Hồi 09: Phượng bay ra, loan vào tổ

Bảo Định Đế hạ chỉ miễn thuế muối rồi, muôn dân Đại Lý ca tụng ơn đức vô cùng. Địa hạt Vân Nam sản xuất muối rất ít, toàn cõi chỉ có chín vùng Bạch Tỉnh, Hắc Tỉnh, Vân Long… là có muối nên năm nào cũng phải mua thêm từ đất Thục, thuế muối rất cao nên những người nghèo khổ mỗi năm thường phải ăn nhạt vài ba tháng. Bảo Định Đế biết rằng một khi miễn thuế muối rồi, Hoàng Mi tăng sẽ tìm cách đi cứu Đoàn Dự để trả ơn. Ông trước nay vốn kính phục nhà sư võ công trác tuyệt lại lắm cơ mưu, hai đệ tử của ông võ công cũng không kém, ba thầy trò cùng ra tay quyết phải thành công.

Nào ngờ đã qua một ngày một đêm mà chẳng thấy hồi âm, nhà vua nóng ruột muốn phái Ba Thiên Thạch đi dò la động tĩnh, nhưng hai người đi triệu thì Ba Tư không, Phạm Tư mã, Hoa Tư đồ chẳng thấy một ai. Bảo Định Đế nghĩ thầm: chắc là thái tử Diên Khánh thủ đoạn lợi hại khiến cho ba thầy trò Hoàng Mi sư huynh cùng Tam công trong triều đều khốn đốn nơi Vạn Kiếp Cốc. Ông lập tức cho triệu Hoàng thái đệ Đoàn Chính Thuần, Thiện Xiển Hầu, Cao Thăng Thái cùng bọn Chử Vạn Lý tứ đại hộ vệ, luôn cả Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng cùng đến Vạn Kiếp Cốc lần nữa. Đao Bạch Phượng quá nóng lòng vì con, xin nhà vua đem ngự lâm quân đi san bằng Vạn Kiếp Cốc. Bảo Định Đế đáp: “Chưa phải lúc cùng đường, hãy theo lề lối giang hồ mà hành động. Chúng ta không thể vi phạm huấn thị của tổ tiên họ Đoàn mấy trăm năm nay được.”

Đoàn người vừa đến cửa Vạn Kiếp Cốc thấy Vân Trung Hạc cười khanh khách ra đón tiếp. Gã xá dài nói: “Chúng tôi Thiên Hạ Tứ Ác cùng Chung cốc chủ đoán rằng đêm nay thế nào đại giá cũng quang lâm nên tại hạ ra đây chờ đợi. Giả tỷ mà các hạ điều động quân thiết giáp tới thì chúng tôi đành chịu đánh bài tẩu mã, mang theo công tử và thiên kim của Trấn Nam Vương. Nhưng các hạ vẫn giữ lề luật giang hồ, lấy tư cách nhà võ họp bạn thì xin vào đại sảnh dùng trà.”

Bảo Định Đế thấy đối phương bình tĩnh như thường, tuyệt không lộ vẻ hoang mang, không phải như hôm trước vừa gặp mặt đã xông ra đánh ào ào cho nên không khỏi dè dặt liền chắp tay đáp lễ nói:  “Vậy thì hay lắm!” Vân Trung Hạc đi trước dẫn đường, cả đoàn người theo vào đại sảnh.

Bảo Định Đế vừa bước vào cửa đã thấy bên trong ngồi đầy những giang hồ hào kiệt. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cũng có trong số đó nhưng không thấy thái tử Diên Khánh nên trong bụng cũng dè chừng. Vân Trung Hạc lớn tiếng giới thiệu cùng cử tọa: “Đây là Đoàn lão sư, chưởng môn Đoàn gia ở Thiên Nam.” Y không nói “Hoàng đế nước Đại Lý” mà dùng danh hiệu võ lâm là theo quy củ giang hồ.

Đoàn Chính Minh không những là vua của một nước, còn là một tôn sư cao thủ lừng lẫy võ lâm, người người ngưỡng mộ. Quần hùng vừa nghe giới thiệu, ai nấy đứng lên răm rắp. Chỉ có mình Nam Hải Ngạc Thần là chễm chệ ngồi yên nói đổng: “Ta cứ tưởng là ai, hóa ra là gã hoàng đế. Ông mạnh giỏi chứ?” Chung Vạn Cừu tiến lên mấy bước nói: “Chung Vạn Cừu không kịp ra xa nghênh tiếp, xin thứ lỗi.” Bảo Định Đế đáp: “Không dám! Không dám!”

Mọi người theo thứ bậc an tọa. Cuộc họp mặt này theo lề luật giang hồ nên vợ chồng Đoàn Chính Thuần cùng Cao Thăng Thái không phải giữ lễ vua tôi, ngồi gần bên Bảo Định Đế. Còn bốn người bọn Chử Vạn Lý đứng ở sau lưng nhà vua. Người nhà bưng trà lên mời. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn một lượt, không thấy thầy trò Hoàng Mi tăng và bọn Ba Thiên Thạch trong phòng, đang nghĩ cách dò hỏi bỗng Chung Vạn Cừu lên tiếng: “Đoàn chưởng môn hai phen hạ cố, tại hạ lấy làm vinh dự. Nay lại được các vị bằng hữu tới đây đông đủ, tại hạ xin giới thiệu.” Nói rồi y nêu tên từng người trong đại sảnh, ngoài mấy người đến từ Trung Nguyên mạn tây bắc, còn lại đều là nhân vật thành danh trong nước Đại Lý, có cả Tân Song Thanh, Tả Tử Mục, Mã Ngũ Đức. Chừng quá nửa số người có mặt tại đó, Bảo Định Đế tuy chưa từng quen biết nhưng cũng đã nghe tên. Các vị giang hồ hào kiệt nhất nhất cùng Bảo Định Đế làm lễ tương kiến, có kẻ khúm núm, cũng có kẻ ngạo mạn, đa số thì lấy vai võ lâm hậu bối đến ra mắt.

Chung Vạn Cừu nói: “Chẳng mấy khi Đoàn lão sư hạ cố, xin lưu lại đây mấy hôm để anh em được học hỏi thêm.” Bảo Định Đế nói: “Xá điệt là Đoàn Dự, vì đắc tội với Chung động chúa đã bị lưu lại quý xứ, hôm nay tại hạ thân hành đến đây một là để tỏ tình thân, hai là để xin lỗi, dám mong Chung động chúa nể mặt mà tha cho đứa trẻ con không biết phải quấy, tại hạ cảm kích khôn cùng.”

Quần hùng nghe nhà vua nói, ai cũng kính phục khen thầm: “Từng nghe Đoàn hoàng gia nước Đại Lý lấy qui củ võ lâm tiếp đãi đồng đạo, quả nhiên danh bất hư truyền. Nơi đây thuộc lãnh thổ nước Đại Lý, ông ta chỉ cần sai vài trăm binh mã đến bắt người về là được, thế mà lại tự mình đến lấy lời dịu ngọt cầu khẩn”.

Chung Vạn Cừu cười ha hả, chưa kịp trả lời, Mã Ngũ Đức đã xen vào: “Thì ra Đoàn công tử đắc tội với Chung cốc chủ. Mới rồi Đoàn công tử đến tệ xá ở Phổ Nhĩ, cùng đến núi Vô Lượng du ngoạn, tại hạ săn sóc không chu đáo để sinh ra bao nhiêu rắc rối, bây giờ cũng mở lời xin một chút tình.”

Nam Hải Ngạc Thần bỗng lớn tiếng quát: “Đây là việc của đồ đệ ta, ai khiến mi chõ mõm vào?” Cao Thăng Thái cười lạt nói: “Đoàn công tử là sư phụ ngươi chứ? Người đã cúi đầu làm lễ bái sư rồi kia mà? Chẳng lẽ bây giờ ngươi định sổ toẹt đi hay sao?” Nam Hải Ngạc Thần thẹn đỏ mặt tía tai mắng lại: “Con bà nó chứ, lão gia đâu có đánh rắm cãi xóa. Hôm nay lão gia muốn giết quách gã sư phụ hữu danh vô thực đó đi. Lão gia sơ ý phải thờ một gã tiểu tử làm thầy, thẹn chết đi được!” Mọi người không hiểu đầu đuôi, đều phải sửng sốt.

Đao Bạch Phượng nói: “Chung cốc chủ! Tha hay không các hạ nói cho dứt khoát.” Chung Vạn Cừu cười đáp: “Thả chứ! Thả chứ! Tại hạ giữ lệnh lang để làm gì?” Vân Trung Hạc xen vào: “Đoàn công tử phong lưu anh tuấn, Chung phu nhân Tiếu Dược Xoa tuyệt sắc giai nhân, nếu lưu Đoàn công tử ở đây phỏng có khác chi nuôi ong tay áo. Chung cốc chủ dĩ nhiên muốn thả, không thể không thả, không dám không thả.” Quần hào nghe nói thế đều phải ngạc nhiên. Ai cũng nghĩ bụng: “Thằng cha Cùng Hung Cực Ác này ăn nói càn dở, chẳng kiêng nể gì, đến Chung Vạn Cừu mà gã cũng chẳng coi vào đâu, quả thực là hung ác cùng cực.” Chung Vạn Cừu giận quá, quay sang nói: “Vân huynh! Sau khi đã giải quyết xong vụ này tại hạ sẽ xin lãnh giáo mấy cao chiêu.” Vân Trung Hạc đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Ta vẫn có ý định giết chồng chiếm vợ, vơ vét gia tài, chiếm luôn nhà ở.”.

Mọi người cả kinh thất sắc. Động chủ Vô Lượng động Tân Song Thanh nói: “Anh hùng hảo hán trong chốn giang hồ chưa chết hết đâu. Thiên Hạ Tử Ác các ngươi bản lãnh cao cường đến mấy cũng không thể chạy thoát công đạo được.” Diệp Nhị Nương bật lên tiếng cười the thé phản đối: “Tân đạo hữu, Diệp Nhị Nương này có xúc phạm đến bà đâu, sao lại vơ đũa cả nắm?” Tả Tử Mục nghĩ lại chuyện nụ cướp con mình bữa trước, trong bụng hãy còn nơm nớp lo âu, đưa mắt nhìn trộm mụ một cái, Diệp Nhị Nương cười khúc khích nói: “Tả tiên sinh, chắc độ này lệnh lang béo tốt trắng trẻo lắm đấy nhỉ?” Tả Tử Mục không dám không trả lời, nói nhỏ: “Bữa trước cháu bị cảm mạo phong hàn, tới nay vẫn chưa khỏi.” Diệp Nhị Nương cười nói: “Chết chửa, cũng tại ta mà ra. Lúc quay về ta sẽ đến thăm thằng cháu Sơn Sơn ngoan ngoãn nhé!” Tả Tử Mục thất kinh, vội gạt đi: “Không dám phiền đại giá quang lâm lần nữa.”

Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Thì ra bọn tứ ác hoành hành quá tệ, kết oán đã nhiều. Xem ra những hào sĩ giang hồ này không phải ai cũng về phe với họ, như thế công việc càng dễ giải quyết. Để khi cứu được Dự nhi rồi, ta phải tìm cơ hội tiêu diệt bọn chúng để trừ mối hại. Đứng đầu bọn tứ ác là thái tử Diên Khánh, ta cùng người họ Đoàn không tiện hạ thủ, nhưng nếu quả tội ác đầy rẫy thì cũng không thể dung thứ được.”

Đao Bạch Phượng thấy mọi người nói năng toàn chuyện đâu đâu, liền trở lại vấn đề. Bà đứng phắt lên nói: “Chung động chúa đã nhận lời trả tiểu nhi lại. Vậy xin cho gọi nó ra để mẫu tử được trùng phùng.”

Chung Vạn Cừu cũng đứng lên nói: “Được rồi.” Đột nhiên y quay sang hầm hầm nhìn Đoàn Chính Thuần, cay đắng nói: “Đoàn Chính Thuần! Mi đã có vợ đẹp con khôn như thế mà lòng tham vẫn chưa đủ. Hôm nay mi thanh danh tan nát, không còn mặt mũi, đó là mình làm mình chịu, đừng oán trách gì Chung Vạn Cừu này.”

Đoàn Chính Thuần ngay từ lúc đầu nghe Chung Vạn Cừu bằng lòng giao trả con mình đã nghĩ ngay: đâu dễ dàng như thế được? Tất nhiên đối phương còn có âm mưu quỷ kế gì đây. Bây giờ nghe hắn nói vậy càng thêm chột dạ, lập tức đứng lên nói: “Chung cốc chủ! Nếu ngươi còn tính chuyện hại người thì Đoàn mỗ sẽ có phương pháp đối phó khiến người cũng phải hối hận suốt đời.”

Chung Vạn Cừu thấy vương gia tướng mạo đường đường, phong độ thanh cao đài các, mình thực chẳng bén gót chân. Phần thì thẹn vì mình xấu xa, phần thì ghen tức, lửa giận bốc lên đùng đùng, lớn tiếng quát: “Sự đã đến nước này, Chung mỗ dẫu có nhà tan người chết, phân thây muôn đoạn cũng quyết ăn thua với mi đến cùng. Mi muốn lấy lại con, được lắm, theo ta vào dây!” Nói xong hùng hổ rảo bước ra ngoài sảnh đường.

Cả đoàn người đi theo Chung Vạn Cừu đến trước bức tường cây, Vân Trung Hạc muốn khoe tài khinh công, nhảy vọt qua trước. Đoàn Chính Thuần nghĩ chuyện hôm nay không thể nào giải quyết êm thắm, chi bằng ra oai trước để đối phương biết chừng mà nhượng bộ. Ông bèn hạ lệnh: “Đốc Thành! Ngươi chặt mấy gốc cây này để mở lối cho mọi người đi!” Cổ Đốc Thành đáp lời vung búa lên, chát chát mấy nhát đã đốn đứt một cây đại thụ. Phó Tư Qui hai tay đẩy ra, cái cây gãy lách cách đổ xuống một bên. Cương phủ lấp loáng vung lên liên tiếp, hết cây nọ đến cây kia ngã ầm ầm, chỉ giây lát đã chặt đứt năm cây.

Bức tường cây này Chung Vạn Cừu trồng tỉa tốn bao nhiêu tâm huyết chứ đâu phải chuyện dễ dàng, bị Cổ Đốc Thành chặt đứt mất năm cây to, trong bụng tức lắm nhưng chợt nghĩ rằng: “Họ Đoàn nước Đại Lý phen này bị nhục nhã ê chề, cái việc phá hoại nhỏ mọn này có thấm vào đâu?”. Nghĩ vậy liền theo lối trống đi vào,

Sau bức tường cây kia, Hoàng Mi tăng và người áo xanh tay trái mỗi người cầm một đầu gậy sắt, trên đầu hơi trắng bốc lên, thì ra đang đấu nội lực. Hoàng Mi tăng cầm cái dùi sắt vẽ một cái vòng trên phiến đá xanh, người áo xanh suy nghĩ một chút, thiết trượng nơi tay phải cùng điểm xuống bàn cờ. Bảo Định Đế chăm chú nhìn, bấy giờ mới rõ: “Thì ra Hoàng Mi sư huynh một mặt đánh cờ với thái tử Diên Khánh, một mặt cùng y tỉ thí nội công. Thế là vừa đấu trí vừa đấu lực, cuộc đấu lạ lùng này thật nguy hiểm khôn lường. Thảo nào sư huynh chưa thấy hồi âm, xem ra cuộc đấu này đã một ngày một đêm rồi nhưng chưa phân thắng bại”. Bảo Định Đế đưa mắt nhìn bàn cờ, thấy đã vào tàn cục, hai người đang tranh đấu đến độ một còn một mất, dường như cuộc thắng bại có quan hệ đến kiếp vận con người. Bên hòa thượng bị kém thế rõ ràng, đang chật vật gỡ cho khỏi thua. Hai người đệ tử của ông là Phá Si, Phá Sân thì nằm lăn trên mặt đất không động đậy gì được. Thì ra hai nhà sư thấy sư phụ bị nguy, ra tay tấn công người áo xanh nhưng đều bị thiết trượng của y điểm trúng.

Đoàn Chính Thuần tiến lên giải huyệt cho hai người, hô bọn Vạn Lý: “Bốn người các ngươi ra đẩy tảng đá kia thả Dự nhi ra.” Bốn người vâng lệnh, nhất tề tiến lại.

Chung Vạn Cừu thét: “Thong thả! Các ngươi có biết trong nhà đá này còn có ai nữa không?” Đoàn Chính Thuần giận dữ đáp: “Chung cốc chủ, nếu như người dùng thủ đoạn tàn độc đối xử với con ta, thì ngươi cũng nên nhớ rằng chính mình cũng có vợ con đấy.” Chung Vạn Cừu cười nhạt: “Hừ, ngươi nói đúng đó, Chung Vạn Cừu này cũng có vợ có con thật, nhưng cũng may chưa có con trai nên không đến nỗi trai gái loạn luân như loài cầm thú.” Đoàn Chính Thuần giận tím mặt quát hỏi: “Mi nói lăng nhăng gì thế?” Chung Vạn Cừu hỏi lại: “Mộc Uyển Thanh có phải là con tư sinh của mi không?” Đoàn Chính Thuần bực tức nói: “Thân thế của Mộc cô nương có liên quan gì đến ngươi mà ngươi lắm chuyện?”

Chung Vạn Cừu cười ha hả nói: “Ha ha! Chưa chắc đã là lắm chuyện đâu. Họ Đoàn nước Đại Lý làm vua một cõi trời Nam, trong võ lâm cũng danh tiếng lẫy lừng. Nay các vị anh hùng hảo hán, mở mắt ra mà coi, con trai và con gái Đoàn Chính Thuần phượng đảo loan điên thành vợ thành chồng chẳng khác gì cầm thú.” Y quay sang ra hiệu cho Nam Hải Ngạc Thần, hai người liền đưa tay đẩy tảng đá chắn trước cửa thạch thất.

Đoàn Chính Thuần vội giơ tay cản lại, nói: “Khoan đã!” Diệp Nhị Nương và Vân Trung Hạc đồng thời xuất chưởng, chia ra hai bên tập kích, Đoàn Chính Thuần đưa hai tay ngăn chặn chưởng lực của Diệp Nhị Nương còn Cao Thăng Thái thì nghiêng người bước xéo lên để cản chưởng lực của Vân Trung Hạc. Ngờ đâu Diệp Vân hai người chỉ dùng hư chiêu, tay phải rút ngay về, tay trái đánh ra trúng ngay tảng đá. Tảng đá đó tuy nặng đến mấy nghìn cân nhưng bị cả bốn người Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần, Diệp Nhị Nương, Vân Trung Hạc cùng phóng chưởng, lập tức lăn qua một bên. Việc này bốn người đã bàn định với nhau từ trước, hư hư thực thực, Đoàn Chính Thuần biết đâu mà ngăn chặn được? Thực ra Đoàn Chính Thuần cũng nóng lòng, mong sớm được nhìn mặt con nên cũng không cố tâm ngăn cản lắm. Khối đá vừa lăn ra, mở một lối đi tối om, nhìn vào không rõ cảnh tượng bên trong.

Chung Vạn Cừu vừa cười vừa nói: “Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì còn lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nối? Ha ha! Mọi người xem đây!”

Trong khi Chung Vạn Cừu còn đang cười sằng sặc thì một thanh niên đầu bù tóc rối, thân trên để trần xồng xộc chạy ra, chính là Đoàn Dự. Chàng chỉ mặc một cái quần cộc hở cả hai đùi, tay bồng một cô gái trên người cũng chỉ có một chiếc áo cánh, hở cả tay chân lẫn làn da trắng nõn sau lưng.

Bảo Định Đế thẹn quá mặt đỏ bừng. Đoàn Chính Thuần cũng cúi gằm mặt xuống, không dám ngửng lên. Đao Bạch Phượng hai mắt đẫm lệ, miệng lấm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!” Cao Thăng Thái vội cởi trường bào định choàng lên người Đoàn Dự, còn Mã Ngũ Đức muốn lấy lòng anh em họ Đoàn vội vàng tiến lên lấy thân chắn trước mặt chàng. Nam Hải Ngạc Thần quát lớn: “Thằng khốn kiếp kia, đứng tránh ra!”

