Chương 1: Mê cung địa đồ

Lộp cộp, lộp cộp, lộp cộp…

Lộp cộp, lộp cộp, lộp cộp…

Trên sa mạc mênh mông của đất Hồi Cương, cát bụi mịt mù bốc lên cao đến hai trượng, hai con ngựa một trước một sau đang phi nước đại. Đằng trước là một con bạch mã cao lớn chân dài, trên yên là một thiếu phụ, ôm trong lòng một cô bé chừng bảy tám tuổi. Phía sau là một con hồng mã, trên lưng nằm phục một hán tử cao gầy.

Trên lưng phía trái của hán tử có cắm một mũi tên dài, máu chảy ròng ròng từ lưng xuống yên ngựa, rơi xuống đất, thấm vào cát vàng. Y không dám đưa tay nhổ mũi tên ra, chỉ sợ rút ra rồi sẽ không chịu nổi ngã xuống chết ngay. Ai mà chẳng chết? Điều đó cũng không sao, có điều từ nay lấy ai chăm lo cho vợ yếu con thơ? Ở phía sau, kẻ địch hung hăng độc ác đang đuổi theo ráo riết.

Con ngựa hồng chạy đã mấy chục dặm, gân cốt rã rời, chỉ vì chủ nhân không ngừng roi, vung chân thúc, nên phải chạy đến nỗi không kịp thở, hai bên mép sùi bọt trắng xóa. Đột nhiên, hai chân trước nó khuỵu xuống, ngã lăn ra. Hán tử kéo mạnh dây cương, con ngựa hí lên một tiếng bi thảm, giãy giụa mấy cái, thở hắt ra chết luôn. Thiếu phụ nghe tiếng động ở phía sau, quay đầu lại thấy con ngựa đã chết, kinh hãi kêu lên;

– Đại ca… sao… có sao không?

Hán tử nhíu mày, lắc đầu. Y nhìn thấy phía sau mấy dặm cát bụi tung bay, đại đội nhân mã kẻ địch đã kéo đến. Người đàn bà quay ngựa lại, chạy đến bên chồng, thấy mũi tên dài cắm trên lưng y, áo ướt đẫm máu, không khỏi kinh hoàng thất sắc, dường như muốn ngất đi. Đứa bé cũng thất thanh kêu lên:

– Gia gia, gia gia, trên lưng gia gia có mũi tên kìa!

Hán tử cười gượng nói:

– Không sao đâu!

Y nhảy lên, nhẹ nhàng rơi xuống yên ngựa ngay sau lưng người vợ thật khéo léo. Y tuy bị trọng thương nhưng thân pháp vẫn linh hoạt, gọn gàng. Người thiếu phụ quay đầu lại nhìn chồng, đầy vẻ lo lắng quan hoài, khẽ hỏi:

– Đại ca, chàng…

Hán tử kẹp hai chân thúc một cái, tay giật giây cương, con ngựa trắng liền tung bốn vó lao về phía trước. Con bạch mã tuy là loại thần tuấn, nhưng đã chạy một quãng dài không nghỉ cũng phải mệt lử, huống chi lúc này trên lưng lại có đến ba người. Tuy nhiên con vật dường như cũng biết lúc này là lúc sinh tử quan đầu của chủ nhân nên không cần thúc giục vẫn hết sức chạy bất kể sống chết.

Nhưng nó chỉ chạy thêm được vài dặm nữa, sau cũng chậm dần. Địch nhân đuổi theo sau mỗi lúc một gần thêm. Tất cả bọn chúng gồm sau mươi ba người nhưng laị đem theo hơn một trăm chín mươi con ngựa khỏe, mỗi khi ngựa hơi yếu là đổi con khác ngay. Chúng nhất định đuổi bắt cho bằng được.

Hán tử quay lại nhìn, trong đám bụi vàng mù mịt, đã nhìn thấy thân hình kẻ địch, một lát sau đến mặt mũi cũng đã rõ dần. Hán tử nghiến răng nói:

– Hồng muội, ta xin nàng một điều, nàng có bằng lòng không?

Người thiếu phụ quay đầu lại, nụ cười ôn nhu, nói:

– Trong cả cuộc đời đã bao giờ tuổi muội trái lời đại ca chưa?

Hán tử nói:

– Tốt lắm, nàng hãy mang Tú nhi chạy trốn, bảo toàn chút máu thịt của chúng ta, bảo toàn bức địa đồ Cao Xương mê cung.

Lời nối y cực kỳ kiên quyết, chẳng khác gì ra lệnh. Thiếu phụ giọng run run, nói:

– Đại ca, hãy giao bản đồ cho chúng đi, chúng mình chịu thua là xong. Thân… thân chàng mới là quan trọng.

Hán tử cúi xuống hôn lên má vợ, giọng đột nhiên đổi thành cực kỳ trìu mến, nói:

– Hai chúng ta đã trải qua biết bao lần nguy nan trong đời, lần này nếu như chạy được thì hay. Lã Lương tam kiệt không phải chỉ muộn địa đồ đâu, bọn chúng… bọn chúng còn muốn cả Hồng muội nữa kìa.

Thiếu phụ nói:

– Chúng … chúng dẫu sao cũng còn chút tình đồng môn. Không biết chừng tiểu muội có thể xin bọn chúng…

Hán tử sẵn giọng: – Không lẽ vợ chồng ta phải van xin người khác ư? Con ngựa này không mang nổi cả ba người đâu. Đi mau!

Y tung mình nhảy lên, kêu lớn một tiếng rồi nhảy xuống khỏi ngựa. Thiếu phụ gò cương đứng lại, định đưa tay kéo lấy chồng nhưng thấy trượng phu hầm hầm giận dữ, lại nghe y quát lớn:

– Đi mau!

Nàng từ trước tới nay vẫn luôn phục tùng chồng, đành giật cương quất ngựa, chạy về phía trước, cảm thấy trong lòng giá băng tê tái, không phải chỉ trong lòng mà cả đến máu thịt cũng như đông cứng lại

Những người đuổi theo thấy hán tử rơi xuống khỏi ngựa, cùng reo hò:

– Bạch mã Lý Tam ngã rồi! Bạch mã Lý Tam ngã rồi!

