Giới thiệu tác phẩm “Phi Hồ ngoại truyện”

“Thù cha không đội trời chung”. Liệu câu nói này có luôn luôn chính xác?

Đả Biến Thiên Hạ Vô Địch Thủ Kim Diện Phật Miêu Nhân Phụng có quan hệ gì với Liêu Đông Đại Hiệp Hồ Nhất Đao? Tại sao ông ta lại biết Hồ gia đao pháp?

Viên Tử Y thật sự là ai? Giữa Viên Tử Y và Trình Linh Tố, ai là người có thể hy sinh vì người mình yêu?

Tất cả những câu hỏi trên sẽ được trả lời qua ngòi bút tài hoa của nhà văn Kim Dung trong bộ kiếm hiệp Phi Hồ Ngoại Truyện. Tác phẩm được Kim Dung cho ra mắt lần đầu tiên vào năm 1960 trong tạp chí Võ thuật và Lịch sử.

Do có sự nối tiếp về mặt nội dung mà Phi Hồ ngoại truyện và Tuyết Sơn Phi Hồ được xếp thành một cặp gọi là “Phi Hồ song truyện”. Cũng có nhiều ý kiến xếp Thư kiếm ân cừu lục, Phi Hồ ngoại truyện cùng với Tuyết Sơn Phi Hồ thành 1 bộ ba gọi là “Thư Hồ tam bộ khúc” (tương tự Xạ Điêu tam bộ khúc).

Dịch giả: Hoàng Ngọc.

Mục lục

Chương 01: Mưa lớn Thương Gia Bảo
Chương 02: Bảo đao với nhu tình
Chương 03: Anh hùng tuổi thiếu niên
Chương 04: Lửa dữ thiêu thiết sảnh
Chương 05: Máu loang mặt đá
Chương 06: Tử y nữ lang
Chương 07: Mưa gió đêm khuya nơi cổ miếu
Chương 08: Phong ba hiểm ác chốn giang hồ
Chương 09: Độc Thủ Dược Vương
Chương 10: Thất tâm hải đường
Chương 11: Mênh mông những mối oan cừu
Chương 12: Bọn cướp cổ quái
Chương 13: Đám võ quan chốn Bắc Kinh
Chương 14: Tay áo tía rung, đèn lồng lay động
Chương 15: Bốn mươi tám lộ hoa quyền
Chương 16: Chốn đầm rồng hang cọp
Chương 17: Đại hội chưởng môn nhân
Chương 18: Bảo đao với ngân châm
Chương 19: Niềm vui trùng ngộ
Chương 20: Hận lòng dằng dặc thiên thu
Hậu ký

Chương 01: Mưa lớn Thương Gia Bảo

Hồ Nhất Đao! Khúc trì! Thiên Khu!

Miêu Nhân Phụng! Địa nương! Hợp cốc!

Một thanh âm khàn khàn, trầm trầm khẽ hô lên. Tiếng hô đầy vẻ oán độc và phẫn nộ. Tiếng nói rít lên từ kẽ răng tựa hồ tiếng nguyền rủa đời đời, hàng ngàn hàng vạn năm. Âm thanh mỗi chữ là máu hòa cùng lòng cừu hận.

Độp! Độp! Độp!

Bốn tiếng vang lên. Bốn đạo kim quang lấp loáng, bốn mũi kim tiêu liên tiếp phóng ra, bắn vào hai tấm mộc bài. Mặt trước và mặt sau mỗi tấm mộc bài đều vẽ toàn thân một hình người. Một tấm vẽ đại hán rậm râu đầy vẻ thô hào, bên cạnh ghi ba chữ “ Hồ Nhất Đao”. Còn tấm biển kia vẽ một hán tử cao gầy, bên cạnh ghi ba chữ “ Miêu Nhân Phụng”.

Trên hình người ghi rõ những huyệt đạo ở khắp thân thể. Phía dưới mộc bài là một cái chuôi để cầm. Hai tên hán tử to lớn thân thủ mau lẹ, mỗi tên cầm một tấm mộc bài chạy quanh trong luyện võ sảnh .

Ở góc đông bắc tòa đại sảnh, một bà già tóc bạc ngoài năm chục tuổi ngồi trên ghế, miệng hô tên huyệt đạo ở trên hình người Hồ Nhất Đao hoặc Miêu Nhân Phụng. Một thiếu niên anh tuấn trạc ngoại đôi mươi vận kình trang gọn ghẽ, đeo túi da cắm mấy chục mũi kim tiêu, cứ nghe bà già hô tên huyệt đạo lại vung tay một cái, một đạo kim quang bắn ra cắm vào tấm mộc bài .

Hai tên hán tử to lớn cầm mộc bài, đầu bịt lưỡi thép, mình mặc áo bông dày, trước ngực lại lót thêm một tấm da bò để phòng khi thiếu niên phóng trệch đích, mũi kim tiêu bắn trệch vào người hắn. Hai người này lúc nhô lên cao, lúc hụp xuống thấp, xoay chuyển mộc bài để thiếu niên khó lòng bắn trúng .

Phía ngoài cửa sổ tòa đại sảnh, một cô gái và một thanh niên đứng nấp ở đó. Hai người này chọc thủng giấy dán trên cửa sổ thành hai lỗ nhỏ, mỗi người dùng mắt trái để nhìn trộm vào bên trong. Họ nhận ra thân thủ chàng thanh niên trong luyện võ sảnh không phải tầm thường, phóng tiêu rất chuẩn xác, bất giác hai người đưa mắt nhìn nhau, nét mặt lộ vẻ kinh dị.

Trên trời mây kéo đen nghịt. Mưa đổ xuống ào ào như trút nước. Thỉnh thoảng lại có tia sét đánh và tiếng sấm vang khiến người ta phải kinh hãi.

Những giọt mưa lớn bằng hạt đậu trút xuống đất bắn tung đến ngoài cửa sổ, văng vào mình của cặp nam nữ thiếu niên. Cả hai đều mặc áo mưa. Cảnh tượng trong luyện võ sảnh khiến họ động tính hiếu kỳ, lại dán mắt dòm vào.

Bỗng nghe bà già lên tiếng:

–  Về phần chuẩn xác thì đã tạm được nhưng kình lực chưa đủ. Bữa nay hãy luyện tới đây thôi.

Mụ nói rồi từ từ đứng dậy.

Cô gái kéo tay hán tử một cái rồi vội xoay mình đi ra ngoài.

Hán tử khẽ hỏi:

– Coi có thích không?

Cô gái đáp:

– Có gì mà thích? Chỉ là trò luyện tiêu thôi mà. Gã đó bắn khá đấy chứ.

Hán tử kia hỏi:

– Ai lại chả biết người ta luyện tiêu. Nhưng trên mộc bài sao lại viết những gì Hồ Nhất Đao, Miêu Nhân Phụng?

Cô gái đáp:

– Cái này có vẻ tà môn, sư ca còn không hiểu thì tiểu muội biết thế nào được. Chúng ta về hỏi gia gia sẽ rõ.

Cô gái chừng mười tám, mười chín tuổi, gương mặt bầu bĩnh, cặp mắt đen lay láy, hai má ửng hồng. Toàn thân cô toát ra một vẻ thanh xuân phơi phới. Hán tử mắt to mày rậm, lớn hơn cô gái sáu bảy tuổi, dáng điệu thô hào, trên mặt đầy những vết sẹo nhỏ màu tím. Tướng mạo gã tuy xấu xí nhưng bộ pháp nhẹ nhàng, tinh thần sung mãn, hùng khí bồng bột.

Hai người băng qua ngoài viện. Trời mưa mỗi lúc một nặng hạt khiến mặt họ hai người sũng nước. Cô gái lấy khăn tay lau mặt. Lau xong, gương mặt cô trắng hồng càng lộ vẻ xinh đẹp ngời ngời. Hán tử nhìn cô gái, bất giác ngẩn người ra. Cô gái nghiêng đầu, cố ý cho nước mưa trên nón chảy vào cổ áo hán tử. Gã đang ngơ ngẩn xuất thần nên không hay biết. Cô gái cười khanh khách, khẽ gọi:

– Chàng ngốc ơi!

Rồi cô đi vào hoa sảnh.

Đầu đằng đông trong sảnh đường có đốt một đống lửa lớn, hơn hai chục người ngồi vây quanh để hơ quần áo ướt đẫm nước mưa.

Bọn người này đều mặc áo ngắn màu đen hay màu lam. Có người dắt binh khí bên mình. Đây là đám tiêu khách gồm bọn chạy cờ và cước phu.

Trong sảnh đường còn ba hán tử ăn mặc theo kiểu võ quan. Mấy người này cũng chạy vào trú mưa, đang cởi áo ướt ra. Đột nhiên chúng nhìn thấy cô gái xinh đẹp hơ hớ, bất giác mắt sáng rỡ cả lên.

Cô gái đi đến bên bọn người đang hơ quần áo, kéo một lão già gầy nhom ra một chỗ, kể lại chuyện vừa nhìn trộm thấy ở nhà hậu sảnh cho lão nghe. Lão này lối ngoài năm chục tuổi, tinh thần tráng kiện, mái tóc đốm bạc, người cao không đầy năm thước nhưng mục quang lấp loáng, oai phong lẫm liệt. Lão nghe cô gái kể chuyện liền chau mày, khẽ trách:

– Ngươi lại đi gây chuyện thị phi rồi. Người ta mà biết được, chẳng phải là ngươi tự chuốc khổ vào mình hay sao?

Cô gái thè lưỡi cười đáp:

– Gia gia! Lão nhân gia đi bảo tiêu chuyến này, mắng hài nhi lần này là lần thứ mười tám rồi đấy.

Lão già hỏi:

– Tỷ dụ ta đang dạy ngươi luyện võ mà có người đến nhìn trộm thì thế nào?

Cô gái đang nhoẻn miệng cười, nghe phụ thân nói mấy câu này, bắt giác lòng chùng hẳn xuống. Cô nhớ lại năm ngoái có người lén đến ngoài cửa coi trộm phụ thân diễn võ. Lão biết rồi nhưng không nói ra. Đến khi thử phóng tụ tiễn, lão đột nhiên bắn ra một phát tên làm mù một con mắt người đó. Đây là lão mới nhẹ đòn cảnh cáo, nên chưa vận hết kình lực, nếu không thì mũi tụ tiễn xuyên vào óc rồi, còn sống làm sao được? Sau đó phụ thân cô nói cho nghe: lén học bí quyết võ công là một điều đại kỵ trong võ lâm khiến người ta căm giận gấp trăm lần kẻ ăn cắp tài vật.

Cô gái nhớ lại chuyện này, không khỏi hối hận vì vừa xem trộm người khác luyện võ. Nhưng bản tính quật cường, hiếu thắng, cô chẳng chịu thua bèn đáp:

– Gia gia! Tiêu pháp của gã đó cũng bình thường thôi, ai thèm học lén làm chi.

Lão già sa sầm nét mặt, mắng:

– Con nha đầu này! Hễ ngươi mở miếng ra lại nói người khác chẳng ra gì.

Cô gái mỉm cười hỏi:

– Ai bảo tiểu nữ là con gái của Bách Thắng Thần Quyền Mã lão tiêu đầu làm chi?

Ba tên võ quan đang ngồi quanh đống lửa thỉnh thoảng liếc mắt nhìn cô gái xinh đẹp nhưng hai cha con cô nói khẽ quá nên nghe không rõ chuyện gì. Chỉ có câu sau cùng cô lớn tiếng khiến cho một tên võ quan nghe thấy mấy chữ “con gái của Bách Thắng Thần Quyền Mã lão tiêu đầu” liền đưa mắt ngó lão lão già thấp lùn, bé nhỏ, gầy nhom. Hắn lại đưa mắt nhìn là tiêu kỳ cắm ở ngoài cửa sảnh đường. Lá cờ này nền vàng thêu chỉ đen hình con ngựa đang bay. Hắn khịt mũi một cái tự hỏi:

“Bách Thắng Thần Quyền ư? Đúng là đồ khoác lác.”

Nguyên lão già họ Mã kia tên gọi Hành Không, người giang hồ tặng cho ngoại hiệu là “Bách Thắng Thần Quyền”. Cô gái tên gọi Mã Xuân Hoa, con gái yêu độc nhất của lão. Danh tự này tuy có vẻ thô tục, nhưng đối với con nhà võ bôn tẩu giang hồ, hoa mùa xuân đã là đẹp rồi. Hán tử cùng cô đi coi trộm người luyện tiêu họ Từ, tên chỉ có một chữ Tranh, là đồ đệ của Mã Hành Không. Từ Tranh ngồi bên đống lửa, thấy tên võ quan cứ nhìn vị sư muội mình đăm đăm, bèn nổi giận, liền trợn mắt nhìn hắn.

Tên võ quan kia quay đầu, chạm mục quang của Từ Tranh, liền trừng mắt nhìn y một cái, bụng nghĩ tên tiểu tử này sao lại hùng hùng hổ hổ như vậy. Từ Tranh vốn nóng tính, thấy đối phương vô lễ, vẻ mặt thách thức, trợn mắt nhìn trừng trừng vào tên võ quan kia.

Tên võ quan lối ngoài ba mươi tuổi, mình cao lưng rộng, vẻ mặt kiêu hãnh. Hắn nổi lên tràng cười ha hả, nhìn đồng bọn ở mé tả hỏi:

– Ngươi xem, gã tiểu tử kia giống như con gà chọi. Nếu ngươi mà vụng trộm với mẹ gã thì không biết còn đến thế nào nữa?

Thế rồi hai tên võ quan kia cùng nhìn Từ Tranh mà cười hô hố.

Từ Tranh tức quá đứng phắt dậy, quát hỏi:

– Ngươi nói gì?

Tên võ quan cười hì hì đáp:

– Chú nhỏ kia! Ta nói có điều chi lầm lẫn thì ta xin lỗi chú.

Từ Tranh bản tính thẳng thắn, thấy người ta xin lỗi rồi cũng bỏ qua. Gã toan ngồi xuống thì người kia lại cười nói:

– Ta biết có kẻ không phải vụng trộm với mẹ gã mà chỉ muốn vụng trộm với em gái gã.

Từ Tranh nhảy vọt lên toan lại động thủ.

Mã Hành Không vội quát:

– Tranh nhi! Ngồi xuống!

Từ Tranh ngạc nhiên, mặt đỏ gay, hỏi:

– Sư phụ! Sư phụ… có nghe thấy không?

Mã Hành Không thản nhiên đáp:

– Người ta làm quan ở nha môn có nói mấy câu thì đã sao?

Từ Tranh trước nay không bao giờ dám kháng cự sư phụ nửa lời nên đành hậm hực nhìn tên võ quan kia rồi từ từ ngồi xuống. Ba tên võ quan lại cười rộ nhìn Mã Xuân Hoa không còn úy kỵ gì nữa, trong ánh mắt đầy vẻ dâm tà.

Mã Xuân Hoa thấy ba người vô lễ đã toan nổi nóng, nhưng cô biết xưa nay gia gia không muốn đắc tội với lũ quan phủ. Cô liền nghĩ cách đánh ba tên võ quan thối tha kia một trận cho bõ ghét.

Đột nhiên một tia chớp lóe lên chiếu sáng vào gian sảnh đường. Tiếp theo là tiếng sét nổ làm chấn động màng tai mọi người, tưởng chừng như đánh trúng vào tòa đại sảnh.

Trên trời như có lỗ vỡ, mưa cứ từng cơn từng cơn đổ xuống như trút nước. Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng người nói trong mưa:

– Trận mưa dữ quá, xin cho vào nấp mưa trong bảo trang một lúc.

Một tên nam bộc trong trang đáp vọng ra:

– Trong nhà đã đốt lửa. Mời các vị vào đây sưởi ấm.

Một nam một nữ đẩy cổng tiến vào. Người đàn ông thân hình cao lớn đẹp đẽ, khí vũ hiên ngang, trên lưng đeo một cái bọc, trông y độ trên dưới ba mươi. Nữ lang ước chừng hăm hai, hăm ba tuổi, da trắng như tuyết, mày xinh như vẽ. Thật là một giai nhân tuyệt sắc.

Mã Xuân Hoa đã kể vào hàng mỹ nữ, nhưng nữ lang kia vừa tới hình ảnh cô liền bị lu mờ.

Cả hai đều không mặc áo mưa. Thiếu phụ mình khoác áo ngoài của đàn ông, toàn thân ướt đẫm. Người đàn ông dắt tay thiếu phụ. Thái độ hai người rất thân mật, giống như đôi vợ chồng trong buổi tân hôn. Người đàn ông kiếm một bó rơm trải xuống đất rồi đỡ thiếu phụ ngồi xuống tỏ ra cực kỳ âu yếm. Y phục của hai người rất sang trọng. Trên đầu thiếu phụ cài cành thoa hình con chim phượng bằng vàng. Nhìn chuỗi minh châu hạt nào cũng tròn trĩnh tinh vi, hiển nhiên là vật trân quý.

Mã Hành Không nhủ thầm trong bụng:

“Giải đất này không được bình yên, cường đồ ẩn hiện thất thường. Cặp vợ chồng này phi phú tắc quí sao không đem theo người hầu hộ vệ, mà chỉ có trơ trọi hai người trên bước đường xa thế này?”

Tuy lão đã suốt đời len lỏi trên chốn giang hồ mà cũng không đoán ra được lai lịch hai nhân vật này.

Mã Xuân Hoa thấy thiếu phụ ra chiều mỏi mệt, cặp mắt đỏ hoe, dường như nàng đi đường gặp trận mưa rào làm khổ. Nếu nàng mặc áo ướt sưởi lửa, khí lạnh thấm vào thân thể, tất bị cảm nặng. Cô liền mở rương quần áo lấy một bộ y phục của mình đi tới bên nàng nói khẽ:

– Nương tử! Nương tử hãy thay tạm lấy bộ quần áo vải thô này của tiểu muội, chờ quần áo khô rồi sẽ thay trở lại.

Thiếu phụ lấy làm cảm kích nhìn cô mỉm cười. Nàng đứng lên đưa mắt nhìn trượng phu để hỏi ý. Chàng trai gật đầu rồi nhìn Mã Xuân Hoa nở nụ cười tạ ơn.

Thiếu phụ dắt tay Mã Xuân Hoa đi vào hậu sảnh để thay quần áo. Ba tên võ quan đưa mắt nhìn nhau, trên mặt lộ vẻ khác lạ. Trong lòng chúng đang tưởng tượng lúc thiếu phụ thay áo, ắt hẳn đẹp không bút nào tả xiết.

Tên võ quan lớn mật nhất, vừa rồi đã đấu khẩu với Từ Tranh, khẽ nói:

– Ta phải vào coi một cái mới được.

Một tên khác cười, đáp:

– Này lão Hà! Đừng có làm nhộn!

Tên võ quan họ Hà hấp háy cặp mắt, đứng lên khoa chân đi được vài bước, không hiểu nghĩ sao, hắn quay lại lượm thanh yêu đao dưới đất cài vào bên mình.

Từ Tranh bị hắn làm nhục trong lòng vẫn còn phẫn nộ. Bây giờ gã thấy tên võ quan đi vào hậu viện liền quay lại nhìn sư phụ. Gã thấy Mã Hành Không đang nhắm mắt dưỡng thần. Còn hai vị tiêu đầu họ Thích, họ Dương, năm tên chạy hiệu và mười mấy tên cước phu đang canh giữ ở bên xe tiêu. Cách phòng vệ rất nghiêm mật, quyết chẳng đến nỗi xảy chuyện bất trắc, gã liền theo sau tên võ quan kia.

Tên võ quan nghe tiếng bước chân ở sau lưng, quay đầu lại ngó thấy Từ Tranh liền toét miệng cười hỏi:

– Tiểu tử! Ngươi mạnh giỏi chứ?

Từ Tranh đáp:

– Tên võ quan thối tha kia! Ngươi cũng mạnh giỏi a?

Tên võ quan lại cười hỏi:

– Mi muốn đánh nhau chăng?

Từ Tranh đáp:

– Đúng thế? Gia sư không cho ta đánh ngươi. Chúng ta lén đi đánh nhau một trận, ngươi thấy được không?

Tên võ quan ỷ mình võ công cao cường, chẳng coi gã tiểu tử này vào đâu, nhưng thấy bọn bảo tiêu đông người mà bên hắn chỉ có ba tên, nếu xảy ra cuộc quần ẩu nhất định là bên mình phải chịu thiệt thòi. Bây giờ hắn thấy gã lén đi một mình đòi tỷ đấu là một cơ hội rất tốt, liền gật đầu cười, nói:

– Được lắm! Chúng ta đi xa một chút. Nếu sư phụ ngươi nghe thấy tiếng động thì cuộc tỷ thí không thể thành được.

Hai người đi qua cái sân rộng, định tìm nơi vắng vẻ để động thủ. Bỗng thấy trên hành lang một người đi tới. Người này mặc áo gấm, lối mười bảy, mười tám tuổi, mi thanh mục tú, chính là thiếu niên vừa luyện tiêu.

Từ Tranh động tâm tự nhủ:

“Ta mượn luyện võ sảnh của anh chàng này để tỷ đấu là hay hơn hết.”

Gã liền tiến lại chắp tay nói:

– Chào huynh trưởng!

Thiếu niên xá một cái rồi hỏi:

– Quan lớn có điều chi dạy bảo?

Từ Tranh trỏ tên võ quan đáp:

– Tại hạ cùng vị quan gia đây có điều xích mích, mong huynh trưởng cho mượn luyện võ sảnh một lúc.

Thiếu niên lấy làm quái lạ, tự hỏi:

“Sao gã này biết nhà mình có luyện võ sảnh?”

Nhưng con nhà võ, nghe người ta muốn tỷ đấu đều lấy làm thích thú, liền đáp:

– Hay lắm! Hay lắm!

Y liền dẫn hai người vào luyện võ sảnh.

Lúc này bà già và bọn tráng đinh đều giải tán hết rồi. Trong luyện võ sảnh chẳng còn một ai. Tên võ quan thấy bốn mặt tường vách đều treo võ khí, đao, thương, kiếm, kích chẳng thiếu thứ gì. Ngoài ra còn bao cát, túi đựng tên, thạch hóa, thạch cổ bỏ đầy mặt đất. Mé tây trồng sẵn bảy mươi hai cây mai hoa thung.

Hắn lẩm nhẩm gật đầu nghĩ bụng:

“Té ra đây là một nhà luyện võ, chắc bản lãnh của họ không phải tầm thường.”

Hắn liên nhìn thiếu niên chắp tay nói:

– Tại hạ đến quí trang nấp mưa mà chưa kịp thỉnh giáo cao tính đại danh của chủ nhân.

Chàng thiếu niên vội đáp lễ, hỏi:

– Tiểu nhân họ Thương, tên họ Bảo Chấn. Cao tính đại danh hai vị là gì?

Từ Tranh vội đáp:

– Tại hạ là Từ Tranh. Gia sư làm tổng tiêu đầu ở Phi Mã tiêu cục tên gọi Bách Thắng Thần Quyền Mã Hành Không.

Gã nói rồi trợn mắt nhìn võ quan, tự nhủ:

“Ngươi nghe thấy oai danh của sư phụ ta rồi, đã biết lợi hại chưa?”

Thương Bảo Chấn chắp tay nói:

– Tại hạ được nghe tiếng đã lâu. Xin vị này cho biết cao danh.

Tên võ quan đáp:

– Tại hạ là Ngự tiền thị vệ Hà Tư Hào.

Thương Bảo Chấn hỏi:

– Té ra các hạ là một vị thị vệ đại nhân. Tiểu tử thường nghe nói ở kinh sư có mười tám cao nhân trong đại nội. Chắc Hà đại nhân đều biết cả.

Hà Tư Hào đáp:

– Tại hạ chỉ biết quá nửa.

Thực ra thị vệ của Hoàng đế chia làm các loại: Thị vệ ban lĩnh, thập trưởng, nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng cho đến bọn thị vệ áo lam đều do con cháu trong ba dòng tôn thất Chính Hoàng, Nhương Hoàng, Chính Bạch đảm nhiệm. Thị vệ người Hán thuộc hàng tứ đẳng. Gã Hà Tư Hào chỉ thuộc vào đám thị vệ lam linh người Hán, cho nên cái gọi là “Đại nội thập bát cao thủ” thì gã chỉ biết họ chứ họ tuyệt không biết gã là ai.

Từ Tranh lớn tiếng:

– Thương công tử! Xin công tử làm trọng tài cho cuộc tỷ đấu giữa tại hạ và ông bạn họ Hà được công bằng. Bất luận ai thắng ai bại xin đừng nói với người ngoài.

Gã chỉ sợ sư phụ biết chuyện sẽ trách mắng.

Hà Tư Hào cười khanh khách nói:

– Thắng được tên tiểu tử như mi thì lấy gì làm hay ho mà còn đi khoác lác với người ngoài? Ngốc tiểu tử! tiến lên đi!

Hắn vén trường bào dắt vào đai lưng.

Từ Tranh cởi trường bào, quấn bím tóc trên đỉnh đầu. Hai chân xoạc ra hai tay nắm lại thành quyền đối nhau. Thái độ rất trấn tĩnh, ung dung.

Hà Tư Hào ngó thấy tư thức đúng là chiêu khởi động của môn “Tra Quyền” thì vững tâm nghĩ thầm:

“Tưởng Bách Thắng Thần Quyền ghê gớm lắm, té ra là “Tra Quyền” thì đứa trẻ lên ba cũng biết rồi, có chi là lạ?”

Nguyên Đầm, Tra, Hoa, Hồng tự xưng là “Bắc Quyền Tứ Đại Gia” thuật của bốn môn phái “Đầm thoái”, “Tra quyền”, “Hạ Quyền”, “Hình quyền” được lưu truyền rất rộng rãi ở phương Bắc. Bất cứ ai là người đã luyện quyền pháp cũng hiểu được một đôi phần, vì những môn này thuộc về công phu nhập môn trong quyền thuật.

Hà Tư Hào thấy quyền pháp của đối thủ tầm thường, liền nhìn Thương Bảo Chấn, cười nói:

– Đồ tài mọn!

Hắn ra chiêu “Thương bộ dã mã phân mấn” nhắm đánh tới Từ Tranh. Hắn đã sử Thái Cực quyền. Hiện thời võ công của Thái Cực môn thanh thế rất thịnh. Ai ai cũng biết đây là quyền pháp nội gia rất lợi hại.

Từ Tranh không dám chần chờ, đưa chân trái đạp về phía sau, nửa người trên chuyển thành thế tọa bàn, tay phải chống xuống. tay trái móc lên thành chiêu “Hậu xoa bộ liệu chưởng”. Gã ra tay cực kỳ mau lẹ.

Hà Tư Hào thấy chiêu thức này luồng kình đạo không đến nỗi kém cỏi, hắn vội sử chiêu “Chuyển thần bão hổ quy sơn” tránh khỏi cú móc.

Từ Tranh liền ra chiêu “Cung bộ giá đả”. Quyền bên phải đánh vù đến trước mặt đối phương. Hà Tư Hào không kịp né tránh, liên sử chiêu “Như phong tự bế”, đưa hai tay lên chống đỡ. Quyền chưởng hai người đụng nhau, Hà Tư Hào cảm thấy cổ tay ngâm ngẩm đau, liền nghĩ thầm:

“Nội lực thằng lỏi này quả mạnh thiệt!”

Chỉ trong khoảnh khắc, hai người đã trao đổi mười mấy chiêu.

Thương Bảo Chấn đứng bên theo đõi cuộc đấu thấy Từ Tranh cước bộ trầm ổn, quyền phóng ra mãnh liệt. Còn Hà Tư Hào thân hình phiêu hốt. Hiển nhiên khinh công của hắn rất có căn bản.

Cuộc đấu đang hăng. Hà Tư Hào bỗng nổi lên tràng cười ha hả, phóng chưởng đánh trúng vào mí mắt Từ Tranh. Từ Tranh phóng cước đá lại. Hà Tư Hào nghiêng mình né tránh, ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa”. Nghe “chát” một tiếng, hắn lại đánh trúng cánh tay Từ Tranh.

Từ Tranh vẫn thản nhiên múa quyền đánh gấp. Đột nhiên gã đánh thẳng một chiêu “Cung bộ phách đả”. “Binh” một tiếng vang lên, gã đánh trúng một quyền vào trước ngực đối phương. Thoi quyền này luồng lực đạo rất trầm trọng.

Hà Tư Hào chân bước loạng choạng, lùi lại mấy bước rồi ngồi phệt xuống đất.

Bỗng nghe thanh âm cô gái trong trẻo cất lên:

– Hay quá!

Thương Bảo Chấn quay đầu nhìn lại thấy hai nữ nhân đứng trước cửa sảnh đường. Một thiếu phụ và một khuê nữ.

Lúc trước y ngưng thần theo dõi trận đấu không biết sau lưng mình có người đến từ lúc nào. Nguyên Mã Xuân Hoa và thiếu phụ thay áo rồi qua đây, nghe tiếng tỷ võ quát tháo liền lần vào cửa sảnh để coi. Thì ra là vị sư huynh đang tỷ đấu với tên võ quan mà gã lại đắc thắng, bất giác cô bật tiếng hoan hô.

Hà Tư Hào đã bị một quyền đánh trúng đau điếng người, lại mất mặt trước đàn bà. Hắn thẹn quá hóa giận liền nhảy xổ lại, thừa thế rút yêu đao chém tới.

Từ Tranh không mảy may sợ hãi. Gã vẫn tay không thi triển “Tra quyền” để đấu với võ quan. Có điều gã úy kỵ binh khí của đối phương sắc bén nên né tránh thì nhiều mà tấn công thì ít.

Mã Xuân Hoa thấy tên võ quan mặt mũi hung ác có ý đánh liều mạng chứ không phải cuộc tỷ đấu tầm thường nên trong lòng không khỏi hồi hộp. Thiếu phụ kéo tay áo cô nói:

– Chúng ta đi thôi. Ta rất hận những kẻ động đao múa quyền.

Trước tình thế này, Mã Xuân Hoa khó có thể bỏ đi. Cô chỉ đáp:

– Chúng ta hãy coi một lúc nữa đã.

Thiếu phụ cau mày rồi bỏ đi một mình. Thương Bảo Chấn ngưng thần theo dõi thế đao của võ quan, lại chú ý đến Từ Tranh vừa né tránh vừa tấn công. Y ngầm cầm mũi kim tiêu trong tay để chờ xem hễ thấy tên võ quan vung đao giết người là ra tay giải cứu. Chỉ thấy Từ Tranh hai mắt nhìn chằm chặp vào mũi đao. Mũi đao huơ qua phía đông, gã đưa mắt ngó về phía đông, mũi đao liệng sang mé tây, mắt gã cùng nhìn theo mé tây. Hễ đao chém tới trước mặt, gã liền lùi lại tránh né đồng thời vung cước đá vào cổ tay địch nhân. Hà Tư Hào xoay đao quét xuống dưới chân, Từ Tranh liền vươn tay ra. Nghe “binh” một tiếng, quyền của gã đánh trúng sống mũi của đối phương. Hà Tư Hào trúng quyền đau điếng, chân tay chậm lại, Từ Tranh liền vung tay trái chụp được cổ tay mặt hắn, rồi vặn một cái đoạt lấy thanh yêu đao.

Hà Tư Hào sợ gã thuận đà chém tới bèn vội nhảy lùi lại. Hắn giơ tay lên vuốt mặt thấy đầy máu tươi. Từ Tranh liệng thanh yêu đao xuống đất, nói:

– Ngươi còn làm kẻ mù mắt để thóa mạ người ta nữa hay thôi?

Hà Tư Hào thẹn quá, không dám lên tiếng.

Thương Bảo Chấn đưa tay nắm lấy vạt áo đằng sau Từ Tranh kéo gã lùi lại và đưa mắt ra hiệu. Từ Tranh chưa hiểu ý. Y liền lớn tiếng hô:

– Hai bên tỷ đấu bất phân thắng bại. Hay lắm! Võ công hai vị đều cao minh. Tiểu đệ khâm phục vô cùng.

Từ Tranh vội hỏi:

– Sao… sao lại bảo là chưa phân thắng bại?

Thương Bảo Chấn nói:

– Võ công của hai vị đều có chỗ độc đáo, “Tra quyền” của Từ huynh cực kỳ thuần thục, còn Thái Cực quyền và Thái Cực đao của Hà đại nhân lại càng lợi hại. Từ huynh may mắn không việc gì, nhưng về công phu chân thực mới suýt soát ngang bằng Hà đại nhân.

Y vừa nói vừa lấy khăn lau máu cho Hà Tư Hào. Từ Tranh toan cãi lại thì Mã Xuân Hoa cất tiếng gọi:

– Sư ca! Đừng dây dưa với y nữa. Chúng ta đi thôi.

Từ Tranh đánh Hà Tư Hào được hai quyền trong lòng cũng đã nguôi giận, nhưng gã thấy Thương Bảo Chấn ăn nói hàm hồ ra chiều bênh vực đối phương và tựa hồ coi gã võ công còn kém Hà Tư Hào thì trong lòng bực bội lắm. Đi đến chỗ khoảng sân trống, trên không bỗng nổi sấm ầm ầm. Tiếng sấm át đi tiếng cười của Thương Bảo Chấn và Hà Tư Hào. Hiển nhiên họ đang cười sau lưng gã.

Tuy Từ Tranh đánh thắng nhưng gã càng nghĩ lại càng thấy bất nhẫn. Gã đến ngồi bên đống lửa, chỉ thấy sư phụ lim dim đôi mắt, ra chiều buồn ngủ. Qua một lúc, Hà Tư Hào đi ra. Không hiểu gã nói gì với hai tên võ quan kia mà cả ba nổi lên cười ha hả, thỉnh thoáng lại đưa mắt nhìn thiếu phụ xinh đẹp.

Mã Hành Không từ từ đứng lên, vươn vai ưỡn người, đi đến bên tiêu xa để kiểm tra. Đột nhiên, lão gọi:

– Từ nhi! Lại đây, ngươi xem thử cái gì đây?

Mã Hành Không nghiêng người, mắt nhìn vào bức tường, đưa tay sửa lại tiêu xa, khẽ giọng nói:

– Ngươi không tiến bộ được chút nào. Chiêu “Chấp bộ soại thối” của ngươi sao lại đạp lệch một bên? Không thì việc gì phải đấu lâu như thế?

Từ Tranh hoảng kinh, run giọng hỏi:

– Lão… lão nhân gia đã thấy cả rồi ư?

Mã Hành Không đáp:

–  Hừ, ngươi đừng tưởng giở được trò quỷ trước mắt sư phụ. Lúc gã sử chiêu “Đê bộ cao thám mã”, sao mi không sử chiêu “Cung bộ song thôi chưởng” đánh thẳng vào mặt, có phải đã thắng sớm rồi không? Mi vẫn còn nhát gan sợ chết lắm.

Từ Tranh nhớ lại trận đấu vừa rồi, ban đầu chưa biết đối phương hư thực ra sao, quả nhiên có phần khiếp sợ, có nhiều chiêu đánh quá ư trầm trọng. Y tưởng sư phụ không biết, kỳ thực ông nấp bên ngoài cửa nhìn thấy cả. Mã Hành Không lại nói:

– Ngươi mau đi cảm tạ vị công tử họ Thương kia đi. Người ta tuổi nhỏ hơn mi nhưng lại thông minh tài trí.

Từ Tranh lấy làm lạ, bèn hỏi:

– Sư phụ, cảm tạ việc gì mới được chứ? Gã họ Thương kia lòng dạ hẹp hòi, chẳng phải là hạng người tốt đâu.

Mã Hành Không bèn cười nhạt nói:

– Phải rồi, gã là người hẹp hòi, cho nên chỉ che chở cho một Từ đại gia nhà ngươi thôi.

Từ Tranh trong bụng hoang mang, sợ sệt nhìn sư phụ. Mã Hành Không bèn thấp giọng nói:

– Mi đánh với ai? Người ta là ngự tiền thị vệ, còn chúng ta chẳng qua là bọn bảo tiêu cho thiên hạ để kiếm miếng cơm. Vị quan gia muốn gây khó dễ cho ngươi, thử hỏi chúng ta còn miếng ăn không? Vị công tử kia đã giữ giùm thể diện cho người ta, gọi mi là thằng nhãi ngốc đó.

Từ Tranh chợt hiểu ra, luôn miệng nói:

– Dạ phải! Dạ phải!

Gã liền chạy đến luyện võ sảnh sau trang viện, chỉ thấy Thương Bảo Chấn tay đấm chân đá, đang luyện lại chiêu “Cung bôi tý đả” của môn “Tra quyền” mà vừa rồi Từ Tranh dùng để đối phó với Hà Tư Hào. Thương Bảo Chân thấy Từ Tranh đi tới, mặt đỏ lên, vội thu quyền lại. Từ Tranh chấp tay chào, nói:

– Thương công tử, sư phụ tại hạ bảo tại hạ đến đây cảm tạ công tử. Lúc nãy tại hạ không hiểu được ý tốt của công tử trong bụng lấy làm áy náy.

Thương Bảo Chấn nói:

– Từ đại ca! Võ công của đại ca còn cao thâm hơn gấp mười viên thị vệ kia. Tiểu đệ thán phục vô cùng!

Từ Tranh nghe chàng khen mình, trong bụng rất hể hả liền gạ chuyện, hỏi:

– Công tử rèn luyện công phu thuộc môn phái nào?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Tiểu đệ mới học nghệ chưa hiểu gì hết, không đáng kể là công phu của môn phái nào. Vừa rồi, Từ đại ca dùng chiêu quyền hạ đối phương. Có phải thế này không?

Y nói rồi đưa chân phải ra, vung quyền bên tay mặt đánh tới, lòng bàn tay trái đưa lên đỡ cánh tay mặt. Từ Tranh vừa rồi nhờ chiêu đó mà thủ thắng. Gã thấy chàng hỏi tới chiêu đắc ý của mình dĩ nhiên cao hứng phi thường, liền đáp:

– Chiêu này có hai câu khẩu quyết “Lục hải nghinh môn tam bất cố, phách quyền khiêu đả bất dung khoan”.

Gã vừa thuận miệng đọc hai câu đó ra, chợt nhớ đây là tâm pháp bí truyền của sư môn sao lại tiết lộ cho người ngoài biết? Gã liền đổi giọng:

– Công tử làm rất đúng. Chính là chiêu đó.

Thương Bảo Chấn hỏi:

– “Lục hải nghinh môn tam bất cố” là thế nào?

Từ Tranh ấp úng đáp:

– Cái đó… tại hạ cũng quên mất rồi.

Gã không quen nói dối, nên sau khi nói câu này mặt cứ đỏ bừng lên. Thương Bảo Chấn biết gã không chịu giải thích cũng không hỏi nữa. Y chỉ đón ý mà nói khiến cho gã cao hứng phi thường, tưởng chừng như bay bổng, lên tận chín từng mây.

Từ Tranh nói:

– Thương lão đệ! Chúng ta đừng khách sáo nữa. Lão đệ thử đi một đường quyền cước cho tại hạ coi. Nếu còn chỗ nào chưa đạt, tại hạ sẽ giải thích. Có thế mới khỏi uổng phí cuộc giao kết bữa nay.

Thương Bảo Chấn cả mừng đáp:

– Nếu vậy còn gì hay bằng?

Chàng liền đi một đường quyền trong sảnh đường, sử mười hai chiêu Đàm thoái “Đầu thang thằng quải nhất điều tuyến, Nhị thang thập tự nhiễu tam tiên”. Những đường quyền nào y sử dụng cũng đều thuần thục, nhưng quyền đánh không nhanh, bộ pháp hời hợt. Dù áo bào phất phới, tư thế rất ngoạn mục song lúc lâm sự cùng người động thủ thì chẳng ăn thua gì. Từ Tranh ngấm ngầm lắc đầu chờ Thương Bảo Chấn đi xong chiêu “Thập nhị thang tê ngưu vọng nguyệt chuyển hồi hoàn”, gã không nhịn được, bèn thở dài nói:

– Huynh đệ! Ta nói thẳng huynh đệ đừng buồn. Lệnh sư đã làm hỏng huynh đệ rồi.

Gã toan giải thích bỗng thấy Mã Xuân Hoa đứng ngoài cánh cửa sảnh đường thò đầu vào gọi:

– Sư ca! Gia gia gọi sư ca đó.

Từ Tranh vội cáo biệt Thương Bảo Chấn rồi chạy về sảnh đường. Gã thấy bên đống lửa có thêm hai người mới vào trú mưa. Một người cụt tay phải, trên mặt có vết sẹo rất dài từ lông mày bên phải đi qua sống mũi xuống tới khóe miệng bên trái. Dưới ánh lửa bập bùng, mặt mũi người này coi càng khủng khiếp. Còn người nữa là chú nhỏ mới mười ba, mười bốn tuổi, người gầy nhom, nước da vàng ủng. Cả hai quần áo đều lam lũ. Từ Tranh nhìn hai người một cái rồi không để ý nữa, đi thẳng tới trước mặt Mã Hành Không cất tiếng:

– Sư phụ!

Mã Hành Không sa sầm nét mặt, khẽ hỏi:

– Ngươi vào nhà trong làm gì lâu thế? Lại phô trương võ nghệ phải không?

Từ Tranh đáp:

– Đệ tử không dám. Chủ nhân họ Thương ở đây tiêu pháp rất hay, không ngờ về đường quyền cước chẳng thành tựu một tý gì.

Mã Hành Không nói:

– Thằng lỏi ngu ngốc này! Ngươi bị người ta lừa gạt đó. Một chút công phu kém cỏi của ngươi thì chấp cả hai tên như ngươi cũng không địch nổi người ta đâu.

Từ Tranh cười đáp:

– Cái đó e rằng chưa chắc. Sư phụ y dạy mười hai đường “Đàm thoái chỉ” phô trương cho ngoạn mục chứ chẳng dùng được việc gì.

Mã Hành Không hỏi:

– Ngươi có biết sư phụ y là ai không?

Từ Tranh rất lấy làm lạ, nghĩ bụng:

“Sư phụ mình chưa gặp mặt anh chàng họ Thương lần nào, cũng không coi y luyện quyền pháp mà sao lại biết cả sư phụ y là ai?”

Gã liền đáp:

– Đệ tử không rõ, chắc cũng là hạng xoàng thôi.

Mã Hành Không cười lạt, hạ giọng trầm trầm nói:

– Hạng xoàng ư? Hừ! Mười lăm năm về trước, sư phụ ngươi bị lão chém một đao, đánh một chưởng phải dưỡng thương ba năm mới lành. Nhân vật đó là ai?

Từ Tranh kinh ngạc hỏi:

– Bát quái đao Thương Kiếm Minh.

Mã Hành Không đáp:

– Không sai chút nào. Thương Kiếm Minh là người huyện Võ Định, tỉnh Sơn Đông. Nơi đây thuộc huyện Võ Định, chủ nhân lại họ Thương. Chúng ta chạy bừa vào trú mưa, lúc ban đầu không để ý. Ngươi thử coi xem trên tường nhà vẽ cái gì kia?

Từ Tranh ngẩng đầu lên nhìn thấy đồ hình bát quái thếp vàng vẽ trên tường nhà. Bất giác gã giật mình kinh hãi, vội nói:

– Sư phụ! Chúng ta chạm phải cừu gia trong nhà này rồi.

Mã Hành Không lạnh lùng đáp:

– Ngươi bất tất phải hoang mang. Thương Kiếm Minh đã bị người ta hạ sát.

Từ Tranh nghe sư phụ nói tới ngày trước lão đã bị đại bại về tay Bát quái đao Thương Kiếm Minh, một hào trưởng ở Sơn Đông. Đó là một điều vô cùng nhục nhã của sư môn. Sau sư phụ không nhắc tới, gã cũng không dám hỏi nhiều. Không ngờ Thương Kiếm Minh đã chết rồi.

Gã khẽ hỏi:

– Phải chăng lão nhân gia đã trả thù?

Mã Hành Không hừ một tiếng, nói:

– So với bản lãnh Thương Kiếm Minh, ta có luyện võ công bao lâu nữa cũng không bằng y, thì giết y thế nào được ?

Từ Tranh rất lấy làm lạ, lại hỏi:

– Vậy ai đã giết lão?

Mã Hành Không đáp

– Chính là hai hình người vẽ trên mộc bài làm đích cho thiếu niên đó phóng tiêu đã hạ sát Thương Kiếm Minh.

Từ Tranh trố mắt hỏi:

– Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng ư?

Mã Hành Không gật đầu. Vẻ mặt lão ủ rũ cũng như đời chiều ảm đạm ở bên ngoài.

Bình nhật Từ Tranh khâm phục sư phụ sát đất. Gã cho là trên đời hiện nay hiếm có người bản lãnh cao hơn Bách thắng thần quyền Mã lão tiêu đầu. Nay theo lời sư phụ gã nói thì không phải chỉ có Thương Kiếm Minh võ công cao hơn sư phụ mà Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng võ công còn cao thâm hơn cả Thương Kiếm Minh. Gã không khỏi kinh ngạc, khẽ hỏi:

– Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng la những nhân vật nào?

Mã Hành Không đáp:

– Võ công của Hồ Nhất Đao mạnh hơn ta gấp mười lần. Đáng tiếc y chết mười mấy năm trước đây rồi.

Từ Tranh thở phào một cái, hỏi:

– Chắc y chết vì mắc bệnh phải không?

Mã Hành Không đáp:

– Y bị người ta hạ sát.

Từ Tranh giương cập mắt tròn xoe hỏi:

– Hồ Nhất Đao đã ghê gớm như vậy thì còn ai hạ sát được y?

Mã Hành Không đáp:

– Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng.

Mười ba chữ “Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng” đọc lên bằng thanh âm nhỏ bé mà nghe rất oai nghiêm. Từ Tranh tưởng chừng như đứng tim. Gã toan hỏi nữa thì đột nhiên có tiếng vó ngựa vang lên ngoài cửa. Mười mấy con ngựa dưới cơn mưa lớn đang ầm ầm lao tới.

Chàng thanh niên anh tuấn và thiếu phụ xinh đẹp nghe tiếng vó ngựa liền đưa mắt nhìn nhau. Dường như hai người gắng gượng trấn tĩnh, nhưng nỗi kinh hoàng vẫn lộ ra ngoài mặt. Người thanh niên kéo tay thiếu phụ di chuyển chỗ ngồi tựa hồ sợ lửa nóng quá phải lui ra xa thêm một chút.

Mười mấy con ngựa chạy tới trước cửa trang viên thì dừng lại. Bỗng nghe mấy tiếng huýt còi. Bảy, tám con ngựa liền quanh ra phía sau trang viện. Mã Hành Không nghe tiếng còi thì đột nhiên biến sắc khẽ nói:

– Chuẩn bị đi.

Từ Tranh phấn khởi tinh thần, giọng hơi run hỏi:

– Những ai đến đó?

Mã Hành Không không trả lời, lớn tiếng hô:

– Các anh em bảo vệ tiêu xa.

Tiếng hô vừa đứt, bọn người bảo tiêu rối loạn cả lên. Chúng biết là có bọn hắc đạo đến cướp tiêu xa, lập tức đứng bật cả lên. Hai vị tiêu đầu Thích, Dương và năm tên chạy cờ hiệu chỉ huy bọn xa phu kéo sát mười mấy cỗ xe tiêu liền vào một chỗ. Mã Xuân Hoa lại lộ vẻ hoan hỷ rút thành liễu diệp đao ra hỏi:

– Gia gia! Bọn này ở đâu tới?

Mã Hành Không chau may đáp:

– Chưa biết.

Rồi lão tự nói một mình:

“Đám bằng hữu này lạ quá. Nói đến là đến.”

Lão vừa dứt lời đã nghe liên tiếp những tiếng “bình bình” trên bức tường vây. Tám đại hán mình mặc áo đen, tay cầm khí giới nhảy lên đầu tường đứng thành hàng chữ “nhất”, Mã Xuân Hoa giơ tay lên muốn phóng tụ tiễn, Mã Hành Không vẻ mặt nghiêm trọng khẽ quát:

– Không được hồ đồ! Phải theo lệnh mắt ta mà hành động.

Tám đại hán áo đen đảo mắt nhìn mọi người trong sảnh đường chẳng nói năng.

“Binh” một tiếng! Cánh cổng bị đẩy ra, một hán tử tiến vào. Người này mình mặc trường bào màu lam, y phục cực kỳ hoa lệ, những mặt mũi vô cùng xấu xí. Vẻ người không tương xứng với y phục chút nào. Hắn ngẩng đầu trông trời thấy mưa như trút nước, bất giác lại cất tiếng cười khanh khách. Hắn dí đầu ngón chân xuống, vọt qua sân vào tới cửa sảnh đường. Thân pháp cực kỳ mau lẹ. Mưa to là thế mà chỉ thấy mấy giọt mưa đọng trên đám lông mày.

Từ Tranh và Mã Xuân Hoa ban đầu vẫn không để ý đến người này, đột nhiên thấy hắn thi triển khinh công mới đem lòng úy kỵ, liếc mắt nhìn Mã Hành Không. Mã Hành Không tay cầm dọc tẩu, chắp tay hỏi:

– Xin thứ lỗi cho lão hán mất kém chưa kịp bái kiến. Xin cho hỏi tôn tính đại danh của bằng hữu? Quý trại ở đâu?

Thiếu chủ nhân Thương gia bảo Thương Bảo Chấn lúc nghe tiếng vó ngựa vang lên đã ngầm giấu kim tiêu, lưng đeo lợi đao, chạy ra trước sảnh đường. Y thấy tên tướng cướp tay đeo nhẫn bích ngọc, mình mặc áo trường những khuy bằng vàng lóng lánh. Tay trái hắn cầm ống thuốc bằng ngọc phỉ thúy bên mình không đeo binh khí, ra vẻ vênh vang. Lão ăn mặc như một nhà phú thương mới phất. Hắn đáp:

– Tại hạ họ Diêm tên Cơ. Phải chăng lão anh hùng là Bách thắng thần Quyền Mã Hành Không?

Mã Hành Không chắp tay nói:

– Lão hán không dám. Cái ngoại hiệu này là do bạn hữu giang hồ tô điểm thêm cho chút thể diện, chỉ là hư danh, chẳng có chi đáng kể.

Lão tự hỏi:

“Diêm Cơ là ai? Sao ta chưa từng nghe nói tới nhân vật mang tên hiệu này trên chốn giang hồ?”

Diêm Cơ cười ha hả trỏ vào những hán tử áo đen đứng trên đầu tường, nói:

– Anh em tại hạ nhịn đói đã mấy ngày, mong được Mã lão anh hùng cho một bữa.

Mã Hành Không đáp:

– Diêm trại chủ dạy quá lời. Tranh nhi! Ngươi lấy năm chục lạng bạc để Diêm trại chủ thưởng cho anh em.

Lão hành động theo quy củ giang hồ, nhưng xem chừng thái độ và thanh thế đối phương quyết không thể thu xếp cho ổn bằng năm chục lạng bạc. Quả nhiên Diêm Cơ ngẩng mặt lên trời cười ha hả, nói:

– Mã lão anh hùng làm nghề bảo tiêu mỗi chuyến hàng được ba chục vạn lạng. Nhãn giới của họ Diêm này tuy bé nhỏ nhưng cũng coi năm chục lạng bạc không vào đâu.

Mã Hành Không bụng bảo dạ:

“Thằng cha này lấy tin tức ở đâu mà nhạy như thế? Sao hắn biết rõ mỗi chuyến bảo tiêu mình kiếm được ba chục vạn lạng?”

Lão chau mày, nhưng vẫn nói theo giọng lề luật giang hồ:

– Thiết tưởng Mã mỗ cũng chẳng có bản lãnh gì, chỉ trông vào bạn hữu giang hồ nể mặt mà thôi. Bữa nay mới được bái kiến Diêm trại chủ, nhưng chúng ta chẳng gặp nhau nơi đây thì sẽ gặp nhau nơi khác. Mã mỗ lấy làm hân hạnh được kết giao cùng người bạn mới. Không hiểu Diêm huynh muốn dạy bảo thế nào?

Diêm Cơ đáp:

– Dạy bảo thì không dám, nhưng bản tính tại hạ hễ thấy tiền là sáng mắt ra. Ba chục vạn lạng bảo tiêu đã ngửi thấy rồi, không dám làm tổn thương đến âm đức. Có điều Mã lão tiêu đầu cứ mở miệng ra là một điều kêu bằng hữu, hai điều kêu bằng hữu, vậy tại hạ chỉ lấy một nửa tức là mượn đỡ mười lăm vạn bạc.

Rồi không chờ Mã Hành Không trả lời, hắn đưa tay trái vẫy tay một cái.

Những gã đại hán đứng trên tường nhất tề nhảy xuống, chạy đến cửa sảnh đường. Một tên hỏi:

– Lấy hết hay sao?

Diêm Cơ đáp:

– Không! Lấy một nửa thôi, còn lưu lại một nửa. Bọn ta đồng cam cộng khổ, có cứt thì cùng ỉa, có cơm thì cùng ăn.

Bọn đại hán dạ ran rồi chạy lại bên xe tiêu. Mã Hành Không nổi giận đùng đùng. Lão thấy bọn đại hán ở trên tường nhảy xuống thân thủ tầm thường, chẳng có ai là cao thủ cả. Lão không lo gì nữa, liền lạnh lùng hỏi:

– Diêm trại chủ đối xử như thế này chẳng là cạn tàu ráo máng lắm ư?

Diêm Cơ ngạc nhiên hỏi lại:

– Sao lại cạn tàu ráo máng? Diêm mỗ đã bảo lấy một nửa còn để lại một nửa kia mà? Anh em ta đã có thương lượng. Cuộc giao dịch như vậy là rất công bằng.

Từ Tranh không nhịn được, tiến lên hai bước trỏ vào mặt Diêm Cơ quát hỏi:

– Các ngươi là bọn hắc đạo từng qua lại giang hồ chẳng lẽ chưa từng nghe thấy oai danh của Phi Mã tiêu Cục ư?

Diêm Cơ đáp:

– Bọn đàn bà con nít nhà ta có nghe qua, còn lão gia đây thì mới nghe lần đầu.

Hắn lắc người một cái là đã vọt tới phía phải sảnh đường. Hắn nhổ cây cờ của Phi Mã tiêu cục cắm trên xe, bẻ cán cờ gãy làm hai đoạn, ném xuống đất rồi giẫm chân lên lá cờ. Hành động này là phạm đến điều đại kỵ trên chốn giang hồ. Chuyện cướp tiêu thường xảy ra nhưng ít khi có hành động như vậy.

Chỉ khi nào hai bên có mối tử thù thì mới quyết tâm liều mạng kiểu đó.

Bọn người bảo tiêu thấy vậy la ó vang trời. Từ Tranh không nói nữa, xông lại ra chiêu “Đạp bộ kích chưởng”. Tay phải gã phóng chưởng đánh mạnh vào ngực đối phương. Diêm Cơ nghiêng mình tránh khỏi rồi quát hỏi:

– Tiểu tử! Ngươi muốn đánh nhau ư?

Hắn hạ thấp bàn tay trái chụp lẹ vào cổ tay đối phương. Từ Tranh liền biến chiêu thành “Hậu sáp bộ bãi chưởng”. Tay trái gã móc về phía sau, lòng tay mặt vung lên đấm ngược vào hàm dưới địch nhân. Diêm Cơ nghiêng đầu đi, tay mặt vung quyền đánh xuống. Thoi quyền này rất lẹ. Từ Tranh vội nghiêng đầu né tránh. “Bình” một tiếng. Vai gã đã trúng một đòn. Quyền lực trầm trọng làm gã chấn động đau nhói cả trước ngực. Chân gã bước loạng choạng chực ngã. May gã thân tráng lực cường mà hạ bộ lại vững vàng, liền lập tức biến chiêu thành “Phúc thoái xuyên chưởng”. Gã lún thấp người xuống, co chân lại ngồi chồm hổm, tay trái phóng chưởng đánh ra. Đó là phép ngự lực phản công, một chiêu số rất cao minh của “Tra quyền”.

Diêm Cơ không lý gì đến, tủm tỉm cười, móc chân trái một cái, đá ngược về phía sau. Chiêu móc này lại càng cổ quái. Từ Tranh cực kỳ kinh hãi, vội nhào về phía trước để tránh. Diêm Cơ phóng quyền tay mặt đánh thẳng ra, miệng quát:

– Cung hỷ phát tài!

“Bình” một tiếng. Thoi quyền của Diêm Cơ đã đánh trúng ngực Từ Tranh. Thoi quyền này cực kỳ lợi hại, gã té xuống đất còn lăn đi mấy vòng. Gã ọe một tiếng, thổ ngay một búng máu tươi. Một hán tử kiêu dũng như Từ Tranh mà mới trúng một quyền đã không ngồi dậy được. Bọn cường đạo bật tiếng reo hò vang dội, miệng hô:

– Công phu tuyệt diệu!

Bọn người bảo tiêu thấy Diêm Cơ ra tay tàn độc đều kinh hãi và tức giận. Mã Xuân Hoa đưa tay ra nâng đỡ sư ca. Cô nóng lòng muốn phát khóc, miệng hỏi:

– Sư ca có sao không?

Mã Hành Không suốt đời bôn tẩu giang hồ, trải qua không biết bao nhiêu sóng to gió lớn mà không sao nhận ra được quyền cước của tên tướng cướp thuộc môn phái nào. Ba tên thị vệ cũng thầm thì bàn tán hỏi nhau:

– Không hiểu thằng cha này thuộc môn phái nào?

– Nhìn không ra, nhưng quyền pháp có điểm na ná như Ngũ Hành quyền

– Không phải! Ngũ Hành quyền làm gì có vẻ tà môn như vậy?

Mã Hành Không tiến ra hai bước chắp tay nói:

– Diêm trại chủ quả nhiên võ nghệ cao cường. Đa tạ Diêm huynh đã giáo huấn cho gã tiểu đồ. Có thế gã mới biết trên chốn giang hồ còn lắm cao nhân.

Diêm Cơ cười đáp:

– Mấy chiêu mèo què đó bất quá là trò chơi chỉ đáng xách giày cho Mã lão anh hùng, ngoài ra tại hạ chẳng biết gì nữa. Bây giờ muốn thỉnh giáo Bách Thắng Thần quyền của Mã lão anh hùng.

Mã Hành Không thấy hắn mặt mày bóng loáng, miệng lưỡi nói năng toàn giọng vô lại mà không hiểu sao lại luyện được những công phu quái dị như vậy, quả là điều kỳ quái. Lão liền quyết định chủ ý tạm thời chỉ thủ chứ không công, chờ sau khi nhận rõ nguồn gốc quyền cước của hắn rồi sẽ liệu. Lão liền ngưng thần đứng nghiêng người, hai tay cứ nắm hờ.

Ba tên thị vệ và Thương Bảo Chấn cùng mọi người trong tiêu cục đều ngưng thần theo dõi cuộc đấu. Ai cũng hiểu cuộc đấu này chẳng những liên quan đến sự an nguy của ba chục vạn lạng bạc bảo tiêu, mà còn hệ trong đến tánh mạng cùng oai phong một đời của Mã Hành Không.

Trong đại sảnh yên lặng như tờ, chỉ nghe tiếng than lửa nổ lách tách. Bên ngoài vẫn mưa tầm tã, chưa có dấu hiệu gì trời sắp tạnh. Chàng công tử trẻ tuổi và thiếu phụ xinh đẹp vẫn ngồi kề vai nói chuyện thầm thì, không để ý đến cuộc đấu tranh của Diêm Cơ và Mã Hành Không,

Diêm Cơ thò tay vào bọc lấy ra cái dọc tẩu ánh vàng rực rỡ, rít một khói thuốc. Hắn cũng biết Mã Hành Không là tay kình địch, liền quấn bím tóc lên đỉnh đầu, miệng quát:

– Tổ tiên kẻ lưu manh này chẳng biết tu nhân tích đức khiến con cháu phải liều mạng để kiếm cơm. Con bà nó, đánh nhau đi thôi.

Rồi hắn nhảy vội lại phóng quyền tả nhắm Mã Hành Không đánh mạnh tới. Mã Hành Không chờ cho quyền còn cách trước ngực chừng nửa thước, liền ra chiêu “bạch hạc lượng xí” đưa mình qua mé tả chuyển thành “Cung tiễn bộ”. Hai cánh tay đưa về đằng sau thành hình móc câu, miệng hô nhỏ một tiếng, rồi vung ngược tay ra để phản kích. Lão cũng chỉ cần phát huy môn “Tra quyền” rất thông thường của phái Thiếu Lâm nhưng tư thức trầm ổn, phóng tay đẩy chân cực kỳ mãnh liệt.

Chàng thanh niên từ nãy tới giờ vẫn không để ý đến cuộc tranh đấu giữa tiêu đầu và cường nhân, bây giờ ngẫu nhiên liếc mắc nhìn ra đúng vào lúc Diêm Cơ cung chân đá ngược, chiêu thức rất kỳ dị. Bất giác chàng lưu ý theo dõi.

Thiếu phụ xinh đẹp cất tiếng gọi:

– Quy Nông! Quy Nông!

Chàng thanh niên thuận miệng đáp lại, nhưng mắt vẫn đăm đăm nhìn về phía hai người đang tỷ đấu. Thiếu phụ vươn tay ra vịn vào vai chàng lay mấy cái rồi nói:

– Anh chàng ngớ ngẩn này, cuộc hỗn chiến giữa mấy tay côn đồ có gì mà coi?

Thanh niên nghe giọng nói của nàng có vẻ không bằng lòng, vội quay lại cười đáp:

– Quyền cước của tên cướp kia rất cổ quái.

Thiếu phụ thở dài nói:

– Ôi! Bọn nam nhân các người đều coi việc đánh giết người là chuyện quan trọng nhất trong thiên hạ.

Thanh niên cười đáp:

– Nàng không cho ta coi thì ta không coi nữa. Vậy nàng quay mặt lại cho ta ngắm khuôn mặt xinh đẹp của nàng cũng đủ no rồi.

Mỹ phụ khẽ cười một tiếng, vẻ mặt lại càng kiều mỵ. Quả nhiên nàng ngửng mặt lên. Bốn mắt nhìn nhau, trên mặt đấy nét nhu tình âu yếm.

Lúc này Mã Hành Không và tướng cướp đang chiến đấu đến giai đoạn kịch liệt. Mã Hành Không đã phát huy hết một đường “Tra quyền” mà vẫn không chiếm được một chút thượng phong nào. Diêm Cơ vẫn chỉ sử tới sử lui mười mấy chiêu quyền cước đó, hoặc quyền đánh thẳng hoặc co chân đá ngược lại, hoặc hạ thấp tay xuống ra chiêu cầm nã, hoặc vung chưởng đánh giữa hai bắp đùi. Ba tên võ quan coi một lúc rồi nhận ra chiêu số của Diêm Cơ chỉ có hạn mà Mã Hành Không chẳng thể hạ nổi hẳn, đều không khỏi bật cười. Bỗng thấy Mã Hành Không sử chiêu “Mã đương thôi quyền”, xoạc chân ra thành thế cưỡi ngựa, tay phải rụt về, tay trái đánh vút ra phía trước.

Hà Tư Hào la lên:

– Trầm trửu cầm nã thủ!

Quả nhiên đúng như lời tiên liệu của tên võ quan, Diêm Cơ hạ thấp khuỷu tay xuống để thi triển chiêu cầm nã, chộp vào cổ tay Mã Hành Không, Mã Hành Không vội biến chiêu rụt cánh tay về và khẽ chuyển mình đi. Hà Từ Hào lại vừa cười vừa nói:

– Câu thối phản thích!

Quả nhiên Diêm Cơ co chân phải lại, đá ngược về phía sau. Võ công của Mã Hành Không cao thâm hơn Hà Tư Hào không biết bao nhiêu mà kể, Hà Tư Hào còn biết trước chiêu thức của Diêm Cơ phát ra thì lẽ nào lão lại không hay? Nhưng lạ ở chỗ, lão biết rõ đối phương co chân đá ngược mà không có cách nào để phá giải. Mã Hành Không ngoại hiệu là Bách thắng thần quân, đã thuộc hết các lộ quyền pháp của phái Thiếu Lâm. Lão thấy “Tra quyền” không hạ được đối phương liền biến đổi chiêu số, đột nhiên quyền thế nhanh như gió khiến những người bàng quan nhìn thấy phải lóa mắt. Lão đã thi triển Yến Thanh quyền.

Yến Thanh là một hảo hán ở Lương Sơn Bạc đời Tống, quyền thuật của y ngày ấy vô địch thiên hạ. Đường quyền này truyền đến đời sau, còn chú trọng cả cách nhảy nhót, nhô lên hụp xuống hay nhô người đến đánh, toàn là các chiêu số tấn công. Mã Hành Không tuy tuổi đã già mà thân thủ vẫn mau lẹ dị thường. Lúc vọt lên cao, lúc rùn thấp xuống chẳng khác gì con mèo. Diêm Cơ thấy đối phương thấy đổi chiêu thức, hắn vẫn không để ý gì đến, tiếp tục sử dụng quanh đi quẩn lại mười mấy chiêu vụng về khó coi như trước.

Bọn Thương Bảo Chấn, Từ  Tranh, Mã Xuân Hoa cùng Thích tiêu đầu và Dương tiêu đầu thấy tên tướng cướp này võ công cổ quái như vậy đều lấy làm kinh dị. Người nào cũng liệu trước được chiêu thức của hắn sắp đánh ra như vung tay đánh thẳng tới hay là vung chưởng đánh giữa hai bắp đùi, bất giác cũng theo Hà Tư Hào mà hô ra trước. Nhưng Mã Hành Không thủy chung vẫn không làm gì được đối phương.

Bỗng thấy Mã lão tiêu đầu liên tục phóng ra những chiêu “Thượng bộ tiến trửu quắc thần quyền”, “Nghịch diện thương khoái đả tam quyền”, “Tả hữu khóa đả”, “Phản thân tài trùy”, “Thích thối liệu âm thập tự quyền”, Chiêu này nối tiếp chiêu khác, quyền cước tung bay ào ạt như trận mưa lớn bên ngoài. Diêm Cơ chỉ một chiêu vươn tay ra đánh thẳng là phá giải được hết những chiêu thức xảo diệu của đối phương.

Người cụt tay và thằng nhỏ gầy ốm vẫn ngồi co ro trong góc nhà coi Mã Hành Không và Diêm Cơ tỷ võ. Người cụt tay khẽ nói:

– Thiếu gia! Thiếu gia nhìn cho kỹ tên tướng cướp kia, đừng bao giờ quên tướng mạo hắn.

Thằng nhỏ hỏi:

– Để làm gì? Sao phải nhớ mặt hắn?

Người cụt tay nhắc lại:

– Thiếu gia nhớ kỹ lấy, vĩnh viễn đừng quên hắn là được.

Thằng nhỏ hỏi:

– Hắn là người tệ hại lắm hay sao?

Người cụt tay nghiến răng đáp:

– Ma đưa lối quỷ dẫn đường khiến chúng ta lại chạm trán hắn ở đây. Thiếu gia nhìn cho kỹ rồi nhớ lấy, nhưng đừng để hắn phát giác.

Sau một lúc, người cụt tay lại nói:

– Những công phu mà thiếu gia luyện không nổi, thì bây giờ cứ coi kỹ cách đánh của hắn, ắt rồi ngày sau có thể luyện được.

Thằng nhỏ hỏi:

– Tại sao vậy?

Người cụt tay khóe mắt long lanh ngấn lệ, khẽ đáp:

– Hiện tại bây giờ chưa thể nói được. Sau này thiếu gia lớn lên luyện thành võ nghệ, lão sẽ kể hết đầu đuôi câu chuyện cho nghe.

Thằng nhỏ nhìn Diêm Cơ tay đấm chân đá, tư thức rất khó coi nhưng dường như gã chợt ngộ ra điều gì, bèn la lên một tiếng:

– Tứ thúc!

Người cụt tay vội nói:

– Thiếu gia đừng lớn tiếng.

Thằng nhỏ vâng lời, khẽ nói:

– Quyền cước của người này, tiểu tử đã hiểu được đôi chút

Người cụt tay đáp:

– Không sai! Thiếu gia nhìn kỹ đi. Pho “Quyền kinh đao phổ” của thiếu gia bị khuyết hai trang đầu nên thiếu gia chưa hiểu ra. Hai trang thiếu kia bây giờ hiện lên trên mình Diêm Cơ đó.

Thằng nhỏ giật mình kinh hãi. Trên gương mặt gầy gò, vàng ủng của gã hiện lên một chút màu hồng. Gã nhìn Diêm Cơ không chớp mắt rồi hỏi:

– Sao lại ở trên mình hắn?

Người cụt tay đáp:

– Sau này lão sẽ nói cho thiếu gia nghe. Nguyên Diêm Cơ chẳng biết võ công chi hết, nhưng y lấy được hai trang “Quyền kinh” học thành mười mấy chiêu pháp dở dang mà vẫn tỷ đấu ngang ngửa với một tay quyền sư hạng nhất. Thiếu gia nghĩ mà coi. Cuốn “Quyền kinh đao phổ” đó cả thảy hơn ba trăm trang. Khi thiếu gia học hết rồi thì bản lãnh sẽ lên tới đâu?

Thằng nhỏ nghe lão nói rất xúc động. Mắt gã chiếu ra những tia sáng phấn khởi.

Trong trường có hai người tỷ võ mà chỉ có một người đáng coi. Diêm Cơ vẫn quanh đi quẩn lại có mười mấy chiêu. Mọi người coi đã chán rồi. Quyền pháp của Mã Hành Không thì biến ảo trăm đường.

Lão sử hết “Yến Thanh quyền” mà vẫn không làm gì được đối phương. Đột nhiên lão lại biến chiêu, thi triển bài quyền “Lỗ Trí Thâm túy tích”, cứ như người phát điên phát khùng, lại giống kế say sưa cuồng dại, chợt nằm lăn ra chợt đứng phắt dậy với những chiêu “La Hán tà ngọa”, “Tiên nhân khát truân”. Đường quyền cước này tựa hồ đánh bừa đánh ẩu mà thực ra tinh thâm khôn lường. Bây giờ mười mấy chiêu của Diêm Cơ dần dần không còn ăn nhập nữa. Hắn nhìn không rõ lai lộ quyền cước của đối phương, bất giác trong lòng hoang mang. Bỗng nghe Mã Hành Không quát lên một tiếng:

– Này!

Lão phóng cước ra chiêu “Lý ngư phiên thân lãm ty thoái” đá trúng vào lưng Diêm Cơ. Hắn đau quá phải cong người lại.

Mã Hành Không biết đối phương bản lãnh lợi hại. Đòn cước của lão tuy đá trúng yếu huyệt mà vẫn sợ hắn không bị trọng thương. Nếu là cuộc tỷ võ bình thường để so hơn kém thì chỉ thắng một đòn là ngưng lại. Nhưng cuộc tranh đấu này liên quan đến ba chục vạn lạng bạc thì làm sao có thể để cho kẻ địch nghỉ ngơi lấy sức? Nếu tái đấu thì lão vị tất đã thắng, nên Mã Hành Không không thể nhượng bộ đối thủ được. Lão liền tung người nhảy lại, ra chiêu “Quải tử cước”, vung cước đá thêm một phát vào sau lưng hắn.

Bọn cướp la ó rầm trời. Diêm Cơ đột nhiên cong chân đá ngược lại, chiêu thức biến ảo vô cùng. Mã Hành Không tuy lịch duyệt nhưng trong lúc nhất thời hoảng hốt không tránh kịp, bị ngọn cước đá trúng ngực ngã ngửa xuống đất.

Mã Xuân Hoa và Từ Tranh chạy lại đỡ lão dậy thấy lão sắc mặt tái nhợt, miệng ho sù sụ bảo hai người:

– Phải liều chết mà bảo vệ tiêu xa.

Từ Tranh cùng Mã Xuân Hoa tay cầm đơn đao hộ vệ hai bên Mã Hành Không. Diêm Cơ cũng bị thương nặng. Hắn đưa tay phải lên vẫy mấy cái. Hai gã đại hán áo đen chạy lại. Diêm Cơ quát:

– Cướp tiêu xa đi còn chờ gì nữa?

Bọn cướp đều lấy binh khí ra nhất tề xông vào bọn tiêu khách. Mã Xuân Hoa, Từ Tranh, Thích tiêu đầu và Dương tiêu đầu đều lớn tiếng hô:

– Nghinh địch!

Bọn cướp đông người, trừ Diêm Cơ ra thì đều không có tay cao thủ, nhưng Mã Xuân Hoa và Từ Tranh phải phân tâm chiếu cố cho phụ thân lại bị bọn chúng hai người đánh một, tình thế rất nguy cấp. Thương Bảo Chấn rút đơn đao ra hô:

– Ba vị thị vệ đại nhân! Chúng ta động thủ đi!

Hà Tư Hào đáp:

– Phải lắm! Hãy đuổi bọn cường đạo đi rồi sẽ tính.

Bốn người liền ra nhập chiến cuộc. Thương Bảo Chấn thấy Mã Xuân Hoa bị hai tên cướp dùng binh khí ngăn chặn, dần dần không thi triển thủ cước được nữa, liền xông lại quát:

– Bọn nam tử hán đi khinh nhờn một cô nương, lại hai người đánh một mà không biết nhục ư?

Thanh đao rút ra đánh “soạt” một tiếng nhằm một đầu tên cướp cao lớn chém xuống. Tên này xoay roi lại đón đỡ. Thương Bảo Chấn dùng cả đao lẫn chưởng. Tay trái y phóng chưởng đánh trúng ngực, làm gã văng ra ngoài.

Mã Xuân Hoa vừa thở vừa nói:

– Được rồi! Còn một tên nữa để tiểu muội thu thập cho.

Thương Bảo Chấn vừa cười vừa lùi ra, quay lại giúp Từ Tranh. Y chỉ phóng mấy đao mấy chưởng là đẩy lui được một tên cướp. Từ Tranh đem lòng cảm kích và khâm phục nhãn quang của sư phụ. Bây giờ gà mới biết võ công Thương Bảo Chấn quả cao thâm hơn mình nhiều.

Diễn biến này khiến cho tình thế trong sảnh đường thay đổi hẳn. Bọn cướp tán loạn rút lui, toan xông ra cửa tháo chạy. Bỗng nghe thanh âm hô lớn:

– Các vị hãy dừng tay. Tại hạ có điều muốn nói.

Nhưng mọi người đánh nhau đang hăng nên không ai quan tâm. Thương Bảo Chấn đột nhiên thấy bóng người thấp thoáng. Một người đưa tay ra trước mặt vẫy một cái. Y liền giơ đao lên chém tới. Người kia co tay phải lại rồi vươn ra một cái là đã đoạt được đơn đao ném xuống đất. Thương Bảo Chấn cực kỳ kinh hãi vội nhảy lùi lại. Y nhìn lại người kia thì chính là vị tướng công ăn mặc sang trọng.

Vị tướng công này bước vào đám đông vung hai tay đập mấy cái. Những tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt, bao nhiêu binh khí rớt xuống đất hết. Nguyên y đã thi triển tiểu cầm nã thủ đoạt hết binh khí ném xuống.

Bọn cường đạo cùng tiêu khách kinh hãi vô cùng, đều nhảy lùi lại, ngơ ngác nhìn người mới sấn vào. Diêm Cơ càng kinh ngạc. Hắn chợt nhớ tới một việc từ mười mấy năm trước, cất tiếng hô:

– Điền tướng công! Tướng công đấy ư?

Hán tử kia không nghĩ ra hắn là ai, liền hỏi:

– Ngươi nhận được ta ư?

Diêm Cơ cười đáp:

– Mười ba năm trước, ở Thương phủ tiểu nhân đã phục thị lão nhân gia.

Hán tử cúi đầu ngẫm nghĩ, chợt nhớ ra liền nói:

– Phải rồi! Ngươi là một thầy lang. Sao bây giờ đã luyện thành võ nghệ cao cường làm nên trại chủ?

Diêm Cơ bước lên một bước thỉnh an:

– Đó là nhờ công tài bồi của lão nhân gia.

Nguyên nhân vật ăn mặc như một vị tướng công này là Điền Quy Nông, chưởng môn phe Bắc Tông phái Thiên Long Môn. Bọn người bảo tiêu tưởng đã đánh đuổi được quân cướp, ngờ đâu vị Điền tướng công này chẳng những võ công cao cường mà lại là bạn cũ của tên cướp, ai nấy đều lo lắng vô cùng.

Mã Hành Không khẽ dặn thủ hạ bảo vệ xe tiêu và trông ánh mắt lão ra hiệu mà hành động. Điền Quy Nông quét mắt từ trái sang phải nhìn mọi người một lượt, lại đảo mắt từ phải sang trái nhìn một lượt nữa, rồi ngó ra ngoài sân nhìn trời mưa. Sau cùng nhãn quang y nhìn chằm chặp vào đống xe tiêu nói:

– Diêm Cơ huynh! Cuộc ăn hàng bữa nay của Diêm huynh tất được bồi thường.

Diêm Cơ cười cầu tài, đáp:

– Xin lão nhân gia miễn trách cho. Vì anh em đói rách không biết chạy vào đâu, nên mới phải làm nghề buôn không vốn này. Bọn tiểu đệ nhất định sửa đổi lỗi lắm, không dám quên ơn đức của Điền tướng công bữa nay.

Điền Quy Nông cười ha hả nói:

– Sao Diêm huynh còn dùng những lời sáo rỗng với Điền mỗ? Lão Diêm! Lão thử tính xem lấy năm vạn lạng đã đủ xài chưa?

Diêm Cơ sửng sốt liền cười giả lả, đáp:

– Lão nhân gia lại giỡn chơi rồi.

Điền Quy Nông nói:

– Sao lại giỡn chơi? Chỗ này được ba chục vạn tiêu ngân. Ta lấy một nửa là mười lăm vạn, Diêm huynh lấy năm vạn. Còn mười vạn nữa Diêm huynh định chia thế nào?

Diêm Cơ mừng rơn, vội đáp:

– Lão nhân gia lấy hết cả đi, còn chia chác làm gì nữa?

Điền Quy Nông lắc đầu nói:

– Như thế sao phải đạo nghĩa giang hồ. Vừa rồi chúng ta chạy vào ẩn mưa. Nương… nương… nương tử của ta quần áo ướt hết…

Thiếu phụ xinh đẹp nghe nói đến “nương tử của ta” mặt đỏ bừng cả lên ra chiều e thẹn. Nàng quay nhìn Điền Quy Nông mỉm cười đáp lại. Y tiếp tục nói:

– Vị cô nương đây ở trong tiêu cục đã cho nàng mượn quần áo. Món ân tình này chẳng thể không báo đáp. Chúng ta tặng cô năm vạn lạng. Lại còn ba vị thị vệ đại nhân ở đây nữa. Người ta thường nói “Hễ có mặt là được chia phần”. Mỗi vị lấy một vạn lạng. Còn dư hai vạn để biếu chủ nhân. Diêm huynh bảo ta phân chia có công bằng không?

Diêm Cơ vỗ tay không ngớt reo lên:

– Công bằng lắm! Tiểu nhân vẫn nói Điền tướng công là một vị anh hùng khẳng khái bậc nhất trong thiên hạ.

Mã Hành Không, Từ Tranh và Mã Xuân Hoa nghe Điền Quy Nông đàm luận tự nhiên như chỗ không người, tựa hồ ba chục vạn lạng tiêu ngân đã là vật ở trong túi y rồi. Mã Hành Không đã bị trọng thương lại tức trào máu, cơ hồ ngất đi. Từ Tranh nhìn sư phụ hỏi:

– Làm thế nào bây giờ? Làm thế nào bây giờ?

Mã Xuân Hoa tức giận gắt lên:

– Còn làm sao được nữa.

Cô cúi xuống lượm thanh đơn đao dưới đất lên quát:

– Họ Điền kia! Ngươi coi bọn ta là người chết rồi hay còn sống?

Cô vung đơn đao lên toan chém Điền Quy Nông, Điền Quy Nông cười đáp:

– Cô nương đừng bức bách tại hạ phải động thủ. Nương tử của tại hạ dễ ăn phải giấm chua lắm đấy.

Thiếu phụ xinh đẹp bĩu môi cười, mắng:

– Đừng nói nhăng nữa.

Nhưng những lời khinh bạc của Điền Quy Nông dường như làm cho nàng vô cùng thích thú Mã Xuân Hoa nghe y nói năng vô lễ, phẫn nộ không chịu được xông lại vung đao chém ngang một nhát. Điền Quy Nông cười nói:

– Ái chà! Nguy rồi! Nương tử của tại hạ không cho phép tại hạ đánh nhau với nữ nhân.

Y đưa ngón tay đập vào sống đao của Mã Xuân Hoa. Cô cầm đao không vững, tuột tay rớt xuống. Thủ pháp của Điền Quy Nông cực kỳ mau lẹ. Tay mặt y cướp được chuôi đao, tay trái nắm lấy cổ tay cô và giơ đao lên như muốn chém xuống cổ cô. Miệng y không ngớt xuýt xoa:

– Con người nguyệt thẹn hoa nhường thế này thì tại hạ không thương hương tiếc ngọc làm sao được?

Thương Bảo Chấn và Từ Tranh thấy gã đùa cợt Mã Xuân Hoa liền cùng nhảy xổ lại. Thương Bảo Chấn vung tay phải lên phóng một mũi tiêu vào mắt bên trái y. Từ Tranh vội vàng quá không kịp lượm bính khí dưới đất, phóng cước đá vào sau lưng đối phương. Điền Quy Nông xoay mình lại, bỏ đao ra chiêu cầm nã, túm được gót chân Từ Tranh nắm lấy nhấc bổng y lên.

Từ Tranh như bị treo ngược, chỉ cảm thấy bắp đùi đau buốt, bật tiếng kêu thất thanh. Nguyên một mũi tiêu phóng trúng đùi phải gã.

Điền Quy Nông vung tay một cái, người Từ Tranh khác nào cây chổi quét ngang đụng vào bắp chân Mã Xuân Hoa khiến hai người cùng té xuống, đè lên nhau. Mọi người thấy y đùa cợt hai người như hai đứa con nít thì làm sao còn dám sấn vào?

Điền Quy Nông nói:

– Diêm huynh! Huynh đệ hãy lấy số tiêu ngân mà chia ra từng phần như ta vừa nói rồi xếp lên xe lớn để chỗ nương tử cùng ta ngồi. Chúng ta có việc gấp, cần phải đội mưa mà đi.

Diêm Cơ hớn hở, vâng dạ luôn miệng. Bọn cướp khuân những túi bạc trên xe tiêu xuống, xếp năm vạn lạng vào một đống, ba vạn, hai vạn lạng thành hai đống để dưới đất rồi nhìn bọn xa phu quát:

– Mau mau chuẩn bị cho chúng ta lên đường

Tại miền bắc đã có quy củ. Những hào khách lục lâm đánh cướp tiêu ngân không đả thương bọn xa phu đã đành mà còn trả tiền ăn tiền rượu cho chúng nữa theo như thông lệ. Nhưng nếu bọn xa phu không nghe theo lệnh thì dĩ nhiên là chuyện khác. Bọn xa phu đứng trước tình thế này chẳng còn dám chống cự, phải đội mưa lớn để đẩy xe đi.

Mã Hành Không thấy các xe tiêu chứa bạc bị đẩy đi, trong lòng đau đớn vô cùng. Chỉ còn một cái xe đẩy đến trước sân. Điền Quy Nông đỡ thiếu phụ lên ngồi. Chỉ cần cỗ xe này đi khỏi là Mã Hành Không phải thân bại danh liệt, công lao suốt đời cực khổ đành trôi theo dòng nước. Người lão run lẩy bẩy đột nhiên lão đứng phắt dậy thét lên:

– Ta quyết liều mạng với ngươi.

Hai tay lão như lưỡi câu sắt nhằm chụp vào mắt Điền Quy Nông. Thiếu phụ sợ quá rú lên một tiếng. Điền Quy Nông nghiêng mình phóng chưởng nhằm đánh vào vai Mã Hành Không. Giả tỷ lão chưa trọng thương thì phát chưởng này dĩ nhiên không thể đánh trúng được. Nhưng hiện giờ toàn thân gân cốt đều không linh hoạt, mắt nhìn thấy phát chưởng đánh tới mà hông sao né được. Bình một tiếng! Người lão tung đi rồi rớt xuống sân.

Bỗng nghe ba tiếng cười ha hả. Giọng cười khàn đục vọng vào trước cửa sảnh đường. Điền Quy Nông và thiếu phụ tưởng chừng phải nghe một thứ thanh âm đáng sợ nhất trên đời. Cả hai cùng sắc mặt trắng bệch như tờ giấy, người run bần bật. Điền Quy Nông đẩy mạnh thiếu phụ vào trong xe rồi nhảy lên lưng lừa, hai bắp chân kẹp chặt lại, vung roi quất lẹ cho lừa chạy. Ngờ đâu y quất luôn mấy roi, con lừa chỉ bước đi hai bước rồi đột nhiên dừng lại không chạy được nữa.

Mọi người đứng ở cửa sảnh đường nhìn qua làn nước mưa, thấy một đại hán vừa cao vừa gầy, tay trái ôm cái bọc, tay phải nắm lấy càng xe. Con lừa bị Điền Quy Nông thúc gấp quá, nó cúi đầu xuống cong lưng lại, bốn chân đều ráng sức nhích đi, nhưng đại hán ấn mạnh càng xe. Cỗ xe tựa hồ bị đóng đinh xuống đất, không xê xích được chút nào. Thần lực của người này thật là khủng khiếp.

Đại hán trầm giọng cười nhạt một tiếng. Điền Quy Nông còn ngần ngừ thì thiếu phụ trong xe đã chạy ra xuống xe lướt qua đại hán, nhưng không nhìn y, băng băng đi thẳng vào sảnh đường. Điền Quy Nông cũng từ từ nhảy xuống theo vào trong nhà. Toàn thân hắn ướt đẫm nước mưa mà tựa hồ chẳng biết gì. Ánh mắt thẫn thờ như người mất hồn. Thiếu phụ vẫy tay kêu hắn đến ngồi bên cạnh nàng.

Đại hán cao gầy sải bước tiến vào đại sảnh, ngồi xuống bên đống lửa, không nhìn ai. Y mở bọc, thì ra bên trong có đứa con gái chừng hai tuổi. Y sợ đứa nhỏ lạnh nên bồng nó sưởi ấm. Đứa nhỏ đang ngủ say. Bên khóe mắt còn đọng hai giọt lệ.

Mã Xuân Hoa, Từ Tranh và Thương Bảo Chấn đỡ Mã Hành Không dậy. Họ thấy Điền Quy Nông khiếp sợ đại hán cao gầy đều lấy làm kinh ngạc và mừng thầm. Mã Xuân Hoa hỏi:

– Gia gia ơi! Thương thế gia gia đã bớt chưa? Người… người này là ai vậy?

Mã Hành Không lắp bắp:

– Y… y là Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật Miêu Nhân Phụng…

Lão ráng nói hết câu rồi đau quá lại ngất đi. Trong đại sảnh, bọn tiêu đầu và chạy cờ tập trung ở mé đông. Còn Diêm Cơ cùng bọn cướp xúm nhau lại ở góc nhà mé tây. Ba tên ngự tiền thị vệ cùng Thương Bảo Chấn đứng đằng sau ghế. Mọi người hướng mục quang hết nhìn Miêu Nhân Phụng lại ngó Điền Quy Nông và thiếu phụ.

Miêu Nhân Phụng nhìn đứa con gái nhỏ trong lòng, nét mặt đầy vẻ thương xót và trìu mến. Nếu mọi người chưa nhìn thấy y một tay nắm giữ càng xe, dùng thần lực kinh người khiến xe không nhúc nhích lên được chút nào thì chẳng ai tin nổi nhân vật này lại mang trong mình võ công tuyệt thế như vậy.

Thái độ của thiếu phụ vẫn thản nhiên, nàng ngồi nhìn đống lửa ngơ ngẩn xuất thần, khóe môi hé nụ cười lạt. Chỉ có ai cực kỳ tinh tế mới nhìn thấy miệng nàng rung động. Hiển nhiên lòng nàng đang vô cùng bồn chồn hồi hộp.

Điền Quy Nông mặt tái nhợt, đưa mắt nhìn ra ngoài trời mưa. Mục quang ba nhân vật này mỗi người một hướng, chẳng ai nhìn ai lần nào và đều lặng lẽ ngồi yên không nói một lời. Nhưng kỳ thực tâm trạng ba người đang xao động như những cơn sóng lớn dồn dập. Người thì hoan hỷ, người thì buồn rầu, người thì phẫn nộ lại vừa khiếp sợ.

Chương 02: Bảo đao với nhu tình

Miêu Nhân Phụng nhìn khuôn mặt xinh xắn của đứa bé, trong đầu lại hiện lên những việc đã xảy ra ba năm trước. Tuy đã ba năm mà vẫn còn rõ rệt như mới ba ngày. Hiện giờ, trời mưa như trút nước nhưng ngày này năm trước, tuyết rơi trắng trời trắng đất.

Đó là quang cảnh trên đường Thương Châu thuộc tỉnh Hà Bắc. Vào buổi chiều cuối năm, trên đường ít người qua lại, Miêu Nhân Phụng cưỡi con ngựa vàng chân dài đầu cao, lỏng buông tay khấu đi về phía Bắc.

Vào tháng chạp cách đây mười ba năm trước, Miêu Nhân Phụng đã tỷ võ với Liêu Đông đại hiệp là Hồ Nhất Đao ở Thương Châu. Y đã dùng lưỡi đao tẩm độc vô tình giết chết Hồ Nhất Đao. Hồ phu nhân cũng tuẫn tiết theo chồng. Miêu Nhân Phụng và Hồ Nhất Đao võ công và hào khí ngang nhau, cả hai đổi thù thành bạn, hết sức kính trọng nhau. Ngờ đâu chỉ vì một nhát đao lầm lỡ mà làm chết người bạn tri kỷ duy nhất.

Ngoại hiệu Miêu Nhân Phụng là: “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, y tung hoành khắp thiên hạ mà không có đối thủ. Chỉ đến khi gặp Liêu Đông đại hiệp, hai người tỷ võ với nhau năm ngày, lại ngủ chung giường để bàn luận thâu đêm, cả hai mới gặp được địch thủ chân chính, hiểu rõ lòng nhau, coi nhau như tri kỷ. Từ ngày xảy ra việc bất hạnh này, hơn mười năm trời Miêu Nhân Phụng lúc nào cũng canh cánh trong lòng, u sầu buồn bã. Vợ chồng Hồ Nhất Đao qua đời đã đến kỳ hẹn mười năm. Miêu Nhân Phụng vượt ngàn dặm xa xôi từ tỉnh Triết Nam đến cúng tế trước mộ vong hữu.

Trời cuối năm đầy gió tuyết, Miêu Nhân Phụng cưỡi ngựa trong cảnh hoàng hôn, càng gần Thương Châu lòng càng buồn bã. Y cho ngựa đi thong thả, trong bụng nhủ thầm:

“Giả tỷ ngày đó mình không đánh lỡ một chiêu thì bữa nay đã được cùng vợ chồng Hồ thị, ba người cưỡi ngựa ngao du thiên hạ, đồng thời khiến bọn quan lại tham ô, thổ hào cường khấu đều phải kinh tâm động phách, thì vui sướng biết chừng nào?”

Đúng lúc y đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên phía sau có cỗ xe đội tuyết đi tới, tên phu xe hô lớn:

– Đi nào!

Đồng thời gã vung cây roi kêu “lách cách” để thúc con lừa. Một cỗ xe lớn xuyên qua vùng tuyết trắng mờ mịt chạy nhanh tới. Con lừa kéo xe miệng phì phò hơi trắng mà chạy rất nhanh dưới bầu trời gió tuyết. Cỗ xe lớn lướt qua bên mình Miêu Nhân Phụng. Đột nhiên trong xe có thanh âm phụ nữ rất dịu dàng cất lên:

– Gia gia! Khi đến kinh thành gia gia đưa hài nhi đi mua những cành cung hoa đeo chơi…

Nửa câu dưới không nghe rõ nữa. Đúng là thanh âm của một vị cô nương miền Giang nam nên mới dịu dàng ôn nhu như vậy. Ở vùng bình nguyên mạn bắc mịt mù gió tuyết này, tự nhiên giọng nói nổi bật hẳn lên.

Bỗng chân trái con lừa đạp trúng vào cái hố sâu, lập tức nó té quỵ xuống ngã nhào về phía trước. Tên phu xe nghiêng người tới trước, tiện tay kéo lên. Con lừa nương theo sức đó mà rút được chân khỏi hố rồi tiếp tục chạy về phía trước. Miêu Nhân Phụng thầm lấy làm lạ, tự hỏi:

“Người phu xe này chỉ nghiêng người kéo tay một cái, thân thủ đã mau lẹ, tý lực lại mạnh mẽ, có vẻ là một kỳ sỹ trong chốn phong trần, sao lại đi làm người đánh xe?”

Y còn đang ngẫm nghĩ bỗng nghe có tiếng bước chân. Phía sau là một cước phu gánh hành lý rảo bước đi tới. Gánh hàng làm cho cái đòn gánh bằng gỗ phải cong đi, hiển nhiên rất nặng. Tên cước phu vẫn thản nhiên gánh như không, bước nhanh trên tuyết một cách nhẹ nhàng. Miêu Nhân Phụng lại một phen kinh ngạc nghĩ thầm:

“Tên cước phu này chẳng những khỏe mạnh mà khinh công cũng vào hạng khá.”

Y đồ chừng trong vụ này có điều uẩn khúc, bụng bảo dạ:

“Dường như tên cước phu này đang theo dõi tên xa phu kia. Không chừng đây là một việc tầm cừu đánh giết nhau.”

Y liền ghìm cương cho ngựa chạy vừa phải theo cỗ xe để xem rốt cuộc sự việc diễn biến ra sao. Đi chừng vài dặm, Miêu Nhân Phụng ngó lại thấy tên cước phu tuy gánh nặng mà vẫn chạy nhanh như bay. Đột nhiên lại nghe phía sau có tiếng loảng xoảng. Một hán tử gánh đồ hàn nồi đang chạy tới. Người này cũng chân bước rất nhẹ nhàng, tuy chưa đến trình độ “đạp tuyết vô ngân” nhưng khinh công đã vào hạng hiếm có trong võ lâm.

Miêu Nhân Phụng thầm nghĩ:

“Lại thêm một người nữa. Không hiểu bọn họ thuộc môn phái nào?”

Y ngó thấy nón và áo tơi gã tuyết phủ trắng xóa. Bước chân gã liêu xiêu trong gió. Miêu Nhân Phụng liền tỉnh ngộ tự nhủ:

“Đây là công phu Nhạn hành công của Chung gia ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạn Bắc.”

Lại đi thêm bảy, tám dặm thì đến một tiểu thị trấn vào lúc gần tối. Miêu Nhân Phụng thấy cỗ xe lớn dừng lại trước một khách điếm, y cũng vào đấy tá túc. Khách điếm này rất nhỏ và duy nhất trong thị trấn. Những khách thương ngồi chật trong sảnh đường đang sưởi lửa. Tên xa phu, tên cước phu và gã thợ hàn nồi cũng ngồi trong đám này.

Miêu Nhân Phụng tuy nổi tiếng khắp thiên hạ, nhưng gần mười năm nay ẩn cư ở đất Triết Nam nên trong võ lâm ít ai biết đến. Ba tên cước phu, xa phu và gã thợ hàn nồi tựa hồ cũng quen nhau. Miêu Nhân Phụng lẳng lặng ngồi xuống bên cái bàn nhỏ, gọi lấy cơm rượu. Y thấy ba người kia cũng ngồi ăn cơm uống rượu riêng, xem chừng không phải một phe. Bỗng nghe một người từ nội viện đi ra, nói:

– Thưa Nam đại nhân cùng tiểu thư, tiểu điếm nhỏ hẹp nên đành ủy khuất hai vị một chút, xin mời ra ngoài sảnh đường dùng cơm.

Rèm vừa vén lên, điếm tiểu nhị dẫn một viên quan và một tiểu thư vào sảnh đường. Những khách thương đang ngồi thấy vị khách quan này tới liền lục tục đứng dậy. Miêu Nhân Phụng chẳng quan tâm, cứ ngồi uống rượu.

Viên quan mặc áo đoạn vàng nhạt, gương mặt béo phị trắng trẻo, đầy vẻ phúc tướng. Còn vị tiểu thư dung nhan rất xinh đẹp, nước da trắng nõn, đừng nói ở phương bắc ít có một người đẹp như vậy, mà ngay cả Giang nam cũng rất hiếm hoi. Nàng mặc áo gấm màu lục càng nổi bật lên, nhưng vì nàng quá đẹp nên so với dung nhan tuyệt sắc của nàng, gấm đoạn dù rực rỡ đến đâu cũng biến thành vô nghĩa.

Mọi người mắt sáng rực cả lên, bất giác không khỏi tự thẹn thân mình thấp hèn. Thậm chí mấy người len lén rút lui ra ngoài hiên, để lại trong sảnh đường một khoảng trống.

Chủ quán một điều đại nhân, hai điều tiểu thư, bưng cơm rót rượu ra vẻ rất ân cần. Miêu Nhân Phụng nghe tiếng hắn hô hoán gọi cơm rượu, trung khí đầy rẫy thì không khỏi để ý. Y thấy chủ quán hai lưỡng quyền nhô lên, hiển nhiên là một tay nội công thâm hậu, bất giác lại càng thấy làm kỳ quái, tự hỏi:

“Bọn này tất có mưu đồ trọng đại. Ta cứ ung dung ngồi xem trận náo nhiệt này, coi thử bọn họ làm những việc tốt lành hay tệ hại? Không hiểu việc đó có liên quan gì đến viên quan kia không?”

Vì y chú ý đến chuyện âm mưu của bọn này nên không khỏi dòm ngó viên quan và tiều thư mấy lần. Vị quan kia đột nhiên đập bàn chỉ tay vào mặt Miêu Nhân Phụng lớn tiếng mắng:

– Mi là cái thá gì mà thấy quan lại đã chẳng tránh đi thì chớ, lại còn giương mắt nhìn trân trân như vậy? Ta xem mi tay thô chân lớn, đúng là phường ăn cướp. Mi mà còn nhìn lần nữa, ta sẽ bắt giải ngươi về huyện đánh cho một trận tan xương nát thịt cho biết tay.

Miêu Nhân Phụng lại cúi đầu xuống uống rượu, chẳng lý gì đến. Viên quan kia càng tức giận, quát:

– Ngươi không biết thỉnh an tạ tội ư? Sao còn dám ngồi lỳ ra đó?

Vị tiểu thư nhỏ nhẹ khuyên can:

– Gia gia! Gia gia chớ nên nóng giận làm gì. Họ là người ở hương thôn không hiểu lễ nghi quy củ là chuyện thường tình.Gia gia hà tất phải chấp trách với kẻ dân dã cục mịch. Này! Gia gia hãy uống chung rượu này đi!

Cô nói rồi cầm chung rượu kề vào miệng vị quan. Vị này uống ừng ực một hơi cạn sạch, tựa hồ nuốt cả khí tức vào bụng, rồi lườm Miêu Nhân Phụng một cái. Lão vẫn thấy y cúi đầu không nói gì cho là y đã sợ, liền tiếp tục ăn uống cười nói với con gái. Lão nói toàn chuyện sau khi đến Bắc Kinh sẽ được bổ làm quan ra sao. Đúng là thái độ của người lai kinh vận động chức quan hậu bổ.

Trong khi đang nói chuyện, cửa lớn bị đẩy ra, gió tuyết thổi vào một mảng. Tiếp theo một viên quan nữa bước vào. Người này ốm o, nước da vàng ủng, không ra dáng vẻ quan nha. Hắn lớn tiếng cười nói:

– Nhân sinh hà xứ bất tương phùng? Lại gặp Nhân Thông ở đây. Thật là tuyệt hảo.

Hắn nói rồi tiến lại trước mặt quan viên họ Nam, làm lễ tương kiến. Cha con họ Nam đứng cả dậy chắp tay đáp:

– Điều Hầu huynh! Hạnh hội! Mời huynh ngồi.

Gã được gọi là “Điều Hầu huynh” cảm ơn rồi ngồi xuống. Gọi chủ quán lấy thêm đũa chén và rượu thịt. Miêu Nhân Phụng nghĩ thầm:

“Cả tên Điều Hầu huynh này nữa là năm tay cao thủ. Cha con họ Nam trông không có vẻ gì là biết võ công. Chẳng lẽ họ là hạng đại trí nhược ngu, ta trông lầm chăng?”

Y nghĩ tới đây bất giác ngấm ngầm cảnh giới, không dám dòm ngó bọn họ lần nào nữa. Nên biết cái ngoại hiệu: “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” của y đã phạm vào điều đại kỵ trong võ lâm. Thử hỏi bao nhiêu anh hùng hảo hán trong thiên hạ có ai không muốn hạ bệ uy thế ngoại hiệu này? Miêu Nhân Phụng một đời trải qua nhiều phen hung hiểm gấp trăm người thường cũng chỉ vì ngoại hiệu đó. Y tự nhủ:

“Không chừng mấy người kia cũng chỉ vì tìm ta nên mới tới đây. Chỉ việc bọn chúng kết bè kết đảng xông vào cũng đủ phiền cho mình rồi, không chừng phía trước còn có cao thủ mai phục nữa.”

Y lắng tai nghe Điều Hầu huynh cùng Nam Nhân Thông cao đàm khoát luận. Họ nói toàn về việc thăng quan tiến chức trong đám quan trường. Ngoài hành lang, tên cước phu và tên thợ hàn cũng cãi vã om sòm. Chúng tranh luận về chuyện trên đời có thanh bảo đao chặt sắt như cắt bùn hay không? Tên cước phu nói:

– Cái gì mà chặt sắt như cắt bùn? Toàn là nói khoác. Thanh bảo đao kia bất quá chỉ là sắc bén hơn đao thường một chút rồi người ta khoác lác thêm lên.

Tên thợ hàn đáp:

– Ngươi thì biết gì mà nói? Bảo đao là bảo đao. Nếu ta không sợ làm cho người bở vía thì ta lấy cho ngươi coi một thanh để ngươi mở rộng tấm mắt.

Tên cước phu la lên:

– Ngươi mà có bảo đao ư? Hừ! Thôi đừng có mà mơ mộng hão huyền. Ngươi có bảo đao thì đã chẳng làm nghề hàn nồi. Ta e rằng “bảo đao” của ngươi chẳng qua chỉ là cái rựa cùn chặt củi không đứt, hay con dao thái rau gì đó mà thôi.

Mọi người nghe nói đều cười ồ cả lên. Tên thợ hàn tức giận hầm hầm chạy ra gánh lấy một thanh đao đem vào. Túi đao bằng da màu lục, miệng túi thêu chỉ vàng có vẻ khác thường. Gã rút đao ra khỏi vỏ đánh soạt một tiếng, ánh hàn quang lấp loáng lạnh người. Quả nhiên là một thanh lợi đao.

Mọi người đều trầm trồ:

– Thanh đao này tốt thật!

Tên thợ hàn giơ đao lên ra thế như muốn chém xuống đầu tên cước phu. Tên cước phu ôm đầu la hoảng:

– Ối mẹ ơi!

Rồi hốt hoảng né tránh. Mọi người lại phá lên cười. Miêu Nhân Phụng nhìn vẻ mặt hai người bụng bảo dạ:

“Hai tên này đúng là một phe nhưng chúng giả vờ diễn kịch, chắc không phải để ta coi.”

Tên thợ hàn hỏi tiểu nhị:

– Ngươi có đao chẻ củi hay thái rau cho ta mượn một con.

Điếm tiểu nhị dạ một tiếng chạy xuống bếp lấy một con dao thái rau. Tên thợ hàn bảo:

– Ngươi cầm cho chắc nhé!

Gã điếm tiểu nhị cầm dao đưa cao ngang tầm. Tên thợ hàn liền vung đao chém đánh choang một tiếng. Con dao thái rau liền bị chặt đứt làm hai đoạn. Mọi người đồng thanh hoan hô:

– Quả là một thanh bảo đao!

Gã thợ hàn nồi nhơn nhơn đắc ý, lại càng khoác lác, phô trương lưỡi đao này lợi hại thế nào, quý giá làm sao khiến mọi người ngồi dưới hành lang đều ra chiều ngưỡng mộ, chú ý lắng nghe. Nam Nhân Thông nghe hắn nói một hồi không nhịn được nữa, hừ một tiếng lộ vẻ bực mình. Điều Hầu huynh nói:

– Nam Thông huynh! Thanh đao kia tốt quá, quả xứng với chức “bảo”. Không hiểu bọn tiểu tốt kia làm sao có được thanh đao phú quý như vậy!

Nam Nhân Thông đáp:

– Thanh đao đó sắc thật, nhưng gọi là bảo đao thì chưa chắc.

Vị Điều Hầu huynh nói:

– Nam huynh nói thế là sai. Thanh đao này chặt sắt như cắt bùn. Trên đời làm gì còn thứ đao nào hơn nó nữa?

Nam Nhân Thông cười đáp:

– Ngô huynh vì hiểu biết ít, cái gì cũng cho là hay. Huynh đệ…

Hắn toan nói nữa thì Nam tiểu thư đột nhiên ngắt lười:

– Gia gia ơi! Gia gia hãy uống rượu và ăn cơm nhanh đi rồi còn đi ngủ.

Nam Nhân Thông cười đáp:

– Ha Ha! Con nha đầu chỉ muốn xen vào việc của gia gia.

Tuy lão nói vậy nhưng cũng ăn cơm, thôi không uống rượu nữa. Vị Điều hầu huynh lại nói:

– Bữa nay tiểu đệ mới được mở rộng tầm mắt. Bình sinh trong đời, đây lần đầu tiểu đệ được thấy một thanh bảo đao.

Nam Nhân Thông cười lạt nói:

– Tiểu đệ đã từng thấy những thanh bảo đao còn sắc bén gấp mười.

Vị Điều Hầu huynh cười khanh khách nói:

– Thật nực cười! Thật nực cười! Huynh đài là một vị quan văn thì làm sao mà biết được bảo đao?

Tên thợ hàn nghe hai người đối đáp liền lớn tiếng:

– Nếu trên đời còn thanh bảo đao nào hơn được thanh đao này thì ta nguyện cắt đầu đưa cho họ. Nói khoác thì ai mà không nói được? Hà hà! Nếu ta bảo con ta làm đến chức quan ngũ phẩm các vị có tin được không?

Mọi người vội quát:

– Câm miệng đi! Đừng nói càn nữa.

Nam Nhân Thông tức quá sắc mặt tái nhợt. Lão đứng phắt dậy rảo bước đi vào trong phòng. Nam tiểu thư liền gọi giật lại:

– Gia gia!

Nam Nhân Thông cứ thây kệ, lát sau y tay cầm thanh trường đao dài ba thước trở ra. Túi đao đen sì chẳng có chi khác lạ. Y lớn tiếng nói:

– Này, tên thợ hàn nồi kia! Ta có thanh đao này đem tỷ thí với ngươi. Nếu ngươi thua thì cắt đầu đưa cho ta.

Tên thợ hàn đáp:

– Nếu lão gia thua thì sao?

Nam Nhân Thông tức mình đáp:

– Nếu ta thua thì ta cũng cắt đầu đưa cho ngươi.

Nam tiểu thư lại khuyên nhủ:

– Gia gia! Gia gia uống nhiều quá rồi, sinh chuyện với họ làm chi? Thôi gia gia về phòng mà nghỉ đi.

Nam Nhân Thông dường như tỉnh ngộ, đằng hắng một tiếng rồi trở gót đi vào. Tên thợ hàn thấy Nam Nhân Thông trở gót liền nói khích một câu:

– Dù lão gia có thua, tiểu nhân cũng chẳng khi nào dám lấy đầu lão gia. Chi bằng lão gia cho tiểu nhân làm nữ tế thì hay hơn.

Mọi người nghe nói có kẻ phì cười, có người trách gã ăn nói bừa bãi. Nam tiểu thư vừa tức vừa thẹn, mặt đỏ bừng lên, không nói gì nữa, hậm hực đi về phòng. Nam Nhân Thông từ từ rút đao ra chừng nửa thước, mọi người đã thấy một luồng sáng xanh tỏa khí lạnh ghê người. Lúc y rút hết đao ra khỏi vỏ, ánh hàn quang lấp loáng khiến mọi người hoa mắt. Nam Nhân Thông nói:

– Thanh đao của ta tên gọi “Lãnh nguyệt bảo đao”, ngươi nhìn rõ rồi chứ?

Tên thợ hàn liền đến gần để xem. Gã thấy trên chuôi đao khảm hình vành trăng lưỡi liềm bằng kim ty và ngân ty, liền nói:

– Thanh đao của lão gia quả tốt quá, bất tất phải tỷ thí nữa.

Miêu Nhân Phụng thấy bọn chúng dùng lời nói khích để Nam Nhân Thông lấy bảo đao ra liền nhủ thầm:

“Té ra bọn chúng vì thanh đao này mà đến đây. Kẻ sĩ học võ coi bảo kiếm lợi đao quý như tính mạng. Người có binh khí sắc bén cũng bằng như võ công tăng lên mấy phần. Nam Nhân Thông mang thanh đao này, trách sao bọn họ không them thuồng. Có điều họ Nam là một văn quan thì y lấy được thanh đao này ở đâu? Vì lẽ gì bọn kia biết rõ?

Ban đầu Miêu Nhân Nhụng chỉ đề phòng những người này có âm mưu gì với mình, nên y ngấm ngầm cảnh giác. Bây giờ y biết mục đích của họ là đoạt thanh đao này, lòng y bình thản trở lại, biến thành kẻ bàng quan. Y thấy khi thanh bảo đao ấy rút ra khỏi vỏ, thì vị Điều Hầu huynh, chủ quán, cước phu, xa phu và tên thợ hàn đều xúm lại. Miêu Nhân Phụng biết cả năm người cùng muốn cướp thanh đao, nhưng tên nọ e dè tên kia bản lãnh ghê gớm hơn nên chưa ai dám hạ thủ, không thì Nam Nhân Thông chẳng đủ sức trói gà làm gì giữ được bảo đao cho đến bây giờ?

Nam Nhân Thông căm hận tên thợ hàn thốt ra những lời khinh bạc, lăm le muốn tý tỉ thí song thấy thanh đao của gã cũng cực kỳ sắc bén, cũng là bảo vật phi thường, nếu lâm vào tình trạng lưỡng bại câu thương thì há chẳng tổn hại đến vật chí bảo?

