý Chí Thường nhận một thanh kiếm từ tay đệ tử, nói lớn:

– Hỡi các huynh đệ phái Toàn Chân, chúng ta vẫn coi Doãn chân nhân là chưởng giáo. Mọi người hãy tóm cổ tên Hán gian họ Triệu, để chưởng giáo chân nhân phát lạc.

Đoạn xông tới đấu với Triệu Chí Kính. Vương Chí Thản, Tống Đức Phương và năm đại đệ tử còn lại hợp thành Thiên Cang Bắc Đẩu trận, bao vây Tiêu Tương Tử lại. Tiêu Tương Tử võ công tuy cao cường, nhưng một khi trận pháp chuyển động, uy lực phi thường, hắn vội rút cương bổng trong bọc ra chống đỡ, chỉ thấy trận pháp biến ảo, bảy đạo sĩ phái Toàn Chân di chuyển vị trí cho nhau hoa cả mắt.

Viên quan Mông Cổ đã lùi vào một góc đại điện, thấy tình thế bất lợi, vội rút tù và ra thổi. Hai đạo sĩ xông tới đoạt cái tù và, bẻ quặt cánh tay y, nhưng bị chậm một bước, tiếng tù và đã vọng ra ngoài.

Doãn Chí Bình biết y gọi ngoại viện, mình sắp lâm nguy, bất giác tinh thần phấn chấn, gọi to:

– Kỳ Chí Thành sư đệ, hãy khống chế viên quan Mông Cổ; Vu Đạo Hiển sư huynh, Vương Chí Cẩn sư huynh, mau cùng ba vị sư huynh tới động Ngọc Hư ở núi sau giúp Tôn sư huynh thủ hộ, đề phòng ngoại địch quấy phá năm vị sư trưởng tịnh tu. Trần Chí Ích sư đệ, hãy dẫn sáu người ra phòng thủ núi trước. Phòng Chí Khởi sư đệ, hãy dẫn sáu người ra phòng thủ núi bên trái; Lưu Đạo Ninh sư đệ, hãy dẫn sáu người ra phòng thủ núi bên phải.

Phòng thủ núi trước núi sau, bên phải bên trái, đều là sư đệ đồng môn của Doãn Chí Bình, đệ tử của Khưu Xứ Cơ. Phòng thủ động Ngọc Hư là Vu Đạo Hiển, môn hạ của Lưu Xứ Huyền, cùng Vương Chí Cẩn là môn hạ của Hách Đại Thông. Lưu Xứ Huyền và Hách Đại Thông đều đang tĩnh tu trong động Ngọc Hư; Vu, Vương hai người võ công đều cao, là người chính trực, chưa từng có dị tâm, quyết không làm hại các vị sư trưởng. Doãn Chí Bình trong giây lát đã phát lệnh đâu ra đó, các nơi yếu địa đều có người canh giữ, có thể tiếp ứng cứu viện cho nhau, giả dụ có đại quân tấn công, nhất thời cũng khó tiến sâu. Chúng đệ tử thấy Doãn Chí Bình mục quang như tia chớp, chỉ huy uy nghiêm, không ai dám trái lệnh.

Bỗng nghe ngoài cổng lớn có tiếng huyên náo, tiếng quát tháo ầm ĩ. Các đạo sĩ đang kinh ngạc, thì có mấy chục người nhảy qua tường vào trong. Mé đông do Doãn Khắc Tây, mé tây do Ni Ma Tinh, chính diện do Mã Quang Tá dẫn đầu, toàn là các hảo thủ Mông Hán.

Nguyên Hốt Tất Liệt mãnh công thành Tương Dương, hơn một tháng không hạ được, trong quân bỗng nhiên dịch bệnh lan tràn, đợt tấn công cuối cùng vô hiệu, đành phải lui binh. Cái hôm Tiểu Long Nữ nhìn thấy đại quân gấp rút hành tiến về phía nam, chính là đợt công thành cuối cùng. Đại quân chưa rút, Hốt Tất Liệt đã sai người đi lôi kéo hào kiệt Trung Nguyên, mưu tính chuyện lâu dài, thánh chỉ của đại hãn Mông Cổ sắc phong cho chưởng giáo phái Toàn Chân, cũng là mưu kế của Hốt Tất Liệt; nhưng Hốt Tất Liệt biết giáo phái Toàn Chân toàn các bậc trung nghĩa, vị tất chịu qui phục, bèn phái Kim Luân Pháp vương suất lĩnh các cao thủ võ lâm mai phục xung quanh núi Chung Nam, nếu phái Toàn Chân trái lệnh, sẽ dùng vũ lực áp chế.

Núi Chung Nam vẫn phòng thủ nghiêm mật, nhưng trong một ngày đổi hai vị chưởng giáo, cung Trùng Dương rối loạn, các đạo sĩ giám quản việc phòng thủ đều được gọi vào cung tham gia lễ tiếp nhiệm chưởng giáo, cho nên bọn Ni Ma Tinh, Doãn Khắc Tây vào đến bức tường bao quanh cung Trùng Dương mà mọi người bên trong vẫn không phát hiện. Bây giờ kẻ địch bất ngờ xuất hiện, các nhóm người Doãn Chí Bình phái đi phòng thủ các nơi đa phần chưa kịp rời cung, chỉ thấy trước sau tả hữu đều có địch, số đạo sĩ phái Toàn Chân tuy đông, nhưng một là không mang theo binh khí, hai là bị bao vây, dồn đống một chỗ, những vị trí yếu hại đều rơi vào tay địch, tình thế thảm bại đã rõ ràng.

Viên quan Mông Cổ đọc sắc phong vốn bị Kỳ Chí Thành bắt giữ, lúc này còn cao giọng nói:

– Các vị đạo trưởng phái Toàn Chân, mau hạ vũ khí, nghe hiệu lệnh của chưởng giáo Triệu chân nhân.

Doãn Chí Bình quát:

– Triệu Chí Kính phản bội tổ sư, đầu hàng ngoại địch, đã phạm trọng tội, không còn là chưởng giáo bổn giáo.

Doãn Chí Bình thấy tình thế quá bất lợi, nhưng quyết ý liều chết, chỉ huy các đạo sĩ chống địch. Song các đạo sĩ phần lớn tay không, đấu một lát đã có mười mấy người ngã gục; rồi Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường, Vương Chí Thản, Tống Đức Phương, Kỳ Chí Thành lần lượt hoặc bị tước binh khí, hoặc bị thương ngã xuống, hoặc bị điểm huyệt; số đạo sĩ còn lại bị đám võ sĩ do Doãn Khắc Tây chỉ huy dồn vào một góc đại điện, không cách gì chống cự.

Viên quan Mông Cổ chức vị rất cao, bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử đều nghe hiệu lệnh của y. Y thấy đã toàn thắng, bèn nói với Triệu Chí Kính:

– Triệu chân nhân, nể mặt chân nhân, vụ giáo chúng phái Toàn Chân mưu phản chống lệnh, ta sẽ bỏ qua, không khải tấu.

Triệu Chí Kính khúm núm luôn miệng đa tạ, hắn chợt nhớ điều gì, vội nói nhỏ với Tiêu Tương Tử:

– Có một việc lớn phiền tiền bối giúp cho, năm vị sư phụ, sư bá, sư thúc của vãn bối đang tịnh tu ở núi sau. Nếu để họ tới đây, thì… thì…

Tiêu Tương Tử nói:

– Thì cứ để họ đến, ta sẽ tống cổ họ đi ngay.

Triệu Chỉ Kính không dám nói thêm, trong bụng vừa không hài lòng, vừa lo, nghĩ: “Lão đừng coi thường sư phụ, sư bá của ta, họ mà đến đây thật, thì lão khốn khổ đấy. Nhưng nếu họ đánh bại các võ sĩ Mông Cổ, thì ta khó bảo toàn tính mạng”.

Viên quan nói:

– Triệu chân nhân, hãy bái lĩnh sắc phong của đại hãn bệ hạ, rồi sẽ xử trí bọn phản đồ!

Triệu Chí Kính vâng dạ, quì xuống nghe chỉ.

Bọn Doãn chí Bình, Lý Chí Thường bị trói chân tay, nghe viên quan đọc sắc phong, thấy Triệu Chí Kính rập đầu tạ ơn, miệng hô vạn tuế, thì căm hận vô cùng. Tống Đức Phương ngồi bên cạnh Lý Chí Thường, nói nhỏ:

– Lý sư ca, hãy cởi dây trói tay cho đệ, đệ sẽ chạy đi bẩm cáo sư trưởng.

Lý Chí Thường kề sát lưng vào lưng Tống Đức Phương, ngầm vận nội lực, dùng mấy ngón tay cởi dây trói cổ tay cho Tống Đức Phương, dặn khẽ:

– Sư đệ hãy thong thả bẩm cáo, làm như không có tai họa gì ghê gớm, đừng để năm vị sư trưởng bị chấn kinh nguy hiểm…

Tống Đức Phương chậm rãi gật đầu.

Việc tuyên đọc sắc phong chấm dứt, Triệu Chí Kính đứng dậy, viên quan Mông Cổ và Tiêu Tương Tử chúc mừng hắn.

Tống Đức Phương thấy mọi người vây quanh Triệu Chí Kính, liền bật dậy, chạy ra sau điện Tam Thanh. Ni Ma Tinh nhìn thấy, quát to:

– Đứng lại!

Tống Đức Phương chạy gấp hơn. Ni Ma Tinh đã cụt hai chân, không chạy được, vung tay trái, một mũi phi tiêu hình con rắn phóng đi, trúng vào đùi trái của Tống Đức Phương. Ni Ma Tinh quát:

– Nằm xuống!

Tống Đức Phương cố nhịn đau, lặc lè chạy tiếp, cung Trùng Dương nhà cửa san sát, Tống Đức Phương chạy vài đoạn quành, mấy võ sĩ Mông Cổ đuổi theo đã không còn thấy bóng y đâu nữa.

Tống Đức Phương chạy tới một chỗ kín đáo, rút mũi tiêu ra, băng vết thương lại, vào một đan phòng lấy một thanh kiếm, chạy ra núi sau. Y chạy qua một dãy cây tùng xanh, vừa nhìn thấy cửa động Ngọc Hư thì chợt kêu khổ: có mấy chục tên võ sĩ Mông Cổ đang khuân đá lấp cửa động. Một vị Tạng tăng đứng đôn đốc, cạnh lão ta có một tăng một tục chỉ huy, chính là hai kẻ từng đến tấn công cung Trùng Dương hồi trước, chính là Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba, võ công ngang ngửa với Hách Đại Thông. Vị Tạng tăng cao gầy, vai vế và võ công chắc cao hơn hai người kia, thấy cửa động Ngọc Hư đã bị lấp bảy, tám phần mười, không rõ tính mạng năm vị sư trưởng thế nào, nghĩ thầm: “Sư phụ đối với ta ơn nặng như non, nếu ta không liều mình cứu hộ, cũng uổng kiếp sống trên thế gian”.

Y biết rõ xông tới ngăn chặn chẳng qua chỉ mất mạng, không thể nào giải nguy cho sư phụ, nhưng cả giáo phái gặp đại nạn, một mình không thể cầu toàn, bèn từ sau cây lao ra, vận kiếm như gió, đâm tới sau lưng Tạng tăng. Y nghĩ bắt giặc phải bắt tên đầu sỏ trước, nhát kiếm này nếu may mắn đắc thủ, bọn địch tất rối loạn.

Tạng tăng chính là Kim Luân Pháp vương. Pháp vương đã hỏi kỹ Triệu Chí Kính về nội tình trong phái Toàn Chân, nên vừa lên núi liền tới động Ngọc Hư, biết rằng chỉ cần chế ngự Toàn Chân ngũ tử, thì đám đại đệ tử đời thứ ba, thứ tư không cách gì chống cự nổi.

Mũi kiếm của Tống Đức Phương còn cách lưng lão ta chưa đầy một thước, thấy lão ta hình như chưa phát giác, Tống Đức Phương đã mừng thầm, bỗng trước mắt loáng lên ánh kim quang, choang một tiếng, một thứ binh khí hình tròn quái dị từ tay Tạng tăng bay ra sau, đập vào kiếm. Tống Đức Phương hổ khẩu đau nhói, thanh kiếm tuột khỏi tay bay mất, cảm thấy nhộn nhạo, thổ ra một ngụm máu tươi, mơ mơ hồ hồ nghe loáng thoáng rất nhiều tiếng hô hoán, không biết lại xảy ra việc gì, nôn nao lo sợ, ngất lịm đi.

Kim Luân Pháp vương cũng nghe phía đại điện có tiếng thét, nhưng lão nghĩ ở đó có hai cao thủ như Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây chủ trì, thì các đại đệ tử đời thứ ba phái Toàn Chân nhất định không chống cự nổi, lão chẳng phải lo, chỉ thúc giục bọn võ sĩ mau khiêng đá lớn lấp cửa động Ngọc Hư, đề phòng Toàn Chân ngũ tử xông ra.

Ở đại điện, từ lúc Tống Đức Phương chạy đi, tình hình lại có biến động. Viên quan Mông Cổ nói với Triệu Chí Kính:

– Triệu chân nhân, bọn phạm thượng làm loạn trong quí giáo, ta xem ra không ít, chức vị chưởng giáo của Triệu chân nhân khó bề vững vàng.

Triệu Chí Kính cũng biết các đạo sĩ phần lớn không phục, chỉ cần bọn Tiêu Tương Tử rời đi, các đạo sĩ sẽ lập tức phản kích; đã trót thì trét, giờ hắn đã cưỡi trên lưng hổ, bèn quát lớn:

– Chiếu theo giáo qui bổn giáo, kẻ phản giáo phạm thượng phải bị tội gì?

Quần đạo lẳng lặng không nói, nghĩ bụng: Chính ngươi mới là kẻ phản giáo phạm thượng”. Triệu Chí Kính nhắc lại câu nói, nhìn Lộc Thanh Đốc, muốn hắn trả lời. Lộc Thanh Đốc nói:

– Thì phải tự xử trước tượng thần Tam Thanh.

Triệu Chí Kính nói:

– Đúng thế! Doãn Chí Bình, ngươi biết tội hay chưa? Đã phục hay chưa?

Doãn Chí Bình nói:

– Không phục!

Triệu Chí Kính nói:

– Được, dẫn nó lại đằng kia!

Lộc Thanh Đốc đẩy Doãn Chí Bình tới đứng trước tượng thần Tam Thanh. Triệu Chí Kính lại hỏi Lý Chí Thường, Vương Chí Thản và các đạo sĩ, ai cũng trả lời “Không phục!” chỉ có ba người xin tha mạng, Triệu Chí Kính liên hạ lệnh cởi trói cho ba kẻ đó. Hai mươi bốn người bất khuất, người nóng tính như Vương Chí Thản thì cứ luôn miệng mắng nhiếc Triệu Chí Kính.

Triệu Chí Kính nói:

– Các ngươi quật cường như thế, bổn chưởng giáo dù có đức hiếu sinh, cũng hết cách khoan dung. Lộc Thanh Đốc, ngươi hãy thay tổ sư gia hành pháp đi!

Lộc Thanh Đốc vung kiếm giết luôn người đứng thứ nhất hàng bên trái là Vu Đạo Hiển.

Vu Đạo Hiển là người hòa nhã đôn hậu, mọi người trong cung trên dưới đều giao hảo với vị đạo sĩ này. Họ nhìn cảnh Lộc Thanh Đốc đâm chết Vu Đạo Hiển, thì la hét phản đối. Tống Đức Phương và Pháp vương ở núi sau nghe tiếng thét lớn, chính là tiếng la hét của các đạo sĩ. Doãn Khắc Tây phẩy tay một cái, mấy chục võ sĩ Mông Cổ lăm lăm binh khí chắn phía trước các đạo sĩ.

Lộc Thanh Đốc nghe tiếng thét phẫn nộ của mọi người thì run sợ. Triệu Chí Kính giục:

– Mau hạ thủ, sao cứ chần chừ thế?

Lộc Thanh Đốc vâng dạ, lại vung kiếm đâm chết hai người nữa. Người đứng thứ tư hàng bên trái đã là Doãn Chí Bình. Lộc Thanh Đốc vung kiếm, sắp đâm vào ngực y, bỗng nghe một giọng nữ nhân lạnh lùng nói:

– Khoan, không được động thủ!

Lộc Thanh Đốc ngoảnh đầu, thấy một bạch y thiếu nữ đứng giữa cửa, chính là Tiểu Long Nữ. Nàng nói:

– Ngươi lui ra, người này để ta giết hắn!

Hồi 26: Thần Điêu trọng kiếm

Tiểu Long Nữ thấy nội bộ phái Toàn Chân cắn xé nhau, bọn võ sĩ Mông Cổ ào vào tấn công, mọi cảnh đó đối với nàng đều vô nghĩa, nàng không thèm để ý, nhưng khi thấy Lộc Thanh Đốc vung kiếm lên định giết Doãn Chí Bình, kẻ này làm sao có thể để cho người khác xử trí? Thế là nàng lập tức tiến lại ngăn chặn.

Triệu Chí Kính thấy Tiểu Long Nữ đột nhiên xuất hiện trong đại điện thì cả mừng, nghĩ: “Ta suốt dọc đường bị nàng truy đuổi khổ sở, bây giờ ta có rất nhiều cao thủ, nàng tự dẫn xác đến nộp mạng, đúng là trời ban cho ta!” Liền quát to:

– Con tiểu yêu nữ kia không phải là người tốt, bắt nó lại cho ta!

Bọn võ sĩ Mông Cổ không động đậy, hai tên đệ tử đích truyền của Triệu Chí Kính nghe lệnh của sư phụ, bèn tiến ra nắm lấy hai cánh tay Tiểu Long Nữ.

Tay hai kẻ đó chưa chạm đến tay áo của nàng, hàn quang đã loáng lên, hai kẻ đó chỉ cảm thấy cổ tay mình đau nhói, vội nhảy lùi, thì ra hai thanh kiếm ở sau lưng Tiểu Long Nữ đã được nàng rút ra. Trong chớp mắt, hai người đã bị trúng kiếm, gãy xương cổ tay, máu chảy ròng ròng. Mọi người xung quanh chưa nhìn rõ Tiểu Long Nữ xuất chiêu thế nào, thì hai đạo sĩ đã bị thương nhảy tránh, ai nấy không khỏi kinh hãi.

Lộc Thanh Đốc quát:

– Huynh đệ mau nhất tề xông tới! Bọn ta đông thế này, sợ gì con tiểu yêu nữ kia chứ?

Hắn nghĩ Tiểu Long Nữ dù võ công cao siêu, cũng chỉ là một nữ nhân, mọi người cùng ùa vào, tất sẽ thắng, bèn đâm kiếm tới trước. Tiểu Long Nữ mũi kiếm hơi động, hai cổ tay và hai bên đùi của Lộc Thanh Đốc đã trúng kiếm, hắn kêu rú lên, ngã gục xuống. Kiếm đâm nhanh đến thế, ngay các cao thủ như Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cũng nhìn nhau thất sắc. Bọn này ở Tuyệt Tình cốc từng chứng kiến nàng giao đấu với Công Tôn Chỉ, bấy giờ kiếm pháp tuy tinh diệu, song không thể xuất thần nhập hóa bằng lúc này.

Nguyên Tiểu Long Nữ được Chu Bá Thông truyền thụ thuật phân tâm nhị dụng, hai tay có thể làm hai việc không giống nhau, khiến võ công tăng tiến gấp bội. Khi nàng cùng Dương Quá song kiếm hợp bích, sử “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, thiên hạ đã ít người địch nổi, bây giờ nàng một mình sử dụng hai kiếm, uy lực càng mạnh. Hai người bất kể tâm ý tương thông đến mức nào, cũng không nhanh bằng ý niệm truyền trong đầu một người. Lúc này nàng sử kiếm tuy công lực không bằng hai người liên thủ, nhưng về độ nhanh nhạy, thì hơn hẳn hai người.

Dọc đường nàng đuổi theo Doãn Chí Bình, Triệu Chí Kính hai gã, nỗi tức giận chứa chất trong lòng nhiều ngày, chưa biết trút ra thế nào, bây giờ các đạo sĩ phái Toàn Chân tự gây sự trước, nàng thừa thế đánh trả, vừa ra đòn đã trúng đích, sự bi phẫn được dịp trút ra. Chỉ thấy bạch y phất phơ, hàn quang loang loáng, song kiếm như hai con ngân xà từ giữa đại điện lao ra tứ phía, liên tiếp tiếng keng keng, tiếng “úi chao”, chỗ này chỗ kia, trong giây lát các thanh kiếm trong tay bọn đạo sĩ phái Toàn Chân đều rơi xuống đất, cổ tay mỗi người đều trúng kiếm. Lạ là nàng toàn sử một chiêu “Hạo uyển ngọc trọc”, chúng đạo sĩ đều thấy kiếm quang của nàng lướt qua trước mắt, cổ tay đã cảm thấy đau nhói, hoàn toàn thúc thủ, không kịp chống đỡ. Nếu nhát kiếm của nàng không phải xỉa vào cổ tay, mà đâm vào chỗ yếu hại nơi ngực bụng, thì xác chết đã ngổn ngang trong điện. Chúng đạo sĩ sau khi bị thương đều kinh hãi nhảy tránh, trước tượng thần Tam Thanh chỉ còn bọn Doãn Chí Bình bị trói đứng đó mà thôi.

Tiểu Long Nữ từ sau khi học được thuật phân tâm nhị dụng, trừ việc luyện qua vài lần ở nơi đồng không mông quạnh, nàng chưa động thủ với ai, hôm nay đem ra thi thố, chính nàng cũng không ngờ thuật đó lại có uy lực mạnh mẽ như vậy, sau khi đánh bạt cả đám đạo sĩ, nàng dừng tay kinh ngạc.

Triệu Chí Kính thấy tình hình bất lợi, vội rút kiếm hộ thân, đồng thời lùi dần ra sau. Tiểu Long Nữ vốn căm hận hắn, nàng lắc mình một cái, song kiếm đã ngăn chặn cả trước mặt lẫn sau lưng hắn. Triệu Chí Kính vung kiếm mở đường, chỉ nghe keng một tiếng, Doãn Khắc Tây nói:

– Các hạ không xong đâu, tránh ra!

Thì ra Doãn Khắc Tây đã dùng kim long tiên đánh bật kiếm của Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ đả thương liền mười mấy người, bây giờ mới có một người đỡ được kiếm của nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Hôm nay ta tới đây tìm đạo sĩ phái Toàn Chân trả thù, không liên can gì đến người ngoài, các hạ hãy mau tránh ra.

Doãn Khắc Tây vừa rồi thấy nàng sử kiếm như tia chớp, cũng lạnh người, nhưng rốt cuộc y là cao thủ hạng nhất, không thể chỉ vì một lời nói của đối phương đã xuôi tay lui ra, nên cười nói:

– Phái Toàn Chân có người tốt kẻ xấu, một số kẻ quả thật đáng chết, nhưng không biết mấy tên tặc đạo đáng chết đã đắc tội gì với cô nương?

Tiểu Long Nữ chỉ hừm một tiếng, không trả lời.

Doãn Khắc Tây nghĩ thoạt đầu mình đã nói năng tử tế, động thủ nếu thua, nàng cũng không đến nỗi hạ độc thủ, khi thấy tình thế bất lợi, y sẽ lùi tránh ngay, người ngoài thấy mình và nàng quen nhau, cũng sẽ không cười mình nhút nhát, thế là y cười hì hì, nói:

– Long cô nương, xa nhau lâu ngày, cô nương quí thể ra sao?

Tiểu Long Nữ lại hừm một tiếng, mục quang không rời Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, chỉ lo chúng thừa cơ đào tẩu. Doãn Khắc Tây nói:

– Tức giận mấy gã tặc đạo kia, chỉ tổ bẩn tay cô nương thôi. Cô nương chỉ cần chỉ mặt tên nào, tại hạ sẽ thu thập hắn cho cô nương.

Tiểu Long Nữ nói:

– Được, các hạ hãy giết tên này cho bổn cô nương.

Nàng nói và chỉ mặt Triệu Chí Kính.

Doãn Khắc Tây nghĩ: “Người này đã nhận sắc phong của đại hãn Mông Cổ, sao lại giết hắn?” nói:

– Triệu chân nhân là người rất tốt, e rằng cô nương nhầm lẫn mất rồi, để tại hạ bảo hắn tạ tội với cô nương thì được.

Tiểu Long Nữ hơi cau mày, tay trái đã đâm kiếm về phía Doãn Khắc Tây nhanh như chớp. Doãn Khắc Tây vung kim tiên gạt đi, chỉ nghe “Ối!” một tiếng, Triệu Chí Kính đứng phía sau Doãn Khắc Tây đã trúng một kiếm vào vai. Bọn cao thủ như Tiêu Tương Tử cũng không nhìn ra nàng xuất chiêu kiểu gì, chỉ đoán có lẽ nàng đã đâm kiếm bên tay phải, vòng qua người Doãn Khắc Tây ra phía sau y.

Doãn Khắc Tây cả kinh, nghĩ nhát kiếm này tuy không đâm y, nhưng y không thể che chở cho Triệu Chí Kính, thì cũng mất mặt, đối phương xuất chiêu quá nhanh, hoàn toàn không nhìn rõ đường tiến thoái của song kiếm, như vậy chắc chắn y giao đấu sẽ thất bại, bèn thu tiên lại, nói:

– Long cô nương, mong cô nương thủ hạ lưu tình!

Tiểu Long Nữ không buồn lý đến y, không coi y là địch hay ta, di chuyển hai bước sang bên trái.

Doãn Khắc Tây nhìn theo, vẫn muốn che chở cho Triệu Chí Kính, bỗng nghe xoẹt một tiếng, y kinh ngạc ngoảnh lại, thấy áo bào ở vai trái của Triệu Chí Kính đã bị mũi kiếm đâm trúng, máu tươi loang đỏ. Nhát kiếm này của Tiểu Long Nữ đâm thế nào, người ngoài cũng không thể hiểu nổi, kiếm pháp tinh diệu thần tốc đến mức này, tựa hồ lai khứ vô tung, có thể đả thương kẻ địch nấp sau người khác.

Triệu Chí Kính trúng liền hai kiếm, nghĩ bụng Doãn Khắc Tây võ công tầm thường, không đáng làm chỗ dựa, trong cơn nguy cấp hắn vọt tới bên cạnh Tiêu Tương Tử. Tiểu Long Nữ giả bộ không nhìn thấy, nàng xoay người, tay trái đâm một kiếm về phía Doãn Khắc Tây, tay phải đã chĩa mũi kiếm tới trước ngực Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh tay trái nắm quải trượng, tay phải dùng thiết xà gạt kiếm, bỗng nghe Triệu Chí Kính rú lên, rồi keng, kiếm của hắn rơi xuống nền, thì ra cổ tay hắn đã bị trúng kiếm. Chiêu này càng kỳ quái. Rõ ràng Tiểu Long Nữ đứng cách xa hắn, đang bận công kích hai đại cao thủ khác, tại sao lại đả thương được hắn?

Tiêu Tương Tử nói:

– Hừ, Long cô nương kiếm pháp khá lợi hại, tại hạ cũng muốn lĩnh giáo!

Tả chưởng đẩy sang bên cạnh, Triệu Chí Kính chỉ cảm thấy một luồng đại lực đẩy vào vai hắn, hắn phải loạng choạng lui ra xa mấy trượng mới đứng vững lại được. Tiêu Tương Tử chưởng lực chưa thu về, cương bổng đã đồng thời đánh ra.

Mã Quang Tá vốn giao hảo với Dương Quá và Tiểu Long Nữ, lúc này trong bụng lo cho nàng, kêu to:

– Không biết ngượng, đúng là không biết ngượng, ba đại tông sư võ lâm vây đánh một thiếu nữ!

Tiêu Tương Tử nghe vậy, mặt hơi nóng. Bọn này vốn chẳng lý gì tới chuyện đạo đức nhân nghĩa, song đều là hạng ngạo mạn tự phụ, hết sức chú trọng thể diện thân phận. Bình thời đừng nói ba người liên thủ, ngay đơn đả độc đấu bọn họ cũng không động thủ với một thiếu nữ, nhưng lúc này tự biết một mình không đối phó nổi với kiếm chiêu xuất quỉ nhập thần của Tiểu Long Nữ, nên bọn họ làm như không nghe thấy câu nói châm biếm của Mã Quang Tá, nghĩ: “Gã hộ pháp kia, bọn ta cùng đi lo việc mi lại trợ giúp người ngoài, khi trở về phải trị cho mi một trận mới được”. Trong lúc nghĩ thế, kiếm quang đã loang loáng trước mặt, Tiểu Long Nữ đã xuất chiêu. Ba người đều không nhìn rõ kiếm thế của nàng, cùng nhảy lùi ra hơn một trượng, múa binh khí che đỡ chỗ yếu hại trên người mình.

Bọn võ sĩ Mông Cổ kéo đám đạo sĩ Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường, Vương Chí Thản đứng sát vào tường điện, biết rằng cuộc đấu của bốn người kia sẽ rất ác liệt, chỉ cần có một thứ binh khí bị văng ra, tất có người chết hoặc bị thương.

Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây đều mong Tiểu Long Nữ xuất thủ tấn công người khác trước, để mình nhận biết chiêu số của nàng, may ra có cơ thủ thắng. Cả ba cùng nghĩ vậy, thế là cùng thi triển tuyệt kỹ bình sinh, che chắn toàn thân thật chặt chẽ, trước hết chưa cần mình thắng, chỉ cầu đối phương không thể thắng. Ba đại cao thủ vừa ra tay đã thủ thế, bình sinh thật hiếm thấy, nhưng vì đối phương quá mạnh, nếu tiến công ngay, chỉ e chuốc lấy nhục nhã.

Trong đại điện, Tiểu Long Nữ đứng giữa, song kiếm chỉ xuống nền, bọn Tiêu Tương Tử ba người chia nhau đứng ba phía, trước mỗi người đều có một luồng hàn quang loang loáng. Kim tiên của Doãn Khắc Tây múa thành một đạo hoàng quang, thiết xà của Ni Ma Tinh là một bóng đen chợt tiến chợt thoái, cương bổng của Tiêu Tương Tử thì múa thành một tấm màn xám che chắn trước mặt.

Tiểu Long Nữ nhìn ba người một cái, nghĩ: “Ta và ba người không oán không thù, ta không rỗi hơi động thủ với các người”. Thấy Triệu Chí Kính len lén định lùi vào sau bức tượng thần, tay áo nàng liền phất ra, chân bước tới. Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử từ hai bên xáp lại chặn nàng. Tiểu Long Nữ đang đuổi theo Triệu Chí Kính, bị hai người chặn lại, bèn hỏi:

– Hai vị có nhường lối hay không thì bảo?

Tiêu Tương Tử nghĩ: “Mình với nàng ta không thù oán, vị tất nàng hạ độc thủ. Chưởng giáo phái Toàn Chân có gì tốt với ta mà ta phải vì hắn chuốc thù với cường địch?” Hắn trù trừ chưa đáp, Ni Ma Tinh đã nói:

– Bọn ta không nhường, xem tiểu yêu nữ nhà ngươi có bản sự gì cứ thi thố ta coi.

Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cùng trừng mắt nhìn Ni Ma Tinh, nghĩ thầm: “Bọn ta không nhường thì thôi, sao lại đi nói ác như vậy? Làm như một mình ngươi cũng chặn được nàng ta không bằng, thật là không biết tự lượng sức mình!” Hai người cùng không biết rằng Ni Ma Tinh bị mất hai chân là vì Dương Quá và Lý Mạc Sầu, mà Dương Quá là tình lang của Tiểu Long Nữ, nên Ni Ma Tinh trút oán hận lên người nàng, khi động thủ với nàng, hắn không giống hai người kia, hắn có ý một mất một còn với nàng.

Tiểu Long Nữ biết rằng muốn giết hai gã Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, phải đánh đuổi ba cao thủ này đã, bèn lạnh lùng nói:

– Ba vị đã không chịu nhường, thì bổn cô nương đành đắc tội!

Lời vừa dứt, kiếm quang loang loáng, chỉ nghe một tiếng keng thật dài, rồi Tiểu Long Nữ nhảy lùi lại hơn một trượng, trở lại đứng giữa đại diện. Bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử đều thất sắc. Nguyên tiếng keng thật dài vừa qua là do hơn bốn chục tiếng binh khí đụng nhau rất ngắn tạo nên. Trong giây lát Tiểu Long Nữ đã sử hơn bốn chục chiêu kiếm, Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh thủ thân chặt chẽ, một giọt nước cũng không vào lọt, mỗi chiêu đụng vào binh khí phát ra một tiếng ngắn, người ngoài nghe chúng hợp lại thành một tiếng dài. Chiêu số tấn công của nàng mau lẹ như thế khiến cho bọn Tiêu Tương Tử kinh hãi. Vừa rồi bọn họ múa binh khí thủ thân kín đáo từ trước, chứ đợi nàng xuất chiêu mới giơ binh khí chống đỡ thì đã trúng đòn cả rồi.

Tiểu Long Nữ tấn công không thành, cũng thán phục họ phòng thủ nghiêm mật, nhẹ nhàng nhảy lùi về phía sau, mặt hướng về phía Tiêu Tương Tử, nhưng song kiếm lại tấn công về phía Doãn Khắc Tây, keng keng liền mười hai tiếng, nghe như tiếng gảy đàn dồn dập, Doãn Khắc Tây dùng kim tiên cũng đánh bật mười hai chiêu đó.

Hai phen công thủ, bốn người đều tự hiểu thầm; Tiểu Long Nữ không thành công, vì nội lực không mạnh, kình lực của kiếm chiêu chưa chế ngự nổi binh khí của đối phương, giá như chân lực ngang ngửa như ba người, thì họ đã không thể chống cự. Tiểu Long Nữ trở vào giữa đại điện, nghĩ cách phá địch, thấy ba đối thủ múa binh khí càng lúc càng nhanh thêm, làm sao tìm ra chỗ sơ hở? Nàng nghĩ: “Họ múa binh khí như thế, nội lực sẽ bị tiêu hao rất lớn, khó bề kéo dài, mình chỉ việc đợi, chẳng mấy chốc sẽ tìm ra chỗ sơ hở. Cứ để cho Triệu Chí Kính đào tẩu, tìm hắn sau cũng không sao”; thế là nàng rung rung song kiếm, tưởng như tấn công mà không phải, sẵn sàng tung đòn nhưng chưa ra đòn, làm cho ba đối thủ không dám ngừng múa binh khí. Tiếc rằng bọn Tiêu Tương Tử nội lực đều vô cùng thâm hậu, họ múa binh khí như thế, nhất thời khí lực chẳng giảm sút chút nào. Tiểu Long Nữ thấy chưa có sơ hở để lợi dụng, thì cứ đứng đó, thần sắc nhàn nhã, đoan nghiêm. Tính nàng vốn lãnh đạm, đuổi theo Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính hơn một tháng trời mà không hề xuất thủ, bây giờ chờ nửa ngày đâu có ngại gì? Hai mươi năm tự thủ trong tòa cổ mộ tĩnh mịch, nàng đã sớm luyện thành lòng nhẫn nại vô song.

Ni Ma Tinh thấy nàng chống kiếm nhàn nhã, làm như xung quanh không có người, thì hắn không trấn tĩnh được nữa, gầm lên một tiếng, vung thiết xà tấn công nàng rất lẹ. Hắn vừa ra đòn, lộ ngay sơ hở bên trái; Tiểu Long Nữ thọc kiếm chếch tới, Ni Ma Tinh dùng quải trượng ghìm lại, nhưng cảm thấy vai hơi đau, liếc mắt một cái, thấy vai áo bên trái bị thủng một lỗ, máu tươi chảy ra. May mà Tiểu Long Nữ đề phòng hắn dùng thiết xà tấn công, chứ không thì hắn đã bị chém lìa mất một cánh tay rồi.

Ni Ma Tinh công kích không thành, lại còn bị thương, trong lòng tuy giận, song không dám tiến công nữa. Ba người ở ba phía múa tít binh khí, Tiểu Long Nữ đứng ở giữa chẳng buồn để tâm. Doãn Khắc Tây đã sử bộ “Hoàng sa vạn lý tiên pháp” đến lần thứ tư, đột nhiên nảy ra một kế, gọi:

– Ni Ma huynh, Tiêu Tương huynh, bọn ta hãy nhất tề tiến vào nửa bước.

Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử chưa hiểu dụng ý của Doãn Khắc Tây, nhưng biết y là đại thương gia Tây Vực, kiến thức quảng bác, đầu óc thông minh, thế nên làm theo lời y, nhất tề tiến vào nửa bước. Doãn Khắc Tây vừa bước vừa nói:

– Phòng thủ phải kín đáo, bước chân phải chậm rãi. Bọn ta lại nhất tề tiến vào nửa bước.

Ni, Tiêu hai gã làm theo.

Ba người thận trọng cứ thế hành động, lát sau lại tiến vào nửa bước; lúc này ai ai cũng thấy vòng vây của ba người quanh Tiểu Long Nữ cứ dần dần thu hẹp lại, cuối cùng sẽ dồn nàng vào một chỗ. Ba người tuy không tấn công, nhưng mỗi người múa binh khí như thế tạo nên thành đồng vách sắt khép dần vào, ba người thủ thế hợp thành một thế công hùng mạnh, thật khó chống cự. Bọn võ sĩ Mông Cổ và đám đạo sĩ theo phe Triệu Chí Kính nhìn cảnh ấy mừng thầm, các đạo sĩ còn lại thì lo cho nàng.

Tiểu Long Nữ thấy ba người càng lúc càng vào gần, chiêu số binh khí của họ tuyệt không có chỗ nào sơ hở, không lâu sẽ bị họ dồn ép tan thây, bèn vung song kiếm đâm liên tiếp, tiếng keng keng dồn dập, chiêu nào cũng đụng phải binh khí của đối phương. Nàng tấn công mấy chục kiếm, đều bị đánh bật trở lại, ba người kia vẫn cứ tiến vào nửa bước. Tiểu Long Nữ dần dà hoảng loạn, lúc lùi sang trái, nàng bị vấp chân một cái, người hơi lạng đi, đây là chỗ đại sơ hở trong kiếm pháp; nếu bọn Tiêu Tương Tử thừa cơ tấn công, thì nàng đã gặp nguy hiểm cực lớn.

Nguyên dưới nền đại điện vứt ngổn ngang mấy chục thanh kiếm, toàn là của các đạo sĩ phái Toàn Chân bị người ta tước đoạt mà quẳng xuống đất. Tiểu Long Nữ vừa rồi chân trái đạp phải một cái cán kiếm, suýt nữa thì ngã.

Nàng chợt nghĩ: “Người khác hai tay sử song kiếm, mình đã học thuật phân tâm nhị dụng, hai tay có thể sử dụng bốn thanh kiếm. Dẫu không có uy lực, cũng làm kẻ địch hoảng loạn, mình sẽ thừa cơ thoát khốn”. Bèn giao kiếm từ tay trái sang tay phải, rồi cúi xuống nhặt hai thanh kiếm dưới nền lên, mỗi tay hai kiếm cùng vung ra,

Bọn Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử cả kinh, đều nghĩ: “Chiêu số của cô nương này càng lúc càng lạ, bốn kiếm cùng sử, thật là chưa từng thấy!” Nhưng ba người đã có chủ định là bất biến ứng vạn biến, bất kể nàng sử dụng chiêu thuật kỳ quái gì, họ cũng chỉ thủ không công, từng bước dồn lại.

Tiểu Long Nữ bốn kiếm cùng sử, tuy làm cho người ta kinh ngạc, nhưng uy lực không bằng chỉ sử hai kiếm. Nếu sử mỗi tay một kiếm, tay trái sử kiếm pháp phái Toàn Chân, tay phải sử Ngọc nữ kiếm pháp, sẽ không có một kẽ hở; đằng này bốn kiếm cùng sử, hóa ra không linh hoạt, không đắc thủ ứng tâm.

Bọn Tiêu Tương Tử phát giác kiếm chiêu của nàng đột nhiên chậm lại, mũi kiếm đâm tới cũng không thần diệu khôn lường như lúc trước. Ni Ma Tinh vung thiết xà có ý tấn công. Doãn Khắc Tây vội kêu:

– Đừng làm thế, đó là kế dẫn dụ của đối phương đấy!

Ni Ma Tinh được nhắc nhở, giật mình, nghĩ thầm, may có tay lái buôn khôn ngoan nhắc mình, thì ra cô nương này giảo hoạt, chỉ chờ mình tấn công sẽ lập tức phản kích, chẳng những thế hợp vây bị phá, ngay cả tính mạng mình cũng khó toàn.

Kỳ thực Tiểu Long Nữ hoàn toàn không có ý dụ địch, nhưng nghe Doãn Khắc Tây nói vậy, thì nghĩ: “Hắn bảo ta dụ địch, thì ta dụ thật xem sao”. Đột nhiên tay phải vung một thanh kiếm lên trời, thanh kiếm thứ hai đâm ra; tay trái cũng vung một thanh kiếm lên trời. Bọn Tiêu Tương Tử kinh ngạc, không hiểu nàng lại giở trò gì, chỉ thấy hai thanh kiếm từ trên không chưa rơi xuống, nàng lại tung hai thanh kiếm còn lại lên trời, hóa ra trong tay không còn thứ binh khí nào.

Doãn Khắc Tây nói:

– Phải nghiêm thủ, nhất thiết không được tấn công.

Y không biết dụng ý của Tiểu Long Nữ, cho rằng chỉ cần phòng thủ nghiêm mật, từng bước tiến vào là sẽ thắng. Đối phương tuy đang tay không, song chẳng cần mạo hiểm tấn công.

Tiểu Long Nữ cúi xuống, hai tay không ngừng chộp các thanh kiếm ở dưới nền mà tung lên trời, đồng thời chộp những thanh kiếm từ trên rơi xuống mà tung lên. Mấy chục thanh kiếm tung lên rơi xuống, hàn quang loang loáng, y như một kỳ quan. Võ công phái Cổ Mộ vốn không lấy nội lực trầm hùng làm sở trường, mà dựa vào thủ pháp mau lẹ để thủ thắng. Hồi Tiểu Long Nữ truyền thụ võ công cho Dương Quá, từng dạy chàng cách dùng song chưởng chắn giữ tám mươi mốt con chim sẻ. Thủ pháp “Thiên la địa võng thế” thi triển ra, bầy chim sẻ còn có thể chặn được, nữa là mấy chục thanh kiếm, cứ được nàng chộp bắt tung lên như không, tưởng chừng trong tay nàng lúc nào cũng có binh khí và lúc nào cũng không có binh khí. Bọn Tiêu Tương Tử cứ há mồm tròn mắt mà nhìn, nghĩ cô nương này đang làm trò ảo thuật gì đây.

Đột nhiên Tiểu Long Nữ tay trái hất vào cán một thanh kiếm đang rơi xuống, làm cho nó bay ngang đâm nhanh về phía Doãn Khắc Tây, mũi kiếm đụng vào tấm màn kim long tiên mà y đang múa, bật lại cực nhanh về phía Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh đang múa thiết xà rất gấp, kiếm đụng vào nó văng về phía Tiểu Long Nữ. Lúc này từ trên không lại có hai thanh kiếm rơi xuống, Tiểu Long Nữ chộp cả ba thanh kiếm mà tấn công ba người.

Giờ thì mấy chục thanh kiếm không bay lên trời nữa, mà luẩn quẩn quay cuồng quanh ba tấm màn do binh khí của ba người kia tạo thành, có mấy thanh kiếm đụng mạnh vào thiết xà của Ni Ma Tinh, bị gãy rời làm hai đoạn. Tiểu Long Nữ mang bao tay kim loại, vỗ vào lưỡi kiếm mà không bị thương, nàng từ nhỏ đã luyện thủ pháp “Thiên la địa võng thế”, công phu tiến thoái trong phòng càng vô song, mắt tinh tay lẹ, càng đấu càng nhanh, trong lòng không gợn tạp niệm, cũng không bận tâm xem trận ác chiến này ai thắng ai bại, ai sống ai chết. Có lúc nàng tiện tay chộp được cán kiếm thì đâm địch vài nhát, có lúc chộp kiếm ném luôn về phía địch. Khi nàng cầm song kiếm trong tay, bọn Tiêu Tương Tử đã khó chống đỡ, bây giờ mấy chục thanh kiếm bay loạn đâm loạn, hỏi làm sao họ địch nổi? Huống hồ khi các thanh kiếm đụng vào binh khí của ba người kia, phương hướng và lực đạo là không thể khống chế, họ chưa đả thương nhau, chỉ là do số mệnh mà thôi.

Tiểu Long Nữ tung kiếm lên trời, vốn chỉ định làm rối mắt đối phương, lúc này tình thế biến hóa, hết sức có lợi cho nàng một cách bất ngờ. Giữa tiếng bay vù vù của binh khí, đã nghe thấy tiếng thở hổn hển của Ni Ma Tinh và Doãn Khắc Tây. Cương bổng của Tiêu Tương Tử vẫn múa nhanh, song đã có vẻ loạng choạng. Đột nhiên tay phải của Doãn Khắc Tây thõng xuống, y kêu:

– Hỏng rồi!

Nguyên có ba thanh kiếm bay tới, ba thanh kiếm này sau khi đụng phải binh khí của Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử thì bật ra, cùng văng về phía Doãn Khắc Tây, y dùng nhuyễn tiên hất đi, nhưng đúng lúc ấy Tiểu Long Nữ lại thọc kiếm đến, y cảm thấy cổ tay đau nhói, không nắm được nhuyễn tiên nữa.

Nghe xoảng một tiếng, nhuyễn tiên của Doãn Khắc Tây rơi xuống nền. Tiểu Long Nữ liên tiếp vung tay trái, bảy, tám thanh kiếm bay đi tấn công ba người, rồi hai tay chộp hai thanh kiếm, vọt tới trước mặt Doãn Khắc Tây.

Doãn Khắc Tây cổ tay bị thương, binh khí rơi xuống đất, bức tường sắt bao vây lập tức bị phá vỡ, y thấy song kiếm của Tiểu Long Nữ như hai tia chớp vụt tới, thì vội nhảy lùi ra sau. Khinh công của Tiểu Long Nữ đều cao hơn ba người, nàng vọt ra sau đại điện, đuổi theo Triệu Chí Kính.

Bọn Tiêu Tương Tử nhất thời chưa thể dừng tay múa binh khí, phải đợi cho mấy chục thanh kiếm rơi cả xuống đất xong xuôi. Doãn Khắc Tây ngượng ngùng, nói:

– Tiểu đệ bất tài, để nàng ta chạy mất rồi!

Ba người vốn không ai phục ai, chỉ tìm mọi cách chèn ép đối phương, nhưng vừa trải qua một trận ác đấu kinh tâm động phách, cả ba cùng có cảm giác thoát chết, bớt hẳn ý nghĩ thù địch đối với nhau. Ni Ma Tinh và Tiêu Tương Tử cùng nói:

– Cũng không thể trách Doãn huynh…

Lời chưa dứt, bỗng nghe tiếng binh khí va nhau từ núi sau vọng tới.

Trận đấu trong đại điện, bọn Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử đều đã kinh sợ, nhưng bây giờ nghe trong tiếng binh khí va chạm có tiếng ngũ luân của Kim Luân pháp vương bay u u, rõ ràng Tiểu Long Nữ đang động thủ với Kim Luân pháp vương, thì ba người này đều nghĩ: “Đã có Pháp vương làm chủ tướng, mình ùa lại giáp công, chắc chắn sẽ thắng”. Doãn Khắc Tây nhặt nhuyễn tiên lên, gọi:

– Chúng ta cùng đuổi theo!

Đoạn y lao đi trước. Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh suất lĩnh đám võ sĩ Mông Cổ chạy theo. Bọn chúng lúc này coi một mình Tiểu Long Nữ là đại địch, không thèm để mắt tới đám đạo sĩ phái Toàn Chân.

Bọn Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường thấy đám võ sĩ Mông Cổ bỏ đi, liền tự cởi trói cho nhau, nhặt kiếm rồi cũng chạy ra núi sau.

Bọn Tiêu Tương Tử chạy tới trước cửa động Ngọc Hư, phía sau cung Trùng Dương, thấy luân ảnh, kiếm khí tung hoành, Kim Luân pháp vương đang gầm lên như sấm, Tiểu Long Nữ áo trắng hơn tuyết, hai người cách nhau hơn một trượng, đang giao đấu với nhau. Kim, ngân, đồng, thiết, diên ngũ luân cứ bay vòng vòng, phát ra tiếng u u váng tai mọi người. Các chiếc luân của Pháp vương từng có cái bị mất trong giao chiến, đã được bổ sung, kích thước và trọng lượng hệt như cái đã mất, chỉ không có hoa văn và chân ngôn, chứ sử dụng vẫn đắc tâm ứng thủ.

Doãn Chí Bình và Lý Chí Thường thấy cửa động Ngọc Hư đã bị các tảng đá lấp kín, không biết năm vị sư trưởng sống chết thế nào, nóng ruột cùng chạy tới bên cửa động. Đạt Nhĩ Ba cầm kim chử, Hoắc Đô cầm cây quạt sắt, chỉ sau vài chiêu đã đánh lui các đạo sĩ.

Vương Chí Thản gọi to:

– Sư phụ, sư phụ có sao không?

Y lo sợ, giọng nghe như sắp khóc. Lý Chí Thường nghĩ: “Năm vị sư trưởng với huyền công của mình, đâu dễ để cho người ta chôn sống trong động? Chắc hẳn họ luyện đến thời khắc khẩn yếu, không thể phân tâm chống địch. Vương sư đệ kêu như thế, lỡ năm vị bên trong nghe thấy, sẽ bị loạn trí mất”, vội nói:

– Vương sư đệ, đừng gọi, đừng làm kinh động các vị sư trưởng.

Vương Chí Thản lập tức tỉnh ngộ, đỡ Tống Đức Phương nằm dưới đất lên, thấy y bị thương không nhẹ, bèn tìm cách cấp cứu.

Bọn Tiêu Tương Tử đứng ngoài xem Pháp vương đấu với Tiểu Long Nữ, tuy lão ta thủ nhiều công ít, đỡ vài ba chiêu mới đánh trả một chiêu, nhưng ngũ luân uy lực cực mạnh, không để cho Tiểu Long Nữ tới gần, rõ ràng hay hơn lối đánh chỉ thủ không công vừa nãy của ba người. Ba người vừa thán phục, vừa đố kỵ, nghĩ: “Lão hòa thượng này được phong làm đệ nhất quốc sư Mông Cổ cũng xứng đáng”. Ba người định giáp công hợp kích giúp Pháp vương, nhưng nhìn tình thế này, họ lại không muốn giúp lão ta nữa.

Bọn họ không biết rằng Pháp vương xuất chiêu tuy mạnh, nhưng trong bụng liên tiếp kêu khổ. Tiểu Long Nữ hai tay sử hai môn kiếm pháp khác nhau, phối hợp tinh diệu tuyệt luân, kiếm bên tay trái chém phía trước, kiếm bên tay phải đâm đàng sau, làm cho lão ta tiến không nổi, lùi chẳng xong. Mỗi chiêu kiếm lại tấn công mấy chỗ, lão đỡ chỗ này thì bỏ chỗ kia, thật khó lưỡng toàn. Nếu không phải lão nội công, ngoại công đều đạt cảnh giới đăng phong tạo cực, mắt tinh tay lẹ, cương nhu phối hợp, võ công chỉ cần non kém tí chút, thì đã bị trúng mười mấy kiếm rồi. Kỳ thực Tiểu Long Nữ một mình sử dụng hai môn kiếm pháp, xuất chiêu tuy nhanh, song uy lực không thể bằng khi liên thủ với Dương Quá, chưa nói võ công thực sự không chỉ thua xa Pháp vương mà còn thua cả bọn Tiêu Tương Tử. Có điều là nàng thoạt tiên đã xuất chiêu như chớp giật, ai ai cũng không nhận biết, nên họ bị hốt hoảng ngay từ đầu. Pháp vương từng bị thảm bại bởi “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp”, nên vừa thấy nàng sử dụng kiếm pháp đó, đã lo sợ tìm cách thoát thân. Tiểu Long Nữ chiếm thượng phong, quả là khởi đầu thuận lợi.

Đấu đến năm, sáu chục chiêu, Pháp vương đã như kẻ chết đi sống lại, thu kim luân về hộ thân; thêm vài chiêu nữa, lão thu cả ngân luân về, rồi cả năm luân cùng thu về, chỉ thủ không công, hệt như bọn Tiêu Tương Tử ban nãy. Năm chiếc luân kích thước, trọng lượng, màu sắc, hình dạng khác nhau, tạo thành năm đạo quang hoàn, bao quanh thân thể Pháp vương.

Bỗng nghe Tiểu Long Nữ và Pháp vương cùng khẽ quát “Trúng này!” tiếp đến hai tiếng choang choang. Hai người nhảy tới nhảy lui, xuất thủ càng lúc càng nhanh, cao thủ như bọn Tiêu Tương Tử cũng không nhìn rõ hai người biến chiêu thế nào. Pháp vương dường như dùng lực uy mãnh của luân đối công với Tiểu Long Nữ, nàng thì không địch nổi, song lão ta lại bỏ cái sở trường của mình, đi đua sự nhanh nhẹn với nàng, thành thử lão không tránh khỏi bất lợi.

Đột nhiên Ni Ma Tinh cảm thấy mặt hơi rát, tựa hồ bị trúng một loại ám khí nhỏ li ti nào đó. Hắn kinh hãi đưa tay lên sờ má, mặt không sao, nhưng tay có máu dính. Hắn kinh ngạc, lại thấy có giọt máu bắn tới mặt Doãn Khắc Tây, mới biết giữa hai người kịch đấu đã có một người bị thương. Lát sau thì tấm áo trắng của Tiểu Long Nữ cũng lấm tấm các giọt máu tươi trông như những đóa hoa đào vẽ trên lụa trắng. Ni Ma Tinh mừng rỡ reo lên:

– Tiểu yêu nữ bị thương rồi!

Kiếm quang loáng lên hai lần, Pháp vương khẽ rên rỉ, Tiêu Tương Tử lạnh lùng nói:

– Không đâu, là đại hòa thượng bị thương đó!

Ni Ma Tinh nghĩ: “Phải rồi, là Pháp vương bị thương, máu văng sang áo Tiểu Long Nữ, nếu Pháp vương bỏ mạng dưới tay nàng, thì không cách gì chế ngự được nàng nữa”, hắn liền gọi:

– Doãn huynh, Tiêu huynh, bọn ta cùng xông vào đi!

Rồi hắn vung thiết xà từ từ tiến đến sau lưng Tiểu Long Nữ. Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cũng thấy không thể tụ thủ bàng quan thêm, bèn từ hai phía tiến vào.

Pháp vương bị trúng ba kiếm, nhưng đều là vết thương nhẹ, đang cơn nguy cấp lại có ba người trợ giúp, thì nhẹ cả người, thấy bọn Tiêu Tương Tử không xuất thủ công kích, mà chỉ dùng binh khí hộ thân, từ ba phía khép dần vào, thì biết rằng một lúc nữa Tiểu Long Nữ sẽ bị hạ sát.

Trước cửa động Ngọc Hư, bên cánh rừng tùng xanh, bốn quái khách võ lâm vây đánh một bạch y thiếu nữ. Đám võ sĩ Mông Cổ và các đạo sĩ phái Toàn Chân kinh hồn khiếp vía, chưa từng thấy một trận ác chiến như thế này!

Bỗng nghe một tiếng rầm kinh thiên động địa, cát bay đá lở, khói bụi bốc lên, mấy chục tảng đá lấp cửa động Ngọc Hư lăn đi, năm vị đạo nhân từ trong động thong thả bước ra, chính là Toàn Chân ngũ tử Khưu Xứ Cơ, Lưu Xứ Huyền…

Bọn Doãn Chí Bình, Lý Chí Thường cả mừng, cùng reo to:

– Sư phụ!

Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba thì cả kinh, thấy thanh thế phá toang cửa động quả thật kinh hồn. Hai người cầm binh khí lao tới. Toàn Chân ngũ tử cùng dạt sang một phía nhường lối, rồi đột nhiên mười chưởng cùng giơ ra, đặt trên lưng Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba, đẩy hai gã bắn ra xa hơn một trượng.

Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba võ công ngang ngửa với Hách Đại Thông, tuy không tinh diệu bằng Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, song cũng quyết không chỉ vì một chiêu đã bị bắn văng đi như vậy. Nguyên Toàn Chân ngũ tử bế quan tĩnh tu trong động Ngọc Hư, tìm cách chiết giải “Ngọc nữ tâm kinh”. Năm người vắt óc suy nghĩ ngày đêm, thấy võ công mà Tiểu Long Nữ và Dương Quá hiển thị mỗi chiêu thức đều là khắc tinh của võ học phái Toàn Chân, muốn thủ thắng về chiêu thuật, thật khó lòng. Sau Khưu Xứ Cơ từ “Thiên Cang Bắc Đẩu trận pháp” ngộ ra một điều, nói:

– Chúng ta biến hóa chiêu thuật thì không kịp, nhưng có thể hợp lực cả năm người, lấy kình lực bù cho sự bất túc của chiêu số.

Thế là năm người suy tính pháp môn hợp lực công địch, mỗi chiêu đánh ra, đều qui tập kình lực của năm người vào một điểm. Họ tự biết trong đám đệ tử đời thứ ba, thứ tư không có lấy một nhân vật nào kiệt xuất vậy thì chỉ còn cách dựa vào số đông, hợp lực mà tự vệ. Sau hơn một tháng, cuối cùng họ sáng tạo ra chiêu “Thất tinh tụ hội”. Chiêu này cũng là diễn xuất ra từ “Thiên Cang Bắc Đẩu trận pháp”, tuy gọi là “Thất tinh tụ hội”, song cũng không nhất định phải do bảy người liên thủ, mà sáu người, năm người, bốn người, ba người cũng có thể hợp lực thi triển.

Khi Kim Luân pháp vương suất lĩnh bọn võ sĩ khuân đá lấp cửa động Ngọc Hư, Toàn Chân ngũ tử đang luyện chiêu “Thất tinh tụ hội” đến thời khắc khẩn yếu, tuyệt nhiên không thể phân tâm; thừa biết có đại địch đến tấn công, cũng không thèm lý tới, đến khi năm người luyện tới ngũ lực qui nhất, hòa quyện thành một, mới phá cửa động mà ra. Chỉ tiếc chiêu này mới luyện được ba, bốn thành hỏa hầu, song Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba cũng đã không địch nổi, bị Toàn Chân ngũ tử đánh văng đi.

Toàn Chân ngũ tử quay người lại, thấy bọn Pháp vương bốn người đang vây đánh Tiểu Long Nữ, họ nhìn nhau, bất giác cùng tái mặt, nghĩ bụng: “Thôi rồi, không ngờ võ công phái Cổ Mộ tinh diệu nhường ấy, suốt đời cũng không còn hi vọng thắng được”. Chiêu thức họ khổ luyện trong động đều xuất phát từ thứ võ công mà Tiểu Long Nữ và Dương Quá hiển thị, đâu ngờ bây giờ họ lại chứng kiến một thứ kiếm pháp thần kỳ, mà họ nhìn còn chưa hiểu, nói gì đến cách hóa giải?

Võ công của bốn đại cao thủ kia đều cao hơn Toàn Chân ngũ tử, Khưu Xứ Cơ nghĩ: “Giả dụ tiên sư còn sống, chắc có thể đánh thắng họ. Chu sư thúc hẳn cũng cao hơn họ một bậc, nhưng nếu cùng lúc bị họ vây công, thì chín phần mười là không địch nổi”. Năm lão đạo nhân cúi đầu buồn bã, thầm hổ thẹn rằng đời sau không bằng đời trước, không kế thừa sự nghiệp của tiên sư, đại địch tràn đến, phái Toàn Chân xem ra không còn chỗ đứng chân. Nhìn chiêu chiêu hung hiểm, bước bước nguy cơ, Toàn Chân ngũ tử càng nhìn càng kinh hãi, không kịp hỏi đệ từ nguyên do biến cố.

Lúc này trận đấu giữa Tiểu Long Nữ với bốn người đã biến hóa. Tiểu Long Nữ liên tiếp công kích, bốn người kia chủ yếu chỉ phòng thủ, hầu như không đánh trả, nhưng cứ áp sát vào dần. Tình thế của Tiểu Long Nữ càng lúc càng bất lợi, mấy lần nàng định phá vây tạm lui, nhưng đối phương phòng thủ nghiêm mật dị thường, chiêu nào của nàng cũng bị đánh bật trở lại.

