Hồi 40 – Ngu Cơ liều thân nơi Cai Hạ

Hạng vương thấy Ngu Cơ khóc sướt mướt, cầm tay nói:

– Tướng sĩ nay đã trốn hết, quân Hán vây đánh rất ngặt. Ta định từ giã nàng, liều mình xông ra trận. Tuy nhiên, lòng lại không nỡ, vì hai ta sống với nhau đã bao năm, chưa từng rời nhau sớm tối, dẫu trong thiên binh vạn mã cũng vẫn có nhau. Nay một phút muốn vĩnh biệt với nàng, lòng ta thấy quyến luyến.

Ngu Cơ khóc nghẹn ngào, và nói:

– Thiếp đội ơn Ðại vương thương tưởng, nguyện khắc cốt ghi lòng. Nay chẳng may trên bước đường ly loạn, dẫu chết cũng khó rời nhau.

Bá vương lau nước mắt, truyền quân bày tiệc rượu ở trung quân để cùng với Ngu Cơ đối ẩm.

Hơi men không sưởi ấm được lòng người trong phút não nề, Hạng Vương buồn bã ngâm nấy câu thơ:

Tấm thân lấp biển, vá trời

Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang

Giờ đây mưa gió phũ phàng

Anh hùng mạt lộ giang san tiêu điều

Hạng vương ngâm thơ xong, mời Ngu Cơ uống mấy chén rượu.

Ngu Cơ cũng ngâm lên mấy câu thơ buồn như sau:

Cát đằng nương bóng cội cùng

Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng

Tơi bời vì ngọn gió Ðông

Cội tùng xiêu vẹo, cát đằng bơ vơ

Bá vương cùng Ngu Cơ uống rượu ngâm thơ mãi cho đến lúc tàn canh, bên ngoài trời rạng sáng.

Chu Lan và Hoàn Sở từ bên ngoài bước vào giục:

– Trời sắp sáng rồi, xin Ðại vương lo khởi hành.

Hạng vương đứng dậy, từ biệt Ngu Cơ nói:

– Thôi! Ðã đến lúc tôi phải đi, ngự thê ở lại bảo trọng lấy thân thể.

Ngu Cơ quỳ gối nói:

– Thiếp xin theo Ðại vương, để cùng nhau sinh tử.

Hạng vương nói:

– Trong chốn muôn quân nghìn tướng, phận liễu bồ làm sao chịu được cực nhọc. Trước kia binh tướng còn nhiều có người bảo vệ, nay ta đơn thương độc mã làm sao có thể mang nàng theo được.

Hạng vương rút thanh kiếm đeo bên mình, đưa cho Ngu Cơ. Ngu Cơ tiếp lấy, đứng dậy nói:

– Thiếp mang ơn Ðại vương không biết lấy gì đền đáp. Nay trong cơn nguy khốn, nếu thiếp đi theo Ðại vương không khỏi làm cho Ðại vương bận bịu, mang hại vào thân.

Nói xong, đâm lưỡi gươm vào cổ tự vận.

Hạng vương đau lòng, hét lên một tiếng, toàn thân run rẩy.

Chu Lan và Hoàn Sở bước lại đỡ Hạng vương và nói:

– Xin Ðại vương lấy giang san làm trọng, đừng quá bi lụy như thế.

Hạng vương nghiến răng, vung đao lên ngựa ra khỏi dinh, cùng tám trăm quân xông vào trận địch.

Quân Hán được tin, chạy về trung quân phi báo.

Hàn Tín liền thống xuất đại binh, hợp với các tướng kéo đến phủ vây.

Hạng vương một mình, cời ngựa Ô Truy, vung đao xông đến, gặp tướng đánh tướng, gặp quân chém quân, như vào chỗ không người. Ai nấy thấy vậy sợ hãi, không dám ngăn cản.

Hạng vương thoát ra được tám vòng vây, ngoảnh lại thấy Chu Lan và Hoàn Sở đã lạc đâu mất, sau lưng mình chỉ còn vài mươi quân kỵ.

Hạng vương vẫn không nản lòng, vừa giục ngựa xông tới, vừa đâm chém.

Hàn Tín cùng các tướng Hán thấy vậy bảo nhau:

– Hạng Vương có sức mạnh như thần, lại gặp lúc cùng quẫn, nếu chết khó ai địch nổi. Chi bằng vây hai tướng Chu Lan, Hoàn Sở để cho Hạng vương hoàn toàn cô lập

Các tướng liền bỏ Hạng vương xúm lại vây Chu Lan và Hoàn Sở.

Chu Lan và Hoàn Sở sức yếu làm sao địch lại, chống đỡ một lúc, biết không thể thoát được, ngửa mặt lên trời nói lớn:

– Ðại vương ôi! Chúng tôi đã kiệt sức rồi.

Nói xong, hai tướng rút gươm tự sát.

Giữa lúc đó, Hạng Vương thoát ra khỏi trận theo sau chỉ con hơn vài chục tên quân, nhắm hướng Ðông mà chạy.

Chạy được mấy dặm, đến vùng Sảm Lăng đường sá ngoằn ngoèo, không rõ phương hướng, chung quanh toàn là sông ngòi và bụi bờ mù mịt.

Chợt gặp một lão nông đang đứng bên đường, Hạng vương hỏi:

– Sang Giang Ðông đi về phía nào?

Lão nông trông thấy người áo mũ khác thường, đoán biết Bá vương, nghĩ thầm:

– Ông ta đóng đô nơi Bành Thành đã mấy năm, chẳng có ân đức gì với bá tánh, chỉ chuyên dùng vũ lực chém giết đánh đập, dân chúng phải chịu nhiều tai ương thảm họa, nay bị quân Hán đuổi, ta không nên chỉ đường làm gì.

Trong lúc lão nông đang ngẫm nghĩ, chưa kịp đáp, Hạng vương hỏi tiếp:

– Ông lão đừng sợ, ta đây là Bá vương. Vì lâm trận bị quân Hán đuổi rất gấp, muốn tìm sang Giang Ðông, nhưng không thuộc đường.

Lão nông giả vờ trỏ tay về phía tả, là con đường cùng, nói:

– Nên chạy ngả ấy.

Hạng vương theo lời, giục ngựa dong ruổi. Ði được vài dặm, đường bị nghẽn, con ngựa sa xuống một vũng lầy rất lớn. May nhờ con ngựa Ô truy phi mình nhảy thoát.

Vừa lúc đó lại gặp một cánh quân Hán kéo đến, cầm đầu là Dương Hỷ.

Hạng vương gọi Dương Hỷ nói:

– Ta sa xuống vũng lầy vừa thoát khỏi, người mỏi ngựa mệt không thể đánh nhau được nữa, nhà ngươi trước kia đã từng theo ta mấy năm, nay lại phò Hán làm gì, hãy theo ta về Giang Ðông để chiêu tập binh mã, mong việc phục hưng. Lúc đó ta sẽ phong cho nhà ngươi làm Vạn Hộ hầu, giàu sang sung sướng.

Dương Hỷ nói:

– Ðại vương bạc ác, nhiều kẻ cản ngăn, nhưng không chịu nghe. Nay cớ sự như vầy, dẫu tôi có theo Ðại vương đến Giang Ðông, Ðại vương cũng không làm gì nên chuyện. Chi bằng theo tôi về hàng Hán, chắc Ðại vương không mất ngôi công hầu.

Hạng vương nổi giận, vung đao đâm Dương Hỷ, Dương Hỷ đưa thương ra đỡ. Ðánh được hai mươi hiệp, Hạng vương rút cây roi đeo sau lưng vụt Dương Hỷ một cái Dương Hỷ né không kịp bị sa xuống ngựa.

Hạng vương toan vung đao chém đầu thì có hai tướng Hán là Dương Võ, Lã Mã Thông đến kịp, cản lại cứu Dương Hỷ.

Hạng vương lại cùng hai tướng giao tranh.

Ðàng sau, Anh Bố, Bành Việt, Chu Bột chia quân vây bọc, Hạng vương không dám ham đánh, quảy ngựa chạy về hướng Ðông, ngoảnh trông lại còn có mười tên tùy tốt.

Bọn tùy tốt nói:

– Ðại vương giao chiến suốt ngày, người đói, ngựa khát trời lại sắp tối, chi bằng tìm chỗ ẩn thân để dưỡng sức. Chúng tôi đoán chừng nơi đây cây cối rậm rạp, quân Hán chưa dám mạo hiểm vào đây xáp chiến.

Hạng vương theo lời, gò ngựa lại, trông xa trong khóm rừng thấy có ánh đèn thấp thoáng, liền dẫn quân đến đó.

Khi đến nơi, thấy đó không phải nhà ở của dân chúng mà là một cổ viện.

Hạng vương nói:

– Tuy không phải nhà thường dân song cũng tạm nghỉ được.

Bọn tùy tốt theo Hạng vương bước vào trong.

Bên trong có tiếng suối róc rách chảy. Hạng vương lần đến thấy một cái khe nước trong vắt.

Hạng vương bảo bọn tùy tốt dắt ngựa cho uống nước và mài thanh bảo kiếm của mình để chuẩn bị rạng ngày chiến đấu.

Bọn tùy tốt yếu sức, không mang nổi thanh kiếm, Hạng vương phải tự mình đến suối cầm thanh kiếm liếc vào một tảng đá lớn.

Chỗ ấy là viện Hưng Giáo cách Ô Giang mười lăm dặm. Hạng vương lần theo hành lang bước vào trong viện, không thấy một bóng người nào.

Lần ra phía sau thì thấy một vài ông lão đang ngồi quanh một lò sưởi.

Một tên lính hỏi:

– Sao trong viện hiu quạnh thế?

Một ông già đáp:

– Bản viện nguyên trước có vài người ở. Gần đây nghe Sở – Hán tranh hùng, sợ hãi trốn đi hết. Chúng tôi là người trong thôn ấp sợ viện bỏ vắng lỡ mất trộm chăng nên lén ra đây coi chừng. Chẳng hay đêm khuya các người ra đây có chuyện gì?

Tên lính nói:

– Nay có Tây Sở Bá vương bị quân Hán đuổi đến đây, bữa cơm tối chưa kịp dùng, định vào nghỉ tạm trong viện này một đêm, sáng mai sẽ đi sớm. Các ông có cơm thì đem dâng cho Bá Vương dùng.

Các ông lão nghe nói có Hạng Vương đến lật đật đứng dậy ra cửa phục xuống đất, mời Hạng vương vào nhà trong, nói:

– Chúng tôi là những kẻ nông phu ở thôn dã, không hiếu lễ xin Ðại vương tha thứ cho.

Hạng vương nói:

– Các ngươi ở đây có sẵn gạo không? Ði thổi cơm cho mọi người ăn một bữa. Nếu bình được giặc, ta chẳng quên ơn.

Một ông lão tâu:

– Tâu Ðại Vương, nơi đây thuộc đất Sở, Ðại Vương lâm nguy đến đây dùng chút lương gạo của chúng tôi có gì là ân huệ.

Nói xong, vào trong lấy ra một thạch gạo, đem nấu cho Hạng Vương và tùy tốt ăn.

Ăn xong, Hạng vương dựa lưng vào ghế đá nghỉ.

Chợt thấy một vầng mặt trời đỏ ối nổi lên mặt sông. Kế đó lại thấy Hán Vương cỡi mây năm sắc lờ lững đến nơi, ôm vầng mặt trời vào lòng, rồi lại cưỡi mây mà đi. Dưới chân hàng ngàn tia sáng tiếp nối không dứt. Hạng vương thấy Hán ôm vầng mặt trời bay lên, vội cởi áo nhảy ùm xuống nước, chực cướp lại, chẳng ngờ bị Hán vương co chân đạp vào mặt, Hạng vương ngã lăn xuống nước. Hán vương vẫn chậm rãi ôm mặt trời đi về hướng Tây.

Hạng vương giật mình thức giấc, thì ra đó là giấc mộng, lòng sợ hãi, thở dài nói:

– Ôi! Mệnh trời đã vậy, không thể cưỡng lại được.

Vừa dứt lời, một tên tùy tốt chạy vào cấp báo:

– Quân Hán đã kéo đến cửa rừng rồi, xin Ðại vương tìm đường thoát hiểm.

Hạng vương vội vã mặc áo giáp lên ngựa, dẫn mười tên tùy tốt lánh ra cửa rừng.

Trời tang tảng sáng, quân Hán chia làm hai cánh đánh bọc vào. Tướng đi đầu là Quán Anh xông đến chém.

Hạng vương hét lên một tiếng, con ngựa của Quán Anh sợ hãi thối lui mười bước.

Ðàng sau, Dương Võ, Lã Thắng, Sài Võ, Ngân Hấp đồng xông vào một lượt. Hạng Vương vung đao vun vút, đánh dẹp, cả quân Hán, không tướng nào dám đến gần.

Tuy nhiên, biết mình cô thế, Hạng Vương không ham đánh, bảo vệ bọn tùy tốt thoát vòng vây chạy trốn.

Chạy đặng mười dặm đến sông Ô Giang. Ðàng sau quân Hán đuổi theo, gươm giáo như rừng, tiếng reo hò dậy đất.

Hạng Vương đưa mắt nhìn một lúc, sực nhớ giấc mộng vừa rồi, thở dài nói với ba quân:

– Cơ trời đã muốn tuyệt Sở, dẫu chống lại cũng chẳng ích chi. Tuy nhiên với sức mạnh của ta, chờ đến lúc kiệt quệ, ta cũng còn có thể thắng địch quân mấy trận nữa. Vậy để ta chém tướng địch mở vòng vây cho các ngươi thoát nạn, hẹn đêm nay gặp nhau nơi chân núi Ðông Sơn.

Bọn tùy tốt vâng lệnh. Liền lúc đó quân Hán đã ồ ạt kéo đến vây phủ. Hạng Vương lui tới một mình chém luôn ba tướng Hán, và mấy trăm quân. Quân Hán sợ hãi phải lùi lại. Hạng Vương nói với bọn tùy tốt:

– Sao chúng bay không chạy ra ngoài thoát nạn?

Bọn tùy tốt đồng nói:

– Chúng tôi xin theo phò đại vương cho đến phút cuối cùng.

Lời nói ấy như an ủi lòng kẻ mạt lộ, Hạng Vương lại vung đao đánh liều với quân Hán.

Ngày hôm ấy, Hạng Vương đánh cả thảy chín trận, giết chín tướng Hán và chém chết một ngàn quân Hán, thoát ra khỏi vòng vây, cùng bọn tùy tốt chạy đến bờ phía Bắc Ô giang.

Quân Hán không dám đuổi theo gấp như trước nữa. Hạng vương gò ngựa đi thong thả, hỏi bọn tùy tốt:

– Ta đánh với quân Hán như thế nào?

Bọn tùy tốt tâu:

– Ðại vương sức địch muôn người, thật là bậc anh hùng cái thế.

Ðến bờ sông, Hạng Vương muốn qua đò, và người Ðình trưởng Ô giang cũng đã cắm thuyền đợi sẵn nơi đó.

Hạng vương hỏi:

– Sao ngươi biết ta đến đây đem thuyền đón?

Người đình trưởng thưa:

– Tôi nghe Ðại vương thất trận, cơ đồ chỉ còn một con thuyền này, vì vậy đem thuyền đợi rước. Giang Ðông tuy nhỏ, nhưng đất vuông nghìn dặm, có thể làm chỗ phục hưng. Ðại vương sang đó, chiêu tập hào kiệt, tích thảo đồn binh thì cái cơ lấy lại thiên hạ không khó. Xin Ðại vương kíp sang đò, đừng để lỡ dịp.

Hạng vương thở dài, lắc đầu nói:

– Ta từ lúc khởi binh đến nay bách chiến bách thắng, nay lâm nguy chạy trốn thực là nhục.

Ðình trưởng nói:

– Hay Ðại Vương sợ quân Hán đuổi theo, không thoát được? Ở đây chỉ có một con thuyền của tôi mà thôi.

Ðại Vương xuống thuyền tôi dong ra giữa vời, tức là coi như Ðại vương đã ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, không sợ gì nữa.

Hạng Vương nói:

– Trời đã muốn cho ta tận diệt, ta còn sang sông làm gì. Dẫu trở về Giang Ðông, dân chúng còn yêu ta, để ta làm vua, ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy họ nữa.

Ðình trưởng thở dài, lặp bặp nói:

– Thành bại không luận anh hùng. Ðã có chí lớn chớ nên câu nệ việc nhỏ. Ðại vương đừng thẹn vì thất trận mà nên lo cho cái nhục mất nước. Xin Ðại vương sang sông kẻo muộn.

Hạng Vương nhìn người Ðình trưởng, lòng bùi ngùi cảm động nói:

– Ta đã không thể sống nhục thì dẫu có sống cũng chẳng làm được việc gì nữa. Nhà ngươi nên bằng lòng vậy.

Người Ðình trưởng cắm thuyền phàn nàn mãi.

Hạng Vương biết là kẻ có chí lớn, song tự thấy mình không đủ can đảm để sống nhục nên cầm tay người Ðình trưởng nói:

– Ta có con ngựa quí, dùng đã mấy năm trong việc chiến chinh. Một ngày đi nghìn dặm, nó là một con thần mã rất khôn ngoan. Nay sợ quân Hán bắt được, mà giết đi thì không nỡ. Nhà ngươi nên đưa nó sang sông, đem về nuôi dưỡng. Sau này thấy nó cũng như thấy ta.

Dứt lời, sai tên tùy tốt dắt ngựa xuống thuyền.

Ngựa hí lên mấy tiếng, đưa mắt nhìn Hạng Vương, ra vẻ quyến luyến không nở rời, Hạng Vương lòng đau như cắt.

Vừa bước xuống thuyền người Ðình trưởng sắp buông chèo thì ngựa chúm bốn vó nhảy ùm xuống nước mất dạng.

Ai nấy kinh hồn, nhìn làn sóng của tràng giang như muốn ghi vào đáy những dòng lịch sử bất diệt.

Ðàng sau quân Hán reo hò kéo đến. Thuyền xuôi mái ra giữa dòng, Hạng Vương chống gươm đứng nơi mé bờ, đưa mắt nhìn địch quân hùng hổ bao vây.

Bọn tùy tốt nói:

– Ðại vương đã không chịu qua sông, bây giờ phải làm cách nào để đối địch?

Hạng Vương không đáp, vung kiếm nhảy tới chém chết một lúc mấy trăm quân Hán.

Chợt thấy trong đám Hán tướng có Ðại tướng Lã Mã Thông vừa đến, Hạng vương gọi lớn:

– Nhà ngươi có phải là cố nhân của ta chăng?

Lã Mã Thông đáp:

– Phải, tôi cùng Ðại vương khởi binh ở Cối Kê, nay vắng cách đã lâu; lẽ ra tôi phò Ðại vương, nhưng vì Ðại vương lấy uy lực áp đảo sanh linh, lấy bạo lực trị thiên hạ, chính sách đó không thuận lòng trời, hợp lòng người. Hán vương tuy không có uy vũ, song đạo đức tràn đầy, ai ai cũng mến. Trời dành thiên hạ cho kẻ có đức chứ không phải cho kẻ có uy vũ, do đó Ðại vương thất bại là phải. Tôi phò Hán không phải bội phản Ðại vương mà theo nguyện vọng của tôi.

Hạng vương nói:

– Ngày nay lòng ngươi đối với ta như thế nào?

Lã Mã Thông nói:

– Tôi vẫn khâm phục cái tài kinh thiên vĩ địa của Ðại Vương. Nếu trời không giúp Hán, thì không thể nào Ðại Vương mất nước được. Tôi tuy theo bước đường lý tưởng, chuộng đạo đức, diệt bạo tàn, song vẫn xem Ðại Vương là cố nhân.

Hạng vương nói:

– Lòng ngươi còn nhớ nghĩa xưa, ta không lấy gì đến đáp. Nghe rằng Hán Vương treo giải trong quân, ai lấy được đầu ta phong làm vạn hộ. Vậy ta cho ngươi chiếc đầu của ta đem về lập công.

Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.

Bọn Dương Hỷ, Dương Vó, Vương Ê, Lã Thông đều xông đến cắt đầu Hạng vương đem về dâng cho Hán vương.

Hạng vương sanh năm Tần Thủy Hoàng thứ mười lăm, đến năm Hán Cao Tổ thứ năm thì tự vận ở Ô Giang thọ ba mươi mốt tuổi.

Người sau có thơ rằng:

Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền

Vẫy vùng yên mã đoạt giang biên

Hạ thành ai luận anh hùng sự

Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn

Lã Mã Thông cùng năm tướng xách đầu Hạng vương về dinh nạp cho Hán vương.

Hán vương trông thấy khóc òa, nói:

– Tôi cùng nhà vua kết làm anh em, sau vì tranh thiên hạ mà trở nên hiềm khích. Song nhà vua tuy bắt Thái Công, Lã hậu mà vẫn nuôi dưỡng tử tế, không hề xúc phạm, đó là hành động của bậc trượng phu, tôi không bằng được. Không ngờ nay nhà vua chết đi như vậy, tôi tiếc thương biết chừng nào.

Các tướng thấy lòng nhân đạo của Hán vương đều cảm phục.

Hạng vương đã chết, đất Sở đã định, Hán vương phong cho Lã Mã Thông làm Trung Thủy hầu, Vương Ê làm Ðỗ Diễn hầu, Dương Hỷ làm Xích Toàn hầu, Dương Võ làm Ngô Phòng hầu, Lã Thắng làm Niết Dương hầu.

Sai lập miếu thờ Hạng Vương ở bến Ô Giang, bốn mùa tế lễ.

Nhắc lại, Hạng Bá bỏ Sở sang đầu Trương Lương, Trương Lương vì thấy đang lúc binh nhung bận rộn, không dám tâu với Hán vương, nay Sở đã diệt, liền dẫn Hạng Bá vào yết kiến, và tâu:

– Hạng Bá trong khi quân Sở tan rã, có đến xin đầu ở dinh hạ thần. Hạ thần trộm nghĩ Hạng Bá vốn có tình cũ, lại là người có công ở Hồng Môn năm xưa nên lưu lại trong dinh, chờ Ðại vương xét định.

Hán vương nói:

– Hạng công đã từng giúp ta nhiều việc lớn. Ta đang định sai người đi tìm, chẳng ngờ Hạng công đến đây thật là may mắn.

Liền phong cho Hạng Bá làm Ðịch Vương Hầu, cải là họ Lưu.

Hạng Bá mừng rỡ tạ ơn.

Bấy giờ các nơi đã dẹp yên, duy còn nước Lỗ ở Sơn Ðông chưa bình được.

Hán vương nói:

– Lỗ là nước nhỏ, chẳng đáng kể, lúc nào kéo quân đến là lấy được ngay. Nay hãy bàn việc đóng đô đã.

Trương Lương tâu:

– Ðại vương không nên rút quân về vội. Nước Lỗ tuy nhỏ, nhưng có ẩn một mối hậu hoạn. Nếu không để ý e sau này hối không kịp.

Hán vượng ngạc nhiên hỏi:

– Một nước nhỏ như vậy, có gì tai hại về sau?

Trương Lương đến gần Hán vương tâu nhỏ:

– Lỗ là một nước trị dân bằng lễ nghĩa, dân chúng được thuận hòa. Năm xưa, Sở Hoài vương phong cho Hạng vương làm Lỗ công, mà nước Lỗ lại là đất cũ của Hạng vương, dân chúng nước ấy có thể vì Hạng vương khởi binh báo thù. Các tay hào kiệt ở Ðông Ngô cũng nhiều, nếu họ kéo đến Kinh Sở, chiếm lấy Hồ Tương, ta không dễ gì dẹp đặng.

Hán vương thất kinh, nói:

– Nếu không có tiên sinh ta đã lầm việc lớn.

Hồi 41 – Nghi Hàn Tín, Hán Vương cải phong

Hán vương nghe lời trình bày của Trương Lương về quan hệ nước Lỗ, liền kiểm điểm binh mã kéo đến thành Lỗ để chinh phục.

Khi đại binh kéo đến nơi, thấy cửa thành nước Lỗ đóng chặt, cờ xí uy nghi.

Quân Hán đánh phá bốn mặt, muôn mấy ngày mà không thấy trong thành động tĩnh gì cả, chỉ nghe những tiếng đàn ca réo rắt vang ra.

Hán vương nổi giận, muốn dùng hỏa pháo bắn vào, Trương Lương can:

– Không nên! Lỗ là nước của ông Chu công ngày xưa, một nước lễ nghĩa. Nay cứ xem như Ðại vương đem quân đến dưới thành, mà trong thành vẫn tưng bừng tiếng đàn sáo, đủ biết cái nước không thể dùng sức mạnh để chinh phục. Xin Ðại vương đem đầu của Hạng vương bá cáo cho người Lỗ biết, rồi hiểu dụ cho họ thấy đại nghĩa, tự nhiên họ phải quì phục.

Hán vương theo lời, lấy đầu Hạng vương treo dưới thành. Các bậc bô lão trong thành trông thấy đều khóc òa.

Hán vương sai người hiểu dụ rằng:

Hạng vương giết Nghĩa Ðế làm nhiều hành đông bạo ác gây nhiều tang tóc trong dân chúng. người xưa có nói: “Chỉ có đạo đức, lễ nghĩa mới đem lại một xã hội thái bình, thịnh trị. Chỉ có lòng nhân mới đem lại cho dân chúng cảnh sống lạc nghiệp, an cư. Hán vương không có ác cảm với Hạng vương, chỉ vì tôn trọng lòng nhân, diệt tàn bạo mà Hạng vương phải chết. Nay nước Lỗ bế thành trái mạng, không biết theo đạo nghĩa thì sao gọi là một nước của thánh nhân được“.