Hơn một chục người liền giục ngựa đến vây quanh, còn hơn bốn chục người kia tiếp tục đuổi theo thiếu phụ. Người đàn ông nằm co dưới đất, không cục cựa gì nữa, dường như đã chết rồi. Một người giơ trường thương, nghe soẹt một tiếng đâm luôn vào đầu vai bên phải của y. Khi rút ngọn giáo ra, máu tươi vọt ra nhưng Bạch Mã Lý Tam vẫn không động đậy. Gã chỉ huy mặt đầy râu ria nói:

– Chết chắc rồi, còn sợ gì nữa? Mau tra xét trong người y xem sao.

Hai người trong bọn nhảy xuống ngựa, đi lại lật Lý Tam lên. Đột nhiên một ánh sáng trắng lóe lên, Bạch Mã Lý Tam trường đao vung một vòng, chát chát hai tiếng, chém hai người ngã lăn ra đất.

Bọn người không ngờ y giả chết, đến ngọn giáo đâm vào cũng làm như không biết rồi bỗng dưng phản kích lại, sáu bảy người kinh hãi giục ngựa thối lui. Gã râu xồm liền múa thanh nhạn linh đao[1] trong tay, quát lớn:

– Lý Tam, ngươi quả thật cứng đầu.

Vù một tiếng y vung đao chém xuống đầu Lý Tam. Lý Tam giơ đao lên đỡ nhưng cả hai vai đều bị thương nặng, cánh tay không có sức, lịch kịch lùi lại ba bước, oa một tiếng hộc ra một ngụm máu tươi. Hơn chục người giục ngựa tiến lên vây quanh, đao thương cùng đâm chém xuống người y.

Bạch Mã Lý Tam một đời anh hùng, cho đến chết cũng không chịu khuất phục, khi sắp lìa đời cũng còn giết được hai tên cường địch.

Thiếu phụ ở đằng xa nghe tiếng chồng uất hận rống lên, trong lòng chẳng khác gì dao cắt: “Chàng chết rồi, ta còn sống làm gì?”. Nàng lấy từ trong bọc ra một tấm khăn tay dệt bằng lông cừu, nhét vào bọc đứa bé, nói:

– Tú nhi, con cố tự lo cho mình.

Nàng giơ roi quất vào mông con ngựa, hai chân đạp một cái, thân hình đã rời yên. Nàng thấy con ngựa trắng lưng nhẹ đi liền mang con bé chạy như bay, trong lòng thấy hơi an ủi:

– Con ngựa này cước lực thiên hạ vô song, Tú nhi người lại nhẹ, như thế bọn chúng không thể nào đuổi kịp được.

Ở phía trước, tiếng cô bé con khóc “Mẹ ơi, mẹ ơi” mỗi lúc một xa, còn tiếng chân ngựa đuổi theo phía sau thì càng lúc càng gần, trong bụng ngầm khấn nguyện:

– Xin trời phù hộ cho Tú nhi được như con, lấy được một người chồng tốt, dù một đời trôi nổi thăng trầm, nhưng cũng một đời sung sướng.

Nàng sửa lại áo quần, vén lại đầu tóc, chỉ chớp mắt mấy chục người đã trước sau cưỡi ngựa chạy đến. Người đi đầu là lão nhị trong Lã Lương tam kiệt Sử Trọng Tuấn.

Lã Lương tam kiệt là anh em kết nghĩa. Lão đại Thần Đao Chấn Quan Tây Hoắc Nguyên Long, chính là gã râu xồm giết Bạch Mã Lý Tam, lão nhị Mai Hoa Thương Sử Trọng Tuấn là gã gầy gầy cao cao, còn lão tam Thanh Mãng Kiếm Trần Đạt Hải người lùn nhỏ nhưng tinh ranh, vốn là kẻ chuyên chặn đường cướp của đất Liêu Đông, về sau lạc bước nơi Sơn Tây, cùng Hoắc Sử hai người tâm đầu ý hợp, ba người liền mở một tiêu cuộc nơi huyện Thái Cốc tên là Tấn Uy tiêu cuộc.

Sử Trọng Tuấn và vợ của Bạch Mã Lý Tam Thượng Quan Hồng vốn là sư huynh sư muội đồng môn, hai người học nghệ chung với nhau từ khi còn nhỏ. Sử Trọng Tuấn đem lòng yêu thương cô sư muội dịu dàng, kiều diễm, chính sư phụ của họ cũng có lòng tác hợp cho hai người cho nên ai ai trong môn phái cũng coi họ như vợ chồng chưa cưới. Nào ngờ Thượng Quan Hồng ngẫu nhiên gặp được Bạch Mã Lý Tam, vừa thấy đã đem lòng quyến luyến, tuy gia đình không bằng lòng cho hai người lấy nhau, Thượng Quan Hồng liền bỏ nhà theo y ra đi. Sử Trọng Tuấn vì đau lòng nên đau nặng, khi khỏi rồi tính tình cũng đổi hẳn. Y đối với sư muội tình yêu vẫn không dứt, về sau cũng chẳng lấy ai.

Cách biệt mười năm qua, nào ngờ Lã Lương tam kiệt gặp lại vợ chồng Lý Tam trên đường Cam Lương, vì chuyện tranh đoạt một bản địa đồ mà hai bên động thủ. Bọn họ hơn sáu chục người vây đánh hai người, từ Cam Lương đuổi theo đến tận Hồi Cương. Sử Trọng Tuấn vừa ghen tức, vừa thù hận nên ra tay càng thêm tàn nhẫn, mũi tên trên lưng Lý Tam chính là do y bắn lén.

Bây giờ Lý Tam đã bỏ mình nơi sa mạc, Sử Trọng Tuấn cưỡi ngựa chạy đến thấy Thượng Quan Hồng một mình đứng nơi đồng không mông quạnh, trong lòng không khỏi bồi hồi:

– Bọn mình đã giết được chồng nàng rồi. Từ nay trở đi, ta phải đối với nàng thật tử tế mới được.