Nàng biết Kim Luân pháp vương chủ trì cuộc vây hãm, không thể dùng lối tung kiếm như ban nãy, huống hồ trong tay nàng cũng chỉ có hai thanh kiếm mà thôi.

Từ lúc nàng đả thương Lộc Thanh Đốc trong đại điện tới lúc này đã đấu gần một canh giờ, cảm thấy sức đuối dần, mà cường địch thì càng lúc càng áp sát. Toàn Chân ngũ tử lại đứng chờ một bên, năm lão đạo nhân này cũng thuộc hàng cao thủ, tứ phía đều là địch, nàng trơ trọi một mình, hôm nay có lẽ sẽ bỏ mạng chốn này.

Bỗng nàng nghĩ thầm: “Mình chết không có gì tiếc, chỉ… chỉ ước gì trước khi nhắm mắt, được gặp lại Quá nhi? Lúc này chàng ở đâu? Chắc là đang thân thiết với Quách cô nương, không chừng đã thành hôn với nàng ta rồi, chàng đâu còn nhớ đến mình kia chứ? Không, không, Quá nhi không phải kẻ như vậy, chàng dù có thành hôn với Quách cô nương, cũng không khi nào quên mình, ước gì mình được thấy mặt chàng lần cuối…”

Khi nàng rời thành Tương Dương, đã quyết ý vĩnh viễn không gặp lại Dương Quá, nhưng vào lúc sinh tử hệ trọng này, nàng lại chỉ nghĩ đến chàng. Nghĩ đến Dương Quá, phân tâm nhị dụng đột nhiên biến thành một lòng chuyên chú, kiếm chiêu hai tay như nhau, không còn uy lực của “Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp” nữa. Pháp vương thấy đấu pháp của nàng biến đổi, ban đầu còn tưởng nàng cố ý giả nhược dụ địch, nhưng sau vài chiêu thấy không phải vậy, lão bèn tiến lên nửa bước, ngân luân hộ thân, tay phải giơ kim luân kích vào thanh kiếm của nàng.

Chỉ nghe keng một tiếng nhẹ, thanh kiếm vuột khỏi tay trái Tiểu Long Nữ bay lên không trung và gãy đôi ở trên cao. Pháp vương vốn chỉ đánh thăm dò, không ngờ thành công ngoài dự liệu, lại vung kim luân đánh tới. Tiểu Long Nữ kinh hãi, vội trấn tĩnh, đâm trả liền ba nhát, nhưng lúc này chỉ còn một thanh kiếm, võ công càng thua xa Pháp vương. Bọn Tiêu Tương Tử ba người thấy lợi thế cùng ùa vào tấn công.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, đã không còn thiết gì giao đấu nữa, chợt nhìn thấy bên cạnh cây tùng ngoài xa ba trượng có một bụi hoa hồng, mấy bông hoa đỏ thắm, thì đột nhiên nàng nhớ đến quang cảnh nàng cùng Dương Quá luyện “Ngọc nữ tâm kinh”, nàng nghĩ: “Mình đã không được gặp lại Quá nhi, thì trước khi chết một lòng nhớ đến chàng vậy”. Thế là nàng thần sắc nhu hòa, nhắm mắt lại mà nhớ.

Bọn Pháp vương vây quanh vốn đã có thể ra đòn đánh chết nàng, tự dưng thấy nàng thần sắc cổ quái, dường như quên cả việc nghênh địch, thì họ kinh ngạc, không biết nàng sắp thi triển tà pháp gì, bốn thứ binh khí sững lại giữa chừng, không đánh tới. Nhưng cũng chỉ là giây lát, thiết xà của Ni Ma Tinh liền đánh tới trước tiên.

Bỗng có tiếng gió lướt bên cạnh, có người đâm kiếm tới Ni Ma Tinh vội thu thiết xà về chống đỡ, chỉ thấy bóng người chao động, là Doãn Chí Bình vọt đến che trước mặt Tiểu Long Nữ, xoay thanh kiếm, chìa cán cho nàng. Tiểu Long Nữ nhìn mà không thấy, nghe cũng không thấy, đã không còn để tâm đến cuộc giao chiến, cảm thấy có cán kiếm đụng vào bàn tay thì nắm lấy mà thôi. Mọi người xung quanh thấy Doãn Chí Bình đột nhiên nhảy vào vòng chiến của năm đại cao thủ, đúng là xông vào tử địa, thì bất giác cùng kêu ồ lên.

Pháp vương biết Doãn Chí Bình, không muốn lấy mạng y, bèn dùng tay trái đẩy vào vai y gạt ra, tay phải lia kim luân vào người Tiểu Long Nữ. Doãn Chí Bình thấy nàng chẳng hiểu sao lại ngưng chiến, nhìn kim luân sắp đánh chết nàng, liền nhảy bổ vào, dùng lưng chắn kim luân, miệng gọi to:

– Long cô nương, hãy cẩn thận!

Kim luân của Pháp vương đánh ra, uy lực khai sơn phá thạch, Doãn Chí Bình chắn sao nổi? Y lập tức ngã sấp xuống phía trước. Tiểu Long Nữ sau khi cầm thanh kiếm y đưa, cứ đứng ngây ngô xuất thần, Doãn Chí Bình ngã chúi về phía trước, đúng vào mũi kiếm, mũi kiếm đâm xuyên qua ngực y. Tiểu Long Nữ lúc này mới chợt tỉnh, biết vừa rồi y cứu mạng nàng, thấy lưng y trúng luân, ngực bị kiếm đâm, toàn là vết thương trí mạng, thì lòng căm hận hóa hết thành niềm thương cảm, nàng dịu dàng nói:

– Sao huynh phải khổ như thế?

Doãn Chí Bình sắp tắt thở, bỗng nghe câu nói “Sao huynh phải khổ như thế?” của nàng, thì sung sướng thều thào:

– Long cô nương, ta… thật có tội với nàng, tội nặng… nàng lượng thứ cho ta ư?

Tiểu Long Nữ lại ngây ra, nhớ lại trong Quách phủ ở thành Tương Dương, mình đã nghe cuộc trò chuyện giữa y với Triệu Chí Kính, trong óc chợt nghĩ: “Quá nhi thâm tình với ta như thế, lại từng thề quyết không thay lòng đổi dạ. Nhưng chàng bỗng nhiên đi thành thân với Quách cô nương, bỏ rơi ta không chút thương tiếc, chắc là vì chàng biết ta đã bị ô uế bởi gã đạo sĩ này”. Nàng tâm tư đơn thuần, tuy cả tháng đuổi theo hai gã Doãn, Triệu, song chưa từng nghĩ đến việc này, bây giờ đột nhiên nghe Doãn Chí Bình nhắc đến, niềm thương hại y lập tức biến thành nỗi căm hận còn mạnh hơn cả nỗi căm hận vốn có, nàng nghiến răng, tay phải đâm kiếm vào ngực y. Nhưng bình sinh nàng chưa từng giết ai, nên tuy cả giận, mũi kiếm chạm tới ngực y lại không đâm nữa.

Khưu Xứ Cơ đứng ngoài, thấy ái đồ bị chết oan, thì lòng đau như dao cắt, có điều là sự việc diễn ra bất ngờ, không kịp cứu viện. Kiếm thứ nhất của Tiểu Long Nữ còn có thể bảo là tại Kim Luân pháp vương, còn nhát kiếm thứ hai thì rõ là nàng có chủ ý. Khưu Xứ Cơ không biết nguyên do lắt léo bên trong, nửa năm nay vị đạo nhân này ngày đêm phần lớn suy nghĩ cách đối phó với chiêu thuật của Tiểu Long Nữ, một tháng nay thì chỉ nghĩ đến việc đó, không nghĩ chuyện gì khác. Khưu Xứ Cơ coi Tiểu Long Nữ là đại địch của bổn giáo, hoàn toàn không ngờ Doãn Chí Bình lại tự nguyện xả thân cứu nàng ta, giờ thấy nàng ta giơ kiếm đâm y, bèn phẩy năm ngón tay trái tới cổ tay Tiểu Long Nữ, hữu chưởng vỗ thẳng vào mặt nàng. Võ công của Khưu Xứ Cơ đứng đầu Toàn Chân thất tử, trong tình thế khẩn cấp phát chiêu, chưởng lực vô cùng mạnh mẽ.

Tiểu Long Nữ bị búng trúng cổ tay, không nắm chắc được kiếm, để nó tuột rơi. Không đợi nó rơi xuống đất, nàng đã chộp lại, tiện thể đâm luôn tới ngực Khưu Xứ Cơ. Lúc này Doãn Chí Bình kêu to một tiếng, gục xuống, máu từ vết thương tuôn ra xối xả.

Kiếm thứ hai của Tiểu Long Nữ đâm vào bụng dưới của Khưu Xứ Cơ, bây giờ lại là song kiếm hợp bích, uy lực đại tăng. Khưu Xứ Cơ võ công tuy tinh thâm, nhưng sau ba chiêu đã luống cuống chân tay. Vương Xứ Nhất thấy vậy, vội nhảy vào tiếp ứng, thành thử bọn Pháp vương bốn người tách riêng sang một bên.

Bọn Pháp vương thấy Tiểu Long Nữ đấu với Toàn Chân ngũ tử thì lấy làm lạ, nhưng việc này rất có lợi cho họ, nên họ đứng ngoài quan sát đôi bên tàn sát nhau. Họ đưa mắt cho nhau, lùi lại mấy bước, đợi khi Tiểu Long Nữ và Toàn Chân ngũ tử đã phân thắng bại, họ sẽ xuất thủ thu thập tàn cục.

Cao thủ động võ, mỗi chiêu đều hệ trọng đến sinh mạng, không ai dám lơ là chút nào. Toàn Chân ngũ tử tuy chưa hiểu nguyên do cục diện, nhưng đã động thủ, đâu còn thời gian hỏi cho ra lẽ? Toàn Chân ngũ tử tay không đối phó với kiếm chiêu thần diệu vô phương của Tiểu Long Nữ, chẳng có dịp để thi triển chiêu “Thất tinh tụ hội” mà họ tốn cả tháng trời sáng tạo ra. Thoáng chốc Hách Đại Thông và Lưu Xứ Huyền đã bị trúng kiếm, song họ lo cho sự an nguy của sư huynh đệ, chưa chịu lui ra, thì Tôn Bất Nhị bị trúng kiếm vào vai.

Các đệ tử phái Toàn Chân thấy sư phụ nguy ngập, bất giác kêu lên. Lý Chí Thường gọi to:

– Mau đưa binh khí!

Lúc này chưởng phong của Toàn Chân ngũ tử ù ù, chúng đệ tử không thể tới gần, chỉ từ ngoài ném kiếm vào. Tiểu Long Nữ nhanh tay dùng kiếm hất ra, Toàn Chân ngũ tử thủy chung vẫn không nhận được thanh kiếm nào. Bỗng “ối” một tiếng, Vương Xứ Nhất bị trúng một kiếm vào bên mắt trái, kiếm này do Tiểu Long Nữ dùng kiếm tay trái hất ra phía sau, Vương Xứ Nhất không kịp đỡ, thế là bốn người của Toàn Chân ngũ tử đã bị thương, thắng bại đã rõ.

Kim Luân pháp vương cười ha ha, nói:

– Các vị đạo huynh hãy lui ra, con tiểu yêu nữ này để lão nạp xử trí!

Đoạn lão tiến lên hai bước. Bọn Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây cũng múa binh khí tiến vào hợp kích, thành cục diện chín đại cao thủ vây đánh một mình Tiểu Long Nữ.

Bọn Pháp vương vừa ra tay, Toàn Chân ngũ tử lập tức thoát khỏi mũi kiếm của Tiểu Long Nữ. Năm người cùng thét một tiếng, kề vai bên nhau, hoặc giơ hữu chưởng, hoặc giơ tả chưởng, hợp lực thành một, sử chiêu “Thất tinh tụ hội”. Lúc này tuy chỉ là “Ngũ tinh tụ hội” song uy lực rất lợi hại, Tiểu Long Nữ lùi chếch đi, “bùng” một tiếng, cát bụi tung tóe, chiêu này đã làm cho Ni Ma Tinh phải ngã lộn đi một vòng.

Nguyên Ni Ma Tinh cụt hai chân, hạ bàn không vững, không chống đỡ nổi chiêu kia. May mà trong cơn nguy cấp hắn tránh đòn chính diện, tuy ngã lộn vòng, song không bị thương, hắn bật ngay dậy, tức giận quật thiết xà tới đầu Lưu Xứ Huyền. Trước cửa động Ngọc Hư loạn cả lên. Tiểu Long Nữ thấy Ni Ma Tinh động thủ với Toàn Chân ngũ tử, bèn vọt ra khỏi vòng vây. Pháp vương lao tới chặn lại, gọi:

– Ni Ma huynh, đối phó với tiểu yêu nữ cần hơn.

Ni Ma Tinh đã mải đánh, thây kệ tiếng gọi của Pháp vương, tiếp tục giao đấu với Toàn Chân ngũ tử. Tiểu Long Nữ song kiếm đâm gấp Pháp vương mấy nhát, Pháp vương thấy thế kiếm tới quá nhanh, không đỡ nổi, đành lùi vài bước.

Đột nhiên Tiểu Long Nữ kêu to một tiếng, hai má nhợt nhạt, keng keng hai tiếng, song kiếm trong tay nàng cùng rơi xuống đất, nàng ngẩn người nhìn về phía bụi hoa hồng bên cây tùng, gọi:

– Quá nhi, là chàng thật sao?

Vừa lúc ấy, kim luân của Pháp vương đánh tới trước mặt, chiêu “Thất tinh tụ hội” của Toàn Chân ngũ tử thì đánh tới sau lưng. Chiêu này vốn nhắm đánh Ni Ma Tinh, nhưng hắn đã nếm mùi, không dám đỡ, né người tránh sang bên trái, thành thử kình lực của chiêu đó dồn tới sau lưng Tiểu Long Nữ.

Ai ngờ nàng như người bị trúng tà phong, cứ đứng ngây ra không tránh, trước ngực trúng luân, sau lưng trúng chưởng, thân hình mảnh mai của nàng bị hai đòn mạnh giáp kích, mắt nàng trân trân nhìn về phía bụi hoa hồng bên cây tùng, tựa hồ hai đòn kia không thể đả thương nàng không bằng.

Mọi người bị mục quang của nàng cuốn hút, bất giác đều ngoảnh đầu nhìn về phía bụi hoa hồng bên cây tùng xem có gì cổ quái, thì thấy từ đó một bóng người bay ra giữa chỗ Pháp vương và Toàn Chân ngũ tử, dùng tay trái ôm Tiểu Long Nữ, bay vút ra khỏi vòng vây, trở về phía bụi hoa hồng bên cây tùng, ngồi xuống ôm Tiểu Long Nữ vào lòng.

Người ấy chính là Dương Quá.

Tiểu Long Nữ cười sung sướng, ứa nước mắt, nói:

– Quá nhi, là chàng thật ư, không phải thiếp nằm mơ chứ?

Dương Quá cúi đầu, thơm vào má nàng, dịu dàng nói:

– Không phải nằm mơ đâu, Quá nhi đang ôm cô cô đây.

Thấy quần áo nàng lấm tấm vết máu, chàng lo sợ hỏi:

– Cô cô bị thương có nặng lắm không?

Tiểu Long Nữ bị hai đòn trước sau giáp kích, ban đầu nhìn thấy Dương Quá, quên đau, bây giờ mới có cảm giác lục phủ ngũ tạng lộn nhào, nàng ôm cổ Dương Quá, nói:

– Thiếp… thiếp…

Nàng đau quá không nói được nữa.

Dương Quá hận không thể đau thay cho nàng, nói nhỏ:

– Cô cô, Quá nhi đến chậm một bước mất rồi!

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, chàng đến rất đúng lúc! Thiếp cứ tưởng kiếp này không bao giờ còn được gặp chàng nữa.

Đột nhiên nàng lạnh toát cả người, tưởng chừng hồn sắp lìa khỏi xác, hai cánh tay ôm cổ Dương Quá dần dần lỏng ra, nàng nói:

– Quá nhi, hãy ôm chặt thiếp!

Dương Quá tay trái hơi siết lại, bao cảm xúc đan xen nhau, nước mắt ứa ra, rơi xuống má nàng.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng hãy ôm chặt thiếp bằng… cả hai tay đi!

Nàng đưa mắt, chợt phát hiện ống tay áo bên phải trống không, thì giật mnh hỏi:

– Tay phải của chàng sao rồi?

Dương Quá cười khổ, nói nhỏ:

– Bây giờ cô cô đừng lo cho Quá nhi, hãy nhắm mắt lại, đừng dùng sức, để Quá nhi vận khí trị thương cho.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không, tay phải của chàng sao rồi? Sao lại mất tay? Sao lại mất tay?

Tính mạng nàng đang nguy cấp, nàng chẳng lo cho mình, lại cứ hỏi cho rõ, vì sao chàng mất đi một cánh tay. Chỉ là vì trong lòng nàng, chàng trai này quan trọng hơn nàng hàng trăm ngàn lần.

Từ ngày hai người sống trong tòa cổ mộ, ít lâu sau đã như vậy, có điều là hồi ấy nàng chưa biết đó là vì tình ái, Dương Quá cũng không biết. Hai người chỉ cảm thấy đôi bên quan hoài đến nhau là cái nghĩa phải có giữa sư phụ với đệ tử, trong tòa cổ mộ chỉ có hai người, không quan hoài đến nhau thì quan hoài đến ai? Kỳ thực đôi thiếu niên nam nữ này đã luyến ái nhau từ rất sớm.

Mãi đến hôm nay, hai người mới biết không thể sống thiếu nhau, tính mạng của người kia so với mình còn hệ trọng hơn ngàn vạn lần.

Mỗi đôi thiếu niên nam nữ luyến ái nhau đều nghĩ như thế, song chỉ có người chí tính chí tình thì mới thật sự yêu thương “người ấy” hơn cả bản thân mình.

Đối với Tiểu Long Nữ, một cánh tay của Dương Quá còn hệ trọng hơn cả việc sống chết của nàng, nên nàng phải hỏi cho kỳ được. Nàng giơ tay khẽ nắn ống tay áo của chàng, quả nhiên bên trong không có gì. Đột nhiên nàng không còn cảm thấy sự đau đớn thể xác của mình nữa, bởi lẽ lòng nàng tràn ngập tình ái, nàng nói:

– Quá nhi, chàng mất cánh tay lâu chưa? Bây giờ còn đau hay không?

Dương Quá lắc đầu, nói:

– Hết đau lâu rồi. Chỉ cần Quá nhi gặp lại cô cô, sẽ vĩnh viễn không chia ly nữa. Thiếu một cánh tay cũng chẳng sao, cánh tay trái của Quá nhi vẫn ôm được cô cô đó thôi?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, cảm thấy chàng nói rất đúng, nàng tuy chỉ được một cánh tay của chàng ôm lấy, nàng cũng thỏa mãn rồi. Nàng vốn chỉ mong trước khi chết được nhìn mặt chàng, bây giờ như thế này là quá tốt, tốt vô cùng.

Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây, Toàn Chân ngũ tử, chúng đệ tử, đám võ sĩ Mông Cổ… hết thảy đều im lặng, ngẩn ngơ nhìn cặp tình nhân. Lúc này không một ai muốn động thủ với họ, cũng không một ai dám động thủ với họ.

Có câu “như ở chỗ không người”, Dương Quá và Tiểu Long Nữ ở trước chín đại cao thủ, vô số võ sĩ Mông Cổ mà coi như không có ai, cứ nhìn nhau đắm đuối. Luyến ái đến cùng cực, mọi thứ vinh hoa phú quí trong thiên hạ đều gác bỏ, thậm chí đại sự sinh tử cũng coi như không. Dương Quá và Tiểu Long Nữ không còn nghĩ đến chuyện sống chết, đừng nói chín đại cao thủ, dù anh hùng khắp thiên hạ dồn về đây cũng thế mà thôi. So với ái tình khắc cốt minh tâm, cái chết phỏng có đáng gì?

Bọn Kim Luân pháp vương dĩ nhiên không sợ hai người, chỉ cảm thấy kinh dị cực độ, thấy Tiểu Long Nữ bị trọng thương, Dương Quá chỉ còn một cánh tay, quyết không thể kháng cự, song hai người triền miên đắm đuối thế kia, hiên ngang như thế, thật không ai dám coi thường.

Cuối cùng Tiểu Long Nữ không nhịn được, lại hỏi:

– Cánh tay của Quá nhi… cánh tay sao bị mất? Chàng nói mau đi.

Dương Quá cười khổ, nói:

– Cánh tay bị mất, dĩ nhiên là do bị người khác chém lìa.

Tiểu Long Nữ buồn rầu nhìn chàng, không truy vấn ai hạ độc thủ, đã bị họa thì kẻ nào hạ độc thủ chẳng thế, lúc này vết thương ở ngực và sau lưng nàng lại đau nhói lên, nàng tự biết không còn sống được lâu, nói nhỏ:

– Quá nhi, thiếp xin chàng một điều.

Dương Quá nói:

– Cô cô! Chẳng lẽ cô cô quên rồi, ở tòa cổ mộ, Quá nhi đã đáp ứng, cô cô muốn Quá nhi làm bất cứ việc gì, Quá nhi cũng sẽ làm.

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Đấy là chuyện lâu lắm ngày trước rồi!

Dương Quá nói:

– Đối với Quá nhi, mãi mãi vẫn vậy.

Tiểu Long Nữ cười buồn, nói nhỏ:

– Thiếp còn sống không lâu nữa, chàng hãy ở bên khi thiếp chết, đừng đến với Quách… Quách cô nương của chàng nghe.

Dương Quá vừa thương tâm, vừa phẫn hận, nói:

– Cô cô, Quá nhi tất nhiên sẽ ở bên cô cô. Quách cô nương chẳng can hệ gì với Quá nhi đâu, cánh tay của Quá nhi đã bị nàng ta chém lìa đó.

Tiểu Long Nữ kinh ngạc kêu lên:

– Ôi! Là nàng ta ư? Vì sao nàng ta lại tàn ác thế? Chẳng lẽ chỉ vì… chỉ vì chàng không thích nàng ta?

Dương Quá nói:

– Chúng mình ở bên nhau thế này, cô cô còn ngại gì nữa? Trừ cô cô ra, suốt đời Quá nhi chưa hề tâm ái một cô nương nào khác, cái ả Quách Phù ấy…

Cánh tay của Dương Quá đúng là bị Quách Phù chém đứt.

Hôm ấy ở Quách phủ trong thành Tương Dương, Dương Quá và Quách Phù cãi nhau, dẫn tới động thủ, Quách Phù cả giận, vung kiếm Thục nữ chém xuống đầu chàng. Dương Quá sau khi trúng độc chưa bình phục, tứ chi vô lực, thấy kiếm chém xuống, đành giơ cánh tay phải lên đỡ trước mặt. Quách Phù trong cơn cuồng nộ dùng lực rất mạnh, kiếm Thục nữ lại sắc bén, chém đứt lìa luôn cánh tay của Dương Quá.

Dương Quá cố nhiên kinh hãi và tức giận. Quách Phù cũng sợ đờ người, biết mình vừa gây nên đại họa không thể cứu vãn, nhìn máu chảy ròng ròng từ chỗ đứt lìa cánh tay, nàng cuống lên không biết làm sao, ôm mặt khóc và chạy ra khỏi phòng.

Dương Quá sau khi hoảng hốt, vội trấn tĩnh, dùng tay trái điểm huyệt Kiên Trinh ở vai phải, xé vải chăn băng chỗ cánh tay cầm máu, bôi thuốc lên vết thương, nghĩ: “Chốn này không thể ở thêm, ta phải mau rời thành”. Chàng tựa vào tường, đi vài bước, nhưng vì mất nhiều máu, mắt hoa lên, suýt ngất đi.

Lúc ấy bỗng nghe tiếng Quách Tĩnh nói to:

– Mau lên, mau lên, Quá nhi làm sao? Đã cầm máu hay chưa?

Giọng nói đầy vẻ lo lắng, vội vã. Dương Quá chỉ nghĩ: “Ta quyết không gặp Quách bá bá, dù thế nào cũng không gặp nữa”. Chàng hít một hơi dài, từ trong phòng lao thẳng ra.

Chàng chạy đến cổng phủ, nhảy lên một con ngựa, phi ra cổng thành. Tướng sĩ giữ cổng đều từng thấy chàng cứu viện Quách Tĩnh trên bờ thành, hết sức kính phục chàng, thấy chàng phi ngựa tới, lập tức mở cổng thành.

Hiện tại quân Mông Cổ đã rút đi cách thành hơn trăm dặm. Dương Quá không đi đường lớn, mà phi ngựa vào chốn hẻo lánh hoang dã. Chàng nghĩ: “Thân ta trúng độc hoa Tình, nhưng đã quá thời hạn mà không chết, có lẽ đúng như vị thần tăng Thiên Trúc nói, sau khi ta hút chất độc của “Băng phách ngân châm” vào người, hai chất độc trị nhau, nhờ vậy sống thêm được ít ngày. Nhưng chất độc vẫn còn, sớm muộn cũng phát tác. Bây giờ ta bị trọng thương, nếu đến núi Chung Nam tìm cô cô, e không đủ sức, chẳng lẽ số mệnh bắt ta phải chết giữa đường?” Nghĩ một đời cô khổ, ngoài thời gian chung sống với Tiểu Long Nữ trong tòa cổ mộ, ít có ngày nào vui, nay người thân duy nhất trên đời đã bỏ chàng mà đi, chàng còn bị kẻ khác chém mất một cánh tay, tính mạng chưa biết thế nào, nghĩ đến đây, bất giác nước mắt ứa ra.

Chàng nằm phục xuống lưng ngựa, nửa tỉnh nửa mê, chỉ mong không bị Quách Tĩnh tìm thấy mình, không gặp đại quân Mông Cổ, còn thì muốn đến đâu cũng được, tình cờ thế nào dần dần lại đến hoang cốc mà đêm nọ chàng đã giao đấu với huynh đệ họ Võ.

Lúc ấy hoàng hôn, nhìn bốn phía cỏ mọc dày, không gian tĩnh mịch, biết không có người, chàng bèn xuống ngựa, nằm trên một đám cỏ mà ngủ. Hiện tại chàng không còn quan tâm đến chuyện sinh tử, nên không cần đề phòng độc trùng mãnh thú gì hết. Cả đêm vết thương nhức nhối, giấc ngủ cứ chập chờn.

Sáng hôm sau mở mắt ngồi dậy, Dương Quá bỗng thấy cách mình không đầy một thước có hai con rết lớn sọc xanh sọc đỏ trông rất đáng sợ đã nằm chết cứng bên vũng máu đen, miệng rết đầy vết máu. Chàng giật mình, nghĩ một chút thì hiểu ra, nguyên máu chảy ra nhiều từ vết thương của chàng, mà trong máu có chất cực độc, hai con rết kia vì hút thứ máu đó mà chết tươi.

Dương Quá cười khổ, lẩm bẩm: “Không ngờ trong máu Dương Quá ta có nhiều chất độc đến nỗi giết chết cả rắn rết”. Rồi ngán ngẩm không chịu nổi, chàng ngửa mặt lên trời mà cười một tràng.

Bỗng trên đỉnh núi vọng xuống ba tiếng “oắc, oắc”. Dương Quá ngẩng lên thấy thần điêu đậu trên đó hiên ngang một mình, hình dạng xấu xí, nhưng đầy uy phong. Dương Quá cả mừng, như gặp lại cố nhân, bèn gọi:

– Điêu huynh, chúng ta lại gặp nhau rồi!

Thần điêu kêu một tiếng dài, từ trên đỉnh núi chạy xuống. Nó thân hình nặng nề, cánh ngắn không bay được, nhưng chạy thì nhanh hơn tuấn mã, thoáng chốc đã tới bên cạnh Dương Quá. Thấy chàng thiếu một cánh tay, thần điêu cứ nhìn chàng chằm chằm.

Dương Quá cười khổ, nói:

– Điêu huynh, tiểu đệ bị đại nạn, nay đến với điêu huynh đây.

Cũng không biết thần điêu có hiểu tiếng người hay không, nó quay mình bước đi. Dương Quá dắt ngựa theo sau.

Đi vài bước, thần điêu quay đầu lại, đột nhiên nó dùng cánh bên trái vỗ vào bụng ngựa một cái. Con ngựa hí lên đau đớn, nhảy lùi mấy bước. Dương Quá gật đầu, nói:

– Phải đấy, tiểu đệ đã vào hoang cốc của điêu huynh, chắc chẳng đi ra ngoài nữa, còn dắt ngựa theo làm gì?

Chàng nghĩ con chim điêu này như có linh tính chẳng khác gì người, thế là chàng buông dây cương, sải bước theo sau thần điêu. Sau khi bị trọng thương, thể lực suy nhược, chàng đi một quãng lại phải ngồi nghỉ, thần điêu lúc ấy dừng chân đợi chàng.

Vừa đi vừa nghỉ như thế hơn một canh giờ, lại đến cái hang đá có mộ phần của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại. Nhìn thạch phần, Dương Quá bất giác cảm khái, nghĩ vị kỳ nhân tiền bối này đương thời tung hoành vô địch trong thiên hạ, tự thị võ công thần diệu khôn lường, khinh thế ngạo vật, khó hợp với thường nhân, cuối cùng lại đến chân hoang cốc heo hút này mà từ trần, trong võ lâm đã không lưu truyền thanh danh sự tích, cũng không để lại quyền kinh kiếm phổ, môn hạ đệ tử nào cả, thân thế của vị tiền bối ấy kể cũng đáng kính phục và đầy bi thương. Chỉ tiếc thần điêu tuy khôn, nhưng không thể nói tiếng người, để kể cho chàng nghe đôi điều.

Trong lúc Dương Quá ngơ ngẩn xuất thần trong hang, thì thần điêu đã mang vào hai con thỏ rừng. Dương Quá nướng một con, ăn một bữa no nê. Cứ thế qua nhiều ngày, vết thương lành dần, sức khỏe phục hồi, mỗi lần chàng nhớ đến Tiểu Long Nữ, ngực tuy còn đau, nhưng không khó chịu ghê gớm như hồi trước. Chàng bản tính hiếu động, trong hoang cốc chỉ có thần điêu làm bạn, lâu ngày không khỏi cảm thấy buồn tẻ.

Một hôm thấy phía sau hang đá cỏ cây tươi tốt, không khí trong lành, chàng bèn thả bộ dạo chơi ngắm cảnh, đi hơn một dặm, thì gặp một vách núi dựng đứng, như một tấm bình phong khổng lồ vươn lên trời. Trên vách núi, cách mặt đất hơn hai chục trượng, có một phiến đá vuông rộng ba, bốn trượng chìa ra như một cái sân, trên đó hình như có khắc chữ. Chàng căng mắt nhìn, đọc được hai chữ “Kiếm mộ” rất lớn, thì lấy làm lạ: “Kiếm mà cũng có mộ chôn ư? Chẳng lẽ Độc Cô lão tiền bối bẻ gãy ái kiếm, rồi đem chôn trên đó?” Chàng lại gần vách núi, thấy vách núi bằng phẳng, không có cỏ cây, không một chỗ đặt chân, không biết người ta làm cách nào leo lên trên kia.

Chàng nhìn thật kỹ, nghĩ bụng người ta cũng là người như mình, leo lên được trên kia hẳn phải có diệu pháp, nếu chỉ dựa vào võ công thì thật khó mà tưởng tượng. Nhìn kỹ một hồi, thấy trên vách núi cứ cách vài thước lại có một đám rêu xanh, mấy chục đám rêu thẳng hàng từ dưới lên trên. Chàng tung mình nhảy lên, túm thử đám rêu xanh thấp nhất, lôi ra một vốc bùn đen, quả nhiên đó là một cái lỗ nho nhỏ, chắc là năm xưa Độc Cô Cầu Bại dùng vật sắc nhọn khoét vào vách núi, lâu ngày lỗ khoét tích bùn, mọc lên đám rêu xanh.

Chàng nghĩ đang nhàn rỗi, thử lên “Kiếm mộ” xem thế nào, leo vách núi không được thì tụt xuống, nơi đây có ai nhìn thấy đâu mà ngại, thế là chàng siết chặt dây lưng, hít một hơi dài, vọt lên cao vài thước, chân trái đạp vào lỗ thấp nhất, chân phải nhắm đám rêu xanh thứ hai mà đạp vào, quả nhiên chỗ ấy cũng là một cái lỗ vừa để đặt chân.

Lần thứ nhất chàng leo lên hơn mười trượng thì đã mệt, bèn từ từ trở xuống, nghĩ: “Đã có hơn hai mươi chỗ đặt chân, lần thứ hai leo lên sẽ dễ hơn”. Chàng ngồi dưới đất vận công điều tức, thế là leo một mạch lên đến cái sân nọ. Chàng thấy tuy chỉ còn một tay, nhưng khinh công không hề suy giảm, cũng tự an ủi. Chàng thấy trên phiến đá lớn, bên cạnh hai chữ “Kiếm mộ”, còn có hai hàng chữ khắc vào đá:

Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại vô địch thiên hạ, chôn kiếm chốn này.

Ô hô! Quần hùng thúc thủ, trường kiếm dẫu sắc, còn có ích chi!

Dương Quá kinh ngạc và nể phục, cảm thấy vị tiền bối ấy tính nết có nhiều điểm giống mình, ngạo đời khinh vật, một mình lang bạt giang hồ, nhưng nói về tài năng vô địch trong thiên hạ, thì chàng chẳng thể sánh. Hiện thời lại chỉ còn một cánh tay, dẫu nhất thời chưa chết, cũng không còn hi vọng gì nữa. Chàng nhìn hai hàng chữ khắc một hồi, rồi thấy có nhiều hòn đá chất đống như một nấm mộ, lưng tựa vào sơn cốc, mặt hướng ra không gian rộng lớn, chưa nói bản thân Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại anh hùng thế nào, chỉ riêng chỗ chôn kiếm cũng đã có hình thế hùng vĩ thiết tưởng người ấy văn võ toàn tài, hoài bão phi thường, tiếc rằng mình sinh ra quá muộn, không có duyên kiến diện vị anh hùng tiền bối.

Dương Quá đứng bên mộ kiếm, ngửa mặt hú một tiếng dài, trong giây lát tứ phía hồi âm bất tuyệt, nghĩ đến tiếng nhạc trầm hùng mà Hoàng Dược Sư từng nói, chàng cảm thấy âm thanh nơi đây còn mang hào khí hơn nhiều. Chàng rất muốn biết ngôi mộ chôn những thứ binh khí sắc bén như thế nào, nhưng không dám mạo phạm tiền bối, bèn ngồi bó gối, ngẩng mặt đón gió, cảm thấy lồng ngực tràn ngập không khí trong lành, lâng lâng như muốn bay lên theo gió.

Bỗng nghe vách núi có tiếng chim điêu gọi “oắc oắc”, chàng cúi xuống, thấy thần điêu đang thoăn thoắt leo vách núi giống như chàng. Thân hình nó tuy nặng, nhưng bộ vuốt của nó quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng mấy chốc thần điêu đã leo đến chỗ chàng.

Thần điêu nhìn Dương Quá gật gật đầu, kêu vài tiếng rất lạ. Dương Quá cười, nói:

– Điêu huynh, chỉ tiếc tiểu đệ không nghe hiểu tiếng chim, nếu không đã được nghe điêu huynh kể cho nghe chuyện bình sinh của vị Độc Cô tiền bối.

Thần điêu lại kêu khẽ vài tiếng, dùng hai chân bới các tảng đá trên mộ kiếm sang một bên. Dương Quá chợt nghĩ: “Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại võ công tuyệt thế, không chừng lưu lại kiếm kinh kiếm phổ gì chăng?”. Chỉ thấy thần điêu hai chân chuyển đá không ngừng, để lộ ra một dãy ba thanh kiếm, giữa thanh kiếm thứ nhất và thanh kiếm thứ hai có một phiến đá dài. Ba thanh kiếm và phiến đá được đặt trên một tảng đá lớn màu xanh.

Dương Quá nhấc thanh kiếm thứ nhất lên, thấy dưới bề mặt tảng đá có khắc hai hàng chữ nhỏ:

Cương mãnh lợi hại, cứng mấy cũng xuyên,

Thời trẻ dùng để tranh đấu với quần hùng.

Nhìn lại thanh kiếm, thấy dài chừng bốn thước, thanh quang lấp loáng, đích thị là kiếm sắc. Chàng đặt thanh kiếm ấy xuống chỗ cũ, cầm phiến đá lên, thấy dưới bề mặt tảng đá xanh cũng có khắc hai hàng chừ nhỏ:

Tử Vi nhuyễn kiếm, dùng trước ba mươi tuổi,

Lỡ tay đả thương nghĩa sĩ, bèn vứt xuống vực sâu.

Dương Quá nghĩ: “Chỗ này thiếu một thanh kiếm, thì ra đã bị lão tiền bối ném xuống vực, không hiểu đã lỡ tay đả thương nghĩa sĩ như thế nào, chuyện đó chắc là vĩnh viễn không ai biết được”. Chàng xuất thần một hồi, nhấc thanh kiếm thứ hai lên, được vài thước thì “keng” một tiếng, thanh kiếm tuột tay rơi xuống đá, lửa bắn tung toé, bất giác chàng giật mình.

Nguyên thanh kiếm đen trũi này trông không có gì lạ, song cực nặng, đốc kiếm dài hơn ba thước, nặng không dưới bảy, tám chục cân, gấp vài lần thứ binh khí nặng nhất trong chiến trận. Dương Quá lúc cầm lên không ngờ nó nặng đến thế, nên đánh rơi nó xuống.

Chàng cúi nhấc nó lên, lần này có phòng bị, dĩ nhiên cũng nhấc được, không mấy khó khăn. Chàng thấy kiếm không có lưỡi sắc, mũi kiếm thì tròn như hình bán cầu, nghĩ bụng: “Thanh kiếm đã nặng, sử dụng bất tiện, lại không có lưỡi sắc và mũi nhọn, kỳ lạ thật!” Nhìn dưới bề mặt tảng đá, thấy có khắc hai hàng chữ nhỏ:

Trọng kiếm thô sơ, không hề gia công.

Trước bốn mươi tuổi, tung hoành thiên hạ.

Dương Quá lẩm bẩm tám chữ “Trọng kiếm thô sơ, không hề gia công”, tựa hồ đã hiểu ra, nhưng nghĩ kiếm thuật trên thế gian, bất kể các môn phái biến hóa như thế nào, trước hết cũng phải coi trọng việc sử dụng linh hoạt thuận tiện, còn thanh kiếm này quá nặng, không biết sử dụng ra sao, chàng cứ ngẩn người suy nghĩ.

Một hồi sau, chàng mới đặt thanh kiếm nặng đó xuống, nhấc thanh kiếm thứ ba lên, lần này chàng lại bị lầm. Chàng cứ tưởng thanh kiếm này phải nặng hơn thanh kiếm vừa rồi, nên vận lực ra cánh tay. Nào ngờ nó nhẹ tênh như không, chàng ngưng thần xem kỹ, hóa ra đó là một thanh kiếm gỗ, chôn dưới đá lâu năm, thân và cán kiếm đều đã bị mục, đọc dưới mặt đá có khắc dòng chữ:

Sau bốn mươi tuổi, không mang binh khí,

Thảo mộc trúc thạch đều có thể dùng làm kiếm.

Cứ thế tinh tu, đạt tới cảnh giới vô kiếm thắng hữu kiếm.

Chàng cung kính đặt thanh kiếm gỗ xuống chỗ cũ, thở dài, nói:

– Thần kỹ của tiền bối, khiến người ta khó bề tưởng tượng.

Chàng nghĩ không biết bên dưới tảng đá xanh có bản kiếm phổ hay chăng, bèn lật tảng đá lên, nhưng bên dưới là nền đá cứng, không có vật gì khác, thì không khỏi thất vọng.

Con thần điêu kêu “oắc” một tiếng, cúi đầu, dùng mỏ quặp thanh kiếm nặng, đặt vào tay Dương Quá, lại kêu “oắc” một tiếng, đột nhiên dùng cánh chim bên trái vỗ kình phong xuống đầu chàng. Dương Quá lập tức cảm thấy khó thở, cánh chim tới cách đỉnh đầu chàng chừng một thước thì dừng lại bất động, thần điêu lại kêu “oắc oắc” hai tiếng.

Dương Quá cười, nói:

– Điêu huynh muốn thử võ công của tiểu đệ phải không? Không có việc gì, tiểu đệ chơi đùa với điêu huynh một lát vậy.

Nhưng thanh kiếm nặng bảy, tám chục cân làm sao tiện sử dụng, chàng bèn đặt nó xuống, nhấc thanh kiếm thứ nhất lên. Thần điêu bỗng cụp cánh lại, ngoảnh đi không thèm nhìn chàng, rõ ràng tỏ vẻ khó chịu.

Dương Quá liền hiểu ý, cười, nói:

– Điêu huynh muốn tiểu đệ sử dụng thanh kiếm nặng chứ gì? Nhưng tiểu đệ võ công tầm thường, đấu với điêu huynh chốn này quyết không phải là đối thủ, mong điêu huynh lưu tình cho đôi chút.

Đoạn chàng cầm thanh kiếm nặng lên, vận khí đan điền, dồn lực ra cánh tay, thong thả đâm ra một nhát. Thần điêu không ngoảnh đầu, cánh bên trái quạt ra phía sau, đập vào thanh kiếm. Dương Quá chỉ cảm thấy một luồng đại lực truyền qua thanh kiếm, đè chàng không thở nổi, vội vận khí kháng cự, “bụp” một tiếng, thân kiếm chao đảo, Dương Quá thấy trước mắt tối sầm, lập tức ngất đi.

Cũng không biết bao lâu sau chàng mới tỉnh lại, chỉ cảm thấy miệng đắng ngắt, đồng thời có thứ nước đắng gì đó đang chảy xuống cổ họng. Chàng mở mắt nhìn, thấy thần điêu ngậm một cái bọng tròn màu tím sẫm mà dốc ngược vào miệng chàng. Dương Quá ngửi thấy mùi tanh lợm giọng, song nghĩ thần điêu thông linh, thứ nước nó cho chàng uống hẳn là rất có ích, bèn há miệng nuốt xuống. Cái bọc kia liền vỡ ra, nước đắng ngập miệng.

Thứ nước ấy vừa đắng vừa tanh kinh khủng. Dương Quá chỉ muốn nhổ ra, nhưng không nỡ làm trái mỹ ý của thần điêu, nên cố nuốt xuống bụng. Lát sau chàng hơi vận khí, thấy hít thở nhẹ nhõm, đứng dậy giơ tay đá chân không thấy mỏi mệt, tinh thần thì phấn chấn, hơn hẳn lúc bình thường. Chàng thầm lấy làm lạ, theo lý mà nói, sau khi bị đánh mạnh, tức thở ngất đi, dù không bị trọng thương, cũng ê ẩm toàn thân, không lẽ cái bọc màu tím kia lại đựng linh dược trị thương hay sao?

Chàng cúi xuống nhấc thanh kiếm nặng lên, hình như nó nhẹ đi vài phần. Lúc ấy thần điêu lại kêu một tiếng, vỗ cánh đánh tới. Dương Quá không dám tiếp đòn, nghiêng mình tránh né. Thần điêu sấn tới một bước, hai cánh cùng vỗ, uy thế cực mạnh. Dương Quá biết thần điêu hoàn toàn không có ác ý đối với chàng, nhưng dù nó thông linh đến mấy, cũng vẫn là súc sinh, nó có thần lực, khi vỗ cánh làm sao nó có thể điều khiển kình lực nặng nhẹ? Nếu để cánh chim từ trên cao vỗ xuống, còn gì mạng sống? Thấy hai cánh chim ập tới, chàng vội lùi hai bước, chân trái đã đạp tới mép tảng đá chìa ra.

Thần điêu hóa ra không một chút dung tình, cái đầu trụi lông thò ra thụt vào nhanh như chớp, cái mỏ khoằm và nhọn mổ thẳng tới ngực chàng. Dương Quá muốn lùi chẳng còn chỗ, đành giơ kiếm chống đỡ, thần điêu mổ luôn một cái trúng thanh kiếm. Dương Quá cảm thấy cánh tay chấn động mạnh, thanh kiếm nặng muốn văng khỏi tay, thần điêu lại xòe cánh bên phải quạt ngang tới đùi chàng. Chàng vội tung mình nhảy qua đầu thần điêu, vào giữa sân, sợ thần điêu thuận thế công kích, chàng chém một kiếm về phía sau, bộp một tiếng, thần điêu lại mổ một cái trúng thanh kiếm. Dương Quá sợ toát mồ hôi lạnh, nói:

– Điêu huynh, huynh chớ coi tiểu đệ như Độc Cô đại hiệp!

Hai chân bủn rủn, chàng ngã phệt xuống đá. Thần điêu kêu “oắc oắc” hai tiếng, không tấn công nữa.

Dương Quá vô tình thốt ra câu “huynh chớ coi tiểu đệ như Độc Cô đại hiệp!” Chàng nghĩ: “Thần điêu kết bạn lâu năm với Độc Cô tiền bối, nhìn cung cách tấn công của nó, lờ mờ ẩn hiện gia số võ học, chắc là Độc Cô tiền bối ẩn cư chốn hoang cốc, lúc nhàn rỗi đã cùng thần điêu giao đấu cho vui. Độc Cô tiền bối giờ chỉ còn là nắm xương tàn, võ công tuyệt thế mất đi theo, nhưng qua thần điêu, vẫn có thể nhận biết đôi điều về phong cách của bậc đại sư tiền bối”. Nghĩ thế, chàng trở nên vui mừng, đứng dậy, nói:

– Điêu huynh, tiếp chiêu này!

Thanh kiếm nặng đâm nhanh tới ức thần điêu. Con chim xòe cánh trái chặn lại, cánh bên phải thì đánh tới.

Thần điêu sức lực quá mạnh, khi nó xòe cánh, kình lực tưởng như mấy vị cao thủ nhất tề tung chưởng, thanh kiếm trong tay Dương Quá lại quá nặng, các môn kiếm pháp sở học bình sinh như Toàn Chân kiếm pháp, Ngọc nữ kiếm pháp, đều không thi triển ra được, khi thủ chỉ có khôn khéo né tránh, lúc công thì đâm đâm chém chém cứng đơ.

Đấu một hồi, Dương Quá thấm mệt, liền ngồi phệt để nghỉ. Hễ thấy chàng ngồi phệt xuống, thần điêu lại lùi xa hai bước. Đấu chơi như thế hơn một canh giờ, một người một chim rời mảnh sân này, trở lại hang đá.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, thần điêu đã mang đến đặt bên chàng ba cái bọc tròn tròn màu tím sẫm tanh hôi. Dương Quá ngắm kỹ, thì ra đó là túi mật của cầm thú.

Nhớ lúc chàng gặp thần điêu lần đầu, thấy thần điêu đánh nhau với rắn độc và mãng xà, ăn thịt rắn độc, chàng đoán đây là mật rắn. Lại nghĩ không biết mật rắn có độc hay không, mà hôm qua nuốt xong, chàng thấy tinh thần sảng khoái, sức lực đại tăng. Chàng cũng chẳng nghĩ rằng trong người mình có chất độc của hoa Tình và của Băng phách ngân châm, chàng nuốt luôn ba cái túi mật rắn kia, tĩnh tọa điều tức. Đột nhiên chàng cảm thấy khí huyết lưu thông dễ chịu hơn hẳn mọi khi, thì cả mừng, reo to:

– Hay lắm!

Khi tĩnh tọa tu luyện nội công, tối kỵ nghĩ ngợi chuyện khác, quá vui quá buồn lại càng nguy hiểm. Vậy mà lúc này chàng reo lên mừng rỡ lại chẳng sao cả.

Dương Quá bật dậy, cầm thanh kiếm nặng, ra bên ngoài hang, lại luyện kiếm với thần điêu. Bây giờ chàng đã bớt sợ vài phần, tuy vẫn tránh nhiều, đỡ ít, song cũng đôi khi có thể đánh trả thần điêu.

Cứ thế luyện kiếm mấy ngày, Dương Quá cầm thanh kiếm đã thấy bớt nặng, đâm chém đỡ gạt dần dần đắc tâm ứng thủ. Đồng thời càng lúc càng cảm thấy kiếm thuật sở học biến hóa quá rắc rối, quá nhiều hoa mỹ, nghĩ đến câu “Trọng kiếm để thô, không lưỡi không mũi nhọn” mà Độc Cô Cầu Bại khắc trên đá xem ra còn hơn các thứ kiếm chiêu xảo diệu nhất trong thiên hạ. Chàng vừa đấu với thần điêu, vừa suy nghĩ đến khứ thế hồi lộ của kiếm chiêu, có cảm giác rằng kiếm chiêu càng đơn giản vô kỳ, thì đối phương càng khó chống đỡ. Tỷ như khi đâm kiếm thẳng, chỉ cần kình lực cương mãnh, uy lực sẽ hơn hẳn kiếm chiêu biến ảo kỳ diệu của Ngọc nữ kiếm pháp. Hiện thời chàng chỉ có một cánh tay trái, nhưng mỗi ngày được uống thứ mật rắn (không biết thần điêu lấy từ đâu về), lực cánh tay cứ mạnh dần lúc nào không hay.

Một lần ra ngoài tản bộ, chàng thấy có ba con độc xà to nằm chết dưới đất, bụng bị phanh ra, chân rắn có nhiều vết cào máu me, chàng biết thứ chàng uống đúng là mật rắn. Mấy con rắn kia xác có ánh kim lóng lánh, chàng chưa từng gặp, không biết là loài rắn gì, nghĩ: “Thần điêu có sức mạnh như thế, chắc là nhờ nó nuốt nhiều túi mật của lũ quái xà”.

Hơn một tháng sau, Dương Quá hầu như đã có sức ngang ngửa với thần điêu, cầm thanh kiếm nặng múa tít, bất giác cũng như được an ủi lớn. Võ công tới bước này, giống như lên đỉnh Thái Sơn thấy thiên hạ nhỏ bé, nghĩ đến sở học trước đây, thật không có gì đáng nói. Nhưng lại nghĩ, nếu không có căn cơ trước đây, hôm nay dẫu có kỳ ngộ, cũng chẳng thể nào đạt tới cảnh giới này. Thần điêu dẫu gì cũng là con vật không biết nói, không biết chỉ giáo, huống hồ nó cũng không có môn võ công gì cả, chẳng qua trời phú cho nó thần lực kinh nhân, lại được sống nhiều năm bên Độc Cô Cầu Bại, thường ngày giao đấu, nên nhớ được một số cách tiến thoái mà thôi.

Sáng nay vừa ngủ dậy, trời đầy mây đen, rồi mưa như trút. Dương Quá nhìn thần điêu, nói:

– Điêu huynh, mưa lớn thế này, chúng ta có luyện võ hay không?

Thần điêu ngậm vạt áo chàng đi mấy bước về phía đông bắc, sau đó nó nhả ra, phóng đi như bay. Dương Quá nghĩ: “Không lẽ phía đó có vật gì lạ lắm sao?” Chàng vác kiếm, gội mưa chạy theo sau.

Đi mấy dặm, càng lúc càng nghe tiếng sầm sầm, rõ ràng là tiếng nước đổ. Dương Quá nghĩ: “Mưa lớn thế này, nước lũ dâng nhanh, phải cẩn thận mới được!” Vòng qua một hẻm núi, tiếng nước vang rát cả tai, thấy có một thác nước từ trên cao đổ xuống, trông như một con đại bạch long, chảy theo một dòng suối, chảy xiết dị thường, sôi lên sùng sục, cuốn theo cành cây tảng đá mà tuôn đi ào ào.

Mưa lớn, quần áo ướt sũng, Dương Quá nhìn quanh, thấy nước lũ trong núi quá mạnh, hơi có ý sợ.

Thần điêu dùng mỏ kéo vạt áo chàng tới mép suối tựa hồ bảo chàng nhảy xuống suối. Dương Quá lấy làm lạ, nói:

– Điêu huynh, xuống suối làm gì? Nước chảy xiết thế kia, e đứng không vững đâu.

Thần điêu nhả vạt áo ra, nhảy xuống, đứng trên một tảng đá lớn giữa suối, giơ cánh bên trái hất một tảng đá đang trôi xuôi bắn ngược lên. Tảng đá mấy lần trôi xuống, lại bị cánh chim điêu hất ngược lên, không thể trôi qua chỗ thần điêu. Đến lần thứ bảy, thần điêu dùng cánh hất mạnh hòn đá lên bờ, rồi nó cũng bay lên đậu bên cạnh Dương Quá.

Dương Quá hiểu ý, biết năm xưa mỗi khi trời mưa lớn, Độc Cô Cầu Bại lại ra dòng lũ luyện kiếm, chàng nghĩ mình không đủ công lực, không dám làm như vậy, còn đang lưỡng lự, thì thần điêu giơ cánh đẩy vào mông chàng một cái. Dương Quá bị bất ngờ, bay luôn xuống suối, chàng vội thi triển thủ pháp “Thiên cân trụy”, đáp xuống tảng đá lớn giữa suối mà thần điêu đã đứng ban nãy. Hai chân chàng ngập trong nước, dòng nước lũ chảy xiết đẩy mạnh, khiến chàng khó đứng vững. Dương Quá nghĩ: “Độc Cô là người, mình cũng là người, Độc Cô tiền bối đã đứng vững, tại sao mình không thể?” Bèn vận sức chống lại dòng chảy. Chàng định dùng kiếm gạt ngược một hòn đá đang trôi xuống, nhưng không đủ sức.

Chừng tàn một nén nhang thì chàng đã hết sức, bèn đẩy kiếm vào tảng đá mà nhảy lên bờ. Mới nghỉ được một lát, thần điêu đã giơ cánh hất, lần này chàng có phòng bị, nên chủ động tự nhảy xuống giữa suối nghĩ: “Vị điêu huynh này đúng là một ông thầy nghiêm khắc, bắt buộc mình luyện công, không cho lơ là chút nào. Điêu huynh đã có mỹ ý như thế, chẳng lẽ mình không có chí tiến thủ?” Thế là chàng vận khí xuống hạ bàn, đứng vững hồi lâu, hiểu dần ra cách ngưng khí vận lực. Dòng nước lũ tuy lớn dần, đã ngập tới ngang thắt lưng, song chàng có thể đứng vững hơn cả lúc trước. Khi nước ngập đến ngực, đến cằm, Dương Quá nghĩ: “Mình có thể đứng vững, nhưng không thể để nước dìm chết!” Bèn nhảy lên bờ.

Ai ngờ thần điêu đứng sẵn trên bờ, thấy chàng nhảy lên, chân chưa chạm đất, nó đã dùng cánh hất chàng xuống suối. Dương Quá vung kiếm chống đỡ cũng không được, ùm một tiếng, lại rơi tõm xuống nước.

Khi hai chân chàng đặt trên tảng đá, thì nước đã dâng ngập đầu, một ngụm nước xộc vào miệng. Nếu vận khí phun nước ra, thì nội tức thăng lên, hai chân sẽ hẫng, chàng bèn ngưng khí thủ trung, hai chân trụ vững, nín thở, một lát sau nhún hai chân vọt người lên không trung, phun nước trong miệng ra, lại đáp xuống suối, để cho dòng nước ào ào tràn qua trên đầu, thân hình đứng thẳng như cây cột giữa dòng. Dương Quá nghĩ bụng: “Điêu huynh bảo ta đứng dưới dòng lũ, nếu ta không sử kiếm hất đá, chẳng hóa thần điêu sẽ chê cười ta hay sao?” Tính chàng vốn hiếu thắng, dù là trước mặt con vật, chàng cũng không muốn mất thể diện, thế là thấy cành cây hay hòn đá nào trôi xuôi, chàng lại dùng kiếm hất ngược lên. Đá trong nước đã nhẹ đi nhiều, thanh kiếm nặng tuy bị nước đẩy, cũng không nặng như ở trên bờ, chàng sử dụng khá tiện lợi. Chàng cứ thế luyện kiếm dưới nước, đến khi mỏi mệt mới nhảy lên bờ.

Chàng sợ thần điêu lại buộc chàng nhảy xuống dòng lũ, lúc này đã kiệt sức, nếu không nghỉ một lát sẽ không có sức trụ vững; quả nhiên thần điêu không cho chàng nghỉ, vừa thấy chàng nhảy lên, lại xòe cánh hất xuống.

Dương Quá kêu to:

– Điêu huynh, huynh không định lấy mạng tiểu đệ đấy chứ?

Chàng đứng dưới suối một lát, thực không thể chịu thêm, cuối cùng vọt lên bờ, thấy thần điêu vỗ cánh, song chàng không muốn nhận thua, bèn vung kiếm đâm thẳng, sau vài chiêu, thần điêu bị chàng buộc phải lùi một bước. Dương Quá nói:

– Đắc tội này!

Chàng lại đâm mạnh một kiếm, thần điêu không dám đỡ, phải nhảy tránh.

Dương Quá biết nửa ngày luyện kiếm trong dòng nước lũ, kình lực đã tiến xa, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, tự nhủ kình lực tăng tiến hẳn không phải là nhờ tu luyện mươi bữa nửa tháng, hoặc luyện tập nửa ngày dưới nước, mà hẳn là nhờ công hiệu kỳ diệu cường gân hoạt cốt của mật rắn. Nội lực đại tăng lúc nào không biết, đến khi nguy cấp mới bộc lộ ra.

Chàng ngồi tĩnh tọa một lát trên bờ suối, khí lực phục hồi, không cần thần điêu bức bách, tự nhảy xuống dòng lũ mà luyện kiếm. Lần sau nhảy lên bờ, chàng thấy thần điêu không biết đã đi đâu rồi, nhìn mưa sắp tạnh, nghĩ bụng nước lũ đang mạnh, ngày mai sẽ hết lũ, nên thừa dịp này mà luyện tập, thế là chàng lại nhảy xuống suối.

Lần sau nhảy trở lên, chàng thấy trên bờ đặt sẵn hai cái mật rắn, thầm cảm kích ơn đức của thần điêu, liền nuốt mật, rồi lại nhảy xuống suối luyện tập. Luyện tập đến đêm khuya, dòng nước lũ chảy yếu dần.

Đêm ấy cuối cùng Dương Quá không ngủ, trong dòng nước lũ ngộ ra rất nhiều kiếm lý, như đâm thuận, thúc ngược, phạt ngang, chém chéo, bây giờ mới đại ngộ, chẳng trách sử kiếm hà tất phải dùng kiếm có lưỡi, có mũi nhọn? Một thanh kiếm sắc thông thường, chàng chỉ cần cầm trong tay rung nhẹ, kình lực chưa phát, chắc kiếm đã gãy luôn. Lúc này mưa tạnh, trời trong, trăng sáng, ngân quang chiếu xuống mặt suối giữa rừng. Dương Quá nhìn dòng chảy, tâm thông kiếm lý, tay thạo kiếm thuật, biết kiếm pháp sử dụng thanh kiếm nặng là như thế, không cần luyện thêm, thì Kiếm Ma có phục sinh, truyền thụ kiếm thuật cho chàng cũng chỉ vậy thôi. Tương lai nội lực tăng dần, sử kiếm sẽ ngày càng nhẹ, cuối cùng sử kiếm gỗ cũng sẽ không khác gì sử thanh kiếm nặng này, tất cả là do công lực từ nông đến sâu, chứ về kiếm thuật, thì đây đã là cảnh giới tối cao.

Chàng đi đi lại lại trên bờ suối, ngẩng nhìn trăng sáng, nghĩ thầm, nếu Độc Cô không lưu lại thanh kiếm nặng này, thần điêu không chỉ dẫn, cho chàng uống mật rắn giúp nội lực tăng tiến, thì pho kiếm thuật này chẳng thể tái hiện trên thế gian. Lại nghĩ Độc Cô Cầu Bại không dựa vào ai, tự thực hành mà ngộ ra được kiếm lý thần diệu, quả thật thông minh hơn chàng gấp trăm lần.

Đứng bên dòng suối tưởng tượng phong liệt của tiên hiền, chàng vừa thán phục vừa cảm kích, nghĩ: “Cô cô biết được võ công của mình lúc này, không biết sẽ vui mừng đến mức nào. Ôi, không rõ hiện giờ cô cô ở đâu? Nàng có ngắm trăng, nhớ đến mình hay chăng?” Vừa nhớ đến Tiểu Long Nữ, trong ngực lại đau nhói.