Chung Vạn Cừu đang cười ha hả dương dương đắc ý, thốt nhiên ngừng bặt, nét mặt sa sầm, tiếng cười ngưng bật rồi chuyển thành tiếng kêu thất thanh: “Linh nhi! Mi đấy ư?”.

Mọi người nghe tiếng y kêu, ai cũng rùng mình giương mắt nhìn theo thì thấy Chung Vạn Cừu chạy tới trước mặt Đoàn Dự đưa tay giật lấy thiếu nữ chàng đang bồng trên tay. Bấy giờ ai nấy đều nhìn rõ mặt, thấy nàng nhỏ tuổi hơn Mộc Uyển Thanh mà vóc người cũng thon hơn, mặt chưa hết vẻ thơ ngây. Cô bé này đâu phải Mộc Uyển Thanh, chính là Chung Linh, con gái Chung Vạn Cừu.

Đoàn Dự thần trí vẫn chưa được tỉnh táo hơn, trong lúc mơ màng thấy nhiều người đứng xúm quanh trước mặt, chàng nhìn thấy có cả song thân và bá phụ, vội buông Chung Linh ra ú ớ gọi: “Má má, gia gia, bá phụ!” Đao Bạch Phượng nhào lên ôm chàng vào lòng hỏi dồn: “Dự nhi, con… con có sao không?” Đoàn Dự chân tay cuống quít đáp: “Con… con cũng không biết nữa?”

Chung Vạn Cừu không ngờ muốn làm hại người mà thành ra hại mình. Hắn ngẩn người ra một lúc rồi buông con gái xuống. Chung Linh thấy mình mặc phong phanh có mỗi bộ quần áo ngắn, thẹn quá mặt đỏ bừng. Chung Vạn Cừu cởi trường bào ra khoác vào cho con rồi thẳng tay tát một cái, làm cho cô bé sưng húp một bên má. Hắn mắng con: “Quân mặt dày! Ai cho mày ở một chỗ với thằng chó đẻ kia?” Chung Linh bị mắng oan nhưng không biết biện bạch sao được, chỉ nức nở khóc.

Chung Vạn Cừu lại nghĩ ra: “Tảng đá lớn như thế Mộc Uyển Thanh chắc không thể nào đẩy mà ra được, nhất định hãy còn ở trong, ta gọi nó ra để chia bớt cái nhục cho Linh nhi.” Y liền lớn tiếng gọi: “Mộc cô nương, mau ra đây!” Hắn gọi luôn ba tiếng mà tuyệt nhiên không thấy ai thưa. Chung Vạn Cừu tiến thẳng vào trong nhà. Căn nhà này chả rộng là mấy, không quá một trượng vuông, chỉ liếc mắt là hết mà không thấy một bóng người nào, Chung Vạn Cừu tức vỡ ngực, nhảy ra, lại đánh con gái thêm một chưởng nữa, quát mắng: “Ta phải đánh chết con bé thối tha này.”

Từ bên cạnh một người vung tay ra, ngón tay vô danh và ngón tay út phất vào cổ tay y. Chung Vạn Cừu vội rụt tay lại tránh, thấy người ngăn mình lại chính là Đoàn Chính Thuần. Hắn căm giận quát hỏi: “Ta dạy đứa con gái mất nết của ta có can dự gì đến mi?”

Đoàn Chính Thuần cười khì khì đáp: “Chung cốc chủ thực đã ưu đãi thằng nhỏ nhà tôi, sợ nó ở một mình hiu quạnh, đã để lệnh ái là một vị thiên kim tiểu thư ở chung cho có bạn. Tại hạ rất cảm kích. Bây giờ cơ sự đã đến thế này, lệnh ái đã thành người nhà họ Đoàn rồi, tại hạ không thể không can thiệp được.” Chung Vạn Cừu nổi giận hỏi: “Sao lại bảo con gái ta là người nhà họ Đoàn?” Đoàn Chính Thuần cười nói: “Lệnh ái ở trong thạch thất cùng Dự nhi bầu bạn mấy ngày mấy đêm. Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì còn lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là thế tử của Trấn Nam Vương, tuy chưa chắc đã lấy con gái cốc chủ làm chính phi được, song làm trai năm thê bảy thiếp vẫn được chứ sao? Tại hạ với cốc chủ thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì?” Nói xong lại tiếp một tràng cười ha hả. Chung Vạn Cừu giận muốn phát điên, không nhịn được nữa, nhảy xổ vào vù vù đánh ra liên tiếp ba chưởng. Đoàn Chính Thuần vẫn cười ngặt nghẽo, mà đối phương xuất chiêu nào ông cũng tránh né dễ như chơi.

Quần hào ai nấy nghĩ thầm: “Họ Đoàn Đại Lý quả nhiên lợi hại. Không hiểu họ dùng cách nào mà bắt được con gái Chung Vạn Cừu nhốt vào nhà đá để đánh tráo đem Mộc Uyển Thanh đi. Chung Vạn Cừu ở trong nước Đại Lý đâu có dễ gì mà gây sự với Đoàn gia, chỉ thêm khốn khổ”.

Nguyên do vụ này là tự bọn Hoa Hách Cấn mà ra. Hoa Hách Cấn bắt Chung Linh đem xuống hầm cho khỏi lộ bí mật địa đạo, về sau nghe vợ chồng Chung Vạn Cừu đối đáp, mới hay hắn và thái tử Diên Khánh bày mưu ác độc cốt làm bại hoại thanh danh họ Đoàn. Ba người ở dưới hầm cùng nhau thương nghị, đều thấy rằng việc này quan hệ rất lớn, lại vô cùng khẩn cấp. Đợi cho Chung phu nhân đi khỏi, Ba Thiên Thạch liền lẻn ra ngoài thi triển khinh công tuyệt đỉnh, đo đạc kỹ càng phương hướng cùng khoảng cách tới thạch thất để Hoa Hách Cấn định rõ lại lộ tuyến của đường hầm. Cả bọn lại hì hục đào mải miết thêm một đêm nữa, đến sáng hôm sau thì vừa tới bên dưới căn nhà đá.

Hoa Hách Cấn khoét một lỗ từ dưới đất chui lên, thấy Đoàn Dự đang vòng vòng chạy lồng lên như người điên nên đưa tay ra tính giữ lại. Ngờ đâu thân pháp Đoàn Dự vừa nhanh nhẹn vừa quái dị, không làm sao bắt được. Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa cùng chui ra hợp lực vây dồn chàng vào giữa. Thạch thất quá nhỏ, Đoàn Dự không trốn được, Hoa Hách Cấn vừa nắm được cổ tay chàng bỗng thấy toàn thân run bắn lên một cái, chẳng khác chi chạm phải một khối than hồng. Trong lúc vội vàng Hoa dùng sức kéo mạnh, mong lôi được chàng xuống đường hầm để trốn cho mau. Ngờ đâu y vừa sử kình, chân khí trong người lập tức cuồn cuộn tuôn ra, nhịn không nổi phải kêu “ối chao” một tiếng, Ba Thiên Thạch và Phạm Hoa nắm tay Hoa Hách Cấn lôi ra, ba người cùng giật mới thoát ra khỏi sức hút của Bắc Minh thần công. May mà cộng lực của Tam công nước Đại Lý so với mấy đệ tử phái Vô Lượng cao hơn mấy bậc, hơn nữa lại đều là tay cơ trí, ứng biến mau lẹ mà cũng sợ toát cả mồ hôi, trong bụng đều cho là tà pháp của thái tử Diên Khánh cực kỳ lợi hại. Rồi không ai dám đụng vào mình Đoàn Dự nữa.

Đang lúc chưa biết tính sao bỗng thấy phía ngoài nhà có tiếng xôn xao, lại nghe rõ cả Bảo Định Đế và Trấn Nam Vương cũng đã tới nơi. Chung Vạn Cừu thì đang huênh hoang giễu cợt. Phạm Hoa nảy ra ý nghĩ: “Gã Chung Vạn Cừu này thật là khả ố, mình phải cho y một trận.” Nghĩ rồi y vội cởi áo ngoài của Chung Linh ra, mặc cho Mộc Uyển Thanh, rồi ôm Chung Lình giao cho Đoàn Dự thần trí đang nửa tỉnh nửa mê đón lấy. Bọn Hoa Hách Cấn liền kéo Mộc Uyển Thanh chui vào hầm, đóng nắp lại không còn chút dấu vết nào khả nghi nữa.

Bảo Định Đế đâu ngờ việc lại xảy ra như thế, thấy cháu mình không việc gì nên cũng khoan tâm lại thêm tức cười, nhất thời không sao nghĩ ra đầu đuôi câu chuyện. Ông nhớ tới cuộc đấu cờ thí mạng giữa Hoàng Mi tăng và thái tử Diên Khánh đã đến lúc nghìn cân treo sợi tóc, chỉ sơ sẩy một chút là nguy đến tính mạng nên quay lại xem sao. Chỉ thấy nhà sư mồ hôi trên trán lớn như hạt đậu rơi tong tỏng xuống bàn cờ, còn thái tử Diên Khánh nét mặt vẫn thản nhiên. Xem qua tình thế đủ biết thắng bại sắp phân.

Đoàn Dự thần trí vừa tỉnh táo trở lại cũng quan tâm ngay tới cuộc thắng bại trên bàn cờ, vội chạy lại xem. Thế cờ Hoàng Mi tăng đã lâm vào chỗ bí, thái tử Diên Khánh chỉ đặt thêm một quân nữa là lập tức nhà sư không còn nước nào mà đi, tất phải chịu thua. Thái tử Diên Khánh đưa đầu gậy sắt điểm xuống bàn cờ, trỏ đúng điểm then chốt, chỉ đi một nước đó nữa là bên Hoàng Mi vô phương cứu vãn. Đoàn Dự trong dạ bồn chồn nghĩ thầm: “Mình phải phá rối y mới được”, chàng bèn giơ tay chộp lấy đầu cây gậy.

Thái tử Diên Khánh vừa đưa gậy trúc tới điểm lục thất, góc Thượng Vị thì thốt nhiên cảm thấy lòng bàn tay nóng ran lên, rồi nội lực trên cánh tay cuồn cuộn thoát ra ngoài. Lão kinh ngạc vô cùng, nhìn xuống thấy Đoàn Dự đưa hai ngón tay cặp vào đầu gậy. Đoàn Dự chỉ muốn đẩy đầu gậy qua một bên không để cho y đặt quân kết thúc, nhưng thiết trượng tưởng chừng như đóng chặt trên không trung, không lay chuyển chút nào. Chàng vận kình đẩy mạnh qua, nội lực của thái tử Diên Khánh theo huyệt Thiếu Thương của chàng tuôn vào cơ thể.

Thái tử Diên Khánh còn đang kinh ngạc, trong bụng nghĩ thầm: “Đây là Hóa Công đại pháp của Đinh lão quái ở Tinh Tú Hải!” Y bèn vận khí xuống đan điền, dồn sức mạnh ra cánh tay, thiết trượng lập tức phát xuất một luồng lực đạo mạnh kinh hồn, rung một cái hất văng bàn tay Đoàn Dự ra.

Đoàn Dự thấy nửa người bị tê chồn, lảo đảo muốn té xuống, phải đưa tay vịn vào phiến đá mới gượng lại được. Thế nhưng luồng nội kình hùng hậu của thái tử Diên Khánh phát ra có đến gần một nửa như hòn đá rơi vào bể cả, không biết mất tăm mất tích nơi đâu. Y trong bụng kinh hãi không biết để đâu cho hết, nội lực không còn thu phát được như ý muốn nên thiết trượng, chọc xuống vẫn còn dư kình, động vào bàn cờ. Thái tử Diên Khánh kêu thầm: “Hỏng rồi!” vội nhấc gậy lên, nhưng ngay chỗ giao điểm hai đường thất bát đã có một cái lỗ nhỏ.

Phàm cao thủ đánh cờ ai cũng theo luật hạ thủ bất hoàn, huống chi đã khắc đá làm bàn cờ, đục đá làm quân, nội lực đến đâu đá nát tới đó làm sao có thể bỏ đi không tính? Thế nhưng đi vào điểm Thượng Vị thất bát tức là tự mình lại lấp mắt mình, Ai biết đánh cờ cũng hiểu “hai mắt là sống, một mắt là chết”. Bàn cờ này thái tử Diên Khánh đang ở thế hai mắt tấn công Hoàng Mi tăng, lẽ nào lại tự lấp mù một mắt mình? Nước đi này thật không khác gì trẻ con tập đánh.

Thái tử Diên Khánh kêu thầm: “Cờ đi sai một nước đành thua cả bàn, phải chăng đây cũng là ý trời?”. Y là người thân phận tiếng tăm, không gượng gạo tranh chấp với Hoàng Mi tăng thêm nữa, lập tức đứng phắt dậy, hai tay chống bàn cờ, chú ý nhìn lại cuộc cờ hồi lâu không nhúc nhích. Quá nửa quần hào chưa từng gặp y, thấy vẻ khác thường đều chú mục nhìn vào. Thái tử Diên Khánh lặng lẽ ngó bàn cờ lúc lâu rồi đột nhiên điểm thiết trượng xuống đất, nhảy lên đi cao lênh khênh như người đi cà kheo, bước rất dài, thoáng cái đã đi khá xa.

Bất thình lình một luồng gió thổi ngược lại, phiến đá xanh rung động lắc lư vỡ ra thành bảy tám mảnh nằm ngổn ngang trên mặt đất, bàn cờ chấn động cổ kim kia tan nát. Quần hào kinh hoảng kêu lên, nhìn nhau thất sắc. Ngoại trừ Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng và tam đại ác nhân ra, ai nấy đều nghĩ thầm: “Không hiểu gã áo xanh nửa người nửa quỉ, sống dở chết dở này là ai mà võ công ghê gớm đến thế”.

Hoàng Mi tăng thắng cuộc một cách bất ngờ, hai tay vịn đầu gối đứng dậy, tâm thần bàng hoàng, hồi  tưởng lại tình trạng nguy nan lúc nãy vẫn còn hồi hộp chưa lấy lại được bình tĩnh. Trong bụng nhà sư vẫn băn khoăn, không hiểu tại sao thái tử Diên Khánh đã nắm vững phần thắng rồi lại thốt nhiên hạ một nước cờ kỳ cục lấp ngay một mắt. Không lẽ y thấy Đoàn Chính Minh và các cao thủ đến nên sợ bị vây đánh đành phải chịu thua đào tẩu? Thế nhưng người phe y cũng đâu phải ít, đánh chưa chắc đã thua.

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và bọn Cao Thăng Thái đều mơ hồ không hiểu ra sao, thế nhưng cứu được Đoàn Dự rồi, thanh danh họ Đoàn không tổn thất mảy may, thái tử Diên Khánh thua cờ bỏ đi, chuyện này coi như toàn thắng. Còn những chi tiết nhỏ không hiểu rõ cũng chẳng tra cứu làm gì vội. Đoàn Chính Thuần mỉm cười quay sang bảo Chung Vạn Cừu: “Chung cốc chủ, lệnh ái đã thành cơ thiếp của tiểu nhi rồi, nay mai sẽ sai người đến đón dâu. Vợ chồng tôi thế nào cũng đối đãi tử tế coi như con ruột, cốc chủ cứ yên tâm.”

Chung Vạn Cừu đang cơn tức chưa biết đổ đi đâu, nghe Đoàn Chính Thuần châm chọc, soạt một tiếng, hắn rút ngay thanh đao bên hông chém thẳng xuống đầu Chung Linh, quát lên: “Tức chết đi được! Ta giết con tiện nhân này trước rồi sau sẽ hay.”

Bỗng một người cao lênh khênh nhảy vụt đến nhanh như chớp, ôm lấy Chung Linh rồi vèo một cái như làn gió thoảng đã phi thân ra ngoài hai trượng. “Phập” một tiếng, lưỡi đao của Chung Vạn Cừu đã chém ngập xuống đất. Y thấy kẻ ôm Chung Linh chạy đi chính là Cùng hung cực ác Vân Trung Hạc bèn quát hỏi: “Ngươi… ngươi làm gì thế?”

Vân Trung Hạc cười đáp: “Con gái ngươi mà ngươi không thèm nuôi nữa, muốn chém nó chết thì để tặng cho ta.” Vừa nói y vừa chạy vọt xa thêm mấy trượng. Y tự biết, nếu bàn về võ công cao thấp thì không những Bảo Định Đế, Hoàng Mi hòa thượng cao hơn một bậc, mà ngay Đoàn Chính Thuần hay Cao Thăng Thái y cũng không hơn được. Thấy tình thế không ổn, y liền ôm Chung Linh chạy luôn, thấy Ba Thiên Thạch không có ở nơi đây, mình chỉ cần thi triển khinh công là trong đám này không ai đuổi kịp.

Chung Vạn Cừu cũng biết tài khinh công của Vân Trung Hạc nên chỉ dậm chân loạn xạ, la mắng om sòm. Cả bọn Bảo Định Đế hôm trước đã thấy y cùng Ba Thiên Thạch hai người chạy vòng quanh nhà, bây giờ thấy y tay ôm Chung Linh mà nhảy đi vẫn lẹ làng như không, đều biết là vô phương đuổi kịp.

Đoàn Dự chợt động tâm kêu lên: “Nhạc lão tam! Sư phụ có lệnh truyền! Ngươi mau mau đi cướp lại Chung cô nương về đây cho ta!” Nam Hải Ngạc Thần ngơ ngẩn, gắt lên: “Con mẹ ngươi chứ, nói láo gì thế?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi bái ta làm thầy, đã khấu đầu rồi định nuốt lời chăng? Lời ngươi là hơi rắm thối chăng? Ngươi muốn thành đồ khốn kiếp đê tiện chăng?” Nam Hải Ngạc Thần trợn mắt quát lớn: “Ta nói ra là phải giữ lời, ngươi là sư phụ ta thì đã sao? Ông mà điên tiết lên thì chém cả cái thứ sư phụ như ngươi đó.” Đoàn Dự nói: “Ngươi nhận thế cũng hay. Tiểu cô nương họ Chung kia là vợ ta, tức là sư nương của ngươi, mau mau đoạt lại đem về cho ta. Nếu Vân Trung Hạc làm nhục nàng tức là làm nhục sư nương ngươi, ngươi còn chi là thể diện, không anh hùng hảo hán chút nào!”.

Nam Hải Ngạc Thần ngẫm nghĩ thấy lời nói đó nghe cũng có lý. Thốt nhiên lão nghĩ tới Đoàn Dự đã nhận Mộc Uyển Thanh làm vợ mà sao Chung cô nương này cũng là vợ nữa, bèn hỏi: “Thế thì ta có cả thảy bao nhiêu sư nương?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi chớ có hỏi lôi thôi. Tóm lại nếu ngươi không cướp lại được sư nương về, tức là bị đệ tứ ác nhân làm nhục, ngươi sẽ bị giáng xuống làm đệ ngũ ác nhân, không chừng là đệ lục ác nhân.” Nếu đem tên của Nam Hải Ngạc Thần đặt dưới Vân Trung Hạc thì thà chặt đầu y đi còn hơn. Y rống lên một tiếng, co giò chạy đuổi theo Vân Trung Hạc, kêu lên: “Muốn yên thân thì bỏ sư nương ta xuống!”  Vân Trung Hạc vừa chạy vừa nói: “Nhạc lão tam! Ngươi là thằng ngốc, bị mắc hợm người ta rồi.” Nam Hải Ngạc Thần là kẻ ưa nịnh, nay trước mặt mọi người mà Vân Trung Hạc lại bảo y là đồ ngốc bị mắc hỡm người ta, lại càng nộ khí xung thiên, gào lên: “Nhạc lão nhị này có bao giờ mắc hợm ai?” Y lập tức đề khí rượt theo, hai người đuổi nhau chớp mắt đã khuất vào khe núi.