Ngọn gió tây phơ phất thổi trên quần áo nàng, so với mười năm trước khi hai người con cùng chung luyện võ một trường không khác một mảy.

Binh khí của Thượng Quan Hồng là một đôi chủy thủ, một thanh cán vàng, một thanh cán bạc, trên giang hồ có một ngoại hiệu là “Kim ngân tiểu kiếm Tam Nương Tử”. Lúc này trong tay nàng không cầm binh khí, trên mặt lại dường như đang mỉm cười.

Trong lòng Sử Trọng Tuấn lóe lên một tia hi vọng, ngực nóng ran, khuôn mặt xanh xao của y chợt đỏ lên. Y cài cây Mai hoa thương vào yên ngựa, nhảy xuống, kêu lên:

– Sư muội.

Thượng Quan Hồng hỏi:

– Lý Tam chết rồi ư?

Sử Trọng Tuấn gật đầu, nói:

– Sư muội, hai đưa mình xa nhau đã mười năm, ta… ta lúc nào cũng nhớ đến sư muội.

Thượng Quan Hồng mỉm cười hỏi lại:

– Thực thế ư? Sư ca lại lừa gạt người ta rồi.

Sử Trọng Tuấn tim đập thình thình. Nụ cười kia, dáng điệu hờn dỗi kia, nào có khác gì cô tiểu sư muội của mười năm trước đâu? Y dịu dàng nói:-

Sư muội, từ nay em đi theo tiểu huynh, ta vĩnh viễn không để sư muội phải phiền lòng.

Đôi mắt Thượng Quan Hồng bỗng lóe lên một tia sáng lạ lùng, kêu lên:

– Sư ca, sư ca đối với tiểu muội thật tử tế.

Nàng giơ hai tay, sà vào lòng y. Sử Trọng Tuấn mừng quá, giang tay ôm chặt lấy nàng. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải nhìn nhau mỉm cười, nghĩ thầm:

– Lão nhị mười năm mang bệnh tương tư, rốt cuộc hôm nay đã được thỏa nguyện.

Sử Trọng Tuấn ngửi thấy một làn u hương thoang thoảng, thần thái mơ mơ hồ hồ, lại thấy đôi tay Thượng Quan Hồng ôm xiết lấy mình, không dám tin đây là sự thật. Đột nhiên bụng dưới y thấy đau nhói, dường như có vật gì nhọn đâm vào. Y rú lên một tiếng, vận kình vào hai cánh tay đẩy Thượng Quan Hồng ra, nào ngờ nàng vẫn ghì chặt lấy y không chịu buông, sau cùng cả hai người đều ngã lăn xuống đất.

Biến cố đó xảy ra thật nhanh, Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải kinh hãi, vội vàng nhảy xuống ngựa, tiến lên cứu giúp. Khi lật Thượng Quan Hồng ra, ngực nàng đã cắm một thanh chủy thủ cán vàng, máu tào ra như suối, còn thanh chủy thủ cán bạc thì cắm vào bụng dưới Sử Trọng Tuấn. Thì ra Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử quyết tâm chết theo chồng, đã ngầm để hai thanh kiếm dưới áo, một thanh hướng ra ngoài, một thanh hướng vào mình. Khi Sử Trọng Tuấn ôm lấy nàng, cả hai cùng trúng kiếm.

Thượng Quan Hồng chết ngay còn Sử Trọng Tuấn thoi thóp. Y nghĩ đến mình chết trong tay sư muội, nỗi bi thống thống trong lòng so với vết thương trên người còn đau đớn hơn, kêu lên:

– Tam đệ mau giúp ta chết đi, cho ta khỏi phải chịu dày vò thêm nữa.

Trần Đạt Hải thấy vết thương của y không cách gì cứu chữa, đưa mắt nhìn đại ca. Hoắc Nguyên Long gật đầu, Trần Đạt Hải liền nghiến răng giơ kiếm nhắm đúng tim Sử Trọng Tuấn đâm vào. Hoắc Nguyên Long thở dài:

– Đâu có ngờ Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử lại cứng cỏi đến thế.

Khi đó một tên thủ hạ tiêu đầu phi ngựa đến báo:

– Đã tra xét toàn thân Bạch Mã Lý Tam nhưng không thấy bức địa đồ

Hoắc Nguyên Long chỉ vào Thượng Quan Hồng nói:

– Nếu thế thì chắc ở trên người nàng ta.

Lại một phen tra xét kỹ càng, trong người Thượng Quan Hồng, ngoài vài lạng bạc vụn và vài bộ quần áo thay đổi thì \ không còn gì khác. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải ngơ ngẩn nhìn nhau, vừa thất vọng, vừa kỳ quái. Bọn họ từ Cam Lương đuổi đến Hồi Cương, trước sau bám sát vợ chồng Lý Tam, địa đồ nếu như giữa đường giao cho người khác, quyết không thể nào thoát khỏi mấy chục cặp mắt, huống chi hai vợ chồng y xả mệnh bảo vệ bản đồ, làm sao có thể tùy tiện giao cho người khác. Trần Đạt Hải xem xét kỹ mọi vật trong bao của Thượng Quan Hồng một lần nữa, đến lúc thấy bộ quần áo trẻ con, liền chợt nghĩ ra, nói:

– Đại ca, mau đuổi theo con bé kia.

Hoắc Nguyên Long “ồ” lên một tiếng, nói:

– Không có gì phải lo, con nhãi đó ở trên sa mạc mênh mông thế này chạy đâu cho thoát?

Hắn vung tay một cái, hô lớn:

– Để lại hai người an táng Sử nhị gia, còn bao nhiêu theo ta!

Hắn giật cương phi ngựa chạy trước. Tiếng vó ngựa cộp cộp, tiếng hò hét liên miên, hơn trăm con ngựa cùng đuổi theo.

