Hồi 07: Phá trận nhờ bí kíp – Bản đồ chỉ kho tàng

Bọn Kỳ Tiên Phái đã từng chứng kiến võ công của Viên Thừa Chí thì còn đỡ, chỉ tội cho đám bang chúng Du Long Bang. Xưa nay chúng vẫn coi Lữ Thất tiên sinh như một vị thiên thần, bây giờ thấy Viên Thừa Chí còn quá trẻ mà chỉ cất tay đã đánh cho lão đại bại cúp đuôi bỏ chạy, đều không khỏi chấn động hồn xiêu phách tán.

Tuy nhiên người bị chấn động nhất là Hoàng Chân. Ông thấy cái khều của Viên Thừa Chí vào dưới nách Lữ Thất đúng là tuyệt kỹ Thiết Chỉ Khuyết của phái Hoa Sơn. Nhưng bộ pháp Viên Thừa Chí chạy vòng quanh đối phương, và thủ pháp dùng hai tay cầm hai thỏi vàng kẹp lấy thỏi thứ ba, thì khác hẳn những gì ông đã tập luyện. Chiêu xoay tay đoạt lấy ống điếu của Lữ Thất thì quen thuộc, nhưng lại có ba phần kỹ xảo cổ quái, chắc chắn không phải võ công bản phái. Sở trường của võ công phái Hoa Sơn là ở chỗ nội lực mạnh, tốc độ nhanh. Không hiểu sư phụ lúc tuổi già có sáng tạo ra những chiêu thức tân kỳ, dạy cho người tiểu sư đệ này hay không, nhất thời ông không suy nghĩ cho thấu đáo được.

Hoàng Chân đưa tay gảy lách cách những hạt châu trên bàn tính, lên tiếng: “Vừa rồi lão gia kia đã nói, chỉ cần ba thỏi vàng bị nhích động là tất cả vàng ở đây đều trả lại. Tại hạ xin đa tạ trước.”

Nói xong, ông chắp tay thi lễ rồi bảo Thôi Hy Mẫn: “Nhặt đi.” Thôi Hy Mẫn bèn cúi xuống nhặt vàng.

Vinh Thái nhìn những thoi vàng sáng chói sắp rơi vào tay người khác, trong lòng không sao yên được. Y biết rõ Viên Thừa Chí đứng bên là đại cao thủ, công phu của mình không thể thắng được, nhưng luật lệ giang hồ là người nào gặp người đó có phần. Du Long Bang vì chỗ vàng này đã tổn thất nhiều nhân mạng, dù không được một nửa cũng phải được một phần ba mới phải.

Vinh Thái thấy Thôi Hy Mẫn võ công bình thường dễ bắt nạt, liền chạy đến tranh cướp, kề vai hất vai Thôi Hy Mẫn ra ngoài. Thôi Hy Mẫn lùi lại mấy bước, giận dữ hỏi: “Sao? Ông cũng muốn phân thắng bại với ta hay sao?”

Thấy thân pháp của Vinh Thái, Hoàng Chân biết đồ nhi của mình không phải là đối thủ, bèn quát lên: “Hy Mẫn, lùi ra.”

Sau đó ông bước tới, chắp tay mỉm cười nói: “Phát tài, phát tài! Xin hỏi lão bản đây là ông chủ cửa tiệm nào, trước nay buôn bán những thứ hàng gì? Chắc chắn buôn bán tấp nập, thuyền đầy tứ bể, hàng hóa trùm hết dương gian.”

Hoàng Chân xuất thân nhà buôn, tính tình rất hoạt kê, mỗi khi đối địch lại xổ rặt giọng thương lái, chẳng ra vẻ gì người biết võ cả. Vinh Thái giận dữ nói: “Ai rảnh mà giỡn? Tại hạ họ Vinh tên Thái, hiện là bang chủ Du Long Bang, chưa kịp thỉnh giáo tên tuổi của các hạ.”

Hoàng Chân nói: “Tiện tính là Hoàng, Hoàng trong câu Hoàng kim vạn lạng, nghe là thấy hên rồi. Còn thảo tự chỉ có một chữ Chân, nghĩa là chân thật. Buôn bán chân thật tức là không cần trả giá; hàng hóa thật, giá cả thật. Hàng trị giá một lượng bạc, bổn tiệm không dám bán mắc một xu. Đó mới là già trẻ đều thích thú, không ai ăn hiếp ai cả. Đại lão bản cần gì, xin chiếu cố qua một chút.”

Hình như ông nói không thể hết lời được, Vinh Thái càng nghe càng tức. Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử phái Hoa Sơn, nhưng ở vùng Giang Nam này ít người biết ông. Vinh Thái thấy tướng mạo ông chẳng oai phong gì nên có vẻ khinh thường, hét lên: “Đem vũ khí tới đây!”

Bọn Du Long Bang lập tức đưa đến một cây thương lớn. Vinh Thái đón lấy, chĩa ra phía trước, lập tức vẫy ra trước mặt Hoàng Chân một đóa hoa thương rất lớn, cuộn gió ào ào ập tới.

Hoàng Chân bước theo bộ pháp Thất Tinh Bộ, vọt người qua trái, la lên: “Ái chà! Chúng ta là người buôn bán, thấy vàng phải lấy.” Ông cất cái bàn tính và cây bút vào trong bọc, cúi xuống nhặt những thỏi vàng.

Ôn thị huynh đệ nhìn thân thủ đã biết Hoàng Chân là kình địch, nghe nói chuyện lại biết ông là sư huynh Viên Thừa Chí. Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ biết Vinh Thái chắc chắn không phải là đối thủ, nên đồng thời nhảy ra quát lớn: “Lấy vàng không dễ như thế đâu.”

Thấy hai lão này hung hãn tấn công, Hoàng Chân liền né mình nhảy qua bên phải, tay trái xuất chiêu Kính Đức Quý Tiên, chém xéo ra nghe “vù” một tiếng.

Ôn Phương Nghĩa và Ôn Phương Ngộ vừa động thủ là bước theo bộ pháp Ngũ Hành Trận ngay, đánh xong một chiêu lập tức lùi ra, nhường chỗ cho Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn bước tới. Ôn Phương Sơn đưa tay trái lên đỡ chiêu của Hoàng Chân, còn tả quyền của Ôn Phương Thi âm thầm tập kích vào sau lưng ông.

Đại đệ tử phái Hoa Sơn nói chuyện khôi hài, nhưng hành sự vô cùng cẩn thận, võ công lại cao cường, nên cả đời hiếm khi bị hạ phong thế này. Bây giờ ông bị vây trong Ngũ Hành Trận, Ôn thị huynh đệ người ra kẻ vào, người đánh kẻ đỡ, chỉ năm người mà như mấy chục người tới lui bất tận. Hoàng Chân nghĩ bụng: “Sao trận pháp này biến hóa vừa phức tạp vừa nhanh chóng đến thế?” Ông phải bảo nguyên thủ nhất, thấy chiêu nào tránh chiêu đó, không dám mạo hiểm tấn công.

Thấy Hoàng Chân bị hãm vào giữa vòng vây của Ôn thị huynh đệ, chỉ miễn cưỡng chống đỡ chứ không có cách phản công, Vinh Thái mừng thầm. Y tưởng dễ ăn, liền dùng Dương Gia thương pháp đâm vào lưng Hoàng Chân. Tiểu Huệ kinh hãi la lên: “Hoàng sư bá, cẩn thận!”

Hoàng Chân là khai sơn đại đệ tử của Mục Nhân Thanh, võ công được chân truyền của phái Hoa Sơn. Nếu năm lão họ Ôn không dùng trận pháp độc môn này, dù họ xông lên một lúc cũng chưa phải là địch thủ của ông. Tên Vinh Thái này làm sao đánh lén được? Nghe sau lưng có tiếng gió của cây thương sắt, Hoàng Chân liền xoay ngược tay chụp trúng đầu thương. Thế tay không đoạt binh khí này giống hệt như Viên Thừa Chí vừa chụp lấy ống điếu của Lữ Thất, nhưng Hoàng Chân có mấy chục năm hỏa hầu nên vừa nhanh vừa chuẩn hơn nhiều.

Ông thuận tay kéo Vinh Thái tới, đồng thời tả chưởng ra chiêu Đơn Chưởng Khai Tiên đánh trả thoi quyền của Ôn Phương Sơn đánh tới, chân phải bước lên một bước tránh được đòn cước đá từ phía sau của Ôn Phương Nghĩa.

Nghe một tiếng “Úi chà”, cây thương lớn văng lên trước, rồi Vinh Thái văng theo. Cả thương lẫn người bay qua đầu sáu người, rớt ầm xuống đất. Bọn Du Long Bang vội chạy tới dìu bang chủ dậy. Phó bang chủ cùng đại đệ tử, nhị đệ tử thấy bang chủ thất thủ, lập tức nhảy vào. Nhưng mới mấy chiêu, cả ba đã bị Hoàng Chân mượn sức của Ôn thị ngũ lão hất văng ra hết. Phó bang chủ còn bị gãy cánh tay phải. Sau đó Du Long Bang không dám tham chiến nữa.

Hoàng Chân la lên: “Ông chủ lớn, ông chủ nhỏ, ông chủ vừa vừa, ai cũng có phần. Ai cũng được té nhào một cái, không ai bị bỏ sót đâu.” Ông một mình ác đấu với Ôn thị ngũ lão tới chỗ hăng say, chỉ còn thấy sáu bóng người vờn qua múa lại. Có lúc tưởng như Hoàng Chân đã thoát khỏi vòng vây, nhưng năm người đó như bóng theo hình, lập tức vây ông lại.

Hoàng Chân âm thầm lo lắng, kêu lên: “Vốn ít lãi nhiều thì chu chuyển không linh hoạt. Hoàng lão bản này một mình buôn bán năm mặt hàng, bận rộn không thể lo liệu hết ngay, xin thứ lỗi.”

Ôn thị huynh đệ cũng không nén được kinh ngạc, không hiểu nổi tại sao một tên quê mùa thế này mà có thể tự vệ nghiêm mật đến thế. Năm lão càng đánh càng nhanh, như năm con bướm bay lượn trong vườn hoa. Có lúc một người giơ chân định đá thì đột nhiên né qua một bên, để người sau lưng phóng quyền đánh tới. Có lúc một người dang hai tay xông tới như môn đánh vật, địch thủ vừa lùi thì sau lưng có người phóng cước đá tới, phối hợp rất ăn ý.

Hoàng Chân thấy chiêu pháp địch thủ biến hóa vô cùng, mình liên tiếp gặp nguy hiểm, may mà võ công rất tinh thuần mới tránh né được. Ông hú lên một tiếng, lấy trong bọc ra Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, nghĩ bụng: “Năm anh em hắn đánh một mình ta, đã là một vụ giao dịch không công bằng rồi. Hoàng lão bản dùng binh khí trước, không thể gọi là ăn gian. Thế mới đúng là công bằng, già trẻ đều không ăn hiếp”.

Ông bèn lấy công làm thủ, Thiết Toán Bàn vỗ ngang đập dọc, Đồng Bút quét tới điểm lui, chiêu nào cũng nhằm vào yếu huyệt của Ôn thị ngũ lão.

Ôn Phương Đạt đột nhiên huýt một tiếng sáo. Bọn Ôn Chính, Ôn Nam Dương bèn ném binh khí của năm người vào trong vòng chiến. Năm lão họ Ôn cầm đủ thứ song kích, đơn đao, nhuyễn tiên, cương trượng, cương nhu phối hợp lẫn nhau, thỉnh thoảng lại có mấy mũi phi đao phóng tới.

Phen ác đấu này so với trận tỉ thí quyền cước vừa rồi còn hung hiểm thêm mấy phần. Chuyến đi buôn này của Hoàng lão bản rõ ràng sẽ lỗ to, không chừng sạt nghiệp là khác.

Thôi Hy Mẫn thấy tình thế sư phụ nguy cấp, biết chắc mình không đủ sức, nhưng y đã quen coi chết như về. Y hét lên một tiếng, rút đơn đao ra, tung người toan nhảy vào trong Ngũ Hành Trận. Mới bước được hai bước, thấy trước mắt có người đưa tay ra ấn xuống vai mình, Thôi Hy Mẫn liền vung đao chém tới. Nhưng người kia cực nhanh, đã đè tay lên vai của y rồi. Thân hình Thôi Hy Mẫn như bị đè dưới núi đá vạn cân, nửa bước cũng không nhúc nhích được. Y đang kinh hãi thì nghe người đó nói: “Thôi huynh! Huynh không vào được đâu.”

Bây giờ y mới nhìn rõ người đó là Viên Thừa Chí. Vừa rồi Viên Thừa Chí đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, y chưa phục lắm, nghĩ đó chỉ là may mắn nhất thời. Bây giờ người ta chỉ để hờ tay lên vai, mà mình đã tê liệt cả người, y mới biết võ công người ta cao hơn mình rất nhiều. Chuyện này khiến y vô cùng kinh ngạc.

