Giới thiệu tác phẩm “Thủy Hử”

Thủy hử hay Thủy hử truyện (水滸傳), nghĩa đen là “bến nước”, là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm Tứ đại danh tác (Ba bộ còn lại là Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng). Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am. Truyện được viết dựa theo sách Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình nhà Tống mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.

Là một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Thủy hử truyện của Thi Nại Am làm đắm say biết bao trái tim bạn đọc không chỉ bởi nghệ thuật kết cấu truyện đặc sắc mà hơn hết là ở hình tượng của những bậc anh hùng, hảo hán. Để rồi, qua những hình tượng đó, độc giả thấy được quan niệm về người anh hùng của tác giả Thi Nại Am, một quan niệm vừa mang nét chính thống Nho gia, vừa mang nét dân gian, giang hồ.

Thủy hử có nhiều phiên bản, bản 70 hồi, 100 hồi, 114 hồi, 115 hồi, 120 hồi, 140 hồi,… Theo Lỗ Tấn, có tổng cộng sáu bản Thủy hử, thuộc hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Trong đó, bản 100 hồi được xem là gần với nguyên tác nhất, với tựa đề ban đầu là Trung nghĩa Thủy hử truyện, nội dung gồm việc các anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa (thường nằm trong khoảng 70 hồi) và bình Liêu đánh Phương Lạp. Bản Thủy hử phổ biến nhất là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán – một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Kim Thánh Thán đã cắt bỏ hầu hết các nội dung khác, bao gồm việc đánh Liêu và Phương Lạp, chỉnh sửa lại theo quan điểm cá nhân, gia tăng bình luận của bản thân, từ đó tạo thành bản 70 hồi thường thấy ngày nay, gọi là Bình bản Thánh Thán hay Quan bảnKim bản.

Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải

Mục lục

Hồi 1: Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót – Cửu Văn Long, thôn sử ra tay
Hồi 2: Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại – Lỗ Đề Hạt giữa chợ giết người
Hồi 3: Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù Viện – Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn
Hồi 4: Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc trướng – Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa
Hồi 5: Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai – Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa
Hồi 6: Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy dương – Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ
Hồi 7: Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu nhục – Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan
Hồi 8: Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách – Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu
Hồi 9: Một mũi dao, moi gan quân tàn ác – Ba chén rượu, say tít cả giang sơn
Hồi 10: Giả dạng giao du; thoát người hảo hán – Đề thơ cảm khái; kết bạn Lương Sơn
Hồi 11: Múa đao thần, Lâm Xung gặp người ngang sức – Bán gươm báo, Dương Chí giết cọp không lông
Hồi 12: Nơi Đông Quách, Cấp Tiên Phong tranh công – Đất Bắc Kinh, Thanh Diện Thú đấu sức
Hồi 13: Xích Phát Quỷ say nằm Linh Quan Điện – Tiểu Thiên Vương nghĩa nhận Đông Khê Thôn
Hồi 14: Ngô Học Cứu thuyết ba chàng Nguyễn – Công Tôn Thắng ưng bảy vì sao
Hồi 15: Tải kim ngân, Dương Chí vâng mệnh – Cướp lễ vật, Ngô Dụng dùng mưu
Hồi 16: Đánh chén không tiền gặp tay đao quỷ – Trói sư lập mẹo cướp núi Nhị Long
Hồi 17: Mỹ Nhiêm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí Hổ – Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương
Hồi 18: Lâm Xung đốt cháy nơi Thủy Bạc – Tiều Cái cướp lấy vũng Lương Sơn
Hồi 19: Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi chủ trại – Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng
Hồi 20: Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị – Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích
Hồi 21: Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa huyện – Tha người hiếu nghĩa, trong chốn nhà hầm
Hồi 22: Quận Hoành Hải, Sài Tiến tiếp tân – Núi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ
Hồi 23: Gặp anh em thỏa lòng hòa thuận – Lừa Trai gái ghét giống gian dâm
Hồi 24: Bày mưu gian, bợm già dỗ khách – Ham tình dục, gái đĩ giết chồng
Hồi 25: Cửu Thúc giấu xương chờ khách hiệp – Võ Tòng giết chị tế hồn anh
Hồi 26: Đường Mạnh Châu, Mẫu Dạ Thoa bán thịt người – Bờ Thập Tự, Võ Đô Đầu gặp hảo hán
Hồi 27: Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ – Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân
Hồi 28: Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ – Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần
Hồi 29: Thi Ân ba phen vào lao ngục – Võ Tòng một phen náo phi vân
Hồi 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám – Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công
Hồi 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt – Tống Công Minh gặp nạn được tha
Hồi 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt – Náo Phong Trại Hoa Vinh báo thù
Hồi 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra sức – Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu
Hồi 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư – Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn
Hồi 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới Tung – Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn
Hồi 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn – Nơi Giang Phủ đất khách rời chân
Hồi 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung – Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận
Hồi 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết – Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Hồi 39: Cướp nghĩa đảng – Anh hùng mến anh hùng
Hồi 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị – Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính
Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư – Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ
Hồi 42: Thương mẫu thân, Lý Quỳ giết bốn hổ – Cứu đồng đảng, Chu Quý dốc một lòng
Hồi 43: Cẩm Bảo Tử ngõ hẻm gặp Đới Tung – Bệnh Quan Sách, dương oai gặp Thạch Tú
Hồi 44: Phòng riêng ton tót, Dương Hùng gặp gái voi dày – Đêm vắng xông pha, Thạch Tú giết sư hổ lửa
Hồi 45: Núi Thúy Bình, Dương Hùng giết vợ – Điếm Chúc Gia, Thạch Tú đốt nhà
Hồi 46: Quỷ Kiểm Nhĩ nhờ thân giúp bạn – Tống Công Minh nổi giận dấy binh
Hồi 47: Bắt Nụy Hổ, nữ tướng ra côn – Đánh Chúc Gia, quân sư xuống cứu
Hồi 48: Mắc mẹo gian, Giải Bảo, Giải Trân phá ngục – Bầy mưu khéo, Tôn Lập, Tôn Lân cướp lao
Hồi 49: Bày kế liên hoàn, phá nhà Hổ, Chúc – Kéo cờ thắng trận, về trại Lương Sơn
Hồi 50: Sáp Sí Hổ vác gông đánh chết ả đào – Mỹ nhiêm Công mắc mưu mất toi cậu ấm
Hồi 51: Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích – Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu
Hồi 52: Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng – Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân
Hồi 53: Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm – Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến
Hồi 54: Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ – Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Hồi 55: Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp – Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Hồi 56: Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang – Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Hồi 57: Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu – Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Hồi 58: Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy – Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Hồi 59: Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép – Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên
Hồi 60: Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo – Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Hồi 61: Bắn lãnh tiễn Yến Thanh cứu chúa – Cướp pháp trường Thạch Tú thi gan.
Hồi 62: Tống Giang đến đánh Đại Danh thành – Quan Thắng bàn phá Lương Sơn Bạc
Hồi 63: Đêm trăng Duyên Chước lừa Quan Thắng – Trời tuyết Công Minh bắt Sách Siêu
Hồi 64: Thác Tháp Thiên Vương, trong mơ hiển thánh – Lãng Lý Bạch Điều, dưới nước báo oán
Hồi 65: Đốt Thuý Vân Lâu, Thời Thiên vâng lệnh – Phá Đại Danh Phủ, Ngô Dụng lập công
Hồi 66: Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng ba quân – Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hồi 67: Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị – Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung
Hồi 68: Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn – Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công
Hồi 69: Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng – Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ
Hồi 70: Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn – Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng

Hồi 1: Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót – Cửu Văn Long, thôn sử ra tay

Về đời nhà Tống, Triết Tôn Hoàng Đế làm vua, cách với đời của vua Nhân Tôn Hoàng Đế đã xa; Giữa phủ Khai Phong, ở ngay Đông Kinh, thuộc khu của thành Tuyên Vũ Quân nảy nồi một tên con nhà lông bông mất dạy, là dòng họ Cao, bày hàng đứng vào thứ hai. Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích múa thương đánh gậy, và đá cầu rất giỏi, bởi thế trong Kinh Sư gọi anh ta là Cao Cầu, đổi gọi Cao Nhị. Đoạn chữ cầu có chữ Mao là lông ở bên cạnh, sau phát tích khá lên, mới đổi chữ Cầu có chữ Nhân là người đứng cạnh.

Anh chàng này lại giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ lối, mà còn học đòi thơ phú, võ vẽ sách vở, nhưng nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, hạnh trung lương, thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì.

Suốt ngày anh ta chỉ ở trong thành ngoài thành Đông Kinh, bám vào những tay du thủ du thực, đánh đu với một anh con trai Sinh Thiết Vương Viên Ngoại, để kiếm tiền tiêu xài, đĩ bợm với nhau.

Bất đồ không bao lâu bị Viên Ngoại có đơn thưa kiện Cao Cầu trong phủ Khai Phong, quan Phủ cho bắt Cao Cầu kết án phạt đánh 20 trượng, trục xuất ra khỏi Đông Kinh, cấm nhân dân ở trong thành không ai được dung túng ở trong nhà.

Cao Cầu vô kế khả thi, đành phải đi sang miền Hoài Tây, chạy vào bám ở một nơi sòng bạc của Liễu Đại Lang gần đó. Anh này nguyên tên là Liễu Thế Quyền, bình sinh chỉ quen kết nạp những hạng bơ biếng phỉnh phờ, bao nhiêu hạng dông dài bợm bãi đâu đâu, cũng đều chứa chấp hết thẩy.

Cao Cầu tới đó được tới ba năm, nhân gặp khi Triết Tôn Thiên Tử đi lễ Nam Giao, cảm thấy mưa hòa gió thuận, gia ơn đại xá cho các tội tù, Cao Cầu cũng dự vào hạng ấy.

Được tin ân xá, Cao Cầu nhân muốn trở về Đông Kinh, liền nói cho Thế Quyền hay. Liễu Thế Quyền vốn có một người bà con, tên là Đổng Trương Sĩ mở hàng thuốc sống ở phía cầu Kim Lương trong Đông Kinh liền viết một phong thư và thu xếp ít tiền lộ phí, giới thiệu cho Cao Cầu sang ở với Đổng.

Cao Cầu được thư giới thiệu, từ giã Liễu Đại Lang đeo khăn gói tìm lối quay về Đông Kinh, thẳng đến cầu Kim Lương, kiếm hàng thuốc Bắc Đổng Sinh, đưa thư trình diện.

Đổng Trương Sĩ trông thấy Cao Cầu, lại thấy bức thư của Liễu Thế Quyền, trong bụng nghĩ thầm:

Thằng cha Cao Cầu này, nhà ta dung làm sao được. Nếu phải hắn là người có chí hướng thành thực, thì cũng có thể cho ở đây, quanh quẩn ra vào, kèm dạy cho mấy đứa nhỏ… Nhưng hắn lại là một tay du thu du thực, con nhà mất dạy, không một chút tín nghĩa gì, hơn nữa trước đây đã phạm tội phát phối, thì chứng cũ đã chừa sao được?

Nay ta để luôn trong nhà, không khỏi con trẻ tập theo những thói vô loại, rồi đây biết làm sao kịp? Mà nếu không dung hắn ở đây, thì đối với Liễu Đại Lang cũng hơi có điều bất tiện…

Nhân thế phải làm ra bộ vui vẻ tươi cười, hãy lưu Cao Cầu ở lại trong nhà, và hằng ngày cung đốn rượu chè rất là tử tế.

Cách 10 hôm sau, Đổng Trương Sĩ chợt nghĩ được ra một kế liền sắm sửa quần áo mới, viết một phong thư rồi bảo Cao Cầu:

– Nhà đệ ở đây, như ánh sáng của con đom đóm, không thể soi rõ được người, chỉ sợ sau này lầm lỡ cho túc hạ, nay tôi xin tiến túc hạ sang chỗ quan Học Sĩ Tiểu Tô, sau này sẽ có đường xuất thân cho túc hạ chẳng hay túc hạ nghĩ sao?

Cao Cầu nghe nói mừng rỡ mà cảm tạ Trương Sĩ, Trương Sĩ liền trao quần áo cho Cao Cầu mặc, và sai người mang thư sang phủ Học Sĩ.

Khi tới nơi môn lại vào báo cho Học Sĩ ra, sau khi trông thấy Cao Cầu, và đọc qua bức thư, Học Sĩ hiểu Cao Cầu là hạng người phù phiếm phỉnh phờ, liền nghĩ thầm:

– Nhà ta đây dụng hạng này thế nào được? Chi bằng ta lưu chút nhân tình, tiến cử anh ta sang phủ Phò Mã Vương Tấn Khanh, để làm người hầu thân tùy. Ông này vẫn thường gọi là Tiểu Vương, Đô Thái Úy, tất là ông ta ưa thích những hạng người này… “Liền viết thư trả lời cho Đổng Trương Sĩ, rồi lưu Cao Cầu ở trong phủ một đêm.

Sáng hôm sau, viết một bức trình, sai một tên gia nhân mẫn cán đưa dẫn Cao Cầu sang phủ Tiểu Vương Đô Thái Úy.

Vị Thái Úy này nguyên là chồng của bà chị Triết Tôn Hoàng Đế, và là phò mã vua Thần Tôn khi trước vốn là người thích những bọn phong lưu phóng đãng xưa nay, khi nhận được thư Học Sĩ đưa Cao Cầu đến, thì trong lòng lấy làm mừng rỡ liền viết thư trả lời quan Học Sĩ, mà lưu Cao Cầu ở phủ, để cho hầu hạ trân trọng.

Từ đó Cao Cầu được Đô Úy tin dùng, khi ăn ở lúc ra vào, chả khác chi người nhà thân mật vậy.

Một hôm gặp ngày sinh nhật Đô Thái Úy, trong phủ bày đặt yến tiệc để mời Đoan Vương sang dự tiệc. Đoan Vương là con trai thứ II vua Thần Tôn, là em vua Triết Tôn, và là em vợ Đô Thái Úy, hiện giữ chức Đông giá, bài hiệu là Cửu Thiên Vương, vốn là người thông minh tuấn tú, am hiểu mọi cách chơi bời, những sự du nhàn, không gì là không thích, các ngón cầm kỳ, thi, họa, ca vũ, thanh âm, cùng là ngón múa gậy đá cầu là ngón chơi sở thiùch nhất cả.

Hôm đó Đoan Vương sang dự tiệc ở phủ Đô Thái Úy, khi rượu đã vài tuần rồi, đứng dậy chạy vào thư viện để xem. Chợt trông thấy trên bàn sách có một đôi sư tử chặn giấy làm bằng thứ ngọc dương chi rất là tinh hảo, liền cầm tay ngắm nghía hồi lâu mà luôn mồm khen ngợi.

Vương Đô Úy thấy Đoan Vương có ý ưa thích liền nói:

– Ở đây có một cái giá bút rồng bằng ngọc, cũng một người thợ ấy chế ra, để mai xin đem sang dâng ngài dùng. Đoan Vương mừng rỡ tạ ơn, rồi lại cùng nhau quay ra dự tiệc, mãi đến chiều tan tiệc mới lui về vương phủ.

Ngày hôm sau, Tiểu Vương Đô Thái Úy, lấy đôi sư tử và cái giá bút rồng bằng ngọc, bỏ vào cái hộp nhỏ bằng vàng, lấy lụa bọc ngoài, và viết một phong thư sai Cao Cầu đưa sang vương phủ.

Cao Cầu vâng lệnh đem các lễ vật sang phủ Đoan Vương.

Khi tới cổng, báo cho người canh cổng vào bẩm báo với Đoan Vương.

Người canh cổng vào một lúc rồi chạy ra bảo Cao Cầu rằng:

– Có phải là ngươi bên phủ Phò Mã, thì cứ vào trong sân điện kia, ngài đương đánh cầu ở đấy.

Cao Cầu nghe nói, liền nhờ dẫn vào.

Khi tới sân điện, thấy Đoan Vương đầu đội mũ Sài Tiến, mình mặc áo long bào hoa tía, lưng thắt đai văn vũ, tay cầm một bên áo xốc lên, chân đi đôi giày bít gót, thêu phượng bay bằng kim tuyến, cùng với năm bảy tiểu môn đá cầu, Cao Cầu thấy vậy đứng núp đàng sau đám hoàng môn mà không dám thò mặt ra.

Chợt khi ấy quả cầu ở trên không rơi xuống đất. Đoan Vương đón không được, lại bắn đến bên cạnh Cao Cầu, chàng ta liều gan đá luôn một quả về cho Đoan Vương, Đoan Vương lấy làm thích, gọi đến gần mà hỏi là: Ngươi ở đâu?

Cao Cầu quì xuống đất kêu rằng:

– Con là người bên phủ Đô Thái Úy, sai đưa sang mấy bộ đồ ngọc, và bức thư sang dâng đại vương.

Nói đoạn liền lấy thư đưa lên, Đoan Vương xem xong mỉm cười ra dáng vui mừng, không kịp xem đến các đồ ngọc ngoạn, vội sai quân hầu đem cất đi, và lại hỏi luôn Cao Cầu rằng:

– Nhà ngươi tên là gì? Cũng biết đá cầu hay sao?

Cao Cầu cung kính bảo rằng:

– Con tên là Cao Cầu, thủa nhỏ cũng có học đôi chút.

Đoan Vương cười mà bảo rằng:

– Nếu vậy ngươi thử đá chơi với ta một chút xem sao?

– Con đâu dám vô lễ.

– Việc chơi phải như thế mới vui, cho phép ngươi cứ đá thử ngại chi?

Cao Cầu từ chối năm bảy lượt, Đoan Vương nhất định không nghe, sau bất đắc dĩ phải xin lỗi để vào đá.

Cao Cầu vừa mới đá luôn được mấy quả, Đoan Vương đã vỗ tay khen giỏi.

Bây giờ chàng mới giở hết tài bình sinh đá đông đỡ tây, tung cao hứng thấp, làm cho quả cầu kia hết lên lại xuống hết dọc lại ngang, con mắt nhanh nhẹn đến đâu cũng không theo kịp; Đoan Vương reo to lên lấy làm thích chí, rồi giữ riết Cao Cầu ở đấy mà không cho trở về nữa.

Về phần Đô Thái Úy từ khi sai Cao Cầu đi rồi mong mỏi suốt ngày hôm ấy, cũng không thấy về, trong lòng lấy làm nghi ngại, không hiểu cớ làm sao?

Chợt thấy sáng hôm sau, người nhà Đoan Vương đưa giấy đến mời sang vương phủ.

Đô Thái Úy thấy vậy vội vàng dóng ngựa đi ngay. Khi tới nơi Đoan Vương mừng rỡ đón chào, trước hết tạ ơn về những tặng đãi ngọc ngoạn, rồi sau mời vào dự tiệc.

Chè chén hồi lâu, Đoan Vương nói với Đô Thái Úy rằng:

– Tên Cao Cầu ở bên quý phủ có tài đá cầu rất giỏi, ý tôi muốn lưu hắn ở lại đây, để sớm khuya thưởng thức cho vui, chẳng hay Thái Úy có ưng thế cho chăng?

Đô Thái Úy vui cười đáp rằng:

– Nếu điện hạ bằng lòng cho hắn ở đây thì tôi đâu lại không thuận vậy từ nay xin cho hắn theo hầu.

Đoan Vương nghe nói tỏ lòng mừng rỡ, cảm ơn Đô Thái Úy, rồi cùng nhau chè chén, mãi khi mặt trời lặn mới tan.

Từ đó Đoan Vương để cho Cao Cầu hầu hạ thân mật ở trong cung cấm, ngày đêm một bước không rời, cái cảnh tao tế của cậu đãng tử ngày xưa, nay đã bội phần vinh hạnh.

Được ngót hai tháng sau, vì Triết Tôn Hoàng Đế không có con trai, các quan trong triều thương nghị lập Đoan Vương lên làm Thiên Tử, xưng đế hiệu là Huy Tôn, gọi là Ngọc Thành Giáo Chủ, Vi Diệu Hoàng Đế.

Sau khi đã lên ngôi Thiên Tử, liền triệu Cao Cầu đến mà bảo rằng:

– Trẫm cũng muốn đãi ngươi lên quan chức, song tất phải đợi có công lao mới được, nay trẫm hãy giao cho viện Khu Mật, biên tên ngươi vào danh sách tùy giá thiên chuyển, rồi sẽ liệu thăng dần.

Nhân thế mới trong nửa năm trời, Cao Cầu đã thăng lên chức Điện Súy Thái Úy, liền chọn ngày lành tháng tốt để đến phủ nhận việc quan.

Khi đó các hàng nha thuộc cùng các quân lính mã bộ đều hết thẩy phải vào bái yết quan Điện Súy mới.

Quan Điện Súy tra kiểm các hàng đủ mặt, duy còn thiếu tên Giáo đầu là Vương Tiến vì mắc bệnh hơn nửa tháng nay không thể vào hầu được.

Điện Súy ra oai giận dữ sai Bài Hầu đi bắt Vương Tiến đến ngay.

Bài Hầu vâng lệnh đến báo cho Vương Tiến biết, và giục phải vào hầu ngay, nếu không thì Điện Súy tất là quở trách.

Vương Tiến bây giờ tuy yếu đau mới khỏi, song thấy mệnh lệnh thúc bách như vậy, phải gượng vào soái phủ để yết kiến.

Khi tới nơi vừa mới cúi lạy được bốn lạy, thì Cao Cầu đã cất tiếng hỏi ngay rằng:

– Tên này có phải là con Vương Thắng, làm đồ quân Giáo Đầu không?

– Bẩm vâng.

Cao Cầu quát to lên rằng:

– Mầy là đồ bán thuốc múa lao ở đầu đường xó chợ, còn biết võ nghệ gì, các quan trước đã suy cử xằng cho mầy làm chức Giáo Đầu, thế mà nay mầy dám khinh bỉ ta, không chịu đến đây để kiểm duyệt là nghĩa làm sao?

Mầy cậy thần thế ai mà dám tự do như vậy?

Vương Tiến cúi đầu kêu rằng:

– Con đâu dám thế, thực là con bị bệnh chưa khỏi.

Cao Thái Úy không đợi nói hết, vội ngắt mắng ngay rằng:

– Mày đã đau bệnh chưa khỏi, sao mày còn đi được đến đây?

– Bẩm thấy lệnh cho đòi, nên con đã cố gượng dậy để đến hầu.

Cao Thái Úy không phân biệt phải trái, vội nổi giận thét tả hữu lôi cổ Vương Tiến đánh mấy chục roi, bấy giờ các nha tướng cùng các quân chính tư, thấy Thái Úy toan đánh Vương Tiến, liền đổ xô đến can rằng:

– Ngày hôm nay là ngày Thái Úy mới đến phó nhậm ở đây, xin ngài hãy rộng tha cho Giáo Đầu để được trọn sự vui mừng buổi mới.

Thái Úy thấy nhiều người khuyên giải thì gượng nguôi giận mà bảo Vương Tiến rằng:

– Ta nể mặt các tướng khuyên can, hôm nay ta hãy tạm tha cho người rồi mai sẽ liệu.

Vương Tiến lạy tạ, ngẩng đầu lên trông rõ mặt Điện Súy, thì bỗng ngạc nhiên run sợ, vừa bước chân lui ra vừa lẩm bẩm thở dài một mình:

– Trời ơi! Tưởng rằng Cao Điện Súy là ai, té ra chính là bác Cao Cầu ngày xưa, bác ta học múa gậy, bị phụ thân ta đánh cho một gậy, nằm sệt mãi đến ba bốn tháng không dậy được, vì thế bác ta sinh ra hiềm khích với nhà mình? Nay không biết bác ta vì cớ chi mà bác ta đã làm tới chức Điện Súy như thế? Nếu vậy thì tất là tính mệnh ta khó lòng mà chu toàn với hắn ta được.

Nhân thế trong lòng lo âu phiền muộn, lững thững về đến nhà lúc nào không biết. Vương Tiến vốn không có vợ con, chỉ có một bà mẹ già đã ngoài sáu mươi cùng ở.

Khi đó chàng về tới nhà, liền đem đầu đuôi câu chuyện thuật cho bà mẹ nghe, hai người lấy làm ách vận đến nơi, khó lòng mà thoát khỏi.

Bà mẹ sụt sùi than khóc hồi lâu, rồi bảo Vương Tiến rằng:

– Con ơi. Ba mươi sáu chước, chước nào là hơn? Bất nhược mẹ con ta trốn trước là ổn.

– Vâng, có lẽ kế ấy là tiện hơn cả.

– Đành vậy, nhưng con ơi biết tránh vào đâu bây giờ?

– Thưa mẹ, có quan Kinh Lược ở phủ Duyên An, các hàng quan quân của ngài, thường khi qua tới kinh sư, vẫn thích cái lối võ nghệ của con, vậy nay thử liều sang ở đó thì may ra cũng có cơ an thân mà lập nghiệp được.

Bà mẹ lấy làm phải, quyết kế trốn sang phủ Duyên An, nhưng lại nghĩ đi nghĩ lại mà bảo con rằng:

– Ở đây có hai tên Bài Quân là Trương và Lý là do Điện Súy cắt ra để hầu, nay nếu ta muốn đi, mà lở hai tên ấy biết thì làm thế nào cho thoát.

Vương Tiến cười mà đáp rằng:

– Cái đó con đã có cách xử trí, xin mẫu thân chớ lo.

Chiều hôm ấy, Vương Tiến gọi tên Trương Bài lên cho ăn cơm trước mà bảo rằng:

– Dạo trước ta yếu, có đến cầu Nhạc Miếu tại ngoài của Toan Tảo, ngày nay bệnh khỏi ta định sáng mai đi trả lễ, vậy ngươi ăn song phải đến đó trước, bảo Thủ Từ quét tước sạch sẽ, và làm lễ tam sinh để sáng mai ta ra lễ tạ.

Trương Bài vâng lời, cơm nước xong rồi, đi đến Nhạc Miếu trước.

Đêm hôm ấy hai mẹ con Vương Tiến sửa soạn hành lý; gói ghém tiền nong buộc làm hai túi rất to, chờ đến canh năm Vương Tiến gọi Lý Bài dậy, phân phó rằng: Ngươi mang lạng bạc này đến Nhạc Miếu, cùng với Trương Bài mua lễ tam sinh, làm cho sạch sẽ cẩn thận, để chờ ở đó, rồi ta đến sau.

Nói đoạn đưa tiễn cho Lý Bài đi, vào khoảng giữa trống canh năm trời còn sẩm tối, Vương Tiến soạn xong hành lý, khoác hai túi vào hai bên mình ngựa, buộc bịu cẩn thận đâu đấy, còn các đồ vật nặng nề, bỏ lại ở nhà, khóa chặt cửa lại, rồi dắt mẹ lên ngựa. Mình thì gánh một gánh hành lý nhỏ lén ra cửa Tây Hoa, trông đường đi về hướng Duyên An Phủ.

Sáng hôm sau hai tên bài quân Trương và Lý sắm các lễ vật sẵn sàng, đợi Vương Giáo Đầu mãi gần trưa cũng không thấy tới, tên Lý Bài lấy làm sốt ruột, mới chạy về nhà để tìm Vương Tiến.

Khi tới nơi thấy cửa đóng then cài, mà kiếm đâu cũng không ra Vương Tiến. Được một lát Trương Bài cũng sốt ruột ra về.

Sáng hôm sau hai tên quân bài lại đến khắp các nhà thân thích để tìm kiếm mẹ con Vương Tiến, song bóng hồng đã tếch tềnh tang, còn biết đâu là tung tích.

Sau bất đắc dĩ hai tên quân bài phải vào báo cho Điện Súy biết là mẹ con Vương Tiến đã khoá cửa bỏ nhà, mà trốn đi đâu mất.

Cao Thái Úy nghe báo cả giận mà rằng:

– Quân này gớm thật, để ta xem rõ nó trốn đi đâu?

Nói đoạn, sai viết văn thư tư đi các châu, để truy nã hai mẹ con Vương Tiến.

– Về phần Vương Tiến sau khi đi khỏi Đông Kinh thì đêm ngủ trọ ngày lên đường, dãi gió dầm sương, hai mẹ con rất là vất vả.

Đường đi được hơn một tháng, nghe chừng gần tới Duyên An, hai mẹ con lấy làm vui mừng, mãi nói chuyện với nhau, bất giác trời tối lúc nào không biết. Khi quay ra toan tìm chỗ trọ thì độ đường đã lỡ, không còn hàng quán đâu đây, trong bụng đã có phần lo sợ. May đâu chợt thấy đàng xa có khu rừng con, lại có bóng đèn sáng chiếu lập lòe, chắc rằng ở đó có nhà trọ được, liền cùng nhau rảo bước đến xem.

Tới nơi, quả nhiên là một trang viện lớn, có tường đất bao bọc chung quanh ngoài trồng toàn liễu, có tới ba bốn trăm cây, xanh biết chẳng khác chi một khu rừng tùng vậy.

Bây giờ hai người lần đến trang viện, gọi cửa hồi lâu, mới thấy người chạy ra hỏi.

Vương Tiến hạ gánh hành lý ở trên vai xuống, chắp tay vào người kia mà nói rằng:

– Thưa người, bà con tôi chẳng mai đi mất lỡ mất độ đường, không có quán hàng để trọ, vậy chúng tôi muốn phiền người cho vào ngủ trọ ở đây một tối, sáng mai xin nộp tiền trọ cẩn thận, có được chăng?

Người kia nói:

– Để tôi vào nói trang chủ xem sao, nếu được thì sẽ mời vào nghỉ.

Nói rồi vào trong nhà một lát chạy ra bảo Vương Tiến rằng:

– Ông chủ tôi đã ưng lời rồi, xin cứ vào trong nhà.

Vương Tiến quảy gánh lên vai, dắt ngựa đi theo người kia, vào bên cạnh chỗ nhà lúa, đặt gánh xuống rồi đỡ mẹ xuống ngựa, và dắt ngựa ra buộc gốc cây liễu gần đó. Đoạn cùng vào thảo đường để chào chủ nhân. Chủ nhân này đã ngoài sáu mươi tuổi, râu tóc bạc phơ, mình mặc áo rộng, chân mang giầy da, trông ra giống một ông trưởng giả, khi thấy mẹ con Vương Tiến tới nơi liền mời ngồi tử tế và hỏi tên họ.

Vương Tiến nói dối là người họ Trương, vốn ở kinh sư, vì buôn bán thua lỗ, phải đi tìm bà con ở phủ Duyên An để nương nhờ, nhân lỡ bước xin vào để trọ.

Người chủ nghe nói cũng yên chí cho là thực, liền sai người dọn cơm cho mẹ con Vương Tiến ăn.

Cơm nước xong rồi, chủ nhân đưa hai người sang phòng để nghỉ, Vương Tiến nói với chủ nhân rằng:

– Có con ngựa của mẹ tôi cưỡi, nhờ người bảo người nhà cho ăn uống cẩn thận, tôi xin tạ ơn sau.

Chủ nhân cười và đáp rằng:

– Được, nhà tôi cũng có ngựa để tôi bảo nó dắt ra chuồng cho ăn uống một thể.

Nói đoạn đi vào phòng nghỉ.

Sáng hôm sau khi mặt trời mọc đã cao, mà chưa thấy mẹ con Vương Tiến dậy, sau người chủ đi đến phòng khách, thấy tiếng mẹ Vương Tiến kêu rên mà cửa phòng chưa mở, liền hỏi lên rằng:

– Trời sáng đã lâu rồi mà các ngài chưa dậy hay sao?

Vương Tiến nghe tiếng hỏi, vội vàng chạy ra vái chủ nhân mà nói rằng:

– Thưa ngài chúng tôi dậy đã lâu, nhưng mẹ tôi đi đường mỏi mệt, hôm qua sinh chứng đau bụng, cho nên tôi chưa dám mở cửa đi ra.

Trang chủ nghe nói liền bảo Vương Tiến rằng:

– Nếu thế thì ông nói với cụ cứ yên tâm ở lưu lại đây mấy hôm, để tôi tìm thầy thuốc đến chữa.

Vương Tiến vui mừng cảm tạ, rồi lưu mẹ ở đó để phục thuốc, cách năm sáu hôm bệnh của mẹ đã khỏi.

Vương Tiến liền thu thập hành lý để sắp sửa ra đi. Khi ra ngoài tầu nom ngựa, thì thấy có một chàng thiếu niên cởi trần mặc quần đùi, to béo phục phịch, đương múa roi một mình ở sau sân.

Vương Tiến đứng xem một lát, bất giác bật miệng nói lên rằng:

– Roi múa đã khá lắm. Nhưng còn nhiều chỗ hớ hên, chưa có thể gọi là hảo hán được.

Người thiếu niên nghe nói, ngẩng lên thấy Vương Tiến, bỗng nổi giận quát:

– Anh là người nào, dám chê võ nghệ của ta? Ta đi học võ đã bảy tám ông thầy, có lẽ lại không bằng anh hay sao? Có giỏi vào đây đánh thử với ta vài hiệp xem sao?

Đương khi quát tháo ầm ĩ, thì thấy trang chủ ở đâu chạy ra mắng thiếu niên rằng:

– Mầy không được vô lễ thế.

Người thiếu niên nói:

– Anh ta là người nào, mà dám chê võ nghệ của con?

Trang chủ quay lại hỏi Vương Tiến rằng:

– Khách cũng biết đánh roi gậy chăng?

Vương Tiến đáp:

– Tôi có biết đôi chút nhưng thiếu niên kia là người nào?

– Thưa hắn là con của lão đấy.

– Nếu vậy thì tôi xin sửa giúp cho cậu ấy, nhưng không biết cậu ấy có bằng lòng hay không?

Trang chủ nói:

– Ngài có lòng như thế, thì còn gì hơn nữa?

Nói xong liền gọi chàng thiếu niên ấy đến bái chào Vương Tiến làm sư phụ. Thiếu niên nhất định không nghe, lại ra dáng tức giận mà rằng.

– Cha đừng nghe anh ta nói liều, nếu anh ta giỏi. Thì xin ra đây hãy đánh với con vài hiệp, có được thì con xin bái làm sư phụ ngay.

Vương Tiến đáp luôn rằng:

– Được. Nếu cậu muốn thi tài, thì có khó gì.

Chàng thiếu niên nghe Vương Tiến nói, liền múa vung roi chạy thẳng tới chổ Vương Tiến mà nói rằng:

– Bác có giỏi cứ ra đây.

Vương Tiến thấy chàng ta hăng hái quá vậy, chỉ cười không nói gì.

Sau trang chủ quay sang nói với Vương Tiến:

– Nếu ngài có lòng bảo giúp cháu, thì xin ngài cứ thử cho nó biết tay, có ngại gì.

– Nhưng tôi e lỡ ra không tiện cho cậu ấy.

– Xin ngài cứ thử xem, nếu nó có gẫy chân gẫy tay, thì cũng là tại nó; còn kêu ai được nữa đây.

Vương Tiến bất đắc dĩ, phải ra chỗ giá cắm gậy, rút lấy một cây roi, đi ra giữa sân, múa qua mấy vòng cho thiếu niên xem.

– Chàng thiếu niên xem một lát, rồi cũng cầm roi xông ra đánh, Vương Tiến chạy giật lùi, rồi giơ tay ra đỡ, chứ không đánh lại.

Chàng thiếu niên lại sấn đến gần Vương Tiến. Vương Tiến liền giơ roi ra bộ đánh rất mạnh, chàng thiếu niên giơ roi vội lên đỡ, Vương Tiến lại trở đầu roi dí vào bụng thiếu niên, đẩy một cái thật mạnh, làm cho thiếu niên không kịp phòng bị, ngã một cái rất nên thân, Vương Tiến vội vất roi ra đất, chạy lại nâng người thiếu niên dậy, cười nói khuyên giải mấy câu.

Người thiếu niên bị một ngọn roi ấy, mới phục tài Vương Tiến, lóp ngóp bò dậy, vái lấy vái để mà rằng:

– Thưa ngài, thực là tôi đã uổng công học tập bao thầy, mà rút cục không thấm vào đâu với sư phụ cả. Vậy xin ngài tha lỗi mà dạy bảo cho?

Vương Tiến cười mà rằng:

– Tôi đến đây quấy quá cũng nhiều, không biết lấy gì đền ơn cho được. Nếu cậu muốn học tập thêm thì tôi xin hết lòng bảo giúp, không dám tiếc chi.

Trang chủ nghe nói cũng lấy làm mừng, bắt con trai đi theo Vương Tiến vào trong nhà, rồi sai gia nhân giết dê và dọn rượu, thiết đãi mẹ con Vương Tiến. Trong khi dự tiệc, trang chủ cất tiếng mời Vương Tiến rồi hỏi rằng:

– Tôi xem ngài võ nghệ cao cường như vậy, tất là ngài đã làm chức Giáo Đầu thì phải? Bố con nhà tôi thực là có mắt mà không trông thấy núi, xin ngài xá lỗi cho.

Vương Tiến cười mà đáp rằng:

– Chẳng dám dấu chi cụ, tôi nay thực không phải là người họ Trương, mà chính là Giáo Đầu Vương Tiến dạy tám mươi vạn Cấm Binh ơ Đông Kinh. Chỉ suốt ngày múa đao cầm gậy, còn kém chi ai. Nay nhân vì Cao Thái Úy mới đến nhậm chức có lòng thù ghét với tôi. Tôi tự nghĩ mình không địch lại nổi, cho nên hai mẹ con phải bất đắc dĩ trốn sang phủ Duyên An, để vào hầu quan Trung Kinh Lược. Bất đồ lỡ bước tới đây nhờ được lão nhân có lòng hậu đãi, lại mời thầy chữa bệnh cho mẹ tôi, như thế thật là nghĩa nặng ơn sâu, biết lấy gì báo đáp. Nếu công tử nhà có muốn học tập cho hoàn toàn, thì tôi xin bảo giúp cho, còn như những ngón gậy đó, chẳng qua chỉ trông cho đẹp mắt, chứ đến khi ra trận, thì chẳng vào đâu.

Trang chủ nghe nói càng bội phần trân trọng, gọi con trai bảo rằng:

– Nếu vậy con phải lạy tạ sư phụ lần nữa mới được?

Chàng thiếu niên đứng dậy lạy tạ Vương Tiến rồi lại cùng ngồi dự tiệc.

Trang chủ kể chuyện lại với Vương Tiến rằng:

– Nguyên tổ phụ tôi từ xưa vẫn ở địa hạt huyện Hoa Âm này, đàng trước có dãy núi Thiếu Hoa, thôn này tên gọi là Sử Gia Thôn, có tới bốn trăm nhà ở, đều là họ Sử ở cả. Nhà tôi chỉ được thằng cháu đây, nhưng tính nó du đãng, không chịu cày cấy làm ăn, chỉ thích múa côn đánh gậy, mẹ nó ngăn mãi không được, thành ra lo quá mà chết, còn tôi đây cũng phải chìu lòng nó vậy. Từ xưa đến nay phí tổn kể biết bao nhiêu tiền, để đón thầy học võ, rồi lại thuê thợ chế cho một chiếc áo giáp, đằng trước có thêu chín con rồng rực rỡ, nhân thế ở quanh đây, ai cũng gọi nó là Cửu Văn Long Sử Tiến. May nay lại được ngài quá bộ đến đây, vậy xin ngài làm phúc dạy dỗ giúp cho, lão tôi xin hết lòng cảm tạ.

Vương Tiến cả mừng đáp rằng:

– Vâng cụ đã dạy thế, thì từ nay tôi xin lưu lại đây, để bảo giúp cho cậu ấy thành tài, rồi tôi sẽ xin từ biệt.

Khi cơm rượu xong, trang chủ lưu hai mẹ con Vương Tiến ở lại đó, để cho con học tập.

Từ đó, hàng ngày Vương Tiến bắt Sử Tiến học tập mười tám thứ võ nghệ, giảng dạy kỹ càng, luật phép nghiêm chỉnh, thắm thoát trong nữa năm trời, không gì mà không tinh không kín đáo.

Được ít lâu Vương Tiến thấy Sử Tiến khá rồi, mọi môn đều giỏi cả, tự nghĩ mình ở đây lưu luyến mãi thì không tiện, liền ngỏ lời với trang chủ và Sử Tiến cáo từ, để sang Duyên An Phủ kiếm kế lập thân.

Trang chủ cùng con là Sử Tiến cố ý vật nài lưu lại, song Vương Tiến nhất định không nghe, bất đắc dĩ phải đặt tiệc tiễn hành, và đưa ra mấy tấm vải đoạn cùng hai trăm lạng bạc, để tặng Vương Tiến lên đường.

Sáng hôm sau Vương Tiến sửa soạn hành lý, chỉnh đốn cung ngựa, từ giã hai bố con Sử Tiến ra đi, Sử Tiến bắt người gánh đồ hành lý, hết trong một ngày, đưa chân mẹ con thầy học, ra khỏi 10 dặm rồi mới bái biệt trở về.

Sử Tiến từ khi sư phụ đi rồi, thì ngày ngày luyện tập một mình, hết đao lại thương, hết cung lại ngựa, có khi nửa đêm diễn võ ở vườn sau, có lúc ban ngày múa chơi ở sân trước, tháng ngày lẩn thẩn, cơ hồ quên cả tấm thân.

Cách nửa năm sau, trang chủ bị cảm rất nặng Sử Tiến sai người đi đón thầy thuốc khắp mọi nơi, chữa chạy không thiếu gì phương cách, nhưng mình già tuổi yếu, bệnh thế triền miên, được mấy hôm thì ông về nơi tiên giới. Sử Tiến đau đớn khóc thương, nhất diện sắm sanh khâm niệm quách quan, nhất diện đón thầy về làm chay cúng Phật, cho tĩnh độ siêu sinh, rồi chọn tháng tốt ngày lành, làm lễ mai táng ở ngọn núi bên tây.

Từ đó Sử Tiến trong lòng buồn bã, lại càng không thiết đến công việc nông, chỉ đêm ngày lẩn thẩn tìm ngươi đấu võ thi tài làm thích.

Một hôm vào khoảng trung tuần tháng sáu, trời đang bức nực lạ thường, Sử Tiến vác cái ghế ra gốc cây liễu ở gần cạnh bục thóc để ngồi hứng mát. Chợt thấy ở dưới gốc cây tùng bên kia, có người ngấp nghé nom dòm, chàng lấy làm ngạc nhiên quát hỏi lên rằng:

– Quái! Anh nào nom dòm nhà ta thế kia?

Hỏi đoạn, đứng dậy chạy ra xem, thì thấy tên Lý Cát, là tay đi săn đương đứng ở đó. Sử Tiến lại hỏi luôn rằng:

– Lý Cát! Ngươi nấp nom gì đấy? Hay là muốn thử võ với ta chăng?

Lý Cát dạ! Mà đáp lại rằng:

– Thưa cậu, tôi đến đây để săn mấy con cầy, để kiếm rượu, nhưng thấy cậu ngồi đó, nên tôi không dám vào.

– Sao dạo trước săn bắn được cái gì, anh cũng mang đế đây bán, tôi chưa từng chịu tiền của anh bao giờ? Thế mà lâu nay không thấy mang đến đây bán cho tôi nữa. Hay là anh khinh tôi không có tiền chăng?

– Có đâu dám thế, vì dạo này săn không được cái gì, cho nên không dám đến đây thôi.

Sử Tiến quát lên rằng:

– Anh nói cuội, núi Thiếu Hoa rộng lớn như vậy, mà lại không có con vật gì hay sao.

Lý Cát nói rằng:

– Thưa cậu, Nguyên ở núi Thiếu Hoa bây giờ, có một bọn cướp đến đóng, người đầu đảng là Thần Cơ quân sư Chu Vũ, tự xưng làm Đại Vương; người thứ hai là Khiếu Giản Hổ Trần Đạt; còn người thứ ba là Bạch Hoa Sà Dương Xuân, tụ đến năm bảy trăm lâu la, và mấy trăm cỗ ngựa, để đi cướp bóc kiếm ăn. Quan huyện Hoa Âm cấm mãi không được, phải treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng người bắt cướp, nhưng nào có ai dám đụng đến chúng nó đâu? Bởi thế lâu nay chúng tôi không dám lên núi, nên không kiếm được gì.

Sử Tiến lắc đầu nói rằng:

– Ta cũng thấy nói có bọn cướp ở đấy, nhưng không ngờ nó hống hách như vậy. Lý Cát ôi! Hôm nay nếu có kiếm được cái gì, thì ngươi phải mang đến đây bán cho ta mới được.

Lý Cát vâng dạ luôn mồm rồi đi.

Sử Tiến quay vào nhà trong suy nghĩ một mình:

Bọn cướp nó lộng hành như vậy, thì tất nhiên có phen quấy rối đến chỗ ta, vậy bất nhược ta phải phòng bị ngay mới được.

Chàng nghĩ như vậy, liền sai người nhà mổ thịt hai con trâu, rồi cho mời mấy trăm nhà trong thôn đến chén.

Khi dưới trên đã tề tựu cả rồi, Sử Tiến cất chén rượu mời, nói với hàng thôn rằng:

– Tôi nghe thấy trộm cướp đến đóng trên núi Thiếu Hoa, đây quân gia có tới năm bảy trăm người, sức mạng người đông, không ai cản nổi thế tất sau này phải quấy nhiễu đến ta, vậy tôi muốn mời đồng dân đến đây, để bàn kế phòng bị, kẻo lỡ khi nguy hiểm đến nơi, khó lòng tránh khỏi. Từ nay các nhà ở trong hàng thôn, ai ai cũng phải phòng bị khí giới, và đặt mõ làm hiệu, nếu có động dạng gì cứ đánh mõ lên, thì các nhà khác phải đổ đến ứng cứu cho mau.

Các thôn dân nghe nói, đều đồng thanh rằng:

– Chúng tôi là nông dân, không biết chút gì, vậy các việc xin nhờ Đại Lang tất cả, hễ có động dạng ở đâu, chúng tôi xin vâng lời đến cứu.

Khi chè chén xong rồi, các dân thôn đâu đấy về nhà, sửa soạn võ khí theo như lời Sử Tiến đã dặn, còn Sử Tiến thì sửa sang cổng ngõ ngăn ngừa giậu vách, và sắp sẵn các đồ đai giáp cung ngựa, để dự bị chống giặc.

Nguyên bọn giặc này, đến đóng ở núi Thiếu Hoa, có ba người làm trùm, một người tên là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ, vốn người ở đất Định Viễn, sai khiến hai cây song đao, võ nghệ dẫu không ra gì, song cũng biết ít nhiều trận pháp, lại mưu lược cũng hơi thông. Một người tên là Trần Đạt; quê ở Nghiệp Thành, vốn hay dùng cây cương sang để ra trận; còn một người thứ ba tên là Dương Xuân, người đất Bồ Châu, huyện Giải Lương, thường cầm một thanh đại đao rất lớn.

Một hôm Chu Vũ bảo với Trần Đạt, Dương Xuân rằng:

– Nghe nói huyện Hoa Âm có treo giải ba nghìn quan tiền để thưởng người tróc nã bọn ta, vậy thì bất nhật tất có quan quân kéo đến, thế mà trong trại ta lương thảo không có là bao, chỉ e khi binh hỏa đến nơi, thì khó lòng chống cự. Nay nhân khi nhàn hạ, sao ta không liệu kế đi tảo vác lấy lương thảo đem về mà phòng bị, sẵn sàng cho vững dạ.

Khiêu Giản Hổ Trần Đạt gật đầu đáp rằng:

– Phải lắm, bất nhược ta đến huyện Hoa Âm mượn ngay họ một ít lương thảo, xem họ xử trí ra sao đã.

Bạch Hoa Sà Dương Xuân gạt ngay đi rằng:

– Ta không nên đến huyện Hoa Âm cứ kéo vào Bồ Thành có lẽ lại thanh thỏa hơn.

Trần Đạt nói:

– Huyện Bồ Thành người thưa lương ít, lấy được bao nhiêu, chi bằng đến huyên Hoa Âm nhân dân giàu có, tiền thóc sẵn sàng, có thú hơn không?