Các bô lão nghe lời hiểu dụ, cùng với bọn nho sĩ, mở cửa thành ra đầu hàng.

Hán vương dẫn đại binh vào thành, vỗ an bá tánh, rồi đem đầu và mình của Hạng vương ráp lại, dùng hiệu Lỗ Công táng ở phía Ðông Cốc Thành mười lăm dặm.

Các lộ chư hầu đều dẫn quân đến chúc mừng.

Ngày hôm sau, Hán vương truyền cho chư hầu ai nấy đem quân bản bộ trở về nước, còn các văn võ tướng sĩ đều trở về Lạc Dương, chờ cuộc luận công hành thưởng.

Hán vương nhân nghĩ Hàn Tín đóng quân ở đất Tề, cai quản hơn bảy mươi thành, nước lớn, quyền to như vậy e sanh ra hậu hoạn Lại thấy nước Lỗ ở riêng một góc Kinh Nam, dẫu có muốn khởi binh một vài vạn, cũng chẳng dễ gì chiêu tập được, liền gọi Hàn Tín vào phủ dụ:

– Từ khi được tướng quân, tướng quân lập nhiều công lớn, lòng ta chẳng lúc nào quên. Tuy nhiên, ta lại e tướng quân quyền cao, tước trọng, kẻ tiểu nhân ghen ghét, không giữ nổi địa vị, làm cho lòng ưu ái của ta không xứng đáng đền bù. Nay nước Lỗ riêng một góc trời, dàn cư an lạc, ta muốn tướng quân giao ấn Nguyên Nhung, rồi thiên sang trấn thủ nước Lỗ, dựng nghiệp muôn đời. Như thế sự đền ân của ta mới xứng.

Hàn Tín nghe Hán vương nói, không biết làm sao, bèn đem ấn soái trả lại cho Hán vương, sai các tướng lớn nhỏ về bản dinh để chờ Hán vương định đoạt.

Ðoạn, Hàn Tín vào bái yết Hán vương, tâu:

– Nước Tề đội ơn Ðại vương đã phong cho đã lâu, nay nhất đán cải phong, e lòng dân hoang mang chăng?

Hán vương phàn nàn:

– Tướng quân nghĩ như thế là lầm. Xưa Sở, Hán giao binh, lòng người chưa định, đất Tề là cái đất phản phúc, nên sai tướng quân trấn thủ. Ngày nay bốn biển thái hòa, dân Tề đâu còn phải lo lắng nữa. Vả lại, tướng quân là người Hoài Âm, phong tướng quân làm Lỗ vương tức là nơi đất tổ quê nhà, lẽ ấy rất hợp.

Hàn Tín liền đem ấn Tề vương giao trả, đổi lấy ấn Lỗ vương, thiên sang đất Lỗ.

Ðến nơi, Hàn Tín sai người đến Hoài Âm tìm người Phiếu mẫu và gã bán thịt khoảnh ác đã làm nhục mình thuở xưa.

Hai người đến nơi, vào lạy yết kiến. Hàn Tín nhắc lại thuở hàn vi, nhờ cơm Phiếu mẫu, và đền ơn cho Phiếu mẫu một nghìn lạng vàng. Phiếu mẫu lạy tạ trở về.

Còn tên hàng thịt. Hàn Tín phong cho làm chức Trung úy..

Gã hàng thịt nói:

– Năm trước tôi dốt nát, không biết bậc đại quí, nên đa xúc phạm đến Ðại vương. Nay mong ơn Ðại vương không giết, có đâu dám nhận chức phong?

Hàn Tín nói:

– Ta không phải như những kẻ nhỏ nhen, báo thù một cách nhỏ mọn. Ngươi nhận chức, chớ nói nhiều.

Gã hàng thịt lạy tạ lui ra. Những người biết chuyện luồn trôn của Hàn Tín thuở xưa, nay lại thấy Hàn Tín đối xử với gã hàng thịt như vậy đều lấy làm lạ.

Hàn Tín nói:

– Hắn là một ân nhân của ta chứ đâu phải kẻ thù. Nếu ta không bị hắn làm nhục thì đâu có được ngày nay.

Ta phong chức cho hắn là để đền ơn đó.

Tả hữu nói:

– Lòng khoan dung của Ðại vương thật ít ai sánh kịp.

Tháng giêng năm thứ sáu nhà Ðại Hán, Triệu vương Trương Nhĩ, Lỗ vương Hàn Tín, thần xuất các quan vào xin tôn Hán vương lên ngôi Hoàng đế.

Hán vương nói:

– Ta nghe Hoàng đế phải là bậc người hiền đức, ta đâu dám dự vào ngôi ấy.

Quần thần đều nói:

– Ðại vương dùng nhân đạo dấy binh, khu trừ bạo nghịch, bình định bốn bể, kẻ có công đều được phong chức chư hầu. Nếu Ðại vương không lên ngôi Hoàng đế thì sao tỏ được cái đạo tin của thiên hạ.

Hán vương đôi ba phen từ chối, sau đó các chư hầu cố nài ép, Hán vương mới nghe theo và nói:

– Các ngươi xét thấy ta có đủ lòng nhân, cố suy tôn như vậy, ta đâu nỡ chối từ.

Bèn chọn ngày Giáp Ngọ trong tháng hai, làm lễ tế trời đất, rồi lên ngôi Hoàng đế ở phía Nam Dĩ Thủy. Văn võ bá quan đều làm lễ chúc mừng.

Hán vương đổi hiệu là Hán đế, và ban chiếu trong thiên hạ rằng:

Trẫm nghĩ: nhà Châu dứt mối, họ Tần dấy lên, sáu nước kiêm tính, bôn bể tang thương. Ðến đời Tam Thế thiên hạ càng loạn lạc. Trẫm vốn là người dân đất Bái dấy binh khởi nghĩa cốt trừ bạo ngược, cứu giúp muôn dân. Tần diệt, Sở hưng mà Sở lại dẫm trên vết xe củ của Tần muôn dân chưa thoài khỏi lầm than khốn đốn. Nay trẫm được muôn dân chung sức, tướng sĩ hết lòng, dựng nên nghiệp cả, thu thiên hạ về một mối, đem lại thái bình an lạc. Thiết nghĩ: Mình đức bạc tài hèn, không dám tự tôn, nhưng chư hầu một mực nài ép. Chẳng lẽ phụ lòng trăm họ, không kể lời khuyên chư hầu, vì thế mà trẫm phải nghe theo. Nay với ước vọng chung trẫm xưng hiệu Hoàng đế, đánh hiệu của thiên hạ là Ðại Hán, truy tôn khảo tỷ bốn đời làm Thái thượng Hoàng đế, dựng nền xã tắc ở Lạc Dương, phong Lã Hậu làm Hoàng hậu, con trưởng là Lưu Doanh làm Ðông cung Thái tử.

Tất cả những hình phạt cũ của Tần, Sở đều bãi bỏ.

Nay bố cáo cho thiên hạ biết“.

Mùa hạ tháng năm, Hán đế đặt tiệc ở cung Nam thành Lạc Dương thết đãi quần thần.

Rượu được mấy tuần, Hán đế hỏi:

– Trẫm muốn hỏi câu này, liệt hầu và các tướng ai biết cứ trả lời.

Quần thần đều để ý lắng nghe.

– Trẫm sở dĩ có thiên hạ là vì sao? Họ Hạng mất thiên hạ là vì sao?

Cao Khởi, Vương Lăng thưa:

– Bệ hạ chuộng nghĩa thi nhân, được thiên hạ cảm mến, còn Hạng Vũ tuy có sức mạnh tuyệt năng, song thiếu đạo đức. Do đó trời đã dành sẵn sự thành bại này.

Hán đế nói:

– Các khanh chỉ thấy được một phần, chưa thấy được toàn diện. Ðành rằng nhân đạo là gốc, song việc lãnh đạo còn phải ở những yếu tố cần thiết mới thành công được Như vận trù ở trung quân, quyết thắng ra ngoài nghìn dặm, ta không bằng Tử Phòng. Trấn giữ quốc gia, vỗ về trăm họ, vận tải lương thực cho chu toàn, ta không bằng Tiêu Hà. Cầm quân trăm vạn, đánh đâu được đấy, phá đâu lấy đấy, ta không bằng Hàn Tín. Ba người ấy đều là bậc nhân kiệt, mà ta biết dùng, vì thế nên lấy được thiên hạ. Còn Hạng Vũ có một mình Phạm Tăng mà không biết dùng, cho nên bị chết về tay ta.

Quần thần nghe Hán đế nói đều bái phục.

Vua tôi lại bắt đầu chén, vui vầy, Hàn Tín lợi dụng lúc Hán đế vui vẻ, tâu:

– Hạ thần ngày trước bỏ Sở vào Bao Trung, giữa đường có gặp một tiều phu chỉ nẻo. Hạ thần sợ quân Sở đuổi theo nên phải giết lão đi, để lão khỏi chỉ cho kẻ khác.

Sau đến núi Cổ Vân, hạ thần lại gặp một kẻ nghĩa dũng là Tân Kỳ, cùng theo hạ thần đi đánh Sở. Tân Kỳ lập nhiều công trận, rủi bị chết nơi Quảng Võ. Nay, hai kẻ ấy chưa được hưởng ân huệ gì.

Hán đế nói:

– Nếu khanh không bảo tấu, trẫm đã phụ ơn kẻ đã có công rồi.

Liền khiến lập đền thờ, thờ tiều lão, bốn mùa cũng tế, lại phong cho con cháu Tân Kỳ được thế ấm.

Trương Lương nghĩ đến quê hương của mình, vội tâu với Hán đế lập con cháu vua Hàn cũ là Cơ Tín làm Hàn vương, đóng đô ở Dịch Dương, lập lại tôn miếu nước Hàn.

Hán đế nhậm lời. Vương Lăng lại tâu xin lập đền thờ cho mẹ mình.

Hán đế nói:

– Lăng mẫu là bậc đại liền, trẫm làm sao quên được Liền sai lập đền, hàng tháng cấp người đến tế lễ.

(Ðến nay dấu tích đền thờ Lăng mẫu vẫn còn).

Ðoạn Hán đế phong Ngô Nhuế làm Trường Sa vương, đóng đô ở Lâm Tương, còn Hoài Nam vương Anh Bố, Lương vương Bành Việt, Yên vương Trang Tà đều giữ nguyên chức cũ.

Các người họ Lưu cùng gia phong một loạt. Còn các công thần đều phong tước hầu.

Tuy nhiên, những kẻ chưa được thụ phong lao nhao thì thầm chưa biết số phận mình ra sao.

Hán đế trông thế ngạc nhiên, hỏi Trương Lương.

Trương Lương nói:

– Bệ hạ dùng các tướng thu thiên hạ. Nay phong thưởng chỉ nhắm vào người thân, mà không chú trọng đến kẻ sơ, do đó, họ lấy làm bất mãn.

Hán đế nói:

– Sự phong chức phải thủng thỉnh, tùy công xét định, biết làm thế nào?

Trương vương nói:

– Muốn làm an lòng mọi người Bệ hạ nên tìm một người mà hàng ngày Bệ hạ ghét nhất phong chức trước đi để trấn an các tướng.

Hán đế nói:

– Người ta ghét nhất ai cũng biết, là Ung Sĩ.

Nói xong, liền xuống chiếu, phong Ung Sĩ chức Thập Vạn hầu.

Quân thần hân hoan bàn nhau:

– Ung Sĩ mà còn được phong hầu thì bọn mình lo gì Bệ hạ bỏ rơi.

Bấy giờ quần thần mới an định.

Trương Lương lại tâu:

– Hiện nay công việc cần kíp là Ðiền Hoành trốn ở ngoài hải đảo, nếu không khu trừ e sau này mang họa.

Hán đế hỏi:

– Theo ý Tiên sinh bây giờ nên dùng kế gì?

Trương Lương tâu:

– Ðiền Hoành là một kẻ nghĩa sĩ, từ nước Tề trốn ra ngoài để trốn để xem thế mạnh yếu, đủ biết cái chí của hắn không nhỏ. Bệ hạ nếu sai quân đi đánh, bể khơi sóng cả không chắc đã thắng được họ. Cứ như ngu ý của hạ thần nên đem chiếu đến trần thuyết mọi lẽ tha tội cho hắn và triệu về, hứa sẽ lập con cháu nước Tề. Như vậy Ðiền Hoành sẽ mến đức phục tùng.

Hán đế theo lời, sai Trọng Ðại phu Lục Giả đem chiếu sang hải đảo.

Ðiền Hoành hay tin có sứ Hán đến, sai người ngăn cửa trại, không cho sứ Hán vào.

Lục Giả nói:

– Hán đế bình định xong Tây Sở, thiên hạ đều theo về một mối, duy còn có chủ ngươi chưa chịu qui hàng. Lẽ ra đem binh vấn tội, nhưng Hán đế là bậc nhân đức, sai ta đem chiếu đến vời về triều, bày tỏ lẽ thiệt hơn. Chủ ngươi làm như thế là trái đạo.

Quân vào báo. Ðiền Hoành suy nghĩ một lúc rồi ra mở cửa rước Lục Giả vào, mở chiếu ra đọc.

Chiếu rằng:

Xưa, Di Tề không thèm ăn thóc nhà Châu, mà nhà Châu vẫn được thiên hạ ; Giới Tử Thôi không muốn thờ Tấn, mà Tấn vẫn làm bá một nước. Ðiền Hoành dẫu ở hải đảo nhưng rồi tất cũng phải làm tôi nhà Hán, không lẽ vượt ra khỏi cõi nhân gian được. Vậy nên kíp trở về, lớn thì làm vương, nhỏ thì làm hầu, giử lấy sự nghiệp dài lâu, không đến nổi mất tôn tự. Nếu không biết trọng lẽ phải, không biết nghe lời hay, một khi trẫm đã kéo binh sang Ðông thì không thể hối hận được nữa. Ngươi nên chóng chóng trở về chớ lầm“.

Ðiền Hoành đọc chiếu xong, liền khoản đãi Lục Giả, rồi cùng với tả, hữu bàn việc hàng Hán.

Tả, hữu nói:

– Việc đó không nên, Hán đế tuy bề ngoại rộng rãi, nhưng bên trong rất hẹp hòi. Chúa công lâu nay trốn ở hải đảo, không hàng phục, nếu trở về Hán đế nổi giận e mạng chàng còn, hối không kịp nữa. Chi bằng làm thêm tên lửa, cất trại ven bờ, chúng tôi một lòng chống giữ, dẫu quân Hán trăm vạn kéo sang đây, sóng to gió cả, chắc gì đã làm nên việc.

Ðiền Hoành nói:

– Tôi cùng các ông đem nhau ra ở đây, đối với các ông tôi chưa có ân đức gì. Nay Hán đế vời tôi mà tôi không về, tất Hán đế sẽ đem quân đến đây, bấy giờ tôi phải phiền các ông xông pha tên đạn, mang nhiều khổ hận, lòng tôi không nỡ.

Nói xong, đem hai người mạc khách, theo Lục Giả về thành Lạc Dương.

Ði được ba mươi dặm, Ðiền Hoành lại nghĩ thầm:

– Hán đế trước kia giết Tề vương nên ta phải bỏ ra hải đảo, dò xem tình thế để mưu phục hận. Nay Hán đế thu cả thiên hạ, sức ta không chống nổi, nếu cố thủ chỉ làm khổ cho các nghĩa sĩ, còn về hàng thì còn mặt mũi nào nhìn dân chúng nước Tề?

Nghĩ rồi rút gươm đâm vào cổ chết.

Hai người mạc khách cùng Lục Giả nhặt thi thể của Ðiền Hoành đem về trình với Hán đế.

Hán đế ngậm ngùi thương tiếc sai đem mai táng phía Ðông thành Lạc Dương và phong cho hai mạc khách làm chức Ðô Uý.

Hai người khách ra ngoài bảo nhau:

– Ðiền Hoành tự sát, một là không muốn thờ nhà Hán, hai là sợ năm trăm nghĩa sĩ lâm nạn, thật là hành vi của bậc trượng phu. Nay hai ta há tham phú quý mà sống nhục hay sao.

Bèn ra đào một cái hố bên mộ Ðiền Hoành rồi cùng đâm cổ chết theo.

Ngày hôm sau, Hán đế hay tin, giật mình nói:

– Ðiền Hoành tự sát là bậc hào kiệt, hai tướng chết theo lại cũng là anh hùng. Ðiền Hoành được lòng người như thế, e rằng năm trăm người ở ngoài hải đảo, hàng ngày chịu ơn của Ðiền Hoành, hay tin Ðiền Hoành chết, họ nổi loạn chăng.

Liền sai người ra hải đảo chiêu dụ bọn nghĩa sĩ về hàng.

Năm trăm người nghĩa sĩ, nghe tin Ðiền Hoành chết, khóc lóc nói:

– Chúa công vì sợ bọn ta mắc nạn, nên sang nhà Hán mà chết, nay chúng ta còn mặt nào ham sống nữa.

Liền cùng nhau tự tử cả. Sứ Hán thấy mọi người vì nghĩa, chết như vậy, vội về tâu với Hán đế.

Hán đế kinh ngạc nói:

– Thiên hạ sao lại có những kẻ trọng nghĩa như vậy thật đáng kính.

Bèn sai người thu thập tất cả năm trăm thi thể của các nghĩa sĩ chôn cất ở hải đảo. Người sau mộ cái nghĩa khí của Ðiền Hoành, đặt tên đảo ấy là đảo Ðiền Hoành.

Hán đế lại sai lập miếu phụng thờ.

Xong việc Ðiền Hoành, Hán đế lại nói:

– Cái lo hải đảo đã xong, nay còn hai tướng Quý Bố và Chung Ly Muội chẳng biết trốn thoát nơi đâu Xưa, ta thua ở sông Trung, bị hai tướng ấy làm nhục. Nay tuyên bố cho xa gần đều biết, hễ ai tìm được chúng sẽ trọng thưởng nghìn vàng, còn nếu ai che giấu sẽ bị tội liên can.

Nhắc lại Quý Bố, từ lúc lẩn trốn trong quân Sở, chạy ra khỏi vòng vây đến trú nơi nhà Chu Trường tại thành Lạc Dương.

Chu Trường nhân nghe tin vua Hán tìm bắt, bèn bảo Quý Bố:

– Vua Hán mật bắt tướng quân gấp lắm, nếu biết trốn ở nhà tôi, chẳng những một nhà, một họ tôi bị lụy mà tướng quân cũng không khỏi chết. Vậy tướng quân nên nghĩ cách nào cho tiện.

Quý Bố nói:

– Ông không lo. Tôi sẽ có cách.

Hôm sau, Quý Bố cạo hết râu tóc, giả làm người ở thuê, tự bán mình cho người nước Lỗ là Chu Gia.

Chu Gia thấy Quý Bố cử chỉ khác thường lòng nghi hoặc, dò xét biết được Quý Bố, liền gọi vào nói:

– Nhà ngươi chính là tướng nước Sở tên là Quý Bố. Nay vua ban chiếu tìm bắt, nhà ngươi trốn nơi đây e lụy đến tộc họ ta thì làm thế nào?

Quý Bố nói:

– Tôi chính là Quý Bố, tướng Sở, vì bước đường cùng phải giả danh, cải dạng. Lâu nay ông đãi tôi rất hậu, không biết lấy gì đền ơn. Vậy ông đem nạp tôi cho vua Hán để lãnh ngàn vàng. Ðó là cách tôi đền ơn ông vậy.

Chu Gia thở dài nói:

– Ta đâu nỡ đem cái chết của ngươi đổi lấy nghìn vàng. Ta có một người bạn là Hạ Hầu Anh hiện làm quan to ở Lạc Dương, từ nhỏ đến giờ chơi nhau rất thân. Nay ta đem ngươi đến đó xem có cách gì cứu mạng chăng?

Quý Bố tạ ơn nói:

– Nếu ông cứu được tôi thật là ơn tái tạo. Dầu chết chẳng dám quên.

Chu Gia sắm sửa hành lý lên đường, và nói:

– Ðể ta đến có trước có sao rồi sẽ liệu.

Nói rồi một mình tìm đến Lạc Dương, vào thành yết kiến Hạ Hầu Anh.

Hạ Hầu Anh mừng gặp cố nhân, chuyện trò rối rít và đặt tiệc khoản đãi.

Chu Gia hỏi:

– Quý Bố có tội gì mà nhà vua ra lệnh bắt gấp thế?

Hạ Hầu Anh đáp:

– Vì Quý Bố trước kia nhiều lần làm nhục Hoàng thượng, nên nay Hoàng thượng muốn bắt về trị tội.

Chu Gia nói:

– Kẻ làm tôi ai vì chúa nấy! Thánh thượng mới thu được thiên hạ mà sai lùng bắt một người vì mối thù riêng, sao đủ tỏ đại ân của mình. Vả lai, Quý Bố là tay hào kiệt, nếu tìm bắt như vậy phỏng hắn sang Hồ, hoặc sang Việt giúp cho địch quốc thì sao? Ông nên tâu với thánh thượng tha tội cho Quý Bố để rộng lối cầu hiền.

Hạ Hầu Anh cho lời nói ấy là phải, liền vào triều tâu với Hán đế:

– Quý Bố vô tội, sao Bệ hạ tìm bắt gấp thế?

Hán đế nói:

– Hắn đã nhiều lần làm nhục ta giữa trận, sao lại là vô tội ?

Hạ Hầu Anh nói:

– Quý Bố trước kia vì chủ mình, chỉ biết có Sở mà không biết Bệ hạ. Vậy Quý Bố là người tận trung. Nếu cho đó là tội thì ai còn dám trung với vua. Muốn trong triều những kẻ tận trung như Quý Bố theo phò Bệ hạ thì nên tha tội Quý Bố, mà đòi về dùng mới phải.

Hán đế nói:

– Thế thì Quý Bố và Chung Ly Muội đều là những kẻ vô tội cả

Liền ban chiếu tha tội Quý Bố và Chung Ly Muội cho về triều kiến, và cho giữ nguyên chức cũ. Nếu còn trốn tránh sẽ bị toàn gia tru lục.

Hạ Hầu Anh trở về thuật chuyện với Chu Gia.

Chu Gia mừng rỡ, từ giã Hạ Hầu Anh, trở về nước Lỗ, thuật lại cho Quý Bố hay.

Quý Bố hân hoan, sắm sửa hành trang trở về Lạc Dương vào bệ kiến Hán đế.

Hán đế nói:

– Nhà ngươi bốn bể bơ vơ, tấm thân lận đận, sao không sớm trở về chầu?

Quý Bố tâu:

– Nước tan, vua mất, hạ thần xấu hổ vì không cùng Bá Vương chết nơi Ô giang, nên không dám vào chầu.

Hán đế nói:

– Sao trước kia nhà ngươi lại làm nhục ta?

Quý Bố nói:

– Vì hạ thần hết lòng với vua Sở, chỉ sợ không làm nhục được Bê hạ mà thôi.

Hán đế nói:

– Nhà ngươi quả là tôi trung.

Bèn phong chức Lang Trung.

Quý Bố dập đầu tâu:

– Thần là bề tôi của nước đã mất, đầu nhơ, mặt nhuốm không kham gánh nổi công việc. Cúi xin Bệ hạ tha cho hạ thần tội chết đã là may làm rồi, đâu còn dám chịu quan chức.

Hán đế nói:

– Từ chức quan mà không chịu nhận đó là ngươi không quên ơn Sở. Nhưng trẫm thượng là tôi trung mà phong chức là lòng nến của trẫm. Nhà ngươi đã chịu tùng phục sao lại không chịu nhận?

Quý Bố bèn nhận chức rồi lạy tạ lui ra. Tả, hữu bước vào tâu:

– Quý Bố đã về triều, còn Chung Ly Muội vẫn trốn tránh, xin Bệ hạ phán xét.

Hán đế nói:

– Chung Ly Muội là một tên danh tướng nước Sở, tài trí không kém Phạm Tăng, nếu để hắn trốn sẽ thành một mối họa lớn. Cần phải mật bắt cho kỳ được..

Tả, hữu đều tuyên bố khắp xa gần, tìm bắt Chung Ly Muội.

Chợt lúc đó có một người mình mặc áo vải, chân đi dép cỏ, lấn quẩn trong thành Lạc Dương gặp bọn tả, hữu đi truyền lệnh, cười lớn nói:

– Phỏng như một gã Chung Ly Muội thì có đủ gì mà lo. Nay tôi có một việc lớn, muốn vào chầu vua để tâu trình, chỉ hiềm không có ai tiến dẫn.

Người vừa nói đó là người nước Tề, họ Lâu, tên Kính, đi thú Lũng Tây, nhân qua Lạc Dương nghe vua Hán có lệnh lùng bắt Chung Ly Muội nên mới nói thế.

Hồi 42 – Nghe Lâu Kính, Hán Đế thiên đô

Quân sĩ thấy Lâu Kính mặc áo vải, đi dép cỏ, dáng điệu tiều tụy liền nói:

– Nhà ngươi ăn mặc như thế này làm sao chầu vua được?