Viên Thừa Chí thả tay ra, nói: “Sư phụ của Thôi huynh còn chống đỡ được một lúc, đừng quá lo lắng.”

Chàng đứng nhìn sáu người tỉ đấu một hồi, đột nhiên nghĩ đến một vấn đề nan giải. Viên Thừa Chí chau mày một cái, nhất thời không định được chủ ý.

An Tiểu Huệ bước đến trước mặt chàng, lên tiếng gọi: “Thừa Chí đại ca! Huynh mau đi giúp Hoàng sư bá đi. Năm người họ đánh một mình sư bá, chẳng kể gì đến danh dự nữa.”

Viên Thừa Chí đang suy nghĩ không muốn phân tâm, bèn vẫy tay bảo nàng lùi ra. Tiểu Huệ mất cả hứng thú, vừa bĩu môi vừa rời khỏi đó. Thanh Thanh thấy vậy, thầm khoái chí trong lòng.

Sáu người càng đánh càng nhanh. Mỗi lần Hoàng Chân dùng Thiết Toán Bàn định khóa chặt binh khí đối phương, ngũ lão đều tránh né được. Sáu người đánh nhau chí tử như vậy nhưng hoàn toàn không có tiếng binh khí chạm nhau. Trong đại sảnh chỉ nghe thấy tiếng gió vù vù.

Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy bật lên, đến trước mặt Tiểu Huệ mà nói: “Tiểu Huệ muội muội, đừng trách ta vô lễ. Vừa rồi ta phải suy nghĩ đến xuất thần, bây giờ đã nghĩ ra rồi.”

Tiểu Huệ dằn dỗi nói: “Lúc này là lúc nào mà còn bày đặt xin lỗi này nọ? Mau mau vào giúp Hoàng sư bá đi!”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đã suy nghĩ thông suốt rồi, không sợ nữa.”

Tiểu Huệ nói: “Huynh thật là không biết vật có nặng có nhẹ, việc có chậm có nhanh. Trong lòng khó xử thì đánh xong hãy suy nghĩ sau, không được hay sao?”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Điều mà ta suy nghĩ, chính là phương pháp để phá trận pháp này. Muội có thấy không? Binh khí của năm ông lão này từ nãy đến giờ chưa từng đụng chạm vào Đồng Bút và Thiết Toán Bàn của Hoàng sư ca.”

Tiểu Huệ nói: “Bây giờ muội mới thấy lạ.”

Thôi Hy Mẫn đã có phần thán phục Viên Thừa Chí, liền hỏi: “Tiểu sư thúc! Thế thì có nghĩa gì?”

Viên Thừa Chí nói: “Trận thế này được tính toán hoàn chỉnh, hoàn toàn không để lộ chút sơ suất nào. Nếu binh khí hai bên chạm nhau, hơi khựng lại một chút thì không tránh khỏi để lộ sơ sót. Bí quyết để phá trận, chính là tìm cách làm cho bộ pháp, phương vị của năm người này rối loạn. Chỉ cần dụ một trong năm ông lão này đi sai một bước, hoặc chậm hơn một chút, trận pháp sẽ bị phá ngay.”

Thôi Hy Mẫn lắc đầu nói: “Họ luyện nhuyễn rồi, nhắm mắt chưa chắc đã bước sai.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Đúng là họ đã luyện đến mức cực kỳ nhuần nhuyễn.” Chàng quay lại bảo: “Tiểu Huệ! Cho ta mượn cây trâm cài tóc một chút.”

Tiểu Huệ liền tháo ngọc trâm trên đầu xuống, đưa cho Viên Thừa Chí. Cây trâm ngọc này trong veo, óng ánh sắc xanh dìu dịu. Viên Thừa Chí nhận lấy, rồi đột nhiên hô lên: “Đại sư ca! Mậu Thổ sinh Ất Mộc. Sư ca hãy đạp cung Khôn, tới cung Khảm.”

Hoàng Chân ngẩn ra một cái, chưa kịp hiểu gì, Ôn thị ngũ lão đã giật mình kinh hãi: “Bí mật của Ngũ Hành Trận đã bị thằng lỏi này hiểu được rồi sao?”

Viên Thừa Chí lại kêu lên: “Bính Hỏa khắc Canh Kim. Sư ca hãy vào cung Chấn, rời cung Ly.”

Hoàng Chân đánh nhau đã lâu, dù cương mãnh tấn công trực diện hay biến hóa hư chiêu xảo diệu cũng không thoát khỏi vòng vây của năm lão này. Ông cũng đã nghĩ, trận thế này tên là Ngũ Hành Trận, chắc chắn chứa đựng nguyên lý ngũ hành tương sinh tương khắc. Nhưng ngũ lão chạy qua chạy lại như con thoi, thế công rất lợi hại, ông buộc phải dồn hết sức chống đỡ, không rảnh chút nào để suy nghĩ về trận pháp. Đột nhiên nghe Viên Thừa Chí chỉ điểm, ông nghĩ: “Thử một chút cũng hay.” Ông lập tức chạy đến cung Chấn, rời khỏi cung Ly; quả nhiên nhìn thấy một chỗ trống.

Hoàng Chân đang đảo người toan chạy ra khỏi vòng vây, đột nhiên nghe Thừa Chí la lên rất gấp: “Nhảy đến cung Càn, nhảy đến cung Càn.”

Lúc này ở vị trí cung Càn, rõ ràng có tới hai người là Ôn Phương Thi và Ôn Phương Sơn cản trở. Hoàng Chân hơi tiếc cơ hội trước mắt, nhưng không kịp suy nghĩ cho tỉ mỉ, cứ chạy tới thẳng chỗ hai lão đó. Khi ông đến gần thì quả nhiên hai lão này tách ra chạy ra hai bên, nhường chỗ Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Ngộ bọc vào nhưng không kịp. Hoàng Chân thân thủ cực nhanh, vung Đồng Bút điểm sang phải, Thiết Toán Bàn đập qua trái, đột nhiên đã ra ngoài trận, đứng bên Viên Thừa Chí.

Thế là Hoàng Chân thoát khỏi Ngũ Hành Trận. Đây là chuyện xưa nay Ôn thị ngũ lão chưa từng gặp phải, nên họ không khỏi kinh hãi. Năm người đồng thời lui ra, xếp thành một hàng ngang.

Ôn Phương Đạt nói: “Các hạ có thể thoát khỏi Ngũ Hành Trận của chúng ta, thân thủ quả bất phàm. Các hạ có phải ở phái Hoa Sơn không? Xưng hô với Mục Nhân Thanh lão tiền bối như thế nào?”

Võ công của Hoàng Chân tinh thuần, không phức tạp lung tung như Viên Thừa Chí. Ngũ lão chỉ qua lại mười mấy chiêu đã sớm biết môn phái của ông rồi.

Hoàng Chân vui vẻ đáp: “Mục lão tiền bối là ân sư của tại hạ. Đồ đệ như thế này, đã làm ân sư mất mặt rồi.”

Ôn Phương Đạt nói: “Đệ tử của Thần Kiếm Tiên Viên, hèn chi cao minh đến thế.”

Hoàng Chân nói: “Không dám, không dám! Không sợ không biết hàng, chỉ cần đem so sánh hàng này với hàng khác thôi. Chúng ta đã so sánh rồi, Hoàng tiểu lão bản này không làm gì được năm vị đại lão bản nhà họ Ôn, mà các vị cũng không bắt được tại hạ. Coi như đây là một vụ giao dịch sòng phẳng, nửa cân tám lạng. Món vàng này bây giờ phải tính sao đây?”

Ông quay đầu lại, nói với Vinh Thái: “Còn ông chủ này thì đi buôn lỗ vốn chắc chắn rồi. Món vàng này không có phần của ông chủ nữa đâu.”

Vinh Thái nhìn thấy mặt đất vàng chói không khỏi đau lòng, nhưng tự biết công phu mình kém cỏi. Y đành nói khoác mấy câu cho đỡ xấu hổ: “Họ Hoàng kia! Ngươi đừng khoa trương quá đáng. Rồi sẽ có ngày ngươi rơi vào tay ta.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Quý hiệu có món buôn bán gì, cứ việc giới thiệu cho bản hiệu. Hàng xấu thì bán rẻ một chút cũng không sao. Các vị đã là thân chủ lâu năm, giá cả có thể thương lượng đặc biệt.”

Vinh Thái đã biết mình không đánh nổi. Họ Viên mới là sư đệ của ông ấy, mà Hạc thần quyền Lữ Thất tiên sinh đã phải cụp cánh lủi đi, nói gì đến mình. Y đành dẫn đám đồ đệ và bang chúng rời khỏi đó. Trước khi ra khỏi cửa, y nhịn không nổi phải liếc nhìn đống vàng rơi vãi dưới đất, đột nhiên hối hận: “Vừa rồi sáu người ác đấu, sao mình không lén nhặt mấy thỏi, chắc không bị người ta nhìn thấy. Mà có nhìn thấy thì chưa chắc đã có ai rảnh tay cản trở.”

Bang chúng Du Long Bang đều là người huyện Long Du, ở gần Cù Châu. Chúng đảo ngược hai chữ Long Du để đặt tên Du Long Bang. Người ở huyện Long Du phần lớn là chính nhân quân tử. Du Long Bang đem đảo ngược hai chữ này, chẳng trách nhân phẩm của chúng không đàng hoàng gì lắm.

Ôn Phương Đạt không đếm xỉa gì tới bọn Du Long Bang nữa, nói với Hoàng Chân: “Các hạ võ công đầy mình, có thể coi là hào kiệt đương thời. Thôi thì thế này, chúng ta nể mặt các hạ, xin trả lại một nửa số vàng.”

Ôn Phương Đạt khiếp sợ oai danh phái Hoa Sơn, không muốn kết thêm oan gia, nên mới giải quyết lịch sự như vậy.

Hoàng Chân mỉm cười đáp: “Giả tỉ món vàng này của riêng tại hạ thì chẳng nói làm gì. Bây giờ thời thế không bình yên lắm, kiếm tiền không phải dễ dàng, nhưng bằng hữu đã cần thì cứ lấy dùng cũng không sao. Chúng ta đều biết, thắng bại là chuyện thường của binh gia, còn lời lỗ là chuyện cơm bữa của người buôn bán. Hòa khí sinh tài, buôn bán không lời thì nhân nghĩa vẫn còn. Nhưng lão huynh nên hiểu cho một việc, đây là quân lương của Sấm Vương. Tên đồ đệ bất tài của tại hạ chịu trách nhiệm đưa đến cho Sấm Vương, nếu tặng cho lão huynh một nửa thì làm sao tại hạ ăn nói được?”

Ôn Phương Nghĩa ra điều kiện: “Nếu các hạ đòi hết, không phải là không được. Nhưng các hạ phải ưng thuận chúng ta hai việc.”

Hoàng Chân nói: “Giá cả đã niêm yết ra là thương lượng được. Lão huynh đừng ngần ngại, giả tỉ lão huynh đòi giá trên trời thì ta vẫn có thể đứng dưới đất mà mặc cả một cách thoải mái. Lão huynh cho biết giá đi, chúng ta từ từ thương lượng, trả giá đàng hoàng.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Không trả giá gì cả. Thứ nhất, các hạ phải đem lễ vật tới để chuộc số vàng này. Lễ vật nhiều hay ít cũng được. Đây là quy luật của chúng ta. Tiền tài châu báu đã lọt vào tay chúng ta thì không dễ gì đoạt lại.”

Hoàng Chân biết, câu nói này chỉ cốt giữ thể diện mà thôi. Xem ra đối phương đã chịu trả toàn bộ số vàng, kết thêm oan gia chỉ có hại. Ông lập tức dẹp vẻ cười đùa, nghiêm chỉnh nói: “Ôn gia đã dặn dò, tại hạ dĩ nhiên tôn trọng. Sáng mai tại hạ sẽ vào thành Cù Châu, sắm một phần lễ trọng đưa tới, rồi đặt tiệc mời những bằng hữu có thể diện ở địa phương đến uống mấy ly để tỏ lòng cảm tạ quý vị.”

Ôn Phương Nghĩa nghe ông nói chuyện đàng hoàng, “hứ” một tiếng rồi nói tiếp: “Việc này coi như xong. Còn việc thứ hai, chúng ta phải giữ Viên lão đệ lại đây.”

Hoàng Chân ngẩn ra, nghĩ bụng: “Vì các ngươi chịu trả lại vàng nên ta đã nể mặt lắm rồi, thế mà còn kiếm chuyện làm phiền. Có mặt ta ở đây, làm sao các ngươi bắt nạt tiểu sư đệ được!”

Hoàng Chân không biết quan hệ bên trong phức tạp thế nào. Viên Thừa Chí đã biết bí mật giữa Kim Xà Lang Quân và Ôn Nghi, thì ngũ lão phải giết được chàng mới yên lòng. Lại còn việc quan trọng nhất, là phải dựa vào Viên Thừa Chí để tìm tấm bản đồ kho báu của Kim Xà Lang Quân. Tuy Ôn thị ngũ lão đã biết võ công của chàng cao cường, nhưng vẫn tự tin Ngũ Hành Trận của mình ảo diệu vô song, có thể kiềm chế được Viên Thừa Chí.