Dương Xuân nói:

– Đành vậy, nhưng anh phải biết rằng, đường đi Hoa Âm, tất phải qua thôn Sử gia, ở đấy có anh Cửu Văn Long Sử Tiến cũng là một tay đại bợm, nếu không trừ được nó, thì sao nó để cho đi.

Trần Đạt làm bộ mạnh bạo mà rằng:

– Sao chú bé mật thế; một thằng nhãi con còn sợ, thì địch thế nào nổi với quân quan.

Dương Xuân nói:

– Anh chớ nên khinh người ấy mới được.

Chu Vũ nói:

– Tôi cũng nghe thấy nói hắn ta anh hùng mà võ nghệ rất giỏi, có lẽ đừng nên phạm vào đấy thì hơn.

Trần Đạt có ý không bằng lòng:

– Các ông thật là chỉ biết tâng bốc chí khí người ta, mà làm nhụt mất cả uy phong của mình, nó bất quá là người, chứ có ba đầu sáu tay gì mà sợ.

Nói đoạn, thét ngay đám lâu la:

– Chúng bay sắp ngựa đem đến đây, ta hãy phá thôn Sử Gia rồi lấy huyện Hoa Âm cho mà xem.

Chu Vũ và Dương Xuân thấy vậy, tỏ ý can ngăn, song Trần Đạt nhất định không nghe, vác thương lên ngựa, dẫn hơn một trăm lâu la, đánh trống khua chiêng, thẳng vào thôn họ Sử. Sử Tiến đương khi chuẩn bị sẵn sàng để chờ giặc đến, bỗng nghe tin báo, thì khua mõ ra lệnh cho thôn dân đổ đến.

Khi thôn dân nghe tiếng hiệu, thì ba bốn trăm nhà đều tay gươm tay gậy bảo nhau kéo đến cứu ứng, tới nơi thấy Sử Tiến đầu đội khăn chữ nhất, mình mặc áo giáp hồng, chân đi giày tía, lưng thắc dây da, trước sau ngực đều có kính yểm tâm, lưng đeo bao tê, tay cầm cây đao ba mũi, rất là oai vệ. Bấy giờ người nhà dắt ra một con ngựa đỏ, Sử Tiến nhảy lên mình ngựa, đàn trước có hơn bốn mươi gia nhân tráng kiện dàn hàng, lại có tám chín mươi người thôn trang khỏe mạnh đi kèm hai bên, còn bao nhiêu thôn dân đi theo sau cùng kéo ra cửa thôn. Vừa đi tới chỗ sườn núi đã thấy Trần Đạt đầu đội khăn hồng, mình mặc áo giáp sắt bọc vàng, chân đi đôi giày ống, cưỡi con ngựa trắng cao đầu, tay vác thanh cương mâu, dẫn lâu la kéo tới.

Sử Tiến trông thấy quát lên hỏi rằng:

– Các ngươi ở đâu dám đến đất này quấy nhiễu lương dân? Tội ấy cũng đã đáng chết, nay còn muốn cả gan xâm phạm đến chỗ ta ở hay sao?

Trần Đạt ngồi trên mình ngựa đáp rằng:

– Vì trong trại chúng tôi thiếu ăn, muốn sang huyện Hoa Âm để vay lương thực, đường đi qua quý thôn đây, muốn phiền ngài cho đi nhờ, khi trở về tôi xin hậu tạ.

Sử Tiến nghe dứt lời quát lên rằng:

– Các ngươi nói dễ chưa, ta đây đương tính đi tróc nã các ngươi, nay mi tự dẫn đến đây, tất là không thể nào tha ra được.

Trần Đạt lại nói:

– Ngài ơí! Trong bốn bể đều là anh em hết cả, hẹp chi mà ngài không cho chúng tôi mượn lối để đi?

Sử Tiến cười đáp:

– Đành vậy, nhưng có một vật kia, nó không chịu cho các ngươi mượn đường để đi, ngươi thử hỏi xem nó có bằng lòng, thì ta sẽ dung cho các ngươi.

Trần Đạt nghe nói cả giận mà rằng:

– Anh này giỏi, anh bảo ta hỏi ai?

– Ngươi hỏi thanh đao trong tay ta đây này, xem nó có bằng lòng không?

Trần Đạt hầm hầm không đợi nói dứt lời, vội múa cương sang xông vào, đánh thẳng. Bên kia Sử Tiến cũng giơ đao, xông ngựa ra chống cự.

Đôi bên đánh lộn bậy hồi lâu, Sử Tiến giả cách hớ hênh, Trần Đạt liền cầm thương nhằm Sử Tiến đâm một nhát thật mạnh. Sử Tiến quất ngựa nhảy rất nhanh, để tránh mũi thương, rồi quay ngoắt ngay vào Trần Đạt, Trần Đạt còn luống cuống toan quay đầu để đỡ bỗng bị Sử Tiến quăng dây nhợ quấn chặt lấy mình, giật ngã xuống ngựa. Bọn lâu la thấy chủ tướng đã thua, đứa nào đứa nấy đều thục thân mà chạy cả. Sử Tiến hô tụi thôn trang khiêng Trần Đạt về trói ở sân, để đợi khi bắt được hai tên kia, thì sẽ giải quan một thể, đoạn rồi đem rượu thịt khao thưởng tại thôn trang rất là vui vẻ.

Bên kia Chu Vũ, Dương Xuân từ khi Trần Đạt đem lâu la ra đi, trong lòng vẫn áy náy không yên, hai người còn đương bàn bạc nghĩ ngợi, thì bỗng thấy một lũ lâu la hớt ha hớt hải, chạy về đem chuyện Trần Đạt bị bắt, giải bày cho nghe.

Chu Vũ nghe nói biến sắc mặt kêu lên rằng:

– Hắn không nghe lời ta, quả nhiên tai họa tới nơi, còn làm sao cho kịp?

Chu Vũ lắc đầu mà rằng:

– Khó lòng, Sử Tiến không phải là người vừa, anh em ta địch làm sao nổi?

– Bây giờ tôi có một khổ kế này, nếu mà không cứu được Trần Đạt ra thì tôi với anh cũng là chịu chết cả thôi.

– Khổ kế là thế nào?

Chu Vũ ghé vào tai Dương Xuân nói thầm mấy câu, rồi lại bảo rằng:

– Trừ phi như thế, thì may ra có thể được mà thôi.

Dương Xuân hơi có dáng mừng mà rằng:

– Nếu vậy thì ta phải mau lên, chứ trì hoãn làm sao được nữa?

Nói đoạn hai người cùng đi.

Bấy giờ Sử Tiến khao thưởng trong thôn, vừa đoạn, trong lòng đương nóng nảy mong bắt được hai tên kia, để cùng đem với Trần Đạt giải quan một thể. Bỗng thấy tráng đinh vào báo rằng:

– Có hai người đến ngoài cổng, nói là Dương Xuân, Chu Vũ đến hầu.

Sử Tiến nghe nói cả mừng rằng:

– “Nếu vậy thì ta thành công rồi, hai thằng ấy có lên trời cũng không thoát được” đoạn nhất diện sai người đánh hiệu cho dân thôn kéo đến, nhất diện sai lấy ngựa để ra cổng trại xem sao? Đương khi sắp sửa cung ngựa, thì đã thấy Dương Xuân cùng Chu Vũ đi bộ bước vào hiên trại, quỳ xuống đất khóc sướt mướt mà không nói gì?

Sử Tiến thấy vậy quát hỏi:

– Các ngươi định làm kế sách gì ở đây? Chu Vũ sụt sùi nói rằng:

– Thưa ngài: Ba anh em chúng tôi chỉ vì nhiều khi bị quan trên ức hiếp, bất đắc dĩ phải đem nhau đi cướp bóc kiếm ăn. Kỳ thủy có nguyện với nhau, không cầu được cùng một ngày sống, mà chỉ cầu sao được cùng chết một ngày, tình thân ái của ba chúng tôi không dám đâu ví với Đào Viên Tam Nghĩa, song sự tử sinh cố kết, thì cũng hơi giống như nhau. Nay em Trần Đạt chúng tôi, chỉ vì không nghe lời tôi bảo, thuận tiện tới đây, phạm đến uy ngai, để ngài bắt được, sự ấy tự nó làm ra, đành là tự thân phải chịu, không còn kêu thán được ai. Vì vậy chúng tôi xin đến đây để nộp thân cho ngài, ngài nghĩ đến tình cố kết cùa chúng tôi mà cho đem nộp quan trên tất cả, để anh em chúng tôi được cùng trông thấy nhau, tức là hạnh phúc cho chúng tôi lắm. Chúng tôi được chết về tay một người anh hùng như ngài, không dám có một điều chi là hối hận.

Sử Tiến nghe nói, tự nghĩ một mình:

– Ừ ba thằng này nó có nghĩa khí với nhau như thế, nay nếu ta đem bắt mà giải quan, thì tất nhiên bọn hảo hán ở đời phải cười ta là người hẹp lượng, xưa nay thường nói, làm đấng anh hùng phải dung kẻ dưới, việc này có lẽ ta phải xử trí sao đây?

Nghĩ đoạn liền bảo hai người kia rằng:

– Các ngươi đi theo ta vào trong này,

Chu Vũ, Dương Xuân ung dung đi theo Sử Tiến vào đến nhà sau; rồi lại quì xuống mà kêu xin chịu trói. Sử Tiến đôi ba phen bảo cứ đứng dậy, xong hai người nhất định không nghe, cứ chăm chăm quì nguyên như trước.

Sử Tiến thấy vậy trong lòng rất cảm động không yên, liền sẽ bảo hai người rằng:

– Các ngươi đã có nghĩa khí đối đãi với nhau như thế, ta đây cũng không nỡ bắt làm chi? Vậy ta muốn tha cho Trần Đạt trở về, thì các ngươi nghĩ sao?

Chu Vũ nói:

– Có đâu chúng tôi lại để lụy anh hùng như thế? Thà rằng xin ngài cứ giải chúng tôi mà lấy thưởng còn hơn.

Sử Tiến nghe nói, lại càng mủi lòng, liền kéo hai người đứng dậy, rồi tha trói cho Trần Đạt, sai người đem rượu thịt ra cho ba người cùng uống và hứa cho về.

Khi uống rượu say sưa, ba người cùng ân cần tạ ơn Sử Tiến rồi quay về trại. Tới trại, Chu Vũ bảo hai người kia rằng:

– Nếu ta không làm cái khổ kế như vậy, thì khó lòng mà cứu được tính mạng cho toàn. Nhưng thế nào mặc lòng, Sử Đại Lang cũng là một tay nghĩa khí lạ thường, cho nên mới đãi chúng ta như thế. Vậy nay mai ta phải kiếm lễ vật gì, mà tạ ơn người ấy mới được.

Cách mươi hôm sau, Chu Vũ sai mấy tên lâu la, vào hồi chập tối, mang ba mươi nén vàng đến để tạ ơn Sử Tiến. Thoạt tiên, Sử Tiến thấy vậy còn từ chối không nhận. Sau thấy tên lâu la kêu nài thảm thiết, thì cũng cảm lòng tốt mà thu lấy. Đoạn, sai lấy cơm rượu cho tên lâu la ăn uống, mà thưởng tiền cho về.

Vào khoảng nửa tháng sau, lũ Chu Vũ kiếm được một hạt minh châu rất lớn, cũng lại sai người đến dâng Sử Tiến.

Sử Tiến nhận minh châu trong lòng lấy làm nghĩ ngợi: Ba người này thành thực trọng đãi ta như thế, nếu ta không có gì xử lại với họ thì tất nhiên họ không tâm phục vớí mình.

Nghĩ đoạn liền sai người nhà đi mua gấm, đặt may ba cái áo, để tặng ba người. Cách mấy hôm sau áo đã may xong, Sử Tiến lại mua ba con dê béo, quay chín tử tế rồi cho tên Vương Tứ đem áo gấm và dê béo vào trại, để tặng bọn Chu Vũ, Dương Xuân, vương tứ là một tay người nhà rất thông thạo ở trong trang viện, nhân thế Sử Tiến mới tin dùng mà sai đến những việc bì mật như vậy.

Vương Tứ tới sơn trại, bọn Chu Vũ nhận được lễ vật mừng rỡ cảm tạ, đoạn rồi cũng sai lấy rượu ngon thịt béo cho Vương Tứ ăn, và lại thưởng cho mươi lạng bạc đem về.

Từ đó Sử Tiến cùng với bọn Chu Vũ thường tặng đưa lễ vật cho nhau, tình ý xem ra cũng hơi có chiều thân mật.

Ngày đi tháng lại, mọt hôm gần đến tết Trung thu, Sử Tiến muốn tìm bọn Chu Vũ đến để nói chuyện cho vui, liền viết một bức thư sai Vương Tứ đưa sang sơn trại, hẹn với Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, đến hôm giữa tết Trung thu, thì cùng đến thôn trang để trông trăng đánh chén. Chu Vũ nhận được thư, trong lòng mừng rỡ vô cùng, liền viết thư đáp, xin đến hôm ấy thì cả ba anh em cùng y lời phó ước. Viết xong thư đưa cho Vương Tứ, sai lấy rượu cho uống, và thưởng cho năm nén bạc rồi mới cho về. Vương Tứ bỏ phong thư vào túi vái tạ ba người. Vừa ra đến cổng bỗng gặp một tên lâu la vẫn hay đưa lễ vật sang trang viên xưa nay. Tên ấy trông Vương Tứ thì vội mừng hớn hở, lôi kéo vào hàng rượu con con ở gần đấy để thiết đãi, Vương Tứ vừa mới uống rượu của bọn Chu Vũ thưởng xong, lại bị tên lâu la ép luôn mươi chén nữa, thì thấy chếnh choáng muốn say, liền đứng dậy từ giã lâu la vội vã ra về.

Khi đi được mấy bước, thấy hơi rượu ngày càng bốc, dần dần choáng váng ngả nghiêng như muốn ngã, Vương Tứ cố gượng toan đi về đến nhà. Bất đồ mới đi độ mươi dặm được, đến một khu rừng con gần đó, thì mê mệt say sưa, nằm vật ngay xuống, không biết trời đất chi nữa.

Bấy giờ có tên Lý Cát đương đi săn ở khu rừng ấy, khi thấy động, chạy đến xem, thì biết ngay Vương Tứ là người nhà của Sử Tiến, liền cố sức dìu dậy muốn đưa về, song dù làm thế nào, cũng không dìu dắt đi được, bất đắc dĩ phải đành mặc đấy. Dè đâu Vương Tứ say quá đến nỗi có mấy lạng bạc của bọn Chu Vũ cho, và bức thư trả lời của bọn họ cũng đánh rơi cả ra mà không biết. Lý Cát bất thình lình nom thấy, liền tự nghĩ trong bụng: ” Ta làm gì một lúc mà được bằng này tiền, bất nhược gặp cơ hội này, ta thủ phăng của anh này, để mà chè chén, có thú hơn không? “Nghĩ xong nhặt lấy tiền đút vào túi, rồi lại cất lấy phong thư để xem. Lý Cát cũng hơi võ vẽ được năm ba chữ, mở thư ra xem thấy trên đề: “Chúng tôi Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, ở Thiếu Hoa Sơn, kính thưa ông Sử Tiến…”Còn ở dưới, liên chi hồ điệp, không hiểu là chữ nghĩa gì, trong bụng nghĩ thầm, nói lẩm bẩm một mình:” Cái này chắc ba chú ở Thiếu Hoa Sơn lại kết giao với Sử Tiến, mà thông tin tức cho nhau đây hẳn? Ưø Sử Tiến, hôm nọ ta đến qua sơn trang hắn còn giậm dọa quát tháo với ta, ai ngờ chính hắn lại thông đồng với bọn giết người lấy của, mà nạt chúng ta? Được lắm; ta cứ giữ nghề thả lưới mò trăng mãi, thì đến bao giờ cho phú quý? Âu là đương dịp quan trên đương thưởng tiền bắt cướp, ta đem bức thư ra tố giác, họa may có cơ hội tốt thì cũng nên”. Nghĩ đoạn liền đút luôn bức thư vào túi, đi ngay lên huyện Hoa Âm để tố cáo.

Khi Vương Tứ cựa mình tỉnh dậy, mở mắt trông thấy trăng sáng lờ mờ, bốn bên toàn là cỏ cây rừng núi, bấy giờ mới biết là mình bị chén đã quá say, mà nằm ở đó, liền đứng dậy sờ đến túi, thì tiền không thấy mà giấy cũng không. Trong bụng bàng hoàng tìm khắp chung quanh không còn tăm hơi chi cả? ” Trời ơi! Không biết đứa nào tinh khôn đến thế, ai xui cho nó đến đây mà lấy cả của mình? Ừ thì tiền nong mất chẳng cần chi, nhưng còn bức thư kia, ngộ nhỡ ra đứa nào biết đến thì sao?

Vương Tứ nghĩ vậy, vò đầu vò tóc, tính quẩn toan quanh, chợt nghĩ ra một kế: “Nếu bây giờ ta nói thực với Sử Đại Lang thì tất là không yên được, vậy bất nhược ta phải nói phăng là không có thư từ gì cả là xong”

Định kế xong rồi, đi thẳng một mạch, vào khoảng đầu trống canh năm về tới nhà, vào báo cho Sử Tiến biết, Sử Tiến thấy Vương Tứ về liền hỏi:

– Sao ngươi đi lâu lắm vậy?

– Dạ! Bẩm cậu, con đi vào đến đó, ba ông ấy còn lưu lại cho con uống rượu thật say, cho nên bây giờ con mới về được.

– Có giấy má gì không?

– Bẩm không! Các ông ấy toan viết thư trả lời, nhưng sợ lỡ đi đường say rượu, mà đánh rơi mất thì khốn. Vì thế con bảo các ông ấy cứ dặn miệng thôi cũng được, vậy các ông ấy có dặn con nói để cảm tạ Đại Lang, và hẹn rằng hôm ấy thế nào cũng đến sớm.

Sử Tiến khen rằng:

– Anh tinh lắm, nếu thế thì không phụ lòng ta tin cậy thực; nhưng đã vậy, thì mai sớm phải đi lên huyện mà sắm sửa hoa quả, và các thức rượu chè sẵn cho ta.

Vương Tứ vâng lời lui ra, cách mấy hôm đến ngày Rằm tháng tám, khí trời mát mẻ, cảnh vật em đềm, lũ Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt, giao việc trại cho bọn lâu la coi sóc, rồi đem mấy người thân tín đều dắt đỏan đao thủ thân mà cùng sang Sử thôn phó ước.

Buổi chiều hôm ấy, ở nhà Sử Tiến đã bày tiệc sẵn sàng để đợi. Khi bọn Chu Vũ tới nơi, Sử Tiến rất mừng rỡ, đón rước mời chào, cùng nhau đàm đạo hồi lâu, rồi mới rước vào dự tiệc. Bấy giờ vừa khi sẩm tối, bốn bên mây tạnh trời quang, bóng Hằng Nga vằng vặc ở phương đông đã lù lù kéo đến, soi sáng vào bàn tiệc Trung thu, Sử Tiến cùng bọn Chu Vũ, Dương Xuân cất chén thù tạc với nhau, rất là đắc chí, chợt đâu có tiếng người ồn ào, ở phía ngoài tường, đoạn rồi thấy đóm đuốc sáng quắc tứ bề, Sử Tiến ngạc nhiên kinh lạ, đứng dậy bảo với ba người kia rằng: –  Ba bác hãy ngồi đây xơi rượu, để tôi chạy ra xem việc chi huyên náo thế kia? Nói xong chạy ra quát người nhà đóng chặt cổng người ngõ lại, rồi lấy thang trèo lên tường nom, thì thấy quan Huyện Úy huyện Hoa Âm đương ngồi trên mình ngựa, dẫn hai tên Đô Đầu, Đốc Xuất và ba bốn trăm thổ binh vây bọc quanh nhà mình, Sử Tiến thấy vậy, chạy vào báo cho ba người kia biết, ai nấy đều kinh hoàng sợ hãi, chưa biết định kế ra sao?

Rượu còn chếnh choáng,

Người đã xôn xao,

Vì không tỏ mặt anh hào,

Bỗng nhưng đâu có lụy vào đến thân?

Đã nên có dũng có nhân,

Nặng lòng nghĩa hiệp, nhẹ cân bạc tiền,

Nước non đã vực anh tài,

Sá chi luồn cuối thiệt đời bồng tang;

Tiếng hào còn để làm gương,

Trăm năm thẹn chết những phường tham ngu.

Lời bàn của Thánh Thán:

Một bộ sách lớn gồm bảy mươi hồi, sắp tả ra một trăm linh tám anh hùng. Khi mới mở đầu câu chuyện không thề tả ngay ra hết, hãy tả một người Cao Cầu như khởi điểm. Nếu chẳng tả Cao Cầu, lại tả ngay một trăm linh tám vị anh hùng, thì ra mối loạn bắt đầu tự lũ dưới. Nay chẳng tả ngay lũ anh hùng ấy, mà tả Cao Cầu trước, thì thấy mối loạn sinh ra vốn tự người trên. Xét loạn tự lũ dưới sinh ra, sao dung thứ được? Đó là điều kiêng kị của tác giả đối với mọi chuyện. Nay mối loạn tự người trên sinh ra, không nên để cho to lớn, đó cũng là điều lo sâu của tác giả đối với mọi chuyện. Một bộ sách lớn bảy mươi hồi, mở đầu thấy tả Cao Cầu mới viết vậy.

Cao Cầu trở lại Đông Kinh đắc dụng, khiến Vương Tiến bỏ quan chức trốn đi, Vương Tiến kia là bậc thế nào? Vốn người chẳng bỏ nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ, tức là con hiếu đấy! Khiến ta càng nhớ đến câu: Muốn cầu tôi trung, phải xem ở đám con hiếu. Như thế Vương Tiến cũng bậc tôi trung, từ xưa con hiếu tôi trung, được coi như tường lân oai phượng, hay như ngọc bích tròn, với ngọc khuê vuông, tìm khắp bốn bể chưa lấy nổi một người, thế mà đánh sịch một cái lại có đây, thì đáng tôn quý, đáng vinh dự lắm chứ? Sao mà sinh sự oán ghét, lại toan đánh mắng, đến điều muốn giết chết, bức bách cho phải bỏ đi, thế là tại đâu? Đó là Vương Tiến bỏ đi, đem lại một trăm linh tám người tới vậy.

Như thế Cao Cầu khởi xướng cho một trăm lẻ tám người sinh chuyện. Vì sau Vương Tiến bỏ đi, lại tiếp đến Sử Tiến, chữ Sử là họ kia cũng chữ sử là sách sử vậy, ý nói quan Tỳ Sử cũng chỉ chép sử. Hỡi ơi! Từ xưa có sử để mà chép mọi việc, thì nay quan Tỳ Sử chép gì, hãy chép việc của một trăm lẻ tám người vậy, chép đám người ấy, cũng cho là sử ư? Cho là sử vì lời bàn của dân chúng, cũng là sử được, kể ra dân chúng đâu dám cãi bàn việc nước, bấy lâu nay dân chúng đâu dám cãi bàn, một khi dân chúng chẳng dám cãi bàn, mà lại cứ dám cãi bàn, thì tại đân nhỉ? Theo như thiên hạ có đạo, thì dân nào dám cãi bàn, thì cũng đủ biết thiên hạ không còn đạo nữa! Cũng như Vương Tiến phải bỏ đi, vì Cao Cầu được trở lại vậy.

Họ Sử cũng như sách sử vậy, vốn có chuyện vậy, còn Tiến thì nghĩa sao đây? Xét rằng kẻ kia vốn tự hứa ra tên, dù chẳng phải quan Tỳ Sử chép truyện, song đã tiến dẫn thành sử vậy, ngươi Sử Tiến để tiến dẫn truyện thành ra sử, vốn có vậy. Còn Vương Tiến là nghĩa làm sao? Xét rằng phải được người như thế, ngõ hầu bậc thánh ở ngôi vua, để dạy dân tiến lên vương đạo, phải là như người Vương Tiến, rồi dạy dân tiến lên vương đạo, thế thì một trăm lẻ tám người kia, theo vương đạo phải đem giết bỏ.

Một trăm lẻ tám người kia, theo vương đạo phải đem giết bỏ, sao còn cho hiện lẫn ra một Vương Tiến đáng là dân của bậc thánh minh? Xét rằng Vương Tiến chẳng bỏ nghiệp cha, khéo nuôi chí mẹ, đáng xuất hiện trung gian, để làm gương lắm? Thế rồi chẳng hiện ở trung gian như điểm danh chẳng tới, chẳng thấy từ đâu diễn mãi ra, trốn một bước Diên An; Lại chẳng thấy hiện ra sau cuối nữa, chả có từ đầu tới cuối, cũng như con thần long đó ư? Để cho một trăm lẻ tám người kia, đều hiện ra hết, ta thấy rằng họ khỏi với tội chết vậy, nhưng vẫn chưa bằng Vương Tiến, một trăm tám người kia, xét chưa bằng ấy, vậy sau mới biết khó làm nổi như Vương Tiến. Xét, chẳng hiện làm đầu, để bảo cho người ta, đời loạn nên ẩn, chớ xuất đầu ra; Xét chảng hiện ra cuối nữa cũng bảo cho người ta, đời loạn quyết không thu tàn cục.

Một bộ sách bảy mươi hồi, với một trăm lẻ tám người, theo 36 vị Thiên cương, thì ngôi sao Tống Giang làm chủ; mà khi trước làm trộm cướp vậy, lại theo 72 vị Địa Sát, có ngôi sao Chu Vũ, dẫu rằng bút lục tung hoành của tác giả rất khéo, song cũng ngược với đạo trời mà làm ra vậy.

Thứ diễn đến Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Sà Dương Xuân là ẩn nhiên bao quát một bộ sách bảy mươi hồi, có một trăm lẻ tám người đều như hùm, như rắn, chả quý gì mà biết tới. Đã biết sự ẩn quát một bộ sách bảy mươi hồi, với trăm lẻ tám người, thì dùng để làm gì? Nói rằng đấy là Khế Tử, để diễn ra một bộ sách, mà Thợ Trời hoá hiện, mới có một rắn một hùm, khiến độc giả thấy Trần Đạt, Dương Xuân, làm danh hiệu bao gồm một trăm lẻ tám vị anh hùng hảo hán vậy. 

Hồi 2: Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại – Lỗ Đề Hạt giữa chợ giết người

Sử Tiến hỏi Chu Vũ rằng:

– Bây giờ các bác tính làm sao cho tiện?

Chu Vũ đứng lên nói:

– Ngài là một người lương thiện vô tội, chỉ vì chúng tôi làm cho liên lụy đến người, vậy xin ngài cứ trói ba chúng tôi đem nộp cho quan Huyện, thế là không còn lôi thôi nữa?

Sử Tiến lắc đầu đáp rằng:

– Nếu làm thế, thì ra tôi đánh lừa đến đây, để bắt các bác mà lấy thưởng hay sao? Đại trượng phu ở đời có đâu như thế, mà để tiếng chê cười cho thiên hạ hậu thế, vậy bây giờ chỉ có là sống cùng sống, mà chết cùng chết là hơn, được các bác cứ ngồi đó, để tôi ra hỏi lại xem sao, rồi chúng ta sẽ liệu.

Nói đoạn chạy ra bờ tường, trèo lên thang quát hỏi:

– Bớ các ngươi, đêm hôm khuya khoắt, các ngươi định đến đây cướp phá nhà ta đó, hay sao?

Hai tên Đô Đầu ở ngoài thấy tiếng Sử Tiến liền đáp:

– Đại Lang ơi! Đại Lang không cần hỏi, đã có tên nguyên cáo là Lý Cát ở đây.

Sử Tiến quát lên rằng:

– Tôi có biết gì đâu? Nhân hôm nọ tôi nhặt được cái thư của Vương Tứ, đánh rơi ở trong rừng, tôi vội đem lên nộp quan, thì ngài sai tôi dẫn đến đây để bắt đấy thôi.

Sử Tiến nghe nói cả giận, quay lại quát hỏi Vương Tứ rằng:

– Sao ngươi bảo với ta, không có thư trả lời, mà bây giờ lại xảy ra như thế?

Vương Tứ luống cuống trả lời:

– Đại Lang tha lỗi cho tôi, hôm ấy vì say rượu đánh rơi mất thư lúc nào không biết.

Sử Tiến bầng bầng quát mắng rằng:

– Quân súc sinh này, như thế còn tin cậy được việc gì nữa?

Rồi quay ra bảo với lũ Đô Đầu ở ngoài rằng:

– Nếu vậy thì hãy cứ đợi ở ngoài, để tôi sẽ trói phạm nhân đem ra nộp vậy.

Ngoài kia hai tên Đô Đầu sợ uy thế của Sử Tiến, cũng đành phải vâng lời đứng ở ngoài, không ai dám ho he gì cả.

Sử Tiến nói xong, quay xuống gọi Vương Tứ ra vườn sau, đưa cho một nhát dao vào cổ, chết thẳng còng queo, rối trở vào gọi người nhà thu xếp các đồng tiền nong tế nhuyễn, gói lấy một ít vào tay nải, còn thì vất để nguyên cả đó. Đoạn rồi cùng với bọn Chu Vũ, mỗi người dắt một con dao sau lưng, sai các gia nhân đều cầm dao cầm gậy, khoác tay nải lên vai, lấy lửa đốt trang viện, rồi mở thẳng cổng xông ra. Sử Tiến đi trước, Chu Vũ, Dương Xuân đi giữa, còn Trần Đạt cùng với bọn lâu la và gia nhân đi chặn sau. Vừa ra khỏi cổng, thì bắt gặp ngay hai tên Đô Đầu và Lý Cát đương luống cuống ở đó, Lý Cát thất kinh toan chạy, bị Sử Tiến đưa một dao chém làm hai đoạn. Còn hai tên Đô Đầu cũng bị Dương Xuân, Chu Vũ tặng cho mỗi kẻ một đao kết quả hai tính mạng.

Huyện Úy thấy vậy, sợ hãi kinh hoàng, tế ngựa chạy trốn, không dám quay cổ lại nữa, bọn dân thổ cũng tản mác chạy mau cho thoát mạng nốt?

Sử Tiến cùng bọn Chu Vũ chạy về trại Thiếu Hoa Sơn để nghỉ. Khi về tới trại, Chu Vũ sai lâu la giết dê trâu làm tiệc ăn mừng, rồi lưu Sử Tiến ở đó, Sử Tiến ở được mấy hôm, chợt trong bụng nghĩ: “Mình chỉ vì cứu ba người này, mà nhất đán đốt mất cả cửa nhà cơ nghiệp, lại gây vạ với thổ quan, thì bây giờ ở đây, sao cho tiện”. Nhân nói với Chu Vũ rằng:

– Tôi có ông sư phụ là Vương Giáo Đầu, hiện theo ở bên phủ Kinh Lược Châu Quan Tây, tôi định ý đi tìm đã lâu, song ngặt vì phụ thân mới mất, cho nên tôi chưa quyết định xong, tới nay đã xảy ra câu chuyện thế này, dẫu muốn không đi không được. Vậy tôi xin từ giã anh em để đi tìm sư phụ.

Chu Vũ va hai người kia đều có ý muốn lưu lại:

– Xin quan bác hãy tạm ở đây ít bữa để bàn định xem sao? Nếu quan bác không thích cái nghề lạc thảo này, thì xin đợi khi yên lặng rồi, chúng tôi sẽ theo về sửa sang trang viện để liệu cách làm ăn có được không?

Sử Tiến nói:

– Đành vậy, nhưng bây giờ tôi nóng lòng muốn tìm thấy ngay sư phụ, mà kiếm xem có kế gì xuất thân, để được hả lòng một chút.

– Vậy thì quan bác ở đây làm ông Trại Chủ, lại chẳng khoát hoạt lắm sao? Chỉ e trại đây nhỏ hẹp, không đủ cho quan bác ở thôi.

– Có lẽ nào thế? Ông cha tôi khi xưa vốn là người lương thiện, nay tôi đem thân đến đây, làm cho ô nhục hay sao? Cái đó xin đừng nói đến nữa.

Bọn Chu Vũ thấy vậy cũng không dám lưu lại, Sử Tiến để cho bọn trang đinh ở lại đó, còn mình thu thập hành lý gói vào khăn gói mà sắp sửa đi tìm Vương Tiến. Bấy giờ Sử Tiến đầu đội mũ dương chiên lớn, có cái mào đỏ ở trên, mình mặc áo chiến bào, lưng thắt dây đay đỏ rất lớn, chân đi đôi giày gai, đeo khăn gói lên vai, giắt dao lưng vào mình, rồi từ biệt Chu Vũ, Dương Xuân và Trần Đạt mà lên đường. Lũ Chu Vũ đưa chân đến tận dưới núi, gạt hai hàng nước mắt, bái biệt mà về.

Sử Tiến đi đường được nửa tháng trời, tới đất Vị Châu, ở đấy cũng có dinh quan Kinh Lược, Sử Tiến ngờ là sư phụ Vương Giáo Đầu ở đó, liền tìm vào một hàng nước, để tạm nghĩ và thăm hỏi dò la. Sử Tiến vào tìm ngồi một chỗ bàn ghế sạch sẽ, gọi nhà hàng pha nước uống rồi hỏi:

– Phủ Kinh Lược đây ở vào phía nào?

Nhà hàng đáp:

– Ở phía đàng trước mặt.

– Trong phủ Kinh Lược, có ông Giáo Đầu tên là Vương Tiến phải không?

– Trong đó có nhiều ông Giáo Đầu mà cũng có tới ba bốn ông họ Vương, nhưng không hiểu ông nào là Vương Tiến.

Nhà hàng vừa nói dứt lời, thì có một người lực lưỡng ở ngoài đi sồng sộc bước vào, Sử Tiến ngẩng lên trông người ấy, mặt tròn tai lớn, mũi thẳng mồm vuông, hai bên mép có một hàng râu xoăn xoắn, mình cao tám thước, vai rộng đẫy ôm, cách ăn mặc ra đàng một tay quan võ.

Người ấy vừa vào đến trong, thì nhà hàng vội trỏ vào bảo Sử Tiến rằng:

– Nếu ngài muốn hỏi viên Giáo Đầu nào, thì cứ hỏi ông Đề Hạt đây sẽ biết.

Sử Tiến nghe vậy, vội vàng đứng dậy chấp tay vái chào mà nói:

– Xin rước ngài vào ngồi xơi nước.

Người ấy thấy Sử Tiến mặt mũi khôi ngô, sức lớn mình cao, võ vẻ đường đường hảo hớn, thì cũng chấp tay đáp lễ, rồi cùng ngồi uống nước một bên. Sử Tiến hỏi:

– Tôi thế này là không phải, nhưng xin dám hỏi cao tính đại danh ngài là gì?

Người kia đáp:

– Tôi họ Lỗ, tên là Đạt Tư, hiện làm Đề Hạt ở phủ Kinh Lược gần đây, vậy dám hỏi quan bác là thế nào?

– Tôi họ Sử tên Tiến muốn đi tìm sư phụ là ông Vương Tiến, trước đã từng làm chức Giáo Đầu, dạy tám vạn quân ở đất Đông Kinh, ngày nay không biết rằng có ở trong phủ Kinh Lược đây không?

Lỗ Đề Hạt ân cần ra ý hỏi:

– Chẳng hay có phải ngài là Cửu Văn Long Sử Đại Lang ở Sử Gia Thôn đó chăng?

Sử Tiến cúi đầu đáp:

– Vâng! Chính tôi đây.

Lỗ Đề Hạt vội mừng cung kính mà nói rằng:

– Người ta thường nói, nghe tên không bằng thấy mặt, thấy mặt gấp mấy nghe tên, nay mới biết quả nhiên như thế. Nhưng nay ngài muốn tìm ông Vương Tiến, có phải là ông Vương Tiến bị quan Cao Cầu Thái Úy ở Đông Kinh ghét đó chăng?

– Chính phải!

– Tôi cũng nghe danh ông ấy, nhưng mà không có ở đây. Nghe nói ông ấy hình như ở bên phủ Kinh Lược Lão Trung ở Diên An thì phải, chứ dinh quan Kinh Lược Tiểu Trung tôi đây không có.

Đoạn rồi bảo Sử Tiến rằng:

– Ngài đã là Sử Đại Lang, tôi thường nghe ngài là tay hảo hán vậy mời ngài ra phố uống với tôi vài chén rượu đã.

Nói đoạn dắt tay Sử Tiến đi ra, bảo nhà hàng rằng:

– Tiền nước để đó, rồi sau ta sẽ trả.

Nhà hàng vâng dạ, ï mà bảo rằng:

– Xin Đề Hạt cứ tự nhiên cho.

Hai người dắt tay nhau ra phố, ước chừng dăm ba mươi bước, thì chợt một đám người đứng bao bọc xúm xít vào một chỗ, Sử Tiến bảo với Lỗ Đề Hạt rằng:

– Ta thử vào đây xem họ làm gì?

Nói đoạn gạt rẽ đám đông mà vào thì thấy có một người, tay cầm một nắm gậy, trên mặt đất bảy mươi thứ thuốc cao, lại có một cái bàn dán đặc giấy giao hàng ở đó.

Sử Tiến trông thấy nhận nhận ra là một người, tên gọi Đả Hổ Tướng Lý Trung, vẫn xưa nay múa gậy bán thuốc dong duổi giang hồ, mà trước kia đã từng dạy cho mình học võ, liền đứng ở ngoài mà gọi lên rằng:

– Sư phụ ơi! Sao lâu nay không được gặp thế?

Lý Trung nghe tiếng ngẩng đầu lên nom, bỗng hớn hở mà rằng:

– Kìa; Hiền Đệ đi dâu mà lại tới đây?

Đề Hạt đứng bên cạnh, thấy hai người nhận nhau là sư đệ, thì bảo rằng:

– Nếu có phải ông là sư phụ Sử Đại Lang thì xin mời cùng đi với chúng tôi, xơi vài chén rượu cho vui.

Lý Trung đáp:

– Vâng! Xin để cho tôi bán ít thuốc cao, kiếm lấy ít tiền, rồi xin theo Đề Hạt cùng đi.

– Ai mà đứng đây đợi được, có đi thì xin đi một thể cho vui.

– Đành vậy, nhưng cơm áo của tiểu đệ, trông cậy vào đâu, xin mời Đề Hạt cứ đi trước, tôi sẻ tìm đến sau, Sử Tiến hiền đệ cứ theo Đề Hạt đi trước đi.

Lỗ Đạt nghe nói nóng ruột, không sao chịu được, vội gạt đuổi những người đứng xem chung quanh mắng rằng:

– Chỉ tại lũ thối thây này, xúm xít vào đây. Ta lại đánh tuốt cho một mẻ bây giờ.

Bọn người đứng xem thấy vậy đều tránh gạt đi mất, còn Lý Trung thấy Đề Hạt ra dáng hung tợn, thì cũng hơi có ý giận, song không dám nói ra, chỉ cười gượng nói rằng:

– Đề Hạt nóng tính quá.

Đoạn rồi thu thập thuốc men gói gấp gửi để một nơi cẩn thận, mà cùng với Lỗ Đề Hạt và Sử Tiến, đến phố Châu Kiều. Khi tới nơi Lỗ Đề Hạt đưa vào nhà tửu điếm họ Phan, là một hàng rượu có tiếng ở đó, tìm một gian sạch sẽ để cùng ngồi.

Lỗ Đề Hạt ngồi chủ vị, Lý Trung ngồi đối diện, còn Sử Tiến thì ngồi vai dưới, tên tửu bảo trông thấy bọn khách Đề Hạt tới nơi, thì vội vội vàng vàng đến bẩm rằng:

– Kính chào đề Hạt, dùng bao nhiêu rượu?

Lỗ Đạt nói:

– Hãy lấy bốn chai rượu, và các rau quả đến đây!

Tửu bảo lại hỏi:

– Các quan xơi cơm gì?

Lỗ Đạt gắt mà rằng:

– Hỏi gì lắm thế? Có thì cứ mang đây, ăn rồi ta trả tiền chứ sao, mày lắm điều quá.

Tửu bảo cúi cổ đi ra, một lát đem rượu thịt bày la liệt trên bàn, rồi ba người cùng nhau đánh chén, rượu được vài tuần, ai nấy có vẻ chếch choáng hơi men, bây giờ mới giở các món côn quyền ra khoe lẫn với nhau rất là đắc chí.

Bỗng đâu bên kia vách, ở gần bàn rượu có tiếng người rền rỉ khóc than, Lỗ Đề Hạt nghe thấy lấy làm bực mình, liền cầm ngay chén rượu còn đang uống, mà vất xuống sàn gác, đánh soảng một cái.

Tửu bảo nghe tiếng vội vang chạy đến, nom thấy Đề Hạt có ý hầm hầm giận dữ, thì đem giọng ngọt mà hỏi rằng:

– Quan muốn truyền mua thức gì, để nhà hàng tôi đem đến.

Lỗ Đạt quát lên rằng:

– Ta muốn thức gì? Ngươi không biết ta hay sao? Sao dám cho đứa nào đến bên kia khóc lóc, làm nhiễu cả cuộc rượu anh em ta thế? Xưa nay ta có thiếu tiền không?

Tửu bảo vội lễ phép nói rằng:

– Chúng tôi đâu dám xuôi ai đến đây khóc, để quấy nhiễu đến tai ngài, đây chẳng qua là hai cha con đứa hát bên kia, nó không biết có ngài ở đây, cho nên nó thở than khóc lóc với nhau, xin ngài tha lỗi cho.

Lỗ Đề Hạt trừng mắt nói:

– Nói làm gì quái lạ thế? Bây gọi nó sang đây ta xem.

Tửu bảo vâng lời đi, một lát đã thấy dẫn một người con gái chừng 18- 19 tuổi đi theo một ông lão già, vào trạc 60 tuổi, tay cầm bộ phách, cùng đến đó.Người con gái trông cũng tầm thường không lấy gì nhan sắc cho lắm, khi đến trước mặt Đề Hạt, thì lấy tay lau nước mắt, rồi cúi chào Vạn Phúc; Đề Hạt hỏi:

– Bây người ở đâu, làm gì ở đây khóc lóc như thế? Người con gái nói:

– Bẩm ngài, nguyên chúng tôi là người ở Đông Kinh theo cha mẹ sang Vị Châu để tìm người họ, bất đồ sang tới nơi thì người họ đã dọn sang ở Nam Kinh mất, đoạn rồi mẹ tôi bị bệnh giữa đường mà chết, thành ra hai cha con tôi phải lưu lacï đến đây, khi đến đây trót nhờ ông tài chủ là Trấn quan Tây Trịnh đại nhân giúp đỡ ít chút, sau ông ấy thấy tôi còn trẻ tuổi, có ý muốn ép làm lẽ liền bắt cha tôi viết bức văn tự bán tôi là 3.000 quan, mà sau rút cục không đồng tiền nào cả, sau bắt tôi ở đấy được non ba tháng, bị người vợ cả ghen tuông quá đỗi, bắt duổi tôi phải đi nơi khác, mà không cho lẩn quẩn trong nhà, đoạn rồi đem văn tự ra đòi tiền cho kỳ được, cha tôi đã già yếu, không có kế chi chống lại được với y, vả chăng khi trước không nhận được của y một đồng tiền nào, thì ngày nay lấy đâu mà trả được. May sao thuở xưa cha tôi có dạy cho tôi một vài bản hát, nay bất đắc dĩ phải tìm đến tửu lâu bên kia, để quanh co hát xướng, kiếm lấy ít tiền, mà trả bớt cho người ta, còn thì cha con đùm bọc lấy nhau, nhưng chẳng may, mấy ngày hôm nay khách hàng thưa vắng, không sao kiếm được đồng nào, chỉ sợ đến hẹn mà không có tiền đưa trả, thì phải khổ với người ta, bởi vậy cha con tôi lo khóc, không ngờ lại xúc phạm đến uy ngài, xin ngài rộng ơn mà tha thứ.

Lỗ Đạt lại hỏi:

– Tên họ nhà ngươi là gì? Ở Tửu điểm nào? Trấn quan Tây Trịnh đại nhân là người nào? Ở đâu?

Lão già khép nép thưa lên:

– Chúng tôi tên là Kim Nhị, con cháu tên là Thúy Liên, trọ ở hàng rượu đối diện bên đông kia, còn Trịnh đại nhân tức ông Trịnh Đồ, bán hàng thịt ở dưới cầu Trạng Nguyên.

Lỗ Đạt nghe nói tắc lưỡi mà rằng:

– Ta vẫn tưởng Trịnh quan nhân nào; té ra chính là thằng Trịnh Đồ bán hàng thịt lợn. Thằng gớm thực? Nó nhờ thế quan Kinh Lược ta được mở cái hàng thịt lợn ở đó, ai ngờ nay dám lộng quyền đến láo quá chừng.

Nói đoạn quay lại bảo Lý Trung, Sử Tiến rằng:

– Các ông hãy ngồi đây, đợi tôi một lát, tôi đi sửa cho thằng này một trận, rồi lại xin đến đây ngay.

Sử Tiến, Lý Trung đều dìu lại mà khuyên rằng:

– Quan bác hãy nguôi giận, để sáng mai sẽ hay.

Hai người khuyên giải đến năm bảy lượt rồi, Lỗ Đạt mới chịu thôi, lại quay bảo bố con Kim Nhị rằng:

– Tôi đãi tiền cho lão già, ngày mai về Đông Kinh được không?

Hai bố con Kim Nhị nói:

– Nếu ngài cứu cho được về cố hương, thì thực ơn bằng cha mẹ, song làm thế nào được chủ hàng cơm cho đi, và nếu khi Trịnh đại nhân theo đuổi đòi tiền thì biết làm sao?

Lỗ Đề Hạt nói:

– Cái đó không cần, tôi sẽ có cách xử trí cho.

Nói đoạn móc tay vào túi lấy ra lạng bạc, để trên bàn, rồi bảo Sử Tiến rằng:

– Tôi có ít tiền quá, quan bác có đấy cho tôi mượn thêm một ít, rồi sáng mai tôi xin trả lại.

Sử Tiến cười mà rằng:

– Có thì bác lấy, đáng bao nhiêu mà nói chuyện trả.

Nói xong, lấy một đỉnh bạc ra để trên bàn, Đề Hạt lại trông Lý Trung mà bảo rằng:

– Bác có cho mượn thêm đây mới đủ.

Lý Trung móc túi mãi, mới được có hai lạng đưa ra. Lỗ Đạt cầm lấy đưa cho Kim lão 15 lạng bạc mà bảo rằng:

– Tiền này cha con giữ để tiêu dùng, rồi thu xếp hành lý cẩn thận, để sáng mai tôi đến đây sớm, tôi sẽ bảo cách cho mà đi, xem đứa nào giữ lại được nữa?

Hai cha con Kim lão nhận tiền rồi, lạy tạ mà lui ra, Lỗ Đạt đưa hai lạng bạc trả lại cho Lý Trung, rồi lại cùng nhau uống rượu một lúc lâu rồi mới tan. Khi đứng dậy Lỗ Đạt lại gọi nhà hàng đến mà bảo rằng:

– Tiền rượu để sáng mai ta sẽ trả.

Chủ hàng vâng lời rằng:

– Xin Đề Hạt để đến bao giờ cũng được.

Đoạn ba người dắt tay đi chơi phố, hồi lâu Lý Trung, Sử Tiến mới từ giã Lỗ Đạt mà đi tìm chỗ trọ riêng.

Cha con Kim lão từ khi nhận được món tiền của Lỗ Đề Hạt, liền trở về trang trải tiền cơm nước vặt vãnh, rồi lại ra ngoài thành thuê một cỗ xe, và sắp sửa các đồ hành lý, để sáng hôm sau đi sớm.

Sáng hôm sau vào khoảng đầu trống canh năm, thì hai cha con Kim lão trở dậy ăn cơm nước xong xuôi, rồi đợi Lỗ Đề Hạt đến, thì sẽ cất gói ra đi. Khi trời vừa tảng sáng, đã thấy Lỗ Đề Hạt ở đâu sồng sộc bước vào, gọi tên hầu ở nhà hàng mà bảo rằng:

– Kim lão trọ ở phòng nào?

