Hồi 27: Chốn thiên quân bắt tướng, khất cái hóa đại vương

Tiêu Phong đang đứng xem, bỗng nghe có tiếng gọi: “Có phải Tiêu đại gia đấy chăng?” Tiêu Phong tự hỏi: “Ai nhận ra ta nhỉ?”. Chàng quay lại nhìn, thấy trong đội áo xanh có một người phóng ngựa chạy ra, chính là gã đội trưởng Thất Lý, mấy tháng trước đã được Gia Luật Cơ sai đem lễ vật đến tặng mình.

Y phóng ngựa đến cách Tiêu Phong chục trường đã nhảy xuống chạy bộ, quì gối phải xuống nói: “Chủ nhân của tiểu nhân đang ở phía trước, cách đây không xa. Chủ nhân vẫn nhắc đến Tiêu đại gia luôn, dường như nhớ mong lắm. Hôm nay không biết ngọn gió nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp chủ nhân của tiểu nhân.” Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ ở gần đây thì vui mừng khôn xiết nói: “Ta đi chơi không có chủ định, không ngờ đến gần chỗ nghĩa huynh, thật là tuyệt diệu. Được rồi, nhờ ngươi dẫn ta đến gặp ca ca.”

Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy đến. Y dặn dò: “Các ngươi lập tức về bẩm báo là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch đến chơi.” Hai tên kỵ binh nghiêng mình nhận lệnh, rồi phóng ngựa đi ngay. Quân sĩ Khất Đan tiếp tục cuộc săn hươu, còn Thất Lý suất lãnh đội kỵ binh áo xanh, hộ vệ Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.

Lúc Tiêu Phong được Gia Luật Cơ gửi tặng vàng bạc bò cừu, chàng đã phỏng chừng y có lẽ là một bậc phú quí người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế như vậy, đoán chắc vị nghĩa huynh này phải là tướng quân hay đại thần chi đó.

Trên thảo nguyên đầy kỵ binh chạy lui chạy tới như mắc cửi, tên nào cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói: “Hôm nay Tiêu đại gia đến chơi thật là đúng lúc, sáng mai ở đây có lễ hội thật là tưng bừng náo nhiệt.” Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng tươi tỉnh hẳn lên, liền hỏi: “Cái gì mà tưng bừng náo nhiệt?” Thất Lý đáp: “Ngày mai có cuộc tỉ võ. Hai đội thị vệ Vĩnh Xương, Thái Hòa đang khiếm khuyết chức thống lĩnh. Người Khất Đan chúng tôi đều ra sức thi triển võ công để xem ai may mắn đoạt được chức vụ này.”

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng, nổi hứng cười nói: “Thế thì tuyệt diệu! Ta lại được xem võ công người Khất Đan như thế nào.” A Tử cũng cười nói: “Đội trưởng ơi, chắc ông cũng ra biểu diễn thân thủ, ta chúc ông giành được một chức thống lĩnh.” Thất Lý lè lưỡi nói: “Tiểu nhân đâu có gan dạ như thế?” A Tử lại cười: “Tỉ võ giành chức thống lĩnh thì đã là gì? Ông chỉ xin tỉ phu ta dạy cho mấy đường quyền là đoạt được ngay.” Thất Lý mừng rỡ nói: “Giả tỉ tiểu nhân được Tiêu đại gia chỉ giáo là tốt phước lắm rồi. Còn chức thống lĩnh thì tiểu nhân chẳng dám mơ tới.”

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, độ mười dặm đã thấy một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới đón. Thất Lý nói: “Đây là đội Phi Hùng trong Bì thất đại trướng.” Đám kỵ binh này mặc áo da gấu đen, đội mũ da gấu trắng, khí thế thật là uy võ. Chúng chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời xuống ngựa chia ra đứng hai bên hô to: “Cung nghinh Tiêu đại gia.” Tiêu Phong đáp: “Không dám! Không dám!” Chàng giơ tay đáp lễ, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng phóng ngựa theo sau.

Đi được hơn chục dặm, lại có một đội kỵ binh Phi Hổ mặc áo da hổ, đội mũ da hổ chạy đến nghênh tiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm tới chức quan gì mà nghi vệ rầm rộ đến thế này.” Nhưng lần gặp trước Gia Luật Cơ nhất định không nói ra thân thế mình, Thất Lý cũng không nói, nên Tiêu Phong không hỏi nữa.

Đến chiều, tới một doanh trại thật lớn thì đội Phi Báo mặc áo đội mũ da báo chạy ra đón Tiêu Phong và A Tử vào căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong tưởng vào trong lều này là gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong trướng chỉ có đồ dùng sang trọng, trên bàn đặt sẵn vô số thức ăn, hoa quả, mà chủ nhân vẫn chẳng thấy đâu. Đội trưởng đội Phi Báo nói: “Chủ nhân mời Tiêu đại gia nghỉ lại đây một đêm, sáng mai sẽ tương kiến.” Tiêu Phong không hỏi thêm, ngồi xuống bên bàn bưng rượu lên uống. Bốn tên lính hầu đứng rót rượu, cắt thịt, hầu hạ rất chu đáo.

Sáng hôm sau thức dậy lại tiếp tục đi về hướng tây, đi suốt ngày phải đến hai trăm dặm, đến đêm lại ngủ ở một doanh trại lớn. Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý mới nói: “Đi hết sườn núi này là tới nơi.” Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn hình thế trái núi thật là hùng vĩ, một con sông uốn lượn dưới chân núi cuồn cuộn chảy về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua sườn núi, đột nhiên trước mắt cờ xí rợp trời, bốn mặt đầy doanh trướng. Phải có đến hàng vạn kỵ binh cùng bộ binh đứng vây quanh một khoảng đất trống. Các đội kỵ mã Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ vệ Tiêu Phong liền lấy tù và ra thổi lên inh ỏi.

Bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, thêm tiếng pháo hiệu nổ ầm ầm, quân lính trên bãi đất trống rẽ ra hai bên. Một con ngựa vàng cao lớn từ trong chạy ra, trên lưng có một đại hán râu ria xồm xoàm, chính là Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong, hô lớn: “Tiêu huynh đệ! Có nhớ ca ca chăng?” Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người gặp nhau cùng nhảy xuống, tay nắm tay mừng rỡ không sao kể xiết. Tướng sĩ bốn mặt chung quanh đều reo hò vang dội: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.

Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Tại sao binh sĩ lại hô vạn tuế?”. Chàng đưa mắt nhìn quanh, thấy hết thảy mọi người đều khom lưng, chống đao xuống đất, chỉ có Gia Luật Cơ đứng chính giữa, nhìn ngang nhìn ngửa ra chiều đắc ý. Tiêu Phong tỉnh ngộ, ấp úng hỏi: “Ca ca? Phải chăng ca ca là… là…” Gia Luật Cơ cười ha hả nói: “Giả tỉ hiền đệ biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e rằng không chịu cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu hiền đệ, tên thực của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Đại ân cứu mạng của hiền đệ, ta vĩnh viễn không quên được.”

Tiêu Phong vốn là người hiên ngang khí phách, nhưng trong đời chưa được bái kiến hoàng đế bao giờ. Hôm nay chàng thấy nghi vệ long trọng đến thế, không khỏi luống cuống nói: “Tiểu nhân không biết bệ hạ nên mạo phạm đã nhiều, tội đáng muôn thác”, nói xong liền quì xuống. Tiêu Phong là thần dân Khất Đan, gặp hoàng đế nước mình phải quì xuống là chuyện đương nhiên.

Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ ông dậy, cười nói: “Không biết thì không có tội. Hiền đệ ơi, ngươi với ta đã kết nghĩa kim lan, hôm nay chỉ nói chuyện nghĩa khí, ngày mai dùng lễ chúa tôi cũng chưa muộn.” Ông vẫy tay trái một cái, lập tức chiêng trống nổi lên để hoan nghênh tân khách. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong đi vào đại trướng.

Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan lợp đến mấy lớp da bò, trang trí đủ loại màu sắc cực kỳ rực rỡ, gọi là Bì thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong ngồi bên cạnh, chẳng mấy chốc văn võ bá quan lục tục tiến vào tham kiến, nào là Bắc viện đại vương, Bắc viện khu mật sứ, Nam viện khu mật sứ, Bì thất đại tướng quân, Tiểu tướng quân, Mã quan chỉ huy sứ, Bộ quân chỉ huy sứ… Tiêu Phong được nghe giới thiệu, nhưng nhiều quá nhất thời không nhớ hết được.

Đêm hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng nữ giới nên A Tử cũng được mời vào dự yến tại Bì thất đại trướng. Quang cảnh đúng là rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử cực kỳ hứng thú, mặt tươi như hoa.

Giữa chừng tiệc rượu, hơn mười tên võ sĩ Khất Đan cởi trần ra trổ tài đấu vật trước mặt hoàng thượng để làm trò. Tiêu Phong thấy bọn chúng thân thể rắn chắc, bắp thịt cuồn cuộn, chân tay mau lẹ, mỗi động tác đều chứng tỏ tập luyện công phu. Võ sĩ Khất Đan nói về biến hóa xảo diệu thì không bằng võ sĩ Trung Nguyên, nhưng những đòn thế dứt khoát ngay thẳng xem chừng rất hiệu quả trên chiến trường loạn đấu.

Các quan văn võ nước Liêu đều đến mời Tiêu Phong uống rượu. Chàng không hề từ chối, có rượu đưa đến là cạn, phải đến ngoài ba trăm chén mà sắc mặt vân như thường, mọi người đều kinh hãi.

Xưa nay Gia Luật Hồng Cơ vẫn tự phụ là người dũng lực, mà lần này cả nước ai cũng biết y bị Tiêu Phong bắt. Y đã định hôm sau nơi đại hội tỉ võ sẽ gọi Tiêu Phong trổ tài võ nghệ siêu quần để giảm bớt cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ đâu Tiêu Phong chưa cần biểu diễn võ công, chỉ cần tửu lượng đã áp đảo quần hùng, ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cả mừng nói: “Tiêu hiền đệ! Ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.”

A Tử đột nhiên xen vào: “Không phải! Y là đệ nhị anh hùng!” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười hỏi lại: “Tiểu cô nương! Y chỉ là đệ nhị thôi sao? Thế thì đệ nhất anh hùng là ai?” A Tử đáp: “Đệ nhất anh hùng hảo hán dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi. Tỉ phu của tiểu nữ tuy bản lãnh nghiêng trời nhưng vẫn phải tuân theo bệ hạ không dám trái lệnh. Vậy bệ hạ là đệ nhất anh hùng chứ còn ai nữa?” Nàng là môn đệ phái Tinh Tú, nghệ thuật nịnh bợ đã thuộc hàng siêu đẳng, bây giờ tâng bốc người Khất Đan thô lỗ chẳng cần phải dụng công.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: “Cô nương nói hay lắm! Tiêu huynh đệ! Ta muốn phong cho ngươi một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem phong tước gì cho xứng.” Khi đó y đã uống gần say nên gõ gõ ngón tay lên trán ra chiều suy nghĩ. Tiêu Phong vội nói: “Không đâu! Tiểu nhân tính tình thô lỗ, khó lòng hưởng thụ phú quí. Xưa nay tiểu nhân quen lang thang bốn phương, tới lui vô định, thực tâm không thích làm quan.” Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Được rồi! Để ta phong cho hiền đệ một chức quan chỉ cần uống rượu mà không cần làm…” Ông chưa dứt lời, bỗng từ xa vọng lại một hồi tù và inh ỏi, nghe thật khẩn cấp.

Quần thần nước Liêu đang ngồi bệt dưới đất uống rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng tù và đều nhỏm dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới nghe còn cách hơn chục dặm, hồi thứ hai đã gần thêm vài dặm, hồi thứ ba chỉ còn cách mấy dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời này không có con ngựa nào chạy nhanh đến thế, dẫu nhân vật khinh công tuyệt đỉnh cũng không lẹ như vậy được. Chắc là có những trạm truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, trạm nào nghe tiếng tù và lập tức truyền ngay đến trạm kế tiếp.” Trong nháy mắt, tiếng tù và truyền đến ngoài Bì thất đại trướng rồi ngừng lại. Mấy trăm người ngồi trong trướng đang ăn uống reo hò, ồn ào như chợ vỡ, đột nhiên lặng phắt như tờ.

Gia Luật Hồng Cơ thần sắc vẫn trấn tĩnh, từ từ nâng chén vàng lên uống cạn rồi mới nói: “Thượng Kinh có kẻ phản loạn, chúng ta phải về thôi. Nhổ trại!”

Hành quân đại tướng quân lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng “Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, thanh âm càng lúc càng vang động nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự, tuyệt không có vẻ nhốn nháo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu lập quốc đã hơn hai trăm năm, oai phong lẫy lừng thiên hạ. Lúc này có nội loạn mà không bối rối, đủ biết Liêu chúa thống suất quân đội rất có phương pháp.”

Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, đội quân xích hầu ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong, rồi tiền quân, tả quân, hữu quân từng đội lên đường hồi kinh về hướng nam.

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: “Chúng ta ra xem sao.” Hai người ra khỏi trướng, thấy mỗi lá quân kỳ đều có gắn một chiếc đèn lồng đủ sắc đỏ, vàng, xanh, trắng, lấp lánh trong đêm tối, hơn chục vạn quân xuôi nam mà chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người. Tiêu Phong thán phục nghĩ thầm: “Trị quân nghiêm minh thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng thượng cậy tài đi săn một mình nên ta mới bắt được. Giả tỉ đại quân kéo đến thì người Nữ Chân tuy kiêu dũng nhưng cũng không chống nổi với số đông.”

Hai người vừa ra khỏi trường, bọn vệ sĩ lập tức nhổ trại, chỉ một chốc là gọn gàng sạch sẽ. Hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái ban lệnh, mọi người lập tức khởi hành. Bá quan Bắc viện đại vương, Vu việt, Thái sư, Thái phó vây quanh Gia Luật Hồng Cơ, ai nấy thần sắc nghiêm trọng nhưng cũng không nói gì. Tin tức về vụ nổi loạn trong kinh tuy đã đưa tới nhưng tình hình thế nào, diễn tiến ra sao hiện giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã hành tiến về nam, tối ngày thứ ba vừa hạ trại thì một tên thám tử phóng ngựa đến bẩm với Gia Luật Hồng Cơ: “Nam viện đại vương nổi loạn, chiếm hoàng cung, bắt giữ hết hoàng thái hậu, hoàng hậu, vương tử, công chúa cùng gia quyến của bá quan.” Gia Luật Hồng Cơ nghe thế lập tức biến sắc.

Quân quốc trọng sự nước Liêu đều do hai viện Nam Bắc chia ra phụ trách. Lần này Bắc viện đại vương hộ giá đi săn để Nam viện đại vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ được phong tước Sở vương, bản thân không đáng gì, nhưng phụ thân y là Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên, tước phong Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, mới thực là đáng ngại.

Tổ phụ của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là Thánh Tông. Trưởng nam của Thánh Tông là Tông Chân, thứ nam là Trọng Nguyên. Tông Chân tính tình hiền lành rộng rãi, còn Trọng Nguyên dũng mãnh lại có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà có di mệnh truyền ngôi cho trưởng nam Tông Chân. Thế nhưng hoàng hậu lại thiên vị thứ nam nên lập mưu đưa Trọng Nguyễn lên ngôi. Từ xưa tới nay ở nước Liêu, quyền thế hoàng thái hậu bao giờ cũng rất lớn, thành thử ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem dự định của mẫu hậu báo cho huynh trưởng, dĩ nhiên âm mưu không thành, vì chuyện đó mà Tông Chân cực kỳ cảm kích, lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền ngôi cho ông ta.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, khi ông ta qua đời không hiểu sao lại không truyền ngôi vua cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.

Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên phong cho Trọng Nguyên tước Hoàng thái thúc, để chứng tỏ rằng thúc phụ mình sẽ thừa kế ngôi Liêu chúa, lại phong thêm tước Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, lúc lâm triều miễn lạy miễn xưng tên, ban cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu. Ông ta là người được tôn kính nhất trong triều, con là Niết Lỗ Cổ được phong Sở vương, tước Nam viện đại vương chấp chưởng mọi việc ở Nam viện.

Năm xưa rõ ràng Gia Luật Trọng Nguyên có thể đoạt ngôi vua nhưng nhường cho huynh trưởng, đủ chứng tỏ ông ta là người trong nghĩa khí, lại biết khiêm cung. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu đại sự ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi ngại chút nào. Bây giờ Gia Luật Hồng Cơ nghe kẻ mưu phản là Nam viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, vừa lo lắng vừa kinh hoàng. Ông vốn biết Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự tàn nhẫn, mà nếu y mưu phản thì phụ thân y chắc không đứng ngoài mà nhìn.

Bắc viện đại vương tâu lên: “Bệ hạ đừng vội lo, Hoàng thái thúc ắt có lập trường minh bạch, không dung tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc này đã đem quân dẹp loạn rồi.” Gia Luật Hồng Cơ đáp: “Ta cũng chỉ mong được thế.”

Bữa cơm tối vừa xong, tên thám tử thứ hai lại về bẩm báo: “Nam viện đại vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra chiếu chỉ cáo tri thiên hạ.” Y không dám nói thêm, hai tay cầm chiếu chỉ của tân hoàng đế dâng lên. Hồng Cơ cầm lấy xem qua, đại khái tố cáo đích danh Gia Luật Hồng Cơ là soán đoạt ngôi vua, nói là tiên đế đã lập Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ hai mươi bốn năm trời ai ai cũng biết. Khi tiên đế băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, cướp ngôi vua, nhân dân đều phẫn nộ. Hiện Hoàng thái đệ đã lên ngôi chính thống, đốc suất binh mã thiên hạ đi dẹp tên soán đoạt…

Gia Luật Hồng Cơ phẫn nộ, vứt luôn chiếu thư vào đống lửa, nhưng trong bụng lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu này lời lẽ đanh thép rõ ràng, e rằng có thể làm lòng dạ quân dân Liêu quốc phải hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, trong tay cầm binh phù có thể điều động tám mươi vạn binh mã, chưa kể số quân dưới tay con của lão là Nam viện đại vương. Ở đây ta có chưa đầy mười vạn quân tùy giá, quả bất địch chúng, biết làm thế nào?” Ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ được.

Khi Tiêu Phong nghe Liêu đế định phong quan cho mình, đã toan nhân lúc đêm khuya dắt A Tử không từ biệt mà bỏ đi. Nhưng lúc này chàng thấy nghĩa huynh gặp bước nguy nan bèn không nỡ bỏ rơi, phải ra sức giúp y một phen cho khỏi phụ tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó chàng dạo chơi ngoài doanh trại, nghe binh tướng thì thầm to nhỏ, đều lo lắng cho cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt hết, e rằng tính mạng khó giữ. Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc lây lan rất nhanh, quan binh trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ sụt sùi. Các tướng thống lãnh hò hét ngăn trở, lại chém đầu mấy tên khóc to nhất để làm gương, nhưng cũng không sao dứt hết được.

Gia Luật Hồng Cơ nghe tiếng khóc vang trời, biết rằng lòng quân tan vỡ, lại càng lo lắng. Sáng hôm sau lại có thám tử đến báo Hoàng thái thúc và Sở vương dẫn năm mươi vạn quân tiến lên phía bắc mưu toan phạm giá. Hồng Cơ nghĩ bụng: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn đường lui, có bại thì cũng phải một phen tử chiến.” Ông lập tức triệu tập bá quan để thương nghị. Quần thần đều trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện chết vì chủ, nhưng chỉ lo lòng quân nghiêng ngả.

Hồng Cơ ban lệnh: “Quan binh phải ra sức bình định phản loạn, khi dẹp yên được rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.” Ông mặc giáp vàng, thân hành đốc suất ba quân nghênh chiến với quân của Hoàng thái thúc. Tướng sĩ thấy hoàng thượng tự mình cự địch lập tức dũng khí nổi lên, hô vạn tuế ba lần, quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn binh mã chia thành tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang tiến về phía nam, thêm những tiểu đội thám thính đi rảo hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ để hộ giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng bảo hộ cho A Tử ở hậu quân, Tiêu Phong thấy lông mày Gia Luật Hồng Cơ nhăn tít lại, biết ông chưa quyết định được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Đến giữa trưa thì phía trước có tiếng tù và nổi lên. Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh: “Xuống ngựa!” Kỵ binh đều nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là ngồi trên yên.

Tiêu Phong không hiểu sao kỵ binh phải xuống ngựa, còn đang thắc mắc thì Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: “Hiền đệ ở Trung Nguyên đã lâu, chưa hiểu phương pháp hành quân của người Khất Đan phải không?”

Tiêu Phong đáp: “Thần đang mong bệ hạ chỉ điểm” Hồng Cơ cười đáp: “Ha ha! Hai chữ bệ hạ không biết có còn được tới hoàng hôn hôm nay nữa không? Ta với ngươi dùng nghĩa huynh đệ mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?” Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông đượm vẻ chua cay, bèn nói: “Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải quá lo lắng.” Hồng Cơ nói: “Giao phong trên bình nguyên, quan trọng nhất là mã lực, sau đó mới đến nhân lực.” Tiêu Phong tỉnh ngộ bèn nói: “À, phải rồi! Kỵ binh phải xuống ngựa là để dưỡng sức cho ngựa đỡ mệt.” Hồng Cơ gật đầu nói: “Dưỡng sức cho ngựa để khi lâm trận không sức nào ngăn trở được. Người Khất Đan đánh đông dẹp bắc bách chiến bách thắng phần lớn là nhờ ở bí quyết này.”

Ông nói tới đây, phía trước đã thấy bụi bay mù mịt, bốc cao đến mười trượng, chẳng khác gì một đám mây cuồn cuộn kéo tới. Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói: “Hoàng thái thúc và Sở vương đều chinh chiến lâu năm, là những tướng tài của nước Liêu ta. Sao họ lại xua binh đến ầm ầm, không dưỡng sức cho ngựa nhỉ? Hừ, thì ra bọn chúng khinh mạn, cho rằng thể nào cũng thắng nên không e dè chi nữa.” Ông đang trù trừ đã nghe tả quân và hữu quân cùng nổi hiệu tù và. Tiêu Phong đưa mắt nhìn phía đông thấy hai cánh quân, phía tây cũng có hai cánh quân, địch chia năm ngả đánh vào.

Gia Luật Hồng Cơ biến sắc mặt, ra lệnh cho tướng chỉ huy trung quân: “Kết trận lập trại mau!” Y đáp lời: “Tuân lệnh!” rồi giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu quân cùng quay lại trung tâm, đồng thời một toán quân dùng búa đóng cột của Bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông, chỉ chốc.lát đã ghép thành một bức tường vĩ đại giữa thảo nguyên. Bốn mặt tiền hậu tả hữu đều có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn sau tường thành, dương cung sẵn sàng, chỉ đợi lệnh buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai thắng ai bại thì người cùng dòng giống Khất Đan cũng thây phơi đầy nội. Ca ca đắc thắng là tốt nhất, chẳng may thua trận thì ta cũng cố cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến nơi an toàn, giữ được ngôi hoàng đế hay không cũng chẳng sao.”.

Doanh trại của Liêu đế dựng lên chưa được bao lâu thì đội tiên phong của loạn quân đã tới, nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại ngoài một tầm tên. Nhưng tiếng trống tiếng kèn thì liên miên bất tuyệt, loạn quân tiến đến vây quanh, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra xa, thấy chỗ nào cũng có quân địch không biết đâu là cùng tận, nghĩ thầm: “Lực lượng nghĩa huynh kém xa, xem chừng chắc chắn thất bại. Bây giờ còn sáng không tiện phá vây đào tẩu, cố giữ cho đến tối, ta sẽ tìm cách cứu y”. Thế nhưng bóng của những cây gỗ đóng trại hãy còn ngắn ngủn, nắng chói chang, trời chỉ mới xế trưa một chút.

Đột nhiên trên trời có tiếng quang quạc, một đàn nhạn bay qua. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu lên ngơ ngẩn nhìn, gượng cười nói: “Giả tỉ ta chắp cánh biến thành con nhạn cũng chưa chắc bay ra khỏi nơi đây.”

Bắc viện đại vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau thất sắc, biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân mà khiếp sợ.

Quân địch nổi trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng chỉ huy trung quân hét lớn: “Đánh trống!” Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng khua lên ầm ầm. Bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang trời dậy đất, cầm trường mâu xông thẳng qua.

Khi quân tiền phong của địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng trống của ngự doanh im bặt, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra, quân tiền phong bên địch tới tấp ngã ngựa. Nhưng kẻ trước ngã, người sau lại xông lên, thi thể quân mã đi trước biến thành mộc chắn cho những đội sau. Quân cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân đã xông được tới nơi, bắn tên vào ngự doanh.

Lúc đầu Gia Luật Hồng Cơ quả có khiếp sợ, nhưng khi vào trận lập tức dũng khí nổi lên, đứng trên cao tay cầm trường đao, ra hiệu lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc chiến đều hô lớn: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!” Bên địch nghe tiếng hồ vạn tuế, ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng Cơ mặc áo vàng giáp vàng đứng trên đài cao trong ngự doanh, nhất thời sự uy phong của ông nên chùn lại không dám tiến. Hồng Cơ thấy có cơ hội liền quát lớn: “Kỵ binh tả quân xông ra!”