Lâu Kính nói:

– Vua quan có đồ triều phục của vua quan, còn tôi, là dân giả, tôi có thường phục của dân giả, áo vải, dép cỏ không phải là vật đáng khinh.

Quân sĩ thấy Lâu Kính ăn nói cứng rắn, liền tâu với Hán đế.

Hán đế đòi vào yết kiến và hỏi:

– Nhà ngươi muốn vào yết đến trẫm hẳn có điều gì hay?

Lâu Kính tâu:

– Ngày xưa, Bá vương không theo lời của Phạm Tăng, bỏ Quan Trung, đóng đô nơi Bành Thành, đó chính là cái cớ mất thiên hạ. Nay bệ hạ đóng đô ở Lạc Dương, tuy Bành Thành không sánh kịp song chưa phải là kế lâu dài.

Hán đế nói:

– Xưa nhà Chu đóng đô ở Lạc Dương, vẫn giữ được nghiệp cả muôn đời. Nay ta noi gương đó.

Lâu Kính tâu:

– Bệ hạ lập nghiệp không giống nhà Châu. Nhà Châu khởi đầu từ ông Hậu Tắc, mấy trăm năm tu nhân tích đức, thu đoạt nhân tâm, đến đời vua Vũ Vương mới đánh Trụ mà có thiên hạ. Khi vua Vũ lên ngôi, vì nghĩ Lạc Ấp là chỗ trung tâm, chư hầu bốn phương đều về triều cống. Tuy nhiên, ở chỗ nào, có đức thì dễ hưng, và thất đức thì dễ mạt. Bằng cứ là lúc nhà Châu thịnh, chư hầu bốn mặt về chầu, đến lúc nhà Châu suy, thiên hạ tạo phản khắp nơi. Nhà Châu uy đức trùm thiên hạ mà còn như vậy, huống chi Bệ hạ khởi binh từ Phong Bái, đánh nhau với Hạng Vũ, thâu giang san. Lòng người chưa hẳn đã xem đó là đại nghĩa, làm sao Bệ hạ ví với nhà Châu được? Theo ý ngu thần, Bệ hạ nên thiên đô sang Hàm Dương. Ở đó núi sông hùng vĩ, bốn bề hiểm cố. Lúc bình có thể vỗ an lê dân, lúc biến có thể động binh dễ dàng. Ðó là cái cơ dựng nghiệp muôn đời, hạ thần xin vì Bệ hạ mà tâu bày.

Hán đế đem lời ấy hỏi quần thần, và nói:

– Nhà Châu đóng ở Lạc Dương trải mấy trăm năm không suy sút. Thủy Hoàng đóng đô ở Hàm Dương mới có vài đời đã bị diệt vong, thế mà Lâu Kính lại khuyên ta như thế là ý gì?

Trương Lương nói:

– Lạc Dương tuy có thành cao, xung quanh có sông Hào, sông Miện, sông Lạc, song bốn mặt đều thù địch, không phải là đất dụng võ. Còn Hàm Dương phía hữu có Lũng, Thục, phía tả có Hào, Hàm, lại có đồng rộng thênh thang, hoa màu bát ngát. Ba mặt kín để cố thủ, mặt trước dùng chế ngự chư hầu thật là một cái thành vàng nghìn dặm. Lời Lâu Kính nói rất phải.

Hán đế nghe Trương Lương nói, liền chọn ngày thiên đô sang Hàm Dương, gọi Lâu Kính vào Phụng Xuân quan ban cho quốc tích.

Bá tánh được tin Hán đế thiên đô, đặt bàn hương án dọc đường vọng bái. Cảnh thái bình tràn ngập khắp nhân gian.

Một hôm, Hán đế ngồi một mình nơi ngự điện, chợt nghĩ đến Chung Ly Muội, lâu nay trốn biệt, không thấy ra trình diện, sợ Chung Ly Muội ngấm ngầm phản loạn, liền triệu quần thần đến nói.

– Chung Ly Muội không thấy về, không ai rõ tin tức, các khanh có ý kiến gì chăng?

Quý Bố bước ra tâu:

– Tâu Hoàng thượng, trước kia Chung Ly Muội cùng với hạ thần bỏ Sở đi trốn, Chung Ly Muội có nói Hàn Tín là bạn thân cũ, có lẽ đến đấy ẩn lánh chăng?

Hán đế nghe nói, lòng càng lo ngại, đòi Trần Bình vào hỏi:

– Hàn Tín ẩn giấu Chung Ly Muội tất có thâm ý.

Nay phái sai người đến dò xem cho đích thực rồi sẽ liệu.

Trần Bình nói:

– Việc ấy không nên nóng nảy, Nếu hở môi, Chung Ly Muội hay được trốn đi, ắt sanh hậu hoạn. Bây giờ sai người đến bảo Hàn Tín tìm cách giết hắn đi là yên.

Hán đế liền sai Tùy Hà sang Lâm Châu, giả cách sửa sang lăng tẩm vua Nghĩa đế, rồi thuận đường sang thăm Hàn Tín để dò tin tức Chung Ly Muội. Nếu quả có Chung Ly Muội ở đó sẽ tìm cách khiêu khích, khiến cho Hàn Tín giết Chung Ly Muội đi.

Tùy Hà lĩnh mệnh, sang Lâm Châu xong, ghé đến thăm Hàn Tín.

Hàn Tín mừng rỡ đặt tiệc khoản đãi.

Trong tiệc rượu, Tùy Hà nhân nói đến công việc triều chính, thừa lúc vui miệng, ghé vào tai Hàn Tín nói:

– Có người mật cáo nói Ðại vương giấu Chung Ly Muội ở đây Nhưng Hoàng thượng không tin, bảo rằng: ngài được thụ phong chức trọng, lẽ nào lại che giấu tên loạn tặc đó. Tuy nhiên, kẻ tả, hữu vẫn kiếm lời dèm pha.

Tôi chịu ơn ngài nên mách giùm câu chuyện ấy. Nếu quả như vậy, ngài nên khu xử, chớ nên vì tình bạn mà để lụy đến thân, bao nhiêu công lao từ xưa đến nay đều hỏng hết.

Hàn Tín nghe Tùy Hà nói dứt lời, ngồi thừ ra hồi lâu không đáp. Lòng áy náy vô cùng.

Qua một lúc, Hàn Tín nói:

– Cứ như lời của quan Ðại phu, bây giờ tôi phải làm thế nào để tuyệt mối nghi ngờ của Hoàng thượng?

Tùy Hà nói:

– Chỉ có cách giết Chung Ly Muội, đem đầu về triều dâng là yên chuyện.

Hàn Tín nói:

– Chung Ly Muội là người bạn cũ của tôi đã mấy mươi năm, nay nỡ giết đi sao đành.

Tùy Hà nói:

– Nếu ngài trọng bạn, khinh phép nước làm sao tránh khỏi tai họa được.

Hàn Tín thở dài nói:

– Lời quan Ðại phu nói rất phải. Ðể tôi nghĩ đã.

Hàn Tín cùng Tùy Hà đối ẩm cho đến lúc trời khuya, tiệc mới mãn.

Sau đó, Hàn Tín ra đàng sau lên một gác nhỏ thăm Chung Ly Muội, kể hết sự tình.

Chung Ly Muội nói:

– Vậy cố nhân định xử trí tôi cách nào bây giờ?

Hàn Tín nói:

– Chỉ có cách tuân theo phép nước, đem đầu ông nạp về Hàm Dương mới khỏi mang vạ.

Chung Ly Muội nói:

– Tôi còn, Hán đế còn cần đến Ðại vương, nhưng nếu tôi mất, Hán đế không cần đến tài điều binh, khiển tướng của Ðại vương nữa, tất Ðại vương cũng bị giết như tôi

Hàn Tín ngồi trầm tư một lúc, ý định giết Chung Ly Muội không còn nữa.

Tùy Hà lưu lại vài hôm, thấy Hàn Tín bỏ qua, không nói đến chuyện giết Chung Ly Muội, liền mật sai người đem thư về dâng cho Hán đế, còn mình thì từ biệt Hàn Tín, sang Lâm Châu.

Một hôm, Hán đế lâm triều, cùng với quần thần bàn kế, bỗng có người đến dâng mật thư.

Hán đế mở ra xem, đó là thư của Tùy Hà nói việc Hàn Tín giấu Chung Ly Muội, cố ý tạo phản.

Hán đế xám mặt, đòi Trần Bình vào hậu cung nói:

– Hàn Tín cậy công làm bậy. Trước kia hắn định chiếm nước Tề, mưu đoạt nghiệp lớn, chính ta đã thấy lòng hắn, mới cải phong sang Lỗ. Nay hắn cải mệnh, chấp chứa Chung Ly Muội tức là lòng phản phúc đã hiển nhiên.

Trẫm thấy cần phải đem binh trừ đi mới khỏi sanh hậu hoạn.

Trần Bình nói:

– Không nên! Hàn Tín không phải như những kẻ khác, tài gồm thao lược, điều binh khiển tướng như thần. Chỗ đất hắn ở lại chính là chỗ xung yếu giữa Tần, Sái. Nếu sanh biến, binh thiên triều khó địch nổi.

Hán đế nói:

– Theo ý Tiên sinh bây giờ nên xử trí bằng cách nào?

Trần Bình nói:

– Cứ ý ngu hạ thì Hàn Tín chỉ nên dùng trí mà bắt, chứ không nên dùng sức mà đánh.

Hán đế hỏi:

– Dùng trí như thế nào?

Trần Bình nói:

– Thần có một kế, không phải dùng binh lực, mà Hàn Tín phải bó tay chịu bắt. Bệ hạ sẽ trừ được mối hại về sau.

Hán đế vội hỏi:

– Kế ấy như thế nào?

Trần Bình nói:

– Theo thường lệ, các bậc Ðế vương thời xưa thỉnh thoảng tuần du đây đó để dò xét dân tình. Nay Bệ hạ ngự giá ra chơi Vân Mộng, hạ chiếu cho chư hầu cõi Tây phải đến tiếp giá. Hàn Tín nghe Bệ hạ đến thế nào cũng nghênh đón. Chừng ấy Bệ hạ chỉ cần sai một đoàn võ sĩ ra bắt là xong.

Hán đế nghe Trần Bình nói rất mừng, hạ chiếu vào mùa đông năm Canh Tý ngự giá tuần du Vân Mộng.

Chư hầu cõi Tây như Anh Bố, Bành Việt nghe lệnh đều sửa sang tiếp đón.

Hàn Tín hay tin ấy, bàn với tả, hữu:

– Ngày trước Tùy Hà đến đây mật tin cho ta biết triều đình đã hay việc giấu Chung Ly Muội ở đây, khuyên ta nên giết Chung Ly Muội để tránh hậu hoạn. Tuy nhiên, vì tình bạn ta không nỡ làm chuyện đó. Nay Thánh thượng tuần du Vân Mộng, nếu hay được việc này, ắt ta không khỏi tội, chi bằng đoạn tình bạn tránh chuyện ưu ái cho xong.

Bàn tính xong, Hàn Tín ra sau vườn hoa, tìm gặp Chung Ly Muội nói rõ việc Hán đế tuần du Vân Mộng, và tỏ ý mình muốn giết bạn.

Chung Ly Muội nói:

– Tôi đã nói với ngài, nếu ngài giết tôi, sớm muộn ngài cũng bị giết. Lời ấy không phải là tôi tham sống mà dọa ngài đâu.

Hàn Tín nói:

– Thà rằng vua phụ tôi chứ tôi không đành lòng phụ vua. Hôm nay tôi quyết lấy đầu của ông đem đến Vân Mộng nạp cho Hán đế.

Chung Ly Muội nổi giận, mắng lớn:

– Khốn kiếp, mày nỡ vô tình đến thế sao? Ta tiếc không được thấy cái chết của mày, sau khi mày đã giết ta.

Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.

Hàn Tín cắt lấy thủ cấp. Kịp lúc Hán đế khởi giá tuần du Hàn Tín bèn đem quân ra biên giới nghênh đón và dâng đầu Chung Ly Muội.

Hán đế nói:

– Nhân ngươi giấu Chung Ly Muội đã lâu, nay thấy ta ra chơi Vân Mộng, sợ bị lộ nên phải nạp đầu Chung Ly Muội, chứ đâu phải thiện chí.

Dứt lời quát võ Sĩ trói Hàn Tín lại.

Hàn Tín kêu oan. Hán đế nói:

– Việc như vậy mà ngươi còn gọi là oan ức?

Hàn Tín tâu:

– Tôi là một công thần khai quốc, dẫu phạm tội, Bệ hạ nỡ đối xử như thế sao?

Hán đế nói:

– Ðã cố ý tạo phản, thì dẫu là kẻ công thì cũng chỉ là một tội nhân.

Hàn Tín nói:

– Ôi! Lời thiên hạ thường nói: “Chim cao hết, cung tốt phải xếp xó, thỏ cáo hết chó săn bị làm thịt, địch quốc vỡ mưu thần phải tiêu diệt” câu nói ấy kể cũng đúng vậy.

Hán đế nghe nói cũng động lòng, chưa nỡ giết, truyền trói Hàn Tín để sau xe.

Xa giá Hán đế đến Vân Mộng cách ba mươi dặm thì trời sẫm tối, Hán đế xuống xe, cỡi con Bạch Long, lỏng buông tay khấu, từ từ tiến tới.

Bỗng đến một khu rừng gần đó, con Bạch Long ré lên mấy tiếng hãi hùng. Hán đế nói:

– Long mã gầm thét, chắc trong rừng có kẻ thích khách.

Liền sai Phàn Khoái dẫn một trăm quân kỵ vào lục soát Quả thật, Phàn Khoái bắt được một người tuổi độ ba mươi ngồi ẩn dưới gốc cây, giương cung đặt tên sẵn, liền đem nộp cho Hán đế.

Hán đế hỏi:

– Nhà ngươi tên gì? Tại sao lại ẩn núp trong ấy, với hành vi đen tối?

Người ấy nói:

– Tôi ở Hoài Âm, từng được đội ơn dày của Hàn Tín.

Nhân nghe Bệ hạ vô cớ bắt trói ân nhân của tôi, nên tôi định ân trong rừng tìm cách giải thoát.

Hán đế hét:

– Không phải nhà ngươi muốn giải thoát cho Hàn Tín mà chính là muốn ám hại ta.

Liền sai tả hữu đánh chết người ấy.

Hàn Tín ở sau xe hay tin, lòng bùi ngùi cảm động.

Ngày hôm sau, xa giá đến Vân Mộng nghỉ được ít hôm rồi hồi loan.

Quần thần đều vào triều kiến. Quan Ðại Phu Ðiền Khẳng bước ra tâu:

-Bệ hạ nhờ Hàn Tín dựng nên nghiệp lớn, công của Hàn Tín rất trọng. Nay nhất đán đối xử như vậy, hạ thần e những kẻ đem thân lập công đều nghĩ đó mà chán nản chăng?

– Quan Ðại phu luận cũng phải. Song Hàn Tín đã lâu nay vẫn mang ý khác. E rằng một ngày kia Hàn Tín phản loạn, nên trẫm phải đề phòng.

Ðiền Khẳng nói:

– Nếu sợ Hàn Tín sinh biến, Bệ hạ chỉ cần giữ Hàn Tín nơi Hàm Dương, không giao binh quyền, thế cũng đủ rồi.

Hán đế nhậm lời, sai người ra cởi trói cho Hàn Tín, và dụ rằng:

– Tướng quân từ khi bỏ Sở về Hán, trẫm đắp đàn phong tướng trao cho một trách nhiệm lớn lao đãi tướng quân không chút gì bạc. Thế mà tướng quân trái phép nước, chấp chứa kẻ thù của trẫm, mưu tính tà tâm. Nay bắt về đây, đáng lẽ theo quân pháp xử trị, nhưng trẫm nhớ ơn khai quốc công thần, không nỡ hành tội. Vậy trẫm cải phong chức Hoài Âm hầu, lưu lại nơi triều trung để sửa lỗi. Một ngày nào đó, xét thấy tướng quân đã cải hối, ấn vương hầu trẫm sẽ ban cho.

Hàn Tín lạy tạ lui ra mặt buồn dàu dàu, mấy ngày nhuốm bệnh, không thể vào triều kiến.

Từ đó, Hán đế sửa sang cung thất, chỉnh đốn chính trị, sai Tiêu Hà lập ra pháp luật, dựng tôn miếu xã tắc, thiên hạ an hưởng thái bình.

Hán đế cứ năm ngày lại vào chầu Thái công một lần. Mỗi lần như thế đều phục lạy rất trọng lễ.

Tả hữu thấy thế nói với nhau:

– Cứ lấy tình nhà thì là đạo cha con, nhưng lấy theo quốc thể chỉ là đạo vua tôi. Hoàng thượng lấy tình đãi Thái công như thế hóa ra vua lại cúi đầu lạy bề tôi sao.

Thái công nghe câu nói ấy cho là phải, và tự nghĩ:

– Bấy lâu nay ta đã thất lễ với muôn dân.

Ngày hôm sau, Hán đế vào chầu, Thái công cầm cây chổi đứng đón nơi cạnh cửa.

Hán vương trông thấy kinh hãi, hỏi:

– Sao thân phụ lại có cử chỉ ấy?

Thái công nói:

– Bệ hạ là bậc vua chúa một nước, chớ nên vì một kẻ tôi thần này mà trái đạo vua tôi, trái phép thiên hạ.

Hán đế đem việc ấy bàn với quan thần, rồi tôn Thái công lên làm Thái Thượng Hoàng, ban chiếu hiểu cho thiên hạ rằng:

Người chí công không ai bằng cha con. Cho nên, cha có thiên hạ truyền xuống cho con, con có thiên hạ hàm ân cho cha. Ðạo làm người vẫn thế. Trẫm bao năm mặc giáp đeo gươm, chịu bao cam khổ, bình bạo loạn, lập chư hầu, tạo trong thiên hạ một đời thạnh trị. Ðược như vậy là nhờ ơn giáo huấn của Thái công.

Nay sự nghiệp hiển vinh, để đền ơn, trẫm tôn Thái công lên làm Thái Thượng Hoàng.”

Trăm quan đều vào triều làm lễ lạy mừng Ai nấy say sưa hỉ dạ.

Chợt tả hữu vào báo:

– Vua nước Hàn là Cơ Tín, cùng với rợ Hung nô hiệp binh đánh các thành Ấp biên cương rất gấp. Nay quân địch đã chiếm lấy Bạch Thổ ở Thái Nguyên, bọn Man Chính Thần, Vương Hoàng thì bàn lập tướng cũ nước Triệu là Triệu Lợi làm vua, họp quân ba mươi vạn, thanh thế rất mạnh, xin Bệ hạ kịp phái quân đi tiễu trừ.

Hán đế nghe lời tâu, vội vã đòi dọn Trần Bình vào hội kiến.

Trong cuộc thảo luận, có người bàn nên lấy binh mã ở các nơi gần đây đem dẹp giặc, lại có người bàn nên sai tướng đến phong Thái Nguyên phá giặc.

Hán đế nói:

– Ý kiến các ngươi đều chưa đủ chế phục được giặc. Nay trẫm cần phải thống xuất đại binh đến đấy mới mong trừ được.

Hồi 43 – Vào Bạch Ðằng trúng kế, Hán Đế Hầu nguy

Hàn đế bàn tính với triều thần xong, truyền lệnh khởi binh tấn phát.

Quân gồm ba mươi vạn, tướng mạnh năm mươi viên, gồm có Tào Tham, Phàn Khoái, Ngân Hấp, Lư Quán là những tay dõng tướng.

Hán đế giao Tiêu Hà coi việc triều chính, rồi phái người đến Bạch Ðằng, Thái Nguyên xem xét địch tình.

Bấy giờ Hàn vương là Cơ Tín, đóng tại thành Tấn Dương, Chúa Hung Nô là Mặc Ðặc ở đất Ðại Cốc, đều hay tin Hán đế ra binh, cho người đi thám thính, liền đem những binh mã khỏe mạnh giấu cả sau núi, chỉ để lại trong dinh toàn những binh lao, mã liệt, đi đứng liểng xiểng.

Người do thám của Hán đế thấy vậy mỉm cười, trở về báo lại. Giữa lúc đó Hán đế đã đóng binh nơi Triệu Thành.

Hán đế muốn kéo đại binh đến đánh gấp, Trần Bình can:

– Người Hung Nô quỷ quyệt, lại thêm Cơ Tín liên kết e rằng chúng dùng mưu gạt ta đó. Cần phải dò xem biết đích thực mới tiến binh.

Hán đế hỏi:

– Sức mạnh của Mặc Ðặc, Cơ Tín, so với Hạng Vũ ai hơn?

Trần Bình tâu:

– Mặc Ðặc cũng là tay vũ dũng chớ nên xem thường.

Hán đế lòng nghi ngại, vội sai Lâu Kính đi thám thính lần nữa.

Lâu Kính đi vài ngày trở về tâu.

– Xưa nay hai nước đối đích thường đem cái hay, cái mạnh ra khoe. Nay Mặc Ðặc cạnh trại bừa bải,quân mã gầy còm, chắc là hắn giấu những quân tinh nhuệ đi để gạt ta. Vậy xin Bệ hạ hãy thong thả để dò xét kỹ càng đã.

Hán đế hét lớn nói:

– Ta sai nhà ngươi đi thám thính, nhà ngươi đã không dò được địch tình, còn trở về kiếm lời láo khoét làm nhụt chí ba quân.

Nói xong, sai tả, hữu bắt Lâu Kính giam nơi Triệu Thành, rồi truyền quân nhổ trại tấn phát.

Quân đi một ngày đến Bành Thành, Hán đế sai Phàn Khoái thử đi dò thám.

Phàn Khoái đến nơi, thấy quân Mặc Ðặc yếu ớt, đóng đồn trên núi Tiểu Tùng phía Bắc, độ vài vạn người.

Phàn Khoái trở về tâu với Hán đế.

Hán đế cười khúc khích nói:

– Lâu Kính tư thông với Hung Nô, sợ đại binh của trẫm kéo đến nên tìm cách cản trở trẫm, để có thì giờ cho địch quân rút lui. Nay tình hình đã rõ, còn chờ gì không diệt địch.

Nói xong xua ba quân tiến thẳng vào thành. Quân trong thành rất ít, họ kháng cự qua loa rồi mở cửa đầu hàng.

Hán đế đem binh vào thành kiểm điểm ba quân, mở tiệc ăn mừng.

Giữa lúc đó bên ngoài có tiếng súng nổ vang trời.

Tiếp theo đó, tiếng quân reo dậy đất. Quân Hung Nô ồ ạt kéo đến, vây phủ bốn mặt, đèn đuốc nối liền nhau tỏa ánh sáng hơn năm dặm.

Hán đế thất kinh nói:

– Ta đây lầm kế của giặc rồi. Chỉ vì ta không chiu nghe lời Lâu Kính.

Bèn đòi Trần Bình vào vấn kế.

Trần Bình tâu:

– Quân Hung Nô tính hiếu chiến lại liều lĩnh, quân ta không nên dùng sức kháng địch, phải dùng kế lừa họ mới mong thoát khỏi vòng vây.

Hán đế hỏi:

– Kể ấy như thế nào?

Trần Bình nói:

– Hạ thần có nghe Mặc Ðặc thường hay chiều chuộng người vợ là Át Chi. Mọi việt đều do nàng Át Chi chủ trương. Vợ chồng một bước không rời nhau. Nay sai người họa một bức tranh mỹ nhân tuyệt đẹp, đem dâng cho Át Chi và nói: “Vua Hán vì bị vây khốn nên muốn đem mỹ nhân này cống hiến cho Mặc Ðặc, nhờ phu nhân chuyển đạt”. Nàng Át Chi tất ghen chồng, sợ chồng say mê sắc đẹp, khuyên Mặc Ðặc rút quân.

Hán đế khen là diệu kế, truyền Trần Bình lựa thợ khéo vẽ bức tranh, rồi sai người lén ra ngoài thành, dùng vàng bạc đút lót cho kẻ thân tín nàng Át Chi, để dâng cho nàng Át Chi bức tranh ấy.

Át Chi xem bức tranh, rõ được sự tình, lòng ghen tức lẩm bẩm:

– Nếu để Ðại vương vây thành Hán, Hán đế cống mỹ nhân, Ðại vương sẽ say mê người ấy thì địa vị ta sau này ra sao? Chi bằng khuyên Ðại vương rút binh để cho Hán đế khỏi phải tiến dâng mỹ nữ.

Ðêm hôm ấy, nàng Át Chi nói với Mặc Ðặc:

– Hán đế bị vây đến nay đã bảy ngày mà không hề nao núng. Như vậy là lòng trời phù hộ Hán đế. Vả lại Hán đế là chân mệnh, các chư hầu khắp nơi đều tùng phục. Nếu ta cứ vây mãi, lỡ ra binh mã các nơi đến ứng cứu thì ta cự sao lại?

Mặc Ðặc nói:

– Nàng nói cũng phải! Quân ta cần chỗ tốc chiến tốc thắng. Nếu vậy lâu ngày bất lợi.

Sáng hôm sau Mặc Ðặc truyền lệnh giải binh.

Cơ Tín nghe lệnh ấy ngạc nhiên vào yết kiến Mặc Ðặc, nói:

– Ðại vương đã vây Hán đế nơi đây, cớ sao lại giải binh?