Y nghĩ vậy, bèn bảo tên thợ hàn:

– Người biết thế là hay. Từ nay người còn dám ăn nói hồ đồ nữa không?

Nam Nhân Thông toan tra đao vào vỏ thì vị Điền Hầu huynh đột nhiên vươn tay ra đoạt lấy bảo đao. Y vung tay chém vào thanh đao trong tay tên thợ hàn, nghe “choang” một tiếng nhỏ, thanh đao tên thợ hàn bị đứt làm hai đoạn. Tiếp theo nghe “keng” một tiếng, mũi đao gãy rớt xuống đất.

Tên thợ hàn, tên cước phu, tên xa phu và chủ quán liền bao vây vị Điều Hầu huynh muốn động thủ liền. Vị Điều Hầu huynh tuy cầm bảo đao trong tay nhưng biết không địch lại số đông, liền đưa đao trả lại Nam Nhân Thông. Hắn chìa ngón tay cái lên nói:

– Quả là bảo đao!

Nam Nhân Thông mặt mày biến sắc, lên giọng trách móc:

– Hừ! Điều Hầu huynh thật lỗ mãng quá.

Y nhìn lại thấy bảo đao không việc gì mới hể hả tra đao vào vỏ, quay gót vào phòng ngủ.

Miêu Nhân Phụng biết rõ vừa rồi năm người kia nói khích khiến cho Nam Nhân Thông lấy đao ra tỷ thí để kiểm chứng sự thật. Tất một ngày gần đây năm gã này sẽ đấu một trận thịt rơi máu chảy. Miêu Nhân Phụng tuy có tấm lòng nghĩa hiệp nhưng thấy Nam Nhân Thông cũng là loại người ngang ngược chứ chẳng phải hạng tử tế gì. Y còn e thanh bảo đao kia lão đã cưỡng đoạt của người ta. Y đã định bụng đến Liêu Đông tế mộ nên không quan tâm gì đến chuyện này nữa.

Sáng sớm hôm sau, Nam Nhân Thông đã lên đường. Dĩ nhiên bọn thợ hàn không ở lại trong điếm, cả chủ quán cũng bỏ đi. Miêu Nhân Phụng hỏi ra thì quả nhiên một tên khách hung ác mới đến chiều hôm qua đã cho nhà quán mười lạng bạc để hóa trang làm chủ quán. Miêu Nhân Phụng than thầm:

“Người ta thường bảo: “Chứa của gian tức là mời bọn trộm tới”, quả không ngoa chút nào!”

Y trả tiền nhà quán xong, bèn cưỡi ngựa lên đường. Đi được hợn hai chục dặm, Miêu Nhân Phụng bỗng nghe trong hang núi mé Tây có tiếng đàn bà kêu cứu rất thảm thiết. Chính là thanh âm của Nam tiểu thư. Miêu Nhân Phụng bụng bảo dạ:

“Bọn ác tặc này đã đoạt đao còn muốn giết người, ta chẳng thể không can thiệp.”

Y liền nhảy xuống ngựa, thi triền khinh công lao về phía phát ra tiếng kêu cứu. Y vừa đi qua hai khúc quanh đã thấy máu đào lai láng trên đất tuyết. Nam Nhân Thông đầu một nơi, mình một nẻo, chết ngay tại đương trường. Thanh “Lãnh nguyệt bảo đao” để nằm ngang lên mình lão. Năm tên ác nhân không một ai dám vươn tay ra lấy trước. Nam tiểu thư bị tên thợ hàn nắm chặt lấy hai tay không cử động được. Miêu Nhân Phụng nấp phía sau tảng đá lớn để quan sát động tĩnh. Bỗng nghe vị Điều Hầu huynh cất tiếng hỏi:

– Bảo đao chỉ có một mà cả năm người đều muốn lấy, biết làm thế nào?

Tên cước phu đáp:

– Bây giờ chỉ dựa vào võ công để phân cao thấp, ai thắng được thì lấy đao. Vậy là công bằng.

Vị Điều Hầu Huynh liếc mắt nhìn Nam tiểu thư, nói:

– Bảo đao cùng mỹ nhân đều là vật khó kiếm.

Tên thợ hàn nói:

– Tại hạ không tranh đoạt bảo đao, chỉ lấy cô nương này mà thôi.

Tên chủ quán giả cười lạt, đáp:

– Làm gì có chuyện dễ dàng như thế được. Người nào võ công cao nhất sẽ lấy bảo đao, người võ công thứ nhì sẽ lấy mỹ nhân.

Tên cước phu và tên xa phu đồng thanh:

– Phải rồi! Như thế mới phải.

Tên chủ quán giả liển nhìn tên thợ hàn, nói:

– Lão huynh, phiền lão huynh buông tay ra. Không chừng tại hạ bản lãnh vào hàng thứ hai thì nàng sẽ làm vợ tại hạ.

Vị Điều Hầu huynh cười nói:

– Đúng thế!

Rồi hắn quay lại nhìn Nam tiểu thư lớn tiếng:

– Ngươi mà còn kêu la một tiếng là ta chém chết ngay.

Tên thợ hàn buông tay ra. Nam tiểu thư phục xuống thi thể phụ thân mà khóc thút thít. Tên xa phu cười nói:

– Tiểu thư! Đừng khóc nữa! Tiểu thư hãy chờ một lúc sẽ có người cho tiểu thư nếm mùi khoái lạc.

Gã đưa tay sờ vào lưng nàng, vẻ mặt ra chiều cực kỳ khinh bạc. Miêu Nhân Phụng không nhịn được nữa, liền từ sau phiến đá nhảy ra trầm giọng quát:

– Quân đê tiện kia! Các ngươi cút hết đi!

Cả năm người giật mình kinh hãi, đồng thanh quát bảo:

– Ngươi là ai?

Miêu Nhân Phụng bản tính ít nói chỉ xua tay đáp:

– Cút hết đi!

Tên thợ hàn tính rất nóng nảy, tung mình nhảy xô lại phóng song chưởng đánh tới, miệng gã quát:

– Ngươi cút đi!

Miêu Nhân Phụng vung tả chưởng lên, dùng ngạnh lực tiếp ngạnh lực của gã, vung tay đánh mạnh ra. Tên thợ hàn bị hất lên không bay đi hơn một trượng rồi té xuống, hồi lâu không bò dậy được. Cả bốn tên còn lại thấy y thần dũng như vậy đều bở vía, đứng ngẩn ra hồi lâu rồi đồng thanh hỏi:

– Ngươi là ai?

Miêu Nhân Phụng lại xua tay, lần này chỉ đáp một tiếng nhanh gọn:

– Cút!

Tên xa phu rút cây nhuyễn tiên ở sau lưng ra. Tên cước phu cũng rút đòn gánh cùng nhảy xổ vào. Miêu Nhân Phụng biết năm tên này là kình địch, nếu để chúng liên thủ tấn công thì nhất thời khó bề thủ thắng. Y liền ra tay bằng một chiêu cực kỳ lợi hại, lập tức né mình tránh khỏi cây nhuyễn tiên rồi vươn tay phải chộp lẹ lấy một đầu đòn gánh, vận nội lực rung một cái cho bật lên tiếng lách cách. Cái đòn gánh gỗ táo liền đứt thành hai đoạn. Đột nhiên y tung chân trái ra đá tên phu xa lộn đi mấy vòng. Tên cước phu toan lùi lại nhưng Miêu Nhân Phụng vươn tay ra chụp lấy sau gáy gã, quát một tiếng lớn rồi nhấc bổng gã lên, liệng mạnh một cái. Tên cước phu khác nào diều đứt dây tung ra ngoài mấy trượng té huỵch xuống đất đầy tuyết phủ.

Điều Hầu huynh biết mình không địch nổi liền nói:

– Bội phục! Bội phục! Thanh bảo đao này thuộc về các hạ.

Hắn vừa nói vừa cúi xưống lượm thanh bảo đao hai tay đưa lại. Miêu Nhân Phụng đáp:

– Ta không lấy. Ngươi đưa cho chủ cũ.

Vị Điều Hầu huynh sửng sốt, nghĩ bụng:

“Trên đời này sao có người tốt như vậy?”

Hắn ngửng đầu lên nhìn thấy đối phương mặt vàng như nghệ, thần oai lẫm liệt, chợt nhớ ra điều gì liền nói:

– Té ra các hạ là Kim diện Phật Miêu đại hiệp.

Miêu Nhân Phụng gật đầu. Gã Điều Hầu huynh lại nói:

– Bọn ta có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn. Nay đã thất bại dưới tay Miêu đại hiệp còn nói sao được nữa?

Hắn cầm đao dâng lên nói tiếp:

– Tiểu nhân là Tưởng Điều Hầu, được gặp bậc đại hiệp đương thời thật là tam sinh hữu hạnh. Thanh bảo đao này xin để Miêu đại hiệp xử trí.

Miêu Nhân Phụng không muốn người ta nói nhiều, toan cầm lấy để giao lại cho Nam tiểu thư. Y liền vươn tay ra cầm chuôi đao. Đột nhiên hai tiếng veo véo vang lên. Miêu Nhân Phụng thấy bắp đùi ngâm ngẩm đau. Tưởng Điều Hầu nhảy vọt ra xa hơn một trượng, y chạy về phía trước. Miệng hắn la:

– Y trúng phải “Tuyệt môn độc châm” của ta rồi. Mau mau giữ lấy y.

Miêu Nhân Phụng nghe thấy bốn chữ “Tuyệt môn độc châm”, bất giác “ủa” một tiếng nghĩ thầm:

“Độc châm của họ Tưởng ở Vân Nam nổi danh thiên hạ. Chuyến này ta: trúng phải ngụy kế của chúng rồi.”

Y biết thứ ám khí này kịch độc phi thường, liền hít một hơi chân khí lao về phía trước. Chỉ trong khoảnh khác đã túm được Tưởng Điều Hầu. Y thọc ngón tay vào dưới nách hắn để điểm huyệt rồi liệng xuống đất. Tên xa phu và tên cước phu thua chạy liểng xiểng, bỗng nghe địch nhân trúng độc châm, bất giác hớn hở vô cùng. Nhưng chúng chỉ nhìn từ xa chứ không dám lại gần, chờ cho Miêu Nhân Phụng bị chất độc phát tác.

Miêu Nhân Phụng không dám hô hấp, y liền thi triển khinh công tuyệt đỉnh rượt liền tên cước phu. Tên cước phu chẳng còn hồn vía nào nữa, vắt giò lên cổ mà chạy. Miêu Nhân Phụng đuổi đến sau lưng, không chậm trễ một giây, vung hữu chưởng đánh ra làm cho gã ngũ tạng tan nát cả. Miêu Nhân Phụng hạ tên cước phu rồi quay đuổi tên xa phu, chớp mắt đã tới trước mặt gã. Tên xa phu huy động nhuyễn tiên bảo vệ thân mình. Gã chỉ mong chống được bảy, tám chiêu là chất độc trong mình đối phương sẽ phát tác. Nhưng Miêu Nhân Phụng làm gì phải chiết chiêu với gã. Y vươn bàn tay to tướng nắm đầu cây nhuyễn tiên đoạt lấy, vung tay một cái đập đầu gã vỡ nát.

Miều Nhân Phụng đánh chết luôn hai tên thì cảm thấy bắp chân đã tê chồn. Gặp lúc nguy cấp đến nơi, không có được một giây để thở, nhìn lại thì tên thợ hàn và tên chủ quán giả đã chạy xa mấy chục trượng. Hai tên này cùng chung một ý nghĩ là cố chạy trốn cho xa để chờ địch nhân ngã gục.

Miêu Nhân Phụng bản tâm không muốn giết hại người, nhưng lúc này mà để một tên sống sót, mình bị chất độc phát tác ngã ra tức là giao tính mạng vào tay chúng. Y liền rít chặt lại hai hàm răng, tay cầm nhuyễn tiên rượt theo tên chủ quán giả. Tên này vô cùng xảo quyệt, tìm chỗ có bùn lầy và hang hố mà chạy. Nhưng Miêu Nhân Phụng khinh công trác tuyệt, chớp mắt đã đuổi kịp. Tên chủ quán giả thấy mình khó thoát liền cầm chủy thủ nhảy xổ lại. Miều Nhân Phụng lập tức xoay mình rất lẹ phóng chân đá về phía sau mà không thèm ngó lại, rồi lập tức đề khí vọt đi rượt theo tên thợ hàn. Ngọn cước vừa rồi quả nhiên đã trúng vào trước ngực tên chủ quán giả. Miệng hắn phun máu tươi không ngớt, ngã ngửa chết ngay. Tên thợ hàn tuy võ công tầm thường, nhưng khinh công của Chung gia ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc truyền thụ thuộc vào hàng đệ nhất của võ lâm.

Miêu Nhân Phụng càng ráng sức rượt theo, chất độc càng phát tác mau lẹ. Chân bước đã loạng choạng, rốt cuộc không thể đuổi kịp được. Tên thợ hàn thấy vậy khấp khởi mừng thầm, tự nhủ:

“Như vậy là hoàng thiên phù hộ, ta không cần ra tay mà lấy được cả bảo đao lẫn mỹ nhân.”

Gã còn đang ngẫm nghĩ thì đột nhiên có tiếng véo véo vang lên. Một vật đen sì trên không bay vút tới. Gã toan né tránh thì đã không kịp nữa. Nguyên Miêu Nhân Phụng biết là đuổi gã không kịp, liền chấn khởi thần lực liệng cây nhuyễn tiên ra. Cây nhuyễn tiên được đúc bằng thép đánh thẳng vào bụng tên thợ hàn, hắn ngã lăn trên tuyết, chết ngay lập tức. Lúc này, Miêu Nhân Phụng không thể chống chọi được nữa, ngã lăn xuống đất. Nam tiểu thư đang quỳ phục bên thi thể phụ thân, liếc mắt nhìn thấy cuộc ác chiến kinh tâm động phách. Nàng khiếp sợ quá đến ngây người ra. Sau nàng thấy Miêu Nhân Phụng té xuống, vội chạy đến đỡ lấy, nhưng người y vừa cao vừa lớn, nàng thì lại yếu đuối làm sao đỡ cho nổi?

Miêu Nhân Phụng thần trí hãy còn tỉnh táo nhưng nửa người dưới cứng đơ như gỗ. Y trỏ vào mình Tưởng Điều Hầu nói:

– Cô tìm trong người y lấy thuốc giải cho tại hạ uống.

Nam tiểu thư theo lời quả nhiên mò được một bình thuốc nhỏ, liền hỏi lại Miêu Nhân Phụng:

– Có phải cái này không?

Miêu Nhân Phụng đã mơ mơ màng màng nên không thể phân biệt được đó là thuốc gì, miệng đáp:

– Bất luận có phải hay không, cứ uống… uống rồi sẽ liệu.

Nam tiểu thư mở nút, đổ nửa bình thuốc vàng ra tay rồi trút vào miệng Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng cố sức nuốt thuốc vào rồi nói:

– Giết hắn ngay đi.

Nam tiểu thư kinh hãi, ấp úng đáp:

– Tiểu nữ… không dám giết… giết người…

Miêu Nhân Phụng lớn tiếng:

– Y là cừu nhân đã sát hại lệnh tôn.

Nam tiểu thư nhắc lại:

– Tiểu nữ… tiểu nữ không dám…

Miêu Nhân Phụng gắt lên:

– Lát nữa… hắn tự giải khai được huyệt đạo… tại hạ lại bị thương rất nặng… cả hai chúng ta sẽ không có đất mà chôn thây đâu.

Nam tiểu thư hai tay cầm bảo đao, rút đao ra khỏi vỏ nhưng thấy trong khóe mắt của Tưởng Điền Hầu lộ vẻ van lơn mà nàng từ thuở nhỏ đến giết con gà, con cá cũng không dám thì làm sao giết người được? Miêu Nhân Phụng trong lòng nóng nảy, lớn tiếng quát:

– Cô không giết hắn thì giết ta đi!

Nam tiểu thư giật mình kinh hãi, người nàng run bắn lên, buông thanh đao rơi xuống. Thanh đao này có thể chém tan bia vỡ đá. Lưỡi đao rớt trúng đầu Tưởng Điều Hầu. Bỗng nghe Nam tiểu thư cùng Tưởng Điều Hầu cùng rú lên một tiếng. Nam Tiểu thư té xỉu, đè lên mình Miêu Nhân Phụng. Còn đầu Tưởng Điều Hầu bị bảo đao chém vỡ đôi.

Miêu Nhân Phụng ôn chuyện cũ tới đây thì đứa nhỏ trong lòng tỉnh lại, vừa khóc vừa hỏi:

– Gia gia! Má má đâu rồi? Con muốn gặp má má.

Miêu Nhân Phụng chưa kịp trả lời, đứa nhỏ quay đầu nhìn ra thấy thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên đống lửa. Nó dang hai tay gọi rối rít:

– Má má! Má má Lan Lan kiếm má má hoài!

Nó mừng quá nhảy lên, muốn chạy lại ôm lấy thiếu phụ. Mọi người trong nhà thấy đứa nhỏ xưng Miêu Nhân Phụng là “gia gia”, lại gọi thiếu phụ là má má” đều lấy làm kinh ngạc, tự hỏi:

“Thiếu phụ kia rõ ràng là vợ Điền Quy Nông mà sao lại là mẫu thân của con gái Miêu Nhân Phụng được?”

Đứa nhỏ vẫn kêu hai tiếng “má má” khiến cho bầu không khí ở trong đại sảnh càng thêm ngột ngạt. Mấy chục người lớn đều lộ vẻ ngơ ngác. Chỉ một đứa là nhảy nhót mừng rỡ. Thiếu phụ đứng lên đi đến bên Miêu Nhân Phụng, bồng lấy đứa nhỏ. Đứa nhỏ cười nói:

– Má má ơi! Lan Lan kiếm má má hoài. Má má về nhà đi nhé!

Thiếu phụ ôm chặt lấy đứa con nhỏ, áp khuôn mặt xinh đẹp vào má nó. Lúc nãy khi ngủ, khóe mắt đứa nhỏ hãy còn ngấn lệ chưa khô, bây giờ lại thêm nước mắt của mẫu thân nhỏ xuống nữa.

Quái hán cụt tay, mặt có vết sẹo vẫn ngồi co ro trong góc nhà, lẳng lặng nhìn mọi người, bây giờ mới sè sẹ đứng dậy đi tới trước mặt Diêm Cơ. Lão ghé miệng vào tai gã thì thầm mấy câu. Diêm Cơ biến sắc đột nhiên đứng dậy. Gã liếc nhìn Miêu Nhân Phụng ra chiều khiếp sợ. Gã từ từ thò tay vào bọc lấy ra cái túi nhỏ bằng giấy dầu. Người cụt tay cướp lấy mở coi thì bên trong có hai mảnh giấy đen. Lão lẩm nhẩm gật đầu, gói lại bỏ vào trong bụng, xong quay về góc nhà ngồi xuống.

Thiếu phụ đưa tay áo lên lau nước mắt. Đột nhiên nàng hôn vào má đứa nhỏ một cái thật lâu. Khóe mắt đỏ hoe, nàng lại sa lệ. Sau nàng ráng nhẫn nại đứng lên, đưa trả đứa nhỏ cho Miêu Nhân Phụng. Đứa nhỏ gọi thét lên:

– Má má! Má má! Bồng Lan Lan đi!

Thiếu phụ quay lưng về phía đứa nhỏ. Người nàng cứng đơ như xác chết, thủy chung không quay lại nữa. Miêu Nhân Phụng nhẫn nại chờ đợi… chờ đợi thiếu phụ lên tiếng đáp lại… chờ đợi nàng quay lại nhìn con gái một lần nữa. Trong lòng Miêu Nhân Phụng muốn kéo thị lại, đạp xuống dưới chân rồi phóng chưởng đánh chết thị nhưng y biết trong đám người này sẽ có kẻ liều chết cản trở. Bản lãnh y quán tuyệt thiên hạ không ai địch nổi, nhưng lòng dạ y lại mềm yếu, chỉ vì y yêu tha thiết thiếu phụ đang đứng trước mặt kia.

Y nghe đứa nhỏ gào khóc:

– Má Má! Má má! Bồng Lan Lan đi!

Đứa bé trong lòng y vẫn giẫy giụa đòi đến với mẹ. Y nhẫn nại chờ đợi thiếu phụ trả lời một tiếng, quay lại nhìn con một lần, nhưng thị vẫn làm như câm điếc tưởng chừng trái tim thị cứng như sắt đá. Mặc cho đứa nhỏ kêu gào luôn miệng “Má Má! Bồng Lan Lan đi!”, thiếu phụ vẫn đứng trơ trơ, hai vai không nhúc nhích, đến cả tà áo cũng không lay động. Máu trong người Miêu Nhân Phụng như muốn sôi lên. Trái tim y tưởng chừng tan nát bởi tiếng kêu gào của đứa nhỏ. Thế rồi những chuyện xảy ra trước đây ba năm trên đống tuyết ở Thương Châu lại tiếp tục hiện ra trong đầu óc y.

Trên mặt đất đầy tuyết phủ, sáu xác chết nằm ngổn ngang. Hai đùi Miêu Nhân Phụng bị trúng hai mũi độc châm của Tưởng Điều Hầu, nửa người dưới của y tê cứng, không cử động được. Nam tiểu thư từ từ tỉnh lại. Nàng thấy mình nằm phủ phục trên người Miêu Nhân Phụng, nên hoảng hồn đứng vội dậy, nhưng hai chân mềm nhũn, nàng lại ngã nhào trên mặt tuyết. Nam tiểu thư sợ quá đến nỗi muốn khóc mà không ra tiếng. Miêu Nhân Phụng nói:

– Cô dắt con ngựa kia lại đây.

Thanh âm của y rất nghiêm khắc khiến Nam tiểu thư sợ quá mà phải tuân theo. Nàng đi dắt ngựa đến bên Miêu Nhân Phụng. Nàng lại đưa bàn tay nhỏ nhắn nắm lấy bàn tay to bè của y để kéo y lên. Miêu Nhân Phụng nói:

– Cô tránh ra!

Y nghĩ bụng:

“Cô hơi sức đâu mà kéo nổi ta dậy?”

Lúc này hai chân y không cử động được nhưng y cố cất mình lên, vươn tay nắm lấy bàn đạp, vận kình lực ra cánh tay rồi tung mình ngồi lên ngựa. Y lại bảo Nam tiểu thư:

– Lượm thanh đao kia lên!

Nam tiểu thư như người mất hồn lượm thanh bảo đao lên. Miêu Nhân Phụng thò tay trái ra, ôm lấy eo nàng, nhấc bổng nàng đặt lên lưng ngựa. Hai người cùng cưỡi chung một ngựa từ từ trở về tiểu khách điếm. Miêu Nhân Phụng phải vận hết kình lực mới khỏi ngất xỉu trên lưng ngựa. Đến trước cửa điếm y không thể chống chọi được nữa liền ngã lăn trên mặt tuyết. Hai gã điếm tiểu nhị vội chạy ra đỡ y vào trong nhà. Y vén quần lên, nhổ hai mũi độc châm ra, rồi nhờ tên tiểu nhị hút hộ máu độc ở bắp đùi, hứa trả nhiều tiền mà bọn tiểu nhị vẫn kinh hãi ngần ngừ.

Nam tiểu thư liền đưa miệng vào vết thương, hút từng búng máu độc rồi nhổ ra. Nàng biết rằng khi hai người đụng chạm da thịt thì nàng đã thành của y, dù y có là đạo tặc đi nữa thì cũng phải chấp nhận. Hơn nữa nàng không còn con đường nào khác. Nàng đã quyết tâm đi theo y. Miêu Nhân Phụng cũng biết nàng đã hút máu độc cho mình thì cuộc đời phóng khoáng ngang dọc giang hồ của y đến đây là kết thúc. Trọn đời y phải bảo vệ cho người con gái này. Nỗi vui buồn của một vị thiên kim tiểu thư từ đây cũng là nỗi buồn vui của chính y.

Miêu Nhân Phụng kịp thời uống thuốc giải của Tưởng Điều Hầu là đã có thể bảo toàn được tính mạng. Nhưng những mũi châm tuyệt độc cực kỳ lợi hại, y cần phải điều trị mười ngày hay nửa tháng mới có thể cử động hai chân được. Y lấy bạc đưa cho điếm tiểu nhị làm phí tổn mai táng phụ thân của Nam tiểu thư và năm tên hào khách mưu đồ tranh đoạt bảo đao. Nam tiểu thư cùng Miêu Nhân Phụng trọ trong một gian phòng để chăm sóc và bầu bạn với y.

Sau cơn biến cố kinh tâm động phách, Nam tiểu thư cứ mỗi lần nhắm mắt lại nghĩ đến tấn thảm kịch diễn ra trên đất tuyết. Nàng thấy phụ thân bị bọn cướp hãm hại, lại thấy mình đánh rớt bảo đao giết chết một người nên trong lúc ngủ mơ nàng vẫn thường sợ hãi khóc lóc. Miêu Nhân Phụng ăn nói vụng về, không biết mở miệng nói một câu khuyên nhủ vỗ về, nhưng nàng thấy y nét mặt trầm tĩnh và ánh mắt lộ vẻ đồng tình nên cũng bớt phần sợ hãi.

Nam tiểu thư kể cho y hay phụ thân nàng là Nam Nhân Thông khi làm quan ở Giang Nam, bắt một tên cướp biển và lấy được thanh Lãnh nguyệt bảo đao. Chẳng bao lâu Nam Nhân Thông được điều động lai kinh. Lão định đem thanh bảo đao này dâng cho quan trên và trong lòng tràn trề hy vọng. Không ngờ vì nó mà lão uổng mạng. Miêu Nhân Phụng hỏi danh tính tên cướp biển nhưng Nam tiểu thư không biết. Nàng chỉ biết tên tướng cướp đó bị giam trong ngục rồi mắc bệnh mà chết.

Miêu Nhân Phụng nghĩ thầm:

“Không hiểu tay hảo hán kia là ai mà phải chết một cách mờ ám trong ngục thất? Chắc năm tên hào khách mưu đồ đoạt đao biết rõ tướng cướp đó là ai và có thanh bảo đao nên mới quyết tâm theo dõi.”

Đến ngày thứ năm, Nam tiểu thư bưng chén thuốc vào cho Miêu Nhân Phụng uống. Y đưa tay toan đón lấy bỗng nghe ngoài cửa sổ có tiếng lách cách nhưng vẫn thản nhiên. Y cầm chén thuốc từ từ uống xong đặt xuống. Y biết người đứng ngoài đang nhìn trộm nhưng sợ oai danh mình nên không dám mạo muội động thủ.

Y tính thầm trong bụng:

“Đây chắc là bọn tương trợ cho năm tên cướp đao. Nếu qua năm sáu ngày nữa thì chẳng sợ gì. Khốn nỗi mấy bữa nay hai chân mềm nhũn bất lực, nếu cường địch tới thì chuyện đối phó không phải dễ dàng.”

Bỗng nghe đánh chát một tiếng, ánh bạch quang lấp loáng. Một lưỡi chủy thủ từ bên ngoài cửa sổ ném vào cắm phập xuống mặt bàn, rung rinh không ngớt. Chuôi dao chủy thủ cắm một mảnh giấy trắng. Nam tiểu thư giật mình kinh hãi “ối” lên một tiếng, chạy lại đứng bên Miêu Nhân Phụng.

Miêu Nhân Phụng đang nằm trên giường, vươn tay ra không tới lưỡi chủy thủ. Y cười nhạt một tiếng, rồi đập tay xuống cạnh bàn. Lưỡi chủy thủ cắm sâu xuống mặt bàn mấy tấc liền bật lên bắn lại gần hơn một thước, rớt xuống bên tay y.

Người ngoài cửa sổ lên tiếng:

– Kim diện Phật giỏi thật! Quả nhiên danh bất hư truyền!

Tiếng bước chân khẽ vang lên. Hai người đã vượt tường ra ngoài. Tiếp theo là tiếng vó ngựa dồn dập mỗi lúc một xa.

Miêu Nhân Phụng cầm tờ giấy trắng thấy viết một hàng chữ: “Chung Triệu Văn, Chung Triệu Anh, Chung Triệu Năng ở Ngạn Bắc cúi đầu bái kiến.” Nam tiểu thư thấy vẻ mặt y vẫn trơ như gỗ, chẳng hiểu là y lo lắng hay tức giận, liền hỏi:

– Có phải địch nhân đã tìm đến không?

Miêu Nhân Phụng gật đầu. Nam tiểu thư lại hỏi:

– Tướng công đập bàn một cái, bọn chúng đã bở vía bỏ đi rồi phải không?

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Không phải. Bọn chúng đến đưa thư.

Nam tiểu thư nói:

– Bản lãnh của tướng công ghê gớm như vậy, nhất định đã làm cho bọn chúng phải kinh hãi.

Miêu Nhân Phụng không nói gì, chỉ nghĩ thầm trong bụng:

“Ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu tại Ngạn Bắc đã kiếm được ta rồi, có nghĩa là chúng không sợ ta.”

Nam tiểu thư tuy miệng nói vậy nhưng trong dạ vẫn thấp thỏm lo âu. Hồi lâu nàng mới nhẹ nhàng nói:

– Đại ca! Bây giờ chúng ta lên ngựa bỏ đi thì chúng không tìm thấy nữa.

Miêu Nhân Phụng lắc đầu không nói gì. “Đả biến thiên hạ vô địch thủ Kim diện Phật” Miêu Nhân Phụng khi nào lại trốn tránh địch nhân? Dù có vì Nam tiểu thư mà tạm thời nhẫn nhục ẩn lánh, thì ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu chắc gì đã chịu buông tha? Chuyện này Nam tiểu thư không thể hiểu được. Nhưng Miêu Nhân Phụng vốn ít lời, vả lại câu chuyện này có nói với nàng cũng vô ích.

Đêm hôm ấy, Nam tiểu thư trằn trọc không sao ngủ được. Nàng đã toàn tâm toàn ý lo lắng đến con người quê mùa, chân tay thô kệch này, nhưng Miêu Nhân Phụng lại ngủ rất say. Y lại mơ thấy một vị tân nương tử đầu đội khăn hồng. Đó là những cảnh tượng y được coi rất lâu rồi từ hồi còn nhỏ, và y đã quên hết, bỗng nhiên lại thấy hiện ra trong giấc mộng.

Lúc tỉnh lại tưởng chừng bên tai còn văng vẳng những tiếng trống tiếng nhạc trong mơ. Ánh sáng chập chờn của ngọn đuốc chiếu vào bộ mặt hiền hòa đẹp như hoa phù dung của Nam tiểu thư nằm trên giường bên cạnh. Mặt nàng tuy cực kỳ xinh đẹp, nhưng đóa hoa này tuyệt không lộ nụ cười. Trong giấc ngủ, nàng vẫn có vẻ lo âu sợ hãi. Nàng còn nỗi khổ trong lòng nên ánh đuốc soi vào khiến gương mặt càng thêm phần ảm đạm.

Sáng sớm hôm sau, Miêu Nhân Phụng sai điếm tiểu nhị làm cho một bát mì. Y ngồi dựa vào ghế ngay ngắn ở giữa sảnh đường để ăn sáng. Thanh Lãnh nguyệt bảo đao đặt ở bên mình. Bình sinh y không thích nghĩ trước kế hoạch mà hành động, vì những điều y tiên liệu thường không chuẩn đích, nên đợi lúc việc đến mới tùy cơ ứng biến. Nam tiểu thư nhìn thấy thái độ lầm lỳ của Miêu Nhân Phụng, trong lòng rất sợ hãi. Nàng có hỏi y mấy câu, y cũng không trả lời, rồi nàng không dám hỏi nữa.

Vào quãng giờ thìn, tiếng vó ngựa vang lên. Ba người kỵ mã dừng ngựa trước cửa điếm rồi tiến vào. Những khách hàng trong điếm nhìn thấy cách ăn mặc của ba người đều giật nảy mình. Nguyên ba người này đều mặc áo vải thô màu trắng, đội mũ trắng, đi giày trắng. Trên mũ còn cài dấu hiệu đại tang chứng tỏ cha mẹ qua đời. Những bộ thiếu phục của họ nửa cũ nửa mới, giống như người thọ tang đã lâu.

Miêu Nhân Phụng biết nhà họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc hùng cứ đất Kinh Tương, võ công thật có chỗ độc đáo. Tên thợ hàn là môn đồ của họ Chung, mà võ nghệ đã vào hạng khá. Bây giờ Chung thị huynh đệ thân hành đến đây tất xảy ra chuyện tàn khốc. Y thấy sắc mặt ba người đều lợt lạt, mũi lớn tai tẹt, lỗ mũi hếch lên. Chỉ căn cứ vào chòm râu để phân biệt tuổi tác. Y đoán người chòm râu đốm bạc là đại ca tức là Chung Triệu Văn, người râu đen là nhị ca tức là Chung Triệu Anh, còn người không râu là tam đệ tức Chung Triệu Năng. Lúc ba người tiến vào cước bộ nhẹ nhàng tựa hồ chân không chấm đất. Quả nhiên là những tay kình địch.

Miêu Nhân Phụng bình sinh thấy địch nhân càng mạnh, tinh thần càng phấn chấn. Y thấy ba nhân vật này thanh thế không phải tầm thường bất giác khiến xương cốt trong người y bật lên những tiếng lắc rắc.

Ba anh em họ Chung tiến tới trước mặt Miêu Nhân Phụng xá dài rồi đồng thanh hô:

– Xin chào Miêu đại hiệp!

Miêu Nhân Phụng chắp tay đáp lễ, rồi nói:

– Không dám! Tại hạ bị thương ở đùi không thể đứng dậy được, xin ba vị lượng thứ cho.

Chung Triệu Văn nói:

– Miêu đại hiệp! Đại hiệp cử động bất tiện, lẽ ra bọn ta không nên quấy nhiễu, nhưng mối thù giết đồ đệ không thể không trả. Xin đại hiệp thứ tội.

Hắn nói khẩu âm Hồ Bắc. Miêu Nhân Phụng gật đầu không trả lời.

Chung Triệu Văn lên tiếng:

– Miêu đại hiệp uy chấn thiên hạ. Nếu bọn tại hạ đơn đả độc đấu thì không phải là địch thủ của đại hiệp. Lão nhị! Lão tam! Chúng ta cùng xông vào đi.

Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng đồng thanh dạ một tiếng, rồi hô lớn:

– Lão ca! Chúng ta xông vào đi.

Ba anh em nhà này là những nhân vật thành danh trong chốn võ lâm, tuy giọng nói quái dị khó nghe và mặt mũi xấu xí nhưng có địa vị rất cao trên chốn giang hồ. Bản lãnh bọn họ cao thâm, hành động lại thận trọng vì thế mà lập nên đại nghiệp ở suốt một dải Lưỡng Hồ.

Ba người hô lên những âm thanh quái dị rồi những tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt. Chúng lấy phán quan bút của mình ra. Những khách trọ từ khi thấy ba người bước vào đã biết là có chuyện không ổn. Bây giờ lại thấy ba người rút binh khí ra khiến ai nấy đều tránh xa. Trong đại sảnh vắng ngắt.

Nam tiểu thư vẫn đứng nép vào trong góc nhà nhưng rất quan tâm đến nỗi an nguy của Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng thấy dù nàng là một cô gái khiếp nhược, nhưng cũng có lòng can đảm, trong lòng lấy làm an ủi. Chỉ một việc Nam tiểu thư đứng nép vào góc nhà, Miêu Nhân Phụng đã cảm thấy giữa y và cô đã có một sợi dây tử sinh ràng buộc, bất giác trong lòng khởi lên một mối nhu tình. Y nhìn cô mỉm cười, rồi rút thanh Lãnh nguyệt bảo đao ra.

Chung thị huynh đệ thấy thanh quang lấp loáng, khí lạnh ghê người, đồng thanh khen ngợi:

– Quả là bảo đao!

Tiếng hô của ba người nghe rất quái dị. Chung Triệu Văn phóng song bút vào trước ngực Miêu Nhân Phụng. Chung Triệu Anh tấn công mé tả, Chung Triệu Năng tấn công mé hữu. Miêu Nhân Phụng vẫn ngồi ngay trên ghế, thanh đao cầm ngang bất động. Y chờ cho đầu mũi sáu cây bút phóng tới bên mình, đột nhiên vung đao, tiếng gió rít vù vù nhằm ba người chém tới. Chung thị huynh đệ quả là những tay mình mang tuyệt nghệ. Chúng thấy thế đao kỳ tuyệt mà vẫn lạng người tránh được. Chúng chỉ biết kiếm pháp của Miêu gia độc bộ thiên hạ, không ngờ đao pháp của y cũng tinh kỳ không kém.

Đao pháp mà Miêu Nhân Phụng sử dụng chính là Hồ gia đao pháp do Hồ Nhất Đao truyền thụ cho. Đao pháp này biến hóa ảo diệu lại linh động tuyệt luân, nhưng vì người Miêu Nhân Phụng không di động được, nên phóng đao ra rồi mà chẳng thể liên tục truy kích.

Bốn người đã khai diễn cuộc tỷ đấu. Trong đại sảnh, đao quang bút ảnh quần nhau hung hiểm dị thường. Ba anh em họ Chung khinh công đều vào hạng trác tuyệt, họ chia ba ngả để hợp kích. Hễ kẻ này tiến thì kẻ kia lui. Sáu cây phán quan bút vung lên bổ xuống tựa hồ như mười hai cây.

Miêu Nhân Phụng thi triển đao pháp, công thủ đâm chém, chẳng chịu kém thế chút nào. Y nghĩ trận này cần phải hạ sát thủ, đánh gục một người trong bọn chúng. Nếu không thì không chỉ riêng y mà cả đến Nam tiểu thư cũng khó bảo toàn tính mạng. Nhưng y nghĩ ba anh em họ Chung xưa nay vẫn yên phận thủ thường, không làm điều gì ác, trên chốn giang hồ có nhiều tiếng tốt nên thấy không cần thiết phải giết họ.

Lúc này ba anh em họ Chung càng đánh ráo riết, chiêu nào cũng nhằm điểm vào đại huyệt trong người Miêu Nhân Phụng. Y chỉ sơ ý một chút là thanh danh một đời trôi theo dòng nước. Cả con người ôn nhu kiều diễm là Nam tiểu thư cũng lọt vào tay địch thủ mà chịu đọa đày. Y nghĩ đến đó liền phóng ra những độc chiêu chém tới. Ba anh em họ Chung sợ y mạnh mẽ lại có đao bén, không dám để binh khí đụng vào bảo đao, vòng vây dần dần giãn ra.

Chung Triệu Anh nhận thấy khó bề thủ thắng, đột nhiên gầm lên một tiếng quái gở, nghiêng mình chênh chếch nhào tới, rồi lăn đến tấn công hạ bàn Miêu Nhân Phụng. Cách đánh này thật hiểm độc. Hắn tính rằng Miêu Nhân Phụng ngồi trên ghế không thể xoay chuyển. Nếu đánh vào chân ghế đằng sau thì y hết đường bảo vệ. Chung Triệu Anh đánh liền mấy chiêu, cây phán quan bút quét ngang đánh “rắc” một tiếng. Một chân ghế phía sau bị gãy. Cả cái ghế xiêu đi. Người Miêu Nhân Phụng nghiêng sang một bên. Nam tiểu thư “ối” lên một tiếng thất thanh. Miêu Nhân Phụng đột nhiên thò tay trái chụp vào mặt Chung Triệu Anh. Chung Triệu Anh sợ quá vội lăn người tránh.

Bỗng nghe hai tiếng “choang choang” vang lên. Chung Triệu Năng và Chung Triệu Anh mỗi người đều bị thanh Lãnh nguyệt bảo đao chém gãy phán quan bút. Chung Triệu Văn bả vai đau nhói vì bị đao quét trúng một chiêu. Miêu Nhân Phụng ra một chiêu đồng thời tấn công ba địch nhân, chiêu này gọi là “Vân long tam hiện”, một chiêu số tinh diệu trong Hồ gia đao pháp.

Ba anh em họ Chung thi triển khinh công nhảy lùi ra, đưa mắt nhìn nhau đều lộ vẻ kinh hãi. Chung Triệu Anh nói:

– Lão đại! Bây giờ chúng ta tính sao đây?

Chung Triệu Văn đáp:

– Không sao cả.

Hắn thấy Miêu Nhân Phụng ngồi trên ghế ba chân lảo đảo muốn té liền cho đây là một cơ hội hiếm có. Hắn chỉ sợ thanh bảo đao sắc bén và đao pháp tinh kỳ của đối phương, liền chắp tay nói:

– Về binh khí thì ba anh em tại hạ không phải là đối thủ của đại hiệp. Bây giờ bọn tại hạ xin lãnh giáo mấy chiêu quyền pháp.

Hắn nói mấy cây này thật đường hoàng mà dụng ý  lại thâm hiểm, khiến cho địch nhân phải bỏ cái sở trường. Bọn chúng muốn nhân cơ hội địch thủ bị lâm nguy mà ra tay, vì đây là một cuộc đánh liều mạng để báo thù chứ chẳng phải chuyện tỷ võ thông thường. Lẽ ra Miêu Nhân Phụng không thèm quan tâm cũng được nhưng y nghệ cao mật lớn, chỉ cười lạt một tiếng rồi tra đao vào vỏ, gật đầu đáp:

– Được!

Ba anh em họ Chung liền quẳng phán quan bút đi rồi nhảy lại tấn công. Cả ba người đều nhảy tới chứ không bước. Chưởng pháp của Miêu Nhân Phụng uy mãnh phi thường. Y đã thi triển là ba người kia không đến gần được trong vòng tám thước. May là võ công của nhà họ Chung đã nổi tiếng, nếu không thì chưởng lực của y cũng đủ làm cho chúng bị trọng thương.

Chung Triệu Anh là người vô cùng xảo quyệt, thấy Miêu Nhân Phụng ngồi ghế ba chân khó bề vững chãi. Gã chợt nghĩ nếu đánh gãy thêm một chân ghế nữa ắt địch nhân phải ngã xuống. Gã liền sử dụng “Địa đường quyền pháp” lăn đến phía sau ghế Miêu Nhân Phụng ngồi, đột nhiên vung chân phải quét ngang nghe “rắc” một tiếng. Quả nhiên lại một chân ghế nữa bị gãy rời. Cái ghế lúc trước đã xiêu, bây giờ đổ ngửa về phía sau.

Miêu Nhân Phụng đưa tay ra chống vào sau lưng ghế, người bỗng nhảy vọt lên cao. Y căm hận Chung Triệu Anh xảo trá, liền từ trên không như con chim khổng lồ sà xuống tấn công. Chung Triệu Anh bở vía lớn tiếng la:

– Lão đại! Lão tam!

Chung Triệu Văn và Chung Triệu Năng cùng chạy lại cứu viện. Miêu Nhân Phụng vung song chưởng đánh ra. Tả chưởng đánh vào bả vai Chung Triệu Văn, hữu chưởng đánh trúng ngực Chung Triệu Năng. Hai người không chịu nổi đều bị văng ra. Chung Triệu Anh thừa cơ lộn người trốn ra cửa sảnh. Lúc hắn nhìn lại Miêu Nhân Phụng, thấy y cũng té nhào. Ba anh em họ Chung thấy Miêu Nhân Phụng thần dũng phi thường, đâu còn dám tiến vào tái đấu?

Chung Triệu Anh liếc thấy bên cửa điếm có đống cỏ ngựa liền nảy ra một ý nghĩ, liền đánh lửa lên châm vào đống cỏ. Đống cỏ rơm này đã khô, gặp lửa bốc cháy liền, thuận chiều gió tràn vào khách điếm. Những khách thương trong điếm thấy phát hỏa nhốn nháo cả lên, tới tấp chạy ra ngoài. Ba anh em họ Chung lượm lấy phán quan bút đứng giám thị ở cửa, quát lớn:

– Ai mà cứu tên què chân này thì bọn lão gia đánh cho vỡ óc.

Mọi người trốn chạy thục mạng chưa xong còn ai dám cứu y nữa? Miêu Nhân Phụng thấy chỉ trong nháy mắt lửa đã theo gió mạnh, lùa vào sảnh đường mà chân mình không cất bước được, địch nhân lại canh giữ ngoài cửa, bất giác nhủ thầm:

“Chẳng lẽ ta một đời nổi tiếng anh hùng mà nay bị chết cháy trong đống lửa này ư?”

Y đảo mắt nhìn Nam tiểu thư thấy nàng đã theo mọi người trốn ra ngoài cũng yên tâm được một chút. Dưới ánh lửa, y nhìn thấy trong góc nhà có bỏ một đống dây thừng thì trong bụng mừng thầm, miệng lẩm bẩm:

– Trời còn thương ta!

Y liền bò lại, lấy dây quấn vào tay mười mấy vòng. Anh em họ Chung thấy khói lửa dày đặc, bít kín cả cửa điếm thì đều cho là kẻ vô địch thiên hạ Miêu Nhân Phụng nhất định phải chết cháy. Bọn chúng trong lòng hớn hở, nhìn nhau mỉm cười.

Nam tiểu thư gặp lúc nguy cấp phải chạy ra cửa. Bây giờ nàng nghĩ Miêu Nhân Phụng vì cứu mình mà bị trọng thương giờ phải bỏ mạng nên không ngăn được dòng lệ tuôn trào.

Đột nhiên nghe trong nhà có tiếng quát lớn. Một sợi dây xuyên qua khói lửa tung lên quấn vào cành cây ngân hạnh ở ngoài cửa. Tiếp đó sợi dây rung lên, thân hình vừa cao vừa gầy của Miêu Nhân Phụng đã bay ra ngoài. Mọi người thấy y đột nhiên bay tới như một vị tướng quân từ trên trời giáng thế thì đều kinh hãi. Miêu Nhân Phụng tay trái níu sợi dây để đu người thẳng tới chỗ ba anh em họ Chung. Ba tên này chẳng còn hồn vía nào nữa, mất cả ý chí chiến đấu, liền lập tức co giò trốn chạy.

Tuy khinh công ba người rất cao thâm cũng không thể lẹ bằng Miêu Nhân Phụng đu dây lướt tới, liền bị y vươn bàn tay như cái quạt lá bồ chụp từng tên một ném vào trong đống lửa. May võ công ba người đều cao cường, nên vừa bị ném vào đống lửa, chúng liền nhảy ra được, có điều râu mày đều bị cháy trụi, trông thật thảm não. Đã đến nông nỗi này, ba anh em họ Chung không dám chần chờ, bỏ cả ngựa, hoảng hốt chạy về phía Nam. Sau lưng còn nghe tiếng cười sang sảng của Miêu Nhân Phụng vang lên không ngớt. Miêu Nhân Phụng nhớ tới tình cảnh chiến đấu cùng ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu, bất giác nở một nụ cười, nhưng là nụ cười buồn. Y lại hồi tưởng sau khi thương thế ở đùi khỏi hẳn rồi cùng Nam tiểu thư kết thành phu phụ. Người vợ mà y đem lòng yêu tha thiết bằng mối thâm tình khắc cốt minh tâm chính là thiếu phụ xinh đẹp ở trước mặt. Thị ngồi cách y không đầy năm thước, tuy gần trong gang tấc mà tưởng chừng cách trở quan san. Miêu Nhân Phụng nghĩ tiếp đến những ngày hoan lạc sau buổi tân hôn. Y dẫn Nam Lan cùng đi tế mộ vợ chồng Hồ Nhất Đao. Miêu Nhân Phụng đặt thanh Lãnh Nguyệt Bảo Đao vào trong phần mộ, tự nhủ:

“Trên cõi đời này, ngoài Hồ Nhất Đao, không còn ai đáng sử dụng thanh bảo đao này. Y đã không còn sống trên thế gian thì ta để thanh bảo đao bầu bạn với y.”

Trước mộ Hồ Nhất Đao, Miêu Nhân Phụng đem chuyện tỷ võ ngày trước, y lỡ tay làm tử thương người bạn tri kỷ độc nhất ra sao kể hết cho vợ nghe. Trước nay y vẫn ít nói mà lúc này miệng lại thao thao bất tuyệt. Mối u uất trong lòng chứa chất mười năm bây giờ mới phát tiết trước mặt người thân.

Miêu Nhân Phụng sắp nhiều rượu thịt ra mâm để cúng tế giống như ngày trước y đã cùng vợ chồng họ Hồ ăn uống trong cuộc tỷ võ. Miêu Nhân Phụng uống rất nhiều, tưởng chừng người bạn tri kỷ duy nhất trong đời sống lại cùng y cười đùa thù tạc. Y càng uống càng nói nhiều, càng tỏ ra khâm phục sung bái vị đại hiệp đất Liêu Đông. Y nói đến chuyện con tạo khéo trêu ngươi, chuyện nhân thế vô thường.

Lúc Miêu Nhân Phụng nói đến mối tình ái giữa Hồ phu nhân và trượng phu, y bảo:

– Người vợ như thế thì chồng ở trong lửa, nàng cũng nhảy vào lửa. Chồng ở dưới nước, nàng cũng nhảy xuống nước…

Đột nhiên y thấy tân nương của mình biến sắc, rồi bưng mặt chạy đi. Y rượt theo để giải thích, nhưng vì say quá không biết nói gì. Huống chi trong lòng y nhớ lại màn kịch Chung thị tam hung đánh hỏa công ở khách điếm, y ở trong đống lửa mà Nam tiểu thư lại chạy trốn ra ngoài trước. Miêu Nhân Phụng vốn là người khẳng khái hào hiệp, xưa nay chẳng bao giờ để bụng chuyện nhỏ nhặt nhưng Nam Lan là người yêu sống chết với y…

Về lý, y nhận thấy nàng chạy trốn ra ngoài là phải. Nàng là cô gái chẳng biết chút võ công, thấy lửa cháy tất nhiên phải hoảng sợ. Khi ấy, nàng lại chưa là vợ y thì chết theo y phỏng được ích gì? Nhưng trong thâm tâm, Miêu Nhân Phụng lại hy vọng lúc gặp nguy hiểm, sẽ có người yêu mình tha thiết ở bên cạnh chứ không muốn người ấy bỏ mình để chạy thoát thân. Y ca tụng Hồ Nhất Đao đồng thời nghĩ đến họ Hồ có người thương yêu bằng cả tấm chân tình mà mình lại không. Hồ Nhất Đao tuy chết sớm nhưng so với y còn sung sướng hơn.

Nhân còn say rượu, Miêu Nhân Phụng vô tình buột miệng nói lỡ một câu trước mộ Hồ Nhất Đao, đồng thời lộ chân tâm của mình. Câu nói đó gây nên sự rạn nứt giữa hai vợ chồng, vĩnh viễn không hàn gắn được. Tuy nhiên Miêu Nhân Phụng thủy chung vẫn yêu vợ một cách tha thiết. Vĩnh viễn y không nhắc lại chuyện đó, thậm chí không nhắc tới tên Hồ Nhất Đao và dĩ nhiên Nam Lan cũng không nói đến.

Sau Nam Lan sinh con gái là Nhược Lan cũng xinh đẹp như mẫu thân, mối tình giữa hai vợ chồng càng thêm sâu đậm. Nhưng y xuất thân là một hiệp khách nghèo trên giang hồ, còn vợ y là một vị thiên kim tiểu thư con nhà quan. Bản tính y trầm lặng ít nói, suốt ngày nét mặt lâm lỳ, nhưng vợ y cần được những lời lẽ ôn nhu mơn trớn, thủ thỉ vỗ về. Nàng muốn người đàn ông phải hào hoa phong nhã, hiểu được tâm ý của nữ nhân, biết nói cười âu yếm.

Miêu Nhân Phụng ngoài võ công vô địch thiên hạ ra thì mọi tâm tình của vợ, y không hiểu tí gì. Giả tỷ Nam tiểu thư cũng là con nhà võ hoặc giả đem lòng khâm phục bản lãnh của trượng phu thì nàng đã hân hạnh có người chồng là kỳ nam tử đội trời đạp đất. Nhưng nàng vốn không hiểu võ công, trong lòng lại chán ghét nghề võ, vì phụ thân nàng bị bọn người học võ sát hại mà nguyên nhân phát khởi từ thanh bảo đao. Sở dĩ nàng lấy một người đàn ông chẳng hiểu gì đến tâm lý mình chỉ vì người này đã cứu nàng.

Kể ra trong đời nàng cũng có một thời gian ngắn cảm thấy hứng thú về võ công. Đó là hồi chồng nàng có người bạn đến chơi. Hắn là một chàng trai phong lưu tiêu sái tên gọi Điền Quy Nông. Điền Quy Nông chẳng có câu nói nào lại không khiến người nghe hoan hỷ, chẳng có cái liếc mắt nào lại không khiến người ta tim đập loạn lên. Nhưng lạ ở chỗ trượng phu của nàng đối với vị Điền tướng công này chẳng mặn mà chút nào, vì thế nàng phải lo việc tiếp đãi khách.

Ngay từ buổi đầu gặp gỡ, đêm đến nàng nằm trên giường, giương mắt lên nhìn ra bóng tối phía ngoài cửa sổ, không nén nổi mối thương tâm tự hỏi:

“Tại sao người cứu ta ngày ấy lại không phải vị Điền tướng công phong lưu anh tuấn này, khiến cho đời ta phải ngủ bên một ông chồng trơ như khúc gỗ?”

Sau mấy bữa, Điền Quy Nông đàm luận võ công với nàng liền phát giác ra nàng chẳng hiểu chi hết, hắn liền dạy nàng mấy đường quyền cước. Nàng học võ công ham lắm nhưng sự thực nàng không thích võ công, chỉ vì được Điền Quy Nông dạy dỗ nên nàng đâm ra thích học.

Một hôm nàng bảo hắn:

– Tướng công và trượng phu của tiểu muội nên đổi tên cho nhau mới đúng. Y thì đáng về làng cày ruộng làm nông, còn tướng công chính là con phượng hoàng trong loài người.

Không hiểu nàng đã để ý từ trước hay vì một câu nói tỷ dụ mà trong một đêm đã xảy ra chuyện tân khách vũ nhục chủ nhân, vợ vũ nhục chồng, mẹ vũ nhục con gái. Lúc ấy Miêu Nhân Phụng đang luyện kiếm dưới ánh trăng con gái Miêu Nhược Lan đang thiêm thiếp giấc nồng. Cành trâm hình chim phụng bằng vàng nạm ngọc cài trên đầu Nam Lan rơi xuống trước giường, Điền Quy Nông nhặt cài lên tóc nàng bằng một cử chỉ rất ôn nhu. Cành phụng thoa rung rinh trên đầu nàng…

Thế là nàng hạ quyết tâm bỏ hết chồng con, gia đình, thanh danh để nghe theo tiếng gọi của trái tim.

Nam Lan bỏ nhà trốn đi theo chàng trai tuấn tú Điền Quy Nông. Trượng phu nàng là Miêu Nhân Phụng bồng con gái lặn lội mưa to gió lớn đuổi theo. Đứa con gái gào khóc, gọi “má má”, nhưng nàng quyết tâm đi theo Điền Quy Nông. Dù chỉ là sống với hắn thời gian ngắn ngủi mấy ngày cũng được. Nàng có bị trượng phu hành hạ cũng chẳng sao, thậm chí bị giết cũng cam lòng.

Nàng rất yêu con gái, nhưng nó lại là con của Miêu Nhân Phụng chứ không phải con của Điền Quy Nông. Nàng nghe con gái khóc, nhưng trong khóe mắt lại nhìn thấy nụ cười làm mê man hồn người của Điền Quy Nông, vì thế nàng không quay đầu lại. Miêu Nhân Phụng tự nhủ:

“Ta chỉ mong nàng theo ta trở về nhà. Chuyện này nhất định ta không bao giờ nhắc tới. Chỉ cần nàng hồi tâm chuyển ý. Ta cần nàng. Con ta cũng cần nàng.”

Miêu phu nhân tự hỏi:

“Không hiểu Miêu Nhân Phụng có đánh chết Điền Quy Nông không? Y rất yêu thương mình, không biết có đánh mình không?”

Con nhỏ Miêu Nhược Lan còn ngây thơ, nó nghĩ thầm:

“Tại sao má má lại không đoái hoài gì đến mình, không đến bồng mình? Hay là vì mình không ngoan?”

Điền Quy Nông lại theo đuổi những ý nghĩ riêng. Hắn nghĩ tới Sấm Vương để lại kho tài bảo vô cùng vô tận. Miêu phu nhân là cái chìa khóa để mở kho tàng này. Nàng rất xinh đẹp, kiều lệ tuyệt luân, cái đó bất tất phải nói, nhưng điều trọng yếu hơn nữa là kho tàng của Sấm Vương. Liệu Miêu Nhân Phụng có giết hắn không?

Miêu Nhân Phụng chờ đợi. Những tiêu khách, bọn cường đạo, bọn thị vệ, chủ nhân Thương gia bảo, người cụt tay và thằng nhỏ, hết thảy đều ở trong tình trạng chờ đợi. Trong sảnh đường rất đông người nhưng chẳng một ai nói năng gì. Chỉ nghe tiếng đứa bé gái vừa khóc vừa gào:

– Má má! Má má! Lại bồng Lan Lan đi!

Dù người lòng dạ sắt đá đến đâu cũng mong cho Miêu phu nhân quay lại bồng con. Từ lúc bước vào đại sảnh trong Thương gia bảo, Miêu Nhân Phụng thủy chung không nói nửa lời, chỉ giương mắt lên nhìn vợ.

Bên ngoài trời vẫn mưa như trút nước, thỉnh thoảng những tia chớp giật lóe lên, tiếp theo là tiếng sấm sét nổ long trời. Miêu phu nhân hơi nghiêng đầu. Miêu Nhân Phụng rùng mình. Y nhìn thấy thê tử mình mỉm cười. Ánh mắt nàng đang nhìn Điền Quy Nông, chan chứa mối thâm tình ôn nhu đằm thắm. Cái nhìn thâm tình này nàng chưa từng dành cho y lấy một lần, ngay cả trong đêm tân hôn. Đây là lần đầu tiên trong đời y nhìn thấy ánh mắt nàng như thế.

Miêu Nhân Phụng bình tĩnh trở lại, y không nhìn nàng đăm đăm nữa, từ từ đứng dậy. Y dùng tấm vải dầu bọc đứa nhỏ cẩn thận rồi đeo lên trước ngực. Y chu đáo ân cần, biểu lộ tấm lòng từ ái hiếm có trên thế gian của người cha đang chịu cảnh đau lòng. Y sải chân bước ra khỏi sảnh đường, thủy chung vẫn không mở miệng mà cũng không quay đầu lại lần nào vì y đã nhận ra ánh mắt thâm tình ấy của vợ.

Mưa lớn trút xuống thân hình khôi vĩ của Miêu Nhân Phụng. Sấm sét cũng vang rền trên đầu y. Tiếng khóc của đứa nhỏ vẫn văng vẳng bên tai, nhưng Miêu Nhân Phụng vẫn rảo bước. Y bồng đứa nhỏ đi giữa đêm trời mưa to gió lớn.

Y không về nhà. Căn nhà từ đó trở thành hoang vắng.

Chương 03: Anh hùng tuổi thiếu niên

Miêu Nhân Phụng bồng đứa nhỏ dời khỏi Thương gia bảo giữa lúc trời mưa gió bão bùng. Người hiệp sĩ ra đi nhưng dư oai vẫn còn để lại. Lúc vào sảnh đường cũng như lúc đi ra, y chẳng nói nửa lời mà quần hào đều khiếp hãi. Cả người quen biết lẫn kẻ lạ ai cũng lo nơm nớp. Người thì kinh hãi, kẻ thì kính sợ. Hồi lâu vẫn không ai lên tiếng, chỉ đăm chiêu suy nghĩ.

Miêu phu nhân từ từ đứng dậy. Khóe miệng nàng gượng điểm một nụ cười, nhưng mắt nàng nhỏ mấy giọt lệ trong như hai viên bạch ngọc lăn xuống bên má. Điền Quy Nông cũng đứng bật dậy. Tay trái nắm đốc kiếm ở sau lưng kéo ra năm tấc rồi lại tra vào vỏ đánh “cách” một tiếng. Tư thế này coi rất ung dung oai vệ. Hắn khẽ bảo thiếu phụ:

– Lan muội! Chúng ta đi thôi!

Hắn đưa mắt nhìn đống kim ngân, thần thái tuy không mất vẻ phong lưu tuấn nhã, nhưng giọng nói hơi run, chứng tỏ trong lòng hắn vẫn chưa hết kinh hãi.

Mã Hành Không tưởng Điền Quy Nông sắp cướp kim ngân bèn gắng gượng đứng dậy la lên:

– Xuân Nhi! Lấy binh khí cho ta!

Mã Xuân Hoa thấy phụ thân bị thương không nhẹ, nàng rưng rung nước mắt nói:

– Gia gia!

Mã Hành Không cất giọng oai nghiêm giục:

– Lấy binh khí lẹ lên!

Mã Xuân Hoa rút cả kim ty nhuyễn tiên mà phụ thân nàng vẫn sử dụng mấy chục năm trong nghề bảo tiên toan đưa lại, thì đột nhiên một tiếng đằng hắng từ hậu đường vọng ra, rồi một bà già xuất hiện. Bà già này mình mặc áo bông vải xanh, quần đen. Lưng mụ hơi còng. Hai món tóc mai đã bạc, tóc trên đầu hãy còn đen nhánh.

Thương Bảo Chấn tuy bị Điền Quy Nông đánh ngã nhưng chỉ bị thương xoàng. Gã vội chạy lại la lên:

– Má Má! Má má bất tất phải can thiệp vào việc ở đây, hãy về nghỉ đi thôi.

Bà già này chính là Thương lão thái, mẫu thân của Thương Bảo Chấn. Thương lão thái gật đầu, vẻ mặt thản nhiên hỏi lại:

– Ngươi bị bại về tay người ta rồi sao?

Giọng nói khàn khàn rất khó nghe. Thương Bảo Chấn vẻ mặt bẽn lẽn, cúi đầu đáp:

– Hài nhi thật là vô dụng, không phải đối thủ của họ Điền kia.

Gã vừa nói vừa trỏ về phía Điền Quy Nông trong lòng vừa bẽ bàng vừa phẫn nộ. Thương lão thái hé mở cặp mắt ảm đạm đứng ngẩn người ra hết nhìn Điền Quy Nông lại ngó Miêu phu nhân, miệng lẩm bẩm:

– Thật là một người đẹp!

Đột nhiên thằng nhỏ người ốm nhách, nước da vàng ủng từ trong đám đông bước ra, trỏ tay vào Miêu phu nhân la lên:

– Con gái bà đòi bà bồng sao bà không đoái hoài gì đến nó? Bà làm má má sao chẳng có một chút lương tâm vậy?

Câu hỏi này trong thâm tâm mọi người đều nghĩ tới, nhưng lại do miệng một thằng nhỏ ốm nhom như đứa ăn mày thốt ra khiến ai cũng sửng sốt. Giữa lúc ấy ngoài trời sấm sét ầm ầm! Thằng nhỏ lại lớn tiếng:

– Bà không còn chút lương tâm nào nữa! Lôi công đánh chết bà đi cho rồi!

Một đứa trẻ nít áo quần lam lũ mà nổi giận trỏ tay thóa mạ, xem cũng có uy thế. Điền Quy Nông sửng sốt. Hắn rút trường kiếm ra khỏi vỏ đánh “soạt” một cái, lớn tiếng quát:

– Thằng nhỏ ăn xin kia! Ngươi nói nhăng nói càn gì thế?

Tên cường đạo Diêm Cơ sấn lại, vươn tay chụp lấy ngực thẳng nhỏ quát bảo:

– Mau lại dập đầu xin lỗi Điền tướng công và phu… phu nhân đi!

Thằng nhỏ không thèm đề ý đến y, mặt nó đầy vẻ chính khí oai nghiêm. Nó vẫn trỏ vào Miêu phu nhân lớn tiếng:

– Bà… bà không còn chút lương tâm nào nữa!

Điền Quy Nông giơ thanh trường kiếm lên toan đâm vào ngực thằng nhỏ, thì đột nhiên Miêu phu nhân “ọe” một tiếng rồi bưng mặt khóc òa, bỏ chạy đi dưới trời mưa tầm tã. Điền Quy Nông thấy không giết được thằng nhỏ, bèn cầm kiếm rượt theo. Y chỉ tung mình một cái đã nhảy vọt đến bên Miêu phu nhân, mở lời an ủi:

– Lan muội! Thằng nhãi ăn xin đó nói nhăng nói càn. Lan muội quan tâm làm chi?

Miêu phu nhân nghẹn ngào đáp:

– Tiểu muội quả đúng là con người vô lương tâm.

Nàng vừa khóc vừa nói, mà chân vẫn không dừng bước. Điền Quy Nông  đưa tay cầm lấy cánh tay nàng, nàng đẩy mạnh ra mà không thoát được, Điền Quy Nông mà muốn nắm giữ thì dù Miêu phu nhân có học võ thêm mười năm nữa cũng chưa chắc thoát được, nhưng hắn không dám dùng cường lực nên đành buông tay và dịu dàng khuyên giải.

Hai người dầm mưa ra đi mỗi lúc một xa, chuyển qua khúc quanh đường lớn, rồi mất dạng sau hàng liễu. Họ không quay lại nữa.

Ai cũng thở phào nhẹ nhõm, liếc mắt nhìn thằng nhỏ ốm nhách. Nghĩ thầm:

– Gã này tuổi nhỏ mà mật lớn thực! Gã không sợ mất mạng ư?

Diêm Cơ cười nhạt một tiếng rồi quát:

– Thế thì hay quá! Diêm đại gia một mình xơi hết món canh béo bở này thì còn gì hay bằng? Các vị huynh đệ, mau dọn tiêu ngân đi!

Quần đạo dạ ran rồi phân tán ra toan động thủ. Diêm Cơ phóng chân trái đá thằng nhỏ một cái lăn nhào, rồi tiện tay nắm lấy hán tử cụt tay, miệng quát:

– Sao còn chưa cút đi?

Thương lão thái cất tiếng khàn khàn hỏi:

– Diêm lão đại! Ở đây có phải là Thương gia bảo hay không?

Diêm Cơ đáp:

– Phải rồi! Ở Thương gia bảo thì sao?

Thương lão thái lại hỏi:

– Lão thái ta có phải chủ nhân Thương gia bảo không?

Diêm Cơ một tay vẫn nắm trước ngực hán tử cụt tay, ngửa mặt lên trời cười rộ hỏi lại:

– Thương lão bà! Mụ nói lòng vòng gì lắm thế? Thương gia bảo của mụ tưởng cao cửa rộng chắc lắm tiền nhiều của. Phải chăng có ý muốn cho anh em ta chút dầu mỡ xài hộ?

Quần đạo liền phụ họa la hét ầm cả lên. Thương Bảo Chấn tức giận, sắc mặt trắng bệch lên tiếng:

– Má má! Đừng dài dòng với gã nữa. Để hài nhi liều mạng một phen.

Gã đoạt lấy thanh đơn đao trong tay một tiêu khách, trỏ vào mặt Diêm Cơ gầm lên khiêu chiến. Diêm Cơ đẩy hán tử cụt tay một cái, vẻ mặt hầm hầm quát:

– Thằng lỏi kia đừng chạy! Lão gia chờ dịp tính sổ với mi đây.

Hắn vỗ hai tay một cái, liếc mắt ngó Thương Bảo Chấn, nét mặt cực kỳ ngạo nghễ, tỏ ra không coi gã ra gì. Thương lão thái nói:

– Diêm lão đại! Lão đại vào đây, lão thân có chuyện muốn nói với ngươi.

Diêm Cơ sửng sốt một lúc, rồi giở giọng đểu cáng ra hỏi:

– Đi đâu? Diêm mỗ không đến phòng đàn bà.

Thương lão thái lờ đi như không nghe, lại nói:

– Lão thân có việc khẩn yếu muốn nói với Diêm lão đại.

Diêm Cơ tự hỏi:

“Mụ già có mấy phần cổ quái, không hiểu mụ kêu mình đi đâu?”

Hắn toan đáp:

“Diêm đại gia không rảnh để lằng nhằng với mụ.”

Nhưng gã chưa kịp đáp thì Thương lão thái đã xoay mình đi vào nội đường. Mụ vừa đi vừa cất giọng khàn khàn nói:

– Ngươi có giỏi thì vào đây.

Diêm Cơ ngửa mặt lên trời cười ha hả đáp:

– Diêm mỗ mà nhát gan ư?

Rồi hắn cất bước đi theo. Nhị trại chủ là người cẩn thận, hắn đưa thanh quỷ đầu đao cho Diêm Cơ. Diêm Cơ liền đón lấy. Thương Bảo Chấn không hiểu mẫu thân kêu Diêm Cơ vào nội thất với dụng ý gì, gã cũng đi theo. Thương lão thái tuy không quay đầu lại, nhưng nhận được tiếng bước chân của con mình, liền bảo:

– Chấn nhi ở lại đó.

Rồi mụ nói với Diêm Cơ:

– Diêm lão đại! Lão hãy bảo anh em tạm thời chớ có động thủ.

Mấy câu này mụ vừa nói với Thương Bảo Chấn vừa nói với Diêm Cơ, mắt không nhìn họ, nhưng thanh âm mụ đầy vẻ oai nghiêm, tựa như ra lệnh.

Diêm Cơ đáp:

– Mụ nói thế là phải.

Rồi hắn bảo đồng bọn:

– Anh em đừng hành động gì vội. Hãy chờ ta trở ra phát lạc.

Quần đạo đều dạ ran. Nhị trại chủ dùng tiếng lóng phát lệnh cho đồng đảng giám thị bọn tiêu khách, đề phòng họ nhân cơ hội này mà gây chuyện.

Nguyên Thương Bảo Chấn và ba tên thị vệ trợ lực bảo vệ tiêu xa đã khiến bọn cường đạo lâm vào thế hạ phong, nhưng Thương Bảo Chấn và Từ Tranh bị Điền Quy Nông đả thương, Mã Hành Không bị Diêm Cơ đá một cước lại bị Điền Quy Nông đánh một chưởng, thương thế rất nặng thành ra cục diện đảo ngược. Quần đạo chưa cướp tiêu được mà bọn tiêu khách cũng lặng lẽ chờ đợi diễn biến.

Diêm Cơ đi theo sau Thương lão thái thấy lưng mụ cong như cánh cung, chân bước xiêu vẹo nên lúc trước còn đề phòng mấy phần, bây giờ hắn chẳng còn lo gì nữa, liền cười hỏi:

– Thương lão bà! Lão bà gọi ta vào để dâng bảo vật chăng?

Thương lão thái đáp:

– Đúng vậy! Để dâng bảo vật.

Diêm Cơ động tâm. Hắn bình sinh vốn là người tham tiền, thấy Thương gia bảo có vẻ nhà giàu mà mụ chủ lại rất ân cần, không chừng mụ vì thấy cường địch đến đâm hoảng sợ, nên tự ý dâng châu báu để chuộc mạng sống. Hắn vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, sải bước đi theo mụ. Hai người xuyên qua ba trà đạo viện đến một gian nhà tận phía sau. Cánh cửa kêu “kẹt” một cái. Thương lão thái tiến vào rồi nói:

– Xin mời vào!

Diêm Cơ thò đầu nhìn vào phòng thì thấy đây là một gian nhà gạch, rộng chừng hai trượng vuông. Trong phòng trống rỗng, chỉ có một cái bàn, ngoài ra không còn vật gì khác. Hắn cảm thấy có điều khác lạ, nhưng cũng bước vào rồi lớn tiếng giục:

– Có chuyện gì nói mau đi! Đừng có giở trò hý lộng quỷ thần nữa.

Thương lão thái không đáp, xoay tay khép cửa rồi cài then lại. Diêm Cơ lấy làm lạ. Hắn đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy trên bàn đặt một tấm bài vị, viết hàng chữ “Tiên phu Thương Kiếm Minh chi linh vị”

Diêm Cơ lẩm bẩm:

– Thương Kiếm Minh! Thương Kiếm Minh! Cái tên này nghe quen quá, không hiểu là ai?

Trong nhất thời hắn không nghĩ ra.

Thương lão thái thong thả nói:

– Ngươi đã dám đến Thương gia bảo dở thói ngang tàng thì thật là lớn mật. Nếu tiên phu ta còn sống ở thế gian thì cả mười tên Diêm Cơ cũng phải tan thây. Hiện nay Thương gia bảo tuy chỉ còn lại mẹ góa con côi, nhưng cũng chẳng để cho những phường trộm cướp súc sinh các ngươi đến đây khi dễ.

Mụ vừa dứt lời, đột nhiên đứng thẳng người lên, cặp mắt lấp loáng hào quang đầy vẻ oai nghiêm. Dáng vẻ lụ khụ của mụ giả lúc nãy chớp mắt đã trở nên oai phong lẫm liệt.

Diêm Cơ trong lòng cũng hơi kinh hãi, nghĩ thầm:

“Té ra mụ này cố ý giả dạng già nua.”

Nhưng hắn lại nghĩ đến mụ bất quá là người đàn bà thì có gì đáng sợ? Hắn liền cười đáp:

– Đến nhà thì đã đến rồi, khinh người cũng đã khinh rồi. Mụ có cắn ta một miếng thì cắn.

Thương lão thái liền tiến lại bên cạnh bàn, đi ra sau linh bài và ôm ra một cái bọc màu vàng tro bụi bám đầy. Mụ cũng không phủi bụi, cởi bọc ra thì thấy ánh tử quang lấp lánh, khí lạnh mịt mờ. Té ra là thanh Tử kim bát quái đao, lưỡi mỏng sống dày.

Diêm Cơ đột nhiên nhớ lại một việc xảy ra từ mười mấy năm trước, hắn kinh hãi bất giác lùi lại hai bước. Thanh Quỷ đầu đao đang cầm ở tay trái đưa sang tay phải rồi la lên:

– Bát Quái đao Thương Kiếm Minh!

Thương lão thái sa sầm nét mặt hô:

– Hào kiệt đi rồi nhưng bảo đao còn lại. Lão thân cũng dùng thanh Bát Quái đao này của tiên phu để lãnh giáo mấy cao chiêu của Diêm lão đại.

Đột nhiên mụ nắm lấy chuôi đao ra chiêu “Đồng tử bái Phật” hướng về phía linh vị để hành lễ rồi quay lại biến thành chiêu “Thượng thế tả thủ bảo đao” trong Bát quái đao pháp. Mụ trầm vai xuống, khí liễm thần tụ, chẳng có vẻ già nua lụ khụ chút nào.

Diêm Cơ tuy trong lòng cũng hơi cảnh giới nhưng nghĩ đến Bách thắng thần quyền Mã Hành Không anh hùng như vậy mà còn bị thất bại về tay mình, thì chỉ có Thương Kiếm Minh phục sinh họa chăng hắn mới sợ mấy phần, chứ còn Thương lão thái dĩ nhiên bản lãnh chỉ có hạn. Hắn vung thanh quỷ đầu đao lên chém hờ trên không một nhát, rồi cười nói:

– Mụ muốn tỷ thí đao pháp sao không ra ngoài đại sảnh? Mụ bảo ta vào đây phải chăng vì ở trước mặt linh vị trượng phu mới hiển lộ được hết bản lĩnh chăng?

Thương lão thái nghiêm nghị đáp:

– Đúng vậy! Uy linh của tiên phu đủ trấn áp được lũ chuột nhắt.

Diêm Cơ không tự chủ được, liếc mắt ngó lên linh đài, bất giác trong lòng phát rợn. Hắn muốn kết liễu cho lẹ để ra khỏi nhà linh đường lạnh lẽo âm u này, liền giục:

– Thương lão thái! Lão thái hãy ra chiêu trước đi.

Thương lão thái đáp:

– Diêm trại chủ là khách, xin mời ra chiêu trước.

Mụ nghe hắn đổi sang cách xưng hô đầy vẻ khách khí nên cũng đổi cách xưng hô, kêu hắn bằng “trại chủ”.

Diêm Cơ nói:

– Tại hạ với Thương gia bảo vốn không thù không oán. Lần này cướp tiêu, vì đánh Mã tiêu đầu mà tới đây khiến Thương lão thái phải xuất đầu lộ diện. Chúng ta đánh nhau chỉ cần điểm tới là ngừng, bất tất phải chém giết thực sự?

Thương lão thái đưa mất nhìn, cất giọng trầm trầm khàn đục nói:

– Làm gì có chuyện dễ dàng như thế. Thương Kiếm Minh một đời anh hùng. Thương gia bảo của tiên phu có phải là nơi ai muốn tới thì tới, muốn đi thì đi đâu?

Diêm Cơ nổi nóng nói:

– Theo lời lão thái thì phải làm sao?

Thương lão thái nói:

– Nếu Diêm trại chủ thắng được thanh đao trong tay ta thì cứ chặt đầu ta rồi giết luôn con trai ta đi…

Diêm Cơ kinh hãi nhảy dựng lên, bụng bảo dạ:

“Ta với mụ vốn không có thâm oán đại cừu, lại bất quá là vô ý mạo phạm hà tất phải liều mạng như vậy?”

Bỗng nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Chỉ cần lão thân thắng được một chiêu nửa thức thì Diêm trại chủ phải cắt đầu để lại.

Vừa nói dứt câu, mụ liền quát lớn:

– Ra chiêu đi!

Diêm Cơ khí nóng đã xông lên đầu, lớn tiếng nói:

– Ta cần tính mạng của mẹ con mụ làm chỉ? Ta chỉ cần ruộng vườn nhà cửa của Thương gia bảo mà thôi.

Hắn vừa nói vừa vung đao lên thì Thương lão thái đã ra chiêu “Triêu dương đao” chém tới. Chiêu đao này vừa nhanh vừa mạnh, Diêm Cơ vội vàng nghiêng đầu né tránh, nghe “vù” một tiếng, lỗ tai phải của hắn bị chấn động lùng bùng. Nhát đao từ má phải chém xuống mà khoảng cách giữa hai người không đầy gang tấc, chỉ chậm trễ một giây thì cái đầu hắn đã bị chẻ làm đôi.

Chiêu đao thứ nhất đã có uy thế kinh người. Diêm Cơ vừa kinh hãi sửng sốt, hắn biết chiêu thứ hai của mụ sẽ quay đao sang chém vào lưng nên vung thanh quỷ đầu đao ra đỡ. Nghe “choang” một tiếng, hai thanh đao đụng nhau, ánh lửa xẹt ra tứ phía. Diêm Cơ thấy tý lực của mụ cũng bình thường, còn kém xa mình nên cảm thấy yên tâm. Hắn ra chiêu “Thôi đao cát hầu” chém tới. Thương lão thái “hừ” một tiếng nói:

– Tứ môn đao pháp có chi là lạ!

Diêm Cơ cười đáp:

– Lạ thì không lạ nhưng đủ để thắng mụ.

Chưa dứt lời, hắn đã sấn tới tung ra chiêu “Thôi thủ liên hoàn đao”. Thương lão thái cũng không chịu kém, ra chiêu “Tước nhĩ lạo tai”, hai thanh đao  nghiêng nghiêng chém tới.

Diêm Cơ hoảng kinh tự nhủ:

“Mụ tính đánh liều mạng hay sao đây?”

Nguyên trong võ thuật có những chiêu số không cần tự vệ mà cứ phản kích địch nhân, đó là cách đánh liều mạng để đưa đến tình trạng lưỡng bại câu thương. Cách đánh này vô cùng mạo hiểm, nếu không nắm rõ chiêu số của kẻ địch thì vạn bất đắc dĩ mới dùng tới.

Lúc này Thương lão thái cứ nâng đao chém tới chẳng thèm quan tâm đến chiêu đao của địch thủ, đủ biết mụ quyết liều mạng đối công. Mụ không quan tâm đến mạng sống thì mặc mụ, nhưng Diêm Cơ không thể không quan tâm đến mạng mình. Giữa lúc nguy cấp hắn vội lăn người rồi vung chân đá ngược lại. Cú đá này thật kỳ diệu, trúng vào cổ tay và má của Thương lão thái. Thanh Bát Quái đao lướt qua, hắn liền co chân rồi lăn người đi.

Nguyên Diêm Cơ luyện được mười mấy chiêu quyền cước quái dị. Mấy năm gần đây hắn sử dụng những chiêu này trên chốn giang hồ mà lần nào cũng thắng, còn đao pháp hắn chỉ tầm thường. Điều kỳ lạ là hắn đưa mười mấy chiêu quyền cước này vào đao pháp mà đánh bại không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán. Cứ mỗi lần đao pháp lâm vào thế hạ phong, hắn liền giở mấy ngón quyền cước ra thì lập tức vãn hồi được tình thế.

Chỉ trong khoảnh khắc, một lão bà và một tên tướng cướp đã vung đao đánh nhau kịch liệt. Trong căn phòng gạch, cát bụi bay mù mịt. Diêm Cơ thấy Thương lão thái đao pháp tinh diệu, nếu y không giở những ngón quyền cước quái dị đó ra thì khó lòng bảo toàn tính mạng dưới thanh Bát Quái đao.

Hắn nhủ thầm:

“Cứ đánh mãi thế này, chỉ cần sơ sẩy một chút là mất nửa cái đầu của Diêm mỗ. Cái đó chẳng có chi là hay ho.”

Hắn liền dùng cái sở trường để che đi chỗ vụng về, lập tức tay đấm chân đá, ngẫu nhiên phá được thế đao. Phương pháp này quả nhiên hiệu nghiệm, Thương lão thái không chống đỡ được phải lùi lại. Diêm Cơ cười hà hà nói:

– Thương Kiếm Minh có gì mà anh hùng. Bát Quái đao bất quá cũng chỉ vậy thôi.

Thương lão thái vốn kính trọng chồng như thần thánh, nên những lời ngày đã phạm vào điều đại kỵ của mụ. Đột nhiên ánh mắt mụ lộ ra những tia sang  ung dữ, đao pháp biến đổi, cả bốn phía đều có ánh đao tấn công tới tấp. Lúc này mỗi chiêu đao của mụ đều là chiêu đánh liều mạng, toàn là các chiêu tấn công, rõ ràng mụ không còn quan tâm chi đến chuyện sống chết nữa. Diêm Cơ quát lớn:

– Mụ điên rồi hay sao? Này Thương lão thái, chồng mụ không phải do ta giết, mụ liều mạng với ta làm gì? Này, này… mụ nghe nói vài câu có được không?

Hắn vừa la vừa co giò chạy trốn.

Diêm Cơ đã mất hết ý chí chiến đấu còn Thương lão thái càng đánh càng hăng, ra chiêu mỗi lúc mỗi mau lẹ. Hiện giờ Diêm Cơ không còn kịp sử dụng những đường quyền chưởng quái dị nữa mà chỉ mong mở được then cửa chạy ra khỏi gian phòng. Hắn lâm vào tình trạng đứng trước một con cọp dữ điên khùng, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến sư vinh nhục hay thắng bại nữa. Ý niệm duy nhất của hắn là làm sao thoát chết.

Mấy lần Diêm Cơ toan rút then cửa nhưng hắn bị Thương lão thái dồn vào cục diện nguy bách, chẳng được giây phút nào rảnh tay. Hắn thấy đối phương phóng ra những chiêu “Dạ xoa thám hải”, “Thượng bộ liêu đao”, “Tiên nhân chỉ lộ”. Chiêu nào cũng vô cùng mãnh liệt. Diêm Cơ đâm liều vung chân đá ngược một cước, miệng hô:

– Xin được bồi tiếp!

Hắn dồn lực vào chân trái, tung mình vọt qua cửa sổ ra ngoài. Ngờ đâu Thương lão thái chịu đựng phát đá chứ không né tránh, cứ bám theo như  bóng với hình, xông tới phóng đao chém một nhát. Bỗng nghe hai người cùng bật tiếng la:

– Úi chao!

Rồi cùng té xuống dưới cửa sổ. Thương lão thái lập tức nhảy lên. Tuy mụ bị đá trúng vai nhưng thương thế không nặng. Còn Diêm Cơ bị chiêu đao chém trúng đùi không đứng dậy được ngay. Diêm Cơ hồn vía lên mây. Hắn thấy Thương lão thái cập mắt long lên sòng sọc, vung tay lên toan chém xuống, vội đưa hai tay ra ôm lấy đùi mụ, miệng la lên:

– Xin tha mạng!

Thương lão thái thuở nhỏ đã theo phụ thân, sau khi kết hôn lại tùy tòng trượng phu bôn tẩu giang hồ, suốt đời mụ gặp vô số hào kiệt võ lâm mà chưa thấy ai hèn hạ như tên này. Mụ còn đang sửng sốt, nhát đao chưa bổ xuống thì Diêm Cơ đã bò dưới đất hướng về phía mụ đập đầu binh binh ba cái, miệng năn nỉ:

– Đại nhân không chấp trách lỗi kẻ tiểu nhân. Tại hạ là một tên chó má khốn khiếp! Xin lão thái thái đừng giết.

Thương lão thái thở dài đáp:

– Hay lắm! Ta tha mạng cho ngươi nhưng ngươi nhớ kỹ không được hé răng tiết lộ cuộc tỷ võ hôm nay cho người khác biết.

Diêm Cơ chỉ mong có thế, hắn vâng dạ luôn mồm. Thương lão thái giục:

– Ngươi đi đi!

Diêm Cơ gượng cười, dập đầu binh binh hai cái rồi lồm cồm đứng dậy. Hắn chống đao xuống đất tập tễnh bước đi. Thương lão thái lại quát:

– Đứng lại! Trước khi chúng ta giao đấu đã nói ai thua cũng phải để cái đầu ở Thương gia bảo. Lời nói của ngươi không đáng kể, chẳng lẽ lời nói của ta cũng giống như tên đốn mạt nhà người?

Diêm Cơ giật bắn người lên, quay đầu nhìn kỹ thấy nét mặt Thương lão thái tựa hồ bao phủ một làn sương lạnh lẽo, hiển nhiên chẳng phải mụ nói chơi. Hắn lên giọng van lơn:

– Lão… lão thái thái đã tha mạng cho tiểu nhân rồi kia mà?

Thương lão thái đáp:

– Tha mạng ngươi thì được nhưng không tha cho cái đầu.

Mụ vung thanh Bát Quái đao lên lớn tiếng:

– Bát Quái đao của Thương Kiếm Minh ra tay chẳng bao giờ chịu trở về không. Ngươi lại đây!

Diêm Cơ quỳ ngay hai chân xuống đánh “cộp” một cái. Thủ pháp của Thương lão thái rất mau lẹ. Tay trái mụ nắm lấy búi tóc của hắn, tay mặt vung Bát Quái đao hớt một cái. Búi tóc của Diêm Cơ liền bị cắt đứt. Mụ quát:

– Búi tóc này để lại Thương gia bảo. Từ nay ngươi phải cạo trọc đầu làm sư không được dấn thân vào con đường hắc đạo nữa.

Diêm Cơ vâng dạ luôn miệng. Thương lão thái nói:

– Ngươi hãy buộc vết thương đùi, đội mũ vào, rồi ra sảnh đường gọi bọn thủ hạ cút khỏi Thương gia bảo.

Ngoài sảnh đường, mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu Thương lão thái gọi Diêm Cơ vào nội đường nói chuyện gì? Sau một lúc mới thấy Thương lão thái lom khom đi ra. Diêm Cơ đi theo sau mụ, vẻ mặt thẫn thờ cất tiếng hô:

– Chúng vị huynh đệ! Không lấy tiêu ngân nữa. Chúng ta hãy về trại thôi.

Hắn nói câu này khiến mọi người đều kinh ngạc. Gã nhị trại chủ ngơ ngác hỏi:

– Đại ca…

Diêm Cơ gạt đi:

– Hãy về trại rồi sẽ nói chuyện.

Hắn vung tay một cái, dời khỏi sảnh đường. Diêm Cơ không dám để lộ vết thương ở đùi, gắng gượng cất bước, nghiến răng chịu đau mà đi. Bọn cướp không dám trái lời, chỉ liếc mắt ngó những túi bạc rồi trở gót lên đường. Trong khoảnh khắc, bọn cướp bỏ đi hết.

Mã Hành Không tuy là người biết nhiều hiểu rộng cũng không đoán được chỗ ẩn diệu bên trong. Lão ngó thấy chỗ Diêm Cơ đi qua, trên mặt đất còn lưu lại những vệt máu thì đoán chừng hắn bị thương ở nội đường và chắc trong Thương gia bảo có cao nhân mai phục. Lão không tài nào đoán được mụ già lụ khụ trước mắt vừa có một trận quyết đấu sinh tử với Diêm Cơ. Lão vịn vai con gái đứng lên toan cảm tạ thì Thương lão thái gọi con:

– Bảo Chấn! Ngươi hãy theo ta vào đây.

Mã Hành Không còn đang ngơ ngác đã thấy hai mẹ con mụ đi vào. Các tiêu khách và bọn thị vệ đều thì thào bàn tán. Có người cho là Thương lão thái quen biết tên tướng cướp từ trước và đã có ơn với hắn. Có kẻ lại bảo Thương lão thái đã khuyến dụ Diêm Cơ, phân tích lợi hại để hắn thấy rằng đối địch với các ngự tiền thị vệ không phải chuyện đùa nên phải đình chỉ việc cướp tiêu. Quần hào còn đang đoán mò thì Thường Bảo Chấn trở ra nói:

– Gia mẫu mời Mã lão tiêu đầu vào nội đường dùng trà.

Trong nội đường. Thương lão thái khuyên Mã Hành Không hãy lưu lại Thương gia bảo để dưỡng thương, một mặt phái người đến những tiêu cục lân cận mời đồng bạn tương trợ để bảo tiêu ngân đi Kim Lăng trước. Những sự việc xảy ra khiến Mã Hành Không tiêu tán hùng tâm. Ngoại hiệu “Bách thắng thần quyền” vang dội mấy chục năm không ngờ bị tỏa chiết trong tay một tên đạo tặc lưu manh ở chốn quê mùa. Lão cảm thấy chán ngán nghề bảo tiêu. Không còn muốn tiếp tục hành nghề nữa. Thương lão thái đã cứu viện để tiêu ngân khỏi bị cướp, tạo nên mối ân tình thâm trọng, dĩ nhiên lão không dám trái ý mụ. Đồng thời mong muốn tìm hiểu tay cao thủ võ lâm nào đã đả bại Diêm Cơ. Lão liền tạ ơn Thương lão thái rồi vâng lời làm theo ý mụ.

Chiều hôm ấy, trời hết mưa. Ba tên ngự tiền thị vệ ngỏ lời cáo biệt. Thương Bảo Chân tiễn chân họ đến tận ngoài cổng lớn. Người cụt tay dắt thằng nhỏ lại để cáo biệt ra đi. Thương lão thái liếc mắt nhìn thằng nhỏ, mụ nhớ tới lúc thằng bé nổi giận quở trách Miêu phu nhân, tỏ ra chính khí lẫm liệt, nên nhủ thầm:

“Thằng bé này còn nhỏ mà đã đảm lược hơn người, thật hiếm có.”

Mụ liền hỏi:

– Hai vị định đi đâu? Trong mình có đủ tiền lộ phí không?

Người cụt tay đáp:

– Bọn thúc điệt tiểu nhân lưu lạc giang hồ. Bốn biển là nhà, không nhất định ở đâu.

Thương Lão Thái ngắm nghía thằng nhỏ, trầm ngầm một lúc rồi nói:

– Nếu hai vị không chê thì ở lại đây mà sinh sống. Trang trại của lão thân khá lớn lại nhiều người, thêm một vài miệng ăn chẳng có chi đáng kể.

Người cụt tay trong bụng còn tính chuyện khác, nghe mụ nói vậy cả mừng liền tiến lại bái tạ. Thương lão thái hỏi đến họ tên thì người cụt tay xưng danh là Bình Tứ, thằng nhỏ cháu lão tên gọi Bình Phỉ. Tối hôm ấy chú cháu Bình Tứ được quản gia đưa vào ở trong căn phòng nhỏ tại tòa nhà phía Tây. Sau khi đóng cửa, bộ mặt xấu xí của Bình A Tứ lộ vẻ vui mừng, khẽ nói:

– Thiếu gia! Nhờ vong linh của gia nương thiếu gia phù hộ khiến cho hai trang trong pho quyền kinh lại trở về tay thiếu gia. Thật là trời cao có mắt.

Bình Phỉ đáp:

– Bình Tứ thúc! Tứ thúc chớ gọi tiểu điệt là thiếu gia, lỡ người ngoài nghe thấy sẽ sinh lòng ngờ vực.

Bình A Tứ khen phải. Lão móc trong bọc ra một cái gói nhỏ bằng giấy dầu, cầm hai tay kính cẩn đưa cho Bình Phỉ. Chẳng phải lão tỏ ra cung kính với đứa nhỏ mà vì lão nghĩ tới vị ân nhân kia đã để lại hai trang sách, Bình Phỉ hỏi:

– Bình Tứ thúc! Tứ thúc nói thế nào mà Diêm Cơ cam tâm tình nguyện giao trả hai trang Quyền kinh?

Bình Tứ đáp:

– Lão nô bảo hắn “Trại chủ đã xé lấy hai trang Quyền kinh đó phải không, Miêu đại hiệp bảo trại chủ phải trả lại”. Lão nô nói hai câu này lúc Miêu đại hiệp ở trước mặt hắn. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Dù Diêm Cơ lớn mật đến đâu cũng chẳng dám trái lời.

Bình Phỉ trầm ngâm hỏi:

– Tại sao hai trang pho Quyền kinh lại lọt vào tay hắn? Vì lẽ gì Tứ thúc bảo tiểu điệt ghi nhớ tướng mạo hắn? Tại sao hắn sợ Miêu đại hiệp đến thế?

Bình Tứ không đáp. Da mặt lão co rúm lại càng khó coi, đôi mắt ngần ngận nước, lão ráng chịu đựng cho lệ khỏi trào ra. Bình Phỉ liền nói tiếp:

– Tứ thúc! Tiểu điệt không hỏi nữa. Tứ thúc đã bảo tiểu điệt khôn lớn, học thành võ công sẽ kể rõ ngọn nguồn cho tiểu điệt nghe. Vậy tiểu điệt ra sức luyện võ đã.

Thế rồi hai chú cháu định cư ở Thương gia bảo, Bình Tứ lo việc bón phân tưới rau, còn Bình Phỉ thì lo quét dọn luyện võ sảnh.

Mã Hành Không ở lại Thương gia bảo để dưỡng thương. Những lúc nhàn rỗi lào cùng con gái, đồ đệ và Thương Bảo Chấn đàm luận quyền cước. Khi bọn họ bàn võ luyện quyền, Bình Phỉ ngẫu nhiên liếc mắt nhìn qua nhưng tuyệt đối không lộ vẻ quan tâm, Mọi người chỉ biết gã là thằng nhỏ gầy nhom, vàng ủng mà lớn mật, nhưng không ngờ gã lại biết võ công. Vì thế nên những khi ngẫu nhiên gã có tới đứng coi một chút, đừng nói con người mấy chục năm kinh nghiệm giang hồ là Mã Hành Không, ngay cả chàng thiếu niên thông minh lanh lợi như Thương Bảo Chấn cũng chẳng bao giờ hoài nghi việc gã lưu ý đến chỗ ảo diệu trong quyền pháp.

Bình Phỉ cũng chẳng phải là hạng người học lén võ nghệ. Trong lòng gã nghĩ gì, bọn Mã Hành Không càng chẳng bao giờ để ý đến. Mỗi khi Bình Phỉ nghe mọi người bàn tới những kỳ chiêu diệu thức, gã lại lẩm bẩm:

– Cái đó có chi là hay? Những chiêu số này chỉ đối phó được với kẻ tầm thường, chứ không thể đối địch được anh hùng hảo hán.

Thực ra gã không phải họ Bình mà là họ Hồ. Tên gã không phải là Bình Phỉ mà là Hồ Phỉ, con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, người đã từng đấu với Miêu Nhân Phụng suốt năm ngày bất phân thắng bại. Hồ Phỉ được phụ thân để lại cho một cuốn “Quyền kinh đao phổ”, vốn là tuyệt học của võ lâm. Đó là cuốn bí kíp nói về tinh nghĩa của quyền pháp và đao pháp của Hồ gia. Bộ “Quyền kinh đao phổ” mất hai trang đầu, nên thiếu hẳn căn bản của công phu nhập môn lại thiếu cả yếu quyết về quyền pháp và đao pháp bởi vậy dù gã có thông minh và cố gắng đến đâu cũng chẳng thể tìm được lối vào. May nhờ cơ duyên xảo hợp, hai trang sách bị Diêm Cơ đánh cắp nay lấy lại được nên gã thông suốt vấn đề, võ công tiến bộ cực kỳ mau lẹ.

Diêm Cơ chỉ nhờ hai trang Quyền kinh này học thành mười mấy chiêu cổ quái mà đã có thể xưng hùng võ lâm. “Bách thắng thần quyền” Mã lão tiêu đầu cũng bị bại về tay hắn. Còn Hồ Phỉ có đủ toàn bộ từ đầu đến cuối. Dĩ nhiên Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi quá, công lực còn nông cạn nên nhiều chỗ tinh vi khó mà hiểu được. Nhưng gã có “Quyền kinh đao phổ” trong tay thì luyện một ngày cũng bằng bọn Từ Tranh luyện cả tháng. Huống gì dù gã luyện đến mười năm hay hai mươi năm cũng không học thành được những môn thiên hạ tuyệt nghệ như Hồ gia quyền và Hồ gia đao.

Hàng ngày cứ nửa đêm, Hồ Phỉ lại lén ra khỏi trang viện đến nơi hoang dã luyện quyền, đao. Gã dùng một cành cây đẽo thành đao để luyện tập. Mỗi lần gã phóng đao đánh tới lại tưởng tượng đang chém đầu của kẻ thù giết cha. Tuy nhiên, rốt cuộc gã cũng chẳng hiểu cừu nhân là ai. Gã phải chờ Bình Tứ kể rõ đầu đuôi sau khi gã đã trưởng thành và luyện thành võ nghệ. Gã say sưa rèn luyện võ công, lại càng suy ngẫm đến chỗ sâu xa, vì những môn võ công tối thượng phải luyện bằng đầu óc nhiều hơn bằng tay chân.

Bảy tám tháng trôi qua, thương thế của Mã Hành Không đã hoàn toàn khỏi hẳn, nhưng Thương lão thái và Thương Bảo Chấn vẫn nhiệt thành lưu khách. Tiêu cục của Mã Hành Không cũng đã tan rã nên khi thấy chủ nhân ân cần, lão cũng chiều lòng ở lại. Thương Bảo Chấn không bái lão làm thầy vì Thương lão thái bản tính cao ngạo, mụ cho là Bát Quái đao của Thương Kiếm Minh đã thành môn tuyệt nghệ gia truyền hà tất phải đi nhận người khác làm sư phụ?

Mã Hành Không cảm kích mối ân tình về vụ nhà này đã bảo vệ tiêu ngân nên coi Thương Bảo Chấn chẳng khác gì đệ tử, biết được môn nào gã thích học liền truyền thụ ngay. Lão đem chỗ tinh yếu về quyền kỹ dạy cho kỳ hết. Cái ngoại hiệu “Bách thắng thần quyền” của lão chẳng phải may mắn mà được. Quyền thuật của lão quả có chỗ độc đáo. Trong bảy tám tháng này Thương Bảo Chấn được ích lợi rất nhiều.

Mã Hành Không đã nhận ra Thương gia bảo chẳng phải là nơi tàng long ngọa hổ, cũng không có cao nhân ẩn náu. Nhưng hôm ấy Diêm Cơ sao lại lật đật bỏ đi thì lão nghĩ mãi vẫn không hiểu được vì sao. Một lần ngẫu nhiên lão hỏi tới chuyện này, nhưng Thương lão thái chỉ mỉm cười và đánh trống lảng. Mã Hành Không biết chủ nhân không chịu tiết lộ, từ đó lão tuyệt không nhắc tới nữa.

Mã Hành Không tuổi đã già, khí huyết suy kém, đêm không ngủ say được. Một hôm vào khoảng canh ba, bỗng nghe ngoài tường có tiếng rắc rắc, tựa hồ có người vô ý đạp vào một cành cây khô gãy. Mã lão tiêu đầu một đời phiêu đãng giang hồ, thoáng nghe đã biết có người dạ hành đang lướt qua ở bên ngoài. Nhưng chỉ một tiếng đó rồi sau chẳng thấy động tĩnh chi nữa, nên lão cũng không hiểu người đó đi về phía đông hay phía tây hoặc ẩn nấp trên đầu tường nhìn trộm. Lão tuy làm khách tại Thương gia bảo, nhưng đã chịu ơn của chủ nhân, và ngày thường chủ khách đối đãi với nhau tình ý rất nồng nàn thắm thiết, nên lão coi sự an nguy của Thương gia bảo còn quan trọng hơn sự an nguy của chính mình. Lão liền nhẹ nhàng ngồi dậy, rút cây nhuyễn tiên dưới gối quấn vào lưng, khẽ mở cửa phòng rồi nhảy lên đầu tường. Bỗng thấy bóng đen thấp thoáng chạy về phía sau trang viện. Mã Hành Không đã nhận ra khinh công người này rất cao minh, tự hỏi:

“Phải chăng Diêm Cơ chưa chịu bỏ qua nên quay lại sinh sự? Vụ này do ta gây nên thì họ Mã này tụ thủ bàng quan thế nào được?”

Lão liền nhảy ra ngoài tường, tăng gia cước lực rượt theo rất gấp. Chạy được mấy chục trượng thì lão chẳng thấy tông tích bóng đen đâu nữa cả. Lão động tâm lẩm bẩm:

– Không xong! Không chừng ta trúng kế “Điệu hổ ly sơn” của địch nhân.

Lão liền giở khinh công quay về Thương gia bảo. Đến bên ngoài bờ tường, lão chú ý lắng nghe, bốn bề vẫn yên lặng như tờ. Lão hơi yên dạ nhưng lại càng thêm nghi hoặc, tự hỏi:

“Thân thủ người này không phải tầm thường. Đúng là một tay kình địch nhưng tầm vóc gã nhỏ bé, khác hẳn với tên tướng cướp Diêm Cơ. Chẳng hiểu tay hảo thủ nào trên chốn giang hồ đã tới đây?”

Lão nắm cây nhuyễn tiên xoay chuyển mấy lần, rồi quay mình tiến về phía sau trang viện để quan sát xem thử rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì. Lão lén đi được mười mấy trượng gần hết trang viện, thì đột nhiên phía tây văng vẳng có tiếng kim đao rít lên. Mã Hành Không la thầm:

– Thật xấu hổ! Quả nhiên có người đến tập kích, nhưng không hiểu họ đang động thủ với ai?

Lão điểm hai chân xuống đất tung mình nhảy vọt tới. “Bách thắng thần quyền” tuy tuổi già mà thân thủ vẫn cực kỳ mau lẹ. Tay trái lão bám vào đầu tường, lộn người ngược đi rồi nhẹ nhàng hạ xuống bên trong, lần về phía phát ra thanh âm. Lão nghe rõ tiếng động từ trong căn nhà gạch ở hậu viện phát ra. Lão lấy làm lạ là hai người lặng lẽ chiến đấu, đã không một tiếng quát tháo, lại cũng không thấy tiếng binh khí chạm nhau. Lão cho là trong vụ này có điều ngoắt ngoéo nên không xông vào tương trợ, ghé mắt nhìn qua khe cửa sổ, suýt nữa phải phì cười.

Căn phòng này trống rỗng. Trên bàn đặt một ngọn đèn nhỏ như hạt đậu.

Hai người cầm cương đao đang ra tay kịch đấu, một người là Thương Bảo Chấn, người nữa là Thương lão thái. Té ra hai mẹ con bà đang tập luyện đao pháp. Mã Hành Không coi một lúc, bất giác hít một hơi khí lạnh vì thấy Thương lão thái ra tay tàn độc, đao pháp tinh diệu hoàn toàn khác hẳn một mụ già lụ khụ như lúc ban ngày. Còn Thương Bảo Chấn sử những đường Bát Quái đao ào ạt như gió cuốn mây bay. Té ra ngày thường chẳng những Thương lão thái là người kín đáo mà Thương Bảo Chấn cũng cố ý giấu diếm võ công. Bình nhật, lão chỉ truyền thụ quyền cước cho Thương Bảo Chấn còn về đao pháp gã tỏ ra rất tầm thường, không ngờ công phu về binh khí gã thiếu niên này thật sự đã vào hạng khá.

Mã Hành Không lén coi hồi lâu, nhớ lại chuyện mười lăm năm trước đã cùng phụ thân Thương Bảo Chấn là Thương Kiếm Minh động thủ trên đường Cam Lương. Lão bị đối phương chém một đao, đánh một chưởng phải dưỡng thương ba năm mới bình phục. Lão tự biết bản lãnh mình còn kém xa đối phương nên khó lòng mà trả được mối thù đó. Từ ngày ấy lão không lần nào trở lại đường Cam Lương.

Hiện nay, Thương Kiếm Minh đã chết rồi, Thương lão thái lại có ơn nên mối hiềm khích nhỏ ngày trước lão cùng không để tâm. Dè đâu đêm nay lại thấy vợ góa con côi của cừu nhân đang dùng Bát Quái đao để đối chiêu. Mã Hành Không trong lòng ngổn ngang trăm mối, nghĩ thầm:

“Võ công của Thương lão thái thật chẳng kém ta, sao mụ không lộ ra chút vết tích gì? Mụ lưu cha con ta ở lại trang viện có dụng ý khác chăng?”

Lão ngẫm nghĩ một lúc, rồi lại ghé mắt dòm vào thấy hai mẹ con đã biến đổi đao pháp. Cả hai người sử dụng công phu “Bát quái du thân đao pháp” chạy khắp gian nhà, vừa vung đao vừa phóng chưởng, càng đánh càng lẹ. Hai người đánh đến chiêu sáu tư là chiêu “Thu thế” rồi nhảy lùi lại. Cả hai mẹ con cũng theo đúng quy củ giơ đao lên rất mực trang trọng, xong mới hạ xuống. Thương lão thái vẫn thản nhiên. Dưới ánh đèn xanh, mặt mụ thoáng hiện màu lục. Còn Thương Bảo Chấn mặt đỏ bừng bừng, hơi thở hồng hộc.

Thương lão thái bỗng sa sầm nét mặt hỏi:

– Đường hô hấp của ngươi vẫn khó giữ cho điều hòa, thế là tiến bộ chậm lắm. Biết đến năm nào tháng nào mới trả được mối đại thù cho gia gia?

Mã Hành Không nghe nói, giật thót cả người. Lại thấy Thương Bảo Chấn cúi đầu ra chiều xấu hổ.

Bỗng nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Tuy ngươi chưa thấy võ công của Miêu Nhân Phụng nhưng đã nhìn rõ thần lực của hắn với cỗ xe ngựa. Còn Hồ Nhất Đao võ công cũng chẳng kém gì Miêu Nhân Phụng. Bản lĩnh của Miêu, Hồ nhị tặc như vậy mà bây giờ ngươi còn thua kém một trời một vực, cần phải khổ công rèn luyện võ thuật mỗi ngày. Võ thuật của ngươi tiến được một phần, mặt khác nhị tặc già yếu đi một phần. Rồi cũng có ngày ngươi phân thây nhị tặc thành muôn đoạn dưới lưỡi Bát Quái đao.

Mã Hành Không nghĩ thầm:

“Hai mẹ con nhà này đóng cửa luyện võ chưa biết chuyện Hồ Nhất Đao đã chết trước đây mười mấy năm rồi.”

Lại nghe Thương lão thái thở dài nói:

– Hỡi ơi! Mấy bữa nay ta thấy ngươi điên đảo thần hồn vì con nha đầu nhà họ Mã, đến nỗi luyện võ không hăng say nữa.

Mã Hành Không kinh hãi tự hỏi:

“Chẳng lẽ Xuân nhi đã có chuyện gì với gã này rồi ư?”

Lại thấy Thương Bảo Chấn mặt đỏ bừng, cất tiếng đáp:

– Má má! Hài nhi thấy Mã cô nương vẫn giữ gìn mực thước. Hài nhi cũng chưa nói với cô được mấy câu.

Thương lão thái hừ một tiếng rồi hỏi:

– Ngươi uống sữa của ai mà lớn lên? Trong lòng ngươi nghĩ gì chẳng lẽ ta lại không rõ?

Rồi mụ nói tiếp:

– Ngươi vừa lòng Mã cô nương kể ra cũng không lầm. Nhân phẩm và võ nghệ của thị rất hợp ý ta.

Thương Bảo Chấn cao hứng cất tiếng gọi:

– Má má!

Thương lão thái xua tay trầm giọng nói:

– Ngươi có biết gia gia thị là ai không?

Thương Bảo Chấn ngạc nhiên hỏi lại:

– Chẳng lẽ lại không phải là Mã lão tiêu đầu?

Thương lão thái đáp:

– Ai bảo không phải? Nhưng ngươi có biết giữa Mã lão tiêu đầu và nhà ta có mối oan khiên gì không?

Thương Bảo Chấn lắc đầu. Thương lão thái nói:

– Hài tử! Lão là đại cừu nhân của gia gia ngươi đó.

Thương Bảo Chấn nghe nói quả nhiên bất ngờ, “ối” lên một tiếng. Mã Hành Không bất giác phát run. Lão nghe Thương lão thái nói tiếp:

– Mười năm trước, gia gia ngươi động thủ với Mã Hành Không trên đường Cam Lương. Gia gia ngươi anh hùng cái thế thì gã họ Mã đó làm sao là đối thủ của lão nhân gia được? Gia gia ngươi chém hắn một đao, đánh hắn một chưởng thành trọng thương. Nhưng họ Mã cũng không phải tay vừa. Gia gia ngươi cũng bị nội thương trong cuộc tỷ võ đó. Lão nhân gia vẻ đến nhà thương thế chưa bình phục thì kẻ đối đầu với chúng ta là Hồ Nhất Đao đêm khuya vào nhà sát hại gia gia ngươi. Giả tỷ gia gia ngươi không có chuyện động thủ với gã họ Mã thì… hà hà, môn Bát Quái đao uy danh lừng lẫy giang hồ, liệu Hồ Nhất Đao có hại nổi lão nhân gia không?

Mụ nói mấy câu sau cùng thanh âm biến thành thê thảm, giọng nói khàn đục nghe lại càng ghê rợn. Mã Hành Không một đời từng trải sóng to gió lớn mà bây giờ nghe mụ nói mấy câu này cũng phải không rét mà run. Lão nghĩ thầm:

– Với bãn lãnh của Hồ Nhất Đao thì dù Thương Kiếm Minh nhà mụ chưa bị nội thương cũng khó lòng chống nổi. Mụ này thấy chồng bị thảm tử giận lây cả đến ta.