Tả quân do Bắc viện khu mật sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền xông ra bao vây quân địch. Loạn quân còn đang do dự, quân ngự doanh đã tới nơi, trận thế bên địch lập tức đại loạn. Trống của ngự doanh khua liên hồi như sấm, quân địch chỉ tiếp chiến được một lát phải rút về, quân ngự doanh liền xông lên truy sát, khí thế cực kỳ mãnh liệt.

Tiêu Phong cả mừng la lên: “Đại ca! Trận này phe ta đại thắng rồi.” Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân tiếp viện. Đột nhiên có tiếng tù và nổi lên, quân chủ lực của phản loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh. Trong chớp mắt vũ tiễn trường mâu phòng vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu trời, máu me vương vãi. Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Cảnh ác đấu như thế này bình sinh ta chưa được thấy. Một người có bản lĩnh thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng làm gì được, tự bảo vệ mình là may. Cuộc giao chiến của đại quân không thể so sánh với cuộc tỉ đấu trong võ lâm được.”

Bỗng nghe hiệu thanh la từ phía sau phản quân ra lệnh thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui, tên liền bắn ra như mưa để chặn đường. Trung quân tướng quân và Bắc viện khu mật sứ xung phong ba lần nhưng không đột phá được trận thế của địch, lại còn bị bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh: “Sĩ tốt tử thương nhiều quá, hãy tạm lui quân!” Lập tức ngự doanh cũng nổi hiệu thanh la thu binh.

Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông lên tập kích, nhưng ngự quân đã phòng bị trước, giả vờ thua chạy, rồi hai cánh quân đánh ập vào vây được ba nghìn phản quân vào giữa, có mấy trăm tên xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm hàng quân. Trận ác đấu chưa tới một giờ mà cảnh chém giết đã cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống ở giữa đầy rẫy xác người, những kẻ bị thương rên rỉ kêu la thật là thê thảm. Mỗi bên lại có một đội quân áo đen khoảng ba trăm người xông ra, quân ngự doanh đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng. Tiêu Phong tưởng bọn này ra tìm người bị thương để cứu chữa, không ngờ hai đội áo đen rút đao ra giết sạch thương binh của đối phương. Khi những người bị thương chết hết rồi, sáu trăm người đó hú lên một tiếng, quay sang đấu với nhau.

Sáu trăm quân áo đen đều có võ công không tệ. Hai bên ra sức ác đấu, đao quang lấp loáng, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém lăn ra. Bọn áo đen ngự doanh đội mũ vàng có võ công cao hơn, chỉ bị giết chừng vài chục người. Cục diện biến thành hai ba người đánh một, thắng bại đã rõ ràng, thêm một lúc nữa, đã trở thành ba bốn người đánh một. Thế nhưng binh tướng hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản loạn không hề cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân còn sống khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là người Liêu có thể lệ đánh nhau như thế.” Cuộc ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn nhưng cực kỳ kinh tâm động phách.

Hồng Cơ giơ cao trường đao, lớn tiếng nói: “Nghịch quân tuy nhiều nhưng tướng sĩ không có lòng chiến đấu. Ta đánh thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy thôi.” Ngự quân nhất tề hoan hô: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”

Bỗng bên phản quân có hiệu tù và, năm người cưỡi ngựa chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay cầm một tấm da cừu, dõng dạc đọc chiếu thư của Hoàng thái thúc: “Gia Luật Hồng Cơ soán vị, chỉ là ngụy quân. Hiện nay Hoàng thái thúc đã lên ngôi chính thống. Quan binh trung thành của nước Liêu thì nội hôm nay phải về qui thuận, mỗi người được thăng ba cấp.” Mười mấy tay cung nỏ bên ngự quân liền bắn tên ra veo véo nhằm vào gã đọc chiếu thư. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên che đỡ, gã kia vẫn tiếp tục đọc. Năm con ngựa cũng bị bắn ngã, nhưng năm gã vẫn nấp sau thuẫn bài đọc cho hết chiếu thư của Hoàng thái thúc, rồi mới quay về bản trận.

Bắc viện đại vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ động tâm, liền quát lớn: “Ra mắng lại đi!” . Ba chục tên lính liền bước ra khoảng chục trượng, hai chục tên cầm thuẫn bài che đỡ cho mười tên mạ thủ mồm to giọng lớn. Tên thứ nhất bắt đầu thóa mạ: “Những tên phản quốc gian tặc kia! Chúng bay chết không có đất mà chôn đến nơi rồi!” Tên thứ hai lại chửi tiếp, càng về sau càng thô tục. Tiêu Phong biết tiếng Khất Đan chẳng bao nhiêu, ngôn từ của mấy tay mạ thủ này có nhiều chỗ ông không hiểu, nhưng thấy Gia Luật Hồng Cơ gật đầu lia lịa ra chiều đắc ý thì chắc rằng chúng đã chửi bới một cách hay ho.

Tiêu Phong nhìn qua trận thế bên địch, thấy xa xa có chỗ lọng vàng cờ tiết rực rỡ, hai người cưỡi ngựa cầm roi chỉ trỏ. Một người thân khoác hoàng bào, đầu đội mũ bình thiên, chòm râu dài đã hoa râm. Người kia mặc giáp vàng lấp lánh, gương mặt gầy nhom nhưng dáng vẻ tinh anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra thì đây là cha con Hoàng thái thúc và Sở vương.”

Mười tên mạ thủ bỗng thì thầm thương nghị một hồi, rồi lại ngoạc mồm gân cổ bới móc những chuyện xấu xa của đối phương. Nhưng dường như Hoàng thái thúc là người chính trực không chửi mắng vào đâu được, nên cả mười tên chỉ xỉa xói toàn chuyện Sở vương, nào là gian dâm phi tử của phụ thân, nào là cậy thế cha làm điều càn rỡ. Hiển nhiên là những lời đó là để ly gián cha con. Cả mười tên đồng thanh chửi bới vừa to vừa nhịp nhàng, thanh âm vọng ra xa đến mấy dặm, mấy chục vạn quân địch có đến quá nửa nghe được rõ ràng.

Sở vương vẫy roi ngựa một cái, phản quân cũng là lối om sòm, lập tức át hết giọng mười tên mạ thủ kia. Hai bên chửi nhau loạn xạ một lúc nữa, trận thế địch quân bỗng rẽ ra, mấy chục chiếc xe được đẩy đến phía trước quân ngự doanh. Bọn lính đẩy xe lôi từ trong xe ra mấy chục phụ nữ, từ bà lão tóc bạc phơi đến thiếu nữ đang xuân, ai cũng ăn mặc cực kỳ sang trọng. Bọn phụ nữ vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức im bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu thét lên: “Mẫu thân ơi! Mẫu thân! Hài nhi phải bắt bọn phản nghịch, phân thây muôn đoạn để mẫu thân vui lòng hả dạ.”

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẫu thân của Gia Luật Hồng Cơ, ngoài ra còn Tiêu hoàng hậu và các phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở vương nhân dịp Hồng Cơ ra ngoài đi săn, nổi loạn vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu cùng hết thảy gia quyến nhà vua.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói: “Bệ hạ đừng nghĩ gì đến thân già này cùng thê tử, phải ra sức dẹp loạn giết giặc.” Mấy chục tên lính liền rút trường đao kề vào cổ đám hậu phi, mấy cô còn trẻ kinh hãi khóc òa lên.

Gia Luật Hồng Cơ cả giận quát to: “Bắn chết bọn đang khóc cho ta!” Hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra vèo vèo, mấy phi tần đang khóc bị trúng tên lăn ra chết hết.

Hoàng hậu reo lên: “Bệ hạ bắn là phải lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể để rơi vào tay bọn gian thần tặc tử!”.

Sở vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều quật cường như thế, chẳng những không uy hiếp được Hồng Cơ mà còn làm dao động quân tâm bên mình, bèn ra lệnh: “Bỏ bọn đàn bà lên xe, đẩy lui lại.” Bọn quân sĩ liền lùa bọn Hoàng thái hậu, Hoàng hậu lên xe đẩy ra sau trận tuyến. Sở vương lại hạ lệnh: “Đem gia quyến quân địch ra”.

Chợt nghe tiếng sáo trúc nổi lên thật thê lương, quân mã lại rẽ sang hai bên, rồi tiếng xích sắt khua loảng xoảng, một đoàn dài già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát, hai bên đều nổi lên tiếng khóc vang trời. Thì ra đây là gia quyến của quân ngự doanh. Tướng sĩ trong ngự doanh đều là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ đặc biệt ưu đãi nên cho gia quyến của họ được vào ở Thượng Kinh, một là để họ đem lòng cảm kích, khi có việc sẽ ra sức liều thân, hai là để đề phòng khiến đội quân tinh nhuệ này không dám hài lòng. Ngờ đâu lần đi săn này, mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia quyến của quân ngự doanh phải đến hơn hai chục vạn người, số bị giải đến trận tiền bất quá ba vạn, trong đó còn có vô khối người bị bắt nhầm nhưng chưa phân biệt được, thành thử tình hình lại càng rối loạn.

Sở Vương sai một tên tướng giục ngựa chạy ra, lớn tiếng nói: “Quan binh ngự doanh nghe đây! Gia quyến các ngươi đã bị bắt hết rồi, ai đầu hàng thì được sum họp gia đình, thăng quan ba cấp lại còn trọng thưởng. Còn tên nào không đầu hàng thì tân hoàng đế đã có lệnh đem gia quyến ra chém hết.” Người Khất Đan vốn tàn nhẫn hiếu sát, hai chữ “chém hết” không phải là hăm dọa suông. Trong đám quân ngự doanh có người nhận ra thân thuộc mình bèn cất tiếng kêu, thế là “Gia gia! Má má! Hài tử! Phu quân! Hiền thê!” hai bên gọi nhau ơi ới.

Trong trận của nghịch quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ bước ra, tay cầm đại đao sáng loáng. Tiếng trống vừa ngừng lại, hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia quyến của ngự quân doanh. Viên tướng vừa rồi lại quát lên: “Ai về đầu hàng tân hoàng đế sẽ có trọng thưởng. Ai không hàng thì gia quyến bị giết sạch.” Y giơ tay lên, tiếng trống lại bắt đầu nổi lên.

Tướng sĩ bên ngự doanh biết rằng một khi y phất tay, hồi trống sẽ dứt, hai nghìn thanh đại đao kia sẽ chém xuống. Đám thân binh này vẫn một lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở vương có đem thăng quan cùng trọng thưởng ra dụ dỗ cũng không ăn nhằm gì, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con vươn cổ chờ chém, sao lại không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn thúc liên hồi, quả tim trong lồng ngực đám quân ngự doanh cũng đập theo nghe thình thình. Đột nhiên trong ngự doanh có một người chạy ra kêu lớn: “Má má ơi! Má má! Đừng giết má má của  ta!” Y quăng trường mâu xuống, hộc tốc chạy về phía một bà lão trong đám địch quân.

Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh bắn ra, trúng ngay giữa lưng người nọ. Hắn chưa chết ngay, vẫn tiếp tục lao về phía mẫu thân. Thế là tiếng gọi nhau ơi ới bắt đầu ồn ào vang dậy, mấy trăm người trong ngự doanh chạy ùa ra. Những tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém lia lịa mà cũng không ngăn nổi. Thoạt tiên có mấy trăm người chạy qua, chẳng mấy chốc đã là mấy nghìn người. Sau đó trận thế liền hỗn loạn, trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua đã có đến sáu bảy vạn chạy qua bên địch.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, biết rằng đại cuộc đã hỏng. Ông nhân cơ hội bọn thân quân đang tìm kiếm gia quyến, tình hình náo loạn làm đối phương không truy kích được, lập tức ra lệnh: “Nhổ trại, rút lui về dãy núi phía tây bắc.” Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra cho hơn tám vạn quân chưa đầu hàng. Hậu quân đổi thành tiền quân, cả đoàn rút lui về hướng tây bắc.

Sở vương lập tức sai kỵ binh đuổi theo, nhưng trên chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu làm nghẽn cả lối đi, ngựa chạy không nhanh được. Đến khi dẹp được đường thì Gia Luật Hồng Cơ cùng quân ngự doanh đã chạy xa rồi.

Tám vạn thân quân chạy đến chân núi thì trời đã hoàng hôn, quân sĩ vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, làm thế phòng ngự từ trên cao đánh xuống. Doanh trại vừa dựng xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến dưới chân núi, lập tức xung phong lên. Quân ngự doanh bắn tên lăn đá như mưa, đẩy lùi quân phản loạn. Sở vương thấy từ dưới tấn công lên không có lợi, đành tạm thu binh, dựng trại ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng trên sườn núi nhìn về phía nam thấy doanh trại nghịch quân đèn đuốc như sao sa, xa xa lại có ba con rồng lửa ngoằn ngoèo, chính là ba đạo nghịch quân kéo đến tiếp viện. Ông buồn bã trong lòng, đang định vào trướng thì Bắc viện khu mật sứ lại đến bẩm: “Một vạn năm nghìn quân mã dưới trướng hạ thần đã chạy xuống núi đầu hàng quân phản nghịch. Hạ thần trị quân không nghiêm, tội đáng muôn thác.” Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói: “Không phải lỗi của ngươi, thôi vào nghỉ đi.”