Mặc Ðặc nói:

– Quân ta vây nơi đây lâu ngày, chư hầu kéo đến ứng cứu thì cự sao lại. Chi bằng tính trước đi để bảo tồn thực lực.

Cơ Tín nói:

– Ðại vương lầm kế của Hán đế rồi. Tôi có nghe Hán đế họa hình mỹ nhân sang dâng cho Ðại vương yêu cầu Ðại vương rút quân. Việc này chỉ là kế để lừa gạt ta, chứ Hán đế làm gì có mỹ nhân?

Mặc Ðạc nghe nói ngạc nhiên, dò hỏi hồi lâu mới rõ tự sự, liền nói:

– Nếu Hán để đã chịu dâng mỹ nhân vậy ta bắt phải trình diện xem thử.

Ðêm hôm ấy, Mặc Ðặc đứng dưới thành, kêu quân Hán nói:

– Nếu Hán đế chịu dâng mỹ nhân thì phải dẫn lên thành để ta xem mặt.

Quân vào báo. Hán đế liền gọi Trần Bình vào hỏi:

– Mặc Ðặc đòi xem mặt mỹ nhân, nay phải liệu làm sao?

Trần Bình nói:

– Tôi đã tính trước rồi, nên có sai thợ làm mấy tượng hình gỗ. Bây giờ đem trang điểm, cho ăn mặc sang trọng, dắt lên thành, dưới ánh đèn mập mờ, thế nào chúa Hung Nô cũng phải lầm.

Hán đế nhận lời. Trần Bình sai trang điểm các tượng gỗ, dựng trên cửa thành, rồi gọi Mặc Ðặc đến xem.

Dưới ánh đèn lồng, áo xiêm lòe loẹt, son phấn rực rỡ, Mặc Ðặc trông thấy hơn vài mười mỹ nữ, mặt mày xinh xắn, lòng say sưa, không kể lời can gián của Cơ Tính và lòng phẫn nộ của nàng Át Chi, nhất định lui binh, để cho quân Hán thoát nạn.

Hán đế thấy quân Hung Nô rút lui, liền truyền quân kéo ra khỏi thành, nhắm hướng Nam tẩu thoát.

Mạc Ðặc thấy quân Hán đã ra hết liền đem quân vào thành bắt mỹ nữ. Nhưng khi vào đến nơi, thấy các mỹ nữ ấy toàn là tượng gỗ.

Vua tôi ngơ ngác nhìn nhau, lòng căm tức chẳng cùng.

Giữa lúc đó, Hán đế đã lui binh về đến Triệu Thành, cùng văn võ bá quan mở tiệc ăn mừng.

Nghĩ đến Lâu Kính là người bị hàm oan, Hán đế truyền quân mở ngục, thả Lâu Kính ra và phủ dụ rằng:

– Trẫm không nghe lời khanh, suýt bị giặc Hung Nô bắt giết. Nay trẫm đã thấy lỗi, và rõ khanh là kẻ có công.

Vậy trẫm phong cho khanh làm Kiến Tín Hầu.

Ngày hôm sau, Hán đế kéo quân về Nam, đi ngang huyện Khúc Ốc, thấy nơi đó thành trì đẹp đẽ, đường sá thẳng tắp, dân chúng đông đảo, lòng thích thú nói với tả hữu:

– Huyện Khúc Ốc này đẹp thay! Ta đi chu du trong thiên hạ rất nhiều, nhưng không đâu đẹp bằng Lạc Dương và Khúc Ốc.

Nói xong, gọi Trần Bình đến phán:

– Trẫm được khanh nhiều lần bày kế, giúp nhiều việc lớn vậy trẫm phong cho khanh đất Khúc Ốc này.

Trần Bình nói:

– Ðó không phải là tài năng của hạ thần mà chính là nhờ hồng phúc của Bệ hạ.

Hán đế nói:

– Lòng trẫm đã định, khanh chớ khiêm nhượng.

Trần Bình dập đầu tạ ơn.

Mấy ngày sau đại binh về đến Tràng An, thấy Tiêu Hà xây dựng cung Vị Ương rát tráng lệ Hán đế nổi giận:

– Thiên hạ loạn lạc đã mấy năm nay, mới bình định xong, lúc này là lúc cần nên thiết dụng, để thiên hạ đỡ tốn kém, lo việc làm ăn, cớ sao lại phung phí?

Tiêu Hà nói:

– Thiên tử lấy bốn bể làm nhà, nếu cung thất không tráng lệ sao đủ tỏ uy quyền với thiên hạ?

Hán đế nói:

– Cung thất đã làm xong, dẫu có nói cũng không ích gì nữa. Song trẫm không muốn một mình hưởng sự giàu sang đó.

Liền sai tả, hữu mời Thái thượng hoàng đến rồi cùng các quan đặt tiệc vui chung.

Tiệc tan, quần thần đưa Thái thượng hoàng về cung an nghỉ.

Hán đế chợt nhớ đến Hàn Tín lâu nay bị bệnh không vào chầu, liền sai tả, hữu mời Hàn Tín đến phủ dụ.

– Khanh đã lâu không vào chầu. Trong lúc bá quan chung vui an lạc mà vắng khanh, trẫm mong nhớ lắm, nên vời vào đây để thăm viếng.

Hàn Tín nói:

– Ngày xưa, khi thần cầm quân đánh Sở, có khi đến mười ngày không được ăn no, vì mất sức lâu ngày thành bệnh. Nay nhàn rỗi, bệnh cũ trở lại. Hạ thần nhiều lúc cũng nhớ long nhan, song không làm sao đặng.

Hán đế nói:

– Khanh có bệnh, nên tìm thầy thuốc điều trị cho khỏi, chớ nên chậm trễ.

Hàn Tín tâu:

– Hạ thần vì vô sự nên sinh bệnh, chứ nếu được làm công việc gì thì bệnh tật tất khỏi hẳn.

Hán đế nói:

– Khanh là một kẻ có tài, rất quan hệ trong lúc biến loạn. Khanh nên bảo trọng đến tấm thân hữu dụng của khanh.

Ðoạn, Hán đế lại cùng Hàn Tín bàn luận về các tướng, người nào có thể chống được giặc, người nào không cầm được quân.

Hàn Tín nhất nhất tâu bày, Hán đế rất hợp ý, và nhân lúc vui miệng hỏi:

– Như trẫm có thể cầm được bao nhiêu quân?

Hàn Tín nói:

– Bệ hạ bất quá chỉ cầm được mười vạn quân mà thôi.

Hán đế hỏi:

– Trẫm so với tướng quân thì như thế nào?

Hàn Tín nói:

– Như hạ thần thì quân càng nhiều càng tốt.

Hàn đế cười lớn nói:

– Càng nhiều càng tốt cớ sao còn bị trẫm bắt?

Hàn Tín nói:

– Bệ hạ không giỏi cầm quân nhưng giỏi cầm tướng.

Vì thế mà thần bị Bệ hạ bắt. Vả lại, Bệ hạ có trời giúp, không phải sức người mà làm nên như thế được.

Hán đế nghe lời giải bày của Hàn Tín, tuy ngoài mặt vui cười, song lòng thêm nghi kỵ, bèn cho về dinh dưỡng bệnh chứ không tính đến việc gia phong nữa.

Hàn Tín buồn bã, bái tạ Hán đế trở về dinh. Mối buồn quanh quẩn mãi không nguôi.

Trong lúc đó, chẳng những Hàn Tín mang mối sầu riêng, mà Trương Lương cũng buồn bã không kém

Từ khi Hàn vương là Cơ Tín họp binh với Hung Nô mưu phản. Trương Lương cáo bệnh, ngồi nơi tư dinh suốt ngày tịnh cốc.

Hễ ai đến chơi, Trương Lương lại nói:

– Ðời người chẳng khác nào bóng câu qua cửa sổ, trăm năm chi là một cái chớp mắt thì công danh phú quý mà chi! Tôi muốn vào núi tầm tiên học đạo, tìm kế trường sinh, thoát vòng danh lợi, nhưng vì Hoàng thượng quá trọng hậu tôi, nên tôi chưa nỡ rời.

Hán vương thấy Trương Lương không vào chầu, lòng nghi hoặc, nhưng khi nghe Trương Lương nói câu ấy lấy làm lạ. Một hôm cho vời Trương Lương vào dò ý:

– Trẫm từ khi được Tiên sinh chẳng khác nào như chim hồng thêm cánh. Nhờ Tiên sinh mà trẫm dựng nên nghiệp cả, ý trẫm muốn lựa một nước lớn phong cho để đền ơn Tiên sinh.

Trương Lương nói:

– Thần từ khi theo Bệ hạ vào đất Quan Trung, được nhờ hồng đức của Bệ hạ làm nên đôi việc. Tuy nhiên, thần là kẻ áo vải, chân không mà được Bệ hạ cho làm Lưu hầu thế cũng đã cao sang lắm rồi, đâu còn dàm mong ước gì hơn. Sau khi đã được đội ơn dày của Bệ hạ thần muốn xa lánh nhân gian, theo ông Xích Tùng Tử tu luyện, nghiên cứu cái phép tịnh cốc làm kế trường sinh, để sống một cuộc đời an nhàn cho thỏa thích.

Hán đế thấy Trương Lương có ý thành thực và khẩn thiết, bèn chuẩn y cho về dưỡng bệnh, lại truyền mỗi tháng phải một lần vào chầu.

Trương Lương từ đó đóng cửa, không bước chân ra khỏi nhà ngồi tu tâm dưỡng tánh, mỗi tháng chỉ theo các quan vào chầu một lần. Khi tan chầu chẳng hề bận nghĩ đến điều gì cả.

Một hôm con Trương Lương là Trương Tích Cường nói với cha:

– Phụ thân suốt đời tận tụy việc nước, công lao rất lớn. Ðến lúc nước thịnh dân an, lẽ ra vui hưởng phú quý, sao lại cam chịu khắc khổ?

Trương Lương nói:

– Mày có biết đâu được thói đời leo cao té nặng, càng vinh hoa phú quý càng mang lấy họa vào thân. Hễ ngồi cao thì bị đời ghen ghét, vua sanh lòng ngờ. Cái phú quý ấy chẳng khác nào như phù vân. Sao bằng đem vinh hoa đổi lấy gió mây, tận hưởng cảnh thanh nhàn, không vướng mùi tục lụy.

Tích Cường bái phục thưa:

– Bây giờ con mới rõ cái tịch cốc của phụ thân tức là phương châm giữ mình vậy.

Sau đó Trương Lương thường ngao du sơn thủy để hưởng nhàn.

Một hôm, đến phía Ðông Cốc thành, chợt thấy một hang đá vàng, Trương Lương chợt nghĩ:

– Năm xưa ta gặp ông già ở Dĩ Thượng, ông ấy có nói sau này có gặp một viên đá vàng ở Cốc Thành tức là ông ta vậy. Thế thì lời nói ấy nay quả ứng nghiệm.

Nghĩ rồi liền phục lạy mấy lạy để đền ơn.

Nhắc lại vua Hung Nô Mặc Ðặc giận vì Hán đế dùng mỹ nhân kế đánh lừa, lòng căm tức, đem đại binh phá rối nơi biên cương, cướp của giết người làm xôn xao thiên hạ.

Các phủ, huyện dâng sớ về triều xin viện binh. Hán đế lấy làm lo lắng.

Lâu Kính thấy vậy bước ra tâu:

– Thiên hạ lâm cảnh chiến tranh lâu ngày, ai cũng chán ngán. Nếu nay lại động binh e trái lòng dân. Vả lại Mặc Ðặc là kẻ phi nhân cướp ngôi cha, lấy vợ cha. Người như thế không thể dùng đạo đức chinh phục được. Chi bằng Bệ hạ đem trưởng công chúa gả cho Mặc Ðặc. Mặc Ðặc yêu công chúa tất lập làm chánh cung, sau này có con nối ngôi sẽ là cháu ngoại của Bệ hạ. Ðiều đó rất có lợi.

Hán đế nói:

– Ta đường đường là một thiên triều, đất cất gồm thâu bốn bể, binh uy cường mạnh, quốc thể không hèn, lại không có cách gì chống đối với Hung Nô hay sao mà phải đem công chúa gả cho phường tanh hôi vô đạo.

Lâu Kính thưa:

– Bệ hạ dùng nhân đức thu phục sơn hà. Ðã bao lâu, sinh linh khổ sở về binh cách. Nay Bệ hạ cầu hòa với Hung Nô không phải vì hèn yếu, mà chính vì muốn cho dân chúng được an lạc, ấm no. Còn việc gả công chúa cho Mặc Ðặc, chỉ cần chọn một mỹ nữ trong dân giả, giả làm công chúa mà thôi.

Hán đế theo lời, lựa một mỹ nhân giả làm công chúa, đưa đến thành Thái Nguyên để cùng Mặc Ðặc giảng hòa.

Mặc Ðặc hay được việc ấy lòng mừng khấp khởi thân hành ra khỏi thành đón rước sứ giả, nhận lãnh công chúa, và dập đầu về phía Nam lạy tạ, hứa chẳng bao giờ quấy rối biên cương nữa.

Sứ giả làm xong việc ấy, về triều phục chỉ. Hán đế mừng rỡ ban thưởng Lâu Kính rất hậu.

Lâu Kính lại tâu:

– Ðất Tần Trung từ sau khi bị tàn phá, dân thưa, ruộng hoang, phía Bắc lại gần rợ Hồ, phía Ðông giáp sáu nước chư hầu Tề, Sở, Yên, Triệu, Hàn, Ngụy. Nay phải tập trung dân giả, cùng các nhà hào kiệt nơi đó lo việc khai khẩn ruộng nương, tích lũy đồn binh, lúc bình thì lo việc sản xuất, lúc biến chuyển ra thế phòng ngự, như thế mới mong cơ nghiệp lâu dài.

Hán đế khen phải, liền ra lệnh di dân sáu nước cùng các hào kiệt các nơi đến đó hơn mười vạn.

Bây giờ trong nước vô sự, triều đình nhàn rỗi.

Một hôm Hán đế thấy nàng Thích Cơ sanh đựợc đứa con trai là Như Ý, tuổi đã lớn khôn, tư chất lại thông minh hơn Thái tử Doanh. Hán đế có ý muốn bỏ Thái tử Doanh lập Như Ý làm Thái tử, nên đem việc ấy bàn với quần thần.

Quan Thượng đại phu là Chu Xương nghe nói thất kinh, bước ra can:

– Không nên! Không nên! Bệ hạ làm như thế tức là tự gây cho mình mối loạn đó.

Hồi 44 – Trần Hy mưu phản Triệu Ðại

Hán đế muốn bỏ Thái tử Doanh, lập Như Ý, quần thần can gián, Hán đế theo lời, không nghĩ đến việc ấy nữa.

Cách vài hôm sau, có quan Thái thú Triệu Ðại sai người vê triều báo rằng:

– Quân Phiên lại kéo đến đánh phá nơi biên giới, dân chúng bỏ chạy trốn, các quận, huyện không làm sao cự nổi, nếu triều đình không kíp phái binh đến e cả vùng Yên, Triệu đều phải thất thủ.

Hán đế chưa biết tính lẽ nào, quần thần ai nấy đều lo lắng. Trần Bình tâu:

– Cứu binh rất gấp, Anh Bố và Bành Việt đều ở xa, không thể gọi ngay được. Hàn Tín thì trí sĩ vô quyền, không thể dùng, duy có Trần Hy, trí dũng gồm đủ, xin Bệ hạ sai đem quân ra biên giới mới cự nổi giặc.

Hán đế cho triệu Trần Hy đến phán:

– Trẫm lâu nay đã mỏi việc binh, lần này quân Phiền lại đến phá rối nữa, thanh thế rất lớn. Nay khanh nên vì ta cử binh mười vạn, đem theo các quân dụng do Hàn Tín trước kia chế ra, đến Ðại Châu trừ khử quân giặc.

Trần Hy tâu:

– Thần vâng chiếu mệnh Bệ hạ, đâu dám chẳng ra công. Nhưng e binh lực không đủ chống với quân giặc chăng?

Hán đế nói.

– Trẫm sẽ ban cho khanh ấn phù, nếu binh mã không đủ thì đi đến đâu lấy thêm đến đấy.

Trần Hy bái biệt Hán đế, đem mười vạn quân đến Ðai Châu.

Nhân lúc đi ngang qua nhà riêng của Hàn Tín, Trần Hy nghĩ mình trước kia chịu ơn Hàn Tín rất nhiều, lại nhờ Hàn Tín chỉ dạy binh pháp nên ghé vào để vấn kế.

Hai người gặp nhau thi lễ xong, Trần Hy nói:

– Tôi vâng mệnh Hoàng thượng đem quân đến Ðại Châu bình Phiên tặc. Nhân ghé sang đây nhờ đại nhân chỉ bảo đôi lời.

Hàn Tín lưu Trần Hy ở lại chơi, đặt tiệc khoản đãi.

Trong lúc đối ẩm, Hàn Tín đuổi hết tả, hữu ra ngoài, rồi nói:

– Ông đem quân bình Phiên sẽ gặp nhiều gian nan khổ sở. Tuy nhiên, cái công khó ấy chẳng đem lại lợi ích gì.

Hàn Tín nói đến đấy, thấy Trần Hy ngơ ngác chưa hiểu, liền nói tiếp:

– Công bình Phiên của ông ngày nay với công phá Sở của tôi trước kia ai hơn?

Trần Hy nói:

– Công phá Sở của đại nhân là cái công muôn đời! Tôi sánh sao kịp?

Hàn Tín nói:

– Thế mà ngày nay tôi bị bỏ rơi, ngồi một xó. Ô dẫu có bình được giặc Phiên cũng chẳng ích gì. Chi bằng sẵn dịp ông đang cầm đại binh trong tay, mưu việc lớn, đoạt thiên hạ. Tôi sẽ tùy cơ làm nội ứng giúp đỡ ông.

Trần Hy suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi nghe theo lời dạy của đại nhân.

Hai người bàn định xong, Trần Hy từ biệt ra đi.

Ðại binh kéo đến Triệu Ðại, Trần Hy truyền lệnh đóng quân lại, chờ xem địch tình rồi sẽ quyết định.

Quân do thám đi dò xét vài hôm, rồi trở về báo:

– Quân Phiên có bốn trại lớn mỗi trại có chừng vạn người. Phiên vương đóng trại ngoài thành Ðại Châu quân hơn ba mươi vạn. Thủ hạ Phiên vương có một kiện tướng là Cáp Duyên Xích, sử dụng cây búa lớn nặng trăm cân, muôn người không địch nổi. Nếu Nguyên soái dùng kế gì dụ được tướng ấy đến hàng thì phá quân Phiên không khó.

Trần Hy nghe nói mừng rỡ, hội các tướng, nói:

– Quân Phiên thế mạnh, không thể dùng sức đánh được, phải dùng kế thủ thắng.

Nói xong ban lệnh cho các tướng thi hành.

Ngày hôm sau, Trần Hy đem quân ra trận khiêu chiến. Phiên vương xông ngựa ra trước trận, gọi Trần Hy nói:

– Hán đế nhà ngươi đánh không nổi Mặc Ðặc, phải gả con cho Mặc Ðặc để cầu hòa, thật là xấu hổ. Ta đây binh lực còn mạnh hơn Mặc Ðặc lẽ nào lại không đòi hỏi ở Hán đế một quyền lợi nào sao?

Trần Hy nói:

– Hán đế là một Hoàng đế thiên triều há lại không trị nổi nhà ngươi hay sao?

Dứt lời cầm đao đâm tới. Phiên vương tránh sang một bên ra hiệu cho một Phiên tướng ra đánh.

Phiên tướng cầm búa chém tới rất mạnh, Trần Hy đưa đao ra đỡ. Hai bên đánh nhau một hồi, Trần Hy yếu sức quất ngựa bỏ chạy. Phiên tướng giục ngựa đuổi theo chạy được ba mươi dặm, đến một hòn núi cao, trước mặt có một khe suối cạn. Trần Hy quất ngựa lội qua suối, Phiên tướng cũng cho ngựa băng qua. Nhưng lúc Phiên tướng vừa đến giữa suối thì bỗng nước suối chảy xuống ầm ầm, sâu hơn hai trượng.

Phiên tướng thất kinh, muốn quảy ngựa trở lại nhưng không còn kịp nữa.

Quân Hán đã phục sẵn hai bên suối, nổi dậy dùng tên bắn Phiên tướng nhào xuống ngựa.

Phiên tướng ấy chính là Cáp Duyên Xích, kiện tướng của Phiên vương.

Phiên vương đem quân tiếp cứu, đến nơi thấy nước suối chảy ầm ầm, quân Hán đang vây giết quân Phiên tở mở.

Phiên vương toan đốc quân vào giải vây, thì chợt có quân đến báo:

– Quân Hán thừa lúc Ðại vương dẫn quân đi ứng cứu, đến cướp trại và đốt lương thảo quân ta cháy sạch.

Phiên vương nghe nói không dám trở về trại, dàn quân mã bản bộ nhắm đường Bắc Phiên mà chạy về.

Trần Hy đại thắng, phá vỡ hơn bốn mươi vạn quân Phiên. Ngày hôm sau vào thành đặt tiệc khao thưởng tướng sĩ.

Rượu được vài tuần, Trần Hy nâng cốc nói với các tướng:

– Ta dùng kế thắng quân Phiên, nhưng thực ra nhờ ở sự tận tâm của các tướng. Ðó là một vinh dự, đáng khen. Chỉ hiềm có một điều là Hán đế không biết thương kẻ cực nhọc, lúc biến thì trọng tướng thương quân, lúc bình thì sanh tâm nghi kỵ. Xem như Hàn Tín, công lao phá Sở rất lớn. thế mà nay vẫn bỏ xó không dùng, lại còn muốn tìm cơ hãm hại. Cứ như thiển ý của ta, chúng ta đóng quân nơi đây, trấn giữ những nơi hiểm yếu, tích thảo dồn lương mưu việc thiên hạ. Hán đế hiện nay tuổi tác đã cao, việc binh nhung trễ biếng. Còn trong triều không ai giỏi hơn Hàn Tín, chúng ta còn sợ gì. Nếu nghiệp cả được thành, phú quý ta sẽ cùng các ngươi chung hưởng.

Các tưởng đồng thanh nói:

– Vâng! Chúng tôi xin nguyện làm theo ý của tướng quân.

Tháng bảy năm ấy, Trần Hy truyền hịch ước hội dùng với bọn Vương Hoàng để cùng nhau ứng viện. Ðoạn tự lập lên làm vua, cướp bóc các quận, huyện ở miệt Triệu Ðại.

Ngụy Vương hay việc ấy vội vã viết hịch về triệu cấp báo.

Hán đế xem biểu thất kinh, vội vã triệu Tiêu Hà, Trần Bình vào thương nghị.

Hán đế nói:

– Ta đãi Trần Hy không bạc, cớ sao hắn lại phản?

Tiêu Hà nói:

– Trần Hy vốn có mưu lược lại võ nghệ tinh thông, cả triều không ai địch nổi. Duy có Anh Bố và Bành Việt là hai tay đối thủ. Vậy xin Bệ hạ kíp xuống chiếu vời hai người ấy đến đánh Trần Hy thì mới xong.

Hán đế theo lời, viết chiếu thôi thúc Anh Bố và Bành Việt đem binh dẹp loạn.

Bấy giờ, Hàn Tín được tin Trần Hy làm phản, lại nghe Hán đế lấy quân Sở, Lương để đánh Trần Hy, liền viết một mật thư, sai người đến hai nước xui Anh Bố và Bành Việt đừng đem quân đi đánh Trần Hy.

Anh Bố và Bành Việt được mật thư của Hàn Tín vội mở ra xem. Trong thư đại khái viết:

“Tôi là người có công lớn, thế mà Chúa thượng không tưởng đến công lao, đối xử tệ bạc. Nếu hai ông vâng chiếu đánh Trần Hy, khi Trần Hy bị bắt, ắt các ông cũng bị giết. Bởi vì, Hán đế là người chỉ có thể cùng ở trong lúc ly loạn, mà không có thể cùng ở trong lúc thái bình.

Các ông càng lập được công to, càng dễ bị giết, không mong gì được ngồi yên ở đất Hoài Nam và Ðại Lương đâu.

Tín tôi sợ hai ông không tỉnh ngộ, sa vào cạm bẫy nên sai người đến tỏ bày, mong hai ông đừng dẫm trên bước chân tôi mà hối hận.”

Anh Bố và Bành Việt xem thư xong thác bệnh không chịu xuất quân.

Sứ giả trở vê triều tâu lại, Hán đế lo lắng đòi Trần Bình đến bàn rằng:

– Bành Việt và Anh Bố đều cáo bệnh không đến, phải làm thế nào?

Trần Bình nói:

– Trần Hy làm phản bởi ba nguyên nhân. Một là Trần Hy thấy Hàn Tín bị bãi chức không còn ai có thế đối địch với hắn. Hai là hắn nghĩ Bệ hạ lâu nay chán việc binh, không muốn chinh phạt, nên sanh ra cuồng vọng. Ba là Triệu Ðại, hai nơi ấy đất rộng người đông, dễ bề cố thủ. Nay xin Bệ hạ đừng nản việc binh, cử binh chinh phạt, tạm giao cho Tiêu Hà giúp Hoàng hậu giữ đất Bao Trung, như thế chư hầu mới bái vọng.