Lại nghe Thương lão thái nói:

– Không hiểu ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào mà lão này lại đẩy xe tiêu vào nhà ta. Thương gia bảo do tay gia gia ngươi dựng lên thì khi nào để lũ chuột nhắt lần đến ngang ngược cướp tiêu? Nhưng ngươi có biết ta lưu cha con họ Mã ở lại đây để tính chuyện gì không?

Thương Bảo Chấn cất giọng run run đáp:

– Má… má… Má má định báo thù cho gia gia hay sao?

Thương lão thái lớn tiếng:

– Ngươi không chịu có phải không? Ngươi đã đem lòng yêu con nha đầu họ Mã rồi phải không?

Thương Bảo Chấn thấy mắt mẫu thân cơ hồ tóe lửa, y liền lùi lại hai bước không dám nói gì. Thương lão thái cười lạt nói:

– Hay lắm! Mấy bữa nữa ta sẽ bàn chuyện hôn sự với họ Mã. So thân thế và phẩm mạo của ngươi chắc lão quyết không từ chối.

Mụ nói mấy câu này thật ra ngoài sự tiên liệu của Mã Hành Không và Thương Bảo Chấn. Mã Hành Không dòm qua khe cửa thấy Thương lão thái nghiến răng, thần thái đây vẻ căm hận, khiến lão nghe lạnh cả xương sống, toàn thân râu tóc dựng đứng cả lên. Lão nghĩ thầm:

“Mụ già này dụng tâm thật là hiểm độc. Mụ giết ta không đủ để tiết hận, lại còn muốn bắt đứa con gái duy nhất xinh đẹp như hoa của ta làm con dâu để hành hạ cho sống không được mà chết cũng chẳng xong. May trời còn thương để đêm nay ta nghe lỏm được câu chuyện giữa hai mẹ con mụ. Không thì… không thì… ta làm khổ một đời Xuân nhi rồi!”

Thương Bảo Chấn còn nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn, hoàn toàn không hiểu thâm ý của mẫu thân. Gã chỉ cảm thấy vừa vui vừa mừng lại vừa kinh ngạc, yên trí mẫu thân sẽ đứng ra chủ trì hôn sự cho mình. Trong lòng gã chín phần hoan hỉ và chỉ một phần kinh ngạc.

Mã Hành Không sợ mình còn đứng nghe nữa sẽ bị Thương lão thái phát giác. Lão ngưng thân đề khí, rón rén bước đi. Lão trở về phòng lau mồ hôi chợt sực nhớ lại, lão tự hỏi:

“Cái bóng đen bé nhỏ gầy nhom chạy ra sau núi là ai?”

Chiều hôm sau nữa, Mã Hành Không mặc trường bào, khoác áo choàng sai Thương Bảo Chấn mời mẫu thân ra để thương lượng. Thương Bảo Chấn vừa mừng vừa sợ, tự hỏi:

“Chẳng lẽ mẫu thân đã nhắc tới hôn sự của ta với Mã lão sư? Coi cách ăn mặc và thái độ của lão dường như không phải chuyện tầm thường.”

Gã liền ra mời mẫu thân vào hậu sảnh. Chủ khách yên vị rồi gã ngồi xuống phía dưới hầu chuyện. Thương Bảo Chấn hết ngó mẫu thân lại nhìn Mã Hành Không, trống ngực đập thình thịch. Bỗng nghe Mã lão tiêu đầu cất tiếng cảm tạ việc bảo vệ tiêu ngân và sự tiếp đãi chủ nhà trong thời gian qua. Thương lão thái đáp lại bằng lời khiêm nhượng và mong lão đi vào chính đề nhưng hai bên nói qua nói lại toàn những lời khách sáo.

Sau một lúc chuyện phiếm, Mã Hành Không mới nói:

– Tiểu nữ là Xuân Hoa tuổi cũng đã lớn, tại hạ muốn thương lượng cùng Thương lão thái một việc.

Trái tìm Thương Bảo Chấn càng đập mạnh. Thương lão thái lấy làm lạ nghĩ bụng:

– Xưa nay chưa bao giờ có chuyện nhà gái lại mở miệng cầu thân trước.

Mụ liền hỏi:

– Mã lão cứ nói tự nhiên. Chúng ta đã là chỗ người nhà thì hà tất phải câu nệ lễ nghi?

Mã Hành Không đáp:

– Ngoài con nha đầu đó, bình sinh tại hạ còn thu nhận một tên đồ đệ thiên tư ngu muội, tính tình lỗ mãng. Nhưng tại hạ thu nạp gã từ thuở nhỏ nên coi gã như con. Thằng nhỏ này lại hợp Xuân Nhi, nên tại hạ muốn xin lão thái thái cho đôi trẻ đính ước thân sự tại quý trang.

Thương Bảo Chấn càng nghe nói càng phật ý, đến khi nghe tới câu sau cùng, y không nhịn được nữa liền đứng bật dậy. Thương lão thái trong bụng đã giận, tự nhủ:

“Lão này thật lợi hại! Chắc là thằng con bất hiếu của ta đã để lộ ra điều gì rồi”

Nhưng ngoài mặt mụ lại tỏ ra rất hân hoan, luôn miệng nói “Chúc mừng!”

Mụ lại giục Thương Bảo Chấn:

– Chấn nhi! Mau chúc mừng Mã lão bá đi!

Thương Bảo Chấn đầu óc hoang mang, vẻ mặt ngơ ngác, bỏ đi thẳng ra ngoài. Mã Hành Không lại nói chuyện khách sáo một hồi nữa với Thương lão thái mới về phòng. Lão gọi con gái và tên đồ đệ vào nói cho biết việc đính hôn của hai người sẽ tổ chức trong ngày hôm nay. Từ Tranh mừng rỡ không biết để đâu cho hết. Hắn há miệng ra cười không ngậm lại được nữa. Mã Xuân Hoa hai má đỏ bừng quay đầu đi không lên tiếng. Mã Hành Không nói:

– Chúng ta ở đây làm lễ đính hôn trước. Còn việc kết hôn thì để về nhà sẽ tính.

Lão biết con gái và đồ đệ chưa hiểu điều ngoắt ngoéo, nên những gì tai nghe mất thấy đêm qua lão hoàn toàn không nhắc tới.

Mã Xuân Hoa tính tình hoạt bát lại xinh đẹp hơn người. Nàng ở Thương gia bảo bảy tám tháng, cùng Thương Bảo Chấn hàng ngày gặp nhau, khiến gã buộc dây tơ tình vào vị cô nương này. Gã vừa được mẫu thân ưng thuận hôn sự cho mình, tưởng chừng mọi việc đều trôi chảy, ngờ đâu đúng vào lúc gã đang khấp khởi mừng thầm thì đột nhiên nghe Mã Hành Không nói mấy câu khác nào sét đánh bên tai. Thương Bảo Chấn ngồi một mình trong phòng nhìn qua cửa sổ, bần thần nhìn cây ngân hạnh trong sân, tựa hồ không tin những lời vừa nghe được từ miệng Mã Hành Không nói ra.

Thương Bảo Chấn như người mất hồn, chẳng hiểu thời gian trôi qua đã bao lâu. Sau một tên gia đinh vào phòng gọi:

– Thiếu gia! Đến giờ luyện võ rồi! Lão thái thái ngồi chờ thiếu gia cả nửa ngày rồi.

Thương Bảo Chấn kinh hãi la lên:

– Hỏng bét ta u mê quên cả giờ luyện võ. Chắc phải bị quở trách đây.

Gã tháo túi tiêu trên vách xuống, rảo bước chạy vội ra luyện võ sảnh. Gã thấy Thương lão thái ngồi trên ghế. Vẻ mặt vẫn thản nhiên, mụ nói:

– Bữa nay luyện các huyệt của mạch “Nhâm, Đốc” ở sau lưng.

Mụ quay lại, lớn tiếng bảo tên gia đinh:

– Cầm tấm mộc bài cho chắc! Nào chạy đi!

Thương Bảo Chấn trong lòng buồn bã nghĩ thầm:

– Mã lão sư nói vậy mà sao má má không hề xúc động, mảy may?

Ngày thường Thương lão thái dạy con rất nghiêm, lúc luyện võ lại càng khắt khe. Hễ gã bất cẩn một chút liền bị đánh mắng ngay. Thương Bảo Chấn rút kim tiêu cầm tay, không dám nghĩ vơ nghĩ vẩn gì nữa, chú ý lắng nghe mẫu thân hô huyệt. Bỗng nghe Thương lão thái hô:

– Miêu Nhân Phụng! Mệnh môn! Đào đạo!

Thương Bảo Chấn tay phải cầm hai mũi phi tiêu phóng ra, trúng vào hai huyệt đạo sau lưng hình người trên tấm mộc bài, Thương lão thái lại hô:

– Hồ Nhất Đao! Đại truy! Dương quan!

Thương Bảo Chấn giơ tay trái lên, nhận rõ huyệt đạo. Hai tiếng “chát chát” vang lên. Gã bắn trúng huyệt “Đại truy”, còn huyệt “Dương quan” thì hơi trệch một chút. Đột nhiên gã nhìn thấy tấm mộc bài có Điều khác thường, liền “ủa” một tiếng rồi tròn mắt lên mà nhìn. Gã phát hiện ra ba chứ “Hồ Nhất Đao” màu đen trên tấm mộc bài không còn nữa. Gã gọi tên gia đinh lại cầm tấm mộc bài lên xem thì rõ ràng ba chữ “Hồ Nhất Đao” đã bị người nào đó dùng vật nhọn khoét mất, rồi dùng mũi đao nguệch ngoạc khắc ba chữ “Thương Kiếm Minh” thay vào. Như vậy, hai mũi tên vừa rồi của gã không phải phóng vào cừu nhân mà lại phóng vào phụ thân mình.

Thương Bảo Chấn vừa nóng nảy vừa tức giận, xoay tay tát tên gia đinh một cái làm rụng hai cái răng của hắn. Gã lại phóng chân đá một cước khiến tên gia đinh ngã lăn ra đất. Thương lão thái quát lên:

– Dừng tay!

Mụ biết tên tráng đinh này ở trong bảo từ thuở nhỏ đến khi khôn lớn, dĩ nhiên hắn chẳng dám to gan như vậy. Đây nhất định là hành động của người ngoài. Mụ động tâm nghĩ ngay tới ba người trong bọn thầy trò Mã Hành Không, liền báo:

– Mời Mã lão sư tới đây nói chuyện.

Thương Bảo Chấn vốn là người tinh tế nhưng bữa nay vì hôn sự bất thành, nên trong cơn thất ý, gã ra tay rất thô bạo. Đến khi nghe mẫu thân bảo đi mời Mã Hành Không, gã liền biết ngay mình đánh lầm người nhà bèn vội đỡ tên trang đinh dậy, an ủi hắn:

– Ta lỡ tay! Xin ngươi đừng buồn.

Gã toan nhổ hai mũi kim tiêu trên biển gỗ ra nhưng Thương lão thái đã đưa tay cản lại, nói:

– Hãy khoan! Cứ để cho bọn chúng đắc ý một chút cũng không sao.

Mụ quay lại sai trang đinh vào linh đường lấy thanh Tử kim Bát Quái đao. Thầy trò Mã Hành Không ba người tới nơi thấy mọi người trong luyện võ sảnh đều vẻ mặt khác thường thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi. Lão tự nhủ:

“Mụ già này ghế gớm quá! Mới hơn một giờ mụ đã trở mặt rồi.”

Lão chắp tay hỏi:

– Lão thái thái cho gọi bọn tại hạ, không biết có điều chi dạy bảo?

Thương lão thái cười lạt nói:

– Tiên phu đã qua đời. Dù ngày trước Mã lão sư có điều xích mích, tưởng cũng không nên trút hận lên người đã chết.

Mã Hành Không ngơ ngác hỏi:

– Tại hạ ngu muội không hiểu, xin Thương lão thái nói rõ cho.

Thương lão thái trỏ vào tấm mộc bài đáp:

– Mã lão sư là một hán tử tiếng tăm lừng lẫy giang hồ, chắc không thèm làm những hành động đê hèn. Xin hỏi đây là nét chữ của lệnh ái hay của hiền đồ?

Mụ vừa nói vừa giương ánh mắt lấp loáng nhìn vào mặt mấy người ở Mã gia. Mã Xuân Hoa chưa từng thấy mụ oai phong lẫm liệt như bữa nay nên nàng lấy làm khiếp hãi. Mã Hành Không thấy trên tấm mộc bài đã thay đổi người, trong lòng cực kỳ kinh dị, ngoài miệng dõng dạc đáp:

– Tiểu nữ và tiểu đồ tuy ngu dốt nhưng quyết chẳng dám làm chuyện bừa bãi này.

Thương lão thái lớn tiếng hỏi:

– Theo nhận xét của Mã lão sư thì đây là hành động của người trong Thương gia bảo hay sao?

Mã Hành Không chợt nhớ tới bóng người bé gầy gò đêm qua liền đáp:

– E rằng có người lẻn vào trang. Đêm qua tại hạ…

Thương lão thái bèn ngắt lời, lớn tiếng nói:

– Chẳng lẽ chính tên cẩu tặc Hồ Nhất Đao lại đến đây để giở trò ma quỷ?

Mụ vừa nói dứt lời, đột nhiên một người đứng vòng ngoài lên tiếng:

– Không dám kiếm người thật để động thủ, mà viết tên họ vào tấm mộc bài để phóng tiêu thì đó mới đúng một hành động đê hèn, giở trò ma quỷ!

Thương lão thái ngồi trên phế chưa nhìn thấy người nói câu này là ai, nhưng nghe thanh âm lành lạnh, quát hỏi:

– Ai nói đó? Vào đây coi.

Bỗng thấy hai tên trang đinh bị đẩy dạt ra hai bên. Một gã thiếu nên ốm o vàng bủng tiến vào, gã chính là Hồ Phỉ. Việc này quả là một diễn biến bất ngờ, khiến ai nấy đều rất đỗi ngạc nhiên. Thương lão thái nhẹ nhàng hạ thấp giọng xuống hỏi:

– A Phỉ! Té ra là ngươi.

Hồ Phỉ đáp:

– Không sai! Chính là vãn bối. Mấy vị nhà Mã lão sư tuyệt không hay biết việc này đâu.

Thương lão thái lại hỏi:

– Ngươi hành động thế này có ý gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối coi không thuận mắt. Đã là anh hùng hảo hán thì chẳng nên làm như thế.

Thương lão thái gật đầu nói:

– Ngươi nói đúng lắm! Hảo hài tử! Ngươi quả là người có khí phách. Lại đây cho ta coi kỹ xem nào.

Mụ nói rồi từ từ vươn tay ra. Hồ Phỉ không ngờ mụ chẳng hề nổi giận liền tiến gần lại. Thương lão thái nhẹ nhàng cầm hai tay gã khẽ nói:

– Hảo hài tử! Quả là hảo hài tử!

Đột nhiên mụ xoay tay lại. Một tay nắm lấy huyệt “Hội tông” bên cổ tay trái, một tay nắm lấy huyệt “Ngoại quan” bên cổ tay phải gã. Cử động của Thương lão thái thật nhanh như điện chớp. Hồ Phỉ chưa kịp phòng bị, lập tức toàn thân tê dại, không nhúc nhích được. Nếu kể về võ công của Hồ Phỉ hiện nay thì Thương lão thái làm gì mà bắt được gã? Nhưng gã tuyệt không có một chút kinh nghiệm lâm địch, chẳng hiểu lòng người hiểm trá. Hai cổ tay gã bị người ta nắm rồi, bản lãnh không sao phát huy được.

Thương lão thái sợ gã giẫy dụa liền đá vào huyệt “Lương môn”, đoạn sai trang đinh lấy dây thừng tới trói gô gã lại rồi treo lên giữa luyện võ sảnh.

Thương Bảo Chấn rút cây roi da quất liên hồi vào đầu Hồ Phỉ. Hồ Phỉ cắn răng chịu đựng, tuyệt chẳng rên la cũng không năn nỉ. Thương Bảo Chấn quát hỏi:

– Ai phái ngươi tới đây làm gian tế?

Gã cứ hỏi mỗi câu lại đánh một roi. Một mặt gã sai trang đinh đi coi giữ Bình A Tứ không để lão chạy thoát. Trong lòng Thương Bảo Chấn vừa căm hận lại vừa thất vọng nhiều nỗi, bao nhiêu phẫn uất gã đều trút hết lên người Hồ Phỉ.

Mã Xuân Hoa và Từ Tranh thấy Hồ Phỉ toàn thân đẫm máu tươi trong lòng không nỡ, đã mấy lần toan mở miệng khuyên can nhưng Mã Hành Không đưa mắt ra hiệu, vẻ mặt rất nghiêm nghị nên hai người không dám nói nữa.

Thương Bảo Chấn đánh hơn ba trăm roi, mà vẫn không hỏi được ai đã sai khiến. Gã nhận thấy nếu còn đánh nữa tất phải chết người mới quẳng roi đi, quát mắng:

– Tên tiểu tặc kia! Có phải tên gian tặc Hồ Nhất Đao phái ngươi tới đây?

Hồ Phỉ đột nhiên mở miệng cười ha hả. Người gã đầm đìa máu tươi mà vẫn còn bụng dạ để cười được, lại cười một cách rất khoan khoái chứ không gượng gạo, quả là điều vượt ngoài sự tiên liệu của mọi người. Thương Bảo Chấn lại lượm roi toan đánh nữa. Mã Xuân Hoa không nhịn được, lớn tiếng la:

– Thôi đừng đánh nữa!

Thương Bảo Chấn đã giơ roi da lên, nhưng nhìn thấy ánh mắt Mã Xuân Hoa nên từ từ buông roi xuống. Hồ Phỉ mỗi lần bị roi quất xuống là tự hận mình ngu xuẩn không biết đề phòng đề lọt vào tay địch thủ. Hiện toàn thân gã thịt nát máu rơi, đau đớn cơ hồ ngất xỉu. Bỗng gã nghe tiếng Mã Xuân Hoa thốt lên bốn chữ “Thôi đừng đánh nữa” liền mở mắt ra nhìn thấy nét mặt của nàng đầy vẻ đồng tình thương xót, bất giác gã thấy vô cùng cảm kích. Thương lão thái thấy con trai mình bị nữ sắc làm cho mê muội, vì câu nói của một vị cô nương nhà người ta mà phải ngưng roi thì trong lòng tức giận vô cùng. Mụ chỉ khẽ “khịt” mũi một tiếng chứ không nói gì.

Mã Hành Không lên tiếng:

– Thương lão thái! Xin lão thái tra khảo cho ra đầu đuôi ngọn ngành. Xuân nhi, Từ nhi, chúng ta hãy lui ra.

Lão nhìn Thương lão thái chắp tay thi lễ rồi đưa con gái và đồ đệ ra khỏi luyện võ sảnh. Khi ra khỏi rồi, trong lòng Mã Xuân Hoa cảm thấy rất oán giận phụ thân nên hỏi:

– Gia gia! Gã bị đánh thê thảm như vậy mà sao gia gia thấy chết không cứu còn dặn người ta tra khảo nữa?

Mã Hành Không đáp:

– Người trên giang hồ tâm địa hiểm ác khôn lường. Ngươi còn nhỏ tuổi làm sao hiểu được?

Mã Xuân Hoa thực chưa hiểu được những câu nói của phụ thân. Tối hôm ấy, nàng nghĩ tới thảm trạng của Hồ Phỉ với thân thể máu me đầm đìa không sao cầm lòng được. Đến canh tư, nàng thức giấc rồi trằn trọc, không ngủ được nữa, liền rón rén bò dậy, lấy gói thuốc giấu trong túi bách bửu tiến về phía luyện võ sảnh. Lúc đi tới hành lang, nàng bỗng thấy một bóng người cứ bước lui bước tới, phát ra những tiếng thở dài não ruột. Đó chính là Thương Bảo Chấn. Gã nhìn thấy Mã Xuân Hoa liền dừng bước lại khẽ hỏi:

– Mã cô nương! Cô nương đấy ư?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Phải rồi! Sao thiếu gia còn chưa đi ngủ?

Thương Bảo Chấn hỏi lại:

– Bữa nay tại hạ gặp nhiều chuyện quá, làm sao mà ngủ nổi? Còn cô nương, sao cô cũng không ngủ?

Mã Xuân Hoa đáp:

– Tiểu muội cũng như thiếu gia vì bận tâm về câu chuyện bữa nay không sao cầm lòng được.

Nàng nói câu chuyện bữa nay là muốn ám chỉ việc Hồ Phỉ bị đánh, nhưng Thương Bảo Chấn lại cho là việc chung thân của nàng hứa gả cho người khác. Khi gã nghe nàng nói “không sao cầm lòng được”, bất giác người gã run lên, tự nhủ:

“Quả nhiên nàng rất có tình ý với ta, nay lại bị hứa gả cho tên ngu xuẩn họ Từ, thì ra nàng bị phụ thân bức bách nên không biết phải làm sao.”

Gã liền đánh bạo tiến lại gần một bước, cất giọng ôn nhu gọi:

– Mã cô nương!

Mã Xuân Hoa nói:

– Này Thương thiếu gia! Tiện thiếp muốn cầu xin thiếu gia một việc.

Thương Bảo Chấn đáp:

– Hà tất cô nương phải cầu với cạnh? Cô nương muốn tại hạ làm bất cứ việc gì, tại hạ cũng làm ngay. Dù cô nương muốn tại hạ phải chết ngay đương trường để móc tim ra cho cô nương coi cũng được.

Mấy câu này chứng tỏ mối tình rất tha thiết. Thực ra gã muốn nói từ lâu mà chưa dám mở miệng. Bữa nay gã thấy hảo sự đã thành ảo mộng, lại gặp Mã Xuân Hoa vào lúc nửa đêm tự tìm đến để thổ lộ tâm tình, nên gã không nhẫn nại được nữa mới thốt lên những lời đó. Mã Xuân Hoa nghe gã nói vậy không khỏi ngạc nhiên. Ngày thường nàng thấy gã ôn nhu văn nhã, chỉ cho gã là một đại gia công tử, vốn dĩ tính tình như vậy, nàng thực không hay gã lại ôm ấp mối tình sâu đậm đến thế.

Nàng ngơ ngác một chút rồi cười hỏi:

– Tiện thiếp muốn thiếu gia chết làm chi?

Thương Bảo Chấn nhớn nhác nhìn quanh, chỉ sợ đứng đây lâu có người ngó thấy, liền hạ thấp giọng nói:

– Nơi đây không tiện trò chuyện. Chúng ta ra ngoài kia đi.

Mã Xuân Hoa gật đầu. Hai người vượt tường ra ngoài. Thương Bảo Chấn cầm tay Mã Xuân Hoa chạy đến ngồi dưới góc cây hòe lớn, rồi cùng ngồi xuống. Mã Xuân Hoa khẽ rút tay về hỏi:

– Thương thiếu gia! Phải chăng thiếu gia nhận lời tiện thiếp rồi?

Thương Bảo Chấn lại đưa tay ra nắm lấy tay nàng đáp:

– Cô nương muốn nói gì thì cứ nói, hà tất phải hỏi tại hạ.

Mã Xuân Hoa lại rụt tay về nói:

– Tiện thiếp xin thiếu gia thả A Phỉ ra, đừng làm khó dễ gã nữa.

Lúc này trên ngọn cây khẽ lay động nhưng cả hai người đều không để ý.

Trước khi Mã Xuân Hoa nói rõ câu này, Thương Bảo Chấn nghĩ tới mối tình giữa Điền Quy Nông và Miêu phu nhân nên gã tràn trề hy vọng. Gã chỉ mong nàng cầu xin mình cùng nàng bỏ trốn, ngờ đầu nàng lại yêu cầu buông tha tên tiểu tặc kia. Gã không khỏi thất vọng, mặt buồn rười rượi không nói năng gì nữa. Mã Xuân Hoa hỏi:

– Thế nào? Thiếu gia không nhận lời ư?

Thương Bảo Chấn đáp:

– Cô nương đã thích như vậy rồi thì tại hạ cũng phải chiều lòng theo. Dẫu có bị má má mắng chửi cũng không sao.

Mã Xuân Hoa cả mừng nói:

– Xin cảm ơn thiếu gia! Xin cảm ơn thiếu gia!

Rồi nàng nhớm người toan đứng dậy, nói:

– Bây giờ chúng ta đi thả gã ra đi.

Thương Bảo Chấn nói:

– Cô nương hãy ráng ngồi lại một chút nữa đã.

Mã Xuân Hoa biết gã đã chịu tha cho Hồ Phỉ, nên cũng không muốn làm phật ý gã liền ngồi xuống lại. Thương Bảo Chấn bảo:

– Xin cô nương hãy để tại hạ cầm tay một lúc.

Mã Xuân Hoa nghĩ tới mối tình si của Thương Bảo Chấn thực cũng đáng thương liền mỉm cười rồi chìa tay cho gã cầm lấy. Thương Bảo Chấn nhẹ nhàng nấm lấy bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của nàng, trong lòng cảm khái muôn vàn, cơ hồ muốn sa lệ. Sau một lúc Mã Xuân Hoa hỏi:

– A Phỉ bị thiếu gia cột chân tay treo lên thật là đáng thương. Thiếu gia hãy đi thả gã, rồi tiểu muội lại cho thiếu gia cầm tay lúc nữa, có được không?

Nàng nói rồi rụt tay về. Thương Bảo Chấn nhẹ buông tiếng thở dài, từ từ đứng đậy. Đột nhiên trên ngọn cây có tiếng sột soạt. Một bóng đen nhảy xuống đứng lù lù trước mặt hai người, cười nói:

– Bất tất ngươi phải buông tha, tại hạ đã tới đây.

Mã Xuân Hoa và Thương Bảo Chấn giật mình, nhìn kỹ lại thấy con người trước mặt bé nhỏ gầy nhom chính là Hồ Phỉ. Hai người trong lòng đang kinh hãi, bỗng biến thành kỳ quái, đồng thanh hỏi:

– Ai đã thả nguơi?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Hà tất phải có người thả! Tại hạ muốn ra là ra.

Nguyên gã bị Thương lão thái điểm huyệt nhưng chỉ sau bốn giờ, huyệt đạo tự động giải khai. Sợi dây lòi tói không giữ gã được, gã dùng phép thu cơ xúc cốt nhẹ nhàng rút chân tay ra khỏi vòng dây trói. May là gã bị đánh đòn rất đau nhưng chỉ gây thương tích ngoài da, chứ chưa tổn hại gì tới gân cốt. Hồ Phỉ hoạt động chân tay một lúc, toan đi cứu Bình A Tứ nhưng nghe tiếng Mã, Thương hai người nói chuyện rồi vượt tường ra ngoài, gã liền vọt lên trước ẩn trên ngọn cây để nghe lén. Khinh công gã rất cao siêu mà hai người lại mải nói chuyện nên chưa phát giác.

Thương Bảo Chấn nghe Hồ Phỉ nói tự mình thoát ra được, làm sao có thể tin là thật. Hắn đâm ra nghi ngờ trong bụng, tự nhủ:

“Hay là đã có gian tế trà trộn vào Thương gia bảo rồi?”

Hắn liền bước tới đưa tay chụp vào ngực Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đã bị hắn đánh mấy trăm roi đòn hãy còn oán hận đầy ruột. Gã lạng người đi một cái, hai tay vòng lại như cánh cung tát liên tiếp “bốp, bốp” bốn cái nảy lửa vào mặt Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn vội đưa tay lên đỡ gạt. Hồ Phỉ vung tay trái dụ đối phương đưa tay ra, lập tức vung quyền bên phải đánh “binh” một cái vào sống mũi địch nhân, làm cho máu tươi chảy ra lênh láng. Thương Bảo Chấn “ối” lên một tiếng. Hồ Phỉ lại vung chân đá móc một cái. Thương Bảo Chấn vội nhảy ra xa hai trượng. Ngờ đâu Hồ Phỉ thi triển liên hoàn cước, thừa cơ đối phương còn đang lơ lửng trên không, hạ bàn chưa có điểm tựa liền phóng cước đá một cái. Hồ Phỉ thi triển quyền cước cực kỳ thần tốc. Mã Xuân Hoa chưa kịp nhìn rõ thì Thương Bảo Chấn đã trúng mấy đòn ngã lăn ra đất.

Hồ Phỉ vẫn chưa nguôi giận nhưng thấy có Mã Xuân Hoa ở bên cạnh, gã biết là nếu mình đánh nữa tất nàng ra mặt can thiệp mà nàng lại đối với mình rất tốt. Bậc đại trượng phu phải giữ những điều ân oán cho phân minh. Chỉ cần nàng nói một câu, làm sao gã có thể không nghe theo được?

Gã vỗ tay hô:

– Tên cẩu tặc họ Thương kia! Ngươi có dám đuổi theo ta không?

Gã nói rồi xoay mình chạy trốn. Thương Bảo Chấn bị một loạt quyền cước đánh cho tơi tả vì đối phương ra tay quá đỗi mau lẹ. Nhưng hắn cho là vì mình sơ ý mà bị đòn chứ không tin một thằng con nít lại có thể thắng nổi công phu thần diệu của môn Bát Quái gia truyền nhà hắn được. Nhất là có ý trung nhân đứng bên, làm sao hắn chịu nổi vụ mất thể diện này? Hắn liền phát cước rượt theo. Khinh công của Hồ Phỉ cao hơn Thương Bảo Chấn nhiều. Gã chạy một lúc lại phải dừng để chờ đối phương tới gần mới tiếp tục chạy nữa. Chỉ trong khoảnh khắc Hồ Phỉ đã chạy xa bảy tám dặm. Gã thấy Mã Xuân Hoa cũng chạy theo nhưng còn cách xa ở phía sau, liền dừng chân, nói:

– Gã họ Thương kia! Bữa nay thiếu gia trúng phải gian kế của mẫu thân mi mà bị nhục. Bây giờ cho mi nếm mùi lợi hại của thiếu gia.

Dứt lời gã tung mình như con chim khổng lồ vọt tới. Thương Bảo Chấn chưa từng thấy cách đánh này bao giờ, hắn sợ quá vội né tránh. Hồ Phỉ khẽ điểm chân trái xuống đất, người gã đã chuyển hướng để tiến đánh. Lúc này Thương Bảo Chấn muốn tránh cũng không kịp nữa. Hắn quát lên một tiếng “Đánh hay lắm!” rồi vung song chưởng đánh ra. Chính là môn “Bát Quái chưởng” gia truyền cực kỳ lợi hại. Tay trái Hồ Phỉ chụp lấy bàn tay Thương Bảo Chấn, vừa kéo vừa xoay một cái làm cho cổ tay hắn đau nhói. Nếu hắn không rụt lẹ tay về thì cổ tay đã bị vặn gãy rời.

Hồ Phỉ vung ngang tả quyền lên đấm “bình” một cái vào trước ngực bên phải của Thương Bảo Chấn. Gã lại vung chân đá vào bụng dưới địch nhân. Gã luyện tập võ công trong quyền kinh của phụ thân để lại, bữa nay có dịp để thí nghiệm thân thủ, quả nhiên toàn thắng. Thương Bảo Chấn toàn thân co lại. Hai tay bảo vệ đầu và mặt, chỉ chịu đòn chứ không phản kích được. Hắn đã khổ luyện mười năm mà đối với thằng nhỏ này không thi triển được một chút công phu nào.

Hồ Phỉ vung chân trái đá lên, chờ Thương Bảo Chấn tránh qua bên phải, liền phóng chân phải đá trúng vào huyệt Kinh môn. Thương Bảo Chấn đứng không vững phải té nhào xuống đất. Hồ Phỉ lột áo dài hắn ra xé thành từng mảnh, cột chân tay hắn lại định treo lên cành liễu bên đường. Nhưng gã người nhỏ không đủ sức để cắp hắn nhảy lên cây. Gã liền nhằm vào chỗ chạc ba, quát lớn:

– Lên này!

Gã vận nội lực vào hai cánh tay ném Thương Bảo Chấn lọt vào chỗ chạc ba của cây liễu, Hồ Phỉ bẻ bảy, tám cành liễu làm roi quất vào đầu Thương Bảo Chấn. Thương Bảo Chấn vừa tức vừa sợ. Hắn biết gã đánh để trả thù trận đòn ban ngày, nên đành nghiến răng chịu đựng. Hồ Phỉ đánh được ba bốn chục roi thì Mã Xuân Hoa chạy tới. Nàng thấy tình trạng này kinh hãi quá. Trong lúc nhất thời không thốt nên lời. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Mã cô nương! Tiểu đệ không chờ cô cầu xin cũng đã tha cho gã rồi!

Gã nói đoạn nổi lên một tràng cười ha hả. Tuy gã là thằng nhỏ mới mười mấy tuổi mà ngôn ngữ cử chỉ đều hào khí ngất trời. Gã ném cành liễu, cất bước đi thẳng. Mã Xuân Hoa la lên:

-Tiểu bằng hữu! Tiểu bằng hữu là ai?

Hồ Phỉ quay lại, dõng dạc đáp:

– Cô nương đã hỏi, tiểu đệ chẳng thể không nói. Tiểu đệ là con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, tên là Hồ Phỉ.

Dứt lời gã cười một tràng dài. Chớp mắt đã khuất bóng sau rặng liễu. Người gã đi xa rồi mà thanh âm vẫn còn vang vọng “tiểu đệ là con trai của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, tên là Hồ Phỉ”. Thương Bảo Chấn ở trên cây, Mã Xuân Hoa ở dưới đất, cả hai người đều kinh ngạc không thôi. Sau một lúc, Mã Xuân Hoa cất tiếng hỏi:

– Thương thiếu gia! Thiếu gia có xuống được không?

Thương Bảo Chấn hết sức cựa quậy mà không sao thoát ra được, hắn mắc cỡ vô cùng. Hiển nhiên hắn không xuống được nhưng làm sao có thể mở miệng nói ra điều này? Bởi vậy hắn đành xấu hổ nằm im. Mã Xuân Hoa nói tiếp:

– Thiếu gia đừng có cử động, coi chừng té ngã. Để tiện thiếp lên giúp sức cho.

Nàng tung mình toan nắm lấy cành cây trèo lên. Nhưng cành cây cao quá, nàng nhảy một cái không với tới, đành dùng cả chân lẫn tay để leo. Mã Xuân Hoa đang leo lên chợt nghe tiếng vó ngựa nhộn nhịp. Một đoàn kỵ mã chạy nhanh tới. Lúc này phương Đông đã tờ mờ sáng, trời sắp bình mình. Mã Xuân Hoa tự hỏi:

“Người ngựa này đi đâu sớm thế này?”

Chớp mắt đoàn kỵ mã chạy tới gốc cây, cả thảy có chín người. Đoàn kỵ mã thấy một vị cô nương đang trèo lên cây cao đều lấy làm lạ dừng ngựa lại coi. Mã Xuân Hoa tức mình hỏi:

– Có gì hay ho mà coi? Các vị đi đi cho.

Chín người cứ phớt lờ đi, họ nhìn lên ngọn cây thấy một gã thanh niên nam tử bị cột trên đó, càng lấy làm quái lạ. Mã Xuân Hoa chưa trèo tới ngọn cây liền đề khí nhảy lên. Nàng tay trái vươn ra nắm lấy cành cây mượn đà vọt đến bên Thương Bảo Chấn. Hai người đàn ông dưới gốc cây reo hò khen ngợi:

– Công phu khinh thân hay quá!

Mã Xuân Hoa vội cởi trói chân tay cho Thương Bảo Chấn, khẽ hỏi:

– Thiếu gia có bị thương không?

Nàng hỏi câu này bằng một giọng ôn nhu nhẹ nhàng khiến Thương Bảo Chấn cảm thấy được an ủi rất nhiều. Hắn đáp:

– Không sao.

Hắn níu lấy cành cây, nhẹ nhàng tung mình nhảy từ trên cao mấy trượng xuống đất. Mã Xuân Hoa cũng nhảy xuống theo. Nàng thấy chín người ngồi trên ngựa chỉ trỏ chẳng úy kỵ gì, tỏ ra rất vô lễ. Nàng tức giận quá liền trợn mắt nhìn bọn họ. Chỉ thấy bọn chín người này có già, có trẻ, ăn mặc lịch sự. Người nào cũng lưng cao thẳng, ra dáng khỏe mạnh. Đứng giữa bọn người một thanh niên công tử mặt đẹp như ngọc, tướng mạo tuấn tú, lối ba chục tuổi. Chàng công tử mình mặc áo trường bào sang trọng màu lam, đầu đội mũ da cáo, trên chóp đính hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay.

Mã Xuân Hoa thường đi theo xe tiêu từ thuở nhỏ nên rất sành về châu báu. Nàng đứng cách xa mấy trượng mà đã nhìn rõ hai hạt minh châu ánh lên rực rỡ, liền biết là bảo vật đáng giá liên thành. Thế mà vị công tử này lại tùy tiện đính lên chóp mũ không sợ thất lạc. Nàng động tính hiếu kỳ, bất giác liếc nhìn hắn mấy lần. Chàng công tử kia thấy nàng xinh đẹp lại chân tay mau lẹ cũng động tâm, liền quay lại khẽ nói mấy câu với hán tử trung niên bên cạnh. Hán tử này gật đầu rồi đột nhiên cười rộ lên, cất cao giọng hỏi:

– Tên tiểu tặc tử này chắc đã trộm cắp cái gì của người ta nên mới bị trói lại treo lên ngọn cây thế này đây.

Một lão già cười hỏi:

– Ngươi bảo gã trộm cắp gì? Sao em gái gã lại lần mò đến cứu gã?

Giọng nói của lão ra chiều khinh bạc, nét mặt lại càng lộ vẻ khả ố. Thương Bảo Chấn đầy lòng phẫn nộ, không nơi phát tiết. Hắn nghe lão nói câu này liền tung người nhảy lại tát bốp vào mặt lão già. Lão già cưỡi trên lưng ngựa lại đứng cách xa Thương Bảo Chấn hơn một trượng mà gã nhảy vọt tới nơi đánh một cái bạt tai nổ đom đóm, khiến mọi người kinh ngạc, bất giác giật cương ngựa lùi lại nhìn nhau ngơ ngác.

Lão già do không kịp đề phòng mà phải chịu nhục, thì làm sao có thể nhịn nổi cái tức này? Lão lập tức nhảy xuống ngựa, vươn tay túm lấy vạt áo Thương Bảo Chấn, Thương Bảo Chấn ngoặc tay lại nắm lấy cổ tay lão. Lão già cũng là người có võ công liền biến trảo thành chưởng, biến chưởng thành quyền. Hai người khai diễn cuộc đấu dưới gốc cây bên đường.

Thương Bảo Chấn tuy bị Hồ Phỉ đánh một trận nhưng không tổn thương đến gân cốt. Một là có ý trung nhân đứng bên cạnh theo dõi cuộc đấu, hai là lửa giận không nơi phát tiết, hắn thi triển tuyệt nghệ gia truyền là Bát Quái chưởng càng đánh càng hăng. Lão già kia sơ ý một chút, bà vai bị trúng một chưởng, chân bước loạng choạng lùi lại mấy bước. Lão định thần toan xông tới thì một người trên lưng ngựa lên tiếng:

– Lão Trương hãy lùi lại. Thằng này có vẻ tà môn.

Tiếng nói vừa dứt, một bóng người trên lưng ngựa nhẹ nhàng nhảy xuống. Lão già kia tránh sang một bên. Thương Bảo Chấn và Mã Xuân Hoa thấy người này thân thủ mau lẹ, đều chú ý theo dõi cử động, thấy mặt hắn đỏ tía, thần thái uy mãnh. Thân thể hắn khôi vĩ, cao hơn Thương Bảo Chấn cả nửa cái đầu. Hán chắp hai tay sau lưng, nhìn Thương Bảo Chấn hỏi:

– Phải chăng ngươi ở Bát Quái môn? Sư phụ ngươi họ Chữ hay họ Thương?

Thái độ rất ngạo mạn, không coi đối phương vào đâu. Thương Bảo Chấn tức giận liền xẵng giọng hỏi lại:

– Ngươi hỏi được ta ư?

Người kia tủm tỉm cười đáp:

– Trong thiên hạ, hễ là người Bát Quái môn là ta cần hỏi…

Thương Bảo Chấn vốn là người tinh tế, nhưng mấy ngày liền, gã vừa thất vọng vừa chịu nhục đâm ra nóng nảy. Trong cơn thịnh nộ, gã không nghĩ đến câu nói của hán tử còn có ngụ ý khác, liền ra chiêu “Phách lôi trụy địa” đánh vào đầu gối đối phương, thế đánh nhanh như chớp. Người kia mỉm cười khẽ vẫy tay phải một cái, khoa chân bước sang bên trái một bước, lập tức hóa giải được ngay.

Thương Bảo Chấn liền thi triển môn “Du thân Bát Quái chưởng” tấn công không ngừng. Mỗi bước chân gã đều theo Tiên thiên bát quái đồ thức. Thương Bảo Chấn chạy quanh đối phương thật lẹ, phóng chưởng càng lúc càng mau. Đại hán kia hai tay ra chiêu rất ngắn, chỉ vừa đủ để chống đỡ, thủy chung không đụng chạm vào quyền chưởng Thương Bảo Chấn, nhưng chiêu nào cũng là khắc tinh với chưởng pháp của đối phương. Thường thường hắn làm cho những chiêu thức của Thương Bảo Chấn chưa sử xong đã bắt buộc phải biến thế.

Mới trong khoảnh khắc, Thương Bảo Chấn đã đánh hơn bốn chục chưởng mà chẳng chưởng nào đụng được vào tà áo của đối phương. Những người đứng xem thấy bản lãnh đại hán rất cao thâm đều ngấm ngầm bội phục. Thương Bảo Chấn nổi nóng, chân chạy càng nhanh, chưởng pháp càng đánh ráo riết. Đại hán vẫn cứ ung dung chống đỡ, miệng tủm tỉm cười. Hai bàn tay vung ra nắm lại, giống như y đang luyện quyền một mình.

Bây giờ Thương Bảo Chấn mới nhận ra tuy đối phương ra chiêu cực ngắn nhưng chân bước theo Tiên thiên bát quái đồ thức, phương vị tuyệt đối không rối loạn chút nào. Gã từng nghe mẫu thân nhắc tới trong Bát Quái môn có Nội Bát Quái công phu rất cao thâm. Luyện môn này đến chỗ đăng phong tháo cực thật khó khăn vô cùng, nhưng ai luyện thành là có thể đem cái “tĩnh” để khắc chế cái “động” và trở nên vô địch trong thiên hạ. Người đứng trước mắt gã có ý nhường nhịn. Hắn mà ra tay thực sự thì chỉ chiêu đầu đã đủ để đánh ngã gã rồi. Thương Bảo Chấn càng nghĩ càng sợ, đột nhiên nhảy lùi lại chắp tay nói:

– Vãn bối có mắt mà không thấy núi Thái Sơn. Té ra đây là một bậc tiền bối của bản phái.

Người kia tủm tỉm cười, nhắc lại câu hỏi:

– Sư phụ ngươi họ Chữ hay họ Thương?

Thương Bảo Chấn thường nghe mẫu thân căn dặn: trước mặt người lạ chớ có thổ lộ thân thế để phòng ngừa kẻ đối đầu hay biết làm khó cho công cuộc trả thù, nên gã ngần ngừ. Người kia lại cười hỏi:

– Chưởng pháp của ngươi môn hộ mở rộng hiển nhiên cùng một phái với Thương Kiếm Minh sư huynh. Đại ca, có đúng thế không?

Câu sau cùng hắn nói với một lão già ngồi trên ngựa. Lão này tuổi ngót năm nươi, tung mình nhảy xuống ngựa, nhìn Thương Bảo Chấn hỏi:

– Sư phụ ngươi đâu? Hãy đưa bọn ta đến gặp. Ta là Vương sư bá ngươi đây. Còn vị này là huynh đệ của ta. Ngươi lại chào sư thúc đi.

Lão nói rồi cười ha hả. Thương Bảo Chấn biết sư phụ của phụ thân mình oai danh lừng lẫy vùng Hà Sóc tên gọi là Vương Duy Dương. Lão làm tổng tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục ở Bắc Kinh. Người đứng trước mặt tự xưng họ Vương mà lại là cao thủ Bát Quái môn thì đúng là sư bá, sư thúc không thể giả trá được. Nhưng gã vốn tính cẩn thận, hỏi lại một câu:

– Hai vị xưng hô Vương lão tiền bối oai danh lừng lẫy đất Hà Sóc là gì?

Vương thị huynh đệ nhìn nhau mỉm cười. Lão già đáp:

– Đó là tiên phụ của anh em ta. Ngươi còn chưa tin ư? Thương sư đệ đâu?

Thương Bảo Chấn không ngần ngừ nữa, phục xuống đất dập đầu mấy lạy, miệng hô sư bá sư thúc, rồi nói:

– Tiên phụ đã qua đời. Ngày ấy sư bá cùng sư thúc không tiếp được tin cáo phó ư?

Vị võ sư tuổi già tên gọi Vương Kiếm Anh, người em là Vương Kiếm Kiệt. Hai nhân vật này là con Vương Duy Dương. Ngày trước Vương Duy Dương nhờ cặp “Bát Quái chưởng” và thanh Bát Quái đao mà uy danh lừng lẫy chốn lục lâm. Phe hắc đạo đã có câu “Thà gặp Diêm Vương còn hơn chạm trán Lão Vương” đủ biết lão khét tiếng thiên hạ. Hiện nay lão qua đời đã lâu rồi.

Thương Kiếm Minh tuy là môn hạ Vương gia nhưng tình thầy trò rất bình thường. Sau khi rời khỏi sư môn, Thương Kiếm Minh ít khi nhận được tin tức. Vương thị huynh đệ lại làm đương sai ở nha môn, đường mây gặp bước. Hai người không để tâm đến vị huynh đệ đồng môn nơi thảo dã nữa. Vì thế mà Sơn Đông dù cách Bắc Kinh chẳng xa là mấy, nhưng tin Thương Kiếm Minh qua đời, Vương thị huynh đệ cũng chẳng hề hay biết.

Vương Kiếm Anh buông tiếng thở dài rồi quay lại nói nhỏ mấy câu với chàng thanh niên công tử kia. Chàng công tử kia liếc mắt nhìn Mã Xuân Hoa hớn hở gật đầu. Vương Kiếm Anh nhìn Thương Bảo Chấn nói:

– Nhà ngươi cách đây chắc không xa? Hãy dẫn bọn ta về để tế trước linh vị phụ thân ngươi một chuyến. Anh em chia tay đã hơn hai chục năm, không ngờ chẳng còn cơ hội nào gặp mặt nhau nữa.

Hắn dừng lại một chút rồi trỏ vào chàng công tử nói:

– Ngươi bái kiến Phúc công tử đi. Chúng ta đều làm đương sai dưới trướng công tử.

Thương Bảo Chấn thấy chàng công tử có vẻ cao sang, gã chắc là dòng quý phái ở trong kinh, mới thu dụng được những tay hào kiệt như Vương thị huynh đệ về làm đương sai. Gã liền khom lưng lạy. Phúc công tử khoát tay nói:

– Ngươi đứng dậy đi!

Nhưng hắn không đáp lễ. Thương Bảo Chấn thấy hơi tức giận, thầm nhủ:

“Thằng cha này phách lối quá! Hắn làm như mình là Hoàng đế không bằng.”

Đoàn người về đến Thương gia bảo. Trong bảo đã phát giác vụ Hồ Phỉ trốn đi nên gia nhân đang sục sạo tìm kiếm. Thương Bảo Chấn vào nội đường báo tin. Thương lão thái nghe nói huynh đệ đồng môn của tiên phu đến chơi, mụ vừa sợ vừa mừng thầm, lật đặt chạy ra nghênh tiếp, gác vụ Hồ Phỉ lại một bên.

Vương Kiếm Anh giới thiệu quần hào với Thương lão thái thì trong chín người đã có tới năm người thuộc hạng nhất lưu cao thủ trong võ lâm. Ngoài Vương thị huynh đệ còn Trần Vũ ở Thái Cực môn, Cổ Bất Nhã ở phái Thiếu Lâm, Ân Trọng Tường thuộc phe Nam Tông ở Thiên Long môn. Trần Vũ và Ân Trọng Tường đã nổi tiếng giang hồ. Cổ Bất Nhã còn ít tuổi hơn, cập mắt thần quang lấp loáng, tay khô như que củi, ngón tay cứng nhắc. Đúng là hảo thủ ngoại gia. Con ba người nữa là những nô bộc thân cận theo hầu Phúc công tử, còn lão già họ Trương vừa bị Thương Bảo Chấn đánh té, mọi người gọi lão là Trương tổng quản, dĩ nhiên cũng là một nhân vật có quyền thế trong phủ Phúc công tử.

Còn thân thế công tử ra sao, Vương Kiếm Anh tuyệt không đả động tới, chỉ giới thiệu là “Phúc công tử”. Hai anh em họ Vương nhắc tới nguyên nhân cái chết của Thương Kiếm Minh, nhưng Thương lão thái là người cao ngạo không chịu nói thật y bị Hồ Nhất Đao giết chết mà bảo là mắc bệnh mà mất. Mụ đã quyết chí để con trả thù, chứ không mượn tay người ngoài.

Mã Xuân Hoa thấy Thương lão thái và Thương Bảo Chấn cùng những người đồng môn nói chuyện với nhau liền trở về phòng, đem những chuyện vừa mắt thấy tai nghe kể cho phụ thân hay. Mã Hành Không nghe con nói Hồ Phỉ là con của Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao thì lấy làm kinh dị. Lão biết thằng nhỏ này bản lãnh cao hơn Thương Bảo Chấn, nhưng vẫn còn bán tín bán nghi. Từ Tranh đứng bên lẳng lặng nghe chuyện. Mặt gã lúc xanh lè lúc đỏ bừng, nhưng chẳng hé môi. Hai cha con nói chuyện một lúc rồi Mã Xuân Hoa về phòng riêng, Từ Tranh theo sau gọi:

– Sư muội!

Mã Xuân Hoa đỏ mặt lên hỏi:

– Chuyện gì?

Từ Tranh thấy mặt nàng đỏ như ráng ban mai, bất giác động tâm rồi nén lòng không hỏi nữa. Gã đưa tay nắm lấy tay nàng. Mã Xuân Hoa giựt tay ra chiều tức giận, hỏi:

– Để người ta nhìn thấy thì còn ra thể thống gì nữa? Sao lại thiếu ý tứ thế?

Từ Tranh không nhịn được, hằn học hỏi:

– Hừ! Thiếu ý tứ! Nửa đêm sư muội đi theo gã tiểu tử họ Thương ra ngoài lén lút làm chuyện gì?

Mã Xuân Hoa sửng sốt một chút. Nàng thấy giọng nói của Từ Tranh tỏ ra thiếu thân thiện liền xẵng giọng giận dữ hỏi lại:

– Sư huynh hỏi câu đó là có dụng ý gì?

Từ Tranh đáp:

– Sư muội cùng với tên tiểu tử kia ra ngoài là có dụng ý gì?

Từ trước đến nay, gã vẫn rất thân thiết với sư muội, nhưng sáng sớm đã thấy nàng cùng Thương Bảo Chấn từ bên ngoài trở về, lại nghe nàng thuật chuyện gặp Hồ Phỉ vào lúc nửa đêm nên nổi lòng ghen tức. Gã có biết đâu nàng sợ phụ thân trách mắng mới giấu nhẹm chuyện xin Thương Bảo Chấn tha cho Hồ Phỉ.

Mã Hành Không đêm trước đã được nghe chuyện đối đáp giữa hai mẹ con Thương Lão Thái, lão biết Thương Bảo Chấn say mê con gái mình, tưởng hai người quả có tư tình mới gặp nhau lúc đêm khuya. Nhưng thấy đồ đệ đứng bên, nên lão không tiện hỏi.

Từ Tranh nghe chuyện trong lòng cực kỳ ghen tức. Bản tính gã lỗ mãng mà lần này sư muội đã thành vị hôn thê nên gã không nhịn được mới lớn tiếng vặn hỏi. Mã Xuân Hoa vấn tâm không có điều gì đáng thẹn, anh chàng sư ca trước nay vẫn thuận hòa nhân nhượng, không ngờ phụ thân vừa mới đem việc chung thân của mình hứa hẹn với gã, mà gã đã giở giọng ngang tàng bá đạo, nếu sau này thành vợ chồng rồi chắc là suốt ngày bị gã khinh rẻ.

Nếu Mã Xuân Hoa cứ nói thẳng cho Từ Tranh hiểu rõ thì chẳng có chuyện gì nhưng nàng đang tức giận nên không chịu nói mà còn hỏi lại:

– Tiểu muội lén đi với ai là đi, sư huynh can thiệp được à?

Người ta khi đã ghen tức thì còn suy nghĩ được gì nữa? Từ Tranh mặt đỏ đến tận mang tai, gã lớn tiếng quát:

– Trước kia ta không can thiệp được nhưng từ nay ta có thể quản cố.

Mã Xuân Hoa tức giận đến chảy nước mắt, hỏi lại:

– Bây giờ sư huynh đã thế thì còn mong gì sau này đối đãi tử tế với tiểu muội được nữa?

Từ Tranh thấy nàng sa lệ, lòng dạ cũng nhũn ra, nhưng gã nghĩ tới cuộc gặp gỡ lén lút giữa nàng và Thương Bảo Chấn giữa đêm khuya thì cảm thấy tức đến nghẹn thở, lớn giọng quát:

– Cô đi đâu? Làm gì? Nói mau! Nói mau!

Mã Xuân Hoa nhủ thầm:

“Ngươi càng ngang ngược, ta càng không nói.”

Giữa lúc ấy Thương Bảo Chấn vâng lệnh mẫu thân đến mời Mã Hành Không vào chơi với Vương thị huynh đệ. Gã thấy Từ Tranh đang to tiếng cùng Mã Xuân Hoa ở hành lang bất giác dừng lại. Từ Tranh trong bụng đã bừng bừng lửa grận, muốn tát cho vị hôn thê một cái nhưng chưa dám, gã thấy Thương Bảo Chấn đi tới, quả là hợp tâm ý liền thóa mạ:

– Ta đánh thằng tiểu tử chó đẻ này.

Gã liền xông tới đánh một quyền. Thương Bảo Chấn ngạc nhiên hỏi:

– Từ huynh làm gì vậy?

Từ Tranh lại vung quyền đánh tới. Lần này Thương Bảo Chấn có ý nhân nhượng, không chịu tránh, bị thoi quyền đánh trúng ngực. Từ Tranh vung thoi quyền thứ ba đánh tới, Thương Bảo Chấn xoay tay phản kích. Thế là hai người khai diễn cuộc động thủ ngay trên hành lang. Mã Xuân Hoa trong lòng buồn bực, bỏ mặc hai người đánh nhau, cắm đầu đi luôn. Nàng về phòng ngồi khóc một mình. Người hầu gọi ra ăn cơm, nàng cũng mặc kệ. Một lúc sau nàng thấy mơ mơ hồ hồ rồi ngủ thiếp đi. Khi nàng tỉnh đậy thì trời đã xế chiều. Nàng thong thả đi vào vườn hoa phía sau, ngồi trên ghế đá ngơ ngẩn xuất thần, lòng tự hỏi lòng:

“Chẳng lẽ việc chung thân của ta lại trao vào tay người sư ca ngang ngược như vậy? Gia gia ở bên mình đó mà y đã hung dữ đến thế. Không hiểu sau này y đối với mình còn tệ hại đến đâu?”

Bất giác nàng tủi phận nên trào nước mắt. Không hiểu nàng ngồi đã bao lâu, bỗng nghe tiếng tiêu ai oán từ trong bụi hoa vọng lại. Mã Xuân Hoa đang lúc buồn bực trong lòng nghe tiếng tiêu tưởng chừng như có người cất giọng ôn nhu an ủi, thủ thỉ bên tai. Nàng cảm thấy vừa thương tâm lại vừa hoan hỷ, khác nào được uống một chung rượu mạnh khiến cho thần trí mơ màng ngây ngất. Tiếng tiêu êm đềm như ngọn gió xuân bao quanh lấy nàng, bất giác nàng đứng dậy đi về phía bụi hoa thì thấy một nam tử áo lam ngồi bên cạnh gốc hải đường, tay cầm cây ngọc tiêu mà thổi. Tay chàng trắng như ngọc, khó lòng mà phân biệt với màu trắng của ngọc tiêu. Người đó chính là Phúc công tử mà nàng đã gặp lúc sáng sớm nay.

Phúc công tử mỉm cười gật đầu tỏ ý mong nàng đi tới. Tiếng tiêu vẫn tiếp tục réo rắt. Thái độ Phúc Công tử vừa có vẻ uy nghiêm, vừa có sức hấp dẫn, khiến người ta khó lòng mà kháng cự được. Mã Xuân Hoa mặt đỏ lên, từ từ tiến lại. Tiếng tiêu uyển chuyển du dương lại rất tình tứ khiến tâm thần nàng không khỏi bâng khuâng, ngây ngất. Mã Xuân Hoa tiện tay ngắt một bông mai côi đưa lên mũi ngửi. Tiếng tiêu thánh thót, mùi hoa thơm ngát giữa cảnh hoàng hôn. Chàng trai tuấn tú trước mắt lộ vẻ vừa ôn nhu vừa cao quý. Nàng đột nhiên nhớ tới Từ Tranh, con người thô lỗ lại hung hãn ghen tuông, đem so với chàng công từ tử cao quý trước mắt thật khác nhau một trời một vực.

Mã Xuân Hoa cũng nhìn Phúc công tử bằng khóe mắt ôn nhu. Nàng không muốn hỏi y là ai mà cũng không muốn biết y kêu nàng tới làm gì? Nàng chỉ nhận thức được một điều là khi đứng trước mặt y, nàng cảm nhận được một niềm hoan lạc mơ hồ, nên càng muốn gần gũi với y một lát. Vị công tử quý phái này tựa hồ như không có ý quyến rũ nàng, mà chỉ vì nàng là cô thiếu nữ ngây thơ với những ước mơ lãng mạn, nên trong một buổi chiều xuân mới phát khởi những mối tình cảm nồng nhiệt đến thế.

Sự thực không phải vậy. Nếu như Phúc công tử không thấy nàng xinh đẹp thì nhất định y đã không tới Thương gia bảo và nấn ná ở lại. Chẳng khi nào y vì người sư huynh đã quá cố của một tên võ sư dưới trướng mà chịu khuất thân như vậy. Nếu như y không được thuộc hạ cho biết nàng đang ngồi buồn một mình trong vườn hoa thì y quyết chẳng đến ngồi trong bụi hoa mà thổi tiêu. Nên biết tiếng tiêu của Phúc công tử đã vào hàng tuyệt đỉnh chốn kinh sư. Dù là bậc vương thân quý cũng khó lòng được nghe y thổi một khúc.

Nét mặt ôn nhu của Phúc công tử ra chiều quyến luyến, ánh mắt biểu lộ những tình ý dạt dào. Y không cần nói một câu, mà còn da diết hơn cả muôn vàn lời tỏ tình cùng những lời thề non hẹn biển. Phúc công tử hạ ống tiêu xuống, đưa tay ra ôm lấy tấm lưng thon của Mã Xuân Hoa. Mã Xuân Hoa thẹn thùng né tránh. Đến lần thứ hai thì nàng đã chịu. Đến lần thứ ba, y vừa đưa tay ra, nàng đã ngã vào lòng y và say sưa trong hơi thở hồi hộp của chàng trai.

Ánh tịch dương chiếu vào lá mai côi biến thành những bóng dài lê thê trên mặt đất. Bên cạnh bóng hoa là bóng một đôi nam nữ thanh niên đang từ từ quấn lấy nhau rồi không nhận rõ đâu là bóng chàng, đâu là bóng nàng. Mặt trời đã lặn sau núi, bóng cảnh vật đổ dài thêm trên mặt đất. Ôi! Tình cảm bồng bột của các đôi nam nữ có chắc đâu là điều tốt đẹp? Mã Xuân Hoa đã vào giấc mê ly, không nghĩ đến chuyện gì khác nữa. Nàng không còn nghĩ đến hậu quả ra sao, cũng chẳng bận tâm còn ai ở vườn hoa nữa hay không?

Phúc công tử trước khi vào vườn hoa đã nghĩ đến điều này nên y phái Trần Vũ ở Thái Cực môn bồi tiếp Mã Hành Không. Vương Thị huynh đệ trò chuyện với mẹ con Thương lão thái, Cổ Bát Nhã phái Thiếu Lâm đến an ủi Từ Tranh, Ân Trọng Tường ở Thiên Long môn giữ cửa vườn hoa không cho ai vào. Con gái của “Bách thắng thần quyền” Mã Hành Không hôm trước được phụ thân hứa hôn cho sư ca mà bữa nay đã trở thành người tình của kẻ khác.

Tối hôm ấy tại Thương gia bảo mở yến tiệc linh đình để thết đãi Phúc công tử. Trên tiệc toàn là những nhân sĩ võ lâm, không cần phân biệt nam nữ nên Thương lão thái và Mã Xuân Hoa ngồi cùng với mọi người. Mã Hành Không ngày trước có quen biết Vương Duy Dương, phụ thân của Vương thị huynh đệ. Từ ngày Vương Duy Dương qua đời, Vương Thị huynh đệ đầu thân vào chốn quan nha. Trấn Viễn tiêu cục giải tán nên hai bên không có sự liên lạc gì nữa. Nhưng Vương thị huynh đệ đã từng nghe danh Mã Hành Không nên đối với họ cũng có mấy phần kính trọng.

Mã Xuân Hoa hai má ửng hồng, tràn đầy xuân sắc, ngồi cúi đầu không nhìn ai. Mọi người chỉ cho nàng là một thiếu nữ e thẹn, mà thực ra trong lòng nàng đầy rẫy những tình cảm ngọt ngào đằm thắm. Có lúc nàng không né tránh ánh mắt của Từ Tranh, cũng chẳng tránh né ánh mắt của Thương Bảo Chấn. Những ánh mắt hai gã này có tiếp xúc với ánh mắt nàng cũng chẳng nhìn rõ được tâm sự nàng. Hai gã cùng tự hỏi:

“Lòng nàng đối với ta như thế nào?”

Khóe môi nàng mỉm cười, nhưng nụ cười đó lại không dành cho hai người. Mắt nàng để vào họ mà không nhìn thấy họ. Nàng chỉ nghĩ tới hạnh phúc ngọt ngào vừa rồi. Phúc công tử thỉnh thoảng liếc trộm nàng vài lần nhưng nàng không dám nhìn y vì nàng biết rõ, chỉ nhìn y một lần để bốn mắt chạm nhau là khó lòng rời nhau được. Đột nhiên một tên gia đinh lật đật chạy ghé tai nói nhỏ với Thương lão thái:

– Tên tặc tử họ Bình đã có người cứu đem đi rồi.

Thương lão thái giật mình một cái rồi trở lại bình tĩnh, nâng chung mời mọi người. Mụ không muốn để cho khách biết chuyện. Bất thình lình đánh “bình” một tiếng. Hai cánh cửa sảnh đường văng ra khỏi khung, rớt xuống đất đánh rầm cái. Một thân hình bé nhỏ gầy nhom đứng trước cửa sảnh đường.

Bọn Vương thị huynh đệ tuy đang dự tiệc vẫn không quên trách nhiệm trọng đại là bảo vệ cho Phúc công tử, nên lúc nào cũng dắt binh khí bên mình. Biến cố vừa xảy ra thì lập tức có mấy người dời khỏi chỗ ngồi đến đứng chung quanh Phúc công tử. Quần hào nhìn kỹ lại thì thấy chỉ có một thằng nhỏ mà sau gã không còn ai khác, nên hết thảy đều kinh ngạc tự hỏi:

“Chẳng lẽ thằng nhỏ này lại đánh bật tung được cánh cửa sảnh đường?”

Thằng nhỏ đó chính là Hồ Phỉ. Sau khi cứu Bình A Tứ ra khỏi Thương gia bảo rồi, gã nghĩ tới mối thù bị Thương Bảo Chấn đánh đòn tuy đã trả xong nhưng còn mối hận bị Thương lão thái ám toán chưa rửa, liền sấn đến sảnh đường lớn tiếng hỏi:

– Thương lão thái! Mụ có giỏi thì ra đây bắt ta thử coi?

Gã nói câu này với thái độ rất hào hùng song vẫn là thanh âm của trẻ nít, tựa hồ như gã đang đùa với Thương lão thái. Thương lão thái thấy ánh mắt của con trai kẻ thù cơ hồ tóe lửa liền khẽ bảo con trai mình:

– Ngươi chặn mặt sau, đừng để tên tiểu tặc này trốn thoát.

Mụ quay lại bọn gia đinh đứng phía sau, bảo:

– Mau lấy đao cho ta!

Mụ nói xong từ từ đứng lên, quát hỏi:

– Ai đã buông tha gã? Có phải Mã lão quyền sư không?

Mụ không thể tin một thằng nhỏ bị cột bằng dây lòi tói lại thoát được, nhất định phải có gian tế trong bảo giải cứu. Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Không phải.

Thương lão thái trỏ vào Từ Tranh hỏi:

– Có phải y không?

Hồ Phỉ vẫn lắc đầu. Thương lão thái lại trỏ Mã Xuân Hoa hỏi:

– Chẳng lẽ là vị… vị cô nương này?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Cô nương này bản tâm muốn cứu ta, tuy cô không ra tay giải cứu nhưng ta cũng cảm kích mối ân tình của cô.”

Gã liền gật đầu mỉm cười, lớn tiếng đáp:

– Không sai vị cô nương đó là ân nhân cứu mạng ta.

Gã nói câu này cốt để Mã Xuân Hoa nghe thấy. Đó là tấm lòng cảm kích của đứa nhỏ muốn bày tỏ lòng biết ơn, nhưng gã không nghĩ câu nói đó đem lại tai vạ lớn cho nàng. Thuơng lão thái sa sầm nét mặt nhìn Mã Xuân Hoa. Lúc này trang đinh đã đưa đao tới. Thương lão thái đưa tay trái cầm đao, tay phải trỏ vào Hồ Phỉ hỏi:

– Gia gia ngươi là Hồ Nhất Đao sao lại không đến?

Bọn Vương thị huynh đệ nghe nói thằng nhỏ trước mặt là con trai Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao, trong lòng không khỏi rúng động. Hồ Phỉ đáp:

– Gia gia ta qua đời từ lâu rồi. Mụ muốn trả thù thì cứ kiếm ta là được.

Thương lão thái mặt xám như tàn tro, quát hỏi:

– Ngươi nói thật chăng?

Hồ Phỉ đáp:

– Gia gia mà còn sống ở thế gian thì liệu mụ có đám đánh ta một roi không?

Thương lão thái giơ cao thanh Tử Kim Bát Quái đao lên, đột nhiên có tiếng khóc ròng. Mụ vừa khóc vừa la:

– Hồ Nhất Đao hỡi Hồ Nhất Đao! Sao ngươi chết sớm thế? Lẽ ra ngươi đừng có chết sớm.

Hồ Phỉ ngạc nhiên không hiểu tại sao mụ này lại lấy lòng tốt khóc thương gia gia mình? Thương lão thái kêu khóc ba tiếng rồi dừng lại, nâng vạt áo lên lau mặt. Mụ đạp chân trái xuống, đột nhiên quét ngang thanh Tử Kim đao và xoay mình thật nhanh. Mụ quát một tiếng, vung lưỡi đao chém vào cổ Hồ Phỉ. Cử động của Thương lão thái nằm ngoài sự tiên liệu của quần hào. Phúc công tử, Mã Xuân Hoa, Từ Tranh đều bật tiếng la hoảng.

Thương lão thái ra chiêu “Hồi thân phách sơn đao” là một tuyệt kỹ trong Bát Quái đao, lại động thủ bất ngờ. Đừng nói một thằng nhỏ mà ngay cả những tay hảo thủ giang hồ chưa chắc đã tránh kịp. Dè đâu thân pháp Hồ Phỉ mau lẹ tuyệt luân. Gã nghiêng người tránh khỏi mũi đao đồng thời vươn tay chụp vào cổ tay Thương lão thái. Ngay chiêu đầu gã đã phản kích khiến quần hào đều kinh ngạc. Thương lão thái ra chiêu đầu không trúng liền tung ngay chiêu đao thứ hai chém tới. Thương lão thái bình thời già lụ khụ mà lúc ra tay lại cực kỳ tàn độc. Mụ nghĩ tới cừu nhân chết rồi, kiếp này không trả thù được chỉ còn cách giết chết thằng nhỏ. Sau khi trượng phu qua đời, sở dĩ mụ không tự vẫn chết theo chồng là vì trong lòng còn nuôi chí báo thù. Bây giờ mụ chẳng luyến tiếc gì đến mạng sống nữa nên phóng ra toàn những chiêu liều mạng để cùng đối phương đồng quy ư tận.

Hồ Phỉ gặp cường địch lần đầu, tinh thần phấn khởi, gã đưa quyền tấn công vào những khe đao chứ không nhượng bộ chút nào. Địch nhân vung đao tấn công tới tấp, gã thi triển môn “Đại cầm nã thủ long hình trảo” cũng ghế gớm không vừa để phản kích dữ dội. Dưới ánh đuốc, một mụ già tóc bạc và một thằng nhỏ miệng còn hơi sữa chiến đấu mãnh liệt dị thường.

Thoạt đầu, Vương thì huynh đệ thấy Thương lão thái vừa khai diễn cuộc đấu đã hạ sát thủ, trong bụng không khỏi ngấm ngầm trách mụ lạm dụng công phu của Bát Quái môn. Đối phó với một thẳng nhỏ mà đã sử dụng tuyệt chiêu, vậy gặp cao thủ hạng nhất thì làm thế nào? Nhưng càng theo dõi cuộc đấu, họ càng kinh ngạc. Những đường Bát Quái đao cực kỳ tàn độc của Thương lão thái liên miên không dứt và tuyệt không có một chút sơ hở nào. Tuy đao pháp của mụ chưa đạt đến cảnh giới lô hỏa thuần thanh, nhưng mụ đã quyết tâm đánh liều mạng nên đao pháp rất ghê gớm. Đối thủ dù là tay lợi hại đến đâu cũng khó lòng chống nổi. Chẳng ngờ thằng nhỏ mười mấy tuổi đầu dùng tay không để chiến đấu với mụ, mà dần dần gã chiếm được thượng phong.

Hai bên chiết chiêu thêm mấy hiệp, toàn thân Thương lão thái bị luồng chưởng phong của Hồ Phỉ vây hãm. Đột nhiên nghe “bốp” một tiếng, má bên trái Thương lão thái bị trúng một cái bạt tai. Tiếp theo má bên phải lại trúng một phát nữa, Vương Kiếm Kiệt nói:

– Thương gia tẩu hãy lùi lại. Để tiểu đệ đối phó với thằng nhỏ này.

Tay hắn cầm đại đao, chân cất bước tiến ra. Lại nghe một tiếng “úi chao” vang lên Thương lão thái đã ngã lăn ra một bên. Vương Kiếm Kiệt đột nhiên thấy ánh sáng xanh lấp loáng. Một thanh đao nhằm trước mặt hắn chém tới. Hắn vội giơ đao lên đỡ. Thanh đao kia liền biến chiêu vuốt lên một cái. Khi bị đón đỡ thành đao lại đổi thành thế móc mau lẹ tuyệt luân.

Nguyên Hồ Phỉ đánh Thương lão thái hai cái bạt tai, tâm nguyện đã thỏa mãn. Gã còn ra chiêu cầm nã nắm lấy cổ tay mụ rồi vung chân đá mụ lăn lông lốc, tiện tay đoạt luôn thanh Tử Kim đao. Gã không chờ Vương Kiếm Kiệt tới gần đã chém veo véo ba đao liên hoàn làm cho hắn chân tay luống cuống. Vương Kiếm Kiệt là tay cao thủ hạng nhất ở Bát Quái môn. Ngày trước bản lãnh hắn đã chẳng kém gì Thương Kiếm Minh. Chỉ vì hắn thấy Hồ Phỉ nhỏ bé nên trong lòng khinh địch, do đó bị gã đoạt mất tiên cơ. Sau khi trao đổi ba chiêu, hắn mới biết thằng nhỏ trước mặt là tay kình địch, vội thu hết tâm tính cuồng ngạo lại, thận trọng ứng chiến, giữ môn hộ cực kỳ nghiêm mật. Hắn muốn coi cho rõ xem đao pháp của thẳng nhỏ thuộc gia phái nào. Dưới ngọn đuốc chập chờn, bóng đao quang lấp loáng. Quần hào tay nắm binh khí theo dõi cuộc đấu kinh tâm động phách.

Phúc công tử thấy một thằng nhỏ nước da vàng ủng, thân thể gầy nhom, áo quần lam lũ mà võ nghệ lại ngang ngửa với tay cao thủ hạng nhất của mình thì trong lòng vừa kinh dị lại vừa hứng thú. Y chắp tay để sau lưng, ngưng thần theo dõi cuộc đấu. Đột nhiên y ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng của son phấn tỏa ra. Y liếc mắt nhìn thấy Mã Xuân Hoa đã đến bên mình, liền tiến lại gần một bước đưa tay ra nắm tay nàng. Lúc này quần hào để hết tinh thần chú ý vào cuộc kịch đấu trong sảnh đường, chẳng ai lưu tâm đến hai người. Nhưng ở giữa nơi đông người mà y dám phóng tứ như vậy thì thật là lớn mật. Phúc công tử chẳng coi ai vào đâu, Mã Xuân Hoa lại là một thiếu nữ mới bắt đầu luyến ái, gặp lúc mối tình dào dạt, nàng cũng không tự chủ được.

Vương Kiếm Kiệt chém luôn mấy đao đều bị Hồ Phỉ dùng thân pháp xảo diệu tránh khỏi. Vương Kiếm Kiệt cố nhận xét võ công và môn phái của đối phương mà không sao mò ra được. Hắn nghĩ bụng:

“Gã này tự xưng là con Hồ Nhất Đao, tuy mình đã được nghe phụ thân nhắc tới nhân vật này nhưng cuối cùng thì Hồ gia đao pháp thế nào, là cương hay nhu, thuộc ngoại môn hay nội gia, mình đều không hiểu một tí gì. Có điều chiêu số của thằng nhỏ này lúc thì ngưng trọng như non, lúc thì lưu chuyển như nước, hoàn toàn không giống các loại đao pháp khác.”

Hai bên lại đấu mấy hiệp nữa. Vương Kiếm Kiệt nóng ruột vì hắn là một nhân vật địa vị khá cao trong phủ Phúc công tử mà bữa nay đã trao đổi mấy chục chiêu với một thằng nhỏ vẫn chưa hạ được. Nếu còn giằng co hồi lâu thì dù có giết được gã cũng chẳng vinh dự gì. Hắn liền biến đổi thế đánh, cất bước chạy thật nhanh quanh Hồ Phỉ. Nên biết Vương thị ở Bát Quái môn nổi tiếng về công phu “Bát Quái du thân”. Đó là một tuyệt kỹ võ lâm. Ngày trước Vương Duy Dương đã dùng môn này để chiến đấu với Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng.

Một khi đã cất bước chạy quanh thì chợt ở phía trước, hốt nhiên lại ở phía sau, biến ảo khôn lường. Địch nhân xoay được mình lại thì hắn đã chuyển tới sau lưng, chân bước theo phương vị bát quái, hoặc trước hoặc sau, chợt tả chợt hữu, không cần nghĩ ngợi gì mà địch nhân phải đầu nhức mắt hoa. Nếu địch nhân không chuyển động theo thì lập tức bị hắn đánh sau lưng. Thật là phép đánh vô cùng lợi hại.

Vương Kiếm Kiệt được phụ thân rèn luyện cho từ thuở nhỏ. Sáng sớm hôm nào cũng phải chạy ba lần, mỗi lần chạy quanh năm trăm mười hai vòng không dừng lại chút nào. Trước khi đi ngủ cũng vậy. Công phu này luyện tập không gián đoạn. Kể cả vòng lớn và vòng nhỏ tất cả hơn ba ngàn lần xoay chuyển, mà y lại luyện tập ráo riết hơn hai chục năm. Chân bước đã thành tự nhiên, chỉ cần ra tay phát chiêu là được.

Khi rèn luyện chạy vòng quanh, Vương Kiếm Kiệt ra tay phát chưởng, còn bây giờ y dùng đao thay cho chưởng. Chỉ thấy bóng người y xoay chuyển không ngừng, đao quang lấp loáng. Chỉ nháy mắt đã vây Hồ Phỉ vào giữa. Hồ Phỉ bỗng gặp phải tay kình địch vội thi triển khinh công né tránh. Thân hình gã đã linh xảo, khinh công lại cao thâm. Gã ngang nhiên tung hoành qua lại trong làn đao phong, tránh khỏi mấy chục chiêu đâm chém của đối phương. Mã Hành Không theo dõi rất lấy làm kinh dị. Lão ta nghĩ thầm trong bụng:

“Thật là mắc cỡ! Té ra cái bóng người nhỏ bé gầy nhom mà mình thấy trong đêm hôm trước lại chính là gã. Nếu mình không rượt theo thiếu niên này thì làm sao phát giác được tấm lòng độc địa của Thương lão thái? Ở Thương gia bảo chẳng có rồng ẩn cọp nấp nào khác mà lại là thằng nhỏ gầy nhom này. Thật uổng cho mình suốt đời bôn tẩu giang hồ mà đến lúc già vẫn không biết nhìn người.”

Lão liếc mắt nhìn quanh không thấy con gái đâu cả, cả Từ Tranh cũng chẳng có ở sảnh đường. Lão tức giận lẩm bẩm:

– Cuộc tỷ võ giữa những tay cao thủ như bữa nay, trong đời người phỏng xem được mấy lần? Bọn thiếu niên thật là ngu dốt chỉ mải mê tình ái, mai mốt nên vợ nên chồng hãy chuyện trò cho phỉ không được sao?

Lão có biết đâu con gái mình tuy có ra ngoài nói chuyện tình ái thật, nhưng lại không phải trò chuyện với chàng rể chưa cưới.

Bỗng một tiếng “choảng” thật lớn vang lên. Tia lửa bắn tung tóe. Song đao của Hồ Phỉ và Vương Kiếm Kiệt đụng nhau. Tiếng “choảng” bật lên rồi, thanh âm còn ngân rền hồi lâu không dứt. Nguyên Vương Kiếm Kiệt chạy quanh mỗi lúc một nhanh, càng đánh càng mãnh liệt. Hồ Phỉ nhỏ tuổi kiến thức thiển cận, không hiểu lộ số đao pháp của đối phương. Sau gã né tránh không kịp, phải vung đao lên đỡ thành ra song đao dụng nhau. Vương Kiếm Kiệt mừng thầm nghĩ bụng:

“Thằng nhỏ này võ công tuy cao nhưng khí lực còn kém. Chỉ đánh mấy đao nữa là khí giới của gã phải tuột khỏi tay.”

Hắn liền đánh rất rát, Hồ Phỉ lâm vào tình trạng buộc phải đỡ gạt. Sau năm sáu đao, cánh tay gã bị chấn động dần dần cảm thấy tê chồn. Thanh Tử Kim đao của Thương Kiếm Minh vốn rất nặng, Hồ Phỉ ít sức, sử đao không thuận lợi, bây giờ cảm thấy đuối sức. Vương Kiếm Kiệt thân hình cao lớn. Đầu Hồ Phỉ chưa tới cổ hắn. Một người ở trên cao đánh xuống, một kẻ ngửa mặt tiếp chiêu. Thế cường nhược đã rõ ràng. Hồ Phỉ thấy mình không địch nổi, chợt động tâm cơ, đưa đao lên gạt rồi nhảy ra ngoài vòng, la lên:

– Hãy khoan!

Vương Kiếm Kiệt đã chẳng có thù oán gì với gã, lại thấy gã nhỏ tuổi mà đón đỡ được bấy nhiêu chiêu số, cũng nẩy dạ mến tài, liền đáp:

– Được rồi! Ngươi nhận thua là xong. Ta tha mạng cho ngươi.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Ai chịu thua chứ? Chẳng qua lão nhờ cao lớn hơn ta nên chiếm được phần tiện nghi chứ bản lãnh chẳng có chi đáng kể. Lão hãy chờ một chút.

Gã nói rồi vác cái ghế dài đặt vào giữa sảnh đường. Gã tung mình nhảy lên ghế hô:

– Chúng ta lại đây tỷ đấu nữa.

Vương Kiếm Kiệt vừa tức mình lại vừa buồn cười hỏi:

– Ngươi định làm cái gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Ta xin nói rõ trước là lão không được đụng vào cái ghế này. Nếu đụng vào là xem như lão đã thua đó.

Vương Kiếm Kiệt phì một tiếng rồi hỏi:

– Trong thiên hạ làm gì có chuyện tỷ võ cách này?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Chân ta chưa dài, dĩ nhiên là thấp hơn lão. Nếu lão không muốn đấu nữa thì hãy chờ năm năm sau ta lớn lên cao bằng lão, lúc đó sẽ tới đây quyết một trận sống mái.

Ngày thường Hồ Phỉ thường nghe Bình A Tứ kể chuyện phụ thân gã là Hồ Nhất Đao oai phong như thế nào và bảo gã sau khi học thành võ công trong di thư của phụ thân để lại, thì cũng thành thiên hạ vô địch. Ngờ đâu vừa mới ra tay thì gã liền bị Thương lão thái nắm giữ huyệt mạch môn rồi bị ăn đòn một trận. Cái đó còn có thể bảo là trong lúc nhất thời không kịp đề phòng, nhưng lần này động thủ với Vương Kiếm Kiệt, gã biết đao pháp mình tuy hơn hẳn đối phương nhưng công lực hãy còn kém xa. Gã liền giao hẹn mấy câu để thoát thân. Không ngờ Vương Kiếm Kiệt một là sợ mất thể diện, hai là cầm chắc mình sẽ thắng, liền thóa mạ:

– Thằng oắt con kia! Ta không đá vào ghế của ngươi thì đã sao? Chẳng lẽ lão gia không chém chết được ngươi?

Hắn nói rồi vung đao chém vào hông Hồ Phỉ. Hồ Phỉ quét ngang thanh đao gạt ra. Hai người bắt đầu động thủ. Lúc này Hồ Phỉ cao hơn đối phương. Gã đứng trên chiếc ghế xoay bên trái nghiêng bên phải, vung đao chiến đấu.

Cái ghế này dài hơn năm thước. Nếu Vương Kiếm Kiệt chuyển động xung quanh thì vòng rộng quá không thu lại được. Hắn đã rèn luyện hơn hai chục năm chạy lại theo vòng tròn lớn nhỏ không đều. Môn công phu này hắn luyện rất tinh thục mà bây giờ đột nhiên phải biến đổi, hắn liền thay đổi cách đánh đao xen với chưởng, trong chưởng có đao. Hắn thi triển đao phong cùng chưởng lực cương mãnh, để hất đối phương té xuống. Hồ Phỉ hiểu tâm ý địch nhân, gã không ngớt nhảy lên hạ xuống, chuồn qua chuồn lại chứ không dùng sức mạnh để tiếp chiêu.

Vương Kiếm Kiệt chuyên luyện võ công của Bát Quái môn mà võ công Bát Quái môn lại cực kỳ phức tạp. Chỉ riêng đao pháp đã chia làm Đại giá, Tiểu giá, Nội giá, Ngoại giá. Hắn biến đổi đao pháp huơ tả chém hữu chuyên đánh vào hạ bàn địch thủ. Hồ Phỉ vẫn nhảy lên né tránh.Vương Kiếm Kiệt chém được mấy đao, thấy Hồ Phỉ tiếp tục nhảy lên, hắn không chờ gã hạ xuống đã lia đao trên mặt ghế để quét ngang. Lúc thu đao hắn lại hớt từ tả sang hữu. Hồ Phỉ mà hạ chân xuống tất bị chặt đứt, còn muốn tránh khỏi hai nhát đao lia qua lia lại thì chỉ còn cách nhảy xuống đất.

Nhưng Hồ Phỉ quả là tay mưu trí phi thường. Gã thấy thế nguy, đột nhiên đưa đầu ngón chân dùng hết sức điểm xuống đầu ghế bên trái, mượn đà nhảy lên. Cái ghế dài đột nhiên đứng dựng. Vương Kiếm Kiệt trước diễn biến bất ngờ không kịp đề phòng bị đầu bên phải ghế dài đập vào hàm dưới đánh “binh” một cái. Luồng lực đạo không nhẹ chút nào. Hồ Phỉ đã đứng trên đầu cái ghế dựng. Gã ở trên cao vung đao đánh xuống. Tình trạng này coi rất hoạt kê khiến mọi người đứng xem không nhịn được cười.

Vương Kiếm Kiệt cả giận vung đao chém mấy chiêu, nhưng Hồ Phỉ ở trên cao mà hắn ở dưới thấp là bị kém thế. Hắn không thèm giữ lời hứa nữa, vung chân trái đá vào ghế cho đổ xuống rồi lại vung đao ra chiêu “Thượng bộ phách sơn” chém vào ngực đối thủ. Hồ Phỉ người chưa hạ xuống đất đã quét ngang thanh đao một cái để rồi mượn đà vọt ra xa nửa trượng. Gã cúi người xuống, tay trái cầm ghế giơ lên làm lá mộc hình dài để đón đỡ lưỡi đao đối phương. Tay mặt gã dùng Tử Kim đao liên tiếp chém ra.

Vương Kiếm Anh thấy người huynh đệ đánh lâu mà vẫn không hạ được đối thủ đã sớm phải cau mày. Trong đám quần hào đứng xem như Ân Trọng Tường, Huỳnh Bát Nhã, Mã Hành Không đều là những tay hảo thủ giang hồ, nên họ nhận ra cuộc chiến biến ảo khôn lường. Hiển nhiên Hồ Phỉ sắp thất bại đến nơi rồi mà Vương Kiếm Kiệt vẫn không sao hạ được gã, nên họ đều ngấm ngầm kinh dị.

Lúc này Hồ Phỉ tay trái cầm ghế, tay mặt sử đao. Về binh khí gã chiếm phần tiện nghi. Cái ghế làm bằng hồng mộc rất rắn, bị Vương Kiếm Kiệt chém liền mấy đao mà vẫn chưa gãy. Hồ Phỉ ẩn ở phía sau ghế, không ngớt tấn công. Vương Kiếm Kiệt tức giận quát mắng:

– Thằng oắt con kia, lão gia cho ngươi nếm mùi lợi hại!

Đột nhiên hắn ra chiêu “Thượng oải môn”, vung đao chênh chếch chém tới. Nghe “chát” một tiếng, nhát đao đã chém trúng giữa ghế. Nhưng hắn dùng sức mạnh quá, lưỡi đao ngập sâu vào thân ghế. Hắn co tay về để rút đao ra, nhưng chưa rút được thì đột nhiên ánh tử quang lấp loáng. Mũi đao của đối thủ đã đâm tới trước ngực hắn. Chiêu này phóng ra như nước chảy mây trôi, cực kỳ mau lẹ. Vương Kiếm Kiệt kinh hãi đành buông đao rụt tay về. Hiển nhiên hắn đã thắng thế mà bị thằng nhỏ đoạt mất binh khí một cách hồ đồ thì trong lòng khi nào chịu phục? Hắn liền tấn công bằng tay không. Thế là một nhân vật nổi danh về Bát Quái đao đã phải dùng hai tay để vãn hồi thể diện. Vương Kiếm Kiệt nào quyền, nào điểm, nào chưởng xô ra tấn công. Song chưởng của hắn luồn vào khe đao để đánh. Uy thế chẳng kém gì lúc hắn có đao trong tay.

Hồ Phỉ nội lực yếu kém, tay chân lại cầm cái ghế khá nặng thì làm sao xoay trở nhẹ nhàng mau lẹ bằng người tay không được? Chỉ trong chớp mất, gã liên tiếp gặp những chiêu rất nguy hiểm. Chát một tiếng! Đầu vai gã bị trúng chưởng người lảo đảo muốn té. Mọi người đứng xem đều bật tiếng la. Hồ Phỉ cố chịu đau, tay trái cầm ghế dài phóng ra. Tiện tay gã chụp lấy chuôi thanh đơn đạo trên mặt ghế. Chân phải đá mạnh một cái cho ghế văng ra khỏi đao bay về phía Vương Kiếm Kiệt.

Vương Kiếm Kiệt thấy Hồ Phỉ chiến đấu không theo cách thức thông thường mà chỉ làm nhộn để cố ý hạ nhục mình thì trong lòng rất tức giận. Hắn vung hai tay đánh mạnh vào ghế. Cái ghế trước đã bị đao chém thành vết. Bây giờ chưởng lực làm cho chấn động. Một tiếng rắc vang lên. Cái ghế bị gãy làm hai đoạn. Hồ Phỉ tay cầm song đao vung lên chém tới tấp. Vương Kiếm Kiệt tay không chống đối với song đao mà không mảy may sợ hãi. Hắn ra thế cầm nã, tay phải hình móc câu để tấn công. Đột nhiên Hồ Phỉ la lên một tiếng. Đao ở tay trái của gã bị đối phương đoạt mất. Vương Kiếm Kiệt quăng đao xuống đất, vẫn dùng tay không chiến đấu. Chưởng pháp của hắn đã rèn luyện trên hai chục năm quả nhiên lợi hại phi thường.

Thương Bảo Chấn đứng ngoài coi vừa chán nản vừa vui mừng. Gã chán nản vì thấy mình khổ công học nghệ từ thuở nhỏ, tưởng đã vào hạng khá, nhưng nếu đem so với vị sư thúc này thì chẳng biết bao lâu nữa mới luyện được công phu như vậy. Gã hoan hỷ vì võ công của bản môn thần diệu phi thường, chỉ cần cố sức rèn luyện thì tiền đồ sẽ không biết đến đâu mà lường. Đột nhiên nghe Vương Kiếm Kiệt lớn tiếng quát:

– Đi!

Thanh Tử Kim đao trong tay Hồ Phỉ đã tuột tay bay đi. Gã vội nhảy lui về sau. Vương Kiếm Kiệt vung song chưởng đánh tới, thế mạnh như lay non dốc biển. Hồ Phỉ thấy mình không chống đỡ nổi, nhưng lúc tình hình cấp bách lại nảy sinh mưu mẹo, y liền trỏ vào Vương Kiếm Kiệt mà cất lên một tràng cười ha hả. Vương Kiếm Kiệt thấy gã cười rộ chẳng hiểu ra làm sao, bất giác thu chưởng về, ngơ ngác một chút rồi mắng hỏi:

– Thằng nhãi kia! Ngươi cười gì vậy?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Trợ thủ cho ta đã tới, không còn sợ các vị ỷ đông người toan bắt nạt một đứa nhỏ như ta nữa.

Vương Kiếm Kiệt chột dạ nghĩ thầm:

“Ta là một nhân vật thành danh trên giang hồ mà chấp nhặt với thằng quỷ nhỏ này quả là điều không nên.”

Hồ Phỉ vừa cười vừa nói tiếp:

– Ta đi đón trợ thủ, các vị cứ chờ ở đây, đừng sợ ta bỏ trốn.

Gã thừa cơ Vương Kiếm Kiệt còn ngần ngừ, liền rảo bước tiến ra cửa để đánh bài chuồn. Thương lão thái đã lượm thanh Tử Kim Bát Quái đao, vọt người lên trước chặn lại quát hỏi:

– Tiểu tạp chủng, mi muốn trốn ư?

Nhưng mụ biết võ công thằng nhỏ này còn cao thâm hơn mình nên không dám tiến lại gần. Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ xa đang ruổi mau tới. Giữa đêm khuya thanh vắng, tiếng vó ngựa nghe càng rõ rệt. Xưa nay khi ngựa phi nhanh thì vó ngựa dồn dập là chuyện bình thường, nhưng lạ ở chỗ con ngựa này đập chân xuống nổ như mưa rào. Lộp độp! Lộp độp! Lộp độp! Lộp độp! Nghe chẳng khác gì hai con ngựa đang đồng thời phi nước đại.

Những nhân vật trong sảnh đường quá nửa là những tay đại hành gia trên chốn giang hồ. Cương đao, khoái mã họ đều xem như bình thường, thế nhưng vừa nghe tiếng vó ngựa có điều khác lạ thì trên mặt không khỏi lộ vẻ kinh dị. Chỉ trong khoảnh khắc, con ngưa kia đã phi tới trước trang bảo. Tiếng trang đinh la ó lẫn với tiếng cánh cổng kẹt mở, rồi tiếng trang đinh té xuống huỳnh huỵch, tiếng khí giới rớt xuống đất loảng xoảng, náo loạn cả lên. Mọi người còn đang ngơ ngác nhìn nhau thì trước cửa sảnh đường đã thêm một người xuất hiện.

Tiếng vó ngựa lúc đầu nghe còn ở ngoài xa mấy dặm mà trong chớp mắt người này đã sấn vào trang bảo, thật thần tốc phi thường, khác nào sét đánh không kịp bưng tai. Quả là một chuyện hiếm có trên chốn giang hồ. Trong bảo nghe tin cảnh báo, dẫu có muốn chuẩn bị cự địch cũng không kịp chứ đừng nói gì đến chuyện bố trí nhân thủ. Quần hào sửng sốt, mục quang đều chú ý nhìn người mới đến.

Người này chừng năm chục tuổi, mình mặc áo bào vải rộng thùng thình. Môi trên hơi hếch. Mái tóc đã hoa râm. Khổ người vừa phải, hơi mập một chút. Miệng lão cười hề hề, mặt mũi hiền hòa. Tay mặt lão dắt đứa con gái lối mười hai, mười ba tuổi. Coi bộ dạng tựa hồ lão là một tài chủ ở nơi thôn dã hay là một nhà buôn trong tiểu thị trấn. Lão cũng buột miệng nói câu đầu lưỡi “Cung hỷ phát tài”. Giọng nói tuy quê mùa một chút nhưng thái độ dễ thân cận, khác hẳn với uy thế hung hãn lúc mới tiến vào.

Hồ Phỉ vừa nói có trợ thủ tới nơi chỉ là câu nói ẩu, hy vọng quần hào không kịp đề phong để chuồn đi cho lẹ, ngờ đâu lại xảy ra chuyện trùng hợp, quả có người tiến vào bảo thật. Gã nhân lúc mọi người đang chú ý nhìn lão béo mập bèn đi vòng ra phía sau quần hào, từ từ lén đến cửa sảnh đường. Trong lúc nhất thời, mọi người quên mất Hồ Phỉ còn Thương lão thái vẫn nhớ tới gã. Mụ chỉ nhìn lão mập một lần lúc lão mới vừa mới đến rồi mục quang thủy chung vẫn không dời khỏi Hồ Phỉ.

Mụ thấy gã toan trốn đi liền quát lớn một tiếng, rồi tung mình vung chưởng đánh tới sau lưng gã. Phát chưởng này là “Bối tâm đình”, một tuyệt chiêu trong “Bát Quái chưởng”. Nếu bị đánh trúng, Hồ Phỉ phải gãy xương đứt ruột, hộc máu ra mà chết ngay tại đương trường. Lão mập thấy mụ thi triển thủ pháp tàn độc để đối phó với một thằng nhỏ, bất giác “ối” lên một tiếng. Lão toan ra tay cứu viện thì thấy Hồ Phỉ chuyển động thân hình, tay trái gã khoằm xuống như móc câu đưa lên hất thủ chưởng của mụ sang một bên. Thế là gã hóa giải được tuyệt chiêu của Thương lão thái. Người mụ lảo đảo, xiêu đi ba bước mới đứng vững.

Lão mập thấy Hồ Phỉ là một đứa nhỏ gầy nhom mà đã có bản lãnh như vậy thì lấy làm lạ, bất giác liếc mắt nhìn gã luôn mấy lẫn. Vương Kiếm Anh thấy lão mập phảng phất như người quen nhưng nhất thời chưa nghĩ ra là ai, liền chắp tay hỏi:

– Cao tính đại danh tôn giá là gì? Đêm hôm khuya khoắt giá lâm có điều chi dạy bảo?

Lão già chắp tay trả lễ, đáp:

– Không dám. Tại hạ họ Triệu.

Vương Kiếm Anh chợt tỉnh ngộ, la lên:

– Ủa! Té ra là Triệu tam gia ở Hồng Hoa hội quang lâm. Xin tha thứ cho tiểu đệ mắt kém.

Quần hào nghe nói người trước mắt là đại đầu lĩnh Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn ở Hồng Hoa hội đều giật mình kinh hãi. Sáu, bảy năm trước đây, những anh hùng ở Hồng Hoa hội phóng hỏa đốt Ung Hòa cung, đại náo Tử Cấm Thành, đều là những vụ làm chấn động võ lâm. Sau đó Hồng hoa hội ra sao, không ai nghe tin nữa. Bạn hữu giang hồ đồn đại quần hùng quy ẩn ở Hồi Cương. Không ngờ bữa nay Triệu Bán Sơn đột nhiên xuất hiện ở đây.

Vương Kiếm Anh hồi còn thanh niên đã gặp mặt Triệu Bán Sơn ở tiêu cục một lần. Nhưng sự việc này cách đây ngoài hai chục năm, dung mạo Triệu Bán Sơn khác trước nhiều rồi, vì thế ban đầu hắn chưa nhớ ra được. Bây giờ hắn càng chú ý, vẻ mặt niềm nở hỏi:

– Triệu tam gia một mình tới Sơn Đông hay cùng các vị anh hùng nhất tề hạ sơn? Hồi sinh thời, gia phụ thường nhắc tới chúng anh hùng ở Hồng Hoa hội, tỏ ra rất quyến luyến.

Triệu Bán Sơn bản tính hiền hòa, bụng không định kiến nên hòa hợp với cả mọi người. Lão đáp ngay:

– Tiểu đệ có chút việc riêng mà phải một mình đến Sơn Đông. Xin hỏi lệnh tôn…

Vương Kiếm Anh nghe lão nói đi một mình đã yên tâm được phân nửa, bụng bảo dạ:

“Nếu lão kéo hết cả anh em trong hội hạ sơn thì công việc ở đây thật là khó lòng mà dàn xếp cho ổn thỏa được.”

Hắn liền đáp:

– Tiên phụ là Trấn Viễn tiêu cục…

Triệu Bán Sơn tiếp lời:

– Ủa! Té ra đây là hiền lang của Vương lão tiêu đầu. Lão tiêu đầu đã qua đời ra sao?

Vẻ mặt lão lộ vẻ buồn rầu, thực sự có lòng thương tiếc. Vương Kiếm Anh đáp:

– Tiên phụ qua đời đã năm năm. Còn đây là xá đệ Vương Kiếm Kiệt.

Hắn quay lại nhìn Vương Kiếm Kiệt nói tiếp:

– Triệu tam gia đây về Thái Cực quyền, Thái Cực kiếm và công phu ám khí là ba tuyệt kỹ thiên hạ vô song. Bữa nay chúng ta được gặp mặt thật là may mắn.

Vương Kiếm Anh toan giới thiệu tiếp mọi người thì Vương Kiếm Kiệt lòng dạ ngay thẳng miệng nhanh nhẩu, đã đỡ lời:

– Vị đây là Trần huynh cũng ở Thái Cực môn. Chắc hai vị quen biết nhau.

Hắn vừa nói vừa trỏ vào Thái Cực thủ Trần Vũ. Triệu Bán Sơn “ồ” một tiếng, nét mặt lão đang hiền hòa bỗng dưng nổi sát khí. Lão nhìn Trần Vũ từ đầu đến chân rồi lại từ chân ngược lên đầu. Trần Vũ thấy lão đột nhiên biến đổi sắc mặt thì thấy tình hình đã có điều không ổn, lại bị lão nhìn dữ quá càng thêm bỡ ngỡ. Con nhỏ do Triệu Bán Sơn dắt đến đột nhiên trỏ vào Trần Vũ, lớn tiếng:

– Triệu thúc thúc! Hắn đây rồi! Hắn đây rồi!

Thanh âm lanh lảnh, giọng nói đầy vẻ phẫn nộ. Trần Vũ thấy con nhỏ nước da hơi đen, trên mặt đầy vẻ thống hận mà hắn chưa gặp bao giờ. Hắn liền quay sang nhìn Vương Kiếm Kiệt nói:

– Triệu tam gia thuộc Nam phái trong Thái Cực môn ở Ôn Châu. Tiểu đệ cũng ở Thái Cực môn thuộc phủ Quảng Bình, tỉnh Trực Lệ. Bọn tại hạ ở một phái nhưng khác tông. Triệu tam gia vào hàng tiền bối, tiểu đệ trước nay vẫn đem lòng ngưỡng mộ.

Hắn nói rồi tiến lại chắp tay thi lễ, cực kỳ cung kính. Ngờ đâu Triệu Bán Sơn lờ đi như chẳng thấy gì, hai tay chắp để sau lưng, không thèm nhìn Trần Vũ. Lão quay lại bảo Vương Kiếm Anh:

– Vương huynh! Bữa nay tại hạ tới đây một cách đột ngột, xin có lời tạ lỗi cùng các vị.

Lão vừa nói vừa chắp tay xá một vòng. Quần hào vội đáp lễ, đồng thanh đáp:

– Không dám, không dám! Triệu tam gia khách sáo quá.

Trần Vũ tức đến lạnh người, tay chắp lại rồi không bỏ xuống nữa, hắn đứng trơ ra bụng bảo dạ:

– Ta có đắc tội với hắn bao giờ đâu? Tuy hắn oai danh lừng lẫy nhưng việc gì ta lại phải sợ hắn?

Vương Kiếm Anh trỏ vào Hồ Phỉ hỏi:

– Vị tiểu huynh đệ đây có điều xích mích với sư muội, do mối hiềm thù từ đời trước gây nên. Hiện giờ sư đệ của tại hạ đã qua đời, bọn tại hạ xin nể mặt Triệu tam gia mà bỏ qua vụ này không nhắc tới nữa. Chúng ta đình thủ nên chăng?

Hắn nói rồi nổi lên tràng cười ha hả. Nguyên hắn có bất hòa với Thương Kiếm Minh nhưng đã vô tình báo thù cho y, bây giờ hắn lại muốn lấy lòng Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn đang ngạc nhiên chẳng hiểu gì, thì Thương lão thái đã la lên:

– Cho dù là Triệu Bán Sơn hay Triệu Nhất Sơn gì đi nữa, đã đến Thương gia bảo cũng đừng hòng giở thói ngang tàng.

Triệu Bán Sơn hỏi lại:

– Vương huynh nói chuyện gì tiểu đệ chưa hiểu?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Vị này là chuyết kinh của tệ sư đệ. Triệu tam gia đừng chấp với mụ. Nào Tam gia hãy lại đây! Tiểu đệ mượn hoa kính Phật, mời Triệu tam gia một chung.

Hắn nói rồi cầm hồ rót rượu. Hồ Phỉ biết mình mà nói nữa là lập tức thò đuôi dối trá, liền lớn tiếng:

-Triệu tam gia! Bọn bị thịt này nói khoác lắm. Họ bảo bọn Hồng Hoa hội chỉ là phường giá áo túi cơm, lại còn khoe “Bát Quái chưởng” là công phu vô địch thiên hạ. Họ bảo một vị lão anh hùng trong bọn họ chỉ cần một thanh Bát Quái đao là có thể thu thập hết mọi nhân vật trong Hồng Hoa hội. Vãn bối nghe nói tức quá, bèn cãi lại. Nhưng bọn họ không chịu phục nên phải xảy ra cuộc động thủ. Triệu Tam gia! Tam gia nghĩ thử có tức không? Vụ này xin để cho Triệu tam gia bình luận.

Triệu Bán Sơn chưa hiểu họ tranh chấp việc gì. Nhưng ngày trước, Vương Duy Dương đã từng đối địch với Hồng Hoa hội là điều có thật. Hồng Hoa hội không thắng lão bằng võ lực mà chỉ dùng kế bức bách lão chịu thua, nên anh em Vương Kiếm Anh, Vương Kiếm Kiệt có nói vậy thì chỉ là để khoa trương bản lãnh anh hùng của phụ thân. Chuyện này cũng là thường tình. Lão nghĩ vậy liền cười đáp:

– Vương lão tiêu đầu võ công cao cường. Bọn tiểu đệ ai nấy đều mười phần bội phục.

Đột nhiên lão giương cặp mắt sáng như điện nhìn Trần Vũ nói:

– Trần sư phó! Mời sư phó ra ngoài kia để chúng ta nói chuyện với nhau.

Trần Vũ trong lòng run sợ hỏi:

– Giữa tại hạ và Triệu tam gia vốn không quen biết, chẳng hiểu tam gia có điều chi dạy bảo? Các vị bằng hữu đây đều là những hán tử quang minh lỗi lạc, tam gia có điều gì xin cứ nói ở đây cũng không sao.

Triệu Bán Sơn cười lạt rồi hỏi lại:

– Đây là cái nhục của Thái Cực môn chúng ta, sao lại để cho người ngoài biết?

Trần Vũ biến sắc lùi lại một bước, lớn tiếng đáp:

– Tam gia thuộc phái Thái Cực ở Ôn Châu, còn tại hạ thuộc phái Thái Cực ở Quảng Bình. Chúng ta đồng phái bất đồng tông. Tại hạ không can dự đến tam gia, tam gia cũng không can dự đến tại hạ.

Triệu Bán Sơn nói:

– Chỉ vì thủ đoạn của Trần huynh quá ư lợi hại nên Thái Cực môn ở phủ Quảng Bình không một ai dám ra mặt. Tại hạ từ đất Hồi Cương xa xôi muôn dặm tới đây, vừa tới Bắc Kinh nghe nói Trần huynh đã đến Sơn Đông liền lật đật chạy theo tìm kiếm. Quả thật là lưới trời lồng lộng.

Quần hào nghe nói bốn chữ “lưới trời lồng lộng” thì đều giật bắn cả người, không hiểu Trần Vũ đã làm việc gì sai quấy trong môn hộ khiến cho Triệu Bắc Sơn phải lặn lội đường xa muôn dặm để truy tầm hắn. Trần Vũ rất tài giỏi và lão luyện, nổi tiếng giang hồ đã lâu. Oai danh hắn tuy không vang dội bằng Triệu Bán Sơn nhưng cũng là nhân vật cự phách trong Thái Cực môn, huống chi ngoài Phúc công tử, hắn còn có hậu thuẫn khác rất lớn nên chẳng sợ gì Triệu Bán Sơn. Hắn liền xẵng giọng:

– Trước ta kính trọng ngươi, kêu ngươi là Triệu tiền bối là vì nể tuổi tác của ngươi. Hai phe Nam Bắc của Thái Cực môn đều có chỗ sở trường, chẳng lẽ ngươi uy hiếp được ta?

Vừa dứt lời hắn đã ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa” nhằm đánh vào bả vai Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn bôn ba mấy tháng, muôn dặm tân khổ cũng vì chiêu trước mắt này. Lão thấy Trần Vũ động thủ ra chiêu “Ngọc nữ xuyên thoa” liền hiểu ngay võ công của hắn đến trình độ nào. Lão liền cúi thấp xuống một chút ra chiêu “Vân Thủ” đẩy cổ tay mặt hắn ra bên phải. Trần Vũ chân đứng không vững, lập tức toàn thân bị kiềm chế. Nên biết các phái trong Thái Cực môn, về quyền chưởng đều đại đồng tiểu dị. Chỗ sai biệt mạnh hay yếu là do ngộ tính và công lực của từng người.

Ân Trọng Tường, một hảo thủ võ học ở Thiên Long môn, là chỗ bạn thân với Trần Vũ. Lúc hắn thấy Triệu, Trần hai người lời qua tiếng lại, hắn đã rút kiếm cầm tay, lăm le muốn động thủ. Bây giờ lại thấy Trần Vũ mới ra một chiêu đã thất bại, hắn liền cầm kiếm đâm tới sau lưng Triệu Bán Sơn, miệng quát:

– Buông tay ra!

Triệu Bán Sơn không quay đầu lại, tiện tay rút lấy thanh bội kiếm sau lưng Trần Vũ, vung ngược lại đón đỡ. Thủ pháp của lão rất chuẩn đích. Song kiếm dụng nhau đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Ân Trọng Tường bị gãy làm hai đoạn.

Triệu Bán Sơn lại đưa tay mặt đẩy một cái, thanh bội kiếm đã lọt vào bao trên lưng Trấn Vũ. Quần hào thấy lão chỉ một chiêu đã kiềm chế được hảo thủ Trần Vũ ở Thái Cực môn, chỉ một nhát kiếm đã chặt gãy trường kiếm của hảo thủ Ân Trọng Tường ở Thiên Long môn, quyền pháp kiềm chế địch thủ thì ảo diệu, thủ pháp đoạt lấy kiếm thì thần tốc, công phu đánh gãy kiếm thì tinh thuần, nhãn lực trả lại kiếm thì chuẩn xác, đều là những điều mà bình sinh họ khó gặp nên ai nấy đều cả kinh thất sắc.

Triệu Bán Sơn lạnh lùng hỏi Trần Vũ:

– Sao! Trần huynh có chịu đi ra hay không?

Trần Vũ nét mặt hết xanh lét lại đỏ bừng, trong lòng hoảng hốt không biết làm thế nào. Đột nhiên ánh kim quang lấp loáng. Bảy mũi kim tiêu chia ra thượng hạ tả hữu bắn tới Hồ Phỉ. Nguyên Thương lão thái nhận thấy hy vọng báo thù sắp tan thành mây khói, mụ liền nhân cơ hội quần hào đang chú ý nhìn vào Triệu Bán Sơn và Trần Vũ, bắn ra bảy mũi kim tiêu một cách đột ngột. Mụ chỉ cách Hồ Phỉ chừng hơn trượng lại phóng tiêu bất ngờ, đối phương muốn tránh khỏi cả bảy mũi tiêu thì thật là điều thiên nan vạn nan.

Mười mấy năm mụ ôm chí trả thù cho trượng phu, lại biết rõ võ công Miêu Nhân Phụng và Hồ Nhất Đao đã đến trình độ trác tuyệt, nên nếu động thủ một cách quang minh chính đại thì tuyệt không hy vọng thủ thắng mụ đã bôi chất kịch độc Huyết phong hầu vào mũi kim tiêu. Diễn biến xảy ra đột ngột. Hồ Phỉ la lên:

– Úi chao!

