Hồi 30 – Về Bành Thành, Phạm Tăng lìa Sở Bá

Sau khi qua đến thành Triệu, Khoái Văn Thông xin vào yết kiến Hàn Tín, Hàn Tín mừng rỡ tiếp rước rất hậu, và nói:

– Tiên sinh tới đây hẳn vì việc nước, muốn cho tôi giải binh giao hòa. Thiết tưởng, điều đó chẳng khó khăn gì. Nếu nước Yên chịu đầu hàng thì tôi đóng yên quân lính, nghỉ việc chiến tranh, khỏi làm khổ dân. Nhưng nếu Tiên sinh chỉ khuyên tôi bãi binh, mà nước Yên còn làm phên lũy cho Sở thì tôi sẽ đem quân tới sông Dịch, diễn võ trong Yên Ðài. Dầu Nhạc Nghị tái sinh, Kinh Kha sống lại cũng chẳng sợ.

Nói dứt lời, Hàn Tín sai người đưa Khoái Văn Thông ra nghỉ nơi quán dịch, không hỏi han gì nữa.

Khoái Văn Thông ở đó luôn mấy ngày, không được đi đâu lòng buồn bực vô cùng, song không biết tính sao.

Một hôm, bỗng có Lý Tả Xa đến thăm.

Khoái Văn Thông mở cửa mời vào, mỉm cười nói:

– Không ngờ ông lại đem nước Triệu nạp cho nước Hán. Trần Dư mất đầu, Triệu vương bị bắt, tình cảnh ấy thật đáng thương.

Lý Tả Xa nghiêm nét mặt nói:

– Ông lầm rồi. Vạn việc trong vũ trụ phải theo mệnh hệ chung. “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả phong”.

Hán vương vì vua Nghĩa Ðế trừ đứa hung bạo, đem lại thái bình thanh trì cho thiên hạ chẳng hợp với lòng trời sao. Ông xét việc hẹp hòi khư khư như làm tôi nước Sở, là làm trái với mệnh trời, phật lòng thiên hạ. Bởi Triệu vương không nghe lời tôi nên mất chức lụy thân. Ông tự xét Hán vương và Hạng vương ai là chân chúa?

Văn Thông ngồi trầm ngâm một lúc rồi đáp:

– Có lẽ Hán vương.

Lý Tả Xa lại hỏi:

– Trương Lương, Hàn Tín so với các tướng Sở bên nào giỏi hơn?

Văn Thông đáp:

– Dĩ nhiên Trương Lương và Hàn Tín giỏi hơn rồi.

Lý Tả Xa cười lớn nói:

– Thế thì Hán phải được, Sở chắc phải thua, cớ sao lại bỏ Hán mà phò Sở.

Khoái Văn Thông nín lặng hồi lâu rồi nói:

– Lời ông rất có lý. Tôi sang đây với sứ mạng là khuyên Hàn Tín bãi binh, không ngờ lại bị các ông khuyên tôi bỏ Sở theo Hán.

Lý Tả Xa nói:

– Lý vô nhị thị. Cái gì phải thì làm. Lẽ khôn dại trong đời dành cho kẻ thức thời, cần gì ngài phải nói điều ấy.

Văn Thông nói:

– Thế thì ngài đưa tôi vào yết kiến Hàn Nguyên Soái để nói chuyện hòa hảo. Sau đó, tôi sẽ tỏ ý xin ở luôn bên này phò Hán.

Tả Xa mừng rỡ, đưa Khoái Văn Thông vào tướng phủ.

Hàn Tín tiếp đãi Văn Thông rất hậu. Văn Thông xin trở về nước Yên khuyên Yên vương hàng Hán, và thu xếp theo phò Hán chúa.

Hàn Tín rất đẹp lòng, sai Tào Tham, Phàn Khoái lãnh một vạn quân theo Khoái Văn Thông về nước bái yết vua Yên, nói rõ đạo đức của Hán vương và tài năng của Hàn Tín, khuyên vua Yên bỏ Sở phò Hán.

Vua Yên tươi cười nói:

– Ta muốn hàng Hán đã lâu, chẳng qua muốn để Văn Thông đi dò xét thêm cho rõ. Nay đã hiểu chân tình, còn gì nghi ngại.

Nói xong, mở tiệc đãi đằng hai tướng Hán và truyền lệnh chọn vài trăm kỵ binh, hôm sau tự mình đi với hai tướng sang Triệu, yết kiến Hàn Tín.

Hàn Tín bảo Yên vương thảo tờ hàng biểu rồi cho người đưa về Huỳnh Dương dâng lên vua Hán, đồng thời chĩnh đốn quân mã lo việc đánh Tề.

Tin đồn đến nước Sở, Phạm Tăng và Chung Ly Muội thất kinh cùng vào tâu với Hạng vương:

– Hàn Tín bắt Ngụy Báo, chém Hạ Duyệt, phá nước Triệu, nay lại lấy nước Yên, đi đến đâu cũng không ai địch nổi. Hiện Hán vương án binh nơi Huỳnh Dương, Ðại vương nên nhân lúc này trừ sớm đi kẻo để di họa.

Hạng vương nói:

– Ta dã có ý định khởi binh đánh Hán, nay các ngươi bàn như thế tất phải lẽ.

Liền truyền lệnh điểm mười muôn binh, nội ngày đó xuất phát thẳng đến Huỳnh Dương.

Quân thám thính được tin về báo với Hán vương.

Hán vương vội đòi Trương Lương, Trần Bình vào triều thương nghị.

Hán vương nói:

– Nghe tin Bá vương lại kéo bọn đánh Huỳnh Dương nữa. Bây giờ Vương Lăng vì quá thương mẹ bệnh chưa lành, Anh Bố trở về Cảnh Giang, còn các tướng đi đánh các nơi, trong thành trống rỗng lấy ai đối địch.

Trần Bình thưa:

Hạng vương trước đây thua mấy trận, lòng đã nao núng, nay sở dĩ kéo binh qua đây là nghe lời Phạm Tăng, Chung Ly Muội và Long Thư. Các người ấy là đầu não, khiến sức mạnh của Hạng vương. Nếu không có các người ấy thì sức mạnh của Hạng vương cũng thành vô dụng.

Nay xin Ðại vương dùng một số vàng bạc làm kế phản gián, khiến vua tôi nước Sở ngờ vực nhau, không còn ai tin tưởng nhau nữa, bấy giờ ta lợi dụng cơ hội ấy phản công tất thắng được.

Hán vương nhận lời, trao cho Trần Bình bốn vạn lạng vàng để thi hành việc phản gián.

Trần Bình đem số vàng đó thuê rất nhiều người phao những giời gièm pha rằng: “Bọn Chung Ly Muội lập công rất nhiều, mà không được một mảnh đất làm vua. Vì nay họ muốn tư thông với Hán hợp sức đánh Sở, để chia của Sở “

Lời đồn ấy thấu đến tai Hạng vương. Và Hạng vương bắt đầu nghi ngờ bọn Chung Ly Muội không muốn dùng với họ bàn việc như trước nữa.

Sau khi quân Sở kéo đến thành Huỳnh Dương hạ trại xong, Hạng vương tự mình cưỡi ngựa đến bốn mặt thành, xem xét tình thế.

Luôn ba ngày, Hạng vương không thấy thành động tĩnh gì cả cho là trong thành hết kẻ đối địch, liền truyền quân đặt hỏa pháo công thành.

Quân Sở vừa công phá, thì trên gỗ đá lăn xuống tơi bời, tên bắn như mưa. Quân Sở không làm sao công hãm được nữa.

Hạng vương tức giận đốc quân đánh luôn bảy ngày. Bấy giờ Trương Lương vào ra mắt Hán vương, tâu:

– Hạng vương đánh rất ngặt, ta phải sai sứ ra ngoài thành xin hàng. Tôi chắc thế nào Hạng vương cũng sai sứ vào thành giảng hòa. Lúc ấy ta sẽ thừa cơ dùng kế ly gián của Trần Bình, làm cho vua tôi nước Sở lìa nhau thì mới khỏi nguy.

Hán vương hỏi:

– Nếu Sở không chiu cho mình hòa thì làm thế nào?

Trương Lương nói:

– Hạng vương vốn tánh nóng nảy, đánh thành đã mấy ngày mà không lấy được, lòng đang bực bội. Nếu ta nhân nhượng sẽ làm cho Hạng vương dịu lòng căm phẫn mà nghe theo.

Hán vương không tin, nhưng cũng nghe theo lời, sai Tùy Hà làm sứ sang dinh Sở.

Tùy Hà vào ra mắt Hạng vương và nói:

– Trước Hán vương cùng với Bệ hạ họp quân đánh Tần, kết làm anh em, sau lại được Bệ hạ phong làm vua Hán Trung, ơn ấy Hán vương vẫn thường nhắc nhở mãi.

Chỉ vì Hán Trung đất đai chật hẹp không đủ dung thân nên mới kéo binh sang Ðông, mục đích đổi chỗ không có ý soán nghiệp “Bá vương”. Nay mai được đất Quan T rung thì ý nguyện đã toại, vậy xin cắt từ Huỳnh Dương về Tây là thuộc Hán, từ Huỳnh Dương về Ðông là thuộc Sở. Hai bên giao hòa, cùng nhau giữ đất mình hưởng phú quý, xin Bệ hạ xét cho.

Hạng vương nghe nói nghĩ thầm:

– Ta đóng đô nơi Bành Thành đất cát hẹp hòi, lương thực kém cỏi, nếu ra tranh hùng với Hán còn gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, trong lúc chư hầu nổi lên làm phản, ta hắn tạm giảng hòa để củng cố thực lực rồi sau sẽ liệu.

Liền sai Phạm Tăng làm sứ sang Huỳnh Dương bàn với Hán việc giảng hòa.

Phạm Tăng nói:

– Không nên? Chẳng qua Ðại vương đánh thành quá gấp nên họ mượn kế cầu hòa để tính việc quân cơ. Xin Ðại vương thêm hỏa pháo, đốc thêm binh mã, đánh một trận cho tan tành đừng có nghe lời lừa phỉnh của quân giặc

Hạng vương do dự không quyết, lại gọi Tùy Hà đến nói:

– Nhà ngươi cứ trở về rồi ta sẽ tính sau.

Tùy Hà tâu:

Việc này tôi tưởng Ðại vương không nên do dự. Vì cơ hội không thể lúc nào cũng có được. Hàn Tín vừa diệt Triệu, lấy Yên, hẹn với chư hầu nay mai đem quân về cứu Huỳnh Dương ; chừng ấy Ðại vương bị thế nội công ngoại kích muốn đánh cũng không được, cầu hòa cũng không xong.

Hạng vương nói:

– Nhà ngươi nói cũng phải. Vậy cứ về trước, ta sẽ sai người sang giảng hòa.

Tùy Hà bái biệt Hạng vương trở vào thành thuật lại công việc cho Hán vương nghe.

Hán vương gọi Trần Bình đến hỏi:

– Sớm tối ngày mai thế nào sứ Sở cũng đến đây. Ngươi dùng kế gì mà ly gián được vua tôi họ?

Trần Bình ghé vào tai Hán vương nói nhỏ mấy lời.

Hán vương gật đầu nói:

– Kẻ ấy mà thành tựu, Phạm Tăng ắt phải vong mạng.

Trần Bình liền sai người sắp sửa các việc, chờ đón sứ giả nước Sở.

Sáng hôm sau, quả nhiên sứ giả bên Sở là Ngu Tử Kỳ xin vào yết kiến.

Bây giờ Hán vương vì đêm uống rượu quá say nên ngủ chưa dậy, Từ Kỳ phải ra tạm nghỉ nơi quán dịch.

Trương Lương và Trần Bình sai bày một yến tiệc nơi một cao lâu kín đáo, trang hoàng rất sang trọng rồi mời Ngu Từ Kỳ đến.

Hai người hỏi:

– Phạm quân sư lâu nay vẫn được mạnh giỏi chứ? Ngài sai ông sang đây có việc gì chăng?

Ngu Tử Ky đáp:

– Tôi là sứ giả nước Sở chứ đâu phải sứ giả của Phạm quân sư.

Trương Lương và Trần Bình giả cách ngạc nhiên, nói:

– Chúng tôi tưởng ông là sứ giả của Phạm quân sư té ra là sứ giả của Hạng vương?

Dứt lời sai người đưa Tử Kỳ đến một căn quán chật hẹp, và sai người đem cơm lên thết.

Tử Kỳ dùng xong bữa cơm tầm thường ấy thì nghe tin Hán vương đã dậy, vội sắp sửa mũ áo vào chầu. Bấy giờ Hán vương chưa rửa mặt, thấy Tử Kỳ bước vào liền sai một viên hầu cận đưa Tử Kỳ qua một gian phòng kín ngồi chờ. Tử Kỳ ngồi đó một mình, lòng thấy bồi hồi, chẳng biết tại sao vua tôi nhà Hán có nhiều cừ chỉ thầm kín, dè dặt như vậy.

Lúc đang suy nghĩ, Tử Kỳ chợt thấy gần đó có một án thư, bên trên chồng chất nhiều thư từ các nơi gởi đến.

Gợi tánh tò mò, Tử Kỳ bước đến xem. Trong số đó có một bức thư không ký tên, trong thư đại khái nói:

Hạng vương ngày nay lòng người không phục, binh mã chỉ còn hơn vài mươi vạn, và thế lực mỗi ngày một yếu dần.

Ðại vương chớ có giảng hòa làm chi hãy gọi Hàn Tín về ngay Huỳnh Dương đối địch. Lão thần với bọn Chung Ly Muội xin làm nội ứng. Cơ nghiệp nứớc Sở phá không khó khăn gì.

Còn như số vàng của Ðại vương ban cho, lão thần quyết không dám nhận lãnh. Chỉ xin, sau khi phá được Sở rồi, Ðại vương cấp cho một mảnh đất và một vương vị để an hưởng tuổi già, truyền lại cho con cháu ngày sau, thế là đủ lắm.

Xin miễn ký tên?

Ngu Tử Kỳ xem thư xong giật mình nghĩ thầm:

– Gần đây nghe trong quân có tiếng thì thầm Phạm quân sư tư thông với Hán, nhưng ta không tin. Nay xét thái độ vua tôi nước Hán, lại có bức mật thư này thì rõ lời đồn kìa là chuyện thật.

Nghĩ rồi bỏ bức mật thư vào túi, trở về ngồi nơi chỗ cũ.

Một lúc sau, Tùy Hà đến nói:

– Hán vương đã lâm triều, xin mời ngài vào bệ kiến.

Ngu Tử Kỳ bước vào Hán vương nói:

– Ta với Hạng vương ngày xưa có đính ước trước mặt vua Hoài vương, hễ ai vào Quan Trung trước thì được làm vua. Về sau ta vào Quan Trung trước, lẽ ra ta được làm vua Quan Trung mới phải. Hạng vương bội tín, nhưng nay ta đã lấy được Quan Trung rồi thì chí nguyện đã đủ. Ta không còn muốn cùng Hạng vương tranh hùng làm khổ muôn dân. Vậy xin cùng Hạng vương giao hòa, rạch đôi đất nước, phía Tây Huỳnh Dương là Hán, phía Ðông Huỳnh Dương là Sở. Túc hạ về chầu Bá vương hãy nói giùm cho.

Ngu Tử Kỳ nói:

– Sở vương tôi đã lãnh ý ấy, bây giờ chỉ muốn được cùng Ðại vương gặp nhau để bàn việc giao hảo.

Hán vương nói:

– Túc hạ cứ trở về. Ta bàn bạc ít lâu thế nào cũng cùng Bá vương hội ngộ một phen.

Ngu Tử Kỳ bái biệt, về thẳng đến dinh Sở, đem những chuyện vừa xảy ra thuật lại cho Hạng vương nghe, và đưa cho Hạng vương xem bức mật thư đã lấy được trong thành Huỳnh Dương.

Hạng vương xem thư mặt bừng sát khí, hét lớn:

– Thằng giặt già đó dám phản phúc ta như thế sao? Ta quyết không dung thứ.

Ngu Tử Kỳ nói:

– Tuy vậy, song chưa biết sự thực như thế nào, xin Ðại vương hãy suy xét kỹ càng mới được.

Phạm Tăng hay được việc đó, vội vã vào triều ra mắt Hạng vương, vừa lạy vừa nói:

– Tôi thờ Ðại vương đã lâu. đem hết tâm can gìn giữ lòng trung, có đâu lại tư thông với Hán. Ðó chẳng qua là kế ly gián của địch quân muốn cho vua tôi ta chia ta để dễ bề thao túng. Xin Ðại vương đừng lầm mưu ấy.

Hạng vương nói:

– Ngu Tử Kỳ là kẻ thân tín của ta, bao giờ lại tìm lời dối trá.

Phạm Tăng đã biết tánh nóng nảy hẹp hòi của Hạng vương, biết không thể minh oan cho nịnh được, liền nói:

– Ngày nay việc thiên hạ như thế cũng tạm yên. Ðại vương gánh vác lấy cũng đủ. Lão thần này thờ phụng Ðại vương đã lâu, vất vả đã nhiều, nếu không dùng nữa, lão thần xin được mang nắm xương tàn về quê. Ðó là ơn lớn của Ðại vương.

Hạng vương nghĩ vì Phạm Tăng đã lập nhiều công to không nỡ giết hại, nên sai người đưa về điền dã.

Phạm Tăng từ biệt Hạng vương trở ra vừa đi, vừa than:

– Ta hết lòng với Sở mà Hạng vương lại có lòng ngờ vực ôi! việc này không phải thương hại cho ta mà thương hại cho Hạng vương gặp chuyện không may.

Lúc đi dọc đường, Phạm Tăng vừa buồn vừa tức. Buồn vì biết trước rằng Sở sẽ bị Hán diệt, tức vì mình đem thân phụng thờ Hạng vương, một kẻ hữu dũng vô mưu.

Chẳng bao lâu Phạm Tăng lâm bệnh, phát một cái nhọt rất lớn ở lưng, rồi chết, thọ được 71 tuổi.

Hạng vương hay tin, hối hận chẳng cùng, sai người đem xác Phạm Tăng về Bành Thành khâm liệm và mai táng trọng lễ.

Hán vương được tin Phạm Tăng tạ thế, mừng rỡ nói với triều thần:

– Thế là ta đã trừ được cái lo trong tâm phúc ta rồi.

Từ đấy, Hán vương không còn nhắc đến việc giao hòa nữa..

Hạng vương hồi tỉnh, biết được Phạm Tăng chết oan, lòng xót xa, đau đớn, gọi bọn Chung Ly Muội đến nói:

~ Các ngươi cứ yên tâm, chớ nên nghĩ ngợi điều gì. Từ nay ta không bao giờ nghe lời dèm pha nữa.

Chung Ly Muội thưa:

– Tôi thờ Ðại vương trong mấy năm nay, tuy tài năng không có gì nhưng tấm lòng sắt đá không thể lay nổi.

Luôn bữa đó, Hạng vương phong cho Hạng Bá làm Quân sư, tất cả việc lớn nhỏ trong nước đều giao cho Hạng Bá trông nom.

Ðoạn cử đại binh sang vây thành Huỳnh Dương, công phá rất dữ.

Hán vương lo lắng, gọi các tướng đến hỏi:

– Ðại binh Hàn Tín chưa về, trong thành không ai là địch thủ của Hạng vương, vậy các khanh có kế gì giải vây chăng?

Các tướng còn đang bàn mưu tính kế, thì đại có quân thám thính về báo:

– Hạng vương sắp ngăn hạ lưu sông Vinh, cho nước chảy vào Huỳnh Thành.

Tin này làm cho Hán vương luống cuống, vội đòi Trương Lương và Trần Bình vào nghị kế.

Trần Bình tâu:

– Tôi có một kế, có thể phá được vòng vây này, song chỉ sợ ở đây không có bậc trung thần nào dám chịu nạn thay cho Ðại vương.

Chu Bột và các võ tướng đều nói:

– Sao ngài lại khinh thị chúng tướng như vậy?

Chúng tôi theo phò Chúa thượng đã lâu, dẫu phải bỏ thây cũng không tiếc.

Trần Bình vừa cười vừa nói:

– Cái đó là kế sâu xa, có lẽ các ngài chưa hiểu ý

Hán vương hỏi:

– Tiên sinh có kế chi, xin nói rõ ra đây cho mọi người bàn luận.

Trần Bình ghé vào tai Hán vương nói nhỏ. Hán vương khen phải và nói:

– Kế đó rất hay. Trương Lương nên cố gắng thực hiện mới được.

Trơng Lương tuân lệnh về dinh mở một tiệc rượu mời các tướng đến dự.

Các tướng lần lượt đến, thấy giữa phòng tiệc có treo một bức tranh lớn, vẽ một chiếc xe, trong đó cố người ngồi, sau có hai vạn quân kỵ đang đuổi theo rất gấp. Ðàng trước là một khu rừng rậm. Trong rừng có một người đang nấp.

Các tướng không rõ bức tranh ấy có nghĩa gì, tại sao đem treo trong phòng tiệc, liền hỏi Trương Lương

Trương Lương đáp:

– Ngày xưa, vua Cảnh Công nước Tề đánh nhau với quân Tấn. Cảnh Công thua to, quân sĩ đều trốn hết, họ bỏ Cảnh Công ngồi một mình trong xe. May có một nông phu trông thấy vội đẩy xe cho Cảnh Công đi trốn. Tuy nhiên, quân Tấn đuổi theo rất ngặt, khó mà trốn thoát nổi.

Người nông phu nói: “Nguy đến nơi rồi, Chúa công nên đưa áo quần cho tôi mặc, tôi sẽ ngồi nơi xe này chịu chết thay cho Chúa công, còn Chúa công nên trốn vào rừng thoát nạn. Cảnh Công nói ; “Ta được thoát nạn mà nhà ngươi bi giết, lòng ta sao đành”. Người nông phu lại nói: “Tôi chết đi, chỉ như trong rừng rậm mất một cây nhỏ còn Chúa công mất là giang sơn nước Tề phải mất. Xin Chúa công xét nghĩ”. Cảnh Công theo lời, đổi ngay áo cho người nông phu, rồi trốn vào rừng. Quân Tấn đuổi theo thấy người nông phu mặc long bào ngồi trên xe ngỡ là Cảnh Công bắt đem về nạp cho vua Tấn. Vua Tấn biết người nông phu đó không phải là Cảnh Công liền truyền đem chém. Người nông phu nói: “Tôi đã thay mạng cho Chúa công tôi thoát nạn thì chết là việc thường tôi đâu sợ. Duy chỉ tiếc rằng vua Tấn giết tôi, sau này có người vào muốn thay mạng cho vua cũng không dám, vì họ sợ sẽ bị giết như tôi. Vua Tấn nghe nói khen người có nghĩa, tha chết cho nông phu. Vì thế mà nông phu lại cũng không chết. Tranh này về sự tích đó.

Các tương nghe nói mặt mày ngơ ngác chưa hiễu ý.

Trương Lương nói tiếp:

– Ấy cũng nhờ người nông phu mà. Tề Cảnh Công sau này dựng nên nghiệp bá, tiếng để sử xanh. Ngày nay vẫn còn khen ngợi. Nay Chúa thượng ta ngộ nạn, chẳng khác nào như Cảnh Công thế mà không ai bắt chước làm cái việc người nông phu. Vì vậy, tôi treo bức tranh này lên để cùng xem.

Các tướng nghe nói đều hăng hái đứng dậy nhìn nhau, tỏ vẻ can trường:

– Cha có nạn, con chết thay, vua có nạn tôi chết thay. Chúng tôi xin đem thân thay Chúa thượng để Chúa thượng thoát khỏi trận Huỳnh Dương này.

Trương Lương nói:

– Các ông đều có lòng trung nghĩa thật đáng khen lắm.

Song hiện nay chỉ cần một người diện mạo giống Chúa thượng mà thôi. Người đó là Kỷ Tín, chăng biết Kỷ tướng quân có vui lòng chăng?

Kỷ Tín nói:

– Ðó là ý nguyện của tôi, dẫu phải tan xương nát thịt cũng vui lòng.

Trương Lương và Trần Bình mừng rỡ, đưa Kỷ Tín vào ra mắt Hán vương tâu bày tự sự.

Hán vương nói:

~ Việc đó không nên. Lưu Bang này chưa dựng nên nghiệp lớn, các người làm tôi chưa hề được một ân huệ, lâu nay nếu bắt Kỷ tướng quân bị nạn thay ta, để ta tìm đường đi trốn, ấy là hại ngươi, ích mình, ta không nỡ làm.

Kỷ Tín nói:

– Việc đã gấp lắm rồi. Nếu tôi không chịu nguy hiểm thì mai kia thành vỡ, đá tan, cả vua tôi đều chết. Cái chết của tôi ngày nay ích lợi hơn cái chết ngày mai rất nhiều. Tuy tôi chết mà danh tiếng còn mãi trong dân chúng, tình tôi còn mãi trong lòng Ðại vương.

Hán vương vẫn còn giả cách dùng dằng không nỡ.

Kỷ Tín rút gươm kề cổ nói lớn ;

– Nếu Ðại vương không nghe, tôi xin tự tử nơi đây để tỏ rằng tôi không tiếc gì tính mệnh.

Hán vương liền bước xuống đỡ tay Kỷ Tín, vừa khóc vừa nói:

– Lòng tướng quân rất mực trung thành, danh tiếng ấy muôn đời còn lưu. Chẳng hay tướng quân còn song thân chăng?

Kỷ Tín nói:

– Tôi chỉ còn hiền mẫu.

Hán vương nói:

– Người ấy tức là mẹ của Lưu Bang. Lưu Bang phải thờ phụng cho đúng đạo. Vậy tướng quân đã có vợ chưa?

Kỷ Tín nói:

– Tôi có vợ rồi.

Hán vương nói:

– Thế thì đó là chị dâu của Lưu Bang, Lưu Bang phải nuôi dưỡng. Và tướng quân hiện có con cái chăng?

Kỷ Tín nói:

– Có một đứa con còn nhỏ.

Hán vương nói ;

– Ðó là con của Lưu Bang, Lưu Bang phải vô về, nuôi nấng. Thôi, ba việc đó Lưu Bang sẽ thay tướng quân lo lắng suốt đời.

Kỷ Tín khấu đầu tâu:

– Thế thì tôi chết đã đáng lắm.

Trương Lương và Trần Bình liền thảo hàng thư, và sai người ra ngoài thành nói:

– Hán vương nay bị vây quá ngặt không dám nói đến chuyện chia đất Quan Trung. Chỉ xin ra hàng trước mặt Hạng vương, mong Hạng vương không giết, thế là may rồi.

Quân Sở nghe nói liền báo với Hạng vương. Hạng vương truyền cho sứ giả vào hầu.

Sứ giả trình hàng thư, Hạng vương mở ra xem, thư rằng:

Hán vương khấu đầu dâng thư dưới trướng.

Hạ thần đội ơn Ðại vương phong làm vua Hán Trung, chẳng may đến đó không quen thủy thổ, nên muốn về Ðáng sống nơi quê nhà. Nhờ lòng người hùa theo, nên lấy được Quan Trung. Chẳng ngờ bị thua trận Tuy Thủy.

Từ ấy đến nay lòng đã khiếp uy Ðại vương ; cố thủ nơi Huỳnh Dương làm chỗ nương thân bảo tồn tánh mạng chẳng dám nghĩ việc gì khác. Ðến như Hàn Tín, sanh đánh phương Ðông đều là bởi tự ý hắn, gọi hắn không về, đuổi hắn không đi thật không phải là tội của Bang này. Nay Ðại vương kéo quân đánh thành Thành sắp vỡ, uy trời khó tránh hạ thần thuận theo lời khuyên của văn võ trói mình ra hàng, mong được khỏi chết. Xin Ðại vương nghĩ tình ngày xưa, cùng dấy binh khởi nghĩa mà tha chết cho Bang những tội đã rồi“.

Xem thư xong Hạng vương hỏi rằng:

– Bao giờ lưu Bang mới ra thành đầu hàng?

Sứ giả thưa:

– Ðêm nay xin ra.

Hạng vương cho sứ giả về, rồi truyền rằng:

Lúc nào Hán vương ra đầu hàng, các ngươi phải phục sẵn đao phủ, bằm thây Hán vương ra trăm mảnh, như thế ta mới hả giận

Các tướng tuân lệnh, bố trí đâu đó sẵn sàng.

Ðêm ấy, Trương Lương và Trần Bình bàn với Hán vương:

– Ðại vương nên mặc thường phục cỡi ngựa mạnh, văn võ bá quan cũng phải nai nịt cho gọn gàng, chỉ để Tung Cung, Chu Hà ở lại giữ thành, còn Kỷ tướng quân mặc long bào, ngồi đong xa của Ðại vương, kéo nhau ra thành.

Sắp sửa xong, trời vừa sầm tối, Trương Lương truyền lệnh mở cửa thành phía Ðông, trước hết cho một đoàn phụ nữ lối hai ngàn người lục tục kéo ra.

Quân Sở trông thấy báo với Hạng vương. Hạng vương vừa cười vừa nói:

– Lưu Bang thật là đứa háo sắc, một mình mà chiếm đến bấy nhiêu con gái thì còn làm được trò gì?

Trong lúc đoàn mỹ nữ lũ lượt réo ra cửa Ðông, quân Sở xầm xì bảo nhau, rồi khắp các cửa thành, đều đổ dồn về cửa Ðông, chen lấn nhau xem. Tướng Sở thấy vậy cũng không có cách nào cản được quân mình.

Giữa lúc đó, Hán vương và các văn võ, tướng sĩ đem nấy tên quân kỵ lẻn ra cửa Tây, hướng về lối Thành Cao lánh nạn.

Ðoàn mỹ nữ cứ ung dung tiến từng bước một. Gần hết canh hai mới ra khỏi thành, tiếp đến là đội quân kỳ, rồi đến một chiếc long xa.

Kỷ Tín ngồi chễm chệ bên trong xung quanh cờ lọng kín mít.

Khi gần đến trước mặt Hạng vương, Kỷ Tín không lạy, cũng không nói gì đến chuyện đầu hàng cả.

Hạng vương nói giận hét:

– Lưu Bang say rượu, chết ngất trong xe rồi chăng? Tại sao thấy ta mà không xuống xe bái yết?

Bọn tả hữu cầm đuốc soi vào long xa.

Kỷ Tín vẫn ngồi chễm chệ, không cử động.

Chúng hỏi:

– Tại sao Hán vương không nói?

Kỷ Tín trợn mắt hét lớn:

– Ta là Kỷ Tín chứ không phải Hán vương. Hán vương đã kéo quân ra khỏi Huỳnh Dương để họp với chư hầu, đến Bành Thành, quyết một trận sống mái với Sở.

Tả hữu thất kinh, báo với Hạng vương:

– Người ngồi trong xe đó không phải Hán vương mà là Kỷ Tín.

Ðoạn, đem lời nói của Kỷ Tín thuật lại.

Hạng vương thở dài, nói:

– Hán vương đi trốn là chuyện thường, nhưng Kỷ Tín dám thay vua chịu chết, đó là việc hiếm có. Ta thu phục biết bao văn võ tướng, nhưng chưa có ai trung hậu như vậy.

Liền gọi Quý Bố đến bảo:

– Ngươi ra bảo Kỷ Tín hàng ta, ta rất yêu lòng trung nghĩa của hắn.

Quý Bố vâng lệnh bước ra nói với Kỷ Tín:

– Ông chịu chết thay Lưu Bang kẻ trung liệt như vậy thật hiếm có. Bá vương thương tình không nỡ giết, ông nên cảm ơn đức ấy xuống xe quy hàng sẽ được phong trọng tước.

Kỷ Tín trợn mắt nói lớn:

– Ðại trượng phu một lòng thờ chúa, dẫu chết không màng. Ta sống làm tôi nhà Hán, chết làm ma nhà Hán, đời nào chịu đầu Sở mà ngươi dụ dỗ.

Hạng vương biết không thể làm đổi lòng kẻ trung liệt, liền ra lệnh tên quân cầm đuốc đốt xe. Trong khói lửa, người ta còn nghe giọng chửi mắng của Kỷ Tín vang xa rõ rệt.

Lửa tắt, khói tan, người và xe đều cháy ra tro cả.

Kỷ Tín chết rồi Hạng vương truyền Quý Bố, Long Thư lãnh bốn vạn quân đuổi theo Hán vương.