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư đệ của tại hạ ăn uống rất nhiều. Các vị muốn giữ nó lại chơi sáu tháng một năm cũng là chuyện tốt, chỉ sợ các vị tốn kém, lỗ vốn không chịu nổi.”

Ôn Phương Đạt cười nhạt nói: “Viên lão đệ vừa chỉ điểm cho các hạ thoát khỏi trận thế của chúng ta, nhất định đã hiểu bí quyết bên trong. Ta phải mời y thử một phen.”

Thì ra Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn có tới năm bộ trận pháp. Vừa rồi họ đối phó với Hoàng Chân chỉ dùng bộ Mậu Thổ, còn rất nhiều biến hóa kỳ lạ chưa đem ra hết. Ôn Phương Đạt nghĩ: “Ngươi vừa bị ép đến nỗi chỗ nào cũng suýt bị đánh trúng, tuy may mắn thoát khỏi vòng vây, nhưng chưa làm sứt mẻ đến trận pháp tí gì. Sư đệ của ngươi đứng ngoài thấy rõ ràng hơn, nên mới nhìn ra một chút manh mối. Nếu bản thân hắn bị vây vào trong trận, nhất định không khỏi mê man mờ mịt.” Vì thế lão thách thức Viên Thừa Chí không chút ngần ngại.

Hoàng Chân đã biết mùi lợi hại của trận pháp này, thầm nghĩ: “Mấy chục năm công lực của mình còn chưa đủ để thoát thân. Về thuật số tương sinh tương khắc của ngũ hành bát quái, sư phụ chẳng giỏi gì lắm, chưa từng dạy ta, chắc tiểu sư đệ không tinh thông được. Vừa rồi sư đệ chỉ điểm mấy câu, có thể vì đứng ngoài nhìn kỹ mà đột nhiên thấy chỗ sơ hở. Nếu phải tiếp chiêu với họ, năm địch thủ chạy qua chạy lại liên miên bất tuyệt, thì sư đệ làm sao đối phó nổi?”

Ông không biết Viên Thừa Chí học từ chỗ khác mà hoàn toàn hiểu rõ những biến hóa của trận pháp này. Hoàng Chân bèn nói: “Trận pháp của các vị rất lợi hại, tại hạ đã lãnh giáo rồi. Tiểu sư đệ của tại hạ còn nhỏ tuổi hơn cháu chắt của các vị lão gia, hà tất phải làm khó dễ y. Nếu các vị thật sự thấy y không vừa mắt, thì cử một vị ra dạy dỗ y một chút là được rồi.”

Câu này nghe thì khiêm tốn, thật ra là chèn ép ngũ lão, yêu cầu họ đơn đả độc đấu. Hoàng Chân đã thấy thân thủ của sư đệ đánh ngã Lữ Thất tiên sinh, tin rằng lấy một đánh một thì chàng không đến nỗi thua.

Ôn Phương Sơn cười nhạt nói: “Phái Hoa Sơn danh tiếng không vừa, thế mà gặp phải Ngũ Hành Trận nho nhỏ này thì lập tức hoảng sợ co đầu rút cổ. Từ nay về sau các vị đừng ra chốn giang hồ mà khoác lác nữa.”

Thôi Hy Mẫn giận dữ, từ sau lưng Hoàng Chân nhảy ra, quát lớn: “Ai nói phái Hoa Sơn chúng ta sợ các ngươi?”

Ôn Phương Sơn mỉm cười nói: “Ngươi cũng là nhân vật phái Hoa Sơn phải không? Hà hà… thật là lợi hại. Thế thì ngươi đến đây.”

Thôi Hy Mẫn tưởng lão khen mình lợi hại thật, toan nhảy ra động thủ ngay. Viên Thừa Chí vội đưa tay giữ lại, khẽ bảo: “Thôi đại ca, để ta lên trước. Nếu ta gặp nguy, huynh hãy đến giúp một tay.”

Thôi Hy Mẫn gật đầu nói: “Được! Lúc nào tiểu sư thúc cần ta giúp đỡ, chỉ cần gọi một tiếng Hy Mẫn là ta đến ngay. Không cần khách sáo gọi Thôi đại ca, Thôi nhị ca gì hết.”

Viên Thừa Chí gật đầu. Tiểu Huệ đứng bên bỗng phì cười một tiếng. Thôi Hy Mẫn trừng mắt lên hỏi: “Muội cười cái gì?”

Tiểu Huệ đáp: “Không cười cái gì cả. Tự nhiên muội muốn cười.”

Thôi Hy Mẫn định hỏi nữa, nhưng Viên Thừa Chí đã bước ra trước, tay vẫn cầm cây ngọc trâm. Chàng nói: “Ngũ Hành Trận của Kỳ Tiên Phái thật là kỳ diệu, vãn bối trước nay chưa từng được thấy.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Ngươi miệng còn hôi sữa, dĩ nhiên còn rất nhiều thứ chưa được thấy, đừng nói là Ngũ Hành Trận của chúng ta.”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Đúng vậy, kiến thức vãn bối rất nông cạn. Các vị lão gia muốn giữ vãn bối lại chơi, đó cũng là mong ước của vãn bối. Bây giờ xin thỉnh giáo Ngũ Hành Trận bí ảo của các vị lão gia một phen.”

Thôi Hy Mẫn lo lắng nói: “Tiểu sư thúc! Chúng không giữ sư thúc lại chơi tử tế đâu. Sư thúc đừng bị chúng lừa.”

Tiểu Huệ lại cười khúc khích. Viên Thừa Chí bảo Thôi Hy Mẫn: “Các vị lão gia không chấp nhặt bọn trẻ chúng ta đâu. Thôi đại ca cứ yên tâm đi.”

Chàng quay đầu lại nói với ngũ lão: “Vãn bối học nghệ chưa tinh, võ công phái Hoa Sơn chỉ biết một chút thô thiển bề ngoài. Xin các vị lão gia hạ thủ lưu tình.”

Mọi người nghe chàng nói năng mềm mỏng như có phần khiếp sợ, nhưng thần sắc lại chẳng lo lắng gì lắm, đều không biết Viên Thừa Chí đang suy tính thế nào. Còn Hoàng Chân thì âm thầm lo lắng, nhưng không tiện cản trở sư đệ, trong lòng cứ nghĩ: “Ôi! Vụ giao dịch này không nên làm.”

Ôn thị ngũ lão đã biết công lực của Viên Thừa Chí, không dám khinh suất. Năm người vẫy tay ra hiệu, Ôn Phương Nghĩa, Ôn Phương Sơn bước qua bên phải; Ôn Phương Thi, Ôn Phương Ngộ quay sang bên trái. Chỉ mấy bước là trận thế đã bày ra, vây Viên Thừa Chí vào giữa.

Viên Thừa Chí chẳng lo âu gì, chắp tay hỏi: “Bây giờ chúng ta bắt đầu luyện tập hay sao?”

Ôn Phương Đạt lạnh nhạt bảo: “Ngươi lấy binh khí ra đây.”

Viên Thừa Chí giơ cây ngọc trâm bên tay phải ra, nói: “Các vị là trưởng bối, vãn bối đâu dám vô lễ mà động đao thương? Xin dùng cây ngọc trâm này lãnh giáo mấy chiêu của các vị lão gia.”

Câu này vừa nói ra, mọi người đều kinh hãi, cảm thấy người này quá ngông cuồng. Ngọc trâm không giết chết được một con bọ, chỉ đụng nhẹ là gãy ngay, làm sao đỡ được cương trượng, đao, kích trong tay ngũ lão? Hồ đồ bừa bãi như thế, thật chẳng khác nào tự sát. Thanh Thanh vô cùng lo âu, nhưng chỉ biết than thầm: “Phải làm sao đây?”

Hoàng Chân biết lúc này không khuyên can được nữa, thầm nghĩ: “Nhất định tiểu sư đệ đã được sư phụ nuông chiều thành tính, mới bước vào giang hồ không biết trời cao đất rộng gì cả.” Ông nắm chặt Đồng Bút và Thiết Toán Bàn, lại nghĩ: “Nếu sư đệ gặp nguy, ta phải lập tức cứu viện. Phen này vì báo đáp ân sư, dù mất cái mạng già này cũng không tiếc.”

Ông hạ giọng dặn dò Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ: “Địch thủ mạnh vốn quá, chúng ta ít tiền không chống nổi, chuyến buôn này chắc chắn lỗ lã. Lát nữa khi ta bảo các ngươi chạy, thì hai ngươi phải lập tức nhảy lên mái nhà mà chạy ra ngoài. Ta và Viên sư đệ lo phần đoạn hậu. Bất kể hung hiểm thế nào, các ngươi tuyệt đối không được quay lại trợ giúp. Còn số vàng này thì đừng nghĩ đến nữa.”

Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đều vâng dạ.

Hoàng Chân đã tính đến chuyện liều mạng cản địch, tìm cách cứu sư đệ thoát hiểm. Việc này không khó, chỉ cần hai người Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ không bắt mình phải lo lắng là được. Hôm nay thua trận bỏ chạy là nhục nhã, nhưng cứ tạm thời nhẫn nại. Sau này hẹn đủ năm cao thủ phái Hoa Sơn đồng thời tấn công, nhất định có thể phá được Ngũ Hành Trận. Lúc đó mới hỏi lại năm lão già này, có phải phái Hoa Sơn chỉ có hư danh hay không.

Năm người mà ông dự tính, ngoài ông thì có vợ chồng Nhị sư đệ Quy Tân Thụ, đại đệ tử Bát diện oai phong Phùng Nhân Địch của ông, lại thêm sư phụ Mục Nhân Thanh chủ trì. Chỉ cần chia ra tập kích Ôn thị ngũ lão, không cho năm lão này hợp sức tấn công, thì Ngũ Hành Trận không thành vấn đề. Nói đến đơn đả độc đấu, thì Ôn thị ngũ lão nhất định không phải là đối thủ của mình.

Hoàng Chân vẫn mỉm cười vui vẻ, nhưng trong lòng mưu kế sâu xa, chưa nghĩ thắng đã lo bại trước rồi. Ông định xong kế sách thoát thân trước mắt, rồi sắp đặt kế hoạch báo thù ngày sau. Trong những người mà ông chọn để phá Ngũ Hành Trận không có Viên Thừa Chí, vì ông nghĩ rằng công lực của tiểu sư đệ còn nông cạn, không bì được Phùng Nan Địch, môn đồ đắc ý của mình.

Bỗng nghe Viên Thừa Chí hỏi: “Các vị lão gia đã có lòng chỉ giáo, sao còn giấu giếm, không cho vãn bối được thấy toàn bộ tuyệt kỹ này?”

Ôn Phương Đạt ngạc nhiên hỏi: “Cái gì mà toàn bộ với không toàn bộ?”

Viên Thừa Chí nói: “Các vị ngoài Ngũ Hành Trận ra, còn có Bát Quái Trận để hỗ trợ. Sao không bày ra cùng lúc, để vãn bối có thể mở rộng tầm nhìn?”

Ôn Phương Nghĩa thét lên: “Chính ngươi tự nói đấy nhé! Ta sẽ cho ngươi được chết mà không oán trách.”

Lão quay lại, gọi bọn Ôn Nam Dương: “Các ngươi đến đây!”

Ôn Nam Dương vẫy tay một cái, cùng mười lăm người anh em đồng thời tung người ra. Ôn Nam Dương hét lên một tiếng, mười sáu người bắt đầu chạy quanh ngũ lão, người chạy sang trái, người vòng sang phải, chạy qua chạy lại như thoi đưa. Trong mười sáu người này có Ôn Nam Dương, Ôn Chính, có con cháu nhà họ Ôn, cũng có đồ đệ của ngũ lão, đều là cao thủ Kỳ Tiên Phái đã đặc biệt chọn ra để luyện tòa Bát Quái Trận này.

Thấy tình hình xoay chuyển như thế, dù Hoàng Chân kiến thức rộng rãi cũng không khỏi hoảng sợ. Ông nghĩ: “Viên sư đệ thật là trẻ nít không biết gì, gây thêm nhiều chuyện phiền hà cho mình. Nếu y chỉ đấu với ngũ lão thôi, thì khi thật sự nguy hiểm ta còn có thể nhảy vào trong trận mà cứu giúp. Bây giờ bên ngoài lại thêm mười sáu người cản trở, bao nhiêu khoảng trống đều bị chúng bao vây cẩn mật, chim cũng không bay vào trong được. Chuyến buôn này đã ít vốn rồi, sao càng làm càng lớn? Không thể điều động vốn đến được, chỉ còn đường dẹp tiệm.”