Chàng lại nghĩ: “Mình tuy ngộ ra cái lý của kiếm thuật, nhưng ẩn cư mãi trong hoang sơn thì có ích gì? Nếu chất độc hoa Tình ngày mai phát tác, mình chết đi, kiếm thuật tinh diệu cũng mai một hay sao?” Nghĩ vậy hùng tâm liền trôi dậy, chàng nghĩ: “Mình cũng phải làm như Độc Cô tiền bối, dùng kiếm thuật này đánh cho quần hùng thiên hạ thúc thủ, mới cam lòng chết đi”.

Nhìn cánh tay phải bị cụt, nhớ đến nỗi hận Quách Phù chém chàng, bất giác máu nóng dâng lên, chàng nghĩ: “Con a đầu ấy cậy cha ả là đại hiệp đương thời, mẹ ả là bang chủ Cái Bang, không coi ta ra gì, từ nhỏ ta sống nhờ ở nhà ả, đã chịu bao nhiêu lần nhục nhã. Ta nói dối đánh lừa huynh đệ họ Võ, chẳng qua cũng chỉ muốn tốt cho ả, nếu để một trong hai huynh đệ họ Võ chết vì ả, chẳng phải ả có tội hay sao? Hừ, ả thừa lúc ta bệnh nặng, chém mất cánh tay ta, thù này không báo, không còn là trượng phu”.

Dương Quá vốn coi trọng ân oán, không dễ bỏ qua mọi chuyện, hồi mới mất cánh tay, chàng phải lánh vào hoang cốc trị thương, vì không còn cách nào khác, hiện tại đã khỏi, võ công lại đại tiến, ý định báo thù rửa hận càng khó kiềm chế.

Tâm ý đã quyết, đang đêm chàng trở về hang, nói với thần điêu:

– Điêu huynh, đại ân đại đức của điêu huynh, cuối cùng khó lòng báo đáp. Chốn giang hồ tiểu đệ còn mấy vụ ân oán, nay tạm từ biệt điêu huynh, sau này sẽ trở lại làm bạn. Thanh kiếm nặng này của Độc Cô tiền bối, tiểu đệ xin mượn một thời gian.

Chàng vái thần điêu một cái thật dài, lại hướng về thạch phần Độc Cô Cầu Bại vái mấy cái, rồi đi ra khỏi hoang cốc. Thần điêu tiễn chàng ra tận cốc khẩu, người và chim ôm nhau vỗ về thân thiết một hồi, rồi mới chia ly.

Thanh kiếm nặng nếu giắt bên hông, sẽ làm đứt dây lưng. Dương Quá bèn lấy ba sợi dây mây song già tết lại, buộc thanh kiếm, đeo sau lưng, rồi thi triển khinh công chạy thẳng tới thành Tương Dương.

Đến bên thành thì trời ngả chiều, nghĩ ban ngày hành sự bất tiện, huống hồ cả đêm qua không ngủ, tinh lực không đủ, Quách bá bá và Quách bá mẫu đều là cao thủ võ học, hiện tại chắc đã khỏe lại, chạm trán với họ ắt xảy ra ác đấu, chàng bèn tìm một chỗ cỏ dày, nằm ngủ mấy canh giờ, rồi điều tức vận công, lại tìm ăn mấy thứ quả dại, đợi đến canh một, mới đi đến chân thành.

Tường thành Tương Dương cao sừng sững, hơn một tháng trước, khi Lý Mạc Sầu và Kim Luân pháp vương từ trên bờ thành nhảy xuống, họ phải dùng thân người khác làm bàn đạp để khỏi bị thương, bây giờ từ dưới chân tường thành muốn leo lên mặt thành, quả không dễ gì. Dương Quá lúc nằm ngủ trên cỏ, đã nghĩ cách leo lên tường thành, nghĩ mình có thể không biết công phu “Thượng thiên thê” của Quách bá bá, song mình có thể bắt chước cách leo vách núi dựng đứng của Độc Cô tiền bối. Bèn tìm một chỗ vắng vẻ gần cửa Đông, thấy lính canh đã đi xa trên mặt thành, chàng nhảy lên, dùng thanh kiếm nặng chọc mạnh một cái vào tường thành, thanh kiếm tuy không nhọn, tường thành xây bằng đá hoa cương dày, nhưng thế kiếm đâm mạnh, tường thành bị vỡ một lỗ to bằng miệng bát. Dương Quá không ngờ nhát kiếm lại có uy lực đến thế, vừa kinh ngạc vừa vui mừng, lần thứ hai nhảy lên, chân trái đạp vào cái lỗ vừa phá, tay lại đâm một nhát kiếm vào tường thành, lần này đâm nhẹ hơn, để khỏi kinh động lính canh.

Cứ thế lên dần từng bước, cách bờ tường thành vài trượng thì chàng thi triển “Bích hổ du tường công” mà leo lên mặt thành, nấp vào một chỗ tối. Phía trong tường thành có bậc đá đi xuống, Dương Quá chờ lính canh đi xa, chàng vút đi như một làn khói, thẳng tới Quách phủ.

Nhờ uống mật rắn, nội lực của Dương Quá đại tăng, đồng thời thân hình linh hoạt, khinh công cũng cao hơn hẳn ngày trước. Nhưng võ công của Quách Tĩnh thật không phải bình thường, chỉ riêng chưởng lực của “Hàng long thập bát chường” cũng e rằng khắp thiên hạ không ai địch nổi, lại thêm Đả cẩu bổng pháp biến hóa kỳ ảo của Hoàng Dung, những gì chàng biết chẳng qua được sáu, bảy phần, nên chàng không dám khinh suất, đến Quách phủ, chàng lặng lẽ, nhẹ nhàng vượt tường mà vào.

Qua hoa viên, nhìn căn phòng trước mình đã ở, chàng tới bên song ngó vào, không thấy ai, chàng khẽ đẩy cửa bước vào bên trong.

Trong bóng tối, chàng thấy chiếc bàn nhỏ, chiếc ghế tựa vẫn ở nguyên chỗ cũ, nhưng chăn gối thì không còn. Chàng ngồi ghé xuống mép giường, nghĩ mình đã mất đi một cánh tay ở đây, không khỏi vừa thương cảm vừa phẫn nộ.

Dương Quá tướng mạo tuấn tú, tính cách phong lưu vui vẻ, tuy đối với Tiểu Long Nữ một mực thâm tình, không tơ tưởng ai khác, nhưng nhiều thiếu nữ gặp chàng đều không khỏi si tình. Trình Anh, Lục Vô Song, Công Tôn Lục Ngạc… hoặc thầm yêu trộm nhớ, hoặc biểu lộ ngay với chàng. Lúc này chàng ngồi ở mép giường, nghĩ mình đã thành kẻ tàn phế, nếu gặp lại mấy thiếu nữ đa tình kia, chắc họ sẽ nhìn chàng như một gã đáng thương, võ công tuy cao, cũng chỉ là một quái vật kinh thế hãi tục mà thôi. Ý nghĩ dồn dập, nhớ lại bao nhiêu chuyện trong đời, bất giác chàng thốt lên:

– Chỉ có cô cô, chỉ có một mình cô cô, đừng nói ta mất một cánh tay, dẫu ta cụt cả tứ chi, tâm ý của nàng đối với ta cũng không hề thay đổi.

Đúng lúc ấy, bỗng nghe từ phía đông vọng tới tiếng hai người tranh cãi nhau, chính là Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Dương Quá nổi tính hiếu kỳ, muốn biết hai người tranh cãi chuyện gì, bèn rón rén đi tới bên song cửa phòng ở của vợ chồng Quách Tĩnh.

Chỉ nghe Hoàng Dung nói to:

– Hai kẻ đó rõ ràng đã mang Tương nhi đi Tuyệt Tình cốc, đổi lấy thuốc giải độc, Tĩnh ca ca còn cứ luôn miệng bảo Dương Quá là người tử tế! Tương nhi ra đời chưa đầy một giờ, đã rơi vào tay bọn chúng, còn sống làm sao nổi kia chứ?

Nói đến đây, giọng nghẹn ngào, rồi có tiếng nấc lên.

Quách Tĩnh nói:

– Quá nhi nhất định không phải hạng người như thế. Hơn nữa, nó đã mấy phen cứu mạng ta và nàng, chúng ta dù phải đem Tương nhi đi đổi mạng cho nó, thì cũng cam tâm tình nguyện.

Hoàng Dung vừa khóc vừa nói:

– Tĩnh ca ca tình nguyện, chứ thiếp thì không đâu…

Lúc ấy đột nhiên trong phòng có tiếng khóc của trẻ sơ sinh, nghe rất vang. Dương Quá lấy làm lạ: “Không lẽ đã đoạt lại được tiểu nữ hài từ tay Lý Mạc Sầu? Nếu thế, sao Hoàng Dung còn bảo nó sống làm sao nổi?” Chàng nín thở, căng mắt nhìn qua khe cửa, thấy quả nhiên Hoàng Dung đang ẵm một đứa trẻ sơ sinh. Đứa bé ấy hướng mặt ra phía cửa sổ, Dương Quá thấy nó mặt vuông tai to, nước da ngăm ngăm, mặt đầy lông tơ. Nữ hài Quách Tương nọ chàng từng ẵm khá lâu, còn nhớ nó mi thanh mục tú, da trắng hồng, trông khác hẳn đứa trẻ sơ sinh mập mạp này. Hoàng Dung đứng quay lưng ra cửa sổ, khẽ rung rung con, nói:

– Tướng công hãy mau đi mang tỷ tỷ của bé về đây với bé nào!

Dương Quá chợt hiểu, thì ra Hoàng Dung đã sinh đôi, nữ hài Quách Tương chào đời trước, rồi đến nam hài. Khi nam hài này ra đời, tỷ tỷ của nó đã được Tiểu Long Nữ ẵm đi.

Quách Tĩnh đi đi lại lại trong phòng, nói:

– Dung nhi, nàng vốn thông suốt đại thể, sao chuyện con cái lại nhìn không ra? Hiện tại quân vụ khẩn cấp, ta làm sao có thể vì một nữ hài mà rời bỏ thành Tương Dương kia chứ?

Hoàng Dung nói:

– Thiếp bảo để thiếp đi tìm, tướng công không cho đi. Chẳng lẽ bỏ mặc hài nhi của chúng ta mất mạng hay sao?

Quách Tĩnh nói:

– Nàng chưa khỏe hẳn, đi làm sao nổi?

Hoàng Dung giận dỗi:

– Người cha chẳng cần đứa con gái, người mẹ khổ biết chừng nào.

Dương Quá đã ở đảo Đào Hoa với họ mấy năm, thấy vợ chồng họ tương kính tương ái, chưa cãi nhau bao giờ, lần này cả hai mặt đỏ tía tai, không nhường lời nhau, rõ ràng đã cãi nhau nhiều lần về chuyện này. Hoàng Dung vừa khóc vừa nói, Quách Tĩnh thì cau có đi đi lại lại.

Lát sau Quách Tĩnh nói:

– Tương nhi dù có tìm mang về, nàng lại nuông chiều như đối với Phù nhi, trở nên hư hỏng, thì thà không có một nữ nhi như thế còn hơn.

Hoàng Dung cao giọng nói:

– Phù nhi có gì là sai trái? Nó tâm ái muội tử, xuất thủ nặng tay một chút, cũng là chuyện thường tình. Nếu là thiếp, Dương Quá mà không đem trả nữ nhi cho thiếp, thì luôn cả tay trái của hắn, thiếp cũng chặt nốt.

Quách Tĩnh quát to:

– Nàng bảo sao?

Quách Tĩnh đập mạnh tay xuống bàn, rầm một tiếng, cái bàn bằng gỗ hồng chắc chắn lập tức bị vỡ một nửa. Đứa bé sơ sinh đang khóc u ơ, đột nhiên sợ quá nín luôn.

Lúc ấy Dương Quá thấy ở cửa sổ phía tây có một bóng người rón rén thoái lui. Chàng nghĩ: “Thì ra ngoài mình, còn có kẻ khác nghe trộm, là ai vậy?” Chàng bèn bám theo sau người ấy, nhận ra chính là Quách Phù, thì nổi giận: “Hay lắm! Ta chính đang muốn tìm nàng đây!” Bỗng phía sau, đèn trong phòng tắt phụt, nghe tiếng Hoàng Dung nói:

– Tướng công đi ra đi, làm đứa bé sợ chết khiếp rồi!

Dương Quá biết Quách Tĩnh sắp đi ra, dễ chạm trán với mình, chàng vội luồn ra sau hòn non bộ, vọt tới bên ngoài phòng của Quách Phù, nhảy lên nấp giữa tán lá một cây viết.

Không lâu, chàng thấy Quách Phù đi vào phòng, một giọng thiếu nữ vang lên:

– Đã quá canh hai, mời cô nương đi nghỉ!

Quách Phù nói:

– Hừ, lúc nào buồn ngủ thì ta ngủ. Ngươi ra đi!

Giọng người kia đáp “Vâng” rồi bước ra, đó là một a hoàn.

Lát sau, nghe có tiếng thở dài não nuột của Quách Phù. Dương Quá nghĩ: “Ngươi buồn nỗi gì? Ngươi đã chém đứt cánh tay của ta, ta cũng phải chém một cánh tay của ngươi, có điều trang nam nhi không đánh nữ nhân. Lúc này ta vào đả thương ngươi dễ như trở bàn tay, nhưng như thế không phải là phong cách đại trượng phu”. Nghĩ một chút, đã có cách: “Được, mình sẽ gọi Quách bá bá đến, mình đánh bại Quách bá bá trước, rồi sẽ xử trí Quách Phù. Đấng nam nhi quang minh lỗi lạc, như thế sẽ không ai chê cười mình được!” Nhưng lại nghĩ: “Quách bá bá võ công trác tuyệt, liệu mình có thắng nổi hay không? E rằng khó lòng! Thế thì thù này không báo được ư?” Nghĩ đến cánh tay bị mất, máu nóng lại trào lên, chàng định từ trên cây viết nhảy xuống, bỗng nghe có tiếng chân người bước qua.

Chỉ thấy người kia cước bộ trầm ngưng, thân hình bình ổn, chính là Quách Tĩnh. Quách Tĩnh đến cửa, giơ tay gõ nhẹ, gọi:

– Phù nhi, ngươi đã ngủ chưa?

Quách Phù nói, giọng run run:

– Cha đấy ư?

Dương Quá lấy làm lạ: “Không lẽ Quách bá bá biết mình tới đây, nên vội đến bảo hộ nữ nhi? Được! Mình sẽ động thủ với Quách bá bá trước, đánh không lại, chết dưới tay Quách bá bá là cùng chứ gì!”

Quách Tĩnh ừm một tiếng. Quách Phù mở cửa, nhìn phụ thân một cái, rồi cúi mặt xuống.

Hồi 27: Đấu trí đấu lực

Quách Tĩnh bước vào phòng, ngồi xuống chiếc ghế tựa trước giường, im lặng hồi lâu. Quách Phù cũng im lặng. Rồi Quách Tĩnh hỏi:

– Thời gian vừa qua ngươi ở đâu?

Quách Phù nói:

– Sau khi hài nhi… đả thương Dương đại ca, sợ cha trách phạt, cho nên… cho nên…

Quách Tĩnh nói:

– Cho nên trốn đi chứ gì?

Quách Phù cắn môi, gật đầu. Quách Tĩnh nói:

– Ngươi chờ ta nguôi giận mới về phải không?

Quách Phù lại gật đầu, đột nhiên gục đến vào ngực cha, nói:

– Cha, cha còn giận con hay sao?

Quách Tĩnh xoa đầu con, nói nhỏ:

– Ta không giận. Ta không hề giận, chỉ đau lòng cho ngươi thôi.

Quách Phù thốt lên một tiếng “Cha!” rồi khóc nức nở.

Quách Tĩnh nhìn lên trần nhà, chờ Quách Phù bớt khóc, nói:

– Tổ phụ của Dương Quá là Thiết Tâm công, với tổ phụ Khiếu Thiên công của ngươi là cốt nhục khác họ. Phụ thân của Dương Quá và ta cũng là huynh đệ kết nghĩa, việc đó ngươi biết rồi.

Quách Phù vâng dạ. Quách Tĩnh nói tiếp:

– Dương Quá tuy hành sự tùy hứng, hơi cẩu thả, nhưng có lòng hiệp nghĩa, mấy lần cứu sống cha mẹ ngươi, có lần cứu sống cả ngươi nữa. Nó còn ít tuổi, nhưng một lòng vì nước vì dân, đã lập chiến công không nhỏ, điều đó ngươi cũng biết rồi.

Quách Phù nghe giọng của cha nghiêm nghị dần, càng không dám lên tiếng.

Quách Tĩnh đứng dậy, nói:

– Còn có một việc, ngươi hoàn toàn chưa biết, hôm nay ta sẽ cho ngươi biết. Phụ thân của Quá nhi là Dương Khang, năm xưa hành xử bất cẩn, ta là nghĩa huynh của y, không thể khuyên y sửa lỗi qui thiện, cuối cùng y bị chết thảm tại miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng, tuy không phải do mẹ ngươi hạ thủ, nhưng cũng là do mẹ ngươi mà y chết, Quách gia ta có nợ với Dương gia…

Dương Quá nghe câu “bị chết thảm tại miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng”, lần đầu tiên biết nơi chết của phụ thân, thì nỗi thù hận dưới đáy lòng bỗng trào lên, chỉ nghe Quách Tĩnh nói tiếp:

– Ta vốn định gả ngươi cho Quá nhi, để bù cho nỗi ân hận cả đời ta, ai ngờ… ai ngờ… ôi!

Quách Phù ngẩng đầu, nói:

– Cha, hắn cướp muội tử của con, lại nói bao lời hồ ngôn loạn ngữ phỉ báng con. Cha, Dương gia hắn và Quách gia chúng ta tuy có dây mơ rễ má, nhưng không lẽ vì thế hắn cứ khi vũ mà con không được phản kháng hay sao?

Quách Tĩnh gằn giọng:

– Rõ ràng ngươi chém lìa cánh tay của nó, lại bảo nó khi vũ ngươi! Nếu nó khi vũ ngươi thật sự, thì ngươi có mười cánh tay cũng bị nó chém hết rồi. Thanh kiếm nào thế kia?

Quách Phù không dám nói, lấy thanh Thục nữ kiếm dưới gối lên. Quách Tĩnh cầm kiếm, rung rung nhẹ, lưỡi kiếm phát ra tiếng “oăng oăng”. Quách Tĩnh thản nhiên nói:

– Phù nhi, người ta sống giữa trời đất, hành sự phải sao cho không hổ thẹn với lương tâm. Thường ngày ta tuy nghiêm khắc với ngươi, nhưng lòng yêu thương của ta dành cho ngươi không khác gì mẹ ngươi.

Câu sau cùng, giọng nói của Quách Tĩnh nghe rất dịu dàng. Quách Phù nói nhỏ:

– Hài nhi biết ạ!

Quách Tĩnh nói:

– Tốt, ngươi hãy giơ cánh tay phải ra. Ngươi đã chém đứt cánh tay của người ta, ta cũng sẽ chém đứt cánh tay của ngươi. Cha ngươi một đời chính trực, quyết không dám thiên vị, bênh vực đứa con sai trái.

Quách Phù biết lần này phụ thân tất trừng phạt nặng, nhưng không ngờ người cha lại định chém đứt cánh tay của nàng, thì tái mặt, gọi to:

– Cha ơi!

Quách Tĩnh nghiêm mặt, nhìn con chằm chằm. Dương Quá không ngờ Quách Tĩnh lại trọng nghĩa đến như vậy, chàng thấy trống ngực đập loạn lên, nghĩ: “Mình có nên nhảy vào can ngăn? Bảo Quách bá bá tha cho Quách cô nương hay chăng?” Đang do dự, thì Quách Tĩnh giơ kiếm chém xuống.

Đột nhiên vù một cái, có người từ ngoài song nhảy vào thân pháp cực kỳ mau lẹ, người chưa tới, cây bổng đã tới trước, chặn đứng thanh kiếm của Quách Tĩnh lại, người ấy chính là Hoàng Dung.

Hoàng Dung không nói một lời, cây bổng đâm liền ba cái, đều là tuyệt chiêu trong Đả cẩu bổng pháp. Một là bổng pháp của Hoàng Dung tinh diệu, hai là Quách Tĩnh bị bất ngờ, thành thử phải lùi hai bước. Hoàng Dung nói:

– Phù nhi, còn không chạy mau đi!

Quách Phù tâm tư không linh mẫn như mẹ, gặp đại sự cứ đứng ngây ra bất động. Hoàng Dung tay trái ẵm đứa bé sơ sinh, tay phải đưa cây bổng về ngoắc vào ngang lưng Quách Phù, hất ra qua cửa sổ, nói:

– Phù nhi, mau trở về đảo Đào Hoa, mời Kha công công đến cầu tình với cha ngươi!

Đoạn dùng cây bổng thi triển tự quyết chữ “Triền” và chữ “Phong” trong Đả cẩu bổng pháp để chặn lối Quách Tĩnh, nói tiếp:

– Phù nhi, chạy mau đi, con tiểu hồng mã ở ngoài cổng phủ ấy!

Nguyên Hoàng Dung biết chồng là người chính trực, có phần cổ hủ, lại rất trọng nghĩa khí, vừa rồi Quách Phù gây ra đại họa, phải trốn đi nhiều ngày mới dám trở về, Quách Tĩnh chưa nguôi giận, nhất định sẽ trừng phạt nặng, bèn dặn người dắt con tiểu hồng mã chờ sẵn ở ngoài cổng phủ, yên cương hành lý có sẵn, thêm vài lạng bạc. Nếu khuyên giải được, Quách Tĩnh chỉ đánh con một trận thì thôi, bằng không thì Quách Phù phải cao chạy xa bay một thời gian dài, mới có thể đoàn tụ.

Hai vợ chồng tranh cãi hồi lâu trong phòng, thấy chồng sắc mặt hầm hầm đi về phía phòng nữ nhi, biết là lành ít dữ nhiều, Hoàng Dung liền bám theo, đã kịp cứu con khỏi bị mất một cánh tay. Võ công của Hoàng Dung không đủ để ngăn chặn Quách Tĩnh, nhưng Quách Tĩnh lâu nay luôn kính nể vợ ba phần, lại thấy vợ đang ẵm đứa con sơ sinh, nên không tiện xuất thủ đoạt lộ, vì thế Quách Phù chạy thoát khỏi hoa viên mà ra cổng phủ.

Dương Quá ngồi trên cây, nhìn rõ tất cả, lúc Quách Phù được Hoàng Dung hất ra ngoài cửa sổ, nếu chàng xuất thủ, thì nàng ta chạy đâu cho thoát? Nhưng nghĩ cả gia đình nàng ta cãi nhau nặng nề đều là vì chàng, lúc này thừa lúc họ nguy cấp mà ra tay thì không đành lòng.

Chỉ thấy Hoàng Dung tấn công liền mấy chiêu, buộc Quách Tĩnh lùi hai bước, đến sát mép giường, không còn chỗ lùi, Hoàng Dung đột nhiên nói:

– Bế nó này!

Đoạn tung đứa bé về phía chồng. Quách Tĩnh sững người, vội đưa tay trái đón con. Hoàng Dung bước tới trước mặt Quách Tĩnh, dịu giọng hỏi:

– Tĩnh ca ca, có chịu tha tội cho Phù nhi hay không?

Quách Tĩnh nói:

– Dung nhi, đâu phải ta không thâm ái Phù nhi? Nhưng nó đã làm một việc như thế, nếu không phạt nặng, làm sao an tâm được? Chúng ta biết nói thế nào với Quá nhi? Ôi, Dương Quá bị mất cánh tay, chẳng có ai chiếu liệu, không biết bây giờ nó sống chết ra sao? Ta… ta thật ân hận không thể chặt đứt cánh tay của chính mình…

Dương Quá nghe lời nói chân tình của Quách Tĩnh, thì bất giác bồi hồi, nước mắt rưng rưng.

Hoàng Dung nói:

– Đã tìm nhiều ngày tứ phía, đều không thấy tung tích nó đâu, nếu có gì bất trắc, tất đã phát hiện được rồi. Quá nhi võ công chẳng thua gì hai ta, tuy bị trọng thương, cũng không sao đâu.

Quách Tĩnh nói:

– Những mong như thế. Ta phải đi bảo Phù nhi trở lại, việc này chưa thể xong được.

Hoàng Dung cười, nói:

– Phù nhi đã cưỡi con tiểu hồng mã ra khỏi thành, ca ca đuổi theo sao kịp?

Quách Tĩnh nói:

– Bây giờ chưa đến canh ba, không có lệnh bài của ta và Lã đại nhân, đang đêm ai dám mở cổng thành?

Hoàng Dung thở dài, nói:

– Thôi thì tùy ý ca ca!

Rồi chìa tay bế Quách Phá Lỗ. Quách Tĩnh trao con cho vợ, vẻ mặt ái ngại, nói:

– Dung nhi, là ta không phải với nàng. Nhưng Phù nhi sau khi bị phạt, tuy mất một cánh tay, nếu nó biết hối cải, thì cũng chưa phải là dở đâu…

Hoàng Dung gật đầu:

– Ca ca nói chí phải!

Tay vừa chạm đến cái bọc, đột nhiên sử tuyệt kỹ gia truyền “Lan hoa phất huyệt thủ”, điểm liền các huyệt “Uyên Dịch”, “Kinh Môn” ở hai cánh tay Quách Tĩnh. Võ công như Quách Tĩnh, nếu Hoàng Dung không giả trá, làm sao điểm huyệt được? Khi trao đứa bé cho chồng, Hoàng Dung đã tính trước chiêu này. Quách Tĩnh lập tức tê dại toàn thân, ngã nằm xuống giường, không cựa quậy được.

Hoàng Dung ẵm con, cởi hài và áo ngoài cho chồng, đặt nằm ngay ngắn trên giường, kê gối sau gáy tử tế, lấy từ thắt lưng chồng ra chiếc lệnh bài. Quách Tĩnh cứ giương mắt mà nhìn, không chống cự được.

Hoàng Dung lại đặt con nằm cạnh chồng, đắp chăn cho hai cha con, nói:

– Tĩnh ca ca, hôm nay thiếp đành đắc tội, đợi thiếp tiễn Phù nhi ra khỏi thành, sẽ trở về nấu vài món ăn, mời ca ca uống ba chén rượu, chịu tội với ca ca.

Đoạn cúi xuống thơm vào má chồng một cái.

Quách Tĩnh nghe vợ nói, thấy Hoàng Dung đã là mẹ của ba đứa con, vẫn cứ tinh quái như xưa, đành giương mắt nhìn vợ cười cười bước ra cửa, nghĩ hai huyệt bị điểm, nếu tự mình dùng nội lực xung huyệt, cũng phải nửa canh giờ mới giải khai, Quách Phù đằng nào cũng chạy thoát, thật là tình cảnh dở khóc dở cười.

Hoàng Dung thương con, nghĩ nó một mình trở về đảo Đào Hoa, một thiếu nữ xinh xắn như nó dọc đường rất dễ gặp hung hiểm, thế là trở về phòng mình, lấy vật chí bảo của đảo Đào Hoa là tấm da nhím dùng làm áo bọc thân, kẹp vào nách, ra khỏi phủ, thi triển khinh công, thoáng chốc đã tới cổng thành phía nam.

Quách Phù cưỡi con tiểu hồng mã, lúc này đang lớn tiếng tranh cãi với viên tướng canh cổng. Viên tướng lời lẽ rất khiêm kính, một điều Quách cô nương, hai điều Quách cô nương, song trước sau một mực, nếu không có lệnh bài, đang đêm mở cổng thành là phạm tội chém đầu.

Hoàng Dung nghĩ đứa con gái vô dụng của mình suốt đời được cha mẹ che chở, chưa hề trải qua gian nan nguy hiểm, gặp tình huống khó khăn không biết xuất kỳ chế thắng, chỉ tức giận quát tháo, phỏng có tác dụng gì? Bèn cầm chiếc lệnh bài bước tới, nói:

– Đây là lệnh bài của Lã đại nhân, tướng quân kiểm tra đi.

Bấy giờ chủ trì thành Tương Dương là An phủ sứ Lã Văn Đức. Tuy mọi việc đều dựa vào sự chỉ dẫn của Quách Tĩnh, song Quách Tĩnh là khách khanh áo vải, nên mọi hiệu lệnh đều phải ban bố dưới danh nghĩa Lã Văn Đức. Viên tướng thấy đích thân Quách phu nhân tới, lại xem đúng là lệnh bài, thì tươi cười mở cổng thành, dắt con ngựa của mình lại, nói:

– Quách phu nhân xin cứ cưỡi tạm con ngựa này của tiểu tướng.

Hoàng Dung nói:

– Tốt quá! Cho ta mượn tạm vậy.

Quách Phù thấy mẹ đến, vui mừng vô hạn, hai mẹ con sánh vai nhau phi ngựa ra khỏi thành.

Hoàng Dung không nỡ chia tay ngay với con, cứ tiễn thêm càng lúc càng xa. Từ thành Tương Dương lên phía bắc mấy chục dặm không một bóng người, từ thành Tương Dương về phía nam thì các trọng trấn chưa bị quân Mông Cổ tràn qua, tuy động loạn bất an, nhưng dân chúng vẫn ở nguyên như cũ. Hai mẹ con đi hơn hai chục dặm, trời đã sáng rõ, đến một tiểu thị trấn, thấy nhiều cửa hiệu đã mở cửa bán hàng. Hoàng Dung nói:

– Phù nhi, chúng ta vào ăn một chút điểm tâm, rồi mẹ sẽ về thành.

Quách Phù nuốt lệ đáp ứng, trong lòng hối hận, quả thật không nên tức giận nhất thời mà chém đứt cánh tay Dương Quá, đến nỗi hôm nay cốt nhục phân ly, phải một mình thui thủi trở về đảo Đào Hoa, nơi chỉ có Kha công công mù lòa, chỉ nghĩ thôi đã thấy khó chịu đựng. Nhưng nhớ lại thần sắc vung kiếm của phụ thân tối qua, nàng không thể nào trở lại thành Tương Dương được.

Hai người vào một phạn điếm, gọi vài món ăn. Mẹ con chia tay bây giờ, chẳng ai muốn ăn cả. Hoàng Dung đưa tấm da nhím cho con, dặn mỗi buổi tối lưu tại khách điếm, thì mặc vào người, lại dặn đi dặn lại phải cẩn thận ở dọc đường, đề phòng cái này cái nọ, nhưng nhất thời dặn sao cho hết? Nhìn con miệng vâng dạ, mắt đỏ hoe, trông thật đáng thương, mất hết vẻ hoạt bát đáng yêu thường ngày, Hoàng Dung càng không nỡ, liếc thấy ở phía tây thị trấn có một lương thực điếm bày bán những trái táo vừa to vừa hồng tươi, nghĩ bụng: “Mua vài cân cho Phù nhi mang theo dọc đường, rồi chia tay thôi”. Bèn nói:

– Phù nhi, con cố ăn cho, không muốn ăn cũng cố mà ăn. Thời buổi loạn lạc này, dọc đường không biết lúc nào mới lại có phạn điếm. Mẹ tới đằng kia mua cái này.

Đoạn đứng dậy, đi tới chỗ bán táo.

Hoàng Dung chọn mươi trái táo, cho vào bọc, lấy bạc định trả cho người bán, bỗng nghe một giọng nữ vang lên sau lưng:

– Cân cho ta hai mươi cân gạo trắng, một cân muối, để vào trong bao tải cho ta.

Hoàng Dung nghe giọng nói trong trẻo mạnh mẽ, liếc nhìn, thấy một hoàng y đạo cô đứng trước cửa lương thực điếm, tay trái ẵm một đứa bé sơ sinh, tay phải thò vào túi lấy bạc. Chiếc tã bọc đứa bé bằng lụa màu xanh lục, thêu một con ngựa nhỏ màu hồng, đúng là chiếc tã chính tay Hoàng Dung đã khâu.

Hoàng Dung trông thấy chiếc tã thì trống ngực đập dồn, hai tay run rẩy, lạng bạc đang cầm trên tay phải rơi xuống giỏ táo. Đứa bé sơ sinh kia chẳng phải là Quách Tương của mình thì còn là ai vào đấy nữa?

Chỉ thấy đạo cô diện mạo rất xinh đẹp, đầu mày khóe mắt ẩn hiện sát khí, bên hông giắt một cây phất trần, tất nhiên là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu lừng danh giang hồ. Hoàng Dung chưa từng gặp mặt nữ ma đầu này, nhưng diện mạo và trang phục thế kia thì trừ mụ ta ra, không còn ai khác.

Hoàng Dung sau khi sinh hạ Quách Tương, trong cơn hoảng loạn, mơ hồ ngắm con vài lần, lúc này không nhịn được, mới nhìn kỹ, thấy đứa bé mi thanh mục tú, thần thái mỹ lệ, tuy là sơ sinh, nhưng hiển nhiên là một mỹ nhân, lại thấy da nó trắng hồng, trông rất khỏe mạnh. Tiểu đệ của nó là Quách Phá Lỗ tuy được bú sữa mẹ, song không được mập mạp khả ái như nó. Hoàng Dung vừa kinh ngạc vừa sung sướng, nước mắt ứa ra.

Lý Mạc Sầu trả tiền, xách bao tải gạo, lập tức rời khỏi thị trấn.

Hoàng Dung thấy tình thế khẩn cấp, không kịp đi gọi Quách Phù, nghĩ: “Tương nhi đã rơi vào tay mụ ta, một kẻ vô cùng hiểm độc, nếu ta cưỡng đoạt, mụ ta ắt sẽ sát hại đứa bé”. Nhìn Lý Mạc Sầu rời thị trấn, theo đường lớn đi về phía tây, Hoàng Dung liền bám theo, lại nghĩ: “Mụ ta là sư bá của Dương Quá, tuy nghe đâu họ bất hòa với nhau, nhưng Phù nhi chém mất cánh tay Dương Quá, phái Cổ Mộ và Quách gia ta đã kết thâm cừu. Lỡ Dương Quá và Long cô nương đang chờ ở đàng trước, ta phải một địch ba, không thể thủ thắng, chỉ có ra tay sớm mới là thượng sách”. Thấy Lý Mạc Sầu quẹo xuống phía nam, tiến vào một cánh rừng, Hoàng Dung bèn thi triển khinh công, chạy đón đầu, rồi bất ngờ xuất hiện chặn đường.

Lý Mạc Sầu thấy trước mặt đột nhiên xuất hiện một thiếu phụ xinh đẹp, thì đứng lại. Hoàng Dung cười, nói:

– Chắc đây là Xích Luyện Tiên Tử Lý đạo trưởng, hạnh hội hạnh hội!

Lý Mạc Sầu nhìn thiếu phụ xuất hiện với thân pháp không phải tầm thường, lưng giắt một cây gậy trúc màu vàng nhạt, liền giả bộ hoan hỉ, đặt bao tải gạo xuống, thi lễ, nói:

– Tiểu muội ngưỡng mộ đại danh Quách phu nhân đã lâu, hôm nay được thấy phương nhan, thỏa nguyện bình sinh!

Trong võ lâm đương thời, cao thủ nữ lưu có Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu lẫy lừng danh tiếng. Thanh tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị thành danh tuy đã lâu, nhưng võ công còn thua xa hai người này. Tiểu Long Nữ thì còn ít tuổi, vương tử Hoắc Đô bại trận ở tòa cổ mộ núi Chung Nam, người ta mới biết đến Tiểu Long Nữ. Sau trận đấu ở ải Đại Thắng, Tiểu Long Nữ lừng danh thiên hạ, nhưng là mới nổi danh gần đây. Còn Hoàng, Lý hai người, thì một người là ái nữ của Đông Tà Hoàng Dược Sư, phu nhân Quách đại hiệp, giữ chức bang chủ Cái Bang hơn hai mươi năm. Người kia với ba tuyệt kỹ cây phất trần, ngân châm, Ngũ độc thần chưởng, giang hồ vừa nghe đến đã táng đởm kinh hồn. Bây giờ hai người gặp nhau lần đầu, nhìn kỹ đối phương, đều lấy làm lạ: “Thì ra người ấy lại xinh đẹp đến thế!” Trong bụng cả hai cùng đề phòng, đối phương đã lừng danh thiên hạ, tất có bản lĩnh thật sự.

Hoàng Dung cười, nói:

– Danh tiếng của đạo trưởng, tiểu muội cũng ngưỡng mộ đã lâu, đạo trưởng đâu cần khách sáo quá vậy?

Lý Mạc Sầu nói:

– Quách phu nhân là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang, bang hội lớn nhất thiên hạ, đứng đầu võ lâm, tiểu muội quả thật rất tiếc được diện kiến quá muộn.

Hai bên nói mấy lời khách sáo với nhau.

Hoàng Dung cười, nói:

– Đứa bé Lý đạo trưởng đang ẵm trông rất khả ái, không biết là con nhà nào?

Lý Mạc Sầu nói:

– Nói ra thực hổ thẹn, chỉ e Quách phu nhân chê cười.

Hoàng Dung nói:

– Không dám!

Nghĩ bụng: “Đã đi vào chính đề rồi đây, mình phải cướp được đứa bé trước khi động thủ”, chỉ nghe Lý Mạc Sầu nói:

– Cũng là nỗi bất hạnh của sư môn phái Cổ Mộ, tiểu muội vô đức, không biết giáo huấn sư muội, đứa bé này là hài nhi tư sinh của Long sư muội.

Hoàng Dung lấy làm lạ: “Long cô nương không hề hoài thai, làm sao lại có hài nhi tư sinh kia chứ? Rõ ràng là hài nhi của ta, mụ này hoang ngôn khi trá là có dụng ý gì?” Hoàng Dung không biết rằng Lý Mạc Sầu quả thật không có ý đánh lừa, cứ tưởng đứa bé đúng là con của Dương Quá và Tiểu Long Nữ.

Lý Mạc Sầu hận sư phụ đối xử thiên lệch, đem bí kíp “Ngọc nữ tâm kinh” truyền cho một mình sư muội. Giờ nghe Hoàng Dung hỏi đến, bèn nhân dịp này làm bại hoại thanh danh của sư muội.

Hoàng Dung nói:

– Long cô nương trông có vẻ trinh thục đoan trang, ai ngờ lại có chuyện như thế, thật không ai đoán nổi. Vậy thì cha của đứa bé là ai?

Lý Mạc Sầu nói:

– Cha của đứa bé ư? Nói ra càng bực, là đồ nhi Dương Quá của Long sư muội.

Hoàng Dung tuy giỏi giả bộ, song lúc này cũng không khỏi đỏ bừng cả mặt, trong lòng cả giận, nghĩ thầm: “Mụ bảo con ta là hài nhi tư sinh của Long cô nương thì cũng được, nhưng bảo cha nó là Dương Quá, chẳng hóa ra làm nhục ta ư?”. Nhưng vẻ tức giận chỉ thoáng qua, nói:

– Quá lắm, quá lắm, không còn ra gì. Nhưng mà đứa bé này trông thật khả ái, Lý đạo trưởng, hãy cho tiểu muội ẵm nó một chút.

Đoạn lấy ra một trái táo, nhứ nhứ trước mặt đứa bé, nói nựng với nó:

– Bé ngoan, mặt bé trông có giống trái táo này không?

Lý Mạc Sầu sau khi cướp được đứa bé, liền ẩn cư trong thâm sơn, lấy việc dưỡng nhi làm vui, ngày ngày buộc con báo cho Quách Tương bú sữa. Mụ một đời tác ác đa đoan, song cũng không phải là bẩm tính tàn ác, mà sau khi tình trường thất ý, đâm ra căm phẫn thế tục. Quách Tương kiều mỹ khả ái, cuối cùng khơi gợi mẫu tính bẩm sinh nơi Lý Mạc Sầu, có đêm mụ nghĩ, dẫu Tiểu Long Nữ có đem “Ngọc nữ tâm kinh” đến đổi, mụ cũng chưa chắc giao trả đứa bé. Lúc này nghe Hoàng Dung xin ẵm đứa bé, Lý Mạc Sầu như một người mẹ nghe người khác khen con mình, vui sướng trao con cho họ.

Hoàng Dung hai tay vừa chạm đến chiếc tã bọc Quách Tương, sắc mặt không giấu được vẻ yêu thương, cái tình của từ mẫu, làm sao che giấu nổi? Hoàng Dung ngày đêm nhớ đứa con sơ sinh, chỉ lo nó đói khát mất mạng, lúc này được tự tay ôm nó vào lòng, bảo không sung sướng sao được?

Lý Mạc Sầu thấy thần sắc hơi lạ của Hoàng Dung, nghĩ bụng: “Nếu mụ ta chỉ thích đứa bé, muốn ẵm nó một chút, hà tất phải xúc động đến thế? Việc này hẳn có chuyện dối trá”. Bèn giật mạnh hai tay về, chân phải nhún một cái, đã nhảy lùi về phía sau hai trượng. Hai chân chạm đất, mụ định tra vấn, thì Hoàng Dung đã vọt theo như hình với bóng. Lý Mạc Sầu quăng luôn bao tải gạo về phía Hoàng Dung. Hoàng Dung tung mình nhảy lên, bao tải gạo bay qua dưới chân. Lý Mạc Sầu thừa cơ lại nhảy lùi ra sau hơn một trượng, rút cây phất trần cầm tay, cười khẩy, nói:

– Quách phu nhân, phu nhân định giúp Dương Quá cướp lấy đứa bé này chăng?

Hoàng Dung lúc đuổi theo và nhảy lên, đã nghĩ đối phương đã nghi ngờ, thì khó dùng mưu trí, chỉ còn cách dùng vũ lực cưỡng đoạt, bèn cười hì hì, nói:

– Tiểu muội chẳng qua thấy đứa bé khả ái thì muốn bế nó một chút. Lý đạo trưởng nghĩ thế, chẳng hóa ra khinh người quá hay sao?

Lý Mạc Sầu nói:

– Phu phụ Quách đại hiệp uy danh lừng lẫy giang hồ, tiểu muội vốn vô cùng thán phục, hôm nay được thấy thân thủ, quả nhiên danh bất hư truyền. Tiểu muội hiện tại có việc, xin cáo biệt tại đây!

Mụ ta sợ Quách Tĩnh ở gần đâu đây, nói vài lời khách sáo rồi quay mình đi. Hoàng Dung vọt lên phía trước, thân ở trên không đã rút cây bổng cầm tay. Cây Đả cẩu bổng truyền đời của Cái Bang, Hoàng Dung đã trao cho Lỗ Hữu Cước, cây bổng này tuy không chắc dẻo bằng cây Đả cẩu bổng, nhưng kích thước và trọng lượng thì y hệt, được làm màu vàng nhạt để phân biệt với cây Đả cẩu bổng.

Hoàng Dung chân chưa tiếp đất, cây bổng đã sử tự quyết chữ “Triền” móc tới sau lưng Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghĩ: “Ta với ngươi không thù không oán, hôm nay gặp mặt lần đầu, ta nói năng phải phép, có gì đắc tội với ngươi, mà ngươi lại tự dưng dùng binh khí đánh ta?” Bèn vung cây phất trần về phía sau gạt cây bổng đi.

Bổng pháp của Hoàng Dung mau lẹ vô cùng, sau sáu, bảy chiêu, Lý Mạc Sầu đã cảm thấy khó bề chống đỡ. Võ công của mụ vốn thấp hơn Hoàng Dung một chút, huống hồ một tay lại đang ẵm đứa bé, di chuyển kém linh hoạt. Hoàng Dung nhanh hơn sóc, vút bên này bên kia, cây bổng biến ảo, thoáng chốc Lý Mạc Sầu đã lâm vào thế hạ phong.

Đấu thêm vài chiêu, Lý Mạc Sầu thấy cây bổng của đối phương thủy chung né tránh đứa bé, thì mụ nghĩ: “Mỗi lần ta giao đấu với ai, cứ dùng đứa bé này đều có lợi thế”, bèn cười, nói:

– Quách phu nhân, nếu muốn khảo nghiệm công phu của tiểu muội, thì nước non vẫn đó, ngày tháng còn dài, hà tất phải quá chiêu ngay hôm nay? Chỉ cần một người lỡ tay, đứa bé khả ái này bị thương thì sao?

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Mụ ta quả thật không biết đó là con của ta, hay là mụ giả trang? Vậy hãy thử xem sao”. Bèn nói:

– Vì đứa bé ấy, tiểu muội đã nhường Lý đạo trưởng hơn mười chiêu, nếu đạo trưởng không chịu đặt đứa bé xuống, thì tiểu muội sẽ thây kệ sự sống chết của nó đấy!

Đoạn chọc cây bổng tới đùi phải của Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu giơ cây phất trần chặn lại. Hoàng Dung không đợi cây bổng đụng cây phất trần, đã hất lên ngực trái cực nhanh, mũi cây bổng chọc ngay tới người đứa bé.

Cú chọc này nếu trúng, Quách Tương mất mạng đã đành, ngay cả Lý Mạc Sầu cũng sẽ bị thương. Hoàng Dung điều khiển cây bổng dễ dàng theo ý, đầu cây bổng chọc nhanh, đã chạm tới cái tã bọc đứa bé, trông thì nguy hiểm cùng cực, nhưng Đả cẩu bổng pháp do Hoàng Dung thi triển thì có mức độ nặng nhẹ xa gần không sai một li. Lý Mạc Sầu không biết điều đó, thấy nguy cấp liền né vội sang bên phải, không khỏi để lộ sơ hở, “bộp” một cái, ống chân trái bị cây bổng quét trúng, người lảo đảo hai bước mới đứng vững lại được. Mụ vung cây phất trần che phía trước, quay người lại, tức giận nói:

– Đối với một đứa bé mà Quách phu nhân hèn hạ hạ độc thủ, thật uổng cả hiệp danh.

Hoàng Dung thấy Lý Mạc Sầu tức giận thật sự, thì mừng thầm, nghĩ: “Mụ ra sức bảo vệ con của ta, ta ra đòn đánh con mình khiến mụ hoảng sợ một phen”, mỉm cười, nói:

– Đạo trưởng bảo đứa bé này lai lịch bất minh, còn để sống trên thế gian này làm gì?

Đoạn lại vọt tới, giơ cây bổng tấn công, sau vài chiêu lại gây nguy hiểm cho Quách Tương. Quách Tương bị Lý Mạc Sầu kẹp giữ, khó cựa quậy, lại bị xốc mạnh, đột nhiên khóc tướng lên. Hoàng Dung nói thầm: “Con ngoan đừng sợ, để cứu con, mẹ đành phải làm như vậy”. Trong bụng tuy thương con, nhưng xuất thủ càng lúc càng lợi hại, nếu Lý Mạc Sầu không tận lực kháng cự, e rằng Quách Tương đã mấy lần mất mạng.

Lý Mạc Sầu tâm thần bất định, nhảy lùi mấy bước, giơ cây phất trần che cho Quách Tương, nói:

– Quách phu nhân, rốt cuộc phu nhân muốn gì?

Hoàng Dung cười, nói:

– Nữ lưu anh kiệt thời nay, trong võ lâm chỉ có hai người là Lý đạo trưởng và tiểu muội. Hôm nay có duyên tương ngộ, tại sao không thử tài cao thấp?

Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung cứ nhắm tấn công đứa bé, thì cả giận, nghĩ: “Nếu có chồng ngươi đến, ta còn ngại vài phần, chứ một mình ngươi, ta chẳng ngán gì”. Bèn nói:

– Quách phu nhân có ý chỉ giáo, thật là ước gì được nấy.

Hoàng Dung nói:

– Lý đạo trưởng phải ẵm đứa bé, tiểu muội có thắng cũng không đúng cách, vậy hãy bỏ đứa bé xuống, hai bên dựa vào công phu đích thực mà giao đấu một phen xem nào.

Lý Mạc Sầu nghĩ nếu ẵm đứa bé quả không thể địch nổi, phóng độc châm cũng khó, suy nghĩ: “Giang hồ đồn rằng vợ chồng Quách Tĩnh nhân nghĩa hơn người, nhưng qua sự tàn bạo của Hoàng Dung đối với một đứa bé, đủ thấy lời đồn sai sự thực”. Đưa mắt tứ phía, thấy ở mé đông, giữa mấy cây lớn có một đám cỏ dày, trông rất mềm, mụ bèn đặt Quách Tương xuống cỏ, vừa vỗ nhẹ vừa nựng vài cái, rồi xoay lại, nói:

– Mời phu nhân tiến chiêu.

Hoàng Dung đấu hơn chục chiêu, biết Lý Mạc Sầu võ công cũng ngang ngửa với mình, nếu bây giờ cướp lấy đứa bé, mụ ta bám theo, mình chỉ cần sơ suất dễ làm cho đứa bé bị thương, chỉ có cách phải giết chết mụ ta đã, rồi mới ẵm đứa bé, nữ ma đầu này tác ác đa đoan, có chết trăm lần cũng chưa đền hết tội.” Nghĩ đến đây, sát cơ trỗi dậy.

Lý Mạc Sầu vốn quen hạ độc thủ, suy bụng ta ra bụng người, thấy Hoàng Dung chốc chốc liếc nhìn đứa bé, thì nghĩ: “Mụ ta đánh không nổi, sẽ hạ độc thủ đối với đứa bé để khiến ta bị phân tâm”; thế là mụ bèn đứng chắn đằng trước Quách Tương, không cho đối phương tới gần.

Trong giây lát, Hoàng Dung đã nảy ra bảy, tám kế sách, mỗi kế sách đều có thể lấy mạng Lý Mạc Sầu, song cũng khó tránh gây nguy hiểm cho Quách Tương, nghĩ: “Nhìn thần tình nữ ma đầu này, xem ra mụ ta rất ưu ái Tương nhi của ta, dẫu ta nhất thời chưa cướp lại Tương nhi, cũng không lo cho nó, bởi vậy, không thể mạo hiểm tấn công để tránh đả thương Tương nhi”. Chợt nghĩ một kế, nói:

– Lý đạo trưởng, võ công hai ta ngang nhau, việc phân thắng bại tốn nhiều thời gian, nếu đôi bên mải đấu, có dã thú như hổ lang đến ăn thịt đứa bé, chẳng hóa có người bị phân tâm hay sao? Chi bằng trước tiên hãy kết liễu con tiểu quỉ ấy, rồi hai ta rảnh tay đấu một trận cho sướng.

Nói đoạn cúi nhặt một viên sỏi, dùng ngón giữa búng viên sỏi về phía Quách Tương. Cái búng này là công phu tuyệt kỹ gia truyền “Đạn chỉ thần thông” của Hoàng Dung, Lý Mạc Sầu từng thấy Hoàng Dược Sư thi triển, biết kình lực không phải tầm thường, vội vung cây phất trần hất viên sỏi đi, quát:

– Đứa bé đâu có cản trở gì phu nhân, sao mấy phen cứ định lấy mạng nó kia chứ?

Hoàng Dung cười thầm, thực ra khi búng viên sỏi đi với kình lực tuy mạnh, nhưng ngón tay đã sử hồi lực, dẫu Lý Mạc Sầu không cứu, viên sỏi chạm tới người Quách Tương cũng sẽ bay chếch đi, không làm cho nó bị thương, Hoàng Dung bèn cười, nói:

– Lý đạo trưởng lo cho đứa bé như thế, người ngoài không biết, lại ngỡ… lại ngỡ nó là… ha ha… là con của Lý đạo trưởng…

Lý Mạc Sầu nổi giận, nói:

– Làm sao nó lại có thể là con của ta kia chứ?

Nói rồi đỏ mặt.

Hoàng Dung cười, nói:

– Lý đạo trưởng là đạo cô, dĩ nhiên không thể có con, người ngoài lại ngỡ nó là muội muội của Lý đạo trưởng.

Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, không tranh cãi nữa, không biết rằng Hoàng Dung ngay trên lời nói cũng không chịu thiệt tí nào, bảo Quách Tương là em gái của Lý Mạc Sầu, có khác gì bảo Lý Mạc Sầu là con của vợ chồng Hoàng Dung. Ai bảo ban nãy Lý Mạc Sầu bảo Dương Quá là cha của Quách Tương?

Lý Mạc Sầu nói:

– Quách phu nhân, mau tiến chiêu đi!

Hoàng Dung nói:

– Lý đạo trưởng cứ lo cho đứa bé như thế, không thể dồn toàn thần cho cuộc đấu, tiểu muội có thắng cũng mất cả hay. Thế này vậy, để tiểu muội dùng song mây quay xung quanh đứa bé, không cho dã thú lại gần nó, hai ta sẽ rảnh tay giao đấu.

Rồi rút từ sau lưng ra một con tiểu bội đao, bước tới một bụi cây, chặt lấy một sợi mây dài đầy gai. Lý Mạc Sầu giám sát chặt chẽ, chỉ sợ Hoàng Dung đột nhiên xuất thủ đả thương đứa bé, nhìn Hoàng Dung kéo sợi mây chăng ngang thân mấy cây lớn xung quanh đứa bé, như thế dã thú cố nhiên sẽ không thể làm hại đứa bé, Quách Tương thì mới sinh hơn một tháng, chưa biết lật người, cũng không sợ đụng phải gai mây. Lý Mạc Sầu nghĩ: “Giang hồ bảo Quách phu nhân đa trí, quả nhiên danh bất hư truyền”. Nhìn Hoàng Dung quấn hết sợi mây này đến sợi mây khác, chăng ngang thân cây nọ, cây kia, thành nhiều tầng nhiều lớp, miệng cứ cười cười khó hiểu, tựa hồ có ác ý gì đó, Lý Mạc Sầu chợt thấy rờn rợn, nói:

– Thôi đủ rồi!

Hoàng Dung nói:

– Được! Đạo trưởng bảo đủ rồi thì thôi! Lý đạo trưởng, đạo trưởng đã gặp phụ thân của tiểu muội rồi phải không?

Lý Mạc Sầu đáp:

– Gặp rồi.

Hoàng Dung nói:

– Tiểu muội nghe Dương Quá nói rằng đạo trưởng có viết bốn câu châm biếm phụ thân tiểu muội, có hay không? Hình như thế này “Đào Hoa đảo chủ, cậy đệ tử đông, năm người đánh một, giang hồ chê cười” thì phải?

Lý Mạc Sầu giật mình: “Mình thật hồ đồ, phải nhớ ra chuyện này từ sớm mới phải. Hôm nay sở dĩ Hoàng Dung cứ bám theo gây sự, là vì bốn câu kia”, bèn lạnh lùng nói:

– Hôm ấy bọn họ năm người, đối phó với một mình ta, chuyện đó có thật.

Hoàng Dung nói:

– Hôm nay hai ta một địch một, để xem giang hồ sẽ chê cười ai.

Lý Mạc Sầu cả giận, quát:

– Phu nhân đừng vội khoe tài, võ công đảo Đào Hoa ta đã thấy nhiều, chẳng qua chỉ thế này mà thôi.

Hoàng Dung cười khẩy, nói:

– Chưa nói đến võ công đảo Đào Hoa, ngay một thứ không phải là võ công, đạo trưởng cũng chẳng đối phó nổi đâu. Đạo trưởng có giỏi, hãy ẵm đứa bé lên xem nào?

Lý Mạc Sầu cả kinh: “Không lẽ mụ ta đã hạ độc thủ đối với đứa bé?” Mụ vội tung người nhảy qua một lớp rào bằng song mây, ngoặt sang bên trái, thấy có lớp rào bằng song mây chắn đường, thuận thế quẹo sang bên phải, tai nghe tiếng khóc oa oa của Quách Tương vừa cất lên, cảm thấy yên tâm hơn, chắc nó chưa bị sao, lại quẹo vào phía trong một lần nữa, chẳng hiểu sao cuối cùng lại đi ra bên ngoài lớp rào bằng song mây. Mụ ngơ ngác, rõ ràng mình đi vào phía trong, vì lẽ gì lại dẫn ra bên ngoài? Không kịp nghĩ ngợi, mụ nhún chân nhảy vào trong, nhưng các lớp rào bằng song mây chằng chịt ngang dọc, sơ ý một chút, xoẹt một tiếng, đạo bào của mụ bị gai làm rách một mảng. Mụ không dám nhảy đại nữa, đứng nhìn lối đi cho rõ, thì thấy Hoàng Dung đã ở bên trong các lớp rào bằng song mây, đang cúi xuống ẵm đứa bé lên.

Lý Mạc Sầu cả kinh thất sắc, kêu to:

– Đặt ngay đứa bé xuống!

Mụ thấy giữa các lớp rào bằng song mây có lối đi, liền chạy theo đó, men lớp rào bằng song mây mà tiến về phía Hoàng Dung, nhưng phạm vi giữa bảy, tám cây lớn chỉ vài trượng, mà mụ chỉ nhìn chứ không tới được. Mụ cứ chạy lòng vòng, tưởng sang trái hóa ra sang phải, tưởng sang phải hóa ra sang trái, một lát sau thì ở bên ngoài lớp rào bằng song mây. Mụ thấy Hoàng Dung đã đặt đứa bé xuống cỏ, đảo người phía này phía nọ, rồi khôn khéo vượt ra ngoài lớp rào bằng song mây.

Lý Mạc Sầu chợt tỉnh ngộ, đêm nào mụ ta tìm tới ngôi nhà tranh gặp Dương Quá, Trình Anh, Lục Vô Song, đã vấp phải các đống đất bố trí trước nhà, khiến mụ không cách gì tiến thẳng vào được. Hôm nay Hoàng Dung chăng các lớp rào bằng song mây, cũng là thần thuật bát quái cửu cung của đảo Đào Hoa. Mụ ngẫm nghĩ một lát, tâm niệm đã quyết: “Phải đánh lui kẻ địch, rồi sẽ gỡ từng lớp rào bằng song mây từ ngoài vào trong mà ẵm đứa bé. Hiện giờ kẻ địch đang chiếm lợi thế trận đồ, nếu ta cứ xông bừa vào ắt thất bại”. Bèn nhảy vọt đi mấy trượng, xa hẳn lớp rào bằng song mây, ngưng thần chờ địch.

Hoàng Dung lúc đầu thấy Lý Mạc Sầu lao bừa qua các lớp rào bằng song mây thì mừng thầm, bỗng thấy mụ ta nhảy vọt ra xa, thì thán phục nghĩ: “Nữ ma đầu này hành sự thật quyết đoán, nhanh nhạy. Mụ ta không phải tự dưng lừng lẫy tiếng tăm”. Lúc này Quách Tương đã nằm ở một chỗ hết sức an toàn, không có gì đáng lo cho nó nữa, bèn vung cây gậy trúc sử chiêu “Vân cẩu đê đầu” đánh tới sau gáy Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuốn lấy cây bổng, quét qua trước mặt Hoàng Dung, nghe “phựt” một tiếng. Hai người lấy nhanh đánh nhanh, cùng thi triển chiêu thuật tinh diệu, chẳng mấy chốc đã đấu mấy chục chiêu. Lý Mạc Sầu nội công thâm hậu, cây phất trần biến chiêu tinh vi, nhưng Đả cẩu bổng pháp của đối phương còn huyền diệu hơn, mụ miễn cưỡng chống đỡ đến vài chục chiêu, có thể nói đã là điều hiếm có trong võ lâm, nhìn cây bổng đánh tới, phương hướng bộ vị hết sức lạ lùng, tự biết cứ đấu tiếp kiểu này mình sẽ thua. Cây bổng tựa hồ không phải là thứ binh khí sắc bén giết người, song ba mươi sáu đại huyệt trên cơ thể chỉ cần bị đầu cây bổng chọc trúng một huyệt, cũng đủ mất mạng.

Lý Mạc Sầu cố chống trả thêm vài chiêu, trán đã vã mồ hôi, đánh nhanh hai chiêu, rồi nhún chân nhảy lùi, nói:

– Bổng pháp của Quách phu nhân quả nhiên tinh diệu, tiểu muội cam bái hạ phong. Nhưng tiểu muội có một điều chưa rõ, muốn được thỉnh giáo.

Hoàng Dung nói:

– Không dám!

Lý Mạc Sầu nói:

– Bổng pháp này là tuyệt kỹ của Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công. Võ công của đảo Đào Hoa rất lợi hại, tại sao Quách phu nhân không chịu học bản sự gia truyền của lệnh sư, lại đi học của người ngoài?

Hoàng Dung nghĩ thầm: “Mụ này miệng lưỡi sắc sảo, không địch nổi bổng pháp của ta, muốn ta bỏ sở trường đây”, bèn cười, đáp:

– Lý đạo trưởng đã biết bổng pháp này là do Cửu chỉ thần cái truyền thụ, chắc cũng phải biết tên gọi của nó.

Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, cau mày, không nói gì.

Hoàng Dung cười, nói:

– Đã mang tên Đả cẩu bổng pháp, gặp chó phải đánh liền, đâu có thể khác?

Lý Mạc Sầu thấy không thể khích đối phương bỏ gậy sử chưởng, nếu đấu khẩu cũng sẽ thua miệng lưỡi Hoàng Dung, bèn giắt cây phất trần sau lưng, cười khẩy, nói:

– Bọn ăn mày trong thiên hạ đi ăn xin lại nói chữ hóa duyên, quả nhiên cả bang chủ cũng là hạng bẻm mép! Tiểu muội chịu đấy!

Nói rồi rảo bước tới bên mép rừng, ngồi xuống một gốc cây.

Lý Mạc Sầu nhận thua kiểu đó, Hoàng Dung còn muốn gì hơn. Nhưng thấy mụ ta ngồi xuống, không đi, chưa hiểu dụng ý thế nào, có lẽ quả thật mụ ta không nỡ rời Quách Tương, nếu bây giờ mình mang Quách Tương đi, mụ ta sẽ xông tới quyết đấu, tương quan mạnh yếu sẽ thay đổi bất lợi cho mình, xem ra nếu không đập chết mụ ta, mình chẳng thể bế con đi yên ổn, bèn vọt đến trước mặt Lý Mạc Sầu, chân trái đi ba bước, chân phải bốn bước, mấy bước đi trông đơn giản, không có gì lạ, nhưng bên trong ẩn chứa sự biến hóa bát quái, Lý Mạc Sầu bất luận né tránh về phương vị nào, cũng không thể thoát khỏi sự ngăn chặn. Cây gậy trúc nơi tay phải chọc tới khuỷu chân của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu vung chưởng đánh chặn, miệng quát:

– Từ khi Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong chết đi, Hoàng Dược Sư quả đã không còn truyền nhân.

Câu này cốt châm biếm một là Hoàng Dung chỉ biết sử dụng Đả cẩu bổng pháp do Bắc Cái truyền thụ, hai là chê Hoàng Dược Sư chọn lầm đệ tử. Ngọc tiêu kiếm pháp gia truyền Hoàng Dung cũng đã luyện thành thạo, chẳng qua trong tay không có kiếm, nếu dùng cây gậy thay kiếm, e chưa chắc thắng được cường địch trước mặt, bèn mỉm cười, nói:

– Phụ thân tiểu muội thu nhận mấy đệ tử đúng là không ra hồn, chẳng được đoan trang trinh thục như Lý đạo trưởng và Long cô nương.

Lý Mạc Sầu cả giận, xáp tới, vung tay áo, phóng hai mũi Băng phách ngân châm tới bụng dưới của Hoàng Dung. Mụ tuy giết người không chớp mắt, thủ đoạn tàn bạo cùng cực, song giữ mình trong trắng như ngọc. Mụ cho rằng chỉ có sư muội Tiểu Long Nữ là mất đoan trang, nghe Hoàng Dung đem mình đặt ngang với sư muội, thì quá giận, lập tức sử dụng ám khí tối độc địa.

Hoàng Dung lúc này đứng rất gần, không kịp tránh, vội đưa cây bổng về gạt ngân châm. Nếu Đả cẩu bổng pháp không đạt đến cảnh giới xuất thần nhập hóa, e chỉ gạt được một mũi ngân châm. Hai mũi ngân châm bay qua, chỉ cách một tấc, mũi ngửi thấy mùi thuốc tẩm, quả là quá nguy hiểm. Hoàng Dung nhớ lại mấy năm trước, chân một con chim điêu bị sượt mũi ngân châm, phải chữa trị sáu, bảy tháng sau mới khỏi, còn đang rùng mình, thì hai mũi ngân châm khác lại bay tới trước mặt. Hoàng Dung vội né sang bên cạnh, hai mũi ngân châm lướt qua bên tai, nghĩ: “Chỗ này hơi gần Tương nhi, các mũi độc châm bay loạn thế kia, vạn nhất chạm vào da dẻ non nớt của con bé thì nguy to!” Bèn lao vút về hướng đông, xuyên qua rừng cây. Lý Mạc Sầu đuổi theo, cho rằng ngoài bổng pháp ra, các môn võ công còn lại đối phương đều không bằng mình, thấy Hoàng Dung bỏ chạy, liền quát:

– Chưa phân thắng bại, sao lại bỏ chạy?

Hoàng Dung quay người lại, mỉm cười. Lý Mạc Sầu nói:

– Quách phu nhân, phu nhân đỡ được ngân châm của tiểu muội, bây giờ không sử dụng cây gậy có dám hay không?

Hoàng Dung biết, nếu không cất cây gậy trúc, đối phương có thua cũng chưa chịu phục, bèn giắt cây gậy ra sau lưng, cười nói:

– Nghe đồn Ngũ độc thần chưởng của Lý đạo trưởng đã sát hại vô số người, vậy tiểu muội xin tiếp vài chưởng.

Lý Mạc Sầu sững lại, nghĩ: “Mụ ta thừa biết độc chưởng của ta lợi hại, thế mà vẫn muốn đấu chưởng với ta, cả gan như vậy, e rằng có gian trá”. Song mụ nghĩ chưởng pháp của Hoàng Dung dẫu có thần diệu, cũng không lợi hại chết người bằng thần chưởng của mụ, thế là song chưởng cùng đẩy, nội lực đã dồn ra lòng bàn tay, nói:

– Xin lĩnh giáo diệu kỹ Lạc anh thần kiếm chưởng của đảo Đào Hoa.

Thấy hữu chưởng của Hoàng Dung vỗ nhẹ tới, mụ bèn dùng tả chưởng áp vào lòng bàn tay Hoàng Dung, hữu chưởng thì đánh xương vai đối phương. Song chưởng của mụ vừa nhanh vừa mạnh, đã thế, khi hữu chưởng đánh tới, mụ còn phóng luôn hai mũi ngân châm vào bụng dưới của Hoàng Dung. Chiêu số nham hiểm chưởng kèm ám khí này là do Lý Mạc Sầu tự sáng tạo sau khi rời sư môn. Đối phương đang chăm chú đề phòng độc chưởng của mụ, không ngờ ở cự ly gần sát, mụ phóng ám khí, không ít danh gia võ học đã phải bỏ mạng bởi mũi ngân châm của mụ.

Hoàng Dung thu tả chưởng về hất cổ tay phải của đối phương, hóa giải đòn hữu chưởng, tay phải thò vào trong bọc, tựa hồ cũng lấy ám khí ra đánh trả, nhưng đã chậm một bước, khi Hoàng Dung rút tay ra khỏi bọc, hai mũi ngân châm chỉ còn cách sườn chưa đầy năm tấc, lúc này dù có bản lĩnh thông thiên, cũng chẳng tài nào tránh được nữa. Lý Mạc Sầu cả mừng, nhìn hai mũi ngân châm xuyên qua áo, cắm vào thân mình Hoàng Dung.

Hoàng Dung kêu:

– Úi chao!

Hai tay giữ bụng, gập lưng xuống, lập tức tung tả chưởng đánh tới ngực Lý Mạc Sầu. Chưởng này đến quá nhanh, Lý Mạc Sầu thốt lên: “Hay lắm!” và ngửa người ra sau để tránh, đồng thời song chưởng đẩy về phía ngực Hoàng Dung.

Lý Mạc Sầu biết Hoàng Dung sau khi bị trúng hai mũi ngân châm, độc tính sẽ lập tức phát tác, chiêu này chỉ cần đẩy đối phương ra xa mụ mà thôi, đối phương sẽ tự gục chết vì độc châm. Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung nửa thân trên hơi động, hoàn toàn không chống đỡ, thì nghĩ: “Mụ ta bị trúng độc, đã tê dại toàn thân rồi”. Song chưởng vừa chạm đến vạt áo trước ngực của đối phương, thì đột nhiên hai lòng bàn tay cùng đau nhói như bị một vật nhọn đâm vào.

Lý Mạc Sầu cả kinh, vội nhảy lùi, nhìn lòng bàn tay, thấy mỗi bên có một cái lỗ, máu đen tụ xung quanh, chính là mụ bị Băng phách ngân châm của mụ đả thương. Mụ kinh hoàng, không hiểu nguyên do, chỉ thấy Hoàng Dung lôi từ trong bọc ra hai trái táo, mỗi tay cầm một trái, vừa cười hì hì vừa giơ lên cao, mỗi trái táo đều có cắm một mũi ngân châm. Lý Mạc Sầu bây giờ chợt tỉnh ngộ, thì ra Hoàng Dung để mấy trái táo trong bọc, khi mụ phóng ám khí, Hoàng Dung không né tránh kịp, bèn đưa tay vào bọc giơ trái táo hứng ngân châm, rồi dụ cho mụ xuất chưởng đánh đúng vào hai trái táo có châm độc ấy.

Lý Mạc Sầu vốn cũng là một người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng hôm nay gặp phải đối thủ xảo trá gấp trăm lần, chỉ có cách nhận thua, vội thò tay vào túi lấy thuốc giải, thì chỉ nghe gió nổi ù ù, song chưởng của Hoàng Dung đã đánh tới trước mặt mụ. Lý Mạc Sầu đưa tay trái lên che đỡ, bỗng thấy năm ngón tay trắng muốt của Hoàng Dung đã xòe ra, điểm vào huyệt Tiểu Hải ở khuỷu tay phải, năm ngón tay thành hình bông hoa lan, tư thái đẹp tuyệt trần, mụ chợt nghĩ: “Phải chăng đấy là Lan hoa phất huyệt thủ lừng danh thiên hạ?” Tay phải chưa kịp lấy thuốc giải, vội rút ra chộp năm ngón tay của đối phương. Hoàng Dung thu tay phải về, tay trái hóa chưởng thành chỉ, lại điểm tới huyệt Khuyết Bồn ở gáy Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung chỉ hóa thành chưởng, chưởng hóa thành chỉ, phối hợp sử dụng Lạc anh thần kiếm chưởng và Lan hoa phất huyệt thủ, đúng là khi tung chưởng thì như hoa rụng lả tả, lúc điểm huyệt như bông lan mùa xuân, chiêu số không chỉ lợi hại, mà còn mỹ lệ, thì mụ không khỏi tái mặt, nghĩ: “Hôm nay được thấy thần kỹ của đảo Đào Hoa, quả nhiên vô cùng cao siêu, đừng nói tay mình đã bị trúng độc, dẫu đang khỏe mạnh cũng không thể địch nổi”. Mụ muốn thoát thân thật gấp để lấy thuốc giải, nhưng Hoàng Dung tấn công dồn dập nào chưởng, nào chỉ, không để cho mụ rảnh tay một khoảnh khắc. Độc tính của Băng phách ngân châm lợi hại, nếu không phải ngày ngày Lý Mạc Sầu luôn sử dụng, thể chất quen với độc tính, thì đã ngất đi rồi. Tuy nhiên, chất độc cũng lan dần đi, chỉ cần lan đến tim thì vô phương cứu chữa.

Hoàng Dung thấy Lý Mạc Sầu mặt tái nhợt, chống đỡ càng lúc càng yếu ớt, biết rằng cứ bám riết một lát, đối phương sẽ không chịu nổi, nghĩ nữ ma đầu tác ác đa đoan, hôm nay bị chết bởi độc châm của chính mụ, như thế là mình đã giúp huynh đệ họ Võ trả thù cho mẹ chúng, liền từng bước sấn tới, liên tiếp xuất chiêu, đồng thời đề phòng trước khi chết Lý Mạc Sầu bất ngờ phản kích. Lý Mạc Sầu thoạt tiên cảm thấy hai cánh tay tê dại, lan dần đến khuỷu, vài chiêu sau thì lan đến nách. Lúc này hai tay cứng đờ, không tuân theo ý muốn nữa, đành kêu lên rầu rĩ:

– Hãy khoan, Quách phu nhân, tiểu muội quen giết người như ngoé, sớm đã không mong sống được đến ngày hôm nay. Đấu trí đấu lực, tiểu muội đều không bằng phu nhân, bỏ mạng dưới tay phu nhân thì tiểu muội cũng cam lòng. Nhưng tiểu muội đánh bạo cầu xin phu nhân một việc.

Hoàng Dung hỏi:

– Việc gì?

Hai mắt nhìn mụ ta chằm chằm, Hoàng Dung sợ mụ ta dùng kế hoãn binh để lấy thuốc giải độc, nhưng chỉ thấy hai tay mụ buông thõng. Mụ nói:

– Tiểu muội và sư muội vốn bất hòa. Nhưng đứa bé kia quả thật khả ái, xin phu nhân làm ơn làm phúc săn sóc nó, đừng giết nó.

Hoàng Dung nghe Lý Mạc Sầu nói mấy câu hết sức thành khẩn, bất giác xúc động, nghĩ: “Nữ ma đầu này tích ác như núi, thế mà trước khi chết lại tha thiết tâm ái con của ta như vậy”, bèn nói:

– Cha mẹ của đứa bé ấy hoàn toàn không phải hạng tầm thường, nếu để cho nó sống, ta sẽ phải lo liệu vất vả suốt đời hay sao…

Lý Mạc Sầu không hiểu ngụ ý lời nói ấy, cầu xin:

– Cúi mong cao đài quí thủ…

Hoàng Dung muốn thử mụ một lần nữa, bước lại gần, điểm huyệt mụ, rồi lấy lọ thuốc giải trong túi mụ, hỏi:

– Thuốc giải độc châm của Lý đạo trưởng đây phải không?

Lý Mạc Sầu đáp:

– Vâng!

Hoàng Dung nói:

– Ta không thể tha cho cả hai người, nếu muốn ta cứu Lý đạo trưởng, thì ta phải giết đứa bé kia. Nếu đạo trưởng chịu chết, thì ta sẽ tha cho đứa bé.

Lý Mạc Sầu không thể ngờ cuối cùng mình còn cơ may sống sót, nhưng mụ dĩ nhiên không nỡ mở miệng bảo Hoàng Dung hãy giết đứa bé, mà lấy mạng mình đổi mạng cho đứa bé thì cũng chẳng muốn. Chỉ thấy Hoàng Dung lấy trong lọ ra một viên thuốc giải, hai ngón tay cầm viên thuốc rung rung, chỉ chờ mụ trả lời, mụ run giọng:

– Tiểu muội… tiểu muội…

Hoàng Dung nghĩ: “Mụ ta do dự lâu như vậy, thực cũng không dễ. Bất kể mụ ta trả lời thế nào, chỉ riêng thiện ý của mụ cũng đáng để ta tha chết cho mụ. Mụ ta mang nhiều nợ máu, rồi sẽ có người tìm mụ báo thù”. Bèn cướp lời, cười nói:

– Lý đạo trưởng, đa tạ đạo trưởng đã quan hoài Tương nhi của tiểu muội như thế.

Lý Mạc Sầu kinh ngạc, hỏi:

– Sao kia?

Hoàng Dung cười, nói:

– Đứa bé ấy họ Quách, tên Tương, là con của Quách Tĩnh gia và tiểu muội, vừa chào đời thì Long cô nương bế đi, không hiểu tại sao Lý đạo trưởng lại có sự hiểu lầm như thế. Tiểu muội xin đa tạ Lý đạo trưởng đã nhiều ngày dưỡng dục đứa bé.

Nói đoạn hành lễ, nhét một viên thuốc vào miệng Lý Mạc Sầu, hỏi:

– Đủ chưa?

Lý Mạc Sầu nói:

– Tiểu muội trúng độc đã sâu, phải nhai liền ba viên.

Hoàng Dung nói:

– Được!

Bèn nhét cho hai viên nữa, nghĩ bụng thuốc này còn có khi cần đến, nên không trả cho Lý Mạc Sầu mà nhét vào túi mình, cười, nói:

– Ba canh giờ nữa, huyệt đạo sẽ tự giải khai.

Rồi chạy trở vào rừng, nghĩ: “Mình bỏ đi lâu thế, không biết Phù nhi đã đi chưa? Nếu để cho tỷ muội hai đứa được gặp nhau một chút, thì rất hay”. Chạy vào bên trong lớp rào bằng song mây, vừa nhìn một cái, bất giác như rơi xuống hố băng, toàn thân lạnh toát.

Các lớp rào bằng song mây vẫn còn y nguyên, nhưng bé Quách Tương thì đã không cánh mà bay. Hoàng Dung trống ngực đập thình thình, đa mưu túc trí vô song mà lúc này cũng rụng rời hoảng hốt. Định thần, tự nhủ: “Đừng hoảng, đừng hoảng! Khi mình và Lý Mạc Sầu ra khỏi cánh rừng giao đấu, cũng không lâu lắm, Tương nhi có bị kẻ nào ẵm đi, cũng chưa đi xa”. Bèn leo lên ngọn cây cao nhất mà nhìn tứ phía. Thành Tương Dương ở vùng bình nguyên, có thể đưa mắt nhìn xa cả chục dặm, không thấy có vật gì khả nghi. Hiện thời quân Mông Cổ đã rút đi xa, không có một ai đi xe, nếu có người nào cưỡi ngựa, thì dù người ấy ở rất xa, cũng nhìn thấy được. Hoàng Dung nghĩ: “Người ấy chưa đi xa, tất ở gần đâu đây”. Bèn tìm kỹ xem có dấu chân ở bên các lớp rào bằng song mây, chỉ thấy các lớp rào bằng song mây không hề bị xê dịch, nhất định không phải dã thú nhảy vào tha mất đứa bé. Nghĩ thầm: “Mình đã bố trí các lớp rào bằng song mây theo phương vị bát quái cửu cung, là thuật Kỳ môn do phụ thân sáng tạo, trên thế gian trừ đệ tử đảo Đào Hoa không ai nắm được, tài trí như Kim Luân pháp vương cũng không thể qua lại dễ dàng giữa các lớp rào bằng song mây, chẳng lẽ là phụ thân đến ư?… Thôi chết, nguy rồi!”

Chợt nhớ vài tháng trước ngẫu nhiên chạm trán với Kim Luân pháp vương, trong cơn nguy cấp đã bố trí loạn thạch trận để ngăn cản lão ta, được Dương Quá đến cứu, mình đã nói qua thuật Kỳ môn cho Dương Quá biết. Dương Quá là đứa cực kỳ thông minh, nói một hiểu mười, tuy chưa thể thông thạo thuật Kỳ môn, nhưng mấy lớp rào bằng song mây sơ sài này, hắn có thể hóa giải không khó lắm. Hoàng Dung vừa nghĩ đến Dương Quá, thì lo lắng thêm ba phần: “Phù nhi đã chặt lìa cánh tay hắn, hắn càng thù Quách gia sâu hơn. Tương nhi rơi vào tay hắn, mạng coi như hết. Hắn chẳng cần hạ độc thủ, cứ quẳng đứa bé sơ sinh ở bất cứ chỗ nào giữa chốn hoang dã này, nó cũng mất mạng”. Nghĩ đứa con ra đời chưa được bao lâu mà phải chịu đa tai đa nạn, nước mắt cứ thế rơi lã chã.

Nhưng Hoàng Dung đã từng trải nhiều biến cố, há đau khổ như một thiếu phụ tầm thường. Ngẫm nghĩ một lát, rồi lau nước mắt, truy tìm đường đi của Dương Quá. Nhưng lạ thay, quanh quẩn không thấy một dấu chân, Hoàng Dung lấy làm lạ: “Hắn dù khinh công đạt tới mức tuyệt đỉnh, cũng phải để lại dấu chân trên lớp đất mềm thế này. Không lẽ hắn bay từ trên trời xuống hay sao?”

Hoàng Dung đoán quả không sai, Quách Tương đúng là do Dương Quá ẵm đi, và chàng vượt qua các lớp rào bằng song mây đúng là theo lối phi hành.

Đêm qua Dương Quá nấp trên cây bên ngoài cửa sổ, thấy Hoàng Dung điểm huyệt Quách Tĩnh, đưa tiễn Quách Phù, chàng bèn theo lối cũ ra khỏi thành, bám theo xa xa phía sau, nghĩ: “Quách bá mẫu, con gái bá mẫu nợ ta một cánh tay, Quách bá bá không chém được, thì ta sẽ chém. Bá mẫu ở ngoài sáng, ta ở trong bóng tối, bá mẫu muốn mãi mãi giữ cánh tay phải cho con gái mình, thật chẳng dễ đâu!”

Hoàng Dung đưa tiễn con, buồn lòng nên chẳng để ý có người bám theo phía sau, sau đó Hoàng Dung trong tiểu thị trấn gặp Lý Mạc Sầu, rồi hai người giao đấu thế nào, Dương Quá ở bên ngoài cánh rừng đều thấy rõ. Chờ hai người đuổi nhau ra khỏi cánh rừng, chàng nhảy lên một cây cao, chập ba sợi song mây làm một, buộc một đầu trên cành cây, tay trái cầm một đầu, từ trên cây đu người vào bên trong vòng rào bằng song mây, hai chân cắp vào ngang lưng Quách Tương, kéo người lên, đu ra ngoài vòng. Thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu đang mải giao đấu với nhau ở ngoài cánh rừng, chàng ẵm bé Quách Tương chạy thật nhanh, chẳng mấy chốc đã tới thị trấn. Thấy Quách Phù đứng bên đường, tay dắt con tiểu hồng mã, mắt ngó ngược ngó xuôi chờ mẹ quay lại, Dương Quá lẳng lặng tới gần, từ khoảng cách hơn một trượng vọt ngay lên lưng con ngựa.

Quách Phù giật mình, ngoảnh nhìn, thấy người cưỡi trên lưng ngựa chính là Dương Quá, thì kêu “Ối”, vội rút kiếm khỏi bao. Thanh kiếm Thục nữ của Tiểu Long Nữ tuy rất sắc, nhưng Quách Phù không muốn dùng, thanh kiếm nàng đang cầm trong tay chỉ là một thanh kiếm thông thường.

Dương Quá thấy nàng mặt tái nhợt, mục quang đầy vẻ kinh hãi, lúc này nếu chàng muốn chém cánh tay phải của nàng, thật dễ như trở bàn tay, nhưng chàng lại không nỡ hạ độc thủ. Chàng vung ống tay áo bên phải một cái, nó đã cuốn lấy thanh kiếm của Quách Phù mà hất đi. Quách Phù không giữ được, thanh kiếm tuột tay, bay thẳng vào góc tường. Dương Quá tay trái giật cương ngựa, hai chân kẹp lại, con tiểu hồng mã lao đi vùn vụt.

Quách Phù cả sợ, chân tay luống cuống, lát sau mới đến bên góc tường nhặt thanh kiếm lên, thân kiếm văng mạnh vào tường đã bị cong gập như cái thước thợ.

Dùng vật mềm mà thi triển cường kình, vốn là chỗ tinh yếu của võ công phái Cổ Mộ, Lý Mạc Sầu sử dụng cây phất trần, Tiểu Long Nữ sử dụng dải lụa, đều là môn công phu đó. Dương Quá hiện thời nội kình đã mạnh, tay áo phất một cái, thật không khác gì ngọn roi cứng, cây búa lớn ra đòn.

Dương Quá ẵm bé Quách Tương, cưỡi con tiểu hồng mã phóng nhanh về hướng bắc, chẳng mấy chốc qua thành Tương Dương, đã chạy được vài chục dặm, cho nên khi Hoàng Dung leo lên ngọn cây cao nhất mà nhìn tứ phía, không còn thấy chàng đâu nữa.

Ngồi trên mình ngựa phi nhanh, cây cối hai bên đường cứ vùn vụt trôi về phía sau, Dương Quá cúi đầu nhìn Quách Tương trong bọc, thấy nó đang ngủ rất say, khuôn mặt thanh tú xinh xắn, nghĩ: “Đứa con gái nhỏ này của Quách bá bá, Quách bá mẫu, mình không trả lại cho họ, cũng coi như đã trả được mối thù mất cánh tay. Nỗi buồn khổ của họ lúc này e rằng còn đau đớn hơn ta nhiều”. Đi một quãng nữa, chàng lại nghĩ:“Dương Quá ơi là Dương Quá, có phải mi nhiễm tính phong lưu quá nặng rồi sao, thấy thiếu nữ Quách Phù xinh đẹp liền quên luôn mối thù lớn của mi? Nếu kẻ chém mất cánh tay mi là nam nhân, liệu hôm nay mi có tha cho hắn hay chăng?” Nghĩ một hồi, chàng lắc đầu cười khổ. Đối với cái tính nết dễ thay đổi của mình, chàng chẳng những không quản chế được, mà thật ra cũng không hiểu rõ lắm.

Sau khi đi hơn hai trăm dặm, dọc đường bắt đầu có nhà dân, chàng vào xin sữa cừu, sữa bò cho Quách Tương uống, quyết ý trở về tòa cổ mộ tìm Tiểu Long Nữ, vài ngày sau đã đến chân núi Chung Nam.

Nhớ chuyện cũ, chàng phóng ngựa lên núi, tìm đường đến trước tòa cổ mộ. Tấm bia đá lớn đề dòng chữ “Hoạt tử nhân mộ” vẫn sừng sững đứng đó, không khác gì trước kia, cửa mộ đã bị sập xuống khi Lý Mạc Sầu công nhập, muốn vào bên trong, chỉ có cách lội qua dòng suối ngầm, theo địa đạo bí mật mà thôi. Với nội công tu vi hiện thời của chàng, việc vượt địa đạo chẳng tốn sức bao nhiêu, nhưng chàng chưa biết cách làm thế nào đối với Quách Tương. Khi phải lặn dưới nước, đứa bé sẽ chết ngạt. Nhưng nghĩ chắc lúc này Tiểu Long Nữ đang ở trong tòa cổ mộ, vào đó là được gặp nàng, chàng dằn lòng sao đặng? Bèn lấy trong túi ra một cái bánh, nhai nát mớm cho Quách Tương, tìm một cái hang gần đấy, đặt bé nằm ở đó, nhổ một số bụi cây gai lấp cửa hang, nghĩ bất kể có gặp Tiểu Long Nữ trong nhà mồ hay không, chàng cũng sẽ lập tức trở ra, tính cách an trí đứa bé. Lấy bụi cây gai lấp cửa hang xong xuôi, chàng đi vòng ra phía sau tòa cổ mộ, chợt nghe xa xa vọng lại tiếng binh khí va chạm, chính là ở phía cung Trùng Dương. Còn đang nghi ngờ, bỗng thấy tiếng vu vu do ngân luân phát ra, rồi thấy nó bay lên trời, chính là binh khí của Kim Luân pháp vương. Chàng nổi tính hiếu kỳ, chạy về hướng đó, đến trước động Ngọc Hư, phía sau cung Trùng Dương, đúng vào lúc Tiểu Long Nữ bị giáp kích bởi chiêu “Thất tinh tụ hội” của Toàn Chân ngũ tử và chiếc luân của Kim Luân pháp vương, thân bị trọng thương.

Dương Quá nếu đến sớm chỉ một giây lát, đã có thể cứu nguy, song đạo trời khó đoán, thế sự khó nói, mọi việc đâu có được như ý con người? Bi hoan li hợp, vinh nhục họa phúc của con người chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc mà thôi!

Toàn Chân ngũ tử thấy Dương Quá xuất hiện, biết là sự việc thêm nhiều rắc rối. Khưu Xứ Cơ nói lớn:

– Cung Trùng Dương là chốn tịnh tu, hà cớ gì hôm nay các vị kéo đến quấy phá?

Vương Xứ Nhất càng giận dữ hơn, gằn giọng:

– Long cô nương, phái Cổ Mộ của cô nương và phái Toàn Chân của bọn ta tuy có hiềm khích, đôi bên tuyệt giao thì xong, hà tất hẹn ước đám người Hồ Tây Vực, tà ma ngoại đạo đến đây, sát hại bao nhiêu giáo chúng đệ tử?

Tiểu Long Nữ đang bị trọng thương, làm gì còn cảm thấy phân biện phải trái, đấu khẩu với họ? Chúng đệ tử thấy Tiểu Long Nữ đả thương Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, thì dù họ ngả theo Doãn Chí Bình hay hùa theo Triệu Chí Kính, cũng đều coi nàng là kẻ địch, nên lúc này không có ai đứng ra nói rõ chân tướng. Dương Quá dùng tay trái ôm ngang eo lưng Tiểu Long Nữ, âu yếm nói:

– Cô cô, hai ta cùng về tòa cổ mộ, đừng để tâm tới bọn người kia nữa!

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Cánh tay chàng còn đau nữa không?

Dương Quá cười, lắc đầu, đáp:

– Hết đau lâu rồi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chất độc hoa Tình trong người chàng còn phát tác nữa không?

Dương Quá nói:

– Có khi phát tác vài lần, song cũng không mạnh lắm.

Triệu Chí Kính sau khi bị Tiểu Long Nữ đả thương, vẫn nấp ở phía sau, không dám ló mặt ra, nay Toàn Chân ngũ tử phá cửa động xông ra, biết rằng nếu các vị sư trưởng tra cứu nguyên do, chức vị chưởng giáo của hắn sẽ mất tiêu, thân xác còn bị nghiêm hình. Hắn chẳng qua cũng chỉ nóng nảy, hẹp hòi, không phải hạng người đại gian đại ác, cứ tự cho mình có võ công cao nhất trong đám đệ tử đời thứ ba, chức vị chưởng giáo lại rơi vào tay Doãn Chí Bình, thì hắn căm tức, đâm ra ngày một đi vào con đường sai trái, không tự gỡ ra nổi. Lúc này thầm nghĩ phải làm cho tình hình rối loạn cả lên, năm vị sư trưởng khó phân định rõ phải trái, thì mới có cơ may nào đó, nếu lại có thể mượn tay Kim Luân pháp vương và đám võ sĩ Mông Cổ trừ diệt luôn Toàn Chân ngũ tử, thì đúng là nhất lao vĩnh dật. Hắn thấy Dương Quá bị mất một cánh tay, tay trái lại phải ôm Tiểu Long Nữ, tình thế xem chừng thúc thủ chịu chết, kẻ mà hắn bình sinh căm hận nhất, chính là tên tiểu tử phản môn nhục sư Dương Quá kia, gặp cơ hội này, sao hắn chịu bỏ qua? Hắn quay sang nháy mắt với Lộc Thanh Đốc, rồi quát to:

– Nghịch đồ Dương Quá, hai vị tổ sư gia nói với ngươi, ngươi còn chưa chịu quì xuống khấu đầu, cứ tảng lờ như vậy được sao?

Dương Quá ngoảnh lại, mục quang đầy vẻ oán độc, nghĩ: “Cô cô bị trọng thương bởi bọn đạo sĩ thối tha các ngươi, hôm nay tạm thời cho qua, sau này ta sẽ đến thanh toán”. Chàng hầm hầm nhìn quần đạo một lượt, ôm Tiểu Long Nữ bước đi.

Triệu Chí Kính quát:

– Xông vào!

Hắn cùng với Lộc Thanh Đốc song kiếm nhất tề đâm tới sườn bên phải của Dương Quá. Ban nãy Triệu Chí Kính tuy bị thương, nhưng thương thế không nặng, nhát kiếm này đâm tới chỗ cánh tay cụt của Dương Quá, biết chắc đối phương không thể đánh trả, hắn dồn vào đó kình lực tu vi một đời.

Khưu Xứ Cơ tuy bất mãn về sự ngông cuồng, coi thường tôn trưởng của Dương Quá, nhưng nghĩ đến lời gửi gắm của Quách Tĩnh, lại nhớ tình sư đồ với phụ thân Dương Quá là Dương Khang, bèn quát:

– Chí Kính, kiếm hạ lưu tình!

Bên kia, có tiếng Mã Quang Tá nhiếc móc:

– Đồ mũi trâu không biết xấu mặt hay sao mà đi đâm vào chỗ cánh tay cụt của người ta!

Y và Dương Quá rất hợp nhau, thấy chàng gặp nguy hiểm, định xông tới giải cứu, ngặt nỗi cự li quá xa, ra tay không kịp.

Bỗng thấy một cái bóng xám vọt lên, tấm thân hộ pháp của Lộc Thanh Đốc tung lên cao kèm tiếng kêu oai oái, rồi rơi xuống huỵch một cái, trúng người Ni Ma Tinh. Võ công như Ni Ma Tinh, dù bị bất ngờ, cũng quyết không để bị kẻ khác rơi đè xuống mình như thế, song hắn bị cụt hai chân, hai tay thì cầm hai cây quải trượng, không thể dùng tay đẩy ra, cũng không thể nhảy tránh, nên bị đè ngã ngửa. Lưng vừa chạm đất, Ni Ma Tinh lập tức bật dậy, giáng cho Lộc Thanh Đốc một đòn quải trượng vào lưng khiến Lộc Thanh Đốc ngất đi.

Lúc ấy Dương Quá đã dùng chân phải đạp thanh trường kiếm của Triệu Chí Kính mà ghìm xuống đất, Triệu Chí Kính mắm môi cố dùng sức rút kiếm lên, nhưng thanh kiếm bất động. Nguyên khi song kiếm đâm tới, ống tay áo rỗng bên phải của Dương Quá phất mạnh, một luồng kình lực hất tung Lộc Thanh Đốc đi. Triệu Chí Kính đột nhiên cảm thấy kình phong, vội sử chiêu “Thiên cân trụy” để ghìm mình lại thật vững. Làm như vậy, mũi kiếm phải chúc xuống đất, Dương Quá giơ chân đạp ngay lên kiếm.

Chàng từng luyện kiếm giữa dòng nước lũ trên núi, thủy lực cực mạnh còn không đẩy ngã được chàng. Lúc này chân chàng đạp xuống thanh kiếm có khác gì núi chặn giữ, Triệu Chí Kính làm sao rút kiếm lên nổi?

Dương Quá lạnh lùng nói:

– Triệu đạo trưởng, hôm ở ải Đại Thắng, trước mặt Quách đại hiệp, ngươi đã nói rõ không phải là sư phụ của ta, hôm nay cớ sao còn nhắc đến chuyện sư đồ? Thôi được, nể tình có lúc từng gọi ngươi vài tiếng sư phụ, ta tha cho ngươi đi!

Lời vừa dứt, bàn chân không động đậy, nhưng kình lực đè xuống đã triệt tiêu hoàn toàn.

Triệu Chí Kính đang ráng sức kéo kiếm về phía sau, đột nhiên tay nhẹ bẫng, thanh kiếm bật lên, hự một tiếng, chuôi kiếm thúc mạnh vào ngực hắn. Nếu là kẻ địch vận kình tấn công, Triệu Chí Kính dù không chống đỡ nổi, cũng vẫn dùng lực chống đỡ, đằng này hắn đang tự thúc vào ngực mình, không còn chút lực nào chống đỡ, chỉ cảm thấy ngực đau nhói, hộc ngay ra một ngụm máu tươi, mắt tối sầm, ngã ngửa ra sau.

Vương Xứ Nhất và Lưu Xứ Huyền song kiếm được rút khỏi bao, từ hai bên tả hữu đâm về phía Dương Quá, đột nhiên có một bóng người lao chếch tới, keng keng hai tiếng, gạt kiếm của hai vị kia đi, người đó chính là Ni Ma Tinh. Sau khi bị Lộc Thanh Đốc đè ngã, Ni Ma Tinh đã đánh cho Lộc Thanh Đốc ngất xỉu, song hắn vẫn chưa nguôi giận. Hắn cho rằng nguyên do là tại Dương Quá, bèn vung quải trượng xông tới, thiết trượng tay trái gạt phăng kiếm của hai đạo nhân, thiết trượng tay phải thì bổ thẳng xuống đầu Dương Quá và Tiểu Long Nữ.

Dương Quá biết Ni Ma Tinh võ công cao cường, chỉ sử dụng ống tay áo rỗng, e không thể gạt nổi đòn vừa cương vừa nhu của hắn, lúc này Tiểu Long Nữ toàn thân vô lực, đang ngả hẳn vào người chàng, thế là chàng bèn nghiêng người sang trái, ống tay áo rỗng quạt ngang, cuộn lấy quanh eo lưng Tiểu Long Nữ, để nàng dựa hẳn vào nửa ngực bên phải của mình, tay trái rút Huyền thiết trọng kiếm đeo sau lưng, thuận thế vung lên. Keng một tiếng, một vệt đen bay lên trời, đó là cây thiết trượng của Ni Ma Tinh. Cây thiết trượng ấy nặng hơn chục cân, bay lên cao đến hai chục trượng, rồi rơi xuống phía sau động Ngọc Hư.

Dương Quá lần đầu tiên lâm địch sử dụng Huyền thiết trọng kiếm của Kiếm Ma Độc Cô Cầu Bại, thấy uy lực như thế cũng không khỏi kinh ngạc.

Ni Ma Tinh nửa người tê dại, cả cánh tay phải bị chấn động không còn cảm giác gì nữa, nhưng hắn vốn hung hãn vô tỉ, miệng gầm lên, tay trái dộng cây thiết trượng xuống đất một cái, tung người lên cao hơn trượng, rồi bổ xuống. Dương Quá nghĩ bụng đã biết cương lực của Huyền thiết trọng kiếm, bây giờ muốn thử nhu lực xem sao, bèn giơ mũi kiếm lên dính ngay lấy cây thiết trượng. Lúc này chỉ cần nhả nội lực ra, sẽ hất văng Ni Ma Tinh đi vài trượng, đập vào sườn núi vỡ đầu nát óc.

Chàng thấy Tiểu Long Nữ bị trọng thương, lòng đầy oán hận, lần này ra tay quyết chẳng dung tình. Nhưng đang định nhả lực ra, thì thấy thân hình Ni Ma Tinh ở giữa không trung đã cụt cả hai chân, chợt nghĩ mình cũng bị cụt một tay, bỗng có ý đồng bệnh tương liên, không đẩy kiếm lên cao nữa, mà đưa chúi xuống, cây thiết trượng cắm thẳng xuống đất, ngập sâu quá nửa.

Ni Ma Tinh nắm cây thiết trượng, cố rút lên, nhưng tay phải đã bị thanh kiếm nặng áp sát, y như bị điểm huyệt, không cựa quậy được. Dương Quá nói:

– Hôm nay tha mạng cho ngươi, mau cút về Thiên Trúc cho rồi.

Ni Ma Tinh mặt xám như tro, bất động tại chỗ, không thốt nên lời.

Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây thấy biến cố bất ngờ, đoán rằng trong hơn một tháng qua Dương Quá đã đại tăng công lực, còn Ni Ma Tinh thì sau khi bị cụt hai chân đã trở nên vô dụng. Doãn Khắc Tây vọt tới, rút cây thiết trượng lên, đặt vào tay Ni Ma Tinh. Ni Ma Tinh nhận lấy, dộng xuống đất định nhảy ra xa, không ngờ cánh tay vẫn chưa hết tê dại, vừa dộng một cái đã ngã lăn ra đất.

Tiêu Tương Tử vốn lấy tai họa của người khác làm niềm vui của hắn, hễ người khác gặp bất hạnh là hắn thích thú, bất kể bạn hay thù, hắn nghĩ: “Gã lùn Thiên Trúc quen tự phụ, không phục ta, giờ coi như xong. Ta phải ra tay bắt sống Dương Quá, để dương danh lập uy với thiên hạ”. Bèn xông ra, quát:

– Tên tiểu tử Dương Quá, mấy lần ngươi làm hỏng đại sự của vương gia, mau đi theo lão phu chịu tội!

Dương Quá nghĩ: “Cô cô bị trọng thương, phải sớm cứu chữa, nhưng cường địch trước mặt quá đông, không hạ sát thủ, khó bề thoát thân”. Chàng hỏi nhỏ Tiểu Long Nữ:

– Có đau lắm không?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng ôm thiếp… thiếp… thiếp thấy rất dễ chịu.

Dương Quá ngẩng lên, nói với Tiêu Tương Tử:

– Xuất chiêu đi!

Thanh Huyền thiết trọng kiếm chĩa về phía thắt lưng Tiêu Tương Tử, cách hắn chừng hai thước. Tiêu Tương Tử thấy thanh kiếm thô và đen, mũi không nhọn, không có lưỡi sắc, trông như một thanh sắt cứng, nghĩ: “Tên tiểu tử này kiếm pháp mẫn tiệp, biến ảo linh động hết sức lợi hại, sao lại đi sử dụng thanh sắt này, kiếm pháp tất bị hạn chế”. Hắn hỏi:

– Ngươi vớ đâu ra cái que cời than này vậy?

Đoạn vung cây cương bổng đánh vào Huyền thiết trọng kiếm. Dương Quá cầm thanh kiếm bất động, nội kình truyền ra thân kiếm, chỉ nghe “cạch” một tiếng, bổng kiếm đập vào nhau, cây cương bổng gãy rời thành bảy, tám đoạn, bay ra tứ phía. Tiêu Tương Tử kêu lên:

– Hỏng rồi!

Hắn vội thoái lui. Thanh Huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá chọc theo hai cái, hai cánh tay của Tiêu Tương Tử cùng gãy luôn.

Dương Quá liên tiếp đánh bại Lộc Thanh Đốc, Triệu Chí Kính, Ni Ma Tinh ba người, mọi người trước động Ngọc Hư đều xôn xao. Lần này thân hình chàng bất động, tay không vung, chỉ dùng nội lực làm gãy binh khí của Tiêu Tương Tử, mọi người càng không hiểu tại sao, nhìn nhau kinh hãi, đều nghĩ: “Võ công của người này đúng là tà môn!”

Doãn Khắc Tây là thương nhân Tây Vực, giỏi nhận biết báu vật, thấy thanh kiếm nặng của Dương Quá hất văng quải trượng của Ni Ma Tinh, đã thầm kinh ngạc: “Thanh kiếm này uy mãnh dị thường, thân kiếm đen tuyền, thấp thoáng ánh hồng, chắc là làm bằng huyền thiết chăng? Thứ huyền thiết này là vật chí bảo trong thiên hạ, tìm được một lạng đã khó. Đao, kiếm, thương, giáo thông thường khi đúc chỉ cần pha vào vài tiền, nửa lạng, là đủ thành binh khí sắc bén. Đằng này tìm đâu ra nhiều huyền thiết thế kia cơ chứ? Hơn nữa, nếu thanh kiếm làm toàn bằng huyền thiết, thì phải nặng bốn, năm chục cân, làm sao có thể sử dụng linh hoạt?”

Kỳ thực thanh kiếm này nặng tám tám sáu mươi tư cân, nếu nó không nặng ngần ấy, Dương Quá dù nội lực mạnh mấy, cũng không thể phát ra uy lực như vậy. Thấy cây cương bổng của Tiêu Tương Tử bị gãy rời thành bảy, tám đoạn, Doãn Khắc Tây càng tin rằng thanh kiếm này là thần phẩm. Y vốn không phải là kẻ đại ác, chẳng qua từ nhỏ hành nghề buôn bán châu ngọc, hễ thấy kỳ trân dị bảo, liền ngứa ngáy, phải tìm mọi cách, hoặc mua hoặc lừa, hoặc cướp hoặc trộm, miễn sao có được vật quí. Lúc này nhìn thấy thanh kiếm nặng của Dương Quá thì lòng tham nổi lên, liền nhảy ra, tung Kim long tiên cuốn lấy thanh kiếm ấy.

Dương Quá đã cùng Doãn Khắc Tây vào Tuyệt Tình cốc, thấy y lúc nào cũng cười cười vui vẻ, hòa nhã, không hề có ý thù địch với chàng, thấy Kim long tiên đính đầy vàng ngọc, kim cương, là vật quí, thì cứ để cho Kim long tiên cuốn lấy Huyền thiết trọng kiếm, và nói:

– Doãn huynh, hai ta không hề có mắc mớ gì với nhau, huynh hãy mau gỡ tiên ra, để tiểu đệ đi. Kim long tiên của huynh có nhiều vật quí, bị tổn hại thì hơi tiếc.

Doãn Khắc Tây cười, nói:

– Cái gì?

Rồi vận kình đoạt lấy kiếm. Dương Quá đứng sừng sững, Doãn Khắc Tây ráng sức kéo mà không xê dịch được tí nào.

Lúc này Doãn Khắc Tây đứng gần, nhìn rõ thanh kiếm này quả là đúc bằng huyền thiết, hệt như kim cương, là vật rắn nhất trong thiên hạ, đụng vào bất cứ vật gì khác, thì vật khác bị tổn hại, chứ nó không suy suyển. Kim long tiên siết vào kiếm, mà thân kiếm không hề có vết trầy xước. Y biết đối phương võ công lợi hại, nếu không xuất kỳ chế thắng, thì khó đoạt nổi thanh kiếm, bèn cười hi hi, nói:

– Dương huynh công phu tinh tiến quá chừng, xin chúc mừng, tiểu đệ cam bái hạ phong.

Miệng nói năng khách sáo, cổ tay trái của y lật một cái, hàn quang loáng lên, một lưỡi chuỷ thủ đã đâm nhanh tới ngực Tiểu Long Nữ.

Doãn Khắc Tây không định đả thương Tiểu Long Nữ, chẳng qua y biết Dương Quá tha thiết quan hoài Tiểu Long Nữ, thấy nàng gặp nguy, hẳn chàng sẽ xả thân cứu viện, nên Doãn Khắc Tây dùng lối dương đông kích tây, may ra có thể đoạt thanh bảo kiếm. Dương Quá thấy vậy quả nhiên giật mình. Doãn Khắc Tây quát:

– Buông kiếm!

Lực toàn thân được y vận ra cánh tay để kéo tiên đoạt kiếm.

Nghe tiếng quát, Dương Quá quả nhiên hất thanh kiếm đi. Kiếm dài, chuỷ thủ ngắn, thanh kiếm ngăn cách ba người, chuỷ thủ đâm không thể tới người Tiểu Long Nữ được, song Dương Quá trong cơn nguy cấp sử lực quá mạnh, hất kiếm và tiên đi. Doãn Khắc Tây biết thanh kiếm rất nặng, sớm có đề phòng, nhưng không thể ngờ thanh kiếm thúc đến người mình mạnh như thế, y thấy không tránh kịp, vội vận nội lực, song chưởng đẩy ra, bình một tiếng lớn, người y bật lùi về đằng sau năm, sáu bước mới đứng lại được, mặt tái nhợt, nét cười ở khóe miệng méo xệch đi, chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng đều đảo lộn, cứ đứng lặng như trời trồng, không dám cựa quậy hoặc vận khí gì hết. Dương Quá tới gần, giơ tay cầm lấy Huyền thiết trọng kiếm, rung nhẹ một cái, dưới ánh nắng, thấy vàng bạc châu ngọc rơi lả tả xuống đất, Kim long tiên quí giá đã bị vỡ nát. Dương Quá gọi to:

– Kim Luân pháp vương, món nợ giữa hai ta, thanh toán hôm nay hay để ngày sau?

Kim Luân pháp vương thấy chàng liên tiếp đánh bại Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây ba đại cao thủ, đều chỉ một chiêu đã đả thương đối phương, gã thiếu niên này võ công tăng tiến ngoài sức tưởng tượng, nay lão xông vào động thủ, nhất định sẽ không đến nỗi kém cỏi như ba gã kia, chỉ e khó lòng thủ thắng. Nhưng hiện tại các lộ anh hùng tề tựu ở đây, vừa nghe Dương Quá dọa một câu lão đã bỏ đi thì còn gì thể diện? Lão nghĩ: “Hắn mất một cánh tay, tay trái dù lợi hại, song mé bên phải vẫn có chỗ sơ hở, mình cứ nhè mé bên phải mà tấn công. Hắn lo cho thương thế của Tiểu Long Nữ, càng để lâu càng mất tinh thần”. Thế là lấy kim, ngân, thiết, đồng, diên ngũ luân cầm tay, tự nhủ trận này thực sự quyết định sinh tử vinh nhục, không thể sơ suất chút nào, thần sắc thản nhiên, thong thả bước ra, cười, nói:

– Dương huynh đệ, cung hỉ huynh đệ lại có kỳ ngộ, có được thanh thần kiếm uy mãnh tuyệt luân! Món binh khí ly kỳ cổ quái của huynh đệ, chỉ e lão nạp cũng không đối phó nổi.

Lão không dám chắc thắng, ra sức tán thưởng Huyền thiết trọng kiếm, để mọi người thấy rằng gã thiếu niên này chẳng qua may mắn, có được thứ binh khí thần dị mà thôi.

Tiểu Long Nữ nằm trong lòng Dương Quá, mơ màng thấy Kim Luân pháp vương cầm ngũ luân bước tới, nghĩ một mình Dương Quá nhất định không địch nổi lão ta, bèn nói nhỏ:

– Quá nhi, chàng hãy đưa cho thiếp một thanh kiếm, hai ta… hai ta… cùng… sử Ngọc nữ tố tâm kiếm pháp.

Dương Quá cảm động, nói nhỏ:

– Cô cô cứ yên tâm! Quá nhi một mình đối phó với lão ta cũng xong.

Tiểu Long Nữ xê dịch sang bên trái, cố che chắn đòn phía trước cho chàng. Dương Quá vừa cảm kích, vừa vui sướng, nói to:

– Cô cô! Hôm nay hai ta cùng ác chiến quần ma, sống được thế này, không còn gì hơn.

Huyền thiết trọng kiếm chĩa thẳng ra đằng trước. Kim Luân pháp vương không dám chính diện đấu lực với chàng, lão nhảy lùi, lập tức quăng diên luân bay tới ù ù, Dương Quá giơ kiếm chặn, nhưng diên luân bay vòng ra sau lưng Dương Quá rồi trở về với lão ta. Chỉ nghe vù vù, oăng oăng, ào ào, kim quang, ngân quang loang loáng, ngũ luân từ năm phương vị khác nhau bay tới công kích.

Dương Quá sợ chấn động vết thương của Tiểu Long Nữ nên chàng cố đứng bất động. Ngũ luân của Pháp vương cùng xuất kích, chỉ mới là đòn thăm dò, ngũ luân bay vòng một vòng quanh thân hai người, rồi bay trở lại, lão ta thấy Dương Quá hoàn toàn không giơ kiếm truy kích, đã biết ý của đối phương, thì mừng thầm: “Mi không dám di động thân hình, để khỏi động tới vết thương của Tiểu Long Nữ, tình thế của mi nguy rồi. Ta cứ từ xa công kích, không thể thất bại được”.

Dương Quá đã mất một tay, lại lo bảo hộ người bị thương, xét về thân phận, Kim Luân pháp vương lẽ ra không nên giao đấu mới đúng, nhưng lão ta biết dịp tốt hôm nay khó bề gặp lại, nếu để Tiểu Long Nữ chữa khỏi vết thương, hai người họ liên thủ với nhau, cố nhiên lão không tài gì địch nổi. Mà dù Tiểu Long Nữ có chết do bị thương nặng, Dương Quá không còn vướng víu gì, lão cũng chưa chắc địch nổi chàng. Chỉ có cách hôm nay thừa dịp đánh chết Dương Quá, mới hết hậu họa, còn chuyện công bằng, thôi hãy lờ đi.

Tình thế đó, người đứng ngoài cũng nhận ra, thấy Kim Luân pháp vương thiếu quang minh. Mã Quang Tá nói lớn:

– Đại hòa thượng, lão là anh hùng hay là kẻ tiểu nhân hèn hạ?

Kim Luân pháp vương làm như không nghe thấy, ngũ luân liên tiếp được quăng ra, liên tiếp bay lượn, vòng quanh Dương Quá và Tiểu Long Nữ, lúc cao lúc thấp, lúc thẳng lúc nghiêng, âm thanh phát ra cũng lúc nặng lúc nhẹ, người xung quanh còn hoa cả mắt, tâm thần bất định. Đột nhiên Mã Quang Tá kêu ối một tiếng, thì ra đồng luân bay đang bay chếch thì ngoặt lại sướt qua đỉnh đầu Mã Quang Tá, liếm mất một mảng da đầu của y. Mã Quang Tá ôm vết thương mà chửi, máu chảy ròng ròng.

Dương Quá nghĩ Tiểu Long Nữ bị trọng thương, kéo dài thời gian càng ít cơ hội cứu trị, trong lòng nôn nóng. Pháp vương gọi:

– Cẩn thận này!

Đột nhiên ngũ luân qui nhất, nối đuôi nhau bay tới chỗ hai người, thế như năm con trâu xung trận. Dương Quá cũng dồn lực toàn thân ra cánh tay trái, mũi kiếm rung rung, keng keng keng ba tiếng, gạt bay kim, đồng, thiết tam luân, rồi thấy kiếm chém xuống, đất văng tung tóe, ngân luân và diên luân đều đã cắm cả xuống đất.

Pháp vương đang hăng, lao tới, tay trái chộp đồng luân, tay phải chộp kim luân, bổ thẳng xuống đầu Dương Quá. Dương Quá không đỡ, mà đâm Huyền thiết trọng kiếm tới ngực Pháp vương. Kiếm dài, luân ngắn, luân chưa tới đầu Dương Quá, mũi kiếm đã chỉ còn cánh ngực Pháp vương non nửa thước, Pháp vương lập tức lùi về, lão tiến lên nhanh, lùi về cũng lẹ, thoáng một cái lão ta đã lùi chếch sang bên trái, phía sau mấy thước, trong khoảnh khắc tiến lui thần tốc như thế, quả là công phu hiếm có trong võ lâm, mọi người không khỏi ồ lên thán phục. Huyền thiết trọng kiếm đâm ra rồi lập tức thu về, keng một tiếng, đã thúc đồng luân từ phía sau đánh tới bị vỡ làm hai mảnh, hai mảnh ấy chưa kịp rơi xuống đất, lại bị kiếm đánh vỡ thành bốn mảnh. Huyền thiết trọng kiếm tuy không có lưỡi sắc và mũi nhọn, nhưng Dương Quá vận nội lực truyền ra kiếm, vật cứng mấy cũng không chịu nổi. Mọi người vừa ồ lên thán phục khinh công tuyệt đỉnh của Pháp vương, giờ thấy kỳ uy của thần kiếm đều kinh ngạc lặng cả đi.

Trong giây lát, ngũ luân của Pháp vương đã bị hủy mất ba cái, nhưng lão không nhụt chí, vẫn múa kim, thiết song luân mà công cùng lúc. Dương Quá chọc kiếm ra, Pháp vương né ngang, tránh kiếm hoàn luân, lúc này lão ta không liệng song luân đi nữa, tuy không thể tấn công từ xa, nhưng cận chiến sẽ chắc chắn hơn. Chỉ thấy lão xoay quanh Dương, Long hai người, đánh bên trái đỡ bên phải, nhảy lên luồn xuống, song luân ngang dọc linh động, vù vù bất tuyệt. Huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá tuy nặng nề, khó xoay trở, nhưng bất kể Pháp vương biến chiêu thế nào, trước sau cũng không tới gần được hai người trong vòng ba bước. Sau khi đấu bốn, năm chục chiêu, song luân chập làm một, cùng tấn công Tiểu Long Nữ. Huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá đâm ra, bập một tiếng nhẹ, dính luôn vào mép kim luân, hai dòng nội lực từ hai loại binh khí đụng vào nhau, lập tức cả hai người cùng giữ nguyên bất động. Dương Quá cảm thấy kình lực của Pháp vương đẩy tới cứ triền miên bất tuyệt, càng lúc càng mạnh, thì ngầm kinh hãi: “Nội lực của lão hòa thượng quá ư thâm hậu”. Lại nghĩ: “Đã đấu nội lực, thì không thể thi triển uy thế của Huyền thiết trọng kiếm được nữa, đấu càng lâu, lão ta tất chiếm thượng phong. Chi bằng, dụ lão ta lại gần, bất ngờ phất ống tay áo vào mặt lão”. Bèn từ từ co dần cánh tay trái, hai người vốn cách xa nhau hơn năm thước, dần dần thu ngắn còn bốn thước rưỡi, rồi bốn thước.

Đệ tử Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba của Pháp vương ở bên cạnh sư phụ, thấy sư phụ dần dần chiếm lợi thế thì cả mừng, bước lên mấy bước. Đạt Nhĩ Ba lo cho sự an nguy của sư phụ, song cũng mong sư phụ đừng đả thương “đại sư huynh” đã đầu thai sang kiếp này.

Hoắc Đô thì muốn ám toán Dương Quá, hắn phe phẩy cây quạt sắt, làm như quạt mát, kỳ thực chờ cơ hội phóng ám khí trong quạt về phía Dương Quá. Khưu Xứ Cơ và Vương Xứ Nhất thấy Hoắc Đô bước tới, mục quang kỳ dị, biết hắn định xuất thủ giúp sư phụ hắn, thì hai người đưa mắt cho nhau, đều nghĩ: “Dương Quá tuy đối địch với bản giáo, nhưng đại trượng phu quang minh lỗi lạc, thắng hay bại trước hết phải bằng bản lĩnh thật sự. Cung Trùng Dương há để cho gian đồ cuồng bạo?” Hai người bèn rút kiếm, tiến ra một bước, trừng mắt nhìn Hoắc Đô. Khưu, Vương hai vị đạo nhân tóc bạc phơ, nhưng do tu luyện huyền công, mặt mũi hồng hào, hai thanh trường kiếm thì loang loáng ánh thép xanh, hiển lộ uy vũ, khiến Hoắc Đô không dám vọng động.

Lúc này Dương Quá từ từ co dần cánh tay trái về, đôi bên chỉ còn cách nhau chưa đầy ba thước, nghĩ: “Phải dụ lão ta lại thêm nửa thước nữa, khi mình phất ống tay áo, dù không thể lấy mạng lão ta, cũng làm cho lão ta choáng váng mặt mày”. Pháp vương thấy vai phải của chàng hơi động, đã đoán ý chàng, tự nhủ: “Mi vận kình phất ống tay áo rỗng, cũng ngang như cây nhuyễn tiên lợi hại. Ta tương kế tựu kế, tiếp nhận một cái phất ống tay áo của mi, lúc ấy lực đạo cánh trái tất giảm, ta sẽ thừa thế toàn lực mãnh công, làm cho mi bị trọng thương”.

Tiểu Long Nữ áp vào người Dương Quá, mơ mơ hồ hồ, Dương Quá vận nội lực, huyết mạch lưu thông mạnh, cơ thể nóng bừng bừng. Tiểu Long Nữ thấy mặt chàng tỏa nhiệt khí, nàng mở to mắt, thấy trán chàng lấm tấm mồ hôi, bèn đưa tay áo thấm mồ hôi cho chàng, thấy chàng thần sắc trịnh trọng, chăm chú nhìn thẳng phía trước, nàng nhìn theo, bất giác giật mình, thì ra hai con ngươi to tướng màu đồng thau của Pháp vương đang trừng trừng trước mặt. Nhìn hung quang lồ lộ trong cặp mắt lão ta, nàng vội nhắm mắt, lúc mở mắt ra lần nữa, thì cặp mắt của Pháp vương đã lại gần hơn một chút. Tiểu Long Nữ đang âu yếm với ý trung nhân, tự dưng có cặp mắt hung hãn từ ngoài nhìn vào, thật là đáng ghét. Nàng lúc này không nghĩ đến việc Pháp vương đang đấu lực với Dương Quá, chỉ biết lão hòa thượng là một đại ác nhân, nàng không muốn lão ta đến quấy nhiễu thời khắc sung sướng của nàng, nàng bèn thò tay vào túi, lấy ra một mũi Ngọc phong châm, thong thả chọc tới mắt trái của Pháp vương.

Đừng nói mũi Ngọc phong châm có chất cực độc, chỉ cần một chiếc kim thêu thông thường chọc vào con ngươi, thì mắt sẽ lập tức bị mù. Lúc này Tiểu Long Nữ chỉ muốn đẩy cặp mắt đáng ghét kia ra chỗ khác, chứ không phải là nàng phóng ám khí, hơn nữa nàng đang trọng thương, cánh tay vô lực, tay đưa mũi Ngọc phong châm chọc ra rất chậm chạp.

Nhưng Pháp vương và Dương Quá chính đang cầm cự đến thời khắc mười phần khẩn cấp, bất cứ bên nào di động chút xíu cũng sẽ lập tức nguy to. Mũi Ngọc phong châm của Tiểu Long Nữ chọc tới, Pháp vương không thể nào chống cự. Nhìn mũi châm chọc tới gần, hai thước rồi một thước rưỡi, một thước rồi còn nửa thước, Pháp vương thét to, hất mạnh song luân về đằng trước, lộn người một vòng về phía sau. Nhưng kình lực của Huyền thiết trọng kiếm cực kỳ uy mãnh vẫn còn dư. Pháp vương vừa đứng lên lại lảo đảo ngã phịch xuống đất. Hoắc Đô và Đạt Nhĩ Ba cùng kêu “Sư phụ!” và chạy tới đỡ dậy. Dương Quá gạt liền hai nhát kiếm, đánh gãy cả kim luân và thiết luân thành mấy mảnh, sấn tới hai bước, bổ Huyền thiết trọng kiếm xuống đầu Pháp vương. Pháp vương bị loạn nội tức, đang tức thở muốn chết, lại xuội lơ xuống đất, Hoắc Đô giơ chiếc quạt sắt, Đạt Nhĩ Ba giơ cây kim chử lên chống đỡ Huyền thiết trọng kiếm; nhưng lực bổ xuống của Huyền thiết trọng kiếm quá mạnh, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô cùng khuỵu gối xuống đất, không chịu nổi, song vẫn cố liều chết đẩy lên.