Hồi 31 – Ðánh Huỳnh Dương, quân Sở giết Trung Thu

Quý Bố và Long Thư đốc quân đuổi theo Hán vương hơn ba ngày, quân sĩ đều đã mỏi mệt mà vẫn không bắt được. Hai tướng bèn đóng quân nơi Trịnh thôn, rồi sai người dò la tin tức.

Bỗng có quân báo:

– Hán vương đã vào Thành Cao, hai đạo cứu binh của Anh Bố và Bành Việt đã tới yểm hộ.

Quý Bố bàn với Long Thư:

– Hán vương đã chạy thoát, chúng ta nên trở về Bành Thành báo lại, tùy ý Bá vương định liệu.

Long Thư khen phải. Hai người dẫn quân về ra mắt Hạng vương thuật lại mọi điều.

Hạng vương nói:

– Bành Thành hiện giờ không có người giữ, mà đánh Thành Cao cũng không thể phá vỡ ngay được. Chi bằng ta hãy lấy Huỳnh Dương đi đã rồi kéo về Bành Thành chỉnh đốn binh mã, phá Thành Cao bắt Lưu Bang cũng chưa muộn.

Nói xong, Hạng vương truyền lệnh quân sĩ đánh Huỳnh Dương, hạn trong năm ngày phải phá vỡ.

Ba quân vâng lệnh, công phá bốn mặt thành, chiêng trống ầm ĩ, pháo nổ vang trời.

Trong thành, Chu Hà và Trung Thu cố sức chống giữ. Vì vậy quân Sở vây đã năm ngày mà không phá nổi cửa thành.

Giữa lúc đó có một người gia nhân của Ngụy Bá đến nói với Trung Thu và Chu Hà:

– Hán vương bỏ thành lánh nạn, tức đã xem Huỳnh Dương là chỗ bỏ đi rồi. Bây giờ hai ngươi cố thủ cũng chẳng ích chi. Nếu thành vỡ, hai người không khỏi chết.

Trung Thu và Chu Hà nổi giận mắng:

– Ngươi là đứa tiểu nhân, biết gì mà dám bàn đến việc nước! Chúa thượng lúc đi đem thành Huỳnh Dương giao lại cho hai ta, đó là Chúa thượng tin ở hai ta có thể giữ thành được. Nếu đem thành hàng địch còn chi là danh tiếng.

Mầy đã có ý bất trung như vậy thì để làm gì.

Liền bắt người đó chém đầu bêu ở mặt thành và truyền lệnh rằng:

– Người nhà Ngụy Báo toan làm nội ứng cho quân Sở nên bị tôi chém. Các ngươi phải hết lòng giữ thành chớ nản chí.

Quân sĩ đều nói:.

– Xin hai ngài cố lòng chống giữ, chúng tôi quyết không sợ chết.

Bên ngoài Hạng vương thấy thấy quân Hán cố chí giữ thành, lại càng tức giận, truyền các tướng phải đốc quân phá thành ráo riết.

Quá mười ngày thành vẫn chưa phá được.

Hạng vương liền đòi Hạng Bá, Chung Ly Muội đến hỏi:

– Thành Huỳnh Dương đánh mãi không được, các ngươi có mưu kế gì chăng?

Hạng Bá nói:

– Phép đánh thành cần nhất ở lòng quân. Nếu quân quyết tử thì thành phải vỡ. Ðại vương đốc quân đoạt các vọng canh đốt lửa làm cho trong thành rối loạn tất quân địch không còn giử được nữa.

Hạng vương theo lời đốc xuất ba quan bắc thang trèo lên thành.

Trên thành gạch đá lăn xuống tới tập, quân Sở muốn lui, Hạng vương giận lắm, bắt các tướng ai nấy phải cầm gươm nơi tay hễ tên quân nào lùi bước, lập tức chém phăng.

Quân Sở ở trong thế cùng, tiến cũng chết, lùi cũng chết, nên ùa nhau trèo lên thang. Lớp trước chết, lớp sau thay vào.

Trong thành không còn giữ nổi, hàng ngũ lộn xộn, Quý Bố và Chung Ly Muội thừa thế phá vỡ góc thành Ðông, dẫn quân tiến vào như nước lũ.

Trung Thu bị quân Sở bắt sống. Chu Hà chống không lại bỏ chạy ra cửa thành Tây.

Long Thư phi ngựa đuổi theo đến một nơi rừng rậm, Chu Hà dừng ngựa quay lại đánh.

Long Thư gọi:

– Chu Hà! Hán vương đã bỏ trốn, thành Huỳnh Dương đã bị vỡ nhà ngươi chống cự với ta mà ích gì?

Chu Hà đáp:

– Làm con chết vì hiếu, làm tôi chết vì trung. Thành bị vỡ, ta đã xấu hổ lắm rồi, còn cúi đầu hàng giặc thì mặt mũi nào sống trong trời đất.

Nói xong, vung giáo chém Long Thư. Hai bên đánh nhau dữ dội. Quân Sở kéo đến vây Chu Hà vào giữa.

Chu Hà đuối sức bị Long Thư bắt sống đem về nạp cho Hạng vưong.

Ðồng thời, Chung Ly Muội cũng dẫn Trung Thu đến.

Hạng vương khuyên hai tướng đầu hàng. Nhưng hai tướng không nghe, chửi mắng ầm ĩ.

Hạng vương nổi giận truyền đem chém.

Sau khi đã kéo đại binh vào Huỳnh Dương, Hạng vương vẫn chưa nguôi giận, muốn giết tất cả dân chúng trong thành.

Hạng Bá can:

– Việc đó không nên làm! Cái mà Ðại vương đang tranh giành là dân là đất lại đốt phá, hủy hoại, thì còn có ai phục mình. Vả lại đối thủ của Ðại vương là Lưu Bang chứ đâu phải dân chúng? Bây giờ Ðại vương phải tìm cách vỗ về thăm hỏi khiến cho họ được an lòng. Sau đó kéo quân sang Cao Thành, chẹn hẳn đường về của Lưu Bang thì Lưu Bang phải hàng. Lúc đó, sai quân đi cứu nước Tề để làm vây cánh cho mình tranh hùng trong thiên hạ

Hạng vương nghe lời đóng quân nơi Huỳnh Thành hai ngày rồi kiểm điểm binh mã đi đánh Thành Cao.

Nhắc lại Hán vương bỏ Huỳnh Thành chạy đến Thành Cao chưa được bao lâu đã có tin Hạng vương cử binh đến đánh.

Hán vương đòi Trương Lương và Trần Bình đến hỏi:

– Hàn Tín, Trương Nhĩ đóng ở đất Triệu đã lâu, nghe ta bị nguy khốn nơi Huỳnh Dương cũng không đem quân về cứu. Vừa rồi ta có sai người đi lấy binh mã của Anh Bố, Bành Việt nhưng cũng không thấy về. Nay có tin Huỳnh Dương bị vỡ, Trung Thu và Chu Hà đều chết, Hạng vương lại cử đại binh đến đây biết làm thế nào?

Trương Lương đáp.

– Người đi lấy quân Anh Bố và Bành Việt đã gần một tháng nay, tất nay mai về đến. Bây giờ Ðại vương nên sai người giả cách đem quân đánh Bành Thành để làm thanh thế. Hạng vương hay tin Bành Thành bị đánh chắc không dám ở đây lâu ấy là kế giải cứu cho Thành Cao đó.

Hán vương liền sai Vương Lăng trở về Bái huyện thăm mộ phần của lão mẫu để được an lòng. Ðồng thời cấp cho Vương Lăng năm nghìn tinh binh, theo đường tắt kéo đến Bành Thành.

Vương Lăng lãnh quân đi được vài ngày, quân Sở kéo đến Thành Cao, hạ trại cách hai mươi dặm, rồi phân phối bốn mặt thành đánh phá một lượt.

Hán vương vì đã hay tin trước nên phòng bị, chế ra một số chiến xa, theo thể thức của Hàn Tín, dựng lên bốn mặt thành rất kiên cố.

Hạng vương thấy vậy không dám hỗn chiến, chỉ sai quân giương cờ, nổi trống để thị uy mà thôi.

Qua ba ngày đánh phá, Hạng vương chưa thu được một thắng lợi nào, thì bỗng có tin Vương Lăng dẫn quân đánh Bành Thành rất gấp.

Hạng vương còn đang suy tính thì lại có tin báo:

– Bành Việt đã kéo quân đến chặn mất đường vận lương của Sở. Hiện mười bảy phủ, huyện ở Ngoại Hoàng đều hàng phục Bành Việt cả rồi

Hạng vương thất kinh, toan tập hợp các tướng để nghị kế, thì lại có quân báo nữa:

– Anh Bố đã kéo quân qua Nam Hán, còn cách Thành Cao không xa mấy.

Trong một lúc tiếp luôn ba tin quan trọng như vậy làm cho Hạng vương bối rối, liền gọi Hạng Bá và Chung Ly Muội đến nói:

– Thành Cao chưa thể lấy được, Bành Thành đang bị bao vây, quân Anh Bố lại kéo đến, biết làm thế nào?

Hạng Bá nói:

– Tình thế này không thể đánh Thành Cao được nữa. Ðêm nay nên lui ra Ngoại Hoàng đuổi Bành Việt cướp lại đường vận lương, rồi chia quân ra hai ngả. Một mặt chống với Anh Bố, một mặt về cứu Bành Thành. Ðó là cái kế cứu nguy, xin Ðại vương xét lại.

Hạng vương theo lời, liền truyền lệnh ngay đêm đó nhổ trại giải binh và gọi Tào Cửu đến dặn:

– Sau khi ta lui rồi, Hán vương tất sợ ta lại đến, nên có thể bỏ Thành Cao mà ra. Ta giao cho ngươi một vạn quân, phục sẵn ngoài thành, thừa lúc Hán vương ra rồi kéo vào cướp thành. Nếu Hán vương có trở lại thì cứ đóng cửa thành cố thủ, chờ ta đem đại binh đến sẽ làm thế nội ứng ngoại hiệp.

Tào Cửu vâng lệnh, lãnh quân sang phía Tây Thành Cao mai phục.

Ðêm đó quân Sở rút đi hết. Hán vương hay tin liền đòi Trương Lương, Trần Bình vào hỏi:

– Quân Sở đột nhiên rút đi, là cớ gì vậy?

Trương Lương nói:

– Ðó là vì việc Vương Lăng đánh Bành Thành, Anh Bố qua Nam Hán, Bành Việt chiếm Ngoại Hoàng, Hạng vương phải đối phó các mặt đó. Bây giờ Ðại vương nên bỏ Thành Cao sang Triệu họp với Hàn Tín cùng về đánh lấy Huỳnh Dương, luyện tập binh mã chờ ngày đánh Sở.

Hán vương khen phải. Trương Lương nói tiếp:

– Nếu Ðại vương đã quyết định bỏ thành thì nên đi ngay, nếu chậm trễ e phục binh Sở đón đánh thì nguy.

Hán vương liền sai Chu Bột, Sài Vũ lãnh năm ngàn quân đón ở mặt Tây Thành Cao, rồi mới dần dần cho quân xuất phát.

Tào Cửu được tin quân Hán bỏ thành, toan đốc quân truy nã. Bỗng có thám tử về báo:

– Hiện có Chu Bột, Sài Vũ đóng quân ở phía Tây thành.

Tào Cửu không dám đuổi theo, kéo quân vào thành phủ dụ trăm họ, rồi kiên thủ thành trì.

Giữa lúc đó, Hán vương đem đại binh đến đánh thành Triệu, đóng quân hạ trại.

Riêng Hán vương tự mình dẫn mấy kỵ binh thẳng đến dinh Hàn Tín.

Bây giờ trời mới mờ mờ sáng, Hàn Tín, Trương Nhĩ vì đêm uống rượu say quá, ngủ chưa dậy, Hán vương rảo bước vòng trong dinh một lúc, rồi thẳng đến giường nằm của Hàn Tín. Chợt thấy nơi đầu giường có cái yên đỏ, trên yên để chiếc ấn soái.

Hán vương đưa tay nhặt chiếc ấn thì Hàn Tín cũng vừa chợt giấc thức dậy.

Nhìn thấy Hán vương, Hàn Tín thất kinh, vội đứng dậy tạ tội:

– Tôi không biết Ðại vương vào dinh, không kịp nghênh tiếp, thật đáng tội.

Hán vương nói:

– Bao nhiêu con ngựa vào dinh, đi rảo một vòng, thẳng đến trung quân, Nguyên soái vẫn chưa dậy, chiếc ấn soái bị mất mà Nguyên soái vẫn không hay. Nếu có thích khách giả dạng vào đây thì họ lấy đầu Nguyên soái không khó?

Hàn Tín thẹn đỏ mặt, không nói được nửa lời. Một lúc sau, Trương Nhĩ cũng vào khấu đầu xin lỗi.

Hán vương nói:

– Ngươi làm Phó tướng, phải hợp sức giúp việc quân, ngày đêm canh phòng cẩn mật. Nay ngươi để cho người ngoài tự do vào trong dinh mà không hay biết gì thì thật thậm tệ. Theo quân pháp, Hàn Tín phải bị cách chức đuổi đi, còn ngươi thì phải bị chém đầu răn chúng. Tuy nhiên, nghĩ các ngươi đã lập được nhiều công khó, vả lại, trong thiên hạ đương cần nhân tài, vậy ta tha cho. Nếu sau này còn sơ xuất, không tránh khỏi tội.

Nói xong, Hán vương cầm chiếc ấn soái về cung.

Hàn Tín và Trương Nhĩ cũng lên ngựa theo sau.

Hán vương liền thiết triều, phán giữa bá quan văn võ:

– Hàn Tín và Trương Nhĩ điều binh không phép tắc. Ta cỡi ngựa vào dinh thu mất ấn soái mà vẫn không hay. Nếu có quân giặc thừa cơ lẻn vào thì làm thế nào? Bây giờ ta muốn đổi hai người ấy lập kẻ khác làm tướng.

Trương Lương ghé vào tai Hán vương tâu:

– Việc đó không nên! Các tướng trong nước Hán không ai tài bằng Hàn Tín. Ðây chỉ là một lỗi nhỏ, chẳng lẽ vì lỗi nhỏ ấy mà bỏ tài lớn! Xưa nước Vệ có một viên tướng tên Tuân Nhiếp lấy của dân hai quả trứng. Vua Vệ muốn bỏ không dùng. Từ Tư can rằng: “Thánh nhân dùng người ví như thợ khéo dùng gỗ, phải bỏ chỗ xấu mà lấy chỗ tốt. Cho nên, cây kỷ, cây tử lớn hàng một ôm, dẫu có chỗ mục vài tấc thợ giỏi cũng không chịu bỏ”. Nay Chúa thượng đang ở trong thời chinh chiến, lẽ nào vì cái lỗi nhỏ kia mà bỏ mất một tướng tài.

Hán vương liền đòi Hàn Tín và Trương Nhĩ vào hỏi:

– Ta bị vây ở Huỳnh Dương, bị khốn nơi Thành Cao, thế mà các ngươi điềm nhiên tọa thị, rượu chè túy lúy không nghĩ đến việc nước, không hiểu đến nguy cơ là ý làm sao?

Hàn Tín tâu:

– Yên, Tề là chỗ biến trá, nay thế này, mai thế khác, nếu đại binh kéo đi sợ chúng nổi loạn. Vả lại, gần đây tôi mới được tin Ðại vương bị khốn nơi Huỳnh Dương nhưng chưa rõ hư thực ra sao?

Hán vương lại hỏi:

– Nước Triệu đã đánh vỡ rồi, mà nước Tề mãi không hạ được là vì lẽ gì?

Hàn Tín tâu:

– Quân dùng nhiều thì mỏi mệt, tướng đóng lâu thì trể nải. Tôi đem mấy vạn quân phá Triệu, thu Yên vừa xong, thiết nghĩ cũng nên cho quân sĩ nghỉ ngơi để bồi dưỡng thực lực. Gần đây, tôi đã tính việc đánh Tề, chẳng ngờ Ðại vương lại đến. Vậy xin Ðại vương đợi vài ngày tôi sẽ kéo binh sang dẹp Tề. Còn Ðại vương nên đóng quân ở Tu Vũ và lấy lại Thành Cao. Sau khi tôi định được nước Tề xong sẽ họp binh đánh Sở.

Hán vương nhận lời, giao trả ấn soái cho Hàn Tín, phong Trương Nhĩ làm Triệu vương đóng đồn giữ đất Triệu. Còn mình thì dời binh sang đóng ở Tu Vũ.

Một hôm, Lịch Sinh đến yết kiến Hán vương, nói:

– Ngày xưa, vua Thanh đánh vua Kiệt, vua Vũ đánh vua Trụ đều phong cho con cháu những nước bị đánh làm vua. Ðến lúc nhà Tần thâu phục chư hầu mới hủy diệt xã tắc của họ. Nay nếu Ðại vương noi gương Thang, Vũ, lập con cháu “sáu nước bị mất” lên làm vua, thì đức và vương của Ðại vương sẽ rải khắp thiên hạ. Tôi chắc Hạng vương cũng sẽ khép vạt áo về chầu Ðại vương.

Hán vương thích lắm sai thợ khắc ấn sáu nước và sai Lịch Sinh đem ấn đi tìm con cái, dòng dõi chư hầu mà phong.

Nhưng, Lịch Sinh chưa đi, Trương Lương đã đến chầu.

Bấy giờ Hán vương đang ăn, thấy Trương Lương, vội đem việc đó kể lại.

Trương Lương thất kinh, nói:

– Ai bày cho Ðại vương cái mưu kỳ dị đó? Vua Thang, vua Vũ phong cho con cháu Kiệt, Trụ là vì vua Thang vua Vũ đủ sức làm chủ sự sống chết của họ. Còn Ðại vương có thể làm chủ được Hạng vương chăng? Vả lại các du sĩ trong thiên hạ theo Ðại vương là cốt muốn được hưởng mỗi người vài mảnh đất nào đó. Nếu Ðại vương lại lập con cháu chư hầu thì ai còn theo giúp Ðại vương nữa. Hễ dùng mưu đó, cơ nghiệp của Ðại vương tất tiêu tan.

Hán vương nghe nói, nhả miếng cơm trong miệng ra, mắng Lịch Sinh:

– Nếu Tiên sinh không đến kịp, ta đã nghe lời rồ dại kia làm hỏng việc lớn rồi.

Liền truyền lệnh hủy bỏ ấn sáu nước đi.

Lịch Sinh bị mắng, xấu hổ lui ra.

Cách vài ngày sau, Trương Lương tìm đến nói với Lịch Sinh:

– Câu chuyện bữa trước, tôi thực tình vì nước, chứ không có ý riêng. Tôi cũng không ngờ đó là ý của Tiên sinh, về sau biết được, lòng tôi áy náy. Vả lại, bàn việc phải xét kỹ mọi liên hệ thực tế mới khỏi lầm lẫn. Nhà Hán tuy đã lấy được nửa đất của Sở, nhưng Hạng vương thế lực vẫn còn mạnh lắm. Nếu ta phong cho sáu nước chư hầu, chẳng khác nào ta tự chi phối lấy lực lượng của ta để trao về tay địch. Tiên sinh chỉ thấy cái chỗ Hán với Thang, Vũ giống nhau, mà không thấy cái chỗ Hán với Thang, Vũ khác nhau.

Lịch Sinh cung kính đáp:

– Tôi sơ ý, xin vâng lời dạy của Tiên sinh.

Cách đó vài hôm, Lịch Sinh lại hỏi Trương Lương:

– Sở đã chiếm được Huỳnh Dương mà lại bỏ kho Ngao Sương không lấy. Tôi muốn tâu với Chúa thương quay về lấy Huỳnh Dương có nên chăng?

Trương Lương nói:

– Ý kiến ấy rất hay. Tiên sinh mau đến bàn với Chúa thượng.

Lịch Sinh liền cùng với Trương Lương ra mắt Hán vương và nói:

– Vua lấy dân làm gốc, dân lấy “cái ăn” làm đầu.

Kho Ngao sương ở Huỳnh Dương thiên hạ vẫn chở vào tích trữ đã lâu, nghe rằng trong đó còn rất nhiều quân nhu. Nay Sở chiếm Huỳnh Dương mà không cố giữ kho Ngao sương, lại vội kéo quân sang Ðông, đó là trời muốn đem kho Ngao sương giúp cho nhà Hán ta vậy. Xin Ðại vương cướp lấy Ngao sương rồi chọn chỗ hiểm ở Thành Cao cấp đường Thám Hàng, đóng cửa Phi Hồ, giữ bến Bạch Mai, chiếm cái thế “binh thắng” của chư hầu thì thế chiến sẽ nghiêng hẳn về ta.

Hán vương quay lại hỏi Trương Lương:

– Lời bàn ấy thế nào?

Trương Lương tâu:

– Ðó là kế rất hay.

Hán vương liền ra lệnh kéo binh đến lấy Huỳnh Dương.

Hồi 32 – Ðuổi Bành Việt, Hạng vương chiếm Ngoại Hoàng.

Hạng vương, sau khi bỏ Thành Cao, kéo về Bành Thành thì Vương Lăng đã đốc quân vây hơn mười ngày rồi.

Ðược tin Hạng vương trở về, Vương Lăng lập tức rút quân theo đường tắt kéo sang Huỳnh Dương.

Hạng vương không đuổi theo, dẫn quân vào thành an ủi cung quyến, rồi mở tiệc khao quân.

Bỗng có tin báo:

– Bành Việt lấy hết mười bảy thành nước Lương hiện đang đóng nơi Ngoại Hoàng.

Hạng vương nổi giận nói:

– Ngày trước ta đóng quân ở Huỳnh Dương, bị Bành Việt chặn đường vận lương, thù ấy chưa nguôi, nay hắn lại cướp đất Lương, ta quyết không dung mạng.

Hạng Bá và Chung Ly Muội đồng nói:

– Ðại vương chinh chiến lâu ngày mỏi mệt, cử để Long tướng quân thay Ðại vương sang đánh mặt Ðông cũng được. Chúng tôi liệu Bành Việt là đứa dũng phi, không thể làm nên việc lớn.

Hạng vương nói:

– Không phải vậy. Hiện nay Hàn Tín đánh Tề rất ngặt, Ðiền Quảng đã mấy lần sai người cầu cứu. Ta muốn để Long Thư đem quân cứu Tề, còn Bành Việt lấn cướp đất Lương chính ta phải trừng trị mới đặng. Hôm sau, Hạng vương điểm binh mã kéo đến Ngoại Hoàng.

Quân thám thính vế báo, Bành Việt liền sai người dò xét xem binh Hạng vương kéo sang đường nào.

Sau khi dò biết quân Hạng vương kéo sang đường Ðông, các quận, huyện gần đó đều hàng Sở, Bành Việt liền gọi Loan Bố và các tướng vào thương nghị.

Loan Bố nói:

– Hạng vương tự mình cầm quân đến đây, khí thế mạnh lắm, ta không địch nổi. Chi bằng bỏ Ngoại Hoàng, leo lên phía Bắc giử Cốc Thành, chờ lúc quân Sở rút về ta lại cướp lấy đất Lương, đó là thượng sách. Còn nếu muốn đánh với Sở phải hợp sức với Hán đó là trung sách. Bằng lấy sức riêng mình chọi với Sở, đó là hạ sách.

Bành Việt nói:

– Nếu vậy thì chạy ra Cốc Thành là hơn, nhưng phải giao cho phó tướng Chu Thư và Ngoại Hoàng lệnh là Cừu Minh ở lại thủ thành, để quân địch khỏi biết việc ta lui quân.

Loan Bố nói:

– Kế ấy rất hay. Nhân lúc quân Sở chưa đến ta nên di quân mới giữ nổi bí mật.

Cừu Minh nói:

– Việc di quân để tránh hỏa lực của địch là phải lẽ. Song nếu một mai thành này thất thủ, dân chúng không khỏi bị Hạng vương chém giết.

Cừu Minh vừa nói dứt lời. thì bên cạnh có một tiểu tử bước ra nói:

– Việc đó không lo. Nếu thành vỡ tôi sẽ dùng lời thuyết phục Hạng vương, không để cho Hạng vương giết hại dân chúng.

Bành Việt ngạc nhiên hỏi:

– Tiểu tử là con ai mà lại dám buông lời ngộ nghĩnh như vậy?

Cừu Minh thưa:

– Nó là con lớn của tôi, tên Cừu Thúc.

Bành Việt hỏi:

– Cừu Thúc năm nay bao nhiêu tuổi?

Cừu Minh nói:

– Năm nay nó vừa lên mười ba. Từ thuở lên năm, nó đã biết làm thơ rồi. Khi lên bảy thì bắt đầu đọc sách. Bất kỳ sách gì, hễ qua mắt là thuộc làu ngay. Mỗi khi có khách làm thơ, nó vẫn cùng khách xướng họa, xuất khẩu thành chương. Thường nhật, tính nó rất can đảm.

Bành Việt hỏi Cừu Thúc:

– Ngươi thuyết phục Bá vương bằng cách nào?

Cừu Thúc ghé vào tai Bành Việt nói nhỏ một hồi.

Bành Việt tươi cười nói:

– Ngươi tuy nhỏ tuổi, song tài ấy có thể cứu được dân chúng Ngoại Hoàng, sau này lắm kẻ mang ơn.

Chiều hôm sau, Bành Việt chỉnh đốn binh mã, đợi đến canh hai, mở cửa phía Bắc, kéo quân lẻn đến Cốc Thành.

Ðến nơi, Bành Việt sai các tướng đem quân chiếm các quận huyện lân cận, và lấy Xương ấp làm thủy giác.

Cách đó mười ngày, quân Hạng vương mới kéo đến Ngoại Hoàng thấy trên thành cờ xí nghiêm chỉnh, bốn cửa đóng chặt, nhưng bên trong vắng bóng, không có một tên quân nào đi lại.

Hạng vương không hiểu cớ sự ra sao, truyền lệnh an dinh hạ trại, để dò thám tin tức.

Quân sĩ dò ngóng ba hôm, cũng chẳng thấy động tịnh gì cả.

Hạng Bá nói với Hạng vương:

– Chắc là Bành Việt bị cô thế nên làm ra cách “dĩ hư vi thiệt” để cho ta nghi ngờ không dám đánh thành.

Hạng vương khen phải, truyền lệnh ba quân ra sức công phá.

Trống khua dậy đất, pháo nổ vang trời, dân chúng trong thành khiếp sợ, kéo đến ra mắt Cừu Minh, và nói:

– Một cơn tức giận của Bá vương có thể làm cho lửa cháy hàng ngàn dặm. Ðiều đó ai cũng biết. Nay tướng quân cố thủ thành trì, rủi mai kia bị vỡ Hạng vương sẽ tức giận bằm thây bọn ngu dân này muôn mảnh. Bọn ngu dân chúng tôi tội tình gì chịu cảnh binh đao. Xin tướng quân mở cửa quy hàng, may ra Hạng vương nguôi giận tha cho chúng dân được sống sót.

Cừu Minh thấy dân chúng khóc lóc, động lòng, truyền lệnh treo cờ hàng, bốn cửa đều bày hương án, rồi lên thành nói vọng ra:

– Ngoại Hoàng nguyên là đất Sở, đâu dám chống đại binh trời, chúng tôi xin rước xa giá Ðại vương vào thành.

Hạng vương nghe nói, liền đốc quân kéo vào.

Sau khi đã an bài, Hạng vương đòi Hạng Bá đến nói:

– Ngoại Hoàng bị vây mấy ngày mới chịu đầu hàng, đó là thói đáng ghét. Ta muốn bắt tất cả đàn ông đàn bà từ mười lăm tuổi trở lên, đem đào hố chôn sống cho bõ ghét.

Dân chúng hay tin ấy kêu khóc ầm ĩ. Cừu Thúc vội đến trước mọi người nói:

– Chớ nên làm huyên náo như vậy Hạng vương biết được càng giận, chẳng ích chi. Ðể tôi đến nói với Bá vương cho.

Cừu Thúc liền đến trước cửa dinh, xin vào yết kiến Hạng vương.

Hạng vương truyền cho vào. Thoạt trông thấy một đứa bé mặt mũi khôi ngô, ung dung đi đến, Hạng vương liền hỏi:

– Mày là đứa trẻ miệng chưa ráo sữa, sao dám đường đột đến cửa quân, không sợ ta sao?

Câu Thúc tươi nét mặt, đáp:

– Tôi là con đẻ của Ðại vương. Ðại vương là cha mẹ của tôi. Con đến yết kiến cha mẹ sao lại sợ?

Hạng vương nghe câu nói lạ, lòng khoan khoái, hỏi:

– Ồ! Con không sợ quân uy vào đây hầu ta, muốn nói chi chăng?

Cừu Thúc nói:

– Tôi muốn Ðại vương đức như Vũ Thang, công như Nghiêu Thuấn, mở lòng trời đất, ban ơn hiếu sinh, khiến cho trăm họ yên vui. Còn như việc múa môi, khua mép làm thuyết khách, tính tôi không muốn.

Hạng vương nói:

– Ngươi đã không muốn làm thuyết khách, thế thì ta muốn chôn sống hết con trai, đàn ông ở thành này, ngươi nghĩ sao?

Cừu Thúc nói:

– Tôi nghe nói dân là tấm gương phản chiếu hành động của kẻ cầm quyền. Kẻ nào yêu dân, sẽ được dân yêu, kẻ nào ghét dân sẽ bị dân ghét. Trước đây Bành Việt vì bạo ngược không thương dân, nên dân không phục, tuy đầu hàng nhưng vẫn mong Ðại vương đến đây để giải thoát. Nay Ðại vương đến, dân chúng chưa kịp mừng mà Ðại vương đã có ý ấy e rằng sau này Ðại vương đi đến đâu dân chúng sợ hãi, đóng cửa thành thà chết chứ không dám đầu hàng.

Hạng vương nghe nói như tỉnh ngộ, vội ra lệnh tha chết cho dân Ngoại Hoàng, và cấm quân lính không được xâm phạm của cải họ.

Dân chúng mừng rỡ, cảm ơn Cừu Thúc khôn cùng.

Hạng vương đóng quân ở Ngoại Hoàng năm ngày.

Dân chúng mười bảy phủ huyện trước kia Bành Việt chiếm được nay lại về đầu Sở.

Sau khi bình định đất Lương, Hạng vương muốn đem quân đuổi theo Bành Việt.

Chung Ly Muội và Quý Bố can:

– Bành Việt chẳng qua như mụt ghẻ lở ngoài da, không đáng lo lắng. Nay Lưu Bang lấy Huỳnh Dương, đánh Thành Cao e rằng Tào Cửu không chống lại nổi. Ðại vương nên thừa thắng đến giải vây cho Thành Cao, lấy lại Quan Ðông, để cho quân Hán không kéo sang đây được, Hàn Tín không tiếp cứu Lưu Bang được, như thế mới toàn thắng.

Hạng vương nói:

– Trước kia ta đã dặn Tào Cửu phải cố thủ Thành Cao, chờ đại binh ta đến. Kế ấy nay vẫn còn dùng được.

Chung Ly Muội nói:

– Thế thì tôi xin lãnh một toán quân mã đi trước, đánh Huỳnh Dương, còn Ðại vương đem quân đánh Thành Cao. Hai nơi ấy dẹp đặng thì việc lớn thành công.

Hạng vương khen phải, sai Chung Ly Muội đi đánh Huỳnh Dương, còn mình đốc quân đi cứu Thành Cao.

Ở Thành Cao, từ khi quân Hán kéo đến, Hán vương sai Vương Lăng đem quân đánh thành. Tào Cửu nhất định đóng chặt cửa thành không chịu giao chiến.

Hán vương bàn với các tướng:

– Ðây chắc là kế Hạng vương dặn Tào Cửu thủ thành, chờ dẹp xong đất Lương sẽ tiếp ứng. Ta không nên trì hoãn, phải khiêu khích thế nào cho Tào Cửu ra trận.

Các tướng lãnh mệnh, ngày đêm đến dưới thành chửi rủa lắm lời thô bỉ, rồi lại vẽ hình Tào Cửu trên một miếng giấy, căng ra đánh.

Luôn ba ngày như thế, Tào Cửu tức không thể chịu nổi liền dẫn một toán quân mã, mở cửa thành kéo ra.

Quân Hán giả cách bỏ cả gươm giáo chạy trốn về phía sông Vỹ.

