Hồi 18: Một ngày ba nỗi đại oan, anh hùng Khất Đan rơi lệ

Hai người cưỡi ngựa nhắm hướng Vô Tích mà đi được vài dặm, bỗng thấy bên vệ đường có một cây tùng treo xác người lủng lẳng, nhìn y phục thì ra một tên võ sĩ Tây Hạ. Đi thêm mấy trượng nữa, lại thấy bên sườn đồi hai võ sĩ Tây Hạ nằm lăn lóc, máu trên vết thương còn chưa khô, xem ra chết cũng chưa lâu. Đoàn Dự hỏi: “Bọn Tây Hạ đúng là đã gặp phải kình địch. Vương cô nương, cô nương thử nghĩ xem ai đã giết họ?” Vương Ngữ Yên đáp: “Người này võ công tuyệt cao, chỉ giơ tay một cái là giết được người không tốn hơi sức gì, quả thật ghê gớm. Ồ, đằng kia có ai tới kìa?”

Trên đường lớn có hai người cưỡi ngựa song song chạy đến, một người áo đỏ, một người áo xanh, chính là hai cô A Châu, A Bích. Đoàn Dự mừng quá kêu to:“A Châu cô nương, A Bích cô nương, các cô thoát hiểm rồi ư? Hay lắm! Hay lắm!”.

Bốn người liền cùng giục ngựa chạy đi, ai nấy vui mừng khôn xiết. A Châu nói: “Vương cô nương, Đoàn công tử, hai vị quay trở lại làm gì? Hai đứa tiểu nữ đang định đi tìm hai vị đây.” Đoàn Dự đáp: “Chúng ta cũng đang định đi tìm hai cô đây.” Chàng vừa nói vừa liếc Vương Ngữ Yên xem nàng có chịu gộp chung thành “chúng ta” không, nếu chịu thì quả thật là sung sướng. Vương Ngữ Yên chỉ hỏi: “Các ngươi làm sao mà thoát được? Đã ngửi cái bình thuốc hôi thối chưa?” A Châu cười, đáp: “Trời ơi! Khó ngửi muốn chết được, chắc cô nương cũng phải ngửi rồi. Cô nương cũng được Kiều bang chủ giải cứu ư?” Vương Ngữ Yên đáp: “Không phải, Đoàn công tử cứu ta đó. Các ngươi được Kiều bang chủ cứu hay sao?”

Đoàn Dự nghe chính miệng nàng nói “Đoàn công tử cứu ta đó” sung sướng như bay bổng tận mây xanh, đầu óc choáng váng suýt rơi khỏi lưng ngựa.

A Châu trả lời: “Đúng thế. Tiểu nữ và A Bích trúng độc không nhúc nhích được, bị bọn Tây Hạ trói lại vứt lên yên ngựa cùng với cả bọn Cái Bang. Đi được một quãng trời đổ mưa to, cả bọn phải tản ra tìm chỗ trú mưa. Tiểu nữ và A Bích bị mấy tên Tây Hạ dẫn vào trú tại một tòa lương đình, tạnh mưa mới ra đi. Lúc đó, phía sau có một người cưỡi ngựa chạy đến, chính là Kiều bang chủ. Chàng thấy bọn tiếu nữ bị bắt giữ rất đỗi ngạc nhiên, chưa kịp hỏi thì A Bích đã kêu cứu. Bọn võ sĩ Tây Hạ nghe thấy đại danh Kiều bang chủ, lập tức rút binh khí xúm lại vây đánh. Kết quả là có tên thì bị treo lên cây tùng, có tên chết nơi sườn núi, có tên lại lọt xuống sông.”

Vương Ngữ Yên cười, hỏi: “Việc vừa mới xảy ra phải không?” A Châu đáp: “Đúng thế! Tiểu nữ nhờ Kiều bang chủ tìm trên người bọn man tử Tây Hạ xem có giải dược không. Chàng lục trong xác bọn võ sĩ Tây Hạ tìm được một cái bình sứ nhỏ, thơm hay thối thì không nói chắc cô nương cũng biết rồi.”

Vương Ngữ Yên hỏi thêm: “Thế Kiều bang chủ đâu?” A Châu đáp: “Kiều bang chủ nghe tin bọn Cái Bang trúng độc bị bắt hết thì nóng nảy vô cùng, hốt hoảng đi ngay, bảo là phải cứu bọn họ. Bang chủ còn quay lại hỏi thăm Đoàn công tử, xem ra quan tâm đến công tử lắm.” Đoàn Dự thở dài than rằng: “Đại ca ta thật là người nghĩa khí thâm trọng vô cùng!” A Châu nói: “Người của Cái Bang chẳng biết phân biệt tốt xấu, một vị bang chủ như thế mà đem đuổi đi, bây giờ mình làm mình chịu thật là đáng kiếp. Tiểu nữ thấy vị đại ca đó thật là độ lượng, thà để kẻ khác phụ mình chứ nhất định không chịu phụ ai.”

A Bích hỏi: “Vương Cô nương, bây giờ chúng mình đi đâu?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta và Đoàn công tử đã bàn nhau đi cứu hai người. Bây giờ cả bốn đều bình yên, thế là hay lắm rồi. Chúng ta không có liên quan gì đến Cái Bang, chi bằng lên Thiếu Lâm Tự tìm Mộ Dung công tử của các ngươi.” A Châu, A Bích quan tâm nhất là Mộ Dung Công tử, nghe Ngữ Yên nói vậy đều vỗ tay khen phải. Đoàn Dự trong lòng chua xót nhưng cố làm ra vẻ thản nhiên nói: “Tại hạ vốn ngưỡng mộ Mộ Dung công tử lắm, mong được gặp một lần. Hiện nay không có việc gì làm, đi theo các cô đến chùa Thiếu Lâm một chuyến cũng hay.”

Bốn người quay đầu ngựa đi về hướng bắc. Vương Ngữ Yên cùng hai nàng A Châu, A Bích nói cười vui vẻ, đem chuyện gặp nguy hiểm ở trại xay lúa, Đoàn Dự nghênh địch thế nào, tay cao thủ Tây Hạ là Lý Diên Tông tha mạng cũng tặng thuốc giải độc ra sao, tất cả kể lại rành mạch rõ ràng, khiến cho A Châu, A Bích hai nàng đều lấy làm kinh ngạc.

Ba cô gái nói chuyện mỗi khi đến đoạn nào thú vị lại cười khúc khích, thỉnh thoảng lại quay đầu nhìn Đoàn Dự, lấy tay áo che miệng cho khỏi lộ liễu. Đoàn Dự biết các nàng đang bàn tán những chuyện ngốc nghếch của mình, nhưng tự nghĩ mình vụng về đủ thứ mà sau cùng cũng bảo vệ được Vương cô nương chu toàn, nên vừa thấy hổ thẹn lại vừa thấy tự hào. Chàng lại nghĩ: “Bây giờ mới có ba cô thân mật với nhau, họ đã không đếm xỉa gì đến mình. Khi gặp Mộ Dung công tử rồi thì mình quả thật hết đất dung thân. Mộ Dung Phục chắc cũng như Bao Bất Đồng, đuổi thẳng mình đi không nể nang gì.” Đoàn Dự càng nghĩ càng thấy ê chề.

Đi được mấy dặm, qua khỏi một vùng trồng dâu thật lớn, bỗng nghe ở bìa rừng có tiếng hai thiếu niên đang khóc. Bốn người phóng ngựa lại xem, thấy hai chú tiểu chừng mười bốn mười lăm, trên tăng bào còn vết máu lốm đốm, một chú bị thương nơi trán. A Bích dịu dàng hỏi: “Này các tiểu sư phụ! Ai hiếp đáp các chú đó? Tại sao lại bị thương?”.

Chú tiểu không bị thương vừa khóc vừa trả lời: “Có vô số ác nhân Phiên bang đến chùa, giết mất sư phụ rồi đuổi hai đứa chúng cháu ra ngoài.” Bốn người nghe nói đến “ác nhân Phiên bang” liền đưa mắt nhìn nhau cùng nghĩ: “Phải chăng là bọn Tây Hạ?” A Châu hỏi thêm: “Thế chùa của các chú ở đâu? Ác nhân Phiên bang là bọn nào thế?” Chú tiểu đáp: “Chúng cháu ở chùa Thiên Ninh, phía bên kia…” Chú trỏ về phía đông bắc, vừa nói vừa khóc: “Bọn Phiên bang kia bắt đâu được hơn một trăm người hành khất đưa vào chùa trú mưa, đòi rượu thịt rồi đòi giết gà mổ bò. Sư phụ bảo không thể sát sinh ở nơi cửa Phật thanh tĩnh được, thế là chúng đem sư phụ cùng mười mấy vị sư huynh, sư đệ chúng tôi ra giết hết, hu hu, hu hu.” A Châu hỏi tiếp: “Bọn chúng còn ở đó không?” Chú tiểu trỏ tay về phía làn khói đang bốc lên cuồn cuộn phía sau rừng dâu, nói: “Bọn chúng còn đang thui bò kia kìa, thật là tội nghiệp? Đức Bồ Tát có linh thiêng tất sẽ đem bọn giam xuống a tì địa ngục.” A Châu nói: “Hai chú chạy trốn đi thôi. Nếu bọn Phiên bang bắt được, chúng mổ các chú ra ăn thịt đó.” Hai chú tiểu cả kinh, lật đật bỏ chạy ngay.

Đoàn Dự tỏ ý không bằng lòng, nói: “Hai chú đó đã rối trí lắm rồi, A Châu tỉ tỉ lại còn dọa thêm làm gì?” A Châu cười nói: “Có phải dọa dâu, tiểu nữ nói thực đấy.” A Bích nói: “Bang chúng Cái Bang đang bị nhốt trong chùa Thiên Ninh, Kiều bang chủ lại chạy về thành Vô Tích thì đúng là vô tích sự.”

A Châu đột nhiên nghĩ ra một kế thật kỳ lạ, liền nói: “Vương cô nương! Tiểu nữ muốn cải trang làm Kiều bang chủ vào trong chùa, đem chiếc bình hôi thối kia cho bọn ăn mày ngửi. Sau khi bọn chúng thoát nạn nhất định sẽ cảm kích Kiều bang chủ vô cùng!” Vương Ngữ Yên mỉm cười nói: “Kiều bang chủ thân thể cao lớn hùng vĩ, làm sao ngươi hóa trang cho giống được?” A Châu cười, nói: “Càng khó khăn bao nhiêu, càng rõ thủ đoạn A Châu này bấy nhiêu.” Vương Ngữ Yên lại cười, chất vấn tiếp: “Giả tỷ ngươi giả trang giống được Kiều bang chủ thì cũng không giả mạo được thần công tuyệt thế của chàng. Trong chùa Thiên Ninh đầy dẫy cao thủ Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, ngươi đâu có vào ra thong thả được? Theo ý ta thì người giả làm một tên đầu bếp hay một bà già bán rau trà trộn vào chùa còn dễ hơn.” A Châu nói: “Bảo tiểu nữ giả làm bà già bán rau thì có gì là thú. Thôi, không đi nữa.”

Vương Ngữ Yên nhìn Đoàn Dự, mấp máy đôi môi như muốn nói gì, rồi lại thôi. Đoàn Dự hỏi: “Cô nương định bảo gì tại hạ thế?” Vương Ngữ Yên đáp: “Ta muốn nhờ công tử hóa trang thành một người cùng đi với A Châu đến Thiên Ninh Tự, nhưng nghĩ kỹ lại thấy không xong.” Đoàn Dự hỏi: “Cô nương muốn tại hạ giả dạng ai?” Vương Ngữ Yên nói: “Các cao thủ Cái Bang nghi Kiều bang chủ cùng biểu ca ta ngấm ngầm cấu kết giết hại Mã phó bang chủ. Nếu như… nếu như… biểu ca cùng Kiều bang chủ đến cứu bọn họ, chắc không còn bị ngờ oan nữa.” Đoàn Dự chua xót trong lòng, hỏi: “Cô nương muốn tại hạ giả trang làm lệnh biểu ca ư?” Vương Ngữ Yên hơi hổ thẹn nói: “Bọn địch trong chùa Thiên Ninh rất mạnh. Hai người vào đó nguy hiểm lắm, đừng đi nữa là hơn.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nàng bảo sao ta làm vậy, dù phải tan xương nát thịt cũng quyết chẳng từ nan”.

Chàng đột nhiên nghĩ thêm: “Nếu mình hóa trang thành Mộ Dung Phục, không chừng nàng nhìn ta bằng con mắt tình tứ, mình được nàng dịu dàng chiều chuộng trong chốc lát thì cũng hay”. Chàng nghĩ đến đó bất giác phấn khởi tinh thần, hăng hái nói: “Có gì là nguy hiểm đâu? Đoàn Dự này sở trường nhất là bản lãnh cong đuôi chạy trốn.”.

Vương Ngữ Yên nói: “Ta thấy không ổn, vì biểu ca giết địch dễ như trở bàn tay, chẳng bao giờ chạy trốn ai.” Đoàn Dự nghe nàng nói thế, một làn khí lạnh theo xương sống chạy dài từ đầu xuống chân, nghĩ thầm: “Hóa ra biểu ca cô là đại anh hùng đại hào kiệt, tên họ Đoàn này đâu có xứng đáng giả mạo y? Lỡ ta để lộ cái xấu ra trước mặt mọi người, tức là làm ô nhục thanh danh của gã”. A Bích thấy chàng có vẻ bực dọc, liền tìm lời an ủi: “Địch nhiều mà ta ít, tạm thời rút lui chẳng có gì là lạ. Chúng ta đi cứu người, chứ đâu phải đi tỷ võ để dương danh.”

Đôi mắt tinh tường của A Châu quan sát Đoàn Dự từ đầu xuống chân rồi lại từ chân lên đầu, một lúc sau nàng gật đầu nói: “Đoàn công tử, muốn cải trang thành công từ chúng tôi quả không phải là dễ. May mà người trong Cái Bang chưa biết mặt Mộ Dung công tử, giọng nói cùng hình dáng ra sao cũng chỉ nghe đại khái thôi.” Đoàn Dự nói: “Tỉ tỉ phải trổ hết tài nghệ cải trang làm Kiều bang chủ cho thật giống, vì người trong Cái Bang ngày nào cũng gặp bang chủ. Chỉ sơ hở một chút là cơ mưu bại lộ.” A Châu mỉm cười nói: “Kiều bang chủ là đại trượng phu cao lớn, vậy mà tiểu nữ giả làm Kiều bang chủ lại dễ dàng. Mộ Dung công tử tầm vóc không khác công tử bao nhiêu, tuổi tác cũng chẳng hơn nhiều, cả hai đều là thư sinh con nhà gia thế, vậy mà đem bộ mặt Đoàn công tử biến thành Mộ Dung công tử lại rất khó khăn.”

Đoàn Dự thở dài: “Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, người tầm thường dễ gì mô phỏng cho giống được? Theo tại hạ thì cải trang không giống càng hay, lát nữa cụp đuôi bỏ chạy cũng đỡ tổn hại đến thanh danh của Mộ Dung công tử.” Ngữ Yên đỏ mặt lên, nói khẽ: “Đoàn công tử, ta trót lỡ lời, công tử có giận không?” Đoàn Dự vội vàng đáp: “Không phải! Không phải! Chẳng khi nào tại hạ dám giận cô nương.”

Vương Ngữ Yên mặt tươi cười, nói: “A Châu tỉ tỉ, hai người đi đâu cải trang đây?” A Châu đáp: “Phải tìm đến nơi thị trấn mới mua được những thứ cần dùng.” Bốn người quay ngựa chạy về hướng tây chừng bảy tám dặm, đến một thị trấn tên là Mã Lang Kiều. Thị trấn này thật nhỏ bé, không có cả quán trọ. A Châu nghĩ ra một cách, thuê thuyền neo giữa sông rồi đi mua vật dụng, quần áo đem xuống thuyền cải trang. Đất Giang Nam sông ngòi dày đặc, thuyền bè nhiều vô kể chẳng khác gì ngựa xe ở miền bắc.

Nàng bảo Đoàn Dự thay đổi y phục trước, cho chàng mặc trường bào màu xanh, tay phải cầm quạt giấy, ngón trỏ tay trái đeo nhẫn. A Châu nói: “Công tử chúng tôi đeo nhẫn ngọc đời Hán, ở đây làm sao mua được? Đành dùng tạm nhẫn bằng đá Thanh Điền vậy, cũng được rồi.” Đoàn Dự nhăn nhó cười, nghĩ thầm: “Mộ Dung Phục thì đeo nhẫn ngọc quý, còn mình thì đeo nhẫn đá hèn hạ. Có lẽ ba cô nương này đánh giá mình với gã cũng như đá với ngọc, thân phận cách nhau xa” A Châu trát bột mì lên mặt chàng, nặn mũi cho cao lên, sửa cho mặt hơi mập thêm một chút, lấy bút vẽ lông mày, khóe mắt, hóa trang xong cười hỏi Vương Ngữ Yên: “Cô nương xem còn chỗ nào không giống nữa chăng?” Vương Ngữ Yên không đáp, chỉ ngây người ra mà nhìn, trong ánh mắt chứa đầy tình ý, hiển nhiên tâm thần miên man xúc động.

Đoàn Dự trong ánh mắt mê mẩn của nàng cũng thấy lâng lâng, nhưng chợt nghĩ ra: “Đây là nàng nhìn Mộ Dung Phục chứ có phải nhìn Đoàn Dự ta đâu?”. Chàng lại nghĩ: “Không biết gã Mộ Dung Phục anh tuấn đến mức nào, có hơn ta gấp trăm lần không. Tiếc rằng ta không thấy được mình hiện thời ra sao.” Lòng chàng khi thì khoan khoái, khi thì đau khổ.

Chàng nhìn nàng, nàng nhìn chàng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng, ngẩn ngơ đến nỗi không biết A Châu, A Bích đã ra khoang sau cải trang tự lúc nào. Hồi lâu bỗng nghe giọng một người đàn ông ôm ồm nói: “A! thì ra Đoàn hiền đệ ở đây, thế mà ngu huynh tìm mãi, mất bao công phu vẫn không thấy.” Đoàn Dự giật mình quay đầu lại xem, té ra là Kiều Phong, bất giác cả mừng reo lên: “Đại ca đấy ư? Thế thì hay lắm. Bọn tiểu đệ đang định cải trang để đi cứu người. Bây giờ đại ca lại đến đây, A Châu tỉ tỉ bất tất phải giả dạng nữa.”

Kiều Phong nói: “Người của Cái Bang đã trục xuất ta ra khỏi bang rồi. Bọn họ sống chết gì cũng mặc, Kiều mỗ mặc kệ không bận tâm đến nữa. Hảo hiền đệ, đi mau, chúng ta lên bờ đi kiếm rượu uống thi hai chục bát!” Đoàn Dự vội đáp: “Đại ca! Bang chúng Cái bang đa số là những người quang minh lỗi lạc, lại là bằng hữu cũ của đại ca. Nên đi cứu họ là phải.” Kiều Phong tức mình nói: “Đồ gàn như ngươi thì biết gì? Thôi, đi uống rượu đã.” Nói xong vươn tay ra nắm lấy tay Đoàn Dự, Đoàn Dự không biết phải làm sao, đành nói: “Thôi được, để tiểu đệ hầu rượu đại ca, uống xong rồi sẽ đi cứu người.”

Kiều Phong đột nhiên cười khanh khách, giọng cười thanh tao mà uyển chuyển. Một đại hán khôi vĩ lại có giọng cười như một cô gái nhỏ tuổi, quả thực quái lạ. Đoàn Dự ngạc nhiên, lập tức hiểu ra, cười nói: “A Châu tỉ tỉ: Tỉ tỉ cải trang quả là thần diệu, đến cả cách ăn nói cũng giống hệt không khác chút nào.”

A Châu lại đổi qua bắt chước giọng Kiều Phong, nói: “Này hiền đệ, chúng ta đi thôi! Nhớ mang cái bình hôi thối theo.” Nàng quay sang nói với Vương Ngữ Yên và A Bích: “Hai vị cô nương ở đây chờ tiện hơn.” Nói xong dắt tay Đoàn Dự bước lên bờ. Không biết nàng đắp cái gì mà bàn tay nhỏ bé trắng nõn bây giờ lại ngăm ngăm, tuy không lớn bằng tay Kiều Phong, nhưng người ngoài thoáng nhìn thật khó mà phân biệt.

Vương Ngữ Yên đưa mắt nhìn theo Đoàn Dự, trong bụng nghĩ thầm: “Nếu chàng là biểu ca thật thì hay biết mấy. Biểu ca hỡi biểu ca, lúc này chàng ở đâu, có nghĩ gì đến muội không?”

A Châu cùng Đoàn Dự cưỡi ngựa đi về phía chùa Thiên Ninh. Còn cách chừng năm dặm, hai người sợ bọn Tây Hạ nghe tiếng vó ngựa, liền đem buộc ngựa vào chuồng bò của một nhà nông rồi đi bộ tiếp.

A Châu nói: “Mộ Dung huynh đệ! Khi đến chùa, tại hạ sẽ đại ngôn khoác lác dọa cho chúng sợ một mẻ. Công tử thừa cơ đem bình thuốc thời giải độc cho bang chúng Cái Bang.” Nàng nói mấy câu đó giọng ồm ồm, nghe y hệt Kiều Phong. Đoàn Dự chỉ cười gật đầu.

Hai người hùng dũng tiến đến Thiên Ninh Tự, thấy ngoài cổng có độ mươi võ sĩ Tây Hạ; tay cầm trường đao, tướng mạo cực kỳ hung dữ. Hai người vừa trông thấy chúng đã tim đập thình thành, không khỏi hoảng sợ. A Châu khẽ bảo: “Đoàn công tử! Nếu có chuyện gì rắc rối thì công tử dắt tiểu nữ chạy cho nhanh, nếu không bọn chúng níu lại đòi tỉ võ thì thật khó mà đối phó.” Đoàn Dự cũng khẽ đáp: “Được!” Thế nhưng giọng chàng run run, quả là có khiếp sợ trong lòng.

Hai người còn đang thì thầm bàn định, nhìn quanh quất thăm dò thì một tên võ sĩ đứng ngoài cửa đã trông thấy, lớn tiếng quát: “Hai thằng chết tiệt kia, làm gì mà thập thò dòm ngó? Các ngươi là gian tế chăng?” Tiếng quát chưa dứt đã có thêm bốn tên võ sĩ khác chạy ra.

A Châu không còn cách gì hơn, đàng hoàng tiến lên, dõng dạc nói: “Các ngươi mau vào báo với Hách Liên đại tướng quân là có Kiều Phong ở Cái Bang cùng Mộ Dung Phục ở Giang Nam đến bái kiến.”