Kình lực đè xuống của Huyền thiết trọng kiếm càng lúc càng mạnh, Đạt Nhĩ Ba và Hoắc Đô đều cảm thấy cột sống như sắp gãy, xương cốt toàn thân kêu răng rắc. Hoắc Đô nói:

– Sư ca, sư ca cố chịu một mình giây lát, tiểu đệ cứu sư phụ ra trước, rồi sẽ trở lại giúp sư ca.

Cả hai hợp lực chống đỡ Huyền thiết trọng kiếm còn không nổi, thì một mình Đạt Nhĩ Ba chịu sao thấu uy lực của thần kiếm? Nhưng Đạt Nhĩ Ba xả thân bảo hộ sư phụ, nói “Được!” rồi ráng sức nâng giữ cây kim chử.

Hai kẻ đó nói bằng Tạng ngữ, Dương Quá không hiểu ý, chỉ cảm thấy kình lực của cây kim chử tăng mạnh, chàng đang định vận lực đè xuống, thì Hoắc Đô đã nhảy thoát ra.

Ai ngờ Hoắc Đô hoàn toàn không tìm cách cứu viện sư phụ, chỉ mưu đồ một mình thoát thân, hắn nói:

– Sư ca, tiểu đệ về Tây Tạng luyện thêm võ công, mười năm sau sẽ trở lại tìm tên tiểu tử Dương Quá báo thù cho sư phụ và sư ca!

Nói xong hắn quay mình chạy đi như bay.

Đạt Nhĩ Ba bị tên sư đệ lừa dối, thì cả giận, lại nghĩ Dương Quá là đại sư huynh kiếp trước đầu thai sang kiếp này, sao nỡ vô tình vô nghĩa đối với sư phụ? Bèn nói to:

– Đại sư ca, sư ca hãy tha mạng cho tiểu đệ, chờ tiểu đệ cứu sư phụ về, tìm gã sư đệ lang tâm cẩu phế kia băm vằm hắn thành trăm mảnh, rồi tiểu đệ sẽ tới tùy sư ca xử trí. Bấy giờ sư ca muốn chém muốn giết thế nào, tiểu đệ cũng không dám cau mày.

Dương Quá nghe Đạt Nhĩ Ba nói một tràng, dĩ nhiên chàng không hiểu, nhưng Hoắc Đô thấy nguy đào tẩu còn người này trung nghĩa với sư phụ, thì ai cũng rõ, chàng thấy thần sắc y khảng khái, đúng là một đấng nam nhi, cúi xuống, thấy Tiểu Long Nữ đang đắm đuối nhìn chàng, thì trong giây lát chàng quên hết mọi ý định thù oán trên thế gian, nhấc thanh Huyền thiết trọng kiếm lên, nói:

– Tha cho ngươi!

Đạt Nhĩ Ba đứng dậy, nhưng vừa rồi sử kình quá độ toàn thân thoát lực, cây kim chử y cầm không nổi, hịch một tiếng, rơi xuống đất. Y quì xuống, lạy Dương Quá mấy lạy, tạ ơn chàng tha chết. Lúc này Pháp vương vẫn ngồi dưới đất, chưa cử động được. Đạt Nhĩ Ba cõng sư phụ, đi xuống núi.

Dương Quá một tay một kiếm, đánh bại sáu đại cao thủ của Mông Cổ. Đám võ sĩ còn lại thấy sáu thủ lĩnh hoặc bị thương, hoặc đại bại, nào dám chống cự, đành khiêng bọn Ni Ma Tinh, Tiêu Tương Tử, Doãn Khắc Tây chạy đi.

Mã Quang Tá máu me đầy đầu, bước đến trước mặt Dương Quá, giơ ngón tay cái, nói:

– Tiểu huynh đệ, giỏi lắm!

Dương Quá nói:

– Mã đại ca, mấy kẻ cùng đi với đại ca đều là hạng bất lương, đại ca còn đồng hành với chúng sẽ bị thiệt thòi, chi bằng hãy từ bỏ vương gia Hốt Tất Liệt mà trở về quê nhà.

Mã Quang Tá nói:

– Tiểu huynh đệ nói rất phải.

Y nhìn Tiểu Long Nữ, thấy nàng tuy bị trọng thương, vẫn kiều mỹ vô cùng, bèn hỏi:

– Tiểu huynh đệ và tân nương tử khi nào mới thành thân? Tại hạ ở lại chờ uống hỉ tửu của tiểu huynh đệ được chăng?

Mã Quang Tá hôm ở Tuyệt Tình cốc thấy Tiểu Long Nữ là tân nương tử, lúc này vẫn coi nàng là một tân nương tử.

Dương Quá lắc đầu cười gượng, đưa mắt nhìn mấy trăm đạo sĩ vây xung quanh một lượt. Mã Quang Tá chợt hiểu, nói:

– À! Còn nhiều tên đạo sĩ thối tha, để tại hạ giúp tiểu huynh đệ một tay.

Dương Quá nghĩ: “Nếu là một đấu một, các đạo nhân kia không ai địch nổi ta, nhưng nếu họ cùng ùa tới tình thế sẽ hung hiểm vạn phần, chẳng nên để y chết uổng”, bèn nói to:

– Đại ca mau đi đi, một mình đệ đối phó được rồi.

Mã Quang Tá hiểu ý, vỗ tay nói:

– Đúng, đúng vậy. Đến đại hòa thượng, Tiêu Tương Tử còn không địch nổi tiểu huynh đệ, thì đám đạo sĩ thối tha này làm được gì? Tiểu huynh đệ và tân nương tử, tại hạ đi đây!

Nói đoạn xoay xoay cây đồng côn, cười ha hả, quay đầu bỏ đi. Chỉ nghe tiếng cây côn dộng xuống đá núi cạch cạch xa dần.

Dương Quá chống kiếm xuống đất, một phen đấu lực vừa rồi với Kim Luân pháp vương quả đại hao nội lực, nghĩ: “Bọn Kim Luân pháp vương, Tiêu Tương Tử đều có đặc yếu, ấy là khi xuất thủ đấu với ta, tên nào cũng tranh giành nhau, chỉ mong sắm vai ngư ông đắc lợi, chứ nếu cả sáu tên đồng lòng với nhau, thì ta chẳng tài gì chống nổi. Huống hồ ta đã thua Kim Luân pháp vương trong cuộc đấu nội lực, may cô cô chọc mũi châm ra, mới giúp ta đắc thắng. Các đạo sĩ phái Toàn Chân đồng tâm hiệp lực, nghe hiệu lệnh của Toàn Chân ngũ tử, võ công tuy không bằng bọn Kim Luân pháp vương, nhưng uy lực nhất trí sẽ rất hùng mạnh. Ta với cô cô ở bên nhau, cứ đánh đến khi nào kiệt sức thì cùng chết với nhau cũng được”.

Khưu Xứ Cơ cao giọng, nói:

– Dương Quá, ngươi luyện võ công đến bước này, bọn ta thua xa. Nhưng bọn ta hiện có mấy trăm người, ngươi tự thấy liệu có thoát nổi vòng vây hay không?

Dương Quá đưa mắt nhìn, bốn phía kiếm quang loang loáng, cứ bảy đạo sĩ hợp thành một nhóm, tầng tầng lớp lớp vây xung quanh chàng và Tiểu Long Nữ.

Mỗi nhóm bảy đạo sĩ liên kiếm hợp lực đủ sức đấu ngang ngửa với một đệ nhất cao thủ. Lúc này coi như chàng đang bị mấy chục đệ nhất cao thủ bao vây.

Dương Quá sớm đã không còn để tâm đến chuyện sống chết. Chàng hừ một tiếng, bước lên một bước, giơ kiếm đâm vào một nhóm bảy đạo sĩ. Bảy thanh kiếm đồng thời giơ ra chống đỡ, cạch cạch mấy tiếng, bảy thanh kiếm cùng gãy, bảy đạo sĩ cầm kiếm gãy vội dạt sang một bên.

Uy lực Huyền thiết trọng kiếm của Dương Quá hùng hậu như thế, Toàn Chân ngũ tử từng trải bao trận đấu lớn, cũng chưa từng thấy bao giờ. Vương Xứ Nhất hạ lệnh:

– Toàn Cơ, Dao Quang tấn công phía sau!

Dương Quá nghĩ: “Thây kệ các người hô hoán, ta cứ dựa vào uy lực của thần kiếm mà phá vây”, bèn ôm Tiểu Long Nữ tiến lên hai bước, thấy lại có bảy đạo sĩ ngăn chặn, chàng liền đưa kiếm phạt ngang. Bảy đạo sĩ này không giơ kiếm chống đỡ, mà vùn vụt đổi chỗ cho nhau, thân pháp cực nhanh, chính là trận pháp mà họ luyện tập đã quen, tuy nhiên vẫn có hai đạo sĩ bị kiếm lực đả thương, ngã lăn xuống đất.

Ngay lúc đó, mười bốn thanh trường kiếm đã chĩa tới sau lưng Dương Quá và Tiểu Long Nữ, bảy kiếm chĩa vào Dương Quá, bảy kiếm chĩa vào Tiểu Long Nữ.

Dương Quá nếu gạt Huyền thiết trọng kiếm ra sau lưng, tuy có thể đánh bật được nhiều thanh kiếm, nhưng chỉ cần có một thanh đâm Tiểu Long Nữ, nàng nhất định sẽ tử thương. Dương Quá đang do dự, thì lại thêm bảy thanh kiếm nữa chĩa vào bên phải Tiểu Long Nữ. Đến nước này, dù chàng có liều thí mạng mình, cũng không thể giải cứu được cho Tiểu Long Nữ.

Khưu Xứ Cơ giơ tay quát:

– Dừng lại!

Hai mươi mốt thanh kiếm loang loáng, mũi kiếm cách thân thể Dương, Long hai người chỉ vài tấc, đều dừng lại bất động. Khưu Xứ Cơ nói:

– Long cô nương, Dương Quá, sư tôn tiền bối của chúng ta vốn có uyên nguyên sâu xa. Giáo phái Toàn Chân ta hôm nay ỷ đông thủ thắng, chẳng vẻ vang gì, huống hồ Long cô nương đang bị trọng thương, cổ nhân có câu “Oan gia nên cởi, không nên buộc”, bây giờ xin mời hai vị trở về. Mối hiềm khích từng có, bất kể bên nào phải bên nào trái, từ nay coi như không còn nữa, được chăng?

Dương Quá và phái Toàn Chân vốn không có thâm cừu đại oán gì, năm xưa Tôn bà bà bị Hách Đại Thông lỡ tay giết chết, Hách Đại Thông rất hối hận, sẵn sàng đền mạng, việc ấy đã qua. Lần này chàng đến núi Chung Nam chỉ là để tìm Tiểu Long Nữ, hoàn toàn không có ý đối địch với phái Toàn Chân, nghe Khưu Xứ Cơ nói vậy, nghĩ bụng: “Cứu mạng cho cô cô hệ trọng hơn, thắng bại vinh nhục trong cuộc đấu với đám đạo sĩ này thì có gì đáng kể?” Chàng định lên tiếng trả lời, thì Tiểu Long Nữ thong thả đưa mắt từ trái qua phải, hỏi nhỏ:

– Doãn Chí Bình đâu?

Doãn Chí Bình lưng bị luân đập, ngực bị kiếm đâm, cả hai vết thương đều trí mạng, nhưng chưa chết, được các sư đệ đồng môn cứu chữa, hiện đang thoi thóp, lờ mờ chợt nghe tiếng gọi dịu dàng “Doãn Chí Bình đâu?” rất khẽ, song lại vang bên tai y như tiếng sấm. Cũng không biết làm thế nào y lại còn sức đứng dậy, bước vào giữa rừng kiếm, nói:

– Long cô nương, tại hạ đây!

Tiểu Long Nữ nhìn y giây lát, thấy đạo bào của y loang lổ máu tươi, mặt tái nhợt, thì bất giác không nghĩ gì hết, run giọng nói:

– Quá nhi, sự thanh bạch của thiếp đã bị người này làm hoen ố, dù thiếp có khỏe lại, cũng không thể chung sống với chàng. Nhưng… nhưng hắn đã xả thân cứu thiếp, chàng cũng đừng làm khó với hắn. Chẳng qua cái số thiếp không ra gì.

Điều vô cùng khó nói trong lòng, cuối cùng trước mặt bao nhiêu người, nàng vẫn đem nói thật ra.

Doãn Chí Bình nghe câu “hắn đã xả thân cứu thiếp, chàng cũng đừng làm khó với hắn. Chẳng qua cái số thiếp không ra gì”, thì lòng đau như dao cắt, nghĩ chỉ một khắc ham muốn mê muội, mình đã gây đại họa, vốn kính ngưỡng Tiểu Long Nữ như tiên nữ, lại làm cho nàng bất hạnh suốt đời, thật là chết trăm lần không hết tội, liền nói to:

– Sư phụ, bốn vị sư bá, sư thúc, đệ tử tội nghiệt thâm trọng, các vị xin chớ gây khó dễ cho Long cô nương và Dương Quá.

Nói đoạn y lao thẳng người vào chỗ tám chín mũi kiếm mà các đạo sĩ đang chĩa ra. Ba, bốn mũi kiếm đâm xuyên người y, làm cho y chết tức thì. Biến cố này đều bất ngờ với tất cả mọi người, ai nấy bất giác ồ lên kinh ngạc.

Các đạo nhân nghe câu nói của Tiểu Long Nữ, lại thấy Doãn Chí Bình nhận tội tự sát, xem ra hẳn là y không giữ thanh qui, đã hèn hạ làm nhục Tiểu Long Nữ.

Toàn Chân ngũ tử đều là các vị đạo sĩ đắc đạo, giới luật nghiêm cẩn, nghĩ sai phạm đã ở phía mình, thì đều vô cùng hổ thẹn, song cũng chưa biết nói tạ lỗi thế nào.

Khưu Xứ Cơ nhìn bốn vị sư huynh sư đệ, rồi quát:

– Giải tán kiếm trận!

Chỉ nghe soàn soạt bất tận, các đạo sĩ đều tra kiếm vào bao, dạt ra nhường đường.

Hồi 28: Động phòng hoa chúc

Dương Quá dùng ống tay áo rỗng bên phải quấn quanh eo lưng Tiểu Long Nữ, nói nhỏ:

– Cô cô! Chúng mình đi thôi!

Tiểu Long Nữ cười sung sướng, nói nhỏ:

– Bây giờ thiếp có chết ở bên chàng… trong lòng cũng rất sung sướng.

Chợt nhớ một việc, nói:

– Quách cô nương chém mất cánh tay của chàng, nàng ta sẽ không đối tốt với chàng. Thế thì rồi đây ai săn sóc chàng đây?

Nàng nghĩ đến đó, cảm thấy đau lòng, nói nhỏ:

– Chàng lênh đênh cô khổ một mình, chàng… không có ai bầu bạn…

Dương Quá thấy nàng sắp từ giã cõi đời, thực đau đớn muôn phần, bỗng nhớ lại: “Năm nọ trên núi Chung Nam, nàng từng hỏi ta có muốn lấy nàng làm vợ hay không, bấy giờ ta kinh ngạc không đáp, khiến sau đó xảy ra bao tai nạn khốn khổ. Hiện tại còn chẳng mấy thời gian, cần phải để nàng thấy rõ tâm ý của ta”. Bèn nói lớn:

– Danh phận sư đồ, danh tiết thanh bạch chẳng là cái quái gì hết! Chúng mình hãy vứt quách cả đi! Sống chết gì, cái số của hai ta cũng không sao, cũng không ai bị lênh đênh cô khổ một mình. Từ rày trở đi, nàng không còn là sư phụ của ta, không còn là cô cô của ta, mà là vợ của ta!

Tiểu Long Nữ sung sướng nhìn chàng, nói nhỏ:

– Chàng nói thật lòng đấy chứ? Không phải cố ý làm cho thiếp vui lòng mà chàng nói vậy phải không?

Dương Quá nói:

– Tất nhiên là thật lòng. Ta mất một cánh tay, nàng thương ta hơn, nàng gặp tai nạn gì, ta cũng chỉ thương nàng hơn.

Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Phải rồi, trên thế gian trừ hai chúng mình ra, chẳng có ai thương chúng ta cả.

Mấy trăm đạo sĩ cung Trùng Dương đều là những người xuất gia thanh tu, đột nhiên nghe những lời yêu thương âu yếm của hai người thì ai cũng khó chịu, người nhiều tuổi thì ngượng ngập, kẻ ít tuổi không tránh khỏi phàm tâm. Ai nấy nhìn nhau, bất giác đỏ mặt. Thanh tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị quát:

– Hai ngươi mau mau xuất cung cho rồi, cung Trùng Dương là nơi thanh tịnh, không phải là chỗ nói năng phi lễ!

Dương Quá coi như không nghe thấy, nhìn vào mắt Tiểu Long Nữ, nói:

– Năm xưa Trùng Dương tiên sư và tổ sư bà bà của phái Cổ Mộ ta lẽ ra nên kết thành phu phụ, chẳng biết vì theo thứ lễ giáo cổ quái gì, đến nỗi cả hai ôm hận mà chết. Hôm nay hai chúng mình trước bức họa Trùng Dương tổ sư sẽ bái đường thành thân, kết thành phu phụ, để cho tổ sư bà bà của phái ta bõ tức!

Đối với Vương Trùng Dương, chàng vốn không có thiện cảm, nhưng từ khi bắt đầu luyện tập võ công mà Vương Trùng Dương khắc trong tòa cổ mộ, càng luyện càng thán phục, cuối cùng đã mười phần sùng kính, có cảm giác như mình là truyền nhân của Vương Trùng Dương vậy. Tiểu Long Nữ thở dài, buồn bã nói:

– Quá nhi, chàng đối với thiếp tốt quá!

Năm xưa Vương Trùng Dương và Lâm Triêu Anh nặng tình với nhau, Toàn Chân ngũ tử đều biết, tuy họ kính ngưỡng sư phụ vung tuệ kiếm chặt tơ tình, quả là một trang anh hùng hảo hán, nhưng nghĩ một nữ nhân tuyệt thế, võ học uyên thâm như Lâm Triêu Anh, đang còn trẻ lại tự nhốt mình trong tòa cổ mộ suốt đời, thì ai cũng cảm thán. Lúc này Dương Quá nhắc đến chuyện đó, các đạo sĩ trẻ tuổi không hiểu nguyên do, thì không sao, còn những vị nhiều tuổi ai cũng chấn động trong lòng.

Tôn Bất Nhị nói:

– Tiên sư lấy đại trí tuệ, đại định lực xuất gia sáng giáo, người một phen khổ tâm đơn độc, kẻ hậu sinh như ngươi há biết được điều gì? Ngươi còn ở đây cả gan làm bừa nói bậy, đừng trách mũi kiếm của ta vô tình.

Tại anh hùng yến ở ải Đại Thắng, Dương Quá từng không nhận thanh kiếm mà Tôn Bất Nhị đưa cho mượn, khiến đạo cô quá ngượng. Bà ta tuy cũng tu luyện lâu năm, nhưng không độ lượng như Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, bậc tôn trưởng trong phái Toàn Chân như bà lại bị một gã thiếu niên thuộc hàng con cháu làm nhục, nên cứ để bụng mãi chuyện đó. Tôn Bất Nhị là nữ lại quần cư với chúng đạo sĩ, nên càng giữ nghiêm giới luật, nghe Dương Quá nói sẽ bái đường thành thân ở pháp địa trang nghiêm, trước tượng Trùng Dương tổ sư, mà trên dưới phái Toàn Chân đều coi như thánh địa, không ai dám mạo phạm, thì Tôn Bất Nhị nổi giận không kìm được, thấy Dương, Long hai người chẳng thèm nghe lời nói của bà, liền rút soạt thanh kiếm ra lần thứ hai. Dương Quá lạnh lùng nhìn Tôn Bất Nhị, nghĩ: “Một mình lão đạo cô thì không địch nổi ta, nhưng khi động thủ, bọn họ sẽ không tụ thủ bàng quan. Song ta không thể không lập tức thành thân với cô cô. Nếu không bái đường ngay tại đây, chờ ra khỏi cung Trùng Dương, vạn nhất cô cô vết thương quá nặng qua đời, chẳng hoá ra để nàng phải ôm hận mà chết hay sao? Bà chửi ta cả gan làm bừa nói bậy, ừ thì Dương Quá ta cả gan làm bừa nói bậy, vả lại cũng không phải hôm nay mới khởi đầu. Ta đã bảo sẽ bái đường thành thân trước bức họa Trùng Dương tổ sư, thì sẽ làm đúng như vậy”. Chàng đưa mắt tứ phía, thấy quá nửa số đạo sĩ đã lăm lăm tay kiếm, bèn nói:

– Tôn đạo trưởng, đạo trưởng nhất định buộc chúng tôi phải rời cung phải không?

Tôn Bất Nhị gằn giọng:

– Đi mau! Từ nay phái Toàn Chân và phái Cổ Mộ vĩnh viễn không còn quan hệ gì nữa, tốt nhất là đừng nhìn mặt nhau nữa!

Dương Quá thở dài, lắc đầu, quay mình, đi hai bước trên con đường mòn dẫn về phía tòa cổ mộ, thong thả khoác Huyền thiết trọng kiếm lên vai, đưa tay trái dìu Tiểu Long Nữ, ngầm ngưng khí đan điền, đột nhiên ngẩng đầu, cười một tràng dài, quần đạo nghe tiếng cười váng tai đều kinh ngạc.

Tiếng cười chưa dứt, Dương Quá bỗng buông Tiểu Long Nữ, nhảy vọt về phía sau, tay trái điểm nhanh hai huyệt Hội Tung và Chi Câu ở cổ tay phải của Tôn Bất Nhị. Tiểu Long Nữ không có chỗ tựa, lảo đảo chực ngã, Dương Quá đã kéo Tôn Bất Nhị tới sau lưng Tiểu Long Nữ cho nàng dựa vào. Dương Quá hành động nhanh hơn thỏ, quần đạo còn chưa chớp mắt, Tôn Bất Nhị đã bị chàng khống chế, không cựa quậy được. Khưu Xứ Cơ, Tôn Bất Nhị là những người từng gặp đại địch, vốn cũng đề phòng chàng đột nhiên xuất thủ, bắt người làm con tin, nhưng thấy chàng đã đeo kiếm lên vai, bước đi ra cổng, cánh tay độc nhất thì dìu Tiểu Long Nữ, đoán rằng chàng đã biết khó mà lui, nào ngờ chàng lại cười một tràng khiến ai nấy ngơ ngác, rối trí, rồi buông Tiểu Long Nữ mà bắt giữ Tôn Bất Nhị trong nháy mắt. Quần đạo hô hoán, nhất tề chĩa kiếm ra, nhưng Tôn Bất Nhị đã nằm trong tay đối phương, còn ai dám xông lên tấn công?

Dương Quá nói:

– Tôn đạo trưởng, đành phải đắc tội, xong xuôi sẽ chịu tội sau.

Chàng cầm cổ tay Tôn Bất Nhị kéo đi, cùng Tiểu Long Nữ thong thả bước vào hậu điện của cung Trùng Dương. Quần đạo theo sau, hết sức tức giận, nhưng không có cách gì đối phó.

Dương, Long hai người kèm Tôn Bất Nhị đi qua cửa hông, hành lang, vào đến hậu điện. Chàng ngoảnh lại, nói to:

– Mời các vị hãy ở bên ngoài, không ai được vào bên trong. Hai chúng tôi đã quyết liều chết, nếu động thủ, hai chúng tôi sẽ cùng chết với Tôn đạo trưởng.

Vương Xứ Nhất hỏi nhỏ:

– Khưu sư ca, làm thế nào?

Khưu Xứ Cơ đáp:

– Tạm thời bất động, tùy cơ hành sự. Xem chừng hắn cũng không dám sát hại Tôn sư muội đâu.

Mấy lão đạo nhân cả đời tung hoành giang hồ, uy danh lừng lẫy, không ngờ cuối đời lại bị một gã thiếu niên vô đạo khống chế, nghĩ thật giận, nhưng cũng tức cười.

Dương Quá kéo một cái bồ đoàn, ấn Tôn Bất Nhị ngồi xuống, nói:

– Xin lỗi!

Chàng điểm hai huyệt Đại Chùy và Thần Đường ở sau lưng để bà ta không thể cử động, thấy quần đạo y lời ở cả bên ngoài, không dám xông vào, bèn kéo Tiểu Long Nữ đứng sánh vai nhau trước bức họa Trùng Dương tổ sư.

Vị đạo sĩ trong bức họa tay chĩa kiếm, phong thái hào sảng, trạc ba mươi tuổi, bên cạnh bức họa đề ba chữ “Hoạt tử nhân”. Bức họa chỉ đơn sơ vài nét, nhưng người trong bức họa anh khí ngời ngời, phiêu dật tuyệt luân. Dương Quá hồi nhỏ từng học nghệ ở cung Trùng Dương đã quen nhìn bức họa này, sớm biết là chân dung tổ sư gia, bây giờ chợt nhớ, trong tòa cổ mộ cũng có một bức họa Vương Trùng Dương, nhưng là nhìn từ sau lưng, hai bức họa bút pháp giống nhau, chàng nói:

– Bức họa này cũng là thủ bút của tổ sư bà bà.

Tiểu Long Nữ gật đầu, âu yếm mỉm cười với chàng, nói nhỏ:

– Hai ta bái đường thành thân trước bức họa Trùng Dương tổ sư, mà bức họa này chính do tổ sư bà bà vẽ, thật là quá hay.

Dương Quá dùng chân hất hai cái bồ đoàn song song phía trước bức họa, nói to:

– Đệ tử Dương Quá và đệ tử họ Long hôm nay kết thành phu phụ trước Trùng Dương tổ sư, có mấy trăm vị đạo trưởng phái Toàn Chân ở đây chứng kiến.

Nói đoạn quì xuống cái bồ đoàn, thấy Tiểu Long Nữ vẫn đứng không quì, chàng hỏi:

– Hai ta bái đường thành thân, nàng cùng quì xuống đi!

Tiểu Long Nữ trầm ngâm, mắt đỏ hoe, lệ lưng tròng, Dương Quá dịu dàng nói:

– Nàng thấy thế nào? Ở đây không được hay sao?

Tiểu Long Nữ đáp, giọng run run:

– Không, không phải vậy!

Ngừng giây lát, nàng nói tiếp:

– Thiếp đã không còn thanh bạch, lại sắp chết, chàng hà tất… chàng hà tất đối tốt với thiếp như thế.

Nói đến đó, nước mắt lăn dài trên má. Dương Quá đứng dậy, dùng tay áo lau nước mắt cho nàng, cười nói:

– Nàng không lẽ chưa rõ lòng ta?

Tiểu Long Nữ ngẩng nhìn chàng, nghe chàng dịu dàng nói:

– Ta muốn rằng hai đứa mình được sống với nhau cả trăm năm, để ta có dịp đối xử tốt với nàng, báo đáp ân tình của nàng. Nếu không được thế, ông trời chỉ cho hai đứa mình sống một ngày, hai đứa mình làm vợ chồng một ngày, chỉ cho hai đứa mình sống một giờ, hai đứa mình sẽ làm vợ chồng một giờ.

Tiểu Long Nữ thấy chàng vẻ mặt thành thực, ánh mắt thâm tình vô hạn, thì xúc động không biết phải yêu thương chàng đến mức nào cho đáng, vẻ mặt đang buồn bã dần dần trở nên vui sướng, nước mắt chưa khô, thần sắc đã hoan hỉ vô hạn, nàng thong thả quì xuống cái bồ đoàn.

Dương Quá quì xuống theo. Hai người cùng lạy bức họa, nghĩ: “Hai đứa mình tuy một đời cô khổ, nhưng được như hôm nay đã là duyên phúc cực dày. Nỗi phiền não quá khứ, sự đoản mệnh nay mai, đều không đáng kể nữa”. Hai người nhìn nhau mỉm cười, dập đầu xuống cái bồ đoàn.

Dương Quá nói:

– Đệ tử Dương Quá và đệ tử họ Long thật lòng tương ái, thủy chung như nhất, nguyện đời đời kiếp kiếp kết thành phu phụ.

Tiểu Long Nữ cũng khấn nhỏ:

– Xin tổ sư gia phù hộ độ trì, cho hai chúng con được đời đời kiếp kiếp kết thành phu phụ.

Tôn Bất Nhị ngồi trên cái bồ đoàn, tuy không cử động được, nhưng hai người nói năng và sắc diện thế nào đều nghe và nhìn rõ, thấy họ quang minh lỗi lạc, việc làm của họ tuy không khuôn theo lễ giáo, nhưng là chí tính chí tình, thì bất giác nhớ đến tình cảnh lúc trẻ thành hôn bất thành với Mã Ngọc. Sắc mặt vốn đầy giận dữ của bà đã trở nên hiền hòa khi Dương, Long hai người giao bái xong đứng dậy.

Dương Quá nghĩ: “Hiện giờ hai đứa mình đã kết thành phu phụ, dù phải chết ngay, thì cũng mãn nguyện”.

Chàng không còn lo đề phòng quần đạo xông vào ngăn cản nữa, chàng nhìn Tiểu Long Nữ, cười, nói:

– Quá nhi là đệ tử phản nghịch của phái Toàn Chân, cả võ lâm ai cũng biết, nàng cũng là một đại phản đồ đấy.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng vậy! Sư phụ không cho phép thiếp thu nhận nam đệ tử, càng không cho lấy chồng, thiếp chẳng tuân thủ điều nào cả. Hai đứa mình tội nặng lắm đó.

Dương Quá nói to:

– Đã phản thì phản đến cùng. Vương tổ sư và tổ sư bà bà anh hùng hào kiệt gấp trăm lần hai ta, song họ không dám thành thân. Hai vị ấy dưới hoàng tuyền có biết, chưa chắc đã bảo hai ta làm thế này là sai đâu!

Chàng nói câu ấy với vẻ mặt hăng hái, đầy cảm khái. Đúng lúc ấy, trên nóc điện nghe sầm một tiếng, ngói bay tứ tung, xà nhà gãy sập, thanh thế kinh hồn, mái điện thủng toang một lỗ, và một cái chuông lớn rơi úp thẳng xuống chỗ Tôn Bất Nhị.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ ngang nhiên bái đường thành thân trong hậu điện, phái Toàn Chân trên dưới ai cũng phẫn nộ. Lưu Xứ Huyền ngẫm nghĩ một hồi, ghé tai nói nhỏ với Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất và Hách Đại Thông. Ba người kia gật đầu, quay ra khe khẽ dặn dò môn hạ đệ tử vài câu, rồi thừa lúc Dương, Long hai người đang quì bên trong, họ ra tiền điện khiêng vào một quả chuông đồng nặng ngàn cân, bốn người hè nhau phi thân lên nóc điện, ngắm chuẩn phương vị, dộng thẳng quả chuông cho rơi xuống chụp Tôn Bất Nhị vào bên trong quả chuông. Bốn vị đạo nhân võ công cao cường, quả chuông tuy nặng, nhưng chụp xuống không sai một li, khi Tôn Bất Nhị đã nằm gọn trong lòng quả chuông, quần đạo sẽ tràn vào, Dương, Long hai người tất sẽ phải khoanh tay chịu trói.

Dương Quá thấy quả chuông rơi xuống, đã biết dụng ý, lập tức dùng Huyền thiết trọng kiếm thúc vào quả chuông một cái, nghe “boong” một tiếng rền rĩ. Quả chuông tuy nặng ngàn cân, song cú thúc của Huyền thiết trọng kiếm cực mạnh, lại từ bên cạnh thúc tới, khiến quả chuông bay chệch về phía trước hai thước, nếu rơi thẳng xuống, sẽ đè bẹp Tôn Bất Nhị.

Bốn đạo nhân đứng trên nóc điện nhìn qua lỗ thủng thấy rõ bên dưới, cùng rú lên kinh hãi, không thể ngờ thanh kiếm của Dương Quá có thần lực đến thế, nhìn Tôn Bất Nhị sắp thịt nát xương tan, bị quả chuông đồng đè lên người mà chết thảm. Lưu Xứ Huyền nhắm mắt lại, không dám nhìn, bỗng nghe Khưu Xứ Cơ reo mừng:

– Đa tạ thủ hạ lưu tình!

Lưu Xứ Huyền mở mắt ra, lấy làm lạ, thấy quả chuông đã úp toàn thân Tôn Bất Nhị ở bên trong, quanh mép chuông không hề có vết tích chân tay máu me hoặc quần áo gì.

Nguyên Dương Quá thấy quả chuông lớn bị kiếm thúc bay chệch, sẽ đè nát Tôn Bất Nhị, thì nghĩ: “Hôm nay là ngày đại hỉ của vợ chồng ta, không thể để có người tử thương. Lão đạo cô này tính nết khó chịu, song chưa đến nỗi tàn ác”, bèn phất ống tay áo rỗng, đẩy Tôn Bất Nhị cùng cái bồ đoàn tới ngồi gọn trong lòng quả chuông sắp ụp xuống.

Bốn đạo nhân trên nóc điện vừa kinh hãi vừa vui mừng, đều thấy không nên coi Dương Quá là thù địch nữa, nhưng môn hạ đệ tử của họ đã nghe dặn trước, chờ khi quả chuông rơi xuống, sẽ lập tức tràn vào. Bọn họ ở bên ngoài không nhìn thấy biến hóa bên trong, chỉ nghe tiếng ầm, ngói bay tung toé, ai nấy liền cầm kiếm hò reo xông vào.

Dương Quá đeo Huyền thiết trọng kiếm sau lưng, ôm Tiểu Long Nữ nhảy ra sau điện.

Khưu Xứ Cơ kêu to:

– Chúng đệ tử cẩn thận, không được đả thương hai người ấy!

Giọng vang to, tuy giữa tiếng hò reo của mấy trăm người, nghe vẫn rất rõ. Quần đạo đuổi theo ra sau điện, hò hét:

– Bắt lấy tên tiểu tặc phản giáo!

– Tên tiểu tặc làm hoen ố di ảnh của tổ sư gia, chớ để hắn chạy thoát!

– Mau mau chặn phía đông, hai đứa chạy về phía đó!

– Trường Xuân chân nhân phân phó, không được đả thương hai người ấy!

Lưu Xứ Huyền trước khi nhảy lên nóc điện, đã bố trí hai mươi mốt đạo sĩ mai phục phía sau điện. Dương Quá vừa chạy ra cửa ngách, thấy kiếm quang loang loáng, biết có kẻ ngăn chặn, nghĩ: “Chi bằng thoát ra theo lỗ thủng ở nóc điện, trên mái tuy có bốn cao thủ, song họ sẽ không hạ độc thủ với ta”, bèn ôm Tiểu Long Nữ chạy trở vào trong điện. Tiểu Long Nữ hai tay ôm cổ chàng, dịu dàng nói:

– Chúng mình đã thành phu phụ, thế là mãn nguyện rồi. Thoát vây thì tốt, không thoát vây cũng chẳng sao.

Dương Quá nói:

– Đúng thế!

Hai chân chàng tung cú đá uyên ương liên hoàn, hai đạo sĩ văng ra khỏi điện. Trong điện không rộng như bên ngoài, không thể thi triển Bắc đẩu trận pháp, nhưng Dương Quá tay trái phải ôm Tiểu Long Nữ, chỉ có thể tung chân đá, không thể vượt vòng vây, thầm hận: “Giá ta còn đủ hai tay, các người cản sao nổi ta?”

Bịch một tiếng, lại có một đạo sĩ bị chàng đá văng ra, đụng vào hai kẻ khác.

Đang rối loạn, bỗng từ ngoài điện có một bạch phát lão nhân chạy vào, kéo theo một đàn ong mật, chính là Lão Ngoan đồng Chu Bá Thông. Trong hậu điện đang rối loạn, thêm một người là Chu Bá Thông, chúng đệ tử nhất thời cũng không để ý, nhưng đàn ong bay vào lập tức đốt lung tung cả lên. Đàn ong này không phải loài ong thông thường, mà là loài ngọc phong do Tiểu Long Nữ nuôi dưỡng ở tòa cổ mộ. Các đạo sĩ bị ong đốt tức thời đau ngứa khó chịu, có người lăn lộn dưới đất, càng tăng thêm cảnh hỗn loạn.

Chu Bá Thông vốn định tới thành Tương Dương giúp Quách Tĩnh, nhưng sau khi lấy trộm lọ mật ong của Tiểu Long Nữ, lão sợ gặp lại nàng, lão không đến thành Tương Dương nữa, bèn đến núi Chung Nam, muốn tìm Triệu Chí Kính hỏi cho ra lẽ, vì sao hắn cả gan đẩy sư thúc tổ vào chốn thập tử nhất sinh. Dọc đường lão dùng mật ngọc phong đùa giỡn với bầy ong mật, tìm ra vài cách điều khiển lũ ong, thì không sao, nhưng đến núi Chung Nam thì lập tức gặp họa. Loài ong ngọc phong trên núi Chung Nam ngửi thấy mùi thơm của mật ngọc phong, tức thì lũ lượt bu tới. Chúng chỉ quen với thủ pháp và tiếng điều khiển của Tiểu Long Nữ, còn với Lão Ngoan đồng dĩ nhiên chúng đã không tuân theo, còn không buông tha lão. Lão Ngoan đồng thấy tình thế bất ổn, đành ôm đầu chạy vào cung Trùng Dương, tìm chỗ kín đáo để tránh bầy ong, vừa hay trong cung đang náo nhiệt và hỗn loạn. Lão Ngoan đồng thấy Tiểu Long Nữ và Dương Quá ở trong điện thì kinh ngạc và mừng rỡ, vội ném lọ mật ong trả Tiểu Long Nữ, nói:

– Lão chịu! Không biết cách hầu hạ các bà ong mật quỷ quái này, cô nương mau cứu lão với.

Dương Quá phẩy ống tay áo cuốn lấy cái lọ, Tiểu Long Nữ mỉm cười giơ tay nhận lại.

Lúc này đàn ong bay tứ tung, bọn Khưu Xứ Cơ từ trên nóc điện nhảy xuống hành lễ với vị sư thúc.

Hách Đại Thông kêu to:

– Mau đốt đuốc mang lại đây!

Quần đạo có người dùng ống tay áo che mặt, có người vung kiếm đuổi ong, có người vâng lệnh chạy đi đốt đuốc. Lão Ngoan đồng cũng chẳng buồn để ý đến bọn Khưu Xứ Cơ, trán lão bị ong đốt hai chỗ, đã sưng u lên hai cục, chỉ mong tìm được một chỗ kín chui vào tránh ong. Lão thấy có một quả chuông lớn úp dưới đất thì cả mừng, vội vận lực lật nghiêng quả chuông lên, thấy bên trong có người. Lão cũng chẳng kịp nhìn kỹ là ai, rối rít nói:

– Cảm phiền cảm phiền, mau nhường cho ta.

Lão kéo Tôn Bất Nhị ra khỏi quả chuông, tự chui vào vừa buông tay, quả chuông lại sập xuống như cũ, lão đắc ý lắm: “Bọn ong chúng bay có ngàn con vạn con, cũng chẳng thể đốt Lão Ngoan đồng này cái nào nữa đâu”.

Dương Quá nói nhỏ:

– Nàng hãy chỉ huy đàn ong giúp hai ta thoát khỏi chốn này!

Tiểu Long Nữ là vợ chàng, nghe lời chàng ngụ ý ra lệnh, thì cảm thấy sung sướng dễ chịu, nghĩ: “Hay quá, cuối cùng chàng không coi mình như sư phụ nữa, đúng là coi mình như một người vợ rồi!”, bèn đáp:

– Vâng!

Giọng nói hết sức nhu mì ngoan ngoãn. Nàng cầm lọ mật ong huơ huơ vài lần, miệng huýt gió mấy tiếng, lũ ngọc phong nhận ra chủ nhân, thoáng chốc đã tụ tập thành đàn, Tiểu Long Nữ liên tục huơ huơ lọ và huýt gió, đàn ong chia thành hai đội, một đội bay trước mở đường, một đội chặn hậu, hộ vệ Dương, Long hai người rút ra phía sau điện.

Sự xuất hiện bất ngờ của Chu Bá Thông khiến bọn Khưu Xứ Cơ vừa vui mừng vừa buồn cười, thấy Dương, Long hai người chạy ra phía sau điện, bèn quát các môn hạ khỏi cần đuổi theo. Vương Xứ Nhất giải huyệt cho Tôn Bất Nhị, Khưu Xứ Cơ thì tới lật nghiêng quả chuông. Chu Bá Thông nấp bên trong, không biết tình hình bên ngoài, thấy quả chuông bị lật, bèn dùng tay níu lại, quát:

– Buông xuống!

Khưu Xứ Cơ nội lực không thâm hậu bằng Chu Bá Thông, đã đẩy mép chuông lên cách mặt đất nửa thước, “hịch” một tiếng, quả chuông lại úp xuống. Khưu Xứ Cơ cười, nói:

– Chu sư thúc thích đùa thật, nào, bọn ta cùng nhấc lên xem!

Thế là Khưu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền và Hách Đại Thông bốn người cùng hè nhau nhấc bổng quả chuông lên cách mặt đất chừng ba thước, song bên dưới không thấy có ai, Chu Bá Thông chẳng hiểu biến đi đằng nào. Bốn người đang ồ lên sững sờ, thì một bóng người tụt xuống, Chu Bá Thông đã cười ha hả đứng bên quả chuông. Nguyên vừa rồi lão dùng hai tay đẩy vào thành quả chuông mà đu người bên trong, nên được nhấc lên theo cùng quả chuông.

Bọn Khưu Xứ Cơ lại hành lễ. Chu Bá Thông xua tay lia lịa, nói:

– Thôi miễn, thôi miễn, các hài nhi ngoan hãy bình thân, ta miễn lễ cho.

Toàn Chân ngũ tử đều đã râu tóc bạc phơ cả, song Chu Bá Thông vẫn gọi họ là “các hài nhi ngoan”.

Chu Bá Thông thấy Triệu Chí Kính đang nem nép định lủi đi, bèn quát to, vọt tới tóm cổ hắn, nói:

– Thằng giặc mũi trâu này, mi định lẩn đi đâu?

Tay trái đẩy nghiêng mép quả chuông lên cao hai thước, tay phải lão ấn Triệu Chí Kính vào trong lòng quả chuông, rồi buông tay trái, quả chuông úp hắn lại, miệng lão cứ lẩm bẩm chửi thằng giặc mũi trâu, cũng tức là chửi toàn bộ bọn đồ tử đồ tôn của Vương Trùng Dương. Bọn Khưu Xứ Cơ biết tính vị sư thúc, nên cũng không giận. Vương Xứ Nhất nói:

– Sư thúc, không biết Triệu Chí Kính đắc tội gì với sư thúc? Đệ tử tất phải trừng phạt hắn.

Chu Bá Thông nói:

– Thằng giặc mũi trâu đã dẫn ta đến một cái hang lấy trộm vương kỳ, nhưng trong đó lại giấu lũ nhện xanh xanh đỏ đỏ cực độc, may nhờ tiểu cô nương, ô hay, tiểu cô nương đâu rồi? Đàn ong đâu rồi?

Lão Ngoan đồng nói chuyện nọ xọ chuyện kia, khiến Toàn Chân ngũ tử không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, chỉ thấy lão ngó nghiêng tìm Tiểu Long Nữ.

Lúc ấy mười mấy đệ tử chạy tới bẩm cáo, rằng Dương, Long hai người đã rút lên lầu của Tàng kinh các ở núi sau, chúng đệ tử không dám dùng đuốc đuổi ong, sợ thiêu hủy mất đạo tàng. Bọn Khưu Xứ Cơ cả kinh, Tàng kinh các là trọng địa của phái Toàn Chân, đạo tàng mấy đời, các trước tác của Vương Trùng Dương và Toàn Chân thất tử cùng mọi văn quyển cơ mật trong giáo phái đều cất giữ ở Tàng kinh các, nếu có chuyện gì, tổn thất thật không nhỏ. Khưu Xứ Cơ nói:

– Chúng ta tới đó mau. Dương Quá thủ hạ lưu tình, đã không đả thương Tôn sư muội, ta nên đổi thù thành bạn.

Tôn Bất Nhị nói:

– Đúng lắm!

Thế là cả bọn cùng kéo đến Tàng kinh các. Vương Xứ Nhất thấy đệ tử số một của mình là Triệu Chí Kính bị Chu Bá Thông nhốt trong quả chuông, nghĩ: “Chu sư thúc hành sự hồ đồ, Triệu Chí Kính chưa chắc đã sai, để khi trở lại xem xét kỹ mới được”.

Sợ Triệu Chí Kính ở bên trong quả chuông bí hơi mà chết, bèn ráng sức đẩy nghiêng mép chuông lên vài tấc, dùng chân hẩy một hòn gạch kê mép chuông cho có kẽ hở thông gió, rồi mới chạy theo sau.

Đến trước Tàng kinh các, chỉ thấy mấy trăm đệ tử đang hò hét, nhưng không một ai dám lên lầu.

Khưu Xứ Cơ gọi to:

– Dương, Long hai vị, lỗi lầm trước đây của chúng tôi, hai vị có thể bỏ qua, đôi bên trở thành bằng hữu được chăng?

Không có tiếng trả lời, trên lầu không động tĩnh gì. Khưu Xứ Cơ lại nói:

– Long cô nương bị thương, xin mời xuống đây chúng ta cùng tìm cách cứu chữa. Môn hạ đệ tử tệ giáo quyết không dám vô lễ với hai vị. Khưu mỗ hành tẩu giang hồ mấy chục năm, chưa bao giờ nói không giữ lời.

Một lát sau vẫn không có tiếng trả lời.

Lưu Xứ Huyền nói:

– Họ đã đi khỏi từ lâu rồi!

Khưu Xứ Cơ hỏi:

– Sao biết?

Lưu Xứ Huyền nói:

– Nhìn bầy ong coi, chúng đã tản đi tứ phía, hút mật các bụi hoa.

Đoạn cầm lấy một bó đuốc từ tay đệ tử, chạy lên lầu.

Bọn Khưu Xứ Cơ lên theo, quả nhiên thấy trên lầu chỉ có các giá sách la liệt, không một bóng người, trên án thư có để lọ mật ong. Chu Bá Thông như thấy của quí, vọt tới cầm lấy đút luôn vào túi. Mọi người kiểm tra trước sau mọi chỗ, thấy sách còn nguyên cả, nhưng có một đống sách để dưới sàn, chiếc hòm to đựng số sách ấy đã không thấy đâu nữa. Bỗng nghe Hách Đại Thông nói to:

– Họ thoát đi theo ngả này!

Mọi người ra phía sau lầu, thấy trên cột gỗ có buộc một sợi dây, đầu dây bên kia móc vào một thân cây trên vách núi đối diện, vắt qua một cái khe sâu là dòng suối. Từ đây không hề có lối đi, không ngờ Dương Quá lại có thể dùng sợi dây mà ôm Tiểu Long Nữ vượt qua khe sâu thoát đi.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ bái đường thành thân trong hậu điện cung Trùng Dương, phái Toàn Chân trên dưới đều cảm thấy mất hết cả uy phong, nhưng lúc này thấy hai người đã thoát đi yên lành, thì Toàn Chân ngũ tử nhìn nhau cười khổ, cũng thấy nhẹ người. Tôn Bất Nhị vốn căm giận nhất, song sau khi chứng kiến hai người tình ý chân thành tha thiết, Dương Quá lại cứu sống bà trong đường tơ kẽ tóc, thì bà bất giác cũng mừng cho họ, nên im lặng không nói gì. Toàn Chân ngũ tử và Chu Bá Thông trở lại đại điện, hỏi rõ nguyên do chuyện sắc phong của đại hãn Mông Cổ, chuyện tranh đấu giữa Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính, chuyện Tiểu Long Nữ đột nhiên đến đây. Lý Chí Thường và Tống Đức Phương cứ thực bẩm cáo. Khưu Xứ Cơ ứa nước mắt, nói:

– Chí Bình làm mất sự trinh bạch của người ta, quả là tội lớn, nhưng hắn bảo toàn sự trung nghĩa của giáo phái ta, thà chết không đầu hàng Mông Cổ, đúng là đại công.

Vương Xứ Nhất nói:

– Doãn Chí Bình tội không che lấp công, tiểu tiết có sai phạm, nhưng đại nghĩa rõ ràng, chúng ta vẫn công nhận hắn là chưởng giáo chân nhân.

Lưu Xứ Huyền, Hách Đại Thông cùng khen phải.

Khưu Xứ Cơ lại nói:

– Nếu không nhờ Long cô nương kịp đến ngăn chặn địch nhân, thì giáo phái chúng ta đã bị hủy diệt. Long cô nương thực là đại ân nhân của giáo phái chúng ta,từ nay chẳng những không được vô lễ với phu phụ họ, mà còn phải tìm cách báo đáp. Chúng ta đã lỡ tay đả thương Long cô nương, không biết… không biết…

Nghĩ Tiểu Long Nữ bị trọng thương khó chữa, tự thấy vô cùng ân hận.

Trong lúc Toàn Chân ngũ tử truy vấn tiền sự, Chu Bá Thông chẳng buồn quan tâm, cứ mân mê trên tay lọ mật ong, mấy lần lão còn định mở nút lọ nhử ong ngọc phong, song lại sợ nhử đến thì dễ, đuổi đi lại không nổi. Lúc ấy một đệ tử vào bẩm cáo, có năm người bị ong đốt đang đau ngứa ghê gớm, thỉnh sư trưởng thiết pháp. Hách Đại Thông nhớ chuyện năm nọ Tôn bà bà xông vào cung tặng lọ mật ong, bèn nói:

– Lọ mật ong này chính là Long cô nương để lại cho chúng ta trị thương. Sư thúc, xin sư thúc đưa lọ mật ong cho năm đồ tôn uống.

Chu Bá Thông giơ hai tay không ra, nói:

– Không biết tự dưng lọ mật ong biến đi đâu mất rồi.

Hách Đại Thông rõ ràng thấy vị sư thúc vừa cầm lọ mật ong mân mê chán trên tay, tại sao lão lại bảo tự dưng lọ mật ong biến đi đâu mất, tất là lão không muốn giao ra. Lão là bề trên, không tiện nói lẽ thiệt hơn với lão. Chu Bá Thông giữ ống tay áo phẩy phẩy, vỗ vỗ toàn thân mấy cái, nói:

– Ta không giấu nó trong người đâu, ngươi chớ có nghi cho ta. Có phải ngươi muốn ta cởi hết áo quần cho các ngươi coi thì bảo?

Nguyên Lão Ngoan đồng rất ham chơi, cái tính ham đùa nghịch bất kể khinh trọng hoãn cấp ấy đến già vẫn không sửa được, lão cho rằng mấy gã đạo sĩ bị ong đốt cùng lắm đau ngứa vài hôm ắt khỏi, chẳng mất mạng mà lo, thứ mật ong quí hiếm này lão không thể cho đi được. Vì thế, Hách Đại Thông vừa mở miệng xin, lão bèn hất lọ mật ong vào trong ống tay áo, cho lăn qua ngực xuống bụng, thót bụng lại cho lọ mật ong lăn xuống ống quần mà rơi nhẹ xuống đất. Lão nội công thâm hậu, bắp cơ toàn thân co giãn như ý, đưa lọ mật ong lăn xuống đất mà không phát ra tiếng động gì.

Vương Xứ Nhất nghĩ bụng: “Sư thúc đã không chịu đưa ra, thì cứ đợi lúc nào vắng người, lấy ra nghịch, sẽ bất ngờ tiến lại xin, sư thúc sẽ không thể thoái thác. Chỉ cần mọi người đi chỗ khác, sư thúc sẽ lấy lọ mật ong đùa nghịch. Bây giờ hãy xử trí tên nghịch đồ Triệu Chí Kính. Nếu Doãn Chí Bình không bất khuất thà chết, thanh danh mấy chục năm của bản giáo đã bị Triệu Chí Kính hủy hoại mất rồi”. Nghĩ đến đây, Vương Xứ Nhất nói:

– Hách sư đệ, việc trị thương để sau. Chúng ta phải phán xử tên nghịch đồ Triệu Chí Kính trước đã!

Toàn Chân ngũ tử tương giao mấy chục năm, sư huynh đệ đều biết Vương Xứ Nhất chính trực vô tư, Triệu Chí Kính tuy là đệ tử số một của Vương Xứ Nhất, nhưng phạm đại tội phản giáo, Vương Xứ Nhất quyết không bao che cho hắn. Mọi người đều nghĩ: “Tên nghịch đồ mãi giáo cầu vinh, ám hại đồng môn, quyết không thể tha”.

Bỗng nghe từ dưới mép quả chuông vọng ra giọng nói yếu ớt:

– Chu sư thúc tổ, nếu sư thúc tổ cứu mạng đệ tử, đệ tử sẽ trả lọ mật ong cho sư thúc tổ, bằng không, đệ tử sẽ uống hết luôn! Đằng nào đệ tử cũng chết cả.

Chu Bá Thông giật mình, lùi ra một bước, quả nhiên lọ mật ong đã biến mất. Nguyên lão đứng bên quả chuông, Triệu Chí Kính ngồi trong chuông, lọ mật ong nhỏ lăn xuống đúng trước mắt hắn, nghe Hách Đại Thông xin Chu Bá Thông mật ong, hắn bèn thò tay qua khe hở dưới mép chuông mà lấy lọ mật ong. Hắn muốn dùng lọ mật ong đổi lấy mạng sống, tự biết chỉ là vọng tưởng, nhưng trong cơn tuyệt vọng, có chút sinh cơ nào thì cố bám lấy. Chu Bá Thông nghe hắn nói thế, vội gọi:

– Ê này, ngươi chớ có uống mật ong đấy! Các chuyện khác, có thể thương lượng.

Triệu Chí Kính nói:

– Vậy sư thúc tổ phải đáp ứng cứu mạng đệ tử.

Toàn Chân ngũ tử giật mình, chỉ lo lỡ Chu Bá Thông đáp ứng, sẽ không thể xử trí Triệu Chí Kính.

Khưu Xứ Cơ vội nói:

– Sư thúc, kẻ đó tội rất nặng, không thể dung tha.

Chu Bá Thông cúi sát đất, nói vào trong chuông:

– Này này, nhất thiết không được uống mật ong đâu đấy!

Lưu Xứ Huyền nói:

– Sư thúc, thây kệ hắn! Sư thúc cần mật ong thì hoàn toàn không khó. Hôm nay chúng ta đã xóa bỏ thù oán với Long cô nương, đợi chút ít có thể sang bên tòa cổ mộ xin vài lọ. Long cô nương đã biếu sư thúc một lọ, thì cũng sẽ cho sư thúc mươi lọ được thôi.

Chu Bá Thông lắc đầu nói:

– Chưa chắc, chưa chắc!

Lão nghĩ: “Ngươi tưởng lọ mật ong là do Long cô nương biếu ta ư? Là ta từng lấy trộm đấy. Lúc rời Tàng kinh các, Long cô nương vội quá, không kịp mang đi lọ này. Nếu sang xin, chắc gì con bé ấy đã cho, dù có cho, các ngươi đem dùng làm thuốc giải độc, đâu còn phần cho ta kia chứ”.

Chỉ nghe có tiếng vo ve rất nhỏ, năm sáu con ong ở ngoài sân bay vào hậu điện, cửa điện không mở, chúng cứ vo ve tìm lối vào. Chu Bá Thông chợt nảy ra một kế, nói:

– Triệu Chí Kính, lọ mật ong mi đang cầm chưa chắc đã là mật ong thật.

Triệu Chí Kính vội nói:

– Là thật, thật mà!

Chu Bá Thông nói:

-Được! Vậy mi thử mở nút lọ cho ta ngửi xem sao đã. Nếu không đúng, khỏi cần nhiều lời.

Triệu Chí Kính vội mở nút lọ, nói:

– Sư thúc tổ ngửi đi, sao lại không thật kia chứ?

Chu Bá Thông hít rất sâu, nói:

– Ồ, ồ, hình như không phải để ta ngửi thêm đã.

Triệu Chí Kính hai tay giữ chặt lọ mật ong, chỉ lo Chu Bá Thông nghiêng quá chuông, giật lại mất, miệng nói:

– Sư thúc tổ thấy mùi thơm ngọt hay chưa?

Mật ngọc phong quả thơm ngon vô tỉ, nút lọ vừa mở, mùi thơm trong điện đã ngào ngạt. Chu Bá Thông khịt khịt mũi, nói đùa:

– Ta bị trúng gió ngạt mũi, chả ngửi thấy gì cả!

Vừa nói vừa quay ra nháy mắt với bọn Khưu Xứ Cơ, Triệu Chí Kính cũng đoán là lão tính kế hoãn binh, bèn nói:

– Sư thúc tổ mà lật quả chuông, đệ tử sẽ uống hết chỗ mật này ngay.

Lúc này bầy ong đã đánh hơi mùi mật, bay tới bên mép quả chuông. Chu Bá Thông phẩy tay áo, nói:

– Vào trong mà đốt nó!

Con ong không chắc nghe lệnh của lão, mà chỉ vì ngửi thấy mùi mật thơm, quả nhiên bay vù qua khe hở vào trong quả chuông. Chỉ nghe Triệu Chí Kính kêu rú lên, “cạch” một tiếng, từ trong quả chuông mùi mật ong tỏa ra nồng đượm, thì ra ong đã đốt Triệu Chí Kính, hắn buông rơi lọ mật vỡ tan. Chu Bá Thông cả giận, quát:

– Tên mũi trâu hậu đậu, có cái lọ mật cỏn con cũng cầm không chắc.

Lão đang định bước tới lật quả chuông, thì bầy ong ngọc phong ngửi thấy mùi mật nồng đượm lũ lượt bay vào trong chuông. Chu Bá Thông từng bị khổ vì lũ ong này, nên lão không dám lại gần. Ong chui vào nhiều, Triệu Chí Kính ở bên trong người dính mật, phải bị ong đốt hàng trăm cái. Mọi người ban đầu còn nghe tiếng rú thảm thiết của hắn, lát sau thì lặng thinh, chắc chắn hắn đã tắt thở.

Chu Bá Thông kéo vạt áo Lưu Xứ Huyền, nói:

– Xứ Huyền, ngươi mau đi xin Long cô nương mươi lọ mật ong về đây cho ta.

Lưu Xứ Huyền cau mày nhăn nhó, vừa nãy mình chỉ mong Chu Bá Thông đừng đáp ứng tha mạng cho Triệu Chí Kính nên nói đại như thế, chứ thực ra Toàn Chân ngũ tử đã sử chiêu “Thất tinh tụ hội” đả thương Tiểu Long Nữ, nói gì chuyện “đã giải oán thù”? Lúc này bị Chu Bá Thông túm áo, đành cười khổ, nói:

– Sư thúc buông tay ra, để đệ tử đi xin vậy!

Bọn Khưu Xứ Cơ biết chuyến đi này rất hung hiểm, nếu Tiểu Long Nữ bình an vô sự thì không sao, nhưng nếu nàng ta trọng thương mà chết, thì không biết sẽ có bao nhiêu đệ tử phái Toàn Chân phải mất mạng dưới tay Dương Quá, bèn nhất tề nói:

– Mọi người chúng ta cùng đi một thể.

Cánh rừng bên ngoài tòa cổ mộ, từ thời Vương Trùng Dương còn sống đã không cho phép đệ tử phái Toàn Chân tiến vào một bước, mọi người đi tới mép rừng thì nhớ di huấn của tiên sư, đều dừng chân.

Khưu Xứ Cơ vận khí đan điền, gọi to:

– Dương thiếu hiệp, thương thế của Long cô nương có sao không? Ở đây có mấy viên “Cửu truyền linh bảo hoàn” trị thương, mời Dương thiếu hiệp ra nhận.

Chu Bá Thông nói nhỏ:

– Phải rồi, phải rồi! Muốn xin mật ong của người ta, cũng phải có gì đem đổi chứ.