Hán đế theo lời, sai Chu Bột, Vương Lăng làm tiên phong, Phàn Khoái, Tào Tham, Hạ Hầu Anh làm tả chi, hữu dực, dẫn bốn mươi vạn quân tấn phát.

Trước khi xuất quân, Hán đế vào cung nói với Lã hậu:

– Nay Trần Hy làm phản, xâm chiếm Triệu Ðại, tự xưng vương vị. Trẫm đã xuống chiếu sai Anh Bố và Bành Việt đem quân đi đánh, nhưng hai người ấy đều cáo bệnh, không tuân. Xét lại các tướng trong triều, không ai địch nồi Trần Hy, nên trẫm phải đem quân trừ loạn. Ái khanh ở nhà coi việc triều đình, nhất là phải để ý đến Hàn Tín, vì Hàn Tín lâu nay bất mãn, có ý ngấm ngầm phản loạn, e thừa túc ta ra ngoài làm kế nội gián. Nếu ái khanh có điều gì khó khăn nên bàn với Trần Bình rồi sẽ quyết định.

Lã hậu tâu:

– Hàn Tín trước kia quyền binh tại thủ, lợi dụng thế lực lập nhiều công lớn. Song hiện nay đã bãi chức, hắn chỉ là một đứa thất phu, có gì đáng ngại. Xin Bệ hạ cứ an lòng xuất chinh.

Hán đế lại gọi Tiêu Hà đến trước điện, phủ dụ:

– Trẫm nay phải ngự giá thân chinh, đất Quan Trung không có người coi giữ. Trẫm giao cho khanh ở nhà giúp cho Hoàng hậu coi việc nhiếp chánh. Phàm việc gì lớn nhỏ đều phải bàn bạc kỹ càng, chớ nên sơ xuất.

Tiêu Hà dập đầu bái lĩnh và tâu:

– Hạ thần chỉ mong Bệ hạ dẹp yên phản tặc, còn việc nhiếp chính thần xin hết lòng lo lắng.

Xa giá khởi hành, trăm quan đưa đón. Ðại binh nhắm miền Triệu Ðại tấn phát.

Một hôm, xa giá đi đến Hàm Ðan, vào thành an nghỉ, các tướng túc trực ứng hầu, Hán đế hỏi:

– Trần Hy hiện nay đóng quân ở đâu, binh mã được bao nhiêu?

Các tướng đòi những quan thị trấn đến hỏi, rồi tâu:

– Quân Trần Hy hiện đóng ở Khúc Dương, binh mã bản bộ và các nơi họp lại ước hơn năm mươi vạn, tướng tá hơn hai mươi người do bọn Lưu Võ cầm đầu.

Hán đế băn khoăn, quay lại hỏi quần thần:

– Theo ý trẫm, Hàm Ðan là hiểm địa, thế mà Trần Hy không thủ nơi đây, lại đóng quân ở Khúc Dương. Xem đó thì kiến thức Trần Hy cũng chẳng đáng sợ.

Quần thần đều khen lời của Hán đế rất phải Hán đế liền sai Chu Xương ra các quận, huyện chung quanh lựa bốn người tráng sĩ đến dùng làm hướng đạo.

Chu Xương lựa được bốn người đem vào dâng nạp.

Hán đế hỏi:

– Các người có dám vì trẫm đi trước dẫn đường cho đại binh chăng?

Bốn tráng si đều tâu:

– Thiên binh của Hoàng thượng từ xa đến đây, thinh thế lẫy lừng. Tuy nhiên chưa rõ đường lõi thì chưa nên tấn binh vội. Quân pháp có câu: “Muốn thắng địch phải nắm vững trận thế trước khi điều binh”. Vậy xin Bệ hạ cho chúng tôi đi dò thăm trước đã.

Hán đế liền phong cho bốn người đó làm chức Thiên Hộ, và ban thưởng rất hậu.

Bốn tráng sĩ mừng rỡ, nhảy nhót ra đi. Các tướng thấy vậy nói với Hán đế:

– Bốn tráng sĩ chưa có tấc công nào, một sớm Bệ hạ đã ban thưởng trọng chức là ý gì vậy?

Hán đế nói:

– Trần Hy làm phản, sách nhiễu dân chúng. Nay binh thiên triều đến đây, nếu không ban ân để mua chuộc lòng dân thì ai còn kể đến cái nhân nghĩa của ta. Phong thưởng bốn người, mà cả dân Triệu, đều ngưỡng vọng, như thế chẳng lợi hơn sao?

Tả, hữu nghe nói đều bái phục.

Rồi đó, bốn tráng sĩ ăn mặc giả làm thương dân đất Ðại đi đến Khúc Dương, dò nghe hư thực.

Chẳng bao lâu, bốn người trở về Hàm Ðan, vào yết kiến Hán đế, tâu:

– Trần Hy dùng bọn tướng tá toàn là những lái buôn vàng ngọc. Nếu Bệ hạ chịu tốn phí một ít vàng bạc, đến mua chuộc họ, thì việc bắt Trần Hy chẳng khó khăn gl.

Hán đế triệu quần thần đến hỏi:

– Bây giờ ai dám len lõi vào trong quân của Trần Hy, đem vàng bạc đút lót, khiến cho các tướng làm nội phản. Như vậy ắt Trần Hy phải thất thủ.

Một người bước ra tâu:

– Hạ thần xin lãnh trách nhiệm ấy.

Hán đế xem lại, thấy người vừa nói là quan Trung đại phu Tùy Hà, lòng mừng rỡ, phán:

– Nếu khanh lành trách nhiệm này thì trẫm không lo gì nữa.

Tùy Hà đem một trăm thoi vàng và mấy người tùy tùng ra đi. Trước hết, Tùy Hà viết một bực thư, nói dối là Hán đế gởi đến dụ hàng.

Trần Hy nghe tin Tùy Hà đưa thư đến dụ hàng, nghĩ thầm:

– Tùy Hà là một gã thuyết khách. Bức thư ấy chắc là hắn dối trá chứ không phải do Hán đế sai đến.

Liền sai tả, hữu mời Tùy Hà vào. Tùy Hà vào trông thấy Trần Hy chào theo lễ vua tôi.

Trần Hy nói:

– Quan Ðại phu với tôi cũng là đồng hàng, cớ sao lại dùng lễ ấy.

Tùy Hà nói:

– Túc hạ cầm quân trăm vạn uy dậy hai nước, nay cùng Hoàng thượng tranh hùng để đồ vương định bá, tôi đâu dám vô lễ mà đem cổ thử gươm!

Trần Hy nói:

– Quan Ðại phu nói quá lời. Sở dĩ tôi đóng quân nơi đây là vì thấy Hán đế hay nghi ky, lúc biến cùng khổ, nhưng lúc bình không được cùng hưởng, lẽ ấy chắc quan Ðại phu cũng rõ. Nhưng chẳng hay quan Ðại phu đến đây muốn phủ dụ tôi như thế nào?

Tùy Hà nói:

– Tôi vâng mệnh Hoàng thượng đến đây để chiêu phủ túc hạ bãi việc chiến tranh. Nếu túc hạ bằng lòng, Hoàng thượng sẽ phong cho túc hạ làm Ðại vương, cai trị miền đất Ðại này.

Trần Hy biết là kế của vua Hán, bụng bảo dạ:

– Nếu ra hàng tất bị bắt.

Liền nói với Tùy Hà:

– Hán đế đã đem quân đến đây, chưa cùng tôi giao chiến, sao quan Ðại phu đã đem thư chiêu phủ. Tôi e thư này không phải thực bụng chăng?

Tùy Hà nói:

– Hoàng thượng lúc mới đến, cũng muốn cùng túc hạ giao tranh, song vừa rồi các tướng can gián, bảo phải trọng sinh mệnh thiên hạ, vì vậy Hoàng thượng đổi ý sai tôi đi dụ hàng. Nếu túc hạ không tin, tôi trở về bẩm mệnh chứ biết làm sao?

Trần Hy nói:

– Hàn Tín công rất lớn lao, thế mà Hoàng thượng còn nghi kỵ, giả cách ra chơi Vân Mộng để bắt, huống hồ tôi đây là kẻ tạo phản, làm sao tin được lời nói của Chúa thượng. Xin phiền quan Ðại phu trở về tâu lại.

Tùy Hà cố ý kéo dài câu chuyện với Trần Hy trong nửa ngày.

Giữa lúc đó, bọn tùy tòng đã đem vàng bạc đút lót cho bọn tướng lĩnh Trần Hy, khuyên đừng nghe lệnh của Trần Hy nữa.

Các tướng lĩnh được vàng, vui vẻ nhận lời.

Tùy Hà giã biệt Trần Hy trở về, yết kiến Hán đế tâu hết mọi việc. Ngày hôm sau Hán đế dẫn quân ra trận, gọi Trần Hy ra nói chuyện.

Trần Hy trông thấy Hán đế, ngồi trên ngựa nghiêng mình nói:

– Bệ hạ xuân thu đã cao, tội gì đem quân ra chỗ chiến địa.

Hán đế nói.

– Trẫm chưa hề phụ ngươi, sao ngươi nỡ phản ta?

Trần Hy nói:

– Bệ hạ giết hại công thần, vô ân bội nghĩa, dẫm chân lên vết xe đổ của Tần Chính, Hạng Vũ, lẽ nào tôi lại không làm phản.

Hán đế nổi giận, quay nhìn các tướng nói:

– Có tướng nào dám ra bắt tên phản loạn đó chăng?

Phàn Khoái, Chu Bột vỗ ngựa xông đến cùng Trần Hy giao chiến. Ðánh nhau được hơn vài mươi hiệp, Vương Lăng và Chu Xương xông ra trợ lực. Trần Hy cự không lại dẫn quân chạy về hướng Nam cố ý chờ bọn Lưu Võ đem quân tiếp cứu.

Nhưng bọn Lưu Võ đã nhận vàng bạc của Hán đế, không tiếp cứu, cứ đóng quân trong trại ngồi xem.

Quân Trần Hy rối loạn, quân Hán đế đuổi theo, chém giết rất hăng.

Trần Hy chạy được hai mươi dặm, đàng sau quân Hán đuổi theo rất gấp, bỗng phía trước mặt có một doanh trại lập rất uy nghi, quân kỳ tề chỉnh. Trần Hy vừa chạy đến đó thì một tiếng pháo lệnh nổ, cửa trại mở ra bốn mặt, quân sĩ ùa ra cứu ứng cho Trần Hy, đánh lùi quân Hán đế lại.

Hán đế thấy trời đã tối, vội vã thu quân về trại, nói với chư tướng:

– Ngày nay tuy chiến đấu mỏi mệt, song đêm nay không nên ngủ, cần phải đề phòng địch quân cướp trại.

Trần Hy bị thua một trận, song nhờ cứu binh, không đến nổi thiệt hại nặng lắm.

Khi về đến bản doanh Trần Hy gọi bọn Lưu Võ đến trách:

– Các ngươi thấy ta lâm trận sao chẳng ứng cứu.

Nếu ta không lập trước cái trại này để phòng bị thì còn gì tánh mạng. Sau này nếu tướng nào còn vi lệnh, ta quyết chẳng dung.

Các tướng đều sợ sệt, lùi ra.

Ngày hôm sau, Hán đế thăng tướng, cùng các tướng đàm luận.

Vương Lăng bước ra tâu:

– Trần Hy là tay mưu lược, xem như trận vừa rồi, Trần Hy lập sẵn trại quân cứu ứng, tỏ ra lối dùng quân rất chu đáo. Nếu ở đây đánh mãi với hắn khó thắng. Chi bằng lui về Hàm Ðan, lấy quân các lộ chư hầu, tích thảo dồn lương, quyết một trận thư hừng, mới bắt Trần Hy nổi.

Hán đế nói:

– Ta tự nhiên lui quân, e bị Trần Hy truy kích.

Vương Lăng nói:

– Quân ta vừa thắng trận, Trần Hy là tay lão luyện, dám đâu đuổi theo. Hắn cũng biết rằng quân lực của ta chưa hao mòn, một khi rút lui tất có binh phục.

Hán đế khen phải. Ðêm ấy phân phối các tướng mai phục hai bên ven đường, rồi truyền lệnh kéo đại binh về Hàm Ðan.

Quân thám thính được tin ấy vào báo. Trần Hy nói:

– Hán đế lui quân là vì thấy đóng nơi đây bất lợi.

Vả lại từ xa kéo đến, lương thực thiếu thốn, không thể đóng lâu được.

Các tướng nói:

– Ta nên nhân cơ hội này truy kích đánh cho quân Hán tan tành.

Trần Hy nói:

– Hán đế lui binh vì thấy bất lợi quân cơ chớ đâu phải bại tẩu. Nếu ta đuổi theo không khỏi bị quân phục đánh chết.

Các tướng không tin, cho người dò xét, quả có quân Hán mai phục hai bên lộ, lòng khen ngợi Trần Hy chẳng cùng.

Hán đế lui quản về Hàm Ðan, an dinh hạ trại. Từ đó hai bên chỉ đóng quân canh giữ, chưa nghĩ đến chuyện đánh nhau nữa.

Hồi 45 – Cung Vị Ương, Lã Hậu giết Hàn Tín

Từ lúc Hán đế kéo binh ra khỏi Tràng An đi đánh Trần Hy, Hàn Tín thác bệnh không theo, ở nhà cho người dò hỏi quân cơ.

Khi hay được Trần Hy đóng quân ở Khúc Dương, Hàn Tín nghĩ thầm:

– Trần Hy đáng lẽ nên đóng ở Hàm Ðan, và sai quân chặn chẹt đường sông Chương Hà mới thủ thế được, cớ sao lại bỏ Hàm Ðan mà đóng nơi Khúc Dương?

Liền viết một phong thư, sai người đem đến Trần Hy, bảo Trần Hy cho một cánh quân lẻn về đánh Tràng An, để mình sẽ ở trong làm nội ứng.

Tuy nhiên, lúc Hàn Tín sai người ra đi, lại có tên nô bộc đi theo, cùng người đem thư đến quán uống rượu.

Người nô bộc ấy tên Tạ Công Trứ, tánh hay chè chén say sưa.

Tối hôm ấy, Tạ Công Trứ về dinh, hơi men còn nồng nặc.

Hàn Tín tức giận, gọi đến mắng:

– Mày đi đâu cả ngày mà say sưa bê bết như thế?

Trong cơn say, Tạ Công Trứ không còn biết gì là đạo tôi tớ buộc miệng nói càn:

– Tôi đi uống rượu chớ có tư thông với ai đâu mà sợ.

Hàn Tín nghe Tạ Công Trứ nói câu ấy, mặt mày biến sắc, bước vào phòng trong nghĩ kế giết Tạ Công Trứ để khỏi lộ chuyện kín của mình.

Vợ Hàn Tín là Tô thị, thấy vậy hỏi:

– Công Trứ nói gì mà tướng quân giận dữ như thế?

Hàn Tín nói:

– Nó say rượu, nói năng bậy lắm, cần phải giết nó mới được.

Tô thị nói:

– Ðứa say nói càn, hơi đâu chấp trách. Tướng quân để nó tỉnh rượu rồi sẽ xử trí cũng chẳng muộn.

Hàn Tín theo lời, vào phòng an nghĩ.

Ðêm ấy, Tạ Công Trứ ngủ vùi, đến đầu canh năm tĩnh rượu mới chợt giấc.

Người vợ nói:

– Tối hôm qua lang quân đi uống rượu về, nói năng bậy bạ, làm cho Hàn Tín tức giận. Thế nào lang quân cũng bị tội.

Tạ Công Trứ thất kinh hỏi:

– Ta nói những gì?

Người vợ đáp:

– Lang quân nói: “Tôi có tư thông với ai mà sợ “.

Công Trứ nhủ thầm:

– Trong lúc say ta đã điên cuồng tiết lộ điều bí mật quan trọng của chủ. Ôi! Mạng ta chắc chẳng còn.

Nghĩ rồi âm thầm thu xếp hành trang định bỏ trốn đi Nhưng lúc đó trời chưa sáng, cửa thành đóng chặt, quân sĩ canh gác rất nghiêm.

Công Trứ lại nghĩ:

– Nếu đợi sáng, Hàn hầu ắt sai quân tìm bắt, ta chạy trốn sao được Chi bằng đem việc này tiết lộ với Tiêu Thừa tướng. Hàn hầu có chết thì ta mới sống được.

Liền chạy đến dinh Tiêu Hà tố cáo rằng:

– Tôi có việc cơ mật nơi dinh Hàn hầu, xin báo cho Thừa tướng rõ.

Tiêu Hà lúc ấy đang thức dậy, ngồi kiểm điểm lại công việc trong triều, nghe nói thất kinh vội hỏi:

– Ngươi tố cáo việc chi?

Công Trứ nói:

– Hàn hầu tư thông với Trần Hy, liên kết nhau phản loạn.

Tiêu Hà nói:

– Việc này quan trọng, không phải chuyện chơi. Nếu nhà ngươi tố cáo gian sẽ mất mạng ngay lập tức.

Công Trứ nói:

– Tôi đâu dám gian ngoa. Ngày trước khi Trần Hy đi đánh Phiên, Trần Hy không có ý làm phản, chỉ vì Hàn hầu xúi giục nên Trần Hy mới có ý ấy. Lâu nay hai bên vẫn có thư thông nhau. Hôm qua Hàn hầu lại viết thư sai tôi, mật đưa cho Trần Hy, bảo Trần Hy lẻn về đánh Tràng An, Hàn hầu sẽ làm nội ứng. Tôi vì say rượu nói lỡ lời, Hàn hầu sợ bị lộ nên toan giết tôi.

Tiêu Hà liền đưa Công Trứ vào yết kiến Lã hậu, kể hết mọi sự.

Lã hậu thất kinh nói:

– Hàn Tín đã ra mặt phản loạn rồi, Thừa tướng có ý kiến thế nào?

Tiêu Hà nói:

– Bây giờ nên giấu tên quân này đi. Sáng mai vào trong lao tìm một tù nhân mặt mày giống Trần Hy, chặt lấy đầu, giả cách từ mặt trận gởi về, nói Chúa thượng đã giết được Trần Hy, truyền bêu nơi Tràng An làm hiệu lệnh. Các quan được tin ấy tất phải đến chúc mừng. Hàn Tín cũng sẽ đến. Bấy giờ hạ thần tùy dịp bắt lấy dâng cho Hoàng hậu nghi xử.

Lã hậu nói:

– Kế ấy rất hay.

Liền mật sai người vào lao lựa một tù nhân đem chém lấy đầu, đựng vào một cái hòm, giả cách đến phủ Thừa Tướng báo tiệp.

Tiêu Hà tuyên bố cho mọi người biết. Các quan hay tin đều đến chúc mừng

Tiêu Hà nói:

– Các ông vào triều chúc mừng nên rủ cả Hàn hầu cùng đi. Tuy Hàn hầu tạm thời bị bỏ, nhưng nghe nói Chúa thượng định gia phong quyền tước đó.

Các quan nghe Tiêu Hà nói, đến thuật lại cho Hàn Tín nghe.

Hàn Tín bâng khuâng đưa tiễn các quan về rồi trở vào phòng noi với vợ là Tô Thị.

– Ngay mai tôi phải vào triều chúc mừng về việc Hoàng thượng dẹp loạn.

Tô phu nhân nói:

– Ngày trước đi đánh Trần Hy, tướng công cáo bệnh chứng theo. Bấy lâu nay lại chưa có lần nào vào triều kiến Lã hậu. Nay nghe có tiệp âm đưa về lại vào chúc mừng e Lã hậu nghi hoặc. Xin tướng công xét kỹ.

Hàn Tín nói.

– Nếu nay không vào triều chúc mừng, đến lúc Hán đế hồi loan, ta còn mặt mũi nào nhìn Hán đế. Vả lại, hiện nay Tiêu Thừa tướng đang giữ quyền nhiếp chánh, không lẽ không bênh vực ta.

Tô phu nhân nói:

– Luôn mấy ngày nay, tôi thấy khí sắc tướng công chẳng tốt e có việc chẳng lành.

Hàn Tín thở dài:

– Ta có việc riêng, cần phải vào triều xem hư thiệt. Ðây là một cơ hội không nên bỏ qua.

Ngày hôm sau, Hàn Tín theo các quan vào triều kiến.

Chào mừng xong, Lã hậu nói:

– Các quan cứ tự tiện lui về. Riêng Tiêu Thừa tướng và Hàn hầu hãy vào tiền điện để cùng ta bàn việc cơ mật.

Tiêu Hà bước xuống điện mời Hàn Tín vào nội cung.

Vừa qua khỏi mấy dãy hành lang, chợt có bốn năm mươi võ sĩ phục sẵn, xông đến bắt Hàn Tín trói lại dẫn đến điện Trường Lạc.

Hàn Tín nói:

– Tôi có tội gì mà Hoàng hậu bắt tôi?

Lã hậu nói:

– Hoàng thượng trước kia đăng đàn bái tướng, giao cho ngươi tất cả quyền binh, không có việc gì bạc với ngươi. Ngươi muốn làm Tề vương Hoàng thượng phong cho, sau thấy nước Tề dân không phục nên cải phong làm Lỗ vương. Lòng ưu ái ấy đáng lẽ ngươi phải biết ơn, cớ sao sanh tâm phản phúc. Trước đây, Hoàng thượng giả cách ra chơi Vân Mộng, cốt bắt ngươi đem về giết, nhưng nghĩ vì ngươi là một công thần khai quốc, không nỡ xử bạc.

Ngày nay, ngươi lại còn tư thông với Trần Hy, xui Trần Hy đem quân về cướp Tràng An, để ngươi làm nội ứng.

Tâm địa ngươi như thế làm sao dung thứ được.

Hàn Tín nói.

– Hoàng hậu buộc tội tôi như thế có gì làm bằng chứng chăng?

Lã hậu nói:

– Tên gia bộc nhà ngươi là Tạ Công Trứ đến đây tiết lộ điều đó.

Hàn Tín nói:

– Công Trứ say rượu nói càn, bị tôi hăm giết nên kiếm lời hại tôi.

Lã hậu nói:

– Chính Hoàng thượng trong lúc đánh với Trần Hy cũng đã bắt được một mật thư chính tay ngươi viết gởi đến, ngươi còn chối cãi làm gì nữa.

Hàn Tín nghe nói cúi đầu, không cãi lại.

Lã hậu sai đem trói Hàn Tín nơi cung Vị Ương, rồi sai võ sĩ đem chém.

Lúc sắp chết, Hàn Tín nói:

– Ta hối hận đã không nghe lời Khoái Kiệt trước kia, để đến nỗi bị đàn bà sát hại.

Người sau có thơ rằng:

Ðem thân bách chiến dựng cơ đồ,

Thế sự hưng vong một cuộc cờ.

Danh lợi anh hùng mang thảm lụy

Gương treo nhật nguyệt chửa phai mờ

Lã hậu giết Hàn Tín xong sai Tiêu Hà viết biểu và sai Lục Giả đem thủ cấp Hàn Tín đến mặt trận trình cho Hán đế biết.

Hán đế tiếp được biểu, mở ra xem, biểu như sau:

“Nhà Ðại Hán năm thứ mười một, Hoàng Lã hậu cúi đầu dâng biểu.

Trộm thấy: hình để răn kẻ dưới, rạng phép nước nhà. Pháp để trị người dân, tỏ oai vua chúa. Kính nghĩ:

Hoàng đế bệ hạ thần võ khắp muôn phương, uy đức vang bốn bể. Vậy mà Hoài Âm hầu Hàn Tín, đã ăn lộc Hán, không giữ đạo vua tôi, liên kết với Trần Hy âm mưu phản loạn. Tên gia nô của Hàn Tín mật tấu tõ hết mọi lời. Thần thiếp trộm nghĩ: căn bệnh bên ngoài đâu bằng tâm bệnh bên trong, nên bàn với Tiêu Thừa tướng giết bỏ kẻ nghịch, củng cố sơn hà. Kẻ có tội phải đền, ba họ tru di.

Nay thần thiếp gởi đầu Hàn Tín đến Hàm Ðan, khiến Trần Hy trông thấy mà mất vía, kẻ gian nghe mà kinh hồn. Ðại binh đến đâu dẹp tan đến đấy, thần thiếp khôn xiết vui mừng“.

Hán đế xem biểu xong, mừng rỡ vì đã trừ được Hàn Tín, một kẻ ngấm ngầm tạo phản.

Tuy nhiên Hán đế cũng không khỏi bùi ngùi nhớ đến công khai quốc lớn lao của Hàn Tín, đôi dòng lệ ướt nhòa.

Các tướng thấy vậy đều cảm động.

Nhắc lại Trần Hy, khi bắt được mật thư của Hàn Tín định sai một cánh quân theo đường nhỏ kéo về họp với Hàn Tín đánh lấy Tràng An.

Nhưng quân chưa kịp ra đi thì đã nghe tin Hàn Tín bị Lã hậu giết, sai Lục Giả đem đầu bêu nơi Hàm Ðan.

Trần Hy hét lên một tiếng nhào lăn xuống đất.

Tả, hữu vội đỡ dậy, lay gọi một lúc, Trần Hy mới tỉnh.

Quá đau xót, Trần Hy mếu máo nói:

– Ta chịu ơn Hàn Tín dạy bảo bấy nay, tuy người khác họ, song coi như tình ruột thịt. Hàn hầu đã thác, công việc ta ắt hỏng rồi, biết liệu làm sao?