Viên Thừa Chí cầm ngọc trâm bằng ngón cái và ngón giữa, tay trái nhẹ đưa lên, chân phải co lại, dùng chân trái làm trụ, thân hình đột nhiên quay tít bốn năm vòng. Chàng vừa nhúc nhích, Ôn thị ngũ lão lập tức di chuyển, phát động thế trận ngay, chăm chú nhìn xem chàng tấn công hướng nào. Nhưng Viên Thừa Chí chỉ quay quanh một chỗ như bông vụ, không di chuyển bước nào mà cũng không xuất thủ.

Trước đây Kim Xà Lang Quân đã giao đấu với Ôn thị ngũ lão, vì trúng độc nên bị bắt. Sau này ông được người cứu thoát, trốn trong sơn động dưới núi Hoa Sơn, ngày đêm cứ suy nghĩ về tình hình ác đấu lúc đó. Ông nhận ra, nếu khi đó mình không trúng phải Túy Tiên Mật, nội lực không trì trệ, thì cũng không thể công phá nổi Ngũ Hành Trận, chẳng qua chỉ chống đỡ thêm được một giờ hay ba khắc.”

Kim Xà Lang Quân suy nghĩ rất kỹ, nghiên cứu từng chiêu thức, từng bộ pháp của ngũ lão, cuối cùng đã phát hiện mấu chốt của trận pháp này. Đã lọt vào vòng vây thì bất luận ra tay cứng cỏi hay tránh né xảo diệu, ngũ lão vẫn có những chiêu thức lợi hại để đánh trả. Khi một lão ra tay, bốn lão kia liên tục chuyển động theo. Những chiêu thức của ngũ lão đều hỗ trợ nhau phòng thủ, bổ sung che chắn sơ hở cho nhau. Đúng là chiêu thức của năm người kín kẽ như chỉ một người. Võ công của một người mà không có chỗ sơ hở thì làm sao công phá được?

Kim Xà Lang Quân nghĩ mãi, nghĩ mãi, suy xét tỉ mỉ ngày đêm, tìm tòi không ít phương pháp kỳ lạ. Nhưng ông càng nghĩ càng cảm thấy thế trận này không có cách nào phá được.

Đương nhiên Kim Xà Lang Quân có nghĩ đến chuyện ám sát hay hạ độc. Chỉ cần hại chết một người trong ngũ lão là xong, Ngũ Hành Trận không thể tinh giản thành Tứ Hành Trận được. Nhưng ông là người cao ngạo, không muốn thắng bằng biện pháp hạ lưu. Huống chi gân mạch của ông đã bị cắt đứt, võ công mất sạch, không thể chính tay báo thù được. Đã nói là phá trận thì phải đường đường chính chính, dùng bản lãnh thật sự để phá.

Một buổi sớm, khi ra ngoài, đột nhiên ông thấy một con rắn xanh nhỏ đang bò trong bụi cỏ. Khi nghe tiếng người, nó lập tức khoanh tròn lại như cái bánh, đầu ngẩng cao ở giữa, hoàn toàn không động đậy.

Ông có ngoại hiệu Kim Xà Lang Quân vì quen hành sự linh hoạt hiểm ác, cũng vì ông thích nuôi rắn để lấy nọc chế tạo thuốc độc, ám khí. Năm xưa, vợ của Ôn Phương Ngọc trong Ôn thị huynh đệ vừa trúng độc tiễn là mất mạng ngay, thuốc độc tẩm trên đầu tên chính là nọc rắn.

Kim Xà Lang Quân rất hiểu tính nết loài rắn. Ông biết nó khoanh người lại, đầu ngẩng cao ở giữa là để đợi địch tấn công trước, rồi bất ngờ phóng tới, nhằm chỗ sơ suất của địch mà phản kích. Nếu địch không động đậy, thì loài rắn rất ít khi tấn công. Thân rắn khoanh lại thành cái bánh tròn, che giấu được những nhược điểm của mình. Đầu ngẩng lên để có thế tấn công, dùng nọc độc là vũ khí mạnh nhất của mình để thừa cơ tập kích. Nếu loài rắn mà ngang nhiên duỗi người ra để cắn, thì thân rắn rất dài nên nhược điểm sẽ nhiều, không khỏi bị địch thừa cơ đánh trúng chỗ bảy tấc trên cổ, hoặc dưới bụng, hoặc ở đuôi. Đó là thiên tính tự vệ của loài rắn.

Chuyện này Kim Xà Lang Quân đã thấy mấy trăm lần, nhìn mãi thành quen. Bây giờ trong lúc ông tập trung tinh thần suy nghĩ đến yếu quyết công phá Ngũ Hành Trận, đột nhiên trong đầu nảy ra một tia sáng. Ông mừng đến nỗi reo lên. Phương pháp để phá Ngũ Hành Trận đã được phát minh, chỉ có bốn chữ: “Hậu phát chế nhân”. Bí quyết “Hậu phát chế nhân” này hoàn toàn trái ngược đường lối “Tiên hạ thủ vi cường” thường thấy trong võ học.

Chiến lược cơ bản đã hoạch định, mọi thủ đoạn khác theo đó mà giải quyết. Kim Xà Lang Quân không khó nhọc lắm đã nghĩ ra toàn bộ phương pháp để phá Ngũ Hành Trận, chép tỉ mỉ vào Kim Xà Bí Kíp. Ông biết rõ rằng chưa chắc có người phát hiện bí kíp này, mà có người gặp cũng không chừng đã trễ cả trăm cả ngàn năm. Lúc đó hài cốt của Ôn thị ngũ lão đã hóa thành bụi lâu rồi. Nhưng uất khí trong lòng ông không trút ra được, lại nghĩ: “Có lẽ Ngũ Hành Trận sẽ được lưu truyền cho đời sau. Nếu vĩnh viễn không ai phá được, chẳng lẽ để bọn Kỳ Tiên Phái xưng bá trong thiên hạ?”

Trong lòng Kim Xà Lang Quân đã có phương pháp, coi như Ngũ Hành Trận đã bị phá. Nếu ông có thể tự mình dùng phương pháp này phá vỡ Ngũ Hành Trận, dĩ nhiên là tốt nhất, nhưng đó chỉ là một trường ảo mộng. Ông cũng không có điều kiện thu nhận đệ tử để hoàn thành tâm nguyện của mình.

*

*   *

Lúc này Viên Thừa Chí theo đúng cương lĩnh Hậu Phát Chế Nhân, chỉ quay tại chỗ mấy vòng đã làm rúng động Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận.

Bát Quái Trận được ngũ lão sáng lập sau này, trong Kim Xà Bí Kíp không đề cập đến. Nhưng yếu chỉ căn bản của nó không khác gì Ngũ Hành Trận, Viên Thừa Chí chỉ nhìn mười sáu người chạy quanh mấy vòng đã hiểu được rồi. Chàng nghĩ: “Nếu đối thủ không thể phá được Ngũ Hành Trận, thì có thêm Bát Quái Trận để làm gì? Còn nếu ai đã phá được Ngũ Hành Trận, thì Bát Quái Trận chắc chắn không cản được người đó.”

Kiến thức và thiên bẩm của Ôn thị ngũ lão kém xa Kim Xà Lang Quân. Có lẽ Ngũ Hành Trận là do đời trước truyền xuống, chứ bản thân Ôn thị ngũ lão không đủ sức sáng chế ra. Họ tự ý tăng cường thêm thế trận này, lại làm cho nó yếu đi. Năm xưa, nếu Kim Xà Lang Quân biết sau này Ôn thị ngũ lão bày trò vẽ rắn thêm chân thế này, thì ông vạch kế hoạch phá Ngũ Hành Trận còn dễ hơn nhiều. Muốn phá Ngũ Hành Trận, mấu chốt là ở chỗ tìm sơ suất trong trận đó. Nếu không có sơ suất, thì phải làm cho nó tự phát sinh sơ suất. Bọn đệ tử kết thành Bát Quái Trận bên ngoài, dĩ nhiên công phu kém cỏi hơn. Muốn bắt chúng phát sinh sơ suất thì dễ hơn nhiều.

Ôn thị ngũ lão đợi chàng ra tay rồi mới thừa thế xông vào. Nhưng họ thấy thân hình chàng càng xoay càng chậm, hoàn toàn không tấn công. Cuối cùng Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, hai tay đặt lên đầu gối, miệng nhoẻn cười. Ngũ lão dĩ nhiên bị bất ngờ, những người đứng bên nhìn cũng hoàn toàn không hiểu. Ai cũng nghĩ, sao chàng dám đùa giỡn trước mặt đại địch như thế?

Thật ra không phải Viên Thừa Chí khinh địch. Chàng đã cố ý dùng cây ngọc trâm yếu ớt làm binh khí là để đối thủ không có ý đề phòng. Bây giờ chàng ngồi bệt xuống đất, hoàn toàn không có thế để tấn công, ra vẻ rất khinh thị đối phương, khiến đối phương tức giận khó kiềm chế được. Khi đã nổi giận, thấy cơ hội sẽ mất thận trọng. Mình lại cố ý để lộ sơ suất, đối phương biết là không nên tấn công mà nhịn không nổi phải tấn công. Hễ họ tấn công là lập tức trận pháp để lộ sơ suất. Lúc này Viên Thừa Chí ra vẻ khinh mạn, thật ra là dụ dỗ đối phương lỗ mãng khinh địch.

Quả nhiên khi thấy Viên Thừa Chí ngồi bệt xuống đất, Ôn Phương Nghĩa nhịn không nổi nữa, bắt chéo song chưởng muốn đánh vào sau lưng chàng. Ôn Phương Ngộ vội bảo: “Nhị ca! Đừng làm loạn trận pháp.” Ôn Phương Nghĩa bèn cố nhẫn nại. Chân của ngũ lão chạy nhanh hơn, trận pháp thay đổi liên miên, chỉ đợi Viên Thừa Chí xuất thủ là lập tức ùa lên.

Bất kể là đại quân dàn trận hay hai người tỉ đấu, đã tập trung toàn lực để tấn công đối phương thì bên mình chắc chắn sẽ lộ ra yếu điểm không thể phòng bị. Nhưng nếu mình tấn công lợi hại, địch thủ phải lo tự vệ, không rảnh tay để đánh trả, thì yếu điểm của mình không cần phải thủ, đó gọi là lấy công làm thủ. Ngũ Hành Trận dùng một người dụ đối phương tấn công mà bộc lộ điểm yếu, bốn người còn lại nhằm vào điểm yếu ấy mà tập kích. Đạo lý tương sinh tương khắc chính là chỗ đó. Nhưng bây giờ Viên Thừa Chí hoàn toàn không động đậy, toàn thân không chỗ nào không phòng bị. Vì thế ngũ lão không có cách nào đánh tới.

Một lúc sau, Viên Thừa Chí đột nhiên ngáp dài rồi nằm hẳn xuống đất, hai tay đặt dưới đầu làm gối, đầy vẻ nhàn hạ thoải mái. Mười sáu tên đệ tử ở Bát Quái Trận phía ngoài đã phải chạy khá lâu, mà càng chạy càng nhanh. Những tên nội lực hơi yếu đã vã mồ hôi đầy đầu, thở hào hển nghe rõ tiếng. Phải công nhận ngũ lão nhẫn nại phi thường, đến lúc này vẫn chưa xuất kích.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Không ngờ mấy lão già này nhịn giỏi đến thế.” Chàng đột nhiên nằm sấp lại, lưng hướng lên trên, giấu mặt trong tay, ngáy khò khò. Từ xưa đến giờ, võ lâm mấy ngàn năm tỉ đấu chưa từng có tư thế kiểu này. Lưng hướng lên trên mà nằm ngủ, không phải mặc kệ cho người ta chém giết hay sao?

Thôi Hy Mẫn, Tiểu Huệ, Thanh Thanh, Ôn Nghi vừa buồn cười vừa lo lắng cho Viên Thừa Chí. Còn Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí ngồi xuống, rồi nằm xuống, đã hiểu sách lược đối địch của chàng, không khỏi thán phục sư đệ vừa gan dạ vừa thông minh. Nhưng lúc này thấy chàng khinh địch tới mức lật người nằm sấp, ông phải thầm lo: “Hỏng bét! Sư đệ khuyến mãi quá đáng rồi. Nếu ngũ lão đánh lén sau lưng, thì làm sao tránh né được? Đành rằng muốn bán được hàng thì không ngại ăn nói ngọt như mật, tự thổi phồng mình. Vương bà bán dưa, không dưa nào không ngọt. Có thể dựng chuyện khoe khoang khoác lác, nhưng ai lại đi dùng kiểu khổ nhục kế như thế?”

Ôn Phương Đạt thấy có cơ hội, mừng rỡ vội đưa tay trái lên vẫy. Bốn lưỡi phi đao của Ôn Phương Thi bay tới nhanh như điện chớp, nhằm vào giữa lưng Viên Thừa Chí. Phi đao vừa nhanh vừa chính xác, mọi người đứng bên kinh hãi la lên.