Lát sau không có tiếng trả lời, Khưu Xứ Cơ lại nói to một lần nữa, cánh rừng hoàn toàn im ắng, căng mắt nhìn sâu vào bên trong, chỉ thấy bên trên cành lá âm u, dưới đất cỏ gai mọc tràn lan.

Lưu Xứ Huyền và Hách Đại Thông đi men cánh rừng một quãng, không hề có dấu vết ai đi xuyên qua rừng, xem chừng Dương Quá và Tiểu Long Nữ hoàn toàn không trở về tòa cổ mộ, mà đã xuống chân núi Chung Nam. Mọi người vừa vui vừa buồn, trở lại cung Trùng Dương. Vui vì Dương, Long hai người đã đi xa; buồn vì Tiểu Long Nữ nếu không chữa khỏi thương tích, thì phái Toàn Chân sẽ gánh chịu hậu họa khôn lường. Lão Ngoan đồng cũng vừa vui vừa buồn, buồn vì không có được mật ong ngọc phong, vui vì khỏi gặp mặt Tiểu Long Nữ, khỏi xấu hổ về chuyện lão lấy trộm lọ mật ong của nàng.

Toàn Chân ngũ tử tuy sống ở trên núi Chung Nam mấy chục năm, song không thể đoán Dương Quá và Tiểu Long Nữ đi đâu.

Dương, Long hai người được đàn ong ngọc phong hộ vệ, chạy ra sân sau, chạy một quãng thì thấy một tòa lầu tựa lưng vào núi, Dương Quá biết đây là Tàng kinh các, một trong những yếu địa của cung Trùng Dương. Chàng ôm Tiểu Long Nữ lên trên lầu, hai người ngồi nghỉ một chút, nghe tiếng huyên náo bên dưới, đã có vài chục đạo sĩ đuổi tới, nhưng họ sợ ong đốt, không dám xông lên. Dương Quá đặt Tiểu Long Nữ ngồi vững trên một chiếc ghế tựa, quan sát hình thế xung quanh, thấy phía sau Tàng kinh các có một cái khe sâu mấy chục trượng, may là khe nước tuy sâu, nhưng không quá rộng. Chàng vốn mang theo người một sợi dây dài để buộc ngang cây mà ngủ. Lúc này bèn đem buộc một đầu vào cây cột của Tàng kinh các, cầm một đầu dây đu người qua khe sang vách núi đối diện, buộc dây vào một thân cây, rồi dùng khinh công đi trên dây trở sang Tàng kinh các.

Chàng tới bên Tiểu Long Nữ, dịu dàng nói:

– Chúng mình đi đâu bây giờ?

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng muốn đi đâu, thiếp sẽ theo đến đó.

Dương Quá cười, nói:

– Cái đó gọi là thuyền theo lái, gái theo chồng. Thế nàng muốn đi đâu nhất nào?

Tiểu Long Nữ thở dài nhè nhẹ, Dương Quá biết là nàng chỉ mong trở về tòa cổ mộ, nhưng về đó bằng cách nào lúc này phải tính kỹ, trong khi tiếng huyên náo dưới lầu đang thúc bách.

Chàng hiểu tâm tư của Tiểu Long Nữ, Tiểu Long Nữ cũng hiểu tâm tư của chàng, nói:

– Thiếp không nhất định muốn về cổ mộ, chàng cũng đừng lo lắng làm gì. Chỉ cần có chàng bên cạnh, ở đâu thiếp cũng thấy tốt cả.

Dương Quá nghĩ: “Đấy là tâm nguyện thứ nhất của nàng sau khi thành thân, không chừng cũng là tâm nguyện cuối cùng của đời nàng, nếu ta không làm được, thì đâu còn xứng đáng là chồng nàng?”

Chàng nhìn khắp gian lầu, nghe tiếng huyên náo bên dưới, lòng thêm bối rối, bỗng thấy trong góc có một cái hòm bằng gỗ, chàng chợt nghĩ: “Có cách rồi!”

Chàng bước tới, thấy hòm có khóa, bèn dùng tay bẻ khóa, mở nắp hòm, thấy trong đựng đầy sách, chàng bưng hòm đổ hết sách ra đất, cái hòm gỗ này làm bằng ván dày tám phân, rất chắc chắn. Dương Quá thấy trên giá sách cao có phủ mấy tấm vải dầu, đề phòng mưa dột làm hư sách quí, chàng bèn kéo lấy hai mảnh, lót vào bên trong cái hòm, mang cái hòm đi trên dây sang bên kia khe, rồi trở lại bế Tiểu Long Nữ đi sang, cười nói:

– Bây giờ chúng mình đi về nhà nào!

Tiểu Long Nữ thích thú, mỉm cười, nói:

– Chủ ý của chàng hay thật!

Dương Quá nói cho nàng khỏi lo:

– Thanh kiếm này có thể đâm thủng mọi vật cứng, nếu dưới nước có tảng đá ngầm nào chắn cái hòm lại, dùng kiếm đâm một nhát là xong. Quá nhi sẽ lội thật nhanh, để nàng ở trong hòm khỏi bị ngạt thở.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Chỉ có một điều không tốt.

Dương Quá ngạc nhiên hỏi:

– Là cái gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Đi theo kiểu này, thiếp phải xa cách chàng một hồi lâu.

Sau khi sang bên kia khe, Dương Quá nhớ đến bé Quách Tương đang ở trong hang, bèn nói:

– Ta có mang theo cả cô nương của Quách bá bá, nàng bảo nên làm thế nào?

Tiểu Long Nữ ngẩn người, run run nói:

– Thật ư? Chàng dẫn theo cả… cả cô nương của Quách đại hiệp ư?

Dương Quá thấy thần sắc rất lạ của nàng, thì hiểu ý, biết nàng tưởng nhầm chàng dẫn theo Quách Phù, bèn ghé mặt thơm nhẹ vào má nàng một cái, nói khẽ:

– Đấy là đứa bé mới sinh hơn một tháng, chưa biết chém cánh tay của người khác đâu!

Tiểu Long Nữ ngượng đỏ mặt, chúi đầu vào ngực chàng, không dám ngẩng lên.

Lát sau, nàng mới nói:

– Chúng mình bế nó về Cổ Mộ đi, để nó ở chốn hoang sơn dã địa này nửa buổi thì nó chết mất!

Dương Quá nghĩ mình bị vướng trong cung Trùng Dương khá lâu, không biết bé Quách Tương ở trong hang có sao không, thì rất lo, vội vác cái hòm đặt Tiểu Long Nữ ngồi bên trong lên vai, rảo bước tìm đến trước cái hang nọ, không nghe tiếng khóc của đứa bé, càng lo hơn. Chàng gỡ bụi gai, vào trong thấy Quách Tương đang ngủ say, hai má hồng hồng. Cả hai mừng rỡ, chàng bế Quách Tương đặt vào lòng Tiểu Long Nữ, rồi vác hòm lên vai mà đi.

Lúc này các đạo sĩ phái Toàn Chân đều tụ tập trong cung Trùng Dương, nên dọc đường không gặp ai. Ngang qua một vườn trồng bí đỏ của các đạo sĩ, Dương Quá ngắt lấy sáu, bảy trái bỏ vào chiếc hòm, nói:

– Chỗ này đủ cho chúng mình ăn bảy, tám ngày.

Đi một lúc nữa thì đến dòng suối ngầm trong núi. Dương Quá cúi xuống thơm vào má Tiểu Long Nữ, nhẹ nhàng đậy nắp hòm, dùng vải dầu bọc kín bên ngoài chiếc hòm, thả nó xuống dòng suối, hít một hơi dài, lặn xuống nước kéo chiếc hòm đi.

Chàng từng khổ luyện khí công giữa dòng suối, nước lũ trong hoang cốc, nên việc lặn đi trong dòng suối ngầm này không vất vả gì, đáy suối chỗ thấp chỗ cao, chàng cứ lội đi, gặp đất đá ngăn chiếc hòm trôi qua thì chàng dùng kiếm phá thông được ngay. Sợ Tiểu Long Nữ ở trong chiếc hòm ngạt thở, chàng lội thật nhanh, chưa tàn nén nhang thì đã hết suối, tới địa đạo.

Chàng cởi vải dầu, mở nắp hòm, thấy Tiểu Long Nữ thiêm thiếp mệt mỏi sau khi bị trọng thương, bé Quách Tương thì kêu khóc lớn tiếng, có vẻ rất khỏe mạnh. Nguyên bé hơn một tháng qua bú sữa con báo, nên khỏe hơn hẳn trẻ sơ sinh bình thường. Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói nhỏ:

– Vợ chồng mình cuối cùng đã về đến nhà!

Rồi quá mệt, nàng nhắm nghiền hai mắt lại. Dương Quá bưng chiếc hòm đưa nàng vào trong tòa cổ mộ.

Chỉ thấy bàn ghế đổ ngả nghiêng, y như hôm rời khỏi đây sau cuộc ác đấu với sư đồ Lý Mạc Sầu. Dương Quá nhìn thạch thất, vài vật dụng đã dùng hồi trước, trong lòng bỗng trào lên một cảm giác nửa vui mừng, nửa thương cảm. Chàng đứng ngây thất thần một hồi, bỗng có một giọt nước nhỏ xuống mu bàn tay mình, chàng ngoảnh lại, thấy Tiểu Long Nữ đang vịn vào ghế đứng bên cạnh chàng, lệ chảy dài trên má. Hôm nay hai người đã kết thành phu phụ, tâm nguyện bao năm đã thành, họ lại trở về chốn cũ, từ đây mọi oán cừu, phiền não, sầu khổ không còn trói buộc họ nữa, vậy mà cả hai lại cảm thấy đau đớn khôn cùng, ấy là vì cùng biết rằng Tiểu Long Nữ đã bị trọng thương bởi kim luân của Pháp vương và đòn hợp lực của Toàn Chân ngũ tử, cơ thể mảnh mai của nàng chịu đựng sao cho nổi?

Hai người trẻ tuổi cùng một đời cô khổ, chưa từng hưởng thụ khoái lạc thật sự, bỗng nhiên có phúc lớn trở thành vợ chồng, nhưng sắp lập tức phải âm dương đôi ngả!

Dương Quá ngây người một lát, sang phòng của Tôn bà bà tháo chiếc giường gỗ, mang sang lắp lại bên chiếc giường hàn ngọc, trải chăn, dìu Tiểu Long Nữ nằm lên đó nghỉ. Thức ăn dự trữ trong tòa cổ mộ đã hư hết từ lâu, chỉ có mấy hũ mật ong là tốt nguyên.

Chàng rót nửa bát mật ong pha với nước sạch, cho Tiểu Long Nữ uống, lại cho bé Quách Tương uống no, rồi chàng cũng uống một bát. Chàng nghĩ: “Mình phải tỏ ra phấn chấn để nàng vui, mình không được để lộ chút nào nỗi đau đớn trong lòng”. Thế là chàng lấy hai cây nến to, dùng vải điều bọc bên ngoài, thắp đặt trên bàn, cười, nói:

– Đây là nơi động phòng hoa chúc của đôi ta!

Hai cây nến hồng cháy sáng, thạch thất lập tức bừng bừng hỉ khí. Tiểu Long Nữ ngồi trên giường, thấy người có vết máu, vết bùn đất, mỉm cười, nói:

– Thiếp thế này chẳng giống cô dâu chút nào!

Chợt nhớ điều gì, nói:

– Chàng hãy sang phòng tổ sư bà bà mang cái hộp mạ vàng sang đây cho thiếp!

Dương Quá tuy sống trong tòa cổ mộ mấy năm, song chàng chưa dám tự tiện bước vào phòng của Lâm Triêu Anh, di vật của bà ta, chàng cũng không dám đụng tới. Giờ nghe Tiểu Long Nữ nói thế, bèn cười đáp:

– Lệnh của phu nhân, xin làm ngay!

Ở đầu giường, chàng thấy có mấy cái hộp, chàng cầm cái mạ vàng, vẽ hoa trang nhã nhất lên, nó không nặng lắm, cũng không có khóa, mang sang cho Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ nói:

– Nghe Tôn bà bà bảo đây là cái hộp nữ trang của tổ sư bà bà, vì tổ sư bà bà không lấy chồng, nên hoàn toàn không động tới.

Dương Quá nhìn cái hộp trang trí mỹ lệ, nhưng trong cái vui cảm thấy một nỗi thê lương vô hạn. Chàng đặt cái hộp trên chiếc giường hàn ngọc, mở nắp ra, thấy bên trong quả nhiên có mấy thứ trang điểm của cô dâu, như mũ phượng đính ngọc, khăn hồng trùm đầu, bộ quần áo lụa đỏ, món nào cũng thuộc loại thượng đẳng, tuy để lâu mấy chục năm trông vẫn như mới.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng lấy ra cho thiếp xem với.

Dương Quá lấy từng món trong hộp ra, bên dưới bộ quần áo có một cái hộp đựng lược và son phấn, một hộp đựng trang sức, mở ra, cả hai thấy có đủ trâm cài tóc, ngọc đeo tai đẹp long lanh, giá trị ngần nào không biết, chỉ biết được chế tác tinh xảo, nhã nhặn, đầy tâm huyết.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thiếp trang điểm như một cô dâu được chăng?

Dương Quá nói:

– Hôm nay nàng mệt rồi, hãy nghỉ một đêm, ngày mai hãy trang điểm.

Tiểu Long Nữ lắc đầu, nói:

– Không, hôm nay là ngày lành thành thân của hai ta. Thiếp thích làm cô dâu. Hôm ở Tuyệt Tình cốc Công Tôn Chỉ muốn thành hôn với thiếp, thiếp đâu có trang điểm!

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Lần ấy không thể gọi là thành hôn được, bởi chỉ có mình lão ta vọng tưởng mà thôi!

Tiểu Long Nữ hòa mật ong vào son, soi gương, bắt đầu trang điểm. Trong đời nàng, đây là lần thứ nhất thoa phấn bôi son, nước da nàng vốn trắng, không nên thoa phấn, nhưng vì sau khi bị trọng thương, trông nhợt nhạt, nên sau khi xoa chút son lên má, trông kiều diễm vô cùng. Nghỉ một lát, nàng lấy lược chải tóc, thở dài, nói:

– Thiếp muốn vấn tóc, nhưng không biết cách. Chàng có biết vấn tóc hay không?

Dương Quá đáp:

– Không biết! Nàng cứ để tóc tự nhiên, trông đã đẹp lắm rồi!

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thật ư?

Nàng đặt cái lược xuống, đeo bông tai, cài trâm, đeo hai cái vòng ngọc ở cổ tay, dưới ánh nến hồng, trông diễm lệ vô song. Nàng ngoảnh lại, tưởng sẽ nghe Dương Quá tán thưởng vài câu. Nhưng nàng thấy Dương Quá nước mắt giàn giụa, buồn không thể tả nổi. Nàng nghiến răng, làm như không thấy, mỉm cười, nói:

– Chàng bảo thiếp có dễ coi hay không?

Dương Quá nghẹn ngào đáp:

– Nàng đẹp vô cùng! Để ta đội mũ phượng cho nàng!

Chàng cầm chiếc mũ, tới sau lưng, đội lên đầu nàng. Tiểu Long Nữ nhìn trong gương, thấy chàng đưa tay áo lau nước mắt, rồi đứng kề bên nàng, sắc diện đã trở nên hoan hỉ. Chàng cười, hỏi:

– Từ nay trở đi ta gọi nàng là nương tử, hay vẫn gọi là cô cô?

Tiểu Long Nữ nghĩ: “Không lẽ còn có “trở đi” nữa thật sao?” Nhưng nàng vẫn cố gượng vui, mỉm cười nói:

– Gọi cô cô nữa thì không hay. Gọi là nương tử phu nhân, nghe già quá.

Dương Quá hỏi:

– Thế tên hồi nhỏ của nàng là gì? Hôm nay đã có thể nói cho ta biết được chưa?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ vẫn gọi thiếp là Long nhi!

Dương Quá nói:

– Được! Từ nay trở đi nàng gọi ta là Quá nhi, còn ta sẽ gọi nàng là Long nhi. Đến khi chúng mình có con, sẽ gọi nhau là gia gia, nương nương, rồi khi con chúng mình lấy vợ…

Tiểu Long Nữ nghe chàng nói huyên thuyên, lúc đầu còn mỉm cười, sau không kìm được, khóc òa lên.

Dương Quá ôm nàng vào lòng, âu yếm nói:

– Long nhi, nàng buồn, ta cũng không vui, đôi ta hà tất lo chuyện mai sau. Hôm nay nàng không sao, ta cũng sẽ không sao. Đôi ta cứ việc sung sướng hôm nay, khỏi cần nghĩ đến ngày mai làm gì.

Tiểu Long Nữ ngẩng đầu lên, gượng cười, gật đầu.

Dương Quá nói:

– Nàng xem bộ quần áo thêu chim phượng đẹp quá này, để ta giúp nàng mặc nó vào!

Chàng đỡ người nàng, mặc chiếc quần hồng thêu chỉ vàng cho nàng. Tiểu Long Nữ lau nước mắt, bôi chút son, mỉm cười ngồi bên cây nến.

Lúc này Quách Tương nằm trên giường, giương to đôi mắt hiếu kỳ mà nhìn chằm chằm, tựa hồ nó cũng thấy Tiểu Long Nữ trang điểm rất xinh đẹp.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp trang điểm đẹp rồi, tiếc rằng trong hộp không có mũ áo cho tân lang, chàng đành chịu thiệt thòi.

Dương Quá nói:

– Để ta đi xem có thứ gì nhã nhặn một chút chăng?

Chàng mang một chiếc rương đựng đồ linh tinh đổ ra giường. Tiểu Long Nữ thấy chàng nhặt một bông hoa bằng vàng, bèn cầm gài lên mái tóc chàng.

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Như thế hơi giống tân lang rồi đó.

Thấy có một tập thư được buộc bằng sợi chỉ đỏ đã bạc màu, Dương Quá nói:

– Có một số thư này.

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Chàng xem là thư gì?

Dương Quá cởi dây buộc, thấy trên bì thư đề: “Thân gửi nữ sĩ Lâm Triêu Anh”, dưới góc trái có một chữ “Triết”. Dương Quá biết Vương Trùng Dương trước khi xuất gia tên là Vương Triết, thì cười, nói:

– Đây là thư tình của Trùng Dương tổ sư gửi cho tổ sư bà bà, chúng mình xem được chứ?

Tiểu Long Nụ vốn thờ kính Lâm Triêu Anh như thần thánh, vội nói:

– Ấy, không được xem đâu!

Dương Quá cười, lại buộc chồng thư lại, nói:

– Lão đạo cô Tôn Bất Nhị cổ hủ lắm, thấy đôi ta bái đường thành thân trước di ảnh của Trùng Dương tổ sư, cho là đại nghịch vô đạo. Ta không tin rằng năm xưa Trùng Dương tổ sư không có tình ý với tổ sư bà bà. Nếu đem chồng thư kia cho đám đạo sĩ mũi trâu xem, nhìn vẻ mặt họ lúc ấy mới thú đấy.

Chàng vừa nói vừa nhìn Tiểu Long Nữ, không khỏi đau lòng cho Lâm Triêu Anh, nghĩ thầm: “Tổ sư bà bà sống một mình trong cổ mộ, chắc không chỉ một lần mặc thử bộ đồ cưới kia. Đôi ta may mắn hơn tổ sư bà bà rất nhiều”.

Tiểu Long Nữ nói:

– Đúng thế! Đôi ta may mắn hơn tổ sư bà bà, sao chàng không vui lên?

Dương Quá nói:

– Ừ nhỉ!

Đột nhiên chàng cười, hỏi:

– Ta không hề nói ra, sao nàng đoán đúng tâm tư của ta?

Tiểu Long Nữ cười, đáp:

– Thiếp không đoán đúng tâm tư của chàng, thì sao xứng làm vợ chàng?

Dương Quá ngồi ở mép giường, dùng tay trái ôm nhẹ nàng vào lòng. Hai người sung sướng khó nói nên lời, những mong thời khắc này vĩnh viễn ngừng trôi.

Họ ngồi dựa vào nhau, hồi lâu không nói.

Sau đó hai người cùng ngó về phía chồng thư một cái rồi nhìn nhau cười, ánh mắt lộ vẻ tinh nghịch, thừa biết đó là tâm sự riêng tư của tiên sư, vẫn không nén nổi tính hiếu kỳ.

Dương Quá nói:

– Chúng mình chỉ xem một bức thư thôi, được chứ?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thiếp cũng muốn biết một chút, phải rồi, chúng mình chỉ xem một bức thư thôi.

Dương Quá mừng rỡ, cởi sợi chỉ buộc. Tiểu Long Nữ nói:

– Nếu chàng thấy trong thư có câu khiến người ta rất đau lòng, thì đừng đọc cho thiếp nghe.

Dương Quá ngập ngừng nói:

– Ừ, phải đấy!

Chàng nghĩ Vương, Lâm hai người có tình ý với nhau mà không lấy được nhau, chỉ sợ lời lẽ trong thư phần nhiều là sầu khổ, có lẽ không nên đọc thì hơn.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chàng đừng ngại, không chừng toàn viết chuyện vui đó!

Dương Quá lấy một bức thư ra, đọc:

– “Anh muội, hôm qua quân ta cùng bọn Thát tử giao phong trên đồi Ác Ba, sa vào ổ mai phục của địch, bị mất bốn trăm người…”

Tiếp theo toàn kể quân tình giao chiến giữa nghĩa binh với quân Kim. Dương Quá đọc liền mấy bức thư, toàn một chuyện như thế, không một câu nói đến tình nhi nữ.

Dương Quá thở dài, nói:

– Vị Trùng Dương tổ sư cố nhiên là đấng nam nhi đại trượng phu, chỉ lấy quân quốc làm trọng, vô tình như thế, chẳng trách làm cho tổ sư bà bà lạnh nhạt.

Tiểu Long Nữ nói:

– Không đâu! Khi nhận các bức thư này, tổ sư bà bà thích lắm đó.

Dương Quá lấy làm lạ, hỏi:

– Sao nàng biết?

Tiểu Long Nữ nói

– Dĩ nhiên thiếp không biết, chỉ là suy bụng mình ra thôi. Chàng xem, bức thư nào cũng kể về quân tình gian nan khẩn cấp, nhưng trong tình cảnh ấy, Trùng Dương tổ sư vẫn không quên viết thư cho tổ sư bà bà, chàng bảo như thế có đúng là lúc nào cũng thương nhớ tổ sư bà bà hay không?

Dương Quá gật đầu, nói:

– Đúng, quả đúng như thế!

Bèn xem một bức thư khác. Thư này kể tình hình càng nguy cấp hơn, nghĩa quân của Vương Trùng Dương vì lực lượng ít ỏi, không địch nổi, liên tiếp bại trận, tựa hồ khó bề duy trì, cuối thư có hỏi thăm thương thế của Lâm Triêu Anh, chỉ vẻn vẹn vài câu, nhưng chứa chan sự quan thiết. Dương Quá nói:

– Ồ, hồi trước tổ sư bà bà cũng bị trọng thương, sau đó tự nhiên khỏi. Thương thế của nàng cứ thong thả điều dưỡng, cùng lắm dăm tháng nửa năm cũng khỏi thôi.

Tiểu Long Nữ cười nhạt, nàng tự biết lần này bị thương rất nặng, trọng thương như thế này mà vẫn chữa khỏi được, thì e trong thiên hạ sẽ toàn những người bất tử; nhưng đã bảo đêm nay không nhắc chuyện buồn, thì dù Dương Quá nói điều không tưởng, cũng cứ coi như thật đi, bèn nói:

– Phải, cứ thong thả điều dưỡng, chẳng phải vội! Các bức thư kia không viết chuyện bí mật riêng tư, chàng cứ đọc cả đi.

Dương Quá đọc tiếp một bức thư khác, trong đó toàn những lời bi phẫn, kể nghĩa quân bại trận hoàn toàn, Vương Trùng Dương liều chết phá trùng vây thoát được, nhưng thuộc hạ tử thương cả. Cuối thư nói quyết sẽ chiêu binh khôi phục lực lượng. Các bức thư sau toàn kể cảnh thất bại, thế lực quân Kim ở Hà Bắc mạnh lên thế nào, Vương Trùng Dương hiển nhiên đã không thể làm gì được nữa, lời lẽ trong thư đầy thất vọng.

Dương Quá nói:

– Mấy bức thư này đọc buồn quá, thôi, chẳng xem nữa ôi, cái gì đây?

Giọng chàng bỗng trở nên mừng rỡ, tay cầm bức thư run run, miệng đọc:

– “Nghe đồn vùng cực bắc giá lạnh, có loại đá gọi là Hàn ngọc, trị được các chứng bệnh trầm kha, vô phương cứu chữa, chính là thứ Anh muội đang cần”. Long nhi, nàng bảo có phải đó là cái giường hàn ngọc hay không?

Tiểu Long Nữ thấy vẻ mặt chàng đột nhiên bừng sáng, thì run run hỏi:

– Chàng… ý chàng muốn nói là cái giường hàn ngọc có thể trị thương cho thiếp phải không?

Dương Quá nói:

– Ta không biết, nhưng Trùng Dương tổ sư viết thế, tất có lý. Nàng xem, tấm đá hàn ngọc chẳng phải là do Trùng Dương tổ sư kiếm về đó sao? Tổ sư bà bà chẳng đã chế thành cái giường hàn ngọc đó sao? Thương thế của tổ sư bà bà cuối cùng chẳng đã khỏi đó sao?

Chàng bèn đọc ngấu nghiến các bức thư còn lại, xem có viết gì về cách trị thương bằng cái giường hàn ngọc hay không, nhưng không thấy có gì thêm. Chàng buộc xấp thư lại, cất vào trong rương, ngẩn ngơ xuất thần: “Cái giường hàn ngọc này không phải tự dưng có công dụng lạ thường, chỉ không biết cách trị thương cho Long nhi thế nào mà thôi. Ôi, ước gì ta biết cách, ước gì ta biết…”

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Chàng nghĩ gì mà ngẩn ngơ như thế?

Dương Quá nói:

– Ta đang nghĩ cách làm thế nào sử dụng cái giường hàn ngọc trị thương cho nàng. Không biết có phải đem nghiền một chút cho nàng uống hay không? Hay là dùng làm thuốc dẫn?

Giá chàng không biết cái giường hàn ngọc có thể trị thương đã đành một nhẽ, đằng này chàng đọc đi đọc lại câu “trị được các chứng bệnh trầm kha, vô phương cứu chữa”, mà chưa biết cách sử dụng, nên lòng dạ bồn chồn nôn nóng. Tiểu Long Nữ buồn bã nói:

– Chàng nhớ Tôn bà bà chứ? Tôn bà bà từng hầu hạ tổ sư bà bà, lại sống chung với sư phụ của thiếp nhiều năm, khi bị Hách Đại Thông đánh chết, nếu biết cái giường hàn ngọc có thể trị thương, sao Tôn bà bà không nhắc gì đến lúc lâm chung? Huống hồ sư phụ của thiếp cũng… cũng bị chết vì bị thương lâu ngày không khỏi.

Dương Quá đang tràn trề hi vọng, nghe nàng nói thế như bị giội gáo nước lạnh vào đầu.

Tiểu Long Nữ đưa tay vuốt nhẹ tóc chàng, âu yếm nói:

– Quá nhi, chàng khỏi cần lo nghĩ nhiều về thương thế của thiếp cho phiền não thêm.

Dương Quá nhất thời không nghĩ gì nữa, lát sau chàng hỏi:

– Sư tổ của ta bị thương như thế nào?

Chàng tuy sống ở cổ mộ mấy năm, nhưng chưa từng nghe Tiểu Long Nữ kể tại sao sư phụ của nàng bị chết.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ thâm cư cổ mộ, hiếm khi ra ngoài, có một năm sư tỷ của thiếp gây họa bên ngoài, chạy về núi Chung Nam, sư phụ ra khỏi nhà mồ tiếp ứng, cuối cùng bị địch nhân ám toán. Sư phụ chịu thiệt, nhưng cứu được sư tỷ của thiếp về coi như xong, không hơn thua với tên ác nhân kia nữa. Ai dè tên ác nhân được đằng chân lân đằng đầu, ít lâu sau lại đến cửa mộ khiêu chiến, sau còn xông vào trong mộ, sư phụ không địch nổi hắn, suýt nữa thì đóng sập cửa mộ cùng chết với hắn, may sao trong cơn nguy cấp kịp phát động cơ quan, lại bất ngờ phóng kim châm. Tên ác nhân không kịp phòng bị, trúng kim châm, tê dại khổ sở. Sư phụ thừa thế điểm huyệt hắn, khiến hắn hết bề cựa quậy. Không ngờ sư tỷ lại lén đi giải huyệt cho hắn. Tên ác nhân bất ngờ vùng dậy, sư phụ mới bị hắn hạ độc thủ.

Dương Quá hỏi:

– Tên ác nhân ấy là ai vậy? Võ công hắn hơn cả sư tổ, chắc phải là một đại cao thủ đương thời.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ không nói cho thiếp biết. Sư phụ muốn thiếp trong lòng không có hỷ nộ ái ố, thiện ác gì hết, bảo rằng nếu nói cho thiếp biết danh tính tên ác nhân, e rằng mai sau thiếp sẽ đi tìm hắn trả thù.

Dương Quá thở dài:

– Ồ, sư tổ quả là người tốt!

Tiểu long Nữ mỉm cười, nói:

– Nếu sư phụ biết hôm nay thiếp lấy được một người chồng tốt như chàng, chắc sẽ rất hài lòng.

Dương Quá mỉm cười, nói:

– Chưa chắc, sư tổ vốn không cho phép nàng có tình ý hoặc đi lấy chồng.

Tiểu Long Nữ thở dài:

– Sư phụ của thiếp hiền từ vô cùng, ban đầu không cho phép, nhưng về sau thấy thiếp quyết ý, nhất định sẽ cho thiếp được như nguyện. Sư phụ nhất định sẽ hài lòng về chàng.

Nàng nghĩ đến ân sư, xuất thần hồi lâu, lại nói:

– Sư phụ sau khi bị thương, liền dọn sang ở phòng khác, xa hẳn cái giường hàn ngọc. Sư phụ bảo rằng việc hành công của phái Cổ Mộ hỗ tương sinh khắc với hàn khí, cho nên dùng cái giường hàn ngọc bổ trợ cho việc luyện công cố nhiên là không gì bằng, nhưng sau khi bị thương lại không chịu nổi hàn khí.

Dương Quá ậm ừ, óc vẫn nghĩ đến sự vận hành kinh mạch của nội công bản môn. Nội công nói trong “Ngọc nữ tâm kinh” hoàn toàn dựa vào khí thuần âm đả thông kinh mạch, bên trong cơ thể cực lạnh, mặt ngoài cơ thể lại tỏa khí nóng, đến nỗi khi luyện tập phải cởi quần áo cho khí nóng tỏa ra hết, không được ứ trệ chút nào, nếu bị khí lạnh của cái giường hàn ngọc dồn ngược vào trong, thì sẽ bị nội thương trí mạng. Chàng nghĩ: “Tại sao Trùng Dương tổ sư nói rằng hàn ngọc trị được các chứng bệnh trầm kha, vô phương cứu chữa? Cái diệu lý tương sinh tương khắc bên trong, mình phải hiểu cho rõ mới được”. Chàng thấy Tiểu Long Nữ nhắm mắt có vẻ mệt mỏi, bèn nói:

– Nàng ngủ đi, ta sẽ ngồi hầu bên nàng!

Tiểu Long Nữ vội mở mắt, nói:

– Không, thiếp không mệt đâu. Đêm nay đôi ta đừng ngủ.

Nàng rất sợ mình bị thương nặng, ngủ rồi sẽ không thức dậy được nữa, vĩnh viễn không còn thấy mặt Dương Quá, nên nói:

– Chàng nói chuyện với thiếp đi. Này, chàng có mệt không?

Dương Quá lắc đầu, mỉm cười, nói:

– Nàng không muốn ngủ thì đừng ngủ, nhưng cứ nhắm mắt lại mà dưỡng thần!

Tiểu Long Nữ nói:

– Vâng!

Nàng từ từ nhắm mắt lại, nói nhỏ:

– Sư phụ từng nói có một điều đến lúc chết cũng không hiểu nổi. Quá nhi rất thông minh, thử nghĩ hộ xem.

Dương Quá hỏi:

– Là việc gì?

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư phụ đã điểm huyệt tên ác nhân nọ, không hiểu tại sao sư tỷ lại đi giải huyệt cho hắn?

Dương Quá nghĩ một lát, cảm thấy Tiểu Long Nữ ngả hẳn người vào mình, hơi thở rất yếu, đã ngủ thiếp đi.

Dương Quá ngắm khuôn mặt nàng, trong đầu dồn dập bao ý nghĩ, lát sau, một ngọn nến bừng lên rồi tắt vì đã cháy hết. Chàng bỗng nhớ ở đảo Đào Hoa, trong một trai phòng có đôi liễn: “Xuân tàm đáo tử ti phương tận, Lạp cự thành khôi lệ thủy can”°( °春蠶到死絲方盡,蠟炬成灰淚始乾–Con tằm đến thác tơ đành dứt, nến sáp thành tro lệ mới thâu – Vô đề, Lý Thương Ẩn).

Đó là hai câu Đường thi, Hoàng Dược Sư thương nhớ người vợ đã khuất nên viết treo ở nơi ngày ngày ngồi đọc sách. Dương Quá hồi nhỏ nhìn thấy không để ý, bây giờ chính chàng lâm vào tình cảnh tương tự, mới ngẫm ra ý vị của hai câu ấy, đang đau lòng thì đột nhiên trước mắt tối sầm, ngọn nến còn lại cũng tắt nốt. Chàng nghĩ: “Hai ngọn nến kia giống như ta và Long nhi, một ngọn cháy hết, ngọn thứ hai cũng tắt theo”.

Chàng ngồi xuất thần, bỗng nghe Tiểu Long Nữ thở dài nói, giọng rầu rầu:

– Thiếp không muốn chết, Quá nhi, thiếp không muốn chết đâu, đôi ta phải được sống với nhau nhiều năm.

Dương Quá nói:

– Phải, Long nhi sẽ không chết, dưỡng thương một thời gian, nàng sẽ khỏi thôi. Hiện giờ ngực nàng cảm thấy thế nào?

Tiểu Long Nữ không trả lời, câu vừa nói chỉ là lời trong mơ.

Dương Quá sờ tay lên trán nàng, thấy nóng rực.

Chàng vừa luống cuống vừa đau đớn nghĩ: “Lý Mạc Sầu tác ác đa đoan, lúc này vẫn sống yên lành. Long nhi suốt đời chưa từng làm một việc gì hại người, sao lại phải chết yểu? Trời kia có mắt hay không vậy?”

Chàng vốn không biết sợ trời sợ đất gì hết, thích gì làm nấy, nhưng hiện tại lâm vào cảnh tuyệt vọng, bàng hoàng vô kế khả thi. Chàng nhẹ nhàng đặt Tiểu Long Nữ nằm xuống giường, rồi quì xuống đất, lầm rầm khấn:

– Lạy trời từ bi, phù hộ độ trì cho Long nhi khỏe lại con xin… con nguyện làm…

Để Tiểu Long Nữ được sống, có việc gì mà chàng không sẵn sàng làm kia chứ.

Chàng đang khấn, thì nghe Tiểu Long Nữ nói:

– Là Âu Dương Phong, Tôn bà bà bảo nhất định là Âu Dương Phong! … Quá nhi, Quá nhi, chàng đâu rồi?

Nàng đột nhiên hoảng hốt gọi to và ngồi bật dậy.

Dương Quá vội ngồi lên mép giường, cầm tay nàng, nói:

– Quá nhi đây!

Trong giấc mơ, Tiểu Long Nữ cảm thấy thân mình không có chỗ dựa, choàng tỉnh, thấy Dương Quá vẫn ngồi bên cạnh, thì rất mừng.

Dương Quá nói:

– Nàng yên tâm, suốt đời ta sẽ không xa nàng. Sau này nếu ra khỏi cổ mộ, ta cũng sẽ không rời nàng nửa bước.

Tiểu Long Nữ nói:

– Thế giới bên ngoài quả nhiên có nhiều thứ lạ hơn ở đây, nhưng ra ngoài đó thiếp sợ lắm.

Dương Quá nói:

– Hiện tại đôi ta chẳng có gì phải sợ. Vài tháng nữa, nàng khỏe lại rồi, đôi ta sẽ cùng đi xuống phương nam. Nghe đồn vùng Lĩnh Nam quanh năm ấm áp như mùa xuân, hoa nở không tàn, lá xanh không rụng, đôi ta cũng khỏi cần sử dụng quyền kiếm, chỉ việc làm ruộng, nuôi gà nuôi vịt, sinh một đàn con, nàng bảo như vậy có thích hay không?

Tiểu Long Nữ mơ màng nói nhỏ:

– Vĩnh viễn khỏi cần sử dụng quyền kiếm, thế thì hay quá! Không ai đến gây sự với đôi ta, đôi ta cũng không phải đánh nhau với ai, chỉ việc làm ruộng, nuôi gà nuôi vịt, ôi, nếu thiếp có thể sống…

Đột nhiên hai người cùng thả hồn bay xuống phương nam xa xôi đầy ánh nắng, tưởng chừng họ ngửi thấy mùi hoa thơm, nghe thấy tiếng gà con, tiếng vịt con kêu rộn…

Tiểu Long Nữ không thức thêm được nữa, lại mơ mơ màng màng thiếp đi, song nàng không muốn ngủ, nói:

– Thiếp không muốn ngủ, chàng nói chuyện với thiếp đi.

Dương Quá nói:

– Nàng vừa nói mớ, nhắc đến Âu Dương Phong, là chuyện gì thế?

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp nhắc đến Âu Dương Phong ư? Thiếp bảo sao?

Dương Quá nói:

– Nàng bảo Tôn bà bà nói nhất định là Âu Dương Phong.

Tiểu Long Nữ nghe nhắc, liền nhớ lại, nói:

– Phải rồi, Tôn bà bà nói, kẻ đả thương sư phụ nhất định là Tây Độc Âu Dương Phong. Tôn bà bà nói, trên thế gian chỉ có vài kẻ có thể đả thương sư phụ, mà trong số đó, kẻ tệ hại nhất là Âu Dương Phong. Sư phụ thiếp đến chết cũng không chịu nói ra danh tính tên ác nhân kia. Tôn bà bà hỏi: Có phải là Âu Dương Phong? Sư phụ chỉ lắc đầu, mỉm cười rồi tắt thở. Cái lão Âu Dương Phong ấy là nghĩa phụ của chàng thì phải? Lão ta võ công cao cường, chẳng trách sư phụ không địch nổi lão ta.

Dương Quá thở dài:

– Nay nghĩa phụ ta đã chết, sư tổ và Tôn bà bà đã chết, Trùng Dương tổ sư và tổ sư bà bà cũng đã qua đời, mọi oán thù, ân ái, đều được ông trời xóa sạch. Sư tổ trước sau không chịu nói ra danh tính nghĩa phụ ta…

Đột nhiên chàng kêu to:

– Ồ, thì ra là vậy!

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Chàng bảo sao?

Dương Quá nói:

– Nghĩa phụ ta bị sư tổ điểm huyệt, không phải được Lý Mạc Sầu giải huyệt, mà là sư tổ điểm không trúng huyệt!

Tiểu Long Nữ nói:

– Làm gì có chuyện điểm không trúng huyệt? Thủ pháp điểm huyệt của sư phụ cao minh vô cùng.

Dương Quá nói:

– Nghĩa phụ ta có một môn võ công kỳ diệu độc nhất vô nhị trong thiên hạ, ấy là có thể nghịch hành kinh mạch toàn thân. Một khi kinh mạch nghịch hành, mọi huyệt đạo đều thay đổi vị trí, điểm trúng cũng hóa thành điểm chệch.

Tiểu Long Nữ nói:

– Có chuyện kỳ quái thế ư?

Dương Quá nói:

– Ta làm thử cho nàng xem này.

Chàng đứng dậy, chống tay trái xuống đất, lộn ngược người theo kiểu trồng cây chuối, đi một vòng, hít thở vài cái, đột nhiên nhảy bật dậy, dùng đỉnh đầu húc thẳng vào góc nhọn cái bàn đá trước giường.

Tiểu Long Nữ hoảng sợ kêu:

– Ôi chao, cẩn thận!

Chỉ thấy huyệt Bách Hội ở đỉnh đầu chàng đã đụng mạnh vào góc nhọn cái bàn đá. Huyệt Bách Hội nằm trên đỉnh đầu, là giao điểm hai đường, một đường chạy từ mép tóc giữa trán ra mép tóc giữa gáy, đường kia từ chót tai phải qua đầu sang chót tai trái. Huyệt này còn là giao điểm của huyệt Thái Dương với mạch Đốc, y gia ví nó như sao Bắc Cực trên trời, nên có câu “Bách Hội ứng Thiên, Toàn Cơ (ở ngực) ứng Nhân, Dũng Tuyền (ở dưới bàn chân) ứng Địa”, tức “đại huyệt Tam Tài”, là đại yếu huyệt. Dương Quá húc thẳng huyệt Bách Hội vào góc nhọn bàn đá mà chàng chẳng bị sao cả, thản nhiên đứng lên, cười hì hì, nói:

– Nàng xem, nghịch hành kinh mạch, mọi huyệt đều thay đổi vị trí!

Tiểu Long Nữ lấy làm lạ, nói:

– Thật là cổ quái, thế mà chàng vẫn nghĩ ra được!

Dương Quá vừa húc đầu, tuy không gây tổn thương huyệt đạo, nhưng hao tốn sức lực, đầu óc không tránh khỏi mơ hồ, tưởng chừng vừa nghĩ ra một chuyện rất hệ trọng, nhưng đó là chuyện gì, thì không nói ra được. Tiểu Long Nữ thấy chàng ngơ ngơ ngẩn ngẩn, thì cười, nói:

– Chàng ngốc, thử nhẹ một chút cũng được, ai lại đi húc mạnh như thế, có đau lắm không?

Dương Quá không trả lời, xua tay bảo nàng đừng nói, toàn thần chăm chú suy nghĩ, nhưng trong đầu óc như có một cái gì mơ hồ, chưa nhìn rõ, giá mà có thể chộp lấy, lôi nó ra trước mắt để nhìn cho rõ.

Chàng nghĩ một hồi chưa ra, vò đầu bứt tai, nói:

– Long nhi, ta nghĩ đến một điều cực kỳ hệ trọng, song lại không biết là cái gì. Long nhi có biết hay không?

Một người nghĩ bao nhiêu chuyện, rối như tơ vò, tự mình không lần ra đầu mối, lại đi hỏi người bên cạnh, thật là điều vô lý, nhưng hai người ở bên nhau nhiều năm, tâm ý tương thông, có thể đoán biết tâm tư của người kia đến tám, chín phần. Tiểu Long Nữ nói:

– Điều ấy thập phần hệ trọng phải không?

Dương Quá nói:

– Đúng thế!

Tiểu Long Nữ nói:

– Có liên quan đến thương thế của thiếp chứ gì?

Dương Quá mừng rỡ:

– Đúng thế, đúng thế! Nhưng ta nghĩ ra cái gì mới được kia chứ?

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Chàng mới rồi nhắc đến nghĩa phụ của chàng là Âu Dương Phong, bảo lão ta có thể nghịch hành kinh mạch, điều đó có liên quan gì đến thương thế của thiếp? Thiếp bị thương cũng không phải bởi tay lão ta…

Dương Quá đột nhiên nhảy cẫng lên, reo to:

– Đúng rồi!

Lại tiếng “Đúng rồi” vang vọng hồi lâu trong tòa cổ mộ. Dương Quá chộp lấy cánh tay Tiểu Long Nữ, nói:

– Long nhi được cứu rồi, Long nhi được cứu rồi! Ta được cứu rồi! Ta được cứu rồi!

Chàng kêu mấy lần, mừng quá phát khóc, không nói được nữa. Tiểu Long Nữ thấy chàng như thế, cũng lây niềm vui của chàng mà ngồi dậy.

Dương Quá nói:

– Long nhi, nàng nghe ta nói, hiện tại nàng bị trọng thương, không thể vận hành “Ngọc nữ tâm kinh” bản môn, cho nên thương thế không đỡ. Nhưng nàng có thể nghịch hành kinh mạch để trị thương, cái giường hàn ngọc chính là vật bổ trợ tuyệt vời.

Tiểu Long Nữ như ngộ ra, lẩm bẩm:

– Nghịch hành kinh mạch… cái giường hàn ngọc…

Dương Quá mừng rỡ, nói:

– Nàng bảo có đúng là duyên trời hay không? Nàng luyện ngược “Ngọc nữ tâm kinh” là được! Vừa may có cái giường hàn ngọc.

Tiểu Long Nữ mơ mơ hồ hồ, nói:

– Thiếp vẫn chưa thật rõ.

Dương Quá nói:

– “Ngọc nữ tâm kinh” thuận hành là chí âm, còn nghịch hành là thuần dương. Khi ta nhắc đến phép kinh mạch nghịch hành của nghĩa phụ, ta lờ mờ cảm thấy có thể cứu trị thương thế cho nàng, nhưng cứu trị thế nào thì nghĩ mãi chưa ra, sau nhớ trong thư Trùng Dương tổ sư có viết đến cái giường hàn ngọc, mới chợt đại ngộ.

Tiểu Long Nữ nói:

– Chẳng lẽ tổ sư bà bà dùng cái giường hàn ngọc trị thương, cũng là nghịch hành kinh mạch hay sao?

Dương Quá nói:

– Không phải thế, phép nghịch hành kinh mạch này, tổ sư bà bà nhất định không biết, ta đoán rằng tổ sư bà bà đã bị thương bởi nội lực âm nhu, còn nàng thì ngược lại, bị thương bởi lực dương cương.

Tiểu Long Nữ gật đầu, lấy làm vui mừng.

Dương Quá nói:

– Việc không nên trì hoãn, hai ta hãy làm luôn.

Chàng tới kho ôm về một bó củi lớn, đốt lửa trong góc phòng, rồi đem phép nghịch hành kinh mạch bước thứ nhất truyền thụ cho Tiểu Long Nữ, dìu nàng ngồi trên cái giường hàn ngọc. Chàng thì ngồi bên đống lửa, giơ tay trái ấp vào lòng bàn tay phải của Tiểu Long Nữ, nói:

– Ta dẫn khí nóng ở đây xung các huyệt đạo cho nàng, nàng hãy cố dùng lực làm cho nội tức nghịch hành, xung khai lần lượt từ huyệt này đến huyệt khác, khi khí nóng đi tới cái giường hàn ngọc, thì thương thế bớt được một phần.

Tiểu Long Nữ cười, nói:

– Thiếp có cần lộn ngược người trồng cây chuối như chàng hay không?

Dương Quá nói:

– Cái đó chưa cần. Lộn ngược người trồng cây chuối, kinh mạch nghịch hành, huyệt đạo dễ thay đổi vị trí, khi lâm địch sẽ rất hữu dụng. Đôi ta thong thả trị thương, cứ việc ngồi như thường.

Tiểu Long Nữ giơ tay nắm cánh tay trái của chàng, mỉm cười, nói:

– Quách cô nương cũng chưa đến nỗi tệ, không chém cả hai cánh tay chàng.

Hai người vừa trải qua một phen cận kề cái chết, chuyện mất một cánh tay đã không coi là gì, Tiểu Long Nữ thậm chí còn đem ra nói đùa. Dương Quá cũng cười, nói:

– Nếu ta bị mất cả hai cánh tay, vẫn còn hai cẳng chân. Có điều dùng bàn chân giúp nàng hành công, thì không được thanh nhã cho lắm.

Tiểu Long Nữ cười xong, liền lẩm nhẩm ghi nhớ phép nghịch hành kinh mạch, lát sau nàng nói:

– Được rồi!

Dương Quá thấy lửa cháy đượm dần, ngầm vận nội tức, đang định bắt dầu hành công, bỗng kêu lên:

– Thôi chết, chút nữa quên thì nguy to!

Tiểu Long Nữ hỏi:

– Gì vậy?

Dương Quá chỉ bé Quách Tương đang nằm trên giường, nói:

– Chúng ta luyện đến thời khắc quyết định, lỡ tiểu cô nương ấy khóc gọi, thì hỏng hết!

Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Suýt chết!

Người tu luyện tối kỵ ngoại ma quấy nhiễu tâm trí. Năm nọ, Tiểu Long Nữ cùng Dương Quá luyện chung Ngọc nữ tâm kinh, bị Doãn Chí Bình và Triệu Chí Kính tình cờ đụng phải, Tiểu Long Nữ đã hộc máu, chút nữa thì mất mạng. Dạo ấy thân thể nàng đang khoẻ mạnh còn như vậy, nay đang trọng thương, làm sao chịu nổi sự quấy nhiễu?

Dương Quá pha nửa bát mật ong với nước, cho Quách Tương uống, rồi bế nó tới một gian thạch thất xa, khép hai lần cửa đá, để nó có khóc to cũng không vọng đến chỗ Tiểu Long Nữ, đoạn trở lại bên cái giường hàn ngọc, nói:

– Xung khai hết ba mươi sáu đại huyệt trên người nàng, ta nghĩ nhanh cũng mất mươi ngày, chậm thì phải nửa tháng. Suốt thời gian đó, không để sự vật bên ngoài làm phân tâm, cổ mộ này là nơi cách biệt hoàn toàn với trần thế, không chỗ nào bằng, dù nơi hoang sơn cùng cốc tĩnh lặng nhất, cũng vẫn còn gió mát trăng thanh, hoa thơm chim hót quấy nhiễu tâm trí.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thương thế của thiếp do phái Toàn Chân gây nên, nhưng tổ sư gia phái Toàn Chân lại tạo ra tòa cổ mộ, cái giường hàn ngọc để thiếp được yên ổn nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe, công tội của họ coi như hòa.

Dương Quá nói:

– Còn Kim Luân pháp vương thì sao? Chúng ta không thể tha cho lão.

Tiểu Long Nữ thở dài, nói:

– Chỉ cần thiếp sống được, chàng còn gì chưa thỏa mãn nữa chứ?

Dương Quá cầm tay nàng, nói:

– Long nhi nói rất phải! Lần này nàng khỏi rồi, hai ta vĩnh viễn sẽ không động thủ với ai nữa. Ông trời thương đôi ta lắm rồi!

Tiểu Long Nữ nói nhỏ:

– Đôi ta sẽ đi xuống phương nam, làm ruộng, nuôi gà, nuôi vịt..

Nàng xuất thần một lát, chợt cảm thấy một luồng nhiệt lực truyền sang lòng bàn tay, liền bắt đầu vận công theo phép nghịch hành kinh mạch mà Dương Quá vừa dạy.

Phép trị thương bằng cách nghịch hành kinh mạch với sự trợ giúp của cái giường hàn ngọc này quả nhiên có công hiệu lớn. Năm xưa Nhất Đăng đại sư dùng thần công “Nhất dương chỉ” đả thông huyệt đạo toàn thân cho Hoàng Dung khỏi trọng thương, đạo lý cũng như thế này, khác chăng là sử dụng Nhất dương chỉ trị thương thì hao tốn nội lực cực lớn, kiến hiệu rất nhanh, còn phép nghịch hành kinh mạch này của Dương Quá khó tránh tốn nhiều thời gian. Hơn nữa, dù là một đứa bé hoàn toàn không biết võ công bị trọng thương, người tinh thông Nhất dương chỉ cũng có thể dùng nội lực thâm hậu của mình đả thông huyệt đạo, cải tử hoàn sinh cho đứa bé. Đằng này Tiểu Long Nữ nếu không có căn cơ nội công thâm hậu, sở học với Dương Quá lại khác môn phái, thì dầu Âu Dương Phong có sống lại, Hoàng Dược Sư có đích thân đến giúp, nội tức của người cứu trị và người được cứu trị không hòa hợp với nhau, cũng quyết không thể khai thông vô số kinh mạch nghịch hành.

Dương Quá ngoài việc một ngày ba bữa cho Quách Tương uống mật ong và nấu bí đỏ làm món ăn, rất ít khi chàng rời chỗ Tiểu Long Nữ. Khi nghịch xung đại huyệt, có lần bốn, năm canh giờ bàn tay của hai người không thể rời ra. Lần Quách Tĩnh bị thương, Hoàng Dung tốn bảy ngày đêm giúp chồng trị thương. Tiểu Long Nữ thể chất đã không bằng Quách Tĩnh, lại bị thương nặng hơn, nên càng tốn thời gian hơn. May tòa cổ mộ là nơi hoàn toàn yên ổn, không bị nhiều kẻ địch kéo đến gây sự như hồi Quách Tĩnh trị thương ở Ngưu Gia thôn.

Ở bên ngoài cánh rừng hôm đó, Hoàng Dung sau khi dùng Lan hoa phất huyệt thủ chế ngự Lý Mạc Sầu, trở lại tìm Quách Tương không thấy, thì bồn chồn lo lắng, bèn chạy tới chỗ Lý Mạc Sầu quát hỏi:

– Đạo trưởng dùng ngụy kế gì giấu con ta ở đâu rồi?

Lý Mạc Sầu kinh ngạc, nói:

– Tiểu cô nương chẳng phải vẫn nằm trong hàng rào mây gai hay sao?

Hoàng Dung lo cuống cuồng như phát khóc, lắc đầu nói:

– Không thấy nữa.

Lý Mạc Sầu đã nuôi dưỡng Quách Tương hơn một tháng, rất yêu nó, đột nhiên nghe nó mất tăm thì sững sờ, buột miệng nói:

– Chỉ có Dương Quá hoặc Kim Luân pháp vương mang bé đi thôi.

Hoàng Dung hỏi:

– Tại sao?

Lý Mạc Sầu bèn thuật lại, ở bên ngoài thành Tương Dương mụ cùng Dương Quá và Kim Luân pháp vương tranh đoạt nhau bé Quách Tương như thế nào, kể đến chỗ nguy hiểm, Hoàng Dung bất giác cũng không khỏi rùng mình. Thấy thần sắc Lý Mạc Sầu ngơ ngác, chứng tỏ rằng quả thật mụ ta không biết, Hoàng Dung bèn giải huyệt cho mụ ta, tiện tay điểm huyệt Toàn Cơ ở ngực. Làm như thế, Lý Mạc Sầu hành động không khác bình thường, song trong vòng mười hai canh giờ mụ không thể đả thương người khác.

Lý Mạc Sầu cười gượng, đứng dậy, dùng cây phất trần phủi bùn đất trên người, nói:

– Nếu rơi vào tay Dương Quá thì không ngại, chỉ sợ bị lão giặc trọc Kim Luân pháp vương bắt đi thôi.

Hoàng Dung hỏi:

– Vì sao?

Lý Mạc Sầu đáp:

– Dương Quá tỏ ra rất tốt với đứa bé, xem chừng hắn hoàn toàn không có ý gia hại, vì thế ban đầu tiểu muội mới đoán đứa bé là con của hắn…

Mụ nói đến đó vội ngừng bặt, chỉ sợ làm cho Hoàng Dung tức giận.

Nhưng Hoàng Dung lúc này đang nghĩ việc khác. Hoàng Dung tưởng tượng lúc Dương Quá ác đấu với Lý Mạc Sầu và Kim Luân pháp vương, đã tận lực bảo hộ Quách Tương, thế mà mình và Quách Phù lại trách móc chàng, đến mức Quách Phù chém lìa cả cánh tay chàng. Hoàng Dung cảm thấy vô cùng ân hận, tự trách mình: “Ôi, Quá nhi đã cứu Tĩnh ca ca, cứu mình, cứu Phù nhi, lần này lại cứu Tương nhi… Nhưng mình cứ có thành kiến với nó, nghĩ phụ thân nó tác ác đa đoan, cha nào con nấy, bao lần mình không tin nó… đã không đối đãi tử tế với nó được vài ngày lại nghi ngờ nó. Hoàng Dung ơi là Hoàng Dung, mi tự phụ thông minh, hóa ra mi hoàn toàn không bằng Tĩnh ca ca trung hậu đối đãi với người”.

Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung nước mắt lưng tròng, biết Hoàng Dung lo cho sự an nguy của đứa con, bèn khuyên:

– Quách phu nhân, lệnh ái sinh hạ mới một tháng, đã gặp đại nạn, song không mất sợi tóc. Trông bé trắng trẻo khả ái như thế, ngay tiểu muội là ma đầu giết người không chớp mắt mà còn ưa thích nó, đủ biết phúc nó lớn lắm, suốt đời sẽ gặp hung hóa cát. Phu nhân cứ yên tâm, chúng ta hãy cùng đi tìm bé Quách Tương.

Hoàng Dung lấy vạt áo lau nước mắt, nghĩ Lý Mạc Sầu nói không sai, lại nghĩ: “Chân thành đối đãi với người là hay nhất. Từ nay trở đi, thà để người phụ ta, chứ ta sẽ không phụ người”. Bèn đưa tay giải luôn huyệt Toàn Cơ cho Lý Mạc Sầu, nói:

– Lý đạo trưởng muốn cùng đi tìm Tương nhi, tiểu muội cảm kích bội phần. Nhưng nếu đạo trưởng có việc khác cần kíp, thì chúng ta hãy từ biệt ở đây, hẹn gặp lại sau.

Lý Mạc Sầu nói:

– Việc cần kíp nào cũng không bằng việc đi tìm bé Quách Tương. Phu nhân hãy chờ một chút!

Đoạn mụ chạy tới một cái hốc cây lớn, cởi dây trói chân con báo, vỗ nhẹ vào mông nó, nói:

– Ta thả cho mi đi đó.

Con báo kêu khẽ một tiếng, lao vào đám cỏ cao.

Hoàng Dung kinh ngạc hỏi:

– Con báo làm gì vậy?

Lý Mạc Sầu cười, đáp:

– Nó là vú em của lệnh ái đấy!

Hoàng Dung mỉm cười, hai người cùng đi tới tiểu thị trấn, thấy Quách Phù đang đứng ở đầu đường ngóng cổ trông đợi. Nhìn thấy Hoàng Dung, nàng mừng rỡ chạy lại, nói:

– Mẹ, muội muội đã bị…

Nói chưa hết câu, nhìn rõ người đi sau mẹ là Lý Mạc Sầu, thì không khỏi cả kinh. Nàng từng giao đấu với Lý Mạc Sầu, vẫn nghe huynh đệ họ Võ nhắc đến mối thù mẹ họ bị giết, nàng từ lâu đã coi Lý Mạc Sầu là kẻ độc ác nhất trên thế gian.

Hoàng Dung nói:

– Lý đạo trưởng sẽ giúp chúng ta đi tìm tiểu muội của ngươi. Ngươi bảo muội muội bị sao?

Quách Phù nói:

– Muội muội đã bị Dương Quá mang đi, hắn còn cướp cả con tiểu hồng mã của con. Mẹ nhìn thanh kiếm này mà xem.

Rồi giơ thanh kiếm cong veo ra, nói:

– Hắn dùng ống tay áo rỗng phẩy một cái, thanh kiếm văng vào tường bị cong đi thế này.

Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu cùng nói:

– Dùng ống tay áo?

Quách Phù nói:

– Vâng, đúng là tà môn! Không ngờ hắn lại học được yêu pháp.

Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu nhìn nhau, cùng kinh hãi. Cả hai hiểu rằng một người luyện nội lực đến cảnh giới cực cao, quả có thể biến dải lụa thành cây gậy, lấy nhu đánh cương, song phải gặp được minh sư, có thiên tư dị thường, chí ít phải luyện nội công ba, bốn chục năm. Đằng này Dương Quá còn ít tuổi, đạt tới cảnh giới ấy thật hiếm có. Hoàng Dung nghe bảo Quách Tương bị Dương Quá mang đi, thì đỡ lo hẳn. Lý Mạc Sầu thì nghĩ: “Tên tiểu tử công phu luyện đến bước này, nhất định là nhờ nắm được Ngọc nữ tâm kinh của sư phụ ta. Bây giờ ta có Quách phu nhân đi cùng, ta giúp Quách phu nhân giành lại đứa bé, Quách phu nhân giúp ta đoạt Ngọc nữ tâm kinh. Ta là đại đệ tử bổn phái, sư muội tuy được sư phụ yêu mến, nhưng sư muội liên tiếp vi phạm môn qui, tâm kinh sao có thể để lọt vào tay nam tử?” Mụ nghĩ thế và cảm thấy phấn chấn hẳn lên.