Đứa bé gái chạy trước đã lâu, lúc này đã ngoài hai chục dặm. Thế nhưng giữa sa mạc mênh mông, không gò đồi thế này, chỉ cần đảo mắt nhìn xa cả chục dặm, nên đứa bé tuy đã chạy xa nhưng càng lâu thì bọn kia càng gần. Quả nhiên đến xế chiều, Trần Đạt Hải đột nhiên hô lớn:

– Ở trước mặt kìa!

Chỉ thấy tít mù xa một điểm đen đang di động ngay tại đường chân trời. Con ngựa trắng tuy là thần tuấn nhưng từ sáng đến chiều chạy không dừng bước, cũng chịu không nổi. Còn bọn Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải liên tiếp đổi ngựa mới nên dần dần đuổi đến nơi.

Con bé con Lý Văn Tú nằm gục trên lưng con ngựa trắng, vì quá mệt mỏi nên đã mơ mơ màng màng ngủ thiếp đi. Cả ngày hôm nay nó không ăn không uống gì, dưới ánh nắng gay gắt của sa mạc, cả môi cả miệng đều đã khô cả môi. Con ngựa dường như có linh tính, biết kẻ đang đuổi theo tính hại tiểu chủ nhân, nên cứ nhắm hướng mặt trời đỏ ửng kia mà chạy tới. Đột nhiên con ngựa chồm hai chân trước lên, hí một tiếng dài, nó đã ngửi thấy mùi vị gì đặc biệt, trong tiếng hí có ẩn một niềm kinh hãi.

Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đều là người võ công tinh thâm, dù chạy đường dài cũng không coi vào đâu, nhưng lúc này bỗng cảm thấy lồng ngực bế tắc khó thở, ngột ngạt không chịu nổi. Hoắc Nguyên Long nói:

– Tam đệ, xem chừng có chuyện gì không ổn.

Trần Đạt Hải đưa mắt nhìn bốn bề, xem xét tình hình, thấy phía tây bắc bên cạnh ánh chiều tà đỏ rực, bốc lên một đám mây vàng mù mù, trong đám mây có ẩn ánh sáng màu tím đỏ lấp lánh, cảnh sắc thật là đẹp đẽ kỳ lạ, trong đời chưa từng thấy bao giờ. Đám mây vàng đó bành trướng thật nhanh, chưa đến một bữa ăn đã phủ kín một nửa bầu trời. Lúc này mấy chục người trong mã đội đều đổ mồ hôi hột, ho khạc luôn mồm. Trần Đạt Hải nói:

– Đại ca, hình như là có bão cát.

Hoắc Nguyên Long đáp:

– Đúng thế, chạy nhanh lên, bắt lấy con nhỏ kia trước, rồi sẽ tìm cách tránh…

Y nói chưa dứt câu, đột nhiên một cơn gió giật ùa tới, mang theo một khối cát lớn, khiến đầu cổ mặt mũi y đầy cát vàng, không sao nói tiếp được. Bão cát trên sa mạc muốn đến là đến,chỉ trong chớp mắt những trận gió lớm mạnh đã cuốn tới. Bảy tám người thân hình lảo đảo bị gió thổi ngã xuống ngựa. Hoắc Nguyên Long kêu lên:

– Tất cả xuống ngựa, tụ lại một chỗ!

Mọi người cố sức chống lại cơn bão cát, kéo hơn một trăm con ngựa lại thành một vòng tròn lớn, người cũng như vật đều nằm phục xuống. Mọi người ai nấy tay nắm tay, nằm mọp xuống cạnh bụng ngựa, chỉ thấy gió giật từng hồi thổi cát bay qua mặt chẳng khác gì dao cắt, mặt mũi chân tay đều bị cào xước thành từng vệt rướm máu.

Tuy nhóm đó người có đông thật nhưng ở nơi sa mạc mênh mông không bờ bến này, bị cơn bão cát bao trời phủ đất như thế, nào có khác gì một chiếc thuyền con trong bể cả, chỉ đành phó mặc cho số mệnh đẩy đưa, không còn gì quyết định được. Gió mỗi lúc một mạnh, lớp cát phủ trên thân người, vật mỗi lúc một dày…

Tuy Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải là những kẻ không biết sợ là gì, lúc này trước uy lực của trời đất cũng đành bó tay. Trong lòng hai người đều chợt nghĩ:

– Cũng chỉ vì muốn tìm được Cao Xương mê cung gì đó mà mình từ Sơn Tây lần mò đến tận chốn sa mạc hoang vu này, chịu chết nơi đây.

Gió vẫn ù ù rít lên chẳng khác hàng nghìn hàng vạn con quỉ dữ cùng ra uy một lượt.

Cơn bão cát tiếp tục thổi qua đêm, đến sáng hôm sau thì giảm dần. Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải lóp ngóp từ trong đống cát chui ra, kiểm điểm nhân mã, nhưng tổn thất cũng không nhiều, chỉ chết mất hai tên chạy cờ và năm con ngựa. Thế nhưng ai nấy đều mỏi mệt, gân cốt mềm nhũn. Điều đáng nói là con ngựa trắng và đứa bé kia không biết đã đi đâu mất, mười phần thì chín chắc chết trong cơn bão vừa rồi. Những người đàn ông cường tráng biết võ cũng còn chịu không nổi, huống chi một đứa bé yếu đuối mảnh mai.

Mọi người ở trên sa mạc nhóm lửa nấu cơm, nghỉ ngơi nửa ngày. Hoắc Nguyên Long truyền lệnh xuống:

– Ai phát hiện được tung tích đứa bé và con ngựa trắng sẽ được thưởng năm chụclạng vàng!

Những người theo y đến đất Hồi Cương đều là dân giang hồ tứ chiếng đất Tấn Thiểm Cam Lương, đi hàng nghìn dặm chẳng qua cũng vì tiền, năm chục lượng vàng không phải ít. Mọi người reo hò vang dậy, hơn năm chục người liền túa ra khắp mọi hướng, chẳng khác gì một chiếc quạt lớn xòe ra. “Bạch mã, con bé con, năm chục lạng vàng” trong đầu người nào cũng chỉ còn lởn vởn ba món ấy. Có người chạy qua hướng tây, có người chạy qua hướng nam, hẹn với nhau khi trời sẩm tối sẽ gặp nhau sáu mươi dặm hướng chính tây.