Tào Cửu tức giận đuổi theo. Vừa đến bờ sông, đã thấy quân Hán phục hai bên nổi dậy, đi đầu là bọn Chu Bột, Chu Xương, Lã Mã Thông, la hét vang trời.

Quân Hán ồ ạt vây Tào Cửu vào giữa, chém giết quân Sở rất nhiều.

Tào Cửu đánh phá một hồi vẫn không mở được vòng vây, lòng bối rối, nghĩ thầm:

– Ta chịu mệnh Bá vương, cố thủ Thành Cao, nay thất cơ như vầy không tránh khỏi tội.

Liền rút gươm tự sát giữa đám ba quân.

Hán vương đắc thắng, ra hiệu thu quân, kéo vào thành, bày tiệc thiết đãi các tướng.

Chợt có tin quân báo:

– Anh Bố ở Trần Lưu sang họp với Thái thú Trần Ðông đem ba vạn quân đến tiếp ứng.

Hán vương mừng rỡ nói:

– Ta đang tính việc đánh Huỳnh Dương, lo không người giữ Thành Cao, nay Anh Bố đến đây chính là dịp may.

Tức thì đòi Anh Bố vào. Anh Bố và Trần Ðông được lệnh vào yết kiến.

Hán vương nói:

– Ta vừa lấy được Thành Cao mà chưa có người trấn thủ. Nay hai người đến đây thật đúng lúc.

Anh Bố và Trần Ðông lạy tạ, lãnh thành. Và, ngày hôm sau, Hán vương kéo quân đi đánh Huỳnh Dương.

Bấy giờ, Huỳnh Dương chỉ có vài tên quan lại coi giữ quân mã lại ít ỏi. Khi hay được tin Hán vương đến đánh, Thái Thú giữ thành là Lương Ðan liền triệu tập các bô lão trong thành vào dinh, giảng dụ rằng:

– Hán vương là bậc minh quân, đạo đức, không nên chống cự. Ta muốn mở cửa thành đầu hàng, để khỏi gây tang tóc muôn dân, các ông nghĩ sao?

Các bô lão đều khen phải. Lương Ðan đem dân chúng ra ngoài thành rước đón quân Hán.

Hán vương vừa vào thành, phủ dụ dân chúng xong thì quân của Chung Ly Muội cũng vừa kéo đến.

Thám tử dò được tin đó, báo với Hán vương.

Hán vương nói:

– Chung Ly Muội kéo quân từ xa đến đây, người ngựa mỏi mệt. Ta phải đánh gấp, nếu để hắn an dinh lập trại khó mà trừ được.

Các tướng Vương Lăng, Chu Bột, Chu Xương, Quán Anh vâng lệnh lãnh mỗi người ba ngàn quân chia làm bốn đạo kéo ra thành khiêu chiến.

Lúc đó, Chung Ly Muội lập trại chưa xong, thấy quân Hán kéo ra, phải bỏ trại, chia quân chống cự.

Nhưng vì quân mã chưa định, hàng ngũ lộn xộn, đánh không lại, bị quân Hán giết rất nhiều. Quân Sở chạy tán loạn, Chung Ly Muội đành thu góp một số tàn quân trở về báo lại với Hạng vương.

Giữa lúc đó, Hạng vương cũng đã dẫn quân đến gần Thành Cao, được tin Tào Cửu tự vẫn, Thành Cao đã về quân Hán, hiện có Anh Bố và Trần Ðông trấn thủ.

Hạng vương ngần ngừ, chưa biết phải tiến, lui thế nào, thì bỗng được tin Chung Ly Muội thua ở Huỳnh Dương, binh mã tan rã gần hết.

Hạng vương thở dài, truyền đóng quân lại nơi Quảng Vũ, đề phòng quân Hán, không đánh Thành Cao nữa.

Nhắc lại Hàn Tín lúc này đóng quân ở Triệu, vì nghe tin Hạng vương chia quân, một mặt cứu Thành Cao, một mặt đánh Huỳnh Dương, nên ngại ngùng chưa dám xuất quân đánh Tề.

Tuy nhiên, cái tin Hàn Tín sắp đánh Tề đã lan tràn khắp nơi. Tề vương là Ðiền Quảng biết sớm muộn Hàn Tín cũng kéo quân đến, nên lo lắng lắm. Dân chúng nước Tề tổng hoảng sợ, ngày đêm nao núng.

Lịch Sinh ở Huỳnh Dương dò xét được tình trạng như vậy, nghĩ thầm:

– Bây giờ vua tôi nước Tề đang lúc kinh sợ, nếu ta sang đó bày tỏ lợi hại cho họ biết, chắc họ phải về hàng.

Quân Hán không phải tốn công, nhọc sức mà lấy được hơn bảy chục thành Tề, như thế công của ta chẳng nhỏ.

Nghĩ rồi, vào yết kiến Hán vương, nói:

– Nay Yên, Triệu đã hạ được rồi, duy còn có Tề chưa chịu hàng phục. Dòng dõi họ Ðiền rất mạnh, lại ở gần Sở biến trá không lường, dẫu kéo quân đến đó cũng chưa dễ phá gấp nổi. Xin Ðại vương cho tôi sang Tề, dùng ba tấc lưởi khuyên Tề hàng Hán.

Hán vương nói:

– Nếu Tiên sinh có thể thuyết phục được Tề hàng Hán, tránh nạn binh đao thật là phúc cho sinh linh. Vậy nhân lúc Hàn Tín chưa dấy binh, Tiên sinh nên đi ngay mới được.

Nói xong, Hán vương thảo chiếu, giao cho Lịch Sinh sang Tề.

Lịch Sinh sắp đặt hành trang, lên đường thẳng đến nước Tề, không vào quán trọ, đến vương phủ mượn người vào tâu với Tề vương rằng:

– Có người sứ giả bên Hán đến xin ra mắt, nói về việc lợi hại giữa hai nước, tránh nạn binh đao cho dân chúng.

Tề vương cho vào. Lịch Sinh ung dung bước vào chánh điện, nghênh ngang như chỗ không người.

Tề vương tức giận nói:

– Nhà ngươi vào đây lẽ phải giữ lễ tôi thần, cớ sao ngông nghênh như thế?

Lịch Sinh nói:

– Hiện nay Hán vương có hàng trăm vạn binh mã, lại thêm Hàn Tín đóng quân nơi nước Triệu, sắp sửa kéo sang diệt nước Tề. Dân nước Tề như cá nằm trong chậu, chiếc ngai vàng của Ðại vương chẳng bao lâu sẽ mất. Tôi đến đây là muốn cứu nước Tề thoát khỏi cảnh binh lửa, chứ không ích lợi gì cho tôi. Nếu Ðại vương nghĩ đến nước mất nhà tan thì cùng tôi bàn bạc, bằng không thì cứ giết tôi đi, tôi có cần gì phải quỳ lụy ai.

Tề vương nói:

– Nước Tề ta đất vuông nghìn dặm, quân mã dồi dào, lương thực sung túc, phía Nam ngăn được nước Sở, phía Bắc chống được nước Yên, trong có văn thần coi việc chính trị, ngoài có tướng mạnh giữ yên bờ cõi. Cứ như tình thế này, nước Tề ta đông đô nghỉ quân, lặng xem những cuộc được thua của thiên hạ, việc gì mà phải lo?

Lịch Sinh cười lớn nói:

– Ðại vương tự dối lòng mình, ìấy cái an bề ngoài trấn áp cái nguy bên trong. Xin Ðại vương xét thử Ðại vương với Bá vương ai mạnh hơn? Ðến như Bá vương mà vẫn không giữ nổi Quan Trung, chạy đến Bành Thành cũng chẳng yên thân, đất cát chư hầu bị mất gần hết, huống chi Ðại vương chỉ có mảnh đất vuông nghìn dặm chống sao lại với Hán?

Tề vương trầm tư không đáp. Lịch Sinh nói tiếp:

– Ðại vương tự liệu thiên hạ sắp về ai?

Tề vương đáp:

– Cái cơ trời không thể biết trước được.

Lịch Sinh nói.

– Ðại vương không xét nổi cơ trời, thảo nào Ðại vương trách tôi là vô lễ. Cứ như lẽ thường trong vũ trụ, kẻ nào được lòng dân là kẻ ấy được thiên hạ. Hạng vương tuy có sức mạnh nhưng lòng dân không phục. Hán vương tuy thiếu sức, nhưng đức lượng có thừa, một lời nói có thể thu phục hàng ngàn người. Thử hỏi, sức mạnh liệu có chống nổi với đạo đức chăng? Vả lại, qua mấy trận giao tranh Hạng vương lần lần mất uy thế, dân chúng từ từ rời bỏ, đất đai hẹp dần, còn Hán vương từ thế yếu chuyển qua thế mạnh, thiên hạ một lòng ngưỡng vọng xem thế thì thấy cái thắng của Hán vương đã hiện rõ ra trước mặt.

Tôi tưởng như Ðại vương ngày nay cũng nên sớm đầu Hán để giữ lấy cơ nghiệp nước Tề, tránh cho dân chúng khỏi vì sự nông cạn của Ðại vương mà mang họa đao binh.

Tề vương nghe dứt câu, đứng dậy xin lỗi, và nói:

– Tiên sinh đến đây thật quả vì nước Tề. Vừa rồi ta thất lễ với Tiên sinh, xin Tiên sinh tha thứ cho. Vậy xin dám hỏi Tiên sinh một lời: “Muốn hàng Hán phải làm thế nào?

Lịch Sinh nói:

– Ðại vương cứ thảo hàng biểu đưa sang cho Hán vương. Tôi ở lại đây đợi Hán vương đến sẽ bàn sự giao hảo giữa hai nước.

Mưu sĩ Ðiền Hoành ngồi bên cạnh, thấy vậy đứng dậy nói với Tề vương:

– Ta không nên vì ý thức hàng Hán mà để trễ biếng quân binh. Hiện nay Hàn Tín đồn binh nơi nước Triệu, phỏng nay mai Hàn Tín kéo binh đến thì làm sao?

Lịch Sinh nói:

– Tôi đến đây do chiếu chỉ của Hán vương, không phải tự ý mình. Hàn Tín làm gì dám trái lệnh vua?

Tề vương nói:

– Nếu vậy Tiên sinh viết cho Hàn Tín một bức thư, bảo phải thu quân tin ta mới tin lời đặng.

Lịch Sinh vâng lời viết một phong thư, sai người sang nước Triệu đưa cho Hàn Tín.

Hàn Tín đóng quân ở nước Triệu đã lâu ngày, tính việc đánh Tề, bỗng có sứ giả của Lịch Sinh sai đến, nói:

– Lịch Ðại phu vâng chiếu Hán vương sang Tề dụ hàng. Tề vương đã bằng lòng thảo hàng biểu, gởi đến Thành Cao. Hiện có thư của Lịch Ðại phu gởi đến trình Nguyên soái.

Hàn Tín tiếp lấy thư, mở ra xem. Trong thư đại ý nói:

Ðại phu nước Hán, Lịch Tự Cơ cúi đầu dâng thư dưới cờ Hàn Nguyên soái.

Tôi vâng chiếu Hán vương sang Tề dụ hàng. Tề vương đã thỏa thuận. Thế là nhờ thánh minh của Hán vương và uy đức của Nguyên soái quân Hán không phải tốn công nhọc sức mà lấy được hơn bảy chục thành, còn được sinh mạng dân chúng một nước. Nay dâng thư này, dám xin Nguyên soái ngưng việc can qua, rút quân về đóng ở Thành Cao đem bồi bổ thực lực, lo việc đánh Sở. Như thế công của Nguyên soái rất lớn. Tự Cơ kính tường“.

Hàn Tín xem thư xong, mừng rỡ, nói với sứ giả:

– Nếu Lịch Ðại phu đã dụ hàng được nước Tề rồi thì ta sẽ đem binh về Thành Cao cùng với Chúa thượng lo việc đánh Sở. Tuy nhiên, Tề vương cũng nên để ý khi nào quân Hán kéo đến Từ Châu thì phải đem quân trợ giúp để cùng phá Sở.

Liền đó, Hàn Tín thảo phúc thư giao cho sứ giả đem về đưa cho Lịch Sinh.

Nhận được thư, Lịch Sinh liền ra mắt Tề vương, kể rõ công việc.

Tề vương hoan hỉ, suốt ngày chỉ cùng Lịch Sinh uống rượu, nói chuyện, không nghĩ gì đến quân cơ nữa.

Trong thời gian đó, Hàn Tín cũng lo việc giải binh, trở về Thành Cao hội các tướng dưới thềm để ban mệnh lệnh.

Bỗng có người bước ra nói lớn:

– Không nên, nếu nghe lời Lịch Sinh kéo binh về, công lao của Nguyên soái từ bấy lâu nay mất hết.

Hàn Tín xem lại, thấy người vừa nói đó là Khoái Văn Thông.

Hàn Tín hỏi:

– Nhà ngươi nghĩ như thế nào mà bảo không nên rút quân?

Khoái Văn Thông nói:

– Nguyên soái thống lãnh binh mã trăm vạn đã hơn một năm nay rồi mà chỉ lấy được năm mươi thành nước Yên. Còn Lịch Sinh chỉ dùng một lời nói, lấy được hơn bảy mươi thành nước Tề. Thế là uy đức của Nguyên soái chẳng bằng một lời nói của Lịch Sinh. Bây giờ rút quân vê Thành Cao, Nguyên soái mặt mũi nào trông thấy Hán vương. Cứ theo ý tôi lúc này nước Tề chắc không đề phòng. Nguyên soái cứ đốc quân thẳng đến nước Tề, lấy nước Tề rất dễ. Công ấy hoàn toàn về Nguyên soái.

Hàn Tín nói:

– Lịch Sinh sang Tề là vâng mệnh Hán vương chứ không phải tự ý riêng. Nếu ta kéo quân sang Tề e trái lệnh vua, và cũng không lợi cho Lịch Sinh nữa.

Khoái Văn Thông nói:

– Lúc trước Chúa thượng sai Nguyên soái đi đánh Tề, lệnh ấy đã nhất định rồi, sao ngài nay còn sai Lịch Sinh đi dụ Tề nữa. Tôi chắc rằng Lịch Sinh muốn tranh công với Nguyên soái nên xin Chúa thượng mà đi đó thôi. Bây giờ Nguyên soái trở về các tướng sẽ cười Nguyên soái là bất tài, và sau này Chúa thượng cũng khinh Nguyên soái mà trọng bọn nho sĩ hơn. Dầu Nguyên soái có đánh tan nước Sở cũng chẳng vẻ vang gì, Nguyên soái nên xét lại.

Trương Nhĩ cũng xen vào, nói:

– Văn Thông nói phải lắm. Nguyên soái đã đem quân ra ngoài ải không cần phải khư khư theo mệnh vua nữa.

Hàn Tín theo lời chỉnh đốn quân mã kéo thẳng sang Tề, không về Thành Cao.

Hồi 33 – Tề vương nấu dầu luộc Lịch Sinh

Hàn Tín kéo binh rời nước Triệu, tiến qua phía Bắc, vượt sông Hoàng Hà, theo đường lớn thẳng đến nước Tề. Dọc đường, các quận, huyện trông thấy đều sợ hãi, bỏ trốn.

Giữa lúc đó, Tề vương vẫn cùng Lịch Sinh uống rượu suốt ngày bàn việc giao hảo giữa Tề, Hán.

Quân thám thính hay tin, tất tưởi chạy về báo. Tề vương giật mình, lập tức đòi Ðiền Hoành đến hỏi:

– Ta đã theo lời Lịch Sinh dâng hàng biểu tại sao Hàn Tín còn kéo quân đến. Như thế này thi ta đã lầm mưu Lịch Sinh rồi.

Ðiền Hoành nói:

– Quân Hàn Tín hơn ba mươi vạn kéo thẳng đến đây. Tôi vừa được tin, toan báo với Ðại vương.

Tề vương nói:

– Rõ ràng là Lịch Sinh định tâm làm cho ta không phòng bị, rồi mật báo Hàn Tín kéo binh đến đánh. Tội ấy đáng giết.

Ðiền Hoành nói:

– Tuy vậy, Ðại vương chớ giết Lịch Sinh vội. Bây giờ phải đào hầm, đắp lũy phòng bị, rồi sao người sang Sở cầu cứu. Ðợi Hàn Tín kéo đến dưới thành coi Lịch Sinh giảng giải với Hàn Tín ra sao đã rồi sẽ liệu.

Ðương bàn luận, quân Hàn Tín đã kéo đến bên thành cách ba mươi dặm hạ trại khí thế rất hăng.

Tề vương tức giận, cho đòi Lịch Sinh vào cung, hỏi:

– Ngày trước Tiên sinh viết thư bảo Hàn Tín rút quân, bây giờ hắn lại kéo quân sang đây, đó là Tiên sinh thông mưu đánh lừa ta, khiến cho ta không phòng bị, rồi kéo quân sang đánh.

Lịch Sinh đáp:

– Tôi sang đây hiện có chiếu của Hán vương, không phải tự ý lén đi. Bây giờ Hàn Tín trái ước như vầy, chẳng lẽ hắn đã hại tôi mà cũng khinh cả Hán vương nữa sao?

Tề vương nói:

– Tiên sinh khuyên ta hàng Hán, mà đại binh của Hàn Tín vẫn còn kéo đến dưới thành, cho dù Tiên sinh không lừa ta, nhưng thực sự không thể không ngờ vực.

Vậy Tiên sinh viết cho Hàn Tín một bức thư nữa. Nếu Hàn Tín rút quân thì lời Tiên sinh là thực, bằng hắn không rút quân thì rõ là Tiên sinh đến đây để lừa gạt, ta dẫu kính trọng Tiên sinh đến đâu cũng không thể dung tha.

Lịch Sinh nói:

– Viết thư sang, e Hàn Tín không chịu nghe. Tôi xin phép cùng đi với sứ giả nước Tề đến đó nói tận mặt, chắc rằng Hàn Tín phải lui binh.

Tề vương cười nhạt, nói:

– Tiên sinh sang đó, nếu Hàn Tín chịu nghe thì Tiên sinh trở về đây thật, nhưng nếu hắn không nghe, lẽ nào Tiên sinh còn dám trở lại. Như thế hóa ra ta đã thả cọp về rừng sao? Ta muốn giữ Tiên sinh ở lại đây làm con tin.

Lịch Sinh nói:

– Ðại vương đã có ý ấy, tôi xin viết thư cho Hàn Tín. Còn việc sống, chết đối với bản thân tôi, lúc này không quan trọng bằng bảo vệ uy tín cho nhà Hán.

Tức thì, Lịch Sinh thảo một bức thư giao cho người thân tín làm sứ giả, dặn đi dặn lại phải cố sức nói với Hàn Tín:

– Dẫu Nguyên soái không coi Lịch Sinh ra gì, nhưng Lịch Sinh vâng mệnh Hán vương đến đây, Nguyên soái cũng nên vì Hán vương mà giữ lấy chữ tín.

Sứ giả tuân lời, đem thư thẳng đến dinh Hàn Tín, thuật lại cặn kẽ những lời dặn của Lịch Sinh.

Hàn Tín mở thư ra xem, trong thư nói:

Trước đây, Nguyên soái phúc thư hứa sẽ rút về Thành Cao. Vì vậy Tề vương đã thảo hàng biểu dâng cho Chúa thượng. Nay Nguyên soát lại dốc quân đánh Tề tỏ rằng lời nói của Nguyên soái tiền hậu bất nhất, Tề vương nghi tôi là kẻ lừa dối, muốn chém đầu cho hả giận. Tôi dẫu chết cũng chẳng sợ gì, song mệnh vua là thể diện của một nước, xin Nguyên soái nghĩ lại. Sứ giả của Hán bị giết, sau này mệnh lệnh của vua Hán ai còn tin nữa? Chẳng lẽ Nguyên soái đành lòng đem uy tín của Chúa thượng chôn vùi trong bội tín sao?

Tự Cơ xin cúi đầu lạy nguyên soái hai lạy, mong Nguyên Soái thương tình“.

Hàn Tín xem thư xong, dụ dự chưa quyết. Khoái văn Thông hỏi:

– Nguyên soái muốn theo lời Lịch Sinh sao?

Hàn Tín đáp:

– Lịch Sinh vâng mệnh vua, sang dụ Tề. Nay ta đánh Tề tất họ giết Lịch Sinh đi. Như vậy là trái mệnh vua.

Khoái Văn Thông nói:

– Trước kia Chúa thượng sai Nguyên soái đánh Tề, sau sai Lịch Sinh sang dụ Tề mà không có chiếu chỉ cho Nguyên Soái đình binh. Như vậy là lỗi ở Chúa thượng chứ đâu phải ở Nguyên Soái?

Hàn Tín nói:

– Tuy vậy, nếu Tề giết Lịch Sinh tức là chính ta giết hắn. Việc làm này quá tàn nhẫn, ta không nỡ.

Khoái Văn Thông nói:

– Mạng của Lịch Sinh sao bằng công nghiệp lớn lao của Nguyên soái. Tiếc một Lịch Sinh, sự nghiệp cao Nguyên soái sẽ bị mờ, không còn ai để ý đến nữa.

Hàn Tín ngẫm nghĩ rồi nói:

– Thôi! Ta đành vì sự nghiệp của ta mà hy sinh Lịch Sinh đi vậy.

Nói xong, thảo phúc thư giao cho sứ giả đem về, và dặn:

– Trước kia Lịch Ðại phu sang dụ Tề, đáng lẽ phải tâu với Hán vương hạ chiếu bảo ta đình binh mới phải. Lịch Ðại phu đã tự ý sang Tề, ấy là muốn mạo nhận công lao cho mình. Vả lại, Tề vốn khiếp sợ quân ta đóng nơi nước Triệu, cực chẳng đã phải quy hàng, chứ không phải bản ý. Ngày nay Tề hàng, nhưng chẳng bao lâu Tề lại phản chừng ấy độ binh từ đàng xa đến dẹp thật quá mệt nhọc. Chi bằng nhân đây đánh một trận, định cả nước Tề, để trừ mối hại về sau. Dù có hại đến tính mệnh Lịch Ðại phu, nhưng có lợi cho muôn dân sau này khỏi sa vào cảnh tang tóc. Xin Lịch Ðại phu chớ vì thế mà oán ta.

Sứ giả đem lời Hàn Tin thuật lại với Lịch Sinh.

Lich Sinh giận dữ hét lớn:

– Ta bị thằng luồn khố hại mạng rồi.

Tề vương nghe việc đó lòng căm tức Lịch Sinh, nói:

– Ðứa thất phu này, không đủ tín nhiệm mà dám sang đây múa mép, làm hại ta.

Liền gọi tả hữu lấy vạc dầu nấu sôi truyền bắt Lịch Sinh, quăng vào luộc.

Thương thay, Lich Sinh mang cả uất hận chìm trong vạc dầu kinh khủng đó.

Dân chúng trong thành thầm thì tiếng chê trách truyền ra đến tận bên ngoài. Hàn Tín nghe được tức giận tự mình đốc quân vây thành, đánh rất dữ.

Tề vương sợ hãi, gọi Ðiền Hoành vào hỏi:

– Cứu binh ở Bành Thành chưa đến kịp, mà quân Hán công thành rất gấp. Vậy phải làm thế nào?

Ðiền Hoành thưa:

– Cứ như binh lực của địch quân thì chẳng bao lâu cửa thành bị vở. Chẳng lẽ ngồi chịu chết, thà rằng đêm nay mở cửa thành đem hết lực lượng ra liều chết đánh một trận được thua sẽ hay.

Tề vương theo lời, liền sai kiểm điểm binh mã, và khiến người lên mặt thành do thám địch tình.

Trời sẩm tối, quân vào báo:

– Dinh trại quân Hán đèn đuốc sáng choang, quân kỳ rực rỡ, trống canh đâu đó hẳn hòi.

Ðiền Hoành hăng hái nói:

– Ðã quyết đánh thì không sợ hãi rụt rè, xin Ðại vương cứ truyền lệnh.

Tề vương liền đốc quân mở cửa thành kéo ra.

Vừa ra khỏi thành vài dặm, gặp đạo quân của Tào Tham đi tuần:

– Tào Tham một mặt dàn quân nghênh chiến, một mặt sai người về trung quân báo cho Hàn Tín biết.

Chẳng bao lâu, Hàn Tín xua quân đến, vây quân Tề kín mít.

Ðiền Hoành không chống cự nổi, chỉ che chở cho Tề vương, mở huyết lộ chạy trốn.

Vì trời tối quá, không thể phân biệt được hiệu cờ, hàn Tín sợ giết lầm quân mình, không cho đuổi theo. Nhờ đó, Ðiền Hoành mới đem được Tề vương và một toán quân chạy thẳng đến huyện Cao Mật.

Sáng hôm sau, Hàn Tín dẫn quân vào thành phủ dụ dân chúng, ủy lạo quân sĩ rồi bàn kế để đuổi bắt Tề vương.

Khi đến huyện Cao Mật, Tề vương vội vã viết biểu sai người đến ngay Quảng Vũ cầu cứu.

Sứ giả bôn ba đến Quảng Vũ, vào ra mắt Hạng vương thuật lại mọi việc.

Hạng vương xem biểu xong, tức thì đòi Long Thư và Chu Lan vào nói:

– Các ngươi phải lãnh ba vạn tinh binh, thẳng đến xứ Lâm Tri, Cao Cầu, đánh Hán cứu Tề. Nước Tề hiện nay rất nguy ngập, nếu có gì quan trọng xảy ra, phải lập tức sai người phi báo về đây. Ta sẽ đem đại binh tiếp ứng.

Long Thư tâu:

– Xin Ðại vương cứ yên lòng. Tôi đi chuyến này quyết chém được đầu Hàn Tín mới chịu về.

Hạng vương đắc ý, liền cởi tấm áo hồ cừu đang mặc, ban cho Long Thư, và thưởng cho cả hai người hai chung ngự tửu.

Hai tướng tạ ơn, bái biết, kéo quân lên đường.

Cách mấy ngày sau, đại binh của Long Thư đến Cao Mật, đóng trại cách thành ba mươi dặm.

Lúc đó, quân Tề cùng quân Hán chống nhau ; thành Cao Mật đang nằm trong tình trạng hấp hối.

Hàn Tín được tin Long Thư kéo quân đến, liền gọi các tướng vào dinh, nói:

– Long Thư là một danh tướng của Sở, ta phải đánh bằng mưu chứ không thể địch bằng sức.

Các tướng đều chăm chú nghe lệnh. Hàn Tín kề tai mỗi người dặn nhỏ mấy câu, ai nấy tuân theo, lãnh binh kéo đi.

Bên kia Long Thư sau khi đóng trại xong, cũng gọi Chu Lan đến bàn bạc.

Long Thư nói:

– Người ta đồn Hàn Tín là bậc anh hùng, nhưng tôi xét thấy chẳng qua là đứa hư danh. Thuở nhỏ Hàn Tín xin cơm nguội Phiếu mẫu, luồn trôn gã bán thịt giữa chợ, nếu là bậc anh hùng lúc thất thời cũng vẫn giữ phẩm giá không thể bê tha chịu nhục như vậy.

Chu Lan nói:

– Tướng quân xét việc như vây lầm lẩn! Hàn Tín tuy có cái dĩ vãng không tốt nhưng từ khi đầu Hán đến nay, đánh đâu thắng đó, một tay lấy Tam Tần, hạ cả Yên, Triệu. Ðến như Bá vương một kẻ trí dũng có thừa mà còn thua Hàn Tín trận xa chiến! Tướng quân phải phòng bị cẩn thận chớ nên khinh địch.

Long Thư nói:

– Hàn Tín lập được những công trận là vì hắn chưa gặp tay địch thủ. Nếu gặp kẻ có trí, có dũng thì Hàn Tín cũng phải thảm bại như nhiều kẻ khác mà thôi!

Nói xong, thảo chiếu thư, sai người đưa đến cho Hàn Tín.

Trong thư viết:

Ðại tướng nước Sở là Long Thư bảo cho các tướng Hán biết.

Hàn Tín diệt Ngụy, cướp Triệu, nay lại xăm lấn nước Tề tội rất lớn. Nay ta đem binh đến đây quyết bắt cho được Hàn Tín để trị tội. Các ngươi nên xếp giáp quy hàng bằng không thì lau cổ chờ gươm, đừng có mong chống cự“.

Hàn Tín xem thư nổi giận, toan chém sứ giả, các tướng vội can:

– Dẫu Long Thư có vô lễ, Nguyên soái cũng chớ nên chém sứ, làm cho thiên hạ chê cười.

Hàn Tín liền truyền đánh sứ giả ba chục roi, làm nhục, rồi thả về.

Sứ giả về đến dinh Sở, đem hết đầu đuôi thuật với Long Thư.

Long Thư tức tối, muốn ngay đêm ấy kéo quân đánh Hàn Tín. Chu Lan can mãi, Long Thư mới chịu hoãn lại một đêm.

Sáng hôm sau, Long Thư dậy sớm, truyền lệnh quân sĩ nấu cơm. Ăn uống xong, Long Thư phân thành đội ngũ, kéo ra trước trận, thách Hàn Tín giao chiến.

Hàn Tín cỡi ngựa xông ra, theo sau một đoàn kỵ binh hùng hổ.

Long Thư chỉ vào mặt Hàn Tín, mắng:

– Mày là tôi nước Sở, trốn đi đầu Hán, mang danh một đứa phản thần như vậy còn dám đến đậy chịu chết sao?

Hàn Tín cười lớn, nói:

– Mày là đứa vô danh tiểu tốt, làm sao biết được chí anh hùng mà mày dám vô lễ như thế?

Long Thư giận dữ, cầm đao xông vào đánh Hàn Tín. Hàn Tín đưa thương ra đỡ.

Hai bên đánh nhau một hồi, Long Thư càng đánh càng hăng. Hàn Tín giả cách thua, quày ngựa bỏ chạy.

Long Thư cười lớn, vừa giục ngựa đuổi theo, vừa nói:

– Ta biết bản lĩnh đứa hư danh ấy rồi mà!

Chu Lan thấy vậy phi ngựa theo, cản lại nói:

– Xin tướng quân chớ đuổi theo e lầm mưu Hàn Tín.

Long Thư nói:

– Nó đánh không lại ta, bỏ chạy thì còn mưu mô gì nữa.

Chu Lan nói:

– Quân Hán rất đông, tướng mạnh rất nhiều, Hàn Tín chỉ đem theo có một toán quân kỵ e rằng chúng phục quân đâu đây chăng?

Long Thư lòng cũng nghi ngại, liên thu binh về trại.

Hàn Tín thấy Long Thư không đuổi theo liền quay ngựa về dinh, nghĩ ra một kế, chiều hôm ấy cho vài tên quân, đến trước trại Sở, chửi mắng thậm tệ.

Long Thư tức giận kéo quân ra, hét lớn:

– Thằng luồn trôn, hãy đem đầu đến đây chịu chết.

Hàn Tín vỗ ngựa đến, cười lớn, nói:

– Ta nghĩ ngươi từ xa mới đến, còn mỏi mệt, không nỡ xuống tay. Lần này ta quyết không dung mạng.

Long Thư vung đao đâm tới, Hàn Tín rước đánh vài hiệp rồi cũng bỏ chạy.

Long Thư tức giận, đốc quân đuổi theo, và nói:

– Ta quyết đến phá tan dinh trại và lấy đầu ngươi cho ngươi xem.

Quân Long Thư đuổi đến bờ sông Duy Thủy thì Hàn Tín đã lội qua khỏi sông rồi.

Nước sông cạn, bốn bề chỉ thấy bãi cát mênh mông.

Chu Lan lòng nghi hoặc, nói với Long Thư:

– Duy Thủy là con sông lớn, mà nay lại không có nước, chắc là Hàn Tín đã lấp thượng lưu, đợi lúc quân ta sang sông tháo tung nước xuống. Tướng quân nên đề phòng.

Long Thư đang hăng đuổi giặc, nhìn thấy bóng ngựa của Hàn Tín cách bờ sông bên kia chưa bao xa, liền truyền quân lội sang sông và nói:

– Không theo giết Hàn Tín còn đợi đến bao giờ.