Gã vội nằm sấp xuống. Ba mũi tiêu bắn trên gã có thể tránh khỏi nhưng còn bốn mũi nhằm vào bụng dưới và hạ bàn thì chẳng còn cách nào tránh được. Triệu Bán Sơn tiến ra một bước, vươn cánh tay dài khoa một cái nắm lại. Bảy mũi kim tiêu mới bắn ra được nửa đường thì đã nằm gọn trong lòng tay của Triệu Bán Sơn. Ngoại hiệu của lão là “Thiên thủ Như Lai”. “Như Lai là để nói lòng dạ lão hiền từ. Còn “Thiên thủ” là nói về tài phóng ám khí và tiếp nhận ám khí chẳng khác gì một người có ngàn bàn tay. Môn chụp ám khí đúng là một tuyệt kỹ sở trường của Triệu Bán Sơn.

Mọi người chỉ thấy mắt hoa lên một cái, chưa kịp nhìn thấy rõ Triệu Bán Sơn ra tay như thế nào thì cả bảy mũi kim tiêu đã nằm gọn trong lòng tay lão. Đừng nói chỉ có bảy mà bảy lần bảy là bốn mươi chín mũi lão cũng chẳng coi vào đâu. Dưới ánh đuốc đầu mũi tên ánh lên màu hồng thẫm. Lão cầm đưa lên mũi ngửi quả thấy mùi thơm liền biết ngay đầu mũi tiêu có bôi chất kịch độc. Triệu Bán Sơn là một cao thủ về phóng ám khí nhưng lão rất căm hận kẻ nào dùng ám khí bôi chất độc. Người ta thường nói: Ám khí nguyên là một thứ khí giới của chính phái. Nó nhỏ mà đi được xa nên cùng với quyền cước, khí giới cũng là một trong tam đại môn về võ học. Chỉ kẻ nào đê hèn vô sỉ bôi chất độc vào ám khí thì mới bị người ta khinh bỉ.

Lão quay lại nhìn Thương lão thái, vẻ mặt hầm hầm, lên tiếng hỏi:

– Vương Duy Dương lão gia tử là bậc anh hùng, lão nhân gia có dạy người bôi chất độc vào ám khí không? Chẳng lẽ lão nhân gia lại dạy người đánh lén một cách hèn hạ như vậy? Huống chi lại dùng thủ đoạn đánh lén bằng ám khí bôi độc đối với một đứa nhỏ.

Lão nói mấy câu này đại nghĩa lẫm liệt khiến Vương thị huynh đệ không khỏi ngấm ngầm hổ thẹn.

Thương lão thái thấy Vương thị huynh đệ lẳng lặng cúi đầu, liền lớn tiếng hỏi lại:

– Ngươi là cái thá gì mà đến Thương gia bảo khinh người? Chỉ tiếc tiên phu ta là Thương Kiếm Minh chết rồi, trong Bát Quái môn không còn anh hung hảo hán nữa. Con ta còn nhỏ tuổi, còn ta là phận đàn bà nên đành chịu để ngươi khi vũ.

Đột nhiên mụ khóc rống lên nói tiếp:

– Kiếm Minh hỡi! Lão nhân gia chết đi rồi, Bát Quái môn chỉ còn lại một lũ chó má đi bợ đỡ người ngoài, không còn một kẻ nào khí phách hào hùng để giữ được cái danh cho môn hộ nữa. Kiếm Minh hỡi! Mai đây tiện thiếp cho thằng con của lão nhân gia quy đầu Thái Cực môn để gã khỏi chịu cảnh bị bôi tro trát trấu trên chốn giang hồ. Cả một lũ chúng để người ta khinh rẻ. Kiếm Minh hỡi! Nhớ lại thuở xưa lão nhân gia là bậc anh hùng lỗi lạc. Nếu sớm biết ngày nay cơ sự lại đến nông nỗi này thì thà bỏ quách thanh Bát Quái đao này vào quan tài để nó khỏi bị nhơ nhuốc.

Mụ khóc một tiếng lại thóa mạ mấy câu, rồi quẳng thanh Bát Quái đao xuống đất, dẫm chân lên, nhổ nước bọt vào. Anh em họ Vương giận run người nhưng không tiện để cảnh đồng môn gây lộn diễn ra trước mặt người ngoài. Triệu Bán Sơn nóng lòng đem Trần Vũ đi nhưng lão thấy Thương lão thái dùng thủ đoạn tàn độc đối phó với Hồ Phỉ, nên lão nghĩ rằng nếu mình mà bỏ đi thì thằng nhỏ kia tất gặp độc thủ. Tuy lão chẳng có quan hệ dây mơ rễ má gì với Hồ Phỉ, nhưng giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng thể nhắm mắt làm ngơ. Lão liền nhìn Vương thị huynh đệ chắp tay nói:

– Thằng nhỏ này để tại hạ đưa đi. Ngày sau sẽ có dịp tạ lại tấm thịnh tình của hai vị.

Vương Kiếm Anh chưa kịp trả lời, Thương lão thái lại vừa khóc vừa la:

– Kiếm Minh hỡi! Lão nhân gia chết sớm là xong chuyện, khỏi phải thấy những chuyện mất mặt này. Sư đệ của chàng mang tiếng là một tay hảo thủ ở Bát Quái môn nhưng bản lãnh không bằng một thằng nhỏ mười mấy tuổi đầu. Cả thanh đao cũng bị người đoạt mất. Sư huynh của lão nhân gia càng sợ thằng nhỏ, chỉ mong gã mau chóng đi cho xa.

Vương Kiếm Anh bị mụ chửi móc không nhẫn nại được lớn tiếng quát:

– Câm miệng!

Hắn quay sang nhìn Triệu Bán Sơn nói:

– Triệu tam gia! Vừa rồi sư muội của tại hạ nói gì tam gia đã nghe rõ. Chẳng phải tại hạ không nể mặt Triệu tam gia, nhưng nếu để thằng nhỏ này ra đi như vậy thì Bát Quái môn khó còn đất đứng trên chốn giang hồ, mà tại hạ cũng chẳng còn mặt mũi nào làm người được nữa.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm:

“Hắn nói câu này là tình thật.”

Lão quay sang bảo Hồ Phỉ:

– Hài tử, ngươi đắc tội với hai vị Vương sư phó ra sao? Mau dập đầu xin lỗi rồi hãy đi theo ta!

Triệu Bán Sơn là tay già dặn nhưng lần này lão lại lầm lẫn. Vừa rồi lão thấy Hồ Phỉ đánh nhau với Thương lão thái, thân thủ gã tuy không kém cỏi nhưng dù sao cũng chỉ là một đứa nhỏ. Ngờ đâu Hồ Phỉ bản tính cao ngạo không chịu cúi đầu trước người khác một cách dễ dàng. Gã cười hỏi:

– Triệu Tam gia! Tam gia bảo họ dập đầu trước vãn bối ư? Vãn bối không dám đâu.

Triệu Bán Sơn ngạc nhiên, bụng bảo dạ:

“Sao thằng nhỏ này lại tranh hơn đến thế?”

Vương Kiếm Anh cũng tưởng Hồ Phỉ xin lỗi thì mọi việc xem như xong, không ngờ lại nghe gã trả lời như vậy, trong lòng hắn phẫn nộ đến cực điểm. Có điều trước mặt Triệu Bán Sơn, hắn không muốn để lộ ra mình là người thiếu công phu hàm dưỡng, nên hắn ráng giữ vẻ thản nhiên nói:

– Tiểu đệ! Võ công của tiểu huynh đệ khá lắm, trách nào tiểu huynh đệ chẳng có tính cuồng ngạo. Nào! Vương mỗ muốn lãnh giáo mấy chiêu.

Hồ Phỉ nhảy vào giữa sảnh đường, vung quyền nhằm vào mũi Vương Kiếm Anh đánh véo một cái. Vương Kiếm Anh tủm tỉm cười, tiện tay vung chưởng ra. Phát chưởng này lúc vừa đánh ra thì nhẹ nhàng nhưng tới nửa chừng thì gió rít lên vù vù xô vào mặt Hồ Phỉ. Triệu Bán Sơn lẩm bẩm:

– Gã họ Vương hưởng được gia học uyên nguyên. Chưởng kình của y quả nhiên không phải tầm thường.

Lão sợ phát chưởng đó đánh trọng thương Hồ Phỉ liền nghiêng người về phía trước một chút, đề phòng gặp lúc nguy cấp là phóng chưởng đánh vào hậu tâm họ Vương để làm tiêu giảm chưởng lực của hắn. Ngờ đâu thân pháp Hồ Phỉ mau lẹ dị thường. Gã nghiêng người đi khiến phát chưởng của Vương Kiếm Anh đánh trệch sang một bên. Nhưng Vương Kiếm Anh là đệ nhất cao thủ trong Bát Quái môn hiện nay, tả chưởng đánh chênh chếch tới, hữu chưởng không chậm một giây từ bên phải phía trên đánh xéo xuống dưới bên trái phía trên. Hồ Phỉ giơ song quyền lên! “Bốp” một tiếng, phát chưởng kia đánh trúng vào thoi quyền của gã. Hồ Phỉ la lên:

– Úi chà! Đau quá!

Đột nhiên gã ra chiêu “Trầm trưu cầm nã”, vươn tay chụp vào huyệt Khúc Trì bên tay trái Vương Kiếm Anh. Chiêu này cực kỳ quái dị. Vương Kiếm Anh sửng sốt lùi lại một bước. Thương lão thái và Mã Hành Không đưa mắt nhìn nhau, ai cũng tự hỏi:

– Tại sao thằng nhỏ này lại biết sử quái chiêu đó?

Nguyên bữa trước Diêm Cơ cướp tiêu, khi động thủ cùng Mã Hành Không, hắn đã thi triển mười mấy quái chiêu. Trong đó có chiêu “Trầm trưu cầm nã”.

Vương Kiếm Anh lùi lại một bước rồi sử chiêu “Mãnh hổ phục thung”, phóng chưởng đánh vào cánh tay trái Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay nửa mình, móc chân đá ngược lại thành quái chiêu “Câu thối phản thích”. Diễn biến này dĩ nhiên khiến cho bọn Mã Hành Không phải kinh ngạc, mà ngay cả nhân vật biết nhiều hiểu rộng là Triệu Bán Sơn cũng lấy làm lạ. Vương Kiếm Anh thấy chiêu pháp của Hồ Phỉ có ẩn ý muốn làm nhục mình, liền tự nhủ:

“Nếu không cho thằng lỏi này nếm mùi đau khổ, tất khiến ngươi coi thường Bát Quái môn.”

Tuy hắn động thủ với Hồ Phỉ mà thực ra hắn không coi thằng nhỏ là đối thủ của hắn chỉ nhằm để cho đại hành gia đứng bên là Triệu Bán Sơn theo dõi. Do đó, hắn ra tay ngưng trọng, di chuyển ung dung, không dám để mất thân phận của một danh gia võ học. Vì trong lòng có ý nghĩ như vậy nên hắn không ngại chiêu số kém bề tàn độc, mà chỉ sợ Triệu Bán Sơn coi thường mà nói “Cao đệ của danh môn mà sao bản lĩnh lại hời hợt đến vậy?”. Lúc này chưởng pháp của Vương Kiếm Anh rất kín đáo, chẳng lộ chỗ nào sơ hở, nhưng muốn kiềm chế đối phương trong vòng mấy chiêu lại không thể được.

Thương Bảo Chấn khổ công rèn luyện “Bát Quái chưởng” từ thuở nhỏ, nay gã thấy vị đại sư bá này ra tay bình thường chẳng có gì chi kỳ dị, lại sử dụng toàn những chiêu số sơ đẳng nhất trong “Bát Quái chưởng”, thì cho là sư bá úy kỵ Triệu Bán Sơn, chỉ kéo dài cuộc đấu chứ không có ý trả thù cho phụ thân, nên trong lòng gã ngấm ngầm oán hận. Gã có biết đâu chưởng pháp của Vương Kiếm Anh trong cái bình thường đã ẩn giấu công phu hơn mười năm rèn luyện.

Ban đầu Hồ Phỉ còn nhảy nhót tung ra những quái chiêu nhưng về sau gã hoàn toàn bị chưởng phong của đối phương vây hãm. Vương Kiếm Anh huy động chưởng lực dần dần kiềm chế được Hồ Phỉ, khiến gã mỗi khi phóng ra một quyền hay đá một cước thì lập tức bị chưởng lực của “Bát Quái chưởng” đánh bật trở lại.

Nếu như lúc này Vương Kiếm Anh muốn phát huy kình lực đả thương Hồ Phỉ thật chẳng khó gì, nhưng hắn muốn phô trương thân thủ trước mặt Triệu Bán Sơn, quần cho Hồ Phỉ sức cùng lực kiệt đến mức phải quỳ xuống xin tha mới thôi. Bản thân hắn thì thủy chung vẫn ung dung nhàn nhã.

Nên biết cảnh giới khó đạt nhất của võ thuật là luyện đến trình độ cất vật nặng cũng như vật nhẹ, dùng sức không phải phí sức, phát kình mà không thấy dụng kình. Mọi danh gia võ học rèn luyện võ công tới chỗ tối hậu đều nhắm đến cảnh giới này. Còn lúc tỷ đấu mà quát tháo hùng hổ, nhễ nhại mồ hôi, hơi thở hồng hộc, dĩ nhiên là cách kém nhất.

Triệu Bán Sơn hiểu chỗ dụng ý của Vương Kiếm Anh, tự nhủ:

“Đã vậy thì thằng nhỏ này tạm thời chưa lo gì đến tính mạng, ta hãy coi xem gã còn chống chọi được bao lâu?”

Lão thấy Hồ Phỉ không tự chủ được để chưởng lực của đối phương kéo đi. Chân gã bước loạng choạng, đột nhiên người gã ngã lăn ra, tay phải chống xuống đất, hai chân đồng thời quét ngang. Đây lại là một quái chiêu. Vương Kiếm Anh nhảy lên tránh khỏi. Hồ Phỉ ngồi dậy, hai chân đá lên theo kiểu liên hoàn. Chỉ trong chớp mắt gã đã phóng ra bảy tám cước vừa quái dị vừa mau lẹ.

Trong quyền pháp vốn có chiêu số “Liên hoàn uyên ương thối” nhưng sau khi chân trái đá ra rồi, chân phải liền đá tiếp theo, nhưng chung quy vẫn phải có một chân tựa trên mặt đất, cho nên dù mau lẹ đến đâu cũng có mức độ.

Đằng này Hồ Phỉ ngồi dưới đất, hai chân tung lên đá, phóng cước nhanh như điện. Diễn biến này khiến cho Vương Kiếm Anh tay chân luống cuống. Mã Hành Không và Thương lão thái lại đưa mắt nhìn nhau nghĩ bụng:

“Quái chiêu này Diêm Cơ chưa hiểu. Xem chừng sở học về võ công của thằng nhỏ này còn nhiều hơn cả hắn.”

Quả nhiên không ngoài điều hai người dự liệu, Hồ Phỉ xoay mình một cái lập tức hai khuỷu tay thúc về đằng sau. Hiện thời gã và Vương Kiếm Anh đấu lưng vào nhau. Người Hồ Phỉ đã thấp, ra chiêu lại mau, hai khuỷu tay gã thúc trúng mông Vương Kiếm Anh. Mông đít bắp thịt dày, còn Hồ Phỉ người nhỏ sức yếu, lại ra chiêu bằng khuỷu tay nên chẳng thể đả thương được đối phương, khiến cho mọi người đứng xem không nhịn được cười.

Vương Kiếm Anh nổi nóng, xoay mình phóng chưởng đánh véo vào trước ngực Hồ Phỉ. Lúc này mặt hắn trở nên hung đữ, chẳng còn chi là phong độ ung dung tiêu sái nữa. Triệu Bán Sơn thở dài nghĩ bụng:

“Con của Vương Duy Dương đất Hà Sóc không thể bì dược với phụ thân rồi!”

Lão một mặt theo dõi cuộc đấu, mà ánh mắt thủy chung vẫn không rời Trần Vũ một giây, quyết chẳng để cho hắn thừa cơ tẩu thoát.

Hồ Phỉ thấy song chưởng của đối phương đánh rát như gió táp mưa sa, trong lòng không khỏi kinh hãi. Vương Kiếm Anh là tay cao thủ hạng nhất võ lâm, Hồ Phỉ chỉ ỷ vào những quái chiêu gia truyền trong quyền phổ khiến đối thủ có điều úy kỵ, nhờ vậy mà gã mới miễn cưỡng chống chọi được một lúc rồi lâm vào tình trạng nguy ngập.

Thực ra trong “Hồ gia quyền phổ” ghi những quái chiêu này chỉ dùng để luyện công, mục đích là rèn luyện thân thủ chứ không mong khắc địch chế thắng. Còn những chiêu số chân chính cùng người động thủ thì được chép vào các trang sau cùng của quyền phổ. Hồ Phỉ công lực chưa đủ, khó bề lĩnh hội, chỉ thi triển được mấy chiêu thức dùng làm căn bản cho việc luyện công. Nếu những bậc đại hiệp nổi tiếng một thời như Phi Thiên Hồ Ly, hay Hồ Nhất Đao mà lúc động thủ với người lại giở những chiêu quái dị chẳng ra thể thống như thế, chẳng hóa ra tự đánh mất thân phận mình?

Lại đấu thêm mười mấy chiêu, Hồ Phỉ né tả tránh hữu cực kỳ khổ sở. Đột nhiên Vương Kiếm Anh tả chưởng đưa ra ngoài, Hồ Phỉ né mình qua bên phải tránh khỏi, thì Vương Kiếm Anh tay mặt ra chiêu Du không thám trảo đánh xéo xuống. Chiêu này vừa nhanh vừa mạnh. Hồ Phỉ vội hạ thấp vai xuống, tuy chưởng lực của đối phương đã bị lực đá của gã làm giảm đi bảy thành mà vẫn xô gã té nhào. Quần hào bật tiếng la hoảng. Vương Kiếm Anh lại vung chưởng đánh xuống. Triệu Bán Sơn cả giận nghĩ thầm:

“Ngươi là một nhân vật đã thành danh, thằng nhỏ đã bị đánh ngã sao còn hạ độc thủ?”

Công phu Thái Cực quyền của lão tuyệt ở chỗ tung ra chậm mà lại đến trước, phát động sau mà chế ngự được người. Chiêu số của địch nhân càng mạnh bao nhiêu thì bên mình càng thu hiệu quả lớn bấy nhiêu. Lão chỉ chờ chưởng của Vương Kiếm Anh gần tới thân hình Hồ Phỉ là lập tức phát chiêu giải cứu.

Đột nhiên ánh thanh quang lấp loáng. Vương Kiếm Anh vội thu tả chưởng về, nghiêng mình đi, đưa chân lên. Nguyên Hồ Phỉ lúc té xuống nhìn thấy nửa thanh kiếm bên mình. Đó là khúc kiếm gãy của Ân Trọng Tường còn bỏ đó. Trong lúc nguy cấp Hồ Phỉ vươn tay lượm lấy đâm vào chưởng tâm của địch thủ. Gặp diễn biến kỳ ảo này, nếu Vương Kiếm Anh không né tránh mau lẹ thì bàn tay bị đâm thủng cũng không có chi là lạ. Hồ Phỉ ra một chiêu đắc thủ, liền lập tức lăn người tới. Tay trái gã bám xuống đất, tay phải dùng thanh kiếm gãy cắt một mảnh vạt áo để bọc lấy khúc kiếm rồi cười nói:

– Vương đại gia! Cánh tay tại hạ ngắn quá mà cánh tay đại gia lại dài, hai người chúng ta tỉ võ không được công bằng. Bây giờ tại hạ tiếp tay phải dài hơn một chút, nếu đại gia thấy sợ thì lấy Bát Quái đao ra chiến đấu.

Từ đời Phi Thiên Hồ Ly trở xuống, Hồ gia trải mấy đời đều thông minh mưu trí. Hồ Phỉ biết mình tay không chẳng thể địch lại liền thừa cơ lượm thanh kiếm gãy làm bình khí. Nhưng gã sợ đối phương cũng sử dụng đao kiếm liền đưa lời nói khích trước.

Vương Kiếm Anh địa vị cao cả, dù biết mình thua thiệt cũng đành, khi nào chịu dùng đao đối phó với gã. Hắn cho là dù gã có cầm một thanh kiếm gãy cũng chẳng làm gì nổi, liền đằng hắng một tiếng rồi dùng cầm nã thủ trong “Bát Quái chưởng” toan bắt lấy cổ tay cầm kiếm của Hồ Phỉ, còn tay trái hắn phát huy kình lực nhắm đánh vào mặt gã. Hồ Phỉ xoay mũi kiếm lại dùng làm cây nga mi thích để ra chiêu. Đột nhiên gã đưa tay trái lên lột cái mũ da trên đầu xuống cầm lấy, cười nói:

– Tay phải tại hạ có mũi kiếm, tay trái có lá chắn, thử coi các hạ còn làm gì được nữa không?

Gã giơ cái mũ ra làm tấm chắn để chặn tả chưởng của đối phương. Vương Kiếm Anh mắng thầm:

“Thằng lỏi thối tha này, mi đỡ đòn như vậy thì tay trái tất nhiên phải gãy.”

Hắn liền vận thêm ba phần kình lực đánh vào cái mũ rách. Đột nhiên vương Kiếm Anh “ối” lên một tiếng, rồi nhảy lùi lại hơn một trượng. Tiếng rú của hắn rất thê thảm tựa hồ bị trọng thương. Quần hào nhìn lại thấy lòng tay hắn máu chảy đầm đìa, chẳng hiểu vì sao mà bị thương. Vương Kiếm Anh phẫn nộ đến cùng cực, trỏ tay vào mặt Hồ Phỉ quát mắng:

– Ngươi… ngươi giấu vật gì trong cái mũ rách kia?

Hồ Phỉ đặt mũ đội lên đầu, tay trái rút ra một mũi kim tiêu. Gã cười đáp:

– Đây chính là ám khí của Bát Quái môn chứ đâu phải của tại hạ đem đến. Tại hạ vừa tiện tay lượm được một mũi định giấu để đem về chơi, nhưng các hạ nhất định đòi phanh phui cho ra sự thật. Được rồi! Mũi kim tiêu nhỏ bé này tại hạ cũng chẳng cần gì.

Gã nói rồi giơ tay lên nhằm trước ngực đối phương bắn tới. Vương Kiếm Anh nghiêng mình, chộp một cái, tay vươn ra ý định là bắt mũi kim tiêu. Hắn nghiêng mình trước rồi mới vươn tay đủ tỏ hắn vẫn có lòng úy kỵ Hồ Phỉ, hắn sợ thủ pháp phóng tiêu của gã vô cùng quái dị, nếu bắt sểnh thì mũi tiêu sẽ bay vào trúng ngực. Ngờ đâu hắn vươn tay ra chụp vào quãng không, Hồ Phỉ tay làm ra thế phóng tiêu về phía trước mà thực ra gã đã vận kình vào ngón tay bắn mũi kim tiêu ra đằng sau.

Đứng sau lưng Hồ Phỉ lúc này là Thương lão thái. Mụ bỗng thấy ánh vàng lấp loáng, mũi kim tiêu đã bay tới trước mặt, vội rụt đầu xuống. “Bụp” một tiếng, mũi kim tiêu xuyên vào làm cho búi tóc mụ rung rinh. Thương Bảo Chấn kinh hãi rụng rời, vội nhảy xổ lại trước mặt mẫu thân, hỏi:

– Má má! Má má có bị thương không?

Từ lúc Hồ Phỉ động thủ, cơ hồ mỗi chiêu mỗi thức đều quái dị khiến người ta khó lòng đề phòng. Cách phát tiêu quái dị này càng khiến mọi người thêm hoang mang. Quần hào thấy Thương lão thái chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc lại càng kinh hãi. Triệu Bán Sơn vuốt râu mỉm cười. Lão tự nhủ:

“Cách giơ tay lên phía trước mà phóng tiêu về phía sau nguyên là món sở trưởng của ta. Nếu ta mà động thủ thì đến mười mụ Thương lão thái cũng phải chết hết. Có điều cái vẻ mặt tỉnh khô như thật của gã, chắc ta không theo kịp.”

Lão vội nói ngay:

– Vương sư huynh! Hãy mau giữ lấy huyệt “Mạch môn”. Đầu mũi tiêu có chất độc.

Thương Bảo Chấn run lên nói:

– Để tiểu điệt đi lấy thuốc giải.

Gã nói rồi chạy vào nhà trong. Vương Kiếm Anh tính tình cũng ương bướng cố chấp chẳng kém gì tiên phụ hắn, nhưng lòng bàn tay hắn bị mũi kim tiêu đả thương ngứa ngáy tê nhức, nên khi nghe Triệu Bán Sơn nói vậy, hắn liền dùng tay phải xé mảnh vạt áo buộc chặt cổ tay trái lại. Mặt hắn xám xanh. Vương Kiếm Kiệt rất quan tâm đến huynh trưởng vội chạy lại buộc giúp. Vương Kiếm Anh hất tay trái lên quát:

– Lui ra!

Vương Kiếm Kiệt không đề phòng bị hắn bất tay, phải lùi lại hai bước. Hắn sửng sốt la lên:

– Đại ca!

Vương Kiếm Anh giơ bàn tay bị thương lên đánh vù xuống đầu Hồ Phỉ, chân hắn chạy như bay. Hắn đã thi triển tuyệt chiêu “Du thân bát quái chưởng”.

Bây giờ hắn quyết chẳng dung tình, muốn giết cho bằng được thằng nhỏ khả ố và xảo quyệt kia.

Hồ Phỉ từ khi học thành võ nghệ, lần đầu tiên gã đối địch với Thương Bảo Chấn. Kế đó đối chiến với Thương lão thái và Vương Kiếm Kiệt. Bây giờ lại đấu chưởng với Vương Kiếm Anh là đối thủ thứ tư. Gã càng đánh lâu trong lòng lại càng sáng suốt, không còn sợ sệt gì nữa. Gã hết sức dùng cái khéo để bổ sung vào chỗ công phụ chưa đủ. Gã đã lãnh giáo chiêu số “Du thân bát quái chưởng” ở nơi Vương Kiếm Kiệt. Lúc đó gã chân tay luống cuống, suýt nữa mất mạng dưới lưỡi đao đối phương. Hiện giờ gã đã hiểu rõ chỗ ảo diệu bên trong, biết rằng nếu mình cũng xoay chuyển loạn lên theo địch nhân tất đi vào chỗ đầu nhức mắt hoa.

Chỉ trong chớp mắt, Vương Kiếm Anh đã xoay đến phía sau Hồ Phỉ. Hồ Phỉ chợt nhớ trong “Hồ gia quyền phổ” có môn “Tứ tượng bộ”. Bộ pháp tuy đơn giản nhưng tựa hồ có thể dùng được. Gã không kịp suy nghĩ nhiều, vừa thấy địch nhân chuyển tới sau lưng, lập tức khoa chân tiến về phía trước một bước. Lúc này, Vương Kiếm Anh đã đánh vù ra một chưởng vào hậu tâm của Hồ Phỉ.

Quần hào thấy môn hộ sau lưng Hồ Phỉ sơ hở rất lớn, chẳng phòng bị gì không khỏi lo thay cho gã. Dè đâu gã nhẹ nhàng tiến về phía trước khiến cho phát chưởng của Vương Kiếm Anh đánh vào quãng không. Môn “Du thân Bát quái chưởng” một khi đã chuyển động là không dừng lại. Bất luận phát chưởng đánh ra có đánh trúng hay không, chân vẫn cất bước đều, tay vẫn phát chưởng liên miên không dứt. Hồ Phỉ mặt hướng về cửa sảnh đường nhìn thấy Vương Kiếm Anh bước lẹ qua bên phải, lập tức khoa chân bước qua bên trái. Đúng vào lúc Vương Kiếm Anh phóng chưởng khiến phát chưởng đó lại đánh vào quãng không.

Nên biết Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lương Nghi sinh Tứ tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái. Do vậy pho Tứ Tượng bộ cùng “Bát Quái Chưởng” theo nguyên lý có chỗ tương đồng. Tứ Tượng bộ trong “Hồ Gia quyền phổ” là bộ pháp nhập môn để luyện tập quyền cước khí giới, chứ không dùng để đả thương địch. Hồ Phỉ đã sớm luyện công phu này rất thuần thục.

Lát sau gã chống mạnh hai tay, ngưng thần chăm chú nhìn đối thủ, không lý gì đến việc Vương Kiếm Anh có ra chiêu hay không, chỉ thấy hắn chuyển qua bên trái là gã bước sang bên phải. Hắn chạy về phía trước thì gã lại lùi lại phía sau. Như vậy, bất luận đối phương chợt trước chợt sau, chợt đông chợt tây, gã chỉ cần quanh đi quẩn lại với bốn bước: tới, lui, qua trái, qua phải. Điều kỳ diệu ở chỗ các bước chân gã lại phù hợp sít sao với phương vị Bái quái của bộ pháp “Bát Quái chưởng”. Mỗi lần gã khoa chân bước đều hợp với hành động của đối thủ, tựa hồ như gã và Vương Kiếm Anh đã cùng nhạu luyện tập lâu ngày.

Phép “Du thân bát quái chưởng” hễ đã động thủ là phải liên tục đánh ra bốn lần tám thành ba mươi hai chiêu. Vương Kiếm Anh càng đánh không trúng càng nóng nảy, cả đầu ngón tay cũng không đụng được người Hồ Phỉ. Triệu Bán Sơn thấy thế cuộc đấu không khỏi than thầm:

“Gã này học được tuyệt nghệ của phụ thân nhưng chỉ khư khư theo khuôn phép, lúc lâm địch chẳng biết tùy cơ ứng biến. Xem chừng Vương Duy Dương không còn ai kế tục được nữa rồi.”

Lão thấy Vương Kiếm Anh đã sử xong ba mươi hai chiêu “Bát Quái chưởng” trong đệ nhị tiết thì Thương Bảo Chấn đã lấy thuốc giải ra, miệng hô:

– Đại sư bá! Đại sư bá uống thuốc rồi hãy thu thập thằng nhỏ đó.

Lúc này Vương Kiếm Anh cảm thấy tay trái dần dần tê dại, không sử dụng theo ý muốn được nữa thì biết là chất độc đã chạy ngược lên. Hắn liền nhảy ra ngoài vòng đấu, đón lấy thuốc giải uống. Triệu Bán Sơn nói:

– Vương sư huynh! Tại hạ xem chừng…

Vương Kiếm Anh biết lão sắp đưa ra lời khuyên giải. Nếu để lão nói ra rồi mà không nghe theo là không nể mặt lão, nên hắn liền xua tay gạt đi rồi nhảy vào vung chưởng lên đánh Hồ Phỉ. Bộ pháp của hắn cực ngắn mà mà phát chưởng rất trầm trọng. Thì ra hắn đã sử dụng đến tuyệt kỹ lợi hại nhất của Bát Quái môn là “Nội Bát Quái chường”. Trước đây Vương Kiếm Kiệt chỉ mới đánh nhứ một đòn “Nội Bát Quái” mà đã khiến cho Thương Bảo Chấn phải bó tay. Công phu của Vương Kiếm Anh còn tinh thâm hơn Vương Kiếm Kiệt nhiều. Môn “Nội Bát Quái chưởng pháp” ra tay tuy ngắn mà cực kỳ tàn độc. Hồ Phỉ mới tiếp ba chiêu đã cảm thấy không chống nổi. Gã la thầm:

– Hỏng bét!

Gã thấy đối phương bước qua bên trái vội cất chân dẫm lên mu bàn chân của đối phương. Vương Kiếm Anh quát mắng:

– Ngươi muốn chết chăng?

Chân trái hắn co lại, lúc đưa chân phải ra liền trật khỏi phương vị bát quái. Vương Duy Dương khi dạy con luyện võ nghệ thì quy định rất nghiêm khắc, không cho phép sai trật mảy may. Người con lớn của lão bản tính lại cố chấp, lúc lâm địch, chân có đạp đúng phương vị mới chịu ra chiêu. Hồ Phỉ chờ lúc Vương Kiếm Anh xê dịch lại hai chân cho đúng phương vị liền nhằm mu bàn chân hắn đạp vào. Cách đánh ẩu này thì những bậc anh hùng thành danh không đời nào thèm làm nhưng Hồ Phỉ lại bướng bỉnh lỳ lợm, gã phóng chân đạp liền mấy cái, khiến Vương Kiếm Anh tâm thần hơi rối loạn.

Vương Kiếm Anh bị gã dẫm lên chân mấy lần, đã thấy hoảng hốt. Hồ Phỉ tận dụng cơ hội, đột nhiên phóng chưởng đánh vào bụng dưới đối phương. Vương Kiếm Anh quái:

– Giỏi lắm!

Hắn đưa cả song chưởng tiếp chưởng đối phương. Lúc này đã thành thế hai bên đối chưởng thực sự, không còn chỗ nào để đưa cái khôn khéo vào được. Hồ Phỉ toàn thân chấn động, tay trái gã đẩy chưởng ra nhưng cảm thấy áp lực của đối phương trầm trọng vô tỷ. Lúc này gã mà thoái nhượng thì lập tức nội tạng gã sẽ bị chưởng lực đối phương làm cho bị thương nên đánh ra sức chống chọi. Triệu Bán Sơn thấy Hồ Phỉ sắp thất bại đến nơi liền cười nói:

– Hài tử! Ngươi thua rồi. Còn liều mạng làm chi?

Lão đưa tay ra khẽ vỗ vào lưng Hồ Phỉ, một luồng nội lực truyền qua người gã. Vương Kiếm Anh liền cảm thấy hai tay tê chồn, trước ngực nóng lên. Hắn vội thả tay lùi lại. Triệu Bán Sơn nói:

– Vương huynh! Công lực của Vương huynh cao thâm hơn thằng nhỏ này nhiều, còn tỷ thí làm chi nữa?

Lão lại khẽ vỗ vai Hồ Phỉ khen ngợi:

– Giỏi lắm! Giỏi lắm! Chỉ năm sáu năm nữa thì cả ta cũng không phải địch thủ của ngươi.

Lão nói câu này dĩ nhiên bảo họ Vương không ăn thua gì đâu. Vương Kiếm Anh mặt nóng lên, hắn tự biết công phu mình còn kém Triệu Bán Sơn xa. Hắn muốn đáp lại mấy câu để gỡ thể diện, nhưng với một đứa nhỏ thì không biết phải nói sao, bất giác đứng ngây người ra. Vương Kiếm Kiệt thấy bàn tay trái của huynh trưởng tím đen, hiển nhiên trúng độc rất nặng liền nhìn Thương lão thái hỏi:

– Có thuốc giải độc rịt ngoài da không?

Thương lão thái lắc đầu. Triệu Bán Sơn lấy trong áo ra một cái bình nhỏ màu hồng, mở nút ra nói:

– Tại hạ có tự chế một ít giải độc tán khá công hiệu.

Vương Kiếm Kiệt biết lão là một đại hành gia về môn ám khí, lão không mang thuốc giải thì chẳng nói làm chi, mà đã mang theo tất nhiên công hiệu như thần. Hắn rất lo âu về an nguy của huynh trưởng, liền đưa tay ra. Triệu Bán Sơn đổ vào bàn tay hắn một chút thuốc tán, cười nói:

– Bấy nhiêu là đủ rồi.

Hành động này khiến cho Vương thị huynh đệ chẳng thể nào làm khó dễ Hồ Phỉ nữa.

Chương 04: Lửa dữ thiêu thiết sảnh

Triệu Bán Sơn tay chắp sau lưng, bước lui bước tới trong sảnh đường, miệng dõng dạc nói:

– Chúng ta học võ nghệ, công phu dĩ nhiên người hơn người kém, chỉ cần tâm địa quang minh lỗi lạc, hành động không hổ thẹn với trời đất là quý. Còn công phu cao thâm dĩ nhiên là hay, song võ nghệ có kém một chút cũng vẫn được người kính trọng. Triệu mỗ bình sinh rất căm giận những kẻ tiểu nhân đê hèn vô liêm sỉ làm những việc độc ác.

Lão nói mỗi lúc một nghiêm khắc, hai mắt trừng trừng nhìn Trần Vũ. Trần Vũ cúi đầu xuống không dám nhìn thẳng vào mắt lão. Đột nhiên hắn liếc mắt, người giật bắn lên.

Nguyên Thương lão thái phát ra bảy mũi kim tiêu đều bị Triệu Bán Sơn bắt lấy liệng rơi xuống đất. Hồ Phỉ dùng một mũi đâm Vương Kiếm Anh rồi để đó hai bên đối chưởng, những mũi tiêu vẫn còn bỏ dưới đất. Lúc này Triệu Bán Sơn bước lui bước tới trong sảnh đường, chân lão ngầm vận kình lực dẫm lên bảy mũi kim tiêu cho ngập xuống nền gạch. Mũi tiêu và mặt gạch phẳng lỳ lại rất ngay ngắn. Mọi người thấy Trần Vũ biến sắc liền ngó theo nhãn quang hắn, đều lấy làm kinh dị. Ai cũng hiểu lão để lộ chút công phu này một là để cảnh cáo Thương lão thái đừng dùng ám khi có bôi chất độc nữa, hai là bức bách Trần Vũ phải đi ra ngoài để tính sổ, khiến người ngoài không ai dám cản trở.

Trần Vũ đảo mắt nhìn quanh, thấy anh em Vương Kiếm Anh đang lăng xăng buộc vết thương, Thương lão thái và Thương Bảo Chấn nghiến răng kèn kẹt ra chiều phẫn nộ đến cực điểm, Mã Hành Không thì nhè nhẹ gật đầu, còn Ân Trọng Tường mặt xám như tro. Hắn biết là chẳng một ai dám ra tay viện trợ mình bèn đâm liều, lớn tiếng hỏi:

– Hay lắm! Ngày thường chúng ta hô huynh gọi đệ, là chỗ hảo bằng hữu nhưng bữa nay Trần mỗ bị cường địch uy hiếp, tình bằng hữu đi đâu mất cả rồi? Họ Triệu kia! Chẳng cần phải đi đâu cả, cứ động thủ ngay ở đây quách.

Triệu Bán Sơn buông gọn một tiếng:

– Được!

Bỗng lão nghe sau lưng có tiếng gió rít liền biết có kẻ phóng ám khí tập kích, tiếp theo lại nghe tiếng người quát:

– Hảo bằng hữu đến đây rồi!

Triệu Bán Sơn không quay đầu lại, mà đưa hai ngón tay ngược ra phía sau kẹp ngay lưỡi phi đao rất bé. Lão biết có người dùng kình lực dương cương để phóng ngọn phi đao rất mạnh, lưỡi đao nằm trong hai ngón tay lão mà thế đao hãy còn rung nhè nhẹ. Lão thấy thủ pháp phóng phi đao không giống phái Thiếu Lâm ở Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, liền cười hỏi:

– Té ra vị bằng hữu này là đồ đệ chùa Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Phải  chăng ông bạn là cao đồ của Bất Nghi đại sư?

Người phóng ám khí chính là Cổ Bát Nhã, một hảo thủ trẻ tuổi trong phái Thiếu Lâm ở núi Tung Sơn. Bọn Vương thị huynh đệ, Ân Trọng Tường, Trần Vũ đều giật mình vì Triệu Bán Sơn chưa quay người lại hình dáng Cổ Bát Nhã chưa thấy đâu mà lão đã đoán ra sư thừa cùng môn phái không sai chút nào.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm trong bụng:

“Hồng Hoa hội ta chỉ dời ra Hồi Cương mới cách đây mấy năm, rời Trung Nguyên chưa bao lâu mà xem chừng thanh danh không còn vang dội như trước nữa. Ta cần bảo vệ đứa nhỏ, muốn gọi một người ra ngoài mà không ngớt bị họ cản trở chân tay. Nếu bữa nay mình không lập oai thì bọn hậu sinh sẽ chẳng coi Hồng Hoa hội vào đâu nữa.”

Lão bèn dõng dạc nói:

– Vị hảo bằng hữu nào đó hãy đứng yên đừng có nhúc nhích.

Lão không chờ Cổ Bát Nhã trả lời, hai tay đã đưa về phía sau giơ lên mấy cái rồi mới xoay mình lại, hai vẫy liên hồi khiến mọi người hoa mắt ra. Bỗng thấy phi đao kim tiêu, tụ tiễn, bối hỗ, thiết bồ đề, phi hoàng thạch, thiết liên tử, kim tiền tiêu, vang lên những tiếng loảng xoảng không ngớt đều nhắm bắn tới Cổ Bát Nhã.

Vương Kiếm Anh kinh hãi vô cùng, lớn tiếng la:

– Xin Triệu huynh đệ thủ hạ lưu tình!

Triệu Bán Sơn cười đáp:

– Đúng thế! Dĩ nhiên Triệu mỗ phải lưu tình.

Lúc mọi người ngó thấy Cổ Bát Nhã, ai nấy không khỏi trợn mắt há miệng vì trên bức tường y dựa lưng vào, chung quanh mình cắm đầy ám khí mà không mũi nào làm thương tổn đến người y. Cổ Bát Nhã kinh hãi cơ hồ ngất xỉu. Sau một lúc lâu y mới rời được khỏi bức tượng, quay đầu nhìn lại thì thấy hơn một trăm món ám khí cắm vào tường tạo thành một hình người phảng phất giống mình. Y buồn rầu không nói gì, nhìn Triệu Bán Sơn xá dài sát đất, rồi tiến thẳng ra cửa đi luôn, cũng không ngỏ lời từ biệt Phúc công tử nữa. Triệu Bán Sơn phô trương thân thủ này tức là lời tuyên án tử hình cho Trần Vũ, hỏi ai dám can thiệp?

Trần Vũ sắp chết đến nơi, vẫn còn già mồm, nói:

– Trước nay quan nha và giặc cướp chẳng đội trời chung. Tại hạ chết đi để báo đáp Phúc công tử là xong.

Triệu Bán Sơn cả giận, nhìn bọn Vương Kiếm Anh nói:

– Xưa nay trong Thái Cực môn mà có hạng khốn kiếp này là cái nhục lớn cho môn hộ của tại hạ. Triệu mỗ tưởng sẽ kết án hắn ở nơi khác nhưng hắn không chịu. Triệu mỗ không nói huỵch toẹt ra thì không xong.

Chính Trần Vũ thực tình cũng không hiểu hắn đã đắc tội gì với vị tam đương gia này ở Hồng Hoa hội, vì hắn là người rất khôn ngoan, ít khi kết oán với ai. Hắn liền đáp:

– Không sai! Việc thiên hạ không qua được chứ lý. Lão hãy nói ra để quần hào bình nghị về vụ này.

Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng trỏ vào cô gái nước da đem nhẻm, cặp mắt thao láo, nói:

– Ngươi có nhận ra cô gái này không?

Trần Vũ lắc đầu, nói:

– Không, ta chưa từng gặp thị bao giờ.

Triệu Bán Sơn nói:

– Nhưng đáng tiếc là ngươi lại nhận ra gia gia của y. Y chính là con gái của Lữ Hy Hiền ở phủ Quảng Bình.

Lão vừa nói ra lời này, gương mặt vốn đã nhợt nhạt của Trần Vũ liền biến thành trắng bệch. Tất cả mọi người đều “ủa” một tiếng rồi đồng loạt đưa mắt nhìn cô bé.

Cô bé khoảng mười hai, mười ba tuổi, gương mặt đầy vẻ phong sương chứng tỏ mới tí tuổi đầu mà đã gặp nhiều nỗi đắng cay gian khổ. Cô bé đưa tay trỏ Trần Vũ, lớn tiếng nói:

– Mi chưa gặp ta, nhưng ta đã gặp mi rồi. Đêm hôm đó mi giết em trai ta và gia gia. Ta đứng ở cửa sổ nhìn thấy rõ rãng. Không có đêm nào ta lại không nằm mơ thấy mi.

Cô nói mấy lời nay chắc như đinh đóng cột, càng chứng tỏ Trần Vũ quả đã có làm việc kia. Hắn chỉ biết há miệng ra “à, à” mấy tiếng chứ chẳng nói được một lời để thanh minh phân trần. Triệu Bán Sơn chắp hai tay về phía quần hào nói:

– Tên họ Trần kia đã bảo mọi việc trong đời đều không qua được chữ lý, bởi vậy tại hạ xin đem câu chuyện kể rõ ngọn ngành. Các vị đều biết trong ba vị huynh đệ của Thái cực môn ở phủ Quảng Bình thì võ công của vị tiểu sư đệ Lữ Hy Hiền là cao nhất. Tên họ Trần kia, ngươi gọi Lữ Hy Hiền bằng gì?

Trần Vũ cúi đầu đáp:

– Y là sư thúc của tại hạ.

Gã nghĩ bụng Triệu Bán Sơn đã đem chuyện cũ kể ra thì không cần phải phân bua cùng lão, mà chỉ ngầm tính chuyện thoát thân.

Triệu Bán Sơn nói:

– Không sai, Lữ Hy Hiền chính là sư thúc của hắn. Tại hạ và Lữ Hy Hiền chẳng hề quen biết. Y là võ sư trong Vương phủ ở Bắc Kinh, và bọn tại hạ là phường dân dã ở thôn quê thì làm gì đám với cao!

Lão nói những lời này, nghe giọng vô cùng bất mãn. Chỉ vì tính lão đôn hậu, lại ngại sợ làm buồn lòng con bé nên lão chỉ nói đến đó thì ngưng. Lão nói tiếp:

– Tại hạ ẩn cư ở Hồi Cương, những chuyện ân oán của võ lâm Trung Nguyên tịnh không nghe không hỏi nữa. Chỉ vì vị tiểu cô nương này tìm đến tận nơi, khóc lạy ở dưới đất thỉnh cầu tại hạ đứng ra chủ trì công đạo.

Đoạn lão bảo cô bé:

– Tiểu cô nương, cô hãy lấy cái đó ra để các vị thúc bá coi.

Cô bé liền cởi cái bị sau lưng xuống, kính cẩn lấy cái túi vài mở ra. Dưới ánh đuốc, mọi người trông rõ là đôi bàn tay người đã khô đét, bên cạnh còn mảnh vải trắng viết đầy chữ máu. Triệu Bán Sơn lại bảo cô:

– Tiểu điệt hãy nói hết chuyện cho các vị nghe đi!

Cô bé cầm hai bàn tay người, nước mắt chan hòa, nghẹn ngào nói:

– Gia phụ của tiểu nữ bị bệnh nằm liệt giường đã lâu. Một hôm tên họ Trần này đột nhiên dẫn ba tên ác nhân đến nhà tiểu nữ lúc nửa đêm.  Chúng nói vâng lệnh Vương gia yêu cầu gia phụ nói chỗ bí ảo của khẩu quyết “Thái Cực quyền” gì đó. Không hiểu hai bên xảy ra cuộc tranh chấp. Gia đệ sợ quá òa khóc. Tên họ Trần liền chụp lấy áo, giơ bảo kiếm lên uy hiếp gia gia và hăm người nếu không nói ra là hắn giết chết đứa trẻ. Gia phụ nói mấy câu, tiểu nữ chẳng hiểu gì, hắn…hắn liền giết chết gia đệ.

Cô nói tới đây nước mắt tuôn trào giàn giụa.

Hồ Phỉ la lên:

– Hạng ác nhân như vậy sao không mau giết đi?

Cô bé đưa tay áo lén lau nước mắt kể tiếp:

– Sau đó, gia phu động thủ với chúng. Bọn chúng đông người mà gia phụ lại mắc bệnh nên bị bọn xấu kia sát hại. Về sau Tôn bá bá tới nhà, tiểu nữ kể lại với bá bá…

Cô bé không hiểu những chi tiết ân oán trong võ lâm nên cô nói có chỗ không được rõ ràng.

Triệu Bán Sơn bèn giải thích:

– Tôn bá bá mà cô nói đây là Tôn Cương Phong, chưởng môn phái Thái Cực môn ở phủ Quảng Bình.

Quần hào nghe tôn tự nhân vật này đều gật đầu.

Cô bé lại nói:

– Tôn bá bá ngẫm nghĩ mấy ngày, đột nhiên kêu tiểu nữ tới. Bá Bá cầm đao chặt tay trái mình, lấy máu viết một bức huyết thư rồi đặt dao xuống bàn, đoạn dùng sức đập cánh tay phải vào lưỡi đao để chặt đứt bàn tay. Bá bá lại bảo tiểu nữ… bảo tiểu nữ… đưa tới Hồi Cương trao cho Triệu bá bá. Tôn bá bá còn nói: “Trong môn hộ, ngoại trừ Triệu bá bá ra, không ai trả được huyết thù cho gia phụ”…

Quần hào nghe cô thuật chuyện đều ngơ ngác nhìn nhau, đều nhận thấy đây là một chuyện cũng cực thê thảm ở nhân gian, nhưng cô này còn nhỏ nói không được rõ ràng, vì chính cô không hiểu.

Triệu Bán Sơn nói:

– Tại hạ có biết Tôn Cương Phong, Ngày trước y vẫn coi thường Triệu mỗ, từng đến Ôn Châu đánh nhau với Triệu mỗ một trận. Không ngờ qua trận đó mà hình ảnh Triệu mỗ in vào trong tâm y.

Mọi người nghĩ thầm:

“Nhất định là Tôn Cương Phong đã thất bại trong cuộc đấu này.”

Triệu Bán Sơn lại nói:

– Trong lá huyết thư, Tôn Cương Phong nói mình là chưởng môn phái Thái Cực ở Quảng Bình nhưng xấu hổ vì bất tài không thể thu thập được tên phản đồ họ Trần . Do đó y chặt hai tay gởi đến cho Triệu mỗ, trong thư y còn nói những gì ngưỡng vọng Triệu gia nghĩa át mây xanh, gấp cứu người trong cơn hoạn nạn. Hà hà! Y tặng cho Triệu mỗ đôi tay, lại còn “đội mũ” lên đầu cho nữa chứ. Triệu mỗ với y tuy chưa có một chút giao tình, nhưng không thể không vì y mà can thiệp vào vụ này được.

Trần Vũ sắc mặt lợt lạt nói:

– Bức huyết thư đó chưa chắc đã là thủ bút của sư thúc tại hạ, hãy đưa tại hạ xem.

Hắn nói rồi từ từ đến bên cô bé lấy tờ huyết thư. Đột nhiên hắn xoay tay một cái, ánh kim quang lấp lánh. Tay trái hắn cầm lưỡi chủy thủ kể sát vào lưng cô bé, la lên:

– Hay lắm! Chết thì cùng chết cả.

Biến diễn đột ngột xảy ra ngoài sự tiên liệu của quần hào. Triệu Bán Sơn tiến lại hai bước định đoạt người, nhưng thấy Trần Vũ tay trái giữ chặt cổ Lữ tiểu muội. Hắn trầm giọng quát:

– Lão mà tiến thêm một bước thì chính là lão làm hại tính mạng con nhỏ này.

Triệu Bán Sơn kinh hãi, tự nhiên phải lùi lại một bước, nhất thời lão hoang mang, chẳng có kế gì, tự hỏi:

“Làm thế nào bây giờ? Nếu có Thất đệ ở đây thì nhất định y tìm ra được kế sách.”

Nên biết Triệu Bán Sơn thực thà trung hậu, không sở trường về việc đối phó với bọn tiểu nhân gian trá. Gặp cảnh khốn quẫn, bất giác lão nhớ tới vị thất đệ đa mưu túc trí là Võ Gia Cát Từ Thiên Hoằng.

Trần Vũ tay mặt cầm chủy thủ đâm rách áo sau lưng của Lữ tiểu muội mũi đao dí vào da thịt. Hắn muốn cho Triệu Bán Sơn chẳng có cách nào dùng ám khí đánh rớt chủy thủ. Hắn trừng hai mắt nhìn Triệu Bán Sơn, nói:

– Triệu tam gia! Giữa tam gia và tại hạ xưa nay vốn chẳng có thù oán gì nếu Triệu Tam gia mà phát ám khí bắn mù mắt của tại hạ thì Trần mỗ quyết chẳng đánh trả.

Triệu Bán Sơn tay cầm hai mũi kim tiêu định bắn vào mắt Trần Vũ, chỉ cần hắn cúi xuống hoặc né tránh, hoặc giơ tay lên che mắt là có thể thừa cơ cứu người. Không ngờ hắn thấy việc rất nhanh nên đã nói huỵch toẹt ý đồ của lão ra trước.

Trong khoảnh khắc, cả đại sảnh lặng ngắt như tờ. Trần Vũ mắt vẫn không rời khỏi Triệu Bán Sơn, đề phòng lão có cử động gì khác rồi nói với Vương thị huynh đệ:

– Vương đại ca! Vương nhị ca! Bữa nay Triệu tam gia có điều xích mích với tiểu đệ. Nhị vị có biết nguyên nhân vì đâu không?

Vương thị huynh đệ cũng là đương sai trong phủ với Trần Vũ, tuy chẳng thâm giao gì với hắn nhưng hắn là người khôn khéo, ngày thường đối với ai cũng được lòng. Giả tỷ Vương thị huynh đệ mà không úy kỵ võ công của Triệu Bán Sơn thì họ đã tìm lời khuyên giải rồi.

Vương Kiếm Anh đáp:

– Theo lời Triệu tam gia thì tam gia chịu sự ủy thác của người nhưng vị tất đã hiểu rõ chân tướng. Chỉ e bên trong còn có chỗ hiểu lầm.

Trần Vũ cười lạt hỏi:

– Hiểu lầm thì không có đâu, Vương đại ca, trước khi tiểu đệ vào phủ Phúc công tử đã làm đương sai ở phủ Định Thân Vương. Cái đó Vương đại ca đã biết chưa?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Phải rồi Trần huynh do Định vương gia tiến cử cho Phúc công tử. Vương gia đại nhân khen Trần huynh giỏi giang, mẫn cán lắm.

Trần Vũ hỏi:

– Vừa rồi Triệu tam gia bảo tiểu đệ gia hại phụ thân cô bé này. Việc đó quả là có thực nhưng tiểu đệ vâng lệnh vương gia. Nhị vị đã ăn cơm nhà quan như tiểu đệ, vậy chủ nhân sai làm việc gì có dám trái lệnh không?

Vương Kiếm Anh bây giờ mới hiểu Trần Vũ mượn cuộc đối đáp với mình để giải thích đầu đuôi câu chuyện cho Triệu Bán Sơn nghe. Hắn liền đỡ lời:

– Đã vâng lệnh sai khiến là không còn theo mình nữa việc này chẳng thể trách Trần huynh đệ được.

Triệu Bán Sơn ở Hồi Cương tiếp được huyết thư của Tôn Cương Phong lập tức đưa Lữ tiểu muội đến phủ Quảng Bình nhưng không tìm được Tôn Cương Phong, liền tới Bắc Kinh để kiếm người. Lão điều tra biết Trần Vũ đã theo Phúc công tử xuôi về phương Nam. Lão liền cưỡi con Ngân Sương Trục Diện Câu của vị tứ muội là Lạc Băng đuổi theo, mới hai ngày đã từ Bắc Kinh đuổi đến Thương gia bảo.

Trần Vũ sát hại cha con Lữ Hy Hiền thế nào quả Triệu Bán Sơn không hay. Lữ tiểu muội nhỏ tuổi nói không được rõ ràng. Nếu có hỏi thêm mấy câu là mắt cô đỏ hoe, miệng có méo xệch rồi khóc nức nở. Bảy giờ lão cũng muốn nghe Trần Vũ kể hết căn do, liền đáp:

– Hay lắm! Ngươi đã bảo việc trong thiên hạ không qua được chữ lý. Vậy ngươi thử nói nghe. Lữ Hy Hiền là sư thúc ngươi thì dù lão có phạm tội tày đình người cũng không thể hạ thủ để đẩy y vào chỗ chết được.

Trần Vũ lúc này đã có chỗ dựa không sợ gì nữa. Hắn tính toán bữa nay thoát chết cũng chẳng khó khăn gì nhưng Triệu Bán Sơn không chịu bỏ qua, tất sau lại tiếp tục truy tầm thì khó lòng mà chống đỡ được.

Hắn nghĩ cách để Triệu Bán Sơn bỏ vụ này đi mới khỏi lo về sau, liền đáp:

– Triệu tam gia! Tam gia là bậc anh hùng hảo hán quang minh lỗi lạc. Người ta thường nói “Đặt điều đúng cách có thể lừa được cả người quân tử”. Phen này tam gia mắc bẫy Tôn Cương Phong rồi.

Triệu Bán Sơn ngạc nhiên hỏi:

– Cái gì? Sao lại mắc bẫy?

Trần Vũ đáp:

– Lữ sư thúc là một cao thủ tiếng tăm lừng lẫy ở Bắc Tông phái Thái Cực, tại hạ xưa nay rất kính ngưỡng lão nhân gia. Lão nhân gia là giáo sư trong Định vương phủ, nhưng chỗ bí ảo về “Thái Cực quyền” lại không chịu truyền thụ cho Vương gia. Định Vương gia bản tính hiếu võ thấy lão nhân gia có ý giấu giếm dĩ nhiên trong lòng không thích. Vương gia đã hỏi mấy lần, Lữ sư thúc bị bức bách quá phải từ chức. Vì thế Định vương gia cho gọi tại hạ để giải thích về “Âm dương quyết”, “loạn hoàn quyết” gì đó trong “Thái cực quyền”. Nhưng tiên phụ võ công vốn bình thường lại qua đời sớm, chưa truyền thụ công phu đó thì tại hạ hiểu làm sao được? Định vương gia liền bắt tại hạ đi hỏi Lữ sư thúc cho rõ ràng.

Triệu Bán Sơn nghĩ thầm:

“Hai phe Nam tông và Bắc tông phái Thái Cực môn đều có môn quy chỗ bí ảo trong võ công bản môn không được truyền ra ngoài. Lữ Hy Hiền không chịu truyền thụ bí quyết có thể là sự thực.”

Nghĩ tới đó, lão khẽ gật đầu. Trần Vũ vẻ mặt tỏ ra rất thành khẩn nói tiếp:

– Tại hạ vâng lệnh Vương gia cùng ba vị huynh đệ đương sai đến nhà Lữ sư thúc. Khi ấy Lữ sư thúc mắc bênh, can hỏa vượng quá, mới chỉ nói hai, ba câu đã hạ độc thủ với tại hạ. Triệu Tam gia thử nghĩ coi. Võ công tầm thường của tại hạ có thể sát hại một tay hảo thủ đệ nhất ở môn phái Thái Cực ở Quảng Bình được không?

Triệu Bán Sơn hỏi:

– Thế thì y làm sao mà chết?

Trần Vũ đáp:

– Sư thúc vốn đã mang bệnh, tại hạ nói năng có điều nặng lời một chút. Lúc sau sư thúc đàm trào lên cổ, trượt chân é xuống, tại hạ vội cấp cứu thì không còn kịp nữa.

Nhưng câu này để lộ rất nhiều sơ hở. Triệu Bán Sơn toan mở miệng bài bác thì Lữ tiểu muội đã la lên:

– Chính hắn đánh chết gia gia! Chính hắn đánh chết…

Cô bé chưa kịp dứt câu thứ hai, Trần Vũ đã bóp cổ chặt hơn khiến nó phải ngừng lại. Triệu Bán Sơn tức giận quát hỏi:

– Ngươi bảo Lữ sư thúc mang bệnh nặng, sao không đánh lại y? Hơn nữa thằng nhỏ con của Lữ lão gia không thù oán gì với ngươi sao ngươi cũng giết kẻ vô tội? Buông tay ra mau!

Trần Vũ đáp:

– Triệu Tam gia! Tam gia ở ngoài muôn dặm làm sao biết được việc trong môn hộ tại hạ? Tại hạ khuyên tam gia hãy lo quét cho sạch tuyết trước cửa nhà mình là hơn.

Hắn vừa nói vừa từ từ tiến ra cửa. Triệu Bán Sơn mắt dường tóe lửa nhưng thấy Trần Vũ thủ đoạn tàn độc, nếu xông lại cản trở y sẽ gây nguy hại đến tính mạng Lữ tiểu muội. Con nhỏ này tuy còn bé nhưng tính cách rất kiên nghị. Nó đã một mình lủi thủi vượt đường xa muôn đặm, chịu hết mọi sự cay đắng để tìm đến Hồi Cương. Cuộc lữ hành gian lao đó, đừng nói là đối với đứa nhỏ côi cút mà ngay cả một hán tử tráng niên cũng không phải là chuyện dễ dàng.

Triệu Bán Sơn quyết định nhúng tay can thiệp vào vụ này cố nhiên vì Tôn Cương Phong chặt tay ủy thác, nhưng một phần cũng vì tấm lòng hiếu thảo của cô bé mồ côi. Lão cùng Lữ tiểu muội trẩy ngựa về đông, ở với nhau lâu ngày nên coi cô bé chẳng khác gì con ruột.

Trần Vũ chỉ lùi thêm mấy bước là ra khỏi cửa sảnh đường. Triệu Bán Sơn có tài phóng ám khí mà không dám sử dụng. Lao tính thầm trong bụng:

“Nếu mình dùng cây xà đầu trùy thật nặng thì chỉ cần một đòn vào đầu là hắn toi mạng, nhưng trước khi chết hắn đẩy mạnh tay một chút, tính mạng của cô bé cũng khó được bảo toàn.

Lại thấy Trần Vũ lùi thêm một bước. Giữa lúc ấy ngọn đuốc hồng đặt trên bàn kết thành hoa đèn bỗng nổ tách một tiếng. Ngọn đuốc tối đi rồi lại sáng bừng, sau lưng Trần Vũ đột nhiên xuất hiện thêm một lão già. Lão già giơ hai tay lên trước ngực nhưng chỉ có hai cái xương cụt ngủn. Bàn tay đã bị chặt cụt đến cổ tay. Lão hình dung hốc hác, đôi mắt sâu hoắm, xương đỉnh đầu nhô cao lên, mình mặc trường bào màu xanh. Gương mặt xám xịt trông thật đáng sợ.

Trần Vũ thấy quần hào nhất tề chăm chú nhìn phía sau hắn, vẻ mặt đều ra chiều quái dị, bất giác hắn quay đầu nhìn lại. Đột nhiên người kia giơ hai khúc xương cụt đến trước mặt hắn. Trần Vũ giật mình, lùi lại một bước, la lên:

– Tôn sư bá! Sư bá đấy ư?

Người kia không lý gì đến hắn, vén áo trường bào, tiến lên một bước nhìn Triệu Bán Sơn, quỳ xuống lạy, nói:

– Triệu tam gia! Ân tình của tam gia Tôn Cương Phong này đành chờ kiếp sau hãy xin báo đáp.

Triệu Bán Sơn vội đáp lễ, nhưng hai mắt vẫn không rời khỏi Trần Vũ. Hắn vội lùi lại hai bước, toan cắp Lữ tiểu muội bước qua ngưỡng cửa, nhưng Tôn Cương Phong lạng mình một cái, chặn bít lối đi, miệng quát:

– Vào đi!

Trần Vũ hỏi:

– Sư bá có nhường lối hay không?

Tôn Cương Phong đáp:

– Ngươi đã giết hại hai mạng người ở Lữ gia, Tôn mỗ cũng không muốn sống nữa.

Lão quay lại nhìn Triệu Bán Sơn nói:

– Triệu tam gia! Trần gia đây nói gì tại hạ đứng ngoài đã nghe rõ hết, toàn là lời bịa đặt. Lữ sư đệ vì “Loạn hoàn quyết” và “Âm dương quyết” mà chết về tay tên gian tặc này.

Triệu Bán Sơn nghếch mắt ngó Trần Vũ đằng hắng một tiếng rồi nói:

– Té ra Trần gia đã nghiên cứu tinh thâm hai môn đại bí quyết của bọn ta. Bây giờ tại hạ muốn lĩnh giáo.

Tôn Cương Phong đáp:

– Không phải thế. Trần gia biết “Thái Cực quyền” của chúng ta có chín đại bí quyết mà “Loạn hoàn quyết và “Âm dương quyết” là mấu chốt về quyền pháp. Đáng tiếc phụ thân hắn qua đời sớm quá, chưa kịp truyền thụ cho hắn. Hắn tìm trăm phương ngàn kế yêu cầu tại hạ cùng Lữ sư đệ thổ lộ, nhưng anh em tại hạ biết hắn tâm thuật bất chính nên không chịu nói. Thế rồi hắn dùng thế lực của Định vương gia để áp bức. Về sau, hắn nhân lúc sư đệ mang bệnh, đang đêm sấn đến trước giường bệnh nắm lấy thằng con độc nhất của Lữ sư đệ bảo lão nếu không chịu thổ lộ “Loạn hoàn quyết” “Âm dương quyết” là hắn chém chết đứa nhỏ… Tên họ Trần kia, ta nói vậy là đúng hay sai?

Trần Vũ sắc mặt xám xanh, không nói nửa lời. Trong lòng hắn vừa tức vừa sợ vì đã sắp thoát thân thì lão họ Tôn lại đến phá đám. Tôn Cương Phong nghẹn ngào nói tiếp:

– Thế là thằng nhỏ thông minh, lanh lợi chết dưới thanh kiếm của hắn. Lữ sư đệ đang bệnh cũng cố liều mạng rồi bị hắn sử dụng công phu “Vân Thủ” kéo dài cuộc đấu, cho đến khi sức cùng lực kiệt mà chết. Triệu tam gia! Tôn Cương Phong này xấu hổ là mình làm chưởng môn mà tuổi già lại bất tài. Phái Bắc Tông lâm vào tình trạng nhân tài điêu linh, hiện giờ chỉ còn gã họ Trần đây là bản lãnh cao cường hơn hết. Tôn mỗ đành mặt dày xin phái Nam Tông chủ trì công đạo.

Lão quay lại ngó Trần Vũ nói tiếp:

– Trần đại gia! Những lời Tôn mỗ nói đây có nửa câu nào vu oan cho Trần gia không?

Triệu Bán Sơn đầy lòng nghĩa phẫn, ráo bước tiến lại nói:

– Muốn học bí quyết về quyền thuật thì từ cổ chí kim phải cầu thầy hỏi bạn, chẳng ai lại hành động cầm thú như ngươi.

Trần Vũ quát

– Biết điều thì đứng yên đó.

Hắn nói rồi riết tay thêm một chút, Lữ tiểu muội ọc lên một tiếng. Triệu Bán Sơn quả nhiên phải dừng bước không đám cử động nữa.

Trần Vũ dõng dạc:

– Họ Triệu kia! Lão muốn tìm ta thì đến phủ Phúc công tử ở Bắc Kinh mà tìm. Bữa nay xin lão bảo giùm họ Tôn hãy nhường lối.

Triệu Bán Sơn không biết làm sao, đành nhìn Tôn Cương Phong hỏi:

– Tôn sư huynh! Bữa nay chúng ta đành tha hắn một phen sao?

Tôn Cương Phong bồn chồn ấp úng hỏi lại:

– Triệu tam gia bảo bữa nay… bữa nay tha.. tha hắn ư?

Triệu Bán Sơn đáp:

– Tôn gia! Sư huynh cứ yên lòng, Triệu mỗ đã dính vào vụ này nhất định làm cho đến đầu đến đũa.

Tôn Cương Phong nóng nảy không nói nên lời, miệng lắp bắp:

– Tam gia… Tam gia…

Triệu Bán Sơn nói:

– Cứ nhường lối cho hắn đi. Triệu mỗ mà không lo liệu xong vụ này sẽ chặt hai tay để trả lại Tôn huynh.

Lão nói mấy câu này nghe chắc như đinh đóng cột. Tôn Cương Phong đành tránh sang một bên, mắt hầm hầm nhìn Trần Vũ đầy vẻ oán hận.

Trần Vũ bụng bảo dạ:

“Bữa nay mà ta thoát nạn thì lập tức xa chạy cao bay. Thiên hạ bao la làm gì chẳng có chỗ dung thân? Ta tìm chốn mai danh ẩn tích thì ngươi có bỏ hàng trăm năm cũng không tìm ra lão tử.”

Nét mặt lộ vẻ đắc ý, hắn bảo Triệu Bán Sơn:

– Triệu tam gia! Sau này chúng ta còn có ngày tái ngộ. Tôn sư bá nói không sai. Tại hạ thực tình muốn học “Loạn hoàn quyết”và “Âm dương quyết” của Thái Cực môn. Tam gia đến Bắc Kinh, tiểu đệ xin Tam gia chỉ điểm cho.

Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng rồi không để ý gì đến hắn nữa. Trần Vũ không dám xoay mình, cắp Lữ tiểu muội đi giật lùi từng bước, lúc qua Tôn Cương Phong hắn mỉm cười rồi đưa chân bước qua ngưỡng cửa. Hồ Phỉ sau khi đấu chưởng cùng Vương Kiếm Anh vẫn đứng đo chủ ý lắng nghe câu chuyện giữa ba người là Triệu Bán Sơn, Trần Vũ và Tôn Cương Phong, bây giờ gã thấy Trần Vũ nhờ xảo kế sắp thoát thân liền nghĩ bụng:

“Triệu tam gia đã giúp đỡ ta. Bây giờ lão ta gặp việc nan giải thì sao ta lại bỏ mặc lão được?”

Đầu óc gã rất minh mẫn mà tính lại gan lỳ. Gã vừa động tâm đã nghĩ ngay được một kế. Gã vận khí cho bọng nước tiểu chuyển vào niệu đạo rồi cởi quần ra. Gã thấy Trần Vũ sắp bước qua ngưỡng cửa, đột nhiên gã cầm ghế dựng lên, nói:

– Trần Vũ tại hạ có điều muốn thỉnh giáo.

Trần Vũ ngẩn người ra, những chẳng coi thằng nhỏ vào đâu nên không thèm để ý đến. Hồ Phỉ đặt ghế xuống trước mặt hắn, nhảy lên ghế xong phóng nước tiểu bắn vào mặt hắn. Trần Vũ cả giận, vội giơ tay trái lên che trước mặt để nước tiểu khỏi bắn vào tay phải hắn cầm chủy thủ đâm tới trước ngực Hồ Phỉ, Hồ Phỉ trước khi cởi quần đã chuẩn bị sẵn. Gã thấy chủy thủ phóng tới, hai tay vịn lấy thành ghế nhảy vọt lên. Khi người gã còn lơ lửng trên không, cái ghế đã nhằm đầu hắn đè xuống. Trần Vũ giơ tay lên gạt, miệng quát mắng:

– Quân tiểu tặc này!

Hồ Phỉ người chưa chạm đất đã lao về phía trước ôm lấy Lữ tiểu muội lăn ra xa nửa trượng. Trần Vũ cả kinh vọt tới cướp lại. Hồ  Phỉ vung chân đá ngược một cái rồi đứng dậy thi triển công phu “Không thủ đoạt bạch nhẫn”, cướp lấy đao chủy thủ trong tay đối phương. Trần Vũ biết tình hình không ổn, không dám ham đánh, liền đâm mạnh một đao, rồi lập tức xoay mình ra khỏi sảnh đường, nhưng gặp Triệu Bán Sơn hai tay chống nạnh, thần oai lầm liệt đứng ở ngay cửa sảnh.

Hồ Phỉ cười ha hả nói:

– Tại hạ chưa phóng hết bọng nước tiểu.

Diễn biến này, dĩ nhiên Triệu Bán Sơn không ngờ mà còn nằm ngoài sự tiên liệu của mọi người trong sảnh đường. Khi quần hùng hiểu rõ chỗ dụng ý của gã thì Lữ tiểu muội đã được giải cứu, Trần Vũ bị hãm vào trùng vi. Thương lão thái nhìn diễn biến càng thêm căm hận. Vương thị huynh đệ cũng ghen ghét. Mã Hành Không ngấm ngầm bẽn lẽn. Ân Trọng Tường cũng tức giận mắng thầm. Nhưng bất luận là ai dù hận hay ghen, dù bẽ bang hay thóa mạ cũng đều khâm phục Hồ Phỉ, miệng lẩm bẩm:

– Nếu không có thằng nhỏ này dùng quái chiêu thì làm sao ngăn chặn được Trần Vũ?

Triệu Bán Sơn trong lòng vô vùng cảm kích Hồ Phỉ, nhưng ngoài mặt không lộ vẻ gì. Lão nhìn Trần Vũ lạnh lùng nói:

– Trần gia! Các hạ muốn học “Loạn hoàn quyết”, “Âm dương quyết” mà sát hại hai nhân mạng thực là không đáng. Hai thiên bí quyết đó ở trong Thái Cực môn chẳng có chi là ghê gớm. Triệu mỗ bất tài cũng còn nhớ cả, Trần gia đã nói muốn thỉnh giáo Triệu mỗ thì bữa nay Triệu mỗ truyền cho cũng chẳng hề gì.

Quần hào ngẩn người ra nghĩ bụng:

– Trần Vũ đã khó lòng thoát khỏi tay lão, mà sao lão còn đưa ra kiểu nói trái ngược này?

Triệu Bán Sơn lại nói tiếp:

– Trước tiên, Triệu mỗ nói “Loạn hoàn quyết” cho Trần gia nghe, Xin hãy ghi nhớ lấy.

Rồi lão lớn tiếng đọc:

Loạn hoàn thuật pháp tối nan thông

Thượng hạ tùy hợp diệu vô cùng

Hãm địch thâm nhập Loạn hoàn nội

Từ lạng năng bát thiên cân động

Thủ cước tề tiến đăng hoa hoành

Chưởng trong loạn hoàn lạc bất không

Dục trì hoàn trung pháp hà tại

Phát lạc điểm đối tức thành công

Lão đọc tám câu này ra, Tôn Cương Phong và Trần Vũ ngơ ngác nhìn nhau không thốt nên lời. Nguyên tám câu trên thơ chẳng ra thơ, nhạc chẳng ra nhạc, nhưng chính là “Loạn hoàn quyết” trong Thái Cực môn. Trần Vũ hồi còn nhỏ phảng phất đã nghe phụ thân đọc tới nhưng không hiểu chỗ ảo diệu bên trong. Hắn không ngờ Triệu Bán Sơn lại có thể đọc ra đầy đủ cho hắn nghe. Hắn đánh bạo gác chuyện sống chết ra ngoài, nói:

– Nhưng ý nghĩa hàm ẩn bên trong “Loạn hoàn quyết” thế nào? Xin tam gia chỉ điểm.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Theo công phu của Thái Cực môn thì mỗi lúc ra chiêu đều thành vòng tròn nên gọi là “Loạn hoàn”. Quyền chiêu tuy có hình thế nhất định, nhưng biến hóa linh động là ở nơi người. Thủ pháp tuy đều thành vòng tròn nhưng cao thấp, tiến thoái, ra vào, công thủ khác nhau. Vòng có vòng nhỏ, vòng to, vòng ngang, vòng dọc, vòng ngay, vòng chếch, vòng hữu hình, vòng vô hình. Khi lâm địch cần lấy lớn khắc chế nhỏ, lấy tà khắc chế chính, lấy vô hình khắc chế hữu hình. Mỗi chiêu phát ra đều phải ngầm vận kình lực vào các vòng tròn.

Lão vừa nói vừa vạch những hình tròn của các loại vòng. Triệu Bán Sơn nói tiếp:

– Ta lấy lực của hình vòng để đẩy địch nhân vào vòng vô hình. Khi ấy muốn tả thì tả, muốn hữu thì hữu. Sau đó, lại lấy sức nhỏ bốn lạng đẩy bạt sức nặng ngàn cân của địch, dùng thụ lực đánh xuống hoành lực của đối phương. Mấu chốt thắng thua của “Thái Cực quyền” là ở chỗ tìm ra điểm xuất phát để đánh đúng vào điểm rơi của đối phương.

Lão nói quyền lý một cách minh bạch đơn giản, ai cũng hiểu được mà thực ra rất chí lý. Quần hùng trong sảnh đường đều là những tay hảo thủ về võ học, họ nghe lão nói một cách chăm chú. Ai cũng biết nghe được một vị võ học danh gia giải thích tinh nghĩa về quyền lý là một cơ hội may mắn mà gặp chứ không phải cầu mà được.

Ban đầu bọn Vương thị huynh đệ, Thương lão thái, Mã Hành Không, Ân Trọng Tường nghe Triệu Bán Sơn giảng bí quyết về “Thái Cực quyền” chưa lộ vẻ tha thiết, nhưng sau càng nghe giảng lại càng thấu triệt. Nhiều vấn đề nghi nan chứa trong lòng từ thuở nhỏ, sư phụ giải không vỡ lẽ, tự mình suy nghĩ không ra, thì nay Triệu Bán Sơn chỉ nói một vài câu là đã thông suốt rõ ràng.Triệu Bán Sơn giảng xong “Loạn hoàn quyết” rồi nói:

– Khẩu quyết chỉ có mấy câu nhưng vòng chếch, vòng vô hình sử đúng hay trật, điểm xuất phát và điểm rơi có chuẩn đích hay không lại là công phu rèn luyện cả một đời. Trần gia có hiểu không?

Trần Vũ suốt đời ao ước “Loạn hoàn quyết” thì bữa nay được nghe và thông hiểu thấu suốt. Hắn biết chỉ cần cố công khổ luyện mười mấy năm nữa là có thể thành võ học đại sư. Bất giác lòng mừng khấp khởi, hắn lại hỏi:

– Còn “Âm dương quyết” thì thế nào?

Triệu Bán Sơn đáp:

– “Âm dương quyết” cũng là tám câu ca. Trần gia ráng ghi nhớ lấy.

Trần Vũ nhưng thần lắng nghe chẳng khác gì ngày trước được sư phụ thân truyền thụ võ công. Hắn buột miệng đáp:

– Dạ! Hài nhi xin dụng tâm ghi nhớ.

Câu nói ra khỏi cửa miệng, hắn chợt giật mình nhớ lại, bất giác mặt mũi đỏ bừng lên. Nhưng quần hùng đều chú ý vào việc Triệu Bán Sơn giảng võ, chẳng ai để tâm đến lời nói của hắn, nên chẳng ai cười. Triệu Bán Sơn lại dõng dạc đọc:

Thái cực âm dương thiểu nhân tu

Thôn thổ khai hợp vấn cương nhu

Chính ngưng thu phóng nhiệm quân tẩu

Động tĩnh biến lý hà tu sầu?

Sinh khắc nhị pháp tùy trước dụng

Thiệm tiến toàn tại động trung cầu

Khinh trọng hư thực xạ đích thị?

Trọng lý hiện khinh vật sao lưu.

Khẩu quyết này Trần Vũ chưa từng được nghe qua nhưng lúc này hắn hoàn toàn không chút nghi ngờ, mà chỉ dụng tâm ghi nhớ. Triệu Bán Sơn vừa ra chiêu thức vừa nói:

– Vạn vật đều chia thành âm dương. Âm dương trong quyền pháp gồm có chính phản, nhuyễn ngạch, cương nhu, thân triển, thương hạ, tả hữu, tiền hậu, vân vân. Duỗi ra là dương, co lại là âm. Thượng là dương hạ là âm… Xòe tay ra lấy thôn pháp (phép nuốt) làm đầu, dùng cương kình tiến đánh như rắn nuốt đồ ăn. Nắm tay lại lấy thổ pháp (phép nhả) làm đầu, dùng phu kình hãm người như trâu nhả cỏ, cần phải lạnh lùng cấp bách, mau lẹ. Còn về chính thì có chính diện và bốn góc. Lúc lâm địch cần lấy chính của ta để xông vào chỗ góc của địch. Nếu như dùng chính đối chính cứ xông vào đánh, tức là dùng ngạnh lực đánh thí mạng với ngạnh lực. Mình tuổi nhỏ sức yếu, công lực không bằng đối thủ tất phải thất bại.

Hồ Phỉ từ nãy tới giờ cũng ngưng thần nghe lão giảng giải quyền lý. Gã nghe tới đây, trong lòng run lên, tự hỏi:

“Chẳng lẽ lão nói những câu này để ta nghe? Phải chăng lão bảo ta dùng sức để đấu với Vương Kiếm Anh là lầm lẫn?

Nhưng gã thấy lão không nhìn mình, chân tay không ngừng ra chiêu, miệng thao thao giảng giải:

– Bằng lấy góc xông vào góc thì trong quyền pháp gọi là “Khinh đối khinh, toàn lạc không” (nhẹ đối nhẹ, rơi hẳn vào chỗ trống không). Cần dùng chỗ Trọng của mình đánh vào chỗ Khinh của địch, dùng chỗ Khinh của mình để tránh chỗ Trọng của địch. Còn về hai chữ “Thiểm Tiến” là lúc né tránh bên địch tiến đánh mà vẫn ra chiêu phản, công phu đó gọi là trong thủ có công. Lúc mình công kích cũng đồng thời nên né tránh chiêu đánh trả của địch, đó gọi là trong công có thủ. Cái đó gọi là “Phùng thiểm tắc tiến, phùng tiến tắc thiểm”. Trong quyền quyết có câu: “Sao gọi là đánh? Sao gọi là nhìn? Đánh tức là nhìn, nhìn tức là đánh, ra tay là đúng. Sao gọi là tránh? Sao gọi là tiến? Tiến tức là tránh, tránh tức là tiến, đâu cần cầu xa”. Nếu cứ cho rằng công và thủ là hai phần khác nhau thì đó không phải là công phu thượng thừa.

Hồ Phỉ nghe lão nói khác nào như người đang ngủ mơ choàng tỉnh giấc, bụng bảo dạ:

– Nếu ta biết lý lẽ này từ trước thì vừa rồi tỷ võ với Vương thị huynh đệ chưa chắc đã bị thất bại.

Gã đem lòng kính trọng Triệu Bán Sơn hết mình. Triệu Bán Sơn giảng giải tiếp:

– Kình lực trong võ công vốn thiên biến vạn hóa, nhưng đại khái được chia làm ba loại tức là “Khinh”, “Trọng”, “Không”. Dùng “Trọng” không bằng dùng “Khinh”, dùng “Khinh” không bằng dùng “Không”. Trong quyền quyết có câu “Song trọng hành bất thông, đơn trọng đảo thành công”. Song trọng là lấy sức tranh giành với sức. Mình muốn đi, người muốn tới, kết quả là sức mạnh kiềm chế được sức yếu. Đơn trọng là mình dùng tiểu lực để đánh vào chỗ vô lực của đối phương thì chỉ một chiêu là thành công. Ta làm cho đại lực của địch rơi cả vào chỗ không thì nội lực của ta dù ít cũng thắng. Như vậy mới kể là cao thủ về võ học.

Lão vừa nói vừa giơ tay chỉ chỏ, vạch ngang vạch dọc. Nhiều chỗ quyền pháp giống như chiêu thức Hồ Phỉ vừa sử dụng để đối chưởng với Vương Kiếm Anh. Lão lại giải thích tường tận làm cách nào khiến cho chiêu thức đối phương rơi vào quãng không, chiêu thức đánh thế nào cho có công hiệu. Hồ Phỉ nghe tới đây thì thốt nhiên tỉnh ngộ, miệng lẩm bẩm:

– Té ra Triệu tam gia phí bao nhiêu hơi sức là có ý chỉ điểm võ công cho ta.

Nên biết Trần Vũ là tên gian đồ phản bạn, mạo phạm người trên thì Triệu Bán Sơn dạy bí pháp “Thái Cực quyền” cho hắn làm chi? Lão thấy quyền chiêu của Hồ Phỉ rất kỳ diệu nhưng khi lâm địch thì gã chỉ ỷ vào sự thông minh của mình để biến thế mà chưa hiểu về căn bản của quyền lý, lão cho là gã chưa gặp được minh sư chỉ điểm.

Quy củ của võ lâm rất nhiều. Nếu là đệ tử phái khác muốn cầu xin mình chỉ bảo thì cũng không nên chỉ điểm một cách khinh suất, để tránh khỏi làm mếch lòng vị sư trưởng bản môn. Đã nhiều họa hoạn đều do chuyện này mà ra.

Thực tình Triệu Bán Sơn không biết Hồ Phỉ đã tự luyện chưa có thầy dạy. Gã nhờ cuốn quyền kinh tổ truyền để tự rèn luyện mà nên. Lão thấy gã lại là một người lương tài mỹ chất mà chưa được gọt dũa, rất lấy làm tiếc. Lão đoán sư trưởng của gã chưa thấu hiểu đạo lý về võ học, nên nhân dịp Trần Vũ hỏi về “Loạn hoàn quyết” và “Âm dương quyết”, lão liền đem những đạo lý cơ bản của võ học giảng giải cho gã nghe. Câu nói nào của lão cùng nhằm vạch những chỗ kém cỏi trong quyền pháp của Hồ Phỉ, có thể nói lão đã dốc hết gan ruột ra để truyền thụ.

Lão còn biết Hồ Phỉ thông minh hơn người, đủ khả năng lĩnh hội được. Còn bọn Vương Kiếm Anh, Mã Hành Không cũng nghe đấy, nhưng những người này lớn tuổi thì dù có hiểu đạo lý cũng chưa chắc đã trở lại gắng công rèn luyện cho đến trình độ này, Hồ Phỉ trải qua một phen được chỉ điểm rồi ngày sau trở thành một tay đệ nhất cao thủ về võ học. Cách truyền thụ khẩu quyết về võ công như thế có thể nói là chuyện chưa từng xảy ra trong võ lâm

Triệu Bán Sơn giảng giải xong, nhìn Trần Vũ hỏi:

– Triệu mỗ nói vậy có đúng không?

Trần Vũ đáp:

– Nhờ ơn Triệu tam gia chỉ điểm, tại hạ khác nào vén mây thấy được mặt trời. Nếu biết sớm thế này, tại hạ chẳng cần phải nài nỉ hai vị Tôn, Lữ.

Triệu Bán Sơn lạnh lùng nói:

– Đúng thế! Trần huynh cũng bất tất phải giết chết hai mạng người.

Trần Vũ kinh hãi, nghe lạnh toát cả xương sống, nghĩ bụng:

“Lão đã truyền thụ quyền pháp cho ta hẳn hoi mà sao còn nhắc tới vụ này?”

Hắn ngước mắt nhìn bọn Vương thị huynh đệ và Ân Trọng Tường thì thấy mọi người đều lộ vẻ hoang mang.

Triệu Bán Sơn lại nói:

– Trần gia! Hai môn quyền quyết này Triệu mỗ đã truyền cho Trần gia, nhưng về cách sử dụng thì e rằng Trần gia chưa lĩnh hội được thấu đáo. Nào, chúng ta hãy động thủ xem sao.

Lão nói xong liền ra một chiêu rất tầm thường trong “Thái Cực quyền”. Trần Vũ tuy trong lòng vừa ngờ vừa sợ nhưng không tiện cự tuyệt, liền đáp:

– Triệu tam gia! Tài năng của tại hạ hãy còn tầm thường, mong Triệu tam gia nhẹ đòn cho.

Triệu Bán Sơn biến sắc hỏi:

– Tay cao thủ đệ nhất phe Bắc Tông của Thái Cực môn là Lữ Hy Hiền còn chết về tay các hạ, sao lại bảo tài năng tầm thường. Coi chiều đây!

Lão ra chiêu “Thủ Huy Tỳ Bà” đánh tới. Trần Vũ kinh hãi, vội vàng phát chiêu “Như Phong Tự Bế” để phòng thủ ngay ở giữa. Mới trao đổi mấy chiêu, đường quyền của Trần Vũ đã lâm vào tình trạng hoàn toàn bị địch nhân kiềm chế.

Hai người cùng sử “Thái Cực quyền”, tuy chia làm hai phe Nam Bắc, tuy quyền lộ đại đồng tiểu dị, nhưng công lực thì nông sâu khác nhau. Hai bên lại chiết chiêu một lúc nữa thì song chưởng của Trần Vũ tựa hồ bị Triệu Bán Sơn giữ chặt.

Cho tới lúc này, Tôn Cương Phong mới yên tâm, khác nào trút bỏ được khối đá đè nặng giữa ngực. Lão lại nghe Triệu Bán Sơn hỏi:

– Tôn huynh! Có phải Tôn huynh bảo Lữ Hy Hiền bị y dùng phép “Vân thủ” làm cho kiệt lực mà chết?

Tôn Cương Phong vội đáp:

– Đúng thế! Tôn mỗ thấy thi thể Lữ sư đệ gân cốt thoát hết lực.

Trần Vũ càng tỷ đấu lâu càng kinh hãi, liền lên tiếng:

– Triệu tam! Tại hạ không phải đối thủ của Tam gia! Chúng ta ngừng tay thôi.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Được rồi! Trần gia hãy tiếp thêm một chiêu nữa của Triệu mỗ

Tay trái lão nắm lấy tay phải Trần Vũ vạch một đường vòng lớn, một luồng kình lực mãnh liệt bao quanh lấy cánh tay trái hắn. Đó chính là môn “Vân thủ” trong “Thái Cực quyền”. Môn “Vân Thủ” phát huy các vòng tròn liên miên bất tuyệt, vòng này vừa qua thì vòng khác tiếp theo ngay.

Ngày trước Trần Vũ sát hại Lữ Hy Hiền đã dùng thủ pháp này. Bây giờ hắn nhớ lại tiếng kêu la bi thảm của Lữ Hy Hiền khi hắn liên tục huy động kình lực để thúc đẩy phần lực khí cuối cùng của Lữ Hy Hiền ra ngoài. Nghĩ đến đó bất giác hắn kinh hãi, mô hồi toát ra như tắm.

Triêu Bán Son thấy Trần Vũ lộ vẻ khiếp sợ đến cực điểm thì nhũn lòng không nỡ nặng tay, kình lực lập tức giảm đi, niêm lực dừng lại. Lão cất giọng ôn nhu nói:

– Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Đã gây nên việc tàn ác tất gặp ác báo. Ngươi thử nghĩ kỹ mà coi.

Bản tính lão nhân hậu, tuy biết Trần Vũ chết là đáng lắm nhưng lão không muốn hành hạ hắn chết thê thảm như Lữ Hy Hiền.

Lão xoay mình lại, hai tay chắp để sau lưng, ngửa mặt lên trời thở dài nói:

– Con người học võ, nếu chẳng thể bảo vệ đất nước, đề phòng cảnh bị lăng nhục thì cũng nên hành hiệp trượng nghĩa cứu khốn phò nguy. Còn hạng dùng võ nghệ để làm việc tàn ác thì chi bằng làm một kẻ nông phu tầm thường cày ruộng nuôi thân.

Thực ra mấy câu này lão muốn nói cho Hồ Phỉ nghe. Lão sợ ngày sau gã bị bản tính thông minh làm cho lầm lạc, đi vào tà đạo.

Suốt đời Triệu Bán Sơn chưa gặp được người nào có được tư chất hoàn mỹ như Hồ Phỉ nên đối với gã, lão cảm thấy cực kỳ thương mến. Lão nghĩ đến sau khi xong việc, trở về Hồi Cương chưa chắc còn cơ hội nào gặp lại, nên sau khi truyền thụ võ học thượng thừa xong, lão lại ngỏ lời cảnh tỉnh để nhắc nhở gã gắng sức học hỏi những điều tốt đẹp.

Hồ Phỉ làm gì chẳng hiểu ý tứ của triệu Bán Sơn, gã liền lớn tiếng quát:

– Họ Trần kia! Con người đã làm việc tàn ác thì dù người ngoài không hỏi tới cũng nên tự tử mà chết đi để khỏi làm hoen ố thanh danh của tổ tông.

Triệu Bán Sơn rất đỗi hoan hỷ quay lại nhìn gã bằng ánh mắt ra chiều tán thưởng. Ánh mắt Hồ Phỉ cũng đầy vẻ cảm kích.

Trong lúc một già một trẻ cảm thấy tâm ý tương thông, vì quý mến tài năng nhau mà đâm ra quyến luyến, Trần Vũ chợt thấy sau lưng Triệu Bán Sơn lộ sơ hở rất lớn, tuyệt không phòng bị mà hắn chỉ cách lão chưa đây hai thước, hắn chợt nghĩ:

“Lão mà không chết thì ta tiêu đời!”

Hắn vận kình lực ra tay mặt, dùng sức mạnh toàn thân ra chiêu “Tiến bộ ban lan trùy” đánh tới sau lưng Triệu Bán Sơn. Thoi quyền này Trần Vũ đã đề tụ hết công lực bình sinh. Hắn tự biết nếu đòn này không đánh chết được đối phương thì hắn không còn cơ hội sống sót, nên thoi quyền đi nhanh như gió, thế như sét đánh.

Trong khoảng thời gian chớp nhoáng, Triệu Bán Sơn cong người như cánh cung. Đó chính là phần đầu của chiêu “Bạch Hạc Lượng Xí” trong “Thái Cực quyền”. Thoi quyền của Trần Vũ lập tức đánh vào quãng không. Triệu Bán Sơn vặn lưng một cái đánh ra nửa chiêu “Lãm tước vì” rồi xoay mình lại, song chưởng từ từ đẩy ra, dùng bí quyết chữ “Án” trong “Thái Cực quyền”. Lão dùng nửa chiêu trước để hóa giải thế đánh của bên địch, nửa chiêu sau lập tức phản công. Chỉ cần hai nửa chiêu này cũng đủ để khiến toàn thân Trần Vũ bị bao trùm trong phạm vi chưởng lực của lão.

“Thái Cực quyền” là một quyền thuật rất thông thường, bất kỳ ai học võ đều biết cả. Mọi người thấy Triệu Bán Sơn vừa thủ vừa công đều chỉ sử dụng nửa chiêu theo như ý muốn, quả là thủ đoạn của danh gia khác hẳn thói thường, khiến ai nấy đều vô cùng thán phục.

Lúc này Trần Vũ rít chặt hai hàm răng, vận dụng toàn bộ sở học bình sinh để chống lại Triệu Bán Sơn. Lúc mới tiếp chiêu, hắn cảm thấy lực đạo đối phương chẳng lấy gì làm mạnh lắm, liền gia tăng kình lực ra bàn tay. Nhưng hễ hắn tăng thêm kình lực chừng nào thì lực đạo phản kích của đối phương cũng tăng theo chừng ấy. Hắn kinh hãi vội nhả bớt kình lực thì sức phản kích của đối phương cũng nới ra, nhưng hắn muốn thoát khỏi sức kéo dẫn thì không thể được.

Hồ Phỉ ngưng thần theo dõi cuộc đấu, lẳng lặng ngẫm nghĩ về những yếu quyết “Loạn hoàn quyết và “Âm dương quyết” mà Triệu Bán Sơn vừa truyền thụ để ấn chứng những yếu nghĩa về quyền quyết. Gã nhận thấy Trần Vũ phóng quyền, phát chưởng tuy kình lực mãnh liệt nhưng đều bị Triệu Bán Sơn khoa tay một cái đẩy cho chưởng thế biến đổi phương vị. Cái đó chính là phép “hãm địch nhân vào sâu trong Loạn hoàn, dùng bốn lạng để chống sức nặng ngàn cân” trong “Loạn hoàn quyết”.

Gã coi một lúc rồi cười, nói:

– Trần lão huynh! Lão huynh đã bị hãm sâu trong “Loạn hoàn quyết” của Triệu tam gia rồi đó. Tại hạ xem chừng bữa nay lão huynh đến ngày tận số.

Trần Vũ tập trung hết tâm trí vào việc đối phó với Triệu Bán Sơn, nên Hồ Phỉ nói mấy câu này hắn hoàn toàn chẳng nghe thấy chi hết.

Lại chiết thêm mấy chiêu, Hồ Phỉ nhận thấy trong quyền chiêu của Trấn Vũ đã lộ sơ hở, liền hỏi:

– Triệu bá bá cạnh sườn bên trái hắn trống trải, sao bá bá không đánh vào?

Triệu Bán Sơn cười đáp:

– Đúng thế!

Lão chưa dứt lời đã phóng quyền đánh vào cạnh sườn mé tả đối phương. Trần Vũ hốt hoảng né tránh, Hồ Phỉ lại hô:

– Đánh vào vai bên phải hắn.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Hay lắm!

Lão phóng chưởng đánh vào vai bên phải Trần Vũ. Hắn hạ thấp vai xuống vung chưởng lên gạt.

Triệu Bán Sơn vừa cười vừa hỏi:

– Bây giờ đánh vào đâu?

Hồ Phỉ đáp:

– Đá vào eo hắn.

Triệu Bán Sơn xoay tả chưởng đi, Trần Vũ vận kình vừa đứng vững lại, quả nhiên Triệu Bán Sơn phóng cước đá vào eo hắn. Hồ Phỉ hô liền mấy lần mà chiêu nào cũng đúng. Triệu Bán Sơn tán dương gã:

– Tiểu huynh đệ! Tiểu huynh đệ nói rất có đạo lý.

Hồ Phỉ đột nhiên hô:

– Đánh vào sau lưng hắn.

Lúc này Triệu Bán Sơn đang đứng đối diện với Trần Vũ, lão sửng sốt tự hỏi:

– Chiêu này gã hô không đúng rồi. Ta đang đứng đối diện với địch nhân thì đánh vào sau lưng hắn thế nào được?

Nhưng lão chỉ ngần ngừ một chút rồi tỉnh ngộ ngay, nghĩ bụng:

– Té ra thằng nhỏ muốn đưa một vấn đề nan giải cho ta làm.

Lão liền nghiêng người đi, hữu chưởng kéo ra ngoài. Trần Vũ cũng nghiêng mình theo để ứng chiêu. Triệu Bán Sơn liền đưa tả chưởng xoay về mé phải. Người Trần Vũ lại nghiêng đi mấy phen, để lộ sống lưng ra.

Triệu Bán Sơn khẽ đập tay một cái đánh trúng xương sống hắn. Nếu phát chưởng này đi nhanh hơn một chút và luồng lực đạo mạnh thêm thì Trần Vũ đã chết rồi. Hắn sợ quá vội xoay người đi, mặt cắt không còn hột máu.

Triệu Bán Sơn quay lại cười hỏi:

– Có đúng thế không?

Hồ Phỉ chĩa ngón tay cái lên tán dương:

– Hay tuyệt!

Trần Vũ thoát chết. Nhưng dù sao hắn cũng là một đệ tử danh gia, nên tuy bị một phen kinh hãi, hắn vẫn nhìn thấy ngay cơ hội để lợi dụng. Hắn thấy Triệu Bán Sơn đang quay người đối đáp với Hồ Phỉ, hạ bàn trống rỗng liền nghĩ bụng:

“Ta đánh gấp hai đòn, xem chừng có thể trốn thoát.”

Hắn ra chiêu “Chuyển thân thẳng cước” phóng chân đá mạnh tới. Hắn thấy đối phương nghiêng mình lùi lại, liền quát to một tiếng ra chiêu “Thủ huy tỳ bà” đánh xéo vào vai trái địch nhân.

Hai chiêu liên hoàn đánh ra thế mạnh như cuồng phong sậu vũ, dụng ý không mong đả thương địch thủ mà chỉ cần Triệu Bán Sơn lùi lại một bước để hắn có cơ hội vọt qua cửa cướp đường chạy trốn. Hắn nghĩ mình tuổi trẻ sức mạnh, chân dài chạy lẹ, còn Triệu Bán Sơn thân người mập ú, quyền thuật tuy cao nhưng về môn chạy chắc là kém hắn.

Triệu Bán Sơn vừa thấy Trần Vũ cất chân đã đoán ra được dụng ý của hắn. Lão chờ cho chiêu “Thủ huy tỳ bà” của hắn đánh tới, đã không lùi mà còn tiến lên một bước, cũng ra chiêu “Thủ huy tỳ bà”. Chiêu này lấy sức chọi sức chiêu số giống nhau nhưng ở vào thế đối nghịch. Đây là một điều đại kỵ trong “Thái Cực quyền”. Đối với quyền lý lão vừa nói “Song trọng hành bất thông” thì điều này hoàn toàn tương phản, dù cao thủ gặp đối thủ tầm thường cũng phải thất bại.

Hơn một nửa số người đứng xem khẽ “ối” một tiếng. Trần Vũ xoay tay lại đã chụp được ngay cổ tay Triệu Bán Sơn, tiện đà xoay một cái, nhắc bổng thân hình to lớn của lão hất mạnh ra.

Tôn Cương Phong và Lữ tiểu muội đồng thanh la hoảng:

– Úi chà!

Nhưng Hồ Phỉ vừa cười vừa reo:

– Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

Triệu Bán Sơn người còn đang lơ lửng trên không đã than thầm:

“Chẳng trách phe Bắc Tông Thái Cực môn đang cường thịnh lại đi vào chỗ suy vong. Tôn Cương Phong làm chưởng môn một phái thật uổng, kiến thức của y không bằng một đứa nhỏ. Y không nhìn ra chỗ diệu dụng trong chiêu thức của ta.”

Lão hoan hỷ lẩm bẩm:

– Ta mới chỉ điểm tinh nghĩa của quyền lý mà thằng nhỏ này lĩnh hội được ngay lẽ biến thông, quả thật là hiếm có.

Trần Vũ chụp được địch nhân, trong lòng vừa sợ vừa mừng. Hắn không ngờ mình có thể thành công dễ như vậy. Hắn chắc mẫm dùng sức hất lão đi dù chẳng làm cho lão bị thương thì ít ra hắn cũng giữ được toàn thân rời khỏi Thương gia bảo. Ngờ đâu hắn vừa đẩy tay ra thì Triệu Bán Sơn đã xoay tay lại nắm trúng cổ tay hắn nên hắn không hất lão đi được.

Trần Vũ kinh hãi. Hắn vội vung tay trái đánh ngược lên. Triệu Bán Sơn ở trên cao vung tả chưởng đánh xuống. Bốp một tiếng! Song chưởng đụng nhau rồi dính chặt vào nhau như dùng keo mà dán lại. Trần Vũ vung tả chưởng về phía trước. Triệu Bán Sơn lại rút hữu chưởng về phía sau. Nếu Trần Vũ thu về thì lão lại đưa tay tới. Tấm thân mập ú của Triệu Bán Sơn vẫn bị Trần Vũ đẩy lơ lửng trên không, hai chân rời khỏi mặt đất.

Theo lẽ thông thường thì một người bị đối thủ đẩy cho lơ lửng như thế là ở vào thế hạ phong. Nhưng Triệu Bán Sơn đã liệu trước được công lực của đối phương còn kém mình xa, nên lão cố ý mạo hiểm nhằm mục đích đem chỗ tinh diệu về cách tá lực đả lực trong quyền lý, mà bình sinh lão đã triệt ngộ, để chỉ điểm cho Hồ Phỉ thấu hiểu. Hai chân lão rời khỏi mặt đất, thân hình lơ lửng trên không, mà hành động của lão lại cực kỳ nhàn nhã, kình lực phát huy ra chiêu số đều thuận theo đối thủ, hoàn toàn ung dung tự tại, có thể gọi đó là cảnh giới tối cao trong võ học. Điều mà Hồ Phỉ chưa thấu hiểu được cũng chỉ ở một điểm này.

Tay trái Triệu Bán Sơn dính vào tay mặt Trần Vũ, còn tay mặt lão dính vào tay trái hắn, bất luận hắn muốn hất mạnh thế nào cũng không thể buộc lão đặt một chân xuống đất được. Triệu Bán Sơn mập mạp, thân hình khoảng hai trăm cân đè nặng lên hai cánh tay của đối thủ. Ban đầu Trần Vũ chưa hiểu ra chuyện gì, được một lúc hắn mới cảm nhận được sức ép đè xuống hai cánh tay mỗi lúc một nặng nề, giống như đang nâng một tảng đá hai trăm cân để luyện công. Nếu là khối đá nặng thực sự cũng còn được đi, đằng này Triệu Bán Sơn người ở trên không mà hai chân lão không ngớt tìm những chỗ sơ hở ở trên đầu và ở mặt của hắn để đá vào.

Trần Vũ cầm cự một lúc đã toát mồ hôi trán. Đột nhiên hắn tiến thêm một bước về phía cây cột, vận lực vào tay toan đập người đối phương vào cây cột. Nhưng đời nào Triệu Bán Sơn lại để hắn làm việc đó, lão liền đưa chân phải đạp vào cây cột. Lúc trước người lão lơ lửng trên không thì sức nặng hai cánh tay Trần Vũ chỉ là sức nặng của thân thể lão, tưởng chừng chỉ cần thêm một phân lượng thì hắn cũng không chịu nổi, mà lúc này Triệu Bán Sơn lại mượn đà cây cột để lấy sức đè xuống thì khác nào cả ngọn Thái Sơn đè nặng xuống. Hai cánh tay Trần Vũ bật lên những tiếng rắc rắc tựa hồ sắp gãy nát. Hắn la thầm:

– Nguy rồi!

Hắn vội nhảy lùi ra.

Lúc này toàn thân Trần Vũ mồ hôi đầm đìa, dần dần làm ướt sũng cả quần áo. Bất luận hắn sử “Địa đường quyền” hay nhảy nhót qua lại thì Triệu Bán Sơn vẫn lơ lửng trên không, đem sức mạnh của thân thể đè xuống người hắn.

Hồ Phỉ thấy võ công của Triệu Bán Sơn thần diệu như vậy thì vừa lấy làm kinh dị lại vừa hoan hỷ. Gã thấy lão không cần sử dụng một chút hơi sức nào mà hoàn toàn chế ngự được đối thủ, nên dần dần thể hội được tinh nghĩa của võ học trong đạo lý ảo diệu đó. Chỉ thấy Trần Vũ mồ hôi tuôn ra đầm đìa, nhỏ giọt trên mặt đất, tựa hồ như chỗ gã đứng đã có một trận mưa rào đổ xuống. Chẳng mấy chốc, nước đã chảy lai láng khắp cả nền nhà.

Hổ Phỉ thấy y đã xuất toàn lực đến lúc gần như kiệt quệ. Bọn Mã Hành Không, Vương Kiếm Anh đều là những hành gia võ học, họ hiểu rằng mỗi khi Trần Vũ chảy thêm một giọt mồ hôi là mất đi một phần tinh lực, đến khi mồ hôi không còn chảy nữa thì hắn chẳng khác gì ngọn đèn khô dầu chỉ còn đường chết.

Dĩ nhiên Trần Vũ cũng hiểu thế. Hắn cảm thấy toàn thân mềm nhũn, trong ngực trống rỗng cực kỳ khó thở. Chợt hắn nghĩ thầm:

“Ta dùng phép “Vân Thủ” hành hạ khiến cho Lữ Hy Hiền phải kiệt sức chết. Thân thể gã chịu khổ thế nào, trong lòng cảm nhận thế nào thì bây giờ ta cũng lâm vào tình trạng giống hệt như vậy, Cái đó gọi là mình làm mình chịu, quả báo nhãn tiền.”

Hắn nghĩ mình không thể thoát chết, bất giác hồn vía lên mây, không còn nửa phần lực đạo để kháng cự với đối thủ, hai đầu gối đột nhiên khuỵu xuống, hắn mở miệng van lơn:

– Xin Triệu tam gia tha mạng!

Triệu Bán Sơn người lơ lửng trên không, hoàn toàn trông vào lực khí của địch nhân để chống chọi. Bây giờ thấy Trần Vũ đột nhiên kiệt lực khuỵu xuống, lão liền nhẹ nhàng tung người nhảy vọt về phía sau, xòe tả chưởng ra quát:

– Hạng gian đồ như ngươi để sống mà làm gì?

Lão toan vung chưởng đập xuống thiên linh cái Trần Vũ thì ngó thấy hắn ngước mắt van xin, nét mặt đầy vẻ khiếp sợ.

Triệu Bán Sơn vốn lòng dạ nhân từ. Dù gặp kẻ cùng hung cực ác nhưng nếu không tận mắt thấy hành động tàn ác của họ thì lão thường sinh lòng lân mẫn, chỉ giáo huấn một hồi rồi buông tha cho đi, để họ ăn năn hối lỗi.

Hiện giờ Trần Vũ gân cốt đã tán đoạn, võ công toàn thân mất hết, chẳng khác gì phế nhân. Dù hắn không chịu sửa đổi lỗi lẫm ngày cũ thì cũng chẳng thể làm ác được nữa. Lão thấy vẻ mặt đáng thương của Trần Vũ thì cánh tay đang đánh xuống nửa chừng liền dừng lại. Lão quay lại nhìn Tôn Cương Phong nói:

– Tôn huynh! Gã này đã mất hết võ công xin tùy Tôn huynh xử trí. Tiểu đệ chỉ xin Tôn huynh chừa cho hắn một con đường sống.

Tôn Cương Phong ngó Triệu Bán Sơn rồi lại nhìn Trần Vũ, trong lòng lấy làm khó nghĩ, tự hỏi:

“Tên gian tặc này tội ác tày trời, ta đã phải chặt hai tay mới cầu được lão đến báo thù thì có lý nào lại buông tha hắn được? Nhưng tên gian tặc này đã chính lão chế phục, mà lão lại mở lời xin tha mạng hắn thì ta cự tuyệt thế nào được.”

Y quay lại ngó Lữ tiểu muội thì thấy mắt cô tựa hồ tóe lửa, nhìn Trần Vũ đầy vẻ căm hờn. Bỗng y nảy ra một chủ ý, liền xoay mình đến trước mặt Triệu Bá Sơn lạy xuống nói:

– Triệu tam gia! Bữa nay Tam gia đã vì phái Bắc Tông mà thanh lý môn hộ Tôn mỗ vĩnh viễn ghi nhớ đại đức.

Y nói rồi dập đầu binh binh.

Triệu Bán Sơn vội quỳ xuống đáp lễ, nói:

– Tôn huynh bất tất phải đa lễ. Giữa đường thấy chuyện bất bình, ra tay can thiệp vốn là bổn phận hiệp nghĩa của bọn ta. Huống chỉ Tôn huynh với tại hạ lại cùng một môn phái, cùng có mối tương quan, việc gì phải nhọc lòng nói lời cảm tạ?

Tôn Cương Phong đứng dậy, miệng cắn ngang thanh tiêm đao sáng loáng.

Triệu Bán Sơn đứng thẳng người lên chợt nhìn thấy thanh đơn đao lão không khỏi giật mình lùi lại một bước.

Nguyên thanh chủy thủ này là của Trần Vũ. Hắn vừa dùng nó để dí vào người Lữ tiểu muội. Sau đó, Hồ Phỉ dùng xảo kế cứu người, trong lúc đánh nhau gã đoạt được thanh chủy thủ này liệng xuống đất. Tiếp theo, Triệu Bán Sơn chỉ điểm quyền quyết, rồi chuyện nọ xẩy tiếp chuyện kia khiến Trần Vũ thủy chung không lúc nào rảnh để lượm đao.

Tôn Cương Phong cụt cả hai tay. Y nhân lúc dập đầu, dùng miệng ngậm lấy. Tôn Cương Phong tiến lên hai bước đến trước mặt Lữ tiểu muội cúi xuống để đưa chủy thủ cho thị. Lữ tiểu muội chìa tay ra nắm lấy chuôi đao đưa mắt hỏi ý.