Bỗng thấy bạch quang nhấp nháy bắn ngược trở ra. Thì ra Viên Thừa Chí nghe tiếng phi đao lao tới, liền bật người dậy vung cả hai tay ra bắt lấy bốn lưỡi phi đao, ném trả vào Bát Quái Trận phía ngoài. Ôn Nam Dương và ba đệ tử đời thứ hai nhà họ Ôn bị trúng đao, chẳng phải vai cũng phải đùi. Tiếng la chưa dứt, chúng đã bị Viên Thừa Chí xách cổ quẳng vào trong Ngũ Hành Trận.

Ngũ lão vừa ngẩn ngơ, bước chân hơi chậm trễ đã thấy Viên Thừa Chí theo khoảng trống bắn vọt ra ngoài. Mười sáu tên đệ tử bên ngoài giống như bầy ngựa khát tranh nhau chạy xuống suối, liên tiếp bị ném vào trong. Viên Thừa Chí vung quyền phóng cước, chiêu nào cũng rất nặng nề. Bọn đệ tử nhà họ Ôn nếu không bị chàng kiềm chế yếu huyệt rồi tóm cổ quăng vào, cũng bị chàng phóng chưởng lực đẩy bật vào trong trận. Mấy tên công lực thâm hậu hơn như Ôn Chính tuy cố chống đỡ, nhưng chỉ ba chiêu hai thức là bị đánh ngã rồi lọt vào giữa Ngũ Hành Trận.

Ngũ Hành Bát Quái Trận lập tức đại loạn, trong trận không thấy địch đâu, chạy tới chạy lui đều là phe ta cả. Mọi người hoàn toàn không ngờ được, Viên Thừa Chí đang nằm sấp dưới đất mà có thể xuất quái chiêu, dẫn dụ Ngũ Hành Trận và Bát Quái Trận sơ suất đến thế này.

Ôn thị ngũ lão kêu la om sòm, tay chân múa loạn lên để đón lấy những tên đệ tử bị đẩy vào trong trận. Dĩ nhiên Viên Thừa Chí không để họ bố trí lại trận mạc. Chàng bước tới hai bước, đưa ba ngón tay chụp vào huyệt đạo của Ôn Phương Thi.

Ôn Phương Thi thấy Viên Thừa Chí tấn công tới, phóng tiếp bốn lưỡi phi đao nhằm vào trước ngực chàng. Viên Thừa Chí đưa tay vỗ trúng cán đao cho phi đao bay mất hết, lại đưa ngón tay điểm vào Cơ Huyệt ở dưới yết hầu Ôn Phương Thi hai tấc.

Cương trượng của Ôn Phương Sơn bay vù tới, nhắm vào chân phải Viên Thừa Chí. Chàng thuận tay lôi ngay một tên đệ tử Kỳ Tiên Phái vào, cản trước đầu trượng của lão.

Ôn Phương Sơn kinh hãi. Lão không mong phát trượng này đánh trúng kẻ địch, nhưng tình thế lúc đó Viên Thừa Chí dù tiến hay lùi cũng không thể tránh né, chỉ còn cách dùng binh khí đỡ gạt. Nhưng vũ khí của Viên Thừa Chí chỉ là một cây ngọc trâm nhỏ xíu, rất giòn, chỉ chạm nhẹ vào cương trượng là nát vụn ngay. Nào ngờ Viên Thừa Chí lại kéo một tên đệ tử của lão đến trước mặt để làm lá chắn, phát trượng này chắc chắn đánh cho đệ tử nát xương.

May mà võ công lão cao cường, biến chiêu cực kỳ nhanh chóng. Trong lúc khẩn cấp, đột nhiên lão bước lên một bước, tay trái dùng hết sức vỗ vào đầu trượng, miệng hô lớn: “Đại ca, cẩn thận!”

Lực đạo của cương trượng vẫn còn mãnh liệt, nhưng phương hướng đã được thay đổi, đập vào hông Ôn Phương Đạt. Ôn Phương Sơn biết đại ca chắc chắn đỡ được chiêu trượng này, quả nhiên Ôn Phương Đạt đã dựng đứng song kích lên. Một tiếng “choảng” điếc tai, tia lửa bay tứ tán. Cả cương trượng lẫn song kích đều chấn động dội ngược về.

Viên Thừa Chí tận dụng cơ hội, gấp rút tấn công Ôn Phương Ngộ. Tả chưởng chàng phóng ra che đỡ, ngọc trâm bên tay phải không ngớt đâm vào cặp mắt lão này. Ôn Phương Ngộ liền lùi lại, rung động trường tiên, định phong tỏa phía trước mặt mình. Nhưng Viên Thừa Chí đã tới cách có ba thước, còn cây roi da trong tay lão lại quá dài đâm ra vướng víu. Chỉ trong chốc lát, ngọc trâm đã tấn công liên tiếp sáu bảy chiêu.

Ôn Phương Ngộ thấy ngọc trâm nhấp nháy mãi trước mặt, không rời cặp mắt của mình, hai lần đã chạm vào mí mắt. Lão hoảng sợ đến nỗi hồn xiêu phách tán, bây giờ mới biết mùi lợi hại của cây ngọc trâm. Cuối cùng lão không tránh né được nữa, bèn vứt bỏ trường tiên, đưa hai tay bịt mắt, nhào ngửa ra sau lộn đi mấy vòng mới giữ được cặp mắt. Nhưng lưng lão đã trúng một cước rất nặng của Viên Thừa Chí, đau thấu tâm can.

Năm xưa Ôn Phương Ngộ đã dùng trường tiên đả bại liên tiếp mười hai hảo hán trên lôi đài Trịnh Châu, oai phong lẫm liệt, lừng danh cả một vùng. Mấy chục năm nay tiếng tăm lão càng lúc càng lên, nào ngờ hôm nay thảm bại dưới cây ngọc trâm trên tay một thiếu niên. Lúc đứng dậy được, dĩ nhiên lão vừa xấu hổ vừa giận dữ. Mọi người đứng bên nhìn đều phải kinh ngạc.

Hoàng Chân thấy tiểu sư đệ xuất thủ đã tuyệt diệu lại kỳ lạ, thật sự trước nay chưa từng thấy. Ông vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nghĩ bụng: “Ngay cả sư phụ cũng chưa chắc biết những công phu này. Tiểu sư đệ đã vốn lớn lại hàng hóa dồi dào, lắm thứ lắm kiểu nhìn hoa cả mắt, xem ra không chỉ là hàng phái Hoa Sơn. Đường lối đi buôn của y thật là phong phú.”

Thôi Hy Mẫn hò hét cổ vũ như điên, còn An Tiểu Huệ che miệng mỉm cười.

Viên Thừa Chí phá xong trận, tinh thần lại càng phấn chấn. Bây giờ phần thắng đã nắm chắc trong tay, chàng liên tục xuất chiêu công kích đối phương. Chàng vừa sử Phục Hổ Chưởng của phái Hoa Sơn, vừa dùng ngọc trâm ra những chiêu Kim Xà Kiếm Pháp trong Kim Xà Bí Kíp. Thân thủ này cho dù Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh đến đây, Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi phục sinh, thì mỗi người nhìn thấy cũng chỉ biết một nửa, dĩ nhiên Ôn thị ngũ lão không sao hiểu được.

Đánh lùi Ôn Phương Ngộ xong, Viên Thừa Chí quay sang tấn công Ôn Phương Nghĩa. Chàng liên tiếp xuất hiểm chiêu, ép cho lão này tay chân rối loạn.

Ôn Phương Đạt thấy tình thế gấp rút bèn lớn tiếng huýt sáo, đột nhiên phóng chưởng đẩy một tên đệ tử ra ngoài. Ôn Phương Sơn cũng dùng cả tay chân đấm đá xua bọn đệ tử ra khỏi trận cho đỡ vướng. Trong luyện võ sảnh ít người hẳn đi, Ngũ Hành Trận bắt đầu ráp lại. Nhưng Viên Thừa Chí cứ ép Ôn Phương Nghĩa không chút nương tay, khiến năm lão không thể phối hợp nhịp nhàng với nhau được.

Đột nhiên Ôn Phương Nghĩa trúng chưởng vào vai trái. Cương trượng của Ôn Phương Sơn đánh thẳng lên lưng Viên Thừa Chí, đồng thời song kích của Ôn Phương Đạt đâm tới bên trái. Tay trái của Ôn Phương Nghĩa rất đau, nhưng lão vẫn cố giữ đúng phương vị. Bây giờ Bát Quái Trận đã phá, Ngũ Hành Trận đã loạn, nhưng ngũ lão vẫn tiếp tục bước theo trận pháp, dùng hết sức chống đỡ.

Lúc đầu Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí dùng cây ngọc trâm của An Tiểu Huệ làm binh khí, nàng có phần tức tối. Nhưng bây giờ thấy chàng sắp thắng, nàng lại âm thầm mừng rỡ.

Còn Ôn Nghi thấy Viên Thừa Chí tiến thoái tránh né giữa vòng vây của ngũ lão, ung dung tiêu sái chẳng khác gì dáng vẻ của Kim Xà Lang Quân trong Ngũ Hành Trận năm xưa. Xem được một hồi, bà như nhìn thấy tình lang đêm ngày trông đợi đang áo trắng phất phơ hiển lộng thần oai. Bà không nén nổi tâm thần khích động, đứng bật dậy kêu lên: “Hạ lang! Hạ lang! Ca ca… ca ca cuối cùng đã đến!”

Ôn Nghi cất bước tiến vào cửa luyện võ sảnh. Thanh Thanh vội nắm tay bà kéo lại, la lên: “Má má! Đừng đi!”

Ôn Nghi giật mình, tập trung tinh thần nhìn lại thiếu niên trong trận. Thân hình người này hơi giống Kim Xà Lang Quân, nhưng mặt mũi khác hẳn. Bà cảm thấy choáng váng, ngã vào lòng Thanh Thanh.

Ngay lúc đó Viên Thừa Chí đột nhiên tung người nhảy lên, tay phải đưa cây ngọc trâm cắm vào búi tóc, tay trái chụp lấy cây xà ngang trên nóc sảnh. Ngũ lão đang tập trung cao độ cho trận ác đấu bỗng không thấy địch thủ đâu nữa. Họ đang kinh ngạc thì cảm thấy trên đỉnh đầu có gió cuốn tới, mấy chục món ám khí từ trên không vãi xuống, biết là hỏng rồi. Ôn Phương Sơn và Ôn Phương Thi chưa kịp tránh né đã bị kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, té nhào xuống đất.

Theo bí kíp của Kim Xà Lang Quân, lẽ ra phải dùng bảo kiếm để hộ thân rồi mới tấn công vào chỗ sơ suất của đối phương. Viên Thừa Chí không có bảo kiếm, nên phải thay đổi. Chàng lật người nằm sấp để dụ đối phương phóng phi đao, rồi thừa thế tấn công phá tan Bát Quái Trận, cuối cùng phóng ám khí để thay thế bảo kiếm mà phá nốt Ngũ Hành Trận. Tuy thủ pháp có khác nhau, nhưng sách lược cơ bản vẫn là di ý của Kim Xà Lang Quân.

Ôn Phương Đạt vội cúi xuống cứu em, nhưng Viên Thừa Chí lại ném một mớ tiền đồng từ trên xuống. Song kích của Ôn Phương Đạt lập tức ra chiêu Mật Vân Bất Vũ xoay tít trên đỉnh đầu. Nghe những tiếng tinh tang không dứt, lão gạt văng được mười mấy mũi kim tiền tiêu. Đột nhiên tay lão rung lên một cái, song kích hình như bị quấn chặt lại, không thể thi triển được nữa. Lão giật mình, cố vận sức kéo ngược lại, nào ngờ kéo mạnh như thế mà song kích vẫn tuột khỏi tay bay ra.

Ôn Phương Đạt không kịp suy nghĩ, liền nhảy sang bên hai bước, đưa song chưởng ra hộ thân. Trong tiếng la kinh hãi của những người đứng quanh, Viên Thừa Chí từ trên không nhảy xuống, đứng ở một phía luyện võ sảnh, hai tay cầm song kích. Cây roi da của Ôn Phương Ngộ đang quấn trên đầu của cặp kích đó.

Viên Thừa Chí quát: “Xem đây!” Song kích rời tay chàng bay vù ra, chia nhau cắm vào hai cây trụ rất to trong đại sảnh. Lưỡi kích đâm ngập vào thân trụ. Hai cây trụ lắc lư, mái ngói trên đầu chuyển nghe rào rào. Những người đang đứng gần cửa tranh nhau chạy ra xa, sợ đại sảnh bị sập.

Năm xưa, khi Mục Nhân Thanh bắt đầu dạy kiếm cho Viên Thừa Chí, ông từng vung tay phóng kiếm đâm ngập vào cành cây. Lúc đó Mộc Tang đạo nhân có mặt, khen là kiếm pháp thiên hạ vô song. Viên Thừa Chí hôm nay hiển lộ oai phong, chính là chiêu đó vận dụng nhuần nhuyễn.