Tiểu nhị nghe tiếng, vội vàng gọi Kim lão, mà bảo ra tiếp ứng. Kim lão nghe nói, liền mở cửa phòng, rồi mời Lỗ Đề Hạt vào ngồi chơi.

Đề Hạt ra dáng vội vàng mà nói:

– Thôi, cần chi ngồi chơi, cha con nhà ông có đi thì đi ngay chứ, còn chờ đợi đến bao giờ nữa.

Kim lão vâng lời quảy hành lý lên vai, rồi dắt con gái ra bái tạ Đề Hạt mà đi ra. Vừa bước chân tới cữa thì tên tiểu nhị giữ lại mà hỏi rằng:

– Kim lão đi đâu bây giờ thế?

Lỗ Đề Hạt thấy vậy mà quát hỏi:

– Lão ấy còn thiếu tiền trọ của ngươi hay sao?

– Bẩm, tiền trọ thì hôm qua ông ta tính trả rồi, song ông ta còn nợ của Trịnh đại quan nhân đàng kia, ngài có giao cho tôi để đòi hỏi cho nên tôi phải giữ lại ở đây.

Lỗ Đề Hạt mắng rằng:

– Tiền của Trịnh Đồ để rồi ta trả nó, mày cứ để cho lão ấy đi mới được.

Tên tiểu nhị dùng dằng không chịu cho Kim lão đi, Lỗ Đề Hạt cả giận giơ tay tát tiểu nhị một cái hộc máu mồm ra, rồi lại tát luôn cho vài cái nữa, gãy phăng mất hai cái răng cửa; tiểu nhị thấy vậy kinh sợ chạy lủi vào trong nhà, không dám thò mặt ra ngoài để ngăn trở, hai cha con Kim lão liền thừa thế chạy thẳng ra thành, lên xe đi cho mau thoát.

Lỗ Đề Hạt thấy Kim lão đi rồi, lại e khi tên tiểu nhị ở điếm còn tức mà đuổi theo, để quấy nhiễu, liền bắc ghế trước cửa điếm ngồi giữ ở đó, ước chừng khi Kim lão đi xa rồi, mới đứng dậy mà đi sang cầu Trạng Nguyên, để tìm vào nhà Trịnh Đồ.

Bây giờ Trịnh Đồ đương đứng ở bên quầy, để trông nom cho mấy đứa đồ tể bán thịt, chợt nghe tiếng Lỗ Đề Hạt đến nơi, liền quay ra ra chào hỏi, rồi kéo ghế mời vào ngồi chơi nói chuyện.

Lỗ Đề Hạt ngồi phịch xuống ghế bảo Trịnh Đồ rằng:

– Ta thừa lệnh quan Kinh lược truyền ra lấy 10 cân thịt nạc, thái nhỏ ra từng miếng, mà phải không có một tý mỡ nào dính vào mới được.

Trịnh Đồ vâng lời, rồi sai gọi lũ đồ tể ra cắt thịt. Đề Hạt không nghe mà nói:

– Không để cho chúng nó được, ngươi phải đứng lên cắt ngay cho ta. Trịnh Đồ không dám trái lời, phải đứng dậy đi thái 10 cân thịt. Bây giờ tiểu nhị ở hàng cơm kia, dương lon ton chạy lại nhà Trịnh Đồ, toan báo chuyện Kim lão cho Trịnh Đồ biết, bất đổ vừa đến cửa đã trông thấy Lỗ Đề Hạt, ngồi chễm chệ ở đó, liền đứng thụt ở bên ngoài, mà không dám thò mặt vào nữa.

Khi Trịnh Đồ cắt thịt xong, rồi lấy lá sen gói bọc cẩn thận, đem đến đưa Lỗ Đề Hạt mà nói:

– Thịt đây xin Đề Hạt cho mang về.

Lỗ Đạt nói:

– Mang đi đâu? Phải cắt lấy 10 cân thịt mỡ nữa, rồi cũng thái nhỏ ra, nhưng không dính một tý thịt nạc nào mới được.

Trịnh Đồ lấy làm lạ mới hỏi:

– Trong phủ dùng thịt nạc để nấu nướng thì tốt, chứ thịt mỡ dùng sao được?

Đề Hạt trừng mắt nói:

– Tướng công truyền như vậy, ai dám vào đấy mà hỏi được.

Trịnh Đồ đành phải vâng lời, lại đi ra thái 10 cân thịt mỡ, gói bọc tử tế rồi gọi người nhà bảo cầm theo Đề Hạt để đưa vào trong phủ.

Lỗ Đạt lại quát lên rằng:

– Lấy mười cân sườn nữa thái nhỏ ra, không cho một tý thịt nào bám được.

Trịnh Đồ thấy vậy liền hỏi rằng:

– Chẳng hay Đề Hạt đùa tôi hẳn?

Lỗ Đạt nghe nói vội đứng dậy, tay cầm hai gói thịt, rồi trợn mắt nhìn Trịnh Đồ nói:

– Ta lại đùa với lũ ngươi hay sao?

Nói xong cầm hai gói thịt ném toét vào mặt Trịnh Đồ. Trịnh Đồ bừng bừng nổi giận không sao chịu được, liền với lên bàn thịt cầm lấy con dao nhọn, nhảy sả vào toan đâm, Lỗ Đề Hạt thấy vậy lùi bước đi thẳng ra ngoài phố, hai bên phố xá cùng bọn đồ tể ở trong không ai dám bén mảng đến can ngăn gì cả, bao nhiêu những khách bộ hành đều đứng lại để xem, còn tên tiểu nhị ở hàng cơm đến đấy cũng kinh sợ vô cùng.

Trịnh Đồ tay hữu cầm dao, tay tả thì níu lấy Lỗ Đạt chạy theo toan đánh. Lỗ Đạt thừa thế nắm lấy tay tả Trịnh Đồ, đá vào bụng dưới một cẳng chân ngã lăn xuống phố, rồi lại xông vào giở quả đấm ra hiệu mà bảo rằng:

– Tao đây theo hầu quan Kinh lược Đại tướng, làm đến chức quan tây Ngũ Lộ Liêm Phóng Sứ mới được gọi là Trấn Quan Tây, còn như mày chỉ là một đứa cầm dao bán thịt, thân danh như một con chó, thế mà cũng học đòi gọi Trấn quan tây, rồi lại lừa đảo ép nài bố con Thúy Liên là nghĩa làm sao?

Nói đoạn đánh cho một đấm vào giữa mũi, vẹo về một bên, máu chảy ra lênh láng. Trịnh Đồ không sao bò dậy được, bỏ vất con dao ra mặt đất, trong mồm chỉ lẩm bẩm nói:

– Được lắm! Đánh giỏi!

Lỗ Đạt mắng luôn rằng:

– Mày lại há miệng ra nữa đấy à?

Nói xong lại đánh cho một đấm chính giữa mí mắt, lòi cả con ngươi ra ngoài, rồi lại đấm vào thái dương một cái rất mạnh.

Đoạn thấy Trịnh Đồ nằm sóng soạt ra đất, chỉ thở hơi ra, không hít vào được nữa, Lỗ Đạt liền nói tảng đi rằng:

– Mày giả cách chết à? Ông đánh cho một chập nữa bây giờ.

Dè đâu trông sắc mặt Trịnh Đồ càng ngày càng tái nhợt mãi đi. Lỗ Đạt biết là tất chết, trong bụng nghĩ:

– Ta chỉ định đánh cho đau đớn, ai ngờ mới có ba cái đấm, mà nó đã chết hay sao? Nếu thế thì ta bị quan Tư giam chấp, thì lấy ai đưa cơm nước cho ta? Âu là bất nhược ta liệu trước là xong.

Nghĩ đoạn, rảo bước ngoắt đi, lại còn quay lại trỏ vào xác Trịnh Đồ mà nói rằng:

– Mầy giả cách chết, để rồi tao liệu cho mầy.

Lỗ Đạt miệng thì tức mắng, chân thì cất gót cho mau, phố xá xóm giềng không ai còn dám đến ngăn cản nữa. Khi về tới nhà trọ, thu nhặt tiền nong gói vào một gói. Tay cầm một cái gậy đỏan rồi lén bước ra cửa Nam môn rồi cút đi thẳng.

Lũ đồ tể thấy Lỗ Đạt đi rồi, liền cùng với tiểu nhị và xóm làng, túm vào khua gọi Trịnh Đồ mà đỡ dậy. Không ngờ kêu gọi đến nửa ngày trời cũng không thấy tỉnh, than ôi!

Biết đâu cái đánh vô tình

Xuôi hồn biển tử tan tành như chơi!

Các người lân bang thấy vậy, vội làm đơn đi trình quan Phủ.

Quan Phủ xem đơn trình, biết Lỗ Đề Hạt là người nhà quan Kinh Lược, không dám thiện tiện bắt ngay, bèn lên kiệu vào phủ Kinh lược để trình.

Quan Kinh Lược nghe lời trình của quan Phủ, thì giật mình kinh lạ mà tự nghĩ:

– Lỗ Đạt tuy võ nghệ giỏi, nhưng tính tình vẫn thô mãng xưa nay, nay lại xảy ra có việc án mạng thế này, thì ta che chở làm sao cho tiện, bất nhược ta cứ giao mặc cho tra hỏi là xong.

Liền bảo với quan Phủ rằng:

– Tên Lỗ Đạt vốn là quân quan ở bên dinh Kinh Lược phụ thân tôi, nhưng vì tôi thiếu người sai dùng, cho nên mượn hắn sang đây để làm chức Đề Hạt, nay chẳng may lại phạm việc án mạng như thế, xin cứ theo phép công mà đòi hỏi, xem hắn khai báo ra sao? Rồi sẽ định tội. Nhưng thế nào cũng phải cho phụ thân tôi biết trước, rồi mới quyết đoán được, kẻo nhất lỡ sau này phụ thân tôi cho gọi đến hắn thì thêm rầy.

Quan phủ vâng lời mà rằng:

– Chúng tôi xin tra hỏi căn do, đệ trình lên quan Lão Kinh Lược tướng công, rồi mới dám thi hành, chứ có đâu chúng tôi lại tự xử ngay được.

Quan Phủ Doãn chào quan Kinh Lược, rồi lên kiệu về nha, sai thảo công văn giao cho bọn bộ tập đi bắt Lỗ Đạt. Bấy giờ Vương Quan Sát lĩnh công văn dẫn hai mươi tên công sai, đi đến nhà trọ của Lỗ Đạt, thì thấy chủ nhà nói rằng:

– Lỗ Đạt vừa mới khoác khăn gói, cầm gậy đỏan ra đi lúc nãy. Chúng tôi vẫn tưởng là có công sai gì, cho nên không dám hỏi han đến nữa.

Vương Quan Sát sai phá cửa phòng của Lỗ Đạt ra xem, thì chỉ thấy có một ít quần áo tồi tàn, và chiếu chăn còn bỏ lại ở đó, liền bắt chủ hàng dẫn đi các nơi để tìm bắt, nhưng nào có thấy tung tích ở đâu? Vương Quan Sát bất đắc dĩ phải bắt hai tên lân bang, cùng chủ trọ của Lỗ Đạt mà đem về giải phủ.

Quan Phủ Doãn ra hỏi đầu đuôi xong, nhất diện phái người khám xét tử thi Trịnh Đồ, nhất diện làm thành án văn, viết tên tuổi tướng mạo Lỗ Đạt cho đi dán khắp nơi, nếu ai bắt được phạm nhân sẽ thưởng tiền 2.000 quan, còn các nguyên cáo cùng xóm giềng đều cho về cả.

Lỗ Đạt từ khi đi khỏi Vị Châu rồi, vội vàng hất hải, đi đến chỗ nọ chỗ kia, không biết nơi đâu là định sở, thực là đói không chọn cơm, rét không chọn áo, lạc không chọn đường, nghèo không chọn vợ, tình cảnh bấy giờ thật là nan bách. Mê man vơ vẫn vừa nửa tháng trời mới tới Huyện Nhạn Môn, bước chân vào trong thành thấy phố phường náo nhiệt, xe ngựa tưng bừng, các hàng quán bán buôm rất là tề chỉnh, tuy là một chốn huyện thành, mà lại có phần hơn mọi châu phủ.

Lỗ Đạt đương đi lững thững một mình, bỗng thấy một đám đông người xô lại vào bên đường, để xem bảng yết thị, nên cũng len bước vào xem.

Lỗ Đạt tuy không biết chữ nhưng cũng lắng tai nghe thấy người ta đọc rằng:

– “Châu huyện Nhạn Môn, vâng lệnh quan phủ Thái Nguyên, yết thị cho nhân dân biết: Tên Lỗ Đạt tức là viên Đề Hạt ở phủ quan Kinh Lược Vị Châu, phạm tội đánh chết Trịnh Đồ, rồi trốn mất, ai mà chứa chấp trong nhà, quan trên bắt tội sẽ xử tội như phạm nhân, bằng ai bắt được đem ra nộp thì sẽ được thưởng 1.000 quan… “

Lỗ Đạt vừa nghe đến đó, chợt thấy đàng sau lưng có người kêu to lên rằng:

– Trương Đại Ca ôi! Bác đi đâu đến đây?

Đoạn rồi người ấy ôm lưng Lỗ Đạt mà kéo đi ra khỏi đám người đông đúc. Mới hay:

Anh hùng tiếng đã gọi rằng.

Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.

Bốn phương đâu chẳng là nhà.

Sao cho thảo mộc sơn hà biết tên?

Chắc đâu là họa là duyên,

Chắc đâu oán trả ơn đền là đâu?

Ở đời thấm thoát bao lâu,

Biết nhau tế độ cho nhau mới là…

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này vừa tả xong Sử Tiến anh hùng, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt anh hùng. Vừa tả xong Sử Tiến thô tháo; Tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt thô tháo. Vừa tả xong Sử Tiến quên Lợi, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt quên lợi; Vừa tả xong Sử Tiến nóng nảy, tiếp tay tả luôn Lỗ Đạt nóng nảy. Tác giả gặp chỗ bí chạy theo đường nghẽn, cho rõ tài bút lục của mình, độc giả cũng nên xem xét từng chỗ, để phân định hai kẻ khác nhau, không phải chỉ tả một thứ con người, mới khỏi phụ lòng khốn khổ của nhà viết nên sử!

Một trăm lẻ tám vị anh hùng, kể đầu từ Sử Tiến, một kẻ xuất danh lãnh chúng sau này. Thế mà tác giả chép ở Thiếu Hoa Sơn, một đoạn văn đặc biệt, rằng:” Ông cha tôi khi xưa, vốn là người lương thiện, có đâu tôi đem thân đến đây, mà làm ô nhục hay sao?… ” Điều đó há phải sơ tâm riêng một con người như Sử Tiến sự thực cũng là sơ tâm của một trăm lẻ tám người kia. Chỉ vì một tay tài điệu, không chỗ giở ra một thân khí lực, không nơi dùng đến, mà tíng con thuồng luồng đâu chịu chết khô trên ruộng cạn, lại thêm những cái oán của đời gian giảo, mới nổi lên một đám với nhau, như vậy con nhà lương thiện đã chả được dùng đến, phải đành chịu tiếng nhơ ở trong thanh giá, cũng chả tiếc được nữa, khiến một trăm lẻ tám người, lạc cả vào Bến Nước. Hỡi ôi! Những tài điệu kia, đều tài điệu của triều đình, những khí lực kia, đều khí lực cho chiến trận, đã phải bất đắc dĩ sa vào Bến Nước (Thủy Hử),đó là lỗi tại ai? ? ?

Chủ đề về Sử Tiến hồi này, cốt tìm tới chốn Lão Trung quan Tướng Công Kinh Lược, để hỏi thăm sư phụ Vương Tiến, chợt đâu biến thể, trật ra ngoài nơi Lão Trung Kinh Lược Tướng Công, mà chuyển sang chốn Tiểu Trung Kinh Lược Tướng Công, ngoài sự tìm sư phụ Vương Tiến, lại hóa hiện ra một sư phụ Lý Trung, đọc đến đây thấy như bức mây đỏ trên vòm trời biến hiện muôn hình vạn trạng, chả phải cứ nhìn theo một con mắt, mà để nhận ra đâu.

Tả cái chỗ làm người của Lỗ Đạt, một bầu máu nóng phát ra, càng thẹn cho những kẻ thư sinh ăn bám của người, chưa dám thò tay liều giúp ai một việc. Đức Khổng Tử nói:Đọc Kinh Thi có thể nổi lên, thì ta với các Tỳ quan, cũng thấy hay lắm vậy!

Đánh chết Trịnh Đồ, thực vội vàng lắm thay, chỉ thêm vào từng chỗ tên tiểu nhị báo tin, làm cho sốt ruột, thấy một lần đầu tiểu nhị nói ra, lần thứ hai ngoài tiểu nhị ra, lại thêm sự mua thịt nữa, lần thứ ba lại thêm ra những kẻ đi đường… Không ngờ tình văn như lụa, tình sự lại như gương, khiến ta muốn vạch ra mà xem tới trong lòng vậy.

Hồi 3: Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù Viện – Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn

Lỗ Đạt thấy người ôm mình mà kéo đi, liền quay lại xem thì té ra chính là Kim Lão, gặp ở tửu quán đất Vị Châu khi trước.

Kim Lão kéo Lỗ Đạt ra quãng vắng mà bảo rằng:

– Sao ân nhân to gan thế? Người ta đương yết thị thưởng tiền để bắt mình, mà mình lại đứng đây xem bảng, ngộ lỡ ra quan quân biết đến thì sao?

Lỗ Đạt nói:

– Chẳng dấu gì ông lão, chỉ vì việc của ông lão hôm ấy, mà thành ra tôi đến dưới cầu Trạng Nguyên, gặp tên Trịnh Đồ, đánh cho hắn có ba quyền chết tươi thẳng cẳng, rồi thì tôi phải trốn tránh đến đây.Còn ông lão thì làm sao không về Đông Kinh, mà lại cũng gặp ở đây như thế?

Kim Lão đáp:

– Từ phen được ân nhân cứu thoát, cha con thuê một cỗ xe, định về Đông Kinh, song lại e nhất lỡ bọn kia theo đuổi, mà ân nhân không có ở đấy, thì nguy hiểm không chơi, vì thế tôi phải rẽ đường sang bắc, may sao gặp được người hàng xóm cũ, buôn bán ở đây, liền dắt cha con tôi về cùng ở, rồi sao làm mối cho con cháu một ông Viên Ngoại họ Triệu kia, nhà rất phong lưu phú quý, vì thế sự ăn tiêu chi phí không thiếu thức gì. Ông ta cũng thích nghề quyền võ, một đôi khi con cháu nó kể đến chuyện ân nhân, thì ông ta lại thán phục, mà mong sao được gặp mặt một lần mới thỏa, vậy tiện đây xin đón ân nhân hãy tạm đến nhà tôi nghỉ đó mấy hôm sau rồi sẽ liệu.

Nói xong rồi, dẫn Lỗ Đạt cùng đi.

Đường đi ngót nửa ngày trời, khi tới nơi, Kim Lão bước vào cửa cuốn mành mành lên, gọi con gái ra bảo rằng:

– Ân nhân đến đấy con ạ.

Bấy giờ người con gái ăn mặc lịch sự ở trong nhà chạy ra đón Lỗ Đạt vào. Lỗ Đạt vừa vào, đặt xuống ngồi, thì người con gái thụp lạy sáu lạy, mà nói rằng:

– Nếu không có ân nhân cứu vớt, thì cha con tôi đâu lại có được như ngày nay.

Nói xong mời Lỗ Đạt lên gác để nghỉ.

Lỗ Đạt nói rằng:

– Tôi không ở đây lâu được, phải sắp sửa đi thôi.

Kim Lão không bằng lòng mà nói:

– Ân nhân đã đến đây, có lẽ nào chúng tôi lại để đi ngay.

Đoạn rồi đem khăn gói và gậy lên gác, mà mời Lỗ Đạt lên.

Bây giờ Kim Lão cho con gái ngồi tiếp chuyện Lỗ Đạt, rồi tự mình xuống đem đầy tớ đi chợ, để mua các đồ hoa quả rượu chè, về làm cơm. Khi cơm rượu xong dọn lên bàn rồi, hai bố con rót rượu, ngồi tiếp Lỗ Đạt.

Rượu được vài tuần, bỗng Kim Lão đứng dậy thụp xuống lạy, Lỗ Đạt ngạc nhiên nói rằng:

– Sao lão nhân làm như thế, thực tôi không bằng lòng chút nào.

Kim Lão nói:

– Chẳng dám dấu gì ân nhân, từ khi cha con tôi đến ở đất này, vẫn cảm đến ơn cứu sống của ngài, mà làm bài vị tên ngài bằng mảnh giấy hồng, để sớm khuya đèn hương khấn vái, vậy mà ngày nay được trông thấy ngài, thì có lẽ nào không lạy tạ ân nhân?

Nói xong lại ngồi lên tiếp rượu. Ba người ung dung chén tạc chén thù, mãi đến khi trời đã xế hôm, thì chợt nghe có tiếng ồn ào dưới cửa. Lỗ Đạt chạy ra cửa sổ gác để nom, thấy ở dưới lầu có tới ba mươi người tay roi tay gậy, lại có một người ra dáng quan nhân, cưỡi trên mình ngựa mà quát to lên rằng:

– Chớ để cho quân giặc chạy thoát.

Lỗ Đạt nghe nói, biết là sự không hay, liền quay vào vớ lấy cái ghế, toan ném xuống, Kim Lão thấy vậy, vội vàng đứng dậy xem rồi can lại mà bảo rằng:

– Xin ngài chớ động vội.

Nói xong đi thẳng xuống dưới gác, đứng bên cạnh người cưỡi ngựa, mà bảo thầm chi đó? Đoạn rồi thấy người ngồi trên mình ngựa vui cười, mà thét bảo bọn kia đi hết. Người ấy xuống ngựa đi vào trong nhà, rồi cho mời Lỗ Đạt xuống, vái lạy mà nói:

– Nghe tiếng sao bằng thấy người, thấy người bằng mấy nghe tiếng, dám xin nghĩa sĩ nhận lễ cho.

Lỗ Đạt không hiểu sao, liền hỏi Kim Lão:

– Quan nhân đây là ai, từ xưa chưa quen biết bao giờ; mà lạy chào như thế?

Kim Lão đáp:

– Thưa ngài. Chính đây là Triệu Viên Ngoại, bạn với con cháu nhà tôi đó, vừa rồi hắn vẫn tưởng là anh nào chè chén ở đây, cho nên toan đem trang khách đến để đánh, nhưng sau nghe nói là ngài đến đây, thì lấy làm vui mừng quá đỗi.

Nói xong lại mời Lỗ Đạt lên trên lầu, sai người nhà thay các món ăn để TriệuViên Ngoại cùng ngồi bồi tiếp.

Triệu Viên Ngoại mời Lỗ Đạt ngồi cánh trên, Lỗ Đạt nhất định không nghe. Triệu Viên Ngoại cố ý nhường Lỗ Đạt ngồi trên mà nói:

– Tôi nghe tiếng ngài là một người anh hùng hào hiệp, trong lòng hâm mộ đã lâu, nay trời xanh run rủi được gặp ở đây, thực là may lắm!

Lỗ Đạt cười đáp rằng:

– Tôi là một người thô lỗ vô tài, lại đương mắc tội, trốn tránh đến đây, nếu Viên Ngoại có rộng lòng mà kết làm tương thức, thì sau đây có cần đến việc chi, tôi xin hết sức.

Triệu Viên Ngoại cả mừng, hỏi thăm về việc đánh chết Trịnh Đồ, rồi lại kể các nghề côn kiếm, trò chuyện chè rượu, mãi đến nủa đêm mới tan.

Sáng hôm sau Triệu Viên Ngoại dậy sớm nói với Lỗ Đạt rằng:

– Ở đây tai mắt rất nhiều có khi không tiện, vậy xin đón Đề Hạt về ở trong nhà tôi ít bữa, có lẽ cẩn thận hơn.

– Nhà Viên Ngoại có gần đây không?

– Chỗ tôi ở là Thất Bảo Sơn, cách đây 10 dặm đường.

– Nếu vậy thì tiện lắm.

Triệu Viên Ngoại liền sai người về lấy thêm con ngựa nữa, để mời Lỗ Đạt đi. Trưa hôm ấy có ngựa tới nơi, Viên Ngoại sai người nhà mang khăn gói của Lỗ Đạt, rồi hai người từ giã bố con Kim Lão, mà lên ngựa ra về.

Khi tới nơi Triệu Viên Ngoại cùng Lỗ Đạt xuống ngựa, rồi dắt tay mời vào thảo đường, nhất diện sai người làm cơm thiết đãi.

Lỗ Đạt ở đó được dăm bảy ngày, một hôm cùng với Triệu Viên Ngoại đang ngồi ở thư viện, nói chuyện với nhau, thì bỗng thấy Kim Lão đến chơi.

Kim Lão có dáng cấp bách, nhằm lúc vắng người mà nói rằng:

– Dám thưa ân nhân, hôm nọ ân nhân qua đến nhà tôi, vì Triệu Viên Ngoại không biết đầu đuôi, vội đem người nhà đến toan vây bắt, làm ồn ào cho phố xá ai cũng có lòng ngờ vực, cho nên đến hôm qua có mấy tên công sai lảng vảng dò la xem chừng khẩn lắm, vì sợ khi họ biết ngài ở đây mà đến bắt, thì không tiện cho ân nhân.

Lỗ Đạt nói:

– Nếu vậy thì tôi xin đi chỗ khác cho rảnh.

Viên Ngoại có dáng ân cần mà nói:

– Bây giờ giữ Đề Hạt ở đây, cũng e có điều không tiện thực, song nếu cho ngài đi, thì chúng tôi lại càng không phải lắm, vậy tôi có một kế này, có thể tạm yên mà lánh nạn được, nhưng chẳng hay Đề Hạt có ưng ý hay không?

– Tôi bây giờ đang lúc tội nợ đến nơi, nếu lại được chỗ yên thân, thì còn gì mà không ưng ý?

– Nếu như vậy thì hay lắm, cách đây vào khoảng 30 dặm, có một tòa núi gọi là Ngũ Đài Sơn, trong có viện Văn Thù tức là chùa Đạo Tràng văn Thù Bồ Tát, có năm bảy trăm vị sư tu hành ở đó. Trước đây các cụ tôi bỏ tiền ra tu bổ chùa ấy, công đức rất to mà sư cụ chùa ấy ở đây là Trí Chân Trưởng Giả, lại chính là anh em thân thích với tôi, vậy nếu Đề Hạt có bằng lòng sang ấy, mà cắt tóc đi tu, thì bao nhiêu phí tổn chi tiêu, tôi xin chịu tất.

Lỗ Đạt nghĩ một lúc rồi nói:

– Bây giờ tôi cũng không biết đi đâu cho được, vậy đành phải theo kế ấy là hơn.

Đêm hôm ấy bàn soạn xong rồi, sắm sửa các đồ hành trang lễ vật, rồi đến sáng hôm sau hai người cùng đi sang Văn Thù Viện. Vào khoảng trưa hôm sau đi đến chân núi Ngũ Đài, Lỗ Đạt và Triệu Viên Ngoại đi kiệu lên núi, sai đầy tớ vào chùa báo cho sư cụ biết.

Sư cụ nghe tin vội vàng dẫn đồ đệ đi ra tiếp đón. Khi vào đến phương trượng, sư cụ mời Triệu Viên Ngoại ngồi trên khách vị, còn Lỗ Đạt thì ngồi ở ghế một bên đối diện với sư cụ.

Triệu Viên Ngoại gọi Lỗ Đạt đến bên cạnh bảo thầm rằng:

– Ông định xuất gia, sao lại ngồi đối diện với sư cụ thế?

Lỗ Đạt nói:

– Nào tôi có hiểu ra thế nào ở đâu?

Nói xong, chạy đến ngồi ở phía dưới Triệu Viên Ngoại, còn các vị sư Giám Tự và Thư ký trong chùa, đều theo thứ tự mà ngồi cả hai bên.

Bấy giờ người nhà Triệu Viên Ngoại đem các thứ lễ vật đến bày ở trên mặt án, trước chỗ sư cụ ngồi. Sư cụ trông thấy cười bảo Viên Ngoại rằng:

– Sao người cho lễ vật luôn như thế, thực là phiền cho người lắm.

– Gọi là có chút lễ mọn xin Hòa thượng nhận cho, có chi mà dám nói là nhiều, vả lại tôi có một việc muốn sang kêu với ngài, xin ngài từ mẫn đi cho. Nguyên là tôi có một người biểu đệ họ Lỗ, trước đây đã theo đòi việc quân ở Quan nội, vì nay thấy chuyện đơiø man mác lắm nỗi đắng cay, muốn tình nguyện để xuất gia đầu Phật. Vậy dám mong Hòa thượng lấy lòng từ bi quảng đại mà chấp nhận cho, còn các việc phí tổn thế nào, tôi xin cáng đáng.

– Nếu vậy cũng là vẻ vang cho cửa Phật, lão sư tôi xin vui lòng nghinh tiếp ngay, bây giờ xin mời các vị xơi nước đã.

Uống nước xong rồi, sư cụ gọi lũ Giám Tự và Thư Ký, đến bàn chuyện cho người vào đầu Phật, và sai dọn cơm chay để thiết đãi hai người.Khi ấy chư tăng bàn vụng với nhau:

– Anh chàng này trông hai con mắt hung ác thế kia thì tu hành sao được? Ta nên vào bẩm với sư cụ để người xét kỹ xem sao.

Đoạn rồi chư tăng cử một người vào mời Triệu Viên Ngoại và Lỗ Đạt ra ngồi ở khách sạn, rồi cùng vào bẩm riêng với sư cụ rằng:

– Người vừa rồi trông dáng dữ tợn hung hăng, mặt mũi thô bỉ như thế, nếu sư cụ cho ở chùa này, chỉ e sau đây sinh sự khó chịu gì chăng?

Sư cụ nói:

– Người ấy là anh em của Triệu Viên Ngoại, công đức ở chùa ta, có lẽ nào mà không nhận được, các ngươi cứ an tâm, để ta xem thử ra sao?

Nói xong thắp một nén hương, ngồi xếp bằng tròn, miệng đọc mấy câu thần chú, rồi nhắm mắt ngồi im một lúc, đến khi cháy hết nén hương, mới mở mắt bảo chư tăng rằng:

– Được rồi, các ngươi không ngại, người ấy tuy bây giờ trông dáng hung hăng như thế, song trên ứng với Thiên Tinh mà giữ lòng ngay thẳng, sau này chứng quả rất to, có lẽ các ngươi không bằng được, vậy chớ nên trở ngại làm chi?

Chư tăng nghe vậy, không dám nói năng gì nữa, sư cụ liền sai dọn cơm lên mời khách thụ trai, thụ trai xong rồi, Viên Ngoại bỏ tiền ra sai người sắm sửa lễ vật, và may mũ áo, sắm giầy dép nhà chùa cho Lỗ Đạt.

Ngày hôm sau các vật liệu đã chuẩn bị sẵn sàng, chư tăng ăn mặc lễ phục, đội mũ pháp giới, mặc áo cà sa, ngồi sắp hàng hai bên pháp tọa, còn sư cụ thì ngồi trước Phật đài, bày các đồ lễ phẩm lên trên, rồi thỉnh chuông niệm Phật mà đọ sớ dâng hương, khi đọc sớ xong, đạo đồng dẫn Lỗ Đạt đến trước pháp tọa, bỏ khăn mũ đi rồi, đạo đồng lấy dao cắt tóc.

Bấy giờ Lỗ Đạt đã thấy đầu trọc lóc, duy còn mấy cái râu cong ngược ở mép về cằm, thì ra dáng đắc chí mà rằng:

– Phải, để mấy cái râu này cho mỗ thì thú lắm?

Chư tăng nghe nói buồn cười đến chết, song có sư cụ ở trên, cho nên không ai dám hở răng nữa.

Sư cụ cùng chư tăng lại đồng thanh đọc mấy câu kệ, rồi đạo đồng cắt xoẹt cả râu ria Lỗ Đạt, không còn để lại chút gì.

Đoạn rồi sư cụ đặt pháp danh Lỗ Đạt là Trí Thâm, và giao cho các đồ pháp giới cà sa cùng gậy, giầy nhà Phật.

Trí Thâm ăn bận nhà chùa tử tế, rồi Giám Tự dắt vào trước pháp tọa, sư cụ làm phép mà đọc rằng:

– Phép tu hành: Điều thứ nhất, phải noi theo Phật tính; Điều thứ nhì, giữ gìn khuôn phép; Điều thứ ba, phải theo bạn theo thầy; thế gọi là Tam quy. Còn như ngũ giới thì: Một là không được giết loài sống; Hai là không được trộm cắp; Ba là không được tà dâm; Bốn là không được ham rượu; Năm là không được nói càn, năm điều ấy có giữ được không?

Trí Thâm bỏm bẻm trả lời:

– Đã, tôi nhớ rồi.

Chư tăng ai cũng bật cười không nhịn được.

Bấy giờ các lễ đã xong, Triệu Viên Ngoại mời tất cả các chư tăng ra chỗ Vân Đường rồi đồ tự dẫn Trí Thâm, đi chào các sư huynh sư đệ khắp cả một lượt đến chiều mới xong.

Sáng hôm sau Triệu Viên Ngoại sắp sửa ra về, sư cụ cùng tất cả tăng đồ đều đưa chân xuống cửa núi, Viên Ngoại quay lại nói với chư tăng rằng:

– Em Trí Thâm xưa nay vốn tính thô mãng ăn nói tục tằn vậy, trong khi ở đây ăn mày lộc Phật, lỡ có điều không phải, dám xin hòa thượng, và dưới các sư phụ đều lấy lòng từ mẫn thương đến tôi, mà tha thứ tội đi cho, thì tôi được đội ơn vạn bội.

Sư cụ đáp:

– Viên Ngoại cứ yên tâm, tiểu tăng tôi xin hết lòng uốn nắn dần dần mới được.

Viên Ngoại lại gọi Trí Thâm ra dưới gốc cây tùng, mà dặn nhỏ rằng:

– Hiền đệ ở đây không phải chỗ bình thường, phàm việc gì cũng nên cẩn thận chớ để lỡ ra mà khó xử trí về sau. Còn tiền nong áo xống, thì tôi khắc xin chu tất cả cho.

Trí Thâm gật đầu nói:

– Việc ấy quan bác không phải dặn, tôi đây xin y lời được cả.

Khi đó Triệu Viên Ngoại bái từ sư cụ cùng các tăng đồ, và Trí Thâm mà trở về nhà.

Lỗ Trí Thâm thấy viên ngoại về rồi, một mình vơ vẫn đi vào Phật đài, nằm vật xuống sập mà ngủ ngay một giấc.

Các tăng đồ thấy vậy, thì túm đến dựng dậy mà bảo rằng:

– Đã xuất gia thì phải học ngồi, chứ nằm thế này không được.

Trí Thâm giận mà nói:

– Việc ta ta ngủ, có can gì đến các ngươi?

Nói xong lại nằm vật xuống ngủ, không ai còn ngăn cản được.

Sáng hôm sau bọn tăng đồ toan lên mách với Hòa thượng, nhưng có một người gạt đi mà rằng:

– Sư cụ đã nói về sau tất hắn hơn cả chúng ta vậy ngày nay có nói cũng vô ích thôi mặc quách hắn là xong.

Trí Thâm không thấy ai nói đến càng tự do hơn trước, cứ chưa tối thì đã nằm sóng sượt ra sập để ngủ, tiếng gáy ầm ầm như sấm động, rồi lại phóng uế ra khắp cả đằng sau điện, làm cho bẩn thỉu không ai chịu được. Lũ tăng bất đắc dĩ phải vào bẩm với sư cụ.

Sư cụ gạt đi rằng:

– Thôi, nên nể mặt Triệu Viên Ngoại, cứ để cho hắn ở đây, rồi sau hắn phải sửa đổi dần đi.

Từ đó không ai dám nói đến Trí Thâm nữa.

Lỗ Trí Thâm ở Ngũ Đài Sơn được 4, 5 tháng trời, rất lấy làm khó chịu, một hôm gặp buổi mát trời, chàng ta mặc áo thắt đai chân vận đôi giày thầy chùa, đi lững thững ra mái đình, ở lưng chừng sườn núi, ngồi chơi vơ vẫn một mình. Trong bụng chợt nghĩ:

“Ta mọi khi vẫn cứ rượu ngon thịt béo ăn uống luôn mồm, thế mà bỗng dưng dắt ngay vào đây làm một bác thầy chùa, ăn không được ăn, uống không được uống, như thế có tức hay không? Lão Triệu Viên Ngoại mấy hôm nay cũng không thấy sai người đưa gì đến đây, cho ta chén cả, không biết làm cách gì có rượu uống cho đỡ thèm bây giờ?”.

Đương nghĩ vẫn vơ như vậy, thì thấy một anh chàng quẩy hai thùng rượu ở chân núi đi lên, miệng hát nghêu ngao:

Non xa có phải chiến trường?

Mục đồng nhặt ngọn gươm tàn ngày xưa.

Gió dồn ngọn nước sông ô,

Nỉ non như tiếng Ngu Cơ biệt chồng.

Lỗ Trí Thâm thấy anh chàng đi vừa hát, khi lên đến mái đình, thì đặt gánh xuống ngồi nghỉ, liền cất tiếng hỏi rằng:

– Anh kia gánh những gì trong thùng đó?

– Thưa tôi gánh rượu đây?

– Rượu bao nhiêu tiền?

– Hòa thượng hỏi đùa làm gì thế?

– Ta lại đùa với ngươi hay sao? Ta hỏi thực đó.

– Rượu này tôi gánh lên trên núi, để bán cho đám kiệu phu, đám nhà bếp, cùng các nàng quán họ mua, chứ như ở trong chùa, thì sư cụ đã có lệnh cấm, nếu ai bán rượu cho các vị sư, tất là bị phạt tất cả tiền rượu, mà còn bị đuổi đi ngay lập tức, vậy hòa thượng hỏi làm chi?

Lỗ Trí Thâm cáu lên mà rằng:

– Thế thì ngươi không bán cho ta hay sao?

– Hòa thượng giết, tôi cũng không dám bán.

– Ta không giết ngươi để làm gì, ta chỉ hỏi mua rượu của ngươi để uống thôi.

Anh kia xem chừng núng thế, không cự nổi được hòa thượng, liền nhắc gánh lên vai mà chạy, Trí Thâm vùng dậy đuổi theo, nắm lấy gánh rượu, rồi đá cho anh chàng kia một cái, ngã lăn queo xuống đất, rồi hai tay xách hai thùng rượu, đi lên mái đình, ngồi khật khà khật khưỡng một mình múc rượu mà uống. Được một lát uống hết hẳn một bên thùng rượu, liền gọi tên bán rượu mà bảo rằng:

– Rượu ta mới uống có một thùng, sáng mai đến đây mà lấy tiền.

Bấy giờ anh kia mới lóp ngóp bò dậy, vừa đau đớn vì bị đá, vừa phần sợ sư cụ biết, thì khổ tới thân, đành phải im hơi.

Khi ấy Lỗ Trí Thâm nghe trong mình đã say sưa nóng nảy, liền cổi áo bỏ mũ cho mát, rồi khệnh khạng đi thẳng về chùa.

Vừa khi lên tới cổng chùa, hai tên canh cửa cầm roi chạy ra ngăn lại mà cự rằng:

– Anh là người tu hành, mà sao lại say sưa như thế? Sư cụ đã ra lệnh cho các hòa thượng, nếu ai phá giới uống rượu thì phạt đánh 40 roi, bằng những người canh cổng để cho các sư say rượu vào chùa thì cũng phải phạt đòn một chục. Vậy anh đi xuống ngay đi, thì tôi tha cho mấy chục roi đòn ấy.

Lỗ Trí Thâm vừa bước chân vào cửa thiền môn, tính cũ vẫn còn hăng hái, nay nghe thấy lũ kia nói vậy, thì trừng mắt lên mà nói rằng:

– A! Quân này gớm thực, bây muốn đánh nhau, thì ta đánh nhau, cho mà xem.

Hai tên kia thấy vậy, thì một tên chạy vội vào trong chùa, còn một tên giả cách giơ roi ra để giữ Trí Thâm lại. Trí Thâm sốt ruột sấn vào gạt hất đầu roi đi, rồi tát cho tên kia một cái, lộn chúi vào trong cổng. Tên kia vừa ngóc đầu toan dậy, lại bị Trí Thâm đánh cho một quyền ngã gục xuống đất, kêu ám ỹ cả, rồi Trí Thâm vừa vội vội vàng vàng vừa chạy vào chùa, vừa quay lại nói rằng:

– Ông hãy tha cho mầy đấy.

Trong kia Giám Tự nghe thấy tên canh cửa vào bảo, thì vội vàng gọi những tên nhà bếp cùng là phu kiệu, tất cả tới hai ba mươi người đều cầm roi vác gậy đổ ra ngăn cản Trí Thâm.

Trí Thâm thấy vậy thét lên một tiếng như sấm vang trên núi rồi phóng bộ vào toan đánh. Đám kia thấy Trí Thâm ra dáng hung tợn thì ai nấy đều sợ hãi cùng nhau nấp vào trong điện mà khép cửa lại. Trí Thâm đẩy sấn vào trong điện đánh cho anh nào anh ấy chạy tháo chân không kịp. Giám Tự thấy nguy cấp đến nơi, hớt hải chạy vào báo cho sư cụ biết.

Sư cụ nghe nói mải mốt, dẫn mấy tên đồ đệ chạy đến chỗ Lỗ Trí Thâm mà nạt rằng:

– Trí Thâm không được vô lễ ở đây.

Lỗ Trí Thâm tuy bấy giờ say rượu, nhưng cũng biết sợ sư cụ một chút liền chạy đến gần trước mặt vái chào sư cụ rồi trỏ xuống dưới điện mà thưa rằng:

– Trí Thâm này uống có mấy hớp rượu, cũng không chọc ghẹo đến ai thế mà họ lại kéo nhau đến đánh là nghĩa gì vậy?

Sư cụ kiếm lời đấu dịu mà rằng:

– Ngươi hãy nghe lời ta mà đi ngủ đi, rồi đến mai sẽ hay.

Trí Thâm vâng lời rồi nói một mình rằng:

– Nếu ta không nể lời sư cụ thì tất là đánh chết chúng bây mới thôi.

Nói đoạn sư cụ sai đồ đệ đưa Trí Thâm về tăng phòng để nghỉ.

Bấy giờ chư tăng lại phàn nàn với sư cụ rằng:

– Hôm nay sư cụ nghĩ thế nào? Phỏng có dung người ấy ở trong chùa để làm loạn thanh quý nữa hay không?

– Bây giờ vẫn biết rằng như thế, nhưng sau này làm thế nào hắn cũng có ứng quả to, vả chăng mình cũng phải nể mặt ông Triệu Viên Ngoại, mà hãy dung thứ cho hắn, rồi mai ta sẽ dặn bảo hắn thì tất là hắn cũng tỉnh ra dần dần.

Chư tăng nghe nói ai cũng cười thầm, mà không dám nói gì.

Sáng hôm sau sư cụ sai người gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:

– Triệu Viên Ngoại đưa ngươi đến đây, để ăn chay niệm Phật, ta đã răn bảo các lẽ, phàm nhà tu hành là không được sát sinh, hai là không được trộm cướp, ba là không tà dâm, bốn là không được ham rượu, năm là không được nói càn, có giữ được năm điều ấy, mới là đắc đạo; nay ngươi mới tới đây được ít lâu, mà đã rượu chè be bét, đánh hết người này đến người kia, làm cho ầm ĩ cả chùa lên, như thế là nghĩa làm sao?

Trí Thâm quỳ xuống mà đáp rằng:

– Từ nay không dám như thế nữa.

Sư cụ lại nghiêm trách rằng:

– Một người xuất gia đầu Phật, mà rượu chè be bét, làm hại đến thanh quý như thế, nếu ta không nể lòng Triệu Viên Ngoại, thì ta không dung ở chùa này nữa, vậy từ nay ngươi hãy liệu thân mà chừa đi mới được.

Trí Thâm cung kính vâng lời mà đoan rằng:

– Không bao giờ dám làm như thế nữa.

Đoạn rồi sư cụ lưu Trí Thâm ở phương trượng, cho cùng ngồi ăn cơm, mà lấy lời khuyên bảo mơn man, khiến cho trong lòng tự hối mà tỉnh ngộ ra dần. Cho hay:

Cương cường bạo ác đến đâu,

Nước mưa đạo đức tưới lâu cũng mềm.

Lỗ Trí Thâm từ khi phải một bữa say hôm ấy, rồi đến ba tháng trời không hề dám bước chân ra khỏi cửa chùa nữa. Chợt có một hôm chiều trời ấm áp, đương độ tháng hai, một mình ngồi buồn bã ở chốn tăng phòng, liền lững thững dạo ra chơi mát. Khi đi đến sườn núi Ngũ Đài đương đứng xem phong cảnh làm vui, bỗng nghe thấy tiếng lóp đóp lát chát ở đàng xa đưa đến, Trí Thâm vội về tăng phòng, lấy thêm ít tiền bỏ vào túi rồi lững thững ra đi.

Một mình vơ vẫn đi mãi đến núi Ngũ Đài thì thấy cửa nhà đông đúc, hàng quán xôn xao, uyển nhiên là một nơi thành thị, Trí Thâm tự nghĩ tự bụng:

– Nếu ta sớm biết đây có phố xá hàng quán thế này, thì những khi cao hứng phải xuống đây đánh chén, can chi mà phải cướp rượu của ai.

Bụng nghĩ chân đi, vừa đến trước một cửa hàng thợ rèn, có mấy người đương ngồi đánh rèn tại đó, Trí Thâm liền đi thẳng vào trong hàng quán mà hỏi rằng:

– Các anh làm thợ rèn ở đây, có thép tốt hay không?

Anh thợ rèn ngẩng trông lên thấy Lỗ Trí Thâm, tuy ăn mặc lối nhà chùa, song mặt mũi dữ tợn, mà mái tóc lại giở ngắn giở dài, trong bụng cũng có phần kinh sợ, bèn mời Trí Thâm ngồi mà hỏi rằng:

– Chẳng hay hòa thượng muốn đánh vật gì để dùng?

– Ta muốn đánh một cây thuyền trượng, và một thanh giới đao, nhưng không biết rằng có thép tốt hay không?

– Bẩm có, hòa thượng định dùng bao nhiêu cân, để đánh thuyền trượng?

– Ta muốn đánh cây thuyền trượng nặng 100 cân, có thép tốt hay không?

Phó rèn cười mà đáp rằng:

– Bạch hòa thượng, thế nào mà tôi đánh không được, nhưng chỉ sợ hòa thượng không dùng nổi mà thôi, đến như cây đại đao của đức Thánh Quan ngày trước, cũng chỉ có 80 cân nữa là…

Trí Thâm cau trán mắng rằng:

– Ta đây lại không bằng Quan Công à? Hắn cũng là người chứ gì?

– Cứ như ý chúng tôi, chỉ đánh vào khoảng 40, 50 cân, cũng nặng lắm rồi.

– Ừ thôi ta cũng nghe lời anh, cứ đánh 80 cân và nặng bằng cây đao của Quan Công cũng được.

Phó rèn nghĩ một lát rồi nói:

– Tôi thiết tưởng sư phụ to béo như thế, mà cầm cái cây gậy nặng quá thì không tốt, vậy tôi xin chọn thứ thép tốt đánh độ 62 cân cũng được, còn thanh giới đao thì tôi hiểu rồi, bất tất phải nói nữa.

Trí Thâm gật đầu nói:

– Cũng được, tất cả hai cái ấy, ngươi lấy bao nhiêu tiền?

– Tôi không nói thách, xin sư phụ cứ cho đủ năm lạng bạc mới được.