Ông quay đầu lại, thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa xa, liền bảo: “Đến sáng mai, phản quân sẽ đem toàn lực tấn công, chúng ta sẽ bị bắt hết. Ta là vua một nước, không thể chịu nhục với bọn phản đồ, đành tự vẫn báo đền xã tắc. Hiền đệ nên nhân lúc trời tối trốn đi. Ngươi võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.” Đến đây vẻ mặt nhà vua đầy vẻ thê lương, nói tiếp: “Ta đang định phong cho hiền đệ một chức quan to để chung hưởng phú quí, có ngờ đâu tính mạng người anh này cũng chẳng giữ được, lại làm lụy đến cả ngươi.”

Tiêu Phong đáp: “Đại ca! Đại trượng phu phải lúc co lúc duỗi. Hôm nay tình hình không lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca trốn khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi lại tính sau.” Hồng Cơ lắc đầu: “Ta không giữ nổi tính mạng cho lão mẫu cùng thê tử, sao còn được gọi là đại trượng phu? Đối với người Khất Đan, kẻ thắng là anh hùng, kẻ thua là phản nghịch. Ta thua một trận tan tành, còn mong gì trung hưng cơ nghiệp? Hiền đệ tự trốn đi thôi!”

Tiêu Phong biết ông nói thực tình, liền khẳng khái đáp: “Đã thế thì ngày mai tiểu đệ cùng với ca ca quyết một trận tử chiến với quân phản nghịch. Chúng ta đã kết nghĩa kim lan thì ca ca là hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, cũng là nghĩa huynh của Tiêu mỗ. Huynh trưởng gặp nạn thì kẻ làm em phải đồng sinh công tử, lẽ nào lại bỏ chạy một mình?”

Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay chàng, nói: “Hảo hiền đệ, ta xin đa tạ.” Tiêu Phong quay vào trong trướng thấy A Tử nằm co ở một góc, đôi mắt to mở tròn, thì ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi: “Tỉ phu có giận muội không?” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Sao ta lại giận cô?” A Tử đáp: “Cũng tại muội chẳng ra gì. Giả tỉ muội không đòi ra đại thảo nguyên du ngoạn thì tỉ phu đâu có bị khốn ở đây. Tỉ phu! Chúng mình đành chịu chết tại chốn này rồi phải không?”

Ánh lửa từ bên ngoài hắt vào lều, chiếu lên khuôn mặt xanh xao trông có vẻ ngây thơ non nớt của nàng một chút ánh hồng. Tiêu Phong trong lòng cực kỳ thương xót, dịu dàng đáp: “Ta giận cô thế nào được? Nếu ta không đả thương cô thì chúng mình đã không đến chốn này.” A Tử mỉm cười nói: “Nhưng nếu muội không phóng độc châm thì việc gì tỉ phu lại đả thương muội?”

Tiêu Phong đưa bàn tay to bè vuốt tóc nàng. Từ lúc A Tử bị trọng thương, tóc rụng mất quá nửa, chỗ còn lại vừa vàng vừa thưa thớt, Tiêu Phong thở dài, nói: “Cô còn bé bỏng thế này mà đã chịu khổ sở vì ta.” A Tử nói: “Tỉ phu ơi! Trước kia muội không hiểu vì sao tỉ tỉ lại thích tỉ phu, bây giờ thì hiểu rồi.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Tỉ tỉ của ngươi đối với ta tình nghĩa thâm trọng, ngươi còn con nít đã biết gì. Thực ra, vì sao A Châu lại yêu một kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng chẳng hiểu thì ngươi làm sao mà hiểu được?” Chàng nghĩ tới đây, buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng đầu nhìn chàng rồi hỏi: “Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó muội lại bắn độc châm chưa? Muội chẳng muốn bắn chết tỉ phu, mà chỉ muốn tỉ phu không cử động được, để muội được kề cận bên mình.” Tiêu Phong thấy kỳ lạ, hỏi lại: “Như thế để làm gì?”

A Tử mỉm cười đáp: “Tỉ phu không cử động được thì vĩnh viễn không thể xa muội. Nếu không thì tỉ phu có coi muội ra gì đâu, lúc nào cũng có thể bỏ đi, không thèm nhìn đến muội nữa.”

Tiêu Phong nghe nàng nói đầy vẻ trẻ con, nhưng hoàn toàn không phải hồ đồ. Chàng chột dạ nghĩ thầm: “Đằng nào sáng mai cũng phải chết, thôi thì an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”, bèn nói: “Cô đúng là con nít. Nếu cô muốn đi theo ta thì sao không nói thẳng ra, xem ta có bằng lòng không?”

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng ngời, lộ vẻ vui mừng nói: “Tỉ phu ơi! Sau khi khỏi bệnh rồi, muội muốn đi theo tỉ phu, vĩnh viễn không quay lại chỗ sư phụ ở phái Tinh Tú nữa. Tỉ phu đừng bỏ muội nhé!”

Tiêu Phong biết cô nàng đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, đúng là chẳng dám quay về. Chàng cười nói: “Cô là đại sư tỉ thừa kế môn phái, nếu không quay về thì họ như rắn mất đầu, làm sao cho tiện?” A Tử cười khanh khách đáp: “Muội cứ mặc kệ, để bọn chúng rối loạn bát nháo lên càng hay.”

Tiêu Phong kéo chăn đắp đến cổ cho nàng, rồi tới một góc lều trải chăn da thú nằm ngủ. Lửa bên ngoài chập chờn mờ tỏ, có tiếng khóc văng vẳng, ắt hẳn là quân ngự doanh nhớ đến người thân. Những người ở lại cũng biết sáng mai tính mạng khó toàn, có điều trung thành với hoàng thượng nên không phản bội.

Sáng sớm hôm sau Tiêu Phong tỉnh dậy, dặn Thất Lý chuẩn bị ngựa tốt, lo cho A Tử. Chàng vận y phục gọn ghẽ, ăn một cân thịt cừu, uống ba cân rượu, rồi đi ra sườn núi. Khi đó trời còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh nổi tù và ù ù, giáp trụ võ khí chạm nhau loảng xoảng không dứt. Từng đội binh mã kéo trong doanh trại ra, phòng thủ những nơi xung yếu. Tiêu Phong đứng trên cao nhìn xuống thấy ba phía đông, nam và đông nam, chỗ nào cũng đầu người lố nhố, toàn là phản quân. Xa xa còn sương mù bao phủ, thành thử trận thế loạn quân không biết tới đâu mới hết.

Vầng thái dương từ chân trời nhô lên, tỏa ra muôn ngàn tia nắng, màn sương tan dần, thì ra dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã phản nghịch. Tiếng trống vang dội khắp nơi. Hai đội quân địch cầm cờ vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc cùng Sở vương cưỡi ngựa đến dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên bàn tán.

Gia Luật Hồng Cơ đang cùng đám thị vệ đứng trên sườn núi, thấy vậy lửa giận bốc lên, cầm lấy cung tên trong tay một tên quân hầu, giường thẳng nhắm vào Sở vương bắn ra một mũi. Từ trên cao nhìn xuống tưởng chừng như khoảng cách không xa, thực ra phải đến mấy tầm tên, mũi tên bay chưa được nửa đường đã rơi xuống đất.

Sở vương cười ha hả lớn tiếng nói: “Hồng Cơ! Ngươi cướp ngôi vua của phụ thân ta, làm ngụy quân đã lâu rồi, bây giờ phải nhường lại thôi. Ngươi mau mau đầu hàng, phụ thân ta sẽ tha cho khỏi chết, lại còn khai ân phong cho ngươi làm Hoàng thái điệt! Ha ha!” Hiển nhiên là y mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa.

Hồng Cơ cả giận mắng lại: “Đồ phản tặc vô liêm sỉ! Ngươi còn mở miệng nói càn nữa ư?”

Bắc viện khu mật sứ kêu lên: “Chúa bị nhục thì bẩy tôi phải chết. Chúa thượng đối với hạ thần ơn nặng như non, hôm nay chính là lúc hạ thần đáp nghĩa.” Y liền dẫn ba nghìn thân binh, gầm thét vang trời từ trên cao xông xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ Khất Đan, phen này đã chấp nhận cái chết, thành thử có thể một đánh mười. Chỉ nghe tiếng thét vang động cả một góc trời, máu chảy thịt rơi, ba nghìn quân mỗi lúc một ít dần, sau cùng chết hết. Bắc viện khu mật sứ cố giết thêm mấy tên, rồi đâm cổ tự vẫn. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao nhìn xuống rất rõ nhưng không làm sao cứu được, nghĩ đến lòng trung nghĩa của Bắc viện khu mật sứ, ai nấy đều sa nước mắt.

Sở vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói: “Hồng Cơ! Ngươi đã chịu hàng chưa? Ngươi chỉ còn một nhóm quân mã thì làm gì được? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại Liêu, sao ngươi nỡ bắt họ chết uổng theo? Là nam nhi đại trượng phu thì phải quyết đoán mau lẹ, hàng thì hàng cho chóng, đánh thì đánh ngay. Còn nếu ngươi biết khí số đã hết thì nên tự sát để tạ tội với thiên hạ, khỏi làm uổng mạng sĩ tốt.”

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hai mắt đẫm lệ, rút đao ra nói: “Thôi thì ta nhường giang sơn gấm vóc này cho cha con nhà ngươi. Ngươi nói không sai, chúng ta là người một nhà, cốt nhục tương tàn, chẳng lý nào làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.” Nói xong, ông vung đao lên toàn đâm vào cổ mình.

Tiêu Phong vươn tay đoạt ngay thanh đao, nói: “Đại ca! Anh hùng hảo hán có chết cũng chết ở chiến trường, sao lại tự vẫn?” Hồng Cơ thở dài: “Hiền đệ ơi! Tướng sĩ ở đây đều theo ta đã lâu, ta đành chết còn hơn là để họ bỏ mạng vì ta.”

Sở vương lại lớn tiếng giục: “Hồng Cơ! Ngươi chờ đến bao giờ mới tự vẫn?” Tay gã cầm roi chỉ thẳng vào mặt nhà vua, ra chiều phách lối vô cùng. Tiêu Phong thấy y mỗi lúc một đến gần, trong lòng chợt động, khẽ nói: “Đại ca cứ nói chuyện kéo dài thời gian, để tiểu đệ lẻn tới gần bắn y một mũi.”

Hồng Cơ biết ông bản lãnh cao cường, mừng rỡ nói: “Thế thì tuyệt diệu! Nếu bắn chết được y thì ta có chết cũng nhắm mắt.” Ông liền cất cao giọng nói: “Sở vương! Ta đãi cha con nhà ngươi không bạc, giả tỉ phụ thân người muốn làm hoàng đế thì cứ nói ra, việc gì phải làm chết bao nhiêu tướng sĩ cùng bá tính, làm tổn thương nguyên khí nước Đại Liêu?”.

Tiêu Phong lấy một cây cung cứng, giắt mười mũi tên răng chó sói, dẫn một con tuấn mã lẻn qua một bên sườn núi, rùn người nấp dưới bụng ngựa, hai chân quặp ngược lên yên, lấy gót chân thúc một cái, con ngựa liền chạy thẳng xuống. Bọn phản quân dưới núi thấy một con ngựa không có người cưỡi, tưởng là sút dây cương chạy lạc, chuyện đó vẫn thường xảy ra nên chẳng ai để ý làm gì. Nhưng một lúc sau, quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có người, lập tức hô hoán ầm ĩ.

Tiêu Phong dùng chân thúc ngựa xông thẳng vào Sở vương. Lúc ông thấy chỉ còn cách hai trăm bước, vẫn nép dưới bụng ngựa giương cung lên, bắn y một mũi nghe vù một tiếng. Tên vệ sĩ đứng cạnh Sở vương liền đưa mộc lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong vẫn giục ngựa chạy tới, bắn phát thứ hai giết ngay tên vệ sĩ kia, phát tên thứ ba lại nhắm vào ngực Sở vương.

Sở vương mắt tinh tay lẹ, vung roi ngựa ra gạt trúng mũi tên. Thuật dùng roi gạt tên vốn là tuyệt kỹ của y, nhưng không ngờ người bắn tên sức mạnh phi thường, nội kình dồn vào mũi tên. Cây roi ngựa gạt trúng nhưng chỉ làm cho mũi tên bay lệch đi một chút, cắm vào vai y nghe sột một tiếng. Sở vương kêu lên “Chao ôi!”, đau quá gục xuống yên ngựa.