Hoàng Chân thấy chàng dùng thủ pháp bản môn ném kích cắm vào trụ, oai phong không gì đỡ nổi. Ông không nén được, la lên: “Viên sư đệ! Chiêu Thiên Ngoại Phi Long tuyệt diệu.”

Viên Thừa Chí quay đầu lại mỉm cười, lên tiếng: “Đó là nhờ ơn dạy dỗ của sư phụ. Xin đại sư ca chỉ giáo.”

Ôn Phương Đạt hoang mang nhìn quanh tứ phía, thấy bốn người em đều nằm dưới đất.

Viên Thừa Chí bước chậm rãi đến cạnh Hoàng Chân, rút cây ngọc trâm trên đầu xuống trả cho Tiểu Huệ.

Ôn Phương Đạt thấy Ngũ Hành Bát Quái Trận “thiên hạ vô địch” của bản phái đã bị thiếu niên này phá vỡ trong khoảnh khắc, nhanh như chặt ngã cây khô mục. Lão đau lòng chỉ muốn đập đầu vào cột mà chết cho xong. May mà lão kịp thời nghĩ lại: “Ta đã là một lão già hết thời, mối thù này coi như không trả được là xong. Nên giữ lại hơi thở để tiếp tục làm những chuyện hay ho.”

Lão bèn vẫy tay bảo Hoàng Chân: “Vàng ở đây cả, các ngươi cứ lấy đi.”

Thôi Hy Mẫn không đợi nghe câu thứ hai, lập tức vơ những thỏi vàng dưới đất, nhét vào một túi da. Kỳ Tiên Phái có mấy chục người đứng kế bên mà như không có người nào, ai cũng giương mắt lên nhìn không dám cản trở. Trận đấu vừa rồi của Viên Thừa Chí đã khiến chúng vỡ gan vỡ mật, mất sạch ý chí.

Ôn Phương Đạt đến bên nhị đệ Ôn Phương Nghĩa, thấy tròng mắt đảo loạn xạ, thân thể không động đậy được. Lão biết nhị đệ đã bị Viên Thừa Chí dùng kim tiền tiêu đánh trúng huyệt đạo, bèn ra sức xoa bóp vào huyệt Vân Đài. Nhưng xoa hồi lâu mà Ôn Phương Nghĩa vẫn bủn rủn không động đậy được, Ôn Phương Đạt bèn qua xem ba đứa em kia. Nhìn là biết ngay cả ba đều bị đả huyệt, lão dùng hết sở học để vận nội lực giải khai, nhưng hoàn toàn không có công hiệu.

Ôn Phương Đạt biết phương pháp đả huyệt của Viên Thừa Chí có chỗ quái lạ. Nhưng thảm bại thế này, thân phận như lão làm sao có thể hạ mình xin giúp đỡ? Lão bèn quay lại nhìn Thanh Thanh, môi mấp máy.

Thanh Thanh biết lão muốn mình năn nỉ Viên Thừa Chí, nhưng nàng giả vờ không hiểu mà hỏi: “Đại gia gia! Gia gia sai bảo con phải không?”

Ôn Phương Đạt lầm bầm trong miệng: “Con nha đầu điêu ngoa này! Bây giờ ngươi làm khó dễ ta phải không? Để chuyện này xong xuôi ta mới sửa trị mẹ con ngươi.” Nhưng lão vẫn dịu dàng nói: “Con nhờ huynh ấy giải huyệt cho bốn vị gia gia đi.”

Thanh Thanh đến trước mặt Viên Thừa Chí, chắp tay thi lễ rồi nói lớn: “Đại gia gia của muội muốn nhờ huynh giải huyệt cho bốn vị gia gia của muội. Đây là đại gia gia của muội nhờ đại ca, chứ không phải muội nhờ đâu đấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Được!” Chàng lập tức bước tới, cúi xuống toan chữa trị.

Đột nhiên Hoàng Chân gảy lách cách trên Thiết Toán Bàn, lên tiếng: “Sư đệ chẳng hiểu biết gì cả. Hàng hóa độc quyền có thể lên giá, tại sao không lên giá? Sư đệ cứ cho giá đi, dù đắt thế nào người ta cũng phải mua.”

Viên Thừa Chí biết đại sư huynh có ác cảm với Kỳ Tiên Phái, bây giờ muốn thừa cơ trả thù. Chàng nghĩ: “Sư phụ đã dạy, ra tay phải khoan dung, phải dành đường sống cho người khác. Thanh Thanh đã năn nỉ, vàng cũng lấy lại rồi, mình không muốn bắt bí Ôn thị ngũ lão làm chi. Nhưng đại sư ca ở đây thì mọi việc phải để huynh ấy chủ trì.” Chàng bèn nói: “Xin đại sư ca chỉ dạy.”

Hoàng Chân nói: “Ôn gia ở vùng này tàn hại lương dân, hoành hành bá đạo. Dân chúng Cù Châu oán tận xương tủy, hai ngày nay ta đã nghe thấy rõ ràng. Sư đệ! Sư đệ trị bệnh cho người ta cũng phải bỏ vốn, nên thu lại chút ít phí tổn mới không lỗ lã. Món tiền chẩn bệnh này, bản thân chúng ta không cần lắm. Nhưng nếu dùng để cứu tế những nông gia đã bị họ Ôn hãm hại, thì cần lắm chứ?”

Lúc mới đến Tịnh Nham, Viên Thừa Chí đã thấy rất nhiều nông dân kéo tới nhà họ Ôn kêu oan cãi lý, bị Ôn Chính đánh cho sứt đầu mẻ trán. Không có người nào trong thị trấn Tịnh Nham này mà không hận Ôn gia. Chàng bỗng nổi lòng nghĩa hiệp, nói: “Không sai! Nông dân ở đây đã bị họ làm khổ lắm rồi. Đại sư ca nói đi, phải như thế nào?”

Hoàng Chân đưa tay gảy lóc cóc lên bàn tính, vừa gạt lên gạt xuống vừa lẩm nhẩm tính toán: “Một với một là hai, hai thêm hai là bốn, bốn với một là năm…” Ông gảy mãi không dừng, cứ như đang cộng sổ nợ vậy.

Thôi Hy Mẫn và Tiểu Huệ đã quen nhìn bộ điệu này của Hoàng Chân, còn Viên Thừa Chí thì cung kính với đại sư huynh nên thấy ông tính toán kỳ lạ cũng không dám cười. Bọn Kỳ Tiên Phái đang giận dữ bừng bừng, dĩ nhiên không cười nổi. Chỉ có Thanh Thanh luôn miệng khúc khích.

Cuối cùng Hoàng Chân gật đầu nói: “Viên sư đệ! Lệ phí chẩn mạch đã được ta tính xong. Cứu một mạng là bốn trăm thạch gạo trắng.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Những bốn trăm thạch ư?”

Hoàng Chân đáp: “Không sai! Bốn vị lão gia này đều là anh hùng hảo hán một phương. Tính ít như vậy là có phần coi thường họ rồi. Mỗi vị bốn trăm thạch gạo trắng thượng hạng, không được lẫn một hạt sỏi, một hạt thóc. Cân đo phải đúng tiêu chuẩn, không được thiếu một cân một lạng nào.”

Chưa cần hỏi Ôn Phương Đạt đồng ý hay không, Hoàng Chân đã nói đến chi tiết về gạo trắng.

Viên Thừa Chí nói: “Ở đây bốn vị lão gia, thế thì tổng cộng một ngàn sáu trăm thạch.”

Hoàng Chân giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Sư đệ tính toán rất giỏi, không cần dùng bàn tính vẫn tính được một người là bốn trăm thạch, bốn người là một ngàn sáu trăm thạch.”

Thôi Hy Mẫn buột miệng lên tiếng: “Con cũng tính được.”

Hoàng Chân gật đầu với y một cái, tỏ ý khen ngợi, rồi bảo Ôn Phương Đạt: “Sáng sớm ngày mai, xin quý hiệu chuẩn bị đầy đủ một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, chia cho dân nghèo quanh vùng Tịnh Nham, mỗi người một đấu. Khi các vị phát xong một ngàn sáu trăm thạch, sư đệ của tại hạ sẽ chữa trị bốn huynh đệ các vị.”

Ôn Phương Đạt nhẫn nhịn nói: “Gấp rút thế này, ta làm sao kiếm được nhiều gạo trắng như thế? Dù dọn sạch kho gạo trong nhà cũng được bảy tám chục thạch là cùng.”

Hoàng Chân nói: “Lệ phí chẩn mạch này là thống nhất trên toàn quốc, nhất định không trừ chiết khấu. Nhưng nể mặt bằng hữu lâu năm, có thể mở rộng kỳ hạn phát gạo. Phát xong bốn trăm thạch thì cứu một người; phát xong tám trăm thạch thì cứu người thứ hai. Nếu tiền bạc các vị không thuận lợi lắm, thì cứ việc để mười ngày nửa tháng, hoặc sáu tháng một năm rồi hãy phát gạo. Lúc đó dù sư đệ của tại hạ đang ở Liêu Đông hay Vân Nam cũng lập tức khởi hành đến đây cứu người, không chậm trễ một phút nào.”

Ôn Phương Đạt nghĩ: “Bốn người đã bị điểm huyệt, tối đa mười hai giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Chẳng qua hao tổn một ít nội lực, đâu cần để hắn bắt nạt như thế?”

Hoàng Chân thấy mắt lão láo liên, đoán được tâm ý bèn nói: “Thật ra chúng ta là đồng nghiệp, đều biết sau mấy giờ huyệt đạo sẽ tự giải. Thế thì một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng đó có thể tiết kiệm. Nhưng cách điểm huyệt bằng Hỗn Nguyên Công của phái Hoa Sơn bọn tại hạ có chỗ bá đạo. Nếu không dùng công phu bản môn để giải cứu, thì người bị điểm huyệt sau này tay chân không nhanh nhẹn lắm, dần dần sẽ hoa mắt chóng mặt, đại tiện không thông, tiểu tiện bế tắc. Nội lực khó tránh khỏi bị tổn thương, chuyện này không cần tại hạ nói nhiều. May mà tuổi tác của bốn vị lão gia còn rất trẻ, chỉ rèn luyện năm sáu chục năm là khôi phục nguyên trạng ngay thôi.”

Ôn Phương Đạt biết chuyện này không phải giả dối, bèn nghiến răng lại nói: “Được! Ngày mai ta bắt đầu phát gạo là xong.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Đúng là đại lão bản, buôn bán sảng khoái, không thèm trả giá. Sau này có buôn bán gì, xin chiếu cố đến bản hiệu.”

Ôn Phương Đạt bị trêu ghẹo mà không dám nói gì, phất tay áo đi vào trong.

Viên Thừa Chí thi lễ với Ôn Nghi và Thanh Thanh rồi nói: “Hẹn mai gặp lại.” Chàng biết Kỳ Tiên Phái đang có việc cần mình, nhất định không làm khó dễ hai mẹ con này. Thế là bốn người phái Hoa Sơn vui sướng xách gói vàng quay về nông gia đang tá túc.

*

*   *

Lúc này trời đã mờ mờ sáng. Tiểu Huệ xuống bếp nấu mì, bốn người vừa ăn vừa bàn tán trận đại thắng này, ai cũng mặt mày rạng rỡ.

Hoàng Chân bưng tô mì lên nói: “Viên sư đệ! Khi nghe tin sư phụ vừa thu nhận một đồ đệ rất trẻ, ta từng nói giỡn với vợ chồng nhị sư đệ Quy Tân Thụ: “Đệ tử của chúng ta nhiều người đã ngoại tứ tuần, đột nhiên sư phụ bắt chúng có thêm một vị tiểu sư thúc, chỉ sợ chúng bị khó xử.” Nào ngờ công phu của sư đệ lại giỏi như thế. Đại sư ca này kém sư đệ rất xa. Nhị sư đệ ngoại hiệu là Thần Quyền Vô Địch, đại giang nam bắc ít khi gặp địch thủ, nhưng theo ta thì chưa chắc y thắng được sư đệ. Chuyện phát dương quang đại phái Hoa Sơn sau này phải đặt lên vai sư đệ. Ở đây không có rượu, ta dùng tô nước mì này để kính sư đệ một ly.”

Nói xong, ông đưa tô canh lên miệng rồi uống cạn.

Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, cũng bưng tô canh lên uống một hớp rồi nói: “Hôm nay tiểu đệ may mà đắc thắng. Cử chỉ đệ có phần khinh suất vì muốn dụ cho đối phương khinh địch mà ra tay công kích, thật sự không dám làm sai những điều sư phụ dạy dỗ. Lời khen của sư ca, đệ không dám nhận. Xin đại sư ca chỉ giáo cho đệ nhiều hơn.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tính khiêm cung cẩn thận của sư đệ, võ lâm ít ai bì được. Ngồi xuống, ăn mì tiếp đi.”

Viên Thừa Chí ngồi xuống ăn tiếp. Hoàng Chân gắp thêm mấy đũa rồi quay lại bảo Thôi Hy Mẫn: “Chỉ cần ngươi học được một phần của Viên sư thúc là đủ sử dụng cả đời rồi.”