Chung Vạn Cừu tuy trong lúc cáu giận giơ đao định chém chết con gái, song bây giờ thấy Chung Linh bị gã ác nhân bắt mất, phần thì phụ tử tình thâm, phần thì nghĩ tới lúc vợ hỏi biết trả lời sao cho xuôi, ruột nóng như lửa cũng vác đao đuổi theo.

Kế đến Bảo Định Đế cùng quần hào chia tay, cả đoàn người rời Vạn Kiếp Cốc quay về phủ Trấn Nam Vương thành Đại Lý. Hoa Hách Cấn, Phạm Hoa và Ba Thiên Thạch từ trong vương phủ ra tận ngoài cửa nghênh đón. Một vị nữ lang cũng theo ra, cách phục sức cực kỳ hoa lệ, vẻ kiều diễm càng nổi bật lên, đó chính là Mộc Uyển Thanh.

Phạm Hoa bẩm lại sơ qua cho Bảo Định Đế việc Hoa Hách Cấn đào địa đạo đem Chung Linh bỏ vào thạch thất, cứu được Mộc Uyển Thanh ra sao, mọi người mới hiểu lý do Chung Vạn Cừu hại người không xong lại tự hại mình, đều vỗ tay cười ha hả.

Âm Dương hòa hợp tán kia tuy dược tính mãnh liệt thật nhưng không phải là thuốc độc, Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh chỉ cẩn uống vài viên thuốc giải nhiệt, uống mấy bát nước là là tiêu trừ ngay.

Tới trưa vương phủ thiết yến, mọi người cao hứng bàn chuyện ở Vạn Kiếp Cốc, ai nấy đều đồng ý chuyến này Hoàng Mi tăng và Hoa Hách Cấn hai người công lao to hơn cả, nếu như không có Hoàng Mi tăng cầm chân được Đoàn Diên Khánh thì việc đào hầm thể nào cũng bị y phát giác.

Đao Bạch Phượng đột nhiên nói: “Hoa đại ca, tôi còn muốn đại ca cất công thêm một phen nữa.” Hoa Hách Cấn đáp: “Vương phi sai bảo gì tại hạ cũng xin tuân lệnh.” Đao Bạch Phượng đáp: “Xin đại ca sai người đi lấp cái đường hầm đó lại.” Hoa Hách Cấn ngạc nhiên không hiểu nguyên do ra sao nhưng cũng đáp: “Vâng.” Đao Bạch Phượng lườm Đoàn Chính Thuần nói: “Cái hầm đó thông vào nơi ở của Chung phu nhân, nếu không lấp đi ắt có một vị nhân huynh trong đám mình tối nào cũng theo đó mà lẻn vào.” Mọi người cười ha hả.

Mộc Uyển Thanh thì cứ chốc chốc lại liếc mắt nhìn trộm Đoàn Dự, mỗi khi bốn mắt chạm nhau, hai người cúi gằm mặt xuống buồn thiu. Nàng biết rằng kiếp này không còn cách gì có thể cùng chàng nên duyên chồng vợ, tưởng lại tình cảnh những ngày cùng chàng ở trong thạch thất không khỏi đau lòng. Mọi người bàn tiếp chuyện Chung Linh sẽ thành cơ thiếp của Đoàn Dự, tuy nàng bị Vân Trung Hạc bắt đi nhưng Nam Hải Ngạc Thần và Chung Vạn Cừu hai người liên thủ thể nào cũng cứu nàng về được. Báo Định Đế dặn Chử, Cổ, Phó, Chu bốn người xong tiệc sẽ đi thám thính tin tức Chung Linh tìm cách bảo vệ. Mộc Uyển Thanh càng nghe càng căm tức, lấy trong bọc ra chiếc hộp vàng nhỏ, chính là tín vật mà hôm trước Chung phu nhân giao cho Đoàn Dự để về nhờ phụ thân đi cứu Chung Linh. Nàng để trước mặt Đoàn Chính Thuần nói: “Cam Bảo Bảo đưa cho ông vật này”.

Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại: “Cái gì thế?” Mộc Uyển Thanh hậm hực đáp: “Đó là ngày sinh tháng đẻ của con nhãi Chung Linh.” Nói rồi chỉ vào Đoàn Dự: “Cam Bảo Bảo nhờ anh ấy đưa lại cho ông.”

Đoàn Chính Thuần cầm cái hộp, trong lòng chua xót, nhận ra đây chính là cái hộp ông đã tặng cho Cam Bảo Bảo đêm hôm hai người gặp gỡ. Ông mở hộp ra thấy bên trong là một mảnh giấy nhỏ màu hồng, trên viết một hàng chữ nhỏ: “Giờ Sửu, mồng năm, tháng Chạp, Ất Mùi”, nét chữ nghiêng nghiêng chính là thủ bút của Cam Bảo Bảo.

Đao Bạch Phượng lạnh lùng nói: “Thế thì tốt quá, người ta đã gửi ngày sinh tháng để đến để so tuổi rồi đó.”

Đoàn Chính Thuần lật tờ giấy lại thấy phía sau viết mấy hàng chữ thật nhỏ: “Đau lòng chờ đợi, mộng ước tan thành mây khói. Ngặt vì con không lẽ không cha, mười sáu năm xưa ngày đêm khắc khoải mong chàng, việc chẳng đặng đừng, đến tháng năm Ất Mùi về nhà họ Chung.” Nét chữ mảnh mai nếu không ghé mắt nhìn kỹ không thể đọc được. Đoàn Chính Thuần nghĩ đến mối thâm tình của Cam Bảo Bảo đôi mắt không khỏi đỏ hoe, đột nhiên chợt nghĩ ra ngay hàm nghĩa của những hàng chữ này.

Bảo Bảo tháng năm Ất Mùi lấy chồng, vậy mà Chung Linh ngày mồng năm tháng chạp năm đó đã sinh, hẳn không phải con của Chung Vạn Cừu. Bảo Bảo mòn mỏi trông chờ nhưng ta không đến, nói là “con không lẽ không cha”, lại thêm “việc chẳng đặng đừng” nên mới phải xuất giá, ắt cũng bởi vì nàng đang mang thai không thể chịu tiếng không chồng mà chửa. Thế ra Chung Linh chính là con ta, đúng rồi… đúng rồi… vào thời gian đó, mùa xuân mười sáu năm về trước ta cùng nàng vui vầy chưa đầy một tháng đã có thai con bé Chung Linh… Ông nghĩ ra việc đó buột miệng kêu lên: “Chao ôi! Không xong rồi!”.

Đao Bạch Phượng hỏi lại:“Cái gì mà không xong?” Đoàn Chính Thuần lắc đầu, cười gượng: “Gã Chung Vạn Cừu kia… tâm tính tồi bại, sắp xếp độc kế hại họ Đoàn ta, mình không thể nào… không thể nào thông gia với y được. Việc này nhất định không xong.” Đao Bạch Phượng thấy chồng ấp úng, hẳn là có điều gì muốn lấp liếm nên cầm lấy tờ giấy hồng điều trong tay ông đọc qua, chỉ hơi suy nghĩ đã hiểu ngay đầu đuôi câu chuyện, nhịn không nổi cười khẩy nói: “Thì ra… thì ra… ha ha, con bé Chung Linh cũng lại là con riêng của ông nốt.” Lửa giận bốc lên, bà lật tay tát ngay ông một cái, Đoàn Chính Thuần với nghiêng đầu né tránh.

Trong sảnh ai nấy đều sượng sùng, Bảo Định Đế mỉm cười: “Nếu quả như thế thì việc này không nên bàn tới nữa …”

Lúc đó có một tên gia tướng xăm xăm bước vào, hai tay cầm một tờ danh thiếp, chạy tới trước mặt Đoàn Chính Thuần cúi đầu nói: “Quá Ngạn Chi đại gia ở Hổ Lao Quan xin vào yết kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần biết Quá Ngạn Chi là đại đệ tử của Kha Bách Tuế chưởng môn phái Phục Ngưu, có ngoại hiệu là Truy Hồn Tiên, nghe nói võ công cũng khá lắm, có điều đối với họ Đoàn chưa từng qua lại giao du, bữa nay muôn dặm đến tìm không hiểu có việc gì. Ông vội vàng đứng lên quay sang nói với Bảo Định Đế: “Người này không biết đến có chuyện chi, để tiểu đệ ra xem thế nào.”

Bảo Định Đế mỉm cười gật đầu, nghĩ thầm: “Gã Truy Hồn Tiên này đến quả đúng lúc, may cho ngươi thừa cơ thoát thân”.

Đoàn Chính Thuần đi ra khỏi hoa sảnh, Cao Thăng Thái và Chử, Cổ, Phó, Chu đi theo sau. Vừa bước vào đại sảnh thấy ngay một người trung niên tầm vóc cao lớn ngồi ở chiếc ghế phía tây, mặc tang phục, đầu đội mũ vải gai, mặt mày đầy bụi bặm, hai mắt đỏ mọng sưng húp hiển nhiên mới có thân nhân tạ thế. Y thấy Đoàn Chính Thuần đi vào lập tức đứng lên cung thân hành lễ nói: “Hà Nam Quá Ngạn Chi bái kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần tạ lễ đáp: “Quá đại hiệp quang lâm Đại Lý mà tiểu đệ Đoàn Chính Thuần không biết để ra xa nghênh tiếp, xin miễn thứ cho.” Quá Ngạn Chi nghĩ thầm: “Ta vẫn thường nghe anh em họ Đoàn Đại Lý tuy đại phú quí nhưng không kiêu ngạo, thực là tiếng đồn không ngoa.”, bèn nói: “Quá Ngạn Chi này là kẻ thất phu ở nơi thảo dã, mạo muội cầu kiến vương gia thực áy náy vô cùng.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Tước hiệu vương gia chẳng qua là theo thế tục đặt ra, còn Quá đại hiệp thanh danh vang dội khắp nơi, tại hạ vốn có lòng ngưỡng mộ, chúng ta nên coi như huynh đệ, bất tất câu chấp nghi lễ làm gì.” Ông nói xong, giới thiệu Cao Thăng Thái rồi phân ngôi chủ khách ngồi xuống.

Quá Ngạn Chị nói: “Vương gia! Sư thúc tại hạ ở nhờ trong vương phủ đã lâu, xin cho người báo tin giùm để tại hạ được diện kiến và trình việc gấp.” Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi lại: “Sư thúc của Quá huynh ư?” Ông nghĩ thầm: “Trong phủ ta làm gì có người của phái Phục Ngưu?”. Quá Ngạn Chi đáp: “Tệ sư thúc thay họ đổi tên tị nạn trong tôn phủ, không dám nói rõ cho vương gia hay, thực là có tội lớn, dám xin vương gia mở lượng khoan hồng miễn trách cho. Tại hạ xin tạ lỗi trước cùng vương gia.” Nói xong đứng lên vái dài, Đoàn Chính Thuần đáp lễ, quả thực không nghĩ ra được ai là sư thúc của y.

Cao Thăng Thái cũng suy nghĩ: “Ai nhỉ? Ai nhỉ?” Ông duyệt qua trong trí một loạt gia nhân chợt nhớ ra: “Chắc hẳn là y rồi!” bèn quay sang bảo tên gia đinh đứng bên: “Mi vào trình Hoắc tiên sinh rằng: Truy hồn tiên Quá đại hiệp tới đây có việc quan trọng muốn bẩm với Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, xin mời tiên sinh ra đại sảnh nói chuyện.”.

Gã gia đinh tuân lời đi vào, chẳng bao lâu từ hậu đường có tiếng bước chân lẹp kẹp. Một người ngất nga ngất ngưởng từ hậu đường đi ra, vừa đi vừa nói lè nhè: “Ngươi làm thế này thì cái miệng của ta kể như hết chỗ ăn chực rồi.”

Đoàn Chính Thuần nghe nói đến Kim toán bàn Thôi lão tiền bối, sắc mặt hơi đổi nghĩ thầm: “Không lẽ Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền lại ẩn náu nơi đây? Sao ta lại không biết? Sao Cao hiền đệ không cho mình hay?” Chỉ thấy một người hình dáng bệ rạc cười hì hì đi ra, chính là Hoắc tiên sinh làm tạp vụ trong vương phủ. Người này thường nhật nếu không say lúy túy thì cũng cùng bọn đầy tớ bài bạc thật là biếng nhác, chỉ được cái tiền bạc phân minh nên hơn mười năm nay vẫn để y làm ở đó. Đoàn Chính Thuần hết sức kinh ngạc: “Hoắc tiên sinh này có thực là Thôi Bách Tuyền không? Ta đúng là có mắt không tròng, để cho gã trà trộn vào đây. Cũng may Cao hiền đệ mở miệng gọi ngay y ra, Quá Ngạn Chi ắt nghĩ rằng phủ Trấn Nam Vương đã biết cả”.

Hoắc tiên sinh vẫn bảy phần say, ba phần tỉnh, vẻ mặt ngơ ngác. Nhìn thấy Quá Ngạn Chi vận tang phục lão giật mình hỏi: “Ngươi… sao lại …” Quá Ngạn Chi bước lên mấy bước, lạy sụp xuống đất, khóc òa lên nghẹn ngào đáp: “Thôi sư thúc, sư phụ… sư phụ của tiểu điệt… đã bị người ta giết chết rồi …” Thôi Bách Tuyền biến hẳn thần sắc, nét mặt đang ngơ ngác thoáng cái đã đầy vẻ lo âu, dè dặt. Lão từ từ hỏi: “Kẻ thù là ai?” Quá Ngạn Chi nức nở đáp: “Tiểu điệt bất tài nên chưa tra xét được cho minh bạch, nhưng đoán chừng là người của nhà Mộ Dung đất Cô Tô.” Thôi Bách Tuyền lộ vẻ kinh sợ nhưng chỉ thoáng qua rồi nét mặt trở nên nghiêm nghị. Ông trầm giọng nói: “Việc này phải bàn tính cẩn thận mới được.”

Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái hai người nhìn nhau cùng nghĩ: “Bắc Kiều Phong Nam Mộ Dung, phái Phục Ngưu mà chuốc oán với họ Mộ Dung đất Cô Tô e rằng khó mà báo thù được”.

Thôi Bách Tuyền buồn bã nói với Quá Ngạn Chi: “Quá hiền điệt, sư huynh ta bỏ mạng như thế nào, tình tiết ra sao, ngươi thuật lại cho rõ.” Quá Ngạn Chi đáp: “Thù thầy chẳng khác thù cha, ngày nào chưa báo được là tiểu điệt ăn ngủ không yên. Xin sư thúc lập tức lên đường, vừa đi tiểu điệt vừa bẩm lại để khỏi mất thì giờ.”

Thôi Bách Tuyền biết là Quá Ngạn Chi có ý e ngại đại sảnh này có nhiều tai mắt, nói ra có điều bất tiện chứ không phải là tranh thủ sớm muộn một hai thời khắc, trong bụng tính toán: “Ta ở nhờ trong phủ Trấn Nam Vương đã lâu năm không lộ hình tích, thế mà Cao Thăng Thái cũng biết rõ hành tung. Nếu ta không lên tiếng xin lỗi Đoàn vương gia tức là đắc tội với nhà họ Đoàn. Huống chi việc tìm kiếm họ Mộ Dung để báo thù cho sư huynh, sức ta không thể nào làm được. Nếu được họ Đoàn phái người tương trợ thì lực lượng sẽ mạnh hơn nhiều, thêm bạn bớt thù là quan trọng.” đột nhiên đi đến trước mặt Đoàn Chính Thuần, quì xuống dập đầu binh binh liên tiếp.

Mọi người thấy thế đều ngạc nhiên. Đoàn Chính Thuần vội đưa hai tay đỡ dậy, nhưng không ngờ thân hình Thôi Bách Tuyền vững như đóng đinh xuống đất không lay chuyển. Đoàn Chính Thuần nghĩ thầm: “Gã tửu quỉ này gớm thật, hóa ra võ công cao siêu như thế, dám đánh lừa ta”. Ông vận kình vào hai cánh tay nhấc lên, Thôi Bách Tuyền cũng không vận nội lực chống lại nữa, mượn đà đứng dậy. Nhưng vừa đứng được thẳng người lên, lão cảm thấy xương cốt trong mình đều đau ê ẩm, rất là khó chịu, tựa như con thuyền nhỏ ngoài khơi bị một cơn sóng gió đánh tơi bời, biết là Đoàn Chính Thuần ra tay trừng trị mình. Y nghĩ thầm nếu như mình còn vận nội lực để chống lại, Trấn Nam Vương sẽ không hả giận mà chưa biết chừng ông còn ngờ mình trà trộn vào trong vương phủ để mưu toan việc gian ác, Thôi Bách Tuyền nhân lúc chân khí trong người còn nhộn nhạo, lập tức té ngồi phệt xuống làm như đau đớn lắm, kêu lên: “Ôi chà!”.

Đoàn Chính Thuần mỉm cười, đưa tay kéo Thôi Bách Tuyền dậy, đồng thời xoa luôn một cái, lập tức bao nhiêu khó chịu trong người y liền tiêu giải.

Thôi Bách Tuyền nói: “Trấn Nam vương gia! Thôi Bách Tuyền này bị kẻ thù bức bách, không còn đường chạy nên phải vác cái mặt dày tới vương phủ nương tựa uy danh vương gia sống được tới nay, vậy mà chưa từng thổ lộ chân tướng với vương gia, thật là tội đáng muốn chết.”

Cao Thăng Thái tiếp lời: “Thôi huynh bất tất phải quá khiêm. Vương gia cũng biết rõ thân thế và lai lịch các hạ từ lâu rồi nhưng để yên không nói đấy thôi. Đừng nói vương gia hiểu rõ đã đành, mà ngay những người chung quanh cũng biết cả. Hôm trước thế tử đối phó với Nam Hải Ngạc Thần chẳng đã lôi Thôi huynh ra nhận làm sư phụ đấy ư? Thế tử biết rằng trong phủ chỉ có mình Thôi huynh là khả dĩ đối phó được với tên ác tặc họ Nhạc mà thôi.” Kỳ thực hôm đó Đoàn Dự kéo Thôi Bách Tuyền ra để mạo nhận là sư phụ chẳng qua ngẫu nhiên mà trúng. Chàng thấy Thôi Bách Tuyền dáng điệu ngớ ngẩn, hình dung cổ quái nên đem lão ra làm trò cười trêu ghẹo Nam Hải Ngạc Thần. Song bây giờ Thôi Bách Tuyền nghe Cao Thăng Thái nói lại tin là thực, trong lòng không khỏi xấu hổ ngầm.

Cao Thăng Thái nói tiếp: “Vương gia trước nay vốn hiểu khách, đừng nói gì Thôi huynh tuyệt không có ác ý với nước Đại Lý chúng tôi, mà giả tỷ có ý đồ gì đi chăng nữa, vương gia vẫn đại lượng bao dung, lấy lòng thành mà đối xử. Thôi huynh bất tất phải băn khoăn.” Ông ta nói thế là có ý rằng: ngươi không có vết tích gì bất lương nên mới dung dưỡng tới ngày nay, bằng không thì chúng ta đã sửa ngươi từ lâu rồi.

Thôi Bách Tuyền nói: “Cao hầu gia minh giám, tuy vương gia đại lượng nhưng vì sao Thôi mỗ phải vào vương phủ nương náu thì trước khi cáo biệt cũng cần phải trình bày cho rõ, nếu không quả là thiếu quang minh chính đại. Có điều việc này liên quan đến nhiều người khác, Thôi mỗ xin được trình riêng cho vương gia.”

Đoàn Chính Thuần gật đầu quay lại bảo Quá Ngạn Chi: “Báo cừu cho sư phụ là việc trọng đại, Quá huynh chẳng nên hấp tấp nóng nảy, nán chờ chốc lát. Sau khi tan tiệc, chúng ta sẽ từ từ thương nghị cũng không muộn.” Quá Ngạn Chi chưa kịp trả lời, Thôi Bách Tuyền đã chen vào nói trước: “Vương gia tại bảo thế nào chúng tôi xin tuân lệnh.”