Mũi vũ tiễn thứ tư của Tiêu Phong lại đến, lần này khoảng cách gần quá, trúng vào hông xuyên thẳng qua ngực. Sở vương chỉ giãy được một cái, lăn từ lưng ngựa xuống đất. Tiêu Phong vừa ra tay đã đắc thủ, nghĩ thầm: “Ta phải thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc.”

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, địch quân kêu la ầm ĩ, mấy trăm mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong bắn tới. Chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng đầy tên, biến thành một con nhím to.

Tiêu Phong lăn dưới đất mấy vòng, nấp dưới bụng một con ngựa địch quân, thi triển chút tiểu xảo công phu, cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác. Địch quân không sao bắn tên được, bèn dùng trường mâu mà đâm tới tấp. Tiêu Phong luồn trái lách phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân địch nhốn nháo cả lên, mấy nghìn quân xô đẩy chen chúc, tưởng chừng giẫm cả lên nhau, nhưng không sao đâm trúng chàng được.

Tiêu Phong đang sử dụng địa đường công phu thật tầm thường của võ lâm Trung Nguyên. Những thứ địa đường quyền, địa đường đao, địa đường kiếm, cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ bàn bên địch. Bây giờ chàng áp dụng trong chiến trận, mắt nhanh tay lẹ, chỉ cố tránh không bị ngựa xéo lên. Chàng lăn về hướng Hoàng thái thúc đang đứng, nhắm thẳng vào y bắn vun vút ba mũi tên.

Bọn vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã thấy Sở vương bị trúng tên, dĩ nhiên đề phòng cẩn mật. Hơn ba chục tên cùng giơ mộc che Hoàng thái thúc kín mít. Ba tiếng keng keng, ba mũi tên đều đụng phải thuẫn bài rơi xuống đất. Tiêu Phong mang theo mười mũi tên đã bắn hết bảy, chỉ còn lại ba. Chàng thấy ba chục tên quân dựng thuẫn che đỡ, muốn dùng ba mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ cũng đã khó, thật sự không thể bắn được Hoàng thái thúc. Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận địch, phía sau mấy nghìn quân kỵ cầm mâu đuổi tới, phía trước là thiên quân vạn mã, đúng là bị hãm vào nơi tuyệt địa. Hôm nọ chàng đơn thân chống lại quần hùng Trung Nguyên, đối phương chỉ vài trăm người cũng đã nguy hiểm lắm rồi, nhờ người đến cứu mới thoát chết. Hôm nay bị mấy vạn người vây khốn, làm sao mà thoát được?

Trong lúc cùng đường, chàng hú lên thật to, tung mình nhảy vọt lên, qua hết ba chục tên cầm thuẫn, đáp xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Lão hoảng hốt, vung roi ngựa lên đánh luôn vào mặt chàng.Tiêu Phong lạng người qua tránh, nhảy phốc lên yên ngựa Hoàng thái thúc, vung tay chộp trúng lưng lão. Chàng giơ cao người lão lên, quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn sống thì mau mau bảo mọi người hạ binh khí xuống.” Hoàng thái thúc sợ đến hồn vía lên mây, chàng nói gì hình như lão cũng không nghe thấy.

Lúc đó loạn quân la hét inh ỏi nghe điếc cả tai, hàng ngàn hàng vạn người đều lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu Phong, nhưng Hoàng thái thúc bị chàng nắm giữ trong tay nên chẳng tên nào dám bắn.

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn: “Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân bỏ binh khí xuống để nghe tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, đại xá tam quân, không truy cứu ai.” Mấy câu đó trung khí đầy dẫy, át hết tiếng người ồn ào, xa đến mấy dặm còn nghe thấy. Mấy chục vạn quân trước núi sau núi, đến quá nửa nghe được rõ ràng.

Tiêu Phong đã rút kinh nghiệm vụ nổi loạn của Cái Bang, hiểu rõ tâm tư loạn quân. Đang phản nghịch mà thất bại, người nào cũng chỉ cầu được miễn tội, nếu được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu tự nhiên mất hết. Hiện giờ phản quân thế mạnh, mà Gia Luật Hồng Cơ chỉ còn bảy tám vạn quân, nhân số quá chênh lệch không thể chống nổi. Trong lúc khẩn cấp, ông không kịp xin ý kiến Hồng Cơ, phải tuyên bố mấy câu cho quân phản loạn yên tâm.

Mấy câu nói dõng dạc của Tiêu Phong vừa truyền ra, tiếng huyên náo của quân phản loạn liền lắng xuống, chúng ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng hoang mang không có chủ đích gì cả.

Tiêu Phong hiểu rằng tình thế lúc này cực kỳ nguy hiểm, chỉ cần một người trong quân địch hô hào bất phục, mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ gây đại biến. Chàng không dám chần chừ một giây phút nào nữa, lại lớn tiếng hô: “Hoàng thượng có chỉ dụ, tướng sĩ nghịch quân bất luận lớn nhỏ, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết không truy cứu. Quan quân đều được giữ nguyên chức tước, tất cả mau bỏ khí giới xuống!”

Không gian đang lặng như tờ, đột nhiên có tiếng loảng xoảng, mấy tên lính liệng bỏ trường mâu. Tiếng loảng xoảng này lây lan rất mau, chỉ trong giây lát có đến một nửa nghịch quân vứt binh khí, nửa còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong dùng tay trái giơ Hoàng thái thúc lên cao, giục ngựa chạy lên núi, phản quân không dám ngăn trở, ngựa chàng đi đến đâu là phía trước lại tránh ra nhường lối.

Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng núi, hai toán quân ngự doanh liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi chiêng trống vang lừng.

Tiêu Phong nói: “Hoàng thái thúc! Mau mau ra lệnh cho thuộc hạ bỏ khí giới đầu hàng, sẽ được tha mạng.” Hoàng thái thúc run run hỏi lại: “Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?”

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy còn nhiều phản quân vẫn nắm cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa qua. Chàng nghĩ thầm: “Bây giờ việc trấn tĩnh quân tâm là quan trọng nhất. Một mạng Hoàng thái thúc sống hay chết chẳng đáng gì, chỉ cần giám thị kỹ càng là y không thể làm bậy được nữa.” Chàng liền nói: “Đây là cơ hội để lập công chuộc tội. Bệ hạ đã biết việc này đều do Sở vương gây ra, nhất định sẽ tha chết cho Hoàng thái thúc.”

Hoàng thái thúc vốn không nghĩ đến việc tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con lão là Sở vương có dã tâm mà gây họa. Lúc này lão đã bị bắt, chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp: “Được! Ta theo lời ngươi.”

Tiêu Phong đặt ông ta ngồi trên yên ngựa rồi dõng dạc nói: “Tam quân nghe đây! Hoàng thái thúc có chỉ thị!”

Hoàng thái thúc lớn tiếng hô: “Người gây nên bạo loạn là Sở vương đã chết rồi. Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha tội cho mọi người. Các ngươi mau mau hạ khí giới rồi đến trước Hoàng thượng mà xin tha thứ.”

Hoàng thái thúc đã nói như thế, loạn quân biến thành rắn mất đầu. Tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không dám chống lại, lập tức nghe tiếng loảng xoảng liên hồi, toàn bộ loạn quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu đất trống trên núi. Gia Luật Hồng Cơ mừng không nói hết, chẳng khác gì đang nằm mơ, tiến đến bên Tiêu Phong nắm hai tay chàng mà nói: “Hiền đệ ơi! Hiền đệ ơi! Giang sơn này của ca ca, từ nay anh em ta chung hưởng.” Ông nói đến đây cảm động quá, bất giác nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì dưới đất nói: “Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin rủ lòng thương xót.” Gia Luật Hồng Cơ hoan hỉ vô cùng, quay sang hỏi Tiêu Phong: “Hiền đệ nghĩ sao?” Tiêu Phong đáp: “Phản quân người nhiều thế mạnh, bây giờ cần nhất là an định quân tâm. Xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để mọi người được yên lòng.”

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao, ta làm vậy.” Ông quay lại bảo Bắc viện đại vương: “Ngươi truyền thành chỉ, phong Tiêu Phong tước Sở vương, giữ chức Nam Viện đại vương, thống lĩnh nghịch quân trở về Thượng Kinh.”

Tiêu Phong nghe nói giật mình. Chàng giết Sở vương, bắt Hoàng thái thúc chỉ vì muốn cứu mạng nghĩa huynh, không hề có lòng ham muốn tước lộc. Bỗng nhiên được Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế, chân tay luống cuống, sững sờ không biết nói sao. Bắc viện đại vương quay sang Tiêu Phong, chắp tay nói: “Cung hỉ! Cung hỉ! Tước Sở vương xưa nay chưa phong cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng đi.” Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ: “Hôm nay chỉ nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân qui thuận về bệ hạ mà bình định được nội loạn. Tiểu đệ chỉ góp chút sức nhỏ mọn, có chi đáng gọi là công lao? Hơn nữa, tiểu đệ không biết làm quan, cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thánh mệnh.”

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, đưa tay nắm lấy vai Tiêu Phong mà nói: “Ở nước Liêu ta, tước Sở vương, hàm Nam viện đại vương là cao quý nhất rồi. Giả tỉ hiền đệ còn chê nhỏ không chịu nhận thì ca ca phải nhường cả ngôi vua cho hiền đệ, không còn cách nào khác.”

Tiêu Phong giật mình nghĩ thầm: “Ca ca vui sướng quá, nói năng chẳng giữ gìn nữa. Tình hình lúc này cần quyết đoán mau lẹ, nếu ta chần chờ có khi sinh họa”. Chàng đành quì xuống nói: “Thần là Tiêu Phong tiếp chỉ, đa tạ vạn tuế gia khai ân.” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười đưa tay đỡ chàng dậy. Tiêu Phong lại nói: “Hạ thần không dám nghịch chỉ nên phải lãnh quan tước. Có điều thần là kẻ thảo dã thô hào, không hiểu pháp độ triều đình. Nếu sau này có phạm lỗi, mong được bệ hạ khoan hồng.”

Gia Luật Hồng Cơ vỗ vỗ lên vai chàng, cười nói: “Không sao cả đâu.” Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca: “Gia Luật Mạc Ca! Ta phong ngươi làm Nam viện khu mật sứ, phò tá Tiêu đại vương phụ trách quân quốc trọng sự.” Gia Luật Mạc Ca cả mừng, vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó khom lưng tham bái Tiêu Phong, nói: “Thuộc hạ tham kiến đại vương.” Hồng Cơ nói: “Mạc Ca! Ngươi xin lệnh Tiêu đại vương, thống lĩnh nghịch quân quay về Thượng Kinh. Chúng ta đến vấn an Hoàng thái hậu.”

Trên núi chiêng trống nổi tưng bừng, Gia Luật Hồng Cơ cùng bá quan đi xuống. Các loạn tướng đã đưa Hoàng thái hậu, Hoàng hậu các người ra khỏi tù xa, cung kính mời vào doanh trại. Gia Luật Hồng Cơ tiến vào trong trướng, mẹ con vợ chồng gặp nhau quả là cải tử hoàn sinh, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về. Ai nấy tấm tắc tán dương công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại dẫn Tiêu Phong đi gặp các bộ thuộc trong Nam viện. Lúc nãy Tiêu Phong xông pha trong chốn thiên quân vạn mã, thần dũng tuyệt luân, ai nấy đã thấy cả rồi. Quan quân Nam viện đều là thuộc hạ cũ của Sở vương nhưng một là Tiêu Phong thần oai lẫm liệt, mọi người đem lòng kính ngưỡng không dám không phục; hai là Sở vương tính tình nóng nảy chẳng được ai ưa; ba là bọn chúng vừa làm loạn phạm thượng, trong bụng nơm nớp lo âu; thành thử Tiêu Phong vừa đến là ai ai cũng nghe lệnh răm rắp.

Tiêu Phong nói: “Hoàng thượng đã miễn tội theo phản thần làm loạn cho các ngươi. Từ nay tất cả phải biết hối cải, đừng ăn ở hai lòng.” Một viên tưởng râu tóc bạc phơ tiến lên bẩm: “Bẩm đại vương! Hoàng thái thúc và Thế tử bắt giữ gia quyến chúng tôi, bức bách chúng tôi phải theo. Nếu như chống lại, Thế tử sẽ chém hết cả nhà, thành thử chúng tôi bất đắc dĩ mà phạm tội lỗi. Xin đại vương tâu cho thánh thượng rõ.”

Tiêu Phong gật đầu: “Nếu đã thế, từ nay những chuyện đã qua không nhắc đến nữa.” Chàng quay lại bảo Gia Luật Mạc Ca: “Cho tam quân nghỉ ngơi ăn uống xong, lập tức nhổ trại hồi kinh.”