Thôi Hy Mẫn ở trong nhà họ Ôn đã thấy Viên Thừa Chí đại hiển thần oai, giơ tay một cái là phá tan Ngũ Hành Trận kỳ quái, trong lòng thán phục. Bây giờ nghe sư phụ nói vậy, y đột nhiên quỳ xuống khấu đầu với Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Xin tiểu sư thúc dạy cho một chút bản lãnh.”

Viên Thừa Chí vội quỳ xuống trả lễ, đáp: “Công phu của sư phụ huynh còn tinh thuần gấp mười lần ta.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Công phu của ta không bằng sư đệ, nhưng thừa sức dạy dỗ gã này. Ta chỉ thiếu lòng nhẫn nại thôi. Nếu sư đệ chịu giúp hắn, sư ca thật cảm kích không sao nói hết.”

Thì ra Hoàng Chân không khước từ nổi Thôi Thu Sơn năn nỉ, mới nhận Thôi Hy Mẫn làm đồ đệ. Tên đệ tử này tư chất ngu đần, nghe mười cũng không hiểu một hai, ngược hẳn tính cách cơ biến linh hoạt của Hoàng Chân. Vị đại sư ca này nói giỡn đã quen, dù trong lúc truyền thụ võ nghệ cũng không ngớt xen vào những chuyện khác. Đệ tử càng ngu dốt, ông trêu chọc càng nhiều.

Thôi Hy Mẫn không phân biệt nổi trong lời nói của sư phụ câu nào thật, câu nào giỡn. Rõ ràng Hoàng Chân châm biếm, y vẫn tưởng sư phụ khen ngợi mình. Học hành như thế thì khó mà thành tựu. Sau này Viên Thừa Chí nhớ tới thúc thúc của y là Thôi Thu Sơn đã liều mạng cứu mình, lại thấy y là ý trung nhân của Tiểu Huệ, nên tìm cách chỉ điểm. Tuy rằng Thôi Hy Mẫn thiên tư có giới hạn, không lãnh hội được bao nhiêu, nhưng so với trước đây thì tiến bộ rất nhiều.

Bốn người nằm trong đống rơm ngủ được mấy giờ. Đến trưa Hoàng Chân và Viên Thừa Chí mới thức dậy, phía ngoài có người kêu cửa. Một đại hán đi vào, trình danh thiếp của Ôn Phương Đạt, mời bốn người tới nhà. Hoàng Chân mỉm cười nói: “Tin tức các ngươi thật là thông suốt, ngay cả nơi ở của chúng ta mà cũng thám thính ra được.”

Bốn người tới nhà họ Ôn thì thấy thương nhân tụ tập đông đúc, gạo trắng gánh kìn kìn vào. Thì ra Ôn Phương Đạt đã sai người đi suốt đêm đến Cù Châu để mua gạo. Cù Châu là một thành phố trù phú ở Chiết Đông, nhưng đột ngột có người cần mua tới một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi làm giá gạo tăng lên. Thế là Ôn gia lại tốn thêm mấy trăm lượng bạc.

Ôn gia mời Hoàng Chân xem lại để kiểm tra số lượng, rồi bắt đầu phát cho người nghèo quanh vùng, mỗi người một đấu. Cả vùng xôn xao bàn tán, không hiểu tại sao những vị Ôn thần này đổi tính.

Hoàng Chân thấy Ôn Phương Đạt đã phát gạo thật sự, không tiếp tục trêu ghẹo nữa. Ông nói: “Ôn lão gia! Lão gia phát gạo tế bần, thật đã tích đức cho con cháu rồi. Tại hạ mới nghe một bài hát rất hợp, để hát cho lão gia nghe thử.”

Ông lập tức gân cổ lên, vừa vung tay múa chân vừa hát:

“Năm tháng gần đây khổ liên miên; Hạn hán lũ lụt, châu chấu liền; Giá gạo tăng vọt, tiền không có; Lê dân bá tính sống không yên.

Rễ cây cành lá ăn để sống, Gái trai già trẻ phải khóc ròng; Lu rỗng, nồi niêu kết mạng nhện; Nhiều ngày một bữa cháo cũng không.

Quan phủ thúc lương như hổ dữ; Phú hào đòi nợ tựa sài lang; Thương thay những kẻ còn ngoi ngóp; Hồn phách chưa tan đã vùi hang.

Thây ma chất cao như ngọn núi; Cơ cực đói khát chỉ ngậm ngùi; Khóc mãi lệ khô thành chảy máu, Ai nhìn cảnh ấy chẳng bùi ngùi.

Khuyên kẻ giàu ra tay cứu giúp; Một hạt gạo nhường nhau đúng lúc; Phúc đức từ đó mà tích tụ; Nhân nghĩa từ đó mà vững gốc.

Trời cao có mắt giúp kẻ hiền; Ơn đức sâu dày phúc vô biên; Cứu trợ muôn dân công lao lớn; Con cháu đời đời hưởng triền miên.”

Giọng hát của Hoàng Chân chẳng hay gì, nhưng ý nghĩa của ca từ làm động lòng người, ai nghe cũng thay đổi sắc mặt.

Viên Thừa Chí khen: “Sư ca! Bài hát này hay thật.”

Hoàng Chân nói: “Ta đâu có tài như thế? Đây là do Lý Nham công tử, một đại tướng dưới trướng Sấm Vương sáng tác ra.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Thì ra do Lý Nham đại ca sáng tác. Huynh ấy chẳng lúc nào quên lê dân đói khổ, thế mới là đại anh hùng chân chính.”

Viên Thừa Chí không chờ phát hết một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, giải luôn huyệt đạo cho Ôn thị tứ lão. Bốn ông lão này khốn đốn mất nửa đêm, chỉ còn hơi mà không còn sức, lại thêm tức tối khiến cho mặt mày xanh mét.

Viên Thừa Chí chắp tay thi lễ với mấy lão, nói: “Đắc tội rất nhiều, vãn bối muôn phần áy náy.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Các vị đã đem tặng một ngàn sáu trăm thạch gạo trắng, không khỏi có phần đau lòng xót của. Nhưng danh tiếng của Ôn gia ở Tịnh Nham lại tốt lên không ít. Chuyến buôn này thật sự quý hiệu lời to, chẳng lẽ không tự biết?”

Năm lão không nói tiếng nào, quay lưng bỏ vào trong nhà.

Hoàng Chân thấy gạo đã phát xong, người nghèo đã giải tán hết, bèn nói: “Chúng ta đi thôi!”

Viên Thừa Chí định cáo biệt Thanh Thanh, lại nghĩ: “Hai mẹ con nàng đã ra mặt cãi lại nhà họ Ôn, e rằng không ở đây được nữa.” Chàng toan thương nghị với sư ca thì bỗng thấy Thanh Thanh ôm chầm lấy mẹ, vừa khóc vừa kêu: “Thừa Chí đại ca!”

Viên Thừa Chí nhanh chân chạy tới, thấy sau lưng Ôn Nghi đã có hai lưỡi phi đao đâm lút tới cán, rõ ràng là trí mạng không cứu nổi. Lại thấy Ôn Phương Thi mặt đầy sát khí bước ra, hai tay vẫy lia lịa, bốn lưỡi phi đao nữa phóng vào lưng Thanh Thanh. Viên Thừa Chí nhảy vọt lên, đưa hai tay ra chụp hết.

Ôn Phương Thi vừa thấy Viên Thừa Chí bắt đao đã biết là hỏng bét. Lão gấp gáp lùi lại, toan núp sau cánh cổng. Viên Thừa Chí thấy lão dã man giết hại người thân, nổi giận bừng bừng. Chàng tung người tới, phóng cước rất nặng đá trúng lưng lão. Đòn cước này đã vận Hỗn Nguyên Công, kình lực phi thường.

Ôn Phương Thi không la được một tiếng, té nhào vào trong cổng, miệng phun máu tươi liên tục. Viên Thừa Chí đá phát này tuy không lấy mạng lão, nhưng nội lực đã thấm vào yếu huyệt. Ôn Phương Thi từ đây trở thành phế nhân, suốt đời không chữa được, công phu mất sạch.

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Tứ gia gia… hạ độc thủ giết… giết má má…”

Viên Thừa Chí vừa giận vừa buồn, đưa tay muốn nhổ phi đao cho bà. Hoàng Chân vội gạt chàng ra, bảo: “Không thể rút ra được, rút ra là lập tức chết ngay.” Ông thấy Ôn Nghi trọng thương khó cứu, bèn điểm vào hai huyệt cho bà đỡ thấy đau đớn.

Ôn Nghi lộ nụ cười, nói nhỏ nhẹ: “Thanh nhi đừng buồn. Mẹ… mẹ đi đây… Mẹ đi gặp phụ thân của con đây. Ở bên phụ thân của con, không còn ai… không còn ai có thể bức hiếp mẹ nữa.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa gật đầu liên tục.

Ôn Nghi bảo Viên Thừa Chí: “Còn một chuyện, xin Viên tướng công đừng giấu giếm ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Bá mẫu muốn biết việc gì? Vãn bối nhất định không giấu giếm.”

Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại di thư hay không? Có nhắc đến ta hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Hạ tiền bối có để lại đồ phổ võ công. Hôm qua vãn bối phá Ngũ Hành Trận, chính là dùng phương pháp của tiền bối. Thế là đã trả được thâm thù, bớt phần uất hận cho tiền bối.”

Ôn Nghi hỏi: “Y có để lại thư cho ta không?”

Viên Thừa Chí không trả lời, chầm chậm lắc đầu.

Ôn Nghi lộ vẻ thất vọng, nói: “Y uống xong chén chè hạt sen thì mất đi khí lực. Chén chè hạt sen đó do chính… chính ta bưng cho y uống. Nhưng ta thật… thật không biết chút nào cả.”

Viên Thừa Chí an ủi: “Hạ tiền bối linh thiêng trên trời nhất định đã hiểu, không trách bá mẫu đâu.”

Ôn Nghi nói: “Chắc chắn y chết vì thương tâm, trách ta ám hại y. Bây giờ y hiểu thì cũng muộn rồi.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Má má! Phụ thân đã hiểu từ lâu rồi. Hôm đó má má đã uống chỗ chè thừa, nguyện chết cùng phụ thân, lại còn ngăn cản trước mặt phụ thân. Lúc đó phụ thân đã hiểu rõ rồi.”

Ôn Nghi mơ hồ hỏi: “Y… y hiểu thật không? Sao mãi không đến đón ta? Ngay cả di thư… cũng không viết cho ta chữ nào.”

Viên Thừa Chí thấy bà sắp chết mà vẫn canh cánh bên lòng về việc này, nhất thời không nghĩ ra được câu nào an ủi. Chàng thấy ánh mắt bà tán loạn, hai tay từ từ thõng xuống, đột nhiên động tâm nhớ đến tấm bản đồ kho báu kẹp trong bìa Kim Xà Bí Kíp, trong đó có tên Ôn Nghi. Chàng vội lấy trong bọc ra, gọi lớn: “Bá mẫu, bá mẫu! Bá mẫu xem này.”

Cặp mắt Ôn Nghi đã khép lại, bây giờ từ từ mở ra. Khi thấy nét chữ trên bản đồ, đột nhiên bà phấn chấn hẳn, lên tiếng: “Đúng là chữ của y, ta nhận ra rồi.”

Rồi bà khẽ đọc mấy dòng chữ: “Người được món bảo bối này, thật sự là tri kỷ của ta. Hãy đến Tịnh Nham, Cù Châu, tỉnh Chiết Giang, tìm người con gái tên là Ôn Nghi, tặng giúp ta mười vạn lạng vàng. Đúng là tên ta rồi.”

Bà cố đọc nốt hai hàng chữ nhỏ: “Bây giờ gom hết châu báu trong thiên hạ cũng khó mua được nửa ngày gặp gỡ. Xem nặng báu vật mà coi thường ly biệt, cực kỳ ngu muội. Thật là hối hận, thật là hối hận.”

Ôn Nghi mỉm cười, nắm lấy tay áo Viên Thừa Chí, hoan hỉ nói: “Y không trách ta. Y vẫn nhớ nhung ta… vẫn thương yêu ta. Bây giờ ta đi đây. Ta đi gặp y đây…” Bà từ từ nhắm mắt lại.

Viên Thừa Chí thấy tình cảnh này, không kìm nổi nước mắt chảy ra. Ôn Nghi đột nhiên mở mắt ra nói: “Viên tướng công! Ta cầu xin tướng công hai việc. Xin tướng công ưng thuận.”

Viên Thừa Chí vội đáp: “Bá mẫu nói đi. Chỉ cần làm nổi, chuyện gì vãn bối cũng tuân theo.”

Ôn Nghi nói: “Việc thứ nhất, nhờ tướng công đem ta an táng cạnh y. Việc thứ hai… thứ hai…”

Viên Thừa Chí hỏi: “Việc thứ hai là gì? Bá mẫu nói đi.”