Lưỡng đầu xà Đinh Đồng nhảy lên một con ngựa khỏe, giục ngựa chạy về hướng tây bắc. Y là tiêu sư của Tấn Uy tiêu cuộc đã mười bảy năm, võ công tuy không giỏi lắm nhưng tinh minh tháo vát, là một thủ hạ đắc lực của Lã Lương tam kiệt.

Y chạy một mạch hơn hai chục dặm, chẳng thấy bóng một đồng bọn nào, trong sa mạc mênh mông đột nhiên trong lòng nổi lên một mối cô tịch kinh sợ. Y thúc ngựa chạy lên một đồi cát nhìn ra phía trước thấy nơi tây bắc có một mảng màu xanh, có bảy tám cây liễu cao vọt lên. Trên sa mạc không cây cỏ gì mọc được như thế này, bỗng nhìn thấy một ốc đảo xanh tươi, y vui mừng không biết chừng nào. Y lẩm bẩm:

– Trong ốc đảo này ắt có suối nước, mà nếu không có đi nữa thì tất cả bọn mình cũng có nơi nghỉ ngơi.

Con ngựa dường như cũng đã nhìn thấy có cỏ có nước, tinh thần cao hứng không đợi Đinh Đồng vung roi thúc giục, đã tung bốn vó phi thẳng tới đó.

Đoạn đường mươi dặm chỉ một lát tới ngay, từ xa nhìn lại chỉ thấy một vùng thảo nguyên không bờ bến, trên đồng đầy bò cừu. Phía cực tây là những lều vải, từng hàng từng hàng đến sáu bảy trăm căn. Đinh Đồng nhìn thấy thế, không khỏi kinh hãi. Từ khi y vào đến đất Hồi Cương đến giờ, nếu có thấy lều vải thì một nơi cùng lắm chỉ ba bốn chục chiếc là cùng, còn một bộ tộc lớn như thế này đây là lần đầu y trông thấy. Xem hình dáng các lều vải, đây hẳn là bộ tộc Cáp Tát Khắc

Người Cáp Tát Khắc là dân tộc hiếu võ nhất, không kể nam nữ, sáu bảy tuổi trở lên đã sống trên lưng ngựa. Đàn ông con trai luôn luôn mang dao, tài cưỡi ngựa, bắn tên, và đánh đao nổi tiếng vùng biên thùy phía tây. Người ta đã nói rằng: “Một người Cáp Tát Khắc có thể đánh với một trăm người thường, còn một trăm người Cáp Tát Khắc thì có thể hoành hành đất Hồi Cương”. Đinh Đồng đã từng nghe câu đó, nghĩ thầm:

– Ở trong bộ tộc Cáp Tát Khắc thì phải hết sức cẩn thận mới được.

Lại thấy nơi đông bắc, dưới chân một quả núi nhỏ, chơ vơ một túp lều tranh. Cái lều đó mái tranh vách đất, trông chẳng khác gì nhà của người Hán trong nội địa, có điều rất sơ sài. Đinh Đồng nghĩ thầm: “Mình đến căn nhà đó xem thử đã”. Y bèn giục ngựa chạy đến túp lều tranh. Con ngựa y cỡi đã qua một ngày một đêm chưa ăn gì, nay thấy cỏ non khắp nơi, bước một bước lại ngoạm một miếng, đi thật chậm chạp.

Đinh Đồng giơ chân đá mạnh vào bụng con vật, con vật bị đau, vội chạy một mạch đến căn nhà nhỏ. Đinh Đồng vừa ghé mắt thấy ngay sau nhà buộc một con ngựa trắng cao lớn, chân khỏe bờm dài, chính là con ngựa Lý Tam cưỡi. Y nhịn không nổi kêu lên:

– Bạch mã, bạch mã ở đây rồi!

Y chợt động tâm, vội xuống ngựa rút trong giày ra một thanh đoản đao sắc bén, dấn vào trong tay áo, rón rén đi tới phía sau nhà, đang toan thò đầu vào cửa sổ thăm dò, nào ngờ con ngựa trắng lại hí lên một tràng dài, dường như đã phát giác được y.

Đinh Đồng trong bụng chửi thầm: “Đồ súc sinh!”. Y trấn tĩnh lại, lại thò đầu vào- ửa sổ lần nữa, nào ngờ bên trong cũng lại có người thò đầu ra. Mũi của Đinh Đồng suýt nữa đụng phải mũi của người kia, chỉ thấy người nọ mặt đầy vết nhăn, đôi mắt trừng trừng. Đinh Đồng giật mình kinh hãi, hai chân điểm một cái, lật đật lùi lại, quát lên:

– Ai đó?

Người kia lạnh lùng hỏi lại:

– Ngươi là ai? Đến đây làm gì?

Người đó nói tiếng Hán. Đinh Đồng hơi định thần, ngoạc mồm cười nói:

– Tại hạ họ Đinh, tên Đồng, vô tình đến nơi đây làm kinh động đến lão trượng. Xin hỏi lão trượng cao tính đại danh là gì?

Ông già kia đáp:

– Lão họ Kế.

Đinh Đồng cười cầu tài:

– Hóa ra là Kế lão trượng. Nơi sa mạc gặp được người đồng hương thật chẳng khác gì gặp được người nhà. Tại hạ mạo muội vào xin một chén trà uống.

Kế lão nhân nói:

– Ngươi đi bao nhiêu người thế?

Đinh Đồng đáp:

– Chỉ có một mình tại hạ đến đây thôi.

Ông già hừ một tiếng, dường như không tin, lạnh lùng nhìn vào mặt y như dò xét. Đinh Đồng bị ông ta soi mói, tâm thần bất định chỉ cố gượng cười. Một người lạnh lùng khinh khỉnh, một người sượng sùng toét miệng, hai bên nhìn nhau giây lát. Kế lão nhân nói:

– Muốn xin trà sao không vào cửa chính lại thò đầu vào cửa sổ là sao?