Sau đó các quan chức lớn nhỏ trong Nam viện tiến lên tham kiến. Tiêu Phong chưa làm quan bao giờ nhưng đã là bang chủ Cái Bang nhiều năm, lãnh đạo quần hào một cách uy nghiêm. Việc chỉ huy quân Khất Đan với thống lĩnh hào kiệt Cái Bang không khác nhau nhiều, Tiêu Phong chỉ cần để ý một ít lề luật riêng của nước Liêu. Ngoài ra mọi sự đều do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào đấy.

Tiêu Phong thống lĩnh đại quân xuất phát chưa được bao lâu thì Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đã phái sứ giả tới trung quân ban tặng áo mũ vàng bạc. Tiêu Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử tới nơi. Cô nàng mặc áo gấm, cưỡi tuấn mã, nói là đều do Hoàng thái hậu ban cho, Tiêu Phong thấy thân hình loắt choắt của nàng lọt thỏm trong bộ cẩm bào rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon bị cổ áo che khuất đến một nửa thì không khỏi tức cười.

A Tử không được chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở vương, bắt sống Hoàng thái thúc, chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Khi người ta thuật lại chuyện gì, thể nào cũng thêm mắm thêm muối, nên công lao của Tiêu Phong lại càng thêm phần ly kỳ rùng rợn. A Tử vừa gặp chàng đã nói dỗi: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu lập đại công mà không chịu nói trước, để tiểu muội đứng trên sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải khoái không? Tỉ phu cứ làm tiểu muội lo sốt vó.” Tiêu Phong đáp: “Đó chẳng qua là hên vận lập được chút công, ta có tính trước được đâu? Cô nói chuyện thật là con nít.”. A Tử gọi: “Tỉ phu qua đây.” Tiêu Phong tiến đến bên nàng, thấy khuôn mặt xanh xao hơi ửng hồng và chiều phấn khởi, thân hình xúng xính trong bộ áo xiêm thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa buồn cười lại vừa khả ái. Chàng không nhịn được phá lên cười ha hả.

A Tử phụng phịu nói: “Muội nói chuyện đứng đắn mà sao tỉ phu lại cười, có gì khôi hài đâu?” Tiêu Phong đáp: “Ta thấy cô mặc bộ y phục này chẳng khác gì hình nộm, thật là thú vị.” A Tử hậm hực đáp: “Lúc nào tỉ phu cũng chỉ coi muội là một đứa trẻ con, cứ trêu chọc mãi.” Tiêu Phong vẫn cười: “Không phải thế đâu. A Tử ơi, lần này cứ tưởng hai huynh muội ta phải mất mạng, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy thôi. Còn những tước vị Nam viện đại vương, Sở vương gì gì đó ta thật không màng, được sống tốt là mừng lắm rồi”.

A Tử hỏi: “Tỉ phu cũng sợ chết sao?” Tiêu Phong ngẩn ngơ giây lát rồi gật đầu đáp: “Có chứ! Gặp lúc nguy hiểm ai mà chẳng sợ chết.” A Tử nói: “Muội lại tưởng tỉ phu là bậc anh hùng hảo hán không biết sợ chết. Nếu tỉ phu sợ chết, sao lại dám xông vào đám phản quân hàng nghìn hàng vạn?” Tiêu Phong đáp: “Cái đó gọi là xông vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không liều lĩnh xông vào thì chết chắc, không phải là dũng cảm hay không dùng cảm, mà là ở bước đường cùng phải thế. Tỉ như mình bao vây một con gấu hay một con cọp, nó không chạy được thì phải liều mạng quay lại cắn thôi.” A Tử mỉm cười nói: “Tỉ phu lại đem ví mình với giống súc sinh rồi.”

Lúc đó hai người đang cưỡi ngựa đi song song, đưa mắt nhìn ra thấy một vùng thảo nguyên cờ xí rợp trời, đội ngũ tề chỉnh dài dằng dặc không biết đến đâu là cùng, tứ phía đều là vệ sĩ cùng thuộc hạ.

A Tử vô cùng khoan khoái, nói: “Hôm trước tỉ phu giúp muội đoạt được chức đại sư tỉ phái Tinh Tú, muội nghĩ bụng trong phái Tinh Tú cả hai ba đời có đến mấy trăm đệ tử, ngoài sư phụ ra thì muội có quyền nhất, đã đắc ý lắm rồi. Nhưng bây giờ so với tỉ phu chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm vào đâu. Tỉ phu ơi, Cái Bang không cho tỉ phu làm bang chủ, ái chà, một cái bang hội nhỏ xíu đã lấy gì làm quí? Bây giờ tỉ phu đem binh mã tới giết sạch chúng cho được việc.”

Tiêu Phong lắc đầu lia lịa nói: “Cô lại nói chuyện trẻ con rồi. Ta là người Khất Đan, Cái Bang không cho ta làm bang chủ là phải. Trong Cái Bang toàn là thuộc hạ cùng bằng hữu cũ của ta, sao lại giết họ?” A Tử đáp: “Bọn chúng trục xuất tỉ phu ra khỏi bang, đối xử tệ bạc thì giết đi là phải. Không lẽ lúc này tỉ phu còn coi bọn họ là bằng hữu?”

Tiêu Phong không biết nói sao, chỉ lắc đầu, nhớ đến việc mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè ở Tụ Hiền Trang, không khỏi bùi ngùi.

A Tử lại hỏi: “Giả tỉ bọn chúng nghe tin tỉ phu làm Nam viện đại vương nước Liêu lại đâm ra hối hận, mời về làm bang chủ Cái Bang, thì tỉ phu về hay không về?” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Làm gì có chuyện đó? Anh hùng hảo hán ở Đại Tổng đều coi người Khất Đan là quân dã man hung ác, lại là cừu địch. Ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng căm hận.” A Tử nói: “Úi chà, thế thì đã sao? Bọn chúng căm hận mình thì mình cũng căm hận lại bọn chúng.”

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam, thấy núi non trùng điệp ở chân trời, nghĩ bụng: “Qua dãy núi kia là đến Trung Nguyên”. Chàng là người Khất Đan nhưng ở phương nam từ thuở nhỏ, trong thâm tâm chàng yêu thích Đại Tống hơn Đại Liêu nhiều. Giả tỉ Cái Bang cho chàng làm một tên đệ tử hạng bét chưa được đeo túi, e rằng chàng còn khoái hơn chức Nam viện đại vương.

A Tử nói tiếp: “Tỉ phu ơi! Muội thấy hoàng thượng thật là anh minh nên mới phong tỉ phu làm Nam viện đại vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh với nước nào, tỉ phu đem quân xuất chinh thể nào cũng bách chiến bách thắng. Tỉ phu chỉ cần xông vào trận địch, đánh chết nguyên soái bên kia, tất nhiên chúng sẽ vứt đao thương quì xuống xin hàng, thế là mình toàn thắng.”

Tiêu Phong mỉm cười nói: “Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh nước Liêu, xưa nay vẫn nghe lệnh hoàng thượng. Do đó mà khi Sở vương bỏ mạng, Hoàng thái thúc bị bắt, họ mới đầu hàng. Trường hợp hai nước giao tranh thì lại khác hẳn, giết được nguyên soái thì còn phó soái, giết được đại tướng quân thì còn phó tướng. Họ chiến đấu đến cùng, ta đơn thương độc mã thì làm gì được?”

A Tử gật đầu nói: “Thì ra là thế! Tỉ phu ơi! Tỉ phu bảo là xông vào trận địch, bắn chết Sở vương, bắt Sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì trong đời tỉ phu còn có việc gì dũng cảm thực sự? Kể cho muội nghe có được không?”

Xưa nay Tiêu Phong không thích kể cho người ta nghe những sự tích anh hùng của mình. Khi chàng còn ở Cái Bang, mỗi khi ra tay trừ gian diệt ác, dù cho ác đấu kịch liệt đến thế nào, khi về tới bản bang cũng chỉ nói sơ qua là đã giết được người này người nọ. Còn những việc từng trải gian nan, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chàng cũng không chịu nói ra. Lúc này nghe A Tử hỏi vậy, chàng nghĩ lại đời mình đánh hàng trăm trận chưa hề chạy trốn, những chuyện dũng cảm quả là không nói làm gì. Chàng bèn đáp: “Ta đi đánh nhau, phần lớn là bị người ta ép không đánh không được, chẳng có gì gọi là dũng cảm.”

A Tử nói: “Muội biết rồi! Trong đời tỉ phu dũng cảm nhất là khi ác đấu tại Tụ Hiền Trang.” Tiểu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Làm sao cô biết?” .

A Tử đáp: “Hôm trước ở Tiểu Kính Hồ, tỉ phu bỏ đi rồi, gia gia má má cùng các thủ hạ của phụ thân nói chuyện, ai cũng bội phục tỉ phu võ công đảm lược ghê gớm, đơn thân phó hội ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Lúc đó song thân chưa biết A Châu tỉ tỉ chính là con ruột, nói tỉ phu đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu cùng ân sư cực kỳ tàn độc, nhưng với phụ nữ lại rất đa tình. Họ kết luận tỉ phu vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc, quả là tệ hại xấu xa, bất cận nhân tình.” Nói tới đây cô bé bật cười khanh khách.

Tiêu Phong lẩm bẩm: “Vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc! Hỡi ơi! Anh hùng hảo hán Trung Nguyên tặng Tiêu mỗ tám chữ đó sao?” A Tử an ủi: “Tỉ phu đừng tức giận làm chi. Má má muội hết lời ca tụng tỉ phu, nói nam nhân si tình là tốt rồi, ngoài ra không còn gì quan trọng. Má má phê bình gia gia đối với tình nhân thì phụ nghĩa hiểu sắc, đối với con cái thì tàn nhẫn vô tình, không sao bì kịp tỉ phu. Tiểu muội đứng một bên cũng vỗ tay tán thành.” Tiêu Phong gượng cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bá quan cùng trăm họ đã được tin, ra tận ngoài xa nghênh tiếp. Soái kỳ của Tiêu Phong đi đến đâu, bách tính cũng thắp hương phục lạy, hoan hô không dứt. Chàng ra tay dẹp loạn, bảo toàn tính mạng được cho vô số quân sĩ nước Liêu. Non nửa dân số Thượng Kinh là gia quyến của quân ngự doanh, đối với chàng lại càng cảm kích. Ngựa Tiêu Phong đến đâu trăm họ reo hò đến đấy: “Đội ơn Nam Viện đại vương cứu mạng!” “Cầu trời phù hộ cho Nam viện đại vương sống lâu trăm tuổi, đại phú đại quí!”

Tiêu Phong tai nghe những lời chúc tụng, mắt thấy dân chúng nước mắt chạy quanh, quả thực thành tâm thành ý. Chàng nghĩ thầm: “Người ở ngôi cao, nhất cử nhất động đều quan hệ đến họa phúc của muôn dân. Khi ta bắn chết Sở vương, chỉ là dũng khí nhất thời, trước cứu nghĩa huynh, sau tự cứu mình, không ngờ lại là thi ân cho bách tính. Than ôi! Lúc ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều tốt, vậy mà lại bị chê trách là kẻ đại gian đại ác đệ nhất giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô tình lại thành cứu tinh cho trăm họ. Chuyện thị phi thiện các thực khó mà phân biệt được.”

Chàng lại nghĩ: “Nơi đây là chỗ ở của song thân ta, năm xưa chắc là hai vị thường qua lại con đường này. Ôi, ta chẳng được biết tướng mạo song thân, hai vị cưỡi ngựa rong ruổi bên nhau thế nào lại càng khó hình dung.”

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Thời bấy giờ Đại Liêu là cường quốc đệ nhất trong thiên hạ, cường thịnh hơn Đại Tống nhiều. Thế nhưng người Khất Đan sống du mục là chính, quen nay đây mai đó, quán xá cùng nhà cửa tại Thượng Kinh thật thô sơ hủ lậu, so với Trung Nguyên còn kém xa.

Quan chức thuộc Nam viện liền ra nghênh tiếp Tiêu Phong vào phủ Sở vương. Tòa vương phủ rất rộng lớn, bên trong trần thiết cực kỳ xa xỉ hoa lệ. Tiêu Phong một đời nghèo khổ, chưa từng vào nơi sang trọng như thế. Chàng đi coi một hồi thấy không quen mắt, liền sai thuộc hạ dựng hai cái lều trướng, ông và A Tử mỗi người ở một cái, sống đơn sơ giản dị như xưa.