Trí Thâm đưa tiền mà nói:

– Được, 5 lạng ta cũng trả cho anh, nếu anh đánh được tốt, thì ta thưởng thêm cho.

Phó rèn nhận tiền rồi nói:

– Chúng tôi xin đánh cẩn thận cho sư phụ.

Lỗ Trí Thâm lại bảo với phó rèn rằng:

– Ta còn ít tiền lẻ ở đây, anh đi mua rượu về uống với ta một thể cho vui.

Phó rèn nghe nói từ chối rằng:

– Tôi bận việc làm ăn, không thể hầu rượu ngài được, vậy xin sư phụ cứ tự tiện cho.

Trí Thâm đứng dậy, ra khỏi nhà lò rèn, được dăm ba mươi bước thì thấy có hàng rượu ở đó liền bước rảo cẳng, vào hỏi mua rượu để uống.

Nhà hàng thấy vậy, không dám bán mà nói rằng:

– Sư cụ trên chùa đã truyền lệnh, chúng tôi không được bán rượu cho cho các vị sư, nếu mà bắt được bán vụng thì tất phải phạt, mà tịch ký cả tiền, vậy xin sư phụ tha lỗi cho, không khi nào chúng tôi dám như thế.

Trí Thâm thấy vậy, đành phải ra đi, tìm hàng khác. Ngờ đâu đi đến dăm bảy hàng, mà không hàng nào bán cả, Trí Thâm lấy làm tức giận, lẩm bẩm nói một mình rằng:

– Ta không nghĩ được kế gì mà uống rượu lấy một bữa, thì tức quá.

Chợt đâu trông thấy phía cuối chợ đằng xa, phảng phất có Hạnh Hoa Thôn ở đó, Trí Thâm nghĩ ngay ra một kế, rồi xăm xăm đến hàng rượu vắng vẻ quạnh quẽ bước vào ngồi ở gần cạnh cửa sổ gọi chủ hàng mà bảo rằng:

– Tôi ở đằng xa qua tới chốn này, muốn mua rượu uống chơi, xin chủ nhân bán cho tôi một ít.

Chủ hàng nhìn Trí Thâm một lượt rồi hỏi rằng:

– Hòa thượng ở đâu mới tới đây?

– Tôi là người tăng lữ ở đường xa đi qua đây thôi.

– Nếu có phải người tu hành ở trên chùa Ngũ Đài, thì tôi không bán.

– Không phải, cứ đem rượu ra đây bán cho tôi.

Chủ hàng nhận kỹ Trí Thâm, vừa phần lạ mặt, vừa phần lạ tiếng thổ dân thì cũng tin cho là thực, liền hỏi ngay rằng:

– Người định lấy bao nhiêu rượu?

– Không cần phải hỏi, hãy cứ mang cho tôi mấy be lớn đã.

Chủ hàng đem rượu đến, Trí Thâm uống luôn mấy mươi be một lúc rồi quay ra hỏi chủ hàng rằng:

– Ở đây có thịt thà gì đem bán cho tôi một thể?

Chủ hàng nói:

– Thưa ngài, sáng hôm nay hàng tôi vẫn có thịt bò nhưng bây giờ bán hết cả rồi.

Vừa nói xong thì Lỗ Trí Thâm ngửi thấy mùi thịt thơm xông đặc lên mũi, liền đứng dậy chạy vào sân trong, thấy bên cạnh tường có nồi thịt chó đương nấu bèn bảo với chủ hàng rằng:

– Trong nhà có thịt chó sao bác không bán cho tôi?

– Thưa ngài, tôi sợ những người xuất gia không xơi được thịt chó, cho nên không dám bán cho ngài.

Trí Thâm nói:

– Tôi có tiền đây, sao lại không ăn được?

Nói xong liền lấy tiền đưa cho chủ hàng mà bảo rằng:

– Tiền đây hãy bán cho tôi nửa quầy.

Chủ hàng mãi mốt lấy nửa quầy thịt chó mang ra để trước mặt bàn. Trí Thâm trông thấy cả mừng giơ tay cầm lấy đùi chó vừa xé vừa ăn, lại vừa uống hết mươi be rượu nữa. Khi ấy trong bụng hãy còn thòm thèm liền gọi chủ hàng ra để mua thêm.

Chủ hàng có ý ngần ngại mà từ chối rằng:

– Bạch ngài chỉ còn có ngần ấy mà thôi.

Trí Thâm nghe nói tức giận quắc mắt lên mà hỏi:

– Ta ăn không của ngươi hay sao? Mà ngươi hạn cho ta có bằng ấy?

Chủ hàng nghe giọng hòa thượng đã có hơi rượu thì không dám dùng dằng, liền hỏi ngay rằng:

– Ngài định mua bao nhiêu nữa?

– Ngươi cứ đem một thùng nữa ra đây.

Chủ hàng bất đắc dĩ lại phải mang một thùng rượu nữa ra. Trí Thâm gật gù ngồi uống mãi đến hết cả thùng rượu mới thôi. Bấy giờ còn thừa lại nửa quầy thịt nữa, Trí Thâm lại đút túi để mang về. Khi ra đến cửa còn quay lại mà bảo chủ hàng rằng:

– Ngày mai nếu có tiền, thì tôi lại đến đây nhé?

Nói xong quay gót sồng sộc đi thẳng về lối Ngũ Đài Sơn, chủ hàng trông thấy chỉ lắc đầu le lưỡi mà không dám nói làm sao cả.

Trí Thâm đi về đến mái đình ở lưng chừng núi ngồi đó một hồi, nghe hơi rượu đã bốc lên nồng nực, liền đứng dậy mà nói một mình:

– Ta lâu nay không đi bài côn bài quyền nào, nghe trong mình không được khỏe mạnh, bây giờ tiện đây thử giở vài ngón xem sao?

Nói đoạn đi xuống sân đình, xắn hai tay áo lên, rồi đánh bên nọ đánh bên kia, hắt lên đá xuống, lấy sức lấy gân, múa may một mình, đoạn rồi chạy lên đánh vào các cột ở góc đình một quyền rất mạnh, làm cho các cột gãy hẳn ra đôi đoạn, mà một bên góc mái đình cũng đổ khịu xuống.

Bấy giờ bọn canh cổng ở trên nghe thấy tiếng đánh sầm giữa lưng chừng núi, ngó cổ ra nom thì thấy Lỗ Trí Thâm đương chân thấp chân cao đi sồng sộc lên núi, bèn cùng lắc đầu mà bảo nhau rằng:

– Khổ chưa! Thằng súc sinh hôm nay lại say quá chén nữa rồi, chúng ta phải đóng cổng lại mới được.

Nói đoạn họ khép hai cánh cổng chùa, khóa chặt lại tử tế, rồi cùng đứng vào chỗ khe cửa mà nom ra, thì thấy Lỗ Trí Thâm vừa đi tới nơi giơ tay đập cửa mà gọi ầm ầm lên như hổ thét.

Lũ canh cỗng cứ đứng yên đó, không ai dám mở cổng ra.

Trí Thâm lại đập gõ hồi lâu không ai chịu mở, quay cổ ra phía cổng bên tả, thấy có pho tượng Kim Cương ở đó, liền quát lên rằng:

– Thằng quái này to lớn như thế, mày không mở cử cho ta, lại còn giơ quyền để dọa ta à? Nói thiệt ta đây không sợ mày đâu?

Nói dứt lời rồi nhảy tót lên bệ, vớ thanh củi nhằm cẳng tượng mà vụt lấy vụt để, bao nhiêu những phấn son sơn nhựa, đều long bật ra cả.

Lũ canh cổng nom thấy vậy cả kinh, mải mốt bảo nhau chạy vào báo với sư cụ.

Ngoài kia Trí Thâm đứng đợi hồi lâu, không có ai ra mở cửa, lại quay cổ nom sang bên hữu cũng thấy pho tượng Kim Cương ở đó, rất tức giận quát to lên rằng:

– Lại thằng này cũng há hốc miệng mà cười ta nữa hay sao?

Đoạn rồi cũng nhảy lên bệ, đá luôn vào cẳng pho tượng mấy cái đổ lăn đùng xuống đất, mà đứng cười ha hả một mình.

Khi đó lũ canh cổng chạy vào báo với sư cụ, thì sư cụ gạt đi mà bảo rằng:

– Thôi các ngươi cứ ra đi, để đấy mặc hắn.

Vừa nói xong thì lại thấy lũ Giám Tự và Thủ Tự chạy mải mốt vào mà bạch rằng:

– Thằng khốn nạn hôm nay lại say rượu quá, hắn đã đánh đổ cả mái đình, và đương phá hủy hai pho tượng Kim Cương ở ngoài kia.

Sư cụ nghe nói vậy, cũng chỉ ung dung mà đáp lại rằng:

– Xưa nay đến ông Thiên Tử còn sợ thằng say rượu, huống chi chỉ là lũ thầy chùa? Còn như hai pho tượng Kim Cương cùng mái đình kia, nếu hắn có đánh hỏng ở đâu, thì đã có Triệu Viên Ngoại làm đền ở đấy, can chi mà nói cho phiền.

Chư tăng có ý không bằng lòng mà nói:

– Pho tượng Kim Cương là chúa tể ở cửa rừng cửa núi, có lẽ nào mà thay đổi dễ dàng như thế được?

Sư cụ lại cười mà đáp:

– Cứ gì pho tượng Kim Cương, cho đến hắn phá hỏng ngay tòa Phật Tam Thế cũng mặc lòng hắn vậy, chứ còn biết làm sao được? Các ngươi không nhớ chuyện hung tợn bữa trước hay sao?

Lỗ Trí Thâm đứng ở ngoài đợi mãi không có ai mở cửa cho thì nóng tiết mà quát:

– Đồ ăn mày kia, không mở cửa cho ta vào, thì ta cho một mồi lửa đốt tiệt cả chùa chiền bây giờ.

Chúng tăng nghe thấy vậy, thì anh nào anh nấy đều phải kinh sợ gọi người canh cổng bắt mở cửa cho Trí Thâm vào.

Lũ canh cửa cũng rung sợ khiếp kinh, sẽ rón rén đến rút cái then khóa ra, rồi bỏ mặc cửa khép đấy mà chạy trốn mất cả.

Bấy giờ chúng tăng cũng bỏ mà chạy trốn cả, Lỗ Trí Thâm sốt ruột không thể nào đợi được, liền giơ hai tay mà đẩy cửa một cái thật mạnh. Dè đâu then cửa ở trong đã tháo ra rồi, cho nên vừa đẩy tay vào một cái thì cánh cổng mở tung hẳn làm cho Trí Thâm ngã ngay sấp mặt vào trong cổng, đoạn rồi lại mải mốt đứng dậy, mà xoa đầu xoa mặt, chạy sộc vào trong phòng.

Khi ấy có mấy vị sư đương ngồi ở trai đường với nhau, bỗng thấy Trí Thâm ở đâu lập cập bước vào, mặt đỏ bầng bầng như nước tượng sơn son, thì ai nấy kinh ngạc đều cúi đầu xuống, mà không dám ngẩng đầu lên nhìn, đoạn rồi thấy Trí Thâm chạy vào đến giường nằm vật xuống đấy, mà ghé cổ ra đất nôn mửa thốc tháo; làm cho mọi người ngồi đấy, đều bưng mũi lắc đầu không sao nhịn được.

Trí Thâm nôn mửa hồi lâu, rồi lại ngồi chổm lên giường cởi áo bỏ mũ, bứt đứt cả thắt lưng, rồi lại lấy quầy thịt chó giắt ở trong bọc ra, mà nói một mình rằng:

– Tốt lắm! Bây giờ bụng lại đương đói đây, ta đem ra mà nhắm đi thôi.

Nói xong vừa xé thịt chó vừa ăn nhồm nhoàm ở miệng, rồi quay trước quay sau trông thấy mấy vị sư đương lấy vạt áo bịt mũi ngồi gần ở đó, liền giơ miếng thịt chó sang một bên kia mà bảo rằng:

– Các bác có ăn thịt chó không?

Vị sư ấy mải mốt nhảy xuống giường toan chạy, bất đồ bị Trí Thâm nắm tay kéo lại mà nhét cả vào mũi vào mồm không sao cựa được. Các sư kia thấy vậy túm đến để gỡ ra, thì Trí Thâm giơ ngay cẳng tay đánh vung xích chó, làm cho chư tăng và các khách nhà chùa đều chạy tán loạn.

Giám Tự thấy vậy, không đợi nói cho sư cụ biết, liền cho gọi tất cả nhà bếp phu kiệu, cùng các vị chức vụ ở trong chùa, có tới hai trăm người đều cầm côn gậy đi vào tăng đường để chống cự lại.

Trí Thâm trông thấy thế, thì thét lên một tiếng rất to, rồi chạy ngay vào Phật đường, vớ ngay cái án thư ở trước điện, mà bẻ lấy hai cái chân án làm khí giới xông ra để đánh, chư tăng thấy khí lựcTrí Thâm mạnh tợn quá chừng, thì anh nào cũng chùn tay lại, mà không dám địch; Trí Thâm thừa thế đuổi tràn cho đến pháp đường, mà đánh vung cả lên, không còn nể sợ điều chi.

Vừa khi ấy thì thấy sư cụ ở pháp đường quát lên rằng:

– Trí Thâm không được vô lễ thế! Các sư cũng phải im đi.

Chư tăng nghe sư cụ nói, thì tản mát mỗi người đi mỗi nơi, không dám vẫn vơ quanh đấy. Còn Trí Thâm thấy chúng tăng đã tản mát rồi, cũng vất vả hai cái chân án xuống mà nói rằng:

– Xin sư cụ làm chứng cho tôi.

Bấy giờ sư cụ thấy Trí Thâm đã hơi có dáng tỉnh rượu, liền bảo rằng:

– Ngươi là phiền lụy ta quá! Mới hôm nọ say rượu làm ầm cả lên, ta phải gửi giấy cho Triệu Viên Ngoại để viết thư sang tạ lỗi với chúng tăng, thế mà hôm nay lại say sưa làm loạn đến thanh quý đánh gãy cả tượng Kim Cương, đổ cả mái đình ở ngoài núi, rồi lại đánh nhau với chư tăng, như thế thì tội ác biết đâu mà kể! Đạo Tràng Văn Thù Bồ Tát ở núi Ngũ Đài đây, là một nơi hương lửa thanh tĩnh biết mấy ngàn năm trời, nay có thể nào dung một người bậy bạ như thế mãi được! Ngươi hãy theo ta vào đây, rồi ta liệu cho ngươi ở một chỗ khác mới được.

Trí Thâm theo sư cụ vào trong phương trượng, sư cụ liền nhất diện sai gọi khách nhà chùa cho đâu vào đấy, nhất diện sai gọi chư tăng đi yên nghĩ hẳn hoi, rồi giữ Trí Thâm ngủ ở đó một tối.

Sáng hôm sau sư cụ mưu cùng chư tăng, viết thư sang kể hết đầu đuôi cho Triệu Viên Ngoại biết, và hứa xin cho Trí Thâm đi một nơi khác.

Triệu viên Ngoại tiếp được thư của sư cụ, liền viết giấy trả lời, hẹn xin các nơi phá hoại đều sẽ xuất tiền tu bổ đền, còn Trí Thâm thì tùy ý sư cụ xử cho.

Sư cụ xem thư của Triệu Viên Ngoại, liền sai đồ đệ lấy ra mấy bộ mũ áo của nhà sư, và 10 lạng bạc, rồi gọi Lỗ Trí Thâm đến mà bảo rằng:

– Ngươi ở đây đã mấy phen say sưa chè rượu, lỗi đạo tu hành như thế, ta không thể nào dung túng được nữa, song ta cũng nể chút lòng Triệu Viên Ngoại bên kia, vậy ta cho ngươi một bức thư này, để đi tìm một chỗ mà yên thân, từ sau phải tỉnh hối dần đi mới được. Đây ta có câu đoán trước để về sau ngươi sẽ nghiệm dần.

Cho hay:

Cửa thiền vừa thuở vui chơi,

Cũng toan chợp mắt sự đời bỏ qua,

Hay đâu trần hải phong ba,

Lửa lòng hồ dễ ai mà tưới tan?

Một bầu nhiệt huyết chan chan,

Thân này nợ với giang san còn nhiều,

Sá chi mặt nước cánh bèo,

Nam nhi hồ thỉ biết liều mới gan…

Lời bàn của Thánh Thán:

Xem sách cần phải tinh ý, không thể đọc qua văn rồi chẳng nghĩ đến. Như hồi này tả Lỗ Đạt gặp Kim Lão, rồi xoay đến vào chùa Ngũ Đài Sơn. Xét Kim Lão làm gì đưa nổi Lỗ Đạt đến Ngũ Đài Sơn? Đấy là sự bất đắc dĩ, chỉ cậy vào thân phận của Thúy Liên, mà nảy ra một Triệu viên Ngoại. Sở dĩ có Triệu Viên Ngoại, cốt làm cho Lỗ Đạt đi Ngũ Đài Sơn, chứ phải đâu ở huyện Nhạn Môn Đại châu, lại có một Viên Ngoại tốt đến như thế? Cho nên trong văn tự phải quay lại phía Lỗ Đạt mà xuất hiện ra, tả chỗ Viên Ngoại rất yêu chuộng những tay côn quyền mà nghĩa khí mới được. Phải xét đến đoạn văn Kim Lão cho biết, cháu gái thường thường nói với Viên Ngoại, về ân nhân là người như thế nào, khiến Triệu Viên Ngoại kính mến. Đó chỉ là dụng tình một ái thiếp, mà nên như vậy. Đoạn văn sau Lỗ Đạt làm loạn Ngũ Đài Sơn, Viên Ngoại không nói câu gì phàn nàn thấy tấm lòng Viên Ngoại đã hết sức. Độc giả nếu không xét tới, thì chả còn biết ngựa trâu, cái đực thế nào?

Tả nhà Kim Lão chỉ là phụ, tả Ngũ Đài Sơn lại là chính, thực là bút Sử mã phục sinh.

Tả Lỗ Đạt hai lần dùng rượu, cho rõ ra bản ngã con người, viết làm sao chương cú không ai ngờ tới? Thực khó lắm thay? Thế mà tác giả tả nổi, việc rất khó ở trong rất khó kia, khéo tả hai lần dùng rượu tiếp liên, phải làm cho cách quãng, nếu không tả cách quãng, thì Lỗ Đạt chỉ ngày ngày dùng được rượu hay sao? Nay làm cho độc giả đã thấy một lần bị cấm, lại thấy một lần sau nữa hiện ra, khiến cho tai mắt không tưởng tượng nổi, vậy phải tả cách quãng, liệu bút chép ra, vì Chân Trí Trưởng Lão thường khuyên Lỗ Đạt theo cấm giới của kẻ tu hành, nay đột nhiên trật ra ngoài đề, tưởng không còn uống được nữa, thế mà xuống núi Ngũ Đài Sơn, lại sinh ra chuyện uống rượu, mới hay tác giả bút lực tài tình.

Hồi 4: Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc trướng – Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa

Bấy giờ Trí Thâm đang đứng trước mặt sư cụ mà nói rằng:

– Sư phụ dạy sao, cũng xin theo mệnh, nhưng không biết rằng sư phụ cho ở nơi đâu?

Sư cụ nói:

– Ta có một người anh em, gọi là Trí Thanh thiền sư, hiện đương trụ trì ở chùa Đại Tướng Quốc bên Đông Kinh, vậy ta cho ngươi cầm một phong thư này, sang đó rồi ở đấy mà tu hành mới được. Còn bốn câu kệ ta đọc ra đây, ngươi nên nhớ lấy, mà suy nghiệm về sau.

Nói xong liền đọc bốn câu kệ rằng:

“Gặp rừng thì dấy,

Thấy núi thì giầu,

Qua non thì mau,

Đến sông thì khá.”

Trí Thâm nghe bốn câu kệ, nhận thuộc lòng tử tế, rồi lạy từ tạ sư cụ thu thập khăn gói hành lý, và từ giã chúng tăng mà đi xuống núi Ngũ đài.

Bâng khuâng giã cảnh, giã thầy,

Trời cao đất rộng thân này bốn phương

Các sư ở chùa thấy Trí Thâm đi rồi, thì ai nấy cũng có vẻ mừng. Cách đấy vài hôm Triệu Viên Ngoại đem tiền nong thợ thuyền đến núi Ngũ Đài để sửa chữa lại mái đình, và sửa sang hai pho tượng Kim Cương cho được hoàn nguyên như cũ.

Còn về phần Trí Thâm sau khi đã từ biệt, giã cảnh, giã chùa, liền xăm xăm đi xuống nhà thợ rèn ở dưới chân chùa, để lấy giới đao cùng thuyền trượng. Khi thợ rèn đã đánh xong rồi, Trí Thâm mua một cái bao dao để bỏ giới đao vào đó, và lại mua sơn để sơn thuyền trượng cho cẩn thận, đoạn rồi thưởng tiền cho thợ rèn, và khoác khăn gói, vác đao trượng đi sang Đông Kinh.

Trong nửa tháng trời Trí Thâm đi đường không hề vào một nhà nào để trọ, chỉ đến bữa ăn thì tìm vào hàng rượu hàng thịt, mà chén no say rồi lại một mình thui thủi ra đi. Một khẩu giới đao, một thanh thuyền trượng, bốn phương non nước như đón khách tang bồng, cái cảnh nhà sư bây giờ thật là thỏa chí, không bó buộc như lúc ở chùa.

Một hôm Trí Thâm đi lững thững trên đường, trông ra bốn bên một mầu nước biếc non xanh rất nên ngoạn mục, bèn vừa đi vừa ngắm một mình, mà mặt trời sắp lặn non tây không biết. Bấy giờ mới hoảng hốt đi tìm chỗ trọ, nhưng đường xa quãng vắng, chung quanh lạnh ngắt hơi người, không biết vào đâu cho được, bất đắc dĩ lại phải cố đi để tìm nơi khác. Chàng đi tới hai ba mươi dặm đường, qua một cái cầu, rồi đến một nơi trang viện, xung quanh cây cối um tùm, mà đằng sau toàn là non núi.

Trí Thâm đi đến trước cửa trang viện, thấy những người ở trong đó đang rộn rịp tưng bừng, như là nhà đám, liền vào tận cổng, gọi trang khách ra để hỏi.

Vừa khi cất mồm toan hỏi, thì đã thấy trang khách nói trước lên rằng:

– Nhà sư đi đâu mà tối tăm lần mò đến đây?

Trí Thâm chống cây trượng xuống đất mà đáp rằng:

– Tôi đi đến đây lỡ độ đường, xin vào ngủ trọ một tối.

– Trong trang tôi có việc, không thể vào trọ được.

– Tôi chỉ trọ một tối, rồi sáng mai lại đi, sao mà không được?

– Thôi nhà sư đi tìm chỗ khác, chứ ở đây không trọ được đâu, trọ để mà chết hay sao?

– Nói lạ? Trọ một đêm mà chết cái gì?

Trang khách gắt lên rằng:

– Có đi thì đi đi, không thì trói vào kia bây giờ.

Trí Thâm nghe nói tức mình sấn cổ lên mà mắng rằng:

– Thằng nhà quê này vô lý quá, ta làm gì mà mi bảo trói ta?

Lũ trang khách thấy vậy, thì đổ xô đến, đứa thì mắng đứa thì đuổi, đứa thì khuyên bảo nên đi. Bấy giờ Trí Thâm đã cáu tiết, toan giơ thuyền trượng để đánh, chợt có ông lão trạc ngoài 60 tuổi, chống một cái gậy rất dài, ở trong nhà đi ra hỏi lũ trang khách rằng:

– Chúng bây làm gì ầm ầm lên thế?

Trang khách đáp rằng:

– Bẩm có lão sư nào toan đến đánh chúng tôi ở đây.

Trí Thâm không đợi dứt lời, liền nói ngay rằng:

– Tôi là sư ở Ngũ Đài Sơn đi sang Đông Kinh có việc, nhân trời tối qua đây ngủ nhờ quý trang một tối, ai ngờ đám người nhà vô lễ, cứ toan những trói với đánh là nghĩa lý làm sao?

Ông lão nghe vậy bèn bảo Trí Thâm rằng:

– Nếu người có phải là ở bên Ngũ Đài Sơn, thì xin mời vào trong này.

Nói xong dẫn Trí Thâm vào trong nhà mời ngồi rồi nói rằng:

– Xin sư phụ tha lỗi cho, lũ người nhà chúng nó ngu si, không biết cho nên xấc láo như vậy, chứ chúng tôi đây xưa nay vẫn kính phật thờ trời, có đâu dám thế. Ngày nay dẫu trong nhà tôi đây có việc, song để sư phụ nghỉ chơi một tối cũng chẳng hại gì.

– Chẳng hay quý trang đây là nơi nào?

– Thưa người, tôi đây là người họ Lưu, đây gọi xóm Đào Hoa, cho nên người ta thường gọi tôi là Đào Hoa Trang Lưu Thái Công. Vậy dám hỏi sư phụ pháp hiệu là gì?

– Tôi nguyên người họ Lỗ, sau theo sư cụ Trí Chân tôi ở chùa Ngũ Đài, cho nên người đặt pháp hiệu là Lỗ Trí Thâm.

– Bây giờ đã tối, xin sư phụ ngồi nghỉ, rồi xơi cơm, nhưng chẳng hay sư phụ có dùng được đồ mặn hay không?

– Tôi đây bất cứ là chay hay mặn, hễ có rượu thì thịt trâu bò tôi ăn cũng được.

– Nếu vậy thì tôi xin bảo người nhà, dọn rượu sư phụ xơi.

Nói đoạn gọi trang khách lấy rượu thịt và các thứ rau quả cơm nước lên, để thiết đãi nhà sư.

Trí Thâm bỏ tay nải, cổi bao đao ra để một bên, rồi gắp thịt ăn uống tự do một lúc, hết sạch cả cơm rượu và một mâm thịt, làm cho Lưu Thái Công trông thấy phải kinh sợ.

Được một lát Lưu Thái Công bảo trang khách, dọn một trang phòng ở bên ngoài, để cho Trí Thâm nghỉ mà dặn rằng:

– Sư phụ cứ đi nghỉ nếu đêm nay ở đây có xẩy ra huyên náo, thì sư phụ cũng mặc đấy mới được.

Lỗ Trí Thâm liền hỏi:

– Vậy thì ở quý trang có việc chi làm vậy?

– Việc đó các ngài đã tu hành, thì không nên hỏi đến làm chi?

Trí Thâm lại hỏi:

– Tôi trông Thái Công làm sao mà không được vui vẻ như thế? Chẳng hay vì tôi đến đây phiền nhiễu đến Thái Công, thì sáng mai tôi sẽ tính tiền trả lại Thái Công.

– Sư phụ nói làm gì vậy? Nhà tôi đây thiết đãi chư tăng cũng nhiều, có đâu một mình ngài lại không chu tất nổi hay sao? Tôi đây sở dĩ phiền muộn là chỉ vì hôm nay gả chồng cho đứa con gái đó thôi.

Trí Thâm cười mà đáp rằng:

– Lạ chưa? Con trai lớn thì lấy vợ, con gái lớn thì lấy chồng, đó là lẽ thường trong trời đất, can chi mà cụ phải lo?

– Đành vậy, nhưng việc hôn nhân này, có phải là tôi ưng thuận ở đâu?

Trí Thâm lại cười mà nói rằng:

– Ông cụ này mới lạ chứ! Đã không bằng lòng, thì sao lại gả chồng cho nó?

– Tôi xin kể nguyên ủy, để sư phụ nghe:

Nguyên tôi chỉ có một đứa con gái, năm nay 19 tuổi, chưa dám gả chồng. Nhân gần đây ở trên núi Đào Hoa Sơn, có hai ông Đại Vương đến đóng trại ở đó, tụ đến năm bảy trăm người để cướp bóc dân gian, mà quan quân trị mãi không nổi. Sau có một người biết nhà tôi có đứa con gái, liền đưa sang đây 20 lạng vàng, và mấy tấm lụa, mà bắt ép phải gả, đã hẹn đến hôm nay là làm lễ thành hôn. Tôi đã định từ chối, song thế mình yếu đuối không làm gì được, đành phải chịu vậy, vì thế cho nên tôi phiền não thế thôi.

Trí Thâm nghe dứt lời liền nói:

– À! Té ra câu chuyện như thế đấy, nếu vậy thì tôi có cách để khuyên giải, cho người ấy hồi tâm hướng đạo được. Cụ ơi! Cụ đừng lo nghĩ thêm phiền!

– Chết nỗi! Khuyên giải chi? Hạng ấy họ ăn thịt người không tanh, làm thế nào làm cho họ hồi tâm hướng đạo được?

– Tôi ở Ngũ Đài Sơn, nhờ sư phụ tôi dạy được một phép mầu, dẫu đến sắt đá cũng có thể chuyển được chẳng lo là người. Bây giờ cụ cứ bảo cho cô dâu ẩn đi một chỗ khác, còn trong phòng cứ mặc cho tôi vào đây, rồi tôi sẽ có cách khuyên giải người kia.

Lưu Thái Công hơi có vẻ mừng mà rằng:

– Nếu vậy thì hay lắm! Nhưng chỉ sợ chạm phải râu hùm, thì hơi nguy hiểm mà thôi.

– Không hề chi! Cụ cứ để mặc tôi, tôi sẽ xử được.

Bây giờ trang khách đứng đấy, đều lấy làm kinh lạ. Đoạn rồi Lưu Thái Công lại nói với Trí Thâm rằng:

– Nếu vậy thì nhà tôi thực có phúc, mới gặp được đức Phật giáng thế mà cứu độ cho; Nhưng chẳng hay sư phụ có xơi cơm nữa hay không?

– Cơm thì không cần nữa, nhưng có rượu cho tôi một ít cũng hay.

Lưu Thái Công vâng dạ luôn mồm, rồi sai trang khách lấy một con thịt quay và một bình rượu lớn lên cho Trí Thâm uống.

Trí Thâm ngồi xuống hai ba mươi bình rượu, lại ăn hết cả con vịt quay, rồi đứng dậy hỏi Thái Công rằng:

– Cụ đã cho cô con gái đi trốn chưa?

– Bẩm đã.

– Nếu vậy thì cụ cho dẫn tôi vào phòng đợi tân lang đến.Nói đoạn sai người nhà vác khăn gói và tự cầm đao trượng đi theo Thái Công vào trong phòng. Khi tới nơi Lỗ Trí Thâm bảo cho Thái Công trở ra; để một mình ở trong phòng, đoạn rồi đem các bàn ghế về một bên để đao với trượng lên giường, rồi cổi quần áo nhảy lên giường để ngồi chồm chổm ở đó.

Ngoài kia Lưu Thái Công, vừa mới bày biện bàn tiệc xong thì đã xa trong thấy đèn đuốc sáng trưng, người ngựa tấp nập, ở đằng xa kéo đến, liền mải mải mốt mốt chạy ra cổng để đón. Khi toán ấy gần tới nơi thì thấy cờ quạt phất phới, sáng choang, một lũ tiểu lâu la đầu đội khăn đỏ lưng thắt dây đỏ, cầm hai hàng đèn lồng đi trước, rồi đến vị Đại Vương cưỡi con ngựa trắng lông quăn đi giữa.

Lưu Thái Công thấy Đại Vương xuống ngựa, thì vội vàng quỳ ngay xuống đất, rồi rót rượu để dâng.

Đại Vương thấy vậy chạy đến nắm tay Thái Công dắt dậy mà rằng:

– Bây giờ cụ là nhạc phụ tôi, sao lại quỳ như thế?

Lưu Thái Công nói:

– Thưa ngài tôi là thuộc hạ của ngài, có đâu dám vô lễ được?

Bấy giờ Đại Vương hơi có dáng say, liền bảo Thái Công rằng:

– Cụ được người con rể như tôi, tưởng không còn gì hơn nữa?

Nói xong uống luôn ba chén rượu, rồi đi thẳng vào trong nhà ngồi nghỉ, và gọi lũ lâu la đến trước thềm, để hòa nhạc khua trống làm vui. Đại Vương hỏi Lưu Thái Công rằng:

– Dám thưa trượng nhân, phu nhân nhà tôi đâu?

– Thưa ngài, cháu nó còn thẹn, chưa dám ra đây nghinh tiếp.

Đại Vương cười nói rằng:

– Đem rượu đây, để ta mời trượng nhân đã.

Nói đoạn tay cầm chén rượu đưa mời Thái Công mà nói:

– Xin phép trượng nhân, để tôi vào chào phu nhân, rồi sẽ ra đây uống rượu.

Bấy giờ trong bụng Thái Công đương chăm chăm mong cho Đại Vương đến mau, để nhà sư khuyên giải hộ, liền tay cầm lấy cây nến, rồi đưa Đại Vương đi qua bức bình phong, thẳng tới phòng cô dâu mới.

Khi tới nơi Thái Công trỏ lối cho Đại Vương vào trong phòng rồi cầm cây nến chạy ngoắt ra ngoài để trốn, chưa biết hay, dở, dữ, lành ra sao?

Đại Vương đẩy cửa phòng đi vào, thì thấy tối mịt như bưng không có đèn đuốc chi cả, liền nói:

– Quái lạ! Sao ông cụ lại không cho thắp đèn đóm, mà để cho phu nhân ta phải ngồi chỗ tối tăm như vậy? Ngày mai ta bảo lâu la mang sang một thùng dầu để thắp mới được.

Khi ấy Lỗ Trí Thâm ngồi yên ở trong màn, nghe nói thì cố bấm bụng nhịn cười mà không dám nói.

Đại Vương sờ lần tới màn rồi hỏi:

– Phu nhân ở đâu, sao không ra đón tiếp ta? Có việc gì mà thẹn, ngày mai đã là một bà phu nhân áp trại rồi.

Đại Vương vừa nói vừa giơ tay vén màn lên, rồi lần mò sờ soạng vào trong giường. Vừa hay cái tay vô tình kia, sờ ngay vào bụng Trí Thâm, Trí Thâm liền nắm lấy khăn và đai, mà giật ngã xuống bên giường, đánh cho một đấm mà mắng rằng:

– Quân ăn cướp này!

Nói xong lại đấm luôn cho mấy đấm nữa vào giữa mang tai, Đại Vương kinh hoảng mà kêu lên rằng:

– Sao lại đánh ông như thế?

Trí Thâm cũng đáp lại rằng:

– Bà làm cho biết tay bà đấy.

Đoạn rồi vật ngã Đại Vương ra bên giường, đánh đã luôn mấy cái nữa, làm cho Đại Vương phải gào to lên, kêu người cầu cứu!

Lưu Thái Công ở ngoài nghe thấy vậy, thì rụng rời sợ hãi, không hiểu nhà sư giảng thuyết ra sao, mà lại có tiếng người kêu cứu như vậy liền hất hơ hất hải đưa đám lâu la cầm đèn đuốc vào xem. Khi vào tới nơi thấy một ông sư phệ bụng cổi trần truồng, đương cưỡi trên bụng Đại Vương, thì ai nấy kinh sợ tức giận mà thét nhau vào cứu Đại Vương.

Trí Thâm thấy bọn lâu la đều vác gậy vác giáo xông vào, thì bỏ Đại Vương đấy, mà vớ lấy thuyền trượng bổ ra để đánh.

Lũ lâu la thấy thế lực nhà sư hung tợn như thế, thì đổ xô nhau chạy không anh nào dám sấn vào nữa. Đại Vương thừa thế được chạy thoát ra ngoài, liền vội vàng ra cổng bẻ một cành liễu, nhảy tót lên mình ngựa toan chạy, ngờ đâu khi đã bước lên mình ngựa, đánh lấy đánh để mấy chục roi, mà ngựa cứ quanh co không chạy được, Đại Vương lấy làm kinh sợ chắc rằng:

– Vận mệnh đến nơi, cho nên ngựa cũng khinh người mà mà không chạy nữa!

Than ôi!

Ví không vướng chút nợ tình

Thời chi đến nỗi dẫn mình chông gai?

Sau Đại Vương xem rõ mới biết là tại cái dây buộc ngựa vẫn chưa cởi ra, cho nên người ngựa không sao chạy được. Đại Vương thấy vậy, mải mốt bứt đứt cả dây ra, mà quất roi cho ngựa chạy tế về sơn trại. Khi đi đường, trong bụng vẫn oán thầm Lưu Thái Công là người phản trắc, nhất định có phen báo lại mới nghe.

Về phần Lưu Thái Công thấy Đại Vương đi rồi, liền bảo Lỗ Trí Thâm rằng:

– Sư phụ làm như thế thì khổ cho nhà tôi lắm!

Trí Thâm cười mà nói rằng:

– Xin cụ tha lỗi cho tôi, để tôi mặc quần rồi xin thưa chuyện.

Thái Công để Lỗ Trí Thâm mặ quần áo xong rồi, kéo đi ra ngoài mà bảo rằng:

– Trước tôi vẫn tưởng rằng: Sư phụ khuyên bảo thế nào, ai ngờ sư phụ lại đánh hắn như thế, tất nhiên hắn về sơn trại mang thêm quân ngựa đến đây, giết hết nhà tôi mất.

Trí Thâm ung dung đáp:

– Cụ ơi! Cụ chớ có ngại, tôi đây chính là Lỗ Đề Hạt ở dinh quan Kinh Lược đất Vị Châu, vì đánh chết người mới phải xuất gia đầu Phật đây. Lũ nó dẫu có tới một hai nghìn binh mã tới đây, tôi cũng không coi vào đâu cả, nếu không tin thì xin nhắc thử cây thuyền trượng kia sẽ biết.

Lũ trang khách nghe nói, anh nào anh ấy, cũng chạy lại nhắc thử cây trượng xem sao, nhưng không ai nhắc nổi, đến lúc Trí Thâm cầm lên tay, thì nhẹ nhõm tựa hồ một cây bấc vậy. Thái Công thấy thế, lấy làm mừng rỡ mà nói rằng:

– Nếu thế thì sư phụ hãy ở đây cứu giúp tôi mới được.

– Cái đó chắc hẳn rồi, khi nào dám bỏ cụ mà đi ngay.

Lưu Thái Công hớn hở vui cười mà rằng:

– Bây giờ tôi xin bảo lấy rượu để sư phụ xơi, nhưng ngài chớ uống say quá chén mà nguy mất.

Trí Thâm nói:

– Cụ không biết tính tôi, tôi uống một phần rượu thì khỏe một phần, chứ uống mười phần rượu lại khỏe thêm lên mười phần, có say bao giờ mà sợ.

– Thế thì còn gì hơn nữa, nhà tôi đây còn rượu thịt, xin sư phụ cứ xơi cho.

Lưu Thái Công nói xong, liền sai người dọn thêm rượu thịt ra, để Trí Thâm đánh chén.

Bên kia Đại Vương phóng ngựa chạy về đến sơn trại, trông thấy Đại Đầu Lĩnh, liền xuống ngựa mà kêu lên rằng:

– Đại Ca ơi! Đại Ca có cứu tôi không?

– Người Đầu Lĩnh trông ra thấy Đại Vương, đầu không khăn, lưng không giải, bơ phờ hoảng hốt như người mất vía liền hỏi:

– Làm sao mà như thế?

Anh kia đem đầu đuôi thuật lại cho nghe, rồi bảo với Đại Đầu Lĩnh rằng:

– Anh phải nghĩ cách làm sao mà cứu cho tôi mới được.

Đại Đầu Lĩnh nghe nói nổi giận mà rằng:

– Nếu vậy anh em cứ nghỉ ở nhà, để tôi đi bắt thằng ấy đến đây mới được.

Nói xong quay ra gọi lâu la, đóng ngựa sắp thương để đi, Đại Đầu Lĩnh nhảy lên mình ngựa, tay cầm ngọn thương thét lâu la trong trại, phải nhất tề đi xuống trang viện, uy thế ầm ầm như bể sôi núi chuyển, ai cũng phải kinh. Bấy giờ Lỗ Trí Thâm đương ngồi đánh chén một mình, bỗng thấy trang khách vào báo rằng:

– Đại Đầu Lĩnh ở núi Hoa Đào hiện đã dẫn các lâu la đến kia.

Trí Thâm nghe báo thì bảo với trang khách rằng:

– Các ngươi cứ im lặng để ta đánh ngã được đứa nào, thì các ngươi trói lại để giải quan lấy tiền thưởng. Các ngươi mang giới đao đây cho ta.

Nói đoạn đứng dậy chống thuyền trượng cắp giới đao ra đi, khi gần tới cổng đã thấy đóm đuốc sáng trưng, một tên Đại Đầu Lĩnh cưỡi ngựa cầm thương ở ngoài quát rằng:

– Đứa nào giỏi nấp ở trong ấy, ra đây quyết trận với ta xem sao?

Trí Thâm cũng hầm hầm giận dữ quát lên rằng:

– Bay chửa biết ta sao? Để ta đánh cho một trận mà xem.

Đoạn rồi múa thuyền trượng xông ra toan đánh. Bỗng Đại Đầu Lĩnh bên kia dừng thương lại mà bảo rằng:

– Hòa thượng hãy khoan tay, nói tên họ cho tôi biết, tôi nghe thấy tiếng hòa thượng quen lắm.

– Ta đây chính là Đề Hạt Lỗ Đạt ở dinh quan Kinh Lược ngày trước đây.

Người kia nghe nói liền cười to lên mà rằng:

– Tưởng là ai té ra Lỗ Đại Ca đó.

Nói xong xuống ngựa vất thương ra, rồi chấp tay lạy chào mà hỏi rằng:

– Chẳng hay lâu nay đại các có khỏe không? Ai ngờ nhị đệ nhà tôi lại chạm phải tay ngài, thực là nực cười quá.

Trí Thâm nghe nói vẫn còn ngờ ngợ chưa tin, liền đứng lui vào mấy bước, rồi nhìn kỹ ra mới biết là tên Đả Hổ Tướng Lý Trung, gặp ở Vị Châu khi trước.

Lý Trung chào Lỗ Trí Thâm xong rồi, liền đến gần mà hỏi rằng:

– Sao quan bác lại xuất gia ăn mặc như thế? Làm cho tôi khó lòng mà nhận được.

Trí Thâm đáp rằng:

– Chuyện tôi còn dài, hãy vào trong này ngồi chơi, rồi tôi sẽ nói.

Nói xong dắt tay Lý Trung vào nhà.

Bấy giờ Lưu Thái Công thấy Lỗ Trí Thâm lại cùng vào một bọn như thế thì trong lòng rất là sợ hãi, không dám thò mặt ra để ứng tiếp. Trí Thâm đưa Lý Trung vào nhà mời ngồi, và gọi Thái Công ra để nói chuyện.

Thái Công sợ hãi lúng túng không dám bước ra, Trí Thâm liền nói:

– Chúng tôi cũng là anh em cả, xin cụ cứ ra chơi, đừng ngại.

Thái Công thấy nói là anh em, thì lại càng sợ hãi, nhưng không ra tiếp đãi thì không được, đành phải rón rén bước ra, mà ngồi hầu tiếp chuyện. Lỗ Trí Thâm ngồi ung dung đem chuyện mình từ khi từ giã Lý Trung, cho tới cái mục đích ngày nay, kể cho hai người nghe, rồi lại hỏi Lý Trung rằng:

– Chẳng hay anh chàng đã gặp tôi lúc nãy là ai, mà sao anh lại ở đây với hắn?

Lý Trung nói:

– Từ ngày tiểu đệ từ biệt Ca ca ở tửu điếm Vị Châu, rồi lại cùng Sử Tiến chia tay mỗi người một nơi; Sau nghe tin Đại Ca đánh chết Trịnh Đồ, tiểu đệ muốn tìm Sử Tiến để bàn kế cứu nhau, song không biết hắn đâu mà tìm được nữa. Kế đến lúc nghe tin quan quân truy nã lạ thường, đệ lại bỏ Vị Châu đi nơi khác. Khi tới qua núi Đào Hoa đây, bị Tiểu Bá Vương Chu Thông, chính là anh chàng lúc nãy, đem người xuống đón đường đánh cướp, đệ liền ra oai đánh cho hắn ta thua một trận; Hắn thấy vậy bèn mời đệ lên sơn trại, mà nhường quyền coi giữ quân lương, bởi thế mà tiểu đệ mới làm chủ trại ở đó.

Trí Thâm cười mà bảo rằng:

– Nếu có phải là anh em ta ở đấy, thì cái việc hôn nhân đây tất phải thôi đi. Ôâng cụ đây chỉ có một người con gái để dưỡng lão về sau, nếu ta ép uổng lứa đôi, thì thân già ấy còn trông cậy vào đâu được?

Lưu Thái Công nghe nói cả mừng, liền sai dọn rượu thiết đãi hai người, và thưởng cho bọn lâu la ăn uống.

Khi ăn uống xong Thái Công mang số tiền ra, để gửi nộp Chu Thông, Trí Thâm bảo với Lý Trung rằng:

– Số tiền bác hãy nhận lấy mà mang về, còn việc hôn nhân là ở tay bác đấy.

Lý Trung nhận món tiền rồi nói:

– Vâng việc ấy không ngại gì, bây giờ hãy đón Đại Ca lên chơi qua trại tôi, và Lưu Thái Công cũng nên lên chơi một thể.

Thái Công vâng lời, sai người mang đao trượng và hành lý cho Lỗ Trí Thâm, rồi hai người đi hai cỗ kiệu, mà theo Lý Trung lên núi. Bấy giờ trời mới sáng, thì ba người đã cùng đến sơn trại, Lý Trung xuống ngựa đón Trí Thâm và Thái Công vào chơi trong dinh, rồi gọi Chu Thông lên nói chuyện.

Chu Thông chạy đến trông thấy nhà sư ở đấy, thì cả giận mà bảo Lý Trung rằng:

– Sao bác không báo thù cho tôi, mà lại mời người ta đến đó?

Lý Trung cười mà hỏi rằng:

– Chú không biết vị hòa thượng này hay sao?

– Nếu tôi có biết, thì không đến nỗi bị đánh.

– Thôi, phàn nàn làm chi. Vị hòa thượng này tức là người đánh ba cẳng tay chết anh Trần Quan Tây Trịnh Đồ mà tôi vẫn nói với chú đấy.

Chu Thông nghe nói xoa đầu xoa óc thở dài một tiếng, chấp tay cúi chào Trí Thâm.

Trí Thâm cũng đáp lễ lại rồi nói rằng:

– Tôi trót lỡ xin ngài thứ tội cho.

Bấy giờ ba bốn người cùng ngồi, rồi Lỗ Trí Thâm bảo với Chu Thông rằng:

– Bác Chu ơi! Việc hôn nhân ở nhà Lưu Thái Công, không nên ép nữa, vì ông ta chỉ có một người con gái dưỡng lão, mà nếu mình ức hiếp lấy ngay thì thực là bất tiện, vậy bất nhược ta lấy lại tiền, mà tìm đám khác thì hơn, bác nghĩ sao?

Chu Thông nói:

– Ngài đã dạy thế, thì tôi xin vâng lời, không dám nghĩ đến nữa.

Trí Thâm nói:

– Đại trượng phu ở đời, đã làm việc gì không nên nói đi nói lại, thế mới hay.

Chu Thông liền bẻ mũi tên để thề, đoạn rồi Lưu Thái Công nộp lại số tiền cưới, mà bái tạ ra về. Lý Trung, Chu Thông sai giết trâu dê làm tiệc, rồi đưa Trí Thâm đi xem phong cảnh trong trại. Non cao cây rậm, hình thế cheo leo, bốn chung quanh toàn là hiểm tuấn, Trí Thâm xem xong lấy làm khen ngợi vô cùng.

Được năm ba hôm, Lỗ Trí Thâm xem chừng bọn Lý Trung, cũng không phải là người khẳng khái, mà tính khí nhiều điều biển lận khó chịu, liền từ giã xin đi. Lý Trung, Chu Thông lưu lại không được liền nói:

– Nếu quan bác không chịu ở đây, thì xin cố lưu đến mai, để chúng tôi đi xoay xem có được chút gì sẽ đưa lại lộ phí.