Gã võ sĩ đứng đầu bọn này nghe thế giật mình, vội vàng vòng tay khom lưng nói: “Thì ra là Kiều bang chủ Cái Bang giá lâm. Bọn tiểu nhân thực là vô lễ, xin lập tức vào bẩm báo.” Y nói xong rảo bước đi vào trong, còn những tên khác cũng đứng nghiêm trang ra chiều cung kính.

Lát sau có tiếng tù và vang dội, cửa chùa mở toang, đường chủ Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ là Hách Liên Thiết Thụ cùng bọn Nỗ Nhi Hải suất lĩnh các cao thủ tiến ra nghinh tiếp. Trong đám này có cả Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc. Đoàn Dự chẳng còn hồn vía nào nữa, cúi đầu xuống không dám nhìn thẳng.

Bỗng nghe Hách Liên Thiết Thụ nói: “Bản tướng đã lâu hâm mộ đại danh Cô Tô Mộ Dung chuyên về môn gậy ông đập lưng ông. Hôm nay được gặp cao hiền, quả là vinh hạnh.” Y nói xong bèn chắp tay nhìn Đoàn Dự thi lễ. Y nghĩ bụng Nhất Phẩm Đường với Cái Bang đã thành thù địch, nên không tỏ vẻ gì nể nang Kiều Phong cả.

Đoàn Dự vội vàng hoàn lễ, nói: “Uy danh Hách Liên tướng quân vang dậy ra đến ngoài biên ải. Tại hạ vẫn mong được hội diện các vị hào kiệt trong Nhất Phẩm Đường một phen, hôm nay đến đây bái kiến, xin được tha thứ cái tội đường đột.” Mấy câu khách sáo kia, đúng là chàng quen mồm nói trơn tru như cháo chảy, không có chút sơ hở nào.

Hách Liên Thiết Thụ nói: “Võ lâm đã có câu Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Hôm nay hai vị đứng đầu trong hào kiệt Trung Nguyên cùng giá lâm một lượt, quả là vinh hạnh cho bản tướng xiết bao. Xin mời!” Y tránh qua một bên, nhường lối cho hai người vào trong đại điện.

A Châu và Đoàn Dự ngang nhiên đi song song cùng Hách Liên Thiết Thụ. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ lời nói cho đến vẻ mặt, xem ra tên đại tướng quân này đối với Mộ Dung công tử trịnh trọng hơn đối với Kiều đại ca. Chẳng lẽ võ công cùng nhân phẩm Mộ Dung Phục còn trên đại ca ta một mức hay sao? Ta không tin nổi.”

Bỗng nghe một giọng quái gở la lên: “Không tin được! Nhất định không tin được!” Đoàn Dự giật mình liếc xem ai vừa nói, thì ra là Nam Hải Ngạc Thần. Lão giường đôi mắt ti hí, ngoẹo cổ dòm ngó Đoàn Dự rồi lắc đầu lia lịa, Đoàn Dự lại càng bở vía, nghĩ thầm: “Thôi hỏng bét rồi! Lão nhận ra mình rồi!” Lại nghe Nam Hải Ngạc Thần tiếp: “Từ đầu đến chân ngươi chưa được ba lạng xương, làm trò gì được? Này này ta hỏi, nghe đồn người biết thuật gậy ông đập lưng ông, Nhạc lão nhị này đếch tin.” Đoàn Dự thở phào, nghĩ thầm: “Hóa ra y chưa nhận ra mình”, Nam Hải Ngạc Thần nói: “Cóc cần ngươi phải ra tay, ta chỉ hỏi ngươi một câu. Người biết Nhạc lão nhị này có môn gì đặc biệt không? Nếu ngươi không biết thì làm sao dùng phép gây ông đập lưng ông đối phó với ta?” Nói xong y đứng chống nạnh, vẻ mặt vênh vênh tự đắc.

Hách Liên Thiết Thụ đã toan lên tiếng ngăn cản, nhưng lại nghĩ: “Thằng cha Mộ Dung Phục này tên tuổi rất lớn, chẳng hiểu có thực tài không. Chi bằng để lão Nam Hải Ngạc Thần dở điên dở khùng thử xem cho biết.” Thế rồi gã để yên không can thiệp.

Lúc đó mọi người đã vào đến đại điện, Hách Liên Thiết Thụ mời Đoàn Dự ngồi vào ghế thủ vị, Đoàn Dự nhường lại cho A Châu. Nam Hải Ngạc Thần lớn tiếng hỏi nữa: “Này này Mộ Dung tiểu tử, ngươi thử nói đi, công phu đắc ý nhất của ta là gì?” Đoàn Dự tủm tỉm cười, nghĩ bụng: “Người khác hỏi thì ta không biết thật, còn ngươi thì ta có lạ gì”. Chàng mở quạt ra phe phẩy, đáp: “Nam Hải Ngạc Thần Nhạc lão tam, bản lĩnh đắc ý nhất của ngươi là vặn gãy cổ người ta kêu lách cách: Mấy năm nay công phu ngươi có tiến bộ, bây giờ môn võ công đắc ý hơn cả là Ngạc Vĩ Tiên và Ngọc Chủy Tiên. Ta muốn đối phó với ngươi, lẽ dĩ nhiên phải về trang viện lấy cây roi đuôi cá sấu và cây kéo hàm cá sấu đem theo.”

Chàng nói đúng tên hai thứ khí giới của Nam Hải Ngạc Thần khiến lão sợ quá, há hốc miệng ra không ngậm lại được nữa, cả đến Diệp Nhị Nương cùng Vân Trung Hạc cũng cực kỳ kinh dị. Ta nên biết hai món bình khí đó Nam Hải Ngạc Thần mới luyện gần đây, ít khi đem ra thi triển, chỉ mới một lần động thủ với Vân Trung Hạc trên Vô Lượng Sơn, lúc đó ngoài Mộc Uyển Thanh ra không ai trông thấy. Bọn chúng có ngờ đâu Mộc Uyển Thanh đã kể hết đầu đuôi cho chàng Mộ Dung công tử giả hiệu này nghe rồi.

Nam Hải Ngạc Thần lại nghiêng đầu ngoẹo cổ quan sát Đoàn Dự. Tuy lão là người hùng ác, nhưng có lòng khâm phục anh hùng hảo hán. Lão ngắm nghía một lúc rồi giơ ngón tay cái lên, nói: “Giỏi thật!” Đoàn Dự cười, đáp: “Chẳng bõ làm trò cười cho quý vị.” Nam Hải Ngạc Thần nghĩ thầm: “Đến cả món binh khí ta mới luyện xong mà y cũng nói ra được, những thứ võ công khác bất tất phải hỏi làm gì. Tiếc là lão đại Diên Khánh thái tử không có ở đây để vặn hỏi y xem sao. A, có cách rồi!” Lão la lớn: “Mộ Dung công tử! Ngươi biết được võ công của ta cũng chưa lấy làm kỳ lạ. Giả tỷ mà sư phụ ta đến đây thì bảo đảm ngươi không thể hiểu võ công của ông ấy.” Đoàn Dự mỉm cười hỏi: “Lệnh sư là ai? Ông ta có võ công gì đặc biệt?” Nam Hải Ngạc Thần dương dương đắc ý đáp: “Thụ nghiệp ân sư của ta thì qua đời đã lâu chẳng nói làm gì, ta chỉ nói đến vị sư phụ sau này. Bản lãnh ông ta thật là ghê gớm, chẳng cần kể nhiều, riêng một môn Lăng Ba Vi Bộ ta dám chắc trên đời này không có người thứ hai biết được.”

Đoàn Dự trầm ngâm đáp: “Môn Lăng Ba Vi Bộ quả là kỳ công tuyệt thế. Chắc các hạ nhận xằng Đoàn công tử nước Đại Lý làm sư phụ, tại hạ chẳng tin chút nào.” Nam Hải Ngạc Thần vội đáp: “Ta nói láo ngươi làm chi? Ở đây có nhiều người chính tai nghe thấy Đoàn công tử gọi ta là đồ đệ.” Đoàn Dự trong bụng cười thầm: “Lúc trước thì lão thà chết không chịu bái ta làm sư phụ, lúc này thì lại sợ ta không nhận là đồ đệ”. Chàng bèn nói: “Nếu vậy thì các hạ chắc đã học được tuyệt kỹ của lệnh sư rồi. Chúc mừng! Chúc mừng!” Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quây quậy nói: “Ta chưa được học đâu. Còn người đã tự xưng là biết hết võ công trong thiên hạ, nếu đi được ba bước Lăng Ba Vi Bộ thì Nhạc lão nhị này mới phục.”.

Đoàn Dự mỉm cười đáp: “Lăng Ba Vi Bộ tuy khó thật nhưng tại hạ cũng học qua vài bước. Nhạc lão gia, lại đây thử bắt tại hạ xem nào.” Nói rồi trường bào phất phới, chàng đã lướt ra chính giữa đại điện.

Quần hào Tây Hạ chưa từng nghe nói đến Lăng Ba Vi Bộ, bây giờ nghe Nam Hải Ngạc Thần xưng tụng là thần kỹ, ai nấy đều háo hức muốn xem. Chúng lập tức chia ra đứng chung quanh đại điện để xem Đoàn Dự biểu diễn.

Nam Hải Ngạc Thần gầm lên một tiếng, tay trái vươn ra trước, tay phải lại luồn dưới tả chưởng, chộp luôn vào Đoàn Dự. Đoàn Dự bước chéo đi hai bước rồi lại lui về phía sau nửa bước, nhẹ nhàng như lá sen trước gió, khéo léo tránh đòn. Nghe “phập” một tiếng, Nam Hải Ngạc Thần thu trảo về không kịp, năm ngón tay phải đã cắm vào cây cột lớn trong đại điện, ngập sâu đến mấy tấc. Mọi người đứng chung quanh thấy y công lực cao thâm như thế đều tái mặt. Nam Hải Ngạc Thẩn đánh không trúng, lại rống lên lần nữa, tung mình lên không, từ trên cao chộp xuống như chim ưng vồ mồi. Đoàn Dự không thèm lý đến y, chỉ án theo phương vị bát quái, chân bước ung dung. Nam Hải Ngạc Thần tấn công mỗi lúc một nhanh, tiếng rống mỗi lúc một lớn chẳng khác gì mãnh thú.

Đoàn Dự bỗng nhìn thấy khuôn mặt khủng khiếp của y, trong lòng không khỏi lo sợ. Chàng vội vàng quay đầu đi, lấy trong tay áo ra một chiếc khăn tay buộc lên che mắt mình lại, rồi nói: “Dù ta bịt mắt lại, ngươi cũng không đánh trúng được ta.”

Nam Hải Ngạc Thần múa tít song chưởng nhắm đánh vào người Đoàn Dự mà đòn nào cũng chỉ trệch một chút. Người đứng xem ai nấy lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh. A Châu quan tâm đến Đoàn Dự nên lắm lúc giật mình, đột nhiên cất giọng ồm ồm quát lên: “Nam Hải Ngạc Thần, ngươi thấy Lăng Ba Vi Bộ của Mộ Dung công tử so với sư phụ ngươi thì thế nào?”.

Nam Hải Ngạc Thần giật mình, thở phào một cái rồi dừng chân lại, nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Ngươi bịt mắt mà vẫn đi đúng theo bộ pháp quái ác kia, e rằng sư phụ ta cũng chưa được thế. Cô Tô Mộ Dung quả nhiên danh bất hư truyền, Nam Hải Ngạc Thần này chịu phục ngươi rồi.”

Đoàn Dự gỡ chiếc khăn che mắt ra, quay lại chỗ ngồi. Trong đại điện tiếng hoan hô vang lên như sấm. Hách Liên Thiết Thụ đợi hai người ngồi xuống rồi mới nâng chén trà lên nói: “Xin mời hai vị anh hùng uống trà! Chưa hiểu hai vị tới đây có điều chi dạy bảo?”

A Châu đáp: “Tệ bang có mấy anh em không biết đắc tội chỗ nào, nghe nói tướng quân sai các cao thủ dùng võ công thượng thừa bất cả về đây. Tại hạ mạo muội đến xin tướng quân tha cho họ.” Nàng nhấn mạnh mấy chữ “sai các cao thủ dùng võ công thương thừa” để mỉa mai người Tây Hạ dùng thủ đoạn để hèn phun thuốc độc bắt người.

Hách Liên Thiết Thụ mỉm cười nói: “Quả có như vậy. Mới rồi Mộ Dung công tử thi triển bản lãnh, quả là không phải chỉ có danh tiếng mà thôi. Kiều bang chủ cùng Mộ Dung công tử nổi tiếng ngang nhau, cũng xin hiển lộ chút ít công phu cho xem thử. Khi người Tây Hạ chúng ta đã tâm phục, quyết sẽ thả các vị anh hùng hảo hán của quí bang ra.”

A Châu chột dạ, nghĩ bụng: “Ta mà giả mạo thân thủ của Kiều bang chủ thì lòi đuôi ra lập tức.” Nàng còn đang nghĩ cách thoái thác, bỗng thấy chân tay mềm nhũn, tưởng như nhúc nhích một ngón tay cũng không được, giống hệt như bị trúng độc hôm trước, bất giác than thầm: “Chết rồi! Không ngờ bọn ác nhân Tây Hạ lại giở trò cũ ra ám toán, bây giờ biết làm thế nào?”.

Đoàn Dự bách độc bất xâm nên hoàn toàn không hay biết gì, nhìn thấy A Châu mềm nhũn ngồi trên ghế mới biết nàng lại trúng độc. Chàng vội lấy trong túi ra chiếc bình thuốc thối, mở nắp đưa vào mũi nàng. A Châu hít mấy hơi, vì nàng trúng độc chưa lâu nên tay chân đỡ tê dại ngay. Nàng liền tự cầm chiếc bình mà hít liên tiếp, trong bụng không hiểu sao địch nhân không can thiệp. Nhìn lại bọn người Tây Hạ, thấy tên nào tên nấy ngồi nhũn ra, không cử động gì được, chỉ còn đôi mắt nhớn nhác.

Đoàn Dự nói: “Thật là cổ quái! Chẳng lẽ bọn chúng tự hại mình, tự phóng độc, tự trúng độc hay sao?” A Châu đến lay thử Hách Liên Thiết Thụ một cái thì gã lăn kềnh ra ghế, đúng là trúng độc rồi. Tuy vậy, gã vẫn còn nói được. Gã quát lên: “Đứa nào dùng Bi Tô Thanh Phong đó? Mau lấy thuốc giải ra đây!” Y quát luôn mấy tiếng nhưng bọn thủ hạ đều trúng độc nằm gục đó, chỉ bẩm báo: “Bẩm tướng quân, thuộc hạ không cử động được nữa rồi!” Nỗ Nhi Hải nói: “Chắc là có kẻ nội gian, nếu không thì ai biết được cách sử dụng loại Bi Tô Thanh Phong phức tạp này?” Hách Liên Thiết Thụ giận dữ nói: “Đúng đó! Ngươi mau mau tra xét cho rõ ràng xem đứa nào, đem nó ra phanh thây muôn đoạn.” Nỗ Nhi Hải đáp: “Vâng! Có điều bây giờ cần phải kiếm thuốc giải trước đã.” Hách Liên Thiết Thụ nói: “Nói phải lắm. Người làm đi.”

Nỗ Nhi Hải nhíu mày lại, liếc mắt nhìn chiếc bình sứ trong tay A Châu mà nói: “Kiều bang chủ! Cảm phiền bang chủ đem bình thuốc cho chúng tôi ngửi, thể nào tướng quân chúng tôi cũng hậu thưởng.”

A Châu cười nói: “Ta đến đây là để giải cứu anh em trong bang chứ có phải để lãnh thưởng của tướng quan nhà ngươi đâu.” Nỗ Nhi Hải lại nói với Đoàn Dự: “Mộ Dung công tử, bên người tại hạ cũng có một cái bình nhỏ, phiền công tử lấy ra mở nắp cho ngửi một chút.”

Đoàn Dự thò tay vào bọc y lấy ra một chiếc bình nhỏ, quả nhiên cũng là thuốc giải. Chàng cười nói: “Ta lấy giải dược không phải cho ngươi đâu.” Chàng cùng A Châu chạy xuống hậu điện, đẩy cửa phòng ở phía đông thấy bên trong đầy người, quả là bang chúng Cái Bang bị bắt nhốt nơi đây.

Ngô trưởng lão vừa trông thấy A Châu đã gọi to: “Kiều bang chủ đấy ư? Tạ ơn trời đất!” A Châu đưa giải dược cho lão ngửi rồi nói: “Đây là thuốc giải, trưởng lão mau đem cho anh em ngửi.” Ngô trưởng lão mừng quá, một lát sau tay chân bắt đầu cử động được liền đưa chiếc bình cho Tống trưởng lão, còn Đoàn Dự thì đưa chiếc bình lấy được của Nỗ Nhi Hải cho Từ trưởng lão.

A Châu nói: “Cái Bang đông người thế này mà chỉ có hai bình, biết bao giờ mới giải độc xong? Ngô trưởng lão, phiền trưởng lão đi lục trong người bọn Tây Hạ xem còn bình thuốc giải nào nữa không.” Ngô trưởng lão đáp: “Vâng!” Lão liền rảo bước ra đại diện, rồi nghe từ ngoài vọng vào tiếng chửi bới, tiếng kêu trời, rồi tiếng bôm bốp, hẳn là Ngô trưởng lão vừa tìm thuốc giải, vừa đánh mắng cho hả giận. Chẳng bao lâu, lão cầm sáu cái bình quay vào, cười nói: “Ta cứ nhắm đứa Hồ Lỗ nào ăn mặc sang trọng mà lục, quả nhiên trong người đều có thuốc giải. Ha ha, bọn chúng thật là khổ sở.” Đoàn Dự cười hỏi: “Sao thế?” Ngô trưởng lão cũng cười, nói: “Ta tát cho mỗi đứa hai tát, thằng nào có thuốc lại càng tát mạnh tay.”

Lão bỗng nhiên nhớ ra mình chưa gặp Đoàn Dự lần nào, bèn hỏi: “Chẳng hay vị huynh đài đây quý tính cao danh là chi? Xin đa tạ đã cứu chúng tôi.” Đoàn Dự đáp: “Tại hạ ở họ Mộ Dung, đến cứu quá muộn để quí vị phải chờ đợi, thật là đắc tội”

Bang chúng Cái Bang nghe chàng tự xưng là con người tiếng tăm lừng lẫy Mộ Dung Cô Tô, ai nấy hết sức ngạc nhiên. Tống trưởng lão nói: “Bọn ta quả là có mắt như mù, nghi oan cho Mộ Dung công tử giết hại Mã phó bang chủ. Hôm nay nếu không nhờ công tử cùng Kiều bang chủ ra tay cứu mạng, cả lũ rơi vào nanh vuốt bọn ác cẩu Tây Hạ này, không biết hậu quả sẽ tới đâu.” Ngô trưởng lão cũng nói: “Kiểu bang chủ, người trên không chấp nhặt kẻ dưới, xin bang chủ trở lại cho xong.”

Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: “Kiều gia và Mộ Dung công tử quả nhiên là chỗ bằng hữu thâm giao.”

Y không gọi Kiều Phong là Kiều bang chủ, lại bảo ông với Mộ Dung công tử là chỗ bằng hữu thâm giao, câu nói quả là lợi hại. Ta nên biết bang chúng Cái Bang nghi Kiều Phong mượn tay Mộ Dung Phục để trừ khử Mã Đại Nguyên, mà trước nay Kiều Phong vẫn nói là không hề quen biết với Mộ Dụng Phục. Hôm nay hai người cùng đến chùa Thiên Ninh nói nói cười cười ra chiều thân mật, hiển nhiên không phải chỉ mới biết nhau.

A Châu nghĩ bụng những người này ai ai cũng thân thiết với Kiều Phong từ lâu, nán lại càng lâu càng dễ sơ hở. Nàng liền nói: “Đại sự trong bang thong thả sẽ bàn tới, để ta đi xem bọn ác cẩu Tây Hạ ra sao đã.” Nàng nói xong liền bước ra đại diện, Đoàn Dự cũng đi theo.

Hai người chưa ra đến ngoài đã nghe Hách Liên Thiết Thụ quát tháo om sòm: “Các ngươi mau tra xét cho rõ ràng, thằng khốn kiếp Tây Hạ đó tên là gì, đốt ngay nhà nó, bắt hết già trẻ trai gái giết cho kỳ hết, con gà con chó cũng không chừa. Mẹ nó chứ, đã là người Tây Hạ còn phản chủ giúp người ngoài lấy Bi Tô Thanh Phong đem phóng loạn lên.” Đoàn Dự ngạc nhiên, không biết y đang mắng chửi gã Tây Hạ nào. Hách Liên Thiết Thụ cứ chửi một câu thì Nỗ Nhi Hải lại dạ một tiếng. Hách Liên Thiết Thụ lại tiếp: “Thằng khốn kiếp đó viết tâm chữ trên tường, rõ ràng là để mạt sát chúng ta.”

A Châu cùng Đoàn Dự ngửng đầu lên, thấy trên tường có bốn hàng mười sáu chữ như rồng bay phượng múa: “Ai có tài gì, Ta đem trả lại, Gió độc mê người, Thổi lại chúng bay.” (Dĩ bỉ chi đạo, Hoàn thi bỉ thân, Mê nhân độc phong, Nguyên bích qui quân.) Nét bút hãy còn chưa khô, hiển nhiên người viết đi chưa lâu.

Đoàn Dự “A” lên một tiếng, ấp úng hỏi: “Đây… đây có phải Mộ Dung công tử viết đấy chăng?” A Châu hạ giọng nhắc: “Đoàn công từ chớ quên mình đang đóng vai Mộ Dung công tử. Thiếu gia viết nhiều bút pháp khác nhau, tiểu nữ cũng không hiểu có phải chính công tử viết hay không.” Đoàn Dự quay sang hỏi Nỗ Nhi Hải: “Ai viết những dòng chữ này?” Nỗ Nhi Hải không trả lời, trong bụng phập phồng lo sợ. Bọn chúng bắt được bang chúng Cái Bang rồi, đánh đập chửi mắng không thiếu thứ gì, người trong Cái Bang chỉ cần “gậy ông đập lưng ông” là cũng đủ khổ rồi.

A Châu thấy quần hào Cái Bang tới tấp kéo vào đại điện, khẽ bảo: “Đại sự xong rồi. Chúng ta đi thôi!” Nàng lớn tiếng nói: “Ta có việc khẩn cấp, phải cùng Mộ Dung công tử đi lo liệu ngay, sau này sẽ gặp lại.” Nói xong rảo bước ra cửa điện. Bọn Ngô trưởng lão gọi to lên: “Bang chủ hãy thong thả! Bang chủ hãy thong thả?” A Châu không dám chần chừ, lại cùng Đoàn Dự đi nhanh hơn. Quần hào Cái Bang trước nay vẫn kính sợ Kiều Phong, không ai chạy theo níu kéo.