Đến ngày thứ ba, xa giá Gia Luật Hồng Cơ cùng Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, các phi tần, công chúa… mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong suất lãnh bá quan tiếp giá. Trong triều tấp nập bận rộn luôn mấy ngày. Đầu tiên là tiệc mừng dẹp yên đại loạn, luận công ban thưởng, phủ tuất gia đình Bắc viện khu mật sứ cùng các quan binh tử trận. Hoàng thái thúc tự biết không còn mặt mũi về đến triều đình, nên đã tự tử chết ở dọc đường. Hồng Cơ là người thủ tín, không hề truy cứu quan binh phản nghịch, chỉ xử tử hai mươi tên thuộc hạ đầu sỏ của Sở vương mưu việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ, đại yến liên tiếp ba ngày. Dĩ nhiên Tiêu Phong là đệ nhất anh hùng nơi bàn tiệc. Các món ban thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng hậu, các phi tần, công chúa cùng với tặng phẩm của văn võ bá quan, đúng là chất cao như núi.

Khao thưởng xong xuôi, Tiêu Phong mới đến Nam viện xem xét công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp… rồi còn gì nữa chàng không nhớ hết. Sau đó là quan quân trong Bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân của hoàng hậu, rồi các cấp thị vệ trong Hoằng Ninh cung, Trường Ninh cung, Vĩnh Hưng cung, Tích Khánh cung, Diên Xương cung lần lượt đến chào. Nước Liêu tổng cộng có năm mươi chín thuộc quốc, nào là Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng… Những nước đó đều có sứ thần tại Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ binh quyền, mang đến tặng những món đồ trân bảo để cầu thân. Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp thuộc hạ, mắt thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe toàn những câu xưng tụng tán dương, không khỏi chán ngán.

Cứ thế đến hơn một tháng Gia Luật Hồng Cơ mới gọi ông vào điện, bảo: “Hiền đệ nhận chức Nam viện đại vương trấn thủ Nam Kinh, chờ cơ hội tiến đánh Trung Nguyên. Ca ca không muốn xa cách ngươi, nhưng muốn ngươi lập kỳ công lưu lại nghìn thu. Ngươi sớm chọn ngày thống lĩnh ba quân tiến xuống phía nam.”

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong lòng kinh hãi, nói: “Tâu bệ hạ! Nam chinh là đại sự, cực kỳ quan trọng. Hạ thần chỉ là một kẻ dũng phu, quả không sở trường về quân lược.”

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Nước ta vừa trải qua một cơn biến loạn, phải để sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang, sửa sang việc triều chính không có chỗ nào sơ hở, lúc này chúng ta chưa tính chuyện nam chinh đâu. Tiêu hiền đệ! Ngươi đến trấn thủ Nam Kinh, phải luôn luôn để tâm đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, hễ Nam triều có nội biến là lập tức ra quân. Còn lúc này nội bộ họ đang vững vàng, Liêu quốc ta đem binh đến đánh ắt là dùng sức nhiều mà thành công ít.”

Tiêu Phong đáp: “Vâng! Quả là như thế!” Hồng Cơ nói: “Ngươi có biết sao ta lại hiểu Nam triều nội chính khéo léo, nhân tâm qui phục hay không?” Tiêu Phong đáp: “Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.” Hồng Cơ cười ha hả nói: “Đường lối xưa nay vẫn thế, cứ việc đem nhiều tiền bạc mua kẻ gian tế làm gián điệp. Ở phương Nam thiếu gì kẻ tham tiền hèn hạ vô liêm sỉ, ngươi hãy ra lệnh cho Nam viện khu mật sứ đừng tiếc tài vật, vung tiền ra mua được càng nhiều càng tốt.”

Tiêu Phong vâng lệnh lui ra, trong lòng buồn bã. Chàng trước nay chỉ kết giao với anh hùng hào kiệt, tuy chứng kiến đã nhiều chuyện hãm hại, mai phục, hạ độc, nhưng giết người đốt nhà thì có, chứ đem tiền bạc đi mua chuộc người thì chưa bao giờ. Hơn nữa, chàng là người Liêu nhưng được nuôi dưỡng ở Trung Nguyên từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, bây giờ được hoàng đế giao cho việc tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống, trong lòng chán nản, nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong ta làm Nam viện đại vương, nếu ta từ quan ngay thì không khỏi phụ tấm thịnh tình, sứt mẻ tình nghĩa huynh đệ. Ta cứ xuống Nam Kinh làm quan sáu tháng một năm rồi xin từ chức cũng chưa muộn. Khi đó giả tỉ nghĩa huynh không chịu, thì ta mới treo ấn bỏ đi, ca ca cũng đành chịu chứ chẳng làm gì được.” Chàng nghĩ thế bèn suất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử xuống Nam Kinh.

Nam Kinh của Đại Liêu chính là Bắc Kinh ngày nay, khi đó còn gọi là Yên Kinh hoặc U Đô, là kinh đô của U Châu. Khi xưa Thạch Kính Đường được nước Liêu hết sức giúp đỡ lập nên nhà Hậu Tấn, nên cắt mười sáu châu Yên Vân để đền ơn. Mười sáu châu Yên Vân bao gồm U, Kế, Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng, Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc. Sau khi mười sáu châu này được cắt cho nước Liêu rồi, ba triều Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại Tống đều đã nhiều phen chinh phạt, mà vẫn không lấy lại được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế rất thuận lợi cho nước Liêu đồn trú trọng binh, mỗi lần đem quân xuống đánh phương nam chỉ phải tràn qua một dải bình nguyên, bên Đại Tống không có địa thế gì để phòng thủ. Hơn trăm năm qua Tống Liêu giao binh, Đại Tống thắng ít thua nhiều, hiển nhiên chủ yếu là do lực lượng không bằng, nhưng người Liêu từ cao đánh xuống khống chế được chiến trường cũng có phần tiện nghi rất lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy phố xá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ phồn hoa hơn Thượng Kinh nhiều. Người đi đường đều là dân chúng Nam triều, bên tai nghe toàn tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui thích, hôm sau liền ăn mặc giản dị, đi du ngoạn khắp nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, có tới tám cửa. Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc gọi là Thông Thiên, Củng Thần có ngụ ý thần phục phương Bắc, tuân theo thánh chỉ của hoàng đế Bắc quốc. Vương phủ của Nam viện đại vương ở về phía tây nam. Tiêu Phong và A Tử đi chơi được nửa ngày, thấy chợ búa, phố xá, chùa chiền san sát khắp nơi, không phải đi xem một lúc mà hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam viện đại vương, không chỉ cai quản mười sáu châu Yên Vân, mà cả phủ Đại Đồng thuộc đạo Tây Kinh, phủ Đại Định thuộc đạo Trung Kinh cũng phải tuân theo lệnh chàng. Vì oai quyền quá lớn, chàng không thể ở trong lều trướng lụp xụp được, đành dọn vào vương phủ. Ông trông coi công việc mấy ngày, thấy đầu vàng mắt hoa thật là khổ sở, thấy Nam viện khu mật sự là Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính vụ, liền giao hết cho y.

Tuy nhiên làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ không thiếu gì dược phẩm quý giá, A Tử tha hồ dùng làm thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng đã dạo chơi khắp trong thành Yên Kinh, về sau lại bảo Thất Lý đưa đi du ngoạn ngoài thành trong phạm vi mười dặm.

Một hôm trời vừa tạnh mưa tuyết, A Tử mặc áo cừu vào điện Tuyên giáo của Tiêu Phong, nói: “Tỉ phu ơi! Tiểu muội ở trong thành mãi chán quá. Tỉ phu dắt muội đi săn nhé!”

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu cũng thấy ngán ngẩm, nghe nàng nói thế trong bụng cũng khoái, bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để ra ngoài săn bắn. Chàng chỉ đem vài tên tùy tùng để phục thị A Tử, lại ngại làm kinh động đến dân gian nên thay áo lông cừu quân sĩ thường mặc, rồi đeo cung, giắt tên, nhảy lên ngựa cùng A Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây thành.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, mới bắn được mấy con thỏ. Tiêu Phong nói: “Chúng ta thử qua phía nam xem thế nào.” Chàng quay đầu ngựa sang hướng nam, lại đi hơn hai chục dặm, thấy một con hươu nhỏ từ trong bụi chạy ra. A Tử lắp tên vào cung, ngờ đâu cánh tay còn yếu quá, không giường cánh cung lên được. Tiêu Phong đưa tay trái quàng sau lưng A Tử nắm lấy cây cung, tay phải kéo dây cung rồi buông tay nghe vút một tiếng, mũi vũ tiễn phóng ra, con hươu ngã ngay xuống. Bọn tùy tùng reo ầm cả lên.

Tiêu Phong buông tay ra, nhìn A Tử mỉm cười, bỗng thấy mắt nàng ươn ướt thì lấy làm kỳ, hỏi: “Sao thế? Cô không thích ta giúp bắn dã thú ư?” A Tử nước mắt chảy dài xuống má, thổn thức đáp: “Muội… muội thành phế nhân mất rồi, giương cái cung tầm thường cũng chẳng xong.” Tiểu Phong dỗ dành: “Cô đừng nóng nảy, khí lực sẽ dần dần hồi phục. Nếu sau này vẫn không khỏi, ta sẽ truyền cho cô phép tập luyện nội công, thể nào cũng tăng gia khí lực.” A Tử đang khóc, bật cười nói:“Tỉ phu đã nói thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy muội rèn luyện nội công đấy nhé.” Tiêu Phong đáp: “Cô cứ yên tâm! Ta nhất định dạy cho cô.”

Đang lúc nói chuyện, bỗng nghe hướng nam có tiếng vó ngựa dồn dập, một đại đội nhân mã chạy tới trên mặt tuyết. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra, thấy đội này toàn là quan binh người Liêu, nhưng không giương cờ hiệu. Chúng vừa đi vừa nói chuyện xôn xao, ca hát vang lừng, sau ngựa buộc theo khá nhiều tù binh, tưởng chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong tự hỏi: “Mình đâu có giao chiến với ai, bọn này đánh trận ở đâu trở về thế kia?”. Chàng thấy đám quan binh rẽ qua phía đông trở về thành, liền quay sang bảo một tên tùy tùng: “Ngươi lại hỏi bọn kia, xem chúng đi đâu về?” Gã tùy từng liền đáp: “Vâng” rồi nói: “Chắc là các anh em đi thu hoạch về.” Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia.

Y tới gần bèn nói mấy câu. Bọn quan binh nghe nói Nam Viện đại vương đang ở tại đây liền lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống đất, tay cầm dây cương dắt ngựa tới trước Tiêu Phong, khom lưng thi lễ rồi hô to: “Đại vương thiên tuế!”

Tiêu Phong giơ tay đáp lễ, bảo: “Được rồi!” Chàng thấy đoàn quân này phải hơn tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy quần áo đồ dùng. Số người bị bắt cũng đến bảy tám trăm, phần lớn là phụ nữ còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào.

Gã đội trưởng nói: “Hôm nay đến phiên đội Hắc Lạp Đốc bọn thuộc hạ đi thu hoạch, nhờ hồng phúc đại vương nên kiếm được cũng kha khá.” Y quay lại ra lệnh: “Các ngươi đem những cô gái xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu quí giá nhất dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.” Bọn quan binh cùng hô to: “Tuân lệnh!” Chúng lựa ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại gói rất nhiều đồ kim ngân trang sức đầy một tấm chăn da. Bọn lính Khất Đan chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ tôn kính, hiển nhiên nếu được Nam Viện đại vương thu dụng đám mỹ nữ và vàng bạc này thì lấy làm vinh dự lắm.

Ngày trước Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy quan binh Khất Đan đi bắt người Đại Tống, những người bị bắt đều thê thảm khốn khổ chẳng khác gì nhau. Chàng ở nước Liêu ít lâu, hiểu biết đại khái quân tình Liêu quốc. Triều đình nước Liêu không phát lương thảo cho quân đội mà cũng không trả tiền. Quan binh cần gì đều phải cướp đoạt của bên địch, mỗi ngày đều sai lính qua đánh cướp các nước lân bang Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly. Công việc này họ gọi là “thu hoạch”, mà thực ra là hành động của quân cường đạo. Quan binh Tống triều cũng qua thu hoạch của người Liêu để trả thù. Vì thế mà dân chúng ở vùng biên giới cực kỳ khổ sở, ngày nào cũng nơm nớp, sáng lo chiều, chiều lo tối. Tiêu Phong thấy những hành động này cực kì tàn nhẫn vô đạo, có điều chàng không tính chuyện lâu dài, chỉ định bụng giữ chức một thời gian rồi xin cáo quan ở ẩn, thành thử không đưa ra chủ trương gì về các việc quân quốc đại sự. Nhưng bây giờ chính mắt chàng thấy thảm trạng những người bị bắt, không khỏi đem lòng thương hại, bèn hỏi gã đội trưởng: “Ngươi đi thu hoạch ở đâu về thế?”