Lúc đó, trời đã tối, dòng sông Duy Thủy rất rộng, cát bãi mênh mông. Quân của Long Thư qua đến giữa sông chợt thấy có cắm một ngọn đèn leo lét, Long Thư lấy làm lạ, đến gần xem, thì thấy bên đèn có một cái bảng gỗ viết sáu chữ lớn: “Thắp đèn lồng, giết Long Thư”.

Chu Lan và quân sĩ cũng đồng xúm lại xem.

Long Thư nói:

– Ðây là kế của Hàn Tín muốn cho ta nghi hoặc, không dám đuổi theo đó.

Chu Lan nói:

– Ðang lúc đêm tối, chẳng lẽ họ vừa chạy đến đây lại làm ra tấm bảng này ngay được. Chắc là ám hiệu để quân phục biết chỗ kéo đến đánh. Ta chém phăng cho mất cái đèn này, tất quân địch phải lạc hướng.

Long Thư khen phải, vung đao chém rơi chiếc đèn.

– Chiếc đèn vừa rơi, hai bên bờ sông tiếng quân vang dậy, đồng thời nước sông Duy Thủy ở thượng lưu ầm ầm trút xuống. Quân Sở đang ở giữa dòng, người ngựa đều trôi phăng đi hết.

Long Thư nhờ cởi con ngựa Liên Ý Câu, thấy làn nước lũ, vội vàng quất mấy roi, con ngựa bắn mình thoát được sang bờ sông phía Bắc. Chu Lan lúc đó đã đề phòng nên thoát khỏi, song biết chạy trốn phương nào.

Bấy giờ Long Thư mới biết kế của Hàn Tín, ngăn nước ở thượng lưu, và dùng tấm bảng chọc tức Long Thư, để Long Thư giận đập chiếc đèn, quân phục thấy chiếc đèn vỡ, kéo quân đến đánh.

Thoát khỏi dòng nước, Long Thư hoàn vía toan tìm đường chạy thì bên đường hai tiếng pháo nổ vang, Tào Tham, Hạ Hầu Anh kéo binh đến, vây Long Thư vào giữa.

Long Thư tuy có sức mạnh song một mình làm sao địch nổi muôn người, muốn mở vòng vây tẩu thoát, nhưng bị Tào Tham lẹ tay chém một đao đầu rơi xuống ngựa.

Hàn Tín nghe tin Long Thư đã tử trận, liến truyền lệnh đuổi theo Chu Lan, nhưng tìm mãi không thấy dấu vết, phải rút quân về.

Tề vương ở Cao Mật hay tin Hàn Tín chém Long Thư, đuổi Chu Lan, lòng lo lắng, đòi Ðiền Quảng và Ðiền Hoành đến thương nghị.

Tề vương nói:

– Long Thư, một hổ tướng, trí dũng song toàn mà còn bị Hàn Tín giết. Ta sức yếu thế cô, làm sao giữ thành cho nổi. Chi bằng thừa lúc quân Hán chưa đến vây thành, đem binh mã trốn ra hải đảo, mai danh ẩn tích, để xem Hán, Sở tranh hùng, thắng lợi về ai rồi sẽ tính.

Ðiền Quảng và Ðiền Hoành cũng cho vậy là phải.

Vua tôi sắp xếp xong đêm ấy mở cửa thành phía Ðông kéo ra.

Chẳng ngờ Hàn Tín đã đoán trước, sai Hạ Hầu Anh đem quân mai phục sẵn.

Tề vương vừa ra khỏi thành đã bị Hạ Hầu Anh bắt trói, đem nạp cho Hàn Tín.

Ðiền Quảng và Ðiền Hoành sợ hãi, cố mở đường thoát thân, nhưng Ðiền Quảng cũng bị bắt, chỉ có Ðiền Hoành thoát được.

Hàn Tín nói:

– Tiếc thay, Ðiền Hoành lại chạy mất.

Ðại binh Hàn Tín kéo vào thành Cao Mật vỗ an bá tánh, rồi ra bản văn, kêu gọi các phủ, huyện về hàng.

Các phủ, huyện được tin Tề vương bị bắt, đâu đấy đều hàng cả.

Bình xong nước Tề, Hàn Tín chuyển quân đến đóng nơi Lâm Tri, kinh đô nước Tề.

Nơi đây, cung điện nguy nga, phong cảnh tươi đẹp, Hàn Tín rất thích ý.

Khoái Kiệt thấy vậy tỏ ý với Hàn Tín:

– Ðất Tề phong phú, Ðông có Lang Gia, Tây có Trọc Hà, bốn bề kiên cố, đất rộng dân đông, thật là một nơi hùng cứ. Nay tướng quân đã bình được rồi, quân uy lừng lẫy, tưởng nên dâng một lá biểu, xin quyền lãnh cái ấn Tề vương, trấn thủ nơi đây dùng làm căn bản. Ðó là dịp tốt, xin chớ bỏ qua.

Ðang lúc bàn bạc, có tin sứ giả Hán vương sai đến.

Hàn Tín vội bước ra đón sứ.

Thi lễ xong, sứ giả nói:

– Có chiếu thư của Hán vương gởi đến.

Hàn Tín vội tiếp chiếu mở ra xem.

Chiếu rằng:

Ta dùng kế của Nguyên soái lấy lại hơn mười quận của Sở, thanh thế mỗi ngày thêm lừng lẫy. Song, Bá vương quản thúc Thái công lâu ngày, tình cha con cách biệt. Gần đây Bá vương lại muốn dưỡng binh mưu tính việc tranh hùng. Ta nghĩ giữ nhau lâu ngày quân sĩ mỏi mệt, e có sơ thất chăng, vậy muốn mượn cái sức của Nguyên soái vừa mới thắng Tề đem về cự với Sở.

Nguyên soái nên thu xếp trở về ngay để cùng ta bàn bạc. Ta đang mong đợi“.

Hàn Tín xem chiếu xong, khoản tiếp sứ giả, toan chỉnh đốn quân sĩ để khởi hành.

Khoái Kiệt nói:

– Cơ hội này chính là lúc Nguyên soái nên sai người cùng sứ giả trở về xin phong cho ấn Tề vương, trước được làm vua Tề rồi, sau sẽ hiệp binh đánh Sở. Nếu bỏ qua cơ hội e muốn cũng không được nữa.

Hàn Tín nói:

– Lời đó rất hợp ý ta.

Hồi 34 – Lập nghiệp riêng Khoái Kiệt xui Hàn Tín

Ngày hôm sau, Hàn Tín mời sứ giả đến trung quân, nói:

– Dân Tề phản phúc không chừng, ý tôi muốn tạm lãnh ấn Tề vương để vỗ an lê thứ, rồi sau sẽ đem quân đánh Sở cũng chẳng muộn. Vậy sứ giả hãy cùng sai nhân của tôi trở về Huỳnh Dương tâu lại với Chúa thượng, sẽ xem định đoạt ra sao?

Sứ giả thuận tình. Hàn Tín mừng rỡ, lấy vàng bạc ban thưởng cho sứ giả rất hậu, rồi viết tờ biểu, sai Chu Thúc cùng với sứ giả đến Huỳnh Dương.

Hán vương mở tờ biểu ra xem, biểu rằng:

” Ðại Tướng quân nhà Hán, Hàn Tín, cúi đầu dâng biểu:

Nhờ ơn Thánh thượng, hạ thần cử binh đến đâu thắng đến đấy, chém Long Thư nơi Duy Thủy, bắt Ðiền Quang ở Hàm Dương, uy danh tuy vang dậy song lòng người vẫn chưa định. Ðất Tề xưa nay có tiếng là biến trá, nếu không n~ được dân bình e sanh loạn. Hạ thần xin được tạm }~nhận Tề vương để thu phục nhân tâm. Ðợi cho lòng dân yên ổn sẽ thống binh tùy giá diệt Sở. Như vậy thì cõi bờ vững chắc, dân chúng vui theo. Chưa dám thiện tiện, xin dâng biểu này về tâu Chúa thượng định đoạt “.

Hán vương xem biểu xong nổi giận nói:

– Ðứa thất phu này dám tính chuyện lộng hành như thế sao! Ta bị khốn nơi đây đã lâu, hắn không chịu đem binh về giúp lại chực xưng bá, xưng vương như vậy.

Trương Lương và Trần Bình vội bước đến bên Hán vương, và rỉ tai nói:

– Ðại vương tuy vừa thu được hơn mười quận của Sở, song thế binh chưa phải mạnh, chưa có thể địch nổi Hạng vương. Nếu để Hàn Tín bất mãn sanh biến, thì lại thêm một mối lo nữa. Chi bằng cứ phong cho hắn, khiến cho hắn vui lòng giúp Ðại vương, trừ được Hạng Vũ rồi sẽ liệu.

Hán vương tỉnh ngộ, nói:

– Các ngươi luận cũng phải, con thuyền trên nước cần phải tùy thế nước mà ứng biến.

Liền đòi Chu Thúc vào, nói:

– Hàn Nguyên soái đánh Ðông dẹp Bắc, chế định chư hầu, công trận ấy dẫu làm chân vương cũng còn chưa đủ, lại phải xin làm giả vương? Tuy nhiên ta muốn biết kế hoạch phá Tề của Hàn Tín, và cái chết của Lịch Sinh.

Chu Thúc thuật lại mọi việc, Hán vương rơi lệ nói:

– Lịch Sinh từ khi cùng ta tương kiến ở Cao Dương, trải một lòng trung, giúp nhiều việc lớn. Ta chưa chút báo đền, nay bị Tề vương sát hại, thật đáng thương.

Liền gọi viên Kỷ lục, bảo ghi công Lịch Sinh vào sổ, để sau này luận công hành thưởng.

Ðoạn, tự tay viết tờ sắc phong Hàn Tín làm Ðông Tề vương, sai Trương Lương đem vương ấn đến Lâm Tri trao cho Hàn Tín.

Trương Lương tuân mệnh, đến Lâm Tri, vào ra mắt Hàn Tín, và nói:

– Nguyên soái muốn lãnh ấn Tề vương để làm giả vương, song Chúa thượng nghĩ công đánh Triệu, phá Tề rất lớn, phong cho Nguyên soái làm chân vương, và sai tôi đem ấn tín đến phong. Lại dặn rằng sau khi Nguyên soái định lòng dân rồi, nên đem quân về Huỳnh Dương lo việc diệt Sở. Sở có diệt thì Nguyên soái mới có thể ngồi yên hưởng thái bình được.

Hàn Tín tiếp lãnh ấn tín, trông về phía Nam lạy tạ, rồi mở tiệc mấy ngày, khoản đãi Trương Lương.

Các tướng ai nấy đều vào lạy mừng Hàn Tín.

Vài hôm sau, Trương Lương giã biệt Hàn Tín và nói:

– Chúa thượng đóng quân ở Huỳnh Dương, ngày đêm mong nhớ Thái công, không làm sao đón về được. Lại nghe Hạng vương đánh Thành Cao. Hán vương ý muốn đem binh cùng Sở quyết chiến, để cứu Thái công về. Vậy, Túc hạ nên kíp khởi hành không nên trì hoãn.

Hàn Tín nói:

– Ðợi năm ba hôm nữa, tờ hịch văn của tôi truyện đi khắp quận, huyện, tôi sẽ xin xuất quân. Nhờ Tiên sinh về tâu hộ với Chúa thượng như vậy. Rồi đó, Hàn Tín chọn ngày ngự lên ngai Tề vương, đội mũ miện, mặc long bào, chịu lễ chầu mừng của trăm quan thuộc hạ.

Nhắc lại việc Long Thư bị tử chiến, bọn tàn quân trốn thoát chạy về Bành Thành báo cho Hạng vương biết.

Hạng vương kinh ngạc gọi Chung Ly Muội và Hạng Bá vào nói:

– Không ngờ Hàn Tín dùng binh giỏi đến thế. Nếu để Hàn Tín giúp Hán thì xã tắc Sở không thể vững bền được. Ta muốn sai một người nói giỏi, đến dụ Hàn Tín về Sở, song chưa biết chọn ai.

Hạng Bá và Chung Ly Muội đồng nói:

– Ðại vương nghĩ như thế rất phải. Hằng lâu chúng tôi đã có ý ấy song thật không dám tỏ bày. Hàn Tín vốn là tôi nước Sở, nay lại về với Sở thì thật là thuận lẽ. Quan Ðại phu Vũ Thiệp, trí khôn hơn Tô Tần, nói giỏi hơn Tử Ðổng, có thể đem lời thuyết phục Hàn Tín được.

Hạng vương liền cho mời Vũ Thiệp vào triều, sắm lễ vật giao cho Vũ Thiệp sang Lâm Tri.

Vũ Thiệp tuân lệnh, đến nơi xin vào ra mắt Hàn Tín.

Hàn Tín mời vào hỏi:

– Nhà ngươi vốn giỏi ăn nói, hẳn đến đây du thuyết chăng? Ta với ngươi trước kia cùng làm tôi Sở, nhưng nay hai người theo đuổi một sứ mạng riêng, coi như thù địch, còn liên hệ được nữa sao?

Vũ Thiệp nói:

– Ðại vương cầm quân trăm vạn, làm chủ một nước, uy đức chói ngời. Sở vương tôi mến cái tài ấy mà sai tôi đem lễ vật chúc tụng, hối lỗi ngày trước đã xét Ðại vương một cách sai lạc. Sở vương muốn cùng Ðại y rằng giao hảo, hưởng cảnh phú quý lâu dài.

Hàn Tín nói:

– Nay ta đã làm đến bậc Tề vương, ngôi cao nhất của kẻ làm tôi, lo còn phải tham cầu gì nữa.

Vũ Thiệp cười, và nói:

– Nếu Ðại vương không nghe lời tôi, ngôi Tề vương đó không thể vững được. Sở dĩ Hán vương phong cho Ðại vương làm Chúa nước Tề là để mua chuộc Ðại vương, dùng sức Ðại vương diệt Sở. Sau này Sở bị diệt thì ngôi của Ðại vương cũng mất.

Hàn Tín nói:

– Nhà ngươi bảo ta phải làm sao mới giữ vững ngôi Tề vương?

Vũ Thiệp nói:

– Sở vương muốn cùng Ðại vương giao hiếu, diệt Hán, chia đôi thiên hạ. Ðại vương phò Hán, chưa chắc đã chống nổi Sở vương, hoặc giả có chống nổi cũng khó khăn mệt nhọc. Còn Ðại vương bỏ Hán về Sở, Hán bị diệt một cách dễ dàng, chẳng khác nào lấy đồ trong túi. Thế chiến đã rõ ràng như vậy tại sao Ðại vương không mưu lợi cho mình.

Hàn Tín nói:

– Lời ngươi nói cũng có lý, song ta xét rằng khi trước ta làm tôi nước Sở, chỉ là một kẻ vác giáo theo hầu, sau về Hán, nhờ Hán vương trọng dụng, trao ấn soái, giao cả binh quyền nhân đó ta mới dựng nên công nghiệp ngày nay. Nếu ta lại bội gián, về Sở, rõ là kẻ vong ân bội nghĩa, lòng ta không thể thay đổi như thế. Ngươi về nói hộ với Sở vương rằng ta có lời thâm tạ, và không thể thuận ý.

Nói xong, trao trả lễ vật cho Vũ Thiệp. Vũ Thiệp thấy Hàn Tín lòng không chuyển bèn cáo từ về Sở.

Bấy giờ Khoái Kiệt thấy quyền lợi trong thiên hạ đã về tay Hàn Tín, liền nói với Hàn Tín:

– Trước kia tôi có gặp một dị nhân truyền thuật xem tướng, vì vậy tôi có biết ít nhiều. Cứ như Ðại vương, tuy vẻ mặt chỉ đáng làm đến phong hầu, nhưng xem ở lưng thì thực là quý không nói hết.

Hàn Tín ngơ ngác hỏi:

– Tiên sinh có ý gì mà nói như vậy?

Khoái Kiệt nói:

– Sở Hán phân tranh, thiên hạ lầm than khổ ải. Lưỡng hổ tranh đấu, tất hữu nhất thương, Ðại vương nên nhân cơ hội này chiếm cả Tề, Triệu, Yên dựng nên nghiệp lớn, như thế chẳng là thuận với lòng trời sao!

Hàn Tín nói:

– Hán vương đãi tôi rất hậu, lẽ nào tôi lại tính chuyện bội nghĩa!

Khoái Kiệt nói:

– Ai cũng muốn mưu quyền lợi cho mình. Nếu Hán vương không tính việc thôn tính thiên hạ thì đem thân mưu cầu đại sự làm gì. Người ta thường nói: “Khi chim muông trong rừng đã hết, chó săn tất phải mổ”. Xin Ðại vương xét kỹ.

Hàn Tín nói:

– Thôi, Tiên sinh hãy để cho tôi nghĩ lại đã.

Cách vài hôm sau, Khoái Kiệt lại vào nói với Hàn Tín:

– Cơ hội một thời, nên hư một thuở, Ðại vương còn do dự làm chi.

Khoái Kiệt nói vừa dứt lời, dưới điện có tiếng nói oang oang:

– Ðại vương chớ nên nghe lời Khoái Kiệt mà lỗi đạo làm tôi.

Khoái Kiệt hoảng vía, ngồi chết sững. Hàn Tín xem lại thấy người vừa nói đó là Lục Giả.

Lục Giả bước ra, nói tiếp:

– Phàm việc trong thiên hạ phải xét đến cái thế bền chớ không nên ngắm cái dạng bên ngoài. Việc mạnh nếu mà nhìn vào cái được thua trong chiến trận thì thật là nông nổi. Cứ như Hạng Vũ ngày nay, tuy có sức mạnh kinh thiên, chiếm nửa phần đất trong thiên hạ, binh uy trăm vạn, song kỳ thực là yếu hèn. Cái yếu đó là cái không được lòng dân, bởi Hạng Vũ là kẻ bất nhân, vô đạo. Còn Hán vương, tuy bề ngoài hình như kém thế, song thiên hạ ngưỡng mộ tôn sùng. Lòng dân quy về hơn tám, chín phần, thì cái việc đoạt thiên hạ không phải là khó. Ðến như Ðại vương, tuy binh hùng tướng mạnh, đánh đâu thắng đó, diệt Triệu, phá Tề, đánh trận như bẻ cành khô, lấy thành như bửa củi, song cái thắng đó là nhờ uy đức của Hán vương. Nếu Ðại vương phản Hán, làm cái việc phi chính nghĩa thì làm sao thắng giặc dễ dàng như vậy được? Tài năng, mưu lược chỉ có lợi cho việc chiến đấu, mà việc thành công phải căn cứ vào chính nghĩa mới nên. Tấm gương từ ngàn xưa, kẻ được thiên hạ không phải là kẻ có tài, mà là kẻ có đức. Vả lại, cứ lấy lực lượng nhà Hán hiện nay mà nói thì Hán vương hiện có Tiêu Hà, một bậc Tể tướng trung kiên, Trương Lương, Trần Bình sáng suốt hơn Tôn Ngô, cơ biến trăm vẻ, lại thêm có cái sức khỏe của các tướng như Anh Bố, Bành Việt, Phàn Khoái, Chu Bột, Vương Lăng, Quán Anh làm nền tảng cho cơ nghiệp muôn đời. Cơ trời đã thấy rõ, Ðại vương há nghe lời đứa dua mị, vẽ cọp không thành, muôn đời ân hận.

Khoái Kiệt bị Lục Giả nói một hồi, ngồi chết điếng, mặt tái nhạt không đáp được lời nào, lủi thủi ra về.

Về đến dinh, Khoái Kiệt buồn bã, nghĩ bụng:

– Nay ta đã lỡ bày cho Hàn Tín phản Hán, nếu sau này Hán vương hay được, mạng ta khó giữ.

Từ đó, Khoái Kiệt giả cách điên dại, lang thang ngoài đường, lúc nói lúc cười, lúc khóc giữa chợ. Ai trông thấy cũng phải ngạc nhiên.

Hàn Tín cũng rõ tâm trạng của Khoái Kiệt song bỏ qua không nhắc đến nữa.

Chẳng bao lâu Hàn Tín lại thu xếp công việc thống suất ba quân, kéo về Huỳnh Dương lo việc đánh Sở.

Trong thời gian đó, Hán vương vẫn án binh nơi Huỳnh Dương, đêm ngày buồn bã nghĩ đến Thái công tình cha con cách biệt.

Một hôm, Hán vương đòi Trương Lương, Trần Bình vào than thở:

– Thái công bị quản thúc mãi nơi Bành Thành, lòng ta bứt rứt không an. Dù có được thiên hạ mà tình cha con ly biệt sao tròn chữ hiếu! Các khanh có kế gì đón Thái công về thì đó là công bậc nhất.

Trương Lương nói:

– Hạng vương bắt Thái công làm con tin, khi nào hắn lại chịu thả về. Chỉ khi nào đánh nhau một trận lớn, cho hắn điên đảo rồi thừa dịp đó giảng hòa, họa may rước Thái công về được.

Ðang lúc bàn việc bỗng có tin Tiêu Thừa Tướng xuất lĩnh một đội binh mã Bắc Phiên, và dẫn một viên tướng Phiên đến ra mắt.

Hán vương đòi vào, hỏi:

– Phiên tướng ở đâu đến thế?

Tiêu Hà đáp:

– Phiên tướng họ Lâm tên Phiền người ở Bắc Lạc, mến đức Ðại vương nên do lối Duyên Biên vào Hàm Dương tình nguyện họp quân giúp Ðại vương đánh Sở. Tôi đã xét hỏi đích thực nên mới dẫn đến đây yết kiến. Người này giỏi về việc cưỡi ngựa bắn cung sức khỏe định nổi muôn người.

Hán vương thấy Lâm Phiền mình cao một trượng mặt mũi dữ tợn, lấy làm mừng, ban cho một ngọc đái và mười lạng vàng.

Nhắc lại Sở vương, từ khi được tin Long Thư bị Hàn Tín giết, lòng căm tức, ngày đêm luyện tập binh mã quyết ý trả thù.

Chẳng bao lâu, Hạng vương điểm binh, kéo đến Huỳnh Dương, quyết tranh thắng phụ.

Quân thám thính được tin về báo, Hán vương sợ hãi, đòi các quan vào thượng nghị.

Kịp lúc Tiêu Hà mới dẫn Lâm Phiền đến Tiêu Hà nói:

– Sức Lâm Phiền có thể địch nỗi với Hạng vương, xin Ðại vương sai Vương Lăng và các tướng họp với Lâm Phiền đánh Sở.

Hán vương theo lời, khiến Lâm Phiền ra trận, sai thêm bốn tướng theo trợ lực.

Bấy giờ, binh mã Hạng vương cũng vừa kéo đến Huỳnh Dương, cách thành ba mươi dặm.

Hạng vương hạ trại xong Sai các tướng Ðinh Công, Ung Sĩ, Hoàn Sở, Ngu Từ Kỳ dẫn quân đến khiêu chiến.

Lâm Phiền liền lên ngựa khai thành, dẫn quân ra.

Các tướng Sở thấy Lâm Phiền, vội vã vung đao áp đến đánh một lượt.

Lâm Phiền không hề nao núng, một mình cự với bốn tướng hơn sáu mươi hiệp, càng đánh càng hăng. Các tướng không đánh nổi bỏ chạy về dinh.

Hạng vương tức giận hét:

– Một viên tướng mạt như thế mà các ngươi không cự nỗi sao?

Lại sai bốn viên tướng cạnh của mình là Quý Bố, Lý Phồn, Trương Nguyệt, Hạng Ngang dẫn binh ra chiến đấu.

Lâm Phiền không chút sợ hãi, vung đại đao đánh với bốn tướng, tiếng chiêng trống vang trời dậy đất.

Chu Bột và Vương Lăng sợ để Lâm Phiền đánh lâu e sơ xuất, liền vỗ ngựa xông ra trợ lực. Các tướng Sở sợ hãi quảy ngựa bỏ chạy.

Lâm Phiền bỏ đao xuống, lẹ tay rút cung tên bắn luôn bốn phát. Lý Phồn, Trương Nguyệt bị trúng tên nhào xuống ngựa. Hạng Ngang trông thấy, toan quảy ngựa lại cứu hai tướng mình, nhưng không kịp bị Lâm Phiền bắn tiếp một mũi tên găm vào mặt.

Hạng Ngang vừa đưa tay rút tên ra, thì bị Vương Lăng phi ngựa tới chém một đao đứt làm hai khúc.

Quý Bố thấy ba tướng lìa trần một lúc, thất kinh, nằm móp xuống, ôm cổ ngựa chạy về dinh.

Hạng vương tức giận, mặc giáp, cầm kích, tự đốc quân ra đánh Lâm Phiền.

Lâm Phiền toan giương cung bắn, nhưng Hạng vương đã trợn mắt, hét tên một tiếng như sấm, cầm kích xông đến đâm một nhát.

Lâm Phiền cầm đao lên không kịp sợ hãi bỏ chạy, tay chân run lẩy bẩy.

Hạng vương giục ngựa đuổi theo rất gấp. Hán vương đứng trên thành trông thấy hỏi các tướng:

– Ai đuổi Lâm Phiền thế?

Các tướng tâu ;

– Ðó là Hạng vương.

Hán vương liền hối thúc chư tướng nai nịt gọn gàng, kéo quân ra thành ngăn quân Sở, cứu Lâm Phiền.

Các tướng dẫn quân ra, Hán vương cũng mặc giáp, lên ngựa ra thành. Xung quanh các tướng chen nhau hộ vệ.

Hạng vương trông thấy Hán vương xuất hiện, liền dừng ngựa nói lớn:

– Ta cùng ngươi tranh phong đã mấy năm nay, mà bản thân hai ta chưa hề giao chiến với nhau trận nào. Nay quyết một trận thư hùng để biết ai hay ai dở.

Hán vương nói:

– Ta không muốn cùng ngươi tranh nhau làm gì, chỉ vì ngươi ác tâm, tàn bạo, sinh linh đồ thán, chư hầu căm hờn, nên ta phải cử binh diệt bạo, cứu thiên hạ.

Sở vương tức giận, cầm kích hét lớn, vỗ ngựa đâm nhầu. Các tướng Hán hết lòng chống đỡ. Chẳng ngờ, lúc đó Chung Ly Muội phục mấy chục tên xạ binh nơi chỗ khuất, bắn ra một lượt.

Hán vương bị một mũi tên găm trước ngực, may nhờ có mặc áo giáp mềm, nên tên găm không sâu.

Hán vương thấy đau nhức vô cùng nhưng sợ lòng quân chán nản liền lấy tay sờ vào chân, nói lớn:

– Giặc nó bắn một tên trúng vào ngón chân, may không hề gì.

Các tướng thấy Hán vương bị thương, không còn hăng hái nữa, lùi dần tìm chỗ thoát thân.

Hạng vương thừa thắng, dốc quân đuổi theo, chợt thấy phía Ðông Nam có một vài tên quân ky bôn bả về báo:

– Binh mã Hàn Tín đã đến Thành Cao, Bành Việt lại ngăn đường vận lương quân Sở.

Các tướng Sở hay tin lòng nao núng. Sở vương truyền lệnh tạm thu quân về dinh để tìm cách đối phó.

Hán vương nhờ đó chạy thoát vào thành đóng chặt cửa lại.

Trương Lương, Trần Bình cùng các tướng vào trướng thăm Hán vương.

Hán vương tuy không nguy hiểm đến tính mạng, song nằm mê man không dậy được.

Trương Lương tâu:

– Thế Sở đã yếu, đại binh Hàn Tín đã về đến Thành Cao, xin Ðại vương gượng dậy để yên lòng quân, về đến Thành Cao hội binh với Hàn Tín ước kỳ phá Sở. Việc lớn sẽ thành công ở chuyến này.

Hán vương mở mắt, gượng dậy, ủy lạo ba quân.

Trương Lương nói với các tướng:

– Quân Sở bị Bành Việt tuyệt đường lương, chắc không thể đóng lâu nơi đây được. Chỉ vài ngày là phải chạy. Các tướng nên từ từ xuất quân, đến Thành Cao họp với Hàn Tín để cùng nhau phá Sở.

Các tướng được lệnh, ai nấy đều dự định khởi hành.

Giữa lúc đó, Hạng vương cũng đang bàn với các tướng Sở về quân tình.

Hạng vương nói:

– Nay quân ta thiếu lương, đại binh Hàn Tín lại đến Thành Cao, Huỳnh Dương chưa thể phá được, chi bằng lui binh về đóng nơi Quảng Võ, rồi sai người thôi thúc lương thảo cho sung túc mới có thể cự với Hán nổi.

Chung Ly Muội nói:

– Ðại vương luận như thế rất phải, vậy ngay tối hôm nay nên bãi binh. Ðại vương nên thống lãnh binh mã đi đoạn hậu để phòng quân Hán đuổi theo truy kích. Còn các tướng, lĩnh đại binh đi trước theo con đường phía Nam để phòng gian kế của Hàn Tín.

Bàn định xong, tối hôm. ấy, Hang vương ra lệnh lui binh.

Quân tuần tiểu vào dinh Hán cấp báo.

Trương Lương nói:

– Ta đã nhận xét như thế mà!

Bèn truyền lệnh cho các tướng tiến quân đi trước, Hán vương nằm trong xe, từ từ theo sau.

Ði chưa được vài ngay Hàn Tín đã sai Hạ Hầu Anh, Chu Thúc đem một vạn binh mã đến Huỳnh Dương để mời Hán vương đến Thành Cao, họp binh đánh Sở. Hai người đi đến giữa đường gặp Hán vương liền đến trước xa giá tâu bày.

Hán vương mừng rỡ, truyền quân cấp tiến.

Không mấy ngày đã đến Thành Cao, Hàn Tín xuất lĩnh các tướng ra tận ngoài thành đón rước.

Hán vương vào thành, ngự lên điện, chịu lễ triều bái Hàn Tín và các tướng rồi nói:

– Nguyên soái đi đánh giặc xa, lập nhiều công trận, rất mệt nhọc, nay lại đem quân về đây hiệp sức với ta để đánh Sở, thì sự thắng Sở lần này đã chắc rồi. Chỉ hiềm Thái công không đón về được, đêm ngày ta ăn không ngon, ngủ không yên. Nếu Nguyên soái có kế gì cứu được Thái công về nước để cha con ta trùng phùng thì đó là cái công muôn đời.

Hàn Tín nói:

– Hạng vương không bị ta đánh thua một trận thì chẳng bao giờ chịu trả Thái công lại đâu! Nay hạ thần cùng Ðại vương họp binh, quyết một trận kịch chiến, đòi cho được Thái công lại mới nghe.

Hán vương nói:

– Ta hoàn toàn trông cậy vào Nguyên soái đó.

Hàn Tín lạy tạ Hán vương, thống lĩnh đại binh ra ngoài thành tìm chỗ đồng rộng mà hạ trại và thao luyện quân mã, chọn ngày đến Quảng Võ cùng với Sở hội chiến.

Hồi 35 – Núi Quảng Võ, Hán Sở tranh chiến

Hạng vương kéo binh về đến Quảng Võ, cùng với Hạng Bá, Chung Ly Muội và các tướng bàn bạc.

Hạng vương nói:

– Hiện nay quân Hán đang họp cả chư hầu, chỉnh đốn quân mã định cùng ta quyết chiến song quân ta đang thiếu lương thực, biết liệu làm sao?

Hạng Bá nói:

– Thái công hiện đang bị giam giữ ở đây, ta bắt Thái công viết một bức thư bảo Hán phải lui quân. Hễ quân Hán chịu lui thì ta thả Thái công về Thành Cao, bằng không, ta giết Thái công đi để cho Lưu Bang trở thành một kẻ tội nhân muôn thuở. Nếu Ðại vương làm theo kế ấy thì sức mạnh bằng mấy vạn hùng binh.

Hạng vương theo lời Hạng Bá sai người về Bành Thành, bắt Thái công giải đến.

Chẳng bao lâu, Thái công bị dẫn đến Quảng Võ, đưa vào yết kiến Hang vương.

Hạng vương nói:

– Con ngươi là Lưu bang, ngày ngày cùng ta tranh chiến, không đoái tưởng gì đến ngươi cả. Rõ hắn là một đứa con bất hiếu. Nay ta gọi ngươi đến đây định sai viết một bức thư khuyên Lưu Bang hưu chiến. Ðược vậy, ta sẽ tha ngươi và Lã hậu trở về Thành Cao, để cha con, chồng vợ được xum họp. Ngươi nghĩ thế nào?