Ngay lúc đó một gia tướng lại tới ngay cửa sảnh khom lưng bẩm: “Khải bấm vương gia, phương trường chùa Thiếu Lâm phái hai vị cao tăng đến trình thư.” Chùa Thiếu Lâm từ đời Đường tới nay vẫn là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm, Đoàn Chính Thuần vội ra ngoài hiên nghênh tiếp.

Chỉ thấy hai nhà sư trung niên được hai gia tướng dẫn qua sân. Một vị hòa thượng người khô như hạc khom lưng chắp tay hành lễ nói: “Tiểu tăng là Tuệ Chân, Tuệ Quan của chùa Thiếu Lâm tham kiến vương gia.” Đoàn Chính Thuần ôm quyền tạ lễ nói: “Hai vị đường xa quang lâm, quả thật mệt nhọc, xin mời vào sảnh dùng trà.”

Đến trong sảnh hai nhà sư không chịu ngồi, Tuệ Chân nói: “Bẩm vương gia, bần tăng phụng mệnh phương trượng tệ tự đến trình một phong thư cho Bảo Định hoàng gia và Trấn Nam vương gia.” Nói rồi lấy từ trong bọc ra một gói giấy dày, mở ra từng lớp từng lớp để lộ một bao thư màu vàng, hai tay dâng lên Đoàn Chính Thuần.

Đoàn Chính Thuần cầm lấy nói: “Hoàng huynh hiện cũng đang ở nơi đây, hai vị cũng may gặp được ngay.” Ông quay qua nói với Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi: “Hai vị dùng điểm tâm, đợi lát nữa sẽ nói chuyện cho kỹ càng.” Nói xong đưa Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người vào trong.

Lúc đó Bảo Định Đế đang ở trong noãn các cùng Hoàng Mi tăng uống trà đàm luận, còn Đoàn Dự ngồi một bên lắng nghe, thấy Tuệ Chân, Tuệ Quan tiến vào đều đứng cả dậy. Đoàn Chính Thuần đưa phong thư, Bảo Định Đế mở ra coi một lượt, thấy lá thư đó gửi cho hai anh em mình, bên trên là một đoạn dài những gì “nghe danh đã lâu nhưng chưa từng gặp”, “uy chấn trời Nam, nhân đức bao trùm”, “toàn dân ngưỡng mộ, hào kiệt theo về”, “xiển hộ Phật pháp, hoằng dương thánh đạo” toàn là những câu khách sáo, khi đến chính đề thì là: “Tệ sư đệ Huyền Bi dẫn bốn đồ đệ đến thăm quí quốc, vì tình cùng kính Phật, nghĩa đồng đạo trong võ lâm, mong được chiếu cố đến.” Bên dưới ký tên là “Thích Huyền Từ chùa Thiếu Lâm chắp tay trăm lạy”.

Bảo Định Đế đứng dậy đọc thư để tỏ lòng kính trọng chùa Thiếu Lâm, Tuệ Chân và Tuệ Quan cung kính đứng thõng tay một bên. Bảo Định Đế nói: “Mời hai vị ngồi. Phương trượng chùa Thiếu Lâm nếu đã có pháp dụ, chúng tôi là đệ tử Phật môn, lại là một phái trong võ lâm, nguyện đem hết sức để tuân lệnh. Huyền Bi đại sư Phật học tinh thông, võ công cao cường, anh em chúng tôi vẫn hằng kính ngưỡng, không biết pháp giá của đại sư bao giờ mới tới? Anh em chúng tôi xin quét tháp chờ đợi.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan đột nhiên quì xuống dập đầu binh binh rỗi cùng khóc òa lên.

Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần cùng kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ Huyền Bi đại sư cũng chết rồi”. Bảo Định Đế đưa tay đỡ lên nói: “Chúng ta võ lâm đồng đạo, không nên dùng đại lễ.” Tuệ Chân đứng lên trả lời: “Sư phụ chúng tôi viên tịch rồi.” Bảo Định Đế nghĩ thầm: “Lá thư này vốn để Huyền Bi đại sư tự mình đem đến, không lẽ ông ta chết trong nước Đại Lý?”. Ông bèn nói: “Huyền Bi đại sư về cõi tây phương, cửa Phật mất đi một cao tăng, võ lâm mất đi một cao thủ, quả thực đáng tiếc. Không biết Huyền Bi đại sư viên tịch vào ngày nào?”

Tuệ Chân đáp: “Tháng trước phương trượng sư bá được tin Tứ Đại Ác Nhân định đến gây sự với Đoàn hoàng gia và Trấn Nam Vương nước Đại Lý – Họ Đoàn Đại Lý uy chấn thiên nam đâu có sợ gì bọn Tứ Đại Ác Nhân, nhưng sợ hai vị không biết mà tổn thất bộ hạ, nên phương trượng sai sư phụ chúng tôi dẫn bốn đệ tử đi đến Đại Lý bẩm trước cho hoàng gia, rồi để hoàng gia sai bảo.”

Bảo Định Đế hết sức cảm kích, nghĩ thầm: “Thảo nào phái Thiếu Lâm mấy trăm năm nay được mọi người kính phục, Huyền Từ đại sư coi việc an nguy của võ lâm như việc của mình, bọn ta tuy ở chốn xa xăm cũng được quan tâm. Trong thư nói chúng ta chiếu cố cho thầy trò Huyền Bi đại sư nhưng thực ra sai người đến trước là báo tin, sau là tiếp tay chống giữ.” Ông bèn hơi khom mình nói: “Hậu ý của phương trượng đại sư, anh em chúng tôi không biết làm sao báo đáp.”

Tuệ Chân đáp: “Hoàng gia quá khiêm tốn đấy thôi. Thầy trò chúng tôi lên đường xuôi nam, ngày hai mươi tám tháng trước ghé lại chùa Thân Giới ở châu Lục Lương nghỉ qua đêm, ngờ đâu sáng sớm ngày hai mươi chín, bốn anh em chúng tôi trở dậy, thì thấy sư phụ… sư phụ bị người ta ám toán, chết ngay trên đại điện chùa Thân Giới rồi …” Nói đến đây ông ta nghẹn ngào không thành tiếng.

Bảo Định Đế thở dài một tiếng hỏi lại: “Huyền Bi đại sư trúng phải ám khí độc hại chăng?” Tuệ Chân đáp: “Không phải.” Bảo Định Đế, Hoàng Mi tăng, Đoàn Chính Thuần lẫn Cao Thăng Thái đều tỏ vẻ ngạc nhiên, cùng nghĩ: “Cứ như võ công của Huyền Bi đại sư, nếu không trúng phải ám khí kịch độc, dẫu là địch nhân đánh lén sau lưng cũng không thể nào chết ngay không kháng cự. Trong nước Đại Lý ta có cao thủ nào bản lãnh đến như thế?”

Đoàn Chính Thuần nói: “Hôm nay mồng ba, tối ngày hai mươi tám tháng trước tức là bốn ngày rồi. Dự nhi bị bắt tại Vạn Kiếp Cốc là ngày hai mươi bảy.” Bảo Định Đế gật đầu: “Không phải Tứ Đại Ác Nhân.” Đoàn Diên Khánh mấy ngày đó ở tại Vạn Kiếp Cốc, quyết không cách nào phân thân để giết người ở Lục Lương Châu. Mà dù Đoàn Diên Khánh biết phân thân chăng nữa cũng chưa chắc đã có thể giết chết Huyền Bi đại sư không một tiếng động.

Tuệ Chân nói: “Chúng tôi để sư phụ dậy thì người lão nhân gia đã lạnh, viên tịch từ lâu, trong đại điện không có dấu vết gì chứng tỏ có động thủ. Chúng tôi chạy ra ngoài chùa tìm kiếm, các sư huynh trong chùa Thân Giới cũng theo giúp đỡ, nhưng mấy chục dặm không hề thấy một chút tung tích nào của hung thủ.”

Bảo Định Đế buồn bã nói: “Huyền Bi đại sư vì họ Đoàn ta mà viên tịch, lại bị nạn ngay trong địa giới nước Đại Lý, dù tình dù lý, huynh đệ chúng tôi nhất quyết không thể đứng ngoài.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư cùng quì xuống bái tạ, Tuệ Chân nói: “Bốn huynh đệ bọn tiểu tăng cùng Ngũ Diệp đại sư phương trượng chùa Thân Giới bàn thảo xong tạm quan pháp thể của sư phụ chúng tôi lại chùa, chưa dám thiêu hóa để sau này chưởng môn sư bá có thể kiểm tra. Hai vị sư huynh quay về chùa Thiếu Lâm bẩm lại, tiểu tăng và sư đệ Tuệ Quan thì đi Đại Lý, bẩm với hoàng gia và Trấn Nam Vương.”

Bảo Định Đế nói: “Phương trượng Ngũ Diệp tuổi cao đức trọng, kiến thức uyên bác, thông hiểu nhiều chuyện trong võ lâm, vậy lão nhân gia dạy thế nào?”

Tuệ Chân đáp: “Ngũ Diệp phương trượng dạy rằng: mười phần thì có đến tám chín, hung thủ là người trong họ Mộ Dung đất Cô Tô.” Đoàn Chính Thuần và Cao Thăng Thái đưa mắt nhìn nhau, trong bụng cùng nghĩ: “Lại là Cô Tô Mộ Dung!”

Hoàng Mi tăng từ nãy đến giờ chưa mở miệng đột nhiên xen vào: “Phải chăng Huyền Bi đại sư bị trúng một đòn Đại Vi Đà Chử ngay giữa ngực mà viên tịch?” Tuệ Chân kinh ngạc đáp: “Đại sư đoán đúng lắm! Không hiểu sao… sao…” Hoàng Mi tăng đáp: “Ta từng nghe Huyền Bi đại sư chùa Thiếu Lâm có công phu Đại Vi Đà Chử là một tuyệt học trong võ lâm, đối phương bị trúng phải sẽ đứt gãy hết gân cốt. Môn đó cố nhiên là lợi hại, nhưng xét cho kỹ thì lại quá bá đạo, dường như không thích hợp cho đệ tử Phật môn… Ôi!” Đoàn Dự cũng buột miệng xen vào: “Phải rồi! Cái môn đó quả là độc địa thái quá.”

Tuệ Chân, Tuệ Quan nghe Hoàng Mi tăng bình luận sư phụ của mình, trong lòng đã thấy bất mãn nhưng còn nể ông là bậc cao tăng tiền bối không dám trả lời. Lại thấy Đoàn Dự ở bên cũng chõ mồm vào, bất giác hai người cả giận đều quắc mắt nhìn. Đoàn Dự vẫn tảng lờ như không trông thấy, chẳng lý gì đến nữa.

Đoàn Chính Thuần hỏi: “Tại sao sư huynh biết Huyền Bi đại sư chết vì trúng Đại Vi Đà Chử?” Hoàng Mi tăng thở dài: “Phương trượng chùa Thân Giới Ngũ Diệp đại sư đoán rằng hung thủ thuộc họ Mộ Dung đất Cô Tô ắt không phải là nói vô căn cứ. Đoàn nhị đệ, Cô Tô Mộ Dung có một câu rằng: Gậy ông đập lưng ông, ai giỏi môn gì thì họ lấy chính môn đó để mà hạ thủ. Chẳng hay hiền đệ có biết chăng?” Đoàn Chính Thuần trầm ngâm đáp: “Câu đó tiểu đệ đã từng nghe qua, có điều không tin lắm.” Hoàng Mi tăng lẩm bẩm: “Gậy ông đập lưng ông, hừ, gậy ông đập lưng ông…” Trên mặt ông đột nhiên lộ vẻ sợ hãi. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần quen biết Hoàng Mi đại sư từ mấy chục năm nay chưa từng thấy ông lộ vẻ sợ hãi bao giờ. Cả lúc ông cùng thái tử Diên Khánh đấu cờ thí mạng đã trông rõ thế bại, tuy ông có bối rối mà nét mặt vẫn thản nhiên, Thế mà bây giờ ông phải sợ ra mặt đủ biết nhà Mộ Dung lợi hại đến chừng nào.

Trong noãn các bỗng nhiên lặng tanh không một tiếng động. Qua một hồi lâu, Hoàng Mi tăng chậm rãi nói: “Lão tăng nghe nói ở Cô Tô có một nhân vật tên là Mộ Dung Bác, là người giỏi số một trên thế gian. Y lấy tên là Bác vì võ công uyên bác không thể kể xiết. Tựa hồ như tuyệt kỹ của phái võ nào y đều thông hiểu. Kể cũng lạ thật, khi y muốn giết chết ai nhất định phải dùng chính cái môn tuyệt kỹ thành danh của người đó.” Đoàn Dự nói: “Thế thì không sao tưởng tượng nổi, võ công trong thiên hạ biết bao nhiêu là môn, làm sao mà y học hết được?” Hoàng Mi tăng đáp: “Hiền điệt nói không sai, nhưng quả thực nếu không dùng chính tuyệt chiêu của đối phương để giết người thì y nhất định không ra tay.”

Bảo Định Đế nói: “Ta cũng nghe thấy ở Trung Nguyên có nhân vật kỳ dị như thế. Lạc thị tam hùng đất Hà Bắc nổi tiếng về phi trùy, về sau cả ba người đều bị trúng phi trùy táng mạng. Chương Hư đạo nhân ở Sơn Đông lúc định giết ai bao giờ cũng chém cụt hết chân tay, để địch thủ phải kêu khóc hàng nửa ngày rồi mới chết được. Sau chính Chương Hư đạo nhân cũng bị thảm báo như thế. Câu tuyên bố gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung là do miệng Chương Hư đạo nhân truyền đi.” Bảo Định Đế ngừng một lúc lại nói tiếp: “Khi đó, ở Tế Nam giữa phiên chợ náo nhiệt không biết bao nhiêu người quây chung quanh xem Chương Hư đạo nhân nằm lăn lộn kêu gào dưới đất.” Ông nói tới đây dường như còn tưởng tượng ra cái thảm trạng của Chương Hư đạo nhân trước khi chết, vẻ mặt xem chừng bất nhẫn, đầy vẻ không vui.

Đoàn Chính Thuần gật đầu nói: “Thế thì đúng rồi.” Đột nhiên ông nghĩ ra một chuyện liền nói: “Tôi nghe nói Kha Bách Tuế, sư phụ của Quá đại hiệp giỏi sử dụng nhuyễn tiên, nhưng kình lực trên đầu roi lại là thuần cương, sát địch thì dùng roi đánh vào đầu đối phương nát vụn, không lẽ ông ta… ông ta …” Ông vỗ tay ba cái gọi một tên đầy tớ vào nói: “Mi đi mời Thôi tiên sinh và Quá đại hiệp tới đây để cùng ta thương nghị việc cần.” Gã kia “Vâng” một tiếng nhưng không biết Thôi tiên sinh là ai nên ngần ngừ chưa chịu ra. Đoàn Dự cười nói: “Thôi tiên sinh chính là Hoắc tiên sinh đó.” Gã đầy tớ bấy giờ mới hiểu rõ chạy đi mời.

Trong giây phút Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi đã đến sảnh đường. Đoàn Chính Thuần nói: “Quá đại hiệp! Tại hạ có một việc muốn hỏi, xin đại hiệp miễn trách!” Quá Ngạn Chi đáp: “Không dám.” Đoàn Chính Thuần hỏi: “Xin hỏi lệnh sư Kha lão tiền bối bị người ta ám toán như thế nào? Vết thương trí mạng là do quyền cước hay binh khí?” Quá Ngạn Chi đột nhiên thẹn đỏ ửng cả mặt, lúng túng mãi mới trả lời được: “Gia sư bị thương vì chiêu nhuyễn tiên Thiên Linh Thiên Liệt (đầu vỡ nghìn mảnh), kình lực của hung thủ hung mãnh dị thường, dẫu chính tay gia sư cũng không thể… không thể…”

Bảo Định Đế, Đoàn Chính Thuần và Hoàng Mi tăng đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều thấy bàng hoàng.

Tuệ Chân đến trước mặt Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi chắp tay vái chào nói: “Sư huynh đệ bần tăng cùng hai vị đều chung một kẻ thù. Nếu không diệt được nhà Mộ Dung ở Cô Tô…” Nói đến đây trong bụng tự nghĩ có diệt được họ Mộ Dung đất Cô Tô hay không quả thật khó nói, bèn nghiến răng: “Bần tăng nhất quyết liều mạng với họ.” Quá Ngạn Chị hai mắt rưng rưng nói: “Phái Thiếu Lâm cũng kết thâm cừu với họ Mộ Dung đất Cô Tô hay sao?” Tuệ Chân bèn đem chuyện sư phụ Huyền Bi bị chết dưới tay Cô Tô Mộ Dung như thế nào thuật lại một lượt.

Quá Ngạn Chi thần sắc bi phẫn, nghiến răng căm tức, còn Thôi Bách Tuyền chỉ cúi đầu rũ rượi chẳng nói năng gì, xem ra không để ý gì tới mối huyết cừu của sư huynh. Tuệ Quan hòa thượng buột miệng hỏi: “Thôi tiên sinh! Có phải tiên sinh sợ họ Mộ Dung ở Cô Tô chăng?” Tuệ Chân vội mắng át: “Sư đệ! Không được vô lễ.” Thôi Bách Tuyền lơ láo ngó tới ngó lui, tựa hồ sợ trong vách tường có kẻ thù ghê gớm rình rập sắp xông ra, tỏ rõ con người khiếp nhược. Tuệ Quan hừ một tiếng, lẩm bẩm một mình: “Đại trượng phu lúc đáng chết thì chết, làm gì phải sợ sệt đến thế?” Tuệ Chân cũng coi thường thái độ nhút nhát khiếp sợ của Thôi Bách Tuyền nên mặc cho sư đệ muốn nói gì thì nói, không ngăn cản nữa.

Hoàng Mi tăng khẽ đằng hắng rồi nói: “Việc này…” Lão tăng vừa nói được hai tiếng thì Thôi Bách Tuyền toàn thân run lẩy bẩy, đứng bật lên đụng phải chén nước trên khay trà rơi xuống đất, vỡ tan ra. Thôi tiên sinh định thần lại, thấy mọi người đều chú mục nhìn mình, bất giác đỏ mặt tía tai ngượng nghịu nói: “Xin lỗi! Xin lỗi!” Quá Ngạn Chi chau mày, cúi xuống nhặt những mảnh chén vỡ.

Đoàn Chính Thuần nghĩ bụng: “Lão Thôi Bách Tuyền này không có một chút gan dạ nào hết”, rồi quay sang hỏi: “Sư huynh, thế nào?”

Hoàng Mi tăng hợp một ngụm trà, thủng thẳng hỏi: “Thôi thí chủ đã gặp Mộ Dung Bác rồi ư?” Thôi Bách Tuyền nghe đến ba chữ Mộ Dung Bác, giật mình kêu lên một tiếng, hai tay vịn vào ghế cho khỏi té, giọng run run đáp: “Tôi chưa từng… có… có gặp qua… không từng …” Tuệ Quan hỏi lớn: “Thôi tiên sinh đã gặp Mộ Dung Bác chưa? Xin nói rõ!” Thôi Bách Tuyền giương đôi mắt nhìn trời như kẻ mất hồn. Bọn Đoàn Chính Thuần thấy thế đều lắc đầu, ngấm ngầm thất vọng. Quá Ngạn Chi thấy sư thúc tỏ vẻ hèn nhát trước mặt mọi người lại càng cảm thấy bứt rứt khó chịu. Một lúc sau Thôi Bách Tuyền mới cất giọng run run đáp: “Chưa từng… đại khái… dường như chưa từng… chưa từng gặp …”

Hoàng Mi tăng nói: “Lão nạp đã từng có phen đích thân nếm trải, vậy xin thuật lại để các vị cùng rõ cũng chẳng hại gì. Việc xảy ra đã bốn mươi ba năm trước đây rồi. Lúc đó bần tăng còn ít tuổi, sung sức, vừa xuất thân đã có được chút thanh danh trong chốn giang hồ, khác nào trâu nghé mới sinh chưa biết sợ hổ, vẫn tưởng là khắp thế gian rộng lớn này, ngoài sư phụ ra không còn ai võ nghệ cao cường bằng mình nữa. Năm đó ta hộ tống một vị quan hưu trí cùng gia quyến trở về bản quán, đi từ Biện Lương đến Sơn Đông. Khi tới rặng núi phụ cận Thanh Báo Cương thì gặp bốn tên cường đạo. Bọn này không cướp tiền của đồ vật mà chỉ định bắt tiểu thư con vị quan đó. Bần tăng đang độ thanh niên khí khái, quyết chẳng dung tình, vừa ra tay là đã sử độc chiêu, dùng ngay Kim Cương Chỉ hạ sát luôn bốn tên cường đạo, tên nào cũng bị ngón tay đâm thủng vào tận tim, chết không kịp ngáp.