Đinh Đồng cười đáp:

– Phải lắm, phải lắm.

Y quay vòng qua cửa chính đi vào nhà. Căn lều đồ đạc đơn sơ nhưng bàn ghế sạch sẽ, quát dọn tươm tất. Đinh Đồng ngồi xuống đưa mắt nhìn quanh, thấy đằng sau đi ra một đứa bé gái, trong tay cầm một chén trà. Hai người mắt chạm nhau, đưa bé giật mình hoảng sợ, nghe choang một tiếng, chén trà tuột tay rơi xuống đất vỡ tan tành.

Đinh Đồng trong lòng như mở cờ trong bụng. Con bé này chính là người Hoắc Nguyên Long treo giải thưởng truy tầm, y nhìn thấy con ngựa trắng, mười phần đến tám tin chắc nó ở trong nhà này, thế nhưng bây giờ gặp mặt lòng vui sướng không dấu nổi lộ ra nét mặt.

Đêm hôm qua khi có trận bão cát, Lý Văn Tú nằm thiếp đi trên lưng ngựa bất tỉnh. Con ngựa ngửi thấy mùi cỏ, mùi nước cố vượt gió cát chạy đến thảo nguyên này. Kế lão nhân thấy đứa bé ăn mặc lối người Hán, vội vàng đem nó vào nhà. Nửa đêm đứa nhỏ tỉnh lại, không thấy cha mẹ đâu, khóc lóc không ngừng. Kế lão nhân thấy nó trắng trẻo xinh xắn, không khỏi nhủ lòng thương xót, hỏi nó tại sao lại lạc vào đại mạc, cha mẹ là ai. Lý Văn Tú nói cha nó tên là Bạch Mã Lý Tam, còn mẹ nó thì chỉ biết là “Má Má”, nhưng nghe bọn ác nhân đuổi theo gọi là “Tam Nương Tử”, còn đi đến Hồi Cương làm gì thì nó không biết.

Kế lão lẩm bẩm: “Bạch Mã Lý Tam, Bạch Mã Lý Tam. Y là hiệp đạo hoành hành Giang Nam, sao lại đến đất Hồi Cương?”.

Lão cho Lý Văn Tú một bát sữa lớn rồi cho nó ngủ. Trong lòng ông lão trăn trở những chuyện mười năm qua, tâm tình dạt dào như sóng biển nên không ngủ được.

Lý Văn Tú ngủ một mạch đến tận giờ thìn hôm sau mới dậy, lại xin Kế gia gia đưa nó đi kiếm cha mẹ. Ngay khi đó Lưỡng Đầu Xà Đinh Đồng lấm lấm lét lét mò đến, thò đầu vào cửa sổ thăm dò, mọi việc đều không qua khỏi mắt Kế lão.

Lý Văn Tú đánh rơi chén trà, Kế lão nhân nghe tiếng vội chạy lại. Lý Văn Tú sà vào lòng ông, kêu lên:

– Gia gia, y… y là ác nhân đang đuổi theo cháu đó.

Kế lão vuốt tóc đứa nhỏ, nhỏ nhẹ nói:

– Đừng sợ, đừng sợ. Y không phải ác nhân đâu.

Lý Văn Tú đáp:

– Phải mà! phải mà! Bọn họ mấy chục người đuổi theo đánh cha mẹ cháu đó.

Kế lão nghĩ thầm:

– Bạch Mã Lý Tam với ta vô thân vô cố, không hiểu gây thù chuốc oán với bọn này như thế nào, việc gì ta phải dây dưa vào.

Đinh Đồng liếc mắt thăm chừng ông già, chỉ thấy ông ta râu tóc bạc phơ, không còn sợi nào đen, thân thể to cao, nhưng lưng còng run rẩy thật là yếu đuối, nghĩ thầm:

– Lão này chẳng một trăm thì cũng phải chín chục, nơi đây lại chẳng có ai, đánh cho lão gục xuống bắt con bé và con ngựa trắng rồi đi ngay để khỏi đêm dài lắm mộng, để lâu sinh chuyện.

Gã đột nhiên khum tay đưa lên tai phải làm như lắng nghe, nói:

– Có người đến.

Nói xong rảo bước đi tới bên cửa sổ. Kế lão không nghe tiếng chân người nhưng thấy Đinh Đồng làm như thế lại tưởng thực, cũng đến cửa sổ nhìn ra, chỉ thấy trên cánh đồng bò cừu đang cắm cúi ăn cỏ, bốn bề tĩnh mịch, không thấy bóng dáng ai bèn hỏi:

– Có thấy ai đâu?

Thì đột nhiên nghe Đinh Đồng cất giọng cười phá lên, trên đầu thấy có gió ập xuống một bàn tay từ cao đã đập lên đầu ông già. Nào ngờ Kế lão tuy già yếu lụm cụm, nhưng thân thủ lại hết sức nhanh nhẹn, chưởng của Đinh Đồng còn cách đầu ông vài tấc, ông lão liền nghiêng qua một bên, tiếp theo bàn tay móc một cái, thi triển đại cầm nã thủ, chộp ngay được cổ tay phải y. Đinh Đồng biến chiêu cũng thật mau lẹ, tay phải giựt về không được liên tống tay trái, con dao dấu trong tay áo liền đâm ra, chỉ thấy lấp loáng, nghe soẹt một tiếng, lưỡi dao đã trúng ngay lưng bên trái của Kế lão.

Lý Văn Tú kinh hoảng kêu lên:

– Ối chao!

Nó có được cha mẹ dạy cho hai năm võ công, nay thấy Kế lão trúng dao liền nhảy tới, hai bàn tay đấm thùm thụp vào lưng Đinh Đồng. Ngay lúc đó, Kế lão đã co tay trái, thúc cùi chỏ vào ngay ngực Đinh Đồng, lực đạo thật là mãnh liệt, Đinh Đồng chỉ hự lên được một tiếng, thân thể nhũn xuống, nằm gục trên mặt đất, máu miệng trào ra, chết ngay lập tức.