Hai người đi chừng một dặm, A Châu cười nói: “Đoàn công tử! Nghĩ lại quả thật là xảo hợp, lão đồ đệ xấu xí đòi ngay công tử biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, còn bảo công tử giỏi hơn cả sư phụ lão.” Đoàn Dự cũng cười theo. A Châu lại tiếp: “Không biết kẻ nào ngầm phóng hơi độc ra. Gã tướng quân Tây Hạ luôn mồm mắng nhiếc nội gian, xem chừng chính người Tây Hạ làm chuyện này.” Đoàn Dự chợt nghĩ đến một người, bèn nói: “Hay chính là Lý Diên Tông, gã võ sĩ Tây Hạ mà tại hạ cùng Vương cô nương gặp nơi trạm xay lúa?” A Châu chưa gặp Lý Diên Tông nên không phỏng đoán gì được, chỉ nói: “Chúng ta về hỏi lại Vương cô nương xem cô nương nghĩ thế nào.”

Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, trên đường cái một người phi ngựa chạy như bay tới. Đoàn Dự tinh mắt, từ xa đã nhận ra người, mừng rỡ kêu lên: “A! Kiều đại ca kìa!” Chàng đang tính cất tiếng gọi, A Châu đã vội kéo áo chàng, nói: “Người thật tới rồi, chớ có lên tiếng.”rồi nàng vội vàng quay người đi. Đoàn Dự chợt hiểu ra: “A Châu đang giả làm Kiều đại ca, để đại ca trông thấy quả là không hay”. Chẳng mấy chốc Kiều Phong đã cưỡi ngựa đến gần. Đoàn Dự không dám đối diện với chàng, nghĩ bụng: “Khi Kiều đại ca tương hội cùng quần hào Cái Bang, chân tướng tất nhiên bại lộ. Không hiểu đại ca có phiền trách A Châu hay không?”

***

Nguyên Kiều Phong cứu được A Châu, A Bích hai nàng rồi biết tin anh em Cái Bang bị người Tây Hạ bắt hết thì trong lòng nóng nảy, chạy khắp nơi tìm kiếm. Thế nhưng đất Giang Nam ruộng lúa nương dâu bát ngát, đường thủy đường bộ giao tiếp tứ tung, không phải như miền bắc phần nhiều là đường độc đạo, nên khó bề tìm ra được. Kiều Phong kiếm mãi, may sao cũng gặp hai chú tiểu, mới hỏi ra chuyện, lập tức chạy đến Thiên Ninh Tự. Chàng thấy Đoàn Dự dáng người thanh tú, trạng mạo khôi ngô, liền nghĩ thầm: “Vị công tử này trông mặt mũi sáng sủa chẳng kém gì Đoàn Dự hiền đệ”. A Châu lúc ấy đã trở gót quay đi, chàng cũng không để ý, trong bụng chỉ mải lo lắng về anh em Cái Bang nên cứ quất ngựa chạy cho nhanh về phía trước.

Kiều Phong chạy đến trước chùa Thiên Ninh, thấy độ mươi bang chúng Cái Bang đang áp giải bọn võ sĩ Tây Hạ bị trói từ trong chùa đi ra, Kiều Phong mừng quá nghĩ thầm: “Thì ra các huynh đệ Cái Bang đã chuyển bại ra thắng rồi.” Bang chúng Cái Bang thấy Kiều Phong đi rồi quay trở lại, tới tấp chạy ra nghênh tiếp, nói: “Bang chủ! Bây giờ nên phát lạc bọn man rợ này ra sao, xin bang chủ cho hiệu lệnh.” Kiều Phong nói: “Ta đã không còn là người Cái Bang nữa, hai tiếng bang chủ xin đừng gọi đến. Các huynh đệ có bị tổn thương không?”

Bọn Từ trưởng lão trong chùa nghe tin Kiều Phong quay lại liền vội vàng chạy ra đón, người thì hổ thẹn, người thì vui sướng ra mặt. Tống trưởng lão cao giọng nói: “Bang chủ, hôm qua ở trong rừng hạnh, thám tử về cấp báo quân tình khẩn cấp Tây Hạ, Từ trưởng lão tự mình quyết định không cho Kiều bang chủ xem. Bang chủ có biết chuyện gì không? Từ trưởng lão, mau đem ra cho bang chủ xem nào.” Giọng nói của Tống trưởng lão xem ra có vẻ châm biếm.

Từ trưởng lão mặt mày sượng sùng, lấy viên giấy bên trong cục sáp ong, thở dài đưa cho Kiều Phong rồi nói: “Ta quả là nhầm lẫn.” Kiều Phong lắc đầu không cầm.

Tống trưởng lão chen lên, cầm lấy viên giấy mở ra lớn tiếng đọc: “Khải bẩm bang chủ! Thuộc hạ nghe nói tướng quân Hách Liên Thiết Thụ của Tây Hạ dẫn các cao thủ Nhất Phẩm Đường qua Trung Nguyên đối phó với bản bang. Bọn họ có một loại độc khí rất ghê gớm, khi phóng ra tuyệt không mùi vị, ai mà trúng phải thì không cử động được. Khi gặp bọn chúng phải bịt mũi lại, khống chế thủ lãnh để cướp lấy giải dược có mùi hôi thối kinh người, nếu không cực kỳ nguy hiểm. Khẩn cấp, khẩn cấp! Dịch Đại Bưu thuộc hạ Đại Tín Đà bẩm báo.”

Tống trưởng lão đọc xong, cùng bọn Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão nét mặt hầm hầm nhìn Từ trưởng lão. Bạch Thế Kính nói: “Dịch Đại Bưu huynh đệ gửi tin khẩn cấp về cũng còn đúng lúc, tiếc thay chúng ta không kịp mở ra xem. Cũng may anh em chỉ bị một phen hoảng vía, không ai bị thương tổn. Bang chủ, tất cả bọn thuộc hạ xin chịu lỗi, bang chủ đại nhân đại nghĩa lượng thứ cho.”

Ngô trưởng lão nói: “Bang chủ vừa đi khỏi anh em đã ra nông nỗi này, không nhờ bang chủ và Mộ Dung công tử kịp thời đến cứu thì toàn thể Cái Bang chết sạch rồi. Bang chủ mà không quay về chủ trì đại cuộc, đứng đầu bản bang thì không xong, hỏng bét hết.” Kiều Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Mộ Dung công tử nào?” Ngô trưởng lão nói: “Gã Toàn Quan Thanh nói năng lếu láo, bang chủ chẳng nên để vào tai. Kết giao bạn bè phỏng có chi là khó? Thuộc hạ tin rằng Bang chủ cùng Mộ Dung công tử mới quen biết nhau bữa nay.” Kiều Phong hỏi: “Mộ Dung công tử ư? Phải chăng Ngô lão nói đến Mộ Dung Phục? Ta chưa gặp y lần nào.”

Từ trưởng lão cùng bốn lão Tống, Hề, Trần, Ngô mặt mày ngơ ngác, ai nấy ngớ ra nghĩ bụng: “Vừa mới đây y cùng Mộ Dung công tử dắt tay nhau vào giải độc cho mọi người, sao bây giờ bảo chưa biết Mộ Dung công tử?” Hề trưởng lão suy nghĩ một lát tỉnh ngộ ra, nói: “A phải rồi! Công tử vừa rồi chỉ tự xưng ở họ Mộ Dung chứ có bảo là Mộ Dung Phục đâu! Trong thiên hạ, người họ Mộ Dung hàng nghìn hàng vạn, chẳng có gì là lạ.” Trần trưởng lão nói: “Y đề thơ trên tường khẩu khí gây ông đập lưng ông, không phải Mộ Dung Phục thì còn ai?”.

Bỗng có một giọng nói quái gở xen vào: “Gã công tử nhãi nhép kia công phu gì cũng biết, lại còn tinh diệu hơn chính chủ nhân, mà còn không phải Mộ Dung Phục ư? Chính là hắn, nhất định là hắn!” Mọi người nhìn xem ai nói, thì ra lão Nam Ngạc Hải Thần mắt nhỏ như mắt chuột, râu ngắn mặt vàng. Lão trúng độc bị trói, không nhịn được nữa nên xen vào nói góp.

Kiều Phong lạ lùng hỏi: “Thế ra Mộ Dung Phục đã đến đây rồi ư?” Nam Hải Ngạc Thần giận dữ chửi: “Đồ rắm thối! Chính người vừa mới dắt tay Mộ Dung Phục đến đây, không biết dùng tà thuật gì khiến cho lão gia mềm như bún. Ngươi mau mau thả lão gia ra, nếu không… nếu không…” Lão ấp úng không biết “nếu không” thì sao, nghĩ đi nghĩ lại chỉ đằng hắng mấy tiếng.

Kiều Phong nói: “Ngươi xem ra cũng là một cao thủ võ lâm, sao lại ăn nói lăng nhăng như thế? Ta đến đây bao giờ? Lại cùng Mộ Dung Phục dắt tay đi vào ư? Thật là hoang đường cổ quái!” Nam Hải Ngạc Thần tức đến thở hồng hộc, gầm lên: “Con mẹ thằng Kiều Phong, thật uổng cho ngươi làm tới bang chủ Cái Bang mà lại nói năng láo toét đến thế. Này các huynh đệ lớn nhỏ, có phải Kiều Phong vừa đến đây không? Tướng quân chúng ta chẳng mời y ngồi uống trà là gì?” Bọn Tây Hạ đồng thanh đáp: “Đúng thế! Mộ Dung Phục biểu diễn Lăng Ba Vi Bộ, Kiều Phong đứng vỗ tay khen, không lẽ còn giả được hay sao?”

Ngô trưởng lão kéo tay áo Kiều Phong, khẽ nói: “Bang chủ! Người quang minh lỗi lạc không làm việc ám muội, chuyện bang chủ mới đến đây chẳng nên cãi làm gì.” Kiều Phong nhăn nhó cười gượng, nói: “Ngô tứ ca, đến từ ca cũng không tin ta nữa hay sao?” Ngô trưởng lão liền lấy chiếc bình thuốc giải đưa ra nói: “Bang chủ, thuộc hạ trả lại chiếc bình này, không chừng mai sau có việc dùng đến.” Kiều Phong ngạc nhiên: “Trả lại cho ta ư? Sao lại trả cho ta?” Ngô trưởng lão nói: “Bình thuốc giải này bang chủ vừa mới đưa cho thuộc hạ, không lẽ quên rồi ư?” Kiều Phong sững sờ hỏi lại: “Sao? Có thực Ngô tứ ca vừa mới gặp ta hay không?” Ngô trưởng lão thấy ông ta cãi tới cùng, trong lòng vừa thấy không vui, lại vừa cảm thấy băn khoăn.

Còn Kiều Phong tuy xét việc tinh minh mau lẹ, nhưng cũng không thể đoán ra lúc nãy đã có người giả dạng mình đến Thiên Ninh Tự cứu người. Chàng nghĩ thầm trong việc này ắt có âm mưu trọng đại. Ngô trưởng lão, Hề trưởng lão đều là người thẳng thắn quyết không làm trò gian dối, nhưng kẻ bày mưu tính kế phải vô cùng lợi hại, bố trí tinh vi, mà nhằm mục đích gì chàng cũng không rõ.

Quần hào Cái Bang được giải cứu vốn dĩ ai nấy đều cảm kích, nhưng nay thấy Kiều Phong nhất quyết phủ nhận lại chuyển sang kinh ngạc. Có người nghĩ rằng mấy hôm nay chàng gặp nhiều chuyện đau lòng, khiến cho thần trí thác loạn. Người khác lại cho rằng Kiều Phong còn có kế hoạch bí mật đối phó với Tây Hạ nên không tiện công khai thừa nhận. Có người lại cho rằng Mã Đại Nguyên quả đúng là bị chàng nhờ tay Mộ Dung Phục giết đi, lúc nãy nghe Toàn Quan Thanh châm biếm, e ngại gian mưu bại lộ nên khẳng khăng chối là mình không quen biết gì với họ Mộ Dung. Kẻ thì đoán chàng muốn quay lại ngôi bang chủ nên sắp đặt kế sách, người lại cho rằng chàng là người Khất Đan ra tay hại cả Tây Hạ lẫn Đại Tống. Mỗi người nghĩ một nẻo nên nét mặt kẻ thì hoài nghi, người thì sùng kính, kẻ lại băn khoăn, phẫn nộ, hoặc khinh bỉ, hận thù.

Kiều Phong thở dài một tiếng, nói: “Dù sao thì các vị huynh đệ đều đã thoát hiểm rồi, Kiều Phong này xin cáo biệt.” Nói xong chàng chắp tay từ giã, xoay người nhảy lên ngựa, ra roi chạy ngay.

Bỗng nghe Từ trưởng lão gọi to: “Kiều Phong! Hãy để Đả Cẩu Bổng lại đã!” Kiều Phong dừng ngựa, hỏi: “Đả Cẩu Bổng ư? Ta đã trao trả từ lúc còn ở rừng hạnh kia mà?” Từ trưởng lão nói: “Bọn ta lỡ bị bắt, Đả Cẩu Bổng rơi vào tay bọn ác cẩu Tây Hạ. Bây giờ tìm khắp mà chẳng thấy đâu, ắt hẳn nhà ngươi lấy được rồi.” Kiều Phong ngửa mặt lên trời cười một tràng dài đầy vẻ thê lương, rồi lớn tiếng nói: “Kiều mỗ với Cái Bang không còn dây mơ rễ, má, lấy Đả Cẩu Bổng để làm gì? Thì ra Từ trưởng lão coi thường ta quá.” Chàng thúc hai vế vào bụng ngựa, phóng như bay về phía bắc.

Từ thuở nhỏ Kiều Phong đã được cha mẹ nâng niu, về sau được Huyền Khổ đại sư của chùa Thiếu Lâm dạy võ nghệ, lại bái Uông bang chủ Cái Bang làm thầy. Chàng bôn tẩu giang hồ từng gặp nhiều bước gian nan, nhưng vẫn được sư phụ cùng bằng hữu thương mến một cách chân thành. Ai ngờ hai ngày nay đất bằng nổi sóng, oai danh lừng lẫy cùng tiếng thơm của một vị bang chủ đại nhân đại nghĩa bỗng phút chốc tiêu tan, chàng bị người ta nhìn như một tên bán nước hại dân, nói dối vô liêm sỉ. Kiều Phong cứ để cho con ngựa tùy ý chạy đi, trong lòng ngổn ngang trăm mối: “Giả tỷ ta là người Khất Đan thật, thì trong mười năm qua chính tay ta giết biết bao nhiêu đồng bào, phá vỡ bao nhiêu kế hoạch của quốc gia, quả là đại bất trung. Nếu đúng là cha mẹ ta bị người Hán giết ngoài Nhạn Môn Quan, ba mươi năm qua ta nhận người khác làm cha mẹ, lại nhận kẻ đại cừu làm thầy, quả là đại bất hiếu, Kiều Phong hỡi Kiều Phong! Mi đã là người bất trung, bất hiếu như vậy thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa? Mà nếu như Tam Hòe Công không phải cha ta thì ta nào phải là Kiều Phong? Ta họ gì? Phụ thân đặt cho ta tên gì? Ha ha, ta không những là kẻ bất trung bất hiếu mà còn là đứa không họ không tên.”

Kiều Phong lại nghĩ: “Không chừng mọi việc đều do một tên đại gian đại ác đặt ra, vu hãm cho ta thân bại danh liệt, không ngóc đầu lên được nữa. Kiều Phong này đường đường là bậc đại trượng phu, nếu vì phẫn nộ nhất thời mà bỏ đi, không ngó ngàng gì đến Cái Bang nữa, thì có phải là gian mưu của y đã thành công rồi ư? Không được! Thế nào ta cũng phải tra xét cho minh bạch.”

Chàng suy nghĩ một hồi rồi quyết định việc đầu tiên là phải về núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam, hỏi lại Tam Hòe Công về thân thế lại lịch của mình. Sau đó sẽ vào chùa Thiếu Lâm khấu kiến Huyền Khổ đại sư để xin chỉ bảo chân tướng. Hai người này xưa nay thương yêu ta khôn xiết, chắc không nỡ giấu giếm.

Khi đã định được chủ ý, trong lòng Kiều Phong không còn buồn phiền nữa. Có điều khi trước chàng là bang chủ Cái Bang thì khắp giang hồ đâu cũng là nhà, còn bây giờ không tiện đến tá túc tại các phân đà nữa, lại phải tìm những đường hẻo lánh mà đi để khỏi gặp các thuộc hạ cũ trong Cái Bang, tránh sinh ra rắc rối cùng phiền não. Đi được hai ngày, trong người cạn sạch tiền bạc, chàng đành phải đem bán con ngựa đoạt được của bọn Tây Hạ để làm lộ phí.

Một hôm, Kiều Phong đến chân núi Tung Sơn bèn nhắm theo ngọn Thiếu Thất mà đi. Đây là nơi chàng sinh sống hồi còn nhỏ tuổi, chỗ nào cũng quen thuộc. Trong võ lâm thì Cái Bang là bang hội lớn nhất, Thiếu Lâm là môn phái lớn nhất, nếu như bang chủ Cái Bang đến bái phỏng Thiếu Lâm Tự ắt phải sắp đặt đủ loại nghi lễ, kinh động rất nhiều người. Vì thế mà từ lúc nhậm chức bang chủ Cái Bang đến nay, hàng năm chàng chỉ sai người đem đồ nhu dụng cùng quà cáp về vấn an cha mẹ và ân sư, chưa tự về thăm. Đến nay Kiều Phong mới quay về cố lý, nghĩ đến một hai giờ nữa sẽ rõ thân thể vốn mơ hồ, nên dù vốn là người trấn tĩnh trầm ổn, trong lòng chàng cũng thấy nao nao.

Nhà cũ của chàng ở về phía đông núi Thiếu Thất. Kiều Phong rảo bước theo sườn núi, đến một khu vườn rau có cây táo lớn. Dưới gốc táo còn úp một cái nón cỏ và một chiếc bình trà đã sứt quai. Kiều Phong nhận ra là vật của phụ thân Kiều Tam Hòe, trong lòng nổi lên một niềm thương cảm: “Gia gia cần mẫn tiết kiệm, cái bình trà vỡ này dùng đã mấy chục năm nay mà cũng chưa vứt bỏ.”

Kiều Phong nhìn lại cây táo, hồi tưởng khi còn nhỏ, mỗi mùa trái chín phụ thân đều nắm bàn tay bé nhỏ của chàng mà rung cho trái rụng. Những trái táo đỏ chín đến nứt ra, vừa ngọt vừa nhiều nước, từ lúc xa nhà đến nay chàng chưa được ăn thứ táo nào ngon đến thế. Kiều Phong nghĩ thầm: “Dù cho hai người không phải phụ mẫu thân sinh ta chăng nữa, nhưng cái ơn dưỡng dục kia, ta một đời báo đáp cũng không xong. Bất luận chân tướng thế nào, ta quyết không thay đổi cách xưng hô”.

Kiều Phong đến trước ba gian nhà đất thấy ngoài sân có mảnh phên tre phơi đầy rau dưa. Một con gà mái dẫn đàn gà con đang bới cỏ tìm mồi. Bất giác chàng tủm tỉm cười, nghĩ thầm: “Không chừng tối nay má má giết gà làm cơm để khoản đãi đứa con lâu nay không gặp.” Chàng cao giọng gọi: “Gia gia! Má má! Con đã về đây!”

Kiều Phong gọi luôn mấy tiếng không nghe đáp lại thì nghĩ bụng: “Phải rồi! Hai cụ nay đã cao tuổi, chắc lãng tai không nghe rõ”. Chàng đẩy cửa bước vào, trong nhà từ bàn gỗ ghế tre đến cày bừa cuốc xẻng vẫn gần như nguyên vẹn, nhưng sao không thấy bóng người?

Kiều Phong lại gọi thêm mấy tiếng nữa: “Gia gia, má má ơi!” Vẫn không thấy ai trả lời, chàng hơi ngạc nhiên, lẩm bẩm một mình: “Không biết hai cụ đi đâu?” Chàng thò đầu nhìn vào trong phòng, bất giác giật nảy mình. Hai vợ chồng Kiều Tam Hòe nằm lăn lóc dưới đất, không động đậy.

Kiều Phong nhảy xổ ngay vào nâng mẫu thân dậy thì thấy bà đã tắt thở nhưng thân còn hơi ấm, rõ ràng là mới chết chưa đầy một giờ. Chàng đến đỡ phụ thân lên thì cũng y như thế. Kiều Phong vừa kinh hoàng vừa đau xót, ôm thi thể phụ thân chạy ra ngoài cửa, xem xét kỹ dưới ánh sáng mặt trời, thấy gân cốt trước ngực đều bị đứt đoạn, hiển nhiên bị một tay cao thủ võ lâm dùng chưởng lực lợi hại đánh chết. Xem đến thi thể mẫu thân thì cũng không khác chút nào. Kiều Phong trong lòng bấn loạn, nghĩ thầm: “Gia nương ta là vợ chồng nhà quê trung hậu thực thà, sao lại bị cao thủ võ lâm đến hạ độc thủ? Chuyện này ắt hẳn vì ta mà ra.”

Chàng liền xem xét kỹ càng ba gian nhà từ trước ra sau, nhảy cả lên mái xem có vết tích gì không. Song hung thủ vô cùng cẩn thận, một vết chân cũng không để lại. Kiều Phong mặt mày đẫm lệ, càng nghĩ càng đau buồn, nhịn không nổi khóc òa lên.

Mới khóc được mấy tiếng thì sau lưng có tiếng người nói: “Đáng tiếc! Đáng tiếc! Chúng ta đến chậm mất rồi.” Kiều Phong đứng lên quay lại nhìn, thấy bốn nhà sư trung niên, phục sức theo lối chùa Thiếu Lâm. Kiều Phong tuy đã từng học võ phái Thiếu Lâm, nhưng sư phụ chàng là Huyền Khố đại sư cứ nửa đêm mới đến nhà chàng truyền thụ, thành ra chàng không biết mặt nhà sư nào trong chùa. Lúc này trong lòng chàng đau khổ, thấy người ngoài đến mà cũng không cầm được nước mắt.