Ôn Nghi nói: “Ta… thân thích trên đời chỉ có… chỉ có đứa con gái này. Nhờ tướng công… đời này kiếp này… thay ta chiếu cố cho nó.”

Bà trỏ Thanh Thanh, đột nhiên nghẹn hơi không nói tiếp được, mi mắt khép lại, cổ ngoẹo xuống không động đậy nữa.

Thanh Thanh nằm phục lên người mẹ mà khóc lóc. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng vỗ lên vai nàng an ủi. Hoàng Chân, An Tiểu Huệ, Thôi Hy Mẫn, ba người thấy Viên Thừa Chí quan tâm đến nàng như thế, lại thấy mẫu thân của nàng bị giết thảm, đều nổi lòng trắc ẩn. Nhưng họ không biết chút gì về nội tình sự việc, nên không thể nói gì để an ủi.

Thanh Thanh đột nhiên đặt thi thể mẹ xuống đất, tuốt kiếm ra chạy đến trước cổng, vung kiếm chém loạn vào cánh cổng, vừa khóc vừa la lên: “Các ngươi đã hại chết phụ thân ta, bây giờ lại hại chết mẫu thân ta. Ta… ta phải giết sạch cả nhà họ Ôn các ngươi.”

Rồi nàng tung người nhảy lên đầu tường. Viên Thừa Chí nhảy lên theo, nhẹ nắm lấy cánh tay nàng, khẽ nói: “Thanh đệ! Đúng là họ rất ác độc. Nhưng dù sao Tam gia gia vẫn là ông ngoại của Thanh đệ.”

Thanh Thanh uất nghẹn, lảo đảo rồi té quỵ xuống. Viên Thừa Chí vội đưa cánh tay quàng ngang hông đỡ lại, nhận ra nàng đã ngất xỉu. Chàng kinh hãi la lên: “Thanh đệ! Thanh đệ!”

Hoàng Chân nói: “Không sao, chỉ do thương tâm quá độ mà thôi.” Ông lấy ra một điếu ngải nhung, đốt lên rồi hơ vào dưới mũi Thanh Thanh một lúc. Nàng bỗng hắt hơi rồi từ từ tỉnh lại, cứ ngơ ngác nhìn thi thể mẹ, không nói tiếng nào.

Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ! Thanh đệ làm sao vậy?”

Thanh Thanh chẳng nói gì.

Viên Thừa Chí nghẹn ngào bảo: “Thanh đệ không thể ở đây nữa rồi. Hãy đi theo chúng ta.”

Thanh Thanh ngơ ngẩn gật đầu. Viên Thừa Chí ôm lấy thi hài Ôn Nghi, rồi năm người cùng rời khỏi căn nhà của họ Ôn.

Viên Thừa Chí đi được vài bước quay đầu nhìn lại, thấy trước sân nhà vương vãi gạo trắng, là những hạt rơi vãi lúc phát gạo. Mấy chục con chim đang nhảy nhót giành ăn. Lúc này thái dương ở giữa bầu trời, bóng người tròn trĩnh dưới chân, căn nhà lớn của họ Ôn khóa chặt cửa, im lặng không một tiếng người.

*

*   *

Hoàng Chân bảo Thôi Hy Mẫn: “Một trăm lượng bạc đây. Ngươi cầm tới cho nhà nông mình đã tá túc, nói họ phải dọn nhà tức khắc.”

Thôi Hy Mẫn nhận tiền, giương to mắt hỏi lại: “Sao phải dọn nhà?”

Hoàng Chân đáp: “Kỳ Tiên Phái không làm gì được chúng ta, dĩ nhiên sẽ trút giận qua người khác. Chúng sẽ tới làm khó dễ gia đình nông phu đó. Theo ngươi thì mấy người nông dân có phá được Ngũ Hành Trận không?”

Thôi Hy Mẫn lắc đầu đáp: “Chắc họ không phá được.” Rồi y nhanh chân chạy đi lo việc.

Bốn người đợi y trở về, rồi theo đường nhỏ rời khỏi trấn Tịnh Nham. Đi được mười mấy dặm, thấy bên vệ đường có một cái miếu cũ nát, Hoàng Chân nói: “Vào đây nghỉ ngơi một chút. Miếu cũ tượng hư, người đi lại khỏi phải nghi ngờ chúng ta tiện tay trộm mèo bắt chó.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Đương nhiên là thế. Tòa miếu cũ nát thế này, có gì đáng ăn cắp đâu?”

Vào miếu ngồi trong đại điện, Hoàng Chân hỏi: “Di thể của vị thái thái này sẽ lo liệu thế nào? Bây giờ an táng tại đây, hay vào thành khâm liệm?”

Viên Thừa Chí chau mày không đáp. Hoàng Chân lại nói: “Nếu vào thành phố tìm linh cữu khâm liệm thì có chỗ không tiện. Bà ấy chết vì phi đao, quan phủ phải điều tra hỏi đến. Tuy chúng ta không sợ, nhưng cũng phiền phức đôi chút.”

Rõ ràng ông muốn an táng thi thể ngay tại đây. Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Mẹ đã dặn, muốn được yên nghỉ cạnh phụ thân.”

Hoàng Chân hỏi: “Di thể của lệnh tôn an táng nơi nào?”

Thanh Thanh không biết, nhìn sang Viên Thừa Chí. Chàng đáp: “Trên núi Hoa Sơn chúng ta.” Mọi người nghe thấy đều tỏ vẻ kinh ngạc.

Viên Thừa Chí tiếp: “Phụ thân của cô ấy chính là Kim xà lang quân Hạ tiền bối.”

Hoàng Chân lớn hơn Hạ Tuyết Nghi mấy tuổi, nhưng Hạ Tuyết Nghi đã thành danh từ hồi trẻ. Khi Hoàng Chân mới ra giang hồ thì oai danh của Kim Xà Lang Quân đã chấn động võ lâm rồi. Ông vừa nghe là lập tức chỉnh đốn sắc mặt, suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta có ý này, xin cô nương đừng trách.”

Thanh Thanh nói: “Xin bá bá chỉ dạy.”

Hoàng Chân trỏ Viên Thừa Chí, bảo: “Y là sư đệ của ta. Cô nương gọi ta bằng bá bá thì ta không dám nhận. Hay cô nương gọi ta là đại ca đi?”

Thôi Hy Mẫn trừng mắt nhìn Thanh Thanh, nghĩ bụng: “Chẳng lẽ ta phải gọi cô nương nhỏ xíu này là cô cô hay sao?”

Thanh Thanh nhìn Viên Thừa Chí một cái, lập tức đổi cách xưng hô ngay: “Hoàng đại ca đã dạy, dĩ nhiên tiểu muội phải nghe lời.”

Thôi Hy Mẫn âm thầm kêu khổ: “Hỏng bét, hỏng bét! Tiểu cô nương này chẳng biết khách sáo gì cả, thật thà gọi ngay Hoàng đại ca rồi.”

Hoàng Chân không thể ngờ được tên tiểu tử hỏng bét này suy nghĩ như thế, cứ nói với Thanh Thanh: “Di chí của lệnh đường là muốn được an táng cùng lệnh tôn. Chúng ta phải hoàn thành tâm nguyện này của bà. Nhưng chưa nói nơi đây cách Hoa Sơn ngàn dặm xa xôi, cho dù linh cữu đã vận chuyển đến dưới chân núi Hoa Sơn thì cũng khó mà đưa lên vách núi được.”

Thanh Thanh hỏi: “Như vậy phải làm sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Dãy núi Hoa Sơn vô cùng hiểm trở, người võ công hơi kém là không lên được. Vận chuyển linh cữu lên đó, nhất định là không thể.”

Hoàng Chân nói: “Còn một giải pháp khác, là di chuyển hài cốt của lệnh tôn xuống đây để an táng. Nhưng di thể của lệnh tôn đã yên ổn trong huyệt mộ rồi, nếu làm kinh động e rằng không tiện.”

Thanh Thanh nghe ông nói có lý, lo lắng vừa khóc thút thít vừa nói: “Thế thì làm sao bây giờ?”

Hoàng Chân nói: “Theo ý ta thì hỏa táng di thể của lệnh đường ở đây trước, sau đó đem tro cốt lên Hoa Sơn hợp táng.”

Khi đề cập vấn đề này, ông nói rất đàng hoàng nghiêm chỉnh. Tuy Thanh Thanh không muốn vậy, nhưng ngoài cách này ra không còn cách nào khác. Nàng đành gạt lệ gật đầu.

Mọi người lập tức gom góp củi khô, hỏa thiêu thi thể của Ôn Nghi. Thanh Thanh từ nhỏ ở trong nhà họ Ôn đã bị coi thường, tuy mấy tên anh em họ như Ôn Chính thấy nàng xinh đẹp cũng muốn lấy lòng, nhưng trong lòng chúng chỉ có tà ý mà thôi. Chỉ có một mình mẫu thân là thương yêu nàng. Bây giờ nhìn người thương yêu mình nhất từ từ tan biến trong ánh lửa, nàng không chịu đựng nổi nữa, nằm rạp xuống đất mà khóc rống lên.

Viên Thừa Chí tìm trong tòa miếu hoang được một cái hũ sành. Chàng đợi lửa tắt, thi hài đã thành tro, mới gom tro cốt vào trong hũ, vái hai vái rồi lâm râm khấn: “Bá mẫu trên trời có linh thiêng, xin hãy yên tâm. Tiểu điệt nhất định sẽ đưa hài cốt của bá mẫu đến an táng trên đỉnh Hoa Sơn, quyết không dám phụ lòng bá mẫu.”

Hoàng Chân thấy chuyện đã xong, bèn bảo Viên Thừa Chí: “Bây giờ ta phải đưa số vàng này đến phủ Cửu Giang tỉnh Giang Tây. Sấm Vương đã phái rất nhiều huynh đệ đến liên lạc ở vùng Chiết Đông, Giang Nam này. Khi Trung Nguyên cử sự thì Giang Nam cũng phất cờ nghĩa mà hưởng ứng. Đông người lắm việc, chỗ nào cũng cần tiền cả. Phen này Viên sư đệ đoạt lại số vàng, công lao không nhỏ.”

Thanh Thanh nói: “Tiểu muội thật sự không biết số vàng này liên quan trọng đại đến thế. Nếu hai vị đại ca không đến kịp thời, thì không chừng muội làm hỏng mất đại sự của Sấm Vương.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Bây giờ cô mới biết thì hơi muộn.”

Thanh Thanh xưa nay miệng lưỡi không chịu nhường ai, bèn nói: “Từ đây đến đó Hoàng đại ca phải đích thân hộ tống. Không chừng giữa đường lại xảy ra chuyện nữa.”

Thôi Hy Mẫn vội vã hỏi: “Cái… cái gì? Cô muốn đến ăn cắp vàng nữa hay sao?”

Hoàng Chân liếc mắt một cái, không để y nhiều chuyện. Ông nói: “Nếu Viên sư đệ và Hạ cô nương không có việc gì khác, mọi người cùng đến Cửu Giang có được hay không?”

Viên Thừa Chí nói: “Tiểu đệ rất nhớ sư phụ, muốn đến Nam Kinh bái kiến lão nhân gia, tiện thể gặp Thôi thúc thúc. Đại sư ca thấy có được không?”

Hoàng Chân gật đầu nói: “Sư phụ thiếu người giúp việc thân cận, mà lão nhân gia cũng rất nhớ sư đệ. Sư đệ! Lần này chúng ta mới khai trương ở Cù Châu đã trúng quả lớn, lời một món to. Sau này hành hiệp trượng nghĩa, trừ bạo vì dân, cũng mong sư đệ đại cát đại lợi, buôn bán hưng thịnh, một vốn vạn lời.”

Viên Thừa Chí nghiêm trang đáp: “Phải nhờ đại sư ca chỉ dạy rất nhiều.”

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Ta không muốn làm phiền sư đệ nữa, bây giờ tạm biệt ở đây. Hạ cô nương! Sau này cô thuận tay phát tài, nhớ nhận rõ chiêu bài và nhãn hiệu hàng hóa rồi mới ra tay nhé.”

Ông đứng dậy, chắp tay rồi quay lưng đi ngay. Thôi Hy Mẫn cũng bái biệt sư thúc.

Tiểu Huệ dặn Viên Thừa Chí: “Thừa Chí đại ca, hãy bảo trọng.”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Khi gặp An thẩm thẩm, muội đừng quên nói ca ca rất nhớ thẩm thẩm.”

Tiểu Huệ nói: “Mẹ biết đại ca cao lớn thế này rồi, nhất định rất vui mừng. Tiểu muội đi đây.” Nàng thi lễ cáo biệt, rồi đuổi theo Hoàng Chân và Thôi Hy Mẫn về hướng Tây.

Nàng vừa đi vừa quay lại vẫy tay, Viên Thừa Chí cũng không ngớt vẫy tay tạm biệt. Mãi đến khi ba người đã khuất bóng qua một khúc quanh bên núi, chàng mới dừng tay thôi vẫy.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.