Sáng hôm sau Lý Trung, Chu Thông đặt rượu tiễn hành, đem các đồ chén ngọc đĩa vàng ra để bày tiệc.Đương khi chén tạc chén thù, thì bỗng có lâu la vào báo:

– Có mấy mươi người đương áp hộ hai cổ xe, đương đi dưới chân núi.

Hai người nghe báo, vội vàng cắt một tên lâu la ở lại để hầu Lỗ Trí Thâm và nói rằng:

– Xin quan bác hãy cứ ngồi uống rượu, để cho chúng tôi đi xuống núi tảo ít lộ phí, để tặng quan bác đã.

Nói xong hò lũ lâu la cùng đi, Lỗ Trí Thâm thấy hai người đi rồi, thì tự nghĩ rằng:

– Hai thằng này láo thực, chúng nó có biết bao nhiêu đồ ngọc ở đây, thế mà còn phải đợi kiếm được của đâu, rồi mới tặng mình, thành ra của thế gian đãi người ngoan thiên hạ, chẳng qua chỉ khổ sở kẻ khác mà thôi. Vậy bất nhược tiện đây, ta hãy làm cho nó một mẻ xem sao?

Nghĩ đoạn gọi tên lâu la đứng hầu, đến gần trước mặt, mà đánh cho một cái ngã lăn queo xuống, rồi lấy giẻ nhét vào mồm, mà trói lại để đó. Đoạn rồi mở khăn gói hành lý ra, bọc các đồ vàng đồ bạc vào gói, đeo thẳng lên vai, rồi lấy đao lấy trượng lẻn ra đi trốn. Khi ra đến sau trại trông thấy thế núi tuy hiểm hóc, nhưng cũng có thể mà nhảy ra được, Trí Thâm liền tháo khăn gói, và đao trượng mà vất xuống trước, rồi cất mình nhảy một cái thật mạnh xuống sau. Nhờ được bãi cỏ ở chân núi cho nên Trí Thâm nhảy xuống không bị đau đớn chi cả, chàng liền mải mốt lại khoác khăn gói cầm đao trượng, mà cút đi cho chóng.

Bấy giờ Lý Trung, Chu Thông dẫn lâu la, xuống đến chân núi thì vừa gặp bọn người áp tải đi đến, anh nào cũng có khí giới trong tay, hai chàng liền múa thương xông tới, bọn kia cũng giơ khí giới lên đỡ, rồi cùng Lý Trung đánh nhau có tới mười mấy hiệp không chịu thua. Chu Thông thấy vậy sốt ruột, thét bọn lâu la hò reo ầm lên, rồi kéo sang để đánh. Bên kia biết thế không địch nổi, bèn bỏ các đồ đạc xe cộ mà chạy tháo lấy thân, song cũng mất đến 7, 8 người thiệt mạng.

Lý Trung, Chu Thông đắc thắng cả mừng, sai các lâu la khuân đem đồ đạc về trại. Hay đâu về đến trại, thì chỉ thấy tên lâu la bị trói nằm cò quăm ở đất, trông trên bàn thì chén ngọc đĩa vàng đều biến đi đâu mất hết, mà Lỗ Trí Thâm cũng chẳng thấy đâu; Hai người đều lấy làm kinh ngạc, cổi trói cho tên lâu la, mà hỏi hết đầu đuôi. Sau biết rõ Trí Thâm đã thâu các đồ bảo vật, mà nhảy đi lối sau trốn đi mất rồi thì Chu Thông lấy làm căm tức, mà bảo với Lý Trung rằng:

– Sơn trại của ta kín đáo như thế, mà lão ta còn nhảy ra được thì gớm thật, bây giờ ta biết làm sao?

Lý Trung nói:

– Chúng ta phải đi đuổi hắn, mà làm cho hắn xấu hổ một phen mới được.

– Thôi không ăn thua, mình đuổi thế nào được nó, mà nếu có đuổi được nó, nhưng nó không trả thì làm sao? Như thế có phải sinh câu chuyện lôi thôi mà khổ đến mình, vậy bất nhược đề cho hắn, dễ làm một chút về sau mà lại hóa hay.

Nói xong đem các đồ vật cướp được, chia ra làm ba phần, Lý Trung, Chu Thông mỗi người một phần, còn một phần thì chia thưởng cho các lâu la. Lý Trung từ chối rằng:

– Vì tôi dắt lão sư lên đây, để đến nỗi thiệt hại mất nhiều, thì cái phần này của tôi, tôi xin nhường bác cả.

Chu Thông nói:

– Tôi với bác đã thề với nhau rằng, cùng sống cùng chết, có khi nào tôi lại nhận phần như thế?

Nói xong chia làm ba phần tử tế, mà cùng nhận bằng nhau.

Mới hay:

Đã thề cốt nhục tử sinh.

Tấm xương tuy trắng chút tình dám sai;

Thế gian mấy mặt làng chơi,

Xưa nay trọng nghĩa khinh tài được bao?

Hỏi ai chung đỉnh ra vào,

Trông gương thiên cổ nghĩ sao bây giờ?

Lời bàn của Thánh Thán:

Trí Thâm nhận thư của Trí Chân Trưởng Lão, nếu cứ đi đường một tháng, sớm tới chùa Đại Tướng Quốc ở Đông Kinh thì ở luôn trong chùa làm một ông hòa thượng, còn chỗ nào thấy cái tài rồng hổ nhảy và nằm? Câu chuyện có gì làm thú; Hồi này chép xẩy chuyện giữa đường, vì sự vào ngủ trọ, chợt vào buồng của tân hôn, không thành một ông thầy chùa nữa, nếu không chuyện vào buồng của một cô dâu, thì tác giả tả làm sao ra tài rồng hổ nhảy và nằm, có đâu những chuyện lý thú? Hỡi ôi! Thi Nại Am một bậc người tài tử chân chính vậy. Trong lòng chân chính tài tử kia, há phải thường tình mà dòm thấy được đâu? Mà hồi này gặp Lý Trung, hồi sau gặp Sử Tiến, đều dùng một lối bút pháp, chia ra chương pháp hai thiên, khiến độc giả thấy hai lối sự tình, hai phần cục diện, bút lực đến thế, không thể nào nói ra cho hết.

Làm một cô gái, là một sự đùa, đã làm đùa hòa thượng tự Ngũ Đài Sơn mà dẫn tới đây, khi đã thành hòa thượng xuống núi, lại làm một cô gái, lại từng phen đóng vai đùa chơi, hỡi ôi! Con gái chẳng phải con gái, Lỗ Đạt không ngờ; đùa với chẳng đùa, Lỗ Đạt đâu ngờ trước được? Hòa thượng chẳng ra hòa thượng, Lỗ Đạt cũng không ngờ, cho đến lên non với xuống non, Lỗ Đạt đều không biết nữa? Chỉ biết rằng: Gặp rượu thì uống, thấy việc thì làm, gặp yếu thì bênh, gặp mạnh (dữ) thì đả, như thế mà thôi, chứ có biết đâu bỗng nhiên làm hòa thượng, bỗng nhiên làm cô dâu, ngày trước bỡn mà lên núi, ngày nay xuống núi, cũng bỡn mà ra.

Lỗ Đạt với Võ Tòng hai chuyện, trong ý tác giả, viết cách nhau để đối với nhau, cho nên chép chuyện, cũng nhiều chỗ giống nhau mục đích, như Lỗ Đạt cứu nhiều cô gái, Võ Tòng giết nhiều cô gái? Lỗ Đạt say rượu phá Kim Cương, Võ Tòng say rượu đánh mãnh hổ; Lỗ Đạt đánh chết Trấn Quan Tây, Võ Tòng đánh chết Tây Môn Khánh; Lỗ Đạt ở chùa Ngõa Quan thử thiền trượng, Võ Tòng ở núi Ngô Công thử giới đao; Lỗ Đạt đánh Chu Thông, vừa say vừa có bổ phận, Võ Tòng đả Tưởng Môn Thần, cũng vừa say vừa có bổn phận; Lỗ Đạt lên núi Đào Hoa, lấy lén tửu khí, nhảy xuống núi đi, Võ Tòng lên lầu Uyên Ương, lấy lén tửu khí nhảy xuống thành đi… đều một mục đích mà làm ra độc giả chẳng phải chẳng biết.

Còn có chi tiêu, phải lấy lén đồ dùng, cần phải trốn đi, phải nhảy liều xuống núi, người đời cho rằng: Đường đường một đấng trượng phu, sao đến nỗi lấy lén của dùng nhảy xuống núi trốn? Xét ra một xử sự này, thì đường đường trượng phu, có ngại gì lấy lén của dùng, và nhảy xuống núi trốn, càng thấy Lỗ Đạt đạt lý khác thường, xem một hồi này, thấy Lỗ Đạt làm hòa thượng, nên rằng từng chỗ nhận ra, như ngồi ở trong trướng cô dâu, và nhảy xuống bãi cỏ ở núi, sáng suốt nhận ra làm một người như thế, thực là kỳ diệu không thể nói hết được ra.

Lỗ Đạt lấy lén tửu khí, rồi trốn luôn đi, tiếp tả luôn những lời của hai người Lý, Chu chia của, đại nhân với tiểu nhân thế nào, dù đàn bà con trẻ xem tới, cũng thấy rõ ra, tác giả tả ra thấy hết thần diệu.

Ở đời đại nhân làm việc đại nhân, tự biết rằng thiên hạ đời sau xét tới; tiểu nhân làm việc tiểu nhân, chỉ cần tự trong mồm khôn khéo nói ra, dù chơi với đồng bói, cũng thò tay mặt đặt tay trái, để giữ lấy phần, xem ở việc Lỗ Đạt lấy lén của, và Lý, Chu chia của, chẳng thấy thú ư?

Hồi 5: Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai – Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa

Lỗ Trí Thâm từ khi bước chân khỏi núi Đào Hoa một mình mải miết đi từ sáng đến trưa có tơi năm sáu mươi dặm đường, trong bụng đã hơi hơi đói, muốn tìm vào một hàng quán ăn cơm, nhưng trông xung quanh không thấy. Chợt đâu nghe có tiếng leng keng gần đó, chàng liền đoán chắc là tất có chùa chiền cung quán chi đây; liền vơ vẫn loanh quanh tìm kiếm, vừa qua một cái sườn núi kia, chợt trông thấy có một khu rừng thông lớn, lại có một con đường núi đi vào. Chàng ta theo con đường núi ấy, được chừng nửa dặm, ngẩng trông lên thì thấy có một cái toà chùa cũ kỹ tồi tàn, bị gió thổi rung rinh ở đó. Lại gần tới cổng, có treo một bức biển sơn son thiếp vàng đề ba chữ “Chùa Ngõa Quan”, đã mờ cũ rích. Chàng lại đi mươi bước nữa, qua một cái cầu đá con vào đến cửa Tam Quan, thì thấy cánh cửa không có, mà vắng ngắt vắng tanh không ai cả. Chàng lấy làm ngạc nhiên, “một chùa lớn mà sao bỏ tồi tàn như thế? “Liền lững thững đi vào phương trượng thì thấy ngổn ngang bẩn thỉu, toàn là cứt chim, mà khóa cửa thì chăng toàn tơ nhện.

Bấy giờ Trí Thâm lấy thiền trượng đập xuống đất mà kêu lên rằng:

– Có ai trong ấy cho sư tôi vào trọ.

Chàng kêu đến mấy tiếng đồng hồ, cũng không thấy ai thưa, bèn lững thững đi mãi cho vào đến bếp. Vào thấy nồi niêu không có, đầu rau đầu lóc cũng không, vắng ngắt như chùa Bà Đanh vậy. Trí Thâm bèn cởi khăn gói ra để xuống trước mặt bàn thờ Giám Trai Sứ Giả, rồi xách cây trượng đi lùng khắp cả mọi nơi.

Khi đến đằng sau chùa, thấy một gian nhà cỏ, có mấy vị sư già đương ngồi, trông mặt người nào người ấy vàng vọt xanh xao, bất thành hình thể. Trí Thâm liền quát lên rằng:

– Các sư ở đây vô lý quá, tôi gọi mãi sao không ai thèm trả lời cả?

Lũ sư ấy tay vẫy mà bảo rằng:

– Chớ nói to.

Trí Thâm nói:

– Tôi là sư nhà chùa ở xa đến đây, có việc gì mà sợ?

– Chúng tôi ba hôm nay không có hạt cơm nào vào bụng, còn lấy đâu mà đãi người.

– Tôi ở tận Ngũ Đài Sơn sang đây, nếu có cháo lão gì, cho tôi một bát cho đỡ đói vậy.

– Người qua đến đây, lẽ ra chúng tôi phải thiết cơm là phải, người ngặt vì trong chùa chúng tôi các sư bỏ đi mất cả, không còn có một hột lương nào, cho nên chúng tôi cũng phải nhịn đói đến ba hôm rồi đấy.

– Các sư nói lạ? Một cảnh chùa to thế này, mà lại không có lương thực hay sao?

– Đây vẫn đã đành không phải một cảnh tầm thường, nhưng mới đây bị một ông hòa thượng, dẫn một người đạo nhân đến phá hoại mất cả, rồi đuổi những chúng tăng đi, duy còn mấy chúng tôi già yếu, cho nên chịu nằm chết đói ở đây mà thôi.

– Không có lẽ một ông sư với một đạo nhân, thì làm sao được? Sao các sư lại không lên quan mà tố cáo tội họ?

– Người không rõ, ở đây xa phủ xa huyện, quan quân cũng không cấm nổi họ, cho nên chỉ đánh giết ức người ta, hiện bây giờ đương ở đằng sau phương trượng đó.

– Tên tuổi họ là gì?

Ông sư đó tên là Thôi Đạo Thành, pháp hiệu Sinh Thiết Phật, còn đạo nhân tên là Khưu Tiểu Ất, hiệu là Phi Thiên Đích Thoa, hai người ấy chẳng qua là mượn tiếng nhà chùa, che mắt thế gian để cướp bóc thế thôi.

Trí Thâm đương nghe chuyện, thì thấy có mùi thơm thoang thoảng liền vác trượng đi đến lối sau, chợt thấy trên bếp có cái nồi đậy lá, hơi nước bốc lên ngùn ngụt, bèn mải mốt cất lên để xem, thì té ra cháo đương hầm ở đó. Trí Thâm cả giận mắng rằng:

– Các sư tệ quá, vừa rồi nói rằng: Ba hôm nay không được ăn, sao mà nồi cháo ở đó? Người tu hành mà dám ăn không nói có như thế sao?

Lũ sư thấy vậy thì luống cuống kêu cứu, rồi vội vàng vác bát vác thùng đến mà cướp cháo đi.Trí Thâm không biết làm sao được, nhìn quanh nhìn quẩn thấy một cái chậu vỡ bỏ ở bên cạnh bếp, liền chạy vào nhặt nắm lá lau sạch cái chậu rồi bưng nồi cháo mà trút tuộc cả vào đấy. Các sư kia chạy đến tranh múc, thì bị Trí Thâm đá lộn cả ra ngoài, rồi vừa bưng chậu cháo lên, vừa hút sùm sụp. (soàn soạt).

Lũ sư thấy vậy phàn nàn rằng:

– Nhịn đói ba ngày trời, nay mới kiếm được mấy hột gạo nấu cháo, mà người ta lại ăn cả như thế, thì thực khổ cho chúng tôi.

Trí Thâm vừa húp được mấy húp, nghe thấy các sư phàn nàn như thế, liền đặt xuống mà không ăn nữa.

Chợt ở phía ngoài có tiếng hát nghêu ngao, Trí Thâm bèn lau tay sạch sẽ, cầm lấy cây trượng, chạy xoăn xoăn ra chỗ tường thủng để nom, thì thấy một đạo nhân gánh một cái gánh, một bên có cái rổ thò con cá ra ngoài và có gói thịt để ở trên, còn một bên là bình rượu đậy cái lá sen cẩn thận. Đạo nhân vai thì gánh, miệng thì lên bổng xuống trầm, vừa đi vừa hát rằng:

“Đấy đông, đây ở bên tây,

Đấy thì không vợ, đây nay không chồng.

Con trai không vợ đã xong

Con gái không chồng buồn lắm em ơi!”

Bấy giờ lão sư cũng ở trong đổ xô ra, lấy tay trỏ mà bảo Trí Thâm rằng:

– Người đạo nhân ấy chính là Phi Thiên Đích Thoa đó.

Trí Thâm nghe nói liền vác gậy chạy theo sau đạo nhân, đạo nhân không biết, cứ xăm xăm đi vào tường phía sau phương trượng, Trí Thâm lẻn vào thì có một cái bàn, kê dưới gốc cây hòe, trên bàn mấy món đồ ăn, ba cái chén ba đôi đũa, một vị hòa thượng to béo ngồi ở giữa, một người con gái trẻ ngồi bên, còn một bên thì đạo nhân, đặt gánh rồi ngồi ở đó. Khi ấy hòa thượng trông ra thấy Lỗ Trí Thâm, giật mình đứng dậy nói rằng:

– Xin mời sư huynh ngồi chơi một thể uống rượu cho vui.

Trí Thâm giở thuyền trượng ra, mà bảo nhà sư kia rằng:

– Sao nhà ngươi lại dám phá hoại chùa chiền đây như thế?

– Xin sư huynh đây hãy bớt giận, ngồi chơi tiểu tăng kể chuyện người nghe.

Trí Thâm trợn mắt hỏi:

– Chuyện sao, ngươi nói mau?

– Nguyên trước chùa đây vẫn là sang trọng, mà ruộng đất cũng nhiều, sau chẳng may bị lũ sư già, đương ngồi dưới chùa kia, chỉ uống rượu nuôi gái, sư cụ cấm họ không nổi, rồi họ tức mình đuổi cả sư cụ đi. Bởi thế chư tăng bỏ đi mất cả, còn chùa chiền ngày một tan hoang, ruộng đất cũng không còn nữa, hiện nay tiểu tăng cùng đạo nhân này đến đây, là cốt mong để sửa lại đó mà thôi.

– Vậy thì người đàn bà này là thế nào? Mà lại uống rượu ở đây?

– Thưa sư huynh người đàn bà này là con gái ông Vương Kim Hữu ở làng gần đây, nguyên trước ông ta bố thí vào chùa rất nhiều, nay chẳng may nhà cửa sa sút, mà chồng nàng lại bị đau ốm, cho nên nàng phải chạy sang đây vay gao. Vì thế chúng tôi cũng nghĩ đến công đức ngày xưa, mà mời xơi chén rượu, chứ không có điều chi khác cả, xin sư huynh đừng có nghe lũ súc sinh kia, họ thêm đặt nói càn dở lắm.

Trí Thâm thấy nhà sư nói năng ra vẻ thực thà, cẩn thận thì cũng hơi có lý, thì lại xăm xăm vác gậy mà quay sang lối nhà bếp, để đi tìm lũ sư già.

Bấy giờ lũ sư già vừa mới ăn cháo xong còn ngồi ở đó, Trí Thâm hằm hằm đi đến trỏ vào mặt mà nói rằng:

– Té ra chính lũ các anh phá hoại chùa này, thế mà các anh còn nói dối ta đó.

Lũ sư già cả kinh nói rằng:

– Chết nỗi! Sư huynh chớ nghe lão sư ấy, chính lão ta đương nuôi người con gái ở trong chùa ấy. Vừa rồi sư huynh đến nơi mà họ không dám làm gì, là vì họ trông thấy khẩu giới đao, và cây thuyền trượng, mà trong tay họ không sẵn khí giới đấy thôi, không tin sư huynh thử đến lần nữa xem sao? Vả chăng bọn họ còn có thật thà chè chén như thế, chứ chúng tôi đây cháo cũng không có mà ăn, còn lấy đâu mà phung phí.

Trí Thâm nghe nói, cho là bọn này nói phải, liền mải mốt vác trượng đến chỗ cũ xem sao? Quả nhiên khi tới nơi thì cửa đã đóng chặt, không sao mà mở ra được.Trí Thâm cả giận lấy chân người đạp một cái, tung hẳn cửa ra rồi bước thẳng vào.

Bấy giờ Sinh Thiết Phật Thôi Đạo Thành, thấy Trí Thâm vào, liền chống thanh đao từ dưới gốc cây hòe hiện ra để chống cự.

Trí Thâm thét lên một tiếng rất to giơ trượng lên đánh, đôi bên địch nhau có tới 14, 15 hiệp, bên kia Thôi Đạo Thành biết thế không thể địch nổi, chỉ che đỡ quanh co thừa cơ chạy thoát, Khưu Đạo Nhân thấy vậy, liền vác đao xông ra đằng sau Trí Thâm để đánh.

Trí Thâm nghe có tiếng người chạy ra đằng sau, liền quay lại nom thấy Đạo Nhân thì quát lên ” Được ” rồi lại múa gậy đánh nhau với cả hai người, có tới 10 hiệp nữa.

Bấy giờ Lỗ Trí Thâm vừa phần trong bụng đương đói, vừa phần đường sá mệt nhọc, lại vừa phần đối địch với hai người đương sức, thì khó lòng mà thắng được, liền thừa cơ quay trượng đỡ lui trở ra.

Hai người kia vác đao đuổi đến cổng ngoài, Trí Thâm quay lại đánh nhau mấy hiệp nữa, rồi chạy, hai tên kia lại đuổi mãi đến Cầu Đá mới thôi. Trí Thâm chạy được quãng xa, thì tinh thần đã hơi yên định, thì chợt nghĩ đến cái khăn gói còn để ở chỗ bàn thờ Giám Trai Sứ Giả, nếu không lấy được, thì tất là nguy hiểm đến nơi, mà nếu trở lại thì khó lòng mà sống thoát được, với hai tay ấy.

Chàng vừa nghĩ vừa đi lững thững qua mấy dặm đường, đến một khu rừng lớn, trông rất rậm rạp gớm ghê, liền đứng dừng lại để xem. Chợt trông thấy có người nom dòm, ở trong rừng mà khạc ra một tiếng to, rồi lại đi ngoặt trở vào; Trí Thâm thấy vậy, liền tự nghĩ một mình rằng:

– Thằng cha này có lẽ nó nấp nom để cướp bóc ở đây, nhưng nom thấy ta là nhà sư thì chả ăn thua gì, cho nên khạc nhổ đây hẳn? A được! Ta đương bực xả trong mình, nó gặp ta thì hay lắm, để ta vào thử xem sao?

Nghĩ xong vung cây trượng đi thẳng vào trong rừng, quát to lên mà hỏi rằng:

– Thằng nào ở trong rừng ấy ra đây!

Anh chàng nọ ở trong rừng nghe thấy tiếng hỏi, thì cả cười mà bảo rằng:

– Ta đã im tiếng, thế mà nó lại còn tìm đến ta à? Được lắm!

Nói xong vác đao sồng sộc đi ra, rồi cũng quát lên rằng:

– Thằng kia! Mầy tất chết, tự nhiên vô cớ thế, mà mầy tìm đến tao, chứ tao không tìm đến mầy nhé!

Trí Thâm nge nói liền vác trượng xông vào đánh, mà nói rằng:

– Rồi mầy sẽ biết tay tao.

Bên kia cũng đưa đao ra đỡ, song lại hơi có ý rụt rè mà bảo rằng:

– Tôi nghe tiếng nhà sư quen lắm, không biết rằng tên họ là chi?

Trí Thâm cáu lên mà nói rằng:

– Ta hãy đấu với ngươi 300 hiệp đã, rồi hãy nói tên.

Anh kia cũng phát giận, múa đao đánh luôn không nể, đôi bên đánh nhau độ 10 hiệp, thì anh kia kêu lên rằng:

– Hãy khoan, tôi nói câu này đã.

Nói xong hai người cùng nhảy xa nhau, rồi anh chàng kia lại hỏi:

– Anh tên họ là gì, tôi nghe tiếng quen lắm, anh hãy nói cho nghe.

Bấy giờ Trí Thâm kể đến tên họ cho anh kia nghe, anh kia liền vất đao xuống đất vái chào mà nói rằng:

– Quan bác có nhận được Sử Tiến đây không?

Trí Thâm nghe nói cả cười mà bảo rằng:

– Tưởng là ai; té ra Sử Đại Lang đấy à?

Đoạn rồi vái chào Sử Tiến, và hai người cùng dắt vào rừng mà nói chuyện.

Trí Thâm hỏi:

– Từ khi ở Vị Châu tương biệt, rồi quan bác đi đâu thế?

Sử Tiến đáp:

– Hôm đó từ biệt với ngài, rồi nghe nói hôm sau ngài đánh chết Trịnh Đồ, mà đảng công sai lại dò hỏi có tình nghi cho tôi, vậy phải bỏ đất Vị Châu mà sang Diên An Phủ. Bất đồ đi tới Diên An không gặp sư phụ tôi ở đó, lại đành phải sang Bắc Kinh, ở được ít lâu, thì tiền lương cạn hết, nên phải đến đây kiếm lợi. Còn về chuyện quan bác thì sao?

Trí Thâm liền kể đầu đuôi chuyện mình, nói cặn kẽ cho Sử Tiến nghe.

Sử Tiến nghe nói biết rằng Trí Thâm hiện chưa có cơm ăn, liền đem thịt khô bánh nướng đưa cho Trí Thâm ăn mà bảo rằng:

– Ăn xong ta sẽ vào chùa mà lấy khăn gói về, bằng lũ kia có ngăn trở thì ta kết quả ngay cho nó một lượt là xong.

Trí Thâm gật gù khen phải, liền cùng ngồi ăn bánh với Sử Tiến. Khi ăn uống xong, hai người đều mang theo khí giới đi thẳng đến chùa Ngõa Quan. Vừa tới chỗ cầu Đá, đã thấy Thôi Hòa Thượng và Khưu Đạo Nhân còn ngồi ở đó. Trí Thâm liền quát lên rằng:

– Chúng bây đến đây, bây giờ ta quyết sống mái với chúng bây một phen.

Thôi Hòa Thượng nghe nói thì cười mà đáp rằng:

– Ngươi chính là đứa bại tướng trong tay ta, thế mà dám về đây nữa à?

Nói vừa dứt lời, thì Trí Thâm đã múa trượng xông lên cầu đẻ đánh, bên kia hòa thượng cũng chạy xuống múa đao để đỡ. Bấy giờ Trí Thâm vừa phần có Sử Tiến đi đón, lại vừa phần bụng đã hơi no, cho nên tinh thần khí lực hăng hái hơn trước, anh kia không thể nào địch nổi được nữa.

Đánh nhau độ 8, 9 hiệp, Thôi Hòa Thượng nghe thế hơi núng, toan giật lùi để kiếm đường mà tháo. Bấy giờ Khưu Đạo Nhân thấy vậy liền múa đao ra đánh cứu Thôi Hòa Thượng, bất đồ bên này Sử Tiến đương đứng nấp ở gốc cây, nhảy bổ ra thét lên rằng:

– Đánh chết hai thằng này đi.

Nói xong múa đao đến đanh Khưu Đạo Nhân, Trí Thâm được Sử Tiến ra giúp, gắng sức thét lên một tiếng, rồi vung tay đánh cho Thôi Hòa Thượng một thuyền trượng ngã lăn xuống cầu. Khưu Đạo Nhân thấy hòa thượng bị ngã, thì trong bụng hơi núng, không có ý ham đánh, liền thừa cơ toan nhảy ra để chạy, bất đồ bị Sử Tiến thét lên, đâm một nhát vào lưng ngã lăn xuống đất. Đằng kia Trí Thâm thấy hòa thượng bị ngã lăn xuống cầu, thì mải mốt chạy theo, đánh xuống cho mấy gậy nữa, chết cứng ra đấy mới thôi.

Mới hay:

Những quân tàn ác trên đời,

Mình làm mình chịu tội trời ai mang?

Gươm hùng còn vết sáng choang,

Nghìn thu khiến kẻ vô lương kinh hồn!

Bấy giờ Trí Thâm cùng Sử Tiến trói hai cái xác vô lương kia vất xuống khe núi, rồi hai người cùng đi vào chùa, thẳng xuống dưới bếp lấy tay nải, khoác lên vai mà quảy ra đi, tìm vào chỗ gốc cây hòe trước.

Khi vào tới nơi thì người đàn bà lúc nãy đã đâm đầu xuống giếng tự tử. Đoạn hai người đi lần vào tới một chỗ 7, 8 gian nhà bỏ không vắng vẻ, thì chỉ thấy mấy đống xống áo vất lung tung ra ờ giường. Sử Tiến giở gói ra xem, thấy toàn thị áo xiêm vàng bạc ở trong, bèn chọn lấy một gói cẩn thận, rồi quay vào gian bếp ở đây, lục lấy cá thịt và mọi thứ đem ra nấu nướng ăn uống với nhau.

Ăn uống xong rồi, hai người đem lửa ra đốt cháy chùa Ngõa Quan, làm sáng rực góc trời, vì sơn tự tồi tàn, bị những ác tăng lui tới làm bậy, nên đốt bỏ không tiếc, rồi hai người kéo nhau ra ngoài, mỗi người một gói, khoác lên vai, đi khỏi sơn tự.

Đêm khuya nước thẳm non sâu,

Thanh gươm cây trượng biết đâu là nhà?

Hai người lần mò suốt đêm hôm ấy, mãi tới lúc trời tảng sáng mới đến một nơi xóm làng kia, liền tìm vào một tửu điếm ở bên cầu để trọ, khi vào tửu điếm liền sai tửu bảo đem rượu thịt lên, hai người ngồi đánh chén nói chuyện với nhau.

Ăn uống xong rồi, Trí Thâm hỏi Sử Tiến:

– Bác định đi đâu bây giờ?

– Tôi bây giờ có lẽ lại phải về Thiếu Hoa Sơn ở với đám Chu Vũ, Dương Xuân ít bữa, rồi thế nào sẽ liệu về sau.

Trí Thâm nghe nói, liền mở khăn gói, lấy ít đồ vàng bạc đưa thêm cho Sử Tiến, rồi trả tiền hàng mà cùng nhau ra đi. Ước chừng dăm bảy dăm đường, mới tới một nơi ngã ba gần đó, Trí Thâm đứng dừng lại bảo Sử Tiến rằng:

– Đến đây là nơi chia bước, tôi sang Đông Kinh lối này, mà bác về Thiếu Hoa Sơn lối ấy, vậy sau đây nếu có cơ hội gì, ta sẽ thông tin cho nhau cùng biết.

Sử Tiến liền bái biệt Trí Thâm, rồi mỗi người chia tay một ngả.

Cho hay là kiếp giang hồ,

Nay tan mai hợp hẹn hò biết đâu?

Từ khi Lỗ Trí Thâm chia tay cùng Sử Tiến, rồi đi 7, 8 ngày đường nữa mới tới Đông Kinh, liền hỏi thăm vào chùa Đại Tướng Quốc, để đưa thư lên yết kiến sư cụ.

Khi vào tới chùa, Tri Khách Tăng, trông thấy Trí Thâm mặt mũi hung tợn, vác một cây thuyền trượng bằng sắt, đeo một thanh giới đao, khoác một khăn gói rất lớn, trong bụng đã gờm gờm kinh sợ liền hỏi:

– Sư huynh ở đâu tới đây?

Trí Thâm đặt khăn gói thuyền trượng xuống, rồi vái chào mà nói rằng:

– Tôi ở Ngũ Đài Sơn có giấy của sư cụ Trí Chân tôi gửi sang, để xin việc sư cụ ở đây!

– Nếu có giấy của sư cụ Trí Chân, thì xin mời sư huynh vào trong phương trượng.

Nói đoạn dẫn Trí Thâm vào phương trượng.

Tới nơi Trí Thâm cổi khăn gói lấy bức thơ ra cầm ở tay để đợi sư cụ đến. Tri Khách Tăng thấy vậy, bảo Trí Thâm rằng:

– Bây giờ sư cụ đã sắp đến, sao sư huynh không cởi bỏ giới đao ra, mà cầm hương ở tay cho có phép.

Trí Thâm nghe nói mới mải mốt cởi giới đao ra, để vào một chỗ lấy hương ra đốt cầm ở tay mà đứng đợi. Khi sư cụ Trí Thanh đến phương trượng, Tri Khách Tăng liền đưa Trí Thâm đến trước mặt bảo quỳ xuống mà đưa thư lên. Sư cụ cầm lấy thư, bốc ra xem thấy trong thư kể đầu đuôi công việc Lỗ Trí Thâm, và xin thế nào cũng cho một việc làm ở trong chùa đó.

Sư cụ Trí Thanh xem thư xong, quay ra bảo Trí Thâm rằng:

– Nhà sư hãy ra nghĩ ờ tăng đường ăn cơm nước đã.

Trí Thâm nghe nói lạy tạ sư cụ, rồi vác khăn gói và giới đao, thuyền trượng, theo đạo đồng đi ra tăng đường.

Bấy giờ sư cụ Trí Thanh cho gọi chư tăng, đến tất cả phương trượng mà đem tình ý trong thư, và nguyên ủy chuyện Trí Thâm, thuật kỹ cho chư tăng nghe và nói:

– Việc này nếu ta không nhận, tất là không tiện với sư huynh Trí Chân, mà nếu nhận ra thì làm sao cho ổn? Trong thư sư huynh kể hết lỗi của Trí Thâm, khi còn ở Kinh Lược thì giết người như ngóe, đến khi xuất gia tu hành, thì lại say sưa rượu chè, mấy phen náo động chúng tăng, nhưng lại dặn đi dặn lại nhờ ta thế nào cũng phải thu nạp mới xong, vậy thì các ngươi định sao?

Tri Khách Tăng nói:

– Cứ như con xem dáng anh ấy, không có chút gì ra vẻ tu hành hết thẩy, như vậy thì chùa ta dung làm sao được?

Đô Tự lại nói:

– Chúng con thiết nghĩ: Hiện nay ở nhà Giải Vũ ngoài cửa Toan Tảo, có một khu vườn rau của nhà chùa, xưa nay thường bị đám quân lính ở trong dinh, cùng hai mươi mấy đứa vô loại ở đây quấy nhiễu đuổi dê ngựa ra phá hoại cũng nhiều, nhà sư già ở đây khó lòng mà giữ nổi. Vậy bất nhược sư cụ sai người này đến ở đấy, thì có lẽ được việc chăng?

Sư cụ Trí Thanh khen phải, liền cho người xuống tăng đường, triệu Trí Thâm lên. Khi Trí Thâm cơm nước vừa xong, thì đã thấy đạo đồng đến gọi, liền mải mốt lên hầu sư cụ.

Lên tới phương trượng, sư cụ gọi Trí Thâm đến mà bảo rằng:

– Ta vâng lời sư huynh bên ấy giới thiệu, cho ngươi sang đây để làm việc, vậy hiện nay chùa ta có một vườn rau lớn ở bên kia nhạc miếu ngoài cửa thành, ta cho ngươi ra đấy coi giữ, cứ mỗi ngày bắt đám trồng vườn, phải nộp vào đây mười gánh rau, bao nhiêu thì để cho ngươi chi dụng, ngươi nghĩ sao?

Trí Thâm nói:

– Sư cụ cho tôi sang đây, sao người không cho tôi một chức Đô Thủ, Giám Tự gì, mà lại bắt tôi làm đứa coi vườn như thế?

Bấy giờ một vị sư đứng bên cạnh đỡ lời sư cụ rằng:

– Sư huynh không biết! Sư huynh mới đến đây chưa có công lao gì, đã làm chức Giám Tự, Đô Thủ sao được?

– Đành vậy, nhưng tôi không muốn làm anh coi vườn, dẫu chót nữa cũng làm chức Đô Thủ, Giám Tự thì mới thích.

– Sư huynh ở đó một năm có khá, thì mới được thăng làm chức Tháp Đầu, rồi một năm nữa có khá, mới thăng Dục Thủ, lại một năm nữa có khá mới thăng làm Giám Thị.

Trí Thâm gật đầu nói:

– Nếu quả có ngày xuất thân được, thì tôi cũng chịu khó làm vậy.

Sư cụ thấy Lỗ Trí Thâm đã ưng thuận liền lưu ở phương trượng, rồi sai người viết bảng yết thị ra ngoài Giải Vũ để hôm sau bàn giao công việc.

Sáng hôm sau sư cụ viết thiếp pháp giao cho Lỗ Trí Thâm rồi sai hai nhà sư, đưa ra vườn sau ngoài Giải Vũ gần nơi cửa thành.

Về phía bên tả vườn rau có 2, 3 tên du đãng cờ bạc, vẫn lẫn khuất loanh quanh để ăn cắp rau mà nuôi thân, chợt hôm ấy sang ăn cắp rau, trông thấy bảng yết thị: “Trong chùa Tướng Quốc sẽ cắt vị sư mới là Lỗ Trí Thâm ra trụ trì coi giữ, bắt đầu từ ngày mai trở đi, cấm không ai được ra vào đấy nữa”. Liền tụ nhau lại mà bàn định rằng:

– Lão sư này mới đến, tất phải làm cho nó một trận rất kịch liệt, hễ thò ra là phải đánh ngay, để cho nó phục chúng ta mới được.

Trong bọn đó có anh nói rằng:

– Tôi có một cách này rất dịu, hắn mới đến đây, không lẽ nào mà kéo hắn ra đánh ngay được, vậy chúng ta cứ lặng yên tử tế, dụ hắn ra cạnh thùng phân, giả cách chào lạy tử tế, rồi chạy đến nắm cẳng dúng xuống thùng phân, thế là nhanh nhẹn nhất.

Trong đảng nghe nói đều vỗ tay cho là phải, liền dự bị với nhau, để đợi khi Lỗ Trí Thâm tới.

Khi Trí Thâm ra đến Giải Vũ, mang đồ hành lý và đao trượng cất vào một phòng, rồi các người làm vườn đều đến chào hỏi, mà giao các chìa khóa và các đồ vật cho Trí Thâm nhận lấy. Đoạn rồi hai vị sư đưa đường cho Trí Thâm, cùng các vị sư trụ trì ở đấy trước, đều từ giã đi về mà lưu Trí Thâm ở lại.

Bấy giờ một mình Trí Thâm đi lững thững ra vườn dạo nom phong cảnh, chợt có 2, 3 mươi người, kẻ cầm rượu người cầm rau, tươi cười hớn hở mà nói với Trí Thâm rằng:

– Chúng tôi ở gần xóm đây, nghe tin người mới tu hành ở cảnh chùa vậy anh em rủ nhau đến chào mừng sư phụ.

Trí Thâm nghe nói, không biết là kế thuật gì, liền bảo rằng:

– Các anh có lòng tốt đến chào, thì xin mời vào trong Giải Vũ nói chuyện.

Khi đó hai tên đầu đảng đám kia, là Nhai Lão Thử Trương Tam, và Thanh Thảo Sà Lý Tứ đứng gần chỗ thùng phân, sụp xuống đất lạy, và mong cho Lỗ Trí Thâm đến đỡ dậy, là thi hành cách kia.

Lỗ Trí Thâm thấy vậy, trong lòng hơi ngờ mà nghĩ thầm rằng:

– Quân này lạ? Nó chào ta mà không đến gần ta, chẳng hay nó muốn vuốt râu hùm đây chăng? Nếu vậy thì ta thử đến xem sao, rồi sẽ liệu cho một mẻ, để nó biết tay mới được.

Nghĩ đoạn liền xăm xăm đi đến chỗ gần thùng phân. Bấy giờ Trương Tam, Lý Tứ cả mừng nói rằng:

– Anh em chúnh tôi lại mừng sư phụ xin sư phụ chứng giám cho.

Hai anh vừa nói vừa sán gần vào, anh thì bá chân bên nọ, anh thì bá tay bên kia, toan vật nhau xuống hố. Bất đồ hai anh chưa kịp giở chân tay đã bị Trí Thâm đá một cái, Lý Tứ ngã xuống thùng phân trước, còn Trương Tam co cẳng toan chạy, cũng bị Trí Thâm đá một cái nữa xuống sau, đầy sùng sục ở trong thùng phân như bọ vậy.

Lũ kia trông thấy vậy, đều sợ hết hồn toan kéo nhau để chạy, Trí Thâm quát lên rằng:

– Hễ đứa nào chạy là ta ném cả xuống thùng phân.

Bọn kia nghe thấy thế đều đứng im, không dám cựa quậy chi nữa.

Tấm thân trải mấy ba đào

Những phường ruồi nhặng ra vào sá chi?

Mấy phen sấm sét ra uy,

Chờ cho biết mặt Từ Bi mới là,

Rồi đây muôn dặm một nhà,

Tao phùng còn lắm phồn hoa còn nhiều

Cửa thiền gió thổi thông reo

Tòa sen ai có đợi chiều ai không!

Lời bàn của Thánh Thán:

Tôi nói trước tả hai hồi này, không muốn cho liên tiếp ở đám bụi rừng, nhân biến ảo ra chuyện trong phòng cô dâu, để cách quãng ra vậy. Tác giả e ngại rằng tả hai hồi xẩy chuyện liên tiếp ở trong rừng, thì phải có một hồi với nhiều đoạn văn chẳng ở trong rừng, để cách quãng ra, đó là cái tài của tài tử viết ra văn vậy? Nếu cứ tả hai hồi liên tiếp chuyện xẩy ra lại không một hồi ở quãng giữa khác đi, thì đâu phải cái tài của tài tử? Xét một hồi này thấy tài bút pháp của tác giả Thi Nại Am trước sau đều tả chuyện xẩy trong rừng, lại khéo lánh đi, không để phạm đến nhau có xem kỹ mới biết là khéo vậy.

Ta đọc một thiên tả chùa Ngõa Quan, khôn xiết ngán ngao mà thán phục! Hỡi ôi! Việc của thế gian, cũng như thế ư? Nại Am bỗng dưng tả ra chùa Ngõa Quan, khiến độc giả ngàn sau đọc đến, ai không biết đến Ngõa Quan; Nại Am lại bỗng dưng tả đốt chùa Ngõa Quan, khiến độc giả ngàn sau đọc đến, ai không biết đến cảnh thiêu chùa Ngõa Quan? ? ? Thế mà một hồi không bao nhiêu trang giấy, vì đâu có chuyện Ngõa Quan, lại vì đâu hết chuyện Ngõa Quan chỉ trong phút chốc mấy đời cũng trong tấn kịch đó ư! Lại như cầm sách này để ở trên bàn, ngồi ghế mà đọc, chỗ ngồi xem truyện với chỗ để truyện, có cách bao xa khi xem thế bỗng dưng thấy chuyện Ngõa Quan tráo trở đến như không, thì non sông cũng trong giấc mộng đó ư! Hỡi ôi! Đem sách của họ Đại Hùng vậy phàm nhân đọc thì bảo rằng câu “Hương phong lăng hoa”,khá đem vào thi liệu; Đem sách Bắc Tây Sương, cho thánh nhân xem, thì bảo rằng khúc “Lâm Khứ Thu Ba”,tỉnh ngộ trùng huyền…Hỡi ơi! Bậc hiền với kẻ ngu, dụng ý khác nhau, trong khi xem sách đã phân biệt như thế, thì sách của Thi Nại Am, cũng tùy người mà đọc nổi vậy.

Suốt thiên này chỉ tả bước hành trình của Lỗ Đạt, mà đột nhiên thấy Sử Tiến ở đâu bay lại, rồi đột nhiên Sử Tiến lại bay đi, chẳng phải Lỗ Đạt sức làm không nổi, phải nhờ đến sức Đại Lang, chỉ vì trước kia ở Cao Lâu Châu Vị, ba người chia tay, mãi đến nay đều không biết đi đâu hết cả, vừa rồi tuy ở núi Đào Hoa, gặp được Lý Trung, song Lý Trung với Đại Lang còn kẻ trọng với người khinh, nào phải cách nhau gang tất, thì Lý Trung đã được gặp rồi, còn Đại Lang ở góc trời kia, đối với nước Tống mênh mông, tìm đâu cho thấy ra ngay? Huống chi qua đây một lượt tới Đông Kinh, lại có một chuyện của Báo Tử Đầu Lâm Xung xẩy tới nữa, nên tác giả hồi này, khéo điểm xuyết thêm, chứ không rỗi bút rỗi lòng, cùng tả hết lượt, mà bất đắc dĩ cho hiện ra ở chùa Ngõa Quan một chút. Hỡi ôi! Ai bảo rằng viết sử dễ dàng, như tả 108 vị anh hùng chuyện này, lần lượt diễn ra thấy khó!

Trí Chân Trưởng Giả nói: Dù hắn có phá tới tòa Tam Bảo, lão tăng cũng phải thôi đi…Hay thay! Đại Đức! Thực đáng gọi là sáng suốt đến tướng phúc tội, soi thấu mười phương, khác hẳn Trí Thanh Trưởng Lão, thì nói rằng: Nếu để hao thiệt vườn rau thì không thể được…Hỡi ôi! Lấy vườn rau làm của chùa, lấy chúng sinh làm oan gia, con người như thế cũng đòi làm sư trong đám tu hành, thì cũng quái thực? Xét tòa Phật Tam Bảo đối với vườn rau, thì cách nhau xa quá, Tam Bảo Phật cũng thôi đi, thì đủ biết cái gì mà chẳng bỏ được? Nay vườn rau cố giữ, thì Trí Thanh Trưởng Lão còn dám đi đâu một mẩy lông? Tác giả dụng ý ở hồi này vậy, với hai việc Ngũ Đài Sơn và Tướng Quốc Tự cho hiện ra một Pháp sư thanh lương và một quang côn náo nhiệt, cách nhau một vực một trời.

Hồi 6: Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy dương – Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ

Bấy giờ Trương Tam, Lý Tứ bị Trí Thâm đá lăn vào thùng phân, đầu tóc mặt mũi bẩn thỉu be bét, toan ngóc đầu để lên, nhưng không sao mà lên được. Trí Thâm quát lũ kia mà bảo rằng:

– Chúng bây túm vào lôi hai đứa ấy lên, thì ta tha cả cho.

Lũ kia vâng lời, chạy ra lôi hai anh em nọ lên, anh nào anh nấy hôi hám dơ bẩn, không sao mà chịu được. Trí Thâm trông thấy bật cười mà bảo rằng:

– Bây hãy đi tắm rửa sạch sẽ, rồi vào đây ta bảo.

Trương Tam, Lý Tứ liền đi ra cái ao gần đấy, tắm rửa xong rồi, anh em đưa quần áo khác, cho mặc vào hầu sư.

Bấy giờ Trí Thâm gọi tất cả vào trong Giải Vũ mà bảo rằng:

– Lũ nhãi con, sức chúng bây được bao nhiêu, mà dám đến đây xấc láo với ta.

Lũ Trương Tam, Lý Tứ quỳ xuống mà kêu rằng:

– Bẩm sư phụ, chúng con từ đời ông cha ở đây đã lâu, xưa nay chỉ cờ bạc kiếm ăn, cái vườn này tức là cơm áo của chúng con đó. Trước đây chùa Đại Tướng Quốc đã mấy phen sai người đến cấm đoán chúng con không được, ngày nay sư phụ đến đây, thực chúng con chưa được biết uy ngài, xin ngài tha tội cho.

Trí Thâm nói:

– Bây không biết, ta đây là Đề Hạt phủ Kinh Lược Diên An khi trước, chỉ vì giết người nhiều quá, cho nên mới tình nguyện đi tu. Ta chính là nhà sư Lỗ Trí Thâm ở Ngũ Đài Sơn, mới đến đây vậy. Bây phải biết trong đám muôn quân ngần ngựa, ta đây cũng ra vào đánh giết như chơi, huống chi lũ trẻ nhép chúng bây, độ vài mươi đứa thì đã thấm vào đâu. Từ nay phải liệu hồn mới được.

Lũ kia vâng dạ, rồi lạy tạ ra đi, ngày hôm sau tụi Trương Tam, Lý Tứ bàn định với nhau mua được bình rượu, mổ một con lợn đem đến Giải Vũ để mời đãi Trí Thâm.

Bấy giờ Trí Thâm ngồi giữa, tụi kia ngồi làm hai bên hầu rượu, Trí Thâm liền hỏi:

– Các anh bày biện làm chi thế này thêm tốn?