Thái công nói:

– Lưu Bang thuở nhỏ vẫn là kẻ tham tài hiếu sắc, không nghĩ gì đến cha mẹ, chỉ lấy phú quý làm trọng. E rằng tôi viết thư gửi cho con tôi cũng chẳng ích gì!

Hạng vương nói:

– Thì ngươi cứ viết thư thử xem nếu Lưu Bang có lòng gì khác ta sẽ liệu.

Thái công liền viết mật thư trình lên Hạng vương.

Hạng vương xem thư xong nói:

– Lưu Bang xem thư này mà không lui binh thì thật là loài lang thú.

Liền sai Trung Ðại phu là Tống Tử Liên mang thư đến Thành Cao.

Tử Liên đến báo tin cho Hán vương biết.

Hán vương liền đòi Trương Lương và Trần Bình đến thương nghị.

Hán vương nói:

– Sở vương sai Trung Ðại phu Tống Tử Liên đem thư Thái công đến đây là ý thế nào?

Trương Lương nói:

– Ðây chắc là kế của Sở vương muốn cho ta lui binh, nên buộc Thái công viết thư. Vậy Ðại vương thấy thế không nên buồn rầu khóc lóc, chỉ nên trả lời một cách mạnh dạn thì mới cứu được Thái công khỏi nạn.

Hán vương theo lời đòi Tử Liên vào bệ kiến.

Tử Liên trình bức thư của Thái công lên, Hán vương bóc ra xem.

Trong thư viết:

Thái công thống thiết ngỏ cùng Hán vương Lưu Bang.

Ta từng nghe vua Thuấn là bạc đại hiếu, dẫu tranh thiên hạ, nhưng không bỏ đạo trời. Nay, ngươi chỉ lấy phú quý làm trọng, coi ta như kẻ qua đường. Từ khi bị bắt ở Thư Thủy đến nay đã ba năm mà ngươi chẳng một lần nhắc đến. Ta nhờ Sở vương rủ đức nếu sinh không nỡ giết, giam giữ nơi công sở ngày ngày cấp dưỡng, nên mới tồn sanh.

Vương hậu Lã Thị nhớ mong Thái tử, nước mắt không lúc nào vơi. Vậy mà ngươi cứ việc tung hoành trong thiên ha, ruột gan như gan đá, không biết gì đến gia đình, thật là đứa bất hiếu, bất nghĩa.

Hiện Sở vương đã đem ta đến Quảng Võ, mấy lần định giết, treo đầu ở Thành Cao, để gương cái tiếng bất hiếu của ngươi trong thiên hạ. Nhưng ta van xin mãi, Sở vương không nở, nên chưa phải chết. Nay ta viết thơ này cho ngươi nên nghĩ thân mình do đâu mà có, muôn vật trong thế gian có gì đáng trọng. Hãy bãi binh, đón ta về nước, khiến cho cha con, chồng vợ đoàn tụ. Còn nếu ngươi cứ động binh chống cự, mạng ta e chẳng còn.

Ngươi dẫu có lấy được thiên hạ, mà bỏ cha, bỏ mẹ, muôn đời thóa mạ thì đó cũng không phải là vinh. Ngươi nên tự tính. “

Hán vương bấy giờ mới uống rượu xong, đôi mắt lờ mờ, hơi men chưa tỉnh đọc xong bức thư mà không để ý gì cả, nói với Tử Liên:

– Ta cùng Hạng vương năm xưa cùng thờ vua Hoài vương, kết làm anh em,. vậy cha ta cũng tức là cha của Hạng vương. Cha ta ở Sở cũng như ở Hán, ta chàng phải bận lòng gì cả. Nếu Hạng vương giết cha ta, thiên hạ không chỉ nguyền rủa ta, mà nguyền rủa cả Hạng vương nữa. Ngày trước, Hạng vương ngầm xui Quý Bố giết vua Nghĩa Ðế, khiến thiên hạ căm hờn đến nay chưa quên. Nếu lại giết cha ta nữa chẳng sợ thiên hạ thán oán sao?

Ngươi về nói hộ với cha ta cứ yên tâm ở Sở, coi như là đang ở trong dinh Hán vậy.

Hán vương chỉ nói bấy nhiêu lời không đề cập gì đến chuyện bãi binh cả.

Ðoạn, sai hai người con gái mời Tống Tử Liên nghỉ ngơi sau trướng.

Tống Tử Liên muốn về, nhưng chưa nhận được phúc thư còn ráng ở lại.

Sau đó Trương Lương và Trần Bình tiếp đón, đãi rượu Tử Liên, giục Tử Liên về Sở.

Tử Liên không biết phải làm thế nào nên đành quay gót về Quảng Võ thuật lại mọi việc cho Hạng vương nghe.

Hạng vương trầm mặc nghĩ ngợi.

Hạng Bá bước ra nói:

– Tình cha con mà Hán vương lạnh nhạt như thế thì Hán vương không phải là người có thể làm nên việc lớn. Xin Ðại vương cứ chuẩn bị giao chiến, thế nào cũng thắng.

Hạng vương nói:

– Thế thì Lưu Bang là tuồng tửu sắc, coi cha mẹ vợ con như nước lã, kẻ ấy không còn nói chuyện phải, trái được.

Tống Tử Liên nói:

– Khi tôi vào yết kiến Hán vương, thấy Hán vương còn say rượu chưa tỉnh. Lúc xem bức thư, Hán vương cùng chẳng có vẻ gì ân cần đến Thái công.

Sở vương nói:

– Thôi hãy giử Thái công lại trong quân, chờ ta giao chiến với Lưu Bang rồi sẽ liệu.

Nói rồi, triệu tập các tướng, và tuyển hai mươi vạn tinh binh, đóng sẵn dinh trại để chờ Hán quân kéo đến.

Bấy giờ, Hàn Tín thao luyện quân mã đã xong, vết thương của Hán vương cũng đã lành. Vua tôi bàn kế đánh Sở.

Hàn Tín nói:

– Bá vương đóng quân ở Quảng Võ lâu ngày, thế nào cũng sinh trễ biếng. Vậy ta phải cử binh đánh ngay mới được. Xin Ðại vương hạ lệnh tiến binh.

Hán vương nói:

– Chuyến này ta trông cậy ở Nguyên soái đó.

Liền hạ lênh xuất quân. Hàn Tín thống lĩnh đại binh đi trước, quân kỳ phất phới, tiếng reo ó vang trời, binh lực mười phần hùng khí.

Ðến Quảng Võ. Hàn Tín truyền hạ trại cách dinh Sở hơn ba mươi dặm, và dặn dò các tướng phải lưu tâm phòng giữ.

Hán vương kéo binh đến sau, lập trại đối diện với trái Hàn Tín.

Buổi tối, Hán vương cùng Trương Lương, Tiêu Hà, Trần Bình sai người triệu Hàn Tín đến để bàn kế.

Sai nhân đến trại Hàn Tín, về báo:

– Nguyên soái không có trong dinh. Bọn quân hầu bảo rằng Hàn Nguyên soái vừa dẫn mấy mươi kỵ binh đi về phía Ðông Nam, nhưng không biết đi đâu.

Hán vương kinh ngạc nói:

– Hán, Sở đang chống nhau, hai bên dàn quân ở mặt trận, thế mà chủ tướng lại bỏ đi là ý gì? Hay Hàn Tín thấy quân Sở mạnh bỏ trốn? Hoặc giả lừa bỏ ta ở đây liên kết với Bá vương chăng?

Trương Lương và Trần Bình mỗi người bàn một ý, không hiểu ra sao cả.

Hán vương liền sai một tên tiểu hiệu sang dinh Hàn Tín để nghe động tịnh thế nào.

Một lúc, tên tiểu hiệu trở về báo:

– Bên đó canh phòng rất nghiêm ngặt, hàng ngũ chỉnh tề. Duy chỉ có Nguyên soái vắng mặt.

Hán vương nóng lòng, bảo:

– Người cứ đến gần trại, nghe ngóng cho rõ ràng rồi về báo lại.

Hán vương thắp đèn ngồi đợi. Mãi cho đến trống canh ba, ánh trăng đã chìm sâu sau đỉnh núi cao, tên tiểu hiệu mới chạy vội về báo:

– Nguyên soái đã về trại rồi.

Hán vương do dự hồi lâu rồi sai Tiêu Hà đến dinh Hàn Tín xem thử.

Tiêu Hà đem mấy tên quân hầu đến nơi, gặp Quán Anh đang đốc quân tuần tiễu.

Quán Anh hỏi:

– Ðêm khuya, Thừa tướng đi đâu vậy?

Tiêu Hà đáp:

– Ta sang thăm Hàn Nguyên Soái.

Quán Anh nói:

– Nguyên soái vẫn còn thắp đèn ngồi trong trướng chứ chưa đi nằm.

Liền đưa Tiêu Hà vào trung quân hội kiến với Hàn Tín.

Hàn Tín hỏi:

– Thừa Tướng đến đây chắc có điều gì ngờ vực chăng?

Tiêu Hà hỏi:

– Nguyên soái đêm tối ra đi, chẳng hay đi đâu vậy?

Hàn Tín nói:

– Trận chiến nơi đồng bằng, Bá vương là tay vũ dũng, lấy sức mà địch e khó thắng. Vì vậy tôi phải tìm một kế để giết họ Hạng.

Tiêu Hà hỏi:

– Chẳng hay kế ấy như thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Quân cơ không tiện tỏ bày, dẫu vua tôi, cha con cũng không nên nói trước. Chúa thượng cùng các ngài ngày mai xem cuộc giao tranh sẽ thấy.

Tiêu Hà không hỏi nữa, lòng mừng phơi phới, trở về thuật lại với Hán vương.

Hán vương nghe Tiêu hà nói cũng an dạ, vào trướng an nghỉ.

Ngày hôm sau, Hàn Tín gọi các tướng vào nghe quân lệnh.

Các tướng tụ họp đủ mặt, Hàn Tín phân binh:

– Phàn Khoái, Quán Anh làm đội thứ nhất ; Chu Bột, Chu Xương làm đội thứ nhì ; Ngân Hấp, Lư Quán làm đội thứ ba ; Lã Mã Thông, Dương Hỷ làm đội thứ tư; Trương Nhĩ, Trương Lương làm đội thứ năm ; Lâm Phiền làm đội thứ sáu ; Tào Tham, Sài Võ làm đội thứ bảy ; Hạ Hầu Anh, Vương Lăng làm đội thứ tám ; Anh Bố làm đội thứ chín.

Hán vương cùng các tướng làm đội thứ mười. Mỗi đội lãnh năm ngàn tinh binh chia ra từng khu đóng quân, khi nghe pháo hiệu thì đổ ra một lượt, đánh dồn địch quân vào chân núi Quảng Võ.

Hàn Tín điều bát binh mã xong thì bên kia, Hạng vương cũng vừa dẫn quân đến.

Hàn Tín ra ngựa, gọi Bá vương ra nói chuyện. Bá vương vỗ ngựa xông ra, nói lớn:

– Hởi Hàn Tín, nhà ngươi là cựu thần nước Sở. Lẽ ra, đối với Sở phải có đôi phần quyến luyến. Vừa rồi ta có sai Vũ Thiệp đến tỏ lời phải trái, và việc lợi hại trong thế chiến đương thời, thế mà ngươi ngu dốt, không biết nghe lời. Hôm nay gặp ta, ngươi chớ giở trò gian kế, hãy cùng ta quyết một trận hơn thua.

Hàn Tín đáp:

– Ðại vương là người quyền quý, lẽ ra phải ngồi một nơi khiển tướng điều binh, sao lại cầm đao ra chiến trận làm chi, tôi e không tránh khỏi lụy thân.

Hạng vương nói:

– Nhà ngươi chỉ có tài tráo trở, dùng mưu gian lường gạt địch quân. Nếu ngươi dám cùng ta tranh mười hiệp, ta sẽ hiến cả sự nghiệp nước Sở cho ngươi.

Hàn Tín nói:

– Dùng mưu kế thắng giặc mới là kẻ trí cao, còn như sức mạnh chỉ là cái sức riêng mà trời đã giao phó cho mọi sinh vật trong vũ trụ mà thôi, tôi tưởng không nên coi nó là một tài năng. Giống voi, trâu cũng có một sức mạnh đáng kể, nhưng có ai cho đó là đáng sợ. Bá vương tức giận thúc ngựa đến hét lớn:

– Ta phải lấy đầu thằng luồn khố này mới được

Bọn Chung Ly Muội, Hạng Bá, Hạng Trạng, Chu Lan, Ngu Tử Kỳ, Hoàn Sở, Ðinh Công, Ung Sĩ đều đốc quân đến, vây bắt Hàn Tín.

Hàn Tín vừa đánh vừa chạy, lùi dần đến chân núi Quảng Võ.

Chung Ly Muội vội chạy đến nói với Bá vương:

– Núi Quảng Võ chỉ có một đường ra, nếu địch quân phục binh chặn chẹt đường thì khốn. Ðại vương nên đóng trại nơi đây nhận xét địa hình đã.

Chung Ly Muội nói chưa dứt lời, thì tiền quân đã trở lai báo:

– Hàn Tín chạy đi đàng nào mất hút, trước mặt là rừng núi, không có đường ra.

Bá vương nói:

– Nếu mặt trước không có đường thì cứ tạm đóng quân lại đây, đợi hậu quân đến rồi sẽ liệu.

Một lúc sau có tin hậu quân đến báo:

– Hậu quân bị tướng Hán là Phàn Khoái và Quán Anh đánh đứt làm hai đoạn không thể tiến được.

Hạng vương chưa biết phải xoay trở làm sao thì bốn mặt chiêng trống vang rền, quân Hán chẳng biết từ đâu đến, đổ ra vây như kiến.

Chung Ly Muội nói:

– Trước mặt có núi lớn ngăn trở, sau lưng quân Hán vây phủ, Ðại vương đóng quân nơi đây bất lợi, phải cố phá vòng vây, cứu lấy hậu quân, bảo vệ lực lượng mới được.

Hạng vương nói:

– Quân Hán đánh bọc hậu, chắc là đạo quân chủ lực ta khó mà phá nổi. Dẫu có phá được cũng hao binh tổn tướng rất nhiều. Chi bằng cứ tiến quân trèo núi, qua đèo tìm đường thoát nạn.

Hạng Bá nói:

– Núi Quảng Võ ngậm trùng nguy hiểm, nếu đại quân không thể tiến được thì làm thế nào?

Ðang lúc bàn bạc, ý kiến chưa quyết thì bốn mặt hỏa pháo nổ tơi bời, quân Hán mỗi lúc một xiết chặt thêm vòng vây.

Quân Sở mất tinh thần không còn dám chống cự nữa, đổ dồn vào một góc.

Hạng vương nổi giận hét:

– Ta từ lúc ta xuất trận, diệt mấy trăm vạn quân Tần chẳng hề chịu thua bao giờ. Nay gặp quân Hán phải sợ như thế này ư?

Nói rồi xua quân chống cự, đuổi đánh quân Hán.

Bỗng gặp Cửu Giang vương Anh Bố vung gươm ra cản.

Hạng vương hét lớn:

– Ðứa phản quốc? Ngươi còn mặt mũi nào nhìn thấy ta.

Anh Bố nói:

– Ðuổi giết vua Nghĩa Ðế là âm mưu của ngươi, thế mà thiên hạ lại nguyền rủa ta. Vậy ta phải giết ngươi để thanh minh việc này.

Nói rồi vác đao nhảy xổ vào đánh. Hai người giao chiến được năm mươi hiệp thì binh mã Lâm Phiền kéo đến.

Quân Sở rối loạn, Quý Bố, Hoàn Sở xông ra trợ chiến, và nói lớn:

– Xin Ðại vương nghì ngơi để chúng tôi giết thằng giặc ấy cho.

Hạng vương dừng thương, quay ngựa vào đường núi, đứng xem hai tướng giao tranh.

Bấy giờ trời đã sẩm tối, bên Hán các đạo binh của Tao Tham, Sài Võ lại kéo đến nữa, vây quân Sở dày máy lớp

Chung Ly Muội đến gần Hạng vương nói:

– Trời tối, quân binh thất thế không thể cầm cự được lâu, Ðại vương nên tìm đường thoát nạn.

Hạng vương quất ngựa theo con đường cũ tiến tới. Vừa đi đến nửa đường núi thì thấy Hàn Tín đóng trại bên trên, ngồi cao ngất ngưởng, hai bên đàn sáo réo rắt, như đang mở tiệc vui.

Hạng vương nổi giận, mắng:

– Thằng chui khố ấy dám khinh ta như thế sao?

Liền thúc quân trèo lên núi để bắt Hàn Tín.

Các tướng Sở thấy Hạng vương lên núi, cũng kéo theo. Nhưng đi chưa được bao xa, trên núi gỗ đá lăn xuống bơi bời.

Hạng vương nghiến răng, trợn mắt, lòng căm tức đến cực dộ.

Quý Bố nói:

– Không nên, đó là gian kế của Hàn Tín, cố làm cho Ðại vương tức giận trèo lên, thừa lúc đêm tối hãm hại. Chi bằng nấn ná cho qua đêm nay, đợi sáng mai xem chỗ nào ít quân sẽ mở huyết lộ thoát ra mới được.

Hạng vương theo lời, kìm ngựa lại, định nghỉ ngơi giây lát. Bỗng bốn bề cây cối nổi lửa, ngọn lửa đùa gió cháy đến vùn vụt.

Hạng vương thất kinh, quân Sở tan rã, mạnh ai nấy chạy, bị quân Hán vừa bắt sống, vừa giết chết chỉ còn trơ lại Hạng vương cùng các tướng và hơn một trăm quân kỵ ở giữa vòng vây.

Hạng vương thấy thế quân Hán quá mạnh, bèn gắng sức mở vòng vây. Bỗng gặp Lâm Phiền vung đao đến đánh.

Hạng vương nổi giận hét lên một tiếng, chém Lâm Phiền đứt làm hai đoạn, dẫn các tướng thoát khỏi vòng vây.

Vừa toan tìm đường chạy. thì gặp bọn Sài Võ, Vương Lăng đem quân đến chặn đường.

Hạng vương phải gắng hết sức mới đánh lui được hai tướng, và chạy đến dưới chân núi Nam Sơn.

Trước mặt, một con suối sâu réo rắt chảy, Hạng vương dừng ngựa lại nghĩ thầm:

– Trời tối, suối sâu qua đó bất tiện.

Còn đang suy nghĩ thì đàng sau quân Hán lại đuổi theo, vây Hạng vương vào giữa.

Hạng vương đang cùng kế thì may thay, đàng sau quân Hán nhao nhao chạy giạt cả ra.

Hạng vương thừa thế đánh tháo thì gặp hai tướng Sở là Chu Ân và Hoàn Sở đang đốc quân đánh vào cứu mạng.

Hạng vương hỏi ra mới biết hai tướng này lãnh năm ngàn binh, nhưng chưa bị tan rã, nghe Hạng vương lâm trận tìm đến giải cứu.

Hạng vương lợi dụng số binh mã ấy, xông vào quân Hán đánh giết một hồi. Quân Hán đã quá mỏi mệt, phải bỏ chạy.

Hạng vương nhờ đó mới thoát thân.

Trời rừng sáng, Hạng vương thấy bốn mặt đâu đâu cũng có quân Hán đóng đồn, quân kỳ rợp đất, tiếng chuông trống vang trời.

Hạng vương nói với Chu Ân:

– Ta từ lúc phát binh nơi Cối Kê đến nay, cùng chư hầu giao tranh, kể hơn ba trăm trận, nhưng chưa từng thấy ai dụng binh lợi hại như Hàn Tín.

Chu Ân nói:

– Vì Ðại vương có tiếng là oai hùng nên Hàn Tín mới dự bị một cuộc chiến như vậy.

Hạng vương thở dài thu góp tàn quân trở về dinh, kiểm điểm lại thấy hao hơn tám phần.

Các tướng như Quý Bố, Chung Ly Muội cũng thoát chết, song ai nấy đều bị thương ít nhiều.

Hàn Tín thắng trận, đem đại binh trở về dinh.

Hán vương sai mời Hàn Tín đến, ân cần khen ngợi:

– Ta nhờ tài dụng binh của Nguyên Soái, phá quân Sở được một trận rất lớn. Sau này quân Sở nghe đến quân Hán phải vỡ mật, khôg dám giao tranh.

Hàn Tín nói:

– Ðó cũng là nhờ uy đức của Ðại vương. Tuy nhiên, Hạng vương ta chưa bắt được cần phải đánh gấp để cho hắn không có thì giờ nghỉ ngơi dưỡng sức.

Hán vương nói:

– Nguyên soái khá lo việc điều binh khiển tướng. Ta chờ mong hát khúc khải hoàn để ba quân sớm được nghỉ ngơi, thiên hạ hưởng cảnh thanh bình.

Hàn Tín vâng lệnh, kiểm điểm binh mã, kéo đến đánh dinh Sở.

Giữa lúc đó, nơi dinh Sở binh lao mãnh liệt, các tướng như Chu Ân, Quý Bố, Hoàn Sở, Ngu Tử Kỳ đều bị thương chưa lành.

Hạng vương đang lo lắng tìm cách điều trị, thì lại có tín Hàn Tín kéo quân đến.

Hạng vương thất kinh, đòi Chung Ly Muội, Hạng Bá vào thương nghị.

Chung Ly Muội nói:

– Quân Hán rất đông, lại thêm Hàn Tín dùng binh rất hay, quân ta ở đây không thể nào chống đối. Hiện Thái công đang ở trong dinh, ngày mai ra trận Ðại vương mang Thái công theo, đặt sẵn trên thớt, kề dao vào bụng, bắt Hán vương phải lui quân, bằng không mổ ruột Thái công giữa trận. Tình cha con, lẽ nào Hán vương không đau xót?

Hạng vương nói:

– Giết Thái công không khó khăn gì, chỉ sợ thiên hạ cười chê.

Chung Ly Muội nói:

– Muốn làm cái mưu thoái binh còn sợ ai chê cười?

Hạng vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nhận lời.

Hôm sau, Hạng vương đem quân ra trận trói Thái công đặt trên lừng ngựa, thẳng ngựa đến trại Hán.

Quân Hán trông thấy vào báo.

Hán vương khóc òa, nói:

– Ta sinh ra ở đời đã không phụng dưỡng được cha mẹ. Nay vì cớ tranh thiên hạ mà để cha ta phải khổ. Thôi thà hàng Sở, để cứu lấy cha ta về nước, tròn được hiếu đạo.

Trương Lương, Trần Bình can:

– Ðại vương chớ câu chấp như vậy. Ðành rằng làm con không nên bỏ chữ hiếu, song việc thiên hạ cũng không nên khinh. Sở dĩ Hạng vương bức bách Thái công như vậy là vì thấy quân ta đánh phá gấp quá, nên phải làm kế để ta lui binh, xin thủng thỉnh rồi sẽ liệu.

Hán vương nói:

– Nghe cha ta bị trói trên yên ngựa, lòng ta đau nhói, không thể chịu nổi. Việc địch thiên hạ là việc lâu dài, cứu Thái công khỏi nạn là việc cần gấp.

Trương Lương và Trần Bình đều nói:

– Giết Thái công mà ích gì cho Hạng vương, chẳng qua Hạng vương muốn cho ta lui binh, nên làm như thế mà thôi. Nếu Ðại vương vương khóc, Hạng vương lại còn đày đọa Thái công nhiều hơn. Chi bằng giả cách điềm nhiên, hẳn Hạng vương không cần đến sự hăm dọa Thái công nữa.

Hai người vừa nói dứt lời, lại có quân vào báo:

– Bá vương đến trước trận, mời Ðại vương ra nói chuyện.

Hàn Tín nghe Bá vương đến, liền bày trận ở Bình Xuyên, chung quanh bố trí chiến xa yểm hộ.

Bá vương trông thấy có ý khiếp sợ, dừng quân trước trận.

Hán vương từ trong dinh cười ngựa xông ra, kêu Bá vương nói:

– Hạng Vũ. Ngươi đã đến lúc binh cùng thế khốn, còn chưa đầu hàng sao?

Hạng vương nổi giận hét:

– Ngươi là đứa thất phu ở Phong Bái, tài cán gì mà đòi nói đến chuyện tranh thiên hạ.

Nói xong, cầm kích đâm tới.

Hàn Tín ra lệnh cho ba tướng Phàn Khoái, Chu Bột, Vương Lăng đổ ra chặn đánh.

Hạng vương một mình chống cự với bốn tướng rất hăng. Chẳng bao lâu, giữa trận có một tiếng pháo lệnh nổ, ngọn cờ vàng huy động, tức thì quân mã từ bốn phương, tám hướng kéo đến rầm rộ, vây Hạng vương vào giữa.

Hạng vương đưa mắt nhìn xa, thấy chung quanh chiến xa vây kín, sát khí đằng đằng, giáo gươm lởm chởm, không còn phân định phương hướng, không còn biết đâu là chỗ tiến thối nữa.

Hạng vương đánh một hồi, vòng vây mỗi lúc một xiết chặt hơn. Mây sầu ảm đạm, trận chiến mù mịt, quân Sở lớp chết, lớp bị thương, thây nằm chật đất.

Hạng vương nghĩ thầm:

– Không biết Hàn Tín lập trận này là trận gì. Song xét về thế trận thì phải có quân lực từ bên ngoài đánh vào thì mới giải thoát nổi.

Liền lúc đó, bỗng thấy thế trận xoay chiều. Nơi cửa Ðông bốn tướng Sở là Quý Bố, Chu Lan, Chu Ân, Chung Ly Muội, kéo quân từ bên ngoài đánh dồn đến. Hạng vương thừa thế từ bên trong đánh ra, giải thoát cho mấy vạn binh, nhắm đường chạy.

Hàn Tín không dám đuổi theo, Hạng vương thu góp tàn quân trở về dinh Sở, họp các tướng hỏi:

– Người nào hiểu được trận này?

Chu Lan bước ra tâu:

– Hàn Tín bày trận ấy là trận Thái ất, có cửa sanh, cửa tử, có trận âm, trận dương. Nếu đi cửa sanh mà vào trận dương thì phá được, bằng đi cửa khác không thoát khỏi. Hạ thần thuở nhỏ có theo học ông Lý Thiếu ở Hoa Sơn, từng được nghe nói về trận Thái Ất, vì vậy hôm nay mới cứu Ðại vương được.

Hạng vương bưng chén ngự tửu ban cho Chu Lan.

Chung Ly Muội nói:

– Ngày mai, xin Ðại vương đem Thái công ra để nơi mặt trận, kỳ cho Hán vương phải lui quân, đừng giao chiến làm gì cho tổn sức. Ðại vương cứ trở về Bành Thành chiêu tập binh mã, tăng cường binh lực rồi sẽ tính.

Bá vương theo lời, vào nội dinh an nghỉ.

Trời đêm sương lạnh, chiến trường còn văng vẳng nhịp trống, tiếng kèn của quân Hán canh phòng.

Cũng trong đêm ấy, Trương Lương và Trần Bình bàn mưu để cứu Thái công.

Hai người chọn trong bọn hàng quân của Sở, một tên lanh lợi, gọi vào trướng, lấy lời phủ dụ:

– Ta xem tướng mạo nhà ngươi, sau này cũng có công danh, cớ sao lẫn lộn vào đám sĩ tốt để không bao giờ lập thân được. Vậy nay ta giao cho nhà ngươi đi làm một việc này, nếu thành công sẽ được trọng thưởng.

Tên quân ấy thưa:

– Quân sư muốn sai gì, tôi cũng tận tâm.

Trương Lương nói:

– Ta có một phong thư, sai ngươi sang dinh Sở, thừa lúc vắng người lén đưa cho Hạng Bá. Nếu Hạng Bá có trả lời, ngươi khá lẻn về đây tin cho ta biết.

Tên quân nói:

– Chuyện đó rất dễ. Tôi là quân Sở, đường lối trong dình đã thông thạo, lại không ai nghi ngờ gì.

Trương Lương mừng rỡ, thưởng cho tên này mấy nén vàng rồi trao thư.

Tên quân âm thầm lẻn vào dinh Sở. Quân tuần bên Sở tưởng quân trong trại, không để ý.

Ngày hôm sau, Hạng Bá đang ngồi kiểm quân mã, tên quân ấy nhìn thấy xung quanh không có ai, liến bước đến dâng thư và nói:

– Tôi là quân Sở, bị quân Hán bắt được nơi mặt trận những tưởng bỏ mạng, ngờ đâu vào dinh Hán lại gặp Trương Lương bảo tôi đem thư này về trình lão Ðại vương.

Hạng Bá tiếp thư, mở ra xem. Trong thư viết:

“Cố hữu Trương Lương kính dâng thư Ðại quan Tư mã họ Hạng.

Từ độ giao du, đến nay cách biệt. vương tôi lúc này ở lại Hán, không phải vì quyến luyến công danh, mà vì Hán vương là người đại nghĩa, không nở rời. Cây hiền lòng chim ưa thích, chẳng lẽ lại đậu trên cành lại không tiếng hót.

Nhân hôm nọ, Bá vương định giết Thái công làm kế lui quân Hán. Nhưng Hán vương đóng quân ở đây, lui về đâu được? Quân Hán không lui, Bá vương tất giết Thái công. Thiết tưởng, để Thái công chết chẳng nhưng danh dự của Bá vương bị mất, mà tình Tần, Tấn giữa ngài và Hán vương hứa trước kia nơi Lam Ðiền vì thế mà tổn thương. Sau này trong tình thông gia còn mặt nào nhìn thấy nhau.

Ấy vậy Lương tôi xin gởi thư này đến ngài, nếu khi nào Bá vương sắp sửa giết Thái công, xin ngài cố gián, khiến cho Thái công được nhờ đức tôi sinh Hán vương khỎi tiếng bất hiếu, ân nghĩa vẹn toàn. Nếu ngài đồng ý, xin phúc thư để an lòng mong mỏi của Hán vương và Lương tôi. Ða tạ “

Hạng Bá xem thư xong, nói:

– Mày đã đem thư cho Trương Tử Phòng, tất mày là một tên tâm phúc dưới trướng.

Tên quân nói:

Nêu Ðại phu có thư trả lời, tôi xin tan lòng, giữ cẩn mật.

– Hạng Bá hậu thưởng tên quân và viết phúc thư trao cho hắn, giấu vào mình, đoạn sai tả hữu đưa đến tận dinh Hán.

Tên quân vào yết kiến Trương Lương thuật lại mọi việc, và trao thư Hạng Bá lên.

Trương Lương mở ra xem. Thư rằng:

” Tiểu đệ Hạng Bá phục thư Trương hiền hữu.

Xa cách bấy lâu, lòng mong nhớ chẳng cùng. Nay được mấy lời dạy bảo, lẽ nào dám chẳng quân. Song Bá tôi thiết nghĩ: Giải binh cầu hòa là sự lợi ích giữa hai nước.

Thái công bấy lâu ở đây, được tôi trông nom, không đến nỗi cực khổ lắm. Tuy nhiên, nếu không giao hòa Thái công mong gì trở về được.

Tôi tuy tận tụy giải cứu song chỉ là cái kế nhất thời. Gần đây, tả hữu đều khuyên can Bá vương giết Thái công, tôi chỉ e đến khi cơn giận, thì khó ai ngăn cản nổi, vì vậy hiền hữu nên lưu tâm định liệu “.

Trương Lương xem thư xong mừng rỡ, trọng thưởng cho tên quân ấy, và sai ghi công vào sổ bộ để chờ khi tuyển dụng.

Nhắc lại Hạng vương sau khi nghe lời Chung Ly Muội, thân hành dẫn đại binh đến trước dinh, bày thành trận thế, rồi sai khiêng một vạc dầu lớn để ở trước trận, đem Thái công đặt lên thớt, khiến quân tuyên bố rằng:

– Nếu quân Hán không mau lui về, Thái công sẽ bị mổ ruột, bỏ vào vạc dầu tức khắc.

Hán vương được tin ấy, bàn với quần thần, rồi vỗ ngựa ra trước trận nói:

– Ta cùng Bá vương đều ngoảnh mặt về phía Bắc, thờ vua Hoài vương, và cùng kết nghĩa làm anh em với nhau. Vậy cha ta cũng tức là cha của Bá vương. Nếu Bá vương luộc cha ta, xin cho ta một bát nước luộc với.

Nói xong, tươi cười như thường, không tỏ chút gì đau đớn.