Các tướng nói:

– Hàn hầu tuy chết, Ðại vương cũng chớ nên thoái chí. Chúng tôi xin nguyện cùng Ðại vương kéo quân đến Hàm Ðan, cùng Hán đế giao tranh một trận.

Các tướng còn đang suy luận thì đã có tin Hán đế ồ ạt kéo đại binh đến Khúc Dương.

Trần Hy dặn các tướng phải hết lòng chiến đấu chớ thờ ơ như trước nữa.

Các tướng Vâng lệnh, hàng ngũ chỉnh tề chia hàm hai đội ra khỏi thành đóng trại chờ địch quân.

Giữa lúc đó, quân Hán cũng đã đóng trại xong cách thành Khúc Dương ba mươi dặm

Hán đế biết rằng Hàn Tín đã chết, uy thế của Trần Hy không còn nữa, lúc này là lúc cần phải đánh gấp

Ðêm ấy Hán đế sai Phàn Khoái, Chu Bột, Vương Lăng kéo quân mai phục nơi phía Bắc Khúc Dương, chờ lúc Trần Hy thua chạy đến đó đổ ra bắt. Lại sai Chu Xương dẫn quân ra mai phục sau thành, chặn đường cứu ứng của Trần Hy. Còn Quán Anh lãnh việc xáp chiến với Trần Hy, hễ Trần Hy thua phải đuổi theo tận lực.

Các tướng được lệnh, dự bị sẵn sàng.

Ngày hôm sau, Quán Anh đem quân ra trận, kêu Trần Hy mắng:

– Hởi đứa phản thần, hãy đem đầu ra đây dâng nạp.

Trần Hy xốc ngựa đến nói:

– Ta quyết lấy đầu ngươi để báo thù cho Hàn hầu.

Dứt lời cầm đao đâm tới Quán Anh rước đánh.

Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp thì cánh quân tả, hữu của Trần Hy ùa ra tiếp cứu. Bên Hán, Chu Xương dẫn đạo binh phục của mình ngăn lại, cùng quân Trần Hy giao tranh.

Hai bên đánh nhau một hồi, thế trận vẫn chưa bên nào hơn kém.

Hán đế thấy vạy liền ra lệnh các tướng kéo quân ào tới vây Trần Hy vào giữa.

Trần Hy thấy hai cánh quân mình bị chặn đánh, không cứu ứng nổi, quân Hán lại đông, nhắm bề cự không ai, quay ngựa nhắm hướng Bắc mà chạy.

Hán vương lập tức đốc quân đuổi theo. Quân của Trần Hy thấy chủ tướng yếu thế, quay ra đầu hàng cả.

Bọn Lưu Võ đều bị Chu Xương giết chết trong đám loạn quân.

Trần Hy đang lúc tìm đường tẩu thoát, chợt nghe có tiếng pháo nổ, hai cánh quân phục của Hán đế nổi dậy cầm đầu là Phàn Khoái và Vương Lăng.

Trần Hy thất kinh, người ngựa lính quýnh bị Phàn Khoái đâm cho một kích, nhào xuống đất.

Lúc đó Hán vương cũng vừa rượt đến, cầm đao cắt đầu Trần Hy rồi thu quân về trại.

Ðêm ấy, vua tôi mở tiệc ăn mừng, vì đã trừ xong mầm phản loạn.

Ðoạn, Hán đế sai người đi chiêu an dân chúng hai miền Triều, Ðại, rồi kéo đại binh trở về Lạc Dương.

Dọc đường, dân chúng các quận, huyện đặt bàn hương án lạy mừng.

Khi xa giá về đến Lạc Dương triều thần ra khỏi thành ba mươi dặm nghênh tiếp. Hán đế vui vẻ hỏi Hoàng hậu việc xử trị Hàn Tín. Lã hậu thuật lại mọi việc.

Hán đế hỏi:

– Lúc thọ hình, Hàn Tín có nói câu nào chăng?

Lã hậu đáp:

– Hắn bảo rằng hắn quá hối hận vì trước kia không nghe lời Khoái Kiệt, nên ngày nay mới bị chết về tay một người đàn bà.

Hán đế hỏi tả, hữu:

– Khoái Kiệt là người thế nào, đã bày mưu gì cho Hàn Tín?

Trần Bình tâu.

– Khoái Kiệt là người nước Tề, đa mưu túc trí. Trước đây Khoái Kiệt đã từng bày Hàn Tín đừng diệt Sở, chiếm lấy nước Tề, chia thiên hạ làm thế ba chân vạc, nhưng Hàn Tín không nghe. Hiện nay Khoái Kiệt sợ mang tội với triều đình, giả điên đi lang thang đây đó.

Hán đế nói:

– Ta làm sao có thể trừ được người ấy?

Trần Bình nói:

– Người ấy chỉ có thể dùng trí mà lừa chứ không thể dùng sức mà đánh. Nếu bức bách, Khoái Kiệt tự vẫn ngay.

Hán đế liền hỏi tả, hữu:

– Có ai vì ta sang Tề đón vời Khoái Kiệt về đây chăng?

Lục Giả bước ra tâu:

– Hạ thần xin đi.

Hán đế liền cấp cho Lục Giả hơn mười người tùy tùng, sang nước Tề tìm Khoái Kiệt.

Lục Giả lên đường, sang nước Tề, trước tiên vào nhà quân thú là Lý Hiển nghỉ ngơi để dò xét hoạt động của Khoái Kiệt.

Lục Giả hỏi Lý Hiển:

– Khoái Kiệt bây giờ ở đâu?

Lý Hiển đáp:

– Người ấy hiện nay vẫn tiếp tục lang thang khắp chợ búa, lúc nói, lúc cười như người rồ dại. Tôi thường lấy lễ mời hắn, nhưng hắn không chịu đến. Chúa thượng thiếu gì người dùng mà phải tìm người điên như thế cho nhọc.

Lục Giả nói: Khoái Kiệt chỉ giả điên đó thôi. Ông nên tìm hắn rủ hắn uống rượu, rồi làm y kế tôi dặn, tức khắc hắn sẽ hết điên ngay.

Lý Hiển theo lời, tuyển hai người nói giỏi, đưa cho ít tiền, bảo rủ cho được Khoái Kiệt đến uống rượu, và làm theo kế đã dặn.

Hai người lĩnh mệnh đi ra chợ, thấy Khoái Kiệt đang xõa tóc, vừa đi vừa hát:

Ngựa qua cửa sổ

Bóng thời gian lố nhố

Mùi phú quý hôi tanh

Ðất thẳm trời xanh

Say sưa ba chén rượu

Mây trắng rợn xây thành

Hỡi công danh, hỡi công danh

Ðời đen như mực, dữ, lành ai hay?

Hát xong câu hát, Khoái Kiệt lại lủi thủi đi về phía Nam.

Sai nhân của Lý Hiển đi theo đàng sau, đến gần nắm lấy ta Khoái Kiệt vừa cười vừa nói:

– Ông rồ, nhưng chúng tôi cũng điên, vậy cùng nhau vào quán nhắp chơi vài chén.

Khoái Kiệt vui vẻ, theo hai người vào hàng rượu.

Sau vài ngày nữa chúng tôi sẽ ra bể ngao đu, không thèm sống trên dải đất này, quyến luyến công danh với người đời nữa.

Khoái Kiệt thấy hai người ăn nói khác thường, liền hỏi:

– Tôi phát bệnh điên là bởi một duyên cớ, còn các ông có điên vì một duyên cớ nào chăng?

Hai người nói:

– Cái cớ phát điên của chúng tôi không thể nào nói được Chúng ta cứ cùng nhau uống rượu là đủ. Nói nhiều lỡ ai có hay được thì chúng ta lại còn phải điên nặng hơn.

Khoái Kiệt nghiêm sắc mặt nói:

– Hai ông quyết không phải là người thường, xin cho tôi biết quý danh.

Hai người nói:

– Hai chúng tôi nguyên là người Triệu, nghe Hàn hầu là người hiền nên theo đến Sở để hầu hạ. Không ngờ Hàn hầu vô cớ, bị kẻ nô bộc vu phàm, khiến cho Lã hậu tru di tam tộc. Lúc sắp gia hình Hàn hầu có nói: “Ta tiếc rằng không nghe lời Khoái Kiệt” câu nói ấy vẫn như còn văng vẳng bên tai chúng tôi Chúng tôi thấy Hàn hầu chết oan như vậy đau xót vô cùng, bỏ cả công danh, không màng phú quý, đi ngao du trong thiên hạ, nói xiêng nói quàng cho hả lòng căm tức. Hôm nay gặp ngài hát mấy câu biết ngài là Khoái tiên sinh, nên thỉnh vào đây hầu vài chung tửu để tỏ tâm sự.

Hai người nói đến đây khóc òa. Khoái Kiệt bất giác thở dài dậm chân xuống đất nói:

– Hàn hầu không sớm tỉnh ngộ để đến nỗi phải thác oan. Tấm thân ta vô chủ, còn sống sao được?

Ba người đang khóc lóc, tủi hờn, thì bỗng có một người từ bên ngoài bước vào, nắm lấy Khoái Kiệt nói:

– Bấy lâu nay anh cứ giả điên mãi, nay mới để lộ chân tướng.

Khoái Kiệt biến sắc hỏi:

– Ông là ai?

Người ấy nói:

– Ta là quan Trung Ðại phu Lục Giả, vâng mệnh vua đến đây bắt anh.

Nói dứt lời, hô bọn tùy tùng trói Khoái Kiệt lại, rồi lấy lễ tiếp đãi và nói:

– Khoái tiên sinh bất tất phải giả điên như thế, nên mau mau sửa sang áo mũ cùng tôi đến Lạc Dương yết kiến Hoàng thượng. Hiện nay bốn bể đều thu về một mối, các hiển sĩ đều họp mặt cùng nhau lo hưởng thái bình. Kẻ trí giả tất phải thức thời, kẻ hiền giả tất phải biết chọn chúa. Hán đế là bậc chân chủ đời nay, mấy ai bì kịp.

Khoái Kiệt nói:

– Tôi điên đã mấy năm, chỉ có ông mới tìm thấy căn nguyên!

Nói xong, sửa sang quần áo cùng hành trang theo Lục Giả về Lạc Dương, ra mắt Hán đế.

Hán đế thấy Lục Giả dẫn Khoái Kiệt về, liền nói:

– Nhà ngươi có phải ngày trước xui Hàn Tín làm phản chăng?

Khoái Kiệt tâu:

– Vâng, chính tôi đã nhiều lần xúi Hàn Tín làm phản.

Hán đế hỏi:

– Tại sao nhà ngươi lại bất trung như vậy?

Khoái Kiệt nói:

– Tâu Bệ hạ, lúc đó hạ thần xui Hàn hầu tạo phản là chí trung vậy. Nhà Tần mất, mọi người tranh nhau đoạt thiên hạ, ai có tài thì người ấy được. Con chó của thằng Tích cắn vua Nghêu không phải vua Nghêu là người bất đức, chỉ vì vua Nghêu không phải là chủ của nó. Tôi phò Hàn Tín, chỉ biết có Hàn Tín chứ đâu biết đến Bệ hạ. Nếu Hàn Tín lúc đó chịu nghe lời tôi thì thế sự sẽ không phải như ngày nay. Nay Hàn Tín đã chết, tôi cũng không muốn sống một mình. Bệ hạ muốn giết tôi, tôi xin sẵn sàng chịu chết, chẳng hề ân hận.

Hán đế cười lớn, nói với triều thần:

– Lời Khoái Kiệt trình bày đáng là một trung thần. Trẫm không có ý trách cứ.

Ðoạn quay qua nói với Khoái Kiệt:

– Bây giờ ta cho ngươi làm quan, ngươi nghĩ thế nào?

Khoái Kiệt nói:

– Làm quan tôi không muốn, chỉ xin Bệ hạ nghĩ đến cái công bình thiên hạ của Hàn Tín, cho tôi được đem hài cốt của Hàn Tín về chôn nơi Hoài Âm, và phục chức cho Hàn Tín.

Hán đế nói:

– Khoái Kiệt là người rất có nghĩa.

Liền truyền quân đem mộ Hàn Tín cải táng nơi Hoài Âm, xây cất tử tế, và xuống chiếu phục chức cho Hàn Tín.

Khoái Kiệt không chịu làm quan, tự do đi ngao du trong thiên hạ. Người sau khen Khoái Kiệt là bậc trượng phu.

Chẳng bao lâu, một hôm Hán đế cùng quần thần đàm đạo, chợt có quân vào báo:

– Ngoài thành có một người xin vào cáo việc cơ mật.

Hán đế ngơ ngác nói:

– Việc Trần Hy vừa xong, lại biến gì khác chăng?

Liền cho đòi vào.

Hồi 46 – Thành Lạc Dương, Loan Bố khóc Bành Việt

Người xin vào cáo việc cơ mật là quan Thái Bộc nước Lương.

Thái Bộc bị Bành Việt nhân lúc say rượu mắng mấy câu, sinh lòng căm tức nghĩ thầm:

– Ta với Bành Việt vốn là bầy tôi nhà Hán, hắn lay lập được công lớn, nên vua phong làm Lương Vương. Hắn lài cậy quyền thế khinh bỉ ta thậm tệ. Ta chẳng có gia quyến gì ở đây, chi bằng trốn về Tràng An cáo biến, khiến cho cái vương tước của hắn phải mất ta mới hả dạ Nghĩ rồi thu thập hành trang, đang đêm lẻn vào Tràng An cáo biến.

Hán đế đòi vào hỏi:

– Ngươi là người ở đâu? Vào tố cáo việc cơ mật gì?

Thái Bộc nói:

– Thần tuy làm quan ở Lương, nhưng thực là bề tôi nhà Hán. Gần đây thấy Lương vương chiêu tạp binh mã, dụng ý phản loạn nên thần trốn về đây cấp báo.

Hán đế nói:

– Lời nói nhà ngươi có gì làm bằng chứng chăng?

Thái Bộc tâu.

– Trước đây, Trần Hy phản loạn, Bệ hạ truyền chỉ sai Lương vương đi dẹp loạn, Lương vương cáo bệnh không xuất quân, đó là bằng chứng thứ nhất. Lúc Hàn Tín bị giết, Lương vương khóc lóc rất thảm thiết, đó là bằng chứng thứ hai. Nếu không có ý khác sao lại hành động như vậy?

Hán đế liền sai triệu Trần Bình vào cung thượng nghị.

Trần Bình nói:

– Bành Việt thấy Bệ hạ giết Hàn Tín nên sanh dị tâm. Nay phải cho người đến triệu về. Nếu hắn chịu về thì bắt giữ lại, cách chức đi. Bằng hắn không chịu về, ta sẽ đem quân đến đánh.

Hán đế theo lời, sai Lục Giả đến Ðại Lương truyền triệu Bành Việt.

Lục Giả vâng mệnh đến nơi. Bành Việt tiếp đón rất hậu và nói:

– Quan Ðại phu đến đây có việc gì?

Lục Giả nói:

– Quan Thái Bộc nước Lương tố cáo ngài mưu phản, nhưng lời tố cáo thiếu bằng chứng, khiến cho Hoàng thượng nghi ngờ, bắt hắn giam lại, rồi sai tôi đến đây triệu ngài về triều để hỏi cho rõ ràng.

Bành Việt nói:

– Người ấy vì lâu nay chính sự bê trễ, tôi có vài lần khiển trách nên hắn thù tôi vu cáo đó. Nay Chúa thượng đã vời tôi về tôi xin tuân lệnh để tỏ lòng thanh bạch của tôi

Lục Giả nói:

– Ngài nghĩ như thế rất phải.

Bành Việt bèn đặt tiệc khoản đãi Lục Giả rồi sắp sửa hành trang để cùng Lục Giả ra đi.

Hổ Triệt bước ra can:

– Trong lúc Hán đế đang nghi ngờ, Ðại vương về triều không khỏi bị hại như Hàn Tín.

Bành Việt nói:

– Hàn Tín là kẻ có tội, còn ta là người trong trắng, lẽ nào lại trốn không về để cho thiên hạ cho ta là đứa phản phúc.

Lục GIả nghe Hổ Triệt nói vội vã bàn:

– Lời quan Ðại phu họ Hổ chẳng qua là cái lo tạm thời, chứ không phải cái lợi lâu dài. Nay có người tố cáo ngài, mà ngài không chịu về triều, tất nhằm vào âm mưu của kẻ vu cáo. Hoàng thượng sẽ đem quân đến đánh, chừng đó ngài tránh sao khỏi tội.

Bành Việt nghe Lúc Giả nói, suy nghĩ một lúc rồi quyết định về triều.

Lúc khởi hành, các bô lão nước Lương đồng kéo đến đưa tiễn rất đông.

Vừa ra đến cửa thành, Bành Việt thấy Hổ Triệt treo ngược đầu xương đất cố ý can gián.

Bành Việt nói:

– Cớ gì mà quan Ðại phu lại khổ gián như vậy?

Hổ Triệt nói:

– Tôi treo ngược đầu xuống đất còn được Ðai vương cứu, nhưng nếu Ðại vương về triều, bị khổ hình biết lấy ai cứu? Tấm gương Hàn Tín còn đó, sao Ðại vương đã quên.

Bành Việt nói:

– Lời quan Ðại phu tuy là xác luận, song lòng ta đang nóng gặp Hán đế để minh oan, không thể nghe lời quan Ðại phu được.

Dứt lời cùng Lục Giả thẳng tiến.

Bấy giờ gặp lúc vua Hán ra tuần du ở Lạc Dương.

Bành Việt liền đến nơi yết kiến.

Hán đế thấy mặt Bành Việt, nổi giận mắng:

– Ngày trước Trần Hy làm phản, ta sai nhà ngươi đi dẹp loạn sao nhà ngươi không đến?

Bành Việt tâu:

– Lúc ấy hạ thần bệnh, chứ không phải kháng lệnh.

Hán đế nói:

– Nay viên Thái Bộc tố cáo ngươi tội mưu phản, ngươi nói làm sao?

Bành Việt nói:

– Người ấy lười biếng, bỏ bê công việc bị hạ thần khiển trách, nên sanh thù oán. Xin Bệ hạ sáng soi kẻo hạ thần bị hàm oan.

Hán đế giao Bành Việt cho tòa Ngự Sử tra hỏi.

Bành Việt vẫn một mực kêu oan.Chợt có một người đến trước cửa tiểu xin vào yết kiến Hán đế.

Hán đế đòi vào hỏi:

– Nhà ngươi là ai?

Người ấy nói:

– Tôi là quan Ðại phu nước Lương tên Hổ Triệt.

Hấn đế hỏi:

– Nhà người đến đây có việc gì?

Hổ Triệt nói:

– Bệ hạ lúc trước bị khốn nơi Huỳnh Dương, nếu không có Lương vương chặn đường lương của Sở, thì Bệ hạ đâu có ngày nay. Lương vương hết lòng với Bệ hạ như thế mà Bệ hạ nghe lời vu cáo, làm hại Lương vương, thiên hạ sẽ kinh động chăng?

Hán đế nghe nói, lòng hoang mang chưa quyết. Hổ Triệt vẫn quỳ mãi trước thềm không chịu lui ra.

Hán đế nói:

– Trẫm có ý định giết Bành Việt. Nay nghe lời ngươi cũng có lý. Vậy trẫm cách chức Bành Việt, cho làm thứ dân ở huyện Thanh Y thuộc Tây Xuyên, trọn đời không được hưởng bổng lộc gì cả.

Lại phong cho Hổ Triệt làm quan Ðại phu.

Hổ Triệt nói:

– Lương vương bị cách chức, tôi lẽ nào lại nhận làm quan! Xin Bệ hạ cho tôi được về cày ruộng là đủ lắm rồi.

Hán đế thở dài, truyền Hổ Triệt lui ra.

Bành Việt bị đày đi Tây Xuyên, lòng đau đớn nhưng không biết nói sao, âm thầm sắp sửa hành trang lên đường.

Một hôm, đi đến Ðồng Quan bỗng gặp Lã hậu cùng sang Lạc Dương với Hán đế.

Bành Việt thấy Lã hậu, khóc lóc chạy đến trước long xa kêu oan.

Lã hậu hỏi:

– Nhà ngươi là ai? Có việc chi?

Bành Việt nói:

– Tôi là Lương vương Bành Việt, vốn vô tội, Chúa thượng nghe lời tên nô bộc vu oan, đày tôi sang đất Thục, xin Hoàng hậu cứu gỡ cho.

Lã hậu nói:

– Vậy thì nhà ngươi theo ta đến Lạc Dương, ta sẽ tâu xin Hoàng thượng tái xét.

Bành Việt dập đầu tạ ơn và nói:

– Nếu Hoàng hậu cứu tôi phen này thật là ơn tái tạo

Lã hậu đến Lạc Dương, vào yết kiến Hán đế và tâu:

– Bành Việt là một tráng sĩ, trí dũng có thừa. Nếu hắn đã sanh tâm tạo phản thì nên giết phứt đi, sao lại đày vào đất Thục cho sanh thù oán. Thần thiếp gặp hắn ở giữa đường, có đem hắn về đây, xin Bệ hạ xét nghĩ.

Hán đế nói:

– Lã hậu nói rất phải.

Liền truyền lệnh đem Bành Việt ra chém, kết tội phản quốc.

Lã hậu lại nói:

– Thiên hạ vì thấy Bệ hạ nhân từ nên coi thường uy lực, không tuân phép nước. Nay nên đem xác Bành Việt ướp làm mắm rồi chia cho chư hầu. Có thế chư hầu mới không dám loạn động.

Hán đế theo lời, toan đem xác Bành Việt làm mắm, bỗng có một người từ phía Ðông thành Lạc Dương chạy đến, ôm thây Bành Việt vừa khóc, vừa nói:

– Oan ức thay

Quân canh liền bắt nộp cho Hán đế. Hán đế hỏi:

– Ngươi là ai? Tại sao ôm thây kẻ tôi mà khóc?

Người ấy nói:

– Tôi là Loan Bố, người đất Xương ấp làm chức Ðại phu ở nước Lương. Tại vì thấy Lương vương chết oan, nên đến đây khóc.

Hán đế nói.

– Lương vương mưu phản, sao ngươi lại bảo là chết oan.

Loan Bố nói:

– Ngày xưa, Bệ hạ bi khổn nơi Huỳnh Dương, Hàn Tín thì nằm yên nơi Bắc Hà không đến, trong cơn nguy ngập ấy Lương vương đã kéo binh đến chận đường lương của Sở, khiến cho Sở phải lui binh. Chẳng những thế, mấy lần Bệ hạ lâm nguy, Lương vương đều tận tâm giải cứu.

Nay thiên hạ thái bình, kẻ có công mong được cộng hưởng vinh hoa, thi Bệ hạ lại nghi ngờ, nghe kẻ thất phu hãm hại tôi trung. Tôi chỉ sợ sau này công thần ai nấy đều tự lo thân mình, chẳng ai muốn cùng Bệ hạ lo việc thiên hạ.

Nói xong, Loan Bố lại cất tiếng khóc ầm ĩ.

Hán đế ngồi yên một lúc, không nói lời nào, rồi truyền phong cho Loan Bố làm chức Ðô úy.

Loan Bố từ chối, nói:

– Thần không muốn làm quan, chỉ ước mong được thu nắm xương tàn của Lương vương đem về mai táng.

Hán đế nhậm lời. Loan Bố liền đem hài cốt Bành Việt về đất Lương.

Ngay lúc đó, quân sĩ đã lóc hết thịt của Bành Việt để làm mắm rồi, Loan Bố chỉ còn thu nhặt bộ xương trắng đem đi mà thôi.

Quân sĩ làm mắm xong, Hán đế sai đem chia cho các chư hầu mỗi nơi mỗi lọ.

Một hôm, sứ thần đem mắm đến Hoài Nam đưa cho Anh Bố.

Gặp lúc Anh Bố đang bày tiệc ở lầu Vọng Giang, thết đãi quần thần, thấy vua ban lọ mắm, vội vàng bái lĩnh và mở ra nếm một miếng.

Mắm vừa qua khỏi cổ, Anh Bố bỗng nôn ọe ra ngã xỉu xuống đất.

Tả, hữu xúm lại đỡ dậy. Hồi lâu Anh Bố mới tỉnh, lòng nghi ngại, hỏi sứ thần:

– Thịt gì có mùi vị lạ vậy?

Sứ giả không dám giấu, thực mình kể lại. Anh Bố nổi giận hét lớn rút gươm chém sứ giả rơi đầu, rồi điểm hai mươi vạn binh đóng ngoài thành, quyết chống lại Hán đế.

Tin ấy đồn khắp xa gần.

Bỗng một hôm, Loan Bố mặc đồ tang, chống gậy tre tìm đến yết kiến Anh Bố kể lại việc Lương vương chết oan.

Loan Bố nói:

– Trước kia nhờ có Hàn hầu, Lương vương và Ðại vương ra công diệt Sở, nghiệp Hán mới thành. Thế mà Hán đế đang tâm giết Hàn hầu và Lương vương, không tưởng đến chút công lao. Nay chỉ còn Ðại vương đây, tôi e sớm muộn không khỏi vạ.

Anh Bố nói:

– Tôi đã giết sứ thần, quyết dấy binh báo thù cho Hàn hầu và Lương vương. Nay lại có quan Ðại phu đến đây giúp đỡ công việc ắt thành.