Một nhà sư dáng người cao cao, mặt đầy vẻ giận dữ, lớn tiếng quát mắng: “Kiều Phong! Con người như ngươi thật không bằng chó lợn. Vợ chồng Kiều Tam Hòe dù không phải là phụ mẫu thân sinh, song mười mấy năm trời dưỡng dục đâu phải ít công lao, ngươi nỡ nào ra tay sát hại?” Kiều Phong sụt sùi đáp: “Tại hạ vừa về đến nhà đã thấy song thân bị hại, đang muốn tra xét hung thủ là ai để báo thù. Sao đại sư lại nói như thế?” Nhà sư cao tức giận đáp: “Dòng giống Khất Đan tâm địa như lang sói, hành động như cầm thú. Chính tay ngươi hạ sát nghĩa phụ, nghĩa mẫu, tiếc rằng bọn ta đến chậm mất một chút. Họ Kiều kia! Ngươi muốn đến núi Thiếu Thất làm càn, e rằng không dễ dàng đâu.” Nói xong vung chưởng đánh vào ngực Kiều Phong. “

Chàng đang định né tránh bỗng nghe sau lưng có hơi gió nhè nhẹ, biết rằng có người đánh lén. Kiều Phong không muốn động thủ cùng các nhà sư Thiếu Lâm một cách hồ đồ nên chân trái điểm một cái đã lạng người xa hơn trượng, quả nhiên một nhà sư Thiếu Lâm đá hụt vào quãng không.

Bốn nhà sư thấy chàng né tránh một cách dễ dàng như vậy đều lộ vẻ kinh dị. Nhà sư cao lại quát mắng: “Võ công ngươi giỏi thì đã sao? Ngươi tưởng rằng giết nghĩa phụ nghĩa mẫu diệt khẩu là giấu được lai lịch xuất thân ư? Ngươi là nghiệt chủng Khất Đan, việc này đã đồn rầm khắp võ lâm, trên chốn giang hồ còn ai không biết? Ngươi làm chuyện đại nghịch như thế chỉ tăng thêm tội nghiệt mà thôi.” Một nhà sư khác mắng tiếp: “Ngươi trước đã giết Mã Đại Nguyên, nay lại giết vợ chồng Kiều Tam Hòe. Hừ, tưởng như thế là che giấu được chuyện xấu xa hay sao?”

Kiều Phong nghe hai nhà sư nhục mạ, trong lòng chỉ cảm thấy xót xa, chẳng oán hận chút nào. Bình sinh chàng gặp khó khăn đã nhiều, tập được tính nhẫn nại. Chàng cố giữ bình tĩnh chắp tay thi lễ, nói: “Xin hỏi bốn vị đại sư pháp hiệu là gì? Phải chăng là những bậc cao tăng tại chùa Thiếu Lâm?”

Một nhà sư người tầm thước tính tình dễ chịu hơn liền nói: “Bọn ta đều là đệ tử Thiếu Lâm. Ôi, nghĩa phụ nghĩa mẫu ngươi một đời trung hậu sao lại được báo đáp một cách thê thảm thế này! Kiều Phong, người Khất Đan các ngươi thật là tàn nhẫn!”

Kiều Phong nghĩ thầm: “Mấy nhà sư này đã không chịu nói pháp danh, hỏi nữa cũng vô ích. Nhà sư cao kia bảo là họ đến cứu viện chậm một chút, hẳn là có người đưa tin. Ai biết trước gia nương ta gặp nguy hiểm? Ai thế nhỉ?” Chàng liền tìm cách hỏi: “Bốn vị đại sư lòng dạ từ bị định đến cứu gia nương tại hạ, tiếc thay chậm mất một bước…”

Nhà sư cao kia tính nóng như lửa, vung quyền lên nhắm Kiều Phong đấm tới, quát lớn: “Bọn ta chậm một bước nên người mới làm chuyện hung ác này được. Ngươi còn tự đắc khoe khoang, buông lời khiêu khích nữa hay sao?”

Kiều Phong biết bốn vị này vì lòng hảo tâm mà đến cứu gia nương mình, thực tâm không muốn động thủ xuất chiêu. Thế nhưng nếu không chế ngự được bọn họ thì vĩnh viễn sẽ không hiểu rõ trắng đen, chàng liền nói: “Tại hạ hết sức cảm kích hảo ý của bốn vị. Hôm nay không biết làm sao hơn, bất đắc dĩ phải đắc tội.” Nói xong, chàng chuyển mình quay vụt lại, đưa tay ra vỗ vào vai nhà sư thứ ba. Nhà sư này quát hỏi: “Ngươi động thủ thật sao?” Y vừa hỏi dứt câu đã bị vỗ trúng vai, nhũn người ra ngồi phịch xuống đất.

Kiều Phong học võ từ phái Thiếu Lâm nên võ công gia số của bốn nhà sư chàng thuộc nằm lòng, liên tiếp xuất chưởng đánh ngã hết rồi nói: “Tại hạ thật là đắc tội! Xin hỏi bốn vị đại sư, các vị vừa bảo đến cứu chậm một chút, vậy làm sao biết được gia nương tôi sắp bị nạn? Ai đã báo tin cho các vị biết?”

Nhà sư cao kia giận dữ đáp: “À, thì ra ngươi lại muốn tra hỏi cho biết người đưa tin để hạ độc thủ tiếp. Đệ tử Thiếu Lâm khi nào chịu cung khai với bọn chó Khất Đan? Ngươi cứ thử dùng độc hình xem bọn ta có nói lộ nửa lời hay chăng?”

Kiều Phong than thầm trong bụng: “Hiểu lầm mỗi lúc một sâu, ta có trình bày cách nào bọn họ cũng nghĩ là mình đang lấy khẩu cung.” Chàng đưa tay xoa nắn trên lưng mỗi người mấy cái, giải hết huyệt đạo rồi nói: “Nếu Kiều mỗ muốn sát nhân diệt khẩu thì lúc này đã lấy mạng bốn vị rồi. Chuyện đúng hay sai, thể nào rồi đây cũng có ngày sông cạn đá bày.”

Bỗng nghe từ sườn núi có tiếng người cười nhạt, nói: “Muốn sát nhân diệt khẩu cũng không dễ như thế đâu.”

Kiều Phong ngoảnh đầu lại xem thì thấy đến hơn mười vị hòa thượng Thiếu Lâm, vị nào cũng tay cầm binh khí. Hai nhà sư đứng đầu chừng năm chục tuổi, tay cầm phương tiện sạn, đầu cây sạn hàn quang lấp lánh. Nhãn quan hai vị này loang loáng như điện, thoạt nhìn đã biết nội công thâm hậu. Kiều Phong không sợ hãi, nhưng cũng biết những người vừa đến võ công không phải tầm thường, nếu đã giao tranh thì phải giết vài người mới bảo toàn được tính mạng mà trốn thoát. Chàng chắp tay nói: “Kiều Phong vô lễ, xin có lời tạ tội với chư vị đại sư.” Đột nhiên thần hình chàng bay ngược về sau, lưng đụng gãy cánh cửa, chui tọt vào trong căn nhà đất.

Biến cố diễn ra cực kỳ nhanh, các nhà sư cùng kinh hoảng kêu la, năm sáu người xông lên nhưng vừa đến cửa, một luồng kình phong từ bên trong đánh ra. Ai nấy đều vội vàng đưa chưởng lên vận nội lực chống đỡ, nghe bùng một tiếng, cát bụi tung bay. Tất cả bị ép lùi lại đến bốn năm bước. Mấy vị đứng vững lại rồi, đều thấy khí huyết trong ngực trào lên, sắc mặt nhợt nhạt, ngơ ngác nhìn nhau. Ai nấy trong bụng đều hiểu rõ chưởng lực của Kiều Phong tuy đã mạnh nhưng vẫn còn dư lực, nếu phóng tiếp chưởng thứ hai ra vị tất đã đỡ nổi. Mọi người cho rằng Kiều Phong là hạng cùng hung cực ác, còn dành sức để đánh nữa, có biết đâu chàng hạ thủ lưu tình, không cố ý giết người.

Mười mấy hòa thượng đều thủ thế đề phòng. Một lát sau, hai nhà sư đứng đầu cầm phương tiện sạn cùng xuất chiếu Song Long Nhập Động, thân hình song song cùng tiến vào căn nhà đất. Hai cây sạn chạm nhau bật lên những tiếng leng keng, kết thành một màn lưới sáng lòe bảo hộ toàn thân. Nhưng trong nhà trống không, Kiều Phong biến đâu không thấy nữa, thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe cũng không còn.

Hai nhà sư cầm phương tiện sạn thuộc Giới Luật Viện trong chùa Thiếu Lâm, một người là trì giới tăng, chuyên giám sát hành vi đệ tử bản phái, còn một người là thủ luật tăng, chuyên bôn tẩu giang hồ để tra xét công tội các đệ tử môn hạ. Hai vị này bản lãnh cao cường, kiến văn rộng rãi hơn người, thấy Kiều Phong biến mất trong khoảnh khắc đã là giỏi rồi, ôm theo cả thi thể vợ chồng Kiều Tam Hòe lại càng khó tưởng tượng. Các vị chia nhau tra xét ngõ trước vườn sau, đến cả xó bếp cũng bị lục lọi mấy lần. Hai nhà sư Giới Luật Viện cùng đề khí chạy xuống núi đuổi đến hơn hai chục dặm nhưng nào có thấy tung tích Kiều Phong đâu?

Chẳng ai ngờ Kiều Phong lại ôm thi thể gia nương chạy ngược lên núi Thiếu Thất. Chàng tìm đến một sườn núi cheo leo thật kín đáo, an táng cha mẹ rồi cung kính dập đầu tám lạy, lâm râm khấn vái: “Gia gia ơi! Má má ơi! Chưa biết gia gia má má bị kẻ nào hạ độc thủ sát hại. Hài nhí nhất định tìm ra hung thủ, đưa đến mộ phần moi tim tế sống hai vị lão nhân gia.”

Lần này Kiều Phong về nhà, chỉ chậm một phút mà không được gặp mẹ cha. Chàng nghĩ thầm: “Nếu gia nương trông thấy mình đã trưởng thành, tráng kiện khôi ngô chắc là mừng lắm! Giá như ba người được đoàn tụ một ngày nửa buổi thì cũng còn được an ủi phần nào.” Nghĩ đến đây, không cầm lòng được, Kiều Phong thổn thức không ra tiếng. Chàng tính tình cứng cỏi từ bé, ít khi khóc lóc, hôm nay vì đau thương đến cùng cực, căm phẫn đến tột độ, nên nước mắt tuôn trào không sao cầm được.

Đột nhiên chàng nghĩ ra một chuyện quan trọng, kêu thầm: “Thôi nguy rồi! Ân sư ta là Huyền Khổ đại sư không chừng cũng bị nguy hiểm”.

Kiều Phong bỗng hiểu ra mấy việc: “Hung thủ giết gia nương chỉ nửa giờ trước khi ta về đến nhà, không phải là chuyện ngẫu nhiên. Y đã dự mưu, hạ thủ xong rồi lập tức thông báo cho chùa Thiếu Lâm rằng ta đang lên núi Thiếu Thất giết hai ông bà để diệt khẩu. Các nhà sư đó tấm lòng nghĩa hiệp, thể nào cũng đến cứu viện, rồi chạm trán với ta. Hiện nay chỉ còn một người biết rõ thân thế của ta là Huyền Khổ sư phụ. Ta phải đề phòng hung thủ lại ra tay, rồi đem hết tội lỗi trút lên đầu mình.”

Kiều Phong nghĩ đến Huyền Khổ đại sư vì mình mà phải chịu nguy hiểm, bất giác ruột nóng như lửa đốt, vội vàng cất bước chạy thẳng lên chùa Thiếu Lâm. Chàng biết rõ cao thủ trong chùa đông như kiến, nhất là mấy vị lão tăng trong Đạt Ma Đường mang tuyệt kỹ kinh người, nếu mình thò mặt ra tất nhiên bị chư tăng vây đánh, khó lòng thoát thân được. Do đó chàng chỉ tìm những nẻo đường hoang vắng, chông gai, cỏ rậm mà chạy, quần áo bị móc rách bươm, ống chân máu chảy đầm đìa nhưng chàng cũng không coi vào đâu. Lòng vòng theo đường nhỏ lên núi, xa thêm gấp rưỡi, chàng chạy mất hơn một giờ mới lên đến sau chùa. Lúc đó trời đã tối mịt, chàng trong lòng vừa mừng vừa lo, mừng là vì trời tối dễ bề ẩn nấp, lo là vì hung thủ nhân lúc đêm tối đánh lén, mình khó tìm ra tung tích.

Mấy năm qua Kiều Phong ngang dọc giang hồ ít khi gặp kình địch. Nhưng lần này địch thủ không những võ công cao cường mưu mô quỷ quyệt, mà lại chưa lộ diện. Chùa Thiếu Lâm tuy là đầm rồng hang cọp nhưng đâu có đề phòng có người đến ám toán, nếu như hung thủ đánh lén thì e rằng Huyền Khổ đại sự khó mà thoát được tai kiếp. Kiều Phong cũng biết mình đang rất dễ bị hiềm nghi. Nếu như lúc này Huyền Khổ đại sư đã bị ám toán, không ai nhìn thấy hung thủ hình dạng thế nào, chàng bị người ta phát giác lén lút vào chùa thì dù có trăm cái miệng cũng không cãi nổi. Nếu lúc này Kiều Phong chỉ nghĩ đến mình thì đã tránh khỏi chùa Thiếu Lâm càng xa càng tốt, nhưng một là lo lắng đến sự an nguy của ân sư Huyền Khổ đại sư, hai là muốn nhân cơ hội này tróc nã hung phạm báo thù cho gia nương, nên dẫu cực kỳ nguy hiểm chàng cũng không coi vào đâu.

Kiều Phong ở núi Thiếu Thất hơn chục năm nhưng chưa hề bước chân vào trong chùa Thiếu Lâm, thành thử phương hướng các phòng ốc tòa viện hoàn toàn không biết gì, cũng chẳng hiểu Huyền Khổ đại sư ngụ tại nơi nào. Chàng nghĩ bụng: “Nếu ta gặp được ân sư bình an vô sự, trước tiên bẩm rõ nội tình để lão nhân gia để ý đề phòng, sau đó sẽ hỏi thân thế lai lịch. May ra ân sư có thể đoán được hung thủ là ai”.

Trong chùa Thiếu Lâm, điện, đường, viên, lạc nhiều vô kể, đông một tòa, tây một tòa rải rác khắp các sườn núi. Huyền Khổ đại sư không giữ chức vụ gì quan trọng, trong chùa ít ra cũng có tới hai chục cao tăng pháp hiệu chữ Huyền ăn mặc giống nhau, trong đêm tối biết tìm ông nơi đâu? Kiều Phong tính thầm trong bụng: “Chỉ còn cách khống chế một nhà sư Thiếu Lâm, bắt y dẫn mình đến gặp Huyền Khổ sư phụ, sau đó sẽ nói rõ việc bất đắc dĩ rồi trịnh trọng xin lỗi ông ta. Thế nhưng không được, tăng chúng Thiếu Lâm phần nhiều coi trọng nghĩa khí, nếu hiểu lầm ta mưu toan điều gì bất lợi cho Huyền Khổ đại sư, hẳn là thà chết chứ không chịu khuất phục dẫn đến nơi. Thôi! Ta đành xuống nhà bếp tìm một gã hỏa công bắt y dẫn đường. Nhưng hạng người này vị tất đã biết chỗ ở của sư phụ mình?”

Chàng nhất thời chưa biết làm thế nào, qua tòa viện nào cũng phục ngoài cửa số nghe ngóng, hi vọng tìm được chút manh mối. Tuy chàng thân thể khôi vĩ nhưng thân thủ nhanh nhẹn, trồi lên hụp xuống nhẹ nhàng như mèo khiến chẳng một ai hay biết. Kiều Phong cứ dần dần mà tiếp, đến bên một tòa nhà nhỏ bỗng nghe bên trong có người nói: “Phương trượng có việc cần thương nghị gấp, mời sư thúc lập tức đến Chứng Đạo Viện.” Nghe một giọng già nua trả lời: “Được rồi! Ta sẽ đến ngay.” Kiều Phong nghĩ thầm: “Phương trường triệu tập các lão tăng để bàn việc quan trọng, không chừng sư phụ ta cũng có mặt. Ta nên theo vị này đến Chứng Đạo Viện”. Nghe kẹt một tiếng, cánh cửa mở, hai nhà sư đi ra. Nhà sư già đi về hướng tây còn nhà sư trẻ rảo bước về hướng đông, chắc là đi truyền tin chỗ khác.

Kiều Phong nghĩ bụng: “Vị lão tăng này được phương trượng mời đến hội họp, chắc là vai vế cực cao, Chùa Thiếu Lâm không phải tầm thường, người có thân phận cao tất nhiên võ công thâm hậu”. Nghĩ vậy, chàng không dám theo sát, chỉ nhìn bóng sau lưng thấy vị lão tăng đi thẳng vào một tòa nhà ở hướng tây. Kiều Phong đợi ông ta vào trong rồi mới đi vòng ra phía sau, xem kỹ chung quanh không có ai mới phục xuống bên cửa số nghe ngóng.

Trong lòng chàng vừa bi phẫn vừa tức tối, tự nhủ: “Kiều Phong này bôn tẩu giang hồ, đối với đồng đạo chính phái chuyện gì cũng quang minh lỗi lạc. Vậy mà hôm nay ta bắt buộc phải lén lút, nếu bại lộ hành tung thì thanh danh một đời Kiều mỗ mất hết, còn mặt mũi nào mà nhìn ai?”. Nhưng rồi chàng lại nghĩ: “Năm xưa sư phụ xuống núi dạy võ nghệ cho ta, dẫu có mưa to gió lớn cũng không bỏ một đêm nào. Ơn đức nặng như thế, ta dù tan xương nát thịt cũng chưa đủ báo đền. Cái nhục phải lén lút có chi là đáng kể?”

Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng chân bốn người bước vào, một lát lại thêm hai người nữa. Kiều Phong nhìn bóng in trên giấy dán cửa sổ, thấy có đến hơn mười người trong viện, liền nghĩ thầm: “Nếu họ thương lượng việc cơ mật của phái Thiếu Lâm mà ta nghe lỏm được, dù không cố ý nhưng cũng không ổn, chi bằng ta lui xa ra thì hơn. Nếu sư phụ quả có ở trong, hung thủ lợi hại cỡ nào cũng không thể đả thương ông giữa đám đông cao thủ. Đợi khi hội họp xong rồi, quần tăng phân tán, ta sẽ tìm cách gặp riêng sư phụ.”

Chàng đang rón rén lùi ra, bỗng nghe từ trong nhà vang lên tiếng tụng kinh. Kiều Phong không hiểu gì về kinh Phật, nhưng nghe thấy giọng trang nghiêm lại có chiều thương xót. Phải một thời gian khá lâu, chàng mới dần dần hiểu ra có việc gì không ổn, nghĩ thầm: “Dường như các vị đang làm lễ cầu siêu, hay tham thiền nghiên cứu kinh điển gì đó, xem ra sự phụ ta không có ở đây”. Chàng lắng tai nghe kỹ, quả nhiên trong tiếng chư tăng tụng niệm không có giọng trầm trầm của Huyền Khổ đại sư.

Trong lúc Kiều Phong vẫn chưa quyết định được nên tiếp tục chờ hay không, tiếng tụng kinh bỗng chấm dứt, một giọng oai nghiêm cất lên: “Huyền Khổ sư đệ! Sư đệ còn có điều gì muốn nói nữa không?” Kiều Phong cả mừng, thầm nghĩ: “Lão nhân gia có ở trong này, vẫn bình an. Thì ra người không lên tiếng đọc kinh.”.

Một giọng trầm trầm đáp lại, Kiều Phong nhận ra ngay thanh âm của thụ nghiệp ân sư Huyền Khổ đại sư: “Ngày tiểu đệ thụ giới, tiên sư cho pháp hiệu là Huyền Khổ. Đức Phật Tổ có nói đến bảy nỗi khổ trên đời, đó là sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ không ưa, xa kẻ thân yêu, muốn điều không được. Tiểu đệ cố gắng thoát ra khỏi bảy nỗi khổ đó mà chỉ mong độ được cho mình chứ chẳng dám độ cho người, nói ra càng thêm hổ thẹn. Cái nỗi khổ gần kẻ không ưa kia, nguyên là một cảnh giới mà nhân sinh phải có. Gieo nhân nào thì ắt sẽ hái quả đó, các vị sư huynh thấy tiểu đệ tránh được một nghiệp, nên vui mừng mới phải.” Giọng ông nói cực kỳ bình tĩnh, có điều dùng nhiều ngôn ngữ nhà Phật nên Kiều Phong không hiểu ý nghĩa ra sao.

Lại nghe giọng oai nghiêm ban nãy tiếp lời: “Mấy tháng trước đây Huyền Bi sư đệ chết vào tay gian nhân. Chúng ta hết sức truy tìm hung thủ, tựa hồ như phạm vào hai giới, là giới sân và giới nộ. Tuy nhiên cốt lõi của việc hàng ma phục quỷ, trừ gian diệt ác cũng là phổ cứu thế nhân. Chúng ta học võ là để tuyên dương Phật pháp, giải trừ khổ nạn cho chúng sinh…” Kiều Phong nghĩ thầm: “Giọng nói uy nghiêm này chắc là của Huyền Từ đại sư, phương trường chùa Thiếu Lâm”. Lại nghe nói tiếp: “… Loại trừ một ma vương là cứu được vô số người đời, Sư đệ! Kẻ đó phải chăng là Cô Tô Mộ Dung?”

Kiều Phong nghĩ bụng: “Việc này lại dính líu đến nhà Mộ Dung đất Cô Tô. Nghe nói Huyền Bi đại sư bị ám sát tại nước Đại Lý, chắc họ nghi là Mộ Dung công tử hạ độc thủ.” Lại nghe Huyền Khổ đại sư đáp: “Phương trượng sư huynh! Tiểu đệ không muốn sư huynh cùng các vị sư huynh đệ phải lo lắng cho mình mà tăng thêm nghiệp báo. Kẻ kia nếu như biết buông dao đồ tể, quay đầu lại là thấy bờ ngay, còn như chấp mê không tỉnh ngộ là tự chuốc lấy cái đau khổ vào mình. Tướng mạo gã thế nào cũng bất tất đề cập đến nữa.” Huyền Từ phương trượng nói: “Được rồi! Sư đệ giác ngộ lớn, kiến thức cao, còn ta chưa dứt tính câu chấp, thật không bằng được…” Huyền Khổ nói: “Tiểu đệ muốn được tĩnh tọa một lúc để sám hối.” Huyền Từ đáp: “Thôi được! Sư đệ bảo trọng!”

Lại nghe tiếng cửa mở kèn kẹt, một nhà sư cao gầy từ từ đi ra. Sau ông một trường là một đoàn người, tổng cộng mười bảy nhà sư. Cả mười tám vị đều chắp tay trước ngực, cúi đầu mặc niệm, vẻ mặt trang nghiêm.