Hạng vương nổi giận mắng:

– Ðồ súc sanh, coi hiếu đạo như trò đùa, còn biết gì liêm sỉ.

Liền khiến quân đem bỏ Thái công vào vạc dầu.

Hạng Bá vội bước ra can:

– Phàm những kẻ đã nặng tình nước tất nhẹ tình nhà. Ngày xưa vua Ðại Võ là bậc thánh nhân, có cha là Cổn, vì trị thủy không thành nên bị vua Nghêu giết, thế mà Ðại Võ vẫn cứ trị thủy. Trong ba năm trời, ba lần đi qua cửa mà không ghé vào nhà thăm. Nay Hán vương không hề nhắc đến Thái công, coi tình cha con nhẹ hơn tình nước. Nếu Ðại vương có giết Thái công cũng chẳng ích gì cho chiến cuộc, mà lại mang tiếng với xã hội, nhân quần. Chi bằng Ðại vương hãy thu binh về dinh, rồi tính kế khác để bảo vệ cái uy vũ muôn đời.

Hạng vương theo lời Hạng Bá, truyền chỉ không giết Thái công, và thu quân về trại.

Hôm ấy, hai bên không giao chiến.

Hán vương về đến dinh, khóc òa lên, nói:

– Thái công tuy tạm thời khỏi chết nhất thời, nhưng vẫn không về nước được, ta thật là một tội nhân trong thiên hạ.

Trương Lương nói:

– Nếu muốn Thái công về nước thì phải giảng hòa.

Nay bên Sở đang thiếu lương, yếu thế, cầu hòa rất dễ.

Hồi 36 – Cắt Hồng Câu, Lưu, Hạng giảng hòa

Hán vương nghe Trương Lương nói đến việc giải hòa để đưa Thái công về nước liền hỏi:

– Ai có thể qua Sở thương thuyết được việc này?

Hán vương vừa hỏi dứt lời, có một người bước ra tâu:

– Hạ thần xin lãnh trách nhiệm ấy.

Hán vương xem lại thấy đó là Hầu công.

Hầu công vốn người Lạc Dương, gặp lúc nhà Tần loạn lạc, không chịu ra làm quan, từ nhỏ đã có sẵn khí phách, và có tài nói giỏi, được dân chúng trong vùng mến phục. Sau đó, nhân lúc Hán vương đem quân đánh Sở, đi qua Lạc Dương, Hầu công dẫn bọn Ðổng Công, Tam lão vào vết kiến. Nay thấy Hán vương muốn sai người sang Sỡ giảng hòa, Hầu công ra nhận trách nhiệm ấy.

Trung Lương nói:

– Hạng vương tính nóng như lửa, không đủ kiên nhẫn ngồi nghe lời phải trái. Hiền công sang đó, nếu lỡ một lời nói không hợp, chẳng những tánh mạng Thái công không an toàn mà còn làm nhục đến mệnh vua, xin Hiền công nghĩ lại.

Hầu công nói:

– Tiên sinh nói như vậy chẳng là Hạng vương không thể yết kiến được Thái công không thể đón về được, còn tôi đây, chúa thượng nuôi bấy lâu dưới trướng là vô dụng ư?

Hán vương nói:

– Người này đã có khí phách như thế, tất việc lớn thành được.

Liền viết thư đưa cho Hầu công.

Hầu công từ biệt Hán vương sang dinh Sở.

Hạng vương nghe Hầu công đến, biết là Hán vương sai đến giảng hòa, liền sai quân đao phủ dàn ra hai bên, còn mình chống gươm ngồi trên trướng, trợn mắt tròn vo, oai phong lẫm hệt.

Hầu công ung dung từ ngoài bước vào miệng cười khúc khích.

Hạng vương nổi giận mắng:

– Ngươi là sứ giả nhà Hán, sang đây giảng hòa mà dám tự đắc như thế, không sợ chết sao?

Hầu công đáp:

– Ðại vương là một vị vua vạn thắng, oai vũ lẫy lừng, ai ai lại không biết! Vậy mà nay thấy tôi là một đứa bần sĩ, mặt không khí sắc, tài còn xa với Quản, Nhạc, mà lại dàn quân đao phủ để thị uy. Dẫu Ðại vương không làm như thế thì kẻ bần sĩ này cũng đã khiếp sợ rồi? Huống hồ Ðại vương thị uy như thế, thì tôi nhịn cười sao được.

Hạng vương thấy Hầu công tâng bốc mình, thích ý, ném gươm xuống đất, đuổi bọn đao phủ ra rồi hỏi:

– Nhà ngươi sang đây định ý thế nào?

Hầu công đáp ;

– Tôi sang đây để bàn với Ðại vương bãi việc binh nhung, khiến cho hai nước Hán, Sở giao hòa thiên hạ khỏi phải chìm trong bể điêu linh, tang tóc. Hiện có bức thư của vua Hán gửi đến cho Ðại vương.

Hạng vương đổi giận làm vui, tiếp thư mở ra xem.

Trong thư viết:

” Hán vương kính đệ tâm thư dâng Hạng vương nhã giám.

Bang tôi nghe nói làm vua cốt mưu cầu hạnh phúc cho muôn dân, tạo cho xã hội một cảnh thái bình thịnh trì. Nếu dân không được an cư lạc nghiệp, thì nhiệm vụ làm vua không tròn.

Tôi cùng quý quốc mấy năm tranh hùng, trải hơn bảy mươi trận đánh, xương khô phơi đầy bãi, máu nhuộm đỏ cỏ cây. Nếu nghĩ đến dân thì cảnh ấy là một vết thương cho những ai cầm đầu thiên hạ.

Nay tôi sai Hầu công sang quý quốc giảng hòa, lấy Hồng Câu làm giới hạn, từ Hồng Câu về Tây thuộc Hán, từ Hồng Câu về Ðông thuộc về Sở. Hai bên ai giữ nước ấy, bãi việc đao binh, cùng nhau hưởng cảnh thanh nhàn, muôn dân cũng nhờ đó thoát khỏi vòng máu lửa, vui với gia đình. Quý quốc nên sớm quyết định “.

Hạng vương xem thư xong, nghĩ thầm:

– Lâu nay ta cùng Hán giao tranh, quân mã mỏi mòn, lương thực đã gần hết, nếu không tạm nghỉ để tăng cường quân lực thì không thể nào thắng nổi. Chi bằng nhân cơ hội này cùng Hán giao ước, hai bên bãi binh, ta trở về Bành Thành sống yên ổn, rượu ngon gái đẹp, chẳng thú vị lắm sao?

Nghĩ rồi nói với Hầu công:

– Ta vẫn có ý định cùng Hán vương tranh đấu đến cùng. Nay thấy lời nói của Hán vương có vẻ khiêm tốn, hiểu được lẽ phải. Vậy ta sẽ cho người đến ước định bờ cõi cùng với Hán vương thảo bản điều ước, mỗi bên giữ một bản để làm bằng. Ngươi trở về đi. Ngày mai ta sẽ cùng Hán vương tương kiến.

Hầu công bái biệt Bá vương trở về dinh Hán, thuật lại mọi điều.

Hán vương mừng rỡ. Tiếp đó lại có sứ Sở đến, chiếu sự ước hẹn viết ra hai tờ giao ước, đợi lúc hai vua gặp nhau để trao đổi.

Hán vương nói:

– Ngày mai ta sẽ cùng Bá vương gặp mặt để nối lại tình anh em như cũ. Cuộc gặp mặt là cuộc thân hữu, hai bên không cần phải bày đại binh, không cần phải mặc giáp trụ. Nhà ngươi về nói lại với Bá vương biết, điều cốt yếu là phải đưa Thái công về Hán, thì cuộc giao ước mới tốt đẹp

Sứ giả nói:

– Tôi và Hầu công trở về tâu lại với Bá vương, chắc Bá vương cũng chẳng có ý lưu Thái công lại bên đó làm gì.

Hán vương bèn trọng thưởng cho sứ giả, rồi sai Hầu cùng sang dinh Sở tỏ bày ý nguyện.

Hạng vương thấy Hầu công cùng sứ giả trở về liền hỏi:

– Hầu công lại sang đây có việc gì?

Hầu công nói:

– Chúa thượng tôi muốn xin Ðại vương một lời hứa là ngày mai lúc tương ngộ, xin Ðại vương giao trả Thái công và Lã Hậu về Hán, cho cuộc giao trả được trọn vẹn.

Hạng vương nói:

– Lời ta đã hứa lẽ nào làm sai. Ngươi về tâu lại với Hán vương, không phải lo việc ấy.

Sau khi Hầu công từ giã Hạng vương, Chung Ly Muội và Quý Bố đến nói:

– Tuy rằng Ðại vương nên cùng Hán giảng hòa, song chớ nên giao trả Thái công vội. Hán vương là kẻ phản phúc, không đủ tín nghĩa. Nếu trả Thái công e Hán vương sanh lòng phản trắc.

Hạng vương nói:

– Ta lấy Thái công làm kế lui binh Hán, thiên hạ chê cười. Ðó là một vết nhơ cho thanh danh ta rồi. Nay lời ta đã hứa, lẽ nào không thi hành!

Hạng Bá nói:

– Thái công bị giam ở Sở, Ðại vương không giết, đủ tỏ lòng nhân của Ðại vương rồi. Nay lại cho về nước ơn ấy như trời biển, lẽ nào Hán vương còn đem lòng phản phúc?

Hạng vương nói:

– Lời ấy phù hợp với ý nghĩ của ta.

Ngày hôm sau, Hạng vương truyền văn võ, tướng sĩ đều mặc thường phục, đi dàn ra hai bên, Thái công và Lã hậu theo sau ngựa.

Bên kia Hán vương cũng không dùng đồ giáp binh gì cả.

Hai vua gặp nhau cùng làm lễ tương kiến, rồi mỗi người cầm một tờ hiệp ước, tự tay trao đổi nhau.

Hạng vương nói:

– Từ nay Sở và Hán không còn giao tranh nữa, bên nào nấy giữ lấy cõi bờ của mình. Phần tôi, tôi sẽ đem quân về phía Ðông.

Nói xong, sai tả hữu dẫn Thái công và Lã hậu giao cho Hán vương.

Hán vương mừng rỡ ra đón, rồi đến tạ ơn Bá vương và nói:

– Thân phụ tôi lâu nay nương tựa dưới cờ Ðại vương, nhờ ơn nuôi dưỡng, ơn ấy chẳng bao giờ tôi dám quên.

Ðoạn, hai vua từ giã trở về dinh. Cách đó vài ngày, có tin Hạng vương thu binh về Ðông.

Hán vương được tin ấy, vội truyền lui binh về Tây.

Trương Lương bước đến can:

– Mấy năm, Ðại vương chiến đấu vất vả, các tướng sĩ theo phò Ðại vương những mong được một ngày về Ðông xúm họp với quê hương, rạng danh nơi đất tổ. Nay Ðại vương một sớm cùng Sở giảng hòa kéo binh về Tây, tướng sĩ ai nấy đều nhớ cha mẹ vợ con tất sẽ trốn về quê cả Ðại vương cô thế, làm sao giữ nổi giang san. Vả lại, nay Thái công đã về Hán, thế quân lừng lẫy, thiên hạ theo về, cái cơ được thua đã đương nhiên, việc gì lại chia đất giảng hòa. Cổ nhân đã nói: trời không hai mặt, đất chẳng hai vua, thiên hạ không khuông phò hai chúa. Ấy vậy Ðại vương nên tiếp tục nghiệp lớn để cho thiên hạ sớm hưởng một cuộc đời thanh bình thạnh tri.

Hán vương nói:

– Ta đã cắt Hồng Câu giao ước với Sở, nay lại bội ước thì còn gì tín nghĩa.

Trương Lương nói:

– Kẻ có chí lớn không nên câu nệ điều nhỏ. Việc cắt đất giảng hòa chẳng qua là một âm mưu của ta để đưa Thái công và Lã hâu về nước. Trong thiên hạ ai chẳng biết lẽ ấy. Chỉ có Hạng vương lầm kế mà thôi. Trên trường chiến đấu, dùng trí dũng để thắng không phải là thất tín. Nếu sự nghiệp nửa đường mà bõ đi, công khó của Ðại vương và chúng tôi đều vô ích.

Trần Bình, Lục Giả, Tùy Hà và các mưu sĩ cũng đều tỏ ý:

– Lời nói của Tử Phòng rất phải Ðại vương cất quân thiên hạ theo về, chư hầu ngưỡng vọng là mong Ðại vương thống nhất bờ cõi, đập tan bạo lực của Hạng vương nếu chia đất cầu hòa đó mới là chuyện mất tín nghĩa.

Hán vương thấy các tướng đều nhất quyết đánh Sở, không biết nghĩ sao, đành phải nghe theo, truyền sắm sửa binh mã để cùng Sở quyết chiến.

Nhắc lại Hạng vương, kéo quân về Bành Thành, lòng thấy khoan khoái như trút tất cả những gì cực nhọc trong mấy năm qua, truyện mở tiệc khoản đãi quần thần, rồi ngày nào cũng ở trên lầu cùng Hoàng hậu Ngu Cơ say sưa tửu sắc. Lại cho các tướng về nhà nghỉ ngơi coi như không còn chinh chiến nữa Chu Lan thấy vậy dâng sớ can:

” Xưa nay, các bậc thánh đế minh vương, an không quên nguy, trị không quên loạn. Dẫu nước nhà vô sự, việc võ bị cũng chẳng chút trễ tràng.

Huống hồ hôm nay Lưu Bang, dưới trướng bọn mưu thần toàn là những kẻ quỷ quyệt, trao trở khó lường. Nếu

Lưu Bang lại nghe lời bọn mưu thần dấy động can qua, trong lúc Ðại vương giải giáp nghĩ ngơi, quân binh trể biếng thì làm sao chống nổi?

Thiết nghĩ dầu Ðại vương có muốt an hưỡng nơi một góc trời cũng phải tu nhân tích đức, rèn luyện võ nghệ, kén chọn kẻ tài trí sung vào dưới trướng, sớm hôm lo việc nước thì mới giữ được giang sơn.

Một tấm lòng trung, mấy lời chân thật, xin Ðại vương xét cho “.

Hạng vương xem sớ, trầm ngâm một lúc rồi gọi Chu Lan vào nói:

– Lưu Bang đã cùng ta thề ước, lẽ nào lại bội tín như ngươi quá lo xa. Tuy nhiên ta cũng sẽ chuẩn y lời sớ của nhà ngươi để không xảy ra điều ân hận.

Liền đòi Chung Ly Muội đến nói:

– Chu Lan dâng sớ khuyên ta đừng bỏ việc dở, phòng Hán vương sanh biến tâm. Vậy các ngươi nên ra vũ trường luyện tập ba quân đề phòng sanh biến.

Chung Ly Muội lãnh chỉ thao luyện quân mã.

Giữa lúc đó, Hán vương đã hội quân nơi Cố Lăng cùng với Trương Lương, Trần Bình bàn việc đánh Sở.

Hán vương nói:

– Bội ước với Sở cũng được, song hiện nay ta cùng Sở giảng hòa, bọn Hàn Tín và binh mã các chư hầu đều kéo về, vậy làm cách nào mà triệu tập?

Trương Lương nói:

– Ðại vương nên một mặt đưa thư bội ước với Sở, một mặt sai người đi gọi binh mã các xứ. Ðợi khi binh mã các lộ chư hầu tập họp đông đủ, bấy giờ mới tuyên chiến.

Hán vương nói:

– Ta thề ước với Sở, bây giờ lại tuyên chiến, thiên hạ thấy rõ lòng phản bội của ta. Ta muốn làm cách nào cho Sở cử binh đánh ta trước, có được chăng?

Lục Giả bước ra nói:

– Tôi xin lãnh thư sang Sở, dùng ba tấc lưỡi, khích cho Hạng vương khởi binh đánh trước, để tránh cho Hạng vương lời dị nghị trong thiên hạ.

Hán vương nói:

– Không nên! Hạng vương là người nóng tính, thấy ta bội ước tất nổi giận giết nhà ngươi mất.

Lục Giả nói:

– Chẳng hề chi, tôi đã có cách bảo tồn tánh mạng.

Xin Ðại vương chớ lo.

Hán vương lòng nghi ngại, nhưng không có cách nào hơn, cuối cùng đành phải sai Lục Giả làm sứ sang Sở.

Lục Giả lãnh thư, đến Bành Thành vào yết kiến.

Hạng vương cho vào, hỏi:

– Lục Ðại phu sang đây có việc gì vậy?

– Ngày trước, Hán vương vì muốn đón Thái công và Lã hậu về Hán, nên giả cách cùng Ðại vương giảng hòa. Nay Hán vương sanh lòng tráo trở, hội binh nơi Cố Lăng để cùng Ðại vương quyết chiến, lại sai hạ thần đi sứ, hạ chiến thư. Hạ thần trộm nghĩ, Ðại vương oai võ lẫy lừng, thiên hạ cúi đầu tùng phục, Hán vương được một nửa đất cũng đã đủ lắm rồi, còn sinh tâm tranh chấp, thật không biết sức mình. Hạ thần bất đắc dĩ phải dem chiến thư đến đây dám đâu xúc phạm Ðại vương.

Nói xong dâng thư cho hạng vương. Hạng vương mở ra xem.

Thư rằng:

” Hán vương, Lưu Bang gởi Bá vương tri khán.

Ngày trước, Thái công, Lã hậu ở Sở, được nhờ nhà vua chăm nuôi tử tế, song nhà vua lại giữ mãi không cho về nước, dùng kế hăm dọa, đem ra trận đặt lên thớt nấu dầu, hành động ấy quả nhân không sao nguôi được những muốn đánh mấy trận, lấy đầu kẻ vô liêm sĩ ấy.

Tuy nhiên, đánh chuột kiêng đồ ngần ngại mãi, bất đắc dĩ phải giảng hòa chia đất, đó chỉ là cái kế để đón Thái công về mà thôi.

Bởi lẽ đạo làm con, dù bỏ mình mưu cầu hạnh phúc cho song thân cũng chẳng quản, huống hồ là dùng trí thuật.

Lấy trí thắng kẻ ngu, lấy lợi mê hoặc kẻ gian, làm cho cá phải cắn câu. chim mắc vào lưới, chính là các việc giảng hòa của quả nhân vừa làm đó.

Nay Thái công, Lã hậu đã về nước, không còn phải lo ngại gì nữa, quả nhân lại xổ cờ, gióng trống, cùng quý quốc tranh phong. Quân Hán đã tập họp nơi Cố Lăng, nếu quân Sở không sợ thì mau đem binh đến quyết chiến Xin chớ sai lời “.

Hạng vương xem thư xong nổi giận xé tan thư và quát lớn:

– Lưu Bang là đứa thất phu, dám đang tâm bội ước lại định cùng ta quyết chiến. Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê, chưa hề lui bước trước địch quân. Lưu Bang chăng qua chỉ là một tên tiểu nhân đắc ý, ta quyết bắt nó trị tội.

Nói xong, truyền cho Lục Giả trở về hẹn sẽ kéo binh đến giao chiến.

Lục Giả từ giã Hạng vương trở về Cố Lăng yết kiến Hán vương tâu:

– Hạng vương rất giận dữ, sắp đem quân đến hội chiến, xin Ðại vương định liệu.

Hán vương nghe Lục Giả nói, lòng lo lắng, vội đòi Trương Lương và Trần Bình vào nói:

– Chiến thư đã hạ, Hạng vương sắp kéo đại binh đến đây, bọn Hàn Tín lại không thấy về, bây giờ nên tính lẽ nào?

Trương Lương nói:

– Binh mã Ðại vương hiện khá đầy đủ. Vậy một mặt chia cho các tướng quản lĩnh, dự bị đánh Sở, một mặt sai người thúc giục Hàn Tín đem quân về tiếp ứng.

Chưa đi được mấy ngày có quân thám thính về báo:

– Hạng vương cử hơn ba mươi vạn quân, từ Từ Châu kéo sang, đi đến đâu các phủ huyện đều chạy trốn, không nơi nào dám ngăn cản. Hiện binh Sỡ đang hạ trại cách Cố Lăng ba mươi dặm.

Hán vương nói:

– Quân Sở mới đến, nhuệ khí đang hăng, ta không nên đánh vội.

Trần Bình nói:

– Ðại vương luận rất phải. Quân ta chỉ nên canh phòng cẩn mật chờ quân Sỡ trễ biếng sẽ giao tranh.

Ba quân tuân lệnh, đâu đó giữ gìn nghiêm nhặt, không xuất trận.

Hạng vương an dinh hạ trại xong, cho quân sĩ đi thám thính, thấy quân Hán bất động, lòng sinh nghi, hội các tướng bàn bạc:

– Hán vương đã sai người hạ chiến thư, vậy mà ta đem quân đến đây, họ lại bất động là sao?

Quý Bố và Chung Ly Muội nói:

– Ðó là kế của Hán vương, đợi lâu ngày quân ta chểnh mảng mới xuất quân đó.

Chu Lan nói:

– Không phải như thế. Quân ta từ xa kéo đến thế đang hăng, còn quân Hán thì Hàn Tín chưa về, nên cố diên trì chờ đợi, chưa dám xuất trận. Ngày mai, Ðại vương nên đem quân cùng Hán giao tranh để tiêu hao lực lượng của họ.

Hạng vương khen phải. Ngày hôm sau truyền lệnh mở cờ gióng trống, kéo đến đánh Hán.

Hán vương nghe báo, vội vã sai Vương Lăng, Phàn Khoái, Quán Anh, Lư Quán dẫn binh ra nghênh chiến.

Hạng vương đến trước trận, gọi Hán vương ra nói chuyện.

Tướng Hán đáp:

– Chúa thượng ta sai chúng ta đến đây bắt vua Sở đem về nấu dầu để trả lại cái thù của Thái công ngày trước

Hạng vương nổi giận, vung đao xông vào đánh. Bốn tướng Hán cùng nhau kéo vào một lượt. Ðánh được vài mươi hiệp, bốn tướng Hán không cự nổi, phải kéo lui về.

Bá vương thúc quân đuổi theo.

Vừa được mươi dặm thì quân Hán có hơn mười viên kiện tướng là bọn Ngân Hấp, Chu Xương, Cao Khởi, La Mã Thông… xông ra, chặn Hạng vương lại đánh.

Bấy giờ, bên Sở bọn Quý Bố, Chung Ly Muội cũng đã đuổi đến kịp, xông vào trợ chiến với Hạng vương.

Hai bên đánh nhau rất hăng, chiêng trống vang trời.

Bỗng trong dinh Sở có một tiếng pháo lệnh, Chu Lan xuất lĩnh một cánh binh, kéo ra tràn vào trận Hán, đánh quân Hán đứt ra làm nhiều đoạn.

Hạng vương thừa thắng chém giết quân Hán rất nhiều, các tướng Hán biết không cự nổi bỏ chạy vào thành Cố Lăng đóng chặt cửa lại.

Quân Sở đuổi đến dưới thành, nói với tướng sĩ:

– Dịp này không nên bỏ lỡ, phải bắt cho được Lưu Bang rửa hận.

Các tướng nói.

– Ðại vương đốc xuất quân sĩ đánh từ buổi sáng đến giờ ai nấy đều mỏi mệt. Vậy phải đóng trại cho quân sĩ nghỉ ngơi một đêm, rạng ngày hôm sau sẽ công thành.

Thành Cố Lăng là một thành nhỏ, trơ trọi, phá vỡ không khó.

Hạng vương nói:

– Nếu đóng trại nghỉ ngơi đêm nay các tướng phải đề phòng cẩn mật, kẻo quân Hán kéo vào cướp trại thì nguy.

Các tướng đều tuân lệnh cho quân hạ trại dưới thành.

Bấy giờ Hán vương ở trong thành Cố Lăng thấy quân thua chạy về, các tướng đều hết vía, lòng bối rối, bàn với Trương Lương và Trần Bình:

– Cố Lăng là thành nhỏ, quân Sở vây thành làm thế nào thoát được Các ngươi có kế gì chăng?

Trương Lương nói:

– Quân Sở đóng trại chưa xong, trời đã tối, đêm nay nên thừa dịp sai một số dũng tướng kéo quân ra, lựa phía nào quân Sở ít ỏi, đánh tháo chạy về Thành Cao để tránh cái nhuệ khí của địch. Trong lúc trời tối, tôi chắc quân Sở không dám đuổi theo.

Hán vương nói:

– Nếu vậy ta phải định liệu gấp mới được.

Trương Lương liền truyền lệnh các tướng lĩnh bị binh mã, dự bị thoát ra ngoại thành, đồng thời sai một tiểu hiệu lên mặt thành xem thế địch quân.

Tên tiểu hiệu sau khi quan sát khắp nơi trở lại nói:

– Cửa phía Bắc, quân Sở thưa thớt, có thể đánh ra được Hán vương liền sai Phàn Khoái, Chu Bột, Sài Võ, Ngân Hấp, bốn tướng mở cửa thành phía Bắc dẫn quân ra một lượt.

Sau đó, Hán vương cùng đoàn tùy tùng đều kéo theo.

Tướng Sở đóng quân ở phía Bắc là Hoàn Sở, vì lúc đêm tối quân sĩ suốt ngày mỏi mệt, lại không chuẩn bị trước nên không cự lại.

Ðến. lúc đại binh Hạng vương hay, kéo đến tiếp ứng thì quân Hán đã thoát khỏi vòng vây.

Chung Ly Muội bàn với Hạng vương:

– Lúc tối tăm sợ có quân mai phục ta chớ đuổi theo đợi trời sáng sẽ liệu.

Hạng vương theo lời, không cho quân mình truy kích, nhờ đó Hán vương cùng các tướng chạy trốn được xa.

Chạy hơn tám mươi dặm, trời mới rựng sáng Trần Bình bàn với Hán vương:

– Tuy tướng sĩ suốt đêm chạy vất vả song chớ nên đóng quân nơi đây phải chạy đến Thành Cao mới được.

Hán vương nói:

– Nếu đến Thành Cao, quân Sở lại kéo đến vây nữa thì biết làm thếnào?

Trương Lương nói:

– Việc ấy không lo. Quân ta về Thành Cao độ ba ngày quân Sở ắt phải lui.

Hán vương hỏi:.

– Tiên sinh có kế gì lui được quân Sở?

Trương Lương tâu:

– Quân Sở chiếm đâu không thể giữ đất được, vì đường vận lương từ Bành Thành đến đây rất khó khăn.

Vả lại vừa rồi tôi được tin Bành Việt đem quân chận đường vận lương của Sở rồi Muốn chắc ý tối lại sai hai tướng Trương Thương, Trang Tà lẻn đốt kho lương của Sở rồi, vì vậy không bao lâu quân Sở phải kéo về.

Hán vương nghe nói an lòng, truyền quân mã thẳng đường đến Thành Cao.

Sáng ngày hôm sau, Hạng vương được tin quân Hán bỏ Cố Lăng về Thành Cao, liên đốc quân đến vây.

Sau ba ngày công phá, bỗng có Chung Ly Muội và Quý Bố chạy đến báo:

– Hiện nay trung quân bị thiếu lương. Vừa rồi lại có tin kho lương Liễu Thôn bị quân Hán cướp đốt rồi. Nếu nay mai Hàn Tín kéo quân đến đây quân ta không thể nào rút lui được, ắt phải chết đói.

Hạng vương nói:

– Ta đã lo việc thiếu lương thực. Nay kho Liễu Thôn bi đốt thì còn đóng quân ở đây làm sao được.

Liền truyền lệnh lút quân về, sai Hoàn Sở. Ngu Tử Kỳ đi đoạn hậu đề phòng quân Hán đuổi theo.

Ba quân lớn nhỏ đang lúc lo thiếu lương chợt có lệnh giải binh tức thời như gió cuốn mây bay, chưa đầy nửa ngày đã rút về hết sạch. Quân Hán ở trên thành thấy quân Sở rút về, vội vào báo cáo với Hán vương.

Hán vương nói:

– Nếu quân Sở rút lui, ta nên truy kích để tiêu hao lực lượng địch.

Trần Bình nói:

– Không nên! Quân Sở rút về, tất có sai dũng tướng đi đoạn hậu, nếu đuổi theo trúng kế. Vả lại quân Sở không phải thua trận mà rút, lực lượng còn đang mạnh lắm.

Hán vương khen phải, không truyền quân truy kích.

Hạng vương kéo quân về đến Bành Thành, gọi người coi kho lương đến khiển trách, rồi chém đầu răn chúng

Từ đó, Hạng vương lo việc tăng gia binh bị đề phòng khi xuất chinh.

Bấy giờ, nơi Thành Cao, Hán vương cũng đang lo củng cố quân ngũ, ngày đêm bàn việc tác chiến.

Một hôm, Hán vương đòi Trần Bình và Trương lương vào nói:

– Hàn Tín, Anh Bố và Bành Việt, ba người ấy cho gọi mãi mà không đến, nay phải làm thế nào?

Trương Lương nói:

– Hàn Tín tuy phong vương vị, nhưng chưa phong cho một mảnh đất nào. Bành Việt thì đã từng lập công to, nhưng chưa phong tước còn Anh Bố từ khi bỏ về Hán, Ðại vương chưa lúc nào dùng trọng lễ hậu đãi. Ðối với ba người ấy đều là những kẻ vì lợi quên nghĩa, tham mà tự kiêu. Nếu nay Ðại vương hậu ban tước thưởng, cắt đất phong cho, khiến cho họ đều có phong ấp để cai trị riêng, ắt họ phải hả lòng cố sức đem thân giúp Ðại vương diệt Sở.

Hán vương nói:

– Lời Tiên sinh luận rất phải, hiểu thấu được tâm trạng ba kẻ ấy. Vậy phiền Tiên sinh đem ba đạo phù hịch, gia phong cho Hàn Tín làm Tam Tề vương, cai trị quận Lam Trì. Tất cả lương tiền, dân chúng quận ấy đều thuộc về quyền sử dụng của Hàn Tín. Bành Việt thì phong làm Ðại Lượng vương tất cả sản vật trên đất Lương do quyền thống trị của Bành Việt. Còn Anh Bố thì làm Hoài Nam vương thống trị mảnh đất Hoài Nam.

Hịch văn viết xong, Trương Lương lãnh mệnh đi ba nơi ấy.

Hồi 37 – Trương Lương cố sức họp chư hầu

Trương Lương lãnh các tờ hịch của vua Hán, trước hết đến nước Tề, tin cho Hàn Tín biết.

Hàn Tín vội mời Trương Lương vào bệ kiến.

Trương Lương nói:

– Ngày nay không phải như trước Nguyên soái là chúa một nước, tọa trấn hơn bảy mươi thành, tôi đâu dám ngồi bình diện.

Hàn Tín vừa cười vừa đáp:

– Tín tôi không nhờ Tiên sanh thì đâu có vinh dự như ngày hôm nay. Vả lại Tiên sinh là bậc tôn sư, Tín tôi phải đối đải như bậc thầy mới đáng, đâu dám cậy vương tước mà tự tôn mình.

Trương Lương liền trao tờ hịch cho Hàn Tín xem.

Hàn Tín mở ra đọc, lòng phấn khởi, truyền mở tiệc đãi đằng.

Trương Lương nói:

– Hiện nay Bá vương thế cô, sức yếu, Chúa thượng hối hận việc cắt Hồng Câu giao ước, nên đã cùng Sở giao binh. Vừa rồi, Chúa thượng đốt kho lương thực của Sở, khiến cho quân Sở phải giải binh, kéo về Bành Thành. Tôi tưởng lúc này Nguyên Soái cũng nên đem quân đến hội với Chúa thượng, ra công diệt Sở, định thiên hạ, để cùng nhau chung hưởng thái bình. Sở có chết thời ngôi của Nguyên soái mới vững chắc.

Hàn Tín nói:

– Ngày trước hội binh ở Quảng Võ đã sắp phá được Sở, nhưng vì muốn đón Thái công về nước, nên Chúa thượng giảng hòa với Sở, do đó, Tín tôi phải kéo binh về.

Nay Chúa thượng có ý ấy, còn gì làm cho tướng sĩ hân hoan hơn. Sớm tối tôi sẽ đem quân diệt Sở, để Chúa thượng ngồi giữa Trung quốc, vỗ yên bốn cõi, lên ngôi Thiên tử thống lảnh chư hầu, giang sơn về một mối, bá tánh vui một lòng.