Hoàng Dung hỏi rõ hướng đi của Dương Quá, nói:

– Phù nhi, ngươi cũng không cần về đảo Đào Hoa nữa, hãy theo ta đi tìm Dương đại ca.

Quách Phù cả mừng, nói:

– Hay quá!

Nhưng nghĩ nếu gặp Dương Quá, nàng lại hết sức ngượng ngùng. Hoàng Dung nặng mặt, nói:

– Khi gặp lại Dương đại ca, bất kể Dương đại ca có giận ngươi hay không, ngươi cũng phải thành khẩn tạ tội với Dương đại ca, nghe chưa.

Quách Phù trong bụng không phục, nói:

– Để làm gì? Chẳng phải hắn đã cướp muội muội đi đó sao?

Hoàng Dung kể sơ những lời nghe được từ Lý Mạc Sầu, nói:

– Dương đại ca nếu có ý xấu, muội tử của ngươi còn sống được đến hôm nay ư? Hơn nữa, cái phất ống tay áo của Dương đại ca nếu không nhằm vào thanh kiếm, mà vào đầu ngươi, thì ngươi sẽ ra sao rồi?

Quách Phù nghe mẹ nói vậy, không khỏi rùng mình, nghĩ thầm: “Không lẽ hắn thủ hạ lưu tình thật à?” Nàng từ bé được mẹ nuông chiều, nên cố cãi:

– Hắn ôm muội muội phóng về hướng bắc, chẳng phải là đến Tuyệt Tình cốc thì còn đi đâu?

Hoàng Dung lắc đầu, nói:

– Không, Dương đại ca nhất định sẽ đến núi Chung Nam.

Quách Phù bĩu môi, nói:

– Mẹ còn bênh hắn nữa! Nếu quả thật hắn có hảo ý sao hắn không mang muội muội về thành Tương Dương giao cho chúng ta, lại mang đến núi Chung Nam?

Hoàng Dung thở dài:

– Ngươi cùng Dương đại ca lớn lên từ nhỏ mà vẫn không hiểu tính khí của Dương đại ca? Hắn vốn tâm cao khí ngạo, không chịu để kẻ khác sỉ nhục, tự dưng bị ngươi chém mất một cánh tay, lấy mạng ngươi thì hắn không nỡ, nhưng bỏ qua thì không đâu. Cho nên hắn mới mang muội tử của ngươi đi để chúng ta lo cuống lên, ít ngày sau hắn nguôi giận, sẽ tự mang Tương nhi về cho chúng ta. Ngươi hiểu chưa? Tại ngươi mà Dương đại ca bắt trộm muội tử của ngươi mang đi đó!

Hoàng Dung đến phạn điếm ban nãy, mượn giấy bút viết mấy chữ, đưa hai lạng bạc nhờ điếm tiểu nhị mang tới thành Tương Dương cho Quách Tĩnh. Điếm tiểu nhị nói:

– Quách đại hiệp đánh giặc, bảo vệ trăm họ, đúng là phật sống của vạn nhà, tiểu nhân được làm chút gì cho Quách đại hiệp đã là niềm vinh hạnh lớn lao.

Nói thế nào y cũng không chịu nhận bạc, cầm bức thư hăm hở đi ngay. Quách Phù thấy bách tính kính nể phụ thân mình như vậy, trong bụng rất đắc ý.

Ba người liền mua ngựa, khởi hành đi đến núi Chung Nam. Quách Phù không ưa Lý Mạc Sầu, dọc đường hầu như không trò chuyện với mụ ta, bất đắc dĩ phải nói, thì sắc mặt nàng rất lạnh nhạt. Ngày đi đêm nghỉ, dọc đường vô sự. Chiều hôm nay ba người đang cưỡi ngựa đi, đột nhiên có người phóng ngựa chạy ngược lại.

———-

GHI CHÚ: Theo ghi chép trong sử sách, Doãn Chí Bình thay Khưu Xứ Cơ làm chưởng giáo phái Toàn Chân, sau đó tiếp nhiệm chức chưởng giáo lần lượt là: Lý Chí Thường, Trương Chí Kính, Vương Chí Thản, Kỳ Chí Thành. Còn Triệu Chí Kính chỉ là nhân vật hư cấu trong bộ tiểu thuyết.

Hồi 29: Kiếp nạn trùng trùng

Quách Phù kêu lên:

– Là con tiểu hồng mã của hài nhi, là con…

Tiếng kêu chưa dứt, con tiểu hồng mã đã phi đến trước mặt. Con ngựa nhận ra chủ nhân, không đợi nàng giơ tay giữ cương, đã dừng phắt lại, nghển cổ hí lên vui mừng.

Quách Phù nhìn người cưỡi con tiểu hồng mã là hắc y thiếu nữ mình từng gặp và từng sánh vai giao đấu với Lý Mạc Sầu, chính là Hoàn Nhan Bình. Chỉ thấy Hoàn Nhan Bình tóc rối tung, mặt tái nhợt, vẻ hoảng hốt. Quách Phù nói:

– Hoàn Nhan tỷ tỷ, tỷ tỷ làm sao vậy?

Hoàn Nhan Bình giơ tay chỉ con đường phía sau, nói.

– Mau… mau…

Đột nhiên lảo đảo ngã ngựa. Quách Phù đỡ nàng ta dậy, nói với mẹ:

– Mẹ, đây là Hoàn Nhan tỷ tỷ.

Rồi trừng mắt nhìn Lý Mạc Sầu một cái.

Hoàng Dung nghĩ: “Nó cưỡi con tiểu hồng mã phi nhanh, thiên hạ không ai có thể đuổi kịp, vốn không có gì nguy hiểm. Nhưng nó lại chỉ tay về phía bắc, vẻ hốt hoảng, tất là nó lo cho người khác, ta phải mau đến cứu người”. Bèn bảo Quách Phù ôm Hoàn Nhan Bình cưỡi chung ngựa, nói:

– Con ngựa ấy phi quá nhanh, ngươi nhất thiết không được vượt lên trước ta đó, nghe chưa?

Quách Phù hỏi:

– Vì sao?

Hoàng Dung nói:

– Đằng trước có nguy hiểm lớn, ngươi không biết ư?

Đoạn vẫy tay với Lý Mạc Sầu, hai người phóng ngựa về phía bắc.

Chạy hơn mười dặm, quả nhiên nghe từ phía sườn núi bên kia vọng lại tiếng binh khí va chạm nhau. Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu phóng ngựa vòng qua sườn núi, thấy trên bãi trống phía trước có năm người đang giao chiến ác liệt. Trong đó, hai người là huynh đệ họ Võ, một nam một nữ đều còn trẻ tuổi, Hoàng Dung không biết mặt, bốn người liên thủ chống một trung niên hán tử. Tuy bốn địch một, nhưng họ phần nhiều chỉ chống đỡ, ít tấn công; huynh đệ họ Võ đều đã bị thương, chàng thiếu niên múa kiếm chống đỡ hầu hết chiêu số của hán tử. Gần đó có một người đang nằm dưới đất, miệng không ngớt kêu la, chính là Võ Tam Thông.

Hoàng Dung thấy gã hán tử tay trái cầm một thanh đại đao vàng chóe, tay phải cầm một thanh kiếm đen và nhỏ, chiêu số kỳ ảo, bình sinh chưa gặp, nếu mình không xuất thủ, huynh đệ họ Võ ắt gặp đại nguy, bèn nói với Lý Mạc Sầu:

– Hai gã thiếu niên kia là đồ nhi của tiểu muội.

Lý Mạc Sầu cười khẩy, nghĩ: “Mẫu thân của chúng là do ta giết, ta há không biết chúng là ai?” Mụ thấy trung niên hán tử võ công cao cường lạ lùng, nhân vật này chưa từng gặp trên giang hồ, mụ thầm kinh ngạc, mỉm cười, nói:

– Cho mi nghỉ này!

Cây phất trần được rút ra. Hoàng Dung cũng đã cầm cây gậy trúc trong tay. Hai người từ hai bên tả hữu cùng xông vào. Cây phất trần của Lý Mạc Sầu tấn công thanh hắc kiếm, cây gậy trúc của Hoàng Dung thì công kích thanh kim đao.

Trung niên hán tử chính là cốc chủ Tuyệt Tình cốc Công Tôn Chỉ. Hắn đột nhiên thấy có hai thiếu phụ xinh đẹp cùng xông tới tấn công mình thì lòng rung động. Chỉ nghe Lý Mạc Sầu kêu “Một!” cây phất trần xuất chiêu, mụ kêu “Hai!” Thì ra mụ ngầm thi thố với Hoàng Dung, xem ai đánh rơi binh khí khỏi tay đối phương trước. Nhưng mụ đếm đến “Mười” mà Công Tôn Chỉ vẫn công thủ như thường. Chàng thiếu niên đâm liền ba kiếm phía sau lưng Công Tôn Chỉ, kiếm thế rất hiểm, Công Tôn Chỉ không chống đỡ, mà nhảy vọt hơn một trượng về phía trước, thoát ra khỏi vòng vây, nghĩ bụng nếu đấu tiếp nhất định hắn sẽ bị thua, bèn đưa mắt nhìn Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu một cái, nghĩ: “Ở đâu ra hai nữ tướng lợi hại và xinh đẹp thế không biết?” Hắn gõ đao kiếm vào nhau coong một tiếng, bay người tới.

Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu không dám khinh địch, giơ binh khí nghiêm thủ môn hộ, ai ngờ Công Tôn Chỉ đang lơ lửng trên không liền xoay mình, sau khi tiếp đất nhún mình mấy lần đã đến sườn đồi. Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu nhìn nhau mỉm cười, nghĩ: “Hán tử kia võ công đã cao cường, lại còn giảo hoạt, một mình đấu với hắn, e không địch nổi”.

Huynh đệ họ Võ tay giữ vết thương, tiến lại cúi chào sư mẫu, rồi trừng mắt nhìn Lý Mạc Sầu.

Hoàng Dung nói:

– Món nợ cũ tạm thời gác lại, thương thế của phụ thân các ngươi không sao chứ? Hai vị kia là ai vậy? Thôi chết, nguy mất! Lý đạo trưởng, mau theo tiểu muội!

Hoàng Dung không kịp lên ngựa, lao vút ngược đường vừa tới. Lý Mạc Sầu chưa hiểu ý, song cũng chạy theo, gọi:

– Chuyện gì vậy?

Hoàng Dung nói:

– Phù nhi, Phù nhi sẽ đụng hắn mất!

Hai người chạy rất nhanh, nhưng Công Tôn Chỉ cước lực nhanh không kém, chẳng mấy chốc đã xa hơn một dặm.

Chỉ thấy Quách Phù hai tay ôm ngang eo Hoàn Nhan Bình, cưỡi con tiểu hồng mã, đang thong thả đi tới. Hoàng Dung từ xa gọi to:

– Phù nhi, cẩn thận!

Tiếng gọi chưa dứt, Công Tôn Chỉ đã nhanh chân vọt lên lưng ngựa, một tay khống chế Quách Phù, một tay kéo dây cương muốn quay đầu ngựa. Hoàng Dung chụm môi huýt sáo, con tiểu hồng mã nghe tiếng chủ gọi, liền chạy lại. Công Tôn Chỉ kinh ngạc, nghĩ thầm: “Hôm nay hành sự sao xúi quẩy thế này, đến con ngựa cũng làm trái ý ta?” Hắn kéo mạnh dây cương; con tiểu hồng mã hí một tiếng dài, đứng dựng hai vó trước. Công Tôn Chỉ tuy ép được nó quay đầu, hắn muốn phi về hướng nam, nhưng con ngựa lại giậm chân bước lùi. Hoàng Dung cả mừng, lao tới gần. Công Tôn Chỉ thấy con tiểu hồng mã quật cường vô tỉ, Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu sắp đuổi kịp, bèn nhét binh khí vào bao, tay phải kẹp Quách Phù, tay trái kẹp Hoàn Nhan Bình, xuống ngựa chạy bộ. Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu đều có khinh công hạng nhất, không lâu đuổi kịp, chỉ còn cách mươi bước. Công Tôn Chỉ xoay người lại, cười, nói:

– Ta chỉ ép lại một chút, hai đóa hoa tươi này còn sống nổi chăng?

Hoàng Dung nói:

– Các hạ là ai? Chúng ta không quen biết, tại sao các hạ lại bắt con gái của ta?

Công Tôn Chỉ cười, nói:

– Cô nương này là con của phu nhân ư? Thì ra là Hoàn Nhan phu nhân.

Hoàng Dung chỉ Quách Phù, nói:

– Kia mới là con gái của ta!

Công Tôn Chỉ nhìn Quách Phù một cái, lại nhìn Hoàng Dung một cái, cười hi hí, nói:

– Cả hai mẹ con đều đẹp quá trời!

Hoàng Dung cả giận, có điều con gái đang bị hắn khống chế, đánh chuột sợ vỡ bình quí, trước tiên đành tính kế hoãn binh, đang định nói, bỗng vèo vèo có hai mũi tên từ phía sau lưng bên trái bay thẳng rất gấp tới trước mặt Công Tôn Chỉ. Hoàng Dung nghe tiếng tên bay, tưởng là Quách Tĩnh đã đến, vô cùng mừng rỡ. Các cao thủ võ lâm Trung Nguyên thường không luyện thuật bắn cung; các võ sĩ Mông Cổ tuy giỏi về tiễn pháp, nhưng nội lực lại kém, không phóng được xa. Hai mũi tên bay rít lên như vừa rồi, trừ do Quách Tĩnh bắn ra, Hoàng Dung bình sinh chưa thấy người thứ hai nào có công lực như vậy. Nhưng hai mũi tên bay nửa chừng thì rõ ra là còn thua xa, Hoàng Dung biết không phải do chồng mình phóng đi. Công Tôn Chỉ thấy tên bay đến bèn há miệng cắn lấy mũi tên thứ nhất, rồi dùng thân nó gạt mũi tên thứ hai rơi xuống đất. Hoàng Dung nghĩ: “Hai mũi tên nếu do Tĩnh ca ca bắn, ngươi dùng miệng cắn như thế thì nó đã xuyên vào họng ngươi rồi”. Đang nghĩ thế, chỉ thấy tiếng các mũi tên rít liên tiếp, chín mũi tên liền bay tới giữa trán Công Tôn Chỉ, khiến hắn chân tay luống cuống, vội thả hai thiếu nữ xuống, rút kiếm gạt tên.

Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu chạy đến, định cứu hai thiếu nữ, thì thấy một cái bóng xám lăn tới ôm Quách Phù lăn sang bên đường, người ấy đang định bật dậy, thì Công Tôn Chỉ tay trái chưa kịp rút kim đao, bèn tung chưởng giáng xuống đỉnh đầu người ấy.

Người ấy nằm ngang dưới đất, giơ chưởng chống đỡ song chưởng đụng nhau, “bùng” một tiếng, bụi đất bay tung tóe. Công Tôn Chỉ thốt lên:

– Khá khen!

Chưởng thứ hai đã đánh tiếp. Hoàng Dung thấy người kia khó bề chống trả, cây Đả cẩu bổng sử liền yếu quyết chữ “Phong”, đón lấy chưởng ấy. Công Tôn Chỉ thấy địch nhân hợp vây, biết hôm nay xúi quẩy, bèn cười ha ha, lùi ba bước, quay người bỏ đi. Thân pháp uyển chuyển, phong thái anh võ, khiến bọn Hoàng Dung không dám đuổi theo.

Người đó ôm Quách Phù đứng dậy, buông tay ra. Hoàng Dung thấy người ấy lưng đeo cung tên, thân cao vai rộng, chính là chàng thiếu niên sử kiếm ban nãy, mười một mũi tên liên châu dĩ nhiên do chàng ta phóng đi. Quách Phù bị Công Tôn Chỉ kiềm chế, nhưng không bị thương, nói:

– Gia Luật đại ca, đa tạ đã cứu muội.

Nói rồi đỏ mặt, hết sức ngượng ngùng. Lúc ấy Võ Tu Văn và một thiếu nữ cũng đã chạy đến, còn Võ Đôn Nhu thì đang săn sóc Võ Tam Thông. Về lý mà nói, Võ Tu Văn phải dẫn kiến mọi người mới phải, nhưng y đang hầm hầm tức giận, mắt nhìn Lý Mạc Sầu như tóe lửa, quên hết mọi chuyện bên mình, Hoàng Dung gọi y liền mấy tiếng, y cũng không nghe thấy. Lý Mạc Sầu thì khoanh tay đứng một chỗ cách xa ngắm cảnh, chẳng để ý đến mọi người.

Quách Phù chỉ chàng thiếu niên vừa cứu mình, nói với mẹ:

– Đây là Gia Luật Tề Gia Luật đại ca.

Đoạn chỉ thiếu nữ cao cao, nói:

– Còn đây là Gia Luật Yến Gia Luật tỷ tỷ.

Hoàng Dung khen:

– Công phu của hai vị khá lắm.

Huynh muội Gia Luật cùng nói:

– Quách phu nhân quá khen!

Rồi bước tới hành lễ.

Hoàng Dung nói:

– Ta thấy võ công của hai người là theo phái Toàn Chân, không rõ là môn hạ của vị nào trong Toàn Chân thất tử?

Hoàng Dung thấy võ công của Gia Luật Tề rất cao, trong số bọn trẻ, trừ Dương Quá ra hiếm ai được như y, đoán y không phải là đệ tử đời thứ tư của phái Toàn Chân. Gia Luật Yến nói:

– Công phu của tiểu nữ là do ca ca truyền dạy.

Hoàng Dung gật đầu, nhìn Gia luật Tề. Gia Luật Tề thưa:

– Trưởng bối đã hỏi, lẽ ra phải bẩm cáo sự thật. Nhưng sư phụ vãn bối đã dặn không được nói ra danh tính của người, mong Quách phu nhân lượng thứ.

Hoàng Dung ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Toàn Chân thất tử làm gì có thứ qui củ lạ lùng ấy? Gã thiếu niên này võ công nhân tài đều khá, sao lại không dám nói ra?” Chợt nghĩ ra điều gì, đột nhiên cười ha hả đến mức phải cong cả người, rõ ràng nghĩ đến một chuyện gì hết sức hoạt kê và lý thú. Quách Phù lấy làm lạ, nói:

– Mẹ, có gì tức cười?

Nàng nghe mẹ hỏi đến môn phái sư thừa của Gia Luật Tề một cách nghiêm trang, rồi tự dưng cười như thế, e Gia Luật Tề sẽ buồn, nên trong bụng rất ngượng, nói thêm:

– Mẹ, Gia Luật đại ca không tiện nói thì thôi, có gì tức cười kia chứ?

Hoàng Dung vẫn cười không nói. Gia Luật Tề cũng cười cười nói:

– Thì ra Quách phu nhân đoán được.

Quách Phù ngơ ngác, ngoảnh sang nhìn Gia Luật Yến, thì thấy nàng ta cũng ngơ ngác không hiểu hai người kia cười cái gì.

Lúc này Võ Tu Văn quì chân trái xuống đất, băng bó vết thương cho Hoàn Nhan Bình. Lúc nãy nàng bị Công Tôn Chỉ ôm chạy, làm sai khớp chân phải. Hoàng Dung hỏi:

– Tu nhi, thương thế của phụ thân ngươi ra sao?

Võ Tu Văn nói:

– Gia gia bị trúng một kiếm của Công Tôn Chỉ vào chân trái, may không động tới gân cốt.

Hoàng Dung gật đầu, bước qua vuốt bờm con tiểu hồng mã, nói:

– Mã nhi ơi mã nhi, cả nhà họ Quách ta thật khó báo đáp ân tình của mi.

Thấy Võ Tu Văn trước sau không hề trò chuyện với Quách Phù, song lại hết sức ân cần săn sóc Hoàn Nhan Bình, chẳng hiểu là y cố ý làm thế cho Quách Phù thấy, hay là quả thực y đã có tình ý với Hoàn Nhan Bình. Hoàng Dung bảo y:

– Ta hãy cùng lại xem phụ thân ngươi thế nào rồi.

Võ Tam Thông đang ngồi, thấy Hoàng Dung tới, liền chào “Quách phu nhân” và đứng dậy, nhưng vì bị thương ở chân, nên loạng choạng. Võ Đôn Nhu và Gia Luật Yến cùng giơ tay đỡ, hai người chạm tay vào nhau, bất giác nhìn nhau mỉm cười. Hoàng Dung cười thầm: “Hay chưa, lại một cặp nữa? Mấy hôm trước huynh đệ ngươi còn đánh nhau chí chết vì Phù nhi, hôm nay gặp cô nương xinh xắn khác, đã quên biến mọi chuyện cũ rồi”. Đột nhiên nhớ đến Quách Tĩnh, không khỏi tự hào, Tĩnh ca ca đối với mình nhất mực chân tình, đúng là phú quí không màng, hiểm nguy chẳng ngại, bọn thanh niên kia làm sao sánh nổi Tĩnh ca ca? Hoàng Dung lại nghĩ đến Dương Quá, thấy ái tình của hắn với Tiểu Long Nữ tuy không tương xứng thân phận, trái ngược luân thường, nhưng kiên trinh, sống chết không lay chuyển, thật khiến cho người ta phải kính phục. Huynh đệ họ Võ sống cùng Quách Phù ở đảo Đào Hoa từ bé đến lúc trưởng thành, một là trên đảo không có thiếu nữ nào khác, hai là lâu ngày tự nhiên sinh tình, nếu bảo hai người không chung tình với Quách Phù, thì chẳng hợp tình lý chút nào. Sau đó họ bỗng biết rằng Quách Phù đối với họ hoàn toàn không có tình ý gì, tất nhiên họ tuyệt vọng, cho rằng sống trên đời chẳng còn lạc thú gì nữa; ai dè ít ngày sau lại gặp Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình, mà hai thiếu nữ ấy tựa hồ mỗi người có duyên với huynh đệ họ. Lúc này huynh đệ họ Võ gặp lại Quách Phù, thầm so sánh trong lòng, đúng là nhìn người tình cứ ngỡ Tây Thi, cảm thấy ý trung nhân của mình chẳng những không có điểm nào thua Quách Phù, mà còn hơn hẳn. Một người thì nghĩ: “Gia Luật cô nương hào sảng hòa khí, đâu có nũng na nũng nịu, hẹp hòi như Quách Phù?” Một người thì nghĩ: “Hoàn Nhan cô nương hết sức dễ thương, hiền hậu, đâu có ngang ngược khó chịu như Quách Phù?” Huynh đệ họ Võ đã thề suốt đời sẽ không nhìn mặt Quách Phù nữa, nhưng ngẫu nhiên chạm trán, không tránh nhau được, đều nghĩ: “Hôm nay ta không hề có ý tìm gặp nàng ta, không thể coi là làm trái lời thề”.

Quách Phù nhớ lại lúc mình bị Công Tôn Chỉ bắt, Gia Luật Tề ra tay cứu nàng, mấy lần cứ liếc trộm chàng ta, thấy chàng cao lớn, anh tuấn, không khỏi lấy làm lạ: “Năm ngoái mình đã gặp chàng, sau đó quên luôn, không ngờ võ công của chàng cao cường đến thế. Mẹ mình cười vui với chàng, không biết vì chuyện gì?”

Hoàng Dung xem vết thương ở chân cho Võ Tam Thông, may không đáng ngại. Thế là mọi người kể lại sự tình vừa qua.

Hôm ấy Võ Tam Thông, Chu Tử Liễu, cùng vị sư thúc Thiên Trúc cao tăng đi Tuyệt Tình cốc tìm giải dược, vừa ra khỏi thành Tương Dương, thì Võ Tam Thông gặp hai đứa con trai. Võ Tam Thông ngạc nhiên, chỉ lo hai đứa lại quyết đấu, vội bảo Chu Tử Liễu đưa sư thúc đi trước, còn mình thì quát hỏi hai đứa con.

Thì ra hai đứa chúng từng thề với Dương Quá không nhìn mặt Quách Phù nữa, nên chúng không muốn ở thêm ngày nào trong thành Tương Dương. Võ Tam Thông yên tâm, tán thưởng:

– Hảo hài nhi, có chí khí!

Lại nói:

– Dương huynh đệ xả thân cứu cha con ta, hiện thời y gặp nạn, làm sao chúng ta có thể không nghĩ cách báo đáp? Ba cha con ta hãy cùng đi Tuyệt Tình cốc.

Nhưng Tuyệt Tình cốc cứ như chốn đào nguyên ở ngoài trần gian, tuy từng nghe Dương Quá cho biết sơ qua phương vị sở tại, song tìm cốc khẩu không dễ chút nào. Chu Tử Liễu và Thiên Trúc cao tăng thì không thấy tăm hơi, đã bị Cầu Thiên Xích sai đệ tử dùng lưới bắt giữ. Ba cha con Võ Tam Thông mấy phen cứu viện không thành, suýt nữa cũng bị bắt, đành rút lui, định trở về thành Tương Dương cầu cứu, đang đi lại gặp Công Tôn Chỉ, hắn nói ba người tự tiện xông vào cấm địa, thế là động thủ. Võ Tam Thông bị trúng một kiếm vào chân, Công Tôn Chỉ cũng không có ý lấy mạng ba người, chỉ đuổi họ đi cho mau, cấm từ rày không được lai vãng. Đúng lúc ấy huynh muội Gia Luật Tề và Hoàn Nhan Bình phóng ngựa đi ngoài đường lớn. Ba người ấy từng cùng huynh đệ họ Võ liên thủ chống địch, họ bèn xuống ngựa thăm hỏi nhau. Công Tôn Chỉ đứng gần lạnh lùng quan sát, hắn đã không được thành hôn với Tiểu Long Nữ, còn bị bà vợ đuổi đi, chính đang lang thang, bỗng thấy Hoàn Nhan Bình trẻ trung xinh xắn, liền nổi tà tâm, đột nhiên xuất thủ cướp nàng. Huynh muội Gia Luật Tề và cha con họ Võ liên thủ đấu với Công Tôn Chỉ. Võ Tam Thông nếu không bị thương, thì sáu người cũng có thể chống chọi với Công Tôn Chỉ, nhưng lão bị thương rồi, chỉ còn một mình Gia Luật Tề võ công cao cường, nên họ đánh không lại hắn. May thấy con tiểu hồng mã một mình trên đường từ núi Chung Nam về thành Tương Dương, Võ Tu Văn liền gọi nó lại, để Hoàn Nhan Bình cưỡi nó chạy thoát đi; thiết tưởng Công Tôn Chỉ không cướp được nàng, sẽ tự bỏ đi; không ngờ Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu lại tới cứu.

Hoàng Dung nghe xong, cũng đem việc Dương Quá bị mất cánh tay, đoạt đứa bé sơ sinh mang đi, kể sơ qua một lượt. Võ Tam Thông kinh ngạc, vội giải thích tình hình hôm ấy, nói:

– Dương huynh đệ nhất mực can đảm nhiệt thành, chỉ vì muốn cứu hai tên súc sinh của lão phu, để chúng khỏi tàn sát lẫn nhau, mà rơi vào chốn nguy hiểm, cuối cùng đến cơ sự ấy.

Nghĩ Dương Quá bị mất cánh tay là bởi hai đứa con của lão, Võ Tam Thông càng nghĩ càng giận, liền chỉ mặt Võ Đôn Nhu và Võ Tu Văn mà chửi.

Huynh đệ họ Võ đang cùng huynh muội Gia Luật Tề và Hoàn Nhan Bình trò chuyện vui vẻ, lát sau Quách Phù cũng nhập cuộc, sáu người cùng trang lứa, vừa rồi lại cùng trải qua một phen ác chiến, nhắc đến Công Tôn Chỉ là kẻ cùng hung cực ác phải bỏ chạy, họ đang cao hứng, chợt nghe Võ Tam Thông lớn tiếng chửi:

– Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn, hai tên súc sinh, Dương Quá đối với hai đứa ngươi đại nhân đại nghĩa, thế mà các ngươi lại làm cho Dương huynh đệ liên lụy, bị mất cánh tay, các ngươi thử nghĩ xem, họ Võ phải làm gì để chuộc tội đây?

Võ Tam Thông đỏ mặt tía tai, càng chửi càng hăng; nếu chân không bị thương, hẳn lão đã xông vào đấm đá. Huynh đệ họ Võ không hiểu tại sao cha mình tự dưng lại nổi giận, họ đưa mắt nhìn trộm Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình, cảm thấy trước mắt mỹ nhân mà bị cha nhiếc là tên súc sinh thì thật mất hết thể diện, lỡ phụ thân lại lôi chuyện hai đứa đánh nhau vì Quách Phù nữa thì chỉ có nước độn thổ. Hai người cứ nhìn nhau, chẳng biết nên làm thế nào. Hoàng Dung thấy tình thế ấy, bèn khuyên:

– Võ huynh cũng đừng quá buồn, Dương Quá bị mất cánh tay hoàn toàn là do tiểu muội nuông chiều nữ nhi, không nghiêm gia giáo. Hôm ấy Quách gia nhà tiểu muội cũng cả giận, định chém một cánh tay của Phù nhi đi đó.

Võ Tam Thông nói to:

– Đúng, phải chém mới được!

Quách Phù lườm Võ Tam Thông, nghĩ: “Cái gì mà phải chém mới được?” Nếu không có mặt mẹ ở đây, chắc nàng đã lên tiếng cãi lại. Hoàng Dung nói:

– Võ huynh, vừa rồi nói rõ, hóa ra chúng ta đã trách nhầm Dương Quá. Bây giờ có hai việc lớn. Thứ nhất, chúng ta phải đi tìm Dương Quá để chuộc lỗi với y.

Võ Tam Thông luôn miệng:

– Phải đấy, phải đấy!

Hoàng Dung nói tiếp:

– Thứ hai, cần đến Tuyệt Tình cốc cứu lệnh sư thúc và Chu đại ca, đồng thời xin giải dược cho Dương Quá. Nhưng không biết Chu đại ca bị bắt như thế nào, có nguy đến tính mạng hay không?

Võ Tam Thông nói:

– Sư thúc và sư đệ của ta bị bắt bằng lưới, gọi là ngư võng trận, bị nhốt trong thạch thất. Song cái mụ Cầu Thiên Xích chưa tính lấy mạng họ ngay đâu.

Hoàng Dung gật đầu, nói:

– Ồ, nếu vậy chúng ta nên đi tìm Dương Quá trước đã, rồi sẽ cùng y đến Tuyệt Tình cốc cứu người. Lấy được giải dược sẽ cho y uống liền, tránh để lâu e nguy đến tính mạng.

Võ Tam Thông nói:

– Đúng đấy, nhưng không biết hiện giờ Dương Quá đang ở đâu?

Hoàng Dung chỉ con tiểu hồng mã, nói:

– Con ngựa mới do Dương Quá mượn đi, chỉ cần để nó chạy trở lại đường cũ, ắt sẽ tìm thấy Dương Quá.

Võ Tam Thông cả mừng, nói:

– Hôm nay không có Quách phu nhân túc trí đa mưu, lão phu cứ chạy loạn lên cũng chẳng biết phải làm thế nào.

Hoàng Dung mỉm cười, không nhắc nửa lời đến việc tìm bé Quách Tương, đã kéo được Võ Tam Thông đi theo, lại nghĩ: “Cha con Võ Tam Thông đã cùng đi, thì ba kẻ trẻ tuổi kia cũng sẽ đi cùng, có thêm vài trợ thủ càng hay”. Bèn nói với Gia Luật Tề:

– Gia Luật tiểu ca nếu không có việc gì cần kíp, hãy cùng đi một thể cho vui.

Gia Luật Tề chưa kịp đáp, Gia Luật Yến vô tay reo:

– Hay, hay đấy ca ca, chúng mình cùng đi đi!

Gia Luật Tề nhìn Quách Phù, thấy ánh mắt khích lệ của nàng, bèn cúi mình nói:

– Xin tùy Võ tiền bối và Quách phu nhân phân phó. Huynh muội được hai vị giáo ích thêm, thật không còn gì bằng.

Hoàn Nhan Bình cũng vui vẻ gật đầu.

Hoàng Dung nói:

– Chúng ta tuy không đông, song cũng cần có người phát ra hiệu lệnh. Võ huynh, mọi người xin nghe theo hiệu lệnh của huynh đó.

Võ Tam Thông xua tay lia lịa, nói:

– Có Quách phu nhân thần cơ diệu toán, làm nữ quân sư không thua gì Gia Cát Lượng, còn ai bằng nữa? Tất nhiên phải nhờ phu nhân thôi.

Hoàng Dung cười, nói:

– Bọn trẻ chắc là chịu, chỉ sợ Võ huynh không chịu tuân lệnh của tiểu muội thôi.

Võ Tam Thông nói to:

– Phu nhân nói gì vậy? Dẫu dầu sôi lửa bỏng, lão phu cũng không dám từ nan.

Hoàng Dung nói:

– Trước mặt nhiều tiểu bối ở đây, Võ huynh không được nuốt lời đấy.

Võ Tam Thông đỏ mặt, nói:

– Dù không có ai, lão phu cũng nói sao làm vậy.

Hoàng Dung nói:

– Được! Lần này chúng ta đi tìm Dương Quá, xin giải dược, cứu sư thúc và sư đệ của Võ huynh, mọi người phải đồng lòng nhất trí. Mọi ân oán hãy tạm gác sang một bên. Võ huynh, ba cha con huynh không được gây sự với Lý Mạc Sầu, chờ việc lớn xong rồi, đôi bên quyết đấu một mất một còn cũng chưa muộn.

Võ Tam Thông sững sờ, lão không ngờ vừa rồi Hoàng Dung nói là có dụng ý cả. Lý Mạc Sầu có mối đại hận giết hại vợ lão, vậy lão phải nín nhịn hay sao? Lão đang ngẫm nghĩ, thì Hoàng Dung nói nhỏ:

– Võ huynh, hiện tại huynh đang bị thương, quân tử báo thù mười năm chưa muộn, cần gì nôn nóng nhất thời?

Võ Tam Thông nói:

– Được, phu nhân bảo gì, lão phu sẽ làm nấy.

Hoàng Dung gọi Lý Mạc Sầu tới:

– Lý tỷ tỷ, chúng ta đi thôi!

Hoàng Dung để cho con tiểu hồng mã dẫn đường, mọi người theo sau. Con tiểu hồng mã vốn muốn trở về thành Tương Dương, nay chủ nhân dắt nó quay đầu ngược về hướng nó vừa đi tới, thế là nó đi về phía núi Chung Nam.

Võ Tam Thông và Hoàn Nhan Bình có vết thương, không thể đi nhanh, đoàn người mỗi ngày chỉ đi được hơn trăm dặm. Lý Mạc Sầu gia tăng phòng bị, khi ngủ đêm thường ở chỗ cách xa mọi người, ban ngày đi đường cũng lùi ở sau cùng. Cứ thế ngày đi đêm nghỉ, sáu thiếu niên nam nữ trò chuyện vui vẻ, càng lúc càng hòa hợp. Huynh đệ họ Võ trước đây tranh giành Quách Phù, tình thủ túc ruột thịt không khỏi bị tổn hại; bây giờ mỗi người có ý trung nhân riêng, huynh đệ lại trở nên thập phần tương thân tương ái. Võ Tam Thông thấy vậy rất hài lòng, nhưng lại nghĩ: “Hôm nọ nếu hai đứa không trúng độc châm của Lý Mạc Sầu, cứ đánh nhau, tất có một đứa chết, đứa còn lại ta cũng quyết không nhận là con. Giờ đây hai tên súc sinh cười cười nói nói, trong khi Dương Quá bị mất một cánh tay. Ôi biết nói sao đây? Đúng là phải chặt của mỗi tên súc sinh một cánh tay mà nối bù cánh tay cho Dương Quá mới hợp đạo lý”. Nhưng lão không nghĩ rằng nếu làm thế, Dương Quá sẽ bị thừa ra một cánh tay.

Họ đã đến núi Chung Nam. Hoàng Dung và Võ Tam Thông định đưa mọi người vào cung Trùng Dương bái hội Toàn Chân ngũ tử. Lý Mạc Sầu đứng từ xa, nói:

– Bần đạo chờ các vị ở đây.

Hoàng Dung biết Lý Mạc Sầu có thù với phái Toàn Chân nên cũng không ép, bước vào cung Trùng Dương. Toàn Chân ngũ tử nghe báo, vội ra nghênh tiếp, mời vào trong điện, phân chủ khách ngồi xuống. Mới hàn huyên vài câu, bỗng nghe ở hậu điện có tiếng người nói đến Tiểu Long Nữ, Hoàng Dung cả mừng, gọi:

– Lão Ngoan đồng, lão xem ai đến này!

Mấy ngày nay Chu Bá Thông tìm hiểu cách chỉ huy loài ong ngọc phong. Lão thông minh, lại quyết tập cho bằng được, nên đã có tiểu thành. Hôm nay lão đang cao hứng chơi ong thì nghe tiếng gọi, nhận ra giọng của Hoàng Dung. Lão vui mừng nói:

– A ha, thì ra là mụ bà nương cổ quái của Quách đệ tới!

Rồi lão từ hậu điện chạy ra.

Gia Luật Tề bước lên khấu đầu, nói:

– Sư phụ, sư phụ vạn phúc kim an!

Chu Bá Thông cười, nói:

– Miễn lễ bình thân! Ngươi cũng vạn phúc kim an!

Mọi người nghe đều lấy làm lạ, không ngờ Gia Luật Tề lại là đệ tử của Chu Bá Thông. Lão Ngoan đồng điên điên khùng khùng, đồ đệ lại tinh minh cường cán, thiếu niên lão thành, khác hẳn sư phụ.

Bọn Khưu Xứ Cơ thấy sư thúc đã có truyền nhân thì đều cao hứng, tranh nhau chúc mừng Chu Bá Thông. Quách Phù lúc này mới hiểu, hôm nọ mẹ nàng và Gia Luật Tề cười cười là vì mẹ nàng đã đoán biết được sư phụ của Gia Luật Tề.

Nguyên Gia Luật Tề hai chục năm trước còn nhỏ, gặp Chu Bá Thông, chơi đùa hợp nhau, Chu Bá Thông bèn nhận chàng làm đệ tử. Võ công lão truyền thụ tuy không nhiều, nhưng chàng thông minh chịu khó, cuối cùng trở thành một nhân vật kiệt xuất trong đám tiểu bối. Nhưng Chu Bá Thông thấy Gia Luật Tề nghiêm trang đâu ra đó, chẳng ham chơi đùa như một Tiểu Ngoan đồng, nên không cho chàng xưng mình là đệ tử đích truyền của Lão Ngoan đồng. Giờ thì không giấu được nữa.

Đang vui vẻ, bỗng từ dưới chân núi có tiếng tiêu vọng lên: đệ tử phái Toàn Chân báo tin có đại địch kéo đến tấn công. Hôm nọ phái Toàn Chân cự tuyệt sắc phong của đại hãn Mông Cổ, lại sát thương nhiều người, Toàn Chân ngũ tử biết là chuyện không dừng ở đó, quân Mông Cổ sớm muộn sẽ kéo đến, phái Toàn Chân không thể đương đầu với đại quân Mông Cổ, đã lên phương sách bỏ cung rút về phía tây. Hiện thời phái Toàn Chân có chưởng giáo là Lý Chí Thường, nhưng gặp đại sự, vẫn do Toàn Chân ngũ tử phân phát hiệu lệnh. Khưu Xứ Cơ nói với Hoàng Dung:

– Quách phu nhân, quân Mông Cổ đánh lên núi! Tình thế không cho phép bần đạo được tiếp khách chu đáo.

Chỉ nghe tiếng trống, tiếng tù và, tiếng hò hét dưới chân núi ầm ĩ. Nguyên bọn Hoàng Dung lên núi từ hướng nam, còn quân Mông Cổ đánh lên núi từ hướng bắc, đôi bên cách nhau chưa đầy nửa canh giờ. Chu Bá Thông nói:

– Có địch đến à? Thế thì hay lắm. Chúng ta tràn xuống đánh cho chúng một trận tơi bời khói lửa nào!

Lão nắm cổ tay Gia Luật Tề, nói:

– Ngươi hãy thể hiện vài công phu mà sư phụ đã dạy, để các vị sư huynh đây thưởng thức. Ta thấy ngươi cũng không thua gì Toàn Chân thất tử. Có thêm ngươi, gọi là Toàn Chân bát tử được rồi.

Phàm trẻ con có đồ chơi ưa thích, nhất định đến đâu cũng đem ra khoe, nghe người ta tán thưởng mới sướng. Chu Bá Thông ban đầu dặn Gia Luật Tề không được tiết lộ sư thừa, là vì lão thấy chàng chẳng giống minh sư chút nào về khoản chơi đùa; nhưng bây giờ sư đồ gặp nhau, lão cao hứng quên luôn điều mình đã dặn. Khưu Xứ Cơ nói:

– Sư thúc, mấy chục năm kiến tạo của bản giáo, tâm huyết một đời của tiên sư, không thể để kẻ thù hủy hoại trong một buổi. Hôm nay chúng ta rút cả đi mới là thượng sách.

Cũng không chờ cao kiến gì của Chu Ba Thông, liền truyền lệnh:

– Mọi người theo lộ trình đã định, hãy mang các thứ xuống núi!

Chúng đệ tử nhất tề đáp ứng, người khiêng kẻ vác các thứ đã chuẩn bị sẵn, đi thành từng đội xuống núi. Mấy hôm trước Toàn Chân ngũ tử và Lý Chí Thường sớm đã sắp đặt đâu ra đó, ai đi trước, ai đoạn hậu, hội hợp ở nơi nào, liên lạc ra sao, lại diễn tập thử nhiều lần, nên khi sự biến xảy ra, không hề hoảng loạn.

Hoàng Dung nói:

– Khưu đạo trưởng, quí giáo sắp đặt trật tự, đủ thấy đại tài, biến cố hôm nay không thể biến thành họa lớn. Tạm thời rút lui, mai ngày trở lại, tất càng mạnh mẽ. Lần này chúng tôi đến tìm Dương Quá có việc, giờ xin cáo biệt.

Khưu Xứ Cơ kinh ngạc, nói:

– Tìm Dương Quá ư? Không biết Dương Quá có còn ở núi này hay chăng?

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Có người cùng đi biết rõ chỗ y ở đâu.

Nói tới đây, tiếng hò hét phía dưới chân núi càng nghe rõ. Hoàng Dung nghĩ: “Phái Toàn Chân sớm có bố trí, có thể thoát thân. Mình lên núi tìm Dương Quá, đón nữ nhi, không nên lẫn lộn trong quân mà lỡ đại sự”. Bèn từ biệt Toàn Chân ngũ tử, gọi mấy người đồng hành chạy tới chỗ vắng vẻ ở phía sau cung Trùng Dương, nói với Lý Mạc Sầu:

– Lý tỷ tỷ, phiền tỷ tỷ chỉ dẫn lối vào tòa cổ mộ.

Lý Mạc Sầu hỏi:

– Sao phu nhân biết Dương Quá ở trong tòa cổ mộ?

Hoàng Dung mỉm cười, nói:

– Dương Quá dù không ở trong tòa cổ mộ, thì “Ngọc nữ tâm kinh” cũng ở trong đó.

Lý Mạc Sầu giật mình, nghĩ thầm: “Quách phu nhân quả nhiên lợi hại, biết rõ tâm tư người khác”.

Lý Mạc Sầu cùng mọi người từ thành Tương Dương đi đến núi Chung Nam, trừ Hoàng Dung ra, những người còn lại đều coi như không có mụ ta, suốt dọc đường không ai thèm trò chuyện với mụ; huynh đệ họ Võ thì hầm hầm, chực chờ cơ hội dồn mụ vào tử địa. Hoàng Dung nghĩ: “Lý Mạc Sầu dẫu yêu thích Tương nhi, cũng chẳng chịu mạo hiểm đến đây, nếu không có mưu đồ hệ trọng khác”. Lại nghĩ thêm, Dương Quá và Tiểu Long Nữ từng dùng kiếm pháp “Ngọc nữ tâm kinh” đánh bại Kim Luân pháp vương, mà Lý Mạc Sầu hiển nhiên không biết môn kiếm pháp đó, nếu không hôm nọ động thủ với mình, mụ ta đã đem ra thi triển. Mụ ta muốn lấy được “Ngọc nữ tâm kinh”, lại sợ bảy người vào tòa cổ mộ lấy mất trước. Thế là Hoàng Dung đoán ra tâm ý của Lý Mạc Sầu.

Lý Mạc Sầu nghĩ: “Ngươi đã biết, chi bằng nói thẳng ra”, bèn nói:

– Bần đạo giúp phu nhân đoạt lại nữ nhi, phu nhân phải giúp bần đạo đoạt được võ kinh bổn môn. Phu nhân là bang chủ Cái Bang, nữ hiệp lừng danh thiên hạ, đã nói không được nuốt lời.

Hoàng Dung nói:

– Dương Quá là con trai của cố nhân nhà họ Quách. Có sự hiểu lầm nho nhỏ với tiểu muội, đôi bên gặp nhau sẽ xóa bỏ được ngay. Nữ nhi nếu quả nhiên ở chỗ y, y sẽ trao lại cho tiểu muội, không thể có chuyện đoạt hay không đoạt.

Lý Mạc Sầu nói:

– Đã vậy, chúng ta ai lo việc nấy, xin cáo biệt.

Rồi quay người định đi.

Hoàng Dung đưa mắt ra hiệu cho Võ Tu Văn. Võ Tu Văn rút kiếm khỏi bao, quát:

– Lý Mạc Sầu, hôm nay mụ còn đòi sống để rời khỏi núi Chung Nam ư?

Lý Mạc Sầu nghĩ: “Chỉ một mình Hoàng Dung, ta đã không địch nổi, còn thêm cha con họ Võ, huynh muội Gia Luật Tề, thì ta làm gì còn đường sống?” Mụ vốn đa mưu túc trí, nhưng gặp Hoàng Dung thì lại luống cuống, mọi trò giảo hoạt đều không thi thố ra được, đành thản nhiên nói:

– Quách phu nhân tinh thông thuật Kỳ môn, Dương Quá đã ở trên núi này, phu nhân lo gì không tìm được hắn mà phải cần bần đạo dẫn đường?

Hoàng Dung biết mụ ta muốn mặc cả, nói:

– Tiểu muội không biết lối vào tòa cổ mộ. Nhưng thiết tưởng Dương Quá và Tiểu Long Nữ tuy ẩn cư trong đó song cũng có ngày ra ngoài mua gạo kiếm củi, bảy người chúng tôi chia nhau chờ sẵn, tất có lúc gặp được y.

Ý tứ là mụ mà không chịu chỉ dẫn, bọn ta sẽ giết quách mụ đi, dù gặp được Dương Quá có muộn vài ngày cũng chẳng sao.

Lý Mạc Sầu nghĩ đúng vậy, đối phương chẳng ngại đợi chờ. Ở chỗ bằng phẳng rộng rãi này, mình không thể địch lại cả bọn họ, nhưng sau khi dẫn chúng vào tòa cổ mộ, mình sẽ lợi dụng việc thông thuộc địa thế mà ám hại từng đứa một, bèn nói:

– Hôm nay các vị cậy đông ăn hiếp, bần đạo không biết nói sao; nhưng bần đạo cũng đang cần tìm Dương Quá, vậy các vị hãy đi theo bần đạo!

Rồi vén bụi gai, đạp cỏ mà đi xuyên rừng.

Mọi người theo sau, sợ mụ ta đột nhiên đào tẩu.

Chỉ thấy mụ xuyên rừng vượt núi, nhiều chỗ rõ ràng không có đường qua, nhưng mụ ngoặt ngang quẹo trái, vẫn tìm ra lối. Địa thế vùng này hoàn toàn do thiên tạo không phải do con người sắp đặt, Hoàng Dung tuy thông hiểu thuật kỳ môn ngũ hành, cũng không thể theo Dịch lý mà tìm, nghĩ: “Thật không ai khéo bằng tạo hóa”. Đi bằng thời gian ăn xong một bữa cơm, đến bên một dòng suối ngầm. Lúc này nghe loáng thoáng tiếng hò hét của quân Mông Cổ, nhưng đây là chốn rừng sâu, nên nghe văng vẳng rất xa.

Lý Mạc Sầu mấy năm nay chỉ nghĩ cách đoạt lấy “Ngọc nữ tâm kinh”, lần trước mụ thoát ra khỏi tòa cổ mộ bàng đường dòng suối ngầm, do không biết bơi lặn, chút nữa bị mất mạng; sau đó mụ đã tập bơi lặn trên sông, lần này thì đã có chuẩn bị. Mụ đứng bên dòng suối ngầm, nói:

– Cửa chính vào tòa cổ mộ đã bị bịt kín, muốn khơi mở phải tốn công cả tháng. Cửa hậu vào theo dòng suối ngầm này, vị nào cùng đi với bần đạo thì đi.

Quách Phù và huynh đệ họ Võ từ nhỏ sống trên đảo Đào Hoa, mùa hè ngày ngày bơi lội ngoài biển, nên cùng nói:

– Đi!

Võ Tam Thông cũng biết bơi lặn, tuy không thạo lắm, nhưng dòng suối ngầm này đâu có đáng gì, bèn nói:

– Lão phu cũng đi!

Hoàng Dung nghĩ Lý Mạc Sầu tàn ác, lỡ ở trong tòa cổ mộ mụ đột nhiên ra tay thì bọn Võ Tam Thông rất nguy, không một ai địch nổi; mình không thể không đi cùng; nhưng mới sinh hơn một tháng, lặn xuống dòng suối nước lạnh sẽ tổn thương nguyên khí, đang lưỡng lự, thì Gia Luật Tề nói:

– Quách bá mẫu hãy ở lại đây, để tiểu điệt đi cùng Võ bá phụ.

Hoàng Dung cả mừng, người này tinh minh cường cán, võ công cao cường, có y đi, có thể yên tâm, hỏi:

– Công tử biết bơi lặn chứ?

Gia Luật Tề nói:

– Bơi lội tàm tạm, lặn thì cũng có biết đôi chút.

Hoàng Dung hỏi:

-Công tử luyện tập dưới mặt băng phải chăng?

Gia Luật Tề đáp:

– Vâng.

Hoàng Dung lại hỏi:

– Công tử tập ở đâu?

Gia Luật Tề nói:

– Điệt nhi hồi nhỏ có đi theo gia phụ, sống mấy năm bên dòng sông Hàn Nan.

Nguyên Mông Cổ là xứ lạnh, sông Hàn Nan quá nửa năm đóng băng. Các võ sĩ Mông Cổ có thể chất tốt thường thi nhau lặn dưới băng xem ai được lâu hơn.

Hoàng Dung thấy những người khác muốn đi theo Lý Mạc Sầu thì cũng không hỏi thêm, chỉ dặn khẽ:

– Lòng người khó đo, phải cẩn thận.

Với Quách Phù, Hoàng Dung cũng không dặn dò, vì biết con mình có dặn cũng vô dụng, thôi thì cứ để thực tế dạy cho nó thấm thía.

Gia Luật Yến và Hoàn Nhan Bình không biết bơi lặn, ở lại cùng Hoàng Dung. Lý Mạc Sầu lội xuống suối dẫn đường. Gia Luật Tề bám sát theo; Quách Phù và cha con họ Võ đi sau cùng.

Bọn Gia Luật Tề năm người đi theo Lý Mạc Sầu dưới dòng suối ngầm. Đáy dòng suối chỗ rộng chỗ hẹp, nước chảy chỗ xiết chỗ không, có lúc sâu ngập đầu, có chỗ sâu ngang ngực, lội hồi lâu thì đến lối vào tòa cổ mộ. Lý Mạc Sầu chui vào, năm người cũng chui vào theo, nghĩ: “Nếu không có mụ ta dẫn đường, không ai ngờ lại có tòa cổ mộ ở dưới lòng đất thế này?” Lúc này đã không còn nước xung quanh mình, thì lại tối mò mò, năm người phải cầm tay nhau, chỉ sợ bị lạc, theo sau Lý Mạc Sầu ngoặt qua quẹo lại mà tiến về phía trước.

Đi rất lâu, cảm thấy địa thế lên cao dần, dưới chân đã khô ráo, bỗng nghe có tiếng ken két, Lý Mạc Sầu đã mở một cánh cửa đá, năm người bước vào theo. Lý Mạc Sầu nói:

– Đây đã là giữa tòa cổ mộ, chúng ta nghỉ một chút rồi đi tìm Dương Quá.

Từ lúc vào đến tòa cổ mộ, Võ Tam Thông và Gia Luật Tề bám sát không rời Lý Mạc Sầu nửa bước, đề phòng mụ gian trá; nhưng giơ tay không nhìn rõ năm ngón, chỉ lấy tai thay mắt, chăm chú lắng nghe. Quách Phù và huynh đệ họ Võ lâu nay tự phụ can đảm, nhưng giờ chui xuống địa đạo, hai mắt như mù, tự dưng tim cứ đập thình thình.

Trong bóng tối không một tiếng động. Lý Mạc Sầu bỗng nói:

– Hai tay ta đều có Băng phách ngân châm, ba cha con họ Võ có muốn nếm thừ sự lợi hại hay không?

Bọn Võ Tam Thông giật mình, thừa biết Lý Mạc Sầu không có hảo ý, nhưng cũng không ngờ mụ lập tức trở mặt như vậy. Ba cha con đều đã từng khổ sở vì độc châm của mụ, quả thật không dám coi thường chút nào, vội giơ cao binh khí, dỏng tai nghe, nhận ra hướng ngân châm bay để tránh hoặc gạt, có điều là mấy người chụm vào một chỗ, điều có dùng binh khí gạt được ngân châm, cũng dễ làm bị thương người bên cạnh. Gia Luật Tề nghĩ nếu để mụ loạn phóng ám khí, thì năm người bên mình tất có thương vong, chỉ có mạo hiểm xáp tới công kích, không để mụ ta phóng ngân châm, mới có đường sống.

Quách Phù cũng ngầm nghĩ như vậy, hai người không hẹn mà cùng lao tới chỗ phát ra tiếng nói.

Ai dè Lý Mạc Sầu vừa nói xong mấy câu trên, giữa lúc mọi người đang kinh ngạc, mụ đã lặng lẽ lùi vào bên cánh cửa. Gia Luật Tề và Quách Phù lao tới, thi triển tiểu cầm nã pháp, chộp cổ tay khuỷu tay để Lý Mạc Sầu không thể phóng ám khí. Hai người bốn tay giao nhau, Quách Phù cảm thấy không ổn, vội kêu “Ôi” một tiếng. Gia Luật Tề đã nắm hai cổ tay, cảm thấy da mịn màng, mũi lại ngửi mùi hương thoang thoảng, nghe tiếng kêu của Quách Phù, biết là nhầm.

Chỉ nghe tiếng ken két, cánh cửa đá đang khép lại. Gia Luật Tề và Võ Tam Thông kêu lên “Hỏng rồi!” cùng chạy ra cửa, nhưng nghe có tiếng vù vù, hai mũi ngân châm bay tới, họ đành tránh né, lúc giơ tay giữ cánh cửa, thì nó đã đóng sập lại rồi, đẩy kéo nó cứ như đẩy vào khối đá núi, không hề nhúc nhích.

Gia Luật Tề đưa tay sờ cánh cửa đá, trên dưới hai bên đều không thấy có vòng sắt hoặc chỗ lõm để kéo. Chàng men tường mà đi một vòng, phát hiện thạch thất rộng chừng hai trượng vuông, bốn phía đều là tường đá thô nháp. Chàng rút trường kiếm, dùng chuôi kiếm dộng vài cái vào cánh cửa đá, nghe tiếng trầm đục, biết là cánh cửa đá rất dày và nặng. Cánh cửa đá mở vào bên trong, muốn mở phải kéo vào, nhưng bề mặt cánh cửa phẳng lì, không có chỗ nào móc tay. Quách Phù lo lắng hỏi:

– Làm thế nào? Không khéo chúng ta bị chết ngạt ở đây mất?

Gia Luật Tề nghe giọng nàng như sắp khóc, bèn an ủi:

– Đừng lo, Quách phu nhân ở bên ngoài tiếp ứng, tất có cách cứu.

Chàng lại lần mò tứ phía tìm lối thoát.

Lý Mạc Sầu nhốt năm người trong thạch thất, cả mừng nghĩ: “Bọn bay không ra được. Sư muội và Dương Quá thì tưởng ta không biết bơi lặn, không thể ngờ ta vào đây bằng lối đi bí mật. Nhưng không biết hai đứa ấy có ở trong tòa cổ mộ hay không đây?” Mụ biết chỉ có lẳng lặng, không phát ra tiếng động, mới có hi vọng thành công; chứ động thủ, chỉ e mụ không địch nổi một trong hai người ấy, thế là mụ cởi hài ra, hai tay đều lăm lăm Băng phách ngân châm, rón rén đi từng bước một.

Nhiều ngày liền Tiểu Long Nữ ngồi trên giường hàn ngọc, theo phép nghịch hành kinh mạch mà Dương Quá truyền thụ, đả thông dần ba mươi sáu đại huyệt của cơ thể. Lúc này hai người đang dùng nội lực xung kích huyệt Đàn Trung thuộc mạch Nhâm cho Tiểu Long Nữ. Huyệt này ở ngực, bên dưới huyệt Ngọc Đường một tấc sáu phân, sách y kinh thời cổ gọi là huyệt Khí Hải, nơi tập trung chư khí cơ thể người, cực kỳ hệ trọng. Hai người toàn thần chăm chú, không dám khinh suất. Tiểu Long Nữ cảm thấy nhiệt khí tràn ngập ba huyệt Tử Cung, Hoa Cái, Ngọc Đường bên dưới cổ, đang liên tục dồn xuống dưới; đồng thời hàn khí của cái giường hàn ngọc cũng dần dần ngưng tụ tại hai huyệt Trung Đình, Cưu Vĩ ở phía trên rốn. Nhiệt khí từ trên dồn xuống đến huyệt Đàn Trung cứ bị đẩy lên, không thể tràn qua. Nàng biết rằng chỉ cần nhiệt khí xung được huyệt Đàn Trung, mạch Nhâm lưu thông, thì mười phần thương thế của cơ thể sẽ khỏi được tám phần, có điều chưa đến hỏa hầu, không thể gượng ép. Tính nàng vốn trầm tĩnh, thời gian trong tòa cổ mộ rộng dài, hôm nay chưa thông được, thì đợi ngày mai chẳng sao. Nội tức kéo dài, thong thả, không một chút nôn nóng, chính hợp với pháp yếu vận khí của cao thủ nội gia.

Dương Quá thì rất nôn nóng, chỉ mong Tiểu Long Nữ sớm khỏi, nhưng chàng cũng biết việc vận công nội tức dục tốc ắt bất đạt, huống hồ nghịch hành kinh mạch so với thuận hành khó gấp trăm lần. Thấy mạch đập ở cổ tay nàng lúc mạnh lúc yếu, tuy chưa đều, nhưng không có triệu chứng hung hiểm, thì chàng thong thả vận khí, tăng cường xung lực.

Giữa không khí tĩnh mịch hoàn toàn, bỗng nghe có tiếng kẹt cửa. Tiếng này nghe rất nhẹ, rất khẽ, nếu không phải Dương Quá đang ngưng khí vận tức, tâm thần ở trạng thái chí tĩnh, thì chắc chắn sẽ không nghe thấy. Lát sau lại “két” một tiếng, lần này đã gần thêm ba thước.

Dương Quá biết có chuyện, nhưng sợ Tiểu Long Nữ bị phân tâm, đúng thời khắc khẩn yếu, nếu nội tức sai lạc, nhẹ thì thương thế vĩnh viễn không khỏi, nặng thì bỏ mạng tức thời, cho nên tuy thầm lạnh hãi, nhưng chàng cứ làm như không biết. Không lâu sau, lại nghe “két” một tiếng, lần này đã gần thêm ba thước. Dương Quá biết lúc này đã có kẻ lọt vào tòa cổ mộ, kẻ đó không dám xông xáo, mà đang chậm rãi di chuyển. Lát sau, có hai tiếng kẹt cửa, ngừng một chút, lại hai tiếng nữa, kẻ địch đang rón rén đẩy cánh cửa đá. Nếu Tiểu Long Nữ có thể đả thông huyệt Đàn Trung trước khi kẻ địch đến gần, tất nhiên là không gì tốt bằng, trái lại sẽ muôn phần hung hiểm, vì hiện giờ đang cưỡi trên lưng hổ, muốn dừng việc xung huyệt cũng không được nữa.