Sau khi chúng tăng đi khỏi, trong nhà lại im lặng như tờ, Kiều Phong nhất thời chưa dám hiện thân gõ cửa. Bỗng nghe Huyền Khổ đại sư lên tiếng gọi: “Khách từ xa đến sao lại ngập ngừng không vào?” Kiều Phong cả kinh, nghĩ thầm: “Ta nín thở bế khí, người khác đứng sát bên chưa chắc đã phát hiện ra. Sư phụ thính tai như thế, nội công quả là cao cường”. Chàng bèn đến trước cửa phòng, cung kính nói: “Sư phụ an hảo! Đệ tử Kiều Phong khấu đầu bái kiến sư phụ.”

Huyền Khổ “A” lên một tiếng rồi hỏi: “Phong nhi đấy ư? Ta đang nghĩ đến con đây, chỉ mong được gặp con một lần. Vào đây mau!” Trong giọng nói đầy vẻ hoan hỉ. Kiều Phong cả mừng rảo bước tiến vào, quì xuống khấu đầu nói: “Bình nhật đệ tử ít khi được hầu hạ, để nhọc lòng sư phụ nhớ mong. Sư phụ cường kiện, đệ tử vui mừng khôn xiết!” Nói xong chàng ngẩng đầu lên, nhìn sư phụ đăm đăm.

Huyền Khổ đại sư nét mặt đang hòa ái tươi cười, nhìn rõ Kiều Phong dưới ánh đèn dầu đột nhiên, sắc mặt đại biến, đứng phắt dậy, run run hỏi: “Ngươi… ngươi… thì ra là ngươi, ngươi là Kiều Phong đấy sao? Chính tay ta… ta dạy được học trò giỏi thật!” Vẻ mặt ông vừa kinh ngạc vừa thống khổ, dường như lẫn cả thương xót và tiếc nuối.

Kiều Phong thấy trong giây lát mà nét mặt sư phụ đã biến đổi dị thường thì trong lòng kinh ngạc. Chàng nói: “Sư phụ! Hài nhi là Kiều Phong đây mà!”

Huyền Khổ đại sư nói: “Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm!” Ông nói ba câu “hay lắm” liên tiếp rồi không nói gì nữa. Kiều Phong cũng không dám hỏi, lẳng lặng chờ xem sư phụ có điều chi dạy bảo. Ngờ đâu chờ mãi vẫn không thấy Huyền Khổ đại sư lên tiếng, Kiều Phong nhìn lên khuôn mặt sư phụ, thấy hình như đã cứng đờ, vẻ mặt không thay đổi chút nào. Chàng không khỏi giật mình, cầm tay đại sư thì thấy đã hơi lạnh, lại để tay lên mũi, ôi thôi, sư phụ đã tắt thở tự lúc nào. Biến cố xảy ra quá đột ngột khiến Kiều Phong há hốc miệng, mắt mở trừng trừng, đầu óc rối loạn: “Sư phụ vừa trông thấy ta liền sợ hãi đến chết ư? Không thể như thế được, mặt ta có gì đáng sợ đâu? Hay là người sớm đã bị thương rồi?” Thế nhưng ông không dám xem xét thân thể ân sư.

Kiều Phong cố gắng định thần, trong bụng đã quyết: “Nếu ta lẳng lặng trốn đi thì còn gì bản sắc hảo hán hiên ngang của Kiều Phong này? Việc hôm này dẫu có nguy hiểm vạn phần cũng phải tra xét cho minh bạch.” Chàng ra khỏi cửa, lớn tiếng kêu lên:“Phương trượng đại sư: Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi! Huyền Khổ sư phụ viên tịch rồi!” Chàng chân khí sung mãn, tiếng gọi truyền đi rất xa, vang rền cả khe núi, cả chùa cùng nghe thấy. Tiếng kêu tuy hùng hồn nhưng cũng thật là thống khổ.

Huyền Từ phương trượng cùng quần tăng còn chưa về đến phòng riêng, nghe tiếng gọi của Kiều Phong vội vàng quay lại, rảo bước chạy đến Chứng Đạo Viện thì thấy một đại hán cao lớn đứng sừng sững bên cạnh cửa, giơ tay chùi nước mắt. Chúng tăng ai nấy đều ngạc nhiên, Huyền Từ chắp tay hỏi: “Thí chủ là ai?” Phương trường quan tâm đến an nguy của Huyền Khổ, không đợi Kiều Phong đáp đã vội vàng xông thẳng vào phòng, thấy Huyền Khổ vẫn còn sừng sững không ngã, lại càng ngạc nhiên. Các nhà sư cùng vào theo, cúi đầu tụng kinh.

Kiều Phong vào sau cùng, quì xuống khấn thầm: “Sư phụ ơi! Đệ tử đến muộn quá, lão nhân gia đã bị độc thủ rồi. Tên hung đỗ kia lại gây thêm cừu hận, đệ tử gian nan đến đâu cũng phải đi tìm y về phân thây trăm mảnh để báo thù cho sư phụ.”

Huyền Từ tụng kinh xong, quan sát Kiều Phong rồi hỏi: “Thí chủ là ai? Có phải thí chủ vừa hô hoán đấy chăng?”

Kiều Phong nói: “Đệ tử là Kiều Phong, thấy sư phụ viên tịch không dằn nổi bị thương, làm kinh động đến phương trượng.” Huyền Từ nghe đến tên của Kiều Phong thì giật mình, trên mặt lộ vẻ lạ lùng, lại nhìn chàng một hồi nữa mới nói: “Phải chăng… phải chăng thí chủ là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang?” Kiều Phong nghĩ thầm: “Tin tức trên giang hồ thật là mau lẹ. Đại sư đã biết ta không còn làm bang chủ Cái Bang, ắt hẳn biết nguyên do vì sao ta bị trục xuất khỏi Cái Bang.” Chàng bèn đáp: “Thưa vâng”

Huyền Từ hỏi: “Vì sao thí chủ lại đang đêm lẻn vào tệ tự? Sao lại thấy Huyền Khổ sư đệ viên tịch?” Kiều Phong trong lòng có trăm ngàn điều muốn hỏi, nhưng nhất thời không biết bắt đầu từ đâu, đành đáp: “Huyền Khổ đại sư là ân sư đã dạy dỗ đệ tử, không biết ân sư bị thương ra sao, kẻ nào ra tay hạ thủ?”

Huyền Từ phương trượng sa nước mắt, đáp: “Huyền Khổ sư đệ bị người đánh lén, ngực trúng một chưởng trầm trọng, gân cốt đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát. Chỉ nhờ sư đệ nội công thâm hậu mới gượng được đến bây giờ. Chúng ta có hỏi địch nhân là ai, y bảo không quen biết, lại hỏi tướng mạo tuổi tác hung thủ ra sao, y nói đến thất khổ của nhà Phật, trong đó gần kẻ không ưa là một. Sư đệ cho rằng gặp phải oan gia đối đầu là có cơ duyên giải thoát, nên hình dáng hung thủ nhất định không nói ra.”

Kiều Phong chợt hiểu: “Thì ra chư tăng đã biết sư phụ bị trọng thương, lúc nãy niệm Phật tụng kinh chính là để tiễn người về cõi Tây phương”. Chàng nghẹn ngào nói: “Các vị cao tăng tâm địa từ bi mới không nghĩ đến oán thù. Còn đệ tử là kẻ trần tục, thể nào cũng bắt kẻ gian kia chặt ra muôn đoạn để báo thù cho ân sư. Quí tự là chốn thâm nghiêm, không biết hung thủ lẻn vào lối nào?”

Huyền Từ trầm ngâm chưa đáp thì một lão tăng thân thể thấp bé đột nhiên cười khẩy nói: “Thí chủ lén vào chùa Thiếu Lâm, chúng ta cũng chẳng phát giác được mà ngăn trở. Hung thủ kia dĩ nhiên cũng có thể muốn đến thì đến, muốn đi thì đi như chỗ không người.”

Kiều Phong khom lưng chắp tay nói: “Đệ tử có việc cấp bách bên mình, không kịp đứng ngoài sơn môn báo tin cầu kiến, thật là thất lễ, khẩn cầu các vị sư phụ lượng thứ cho. Đệ tử đã có uyên nguyên sâu xa với chùa Thiếu Lâm, quyết không dám có ý mạo phạm.” Chàng có ý nói nếu như phái Thiếu Lâm mất mặt thì mình cũng xấu lây. Kiều Phong cũng hiểu rằng mình lẻn vào hậu viện chùa Thiếu Lâm đến khi tự hô hoán mới có người biết, việc này mà truyền ra ngoài thì thể diện phái Thiếu Lâm bị tổn thương rất lớn.

Lúc đó một chú tiểu bưng bát thuốc còn bốc hơi nghi ngút đi vào phòng, nhìn thi thể Huyền Khổ mà nói: “Xin sư phụ dùng thuốc.” Chú tiểu này vẫn phục thị Huyền Khổ, vừa tới Dược Vương Viện sắc một thang thuốc trị thương Cửu Chuyển Hồi Xuân Thang cho sư phụ. Y thấy Huyền Khổ vẫn đứng sững, không biết ông đã viên tịch rồi. Kiều Phong trong lòng thống khổ, nghẹn ngào nói: “Sư phụ đã…” .

Chú tiểu quay đầu lại, vừa trông thấy Kiều Phong đột nhiên la hoảng: “Ngươi…Ngươi… lại đến nữa à?” Nghe choang một tiếng, bát thuốc rơi xuống đất, thuốc lẫn mảnh bát văng tung tóe. Chú tiểu nhảy lùi về sau hai bước đứng nép vào tường, kêu lên: “Chính là hắn! Hắn vừa đả thương sư phụ!”

Y kêu lên như vậy, mọi người ai cũng kinh hoảng. Kiều Phong lại càng bàng hoàng, lớn tiếng hỏi: “Ngươi nói gì?” Chú tiểu này mới mười hai mười ba tuổi, trông thấy Kiều Phong cực kỳ sợ hãi, trốn vào sau lưng Huyền Từ phương trượng, bíu lấy tay áo ông mà kêu gọi rối rít: “Phương trượng Phương trượng!” Huyền Từ nói: “Thanh Tùng, không việc gì phải sợ. Con vừa nói gì, có phải kia là người đả thương sư phụ không?” Chú tiểu Thanh Tùng đáp: “Đúng rồi! Hắn phóng chưởng đánh trúng ngực sư phụ, con đứng ngoài cửa sổ trông thấy rõ ràng. Sư phụ, sao sư phụ không đánh hắn đi?” Y vẫn chưa biết Huyền Khổ đã viên tịch rồi.

Huyền Từ phương trượng nói: “Con nhìn cho kỹ, chớ nên nhầm lẫn.” Thanh Tùng đáp: “Con thấy rõ ràng, hắn mặc áo sắc tro, mặt vuông, lông mày dựng ngược, miệng to, tai lớn. Đúng hắn rồi. Sư phụ ơi! Sư phụ đánh hắn đi, đánh hắn đi!”

Kiều Phong lạnh dọc xương sống, nghĩ thầm: “Phải rồi! Hung thủ cải trang giống hệt, cố ý gieo vạ cho mình. Sư phụ nghe nói ta trở về cực kỳ hoan hỉ, nhưng thấy mặt ta giống hệt hung thủ mới đổi thái độ. Mười năm không gặp lại, ta từ một đứa trẻ đã thành người lớn, dĩ nhiên tướng mạo khác trước.” Chàng nghĩ đến Huyền Khổ đại sư trước khi chết nói liên tiếp ba lần “hay lắm”, lòng lại đau như dao cắt: “Sư phụ trúng phải đòn nặng nhưng không biết kẻ địch là ai, đến khi nghe ta xưng tên lại tưởng đồ đệ là hung thủ, quá đau lòng mà chết. Sư phụ đã bị trọng thương, trước lúc lâm chung không kịp nghĩ cho rõ, nếu đúng là ta hạ độc thủ sao còn quay lại xưng tên?”

Bỗng nghe tiếng huyên náo rồi một đám người rảo bước chạy đến trước Chứng Đạo Viện. Hai nhà sư khom lưng cung kính tiến vào, chính là hai vị trì giới tăng và thủ luật tăng vừa giao chiến với Kiều Phong ở chân núi Thiếu Thất, Trì giới tăng mới nói được nửa câu: “Bẩm phương trượng…” Y liền trông thấy Kiều Phong, vẻ mặt vừa phẫn nộ vừa kinh ngạc, không hiểu sao hắn đã tới đây rồi. Tất cả những nhà sư khác cũng hầm hầm, chăm chăm nhìn Kiều Phong.

Huyền Từ phương trượng thần sắc trang nghiêm, chậm rãi nói: “Kiều thí chủ tuy không ở Cái Bang nữa, nhưng cũng là một nhân vật nổi danh trong võ lâm. Hôm nay thí chủ giá lâm tệ tự ra tay đánh chết Huyền Khổ sư đệ, không hiểu vì lẽ gì, mong được chỉ giáo.”

Kiều Phong thở dài một tiếng, phục xuống vái lạy thi thể Huyền Khổ mà khấn: “Sư phụ! Lúc sư phụ lâm chung cũng tưởng đệ tử hạ thủ, ôm hận mà viên tịch. Đệ tử tuy ngàn vạn lần không dám mạo phạm sư phụ, nhưng gian nhân gia hại sư phụ cũng vì đệ tử mà ra. Hôm nay nếu đệ tử tự sát để tạ lỗi cũng không ân hận, nhưng vậy thì mối đại cừu của sư phụ không ai báo phục. Đệ tử phải phạm vào sự tôn nghiêm của phái Thiếu Lâm, xin sư phụ tha thứ.” Chàng nấc lên hai tiếng rồi thổi mạnh, hai đĩa đèn dầu lập tức tắt ngóm, trong phòng tối đen như mực.

Kiều Phong khi khấn nguyện đã tính toán kế sách thoát thân. Chàng vừa thổi tắt đèn, tay trái tung chưởng đẩy vào sau lưng thủ luật tăng. Phát chưởng đó dùng kình lực nhu hòa không làm tổn thương nội tạng của y, nhưng lại đấy thân hình cao to của y bay ra khỏi cửa.

Trong bóng tối chư tăng nghe thấy tiếng gió, đều nghĩ rằng Kiều Phong chạy ra, liền dùng cầm nã thủ pháp chộp vào người thủ luật tăng. Các vị đều không muốn nặng tay giết chết Kiều Phong, chỉ định bắt giữ tra hỏi cho ra vì sao giết chết Huyền Khổ đại sư. Hơn chục cao tăng đó đều là hảo thủ bậc nhất của chùa Thiếu Lâm, mà đã là bậc nhất của chùa Thiếu Lâm thì cũng là bậc nhất trong võ lâm. Cầm nã thủ của mỗi vị không giống nhau, người nào cũng có chỗ độc đáo. Cùng một lúc, Cầm Long Thủ, Ưng Trảo Thủ, Hổ Trảo Công, Kim Cương Chỉ, Ác Thạch Chưởng… các tuyệt kỹ cầm nã tối cao của phái Thiếu Lâm đều chộp lên người thủ luật tăng. Các vị đại sư xuất thủ quả là kỳ diệu, trong đêm tối chỉ nghe tiếng gió mà vẫn không sai một li. Gã thủ luật tăng phen này chịu đủ loại khổ sở, chỉ trong phút chốc yếu huyệt toàn thân đều trúng cầm nã thủ pháp, thân thể lơ lửng trên không mà miệng không nói được tiếng nào, từ cổ chí kim chắc chưa ai phải chịu như thế bao giờ.

Những cao tăng này rất lịch duyệt, thủ đoạn ứng biến cực kỳ mau lẹ. Các vị biết ngay là bắt lầm, có người lập tức phi thân lên mái nhà trấn giữ, Chỉ trong chớp mắt, mọi cửa trước cửa sau của Chứng Đạo Viện cùng các ngõ ngách, các nơi hiểm yếu đều có cao thủ án ngữ. Đừng nói gì Kiều Phong thân hình khôi vĩ, dẫu chàng có biến thành con chồn con cáo cũng chẳng thể nào thoát nổi.

Chú tiểu Thanh Tùng vội lấy hỏa đao, hóa thạch, châm mấy ngọn đèn dầu trong phòng, mọi người mới hay người bị bắt nhầm chính là thủ luật tăng.

Thủ tòa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sự liền ra lệnh cho quần tăng ở nguyên vị trí không được loạn động. Ai nấy đều nghĩ, Kiều Phong dẫu có lớn mật cũng không dám một mình xông vào một nơi đầm rồng hang cọp như chùa Thiếu Lâm để giết người. Thể nào hắn cũng có cường viện, không chừng sẽ nhân lúc nhốn nháo để thi hành độc kế điệu hổ ly sơn.

Mười mấy vị cao tăng trong Chứng Đạo Viện cùng số tăng chúng đi theo trì giới tăng liền chia ra tra xét những nơi lân cận, dường như tảng đá nào cũng bị lật lên, lùm cây bụi cỏ nào cũng có người dùng côn bổng đập vào. Tuy các đại hòa thượng đều lấy từ bị làm tâm niệm, lấy hiếu sinh làm căn bản, mà công cuộc tìm kiếm này cũng khiến vô số ếch nhái, chuột bọ, châu chấu, kiến ong bị chết oan.

Lục soát hơn một giờ sau, chỉ còn thiếu việc đào hết đất lên tìm, mà vẫn không thấy Kiều Phong đâu. Ai nấy đều cho thật là kỳ quái, có người buột mồm chửi rủa, thập giới của nhà Phật lại một phen bị vi phạm. Lúc đó di thể Huyền Khổ đại sư được đưa vào Xá Lợi Viện để thiêu hóa, còn thủ luật tăng thì được khiêng xuống Dược Vương Viện điều trị thương tích. Quần tăng ủ rũ lặng thinh, ai nấy đều cảm thấy mất mặt. Chùa Thiếu Lâm cao thủ đông như kiến, nhất là mười mấy vị cao tăng võ công tuyệt cao, tiếng tăm lừng lẫy khắp giang hồ, vậy mà để cho Kiều Phong tay không ra vào như chỗ không người. Đừng nói đến việc giết hay bắt được chàng, mà ngay việc chàng đào tẩu cách nào cũng chẳng ai đoán ra được.

Thì ra Kiều Phong đã liệu rằng các nhà sư sẽ chạy ra truy tìm tứ phía, còn trong nhà đông nghẹt thì lại lơ là. Do đó khi chàng đánh bật thủ luật tăng rồi, lập tức co người chui vào gầm giường nơi Huyền Khổ đại sư vẫn thường nằm, mười ngón tay bám lên các thanh giường, thân hình ép sát vào dưới vạt giường. Mặc dầu cũng có người cúi xuống xem xét dưới gầm giường, nhưng không trông thấy chàng được. Đến khi đưa thi thể của Huyền Khổ đi rồi, chấp sự tăng liền đóng cửa Chứng Đạo Viện lại, không ai ra vào nữa.

Kiều Phong nằm dưới gầm giường, nghe các nhà sư nhốn nháo đến quá nửa đêm, dần dần yên lặng trở lại. Chàng nghĩ thầm: “Đợi đến trời sáng thì thoát thân không phải là dễ, lúc này mà không chạy thì còn đợi đến bao giờ?”. Từ dưới gầm giường chàng len lén chui ra, khẽ đẩy cửa phòng, lạng người đến nấp đằng sau một gốc cây.

Mặc dù tiếng người đã yên, nhưng Kiều Phong biết tăng chúng chùa Thiếu Lâm chưa bỏ cuộc mà vẫn tăng cường phòng bị. Chứng Đạo Viện ở cực tây của Thiếu Lâm Tự, nếu chạy về hướng tây sẽ vào ngay trong núi. Một khi đã ra khỏi chùa Thiếu Lâm rồi, các nhà sư sẽ phải dàn rộng ra phân tán lực lượng, dẫu có đón đường thì cũng không ngăn chặn được. Nhưng chàng không muốn động thủ, chỉ mong sau này bắt được hung phạm, dẫn đến chùa trình bày cho minh bạch. Hôm nay giao đấu với thêm một nhà sư là kết thêm một mối oán thù, giả tỷ lỡ tay đánh người bị thương hoặc chết thì không biết đến thế nào mà nói. Quần tăng thấy chàng mất tích ở phía tây chùa, ắt sẽ phòng thủ nghiêm mật hướng tây, nhất là các đường về núi Thiếu Thất. Kiều Phong tính toán một lát, cho rằng ổn thỏa nhất là đi ngược về hướng đông, xuyên qua chùa mà ra.

Nghĩ vậy chàng nép người lần theo các gốc cây, qua bốn tòa phòng viện, nấp sau một cây bồ đề. Kiều Phong chợt phát hiện có hai nhà sư nằm phục sau một gốc cây phía trước mặt. Hai vị này nằm im không nhúc nhích, trong bóng tối thật khó mà nhìn thấy, may mà nhãn quang chàng sắc bén nên nhìn thấy một lưỡi giới đao lóe sáng lên. Chàng nghĩ thầm: “Thật là nguy hiểm! Ta chỉ đi lẹ một chút nữa là bại lộ hành tung”. Chàng nấp sau gốc cây chờ một lúc, hai nhà sư thủy chung vẫn không nhúc nhích. Cái kế “ôm cây đợi thỏ” quả là lợi hại, nếu như Kiều Phong hơi cử động là bị hai người đó nhìn thấy ngay, nhưng cũng không thể chần chờ ngồi đó mãi.

Chàng trầm ngâm một chút rồi nhặt một viên đá nhỏ, dùng ngón tay búng ra, kình lực thật là xảo diệu, lúc đầu thì chậm nhưng sau thì nhanh. Viên đá lúc mới bắn ra không có chút thanh âm nào, nhưng được bảy tám trượng rồi mới rít lên vo vo, đập vào một gốc cây nghe cạch một tiếng. Hai nhà sư kia vội khom lưng chạy tới.