Lý Văn Tú lắp bắp:

– Gia gia, ông… lưng ông trúng dao…

Kế lão thấy đứa bé nước mắt doanh tròng, nghĩ thầm: “Con bé này tâm địa thật là tốt”. Lý Văn Tú lại nói:

– Gia gia, vết thương của ông… để cháu rút dao ra cho ông nhé?

Nói xong nó giơ tay cầm chuôi dao. Mặt Kế lão bỗng sầm xuống, giận dữ nói:

– Ngươi đừng lo cho ta.

Ông lão vịn vào bàn, thân hình lảo đảo, lẩy bẩy đi vào trong phòng, nghe cạch một tiếng đã đóng cửa lại. Lý Văn Tú thấy ông ta đột nhiên nổi nóng sợ lắm, lại thấy Đinh Đồng nằm chèo queo dưới đất, sợ y chồm dậy giết mình, càng nghĩ càng lo, chỉ muốn co giò bỏ chạy ra ngoài nhưng nghĩ đến Kế lão đang bị thương chẳng ai chăm sóc không nỡ bỏ đi.

Nó suy nghĩ rồi đi đến bên cửa phòng, nhè nhẹ gõ mấy tiếng, không thấy bên trong động tĩnh gì nên kêu lên:

– Gia gia, gia gia, ông có đau không?

Chỉ nghe Kế lão gắt lên:

– Cút đi, cút đi. Đừng đến quấy rầy ta.

Giọng đó khác hẳn bình thường ôn tồn hiền dịu khiến Lý Văn Tú sợ quá không dám nói thêm, ngơ ngẩn ngồi bệt xuống đất, ôm đầu tấm tức khóc. Bỗng nghe kẹt một tiếng, cửa phòng mở ra, một bàn tay nhẹ nhàng xoa đầu nó, có tiếng ông già nhỏ nhẹ:

– Đừng khóc, đừng khóc, vết thương của gia gia không sao cả.

Lý Văn Tú ngửng đầu lên thấy Kế lão đang mủm mỉm, trong bụng vui mừng liền phá ra cười. Ông lão cũng cười theo:

– Vừa khóc lại cười, không biết xấu ư?

Lý Văn Tú rúc đầu vào lòng ông, nó cảm thấy một tấm thân tình ấm áp của ông già cho nó. Kế lão nhíu mày, nhìn xác Đinh Đồng nghĩ thầm: “Y với ta không thù không oán sao bỗng dưng hạ độc thủ nhỉ?”. Lý Văn Tú vẫn lo cho ông nên hỏi:

– Gia gia, lưng ông vết thương có sao không?

Lúc này ông già đã thay một bộ trường bào thành thử nó không biết thương thế ra sao. Nào ngờ vừa nghe con bé nhắc lại chuyện cũ, dường như nhắc lại một chuyện cực kỳ xấu hổ nhục nhã, mặt ông lão liền hiện vẻ bực bội, gắt:

– Sao ngươi cứ léo nhéo gì thế?

Bỗng nghe con ngựa trắng từ bên ngoài hí lên một tiếng dài, ông già suy nghĩ một chập rồi đi vào phòng chứa củi lấy ra một thùng chất nhuộm màu vàng. Đây là loại vật liệu người ta dùng để đánh dấu lên trên đàn cừu bò để cho khỏi lẫn với cừu bò của người khác, dù có mưa gió cũng không phai. Ông lão xách thùng tới bên con ngựa bôi nó từ đầu tới chân, sau đó sang bên lều người Cáp Tát Khắc xin một bộ quần áo con trai cũ, bảo Lý Văn Tú thay ra. Lý Văn Tú rất thông minh nói:

– Gia gia, ông làm thế để cho bọn ác nhân không nhận ra cháu phải chăng?

Kế lão gật đầu, thở dài nói:

– Gia gia già mất rồi. Ôi, lúc nãy để y đâm trúng một dao.

Lần này chính ông ta nhắc đến nhưng Lý Văn Tú không dám tiếp lời.

Kế lão đem thi thể Đinh Đồng chôn đi, lại đem con ngựa y cưỡi đến giết thịt, không để lại chút dấu vết gì, sau đó mới ra cửa lấy một thanh đao dài ngồi mài.

Công phu ông bỏ ra quả nhiên không phí, ngay buổi chiều hôm đó, Hoắc Nguyên Long và Trần Đạt Hải đã dẫn bọn lâu la tiến vào vùng đồng cỏ cướp bóc một trận. Vùng này xưa nay vốn không có cướp bóc, người Cáp Tát Khắc tuy hiếu võ thiện chiến nhưng không phòng bị trước, đàn ông con trai đi lên vùng tây bắc săn thú chăn nuôi, chỉ còn toàn đàn bà trẻ con ở lại nên khi bọn lục lâm Trung Nguyên đến tấn công trở tay không kịp. Bảy người đàn ông bị chúng giết chết, năm người đàn bà bị chúng bắt đi. Bọn giặc đó cũng xông vào nhà của Kế lão nhưng không ai nghi ngờ gì một ông già với một đứa trẻ Cáp Tát Khắc. Lý Văn Tú mặt mày lem luốc, nép trong một góc nhà, không ai để ý mắt nó bừng lên đầy thù hận. Nó đã nhìn thấy rõ ràng, thanh bội kiếm của cha nó lủng lẳng nơi hông Hoắc Nguyên Long còn đôi kim ngân tiểu kiếm của mẹ nó thì cài nơi thắt lưng Trần Đạt Hải. Đây là binh khí bất ly thân của cha mẹ nó, con bé tuy còn nhỏ nhưng cũng đoán ra rằng cha mẹ nó đã gặp chuyện chẳng lành.

Đến ngày thứ tư, đàn ông con trai Cáp Tát Khắc từ phương bắc quay về, lập tức tổ chức thành đoàn ngũ đi kiếm bọn cường đạo người Hán báo thù. Thế nhưng sa mạc mênh mông không thấy tung tích họ đâu cả, chỉ thấy năm người đàn bà bị chúng bắt đi. Cả năm người đều đã chết, quần áo bị lột sạch, chết thật thê thảm. Họ cũng tìm thấy xác của Bạch Mã Lý Tam và Kim Ngân Tiểu Kiếm Tam Nương Tử cùng kéo cả về.