“Bần tăng đang lúc vênh vang đắc ý, quá kiêu ngạo nói phun bọt rãi, khoe khoang với vị hữu quan: Dù có tám đứa mười đứa cường đạo nữa tới, tôi cũng dùng Kim Cương Chỉ giết sạch. Lúc đó bỗng nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp, hai người cỡi lừa đi ngang qua. Bỗng một người ngồi trên lưng lừa “hừ” một tiếng, nghe tựa như tiếng đàn bà. Trong cái hừ đó dường như chứa đựng đầy vẻ khinh miệt, chế giễu. Ta quay đầu lại thì thấy người ngồi trên lưng lừa là một thiếu phụ chừng ba sáu, ba bảy, còn người kia là một thiếu niên độ mười lăm mười sáu, mi thanh mục tú, hình dung tuấn nhã, cả hai đều mặc sô gai theo kiểu đại tang. Lại nghe thiếu niên kia nói: Mẹ ơi! Kim Cương Chỉ thì đã thấm vào đâu mà gã kia ở đây khoác lác.”

Thân thế lai lịch của Hoàng Mi tăng anh em Bảo Định Đế cũng không biết rõ. Thế nhưng ông ta ở trong Vạn Kiếp Cốc vạch đá thành bàn cờ, khắc đá thành quân cờ, đấu ngang ngửa với thái tử Diên Khánh, mọi người đều hết sức kính ngưỡng, Kim Cương Chỉ của ông chẳng ai không phục. Bây giờ nghe hòa thượng thuật lại lời cậu bé, ai cũng cho là đứa trẻ nít không biết gì nói bậy.

Không ngờ Hoàng Mi khẽ thở dài rồi nói tiếp: “Nghe cậu bé nói, bần tăng tuy cũng có ý tức giận, song cho là lời ngông cuồng của con nít, không đáng chấp nên chỉ lừ mắt nhìn qua, rồi cũng chẳng thèm lý đến nữa. Lại nghe người đàn bà mắng con: Kim Cương Chỉ của người ta là chính tông của Đạt Ma hạ viện ở Bồ Điền Phúc Kiến, luyện cũng tới ba thành hỏa hầu rồi, mi con nít biết gì mà nói? Mi phóng chỉ ra chưa chắc đã chính xác được bằng người ta đâu.”

“Bần tăng nghe thiếu phụ nói, vừa kinh ngạc lại vừa phẫn nộ. Nguồn gốc sư môn của bần tăng trên giang hồ ít người biết đến, người đàn bà này vừa nói ra đã đúng ngay, lại bảo Kim Cương Chỉ mới được ba thành hỏa hầu, làm sao chịu nổi. Ôi, kỳ thực bần tăng chưa hiểu trời cao đất rộng, công lực của bần tăng ngày ấy mà bảo đã luyện được tới ba thành là nói quá lên rồi, đúng ra mới được hơn hai thành mà thôi. Bần tăng liền lớn tiếng thách thức: Vị phu nhân kia tôn tính là gì? Đã coi thường Kim Cương Chỉ của tại hạ, chắc là có ý dạy cho mấy chiêu chăng?”.

“Thiếu niên kia dừng con lừa đốm lại toan trả lời, người đàn bà bỗng dưng hai mắt đỏ ngầu, rớm lệ bảo con: Gia gia mi lúc lâm chung đã dặn những gì? Mi chóng quên thế? Cậu bé kia đáp: Vâng! Hài nhi không dám quên. Hai người liên vung roi quất lừa chạy về phía trước.”

“Bần tăng càng nghe lại càng bực mình, liền thúc ngựa đuổi theo gọi: Này! Nói lăng nhăng chỉ trích võ công người khác, không tỉ thí vài chiêu đã bỏ chạy mà xong ư? Con tuấn mã của bần tăng cước lực thật nhanh, vượt qua hai con lừa, chặn ngay trước mặt hai người. Thiếu phụ quay lại bảo con: Mi xem đó. Cứ buột miệng nói bừa người ta đâu có chịu bỏ qua? Cậu bé này xem chừng đối với mẫu thân rất là hiếu thuận, không dám ngước nhìn bần tăng nữa. Bần tăng thấy họ sợ mình, nghĩ thầm có thắng mẹ góa con côi cũng chẳng hay ho nên không thèm chấp, nhưng nghe giọng điệu bà ta xem ra thiếu niên này cũng biết Kim Cương Chỉ. Môn công phu này bần tăng khổ luyện mười lăm năm mới được ba thành, vậy đứa con nít này có lý nào hiểu được? Bần tăng liền nói đồng một câu: Hôm nay ta để cho các ngươi đi, về sau thì nói năng nên cẩn thận một chút!”

“Thiếu phụ đó vẫn không nhìn bần tăng, quay lại bảo con: Thúc thúc đấy nói phải đó, về sau con nói năng nên cẩn thận một chút. Nếu câu chuyện tới đây mà thôi đi thì hai bên đều không mất thể diện. Khốn nỗi thời đó bần tăng đang độ trẻ tuổi hung hăng, kéo ngựa sang bên đường nhường cho thiếu phụ đi trước, đến lúc cậu bé vừa vỗ lừa cho cất bước, bần tăng giơ roi quất vào mông một cái và cười vang lên bảo: Chạy cho nhanh nào! Cây roi ngựa còn cách mông lừa độ chừng một thước, bỗng nghe véo một tiếng, cậu bé quay lại giơ ngón tay, chỉ lực phóng ra đánh chiếc roi của bần tăng bay vụt lên trời. Chỉ một chiêu khiến bần tăng sợ đến đờ đẫn cả người, chỉ lực của y thật ghê gớm hơn nhiều.”

“Lại nghe thiếu phụ kia nói: Đã trót ra tay thì phải kết thúc đi thôi. Thiếu niên kia đáp: Vâng! Y ghìm con lừa đốm quay lại xông vào. Bần tăng vung tay trái toan ra chiêu Lan Vân Thủ, đột nhiên nghe soẹt một tiếng tay y đã phóng ra một chỉ, bên trái ngực bần tăng đau nhói, kình lực toàn thân mất hết.”

Hoàng Mi tăng nói đến đây chầm chậm cởi tăng bào để lộ bộ ngực xương xẩu, thấy bên trái ngay chỗ trái tim có một cái lỗ sâu chừng một tấc. Cái lỗ đó tuy đã thành sẹo rồi nhưng vẫn có thể tưởng tượng vết thương năm xưa nặng biết chừng nào. Có điều ai nấy kinh ngạc là vết thương đó thủng vào sâu đến trái tim mà nhà sư vẫn không chết, còn sống được mãi tới ngày nay.

Hoàng Mi tăng chỉ vào ngực bên phải nói: “Các vị xem đây.” Mọi người thấy nơi đó phập phồng mới hay ông ta vốn có dị tướng, trái tim không nằm bên trái mà lại nằm bên phải, vì thế mà năm xưa thoát chết.

Hoàng Mi tăng xốc lại áo, thắt lại đai lưng rồi nói tiếp: “Tâm tạng nằm lệch về bên phải như thế, thực là hàng vạn người không có một. Cậu bé thấy dùng chỉ lực đánh trúng trái tim mà bần tăng vẫn không chết, vội nhảy lùi lại một bước, sắc mặt lộ vẻ kinh dị. Bần tăng nhìn lồng ngực máu cứ ồng ộc tuôn ra, cho là tính mạng không giữ được nữa nên chẳng còn kiêng nể, cất tiếng mắng tràn: Thằng giặc con kia! Mi bảo mi biết sử dụng Kim Cương Chỉ, hừ hừ, Kim Cương Chỉ của Đạt Ma hạ viện, có bao giờ đánh người đến chảy máu mà vẫn không giết được người. Thủ pháp của ngươi sai bét đâu có phải là Kim Cương Chỉ? Cậu bé nhảy lại trước mặt, toan đánh tiếp một chỉ. Lúc đó thì bần tăng hoàn toàn không còn chống cự gì được nữa, chỉ có cách bó tay đợi chết. Không ngờ thiếu phụ lại cầm roi ngựa vung ra, quấn chặt lấy cánh tay cậu bé. Trong lúc mê man, bần tăng còn nghe văng vắng tiếng thiếu phụ mắng con: Họ Mộ Dung đất Cô Tô làm gì có người nào vô dụng thế? Kim Cương Chỉ của mi đã không học được tới nơi nên không giết được y, ta sẽ phạt mi trong bảy ngày… Nghe đang dở câu thì bần tăng ngất đi không biết gì nữa, chẳng hiểu bà ta phạt con trong bảy ngày phải làm gì.

Thôi Bách Tuyền run run hỏi: “Đại… đại sư, về sau… về sau ngài có gặp lại họ không?” Hoàng Mi tăng đáp: “Nói ra càng thêm xấu hổ. Từ lúc bần tăng trải qua việc đó đâm ra chán nản, vì thấy đứa bé nhỏ xíu mà bản lĩnh đã cao siêu đến thế, dù mình có luyện võ công đến mấy cũng không tài nào bì kịp. Sau khi lành vết thương, bần tăng rời khỏi địa giới nước Đại Tống tìm đến Đại Lý, nương nhờ ở dưới quyền cai trị của Đoàn hoàng gia. Qua được mấy năm, bần tăng xuất gia đầu Phật. Bao nhiêu năm nay bần tăng tuy đã tham ngộ lẽ tử sinh, không để vinh nhục vào lòng nữa, song đôi khi nhớ lại chuyện năm xưa vẫn còn rùng mình, quả đúng là kinh cung chi điểu.”

Đoàn Dự hỏi: “Đại sư, nếu như thiếu niên đó còn sống đến hôm nay thì cũng phải trên dưới sáu mươi rồi, có phải y là Mộ Dung Bác chăng?”

Hoàng Mi tăng lắc đầu: “Nói ra thật là hổ thẹn, lão nạp cũng không biết nữa. Thực ra chỉ lực của cậu bé đó có phải Kim Cương Chỉ hay không, ta cũng đâu có nhìn rõ, nhưng xem chừng ra tay không giống hẳn. Thế nhưng phải hay không thì cũng thật là lợi hại, thật là ghê gớm …”.

Mọi người ai nấy lặng thinh, lòng khinh thị Thôi Bách Tuyền giảm đi quá nửa, nghĩ thầm võ công cao siêu như Hoàng Mi tăng mà còn úy cả Cô Tô Mộ Dung đến thế, Thôi Bách Tuyền có sợ thất thần thì cũng bình thường.

Thôi Bách Tuyền nói: “Hoàng Mi đại sư thân phận cao như thế mà chuyện ngày xưa còn không giấu diếm chút nào, họ Thôi này có đáng gì đâu mà còn sợ xấu mặt? Tại hạ vốn dĩ muốn đem chuyện trà trộn vào Trấn Nam Vương phủ nói rõ ngọn ngành cho bệ hạ và vương gia, nơi đây cũng chẳng có ai người ngoài, vậy tại hạ xin thuật lại để các vị cùng rõ.” Y nói mấy câu đó rồi, tâm tình khích động, cổ khô miệng đắng cầm chén trà lên uống ực một cái cạn sạch, lại cầm luôn cả chén của Quá Ngạn Chi uống luôn rồi mới tiếp tục: “Chuyện… chuyện này của tôi, là… là đã mười tám năm rồi …” Y nói tới đây tự nhiên nhìn ra ngoài cửa sổ.

Thôi Bách Tuyền định thần rồi nói tiếp: “Ở phủ Nam Dương, có một thổ hào họ Sái trọc phú bất nhân, hiếp đáp dân lành. Kha sư ca của tôi có một người bạn bị y hãm hại chết cả toàn gia,” Quá Ngạn Chi hỏi lại: “Sư thúc nói đến tên tặc tử Sái Khánh Đồ phải không?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đúng! Sư phụ ngươi mỗi khi nói đến Sái Khánh Đồ vẫn thường nghiến răng hậm hực, tuy có làm đơn kiện mấy lần đều bị họ Sái đem tiền đút lót ỉm đi. Nếu như sư phụ ngươi xách nhuyễn tiến đến giết gã đi thì thật dễ như thổi tro trong bếp. Khổ nỗi trên giang hồ thì ông ta anh hùng khí khái, nhưng ở quê hương bản quán có nhà có cửa không dám làm chuyện gì phạm pháp. Còn Thôi mỗ thì khác, trộm gà bắt chó, bài bạc trai gái, giết người phóng hỏa chuyện gì cũng làm. Đêm đó Thôi mỗ nóng tiết, mò vào nhà tên Sái Khánh Đồ, giết một hơi hơn ba chục mạng.”

“Tôi từ cửa chính giết vào đến tận hoa viên đằng sau, đến nô tì đầy tớ cũng không tha. Đến giữa vườn thấy một căn lều nhỏ trên có ánh đèn chiếu ra. Tôi chạy lên lầu, đá tung cửa vào thì ra đó là một thư phòng, bốn bề chung quanh đầy những kệ trên để toàn là sách vở, một đôi nam nữ đang ngồi đọc sách ở bàn.”

“Đôi nam nữ đó chừng trên dưới bốn mươi, tướng mạo tuấn nhã, ăn mặc theo lối thư sinh. Người đàn bà tuổi trông trẻ hơn, quay lưng lại không nhìn rõ mặt nhưng bà ta mặc áo mỏng mầu lục nhạt, dưới ánh đèn lấp lánh trông rất thanh nhã, con mẹ nó chứ …” Thôi Bách Tuyền vốn dĩ nói năng rất văn hoa, trái ngược hẳn với hành vi trong lúc bình thường. Không ngờ bây giờ lại đột nhiên ra vòng một câu chửi tục, mọi người đều lấy làm ngạc nhiên. Y không để ý, tiếp tục kể: “Tôi giết một hơi ba mươi mấy người, càng lúc càng say máu, trông thấy đôi trai gái chó má này, con mẹ nó chứ, xem ra có điều khác lạ. Trong nhà Sái Khánh Đồ toàn là một giống thô lỗ hung dữ, sao lại lọt vào một đôi nam thanh nữ tú này? Trông họ có khác gì Đường Minh Hoàng với Dương quí phi trong tuồng hát? Tôi đứng ngẩn người ra nhìn hồi lâu, không muốn ra tay hạ sát. Bỗng nghe người đàn ông nói: Nương tử, từ Qui Muội đến Võ Vương, hình như không theo thứ tự này.”

Đoàn Dự nghe nói “từ Qui Muội đến Võ Vương” nghĩ thầm: “Cái gì mà Qui Muội? Võ Vương?” Chàng suy nghĩ hiểu ngay: “À, thì ra là từ Qui Muội đến Vô Vọng, người đàn ông này nói về Kinh Dịch”, trong lòng liền phấn khởi hẳn lên.

Lại nghe Thôi Bách Tuyền nói tiếp: “Người đàn bà trầm ngâm rồi nói: Nếu như từ hướng đông bắc đi chéo xuống Đại Ca, rồi chuyển qua Tỉ Tỉ, chàng nghĩ đi thế có thông hay không?”. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hừ, Đại Ca, Tỉ Tỉ là sao? Chắc là Đại Quá và Ký Tế”. Bỗng chàng giật mình sửng sốt: Thì ra người đàn bà nói về bộ pháp trong Lăng Ba Vi Bộ, có điều vị trí hơi sai không hoàn toàn đúng hẳn. Không lẽ người đàn bà này với thần tiên tỉ tỉ trong động núi kia có liên quan?

Thôi Bách Tuyền nói tiếp: “Tôi nghe hai vợ chồng bàn tán không ngừng, gì mà Ô Qui Muội Tử, Đại Cữu Tử, Tiểu Tỉ Tỉ càng nghe càng chán nên lớn tiếng quát: Hai đứa cẩu nam nữ kia, con bà ngươi chứ, có mau cút ra không nào. Không ngờ hai người đó dường như giả điếc, không nghe ta nói gì, vẫn chăm chăm nhìn vào quyển sách. Người đàn bà nhỏ nhẹ nói: Từ chỗ này đến nhà tỉ tỉ cả thảy chín bước, không làm cách nào đi được. Tôi liền quát lên: Đi.. đi xuống cõi âm để gặp ông tổ mười tám đời nhà mi à? Dứt lời tôi toan nhảy đến, thì đột nhiên người đàn ông vỗ tay cười nói: Hay lắm, ông bà là khôn, mười tám đời, ồ, hai lần chín mười tám có thể chuyển qua vị trí khôn được. Thế là bước này nghĩ ra rồi! Y thuận tay cầm chiếc bàn toán trên bàn, không biết làm cách nào ba con toán đột nhiên bắn ra. Tôi cảm thấy trước ngực đau nhói, người mình như bị đóng đinh xuống, không nhúc nhích được nữa.”

“Hai người đó không ngó ngàng gì đến tôi, vẫn tiếp tục đàm luận chuyện tiểu ca ca tiểu súc sinh, còn tôi trong bụng sợ hãi không biết chừng nào. Tại hạ có cái hiệu là Kim Toán Bàn, luôn luôn đem theo trong người một cái bàn toán đúc bằng vàng, bên trong có giấu cơ quan, bảy mươi bảy con toán muốn lúc nào là có thể bắn ra lúc ấy. Còn cái bàn toán trên bàn kia làm bằng gỗ trông thật bình thường, mấy thanh ngang làm bằng tre, hiển nhiên y dùng nội lực chấn gãy những thanh này rồi bắn con toán ra cũng dùng nội lực, công phu đó quả con mẹ nó cao minh thật!”

“Đôi trai gái kia đàm luận càng hứng thú bao nhiêu thì tôi càng sợ hãi bấy nhiêu. Tôi ở trong nhà này giết hơn ba chục mạng người gây ra một vụ đại huyết án vậy mà đứng trơ trơ nơi đây, không nhúc nhích gì được, nói cũng không nói được. Đã đành giết người thì thường mạng, có chết cũng chẳng oan nhưng chuyện vỡ lở thì thể nào cũng liên lụy đến Kha sư huynh. Bị cầm chân hàng hai trống canh thật là cơ cực, cơ cực hơn cả hai chục năm chịu khổ hình. Mãi đến lúc bốn bề xao xác tiếng gà gáy, người đàn ông bấy giờ mới cười nói: Nương tử, hôm nay nghĩ chưa ra mấy bước kế tiếp, thôi mình đi chứ? Người đàn bà nói: Vị Kim toán bàn Thôi lão sư giúp chàng nghĩ ra được một bước thật kỳ diệu, mình phải tạ ơn y cái gì mới được. Tôi vừa mừng vừa sợ, không hiểu sao họ lại biết cả tính danh mình. Người đàn ông nói: Đã thế thì để cho y sống thêm mấy năm nữa. Lần sau gặp ta sẽ kết liễu tính mạng y. Y nói rồi cầm cuốn sách lên, tay trái đưa về sau phất nhẹ sau lưng tôi giải khai huyệt đạo. Tiếp theo đôi trai gái đó nhảy qua cửa sổ đi mất. Tôi cúi đầu xuống nhìn thì thấy vạt áo trước ngực mình bị thủng ba chỗ, ba con toán lặn vào song song một hàng và phân khoảng rất đều, tưởng lấy thước đo mà đặt vào chưa chắc đã đúng được thể. Đây các vị thử xem!” Nói xong Thôi Bách Tuyền liền cởi áo ra.