Trương Lương nghe Hàn Tín nói đứng dậy tỏ ý cảm tạ và nói:

– Nguyên Soái có ý ấy thật là phúc cho xã tắc, lẽ ra Lương tôi phải tiển Nguyên Soái lên đường nhưng Lương tôi còn phải qua hai xứ nơi Anh Bố và Bành Việt, giục họ điều binh về trợ Nguyên Soái.

Hàn Tín mừng rỡ nói.

– Thế thì Tín tôi xin đem binh về Thành Cao trước để tiện việc thao luyện quân mã.

Trương Lương bèn từ biệt Hàn Tín đi sang Hoài Nam yết kiến Anh Bố.

Anh Bố mời Trương lương vào tương kiến. Trương Lương đem tờ hịch Hán vương trao cho anh Bố.

Anh Bố mở ra đọc, thấy Hán vương phong cho dải đất từ Cửa Gianh trở xuống, quản thủ một vùng rộng lớn, lòng mừng khấp khởi, quay mặt về phía Tây lạy tạ ơn vua rồi đặt tiệc khoản đãi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Tướng quân làm vua nơi đây, ngôi nhân thần như thế đã là tột bực. Song Hạng vương chưa diệt được, chắc lòng tướng quân chưa yên. Hiện nay Hàn Nguyên soái đã đem quân đến Thành Cao đánh Sở, Tướng quân nên đem binh trợ lực, sớm trừ Hạng vương. Sở có diệt thì ngôi tướng quân mới vững vàng.

Anh Bố nói:

– Hạng vương là người thù của tôi lẽ nào tôi quên được.

Nói rồi liền điểm quân đến Thành Cao.

Trương Lương lại cùng kẻ tùy tùng sang Ðại Lương yết kiến Bành Việt.

Bành Việt hay tin mừng rỡ, sắm sửa tiếp đón Trương Lương rất hậu.

Trương Lương trao hịch văn của Hán vương cho Bành Việt, có kèm theo chiếu thư phong Bành Việt làm Lương vương.

Bành Việt sai tả hữu đặt hương án, và mở ra đọc.

Chiếu rằng:

Kẻ làm tôi mong hưởng lộc vua, kẻ có công mong ngày đền đáp, đó là lẽ công bằng. Xét vì Tướng quốc Bành Việt phò Hán đã lâu, công lao rất lớn, nhiều lần đánh chẹt đường vận lương của Sở, khiến cho nghiệp Hán vững vàng, quân thù khiếp đảm.

Nay phong cho làm Ðại Lương vương, cai quản năm mươi quận đất Lương, hưởng lộc đời đời.

Nhà ngươi nên gìn lòng trung chớ trái mệnh trẫm.”

Bành Việt đọc chiếu xong, cúi lạy tạ ơn, lòng hân hoan khôn xiết, vội sai bày tiệc khoản đãi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Tướng quân lâu nay có công rất lớn, vì vậy Chúa thượng sai tôi đến đây phong thưởng. Theo ý tôi, tướng quân nên tỏ lòng tri ân bằng cách cử binh đến Thành Cao, họp với Hàn Nguyên Soái để diệt Sở. Bởi vì, Sở chưa diệt dân chúng còn trong cảnh lầm than, dẫu có hưởng lộc cao sang đến đâu, kẻ anh hùng vẫn chưa thỏa dạ.

Bành Việt nói:

– Lời Tiên sinh dạy rất phải, vậy xin Tiên sinh lưu lại đây vài hôm, tôi sắp xếp binh mã xong sẽ thượng lộ.

Trương Lương cố chối từ, nhưng Bành Việt vẫn nài nỉ, Trương Lương phải ở lại mấy hôm.

Trong lúc thừa nhàn, Trương Lương dạo xem phong cảnh Ðại Lương, thấy sông núi bao quanh, hình thế hùng tráng, thật là yết hầu của đất Cửu Châu, then móng của Trung Quốc.

Trương Lương chợt nghĩ:

– Bá vương không đóng đô ở Hàm Dương lại đóng đô ở Bành Thành, không giữ ở Ðại Lương mà lại ở Từ Châu, không lấy thóc kho Ngao Thương mà lại lấy thóc kho Liễu Thôn, đó là cái cớ khiến cho Bá vương mất thiên hạ vậy!

Trương Lương ở chơi mấy ngày rồi giã từ trước khi Bành Việt hội binh phá Sở.

Nhắc lại Hàn Tín, từ khi tiếp được hịch văn của Hán vương, liền hiểu dụ các huyện, thu góp lương thảo rồi kéo binh đến Thành Cao.

Lúc bấy giờ Khoái Kiệt đã lâu vẫn đi lang thang nơi đầu đường xó chợ, nay nghe tin Hàn Tín sắp khởi binh phá Sở, liền đến trước phủ, nói với kẻ tả hữu xin vào yết kiến Hàn Tín.

Hàn Tín mời vào hỏi:

– Tiên sinh đã lâu, ra đi không về, trách Tín tôi không nghe lời dạy. Nay Tiên sinh trở về đây, hẳn có điều chi dạy bảo?

Khoái Kiệt nói:

– Tôi chịu ơn của ngài, không nỡ để cho ngài sa vào tai vạ vì vậy không nể xấu hổ, đến đây tương kiến, xin ngài chớ quở trách.

Hàn Tín hỏi:

– Tai vạ gì vậy?

Khoái Kiệt nói:

– Ngài đóng quân nơi đây, Hán vương mấy lần bị Sở vây khốn, mà ngài không tiếp cứu. Vì vậy, Hán vương buộc lòng phải sai Trương Lương đem hịch văn đến gia không cho ngài làm Tam Tề vương. Việc gia phong ấy chẳng qua là dùng miếng mồi ngon nhử cho ngài đem binh phá Sở đó thôi. Lúc ngài đã phá Sở xong rồi, Hán vương sẽ nhớ lại việc cũ nghi cho ngài là kẻ mưu tâm bắt bí để định bá đồ vương, thế nào cũng tìm mưu trừ ngài đi để khỏi lo hậu quả. Chừng ấy chẳng những vương vị của ngài bị mất, mà tấm thân của ngài cũng khó bảo tồn được. Ðó là một tai vạ, xin ngài xét lại.

Hàn Tín hỏi:

– Theo ý Tiên sinh thì nên thế nào?

Khoái Kiệt nói:

– Không nên diệt Sở, ngài nên chiếm cứ đất Tề, chia thiên hạ làm ba, giữ lấy thế chân vạc thì địa vị ngài mới vững.

Hàn Tín nói:

– Trương Lương thân hành đến triệu tôi. Tôi đã nhận lời, nếu không đi thì trái mệnh vua, bội ân, phản phúc. Lời,nói của Tiên sinh cũng có lý, song lòng Tín này không thể ăn cơm đá bát được.

Khoái Kiệt nói:

– Bây giờ ngài không nghe lời tôi, tất có ngày hối hận.

Hàn Tín bỏ đứng dậy, khoác áo vào nhà trong, rồi sai người đưa Khoái Kiệt ra.

Khoái Kiệt lại vẫn giả cách điên rồ đi lang thang như cũ, và làm một bài ca, hát nghêu ngao ở chợ rằng:

Hán vương nguy khốn, không về cứu

Chia đất phong vương, mới ra quân

Tuy người mưu trí

Nhưng việc không thông

Gây lấy tội

Họa vào thân

Vạc dầu Lịch Sinh còn đó

Thời gian có xóa được không

Sở chưa diệt thân ông còn

Sở bị mất, thân ông diệt

Trong cơ mưu ai biết được lời ta

Sao bằng giữ nước Tề

Thiên hạ chia làm ba

Ngồi cao trông thế sự

Ngao cò tranh lẫn nhau

Ngư ông thu cả cặp

Ngồi không mà thành công

Nay bỏ phí nghiệp lớn

Nhảy vào lò lửa hồng

Lời ta lời sắt đá

Không nghe khờ dại lạ!

Thiên hạ khinh ta điên

Nhưng ta thật khôn quá

Kẻ điên chẳng nghe lời

Ta lo tránh tội vạ

Lòng vũ trụ thênh thang

Núi non đầy hoa lá

Khoái Kiệt hát nghêu ngao mãi ở chợ. Quân sĩ thấy vậy vào báo với Hàn Tín.

Hàn Tín nói:

– Ôi! Chẳng qua là những lời đã nói với ta hôm nọ còn nghe làm gì.

Bèn phát hiệu khởi binh, kéo về Thành Cao, vào tạ ơn Hán vương về việc phong đất, rối đóng trại ngoài thành để thao luyện quân sĩ.

Chẳng bao lâu, Trương Lương cũng về đến, vào yết kiến Hán vương, thuật lại mọi việc.

Hán vương khen ngợi, nói:

– Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này thì ba tướng ấy đâu có hăng hái giúp ta.

Trương Lương nói:

– Ðó không phải là tài năng của tôi, mà chính là lòng nhân đức của Ðại vương, khiến cho lòng người không nỡ phản phúc. Ðại vương đã thắng thiên hạ bằng đạo đức vậy

Cách mấy ngày sau, Anh Bố và Bành Việt lục tục kéo quân đến, vào triều kiến và tạ ơn Hán vương.

Hán vương dùng lời ngon ngọt vỗ về, và bảo hai người tùy tiện an dinh hạ trại, dưới quyền quản lãnh của Hàn Tín.

Bấy giờ, các trấn chư hầu cũng đều hứa hẹn đến họp quân từ Thành Cao đến Huỳnh Dương một dải đường dài mấy trăm dặm đều là quân Hán.

Hàn Tín kiểm điểm quân mã, ghi nhận như sau:

Quân Yên vương 15 vạn, quân Anh Bố 5 vạn, quân Bành Việt 5 vạn, quân nước Ngụy 20 vạn, quân Tiêu Hà 16 vạn, quân Trang Tà 3 vạn, quân Lạc Dương 5 vạn, quân Tam Tần 6 vạn, quân của Hán vương 20 vạn, quân của Hàn Tín 15 vạn. Tổng cộng cả thảy hơn một trăm vạn. Các danh tướng hơn tám trăm viên, các đại thần mưu sĩ hơn năm mươi người.

Hán vương thấy bản danh sách ấy, lòng mừng rỡ, liền khiến Tiêu Hà và Trần Bình đem thóc Ngao Thương Tam Tần vận đến, cấp phát cho quân sĩ, kẻ nào nghèo khổ được thêm phần phụ lãnh kẻ nào tật nguyền, chết chóc, được cấp cho gia quyến chi dùng. Ba quân lớn nhỏ nhảy nhót vui mừng. Ðó chính là cái nhân đức mà Hán vương đã biết dùng nó để thu thiên hạ.

Sau khi kiểm điểm quân mã xong, Hán vương triệu Hàn Tín đến để bàn kế.

Hán vương nói:

– Binh lương đã sung túc, chẳng hay Nguyên Soái đã có phương lược nào phá Sở chăng?

Hàn Tín nói:

– Quân tướng càng đông, việc điều khiển càng phải thận trọng. Hạ thần còn phải cân nhắc các tướng tùy tài mà giao việc, phân công. Lúc nào hạ thần làm việc ấy xong, sẽ tâu với Ðại vương nghênh giá xuất chinh.

Hán vương hỏi:

– Lần này không hạ chiến thư, khích Hạng vương đến đây sao?

Hàn Tín đáp:

– Hạng vương đã mấy lần kéo quân đến đây, quân lương hao hụt. Nay nghe tin quân chư hầu hội chiến, lẽ nào dám đến. Ðại vương phải thân hành đến Bành Thành đóng quân để giao tranh. Phần tôi, tôi sẽ quản thủ binh mã lập bày thế trận để đối địch.

Hán vương rất hài lòng, chờ đợi Hàn Tín sắp xếp các tướng lãnh.

Bấy giờ có quân tế tác về Bành Thành, báo với Hạng vương:

– Hán vương họp quân chư hầu, gồm trăm vạn, đóng từ Thành Cao đến Huỳnh Dương dài hơn trăm dặm, đêm ngày lửa đốt rực trời, lương thực từ Ngao Thương và Trần Lưu chở đến không lúc nào dứt.

Hạng vương nghe báo thất kinh, hồi tưởng lại lời khuyên của Phạm Tăng trước kia bảo phải giết Lưu Bang để sau này khỏi mang họa. Lời ấy đến nay Hạng vương mới thấy là quan trọng.

Liền đòi bọn Hạng Bá, Quý Bố, Chung Ly Muội và Chu Lan vào hội diện.

Hạng vương nói:

– Hán vương họp chư hầu hơn trăm vạn, còn quân ta chỉ có ba mươi vạn, quân mã các nơi chưa đến, biết cách nào đối địch?

Các tướng nói:

– Giang Ðông là nơi Ðại vương khởi binh, lòng người lâu nay vẫn kính mến, vậy phải sai người đến miệt Cối Kê tuyển chọn một số binh mã. Còn Chu Ân trấn thủ nơi đó lâu nay, đã mấy lần đòi đến mà hắn không bệ kiến nay nên bắt hắn phải đoái công chuộc tội, thống lĩnh binh mã bản bộ đến đây hội chiến với Hán.

Bá vương nói:

– Chu Ân, lâu nay ở Thư Lục, nghe nói cùng Anh Bố tương đắc lắm, nay Anh Bố đã hàng Hán thì tin Chu Ân sao được. Chi bằng lừa hắn đến đây, rồi giết đi để trừ họa.

Hạng Bá nói:

– Lời Ðại vương luận rất đúng.

Bá vương liền sai quan Thiên Hộ là Lý Ninh đem hai đạo hịch văn đi gọi Chu Ân và đi lấy quân Ngô, lại dặn phải mau mau trở về.

Lý Ninh đến Thư Lục, vào yết kiến Chu Ân trao tờ hịch của Bá vương.

Chu Ân mở ra đọc. Hịch như sau:

” Lâu nay nhà ngươi trấn giữ ở Thư Lục, quân binh được an toàn, khỏi phải vất vả cực nhọc. Nay quân Hán cùng Sở hội nên, thế trận rất lớn, ta sai Lý Ninh đến đòi ngươi, dẫn quân bản bộ đến Bành Thành để giúp sức đánh Hán. Nhà ngươi trước đây đã nhiều lần bê tha, nay chớ noi gương cũ mà trọng tội “

Chu Ân xem hịch, lòng không vui, thầm nghĩ:

– Bá vương lực yếu, thế cô, lẽ ra phải dùng đạo đức chinh phục nhân tâm, lại cứ mãi cái thói dùng uy vũ hăm dọa. Nếu ta đem quân đến Bành Thành không khỏi mất mạng. Chi bằng nhân dịp này chiếm lấy Thư Lục, ngồi xem Hán, Sở tranh hùng. Ðợi cho Hán diệt Sở rồi, ta sẽ dựa vào Anh Bố hàng Hán, ắt công hầu chẳng mất.

Nghĩ rồi nói với Lý Ninh:

– Ðất Thư Lục có nhiều giặc cướp, tôi trấn nơi đây hàng ngày phải đi đánh dẹp khắp nơi, nay bỏ ra đi không tiện. Xin ngài trở về tâu lại với Bá vương, lúc nào tôi dẹp giặc cướp xong sẽ đem quân hội chiến.

Lý Ninh nói:

– Việc có khi gấp có khi hoãn. Giặc cướp nơi Thư Lục là chuyện nhỏ, còn việc Sở hưng binh chống Hán là việc lớn, và rất nguy cấp. Tướng quân không nên lấy việc nhỏ mà làm hư chuyện lớn.

Chu Ân nói:

– Tôi có nhiệm vụ trấn thủ mảnh đất này chứ không có nhiệm vụ đi đánh Hán vương. Nhiệm vụ của tôi, tôi phải làm tròn trước đã. Vả lại, tôi muốn dùng mảnh đất này dưỡng lão, không thể đi xa được.

Lý Ninh biết Chu Ân đã sinh biến tâm, không nói lời nào nữa, giã từ sang Cối Kê.

Quan Thái thú Cối Kê là Ngô Dan, tiếp được tờ hịch, mở ra xem, biết Bá vương định lấy quân Ngô để cùng Hán quyết chiến liền đòi tả hữu phân bố công việc, truyền xuống các quận huyện tuyển lựa binh mã.

Chỉ trong mấy bửa đã thu thập được tám vạn binh, Ngô Dan liền sai phó tướng là Trịnh Hanh quản lĩnh, cùng Lý Ninh dẫn đến Bành Thành, yết kiến Hạng vương.

Lý Ninh kể lại việc Chu Ân kháng lệnh, không chịu hội binh. Hạng vương tức giận, muốn đem binh giết Chu Ân trước, rồi mới đánh Hán.

Hạng Bá nói:

– Chu Ân chẳng qua là một bệnh ghẻ lở ngoài da, có gì mà ngại. Ðại vương kíp mang binh mà đánh Hán, chớ nên chậm trể.

Hạng vương theo lời Hạng Bá, kiểm điểm binh mã cả thảy được năm mươi vạn, định ngày xuất chinh.

Giữa lúc đó, Hàn Tín 10 sai người thăm dò địa thế để liệu việc đóng quân.

Tất cả các miệt xung quanh Bành Thành đều là những chỗ không dụng võ được, chỉ có vùng Cửu Lý, núi đồi hiểm trở, có thể dùng làm chiến trường được, vì vậy Hàn Tín sai người đến lấy bản đồ.

Sai nhân đem bản đồ Cửu Lý về trình. Hàn Tín xem xong mừng lắm, gọi Lý Tả Xa đến nói:

– Núi Cửu Lý thật ưu thế. Phía tả có gò đống, phía hữu có núi đầm, trước mặt có chiến ứng, phía sau có ẩn phục, làm một chiến trường rất tốt. Song không biết cách nào để lừa Hạng vương vào đó. Tiên sinh có kế chi chăng?

Tả Xa nói:

– Hạng vương lừa rất dễ. Tuy nhiên, quần thần không để Hạng vương bị lừa như vậy đâu. Nếu họ đào hào đắp luỹ cố thủ không ra đánh, quân ta đông, tổn phí nhiều, không thế nào tập trung lâu được. Họ đợi lúc quân ta thiếu thốn, kéo quân ra phản công tất quân ta phải thua.

Hàn Tín bấm trán suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

– Tiên sinh có kế gì khiến cho Hạng vương kéo binh đến đánh chăng?

Tả Xa nói:

– Nay phải có người trá hàng, đến đó bày mưu cho Hạng vương, đem cái lợi trước mắt mà nhử, may ra Hạng vương vì nông cạn, sa vào cái mưu của Nguyên Soái.

Hàn Tín mừng rỡ nói:

– Người đi trá hàng phải là Tiên sinh mới mong thành công. Vậy Tiên sinh có vui lòng giúp đỡ chăng?

Tả Xa nói:

– Bấy lâu hầu hạ dưới trướng mang ơn tri ngộ. Nay dẫu khổ cực đâu dám chối từ. Thế thì ngay lúc tôi ra đi, Nguyên Soái phải đem quân bố trận mới được.

Hàn Tín nhận lời, Tả Xa liền giả biệt, đem theo những binh mã cũ của nước Triệu, tìm đường tắt thẳng đến Bành Thành.

Ðến nơi, Tả Xa nói với bọn quân canh:

– Tôi là Quảng Vũ Quân nước Triệu cũ, tên Lý Tả Xa, muốn vào yết kiến lão Ðại vương.

Quân canh vào báo với Hạng Bá.

Hạng Bá nghĩ thầm:

– Lý Tả Xa là kẻ mưu sĩ của nước Triệu trước kia, nay đến tương kiến chắc có điều gì quan trọng. Nghĩ rồi sai tả hữu mời Tả Xa vào.

Hai bên thi lễ xong, Hạng Bá hỏi:

– Lâu nay nghe ông ở bên Tề làm mạc khách của Hàn Tín, chẳng hay có việc gì lại hạ cố đến đây?

Tả Xa đáp:

– Triệu vương không nghe lời tôi, sai Trảm Dư đem địch với Hàn Tín, nên bị Hàn Tín dùng trận bối thủy chém chết. Tôi không có chỗ nương thân, đành phải ở với Hàn Tín làm mưu sĩ, chẳng ngờ, nay Hàn Tín được Hán vương phong chức Tề vương, ngông nghênh, hợm hĩnh, ỷ mình tài trí, không kể đến ai. Tôi buồn lòng bỏ đi, đến đây xin tình nguyện nương thân dưới cờ. Tôi tuy bất tài song xin lấy cái chết để rửa lòng uất hận. Tôi liệu mưu kế Hàn Tín không qua nổi mắt tôi.

Hạng Bá nói:

– Trong lúc hai nước giao tranh, những mưu mô dối gạt rất nhiều, Tiên sinh sang đây biết đâu cũng để trá hàng, dò xem quân tình của Sở, tôi sao tin được?

Tả Xa nói:

– Ngài lầm rồi! Tôi chẳng qua là một kẻ mưu sĩ, biết gì đến việc quân binh. Vả lại, nếu ngài dùng tôi, tôi sẽ đem mưu kế ra bàn, nghe hay không là tùy ở ngài, tôi có quyền gì bắt ngài phải theo. Còn như việc dò xét quân cơ, ngày nào Hàn Tín chẳng sai người theo dõi, hà tất tôi phải sang đây trá hàng để làm cái chuyện đó. Tôi chỉ tiếc một điều là tôi xét lầm độ lượng của ngài. Ðường đi đã lỡ, tấm thân lạc lõng bơ vơ thà chết cho an thân.

Nói xong, rút thanh kiếm đeo bên mình, toan tự vận.

Hạng Bá vội đứng dạy ôm lấy Tả Xa, tự nhận lổi mình, và nói:

– Trong lúc hai nước giao tranh, Tiên sinh từ dinh Hán sang đây, tài nào tôi không nghi ngờ. Tiên sinh chớ có trách.

Liền mời Tả Xa lên ngôi, đặt tiệc khoản đãi, và lưu lại ở đó ngủ một đêm.

Ngày hôm sau, Hạng Bá vào yết kiến Bá vương, kể việc Tả Xa đến đầu và xin giúp mưu lược chống với quân Hán.

Bá vương nói:

– Ta đang lúc thiếu người mưu sĩ, nay được Tả Xa về hàng thì còn gì may mắn hơn.

Liền cho Tả Xa vào triều kiến và hỏi:

– Ta vốn nghe tiếng Quảng Vũ Quân, lòng mong được hội kiến, nay nhà ngươi đến đây thực là may lắm.

Tả Xa nói:

– Tôi ở nước Triệu, nhưng Triệu vương không biết dùng, phải sang làm mạc khách với Hàn Tín. Hàn Tín cũng lại không biết dùng, nên bơ vơ chiếc thân bốn bể.

Nay đến đây được Ðại vương trọng dụng, chẳng khác nào con gặp cha mẹ, tôi nguyện đem hết tâm sức dẫu chết cũng chẳng màng.

Bá vương nói:

– Nhà ngươi đã thực tâm theo ta, vậy sớm tối phải chầu bên cạnh để cùng nhau bàn bạc.

Từ đó, Bá vương lưu Tả Xa làm mưu sĩ. Lại thấy Tả Xa nói năng lưu loát, khí phách hơn người, lòng không chút gì ngờ vực.

Trong thời gian ấy, Hán Vương thấy đóng quân lâu ngày mà chưa xuất trận, nên triệu Hàn Tín đến hỏi:

– Ðại binh đóng đã lâu, tốn kém quá nhiều, ta muốn ra quân cùng Sở giao tranh, Nguyên Soái có ý chi chăng?

Hàn Tín nói:

– Khi tôi phá Triệu có chiêu tập được hai người rất dũng cảm, bấy lâu, sai dùng rất đắc lực. Nay nếu sai làm tiên phong chắc nên việc.

Hán vương nhận lời, tnlyền cho hai người ấy vào yết kiến.

Hai người bước vào, Hán vương thấy hai người sức vóc to lớn, diện mạo đường đường, liền hỏi họ tên quê quán.

Hai tướng ấy một người họ Khổng tên Hy, một người họ Trần tên Hạ, từ lúc nhỏ chỉ theo nghề cung kiếm, nhân lúc nhà Tần loạn lạc ẩn náu nơi Ðăng Vân, núi Thái Sơn, sau nghe Hàn Tín chiêu nạp hiền sĩ tìm đến hầu hạ dưới trướng.

Hán vương mừng rỡ, phong Khổng Hy làm Liên Hầu, Trần Hạ làm Hạ Hầu, sai xuất binh ba vạn quân đi tiên phong gặp núi mở đường, gặp sông bắc cầu.

Hai tướng dập đầu lạy tạ, lãnh binh đi trước. Hàn Tín cũng thống lãnh đại binh kéo theo sau ra khỏi Thành Cao. Người ngựa nối liền nhau mấy trăm dặm đường, quân kỳ phất phới, gươm giáo sáng lòa.

Dọc đường, bá tánh vẫn không bị quân binh làm bận rộn chút nào. Thật xứng đáng là một đoàn quân vì nghĩa.

Hồi 38 – Nàng Ngu Cơ viết thư khuyên Hạng Vũ

Mùa thu, năm thứ năm nhà Ðại Hán, Hán vương đem đại binh ra khỏi Thành Cao, Hàn Tín thống lĩnh ba quân tấn phát.

Quân Hán kéo đến chân núi Cửu Lý, Hán vương sai thiết lập dinh trại, rồi khiến người đến Bành Thành dò xét địch quân.

Hàn Tín lập một cái lầu cao, treo một tấm biển trên đề một bài thơ:

Sở diệt, Lưu hưng

Ý trời đã định

Một trận tranh phong

Hạng vương mất mạng

Quân thám thính trông thấy, trở về báo với Hạng vương và có chép lại bài thơ đệ trình cho Hạng vương xem.

Hạng vương nổi giận, xé tan bài thơ, hét lớn:

– Nếu không giết được thằng luồn khố quyết không kéo quân về.

Nói xong, truyền tướng sĩ ngay chiều hôm ấy khởi binh.

Quý Bố và Chu Lan đồng can:

– Ðó là kế của Hàn Tín khiêu khích để dụ quân ta. Nếu khởi binh tất trúng kế Hàn Tín.

Hạng vương nói:

– Ta suốt đời dọc ngang thiên hạ, chưa chịu nhục bao giờ. Nay Hàn Tín dám nhục mạ ta như thế mà ta cứ đóng quân nơi đây, còn mặt mũi nào trông thiên hạ?

Chu Lan nói:

– Binh Hán thế rất mạnh, lại thêm có Hàn Tín rất nhiều quỉ kế, Ðại vương chớ nên khinh địch. Cứ như ngu ý Ðại vương chỉ nên đào hào, đắp lũy cố thủ. Ðợi quân địch đóng lâu ngày, lương thực mỏi mòn, quân cơ trể biếng, chừng ấy ta sẽ kéo đến đánh. Nếu Ðại vương nóng giận ắt hẳn hỏng việc lớn.

Hạng vương trầm ngâm không quyết, khoác áo trở về cung, mặt mày buồn bã.

Nàng Ngu Cơ ra đón, thấy vẻ mặt Hạng vương không vui, liền hỏi:

– Thiếp có nghe nói quân Hán kéo đến gần lắm, chẳng hay Ðại vương định chống cự bằng cách nào?

Hạng vương đem lời nói của Chu Lan thuật lại.

Ngu Cơ nói:

– Lời của Chu Lan nói rất phải. Nếu Ðại vương nghe theo mưu ấy, xã tắc sẽ bền vững, bằng không khó lòng thắng được quân Hán, mà Bành Thành cũng không giữ nổi.

Hạng vương nói:

– Thôi, để sáng mai ta sẽ cùng quần thần bàn tính lại

Ngày hôm sau, Hạng vương triệu tập quần thần đến nói:

– Chu Lan khuyên ta đừng nên giao chiến, các ngươi thấy lời ấy như thế nào?

Lý Tả Xa nói:

– Nếu Ðại vương không cử binh giao chiến tất quân Hán cho là Sở ta yếu thế, kéo binh đến đánh Bành Thành.

Bành Thành mất, Ðại vương còn biết chạy đi đâu? Cái kế ngày nay phải tìm địch mà đánh để địch khỏi tính đến đánh nơi cơ sở chính yếu của ta. Nếu thắng, Ðại vương tạo được cơ hội, bằng bại, sẽ trở về thủ Bành Thành, cũng chẳng muộn.

Chu Lan nói:

– Lời luận ấy rất nông cạn. Tôi thiết tưởng quân Sở nay đã ít mà kéo đi xa, lực lượng hao mòn, rủi bị thua, ba quân thất đởm, còn tinh thần nào giữ thành.

Tả Xa nói:

– Chính ta cố thủ, không dám xuất chinh mới là làm cho ba quân nhụt chí, và làm cho thiên hạ chê cười quân ta sợ quân Hán.

Hạng vương nói:

– Lời Tả Xa luận rất phải.

Liền truyền lệnh khởi binh, nhắm núi Cửu Lý tấn phát.

Vừa ra khỏi thành, chợt có trận gió thổi đến rất mạnh, làm gãy cây đại kỳ. Ba quân đều giật mình, kinh sợ Con ngựa Ô truy của Hạng vương, đến dưới lầu bỗng hét lên mấy tiếng.

Chu Lan, Hạng Bá thấy vậy, bàn với nhau:

– Cờ gãy, ngựa hét không phải là điềm tốt, chúng ta phải cố can vua đừng tiến tới.

Hạng vương vừa đến Tây Quan, thấy Hạng Bá, Chu Lan cùng các tướng đình binh, quỳ xuống đất.

Hạng vương hỏi:

– Việc gì thế?

Hạng Bá tâu:

– Ðại vương vừa ra khỏi thành, đại kỳ bị gãy, ngựa cỡi hét vang, đó là diều tối ky trong việc hành quân. Ðại vương nên hoãn lại, cho người dò xét địch tình, rồi sẽ lựa ngày khác xuất phát.

Hạng vương nói:

– Xưa vua Trụ mất nước vì ngày giáp tý, nhưng vua Vũ được nước cũng vì ngày giáp tý. Cờ gãy, ngựa hét chẳng qua là chuyện ngẫu nhiên, lẽ đâu đại binh kéo đi muôn dân đều biết, mà lại kéo về.

Nói xong, giục binh mã tiến đi. Vừa lúc đó có tin Hoàng hậu sai người đưa thư đến.

Hạng vương cười lớn nói:

– Ngự thê lại đưa thư nói gì đây?

Liền bóc thư ra xem, thì thấy chính những dòng chữ của Ngu Cơ đã viết như sau:

” Vua Văn vương nghe lời can của bà phi hậu làm nên bậc thánh. Vua Ðại Vũ đọc bài trâm của La Bồ Sơn mà dấy nghĩa. Nói chung các bậc vương xưa dựng nên nghiệp lớn, cũng nhờ nghe lời can ngăn của mọi người. Thiếp tuy phận đàn bà, kiến thức nông cạn, song nghe Hàn Tín mưu gian kế quỉ, Ðại vương cần phải thận trọng lắm mới được. Lời nói của Chu Lan đúng là lời trung thành, sáng suốt, Ðại vương chớ nên bỏ qua. Hơn nữa, chuyến đi này gió lớn gãy cờ, ngựa truy gầm thét, đó là điều bãi thương. Vậy Ðại vương dừng binh xét sửa, tìm kế khác giao tranh, tránh được cái bất lợi ngày nay. Ðược vậy, thiếp xin đội ơn muôn thuở. “

Hạng vương xem thư xong có ý dùng dằng, Tả Xa liền bước tới nói:

– Tôi vừa có người nhà ở Bái Quận đến đây, nói rằng Hán vương dẫn một toán quân về Thành Cao, Hàn Tín cũng có ý đem quân trở về. Tôi nghĩ đó là vì quân Hán nhiều quá, lương không đủ dùng, sợ đại binh của Ðại vương kéo đến, khó bề chống chọi. Binh pháp có nói: ” Binh đã, tướng lụt ” huống hồ lại thiếu lương thì làm sao đóng quân lâu được. Nếu Ðại vương thừa dịp này tấn binh, thế nào cũng trọn thắng.

Hạng vương nghe lời nói của Tả Xa, quyết ý tấn binh. Các quan không ai còn dám ngăn trở nữa.

Chẳng bao lâu, quân Sở kéo đến núi Cửu Lý, cách năm mươi dặm hạ trại. Hạng vương sai người đến dinh Hán thám thính.