Phi Hách nói:

– Phàm việc quân, trước tiên phải tạo lấy thế. Ðại vương nên truyền hịch đến các vùng Yên, Triệu, chiếm giữ đất Sơn Ðông làm căn bản, rồi sau sẽ tính việc giao tranh. Chớ nên vì cái nộ khí nhất thời mà hỏng việc lớn.

Anh Bố nói:

– Việc trả thù rất gấp, lòng ta như lửa đốt, thế mà ngươi lại bảo diên trì, để thủ thế thì bao giờ mới trừ được cừu nhân?

Anh Bố chẳng nghe lời Phi Hách, tức tốc điểm binh đánh đất Thượng Sái và đất Ngô. Vua chư hầu hai nước này là Lưu Giao và Lưu Giả đem quân chống cự. Thế quân của Anh Bố quá mạnh, Lưu Giao và Lưu Giả cự không lại đều bị tử trận.

Tin báo về đến Tràng An, Hán đế thất kinh, triệu các tướng vào triều nghị kế.

Các tướng nói:

– Anh Bố là đứa hữu dõng vô mưu, làm được trò gì mà lo.

Như Âm hầu Thắng Công nói:

– Tôi có một người môn khách, nguyên là quan lệnh doãn nước Sở, tên Tiết Công. Lúc hay tin Anh Bố làm phản, hắn cười lớn nói: “Kẻ ấy mà làm nên việc gì”. Hạ thần đoán chắc là Tiết Công có kế gì hay!

Hán đế vội sai người tiểu Tiết Công đến hỏi.

Tiết Công tâu:

– Sách lược của Anh Bố có ba đường. Nếu hắn dùng thượng sách thì Bệ hạ phải mất hẳn Sơn Ðông, thiên hạ chia đôi. Nếu hắn dùng trung sách thì hai bên thắng bại chưa biết. Nếu hắn dùng hạ sách thì nhà Hán vững như bàn thạch không lo ngại gì cả.

Hán đế hỏi:

– Thế nào là thượng sách?

Tiết Công nói:

– Mặt Ðông lấy Ngô, mặt Tây lấy Sở, gồm Tề, nuốt Lỗ, truyền hịch đi các vùng Yên, Triệu, thì dù Bệ hạ có bá vạn hùng binh cũng không thể nào chiếm lại đất Sơn Ðông nổi.

Hán đế hỏi:

– Thế nào là trung sách?

Tiết Công nói:

– Mặt Ðông lấy Ngô, mặt Tây lấy Sở, gồm Hàn, chiếm Ngụy, giữ kho thóc Ngao Thương, lấy cửa Thành Cao, như vậy Bệ hạ khó mà thắng nổi.

Hán đế hỏi:

– Còn thế nào là hạ sách?

Tiết Công nói:

– Ðông lấy Ngô, Tây lấy Thượng Sái, để ý đất Việt, kéo quân đến Trường Sa đánh vào Tràng An. Như vậy Bệ hạ có thể yên gối mà nằm.

Hán đế hỏi:

– Ngươi đoán chừng Anh Bố sẽ theo đường nào?

Tiết Công tâu:

– Anh Bố quyết sẽ theo hạ sách.

Hán đế hỏi?

– Tại sao vậy?

Tiết Công nói:

– Anh Bố là bọn ly sơn, không phải người trí dũng chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không để ý đề phòng những tai hại về sau. Tôi chắc Anh Bố sẽ theo hạ sách.

Hán đế mừng rỡ, phong cho Tiết Công làm chức Thiên Hộ, rồi truyền điểm quân, ngự giá thân chinh, giao Tiêu Hà ở lại Tràng An coi việc nhiếp chính.

Lúc đó vào mùa đông năm thứ mười hai nhà Ðại Hán.

Ðại binh của Hán đế kéo đến đóng dọc bờ sông Hoài, hai bên gặp nhau đình binh hạ trại và sai người dò xét địch tình.

Chẳng bao lâu, quân thám thính trở về báo với Hán đế:

– Anh Bố đã lấy đất Ngô, thuận đường kéo qua sông Hoài, chiếm Thượng Sái rồi. Ðịch quân chỉ còn cách nơi đây mười dặm.

Hán đế cười lớn nói:

– Lời Tiết Công quả không sai.

Liền sai Vương Lăng dẫn một đội binh mã đi trước thám thính, và sai Chu Bột, Quán Anh theo sau tiếp ứng.

Ngay lúc đó Anh Bố cũng đã hay tin đại binh Hán đế kéo đến một mặt củng cố dinh trại, sắp đặt việc canh phòng nghiêm mật, một mặt dẫn quân qua mé Ung Sơn để dò chừng địa thế.

Vừa đến nơi, gặp đội binh của Vương Lăng cũng vừa đến.

Vương Lăng giục ngựa đến trước, gọi Anh Bố mắng lớn:

– Nhà ngươi chẳng qua là một tên phu làm mướn ở Ly Sơn, một sớm được phong tước vương, lẽ ra lấy thế làm thỏa mãn lắm rồi cớ sao còn manh tâm phản loạn?

Anh Bố nổi giận hét:

– Lưu Bang là đứa rượu chè nơi huyện Bái, nhờ được bọn ta giúp sức mới nên nghiệp lớn. Thế mà đặng chim bẻ ná, bội nghĩa vong ân, giết Hàn Tín, hại Bành Việt. Ta quyết trả thù cho hai kẻ ấy. Còn bọn các ngươi cũng nên sớm tỉnh ngộ, cùng ta diệt đứa bất nhân để khỏi ân hận về sau.

Vương Lăng không đáp, cầm đao phóng tới. Anh Bố cũng vang búa đánh lại. Hai bên hỗn chiến được một lúc thì quân Hán ồ ạt kéo đến tiếp cứu.

Quân Anh Bố cự không lại chạy trốn tản mác nơi chân núi.

Hán đế cưỡi con bạch long ung dung tiến đến, thấy quân Anh Bố thua chạy, liền ra lệnh đuổi theo truy kích.

Chẳng ngờ Loan Bố núp sau hốc núi, thấy Hán đế đi qua, giương cung bắn một mũi, tên găm vào bả vai, Hán đế sa xuống ngựa.

Tả hữu thất kinh, xúm lại đỡ Hán đế lên ngựa, đưa về trại. Các tướng Hán nghe tin ấy không ai còn hăng đánh nữa, lần lượt kéo binh về.

May thay! Hán đế bị mũi tên không nặng lắm, ngày hôm sau có thể đứng dậy được.

Thấy các tướng vào viếng an, Hán đế nói:

– Anh Bố thấy ta thọ tiễn ắt không phòng bị, các ngươi nên thừa cơ đánh một trận tất thắng.

Trần Bình nói:

– Chớ nên đánh vội. Cứ án binh bất động làm cho Anh Bố tưởng Bệ hạ bị thương nặng, sanh lòng kiêu ngạo, chừng ấy mới xuất quân.

Hán đế theo lời, truyền quân canh phòng cẩn mật.

Lại sai Tào Tham lĩnh ba vạn quân đến Lục An tróc nã gia quyến Anh Bố, lại sai Ky Thông lĩnh hai vạn quân phục sau trại Anh Bố, sai bọn Chu Bột đóng giữ bến Hoài Giang. Tất cả đều chuẩn bị, chờ mệnh lệnh.

Anh Bố thấy Hán đế mấy ngày không ra quân, mừng rỡ nghĩ thầm:

– Hán đế tất bị thương nặng nên án binh bất động. Ta nên thừa cơ tiến đánh.

Loan Bố nói:

– Ta nên dò xét cẩn thận, e họ có mưu kế gì khác chăng?

Anh Bố nói:

– Thế trận đã vậy còn chờ gì nữa.

Liền chia hai cánh quân kéo đến khiêu chiến. Song suốt ba ngày, dinh Hán không có một người nào ra đối địch.

Anh Bố nói:

– Vua quả đã bị thương, nên quân không chủ tướng. Ðêm nay ta thừa cơ đến cướp trại chắc được toàn thắng.

Loan Bố nói:

– Bọn Trần Bình có sẵn nhiều chước quỉ. Tôi e chúng có mưu kế gì đây.

Nói chưa dứt lời, có quân vào báo:

– Ðại dinh đã bị tướng Hán là Kỷ Thông cướp mất rồi. Hiện bọn Chu Bột đang đóng giữ cửa sông, còn Tào Tham thì đem binh đến Lục An, bắt hết gia quyến của Ðại vương.

Anh Bố nghe báo thất kinh vội vã thu quân dồn về phía sau núi đóng trại. Song chưa kịp lui binh thì đã thấy trong dinh Hán có một cánh binh mã hùng hổ kéo ra, tướng cầm đầu là Phàn Khoái.

Phàn Khoái giục ngựa đến, lớn tiếng gọi Anh Bố nói:

– Nhà ngươi mau đầu hàng kẻo mất mạng.

Anh Bố nổi giận, kềm ngựa lại cùng Phàn Khoái giao chiến.

Hai tướng đánh nhau hơn hai mươi hiệp, quân Hán ồ ạt kéo đến tiếp viện.

Anh Bố không dám đánh nữa quảy ngựa bỏ chạy. Quân Hán thừa thế đuổi theo, giết quân Anh Bố không biết bao nhiêu mà kể.

Anh Bố chạy đến mé sông Hoài, nhìn đàng sau chỉ còn hơn hai mươi quân kỵ, nghĩ thầm:

– Nếu lẩn quẩn nơi đây mạng ta ắt chẳng còn, chi bằng qua đất Ngô, tìm đến nhà người bạn là Ngô Nhuế ẩn thân, chiêu tập nghĩa sĩ rồi sẽ tính.

Nghĩ rồi giục ngựa qua sông Hoài, nhắm phía Ðông Nam chạy thẳng.

Hán đế thấy Anh Bố chạy trốn, liền thu quân về trại, mật sai người dò xem Anh Bố chạy đến đâu? Trú ngụ nơi nào? Rồi sẽ tìm kế đến bắt.

Anh Bố chạy đến đất Ngô, vào nhà Ngô Nhuế, nhưng rủi thay, lúc đó Ngô Nhuế đi săn, vắng nhà, chỉ có người cháu là Ngô Thành ở đó.

Ngô Thành trước kia từng bị Anh Bố làm nhục, lòng căm phẫn chưa nguôi. Nay thấy Anh Bố làm phản, bị quân Hán đánh tan tành, nên nghĩ thầm:

– Anh Bố là đứa vũ phu, trước kia ỷ thế, trấn thủ Hoài Nam, xem người như cỏ rác. Nay đến đây ta cũng nên trả thù cho hả dạ.

Nghĩ rồi bước ra tiếp đón Anh Bố vào phủ, sai tả, hữu đặt tiệc khoản đãi.

Anh Bố hỏi:

– Lệnh thúc đi chơi đâu vắng?

Ngô Thành nói:

– Chú tôi khi rảnh việc thường đến Nam Sơn săn bắn, có khi năm sáu bên mới về. Xin Ðại vương cứ an lòng ở đây nghỉ ngơi ít bữa.

Anh Bố nói:

– Bữa trước tôi xuất quân sang Ngô, nhờ được lệnh thúc đem quân ra hàng nên tôi mới lấy được Thương Soái và kéo binh đến Thiện Tây. Chẳng ngờ bị sa cơ, để quân Hán cướp trại, thế quân bị thất. Nay tôi định đến đây tạm trú ít hôm, đợi lệnh thúc về sẽ họp binh mã cùng quân Hán quyết chiến. Nếu thu được thiên hạ, phú quý chúng ta cùng hưởng.

Ngô Thành giả cách vâng lời, cố mời Anh Bố uống rượu. Anh Bố uống đến say mèm, rồi ra nhà công quán nằm ngủ.

Gần đến canh hai, Ngô Thành dẫn bốn mươi tráng sĩ, trang bị dao mác, từ phía sau nhà công quán trèo tường vào, sẽ lén đến chỗ Anh Bố nằm ngủ.

Ðến nơi, thấy Anh Bố đang ngáy như sấm. Ngô Thành rút kiếm, chém một nhát, đầu Anh Bố rơi xuống. Ở phòng bên cạnh, có vài mươi tên quân hầu, nghe động, la ầm lên.

– Bên phòng Ðại vương có việc gì thế?

Chúng đổ xô chạy đến. Nhưng bốn mươi tráng sĩ của Ngô thành chân lại giết hết.

Ngô Thành đem thủ cấp của Anh Bố đến nạp cho Hán đế.

Hán đế mừng rỡ, truyền Ngô Thành đem đầu Anh Bố vào, Trần Bình can:

– Không nên, Anh Bố là tay kiện tướng một thời, nay thốt nhiên bị giết như vậy hồn phách chưa tan nếu đến gần e ác khí xung phạm vào long thể.

Hán đế nói:

– Trẫm từ lúc khởi binh đất Bái, đã từng xông pha trăm trận, trải mấy mươi năm chiến đấu? Những đầu lâu lớn nhỏ trông thấy biết muôn vạn, nào sá gì cái đầu của Anh Bố mà sợ.

Liền truyền đem thủ cấp Anh Bố vào.

Hán đế vừa trông thấy, đã buột miệng mắng lớn:

– Thất phu! Không biết giữ bổn phận làm tôi, mưu tâm phản loạn. Nay đã bị chém đầu, phỏng còn ngang dọc ở vùng Ngô Sở nữa chăng?

Lời Hán đế vừa dứt, chiếc đầu Anh Bố cử động, râu tóc dựng ngược lên, rồi một luồng ác khí xông ra, bay vào mặt Hán đế làm cho Hán đế xây xẩm, té xuống đất.

Hồi 47 – Trương Lương bày kế giúp thái tử

Tả hữu thấy Hán đế bi ác khí xông váo mặt, ngã xỉu xuống đất, liền xúm lại đỡ dậy đưa vào nội cung, tìm ngự y điều trị.

Qua mấy ngày nằm liệt trên giường, Hán đế không nói năng gì cả. Các tướng vào vấn an, đem lòng lo lắng.

May thay! Chỉ độ mười ngày Hán đế lần lần tỉnh lại rồi bình phục.

Một hôm, Hán đế lâm triều, đòi Ngô Thành vào, ban thưởng rất hậu, và phong chức Trung Nghị hầu, lại viết chiếu khuyên Ngô Nhuế dụng tâm gìn gìn đất Giang Hạ, phong con Lưu Trọng là Lưu Hán làm Ngô vương, cho trấn thủ đất Giang Ðông.

Qua một thời gian, Hán đế lại đi tuần du khắp nơi, để vỗ về dân chúng. Khi đến nước Lỗ thấy có đền thờ đức Khổng tử ở làng Khuyết Lý, Hán đế bèn thân xuất trăm quan đến đó làm lễ tế, rồi phong cho con cháu họ Khổng làm quan cả.

Xong việc ấy, Hán đế lại trở về Phong Bái, đặt tiệc rượu ở Bái cung, cho mời tất cả bô lão trong vùng và các trẻ con nơi đó đến dự.

Tiệc rượu linh đình suốt mấy ngày đêm không ngớt tiếng đàn, tiếng hát.

Hán đế tự mình đặt ra một bài hát, dạy bọn trẻ con hát như sau:

Gió lộng trời cao thẳm

Rồng vườn mây cùng bay!

Giang sơn này! Sự nghiệp này!

Phong lưu cho bõ những ngày lao lung

Bọn trẻ hát vang trời. Hán đế bất giác cảm động, ứa nước mắt nói với các bô lão:

– Kẻ du tử này nghĩ đến cố hương không khỏi động lòng bi cảm. Như ta, lúc còn bé, ngày ngày cùng các người hàng xóm gần gũi chuyện trò, tình quyến luyến thực không nỡ dứt. Ðến sau, Khởi binh ở Phong Bái, ngược xuôi trong trường chinh chiến, sống chết như cánh lông hồng, trải bao nguy nan, nay mới gầy nên sự nghiệp. Và ngày nay, ta đã trở nên người có tuổi tác, mà các ông thì cũng đã đầu bạc răng long. Nghĩ lại việc xưa, tình cảm biết mấy. Ta đây, tuy trong cảnh phú quý, song lúc muôn tuổi vong hồn sẽ về nơi quyến luyến với đất Phong Bái.

Nói xong, lấy huyện Bái làm ấp Thang Mộc, miễn cả các sắc thuế trong vùng.

Dân chúng reo vui, các bô lão cả ngày đến chầu chực rộn rịp.

Hán đế thấy thế sợ làm phiền nhiễu mọi người, tỏ ý trở về Tràng An. Các bô lão cố nài, xin vua ở nán lại cho thỏa tình hoài vọng.

Hán đế nói:

– Trẫm về đây binh mã quá nhiều, huyện Bái chỉ là một ấp nhỏ, làm sao cung cấp nổi! Nếu ở lâu sanh điều phiền toái.

Hán đế chỉ ở lại thêm mấy ngày nữa rồi truyền lệnh xa giá trở về Lạc Dương.

Lã hậu, Thái tử, Thích Cơ, Như Ý và văn võ bá quan đều ra ngoài thành nghênh tiếp.

Hán đế truyền mở tiệc ăn mừng, khao thưởng tướng sĩ.

Từ đó, thiên hạ thái bình thịnh tri, lớn nhỏ lạc nghiệp âu ca.

Hán đế có lòng yêu thứ hậu Thích Cơ, nên Lã hậu đem lòng ghen tức nhiều lần tìm cách gây sự với Thích Cơ. Nhưng Thích CƠ vẫn một mực nhẫn nhục.

Một hôm Hán đế yếu mình, Thích Cơ nhân vào cung chầu chực, tâu với Hán đế:

– Bệ hạ xuân thu đã cao, nếu thánh ý không quyết định thế nào e mẹ con thần thiếp sau này phải bị tận diệt.

Hán đế nói:

– Việc đó rất dễ. Thỉnh thoảng rồi trẫm sẽ tính.

Một hôm, Hán đế ngự sang Tây cung, cùng Thích Cơ uống rượu. Lúc say, Hán đế gối đầu vào đùi Thích Cơ ngủ thiếp. Lã hậu cho người do thám, biết được liền thân hành đến Tây cung.

Kẻ hầu cận vội vào báo với Thích Cơ, nhưng Thích Cơ bị Hán đế gối đầu trên vế, không biết làm cách nào để ra tiếp đón Lã hậu được.

Lã hậu xông vào, chỉ mặt Thích Cơ mắng:

– Con tiện tỳ, mày mỗi khi gặp ta thường tỏ ra vô lễ. Nay ta đến cung mày, mày không đứng dậy, phỏng có còn ra thể thống gì nữa.

Thích Cơ thưa:

– Tiện thiếp hay Chánh hậu đến, song Chúa thượng đang an giấc, không dám kinh động, có đâu lại dám thất lễ.

Lã hậu nói:

– Mỗi việc mày đều đưa Chúa thượng ra để che chở.

Sau này lúc Chúa thượng trăm tuổi ta xem thử lấy ai che chở mày.

Nói rồi bỏ ra ngoài. Thích Cơ ngồi lặng hồi lâu, nước mắt ràn rụa rơi vào mặt rồng.

Hán đế chực thức dậy, thấy Thích Cơ đang khóc liền hỏi:

– Ái khanh có việc gì mà khóc thế?

Thích Cơ thưa:

– Vừa rồi Bệ hạ nằm ngủ say trên vế thiếp, chợt Chánh hậu từ ngoài vào, thiếp sợ giấc rồng bị động, chẳng dám đứng dậy ra tiếp đón. Chánh hậu vào đây quát mắng, buông lời hăm dọa, thần thiếp tủi phận mà khóc.

Dứt lời Thích Cơ quỳ móp xuống đất, cơn buồn đang tràn trên nét sóng thu, khiến Hán đế lòng bối rối, cảm động đưa tay kéo áo, vỗ về:

– Ái khanh cứ an lòng. Trẫm sẽ tìm cách bảo vệ cho mẹ con ái khanh. Ngày mai vào triều, trẫm sẽ bàn với quần thần, đổi ngôi Thái tử, thử xem Lã hậu từ nay còn đám bạc đãi ái khanh nữa chăng?

Thích Cơ dập đầu lạy tạ. ngày hôm sau, vua lâm triều bá quan ứng hầu đủ mặt, Hán đế viết chiếu ban cho quần thần truyền bàn việc đổi Thái tử sao cho hợp với công luận, không được câu nệ theo ý riêng của mình.

Các quan tuân lệnh, đem việc đó đến phủ Thừa Tướng bàn bạc.

Lã hậu hay được, vội gọi Lã Trạch vào nói:

– Hoàng thượng vì yêu mến Thích Cơ, chẳng nghĩ đến phải trái, mấy lần triệu tập quần thần bàn việc đổi ngôi Thái tử. Nhà ngươi có kế chi giúp ta chăng?

Lã Trạch nói:

– Hạ thần kiến thức thức hẹp hòi, không đủ để mưu việc lớn. Xin Hoàng hậu mật sai người đến hỏi Trương Tử Phòng may ra có kế hay.

Lã hậu nói:

– Tử Phòng nay đã tịch cốc tu hành còn muốn tham dự gì đến việc nước?

Lã Trạch nói:

– Hạ thần vẫn quen biết với con Tử Phòng là Tích Cường, vậy nhờ hắn khéo nói với Tử Phòng, ắt Tử Phòng không nở từ chối.

Lã hậu liền sai Lã Trạch và Tử Cường đến yết kiến Trương Lương.

Trương Lương từ chối không tỏ ý.

Lã Trạch nói:

– Tôi vâng mệnh Hoàng hậu tới đây vấn kế, nếu Tôn công không chỉ dạy, tôi biết về tâu với Hoàng hậu làm sao. Thôi thà tôi liều chết ở đây chứ quyết không ra khỏi cửa này.

Trương Lương nói:

– Việc ấy không phải tôi không muốn nói. Chỉ sợ nói ra không tiện mà thôi.

Lã Trạch nói:

– Lời Tôn công nói ra chỉ lọt vào tai tôi, có gì mà không tiện?

Trương Lương suy nghĩ một lúc rối ghé vào tai Lã Trạch nói nhỏ:

– Ngày thường, Bệ hạ vẫn nghe tiếng bốn hiền sĩ ẩn trong núi Thương Sơn. Núi này hiểm trở lắm, bốn người ấy chỉ ăn cỏ chi, uống nước suối mà sống thảnh thơi. Bệ hạ đã nhiều lần vời về triều, nhưng họ nhất định không ra. Bệ hạ lại có ý muốn trừ họ đi, song sợ thiên hạ chê bai, tàm cho kẻ hiền sĩ bốn phương không dám tìm đến triều phục. Vì vậy mà Bệ hạ đành chịu vậy. Nay Chánh hậu nên chọn một người ăn nói giỏi, dùng lễ vật mời họ về triều can ngăn. Lời nói của bốn người ấy có sức mạnh hơn trăm vạn binh hùng, ngôi Thái tử sẽ không mất.

Lã Trạch nói:

– Xin Công tôn cho biết tên bốn người hiền sĩ đó.

Trương Lương nói:

– Bốn người đó có một người họ Ðường tên Tuyên Minh, quê ở Ðông viên, hiệu là Ðông Viên Công Một người họ Y tên Lý Quý, quê ở hàm Ðan, trước ẩn ở Thương Nam. sau cùng Ðông Viên kết bạn. Một người họ Thôi, tên Hoàng, tự là Thiếu Thông, quê ở nước Tề, ẩn ở Hạ Hoàng, niên hiệu là Hạ Hoàng Công. Một người họ Chu tên Thuật, tự là Nguyên Ðạo, người ở Hà Nội, hiệu là Giốc Lý Tiên sinh.

Lã Trạch liền trở về cung tâu lại với Lã hậu.

Lã hậu sai nội sứ sắm sửa vàng rồng, bạc nén, cùng đem theo bốn con ngựa tốt đến Thương Sơn tìm yết kiến bốn nhà ẩn sĩ.

Lúc ấy, bốn ông già vừa đi hái rau chi về, thấy sứ giả đem lễ vật đến quỳ móp bên chân núi, liền hỏi:

– Quý ngài có việc gì đến đây lại thủ lễ với chúng tôi dường ấy?

Sứ giả nói:

– Hoàng Thái tử ngày nay là người nhân hiền, lâu nay vẫn ngưỡng mộ danh các ngài, vì vậy sai chúng tôi đến đây rước bốn ngài về triều giúp đỡ, và dạy bảo Thái tử để thành cái nghiệp thái bình thịnh trì.

Bốn vị ẩn sĩ ban đầu từ chối nhưng sau cùng sứ giả thành khẩn, quỳ mãi không đứng dậy, nên bằng lòng thu lễ vật, sắm sửa hành trang về Tràng An yết kiến Thái tử.

Lã hậu đặt tiệc khoản đãi bốn hiền sĩ rất long trọng.

Từ đó bốn người sớm tối cùng Thái tử bàn luận việc thiên hạ, một phút không rời.

Ngày kia Hán đế lâm triều, hỏi quần thần:

– Trẫm giao cho quần thần định việc lập ngôi cho Thái tử chẳng hay ý các khanh thế nào?