Gã đội trưởng cung kính đáp: “Bẩm đại vương, bọn tiểu nhân đi thu hoạch bên ngoài địa hạt Trác Châu, bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không dám đi thu hoạch quanh bản châu nữa.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thế thì trước đây bọn chúng vẫn cướp bóc người Tống ngay trong châu quận này.” Chàng dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ đang đứng trước đầu ngựa: “Cô là người ở đâu?” Thiếu nữ kia quì xuống, khóc lóc đáp: “Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, tha cho tiểu nữ trở về đoàn tụ với song thân.” Tiêu Phong quay đầu nhìn bọn kia, hết thảy mấy trăm người bị bắt đều quì xuống, chỉ có một thanh niên đứng sừng sững không chịu quì.

Tên này trạc mười sáu mười bảy tuổi, mặt dài mà gầy, cằm nhọn, đôi mắt láo liên không có vẻ khiếp sợ. Tiêu Phong liền hỏi: “Chú bé kia! Nhà ngươi ở đâu?” Gã đáp: “Tiểu nhân có một việc cơ mật, muốn bẩm lên đại vương.” Tiêu Phong đáp: “Được, ngươi lại đây!” Gã đưa hai tay đang bị dây thừng trói chặt lên, nói: “Xin đại vương dời ra xa bọn thuộc hạ, việc này không thể để người ngoài nghe thấy được.” Tiêu Phong động tính hiếu kỳ, tự hỏi: “Một thằng nhỏ thế này làm gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Gã từ biên giới phía nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?” Chàng đã có bụng khinh khi gã là người Tống mà đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại Hán gian vô liêm sỉ, nhưng nghe nói là có chuyện cơ mật trọng đại, có nghe cũng chẳng hề gì, bèn phóng ngựa ra khoảng chục trượng, vẫy tay bảo: “Lại đây!”

Gã thanh niên kia liền chạy tới, giơ hai tay lên nói: “Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong bọc muốn trình lên.” Tiêu Phong rút đơn đao cài sau lưng, vung lên chém xuống, thế đao tưởng chừng chẻ y làm đôi nhưng lại rất chuẩn xác, chỉ cắt đứt sợi dây thừng trói hai tay. Gã hoảng hốt, lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn Tiêu Phong. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ, hỏi: “Ngươi có cái gì?”

Gã thanh niên thò tay vào bọc, móc ra một vật cầm trong tay, nói: “Đại vương xem thì biết.” Gã nói xong liền đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, chàng đưa tay ra toan đón lấy. Đột nhiên, gã ném thẳng vật ở trong tay vào mặt Tiêu Phong, chàng vung roi ngựa lên đánh văng ra ngoài, thì ra là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, bột trắng tung tóe khắp nơi, chính là một túi vôi sống, nếu ném trúng vào mắt là mù ngay lập tức. Đây là một thủ đoạn thấp hèn mà bọn trộm gà bắt chó, đạo tặc hạng bét thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này to gan thật, thì ra không phải Hán gian”. Chàng hỏi: “Ngươi tên là gì? Sao lại cố ý hại ta?” Gã mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu giọng nói: “Ngươi cứ nói đi, ta sẽ tha mạng cho.” Gã đáp: “Ta đến báo thù cho song thân không được, chẳng còn gì để nói nữa.” Tiêu Phong hỏi: “Song thân ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết chết sao?”

Gã thanh niên tiến lên hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, trỏ tay vào mặt Tiêu Phong lớn tiếng mắng: “Kiều Phong! Ngươi giết chết gia gia, má má, cả bá phụ ta, ta hận… hận không thể ăn tươi nuốt sống, rút gân lột da, xé xác ngươi thành muôn mảnh.”

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ của mình, lại mắng mình giết song thân và bá phụ, chắc là một món nợ ngày trước ở Trung Nguyên. Chàng bèn hỏi: “Bá phụ cùng phụ thân ngươi là ai?” Gã đáp: “Ta không muốn sống nữa, cũng cần cho ngươi biết, nam nhi họ Du ở Tụ Hiền Trang không phải là phường tham sinh úy tử.”

Tiêu Phong “À” lên một tiếng rồi nói: “Thì ra ngươi là con cháu của Du Thị Song Hùng, như vậy lệnh tôn là Du Câu nhị gia.” Chàng ngừng lại một chút, nói tiếp: “Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt buộc phải ứng chiến, đó là việc bất đắc dĩ. Lệnh tôn và lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết đấy chứ!” Tới đây chàng lắc đầu nói tiếp: “Hỡi ôi! Tự vẫn hay bị giết thì cũng chẳng khác gì nhau. Hôm đó ta đoạt mất binh khí của bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?”

Gã thanh niên đứng ưỡn ngực ra lớn tiếng đáp: “Ta là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, quyết noi theo gương sáng của bá phụ và gia gia.” Nói xong, gã thò tay vào ống quần, rút ra một thanh đoản đao, giơ lên đâm vào ngực. Tiêu Phong lại vung roi ngựa ra quấn lấy thanh đao, đoạt mất. Du Thản Chi cả giận mắng: “Ta muốn tự vẫn, ngươi cũng không cho ư? Tên Liêu cẩu đáng chết kia, mi thật là lòng lang dạ thú!”

Lúc này A Tử đã giục ngựa đến bên Tiêu Phong, quát lên: “Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng mắng người? Ngươi muốn chết ư? Ha ha, chẳng phải dễ đâu.” Đột nhiên Du Thản Chi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, gã đứng ngây người ra mà nhìn, không nói nên lời. A Tử lại nói: “Tiểu quỉ! Cái cảnh mù lòa thích thú lắm, ta sẽ cho ngươi được nếm mùi.” Nàng quay lại nói với Tiêu Phong: “Tỉ phu! Tên tiểu tử này thật là hiểm độc, dám dùng vôi sống để ám toán. Chúng ta lại dùng vôi đó hất vào mắt y cho biết.”

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang bảo tên lãnh binh đội trưởng: “Hôm nay các ngươi đi thu hoạch, bắt được bao nhiêu người Tống đều giao lại cho ta, có được chăng?”. Gã đội trưởng mừng rỡ vô cùng, vội đáp: “Được đại vương để mắt tới thì còn gì bằng, bọn thuộc hạ xin đa tạ ân đức.” Tiêu Phong nói: “Quan binh nào bắt được từ binh, nhớ đến vương phủ lĩnh thưởng.” Hắn vui vẻ đáp: “Bọn tiểu nhân thành tâm dâng lên đại vương, không cần ban thưởng.” Tiêu Phong nói: “Các ngươi để những kẻ bị bắt lại đây, về thành trước đi, nhớ đến lãnh thưởng”. Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng nói: “Vùng này không có bao nhiêu dã thú, chắc đại vương muốn đem bọn Tống trư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở vương vẫn thích trò này lắm. Tiếc là hôm nay bọn thuộc hạ bắt được phần nhiều là đàn bà, chạy không nhanh. Lần sau sẽ cố bắt những con heo Tống khỏe mạnh”. Y nói xong thi lễ, kéo quân về.

Câu nói “muốn đem bọn Tống trư làm bia sống” vừa lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước mắt hiện ra cái cảnh tàn bạo của Sở vương năm xưa: mấy trăm người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong khi những bậc quí nhân Khất Đan cười ha hả, giương cung lắp tên bắn chết để giả trí. Còn người Tống nào chạy được xa, quân Khất Đan cưỡi ngựa reo hò đuổi theo, chẳng khác gì săn nai đuổi chồn, rốt cuộc cũng bắn chết hết. Bọn Khất Đan nhắc đến chuyện thảm khốc này không hề đổi giọng, hẳn là trước đây đã quen như thế. Chàng đưa mắt nhìn bọn người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run cầm cập trong gió rét buốt. Dân chúng vùng biên giới này phần lớn hiểu tiếng Khất Đan, nghe đến chuyện bắn bia sống, sợ đến mất cả hồn vía.

Tiêu Phong thở dài sườn sượt, nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam, nghĩ thầm: “Giả tỉ thân thế mình không bị tiết lộ thì đến bây giờ ta vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này cùng nói một thứ tiếng, cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Vì sao đã là người, lại phải phân chia ra Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly gì gì để làm chi? Ngươi sang đất ta thu hoạch, ta sang đất ngươi đốt nhà. Ngươi chửi ta là Liêu cẩu, ta mắng ngươi là Tống trư.” Mất đến một lúc, lòng chàng cảm khái, tư tưởng cuồn cuộn như sóng biển.

Tiêu Phong nhìn lại, thấy đám quan binh Khất Đan đã đi khuất rồi, bèn quay sang bảo đám nạn dân: “Bữa nay ta tha các ngươi về, mau chạy ngay đi!” Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ bắn bia sống, nên vẫn chần chừ đứng đó. Tiêu Phong lại giục: “Các ngươi về rồi, tốt nhất là rời xa biên giới, để khỏi bị chúng đi thu hoạch mang về nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu được lần thứ hai đâu.”

Bấy giờ bọn nạn dân mới tin là thật, reo hò mừng rỡ quỳ mộp cả xuống, dập đầu nói: “Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà sẽ cầu trời khấn phật cho đại vương sống lâu, ở ngôi cao mãi mãi.” Bọn họ đã biết thân làm dân Tống bị quân Liêu bắt được rồi, trừ người giàu có đem tiền bạc gấm vóc ra chuộc mạng, còn không thì bỏ xác đất người, đến nắm xương cũng không được mang về xứ. Nhưng hai nước Tống Liêu giao tranh đã lâu năm, người giàu có đều di cư vào nội địa cả rồi, ở vùng biên giới chỉ còn lại dân nghèo khổ, làm gì có tiền chuộc mạng? Ai cũng biết thân phận mình không bằng súc vật, được vị đại vương nước Liêu tha cho về, nỗi vui mừng biết lấy chi cân?

Tiêu Phong thấy bọn nạn dân vui mừng dắt díu nhau đi về phía nam, nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại thả họ về, khiến bọn họ phải nhọc nhằn khiếp sợ, còn có gì gọi là ân đức?”.

Chàng thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, chỉ còn Du Thản Chi sừng sững đứng đó, bèn nói: “Sao ngươi không chạy đi? Ngươi đã có lộ phí trở về Trung Nguyên chưa? Chàng vừa nói vừa thò tay vào bọc, định cho y ít tiền, nhưng trong túi không có đồng nào, chỉ có một cái gói giấy dầu nhỏ. Tiêu Phong bỗng chua xót trong lòng, nhớ ra trong cái gói là bộ Dịch Cân Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa Thiếu Lâm, bắt chàng phải cầm lấy. Nay người mất mà kinh còn, trông thấy di vật làm sao chàng chẳng đau thương? Tiêu Phong thuận tay bỏ cái gói trở lại vào bọc, nói: “Hôm nay ta đi săn không mang theo tiền. Nếu ngươi không có tiền tiêu thì theo ta về thành mà lấy.” Du Thản Chi lớn tiếng nói: “Gã họ Kiều kia! Mi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, không được bày trò làm nhục ta. Du mỗ dù có chết đói cũng không thèm nhận một đồng một chữ của mi.”

Tiêu Phong nghĩ rằng gã nói không sai, mình là kẻ thù giết cha gã, mối thù không đội trời chung chẳng thể nào hóa giải, nói nhiều cũng vô ích. Chàng bèn bảo: “Ta không giết ngươi! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào cũng có thể đến kiếm ta.”

A Tử vội nói: “Tỉ phu ơi, không thả y được. Tên tiểu tử này nếu báo thù cũng không dùng võ công đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu. Chi bằng nhổ cỏ tận gốc để khỏi di họa về sau.”

Tiêu Phong lắc đầu: “Trên giang hồ bước nào cũng có chông gai, nơi nào cũng đầy hung hiểm, ta đi qua cả rồi. Gã thiếu niên này không làm gì nổi ta đâu. Ngày trước ta khiến cho bá phụ cùng phụ thân y phải tự vẫn, quả thực không cố ý, nhưng cũng là món nợ máu ta thiếu đã lâu. Có lý nào ta lại giết cả con cháu Du Thị Song Hùng nữa?” Chàng nói tới đây, thấy trong lòng chán nản bèn bảo: “A Tử! Chúng ta về thôi. Hôm nay chẳng còn gì mà săn bắn nữa.” A Tử bĩu môi nói: “Tiểu muội muốn bắt gã này về nghĩ cách hành hạ một phen cho bõ ghét! Tỉ phu thả y rồi, tiểu muội về thành còn có gì vui đâu?” Nhưng nàng không dám trái ý Tiêu Phong, đành quay đầu ngựa, cùng Tiêu Phong trở về. Đi được mấy trượng, nàng quay mặt lại nói: “Thằng lỏi kia! Ngươi về luyện võ công thêm một trăm năm nữa, rồi hãy đi kiếm tỉ phu ta báo thù.” Nói xong nàng mỉm cười, giơ roi quất ngựa chạy nhanh.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.