Quân thám thính về báo:

– Ðại binh của Hán vương đóng ở gò Thê Phương, suốt ngày đàn hát rượu chè, còn đại binh của Hàn Tín đóng nơi núi Cửu Lý, suốt ngày thao luyện, không có ý rút về. Dinh trại san sát không chỗ nào dứt.

Hạng vương ngơ ngác, cho đòi Tả Xa đến hỏi, nhưng Tả Xa chẳng thấy đâu nữa cả.

Quân tuần vào báo:

– Tả Xa đã đem bọn tùy tùng đi trốn, chạy về hướng Bắc, chúng tôi đuổi theo nhưng không kịp.

Hạng vương nổi giận hét:

– Tả Xa quả là người của Hàn Tín sai đến trá hàng để dò xét quân tình.

Liền đòi Hạng Bá đến trách:

– Nhà ngươi không rõ lai lịch của Tả Xa, cớ sao lại tiến cử vào ta. Ta không có thì giờ xét kỹ, tin lời xảo ngôn của nó, đến nỗi lầm lỡ việc lớn.

Hạng Bá nói:

– Tôi vẫn nghe danh của Tả Xa tưởng hắn đầu hàng thật, không ngờ bị mắc gian kế. Thực tội của tôi rất trọng.

Chu Lan tâu:

– Quan Tư Mã (Hạng Bá) chỉ vì lòng ngay, không rõ được gian ý của địch. Nay đại binh đã đến đây, chỉ nên bàn cái kế xuất chiến, không nên hối lại việc trước mà bê trễ quân cơ.

Hạng vương theo lời, miễn tội cho Hạng Bá và trọng thưởng cho bọn Chu Lan, rồi trở vào trướng, thăm Ngu Cơ và nói:

– Tả Xa trá hàng, lừa quân ta đến đây. Ta hối hận vì không nghe lời ngự thê!

Ngu Cơ nói:

– Lời nói của thiếp không nên nhắc đến nữa, chỉ mong Ðại vương gắng sức, xuất chinh, yêu thương tướng sĩ, khiến họ tận tâm giúp sức, xây dựng cơ đồ, sớm đem lại nước nhà thái bình thịnh trị.

Hạng vương nói:

– Lời của ngự thê quả là một kẻ hiền đức, có thể an ủi ta nơi mũi đạn đầu tên.

Ngày hôm sau Bá vương triệu các tướng vào trướng, nói:

– Các ngươi theo ta đến nay trải bao chiến trận, chưa bao giờ bị nhục. Ngày nay, quân Hán thế to, khinh bỉ ta quá lắm. Tuy nhiên phải thận trọng lắm mới được Chung Ly Muội dẫn ba vạn binh đóng ở phía tả, Quý Bố lãnh ba vạn binh đóng ở phía hữu, Hoàn Sở làm tiền bộ, Ngu Tử Kỳ làm hậu ứng. Hễ địch thua chớ đuổi xa, hễ ta thua quay vào cứu viện. Cốt đánh kéo dài thời gian, để cho quân địch thiếu lương phải chạy.

Chư tướng phục lạy nói:

– Sự thần toán của Ðại vương, chúng tôi không thể theo kịp.

Nhắc lại Hàn Tín từ lúc kéo quân đến đóng nơi núi Cửu Lý, ngày đêm thao luyện, phân bố các nẻo, chỗ nào quan hệ đều có phục binh, mỗi tướng đều lãnh một trách nhiệm, tùy cơ ứng dụng.

Chẳng bao lâu, lại có tin Lý Tả Xa trở về.

Hàn Tín vội mời vào dinh, Tả Xa kể hết mọi việc mình đã làm, và các việc hư thực nơi dinh Sở.

Hàn Tín nói:

– Nếu không nhờ Tiên sinh đi chuyến này, Hạng vương chẳng dám đến đây. Nay Hạng vương đã đến đây rồi, phải làm thế nào gạt Hạng vương vào trận địa. Tiên sinh có kế gì chăng?

Tả Xa nói:

– Việc nay chắc Nguyên Soái đã có diệu kế rồi, chăng qua hỏi thử tôi thế thôi. Tôi cũng có một kế, nhưng sợ không hợp với ý Nguyên Soái chăng?

Hàn Tín nói:

– Hạng vương đã mấy lần bị tôi dùng kế, nay khó mà gạt được. Nếu lúc giao chiến, giả thua bỏ chạy, Hạng vương sẽ không bao giờ dám theo nữa.

Tả Xa nói:

~ Ðúng vậy. Song tánh nóng giận của Hạng vương văn không thay đổi. Ðó là nhược điểm của đối phương. Ngày mai thế nào Hạng vương cũng gọi Chúa thượng ra trận, Chúa thượng sẽ dùng lời khích lệ rồi bỏ chạy vào trọng địa. Nếu Hạng vương không đuổi theo, tôi sẽ xông ra cười rất lớn. Hạng vương thấy tôi nghĩ đến chuyện trá hàng vừa rồi tất không thể nhịn được.

Hàn Tín nói:

– Tiên sinh nói rất hợp ý ta. Liền cùng Tả Xa đến lại yết kiến Hán vương, kể rõ lời bàn lúc nãy.

Hán vương nói:

– Nếu muốn ta ra khích Hạng vương thì sai tả hữu bảo vệ cho kỹ càng mới được.

Hàn Tín nói:

– Thế thì nên sai Khổng Hy, Trần Hạ, hai tướng ấy theo phò Ðại vương ắt khỏi lo. Ðại vương nên dụ Hạng vương đến Cai Hạ, tôi phục binh đợi sẵn ở đó.

Vua tôi bàn định xong, Hàn Tín trở về trung quân, truyền các tướng đến lãnh quân lệnh.

Các tướng họp mặt đông đủ, Hàn Tín nói:

– Chúa thượng từ khi ở Bao Trung ra, cùng Hạng vương giao tranh đã năm năm, trải hơn bảy mươi trận chịu muôn cay nghìn đắng, nay họ Hạng lực yếu thế cô được thua chỉ ở trận này, vậy các tướng nên cố sức để tạo thành nghiệp lớn, an hưởng lộc trời, muôn đời bền vững.

Các tương đồng thanh hoan hỉ. Hàn Tín chiếu theo bát quái trận bố trí như sau:

“Càn” là trời, sai Ðại tướng Vương Lăng, lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây. “khảm” là nước, sai Ðại tướng Lư Quán lãnh mười sáu viên phó tướng, quân bốn vạn, cờ xí sáu mươi bốn lá, mai phục hướng Tây – Bắc.

“Cấn” là nước sai Ðại tướng Tào Tham, cũng lãnh một số phó tướng và quân mã như trên, mai phục hướng Tây – Nam

“Chấn” là sấm, sai Ðại tướng Anh Bố, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục ở phương Ðông

“Tốn” là da, sai Ðại tướng Bành Việt, cũng lãnh một số phó tướng và binh mã như trên, mai phục hướng Ðông – Nam.

“Ly” là lửa, sai Ðại tướng Chu Bột, quản lãnh số quân tướng như trên, mai phục hướng Ðông – Bắc. “khôn” là đất, sai Trương Nlũ, lãnh một số quân, tưóng như trên, mai phục phía chính Nam.

“Ðoài” là đầm sai Trang Tà, lãnh một số quân tướng như trên, mai phục hướng lãnh Bắc.

Trước bày bát quái xong, sau lại bày ngũ hành, tả phù, hữu bật đều án theo phương hướng.

Hạ Hầu Anh, lãnh binh mười vạn, theo Hán vương làm quân cứu ứng.

Trương Lương, lãnh bình mười vạn, ở phía tả làm quân phòng vệ.

Trần Bình, lãnh quân mười vạn, ở phía hữu làm quân cứu ứng.

Khổng Ly. Trần Hạ lãnh mười vạn binh, làm tả chi hữu dực của Hán vương.

Lã Mã Thông, La Huống lãnh hai vạn binh, điều khiến mười hai viên tướng mạnh, làm mười hai phương. Sài Võ lãnh hai vạn binh, phân thành hai mươi tám vì sao, án theo nhị thập bát tú.

Nhâm Ngao lãnh hai vạn binh coi giữ đại trại của Hán vương.

Lưu Trạch dẫn ba nghìn binh, đóng nơi núi Kê Minh, trương cờ xí, giả làm thanh thế.

Lưu Giao lãnh năm ngàn quân đi tuần tiễu ở hậu quân.

Bạc Chiêu, Tôn Nhã Hoài, Cao Khởi, Trương Thương, Thích Tư, mỗi người đều lãnh hai nghìn quân do con đường nhỏ đến phía tả Từ Châu, đợi quân Sở bỏ thành kéo ra, thì đoạt thành, bắt gia quyến của Hạng vương.

Các tướng đều tuân lệnh, bày thành trận thế.

Bỗng có một người bước ra nói lớn:

– Nguyên Soái khinh tôi là kẻ vô dụng sao?

Hàn Tín nghe tiếng biết là Phàn Khoái, liền nói:

– Không phải tôi quên tướng quân đâu! Tôi chưa phân công cho tướng quân là muốn giao cho tướng quân một việc lớn. Song tôi lại sợ, nếu tướng quân không thận trọng thì trăm vạn hùng binh phải tan rã hết.

Phàn Khoái nói:

– Nguyên Soái có việc gì sai bảo xin cứ an tâm, tôi chẳng bao giờ dám thất trách.

Hàn Tín nói:

– Trận thế bố trí đã xong chỉ còn việc điều khiển. Vậy tướng quân lãnh ba vạn quân, lên núi Cửu Lý, đóng quân nơi chỗ cao dùng lá đại kỳ làm hiệu cho các tướng trông theo. Hễ thấy Hạng vương chạy về hướng nào thì phất cờ chạy về phía ấy để vận chuyển ba quân.

Phàn Khoái nói:

– Ban ngày sáng thì trông hiệu kỳ được, còn ban đêm phải làm thế nào?

Hàn Tín đáp:

– Ðêm thì dùng đèn lồng lớn, dựng ở đỉnh núi, xây theo bốn mặt.

Phàn Khoái tuân lệnh, âm thầm kéo quân tấn phát.

Bấy giờ nơi dinh Sở, Hạng vương cũng đòi bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan vào phân phối binh mã.

Hạng vương nói:

– Tại sao người dò thám quân Hán, quả quyết thế quân Hán lớn lắm, còn ta chỉ có năm chục vạn quân. Vậy ta lãnh hai chục vạn đi trung quân, còn ba chục vạn giao các tướng chia làm sáu đạo quản lãnh. Chung Ly Muội và Chu Lan phải theo ta hộ vệ.

Phân phối xong, Hạng vương lên ngựa, kéo quân ra trước trận.

Hồi 39 – Một trận thư hùng, Hạng Vương lầm chước quỉ

Hạng vương xuất trận, gọi Hán vương ra đấu chiến.

Hán vương cũng mặc giáp trụ, lên ngựa xông ra, tả hữu có bọn Khổng Hy, Trần Hạ hộ vệ.

Hạng vương thấy mặt Hán vương liền hét lớn:

– Lưu Bang, ngươi đã thất hứa ở Cố Lăng, ta tha cho khỏi chết, sao lại còn dám bội ước cùng ta giao tranh?

Bấy lâu nay, ta cùng ngươi chưa hề thử sức, chẳng biết võ nghệ của ngươi đến bực nào.

Hán vương nói:

– Việc dùng binh cần ở mưu lược chứ đâu phải ở sức mạnh. Ta xem ngươi như một giống hổ lang, chỉ khoe khoang võ nghệ mà không có chút gì khôn ngoan cả.

Hạng vương giận dữ, vung đao đâm tới, Khổng Hy và Trần Hạ lướt ra đỡ thương ngăn lại, đánh.

Quân sĩ hai bên lui ra năm mươi thước. Hạng vương hét lên một tiếng, đâm Trần Hạ một đao, té nhào xuống đất, Khổng Hy định xông vào cứu, nhưng đã bị một đường thương của Hạng vương chém tới quá gấp. Khổng Hy cúi rạp mình để tránh, ngọn đao chém phớt qua chóp mũ, làm cho mũ Khổng Hy rơi xuống đất.

Khổng Hy thất kinh, phóng ngựa chạy, may nhờ có hai tướng Ngân Hấp và Sài Võ cản Hạng vương lại kịp nên Khổng Hy mới khỏi chết.

Hạng vương tức giận, xông vào đánh Ngân Hấp và Sài Võ.

Trong lúc đang giao tranh, Hạng vương nghe có tiếng gọi tên mình chưởi mắng, liền quay đầu lại, thấy Hán vương đang gò ngựa đứng trên một đồi cao, dương oai, diệu võ.

Hạng vương tức giận, bỏ Ngân Hấp và Sài Võ, giục ngựa rượt theo Hán vương.

Hán vương thấy vậy, vội vã chạy về hướng Ðông Bắc.

Hạng vương xua quân đuổi theo. Ðuổi được năm dặm, thấy quân Hán rải rác đóng dày.

Quý Bố vội ngăn Hạng vương lại nói:

– Hán vương tuy chạy nhưng binh mã vẫn không chịu lui, e rằng Hàn Tín dùng mưu dụ ta, xin Ðại vương chớ vào sâu nội địa của địch.

Hạng vương khen phải, quảy ngựa trở lại.

Bỗng thấy Lý Tả Xa hiện đến trước mặt, cười khanh khách nói lớn:

– Tôi xin chào Ðại vương đó. Lúc tôi còn ở Sở, được Ðại vương hậu đãi, nay đến đền ơn, Ðại vương đầu Hán, tôi sẽ tâu với Hán vương tha cho tội tru lục.

Hạng vương giận dữ, mắng:

– Ðứa thất phu này dám lợi dụng lòng tin của ta, âm mưu lừa gạt. Ta muốn phân thây ngươi ra muôn mảnh cho hả giận. Nay ngươi lại dẫn xác đến đây, chạy đi đâu cho thoát.

Dứt lời, thúc ngựa đuổi theo bắt Tả Xa. Ban đầu, thấy Tả Xa chạy chờn vờn phía trước, nhưng sau đuổi được mười dặm, không thấy Tả Xa đâu nữa, chỉ thấy quân Hán bốn mặt ầm ầm kéo đến bổ vây.

Hạng vương nhờ bọn Quý Bố, Chung Ly Muội hộ tống, cố gắng chống cự, nhưng không làm sao chạy thoát.

Càng đánh, quân Hán càng vây phủ đông hơn, bốn bề mù mịt, tiếng quân la ó vang trời.

Một lúc sau, đạo quân của Hàn Tín lại kéo đến nữa, tinh kỳ phất phới gươm giáo sáng lòa, như một đám rừng gươm.

Hạng vương chống đỡ một lúc thấy quanh mình quân sĩ chết rụi hết, chỉ còn mấy nghìn ky binh, lớp bị thương, lớp mất binh khí, hớt hải theo sau không còn tinh thần mà kháng cự nữa, Hạng vưong nói với Chung Ly Muội và Quý Bố:

– Thôi, chuyến này ta dã lầm tay Hàn Tín rồi, cơ đồ ắt hưu chỉ.

Ðang cơn rối loạn, bỗng thất hên ngoài có một toán quân Sở đánh vào, thế rất mạnh, khiến cho quân Hán phải vẹt ra hai bên. Cầm đầu toán quân ấy là Chu Lan.

Hạng vương trông thấy Chu Lan mừng rỡ hỏi:

– Nhà ngươi không cứu ứng thì chắc mạng ta chẳng còn.

Chu Lan nói:

– Hàn Tín lập trận trường bát quái, gạt Ðại vương vào trọng địa. Muốn phá trận này phải có đầy đủ binh lực. Nay quân ta quá ít nên tôi thừa cửa sanh đánh vào giải cứu xin Ðại vương hãy theo tôi ra khỏi trận kẻo nguy tính mạng.

Hạng vương liền theo Chu Lan trở ra. Nhờ toán quân của Chu Lan, đốc thúc đánh phá vòng vây thoát ra ngoài trận, về đến dinh Sở thì trời đã tối.

Ngu Tử Kỳ đón vào trại, nàng Ngu Cơ bước ra tiếp rước, và nói:

– Ðại vương thoát khỏi trận này, lòng thiếp không còn gì mừng hơn.

Hạng vương nói:

– Tuy thoát chết, song thế quân Hán quá to, ta không thể đóng đây lâu được, nửa đêm hôm nay kéo về Bành Thành chỉnh đốn quân mã rồi sẽ liệu kế.

Ngu Tử Kỳ nói:

– Tôi vừa nghe tin có một cánh quân Hán đến Bành Thành cướp lấy cung quyến, chẳng biết tin ấy có thực chăng? Bây giờ Ðại vương muốn về Bành Thành e bất tiện. Nhân lúc binh mã còn hơn hai vạn, ta bỏ Bành Thành, kéo về miệt binh Sở, Hồ Tương đóng quân, chỉnh đốn quân mã, chiêu hiền đãi sĩ, lo kế phục hưng là hơn.

Hạng vương nói:

– Cung quyến ta đều ở Bành Thành, tin ấy chưa xác thực, ta muốn lén về Bành Thành thu thập cung quyến rồi kéo đến đóng nơi Lỗ Quận, tại Sơn Ðông. Nơi đó không xa cách lắm, có thể tiếp tế lương thực được.

Các tướng nói ;

– Ðại vương tính như vậy rất phải.

Hạng vương ra lệnh cho quân sĩ nấu cơm ăn, rồi theo đường nhỏ kéo rốc về Bành Thành.

Ðại quân đi vừa đến Tiêu huyện cách Bành Thành đô năm trăm dặm thì đêm đã tàn. Xa xa phất phới tinh kỳ, và vang lại tiếng hò reo của quân sĩ.

Hạng vương thất kinh hỏi các tướng:

– Tại sao có quân Hán đóng nơi đây. Hay là chư hầu hợp binh với quân Hán?

Chung Ly Muội nói:

– Các lộ chư hầu đều phản Ðại vương, phò Hán. Cái nguy cơ ấy khó tránh. Quân chư hầu đã đóng nơi đây tức là Bành Thành không còn. Vậy xin Ðại vương cùng chúng tôi thu góp tàn quân chạy xuống miền Giang Ðông, để liệu thế tiến thủ, không nên lưu luyến cung quyến, ở mãi nơi đây mà mang hại.

Chu Lan nói:

– Lời Chung Ly Muội nói rất có lý, xin Ðại vương xem đó là một quốc sách.

Hạng vương tức giận dậm đất nghiến răng nói:

– Ta từ khởi binh đến nay chưa có tướng nào địch nổi cây đao của ta. Nay tuy quân Hán đông. Song tướng Hán là bọn bất tài, lẽ nào lại bỏ trốn để mất thanh danh?

Các ngươi cứ đi theo ta, xem ta giao chiến với tướng Hán.

Nếu kẻ nào dám đánh với ta ba mươi hiệp ta sẽ tự sát, không thèm sống trên đời này nữa.

Các tướng thấy Hạng vương nóng giận, không ai dám can ngăn, vội điều động quân mã theo Hạng vương trợ chiến.

Khi gần đến Bành Thành, có tên tiểu hiệu chạy đến báo:

– Bành Thành đã về tay quân Hán rồi, trên thành cắm toàn cờ Hán.

Hạng vương nghe nói bước xuống ngựa, sửa lại mũ áo rồi hét lên một tiếng như sấm nhảy thóc lên lưng Ô truy quảy ngựa thẳng đường chạy về lúa núi Cửu Lý.

Quân Hán đang đóng nơi núi Cửu Lý thình lình thấy Hạng vương vùn vụt kéo quân đến, vội vã phi báo.

Phàn Khoái hay tin, tức thì điều dộng cây đại kỳ quân Hán bốn mặt bổ vây. Các đạo binh trấn tám hướng đánh ập vào một lượt.

Hạng vương không hề sợ hãi, tay cầm đại đao vung tít tới lui hùng hổ, chẳng khác nào một mãnh thú vùng vẫy giữa rừng xanh.

Tướng Hán tuy đông, nhưng không có ai dám đến tan. Lớp này thua lớp khác lại ứng chiến.

Trong khoảng một ngày, Hạng vương đánh lui hơn 60 viên tướng Hán, mà ngọn đao không hề nhụt, ngựa không hề lui.

Hạng vương quay lại hỏi các tướng Sở:

– Sức ta địch vạn năng. Các ngươi có thấy ta yếu đi tí nào chăng?

Các tướng nói:

– Ðại vương quả có sức mạnh vạn năng, song giao chiến cả ngày, giờ đây tướng Hán đều lui ra ngoài cả, Ðại vương cũng nên đóng dinh nơi đây để cho Hoàng hậu tạm nghỉ.

Hạng vương theo lời, tạm thời đóng trại giữa trận rồi sai Ngu Tử Kỳ mời Ngu Cơ đến hội kiến.

Hạng vương nói:

– Hôm nay ngự thê bị quân Hán cướp thành, vậy tối không có chỗ an nghỉ, chắc là mệt nhọc lắm.

Ngu Cơ nói:

– Tiện thiếp nhờ thiên uy của Ðại vương bảo vệ, và nhờ các tướng săn sóc, không đến nỗi mệt nhọc lắm. Song thấy trong một ngày, Ðại vương địch hơn sáu mươi viên tướng Hán, vậy cũng nên nghỉ ngơi, an dưỡng mình rồng.

Hạng vương nói:

– Ngày trước ta đi đánh Chương Hàm, chín ngày chưa được một bữa ăn no, thế mà ta còn thắng huống chi nay chỉ có một ngày.

Các tướng nghe nói đều thương xót. Chu Lan bước đên tâu:

– Ðại vương tuy ngày nay được thắng, song quân Hán còn to thế lắm, bốn mặt vây đánh rất gấp, đêm nay nên phòng quân địch đến cướp trại.

Hạng vương nói:

– Lời ấy chính hợp ý ta.

Liền truyền ba quân lớn nhỏ trong đêm phải bớt ngủ, đề phòng cẩn thận.

Ðoạn sai đem rượu thịt đến để cùng Ngu Cơ giải trí.

Giữa lúc đó, nơi dinh Hán, Hàn Tín thấy các tướng hợp sức vẫn không địch nổi Hạng vương lòng lo lắng, gọi Lý Tả Xa đến nói:

– Cái sức mạnh vạn năng của Hạng Vương dầu hàng trăm dũng tướng cũng không thể địch nổi. Nay tôi định sẽ cùng Hạng vương giao chiến nữa, cứ vây riệt Hạng Vương giữa vòng vây, trong vài ngày hết lương, thế nào Hạng Vương cũng đầu hàng. Người dẫu mạnh đến đâu mà đói khát cũng phải yếu đuối.

Lý Tả Xa nói:

– Ý Nguyên soái cũng phải, song tôi chỉ sợ một điều, lúc hết lương, trong thế nguy, Hạng Vương lại ra sức mở vòng vây, tướng lĩnh bên ta có ai dám địch. Hiện nay dưới tay Hạng Vương còn có bọn Quý Bố, Chung Ly Muội, Chu Lan trung thành phò tá. Nay phải làm sao bọn đó cũng như quân sĩ bỏ rơi Hạng Vương thì mới có cơ hội bắt Hạng Vương được.

Hàn Tín nói:

– Mưu của Tiên sinh rất cao, song tìm cách làm cho quân tưóng bỏ rơi Hạng Vương không phải dễ. Ðiều này phải nhờ mưu Trương Tử Phòng mới được.

Liền sai Lục Giả đến mời Trương Lương.

Một lát sau, Trương Lương đến và cùng Hàn Tín tương kiến.

Hàn Tín nói:

– Luôn mấy ngày đánh với Hạng Vương, các tướng Hán không ai địch nổi. Lại thêm bọn Quý Bố, Chu Lan, Chung Ly Muội một lòng giúp đỡ. Nếu để Hạng Vương thoát ra được, trốn về Giang Ðông lo việc phục hưng thì chiến sự kéo dài biết bao giờ yên. Trước tình hình nan giải ấy, chúng tôi phải mời Tiên sinh đến để cho chúng tôi một lời chỉ giáo.

Trương Lương nói:

– Việc đó chẳng khó gì. Bây giờ cứ làm cho các tướng và quân Sở phân tán, rời bỏ Hạng vương. Hễ Hạng vương bị cô lập ta có thể bắt được dễ dàng.

Hàn Tín nói:

– Chúng tôi cũng nghĩ vậy, song chẳng biết kế nào để làm cho binh tướng Sở ly tán?

Trương Lương đứng dậy, kéo ghế đến gần Hàn Tín, nói nhỏ:

– Tôi thuở nhỏ qua chơi Hạ Bì, gặp một dị nhân thổi ống tiêu rất giỏi, âm điệu vừa du dương vừa tha thiết.

Nhân lúc giao bôi, tôi học được khúc tiêu ấy. Tiếng tiêu thổi lên có thể làm cho người ta động lòng nhớ quê. Người vui nghe nó càng vui Người buồn nghe nó thì mối buồn càng thắm thía. Nay đương độ thâm thu, hiu hắt gió vàng, cỏ cây trút lá, người xa cách quê hương nghe nó không khỏi động lòng. Tôi sẽ nhân lúc đêm tàn canh vắng vào núi Kê Minh thổi ống tiêu lên, binh tướng Hạng vương không thể nào còn nghĩ đến việc chiến chinh nữa.

Hàn Tín nói:

– Tiên sinh có tài như vậy tưởng không còn gì quý hóa hơn.

Trương Lương từ tạ Hàn Tín, trở về dinh. Ngày hôm sau, Hàn Tín đóng quân lại, không cùng quân Sở giao chiến nữa, bốn bề đặt nhiều chiến xa, tăng thêm giáp sĩ vây phòng rất cẩn mật.

Giữa lúc đó, Hạng vương thấy quân tình yên ổn cũng không ra trận.

Bọn Quý Bố, Hạng Bá vào dinh yết kiến, và tâu:

– Hiện nay quân hết lương, ngựa hết cỏ, người người đều thán oán. Nếu địch quân thừa dịp cho người lẻn vào trong quân buông lời dèm xiểm, tất lòng quân sinh biến. Vậy xin Ðại vương đốc thúc ba quân cùng chúng tôi, cố sức mở vòng vây lánh sang Tương Giang hoặc Giang Ðông, rồi hãy mưu tính kế lâu dài.

Hạng Vương nói:

– Quân sĩ hết lương là việc nguy khốn, ý kiến các ngươi rất phải, song chi sợ quân Hán thế mạnh, không thể giải vây được chăng?

Quý Bố nói:

– Tôi xem tám nghìn tử đệ, lâu nay theo phò Ðại vương, xông pha trăm trận, vẫn một lòng một dạ. Nếu nay vì nguy biến mà mở huyết lộ thoát thân, ai ai cũng hăng hái.

Hạng vương nói:

– Nếu các tướng quân và ba quân đã có lòng hy sinh với ta như thế thì chắc vòng vây quân Hán phải vỡ.

Liền truyền lệnh sáng hôm sau mở vòng vây thoát nạn.

Quân sĩ được lệnh, ai nấy đều hăng hái, lo sửa sang binh khí, lương thực gói theo mình, nhao nhao không ngủ.

Ðêm càng khuya, gió thu càng lạnh lẽo, trăng thu buồn bã nhả ánh sáng màu vàng nhạt, rắc trên ngọn cây cao.

Bỗng từ xa, một giọng tiêu buồn vang đến, kèm theo khúc bi ca nỉ non, réo rắt. Tiếng tiêu như gợi vào lòng người một mối buồn viễn chinh. Quân Sở mặt mày ngơ ngác nhìn nhau, hồi lâu xúm lại thì thầm:

– Bọn chúng ta tòng quân lâu ngày bỏ nhà, xa vợ con, theo Bá Vương những tưởng có ngày thanh bình đoàn tụ. Ngờ đâu, binh thế mỗi lúc một tiêu tan. Nếu ở mãi như vầy, không chết giữa trận tiền cũng chẳng có ngày nào hưởng được thú vui đầm ấm của gia đình.

Tiếng thì thầm chuyền đi mãi khắp dinh trại.

Trong lúc đó, giọng tiêu càng réo rắt, càng thê lương, như những tiếng chinh phụ đang mong chồng nỉ non trong canh dài cô quạnh.

Tiếng tiêu đó chính là tiếng tiêu của Trương Lương đã thổi trên núi Kê Minh, khiến cho kẻ có lòng sắt đá đến đâu cũng phải yếu mềm như cành liễu non trước cơn gió lốc.

Tiếng tiêu ấy kèm theo bản bi ca như sau:

Ðêm thu mù mặt trời sương

Có người thiếu phụ quê hương lạnh lùng

Sa trường vó ngựa

Trầy gót binh nhung

Con thơ nheo nhóc mịt mùng dặm xa,

Cơ hàn, đau đớn mẹ cha

Canh khuya vò võ tuổi già đợi con

Chí trai vạn dặm

Hồ thỉ bốn phương

Nhưng con đi đã lầm đường

Giúp người tàn bạo không thương dân tình

Mơ màng nửa giấc ba sinh

Một đi một nhớ một mình canh thâu

Ðêm ấy vừa tàn canh, quân Sở đứa khóc, đứa buồn mặt mày ủ rũ, ngồi đứng không an.

Chúng bàn nhau rằng:

– Chúng ta nên bỏ trốn khỏi cảnh này là hơn. Nếu quân Hán bắt được, chúng ta nên tỏ thật nỗi tình, xin về quê quán, chắc Hán Vương cũng không nỡ giết chúng ta.

Ba quân bàn tán nhau, rồi không nghe lệnh các tướng, cùng nhau bỏ trốn đi hết. Chỉ trong chốc lát, dinh Sở trống không.

Các tướng thất kinh, muốn vào tâu với Hạng Vương, nhưng thấy Hạng Vương đang cùng Ngu Cơ ngủ say trong trướng, không dám vào.

Các tướng bàn nhau:

– Tình thế nguy ngập lắm rồi, nếu quân Hán biết việc này, đổ dồn lại đánh thì chúng ta tất bị bắt. Chi bằng lộn vào đám quân, trốn ra khỏi vòng vây, sau này kiếm kế giúp cho Ðại Vương trả thù.

Chung Ly Muội nói:

– Lời các ông nói rất phải.

Rồi đó, các tướng thu góp hành trang bỏ ngựa lại, cùng với quân sĩ lẩn trốn.

Trong số đó có Hạng Bá nghĩ mình ngày trước ở Hồng Môn có cứu Trương Lương, sau lại cùng Hán Vương kết nghĩa thông gia, nay đến Trương Lương xin hàng, nếu không được phong Hầu cũng không đến nỗi tuyệt giòng họ Sở.

Nghĩ như vậy, Hạng Bá liền đeo gươm, ra khỏi dinh, tìm Trương Lương xin hàng.

Còn Chu Lan và Hoàn Sở bàn với nhau:

– Chúng ta chịu ơn tri ngộ của Bá vương, dù chết cũng không nên bỏ. Bọn kia đều là lũ tham sống sợ chết, lúc bình tranh nhau hưởng lộc, lúc biến rủ nhau bỏ đi.

Chúng ta bây giờ gom góp những tên quân còn lại, giữ vững lấy trung quân, đợi Ðại Vương thức dậy, liều chết, thoát nạn. Nếu không may, trời không giúp Sở, Ðại Vương ngộ nạn thì chúng ta cũng chết theo cho trọn đạo.

Hai người bàn xong, đi thu góp những tên quân còn sót lại ước tám trăm tên, cố thủ cửa trại.

Chẳng bao lâu, Hạng Vương thức dậy, nhìn quanh thấy dinh trại trống không, thất kinh chạy ra ngoài hỏi:

– Quân Hán đã chiếm được trại Sở rồi hay sao mà quân lính mất hết vậy?

Chu Lan và Hoàn Sở chạy đến, vừa khóc vừa nói:

– Quân ta bị Hàn Tín dùng kế thổi ống tiêu, làm cho lòng quân tan rã, cả đến các tướng cũng bỏ trốn, chỉ còn hai chúng tôi và tám trăm quân ở lại đây hầu hạ Ðại Vương. Xin Ðại Vương phải đánh gấp phá vòng vây, chậm trễ quân Hán kéo đến không thế thoát được.

Hạng vương nghe nói đôi dòng nước mắt chảy ràn rụa, bước vào trướng thuật lại đầu đuôi câu chuyện với Ngu Cơ.

Nàng Ngu Cơ cũng không cầm được giọt lệ, thở dài nói:

– Trời cố diệt chúng ta chăng?