Thúc Tôn Thông và Chu Xương bước ra tâu:

– Xưa Tấn Hiếu Công vì say mê nàng Ly Cơ, bỏ Thế tử lập Hề Tề nên nước Tấn bị loạn mười năm. Nước Tần vì không sớm định ngôi Thái tử của Phù Tô khiến Triệu Cao được dịp trái lập họ Hồ mà nghiệp Tần phải mất. Ðó là những tấm gương Bệ hạ từng thấy rõ. Nay Thái tử là người nhân hiếu, thiên hạ đều biết tiếng cả. Bệ hạ lại bỏ con lớn, lập con thứ, sao cho khỏi thiên hạ dị nghị.

Hán đế nghe nói, vung tay áo, bỏ đứng dậy đi vào trong, định sang Tây cung, nhưng vừa đi đến tiền điện xảy gặp Thái tử từ điện Văn đức đến, có bốn ông già theo sau.

Hán đế ngạc nhiên hỏi:

– Bốn người kia từ đâu đến?

Bốn người phục xuống đất xưng rõ họ tên. Hán đế kinh ngạc, hỏi:

– Trẫm nghe danh các ngươi đã lâu, dùng hậu lễ đến rước cớ sao các ngươi không đến, nay lại theo con ta?

Bốn người nói:

– Bệ hạ vẫn có tánh hay khinh kẻ sĩ, vì vậy chúng tôi khiếp sợ xa lánh. Nay nghe Thái tử là người nhân hiếu, nguyện đem thân đến phò.

Hán đế nói:

– Phiền các ngươi cố gắng dạy bảo Thái tử.

Bốn ông già phục xuống lạy tạ, tướng mạo uy nghi, khí phách trang nhã. Hán đế đứng nhìn một lúc rồi mới dời chân.

Sang đến Tây cung, Thích Cơ ra rước vào, Hán đế thuật lại chuyện triều thần can ngăn không cho đổi ngôi Thái tử.

Thích Cơ nghe nói, bất giác rơi lệ. Hán đế an ủi:

– Ðể ta phong cho Như Ý đến một nơi đất tốt, làm căn bản lập nghiệp không còn lo gì nữa.

Thích Cơ nói:

– Tại sao hôm nay Bệ hạ đổi ý?

Hán đế nói:

– Thái tử vừa thu nạp được bốn kẻ sĩ có tài, như thế tức là vây cánh đã định. Vả lại Thái tử cũng là bậc nhân hiếu thiên hạ đều ngưỡng phục. Nếu thay đổi e sanh biến.

Thích Cơ dập đầu lạy tạ nói:

– Thần thiếp chỉ ước mong làm sao sống an thân là đủ rồi, có đâu dám cao vọng. Chẳng hay Bệ hạ định phong Như Ý nơi nào?

Hán đế nói:

– Vừa rồi ta đi tuần du ở Hàm Ðan, thấy phong thổ thuần hậu, nhân dân giàu mạnh, đó là nơi hiểm trở, trước có Yên Ðài ngăn cách, sau có Chương Hà bủa vây, đất vuông nghìn dặm, hiền sĩ khá nhiều. Nếu đóng đô ở đấy cũng như đống đô ở Tràng An, suốt đời thanh nhàn sung sướng. Vả lại Hàm Ðan cách Tràng An xa lắm, có thể làm chỗ dung thân được.

Thích Cơ nói:

– Phong Như Ý làm Triệu vương, thiếp xin cảm tạ ơn dày của Bệ hạ, song Như ý hãy còn trẻ dại, cần phải có một người theo bảo vệ, ngỏ hầu mới giữ nổi cõi bờ.

Hán đế nói:

– Trẫm sẽ lựa một người đủ tài trí theo phò, ái khanh chớ lo.

Ngày hôm sau, Hán đế ngự triều, cùng văn, võ bá quan đàm đạo.

Hán đế nói:

-Trẫm y theo lời luận của quấn thân, không đổi ngôi Thái tử, song xét Như Ýcũng đã lớn tuổi, không nên để mãi trong cung, trẫm muốn phong cho Như Ý làm Triệu vương, đóng đô ở Hàm Ðan, các khanh nghĩ thế nào?

Quần thần tâu:

– Bệ hạ phong Như ý làm Triệu vương rất hợp với công luận

Hán đế nói:

– Như Ý đến Hàm Ðan cần phải có một người theo giúp đỡ sớm tối dạy bảo. Vậy các khanh xem thử ai có thể đảm dương việc ấy?

Tiêu Hà nói:

– Quan Ngự sử Chu Xương là một người chính trực, có thể tin cậy việc ấy được.

Hán đế truyền đòi Chu Xương đến ban trách nhiệm.

Chu Xương nói:

– Bệ hạ sai thần việc gì thần đâu dám trái mệnh, song thần xin Bệ hạ viết tờ thủ sắc gồm có ba điều, mới tránh khỏi tai họa về sau.

Hán đế hỏi:

– Ba điều ấy là điều gì?

Chu Xương nói:

– Ðiều thứ nhất, không nên bắt về triều, e địa phương không người coi giữ. Ðiều thứ hai, lúc đến nước Triệu, nhị Ðiện hạ phải nghe lời thần khuyên can. Ðiều thứ ba, nhị Ðiện hạ không nên thường thường cùng với thứ hậu giao thông tin tức. Ðược ba điều ấy, hạ thần mới có thể bảo vệ Triệu vương sau này được.

Hán đế nói:

– Ba điều ấy chẳng có gì khó khăn cả.

Liền viết sắc trao cho Như ý, truyền Như Ý sắm sửa đi trấn nhậm.

Như Ý vào giã biệt Thích Cơ.

Thích Cơ nói:

– Mẹ cùng con ngày nay ly biệt, chưa biết đến bao giờ mới gặp mặt.

Hai mẹ con ôm nhau khóc ròng.

Ngày hôm sau Như Ý khởi hành, Hán đế ngự ra tận ngoài thanh đưa tiễn.

Chu Xương đem cả gia quyến, cũng ngày hôm ấy theo Triệu Vương đến Hàm Ðan.

Hán đế tiễn Như Ý xong, trở vào cung, vừa đi đến cửa thành bỗng có một người cầm một tờ trạng đến trước mặt tâu:

– Tiêu Thừa tướng cho dân cày chỗ đất công trong vườn ngụ lâm, lấy của công để mua lòng riêng đó là bất trung, xin bệ hạ minh xét.

Hán đế nghe nói nổi giận mắng:

– Vậy ra Tiêu Hà ăn tiền của dân, rồi lấy khu đất của ta trong vườn thượng lâm cho dân cày. Thế là trái đạo tôi.

Liền sai quan Ðình úy bắt Tiêu Hà bỏ vào ngục.

Tiêu Hà vẫn lặng thinh, không hề chống cãi gì cả.

Ðược vài ngày, có quan Vệ úy họ Vương đến gõ cửa khuyết tâu:

– Quan Thừa tướng họ Tiêu có tội gì mà Bệ hạ bắt bỏ vào ngục?

Hán đế nói:

– Tội ăn lộc của người rồi lấy đất vườn ta mà mua lòng dân, nên ta phải trị.

Vương vệ úy nói:

– Việc lợi cho dân thì làm, đó chính là nhiệm vụ của quan Tể Tướng. Bệ hạ chống Sở mấy năm, sau đến việc Trần Hy, Anh Bố, đều đem đất Quan Trung giao cho Thừa Tướng. quản thủ. Nếu là kẻ bất trung thì cả dãy đất lớn lao ấy có còn cho Bệ hạ ngày nay chăng? Bệ hạ chỉ thấy cái lỗi nhỏ mà quên cả cái đức lớn.

Hán đế ngồi ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

-Trẫm rất có lỗi.

Ngay hôm ấy, Hán đế sai cận vệ vào ngục thả Tiêu Hà ra.

Tiêu Hà vào triều tạ ơn.

Hán đế nói:

– Việc của khanh làm chính là nhiệm vụ của quan Tể Tướng, ta vì nông cạn, đã phạm đến kẻ có đức, lỗi của ta rất lớn.

Tiêu Hà tâu:

– Bệ hạ là bậc minh chính, hạ thần dẫu có ai đâu dam kêu nài.

Việc này thấu đến tai Trương Lương, Trương Lương thở dài, than:

– Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố đã bị giết, nay Tiêu Hà lại bị hạ ngục, đủ biết tâm địa của vua Hán đối đãi với công thần như thế nào rồi. Ta vừa giúp cho Thái tử giữ được ngôi, nếu Hán đế biết được ắt ta không khỏi nạn. Chi bằng kíp xa lánh cảnh phồn hoa này cho xong.

Nghĩ như vậy, Trương Lương tìm đến bốn ông cụ già bàn bạc, rủ nhau đến núi Chung Nam tu tiên.

Bốn ông lão đồng ý, cùng với Trương Lương vào yết kiến vua tâu rằng:

– Ngày nay thiên hạ nhất thống, bốn bể thanh bình, cơ nghiệp có thể bền vững muôn năm. Chúng tôi tuổi già sức yếu không làm gì được nữa, vậy xin lạy từ Bệ hạ, cùng nhau lên núi Chung Nam học đạo, công danh phú quý chẳng bận lòng, được Bệ hạ đoái thương ơn ấy rất lớn.

Hán đế nói với Trương Lương:

– Trẫm từ khi được thiên hạ đến nay, ơn tiên sinh chưa báo đáp. Ngày trước phong làm Lưu hầu, nhưng tiên sinh không lĩnh nay lại từ giã trẫm mà đi, chẳng biết sau này có còn cùng nhau tương ngộ chăng?

Ðoạn, Hán đế lại nói với bốn ông lão:

– Các ông đến giúp Thái tử, trẫm có lòng mừng.

Nay chưa bao lâu, cũng lại muốn lánh vào chốn núi rừng, sao nỡ lòng làm thế.

Bốn ông già nói:

– Hiện nay anh tài đầy triều, thiện nhân tham chinh, bọn tôi chỉ là phường hủ nho, nào có ích gì cho quốc gia. Chỉ mong Bệ hạ tha cho, được về nơi thảo dã, di dưỡng tuổi thừa thì thực suốt đời chẳng dám quên ơn.

Vua thấy mọi người có ý khẩn thiết, bèn tặng mỗi người một ít vàng lụa, rồi đưa ra khỏi thành. Bốn ông già cùng Trương Lương bái biệt, cất bước lên đường. Hán đế nhìn theo, bóng của họ khuất dần trong cát bụi.

Hán đế vào cung, ngồi nghĩ đến Trương Lương, nhớ đến các vị công thần khai quốc, từ lúc áo vải theo hầu, lập nhiều công lớn nay có kẻ bị giết, có kẻ bỏ đi, lòng bâng khuâng cảm động.

Bèn sai thợ, xây một cái đài công thần, tạc đủ hình tượng và ghi tên họ những công thần lên.

Ðài lập xong, Hán đế đưa Thái tử đến xem. Qua mỗi một tượng, Hán đế đều nói rõ lai lịch, công trạng từng người.

Xem đến tượng Kỷ Tín, Thái tử nói:

– Nếu không có người này thì Phụ hoàng không có được đến ngày nay.

Lại xem đến tượng Hạ Hầu Anh, Thái tử nói:

– Nếu không có người này, con không còn trông thấy mặt Phụ hoàng nữa.

Hán đế nói:

– Con ta như thế thực là một kẻ không quên gốc.

Hôm ấy, Thái tử cho mời con Kỷ Tín là Kỷ Thông, và Hạ Hầu Anh đến ban thưởng rất hậu.

Ai nấy đều ngợi khen Thái tử là người nhân đức.

Hán đế rất vui lòng.

Chợt có một người nói lớn:

– Bệ hạ cùng điện hạ nhớ công lao của Kỷ Tín và Hạ Hầu Anh, sao không nhớ công lao của cha tôi?

Hán đế xem lại thì đó là Hạng Ðông, con của Hạng Bá.

Hạng Ðông nói:

– Bệ hạ ngày trước giao tranh với Sở, bị quân Sở đến cướp trại, cha tôi vì bạn thân với Tử Phòng, nên mật tin cho Bệ hạ biết, và khuyển Hạng vương bãi việc tấn binh. Lại như việc hội yến ở Hồng Môn, nếu không có cha tôi thì tánh mạng Bệ hạ đâu còn. Ðến sau, Hạng vương đặt Thái công lên thớt toan nấu dầu, nếu không có cha tôi, ắt Thái công bị hại. Tôi thiết nghĩ công lao cha tôi không kém gì Kỷ Tín, Hạ Hầu Anh.

Hán đế nghe Hạng Ðông nói, sực nhớ chuyện xưa, trầm ngâm một lúc, rồi nói:

– Quả nhân lâu nay vẫn muốn kết ước ngày xưa, giữ tình hên hảo hai nhà, song vì việc quân bận rộn. Nay nghe lời nói ấy khiến ta tự thẹn.

Ngay ngày hôm ấy, Hán đế truyền đem Thiếu Hoa Công chúa gả cho Hạng Ðông, sai Thúc Tôn Thông định về nghi lễ, chọn ngày thành hôn.

Hạng Ðông từ đó sánh đôi với Công chúa Thiếu Hoa, chồng loan vợ phượng rất nên tương đắc.

Hạng Ðông được phong làm chức Chiêu Tín hầu.

Thời gian trôi, trôi trong cảnh thanh bình, an lạc.

Một hôm, Hán đế vì mũi tên của Loan Bố bắn trước kia, nay yếu sức, bệnh tái phát, làm ung độc, bệnh thế càng ngày càng trầm trọng.

Lã hậu thấy thế bàn với các cung tần:

– Chúa thượng đang tại bệnh mà ngày đêm say đắm Tây cung, lòng ta lo ngại lắm.

Các cung tần nói:

– Việc này Hoàng hậu nên nhờ quần thần khuyên can, chứ nếu Hoàng hậu tỏ ý e Hoàng thượng lại cho là Hoàng hậu là ghen chăng?

Lã hậu nói:

– Các ngươi luận rất phải

Liền đòi Thảm Tự Cơ và Lã Trạch vào, sai đi triệu các gián quan và triều thần.

Các đại thần vào triều, cùng Thái tử đến Tây cung đứng đợi nơi cửa Phúc Thuận.

Hán đế hay việc ấy nói với Thích Cơ:

– Ðó là Lã hậu thấy ta có bệnh, nên sai Thái Tử và quần thần đến đây mời ta về cung.

Thích Cơ nói:

– Nếu Bệ hạ về cung bỏ thiếp nơi đây, tất thiếp bị hại, không còn mong gì được trông thấy long nhan nữa.

Dứt lời, nước mắt tuôn tràn xuống hai má.

Hán đế nói:.

– Ðợi quần thần vào đây ta sẽ có cách bảo vệ.

Liền truyền lệnh cho Thái tử và quần thần vào.

Các quan thấy mặt mày Hán đế xanh xao, thân thể gầy gò, liền khấu đầu tâu:

– Bệ hạ xuân thu đã cao, lại thêm có bệnh nơi đây không phải là chỗ điều dưỡng thánh cung. Cứ ý chung tôi thì Bệ hạ nên trở về chánh cung tịnh dưỡng nịnh rồng, để Thái tử được báo đền hiếu thảo, và quần thần được thăm viếng hàng ngày.

Hán đế nói:

– Ta thọ bệnh là do xong pha nhiều chiến trận, nhọc mệt lâu năm, sức lực mỏi mòn. Nay ta ở cung này, thấy tâm thần thư thái, có thể lành bệnh được, các ngươi chớ có nhiều lời.

Các quan không biết nói sao.

Phàn Khoái dập đầu, tâu:

– Tâu Bệ hạ, hạ thần theo Bệ hạ từ lúc còn mặc manh áo vải, trải bao năm khổ nhọc mong dựng nghiệp lớn. Nay khi thành công, Bệ hạ đã quên chí cũ, xem sắc dục là trọng, xem thiên hạ là khinh, như vậy ai còn ngưỡng vọng nữa.

Hán đế thở dài:

– Các khanh đã hết lời can gián lẽ nào trẫm lại chẳng nghe.

Liền để cho quần thần đưa về cung Trường Lạc.

Thích Cơ đưa Hán đế về chính cung xong, vào yết kiến Lã hậu, đoạn trở lại Tây cung.

Bấy giờ, Lã hậu cùng quần thần bàn việc tìm lương y điều trị cho vua.

Trần Bình nói:

– Cách thành Trường An hai trăm dặm, vê phía Bắc núi Lịch Dương có một người thầy thuốc rất giỏi, vậy xin Hoàng hậu lấy lễ mời người ấy đến, họa may chửa được.

Hoàng hậu theo lời, săm sứa lễ vật, sai người đến Lịch Dương rước thầy thuốc. Ðộ ba hôm, lương y đến, vào nội Cung ra mắt Lã hậu. Lã hậu kể lại bệnh trạng của vua.

Lương y nói:

– Bệnh đó tuy trầm trọng, song nguyên khí Hoàng thượng còn cường tráng, có thể chữa được.

Lã hậu mừng rỡ, đưa lương y đến chính cung.

Hán đế trông thấy lương y buông lời quát mắng ngay:

– Ta từ lúc trảm xà khởi nghĩa, đem ba thước gươm bình thiên hạ, dựng nghiệp đế vương, công lao rất nhọc. Nay lâm bệnh là tại trời, chết sóng có mạng, ngươi chẳng qua là một đứa tầm thường, đến đây làm gì.

Hán đế nhất định không cho lương y chữa bệnh, bảo phải trở về Lịch Dương.

Từ đó, bệnh tình Hán đế mỗi lúc một tăng. Lã hậu sớm tối chầu chực bên giường.

Nhân lúc Hán đế tỉnh táo Lã hậu hỏi:

– Vạn nhất, Bệ hạ sau khi muôn tuổi, mà Tiêu Thừa tướng cũng mất thì nên cừ ai làm tướng?

Hán đế đáp:

– Tào Tham có thể thay được.

Lã hậu lại hỏi đến sau Tào Tham?

Hán đế nói:

– Vương Lăng có thể thay được. Tuy nhiên Vương Lăng tính trực mà ương, cần phải có Trần Bình giúp sức. Trần Bình trí khôn có thừa nhưng không thể gánh vác một mình. Chu Bột là kẻ thật thà, tánh thận trọng, nên cùng hắn làm chức Thái úy.

Lã hậu lại hỏi về sau nữa.

Hán đế nói:

– Ta chỉ biết đến đó mà thôi.

Hôm sau, Thái tử vào vấn an, Hán đế nói:

– Ta nay đã già yếu, bệnh hoạn không thể khỏi được. Con là người nối nghiệp trị dân, có đủ đạo đức để bảo vệ non sông. Chỉ có một điều, ta hằng lo lắng là mẹ con Thích Cơ, ta nhờ con đùm bọc. Cái gì cha yêu thì kẻ làm con cũng yêu. Có thế mới tròn hiếu đạo. Con nên ghi nhớ.

Thái tử nói:

– Ðạo thân phụ, nghĩa thủ túc, hai điều ấy con đâu dám bỏ. Xin Phụ hoàng bảo tồn long thể, cho bệnh được chóng lành, đừng lo lắng đến chuyện đó nữa.

Cách vài ngày sau, Hán đế băng hà. Hôm ấy vào ngày giáp thìn tháng tư mùa hạ, nhà Ðại Hán năm thứ mười hai.

Vua Cao đế sinh năm thứ 51 đời Tần tiên vương thọ được 63 tuổi.

Hồi 48(hết) – Lã Thái Hậu Mưu Giết Công Thần

Hán đế mất đã bốn ngày mà Lã Hậu chưa chịu phát tang, sai người đòi Lã Trạch và Thẩm Tự Cơ vào nói:

– Ngày nay, các công thần trong triều phần nhiều ngông nghênh hống hách, lòng mỗi người lại có ngầm ý riêng. Nếu hay được tin Chúa thượng băng hà tất khởi loạn, không chịu phò Thiếu đế. Ta muốn giả một tờ chiếu, đòi các quan lớn nhỏ vào nội cung để nghe lời di chúc của Chúa thượng rồi cho võ sĩ phục bên trong, giết cả đi, để sau này khỏi sanh họa.

Thẩm Tự Cơ nói:

– Hoàng hậu tính kế ấy rất hay, song phải lựa một viên tướng tâm phúc xuất lãnh bọn võ sĩ, thì kế ấy mới khỏi sợ thất bại.

Lã hậu nói:

– Các đại tướng duy có Lịch Thương là có thể tin cậy được. Nhà ngươi nên vời hắn đến đây để bàn.

Lã Trạch liền đi mời Lịch Thương.

Lịch Thương được lệnh vào yết kiến Lã Hậu.

Lã Hậu đem việc cơ mật bàn với Lịch Thương.

Lịch Thương nói:

– Việc ấy không phải là việc tốt. Nếu Hoàng Hậu làm như thế xã tắc phải lâm nguy. Hiện nay Trần Bình, Quán Anh cầm mười vạn binh đóng nên Huỳnh Dương. Phàn Khoái, Chu Bột cầm binh hai mươi vạn, đóng quân ở Yên Ðại, còn các tướng khác đóng ở các xứ cũng đều có binh lực ít nhiều. nếu họ hay tin Hoàng Hậu đánh lừa vào cung để mưu hại, tất họ liên kết nhau kéo vào đánh Quan Trung, cơ đồ sụp đổ tức khắc. Xin Hoàng Hậu xét lại.

Lã Hậu nói:

– Lời ngươi rất có lý. Thế thì cơ biến ngày nay phải làm thế nào?

Lịch Thương nói:

– Cứ như ngu ý Hoàng Hậu, nên tuyên bố trong ngoài hay tin vua mất. Vời bọn Phàn Khoái, Vương Lãng, Chu Bột về phòng bị Quan Trung. Trên thì giữ được cái nghiệp muôn năm của tiên đế, dưới bảo vệ được địa vị của Thiếu quân.

Lã hậu nói:

– Nếu vậy nên gọi Thúc Tôn Thông vào thảo chiếu để tuyên bố cho trong ngoài đều biết.

Lịch Thương tuân lệnh đòi Thúc Tôn Thông đến, thảo chiếu giả lời di mệnh của Hán đế.

Từ đó khắp nơi an hưởng thanh bình, không còn sinh việc binh cách.

Lã Hậu lên làm Thái hậu, bọn Lã Trạch cậy thế ra vào cấm môn. Các người họ Lã đều được phong trọng chức.

Bấy giờ Tiêu Hà đã già không coi việc triều chính được nữa. Chẳng bao lâu lại phát bệnh nặng.

Huệ đế đến tận nhà hỏi thăm:

– Thừa Tướng đau yếu ra làm sao?

Tiêu Hà tâu:

– Hạ thần tuổi già sức yếu, lâm bệnh nặng, thế tất chẳng sống được lâu. Nay được Bệ hạ chiếu cố, dẫu thịt nát xương tan cũng chưa đền ơn đặng.

Huệ đế nói:

– Thừa Tướng nên giữ gìn quí thể, mời thầy thuốc điều trị chớ nên nói thế.

Tiêu Hà nói:

– Hạ thần phò Tiên đế từ ba mươi năm nay theo việc chiến chinh, tinh thần hao tổn, sức lực kiệt quệ, nay thiên hạ thái bình, dẫu có chết cũng đã phải.

Huệ đế nghe nói ứa nước mắt hỏi:

– Thừa Tướng sau khi trăm tuổi thì ai có thể thay thế đế giúp trẫm?

Tiêu Hà nói:

– Việc này không ai hiểu hơn Tiên đế.

Huệ đế nói:

– Tiên đế có nói đến Tào Tham, chẳng biết Tào Tham như thế nào?

Tiêu Hà nói:

– Tào Tham là cựu thần của Tiên đế, bản tính trung thực, rất đủ điều kiện gánh vác việc nước.

Huệ đế biệt Tiêu Hà về cung.

Sau vài ngày Tiêu Hà mất. Huệ đế thương xót chẳng cùng, lo việc tang tế, rồi đòi Tào Tham đến phong làm Thừa tướng.

Tào Tham tuân lệnh, vào bệ kiến Huệ đế nói.

– Tiêu Thừa Tướng trước khi ta thế có tiến cử khanh, và Tiên đế trước khi băng hà cũng có nhắc đến. Vậy khanh nên hết lòng vì nước, đừng phụ mệnh trẫm.

Tào Tham tâu:

– Thần đâu dám chẳng đem hết sức ra đền ơn Bệ hạ.

Tào Tham lên làm Thừa Tướng, nhất nhất theo khuôn phép của Tiêu Hà, không hề sửa đổi một điều nào.

Dân trụ mỗi ngày một thuần, sĩ phong mỗi ngày một tốt, trăm họ yên vui trong đời thịnh trị.

Sau ba năm, Tào Tham nghĩ mình tuổi cao tác lớn, theo phò Hán đế từ lúc khởi binh nơi Phong Bái, nay được đến ngôi tột bực, tưởng như thế cũng đã đủ lắm rồi, liền viết sớ xin về dưỡng lão.

Huệ đế cầm lại không được phải thuận tình, phong Tào Tham làm Tuyên Bình Công, phong Ấp ăn lộc mười vạn, con cháu suốt đời thừa ấm.

Huệ đế lại theo lời di chiếu của Cao đế, dùng Vương Lãng làm hữu Thừa Tướng, Trần Bình làm tả Thừa Tướng, Chu Bột làm Thái Úy, bọn Phàn Khoái huấn luyện binh mã.

Từ đó, thiên hạ vô sự, tiếng khen truyền khắp nhân gian thật là một đời thái bình thịnh trị.

Hết