Mọi người trông thấy đều không nhịn cười được. Hai con toán gắn chặt trên hai đầu vú y, ngay chính giữa có thêm một con khác, không hiểu sao y không tìm cách lấy ra. Thôi Bách Tuyền lắc đầu, cài lại khuy áo rồi nói tiếp: “Ba con toán lặn sâu vào trong da người thật khổ cực không gì bằng. Tôi định dùng dao nhọn khoét lấy ra nhưng đây là những huyệt đạo, chỉ động tới một chút là ngất xỉu ngay tức khắc, mà phải lâu đến hàng hai giờ chưa tỉnh lại được. Còn lấy giũa hay giấy nhám mà mài dần thì cũng đau đến phải la làng. Tội nghiệt này chẳng khác gì oan hồn ám ảnh suốt đời. Mỗi khi thời tiết thay đổi, mưa gió thất thường chỗ đó lại càng đau nhức không thể nào chịu được, thật không khác gì rùa bị lột mai, tiên sư nó!” Mọi người nghe y nói vừa kinh hãi, vừa tức cười.

Thôi Bách Tuyền thở dài một tiếng nói: “Gã đó nói là lần sau gặp lại tôi sẽ lấy mạng. Mạng mình mình phải giữ, đời nào để cho y lấy? Nhưng nếu vô phúc chạm trán y thì đừng hòng sống sót. Muốn bảo toàn tính mạng chỉ còn nước duy nhất là đừng để cho hắn bắt gặp, tôi cao bay xa chạy trốn vào trong phủ Trấn Nam Vương. Tôi tính trong bụng, nước Đại Lý ở tận thiên nam hẻo lánh, những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên chẳng mấy khi đến đây, vạn nhất mà quân chó đẻ đó có đến tìm, thì nơi đây còn có Đoàn vương gia, Cao hầu gia và Chử bằng hữu, bao nhiêu tay cao thủ chẳng lẽ cứ giương mắt ra mà nhìn y giết tôi sao? Ba con toán oan nghiệt này khảm vào trong người tôi, mỗi khi đau lên chỉ còn cách uống rượu say bí tỉ mê man cho quên đi mà thôi, bao nhiêu hùng tâm tráng chí, truyền tông tiếp đại vứt mẹ nó xuống sông xuống biển hết.”

Mọi người đều nghĩ rằng cuộc tao ngộ của Hoàng Mi tăng và Thôi Bách Tuyền đại khái giống nhau, một người xuất gia tu hành, một người mai danh ẩn tích.

Đoàn Dự thốt nhiên hỏi: “Hoắc tiên sinh, làm sao ông biết hai vợ chồng đó là họ Mộ Dung đất Cô Tô?” Chàng quen miệng gọi “Hoắc tiên sinh” nhất thời chưa sửa đổi được.

Thôi Bách Tuyền gãi đầu nói: “Đây là do sư huynh tôi đoán chừng vậy thôi. Tôi bị trúng ba quân bàn toán rồi liền quay về bàn với sư huynh, ông ta nói trong võ lâm chỉ có một họ Mộ Dung đất Cô Tô là có cái ngón gậy ông đập lưng ông đó thôi. Tôi quen dùng quân bàn toán đả thương người khác, y lại dùng nó đánh tôi. Họ Mộ Dung đất Cô Tô nhân số không đông, con mẹ nó chứ, cũng may nhà này ít yêu ma quỷ quái, chứ nếu như con đàn cháu đống thì trên giang hồ còn ai mà sống sốt, chắc chỉ còn mình họ Mộ Dung thôi.” Câu nói của y thật là bất kính đối với họ Đoàn nước Đại Lý nhưng cũng không ai để ý tới. Thôi Bách Tuyền lại tiếp: “Trong nhà này nổi danh thì chỉ có Mộ Dung Bác, xem ra tên thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi dùng Kim Cương Chỉ đả thương vị đại sư này bốn mươi ba năm trước, cùng gã trung niên bốn mươi tuổi ném con toán vào tôi mười tám năm trước, cũng là Mộ Dung Bác đấy thôi. Có ngờ đâu sư ca của tôi lại chết dưới tay y. Ngạn Chi, sư phụ ngươi làm sao lại gây chuyện với y vậy?”

Quá Ngạn Chi đáp: “Sư phụ cháu trước nay chỉ lo làm ăn, vẫn thường bảo là hòa khí sinh tiền, chẳng bao giờ mích lòng ai nên quyết không thể nào gây sự với họ Mộ Dung đất Cô Tô được. Mình ở Nam Dương, họ ở Tô Châu hai bên cách nhau đến mười vạn tám ngàn dặm.”

Thôi Bách Tuyền nói: “Nếu thế ắt hẳn Mộ Dung Bác thấy ta làm con rùa đen rụt đầu rụt cổ kiếm không ra nên mới tra hỏi sư phụ ngươi. Sư phụ ngươi có nghĩa khí thà chết chứ không tiết lộ ta đang trốn ở Đại Lý, nên mới trúng phải độc thủ. Kha đại ca, huynh chết vì đệ rồi.” Nói xong nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, nghẹn ngào nghiến răng: “Mộ Dung Bác, Mộ Dung Bác, ta nhất quyết lột da ngươi.” Y khóc mấy tiếng rồi quay sang Đoàn Chính Thuần nói: “Đoàn vương gia! Sự tình tôi đã bộc bạch cả rồi. Bao nhiêu năm nay được vương gia che chở, không lột mặt nạ tôi, Thôi mỗ thật là cảm kích, không biết cách gì báo đáp. Thôi chúng tôi đi Cô Tô đây!” Đoàn Chính Thuần lạ lùng hỏi: “Ngươi đi Cô Tô ư?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Đúng thế! Sư huynh với tôi tình khác nào ruột thịt, cái thù giết anh nhất định phải báo, Ngạn Chi, ta đi thôi!” Nói xong y quay sang mọi người với một cái thật sâu rồi đi thẳng. Quá Ngạn Chi cũng chắp tay chào, đi theo y.

Việc xảy ra hoàn toàn không ai ngờ nổi, thấy y sợ sệt Cô Tô Mộ Dung Bác là thế nhưng vì mối thù sư huynh qua quyết ra đi chịu chết không chút rụt rè, ai nấy trong lòng đều kính phục ngầm. Đoàn Chính Thuần nói: “Hai vị đừng gấp. Quá huynh từ xa tới đây, đêm nay nghỉ lại đây, sáng mai đi cũng không muộn.” Thôi Bách Tuyền dừng chân quay lại nói: “Vâng! Vương gia bảo như thế, thôi thì chúng tôi xin thêm một bữa cơm vậy. Ngạn Chi, mình đi uống rượu.” Y dẫn Ngạn Chi ra ngoài.

Bảo Định Đế nói với Đoàn Chính Thuần: “Thuần đệ, sáng mai đệ cùng Hoa Tư đồ, Phạm Tư mã, Ba Tư không đến chùa Thân Giới ở châu Lục Lương, thay ta làm lễ trước linh sàng Huyền Bi đại sư,” Đoàn Chính Thuần đáp lời còn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai người phục xuống bái tạ. Bảo Định Đế lại dặn Đoàn Chính Thuần: “Sau khi bái kiến Ngũ Diệp phương trượng rồi, hiền đệ ở lại chùa Thân Giới chờ những vị cao tăng Thiếu Lâm đến, nhờ họ trình phong thư của ta đến phương trượng Huyền Từ đại sư.” Ông quay sang nói với Ba Thiên Thạch: “Viết hai phong thư, một lá gửi cho phương trượng chùa Thiếu Lâm, một lá gửi cho phương trượng chùa Thân Giới rồi sửa soạn hai món lễ vật.” Ba Thiên Thạch khom lưng phụng chỉ. Bảo Định Đế lại nói: “Ngươi mời hai vị đại sư chùa Thiếu Lâm đi nghỉ.”

Ba Thiên Thạch dẫn Tuệ Chân, Tuệ Quan hai nhà sư đi khỏi rồi, Bảo Định Đế mới nói: “Họ Đoàn Đại Lý nhà ta vốn từ võ lâm Trung Nguyên mà ra, mấy trăm năm qua không hề vong bản. Bằng hữu võ lâm Trung Nguyên đến Đại Lý chúng ta đều lấy lễ mà tiếp đãi. Tổ tiên họ Đoàn đã di huấn nghiêm cấm con cháu tham dự vào việc tư thù chém giết của võ lâm. Cái chết của Huyền Bi đại sư, tuy họ Đoàn chúng ta không thể thõng tay đứng nhìn, nhưng việc báo cừu thì phải do phái Thiếu Lâm tự lo liệu lấy, chúng ta không nhúng tay vào.” Đoàn Chính Thuần nói: “Đệ hiểu rồi.”

Hoàng Mi từng nói: “Không dễ gì mà biết rõ chuyện bên trong được. Chúng ta không thể không tương trợ phái Thiếu Lâm nhưng không nên xen vào chuyện thù hận chém giết. Họ Mộ Dung tuy người không đông nhưng là một thế gia trong võ lâm, bạn bè bộ thuộc không phải là ít. Phái Thiếu Lâm và họ Mộ Dung hai bên ngang nhiên kình chống là chuyện lớn, gió tanh mưa máu, sát hại không biết bao nhiêu nhân mạng. Nước Đại Lý ta mấy năm nay quốc thái dân an, nếu như chúng ta xen vào vòng tranh chấp, sau này tất có những nhân vật võ lâm ở Trung Nguyên tìm đến Đại Lý khiêu khích sinh sự mãi mãi, không bao giờ dứt được.”

Bảo Định Đế nói: “Đại sư nói chí phải. Chúng ta một mặt giữ chính đạo mà hành sự, mặt khác cố gắng khiêm nhường nhẫn nhịn. Thuần đệ, phải nhớ rõ bốn chữ Trì Chính Nhẫn Nhượng.” Đoàn Chính Thuần khom lưng lĩnh ý.

Hoàng Mi tăng nói: “Ta từ biệt hai vị hiền đệ, bây giờ còn phải trở lại Vạn Kiếp Cốc một lần nữa.” Mọi người ai nấy ngạc nhiên. Bảo Định Đế hỏi: “Sư huynh đến Vạn Kiếp Cốc có chuyện gì? Có cần mang theo ai không?” Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Đến cả hai tiểu đồ ta cũng không cho theo. Hai vị hiền đệ đoán thử xem, ta đến Vạn Kiếp Cốc để làm gì?”. Bảo Định Đế và Đoàn Chính Thuần thấy ông ta cười khà khà, thầm nghĩ chắc việc này không có gì nguy hiểm, nhưng không đoán ra được. Hoàng Mi tăng quay sang nói với Đoàn Dự: “Hiền điệt chắc là đoán ra.”

Đoàn Dự ngạc nhiên: “Tại sao bá phụ và gia gia đoán không ra mà mình lại đoán ra là sao?”. Chàng suy nghĩ hiểu ngay, cười nói: “Đại sư muốn đến nghiên cứu vi kỳ.” Hoàng Mi tăng cười ha hả nói: “Đúng đó! Ta thắng được thái tử Diên Khánh ván cờ đó quả thực kỳ lạ. Y đang thắng thế bỗng nhiên tự bịt một mắt là cớ gì?” Đoàn Dự lắc đầu: “Tiểu điệt cũng không hiểu nổi” Hoàng Mi tăng nói: “Hoặc giả trong thạch thất hay phiến đá có cái gì bất thường chăng? Lão nạp phải tới xem mới được.” Người mê cờ mỗi khi xong một ván, dù thua dù được bao giờ cũng suy ngẫm lại, chỗ nào mình sơ sểnh mất nước, chỗ nào chậm chỗ nào nhanh phải hiểu rõ từng nước mới thấy an tâm. Hoàng Mi tăng thắng ván cờ đó thật lạ kỳ, nếu không hiểu được lý do ắt sẽ suốt đời thắc mắc.

Kế đó Bảo Định Đế khởi giá hồi cung, Hoàng Mi tăng cũng dặn hai người học trò quay về Niêm Hoa Tự, một mình quay lại Vạn Kiếp Cốc, sắp lại chiến đá xanh đã bị Đoàn Diên Khánh đập vỡ nát, nghiệm lại từng nước từ đầu đến cuối.

Đoàn Chính Thuần tiễn đưa Bảo Định Đế và Hoàng Mi tăng đi rồi, quay về nội thất định tâm sự với vương phi. Ngờ đâu Đao Bạch Phượng vẫn còn đang tức tối chuyện ông có thêm một đứa con riêng là Chung Linh nên đóng cửa không cho vào. Đoàn Chính Thuần đứng ngoài năn nỉ một hồi lâu, Đao Bạch Phượng mới nói vọng ra: “Nếu ông không đi nơi khác, tôi lập tức quay về Ngọc Hư Quan.”

Đoàn Chính Thuần không biết làm gì hơn đành quay về thư phòng ngồi ngơ ngẩn, nghĩ tới Chung Linh bị Vân Trung Hạc bắt đi, chẳng hiểu chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần đuổi theo cứu được hay không, bọn Chử Vạn Lý đi nghe ngóng tin tức cũng chưa thấy quay về bẩm báo, trong bụng thắc thỏm không yên. Ông lấy trong túi ra chiếc hộp vàng của Cam Bảo Bảo xem kỹ càng, nhìn mấy hàng chữ nhỏ như đầu ruồi nàng viết, nhớ lại cảnh mười bảy năm xưa phượng đảo loan điên, lại tưởng đến nàng chờ đợi mỏi mòn không thấy mình quay lại nên đành phải lấy Chung Vạn Cừu, trong lòng thật xót xa: “Khi đó nàng mới chỉ là một cô gái mười bảy tuổi, cha và dì ghẻ chẳng tử tế gì, trong bụng lại mang giọt máu của ta, nàng còn làm gì hơn được?”

Ông càng nghĩ càng đau lòng, đột nhiên nghĩ đến khi trên bàn tiệc Đao Bạch Phượng nói với Hoa Tư đồ: “Cái hầm đó thông vào nơi ở của Chung phu nhân, nếu không lấp đi ắt có một vị nhân huynh trong đám mình tối nào cũng theo đó mà lẻn vào”. Vương gia liền gọi một tên thân binh, sai y bí mật đi triệu hai gia tướng thân tín của Hoa Tư đồ, không được tiết lộ phong thanh.

***

Đoàn Dự ngồi trong thư phòng, trong lòng miên man nghĩ đến những kỳ sự mình gặp phải trong mấy ngày qua, cùng Mộc Uyển Thanh đính ước phu thê, ngờ đâu nàng lại chính là em gái mình. Chung Linh cũng lại là em mình nốt, bây giờ bị Vân Trung Hạc bắt đi không biết có thoát hiểm hay không, trong lòng thật là bồn chồn. Chàng nghĩ tới vợ chồng Mộ Dung Bác nghiên cứu Lăng Ba Vi Bộ chẳng hiểu có dây mơ rễ má gì đến thần tiên tỉ tỉ trong hang núi hay không? Không lẽ hai người đó là đệ tử phái Tiêu Dao? Thần tiên tỉ tỉ đã dặn ta phải giết sạch bọn họ, nhưng bảo mình đi giết hai người võ công cao cường như thế, thật đúng là trò cười.

Chàng nghĩ đến những ngày bị giam trong thạch thất, không làm trò loạn luân, thật là hú vía. Bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ tập đã thuần thục hơn nhiều, nhưng công phu thần tiên tỉ tỉ dặn phải luyện thì chểnh mảng đã lâu. Nghĩ thế chàng bèn thò tay vào túi định đem quyển trục ra xem, tay vừa chạm vào đã thấy không xong, vội vàng lôi ra, kêu luôn mồm: “Chết rồi! Trời ơi!” Quyển trục kia giờ đây chỉ còn là những mẩu giẻ rách quấn lại thành một túm, có còn gì nữa đâu. Những miếng giẻ đó tối đa chỉ còn được hai ba phần, hình vẽ và chữ nghĩa không đọc được nữa. Đoàn Dự tưởng như rơi xuống hầm nước đá, trong bụng tự hỏi: “Sao lại ra… ra thế này là làm sao?”

Một lúc lâu chàng mới nghĩ ra khi bị người áo xanh nhốt trong nhà đá, trong người nóng không chịu nổi xé rách hết quần áo, sau cùng chạy như người điên tay vẫn rứt áo xé quần, trong cơn mê loạn còn phân biệt đâu là quần áo đâu là quyển trục nên cũng xé vụn vứt lung tung hết cả.

Chàng nhìn những hình người khỏa thân cái thì cụt tay cái thì cụt chân, ngơ ngẩn một hồi nhưng cũng thấy nhẹ gánh nghĩ thầm: “Quyển trục rách mất rồi, thần công của thần tiên tỉ tỉ truyền cho ta nay không sao luyện được nữa, không phải ta không luyện mà là không thể luyện. Cho nên việc giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao không tính đến nữa”. Chàng vơ những mảnh vải rách đó vứt luôn vào trong lò, châm lửa lên đốt thành một đống tro, nghĩ thầm: “Nhìn những hình người khỏa thân trong quyển trục này thật là khinh mạn thần tiên tỉ tỉ, chi bằng thiêu hóa, âu cũng là ý trời”.

Trời đã tối dần, Đoàn Dự đi đến phòng mẫu thân, định chuyện trò với mẹ một lát rồi cùng ăn cơm chiều. Đến trước cửa phòng chỉ thấy cửa đóng chặt, con tì nữ hầu hạ vương phi cười hì hì nói: “Vương phi ngủ rồi, xin công tử sáng mai hãy đến.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chắc là cha ta đang ở trong đó”. Chàng quay mình đi ra định tìm Mộc Uyển Thanh nói chuyện, qua đến một hành lang chợt nghĩ lúc này nên tránh mặt, gặp nhau chỉ càng làm cho nàng thêm đau lòng. Chàng rảnh rỗi không có việc gì làm thuận chân đi ra vườn hoa sau nhà.

Khi bóng đêm đã bao trùm lên vạn vật, chàng đến ngồi trong căn nhà mát bên cạnh hồ nước, nhìn lên vầng trăng non đang mọc ở hướng đông, nghĩ bóng trăng này cũng chiếu vào ngọc bích nơi kiếm hồ trong núi Vô Lượng, một vài giờ nữa trên vách núi sẽ hiện lên thanh trường kiếm ngũ sắc, chỉ vào động phủ nơi có pho tượng thần tiên tỉ tỉ. Chàng còn đang suy nghĩ xuất thần, bỗng nghe ngoài tường có vài tiếng huýt sáo nho nhỏ, ngưng một chút lại có vài tiếng nữa. Nếu trước đây thì chàng có nghe cũng chẳng để tâm, nhưng sau mấy ngày đã thêm lịch duyệt, trong bụng hơi lạ nghĩ thầm: “Chẳng lẽ là ám hiệu của nhân vật giang hồ nào chăng?”

Một lát sau, tiếng huýt sáo lại nổi lên, có một bóng người nhanh nhẹn vụt qua bụi hoa mẫu đơn, chạy đến nhảy lên đầu tường. Đoàn Dự thất thanh kêu lên: “Uyển muội!” Người đó chính là Mộc Uyển Thanh. Chỉ thấy nàng tung mình nhảy lên vọt ra bên ngoài tường.

Đoàn Dự lại gọi: “Uyển muội!” Chàng chạy đến chỗ Mộc Uyển Thanh vừa nhảy qua, nhưng không thể nhảy lên đầu tường được, cửa sau hoa viên ngay bên cạnh đã cài then lại thêm khóa sắt đóng chặt, chỉ đành đứng đó mà réo: “Uyển muội! Uyển muội!”

Mộc Uyển Thanh ở bên ngoài nói lớn: “Huynh còn gọi tôi làm gì? Tôi vĩnh viễn không bao giờ gặp lại huynh, tôi đi theo mẹ tôi đây.” Đoàn Dự vội gọi giật lại: “Muội đừng đi, nhất định đừng đi.”

