Mảnh đất kinh kì Hà Nội còn ẩn chứa rất nhiều điều thú vị mà ta chưa khám phá hết. Một trong số đó chính là những tên đường, tên phố ở Hà Thành. Rút cuộc, ai là người đã đặt tên cho đường phố Hà Nội và đặt tên dựa trên quy tắc gì?
Người sáng tạo quy tắc đặt tên cho đường phố Hà Nội
Thời thuộc Pháp, các phố của Hà Nội được đặt tên bằng tên Pháp – tên của những nhân vật của chính quyền bảo hộ, như Paul Bert, hay Gambetta. Ngay cả hai tên tướng Pháp bỏ mạng trong trận Cầu Giấy là Francois Garnier và Henri Rivière cũng được dùng để đặt tên phố.
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Ngày 20/7, bác sĩ Trần Văn Lai nhậm chức Đốc lý Hà Nội. Tới ngày 19/8 thì Cách mạng tháng Tám thành công, vì vậy nhiệm kỳ của cụ Lai kéo dài chưa được 1 tháng. Tuy nhiên trong quãng thời gian ngắn ngủi này, cụ đã kịp đổi tên cho các con phố ở Hà Nội. Điều tuyệt diệu ở chỗ, cụ Trần Văn Lai không hề đặt tên một cách ngẫu hứng mà sắp xếp tên các tuyến phố theo cụm cực kì hợp lý.
Bác sĩ Trần Văn Lai
Đến khi Hà Nội được giải phóng, các phố của Hà Nội vẫn được giữ lại những cái tên cụ Lai đã đặt. Sau này, với các đường phố mới, các nhà chức trách cũng noi theo cách đặt của cụ Lai.
Những tuyến đường được đặt tên theo quy tắc của bác sĩ Trần Văn Lai
Dưới đây là tất cả những tuyến phố theo cụm mà cụ Lai đã đặt và những tuyến phố sau này được đặt tên theo cách của cụ Lai (không tính các địa danh tiếng Việt có sẵn từ thời xa xưa như các phố Hàng, Tràng Thi, Lò Sũ, …)
Những tuyến đường, phố được bác sĩ Trần văn Lai đặt tên
Cụm 1 – bao quanh Hồ Tây gồm các đường Lạc Long Quân, Âu Cơ, An Dương Vương, Hùng Vương. 4 cái tên này là những nhân vật trong truyền thuyết lịch sử cổ đại của Việt Nam.
Cụm 2 tạm gọi là cụm quanh Hồ Gươm. Phía dưới Hồ Gươm có phố Hai Bà Trưng, Bà Triệu. Song song với đoạn phía nam Bà Triệu có Mai Hắc Đế, Triệu Việt Vương. Song song với đoạn phía bắc Bà Triệu có Triệu Quốc Đạt, Phùng Hưng, Lý Nam Đế. Xa hơn một chút có đường Khúc Hạo. Do cách một đoạn thành Hà Nội nên đoạn Khúc Hạo được đặt tên danh nhân khác.
Cắt Bà Triệu ở phía dưới có Lê Đại Hành, phố này giao với Hoa Lư và Đại Cồ Việt ở hai đầu. Lê Đại Hành là vua thời Tiền Lê và Hoa Lư là kinh đô của Đại Cồ Việt dưới thời Đinh-Tiền Lê.
Phía đông Hồ Gươm có phố Đinh Tiên Hoàng, Lý Thái Tổ, Ngô Quyền. Những đoạn phố này được đặt theo tên 3 vị vua có công lớn trong thời kì đầu của độc lập tự chủ.
Giao với Lý Thái Tổ và gần với ngã 6 Tràng Tiền có Lê Phụng Hiểu, Lý Đạo Thành, Tông Đản, Lý Thường Kiệt.
Lý Quốc Sư cũng là một danh nhân thời Lý, phố Lý Quốc Sư tuy cũng ở gần Hồ nhưng ở phía bên kia do ở đó có Đền Lý Quốc Sư (chùa Lý Triều Quốc Sư).