Lũ kia nói:

– Chúng con nay nhờ được có sư phụ ở đây, xin người làm chủ để dạy bảo cho, có chi mà ngại tốn.

Trí Thâm nghe nói cũng hơi hả lòng, cất chén cùng bọn Trương Tam, Lý Tứ cũng uống rượu cho vui. Khi chén đã ngà say rồi, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì nói chuyện, kẻ thì nghiêng ngả vui cười rất là huyên náo.

Chợt nghe có kêu tiếng oa oa ở ngoài, lũ kia liền lắng tai nghe, rồi bảo nhau rằng:

– Điều lành thì ở, điều dữ thì đi.

Trí Thâm nghe nói không hiểu đầu đuôi ra sao liền hỏi:

– Các anh nói câu gì thế?

– Bẩm ngài, ở ngoài kia có tiếng quạ kêu, e khi lại có sự khẩu thiệt gì chăng?

Khi đó có người làm vườn cười mà nói rằng:

– Khẩu thiệt gì? Trên cây dương liễu ở góc tường kia, có một tổ quạ mới làm, nó kêu suốt ngày như thế đấy.

Chúng nghe liền bàn với nhau rằng:

– Nếu thế thì ta vác thang ra phá cái tổ quạ ấy đi cho rảnh.

Nói xong đứng dậy cùng đi ra ngoài vườn, Trí Thâm bấy giờ đã chếnh choáng hơi men, thấy chúng đứng dậy, thì cũng cao hứng chạy ra xem chơi.

Khi ra tới nơi quả nhiên thấy trên cành dương liễu có một tổ quạ rất to, chúng liền kẻ thì toan lấy thang để trèo, vói lên để bẻ. Trí Thâm không đợi chúng, bèn hăm hăm đi đến gốc cây, cởi phăng áo ra, tay hữu với xuống nắm dưới gốc cây dương liễu, tay tả giơ lên nắm về phía trên, rồi xoay lưng vặn đi một cái thật manh, nhổ cây lẫn gốc lên như chơi.

Chúng thấy vậy, sụp lạy cả xuống một lượt mà kêu rằng:

– Sư phụ thực là La Hán hiện thân không ai có sức mạnh được như thế!

Trí Thâm cười đáp rằng:

– Thế đã thấm vào đâu, để hôm nào ta diễn võ cho các anh xem.

Nói đoạn lại cùng vào uống rượu đến chiều mới tan.

Từ đấy trở đi chúng càng khâm phục Trí Thâm, cứ hàng ngày lại đem rượu thịt mời Trí Thâm ăn uống, rồi lại xem diễn võ đánh quyền.

Cách ít lâu Trí Thâm thấy chúng thiết đãi luôn, mà không trả lại bữa nào thì không tiện, liền sai người mua dê lợn rượu và các thức hoa quả về để thiết đãi lũ kia, hôm ấy đương vào dạo tháng ba, khí trời bức nóng, Trí Thâm bèn sai trải chiếu dọn rượu ở dưới gốc cây hòe, mà mời bọn kia đến quây quần đánh chén.

Khi ăn uống đã no say,chúng nói với Trí Thâm rằng:

– Từ khi sư phụ đến đây, anh em vẫn phục ngài là bậc vô địch ở đời, nhưng hiềm vì chưa được xem ngài diễn lại bài roi gậy bao giờ? Vậy tiện đây xin sư phụ rộng phép cho xem thì thực là may mắn.

Trí Thâm gật đầu ưng thuận, liền vào phòng lấy cây thuyền trượng dài 5 thước, nặng 62 cân ra, đưa cho chúng xem. Chúng xem đến đều kinh ngạc mà nói:

– Nếu hai cánh tay mà không khỏe bằng sức con trâu lớn, thì vác làm sao nổi cái trượng này?

Trí Thâm cầm lấy cây trượng ra chỗ rộng, múa lên đánh xuống, một lúc lâu trông vun vút như gió bay mây cuốn, anh nào anh ấy vỗ tay khen ngợi luôn mồm. Đương khi ngọn gậy xuống lên, rất khoái hoạt, thì bỗng thấy có người reo bên đường nói lên rằng:

– Gậy múa giỏi thực.

Trí Thâm nghe nói, bèn dừng tay gậy lên, rồi nom ra thấy một người, đầu đội khăn xéo xanh, đằng sau gáy cài vòng bạch ngọc, mình mặc áo chiến bào đơn, mầu lục, lưng thắt đai bạc chạm một dải lưng rùa, chân đi đôi hài mõm vuốt, tay cầm cái quạt Tứ Xuyên, đầu báo mặt tròn, râu hùm, hàm én thân cao tám thước, tuổi ngoại ba mươi, đương đứng góc tường khuyết dòm sang. Người ấy thấy Trí Thâm ngẩng cổ lên thì cười mà nói rằng:

– Sư phụ đánh gậy xuất sắc lắm, không ai bằng được.

Lũ kia nghe thấy người ấy nói, thì bảo nhau rằng:

– Giáo Đầu đã khen thì tất không phải tầm thường.

Trí Thâm quay lại hỏi chúng rằng:

– Người ấy là ai?

– Người ấy là ông Giáo Đầu Lâm Xung, dạy 80 vạn cấm binh ở Đông Kinh đó.

Trí Thâm nghe nói là Giáo Đầu liền bảo chúng rằng:

– Sao các ngươi không mời ông ấy sang đây?

Vừa nói dứt lời thì Lâm Giáo Đầu đã vượt tường sang đến chỗ Lỗ Trí Thâm đứng, chắp tay chào mà nói:

– Kính chào sư phụ, chẳng hay sư phụ ở đâu mới tới đây, pháp hiệu ngài là gì mà chúng tôi không được biết?

Trí Thâm cũng vái chào mà đáp rằng:

– Tôi là Trấn Quang Tây Lỗ Đạt mới đến tu hành ở đây, khi tôi còn nhỏ qua tới Đông Kinh cũng có được biết quan Lâm Đề Hạt sinh ra ngài ngày trước.

Lâm Xung nghe nói cả mừng liền bái kết anh em mà tôn Lỗ Trí Thâm làm đàn anh.

Trí Thâm lại hỏi Lâm Xung rằng:

– Hôm nay Giáo Đầu đi đâu mà lại tới đây?

– Thưa ngài, hôm nay nhân tôi cùng đàn bà nhà tôi đi ra lễ ở nhạc miếu gần đây, sau nhác trông thấy sư huynh múa gậy lấy làm thích mắt bèn để cho đàn bà nhà tôi đi vào miếu với con đỏ, mà lẻn ra đây để bất đồ được gặp sư huynh thực là may quá.

– Tôi mới đến đây chưa quen biết với ai, chỉ có các anh này ngày làm bạn cho vui, nay lại được Giáo Đầu có lòng chiếu cố, mà kết làm anh em, thì còn gì hơn nữa?

Nói xong lại rót rượu mời Lâm Xung Giáo Đầu cùng uống.

Vừa khi uống được ba chén, thì đã thấy đứa con hầu đỏ bừng mặt mũi đứng ở góc tường khuyết bên kia mà kêu lên rằng:

– Xin ngài đứng dậy mau, bà đương cãi nhau ở trong miếu kia.

Lâm Xung nghe nói, vội hỏi rằng:

– Cãi nhau ở chỗ nào?

– Bẩm ở trên lầu Ngũ Nhạc Miếu đi xuống, thì gặp người nào giữ lại, rồi cãi nhau ở đấy luôn.

Lâm Xung mải mốt đứng dậy vái Trí Thâm mà rằng:

– Xin sư huynh tha lỗi cho, tôi phải sang bên kia một lúc.

Nói xong nhảy tót ra bên kia tường, cùng với con hầu, đi thẳng sang lầu Ngũ Nhạc. Khi tới nơi thấy mấy người đứng dưới ở vòng bao lơn, một người thiếu niên thì đang đứng giữa thang ngăn vợ Lâm Xung lại mà bảo rằng:

– Nàng hãy lên trên lầu, để tôi nói chuyện đã.

Bấy giờ mặt mũi vợ Lâm Xung đỏ tím lại hẳn mà kêu lên rằng:

– Đương lúc thanh bình thế giới, mà dám đùa bỡn với vợ con nhà tử tế, là thế nào?

Lâm Xung thấy vậy, dùng dằng tức giận chạy lên thang lầu nắm lấy vai anh chàng thiếu niên mà giật một cái rồi bảo rằng:

– Anh dám đùa bỡn vợ con nhà tử tế, thì có đáng tội hay không?

Chàng nói xong vừa mới giơ tay toan đánh, bất đồ trông đến mặt, thì té ra chính là cậu ấm Cao, con nuôi Cao Thái Úy nhà mình, liền chùn tay lại mà không đánh nữa. Nguyên Cao Cầu mới phát tích được làm Thái Úy, mà con cái chưa có, bèn nuôi con người em là Cao Tam làm con, để sớm ngày bè bạn cho vui. Nhân thế Cao Cầu rất là yêu quý, cho nên cậu ấm cứ ỷ quyền cậy thế, mà phóng túng, chơi bời gặp vợ con ai cũng là đùa bỡn, người ta đã thường gọi là Hoa Hoa Thái Tuế xưa nay.

Khi đó cậu ấm Cao, thấy Lâm Xung dừng tay không đánh, nhưng cũng chưa biết người đàn bà ấy là vợ Lâm Xung, liền quay cổ lại mà hỏi rằng:

– Lâm Xung có việc gì đến ngươi, mà ngươi lôi thôi vào đây?

Những người ở gần đấy thấy vậy, thì xúm nhau đến khuyên giải Lâm Xung rằng:

– Thôi Giáo Đầu đừng nói nữa, cậu ấm không biết cho nên mới lỡ ra như thế.

Cậu ấm nghe tới đó mới biết là vợ Lâm Xung, và lại bị người ta khuyên giải cản ngăn, mới bất đắc dĩ, phải ra miếu lên ngựa mà về.

Lâm Xung tuy vậy trong lòng vẫn còn tức giận, trừng mắt nhìn theo cậu ấm một lúc rồi mới đưa vợ ra về.

Vừa đi tới cửa thì đã thấy Lỗ Trí Thâm tay cầm thuyền trượng, cùng với hai ba mươi tên đãng tử kia đi sồng sộc vào miếu. Lâm Xung liền hỏi:

– Sư huynh đi đâu đấy?

Trí Thâm đứng dừng lại mà đáp rằng:

– Tôi định đi đến đấy, xem đứa nào láo, thì giúp anh mà đánh cho nó một mẻ đấy.

– Có phải ai đâu, đấy là cậu ấm con quan Thái Úy, vì không biết là vợ con tôi, cho nên mới vô lễ như thế, tôi đã toan đánh cho một trận, nhưng lại sợ đối với Cao Thái Úy, có điều không tiện, cho nên phải thôi.

– Bác sợ Thái Úy nhà bác, chứ tôi sợ gì, giá tôi mà gặp nó thì hãy đãi cho nó vài trăm cái thuyền trượng này cho biết tay đã.

Lâm Xung thấy Trí Thâm hơi có dáng say, liền cười mà đáp rằng:

– Sư huynh nói cũng phải, nhưng tôi bây giờ bị người ta can ngăn cho nên hãy tạm tha cho nó đấy.

– Nếu sau có việc gì, xin cứ đến bảo tôi, tôi sẽ đi với.

Bây giờ lũ kia thấy Trí Thâm ra bộ say sưa thì cũng gạt rằng:

– Thôi xin sư huynh hãy về, để lần sau sẽ liệu cho nó.

Trí Thâm nghe nói, liền giơ gậy lên bảo vợ Lâm Xung rằng:

– Bà chị đừng cười tôi nhé!

Nói xong bái biệt Lâm Xung, rồi cùng bọn kia, trở về Giải Vũ.

Nói về Cao Nha Nội (tức cậu ấm Cao) từ khi dẫn lũ nhân đãng đi chơi, trông thấy vợ Lâm Xung nhan sắc đẹp đẽ, lại bị Lâm Xung ngăn trở tự do, thì trong bụng sinh ra mê mẫn bồn chồn, mà khi về phủ cứ băn khoăn khó chịu.

Cách mấy hôm sau lũ nhàn hán đến hầu Nha Nội, thấy nét mặt có vẻ buồn bã, thì anh nào cũng ngờ vực, không hiểu vì lẽ làm sao, rồi lại tan cả hội họp. Duy có một tay thân mật là Cao Ô Đầu Phú An, có biết được tâm sự của Nha Nội, liền nhân khi vắng vẻ một mình, lẻn vào trong phủ mà bảo Nha Nội rằng:

– Mấy hôm nay trông nhan sắc có phần hơi kém tất là ở trong bụng có điều gì không vuui, xin Nha Nội cho tôi được biết?

Nha Nội liền hỏi:

– Tại sao mà ngươi biết?

– Bẩm tôi đoán chắc như thế hẳn.

– Vậy ngươi thử đoán xem, tại việc gì mà ta không vui?

– Bẩm có lẽ Nha Nội lại chỉ tơ tưởng về chữ “Song Mộc”mà thôi.

Nha Nội nghe nói mỉm cười mà rằng:

– Sao ngươi đoán đúng thế? Nhưng ta không biết làm cách gì được đây?

– Nha Nội tưởng có gì là khó, Lâm Xung tuy là một tay hảo hán, nhưng còn thuộc quyền Thái Úy đây, bảo sao phải nghe vậy, nếu phật ý Thái Úy, nhẹ ra thì cũng bị đày ải đi nơi xa, mà nặng ra thì mất mạng, chớ chẳng chơi đâu. Bởi thế tôi có kế này, làm cho Nha Nội, khả dĩ gặp người ấy được.

– Ta từ xưa gặp con gái cũng nhiều, nhưng chưa thấy có ai mà ta lại mê như người ấy, vì thế cho nên vẫn buồn bã không yên, nay nếu ngươi có kế gì làm cho ta gặp mặt, thì sau này ta sẽ trọng thưởng cho ngươi.

– Bẩm ngài, Lục Ngu Hầu Lục Khiêm là người tâm phúc ở trong phủ mà nhà ở liền đây, xưa nay chơi với Lâm Xung thân lắm, vậy Nha Nội chỉ nên dặn Lục Ngu Hầu mời Lâm Xung đánh chén một nơi rất kín, ở Phàn Lâu, rồi nhất diện sai người bày tiệc ở gác nhà Ngu Hầu, để Nha Nội vào nấp ở trong đó, chờ cho hai bác kia đi được hồi lâu, sẽ sai người đến nhà nói với vợ Lâm Xung, là chồng uống rượu ở nhà Ngu Hầu bị cảm nặng, chết ngất ra đó, thì tất nhiên phải đến cứu đỡ, khi tới nơi lên gác rồi, Nha Nội sẽ ở đấy mà dỗ dành ngon ngọt, là hắn phải nghe. Vả chăng đàn bà vốn Thủy Tính xưa nay, mà lại trông thấy Nha Nội trẻ trung sang trọng, như thế có lẽ nào cầm lòng cho đặng, vậy kế ấy Nha Nội nghĩ sao?

Cao Nha Nội nghĩ một lúc, vỗ tay cười mà nói rằng:

– Diệu kế! Diệu kế! Nếu vậy chiều nay ta phải tìm Ngu Hầu vào dặn bảo, rồi mai thi hành mới được.

Nói đoạn sai người sang gọi Lục Ngu Hầu sang, bảo rõ đầu đuôi cho biết. Ngu Hầu tuy chơi với Lâm Xung cũng có phần thân mật, song đến điều sở thích của Nha Nội, thì cũng phải bỏ tình bè bạn chiều chuộng cho xong, liền vâng lời về sắp sửa, để sáng hôm sau thi kế.

Lâm Xung từ khi gặp Cao Nha Nội vô lễ tới nay thì trong lòng tức giận, không muốn đi tới đâu. Chợt hôm ấy đương ngồi ở nhà, thì thấy ngoài cửa có người đến bảo rằng:

– Lâm Giáo Đầu có ở nhà không?

Lâm Xung nghe nói mải miết chạy ra xem, thì là người anh em bạn thân là Lục Ngu Hầu, liền vái chào mà hỏi:

– Ngu Hầu đi đâu đến đây thế? 

Ngu Hầu cười mà đáp rằng:

– Mấy hôm nay mong mỏi, sao mà không thấy quan bác đi chơi đâu?

– Mấy hôm nay trong bụng không được vui, nên không muốn đi đâu cả.

– Bây giờ mời quan bác sang tôi chơi, uống mấy chén rượu cho đỡ buồn đi.

– Quan bác hãy vào đây uống tạm chén nước rồi sẽ đi.

Khi uống xong rồi, hai người đứng dậy ra đi, Lục Ngu Hầu lại quay lại nói với vợ Lâm Xung rằng:

– Thưa bác tôi đoán bác trai sang nhà tôi uống mấy chén rượu, rồi đi về ngay.

Nói xong, hai người cùng ra đi vòng quanh trong phố một lát, rồi Ngu Hầu bảo Lâm Xung rằng:

– Bây giờ ta đừng về nhà nữa, cứ đến Phàn lâu đánh chén, có lẽ thú hơn.

Lâm Xung vâng lời, cùng nhau đến gác Phàn Lâu, tìm nơi tĩnh mịch để ngồi, gọi tửu bảo lấy rượu và thức nhắm lên để cùng uống.

Trong khi uống rượu, thỉnh thoảng Lâm Xung lại thở dài một tiếng, Ngu Hầu nghe thấy liền hỏi:

– Chẳng hay về việc gì mà bác thở dài như thế?

– Tôi nghĩ làm thằng con trai ở đời, tài sức chẳng kém gì ai, thế mà không gặp được người minh chủ, đành phải khuất dưới kẻ tiểu nhân, rồi lại bị người ta trêu tức, thì có khó chịu hay không?

– Hiện nay ở Đông Kinh, đã có mấy người Giáo Đầu tài sức như bác, vả quan Thái Úy cũng có lòng coi như người ta, vậy còn ai trêu tức bác được nữa?

Lâm Xung liền đem chuyện Cao Nha Nội ở Nhạc Miếu hôm trước, nói cho Ngu Hầu nghe, Ngu Hầu nghe nói, liền gạt đi rằng:

– Tưởng chuyện chi, cứ như việc ấy chắc là Cao Nha Nội không biết, cho nên mới lỡ ra thế thôi, có việc gì mà bác lo nghĩ cho phiền! Ta cứ phó mặc tự nhiên mà uống rượu có hơn không?

Lâm Xung uống xong mười chén rượu, rồi đứng dậy bảo Ngu Hầu rằng:

– Bác hãy xơi rượu, để tôi vào rửa mặt, rồi lại xin ra tiếp ngay.

Nói xong toan chạy đi phía ngõ bên đông.

Vừa khi Lâm Xung bước tới đầu ngõ, thì thấy đứa trẻ ở nhà, chạy hất hải bảo rằng:

– Quan Nhân ơi! Sao ngài lại ở đây, làm cho tôi tìm mãi?

Lâm Xung lấy làm ngạc nhiên, hỏi vội lên rằng:

– Việc gì?

– Vừa rồi ngài đi với Ngu Hầu được một lúc, thì có một anh chạy lật đật đến bảo với bà tôi rằng: “Ngài uống rượu ở nhà Ngu Hầu, không biết vì cớ gì mà bỗng dưng ngã vật xuống, bà phải sang ngay xe sao mới được”. Bà nghe vậy, vội vàng gửi nhà Vương Bà coi giúp, rồi cùng tôi được đến thẳng nhà Ngu Hầu, khi lên đến gác, chỉ thấy bàn rượu bày ra chững chạc ở đó, mà ngài thì chẳng thấy đâu, bà tôi liền vội vàng quay xuống thì ai ngờ bị người thiếu niên ở Nhạc Miếu hôm nọ, ngờ đâu đâm bổ ra mà bảo rằng: “Bà hãy ngồi đây, ông ấy đến bây giờ đấy.” Đoạn rồi tôi bước xuống khỏi thang, thì nghe tiếng bà tôi kêu “giết người”, ầm ĩ cả lên. Bởi vậy tôi vội vàng đi tìm mãi mà chẳng thấy ngài đâu, sau gặp Trương Tiên Sinh bảo rằng: Ngài đương ngồi uống rượu với ai ở Phàn Lâu, tôi liền chạy mãi đến đây tìm ngài, xin ngài đi đến mau xem sao mới được.

Lâm Xung nghe nói, rụng rời kinh ngạc, không đợi con trẻ cùng đi, mà chạy ba chân bốn cẳng, đến ngay nhà Ngu Hầu trèo lên trên gác để xem. Khi tới nơi thì cửa gác đã đóng chặt, mà vẫn có tiếng đàn bà kêu gọi ở trong rằng:

– Đời thuở nhà ai, mà dám đem vợ con nhà tử tế nhốt vào đây không?

Đoạn rồi lại nghe thấy tiếng Cao Nha Nội nói khẽ rằng:

– Xin nương tử thương tôi với, nương tử có phải là gỗ đá đâu, mà tôi nói thế nào cũng không chuyển được?

Lâm Giáo Đầu nghe rõ từng lý, liền nổi giận xung thiên quát lên rằng:

– Mở cửa cho ta.

Trong kia người đàn bà nghe tiếng biết là chồng mình đã đến liền cố bứt chạy ra mở cửa, còn cậu ấm Cao biết thế nguy hiểm đến nơi thì mở cửa sổ nhảy qua tường trốn thoát.

Lâm Xung lên đến gác, tìm Cao Nha Nội, thì đã mất rồi, sau hỏi đến vợ cặn kẽ, mới biết là trúng kế gian nhân, mà cũng may chưa hề phạm tới, song trong lòng thì căm tức Ngu Hầu vô hạn, liền đập phá nhà Ngu Hầu tan nát cả, rồi đưa vợ cùng con trẻ ra về.

Khi đưa về đến nhà rồi, Lâm Xung lại vác đao, đi thốc đến Phàn Lâu, tìm Ngu Hầu, nhưng Ngu Hầu đã trốn đi đâu mất, chàng lại đến tận cổng để đón đánh, mà suốt ngày hôm ấy cũng không thấy đâu cả.

Lúc về nhà Lâm Xung vẫn còn căm tức, nhưng vợ gạt đi mà can rằng:

– Tôi tuy mắc lừa, song cũng chưa đứa nào dám phạm đến, thì còn sinh sự làm chi?

Lâm Xung cứ khẳng khái mà rằng:

– Quân súc sinh mồm thì xoen xoét nào anh nào tôi, ai ngờ nó lại đánh lừa như thế? Tất nhiên ta phải trị ngay nó mới được!

Vợ Lâm Xung thấy chồng mình hăng hái, thì cố sức can ngăn mà giữ riết ở trong nhà, không cho đi đâu, còn Ngu Hầu thì cũng trốn ở trong phủ Thái Úy, mà không dám về đến nhà nữa.

Cách ba bốn hôm sau, Lỗ Trí Thâm đến chơi nhà Lâm Xung mà hỏi rằng:

– Chẳng hay mấy hôm nay vì cớ gì, mà không thấy quan anh đến chơi vậy?

Lâm Xung nói:

– Tiểu đệ vì bận chút việc riêng, cho nên không đến chơi với sư huynh được, nay sư huynh quá bộ đến đây, giá mời ngài ở chơi xơi chén rượu thì phải, nhưng ngặt vì trong nhà không được sẵn sàng, vậy xin đón sư huynh ra chơi ngoài phố, rồi ta tìm cái hàng nào uống mấy chén rượu cho vui, sư huynh nghĩ sao?

Lỗ Trí Thâm cười mà đáp lại rằng:

– Cũng được.

Nói đoạn hai người cùng đi ra phố, tìm vào hàng rượu với nhau, rồi lại hẹn hò đến mấy hôm sau tương hội. Từ đó ngày nào Lâm Xung cũng đi chén với Trí Thâm, dần dần khuây khỏa nỗi lòng, mà không nghĩ đến gì nữa.

Nói về Cao Nha Nội khi còn ở nhà Ngu Hầu, bị một phen kinh sợ, phải nhảy qua tường mới thoát được nạn, về tới nhà không dám nói với Cao Thái Úy, rồi cứ tấm tức trong lòng, mà ngơ ngẩn thành bệnh.

Lục Khiêm và Phú An thấy vậy liền hỏi Cao Nha Nội rằng: – Chẳng hay Nha Nội vì sao mà tinh thần bỗng kém đi làm vậy?

– Không dấu gì các ngươi, chỉ vì hai lần không được gặp giai nhân, lại bị một phen kinh sợ, cho nên đau đớn trong lòng mà sinh bệnh đó thôi.

– Việc ấy xin Nha Nội cứ an tâm, thế nào chúng tôi cũng có thể làm cho kỳ được, chỉ trừ ra có tự tử mất thì thôi.

Đương khi nói chuyện, thì có tên Đô Quản già, cùng vào thăm Nha Nội ở đó. Đô Quản hỏi thăm bệnh thế qua loa rồi, vừa quay ra thì thấy Lục Khiêm, Phú An dắt đến chỗ vắnh vẻ mà bảo nhau rằng:

– Bây giờ ta muốn cho Nha Nội được khỏi bệnh, thì tất nhiên phải làm sao tán hót với Thái Úy kết quả anh Lâm Xung đi, rồi đem vợ hắn về cho Nha Nội, thế là diệu hơn. Bằng không thì tính mạng Nha Nội tất là không toàn được nữa.

Lão Đô Quản nghe nói liền đáp lại rằng:

– Việc gì, chứ việc ấy thì dễ lắm, để chiều hôm nay lão sẽ bẩm với Thái Úy là được.

– Chúng tôi đã định kế sẵn rồi, nếu bác kêu với Thái Úy được, thì tôi sẽ nói. Lão Đô Quản nhận lời mà lui ra.

Chiều hôm ấy lão Đô Quản lên so vai rụt cổ tâu với Thái Úy rằng: 

– Bẩm ngài, bệnh của Nha Nội, có vì cớ gì đâu, chỉ vì người vợ Lâm Xung đó thôi.

Cao Cầu đã biết nết đứa con nuôi liền hỏi:

– Nó gặp vợ Lâm Xung từ bao giờ?

– Bẩm Nha Nội được gặp ở Nhạc Miếu hôm 28 tháng trước, đến nay đã được hơn một tháng rồi.

Nói đoạn liền đem chuyện Nha Nội lập kế đến nhà Ngu Khiêm, rồi bị một trận kinh hoàng, kể hết cho Thái Úy nghe.

Thái Úy nghe xong nhăn nhó mặt, ra vẻ nghĩ ngợi mà bảo rằng:

– Như thế thì làm thế nào được, nếu tiếc một thằng Lâm Xung, thì tính mệnh con ta tất là nguy mất? Nghĩ sao cho tiện đây?

– Bẩm, Lục Khiêm và An Phú đã có kế thi hành, vậy ngài thử đòi hỏi xem sao?

Thái Úy gật đầu bảo Đô Quản đi gọi Phú An và Lục Khiêm đến.

Khi hai tên ấy đến, Cao Thái Úy liền trỏ bảo rằng:

– Nha Nội đương bị bệnh như thế, các ngươi có kế gì khiến Nha Nội khỏi được bệnh ngay, thì ta sẽ cất nhắc lên cho.

Lục Khiêm so vai rụt cổ bẩm rằng:

– Việc ấy trừ phi như thế…như thế…thì không có thể được.

– Đã như thế, thì ngày mai các ngươi phải làm ngay đi mới được.

Lũ kia vâng dạ, mà xin ra để thi hành.

Lâm Xung từ khi có Lỗ Trí Thâm, cứ ngày ngày chè rượu làm vui, thì trong lòng khuây khỏa phó mặc chuyện ngoài không nghĩ, chợt một hôm hai người đương đi ở trên phố Duyệt Võ, thì thấy một người to lớn, đầu đội khăn mỏ rìu, mình mặc áo chiến bào cũ, tay cầm cây đao có bao lưỡi cẩn thận, đương đứng ở trên phố mà nói lảm nhảm một mình rằng:

– Uổng phí cả thanh bảo đao của mình, không có một ai biết cả!

Lâm Xung nghe thấy vậy, cứ điềm nhiên, chỉ cúi đầu cúi cổ, cùng với Trí Thâm vừa chuyện vừa đi, mà không nhìn thèm đến. Người kia cứ đi theo đằng sau, mà nói luôn miệng nói rằng:

– Thanh bảo đao tốt như thế này, mà không biết đến, đáng tiếc chưa?

Lâm Xung lại mặc kệ đi ngoắt vào trong ngõ; người kia cũng lại theo sau, mà cứ nói một mình rằng:

– Quái lạ! Cả một chỗ kinh đô rộng lớn như thế này, mà không có ai biết đến đồ dùng binh hay sao?

Lâm Xung nghe nói đến câu ấy, thì phải quay đầu nom lại xem. Anh kia biết ý liền tuốt thanh đao sáng nhoáng ra cầm ở tay.

Lâm Xung trông thấy choáng mắt, liền bảo người ấy rằng:

– Đem lại đây tôi xem.

Người kia cầm đao đưa đến, Lâm Xung cầm lấy, cùng với Trí Thâm xem ngắm hồi lâu, bất giác buột miệng khen rằng:

– Thanh đao tốt thực anh định bán bao nhiêu?

Người kia nói:

– Đao này đáng giá 3000 quan, nhưng thực ra 2000 quan tôi mới bán.

– Phải, đáng giá 2000 quan, nhưng mấy ai đã biết được? Nếu anh có chịu bán 1000 quan thì tôi mua cho?

– Tôi bây giờ đương cần tiền tiêu, vậy nếu ông định mua, thì xin ông bớt đi 500 quan, còn ông phải trả 1500 quan mới được.

– Chỉ có 1000 quan, có bán thì tôi cố mua vậy.

Người kia thở dài đáp rằng:

– Thôi cần tiền đành bán rẻ vậy, nhưng phải trả đủ tiền mới được.

– Đi, anh theo tôi về nhà lấy tiền.

Lâm Xung nói xong, quay lại bảo Lỗ Trí Thâm rằng:

– Quan bác hãy đến Xái Phòng đợi tôi, rồi chốc tôi xin đến.

Trí Thâm nói:

– Thôi để tôi về, sáng mai ta lại gặp.

Đoạn hai người chào nhau, Lâm Xung đưa người bán đao về nhà lấy tiền.

Khi trả tiền xong, Lâm Xung lại hỏi người bán đao rằng:

– Thanh đao này anh làm gì mà có? 

– Nguyên của ông cha tôi để lại cho, nhưng đến nay túng kiết, mới phải bán đi.

– Ông cha anh người trước thế nào?

– Thưa ngài, tôi nói ra bây giờ lại thêm tủi thân lắm thôi. Lâm Xung nghe nói vậy, thì để mặc hắn đi, mà không hỏi nữa. Bấy giờ lại cầm thanh đao ngắm nghía luôn tay, mà khen ngợi một mình rằng: 

–  Cái đao này tốt thực, trong phủ Thái Úy cũng có một thanh đao báu, xưa nay vẫn làm bộ không cho ai xem đến, để rồi ta thử đem đọ xem sao?

Chàng khen lấy khen để, rồi xem đi xem lại mãi đến đêm mới treo lên vách mà đi nghỉ. Sáng hôm sau lại đến trông ngắm thanh đao mà khen mãi không thôi.

Trưa hôm ấy chợt thấy hai tên lính, chạy đến bảo với Lâm Xung rằng:

– Quan Thái Úy nghe nói Giáo Đầu mới mua được thanh đao tốt, ngài truyền chúng tôi ra bảo ông đem vào để đọ xem. Thái Úy hiện đang đợi ở trong phủ đó.

Lâm Xung nghe nói, thì lẩm nhẩm trong bụng rằng:

– Thằng ranh nào lại bợm thế! Nó đã mỏng môi tâu nộp được ngay rồi.

Nghĩ đoạn mặc áo đội khăn vác thanh đao đi theo hai tên lính.

Khi đi đường Lâm Xung hỏi hai tên lính rằng:

– Các ngươi có ở trong phủ, mà sao ta chưa biết mặt bao giờ?

Hai tên lính nói:

– Chúng tôi hầu ở nhà trong, cho nên ông ít khi gặp.

Vừa nói dứt câu chuyện, thì đã đi tới nhà công đường phủ Thái Úy, Lâm Xung liền đứng dừng lại đấy.

Hai tên lính nói:

– Quan Thái Úy ngồi đợi ở nhà trong, mời ông đi vào.

Lâm Xung đi thẳng vào nhà trong, không thấy quan Thái Úy, lại đứng dừng lại. Hai tên lính lại giục:

– Ở nhà trong nữa, mời ông cứ đi vào đi.

Lâm Xung lại theo hai tên lính được quanh co mấy lần cửa, đến một chỗ xung quanh toàn thị lan can tím. Hai tên lính đưa Lâm Xung đến ở thềm mà rằng:

– Ông đứng đợi ở đây, để tôi vào bẩm Thái Úy ra đây.

Hai tên lính nói xong liền quay trở vào, Lâm Xung đứng đợi mấy phút đồng hồ, không thấy ai đến, trong bụng hơi nghi, liền ngó cổ vào trong rèm nom thấy cái biển viết ba chữ: “Bạch Hổ Đường”xanh xanh, thì giật nẩy mình nghĩ ra rằng:

– Đây là chổ thương nghị quân cơ đại sự, mà sao nó tự nhiên vô cố, nó lại dắt ta vào đây? Chết nỗi! Có phép đâu được thế!

Chàng nghĩ như vậy, vừa toan quay bước trở ra, thì đã thấy tiếng giày lẹt xẹt ở ngoài đi vào, liền ngẩng cổ lên nom, thì chính là Cao Thái Úy đến đó. Lâm Xung thấy Cao Thái Úy vào, thì mải mốt cắp thanh đao, rồi chắp tay vái chào Thái Úy.

Thái Úy làm bộ ngạc nhiên quát lên mà hỏi dồn luôn rằng:

– Có ai sai bảo gì, mà vào Bạch Hồ Đường như thế? Ngươi có biết pháp luật gì không mà cầm đao vào đây? Hay là định mưu hại ta chăng? Có người nói với ta rằng: Mấy hôm nay ngươi vẫn vác đao, đến chực chõm ở trước phủ. Chắc là có bụng phản trắc chi đây?

Lâm Xung cúi mình bẩm rằng:

– Bẩm ân tướng, vừa rồi có hai tên lính, truyền gọi Lâm Xung đem đao vào để ân tướng đọ xem, cho nên hạ nhân mới dám tới đây.

– Lính nào? Đâu?

– Bẩm hai tên đi vào nhà trong rồi?

– Nói lạ! Lính nào dám vào phủ đường ta? Tả hữu đâu trói tên này lại cho ta.

Nói chưa dứt lời, thì thấy mấy mươi tên lính ở đâu đổ ra bắt Lâm Xung mà trói lại.

Cho hay:

Mấy người trí dũng xưa nay,

Trời làm chi đến nỗi này thì thôi;

Lạ cho là giống ở đời;

Đỉnh chung sao để những nòi bất nhân?

Bắc thang lên hỏi hồng quân.

Xưa nay tay Tạo cầm cân thế nào?

Xây chi những cuộc ba đào?

Nước non luống để anh hào biết gan?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này dụng bút viết ra rất khó, vì sau trước khác nhau, nếu trước sau tả xuôi một việc, thì có dư bút mà lây sang một việc kia, cũng nhân việc này mà nảy ra việc khác. Nay hồi này tả Lâm Xung mới nhận được Lỗ Đạt, thân nhiệt khác ra, liên tiếp một việc Nha Nội, đấu khí khác ra, nay chỉ tả Lỗ Đạt, thì tạm gác một bên câu chuyện Nha Nội, mà tả Nha Nội, thì tạm gác một bên câu chuyện Lỗ Đạt, thực là thấy trong sự diễn tả, cũng đôi đường tiến thoái lưỡng nan. Huống chi trong sự tả Nha Nội, lại cốt chia hai lần, một lần chép ở nhà họ Lâm (mua đao), một lần ở phủ họ Cao, tả Cao Phủ thì nhằm vào họ Lâm, mà tả họ Lâm nhằm vào Cao Phủ, trong lúc tả lắm chuyện như thế, lại thêm một anh chàng vườn rau, luôn luôn lui tới, nếu anh chàng vườn rau như mọi người thì khác hẳn, đàng này lại là một tay hảo hán, lúc nào cũng sẵn sàng can thiệp những chuyện bất bằng, ngay gữa đường đi, đã từng đánh ba quyền chết Trấn Quan Tây ở nơi Châu Vị, nếu tả Lỗ Đạt biết đến chuyện ở nhà Ngu Hầu, thì tác giả tả làm sao cho hết câu chuyện mưu toan thâm ác của đám quân phiệt, như Cao Cầu vốn bất chính lại nuông con làm trắng trợn hơn? Đọc tới đây không phục tài tác giả, thì chưa xem nổi văn chương diễn tả của người xưa, khéo léo dùng bút.

Hồi này nhiều bút pháp lạ lùng, như vợ Lâm Xung chịu nhục, ắt phải làm cho Lâm Xung tức khí, rồi người khác khuyên thôi, xảy đâu Lỗ Đạt hùng hùng hổ hổ, lại đến Lâm Xung khuyên thôi, đó là một chuyện; Đến chuyện bán đao ở phường Duyệt Võ, anh chàng cứ khích khí cho người ta, mua đao, Lâm Xung, Lỗ Đạt chỉ nói chuyện phiến, cang làm cho kẻ bán đao thở ra những giọng tiếc cho đao, mà Lâm, Lỗ vẫn đưa ra câu chuyện phiến coi thường, càng thấy kẻ kia coi thường, lại càng than tiếc, khác nào hai ngọn núi đối nhau, thế rồi đi đến gặp nhau, đó là hai chuyện; Khi trả tiền đao, xong việc thì thôi, lại tả Lâm Xung quý mến bảo đao, thế rồi hỏi đến căn đoạn của kẻ có đao, chàng bán đao sẽ nói là ai? ? ? Nên Lâm Xung hỏi đến, khéo tả thoái thác, rằng nói đến tổ phụ với bảo đao này thêm nhục, câu đó làm cho độc giả đoán ra văn tứ lâm ly đến thấy đó là ba chuyện vậy; Bạch Hổ Tiết Đường, không nên tới vậy, nay Lâm Xung vào lầm, đó là xuất kỳ bất ý, bị dỗ dẫn vào, rồi dừng gót, lần tới bình phong hậu đường, lại dừng gót nữa, thế rồi lần lượt đưa đến Tiết Đường (Bạch Hổ) đó là bốn chuyện vậy, kỳ văn đến thế, thì dù Tư Mã Thiên viết sử phục sinh, cũng không hơn thế được.

Hồi 7: Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu nhục – Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan

Bấy giờ lũ kia đổ xô vào trói Lâm Xung, rồi Cao Thái Úy thét quân lính dàn hàng, để đem Lâm Xung ra chém.

Lâm Xung kinh sợ kêu là oan uổng, thì Cao Thái Úy lại quát lên rằng:

– Oan gì? Ngươi tự tiện đi vào Bạch Hổ Đường có việc chi? Bây giờ trong tay vẫn cầm đao đấy, không phải là ngươi định hại ta hay sao?

– Bẩm Thái Úy không cho đòi, thì khi nào tôi dám vào? Hiện có hai tên dẫn tôi vào đây lúc nãy.

– Trong phủ ta có lính nào ta chả biết, ta sai đi hay không, ta lại không biết à? Tả hữu đâu? Hãy đem nó ra phủ Khai Phong, bảo quan Phủ tra xét việc này thế nào rồi sẽ xử quyết cho nó.

Nói xong sai một người thân mật lấy thanh đao của Lâm Xung phong vào cẩn thận, rồi giải ra phủ Khai Phong. Tên người nhà giải Lâm Xung và thanh đao ra phủ Khai Phong, lại đem lời Thái Úy bẩm cho quan Phủ biết.

Quan Phủ nghe nói liền hỏi Lâm Xung rằng:

– Lâm Xung làm chức Giáo Đầu, sao không biết pháp luật, mà cầm đao đi vào Bạch Hổ Đường như thế? Tội có đáng chết hay không?

Lâm Xung chấp tay kêu rằng:

– Xin ân tướng xét cho, việc này thực là oan ức, chúng tôi dốt nát thô lỗ, song cũng biết đôi chút pháp luật có đâu dám thiện tiện vào Bạch Hổ Đường như thế? Việc này chẳng qua vì một lẽ riêng, chúng tôi có thể đoán ra rằng, xin ân tướng xét kỹ cho.

– Vì lẽ chi ngươi cứ nói?

Lâm Xung bèn thuật đầu đuôi từ khi Cao Nha Nội gặp vợ mình ở Nhạc Miếu, cho đến khi lập kế ở nhà Ngu Hầu, lại đến lúc mua thanh đao, và hai tên lính gọi vào trong phủ Thái Úy, rồi vì sao mà đến thế này, nhất nhất phải kể cho Phủ Doãn nghe.

Phủ Doãn nghe xong, nhất diện viết công văn về trình Thái Úy, rồi nhất diện hãy cho gông cổ Lâm Xung, mà giam vào ngục.

Vì đâu nên nỗi nước này!

Anh hùng trái vận đắng cay chăng trời?

Bên kia bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, biết tin con rể mắc nạn liền kiếm tiền của đến nói với người tra án, để châm chước giúp cho. Người này họ Tôn tên Định, vốn tính hiếu thiện, xưa nay hay che chở giúp đỡ cho người, nhân thế người ta thường gọi là Tôn Phật Nhi.

Tôn Định biết đầu đuôi là Lâm Xung oan khuất, liền kêu với quan Phủ rằng:

– Việc này xét ra Lâm Xung thực là oan khuất, xin quan lớn che chở cho hắn thì hơn.

Quan Phủ lắc đầu mà phán rằng:

– Tội này là hắn làm ra, quan Thái Úy đã phê chấp vào tội “vô cố cầm đao tới Bạch Hổ Đường định sát hại quan trên” như thế, còn che chở sao được?

– Bẩm ngài, nếu vậy thì phủ Khai Phong đây, đã thuộc về nha tư của quan Thái Úy họ Cao, chứ không phải thuộc về triều đình nữa hay sao?

– Nói lạ!

– Xưa nay ai không biết rằng Cao Thái Úy đã ỷ quyền ỷ thế, làm lắm điều xằng, thế mà phủ Khai Phong lại hùa vào làm đảng nữa, thôi thì bảo giết là giết, bảo mổ là mổ, như vậy há không phải phủ nha riêng của Thái Úy sao?

– Đành vậy, nhưng việc này biết làm thế nào cho được?

– Cứ ý chúng tôi xem ra thì Lâm Xung vô tội, nhưng chỉ có một điều là bây giờ không bắt đâu được hai tên lính dẫn hắn vào Bạch Hổ Đường thì cũng hơi khó lòng một chút, vậy chỉ nên khép tội cho hắn là cầm đao đi lầm vào Bạch Hổ Đường, thì phạt 20 trượng, và bắt đi xung quân ở một nơi xa, thế là đủ rồi.

Phủ Doãn nghe nói có lẽ, liền đem việc ấy vào bẩm cho Cao Thái Úy biết. Cao Thái Úy nghe lời Tri Phủ nói, cũng biết là việc mình làm xằng hụt lý, và cũng hơi e lòng Tri Phủ, nên ưng lời mà phê phó ngay.

Hôm đó Tri Phủ trở về Phủ, cho đòi Lâm Xung lên tháo các đồ gông ra, đánh phạt 20 trượng, rồi gọi thợ thích chữ vào mặt, rồi lại gông vào cẩn thận, mà viết công văn trao cho hai tên công sai giải tù, sang đài ở Thương Châu. Hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá, vâng lĩnh giấy má rồi đem Lâm Xung ra khỏi phủ Khai Phong. Bấy giờ hàng xóm láng giềng, cùng bố vợ Lâm Xung là Trương Giáo Đầu, cùng đến cửa phủ, để đón tiếp, rồi đưa cả nhau vào một cái hiệu ở bên cầu để nói chuyện.

Lâm Xung phàn nàn với Trương Giáo Đầu, rồi lại nói rằng:

– May nhờ Tôn Phật Nhi có lòng che chở giúp đỡ, cho nên đòn cũng đỡ đau, chứ không thì có lẽ không đi được nữa.

Trương Giáo Đầu nghe nói nửa cảm nửa thương, liền gọi tửu bảo lấy rượu ra đãi hai người giải tù cùng uống cho vui. Rượu được vài tuần, thì Trương Giáo đầu lấy ra mấy lạng bạc đưa cho tên công sai, rồi dặn dò để trông nom giúp đỡ.

Bấy giờ Lâm Xung đứng dậy chấp tay nói với trượng nhân rằng:

– Con chẳng may gặp ngày xung tháng hạn, bỗng dưng nên nổi nước này, vậy con có mấy lời tâm sự xin trượng nhân thương đến, từ khi vợ chồng con sum họp với nhau, đến nay đã được ba năm, tuy rằng trời chưa cho con một chút con nào, song sự ăn ở với nhau, thực chưa hề có điều gì là trái ý, tới nay con phải đi đày ải xa khơi, sau này mất còn chả biết, nếu mà để vợ con ở góa một mình, thì thực trong lòng không ổn! Vả chăng vợ chồng con cũng còn đương trạc thanh xuân, e khi ở lại trong nhà, lỡ bị Cao Nha Nội lại đem lòng ức hiếp, thì bấy giờ sẽ xử ra sao? Việc ấy quyết nhiên không nên vì con mà để mất con đường thân thế, vậy tiện đây đông đủ xóm giềng, con xin viết tờ giấy hưu thư, để cho vợ con tùy tiện lấy chồng, như thế thì con mới yên lòng đi được.

Trương Giáo Đầu gạt đi rằng:

– Chết nỗi! Sao hiền tế lại nói như vậy. Bây giờ chẳng may gặp phải cơn đang vận túng, đành hãy đến Thương Châu mà lánh nạn ít lâu, rồi sau này tất nhiên trời kia thương lại, cũng còn vợ chồng sum họp với nhau, chứ có điều chi mà ngại! Nhà lão đây nghèo cũng còn kiếm được để nuôi hai thầy trò nó, trong năm ba năm mà đợi khi sắc cầm tái hợp về sau. Còn như Cao Nha Nội có ý lôi thôi, thì ta sẽ cấm con gái ta ở nhà, còn gặp ở đâu mà sinh sự được nữa. Việc ấy hiền tế cứ an tâm, đi sang Thương Châu ở đó, rồi thỉnh thoảng viết giấy về cho ta, quần áo ta đây sẽ chu cấp gửi sang, chớ nghĩ quanh quẩn, làm cho thêm khổ?

– Đành vậy, con xin cảm tạ trượng nhân song không thể nào yên tâm để cho vợ con lỡ làng như thế được! Nếu trượng nhân có lòng thương tôi, mà nhận lấy lời cho, thì tôi chết đi mới được yên hồn nơi chín suối, xin với trựơng nhân biết cho.

Trương Giáo Đầu nghe vậy lại càng cảm động, nhất định không ưng lời, đoạn rồi xóm làng túm vào mà khuyên can, không nên như thế.

Lâm Xung quả quyết đáp rằng:

– Nếu trượng nhân không nghe lời tôi, thì sau này có được về đây, tôi quyết không đoàn tụ với nhau được nữa!

Trương Giáo Đầu nghe nói, không biết trả lời ra sao, liền bảo Lâm Xung rằng:

– Nếu vậy tùy ý hiền tế, muốn viết sao cứ viết, nhưng tôi đây không gả chồng cho con gái tôi thì thôi.

Nói đoạn sai tửu bảo lấy bút và mượn người đến viết hộ. Trong thư viết như sau:

– Tôi là Lâm Xung làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, nhưng vì mắc tội phải đi đày ở Thương Châu, sau này sống chết thế nào chưa biết! Vậy nhân lập hưu thư tình nguyện cho vợ là Trương Thị trở về xuất giá, từ nay không can thiệp điều chi? Việc này tự ý định làm, không ai bức bách, sợ sau không tiện, nên viết để làm tin…

Ngày…tháng…năm…Lâm Xung ký tên và in tay ở dưới.