Kiều Phong đợi cho hai nhà sư đó qua khỏi rồi tung mình nhảy lên, len luôn vào tòa viện bên cạnh, dưới ánh trăng nhìn rõ trên biển có ba chữ Bồ Đề Viện. Chàng đoán rằng hai nhà sư kia không thấy gì lạ thể nào cũng quay lại, thành thử không dừng mà chạy thẳng ra phía sau hậu điện. Chàng chợt thấy một bóng người cao lớn ở phía sau chạy vụt qua nhanh nhẹn dị thường, thân pháp trên đời ít gặp. Kiều Phong giật này mình tự hỏi: “Người này là ai mà thân thủ mau lẹ đến thế?”. Chàng đưa chưởng lên hộ vệ thân thể, quay đầu nhìn lại không khỏi bật cười, thấy trước mặt là một đại hán đứng khom người, thủ thế trước mặt, khí thế vững như núi. Thì ra trong hậu điện có một tấm bình phong, trên bình phong có gắn một chiếc gương đồng sáng bóng cực lớn, phản chiếu rõ thân mình. Trước tượng Phật có hai ngọn đèn dầu, dưới ánh sáng lờ mờ vẫn đọc được bốn hàng kinh văn khắc trên tấm gương: “Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh, Như lộ diệc như điện, Đương tác như thị quan.” (Những gì có hình tướng, Như bọt nước phập phồng, Như giọt sương lơ lửng, Thoắt đã rời thế gian). Kiều Phong mỉm cười, quay đầu lại toan trở gót, bỗng dưng ngẩn ngơ, dường như nghĩ ra một việc cực kỳ trọng yếu, nhưng đó là việc gì thì mơ hồ không rõ.

Chàng bần thần một lát, ngẫu nhiên lại nhìn vào chiếc gương đồng thấy bóng sau lưng của mình, tự hỏi: “Chiếc gương này tuy lớn nhưng bộ vị không đúng, hình như không thể phản chiếu được bóng ta đi qua lúc nãy. Vậy sao ta lại nhìn thấy nhỉ?” Chàng còn đang xuất thần thì bên ngoài bỗng có tiếng chân, mấy người đi vào trong điện.

Kiều Phong đang hoang mang chưa biết trốn đâu, thấy trên bàn thờ có ba pho tượng Phật, vội nhảy lên nấp vào sau lưng pho tượng thứ ba. Cả thảy sáu người chia thành hai hàng song song đi vào hậu điện, rồi mỗi người ngồi xuống một chiếc bồ đoàn, Kiều Phong từ sau pho tượng nhìn ra, thấy cả sáu nhà sư đều tuổi trung niên, nghĩ thầm: “Nếu lúc này mình lẻn ra ngoài, giả tỷ sáu nhà sư này võ công bình thường thì không thể nào biết được. Thế nhưng chỉ cần một người nội công cao thâm, mắt tinh tai thính thì sẽ phát giác ngay. Ta hãy đợi thêm một lúc nữa xem sao.”

Nhà sư ngôi đầu bên phải nói: “Sư huynh, Bồ Đề Viện này trống rỗng làm gì có kinh sách? Sư phụ bảo bọn ta đến đây coi giữ cái gì?” Nhà sư ngồi đầu bên trái mỉm cười nói: “Đó là một điều bí mật trong Bồ Đề Viện, không tiện nói nhiều.” Nhà sư bên phải nói khích: “Hừ, tiểu đệ xem chừng cả sư huynh cũng không biết.” Nhà sư phía bên trái tức mình nói “Sao ta lại không biết? Nhất mộng như thị…” Y mới nói nửa câu, chợt nhớ phải cảnh giác lập tức im bặt. Nhà sư bên phải lại hỏi: “Nhất mộng như thị là thế nào?” Nhà sư ngồi trên bồ đoàn thứ hai liền nói: “Chỉ Thanh sư đệ! Ngày thường sư đệ ít nói, sao bữa nay lại hỏi nhiều thế? Nếu sư đệ muốn biết những bí mật trong Bồ Đề Viện thì sao không lên hỏi sư phụ đi?”

Vị hòa thượng Chỉ Thanh kia không dám hỏi nữa, một lát sau mới nói: “Tiểu đệ đi ra sau tiểu tiện một chút.” Y nói xong liền đứng dậy, từ bên phải đi về cửa hông bên trái, lúc đi ngang sau lưng người thứ năm, đột nhiên vung chân phải đá trúng ngay huyệt Huyền Khu ở sau lưng, bên dưới đốt xương sống thứ mười ba. Nhà sư đó đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn, huyệt Huyền Khu ngay sát mép chiếu, bị đầu ngón chân của Chỉ Thanh đã trúng, thân hình từ từ ngã ra bên phải.

Chỉ Thanh phóng cước vừa mau lẹ vừa nhẹ nhàng không một tiếng động, lại đi vào huyệt Huyền Khu của nhà sư thứ tư, rồi nhà sư thứ ba, chỉ trong nháy mắt đã đánh ngã ba người.

Kiều Phong ngồi sau tượng Phật nhìn thấy rõ ràng, trong bụng rất lấy làm kỳ, không hiểu tại sao bọn sư Thiếu Lâm lại đánh lén nhau. Lại thấy gã Chỉ Thanh phóng cước đá vào nhà sư thứ năm, tức là thứ hai từ bên trái, đầu mũi chân vừa đụng vào huyệt đạo y thì nhà sư bị điểm huyệt đầu tiên mới ngã tới đất, đầu và xuống thêm gạch đánh huỵch một cái. Nhà sư ngồi đầu bên trái giật mình đứng bật dậy, vừa kịp thấy Chỉ Thanh đá ngã người ngồi bên phải mình, kinh hãi quát lên: “Chỉ Thanh, người làm gì thế?” ChỉThanh giơ tay chỉ ra ngoài nói: “Sư huynh trông kìa! Ai đến đó?” Nhà sư kia quay đầu nhìn ra, Chỉ Thanh liền tung chân phải đá mạnh vào sau lưng y.

Cước pháp y cực nhanh lẽ ra phải trúng, thế nhưng cái gương đồng ở phía trước phản chiếu rõ ràng đòn đánh lén, nhà sư kia liền nghiêng người tránh qua, xoay tay trả lại một chưởng, kêu lên: “Ngươi có điên không?” Chỉ Thanh xuất chưởng nhanh như chớp phản kích, đến chiêu thứ tám thì bụng dưới nhà sư kia bị trúng một quyền, tiếp theo lại bị bồi thêm một cước. Kiều Phong thấy Chỉ Thanh ra chiêu âm độc, không phải võ công Thiếu Lâm, càng lấy làm kỳ.

Nhà sư kia biết không địch nổi, la lên: “Có gian tế! Có gian tế!” Chỉ Thanh nhảy vọt tới, đánh một quyền trúng ngực, nhà sư đó lập tức lăn ra bất tỉnh.

Chỉ Thanh vội chạy tới trước chiếc gương đồng, đưa ngón tay trỏ ấn vào chữ Nhất ở hàng chữ đầu tiên một cái. Kiều Phong lại thấy y ấn chữ Mộng ở hàng thứ hai, nghĩ thầm: “Nhà sư kia vừa nói lộ bí mật là Nhất Mộng Như Thị, nhưng trên tấm gương có đến bốn chữ Như, không biết y ấn chữ nào.”

Chỉ Thanh không cần suy nghĩ, giơ ngón tay ấn chữ Như đầu tiên ở hàng thứ ba, rồi tiếp theo là chữ Thị ở hàng thứ tư. Tay y chưa rời khỏi tấm gương đã nghe những tiếng lách cách, tấm gương đồng từ từ ngả ra.

Giả tỷ Kiều Phong nhân lúc này mà trốn đi thì thực là một cơ hội tốt, nhưng chàng nổi dạ hiếu kỳ, muốn biết vì lẽ gì mà nhà sư Thiếu Lâm kia lại ám hại đồng môn, sau tấm gương đồng có cất giấu vật gì, không chừng có thể liên quan đến việc Huyền Khổ đại sư bị hại.

Nhà sư cuối cùng bị Chỉ Thanh đánh ngã đã hô hoán lên. Hơn trăm hòa thượng Thiếu Lâm đang tuần tiễu ở phía tây nghe thấy đều chạy đến, khắp bốn mặt đông tây nam bắc của Bồ Đề Viện đều có tiếng chân rầm rập. Kiều Phong còn đang phân vân chưa biết làm thế nào để bao nhiêu nhà sự khỏi phát giác ra mình, nhưng chàng lại nghĩ: “Quần tăng chăm chú cả vào Chỉ Thanh thì ta thoát thân cũng dễ, bất tất phải trốn ngay.” Chàng thấy Chỉ Thanh đưa tay mò trong lỗ hổng phía sau tấm gương, nhưng chưa lấy được gì cả. Lúc đó, tiếng chân từ phương bắc đã chạy đến cửa Bồ Đề Viện.

Chỉ Thanh dậm chân thất vọng, đang định xoay mình chạy đi, Đột nhiên y nghĩ ra điều gì, cúi nhìn vào sau chiếc gương, khẽ reo lên: “À, đây rồi!” Y thò tay móc ra một cái túi nhỏ xíu, đút vào trong bọc rồi toan tìm đường trốn, nhưng bốn mặt quần tăng đã vây bọc hết, không còn đường chạy. Chỉ Thanh nhìn quanh quất rồi chạy ra cửa trước của Bồ Đề Viện.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Gã này chạy ra ngã đó, thể nào cũng bị bắt ngay”. Bỗng nhiên hơi gió ập tới, có người nhảy vào chỗ chàng đang nấp. Kiều Phong nghe gió mà định bộ vị, vươn tay trái ra đã chộp ngay được cổ tay địch nhân, tay phải đè luôn vào huyệt Thần Đạo trên lưng y khẽ vận nội lực, gã kia liền toàn thân mềm nhũn không nhúc nhích gì được nữa. Kiều Phong bắt được rồi, chăm chú nhìn kỹ tướng mạo kẻ địch, tưởng ai hóa ra Chỉ Thanh. Chàng ngạc nhiên một chút, lập tức hiểu ra: “Phải rồi. Gã này cũng định chui vào đằng sau tượng Phật để trốn như ta, lại đúng ngay pho tượng thứ ba, chắc là vì pho tượng này to hơn cả. Mà tại sao lúc đầu y chạy ra cửa trước, rồi lại lén quay trở vào đây? Ồ, là để đánh lạc hướng năm nhà sư nằm dưới đất, nếu người khác vào hỏi, cả năm vị đều nói là y chạy ra cửa trước rồi, không ai tra xét gì Bồ Đề Viện nữa. Ôi, người này quả là đa mưu túc trí.”

Kiều Phong nghĩ bụng không thể thả Chỉ Thanh ra, bèn ghé vào tai y nói nhỏ: “Ngươi mà la lên là ta phóng chưởng đánh chết liền, có hiểu không?” Chỉ Thanh gật đầu.

Bảy tám nhà sư chạy vào cửa lớn, trong đó có ba người cầm đuốc, đại điện sáng bừng lên. Quần tăng thấy năm nhà sư nằm lăn dưới đất, đều sửng sốt, lập tức xôn xao lên: “Tên ác tặc Kiều Phong lại hạ độc thủ rồi!” “Trời ơi! Chỉ Trầm, Chỉ Uyên sư huynh đấy ư?” “Ôi thôi, không xong rồi. Chiếc gương đồng này mới bị đẩy ra, Kiều Phong ăn cắp kinh thư ở Bồ Đề Viện rồi. Mau mau bẩm báo phương trượng.” Kiều Phong nghe mấy nhà sư lao xao bàn tán, không khỏi gượng cười: “Lại thêm nợ đổ lên đầu ta.” Chỉ trong giây lát, trong điện đã đông nghẹt hòa thượng.

Kiều Phong thấy Chỉ Thanh cố sức cựa quậy để thoát thân, liền đoán ngay: “Lúc này quần tăng đang nhốn nháo, bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên lại chưa tỉnh, chính là cơ hội tốt để Chỉ Thanh bỏ đi. Y cứ đường hoàng đi ra không ai nghi ngờ, vì người nào cũng đổ riệt cho ta là hung thủ.” Rồi chàng lại nghĩ: “Gã Chỉ Thanh này cũng chưa phải là tinh khôn lắm, lúc này việc gì y phải trốn? Y cứ ngang nhiên đi ra cũng chẳng ai hỏi đến.”

Đột nhiên trong điện im bặt, không ai mở miệng. Kế đó chúng tăng đồng thanh nói: “Tham kiến phương trượng, tham kiến thủ tòa Đạt Ma Viện, tham kiến thủ tòa Long Thụ Viện.”

Nghe lốp bốp mấy tiếng nhẹ, có người đã xuất chưởng vỗ năm nhà sư Chỉ Trầm, Chỉ Uyên tỉnh lại, rồi hỏi: “Lại là thủ đoạn của Kiều Phong phải không? Sao hắn lại biết bí mật trong tấm gương đồng?” Chỉ Trầm đáp: “Không phải Kiều Phong mà là Chỉ Thanh…” Đột nhiên y tung mình nhảy lên chửi: “Giỏi thật! Sao ngươi dám ra tay ám toán đồng môn?”

Kiều Phong nấp ở sau lưng pho tượng không sao đoán nổi y đang chửi ai. Bỗng nghe tiếng một người kinh hãi kêu lên: “Chỉ Trầm sư huynh, sao sư huynh lại lôi kéo tiểu đệ?” Chỉ Trầm giận dữ đáp: “Ngươi đánh ngã năm người chúng ta, ăn trộm kinh thư, thật là lớn mật. Bẩm phương trượng, tên phản tặc Chỉ Thanh này mở trộm tấm gương đồng trong Bồ Đề Viện để lấy cắp kinh thư.” Người kia kêu lên: “Cái gì? Cái gì? Từ nãy tiểu đệ vẫn ở bên cạnh phương trượng, làm sao có thể ăn trộm kinh được?”.

Một giọng già nua khàn khàn nói: “Đóng chiếc gương đồng lại, rồi tường thuật tình hình xem thế nào.” Chỉ Uyên đến đóng chiếc gương lại như cũ. Bây giờ Kiều Phong nhìn trong gương thấy tình hình quần tăng ngoài điện thật rõ ràng. Một nhà sư đang hoa chân múa tay cực kỳ khích động, Kiều Phong đưa mắt nhìn y không khỏi giật mình, chính là Chỉ Thanh. Chàng ngạc nhiên quay lại nhìn nhà sư bị mình bắt, thấy tướng mạo giống hệt người ở dưới kia, nhìn kỹ mới thấy hơi khác, trông thoáng qua thì không thể nào phân biệt được. Kiều Phong nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có hai người giống nhau đến thế, chắc là anh em sinh đôi. Thật là diệu kế, một người xuất gia vào chùa Thiếu Lâm, một người ở ngoài chờ đợi, gặp thời cơ liền giả trang làm hòa thượng để vào chùa trộm kinh. Nhà sư Chỉ Thanh đã không rời phương trượng nửa bước thì còn ai nghi ngờ nữa.”

Chỉ Trầm kể lại việc Chỉ Thanh dò hỏi bí mật của chiếc gương đồng, mình vô ý nói hớ bốn chữ, Chỉ Thanh giả vờ đi tiểu rồi ngầm đá ngã bốn người, sau đó động thủ đánh ngã mình. Bọn bốn người Chỉ Uyên liên tiếp phụ họa, chứng thực lời Chỉ Trầm không sai chút nào.

Huyền Từ phương trượng thần sắc vẫn thản nhiên, đợi Chỉ Trầm nói xong mới chậm rãi hỏi lại: “Ngươi trông rõ là Chỉ Thanh chứ?” Chỉ Trầm và cả bọn Chỉ Uyên cùng đáp: “Bẩm phương trượng, bọn đệ tử và Chỉ Thanh không thù không oán, lẽ nào lại vu hãm cho y?” Huyền Từ thở dài: “Việc này bên trong còn nhiều uẩn khúc. Nãy giờ Chỉ Thanh ở cạnh ta không rời nửa bước, cả thủ tòa Đạt Ma Viện cũng có mặt.”

Phương trượng đã nói vậy, quần tăng trên điện không ai dám lên tiếng nữa. Thủ tòa Đạt Ma Viện là Huyền Nạn đại sư cũng nói: “Chính ta cũng thấy Chỉ Thanh luôn luôn kề cận phương trượng sư huynh, làm sao y đến Bồ Đề Viện trộm kinh được?” Thủ tòa Long Thụ Viện là Huyền Tịch liền hỏi: “Chỉ Trầm! Khi gã Chỉ Thanh kia động thủ với ngươi, quyền cước có gì khác lạ không?” Nghe giọng ông ta đúng là giọng nói già nua khàn khàn khi nãy. Chỉ Trầm kêu lên một tiếng rồi đáp: “Đúng rồi! Bây giờ đệ tử mới nghĩ ra. Gã Chỉ Thanh kia lúc động thủ cùng đệ tử, không sử dụng võ công bản môn.” Huyền Tịch nói: “Ngươi có nhận ra chiêu thức của y thuộc môn phái nào không?” Ông thấy Chỉ Trầm hoang mang không trả lời được, bèn hỏi thêm: “Y sử trường quyền hay đánh nhập nội? Cầm nã thủ? Hay là Địa Đường, Lục Hợp, Thông Tí quyền?” Chỉ Trầm đáp: “Y… y… đại khái sử dụng công phu âm hiểm lạ thường, mấy lần đánh trúng đệ tử.”.

Huyền Tịch, Huyền Nạn cùng mấy vị lão tăng tiền bối đưa mắt nhìn phương trượng, ai nấy nghĩ thầm hôm nay bản tự gặp phải đối thủ bản lãnh tuyệt luân, thủ đoạn huyền ảo, khiến cho ai nấy như lạc trong đám sương mù. Trước mắt phải cố làm sao tra xét cho ra, đồng thời trấn tĩnh mọi người thấy chuyện quái lạ cũng đừng hoảng hốt. Nếu không tăng chúng sẽ rối loạn nhốn nháo, e rằng hậu hoạn không giải quyết êm thấm được.

Huyền Từ chắp hai tay trước ngực nói: “Kinh thư cất trong Bồ Đề Viện là kinh luận Đại Thừa do cao tăng tiền bối soạn ra để xiển dương Phật pháp, độ hóa thế nhân. Nếu là đệ tử Phật môn lấy được, tụng niệm nghiên cứu dĩ nhiên có ích rất nhiều. Còn như kẻ thế tục lấy được mà không biết tôn trọng thì tội nghiệt không phải nhỏ. Các vị sư đệ, sư điệt trở về bản viện nghỉ ngơi đi, ai làm việc nấy” .

Quần tăng nghe lời đều giải tán, chỉ còn bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên vẫn cãi cọ với Chỉ Thanh, Huyền Tịch trừng mắt nhìn, bọn chúng hoảng hồn không dám ý kiến gì nữa, rồi cũng đi ra.

Trong điện chỉ còn ba vị Huyền Từ, Huyền Nạn, Huyền Tịch ngồi trên bồ đoàn ngay trước tượng Phật. Huyền Từ đột nhiên cất tiếng hô: “A Di Đà Phật, thật là có lỗi!” Tiếng hô vừa dứt, ba nhà sư phi thân nhảy lên, chuyển người ra phía sau tượng Phật, từ ba phương vị khác nhau xuất chưởng đánh vào Kiều Phong.

Kiều Phong không ngờ ba nhà sư đã nhìn vào tấm gương đồng phát hiện tung tích của mình, cũng không ngờ ba vị lão tăng bảy tám mươi tuổi chưa nói gì đã xông lên đánh liền, xuất chưởng mau lẹ ghê gớm đến thế. Chỉ trong chớp mắt chàng thấy khó thở, ngực như bị ép lại, ba vị cao tăng Thiếu Lâm hợp công quả là ghê gớm. Chiêu số của ba nhà sư không còn phân biệt được phương hướng từ đâu tới, trái phải trên dưới trước sau chỗ nào cũng bị chưởng lực bao trùm, muốn xông ra chỉ còn cách dùng ngạnh công phản kích, không đả thương đối phương thì chính mình sẽ bị thương. Chàng không kịp suy tính, đành vận sức vào song chưởng đẩy ra trước, pho tượng Phật ngã ầm xuống. Kiều Phong thuận tay xách luôn Chỉ Thanh, tung mình vọt ra, bỗng thấy sau lưng có tiếng gió rít, chưởng lực chưa đến mà kình phong đã đến rồi.

Kiều Phong không muốn đối chưởng với các cao tăng Thiếu Lâm, tay phải liền chộp lấy tấm bình phong có gắn tấm gương đồng, xoay tay lật ngược lại che chắn sau lưng. Nghe “choảng” một tiếng lớn, một chưởng của Huyền Nạn đã đánh trúng tấm gương đồng, chấn động tê buốt cả cánh tay Kiều Phong, bình phong chỗ chung quanh tấm gương vỡ thành mấy mảnh.

Kiều Phong dựa vào chưởng lực của Huyền Nạn vọt thêm một trượng về phía trước, bỗng nghe sau lưng có người hít một hơi chân khí, thanh âm không phải tầm thường. Kiều Phong biết ngay một vị sắp sử Phách Không Thần Quyền, tuy chàng không sợ nhưng cũng không muốn tỉ đấu nội lực, lại cầm chiếc gương đồng che sau lưng, vận kình vào tay phải.

Lúc đó quyền phong đối phương nghiêng nghiêng đánh tới, phương vị hơi lạ. Kiều Phong ngạc nhiên, hiểu ra nhà sư kia không đánh thẳng vào mình, mà đánh vào lưng Chỉ Thanh. Kiều Phong không hề quen biết Chỉ Thanh, lúc trước vốn không muốn cứu y, nhưng khi nắm y trong tay tự nhiên nảy ra ý muốn chiếu cố, bèn đẩy chiếc gương đồng ra che cho. Lần này chiếc gương chỉ kêu bốp một tiếng chứ không ngân nga nữa, thì ra đã bị chưởng lực của Huyền Nạn đánh nứt từ trước, bây giờ lãnh Phách Không Quyền của Huyền Từ thành ra vỡ nát.

Kiều Phong khi giơ chiếc gương ra sau lưng đã xách Chỉ Thanh nhảy lên mái nhà, thấy thân thể y nhẹ bổng, so với tấm thân to lớn không hợp chút nào. Trong lòng còn đang ngờ vực, bỗng chàng thấy đầu gối nhũn ra, chân khuỵu xuống. Từ khi Kiều Phong bôn tẩu giang hồ, chưa từng gặp tay đối thủ nào lợi hại đến thế, nên không khỏi giật mình. Chàng chuyển thân một cái, thế tấn lại vững chãi như một hòn núi, khí độ trầm hùng tưởng chừng như không coi cường địch vây quanh vào đâu.

Huyền Từ liền nói: “A Di Đà Phật! Thiện tại! Thiện tai! Kiều thí chủ đã đến chùa Thiếu Lâm giết người, lại còn phá vỡ cả tượng Phật là sao?” Huyền Tịch cũng quát lớn: “Nếm một chưởng của ta!” Song chưởng của ông ta đưa ra quyện thành vòng tròn, rồi từ từ đẩy tới. Chưởng lực chưa đến, Kiều Phong đã thấy khó thở. Chưa kịp nháy mắt, chưởng lực của Huyền Tịch đã ào ào đổ tới chẳng khác nào cuồng phong bão tố.