Lý Văn Tú thấy xác cha mẹ liền nhào tới ôm khóc nức nở. Một tên Cáp Tát Khắc chân mang giày da, giơ lên đá vào con bé một cái, cất tiếng chửi:

– Xin đấng Allah trừng phạt bọn người Hán ăn cướp chúng mày!

Kế lão ôm Lý Văn Tú về nhà, không thèm tranh cãi với gã Cáp Tát Khắc. Trong lòng con bé chỉ nghĩ đến: “Sao trên đời này lắm kẻ ác đến thế? Ai ai cũng đều hiếp đáp ta thế này?”

Đến nửa đêm, Lý Văn Tú lại nằm mơ khóc thút thít, vừa mở mắt ra, thấy ngay bên giường một người ngồi đó. Đứa trẻ kinh hãi kêu thất thanh, ngồi nhỏm dậy, chỉ thấy Kế lão đang nhìn nó chăm chăm, mắt đầy vẻ thương xót, giơ tay xoa đầu con bé nói:

– Không sợ, không sợ, gia gia đây.

Nước mắt Lý Văn Tú như những hạt trân châu chảy dài hai bên má, nằm gục vào trong lòng ông già, khóc ướt đẫm cả vạt áo Kế lão. Kế lão nói:

– Hài tử, con không còn cha mẹ, vậy cứ coi ta như ông nội, sống ở đây với ta. Gia gia sẽ đối đãi với con tử tế.

Lý Văn Tú vừa khóc vừa gật đầu, nghĩ đến bọn ác nhân giết hại cha mẹ mình, lại nhớ đến gã Cáp Tát Khắc hung hăng đá nó lúc nãy. Cú đá đó thật mạnh khiến hông nó bị sưng một mảng lớn, nó không nhịn nổi hỏi ông già:

– Gia gia ơi, sao ai cũng hiếp đáp cháu vậy? Cháu có làm gì xấu xa đâu?

Kế lão thở dài nói:

– Những người bị hà hiếp trên đời này đều là những người không làm gì xấu cả.

Lão đổ trong bình ra một bát sữa, bưng cho đứa bé uống, lấy chăn đắp lên người cho nó nói:

– Tú nhi kè đắnh con ban chiều tên là  Tô Lỗ Y là một người chính trực tốt bụng đấy.

Lý Văn Tú trợn tròn đôi mắt, thật lạ lùng hỏi:

– Y… y là người tốt sao?

Kế lão gật đầu:

  • Đúng vậy, y tốt bụng lắm. Y cũng chẳng khác gì con đâu, trong một ngày chết mất hai người thân yêu nhất, một người là vợ y, một người là con lớn của y, cả hai đều bị bọn ác nhân kia giết chết. Thành ra y thấy người Hán đều xấu xa, y chửi con bằng tiếng Cáp Tát Khắc là “Xin đấng Allah trừng phạt bọn người Hán ăn cướp chúng mày”. Con đừng giận y, y trong lòng đau khổ, cũng chẳng khác gì con đâu. Ồ không, y lớn rồi, ắt thấy đau buồn nhiều hơn con gấp bội, thấm thía hơn con gấp bội.

Lý Văn Tú ngơ người nghe, nó vốn không thù ghét gì gã Cáp Tát Khắc mặt đầy râu ria kia, chỉ có điều thấy bộ dạng y hung ác quá nên sợ hãi, bây giờ nghĩ lại, gã râu ria ấy mắt ướt nhòe, có điều không rơi xuống thôi. Nó không hiểu Kế lão nói gì, tại sao người lớn lại đau khổ hơn trẻ con, nhưng đối với gã râu xồm kia không khỏi nổi lên một mối đồng tình.

Từ ngoài cửa vọng vào một tiếng chim kêu thật lảnh lót, thanh âm vang ra xa nhưng nghe vẫn rõ ràng, thật là ngọt ngào, lại cũng thật thê lương, chẳng khác nào tiếng hát trong trẻo thánh thót của một thiếu nữ.

Lý Văn Tú lắng tai nghe, tiếng hót xa dần, sau cùng không còn nghe thấy nữa. Cơn đau buồn của cô gái dường như có chiều an ủi, lặng người hồi lâu rồi nói nhỏ:

– Gia gia, con chim đó hót nghe thật là hay.

Kế lão nói:

– Đúng thế, nó hót hay thật. Đây là con chim thiên linh, tiếng hót của nó chẳng khác nào tiếng nhạc trời. Chim này chỉ đến tối mới hót thôi, ban ngày nó ngủ. Có người bảo đây là vì sao trên trời giáng trần. Người Cáp Tát Khắc thì bảo rằng con chim này là một cô gái rất xinh đẹp, hát rất hay chết hóa thành. Tình lang của nàng không yêu nàng nên cô ta đau lòng mà chết.

Lý Văn Tú ngơ ngẩn hỏi lại:

– Sao cô ấy rất xinh đẹp, hát rất hay mà người ấy lại không yêu là sao?

Kế lão lặng người, thở dài một tiếng đáp:

– Trên đời này có biết bao nhiêu chuyện, cháu còn bé không hiểu được?

Ngay lúc đó từ thảo nguyên lại vọng về tiếng hót của con chim thiên linh, nghe vừa ngọt ngào, vừa chua xót.

Cứ như thế, Lý Văn Tú ở nhà ông già họ Kế, giúp ông chăn cừu nấu cơm, hai người chẳng khác gì ông cháu ruột. Ban đêm, mỗi khi Lý Văn Tú nằm mơ tỉnh dậy, nghe tiếng hót của chim thiên linh, rồi từ tiếng chim kêu lại thiếp đi. Trong giấc mộng, con bé mơ thấy phong cảnh Giang Nam, có liễu xanh, có đào hồng, cha nó ôm nó trên lòng và nụ cười của mẹ nó…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.