Vừa khi Lâm Xung ký xong, toan đưa cho Trương Giáo Đầu, thì thấy người vợ vừa gào vừa khóc, ở đâu đi đến lại có cả con trẻ cắp gói quần áo đi theo sau nữa. Lâm Xung trông thấy, liền quay ra bảo vợ rằng:

– Nàng ơi! Tôi có một câu chuyện, đã thưa với trượng nhân rồi, hiện nay tôi bị vận nạn thế này, chưa biết về sau còn sống chết hay không, vậy nàng còn đương xuân xanh tuổi trẻ, phải nên sớm liệu mà kiếm chỗ để nương thân, tôi đã viết bức hưu thư ở đây, nàng giữ lấy làm tin, không nên vì tôi để lỡ độ xuân xanh mới được.

Trương Thị nghe nói lại khóc nức nở mà rằng:

– Trời ơi! Tôi có điều chi thậm tệ, mà phu quân nỡ bỏ tôi như thế?

Lâm Xung an ủi rằng:

– Đó là lòng tốt của tôi, không muốn để cho bó buộc làm lỡ cả nhau, chuyện nên mới viết bức thư này, xin nàng cứ an tâm, đừng nghĩ nữa thêm phiền.

Trương Giáo Đầu quay lại bảo với con gái rằng:

– Thôi, con cứ lặng yên, để cho chồng con viết, sau đây ta không gả chồng cho con nữa thì thôi, mà vạn nhất chồng con nó không về đây nữa, thì sau này ta sẽ kiếm kế sinh nhai, cho con yên ấm một đời mà yên lòng thủ tiết, thế là cũng được chứ sao?

Trương Thị nghe nói đã cay đắng trong lòng, lại trông thấy phong thư ở đó, thì khóc lên một tiếng mà ngã ngất ra đây. Than ơi!

Vì đâu mưa gió bất bình

Để ai chia rẽ gánh tình vì ai?

Ngán thay là kiếp ở đời,

Anh hùng khi cũng thua trời mới căm!

Trương Giáo Đầu cùng Lâm Xung thấy vậy, thì đổ xô vào kêu gọi, hồi lâu mới tỉnh, đoạn rồi những đàn bà hàng xóm, cùng túm vào khuyên giải, mà dìu dắt Trương Thị ra về.

Bấy giờ Trương Giáo Đầu lại bảo Lâm Xung rằng:

– Hiền tế đi chuyến này, phải bảo trọng lấy thân, nếu có cơ hội gì, thì phải về đây mới được, còn vợ con ở nhà, thì tôi sẽ đem về cùng ở với tôi, để chớ khi tái hợp, hiền tế chớ nên phiền nghĩ làm chi. Nếu có ai đi về thì hiền tế năng gửi thư luôn cho tôi được biết.

Nói đoạn thì Lâm Xung lạy từ nhạc phụ Trương Giáo Đầu cùng lân bang, rồi khoác khăn gói, theo hai tên công sai ra đi. Hai tên công sai dẫn Lâm Xung về tới phòng Sứ Thần ký giam ở đó, rồi cùng nhau về nhà để sửa soạn hành lý. Khi đó hai tên công sai là Đổng Siêu và Tiết Bá đều người nào trở về nhà ấy, để sắp sửa đồ hành trang, có một tên tửu bảo ở tửu điếm gần đó, chạy đến nhà Đổng Siêu mà nói rằng:

– Có một vị quan nhân người ở hàng tôi, bảo mời ông đến chơi nói chuyện.

Đổng Siêu hỏi:

– Ai thế?

– Bẩm không biết là ai, ông ấy bảo cứ mời ông đến chơi thì biết.

Đổng Siêu nghe nói, liền theo tên tửu bảo, đi đến tửu điếm xem ai. Khi tới một gian gác ở tửu điếm ấy, thì thấy người kia ra vái chào Đổng Siêu mà nói rằng:

– Xin mời ông vào ngồi chơi.

Đổng Siêu thấy lạ mặt liền hỏi:

– Tôi trông ngài hình như chưa được quen biết bao giờ? Chẳng hay ngài có việc chi mà cho gọi đến đây?

Người kia cười mà đáp rằng:

– Xin ông cứ ngồi chơi, rồi một lát sẽ biết.

Nói xong kéo Đổng Siêu ngồi xuống một bên, sai tửu bảo gọi rượu và thức nhắm lên, rồi lại nói luôn rằng:

– Không biết rằng ở nhà ông Tiết Bá ở đâu?

Đổng Siêu đáp:

– Ở ngay ngõ trước kia.

Người kia nghe nói, liền sai tửu bảo chạy ba chân bốn cẳng đi mời Tiết Bá đến. Khi Tiết Bá đến nơi, Đổng Siêu liền quay ra bảo rằng:

– Vị quan nhân này mời chúng ta đến đây, không biết rằng nói chuyện gì?

Người kia nghe nói biết ngay rằng Tiết Bá, liền đứng lên mời ngồi.

Tiết Bá hỏi:

– Chúng tôi xin hỏi khí không phải, quý hiệu ngài là chi xin cho biết.

– Xin ông hãy ngồi xơi rượu với tôi rồi sẽ biết.

Nói đoạn sai tửu bảo rót rượu ba người cùng uống. Một lát người ấy móc túi ra lấy 10 lạng bạc, để ra bàn mà nói rằng:

– Món tiền này xin hai bác nhận cho, tôi có câu chuyện muốn phiền hai ông đây.

Đổng Siêu, Tiết Bá thấy vậy đều ngạc nhiên, không hiểu mà nói rằng:

– Chúng tôi không có được biết ngài, đau mà dám nhận tiền của ngài?

– Có phải hai ông sắp đi Thương Châu nay mai đó không?

– Vâng, chúng tôi vâng lời quan sắp giải Lâm Xung đến đấy.

– Bởi vậy tôi muốn phiền hai ông một chút, tôi là Lục Ngu Hầu người nhà quan Cao Thái Úy đây.

– Chết nỗi! Nếu vậy sao chúng tôi dám ngồi uống rượu với ngài?

– Không hề chi, các ông có hiểu việc Lâm Xung đối với quan Thái Úy thế nào không? Bây giờ ngài sai tôi đưa món tiền này để biếu các ông, các ông cứ nhận mà hết sức giúp cho. Cứ đến chỗ nào vắng vẻ, thì các ông giết phăng tên Lâm Xung ấy đi, rồi sau đi phủ Khai Phong, nếu có việc gì, thì quan Thái Úy sẽ đảm nhận cho, không ngại chi cả.

Đổng Siêu nghe nói liền đáp rằng:

– Việc ấy chỉ sợ không làm được! Vì trong công văn của phủ, chỉ nói là giải sang Thương Châu, chứ không nói gì đến sự giết hắn cả. Vả chăng ông ta còn đương khỏe mạnh, có thể nào hạ thủ ngay được, ngộ vạn nhất có xảy ra thế nào thì không tiện lắm.

Tiết Bá nói:

– Lão Đổng ơi! Lão vớ vẫn quá! Quan Thái Úy bảo thế nào mà ta không phải theo? Huống chi ngài đã ủy Ngu Hầu ra bảo mình, và lại cho tiền ở đây, thì anh còn từ nan thế nào được. Thôi anh em ta cứ chia lấy mà nhận lời thì hơn.

Nói đoạn hai người chia nhau lấy mười lạng bạc, rồi bảo Lục Khiêm rằng:

– Được, xin ngài cứ an tâm, chỉ trong mấy độ đường, là chúng tôi liệu ngay thôi.

Lục Khiêm cả mừng nói rằng:

– Hễ khi các ông làm xong, thì mang cái kim ấn ở mặt Lâm Xung về đây, để cho tôi biết làm tin. Gọi là có mấy lạng bạc đấy, các ông đừng chê ít mà cố sức cho, tôi xin đợi ở nhà đó.

Đoạn ba người lại uống một lúc nữa, bấy giờ Lục Khiêm mới trả tiền hàng, mà cùng nhau từ giả chia đường.

Khi đó Đổng Siêu, Tiết Bá đem tiền về giao để ở nhà, rồi khoác khăn gói hành lý, mỗi người vác một thanh gậy đến phòng Sứ Thần đem Lâm Xung giải đi.

Đời nhà Tống có lệ, phàm những quân lính giải tù, đi đến đâu ngủ trọ đều không phải trả tiền. Hôm ấy hai người đi hơn 30 dặm đường thì trời sắp tối, liền tìm vào một hàng cơm để trọ, rồi sáng hôm sau lại ăn uống mà đi thực sớm.

Bấy giờ đương độ tháng 6, tiết trời nóng bức lạ thường, mấy hôm trước Lâm Xung mới bị đòn, còn chưa việc gì, tới nay mới được vài hôm, bị khí trời nung nóng, làm cho các chỗ bị đánh đều sưng tất cả lên, đau đớn quá đỗi không làm soa đi được.

Tiết Bá thấy Lâm Xung đi chậm thì mắng rằng:

– Từ đây tới Thương Châu những 2000 dặm đường, mà đi như thế, thì bao giờ cho tới nơi được!

Lâm Xung phàn nàn rằng:

– Tôi chỉ vì bị mấy chục trượng, bây giờ trời nóng phát lên, cho nên không thể nào mà đi nhanh được, xin các ông thứ cho.

Đổng Siêu thấy vậy thì bảo rằng:

– Thôi thong thả vậy, không nói làm gì nữa.

Tiết Bá thì vừa đi vừa chưởi rủa, lảm nhảm xuốt cả ngày không thôi, khi trời đã sắp tối, vào một cái hàng kia, Lâm Xung biết thân phải giở khăn gói lấy ra ít tiền, bảo nhà hàng dọn rượu, để mời hai anh kia cùng uống. Bấy giờ hai anh đổ rượu cho Lâm Xung uống thật say, nằm vật xuống một xó, rồi Tiết Bá đi đun một nồi nước sôi, đổ ra cái chậu rửa chân, đem đến gọi Lâm Xung dậy mà bảo rằng:

– Giáo Đầu hãy dậy rửa chân đã rồi hãy ngủ.

Lâm Xung nghe nói toan dậy, song bị cai gông làm vướng không sao mà co mình dậy được, Tiết Bá liền bảo rằng:

– Để tôi rửa chân hộ cho vậy.

Lâm Xung vội gạt mà rằng:

– Có đâu dám thế!

Tiết Bá nói:

– Chỗ lữ thứ này cần gì, để tôi rửa đỡ cho.

Lâm Xung tin thực, thò chân cho Tiết Bá rửa hộ, Tiết Bá cầm chân Lâm Xung dúng vào một cái trong chậu nước sôi. Lâm Xung giật mình kéo cẳng lên, thì đã bỏng hai bàn chân, liền rên rỉ mà kêu rằng:

– Như thế thì sống sao được?

Tiết Bá làm bộ nói rằng:

– Xưa nay người có tội phải hầu công sai chứ, công sai phải hầu người có tội bao giờ? Bây giờ người ta đã có lòng tốt rửa chân cho tử tế, lại còn ỏe họe nước nóng nước lạnh, thực là làm phúc phải tội là thế.

Nói đoạn lại lẩm nhẩm mắng nhiếc suốt đêm, Lâm Xung không dám mở miệng nói câu gì cả. Sáng hôm sau Tiết Bá dậy sớm giục nhà hàng làm cơm ăn, Lâm Xung thì đau đớn nằm vật ra đấy, mà không ăn được, khi hai người ăn cơm xong, thấy Lâm Xung không đi được, thì Đổng Siêu đưa cho một đôi giầy đay để đi, Lâm Xung bất đắc dĩ phải xỏ chân vào giầy, rồi tính tiền tả tiền hàng, mà theo hai người lên đường.

Bấy giờ vào khoảng trống canh năm, Lâm Xung mới đi được chừng vài ba dặm đường, thì hai bên chân đi đôi giầy mới sát vào toạc hẳn cả ra, rồi máu chảy đầm đìa, đành chỉ kêu gọi ầm ĩ mà không sao đi được nữa.

Tiết Bá quay lại mắng rằng:

– Có đi thì đi mau, mà không thì gậy đánh vào đít bây giờ đấy.

Lâm Xung kêu vang rằng:

– Khốn nạn! Tôi dám lười đâu! Vì hai chân đau quá, không sao đi được nữa, xin các ông xét cho.

Đổng Siêu nói:

– Nếu vậy để tôi dắt cho mà đi.

Nói xong đến dắt Lâm Xung đi, khi đi được độ 4, 5 dặm đường, thì xem chừng Lâm Xung lại mỏi mệt quá, không sao mà bước đi được nữa. Bấy giờ trông đằng trước đằng sau đã có mấy khu rừng lớn cây cối um tùm, khói mây mờ mịt, tục gọi tên là Dã Trư Lâm, là một nơi rất hiểm ác quạnh hiu, xưa nay những kẻ vô lương, thường đút tiền cho đám không sai để kết quả tính mệnh biết bao tay hảo hán ở đó.

Khi ấy hai tên công sai cố dìu dắt cho Lâm Xung đi đến khu rừng ấy rồi Đổng Siêu thở dài mà nói rằng:

– Đi suốt cả ngày không được mươi dặm đường, thì bao giờ cho đến Thương Châu?

Tiết Bá nói:

– Tôi cũng mệt lắm không sao đi được nữa, hãy ngồi đây nghỉ một lát vậy.

Nói đoạn ba người cùng vất khăn gói hành lý xuống gốc cây, rồi mằm vật xuống để nghỉ. Vừa đi nằm chợp được một tí, thì bỗng thấy hai tên công sai kêu to lên một tiếng, mà nhảy choàng dậy, Lâm Xung thấy vậy, thì hỏi:

– Các ông làm sao thế?

Tiết Bá, Đổng Siêu bảo Lâm Xung rằng:

– Chúng tôi đương chợp mắt toan nghỉ một tí, nhưng lại sợ không có khóa xích gì, lỡ bác trốn mất thì sao?

– Tôi là thằng hảo hán ở đời, đã bị thế này, thì chịu vậy chứ có khi nào thèm chạy trốn mà chi!

Tiết Bá nói:

– Đành vậy, nhưng chúng tôi không yên tâm, muốn rằng trói bác vào đây thì mới tiện.

– Tùy ý các ông, muốn trói thì trói, chứ tôi có nói gì đâu?

Tiết Bá liền lấy thừng trói Lâm Xung vào gốc cây cẩn thận, rồi cùng với Đổng Siêu vớ lấy gậy, cầm ở tay giơ thẳng cánh lên nhắm ở giữa ót Lâm Xung để đánh. Hỡi ơi!

Hóa nhi thực có nỡ lòng,

Đang tay vùi dập anh hùng mà chơi!

Lấy ai xoay đất chuyển trời,

Trăm năm càng thấy chuyện đời càng đau!

Cây xanh lá biếc một màu,

Hỏi hồn nghĩa hiệp về đâu bây giờ?

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này gồm hai đoạn văn tự, tả Lâm giáo sư với sự hưu thư, và tả Dã Trư Lâm với sự roi vọt, một đoạn thấy rõ nhi nữ tình thâm, và một đoạn thấy rõ anh hùng khí đỏan, hãy xem tác giả tả văn, những chỗ khác nhau.

Hồi 8: Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách – Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu

Khi đó Tiết Bá giơ gậy nhằm giữa đầu Lâm Xung để đánh, thì bỗng dưng thấy một người thét như sấm ở đằng sau, rồi thấy thanh thuyền trượng đánh vút một cái bắn phăng ngay gậy của Tiết Bá đi lăng lắc đâu mất, đoạn rồi có một vị hòa thượng ở đâu hiện thân đến mà quát rằng:

– Tao ở rừng này, nghe hai chúng bây nói đã lâu.

Nói đoạn múa thuyền trượng giơ giới đao, toan đánh hai công sai.

Bấy giờ Lâm Xung mở bừng mắt ra trông thấy vị hòa thượng mình mặc áo trắng, một tay cầm giới đao, một tay cầm thuyền trượng, thì nhận ra ngay là Lỗ Trí Thâm, liền kêu lên rằng:

– Sư huynh hãy khoan tay đừng đánh vội, để tôi nói câu này đã.

Trí Thâm nghe nói, dừng tay đao trượng, rồi trừng hai con mắt nhìn Đổng Siêu, Tiết Bá bằng một cách nghiêm khắc đáng kinh. Hai anh ấy thấy vậy thì đứng nhũn người ra, không còn cựa quậy được nữa.

Lâm Xung nói:

– Việc này là tại Cao Thái Úy bảo Lục Ngu Hầu sai họ giết tôi, chứ không phải tội tự họ đâu? Nếu sư huynh giết họ thì oan cho họ lắm!

Trí Thâm liền quay sang cắt thừng trói ra, mà dắt Lâm Xung dậy rồi kể chuyện rằng:

– Từ khi tương biệt ở chỗ mua bảo đao rồi, sau nghe bác bị Cao Cầu ức hiếp, bắt đi đày ở Thương Châu, tôi liền đến phủ Khai Phong để tìm mà không gặp. Đến lúc biết tin bị giam ở phòng Sứ Thần, thì tôi đã toan đến đấy, song lại thấy có một tên tửu bảo, đi tìm hai đứa công sai này, để đến bàn thì thầm, to nhỏ với một người nữa tôi liền có bụng ngờ, chắc là nó toan hại bác, cho nên phải cố đi theo. Tối hôm qua vào hàng cơm, thấy hai thằng ăn mày này nó làm trời làm đất, nhúng chân bác vào chậu nước sôi, tôi cũng biết cả, đã tính giết ngay lúc bấy giờ, nhưng lại sợ hàng quán đông người không tiện, cho nên phải thôi. Sáng hôm nay lúc đầu trống canh năm, bác sắp ra đi tôi đã đến đây trước, đoán chắc đến đây tất nhiên quân này nó hại bác, thì tôi sẽ giết đi, ai ngờ quả nhiên thế thực. Giá tôi không sớm ở đây, thì tính mạng bác còn đâu với nó được nữa! Bác cứ yên lặng để tôi giết phăng chúng nó là xong.

– Thôi bây giờ sư huynh đã cứu được tôi rồi, còn giết người ta làm gì nữa.

Trí Thâm quát bảo hai tên công sai rằng:

– Nếu ta không nể anh em bạn, thì ta xé xác chúng bay ra làm mắm đấy.

Nói xong bỏ giới đao vào bao và ra lệnh rằng:

– Hai thằng ăn mày này phải dắt bạn ta đi theo ta mới được.

Hai tên công sai nghe nói cúi đầu cúi cổ nhặt lấy khăn gói cho Lâm Xung rồi hai người lại cùng đỡ Lâm Xung, để đi theo Lỗ Trí Thâm.

Khi ra khỏi rừng được ba bốn dặm đường, thấy có một hàng rượu con con ở đó, Trí Thâm liền dẫn bầy người vào nghỉ. Đoạn gọi tửu bảo lấy bánh và rượu thịt lên để cùng nhau ăn uống.

Bấy giờ hai tên công sai mới khép nép mà hỏi rằng:

– Bẩm sư phụ, người trụ trì ở chùa nào, chúng con chưa được biết?

Lỗ Trí Thâm cười mà đáp rằng:

– Các anh hỏi ta làm gì, định về tâu nộp với Cao Cầu phải chăng? Ta nói thiệt, ai sợ hắn, chứ ta đây không sợ gì đâu? Nếu ta có gặp hắn, thì ta cũng đãi hắn mấy trăm cái thuyền trượng này đã.

Hai tên công sai nghe vậy thì câm như miệng hến, không dám nói năng gì nữa. Được một lát cơm rượu xong rồi, liền cùng tính trả tiền hàng, mà cùng nhau trở ra, Lâm Xung hỏi Lỗ Trí Thâm rằng:

– Sư huynh định đi đâu bây giờ?

Trí Thâm đáp rằng:

– Giết người phải lấy máu, cứu người thì phải tới nơi, vậy tất nhiên tôi phải đưa bác sang đến tận Thương Châu, chứ không đành lòng mà để bác đi một mình được.

Hai tên công sai nghe thấy vậy, thì cay đắng trong lòng, chắc rằng mưu kế của mình không thi hành được nữa, nhưng cũng đành chịu vậy thôi. Từ đó các cụ nhất nhất theo ở Trí Thâm, bảo đi thì đi, bảo đứng thì đứng, tử tế ra thì mắng nhiếc, láo xấc ra thì roi vọt, không anh nào dám ho he gì cả. Cách ít lâu thuê được cỗ xe, Trí Thâm để cho Lâm Xung ngồi trên xe mà mình đi đất với hai tên công sai.

Trong khi đi đường, Lỗ Trí Thâm thường mua các thứ rượu thịt cho Lâm Xung ăn, và cả hai tên công sai được ăn ké vào đó. Duy mỗi khi đến hàng quán để nghỉ, thì Trí Thâm lại bắt hai tên công sai phải thổi cơm, hầu hạ luôn cạnh không anh nào dám cưỡng.

Thỉnh thoảng hai anh lại bàn thầm với nhau rằng:

– Việc này, khi ta trở về đến Đông Kinh, mà Cao Thái Úy hỏi đến, thì ta biết nói làm sao cho được?

Tiết Bá bàn định một kế rằng:

– Mới đây nghe nói ở vườn rau Giải Vũ thuộc chùa Tướng Quốc, có một lão sư mới đến, tên gọi Lỗ Trí Thâm, có lẽ chính là anh này đây hẳn. Nếu quả vậy thì khi ta trở về, ta cứ nói thực với Thái Úy rằng:

– “Chúng tôi định giết Lâm Xung ở rừng Dã Trư, nhưng chẳng may bị lão sư ấy nó ngăn cản, mà nó lại đưa sang đến tận Thương Châu, cho nên không sao mà hạ thủ được”. Đoạn rồi hai ta trả lại 10 lạng bạc cho Lục Khiêm cũng được chứ gì.

Hai anh bàn định cẩn thận với nhau, rồi lại chăm chăm theo Lỗ Trí Thâm, mà không hề có một điều gì cưỡng trái.

Khi đi được 17, 18 ngày đường, Lỗ Trí Thâm dò biết là ở đó cách Thương Châu còn có dăm bảy dặm nữa, mà lại toàn là nơi đông đúc sầm uất, chứ không vắng vẻ như trước, thì trong bụng đã hơi yên vững, liền tìm vào một chỗ ngồi nghỉ và bảo với Lâm Xung rằng:

– Từ đây đến Thương Châu đường xá đã đông vui, mà cũng không còn xa mấy nữa, vậy tôi xin từ biệt bác, để rồi khi khác sẽ gặp nhau.

Lâm Xung bồi hồi cảm tạ mà nói rằng:

– Bây giờ sư huynh có về, thì xin nói chuyện đi đường cho nhà tôi được biết, còn tôi đây nếu trời còn cho sống, thì tất nhiên có ngày trả nghĩa sư huynh.

Trí Thâm lại lấy ra mấy lạng bạc đưa cho Lâm Xung, và lại đưa cho đám công sai mấy lạng mà dặn rằng:

– Lũ bây đáng lẽ ta chém cổ đi rồi, nhưng vì ta nể mặt anh em bạn mà tha cho đấy, vậy từ đây trở đi, chúng bay phải nên cẩn thận, đừng trở bụng chó má ấy ra nữa, mà nguy hiểm đến thân nghe chưa?

Hai tên công sai giơ tay ra đỡ lấy tiền, và đáp rằng:

– Bẩm ngài, đó là quan Thái Úy bắt như vậy, chứ chúng tôi đây có bao giờ đem lòng tàn nhẫn mà cư xử với ai!

Nói đoạn vừa mới toan chia tiền với nhau, thì Lỗ Trí Thâm lại trừng mắt nhìn hai tên công sai, rồi lại trông sang gốc cây thông gần đó mà hỏi rằng:

– Đầu chúng bây có rắn bằng cây gỗ thông này không?

– Bẩm ngài, đầu chúng con là thịt da cha mẹ sinh thành, có đâu mà rắn như thế được.

Lỗ Trí Thâm phăm phăm vác cây thuyền trượng đánh vào gốc thông một cái thật mạnh, sâu vào đến hai ba tấc gãy răng rắc xuống một lượt, rồi quay ra thét bảo hai tên công sai rằng:

– Bây trông đó, nếu mà mang tâm phản trắc, thì ta cho đầu chúng bây cũng như cây thông ấy.

Lũ công sai thấy vậy, thì hoa mặt choáng người, mà không dám thở nữa.

Đoạn rồi Trí Thâm đeo đao vác trượng, từ biệt Lâm Xung mà quay trở về. Lâm Xung thấy Trí Thâm quay về rồi, liền bảo đám công sai rằng:

– Bây giờ chúng ta đi đi thôi.

Bấy giờ hai tên công sai vừa tỉnh hồn, định mắt lại mà hỏi Lâm Xung rằng:

– Gớm, nhà sư ấy sao mà khỏe đến thế, đánh gãy hẳn cây thông dễ như bỡn vậy.

– Thế đã thấm vào đâu, đến như cây liễu ở chùa Tướng Quốc ông ấy còn nhổ được cả gốc lẫn rễ lên nữa.

Đổng Siêu, Tiết Bá nghe nói lại trông nhau, lắc đầu le lưỡi mà kinh sợ vô cùng. Đoạn ba người cùng kéo nhau đi.

Trưa hôm ấy đến một tửu điếm ở gần bên cạnh đường cái quan, Lâm Xung bèn mời Đổng Siêu, Tiết Bá vào nghỉ. Khi vào tới nơi, thấy hai ba tên tửu bảo rót rượu mang thịt, đưa hến nơi này đến nơi khác, mà chỗ Lâm Xung ngồi, thì không ai nhìn đến. Lâm Xung đợi mãi một hồi lâu, cũng không thấy gì cả, lấy làm sốt ruột, liền đập tay xuống bàn mà hỏi rằng:

– Chủ nhân đâu? Ngươi khinh ta là kẻ phạm nhân mà không thèm tiếp đến là nghĩa lý gì? Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu?

Chủ nhân nghe nói liền đáp:

– Các ngươi không biết, tôi có lòng tử tế đãi các người đấy.

– Tử tế gì? Khách đến không thèm tiếp, còn gì là tử tế.

– Để tôi nói cho mà nghe: Trong thôn kia có một ông đại tài chủ, tên gọi là Sài Tiến, ở đây thường gọi là Sài Đại Quan Nhân, mà đám giang hồ thì vẫn gọi là Tiểu Đoàn Phong Sài Tiến, vốn là con cháu Sài Thế Tôn nhà Đại Chu khi trước. Từ khi Trần Kiều binh biến nhường ngôi cho Thái Tổ rồi. Vũ Đức hoàng đế mới sắc phong cho thề thư thiết khoán ở nhà ông ta, vì thế mà không ai dám khinh rẻ. Ông ta thích chiêu hào những hảo hán trên đời, cho nên trong nhà lúc nào cũng nuôi đến năm bảy mươi người ở đó! Lại thường dặn ở nhà tôi, nếu thấy những người nào mắc tội đày ải qua đây, thì đưa vào để ông ta giúp đỡ, bởi vậy nên tôi không dám bán rượu cho các người, sợ khi uống rượu đỏ mặt vào, mà tới nơi, thì ông ta lại cho là phong lưu, mà không giúp đỡ nữa chăng!

Lâm Xung nghe nói quay lại bảo với Đổng Siêu, Tiết Bá rằng:

– Khi tôi còn làm Giáo Đầu ở Đông Kinh, vẫn thường nghe thấy tiếng Sài Đại Quan Nhân, nhưng ngày nay mới biết là ở đây, vậy bất nhược ta thử vào đấy xem sao?

Đổng Siêu, Tiết Bá nghĩ một lát rồi nói:

– Như vậy có thiệt hại gì đến ta mà không đi.

Nói đoạn liền thu thập hành lý, mà đến hỏi chủ hàng rằng:

– Nhà Sài Đại Quan Nhân ở chỗ nào, xin chỉ giúp cho, chúng tôi đương tìm đến đấy.

Chủ hàng trỏ về phía trước mặt mà bảo rằng:

– Cách đây độ hai ba dặm đường, đi qua cái cầu đá lớn, rồi đến một chỗ góc đường gần quanh, thì có một nơi trang viện lớn, tức là ở đó.

Lũ Lâm Xung bèn tạ chủ nhân rồi cùng nhau theo lối ấy mà đi. Quả nhiên đi độ 2, 3 dặm đường thì đến một tòa cầu đá lớn, đoạn rồi thấy đường rộng thênh thang, chẳng khác gì một nơi quan lộ, gần trông có một đám tơ liễu xanh rì, hiện ra một tòa trang viện rất to, chung quanh toàn là hào rãnh đào sâu, mà trên bờ trồng tinh dương liễu. Ba người dẫn nhau đi theo con đường lớn, vòng quanh sang mặt tả, thì đến một nơi cầu nhỏ cổng trong.

Bấy giờ có ba bốn tên trang khách, đương ngồi hóng mát ở đó. Lâm Xung cùng hai tên công sai liền vái chào mà nói rằng:

– Dám chào các ông, xin phiền các ông vào nói với Quan Nhân rằng: “Có tên Lâm Xung là phạm nhân ở Đông Kinh qua đây, xin chào yết kiến”.

Lũ trang khách nghe nói thì đáp rằng:

– Các ông hôm nay thực là đen lắm, giá có gặp Quan Nhân ở nhà, thì ít ra cũng phải có rượu thịt tiền nong để đãi, nhưng tiếc vì ngài lại mới đi săn sáng hôm nay rồi.

– Bẩm ngài đi săn bao giờ mới về?

– Cái đó không biết đâu là chừng, chỉ sợ ngài lại đi sang nghĩ bên Đông Trang, thì khó lòng gặp được!

Lâm Xung thở dài mà than rằng:

– Nếu vậy, thì chúng tôi kém phúc đức quá! Thôi, xin chào các ông, chúng tôi đi vậy!

Nói xong ba người thui thủi đi ra.

Dặm nghìn nước thẳm non xa,

Tiền đồ man mác ai là tương tri?

Lạ thay trong lúc gian nguy?

Cơn đen đen cả đường đi lối về.

Bấy giờ trong bụng Lâm Xung hơi có phần buồn bã, trách thương cho số phận long đong, đi đến đâu cũng lỡ làng không gặp. Chợt đâu vừa đi được nửa dặm đường, thì thấy một bọn đương cưỡi ngựa ở quãng rừng xa trở lại, đằng trước có một người sang trọng, vào trạc ngoài 30 tuổi, lưng đeo một cây cung, một túi tên, cưỡi con ngựa trắng lông quăn, mà dẫn lũ sau đi về trang viện.

Lâm Xung thấy vậy trong bụng đã đoán chắc là Sài Đại Quan Nhân về đó, song còn ngờ ngợ chưa dám hỏi ngay.

Đương lúc trù trừ chưa quyết, thì đã thấy người ấy phóng ngựa đến trước mặt Lâm Xung mà hỏi rằng:

– Người đeo gông là ai đó?

Lâm Xung thấy hỏi liền cúi đầu chào mà đáp rằng:

– Tôi là Cấm Quân Giáo Đầu Lâm Xung ở Đông Kinh, bị quan Cao Thái Úy ức hiếp, bắt đi đày sang Thương Châu, nhân qua đây thấy nói có quan Sài Đại Quan Nhân là tay hảo hán, hay chiêu hiền nạp sĩ xưa nay, cho nên muốn vào yết kiến, nhưng chẳng may lại không được gặp.

Lâm Xung vừa nói dứt lời, thì người kia vội nhảy xuống ngựa đi gần đến tận nơi mà nói rằng:

– Nếu vậy thì tôi xin lỗi, không nghênh tiếp được ngài, xin ngài tha thứ cho.

Nói xong cúi rạp xuống đất mà lạy, đoạn rồi dắt Lâm Xung đi vào trang viện.

Khi vào tới nhà khách, Sài Tiến mời Lâm Xung ngồi chơi rồi nói:

– Chúng tôi được nghe danh Giáo Đầu đã lâu, nay ngài lại đến đây cho tôi được thừa tiếp, thì thực là thỏa lòng khát vọng vô cùng.

– Lâm Xung tôi vẫn biết tiếng Quan Nhân, khắp trong bốn bể ai ai cũng có lòng kính phục, nhưng hiềm vì chưa có dịp nào mà bái yết tôn nhan, nay vì bước oan khổ lưu ly, mà lại được tới đây để hầu ngài như thế, thì thực may lắm.

Sài Tiến khiêm tốn hồi lâu, rồi gọi trang khách sai dọn rượu để uống.

Lâm Xung có ý từ chối mà rằng:

– Quan Nhân có lòng hạ cố như thế là quá đáng, còn đâu dám phiền nhiễu làm chi!

Sài Tiến nhất định không nghe, đáp rằng:

– Mấy khi Giáo Đầu đến đây, có lẽ nào lại vô lễ như thế được.

Nói đoạn thúc trang khách lấy rượu lên, rót luôn ba chén mời Lâm Xung. Lâm Xung uống ba chén, lại rót ba chén để tạ lại Sài Tiến. Đoạn rồi Sài Tiến tháo cung bỏ tên, đưa người nhà cất đi, mà ngồi tiếp rượu Lâm Xung. Sài Tiến nhường Lâm Xung ngồi khách vị mà tự mình ngồi chủ vị, còn hai tên công sai thì ngồi dưới Lâm Xung. Được một lát mặt trời đã lặn non tây, người nhà lại bày các thực phẩm la liệt trên bàn, nào là hải vị sơn hào, không gì là không có.

Sài Tiến cất chén mời Lâm Xung uống rượu, lấy các món nhắm rồi giở chuyện giang hồ, đàm luận với nhau rất là vui thú.

Đương khi chén tạc chén thù, thì thấy trang khách vào báo rằng:

– Có Hồng Giáo Sư sang chơi.

Sài Tiến quay bảo trang khách rằng:

– Bây mời vào đây, uống rượu một thể cho vui.

Đoạn rồi sai người kê thêm bàn ghế, để ngồi tiếp vào đó.

Khi Hồng Giáo Sư vào, Lâm Xung đoán chắc là thầy dạy Sài Tiến liền đứng dậy cúi đầu mà chào rằng:

– Tôi Lâm Xung kính chào Giáo Sư.

Hồng Giáo Đầu nghe thấy Lâm Xung chào, thì cứ lặng yên không chào lại, mà cũng không thèm để mắt tới. Lâm Xung thấy vậy, thì cúi mặt xuống mà không dám ngẩng đầu lên. Sài Tiến trỏ vào Lâm Xung mà bảo Hồng Giáo Đầu rằng:

– Ông này là Lâm Xung Giáo Đầu, dạy 80 vạn cấm quân ở Đông Kinh đấy, xin giới thiệu để ngài biết.

Lâm Xung thấy Sài Tiến nói xong, liền cúi rạp xuống đất, lạy chào Hồng Giáo Sư. Bấy giờ Hồng Giáo Sư cũng không đáp lễ, mà chỉ nói một câu rằng:

– Thôi đừng lạy nữa.

Sài Tiến thấy vậy, trong lòng có ý không thích, song cũng không dám nói ra, Lâm Xung lạy xong rồi, nhường Hồng Giáo Sư ngồi lên trên, mà lui xuống ghế dưới, Hồng Giáo Đầu cũng cứ ngồi phăng ghế trên, mà không khiêm tốn một chút gì cả, Sài Tiến thấy vậy, trong lòng lấy làm khó chịu, không bằng lòng chút nào cả, song không muốn nói ra.

Hồng Giáo Sư ngồi một lát rồi mới hỏi Sài Tiến rằng:

– Hôm nay làm sao Đại Quan Nhân lại hậu đãi một kẻ đi đày như thế?

Sài Tiến nói:

– Ông này là Giáo Đầu dạy 80 vạn Cấm binh ở Kinh Sư, chứ chẳng phải là người thường đâu?

– Chết nỗi! Đại Quan Nhân lầm rồi, vì ngài hay thích chơi võ nghệ, cho nên bao nhiêu bọn tù tội qua đây, cũng nói hươu nói vượn, mượn tiếng Giáo Đầu mà kiếm chén đó thôi, Quan Nhân tưởng họ là thực hay sao?

Lâm Xung nghe vậy, cứ ngồi lặng yên, không nói gì hết cả.

Sài Tiến bảo Hồng Giáo Đầu rằng:

– Người ta giả mạo sao được, ông chớ coi khinh nữa, mà…

Hồng Giáo Đầu nghe đến đó, thì đứng phắt ngay dậy mà nói rằng:

– Tôi chẳng khinh ai, nhưng nếu hắn có dám đi với tôi một bài gậy, thì mới có thể biết là Giáo Đầu hay không được.

Sài Tiến cả cười mà rằng:

– Tốt lắm! Tốt lắm! Lâm Võ Sư nghĩ sao?

Lâm Xung ra dáng khiêm tốn mà đáp rằng:

– Chúng tôi có đâu dám thế.

Hồng Giáo Đầu thấy vậy, đoán chắc là Lâm Xung không biết gì, liền làm bộ thách thức già lên. Bấy giờ Sài Tiến vừa phần muốn xem võ nghệ của Lâm Xung, có giỏi hay không, vừa phần thì cũng muốn Lâm Xung đánh đổ Hồng Giáo Đầu, để cho hết múa mép, liền nói lên rằng:

– Được lắm! Hãy xin uống rượu đã, để chốc nữa trăng mọc rồi sẽ hay.

Nói xong hai người cùng ngồi uống rượu. Khi uống được năm bảy chén, thì bóng Nga đã vằng vặc rạng soi trước cửa, Sài Tiến liền đứng dậy mà nói rằng:

– Bây giờ hai vị Giáo Đầu, thử đấu một ngọn xem sao?

Lâm Xung nghe nói, cũng muốn đấu chơi, nhưng lại e khi đánh ngã ông Giáo Sư ấy, thì dối với Sài Tiến có điều gì không tiện, nên đành phải ngồi im, không dám nói gì cả.

Sài Tiến biết Lâm Xung có ý trù trừ, liền nói lên rằng:

– Hồng Giáo Sư cũng mới đến ở đây, song vùng này không có ai là địch thủ, vậy Lâm Võ Sư đấu thử xem sao? Không có điều chi mà ngại! Vả tôi cũng muốn nhân đây được xem võ nghệ của các ngài một thể, xin ngài chớ từ nan.

Lâm Xung nghe Sài Tiến nói câu ấy, mới hiểu rõ ý tứ, liền muốn đứng dậy để đánh thử ngay. Bấy giờ Hồng Giáo Đầu lại đứng lên trước mà thách thức rằng:

– Nào, mau lên, thử đấu với ta một bài xem sao!

Nói xong nhảy ra sân cởi áo ngoài ra, rồi lấy một cây gậy múa may xoay xở, mà kêu lên rằng:

– Ra đây, mau, mau!

Sài Tiến thấy Hồng Giáo Đầu ra dáng cấp bách, liền nói với Lâm Xung rằng:

– Võ Sư cứ thử đi một bài có ngại chi!

Khi đó Lâm Xung làm ra dáng rụt rè mà nói:

– Xin Quan Nhân chớ cười mới được.

Nói xong liền lấy một cây gậy chạy ra sân, bảo Hồng Giáo Đầu rằng:

– Xin ngài tha lỗi cho.

Hồng Giáo Đầu thấy Lâm Xung bước ra, thì trong bụng tức giận, muốn nuốt sống được ngay mới thích, liền vác gậy đến đấu luôn, mà không nói năng gì cả. Hai người mới quần nhau được độ năm bảy hiệp, thì Lâm Xung bỗng nhảy ra ngoài mà kêu lên rằng:

– Hãy khoan!

Sài Tiến thấy vậy, chạy đến hỏi Lâm Xung rằng:

– Sao Võ Sư đương đấu lại thôi thế?

– Thưa ngài, có lẽ tôi thua mất.

– Có lẽ đâu vừa đánh mấy hiệp mà đã thua ngay thế được.

– Thưa ngài, vì tôi còn bị gông trói vướng mắc, tất nhiên không thể nào đấu được.

Sài Tiến nghe vậy, liền cười mà nói rằng:

– Trời ôi! Tôi quên đi mất đấy, được có khó gì đâu.

Nói đoạn sai người lấy 10 lạng bạc liền đưa cho đám công sai mà bảo rằng:

– Thế này thì không phải, tôi phiền hai ông làm ơn hãy tạm tháo gông cho Lâm Giáo Đầu một lúc. Rồi sáng mai đi, sẽ lại lắp vào tử tế, nếu có xảy chuyện gì, trách nhiệm tôi xin chịu cả? Mười lạng bạc đây xin bác nhận lấy cho.

Đổng Siêu, Tiết Bá thấy Sài Tiến là tay lỗi lạc phi thường, thì cũng không dám trái ý, vả chăng lại được 10 lạng bạc bỏ túi, mà Lâm Xung cũng không có lẽ trốn ngay đi đâu được, vậy thì làm gì không nhận cho xong, liền nhận ngay lấy tiền, mà tháo gông cho Lâm Xung lập tức.

Sài Tiến cả mừng mà reo lên rằng:

– Nào bây giờ hai ông Giáo Sư thử một keo xem sao?

Khi đó Hồng Giáo Đầu thấy tay gậy của Lâm Xung lúc trước cũng hơi có vẻ rối loạn, thì trong bụng đã coi thường, mà cho là không thấm vào đâu, liền xăm xăm chạy toan ra để đánh.

Sài Tiến lại dìu Hồng Giáo Đầu khoan lại, rồi gọi trang khách lấy lên 25 lạng bạc, mà nói rằng:

– Món tiền này gọi là tạm làm tặng vật, vậy nếu ngài nào được, thì xin thu lấy cả cho.

Hồng Giáo Đầu thấy vậy, lại múa mang đầu gậy diễn ra một thế “Bả hỏa siêu thiên” để nạt Lâm Xung kinh sợ, bên kia Lâm Xung hiểu ý Sài Tiến muốn cho mình được, nên mới quăng tiền ra như vậy, liền cũng múa gậy mà diễn thế “Bát thảo tâm sà”một lúc.

Bấy giờ Hồng Giáo Đầu thét lên một tiếng, rồi vác gậy xông vào đánh Lâm Xung, Lâm Xung lùi về đằng sau một bước, Hồng Giáo Đầu sấn lên một bước, rồi giơ gậy vụt luôn một cái nữa.

Lâm Xung xem những cách tiến thoái của Hồng Giáo Đầu hơi loạn, liền giơ gậy lia từ mặt đất lia lên một cái rất mạnh, Hồng Giáo Đầu không kịp giở tay đỡ, bị đầu gậy của Lâm Xung đánh vào đầu một cái nên thân, đoạn rồi bật hẳn cây gậy ở trong tay đi, mà ngã xuống đất.

Sài Tiến thấy vậy mừng reo lên, rồi gọi người lấy rượu ra rót mừng Lâm Xung một chén, còn Hồng Giáo Đầu thì ngã xuống sân mà gượng mãi không sao dậy được, chúng thấy thế ai cũng cười ầm cả lên, rồi túm vào để đỡ Hồng Giáo Đầu dậy. Hồng Giáo Đầu bò được dậy lấy làm hổ thẹn quá chừng vội lẻn cút đi lúc nào, không ai biết nữa.

Bấy giờ Sài Tiến dắt tay Lâm Xung vào nhà trong, mời ngồi đánh rồi lại sai đem tiền thưởng cho Lâm Xung, Lâm Xung từ chối không được, sau bất đắc dĩ phải cảm ơn, mà nhận lấy cho xong. Đoạn rồi Sài Tiến lưu Lâm Xung ở luôn trong trại năm bảy hôm nữa, thiết đãi rất là long trọng. Sau đám công sai thấy lưu luyến quá lâu, bèn có ý thúc giục, để cho Lâm Xung ra đi.

Sài Tiến biết thế không lưu được, liền đặt tiệc tiễn hành, và viết hai phong thư đưa cho Lâm Xung mà dặn rằng:

– Quan Đại Doãn ở Thương Châu đối với tôi rất là tử tế, mà thấy người Quản doanh hay là Sai Bát ở đấy thì lại là thân mật với tôi lắm, vậy tôi gửi hai phong thư này, xin ngài cứ đưa cho họ, tất là họ phải biệt nhãn đãi ngài.

Nói đoạn lấy 25 lạng bạc đưa tặng Lâm Xung, và lấy 5 lạng bạc tặng lũ công sai một thể. Sáng hôm sau cơm nước xong rồi, Sài Tiến sai trang khách quảy hành lý đi theo ba người, bấy giờ Lâm Xung lại đeo gông như trước, và từ biệt Sài Tiến để lên đường.

Sài Tiến tiễn chân ra đến cổng trang, mà dặn rằng:

– Bây giờ ngài sang đây phải bảo trọng lấy thân, rồi đến mùa đông thì tôi xin đưa quần áo rét sang để ngài dùng cẩn thận.

Lâm Xung bái tạ mà rằng:

– Tấm lòng nhân hậu của Quan Nhân, bao giờ tôi báo được.

Đoạn rồi hai tên công sai cũng bái tạ Sài Tiến mà đi.

Ân cần trong lúc chia tay,

Anh hùng ly biệt cho hay khác thường!

Trưa hôm ấy, ba người đi tới thành Thương Châu, liền cho đám trang khách trở về, rồi ba người cùng mang lấy khăn gói hành lý mà vào chầu nha để đệ trình công văn.

Khi Châu Doãn xem xong, rồi phê một đạo hồi văn giao cho hai tên trở về Đông Kinh, còn Lâm Xung thì giao xuống phòng đề lao để đợi lệnh.

Lâm Xung bước vào phòng đợi ở đề lao, đã thấy bao nhiêu những tội nhân, lao xao chạy đến, bảo với Lâm Xung rằng:

– Ở đây có một người Quản Doanh và một người Sai Bát, đều là những tay ghê gớm bất nhân cả. Nếu có tiền nong đút lót thì họ còn cho được tử tế, bằng không thì họ đút ngay vào nhà hầm làm cho khốn nạn không sao mà chịu được nữa. Lại còn có một cách, nếu mình có tiền cho họ, thì khi bắt đầu vào đỡ phải chịu 100 roi ra oai, chỉ nói dối là có bệnh cũng được, thế mà không có tiền, thì làm thế nào họ cũng đánh đủ 100 roi ấy, dẫu có sống được cũng đến tồi tàn đau đớn mới thôi.

Lâm Xung nghe nói liền hỏi:

– Như vậy thì phải đưa bao nhiêu tiền mới xong?

– Muốn được cho tử tế, thì hai người ấy, tất phải đưa mỗi người 5 lạng bạc mới xong.

Đương khi nói chuyện, thì đã thấy tên Sai Bát đến hỏi rằng:

– Tên nào là tên phạm tội sung quân mới đến? Đâu?

Lâm Xung thấy hỏi vậy, bèn đứng lên nói rằng:

– Thưa chúng tôi đây ạ.

Sai Bát thấ Lâm Xung nói vậy, mà không có tiền nong gì đưa ra, liền biến hẳn sắc mặt đi, rồi trỏ vào Lâm Xung mà mắng rằng:

– Thằng này gớm thực, sao mầy trông thấy tao mà mầy không lạy? Mầy có biết khi ở Đông Kinh làm nên tội ác thế nào? Thế mà đến đây mầy còn lên mặt với tao à? Tao nom mặt thằng này xám xì lại, như thế là đời mầy không có lúc nào mà ngóc cổ lên được đâu? Mầy là đồ băm không đứt, đánh không chết, mà lại lạc vào tay ta, để rồi chốc nữa ta cho mầy biết.

Sai Bát vừa nói vừa mắng, tháo thốc luôn một hồi, mắng lấy mắng để làm cho Lâm Xung muốn nói cũng không biết nói vào đâu được nữa! Lũ tội nhân đương đứng quanh đấy, thấy vậy thì lảng vảng cút cả mỗi anh một nơi.