Những con đường Hà Nội xưa nhìn từ trên cao
Cụm 3 gọi là cụm “nhà Trần”, lấy đường to Trần Hưng Đạo làm mốc. Xung quanh và giao cắt Trần Hưng Đạo: Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Yết Kiêu, Dã Tượng, giao với Yết Kiêu là Đỗ Hành.
Cuối phố Trần Hưng Đạo gần bờ đê có Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Chương Dương Độ, Hàm Tử Quan, Tây Kết, Vạn Kiếp, Vân Đồn, Bạch Đằng. Đây là những danh nhân trong hai cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần 2 và 3 của nhà Trần (Trần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Toản, Trần Bình Trọng, Yết Kiêu, Dã Tượng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư, Nguyễn Khoái, Đỗ Hành), và các địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến (Chương Dương Độ, Hàm Tử Quan, Tây Kết, Vạn Kiếp, Vân Đồn, Bạch Đằng).
Cụm này cách đặt tên đường phố cũng dụng ý nhất.
Trần Hưng Đạo cuối đời về Vạn Kiếp, mà con đường nối với cuối đường Trần Hưng Đạo là Vạn Kiếp.
Các tướng gắn với chiến công nào thì tên cũng gần với đường phố có tên địa danh đấy: Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái với Tây Kết-Hàm Tử, Trần Khánh Dư với Vân Đồn, Trần Quang Khải với Chương Dương Độ
2 đường nối nhau rồi giao cắt với Trần Hưng Đạo là Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên. Lê Văn Hưu, Hàn Thuyên là những danh sĩ đời nhà Trần.
Giao với đoạn phía nam Nguyễn Khoái, một danh tướng chống Chiêm Thành cuối đời Trần.
Riêng tên của Trần Thái Tông, Trần Thủ Độ mãi sau này mới dùng để đặt nên hai phố này không nằm ở cụm này.
Cụm 4 là cụm “khởi nghĩa chống giặc Minh”. Gần hồ Trúc Bạch: Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Dung, Nguyễn Biểu.
Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân cùng nhau khởi nghĩa, tôn Trần Ngỗi lên làm minh chủ chống giặc Minh. Khi Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân chết, Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị tôn Trần Quý Khoáng lên tiếp tục khởi nghĩa.
Nguyễn Biểu từng làm quan nhà Trần, sau theo phò Trần Quý Khoáng chống Minh. Sau này có phố mang tên Nguyễn Cảnh dị nhưng ở hơi xa đoạn này.
Cụm 5 là “nhà Lê” chạy kề phía Tây Hồ Gươm. Lê Thái Tổ. xung quanh hồ, hướng về Hồ Gươm là các con phố: Lê Lai, Lê Thạch, Đinh Liệt, Đinh Lễ, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Xí.
Lê Thái Tổ gắn với sự tích trả gươm, còn những danh nhân kia là các tướng nổi tiếng trong khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh của Lê Thái Tổ.
Gần Lê Thái Tổ có Lê Thánh Tông. Phố Lê Thánh Tông được đặt tên theo vị vua trị nước giỏi nhất của nhà Lê nói riêng và trong lịch sử phong kiến Việt Nam nói chung.
Cụm 6 – cụm “Tây Sơn”, cụm này được hình thành sau nên hơi xen kẽ một chút với cụm “độc lập tự chủ”.
Các phố song song với nhau có Quang Trung, Lê Ngọc Hân, Ngô Thì Nhậm, Ngô Văn Sở, Bùi Thị Xuân, Phan Huy Chú. Đây là những nhân vật nổi tiếng và có đóng góp lớn cho khởi nghĩa và triều đại Tây Sơn.