Tôn Cương Phong mở miệng ra đáp:

– Triệu tam gia! Tam gia bảo sảo, tiểu đệ cũng không dám nửa lời phản đối, nhưng phụ thân của Lữ tiểu muội bị tên gian tặc này sát hại, cả đứa em trai của y cũng bị tên này tự tay giết chết. Vậy tha hay không thì trừ Lữ tiểu muội ra, trong thiên hạ không còn người thứ hai nào có quyền quyết định được. Tam gia thấy có đúng không?

Triệu Bán Sơn buông tiếng thở dài. Khẽ gật đầu.

Tôn Cương Phong nhìn Lữ tiểu muội lớn tiếng:

– Tiểu muội! Có muốn báo thù và có gan thì giết tên gian tặc này đi. Bằng cô sợ hãi thì hãy tha cho hắn quách!

Quần hào đều đưa mắt nhìn Lữ tiểu muội. Có người nghĩ rằng cô có đủ nghị lực để đến tận Hồi Cương cầu viện, tỏ rõ quyết tâm phục thù thì dĩ nhiền cô đủ can đảm để giết người. Có kẻ thấy cô người bé nhỏ yếu ớt, tay cầm thanh tiêm đao sáng loáng đã run rồi, e rằng không dám giết một hán tử cao lớn như Trần Vũ.

Lữ tiểu muội người run lẩy bẩy, nhưng trong lòng lại không chút ngần ngại. Cô cầm thanh tiêm đao rảo bước thằng về phía Trần Vũ. Cô đứng chưa tới ngực hắn, nên mũi tiêm đao đâm tới trúng vào phần bụng dưới.

Lúc này Trần Vũ tứ chi bải hoải, đứng cho khỏi té đã là gắng gượng lắm rồi. Hắn thấy Lữ tiểu muội phóng đao đâm tới liền rú lên một tiếng rồi quay đầu bỏ chạy. Lữ tiểu muội tuy đã luyện được một chút quyền cước nhưng võ công còn quá kém coi, nên khi đối phương co mình lại thì thanh đao đâm vào quãng không. Cô liền cầm thanh tiêm đao rượt theo.

Trần Vũ chân bước loạng choạng chạy ngay về phía cửa sảnh đường, nhưng không hiểu cánh cửa đã bị đóng từ lúc nào. Hắn vội đưa tay đẩy cửa ra, ngờ đâu lúc này cánh cửa nóng bỏng. Nghe “xèo xèo” mấy tiếng, khói trắng bốc lên, hai bàn tay Trần Vũ bị dính chặt vào cửa lớn. Hắn kinh hãi vội ra sức giật tay về, nhưng kình lực toàn thân đã mất hết. Hắn lảo đảo người đi một cái rồi cả thân mình hắn cũng dính vào cửa. Hắn rú lên một tiếng thê thảm rồi im bặt.

Biến cố xảy ra bất giờ ngoài sự tiên liệu của mọi người. Mọi người ngơ ngác một chút rồi cùng xông tới cửa sảnh, thì mũi đã ngửi thấy mùi khét lẹt. Nguyên cửa sảnh đường là một tấm sắt dày, không hiểu người nào ở bên ngoài đã nung lên nóng rực. Trần Vũ bị dính vào cửa chỉ trong khoảnh khắc đã chết cháy.

Mọi người thấy rõ hiện trạng đều kinh ngạc phi thường.

Vương Kiếm Anh lớn tiếng hỏi:

– Đệ muội! Vụ này là thế nào đây!

Nhưng không thấy Thương lão thái trả lời. Hắn xoay mình tìm kiếm thì chẳng những không thấy mẹ con Thương lão thái đâu, mà cả gia nhân đưa rượu thịt vào sảnh đường cũng trốn tránh đi hết chẳng còn một ai.

Vương Kiếm Anh đột nhiên biến sắc, vội chạy vào nội đường nhưng cánh cửa thông vào trong cũng đã đóng chặt. Chính giữa cửa vẽ hình bát quái đen sì như bằng gang thép đúc nên. Hắn không dám đưa tay ra đẩy, chỉ tiến lại gần hai bước đã cảm thấy hơi nóng quạt vào mặt. Té ra cửa sau cũng bị nung nóng lên rồi.

Vương Kiếm Kiệt lớn tiếng hô:

– Thương tẩu tẩu! Tẩu tẩu làm trò quỷ gì vậy. Ra đây mau.

Thanh âm hắn đã vang dội mà bốn vách đóng kín nên càng vang dội hơn. Quần hào bất giác đứng cả dậy nhìn quanh thì chẳng thấy một khung cửa sổ nào. Cửa lớn trước mặt và mặt sau đều đóng chặt, đến con ruồi cũng không bay ra được. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, bây giờ mới tỉnh ngộ.

Nguyên tòa nhà đại sảnh này trong Thương gia bảo lúc kiến tạo đã có chỗ dụng tâm. Họ không đặt cửa sổ, còn cửa ra vào đều bằng sắt đúc. Tường vách cũng cực kỳ kiên cố, nếu không bằng sắt thì cũng bằng đá. Mã hành Không vận kình vào hai cánh tay cầm chiếc ghế dài giơ lên đập vào tường đánh chát một tiếng, cái ghế dài lập tức gãy đôi. Bụi trắng trên tường rào rào rớt xuống để lộ bên phần đá hoa cương xây bên trong.

Vương Kiếm Anh đứng theo mã bộ, vận kình ra bàn tay phóng song chưởng đánh vào tường. Chưởng lực của hắn mãnh liệt phi thường. Nếu là tường vách thường thì dù không xuyên thủng cũng bị nứt ra. Nhưng vách ở đây xây bằng đá vừa dày vừa kiên cố, chưởng lực của Vương Kiếm Anh đánh vào vẫn không suy chuyển mảy may. Vương Kiếm Kiệt trong lòng rối loạn không ngớt kêu gọi:

– Thương tẩu tẩu! Tẩu tẩu làm gì vậy? Mở cửa mau! Mở cửa mau!

Triệu Bán Sơn trầm tĩnh tìm kiếm đường ra. Lão nghĩ thầm:

“Nhà đại sảnh đã kiến tạo cách này là cố ý hại người. Trên nóc nhà chắc bố trí nghiêm ngặt không thể xông lên được.”

Vương Kiếm Kiệt hô hoán mấy câu trong lòng đã khiếp sợ, liền thôi không kêu nữa. Hắn đưa mắt nhìn huynh trưởng nhưng lão cũng chẳng có chủ ý gì. Lúc này trong đại sảnh có Triệu Bán Sơn, Hồ Phỉ, Tôn Cương Phong, Lữ tiểu muội, Vương thị huynh đệ, Mã Hành Không, Từ Tranh, Ân Trọng Tường, tổng cộng chín người. Ngoài ra còn thi thể của Trần Vũ. Trừ Lữ tiểu muội, tám người kia đều là những tay hảo thủ võ lâm nhưng bị khốn trong sảnh đường kiên cố này, có võ công cũng không thi triển được. Trong lúc nhất thời người nọ nhìn người kia không biết phải làm sao? Bỗng nghe thanh âm the thé vọng lên:

– Các vị tự xưng anh hung hảo hán, nhưng bữa nay muốn trốn ra khỏi tòa thiết sảnh ở Thương gia bảo cũng muôn vàn khó khăn. Tòa thiết sảnh này do chính tay tiên phu Thương Kiếm Minh kiến tạo. Tuy lão nhân gia chết đã lâu năm, nhưng vẫn có thể hãm các vị vào đất chết. Các vị anh hùng đã chịu phục chưa?

Mụ nói rồi nổi lên một tràng cưới khanh khách khiến mọi người nghe lông tóc dựng đứng cả lên, không rét mà run. Quần hào nhìn về phía âm thanh phát ra thì thấy tiếng nói của Thương lão thái do lỗ chó chui mà lọt vào trong phòng. Vương Kiếm Anh cúi đầu xuống cho miệng vào lỗ chó chui la gọi:

– Đệ muội! Anh em ta đồng môn cùng thầy với Kiếm Minh, chỉ có ân tình chứ không thù oán. Đệ muội lại giam hãm huynh đệ ta ở chốn này là nghĩa lý gì?

Vương Kiếm Anh đáp:

– Bữa nay bọn ta mới biết tin Kiếm Minh sư đệ qua đời, lại không hiểu y bị hại về tay Hồ Nhất Đao. Nếu mà biết sớm thì dĩ nhiên đã báo thù cho y rồi.

Thương lão thái cười lạt nói:

– Ngươi là người vô lương tâm, toàn nói chuyện lừa gạt.

Vương Kiếm Anh nói:

– Tay ta vừa mới bị trúng độc, nếu không thì…thì…

Gã nói chưa dứt lời bỗng nghe vút một tiếng. Một mũi tên bay qua lỗ chó chui bắn vào. Vương Kiếm Kiệt tinh mắt bước tới ngăn lại, nếu không Vương Kiếm Anh nằm phục dưới đất đã bị thương rồi. Ân Trọng Tường từ lúc bị Triệu Bán Sơn chặt gãy kiếm, lẳng lặng không nói nửa lời. Hắn nghĩ mình chẳng dính líu gì vào vụ này mà bỏ mạng ở đây thì thật là oan uổng, liền cất tiếng nói:

– Thương Kiếm Minh dựng tòa thiết sảnh này định để gia hại ai?

Vương Kiếm Minh tức giận đáp:

– Thằng cha này khi học nghệ nơi tiên phụ đã tỏ ra không phải là người chính phái. Hắn âm thầm dựng lên nhà cửa kiểu này thì còn có hảo tâm gì nữa?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Thương Kiếm Minh không đánh lại gia gia ta mà dựng lên tòa thiết sảnh này dĩ nhiên là muốn gia hại lão nhân gia, ai ngờ tên bị thịt đó lại chết về tay gia gia ta.”

Lòng gã nghĩ như vậy nhưng không nói gì, chỉ quan sát bốn phía để tìm kế thoát thân. Hồ Phỉ đoán thế là sai. Thương Kiếm Minh cùng Hồ Nhất Đao vốn không quen biết. Hắn kết mối thâm thù với Miêu Nhân Phụng và biết nhân vật mang ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” không nên dây vào. Nếu một ngày kia Miêu Nhân Phụng tìm đến nhà mà tỷ võ không thắng được thì dùng tòa thiết sảnh này để kiềm chế y. Không ngờ người tìm đến Thương gia bảo lại chẳng phải Miêu Nhân Phụng mà là Hồ Nhất Đao. Thương Kiếm Minh vốn tính tự phụ, chẳng coi Hồ Nhất Đao vào đâu. Lúc giao chiến, hắn chưa kịp dùng đến tòa thiết sảnh thì đã bị chặt đầu.

Mối thù này Thương lão thái lúc nào cũng ghi khắc trong lòng. Mụ biết Hồ Nhất Đao chết rồi mà con y là Hồ Phỉ võ công cực kỳ lợi hại. Mụ thấy đại thù khó trả liển nhân cơ hội Triệu Bán Sơn đấu với Trần Vũ, mọi người chú ý theo dõi cuộc chiến, mụ cùng con trai lén ra khỏi sảnh đường, đóng chắt cửa sắt cả ngả trước ngả sau lại, rồi chỉ huy gia đinh khuân củi chất đống đốt lên.

Tòa thiết sảnh tường vách và cửa sắt rất dày, bên ngoài đã phóng hỏa mà mọi người bên trong vẫn chưa hay biết. Mãi đến lúc Trần Vũ bị tấm cửa sắt đốt chết, mọi người mới biết mình lâm vào cảnh chim lồng, có mọc cánh cũng khó lòng bay ra.

Mọi người cứ đi quanh sảnh đường. May tòa nhà này rất lớn, cửa sắt đã cháy đỏ hồng mà mọi người còn chịu đựng được. Triệu Bán Sơn lên tiếng:

– Chẳng lẽ chúng ta chịu chết ở đây? Hãy đồng tâm hiệp lực đào một đường hầm để ra ngoài.

Ân Trọng Tường chau mày đáp:

– Ở đây không có thuổng đuốc, đợi đến khi đào được đường hầm thì người đã bị nướng chín rồi.

Từ Tranh chỉ lo cho vị hôn thê Mã Xuân Hoa ở bên ngoài sảnh đường chẳng hiểu có gặp nguy hiểm gì không. Gã là một tên lỗ mãng nóng nảy, chẳng tìm ra được biện pháp gì. Bây giờ gã nghe Triệu Bán Sơn nói tới chuyện đào đường hầm liền lớn tiếng phụ họa:

– Triệu Tam gia nói đúng. Dù sao cũng còn hơn bó tay chịu chết.

Gã rút đơn đao nạy viên gạch xanh lớn để đào hầm thì bỗng thấy một luồng khí nóng. Bỗng nghe đánh choang một tiếng. Đúng là tiếng sắt thép chạm nhau. Mọi người đều kinh ngạc. Vương Kiếm Kiệt hỏi:

– Dưới nền cũng bằng sắt đúc sao?

Hắn liên tiếp dùng đao đào thêm mấy phiến gạch xanh thì quả nhiên phía dưới nối liền thành một phiến. Nền nhà sảnh đường là một phiến sắt rất lớn. Như vậy việc đào đường hầm dĩ nhiên không thể thực hiện được, khiến mọi người càng kinh hãi vì sức nóng ở mặt đất mỗi lúc một tăng. Từ Tranh thóa mạ:

– Con mẹ nó! Mụ hồ lang kia đốt lửa ở phía dưới thì tòa sảnh đường này biến hành cái chảo sắt khổng lồ.

Hồ Phỉ cười nói:

– Không sai! Mụ muốn nấu chín bọn ta để ăn thịt.

Quần hào thấy khí nóng bốc lên cuồn cuộn thì không ai là không kinh hãi. Sau một lúc trên đỉnh đầu cũng thấy hơi nóng. Nguyên nóc nhà cũng được làm bằng sắt tấm và hiển nhiên mặt trên cũng đang có củi chất đốt.  Vương Kiếm Anh đột nhiên nằm phục xuống trước lỗ chó chui la lên:

– Thương gia đệ muội! Đệ muội tha cho bọn ta ra. Anh em ta sẽ giết chết tên tiểu tạp chủng họ Hồ cho.

Hồ Phỉ nghe hắn nói vô lễ liền vung cước đá vào mông hắn. Triệu Bán Sơn cầm cánh tay gã kéo lại khiến chân gã đá vào quãng không. Triệu Bán Sơn khẽ bảo gã:

– Hiện chúng ta đang lâm vào tình cảnh cùng hội cùng thuyền. Mình đừng gây nhau, hãy nghĩ cách ra khỏi nơi đây đã.

Lão nghĩ thầm:

“Chỉ cần Thương lão thái chịu tha anh em họ Vương là có cơ hội thoát thân.”

Bỗng nghe Thương lão thái đáp:

– Tính mạng tên tiểu tạp chủng đã ở trong tay lão thân, cần gì đến các vị giúp đỡ? Chỉ trong vòng nửa giờ hết thảy các ngươi đều biến thành cục than. Ha ha! Trong đó không có một hảo nhân nào. Thằng lỏi họ Hồ kia! Mã lão đầu tử! Trong sảnh đường có mát không?

Mã Hành Không chau mày chẳng nói năng gì. Thương lão thái lại bật tiếng cười như tiếng cú kêu. Mụ la lên:

– Mã lão đầu tử! Con gái lão ta đã chiếu cố cẩn thận rồi. Lão cứ yên tâm đi. Ta kiếm cho thị hàng ngàn hàng vạn thằng chồng tử tế.

Mã Hành Không lòng đau như cắt. Lão đã tuổi già, mình sống hay chết chẳng đáng tiếc gì mấy, nhưng đứa con gái yêu độc nhất lạc lõng bên ngoài tất bị mụ già độc ác hành hạ, cảnh đau khổ kể sao cho xiết?

Vương Kiếm Anh đứng dậy ghé vào tai em thì thầm mấy câu. Vương Kiếm Kiệt lẩm nhẩm gật đầu. Vương Kiếm Anh lại nhìn Tôn Cương Phong, Triệu Bán Sơn chắp tay nói:

– Triệu tam gia! Chúng ta cùng ở trong cơn hoạn nạn, tiểu đệ có lời khó nghe muốn nói.

Triệu Bán Sơn dắt tay Hồ Phỉ đáp:

– Nhất nhất đều y theo lời Vương đại ca dạy bảo, nhưng gia hại chú nhỏ này thì không được.

Nguyên Triệu Bán Sơn thấy Vương thị huynh đệ châu đầu thì thầm đã biết hai người vì muốn sống mà định giết Hồ Phỉ để năn nỉ Thương lão thái. Vương Kiếm Anh bị lão nói huỵch toẹt tâm sự ra, mặt nổi sát khí, miệng lớn tiếng:

– Triệu tam gia! Kẻ đối đầu với Thương lão thái chỉ có một mình thằng nhỏ đó. Oan có đầu, nợ có chủ. Bao nhiêu người ở đây không lẽ phải làm quỷ để chết theo gã?

Hắn đưa mắt nhìn mọi người nói tiếp:

– Các vị huynh đệ nói xem như vậy có oan uổng hay không?

Ân Trọng Tường liền nói theo:

– Ngoài thằng này chẳng ai dính líu gì đến chuyện ở đây.

Vương Kiếm Anh hỏi:

– Mã lão tiêu đầu! Lão gia tính sao?

Mã Hành Không tự nghĩ:

“Thương lão thái đã có thù với mình chưa chắc mụ đã chịu buông tha thầy trò mình, nhưng tình thế trước mặt nguy cấp dị thường, phải tìm cách thoát thân đã.”

Hồ Phỉ sống hay chết lão cũng chẳng quan tâm. Lão liền đáp:

– Vương đại gia nói đúng. Chuyện này không dính líu gì đến người ngoài.

Vương Kiếm Anh lại nói:

– Tôn đại ca! Đại ca đưa mình vào chỗ nước đục này thật oan uổng. Gã họ Trần kia chết cháy rồi, thế là mối thù của đại ca cùng Lữ tiểu muội đã trả xong.

Tôn Cương Phong nhận thấy hắn nói có lý nhưng trong lòng rất cảm kích ơn đức của Triệu Bán Sơn, nên không tiện công nhiên đối địch, liền nói:

– Triệu tam gia! Chẳng phải tiểu đệ không nghĩ đến nghĩa khí nhưng Triệu tam gia…

Triệu Bán Sơn dõng dạc quát lớn:

– Các vị sáu người mà bọn ta chỉ có hai. Chúng ta hãy coi xem họ Hồ, họ Triệu chết trước hay họ Vương, họ Ân các vị chết trước.

Lão nói rồi đứng chắn trước mặt Hồ Phỉ thần oai lẫm liệt. Bình thời diện mục Triệu Bán Sơn rất hiền từ, nói năng hòa nhã, lại hay mủi lòng, nhưng đến lúc cận kề sống chết thì hai chữ “nhân hiệp” lão lại rất coi trọng. Lão nói mấy câu như chém đinh chặt sắt chẳng nể nang gì nữa.

Bon Vương thị huynh đệ một là sợ bản lãnh Triệu Bán Sơn cao, hai là thấy mình ham sống sợ chết tỏ ra con người bất nghĩa nên không dám xông vào động thủ. Nhưng con người gặp lúc nguy nan sinh tử thì chân tướng tất lộ ra, không còn che giấu được nữa. Ai nấy liền kéo ghế dài ghế ngắn để đứng lên. Vương Kiếm Kiệt giơ thanh Bát Quái đao hô lên:

– Triệu tam gia! Bữa nay tiểu đệ cam bề đắc tội.

Hắn đưa tay trái vẫy Ân Trọng Tường, Mã Hành Không, Từ Tranh rồi hô lớn:

– Chúng ta cùng tiến lên.

Hắn biết Tôn Cương Phong quyết chẳng thể nào giúp mình đối nghịch với Triệu Bán Sơn nhưng thấy bên mình năm người chọi với một già một trẻ thì cũng có cơ may thắng. Mọi người tới tấp lấy binh khí ra, chỉ còn chờ Triệu Bán Sơn chuyển động thân hình là năm người nhất tề vung đao kiếm đánh tới. Cuộc động thủ này xẩy ra tất ai cũng phải liều mạng vì thấy trong sảnh đường mỗi lúc một nóng thêm. Chần chờ một khắc là thêm một phần nguy hiểm. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Vì một mình ta mà mấy người phải chết theo. Bon Vương thị huynh đệ chết chẳng có gì đáng tiếc. Nhưng Triệu tam gia là một bậc đại anh hùng, đại hảo hán thì không thể để lão bá vì ta mà uổng mạng. Bây giờ khai diễn cuộc đấu thì dù Triệu tam gia cùng ta có giết được bọn họ rồi, mình vẫn khó lòng thoát nạn. Xem chừng chỉ mình ta chịu chết về tay Thương lão thái mới cứu được tính mạng của Triệu tam gia.”

Gã thấy anh em Vương thị lăm le chỉ chực động thủ nhưng chưa ai dám ra tay trước, trong lòng liền quyết định, rồi dõng dạc hô:

– Các vị hãy khoan động thủ.

Gã cúi xuống thò đầu qua lỗ chó chui lớn tiếng gọi:

– Thương lão thái! Tại hạ ở đây không nhúc nhích. Lão thái phóng tiêu bắn chết tại hạ đi! Rồi mau mở cửa thả Triệu tam gia ra.

Thương lão thái ngửa mặt lên trời cười rộ. Mụ móc kim tiêu trong bọc ra, miệng hô:

– Kiếm Minh! Kiếm Minh! Bữa nay tiện thiếp tự tay báo thù cho chàng đây!

Mụ đưa tay phải lên. Một mũi kim tiêu bôi thuốc kịch độc bắn tới trước mặt Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy ánh kim quang lấp lánh. Mũi kim tiêu bắn tới huyệt “Mi tâm”. Gã nhắm mắt lại nghĩ thầm:

“Thương lão thái bắn chết ta rồi là thỏa mãn tâm nguyện. Mụ chẳng có thù oán gì với Triệu bá bá, tất buông tha lão.”

Giữa lúc ấy chân gã bị kéo mạnh một cái. Người gã lùi lại rồi bật lên cao. Gã mở mắt ra nhìn thấy mình đang chơi vơi trên không, liền vươn tay bám vào cột nhà, nhẹ nhàng hạ xuống. Gã thấy Triệu Bán Sơn tay cầm mũi tiêu, thì ra lão cứu mạng gã. Vương Kiếm Anh thấy Hồ Phỉ xả thân cứu người lại bị Triệu Bán Sơn cản trở, hắn không khỏi tức giận, nói:

– Họ Triệu kia! Bậc đại trượng phu phải biết đường ân cần phân minh. Vụ này không liên quan gì đến chúng ta. Gã tự nguyện chịu chết sao lão còn nhúng tay vào làm chi?

Triệu Bán Sơn mỉm cười không đáp. Lão quay lại hỏi Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Vừa rồi chú đưa được đầu ra ngoài lỗ chó chui phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế!

Gã thấy vẻ mặt lão rất bình tĩnh, miệng lại cười, tựa hồ đã tìm ra được kế thoát thân, liền nói:

– Triệu bá bá, xin bá bá chỉ bảo.

Triệu Bán Sơn đáp:

– Đầu là vật rắn không thể co lại được, còn bả vai và mình đều mềm.

Hồ Phỉ lập tức lĩnh hội. Gã kêu lên:

– Phải rồi! Đầu đã chui ra được thì mình cũng chui ra được.

Gã liền cởi áo cuốn thành một bó đội lên đỉnh đẩu, một là để chui ra cho dễ, hai là để đề phòng mũi kim tiêu tẩm chất độc của Thương lão thái. Triệu Bán Sơn lại nói:

– Tiểu huynh đệ hãy lùi lại sau để Triệu mỗ mở đường cho.

Từ Tranh la lên:

– Không xong! Lão mập ú như vậy thì chui làm sao được.

Triệu Bán Sơn nổi lên tràng cười ha hả, không lý gì đến gã. Lão cúi xuống vung tay phải một cái. Một mũi tụ tiễn theo lỗ chó chui phóng ra ngoài. Bỗng nghe một tên trang đinh kêu thét lên:

– Chân…chân…chân ta!

Hiển nhiên chân gã bị trúng tiêu. Triệu Bán Sơn khẽ rung tay trái. Lão lại phóng mũi kim tiêu của Thương lão thái ra ngoài. Nhưng lần này không thấy động tĩnh gì, chắc mọi người đều đã tránh ra. Bỗng có người la:

– Mau mau lấp chỗ chó chui lại.

Thương lão thái quát:

– Không được cử động! Để ta nghe tiếng bọn chúng kêu la lúc bị đốt chết. Các ngươi cứ tránh ra một bên là được. Ám khí có đi đường vong được đâu mà sợ?

Triệu Bán Sơn giơ hai tay lên luôn mấy cái. Hơn chục mũi ám khí liên tiếp bắn ra mạnh mẽ mau lẹ dị thường. Mũi nào cũng bắn xa đến ngoài mười trượng. Lão phóng gần hai chục mũi tên rồi dùng tay trái khẽ đẩy vào sau lưng Hồ Phỉ, xô về phía trước. Gã cầm bọc áo đưa ra ngoài.

Thương lão thái đã đề phòng. Dưới ánh lửa mụ thấy một vật đen sì chuồn qua lỗ chó chui liền vung thanh Tử Kim Đao chém vèo một cái, trúng vào đống vải. Mụ cảm thấy chỗ đao chém xuống mềm nhũn, biết là không trúng địch bội nhấc đao lên. Hồ Phỉ đã đưa được tay phải ra ngoài, xoay đi một cái chụp được cổ tay mụ gã liền chui đầu qua lỗ chó chui ra ngoài.

Thương lão thái la lên một tiếng. Thương Bảo Chấn nhảy vọt tới vung đao nhằm chém xuống đầu Hồ Phỉ. Lúc này cả vai Hồ Phỉ cũng thoát ra ngoài rồi nhưng lỗ chó chui hẹp quá, nên ngực gã cùng cánh tay trái trong lúc nhất thời còn bị kẹt chưa chui ra được. Gã đành mượn cổ tay Thương lão thái để hất lên. Choang một tiếng! Hai thanh đao của hai mẹ con đụng nhau. Thủ pháp này là công phu “Tá lực đả lực” mà Hồ Phỉ vừa mới học được từ Triệu Bán Sơn. Gã là người thông tuệ hơn đời, vừa hiểu đã sử dụng được ngay, nếu không tất đã mất mạng dưới lưỡi đao của Thương Bảo Chấn rồi.

Triệu Bán Sơn nghe tiếng song đao đụng nhau lại thấy mình Hồ Phỉ chưa ra ngoài được, lão liền vận Thái Cực nhu kình đẩy đùi gã một cái. Hồ Phỉ không tự chủ được, người vọt lên không, vừa gặp lúc thanh đao của Thương Bảo Chấn chém xuống. Nhát đao này kình lực rất mạnh chém vào tường xây bằng đá hoa cương. Tia lửa bắn tung tóe, lưỡi đao quằn lại, Hồ Phỉ ở trên không lộn đi một vòng. Trong ánh lửa, gã nhìn thấy Thương lão thái quét ngang thanh đao để chém chân mình, nên vội dùng phép “Thiên cân trụy” hạ xuống thật mau. Bỗng nghe vèo một tiếng. Thanh Bát Quái đao lướt qua trên đỉnh đầu gã. Hồ Phỉ chân chưa chấm đất đã xoay tay trái lại thi triển công phu “Không thủ nhập bạch nhận” đoạt thanh đao trong tay Thương lão thái.

Thương lão thái thấy cừu nhân thoát chết trong đường tơ kẽ tóc, mắt mụ đỏ song sọc, liền điên cuồng vung Bát Quái đao chém lên chém xuống, đâm ngang đâm dọc. Hồ Phỉ tay không tấn công mấy chiêu mà chẳng chiếm được chút tiện nghi nào. Lại nghe bọn trang đinh lớn tiếng hô hoán. Trong cảnh khói lửa, Thương Bảo Chấn cầm đao xông lại.

Hồ Phỉ nghĩ tới lúc này trong sảnh đường lửa nóng dị thường. Nếu cuộc chiến kéo dài là bọn Triệu Bán Sơn khó lòng bảo toàn tính mạng. Gã biết rằng tám nhân mạng trong sảnh đường hoàn toàn trông cậy việc gã có đả bại mẹ con Thương lão thái trong khoảnh khắc và đánh tan bọn trang đinh để mở cửa sảnh đường hay không?

Trong lòng nóng nảy, gã đưa hai bàn tay xuyên qua xuyên lại giữa hai thanh đao, liều mạng chiến đấu. Mẹ con Thương lão thái cũng biết cuộc chiến đấu này can hệ đến sự tồn vong sinh tử của mình nên đánh rất rát. Song đao rít lên veo véo nghe như hai con rắn lớn vây đánh Hồ Phỉ.

Trong đại sảnh, Triệu Bán Sơn cùng bọn Vương thị huynh đệ đều xúm xít bên cạnh lỗ chó chui mà lắng tai nghe cuộc đấu giữa Hồ Phỉ và mẹ con Thương lão thái xem ai thắng ai bại. Vương thị huynh đệ tuy ghét cay ghét đắng Hồ Phỉ nhưng lúc này lại càng cùng một ý nghĩ với Triệu Bán Sơn là mong gã giết được mẹ con Thương lão thái cho lẹ. Khí nóng trong đại sảnh mỗi lúc một thêm khủng khiếp, cơ hồ chịu không nổi. Bàn ghế bị sức nóng làm cho nứt toác, nến sáp nóng quá chảy hết cả ra, khiến cả sảnh đường tối om om.

Đột nhiên ánh sáng bùng lóe lên, nhưng bức thư họa treo trên tường bị sức nóng làm cháy rực, chỉ trong khoảnh khắc đã bị tàn lụi. Kế đó lại tối om, giơ bàn tay không trông rõ ngón. Chẳng bao lâu mọi người lại sợ cháy đến cả bàn ghế.

Mọi người lòng nóng như lửa đốt mà chẳng một ai lên tiếng, chỉ ngưng thần lắng nghe thanh âm cuộc chiến giữa ba người bên ngoài. Vương Kiếm Anh chõ miệng la lên:

– Hồ gia tiểu huynh đệ! Đánh lẹ vào bàn hạ của Thương lão thái. Đường đao pháp này của mụ có ba chỗ không ổn.

Hắn đã rèn luyện môn “Bát Quái đao” mấy chục năm nên chỉ nghe đao phong là biết mụ sử đao như thế nào. Hồ Phỉ đang khổ vì nhất thời khó bề thủ thắng. Gã nghe Vương Kiếm Anh hô hoán như vậy bất giác trong lòng hớn hở, cong người như cánh cung, vung quyền đấm vào đùi Thương lão thái. Thương lão thái không né tránh, lại giơ đao lên chém thẳng xuống sống lưng gã. Mụ chỉ mong đả thương địch chứ chẳng lo gì đến thân mình. Hồ Phỉ vặn lưng nghiêng mình tránh khỏi nhát đao này thì chiêu thứ hai của Thương lão thái lại chém tới liền. Mụ nghe rõ tiếng Vương Kiếm Anh hô địch nhân đánh vào hạ bàn mình mà vẫn không phòng ngự.

Vương Kiếm Anh lại hô:

– Mụ nóng lòng liều mạng. Tiểu huynh đệ không đoạt được kim đao của mụ đâu. Hãy mau nghĩ cách khác đi.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Cái đó ta cũng biết rồi, hà tất ngươi phải nhắc nhở? Gặp mụ khùng này thì còn biện pháp nào nữa?

Cuộc chiến đấu ngoài lỗ chó chui đang lúc kịch liệt. Hồ Phỉ một mình chọi hai, dần dần chiếm được thượng phong, nhưng muốn thắng e rằng còn phải đánh đến hơn trăm hiệp nữa. Thương lão thái thấy tình thế bất lợi, lại nghe Vương Kiếm Anh không ngớt hô hoán chỉ điểm cho địch nhân, đem những yếu quyết phá giả Bát Quái đao nói ra từng điểm một khiến mụ căm hận dị thường. Mụ ngấm ngầm thóa mạ:

“Mi chẳng báo thù cho đồng môn đã là vạn lần không nên, lại còn quay ra giúp giặc. Đúng là một tên gian tặc lòng lang dạ sói.”

Mụ không nghĩ tới Vương Kiếm Anh ở vào tuyệt địa. Nếu hắn không quay ra giúp đỡ hồ Phỉ thì tính mạng không toàn trong khoảnh khắc. Đang cơn cuồng nộ, mụ tự nhủ:

“Quân tiểu tạp chủng này võ nghệ cao cường. Gã đã trốn ra rồi e rằng khó lòng giết được gã. Nhưng thiêu chết bọn gian nhân trong sảnh đường thì ta cũng hả giận được phần nào.”

Mụ liền la gọi gia đinh chất thêm củi để đốt. Ân Trọng Tường không ngớt dậm chân, thầm oán trách hồ Phỉ vô dụng. Vương Kiếm Kiệt nói:

– Triệu tam gia! Mau phóng ám khí giúp gã.

Triệu Bán Sơn trong tay đã cầm sắn mười mấy mũi ám khí nhưng bọn Thương lão thái ba người lại ác đấu ở mé bên lỗ chó chui ra, ám khí không đi đường cong được. Kể ra lão còn mấy mũi “Phi yến ngân thoa” là loại ám khí độc môn có thể đi quanh theo đường cánh cung đả thương người. Nhưng Hồ Phỉ đánh nhau với mẹ con Thương lão thái binh khí sát vào nhau, đứng gần nhau mà đánh, lão không nhìn được chuẩn đích mà cứ phát xạ, ai dám chắc sẽ không trúng phải Hồ Phỉ?

Hồ Phỉ tuy còn nhỏ nhưng tâm cơ linh mẫn. Gã đã nghĩ tới điểm này, mấy lần muốn dụ Thương lão thái ra phía trước lỗ chó chui, nhưng mụ rất úy kỵ tài phóng ám khí của Triệu Bán Sơn nên thủy chung vẫn không chịu mắc lừa. Lúc này trong sảnh đường mùi khói khét lẹt đã ngập tràn. Ban đầu mọi người cháy râu tóc, tiếp theo tà áo cũng dần dần quăn lên. Mọi người dần dần thấy hô hấp khó khăn. Lữ tiểu muội không chịu nổi sức nóng đã sắp ngất đi. Từ Tranh trong lúc nóng nảy, thò đầu vào lỗ chó chui định liều mạng chui ra nhưng lỗ nhỏ mà đầu lớn làm sao chui lọt được? Bốn mặt lỗ chó đều xây bằng đá hoa cương rất dày. Hắn đưa hai tay hết sức lay chuyển mà không di động được chút nào. Vương Kiếm Kiệt chợt nghĩ ra điều gì lẩm bẩm:

– Nếu thằng nhỏ Hồ Phỉ mà có binh khí thì Thương lão thái địch nổi gã thế nào được? Sao ta không sớm nghĩ ra điểm này nhỉ?

Hắn liền đưa tay ra lượm thanh Bát Quái đao của mình ở dưới đất. Không ngờ lưỡi đao tiếp xúc với tấm sắt nền nhà đã bị nung lên nóng rực. Hắn vừa chụp lấy tay đau rát không chịu nổi, rú lên một tiếng. Nhưng lúc này không thể chần chờ một giây ở trong sảnh đường được nữa, hắn cố chịu vết bỏng rát trên tay, xé một mảnh áo quấn lấy chuôi đao. Tay trái hắn đẩy Từ Tranh ra miệng la gọi:

– Tiểu Hồ Phỉ! Binh khí đây này. Đón lấy cho mau.

Hắn rung tay một cái liệng thanh đao qua lỗ chó chui. Hồ Phỉ quay lại đón tiếp đao. Thương Bảo Chấn cũng nghe tiếng hô hoán, nhảy xô lại tới tranh cướp. Bỗng hai người đồng thanh bật tiếng la hoảng. Một tiếng “choảng” vang lên. Cả hai thanh đao đều rớt xuống.

Nguyên thanh đơn đao của Vương Kiếm Kiệt liệng ra, Hồ Phỉ chụp được trước nhưng đao nóng quá, gã phải buông tay. Thương Bảo Chấn nhảy tới trước chỗ chó chui liền bị Triệu Bán Sơn  phóng mũi kim tiền tiêu đánh trúng vào cổ tay. Cả hai thanh đao đều rớt xuống.

Hồ Phỉ chụp không trúng, Thương lão thái đã vung Bát Quái đao chém tới sau lưng. Gã nghiêng người đi, lạng đến bên Thương Bảo Chấn, đột nhiên sử chiêu “Hiên ngưu khát thủy” đưa tay lên chộp lấy gáy Thương Bảo Chấn. Hắn bị Hồ Phỉ vận kình đè xuống khiến má áp sát đất, lại đụng phải thanh đao nóng rực của Vương Kiếm Kiệt. Mấy tiếng xèo xèo vang lên, tiếp theo là tiếng rú thê thảm. Nửa bộ mặt xinh đẹp của Thương Bảo Chấn bị cháy sém một vệt dài.

Tiếng rú này khiến mọi người trong sảnh đều vui mừng. Ai cũng cho là Thương Bảo Chấn bị Hồ Phỉ đả thương. Thương lão thái vừa nóng lòng phục thù, lại xót tình mẫu tử nhưng mụ không chiếu cố cho con, mà giơ đao lên chém mạnh xuống bả vai Hồ Phỉ. “Choang” một tiếng! Hồ Phỉ không né tránh, xoay tay vung ngang thanh đao chống đỡ. Nguyên gã thừa cơ Thương Bảo Chấn bị ngã mà đoạt lấy thanh Bát Quái đao trong tay hắn.

Mọi người trong sảnh vừa nóng vừa tối om chẳng nhìn thấy gì, nhưng nghe bên ngoài song đao chạm nhau choang choảng thì biết là Hồ Phỉ đã đoạt được binh khí và đang chiến đấu mãnh liệt, trong lòng lại thêm một tia hy vọng. Vương Kiếm Anh lớn tiếng hô:

– Chém vào vai bên phải mụ! Chém vào vai bên phải mụ!

Mã Hành Không cũng la lên:

– Hãy đánh đuổi bọn gia đinh đang khuân củi chất thêm vào đống lửa.

Tôn Cương Phong quát lớn:

– Không cần giằng co với mụ già đó nữa, hãy tìm cách mở gấp cửa sảnh đường.

Từ Tranh gầm lên:

– Nóng chết người rồi! Nóng chết người rồi!

Mọi người la hét loạn xạ cả lên. Hồ Phỉ cũng biết mở cửa sảnh đường là việc khẩn yếu nhất nhưng Thương lão thái cứ liều mạng bám riết, thủy chung gã chẳng có lúc nào rảnh tay. Đao pháp của Hồ Phỉ cao thâm hơn Thương lão thái nhiều nhưng cục diện này rối ren vô cùng. Gã còn nhỏ tuổi khó bề trấn tĩnh để ứng phó nên mấy phen đã có cơ hội hạ được đối phương nhưng đều bị đối phương liều mạng phóng ra những cuồng chiêu mà giải khai được.

Hai người chiến đấu ráo riết đã bảy tám hiệp, Thương lão thái không ngớt lùi lại phía sau. Thương Bảo Chấn rút lấy thanh đơn đao trong tay một tên gia đinh rồi tiến lại giáp công. Bọn trang đinh ban đầu thấy chủ mẫu cùng thiếu chủ nhân tay cầm binh khí đối phó với một thằng nhỏ tay không, đã tưởng thế nào cũng thắng. Bây giờ chúng thấy chủ mẫu đầu tóc rối tung không ngớt lùi lại hiển nhiên không chống nổi. Bọn chúng liến cầm đao tới tấp nhảy vào trợ chiến. Bọn trang đinh võ nghệ thấp kém bị Hồ Phỉ đao đâm chân đá, chớp mắt đã mấy tên bị thương. Nhưng tên nào cũng khỏe mạnh gan dạ, chúng bị thương mà vẫn ở lại cự chiến không bỏ chạy.

Tiếng người hô hoán quát tháo, tiếng binh khí chạm nhau chan chát, tiêng chửi bới om sòm, tiếng củi nổ lắc rắc hòa với nhau thành một âm thanh hỗn loạn. Mọi người trong sảnh đường thấy bên ngoài mỗi lúc một náo loạn đều nghĩ thầm:

“Hồ Phỉ tuy võ công cao cường nhưng gã chỉ là một thằng nhỏ lại phải đối phó với cả đoàn người trong Thương gia bảo thì làm sao mà thủ thắng được?”

Kẻ thì thóa mạ, người thì thở dài, người thì kêu gào bi thảm, khiến cảnh náo loạn càng thêm náo loạn. Bỗng có tiếng người hô:

– Tiểu Hồ Phỉ hãy nghe đây. Dùng “Âm dương quyết” để đối phó với kẻ đầu não, dùng “Loạn hoàn quyết” xua đuổi bọn lâu la.

Thanh âm này trung khí đầy rẫy lấn át nhưng tạp âm, nghe rõ từng chữ. Chính là giọng nói của Triệu Bán Sơn.

Hồ Phỉ thấy địch nhân mỗi lúc một nhiều, trong lòng gã đang phiền não chưa biết làm thế nào, bỗng nghe Triệu Bán Sơn nói mấy câu liền nghĩ ngay lão là một bậc anh hùng cái thế, lời nói tất nhiên không lầm. Bất giác gã phấn khởi tinh thần, vung thanh cương đao chém liền vù vù ba nhát vào trung bàn Thương lão thái.

Thanh đao này gã lấy của Thương Bảo Chấn, tuy lưỡi đao đã quằn lên, nhưng chỉ cần chém trúng vẫn có thể giết người được. Thương lão thái thấy thế đánh của gã cực kỳ mạnh liệt phải quét ngang thanh đao đón đỡ. Hai thanh đao đụng nhau bật lên nhưng tiếng “choang choảng” hai lần. Đến lần thứ ba Hồ Phỉ đang từ cương kình đột nhiên đổi sang nhu kình, từ dương biến sang âm, thu về một chiêu rồi phóng ra một chiêu. Cổ tay gã đột nhiên xoay chuyển ba vòng. Hồ Phỉ xoay chuyển theo thế thuận khiến cánh tay Thương lão thái phải xoay chuyển theo thế nghịch. Đến vòng thứ hai thì Thương lão thái không xoay chuyển được nữa vì cảm thấy xương khuỷu tay đau nhói lên, mụ đành phải buông đao. Thanh Bát Quái tử kim đao bay vọt lên không. Hồ Phỉ lần đầu dùng “Âm dương quyết” đã thành công, liền vung đao chém xuống vai Thương lão thái. Lưỡi đao còn cách vai mụ chừng nửa thước, bỗng thấy mái tóc bạc phơ của mụ xõa xuống vai, nửa bên mặt đầy vết máu lem luốc, gã chợt nghĩ:

“Mụ già này kể cũng đáng thương, sao ta lại chém chết mụ?”

Gã vội xoay chuyển thanh đao, định đập sống đao xuống vai mụ khiến mụ không còn sức tái đấu rồi đi mở cửa cứu người. Không ngờ Thương lão thái tuột tay mất thanh kim đao rồi, trong lòng nghĩ ngay đến kế cùng chết với kẻ thù. Mụ thấy rõ Hồ Phỉ vung đao chém xuống vẫn không thèm né tránh, mà lại tiến lên một bước nhảy xổ vào bụng gã. Tay phải mụ nắm huyệt “Thần phong” ở trước ngực, tay trái nắm huyệt “Trung chú” ở bụng dưới đối phương rồi níu chặt lấy. Hồ Phỉ cả kinh đánh mạnh sống đao xuống. Thương lão thái rú lên một tiếng. Xương vai mụ gãy nát nhưng mụ chẳng nghĩ gì nữa cứ nắm chặt lấy huyệt đạo Hồ Phỉ chết cũng không buông. Đồng thời  mụ đưa chân phải móc mạnh một cái. Cả hai người lăn đến bên đống lửa lớn. Hồ Phỉ la lớn:

– Buông ra mau! Mụ không sợ lửa thiêu chết ư?

Trong lúc tâm thần hỗn loạn gã quên cả sử chiêu cầm nã thủ để thoát khỏi cuộc níu kéo này mà chỉ hết sức vùng vẫy. Hai người lăn hai vòng nữa, cuối cùng lăn đến đống lửa. Thương Bảo Chấn la lớn:

– Má má!

Hắn nhảy vọt lại cứu mẹ. Hắn cầm đơn đao nhắm trúng ngay thiên linh cái của Hồ Phỉ chém xuống Hồ Phỉ nghiêng đầu tránh khỏi nhưng bị chuôi đao đập trúng vào trán, đau quá cơ hồ muốn ngất đi. Thương Bảo Chấn sợ mẫu thân bị thương liền vươn tay nhấc cả hai người ra đống lửa. Hắn lại nhằm sau lưng Hồ Phỉ vung đao chém xuống.

Giữa lúc ngàn cân treo sợi tóc, thần trí Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ra, gã xoay chân đá một cước trúng vào cổ tay Thương Bảo Chấn. Gã vận toàn lực đá phát thứ hai, hất đối phương ra ngoài năm, sáu trượng khiến Thương Bảo Chấn nhất thời không bò dậy được.

Quần áo Hồ Phỉ đã bị lửa cháy, trán lại đau như muốn vỡ đầu. Gã quát một tiếng thật to, hai tay vung mạnh một cái. Mấy tiếng lách cách vang lên. Gã thoát khỏi bàn tay níu cứng của Thương lão thái. Gã liền lăn dưới đất để dập tắt lửa trên áo.

Thương lão thái tuổi già bị khói lửa nung nóng một hồi làm ngất đi. Mấy tên trang đinh vội dập tắt lửa cháy trên người mụ. Hồ Phỉ tay không chạy vào giữa đám trang đinh. Trong lòng gã rất giận dữ, tự trách:

“Đã gặp lúc thập tử nhất sinh, chiến đấu khốc liệt đến cùng cực mà ta còn nảy dạ thương xót kẻ thù để suýt phải mất mạng thì đúng là vô lý.”

Bây giờ gã không dung tình nữa, đoạt lấy một thanh đơn đao rồi quyền đấm chân đá, đao chém túi bụi khác nào con hổ xông vào đàn dê. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn trang đinh bỏ chạy tán loạn. Hồ Phỉ vọt đến trước cửa sảnh đường, đoạt một cây cời lửa trong tay một trang đinh, gạt đống củi lửa trước cửa sảnh văng tứ tung. Gã thấy cánh cửa sắt đã đỏ rực không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

“Nếu then khóa cửa mà cháy liền với cánh cửa này thì đành chịu không sao mở được.”

Trong lúc nguy cấp, gã không kịp nghĩ nhiều, giờ đơn đao lên vận toàn bộ kình vào tay phải, chém mạnh xuống. Chát một tiếng. Khóa cửa rớt xuống liền. Gã dùng sức mạnh quá khiến thanh đơn dao cong lên như cây cung. Hồ Phỉ liệng đơn đao xuống, cầm cây cời lửa móc vào trong vòng cửa kéo mạnh một cái mà cánh cửa vẫn không nhúc nhích. Hố Phỉ trống ngực đánh thình thịch, tự nhủ:

“Chẳng lẽ sắp thành công mà còn hỏng? Cánh cửa này không mở ra được thì làm thế nào?”

Gã lại dùng hết sức giật mạnh một cái. Mấy tiếng kẽo kẹt vang lên , cánh cửa từ từ mở rộng, khói đen lửa đỏ từ phía trong cửa tuôn ra ngoài. Hồ Phỉ không ngờ trong sảnh đường lại cháy dữ thế, vội cất tiếng gọi:

– Triệu bá bá! Ra lẹ đi!

Bỗng thấy trong đám khói mù dày đặc, một người nhảy vọt ra trước, chính là Vương Kiếm Anh. Kế đến bọn Ân Trọng Tương, Từ Tranh, Mã Hành Không, Tôn Cương Phong lục tục chạy theo. Sau cùng là Triệu Bán Sơn ôm Lữ tiểu muội chạy ra. Mọi người quần áo cháy khét lẹt coi rất thảm hại. Lúc này những đồ gỗ trong sảnh đường đều bị lửa sém, bàn ghế đã cháy rồi. Cả rường cột cũng bốc lửa bừng bừng. Thật là thời cơ chỉ cách nhau trong gang tấc. Nếu sau khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà Hồ Phỉ mới phá được cửa thì ắt sẽ có người chết.

Hồ Phỉ thấy Triệu Bán Sơn vẫn bình yên không việc gì, liền nhảy xổ lại gọi luôn mấy tiếng:

– Triệu bá bá! Triệu bá bá!

Triệu Bán Sơn bị cháy hết râu tóc mà vẫn bình tĩnh như thường. Lão tủm tỉm cười, khen ngợi:

– Hảo hài tử!

Bỗng nghe Vương Kiếm Anh la gọi:

– Kiếm Kiệt! Kiếm Kiệt! Ngươi ở đâu?

Triệu Bán Sơn đảo mắt ngó quanh quả nhiên chẳng thấy Vương Kiếm Kiệt đâu. Lão kinh hãi hỏi:

– Chẳng lẽ y còn chưa ra?

Vương Kiếm Anh lại gào lên:

– Người anh em của ta chưa ra được, y chưa ra được.

Lúc này trong sảnh đường cột cháy rồi đổ xuống ngổn ngang. Trong nhà biến thành cái lò lửa. Vương Kiếm Anh tuy thủ túc thâm tình cũng không dám tiến vào cứu viện, chỉ lớn tiếng hô hoán:

– Kiếm Kiệt! Ra lẹ đi! Ra lẹ đi!

Triệu Bán Sơn và Hồ Phỉ cùng nghĩ thầm:

“Nếu hắn có thể ra được thì có lý nào lại không chịu chạy ra?”

Cả hai người bản tính đều có tấm lòng nghĩa hiệp, không nghĩ ngợi nhiều nữa, một già một trẻ không hẹn mà đồng thời xông vào lò lửa để tìm Vương Kiếm Kiệt giữa khói lửa mịt mù. Hồ Phỉ dẫm chân trên gạch nóng bỏng không ngớt nhảy loạn lên. Triệu Bán Sơn giục:

– Hài tử! Người ra đi thôi!

Hồ Phỉ đáp:

– Không! Triệu bá bá ra lẹ đi!

Gã vừa nói mấy câu bỗng nhiên la lớn lên:

– Đây rồi.

Gã cúi xuống lôi Vương Kiếm Kiệt dậy chạy vội ra ngoài. Nguyên Vương Kiếm Kiệt không chịu nổi sức nóng, thò mũi qua lỗ để hít không khí chẳng ngờ một luồng khí đen từ ngoài vòng xông vào khiến hắn ngất đi. Hồ Phỉ bị luồng khói xông phát ho một lúc. Vương Kiếm Kiệt thân hình to lớn khó lòng ôm ngang, chỉ có cách kéo hắn đi mà thôi. Gã kéo Vương Kiếm Kiệt ra đến cửa thì đột nhiên người bên ngoài bật tiếng la hoảng vì thấy cây rường trên nóc nhà cháy rớt thẳng xuống ngay Hồ Phỉ.

Hồ Phỉ bước lẹ muốn xông ra khỏi cửa nhưng cây rường dài quá, dĩ nhiên không thể nào tránh kịp. Triệu Bán Sơn đằng hắng một tiếng, tiến lên nửa bước ra chiêu “Phiến thông bối”, tay phải đỡ lấy cây rường đang cháy. Cây rường này nặng không dưới bốn, năm trăm cân lại từ trên cao rớt xuống, sức rơi càng khủng khiếp. Triệu Bán Sơn soạc hai chân đứng vững vàng bất động theo thế mã bộ, tay phải đưa ra hứng lấy. Cây rường lửa lại bật lên. Nửa chiêu dưới của “Phiến thông bối” tung nốt ra, tay trái đẩy mạnh cây rường một cái ra ngoài. Bỗng thấy một con rồng lửa từ trong sảnh đường bay vút qua cửa ra ngoài, hơn sáu, bảy trượng mới rơi xuống.

Mọi người ở cửa sảnh đường thấy Triệu Bán Sơn thi triển công phu đó đều ngẩn người ra một lúc mới hò reo vang dội. Cả bọn trang đinh ở Thương gia bảo đứng ở đằng xa thấy thế cũng bật tiếng hoan hô. Vương Kiếm Anh đỡ lấy Vương Kiếm Kiệt vội vàng dập tắt lửa trên quần áo hắn. Trong lòng ngấm ngầm hổ thẹn, tự nhủ:

“Người anh em ruột thịt của mình bị nạn mà mình phải nhờ tay người khác cứu cho.”

Mã Hành Không cùng Từ Tranh ra khỏi thiết sảnh lập tức đi tìm Mã Xuân Hoa nhưng nhìn ngang nhìn ngửa chẳng thấy bóng nàng đâu. Từ Tranh sinh dạ hoài nghi nghĩ bụng:

“Nhất định thị cùng thằng lỏi họ Thương đã đưa nhau tới chỗ kín để làm trò khỉ rồi.”

Gã vừa thoát cảnh chết cháy, lửa hờn ghen trong lòng lại bùng lên. Gã nói:

– Sư phụ! Đệ tử đi kiếm sư muội.

Rồi co giò chạy ngay. Mã Hành Không tuổi đã già, không mau lẹ như bọn trẻ. Lão còn bị lửa khói làm cho đầu nhức mắt hoa, chỉ muốn tìm nơi nằm nghỉ thì đột nhiên sau lưng có một luồng chướng phong ập tới. Cú tập kích đột ngột này hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của lão. Phát chưởng đánh tới vừa mạnh vừa mau. Mã Hành Không muốn đỡ cũng không kịp đành phải hít một hơi chân khí để đón lấy. Bình một tiếng. Người lão lảo đảo muốn té, trước mặt bỗng tối sầm lại, toàn thân mềm nhũn ra. Tiếp theo lại bị đá một cước vào mông. Người lão không tự chủ được bị hất vào lò lửa, trong tòa thiết sảnh. Trong lúc mê man, lão nghe Thương lão thái nổi lên tràng cười rộ, miệng nói:

– Kiếm Minh! Kiếm Minh! Rút cục tiện thiếp đã báo thủ cho chàng được một phần.

Một làn hơi nóng trùm kín toàn thân khiến lão ngất đi không biết gì nữa. Triệu Bán Sơn vừa mới cứu tỉnh Lữ tiểu muội bỗng thấy Thương lão thái đột nhiên từ trong đám khói lửa chui ra xuất chiêu hất Mã Hành Không văng vào lò lửa khiến lão không khỏi ngẩn người. Lão thấy Thương lão thái khom người đi vào cửa sảnh đường. Lửa cháy ầm ầm mà tựa hồ mụ không trông thấy. Lão liền lớn tiếng la:

– Ra lẹ đi! Mụ muốn chết hay sao?

Lão vừa dứt lời, lại một cây rường nhà rất lớn lửa cháy rừng rực rớt xuống. “Uỳnh” một tiếng vang dội. Khói lửa bay tung bốn mặt, bít kín lấy cửa sảnh đường. Thương lão thái ôm thanh Tử kim Bát Quái đao, mặt lộ vẻ tươi cười, ngồi ngay ngắn giữa đống lửa. Toàn thân mụ quần áo đầu tóc đã bén lửa mà tựa hồ mụ không biết đau đớn gì cả. Trong bụng mụ nghĩ thầm:

“Tâm nguyện trả thù của ta dù chưa trọn nhưng ta cũng nên sớm đi gặp Kiếm Minh.”

Triệu Bán Sơn buông tiếng thở dài, lấy lòng cảm khái nghĩ thầm:

“Lão thái thái này tuy là nữ lưu mà tính tình cương liệt hơn cả bọn mày râu.”

Lão lại nghĩ tới cuộc đông du phen này ngẫu nhiên được quen biết một chàng thiếu niên anh hùng kể ra cũng không uổng. Lão thấy bọn Tôn Cương Phong, Vương Kiếm Anh đang tíu tít, liền quay lại bảo Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đi thôi. Cùng đi một đường có được không?

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm! Hay lắm!

Trong tâm hồn trẻ thơ của gã, gã đã nhìn thấy cõi đời thật lắm chuyện biến ảo khôn lường. Cuộc trả thù của Lữ tiểu muội là vậy, cuộc trả thù của Thương lão thái lại là thế. Gã cùng Triệu Bán Sơn dắt tay nhau đi. Hai người cùng yên lặng với nhiều tâm sự.

Hai người đi được chừng một dặm, quay đầu nhìn lại thấy Thương gia bảo lửa cháy rực trời. Triệu Bán Sơn nói:

– Tiểu huynh đệ! Những việc bữa nay thật là thê thảm. Có phải thế không? Tính tình Thương lão thái, hỡi ôi!

Lão nói xong lại lắc đầu. Hồ Phỉ nói:

– Triệu bá bá!…

Triệu Bán Sơn quay đầu lại, ngắt lời:

– Tiểu huynh đệ! Bữa nay ta cùng tiểu huynh đệ bèo nước gặp nhau, ý hợp tâm đầu. Tuy ta lớn tuổi hơn nhưng thấy tiểu huynh đệ là người nghĩa hiệp nhân hậu nên thật lòng kính phục. Sau này tiểu huynh đệ tất lừng danh thiên hạ, khi nào ta dám tự coi mình vào hàng trưởng bối?

Lúc này trời vừa hửng sáng. Dưới ánh triều dương, gương mặt Triệu Bán Sơn vừa lộ về trang nghiêm lại vừa thành khẩn. Hồ Phỉ mặt đầy tro bụi cùng vết máu, nghe lão nói mấy câu, bất giác mặt đỏ đến tận mang tai, lại hô:

– Triệu bá bá!

Triệu Bán Sơn xoa tay ngắt lời:

– Từ nay ba chữ “Triệu bá bá” tiểu huynh đệ đừng thốt ra nữa. Ta cùng cùng tiểu huynh đệ kết nghĩa anh em khác họ được chăng?

Thử nghĩ Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn thân phận và oai danh trên chốn giang hồ lừng lẫy thế nào, bữa nay muốn kết nghĩa kim bằng với một người nhỏ tuổi hơn nhiều thì thật là một chuyện phi thường. Không phải lão nhằm vào võ công của Hồ Phỉ mà là kính trọng lòng nhân hiệp xả thân cứu người của gã. Lão nhận thấy gã tuy còn nhỏ tuổi mà hành vi giống hệt những anh em ở Hồng Hoa hội. Hồ Phỉ nghe Triệu Bán Sơn nói vậy, trong lòng xiết bao cảm kích, bất giác hai hàng nước mắt tuôn rơi. Gã nhảy xổ lại sụp lạy, miệng hô:

– Triệu… Triệu…

Triệu Bán Sơn cũng quỳ xuống đáp lễ nói:

– Hiền đệ! Từ nay hiền đệ kêu ta bằng tam ca là được.

Thế rồi một già một trẻ, cả hai vị anh hùng lấy đất làm hương cùng lạy nhau tám lạy giữa cảnh đồng không. Triệu Bán Sơn trong lòng rất hoan hỷ. Lão chúm môi huýt lên một tiếng dài. Bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp từ phía tây chạy đến. Con bạch mã này tung vó lao nhanh như bay, chỉ trong chớp mắt đã đến trước mặt. Hồ Phỉ cất tiếng khen:

– Thật là thần mã!

Triệu Bán Sơn nghĩ bụng:

“Đáng tiếc con ngựa này của Tứ đệ muội, mà cô lại quý nó như tính mạng, nếu không thì chỉ một câu khen đó dĩ nhiên ta đã tặng cho y rồi.”

Rồi lão mỉm cười chứ không giải thích, hỏi lại:

– Hiền đệ! Nơi đây hiền đệ còn việc gì nữa không?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu đệ đến nói với Bình tứ thúc một tiếng rồi đưa chân tam ca một đoạn đường.

Triệu Bán Sơn cũng quyến luyến không nỡ chia tay với gã ngay, liền nói:

– Thế thì hay lắm.

Lão dắt ngựa sóng vai cùng đi với Hồ Phỉ. Vừa qua sườn núi bỗng thấy một người đứng sau gốc cây lớn đang thập thò dường như nhìn trộm chuyện gì. Hồ Phỉ ngó sau lưng hắn đã nhận ra là ai liền nói khẽ:

– Đó là Từ Tranh.

Rồi gã nghĩ bụng:

“Sư phụ hắn bị chết thảm trong lửa mà chẳng hiểu hắn lại lén lút định làm chuyện gì ở đây?”

Đoạn gã liền nói khẽ:

– Để tiểu đệ lại coi xem

Gã lẳng lặng tiến về phía trước đi tới sau lưng Từ Tranh. Hắn đang ngơ ngẩn xuất thần, không biết phía sau có người đến. Chỉ thấy dưới gốc cây phía trước cách đó mười trượng, một đôi nam nữ đang gồi tựa vai kề, thái độ cực kỳ thân mật.

Hồ Phỉ ngưng thần nhìn kỹ, thì ra người đàn ông là Phúc công tử, tân khách của Thương gia bảo, còn thiếu nữ chính là Mã Xuân Hoa. Phúc công tử một tay ôm lưng nàng, không ngớt hôn vào mặt. Mã Xuân Hoa người bủn rủn tựa vào lòng chàng trai, thì thầm không hiểu nói chuyện gì. Hồ Phỉ còn nhỏ tuổi chưa hiểu mấy về chuyện nam nữ, gã đứng coi thấy cũng thú vị nên bất giác cười thầm, nghĩ bụng:

“Mã cô nương kia quen biết chàng công tử này mới có một ngày mà đã thân mật với nhau quá.”

Bỗng nghe mấy tiếng “Hừ hừ” quái dị từ miệng Từ Tranh phát ra. Nguyên hắn đang nghiến răng nghiến lợi, lại đưa quyền lên không ngớt đấm vào ngực mình, ra chiều phẫn nộ đến cực điểm. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Từ đại ca! Đại ca ra đây làm chi?

Từ Tranh đang để hết tính thần vào Mã Xuân Hoa nên Hồ Phỉ nói gì hắn cũng không nghe thấy. Đột nhiên Từ Tranh quát lớn:

– Ta liều mạng với ngươi đây!

Rồi rút lưỡi đao ở sau lưng xông về phía Phúc công tử. Hồ Phỉ tuy là người  thông minh lanh lợi nhưng tuyệt không hiểu gì về chuyện tư tình rắc rối này. Gã chỉ mơ hồ hiểu rằng Mã Xuân Hoa là người xinh đẹp, nên đêm trước Thương Bảo Chấn đã trò chuyện với nàng, rồi bữa nay Phúc công tử cũng cùng Từ Tranh lại vì nàng mà đánh nhau.

Nguyên Phúc Công tử cùng Mã Xuân Hoa lén trốn ra khỏi nhà đại sảnh rồi, sợ bị người nhìn thấy nên đưa nhau tới dưới gốc cây dương lớn này ôm ấp nhau, thủ thỉ những lời thân mật. Đôi trai gái mải miết trong cuộc hoan lạc, không hay biết phương đông trời đã sáng rồi. Tại Thương gia bảo xảy ra cuộc náo loạn trời long đất lở, hai người cũng chẳng hay biết gì. Đột nhiên thấy Từ Tranh toàn thân cháy xem tóc tai rồi bời cầm đao xông tới, hai người giật mình đứng phắt dậy. Từ Tranh cặp mắt cơ hồ tóe lửa, vung đao chém tới, lực đạo cực kỳ mãnh liệt. Phúc công tử võ nghệ tầm thường, thấy thanh cương đao bổ xuống đầu hốt hoảng lùi lại. Nhát đao của Từ Tranh chém mạnh quá. Bỗng nghe chát một tiếng. Lưỡi đao ngập sâu vào thân một cây dương lớn không rút ra ngay được. Mã Xuân Hoa vội hỏi:

– Sư huynh làm gì vậy? Sư huynh làm gì vậy?

Từ Tranh tức giận đáp:

– Làm gì ư? Ta phải giết tên tiểu tử này.

Hắn vận nội lực giật mạnh một cái. Thanh đao dời khỏi thân cây dương bắn ngược lại đánh “binh” một tiếng. Sống đao đụng vào trán hắn. Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi la lên:

– Coi chừng! Sư huynh có đau không?

Từ Tranh vận kình đẩy nàng ra quát:

– Ngươi đừng có giả vờ làm hảo nhân nữa.

Hắn sấn lại giơ đao chém Phúc công tử. Mã Xuân Hoa thấy anh chàng sư ca từ trước đến giờ đối với mình không dám trái ý nửa lời mà lúc này đột nhiên như kẻ phát khùng, nàng biết lửa ghen đốt cháy tâm can nên hắn không kiềm chế được. Nàng vừa hổ thẹn lại vừa nóng nảy, liền bước tới đứng trước mặt hắn hai tay chống nạnh, nói:

– Sư ca! Sư ca muốn giết người thì giết tiểu muội trước.

Từ Tranh thấy nàng vẫn có ý che chở cho Phúc công tử thì càng tức giận như điên, lớn tiếng quát:

– Ta giết gã trước rồi giết ngươi sau.

Tay trái hắn đẩy vai Mã Xuân Hoa một cái. Mã Xuân Hoa loạng choạng suýt té nhào. Nàng tiện tay lượm một cành khô dưới đất vừa đỡ gạt đơn đao vừa nhìn Phúc công tử la lên:

– Công tử chạy mau đi! Chạy mau đi!

Phúc công tử không hiểu nàng và Từ Tranh là đôi vợ chồng sắp cưới, liền lớn tiếng đáp:

– Thằng cha này phát điên rồi. Nàng phải coi chừng.

Đồng thời gã tránh xa ra. Từ Tranh múa tít đơn đao. Chỉ mấy chiêu đã chém gãy cành cây khô của Mã Xuân Hoa. Hắn quát lớn:

– Ngươi mà không tránh ra thì đừng trách ta vô tình.

Mã Xuân Hoa bỏ khúc cây khô bị chém gãy xuống đất, quay đầu lại đưa vào lưỡi đao của Từ Tranh đáp:

– Sư ca! Kiếp này tiểu muội không thể làm vợ của sư ca được. Sư ca chém một đao giết tiểu muội đi.

Từ Tranh giận tím mặt lại quát:

– Ta… ta…

Tay trái hắn chụp lấy trước ngực Mã Xuân Hoa miệng không nói nên lời. Hồ Phỉ thấy gã một tay cầm đơn đao múa lên, vẻ mặt cuồng nộ, chỉ sợ hắn không dằn lòng được, thuận tay chém chết Mã Xuân Hoa. Gã lạng mình một cái đứng ngăn giữa hai người. Gã lại đưa tay trái ra nắm ngực Từ Tranh đẩy nhẹ một cái khiến hắn lùi ra ba bước rồi nói:

– Từ đại ca! Người nào trong thiên hạ mà muốn đụng đến một sợi tóc của Mã cô nương thì hãy giết Hồ Phỉ này đi đã.

Từ Tranh sửng sốt, quát lớn:

– Ngươi… ngươi… Cả thằng lỏi miệng còn hơi sữa này mà cũng rủ rê thị nữa ư?

Bỗng nghe đánh “bốp” một tiếng. Mã Xuân Hoa đã vọt tới tát Từ Tranh một cái nhớ đời. Từ Tranh một là đang nổi cơn thịnh nộ, thần trí hồ đồ, hai là Hồ Phỉ đứng giữa che mất tầm nhìn của hắn nên không kịp tránh, bị một cái tát, mặt sưng vù lên.

Hồ Phỉ không hiểu ý tứ câu nói của Từ Tranh, cũng không hay tại sao Mã Xuân Hoa nổi cơn tức giận. Trong lòng gã chỉ nghĩ tới lúc mình bị Thương lão thái trói lại tra khảo, Mã Xuân Hoa đã năn nỉ Thương Bảo Chấn, sau lại yêu cầu y tha cho mình. Tuy gã đã thoát khỏi dây trói từ trước nhưng gã vẫn ghi lòng tạc dạ ơn che chở của nàng. Bây giờ thấy Mã Xuân Hoa tranh chấp với sư ca, gã liền hết sức bảo vệ cho nàng.

Từ Tranh đã chứng kiến cuộc động thủ giữa Hồ Phỉ và Vương thị huynh đệ tự biết võ công của mình còn kém gã xa, nhưng trong lòng đã bị kích động đến cực điểm, tính mạng hắn còn chẳng kể, còn đâu nghĩ tới chuyện thắng bại? Từ Tranh cầm đơn đao chém xuống liên tục ba nhát vào đầu, cổ và vai của Hồ Phỉ. Hồ Phỉ không tiến cũng không thoái, vẫn đứng nguyên một chỗ, nghiêng mình vào khe đao để né tránh. Đột nhiên gã vung tay trái đấm một quyền vào sống mũi Từ Tranh. Từ Tranh vội giơ đao lên quét ngang một cái để chém cánh tay đối phương, Hồ Phỉ mới đánh thoi quyền ra được nửa chừng đột nhiên xoay lại nắm lấy cổ tay Từ Tranh thuận đà vặn đi một cái, đoạt được đơn đao.

Hồ Phỉ quay lại đưa đao cho Mã Xuân Hoa, xoay lưng về phía Từ Tranh. Gã ỷ mình nghề cao mật lớn, nên đối với Từ Tranh không thèm đề phòng gì cả. Từ Tranh biết rằng có đấu nữa cũng bằng vô dụng. Hắn liền buông tiếng thở đài rồi không nhịn được nữa, đột nhiên cất tiếng bi thương:

– Sư phụ hỡi sư phụ! Lão nhân gia chết thật là thê thảm!

Rồi hắn bưng mặt xoay mình bỏ đi. Mã Xuân Hoa giật mình kinh hãi bảo:

– Sư ca bảo sao?

Nàng cầm đao rượt theo. Từ Tranh không đáp, cứ cắm đầu rảo bước. Mã Xuân Hoa hỏi liền mấy câu:

– Gia gia làm sao? Gia gia làm sao? Sư huynh bảo gia gia chết thảm là sao?

Nàng tiếp tục rượt theo. Phúc công tử đứng đằng xa không nghe rõ câu chuyện đối đáp giữa hai người, chỉ thấy Mã Xuân Hoa rượt theo Từ Tranh, hắn nóng lòng lớn tiếng gọi:

– Xuân muội! Xuân muội! Trở lại đây. Đừng lý gì đến hắn.

Mã Xuân Hoa lo lắng chuyện phụ thân, cứ mặc Phúc công tử hô hoán, vẫn chạy theo hỏi Từ Tranh. Phúc công tử thấy thanh cương đao đã nằm trong tay Mã Xuân Hoa, nên không còn sợ Từ Tranh nữa, cũng cất bước chạy theo. Hắn đuổi được mười mấy bước, bỗng thấy một người từ sau gốc cây bước ra.

Người này lối ngoài năm chục tuổi, thân thể to béo, để ria mép, chính là Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn. Phúc công tử vừa thấy lão mặt đã tái mét, sợ quá không nói nên lời. Triệu Bán Sơn cười hỏi:

– Phúc công tử mạnh giỏi chứ?

Phúc công tử chắp hai tay gượng gạo đáp:

– Triệu tam đương gia, tam gia khỏe chứ?

Y không đám nhìn xem Mã Xuân Hoa như thế nào, mà xoay mình đi ngay, lảng ra xa mấy chục trượng, còn quay đầu nhìn lại Triệu Bán Sơn một lần nữa rồi tăng gia cước bộ chạy nhanh hơn. Trong khoảnh khắc, Phúc Công tử chạy vẻ hướng bác. Từ Tranh và Mã Xuân Hoa chạy về phía nam đều mất hút cả rồi. Chỉ còn Triệu Bán Sơn khóe miệng vẫn mỉm cười và Hồ Phỉ thần sắc bâng khuâng. Hai người đứng nhìn nhau trên chỗ sườn núi cao. Hồ Phỉ hỏi:

– Tam ca! Dường như Phúc công tử có quen biết tam ca và y có vẻ sợ tam ca lắm?

Triệu Bán Sơn mỉm cười đáp:

– Không sai! Y đã lọt vào tay bọn ta và nếm mùi đau khổ rồi.

Nguyên Phúc công tử tên gọi Phúc Khang An được đương kim hoàng đế Càn Long cực kỳ sủng ái. Y là con tư sinh của nhà vua nên Càn Long sủng ái hơn mọi quần thần.

Phúc Khang An từng bị quần hùng ở Hồng Hoa hội bắt được rồi yêu sách nhà vua phải trùng tu chùa Thiếu Lâm và từ đó triều đình không dám làm khó dễ gì tổ chức này. Vụ này xảy ra cách đây đã mấy năm, nay đột nhiên Phúc Khang An lại gặp Triệu Bán Sơn ở đây thì cho là quần hùng trong Hồng Hoa hội đã từ Hồi Cương tiến vào phía đông. Dù bên mình y có bao nhiêu hảo thủ võ lâm hộ vệ cũng chẳng thể địch nổi quần hùng nên y sợ đến hồn xiêu phách lạc, khi nào còn dám đuổi theo Mã Xuân Hoa nữa? Phúc công tử liền cùng bọn Vương Kiếm Anh hội họp rồi hối hả trở về Bắc Kinh không dám chần chờ.

Hồ Phỉ thấy Phúc Khang An không hiểu võ nghệ, gã không chú ý gì đến y nên cũng không hỏi lai lịch nữa, Triệu Bán Sơn cầm tay Hồ Phỉ đi chừng hơn dặm thì đến một quán trà bên đường. Triệu Bán Sơn nói:

– Hiền đệ tiễn đưa ngàn dặm rồi cũng đến lúc phải phân ly. Chúng  ta chia tay chỗ này thôi.

Hồ Phỉ tuy quyến luyến không nỡ chia tay, nhưng gã là người khoát đạt, mau lẹ, liền nói:

– Phải, tam ca, mấy năm nữa tiểu đệ lớn thêm vài tuổi sẽ đến Hồi Cương tìm gặp tam ca.

Triệu Bán Sơn gật đầu đáp:

– Ta về Hồi Cương chờ hiền đệ.

Dứt lời lão móc trong bọc ra một bông hồng lớn bằng nhung đỏ nói:

– Hiền đệ! Anh hùng hảo hán trong thiên hạ nhìn thấy bông hoa này liền biết là tín vật của tam ca. Gặp trường hợp hiền đệ cần người hay cần tiền cứ cầm bông hoa này mà hỏi bạn hữu ở các nơi là được.

Hồ Phỉ đón lấy bông hoa cất vào bọc, nghĩ thầm trong bụng:

“Ngày sau ta muốn học thành bản lãnh như tam ca chưa chắc đã phải chuyện khó, nhưng học được mối giao tình với bạn hữu khắp thiên hạ như vậy thì thật không phải là chuyện dễ dàng.”

Triệu Bán Sơn vào quán trà rót hai chung lớn, đưa cho Hồ Phỉ một chung nói:

– Dùng trà thay rượu. Hiền đệ hãy uống hết chung này.

Hai người cầm chung trà lên, ngửa cổ uống cạn ngay. Triệu Bán Sơn đặt chung xuống, tay cầm dây cương nói:

– Hiền đệ! Lúc lâm biệt tam ca muốn hỏi hiền đệ một câu.

Hồ Phỉ đáp:

– Xin tam ca cứ hỏi.

Triệu Bán Sơn hỏi:

– Ngoài Thương gia bảo, hiền đệ còn cừu nhân nào lợi hại nữa không?

Hồ Phỉ run lên nghĩ thầm:

“Không biết kẻ nào hại gia gia mình? Hắn đã giết được gia gia, dĩ nhiên võ công không phải tầm thường. Nhưng nếu tam ca mà biết ta chưa trả được mối đại thù, tất điều tra ra họ tên cừu nhân. Tam ca lại coi trọng nghĩa khí, nhất định đi tìm hắn để quyết đấu. Một là ta không thể mượn người trả mối đại thù giết cha, hai là việc gì phải để tam ca dấn thân vào chỗ hiểm nguy?”

Tuy gã còn nhỏ tuổi nhưng trong lòng đầy ngạo khí, ngẩng đầu lên đáp:

– Không phiền tam ca phải quan hoài. Dù cho kẻ cừu địch là ai đi nữa, tiểu đệ tự mình lo liệu được.

Triệu Bán Sơn cười ha hả, chìa ngón tay cái lên nói:

– Hay lắm!

Rồi lão tung mình nhảy lên ngựa cho chạy về hướng tây, còn nghe tiếng lão từ đằng xa vọng lại:

– Cái gói nhỏ trên phiến đá là của ca ca tặng cho hiền đệ.

Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy một cái bọc để trên phiến đá. Bọc này lúc trước Triệu Bán Sơn đeo ở yên ngựa. Gã nhấc lên thấy năng trĩu vội cởi ra xem thì toàn là hoàng kim sáng lóa cả mắt. Cả thảy đến hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh nặng tới hai mươi lạng, cộng là bốn trăm lạng hoàng kim. Hồ Phỉ cười ha hả, nghĩ bụng:

“Ta nghèo mà tam ca giàu. Tam ca tặng hoàng kim dĩ nhiên ta không thể chối từ. Tam ca sợ ta không nhận nên sau khi tặng vàng rồi liền chạy đi. Thì vẫn còn coi Hồ Phỉ này là đồ con nít.”

Gã quay lại thấy vó ngựa chạy nhanh, bụi cát tung lên mịt mờ cả mấy dặm. Gã nghĩ tới bữa nay kết giao được một người bạn tâm can bất giác mừng rỡ khôn xiết. Gã xách bọc vàng, miệng nghêu ngao hát một khúc sơn ca, chân rảo bước.

Hồ Phỉ đến kiếm Bình A Tứ chia cho lão hai trăm lạng hoàng kim, bảo lão trở về Thương Châu trước. Còn gã tự mình ngao du thiên hạ, hàng ngày tập quyền luyện đao, rèn luyện khí lực. Gã tham chiếu yếu quyết võ học mà Triệu Bán Sơn đã truyền thụ để nghiên cứu võ công gia truyền trong cuốn “Quyền kinh đao phổ”.

Chương 05: Máu loang mặt đá

Mấy năm sau, Hồ Phỉ thân hình đã cao lớn, khí lực cũng mạnh mẽ, kiến thức cùng võ công ngày một tăng tiến. Bốn bể là nhà, chàng ung dung tự tại, đi đâu cũng làm điều nghĩa hiệp, cứu khốn phò nguy, không biết đã làm nên bao nhiêu chiến tích. Chàng tính tình hào sảng, Triệu Bán Sơn tặng cho hai trăm lạng vàng, chàng đã tiêu hết sạch sành sanh.

Đến một ngày kia, Hồ Phỉ nghe nói Quảng Đông là nơi trù phú náo nhiệt lại nhiều hào khách hiệp sĩ. Gặp lúc ung dung nhàn rỗi, chàng cưỡi con ngựa gầy xuyên qua Lĩnh Nam tiến tới.

Một hôm chàng đến trấn Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông. Phật Sơn cùng với Chu Tiên, Cảnh Đức, Hán Khẩu là bốn đại trấn trong thiên hạ. Cư dân nơi đây đều giàu có, sản vật lại phong phú nên thị trấn càng tấp nập. Hồ Phỉ tới thị trấn vào lúc giữa trưa, trong bụng đói ngấu, bỗng ngó thấy mé nam có tòa đại tửu lâu rộng ba gian, treo biển đề ba chữ “Anh hùng lâu” nên đỏ chữ vàng. Phía trong cửa sổ, tiếng đũa chén đụng nhau vang lên rổn rảng. Mùi rượu thơm thịt béo tỏa ra sực nức. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Tấm biển tòa tửu lâu này thật là lạ.”

Chàng thò tay sờ trong mình chỉ còn được hơn trăm đồng tiền, bụng bảo dạ:

“Bữa nay không uống rượu được rồi, hãy ăn tạm một bát mì cho no bụng rồi tính”

Chàng liền buộc ngựa vào cọc trước tửu lâu toan đi thẳng lên lầu. Tiểu nhị thấy chàng quần áo cũ mèm liền lộ vẻ không thích, đưa tay ra chặn lại hỏi:

– Khách quan, trên lâu toàn chỗ khách sang. Khách quan không ngại đắt tiền ư?

Hồ Phỉ nghe nói, khí tức xông lên, bụng bảo dạ:

“Cái chiêu bài của các ngươi bảo đây là “Anh hùng lâu” mà lại đối với bằng hữu nghèo bằng thái độ chó má thế này. Ta không làm cho chúng một phen thất điên bát đảo thì Hồ Phỉ này uổng danh là đấng anh hùng.”

Chàng cười khanh khách đáp:

– Chỉ cần rượu ngon nhắm tốt, còn giá tiền không ngại.

Tửu bảo nửa tin nửa ngờ, đưa mắt nhìn chàng lên lầu. Bàn ghế trên lầu rất sạch sẽ. Thực khách toàn người ăn mặc sang trọng, mười người có đến chín là đại phú thương. Bọn tiểu nhị coi bộ dạng Hồ Phỉ biết chàng chẳng làm gì có tiền thưởng bọn chúng nên để chàng ngồi trơ hồi lâu vẫn không lại chào mời. Hồ Phỉ ngấm ngầm tìm cách gì thú vị để ăn không một bữa.

Đột nhiên ngoài đường phố nổi lên trận náo loạn. Một nữ nhân vừa cười hố hố vừa vỗ tay đi tới. Hồ Phỉ ngồi bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra đường thì thấy một phụ nhân đầu bù tóc rối, mặt mũi áo quần, tay chân dính đầy vết máu. Tay mặt mụ cầm con dao thái rau. Mụ khóc một trận, lại cười một hồi dậm chân trỏ tay. Thì ra đó là một người điên.

Khách qua đường dừng lại coi chỉ đứng xa mà nhìn, trên mặt họ lộ vẻ sợ hãi, nhiều người lại ra chiều thương xót, nhưng không ai dám đến gần người điên kia. Người đàn bà đó trỏ vào tấm chiêu bài “Anh hùng lâu” vỗ tay cười rộ, nói:

– Phụng lão gia! Lão gia sống lâu trăm tuổi, phú quý song toàn. Mụ già này bái lạy, cầu Hoàng thiên có mắt bảo vệ cho lão gia.

Mụ nói rồi quỳ xuống đất đập đâu binh binh, trán đầy máu tươi mà mụ chẳng lộ vẻ đau đớn chút nào. Mụ vừa dập đầu vừa nói tiếp:

– Phụng lão gia! Lão gia ngày được một đấu vàng, đêm được một đấu bạc, được đại phú đại phú, trăm con ngàn cháu.

Trong tửu lâu, có bóng người thấp thoáng bước ra, tay cầm cái dọc tẩu rất dài, ra dáng là một chưởng quỹ. Hắn chỉ vào người đàn bà, thóa mạ:

– Chung Tứ tẩu! Mụ nổi cơn điên rồi! Về nhà đi thôi, đừng ở đây làm quý khách mất cả nhã hứng ăn uống.

Người đàn bà được gọi là Chung Tứ tẩu kia không lý gì đến lão chưởng quỹ vẫn lúc khóc lúc cười hướng về phía tửu lâu mà dập đầu. Lão chưởng quỹ vẫy tay một cái. Hai tên hán tử to lớn trong tửu lâu đi ra. Một tên đoạt lấy con dao thái rau của mụ, còn một tên đẩy mạnh một cái khiến người mụ lăn ra giữa đường phố. Chung Tứ tẩu lồm cồm bò dậy, vẻ mặt ngơ ngác, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên mụ đấm ngực khóc rống lên, gào liên hồi:

– Thằng con Tiểu Tam bảo bối kia! Ngươi chết thật là khổ sở. Lão thiên gia có mắt, ngươi đừng có trộm ngỗng nhà người ta mà ăn.

Hán tử đoạt con dao thái rau của mụ, giơ lên nạt:

– Mụ còn nói nhăng nói cuội là ta chém một dao bây giờ.

Chung Tứ tẩu chẳng mảy may sợ hãi, vẫn kêu gào khóc lóc. Chưởng quỹ thấy những người hàng phố đều lộ vẻ đồng tình với mụ, lão liền rít một hơi thuốc sòng sọc, nhả ra một luồng khói trắng rồi vẫy tay ra hiệu cho hai hán tử kia trở vào tửu lâu.

Hồ Phỉ thấy chưởng quỹ khinh khi một người đàn bà đã muốn nổi nóng, nhưng nghĩ đây là người điên, không thể nói phải trái cho nghe được. Bỗng nghe ở bàn phía sau, hai tửu khách đang thì thầm bàn chuyện. Một người nói:

– Vụ này Phụng lão gia nóng nảy quá. Lão gia bức tử một mạng người e rằng sẽ gặp báo ứng.

Hồ Phỉ nghe “bức tử một mạng người” thì trong lòng run lên. Lại nghe người kia nói:

– Cái đó cũng không phải lỗi ở Phụng lão gia. Trong nhà mất cắp người ta có tra hỏi cũng là chuyện thường. Ai bảo mụ điên khùng này mổ bụng moi ruột đứa con thân sinh của mình?

Hồ Phỉ nghe nói mấy câu sau cũng không nhẫn nại được nữa, xoay mình lại ngay. Chàng thấy hai người vừa nói đều vào trạc bốn mươi tuổi. Một người mập ú, một người gầy nhom. Cả hai cùng mặc áo trường bào bằng gấm đoạn. Coi cách ăn mặc đều ra vẻ là chủ tiệm buôn giàu có. Hai người thấy Hồ Phỉ quay lại, đưa mắt nhìn nhau, không nói gì nữa Hồ Phỉ biết loại người này rất nhát gan, sợ phiền lụy, nếu chàng có hỏi thế nào họ cũng chối phắt là không biết chứ chẳng khi nào kể rõ đầu đuôi. Chàng liền đứng dậy chắp tay vẻ mặt niềm nở hỏi:

– Hai vị lão bản! Từ buổi chia tay ở Quảng Châu đến nay, thấm thoát đã mấy năm chưa được gặp mặt. Hai vị mạnh giỏi a?

Hai người này vốn không quen biết chàng, nghe khẩu âm lại là người tỉnh khác nên rất lấy làm lạ. Nhưng người buôn bán lấy chuyện hòa khí sinh tài nên vội chắp tay đáp lễ:

– Ông bạn mạnh giỏi a?

Hồ Phỉ cười nói:

– Chuyến này tiểu đệ đến trấn Phật Sơn đem đi một vạn lạng bạc, tưởng mua một chuyến hàng nhưng đất lạ người đông còn đang ngần ngại. Bữa nay may mắn gặp được hai vị, xin nhờ hai vị giúp cho. Khách hàng của tiểu đệ tuy ra vẻ người có tiền nhưng một vạn lạng bạc chẳng phải tầm thường mà không đưa vào chỗ chắc chắn thì thật là phiền. Mong hai vị giúp cho.

Hai người kia nghe nói đến bốn chữ “một vạn lạng bạc” đã khấp khởi mừng thẩm, đồng thanh đáp:

– Vậy mời lão huynh đệ qua đây uống với nhau một chung rồi thủng thẳng nói chuyện được chăng?

Hồ Phỉ chỉ mong hai người nói ra câu đó, chẳng còn làm vẻ khách sáo, liền bước qua ngay. Vừa ngồi xuống, chàng chộp hỏi ngay:

– Vừa rồi nghe hai vị nói tới vụ bức tử nhân mạng gì đó, tiểu đệ muốn thỉnh giáo.

Hai người biến sắc toan chối từ thì Hồ Phỉ đã luồn tay xuống gầm bàn, đưa từ tả qua hữu chộp lấy cổ tay từng người bóp mạnh một chút. Hai người “ối” một tiếng, sắc mặt lập tức trắng bệch. Tiểu nhị đứng ở đầu cầu thang và các thực khách nghe tiếng la đều quay đầu nhìn lại. Hồ Phỉ khẽ quát:

– Không được lên tiếng!

Hai người làm sao dám chống lại đành gượng cười. Mọi người thấy chẳng có chuyện gì cũng không chú ý đến nữa. Cổ tay hai người bị Hồ Phỉ nắm giữ khác nào vành đai sắt, không nhúc nhích được. Hồ Phỉ khẽ nói:

– Tại hạ vốn là một tên đại đạo giết người không nháy mắt, nhưng hiện nay đã cải tà quy chính, học nghề buôn bán làm ăn, cần một vạn lạng bạc mua hàng mà không có tiền, xin mượn mỗi vị năm ngàn lạng.

Hai người giật mình kinh hãi, đồng thanh ấp úng đáp:

-Tiểu nhân… tiểu nhân… không có…

Hồ Phỉ nói:

– Được rồi! Các vị đem vụ Phụng lão gia bức tử nhân mạng nói cho tại hạ hay. Vị nào nói được rành mạch rõ ràng, tại hạ không cần mượn tiền nữa. Vạn lạng bạc này sẽ lấy ở nơi khác.

Hai người tranh nhau đáp:

– Tiểu nhân xin nói! Tiểu nhân xin nói!

Lúc trước chẳng ai chịu nói, bây giờ sợ một mình phải gánh một vạn lạng bạc, nên giành nhau nói, chỉ sợ mình nói sau. Hồ Phỉ thấy mình chơi kiểu này thu được kết quả, liền tủm tỉm cười. Chàng nghe tiếng nói của gã phương bắc rõ ràng hơn liền trỏ vào hắn bảo:

– Ông bạn mập nói trước đi! Lát nữa sẽ tới lượt ông bạn ốm. Vị nào nói không được rõ ràng tức là trái chủ ý của lão gia.

Dứt lời chàng buông cổ tay hai người, cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra ly thanh cương đao sáng loáng. Chàng cầm lấy đôi đũa bằng ngà voi ở trên bàn khẽ chạm vào lưỡi đao. Đôi đũa lập tức gãy thành bốn đoạn. Hai người khác kinh hãi nhìn nhau, miệng há hốc ra không ngậm lại được, trống ngực đập thình thịch không ngớt. Hồ Phỉ đưa hai tay lên đầu hai người sờ, tựa hồ để tìm bộ vị xuống đao. Hai người sợ quá, mặt cắt không còn hạt máu. Hồ Phỉ gật đầu, tự nói để mình nghe:

– Hay lắm! Hay lắm!

Rồi chàng cất đao vào bọc. Nhà buôn mập vội nói:

– Thiếu gia! Tiểu nhân xin nói, bảo… bảo đảm nói rành mạch hơn y.

Nhà buôn ốm cũng lên tiếng:

– Cái đó chưa chắc. Hãy để tiểu nhân nói trước cho.

Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, dằn giọng:

– Ta đã bảo để y nói trước. Làm gì mà ngươi quýnh quáng lên thế?

Nhà buôn ốm vội nói:

– Dạ phải! Dạ phải!

Hồ Phỉ hỏi:

– Ngươi không nghe lời ta dặn, phải phạt mới được.

Nhà buôn ốm chẳng còn hồn vía nào nữa, nhưng nhà buôn mập lại lộ vẻ tươi lên. Hồ Phỉ nói tiếp:

– Rượu nhắm sơ sài thế này sao phải đạo thết khách? Mau kêu lấy một mâm rượu hạng nhất đem ra đây.

Nhà buôn ốm thấy phạt nhẹ khác nào được lệnh đại xá, liền kêu tiểu nhị lại bảo dọn một mâm rượu thịnh soạn đáng giá năm lạng bạc. Tiểu nhị thấy Hồ Phỉ ngồi chung với bọn này lấy làm kinh ngạc. Gã nghe nói dọn một mâm cơm rượu đến năm lạng bạc liền hớn hở mặt mày, vâng dạ liên thanh.

Hồ Phỉ thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn xuống đường thấy mụ Chung Tứ tẩu đầu tóc rũ rượi ngồi dưới đường phố đối diện. Mụ ngửng đầu trông trời, miệng cứ lảm nhảm mà không hiểu nói gì. Nhà buôn mập nói:

– Thiếu gia! Tiểu nhân thuật lại vụ này, nhưng thiếu gia đừng cho ai hay là tiểu nhân nói.

Hồ Phỉ chau mày đáp:

– Ngươi không nói thì thôi, để cho y nói vậy.

Nói xong, chàng quay qua nhà buôn ốm. Nhà buôn mập vội nói:

– Tiểu nhân xin nói! Bẩm thiếu gia! Phụng lão gia đây tên gọi Phụng Thiên Nam là một tay đại tài chủ ở trấn Phật Sơn. Y mang tước hiệu là…

Nhà buôn ốm đỡ lời:

– Là Nam Bá Thiên.

Hồ Phỉ khẽ quát:

– Ai bảo ngươi nói xen vào?

Nhà buôn ốm cúi đầu xuống không dám nói nữa. Nhà buôn mập kể tiếp:

– Phụng lão gia mở một tiệm cầm đồ lớn ở trấn Phật Sơn gọi là “Anh hùng đường phố” và một tòa tửu lâu, tức là “Anh hùng lâu” này. Phụng lão gia còn mở một sòng bạc gọi là “Anh hùng hội quán”. Phụng lão gia tiền nhiều thế mạnh, giao du rất rộng. Võ nghệ của lão gia vào hạng đệ nhất ở Quảng Đông. Người ở thị trấn còn thầm bàn tán: Cứ mỗi tháng từ ba nơi Việt Đông, Việt Tây, Việt Bắc vẫn có người đưa tiền về kính biếu. Nghe nói Phụng lão gia lại làm chưởng môn phái Ngũ Hổ gì gì đó. Phàm là anh em phái Ngũ Hổ ở các nơi mà phát tài thì cũng trích một phần đưa về cho lão gia. Đó là công việc trên chốn giang hồ, tiểu nhân không được biết rõ.

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Phải rồi! Hắn là một đại tài chủ mà cũng là một tên đại cường đạo, ngồi một nơi để mà chia của ăn cướp.

Hai nhà buôn đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm:

“Chính mi cũng là quân ăn cướp như Nam Bá Thiên chứ có khác gì?”

Hồ Phỉ đã hiểu rõ tâm ý hai người, liền cười nói:

– Người ta có câu “Cùng một đạo mà đi cùng đường tức là oan gia”. Giữa ta và Phụng lão gia chẳng phải là bạn bè chi cả. Vậy hắn làm sao thì các ngươi cứ nói đúng làm vậy, bất tất phải giấu giếm.

Nhà buôn mập kể tiếp:

– Nhà Phụng lão gia này gồm năm tòa liền, kể ra đã lớn lắm. Nhưng lão gia mới đây lấy thêm cô vợ thứ bảy nên muốn xây thêm một tòa gọi là “Thất Phụng lâu” gì gì đó để cho cô vợ kia ở. Phụng lão gia đi coi đất thấy khu vườn rau của Chung Tứ tẩu rất vừa ý. Mảnh đất này chỉ rộng hai mẫu mấy sào, do Chung A Tứ trồng rau làm kế sinh nhai. Một nhà năm miệng ăn đều trông vào vườn rau đó. Phụng lão gia liền gọi cho Chung A Tứ tới đòi mua khu đất với giá năm lạng bạc. Dĩ nhiên Chung A Tứ không chịu. Phụng lão gia trả thêm mười lạng. Chung A Tứ vẫn không chịu, nói dù một trăm lạng cũng không bán, vì có một trăm lạng bạc rồi ăn cũng hết. Nhưng còn mảnh vườn thì hàng ngày xới đất tưới nước, chỉ cần bỏ sức ra là một nhà mấy người không bao giờ chết đói. Phụng lão gia tức giận đuổi Chung A Tứ ra, rồi hôm qua xảy chuyện mất ngỗng.

Nguyên trong hậu viện của Phụng lão gia có nuôi mười con ngỗng béo. Hôm qua đột nhiên mất một con. Gia đinh bảo Tiểu Nhị và Tiểu Tam nhà họ Chung bắt trộm. Khi tìm đến vườn rau quả nhiên thấy có nhiều lông ngỗng. Chung Tứ tẩu kêu oan. Mụ nói là hai đứa con mụ trước nay vẫn giữ khuôn phép, quyết chẳng lấy trộm gì của ai. Đám lông ngỗng đó là do người ngoài vứt vào trong vườn. Bọn gia đinh kiếm Tiểu Nhị, Tiểu Tam tra hỏi thì hai đứa cũng bảo không ăn cắp. Phụng lão gia hỏi:

– Sáng sớm hôm nay các ngươi ăn gì?

Tiểu Tam đáp:

– Ăn ỗng!

Phụng lão gia vỗ bàn quát mắng:

– Tiểu Tam đã thú nhận rồi mà còn cãi là không ăn cắp ư?

Lão liền kêu người nhà cầm cáo trạng lên kiện ở nha môn. Bọn sai dịch liền đến bắt Chung A Tứ trói lại đưa đi. Chung Tứ tẩu biết nhà mình tuy nghèo nhưng hai đứa con rất ngoan ngoãn mà ngày thường lại khiếp sợ Phụng gia quyết chẳng khi nào dám bắt trộm ngỗng ăn thịt. Mụ đến Phụng gia phân trần cho ra lẽ liền bị Phụng lão gia đánh đuổi ra ngoài. Chung Tứ tẩu lên nha môn kêu oan cũng bị sai dịch đuổi ra. Tri huyện lão gia đã được lời ủy thác của Phụng lão gia liền sai đánh đập Chung A Tứ nào là hèo nào là côn, khiến y chỉ còn hơi thở thoi thóp. Chung Tứ tẩu vào thăm thấy chồng khắp mình máu thịt bầy nhầy không nói lên nên lời, miệng chỉ ú ớ mấy câu không rõ:

– Đừng bán đất! Đừng bán đất! Không ăn cắp! Không ăn cắp!

Chung Tứ tẩu lòng đau dạ xót, đâm liều. Mụ chạy về nhà một tay dắt Tiểu Tam, một tay cầm dao thái rau, kêu hàng xóm láng giềng đến để cùng ra tổ miếu. Những người hàng xóm tưởng mụ đến phát thệ trước thần linh nên đi theo để chứng kiến. Tiểu nhân ở gần nhà mụ nên cũng theo mụ đi coi trận nhiệt náo này. Chung Tứ Tẩu quỳ lạy trước tượng thần Bắc Đế và dập đầu binh binh mấy cái rồi nói:

– Bắc Đế gia gia. Thằng nhỏ con của tiểu phụ quyết chẳng thể vào nhà người ta ăn cắp ngỗng được. Năm nay nó mới lên bốn tuổi, chưa nói sõi. Nó nói trước mặt tài chủ gia ăn thịt gì đó, mà cả nhà tiểu phụ phải chịu mối oan khiên khó bề biện bạch. Tham quan lại ăn của đút, xử sự bất minh. Chỉ còn trông vào Bắc Đế gia gia thanh oan cho.

Mụ nói rồi cầm đao mổ bụng Tiểu Tam…

Hồ Phỉ từ nãy giờ chỉ chú ý lắng tai nghe, mắt trừng đã muốn rách khóe, khi nghe tới đây thì không nhịn được nữa, chàng quát to một tiếng, rồi đứng phắt lên, vung chân đánh “binh” một cái khiến bát chén cùng thức ăn trên bàn đổ tung tóe. Chàng gầm lên:

– Có chuyện đó ư?

Hai nhà buôn thấy chàng thần oai lẫm liệt đều cất giọng run run đáp:

– Đúng là sự thật không sai chút nào.

Hồ Phỉ đạp chân lên ghế dài, tay rút đơn đao trong bọc cắm xuống mặt bàn, giục:

– Nói mau lên!

Nhà buôn mập liền đáp:

– Vụ… vụ này không liên quan gì đến tiểu nhân.

Tửu khách cùng tiểu nhị trên tửu lâu thấy Hồ Phỉ dữ như hung thần, chẳng ai là không kinh hãi. Những tửu khách nhát gan chưa ăn xong lén chuồn xuống đất. Bọn tiểu nhị đứng đằng xa ngó lại không dám tới gần.

Hồ Phỉ quát hỏi:

– Nói mau! Trong bụng Tiểu Tam có thịt ngỗng không?

Thương gia mập đáp:

– Không có thịt ngỗng! Không có thịt ngỗng! Trong bụng toàn là thịt ốc. Nguyên nhà họ Chung nghèo nàn, chẳng có gì ăn, anh em Tiểu Tam Tiểu Nhị phải xuống ruộng mò ốc về ăn. Thịt ốc lại cứng. Tiểu Tam không nhai được phải nuốt trọn cả con, đến nửa ngày vẫn chưa tiêu hóa. Thì ra nó nói “Ngật ngã! Ngật ngã” chính là “Ngật oa”. Một đứa nhỏ chẳng tội trạng gì mà bị chết thảm như vậy trong tổ miếu. Từ đó Chung Tứ tẩu mắc chứng điên khùng.

Hồ Phỉ rút đơn đao giơ lên, quát lớn:

– Tên họ Phụng kia ở dâu?

Thương gia mập chưa kịp trả lời, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chó sủa từ đằng xa vọng lại. Thương gia ốm thở dài nói:

– Tạo thêm nghiệp chướng! Tạo thêm nghiệp chướng!

Hồ Phỉ hỏi:

– Còn chuyện gì nữa không?

Thương gia ốm đáp:

– Đó là bọn gia đinh của Phụng lão gia đem chó dữ đi lùng bắt Chung Tiểu Nhị.

Hồ Phỉ tức giận hỏi:

– Nỗi oan uổng của người ta đã rõ rồi, còn bắt Tiểu Nhị làm gì?

Thương gia ốm đáp:

– Phụng lão gia bảo Tiểu Tam không ăn thịt ngỗng thì nhất định là Tiểu Nhị đã ăn rồi. Vì vậy lão gia muốn bắt nó về truy vấn. Những nhà hàng xóm biết là Phụng lão gia thẹn quá hóa giận, muốn bắt Tiểu Nhị để đổ mối oan lên đầu nó, nên họ ngầm xúi Tiểu Nhị bỏ trốn. Bọn gia đinh nhà Phụng lão gia đi khắp nơi tìm kiếm đã nửa ngày trời rồi.

Bây giờ Hồ Phỉ lại cố nén giận cười nói:

– Hay lắm! Hay lắm! Cả hai vị cùng nói rõ ràng. Vậy một vạn lạng bạc này ta sẽ mượn ở nơi Phụng lão gia.

Dứ lời chàng nâng chung rượu lên uống cạn. Chàng uống hết cả ba hồ không còn một giọt và quát tửu bảo lấy rượu thêm. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, một lúc đã tới đầu đường. Hồ Phỉ thò đầu ra cửa sổ nhìn thấy thằng nhỏ chừng mười ba, mười bốn tuổi đang chạy thục mạng quanh góc đường. Nó chạy hai chân không, quần áo gã bị chó cắn rách tả tơi. Phía sau nó máu nhỏ gọt in đường. Không hiểu làm cách nào gã cầm cự được với lũ chó dữ mà chạy trốn đến đây. Phía sau thằng nhỏ cách xa chừng bảy, tám trượng, mười mấy con chó dữ như sài lang đang sủa điên cuồng rượt theo. Xem chừng bầy chó chỉ trong chớp mắt là nhảy xổ tới Chung Tiểu Nhị. Lúc này Chung Tiểu Nhị đã kiệt sức. Đột nhiên nó nhìn thấy mẹ, liền gọi:

– Má má!

Hai chân nó nhũn ra té nhào xuống đất không bò dậy được nữa. Chung Tứ tẩu tuy thần trí hồ đồ nhưng cũng nhận ra con mình. Mụ đứng phắt dậy xông tới đứng chắn trước mặt bầy chó dữ bảo vệ cho con.

Bầy chó dữ liền đứng lại, nhe hai hàm răng trắng nhởn ra sủa gâu gâu để thị uy. Bầy chó này con nào cũng hùng mãnh phi thường. Ngày thường chúng chỉ theo Phụng lão gia đi săn, dám đánh nhau với cả mãnh hổ, gấu lớn. Nhưng thấy Chung Tứ tẩu tỏ thái độ liều chết bảo vệ cho con, nên nhất thời chưa dám sấn đến gần. Bọn gia đinh lớn tiếng quát tháo thúc giục bầy chó dữ. Bầy chó gầm gừ mấy tiếng rồi hai con dữ như sài lang chồm lại toan cắn Chung Tiểu Nhị đang nằm lăn dưới đất.

Chung Tứ tẩu nằm phủ lên mình thằng nhỏ. Con chó đưa đầu nhe răng cắn vào vai mụ. Con thứ hai cắn chân bên trái thằng nhỏ. Cả hai con cùng vừa cắn vừa lôi, tựa hồ săn bắt được hươu hay thỏ. Bọn gia đinh reo hò trợ oai. Chung Tứ tẩu chẳng kể gì đến sự đau đớn thân mình, vẫn hết sức bảo vệ cho con, không để bầy chó xông vào cắn nó. Chung Tiểu Nhị lồm cồm bò dậy vừa kêu gào khóc lóc, vừa đánh nhau với con chó dữ để cứu nguy cho mẹ. Chỉ trong chớp mắt mười mấy con ác khuyển từ bốn mặt tám phương bao vây hai mẹ con mụ để tấn công.

Ngoài đầu đường tuy đông người đến coi cảnh nhiệt náo nhưng ai cũng sợ uy thế Phụng lão gia, trong lòng căm hận mà ngoài miệng không dám nói ra.

Có người không nỡ nhìn tấn thảm kịch này, bưng mặt lánh đi. Bọn gia đinh cao hứng reo hò ầm ĩ, tựa hồ săn bắt được con vật rất lớn.

Hồ Phỉ ngồi trên tửu lâu nhìn rõ mọi sự. Chàng chần chừ chưa ra tay cứu người là còn muốn chính mắt mình trông thấy Phụng Thiên Nam có tàn độc đúng như lời hai thương gia kia nói hay không, để tránh khỏi chuyện tin lầm người mà nghi oan cho kẻ vô tội. Ban đầu chàng đã nghe thương gia mập thuật lại câu chuyện thảm khốc, trong lòng đã cực kỳ phẫn nộ. Sau chàng nghe nói Phụng Thiên Nam vô cớ bức tử một mạng người, lại sai chó dữ rượt theo một thằng nhỏ, chàng nghĩ nếu có người tàn ác nhất đời cũng không thể hành động dã man như vậy, nên chàng còn bán tín bán nghi. Lúc này chính mắt chàng nhìn thấy bầy chó dữ xông vào cắn mẹ con Chung thị lôi đi thì không ngờ vực gì nữa. Đầu đường máu thịt tả tơi, nếu chàng còn chần chừ thì cả mẹ lẫn con tất phải chết tại chỗ. Chàng liền chụp lấy ba đôi đũa trên bàn, vận kình lực vào cánh tay phóng xuống.

Bỗng nghe những tiếng “gâu, gâu” rồi những tiếng rú thê thảm “ư ử” vang lên. Sáu con chó dữ bị đũa đánh trúng giữa đầu lăn ra chết liền. Những con khác đứng ngẩn ra, không biết nên tiếp tục cắn nữa hay nên bỏ chạy. Hồ Phỉ lại lượm những chung rượu trên bàn ném xuống đường. Thủ pháp ném rất chuẩn đích, kình lực lại mãnh liệt. Đáy chung rượu nào cũng trúng vào mũi lũ chó. Lại ba con nữa, không kịp kêu lên một tiếng, đều ngã lăn ra chết. Những con còn lại sợ quá cúp đuôi, chỉ trong nháy mắt chúng đã biến mất.

Bọn gia đinh dẫn dắt đàn chó cả thảy có sáu tên. Chúng ỷ vào oai thế của Phụng Thiên Nam làm mưa làm gió ở trấn Phật Sơn này. Bây giờ chúng thấy Hồ Phỉ thi triển tuyệt nghệ giết chó, dù chưa biết sống chết ra sao, bọn chúng đều tức giận lớn tiếng quát hỏi:

– Kẻ nào đến trấn Phật Sơn ngang tàng như vậy? Đã đánh chết chó của Phụng lão gia thì ngươi phải đền mạng.

Bọn này mang theo đơn đao xích sắt bên mình, chúng tới tấp lấy ra rồi kéo ùa lên lầu như bầy ong. Các tửu khách thấy xảy ra chuyện rắc rối liền náo loạn cả lên. “Anh hùng lâu” là sản nghiệp của Phụng Thiên Nam. Từ lão chưởng quỷ đến tiểu nhị cùng những người làm trong bếp lớn, bếp nhỏ nhìn thấy gia đinh của Phụng lão gia ùa lên lầu bắt người, liền cùng nhau cầm nào que cời lửa, nào dao thái rau, nào đũa sắt xúm lại trợ oai. Hồ Phỉ vẫn ngồi nhìn mà cười lạt. Sáu tên gia đinh hùng hổ đến trước mặt chàng, một tên cầm dây xích loảng xoảng lớn tiếng quát:

– Thằng lỏi thối tha này! Hãy đi theo lão gia!

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Gia đinh của một tên hương thân mà dám cầm dây xích cột người thì cái nhà của tên họ Phụng này cũng thành nha môn ở trấn Phật Sơn ư?”

Chàng không đứng dậy, lật tay phóng chưởng đánh trúng vào má bên trái gã. Lúc chàng rụt tay về thì đã điểm trúng huyệt “Tử cung” ở cổ và huyệt “Phong phủ” ở sau gáy gã. Đây là hai đại huyệt trong người. Tên gia đinh kia lập tức đứng trơ ra không nhúc nhích được nữa. Những tên gia đinh thứ hai, thứ ba chưa nhìn rõ đều cầm đơn đao xông vào tập kích hai bên. Hồ Phỉ thấy hai tên này cầm song đao đâm chém khá mạnh. Hiển nhiên chúng đã luyện võ mấy năm chứ không phải hạng ác nô tầm thường kiểu cáo mượn oai hùm. Chính nhờ thế, chàng càng biết rõ Phụng Thiên Nam hung tàn ngang ngược đến thế nào. “Bốp bốp” hai tiếng! Hồ Phỉ theo kiểu pháo nổ liên thanh đánh liền hai tên hai cái bạt tai khiến chúng đứng thộn mặt ra.

Còn ba tên gia đinh nữa thấy tình thế không ổn, một tên trở gót toan đi thì tên khác la gọi:

– Phụng Thất gia! Thất gia lại coi xem gã đã dùng tà môn gì?