Một lát sau bên ngoài tường có tiếng một người đàn bà giọng già dặn hơn: “Uyển nhi! Thôi mình đi!” Không nghe tiếng Mộc Uyển Thanh trả lời, Đoàn Dự đoán chừng người đàn bà kia là Tần Hồng Miên bèn kêu: “Tần a di, xin cả hai người vào đây.” Tần Hồng Miên hỏi lại: “Vào làm gì? Để cho mẹ ngươi giết ta hay sao?”

Đoàn Dự cứng họng, vừa ra sức đẩy cửa hoa viên vừa kêu: “Uyển muội! Muội đừng đi, chúng mình thủng thẳng tìm cách.” Mộc Uyển Thanh nói: “Còn làm gì được nữa? Ông trời cũng không làm gì được.” Một lát sau nàng đột nhiên kêu lên: “Muội có cách rồi, huynh có dám làm không?” Đoàn Dự mừng rỡ đáp: “Hay lắm! Cách nào thế?”

Chỉ nghe lách cách mấy tiếng, một thanh đao xanh biếc luồn vào khe cửa chặt đứt luôn cái khóa, tiếp theo hai tiếng bình bình, cửa hoa viên mở toang ra. Mộc Uyển Thanh đứng ngay đó, tay cầm một thanh Tu la đao, nói: “Huynh đưa cổ ra cho muội chém, sau đó muội sẽ tự sát ngay, hai đứa mình đầu thai, kiếp sau không làm anh em nữa, sẽ thành vợ thành chồng.”

Đoàn Dự sợ chết điếng, run run nói: “Cái đó… cái đó không được đâu!” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Muội làm được, sao huynh lại không làm được? Hay là chàng muốn giết em trước rồi tự sát sau?” Nói xong quay ngược thanh Tu la đao, đưa chuôi đao cho Đoàn Dự. Đoàn Dự hoảng hốt lùi lại hai bước nói: “Không đâu! Không đâu!”

Mộc Uyển Thanh từ từ quay lại cầm lấy tay mẹ, bước đi, Đoàn Dự đứng như trời trồng, ngẩn ngơ nhìn theo bóng hai mẹ con lẫn dần vào bóng tối. Mặt trăng từ từ lên cao, chàng vẫn còn đứng chết lặng.

Đột nhiên sau cổ bị ai nắm chặt, thân hình bị xách bay vọt lên, có tiếng cười bên tai: “Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn làm sư phụ ta thì là sư phụ chết, còn muốn làm đồ đệ ta thì là đồ đệ sống.” Chính là giọng nói của Nam Hải Ngạc Thần.

***

Đoàn Chính Thuần dẫn hai gia tướng đắc lực của Hoa Hách Cấn giục ngựa chạy đến Vạn Kiếp Cốc. Hai tên gia tướng đó vốn có đi giúp đào đường hầm nên biết chỗ, liền vạch những lùm cây che lối vào. Một tên nói: “Tiểu nhân xin dẫn đường”

Đoàn Chính Thuần ngăn lại: “Không cần, hai người ngoài này đợi ta.” Ông đang định chui vào hầm, bỗng thấy ở phía tây đằng sau một cây to có bóng người thấp thoáng, thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Đoàn Chính Thuần lập tức nhảy theo, quát nhỏ: “Ai đó?”

Đằng sau gốc cây có tiếng khẽ đáp lại: “Bấm vương gia, Thôi Bách Tuyền đây.”Y nhẹ nhàng chui ra. Đoàn Chính Thuần ngạc nhiên hỏi: “Thôi huynh đến đây làm gì thế?” Thôi Bách Tuyền đáp: “Tiểu nhân nghe nói thiên kim của vương gia bị gian nhân bắt cóc nên cùng với sư điệt chia nhau đi tìm. Tiểu nhân trên đường có thấy đôi chút manh mối, đoán rằng tiểu thư chạy về phía này nhưng kẻ gian kia vẫn đuổi theo chưa chịu buông tha”. Đoàn Chính Thuần lập tức hiểu ra: “Gã Thôi Bách Tuyền này ân oán phân minh, y trốn trong nhà ta bấy nhiêu năm, chịu ơn chưa kịp báo đáp, lần này đi kiếm Cô Tô Mộ Dung báo thù, quyết ý chết dưới tay người. Y muốn giúp ta kiếm lại được Linh nhi, báo đáp cái ơn ta dung dưỡng y lâu nay”. Ông liền cúi rạp người với một cái nói: “Cao nghĩa của Thôi huynh, tại hạ cảm kích khôn cùng.” Thôi Bách Tuyền đáp: “Tiểu nhân đến bên kia tìm kiếm.” Y lắc người một cái đã lẫn vào trong rừng cây, khinh công cũng vào loại khá.

Đoàn Chính Thuần thấy hơi yên trong bụng, nghĩ thầm: “Võ công của Thôi huynh không kém gì bọn Vạn Lý, Đan Thần”. Ông quay lại cửa địa đạo tiến vào hang.

Bò được một lát, địa đạo chia làm hai nhánh. Ông đã hỏi kỹ hai tên gia tướng, biết là đường hầm phía đông bắc thông vào thạch thất giam giữ Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh, còn phía tây bắc thông vào phòng ngủ của Chung phu nhân nên liền theo phía này bò tới. Đi đến hết cái hang, ông nhè nhẹ nâng phiến gỗ đậy nắp lên mấy tấc thấy ánh sáng chiếu vào, nhìn qua khe hở thấy trên mặt đất có hai bàn chân đi giày thêu màu tím nhạt.

Đoàn Chính Thuần trong lòng chấn động, đẩy mạnh gỗ lên thêm chút nữa, nghe tiếng Cam Bảo Bảo thở dài, một lát sau mới buồn bã nói: “Nếu như chàng chẳng phải vương gia, chỉ là một người thợ cày thợ săn, hay dẫu cho có là một tên tiểu tặc trộm gà bắt chó hay cường đạo đốt nhà cướp của, thiếp cũng nguyện… nguyện theo chàng suốt đời …” Mấy giọt lệ lã chã rơi xuống mặt ván bên cạnh đôi giày hoa. Đoàn Chính Thuần nhiệt huyết dâng lên ngực, nghĩ thầm: “Ta chẳng thèm làm vương gia, chỉ mong làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo để nàng được mãi mãi bên ta. Cái chức vương gia nào có đáng gì?”.

Lại nghe Cam Bảo Bảo nói tiếp: “Kiếp này thiếp không được gặp lại chàng một lần nữa hay sao? Một lần không được ư? Thiếp… thiếp chết đi cho xong… Thuần ca! Thuần ca… chàng có nhớ đến thiếp không?” Mấy tiếng gọi thiết tha đó nghe thật não lòng não dạ. Đoàn Chính Thuần nhịn không nổi gọi khẽ: “Bảo Bảo, Bảo Bảo nàng ơi!”

Cam Bảo Bảo hoảng hốt, đứng phắt dậy nhưng rồi lập tức thở dài, tự nói một mình: “Thiếp lại nằm mơ nữa rồi. Có phải chàng gọi thiếp trong mộng chăng?”

Đoàn Chính Thuần nói khẽ: “Bảo Bảo! Chính ta gọi nàng đây, ta lúc nào cũng nghĩ đến nàng, cũng nhớ thương nàng.”

Cam Bảo Bảo mừng rỡ ồ lên một tiếng: “Thuần ca! Có thật là chàng đấy không?” Đoàn Chính Thuần mở tấm gỗ lên, chui ra nói nhỏ: “Bảo Bảo, ta đây!” Cam Bảo Bảo đột nhiên thấy Đoàn Chính Thuần, mặt tái mét, chạy tới mấy bước, thân hình lảo đảo. Đoàn Chính Thuần tiến lên ôm chặt lấy bà, Cam Bảo Bảo rùng mình một cái bất tỉnh nhân sự.

Đoàn Chính Thuần vội vàng xoa trên nhân trung, Cam Bảo Bảo từ từ tỉnh lại, thấy mình đang ở trong lòng Đoàn Chính Thuần, ông đang hôn trên má mình, hoan hỉ đến nỗi toàn thân tưởng như tan thành mây khói, đầu óc hoang mang, nói khẽ: “Thuần ca! Thuần ca! Thiếp… thiếp lại nằm mơ nữa rồi!” – Đoàn Chính Thuần ôm chặt thân hình mềm mại của người tình, ghé tai thì thầm: “Bảo Bảo thương, nàng không nằm mơ đâu, chính ta mới đang nằm mơ đó!”

Đột nhiên ở bên ngoài có giọng ồm ồm: “Ai? Ai trong phòng đó? Ta nghe có tiếng đàn ông.” Chính là tiếng của Chung Vạn Cừu. Đoàn Chính Thuần và Cam Bảo Bảo đều hoảng hốt, Cam Bảo Bảo lớn tiếng nói: “Tôi đây! Cái gì mà đàn ông với chẳng đàn bà! Ông lại nói năng bậy bạ nữa rồi.” Đoàn Chính Thuần ghé tai bà nói nhỏ: “Nàng đi theo ta, ta sẽ làm tên tiểu tặc, làm tên cường đạo, không làm vương gia nữa!” Cam Bảo Bảo mừng quá nói nhỏ: “Thiếp sẽ theo chàng làm vợ tên ăn cắp vặt, làm áp trại phu nhân. Rồi có ngày… như thế thật sung sướng.”

Chung Vạn Cừu chưa được vợ đồng ý đâu có dám tùy tiện tiến vào phòng, nhưng trên sóng cửa thấy bóng một người đàn ông thấp thoáng, kêu lớn: “Trong phòng nàng có đàn ông, ta… ta trông thấy rồi.” Y không chờ vợ cho phép, phóng chân đá tung cửa phòng đánh bình một tiếng.

***

Đoàn Dự bị Nam Hải Ngạc Thần chộp sau gáy, nhấc bổng lên lập tức không còn cử động gì được. Bắc Minh thần công của chàng chỉ mới luyện có một đường Thủ Thái Âm Phế Kinh, khi nào huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái động vào huyệt đạo người khác mà đối phương lại vận kình thì mới hút được nội lực người ta, còn lại các huyệt đạo khác đều không dùng được. Chàng đang định há mồm kêu cứu, Nam Hải Ngạc Thần liền giơ tay bịt miệng chàng lại, nhấc lên co giò chạy như bay, đến một nơi hẻo lánh cách xa phủ Trấn Nam Vương mới bỏ xuống, nhưng tay vẫn nắm cổ sợ chàng dùng một bộ pháp quái chiêu đào tẩu.

Đoàn Dự cười gượng: “Thì ra ngươi đổi ý không chịu làm học trò ta nữa mà chịu làm quân đê tiện, làm đồ khốn kiếp.” Nam Hải Ngạc Thần nói: “Ai bảo thế? Ngươi trước hết lạy trả ta tám cái, đuổi ta ra khỏi môn phái không chịu nhận ta làm học trò nữa, sau đó lại lạy ta thêm tám cái, bái ta làm thầy. Chúng ta rành mạch rõ ràng như thế, ta đâu có là quân đê tiện, là đồ khốn kiếp được.” Đoàn Dự bật cười, lắc đầu: “Ta không chịu. Ta lúc này bị ngươi chộp được, không có hơi sức đâu mà chống trả, ngươi cứ giết ta đi.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Hừ, ta đâu có mắc hợm ngươi, lão gia đời nào để người ta lừa mình thành quân đê tiện khốn kiếp được. Ngươi tưởng ta ngu lắm sao?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi thông minh lắm, thật là thông minh.”

Nam Hải Ngạc Thần nghĩ ra diệu kế, chỉ mong hoàn tất thủ tục là có thể biến sư phụ thành học trò được ngay, ngờ đâu đối phương thà chết chứ không chịu dập đầu lạy mười sáu cái, mấy đêm nay suy nghĩ tính toán bây giờ hóa ra công cốc, trong lòng không khỏi hoang mang.

Đoàn Dự hỏi: “Qui củ của phái Nam Hải nhà ngươi, học trò có được giết thầy không?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Đương nhiên là không, chỉ có thầy giết trò chứ làm gì có chuyện trò giết thầy.” Đoàn Dự hỏi tiếp: “Thế thì học trò tuân lệnh thầy hay là thầy tuân lệnh học trò?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Dĩ nhiên là trò phải tuân lệnh thầy, ngươi bái ta làm thầy rồi ta sai gì ngươi phải làm nấy. “ Đoàn Dự cười đáp: “Hiện giờ ngươi đang là học trò ta, ta bảo ngươi đi đoạt tiểu sư nương về ngươi đã làm xong chưa?”

Nam Hải Ngạc Thần nói: “Con mẹ nó, ta đang đánh nhau với Vân lão tứ thì ông già của tiểu sư nương chạy đến, xách tiểu sư nương bỏ chạy.” Đoàn Dự nghe thấy Chung Linh đã thoát khỏi độc thủ của Vân Trung Hạc trong lòng thật vui mừng.

Nam Hải Ngạc Thần nói tiếp: “Về sau ta lại đánh nhau với ông già của tiểu sư nương, y đánh một hồi thì không chịu đánh nữa, tiểu sư nương tự mình chạy đâu mất. Vân lão tứ rủ ta quay lại Vạn Kiếp Cốc giết Chung Vạn Cừu.” Đoàn Dự hỏi: “Sao lại thế?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Việc đó không thể không làm, nếu không thì Nhạc lão nhị không còn ngóc đầu lên được trên giang hồ, ai ai cũng chẳng coi ta ra gì.” Đoàn Dự lạ lùng hỏi lại: “Nói thế là nghĩa làm sao? Vân lão tứ đánh lừa người đó, đừng nghe lời y làm gì.”

Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Không phải, không phải! Vân lão tứ có lòng tốt mới bảo cho ta hay, để ta chỉ cho ngươi đạo lý bên trong. Tiểu cô nương đó là sư nương của ta, vai vế đã hơn ta một bậc rồi, ông già của cô ta phải hơn ta hai bậc, con mẹ nó chứ, Chung Vạn Cừu là cái thá gì mà lại hơn ta đến hai bậc được, không giết y không xong. Vân lão tứ còn bảo, y muốn đến cướp con vợ Chung Vạn Cừu về làm vợ chỉ vì y nghĩ đến tình Tứ Đại Ác Nhân. Y hết sức vì ta, hoàn toàn vì ta, quyết phải làm không kể sống chết.”

Đoàn Dự càng ngạc nhiên hơn hỏi tiếp: “Thế là như thế nào?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Vợ của Chung Vạn Cừu là mẹ của sư nương ta, nghĩa là hơn ta đến hai bậc. Nếu như Vân lão tứ chiếm được mụ làm vợ thì mụ ta sẽ thành em dâu của Nhạc lão nhị này. Con gái của mụ sẽ thấp hơn ta một bậc, trở thành cháu của ta. Ngươi là chồng của điệt nữ ta sẽ thành cháu rể ta, vậy là dưới ta một bậc. Đến khi đó ta gọi ngươi là sư phụ, ngươi lại gọi ta là bá bá, có phải hai chúng ta người nào cũng có vai vế hay chăng? Ha ha! Nghe cũng có lý.”

Đoàn Dự không nhịn được cười ha hả. Nam Hải Ngạc Thần nói: “Thôi mau lên, mau lên! Phải làm cho xong việc này, trên đời này quyết không thể có ai cao hơn Nhạc lão nhị đến hai bậc.” Y lại xách Đoàn Dự chạy như bay về phía Vạn Kiếp Cốc.

***

Đoàn Chính Thuần nghe thấy tiếng Chung Vạn Cừu đá cửa phòng vào, trong đầu chỉ có một ý niệm: “Không nên giết y”, nhẹ nhàng gỡ tay Cam Bảo Bảo ra, chui xuống hầm đóng nắp lại.

Chung Vạn Cừu tay cầm đại đao xông thẳng vào phòng thấy trong đó chỉ có mình Cam Bảo Bảo, vội vàng mở tủ, ngó xuống gầm giường hốc cửa xem xét các nơi, chẳng thấy một người đàn ông nào, đến bóng ma cũng không, trong bụng lạ lùng. Cam Bảo Bảo giận dữ nói: “Ông nghi oan tôi mãi, một đao giết tôi cho xong đi!” Chung Vạn Cừu không kiếm thấy ai, trong bụng mừng không kể xiết vội vàng vứt đại đao đi, cười nịnh: “Phu nhân, chắc là tại tôi hoa mắt, mới rồi uống quá chén đấy mà!” Y vừa nói vừa nhìn ngang nhìn ngửa.

Đột nhiên bên ngoài có tiếng chân người rầm rập, tiếng Chung Linh hoảng hốt kêu lên: “Má má! Má má!” Nàng chạy vụt vào trong phòng, rồi có tiếng Vân Trung Hạc kêu lên: “Ngươi có chạy lên trời ta cũng đuổi lên trời.” Lập tức y chạy theo vào

Chung Linh kêu lên: “Gia gia! Tên ác nhân kia… tên ác nhân kia đuổi bắt con …” Nàng bị Vân Trung Hạc đuổi đến thở không ra hơi, cũng may đang ở trong nhà mình nên nàng thuộc đường, tránh bên đông trốn bên tây, mới chạy kịp vào phòng của mẫu thân. Vân Trung Hạc thấy vợ chồng Chung Vạn Cừu đều ở trong đó, trong bụng mừng lắm, gặp dịp giết Chung Vạn Cừu rồi bắt luôn cả Chung phu nhân lẫn Chung Linh,

Chung Vạn Cừu liên tiếp đánh ra ba chưởng nhưng Vân Trung Hạc né tránh được hết, tiếp tục chạy vòng quanh chiếc bàn đuổi bắt Chung Linh. Y nghĩ thầm: “Bắt con nhãi con điểm huyệt nó trước, sau đó giết cha bắt mẹ, nó mới không chạy thoát được”, Chung Linh kêu lên: “Thằng sếu vườn kia, ngươi còn đuổi theo ta là ta thọc lét người đó.” Vân Trung Hạc ngạc nhiên, kêu lên: “Ngươi dám thọc lét ta ư? Có giỏi thì thử xem nào?” Nói xong lại nhảy chồm tới.

***

Hôm đó Chung Linh bị Vân Trung Hạc ôm đi, nàng cố hết sức giãy giụa nhưng làm sao thoát được tay y? Trong lúc nàng sợ muốn chết thì nghe tiếng Nam Hải Ngạc Thần từ sau đuổi tới, kêu lớn: “Sư nương, sư nương! Mau thò tay cù dưới nách tên sếu vườn, cây tre đó sợ nhất là thọc lét.” Chung Linh nghĩ thầm: “Thọc lét ư? Chính là bản lãnh số một của ta.” Nàng liền thò tay toan thọc lét Vân Trung Hạc, ngờ đâu Vân Trung Hạc mới nghe Nam Hải Ngạc Thần nói, chưa cần Chung Linh phải ra tay, nhịn không nổi đã cười sằng sặc. Y cười không chạy nhanh được nữa, Nam Hải Ngạc Thần đã đuổi tới nơi.

Vân Trung Hạc nói: “Nhạc lão tam, người mắc hợm người ta rồi.” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cái gì mà mắc hợm? Mau bỏ sư nương ta xuống, nếu không thì nếm thử mùi vị ngạc chủy tiễn đây.” Vân Trung Hạc không còn cách nào khác đành phải bỏ Chung Linh xuống. Chung Linh nhân lúc Vân Trung Hạc không phòng bị liền giơ tay cù vào nách y, Vân Trung Hạc gập người xuống cười như nắc nẻ đến thở không ra hơi. Chung Linh càng liên tục thọc lét khiến cho Vân Trung Hạc vừa cười khanh khách vừa ho sặc sụa. Nam Hải Ngạc Thần nói: “Sư nương tha cho y đi, nếu còn cù nữa thì y tắt thở chết mất.” Chung Linh ngạc nhiên, tên ác nhân này võ công cao cường như thế, làm sao mà thọc lét đến chết được? Nàng bèn nói: “Ta không tin, cứ thử xem sao.” Nam Hải Ngạc Thần vội nói: “Không được đâu, đừng có thử, y chết rồi không sống lại được đâu. Yếu điểm luyện công của Vân Trung Hạc là ở huyệt Thiên Tuyền dưới nách, nơi đó không thể đụng vào được.”