Kiều Phong vứt chiếc gương vỡ xuống, hữu chưởng trả lại một chiêu Kháng Long Hữu Hối trong Hàng Long Thập Bát Chưởng. Hai luồng chưởng lực chạm nhau nghe ầm một tiếng, cả Huyền Tịch lẫn Kiều Phong đều phải lùi lại ba bước. Kiều Phong chấn động toàn thân, đuối sức buông Chỉ Thanh tuột xuống, nhưng nhờ nội lực thâm hậu chỉ vận chân khí lên là lập tức tinh thần lại phấn chấn. Không đợi Huyền Tịch đánh tiếp chưởng thứ hai, chàng kêu lên: “Không đấu nữa, cáo từ” rồi một tay xách Chỉ Thanh, phi thân trở lên mái nhà.

Huyền Nạn, Huyền Tịch cùng kêu lên một tiếng, kinh dị vô cùng. Phát chưởng vừa rồi của Huyền Tịch đã tập trung hết công lực bình sinh, có tên là Nhất Phách Lưỡng Tán. Chưởng này đánh vào đá thì đá vỡ nát, mà đánh vào người thì hồn phách đều tan. Lộ chương pháp đó chỉ có một chiêu, vì chưởng lực quá ư rùng rợn nên không cần tới chiêu thứ hai, kẻ địch đã toi mạng rồi. Người xuất chiêu này phải có nội lực bài sơn đảo hải, muốn biến chiêu hay thay đổi thế đánh đều không được. Thế mà Kiều Phong tiếp chiêu đó rồi, chẳng những không chết tại đương trường, mà chỉ trong chớp mắt đã phục hồi nguyên lực, xách người nhảy lên nóc nhà chạy mất.

Huyền Nạn than rằng: “Võ công người này quả là giỏi thật.” Huyền Tịch nói: “Nếu như không sớm trừ khử, hậu hoạn không biết sẽ đến đâu.”

Huyền Nạn gật đầu, còn Huyền Từ nhìn theo phía Kiều Phong vừa chạy, ngẩn người ra không nói năng gì. Khi Kiều Phong vọt đi, còn quay lại nhìn tấm gương đồng bị Huyền Từ phương trượng đánh một quyền vỡ thành mấy chục mảnh tung tóe dưới đất, mảnh nào cũng phản chiếu bóng mình. Kiều Phong vô cùng ngạc nhiên, không hiểu sao cứ mỗi lần trông thấy bóng mình lại băn khoăn trong dạ, khó có thể giải thích được tình trạng cổ quái này. Nhưng khi đó chuyện chạy cho xa chùa Thiếu Lâm là khẩn cấp, trong đầu chàng tuy nổi lên một mối nghi ngờ nhưng cũng quên ngay.

Kiều Phong đã thuộc hết đường lối trên núi Thiếu Thất, luồn xuống sau núi rồi kiếm những đường mòn cheo leo mà chạy. Luôn mấy dặm không nghe tiếng các nhà sư đuổi theo, chàng yên tâm, bèn bỏ Chỉ Thanh xuống đất quát lớn: “Ngươi tự mình đi đi, đừng nghĩ tới chuyện chạy trốn.” Ngờ đâu Chỉ Thanh vừa chạm đất người đã nhũn ra, rơi phịch xuống tưởng chừng như đã chết. Kiều Phong giật mình, để tay vào mũi y thấy hơi thở yếu ớt như có như không. Chàng lại sờ vào cổ tay, thấy mạch nhảy vừa yếu vừa chậm, xem chừng sắp chết đến nơi.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Ta còn biết bao nhiêu nghi vấn cần phải hỏi, không để gã chết ngay được. Không chừng gã lọt vào tay ta, sợ âm mưu bại lộ mà uống thuốc độc tự sát.” Chàng sờ lên ngực y để xem tim còn đập hay không, bỗng giật nảy mình vì thấy ngực gã mềm mại tựa như ngực nữ nhân.

Kiều Phong vội rụt tay về, rất lấy làm kỳ, tự hỏi: “Hay gã là một cô gái cải trang?” Trong đêm tối không sao nhìn kỹ được mặt mũi y ra sao. Chàng là người hào sảng khoáng đạt, không câu nệ tiểu tiết như anh chàng thư sinh Đoàn Dự mê sách giữ kẽ, bèn nắm lưng Chỉ Thanh nhấc lên, quát hỏi: “Ngươi là nam hay nữ? Nếu không nói thật, ta sẽ lột hết quần áo ra khám nghiệm cho rõ.” Chỉ Thanh mấp máy môi dường như định nói gì nhưng không đủ hơi sức để thốt nên lời. Rõ ràng y đang hấp hối, tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc.

Kiều Phong lẩm bẩm: “Bất luận người này là nam hay nữ, tốt hay xấu, cũng không thể để chết như thế này được”. Chàng bèn áp hữu chưởng vào sau lưng y, vận khí từ đan điền lên cánh tay, xuống lòng bàn tay rồi truyền vào thân thể Chỉ Thanh, dẫu không cứu được tính mạng y thì cũng có thể hỏi vài điều. Một lúc sau, mạch Chỉ Thanh dần dần mạnh lên, hô hấp cũng đều trở lại, Kiều Phong thấy y chưa đến nỗi chết ngay, trong bụng cũng đỡ lo, nghĩ thầm: “Nơi đây chưa xa chùa Thiếu Lâm mấy, không nên nán lại lâu.” Chàng bế hẳn Chỉ Thanh lên hai tay, rảo bước đi về hướng tây bắc.

Thân hình Chỉ Thanh cực kỳ nhẹ, không tương xứng với dáng dấp cao to của y chút nào. Kiều Phong nghĩ bụng: “Ta không nên lột quần áo y ra, nhưng cởi giày vớ thì có gì bất tiện đâu?” Chàng định kéo tăng hài bên phải của y, nhưng năm vào thấy cứng ngắt như chân người chết. Chàng kéo mạnh một chút, một vật theo tay tuột ra, hóa ra là một bàn chân giả bằng gỗ, Kiều Phong sờ vào bàn chân thật của Chỉ Thanh thấy nhỏ nhắn mềm mại, kêu lên một tiếng, nghĩ thầm: “Quả nhiên là một nữ nhân.”

Chàng thi triển khinh công, chạy mỗi lúc một nhanh, đến tờ mờ sáng đã cách chùa Thiếu Lâm năm sáu mươi dặm. Kiều Phong ôm Chỉ Thanh đến một khu rừng nhỏ có khe suối chảy ngang, đi đến bên dòng nước, vốc nước vỗ lên mặt Chí Thanh rồi lấy tay áo cà sa lau mấy cái cho sạch. Đột nhiên từng mảng da thịt trên mặt y lả tả rơi xuống. Kiều Phong giật nảy mình, tự hỏi: “Tại sao da thịt y lại rữa nát ra thế này?” Chàng chăm chú nhìn, thấy bên dưới những mảng da lở loét lộ ra làn da mịn màng trắng như tuyết, trong như ngọc.

Chỉ Thanh được Kiều Phong ôm chạy đi trong lúc hôn mê bất tỉnh, lúc này bị vỡ nước lạnh vào mặt liền hồi tỉnh. Y mở mắt ra nhìn thấy Kiều Phong, gượng cười gọi nhỏ: “Kiều bang chủ!” Thế nhưng y quá yếu, chỉ gọi được một tiếng rồi lại nhắm mắt thiếp đi.

Kiều Phong nhìn mặt Chỉ Thanh thấy loang loang lổ lổ, lồi lên lõm xuống chẳng rõ tướng mạo ra sao, liền nhúng tay áo y xuống nước, lau mạnh lên mặt mấy cái, bao nhiêu phấn bột đều trôi đi, lộ ra khuôn mặt xinh tươi của một thiếu nữ. Chàng la lên một tiếng thất thanh: “Trời ơi! Té ra là A Châu cô nương!”.

Kẻ hóa trang làm Chỉ Thanh lẻn vào Bồ Đề Viện chùa Thiếu Lâm chính là A Châu, thị tì của Mộ Dung Phục, có thuật dị dung cải trang khéo léo mau lẹ, trên đời không ai bì kịp. Kỳ này nàng dùng bàn chân gỗ đệm dưới gót nâng cao người lên, lấy bông đệm vào vai vào bụng cho tầm vóc to lớn, lại dùng bột trộn hồ đắp cho mặt mập ra, mình mặc tăng bào. Ngay cả bọn Chỉ Trầm, Chỉ Uyên thường ngày vẫn gặp Chỉ Thanh cũng không nhận ra nổi.

Nàng mơ hồ nghe Kiều Phong gọi “A Châu Cô nương” đã toan đáp lời, cũng muốn giải thích vì sao mình lẻn vào chùa Thiếu Lâm nhưng không còn chút khí lực nào nữa, đầu lưỡi cũng cứng đờ nói không ra tiếng.

Lúc Kiều Phong xách Chí Thanh chạy trốn, tưởng y là kẻ gian trá hiểm độc, chắc có liên quan mật thiết tới cái chết của gia nương và sư phụ mình. Chàng hao phí nội lực cứu y cốt để tra xét cho minh bạch, định bụng nếu y không nói thì sẽ dùng cực hình tra tấn. Ngờ đâu lúc y lộ chân tướng lại là cô nàng A Châu hình dung ẻo lả, xinh đẹp dễ thương, quả thật nằm mơ cũng không thấy. Kiều Phong tuy đã gặp A Châu, A Bích vài lần, lại cứu hai nàng thoát khỏi bọn võ sĩ Tây Hạ nhưng chưa biết A Châu giỏi tài hóa trang. Giá như Đoàn Dự ở địa vị chàng thì chắc đã đoán ra rồi.

Kiều Phong đã biết A Châu không phải trúng độc, mà bị thương do chưởng lực, suy nghĩ một chút liền vỡ lẽ. Lúc Huyền Từ phương trượng dùng Phách Không Quyền đánh tới, chàng dùng tấm gương đồng che chở nên không trúng phải A Châu, nhưng vì tay trái đang xách nàng lên, chưởng lực khủng khiếp kia chấn động tới cô. Chàng không khỏi ngấm ngầm hối hận: “Nếu ta không xen vào chuyện người khác, cứ để nàng mặc ý ra vào thì nàng đã thoát thân rồi, không đến nỗi gặp phải đại nạn” Kiều Phong vốn coi trọng Mộ Dung Phục, đối với thị tì của y cũng nhìn bằng con mắt đặc biệt, nên nghĩ thầm: “Nàng bị trọng thương thế này cũng vì ta mà ra. Thể nào ta cũng phải đưa nàng đến thị trấn, tìm lương y chữa trị cho khỏi.” Chàng bèn nói: “A Châu cô nương, để ta bồng cô nương tìm chỗ chữa thương.” A Châu đáp: “Trong túi tiểu nữ có linh dược.” Nói xong nàng giơ tay lên nhưng không đủ sức thò vào bọc.

Kiều Phong bèn lục túi nàng ra, ngoại trừ một ít bạc vụn, thấy có một sợi xích vàng đúc thật tinh xảo, trên sợi xích có khắc mấy chữ nhỏ xíu: “Thiên thượng tinh, Lượng tinh tinh, Vĩnh xán lạn, Trường an ninh.” (Sao trên trời, Chiếu lấp lánh, Mãi xán lạn, Mãi bình an.) Ngoài ra còn có một hộp ngọc nhỏ màu trắng, chính là chiếc hộp Đàm công tặng nàng nơi rừng hạnh, Kiều Phong cả mừng thầm, biết loại cao trong hộp chữa thương cực kỳ hiệu nghiệm, bèn nói: “Việc cứu tính mạng cho cô nương là quan trọng, xin đừng trách ta mạo phạm.” Chàng bèn đưa tay cởi áo nàng ra, xoa Băng Thiềm Cao lên ngực, A Châu thẹn chín người muốn tránh né mà không được, vừa cựa quậy vết thương đau nhói lại ngất đi.

Kiều Phong mặc áo lại cho cô gái, cất hộp ngọc và dây xích vàng vào bọc nàng, còn bạc vụn thì bỏ vào túi mình, bồng A Châu rảo bước đi về hướng bắc. Được chừng hai chục dặm thì đến một thị trấn sầm uất tên là Hứa Gia Tập, Kiều Phong tìm đến một khách điếm lớn, thuê hai căn phòng, đưa A Châu lên nằm nghỉ rồi đi mời một lương y đến khám bệnh. Lương y đó bắt mạch A Châu xong, liên tiếp lắc đầu nói: “Bệnh cô nương đây không còn thuốc nào chữa được. Thang thuốc này chẳng qua là để tỏ ra đã hết lòng mà thôi.” Kiều Phong thấy toa thuốc có các vị cam thảo, bạc hà, cát cánh, ngưu hạ đều là những loại thuốc tầm thường, xem chừng trị đau bụng nhức đầu linh tinh cũng không khỏi.

Chàng không đi cắt thuốc, nghĩ thầm: “Linh được của Đàm công ở Xung Tiêu Động trị còn không được, thì thuốc của lang băm ở thị trấn nhỏ bé này phỏng có ích gì” Chàng lại vận chân khí, truyền nội lực vào người nàng. Trong khoảnh khắc, sắc mặt A Châu đang nhợt nhạt đã trở lại hồng hào, rồi nàng nói: “Kiều bang chủ! Cảm ơn bang chủ đã cứu cho. Giả tỷ tiểu nữ bị mấy tên lừa trọc đầu kia bắt được thì khó mà thoát chết.” Kiều Phong nghe giọng nàng đã có khí lực thì cả mừng, đáp: “A Châu cô nương, ta cứ lo là cô nương không khỏi được.” A Châu đáp: “Bang chủ đừng gọi là cô nương gì hết, cứ gọi thẳng A Châu cũng được rồi. Kiều bang chủ tới chùa Thiếu Lâm làm chi vậy?” Kiều Phong đáp: “Ta cũng không còn là bang chủ, đừng gọi như thế nữa nhé.” A Châu đáp: “Vậy để tiểu nữ gọi là Kiều đại gia.”

Kiều Phong lại hỏi: “Cô đến chùa Thiếu Lâm làm gì? Hãy nói cho ta nghe trước đã.” A Châu cười đáp: “Nói ra xin Kiều đại gia đừng cười là tiểu nữ phá quấy. Tiểu nữ nghe nói Mộ Dung công tử đến chùa Thiếu Lâm nên định đi tìm, nói cho công tử biết chuyện Vương cô nương. Ngờ đâu vừa đến cổng chùa, gã hòa thượng gác cổng hung dữ Chỉ Thanh kia đã hầm hầm nói là đàn bà con gái không được vào chùa Thiếu Lâm. Tiểu nữ tranh cãi với y một hồi, lại còn bị mắng nhiếc, thành thử giả làm y để vào chùa, xem y làm gì được.”

Kiều Phong mỉm cười nói: “Cô nương cải trang vào chùa Thiếu Lâm mà vô số hòa thượng vẫn không biết cô là nữ nhân. Sao lúc vào được chùa rồi, cô nương không lộ chân tướng ra cho bọn họ coi, xem có ai tức đến vỡ bụng mà chết không.” Xưa nay Kiều Phong vẫn cực kỳ tôn kính các nhà sư Thiếu Lâm Tự, nhưng một là Huyền Khổ đại sư đã chết, hai là quần tăng chưa điều tra minh bạch đã vu cho chàng ba đại tội giết cha, giết mẹ, giết thầy, trong lòng chàng không khỏi giảm phần tôn trọng.

A Châu khoái chí ngồi nhổm dậy, vỗ tay cười, nói: “Kiều đại gia! Đại gia quả là cao kiến. Tiểu nữ khỏi bệnh rồi sẽ cải dạng nam tử vào chùa, sau đó trở lại nguyên hình nhi nữ hiên ngang ngồi giữa Đại Hùng Bảo Điện, chọc cho mấy lão hòa thượng giận đến lăn lộn dưới đất, thế mới thật là thú! A…” Đột nhiên nàng không nói tiếp được nữa, thân thể lại nhũn ra phục xuống giường, không nhúc nhích được.

Kiều Phong kinh hãi, đặt ngón tay lên mũi thì thấy nàng tựa hồ đã ngừng thở. Chàng hốt hoảng, vội đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài ở sau lưng cô gái, truyền chân khí cho nàng. Chưa đầy thời gian uống một chén trà, A Châu lại chầm chậm ngửng đầu lên, cười nói: “Chao ôi! Sao tiểu nữ đang nói lại ngủ thiếp đi, quả là không phải với Kiều đại gia!” Kiều Phong biết tình hình nguy ngập, bèn nói: “Cô nương chưa được khỏe hắn, hãy ngủ đi một lát để dưỡng thần.” A Châu đáp: “Tiểu nữ thấy không mệt lắm. Có điều Kiều đại gia vất vả mất nửa đêm, hãy đi nghỉ cho lại sức.” Kiều Phong đáp: “Phải lắm! Chốc nữa ta lại sang thăm cô nương.”

Chàng trở lại phòng khách, gọi năm cân rượu và hai cân thịt bò nóng, ngồi ăn uống một mình. Lúc này trong lòng phiền não, uống rượu vào dễ say nên mới hết năm cân rượu chàng đã thấy chếnh choáng. Kiều Phong cầm hai chiếc bánh bao vào phòng A Châu, gọi hai tiếng không nghe đáp lại, liền đến trước giường thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, gò má lõm xuống như người chết rồi. Chàng đưa tay sờ trán cô gái thấy vẫn còn âm ấm, vội vận chân khí vào người nàng. A Châu từ từ tỉnh lại, vui vẻ cầm lấy chiếc bánh ăn ngay.

Đến lúc này, Kiều Phong đã biết nàng hoàn toàn sống nhờ chân khí của mình. Nếu không truyền chân khí vào, chỉ trong một giờ tất nàng kiệt lực mà chết, thật không biết phải tính sao.

A Châu thấy chàng trầm ngâm, nét mặt lo buồn, bèn nói: “Kiều đại gia! Tiểu nữ bị thương nặng quá, ngay cả linh dược của Đàm lão tiên sinh cũng không chữa được, có phải không nào?” Kiều Phong vội đáp:“Không! Không sao cả! Cô nương chỉ nghỉ ngơi mấy hôm là khỏe.” A Châu đáp: “Đại gia đừng nói dối làm chi. Tiểu nữ thấy trong người dường như trống rỗng, chẳng có chút hơi sức nào cả.” Kiều Phong đáp: “Cô nương cứ yên tâm dưỡng bệnh, ta thể nào cũng có cách chữa được cho cô nương.”

A Châu nghe giọng Kiều Phong nói, biết là mình bị thương trầm trọng, trong lòng bất giác sợ hãi, tay run lẩy bẩy, cái bánh mới ăn hết một nửa đã rớt xuống đất. Kiều Phong tưởng nội lực của nàng đã cạn, lại để tay lên trên huyệt Linh Đài.

Lúc này thần trí A Châu tỉnh táo, nàng thấy một luồng nhiệt khí từ lòng bàn tay Kiều Phong cuồn cuộn đổ vào người mình, lập tức khắp thân thể chỗ nào cũng dễ chịu. Nàng suy nghĩ một chút liền hiểu ngay mình đã chết đi sống lại mấy lần, đều nhờ Kiều Phong truyền chân khí cứu tỉnh, trong lòng vừa cảm kích lại vừa kinh hãi. A Châu tuy tâm cơ lanh lợi, nhưng dẫu sao cũng là một cô gái nhỏ tuổi. Nàng nước mắt tuôn rơi, nài nỉ: “Kiều đại gia! Tiểu nữ không muốn chết, đại gia đừng bỏ tiểu nữ ở đây.”

Kiều Phong nghe nàng nói, động lòng trắc ẩn bèn kiếm lời an ủi: “Không đâu, cô nương cứ yên tâm! Kiều Phong này là hạng người nào mà bỏ rơi bằng hữu đang lúc nguy nan?” A Châu đáp: “Tiểu nữ đâu có xứng đáng là bằng hữu của đại gia? Kiều đại gia, liệu tiểu nữ có chết chăng? Có phải người ta chết rồi biến thành ma quỉ hay không?” Kiều Phong đáp: “Cô nương đừng quá lo lắng. Cô còn ít tuổi, mới bị thương xoàng, làm gì mà chết được?” A Châu lại hỏi: “Đại gia có nói dối tiểu nữ không?” Kiều Phong đáp: “Không đâu!” A Châu trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Đại gia là nhân vật anh hùng hảo hán nổi danh trong võ lâm, ai ai cũng nói: Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung, hai vị kẻ nam người bắc ngang ngửa nhau. Đã có bao giờ đại gia nói mà không làm chưa?” Kiều Phong mỉm cười nói: “Lúc còn bé, ta cũng hay nói dối. Từ khi bôn tẩu giang hồ thì không đánh lừa ai nữa.” A Châu hỏi: “Đại gia bảo thương thế của tiểu nữ không nặng, chẳng phải nói dối thì là gì?”.

Kiều Phong nghĩ thầm: “Nếu cô biết thương thế trầm trọng tất không yên lòng, lại càng khó chữa thêm. Ta vì muốn cô mau khỏi, buộc lòng phải nói dối vậy.” Chàng liền đáp: “Ta không nói dối cô nương đâu.” A Châu thở dài rồi nói: “Thế thì hay lắm, tiểu nữ yên tâm rồi. Kiều đại gia ơi, tiểu nữ cầu xin đại gia một việc nhé!” Kiều Phong hỏi: “Việc gì?” A Châu đáp: “Tối nay đại gia ở đây, đừng đi chỗ khác.” Trong thâm tâm nàng cũng đã hiểu, nếu Kiều Phong ra khỏi phòng thì mình không sống được đến sáng. Kiều Phong cười, đáp: “Được lắm! Chẳng cần cô nương nói, ta cũng định bụng ngồi với cô nương đêm nay ở đây. Thôi cô đừng nói nhiều nữa, ngủ một giấc đi.”

A Châu nhắm mắt lại, một lát sau lại mở mắt ra nói: “Kiều đại gia! Tiểu nữ không ngủ được, lại xin một việc nữa, liệu có được chăng?” Kiều Phong hỏi: “Việc gì thế?” A Châu đáp: “Lúc tiểu nữ còn nhỏ, mỗi khi không ngủ được là má má lại đến bên cạnh giường hát ru. Chỉ cần hát ba câu là tiểu nữ ngủ say ngay.” Kiều Phong mỉm cười đáp: “Bây giờ đi kiếm cho ra mẫu thân cô nương chẳng phải là chuyện dễ dàng.” A Châu thở dài một tiếng, buồn bã nói: “Tiểu nữ chẳng biết gia gia má má ở đâu, cũng không biết còn sống hay đã chết. Kiều đại gia! Đại gia hát cho tiểu nữ nghe mấy câu, liệu có được chăng?”