Phụng Thất đây là em họ xa của Phụng Thiên Nam và làm chưởng quĩ ở tòa Anh hùng tửu lâu này. Võ công của hắn chẳng ra gì nhưng rất cơ mưu. Lúc này, hắn đứng ở đầu cầu thang đã nhận ra Hồ Phỉ không phải hạng tầm thường, liền tiến lại hai bước chắp tay nói:

– Té ra bữa nay có anh hùng giá đáo, xin tha lỗi cho Phụng mỗ có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn…

Hồ Phỉ thấy ba tên gia đinh từ từ đi về phía cầu thang tưởng chúng thừa cơ bỏ trốn. Chàng liên rút xích sắt trong tay tên gia đinh đã bị điểm huyệt không nhúc nhích vung ra một cái quấn lấy cả sáu chân của ba tên. Bỗng nghe mấy tiếng “úi chao”, cả ba tên ngã lăn xuống đất thành một đống. Hồ Phỉ kéo chúng vào gần xiết chặt hai đầu dây xích lại. Chàng không quan tâm gì đến Phụng Thất nữa, mà cứ ngồi tự rót rượu uống một mình.

Bọn gia nhân ở “Anh hùng lâu” thấy Hồ Phỉ tuy ra tay lợi hại nhưng vẫn nghĩ dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông, nên chúng cầm mọi dụng cụ trong nhà bày thành trận thế, chỉ còn chờ Phụng Thất hô một tiếng là xông vào. Hồ Phỉ uống cạn chung rượu rồi hỏi:

– Phụng Thiên Nam là gì của ngươi?

Phụng Thất cười đáp:

– Phụng lão gia là tộc huynh của tại hạ. Tôn giá có quen biết lão gia không?

Hồ Phỉ nói:

– Không quen biết. Ngươi hãy kêu y đến gặp ta.

Phụng Thất trong lòng bực tức mắng thầm:

“Một thằng lỏi như mi mà dám mời Phụng lão gia tư? Dù ngươi đến cửa dập đầu, chưa chắc lão gia đã thèm tiếp kiến.”

Ngoài miệng hắn cười hề hề hỏi:

– Xin tôn giá cho biết cao tính đại danh để tại hạ vào thông báo.

Hồ Phỉ đáp:

– Ta họ Bạt. Chữ Bạt có nghĩa là nhổ lông, như giết gà nhổ lông.

Phụng Thất lẩm bẩm:

– Làm gì có cái họ kỳ cục vậy?

Hắn cười vuốt đuôi:

– Té ra đây là Bạt gia. Vật có hiếm mới quý. Họ của Bạt gia ở phương nam rất hiếm.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế! Tục ngữ có câu vật có hiếm mới quý, ví dụ như “Phụng mao, lân giác”. Tại hạ tên gọi là Phụng Mao.

Phụng Thất cười hỏi:

– Cao nhã! Thật cao nhã!

Đột nhiên hắn xoay chuyển ý nghĩ tự hỏi:

“Không phải! Cả ba chữ “Bạt Phụng Mao” há chẳng phải là gã có ý đến đây gây hấn?”

Hắn mặt biến sắc lớn tiếng hỏi:

– Thực ra tôn giá là ai? Đến trấn Phật Sơn có việc gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ nghe nói ở trấn Phật Sơn có con phụng hoàng dữ lắm mà tại hạ lại tên là Bạt Phụng Mao, nên tới đây để nhổ mấy cái lông của nó chơi.

Phụng Thất lùi lại một bước. Những tiếng loảng xoảng vang lên, hắn nút cây nhuyễn tiên ở sau lưng ra, vung tay trái một cái, bảo bọn thủ hạ coi chừng. Hắn rung động tay mặt, cây nhuyễn tiên xé gió nhằm đầu Hồ Phỉ đánh xuống.

Hồ Phỉ thầm nghĩ trong bụng:

“Một tên Phụng Thiên Nam không thể tàn ác đến như vậy. Bọn thủ hạ là một lũ giúp hắn gây thêm tội nghiệt. Tên nào cũng đáng chết cả. Hôm nay ta thẳng tay hạ thủ, không cần phải dung tình.”

Chàng trông thấy nhuyễn tiên vụt xuống liền xoay tay chụp lấy đầu nhuyễn tiên, giật nhẹ một cái. Phụng Thất đứng không vững, liền ngã chúi về phía trước. Hồ Phỉ đập tay trái vào vai hắn. Phụng Thất cảm thấy một luồng kình lực rất lớn đè nặng xuống, hắn không tự đứng được, hai đầu gối nhũn ra quỳ khuỵu ngay xuống. Hồ Phỉ cười nói:

– Không dám!

Chàng thuận tay vung cây nhuyễn tiên mười ba đốt quấn vào người hắn, tựa hồ trói hắn vào chân bàn bát tiên vậy. Bọn tiểu nhị toan xông tới động thủ. Đột nhiên chúng thấy biến cố này nên đâm hoảng phải dừng cả lại. Hồ Phỉ trỏ vào một tên đầu bếp béo mập cất tiếng gọi:

– Này! Cầm con dao thái thịt lại đây!

Tên đâu bếp há hốc miệng ra không dám trái lệnh, cầm dao đưa tới. Hồ Phỉ hỏi:

– Món thịt rán làm bằng gì?

Đầu bếp đáp:

– Dùng thịt thăn ở hai bên xương sống con heo. Tôn giá còn muốn ăn thịt xào ngọt, xào chua gì nữa không?

Hồ Phỉ thò tay kéo roạc một cái. Vạt áo sau lưng Phụng Thất bị rạch một vệt dài, để hở cả sống lưng trắng trẻo ra. Tay chàng nắn vào sống lưng Phụng Thất, miệng hỏi:

– Có phải hạ dao chỗ này không?

Tên đầu bếp béo mập há hốc miệng, sao dám trả lời? Phụng Thất dập đầu binh bính, la oai oái:

– Xin anh hùng tha mạng!

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Tha mạng ngươi cũng được, nhưng nếu không cho ngươi nếm mùi đau khổ thì hóa ra làm ác tất lại không bị báo ứng?”

Chàng cầm con dao thái rau vạch xuống xương sống hắn một vạch dài rồi hỏi:

– Nửa cân đã đủ chưa?

Tên đầu bếp ngơ ngác đáp:

– Một người ăn là đủ.

Phụng Thất hồn vía lên mây, lại thấy sau lưng đau buốt thì cho rằng địch nhân đã cắt nửa cân thịt ở sống lưng rồi. Bỗng nghe Hồ Phỉ lại nói:

– Xào gan heo lấy gì làm vật liệu? Chưng óc heo thì lấy gì làm vật liệu?

Phụng Thất lại la thầm:

“Gã lóc thịt sau lưng còn được, lại còn làm món gan heo xào, óc heo chưng thì còn chi là cái mạng già này?”

Hắn dập đầu binh binh trên tấm ván lầu, miệng la:

– Anh hùng có chuyện gì xin cứ truyền dạy, chỉ cầu tha mạng cho tiểu nhân.

Hồ Phỉ thấy hăm dọa như thế là đủ, liền quát hỏi:

– Ngươi còn dám giúp đỡ Phụng Thiên Nam làm điều tàn ác nữa hay thôi?

Phụng Thất vội đáp:

-Tiểu nhân không dám!

Hồ Phỉ nói:

– Hay lắm! Bây giờ mời tân khách trên lầu ra hết. Còn tân khách trong đại sảnh và dưới lầu phải ở lại không một ai bỏ đi.

Phụng Thất hô lớn:

– Điếm tiểu nhị, các ngươi hãy mau thi hành mệnh lệnh của hảo hán gia. Mau! Mau!

Những tửu khách trên lầu nếu không phải tài chủ thì cũng là phú thương, đều nhát gan sợ lụy. Họ thấy xảy cuộc đánh nhau đã muốn chuồn đi, khổ nỗi ở đầu cầu thang có bọn gia đinh cầm binh khí đứng đó, không xuống được.

Bây giờ chẳng cần xua đuổi, tự họ lật đật đi ngay. Thực khách trong đại sảnh nhà dưới đều là hạng người nghèo. Trong mười người có đến bảy, tám đều bị Phụng Thất hà hiếp. Bữa nay họ thấy có người đến gây chuyện, trong lòng khoan khoái vô cùng, đều muốn ở lại để coi náo nhiệt.

Hồ Phỉ hô lớn:

– Bữa nay ta mời khách, vậy tiền cơm rượu của các bằng hữu đều do ta trả hết, ngươi không được thu của ai một đồng nào. Mau đi khiêng mấy hũ rượu ra đây và có những món gì tốt cũng bưng hết lên mời tân khách. Đem chín con chó dữ ở ngoài đường vào mổ làm thịt để mọi người cùng ăn chơi.

Chàng sai một điều, Phụng Thất lại dạ một tiếng. Bọn tiểu nhị hành động chậm chạp một chút, Hồ Phỉ liền giơ con dao thái rau lên hỏi đầu bếp mập ú:

– Muốn làm món “Hồng thiêu đại trường” phải dùng vật liệu gì? Món “Sao yêu hoa” dùng những thứ gì?

Tên đầu bếp kia cứ thực thà bảo là phải dùng một khúc ruột già và hai trái cật. Phụng Thất mặt cắt không còn giọt máu không ngớt thôi thúc gia nhân đi làm cho mau. Sáu tên gia đinh thấy Hồ Phỉ hung dữ ghê quá, chưa hiểu chàng đối phó với mình thế nào, trong lòng cực kỳ hồi hộp, tưởng chừng bị dội mười lăm thùng nước lạnh lên đầu. Chúng lấm lét nhìn trộm Hồ Phỉ rồi lại nhìn nhau tự hỏi:

“Sao Phụng lão gia chưa đến giải cứu? Nếu chậm trong khoảnh khắc thì tên hung thần này chắc xử trí tới bọn mình.

Hồ Phỉ thấy bọn tiểu nhị nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của mình liền rảo bước xuống lầu rót một bát rượu lớn rồi nói:

– Bữa nay tiểu đệ mời khách. Xin các vị cứ ăn uống thả cửa. Muốn ăn món gì thì cứ kêu món đó. Nếu bọn gia đinh trong tửu lâu mà rề rà chậm trễ thì tiểu đệ sẽ cho một mớ lửa đốt sạch trong nháy mắt.

Các tửu khách hoan hỷ ăn uống. Có điều ai nấy vẫn sợ oai Phụng Thiên Nam nên không dám tiếp lời Hồ Phỉ. Chàng trở lại lên lầu giải khai huyệt đạo cho ba tên gia đinh, dùng xích sắt khóa cổ chúng lại cùng với ba tên kia rồi kéo hết cả sáu tên xuống lầu. Hồ Phỉ hỏi:

– Phụng Thiên Nam mở tiệm cầm đồ ở đâu? Tại hạ muốn cầm cố sáu con chó dữ này.

Một tửu khách trỏ đường nói:

– Đi về phía đông qua ba đường phố nằm ngang, tới một ngôi nhà tường cao là đến.

Hồ Phỉ cảm ơn rồi dắt sáu người đi. Bọn người ưa coi náo nhiệt đi theo xa xa ở phía sau để xem vụ cầm người ra sao. Hồ Phỉ tay nắm sáu sợi dây xích đi tới trước tòa “Anh hùng điển đương”, lớn tiếng nói:

– Anh hùng đem chó tới cầm đây!

Chàng dắt sáu tên gia đinh đến trước quầy thu tiền nói:

– Triều phụng! Tại hạ cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc.

Tên triều phụng bên quầy thu tiền giật mình kinh hãi. Những người ở trấn Phật Sơn đều biết tòa “Anh hùng điển dương” này do Phụng Thiên Nam mở ra, đã mười mấy năm chẳng ai dám đến quấy phá mà sao bữa nay lại có hán tử điên khùng đến cầm người? Triều phụng chú ý nhìn, nhận ra sáu người bị kéo tới đây là gia đinh ở Phụng phủ lại càng kinh hãi hơn:

Hắn ấp úng hỏi:

– Các hạ… các hạ cầm món gì?

Hồ Phỉ quát:

– Ngươi không có tai ư? Ta cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc tổng cộng sáu ngàn lạng. Cầm như vậy là rẻ quá rồi.

Tên triều phụng kia biết chàng có ý quấy phá liền ghé tai một tên triều phụng khác nói nhỏ, bảo hắn đi kêu gấp bọn võ sư bảo vệ tiệm đến xử lý tên điên khùng này. Một mặt hắn nhìn Hồ Phỉ lễ phép đáp:

– Theo luật lệ cầm đồ, những vật sống không thể đem cầm được. Xin tôn giá lượng thứ cho.

Hồ Phỉ đáp:

– Được! Các ngươi không cầm chó sống thì ta cầm chó chết vậy.

Sáu tên gia đinh kinh hãi đồng thanh la lên:

– Du sư gia! Sư gia thu nhận lẹ đi để gấp cứu mạng bọn tiểu nhân.

Nhưng bọn triều phụng ở tiệm cầm đồ làm việc rất rạch ròi cẩn thận, sao có thể chịu bỏ ra sáu ngàn lạng bạc một cách tùy tiện? Hắn liền cười cầu tài, đáp:

– Mời lão gia hãy ngồi chơi dùng trà.

Hồ Phỉ nói:

– Để ta biến sáu con chó sống này thành chó chết rồi hãy uống trà.

Chàng đảo mắt nhìn quanh, trong lòng đã nẩy kế hoạch, liền bước tới bên cửa hông, tháo một cánh cửa lớn sơn đen xuống. Du triều phụng thấy sự tình mỗi lúc một thêm nghiêm trọng liền hỏi:

– Này, này! Vị khách nhân này làm gì vậy?

Hồ Phỉ không lý gì đến hắn, vung chân đá sáu tên gia đinh té xuống rồi nhấc ngang tấm cánh cửa đè lên mình chúng. Du triều phụng la lên:

– Trời ơi! Tôn giá đừng gây náo loạn nữa. Đây là địa phương nào, sản nghiệp này của ai, tôn giá có biết không?

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Coi bộ thẳng cha này cũng cay nghiệt lắm. Nhất định rất nhiều người cùng khổ ở trấn Phật Sơn này phải nếm mùi khổ của hắn rồi.”

Chàng bước lại trước quầy, vươn tay nắm lấy búi tóc hắn, nhấc bổng qua quầy hàng rồi đem cánh cửa đè lên. Tiếp theo, chàng bước đến cửa bê một cái trống đá vừa cao vừa lớn quẳng trên mặt cánh cửa đánh rầm một tiếng. Cái trống đá này nặng hơn năm trăm cân lại thêm sức ném xuống, khiến cả bảy người nằm phía dưới đều kêu rú lên. Có người đau đến té đái vãi phân. Những người ở ngoài cửa và bọn triều phụng trong nhà đều bật tiếng la hoảng. Hồ Phỉ lại bê một cái trống đá nữa, miệng nói:

– Bọn chó dữ chưa chết, phải đè thêm cái trống này lên nữa!

Dứt lời chàng tung cái trống đá lên không. Bọn người nằm dưới cánh cửa ngó thấy cái trống đá sắp rớt xuống lại kêu thét lên. Hồ Phỉ vòng hai cánh tay lại đón lấy cái trống đá rồi đặt xuống cánh cửa. Lúc này trên cánh cửa đã bị một sức nặng trên một ngàn cân đè xuống. Bảy người bên dưới chia nhau chịu đựng, tưởng chừng gân cốt gẫy nát đến nơi.

Du triều phụng la lên:

– Xin hảo hán tha mạng. Mau lấy bạc ra đi!

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái gì? Ngươi còn đòi ta đưa tiền ra nữa ư?

Du triều phụng thân thể gầy yếu, bị đè nặng xuống không thở được lắp bắp:

– Không… không phải. Tiểu nhân kêu người trong tiệm lấy bạc ra…

Bọn cầm đồ trong tiệm thấy tình thế nguy hiểm, đành lấy từng gói bạc đưa ra. Mỗi gói là một trăm lạng. Cả thẩy sáu mươi gói. Hồ Phỉ lại xếp những gói bạc lên cánh cửa rồi hỏi:

– Sáu con chó dữ sáu ngàn lạng, còn tên triều phụng thì sao? Chẳng lẽ đường đường là một vị đại triều phụng ở “Anh hùng điển đương” lại không bằng một con chó? Ít ra phải cầm lấy ba ngàn lạng.

Sáu ngàn lạng bạc nặng tới hơn ba trăm bảy chục cân lại đè lên khiến bảy người phía dưới chịu không nổi nữa.

Giữa lúc náo loạn, đột ngoài cửa có tiếng người quát hỏi:

– Tên tiểu tạp chủng nào ăn gan hùm hay sao mà dám đến cửa tiệm Phụng lão gia gây sự?

Đám người đứng xem liền rẽ ra hai bên. Hai hán tử sấn vào. Hai người này đều thân hình khôi vĩ, mặc quần áo đen, nai nịt đai lưng trắng, ăn vận theo kiểu võ sư.

Hồ Phỉ lạng mình đi một cái chuồn tới phía sau hai người, mỗi tay túm lấy gáy một người. Hai người này chính là võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương”, đang lúc rảnh việc, ngồi chơi ở sòng bạc, nghe tiệm có người quấy phá mới vội vã chạy về. Ngờ đâu chúng chưa nhìn rõ mặt mũi đối thủ thì đã bị nắm cổ xách lên. Hồ Phỉ rung hai cánh tay một cái, một người rớt ra tám chín quân bài cẩu, còn người kia làm rơi hai hai quân xúc xắc xuống. Hồ Phỉ cười nói:

– Hay quá! Té ra là hai con quỷ cờ bạc.

Chàng cụng đầu hai người vào nhau côm cốp rồi đặt chúng ngồi lên trên cánh cửa. Hai tên võ sư bảo vệ viện tuy võ công tầm thường nhưng thân thể khá nặng. Thế là hơn bốn trăm cân nữa đè lên cánh cửa. Bảy người nằm dưới muốn rên lên một tiếng cũng không còn sức.

Đại chưởng quỹ trong tiệm cầm đồ sợ xảy ra án mạng, vội sai người nhà lấy ra ba ngàn lạng bạc nữa và không ngớt khom lưng lạy lục. Ngoài miệng hắn niềm nở tươi cười mà trong bụng lại cứ thắc mắc:

“Sao mãi không thấy Phụng lão gia thân hành đến đây giải quyết việc này?”

Hồ Phỉ ở tửu lâu sai người mổ chó, lại đến tiệm cầm đồ cầm người là cố ý khiêu khích cho Phụng Thiên Nam chường mặt. Từ ngày còn nhỏ tuổi, sau khi ngộ hiểm ở Thương gia bảo, Hồ Phỉ hành động rất thận trọng. Chàng nghĩ thầm:

“Phụng Thiên Nam đã mang ngoại hiệu là “Nam bá thiên” thì e rằng cách bố trí trong nhà hắn còn ghê gớm hơn cả thiết sảnh ở Thương gia bảo nữa.

Chàng nghĩ tới câu “Cường long bất đấu địa đầu xà”, nếu gây sự ở nhà hắn sẽ trúng phải độc kế nên trước tiên chàng đại náo tửu lâu, tiếp theo đại náo tiệm cầm đồ mà thủy chung hắn vẫn không lộ diện là một điều ngoài sự tiên liệu của chàng.

Hồ Phỉ thấy người nhà lại đem ra ba ngàn lạng bạc liền gật đầu bảo:

– Đặt cả lên tấm cánh cửa này.

Bọn người nhà biết rằng đặt gần một trăm chín chục cân lên nữa là nặng quá nhưng không dám trái lệnh, đành khuân từng gói một đặt nhè nhẹ lên

Hồ Phỉ lại nạt:

– Tiệm cầm đồ của các ngươi đây do Hoàng đế mở ra phải không? Sao lại làm việc ngang ngược thế?

Gã chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:

– Không dám! Không dám! Hảo hán gia còn có điều chi dạy bảo?

Hồ Phỉ hỏi:

– Cầm đồ sao lại không làm biên lai?

Gã đại chưởng quỹ nghĩ bụng:

“Sáu tên gia đinh khỏe mạnh có để một lúc cũng chưa việc gì, nhưng Du triều phụng không khéo lại ô hô mất mạng.”

Hắn liền gọi rối rít:

– Mau viết biên lai đi!

Tên triều phụng ở tại quầy không biết phải hạ bút viết thế nào, mà gã đại chưởng quỹ thôi thúc, liền cấm bút viết:

“Nay cầm sáu tên gia đinh và một tên Du triều phụng ở Phụng phủ da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết, lấy số bạc chín ngàn lạng. Tiền lãi hàng năm là hai phân. Khi đến chuộc phải căn cứ theo biên lai. Nếu bị sâu kiến chuột bọ đục khoét hay gặp nạn binh hỏa mà đồ vật bị tổn thất thì đó là mệnh trời”

Nguyên theo lệ cầm đồ khắp thiên hạ thì dù đồ vật còn hoàn toàn nguyên vẹn và mới tính cũng viết là đã “sứt mẻ, hư hỏng” để lúc chuộc khỏi có sự tranh chấp. Nhưng tiệm cầm đồ xưa nay chưa có chuyện cầm người, nên tên triều phụng phải thêm tám chữ “da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết”.

Đại chưởng quỹ cầm hóa đơn cung kính đưa lại. Hồ Phỉ mỉm cười thu lấy rồi nhấc bổng hai tên võ sư lên bảo chúng:

– Khuân những trống đá kia xuống,

Hai tên võ sư mắt đã nảy đom đóm, tự biết một người không bê nổi cái trống đá, đành hai người hợp lực khiêng từng cái một xuống.

Hồ Phỉ lại nói:

– Được rồi! Chúng ta cứ thong thả đi tới sòng bạc. Hai tên đại hán nhà người khiêng tiền đi cho ta.

Hai tên võ sư nem nép vâng lời, một tên đi trước, một tên đi sau khiêng cánh cửa chứa chín ngàn lạng bạc đi theo sau Hồ Phỉ. Những người tới coi cảnh náo nhiệt thấy chàng tay không mà dám đến uy hiếp tiệm cầm đồ lớn nhất ở trấn Phật Sơn đều khoan khoái vô cùng, nhưng họ vẫn sợ Phụng Thiên Nam thù hằn nên không dám đến gần chàng trò chuyện. Mọi người nghe chàng nói đến đại náo sòng bạc càng phấn khởi tinh thần, kéo đi coi mỗi lúc một đông.

Sòng bạc đặt trong một tòa miếu cũ đổ nát ở tận đầu trấn Phật Sơn. Trên cổng lớn viết bốn chữ đại tự “Anh hùng hội quán”. Hồ Phỉ rảo bước qua cửa tiến vào thì thấy trên đại điện, một đám đông lố nhố vây quanh một bàn tài xỉu. Chủ sòng bạc là một gã mày rậm mắt to, trên người mặc áo lụa nổi tiếng của trấn Phật Sơn. Hắn để hở bộ ngực đây lông lá. Chủ sòng thấy Hồ Phỉ tiến vào, đằng sau lại có hai tên võ sư khiêng tấm cửa lớn trên đặt gần trăm gói bạc thì trong lòng không khỏi sửng sốt la lên:

– Xà bì Trương! Ông bạn làm trò gì vậy?

Gã võ sư họ Trương bĩu môi ra dáng bực bội, đáp:

– Hảo hán đây muốn đến chơi một canh bạc.

Chủ sòng nghe Xà bì Trương nói bằng một giọng cung kính, lại biết Phụng lão gia giao du rất rộng. Hắn đoán anh chàng này tuy trẻ tuổi nhưng chắc là bạn của lão nhân gia, bèn nghĩ thầm:

“Hay lắm! Ngươi khiêng bạc đến để biếu đổ trường chúng ta thì còn gì bằng? Mở tiệm cơm còn chẳng sợ kẻ bụng lớn thì mở sòng bạc khi nào lại sợ bọn tài chủ lắm tiền? Dù các ngươi có khiêng mấy cánh cửa bạc nữa đến đây cũng chẳng chê nhiều.”

Hắn toét miệng cười nói:

– Quý tính bằng hữu đây là gì? Mời ngồi chơi.

Hồ Phỉ bệ vệ ngồi xuống nói:

– Ta họ Bạt, tên gọi Phụng Mao.

Tên chủ sòng ngẩn người, bụng bảo dạ:

“À, mi cố ý đến đây khiêu khích bọn ta!”

Hắn cầm hộp xúc xắc lắc mấy cái rồi đặt xuống bàn. Mấy chục con bạc xung quanh lục tục đặt tiền. Có người đặt bên “Tài”, người thì đặt bên “Xỉu”.

Hồ Phỉ muốn kéo dài thời gian để chờ Phụng Thiên Nam thân hành tới nơi mới ra tay chiến đấu với hắn. Chàng ngồi cười hì hì chứ không đặt cuộc.

Bỗng thấy chủ sòng mở hộp ra. Ba con xúc xắc cộng được mười một điểm. Những con bạc bên “Tài” nổi tiếng hoan hô còn bên “Xỉu” mặt buồn rười rượi.

Chủ sòng mở bát ba lần, bên “Tài” đều thắng cả.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

“Mười sòng bạc thì đã có đến chín sòng gian lận. Phụng Thiên Nam đã là tay hoành hành ngang ngược mà mở sòng bạc tất nhiên ít nhiều cũng phải giở trò quỷ. Đợi ta điều tra cho ra đầu mối rồi đại náo một phen mới được”.

Chàng liền chú ý nhìn bát xúc xắc, lại lắng tai nghe thanh âm xem con xúc xắc có đổ chì hay không. Chàng nghe một lúc không thấy gì khác lạ. Chàng đã luyện qua thuật nghe tiếng gió, thính lực cực tinh. Dù là trong tối có ám khí tập kích, chỉ cần nghe thanh âm thì lập tức biết ngay phương vị cùng ám khí loại gì, thủ kình ra sao. Tỷ như Triệu Bán Sơn là một đại hành gia, hôm ấy ở Thương gia bảo nghe ám khí tứ phía bắn tới liên đoàn được đối phương là đệ tử của Bất Nghi đại sư ở chùa Thiếu Lâm. Thuật nghe ám khí đạt đến mức tinh vi như thế đó.

Thính lực của Hồ Phỉ tuy còn kém Triệu Bán Sơn, nhưng nghe một lúc lâu cũng nhận ra được ba con xúc xắc hướng lên trời có điểm số cộng là bao nhiêu. Nên biết con xúc xắc có sáu mặt, điểm số mỗi mặt đều khác nhau. Lúc mặt “Nhất” hoặc mặt “Lục” rơi xuống có thanh âm khác nhau chút đỉnh, dù sự khác biệt vô cùng nhỏ nhặt, nhưng người nội lực tinh thâm đã luyện công phu nghe ám khí cực tốt đều có thể phân biệt được một cách rõ ràng.

Hồ Phỉ để chủ sòng mở bát thêm mấy lần, chàng nghe không lầm nữa, liền cười hỏi:

– Nhà cái có hạn định đặt cửa bao nhiêu không?

Chủ sòng lớn tiếng đáp:

– Khắp tỉnh Quảng Đông đều biết sòng bạc của Nam bá thiên đặt cửa bao nhiêu cũng được. Nếu không sao còn gọi là “Anh hùng hội quán” nữa?

Hồ Phỉ mỉm cười chìa ngón tay cái lên nói:

– Phải rồi! Nếu còn hạn định chẳng hóa ra là “Cẩu hùng hội quán” ư?

Chàng lắng nghe tiếng xúc xắc hạ xuống thành mười hai điểm, liền quay lại hỏi:

– Xà bì Trương! Đặt một ngàn lạng xuống bên “Tài”,

Chủ sòng tuy lặn lội ở sòng bác mấy chục năm cũng phải mở bát mới biết “Tài” hay “Xỉu”. Hắn thấy chàng đặt cuộc một ngàn lạng thì không khỏi sửng sốt. Hắn mở bát đĩa ra thấy cả ba con xúc xắc thì hai con hướng mặt “Lục”, còn một con hướng mặt “Tứ” lên, bất giác sắc mặt tái mét, đành phải giao đủ một ngàn lạng.

Tiếp theo hắn lắc hộp xúc xắc thanh âm lẫn lộn. Hồ Phỉ nghe không rõ, ngồi yên không đặt cuộc. Lúc mở bát thành tám điểm. Tiếng bạc sau Hồ Phỉ đặt hai ngàn lượng bên “Xỉu”. Mở bát ra quả nhiên sáu điểm là bên “Xỉu”. Hồ Phỉ tiếp tục đánh năm, sáu ván và đã ăn được một vạn một ngàn lạng. Nhà cái hai tay ướt đẫm mồ hôi, cầm hộp xúc xắc lắc thật mạnh. Hồ Phỉ nghe rõ tiếng bạc này mười bốn điểm liền hô:

– Xà bì Trương! Đặt hai vạn lạng xuống bên “Tài”.

Hai tên võ sư khuân những gói bạc trên cánh cửa đặt xuống bàn.

Nhà cái hé một góc bát lên coi thấy ba con xúc xắc cộng mười bốn điểm. Chân tay hắn rất linh lợi. Hắn thò ngón tay út vào bên hộp khẽ đẩy một cái thì mặt “Lục” lật ngược lại thành mặt “Nhất”. Thế là mười bốn điểm biến thành chín điểm. Bạc đang “Tài” mà hóa “Xỉu”. Thủ pháp này nếu không luyện mấy chục năm thì không thể thành tựu được. So với học võ công cũng chẳng kém gì một tuyệt chiêu cực kỳ lợi hại.

Nhà cái thấy Hồ Phỉ không hay biết, đã chắc mẩm ăn bàn này rồi. Hắn nhơn nhơn đắc ý hô:

– Đại gia đặt tiền xong chưa?

Hồ Phỉ đẩy đống bạc giữa bàn đáp:

– Hai vạn lạng đây. Nếu “Xỉu” thì nhà cái ăn hết đi.

Nhà cái hô:

– Tốt! Tốt! Ăn này!

Hắn mở bát ra, bất giác miệng há hốc không ngậm lại được vì ba con xúc xắc cộng thành mười hai điểm. Các con bạc đã dừng tay không đánh từ lâu rồi. Ai nấy nhìn thấy mấy chục gói bạc trên bàn đều cũng kinh tâm động phách. Họ thấy mở bạc thành “Tài” đều bật tiếng la hoảng:

– Úi chà!

Tiếng la vừa đầy vẻ kinh dị lại có ý khen ngợi. Nên biết bọn chúng suốt đời chưa từng gặp qua canh bạc lớn thế này. Hồ Phỉ cười hà hà, đứng một chân trên ghế hô:

– Hai vạn lạng bạc! Mau chung vào đi!

Nguyên lúc nhà cái giở trò, ngón nghề tuy mau lẹ nhưng che mắt Hồ Phỉ thế nào được. Chàng không hiểu nhà cái giở trò gì, song cũng đoán chắc ba con xúc xắc bị hắn lật đi rồi, để chuyển từ “Tài” sang “Xỉu”. Khi Hồ Phỉ dùng tay trái đẩy các gói bạc thì tay phải luồn dưới gầm bàn khẽ búng một cái. Nguyên ba con xúc xắc này, một con mặt “Nhất”, một con mặt “Ngũ” và một con mặt “Tam”. Cộng là thành chín điểm. Lực đạo của ngón tay búng Hồ Phỉ lại được việc. Ba con xúc xắc bị lật lại, biến thành mặt “Tứ”, mặt Lục và mặt “Nhị”, cộng lại thành mười hai điểm, rốt cuộc vẫn là “Tài”. Nhà cái mặt xám như tro tàn, đập tay xuống đánh bình một cái, miệng quát:

– Xà bì Trương! Gã này lai lịch thế nào mà đến quấy rối sòng bạc của lão gia?

Xà bì Trương giơ mặt đưa đám ra đáp:

– Tại… tại… hạ cũng chẳng biết.

Hồ Phỉ giục:

– Chung tiền lẹ đi! Chung tiền lẹ đi! Chung đủ hai vạn lạng bạc. Lão gia được bấy nhiêu là đủ rồi, thôi không đánh nữa.

Tên chủ sòng lại vỗ bàn đánh bình một tiếng, quát mắng:

– Gã kia! Ngươi giở trò ma mãnh tưởng lão tử không biết ư?

Hồ Phỉ tuy không hiểu gã chửi gì, nhưng cũng đoán được không phải là những lời hay ho, nên cười đáp:

– Hay lắm! Ngươi thích vỗ bàn thì chúng ta cùng vỗ bàn chơi.

Chàng vung tay phải lên đập xuống góc bàn. Lập tức góc bàn gãy rời. Chàng lại giơ tay trái đập vào góc khác, góc này cũng gãy rớt ngay xuống đất.

Tên chủ sòng đã thấy võ công kinh người của chàng thị làm sao hắn còn dám ngang ngược? Đột nhiên hắn phóng cước toan đá đổ bàn để nhân lúc nhốn nháo mà chạy đi. Các con bạc reo lên như sấm:

– Cướp bạc anh em ơi!

Hồ Phỉ vươn tay mặt ra chụp lấy chân tên chủ sòng xách ngược lên, đạp đầu hắn xuống mặt bàn. Luồng lực đạo quá mạnh khiến mặt bàn thủng một lỗ, đầu hắn chui xuống dưới. Từ vai đến chân chìa lên mặt bàn. Chân tay hắn khua loạn xạ lên trông rất nực cười.

Các con bạc bật tiếng la hoảng, tới tấp lùi lại . Đột nhiên thanh niên khoảng hai chục tuổi từ cửa lớn tiến vào. Thanh niên này mình mặc áo trường bào màu lam, tay phải phe phẩy cây quạt giấy, miệng gã hô:

– Có vị hảo bằng hữu quang lâm mà tiểu đệ chưa kịp nghênh tiếp. Xin miễn trách cho!

Hồ Phỉ thấy người này chân bước nhẹ nhàng, vẻ mặt anh khí bồng bột, tỏ ra võ công không phải tầm thường, bất giác chàng hơi sửng sốt. Thiếu niên chắp quạt lại nhìn Hồ Phỉ, chắp tay xá dài hỏi:

– Xin hỏi quý tính đại danh tôn huynh là gì?

Hồ Phỉ thấy gã cử chỉ lễ độ, cũng vái chào đáp:

– Tai hạ chưa kịp thỉnh giáo tôn tính các hạ.

Thiếu niên nói:

– Tiểu đệ họ Phụng.

Hồ Phỉ dựng cặp lông mày lên cười ha hả nói:

– Nếu vậy thì họ tên của tại hạ không khỏi có điều thất kính. Tại hạ họ Bạt tên gọi Phụng Mao. Lão huynh cùng Phụng Thiên Nam xưng hô thế nào?

Thiếu niên đáp:

– Đó là gia phụ. Gia phụ nghe nói tôn giá quang lâm đáng lẽ thân hành đến đây đón tiếp, không ngờ có việc cần kíp nên sai tiểu đệ đến mời tôn giá tới tệ xá uống chung rượu nhạt.

Gã quay lại ngó hai tên võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương” quát hỏi:

– Nhất định là các ngươi vô lễ với lão nhân gia khiến lão nhân gia bực mình. Sao còn chưa tạ tội?

Hai tên võ sư hộ vệ vâng dạ luôn miệng rồi khom lưng thỉnh an nói:

– Bọn tiểu nhân có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn.

Hồ Phỉ cười lạt nghĩ bụng:

“Ta thử coi bọn bay còn giở trò quỷ gì!”

Gã chủ sòng đầu vẫn bị cắm vào mặt bàn, hai chân khua loạn xạ, miệng la oai oái. Gã thiếu niên nắm lấy lưng hắn nhẹ nhàng nhấc ngược lên rồi đặt xuống. Cổ hắn vẫn dính với mặt bàn, thành ra cái bàn chổng ngược chân lên trời, coi chẳng khác gì cổ bị đeo gông. Chủ sòng hai tay nâng đỡ mặt bàn coi rất hoạt kê và thảm hại. Hắn nhìn thiếu niên nói:

– Đại gia! Đại gia đến vừa may. Hắn… hắn…

Hắn đưa mắt nhìn Hồ Phỉ rồi không dám nói nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ngươi không đám đánh nữa chứ gì? Thế cũng được. Vậy tiền chung cho ta đâu? Chẳng lẽ “Anh hùng hội quán” định quịt nợ?

Thiếu niên mắng chủ sòng:

– Bạt gia được bao nhiêu tiền mau lấy ra trả đi, còn ấp a ấp úng gì nữa?

Gã nói rồi cầm hai góc bàn kéo mạnh ra. Rắc một tiếng! Mặt bàn bị tách làm hai mảnh. Công phu này rất ngoạn mục và mau lẹ khiến mọi người trong sòng bạc đều cất tiếng hoan hô. Chủ sòng bây giờ được thiếu chủ đỡ đòn, mật lớn lên một ít, ngó Hồ Phỉ bằng cặp mắt hằn học nói:

– Gã này là “Xuất lão thiên”.

Thiếu niên lớn tiếng quát:

– Nói bậy! Ngươi ta là đấng anh hùng hảo hán, sao lại bảo là “xuất lão thiên”? Nếu ở đây không đủ tiền thì mau sai người lại tiệm cầm đồ mà lấy.

Hồ Phỉ không hiểu ba chữ “xuất lão thiên” nghĩa là gì, nhưng cũng đoán ý hắn bảo mình là phường bịp bợm. Chàng lẩm bẩm:

– Gã thiếu niên này võ công không tồi, mà hành động cũng dứt khoát, ta chẳng thể lơ là được.

Lại nghe thiếu niên nói:

– Tiền bạc của Bạt gia quyết chẳng dám thiếu nửa đồng. Bọn tiểu nhân quê mùa này mắt nhỏ như hai hạt đậu, trước nay chưa nhìn thấy những bậc hảo hán, anh hùng chân chính bao giờ. Bạt gia bất tất chấp nhặt với chúng làm chi. Bây giờ xin mời Bạt gia dời gót ngọc qua tệ xá chơi được chăng?

Gã biết rõ ba chữ “Bạt Phụng Mao” quyết chẳng phải tên thật và chàng tìm tới Phụng gia là có ý gây chuyện thị phi, nhưng gã vẫn một điều Bạt gia, hai điều Bạt gia, tuyệt không lộ vẻ gì khó chịu.

Hồ Phỉ nói:

– Ở đây các vị rất nhiều phụng hoàng, tại hạ chưa hiểu tôn hiệu của đại gia là gì?

Thiếu niên nghe giọng hỏi của Hồ Phỉ có ý châm chọc liền đáp:

– Không dám! Không dám! Tiểu đệ tên gọi Nhất Minh.

Hồ Phỉ nói:

– Tại hạ đang có hứng đánh bạc muốn lại đây chơi một lúc nữa. Chi bằng mời lệnh tôn đến đây hội diện.

Chủ sòng nghe chàng nói muốn đánh bạc nữa, mặt xanh như chàm, lên tiếng.

– Không… không…

Phụng Nhất Minh sa sầm nét mặt quát:

– Chúng ta đang nói chuyện, sao ngươi được chõ miệng vào?

Gã quay lại nhìn Hồ Phỉ cười cầu tài, nói:

– Gia phụ đối với bạn bè trước nay chưa dám thất lễ với ai, được tin Bạt gia quang lâm Phật Sơn trong lòng mừng rỡ khôn xiết, hận mình chẳng được lập tức cùng nhau tương kiến. Vì bữa nay có hai vị Ngự tiền thị vệ ở trong kinh ra, gia phụ phải ở nhà bồi tiếp chẳng thể phân thân ra mà nghinh đón Bạt gia, mong Bạt gia miễn thứ cho.

Hồ Phỉ cười lạt đáp:

– Ngự tiền thị vệ là các quan lớn. Nhất Minh huynh! Tiểu đệ ở ngoài giang hồ có cái ngoại hiệu, chắc huynh đài đã biết rồi.

Phụng Nhất Minh nghe chàng nói tới ngoại hiệu liền tự hỏi:

“Không hiểu tên thật thằng cha này là gì? Nếu tìm hiểu đôi phần thì việc đối phó cũng chẳng khó khăn gì.”

Gã vội nói:

– Tiểu đệ là kẻ cô lậu ít hiểu biết, xin Bạt gia cho biết.

Hồ Phỉ đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Lạ ở chỗ Nhất Minh huynh cũng là người võ lâm mà sao cái tên “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao” lừng lẫy trên chốn giang hồ cũng không biết?

Phụng Nhất Minh sửng sốt nói:

– Bạt gia nói giỡn rồi.

Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái chụp lấy vạt áo gã, quát hỏi:

– Hừ! Tên này lớn mật thật. Sao ngươi dám lấy vụng miếng thịt phụng hoàng của ta nuốt vào bụng?

Phụng Nhất Minh không thể nhẫn nại được nữa, tay phải gã đánh hờ một chưởng, tay trái ra chiêu cầm nã định chụp lấy cổ tay Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay tay một cái nhanh như điện chớp khiến đối phương không kịp đề phòng. Bốp một tiếng. Phụng Nhất Minh bị đánh một bạt tai vào má trái. Hồ Phỉ thuận tay chụp luôn tay mặt gã, miệng quát:

– Trả lại miếng thịt phụng hoàng cho ta.

Phụng Nhất Minh cũng là tay gia học nhà nòi, võ công không đến nỗi kém mà cảm thấy cổ tay phải mình tựa hồ bị kìm sắt riết chặt, gân cốt cơ hồ gãy nát cả. Gã vội phóng cước nhằm đá vào bụng dưới đối thủ. Hồ Phỉ giơ chân lên, từ trên không đạp trúng mu bàn chân của Phụng Nhất Minh. Bàn chân Phụng Nhất Minh khác nào trúng một đòn thiết chùy, gã không nhịn được rú lên một tiếng. Hồ Phỉ xoay tay trái đánh một chưởng trúng vào má bên phải Phụng Nhất Minh. Thế là cả hai má gã vừa đỏ vừa sưng giống như gan heo.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Các vị hảo bằng hữu hãy nghe đây. Tại hạ đường xa ngàn dặm từ phương Bắc đến trấn Phật Sơn mua cho Chung A Tứ lão huynh một miếng thịt phụng hoàng mà bị gã này ăn vụng mất. Các vị bảo có nên đánh hay không?

Mọi người trong sòng bạc ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám lên tiếng nhưng trong lòng đều biết chàng đến trả thù cho cái chết của Chung Tiểu Tam. Phụng Nhất Minh bị Hồ Phỉ dẫm lên chân, chịt cổ tay, toàn thân vô phương cử động.

Bỗng thấy một lão già từ trong đám đông đi ra, tay cầm một cái tẩu thuốc lào ngắn. Chính là đại chưởng quỹ ở tiệm cầm đồ “Anh hùng điển đương”. Lão bị Hồ Phỉ uy hiếp lấy chín ngàn lạng khi nào chịu bỏ qua? Một mặt lão sai người đến cấp báo với Phụng Thiên Nam, mặt khác ngầm tới “Anh hùng hội quán” để dò la động tĩnh. Bây giờ lão thấy thiếu chủ nhân bị bắt liền tiến ra, cười vuốt râu, miệng nói:

– Hảo hán gia, đây là người con duy nhất của Phụng lão gia. Phụng lão gia coi y quý như tính mạng mình. Hảo hán gia cần dùng tiền bạc thế nào xin cứ cho hay và xin tha thiếu chủ nhân của bọn tại hạ ra.

Hồ Phỉ bảo:

– Ai bảo gã ăn vụng thịt phụng hoàng của ta? Hễ là con cưng của Phụng lão gia thì muốn ăn vụng cái gì của người khác cũng được hay sao?

Đại chưởng quỹ cười nói:

– Hảo hán gia khéo nói giỡn. Trong thiên hạ làm gì có thịt phụng hoàng? Dù có đi chăng nữa thì thiếu chủ nhân của bọn tại hạ cũng không ăn vụng.

Hồ Phỉ lại quát:

– Thịt phụng hoàng bổ lắm. Thực là món ăn quý vô giá. Hễ nuốt vào bụng là nét mặt hồng hào béo mập lên ngay. Các vị hãy coi đó, có phải mặt gã vừa đỏ vừa mập hơn không? Vậy mà còn cãi là không ăn vụng thịt phụng hoàng của ta ư?

Đám người ở sòng bạc thì một nửa là thủ hạ của Phụng Thiên Nam, một nửa nếu chẳng phải bọn lưu manh thì cũng là hạng phá gia chỉ tử. Ai nấy đều sợ uy thế Phụng Thiên Nam, nên nghe Hồ Phỉ hỏi vậy đều mồm năm miệng mười đáp:

– Bọn tại hạ có thấy thịt phụng hoàng của hảo hán gia đâu?

– Phụng thiếu gia quyết không ăn cắp bất cứ cái gì của hảo hán cả.

– Ở phủ Phụng lão gia còn thiếu thứ gì mà phải ăn vụng ăn cắp?

– Thật buồn cười! Thật buồn cười!

– Hảo hán tha ngay y ra để khỏi xẩy chuyện lớn.

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi! Các vị bảo gã không ăn vụng chẳng lẽ ta cãi được ư? Bây giờ chúng ta đưa nhau đến miếu Bắc Đế để ngài phán xét.

Mọi người sửng sốt, lập tức nghĩ ngay đến vụ Chung Tứ tẩu mổ bụng con ở miều Bắc Đế. Đại chưởng quỹ ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: một khi đã đến Bắc Đế miếu thì câu chuyện khó mà vãn hồi được. Hắn không ngớt khom lưng xá dài nói:

– Hảo hán dạy thế là chí phải. Bọn tại hạ đều lầm rồi. Thiếu chủ nhân đúng là đã ăn vụng thịt phụng hoàng của hảo hán. Hảo hán đòi bồi thường thế nào xin hoàn lại đúng như vậy là xong.

Hồ Phỉ cười lạt:

– Ông bạn nói nghe dễ dàng quá. Bao nhiêu người ở đây đều bất phục mà không tới Bắc Đế miếu làm cho minh bạch thì ta còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?

Dứt lời chàng cắp nách Phụng Nhất Minh rảo bước ra khỏi đổ trường, bỏ cả tiền bạc lại không lấy nữa. Chàng hỏi thăm khách bộ hành rồi đi thẳng về phía miếu Bắc Đế.

Bắc Đế miếu có kiến trúc rất hùng vĩ với bệ thờ thật lớn. Qua cổng tới một cái ao lớn. Trong ao toàn là rùa đá, rắn đá. Hồ Phỉ kéo Phụng Nhất Minh vào đại điện, thấy vết máu vẫn còn đỏ trên phiến đá trước tượng thần, nghĩ đến thảm cảnh của Chung Tứ tẩu bị ép buộc phải mổ bụng con, bầu máu nóng trong ngực sôi lên, chàng đẩy Phụng Nhất Minh té xuống rồi ngửng đầu nhìn tượng thần Bắc Đế dõng dạc hô:

– Bắc Đế gia, Bắc Đế gia! Ngài uy linh, hiển hách, xin giúp cho tiểu dân được thân oan trả mối oán hờn. Tên giặc này ăn vụng thịt phụng hoàng của tiểu dân mà mọi người bảo gã không ăn…

Chàng chưa dứt lời đột nhiên thấy sau lưng rít lên tiếng gió, biết là gần đó có người tập kích hai bên. Chàng cúi đầu xuống co mình lại. Hai người kia đánh vào quãng không. Hồ Phỉ hai tay giang ra đẩy sau lưng hai người đánh “binh” một tiếng. Hai người đụng đầu vào nhau lập tức ngất đi. Lại nghe một người tức giận gầm lên nhẩy xổ vào. Hồ Phỉ thấy tiếng bước chân trầm trọng, thế đánh rất uy mãnh, bụng bảo dạ:

– Người này công phu không phải tầm thường.

Chàng nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy đao quang lấp loáng. Một đại hán lớn như con trâu mộng đã lướt qua bên mình. Thanh đao chém xuống đầu Phụng Nhất Minh. Nhưng người này võ công cao cường, trong lúc cấp bách gã liền đưa cánh tay trệch đi một chút. Nhát đao chém xuống viên gạch xanh, mảnh gạch bay tứ tung. Hồ Phỉ la lên:

– Tuyệt diệu!

Chàng đưa chân trái đè lên khuỷu tay đối phương. Đại hán rú lên một tiếng buông tay bỏ đao ra. Hồ Phỉ khoèo chân phải một cái, thanh đơn đao bay lên. Tiện tay chàng đón lấy rồi cười nói:

– Tại hạ đang bực vì chuyện không có đao mổ bụng gã này mà các hạ lại đem đến cho. Xin cảm ơn các hạ.

Đại hán tức giận đến cực điểm, hết sức giãy giụa. Hồ Phỉ nhấc chân trái lên một chút hắn liền xoay mình nhảy vọt lên được ngay đủ biết cường lực của hắn hơn người. Hắn đẩy chân phải một cái mười đầu ngón tay như móc câu từ trên không chụp xuống Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay mình một cái đã vòng ra phía sau đối phương. Tay trái chàng đẩy mạnh vào đôi vai phì nộn của hắn, miệng quát:

– Lên trời đi!

Phát đẩy này mười phần có đến tám là mượn đà nhảy lên của đại hán. Đại hán không tự chủ được bay vút lên không. Những người đứng xem bật tiếng la hoảng, chỉ e người hắn sẽ xuyên thủng nóc miếu bay ra ngoài. Đại hán vội đưa hai tay ôm lấy cây rường ở giữa đại điện. Dù hắn không bị đụng bể đầu nhưng cứ phải đeo tòng teng trên không, nhìn xuống thấy cách mắt đất mấy trượng.

Hắn không luyện môn khinh công, thân thể lại nặng nề, tuy công phu ngạnh công ngoại gia vào hạng khá mà không dám nhảy xuống. Đại hán này là nhân vật thứ ba trong Ngũ Hổ môn, một tay trợ thủ rất đắc lực của Phụng Thiên Nam. Những người ở trấn Phật Sơn đều sợ hắn một phép. Bây giờ hắn như người bị treo trên rường nhà, lên không được xuống cũng không xong coi rất thảm hại. Hồ Phỉ kéo vạt áo Phụng Nhất Minh đánh roạc một miếng để hở bụng ra. Chàng cầm ngang thanh đao, nhìn mọi người ở trong điện hô lớn:

– Gã có ăn thịt phụng hoàng hay không, các vị cứ mở mắt ra mà coi cho rõ, đừng bảo ta đổ oan cho người ngay.

Bốn năm người ăn mặc như kiểu hương thân đứng bên đều bước tới khuyên giải, nói:

– Xin hảo hán gia hãy nương tay, nếu mổ bụng ra thì người chết không thể sống lại được, điều đó thật không nên.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Bọn người này úp úp mở mở, chắc cũng cùng một giuộc với Phụng Thiên Nam.

Chàng tức giận quay đầu lại, quát hỏi:

– Chung Tứ tẩu mổ bụng thằng nhỏ sao các vị không khuyên can? Chỉ con em nhà giàu mới đáng tiền, còn con kẻ nghèo không phải là mạng người hay sao? Các vị mau về nhà đi. Mỗi vị bắt một đứa con đưa đến đây. Nếu ai không chịu đưa đến, ta sẽ thân hành tới nơi để tìm. Thịt phụng hoàng của ta nếu không phải gã ăn vụng thì là con các vị ăn rồi. Ta sẽ mổ bụng từng đứa một để điều tra cho ra vụ này.

Hồ Phỉ nói mấy câu này khiến bọn hương thân hồn vía lên mây, không nói gì nữa. Giữa lúc nhốn nháo, ngoài cửa miếu có tiếng ồn ào huyên náo. Một lũ người chạy vào. Người đi trước thân thể cao lớn, mình mặc áo đoạn màu đồng cổ. Hắn đưa hai bàn tay gạt một cái. Bảy, tám người trên điện liền bị té xuống lăn ra xa mấy thước. Hồ Phỉ thấy người này khí thế uy mãnh lại thái độ ngang tàng, liền lẩm bẩm:

– Ha ha! Rốt cuộc hắn phải đến rồi!

Chàng đưa mục quang nhìn đại hán từ đầu xuống chân, lại từ gót chân lên đến đầu. Đại hán là một lão già để ria mép đốm bạc, tuổi ngoài năm chục, cổ tay mặt đeo một đôi vòng ngọc, tay trái cầm cây tẩu màu phỉ thúy, nghiễm nhiên là một tay đại hương thân, không giống một tên ác bá trong võ lâm ngồi nhà để chia tang vật. Có điều chân lão cước bộ trầm ổn, cặp mắt rất oai nghiêm, quá nửa là tay võ nghệ cao cường. Đại hán này chính là Nam bá thiên Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.

Phụng Thiên Nam đang dự tiệc bồi tiếp hai thị vệ từ kinh đô đến, nghe gia nhân liên tiếp về báo cáo là có người đại náo tửu lâu, tiệm cầm đồ và sòng bạc. Lão không muốn để mất uy danh trước mắt bọn Ngự tiền thị vệ, toan bỏ mặc không lý gì đến. Lão cho là chuyện nhỏ nhặt này bọn thủ hạ cũng đủ sức đối phó rồi. Sau lão nghe nói con bị bắt đưa đến miếu Bắc Đế để mổ bụng mới hối hả chạy tới. Lão tưởng một tay đối đầu ghê gớm nào đến tầm cừu, ngờ đâu lão vừa ngó thấy Hồ Phỉ thì chỉ là một gã thiếu niên quê mùa chưa từng quen biết. Lão chưa nói gì đã cúi xuống toan ôm con dậy

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

“Lão này có vẻ cuồng ngạo lắm. Hắn coi ta không ra gì”.

Chàng chờ Phụng Thiên Nam cúi xuống rồi phóng chưởng đánh vào lưng lão. Phụng Thiên Nam không quay đầu lại chỉ xoay tay sau bên trái gạt bàn tay đối phương. Chát một tiếng. Hai chưởng đụng nhau. Người Phụng Thiên Nam lảo đảo, suýt nữa té xuống đè lên mình Phụng Nhất Minh. Bây giờ lão mới biết chàng thiếu niên quê mùa này quả là tay kình địch. Lão đành bỏ tay đó giơ tay phải lên, vung quyền đánh vào eo Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy lão biến chiêu rất thần tốc, quyền đánh như gió. Quả là thân thủ của một danh gia. Chàng vung đao chém xuống nắm tay lão. Nhát đao này tuy mãnh liệt, Phụng Thiên Nam chỉ cần rút tay một cái là tránh được ngay, nhưng Nhất Minh nằm ngang dưới đất, nếu lão rụt tay về thì đứa con sẽ hứng lấy nhát đao. Trước tình trạng nguy cấp này Phụng Thiên Nam ứng biến cực kỳ mau lẹ. Lão kéo tấm phủ bàn trước bệ thờ hất lên đón đỡ chiêu đao. Hồ Phỉ là:

– Giỏi lắm!

Chàng vươn tay trái lên chụp lấy một đầu tấm phủ bàn. Cả hai người cùng kéo mạnh. Bỗng nghe đánh “soạt” một tiếng. Tấm phủ bàn đứt ngay khúc giữa thành hai đoạn. Bây giờ Phụng Thiên Nam đâu dám coi thường nữa? Lão vội nhảy lùi lại nửa trượng. Một tên đệ tử đưa cây Hoàng kim côn vào tay lão. Cây côn dài đến bảy thước, đường kính một tấc rưỡi. Toàn thân đúc bằng vàng pha với đồng. Có thể nói là một thứ binh khí nặng nhất và sang trọng nhất của một nhà hào phú trong võ lâm.

Phụng Thiên Nam vung cây kim côn lên trỏ vào Hồ Phỉ nói:

– Các hạ là môn phái của ai? Phụng mỗ có chỗ nào đắc tội với các hạ, xin được thỉnh giáo.

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ có miếng thịt phụng hoàng bị lệnh lang ăn vụng mất. Không mổ bụng gã ra để coi cho rõ thì không xong.

Phụng Thiên Nam nhờ cây Thục đồng côn mà khắp tỉnh Lĩnh Nam không ai địch nổi. Lão mới sáng lập ra phái Ngũ Hổ và định cư ở trấn Phật Sơn. Sau lão đại phát tài mới cho đúc cây Hoàng kim côn để thay cho cây thục đồng côn. Những cây côn mà con nhà võ sử dụng thưởng chỉ cao ngang bằng lông mày để xoay xở cho vừa với chiều cao thân thể gọi là “Tề mi côn”. Cây ngắn không tới năm thước, cây dài cũng chỉ hơn sáu thước là cùng. Cây côn của Phụng Thiên Nam dài đến bẩy thước mà vàng ròng lại mềm quá, nên pha thêm đồng, với cây côn bằng thép thì nặng hơn nhiều.

Nhờ Phụng Thiên Nam có tý lực hơn người, côn vung ra trong phạm vi hai trượng là ánh vàng rực rỡ. Quả là vô cùng lợi hại. Lão nghe lời Hồ Phỉ nói thì biết rằng cục diện bữa nay khó lòng mà dàn xếp cho ổn thỏa. Lão vung vây kim côn lên, vung cổ tay hai cái, đầu côn đã quạt gió làm cho hai ngọn đèn trước bệ thờ tắt ngóm.

Phụng Thiên Nam quát lớn:

– Tại hạ xưa nay rất thích kết giao với bằng hữu, cùng với tôn giá chưa hề quen biết, cớ gì phải vì một thằng nhỏ nhà nghèo mà làm tổn thương đến nghĩa khí giang hồ? Là bạn hay là thù đều do một lời của tôn giá mà quyết định.

Kim côn là binh khí rất nặng, lão chỉ vung một đường mà đã làm tắt hai ngọn đèn, tuyệt diệu ở chỗ đầu côn không làm suy suyển gì tới ngọn đèn. Thủ pháp chuẩn xác như thế quả là công phu hiếm thấy. Lời lão nói tuy mềm mỏng mà bên trong lại cứng rắn, chỉ mong Hồ Phỉ thấy khó khăn mà lui bước, bất tất phải can thiệp vào chuyện không đâu.

Hồ Phỉ cười nói:

– Phải rồi! Lời Phụng gia nói không sai. Chỉ cần Phụng gia cắt một miếng thịt phụng hoàng đền cho tại hạ, thì tại hạ lập tức phủi áo đi ngay. Phụng gia thấy vậy được không?

Phụng Thiên Nam sa sầm nét mặt, quát lớn:

– Đã vậy thì chúng ta chỉ còn cách dùng binh khí để phân cao thấp mà thôi.

Lão nói xong liền chống cây côn nhảy vào trong miếu. Hồ Phỉ ném Phụng Nhất Minh xuống đất, cầm đơn đao cắm bên mình gã, miệng quát lớn:

– Nếu mi bỏ trốn thì cha mi phải đền mạng!

Chàng đưa tay không ra, dõng dạc nói:

– Lão gia đây đi không đổi họ, về chẳng đổi tên tiếng tăm lừng lẫy, đó là “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao”. Lông phụng không nhổ được thì lông phao câu của gà thối, vịt thối cứ nhổ tạm cũng tốt. Xin mọi người hãy xem cho rõ.

Chàng vừa dứt lời, tay trái đột nhiên vung ra chộp lấy đầu côn của đối phương. Phụng Thiên Nam biết chàng võ công lợi hại, bụng nghĩ thầm:

“Mi đã phách lối tự đại, không dùng binh khí thì chớ trách ta.”

Lúc thấy chàng đưa tay ra chộp lấy cây côn, tỏ ra quá xem thường đối thủ, liền vung đuôi côn một cái, ra chiêu “Khu vân tảo nguyệt”, quét ngang cổ Hồ Phỉ. Tuy chiêu này chủ yếu là quét ngang nhưng lại có điểm, có đánh, có quấn, có nảy. Cái đó gọi là “Đơn đầu, song đầu, triển đầu, đầu đầu thị đạo, chính diện, trắc diện, bối diện, diện diện giai linh”, đúng là côn pháp thượng thừa trong võ học. Hồ Phỉ thân hình di chuyển theo đường côn, phát chưởng đối công.

Mọi người ngưng thần nín thở, chăm chú xem hai người kịch đấu. Bọn thuộc hạ của Phụng Thiên Nam tuy đông người, nhưng chưa được lệnh của lão nên không dám xông vào trợ chiến. Vả lại hai người tung nhảy như gió bọn ở ngoài võ công kém xa, có muốn trợ chiến cũng chăng biết ra tay thế nào.

Cuộc ác đấu đang lúc khủng khiếp thì ba người từ cửa miếu tiến vào. Người đi đầu là một phụ nhân tóc tai rũ rượi, mình đầy máu me. Chính là Chung Tứ tẩu. Mụ vừa dập đầu vừa bò vào. Hai người theo sau là Chung A Tứ, chồng mụ và Chung Tiểu Nhị, con mụ. Chúng Tứ tẩu vẫn quỳ dưới đất nhìn Phụng Thiên Nam dập đầu không ngớt. Mụ cười ha hả rồi la lên:

– Phụng lão gia! Lão gia là người đại nhân đại nghĩa. Bắc Đế phù hộ cho lão gia đa phước đa lộc, phù hộ cho lão gia kim ngọc mãn đường quanh năm phát tài. Gã Tiểu Tam, con của tiểu phụ đã làm cáo trạng kiện tới Diêm Vương nhưng Diêm Vương gia bảo lão gia đại phúc đại quý, hậu vận hưởng phúc vô cùng.

Mụ điên điên khùng khùng, vừa quỳ vừa lạy, chợt khóc chợt cười. Chung A Tứ nét mặt tái xanh không nói một lời. Phụng Thiên Nam mới cùng Hồ Phỉ chiết hơn mười chiêu thì đã rơi vào thế hạ phong. Cây kim côn vung lên thành vòng tròn mỗi lúc một nhỏ. Lão lại thấy Chung Tứ tẩu dở khôn dở dại quỳ trước mặt mình thành ra tâm thần bối rối. Lão biết còn chiến đấu nữa tất bị thất bại khó bề cứu vãn, liền vận kình lực vào hai bàn tay sử chiêu “Dương mi thổ khí” đánh vào hàm ếch của Hồ Phỉ. Nhát côn này kình phong rít lên, kim quang lóa mắt. Hồ Phỉ không né tránh cũng không lùi lại, vươn tay đoạt lấy kim côn. Phụng Thiên Nam vừa sợ vừa mừng, nghĩ bụng:

“Cánh tay ngươi dù có đúc bằng sắt đi nữa cũng phải gãy tan.”

Lão liền vận kình dồn hết sức ra cổ tay. Bàn tay Hồ Phỉ vừa bám đầu côn liền co nhẹ lại về phía sau, nương theo sức đập cây côn, các ngón tay uốn quanh nắm lấy đầu côn. Tính ra Phụng Thiên Nam sử chiêu đó đã phát huy công lực khổ luyện trên ba chục năm, lão vội sử chiêu “Thương hoạt hạ kiếp”, rồi tiếp theo là chiêu “Phiên triệt địa” dùng công phu ngạnh công cực kỳ cương mãnh để giật lại.

Hồ Phỉ là lên:

– Nhổ lông con gà thối tha đây!

Hai tay chàng từ ngoài đưa vào trong bóp lấy yết hầu. Không hiểu chàng di động thân hình thế nào mà vừa giật, vừa chụp lại thuận đà tiến đánh luôn. Cây kim côn của Phụng Thiên Nam vung ra ngoài dĩ nhiên không đánh được chàng. Phụng Thiên Nam sợ quá vội cúi đầu xuống đồng thời đưa tay ra giữ lấy cổ.

Hồ Phỉ dùng tay trái khẽ đập vào thiên linh cái đối phương rồi lột mũ lão ra, tay phải chụp lấy búi tóc lão la lên:

– Phát chưởng này tạm thời chưa kết liễu các hạ!

Tay trái chàng nắm búi tóc của lão rồi hai tay giựt mạnh ra hai bên một cái. Nghe “Phựt” một tiếng, búi tóc của lão bị đứt thành hai đoạn. Phụng Thiên Nam sợ tái mặt, vội nhảy lùi lại. Hồ Phỉ giơ tay mặt lên. Cái mũ của Phụng Thiên Nam bay ra chụp trúng vào đầu con rắn đá. Chàng lại tiến lên hai bước phóng chưởng đánh vào đầu con rùa đá nghển cổ lên. “Binh” một tiếng. Tia nước bắn tung tóe. Đầu con rùa đá bị gãy cổ rớt xuống ao nước. Hồ Phỉ nổi lên tràng cười ha hả. Chàng cầm mớ tóc dài của Phụng Thiên Nam quấn vào cổ con rùa đó. Hai tay chang phủi bụi trên mình cười hỏi:

– Còn đánh nữa hay thôi?

Bọn người đứng xem thấy Hồ Phỉ phô trương thân thủ như vậy đều cả kinh thất sắc. Phụng Thiên Nam biết phát cưởng vừa rồi quả chàng đã lưu tình, không thì chưởng lực đánh gãy đầu con rùa đá mà đánh vào đầu lão thì còn chi là tính mạng? Nhưng lão nghĩ tới chuyện Hồ Phỉ lấy búi tóc mình quấn lên cổ rùa, lấy mũ mình đội lên đầu rắn thì quả là một điều đại sỉ nhục, còn nhịn làm sao được? Lão liền múa kim côn ra chiêu “Thanh long quyển vĩ” quét mạnh một cái. Lúc này lão đánh liều mạng chứ không giữ thân phận chưởng môn tỷ võ cùng người.

Hồ Phỉ thầm nghĩ:

“Thằng cha này lâu nay hoành hành bá đạo, bữa nay mà ta không làm cho hắn mất hết thể diện thì không giải được oan khí cho người ở trấn Phật Sơn này.”

Chàng thấy uy lực cây kim côn có gia tăng, nhưng côn pháp đã không còn linh động như lúc nãy. Chàng dùng tay không đỡ gạt mấy chiêu rồi thấy lão sử chiêu “Thiết ngưu canh địa” đánh tới, bèn chờ đầu côn quét xuống đất liền dẫm chân phải lên. Phụng Thiên Nam vội vận kình giựt lại. Hồ Phỉ vung chân rất mau lẹ, vừa thấy chân phải rung động liền đạp mạnh chân trái lên thân côn một cái. Phụng Thiên Nam không nắm chắc được nới hai tay ra, cán côn rớt xuống đập trúng mu bàn chân phải lão, hai cái xương nhỏ gãy lập tức. Lão đau quá, mặt vàng như nghệ, nhưng chỉ nghiến răng chịu đựng chứ chẳng rên la một tiếng. Lão đưa hai tay chắp sau lưng dõng dạc lên tiếng:

– Phụng mỗ học nghệ chưa tinh thông không còn gì để nói nữa, các hạ muốn giết muốn mổ thế nào xin cứ tùy ý.

Chung Tứ tẩu hướng về lão vẫn dập đầu không ngừng. Mụ vừa khóc vừa la:

– Đa tạ Phụng lão gia đã thành toàn cho thằng Tiểu Tam của nhà tiểu phụ. Nó quả có ăn vụng thịt ngỗng của lão gia không?

Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam bị thảm như vậy, không muốn làm nhục lão nữa, nhưng lại thấy thảm trạng điên khùng của Chung Tứ tẩu, cùng những vết máu trên bệ đá trước ban thờ, chàng nghĩ Phụng Thiên Nam ngoài vụ này nhất định còn gây không ít điều tàn ác, đã rơi vào tay mình thì há có thể buông tha một cách khinh xuất? Chàng liền sấn bước tới chụp lấy lưng Phụng Nhất Minh giơ lên, nhổ thanh đao cắm dưới đất rồi quay lại Phụng Thiên Nam:

– Phụng lão gia! Giữa tại hạ và lão gia vốn vô oán vô cừu, nhưng lệnh lang ăn vụng miếng thịt phụng hoàng của tại hạ thật là vô lý. Những người ở trấn Phật Sơn đều bênh vực gã. Nỗi oan khuất của tại hạ khó mà biện minh được, đành phải mổ bụng lệnh lang để liệt vị coi cho rõ.

Dứt lời chàng đưa mũi đao vào bụng Phụng Nhất Minh, rạch nhẹ một đường. Trên làm da trắng như tuyết lập tức ứa máu. Phụng Thiên Nam dĩ nhiên làm lắm điều tàn ác nhưng cũng có khí phách của một hán tử giang hồ. Lão bị bại dưới tay Hồ Phỉ rồi mà vẫn mười phần cứng cỏi, không để mất thân phận một vị chưởng môn. Nhưng bây giờ thằng con yêu độc nhất sắp bị thảm họa mổ bụng, bất giác bao nhiêu oai phong ngạo khí đều tiêu tán. Lão la lên:

– Hãy khoan!

Rồi lão đoạt lấy một thanh đơn đao của một tên hạ thủ đứng bên. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Lão gia còn chưa chịu phục, muốn đánh một trận nữa chăng?

Phụng Thiên Nam vẻ mặt sầu thảm đáp:

– Mình làm mình chịu, Phụng mỗ đã hành động không xứng đáng, để tôn giá phải ôm mối bất bình. Cái đó không liên quan gì đến tiểu nhi. Phụng mỗ không dám sống nữa, chỉ cầu tôn giá tha mạng cho thằng con.

Lão nói rồi vung đơn đao toan đâm cổ tự vẫn. Bỗng nghe người trên rường nhà hô lớn:

– Phụng đại ca! Làm thế không được.

Nguyên là gã đại hán to lớn hai bàn tay bám lấy rường nhà người đeo tòng teng trên không. Phụng Thiên Nam cười khổ một tiếng rồi vung đao cứa cổ liền. Mọi người giật mình kinh hãi nhưng chẳng ai dám ngăn cản. Thanh đơn đao nếu lướt qua cổ thì lập tức máu chảy đương trường, thây nằm lăn trong tổ miếu.

Đột nhiên mấy tiếng veo véo rít lên. Một mảnh ám khí từ ngoài cửa điện ở trên cao chênh chếch bắn vào. “Keng” một tiếng. Ám khí đụng vào đơn đao. Phụng Thiên Nam bị rung tay làm cho thanh đơn đao trệch đi nhưng cũng vạch một vết thương trên vai bên trái của lão khiến máu chảy đầm đìa.

Hồ Phỉ định thần nhìn lại ám khí thì chính là một cành thoa cài trên đầu phụ nữ. Tý lực của Phụng Thiên Nam rất mạnh mà cành thoa nhỏ bé phóng trệch được đơn đao của lão thì người phát ám khí võ công không kém gì chàng. Hồ Phỉ trong lòng thấy kinh ngạc vội chạy ra sân, nhảy vọt lên nóc nhà. Chàng thấy góc tây nam có bóng người thấp thoáng chỉ trong chớp mắt đã mất hút. Hồ Phỉ điểm chân phải xuống nhảy vọt đi. Trong ánh hoàng hôn lờ mờ, chàng đảo mắt nhìn quanh không thấy bóng người, miệng lẩm bẩm:

– Coi bóng sau lưng người này thân hình mảnh dẻ tựa hồ một thiếu nữ. Chẳng lẽ trong đám nữ nhân trên đời này lại có một tay cao thủ đến thế?

Chàng sợ cha con Phụng Thiên Nam trốn mất không dám đứng lâu trên nóc nhà, liền xoay mình nhảy xuống trở vào đại điện thì thấy cha con Phụng Thiên Nam đang ôm nhau. Mặt lão nước mắt đầm đìa không hiểu là vì yêu thương nuối tiếc hay hối hận khổ đau? Hồ Phỉ lòng dạ nhân từ, thấy tình cảnh đó có ý muốn tha thứ cho cha con lão.

Phụng Thiên Nam buông con ra, quỳ xuống trước mặt Hồ Phỉ nói:

– Cái mạng già của lão phu xin trao vào tay các hạ, chỉ hy vọng các hạ nương tay tha mạng cho nhi tử.

Phụng Nhất Minh xông lại cướp lời:

– Không được! Không được! Các hạ giết tiểu nhân đi để báo thù cho họ Chung. Xin cứ mổ bụng tiểu nhân đi.

Trong lúc nhất thời, Hồ Phỉ không biết phát lạc bằng cách nào. Nếu giết cả hai người thì chàng không nỡ, nhưng nếu thấy cha con lão quỳ gối khóc lóc mà buông tha tất thì phước cho họ quá.

Đang lúc ngần ngừ đột nhiên Chung A Tứ tiến lại nhìn Hồ Phỉ nói:

– Hảo hán gia đã cứu mạng cho vợ con tiểu nhân, lại giúp cho cả nhà tiểu nhân rửa sạch được nỗi oan khuất. Đại ân đại đức tiểu nhân tan xương nát thịt cũng khôn bề báo đáp.

Y vừa nói vừa dập đầu lạy binh binh. Hồ Phỉ vội đỡ y dậy. Chung A Tứ quay lại, nét mặt xám xanh nhìn Phụng Thiên Nam nói:

– Phụng lão gia! Bữa nay ở trước thần tượng Bắc Đế, lão gia có chịu nói theo lương tâm một câu là thằng con Tiểu Tam của nhà tiểu nhân không ăn vụng thịt ngỗng chăng?

Phụng Thiên Nam bị uy thế Hồ Phỉ trấn áp, cúi đầu đáp:

– Không có! Đó… đó là lầm lỗi của Phụng mỗ.

Chung A Tứ lại nói:

– Phụng lão gia! Lão gia theo lương tâm mà nói thực lần nữa đi. Có phải lão gia xui quan phủ hành hạ tiểu nhân, bức tử nhi tử chỉ vì muốn chiếm mảnh vườn rau của tiểu nhân không?

Phụng Thiên Nam đưa mắt nhìn thì thấy bộ mặt thường ngày vốn chất phác thật thà của con người quê mùa hiện giờ đang nghiến răng nghiến lợi, mắt dường tóe lửa, rất đáng sợ, bất giác lão cúi đầu xuống không dám trả lời. Chung A Tứ lại giục:

– Lão gia mau nói đi. Có đúng thế không?

Phụng Thiên Nam ngửng đầu lên đáp:

– Đúng vậy! Giết người thì phải thường mạng. Ngươi giết ta đi.

Bỗng nghe ngoài cửa miếu có tiếng người hô:

– Tên tiểu tặc tự xưng là Bạt Phụng Mao kia! Ngươi có dám ra đây đấu với ta ba trăm hiệp không? Ngươi chỉ rụt đầu rụt cổ trong miếu Bắc Đế không dám ra ngoài sao?

Mấy câu này thanh âm rất vang dội. Bao nhiêu người trong đại điện đều nhau kinh ngạc, họ nghe rõ thanh âm nặng trịch và thô lỗ, đầy vẻ vô lại lưu manh. Hồ Phỉ sửng sốt chạy ra cửa miếu thấy ba người cưỡi ngựa đang chạy vội về phía Tây. Một tên cưỡi ngựa quay đầu lại nói lớn:

– Con rùa rụt đầu kia! Chắc ngươi không dám động thủ cùng lão tử.

Hồ Phỉ tức giận vô cùng. Chàng thấy dưới gốc cây lớn bên cổng miếu có cột hai con ngựa, liền nhảy lên lưng một con, bứt dứt dây cột, hai chân kẹp lại thúc vào bụng ngựa, rượt theo ba kẻ kia. Ba con ngựa chạy trước men theo bờ sông lao về phía tây. Hồ Phỉ thấy ba người cưỡi ngựa tư thế rất vụng về, thuật cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Chàng không hiểu tư thế của ba kẻ kia là thật hay giả, nhưng mấy con ngựa họ đang cưỡi đúng là giống lương câu. Hồ Phỉ đuổi chừng hơn một dặm, thủy chung vẫn không tài nào đuổi kịp. Thỉnh thoảng lại nghe ba người lớn tiếng thóa mạ chẳng úy kỵ gì hết. Chàng thấy chúng chẳng mảy may sợ hãi, tựa hồ như có một kẻ cực kỳ lợi hại nâng đỡ.

Trong lòng nóng nảy, chàng cúi xuống lượm mấy viên đá rồi tung cổ tay một cái. Năm sáu viên đá bay ra. Bỗng nghe những tiếng “Ối chao!”, “Ối, mẹ ơi!” vang lên không ngớt. Cả ba hán tử đều bị đánh trúng ngã ngựa. Hai tên bò lồm cồm dưới đất, kêu la ầm ĩ. Người thứ ba chân móc vào bàn đạp bị ngựa lôi đi, trong chớp mắt đã khuất vào rặng liễu âm u. Hồ Phỉ nhảy xuống ngựa thấy hai tên kia vẫn nắm lưng, miệng rên hừ hừ kêu đau. Chàng đá một tên, quát:

– Ngươi bảo muốn đấu cùng ta ba trăm hiệp sao còn chưa đứng lên?

Người kia lồm cồm đứng dậy đáp:

– Thua bạc chưa trả mà còn ngang ngược vậy ư? Một ngày kia Phụng lão gia sẽ thân hành thu thập ngươi.

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Ai thiếu tiền cờ bạc không trả?

Một người khác nhảy xổ lại vung quyền đánh vào mặt Hồ Phỉ. Thoi quyền này tuy sức mạnh mấy cân nhưng chẳng theo chưởng pháp nào hết. Hiển nhiên hắn chưa học võ công. Hồ Phỉ tủm tỉm cười, đưa tay khẽ gạt cho thoi quyền của hắn trệch đi. “Binh” một tiếng. Thoi quyền đánh trúng sống mũi của tên đồng bọn khiến máu tươi chảy ròng ròng. Người phóng quyền sợ giật nảy mình không hiểu tại sao thoi quyền của mình đánh ra lại không chuẩn đích. Hắn chỉ biết ôm quyền đứng thộn mặt ra.

Người bị đòn tức giận nói:

– Quân chó đẻ! Sao lại đánh lão tử?

Hắn vung chân đá vào eo gã đồng bọn. Người kia xoay tay lại đánh. “Binh binh bốp bốp!” Thế là hai người đánh nhau kịch liệt không lý gì đến Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy hai gã này thực tình không hiểu võ công mà dám kêu mình ra thách đấu thì bên trong ắt có điều gì ngoắt ngoéo. Hai tay chàng nắm lấy cổ tay hai gã lôi về phía sau để tách hai gã ra. Nhưng hai người đỏ mặt tía tai, miệng không ngớt tuôn ra những lời thô tục để nhục mạ nhau. Một tên chửi đối phương chuyên môn ăn cắp rau cỏ nhà người ta, một tên chửi đối phương chuyên trộm gà vịt ở trấn Phật Sơn.

Hồ Phỉ xem chừng hai người này đều là hạng vô lại quê mùa, càng sinh lòng ngờ vực, liền lớn tiếng quát hỏi:

– Ai sai bọn ngươi đến chửi mắng ta?

Dứt lời hai tay chàng thúc lại. Nghe “cốp” một tiếng trán hai gã đụng vào nhau. Lập tức cả hai trán đều sưng vù lên như mọc sừng, mắt long lên song sọc nhìn nhau. Hán tử trộm gà rất nhát gan. Gã vừa bị một cú ở đầu đã lạy lục rối rít:

– Gia gia! Công công! Tiểu chỉ là đứa con cháu khốn nạn của lão nhân gia.

Hồ Phỉ lại quát:

– Hừ, ta mà có hạng con cháu đê tiện như ngươi ư? Nói mau!

Tên ăn cắp gà nói:

– Chủ sòng ở “Anh hùng hội quán” nói là lão gia thiếu nợ cờ bạc không trả, bảo bọn tiểu nhân ba tên dẫn dụ lão gia ra ngoài để đánh cho một trận. Lão cho bọn tiểu nhân mỗi tên năm lạng bạc. Những con ngựa này cũng của lão cho mượn. Lão gia thiếu nợ có trả hay không cũng chẳng liên quan gì đến bọn tiểu nhân…

Hồ Phỉ nghe tới đây “ủa” lên một tiếng, chàng lẩm bẩm:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Sao ta lại hồ đồ đến nổi nỗi trúng phải kế “Điệu hổ ly sơn” của địch nhân.

Chàng đẩy hai tay một cái khiến hai tên vô lại ngã chúi xuống như chó ăn phân, rồi tung mình lên ngựa hấp tấp quay về đường cũ. Chàng thầm nghĩ:

“Bây giờ chắc cha con Phụng Thiên Nam lẩn trốn cả rồi. Tòa Phật Sơn trấn rộng lớn thế này biết đi đâu kiếm họ? May mà hắn chiếm sản nghiệp của người ta rất nhiều. Ta lại đến mọi nơi của hắn đại náo một trận long trời đất lở, thử xem hắn lẩn tránh đến bao giờ?”

Không bao lâu, Hồ Phỉ trở về đến miếu Bắc Đế. Lúc trước bên ngoài cửa miếu, người ta bu coi đông nghịt nhưng bây giờ lại vắng tanh, đến một thằng nhỏ cũng không còn: Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

“Quả nhiên Phụng Thiên Nam đi mất rồi.”

Chàng tung mình xuống ngựa chạy thẳng vào trong miếu. Chàng vừa khoa chân bước lên đại điện, bất giác như hít phải một hơi khí lạnh, hơi thở tựa hồ ngưng trệ. Người chàng lảo đảo muốn ngồi phệt xuống đất. Trước đại điện miếu Bắc Đế máu tươi lênh láng khắp mặt đất, trong vũng máu có ba thây người chính là Chung A Tứ, Chung Tứ tẩu và Chung Tiểu Nhị. Người nào cũng bị loạn đao chém nát, máu thịt bầy nhầy, cảnh tượng cực kỳ thê thảm khiến người ta không nỡ nhìn. Hồ Phỉ đứng thộn mặt ra hồi lâu. Bầu nhiệt huyết sôi sùng sục. Chàng không nhịn được nữa, quỳ phục xuống đất khóc òa lên. Chàng vừa khóc vừa la:

– Chung Tứ ca! Chung Tứ tẩu! Chung gia huynh đệ! Bởi Hồ Phỉ này bất tài mà làm lụy đến tính mạng của các vị.

Chàng thấy ba người chết rồi, mà mắt vẫn mở trừng trừng, nét mặt đầy vẻ phẫn nộ. Chàng đứng lên trỏ vào thần tượng Bắc Đế gia mà phát thệ:

– Bắc Đế gia gia! Bữa nay xin Bắc Đế gia gia làm chứng cho. Nếu Hồ Phỉ này chẳng giết được cha con Phụng Thiên Nam để báo thù cho cả nhà họ Chung thì sẽ trở về tự tử trước mặt gia gia.

Chàng đập tay đánh “binh”một cái khiên một góc bàn thờ vỡ vụn. Bao nhiêu đồ thờ, lò hương cùng cây đèn trên án đều rớt ngổn ngang xuống đất. Chàng định thần lại ra ngoài cửa miếu dắt ngựa vào đặt ba xác người lên lưng ngựa, trong lòng hối hận không thôi:

“Ta nhỏ tuổi ngu ngốc không hiểu những trò ma quỷ trên chốn giang hồ mà lại đưa đầu vào đòi can thiệp chuyện bất bình, làm hại ba mạng người phải chết oan. Trong nhà họ Phụng kia dù đầy xuống núi đao vạc dầu, bữa nay ta cũng phải sấn vào giết bọn chúng một trận tả tơi mới hả dạ”.

Chàng liền dắt ngựa ra đường lớn mà đi. Chàng thấy nhà nào nhà nấy đều cửa đóng then cài, đường sá vắng ngắt không một bóng người. Chỉ nghe tiếng chân ngựa của mình lộp cộp bước trên đường lát đá.

Hồ Phỉ đến “Anh hùng đương phố” và “Anh hùng tửu lâu”, đạp tung cửa lớn, cũng thấy vắng ngắt như tờ, tưởng chừng mới trong khoảnh khắc mà mấy vạn người ở trấn Phật Sơn đột nhiên biến sạch. Chàng chỉ thấy ở tiệm cầm đồ và tửu lâu chỗ nào cũng chất đầy củi khô và rơm không hiểu để làm gì?

Hồ Phỉ lại tới sòng bạc cũng chẳng thấy bóng người. Hàng vạn lạng bạc đặt trên cánh cửa còn y nguyên không ai đả động đến. Hồ Phỉ tiện tay cầm lấy mấy trăm lạng bỏ vào bọc, trong lòng ngấm ngầm kinh ngạc tự nghĩ:

“Chắc Phụng Thiên Nam bày ra quỷ kế gì đó để đối phó với ta. Bọn chúng đông mà ta chỉ có một mình, khó lòng đương nổi.”

Hồ Phỉ vừa đi vừa chú ý nhìn quanh. Sau khi chuyển qua mấy góc phố, chàng ngó thấy một tòa phủ đệ to lớn tường trắng ngói đen. Trên cổng treo tấm biển đề bốn chữ đại tự “Nam Hải Phụng đệ”’. Tòa phủ đệ này gồm năm gian liền nhau, khí thế rất hùng vĩ. Cổng ngoài cổng trong đều mở toang. Trong nhà trống trải, tựa hồ không một bóng người. Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Dù hắn có bố trí ngàn vạn cơ quan đi nữa, ta cũng cho một mớ lửa đốt động rùa của hắn, thử xem hắn có chường mặt ra không?

Chàng toan đi tìm củi đuốc và cỏ khô để phóng hỏa thì đột nhiên dẫy nhà phía sau và ở hai bên đều có khói lửa bốc lên. Chàng ngẩn người một chút rồi hiểu ngay:

“Phụng Thiên Nam đã là tay đầy thủ đoạn lợi hại, có lý nào chịu vứt bỏ sản nghiệp mà không tiếc rẻ. Nay hắn tự mình châm lửa đốt sạch gia sản là đã nhất định xa chạy cao bay. Ta không rượt theo ngay thì e rằng hắn trốn biệt không còn thấy tông tích đâu nữa.”

Chàng liền dắt ngựa đến vườn rau của nhà họ Chung bên cạnh tòa nhà họ Phụng, tìm thuổng cuốc đào huyệt mai tang ba người. Chàng nhìn thấy vườn rau rất xanh tốt. Bên luống rau còn bỏ lại một cái mũ trẻ con và một món đồ chơi. Hồ Phỉ càng nhìn càng thấy thương tâm và phẫn nộ, chàng phục xuống đất lạy mấy lạy, miệng lầm rầm khấn vái:

– Chung gia huynh tẩu! Huynh tẩu có khôn thiêng thì giúp cho tiểu đệ bắt được hung thủ, đừng để chúng chạy thoát.

Bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy chục người hô hoán ồn ào:

– Phải bất cho được hung thủ đã giết người phóng hỏa.

– Đừng để tên giang dương đại đạo vô pháp vô thiên tẩu thoát.

– Tên tiểu cường đạo đó hiện còn lẩn quất gần đây.

Hồ Phỉ đi quanh đến sau một gốc cây lớn, nhìn ra ngoài thấy bốn năm chuc tên nha dịch binh đinh tay cầm cung nỏ đao thương, thiết xích, lòi tói ở ngoài tòa nhà họ Phụng la ó ầm ĩ để hư trương thanh thế. Chàng ngưng thần chăm chú nhìn trong đám người này không thấy cha con Phụng Thiên Nam liền nghĩ thầm:

“Phụng Thiên Nam làm kinh động đến quan phủ, nhưng lão cũng biết rõ không bắt nổi ta mà chỉ muốn ngăn trở ta một lúc mà thôi.”

Chàng liền nhảy lên ngựa nhằm về phía vùng đất hẻo lánh mà chạy. Ra khỏi thị trấn, Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy khói lửa ở tòa nhà họ Phụng đã bốc lên cao. Đồng thời mấy nơi khác như tiệm cầm đồ, tửu lâu, sòng bạc cũng có lửa cháy. Xem ra Phụng Thiên Nam quyết ý phá hủy sạch cơ nghiệp ở trấn Phật Sơn, vĩnh viễn không quay trở lại. Chàng trong lòng vừa buồn vừa hận, nhưng không thể không phục một người tâm địa độc ác và quyết đoán, dùng một mồi lửa để thiêu sạch gia sản hơn mười mấy năm kinh doanh mà không hề hối tiếc. Chàng thầm nghĩ:

“Con người tâm sâu kế xa như vậy thì nhất định đã có diệu kế lánh họa. Ta làm thế nào để tìm cho thấy hắn đây?”

Trong lúc nhất thời chàng ngựa lại ở ngoài trấn Phật Sơn trong dạ bồi hồi không biết quyết định ra. Chàng vẫn nghe thấy những tiếng nhốn nháo từ phía xa xa vẳng lại cùng tiếng xe chữa lửa chạy ầm ầm trên đường lát đá. Chàng tự hỏi:

“Ta vừa đi rượt ba tên vô lại, cả đi lẫn về không đầy nửa giờ. Cơ nghiệp của Phụng Thiên Nam đồ sộ như vậy thì làm sao thu xếp đâu vào đấy trong khoảnh khắc được? Đêm nay nếu hắn không tự mình trở về giải quyết mọi việc tất cũng phải có kẻ tâm phúc đến chỗ hắn ẩn náu để xin vài chỉ thị. Ta chỉ giữ ở đầu đường là được”.

Chàng chắc ban ngày họ không lộ diện liền trèo lên một cây cao ở nơi vắng vẻ, nhắm mắt dưỡng thần. Hồ Phỉ nghĩ tới thảm trạng bốn người Chung gia bị sát hại, trong lòng bi phẫn, cứ thề đi thề lại trong lòng:

– Nếu không giết được toàn gia Phụng tặc thì Hồ Phỉ ta sống trong trời đất cũng uổng mà thôi.

Hồ Phỉ chờ đến lúc chập choạng tối mới tiến ra ven đường lớn ẩn mình trong bụi có rậm để chờ. Chàng dương mắt nhìn quanh bốn phía. Mấy giờ trôi qua chẳng thấy động tĩnh gì. Mãi đến khi trời sáng rõ ngoài mấy người hương nông gánh phân, gánh rau đi bán, chẳng một ai tiến vào trấn Phật Sơn. Hồ Phỉ đang buồn rầu chán nản bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Hai kẻ cưỡi khoái mã từ trong thị trấn chạy ra ngoài. Những người cưỡi ngựa đều vận sắc phục võ quan theo kiểu thị vệ trong kinh. Hồ Phỉ chợt động tâm sực nhớ tới Phụng Nhất Minh đã nói phụ thân gã bận tiếp mấy vị thị vệ đại nhân không thể phân thân đến gặp chàng. Chàng chắc hai tên thị vệ này có liên quan đến Phụng Thiên Nam.

Vừa nghĩ tới đây thì hai con ngựa lướt qua chỗ chàng ẩn nấp. Chàng liền lượm một viên đá nhỏ búng ra đánh “vút” một cái, trúng vào khớp chân sau của một con ngựa. Con ngựa đang chạy lẹ đột nhiên chân sau khuỵu xuống, ngã ngửa về phía sau. Chân nó đã bị gãy rồi. Trình dộ cưỡi ngựa của tên thị vệ rất tinh thâm. Biến cố xảy ra đột ngột mà hắn cũng kịp tung mình nhảy vọt đi nhẹ nhàng đứng xuống bên đường. Hắn thấy con ngựa bị gãy chân, miệng không ngớt hí thật thê thảm, không khỏi chau mày lẩm bẩm:

– Hỏng bét! Hỏng bét!

Chỗ Hồ Phỉ ngồi cách đó chừng tám trượng. Chàng nghe tên thị vệ kia dừng cương quay đầu lại hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Tên thị vệ này đáp:

– Con súc sinh này đột nhiên trượt chân gẫy giò, chỉ e thành vô dụng mất rồi.

Hồ Phỉ nghe thanh âm hắn quen thuộc chợt nhớ ra hắn là tên thị vệ họ Hà mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Tên thị vệ kia nói:

– Chúng ta đành trở lại Phật Sơn kiếm con khác vậy.

Tên thị vệ họ Hà chính là Hà Tư Hào ngày trước đã từng đánh nhau với Từ Tranh. Hắn đáp:

– Không biết Phụng Thiên Nam đi đâu rồi? Tình hình trong trấn Phật Sơn hiện đang rối tung chẳng ai lý gì đến mình đâu. Ta qua huyện Nam Hải tìm ngựa quách.

Hắn nói rồi rút đao chủy thủ đâm vào đầu ngựa cho chết đi, để nó khỏi phải chịu đau đớn.

Tên thị vệ kia hỏi:

– Chúng ta cưỡi chung một con đến huyện Nam Hải. Này Hà đại ca nói xem Phụng Thiên Nam có trở về Phật Sơn nữa hay không?

Hà Tư Hào đáp:

– Y đã hủy nhà lánh nạn thì còn về thế nào được nữa?

Tên thị vệ kia nói:

– Chuyến đi này bọn mình xuôi nam chẳng những uổng một phen tân khổ, mà còn làm hại chết ngựa tốt của đại ca nữa.

Hà Tư Hào trèo lên lưng ngựa rồi đáp:

– Chưa chắc đã uổng công. Đại hội các chưởng môn trong thiên hạ mở tại phủ của Phúc đại soái là một thịnh sự hiếm có. Phụng Thiên Nam làm chưởng môn phái Ngũ Hổ ắt cũng phải đến.

Hắn nói rồi vỗ vào mông ngựa một cái. Con ngựa bị hai người cưỡi trên lưng không chạy nhanh được phải cất bước chậm chạp. Hồ Phỉ nghe nói trong phủ Phúc đại soái có mở cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ, trong bụng mừng thầm tự nghĩ:

“Các chưởng môn khắp thiên hạ cùng tụ hội về dĩ nhiên là náo nhiệt. Phụng Thiên Nam dù không đi nhưng hắn lánh mình ở đâu, từ trong hội này ta cũng có thể dò la tin tức. Nhưng không hiểu Phúc đại soái mở đại hội các chưởng môn để làm gì?”.

Chương 06: Tử y nữ lang

Hồ Phỉ liền trở lại gốc cây tháo dây cương, lên ngựa đi về phía bắc. Dọc đường chàng lưu tâm tìm tung tích Phụng Thiên Nam và Ngũ Hổ môn, nhưng tuyệt không thấy manh mối chi hết.

Một hôm Hồ Phỉ vượt qua núi Ngũ Lĩnh tiến vào địa giới tỉnh Hồ Nam. Nơi đây dọc đường đều là đất đỏ, so với phong vật ở Lĩnh Nam thì khác rất nhiều. Chàng giục ngựa đi mau qua Mã Gia phố, khi sắp đên bến Thê Phụng bỗng nghe phía sau vọng tới tiếng vó ngựa. Chàng quay đầu lại thì thấy một con ngựa trắng tung vó phi nước đại nhanh như gió đang tiến đến. Chàng liền dừng ngựa tránh sang ven đường. Vừa đứng yên thì bên tai nghe đánh “vù” một tiếng. Con ngựa trắng đã lướt qua tưởng chừng như bốn vó không chạm đất. Người cưỡi trên lưng ngựa là một cô gái mình mặc áo tía. Vì ngựa chạy nhanh quá nên Hồ Phỉ không nhìn rõ diện mạo, chỉ thấy chiếc lưng thon mảnh dẻ mà tư thế cưỡi ngựa lại rất vững vàng. Hồ Phỉ giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Con ngựa trắng này rất giống con ngựa Triệu tam ca đã cưỡi ngày trước. Sao nay nó lại đến Trung Nguyên?

Lòng chàng vẫn tưởng nhớ Triệu Bán Sơn, muốn rượt theo để hỏi cho rõ. Chàng vừa mở miệng hô “Này!” thì con ngựa trắng đã chạy xa rồi. Dưới bóng liễu buông, chàng phảng phất nhìn thấy thiếu nữ áo tía quay đầu nhìn lại. Con ngựa trắng vẫn không dừng vó. Chỉ trong khoảnh khắc cả người lẫn ngựa đều mất hút. Hồ Phỉ nổi tính hiếu kỳ, giục ngựa đuổi theo, nhưng con ngựa trắng cước trình mau lẹ như vậy thì dù chàng có giục ngựa mình đi nhanh gấp đôi hay chạy suốt ngày đêm không nghỉ cũng chẳng thể nào đuổi kịp. Chàng rượt theo là vì muốn làm hết sức mình mà thôi.

Ngày thứ ba Hồ Phỉ đến Hành Dương một thị trấn lớn ở Tương Nam, cách núi Nam Nhạc trong dãy Hành Sơn không xa mấy. Dọc đường toàn những cây cổ tùng, trên trời mây trắng bao quanh đỉnh núi khiến lòng người lâng lâng thư thái. Hồ Phỉ vừa vào cửa nam thành Hành Dương, đột nhiên nhìn thấy con ngựa trắng buộc dưới mái hiên một phạn điếm. Con ngựa mình dài chân cao, tướng mạo thần tuấn. Chính là con khoái mã mà chàng đã gặp ở giữa đường. Hồ Phỉ mấy năm trước kết giao với Triệu Bán Sơn, đã nhìn rất kỹ con ngựa này, bây giờ nhìn lại thấy đúng là con ngựa cũ thì vui mừng không xiết. Chàng vội vàng chạy vào phạm điếm để kiếm tử y nữ lang nhưng chẳng thấy bóng nàng đâu.

Hồ Phỉ toan hỏi thăm tiểu nhị, nhưng lại nghĩ mình công nhiên dò hỏi hành tung một thiếu nữ chưa quen biết là một điều đại bất tiện. Chàng liền ngồi xuống cửa quán gọi lấy cơm rượu ăn uống. Tiểu nhị đưa cơm rượu ra. Người Hồ Nam ăn cơm bằng đũa dài, bát lớn. Món ăn nào cũng cay sè, mùi vị đậm đà, thật có phong cách hào mại, hợp với tính Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thủng thẳng uống rượu, nghĩ cách trò chuyện với tử y nữ lang. Chàng tự nhủ:

– Cô này cưỡi con bạch mã của Triệu tam ca tất có mối quan hệ sâu xa với y. Sao ta không đem bông hoa hồng của Triệu tam ca tặng cho đặt lên bàn này? Cô ta mà trông thấy tự nhiên tìm đến ta để trò chuyện.

Tay mặt chàng cầm chung rượu, tay trái thò ra lấy bọc nhưng chụp vào chỗ không. Chàng quay đầu nhìn lại cái bọc đã biến mất. Rõ ràng chàng đặt cái bọc trên bàn ở phía sau, mới chớp mắt sao đã mất được? Hồ Phỉ đảo mắt nhìn mọi người trong phạn điếm thì chẳng thấy nhân vật nào có vẻ khả nghi. Trong lòng rất lấy làm lạ chàng tự nhủ:

– Nếu là kẻ ăn cắp tầm thường kiểu thuận tay dắt dê thì tất nhiên ta phải biết. Người này đã lấy cắp không một tiếng động, nếu đột nhiên họ ám toán phía sau tất ta không tránh khỏi độc thủ. Xem chừng bữa nay ta chạm trán với một cao nhân ở Hồ Nam rồi.

Chàng liền hỏi chủ quán:

– Cái bọc của tại hạ để ở bàn bên sao lại không thấy nữa? Tiểu huynh đệ có nhìn thấy ai lấy không?

Nhà quán nghe nói khách mất đồ lập tức nhốn nháo cả lên. Chủ quán lên tiếng:

– Quí khách có tiền bạc hay đồ vật xin tự trông coi lấy. Trừ phi đồ vật gửi trong quầy, còn không thì tiểu điếm không chịu trách nhiệm.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Có ai đòi bồi thường đâu? Ta chỉ hỏi ngươi có nhìn thấy ai lấy hay không mà thôi.

Chủ quán nói:

– Không có đâu! Không có đâu! Trong quán làm sao mà biết được kẻ cắp? Khách quan không nên ăn nói hồ đồ.

Hồ Phỉ biết lằng nhằng với họ cũng vô ích. Chàng tự nhủ:

– Đến mình còn chưa phát giác thì y biết làm sao được?

Đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi thì chủ quán lại nói:

– Chỗ cơm rượu khách quan dùng cộng một đồng năm phân bạc. Xin khách quan thanh toán cho.

Trong bọc để mấy trăm lạng bạc lấy ở sòng bạc của Phụng Thiên Nam. Còn bên mình chẳng có một xu. Chàng thấy chủ quán đòi tiền không khỏi ngẩn người ra. Chủ quán cười lạt nói tiếp:

– Nếu khách quan không đem theo tiền trong mình thì cũng không cần phải giả vờ mất bọc.

Hồ Phỉ không muốn phân bua với gã nữa. Chàng ra hiên giắt ngựa của mình thì không còn thấy con ngựa bạch đâu nữa. Chàng không khỏi sửng sốt nghĩ thầm:

– Con ngựa trắng này với kẻ lấy cắp cái bọc của ta tất có liên quan.

Chàng liền sinh thêm lòng cảnh giới đối với tử y nữ lang. Chàng đưa con ngựa cho chủ quán nói:

– Con vật này trị giá ít ra cũng được tám chín lạng bạc, tại hạ gửi lại làm tin, đợi tại hạ lấy được tiền sẽ đem đến trả đủ.

Nhà quán lập tức mặt mày rạng rỡ, cười cầu tài đáp:

– Cứ từ từ, có gì đâu mà vội. Chúc khách quan lên đường bình an.

Hồ Phỉ muốn chạy đi kiếm tông tích con ngựa trắng thì chủ quán ra tiễn, cười nói:

– Khách quan! Bữa nay khách quan đã hết tiền xài, vậy tại hạ chỉ cho khách quan một cách bảo đảm có chỗ ăn chỗ ngủ.

Hồ Phỉ không thích lắm chuyện muốn bỏ đi, nhưng chàng lại nghĩ:

– Cách nào? Phải chăng hắn chỉ cho mình cách tìm cái bọc?

Rồi chàng gật đầu. Chủ quán cười nói:

– Chuyện này trăm năm chưa chắc đã được gặp một lần. Khách quan gặp vận hên rồi. Nguyên Vạn lão quyền sư ở Phong Diệp trang mới tạ thế cách đây bảy ngày, bữa nay bắt đầu khai tang.

Hồ Phỉ hỏi:

– Cái đó có liên can gì đến tại hạ?

Chủ quán cười đáp:

– Liên can lắm chứ.

Hắn quay lại quầy lấy một đôi nến, một thẻ hương đưa cho Hồ Phỉ, nói:

– Ở đây đi thẳng về hướng bắc không đầy ba dặm thì đến một nơi có gần mấy trăm cây phong bao quanh một trang viện lớn. Chính là Phong Diệp trang. Khách quan cầm gói hương nến này điếu tang, vào vái trước linh đường Vạn lão quyền sư, dập đầu cho  kêu thì thế nào người trong trang cũng bố trí cho chỗ ăn chỗ ở. Sáng mai khách quan lại bảo thiếu tiền thì ít nhất người ta cũng đưa một, hai lạng bạc làm lộ phí.

Hồ Phỉ nghe nói người mới chết là Vạn lão quyền sư thì nghĩ ngay lão cùng là người võ lâm, nên cũng muốn tới viếng. Chàng liền hỏi:

– Sao ở Phong Diệp trang người ta hiếu khách như vậy?

Chủ quán đáp:

– Trong vòng mấy trăm dặm dải Tương Nam còn ai không biết Vạn lão quyền sư là người khẳng khái trượng nghĩa. Có điều hồi sinh tiền Vạn lão quyền sư thích kết giao anh hùng hảo hán. Khách quan lại dường như không biết võ nghệ, nhưng nay nhân lúc lão gia chết rồi đến kiếm chác cũng không sao.

Hồ Phỉ toan nổi nóng nhưng chàng lại cười, chắp tay nói:

– Đa tạ quán chủ có lòng chỉ bảo.

Rồi chàng hỏi:

– Thế thì những bậc anh hùng bạn hữu với Vạn lão quyền sư hồi sinh tiền, bữa nay có đến điếu tang không?

Chủ quán đáp:

– Sao lại không? Khách quan đến coi để mở cho rộng tầm mắt cũng hay lắm.

Hồ Phỉ nghe chủ quán nói hợp ý, liền lấy hương nến ra đi về phía bắc. Chàng đi chưa đầy ba dặm quả đúng như lời chủ quán, đã đến một tòa đại trang viện xung quanh có hằng trăm cây phong vây bọc. Ngoài cổng trang có treo đèn lồng giấy trắng viết chữ màu lam. Trên cổng lớn có treo tờ cáo phó. Hồ Phỉ tiến qua cổng, ban đánh trống liền trỗi khúc nhạc đón khách. Trong tòa linh đường rộng lớn, hai bên treo đầy đối trướng bằng vải trắng Hồ Phỉ tiến vào trước linh cữu quỳ xuống dập đầu, nghĩ bụng:

– Bất luận tiền bối là ai, nhưng đã là bậc tiền bối võ lâm thì cũng đáng nhận của vãn bối mấy lạy.

Lúc chàng quỳ lạy, ba người hiếu tử mặc áo trắng quỳ xuống đáp lễ. Hồ Phỉ đứng lên, ba người hiếu tử vái chàng. Chàng cũng vái lại thì thấy trong ba người hai người thân thể thô tráng, còn một người vừa thấp vừa nhỏ nhưng có vẻ tinh nhanh. Tướng mạo ba người không ai giống ai. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Ba cậu con này của Vạn lão quyền sư chắc không phải do một bà sinh ra, mà chắc mỗi người là con của một bà thê thiếp.

Chàng quay ra đã thấy trong đại sảnh chật ních khách đến viếng tang. Một nửa dường như là thân sĩ ở trong làng, một nửa là hào sĩ võ lâm. Chàng nhìn quanh một lượt thì thấy chẳng quen biết một người nào. Cha con Phụng Thiên Nam không có ở đây, mà tử y nữ lang cũng vắng bóng.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Nơi đây là chỗ quần hào tụ hội. Ta thử chú ý dò la không chừng có đươc tin tức về cha con Phụng Thiên Nam ở Ngũ Hổ môn cũng nên.

Trong khoảnh khắc, cơm chay được được dọn ra, trên nhà đại sảnh phía đông và phía tây, cả thảy đến bảy chục bàn. Hồ Phỉ ngồi ở một bàn nhỏ, chú ý dò la động tĩnh các khách viếng tang. Chàng thấy phần đông người già đều lộ vẻ buồn rầu thương xót. Còn bọn trẻ lại cao đàm hùng luận, cười nói như không, chắc là không có mối giao tình gì với Vạn lão quyền sư nên lão chết mà họ không lộ vẻ bi thương.

Bỗng thấy ba người hiếu tử kính cẩn đưa hai vị võ quan mời vào mâm thủ tịch, ngồi ở hai chỗ ở đầu bàn trông ra ngoài. Hai vị võ quan mặc sắc phục của bọn Ngự tiền thị vệ. Hồ Phi sửng sốt vì nhận ra hai người này chính là Hà Tư Hào và bạn đồng hành của hắn.

Ngoài ra mâm thủ tịch còn ba vị võ sư cao tuổi cũng ngồi hướng ra ngoài, có vẻ là những bậc tiền bối võ lâm. Ba người hiếu tử ngồi ở phía dưới bồi tiếp. Sau khi tân khách an tọa rồi, hiếu tử thấp lùn đứng dậy nâng chung tạ khách đến điếu tang. Sau y, tiếp đến người hiếu tử thứ hai rồi người thứ ba đều lần lượt tạ khách. Ngôn ngữ cùng cử động của cả ba hiếu tử giống hệt nhau. Tân khách phải ba bốn lượt đứng lên đáp lễ, không khỏi cảm thấy phiền phức. Hồ Phỉ đang lấy làm lạ thì nghe một gã nhỏ tuổi ngồi cũng bàn khẽ hỏi:

– Ba vị hiếu tử tạ khách cùng một lúc là đủ rồi. Giả tỷ Vạn lão quyền sư sinh hạ mười cậu con mà làm thế này thì phải cảm tạ đến mười lần hay sao?

Một võ sư trung niên cười nhạt đáp:

– Vạn Hạc Thành mà có được một con niên cũng đủ rồi còn nói chi đến mười?

Gã nhỏ tuổi lấy làm lạ hỏi:

– Chẳng lẽ ba vị hiếu tử kia không phải con Vạn lão gia?

Võ sư trung niên đáp:

– Té ra tiểu ca không phải là thân nhân bạn bè với Vạn lão quyền sư mà cũng đến điếu tang. Mối nhiệt tình này thật là hiếm có.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt lên, cúi đầu xuống không nói nữa. Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Té ra gã này cũng như mình, đánh hơi đến kiếm ăn.

Võ sư trung niên lại nói tiếp:

– Tại hạ có nói cho tiểu ca nghe cũng không sao, phòng khi có người hỏi đến tiểu ca còn biết đường mà trả lời cho khỏi bẽ mặt. Vạn lão quyền sư công thành danh toại, đáng tiếc là không có con nối dõi. Lão nhân gia thu nhận ba tên đồ đệ này, người thấp lùn tên gọi Tôn Phục Hổ, là đại đệ tử của Vạn lão gia. Hán tử mặt trắng tên gọi Uất Trì Liên là nhị đệ tử. Đại hán mặt đỏ tên gọi Dương Tân, là tam đệ tử. Cả ba người đều được lão quyền sư truyền nghệ võ công khá lắm. Nhưng bọn họ là người thô lậu không hiểu lễ tiết, vì thế mà đại sư huynh tạ rồi, nhị sư huynh cũng ra theo, tam sư đệ sợ thất lễ lại tạ một lần nữa.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt gật đầu lãnh giáo. Thực ra ba vị sư huynh đệ đều cảm tạ khách mỗi người một lần, nguyên nhân chính không phải vì họ không hiểu lễ tiết mà vì một cớ khác.

Hồ Phỉ tuy không ngồi gần mâm thủ tịch nhưng chàng chú ý lắng tai nghe đến câu chuyện giữa hai vị Ngự tiền thị vệ, hy vọng trong câu chuyện nghe họ nhắc tới Ngũ Hổ môn ở Phật Sơn và tiết lộ hành tung của cha con Phụng Thiên Nam.

Bỗng nghe Hà Tư Hào dõng dạc lên tiếng:

– Tại hạ vâng lệnh Phúc đại soái đến mời Vạn lão quyền sư uy danh lừng lẫy cõi Tương Nam đến kinh sư tham dự cuộc đại hội các chưởng môn, để võ công của Vi Đà môn của phái Thiếu Lâm được phô diễn trước mặt các võ sư trong thiên hạ. Không ngờ Vạn lão sư lại mắc bệnh mà thác. Thật là vô cùng đáng tiếc!

Mọi người cùng thở dài phụ họa. Hà Tư Hào lại hỏi:

– Vạn lão quyền sư dù đã qua đời nhưng Vi Đà môn của Thiếu Lâm là một tông phái nổi danh trong võ lâm, nên chưởng môn chẳng thể không tới được. Không hiểu chưởng môn nhân của quý phái sẽ do vị nào kế nhiệm?

Bọn Tôn Phục Hổ ba người đưa mắt nhau không nói gì. Sau một lúc tam sư đệ là Dương Tân lên tiếng:

– Gia sư mắc chứng trúng phong. Bệnh phát tác rồi lão nhân gia không biết gì nữa, nên chưa kịp để lại di ngôn.

Tên thị vệ kia nói:

– À! À! Nếu thế thì các vị tiền bối tôn trưởng trong quý môn ắt đã có chủ ý rồi.