Chung Linh nghe y nói thế liền rút tay lại không cù y nữa. Vân Trung Hạc đứng thẳng lên, đột nhiên nhổ một bãi nước bọt vào mặt Nam Hải Ngạc Thần, chửi: “Con cá sấu chết toi kia, con cá sấu thối tha kia, sao ngươi lại để cho người ngoài biết được nơi luyện công bí hiểm của ta?” Chung Linh nói: “Giỏi nhỉ, ngươi dám chửi người ta à?” Nàng lại giơ tay ra định thọc lét Vân Trung Hạc, có ngờ đâu lần này không hiệu nghiệm bị Vân Trung Hạc phóng cước đá lăn long lóc ra xa.

Nam Hải Ngạc Thần đỡ Chung Linh dậy hỏi: “Sư nương ngã có đau lắm không?” Chung Linh chưa kịp đáp đã thấy Chung Vạn Cừu từ xa cầm đao chạy tới kêu lên: “Con khốn kiếp kia, ngươi còn ở đây làm gì?” Nam Hải Ngạc Thần quay lại chửi: “Con mẹ nó chứ, ngươi chẳng biết đầu đuôi lại đến đây lải nhải.” Chung Vạn Cừu giận quá quát lại: “Ta chửi con ta, việc gì đến ngươi?” Nam Hải Ngạc Thần nổi cơn thịnh nộ, chỉ vào mặt Chung Vạn Cừu gầm lên: “Ngươi… ngươi là đồ chó má tính chơi trèo ta hả? Ta… Nhạc lão nhị này phải đập cho ngươi một trận.” Chung Vạn Cừu hỏi lại: “Sao lại bảo ta chơi trèo ngươi?” Nam Hải Ngạc Thần đáp: “Cô ta là sư nương của ta, dĩ nhiên cao hơn ta một bậc, ấy chẳng qua việc chẳng đặng đừng, ta cũng không còn đường nào khác. Ngươi dám tự xưng là cha cô ta, cái đó… cái đó… ngươi… ngươi chẳng hóa ra trên ta đến hai bậc hay sao? Nhạc lão nhị này ở Nam Hải thật là tôn quí, ai ai cũng phải gọi ta là ông cố, ông tổ, sang đến Trung Nguyên đi đâu cũng dưới người ta một hai bậc. Lão tử đếch chịu, nhất định đếch chịu.”

Chung Vạn Cừu đáp: “Ngươi đếch chịu thì kệ ngươi. Nó là con ruột ta, lẽ dĩ nhiên ta là cha nó chứ ngươi nói tự xưng là sao?” Nam Hải Ngạc Thần ngoẹo đầu ngắm hai cha con, nói: “Ngươi đúng là tự xưng, sư nương ta xinh đẹp như thế, còn người xấu đến ma chê quỉ hờn làm sao lại sinh ra sư nương ta được? Sư nương ta nhất định là con người khác, không phải con ngươi. Ngươi là cha hờ, không phải cha thật.” Chung Vạn Cừu nghe nói thế, giận đến tím mặt, vung đao chém xuống Nam Hải Ngạc Thần, Chung Linh vội ngăn cha: “Gia gia! Người này mới cứu con, cha đừng giết y!” Chung Vạn Cừu giận đến điên người, chửi con: “Đồ thối tha, ta đã sớm nghi người không phải con ta rồi. Tên ngu ngốc này cũng còn nói thế thì còn sai làm sao được? Ta giết y trước rồi giết ngươi sau, kế đó về giết mẹ ngươi nốt.”

Chung Linh thấy hai người xông vào đánh nhau nhất thời chưa phân thắng bại, liền lớn tiếng kêu: “Này, Nhạc lão tam, ngươi không được giết cha ta đấy nhé!” Nàng lại quay sang nói: “Gia gia cũng đừng đả thương Nhạc lão tam.” Nói xong liền bỏ chạy.

Nàng về đến Vạn Kiếp Cốc thì mệt rã người, vội đến phòng mình nằm ngủ. Đến nửa đêm lại nghe tiếng Vân Trung Hạc lục lọi tìm hết phòng này sang phòng khác, Chung Linh lại vùng dậy bỏ chạy sang phòng mẫu thân. Lúc này cô biết không thể đến gần mà thọc lét Vân Trung Hạc được, chợt nhìn thấy tấm gỗ của địa đạo hôm trước bị Hoa Hách Cấn kéo vào trong, vội vàng chạy tới mở ra chui tọt ngay xuống. Vân Trung Hạc hết sức ngạc nhiên, nhào tới toan nắm lấy chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu liền xuất chưởng ngay lưng y đánh tới. Vân Trung Hạc đưa tay ngược lại gạt ra, sợ rằng cô bé Chung Linh xinh đẹp kia chui vào địa đạo rồi không tìm được nên cũng chui theo.

Y bò được chừng một trượng trong bóng tối, cứ quờ tay chụp lung tung đột nhiên nắm được một bàn chân nhỏ nhắn, rồi nghe giọng Chung Linh thét lên: “Trời ơi!” Nàng cố giật chân ra, nhưng Vân Trung Hạc đang sướng rơn đâu cho nàng thoát được, vận kình vào cánh tay định lôi nàng ra. Ngờ đâu Chung Linh lại kêu lên: “Ôi chao!” nhưng không nhúc nhích, dường như phía trước có ai giữ lại. Ngay lúc đó, Vân Trung Hạc cũng thấy hai chân mình bị nắm chặt kéo ra, tiếng Chung Vạn Cừu quát: “Ra mau! Ra mau!”.

Đó là vì Chung Van Cừu sợ y làm hại con gái mình, cũng trườn vào trong đường hầm định kéo y ra. Chung Vạn Cừu thấy y không nhúc nhích đang định dùng sức, đột nhiên thấy gót chân mình cũng bị nắm chặt, một luồng lực đạo cuồn cuộn tuôn ra, rồi tiếng khàn khàn của Nam Hải Ngạc Thần kêu lên: “Thằng mặt ngựa, ngươi dám tự xưng là thân sinh của sư nương ta, muốn hơn ta đến hai bậc, ta thế nào cũng phải giết ngươi.”

Thì ra lúc này Nam Hải Ngạc Thần cắp được Đoàn Dự chạy tới đây, đứng ngoài phòng thấy Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu ba người chui vào trong đường hầm, nổi cơn bực tức nhất định phải giết cho bằng được gã “tự xưng hơn mình đến hai bậc”, nên cũng xông vào phòng rồi chui tọt xuống địa đạo, nắm lấy chân Chung Vạn Cừu.

Đoàn Dự cũng vội vàng vào trong phòng nói với Chung phu nhân: “Chung bá mẫu, mau mau cứu Chung Linh muội tử.” Chàng đang toan chui vào trong hầm đột nhiên bị ai đó xô một cái thật mạnh ngã lăn ra.

Có tiếng đàn bà kêu lên: “Nhạc lão tam, Vân lão tứ, các ngươi mau chui ra. Lão đại dặn ta không cho các ngươi tàn sát lẫn nhau.” Tiếng nói đó chính là Vô ác bất tác Diệp Nhị Nương phụng mệnh Đoàn Diên Khánh đến gọi Nam Hải Ngạc Thần và Vân Trung Hạc. Mụ ta đến chậm một bước, nhưng còn kịp thấy Vân Trung Hạc chui vào trong hang rồi đến Chung Vạn Cừu và Nam Hải Ngạc Thần cũng vào theo, lại tưởng hai người đuối giết Vân Trung Hạc, lão tứ võ công kém hơn chắc chết, lão đại thể nào cũng trách phạt. Mụ ta gọi mấy tiếng không thấy Nam Hải Ngạc Thần ra, cũng chui vào theo, chộp được hai chân Nam Hải Ngạc Thần hết sức kéo ra.

Đoàn Dự kêu lên: “Ối ối! Các ngươi không được hại đến Linh muội, nàng trước kia là vợ chưa cưới, bây giờ thì là muội tử ta.” Trong hầm tiếng hò hét nhốn nháo, thanh âm hỗn tạp, không biết là ai gọi ai. Đoàn Dự nghĩ thầm tam đại ác nhân cùng chui vào trong địa đạo, Chung Linh ắt sẽ dữ nhiều lành ít, nàng với ta có nghĩa có tình, mình dù không biết võ công cũng phải liều mạng mà cứu, nên cũng chạy ra cửa hầm nắm hai gót chân Diệp Nhị Nương hết sức kéo ra.

Hai tay chàng nắm chặt chỗ hõm ở cổ chân Diệp Nhị Nương, đó chính là đại huyện Tam Âm Giao trong Túc Thái Âm Tì Kinh, nơi giao nhau của ba âm mạch Túc Thiếu Dương Thận Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh và Túc Quyết Âm Tâm Bao Kinh. Huyệt Thiếu Thương trên ngón tay cái của chàng vừa chạm vào huyệt Tam Âm Giao của Diệp Nhị Nương, hai bên cùng sử kình, nội lực của Diệp Nhị Nương lập tức cuồn cuộn tuôn ra, chảy thẳng vào trong người Đoàn Dự.

Trong địa đạo không ai xoay ngang xoay dọc gì được, Vân Trung Hạc nắm chân Chung Linh, Chung Vạn Cừu lại nắm chân Vân Trung Hạc, Nam Hải Ngạc Thần nắm chân Chung Vạn Cừu, Diệp Nhị Nương nắm chân Nam Hải Ngạc Thần sau cùng là Đoàn Dự nắm chân Diệp Nhị Nương, ngoại trừ Chung Linh ra, cả năm người đều ráng kéo nhau ra cửa hang. Chung Linh khí lực chẳng đáng bao nhiêu, lẽ ra Vân Trung Hạc kéo nàng thật dễ dàng nhưng không biết có ai đó giữ chặt nàng lại không cho kéo đi.

Cả một dãy nắm chân nhau, huyệt Thiếu Thương; người sau chạm vào huyệt Tam Âm Giao người trước. Theo dây chuyền Chung Linh, Vân Trung Hạc, Chung Vạn Cừu, Nam Hải Ngạc Thần nội lực bốn người cuồn cuộn chảy qua Diệp Nhị Nương vào người Đoàn Dự. Chung Linh vốn dĩ chẳng có bao nhiêu nội lực nên cũng không sao, còn những người còn lại ai nấy sợ mất hết hồn vía, ra sức vùng vẫy, mong thoát được người đằng sau nắm chân mình, nhưng giãy giụa sao cũng không thoát, càng dụng kình nội lực tán thất càng lẹ.

Vân Trung Hạc thấy từ bàn chân Chung Linh nội lực cuồn cuộn tuôn vào, rồi lại theo gót chân mình mà chảy ra, tự hỏi sao con nhãi này nội lực lại thâm hậu đến thế, quả thực kỳ lạ, cũng may tay chân mình nội lực tuôn ra thì tay lại có nội lực đổ vào. Thành thử y sống chết cũng không dám buông chân Chung Linh ra để khỏi lâm vào cảnh chỉ có ra mà không có vào. Những người khác ai cũng nghĩ như thế, trong bụng càng thêm sợ hãi thì hai tay càng nắm chặt thêm, chẳng khác nào người đang chết đuối vớ được cái gì sống chết cũng không chịu nhả.

Cái xấu người đó ở trong địa đạo tối om không ai nhìn thấy ai, lúc đầu còn nghe la hét: “Lão đại bảo các ngươi đi ra” “Bỏ chân ta ra!” “Ông phải giết thằng tự xưng!” “Sao nắm chân ta! Có bỏ ra không nào?” “Má má! Gia gia!” nhưng càng về sau đều thấy nội lực truyền vào yếu dần đi, còn nội lực ở chân tuôn ra không giảm tí nào, càng kinh hãi không kể xiết.

Đoàn Dự nắm một hồi thấy nội lực cuồn cuộn để vào người mình, chàng hồi trên núi Vô Lượng đã có kinh nghiệm, bây giờ biết cách ứng phó, mỗi khi thấy người nóng nảy khó chịu thì lại dẫn nội lực vào khí hải nơi huyệt Đản Trung. Một lúc sau chàng cảm thấy huyệt Đản Trung của mình dường như căng phồng muốn vỡ toang ra, cảm thấy sợ hãi nhưng nghĩ tới Chung Linh đang gặp hung hiểm lại không buông tay, đành nghiến răng cố chịu.

Cam Bảo Bảo thấy không biết bao nhiêu quái sự, chân tay luống cuống, nhớ lại lúc nãy được Đoàn Chính Thuần ôm vào lòng hôn hít, ngồi nơi ghế ngơ ngẩn xuất thần, miệng lẩm bẩm: “Thuần ca! Thuần ca! Chàng gọi ta là Bảo Bảo thương, chàng ôm ta hôn ta, lần này là chuyện thật không phải nằm mơ.”

Đoàn Dự trong ngực nóng ran chịu không nổi, nội lực những người ở trong hầm quá nửa đã tuôn vào người chàng. Lực đạo trên tay Đoàn Dự càng lúc càng mạnh, chàng dần dần kéo được Diệp Nhị Nương ra khỏi miệng hang, kế đến là Nam Hải Ngạc Thần, Chung Vạn Cừu, Vân Trung Hạc, Chung Linh một xâu từ từ chui ra. Đoàn Dự nhìn thấy Chung Linh trong lòng mừng rỡ liền thả Diệp Nhị Nương, chạy đến đỡ nàng kêu lên: “Linh muội! Linh muội! Muội không bị thương chứ?”

Bọn Diệp Nhị Nương bốn người nội lực mất đến quá nửa cũng buông nhau ra ngồi trên sàn gỗ thở hổn hển.

Chung Vạn Cừu đột nhiên kêu: “Có đàn ông! Trong hầm này có đàn ông! Chính là Đoàn Chính Thuần… Đoàn Chính Thuần.” Y chợt nghĩ “Đường hầm trong phòng phu nhân ắt là do Đoàn Chính Thuần đào để gian díu với vợ mình, mới đây ở bên ngoài nghe tiến; đàn ông, thấy bóng đàn ông hẳn là Đoàn Chính Thuần không còn ngờ gì nữa”. Y nổi cơn ghen, xông tới đẩy Đoàn Dự ra, nắm cổ Chung Linh định ném nàng qua một bên để chui xuống địa đạo lôi Đoàn Chính Thuần ra ngoài.

Cam Bảo Bảo nghe y kêu lên “Đoàn Chính Thuần” lập tức trong mơ tỉnh dậy, đứng phắt lên kêu khổ thầm.

Chung Vạn Cừu không nghĩ đến mình nội lực hao tổn quá nhiều, ném Chung Linh ra không nổi, ngược lại hai chân nhũn ra, ngồi phịch xuống đất. Thế nhưng y chưa chịu thua, nhất định không buông tha Đoàn Chính Thuần được.

Y kéo thêm mấy cái, thấy từ trong hang xuất hiện hai bàn tay nắm chặt hai cổ tay Chung Linh. Chung Vạn Cừu kêu lên: “Thằng chó Đoàn Chính Thuần đây rồi! Ta phải sống chết với ngươi.”Y hết sức kéo Chung Linh ra sau, quả nhiên từ trong hang chui ra một người. Người đó quả là một gã đàn ông.

Chung Vạn Cừu kêu lên: “Đoàn Chính Thuần!” Y bỏ Chung Linh xuống, xông lên nắm ngực người kia, nhấc lên thấy nhẹ bỗng. Người này đầu dơi tai chuột, mặt mày dúm dó, so vai rụt cổ, thân hình gầy guộc khác xa Đoàn Chính Thuần, Đoàn Dự kêu lên: “Hoắc tiên sinh, sao ông lại ở đây?” Thì ra người đó chính là Kim toán bàn Thôi Bách Tuyền.

Chung Vạn Cừu gầm lên: “Không phải Đoàn Chính Thuần.” Y ngã ngửa ra nhưng bàn tay nắm Thôi Bách Tuyền vẫn chưa buông. Từ trong địa đạo lại lòi ra thêm hai bàn tay nữa đang nắm chặt cổ chân Thôi Bách Tuyền. Chung Vạn Cừu kêu lên: “Đoàn Chính Thuần!” Y cố sức lại kéo ra thêm một người nữa. Người này đầu trọc lóc có vết tàn hương, mặt mày nhăn nheo, đôi lông mày vàng úa, không những là hòa thượng mà còn già nữa. Đoàn Dự kêu lên: “Hoàng Mi đại sư, sao ông cũng ở đây?”. Đó chính là Hoàng Mi tăng.

Chung Vạn Cừu thu hết tàn lực, kéo được nhà sư ra khỏi hang nhưng dưới chân không còn ai thêm nữa. Y lại chui vào trong hang một lúc lâu, sau thở hổn hển chui ra kêu lên: “Không còn ai, trong hầm không còn ai cả.” Y trừng trừng nhìn Thôi Bách Tuyền, rồi lại nhìn Hoàng Mi tăng, nghĩ hai người này không thể nào là tình nhân của vợ mình được, yên tâm kêu lên: “Phu nhân! Ta xin lỗi, ta… ta lại nghi oan cho nàng rồi.” Lúc này tinh lực hao kiệt, y bò ra khỏi hang chỉ còn ngồi thở hồng hộc không đứng lên nổi.

Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc năm người đều ngồi xuống đất vận khí điều tức. Trong năm người Hoàng Mi tăng công lực cao hơn cả, chẳng mấy chốc đã đứng lên được quát lớn: “Ba tên ác nhân, hôm nay ta tha mạng cho các ngươi, sau này còn đến Đại Lý quấy phá thì đừng trách lão tăng vô tình.”

Không ai hiểu đầu đuôi việc trong địa đạo ra sao. Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc tam ác đều nghĩ là Hoàng Mi tăng ra tay, lão hóa thượng này thắng cả lão đại, lại vừa thu hết hơn nửa nội lực của mình, nên chẳng tên nào dám nói gì. Ba người điều tức thêm một lúc nữa, từ từ đứng lên, quay sang Hoàng Mi tăng hơi khom lưng rồi ra khỏi phòng đi mất. Lúc này tam đại ác nhân chẳng còn vẻ gì hung ác cả.

Hoàng Mi tăng, Thôi Bách Tuyền và Đoàn Dự từ biệt vợ chồng Chung Vạn Cừu và Chung Linh, đi ra khỏi cốc. Ba người đến cốc khẩu, Đoàn Chính Thuần cùng hai gia tướng còn đợi ở đó, cha con Đoàn Chính Thuần gặp nhau hết sức ngỡ ngàng.

Thì ra khi đó Đoàn Chính Thuần thấy Chung Vạn Cừu xông vào phòng, trong lòng hổ thẹn vội theo đường hầm chạy trốn, ra khỏi hang thì thấy Thôi Bách Tuyền đứng bên canh chừng. Thôi Bách Tuyền biết vương gia vốn tính phong lưu, không dám hỏi nhiều vội chui vào đường hầm thám sát để đề phòng Chung phu nhân ăn đòn của trượng phu, ngờ đâu lại gặp ngay Chung Linh đang bị Vân Trung Hạc nắm được cổ chân. Thôi Bách Tuyền lập tức nắm lấy tay nàng kéo lại, đang thấy không chịu nổi bỗng thấy chân mình cũng bị ai nắm chặt. Thì ra Hoàng Mi tăng đang ngồi suy tính nước cờ bỗng nghe dưới hầm có tiếng động khác lạ nên từ thạch thất chui vào ngách địa đạo kia, theo âm thanh lần tới, nghe giọng của Thôi Bách Tuyền bèn ra tay tương trợ. Ngờ đâu trong chuyến du địa đạo này, gần một nửa nội lực của Hoàng Mi tăng và Thôi Bách Tuyền đã truyền vào trong người Đoàn Dự.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.