Bấy giờ còn một mình Lâm Xung đứng lại, đợi cho hết cơn gắt, liền lấy ra 5 lạng bạc đưa cho tên Sai Bát rồi làm bộ vui cười mà nói rằng:

– Thưa bác, tôi có 5 lạng bạc gọi là có chút lòng thành xin bác nhận giúp cho.

Sai Bát trông thấy 5 lạng bạc liền hỏi:

– Cái này là đưa cho ông Quản Doanh với tôi nữa đây, có phải không?

– Không, đây là tôi kính tặng riêng ngài, còn ông Quản Doanh thì tôi đã có mười lạng bạc đây, để tôi phiền bác đưa giúp hộ cho.

Bấy giờ tên Sai Bát nhìn Lâm Xung rồi cười mà bảo rằng:

– Lâm Giáo Đầu, tôi nghe tiếng Giáo Đầu đã lâu, thực là một tay hảo hán ở đời, chẳng qua Cao Thái Úy thù hằn mà hãm hại đấy thôi, nhưng thế nào mặc lòng, sau này tất nhiên cũng khá, vì một người tướng mạo đường đường, mà lại có tiếng tăm lừng lẫy như Giáo Đầu thì làm chi mà chẳng phen chức trọng quyền cao uy quyền to tát… !

Lâm Xung nghe đến đó đã chán cả tai, liền nói lên rằng:

– Vâng, thôi trăm sự nhờ ở bác cả, đây tôi có bức thư Sài Đại Quan Nhân gửi đến, phiền bác làm ơn đưa cho ông Quản Doanh giúp hộ.

Nói đoạn đưa bức thư ra cho viên Sai Bát.

Sai Bát nói:

– Được lắm, có bức thư của Sài Đại Quan Nhân, thì cũng như thêm 10 lạng bạc nữa rồi còn ngại điều chi? Nhưng nếu lát nữa Quản Doanh có đến đây, gọi đánh 100 roi ra oai, thì Giáo Đầu cứ bảo là mới ốm dậy, để rồi tôi nói đỡ cho, như thế thì người khác họ khỏi ngờ.

Nói xong nhận lấy thư và tiền rồi đi ra.

Lâm Xung thấy thế thì thở dài, than một mình rằng:

– “Tha hồ nghĩa nặng tình sâu, Anh em máu mủ chẳng đâu bằng tiền” thế gian nói không sai câu gì cả!

Bấy giờ tên Sai Bát nhận 10 lạng bạc và một bức thư của Lâm Xung, thì chàng ăn xén đứt đi 5 lạng, chỉ còn có 5 lạng, đưa lên cho Quản Doanh, mà tán tỉnh Lâm Xung là tay giỏi tay tài, chỉ vì Cao Thái Úy giá vạ vừa oan, chứ chẳng có tội chi là nặng, vả chăng lại có thư của Sài Đại Quan Nhân gửi đến đây, thì tất nhiên phải xử lý cho khác người ta mới được.

Quản Doanh xem thư xong, rồi cho người đòi Lâm Xung lên điểm danh. Khi Lâm Xung lên tới nơi Quản Doanh bảo ngay rằng:

– Anh là phạm nhân ở bên Đông Kinh mới đến đây phải không? Theo như luật cũ có đức Thái Tổ Vũ Đức Hoàng Đế, phàm người nào mới đến sung quân, tất phải chịu 100 roi đòn ra oai trước đã, vậy tả hữu đâu, đem tên phạm mới ra đánh cho ta!

Lâm Xung nhớ lời Sai Bát dặn liền kêu lên rằng:

– Bẩm, chúng tôi đi đường xa bị bệnh chưa được khỏi, xin hãy cho tạm khất ít bữa, sẽ xin theo lệnh.

Tên Sai Bát đứng bên đỡ lên rằng:

– Người y hiện đương có bệnh thực, xin ngài hãy khoan thứ cho hắn.

 Quản Doanh nghe nói truyền rằng:

– Hiện nay người khán thủ ở Thiên Vương Đường mắc hạn đã lâu, vậy để cho Lâm Xung sang thay người đó.

Quản Doanh cũng ưng thuận liền, phê giấy cho Sai Bát đưa Lâm Xung sang Thiên Vương Đường. Sai Bát dẫn Lâm Xung vào phòng đề lao, lấy hành lý rồi cùng ra đi mà bảo rằng:

– Giáo Đầu ôi! Tôi thực là hết lòng hết sức, mới để cho Giáo Đầu ở Thiên Vương Đường này, chỉ sớm khuya quét tước dầu đèn, rất là nhàn hạ. Giáo Đầu thử xem những người khác xem, có phải là làm vất vả cả ngày, mà không được yên không? Lại còn những anh không có gì, thì còn đút vào trong hầm đất, chết không ra chết, sống không ra sống, thế thì khổ biết bao nhiêu!

Lâm Xung nghe nói thì cảm ơn, rồi đưa mấy lạng bạc nữa cho Sai Bát mà bảo rằng:

– Phiền bác làm ơn giúp tôi thế nào cho tôi được tháo gông ra một thể?

Sai Bát vâng lấy vâng để, rồi về kêu với Quản Doanh, mà tháo gông cho Lâm Xung ngay lập tức.

Từ đó Lâm Xung coi giữ ở Thiên Vương Đường, sớm hôm chỉ đèn hương quét tước trong nhà, không có việc chi là khó nhọc. Quản Doanh với Sai Bát, anh nào cũng đã vớ được ít tiền của Lâm Xung đút lót, cho nên cũng phó mặc tự do mà không sai khiến đến. Thỉnh thoảng Sài Đại Quan Nhân lại gửi sang cho ít quần áo tiền nong, để Lâm Xung chi dụng, thành ra đôi khi Lâm Xung lại được dư dật, mà cứu đỡ cho bọn tù túng thiếu đói chung quanh.

Sớm hôm thay đổi, ngày tháng lân la, cái thân hào hiệp giang hồ dẫu bó buộc vào nơi cương tỏa, nhưng một mình ăn ở ra vào, cũng chẳng có điều cho là thúc bách băn khoăn, bởi thế mà hạ hết đông sang, cảnh trời đã xoay chuyển thế nào không biết.

Một hôm vào khoảng giữa buổi trưa, Lâm Xung lững thững ra ngoài cửa đình, đi bách bộ chơi, chợt thấy có người gọi ở phía sau mà hỏi rằng:

– Lâm Giáo Đầu! Ngài đi đâu mà lại ở đây?

– Lâm Xung nghe gọi lấy làm ngạc nhiên, không hiểu là ai, liền quay đầu lại xem.

Ngậm ngùi nước thẳm non xa,

Nào ai quen biết đâu mà hỏi han?

Chẳng hay con Tạo đa đoan

Còn mang oan nghiệt mà toan ghẹo người?

Thôi thôi chấp hết chuyện đời

Gan già nuốt lệ gượng cười đã quen

Bốn phương trăng gió giáp gìn,

Đi đâu mà chẳng là duyên giang hồ?

Lời bàn của Thánh Thán:

Văn chương là một thứ lạ, ví như mây mái trên trời non sông dưới đất, hoa cỏ thú cầm…thiên hình vạn trạng, biến ảo khôn lường…Hỡi ôi văn chương diễn đạt hay là sáng tác, nếu không như muôn hình biến ảo thì không bao giờ lộ ra hết những cái hay cái thú của văn chương?

Ta nói thế là sao? Như chuyện đánh Lâm Xung ở giữa rừng, mà Trí Thâm tới cứu, nhà sư đâu đến như ở trên trời xuống vậy. Nay xem phép tả thuật, sao mà thấy biến ảo như thế? Đoạn thứ nhất, mới thấy thuyền trượng đưa đến, đoạn thứ hai, một hòa thượng nhảy ra, đoạn thứ ba, nhà sư áo trắng dùng thuyền trượng giới đao, đoạn thứ tư mới rõ là Trí Thâm. Nếu đem họ Công Cốc, Đại Đái hai nhà danh sử viết ra, cũng nói từ thuyền trượng, đến nhà sư…song chưa bằng ở đây chép ra rất đột ngột, mà có thứ tự, đương lúc nguy nan của truyệïn nhân, chợt đâu một chuyện diễn ra, hoãn lại, khiến độc giả cũng kinh tâm loạn mục huống chi lũ công sai khi ấy khiếp sợ không dám hỏi tên họ, bút pháp đến thế rất là biến ảo.

Lại như hồi trên tả Lâm Xung, không thể không gác chuyện Trí Thâm vì về bước sinh ly của Lâm Xung phải tả luôn cho thấy thống khổ. Đó là cái khéo của phép hành văn, cho đến hồi này mới tả theo miệng Trí Thâm thuật lại, là kể từ lúc Lâm Xung gặp nạn đúng như lời thuật của Trí Thâm đã dự biết rồi khác nào mưa rừng theo gió vậy.

Lại lúc công sai tức giận Trí Thâm, lẽ nào chẳng hỏi, vừa hỏi đã bị ngay Trí Thâm chặn họng không dám hỏi nữa. Độc giả cũng không biết rõ là ai. Cho đến lúc Trí Thâm khoe thuyền trượng, Lâm Xung nhân đó nói ra như người ấy đã nhổ cây dương liễu tại chùa Đại Tướng Quốc đã trả lời gián tiếp công sai hỏi từ trước, mà không được trả lời, một nhân sự đâu tới biết rằng phải hỏi đến thì không nói, thế mà sau không hỏi, lại có sự nói ra, khác nào Rồng ở trên cây, thấy giải đằng đông thấy móng đằng tây, thật là ngòi bút kỳ diệu!

Lại như Hồng Giáo Đầu muốn đấu võ, lại gặp Sài Quan Nhân mời uống rượu, đấy đã một lần nhụt lại khiến người ta trong bụng không vui, mà Lâm Võ Sư ngần ngừ chưa dám, đến lúc đấu võ, được bốn năm hiệp, Lâm Giáo Đầu nhảy ra, nói rằng còn bị đóng gông, xin ngừng lại tháo gông, khiến Sài Tiến xin tháo gông xong đã, hai ba lần nhụt lại thò ra, khiến độc giả bút phép viết lên kỳ tuyệt.

Lại như lúc Hồng Giáo Đầu vào tỷ thí, một phần tả Hồng Giáo Đầu, một phần tả Lâm Giáo Sư, một phần tả Sài Đại Quan Nhân, có thể gọi là rất phức tạp và rất vội vàng, thế mà trung gian còn tả thêm hai người công sai, thì tác giả phải tĩnh tâm nhanh việc mới nổi.

Lại như Sai Bát nói ra mấy lời lật mặt, sau tiếp tả luôn Sai Bát mấy lời vui vẻ biết người, văn tự so lên, trở nên hài hước, đó là ba lan của văn chương, cần ỡ sự xẩy ra gần mới hay, nếu xảy ra xa nhau, không lấy gì làm thú! Nếu như bỗng dưng thấy thuyền trượng xẩy đến, rồi sau thuyền trượng ra đi, ba lan chỉ ở một thiên đầu với cuối; Lâm Xung khi đến, Sài Tiến đi săn, Lâm Xung ra đi, Sài Tiến trở về, chỉ trong một truyện từ đầu tới cuối. Đó lại là một điều nhận ra như thế.

Những chuyện như thế, đều như máy mài, non sông, cỏ hoa, cầm thú…kia biến ảo khôn lường, truyện Thủy Hử phép văn như vậy, nên xét cho ra.

Trong một hồi này, ngoài chính văn ra, tả đến bàng văn, xem chuyện đút của, mấy lần chí ý; như Lục Ngu Hầu lót cho công sai 10 lạng bạc còn hứa khi xong việc, thì thêm 10 lạng nữa, 1 lần đáng ngán; Ôi! Lục Ngu Hầu là người thế nào, mà lót 10 lạng bạc, mà 10 lạng bạc có đáng kể đâu, mà cần có một người tới đút, khiến Lỗ Trí Thâm biết mà cứu tới nơi, công sai không làm gì nổi, 2 lần đáng ngán: Ôi 10 lạng bạc, toan tính với nhau, mà tính mạng Lâm Xung chẳng kể, rồi hai người bàn bạc đánh trả lại 10 lạng bạc cho xong, 3 lần đáng ngán; Bốn người ở trong hàng mà hai người tính vụng ngoài 10 lạng bạc, không có việc gì hơn hỏi thăm Sài Tiến đi vắng, trang khách cũng không nói săn đón, lại rằng: Các ông chẳng may, nếu Sài Quân ở nhà, thì phải có cơm rượu tiền nong đối đãi, 4 lần đáng ngán; Rượu thịt tiền nong, đối với tiểu nhân mới nên nói rủi may, mà Hồng Giáo Đầu khinh miệt Võ Sư, cũng rằng đến gạt rượu cơm tiền nong, 5 lần đáng ngán; Ôi tiểu nhân khinh miệt quân tử chẳng phải vật chất, mà thôi, Võ Sư muốn tháo gông, Sài Tiến lót 10 lạng bạc, công sai cũng bằng lòng, 6 lần đáng ngán; Bạc kia để sẵn, phép luật triều đình, cũng đến nể nang, mà Hồng Giáo Đầu thua cuộc, đoạn Đại Quan Nhân đem 25 lạng bạc khiến nên, 7 lần đáng ngán; Của sẵn để đấy, thân phận danh dự không tiếc, Sài Tiến nêu ra, do 25 lạng bạc, 8 lần đáng ngán; Dẫu rằng thánh hiền hào kiệt, có tâm sự quang minh, cũng phải do đấy kính yêu, nếu bằng không thì rất là nhạt nhẽo, hai công sai cũng vì 5 lạng bạc, cho nên ra khỏi, Lâm Võ Sư tạ ơn, hai công sai cũng tạ ơn, 9 lần đáng ngán; Có của ấy thì thù ghét cũng thân, thú vật cũng mến, hết sức ra ngoài thân phận, Sai Bát tranh lấy, đã tranh của Quản Doanh 5 lạng bạc, thế mà khi chửa đưa, thì ra mặt chửi mắng khi đã đưa tiền, thì giở mặt khen lao, 10 lần đáng ngán; Ngần xưa tin nhau, không đổi lòng ngay, Võ Sư lót 10 lạng bạc cho Quản Doanh, Sai Bát ngắt 5 lạng, chỉ đưa 5 lạng, 11 lần đáng ngán; Có của thì cái gì mà chẳng trọn vẹn, không có của còn ai giúp sức, bọn tù được Lâm Xung giúp đỡ, 12 lần đáng ngán, chỉ vì có của cho người, mà cảm Lâm Xung ân nghĩa, ai cũng ngợi khen, tiếng khen đoạn của tạo nên thì kẻ sĩ thường nghèo, chẳng dám ở nhà học đạo, mà theo với thế gian thì chẳng biết gì thời vụ, há chẳng đáng thương thay!

Hồi 9: Một mũi dao, moi gan quân tàn ác – Ba chén rượu, say tít cả giang sơn

Bấy giờ Lâm Xung thấy người gọi, liền quay lại xem, thì nhận ra là Lý Tiểu Nhị, ở Đông Kinh khi trước, liền hỏi lên rằng:

– Kìa Tiểu Nhị! Nhà ngươi cũng ở đây sao?

Nguyên tên Tiểu Nhị khi trước còn làm công cho một tửu điếm ở Đông Kinh, thỉnh thoảng lại được Lâm Xung giúp đỡ cho ít nhiều, sau tên ấy ăn cắp tiền của chủ, bị người ta bắt được đem đến nộp quan, Lâm Xung lại che chở cho, rồi cho tiền để đến hồi thoát nạn. Đến khi tên ấy không muốn ở Đông Kinh nữa, thì Lâm Xung lại cho tiền nong làm vốn, để đi kiếm chỗ khác mà làm ăn.

Khi ấy Lý Tiểu Nhị thấy Lâm Xung quay lại hỏi; liền cúi xuống lạy chào mà rằng:

– Thưa ân nhân, từ khi được ân nhân cứu vớt cho đi, sau lại bị lênh đênh không gặp, mà lần lữa đến mãi Thương Châu, tìm vào một tửu điếm họ Vương để ở, khi ở đấy được ít lâu, thì hàng quán một ngày một phát đạt, mà khách hàng ăn ai cũng đến khen là làm ăn sạch sẽ. Bởi vậy chủ nhân có lòng yêu dấu mà gả con gái và bắt gửi rể ở luôn ngay đó. Tới nay hai ông bà ấy chết đi rồi, mà con trai không có, cho nên vợ chồng con được thừa hưởng ngôi hàng ấy mà buôn bán ở đây, vậy dám hỏi ân nhân có việc gì, mà cũng đến đất này như thế?

Lâm Xung trỏ lên cái kim ấn ở trên mặt mà đáp rằng:

– Ta chỉ vì lão Cao nó không bằng lòng, cho nên nó sinh sự bắt sung quân ở đây, hiện nay quan sai ta giữ Thiên Vương Đường đó.

Lý Tiểu Nhị nghe nói, liền mời Lâm Xung về tửu điếm, bắt vợ ra lạy chào mà nói:

– Vợ chồng chúng tôi ở đây đương buồn về nỗi không có ai là người thân thích, thế mà nay lại được ân nhân đến đây, thì thực là hạnh phúc vô cùng.

Lâm Xung thấy vậy liền đáp rằng:

– Tôi bây giờ đương cơn hoạn nạn thế này, chỉ e có điều làm giảm mất danh giá của vợ chồng anh thôi.

– Sao ngài dạy thế, tiếng ngài lừng lẫy khắp cả mọi nơi, còn ai không biết đến bao giờ, nay ngài ở gần đây, nếu có quần áo gì, xin cứ đưa ra ngoài này, để nhà tôi vá khâu giặt giũ, không hề dám quản công.

Nói đoạn liền dọn rượu ra thiết đãi Lâm Xung, rồi mãi đến tối mới đưa về Thiên Vương Đường để nghỉ. Từ đó Lý Tiểu Nhị thỉnh thoảng lại mời Lâm Xung ra chơi uống rượu, hoặc khi lại đưa các thức ăn uống vào trại cho Lâm Xung, còn các thức quần áo giặt giũ, vá may đều nhờ ở tay vợ chồng Tiểu Nhị, nhân thế Lâm Xung cũng được thư nhàn dễ chịu, mà đôi khi có được đồng nào lại đưa cho vợ chồng Tiểu Nhị, để thêm làm vốn buôn.

Tháng ngày thấm thoát, một hôm vào giữa mùa đông, Lý Tiểu Nhị đương đứng ở cửa, chợt trông thấy có một người đi vào trong hàng ngồi đó, rồi lại có một người nữa nối gót theo vào sau. Người đi trước trông ra dáng một viên chức quan quân, mà người đi sau thì ra vẻ tên lính hầu chi đó.

Khi hai người vào cùng ngồi ở một bàn, Lý Tiểu Nhị liền hỏi:

– Các ngài xơi cơm rượu chăng?

Người kia đưa ra một lạng bạc cho Lý Tiểu Nhị mà bảo rằng:

– Bác hãy cất tiền này đi, rồi cho tôi bốn bình rượu ngon ra đây, rồi lúc nào có khách sẽ bày các món ăn lên, không cần phải hỏi.

– Ngài định mời ai đến đây?

– Tôi phiền bác vào trong dinh mời giúp ông Quản Doanh và ông Sai Bát ra đây giúp. Nếu các ông ấy có hỏi là ai mời thì bác cứ nói rằng: “Có Quan Nhân ngồi đợi có việc cần”nhé.

Lý Tiểu Nhị vâng lời, một lát hai người cùng đến.

Khi tới nơi hai người kia đứng lên chào Quản Doanh và Sai Bát, rồi mời ngồi. Quản Doanh có ý rụt rè mà hỏi rằng:

– Chẳng hay các ngài ở đâu tới, chúng tôi không được biết?

– Xin các ngài hãy ngồi chơi, rồi một lát ngài xem thư đây sẽ biết.

Nói xong quay ra báo Tiểu Nhị lấy rượu, và bày các thứ lên. Đoạn rồi rót rượu mời hai người kia uống, rồi quay lại bảo Lý Tiểu Nhị rằng:

– Thôi anh cứ đi chỗ khác, để đây còn nói chuyện riêng, nếu có việc gì đây sẽ gọi.

Tiểu Nhị vâng lời, rồi quay ra ngoài cửa, sẽ bảo với vợ rằng:

– Hai người này ta lấy làm lạ lắm.

– Sao mà lấy làm lạ?

– Ta xem hai người cùng nói tiếng Đông Kinh, mà cũng biết đến Quản Doanh và Sai Bát cả. Sau khi ta vào rót rượu, thì chỉ nghe Sai Bát nói câu gì lại có ba chữ “Cao Thái Úy” ở đấy? Chẳng hay việc này có quan hệ đến Giáo Đầu Lâm Xung chăng? Để ta ở đây, đằng ấy thử ra lối sau nghe lóng xem sao?

– Hay là gọi Lâm Giáo Đầu ra đây, để nhận xem có phải không?

– Chết nỗi. Ôâng ấy nóng tính, hơi một tí là đốt nhà giết người ngay, nếu bây giờ ông ấy ra đây, mà quả là người đối thủ với ông ấy, thì tất nhiên là sinh sự lôi thôi lụy cả đến mình chứ không chơi. Thôi cứ vào đấy nghe xem sao đã.

Người vợ lấy làm phải, liền chạy vào nghe ngóng một lúc, rồi chạy ra bảo với Tiểu Nhị rằng:

– Ba bốn anh đó nói thì thầm gì, không nghe được câu nào cả, về sau người kia đưa ra một gói bạc cho Quản Doanh và Sai Bát, ý hẳn tiền nong cho đó. Rồi thấy Sai Bát gật gù bảo rằng:

– Được, việc ấy cứ để mặc tôi, thế nào tôi cũng kết quả được tính mạng nó.

Vừa nói đến đó, thì đã thấy trong kia gọi món ăn lên, Lý Tiểu Nhị chạy vào đưa món nấu lên, thì thấy trong tay Quản Doanh hãy còn cầm một phong thư ở đó. Bấy giờ mấy người quay ra ăn cơm xong tính tiền hàng đưa trả cẩn thận rồi, Quản Doanh, Sai Bát đứng dậy về trước, còn hai người kia đi ra sau.

Vừa đi được một lát, thì Lâm Xung ở đâu chạy đến. Tiểu Nhị liền mời vào điếm ngồi chơi, rồi đem các câu chuyện vừa rồi kể rõ từng ly từng tý cho Lâm Xung nghe, rồi lại nói rằng:

– Việc ấy nghe chừng có quan hệ đến ân nhân, cho nên tôi đương định tìm để nói cho ân nhân biết.

Lâm Xung nghe nói liền hỏi Tiểu Nhị rằng:

– Người ấy tướng dạng ra thế nào?

– Bẩm người ấy vào trạc 30 tuổi, tướng ngũ đoản, mặt trắng bệch, mà không có râu ria gì cả.

Lâm Xung nghe nói kinh ngạc mà rằng:

– Nếu vậy thì chính thằng Lục Ngu Hầu rồi, thằng ăn mày ấy lại muốn đến đây hại ta hay sao? Trời ơi! Nếu ta gặp nó bây giờ, thì phải làm cho nó nát thịt tan xương nó mới yên được! Nói xong hằm hằm đứng dậy mà đi ra phố, mua một con dao găm rồi giắt vào lưng, rồi đi khắp các nơi để tìm Lục Ngu Hầu.

Vợ chồng Tiểu Nhị thấy vậy lấy là kinh sợ, mà nghe ngóng suốt ngày hôm ấy, cũng không thấy tin tức gì cả.

Sáng hôm sau Lâm Xung lại dậy sớm, giắt dao đi lùng khắp cả mọi nơi tìm Ngu Hầu không thấy mà trong dinh cũng không có điều chi là khác, liền chạy ra hàng bảo với Tiểu Nhị rằng:

– Đến hôm nay cũng chưa việc gì là làm sao?

Tiểu Nhị nói:

– Nếu vậy, thì càng hay lắm, ân nhân cứ phóng tâm mặc đấy là xong.

Sau Lâm Xung lại đi tìm Lục Ngu Hầu đến ba bốn hôm luôn, mà cũng không thấy đâu, thì trong bụng đã nguôi nguôi dần mà không nghĩ đến nữa.

Chợt đến hôm thứ sáu, Quản Doanh gọi Lâm Xung đến mà bảo rằng:

– Ngươi ở đây đã lâu, mà Sài Đại Quan Nhân cũng không tiến cử cho ngươi được, vậy có một chỗ Thảo Đường ngoài cửa Đông Môn 15 dặm, xưa nay vẫn nộp cỏ tháng để lấy tiền, có một tên lính già coi giữ ở đó, nay ta muốn đài cử cho ngươi ra thay, để lão lính già lại về ở Thiên Vương Đường, vậy ngươi nên thu xếp, rồi ta sẽ bảo Sai Bát đưa ra.

Lâm Xung vâng lời, rồi đi ra ngoài phố bảo với vợ chồng Lý Tiểu Nhị rằng:

– Hôm nay lão Quản Doanh cắt ta ra coi ở thảo trường, là ý làm sao?

Tiểu Nhị nói:

– Ở đó lại tốt hơn ở Thiên Vương Đường, vì mỗi khi thu cỏ, thì lại được tiền thường lệ để tiêu. Xưa nay nếu không đút lót cho họ, thì bao giờ lại được làm những việc như thế?

– Họ không mưu hại ta, mà lại sai ta ra chỗ tốt, là nghĩa làm sao?

– Cái đó cũng cần phải nghĩ, ân nhân cứ đi, hễ không việc gì là tốt rồi, duy có một điều là ân nhân đi xa thế, thì chúng tôi lại không năng được hầu hạ mà thôi.

Nói đoạn dọn rượu ra mời Lâm Xung uống, Lâm Xung uống rượu xong, lại trở về Thiên Vương Đường, lấy khăn gói và hành lý, giắt dao găm vào lưng rồi vác một cây gậy con mà theo Sai Bát đi ra thảo trường.

Bây giờ đương độ nghiêm đông lưng trời mây kín, gió bấc đìu hiu, mưa tuyết âm thầm, rất chiều lạnh lẽo. Lâm Xung theo Sai Bát đến thảo trường, thấy ở ngoài đắp toàn tường đất, giữa có cổng lớn đi vào. Khi vào tới nơi thấy có bảy tám gian lá, xung quanh xếp toàn cỏ ngựa, giữa có hai gian thảo sanh, người lính già đương đốt lửa sưởi ở trong đó.

Khi đó Sai Bát bảo với tên lính già rằng:

– Quản Doanh sai tôi dẫn Lâm Xung ra đây để thay cho lão về coi ở Thiên Vương Đường, lão lập tức đi ngay.

Lão già nghe nói, liền lấy chìa khóa, dẫn Lâm Xung đi khắp nơi, mà giao phó rằng:

– Trong kho đây có quan biển ký, mà mấy đống có đều có số hiệu cả, tôi xin giao đủ từng ly, và tất cả các chìa khóa đây nữa.

Nói xong đếm mấy đống cỏ chỉ cho Lâm Xung biết rồi trở vào thảo sảnh thu thập gói áo để đi. Khi sắp ra đi lại bảo với Lâm Xung rằng:

– Ở đây có đủ các thức mâm bát, nồi niêu và hỏa lò, tôi xin để đây cho ông dùng.

Lâm Xung vâng, nhận rồi bảo lão già rằng:

– Bên Thiên Vương Đường tôi cũng có đủ, ông đến đấy lại xin dùng những thứ của tôi.

Lão già lại trỏ lên cái bầu lớn treo ở vách mà rằng:

– Nếu khi uống rượu, thì cứ đi về phía đông cách đây chừng 2, 3 dặm thì có hàng rượu ở đó.

Nói xong rồi từ biệt Lâm Xung, mà cùng với Sai Bát ra về.

Bấy giờ Lâm Xung cổi để các đồ chăn áo, vào ngồi một nơi, rồi ngồi bên cạnh đống lửa để sưởi. Một mình trông trước trông sau thấy nhà cửa tồi tàn dột nát mà mỗi khi gió thổi, thì lại chuyển đi ầm ầm, liền nói lẩm bẩm rằng: “Cái nhà này khó lòng mà giữ cho qua được mùa đông, vậy khi nào hết tuyết ta phải vào trong thành tìm anh thợ đất nó sửa lại ngay cho mới được.”

Nói đoạn lại quay vào đống lửa để sưởi, Khi được một lát, thấy trong mình hãy còn rét lạnh, lại nhớ đến lời dặn của lão già khi nãy; có thể mua rượu được, liền xăm xăm dậy, đậy đống lửa lại, lấy một ít tiền giắt vào lưng, rồi đeo bầu khoác nón bước ra nhoài cổng, khóa chặt cửa lại mà đi sang bên phía đông.

Khi ấy gió lạnh căm căm, Lâm Xung dày đạp đống tuyết mà đi, chẳng khác gì ngọc vỡ châu rơi ở trên đường vậy. Vừa đi được nửa dặm đường thấy có một tòa miếu làm ngay đó, Lâm Xung bèn đứng lại cúi đầu lễ mà khấn thầm rằng:

– Dám xin thần minh phù hộ cho tôi, rồi sau tôi xin đốt vàng lễ tạ.

Khấn xong lại đi một lúc nữa, đã đến một chỗ có nhà cửa đông đúc, Lâm Xung liền tìm một hàng rượu đi vào.

Khi tới nơi chủ hàng hỏi Lâm Xung rằng:

– Khách ở đâu đến đây?

Lâm Xung trỏ vào cái bầu mà nói rằng:

– Nhà ngươi có nhớ cái bầu này không?

Chủ hàng xem ra cái bầu mà nói:

– Cái này của lão quân ở trong thảo trường phải không?

– Chính phải đó.

– Nếu vậy thì xin mời ông ngồi đây uống rượu mấy chén cho đỡ lạnh đã.

Nói xong lại thái một đĩa thịt bò ra, rót một hồ rượu nóng lên mời Lâm Xung. Lâm Xung ăn uống xong lại mua thêm một miếng thịt, và một bầu rượu nữa, rồi tính tiền trả chủ hàng mà về.

Bấy giờ gió càng to, mưa tuyết xuống lại càng nhiều lắm. Lâm Xung đi lật đật về tới thảo trường, mở khóa cổng đi vào thì bỗng ngạc nhiên mà kêu lên rằng: “Trời ơi! Cái thảo trường kia đổ mất rồi, ta ở vào đâu cho được!”Đoạn rồi lại e đống lửa ở trong chưa tắt, mà lỡ ra bốc cháy thì nguy, liền lách tay vào sờ xem, thì thấy nước tuyết tưới vào lạnh như tro tàn vậy, Lâm Xung lại lần vào sờ lên giường kéo được một cái chăn khoác lên trên mình, thì thấy mặt trời sắp tối, bèn nghĩ vẫn vơ một mình, không biết nghỉ đâu cho tiện?

Đương cơn nhà nát vách tan

Đem thân mưa gió tồi tàn thêm nguy!

Mới hay vận mạng bất kỳ

Phút nào được mấy họa thì đến luôn

Lâm Xung đương ngần ngại lo âu, chợt nhớ đến tòa miếu ở bên đường, thì nghĩ ngay ra một cách đến nằm tạm một đêm, liền chống gậy khoác khăn vác cả đồ đạc rồi khóa cổng lại tử tế, mà đi đến đó. Khi tới nơi bước vào trong cổng miếu, thấy bên cạnh có một hòn đá lớn, chàng liền vần hòn đá lại, đè chặt cánh cổng mà đi vào trong miếu.

Trong miếu có một tòa Sơn Thần Tượng, ngồi ở bên điện, hai bên có hai vị Phán Quan, và một tên tiểu quỷ đứng hầu, lại có giấy vàng bỏ lung tung một đống ở đó, Lâm Xung để gậy và bầu rượu lên trên đống giấy, rồi giũ sạch tuyết ở trên mình, cổi bỏ áo ngoài và nón ra, mà để lên trên bàn thờ. Nói đoạn ngồi xuống đó kéo chăn đắp nửa chân dưới mà lấy rượu thịt ra đánh chén.

Đêm khuya tuyết giá, trời đông,

Rượu bầu lạnh ngắt lửa lòng nóng gan

Cơn say say cả giang san,

Hỏi chi họa phúc tuần hoàn uổng công!

Đương khi Lâm Xung uống rượu một mình, thì bỗng nghe tiếng nổ lốp bốp ở gần đấy, chàng liền ngó cổ ra chỗ vách miếu để xem, thì thấy bên thảo trường lửa cháy rần rật bốc lên, chẳng khác gì trận Xích Bích hỏa công, mà Tào Tháo bị khốn với Chu Lang vậy.

Chàng thấy vậy liền vớ cây gậy chạy ra cổng, toan mở cửa để đi cứu hỏa, bất đồ lại nghe thấy có tiếng người nói lao xao ở đằng kia đi đến, chàng liền nấp ở trong cổng để nghe xem sao? Bấy giờ nghe kỹ thấy tiếng chân ba người đi đến trước cổng miếu, đẩy cổng toan vào nhưng lại bị hòn đá đè chặn ở trong, cho nên đẩy mấy lần cũng không được liền cùng nhau đứng ở thềm cổng, mà xem lửa ở bên thảo trường.

Đoạn rồi nghe thấy có một người ở trong đám ấy nói rằng:

– Làm mẹo thế có kỳ diệu hay không?

Lại có người nói rằng:

– Cái đó là nhờ Quản Doanh và Sai Bát, có lòng chịu khó giúp cho, mới được như thế, để về Đông Kinh tôi sẽ kêu Thái Úy cho ngài được thăng chức chuyến này.

Lại có kẻ nói rằng:

– Phen này thì Lâm Giáo Đầu tất chết, chứ chẳng sai, thế là bệnh Nha Nội có thể khỏi được rồi đó.

Anh kia lại nói:

– Thằng Trương Giáo Đầu gớm lắm, ba bốn phen nhờ người đến nói, nó nhất định không nghe! Nay con rể chết rồi, thì phỏng có giữ được không? Ấy cũng chỉ vì lão Trương Giáo Đầu không thuận mà bệnh thế Nha Nội càng ngày càng nặng, cho nên chúng tôi mới phải sang đây, nhờ đến các ngài đó.

Một anh thì lại nói:

– Bây giờ tôi nhảy vào trong tường, cứ mỗi đống củi lại cho một bó lửa, tính tất cả đến mười mấy bó lửa, rồi còn chạy đi đâu được nữa?

Anh kia lại ra dáng đắc ý mà rằng:

– Có trốn được thoát hôm nay thì cái tội đốt thảo trường cũng đến chết thôi.

Bấy giờ một anh nói rằng:

– Thôi bây giờ chúng ta đi về trong thành đi.

Một anh lại giữ lại mà rằng:

– Khoan, ta hãy xem một lúc nữa, rồi ta nhặt một vài cái xương của nó đem về, để cho Thái Úy biết là chúng ta thạo việc.

Khi đó Lâm Xung nghe rõ tiếng ba người, biết là một tên Sai Bát, cùng Lục Ngu Hầu và Phú An ở đó, thì trong bụng tự nghĩ rằng:

– Gớm thực, quân này định sát hại ta đây. Nếu nay trời không thương ta, mà cái nhà kia không đổ, thì có lẽ ta bị quân này đốt chết chẳng chơi. Quân súc sinh này để nó làm chi làm hại thế gian nữa?

Nghĩ đoạn, sẽ vần hòn đá đè chặn cánh cổng, để ra một bên, rồi cầm gậy mở cánh cổng bước ra, mà quát lên rằng:

– Quân súc sinh này, mầy chạy đi đâu được nữa không?

Ba anh kia nghe thấy vậy, thì kinh chạy, nhưng lại cuống cẳng không sao chạy được, Lâm Xung liền giơ gậy đánh cho Sai Bát một cái gậy ngã quay ra đấy. Lục Ngu Hầu kinh sợ rụng rời kêu xin tha tội, còn tên Phú An thì giơ cẳng chạy cho mau để thoát. Bất đồ chạy được mươi bước, thì Lâm Xung đã nhảy theo, đánh cho một gậy ngã lăn xuống đất, rồi quay lại quát Lục Ngu Hầu rằng:

– Thằng xỏ lá kia, mầy chạy đi đâu?

Nói xong, xông đến dí đầu gậy vào bụng Lục Ngu Hầu ngã sóng soài ra đất, rồi lấy chân đè chận lên bụng, rút thanh dao găm ra trỏ vào mặt mà mắng rằng:

– Đồ khốn nạn này, ta với mầy có thù hận gì, mà mầy làm hại ta đến thế? Mầy phải biết giết người còn có thể tha được, chứ cái lòng độc ác ấy không thể nào mà dung thứ được đâu?

Lục Ngu Hầu rên rỉ kêu rằng:

– Ngài ôi! Việc ấy là Thái Úy sai tôi, chứ bỗng dưng tôi đâu dám thế?

Lâm Xung cả giận mắng rằng:

– Quân chó đểu này, ta chơi với mày từ thuở bé đến giờ, nay sao nỡ mưu kế hại ta, thế mà còn chối xoen xoét là không phải tại mầy… được mầy hãy nếm con dao ta xem.

Nói đoạn liền cởi phăng áo Lục Ngu Hầu ra, rồi đưa dao sả từ trên bụng sả xuống, rồi lấy ruột gan ra cầm ở tay.

Khi nom thấy Sai Bát cựa cạy toan chạy, Lâm Xung lại cầm dao đến bảo rằng:

– Thằng này nữa, mày cũng hùa đảng vi nó, để ta cho một dao nhân thể.

Đoạn rồi giơ dao cắt đầu Sai Bát bêu lên trên gậy, rồi lại quay lại cắt cả đầu Phú An, và đầu Lục Ngu Hầu, mà buộc túm tóc ba cái đầu vào với nhau, xách vào để ở bàn thờ trong miếu. Bấy giờ Lâm Xung lại mặc áo đội nón, đem rượu ở trong bầu rót ra uống hết, rồi vất bầu và chăn ra đấy, mà vác gậy giắt đao đi ra.

Vừa đi được 2, 3 dặm, thì thấy thôn dân đương lao xao kẻ thừng người gậy, kẻ câu liêm đổ xô ra thảo trường để chữa cháy, Lâm Xung gặp bọn ấy liền bảo rằng:

– Các ngươi cứ đến đấy mà chữa cháy để ta đi báo quan.

Nói đoạn vác gậy chạy đi thực nhanh. Bấy giờ mưa tuyết càng ngày càng mạnh, Lâm Xung cắm đầu cắm cổ đi mãi về phía đông, ước chừng gần hai trống canh, nghe trong mình lạnh rét quá chừng, liền đứng dừng quay cổ lại xem, thì đi cách thảo trường đã xa lắm rồi. Vời trông đằng trước hãy còn một khu rừng cây cối um tùm, trong đó có mấy gian nhà lá, bị tuyết đè xiêu vẹo, lại có bóng đèn ở trong vách soi ra.

Lâm Xung mải mốt chạy đến đấy, đẩy cửa bước vào thấy một lão nhà quê già, cùng dăm ba đứa trẻ ngồi quây quần xung quanh đống lửa để sưởi, chàng lại chạy đến gần mà nói rằng:

– Xin chào các ngài, tôi là lính ở trong Thương Thành, đi qua đây bị tuyết mưa ướt lạnh, xin vào ngồi nhờ, để hơ nóng một chút, xin các ngài rộng cho.

Lão nhà quê nói:

– Bác cứ ngồi đấy mà hơ nóng, có ai cấm đâu.

Lâm Xung liền ngồi gần lại vào đống lửa để vừa sưởi vừa hơ áo. Được một lúc trông thấy bên cạnh đống tro để một vò rượu, hơi bốc sặc cả lên, Lâm Xung liền nói với lão nhà quê rằng:

– Tôi có tiền lẻ đây, nhờ ngài để cho ít rượu để uống.

Lão già không thuận mà đáp rằng:

– Ở đây chúng tôi phải thay đổi nhau để canh kho thóc, trời rét mướt như thế này, mà có bằng ấy rượu, đến chúng tôi cũng không đủ uống, còn lấy đâu để lại được nữa.

Lâm Xung lại vật nài mà nói rằng:

– Cụ bớt ra cho tôi vài ba chén rượu uống qua loa cho đỡ rét vậy.

– Lão nhà quê nhất định không nghe mà bảo Lâm Xung rằng:

– Thôi, ông đừng lôi thôi nữa tôi không để lại được đâu.

Bấy giờ Lâm Xung thấy hơi rượu xông lên mũi, thì trong bụng thèm quá, lại hỏi luôn lão nhà quê rằng:

– Thế thì các ông không để lại cho tôi thực à?

– Quái lạ cái bác này, người ta đã tử tế cho vào sưởi ở đây, lại còn đòi rượu uống sao?

Có đi ngay ra không, không thì chúng tôi kéo ra bây giờ đấy.

Lâm Xung nghe nói, nổi giận mà rằng:

– Các anh này vô lễ thực.

Nói xong giơ gậy, lấy thanh củi đương cháy, giơ vào mặt lão già, làm cho râu ria cháy nhẵn nhụi cả một lượt. Lũ nhà quê thấy vậy, thì đứng ùa cả lên, Lâm Xung liền vung gậy đánh rối tít mù làm cho anh nào anh nấy đều chen nhau mà chạy tháo cả. Lâm Xung thấy bọn ấy chạy rồi, thì nói một mình rằng: “Được lắm, chúng bay chạy cả, thì ông mang rượu ra uống một mình vậy”. Nói đoạn trông lên vách có hai cái gáo dừa treo ở đó, liền với lấy xuống một cái, rồi nghiêng vò múc rượu ra uống một mình. Uống một lúc còn thừa một nửa, lại bỏ lại đấy, rồi chân cao chân thấp, vác gậy ra cửa mà đi. Đi được hai dặm đường, thì hơi rượu ngấm ra mà say sưa mê mệt, lại bị cơn gió bấc thổi mạnh quá, làm cho chàng ngã lăn xuống khe núi, mà không động đậy được nữa.

Bấy giờ lũ trẻ nhà quê chạy đi lấy được roi gậy về, mà không thấy Lâm Xung đâu nữa, liền đổ xô nhau đi tìm. Khi tìm đến chỗ khe núi, thấy anh chàng đương nằm khô khoăm ở đó, mà gậy thì vất ra một bên; lũ nhà quê liền reo ầm lên, rồi đem thừng đến trói Lâm Xung, mà bảo nhau đi giải nộp chủ nhân. Mới hay:

Bước chân chưa thoát nạn kia

Mà đâu nạn nọ đã kề tới nơi!

Ông xanh nghĩ cũng nực cười,

Công đâu đùa bỡn với đời mãi rượu?

Buồn tênh cho lũ thôn phu

Trông non Thái cũng như gò cỏn con

Hùm thiêng khi nấp mạn cồn.

Vùng cơn tỉnh dậy phỏng còn xác chăng?

Lời bàn của Thánh Thán:

Trong phép văn chương diễn tả, há phải chỉ tả luôn một  mạch của một việc mà thôi, có việc trước gợi mối ra sau, có việc đi qua cũng gợi mối ra sau, như thế há đâu chỉ nói ra một việc. Ôi! Văn tả từ trước, nhằm đích về sau, thì phải biết văn này đương gợi mối văn sau, chẳng phải riêng của hồi này vậy. Đoạn văn còn rớt sau, mà nhằm theo đích trước, thì phải biết văn trước chưa hết, thuộc của tiền văn, chẳng phải hậu văn, có như thế khiến trong lòng độc giả xét thấy như có kim có chỉ mà tin tác giả đã biến ra hai ba việc được, tả việc nào đứt đi việc ấy, thì sao thấy sâu xa, của sự diễn tả trong phép văn chương?

Như vợ chồng tên Lý Tiểu Nhị, đâu phải gặp ngay Lâm Xung trong lao thành, một sự tình cờ được ngộ cố tri, đi lại thân mật, cũng chỉ chú ý ở lúc đứng nghe trộm đằng sau, câu chuyện của đám khách nói, một đoạn kỳ văn, chẳng thể chẳng viết trước ra làm cái mối đầu, đó là việc trước mà gợi ra sau vậy.

Như ở trang gia chẳng chịu về ngay; lại còn uống rượu, khi uống rượu xong thấy cháy thảo trường, thế rồi phải tìm vào miếu nghỉ, để nghe ra manh mối, ứng với câu chuyện hoài nghi bấy nay, và rõ tin tức ở Đông Kinh qua lời Lục Khiêm nói, để từ trong miếu giết bỏ kẻ thù, đấy là đoạn văn tả việc đương xẩy mà gợi mối sau.

Lục Khiêm, Phú An, Quản Doanh, Sai Bát bốn người, bàn việc trong quán hàng, không rõ nói gì, tường chẳng được tường, bỏ đi không thể bỏ đi, nay ở trong tai mắt vợ chồng Tiểu Nhị, chỉ nghe lỏm ba tiếng Cao Thái Úy, đã nhằm vào một đích gì đây, lại thấy hẹn nhau biếu tiền, sau Tiểu Nhị đem thức ăn lên, lại thấy trong tay Quản Doanh cầm một phong thư, nửa kín nửa hở, nửa giấu nửa phô…như văn cảm, không thể vạch ra, như chữ bia tàn, không thể đọc được, nhưng thâm tâm con nhà hiếu cổ, có thể lấy ý ngoài mà xét nổi, như một đoạn ấy, có thể bảo là Thánh làm văn, và qủy làm văn vậy.

Khi giết tù trong cửa miếu ra, đã dùng gậy đánh ngã Sai Bát, tiếp tả Lục Khiêm, tả giết Lục Khiêm chưa xong, tả ngay đánh luôn Phú An hai đứa đã ngã, quay lại rượt Lục Khiêm để giết, vừa mổ xong bụng Lục Khiêm, thấy Sai Bát cựa dậy, mới cắt luôn đầu Sai Bát, treo trên đầu gậy, quay lại cắt cổ luôn Lục Khiêm, Phú An, như thế ba bốn lần để giết ba người, rất có thứ tự, rất có cách quãng, và rất có phương pháp, khúc chiết chẳng hoang mang, chẳng thiếu sót…, đó là Thánh làm văn và quỷ làm văn.

Chuyện xưa nói lại, khi trời oi bức treo tranh mùa rét, khi trời mùa lạnh, treo tranh mùa bức, khiến khách ngồi chơi xem đến mà có ảnh hưởng, thực câu chuyện đáng buồn cười! Nhưng chưa thần kỳ bằng một hồi này, Thi Nại Am tác giả, tả một bức tranh vừa nóng lại vừa lạnh, tả tuyết thì rét thấu xương, tả lửa thì nóng rát mặt, khác nào xưa có vị sư đau bệnh, khi chúng tăng hỏi đến khí hậu thế nào, thì rằng: Khi hàn thì bằng giết Đồ Lê, khi nóng thì cũng bằng giết Đồ Lê (tên nhà sư), nay đọc thiên này, tả hàn cũng hàn bằng giết độc giả, mà tả nhiệt cũng nhiệt bằng giết độc giả, một đoạn văn chương, thực là kỳ tuyệt trong rừng văn nghệ.

Sau vách nhà hàng, nghe bốn người nói, không nghe được kỹ càng rất khéo ở chỗ không nghe được kỹ càng; Trong miếu sơn thần, nghe ba người nói, nghe được kỹ càng, rất khéo ở chỗ nghe được kỹ càng, tuy rằng sau vách nhà hàng, trong miếu sơn thần, hai phen nghe chuyện, đều nghe ra cả, cũng đáng cho đời thấy lối bí của oan gia, thế mà đời nay có bao kẻ ngu khuất mặt nói xấu người ta, thì đâu phải riêng bọn Lục Khiêm này mưu kế.

Trong văn tả tình tả cảnh, nên nhận xét kỹ xem, như hai lần lửa cháy thì rõ chẳng phải lỗi làm cháy tự Lâm Xung, chỉ mang chăn áo đến ở, thấy rõ Lâm Xung phải đến thảo trường vì tính kế một đêm ấy, để vừa tội giết người, đó là ý tứ của người viết chuyện.