Nhị đệ tử là Uất Trì Liên nói:

– Mấy vị sư bá sư thúc ở bản môn tản mát khắp nơi, chưa có tin tức gì về.

Gã thị vệ kia nói:

– Như vậy thì việc lập chưởng môn ắt phải mất một phen bàn luận. Đại hội chưởng môn do Phúc đại soái chủ trì đã định vào ngày rằm tháng tám. Từ đây đến ngày đó còn hai tháng nữa, quý môn lo chuẩn bị đi là vừa.

Ba vị sư huynh đệ luôn miệng khen phải. Một vị lão quyền sư nói:

– Xưa nay không lập hiền ắt phải lập trưởng. Vạn lão quyền sư không để lại di ngôn, thì chức chưởng môn phái thuộc về đại đệ tử Tôn huynh đây.

Tôn Phục Hổ mở miệng cười, về mặt cực kỳ đắc ý. Một lão quyền sư khác lại nói:

– Lời nói bảo phải lập trưởng không phải là sai. Dù Tôn huynh nhập môn có sớm hơn, nhưng luận về niên kỷ thì Uất Trì huynh lại lớn hơn một tuổi. Uất Trì huynh lớn tuổi lại mẫn cán nếu Vi Đà môn được y chấp chưởng tên tuổi sẽ lừng lẫy vang dội, vong linh Vạn lão quyền sư ở chốn suối vàng ắt được an ủi rất nhiều.

Uất Trì Liên lấy tay áo chùi mắt, lộ vẻ nhớ tới sư phụ, trong lòng rầu rĩ. Một vị lão quyền sư thứ ba lại xua tay nguầy nguậy, nói:

– Không đúng, không đúng! Giá là ngày thường lão hủ không nói làm gì, nhưng tại đại hội ở Bắc Kinh phen này, các môn phái đều đến trổ tài. Nếu chưởng môn phái Vi Đà mà không có bản lĩnh áp đảo cả đương trường, há chẳng phải làm hỏng thanh danh cả mấy trăm năm của Vi Đà môn hay sao? Theo ý kiến của lão hủ thì chức vị chưởng môn nhân phải là tay hảo thủ võ công đệ nhất của bản phái mới đảm đương nổi.

Lão nói xong câu này thì mọi người không ngớt gật đầu, đồng thanh khen phải. Vị lão võ sư lại nói tiếp:

– Ba vị sư huynh đây đều là đệ tử đắc ý của Vạn lão quyền sư, mỗi vị đều giỏi một tuyệt nghệ riêng, người võ lâm ai cũng khâm phục. Nhưng nhân vật siêu quần xuất chúng lại là người đến sau cùng mà đứng trước nhất, tức tiểu sư đệ Dương Tân.

Võ sư thứ nhất đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Cái đó chưa chắc. Về võ học hễ luyện thêm một năm thì công phu cao thâm thêm một năm. Dương huynh tuy tư chất thông minh nhưng về công lực mà nói thì hãy còn kém Tôn huynh xa. Vẻ công phu đao thương quyền cước không thể miễn cưỡng được.

Võ sư thứ hai nói:

– Muốn thủ thắng lúc lâm địch, thì đấu trí là cao, thứ đến mới đấu lực. Tiểu đệ là người ngoài cuộc, nhưng cứ bình tâm mà luận thì Uất Trì Liên huynh túc trí đa mưu hơn hết.

Ba vị võ sư mỗi người nói một câu, ban đầu còn khách khí, về sau đi đến chỗ tranh luận đỏ mặt tía tai, mỗi lúc một to tiếng. Mấy chục bàn tân khách đều dừng lại không ăn uống, lắng nghe ba người tranh luận.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Té ra ba vị võ sư này đều chịu lời ủy thác của người ta đến làm thuyết khách và dĩ nhiên ai cũng đi khoe cái tốt của ba tên đệ tử.

Trong bọn điếu khách có đến hơn trăm người là đệ tử Vi Đà môn và phần lớn là đồ tôn của Vạn lão quyền sư. Người nào cũng ủng hộ sư phụ mình. Ban đầu họ còn nói khẽ châm chích cãi nhau, sau không nhịn được cũng lớn tiếng gây lộn. Những bạn bè cùng tân khách có người phân giải khuyên can, có người bảo thủ ý kiến của mình, có người ủng hộ bạn bè chỉ trích đối phương làm cho đại sảnh rối loạn cả lên. Lại còn một số người thô lỗ nóng nẩy đập bàn thóa mạ nhau, tưởng chừng như sắp múa đao sử quyền đánh nhau đến nơi.

Vạn lão quyền sư chết chưa lạnh xác mà bọn đệ tử đã tranh giành chức vị chưởng môn như muốn gây nên cảnh huynh đệ tương tàn. Tên thị vệ ngồi mâm thủ tịch nghe mọi người tranh chấp vẫn không nói gì. Hắn nhìn linh vị của Vạn lão quyền sư mỉm cười. Sau hắn thấy cuộc tranh chấp mỗi lúc một gay go liền đứng dậy lên tiếng:

– Xin các vị hãy ngừng cuộc tranh luận để nghe tiểu đệ nói một câu.

Mọi người tôn trọng hắn là một viên quan liền dừng ngay cuộc cãi vã lại.

Tên thị vệ đó hỏi:

– Vị lão sư vừa rồi nói rất đúng. Chưởng môn phái Vị Đà phải là nhân vật võ công cao nhất bản phái. Các vị có tán đồng điều đó không?

Quần hào đều đồng thanh khen phải.

Tên thị vệ lại nói:

– Võ công ai cao ai thấp không thể tranh hơi suông bằng miệng được. Chỉ cần tỷ đấu một trận đao thương quyền cước thì lập tức phân biệt cao thấp được ngay. Hay ở chỗ ba vị sư huynh đệ đồng môn đây bất luận thắng hay bại cũng không được để mất hòa khí, mà cũng không được làm tổn thương đến uy phong của Vi Đà môn. Chúng ta mời linh vị của Vạn lão quyền sư đứng ra chủ trì cuộc tỷ võ hôm nay, để anh linh của lão nhân gia trên trời chọn lấy một chưởng môn nhân, tưởng cũng là một giai thoại võ lâm.

Mọi người nghe nói đều hoan hô, mỗi người tranh nhau nói một câu:

– Vậy là công bình lắm rồi!

– Đây cũng là địp để quần hào biết được tuyệt nghệ của Vi Đà môn.

– Dùng võ công để phân thắng bại thì mới tránh khỏi tranh luận về sau.

– Thị Vệ lão gia từ Bắc Kinh tới nên kiến thức quả cao hơn người một bậc.

Tên thị vệ thấy quần hào đều phụ họa đề nghị của mình thì vô cùng đắc ý, lại nói tiếp:

– Huynh đệ đồng môn tỷ võ là chuyện rất thông thường. Tại hạ mong ba vị ưng thuận cho một điều.

Trong ba vị sư huynh sư đệ, Uất Trì Liên là người linh lợi hơn hết, lên tiếng đáp:

– Đại nhân chỉ bảo thế nào thì bọn huynh đệ tại hạ tuân theo như vậy.

Tên thị vệ lại nói:

– Đã lấy võ công để phân giải cao thấp thì bản lãnh vị nào cao thâm hơn hết sẽ làm chưởng môn. Sau này không ai được dị nghị hay tranh chấp nữa.

Ba người đồng thanh đáp:

– Dĩ nhiên là thế!

Cả ba người đều có môn sở trường về võ công. Người ta thường nó: “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”. Chúng tự lượng dù không nắm vững phần thắng nhưng nếu ra sức chiến đấu thì cũng có thể áp đảo được hai huynh đệ đồng môn.

Tên thị vệ lại nói:

– Xin các vị cho dọn trống chỗ đi, để mọi người cùng được chiêm ngưỡng công phu tinh vi của Vi Đà môn.

Mọi người giúp mỗi người một tay dọn dẹp bàn ghế, tạo một khoảng trống rất rộng ngay trước linh vị. Không ai để ý đến chuyện ăn uống nữa. Chỉ số ít phàm ăn cúi đầu tiếp tục đánh chén.

Tên thị vệ kia hỏi:

– Hai vị nào đấu trước? Có phải Tôn huynh cùng Uất Trì huynh không?

Tôn Phục Hồ đáp:

– Được! Tiểu đệ xin phô cái dở ra.

Một tên đệ tử đưa đao cho hắn. Tôn Phục Hổ đón lấy đao tiến lại trước linh vị sư phụ dập đầu ba cái, rồi quay lại nói:

– Mời Uất Trì Liên sư đệ.

Uất Trì Liên thầm tính:

– Nếu động thủ với đại sư huynh thì thắng rồi còn phải đấu với tam sư đệ chi bằng để hai người đấu trước cho sức cùng lực kiệt trận rồi mình hãy đấu trận tiếp theo, hễ thắng là thành công ngay.

Gã liền chắp tay đáp:

– Võ nghệ của tại hạ đa không bằng sư huynh lại kém cả sư đệ. Vậy chức chưởng môn này không dám tranh giành. Có điều các vị lão sư đã ra lệnh, dĩ nhiên phải miễn cưỡng bồi tiếp các vị sư huynh sư đệ một vài chiêu. Xin để Dương sư đệ ra chiêu trước.

Dương Tân tính khí thô lỗ nóng nảy, lớn tiếng:

– Được! Để tiểu đệ ra đấu trước!

Hắn rút một thanh đơn đao trong tay tên đệ tử rồi xăng xái tiến ra quên cả việc dập đầu trước linh vị sư phụ. Hắn giữ kín môn hộ, tay phải cầm đao đặt ngang vai bên trái, tay trái thành móc câu, ngồi xuống cẳng chân phải, chân trái đưa hờ ra ngoài. Đây là chiêu “Hộ kiên đao” một chiêu khởi đầu trong “Lục hợp đao pháp”

Vi Đà môn của Thiếu Lâm có ba môn tam tuyệt về quyền, đao, thương. Lục hợp gồm tinh, khí, thần là là “nội tam hợp”, thủ, nhãn, thân là “ngoại tam hợp”, dùng nhãn hợp với tâm, tâm hợp với khí, khí hợp với thân, thân hợp với tay, tay hợp với chân, chân hợp với bụng. Toàn thân nội ngoại hồn nhiên nhất thể.

Trong bọn tân khách chẳng thiếu gì đại hành gia võ học. Họ thấy Dương Tân cầm ngang thanh đao đứng thủ thế, thân định khí ngưng đều nghĩ bụng:

– Võ công tên này cũng không phải kém.

Tôn Phục Hổ đao giấu cạnh sườn bên mặt, tay trái thành chưởng từ trong bụng xoay ra đánh thành chiêu “Cổn thủ thích trát”, miệng hô “Mời tiểu đệ!”.

Võ sư ngồi cùng bàn với Hồ Phỉ đã đứng tuổi có vẻ là một tay nội gia. Lão quay lại nhìn tên nhỏ tuổi đứng bên nói:

– Đơn đao thì coi tay, song đao coi bước đi. Sử đơn đao thì tay phải cầm đao, đao có đao pháp, tay trái không cầm vật gì mà giữ yên được là khó. Vì thế muốn xem công phu luyện đao của người nào, chỉ cần nhìn tay trái của họ xuất chưởng có lợi hại hay không là biết đủ trình độ cao thấp rồi. Vị Tôn huynh xoay tay trái, trong thủ có công, công lực hùng hậu biết chừng nào!

Hồ Phỉ nghe lão nói đúng, liền khe khẽ gật đầu. Trong khi hai người đang trò chuyện thì bên ngoài Tôn Phục Hổ và Dương Tân đã giao đấu. Hai cây đao chạm nhau thỉnh thoảng bật lên những tiếng loảng xoảng. Vị võ sư trung niên lại nói:

– Đao pháp của hai người đều theo bí quyết của sáu chữ “Triển, Mật, Câu, Cát, Phá, Phách” rất đúng pháp độ.

Gã nhỏ tuổi hỏi:

– Như thế nào gọi là “Toản mẫu câu đổ”?

Võ sư trung niên cười lạt đáp:

– Trong đao pháp làm gì còn có chuyện “Toản mẫu câu đổ”? Lưỡi đao hướng ra ngoài gọi là Triển, hướng vào trong là Mật, đao đi theo đường cong gọi là Câu, đưa lên đầu chém xuống gọi là Phá, cả hai tay vung đao bổ xuống là Phách, để ngang bàn tay mà chém gọi là Cát.

Gã nhỏ tuổi đỏ mặt lên không dám hỏi nữa. Đao pháp của Hồ Phỉ tuy đã tinh kỳ nhưng trong đao phổ tổ truyền của chàng không đề cập đến những chi tiết tỉ mỉ này, mà chỉ chú trọng đến những biến chiêu tinh diệu để bảo vệ thân mình và đả thương kẻ địch. Bây giờ nghe võ sư trung niên giảng rành mạch, chàng tự nhủ:

– Té ra trong đao pháp còn rất nhiều điều hay. Nhưng coi đao pháp của hai vị sư huynh sư đệ kia chẳng có chỗ nào là đặc biệt.

Hai người càng đấu càng hăng. Tôn Phục Hổ mau lẹ linh hoạt, Dương Tân hơn ở chỗ uyển lực trầm hùng nhất thời khó mà phân cao thấp được. Đang lúc giao đấu một người đột nhiên từ ngoài cửa lớn tiến vào cất giọng lanh lảnh:

– Đao pháp của Vi Đà môn sao lại có hạng bị thịt này? Đừng chường mặt ra với đời nữa.

Hai vị Tôn, Dương giật mình kinh hãi, đồng thời thu đao nhảy lùi lại. Hồ Phỉ đã nhìn thấy người mới đến là một cô gái nhỏ tuổi, mình mặc áo tía, thân hình mảnh dẻ. Chính là thiếu nữ cưỡi ngựa bạch đã gặp trên đường. Trên lưng nàng đeo cái bọc mà chàng bị mất cắp ở phạn điếm. Thiếu nữ khuôn mặt trái dưa, cặp lông mày dài, nước da hơi ngăm mà không mất đi vẻ tú lệ, gương mặt sáng rực.

Hồ Phỉ kinh hãi tự hỏi:

– Thiếu nữ này tuổi mới suýt soát bằng ta, chẳng lẽ võ công cao thâm đến thế? Sao nàng lấy cắp cái bọc mà ta lại không mảy may hay biết?

Tôn, Dương hai người nghe thiếu nữ buông lời cuồng ngạo, trong lòng tức giận, nhưng khi dừng đao lại thấy người mới đến là một nữ lang thướt tha yểu điệu thì rất đỗi ngạc nhiên, không nói nên lời.

Nữ lang nói:

– Trong “Lục hợp đao pháp” tinh diệu có bốn chữ  “Hư, Thực, Xảo, Đả”. Các vị đâm chém vụng về ngốc nghếch như vậy thì còn chi là đao pháp của Vi Đà môn, còn chi là Lục hợp đao? Không ngờ oai danh của Vạn lão quyền sư lừng lẫy xa gần mà lại sản sinh ra bọn đệ tử kém cỏi này.

Thanh âm nàng ngân vang lại trong trẻo, khiến mọi người đều chăm chú lắng nghe. Giả tỷ người nói câu đó là một hán tử thì hai gã Tôn, Dương đã phát tác rồi, nhưng đây lại là một nữ lang thân hình mảnh dẻ tựa hồ đi không lướt cỏ, chẳng giống người hiểu võ công chút nào. Chúng nghe nàng nói yếu quyết bốn chữ “Hư, Thực, Xảo, Đả” trong “Lục hợp đao pháp” không sai chút nào nên không biết đối đáp ra sao. Uất Trì Liên tiến lên chấp tay nói:

– Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của cô nương:

Nữ lang đằng hắng một tiếng chứ không trả lời. Uất Trì Liên lại nói:

– Bữa nay tệ môn lựa chọn chưởng môn trước linh vị tiên sư. Mời cô nương ngồi chơi.

Gã vừa nói vừa xòe tay mời. Nữ lang khẽ nhướn cặp lông mày xinh đẹp lên hỏi:

– Vi Đà môn của Thiếu Lâm là môn phái có danh tiếng mà lại lựa chọn chưởng môn trong những người này, há chẳng phải làm tiêu tán uy danh từ Vô Tướng đại sư trở xuống đến các liệt tổ ư?

Nàng nói câu này khiến cho các bậc tiền bối trên chốn giang hồ hiện diện cũng không khỏi kinh hãi. Nguyên Vô Tướng đại sư là một cao tăng đắc đạo ở chùa Thiếu Lâm. Ngày trước Vô Tướng đại sư đã nghiên cứu hai môn “Vi Đà chữ” và “Lục hợp chưởng pháp”, trở thành tổ sư khai sơn của Vi Đà môn. Không ngờ một cô gái đầy vẻ vếu ớt thế kia lại biết rõ gốc ngọn của sự kiện võ lâm này.

Uất Trì Liên chắp tay hỏi:

– Cô nương đã vâng lệnh vị tiền bối nào tới đây? Đối với tệ môn có điều chi chỉ giáo?

Gã vẫn nói bằng một giọng khách khí, nhưng Tôn Phục Hổ và Dương Tân không nhẫn nại được nữa, chỉ vì chúng nghe thấy nữ lang đưa ra những lời nói kinh nhân nên tạm thời chưa phát tác.

Nữ lang đáp:

– Ta muốn đến là đến, hà tất phải vâng lệnh ai? Giữa ta và Vi Đà môn có mối quan hệ sâu xa, mà thấy các vị đấu với nhau chẳng ra trò trống gì nên phải đến nói mấy câu.

Bây giờ Dương Tân không nhẫn nại được nữa lớn tiếng hỏi:

– Cô có mối quan hệ gì với Vi Đà môn mà sao chẳng một ai nhận ra? Bọn ta đương có việc khẩn yếu. Cô nên tránh ra, đừng ở đó làm vướng chân tay bọn ta.

Hắn quay lại nhìn Tôn Phục Hổ nói:

– Đại sư huynh! Huynh đệ ta chưa phân thắng bại, bây giờ chúng ta tái đấu.

Gã bước chân trái ra, thanh đơn đao đặt ở bên hông toan phóng chiêu. Nữ lang nói:

– Chiêu này là “Hoành thân lạn yêu trảm”, hư bộ lại bước thành quá thực, ngưng bộ lại không được vững. Mục quang chẳng nhìn đối phương mà lại nhìn chếch về phía ta. Sai bét! Sai bét!

Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên, Dương Tân cả ba người đều sửng sốt nghĩ bụng:

– Mấy câu này thị nói rất đúng, chẳng khác lời dạy của sư phụ truyền đạt ngày trước. Chẳng lẽ thị hiểu “Lục hợp đao pháp” thật ư?

Hà Tư Hào từ lúc nghe nữ lang đối đáp với Uất Trì Liên vẫn ngồi yên lặng, bây giờ mới lên tiếng:

– Cô nương từ đâu tới? Tôn sư là ai?

Nữ lang chẳng thèm trả lời câu hỏi của hắn, mà còn hỏi ngược lại:

– Bữa nay Vi Đà môn của Thiếu Lâm chọn chưởng môn có phải không?

Hà Tư Hào đáp:

– Đúng thế!

Nữ lang lại hỏi:

– Chỉ cần là người bản môn, hễ ai võ công cao nhất là chấp chưởng môn phái người ngoài không được dị nghị. Có đúng thế không?

Hà Tư Hào đáp:

– Đúng thế!

Nữ lang nói:

– Hay lắm! Vậy bữa nay ta tranh đoạt chức chưởng môn phái Vi Đà.

Mọi người thấy nàng vẻ mặt trịnh trọng, lời nói nghiêm trang thì không khỏi kinh ngạc nhìn nhau. Hà Tư Hào thấy nữ lang xinh đẹp liền nổi lòng tiếc ngọc thương hương, cười đáp:

– Nếu cô nương đã luyện qua võ nghệ thì xin chờ lát nữa mời cô nương biểu diễn mấy đường quyền cước để quần hào mở rộng tầm mắt. Bây giờ hãy nhường cho ba vị sư huynh đệ phân cao thấp được chăng?

Nữ lang đằng hắng một tiếng rồi đáp:

– Bọn họ bất tất phải tái đấu. Cứ từng người một ra tỷ đấu với ta là xong.

Nàng trỏ vào một tên đệ tử Vi Đà môn nói:

– Cho ta mượn thanh đao.

Tuy nàng nhỏ tuổi, người lại mảnh dẻ, nhưng giọng nói uy nghiêm khiến người nghe khó bề kháng cự. Tên đệ tử kia ngần ngừ một chút rồi cầm đao đưa tới, nhưng hắn không xoay chuôi đao mà lại hướng mũi đao về phía nữ lang. Nữ lang đưa hai ngón tay nhẹ nhàng cặp lấy sống đao khẽ nhấc lên, ngón tay út hơi lộ ra ngoài, tựa hồ cô gái chốn phòng khuê đang thêu thùa.

Nàng dùng hai ngón tay kẹp thanh đao lơ lửng lạnh lùng hỏi:

– Hai vị cùng ra một lúc ư?

Dương Tân tuy lỗ mãng nhưng trước nay vẫn coi thường phái nữ, lại nghĩ bụng hảo hán không nên đấu với đàn bà con gái, gã tự nhủ:

– Ta đường đường là một nam tử hán, có lý đâu lại động thủ với nữ nhân? Huống chi thiếu nữ này điên điên khùng khùng, có vẻ tà môn. Ta không lý gì đến thị là hay hơn.

Hắn liền cầm đao lùi lại nói:

– Đại sư ca! Sư ca hãy phát lạc thị đi!

Tôn Phục Hổ ngần ngừ đáp:

– Không, không…

Gã chưa dứt lời thì nữ lang đã hô lớn:

– Yến tử lược thủy!

Hai ngón tay mặt nàng nới ra cho đơn đao rớt xuống, bàn tay trái nàng hạ thấp xuống chụp lấy chuôi đao. Tay trái nàng đỡ cổ tay phải, lưỡi đao từ dưới đưa lên trên, tay trái thành hình móc câu. Tư thế này chính là một chiêu trong “Lục hợp đao pháp” chính tông của Vi Đà môn. Tôn Phục Hổ không ngờ nàng ra chiêu mau lẹ như vậy, nhưng đường đao này hắn đã miệt mài rèn luyện hai chục năm tinh thục hơn ai hết, hắn liền trả lại bằng chiêu “Kim tỏa trụy địa”. Nữ lang hô:

– Quan Bình hiến ấn.

Nàng xoay mũi đao phóng ngược lên. Theo lý thì nàng đã sử chiêu “Yến tử lược thủy” đưa đơn đao từ dưới phóng lên, cho nên chiêu thứ hai kế tiếp không nên sử “Quan Bình hiến ấn” vẫn đưa đao từ dưới lên trên. Ngờ đâu nàng lật nghiêng lưỡi đao lên qua đỉnh đầu, rồi đột nhiên biến thành kỳ chiêu quét ngang một cái. Tôn Phục Hổ sợ giật bắn người, vội cúi đầu xuống tránh. Nữ lang lại hô:

– Phụng hoàng toàn oa!

Tay trái đột nhiên phóng ra nhắm đánh vào cổ tay Tôn Phục Hổ, đơn đao từ trên cao chém xuống. Bỗng nghe đánh “choang” một tiếng, đơn đao của Tôn Phục Hổ đã rớt xuống đất, thanh đơn đao của nữ lang liền kề vào cổ hắn. Mọi người đứng xem bật tiếng la hoảng:

– Úi chà!

Ai nhìn thấy nếu nhát đao của nữ lang mà chém gấp thì đầu của Tôn Phục Hổ đã rơi xuống đất liền. Không ngờ nhát đao đang chém xuống, rất nhanh, lực chém cực kỳ mãnh liệt đội nhiên dừng lại. Lưỡi đao chỉ vừa kề cổ đối phương chứ chưa sẩy da chút nào. Công phu này đủ khiến cho người ta phải kinh hoảng.

Hồ Phỉ trống ngực đập loạn cả lên. Chàng tự lượng trong ba chiêu mà đánh bại Tôn Phục Hổ không phải là việc khó, nhưng chiêu đao tối hậu vận kình chuẩn xác đến thế thì e rằng mình không bằng được. Trong sảnh đường chỉ có mình chàng là hiểu được võ công nữ lang đến trình độ nào, nhưng sau ba chiêu đó, hết thảy mọi người đều há hốc cả miệng ra.

Tôn Phục Hổ hạ thấp đầu để tránh đao, ngờ đâu nữ lang cũng thuận đà đưa đao xuống. Tôn Phục Hổ đã cong lưng cúi đầu, bây giờ trán hắn gần chạm đất coi chẳng khác người đang dập đầu trước nữ lang. Hắn mang một thân võ công thật uổng phí vì bị lợi đao kể cổ mà không động đậy được một ngón tay.

Nữ lang đảo mắt nhìn quanh mọi người một lượt rồi thu đao về hỏi:

– Các hạ đã luyện được tuyệt chiêu “Phụng hoàng toàn oa” chưa?

Tôn Phục Hổ đứng lên, cúi đầu xuống đáp:

– Luyện qua rồi!

Hắn nghĩ bụng:

– Chiêu này mình sử dụng cả ngàn vạn lần rồi, nhưng trước nay chưa từng dùng theo cách này.

Trong lòng rất đỗi kinh nghi, tâm thần rối loạn, hắn cầm đao lùi lại. Dương Tân thấy nữ lang mới ra ba chiêu đã chế phục được đại sư huynh thì không khỏi sinh lòng ngờ vực tự hỏi:

– Hay là đại sư huynh đã bày ra ngụy kế để đoạt chức chưởng môn cho nên cố ý để thị đến hý lộng quỷ thần?

Càng nghĩ càng thấy mình đoán đúng liền hỏi

– Đại sư ca! mới ba chiêu mà đại sư ca đã nhường người ta là có dụng ý gì? Đại sư ca không nghĩ đến oai danh của Vi Đà môn nữa ư?

Tôn Phục Hổ chưa hết kinh hãi, không hiểu tại sao mình bị người kiềm chế một cách hồ đồ. Trong lúc nhất thời gã không thể trả lời được miệng ấp a ấp úng:

– Ta… ta…

Dương Tân tức giận hỏi:

– Ta làm sao?

Gã cầm đao nhảy ra trỏ tay vào mặt Tôn Phục Hổ quát:

– Vụ này…

Gã vừa nói được hai chữ, đột nhiên trước mặt bạch quang lấp lánh. Đơn đao của nữ lang từ dưới đưa lên. Đao pháp của nàng nhanh quá, chưa ai nhìn rõ, phảng phất như chiêu “Yến tử lược thủy”. Dương Tân trong lúc hoang mang tiện tay đánh trả lại bằng chiêu “Kim tỏa trụy địa”. Đó là chiêu gã đã luyện rất thành thục. Nữ lang không chờ song đao đụng nhau đã biến thành chiêu “Quan Bình hiến ấn” nghiêng đao chênh chếch rồi quét ngang một cái. Dương Tân giật bắn người lên la hoảng:

– Phụng hoàng toàn oa!

Gã chưa dứt lời đã thấy cổ tay tê chồn, đơn đao rớt xuống đất, cương đao của đối phương liền kề vào cổ. Nữ lang lại sử ba chiêu giống như đao pháp đã dùng để đối phó với Tôn Phục Hổ. Có điều lần này ra tay mau lẹ hơn khiến đối phương thảng thốt không kịp đề phòng. Thanh đao bổ xuống còn cách mặt đất không đầy ba thước mà trán Dương Tân đã gần chạm đất rồi. Nữ lang lạnh lùng hỏi:

– Đã chịu phục chưa?

Dương Tân mặt giận phừng phừng, lớn tiếng quát:

– Không phục!

Nữ lang tăng gia kình lực gí mũi đao xuống thêm. Nhưng Dương Tân quật cường, tự nhủ:

– Ngươi có chặt đầu ta, ta cũng không chịu dập đầu xuống đất.

Gã lại ngửng đầu lên. Nữ lang không có ý sát hại đối phương nên nhấc khẽ đơn đao lên nói:

– Các hạ muốn sao mới chịu phục?

Dương Tân cho là đao pháp của nàng có tà môn, còn võ công chân thực quyết chẳng thể hơn mình được. Gã liền lớn tiếng đáp:

– Cô có giỏi thì đấu thương với ta.

Nữ lang nói:

– Được lắm!

Nàng thu đơn đao về quẳng trả lại cho tên đệ tử vừa cho mượn đao rồi nói:

-Ta thử xem các hạ luyện “Lục hợp thương pháp” đến đâu rồi.

Dương Tân nhớm người đứng dậy, mặt hắn vì quá giận mà đỏ phừng, bây giờ càng sưng lên đến tím bầm. Gã quát đệ tử:

– Lấy thương mau! Lấy thương mau!

Một tên đệ tử chạy vào luyện võ sảnh lấy một cây thương ra. Dương Tân giận điên người, xoay tay tát tên đệ tử kia một cái và quát mắng:

– Thị muốn tỷ thương pháp với ta, ngươi có nghe thấy không?

Tên đệ tử bị gã tát một cái nảy đom đóm, nhất thời không hiểu sư phụ muốn nói gì. Một tên đệ tử khác sợ gã đánh nữa vội nói:

– Để đệ tử đi lấy thêm cây nữa.

Rồi y chạy vào nội đường lấy thêm một cây thương ra. Nữ lang đón lấy trường thương hô:

– Tiếp chiêu đây!

Nàng ra chiêu “Tứ di tân phục” đâm tới phía trước. Đây là chiêu số tối tinh diệu trong hai mươi bốn thức, bên trong biến ảo vô cùng, đó là “Trung bình thương pháp”. Hồ Phỉ chuyên nghiên cứu đơn đao và quyền cước, còn về những khí giới khác thì chàng không rành lắm, liền nhìn lên võ sư trung niên tỏ vẻ thỉnh giáo. Võ sư này võ công cũng bình thường nhưng đi theo Vạn lão quyền sư lâu năm nên các môn khí giới và quyền cước của Lục hợp môn đã được nghe nhiều. Lão thuộc bài ca quyết liền đọc ra:

Trung bình thương

Thương trung vương…

Cao đê viễn cận độ bất phương…

Khứ như tiễn

Lai như tuyến …”

(“Trung bình thương

Vua trong các loại thương…

Gần xa cao thấp thật khôn lường…

Đi như tên bắn

Đến tựa sợi dây…”)

Lão chưa đọc hết đã thấy Dương Tân trả lại một chiêu. Nữ lang liền đè đầu thương xuống. Võ sư nói:

– Chiêu này là “Mỹ nhân nhận châm”, chiêu số tầm thường thôi. E rằng thương pháp của cô không bằng Dương sư huynh…

Đột nhiên hai tay nữ lang ấn mũi thương xuống đè lên đầu thương của Dương Tân Đây chính là chiêu “Linh miêu bộ thử” trong “Lục hợp thương pháp”. Chiêu này gọi là “Vô trung sinh hữu thương”, từ trong một hư thức rồi biến thành chiêu số cực kỳ lợi hại. Cũng trong ba chiêu, Dương Tân bị kiềm chế. Dương Tân vận nội lực vào hai cánh tay gầm lên như sấm, hất mạnh mũi thương lên. Nữ lang rung cây thương một cái. Rắc một tiếng! Mũi thương của Dương Tân bị chấn động gãy rời. Nữ lang xoay mũi thương lại chỉ vào bụng dưới Dương Tân, nhẹ nhàng hỏi:

– Thế nào?

Mọi người nhìn cả về phía Dương Tân, thấy mặt gã đang tím như gan heo đột nhiên không còn chút huyết sắc, trắng bệch như tờ giấy trắng. Người gã rung lên, “cạch” một tiếng, gã ném cây thương xuống đất, miệng la:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi!

Gã xoay mình chạy ra ngoài. Một tên đệ tử của gã gọi lớn:

– Sư phụ! Sư phụ!

Rồi co giò rượt theo. Dương Tân phóng chân đá một cước khiên tên đệ tử này lăn lông lốc. Hắn không quay đầu lại, tiếp tục chạy ra ngoài cửa lớn. Quần hào trong đại sảnh đều kinh hãi không bút nào tả xiết.

Đao pháp và thương pháp của nữ lang sử dụng đúng là võ công của Vi Đà môn. Tôn Phục Hổ và Dương Tân đều là hảo thủ nổi tiếng của Vi Đà môn, mà bất luận về đao hay về thương mới trong vòng ba chiêu đã bị nàng kiềm chế không ngóc đầu lên được. Uất Trì Liên đối với nữ lang không còn dám coi thường nữa. Hắn quyết định trong đầu, rồi chắp tay tiến lại nói:

– Võ công của cô nương tinh diệu tuyệt luân, dĩ nhiên tại hạ không thể đối phó được nhưng…

Nữ lang hơi nhíu cặp lông mày, ngắt lời:

– Các hạ dài dòng quá, ta nghe rối tai lắm. Nếu các hạ tâm phục khẩu phục thì ủng hộ ta làm chưởng môn, không thì động thủ lẹ đi là xong.

Uất Trì Liên hơi đỏ mặt, nghĩ bụng:

– Con nhỏ này bản lĩnh đã lợi hại, miệng lưỡi còn lợi hại hơn.

Hắn đáp:

– Sư huynh sư đệ của tại hạ đã chịu thua rồi. Tại hạ chẳng muốn phô cái dở ra làm gì nữa…

Nữ lang liền ngắt lời, hỏi:

– Được, các hạ thích tỷ đấu môn gì?

Uất Trì Liên đáp:

– Trước nay Vi Đà môn đã nổi tiếng quyền, đao, thương tam tuyệt…

Nữ lang liền liệng ngay cây thương đi, nói:

– Ồ! Các hạ muốn tỷ thí quyền cước. Nào, bắt đầu đi.

Uất Trì Liên đáp:

– Chúng ta bất tất phải dùng “Lục hợp quyền” chính tông để tỷ đến nữa vì tại hạ biết còn thua cô nương xa, xin thỉnh giáo môn “Xích khảo”…

Nữ lang hẳng do dự gì nói ngay:

– Hừm! Các hạ đã tinh nghiên “Xích khảo liên quyền”. Thế cũng được.

Nàng giơ tay mặt chém xương tỳ bà ở bả vai đối phương. Nguyên “Xích khảo liên quyền” cũng là một môn quyền pháp trong Vi Đà môn lấy “Lục hợp quyền” làm căn cơ, “Hầu quyền” làm hình thức. Nó còn là một thủ pháp tiểu cầm nã dùng để đánh giáp lá cà. Chiêu nào cũng vồ, chụp, móc, khóa hoặc đả huyệt, điểm huyệt. Uất Trị Liên thấy chiêu số về đao thương của nàng rất lợi hại mà môn “Xích Khảo liên quyền” của hắn đã rèn luyện cực kỳ tinh thục. Hắn nghĩ thầm dù võ công của vị tiểu cô nương này có cao cường đến đâu đi nữa thì tý lực cũng còn kém mình. Huống gì trong cuộc đánh giáp lá cà, đàn bà con gái có nhiều chỗ cố kỵ khiến gã dễ thừa cơ thủ thắng.

Nữ lang đã hiểu tâm lý của gã nên vừa ra tay đã phóng chưởng chém liền. Uất Trì Liên vung tay trái lên gạt tả chưởng của đối phương, thuận tay quay lại điểm luôn vào huyệt “Kiên tỉnh” của nàng. Nữ lang không để cổ tay đụng vào tay đối phương mà nghiêng tay đi, đầu ngón tay hơi nghiêng về phía trái, điểm tới huyệt đạo ở mé ngực trái của đối phương. Uất Trì Liên cả mừng, bàn tay phải thu về, tay trái liền vươn ra chụp vào eo của đối phương. Nữ lang đột nhiên vung chân trái từ phía sau đá tới. “Binh” một tiếng, người của Uất Trì Liên văng ra ngoài, ngã chúi trên sân đá. Mặt mũi gã máu me chảy ròng ròng. Chiêu thức nữ lang sử dụng đúng là “Xích khảo liên quyển”, có điều không để cho gã đến gần mình.

Trong ba vị sư huynh sư đệ, chỉ có Uất Trì Liên là bị thương chảy máu.

Hà Tư Hào thấy nữ lang võ công cao cường như vậy, trong lòng hớn hở. Hắn liền rót một ly rượu đầy, cung kính bưng tới mời, miệng nói:

– Tài nghệ cô nương đã áp đảo cả đương trường, dù Vạn lão quyền sư phục sinh cũng vị tất đã có được võ công như vậy. Hôm nay cô nương lên nắm chức chưởng môn làm cho Vi Đà môn thêm phần hưng thịnh, thật đáng mừng, đáng mừng!

Nữ lang đón lấy chén rượu đưa lên miệng toan uống, chợt ở góc sảnh có một giọng nói kỳ dị cất lên:

– Vị cô nương này mà là người của Vi Đà môn ư? Tại hạ thấy không phải đâu.

Nữ lang quay đầu về nơi phát ra câu nói, chỉ thấy ai nấy đều ngồi yên ở đằng xa nên không biết vừa rồi ai nói. Nàng bèn cười nhạt nói:

– Vị nào không phục, xin cho một lời.

Trong khoảnh khắc, cả tòa sảnh đều lặng ngắt như tờ. Hà Tư Hào nói:

– Chúng ta đã nói rõ từ trước chức vị chưởng môn nhân căn cứ vào võ công mà định đoạt. Vị cô nương này sử dụng công phu chính tông của Vi Đà môn, nào đao thương, quyền cước, các vị đều tận mắt chứng kiến, không có một điểm mập mờ. Trong các đệ tử bản môn, có vị nào tự tin thắng được vị cô nương đây, xin mời ra hết để tỷ thí. Tại hạ thừa lệnh Phúc đại soái đi mời anh hùng hào trong thiên hạ đến kinh sư. Các nhân vật tiến kinh võ nghệ càng cao, tại hạ càng được nở mày nở mặt. Trong vụ này, tại hạ không có ý bênh vực cho bên nào cả.

Dứt lời hắn bật tiếng cười khô khan. Không thấy ai đáp lại, hắn liền nhìn nữ lang nói tiếp:

– Nếu không còn ai dị nghị thì chức chưởng môn dĩ nhiên vào tay cô nương. Tại hạ đã gặp rất nhiều chưởng môn các phái nhưng chưa vị nào nhỏ tuổi thế này, xinh… xinh đẹp… hà hà, như thế này. Thế mới biết anh hùng xuất tự thiếu niên, chí lớn đâu cần tuổi cao. Chúng ta nói chuyện hàng nửa ngày mà chưa hiểu cao tính đại danh của cô nương.

Nữ lang ngần ngừ một chút, nàng muốn nói lại thôi. Hà Tư Hào nói tiếp:

– Các vị đệ tử ở Vi Đà môn bữa nay mười phần có đến tám, chín đang chờ bái kiến chưởng môn nên họ chẳng thể không biết đại danh của cô nương.

Nữ lang gật đầu đáp:

– Các hạ nói phải lắm. Tiểu nữ họ Viên… tên là… tên là Tử Y.

Tư Hào võ công tầm thường nhưng kiến thức quảng bác, nghe giọng nàng nói đã nghĩ ngay đến “Tử Y” chưa chắc đã phải tên thật. Hắn cho là nàng mặc áo tía nên thuận miệng nói ra hai chữ “Tử Y”. Nhưng hắn không tiện hỏi cho cặn kẽ, liền cười nói:

– Xin Viên cô nương ngồi lên mâm cao. Bàn thủ tịch này phải nhường lại cô nương mới đúng.

Theo lễ số thì Hà Tư Hào là một võ quan không nhỏ ở trong kinh, lại là tân khách của phái Vi Đà thì dù Viên Tử Y có tiếp nhiệm chức chưởng môn cũng nên ngồi dưới để bồi tiếp, nhưng nàng chẳng chút khiêm tốn, thấy Hà Tư Hào nhường chỗ liền bệ vệ ngồi vào bàn thủ tịch.

Bỗng nghe trong góc nhà có một giọng kỳ quái khóc òa lên. Người này khóc vừa nói:

– Ngày trước Vi Đà môn oai danh lừng lẫy một thời, bữa nay sao lại suy vi đến thế, để một con nhỏ miệng còn hơi sữa đến tận nơi khinh mạn. Hu hu! …Hu hu!

Tiếng khóc lộ vẻ đau đớn thật sự chứ không phải có ý châm chọc. Viên Tử Y lớn tiếng:

– Lão bảo ta miệng còn hơi sữa thì hãy ra đây để phân cao thấp.

Lần này nàng nhìn rõ người phát thoại là một lão già hơn sáu chục tuổi thân hình gầy ốm, để chòm râu chuột, đầu đội nón hình trái dưa, sau gáy có bím tóc lủng lẳng. Tóc lão đã bạc gần hết. Lão nằm phục xuống bàn gào khóc:

– Vạn Hạc Thành hỡi Vạn Hạc Thành! Người ta bảo dù lão có sống lại cũng không địch nổi vị cô nương nhỏ tuổi mà xinh đẹp như thế kia. Thế mới biết anh hùng xuất tự thiếu niên, nhan sắc đâu cần tuổi cao.

Lão nói mấy câu sau hiển nhiên có ý châm chọc Hà Tư Hào. Những người nhỏ tuổi không nhịn được đều bật lên cười. Lão già lại vừa khóc vừa nói:

– Các bậc anh hùng hảo hán trong các môn phái võ lâm, tiểu đệ quen biết không ít, nhưng chưa có ai mặt dày như vị quan lão gia đây.

Hai câu nói sau cùng khiến mọi người biến sắc, ai nấy đều hiểu lão nói câu đó là muốn khiêu chiến với Hà Tư Hào. Hà Tư Hào không nhịn được lớn tiếng quát:

– Có giỏi thì chường mặt ra đây, sao cứ lén lén lút lút rụt đầu như con rùa đen thế?

Lão gìa vẫn vừa khóc vừa nói:

– Tiểu đệ phụng mệnh Diêm Vương đi mời các quan lão gia xuống âm cung dự hội. Mời được vị quan lão gia chức vụ càng lớn thì tiểu đệ càng thêm mà mở mày nở mặt

Hà Tư Hào đứng phắt dậy chạy về phía góc nhà. Tay trái hắn vung hờ một cái, tay phải nhằm đúng mặt lão già chụp tới. Lão già vẫn không ngừng khóc. Mọi người đứng lên coi thì đột nhiên một bóng đen từ trong góc sảnh đường bay vọt ra. “Huỵch” một tiếng. Người té xuống đất chính là Hà Tư Hào. Quần hùng chưa ai nhìn rõ hắn bị té trong trường hợp nào.

Tên thị vệ kia thấy đồng bạn gặp điều bất lợi liền rút đao ở bên hông xông lại. Sảnh đường lập tức nhốn nháo cả lên. Một bóng đen vọt ra, tiếng gió rít lên vù vù. Tên thị vệ lại té huỵch xuống trước bàn tiệc.

Hồ Phỉ vẫn chú ý đến lão già, thấy lão hất hai tên thị vệ bằng thủ pháp lợi hại phi thường. Lão cũng dùng “Xích khảo liên quyền” như những chiêu thức của Uất Trì Liên và Viên Tử Y vừa thi triển. Xem chừng lão cũng là người ở Vi Đà môn, nhưng võ công cao thâm gấp mấy lần Uất Trì Liên. Nhất định lão là một tay danh thủ của Vi Đà môn. Hồ Phỉ vốn không có thiện cảm với bọn thị vệ ở Thanh triều, nên thấy hai tên thị vệ tình trạng rất thảm hại, sau một lúc mới lồm cồm bò dậy được, chàng ngấm ngầm cao hứng.

Viên Tử Y biết ngay là tay kình địch, liền rời khỏi chỗ ngồi, nói:

– Lão có điều chi dạy bảo sao không nói thẳng thừng ra? Ta không ưa những kẻ hý lộng quỷ thần.

Lão già từ trong góc sảnh đườn uể oải bước ra, trên mặt còn đầy nước mắt nước mũi. Viên Tử Y thấy lão gầy gò, da mặt vàng bủng, lưỡng quyền nhô cao, cặp mắt sâu hoắm như người bị bệnh kinh niên, nhưng ánh mắt thì thần quang lấp loáng. Nàng không dám coi thường, ngưng thần chờ đợi. Lão già không giở giọng châm chọc nữa, cất tiếng nghiêm nghị hỏi:

– Cô nương! Cô đã không phải là người bản môn. Mà Vi Đà môn với cô lại không thù chẳng oán thì tội gì dính líu vào chuyện ở đây?

Viên Tử Y hỏi lại:

– Chẳng lẽ lão là người Vi Đà môn? Tôn tính đại danh là gì?

Lão già đáp:

– Lão phu họ Lưu, Hạc Chân. Cô nương đã nghe đến tên “Vi Đà song hạc” bao giờ chưa? Nếu lão phu chẳng phải là đệ tử Vi Đà môn thì sao lại cùng Vạn Hạc Thành hợp xưng là “Vi Đà song hạc”?

Về bốn chữ “Vi Đà song hạc” thì những người lớn tuổi trong sảnh đường đều nghe qua, nhưng quá nửa chỉ biết được Vạn Hạc Thành và biết lão chuyên làm điều hiệp nghĩa, nổi tiếng tốt trên chốn giang hồ. Còn một “hạc” nữa thì ít ai biết đến. Bây giờ nghe lão già tự xưng mình là một nhân vật trong “Song hạc”, lại nhìn thấy lão cất tay một cái đã đánh té hai tên thị vệ không nhích được, mọi người nhất thời châu đầu thì thầm bàn tán. Nhưng không ai hiểu rõ gốc gác lão nên cũng chưa dám cho là đúng.

Viên Tử Y lắc đầu hỏi:

– “Vi Đà song hạc” gì gì đó ta chưa được nghe qua. Có phải lão muốn làm chưởng môn không?

Lưu Hạc Chân vội đáp:

– Không, không phải! Đừng đổ oan cho lão phu. Lão phu là sư huynh, Vạn Hạc Thành là sư đệ. Nếu lão phu ham làm chưởng môn thì năm xưa đã làm rồi, hà tất phải đợi đến ngày nay?

Viên Tử Y bĩu môi nói:

– Hừ! Lão nói nhăng nói cuội ai mà tin được? Vậy lão cần gì?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Thứ nhất là chưởng môn phái Vi Đà phải do đệ tử chân chính của bản môn tiếp nhiệm. Thứ hai bất luận ai làm chưởng môn cũng không nên xu phụ quyền thế, đến kinh sư để kết giao với bọn quyền quý. Hạng võ biền thô lỗ, người dân dã quê mùa như chúng ta thì kết giao bằng hữu với quan nha thế nào được?

Lão đảo cặp mắt tam giác nhìn mọi người một lượt rồi nói tiếp:

– Thứ ba là dùng võ công để ấn định chưởng môn có điều không ổn. Bất luận là học văn hay học võ thì nhân phẩm vẫn là đứng hàng đầu. Nếu một kẻ tiểu nhân thô bỉ mà võ công cao cường thì suy tôn lên địa vị chưởng môn được ư?

Lão vừa nói câu này, có nhiều người gật đầu tán đồng. Họ thấy rằng hành động của lão tuy cổ quái, hình dáng tuy kỳ dị nhưng lời nói rất hợp lý.

Viên Tử Y cười lạt hỏi lại:

– Nếu cả ba điều ta không theo điều nào thì sao?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Còn sao nữa? Lão phụ đành đưa mấy dẻ xương khô cho cô nương bẻ nát là xong.

Hồ Phỉ nghe hai người lý luận biết rằng khó lòng tránh khỏi cuộc động thủ. Từ ngày chàng trưởng thành hành hiệp trên chốn giang hồ, từng gặp quan lại nhà Thanh chèn ép bách tính, tham tàn bạo ngược, đã đem lòng oán hận, bây giờ thấy Lưu Hạc Chân dám ngang nhiên làm nhục bọn thị vệ Đại Thanh, giọng nói đầy vẻ chính khí nên ngấm ngầm mong lão đắc thắng. Nhưng Tử Y nữ lang ra tay mau lẹ, là tay cao thủ cực kỳ lợi hại, chàng đâm lo lắng Lưu Hạc Chân vị tất đã thắng được nàng.

Viên Tử Y thái độ ngạo mạn, coi Lưu Hạc Chân chẳng vào đâu. Nàng hững hờ nói:

– Lão định tỷ quyền cước hay đao thương?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Cô nương đã tự xưng là đệ tử của Vi Đà môn, vậy chúng ta dùng báu vật trấn môn của phái Vi Đà để tỷ thí.

Viên Tử Y hỏi:

– Báu vật trấn môn đó là gì? Lão nói huỵch toẹt ra đi! Ta rất ghét những người ăn nói lòng vòng.

Lưu Hạc Chân ngửa mặt lên trời cười ha hả đáp:

– Đến báu vật trấn môn của bản môn mà cô nương cũng không biết thì làm chưởng môn thế nào được?

Viên Tử Y hơi lộ vẻ bối rối, nhưng chỉ nháy mắt trấn tĩnh ngay, nàng hỏi:

– Võ công của bản môn vốn bác đại tinh thâm. Luyện đến cảnh giới cao thâm thì chỉ cần một chiêu một thức cũng tung hoành thiên hạ. “Lục hợp đao pháp” cũng tốt mà “Lục hợp thương pháp” cũng hay, chẳng lẽ những thứ đó không phải là báu vật trấn môn?

Lưu Hạc Chân không khỏi ngấm ngầm bội phục, lão biết rằng hiểu báu vật trấn môn là công phu gì, nhưng lời đáp của nàng thật đường hoàng khiến người ta khó mà bài bác được. Lão thấy bọn đệ tử bản môn nghe nàng nói vậy có vẻ tâm phục, bèn đưa tay lên vuốt mấy sợi râu chuột rồi nói:

– Được lắm! Lão phu dạy không cô nương cũng được. Báu vật trấn môn của bản môn là “Thiên cương mai hoa thung”. Cô nương đã luyện qua chưa?

Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Ha ha! Cái đó mà bảo là báu vật ư? Ta cũng dạy không cho lão một điều là trong võ công thì đường ngay và bằng phẳng là đáng quý trọng và hữu dụng. Còn những “Mai hoa thung”, “Tiêm đao trận” gì gì đó chỉ là những cái hoa hòe để hù dọa người, gạt trẻ nít mà thôi. Có điều ta không tỷ thí thì e rằng trong lòng lão không phục. Vậy “Mai hoa thung” của lão đâu, cứ bày ra đi.

Lưu Hạc Chân cầm một chén rượu trên bàn ngửa cổ uống một hơi cạn sạch rồi tiện tay ném xuống đất. Mọi người đều giật mình kinh hãi, chắc rằng chén rượu sẽ bể tan tành. Ngờ đâu khi ném lão đã vận kình lực vừa đúng độ, chén rượu rớt xuống đất khẽ trượt đi. Luồng lực đạo tiêu hết rồi, cái chén đứng vững lại trên viên gạch vuông dưới sảnh đường, không sứt mẻ tí nào. Lão ném chén thứ nhất xong lại nâng chén thứ hai ném tiếp theo. Hai tay lão hoạt động liên tiếp không ngừng. Gặp chén không là lão thuận tay ném liền, gặp chén có rượu thì bất luận đầy hay vơi, lão cũng uống một hơi cạn sạch. Chỉ trong khoảnh khắc, dưới đất đã bày đầy những chén rượu, cả thảy ba mươi sáu chiếc đều úp xuống.

Mọi người thấy thủ pháp ném chén rượu của lão cố nhiên đã kinh người, mà tửu lượng lão cũng không phải tầm thường. Cứ một lần ném là một lần uống thì chí ít lão cũng đã uống hăm hai, hăm ba chén rượu cay nồng. Lão càng uống, sắc mặt càng vàng khè. Lão lắc người một cái, nhẹ nhàng nhảy tới. Chân phải để trên không, chân trái đạp lên trên chén. Lão chắp hai tay lại nói:

– Xin lãnh giáo!

Viên Tử Y thực tình không hiểu cách luyện “Thiên cương mai hoa thung” này thế nào, nhưng nàng ỷ mình khinh công rất cao thâm nên trong lòng chẳng chút sợ hãi. Nàng điểm chân trái xuống cũng nhảy tới đứng lên một trôn chén. Viên Tử Y đứng ở phía trên hai tay giơ khẽ lên nhưng chưa phát chiêu. Nàng còn chờ xem đối phương ra tay cách nào rồi mới tùy cơ ứng biến. Có điều nàng thấy thủ kình của đối phương liệng chén rượu liền biết ngay lão chẳng phải là hạng Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên nên không dám khinh địch chút nào.

Lưu Hạc Chân tiến lên một bước, tay phải vung quyền đánh tới Viên Tử Y. Đây là đệ nhất thức trong chiêu “Tam hoàn sáo nguyệt” của “Lục hợp quyền pháp”. Viên Tử Y thấy thoi quyền của đối phương đánh tới, bốn ngón tay từ ngón trỏ đến ngón út so le không đều, tạo thành ba góc. Nàng biết “Tam giác quyền pháp” chuyên dùng cách đánh vào huyệt đạo kẻ địch, hiển nhiên lão là một tay cao thủ về môn điểm huyệt. Nàng liền đưa chân trái chênh chếch lùi lại một bước, ra chiêu “Tài trùy” trong “Lục hợp quyền pháp” để phản kích, tay phải cũng nắm lại thành “Tam giác quyền”.

Lưu Hạc Chân thấy thân pháp, bộ pháp, quyền pháp của Viên Tử Y bề ngoài đúng là công phu chính tông của bản môn. Nhưng vừa rồi nàng chế phục bọn Tôn Phục Hổ ba người lại sử tâm pháp biến hóa không phải do bản môn truyền thụ. Có điều chỗ khác biệt bên trong, nếu chẳng phải là tay cao thủ hạng nhất ở bản môn thì không nhận ra được. Trong lòng vừa kinh dị lại vừa phẫn nộ, lão bước qua mé trái đánh ra chiêu “Phản cung tự tỉnh”. Chiêu quyền này dùng mu bàn tay để đánh người, trong “Lục hợp quyền pháp” gọi là “Khổ não quyền”. Vì quyền pháp này rất khó, quá trình luyện tập thật khổ sở dị thường nên mang tên như vậy. “Khổ não quyền” mà được luyện đến nơi thì uy lực cực kỳ mãnh liệt, nhưng ít ra cũng phải luyện mười mấy năm mới thành.

Viên Tử Y chưa luyện đến trình độ đó. Nàng đành bỏ cái khó dùng cái dễ, ra chiêu “Suất thủ xuyên chưởng”. Tay phải dùng “Suất bi chưởng”, tay trái dùng “Liễu diệp chưởng” là công phu chính tông của “Lục hợp quyền pháp”.

Hai người xoay chuyển trên ba mươi sau cái trôn và thi triển toàn “Lục hợp quyền pháp”. Động thủ ra chiêu trên “Thiên cương mai hoa thung” cốt lõi ở chỗ cướp được cây cọc ở vị trí trung tâm để dồn đối phương hết đường lui là phải rớt xuống dưới. Lưu Hạc Chân từ thuở nhỏ đã luyện môn võ công này đến chỗ tâm đắc lão lại khổ luyện mấy chục năm nên qua trái qua phải bước lui bước tới bộ pháp lại không sai mảy may. Chỉ mới mấy chiêu là lão đã đoạt được vị trí trung tâm, lão liền tăng gia kình lực vào thoi quyền cho thêm trầm trọng. Lão biết thiếu nữ tuy nhỏ tuổi nhưng võ công được cao nhân truyền thụ nên không dám tiến đánh. Lão định bụng chỉ cần giữ vị trí trung tâm là nắm chắc phần thắng.

Viên Tử Y cùng bọn Tôn Phục Hổ, Uất Trì Liên động thủ, tuy nói là ba chiêu thủ thắng mà thực ra ngay chiêu đầu đã chiếm được tiên cơ, nhưng hiện giờ nàng tỷ quyền với Lưu Hạc Chân trên “Mai hoa thung”, một quyền một chưởng đánh ra đều gặp phải luồng lực đạo cực kỳ hùng hậu phản kích. Chân nàng đạp trên trôn chén mà bước mạnh một chút là làm bể ngay, như vậy cuộc tỷ võ này kể như thua rồi. Bởi vậy nàng chỉ vì đặt chân xuống một chút lại phải cất bước liền, không dám dùng toàn lực ra chiêu. Nàng thấy địch nhân giữ vị trí cực ổn, khó bề lay động, đành thi triển khinh công thượng thừa bước trên trôn chén để di động chung quanh đối thủ, chỉ mong tìm được sơ hở để phản kích.

Hai người chiết hơn ba mươi chiêu và đã sử dụng hết một lượt bài quyền trong “Lục hợp quyền pháp” mà Lưu Hạc Chân thân hình ốm teo vẫn đứng vững như núi. Quyền phong của lão dần dần rít lên, hiển nhiên lão đã gia tăng kình lực.

Trong các môn võ công có cách tỷ đấu trên đầu cọc, nhưng cọc lại biến đổi hàng trăm kiểu. Cọc hoặc bằng gỗ hoặc bằng trúc xanh hoặc chồng gạch đá, thậm chí dùng đao cắm xuống đất, nhưng đằng này lại úp chén thay cho cọc hình hoa mai, các võ sư trong sảnh đường chưa từng thấy qua.

Ba mươi sáu cái chén tựa hồ như được bài trí loạn xạ chứ không tề chỉnh theo hình hoa mai, nhưng bên trong vẫn có quy phạm. Lão đã tập luyện thuần thục thì dù có nhắm mắt tỷ đấu cũng không sai trật một bước, còn Viên Tử Y thì mỗi bước chân phải nhìn xuống phương vị trôn chén mới đặt chân vào. Việc đó làm mất thì giờ nên quyền cước dần dần lâm vào thế hạ phong. Lưu Hạc Chân mừng thầm trong bụng, từ từ quyền pháp biến đổi. Tay phải lão sử “Tam giác quyền” nhằm đánh vào đại huyệt trong người đối phương, tay trái thi triển “Khổ não quyền” phát huy kình lực trầm trọng để phóng trả đối phương và sử dụng toàn là “Tiệt thủ pháp”.

Viên Tử Y thấy mình không địch nổi, tay trái đột ngột biến chưởng thành chỉ đâm tới phía trước. Đây là chiêu “Tứ di tân phục” trong “Lục hợp thương pháp”. Lưu Hạc Chân cả kinh không kịp suy nghĩ vội nghiêng mình né tránh. Ngờ đâu Viên Tử Y lại vung tay phải sử “Câu quải tiến bộ liên hoàn đao” trong “Lục hợp đao pháp” chém ngang một cái. Lưu Hạc Chân không dè nàng lại biến quyền pháp thành đao pháp nên không khỏi hoang mang một chút, đầu vai lão bị chém trúng. Lão hạ thấp ngay vai xuống, chỉ trong nháy mắt đã làm giảm bớt tám thành lực đạo của đối phương, đồng thời lão lại phản kích một quyền. Viên Tử Y tay trái ra chiêu “Bạch viên hiến đào” từ dưới chém ngược lên. Thế là hai tay cùng sử đao, nên tác dụng không chỉ là đơn đao mà là song đao. Nàng dùng chưởng làm đao chém tới, Lưu Hạc Chân tránh không kịp. “Binh” một tiếng dưới nách lão trúng một chưởng, người lảo đảo phải bước ra ngoài trôn chén. Hồ Phỉ đứng bên nhìn rõ nghĩ bụng:

– Một tay cao thủ võ học như lão bị bại về quái chiêu của đối phương thật là đáng tiếc.

Chàng thuận tay chụp lấy hai chén rượu trên bàn cũng học theo thủ pháp của Lưu Hạc Chân ném chênh chếch xuống đất. Hai chén rượu nhẹ nhàng trượt đi rồi dừng lại đúng chỗ bàn chân Lưu Hạc Chân rớt xuống. Lưu Hạc Chân bước ra ngoài “Mai hoa thung”, biết rằng mình chắc chắn đã thua, đột nhiên thấy dưới hai chân mình có đặt hai chén rượu, lão sửng sốt một chút rồi biết có cao nhân đứng bên ám trợ. Mọi người đều để mắt chăm chú theo dõi cuộc tỷ đấu giữa hai người nên lại không phát giác ra Hồ Phỉ đã liệng hai chén rượu xuống.

Viên Tử Y dùng chỉ làm thương, dùng tay làm đao, tuy vẫn là công phu về “Lục hợp thương pháp” và “Lục hợp đao pháp” nhưng ở Vi Đà môn trước nay chưa từng có những chiêu số quái dị đó.

Lưu Hạc Chân rất đỗi kinh nghi, chấp tay hỏi:

– Võ công của cô nương thật là thần diệu, tại hạ chưa từng thấy qua. Xin hỏi cô nương đã được cao nhân phái nào truyền thụ?

Viên Tử Y hỏi lại:

– Hừ, rõ ràng lão không muốn nhìn nhận ta là đệ tử bản môn. Thôi được, nếu ta chỉ dùng “Lục hợp quyền pháp” để thắng lão thi lão tính sao?

Lưu Hạc Chân chỉ mong nàng nói câu đó liền kính cẩn đáp:

– Nếu cô nương dùng đúng võ công bản môn để chế phục tại hạ thì thật là một đại hỷ sự cho bản môn. Tiểu lão sẽ cam tâm tình nguyện đi theo cầm roi ngựa cho cô nương.

Vừa rồi lão đã lãnh giáo võ công của Viên Tử Y, bao nhiêu tính cuồng ngạo đều tiêu tan. Lão lại liếc mắt nhìn Hồ Phỉ rồi chắp tay nói:

– Tiểu lão xin phô cái dở ra.

Lão chắp tay là để tạ ơn Hồ Phỉ đã ném chén rượu giúp mình. Tuy lão không hiểu ai đã xuất thủ viện trợ, nhưng cũng biết hai chén rượu từ phía Hồ Phỉ ném ra. Lúc Lưu Hạc Chân vặn hỏi về môn phái, Viên Tử Y đã nghĩ ngay cách thắng lão. Nàng thấy lão hai tay ôm quyền, ngưng tụ tinh thần bước tới đoạt vị trí trung tâm, liền ra chiêu “Cổn thủ hổ tọa”, đúng là võ công chính tông của “Lục hợp quyền pháp”.

Sau mấy chiêu, Lưu Hạc Chân lại dần dần chiếm được thượng phong. Lần này lão nhấc tay, cất chân thận trọng hơn trước, chỉ sợ trong quyền chiêu của Viên Tử Y lại nảy sinh biến hóa. Lão chiết giải thêm mấy chiêu nữa, thấy quyền pháp đối phương không biến đổi đã hơi yên dạ.

Lão thấy Viên Tử Y sử chiêu “Đả hổ thức”, lão liền điểm hờ chân phải về phía tước đồng thời ra chiêu “Ô long thám hải”. Đột nhiên bàn chân phải cảm thấy có điều khác lạ, lão liền đưa mắt nhìn xuống, rồi không khỏi giật mình kinh hãi vì chén rượu nguyên trước mặt đặt úp xuống không biết đã lật ngửa lên tự lúc nào, may mà lão chỉ điểm hờ chân phải vào, nếu lão thực sự đặt chân xuống thì bàn chân ắt phải đạp vào giữa lòng chén làm chén rượu vỡ tan rồi, đồng thời người cũng ngã chúi về phía trước, làm sao không thua được?

Lưu Hạc Chân trong lúc hoang mang vội dời bước chân đang lơ lửng qua trôn chén khác, người lão lảo đảo, lưng toát mồ hôi lạnh. Lão liếc thấy Viên Tử Y lúc giơ chân trái lên, cả chén rượu cũng lên theo. Không hiểu bàn chân nàng vận kình cách nào mà lúc đặt xuống thì chén rượu đã bị lật ngửa lên. Chân trái Viên Tử Y thuận thế đặt xuống miệng chén, chân phải nàng nhấc lên lại lật ngửa chén rượu khác, lão thấy khinh công của nàng quả mình thông thể nào bì kịp.

Lưu Hạc Chân nghĩ bụng:

– Chỉ còn cách ra tay nhanh và mạnh khiến thị chưa kịp lật hết các chén rượu thì mới có thể đánh thị rớt xuống “Mai hoa thung” được.

Lão liền gia tăng chưởng lực tiến đánh rất rát. Ngờ đâu Viên Tử Y lại không chịu thẳng thắn trực tiếp đối quyền với lão mà chỉ di chuyển xung quanh, thân pháp mau lẹ dị thường. Chân nàng vừa đặt vào miệng chén là lập tức đổi bước, không dừng lại trong nháy mắt. Chỉ trong khoảnh khắc, ba mươi sáu chén rượu nàng đã lật được ba mươi tư cái, chỉ còn hai cái Lưu Hạc Chân đặt chân lên là chưa lật. Nếu vừa rồi mà Hồ Phỉ không ném chén rượu ra thì lão không có cả chỗ đặt chân. Trước tình thế này, Lưu Hạc Chân chỉ cần dời chân qua nơi khác là bể chén ngay. Lão chỉ còn cách đứng nguyên trên hai trôn chén không đám nhúc nhích, lão đứng ngẩn người một lúc, vẻ mặt thê thảm, nói:

– Cô nương thắng rồi!

Dứt lời lão bước xuống đất, mặt vàng như nghệ.

Viên Tử Y lấy làm đắc ý, hỏi:

– Vậy chức chưởng môn do ta đảm nhận chứ?

Lưu Hạc Chân buồn rầu đáp:

– Tiểu lão chịu phục rồi, còn người khác không hiểu có ý kiến gì không?

Viên Tử Y toan lên tiếng hỏi mọi người, chợt nghe có tiếng vó ngựa cực kỳ cấp bách lao về phương bắc. Nàng nghe rõ tiếng vó ngựa đập xuống đất, trong thiên hạ trừ con bạch mã của nàng ra thì tuyệt không có con ngựa nào có tiếng vó như vậy. Viên Tử Y biến sắc rảo bước qua cửa, thấy quả đúng con bạch mã của mình đang lướt qua khu rừng phong. Người cưỡi ngựa là anh chàng mặc áo xám tro tên gọi Hồ Phỉ, là người nàng đánh cắp cái bọc. Nàng la lớn:

– Tên trộm ngựa kia! Dừng lại mau

Hồ Phỉ quay đầu lại cười, đáp?

– Tên trộm bọc kia, chúng ta hòa nhé!

Chàng nói rồi nổi lên tràng cười ha hả, phóng ngựa chạy như bay. Viên Tử Y cả giận, đề khí chạy như điên để rượt theo. Khinh Công nàng tuy tinh thâm nhưng làm sao sánh kịp con khoái mã ngày đi ngàn dặm? Rượt theo một lúc chỉ thấy bóng người ngựa mỗi lúc một nhỏ dần rồi mất hút. Viên Tử Y bị vố này khiến niềm cao hứng đánh bại bốn cao thủ Vi Đà môn bỗng tiêu tan hết. Nàng vừa tức giận vừa lấy làm lạ, tự hỏi:

– Con bạch mã của ta rất khôn ngoan, sao nó lại để cho tên tiểu tặc kia cưỡi lên mà không phản kháng?

Viên Tử Y chạy mấy dặm nữa thì đến một tiểu trấn. Nàng biết đuổi không kịp nữa, toan tìm vào quán trà ngồi uống nước nghỉ ngơi thì chợt nghe tiếng ngựa hý rất quen thuộc. Đúng là tiếng hí của con bạch mã. Nàng liền rảo bước theo, vừa chuyển qua một khúc quanh đã thấy Hồ Phỉ đang cưỡi con bạch mã, quay lại mỉm cười vẫy tay với nàng. Viên Tử Y tức quá, lượm một viên đá ném tới sau lưng chàng. Hồ Phỉ lột mũ trên đầu ra, xoay tay lại chụp gọn viên đá vào trong cái mũ, cười hỏi:

– Cô có trả cái bọc cho ta hay không?

Viên Tử Y tung mình vọt tới toan đoạt lại con bạch mã thì đột nhiên nghe đánh “vù” một cái. Một món ám khí bay tới trước mặt rất nhanh và mạnh. Nàng chậm lại một chút, Hồ Phỉ thúc hai chân vào bụng ngựa cho nó vọt lên một cái chớp mắt đã ra ngoài mười trượng. Viên Tử Y tức giận đến cực điểm, mắng thầm:

– Gã tiểu tử này thật là khả ố!

Nàng không tự trách mình đã lấy cắp bọc của người ta trước, mà chỉ bực mình vì bị Hồ Phỉ hai lần trêu chọc. Chỉ hận một nỗi là cước trình của con bạch mã lẹ quá, nếu không nàng mà đuổi kịp, thì ngoài việc đoạt lại ngựa, nàng còn phải đánh Hồ Phỉ một trận nhừ đòn mới hả được nỗi căm tức trong lòng.

Bỗng thấy dưới mái hiên quán trà có buộc một con ngựa xanh, Viên Tử Y bất chấp là ngựa nào, chạy lại cởi dây cương, phi thân nhảy lên tức tốc rượt theo Hồ Phỉ. Khi chủ ngựa phát giác, chạy theo vừa la vừa chửi thì nàng đã chạy xa rồi.

Viên Tử Y tuy có ngựa cưỡi nhưng muốn rượt kịp Hồ Phỉ cũng là chuyện nằm mơ. Nàng vung roi vụt tới tấp lên lưng con ngựa xanh. Con vật xanh này đã chạy hết sức rồi mà nàng vẫn cảm thấy chậm quá. Mới rượt theo được mấy dặm, con ngựa xanh đã thở phi phò, dần dần không gượng nổi nữa. Khi gần đến một khu rừng cây, bỗng nàng thấy con ngựa trắng buộc dưới gốc tùng. Nàng giục ngựa chạy tới gần thì đúng là con bạch mã của mình.

Viên Tử Y cả mừng, nhưng vẫn sợ Hồ Phi bày ngụy kế dẫn mình vào bẫy. Nàng đảo mắt nhìn quanh không thấy bóng người mới phóng ngựa chạy đến gốc tùng. Khi còn cách con bạch mã chừng mấy trượng thì đột nhiên một bóng người từ trên cây tùng nhảy xuống ngồi lên lưng con bạch mã. Người này buông tiếng cười ha hả, nói:

– Viên cô nương! Chuyến này chúng ta lại đấu một phen nữa.

Lần này Viên Tử Y quyết không để chàng trốn thoát. Nàng liền dí mạnh hai chân vào bàn đạp, tung mình lên vọt tới Hồ Phỉ như con chim khổng lồ. Hồ Phỉ không ngờ nàng dám liều lĩnh như vậy. Người nàng đang lơ lửng trên không, nếu chàng phóng quyền đánh thì nàng tránh làm sao kịp? Chàng liền dừng ngựa cho đứng tránh sang một bên. Không ngờ con bạch mã nhận ra chủ, miệng nó hí lên mấy tiếng vui mừng. Chẳng những nó không tránh mà lại nhảy tới hai bước. Viên Tử Y người đang lơ lửng trên không dùng tay phải đánh xuống đầu Hồ Phỉ, tay trái chụp xuống vai chàng.

Hồ Phỉ từ thuở nhỏ chưa từng động thủ với thiếu nữ. Lần này chàng ăn cắp ngựa của nàng, một là vì nhận ra con ngựa cưỡi của Triệu Bán Sơn nên muốn hỏi nàng cho rõ, hai là trách nàng sao lại đùa giỡn lấy bọc của mình, hiển nhiên ra chiều khinh mạn. Chàng chỉ muốn trả đũa một chút chơi, nhưng đột nhiên thấy nàng động thủ thật sự bất giác đỏ bừng mặt lên, liền nghiêng mình nhảy ra khỏi lưng ngựa, lướt qua bên người nàng rồi cưỡi lên lưng con ngựa xanh. Lúc hai người ở trên không lướt qua bên nhau, Hồ Phỉ vươn tay phải ra ngầm vận chỉ lực móc cái bọc đeo trên lưng nàng lấy lại được ngay.

Viên Tử Y đoạt lại con bạch mã rồi vẫn chưa hết giận, lại thấy mất cái bọc, liền quát hỏi:

– Tiểu Hồ Phỉ! Sao ngươi dám vô lễ thế?

Hồ Phỉ kinh hãi hỏi lại:

– Sao cô nương biết tên tại hạ?

Viên Tử Y bĩu môi cười lạt, đáp:

– Triệu tam thúc khen ngươi anh hùng lắm nhưng ta coi rất tầm thường.

Hồ Phỉ nghe nói đến ba chữ “Triệu tam thúc” trong lòng hớn hở vội hỏi:

– Cô nương có biết Triệu Bán Sơn tam ca ư? Hiện giờ ông ấy ở đâu?

Viên Tử Y càng tức giận hơn, quát lớn:

– Tên tiểu tử họ Hồ kia! Ngươi dám chiếm phần tiện nghi của ta ư?

Hồ Phỉ ngạc nhiên hỏi:

– Tại hạ làm gì mà cô bảo là chiếm phần tiện nghi?

Viên Tử Y đáp:

– Tại sao ta gọi là “Triệu tam thúc” mà ngươi lại xưng “Triệu tam ca”? Chẳng phải ngươi muốn làm trưởng bối của ta sao?

Hồ Phỉ từ thuở nhỏ vốn tính hoạt kê liền thè lưỡi ra, cười hỏi:

– Không dám! Không dám! Cô nương kêu ông ấy bằng Triệu tam thúc thật ư?

Viên Tử Y đáp;

– Chẳng lẽ ta còn gạt ngươi?

Hồ Phỉ vênh mặt lên, nói;

– Hay lắm nếu vậy tại hạ còn ở vai trên. Cô nương kêu bằng Hồ thúc thúc mới phải. Này, Tử Y! Triệu tam ca hiện ở đâu?

Viên Tử Y xưa nay không biết Hồ Phỉ cùng Triệu Bán Sơn kết nghĩa anh em là chuyện thực trăm phần tram, nhưng thấy chàng tuổi nhỏ bằng mình mà dám mặt dày hô huynh gọi đệ với Triệu Bán Sơn ra điều hàng trưởng bối khiến nàng nổi đóa. “Soạt” một tiếng, Viên Tử Y đã rút cây nhuyễn tiên bên hông ra, miệng quát:

– Tên tiểu tử này nói nhăng nói càn. Ta phải dạy cho ngươi một bài học mới được.

Hồ Phỉ thấy cây nhuyễn tiên của Viên Tử Y là những sợi tơ bạc quấn lại. Đầu cây nhuyễn tiên có một quả cầu bé nhỏ bằng vàng, trông đất đẹp mắt. Nàng rung cây nhuyễn tiên trên không một vòng, ánh thái dương chiếu vào khiến kim ngân lấp loáng thành nhiều tia sáng biến ảo xinh đẹp lạ thường. Nàng muốn xuống ngựa cùng Hồ Phỉ động thủ những lại đổi ý, vì sợ chàng ngụy kế đa đoan tìm cách đoạt lại ngựa. Nàng liền thúc ngựa tiến tới vung roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ.

Cây nhuyễn tiên này vung ra dài đến một trượng một thước, cuốn quanh sau lưng Hồ Phỉ. Đầu cây roi cong lại. Trái kim cầu đánh xuống huyệt “Đại truy” trên lưng chàng. Hồ Phỉ cong người nằm rạp xuống lưng ngựa. Chàng cho là cong mình theo thế đánh của cây roi thì nó sẽ lướt qua. Chợt nghe tiếng gió khác lạ, chàng biết là có điều không ổn. Tay trái rút đơn đao, chàng không kịp quay đầu nhìn lại cây nhuyễn tiên đánh tới như thế nào, vội xoay tay đưa đao theo hất ngược lên. “Choang” một tiếng. Đơn đao đụng vào kim cầu đẩy ngược cây nhuyễn tiên của Viên Từ Y trở lại.

Thì ra khi nàng vung cây nhuyễn tiên lướt trên lưng Hồ Phỉ, cổ tay liền hạ xuống, trái kim cầu đột nhiên chuyển đánh vào huyệt “Cự cốt” bên vai phải của chàng. Nàng thấy Hồ Phỉ nằm rạp trên lưng ngựa, chắc mẩm thế nào cũng đánh trúng huyệt đạo sẽ khiến chàng nửa người tê nhức. Ngờ đâu Hồ Phỉ lại nghe tiếng gió để xuất chiêu, tựa hồ sau lưng có mắt. Thanh đơn đao và nhuyễn tiên chạm nhau khiến nàng cảm thấy cánh tay ngấm ngầm tê chồn.

Hồ Phỉ ngửng đầu lên cười hì hì nhưng trong lòng không khỏi kinh dị về võ công cao cường của nữ lang. Nàng đã dùng cầu cây nguyễn tiên để điểm huyệt là một công phu khó khăn trong võ học. Huống chi mới đánh nửa chừng nàng lại biến chiêu, sử dụng thứ binh khí vừa dài vừa mềm oặt chẳng khác gì điều khiển một ngón tay để đánh vào huyệt đạo không sai chệch mảy may. May mà công phu điểm huyệt của chàng cũng rất cao thâm mới không đến nỗi bị thương, nhưng chàng cũng ngấm ngầm tự thẹn.

Nguyên Hồ Phỉ tuy đã chứng kiến Viên Tử Y đả bại liên tiếp bốn cao thủ ở Vi Đà môn, biết võ công nàng rất cao cường, nhưng chàng vẫn nghĩ tài nghệ nàng không thể bằng mình nên trong lòng không khỏi có ba phần khinh thị. Ngờ đâu cây nhuyễn tiên của nàng vung lướt qua trên lưng rồi quay ngược lại đánh vào vai là điều Hồ Phỉ không lường được. Chàng vừa vung đao phản kích, biết nàng sẽ đánh vào huyệt “Cự cốt”, nên mới gạt được đầu roi ra ngoài. Nếu bản lĩnh nàng mà khác đi một chút, nhát roi điểm huyệt không chuẩn xác, thì chiêu đao vừa rồi ắt hẳn không đỡ trúng đầu roi thì lưng chàng hứng trọn nhát roi trầm trọng đó rồi. Cho dù không trúng huyệt đạo thì cũng phải một phen đau đớn kịch liệt.

Viên Tử Y thấy Hồ Phỉ vẻ mặt tự nhiên thì không khỏi sinh lòng chán nản. Nàng đâu biết thực ra trong lòng chàng rất kinh hãi. Viên Tử Y lại vung nhuyễn tiên cho rít lên một tiếng, đầu roi nhằm đầu Hồ Phỉ đánh xuống.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Ta muốn dò hỏi tin tức Triệu tam ca nhưng y tính khí cao ngạo nếu không để y chiếm chút tiện nghi thì khi nào y chịu kể rõ với ta? Nói gì cũng chẳng được, thôi thì ta cứ nhường y một chiêu vậy.

Chàng thấy đầu roi sắp đánh xuống liền nghiêng qua mé tả một chút, phương vị rất vừa vặn, thời khắc chậm một nháy mắt. Bỗng nghe đánh “bộp” cái mũ trên đầu chàng đã bị ngọn roi cuốn lấy. Hồ Phỉ thúc vế vào bụng ngựa tránh ra xa hơn trượng, tra đao vào vỏ, rồi quay lại cười hỏi:

– Thần kỹ sử nhuyễn tiên của cô nương khiến Hồ Phỉ này khâm phục vô cùng! Triệu tam ca vẫn mạnh giỏi đấy chứ? Hiện giờ tam ca còn ở Hồi Cương hay đã đến Trung nguyên rồi?

Giả tỷ Hồ Phỉ nhường nhịn để Viên Tử Y thắng một chiêu thì nàng trong lòng cao hứng không chừng sẽ đem tin tức Triệu Bán Sơn nói cho chàng hay. Nhưng chàng đang tuổi trẻ, khí đang hăng, cho nên chiêu đó nhường thì có nhường, nhưng lại nhường một cách lộ liễu. Chàng chờ cho đầu roi đánh tới mới né tránh, khiến cho cái mũ bị cuốn đi, mặt chàng không lộ vẻ gì bẽn lẽn, lại còn cười mỉm để hỏi nàng, vẫn giữ thái độ người trên trêu cợt kẻ dưới.

Viên Tử Y thoáng nhìn đã thấy ngay, liền hỏi lại:

– Ngươi cố ý nhường nhịn tưởng ta không biết chăng? Ta trả mũ cho ngươi đây!

Nàng rung cây nhuyễn tiên một cái, cái mũ bay ra chụp vào đầu chàng. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Nếu để y dùng nhuyễn tiên đưa được cái mũ lên đầu ta thì công phu đó mới là kỳ diệu.

Chàng liền mỉm cười đứng yên, xem thử nàng có thể dùng cây nhuyễn tiên dài hơn một trượng bằng ngân ty đó đội được cái mũ lên đầu chàng không. Bỗng thấy đầu cây roi cuốn cái mũ chầm chậm từ dưới đưa lên, nhưng đến ngang mặt thì kình lực ở đầu roi đã suy giảm. Cây roi mềm oặt, cái mũ rớt xuống. Hồ Phỉ vội đưa tay ra đón. Đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng. Chàng biết ngay có điều không ổn. Chỉ nghe đánh “chát” một tiếng, mắt nẩy đom đóm, nửa mặt đau thấu xương. Hồ Phỉ biết đã bị trúng ám toán, liền níu chặt chân phải, buông lỏng chân trái ra chúi xuống dưới bụng ngựa. Lại nghe đánh “chát” một tiếng, gỗ vụn bay tứ tung. Yên ngựa đã bị đầu roi đập tan. Con ngựa đau quá hí ầm lên.

Hồ Phỉ chui dưới bụng ngựa, tránh thế đánh liên hoàn, thuận thế rút đơn đao ra rồi xoay mình vọt lên lưng ngựa. Chàng chuyển đơn đạo từ tay trái sờ lên mặt thì thấy bàn tay dính máu tươi. Nhát roi vừa rồi quả thật không nhẹ. Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Ngươi còn dám xưng là trưởng bối nữa hay thôi? Nhát roi này bản cô nương đã nương tình, nếu không thì cả mười tám cái răng của ngươi mà không rụng cả mới là lạ.

Câu nói này của nàng quả không ngoa. Nàng đánh lén một đòn mà thành công, nếu như vận dụng toàn lực thì nhát roi đó tất đập gãy xương trán Hồ Phỉ và bao nhiêu răng ở bên trái đều bị rụng hết.  Từ ngày Hồ Phỉ học võ thành tài đến nay chưa bao giờ bị đại bại như lần này, bất giác lửa giận bốc lên, cặp mắt tròn xoe. Chàng vung đao chém xuống đầu vai Viên Tử Y. Viên Tử Y trong lòng cũng hơi khiếp sợ, nàng biết đối thủ không dễ đối phó. Lần này Hồ Phỉ bị thất bại tất vận toàn lực ra tay. Nàng liền vận kình ra tới đầu roi múa tít cây trường tiên đón đánh Hồ Phỉ từ ngoài hai trượng khiến chàng không thể vào gần được.

Giữa lúc ấy trên đường lớn bỗng vang lên tiếng nhạc ngựa. Ba người cưỡi ngựa từ từ đi tới. Họ thấy có người động thủ liền đứng cả lại để coi. Hồ Phỉ và Viên Tử Y đồng thời ngoảnh đầu nhìn ra thấy hai người mặc sắc phục thị vệ của Thanh triều. Đi giữa là một người mặc thường phục, thân thể cao lớn ước chừng chưa quá bốn chục tuổi.

Roi dài đao ngắn, về binh khí Hồ Phỉ đã kém thế, huống chi con ngựa của chàng là ngựa tầm thường lại bị thương rồi. Viên Tử Y cưỡi con tuấn mã tuyệt luân mà thuật cưỡi ngựa của nàng cũng rất tinh thâm, giống như người nhỏ bé nhờ ngồi trên lưng ngựa mà thành ra cao lớn. Do đó, hai bên mới trao đổi ngoài chục chiêu, mà Hồ Phỉ vẫn không sao tiến vào gần được. Chàng liền biến đổi đao pháp, toan phát huy toàn lực tấn công.

Bỗng nghe một gã thị vệ lên tiếng:

– Nha đầu kia người đã đẹp mà ra đòn ác liệt dữ a!

Gã thị vệ kia cười đáp:

– Nếu Tào đại ca thấy thích mắt thì nên ra tay, đừng để gã tiểu tử này hưởng của ngon trước.

Gã thị vệ họ Tào ngước mặt lên trời cười ha hả. Hồ Phỉ thấy hai tên thị vệ thốt lời khinh bạc, tức quá trợn mắt liếc chúng một cái. Viên Tử Y nhân cơ hội này vung roi đánh tới. Hồ Phỉ cúi đầu xuống, luồn người dưới cây nhuyễn tiên, rồi xông về trước mấy thước. Viên Tử Y vặn mình một cái. Con ngựa trắng vọt qua mé tả. Thế vọt lẹ quá, ánh ngân quang lấp loáng. Gã thị vệ họ Tào bị một roi rất nặng đánh trúng vào vai.

Viên Tử Y lại xoay đầu roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ. Chàng đưa ngang thanh đao đón đỡ. Con bạch mã đã lướt qua bên mình gã thị vệ kia. Viên Tử Y đưa bàn tay trắng nõn chụp vào huyệt “Thiên trụ” ở sau gáy gã. Thế xông của con bạch mã lực đạo rất mãnh liệt. Viên Tử Y không cần dùng sức, nàng chỉ thuận tay đẩy là gã thị vệ kia ngã xuống ngựa. Viên Tử Y không xoay mình lại, nàng đưa trường tiên qua đầu vai quất ngược về phía sau vào đại hán thứ ba. Bốn roi đòn đó tung lên vụt xuống mau lẹ phi thường. Hồ Phỉ không khỏi khen thầm trong bụng, chàng nghĩ gã đại hán dù nãy giờ chưa lên tiếng, nhưng chắc cùng một loại với hai gã thị vệ thì thể nào cũng lãnh đủ nhát roi tai bay vạ gió kia.

Ngờ đâu đại hán dừng ngựa lại vươn tay không ra bắt lấy đầu cây ngân tiên. Viên Tử Y thấy hắn vươn bàn tay như móc câu biết là gặp phải kình địch, liền rung động cổ tay hất đầu roi lên, cười lạt hỏi:

– Phải chăng các hạ đến kinh sư để tham dự cuộc đại hội các chưởng môn?

Đại hán ngạc nhiên hỏi lại:

– Sao cô nương lại biết?

Viên Tử Y đáp:

– Coi bộ dạng các hạ có vẻ là một chưởng môn nhân. Danh tính các hạ là gì, chưởng môn phái nào?

Hai câu này quả cực kỳ vô lễ. Đại hán “hừ” một tiếng chứ không nói gì. Gã thị vệ họ Tào lồm cồm bò dậy lớn tiếng la:

– Lam sư phó! Sư phó cho con lỏi thối tha đó một bài học.

Viên Tử Y khẽ thúc vế đùi một chút. Con bạch mã đột nhiên xông về phía thị vệ họ Tào, khiến gã không kịp trở tay. Gã thị vệ họ Tào cực kỳ kinh hãi vội nghiêng mình qua mé trái né tránh. Cây ngân tiên của Viên Tử Y đánh tới sau lưng hắn. Đại hán kia thấy tình thế cấp bách rút đoản kiếm ra chiêu “Lạn yêu thu thủy tứ môn kiếm”, đưa chếch tới gạt đầu roi. Viên Tử Y nhấn chân xuống bàn đạp khẽ lùi lại về phía sau, con bạch mã đột nhiên lùi lại. Nó vọt tới hay lùi lại đều mau lẹ phi thường.

Đại hán lớn tiếng khen ngợi:

– Ngựa hay quá!

Viên Tử Y cười lạt đáp:

– Ta tưởng ai, té ra là Lam Tần chưởng môn Bát Tiên kiếm ở Ngô Châu, Quảng Tây.

Đại hàn này đúng là Lam Tần. Y thấy thiếu nữ chưa qua hai mươi, nhan sắc xinh đẹp như hoa, ra tay mau lẹ mà lại lịch duyệt giang hồ, mới ngó thấy một chiêu đã gọi ra tên họ và thân phận của y thì trong lòng không khỏi kinh ngạc, nhưng y cũng có phần đắc ý, tự nhủ:

– Lam mỗ ở nơi đất Nam Cương hẻo lánh mà cả đến thiếu nữ nhỏ tuổi này cũng biết đến uy danh

Y tủm tỉm cười hỏi:

– Sao cô nương lại biết tính danh tại hạ?

Viên Tử Y đáp:

– Ta đang muốn kiếm các hạ, lại gặp ở đây, thật là may quá!

Lam Tần lấy làm lạ, nghĩ mình xưa nay chưa từng quen biết bèn hỏi ngay:

– Cao tính đại danh cô nương là gì? Kiếm Lam mỗ có điều chi dạy bảo?

Viên Tử Y đáp:

– Ta bảo các hạ không nên thượng kinh, để ta thay các hạ đi tiện hơn.

Lam Tần ngơ ngẩn không hiểu ra, lại hỏi:

– Cô nương nói vậy là có ý gì?

Viên Tử Y đáp:

– Hừ! Có gì mà không hiểu. Ta bảo các hạ nhường chức vị chưởng môn Bát Tiên kiếm lại cho ta!

Lam Tần thấy nàng ăn nói vô lễ, bất giác nổi giận đùng đùng, nhưng y vừa thấy nàng tập kích cả bốn người, thủ pháp xảo diệu khôn lường, chính y cũng chưa nhìn rõ. Nếu không thì đời nào y lại để cho hai tên thị vệ đi bên cạnh thảm bại đến thế. Lam Tần vốn là người cẩn thận, y thấy Viên Tử Y nói khoác liền cho là nàng có chỗ ỷ mình, y vẫn không phát tác, chắp tay nói:

– Tôn tính đại danh cô nương là gì? Lệnh sư là ai?

Viên Tử Y đáp:

– Ta đã không có giao tình với các hạ thì còn hỏi tên họ làm chi? Danh hiệu sư phụ ta càng không thể nói ra cho các hạ biết được. Gia sư đã có duyên gặp mặt các hạ một lần. Nếu các hạ nhắc tới việc đã qua thì ta lại không tiện đòi các hạ nhường chức chưởng môn cho mình.

Lam Tần chau mày nghĩ mãi không ra những nhân vật nổi danh trong võ lầm mà y quen biết, vị nào là tay cao thủ sử nhuyễn tiên. Hai tên thị vệ một bị trúng roi, một tên bị hất té xuống ngựa đều phẫn nộ vô cùng. Bọn này quen thói ngang tàng, phen này bị hạ nhục làm sao chịu bỏ qua? Cả hai tên đồng thanh huýt sáo. Một tên trên ngựa, một tên dưới đất đồng thời nhảy xổ về phía Viên Tử Y. Hai tên này vốn tay không bây giờ một rút đao, một cầm trường kiếm.

Viên Tử Y rung động cây nhuyễn tiên đánh chát một tiếng, quất trúng vào cổ tay phải của tên thị vệ rút đao. Ngón tay hắn vừa sờ vào chuôi đao đã thấy cổ tay đau thấu xương, không còn sức để rút yêu đao ra nữa. Cây ngân ty nhuyễn tiên của Viên Tử Y vừa nhỏ vừa dài, không giống những cây nhuyễn tiên khác. Nàng ra chiêu đánh trúng cổ tay tên thị vệ. Ngọn roi vẫn không dừng lại, mà quấn lấy đốc kiếm của thị vệ họ Tào nhanh như điện chớp, tiện đà hất lên. Thủ pháp của nàng lẹ quá, bàn tay của thị vệ họ Tào chưa kịp sờ vào chuôi kiếm thì thanh kiếm đã rút khỏi vỏ. Hắn sợ quá vội đưa tay ra ngoài mà cũng bị lưỡi kiếm hớt đứt bàn tay, máu chảy đầm đìa. Viên Tử Y rung cây nhuyễn tiên một cái. Thanh trường kiếm bay vút lên không cao đến mấy chục trượng. Nàng lại thu cây nhuyễn tiên về quấn ngang eo, giống như sợi dây kim ngân quấn quanh bộ áo tía. Người ngoài nhìn thấy, nào ai biết đó là thứ binh khí cực kỳ lợi hại.

Viên Tử Y không ngửng đầu nhìn thanh kiếm, mà quay lại hỏi Lam Tần:

– Các hạ có nhường chức chưởng môn cho ta không?

Lam Tần ngửa mặt lên trời nhìn thanh trường kiếm đang rơi xuống, nghe nàng hỏi vậy, bèn buột miệng hỏi lại:

– Cái gì?

Viên Tử Y đáp:

– Ta yêu cầu các hạ nhường chức chưởng môn Bát Tiên kiếm cho ta.

Giữa lúc ấy thanh trường kiếm đã rớt xuống trước mặt nàng, nàng vừa nói vừa nghe tiếng gió liền đưa tay ra chụp lấy chuôi kiếm. Thanh trường kiếm từ trên cao mấy chục trượng rớt xuống, thế rơi vô cùng nguy hiểm, huống gì trừ chuôi kiếm ra thì phần còn lại là lưỡi kiếm sắc bén. Thế mà Viên Tử Y không thèm liếc mắt nhìn cũng chụp trúng chuôi kiếm. Công phu này khiến cho Lam Tần chấn động tâm thần. Hồ Phỉ đứng bên xem cũng ngấm ngầm bộ phục. Chàng tự hỏi:

– Vừa rồi nàng đã tranh đoạt chức chưởng môn phái Vi Đà sao còn muốn đoạt cả chức chưởng môn Bát Tiên kiếm?

Hồ Phỉ thấy nàng còn nhỏ tuổi mà võ công đã cao thâm như vậy bình sinh trong đời ngoài Triệu Bán Sơn, chàng chưa thấy một cao thủ nào võ học lại đạt đến trình độ đó, trong lòng thầm thán phục, vết thương trên mặt do roi đánh tựa hồ như không còn cảm giác nữa.

Lam Tần thấy nàng phô trương tuyệt kỹ này càng không dám hành động lỗ mãng. Y định dùng lời nói khéo để tìm ra gốc gác của đối phương, liền cất tiếng hỏi:

– Công phu thính phong biện khí của cô nương dường như là tuyệt nghệ của Đông gia ở Sơn Tây?

Viên Tử Y cười đáp:

– Nhãn quang của các hạ khá lắm. Vậy còn công phu ném kiếm lên trời này thì sao?

Nàng nói rồi vung tay mặt một cái, thanh trường kiếm liền bay vọt lên không. Lần này thì không phải mũi kiếm hướng thẳng lên trời mà quay tròn thành một vòng màu sáng bạc từ từ đưa lên. Tuy thế đi không gấp lắm nhưng hình dạng kỳ dị coi rất ngoạn mục. Lam Tần ngửng đầu nhìn thanh kiếm thì đột nhiên nghe thấy tiếng gió thoảng, trước người có điều khác lạ, liền nhảy lùi lại hơn trượng. Y thấy ánh sáng lấp loáng. Quả kim cầu ở đầu cây nhuyễn tiên lướt qua sau bên người. Nếu y không cơ trí mau lẹ thì thanh bội kiếm đã bị Viên Tử Y đoạt mất rồi.

Nguyên Viên Tử Y biết võ công Lam Tần cao thâm hơn hai tên thị vệ rất nhiều, nên nàng cố ý ném kiếm thành vòng tròn để đối phương chú ý rồi đột nhiên ra tay đoạt kiếm. Không ngờ bị Lam Tần phát hiện nhảy lùi tránh được, khiến nàng không ngớt tiếc thầm. Lam Tần lại ngẩn người hổ thẹn. Y hùng bá miền tây nam, môn đồ của y ở khắp vùng Lưỡng Quảng và Vân Quý. Đã hai chục năm chưa bao giờ y bị khuất phục, chẳng ngờ bữa nay gặp con nha đầu tóc vàng giở trò khinh mạn.

Lam Tần không nhẫn nại được nữa, rút trường kiếm đánh “soạt” một tiếng hô:

– Hay lắm! Tại hạ lãnh giáo mấy cao chiêu của cô nương.

Giữa lúc ấy thanh trường kiếm trên không đã hết đà, cắm thẳng xuống đất như ngọn bút. Viên Tử Y vung cây nhuyễn tiên quấn lấy đốc kiếm, đột nhiên đưa về phía trước đâm thẳng vào ngực Lam Tần. Hai bên đứng cách nhau đến hai trượng, nhưng chỉ trong chớp mắt mũi kiếm đã cách ngực y không đầy một trượng, có khác nào cánh tay dài chụp lấy chuôi kiếm rồi đột ngột đâm tới. Chiêu này lại vượt ra ngoài sự tiên liệu của Lam Tần. Y kinh hãi vội quét ngang thanh kiếm để đỡ gạt. Viên Tử Y hô:

– Tương tử xuy tiêu!

Lam Tần ra chiêu vừa rồi đúng là “Tương tử xuy tiêu” trong Bát Tiên kiếm. Môn Bát Tiên kiếm rất thịnh hành ở các tỉnh miền tây nam nên y cho rằng Viên Tử Y có biết cũng chẳng có chi là lạ, điều quan trọng là xem thử cô ta có chống đỡ nổi không? Y giương cặp lông mày lên lớn tiếng hỏi:

– “Tương tử xuy tiêu” thì sao?

Viên Tử Y lại hô:

– Âm dương bảo phiến!

Tiếng hô chưa dứt, cây nhuyễn tiên đã cuốn lấy thanh trường kiếm đâm vào hai bên ngực trái và ngực phải của Lam Tần. Đúng là chiêu “Âm dương bảo phiến” của Hán Chung Ly trong Bát Tiên kiếm.

Lam Tần lại một phen kinh hãi, nghĩ thầm nàng ta có sử dụng được Bát Tiên kiếm thì cũng chẳng có chi là lạ, mà lạ ở chỗ nàng dùng nhuyễn tiên để sử kiếm, vậy mà kình lực lại đưa ra tới đầu mũi kiếm, khiến nó bắn tới như mũi tên. Y đạp chân xuống tiến tới một bước định tấn công. Y cho là đối phương dùng nhuyễn tiên sử kiếm thì lực đạo sẽ hời hợt. Chỉ cần hai kiếm đụng nhau tất binh khí của đối phương bị đánh rớt. Không ngờ Lam Tần vừa giơ trường kiếm lên chưa kịp ra chiêu. Viên Tử Y đã lớn tiếng hô:

– Thái Hòa hiến hoa!

Đột nhiên nàng thu nhuyễn tiên về chuyển hướng. Lúc này cây nhuyễn tiên đã hết đà, thanh kiếm rớt xuống, Viên Tử Y đưa tay trái đón lấy trường kiếm, tay phải thu nhuyễn tiên về, miệng cười hì hì nhìn đối thủ. Lam Tần thấy nàng hô chiêu thức của mình, bất giác nghĩ thầm:

– Nhuyễn tiên dài mà kiếm ngắn. Thị ngồi trên ngựa mà mình đi dưới đất. Thế là mình kém cả hai đường. Huống chi thị còn trổ hàng trăm quái chiêu để đùa bỡn. Mình chỉ sơ ý một chút là mắc bẫy thị, há chẳng phải đem oai danh một đời buông theo dòng nước?

Y liền cầm kiếm để ngang trước ngực nghiêm nghị nói:

– Cứ đùa bỡn như thế thì kể làm gì? Nếu cô nương dùng đúng Bái Tiên kiếm để ra chiêu thì tại hạ đây xin bồi tiếp.

Viên Tử Y đáp:

– Hay lắm! Nếu không dùng Bát Tiên kiếm pháp chính tông để thắng các hạ thì chắc các hạ chẳng chịu cam tâm nhường ngôi chưởng môn cho ta.

Dứt lời nàng nhảy xuống ngựa, đồng thời quấn cây nhuyễn tiên vào lưng. Lam Tần đưa chếch mũi kiếm lên, tay trái bắt kiếm quyết. Y sử chiêu “Thiết Quải lý hồ lô hệ yêu” chỉ chờ đối phương phóng kiếm là lập tức tung ra nửa chiêu còn lại.

Viên Tử Y rung động thanh trường kiếm muốn ra chiêu, bất giác nàng quay lại ngó Hồ Phỉ một cái, rồi nhìn Lam Tần nói:

– Ta tỷ đấu với các hạ thì chẳng có gì đáng kể, nhưng đừng đem con ngựa quý này tặng cho bọn trộm ngựa.

Hồ Phỉ đáp:

– Lúc cô nương cùng động thủ với người ta, tại hạ không để tâm đến con ngựa của cô nương là xong.

Viên Tử Y nói:

– Hừ! Tên tiểu Hồ Phỉ này ngụy kế đa đoan ai mà tin được.

Tay trái nàng cầm cương ngựa, mũi kiếm xé gió theo chiêu “Trương Quả đảo kỵ lư” chênh chếch phóng ra. Lam Tần thấy nàng tay trái dắt ngựa, tay phải sử kiếm, bụng bảo dạ:

– Đây chính là ngươi tự tìm lấy cái chết, không còn trách ai được nữa.

Y liền phóng ra ba chiêu “Bạt vân kiếm nhật”, “Tiên nhân chỉ lộ”, “Khôi tinh điểm nguyên”. Thế là y hóa giải bằng một chiêu, còn hai chiêu để phản kích. Viên Tử Y thấy kiếm chiêu của đối phương rất lợi hại. Ngoài mặt tuy nàng vẫn mỉm cười mà trong lòng không dám khinh thị địch thủ nữa. Nàng nghĩ thầm:

– Sư phụ nói đúng lắm. “Bát Tiên kiếm pháp” quả là một môn nhất tuyệt trong kiếm thuật. Gã này sử kiếm nội lực còn thâm hậu hơn ta rất nhiều.

Nàng cũng dùng “Bát Tiên kiếm pháp” để chiết chiêu. Tay trái cầm cương ngựa nên không thể xoay mình tấn công cũng khó bề tung người nhảy nhót. Nhưng nàng giữ môn hộ cực kỳ nghiêm mật, Lam Tần không sao tìm ra được chỗ sơ hở. Thấy nàng sử dúng kiếm pháp chính tông của bản môn, y không khỏi lấy làm lạ, tự hỏi:

– Trong bản môn sao lại nảy sinh ra nhân vật này?

Chỗ đấu kiếm diễn ra trên đường lớn nối liền hai mặt nam bắc thành Hành Dương. Hai người mới trao đổi mười mấy chiêu, từ phía bắc có một đoàn đẩy cỗ xe muối đi tới. Tiếp theo trên đường lớn phía nam cũng có hai cỗ xe lừa đi lại. Những người buôn thấy trên đường có cuộc tỷ võ liền nhất tề đứng lại. Chẳng mấy chốc hai mặt nam bắc lại có bọn khách thương đi tới. Mọi người một là muốn coi cuộc đấu, hai là sợ hai tên võ quan của triều đình nên dừng lại trên đường lặng lẽ đứng xem.

Lại đấu một hồi nữa, Lam Tần nhận ra tuy đối phương có học qua “Bát Tiên kiếm pháp” nhưng chưa lĩnh hội đến chỗ tinh vi, ảo diệu. Có điều võ công nàng rất phức tạp. Mỗi lúc gặp nguy cấp, đột nhiên nàng sử một chiêu tựa hồ như “Bát Tiên kiếm pháp” mà thực ra không phải để hóa giải chiêu thức của y. Vì thế, trong lúc nhất thời y cũng khó bề thủ thắng. Lam Tần thấy đứng xem mỗi lúc một đông, trong khi đối thủ chẳng những là một cô gái, mà một tay cô còn dắt ngựa, tức là chỉ dùng một nửa sức lực để đối phó với y. Nếu như nàng vẫn đấu ngang ngửa thì y còn mặt mũi nào mà đi tham dự cuộc đại hội chưởng môn nhân ở Bắc Kinh nữa? Y liền huy động kiếm lực, phát huy tâm pháp mà y đã nghiên cứu mấy chục năm để xuất chiêu.

Mọi người đứng xem thấy y càng đánh càng hăng, kiếm quang lấp loáng xoay quanh Viên Tử Y tấn công ráo riết đều không khỏi lo thay cho nàng. Chỉ có hai tên thị vệ là mong Lam Tần đắc thắng để rửa nhục thay chúng. Viên Tử Y đánh lâu không hạ được, ngẫu nhiên xoay mình lại thấy nét mặt Hồ Phỉ như cười mà không phải là cười, lại tựa hồ có ý chế giễu, bèn lẩm bẩm:

– Thằng lỏi kia! Ngươi cứ cười ta đi! Bản cô nương cho ngươi biết thủ đoạn.

Khốn nỗi cuộc đấu này lại hạn chế ở trong Bát Tiên kiếm còn ngoài ra không được sử dụng bất kỳ môn võ nào khác. Tay trái viên Tử Y dắt con bạch mã, nếu đấu một lúc rồi lại buông cương ngựa, ỷ vào khinh công để thủ thắng tất khiến cho Hồ Phỉ coi thường. Viên Tử Y nặng lòng hiếu thắng lại thấy Lam Tần ra chiêu nào cũng giành thế thượng phong. Kiếm thế của nàng đã bị trường kiếm của y khống chế. Đột nhiên nàng khẽ đẩy tay trái về phía trước. Con bạch mã là giống vật có linh tính, hiểu ý của chủ nhân liền xông lại đứng thẳng mình lên tựa hồ muốn đạp vào đầu Lam Tần.

Lam Tần kinh hãi nghiêng mình né tránh, bỗng y cảm thấy cổ tay tê chồn. Thanh trường kiếm tuột khỏi tay bay vọt lên không. Y để hết tinh thần né tránh vó ngựa không đề phòng thanh kiếm trong tay mình bị đối phương đoạt mất. Võ công Lam Tần tuy chưa đáng kể vào hạng nhất lưu cao thủ, nhưng mấy chục năm trời y hành sự nghiêm cẩn nên mới bảo toàn được uy danh. Không ngờ cả đời thận trọng bữa nay chỉ sơ hở một chút mà bị thất bại về tay một thiếu nữ.

Lam Tần mất binh khí rồi liền tung người lại con ngựa của mình, rút thanh trường kiếm bên yên ngựa ra. Nguyên y là người phòng xa, cả trường kiếm cũng đem theo thêm một thanh phòng hờ. Bỗng thấy bạch quang lấp loáng. Viên Tử Y ném thanh trường kiếm trong tay ra. Hai thanh kiếm đụng nhau trên không đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Lam Tần ở trên không bị đứt làm hai đoạn.

Viên Tử Y dùng thủ pháp chặt kiếm đều vận dụng xảo kình, nếu không thì hai thanh kiếm ở trên không chẳng có điểm tựa lực làm sao chặt gãy thanh trường kiếm bằng thép nguyên chất được? Nàng dùng thủ pháp này cốt để hoa mắt mọi người cũng như đang diễn kịch bỗng nhiên trổ trò la, khiến khách đứng xem phải bật tiếng hoan hô. Tiếng hoan hô nổi dậy càng khiến Lam Tần thêm tức giận có đấu nữa cũng khó bề thủ thắng.

Quả nhiên mọi người đứng xem đồng thanh hoan hô, Lam Tần ngẩn người ra một chút rồi biến đổi sắc mặt. Viên Tử Y bắt lấy cây kiếm từ trên không rơi xuống, đâm tới trước trước ngực Lam Tần, miệng hô:

– Tào quốc cữu phách bản!

Lam Tần đưa kiếm lên gạt. “Choang” một tiếng, thanh trường kiếm này lại gãy làm hai đoạn. Đây vẫn là thủ pháp xảo diệu của Viên Tử Y, tuy nàng ra chiêu bằng “Bát Tiên kiếm pháp”, nhưng lúc song kiếm vừa chạm nhau là nàng liền hất nhẹ thân kiếm để biến chiêu.

Lam Tần phóng kiếm vào quãng không rồi bị đối phương từ trên cao đánh xuống, không còn chút sức lực nào để kháng cự. Đến khi vận kình xong thì thanh kiếm đã bị gãy rồi. Nói thẳng ra, chẳng qua là y cầm ngang lưỡi kiếm để mặc cho đối phương chém gãy mà thôi. Chỉ vì Viên Tử Y tâm niệm biến chuyển như điện chớp, ra chiêu như sấm sét, chưa xong kế này đã nảy kế khác khiến y không biết đường nào mà đề phòng. Khách đứng xem thấy thiếu nữ xinh đẹp chặt đứt liền hai thanh kiếm, lại hoan hô như sấm dậy.

Lam Tần tính thầm trong bụng:

– Con nhỏ này tuy chưa thể dùng Bát Tiên kiếm để thắng ta, nhưng võ công thị quảng bác lại quỷ dị khôn lường. Ta còn đấu nữa với thị cũng uổng công.

Y thấy Viên Tử Y vẻ mặt nhơn nhơn đắc ý liền nhảy xuống ngựa, chấp tay nói:

– Bội phục! Bội phục!

Y cúi xuống lượm ba khúc kiếm gãy lên hỏi:

–  Tại hạ ắt phải quay về làng, suốt đời không nhắc đến chữ “kiếm” nữa. Nhưng nếu người ta hỏi tại hạ bị thua về anh hùng hào kiệt nào thì tại hạ trả lời làm sao?

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu nữ họ Viên tên gọi Tử Y. Còn danh hiệu gia sư…

Nàng dắt ngựa đến bên Lam Tần ghé tai nói nhỏ mấy câu. Lam Tần vừa nghe xong liền biến sắc, bao nhiêu nét buồn nản tức giận thành sợ hãi kính cẩn. Y nói:

– Nếu sớm biết thế này thì tiểu nhân đâu còn dám động thủ với cô nương? Khi cô nương trở về bái kiến tôn sư xin nói giùm Lam mỗ ở Ngô Châu thỉnh an lão nhân gia.

Dứt lời y dắt ngựa lùi lại ba bước đứng chờ bên đường. Viên Tử y vỗ nhẹ vào lưng con ngựa trắng một cái, cười nói:

– Xin đắc tội!

Nàng quay lại nhìn Hồ Phỉ chúm chím cười, rồi giật cương ngựa Con bạch mã chưa cất bước đột nhiên nhảy vọt lên không, vượt qua mười mấy xe muối lao về phía bắc, chớp mắt đã mất hút. Trên đường cái cả mấy chục cặp mắt đều dồn về phía sau lưng nàng. Người ngựa đã khuất dạng từ lâu mà ai nấy vẫn đứng ngây ra nhìn.