Kiều Phong chỉ biết gượng cười. Nam tử hán đại trượng phu như chàng mà hát ru cho một thiếu nữ ngủ thì thật chẳng còn ra thể thống gì, chàng bèn đáp: “Quả thực ta không biết ca hát.” A Châu hỏi lại: “Lúc đại gia còn nhỏ có được mẫu thân hát ru cho ngủ không?” Kiều Phong gãi đầu nói: “Dường như cũng có đấy, nhưng lâu ngày ta quên hết rồi, mà có nhớ thì cũng không hát được.” A Châu thở dài: “Đại gia không chịu hát thì đành vậy, biết làm sao bây giờ!” Kiều Phong buồn rầu, đáp: “Không phải là ta không chịu hát, quả thực không biết hát đấy thôi.” A Châu đột nhiên nghĩ ra một chuyện, vỗ tay reo lên: “À, được rồi! Kiều đại gia, tiểu nữ lại xin một việc khác, lần này không có lý nào đại gia lại từ chối.”.

Kiều Phong thấy cô nàng này thật là tinh nghịch, nói gì làm gì cũng ngoài dự liệu. Nàng lại xin mình một việc, thật không biết là việc kỳ quái gì đây. Chàng bèn cẩn thận giao hẹn trước: “Cô nương phải nói ra trước đã. Nếu ta làm được thì sẽ nhận lời, còn không làm được thì thôi.” A Châu đáp: “Việc này dễ lắm, trẻ nít bốn năm tuổi cũng làm được!” Kiều Phong nhất định không chịu mắc lừa, liền gặng hỏi: “Việc đó là việc gì, cô nương cứ nói trước đi đã.” A Châu cười khúc khích nói: “Đại gia kể chuyện cho tiểu nữ nghe đi, chuyện anh em nhà thỏ cũng được mà chuyện mẹ con nhà sói cũng hay, tiểu nữ nghe là ngủ được ngay.”

Kiều Phong nhíu mày ra chiều khó nghĩ. Mới đây, chàng còn là bang chủ một bang lớn nhất giang hồ, một lãnh tụ quần hùng khí khái hiên ngang. Chỉ sau vài ngày đã bị bãi chức bang chủ, bị trục xuất ra khỏi Cái Bang, ba người thân thiết nhất là phụ mẫu cùng sư phụ qua đời trong một buổi. Đến ngày thân thế mình cũng chưa minh bạch là người Hồ hay người Hán, thiên hạ còn dán cho cái nhãn phản nghịch, đổ lên đầu ba tội đại ác giết cha, giết mẹ, giết thầy. Lúc này lại chẳng có người bạn nào để an ủi, cùng chia sẻ nỗi lo âu, thôi cũng đành chịu. Ngờ đâu nơi khách điếm này, chàng còn phải bầu bạn với một tiểu cô nương, nghe cô đòi ca hát, kể chuyện. Những chuyện đàn bà, trẻ con vô vị như thế, trước đây chàng chỉ nghe nửa câu đã bịt tai chạy mất. Kiều Phong bình sinh chỉ thích cùng anh em uống rượu, đánh bạc, đùa giỡn, rượu say nóng mặt lại đàm luận chuyện quân quốc đại sự, chuyện thiên hạ anh hùng. Nghĩ đến việc ngồi kể chuyện anh em nhà thỏ, mẹ con nhà sói cho một cô nương nghe, quả thật nực cười.

Nhưng Kiều Phong chợt nhìn thấy A Châu dung nhan tiều tụy, có vẻ đăm đăm trông đợi, lại nghĩ thầm: “Nàng bị trọng thương xem chừng khó mà qua khỏi, chân khí không truyền vào được nữa là bỏ mạng ngay. Nàng muốn nghe kể chuyện, thôi thì ta cũng đành chiều ý vậy.” Chàng liền nói: “Được rồi, để ta kể chuyện cho cô nương nghe, chỉ sợ chuyện không hay thôi.” A Châu vui sướng ra mặt, nói: “Nhất định là hay lắm rồi! Đại gia mau mau kể đi!”

Kiều Phong tuy nhận lời, nhưng cũng chẳng nhớ ra mẩu chuyện cổ tích nào mà kể. Chàng ngẫm nghĩ một lát mới nói: “Để ta kể chuyện con sói nhé. Ngày xửa ngày xưa, có một ông già đang đi trong rừng trông thấy một con sói bị người ta trói bỏ trong bao vải. Con sói năn nỉ ông già thả nó ra, ông già liền mở chiếc bao rồi cởi trói. Con sói…” A Châu ngắt lời: “Con sói được thả ra, nó kêu đói rồi đòi ăn thịt ông già phải không?” Kiều Phong đáp: “Ồ, thì ra chuyện này cô nương đã nghe rồi.” A Châu đáp: “Chuyện đó có chép trong sách. Tiểu nữ thích nghe đại gia kể những chuyện chưa có sách vở nào ghi chép kia.”

Kiều Phong ngẫm nghĩ rồi nói: “Không phải chuyện trong sách, tức là chuyện ngoài đời. Được rồi, để ta kể chuyện một đứa trẻ nhà quê cho cô nương nghe: Ngày xưa, có một gia đình rất nghèo sống ở vùng núi, hai vợ chồng chỉ có một đứa con trai. Đứa trẻ mới bảy tuổi mà thân thể cao lớn, đã đi theo gia gia lên núi chặt củi được rồi. Một hôm, gia gia y bị bệnh mà nhà thì nghèo quá không dám đi mời thầy thuốc, cũng không có tiền mua thuốc. Thế nhưng người cha bệnh mỗi ngày một nặng thêm, không uống thuốc thì không được. Má má y chỉ có sáu con gà mái với một rổ trứng, đành đem ra chợ bán. Cả gà lẫn trứng bán được bốn tiền, bà liền đi mời lương y. Thế nhưng tên thầy thuốc kia lại bảo rằng đường vào núi vừa xa vừa mệt, không chịu đi xem bệnh. Người mẹ năn nỉ rớt cả quai hàm mà gã lang băm vẫn lắc đầu quầy quậy. Người mẹ quì xuống van lạy, tên thầy thuốc kia mới nói: Đi xem bệnh ở nơi thâm sơn cùng cốc tất bị nhiễm lam sơn chướng khí. Có bốn tiền ít quá chẳng đáng công đi. Người mẹ níu vạt áo y khóc lóc, gã liền giằng ra, ngờ đâu bà ta nắm chặt quá, chiếc áo rách mất một mảnh to. Y nổi giận xô người mẹ ngã lăn ra, lại đi thêm một cái thật mạnh, nhất định bắt đền, nói là áo này mới may, đáng giá hai lượng bạc.”

A Châu nghe tới đây, khẽ nói: “Gã lang băm đó thật là đáng ghét.” .

Kiều Phong ngoảnh mặt nhìn bầu trời đang tối dần ngoài cửa sổ, chậm rãi kể tiếp: “Thằng bé ở bên cạnh mẹ, thấy má má bị người ta ức hiếp liền xông lên, vừa đánh vừa cắn tên thầy thuốc. Nhưng nó chỉ là một đứa bé sức lực chẳng bao nhiêu, liền bị xách lên quẳng ra khỏi cửa, trán đập vào một tảng đá, chảy bao nhiêu là máu. Người mẹ sợ con bị thương nặng vội chạy ra xem. Tên lang băm sợ bà lại gây rắc rối, liền đóng chặt cửa lại. Bà mẹ vốn tính hiền hậu, sợ phiền nên không dám gõ cửa nữa, chỉ vừa khóc mếu máo vừa dắt con về nhà.”

“Thằng bé kia đi ngang một tiệm bán đồ sắt, thấy trên sạp bày đầy các loại dao dùng để giết bò mổ lợn. Chủ tiệm đang lo mời chào khách mua, không để ý, thằng bé liền lén lấy cắp một con dao nhọn, giấu dưới áo, ngay đến mẹ nó cũng không biết. Về tới nhà rồi, người mẹ mới kể lại mọi chuyện cho chồng nghe, lại sợ ông bực mình bệnh sẽ nặng thêm, định lấy bốn tiền ra đưa lại cho chồng. Ngờ đâu khi sờ vào túi thì không thấy tiền đâu nữa.”

“Người mẹ vừa hoảng hốt vừa ngạc nhiên bèn chạy ra hỏi con, thấy thằng bé đang mài một con dao mới toanh trên tảng đá. Bà liền hỏi: Sao con lại có con dao này? Thằng bé không dám nhận là mình ăn trộm, bèn nói dối là người ta cho nó. Dĩ nhiên bà mẹ không tin. Con dao này ngoài chợ bán đến tiền rưỡi, hai tiền, có lý nào người ta lại đem cho trẻ con. Bà hỏi ai cho thì nó ấp úng không trả lời được. Bà mẹ thở dài nói: Con ơi! Gia nương nghèo khổ, chẳng bao giờ mua đồ chơi cho con, thật là tội nghiệp, Con là con trai, mua con dao đó để chơi thì cũng không sao. Thế nhưng tiền còn thừa con đưa lại cho má má, để mua chút thịt nấu canh cho gia gia ăn, gia gia con đang bệnh. Thằng bé nghe thế liền giương mắt lên nhìn mẹ, hỏi lại: Tiền thừa nào? Người mẹ nói: Má má có bốn tiền, con lấy đi mua dao có phải không? Đứa trẻ hốt hoảng kêu lên: Con không lấy! Con không lấy! Trước nay nó chưa hề bị cha mẹ đánh đòn. Tuy chỉ là một đứa trẻ bảy tuổi nhưng lúc nào cũng được nuông chiều, nể nang như tân khách…”

Kiều Phong kể đến đây đột nhiên rùng mình, tự hỏi: “Sao lại thế nhỉ? Trong thiên hạ, cha mẹ đối với con cái chỉ có thương yêu nuông chiều, chẳng ai lại nể nang khách sáo như thế bao giờ.” Chàng lẩm bẩm: “Sao lại lạ lùng như thế?” A Châu hỏi lại: “Có gì mà lạ lùng?” Nàng chỉ nói được bấy nhiêu, đột nhiên thở hắt ra. Kiều Phong biết chân khí trong người nàng lại cạn kiệt, liền áp bàn tay lên lưng cô gái, truyền nội lực vào.

A Châu tinh thần tạm thời khôi phục, thở dài nói: “Kiều đại gia! Mỗi lần đại gia truyền chân khí cho tiểu nữ là nội lực giảm sút một phần. Người luyện võ thì chân khí nội lực là quan trọng hơn cả, đại gia tận tâm với tiểu nữ như thế, A Châu… A Châu làm sao đền đáp được?” Kiều Phong cười nói: “Ta chỉ cần tĩnh tọa, thổ nạp mấy giờ là nội lực khôi phục lại như cũ, cô nương hà tất phải nói đến chuyện đền đáp. Ta cùng chủ nhân cô nương là Mộ Dung công tử thiên lý thần giao, tuy chưa gặp mặt nhưng trong lòng ta đã coi y như bằng hữu. Cô nương là người nhà y, bất tất phải coi ta như người ngoài.” A Châu buồn rầu nói: “Nội lực tiểu nữ cứ tiêu tán dần, chỉ một lát là cạn sạch. Đại gia không thể… vĩnh viễn…” Kiều Phong nói: “Cô nương cứ yên tâm, thể nào ta cũng kiếm được một thầy thuốc y đạo cao minh, trị cho cô nương hết nội thương.”

A Châu mỉm cười: “Chỉ sợ vị lương y đó thấy tiểu nữ ít tiền, lại sợ nhiễm lam sơn chướng khí, không chịu đến xem bệnh. Kiều đại gia! Câu chuyện chưa kể hết, đại gia vừa nói cái gì lạ lùng ấy nhỉ?” Kiều Phong đáp: “Ta lỡ lời đấy thôi. Lúc đó người mẹ thấy thằng bé không thừa nhận, cũng chẳng nói thêm. Lát sau, thằng bé mài dao xong đi vào, thấy má má đang thì thầm với gia gia, nói là nó ăn cắp tiền mua dao rồi nhưng không chịu nhận. Người cha nói: Thằng bé đó ở với chúng ta trước nay chẳng có món đồ chơi nào, nó thích mua gì thì cứ mặc kệ, chúng ta chớ để nó phải tủi thân. Hai người vừa nói tới đây, thấy thằng bé đi vào, liền thôi không nói nữa. Gia gia xoa đầu nó, nói: Con ngoan, từ đây đi chơi nhớ cẩn thận, va vào đâu mà đau đến thế? Ông không nói gì đến việc mất bốn tiền và việc nó mua con dao, vẫn ôn hòa, không tỏ vẻ gì khó chịu.”

“Thằng bé tuy chỉ mới bảy tuổi đầu nhưng đã sớm khôn. Cậu nghĩ thầm: Gia gia má má nghi mình ăn cắp tiền đi mua dao, giả tỷ hai người nổi giận đánh mắng ta một trận, ta cũng chẳng dám oán hận. Quả hai người thương ta thật. Y băn khoăn trong lòng, bèn nói với cha: Gia gia, con không lấy trộm tiền, con dao này không phải con mua đâu! Người cha nói: Má má con thật lắm chuyện, mất tiền thì đã sao? Việc gì mà phải cuống cuồng lên, đúng là bụng dạ đàn bà nhỏ nhen. Hảo hài tử, đầu con có đau lắm không? Thằng bé đành trả lời: Không sao cả! Nó muốn biện bạch nữa, nhưng chẳng biết nói thế nào, thành thử trong bụng ấm ức, không ăn cơm, chui vào giường ngủ.”

“Nó nằm trên giường trằn trọc không ngủ được, lại nghe mẹ sụt sịt khóc, chắc là lo gia gia bệnh nặng thêm, lại bực tức chuyện ban ngày bị gã lang băm kia chửi mắng đánh đập. Thằng bé bèn len lén trở dậy, trèo cửa sổ ra ngoài, đi suốt đêm đến thị trấn, tới nhà gã thầy thuốc. Căn nhà có cửa trước cửa sau đều đóng chặt, không có lối vào. Thân hình nó bé nhỏ, bèn theo lỗ chó chui vào. Thấy một căn phòng hãy còn ánh đèn, nó liền chọc thủng giấy dán trên cửa sổ để nhòm vào. Tên lang băm chưa ngủ, còn đang sắc thuốc. Thằng bé đẩy cửa…”.

A Châu lo cho đứa trẻ, vẻ mặt nghiêm trọng, than thở: “Thằng bé bảy tuổi đang đêm lẻn vào nhà người ta, e rằng bị ăn đòn.”

Kiều Phong lắc đầu, kể tiếp: “Không phải thế. Gã đại phu nghe tiếng mở cửa, chẳng thèm ngẩng đầu lên, chỉ hỏi: Ai đó? Thằng bé không lên tiếng, đi tới gần, rút con dao nhọn chơi luôn một nhát. Người nó thấp, nhát dao đâm trúng bụng tên thầy thuốc, y chỉ hự được một tiếng rồi lăn ra đất.”

A Châu rú lên một tiếng, kinh hãi hỏi: “Thằng bé đó đâm chết gã kia sao?” Kiều Phong gật đầu, đáp: “Đúng vậy. Nó lại chui lỗ chó ra, quay trở về nhà. Trong một đêm phải chạy mấy chục dặm đường, nó mệt lả người. Sáng sớm hôm sau, người nhà tên thầy thuốc mới biết y đã chết, thủng bụng lòi ruột thật là thê thảm. Thế nhưng cửa trước cửa sau vẫn đóng chặt, then cài bên trong, hung thủ từ bên ngoài làm sao vào được? Ai cũng nghi người trong nhà ra tay, quan huyện liền bắt hết anh em, vợ con gã thầy thuốc đem ra tra khảo, xét hỏi đến mấy năm vẫn không ra thủ phạm. Thế là tên bất… lương y không những mất mạng mà còn tan cửa nát nhà. Vụ giết người nơi Hứa Gia Tập đó trở thành một vụ thiên cổ nghi án”

A Châu hỏi: “Đại gia nói Hứa Gia Tập ư? Thế ra gã thầy thuốc đó… ở ngay thị trấn này ư?” Kiều Phong đáp: “Đúng thế! Gã họ Đặng, vốn là một thầy thuốc nổi tiếng nhất thị trấn này, mấy huyện quanh đây đều biết tên tuổi. Nhà y ở về phía tây, trước kia tường cao quét vôi trắng, hiện nay tan hoang cả rồi. Lúc nãy ta đi mời người xem bệnh cho cô nương, có đi ngang nhà gã nên biết thế.”

A Châu hỏi thêm: “Thế còn người cha bị bệnh thì sao? Sau đó có khỏi không?” Kiều Phong đáp: “Về sau một hòa thượng chùa Thiếu Lâm mang thuốc đến, chữa lành bệnh cho ông ta.” A Châu nói: “Thế ra chùa Thiếu Lâm cũng có hòa thượng tốt.” Kiều Phong nói: “Dĩ nhiên là có. Thiếu Lâm Tự có mấy vị cao tăng tâm địa nhân hậu, hành hiệp trượng nghĩa, đáng cho thiên hạ kính phục.” Nói đến đây, chàng nghĩ đến ân sư Huyền Khổ đại sư, lòng se lại.

A Châu trầm ngâm nói: “Gã thầy thuốc kia không ngó tới kẻ cùng khổ, không coi mạng người vào đâu, dĩ nhiên là đáng ghét nhưng tôi cũng chưa đáng chết. Thằng bé kia cũng thật là dã man ngang ngược. Tiểu nữ quả không tin nổi, một đứa nhỏ mới bảy tuổi đầu đã dám hạ thủ giết người hay sao? Kiều đại gia! Đó là đại gia kể chuyện bịa chứ không phải thật, đúng không?” Kiều Phong đáp: “Chuyện này có thật đấy!” A Châu thở dài, buột miệng nói: “Thằng bé quả là hung dữ, giống như bọn Khất Đan độc ác.”

Kiều Phong đột nhiên run bắn người, đứng phắt dậy hỏi: “Cô nương… cô nương nói cái gì?”

A Châu thấy chàng biến sắc mặt, trong lòng kinh hãi. Nàng chợt hiểu ra, liền run run nói: “Kiều… Kiều đại gia! Tiểu nữ thật là có lỗi. Tiểu nữ không… không cố ý xúc phạm đại gia. Quả thật không cố ý…” Kiều Phong đứng ngơ ngẩn một lúc rồi buồn bã ngồi xuống, hỏi: “Cô nương đoán được rồi ư?” A Châu gật đầu. Kiều Phong lại nói: “Những điều không cố ý nói ra mới là chân thực. Ta cũng không hiểu tại sao lại hạ thủ độc ác đến thế, phải chăng vì mang dòng máu Khất Đan mà ra?” A Châu dịu dàng đáp: “Kiều đại gia! A Châu này thật là ngu muội, đại gia đừng để bụng làm chi. Gã lang băm kia tàn nhẫn ức hiếp lệnh mẫu thân, đại gia quả là anh hùng khí khái, giết y đi là phải.”

Kiều Phong hai tay ôm đầu, nói: “Không phải chỉ vì y đá má má ta, cái chính là vì y làm cho ta bị nghi oan ăn cắp tiền rồi nói dối. Bốn tiền của mẹ ta chắc là rơi mất ở nhà lão khi bị lão lôi kéo đánh đập. Ta… ta trong đời ghét nhất là bị nghi oan.”

Trong một ngày hôm đó, Kiều Phong bị ba vụ kỳ oan. Chàng có phải là người Khất Đan hay không, chưa có cách nào xác định được. Nhưng vợ chồng Kiều Tam Hòe cùng Huyền Khổ đại sư thì rõ ràng không phải tay chàng hạ sát, thế mà ba tội đại ác này trút cả lên đầu chàng. Vậy thì hung thủ là ai? Người hãm hại chàng là ai?

Kiều Phong lại nghĩ đến một điều: “Tại sao cả gia gia lẫn má má ta đều nói, ta ở với hai người thật đáng tủi thân? Cha mẹ nghèo khổ thì phận làm con tất nhiên phải chịu, hà tất phải khách khí như vậy. Xem thế thì mình quả không phải là con đẻ, mà là có người ngoài gửi nuôi. Người này địa vị phải tôn quý thì phụ mẫu mới đối với ta như thế, không chỉ khách khí mà còn kính trọng. Vậy ai là người nhờ phụ mẫu nuôi dưỡng ta? Chắc hẳn là Uông bang chủ rồi.” Song thân Kiều Phong đối xử với chàng thật không giống người thường đối xử với con ruột mình. Chàng bản tính thông minh, đáng ra phải thấy vậy rồi. Có điều từ bé đã như thế nên chàng coi là bình thường, dù tinh tế đến mấy cũng chỉ nghĩ rằng song thân mình đặc biệt hiền hậu ôn hòa mà thôi. Bây giờ ngồi nghĩ lại, thì ra mọi việc đều chứng thực rằng mình là dòng dõi Khất Đan.

A Châu cất tiếng an ủi: “Kiều đại gia, người ta bảo đại gia là người Khất Đan, tiểu nữ thấy là chuyện bịa đặt vu hãm. Không nói gì những chuyện đại gia nhân nghĩa khẳng khái vang danh bốn bể, một đứa a hoàn hèn mọn như tiểu nữ mà đại gia cũng hết lòng hết dạ chiếu cố. Người Khất Đan tàn độc như lang sói, so với đại gia thật là một trời một vực, bì thế nào được!”

Kiều Phong nói: “A Châu! Giả tỷ ta là người Khất Đan thật, cô nương có còn để cho ta trông nom nữa không?” Bấy giờ người Hán ở Trung Nguyên căm hận người Khất Đan thấu xương, coi họ chẳng khác gì độc xà mãnh thú. A Châu suy nghĩ rồi trả lời: “Đại gia đừng nghĩ ngợi vẩn vơ, không thể như vậy được. Nếu dân Khất Đan mà có người tốt như đại gia thì chúng ta còn căm hận họ làm gì?”

Kiều Phong im lặng không nói gì, nghĩ bụng: “Nếu ta quả là người Khất Đan, thì đến một đứa thị tỳ như A Châu cũng không thèm đếm xỉa đến ta nữa.” Chàng bỗng nhiên thấy trời đất tuy rộng lớn mênh mông mà mình không có chỗ dung thân. Suy nghĩ cuồn cuộn trong đầu, khí huyết sục sôi trong ngực, Kiều Phong tự biết mình truyền chân khí cho A Châu nhiều lần, nội lực tiêu hao không ít, liền ngồi xếp bằng lên chiếc ghế để cạnh giường, từ từ vận khí điều tức. A Châu cũng nhắm mắt dưỡng thần.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.