Lại nghe “két” một tiếng, lần này đã gần thêm một bước. Dương Quá lo cuống, quả thật không biết phải làm thế nào, bỗng nhiên cảm thấy lòng bàn tay nóng lên, một luồng nhiệt khí dồn trở lại, tức thị Tiểu Long Nữ đã phát giác. Dương Quá vội dồn nội tức đẩy luồng nhiệt khí kia sang người Tiểu Long Nữ, nói khẽ:

– Ma do tâm sinh, không nghe không thấy mới là thật sự tập trung.

Người luyện công đến một cảnh giới nhất định, thường sẽ sinh ảo giác, hoặc nghe thấy tiếng sấm, hoặc đau ngứa ghê gớm đâu đó, chỉ có hoàn toàn không để ý tới mới không bị tẩu hỏa nhập ma. Vừa rồi Dương Quá đã nghe thấy tiếng bước chân rõ ràng, tự biết không phải ảo giác, nhưng Tiểu Long Nữ đang ở vào lúc sinh tử khẩn yếu, phải nói dối nàng rằng đấy chỉ là tâm ma, là kẻ địch tưởng tượng, dù hắn đáng sợ đến mấy cũng thây kệ, thì tâm ma sẽ tự tiêu tan. Tiểu Long Nữ nghe câu ấy, quả nhiên lập tức yên tâm.

Lúc này ở trên mặt đất là ánh nắng chan hòa, còn dưới tòa cổ mộ là bóng đêm tăm tối. Dương Quá tai nghe tiếng bước chân mỗi lúc một rõ, nghĩ trừ vợ chồng mình ra, chỉ có Lý Mạc Sầu và Hồng Lăng Ba biết đi lối địa đạo bí mật qua dòng suối ngầm; vậy thì kẻ kia chính là một trong hai sư đồ mụ ta. Với võ công hiện thời, Dương Quá lẽ ra hoàn toàn không lo sợ; có điều là kẻ địch lại tấn công đúng vào lúc này, không sớm cũng chẳng muộn hơn, chàng không thể có cách gì chống đỡ. Kẻ địch tiến càng chậm rãi, nỗi lo sợ càng xoáy vào đầu chàng; nỗi nguy hiểm cứ từng bước xáp tới, mà mình đành thúc thủ chờ chết.

Trán chàng vã mồ hôi lạnh, chàng nghĩ: “Lúc Quách Phù chém lìa cánh tay ta, tuy đau nhưng còn dễ chịu hơn cái sự hành hạ chậm rãi này”.

Lát sau thì Tiểu Long Nữ cũng đã nghe thấy, rành rành không phải là ảo giác, mà đúng là đại nạn lâm đầu chỉ muốn tăng cường nội tức, xung qua huyệt Đàn Trung, nhưng tâm thần hơi loạn, nội tức chợt thuận chợt nghịch, chút nữa thì rối loạn trong ngực.

Lúc này nghe tiếng bước chân đã rón rén đến cửa, rồi đột nhiên vù vù, bốn mũi Băng phách ngân châm bắn tới.

Lúc này Dương Quá và Tiểu Long Nữ chẳng khác gì những người không biết võ công, nhưng vì đã sớm đề phòng, nên vừa thấy độc châm bắn tới liền ngả người ra phía sau, lòng bàn tay vẫn không rời nhau; bốn mũi Băng phách ngân châm đều bay lướt qua mặt.

Lý Mạc Sầu không ngờ hai người đang tự vận công trị thương, sợ họ phản kích, nên vừa phóng độc châm xong vội nhảy lui; chứ nếu mụ không sợ, phóng bốn mũi rồi lại phóng tiếp bốn mũi nữa, thì hai người đã hết bề né tránh. Lý Mạc Sầu lờ mờ thấy hai người sánh vai nhau trên cái giường hàn ngọc. Phóng xong độc châm, mụ thấy họ không trả đòn, chưa hiểu dụng ý của họ thế nào, sau khi lùi ra bên cửa, tay cầm cây phất trần, mụ lạnh lùng nói:

– Hai vị đừng có giả bộ!

Dương Quá hỏi:

– Đạo cô muốn gì?

Lý Mạc Sầu nói:

– Ta muốn gì, chẳng lẽ ngươi còn không biết?

Dương Quá nói:

– Đạo cô muốn “Ngọc nữ tâm kinh” phải không? Được, chúng tôi ẩn cư trong cổ mộ, không tranh giành với bên ngoài, đạo cô cứ việc lấy đi.

Lý Mạc Sầu bán tín bán nghi, nói:

– Đưa đây!

Bộ “Ngọc nữ tâm kinh” được khắc trên trần một gian thạch thất khác, Dương Quá nghĩ: “Nói cho mụ biết chân tướng sự huyền diệu của tâm kinh, để mụ từ từ nghiền ngẫm thì được. Mình chỉ cần vài canh giờ nữa, cô cô đả thông xong huyệt Đàn Trung, bấy giờ giết mụ chẳng khó gì.” Nhưng lúc này nội tức của Tiểu Long Nữ lại rối loạn cả lên, Dương Quá phải toàn thần duy trì, không thể nói gì.

Lý Mạc Sầu mở to mắt, chăm chú nhìn hai người, lờ mờ thấy Tiểu Long Nữ giơ một bàn tay ấp vào lòng bàn tay Dương Quá, mụ chợt hiểu:“ Ồ, Dương Quá bị trọng thương vì mất cánh tay, sư muội đang dùng nội lực trị liệu cho hắn. Lúc này việc hành công đang ở thời khắc sinh tử khẩn yếu, ta không lấy mạng hai đứa, sau này làm gì còn dịp nào nữa?” Mụ đoán trúng một nửa, đã không còn sợ gì nữa, liền xông vào, vung cây phất trần đánh xuống đỉnh đầu Tiểu Long Nữ.

Tiểu Long Nữ chỉ cảm thấy kình phong áp đỉnh, tóc đã lay động, chỉ còn nhắm mắt chờ chết. Dương Quá há miệng thổi phù một cái, một luồng hơi phả vào mặt Lý Mạc Sầu. Lúc này toàn bộ sức lực chàng truyền giúp Tiểu Long Nữ đả thông xong huyệt đạo, luồng hơi ấy không có chút kình lực nào, chẳng qua thấy Tiểu Long Nữ muôn phần nguy cấp, thì chỉ có cách duy nhất khiến kẻ địch phân tâm là thổi phù một cái mà thôi.

Lý Mạc Sầu biết Dương Quá quỉ kế đa đoan, thấy một luồng nhiệt khí thổi tới mặt, thì sợ hãi nhảy lùi một trượng. Sau khi mụ thảm bại bởi tay Hoàng Dung chỉ vì trí lực thua kém, mụ trở nên thận trọng hơn, lo việc hộ thân hệ trọng hơn việc đả thương kẻ địch. Mụ nhảy lùi rồi thấy không có gì lạ, bèn quát:

– Ngươi giở trò khỉ gì thế?

Dương Quá cười, nói:

– Bữa nọ tại hạ cho đạo cô mượn cái áo, hôm nay đạo cô có mang trả không đấy?

Lý Mạc Sầu nhớ lần ác đấu với lão thợ rèn Phùng Mặc Phong, quần áo mặc trên người mụ bị cây đại thiết chùy nung đỏ đốt cháy nham nhở, may được Dương Quá cởi áo quẳng cho mượn; hôm ấy phải nói là bị một bữa xấu hổ không để đâu cho hết. Lý ra, chỉ riêng vì chuyện cái áo, hôm nay mụ đã không nên đả thương Dương Quá và Tiểu Long Nữ; nhưng mụ lại nghĩ bây giờ chỉ cần mềm lòng một chút, mai sau sẽ chuốc họa vào thân, thế là mụ lại sấn tới, tả chưởng đánh ra.

Trong cơn nguy cấp, Dương Quá đột nhiên tình cấp trí sinh, nhớ mấy hôm trước từng nói đùa với Tiểu Long Nữ, rằng nếu chàng cụt cả hai tay, thì còn có thể dùng hai bàn chân. Giờ nghe chưởng phong Ngũ độc thần chưởng của Lý Mạc Sầu đánh tới, chẳng kịp nghĩ ngợi, chàng lập tức lộn ngược người, hai chân chụm vào giơ lên, hất hài ra, miệng gọi:

– Long nhi, áp lấy bàn chân ta!

Tả chưởng thì giơ chếch lên, “bộp” một tiếng, tương giao với tả chưởng của Lý Mạc Sầu.

Nội lực cực mạnh của chàng vốn đang truyền sang cơ thể Tiểu Long Nữ, lúc này đột nhiên người chàng sinh ra lực hút hút chặt lấy bàn tay của Lý Mạc Sầu.

Cùng lúc ấy, Tiểu Long Nữ cũng đã áp bàn tay vào lòng bàn chân của chàng. Lý Mạc Sầu thấy tư thế cổ quái của Dương Quá thì không khỏi kinh hãi, nhưng nhớ có lần chàng đã dùng tư thế đó đối phó với “Tam vô tam bất thủ” của mụ, xem chừng cũng không có gì đáng ngại, bèn dồn lực muốn đánh chết chàng ngay tại chỗ. Năm xưa khi mụ dùng Ngũ độc thần chưởng sát hại mọi người ở Lục gia trang, chưởng lực đã rất lợi hại, bây giờ sau mươi năm tu vi, càng hiểm ác hơn. Dương Quá chỉ cảm thấy một luồng nhiệt khí từ lòng bàn tay dồn sang, chàng không chống lại, mà dồn thêm lực truyền cả sang người Tiểu Long Nữ.

Như thế hóa thành Lý Mạc Sầu và Dương Quá hợp lực, giúp cho Tiểu Long Nữ thông quan xung huyệt.

Lý Mạc Sầu chiêu số tuy không huyền diệu bằng Dương, Long hai người, nhưng nói về tu vi công lực thì mụ thâm hậu hơn hẳn. Tiểu Long Nữ tự dưng được cường trợ, cảm thấy có một luồng đại lực truyền sang, thông qua huyệt Đàn Trung, nhiệt khí từ ngực tràn xuống đan điền, tinh thần hứng khởi, reo lên:

– Hay quá, đa tạ sư tỷ!

Nàng buông tay khỏi bàn chân Dương Quá, từ trên giường hàn ngọc nhảy xuống đất.

Lý Mạc Sầu kinh ngạc, mụ cứ tưởng Tiểu Long Nữ trị thương cho Dương Quá, nên đẩy chưởng lực sang, tính thừa cơ chấn thương tâm mạch của Dương Quá, vô tình lại giúp cho kẻ địch. Dương Quá cả mừng, lộn người đứng dậy, chân đi đất, cười nói:

– Nếu đạo cô không đến giúp, huyệt Đàn Trung của sư muội khó lòng có thể đả thông.

Lý Mạc Sầu chưa nói gì, Tiểu Long Nữ bỗng kêu lên “Ối” một tiếng, tay đặt chỗ tim, lảo đảo ngã xuống giường hàn ngọc. Dương Quá kinh ngạc, hỏi:

– Sao vậy?

Tiểu Long Nữ run run nói:

– Sư tỷ… chưởng của mụ ta có độc.

Lúc này đầu óc Dương Quá cũng bắt đầu choáng váng, biết Lý Mạc Sầu dùng Ngũ độc thần chưởng, vừa rồi mụ ta đã truyền chất độc sang cơ thể chàng và Tiểu Long Nữ.

Dương Quá giơ thanh Huyền thiết trọng kiếm lên, quát:

– Mau đưa giải dược!

Rồi chém xuống. Lý Mạc Sầu giơ cây phất trần chống đỡ. “Cạch” một tiếng, cây phất trần đúc bằng thép tinh bị gãy đôi, hổ khẩu của mụ bị tóe máu. Cây phất trần của Lý Mạc Sầu dùng nhu lực là chính, đã đấu với không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt thiên hạ, chưa lần nào bị binh khí đối phương đánh gãy; lần này mụ khiếp đảm, vội chạy ra khỏi thạch thất. Dương Quá cầm kiếm đuổi theo, đâm ra một cái, nghĩ bụng kiếm này Lý Mạc Sầu khó lòng đỡ nổi, không ngờ độc tính phát tác trong cơ thể, mắt hoa lên, cánh tay thõng xuống vô lực, choang một cái, Huyền thiết trọng kiếm rơi xuống nền nhà. Lý Mạc Sầu không dám dừng chân, chạy đi hơn một trượng mới ngoảnh lại, thấy Dương Quá lảo đảo vịn tay vào tường, nghĩ: “Tên tiểu tử này võ công cực kỳ cổ quái, mình phải chờ một lát, đợi hắn gục xuống vì chất độc phát tác, hãy lại gần hắn”.

Dương Quá đau cháy cổ họng, đầu căng như muốn vỡ, vận kình ra cánh tay, chờ Lý Mạc Sầu tới gần sẽ giáng một chưởng cho mụ chết tươi, ai ngờ mụ cứ đứng mãi đằng xa. Dương Quá kêu “Ối” một tiếng, ngã xuống đất, tay đã nắm chuôi kiếm. Lý Mạc Sầu thì như con chim bị trúng tên một lần, không dám mạo hiểm tới gần, nghĩ cứ đứng ngoài xa chờ xem động tĩnh. Dương Quá nghĩ để lâu thêm, chất độc trong người chàng và Tiểu Long Nữ ngấm sâu thêm một nấc, chần chừ thêm chỉ có lợi cho đối phương, bèn hít một hơi, nội tức luân chuyển, hết chóng mặt, tay cầm chắc Huyền thiết trọng kiếm, đứng dậy quay lại ôm ngang eo Tiểu Long Nữ, quát:

– Tránh ra!

Rồi sải bước ra ngoài. Lý Mạc Sầu thấy chàng hùng hổ, không dám ngăn cản. Dương Quá chỉ mong bước vào một gian thạch thất, đóng cửa không cho Lý Mạc Sầu vào trong, Tiểu Long Nữ hai mạch Nhâm, Đốc đã thông, chỉ cần nửa canh giờ là hai người có thể trục chất độc ra khỏi cơ thể, việc này dễ hơn trăm lần so với việc đả thông huyệt mạch. Dương Quá hồi nhỏ bị trúng độc châm của Lý Mạc Sầu, đã được Âu Dương Phong dạy cho cách trục chất độc ra khỏi cơ thể, với công lực của hai người hiện nay, việc đó không có gì khó khăn.

Lý Mạc Sầu tất nhiên cũng đoán tâm ý của Dương Quá, đâu chịu để cho hai người trục chất độc ra khỏi cơ thể rồi mới động thủ. Mụ không dám tới gần, song bám sát theo sau, cách Dương Quá luôn ở khoảng năm thước. Khi Dương Quá dừng chân, mụ cũng đứng lại bất động.

Dương Quá cảm thấy tim đập càng lúc càng nhanh, tựa hồ muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Chàng không thể chịu đựng thêm nữa, vội chạy đại vào một gian thạch thất, đặt Tiếu Long Nữ lên một cái bàn đá. Tay cầm mép bàn mà thở dốc, biết Lý Mạc Sầu bám theo sau cũng mặc. Lát sau chàng mới biết mình đã tới gian đặt các cỗ quan tài bằng đá, cái mà Tiểu Long Nữ đang ngồi trên và tay chàng đang giữ bên mép, chính là một cỗ quan tài.

Lý Mạc Sầu từ khi tòng sư học nghệ, sống trong tòa cổ mộ không ít năm, khả năng nhìn trong bóng tối tuy không bằng Dương, Long hai người, song cũng thấy rõ gian này kê một dãy năm cỗ quan tài, trong đó đáy của một cỗ quan tài chính là lối thông ra địa đạo, hôm nay mụ đã vào đây qua lối đó. Mụ nghĩ: “Hai đứa ngươi định đào tẩu ư? Lần này thì chẳng dễ đâu!”

Ba người một ngồi, một đứng thẳng, một đứng nghiêng, dựa người vào cỗ quan tài, chỉ một mình Dương Quá thở hổn hển.

Dương Quá lảo đảo, keng một cái, Huyền thiết trọng kiếm rơi xuống nền, chàng ngã xuống chỗ Tiểu Long Nữ, rồi có một vật từ tay chàng bay đi, rơi bộp một tiếng vào trong một cỗ quan tài chưa đậy nắp, chàng nói:

– Lý Mạc Sầu, quyển “Ngọc nữ tâm kinh” không thể để lọt vào tay mụ được. Ối…

Chàng kêu lên thê thảm, rồi không thấy cựa quậy gì nữa. Năm cỗ quan tài, thì ba cỗ đã chứa thi thể sư đồ Lâm Triêu Anh và Tôn bà bà, còn hai cỗ để trống, trong đó đáy của một cỗ quan tài chính là lối thông ra địa đạo, nắp đậy hở ra hơn hai thước, người có thể chui lọt, cỗ quan tài kia chỉ hở hơn một thước. Lý Mạc Sầu thấy Dương Quá ném “Ngọc nữ tâm kinh” vào cỗ quan tài đó vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhưng sợ chàng giảo hoạt, chờ một lát không thấy chàng cựa quậy, mụ mới bước lại, cúi xuống sờ trán chàng, thấy lạnh toát, rõ ràng chàng đã chết, mụ cười phá lên ha hả, nói:

– Tên tiểu tử tai quái, rốt cuộc cũng có ngày hôm nay!

Rồi mụ thò tay vào quan tài để lấy quyển kinh.

Nhưng cú ném vừa rồi của Dương Quá làm cho “Ngọc nữ tâm kinh” rơi đâu không biết, Lý Mạc Sầu đã gãy mất cây phất trần, phải dùng tay mò hai lần vẫn không thấy “tâm kinh” đâu cả, thế là mụ bèn chui luôn qua khe hở hơn một thước vào bên trong cỗ quan tài, cuối cùng mới sờ thấy “tâm kinh”, nhưng cầm lấy lại hóa ra là một chiếc hài.

Đúng lúc ấy Dương Quá bật dậy, tay trái đẩy gấp ra, mũi Huyền thiết trọng kiếm hất cái nắp quan tài sập lại, đậy kín cỗ quan tài có Lý Mạc Sầu nằm bên trong!

Lý Mạc Sầu không biết rằng “Ngọc nữ tâm kinh” thực ra được khắc trên trần đá của thạch thất, cứ tưởng đó là một quyển sách. Dương Quá giả vờ kêu lên thảm thiết, gục ngã xuống chỗ Tiểu Long Nữ, lập tức gỡ khỏi chân nàng một chiếc hài, ném vào trong cỗ quan tài, vật mềm rơi vào đó nghe giống như một quyển sách thật. Ném xong thì nằm bất động giả chết. Kỳ thực, dù chàng đã chết thật, trong giây lát người cũng không thể giá lạnh đi được. Một người tắt thở, tối thiểu nửa canh giờ sau toàn thân mới lạnh đi.

Lý Mạc Sầu mừng quá đến nỗi mất cả óc quan sát. Dương Quá vừa rồi hết sức mạo hiểm, Lý Mạc Sầu nếu nghi chàng còn sống, giáng cho một chưởng vào đầu, thì Dương Quá vờ chết sẽ thành chết thật. Nhưng vì thân lâm cảnh ngộ tuyệt vọng, đành mạo hiểm cầu may, nhờ đó đã thành công.

Dương Quá lại vận sức ra cánh tay, hất kiếm một cái, miệng quát:

– Lên này!

Cỗ quan tài trống thứ hai bật lên, sầm một tiếng, đã đè lên trên cỗ quan tài có Lý Mạc Sầu bên trong. Một cỗ quan tài phải nặng năm sáu trăm cân, nắp đậy lại rất khít, Lý Mạc Sầu dẫu võ công cao mấy, cũng chẳng cách gì thoát ra ngoài được.

Dương Quá sau khi trúng độc, tim đập dồn, đầu nhức nhối, có thể ngã xuống bất cứ lúc nào, nhưng vì cường địch đứng trước mặt, nên chàng phải cố đứng vững; sau khi ráng sức hất hai kiếm, thì đã kiệt sức, bèn buông kiếm, loạng choạng tới bên cạnh Tiểu Long Nữ, dùng cách của Âu Dương Phong trục quá nửa chất độc ra khỏi cơ thể của mình trước, rồi áp tay trái vào bàn tay phải của nàng, giúp nàng giải độc.

Bọn Quách Phù, Gia Luật Tề bị nhốt trong gian thạch thất, vật đánh lửa và bùi nhùi mang theo đã bị ướt khi lội suối, không đốt lửa được, cứ sờ soạng trong bóng tối một hồi, làm sao tìm được lối ra? Năm người đành ngồi khoanh tay bó gối.

Võ Tam Thông luôn miệng chửi Lý Mạc Sầu nham hiểm tàn ác. Quách Phù vốn đang chán nản lo sợ, nghe Võ Tam Thõng lải nhải chửi bới, càng thêm bực bội, không nhịn được, bèn nói:

– Võ bá bá, Lý Mạc Sầu nham hiểm tàn ác, bá bá đâu phải hôm nay mới biết, tại sao không đề phòng chút nào? Bây giờ mới chửi sau lưng mụ ta, phỏng có ích gì?

Võ Tam Thông sững lại, không biết trả lời thế nào.

Huynh đệ họ Võ gặp lại Quách Phù, đều có tâm bệnh, khi ở bên cạnh huynh muội Gia Luật Tề, thì nói cười vui vẻ, nhưng không hề trò chuyện với Quách Phù, lúc này Võ Tu Văn nghe nàng chỉ trích phụ thân, không nhịn được, bèn lên tiếng:

– Mọi người chui vào tòa cổ mộ này chỉ là để cứu muội tử của cô nương, đã không may ngộ nạn, thì mọi người cùng chết là xong, cô nương còn lên mặt gì nữa…

Y chưa nói hết câu, Võ Đôn Nhu gọi:

– Đệ đệ!

Võ Tu Văn không nói nữa, y chưa nói thì bực bội, nói rồi lại thấy kỳ kỳ. Bao năm nay đối với Quách Phù, y nhất mực tuân theo, không dám cãi một lời, không ngờ hôm nay lại lên tiếng chê trách nàng.

Quách Phù cũng ngẩn người, định đốp lại, song chưa biết nói lý thế nào, không ngờ lại sắp bị chết ngạt trong tòa cổ mộ này, không được gặp lại cha mẹ, đau đớn quá gục xuống một vật, trong bóng tối không rõ là vật gì, mà khóc nấc lên. Võ Tu Văn nghe nàng khóc, cảm thấy áy náy, nói:

– Thôi được rồi, là tại hạ nói sai, vậy xin lỗi cô nương.

Quách Phù nói:

– Xin lỗi mà làm gì?

Càng khóc to hơn. Tiện tay cầm một mảnh vải sờ thấy đưa lên lau nước mắt nước mũi, chợt phát hiện là mình gục xuống đùi một người và cầm vạt áo người đó lên.

Quách Phù giật mình, vội ngồi thẳng người dậy, nghe tiếng nói thì biết ba cha con Võ Tam Thông không ngồi cạnh nàng, chỉ có Gia luật Tề từ nãy không hề lên tiếng, thế thì người đó chính là chàng ta. Nàng xấu hố quá chừng, miệng ấp úng:

– Ôi thôi…

Gia Luật Tề bỗng nói:

– Cô nương thử nghe xem, có tiếng gì kìa?

Bốn người dỏng tai, nhưng không nghe thấy gì.

Gia Luật Tề nói:

– Lạ thật, là tiếng khóc của trẻ sơ sinh. Quách cô nương, là muội tử của cô nương đấy.

Tiếng khóc bị ngăn cách bởi bức tường đá, nhỏ như sợi tơ, phải là người có nội công tu vi thâm hậu, rất thính tai mới nghe thấy. Gia Luật Tề đứng dậy đi vài bước, tiếng khóc nghe nhỏ hẳn, chàng chợt nghĩ: “Tiếng khóc đã vọng tới, ắt thạch thất có chỗ thông hơi”, bèn dỏng tai nghe để xem tiếng khóc vọng tới từ phía nào.

Chàng tiến sang hướng tây vài bước, tiếng khóc nhỏ đi, trở lại phía đông, tiếng khóc rõ hơn một chút, bước chéo về phía đông bắc, tiếng khóc càng rõ hơn.

Thế là chàng bước tới góc đông bắc, chọc chọc nhẹ mũi kiếm vài chỗ trên vách, có chỗ nghe như vách rất mỏng. Chàng tra kiếm vào bao, song chưởng tì vào chỗ đó mà đẩy mạnh ra ngoài, không suy suyển gì.

Chàng hít một hơi, vận lực sử tự quyết chữ “Niêm” (dính chặt), rồi thu gấp lực về, “cạch”, một cục đá bị chưởng lực của chàng hút rời ra, rơi xuống nền. Bọn Quách Phù mừng rỡ, reo lên, xúm lại móc ra thêm ba cục đá nữa. Bây giờ đã có thể chui người qua.

Năm người lần lượt chui qua, lần theo tiếng khóc, đến một gian thạch thất nhỏ. Trong bóng tối Quách Phù nghe tiếng khóc rất to, bèn giơ tay ẵm đứa bé lên.

Đứa bé ấy chính là Quách Tương. Dương Quá vì mải giúp Tiểu Long Nữ thông mạch, lại phải đối địch với Lý Mạc Sầu, đã quá thời khắc cho ăn, nên đứa bé khóc dữ. Quách Phù cố nựng, vừa vỗ vỗ vừa đung đưa, nhưng đứa bé đói quá, càng khóc tợn. Quách Phù cuống lên, trao đứa bé cho Võ Tam Thông, nói:

– Võ bá bá, bá bá thử xem xem nó làm sao?

Gia Luật Tề sờ soạng trên bàn, sờ thấy cây nến và đồ đánh lửa, liền đốt nến lên. Mọi người bị chìm trong bóng tối chán chê, giờ trước mắt sáng bừng, bất giác cùng reo to mừng rỡ.

Võ Tam Thông có hai đứa con, nghe tiếng khóc của đứa bé, biết là nó đói, thấy trên bàn có sẵn chén nước pha mật ong, lại có cái thìa bằng gỗ, liền cho đứa bé uống. Nước mật vừa vào miệng, Quách Tương quả nhiên ngừng khóc. Gia Luật Tề cười, nói:

– Không có tiểu Quách cô nương đói quá gào khóc, chỉ e tất cả chúng ta đều chết trong gian thạch thất kia.

Võ Tam Thông hậm hực nói:

– Bây giờ phải đi tìm Lý Mạc Sầu.

Mọi người bẻ gãy lấy bốn cái chân bàn, châm lửa làm đuốc, men thông đạo mà đi. Đến mỗi chỗ quanh, Võ Đôn Nhu đều dùng kiếm đánh dấu, để khi quay ra khỏi bị lạc lối.

Năm người đi hết gian này gian khác, giơ cao cây đuốc tìm tung tích Lý Mạc Sầu, thấy tòa cổ mộ qui mô quá lớn, ngang dọc vô số thạch thất, cứ kinh ngạc mãi không thôi, không ngờ dưới lòng đất lại có một tòa kiến trúc hoằng vĩ thế này.

Khi tiến vào phòng ngủ của Tiểu Long Nữ, họ thấy dưới nền có mấy mũi Băng phách ngân châm. Quách Phù lấy vải quấn vào tay, nhặt lên hai mũi, nói:

– Muội sẽ sử dụng thứ này đánh trả mụ ma đầu.

Dương Quá dùng nội lực giúp Tiểu Long Nữ khu trừ chất độc, thấy từ đầu năm ngón tay trái của nàng có nước đen nhỏ ra, chỉ cần thời gian bằng ăn xong một bữa cơm là sẽ trừ hết chất độc, bỗng nghe có tiếng chân người ngoài thông đạo, tổng cộng năm người cả thảy, thì kinh ngạc, nghĩ mỗi lần vào thời khắc khẩn yếu, đều có kẻ địch đến tấn công, đối với một mình Lý Mạc Sầu đã khó đối phó, huống hồ những năm người? Tiểu Long Nữ mới sơ thông huyệt mạch, nội lực chưa được củng cố, nếu không khu trừ hết chất độc, chất độc sẽ ngấm vào yếu huyệt; chàng đang bàng hoàng, bỗng thấy ánh lửa chập chờn, năm người từ xa tiến đến gần. Dương Quá bèn ôm Tiểu Long Nữ chui vào cỗ quan tài rỗng đè bên trên cỗ quan tài có Lý Mạc Sầu, rồi kéo cái nắp lại, nhưng không đậy kín, đề phòng khó chui ra. Hai người vừa chui vào cỗ quan tài xong xuôi, thì bọn Gia Luật Tề tiến vào, họ thấy ở đây có năm cỗ quan tài bằng đá, đều sững sờ, lờ mờ cảm thấy đây là điềm dữ. Quách Phù không kìm được, thốt lên:

– Ôi chúng ta vừa đúng năm người, chỗ này có năm cỗ quan tài!

Dương Quá và Tiểu Long Nữ nằm trong quan tài, nhận ra giọng nói của Quách Phù, đều lấy làm lạ: “Sao lại là nàng ta?” Tay trái của Dương Quá vẫn không rời bàn tay của Tiểu Long Nữ, để khu trừ chất độc. Chàng thấy trong năm người tới có Quách Phù, tuy lấy làm lạ, song cũng đỡ lo, nghĩ nàng không đến nỗi thừa lúc mình nguy ngập mà tấn công, bèn không lên tiếng, cứ lặng lẽ vận công khu trừ chất độc.

Bọn Gia Luật Tề đã nghe thấy tiếng thở trong cỗ quan tài, tưởng Lý Mạc Sầu nấp trong đó, tất có gian kế, lần này không thể để mụ đánh lừa, ai nấy bèn thủ thế, vây xung quanh. Quách Phù thấy nắp quan tài và thân quan tài có khe hở, nhìn vào có vạt áo, đoán chắc là Lý Mạc Sầu, bèn cười to, nghĩ bụng: “Này thì lấy gậy bà đập lưng bà!” tay trái nàng ráng sức đẩy nắp quan tài rộng ra một chút, tay phải phóng hai mũi Băng phách ngân châm vào bên trong cỗ quan tài.

Hai mũi ngân châm phóng vào, bên trong cỗ quan tài chật chội không còn chỗ né tránh, Dương, Long hai người cùng kêu “Ối!” một mũi trúng đùi bên phải của Dương Quá, mũi kia trúng vai trái Tiểu Long Nữ.

Quách Phù phóng ngân châm rồi, đang đắc chí, bỗng nghe tiếng kêu của một nam một nữ bên trong cỗ quan tài, thì giật mình, cũng kêu “Ối chao!” Gia Luật Tề giơ chân đá văng nắp quan tài xuống đất, Dương Quá và Tiểu Long Nữ lóp ngóp bò dậy, ánh đuốc soi rõ sắc mặt tái nhợt của hai người.

Quách Phù biết lần này mình lại gây ra đại họa còn lớn hơn lần chém đứt cánh tay Dương Quá, ấp úng nói:

– Dương đại ca, Long tỷ tỷ, tiểu muội không biết là hai vị, phóng châm ngộ thương. May mẫu thân của tiểu muội có linh dược chữa trị loại độc châm này, dạo trước con chim điêu của tiểu muội bị thương vì ngân châm của Lý Mạc Sầu, mẫu thân tiểu muội cũng đã chữa khỏi. Tại sao hai vị lại nấp bên trong cỗ quan tài? Ai có thể ngờ lại là hai vị kia chứ?

Quách Phù cho rằng sau khi nàng chém đứt cánh tay Dương Quá, Dương Quá đã làm cong quẹo thanh kiếm của nàng, như thế coi như hòa, hơn nữa cha mẹ nàng đã mắng nàng một trận nên thân, nàng không trách chàng thì thôi. Từ nhỏ nàng luôn luôn gặp mọi điều thuận lợi, người ta kính nể cha mẹ nàng, nhường nhịn nàng mọi chuyện, cho nên nàng chỉ nghĩ đến mình, không bao giờ nghĩ đến người khác, suy cho cùng, Dương, Long hai người không nên nấp bên trong quan tài, để cho nàng bị một phen giật mình. Quách Phù đâu nghĩ rằng khi Tiểu Long Nữ trúng ngân châm, chất độc trong cơ thể nàng đang đi ra thuận theo nội tức, đột nhiên bị chất cực độc bắn vào, chất độc của Ngũ độc thần chưởng liền chạy ngược trở lại, xâm nhập các đại huyệt toàn thân, như vậy, dẫu có thuốc tiên cũng không thể giải cứu. Ngân châm của Lý Mạc Sầu chẳng qua chỉ là ngoại thương, nếu kịp thời chữa trị vốn không đáng ngại, nhưng chất độc nội xâm thật vô cùng nguy hiểm. Tiểu Long Nữ trong giây lát cảm thấy ngực mình như trống rỗng, quả tim không biết biến đi đâu mất; khi nàng quay sang nhìn Dương Quá, thấy ánh mắt của chàng lộ vẻ đau đớn và phẫn nộ, người chàng run lên, tựa hồ mọi nỗi uất ức căm hận trong đời sẽ trút hết ra lúc này. Tiểu Long Nữ không nỡ nhìn chàng khổ sở như vậy, nhẹ nhàng nói:

– Quá nhi, số mệnh đôi ta như thế, cũng chả nên trách người khác, chàng đừng quá đau buồn!

Nàng đưa tay rút mũi Ngân châm ở đùi Dương Quá, rồi mới rút mũi Ngân châm ở vai mình ra. Ngân châm là do sư phụ truyền thụ, độc tính khác hẳn chất độc của Ngũ độc thần chưởng, giải dược nàng luôn mang theo bên mình. Nàng đưa cho Dương Quá một viên, nàng cũng nuốt một viên. Dương Quá cả giận, nhổ luôn viên thuốc xuống đất.

Quách Phù giận dỗi nói:

– Gì mà lên mặt quá thế, làm như tiểu muội cố ý hãm hại hai vị không bằng. Tiểu muội đã xin lỗi rồi, sao còn hùng hùng hổ hổ? Hai mũi Ngân châm nhỏ bé, nào có đáng gì kia chứ?

Võ Tam Thông thấy vẻ mặt đau đớn và tức giận của Dương Quá tăng dần, lại thấy chàng cúi xuống cầm thanh Huyền thiết trọng kiếm lên, biết là có chuyện, bèn bước lên can:

– Xin Dương huynh đệ đừng giận. Năm người bọn ta bị Lý Mạc Sầu nhốt trong một gian thạch thất, may lắm mới thoát ra được, Quách cô nương nhất thời thô lỗ, lỡ tay…

Quách Phù sấn tới, nói:

– Cái gì, tiểu muội thô lỗ ư? Võ bá bá cũng cho đó là Lý Mạc Sầu, nếu không sao không lên tiếng?

Võ Tam Thông nhìn Dương Quá, lại nhìn Quách Phù, không biết phần khuyên can như thế nào. Tiểu Long Nữ lại lấy ra một viên giải dược, dịu dàng nói:

– Quá nhi hãy nuốt viên thuốc này đi, chẳng lẽ ngay lời của thiếp, chàng cũng không chịu nghe hay sao?

Dương Quá nghe lời lẽ dịu dàng của Tiểu Long Nữ, bèn há miệng, nuốt viên thuốc, nghĩ hai người bao ngày nay liên tiếp vào sinh ra tử vì người khác, rốt cuộc đều thành bèo bọt, thì không nhẫn nại được thêm, chàng gục đầu xuống nắp quan tài mà khóc nấc lên.

Bọn Võ Tam Thông nhìn nhau, cứ tưởng chàng là người mười phần cứng cỏi, sao hôm nay chỉ trúng một mũi ngân châm mà lại khóc như vậy? Tiểu Long Nữ đưa tay vuốt tóc chàng, nói:

– Quá nhi, chàng hãy bảo bọn họ đi ra đi, thiếp không thích họ có mặt ở đây.

Nàng không cau mặt nặng lời, một câu “không thích họ có mặt ở đây” đã ẩn chứa sự căm ghét cao độ của nàng rồi.

Dương Quá đứng dậy, mục quang quét một lượt, bắt đầu từ Quách Phù, chàng tuy cực nộ cực hận, nhưng cuối cùng cũng biết Quách Phù phóng ngân châm quả thật là không có lỗi, hơn nữa, dù có đâm nàng ta một kiếm chết tươi, thì cũng không thể cứu được Tiểu Long Nữ. Chàng giơ kiếm lên, mục quang như ngọn đuốc, đột nhiên giáng kiếm xuống, sầm một tiếng lớn, tia lửa tung tóe, cỗ quan tài đá chàng vừa từ đó bước ra đã bị vỡ làm hai phần. Nhát kiếm này không chỉ có lực đạo trầm hùng tuyệt luân, mà còn chứa đựng nỗi đau khổ và phẫn nộ vô hạn.

Bọn Quách Phù thấy thanh kiếm có uy lực như thế đều không khỏi ngây người. Cỗ quan tài kiên cố đúc bằng đá hoa cương, thợ đá muốn bổ đôi phải dùng búa lớn đục phá nửa ngày mới xong. Đằng này Dương Quá lại dùng một thanh kiếm chém mỗi một nhát, thật là ngoài sức tưởng tượng.

Dương Quá thấy năm người kinh hãi nhìn nhau, bèn gằn giọng:

– Các người tới đây làm gì?

Võ Tam Thông nói:

– Dương huynh đệ, chúng tôi theo Quách phu nhân đến tìm huynh đệ.

Dương Quá giận dữ nói:

– Các người định đến đoạt lại đứa con cho bà ta phải không? Chỉ vì đứa bé này mà các người nhẫn tâm sát hại ái thê của ta.

Võ Tam Thông kinh ngạc:

– Sát hại ái thê của huynh đệ ư? Long cô nương ấy ư?

Lão thấy Tiểu Long Nữ mặc trang phục cô dâu, chợt hiểu ra, vội nói:

– Phu nhân của Dương huynh đệ trúng độc châm, Quách phu nhân có giải dược, đang chờ ở bên ngoài.

Dương Quá hừ một tiếng, quát:

– Các người đến quấy phá, chất độc đã ngấm sâu vào đại huyệt toàn thân của ái thê ta rồi. Quách phu nhân thì làm gì được? Không lẽ bà ta có bản lĩnh cải tử hoàn sinh hay sao?

Võ Tam Thông chịu ơn cứu mạng của Dương Quá nên đối với chàng rất tôn kính, nghe chàng mắng cũng không giận, chỉ lẩm bẩm:

– Chất độc đã ngấm sâu vào đại huyệt toàn thân, thì phải làm sao đây?

Quách Phù thì khác, nàng nghe Dương Quá nói năng bất kính về mẫu thân mình, bèn nổi giận:

– Mẫu thân muội có lỗi gì với huynh nào? Hồi nhỏ huynh bơ vơ không cửa không nhà, chẳng phải mẫu thân muội đã đưa huynh về nhà nuôi dạy đó sao, hừ, cuối cùng huynh lại vong ân bội nghĩa, cướp muội tử của muội đi?

Lúc này nàng thừa biết muội tử của mình ở trong tay Dương Quá, chàng hoàn toàn không có ý gì xấu, nhưng đã đấu khẩu thì phải dùng lời lẽ nặng nề với đối phương.

Dương Quá lạnh lùng nói:

– Phải, hôm nay ta muốn vong ân bội nghĩa đấy. Cô nương bảo ta cướp muội tử của cô nương, thì ta sẽ vĩnh viễn không trả lại, xem cô nương làm gì nổi ta.

Quách Phù tay trái ôm chặt Quách Tương, tay phải giơ cao cây đuốc, chắn phía trước mặt. Võ Tam Thông vội nói:

– Dương huynh đệ, phu nhân của huynh đệ đã trúng độc, hãy mau tìm cách giải độc thì hơn…

Dương Quá nói:

– Võ huynh, vô ích rồi.

Đột nhiên chàng hú một tiếng, ống tay áo bên phải phất một cái, năm người cảm thấy một luồng gió mạnh thổi qua mặt rát như phải bỏng, năm cây đuốc cùng tắt phụt, trước mắt tối như mực. Quách Phù kêu to “Ối chao!” Gia Luật Tề sợ Dương Quá đả thương Quách Phù, bèn nhảy tới, chỉ nghe tiếng bé Quách Tương khóc oa oa, nhưng đã ở bên ngoài thạch thất. Mọi người kinh ngạc, tiếng bé Quách Tương khóc đã ở xa mấy trượng, thân pháp nhanh thế thì không khác gì quỷ mị.

Quách Phù kêu lên:

– Muội tử đã bị Dương Quá cướp đi!

Võ Tam Thông gọi:

– Dương huynh đệ, Long cô nương! Dương huynh đệ, Long cô nương!

Nhưng không có tiếng trả lời.

Đuốc đã tắt hết, xung quanh tối mò, không hiểu tình hình thế nào. Gia Luật Tề nói:

– Chúng ta ra ngoài thôi, kẻo Dương Quá sẽ nhốt ở đây.

Võ Tam Thông xẵng giọng:

– Dương huynh đệ đại nhân đại nghĩa, đời nào làm việc đó?

Quách Phù nói:

– Nhân nghĩa cái gì… Mau thoát ra ngoài thôi, còn ở trong này làm gì?

Lời vừa dứt, bỗng có tiếng lịch kịch trong cỗ quan tài. Quách Phù kêu lên:

– Có ma!

Nàng túm lấy cánh tay của Gia Luật Tề đang đứng bên cạnh. Bọn Võ Tam Thông nghe đúng là có tiếng động phát ra từ trong cỗ quan tài, tựa hồ xác chết trong đó bật dậy; trong bóng tối ai nấy sởn gai ốc.

Gia Luật Tề nói nhỏ với Võ Tam Thông:

– Võ thúc thúc, thúc thúc hãy ở đây, tiểu điệt ra chỗ kia, nếu có cái xác nào chui ra, chúng ta sẽ cùng giáng chưởng cho nó tan xương luôn!

Chàng cầm cổ tay Quách Phù kéo nàng ra sau lưng mình, sợ ma quỷ bật dậy đánh người.

Chỉ nghe vù một tiếng, có vật gì đó từ trong cỗ quan tài bay ra. Võ Tam Thông và Gia Luật Tề thủ thế sẵn, nghe tiếng gió bèn cùng vỗ chưởng ra, tay họ đụng vào một vật cứng là cái gối đầu bằng đá. Hai người xuất chưởng dùng lực toàn thân, cái gối đá đập mạnh xuống cỗ quan tài, bị vỡ thành mấy mảnh. Tiếp đó tiếng gió vù vù, có vật gì lướt qua bên mình; Võ Tam Thông và Gia Luật Tề cùng tung chưởng đánh tiếp, nhưng vật ấy đã bay đi xa, chỉ nghe có mấy tiếng cười hi hi, rồi lập tức chìm trong cảnh tĩnh lặng.

Võ Tam Thông kinh ngạc kêu:

– Lý Mạc Sầu!

Quách Phù nói:

– Không phải, là tử thi đấy! Lý Mạc Sầu tại sao lại nằm trong quan tài?

Gia Luật Tề hừ một tiếng, không nói gì. Chàng không tin trên thế gian có ma quỷ, nhưng bảo đấy là Lý Mạc Sầu thì cũng không hợp lý. Mụ ta cùng với cả bọn cùng tiến vào đây, Dương Quá và Tiểu Long Nữ thì đã ở trong tòa cổ mộ nhiều ngày, làm sao mụ có thể chui vào cỗ quan tài nằm bên dưới cỗ quan tài có Dương Quá và Tiểu Long Nữ được kia chứ?

Võ Tam Thông nói:

– Lý Mạc Sầu chạy đi đâu rồi?

Gia Luật Tề nói:

– Tòa cổ mộ chỗ nào cũng có tà môn, chúng ta mau ra ngoài trước thì hơn.

Quách Phù nói:

– Muội tử của tiểu nữ thì sao đây?

Võ Tam Thông nói:

– Chúng ta hết cách rồi, mẫu thân của cô nương tất có diệu sách, mọi người ra đó nghe Quách phu nhân phân phó thì được.

Mọi người bèn tìm lối đi trở ra, vượt dòng suối ngầm. Vừa từ dưới suối bò lên, thì thấy trước mắt đỏ hồng, rừng cây ở hai bên tả hữu dòng suối đang cháy rừng rực, khí nóng phả vào mặt. Quách Phù gọi to:

– Mẹ, mẹ ơi!

Không có tiếng trả lời. Bỗng một cây lớn đang cháy đùng đùng đổ ụp xuống, Gia Luật Tề vội kéo nàng chạy về phía thượng du mới tránh được. Bây giờ đang mùa đông, cây cỏ khô héo, thành thử cả khu rừng biến thành một biển lửa. Năm người tuy lội suối ướt sũng, nhưng khí nóng tạt tới vẫn rát cả mặt.

Võ Tam Thông nói:

– Chắc là quân Mông Cổ tấn công lên cung Trùng Dương không được gì, bèn đốt rừng cho bõ tức.

Quách Phù lo lắng gọi to:

– Mẹ ơi, mẹ ở đâu rồi?

Bỗng thấy ở phía bên trái dòng suối có một nữ nhân đang nhảy tránh lửa giữa các đám cỏ, Quách Phù cả mừng, gọi “Mẹ, mẹ!” rồi từ dưới suối vọt lên, chạy đón đầu người kia.

Võ Tam Thông nói to:

– Cẩn thận đấy!

Sầm sầm hai tiếng, hai cây lớn đang cháy đùng đùng đổ ụp xuống, chắn tầm mắt của lão.

Quách Phù xông qua khói lửa mà chạy. Khi đứng dưới dòng suối, một là nàng quá lo cho mẹ, hai là mới từ trong bóng tối của tòa cổ mộ đi ra, ánh sáng ngoài này chói chang, mắt còn hoa, chưa nhìn rõ mọi thứ, khi chạy tới gần sau lưng người kia, biết không phải là mẹ nàng, nàng sững lại, người kia quay người, hóa ra là Lý Mạc Sầu.

Nguyên mụ bị Dương Quá nhốt trong cỗ quan tài, vốn không tài nào chui ra; nhưng sau đó Dương Quá trong cơn thịnh nộ vung kiếm chém vỡ đôi cỗ quan tài bên trên, làm vỡ luôn cả cỗ quan tài bên dưới. Lý Mạc Sầu thoát chết, mụ ném cái gối đá ra trước, rồi mới nhảy vọt ra sau.

Mụ bị nhốt trong cỗ quan tài ngót một canh giờ, tức thở muốn chết, quả là tình cảnh cực kỳ khổ sở.

Mụ nghiến răng căm hận hết thảy những ai đang sống trên đời, nghĩ bụng: “Sau khi chết, ta sẽ biến thành quỉ sứ giết hại Dương Quá, giết hại Tiểu Long Nữ, giết hại Võ Tam Thông, giết hại Hoàng Dung…”

Bất kể là ai, mụ cũng giết tuốt. Sau đó tuy mụ may mắn thoát chết, nỗi căm hận trong lòng vẫn không giảm chút nào, đột nhiên gặp Quách Phù, mụ bèn mỉm cười, nhẹ nhàng nói:

– Quách cô nương, là cô nương đấy ư? Lửa cháy khiếp quá, cô nương hãy cẩn thận.

Quách Phù thấy thần sắc mụ ta thân thiết, lấy làm lạ, hỏi:

– Đạo trưởng có thấy mẫu thân tiểu nữ đâu không?

Lý Mạc Sầu tới gần vài bước, chỉ sang mé trái, nói:

– Có phải đằng kia không?

Quách Phù nhìn theo hướng tay mụ chỉ. Lý Mạc Sầu liền xáp tới, điểm luôn huyệt đạo ở lưng Quách Phù, cười, nói:

– Đừng cuống, mẹ ngươi sẽ tới tìm ngươi thôi.

Mụ thấy lửa từ bốn phía đang lan nhanh tới, không chạy đi thì khó lòng toàn mạng, bèn chạy về phía tây. Quách Phù bị tê liệt, khuỵu xuống đất, nghe tiếng hát của Lý Mạc Sầu vọng lại giữa tiếng lửa cháy: “Hỏi thế gian tình ái là chi, mà đôi lứa thề nguyền sống chết? ”

Tiếng hát xa dần, bỗng một luồng khói dày theo gió tràn tới, trùm lên Quách Phù. Nàng tứ chi bất động, bị khói phủ, ho lên sặc sụa. Cha con họ Võ và Gia Luật Tề ngâm mình trong dòng suối, đầu và mặt đầy tro, ở giữa dòng suối và nơi Quách Phù đang ngồi, lửa bốc cao ba trượng, bốn người biết nàng bị nguy hiểm, nhưng nếu chạy đến cứu nàng thì chẳng khác gì xông vào biển lửa, mình sẽ mất mạng vô ích.

Quách Phù bị khói trùm, lửa sắp liếm vào người, sắp ngất đi, bỗng nghe phía đông có tiếng gió ù ù thổi đến, nàng ngoảnh đầu, thấy một luồng gió lốc cuốn theo một cái bóng xám, tới đâu thì lửa dạt ra hai bên đến đó, thoáng chốc đã đến chỗ nàng. Cái bóng xám kia chính là Dương Quá. Quách Phù cứ ngỡ có người đến cứu, đang hoan hỉ, khi nhìn rõ đó là Dương Quá, thì thân tuy đang nóng rừng rực, vẫn cảm thấy như bị giội một gáo nước lạnh, nghĩ bụng: “Mình sắp chết, hắn còn đến nhiếc móc làm nhục mình”. Gì thì nàng cũng là con gái của Quách Tĩnh, Hoàng Dung, nàng trừng mắt nhìn Dương Quá, không chút sợ hãi.

Dương Quá chạy đến chỗ Quách Phù, đưa thân kiếm xuống bên dưới lưng nàng, nói:

– Cẩn thận này!

Cánh tay trái hất mạnh, Quách Phù bay lên không trung như đằng vân giá vụ, bay qua mươi cây lớn đang cháy đùng đùng, ùm một tiếng, rơi xuống giữa dòng suối. Gia Luật Tề vội bơi lại, đỡ nàng lên, giải huyệt cho nàng. Quách Phù đầu váng mắt hoa, một lát sau mới khóc òa lên.

Nguyên Dương Quá ôm Tiểu Long Nữ và bé Quách Tương ra khỏi tòa cổ mộ, thấy quân Mông Cổ đang đốt rừng. Dương, Long hai người từng sống giữa rừng cây mấy năm, giờ nhìn rừng cây bị đốt cháy thì rất tiếc, nhưng quân Mông Cổ thế lực lớn mạnh, mình không chống nổi. Dương Quá không biết Tiểu Long Nữ sau khi bị chất độc ngấm vào huyệt đạo và lục phủ ngũ tạng còn chịu đựng được bao lâu, vội tìm một thạch động, chỗ đó cây cối thưa thớt để tránh tạm. Một hồi sau, hai người nhìn thấy xa xa Quách Phù bị Lý Mạc Sầu gia hại, lửa lớn lan tới chỗ ngồi. Dương Quá nói:

– Long nhi, cô nương kia hại ta chưa đủ, còn đến hại nàng, hôm nay cuối cùng đang bị báo ứng kia kìa.

Tiểu Long Nữ đưa đôi mắt sáng nhìn chàng, lấy làm lạ:

– Quá nhi, chẳng lẽ chàng không đi cứu Quách cô nương?

Dương Quá nói, giọng bực tức:

– Nó hại chúng ta đến thế này, ta không tự tay giết nó, đã là nể cha mẹ nó lắm rồi.

Tiểu Long Nữ thở dài:

– Chúng ta bất hạnh, là cái số chúng ta bị khổ, để cho người khác được sung sướng chẳng hơn hay sao?

Dương Quá tuy ngoài miệng nói thế, nhưng nhìn ngọn lửa lớn lan dần đến chỗ Quách Phù, thì chàng lại không nỡ, bèn nói:

– Thôi được, cái số chúng ta bị khổ, để cho người khác sung sướng vậy!

Chàng liền cởi cái áo ướt, quấn vào thanh kiếm, vận lực vung kiếm, tạo gió gạt lửa, phi đến cứu Quách Phù. Lúc chàng trở lại bên Tiểu Long Nữ, tóc và vạt áo bị cháy sém, chiếc quần bén lửa, giập tắt lửa thì quần bị thủng lỗ chỗ.

Tiểu Long Nữ ẵm Quách Tương, đưa tay chỉnh lại đầu tóc và quần áo cho Dương Quá, cảm thấy mình lấy được một người chồng anh hùng thế này thì thật là đắc ý. Nàng tựa vào người Dương Quá, giữa cảnh khói lửa ngút trời mà mặt nàng lộ rõ vẻ bình an sung sướng. Dương Quá chăm chú nhìn, thấy ánh lửa làm hồng đôi má nàng, trông xinh đẹp bội phần, bèn đưa tay ôm ngang lưng nàng. Thời khắc này, hai người quên hết mọi bi thương sầu khổ trên thế gian.

Dương, Long hai người đứng chỗ cao, cha con họ Võ, Quách Phù và Gia Luật Tế từ dưới suối nhìn lên qua lửa khói, thấy tà áo của hai người bay bay, phong thái trang nghiêm, trông như thần tiên vậy. Quách Phù vốn coi thường Dương Quá, lúc này đột nhiên cảm thấy tự thẹn là mình kém họ quá xa.

Dương Quá và Tiểu Long Nữ đứng một lát, Tiểu Long Nữ nhìn núi rừng chìm trong biển lửa, thở dài nói:

– Cỏ cây bị thiêu trụi, sau này mọc lại không biết sẽ như thế nào?

Dương Quá không muốn nàng lo thay cho cảnh vật bên ngoài, bèn nói đùa:

– Tân hôn của đôi ta, quân Mông Cổ phóng hỏa chúc mừng, thắp sáng muôn vàn cây nến đấy.

Tiểu Long Nữ mỉm cười. Dương Quá nói:

– Chúng ta đi ra sau núi nghỉ một lát, nàng cảm thấy thế nào?

Tiểu Long Nữ nói:

– Thiếp vẫn khỏe mà.

Hai người sánh vai đi ra sau núi. Võ Tam Thông chợt nhớ ra việc gì, gọi to:

– Dương huynh đệ, sư thúc và Chu sư đệ của lão bị nhốt ở Tuyệt Tình cốc, huynh đệ có đi cứu họ hay không?

Dương Quá sững sờ, không trả lời, tự nói một mình: “Ta còn có thể quản nhiều chuyện được sao?”

Dương Quá nghĩ thế, chân vẫn bước, đi ra sau núi, nơi chỉ có đá lổn nhổn, không có cây cỏ. Tiểu Long Nữ trúng độc tuy sâu, nhưng nhất thời chất độc chưa phát tác, sau khi huyệt đạo được đả thông, võ công phục hồi dần, nàng ẵm bé Quách Tương bước nhanh. Hai người đi nửa canh giờ, cách cung Trùng Dương đã xa, ngoảnh đầu nhìn lại, cả bầu trời phía đó ráng hồng ánh lửa.

Gió bấc thổi càng lúc càng mạnh, trời rét làm đỏ ửng khuôn mặt nhỏ của Quách Tương. Tiểu Long Nữ nói:

– Chúng mình đi tìm chút thức ăn, kẻo đứa bé vừa lạnh vừa đói, sợ không chịu nổi.

Dương Quá nói:

– Ta cũng ngu thật, đi rước thêm đứa bé này theo cho mệt.

Tiểu Long Nữ cúi xuống thơm vào má Quách Tương, nói:

– Tiểu muội muội này khả ái vô cùng, chẳng lẽ chàng không thích nó?

Dương Quá cười, nói:

– Nó là con của người khác, trừ phi chúng ta sinh được một đứa con.

Tiểu Long Nữ đỏ mặt, câu nói của Dương Quá động tới mẫu tính ở đáy lòng nàng, nàng nghĩ: “Giá như mình sinh cho chàng một hài nhi… ôi, mình làm sao có được phúc khí như thế?”

Dương Quá sợ nàng đau lòng, không dám nhìn vào mắt nàng, ngẩng mặt nhìn sắc trời, thấy phía tây bắc mây đen ùn ùn nặng như chì, nói:

– Trời này e sắp có tuyết dày, phải tìm nhà dân trú nhờ mới được.

Hai người tránh lửa cháy rừng, nên đi đến chỗ hoang sơn vô lộ, mặt đất toàn đá và bụi gai, lên chỗ cao nhìn bốn phía, trong phạm vi mươi dặm không có nhà cửa gì. Dương Quá nói:

– Tuyết sẽ rơi dày, ở trên núi nguy hiểm, chúng ta phải mau xuống núi thôi.

Tiểu Long Nữ nói:

– Võ Tam thúc, Quách cô nương và mấy người kia không biết có chạm trán quân Mông Cổ hay không? Các đạo sĩ phái Toàn Chân không biết có chạy thoát hay không?

Giọng nói lộ vẻ lo lắng. Dương Quá nói:

– Nàng thật quá thừa thiện tâm. Bọn người ấy có lỗi với nàng, nàng còn lo cho họ. Thảo nào năm xưa sư tổ biết nàng quá tốt, sợ nàng về sau phải đau khổ, mới dạy nàng tu tập cách diệt trừ thất tình lục dục, thây kệ sự đời. Nhưng nàng vẫn cứ quan hoài ta, công phu tu luyện mười mấy năm bỏ hết, ai cũng được nàng lo liệu cho cả.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Thực ra khi thiếp lo lắng cho chàng, đau khổ vì chàng, lại cảm thấy sung sướng. Thiếp sợ nhất là chàng không cần đến sự quan hoài của thiếp.

Dương Quá nói:

– Đúng thế, đau khổ lớn và sung sướng lớn thì hơn hẳn không đau khổ và không sung sướng. Ta chỉ có thể phát si phát cuồng, chứ không thể sống những ngày thanh bình yên tĩnh.

Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:

– Chàng chẳng từng bảo đôi ta sẽ đi xuống phương nam làm ruộng, nuôi gà nuôi vịt đó ư?

Dương Quá thở dài:

– Giá có thể được như vậy!

Lại đi vài dặm, tuyết bắt đầu rơi trắng trời, thoạt tiên chỉ là các bông tuyết nhỏ và thưa, càng về sau gió bấc mạnh dần, bông tuyết càng lớn và dày hơn. Hai người bất chấp mưa tuyết lớn, cứ thi triển khinh công mà đi rất nhanh.

Tiểu Long Nữ bỗng nói:

– Quá nhi, chàng bảo sư tỷ của thiếp đi đâu?

Dương Quá nói:

– Nàng lại quan tâm đến mụ ấy rồi. Lần này chưa giết mụ, cũng không biết… cũng không biết…

Chàng định nói “Cũng không biết đôi ta còn sống được bao lâu, có còn dịp giết mụ ta hay không” nhưng sợ Tiểu Long Nữ đau lòng, chàng không nói nữa.

Tiểu Long Nữ nói:

– Sư tỷ kỳ thực cũng rất đáng thương.

Dương Quá nói:

– Mụ ta không cam chịu đau thương một mình, lại cứ bắt mọi người trong thiên hạ cũng phải đau khổ như mụ ta.

Lúc này trời càng âm u hơn. Qua lưng núi, bỗng thấy ở giữa hai cây tùng lớn có một ngôi nhà tranh nho nhỏ, trên mái tuyết phủ đã dày chừng một tấc.

Dương Quá vui mừng nói:

– Hay quá, chúng ta vào đây nghỉ một đêm.

Chàng chạy lại gần, thấy cánh cửa nửa khép nửa mở, tuyết ngoài sân không có dấu chân người, bèn nói to:

– Người qua đường gặp tuyết, xin được vào trú nhờ một đêm.

Chờ một lát, trong nhà hoàn toàn không có tiếng trả lời.

Chàng đẩy cửa bước vào, bên trong không có người, bàn ghế phủ đầy bụi, rõ ràng không có ai sống ở đây, bèn gọi Tiểu Long Nữ vào trong nhà. Nàng khép cửa lại, nhóm một đống lửa. Trên vách gỗ có treo cung tên, góc nhà có để một cái bẫy bắt thỏ, xem chừng ngôi nhà này là nơi tạm trú của cánh thợ săn. Gian trong có giường và bàn, trên giường có mấy tấm da chó sói rách nát. Dương Quá lấy cung tên, ra ngoài săn được một con hoẵng, mang về lột da mổ bụng, dùng tuyết cọ rửa, đem nướng.

Lúc này bên ngoài tuyết rơi càng dày, trong nhà đống lửa cháy đượm, không khí ấm áp như mùa xuân.

Tiểu Long Nữ nhai nát vài miếng thịt chín, mớm cho Quách Tương. Dương Quá vừa lo việc nướng thịt, vừa cười cười nhìn hai người.

Lửa cháy nổ lép bép, mùi thịt nướng thơm phức, ngôi nhà tranh giữa hoang sơn ấm cúng xiết bao.