Cụm này còn có một nhóm nhỏ phố khác ở xung quanh Tượng đài Quang Trung và Gò Đống Đa: Tây Sơn, Trần Quang Diệu, Đặng Tiến Đông (phường Quang Trung – quận Đống Đa)
Cụm 7 – cụm “Chống Pháp thời Nguyễn Cần Vương”. Quanh di tích thành Hà Nội có Hoàng Diệu và Nguyễn Tri Phương, đây là tên 2 vị quan nhà Nguyễn thủ thành Hà Nội trong hai lần Pháp đưa quân đánh ra Bắc.
Khu vực Ba Đình-gần phố cổ: Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Đảm, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Tống Duy Tân, Tạ Hiện, Nguyễn Quang Bích, Mai Xuân Thưởng, Nguyễn Thiện Thuật, Đốc Ngữ, Lê Trực.
Tất cả ở trên đều là những nhân vật nổi dậy khởi nghĩa, hưởng ứng phong trào “Cần Vương” giúp vua Hàm Nghi chống Pháp.
Bản thân tên quận – Ba Đình cũng là tên khởi nghĩa của thời kì này.
Tuy nhiên 2 người khởi xướng “Cần Vương” là Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết mãi sau này mới được đặt tên đường nên ở phía khác.
Cụm 8 – cụm “bạo động chống Pháp” gần cụm Cần Vương trên: Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Đội Cấn, Đội Nhân. Tên những người lãnh đạo các cuộc bạo động chống Pháp sau giai đoạn Cần Vương.
Ngoài ra còn có ngõ Yên Thế là tên khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám.
Cụm 9 – cụm “Trí thức Ái quốc” đó là Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Đặng Thái Thân, Ấu Triệu, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến. Các trí thức muốn cải tổ, nâng cao tri thức cho người Việt thời Pháp thuộc.
Lương Văn Can là một trong những người khởi xướng Đông Kinh Nghĩa Thục nên ở đoạn phố đó có Quảng trường cùng tên.
Cụm 10 “Văn học Giáo dục” đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám, ngoài hai phố Văn Miếu, Quốc Tử Giám là các phố mang tên của các nhà giáo dục, sử học: Chu Văn An, Nguyễn Như Đổ, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên
Các nhà thơ văn trung đại: Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, Phan Văn Trị…
Những tuyến đường sau này được đặt tên theo quy tắc của cụ Lai
Sau này, những người có đóng góp to lớn với cách mạng, với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng như kháng chiến chống Pháp-Mỹ sau này cũng được lấy tên đặt cho đường phố.
Những người đặt tên sau đó cũng noi theo quy tắc trên để đặt cho một số cụm như:
Cụm 1 – “tiền cách mạng tháng 8”
Gần quảng trường Ba Đình là các đường Bắc Sơn (khởi nghĩa), Phạm Hồng Thái, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ. Đây là những người có đóng góp to lớn cho thành công của cách mạng tháng 8 sau này.
Cụm 2 – “xây dựng Việt nam Dân chủ Cộng hòa”:
Các phố mang tên các danh nhân y khoa như Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Phạm Ngọc Thạch, Hoàng Tích Trí quanh quanh khu vực ĐH Y – Bạch Mai.
Tên các nhà khoa học tự nhiên, xã hội cũng như kỹ sư như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Lương Định Của, … ở quanh khu vực ĐH Bách Khoa.
Đây là những người góp phần xây dựng khoa học kĩ thuật giáo dục của nước nhà cho nước Việt Nam non trẻ.
Cụm 3 – “nhà văn”:
Quận Đống Đa – Thanh Xuân, khu vực Láng là các đường phố mang tên nhà văn như: Nam Cao, Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, …
Cụm 4 – “tướng quân đội”:
Ở Trường Chinh có doanh trại quân đội, xung quanh là các phố mang tên các tướng nổi tiếng trong các cuộc kháng chiến chống Pháp-Mỹ: Vương Thừa Vũ, Nguyễn Ngọc Nại, Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái…
Và còn rất nhiều người có công với Cách Mạng, Đảng/nhà nước được đặt tên cho đường phố gần nhau nữa như Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Thanh Nghị, …