Trong một ngày, Viên Tử Y đánh bại những cao thủ hai môn phái lớn ở phương nam, nàng đắc ý không sao kể xiết. Nàng thấy cây hai bên đường không ngớt chạy lùi về phía sau bất giác cất tiếng hát nghêu ngao. Nàng vừa hát được hai câu đột nhiên cảm thấy sau lưng nóng bỏng lạ thường, vội xoay tay lại sờ. Bỗng nghe nổ “bùng” một tiếng, lửa lập tức bén lên người nàng. Viên Tử Y kinh hãi, liền sử chiêu “Nhũ yến đầu lâm” từ trên lưng ngựa nhảy xuống con sông ở ven đường. Ngọn lửa cháy ở trên lưng lập tức tắt ngấm. Nàng từ dưới sông bò lên, sờ sau lưng thấy vạt áo bị cháy một mảng lớn. tuy chưa sém đến da thịt nhưng đã bén vào áo trong. Nàng tức giận vô cùng khẽ cất tiếng thóa mạ:

– Tiểu tặc Hồ Phỉ! Nhất định là ngươi giở quỷ kế rồi!

Nàng lấy trong bọc ra một tấm áo ngoài toan thay, bỗng nhìn thấy trên vai con bạch mã đen lại và sưng tấy lên. Hai con rết lớn đang bám vào để hút máu. Viên Tử Y giật mình kinh hãi vội dùng roi ngựa khêu con rết xuống rồi dùng hòn đá đập nát bấy ra. Độc tính của hai con rết này cực kỳ lợi hại, vết thương trên vai ngựa lan rộng dần. Con bạch mã tuy là loại thần tuấn mà cũng không chịu nổi đau đớn. Nó hí lên nghe rất thê thảm, hai chân trước quỵ xuống rồi ngã lăn ra. Viên Tử Y bàng hoàng không biết làm thế nào, miệng thóa mạ liên hồi:

– Tiểu tặc Hồ Phỉ! Hồ Phỉ tiểu tặc!

Nàng không kịp thay áo ướt, đưa tay ra toan nặn chất độc cho con ngựa nhưng nó sợ đau liền né tránh. Đang lúc hoang mang bỗng nghe có tiếng vó ngựa xa ở phía nam. Ba người cưỡi ngựa chạy nhanh tới. Người đi đầu chính là Hồ Phỉ. Ngân quang lấp loáng. Viên Tử Y cầm nhuyễn tiên trong tay tung mình nhảy lại vung roi đánh xuống đầu Hồ Phỉ, đồng thời cất tiếng thóa mạ:

– Tiểu tặc! Dùng ám tiễn để hại người, sao gọi là trang hảo hán?

Hồ Phỉ giơ đơn đao lên gạt cây nhuyễn tiên đánh “choang” một tiếng, cười đáp lại:

– Ta mà dùng ám tiễn hại người ư?

Viên Tử Y cảm thấy cánh tay tê chốn, không khỏi nghĩ thầm:

– Võ công của tên tiểu tặc này quả nhiên không phải tầm thường, ta chớ nên khinh địch.

Nàng lại mắng:

– Ngươi dùng độc vật đả thương ngựa của ta. Đó chẳng phải là hành vi ti bỉ hay sao?

Hồ Phỉ cười nói:

– Cô nương thóa mạ như vậy là đúng, nhưng có trông thấy Hồ Phỉ ta ra tay hạ thủ không?

Viên Tử Y sững sờ. Nàng nhìn thấy trên hai con ngựa đằng sau chàng là hai tên thị vệ cùng đi với Lam Tần. Hai người này cúi đầu rầu rĩ, hai tay đều bị trói. Hồ Phỉ tay cầm hai sợi dây dài còn đầu dây kia buộc vào cương ngựa của hai người. Nguyên hai tên thị vệ này đã bị chàng bắt được, dẫn tới.

Viên Tử Y động tâm, nàng đã đoán ra mấy phần liền hỏi:

– Chẳng lẽ lại là hai gã này?

Hồ Phỉ cười nói:

– Tôn tính đại danh của hai vị cùng ngoại hiệu trên chốn giang hồ, cô nương bất tất phải nhọc lòng hỏi nữa.

Viên Tử Y nguýt chàng một cái, rồi đáp:

– Ngươi biết rồi thì nói ra cho ta nghe.

Hồ Phỉ nói:

– Được. Tại hạ xin giới thiệu cùng Viên cô nương hai nhân vật thành danh trong võ lâm. Vị này là Tiểu Chúc Dung Tào Mãnh, còn vị nữa là Thiết Yết Tử Thôi Bách Thăng. Ba vị làm quen với nhau đi.

Viên Tử Y vừa nghe ngoại hiệu của hai người lập tức tỉnh ngộ. “Tiểu Chúc Dung” dĩ nhiên là tay chuyên dùng hỏa khí. “Thiết Yết Tử” đương nhiên giỏi phóng độc vật. Nàng đoán ra hai người này bị sỉ nhục, trong lòng oán hận nhân lúc nàng tỷ đấu với Lam Tần chúng đã ra tay làm hại ngấm ngầm.

“Bốp bốp” sáu tiếng liên tục, nàng quất mỗi tên ba roi ngựa vào đầu. Hai tên thị vệ bị đánh, máu chảy đầm đìa cả mặt.

Viên Tử Y trỏ vào Thiết Yết Tử nói:

– Mau lấy thuốc giải điều trị cho con ngựa của ta, không thì lại ăn ba roi nữa. Lần này ta dùng cây roi này đây.

Nàng nói rồi vung cây nhuyễn tiên lên, nghe tiếng lắc rắc, một nhánh cây liễu bên vệ đường bị đánh gãy xuống. Thiết Yết Tử hồn vía lên mây đưa hai cánh tay bị trói lên, miệng lắp bắp:

– Tiểu nhân đâu thể…

Hồ Phỉ không chờ hắn dứt lời đã vung đơn đao đánh “soạt” một tiếng, cắt đứt dây trói. Nhát đao đó chém cực nhanh, nhưng hay ở chỗ chỉ có dây trói bị đứt mà da dẻ hắn chẳng bị chạm một tí nào. Viên Tử Y lườm chàng một cái, hừm tiếng nho nhỏ, thầm nghĩ:

– Ngươi muốn khoe khoang bản lãnh chắc? Cái đó chẳng có chi đáng kể.

Thiết Yết Tử lấy thuốc giải trong bọc ra lại rịt cho ngựa, miệng khẽ nói:

– Đã có thuốc giải độc môn của tiểu nhân thì không có gì đáng ngại nữa.

Hắn dừng lại một chút rồi tiếp;

– Nhưng trong vòng ba ngày không được cho con ngựa này chạy nhanh để khỏi tổn thương gân cốt.

Viên Tử Y nói:

– Ngươi hãy cởi trói cho Tiểu Chúc Dung.

Thiết Yết Tử khấp khởi mừng thầm nghĩ bụng:

– Tuy ta bị ba roi ngựa nhưng may là ngoài đại ca ra, không một người quen nào nhìn thấy. Chính y cũng bị ba roi dĩ nhiên không đi kể lại chuyện này.

Nên biết bọn này làm thị vệ, nỗi đau khổ về thân xác có chi đáng kể, mà chúng chỉ sợ tổn thương đến oai phong để đồng bọn khinh thường. Hắn lại cởi trói cho Tào Mãnh xong, toan đi ngay, nhưng Viên Tử Y hỏi:

– Toan bỏ đi ư? Trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng thế được?

Hai tên bị Hồ Phỉ bắt tới đây. Chỉ một mình Hồ Phỉ mà chúng đã không địch nổi, huống gì bây giờ lại có thêm một nữ lang võ nghệ cao cường. Bọn chúng chỉ biết dừng cương bất động, chờ bị phát lạc.

Viên Tử Y nói:

– Tiểu Chúc Dung lấy hết hỏa khí trong mình bỏ ra, Thiết Yết Tử cũng lôi hết độc vật ra. Nếu còn lưu lại một vật gì là biết tay bản cô nương.

Nàng vung roi trên không cho bật lên những tiếng lách cách. Hai gã thị vệ vô phương đối phó, bụng bảo dạ:

– Ngươi muốn tước hết những ám khí đã thành danh của bọn ta để hả mối hận trong lòng. Thôi thì cũng tạm chấp nhận vì không còn cách nào khác.

Hai gã đành lấy hết ám khí ra. Hỏa khí của Tiểu Chúc Dung là cái hộp có lẫy nỏ. Thiết Yến Tử tay cầm ống trúc. Dĩ nhiên ống này đựng rết. Cái ống trúc nhẵn bóng và nổi màu vàng, hiển nhiên hắn đã sử dụng lâu năm.

Viên Tử Y nhìn thấy liền nghĩ tới những độc vật lông lá ở trong ống, không khỏi sởn da gà. Nàng nói:

– Các ngươi đã ngấm ngầm hạ độc thủ bản cô nương, quả là lớn mật. Bữa nay nhất định các ngươi phải chết, nhưng may cho các ngươi là bản cô nương đã có lệ trong một ngày chỉ giết một người. Xét ra thì vận của các ngươi…

Hai tên Tào, Thôi đưa mắt nhìn nhau, cùng nghĩ:

– Không hiểu bữa nay thị đã giết ai chưa?

Lại nghe Viên Tử Y nói tiếp:

– …thì chỉ một tên chết là đủ. Tên nào chết tên nào sống, bản cô nương khó bề quyết định. Bây giờ thế này, các ngươi dùng ám khí bắn nhau. Ai trúng trước là kẻ đó đáng chết. Ai tránh khỏi là ta tha mạng. Ta đã nói một là một, hai là hai, các ngươi cầu xin cũng vô ích. Nào, một hai ba, động thủ đi!

Hai tên còn đang do dự, không biết nàng nói thật hay đùa nhưng lại nghĩ thầm:

– Nếu để tên kia động thủ trước, há mình chẳng mất mạng ư?

Cả hai tên đều là hạng người thủ đoạn tàn nhẫn, tâm địa độc ác. Chúng vừa nghĩ vậy lập tức ra tay. Bỗng thấy ánh hỏa quang lấp loáng. Cả hai tên cùng rú lên thê thảm. Tiểu Chúc Dung bị con rết lớn cắn vào cổ. Thiết Yết Tử bị trái cầu lửa nhảy múa trước ngực, làm cháy sém cả râu. Viên Tử Y cười khanh khách nói:

– Hay lắm! Bất phân thắng bại! Bản cô nương hả giận rồi, cho bọn ngươi chạy đi.

Hai tên Tào, Thôi tuy trong mình đau đớn nhưng vừa nghe rõ hai câu, chúng chẳng kể rết độc cắn cổ, hay râu bị cháy sém nhất tề lên ngựa chạy ngay. Chúng chạy một quãng xa mới giải cứu cho nhau, người giải độc kẻ dập lửa.

Viên Tử Y cười rộ không ngớt. Bỗng một cơn gió thổi tới sau lưng nàng thấy lạnh lạnh, chợt nhớ ra áo mình bị cháy một mảng, đảo mắt lại thấy Hồ Phỉ đang nhìn mình cười hì hì, bất giác thẹn đỏ mặt lên quát hỏi:

– Ngươi nhìn gì vậy?

Hồ Phỉ quay đầu sang chỗ khác, cười đáp:

– Tại hạ đang nghĩ may mà con rết đó chưa cắn cô nương.

Viên Tử Y bất giác rợn người, nghĩ thầm:

– Gã nói vậy quả không sai. Mình mà bị rết cắn thì thật là đáng sợ.

Rồi nàng đáp:

– Ta sắp thay áo, ngươi hãy tránh đi.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương định thay áo ngay trên đường lớn này ư?

Viên Tử Y vừa tức mình lại vừa buồn cười. Nàng nghĩ tới mình trong lúc nóng nảy ăn nói không cẩn thận, bối rối trừng mắt nhìn Hồ Phỉ một cái rồi đi vào. Áo lót còn ướt, nàng đành để vậy. Tấm áo bị đốt cháy nàng cuốn lại ném xuống sông.

Hồ Phỉ nhìn nàng trở ra, bèn hỏi:

– Bây giờ cao tính đại danh của cô nương là Viên Hoàng Sam phải không?

Viên Tử Y “hừ” một tiếng, biết rằng Hồ Phỉ đã đoán ra “Viên Tử Y” không phải là tên thật của mình. Đột nhiên nàng kêu thét lên:

– Trời ơi! Ta bị rết cắn!

Rồi đưa tay ra nắm lấy sau lưng. Hồ Phỉ kinh hãi vội hỏi:

– Thật không?

Chàng tung mình vọt lại để giúp nàng bắt con rết. Nào ngờ Viên Tử Y kêu thét lên là để đánh lừa. Hồ Phỉ người đang lơ lửng trên không, nàng đột nhiên phóng chưởng đánh ra. Chiêu này lặng lẽ vô tung vô ảnh khiến Hồ Phỉ không kịp đề phòng liền bị lộn đi mấy vòng té xuống đống bùn ở bờ sông. Khi chàng ở trên không đã xoay người đi, nhưng hai chân cắm xuống, bùn ngập lên tới ngực rất hôi hám.

Viên Tử Y vỗ tay cười hì hì, lớn tiếng hỏi:

– Cao tính đại danh của các hạ phải chăng là Tiêu nê thu Hồ Phỉ?

Lúc này Hồ Phỉ dở cười dở khóc. Chàng đã vì lòng hảo tâm, không ngờ nàng lại đột nhiên ra tay. Dưới chân chàng toàn bùn đất mềm nhão, không có chỗ tựa chân để lấy đà nhảy lên, đành đi từng bước một, kéo theo nào bùn nào nước. Hồ Phỉ đang cơn tức giận nhưng thấy Viên Tử Y miệng cười chúm chím như hoa, trong lòng lại cảm thấy ngọt ngào. Chàng giang hai tay đầy bùn lớn tiếng quát:

– Con tiểu nha đầu kia! Ta đổi tên ngươi là Viên Nê Sam.

Viên Tử Y giật nảy mình, co chân chạy trốn. Ngờ đâu khinh công Hồ Phỉ nào phải tầm thường. Viên Tử Y chạy quanh chạy quẩn thủy chung vẫn bị Hồ Phỉ giang hai tay cản đường. Nàng thấy chàng cứ giang hai tay nhảy xổ đến nhưng không dám động thủ ra chiêu, vì chàng mà phản kích một đòn tất bùn dây vào mình. Nàng lâm vào tình trạng trốn không được, đánh không xong.

Hồ Phỉ xông lại mà hết đường né tránh, tất bị chàng ôm lấy. Nàng đánh bạo dừng bước, vẻ mặt nghiêm nghị hỏi:

– Ngươi dám đụng vào ta ư?

Hồ Phỉ giang hai tay nhảy qua nhảy lại chỉ để hăm dọa Viên Tử Y. Bây giờ thấy nàng đứng yên, chàng bèn lập tức dừng bước, mũi ngửi mùi hương thơm tho thoang thoảng. Chàng lùi lại mấy bước hỏi:

– Ta vì hảo ý giúp cô nương, cô lại giở trò chó cắn Lữ Động Tân là nghĩa gì?

Viên Tử Y cười đáp:

– Đó cũng là một chiêu trong Bát Tiên kiếm, gọi là “Lữ Động Tân thôi cẩu”. Nếu ngươi không tin thì cứ đi hỏi họ Lam kia tất biết.

Hồ Phỉ nói:

– Lấy oán trả ơn là hạng vô lương tâm, vô lương tâm!

Viên Tử Y đáp:

– Chà! Ngươi còn kể ơn với ta. Cái đó gọi là mua ơn, chỉ có hạng người tồi bại mới thế. Ta hỏi ngươi, sao ngươi biết hai gã đó phóng hỏa, hạ độc mà bắt lại cho ta?

Nàng nói câu này khiến Hồ Phỉ tắc họng. Nguyên hai tên thị vệ ngấm ngầm bắn hỏa chủng vào lưng nàng và bỏ rết độc trên vai ngựa của nàng, Hồ Phỉ đứng bên quả đã trông rõ mà không chịu nói thẳng ra. Chàng chờ đến khi Viên Tử Y đi rồi mới bắt hai gã lại và đuổi chạy theo.

Viên Tử Y nói tiếp:

– Bởi thế ta không chịu cái ơn của ngươi, có đúng vậy không?

Nàng rút khăn bưng mũi, chau mày hỏi:

– Mình ngươi hôi hám quá, ngươi có biết không?

Hồ Phỉ đáp:

– Đây là quà tặng của Lữ Động Tân.

Viên Tử Ý mỉm cười hỏi:

– Hóa ra ngươi tự nhận mình là chó.

Nàng đảo mắt nhìn quanh bốn mặt rồi cười nói:

– Ngươi xuống sông tắm rửa sạch sẽ đi rồi ta sẽ nói chuyện Triệu tam…tiểu tử Triệu Bán Sơn cho ngươi nghe.

Nàng định nói là “Triệu tam thúc” nhưng e Hồ Phỉ tự coi mình vào hàng trưởng bối, đành liều lĩnh để đổi cách xưng hô là “tiểu tử Triệu Bán Sơn”. Hồ Phỉ mừng rơn, đáp:

– Hay lắm! Hay lắm! Xin cô nương qua bên kia nghỉ một lát, tại hạ tắm nhoáng một cái là xong.

Viên Tử Y nói:

– Tắm rửa vội vàng sao hết mùi hôi hám được?

Hồ Phỉ cười xòa, sử chiêu “Nhất hạc xung thiên” tung mình nhảy xuống sông.

Viên Tử Y coi lại vết thương con bạch mã, thấy thuốc giải của Thiết Yết Tử quả nhiên linh nghiệm. Mới trong khoảnh khắc chỗ sưng đã xẹp bớt. Con ngựa không kêu nữa, chắc đã đỡ đau. Nàng liếc mắt ra xa nhìn về phía Hồ Phỉ thì thấy chàng bỏ quần áo giày vớ ở bờ sông rồi đi xa mấy chục trượng để rửa sạch bùn bẩn trên người. Nàng chắc chàng sợ thân thể lõa lồ bị nàng nhìn thấy. Chợt nàng nảy ra một ý, liền cởi bọc lấy một tấm áo cũ, rón rén đi tới trùm lên đống quần áo giày vớ của Hồ Phỉ, cuốn lại ôm ở tay rồi cưỡi con ngựa xanh, một tay dắt con ngựa trắng từ từ đi về phía bắc. Nàng hô to:

– Ngươi chậm chạp quá, ta đang có việc gấp không chờ được nữa đâu!

Dứt lời nàng giục ngựa chạy nhanh, chỉ sợ Hồ Phỉ để trần truồng nhảy lên rượt theo nên thủy chung không dám ngoảnh cổ lại.

Bỗng nghe tiếng Hồ Phỉ la lớn đằng sau:

– Này này! Viên cô nương! Ta chịu thua cô, bỏ quần áo lại cho ta.

Tiếng la mỗi lúc một xa. Hiển nhiên chàng không dám lên bờ rượt theo. Viên Tử Y vừa đi vừa buồn cười. Mấy lần không nhịn được phải bật cười thành tiếng. Sau cùng nàng tự nghĩ:

– Ta trêu gã thế này quả là mạo hiểm! Nếu gã đâm liều chẳng úy kỵ gì nữa, cứ cắm cổ rượt theo thì chính ta mới là người bẽ mặt.

Ngày hôm ấy nàng đi được hơn mười dặm thì đến một tiểu khách điếm liền vào nghỉ chân. Nàng tự nhủ:

– Con bạch mã trúng độc, Thiết Yết Tử đã dặn đừng cho nó chạy để khỏi tổn thương tới gân cốt.

Nhưng trong thâm tâm, nàng lại rất mong Hồ Phỉ đuổi tới để cãi vã với nàng. Một đêm trôi qua bình yên, nàng chẳng thấy tông tích của Hồ Phỉ đâu. Sáng hôm sau, Viên Tử Y lại thong thả lên đường, cứ nghĩ tới việc không biết Hồ Phỉ làm cách nào để lên bờ, rồi lấy quần áo đâu mà mặc là nàng không nhịn được cười. Mỗi ngày Viên Tử Y chỉ đi năm mươi dặm, mà Hồ Phỉ thủy chung vẫn không thấy đuổi theo, nàng hơi yên tâm. Nhưng tận đáy lòng nàng vẫn nhớ khôn nguôi hình ảnh của gã Tiểu nê thu Hồ Phỉ trên mình dính đầy bùn hôi hám.

Chương 07: Mưa gió đêm khuya nơi cổ miếu

Một hôm Viên Tử Y đi tới eo nước Dịch Gia, phía bắc dải Tương Đàm, cách Trường Sa không xa mấy. Viên Tử Y muốn tìm vào phạm điếm ăn uống nghỉ ngơi, bỗng nghe ở bến đò có tiếng người ồn ào. Nàng thấy một con thuyền lớn đậu ở bến Tương Giang. Một lão già đứng trên đầu thuyền chắp tay cáo biệt những người tiễn hành.

Viên Tử Y liếc mắt nhìn thấy phần lớn những người đưa tiễn đều là nhân vật võ lâm. Người vào cũng vai vuông lưng thẳng tinh thần quắc thước. Nhưng phía sau lão già là hai tên võ quan của triều đình. Viên Tử Y thấy tình hình đó, chợt động tâm tự hỏi:

– Phải chăng đây là chưởng môn một phái đến Bắc Kinh tham dự hội nghị của Phúc đại soái?

Viên Tử Y chú ý nhìn lão già thấy hai hàng tóc mai lão vẫn còn đen, nhưng chòm râu rậm dưới cằm đã lốm đốm bạc, mặt mày hồng hào, ăn mặc rất chải chuốt. Ngón tay trái đeo một chiếc nhẫn bích ngọc, đứng xa mà nhìn, thấy ánh dương quang chiếu vào lóng lánh. Bỗng nghe lão lớn tiếng hô:

– Xin các vị hiền đệ quay về đi!

Lão chắp tay cáo từ, thân hình đứng nghiêm trông vững như núi Thái Sơn. Những người ở trên bờ sông đồng thanh đáp:

– Xin chúc lão sư thuận buồm xuôi gió. Chuyến đi này lão sư sẽ làm dương danh phái Cửu Long ta ở đất kinh sư.

Lão già mỉm cười nói:

– Dương danh ở đất kinh sư thì không dám, chỉ mong phái Cửu Long không bị tổn thương về tay lão phu là đủ rồi.

Viên Tử Y nghe tiếng nói vang dội, trung khí đầy rẫy. Câu nói tựa hồ như khiêm tốn, nhưng thực ra trong giọng có vẻ tự phụ. Bỗng nghe những tiếng “đùng đoàng” nổi lên điếc cả tai, những mẩu giấy đỏ nhảy múa trên bến Tương Giang. Thì ra trên thuyền đậu gần bờ người ta đã đồng loạt đốt pháo để lên đường. Viên Tử Y biết là khi tràng pháo nổ hết, thuyền lớn sẽ khởi hành. Nàng nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, lượm hai viên đá ném vào hai tráng pháo. Hai tràng pháo này đều dài hơn hai trượng bị đá ném đứt ngay khúc giữa, lập tức rơi xuống sông tắt ngấm.

Diễn biến này xảy ra khiến cho những người ở trên thuyền nhốn náo cả lên, phong pháo bị đứt là một điềm đại bất lợi. Mọi người đã trông rõ ràng cả hai tràng pháo đều bị cô gái áo vàng làm đứt. Lập tức sáu, bảy đại hán nhảy lại bao vây, lớn tiếng quát tháo ầm ĩ:

– Ngươi là ai?

– Ai phái ngươi đến đây phá đám?

– Ngươi bắn đứt hai tràng pháo là có ý gì?

– Người nuốt gan hùm, mật báo hay sao mà dám gây sự với Dịch lão sư ở phái Cửu Long?

Nếu nàng không phải là thiếu nữ xinh đẹp lại cô thân thì chúng đã xông vào thượng cẳng chân hạ cẳng tay rồi. Viên Tử Y hiểu rõ gốc gác võ công của Vi Đà môn và Bát Tiên kiếm nên lúc ra tay, bụng đã thuộc làu, chẳng úy kỵ gì. Còn phái Cửu Long này nàng không hiểu rõ lai lịch lại thấy mọi người hùng hổ làm dữ, nàng mỉm cười đáp:

– Tiểu nữ ném con chim sẻ, chẳng ngờ lỡ tay làm đứt hai tràng pháo, trong lòng rất áy náy.

Mọi người nghe thanh âm trong trẻo mà khẩu âm lại là người đàng ngoài liền mồm năm miệng mười, nhao nhao lên hỏi:

– Lỡ tay đánh đứt một tràng pháo còn được, chứ có lý nào đánh đứt cả hai tràng pháo?

– Tên họ ngươi là chi?

– Đến Dịch gia trang làm gì?

– Bữa nay là ngày hoàng đạo, mà bị ngươi quấy phá khiến Dịch lão sư rất bực mình.

Viên Tử Y cười đáp:

– Hai tràng pháo thì đáng gì mà kể? Bây giờ đi mua hai tràng khác về đốt cũng được chứ có gì đâu?

Nàng nói rồi móc trong bọc ra lấy một đĩnh hoàng kim nặng chừng hơn hai lượng để trong lòng bàn tay. Đĩnh vàng này có thể mua được cả ngàn tràng pháo. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau đều nhận thấy cô gái rất cổ quái, không ai thò tay ra đón lấy đĩnh vàng.

Viên Tử Y cười hỏi:

– Phải chăng các vị đều là đệ tử phái Cửu Long? Dịch lão sư có phải là chưởng môn quý phái hay không? Lão nhân gia đến Bắc Kinh tham dự đại hội chưởng môn của Phúc đại soái, có đúng thế không?

Nàng hỏi một câu, mọi người lại gật đầu một cái. Viên Tử Y lắc đầu hỏi:

– Pháo đang nổ mà tắt là điềm đại bất tường. Vậy Dịch lão sư đừng nên đi nữa, ở nhà an cư hưởng phúc hay hơn.

Trong đám đông, một hán tử lỗ mãng không nhịn được, hỏi:

– Tại sao vậy?

Viên Tử Y vẻ mặt trịnh trọng, đáp:

– Tiểu nữ thấy khí sắc Dịch lão sư không tốt. Ấn đường nổi lên một quầng hắc ám mà lông mi lại nổi sát khí. Nếu lão gia đến kinh sư thì chẳng những uy danh phái Cửu Long vùi xuống đất mà Dịch lão sư e còn bị họa sát thân.

Mọi người nghe nàng nói bất giác nhìn nhau biến sắc. Có người nhổ nước bọt xuống sông, có người lớn tiếng thóa mạ, một số thì thầm bàn tán chỉ e cô gái này biết coi tướng, lời cô đoán nghe ra cũng có mấy phần đạo lý. Những người trên bờ và những người trên thuyền đứng cách nhau không xa, giọng nói của nàng lại trong trẻo ngân vang, câu nào cũng lọt vào tai Dịch lão sư.

Dịch lão sư nhìn kỹ Viên Tử Y, thấy nàng thân hình mảnh dẻ dáng điệu thướt tha tựa hồ không hiểu võ công, nhưng vừa rồi nàng ném đá làm đứt dây pháo, ra tay cực kỳ xảo diệu, kình lực lại mạnh. Con bạch mã nàng cưỡi là giống thần tuấn chứ không phải ngựa thường. Lão chắc nàng đến đây có chuyện gì liền chắp tay nói:

– Xin cô nương cho biết quý tính. Mời cô nương xuống thuyền nói chuyện.

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu nữ họ Viên, hay là Dịch lão sư lên bờ nói chuyện đi!

Theo phong tục người Tương Giang thời bấy giờ, ai ngồi thuyền đi xa, hễ đã xuống thuyền rồi mà lại bước lên bờ là một điều đại ky. Dịch lão sư nhíu cặp lông mày trầm ngâm không nói. Tuy lão võ công thâm hậu, làm đến chưởng môn một phái, mà bình sinh đối với những thuật chiêm tinh bói toán cùng coi phong thủy lão lại cực kỳ sùng tín. Lão thấy tràng pháo bị cô gái nhỏ tuổi này đánh tắt, lại nghe nàng nói những điểm bất tường như bị họa sát thân nên bụng nghĩ nếu nàng nói nữa chắc còn lắm điều khó nghe, chẳng thà lơ đi còn hơn, nên lão liền bảo nhà đò:

– Khai thuyền đi!

Rồi lão lẩm bẩm:

– Người âm có điều bất tường, đành chờ khi đến kinh, ta sẽ mua phẩm cầu thần giải trừ tai nạn là xong.

Nhà đò “dạ” lớn một tiếng. Người thì kéo neo, kẻ thì nhổ sào. Viên Tử Y thấy lão không lý gì đến mình, lại chuẩn bị khai thuyền, liền lớn tiếng hô:

– Hãy khoan! Nếu lão nhân gia không nghe lời khuyên của tiểu nữ thì đi không đầy trăm dặm, buồm gãy thuyền lật, bao nhiêu người trên thuyền đều phải chết bất đắc kỳ tử.

Dịch lão sư sa sầm nét mặt, lớn tiếng đáp:

– Lão phu thấy cô nhỏ tuổi không muốn chấp nhặt. Nếu cô cô còn nói nhăng nói càn thì đừng trách lão phu chẳng dung tình.

Viên Tử Y nhảy xuống thuyền mỉm cười nói:

– Tiểu nữ hoàn toàn vì hảo ý. Dịch lão sư bất tất phải nổi nóng. Xin lão sư cho biết đại danh để tiểu nữ chiết tự coi. Điều đó có lợi cho lão sư.

Dịch lão sư hừ một tiếng đáp:

– Không cần.

Viên Tử Y nói:

– Thôi được! Dịch lão sư không chịu nói tôn hiệu thì tiểu nữ chiết tự họ thôi cũng được. Chữ “Dịch” trên là chữ “Nhật” dưới là chữ “Vật”. “Vật nhật” cũng như “Bất nhật” ý nói sinh mạng không lâu nữa. Chuyến này Dịch lão sư ngồi thuyền đi đường thủy. Chữ “Dịch” mà thêm vào chữ “Nhất” và chữ “Thủy” thì thành chữ “Thang”. “Phó thang đạo hỏa” là dấn mình vào dầu sôi lửa bỏng, thật rất nguy hiểm. Thuyền có hình tượng của khí mãnh là đồ dùng. Chữ “Thang” dưới thêm chữ “Mãnh” thì thành chữ “Đăng”. “Đăng” nhiên vô tồn là mọi người trong thuyền đều chết sạch không còn một ai. Bên trên chữ “Thang” thêm chữ “Thảo” thì thành chữ “Đãng”. Thơ cổ có câu “Đãng tử hành bất quy”, có nghĩa là kẻ đãng tử đi không quay về. Dịch lão sư đi chuyến này e rằng phải bỏ mình nơi tha hương đất khách.

Dịch lão sư nghe tới dây không nhịn được nữa, giơ tay đập mạnh vào cột buồm đánh chát một tiếng khiến cây cột to lớn rung lên không ngớt. Lão quát hỏi:

– Cô nói đã hết chưa?

Viên Tử Y cười đáp:

– Dịch lão sư di chuyến này ắt trăm sự đều mong cát lợi, nhưng chữ “Hoàn” e rằng khó nói lắm. Lão sư đến Bắc Kinh để cùng người tranh hùng đồ bá, nếu chẳng động quyền cước thì cũng động đao thương. Chữ “Dịch” thêm chữ “Túc” là chân thì thành chữ “Thích” là đá, mà thêm chữ “Đao” thì thành chữ “Dịch” là xé nát. Vì thế chẳng những lão sư bị người đá chết mà phái Cửu Long còn bị diệt trừ.

Dịch lão sư càng nghe càng tức giận, khốn nỗi những gì nàng nói đều có lý, bất giác trong lòng kinh hãi, liền miễn cưỡng hỏi:

– Lão phu tên là Cát. Thế là “Cát tường, cát lợi”. Cô còn nói gì được nữa không?

Viên Tử Y lắc đầu đáp:

– Lại càng hung hiểm! Nguyên chữ “Cát” nghĩa rất tốt, nhưng đối với lão sư lại bất tường. “Dịch” là thay đổi, “Dịch Cát” là thay đổi cái Cát tường thì đó nghĩa là gì? Dĩ nhiên là “Bất cát”

Dịch Cát lẳng lặng không nói gì. Viên Tử Y lại nói:

– Chữ “Cát” chiết tự thành ba chữ “Thập nhất khẩu” là mười một cái miệng. Dịch lão sư ơi! Người ta chỉ có một miệng mà lão sư lại có đến mười một cái miệng, thì mười cái miệng thừa đó là miệng gì? Dĩ nhiên đây là thương khẩu, đao khẩu. Cứ đó mà xét thì chuyến này lão sư đến Bắc Kinh ắt bị trúng mười nhát đao thương, mà thi thể cũng không đưa về cố hương được.

Con người càng mê tín thì càng không dám nghe những điều bất tường. Dịch Cát trước nay thái độ khoan hòa, khuôn mặt có khí tượng của một phú ông mà bây giờ trên mi mắt bỗng nổi sát khí. Lão liếc mắt nhìn Viên Tử Y cười lạt hỏi:

– Hay lắm, xin đa tạ những lời kim ngọc của Viên cô nương. Xin hỏi cô nương là môn hạ của vị chưởng môn nào? Lệnh tôn là ai?

Viên Tử Y mỉm cười hỏi lại:

– Phải chăng lão nhân gia cũng muốn chiết tự để coi số mạng cho tiểu nữ? Nếu vậy hà tất phải hỏi đến lai lịch của sư thừa?

Dịch Cát cười lạt đáp:

– Lão phu thấy cô còn nhỏ tuổi mà chúng ta lại chưa biết nhau. Nhất định cô nương được ai sai khiến đến quấy Dịch mỗ. Họ Dịch này là người lớn không muốn đấu với trẻ nhỏ huống chi là đấu với nữ nhân. Vậy cô nương hãy gọi người đứng sau lưng cô ra đây để xem ai bị trúng mười đao, bỏ thây nơi đất khách quê người?

Viên Tử Y cười lạt hỏi lại:

– Người đứng sau lưng tiểu nữ ư?

Nàng giả vờ quay lại, bất giác cả kinh vì trên bờ có người đứng đó, mình mặc áo xanh bằng vải thô, hóa trang làm nông dân, chính là Hồ Phỉ. Nàng say sưa chiết tự với Dịch Cát nên chẳng biết chàng đến từ hồi nào. Viên Tử Y giữ vẻ thản nhiên quay lại cười đáp:

– Người đứng sau lưng tiểu nữ ư? Tiểu nữ coi gã chỉ là một tên tiểu tử hốt phân ở chốn hương thôn.

Dịch Cát tức giận:

– Cô đừng giả vờ hồ đồ nữa. Dịch mỗ nói người đứng sau là nhân vật ném đá giấu tay đẩy cô ra chịu đòn. Đã là nam tử hán đại trượng phu thì hà tất phải giấu đầu hở đuôi, làm trò lén lén lút lút đó?

Lão đoán kẻ ngấm ngầm sai khiến Viên Tử Y đến trước quấy phá cho cuộc xuất hành của mình gặp điều bất lợi. Người đó tất nhiên biết rõ tính lão hay úy kỵ, nếu không thì nàng nói toàn những điều xui xẻo làm chi?

Thực ra Viên Tử Y còn muốn quấy nhiễu nữa, nàng thấy lão càng sợ nghe điều bất lợi thì càng muốn chọn những chuyện hung hiểm tai ương để nói.

Nàng liền nghiêm nghị đáp:

– Dịch lão sư! Người ta thường nói những lời trung thực, nghe hay không nghe là tùy ở lão sư. Nếu như phái Cửu Long cần có người đến Bắc Kinh sư không tiện đi thì để tiểu nữ thay mặt lão sư đi là xong.

Viên Tử Y nhảy xuống thuyền không lâu thì Hồ Phỉ đã lần theo hành tung mà tới. Hôm ấy chàng nhảy xuống sông tắm gội mất cả quần áo, thân thể lõa lồ không tiện lên bờ. May mà lúc đó trời sắp tối. Chàng chờ đến đêm, mới lần vào nhà hương nông đánh cắp một bộ y phục. Chàng rất quan tâm đến pho “Quyền kinh đao phổ” gia truyền. Cuốn này chàng vẫn để trong túi áo lót của mình và đều bị Viên Tử Y cuốn mang đi sạch. Chàng nghĩ bụng cô gái kia lần đầu lấy cái bọc của mình, lần sau lại lấy áo quần, nhất định là vì cuốn đao phổ đó.

Trong lòng nóng nảy buồn phiền, Hồ Phỉ đuổi đến hôm sau mới kịp, nhưng thấy Viên Tử Y cho ngựa đi thong thả chứ không ra kiểu ăn cắp đao phổ rồi xa chạy cao bay. Chàng hoài nghi mà không sao đoán ra được ý nàng muốn gì. Hồ Phỉ đã định động thủ đoạt lại nhưng sợ chưa chắc đã thắng nổi, bèn ngấm ngầm theo dõi động tĩnh của nàng xem có người tiếp ứng chăng?

Sau mấy bữa chàng vẫn chẳng thấy gì khác lạ. Hôm nay đến eo nước Dịch gia ở bờ Tương Giang, chàng thấy Viên Tử Y gây hấn với Dịch Cát, điệu bộ muốn đoạt chức chưởng môn. Chàng ngấm ngầm lấy làm lạ nghĩ bụng:

– Cô này sao lại khoái làm chưởng môn thế không biết? Hễ gặp chưởng môn nhân nào là muốn giành chức vị. Phải chăng cô muốn dương oai trên chốn giang hồ hay còn có thâm ý nào khác? Xem chừng hai người này sắp đi tới chỗ động thủ. Ta cứ đợi bọn họ cò trai tranh nhau, mình làm ngư ông thủ lợi, tìm cách đoạt đao phổ đem về. Lúc này mà ta dẫn con bạch mã của cô ta đi thì dễ như trở bàn tay, nhưng bài ca hay không hát đến lần hai. Giờ mà diễn lại trò cũ, không khỏi khiến cô ta nghĩ rằng Tiểu nê thu Hồ Phỉ ta là kẻ bất tài.

Chàng liền từ từ đến gần đầu thuyền để chờ cơ hội đoạt cái bọc trên lưng nàng. Bỗng thấy Dịch Cát mặt đỏ bừng chuyển sang tím bằm. Lão cất giọng khàn khàn hỏi:

– Theo lời cô nương nói thì Dịch mỗ không đủ tài làm chưởng môn phái Cửu Long chăng?

Viên Tử Y tủm tỉm cười đáp:

– Không phải thế! Rõ ràng Dịch lão sư ra đi là bất lợi. Mạng người há phải trò đùa? Sao bằng nhường chức chưởng môn phái Cửu Long cho tiểu nữ. Đây là tấm lòng của tiểu nữ muốn vì lão sư…

Nàng chưa nói dứt lời đột nhiên hai hán tử trong khoang thuyền chui ra. Trong tay mỗi người đều cầm một cây Cửu tiết nhuyễn tiên. Một hán tử trung niên lên tiếng:

– Con nhỏ này điên điên khùng khùng. Sư phó bất tất hỏi đến thị làm chi? Xin chờ đệ tử đuổi thị lên bờ rồi khai thuyền để khỏi lỡ giờ tốt.

Hắn nói rồi vươn tay trái ra đẩy đầu vai Viên Tử Y. Viên Tử Y đưa tay khẽ búng vào đầu vai hắn bảo:

– Giờ tốt đã lỡ rồi!

Hán tử đó bỗng thấy vùng bả vai tê chồn, bàn tay chưa chạm được vào vai đối phương, cánh tay đã mềm rũ xuống. Một tên đại hán khác quát:

– Đại sư ca! Báo động đi!

Hai người cùng thổi lên một hồi còi lanh lảnh. Hai cây Cửu tiết tiên đồng thời quấn vào đầu gối Viên Tử Y. Bọn họ không muốn hạ sát nàng nên không đánh vào chỗ yếu hại. Viên Tử Y thấy hai người đều sử Cửu tiết tiên, nàng động tâm tự nhủ:

– Phải rồi, môn phái của chúng là Cửu Long phái, đại khái sở trường của họ là dùng Cửu tiết tiên.

Nàng đã nói chuyện đường dài với Dịch Cát, một là để lão tâm thần rối loạn, hai là để dò la gia số võ công của lão. Bây giờ nàng thấy hai cây nhuyễn tiên đánh tới, trong bụng mừng thầm tự nhủ:

– Hay lắm! Hôm nay các ngươi đụng đến bà tổ sử nhuyễn tiên rồi.

Nàng vung hai bàn tay nhỏ nhắn mau lẹ tuyệt luân chụp lấy hai đầu roi cột thành nút thắt rồi mỉm cười đứng yên chẳng hề di động. Hai hán tử vẫn chưa phát giác, chỉ thấy đầu roi chưa đánh tới người nàng đã dính vào nhau. Cả hai người dùng sức kéo mạnh lại, thế là trúng kế của Viên Tử Y. Nguyên đầu hai cây nhuyễn tiên vẫn mới cột lỏng, do cú kéo mạnh đó mà chúng lập tức thắt chặt vào nhau. Hai hán tử kinh ngạc đến ngẩn người lại kéo mạnh lần nữa. Tý lực hai vị sư huynh sư đệ này ngang nhau, không ai hơn ai mà hai đầu nhuyễn tiên càng thắt chặt hơn. Dịch Cát quát lên:

– Đồ lỗ mãng! Lùi lại mau!

Lão nắm vạt trường bào kéo mạnh một cái, những tiếng lách cách vang lên. Bảy khuy áo lập tức bật ra. Lão xoay tay trái kéo ngược về phía sau, lập tức cởi được trường bào, để lộ bộ kình trang bên trong, nai nịt gọn gàng, lão xuất thủ rất mau lẹ lại đầy vẻ oai phong. Những người trên bờ phần đông là đệ tử cùng bạn hữu của lão, còn một phần là người đứng xem. Họ thấy vậy lập tức hoan hô vang dội.

Viên Tử Y lắc đầu nói:

– Cái này không hay đâu. Đây là thủ pháp “Thoát bào nhượng vị”, thoát thì không sao, mà nhượng vị mới đáng lo. Đây là chủ ý nhường chức vị chưởng môn lại cho tiểu nữ.

Dịch Cát giật thót cả người, lão cảm thấy ra tay như vừa rồi quá là triệu chứng bất tường. Lão đưa tay phải xuống bên hông, vung nhẹ một cái. Tay lão đã cầm cây cửu tiết tiên sáng loáng. Lão vung tay không phát ra tiếng động vì chín đốt roi đồng không đụng vào nhau. Viên Tử Y la thầm:

– Trời ơi! Hỏng bét. Công phu này ta không hiểu được. E rằng bữa nay đến phải hỏng việc mất.

Nàng thấy mỗi đốt cây roi này đều lớn bằng quả trứng gà. Người lão rất cao lớn đứng ở đầu thuyền giống như một tòa tháp sắt, tay cầm cây roi to lớn lại càng thêm oai phong lẫm liệt.

Lúc này nhà đò đã kéo neo. Con thuyền ở dưới sông lắc lư không vững. Dịch Cát vung tay một cái, cây cửu tiết tiên quăng ra cuốn lấy mỏ neo sắt ở đầu thuyền. Lão lại vung tay một cái nữa, nghe “bùm” một tiếng, nước bắn tung tóe, mỏ neo đã rơi xuống sông, con thuyền lập tức đứng vững trở lại. Nếu cánh tay lão không mang nổi sức nặng bảy, tám trăm cân thì làm sao nhấc nổi mỏ neo sắt. Cây trường tiên chín đốt vừa là nhuyễn tiên vừa là cương tiên, nếu không phải là người nội ngoại kiêm tu thì khó lòng sử dụng được.

Viên Tử Y nghĩ bụng:

– Tý lực của lão này ghê quá! Lão vung tiên không thành tiếng động. Ta chỉ có thể dùng trí mới thắng lão được, chứ không thể dùng sức.

Nàng thấy lão thân hình to lớn, lại nhiều tuổi rồi thì công lực có thâm hậu nhưng thủ cước chưa chắc đã mau lẹ, bụng liền nảy ra một kế rồi nói:

– Dịch lão sư! Tiểu nữ là đàn bà con gái mà tỷ đấu với lão sư ngay ở đầu thuyền thì bất luận thắng hay bại đều bất lợi cho chuyến đi của lão sư. Chúng ta kiếm nơi nào khác để tỷ đấu hay hơn.

Dịch Cát thấy nàng nói có lý nhưng lại không muốn lên bờ. Viên Tử Y hỏi:

– Dịch lão sư! Chúng ta nên thỏa thuận trước. Nếu tiểu nữ thắng được lão sư thì ngôi chưởng môn phái Cửu Long dĩ nhiên được lão sư chắp tay nhường lại, nhưng không hiểu quần đệ tử dưới trướng có tâm phục chăng?

Dịch Cát tức quá mặt tái nhợt, bèn lớn tiếng:

– Không phục cũng phải phục. Nhưng cô thua thì sao?

Viên Tử Y ỏn ẻn, đáp:

– Thì tiểu nữ dập đầu xin bái lão sư làm nghĩa phụ và thỉnh cầu lão sư thương mến cô con gái nuôi đấy nhé!

Dứt lời đột nhiên nàng nhảy vọt lên, chân phải đạp vào dây leo thuyền, chân trái đạp vào cây giăng ở đáy lá buồm. Nàng rút cây nhuyễn tiên ở đai lưng vung lên trời quấn vào khoảng giữa cột buồm, rồi vận kình ra cánh tay níu lấy nhuyễn tiên để tung người lên cao hơn. Tay trái nàng vừa ôm lấy cột buồm thì tay phải lại vung nhuyễn tiên lên quấn lấy cột buồm thi triển thân pháp “Nhất hạc xung thiên” tung mình lên cao hơn cột buồm, rồi từ từ hạ xuống đứng trên đỉnh lá buồm. Thân pháp của Viên Tử Y cực kỳ khinh linh ngoạn mục khiến những người đứng xem trên bến đều hoan hô vang dậy. Trong bọn đệ tử phái Cửu Long có người la:

– Này! Ngươi chơi trò đó là có ý gì? Có giỏi thì hãy xuống lĩnh giáo công “Cửu Long tiên” oai danh lừng lẫy ở vùng Tam Tương của Dịch lão sư đi.

Viên Tử Y đáp:

– Tỷ đấu ở trên cao này thì mọi người mới trông rõ được.

Dịch Cát hừ một tiếng, rồi quấn cây Cửu Long tiên vào ngang thắt lưng. Tay trái lão nắm lấy cột buồm, người lão đã rời khỏi mặt thuyền hai thước. Tiếp theo lão lại dùng tay phải bám vào cột đẩy người lên cao thêm hai thước nữa. Cây cột buồm này lớn bằng miệng bát. Tay lão không nắm hết được nhưng chỉ kình của lão rất lợi hại, chưởng lực cũng cực kỳ hùng hậu. Hai tay lão luân phiên bám vào cột buồm, đưa người lên một cách vững chắc. Tuy thân pháp không mau lẹ và ngoạn mục bằng Viên Tử Y, nhưng các hành gia võ học đều biết là công phu của lão vừa trầm ổn vừa mãnh liệt, quả không phải tầm thường. Viên Tữ Y thấy lão chỉ còn cách cây cột buồm chừng hơn một trượng liền tự nhủ:

– Nếu để lão trèo được lên ngọn thì khó ăn lắm. Chỉ còn cách ở trên cao đánh xuống, hãy kiềm chế trước không để lão trèo lên được nữa.

Nàng liền vung cây ngân tiên một cái, hô lớn:

– Tiểu nữa có cây “Thập bát tiên” còn dài gấp đôi cây “Cửu Long tiên” của lão sư.

Đầu cây nhuyễn tiên vung lên không rồi chụp xuống đầu lão. Hai tay Dịch Cát đều không rảnh thì làm sao đỡ được? Nếu né tránh thì người lão sẽ tuột xuống cột buồm, như vậy chưa đánh đã thua. Bọn đệ tử trên bến lớn tiếng thóa mạ ầm ĩ:

– Đồ mặt dày!

– Vậy mà gọi là giao thủ công bằng ư?

– Con điếm kia! Có giỏi thì xuống đây động thủ!

Bỗng thấy Dịch Cát nghiêng đầu đi. Tay trái lão ôm cột buồm, tay mặt vung cây Cửu tiết tiên lên cao để nghinh địch. Viên Tử Y sợ hai cây đụng nhau sẽ bị quấn lấy, nàng ít sức giựt lại không nổi tất phải kém thế. Nàng liền rung tay cho cây ngân ty tiên dang ra, chờ cơ hội vung roi đánh tiếp. Không ngờ Dịch Cát sử chiêu “Tháp hoa cái đỉnh”, múa tít cây cương tiên bảo vệ đầu và mặt, tay trái lão buông lỏng ra, người lão tung lên cao. Sau bốn, năm lần tung lên hạ xuống, lão đã ngồi vững trên nóc cột buồm.

Dưới bến đò, tiếng vỗ tay hoan hô vang dội. Tuy lão chiếm được lợi thế mà Viên Tử Y lại cảm thấy yên tâm vì nàng thấy vừa rồi lão vung cây cương tiên, lực đạo tuy mãnh liệt nhưng chiêu số lại không có gì biến hóa khác thường, tức là tiên pháp của lão về mức độ tinh vi, xảo diệu hãy còn kém xa nàng.

Viên Tử Y quay sang mé tả, tay cầm cây ngân ty tiên từ mé hữu đánh vòng lại. Dịch Cát vẫn ngồi vững, xoay cây Cửu tiết tiên gạt cây nhuyễn tiên của đối phương.

Lúc này ánh dương quang chiếu xuống nước sông Tương hiện ra muôn đạo kim quang. Hai người ở trên cao bảy, tám trượng tỷ đấu. Hai cây nhuyễn tiên chẳng khác hai con linh xà uốn lượn trông rất ngoạn mục. Trên bờ sông người tới xem mỗi lúc một đông. Trên sông Tương, đa số thuyền bè xuôi ngược cũng đều ngừng lại, thủy thủ cùng khách đi thuyền đều ngửng đầu lên xem cuộc tỷ đấu.

Dịch Cát tự biết khinh công của mình không bằng đối phương, nên lão chỉ ngồi vững trên đầu cột, hai chân kẹp chặt lấy cột buồm để khỏi rơi vào thế hạ phong. Viên Tử Y nhảy qua nhảy lại trên rường buồm, thoắt tới thoắt lui, cây nhuyễn tiên của nàng dài gấp đôi cây Cửu Long tiên nên nàng liên tục tấn công Dịch Cát, còn lão chỉ giữ thế thủ chứ không phản kích được.

Sau khi trao đổi năm, sáu chục chiêu cây ngân ty tiên trong tay Viên Tử Y nhảy múa chẳng khác con rắn bạc, chiêu số của nàng mỗi lúc một thêm kỳ diệu. Dịch Cát quanh đi quẩn lại chỉ có bảy tám chiêu, một mặt để hộ vệ kín toàn thân, một mặt chờ thời cơ quấn lấy cây nhuyễn tiên của đối phương.

Cứ nhìn hiện tình thì tựa hồ như Viên Tử Y đã chiếm thế thượng phong nhưng phép đánh của nàng rất tốn sức. Nếu đấu lâu, tiên pháp thế nào cũng lộ sơ hở, hoặc vướng chân trượt bước là thua. Nguyên chỗ dụng tâm của Dịch Cát là theo binh pháp của Tôn Tử: “Ban đầu không thắng được ngay phải chờ địch mệt mới đánh thắng được”. Viên Tử Y cũng hiểu dụng ý của lão nhưng bất luận nàng biến chiêu công kích thế nào lão cũng chỉ đưa ra bảy, tám chiêu bảo vệ toàn thân nghiêm mật dị thường, không có chỗ hở nào để địch thủ đánh vào.

Giả tỷ như ở chỗ đất bằng thì nàng có thể tung người lên cao đánh xuống hoặc lăn người lại đánh. Đằng này chính nàng dụ lão lên trên cao tỷ đấu, không ngờ lại bị lão chiếm mất địa lợi. Hai bên lại tỷ đấu một lúc nữa mà tình thế chẳng có gì biến đối. Viên Tử Y cảm thấy mình hơi thở đã nặng nề, nhảy nhót không được linh hoạt như trước nữa.

Dịch Cát thấy thời cơ đã đến, lão chờ cây ngân ty tiên lướt tới trước mặt, đột nhiên vươn tay trái ra chụp lấy trái kim cầu. Viên Tử Y kinh hãi hạ thấp cây nhuyễn tiên. Không ngờ cây Cửu Long tiên của Dịch Cát lại vụt tới như điện. Nếu cây ngân ty tiên không tránh mau thì hai cây roi sẽ quấn vào nhau. Dịch Cát chiếm được ưu thế thì không nhường đối thủ nữa, lão nhìn chuẩn xác chỗ đầu roi của đối phương tung lên, liền quát to một tiếng, ra chiêu “Thanh đằng triền hồ lô”, vung cây cửu tiết tiên quấn lấy cây ngân ty tiên.

Viên Tử Y cảm thấy tay trái tê buốt. Cây trường tiên trong tay nàng bị một luồng cường lực kéo mạnh ra. Nàng biết nếu dùng sức để tranh đoạt với đối phương tất mình bị thua, trong lòng xoay chuyển y nghĩ rất mau. Gặp lúc nguy cấp nàng liền tung hiểm chiêu. Tay phải Viên Tử Y bất ngờ hất mạnh ra, cây ngân ty tiên vuột khỏi tay quấn vào cột buồm. Chỉ thấy ánh ngân quang lấp loáng rồi những tiếng lách cách vang lên, cả cây cửu tiết tiên lẫn cây ngân ty tiên đã quấn lấy hai chân và cánh tay phải của Dịch Cát như trói lão vào cột bồm.

Biến cố xảy ra đột ngột. Dịch Cát nào ngờ tới. Lão kinh hãi vươn tay cởi hai cây roi. Bỗng thấy Viên Tử Y vọt tới trước mặt, đưa tay trái móc mắt lão. Dịch Cát vội buông roi ra đưa tay trái để đón đỡ. Nào ngờ Viên Tử Y ra đòn chỉ là hư chiêu. Tay trái nàng ở trên không dừng lại một chút để kiềm chế tay trái lão, tay phải nàng phóng tới điểm vào huyệt “Uyên dịch” dưới nách lão nhanh như chớp.

Mọi người đứng xem thấy tựa hồ như lão tự đưa tay trái lên cho lộ nách ra để đối phương tự do điểm huyệt. Dịch Cát bị điểm trúng huyệt đạo, cánh tay trái rũ xuống, hai chân cùng cánh tay phải lại bị quấn vào cột buồm. Xem chừng lão phải thất bại nặng nề không còn cách nào xoay xở được nữa

Hồ Phỉ đứng dưới đất thấy Viên Tử Y sắp thua mà lại chuyển thành thắng thủ pháp xảo diệu vô tỷ. Chàng vừa reo lên một tiếng thì đột nhiên thấy ánh kim quang lấp loáng, chín mũi kim tiêu phóng lên cột buồm nhằm bắn vào các huyệt đạo sau lưng Viên Tử Y.

Viên Tử Y thấy Dịch Cát thảm bại đến nơi trong lòng đang đắc ý muốn lớn tiếng khoa trương mấy câu, bắt buộc lão phải nhận lời nhường chức chưởng môn mới buông tha, không ngờ phía dưới lại đột nhiên có người đánh lén. Chín mũi kim tiêu phóng tới rất nhanh mà bộ vị lại chia ra bốn mặt. Người Viên Tử Y đang đứng trên cây xà ngang nóc buồm thuyền, nàng chỉ bước qua phải hoặc trái nửa bước là lập tức rơi từ trên cao sáu, bảy trượng xuống, thì né tránh thế nào được? Con người ta lúc nguy cấp chợt nảy ra ý sáng, Viên Tử Y liền lộn nửa người về sau, chín mũi kim tiêu đều lướt qua nóc buồm. Những người dưới thuyền và trên bờ đang bật tiếng la hoảng thì thấy hai chân nàng đã móc vào cây xà ngang, treo ngược người lơ lửng trên không.

Kẻ kia thấy bắn lén lần đầu không trúng liền bắn tiếp ba mũi kim tiền tiêu nữa. Lần này một mũi nhắm bắn vào mình nàng còn hai mũi bắn vào cây xà ngang. Nếu nàng lộn người lên thì lập tức trúng phải kim tiêu. Hồ Phỉ biết lần này Viên Tử Y không thể tránh được ám khí, chàng lập tức dùng ba đồng tiền bắn ra. Chàng ra tay sau thủ kình lợi hại hơn, nên dù ba mũi kim tiêu trên đi rất mau, nhưng ba đồng tiền vẫn đuổi kịp, chạm nhau trên không. Tất cả đều bay chếch đi rồi rớt xuống sông.

Viên Tử Y cả kinh, khắp mình toát mồ hôi lạnh. Nàng toan lộn người lên bỗng nghe Hồ Phỉ lớn tiếng quát:

– Thế là nghĩa làm sao?

Chàng nhảy xuống đầu thuyền. Bỗng thấy những tiếng rắc rắc thật lớn vang lên. Cây xà buồm đã bị gãy làm đôi, những tiếng rắc rắc thật lớn vang lên. Còn cây cột buồm mà Dịch Cát ngồi cũng bị gãy luôn. Viên Tử Y vừa rồi đầu lộn ngược, chân móc lên xà buồm. Nàng đã nhìn rõ kẻ bắn ám khí và Hồ Phỉ ra tay giải cứu nàng bằng cách nào, nhưng cây xà buồm làm sao mà gãy thì nàng chưa thấy kịp.

Nguyên Dịch Cát bị điểm huyệt nơi cánh tay trái nửa người không nhúc nhích được nhưng tay phải vẫn còn có thể ra sức, bèn vội vàng rút tay ra khỏi dây trói. Lão thấy Viên Tử Y treo ngược người trên xà liền vận hết nội lực toàn thân vào bàn tay phải đánh xuống cây xà. Tý lực của lão cực kỳ mãnh liệt, lão đánh liền ba cái khiến cây xà bị gãy đôi và Viên Tử Y bị rơi xuống.

Giữa lúc ấy Hồ Phỉ đã nhảy xuống thuyền. Chàng nghĩ bụng nếu Viên Tử rớt xuống rồi mà lão họ Dịch vẫn ngồi ngay ngắn trên đầu cột buồm rồi tụt từ từ tức là lão thắng. Chàng liền vận kình lực dùng lưng đập mạnh vào cột buồm. Cột buồm này vừa lớn lại vừa cứng. Chàng đập lưng chỉ làm cho lắc lư một chút. Trong lòng nóng nảy, chàng liền rút đơn đao đánh “soạt” một cái chém cột buồm gãy đôi.

Cả Viên Tử Y lẫn Dịch Cát cùng rớt xuống, nhưng cây xà ngang của Viên Tử Y bị gãy trước, người nàng nằm ngay dưới cây buồm gãy. Nếu để cột buồm gãy đè trúng thì nguy hiểm đến tính mạng nàng.

Hồ Phỉ liền chụp lấy sợi dây thừng nhằm phía Viên Tử Y ném tới rồi quát lớn:

– Chụp lấy!

Dây thừng được tung ra tựa hồ như một cây nhuyễn tiên. Viên Tử Y người đang chơi vơi, lòng hoảng loạn, tuy nàng biết bơi lội nhưng thấy trước mắt đám đông mà ngã xuống nước, rồi ướt đẫm leo lên thuyền cũng thật khó coi. Đôt nhiên thấy quãng dây thừng bay tới, nàng vội vươn tay chụp lấy. Hồ Phỉ giật mạnh một cái. Viên Tử Y mượn thế tung mình nhẹ nhàng hạ xuống đầu thuyền. Nàng vừa đặt hai chân xuống ván đã nghe một tiếng “ùm” thật lớn, nước bắn tung tóe vào mặt nàng như hạt châu. Đó là khúc cột buồm lẫn Dịch Cát cùng rớt xuống sông. Những người trên bờ kêu la ầm ĩ rồi những tiếng lõm bõm vang lên không ngớt. Nguyên Dịch Cát không biết bơi lội. Mười bảy, mười tám tên đệ tử phải Cửu Long tới tấp nhảy xuống sông Tương để tranh nhau cứu sư phụ.

Viên Tử Y nhìn Hồ Phỉ ỏn ẻn cười, nói:

– Hồ đại ca! Cảm ơn đại ca nhé!

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Tại hạ họ “Hồ” theo cách chiết tự thành ba chữ “Nguyệt thập khẩu”, chắc là mỗi tháng phải trúng chín nhát đao.

Viên Tử Y bật cười khoan khoái, nghĩ bụng:

– Vừa rồi ta chiết tự với Dịch Cát bị y nghe trộm cả rồi.

Nàng liền cười nói:

– May ở chỗ tên của đại ca có chữ “Phỉ” là không. Mà “Phi dã phi dã” nghĩa là “không phải đâu, không phải đâu”. Bởi vậy cái nạn chín nhát đao gặp dữ hóa lành.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đa tạ kim khẩu của cô nương

Viên Tử Y gặp lại Hồ Phỉ trong lòng vô cùng hào hứng, muốn nhân dịp chàng ra tay tương trợ kiếm cớ làm lành, bèn cười nói:

– Chữ “Phỉ” là văn vẻ, xinh đẹp thì bất tất phải nói nữa. Chữ “Phỉ” nếu phía dưới thêm chữ “Vũ” nghĩa là lông thì thành chữ “Phi” là phương phi tươi tốt, thêm chữ “Ty” là tơ vào bên cạnh thì thành chữ “Phi” là lụa đỏ, tức áo lông đại ngọc, chủ về việc làm quan to.

Hồ Phỉ thè lưỡi ra đáp:

– Thăng quan phát tài thì tại hạ không dám đâu!

Hai người ở đầu thuyền cười nói thản nhiên coi như bên cạnh chẳng có ai. Bỗng nghe trên bến đò nhốn nháo cả lên. Bọn đồ đệ phái Cửu Long đang ba chân bốn cẳng khiêng Dịch Cát cùng cây cột buồm gãy đưa lên bờ. Dịch Cát tuổi thì cao, người thì béo mập. Không biết bợi lội, uống phải nhiều nước lại tức giận quá đỗi nên đã ngất đi.

Viên Tử Y ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng:

– Không khéo xảy ra án mạng thì vụ này trở nên lớn chuyện.

Nàng khẽ nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta chạy đi thôi

Dứt lời nàng nhảy lên bờ, thò tay rút lấy cây nhuyễn tiên quấn ở cột buồm bị gãy. Bọn đệ tử phái Cửu Long quát tháo ầm ĩ Sáu, bảy cây nhuyễn tiên vung lên đánh tới người nàng. Chỉ nghe một loạt những tiếng loảng xoảng vang lên, sáu, bảy cây nhuyễn tiên đụng vào nhau tựa hồ tấm lưới sắt chụp xuống đầu Viên Tử Y. Viên Tử Y tay cầm nhuyễn tiên dùng phép tá lực đả lực, vung cây nhuyễn tiên ngang trên đỉnh đầu, đồng thời nghiêng người chuồn ra ngoài. Nàng liếc mắt nhìn trộm Dịch Cát thấy thân hình béo mập của lão nằm ngang dưới đất không nhúc nhích, không hiểu còn sống hay đã chết. Hổ Phỉ tung mình lên ngựa, tay phải chàng dắt con bạch mã miệng la gọi:

– Cái chức chưởng môn phái Cửu Long có điểm bất lợi. Thôi không làm nữa là xong.

Viên Tử Y cười đáp:

– Tiểu muội xin tuân lời đại ca dạy bảo.

Nàng cũng tung người nhảy lên lưng ngựa. Bọn đệ tử phái Cửu Long kêu réo ơi ới, tới tấp kéo chạy ra chặn đường. Hai cây nhuyễn tiên quét ngang dưới chân đánh tới chân ngựa. Viên Tử Y quay lại vung tay quấn lấy hai cây tiên kia. Tay phải nàng giật cương, con bạch mã lao vọt về phía trước. Con ngựa thần tuấn phi thường, chạy nhanh vô kể mà sức mạnh cũng dị thường. Nó tung vọt đi lôi theo cả hai hán tử tay cầm nhuyễn tiên. Diễn biến bất giờ khiến hai hán tử cực kỳ kinh hãi. Người chúng đã bị con bạch mã lôi đi hơn sáu, bảy trượng. Hai gã muốn đứng lên nhưng ngựa chạy nhanh quá, vừa đứng dậy thì lập tức bị kéo té xuống. Trong lúc kinh hoàng, chúng quên cả buông nhuyễn tiên ra, tay vẫn khư khư giữ chặt. Viên Tử Y thấy thế cười rộ. Đột nhiên nàng dừng ngựa lại, hai hán tử đứng lên. Mặt mũi chúng tím bầm, chân tay mình mẩy cũng đầy thương tích. Nàng cất tiếng hỏi:

– Trong cây nhuyễn tiên của các ngươi có bảo vật hay sao mà không buông ra?

Nàng vừa nói dứt, không chờ chúng trả lời, đã thúc nhẹ gót chân vào bụng ngựa. Con bạch mã lao về phía trước lại kéo theo hai hán tử. Bây giờ hai gã mới tỉnh ngộ buông tay ra. Tai chúng còn nghe Viên Tử Y cười khanh khách. Nàng cùng Hồ Phỉ sóng vai cho ngựa chạy song song. Bọn đệ tử phái Cửu Long ở bến Dịch Gia rất đông, thanh thế rất lớn. Hôm nay chúng tiễn Dịch lão sư lên đường đều tụ tập ở bến sông, chúng thấy Dịch Cát bị làm nhục nên muốn xông lại bắt Viên Tử Y.

Viên Tử Y cùng Hồ Phỉ tuy võ công cao cường, những ít người khó địch nổi số đông. May mà Viên Tử Y lúc chạy đi đã thi triển một chiêu vung ngược roi kéo người rất kỳ ảo khiến chúng sững người ra há hốc miệng, trong lúc nhất thời không biết làm thế nào. Khi chúng tỉnh táo lại muốn xông đến vây đánh thì hai người đã ruổi ngựa đi xa rồi.

Lúc này Dịch Cát đang từ từ hồi tỉnh. Bọn đệ tử tới tấp thỉnh an và thóa mạ Viên Tử Y là hạng người gian manh. Chúng nhao nhao bản tán mà chẳng ai hiểu lai lịch nàng ra sao, cho rằng có đối thủ của phái Cửu Long đứng sau lưng nàng giật dây. Viên Tử Y đi xa rồi, quay đầu nhìn lại không còn thấy nhà cửa ở bến Dịch Gia nữa mới cầm cửu tiết tiên vừa đoạt được quẳng xuống đất.

Nàng quay lại nhìn Hồ Phỉ thấy chàng mặc y phục của người hương nông trông thật buồn cười. Nhưng nàng nghĩ tới nếu vừa rồi chàng không ra tay giải cứu thì không chừng nàng đã bỏ mạng ở bến Dịch Gia rồi. Bây giờ nhớ lại nàng hãy còn kinh hãi.

Hai người sóng cương đi một lúc nữa, Hồ Phỉ bỗng cất tiếng hỏi:

– Viên cô nương! Trong thiên hạ có tất cả bao nhiêu môn phái võ học

Viên Tử Y cười đáp:

– Tiểu muội không rõ. Đại ca nói thử xem có bao nhiêu môn phái nào?

Hồ Phỉ lắc đầu nói:

– Tại hạ không hiểu mới thỉnh giáo cô nương. Hiện giờ cô nương đã làm chưởng môn ba phái lớn là Vị Đà môn, Bát Tiên kiếm, Cửu Long phái, cô nương muốn làm chưởng môn mấy phái nữa mới vừa lòng?

Viên Tử Y cười đáp:

– Tuy tiểu muội đã thắng Dịch Cát nhưng bọn đệ tử lại không phục. Vậy chức chưởng môn phái Cửu Long có làm được đi nữa cũng mười phần miễn cưỡng. Còn những phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Thái Cực thì tiểu muội không dám tranh đoạt chức chưởng môn. Chỉ đi nhặt nhạnh mấy món “đồng nát” cũng đủ rồi.

Hồ Phỉ thè lưỡi nói:

– Võ lâm thập tam gia tổng chưởng môn! Cái danh hiệu này quả thật oai phong.

Viên Tử Y cười hỏi:

– Hồ đại ca! Võ công đại ca cao cường như vậy sao không cướp mấy ngôi chưởng môn làm chơi? Chúng ta cứ đi dọc đường thu nhặt. Đại ca thu một nhà, tiểu muội lại thu một nhà, cứ luân lưu như vậy cho đến Bắc Kinh thì tiểu muội thành Thập tam gia tổng chưởng môn, đại ca cũng thành Thập tam gia tổng chưởng môn. Huynh muội ta đến Bắc Kinh tham dự đại hội chưởng môn trong thiên hạ gì gì đó của Phúc đại soái, như vậy há chẳng thú lắm sao?

Hồ Phỉ lắc đầu quầy quậy, đáp:

– Tại hạ không có gan, mà võ nghệ cũng không giỏi bằng cô nương. Muốn cướp nửa chức chưởng môn cũng không xong, mới bị người ta ra chiêu “Lữ động tân thôi cẩu” hất xuống sông biến thành con chó, khắp mình bùn lầy hôi hám. Giả tỷ chỉ lên chưởng môn phái Nê Thu cũng đã là danh giá lắm rồi.

Viên Tử Y cười ngặt nghẽo, chắp tay nói:

– Hồ đại ca! Bây giờ tiểu muội xin lỗi đại ca.

Hồ Phỉ chắp tay đáp lễ nghiêm nghị nói:

– Thưa Tam gia đại chưởng môn lão gia! Tiểu tử không dám.

Viên Tử Y coi bộ điệu giả vờ chất phác của chàng cùng những lời nói móc máy rất dí dỏm, lòng nàng tăng thêm mấy phần hoan hỉ. Nàng cười đáp:

– Thảo nào lão tiểu tử Triệu tam ca cứ khoe đại ca hay lắm, quả không sai!

Hồ Phỉ trong lòng vẫn luôn nhớ Triệu Bán Sơn không lúc nào quên. Chàng vội hỏi:

– Triệu tam ca làm sao? Tam ca đã nói những gì với cô nương?

Viên Tử Y cười đáp:

– Đại ca đuổi kịp tiểu muội, tiểu muội sẽ nói cho nghe.

Nàng thúc chân vào bụng ngựa. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Cô mà cho con bạch mã phi nước đại thì còn ai đuổi kịp?

Chàng thấy chân sau con ngựa vừa chống lên toan cất vó, liền tung người nhảy lên, tay trái ấn xuống vai ngựa một cái, thân hình đã rơi xuống sau lưng Viên Tử Y. Con bạch mã lưng chở thêm một người vẫn không để ý phóng luôn bốn vó chạy nhanh như gió. Con thanh mã tuy không người cưỡi nhưng chạy trong khoảnh khắc đã tụt sau con bạch mã đến mười mấy trượng.

Viên Tử Y ngửi thấy hơi thở của Hồ Phỉ ở phía sau, mặt nóng bừng, muốn lên tiếng nhưng lại im miệng. Con ngựa chạy được một lúc bỗng nghe trên không có tiếng sét nổ, nàng ngửng đầu nhìn lên thấy mây đen đã che kín nửa bầu trời. Hiện nay đang giữa mùa hạ, trời mưa bất thình lình là thường. Nàng riết cương cho ngựa chạy nhanh hơn.

Sau khoảng thời gian chừng uống chưa cạn chén trà, gió tây bỗng thổi rất dữ, những giọt mưa lớn bằng hạt đậu bắt đầu rơi xuống, hai bên đường hoàn toàn không có nhà cửa Ở mé trái sườn núi bỗng lộ ra một bức tường vàng. Viên Tử Y phóng ngựa chạy đến gần thì ra là một tòa cổ miếu đã mục nát để bốn chữ đại tự “Tương Phi thần từ” nét vàng bong hết. Hiển nhiên lâu ngày không ai tu sửa. Hồ Phỉ xuống ngựa mở cửa miếu. Chàng không kịp nhìn kỹ, dắt con bạch mã đi vào. Lúc này trên không tiếng sấm nổ liên hồi, ánh chớp giật loang loáng. Viên Tử Y tuy võ nghẹ cao cường cũng không khỏi lộ vẻ sợ hãi. Hồ Phỉ vào hậu điện không thấy một bóng người. Chàng trở ra tiền điện nói:

– Hậu điện có vẻ còn sạch sẽ hơn.

Chàng kiếm nắm rơm quét nửa gian điện rồi nói:

– Trận mưa này chắc không lâu đâu. Cừ chờ trời tạnh hãy đi. Bữa nay có thể đến được Trường Sa.

Viên Tử Y “ừ” một tiếng rồi không nói nữa. Hai người lúc trước vẫn nói tự nhiên, nhưng từ lúc ngồi chung một ngựa, Viên Tử Y cảm thấy trong lòng có điều khác lạ. Nàng nhìn Hồ Phỉ không được tự nhiên, ra chiều thẹn thùng bẽn lẽn. Hai người sóng vai ngồi. Đột nhiên đồng thời quay đầu lại. Bốn mắt chạm nhau. Hai người cùng tủm tỉm cười rồi quay ra cho khác.

Sau một lúc Hồ Phỉ hỏi:

– Triệu tam ca có khỏe không?

Viên Tử Y đáp:

– Khỏe lắm. Y có gì mà không khỏe?

Hồ Phỉ hỏi:

– Y ở đâu? Tại hạ nhớ y lắm, chỉ muốn đến thăm.

Viên Tử Y đáp:

– Vậy đại ca đến Hồi Cương. Chỉ cần đại ca không chết, y cũng không chết là gặp lại nhau.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Cô nương vừa ở Hồi Cương đến đây phải không?

Viên Tử Y quay lại, ánh mắt như mỉm cười đáp:

– Phải rồi! Đại ca coi tiểu muội có giống thế không?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ không biết. Trước kia tại hạ cứ tưởng Hồi Cương là vùng sa mạc hoang vu, không ngờ lại có vị cô nương xinh đẹp thế này.

Viên Tử Y đỏ mặt lên, phì một tiếng rồi hỏi:

– Đại ca nhắm mắt nói liều phải không?

Hồ Phỉ biết mình lỡ lời trong bụng cũng hơi hối hận, thầm nghĩ cô nam quả nữ trong tòa cổ miếu này không nên thốt ra những lời khinh bạc. Chàng liền hỏi lảng qua chuyện khác:

– Phúc đại soái mở cuộc đại hội các chưởng môn thiên hạ, không hiểu vì mục đích gì. Cô nương có biết không?

Viên Tử Y thấy chàng đột nhiên xoay sang câu chuyện đứng đắn, bất giác liếc mắt nhìn chàng đáp:

– Hắn là bậc vương công quyền quý, ăn no rửng mỡ rồi chẳng có chuyện gì làm muốn kiếm một ít hảo thủ võ lâm để tiêu khiển, cũng như trò chọi gà chọi dế mà thôi. Đáng tiếc là rất nhiều cao thủ võ lâm bị hắn làm cho ngu muội mà không biết.

Hồ Phỉ vỗ đùi lớn tiếng:

– Cô nương nói quả không sai một tí nào. Cô cao kiến như vậy tại hạ vô cùng khâm phục. Té ra cô nương dọc đường có ý tranh đoạt chức chưởng môn là muốn quấy phá Phúc đại soái.

Viên Tử Y cười đáp:

– Chi bằng hai người chúng ta đồng tâm hiệp lực đoạt lấy phân nửa chức chưởng môn trong thiên hạ. Như vậy là cuộc đại hội của Phúc đại soái sẽ trở thành một phiên chợ ế. Chúng ta lại đến hội trường đại náo một phen khiến hắn không đám coi thường võ sĩ trong thiên hạ.

Hồ Phỉ vỗ tay reo lên:

– Hay lắm! Hay lắm! Vậy cứ thế mà làm. Cô nương lãnh đạo, tiêu nhân Hồ Phỉ xin đi theo để ra sức mọn.

Viên Tử Y nói:

– Võ công đại ca còn cao hơn tiểu muội sao lại còn khách khí?

Hai người nói đến lúc cao hứng mà trận mưa rào vẫn chưa ngớt, trái lại mỗi lúc mưa một to hơn. Sau miếu là một khe suối. Nước trên núi đổ xuống ầm ầm như sóng triều. Tòa cổ miếu đã đổ nát lâu ngày, chỗ nào cũng dột. Hồ Phỉ cùng Viên Tử Y ngồi thu mình co ro trong góc miếu, nhìn ra ngoài thấy trời đang tối dần. Mây thấp là đà tựa hồ đè xuống đầu, xem chừng không thể lên đường ngay. Hồ Phỉ kiếm ít cành khô đốt lên làm đuốc rồi cười nói:

– Trời mưa không ngớt. Chúng ta đành nhịn đói suốt đêm nay.

Ánh lửa chiếu vào mặt Viên Tử Y khiến hai má đỏ hồng càng tăng thêm phần kiều diễm. Nàng từ Hồi Cương muôn đặm đi về phía đông, ngủ đêm ở những nơi hoang sơn dã lĩnh là thường. Bữa nay một mình nàng cùng ở trong cổ miếu với một chàng trai trẻ là một điều chưa từng trải qua, nên trong lòng nẩy ra một ý vị khôn tả.

Hồ Phỉ kiếm ít rơm khô rải lên bệ thờ một mớ, lại rải dưới đất một mớ rồi cười nói:

– Lữ động tân ngủ trên trời, còn “Lạc thủy cẩu” ngủ dưới đất vậy.

Chàng nói rồi nằm xuống đống rơm dưới đất, quay mặt vào vách nhắm mắt lại. Viên Tử Y lẩm nhẩm gật đầu nghĩ bụng:

– Y quả là người quân tử biết thủ lễ.

Nàng liền cười đáp:

– Lạc thủy cẩu! Sáng mai lại gặp nhau.

Đoạn Viên Tử Y nhảy lên bệ thờ. Nàng nằm xuống rồi nhưng tâm thần bất định, tai nghe tiếng mưa rào đồ xuống mái ngói đồm độp. Sau nửa giờ nàng mới đi vào giấc ngủ chập chờn. Chừng nửa đêm, Viên Tử Y lắng nghe tiếng vó rầm rập chạy tới gần. Nàng trở mình ngồi dậy. Hồ Phỉ cũng phát giác, cất tiếng gọi:

– Lữ động tân! Có người tới đó.

Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, hòa lẫn với tiếng bánh xe lọc cọc. Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Trận mưa lớn này bắt đầu từ lúc trưa cho đến bây giờ không lúc nào tạnh. Sao lại có người đội mưa đi suốt đêm thế này?

Bỗng nghe cỗ xe ngựa tới ngoài cửa miếu thì dừng lại.

Viên Tử Y nói:

– Bọn họ sắp tiến vào miếu đấy.

Nàng từ trên bệ thờ nhảy xuống, lại ngồi bên Hồ Phỉ. Quả nhiên cửa miếu mở ra kêu kèn kẹt. Cả xe lẫn ngựa đến dãy hành lang ở tiền điện. Hai tên xa phu vào hậu viện nhìn thấy Hồ Phỉ cùng Viên Tử Y liền lên tiếng:

– Trong này có người. Chúng ta nghỉ ở tiền điện quách.

Chúng nói rồi quay gót trở ra. Tai nghe ngoài tiền điện tiếng người lao xao nổi lên ước chừng có đến hai chục người. Kẻ thì chặt củi đốt lửa, người thì vo gạo nấu cơm. Bọn này nói khẩu âm Quảng Đông. Sau một hồi nhốn nháo, tiền điện dần dần yên tĩnh lại.

Bỗng một người lên tiếng:

– Bất tất phải chuẩn bị giường nằm. Chúng ta ăn cơm xong, không kể mưa lớn hay mưa nhỏ, cứ nhân đêm tối mà tiếp tục lên đường.

Hồ Phỉ nghe giọng nói bất giác trong lòng run lên. Lúc này tai hậu điện que củi chưa tắt. Dưới ánh hỏa quang chàng nhìn thấy Viên Tử Y cũng hơi biến sắc.

Lại nghe tiếng một người khác ở ngoài tiền điện cất lên:

– Sao lão gia lại cấp bách quá vậy? Mưa lớn thế này…

Giữa lúc ấy tiếng mưa rào ầm ầm đổ xuống át hẳn tiếng người nói. Nhân vật nói trước trung khí đầy rẫy, giọng nói vang dội. Đang lúc mưa to, thanh âm cách một cái sân mà còn nghe rõ mồn một.

– Giữa lúc đêm khuya lại trời mưa lớn là cơ hội tốt để chúng ta lên đường. Đừng ham một giấc ngủ mà để toàn gia phải mất mạng. Nơi đây cách đại lộ không còn xa mấy, chỉ mong đừng có chuyện ma đưa lối quỷ dẫn đường chạm trán tên tiểu tặc kia.

Hồ Phỉ nghe nói tới đây không còn hoài nghi gì nữa. Lòng chàng hớn hở, miệng lẩm bẩm:

– Quả là ma đưa lối quỉ dẫn đường, hắn lại chạm trán ta.

Chàng khẽ nói:

– Lữ động tân! Bên ngoài có một vị chưởng môn vừa mới tới. Chuyến này xin nhường cho tại hạ.

Viên Tử Y chị ậm ừ chứ không nói gì. Hồ Phỉ thấy nàng không ra chiều hoan hỷ trong lòng hơi lấy làm lạ. Chàng thắt lại đai lưng, dắt đơn đao vào thắt lưng, rồi rảo bước tiến ra tiền điện. Chàng thấy ở phòng đằng đông có bảy, tám người đang ngồi xuống đất, trong đó có một người thân thể to lớn, cao hơn những người xung quanh đến nửa cái đầu. Hắn ngồi xoay người ra ngoài. Hồ Phỉ mới nhìn thấy nửa mặt đã nhận ra hắn chính là tên đại ác bá Phụng Thiên Nam ở trấn Phật Sơn. Cây hoàng kim côn của hắn dài tám thước để tựa bên cạnh. Hắn ngửng đầu nhìn trời, bộ dạng ngơ ngẩn xuất thần. Không hiểu hắn luyến tiếc cơ nghiệp đồ sộ ở Phật Sơn trấn hay là đang trù tính kế hoạch đối phó với địch nhân để chấn chỉnh lại oai phong ngày trước?

Hồ Phỉ từ phía sau khám thờ đi ra, lại gặp lúc trời tối mịt nên những người ở tiền điện chẳng một ai hay. Chàng thấy ở mé tây tiền điện có đốt một đống củi lớn dưới cái nồi sắt, chắc là đang nấu cơm. Hồ Phi nhảy tới tung cước đá “bộp” một tiếng, nồi cơm văng vào trong viện, cơm trắng tung tóe trên mặt đất. Mọi người cả kinh cùng quay đầu lại. Cha con Phụng Thiên Nam và Phụng Nhất Minh nhận ra Hồ Phỉ, cả hai đều biến sắc. Những người tay không đều chạy đi lấy binh khí. Hồ Phỉ thấy gương mặt phốp pháp trắng nõn của Phụng Thiên Nam lại nhớ đến cảnh tượng cả nhà Chung A Tứ bị chết thảm, trong lòng đã cực kỳ phẫn nộ, nhưng chàng lại nén xuống, cười nói:

– Phụng lão gia! Nơi đây là miếu Tương Phi, quả là phong nhã.

Phụng Thiên Nam sau khi sát hại ba người nhà Chung A Tứ, lập tức tiêu hủy sản nghiệp để bỏ trốn. Hắn cứ ngày nghỉ đêm đi, mà chọn toàn những đường hẻo lánh ít người qua lại. Hắn tính toán rất khôn khéo, Hồ Phỉ dù thông minh nhưng ít kinh nghiệm giang hồ ắt không thể điều tra ra tông tích của hắn. Ngày hôm nay nếu không gặp mưa lớn khiến ma đưa lối, quỷ dẫn đường thì quyết không thể chạm trán oan gia trong tòa cổ miếu. Phụng Thiên Nam thấy kẻ đối đầu xuất hiện, trong lòng run lên, thầm nghĩ:

– Xem ra Phụng mỗ phải bỏ mạng tại miếu Tương Phi này rồi!

Hắn liền trấn tĩnh trở lại, bước tới nắm lấy tay con trai, dặn dò mấy câu bảo chạy trốn trước đi. Hồ Phỉ hoành đao đứng chặn trước cửa miếu, cười nói:

– Phụng lão gia, lão có dặn dò gì cũng vô ích. Lão gia đã sát hại toàn gia Chung A Tứ thì tại hạ sẽ giết lại cả nhà Phụng lão gia. Tại hạ cứ mỗi nhát đao là một mạng người, quyết chẳng hồ đồ. Phụng lão gia không giống những người khác, tại hạ sẽ để lại sau cùng. Lão gia cứ yên tâm, cả nhà lão gia sẽ chẳng còn người nào sót lại trên đời đâu.

Phụng Thiên Nam nghe lạnh cả xương sống, không ngờ chàng thiếu niên trẻ tuổi lại có thể hành sự tàn độc như vậy. Hắn liền vung hoàng kim côn lên nói:

– Hảo hán mình làm mình chịu, lắm lời làm gì? Ngươi muốn lấy tính mạng của Phụng mỗ thì cứ việc đi.

Vừa dứt lời hắn quát lớn một tiếng, bước ra chiêu “Lũ đầu cái đỉnh” vung côn đánh vào dưới ngực Hồ Phỉ. Hắn phất tay trái ra hiệu cho vợ con mau chạy trốn. Phụng Nhất Minh biết phụ thân không phải là đối thủ của Hồ Phỉ, giữa lúc nguy cấp thế này làm sao có thể một mình chạy trốn? Gã bèn quát lớn:

– Tất cả cùng tiến lên!

Vừa dứt lời, gã cầm đơn đao nhảy xổ lại bên trái Hồ Phỉ, hy vọng ỷ vào số đông để thủ thắng. Những người thân đến những đệ tử bỏ trốn cùng Phụng Thiên Nam cả thảy hai mươi bảy người, quá nửa đều biết võ nghệ. Nghe Phụng Nhất Minh quát lên thế thì có tám chín tên cầm bình khí tiến lên bao vây.

Phụng Thiên Nam nhíu mày, bụng bảo dạ:

– Hừ! Bọn này quả chẳng biết gì. Nếu ỷ vào số đông mà thắng được thì người của ta ở trấn Phật Sơn không đông chắc? Hà tất phải rời bỏ quê quán mà cao chạy xa bay thế này?

Nhưng trong tình thế đại họa lâm đầu, không còn cách nào khác, chỉ còn nước quyết một trận tử chiến mà thôi. Trong lòng hắn nghĩ đến việc hai bên cùng chết nên ra tay rất lạnh lùng. Cây hoàng kim côn đánh ra không chờ trọn chiêu số đã đâm chếch lên rồi quét ngang một cái.

Hồ Phỉ nghĩ gã này cùng cực tàn ác, nếu dùng một đao kết liễu tính mạng hắn thì không đủ để bù những tội lỗi hắn đã gây ra. Chàng thấy cây côn quét tới liền ném thanh đơn đao đi, rồi vươn tay ra chụp mạnh lấy đuôi côn. Cách xuất thủ rõ ràng không coi đối thủ vào đâu.

Phụng Thiên Nam nghĩ mình một đời vẫy vùng trên chốn giang hồ lại bị đối phương khinh thị như vậy, bất giác lửa giận bốc lên, nhưng hắn đã giao thủ với Hồ Phỉ ở trấn Phật Sơn, biết võ công của đối phương mình không sao bì nổi nên chẳng dám lơ là, vội thu côn về lùi lại một bước.

Bỗng nghe trên đỉnh đầu vang một tiếng “phập”. Mọi người tuy đứng trước đại địch cũng không nhịn được phải ngửng đầu lên nhìn. Nguyên thanh đơn đao của Hồ Phỉ tung lên chém vào rường nhà rồi nằm yên trên đó không rớt xuống nữa. Hồ Phỉ bật tiếng cười rộ xuyên vào đám đông, hai tay thoăn thoắt giơ lên hạ xuống. Chàng đã điểm trúng huyệt đạo cả tám, chín tên đệ tử của Phụng Thiên Nam. Chàng hoặc vung chếch tay lên, hoặc giơ chân quét ngang hất tung bọn này ra hai bên. Trong nháy trên đại điện rộng rãi chỉ còn lại cha con Phụng Thiên Nam và Hồ Phỉ là ba người.

Phụng Thiên Nam nghiến răng khẽ quát:

– Minh nhi! Ngươi còn chưa chạy, chẳng lẽ muốn cho Phụng gia phải tuyệt tôn ư?

Phụng Nhất Minh tay cầm đơn đao ngần ngừ, không biết nên sấn tới giáp kích hay là nên cướp đường chạy trốn. Hồ Phỉ lạng người một cái đã ra phía sau Phụng Nhất Minh. Phụng Thiên Nam quát to một tiếng vung kim côn lên để chặn lại. Hồ Phỉ cúi đầu, chui qua nách Phụng Nhất Minh, khẽ đẩy vai một cái. Phụng Nhất Minh đứng không vững, người ngã ngửa về phía sau, đúng vào chỗ cây côn đập xuống. Phụng Thiên Nam cả kinh vội thu cây kim côn lại. Tính ra hắn đã khổ công rèn luyện côn pháp mấy chục năm nên gặp lúc nguy cấp như ngàn cân treo sợi tóc còn thu côn về kịp, không thì đã đập vỡ đầu con trai rồi.

Hồ Phỉ ra chiêu đắc thủ, nghĩ bụng dùng cách này để đấu với Phụng Thiên Nam là tuyệt diệu, nên không chờ cho Phụng Nhất Minh đứng vững, chàng liền dùng tay phải chụp vào sau gáy gã, tay trái giơ lên đập xuống đầu gã. Phụng Thiên Nam nhớ tới khi ở Bắc Đế miếu, chàng đã vung chưởng đánh gãy đầu con rùa đá, nếu để phát chưởng này đánh trúng đầu con mình thì còn gì là tính mạng? Hắn vội đưa côn ra điểm mạnh tới hông trái Hồ Phỉ để bức bách chàng xoay tay tự cứu.

Hồ Phỉ tay trái giơ lên không rồi dừng lại một chút, chờ cho cây kim côn sắp đến ngang hông mới vươn tay phải ra cực kỳ mau lẹ chụp lấy đầu Phụng Nhất Minh đưa vào đầu cây côn. Phụng Thiên Nam lập tức biến thành chiêu “Khiêu bào liệu y” xoay đầu cây côn đánh xuống hạ bàn chàng. Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm!

Chàng vung tả chưởng đẩy Phụng Nhất Minh một cái để người hắn đỡ lấy côn. Thế là chỉ qua mấy chiêu, Phụng Nhất Minh đã biến thành một thứ khí giới trong tay Hồ Phỉ. Phụng Thiên Nam động thủ chậm lại, muốn bãi đấu. Hồ Phỉ liền giơ chưởng lên, như muốn đánh vào chỗ yếu hại trên người Phụng Nhất Minh, khiến Phụng Thiên Nam không thể không ra tay cứu gấp. Nhưng dù hắn giải cứu mà chỗ nào cũng thấy nguy cơ, thành ra chiêu nào cũng đưa đến tình trạng như hắn tự tay đánh chết con mình.

Đấu thêm mấy chiêu nữa, Phụng Thiên Nam cảm thấy sức lực rã rời, tâm thần mỏi mệt. Đột nhiên hắn lùi lại ba bước ném cây kim côn xuống đất đánh “choang” một tiếng thật lớn. Mấy viên gạch xanh vỡ nát. Mặt hắn thê thảm không nói tiếng nào.

Hồ Phỉ quát hỏi:

– Phụng Thiên Nam! Lão thương con như vậy, còn con người khác thì sao?

Phụng Thiên Nam sững sờ một chút rồi lòng kiêu ngạo lại nổi lên, lớn tiếng đáp:

– Phụng mỗ tung hoành đất Lĩnh Nam, làm chưởng môn phái Ngũ Hổ, bình sinh giết người vô kể. Con ta cũng đã hạ sát đến ba, bốn chục nhân mạng. Bữa nay chúng ta có chết về tay ngươi cùng là đáng rồi. Sao ngươi không động thủ đi, còn nói gì lắm thế?

Hồ Phỉ lớn tiếng:

– Vậy lão tự xử đi, đừng để tiểu gia phải phí sức ra tay.

Phụng Thiên Nam lượm cây kim côn lên, nổi tràng cười hà hả rồi xoay đầu côn đập mạnh vào đầu mình. Đột nhiên ánh kim quang lấp loáng một cây nhuyễn tiên rất dài từ phía sau Hồ Phỉ bung ra cuốn lấy đầu cây kim côn kéo trệch ra ngoài. Tý lực của Phụng Thiên Nam rất mạnh, ngạnh công đã đến mức cao thâm, hắn vẫn giữ được cây côn trong tay nhưng không thể đập vào đầu mình được nữa.

Người vung tiên đoạt côn chính là Viên Tử Y. Nàng dồn sức ra tay kéo mạnh vào trong mà cây kim côn của Phụng Thiên Nam vẫn không nhúc nhích. Nàng liền mượn thế nhảy ra. Viên Tử y cười nói:

– Hồ đại ca! Chúng ta chỉ cần đoạt ngôi chưởng môn, không nên giết hại mạng người.

Hồ Phỉ nghiến răng đáp:

– Viên cô nương chưa biết đấy thôi. Gã này tội ác tầy trời, không phải như những chưởng môn khác.

Viên Tử Y lắc đầu nói:

– Tiểu muội đoạt chức chương môn, sư phụ có biết cũng chỉ cười xòa, nhưng nếu sát thương nhân mạng thì lão nhân gia trị tội rất nặng.

Hồ Phỉ hỏi:

– Người này do tại hạ giết thì có liên quan gì đến cô nương?

Viên Tử Y đáp:

– Không đúng! Không đúng! Việc cướp ngôi chưởng môn do tiểu muội đề ra. Lão đã là Chưởng môn phái Ngũ Hổ thì sao lại chẳng liên quan đến tiểu muội?

Hồ Phỉ vội nói:

– Tại hạ bôn ba từ Quảng Đông đến Hồ Nam là đề bắt tên ác tặc này. Hắn là chưởng môn cũng vậy, mà chẳng là chưởng mòn cùng thế. Bữa nay tại hạ nhất định phải giết hắn.

Viên Tử Y nghiêm nghị đáp:

– Hồ đại ca! Tiểu muội nói chuyện đứng đắn với đại ca. Đại ca nên nghe đã.

Hồ Phỉ gật đầu. Viên Tử Y nói tiếp:

– Đại ca không biết gia sư của tiểu muội là ai phải không?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ không rõ. Bản lãnh cô nương như vậy thì tôn sư nhất định là bậc đại hiệp danh chấn giang hồ. Xin cô nương cho hay cách xưng hô lão nhân gia ra sao?

Viên Tử Y nói:

– Danh tự của lão nhân gia mai đây đại ca sẽ biết. Bây giờ tiểu muội chỉ kể chuyện lúc rời khỏi Hồi Cương, gia sư căn dặn tiểu muội: “Ngươi đến Trung quấy phá thế nào cũng được, ta không quản, nhưng hễ giết một người là lập tức ta lấy cái mạng nhỏ bé của ngươi”. Trước nay gia sư nói một, hai là hai, quyết không thể hàm hồ.

Hồ Phỉ nói:

– Chẳng lẽ con người tệ hại phạm tội ngập đầu cũng không cho giết?

Viên Tử Y đáp:

– Đúng thế. Khi đó tiểu muội có hỏi sư phụ câu này thì lão nhân gia bảo “Người tệ hại đáng lý nên giết nhưng sự đời biến ảo. Con người rốt cuộc là người tốt hay người xấu, ngươi còn nhỏ tuổi làm sao mà phân biệt được? Trên đời có kẻ bề ngoài hung ác mà có lòng Bồ Tát, lắm người ngoài miệng nam mô mà trong bụng một bồ dao găm. Người chết rồi không thể sống lại. Giết lầm một người là phải ân hận suốt đời”.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Lão nhân gia dạy thế là đúng Nhưng gã này chính miệng tự nói ra đã giết người vô kể. Ở trấn Phật Sơn, hắn đã sát hại mạng người lương thiện, chính tại hạ nhìn thấy rõ ràng, không còn sai lầm được.

Viên Tử Y nói:

– Tiểu muội phải khép mình tuân theo sư mệnh. Hồ đại ca! Xin đại ca nể mặt tiểu muội mà giơ cao chém khẽ cho.

Hồ Phỉ nghe lời nàn nói khẩn thiết như người thật lòng năn nỉ. Từ ngày chàng biết nàng chưa bao giờ nghe nàng nói tha thiết đến thế. Chàng không khỏi động tâm, nhưng nhớ tới thảm trạng của cha con vợ chồng Chung A Tứ gối đầu lên nhau mà chết, lại nhớ đến vết máu của đứa bé bị mổ bụng trên tảng đá trước tượng thần ở miếu Bắc Đế, rồi cảnh tượng Chung A Nhị bị lũ chó dữ xâu xé trên vệ đường đến trấn Phật Sơn, bất giác bầu nhiệt huyết trào ngược lên ngực. Chàng lớn tiếng nói:

– Viên cô nương! Nếu vậy cô nương đừng nhìn thấy vụ này. Xin cô hãy lên đường trước rồi chúng ta sẽ gặp nhau ở Trường Sa.

Viên Tử Y sa sầm nét mặt, từ từ nói:

– Bình sinh tiểu muội chưa từng hạ mình xin ai điều gì, kể ra thì người này không có thâm cừu đại hận gì với đại ca, đại ca chẳng qua chỉ là kẻ qua đường thấy chuyện bất bình ra tay can thiệp mà thôi. Hắn đốt nhà chạy trốn ngày nghỉ đêm đi, cũng đủ biết hắn sợ hãi đại ca lắm rồi. Hồ đại ca ơi! Làm người không nên dồn kẻ khác vào bước đường cùng, mà hãy chừa cho họ một phần sinh lộ.

Hồ Phỉ dõng dạc đáp:

– Viên cô nương! Người này tại hạ chẳng thể bỏ qua không hạ sát được. Trước hết là tại hạ xin lỗi cô nương. Sau này tôn sư có trách phạt thì tại hạ xin chịu lĩnh hội một mình.

Dứt lời chàng xá dài đến tận đất. Bỗng nghe đánh “soạt” một cái Viên Tử Y đã vung cây ngân tiên lên cuốn lấy đơn đao của Hồ Phỉ còn cắm trên rường nhà kéo xuống nàng cuốn nhẹ đầu roi đưa cây đơn đao lại trước mặt chàng nói:

– Đại ca đón lấy!

Hồ Phỉ đưa tay chụp lấy đơn đao, lại nghe nàng nói:

– Hồ đại ca! Đại ca hãy đánh bại tiểu muội trước đi rồi hãy giết toàn gia hắn. Có thế thì sư phụ có muốn trách phạt tiểu muội cũng chẳng được.

Hồ Phỉ tức giận hỏi:

– Cô nương cố ngăn chặn tại hạ nhất định phải có biệt tình. Tôn sư đường đường là một bậc đại hiệp tiền bối cao nhân chẳng lẽ lại không chịu hiểu tình lý hay sao?

Viên Tử Y khẽ thở dài một tiếng, cất giọng ôn nhu hỏi:

– Hồ đại ca! Đại ca nhất định không chịu nể mặt tiểu muội một chút ư?

Ánh lửa chiếu vào gương mặt đẹp như hoa, miệng nàng nhỏ nhẹ khiến Hồ Phỉ không khỏi mềm lòng. Nhưng chàng thấy nàng khẩn cầu thì càng nghi ngờ trong vụ này có điều trá ngụy, liền tự nhủ:

– Hồ Phỉ ơi là Hồ Phỉ! Nếu ngươi để cho nữ sắc làm mê hoặc, không còn biết đến đại nghĩa thì có làm anh hùng hảo hán cũng uổng. Gia gia ngươi là Hồ Nhất Đao một thời oanh liệt sao lại có hạng con cháu bất hiếu như ngươi?

Chàng thấy không động võ thì khó trừ diệt kẻ gian ác, đành la lên:

– Nếu vậy tại hạ đành đắc tội.

Đơn đao vung lên, ra chiêu “Đại tam phách”, đao quang lấp loáng bao phủ thượng bàn Viên Tử Y. Chàng giơ tay trái lên, phóng ra một đĩnh bạc đánh tới tâm khẩu Phụng Thiên Nam. Viên Tử Y nhìn thấy chàng nhìn mình như ngây như dại, tựa hồ đã đáp ứng khẩn cầu của mình, lòng nàng đang khấp khởi mừng thầm, ngờ đâu chàng lại ra tay một cách đột ngột. Hai người đứng cách nhau không xa. Chiêu “Đại tam phách” của chàng đánh tới rất mãnh liệt. Cây ngân ty tiên của nàng vừa dài vừa mềm muốn đón đỡ thì không phải là chuyện dễ mà tay trái chàng lại phóng ám khí. Nàng nghe tiếng gió rít lên nhanh và gấp biết là thủ pháp trầm trọng. Viên Tử Y chợt nghĩ thầm:

– Y nhất định không muốn đả thương ta!

Nàng liền vung trường tiên rượt theo để ngăn cản đĩnh bạc. “Choang” một tiếng! Thỏi bạc bị đánh rớt xuống đất, còn chiêu đao của Hồ Phỉ đánh tới, nàng chẳng hề quan tâm.

Nguyên Hồ Phỉ biết võ công nàng chẳng kém gì mình, dù động thủ thực sự thì trong nhất thời cũng chưa thể phân thắng bại, cha con Phụng Thiên Nam sẽ nhân cơ hội mà trốn đi nên trong lòng lấy làm khó nghĩ, bên mình chỉ còn mấy đĩnh bạc, dẫu có bắn trúng cũng không chết người. Chàng liền phóng đĩnh bạc nặng năm lạng sử kình rất trầm trong mà thế đi của đĩnh bạc cũng rất kỳ quái để đánh Phụng Thiên Nam. Chàng chắc mẩm một chiêu nhất định thành công, ngờ đâu Viên Tử Y lại mạo hiểm không bảo vệ thân mình để đi cứu người khác. Chàng thấy mũi đao còn cách nàng mấy tấc, vội dừng lại quát lên:

– Cái gì thế này?

Viên Tử Y đáp:

– Tiểu muội bất đắc dĩ phải làm!

Đột nhiên nàng nhảy lùi lại hơn trượng vung cây nhuyễn tiên về phía sau, la lên:

– Coi chiêu đây!

Hồ Phỉ giơ đao lên gạt để chờ thời cơ lại tập kích Phụng Thiên Nam nhưng Viên Tử Y dùng cây nhuyễn tiên đánh ráo riết không để chàng rảnh tay phút nào, phải ngưng thần đối phó, chiết giải từng chiêu. Đơn đao cũng múa thành những vòng nhỏ sáng lấp lánh, hai vòng sáng cứ tới lui công kích lẫn nhau. Thỉnh thoảng đao tiên đụng nhau bật lên tiếng “choang choang”. Đang tỷ đấu nửa chừng, Viên Tử Y quét ngang cây tiên một cái đánh rớt cây đèn nến trên bệ thờ xuống đất. Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Nàng muốn lửa tắt để lão họ Phụng chạy trốn.

Chàng thấy khó lòng mà hiểu được dụng ý của nàng nên trong lúc nhất không biết phải đối phó thế nào, đành thi triển “Hồ gia đao pháp” gia truyền để tấn công. Viên Tử Y hô:

– Hảo đao pháp!

Nàng quét ngọn roi gạt chiêu đao của đối phương. Đầu roi cuốn lấy thanh củi cháy ở dưới đất mé tây ném tới Hồ Phỉ. Cái chảo sắt để nấu cơm tuy bị Hồ Phỉ hất đổ nhưng hai, ba chục cành củi khô chưa tắt, chụm lại cùng cháy tạo nên thế lửa rất mạnh. Hồ Phỉ không dám dùng đao đỡ gạt vì sợ tia lửa bắn tung tóe gây thương tổn cho đầu mặt, liền vội nhảy ra để né tránh. Nhưng đã né tránh rồi thì không thể tiến lên phản kích. Viên Tử Y từ từ động thủ, quấn lấy cành củi cháy ném hết cây này đến cây khác.

Trong bóng tối, đường lửa sáng nối đuôi nhau kéo dài trong một lúc. Hồ Phỉ thấy Viên Tử Y không ngớt ném những que lửa tới vừa nhiều vừa mãnh liệt, chàng đành thi triển khinh công chạy quanh đại điện để né tránh. Chàng thấy gia nhân, đệ tử, xa phu, tỳ bộc nhà Phụng Thiên Nam đều chạy trốn vào hậu điện, những kẻ bị điểm huyệt thì được kẻ khác ôm chạy theo. Cha con Phụng Thiên Nam mắt lộ hung quang đứng một bên. Hồ Phỉ sợ Phụng Thiên Nàm thừa cơ lúc nhốn nháo chạy trốn. Chàng cầm đơn đao hàn quang lấp lánh không rời khỏi cửa miếu.

Sau một lúc ánh lửa nhảy múa trên không nhỏ dần, rồi rớt xuống đất tắt hết. Viên Tử Y cười hỏi:

– Hồ đại ca! Cuộc đấu bữa nay thật hứng thú. Chúng ta đấu cho đến khi phân thắng bại nên chăng?

Nàng lại huy động cây nhuyễn tiên hết điểm trước ngực. rồi chuyển qua đánh vào vai phải Hồ Phỉ. Hồ Phỉ giơ đao lên gạt được chiêu trước thì chiêu thứ hai đã vung tới lại càng quái dị. Chàng vội lăn mình đưới đất mới tránh được. Viên Tử Y cười nói:

– Đại ca bất tất phải hoang mang, tiểu muội không đả thương đại ca đâu.

Hai câu này động đến ngạo khí của Hồ Phỉ. Chàng lẩm bẩm:

– Chẳng lẽ ta lại thua cô nương ư?

Chàng liền huy động đao pháp từng bước đánh rất rát. Lúc này trong đại điện chỉ còn một cành củi lại đột nhiên cháy bùng. Bỗng nghe Viên Tử Y nói:

– Đường tiên pháp này của tiểu muội chiêu số rất kì dị, đại ca hãy coi chừng.

Đột nhiên gió ầm ầm nổi lên. Không hiểu trong cây nhuyễn tiên của nàng làm thế nào để có thể phát ra được thanh âm quái dị như vậy. Hồ Phỉ la lên:

– Hay lắm!

Trước tiên, chàng giữ kín môn hộ để xem cho rõ yếu chỉ về tiên pháp của Viên Tử Y rồi mới tính chuyện tấn công, Đội nhiên nghe “bụp” một tiếng, cây củi đang cháy trong đại điện đột nhiên phát nổ, lửa bắn tung tóe rồi tắt phụt ngay. Đại điện tối đen như mực. Lúc này bên ngoài mưa càng lớn, nước trút xuống mái nhà ầm ầm lẫn với tiếng nhuyễn tiên ào ào của Viên Tử Y làm cho đinh tai nhức óc. Hồ Phỉ tuy lớn mật nhưng trước tình cảnh này không khỏi sợ run. Bỗng trong đầu chàng lóe lên một tia sáng, liền thầm nghĩ:

– Hôm ấy ở trong miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn, Phụng Thiên Nam toan giơ đao tự sát, một người đàn bà dùng ngân thoa đánh rớt đơn đao của hắn. Xem ra thân hình cùng thủ pháp người đó giống hệt Viên cô nương.

Chàng nghĩ tới đây bất giác run lên:

– Nàng cùng ta kết bạn đồng hành té ra muốn làm điều bất lợi cho ta.

Nghĩ đến đây, trong lòng không còn thấy sợ nữa mà lại nảy ra cảm giác thất vọng thê lương. Vì mải suy nghĩ thành ra phân tâm, bất giác bàn tay nới lỏng. Thanh đao bị cây nhuyễn tiên cuốn lấy sưýt nữa tuột mất. Chàng vội vận nội lực giật mạnh lại một cái. Viên Tử Y là một cô gái chiêu số tuy tinh diệu nhưng tý lực còn kém Hồ Phỉ, nàng cảm thấy cánh tay tê chồn. Nàng liền rung cây nhuyễn tiên buông thanh đao ra, rồi thuận chiều, xoay qua điểm vào huyệt âm cốc trên đầu gối chàng. Hồ Phỉ vung người né tránh, rồi vung đao chém trả một nhát.

Lúc này tòa cổ miếu tối đen như mực. Hai người chỉ nghe tiếng gió của binh khí đối phương mà đỡ gạt. Hồ Phỉ để hết tinh thần đề phòng, chàng nghĩ bụng:

– Chỉ một vị Viên cô nương này ta đã khó lòng thắng nổi, huống chỉ còn thêm cha con Phụng Thiên Nam tương trợ.

Lúc này chàng cho rằng Viên Tử Y cùng Phụng Thiên Nam là một phe đảng và bữa nay hiển nhiên chàng đã lọt vào cạm bẫy của kẻ địch. Hai người trao đổi mấy chiêu nữa, mỗi khi xáp gần vào nhau đều gặp nguy hiểm. Hồ Phỉ lật cổ tay chém mạnh một đao. Viên Tử Y vội ưỡn người về phía sau, nàng cảm thấy đao phong lạnh toát qua mặt, cách da thịt không đầy mấy tấc thì thông khỏi giật mình kinh hãi vì phát giác chàng hạ thủ chẳng nể nang gì. Nàng bèn nói:

– Hồ đại ca! Đại ca nổi nóng rồi ư?

Nàng rung nhẹ cây nhuyễn tiên một cái rồi nhảy lùi lại phía sau. Hồ Phỉ không đáp, ngưng thần lắng tai nghe xem cha con Phụng Thiên Nam ẩn chỗ nào để đề phòng đánh lén. Viên Tử Y cười nói:

– Đại ca không lý gì đến tiểu muội, làm phách nhỉ?

Đột nhiên nàng tung cây roi móc lấy gót chân chàng. Nàng ra đòn không một tiếng động, khiến Hồ Phỉ không kịp đề phòng. Chàng muốn nhảy lên né tránh cũng không kịp nữa, đành quét vội cây đao xuống đất để gạt cây nhuyễn tiên. Không ngờ cây nhuyễn tiên sau khi cuốn lại liền tùy thế quấn sang một bên thật mau, làm các ngón tay Hồ Phỉ đang nắm chặt chuôi đao phải thả lỏng ra, rồi nhẹ nhàng đoạt lấy thanh đơn đao. Chiêu số đoạt đao này rất giảo hoạt, kình lực lại vô cùng xảo diệu. Hồ Phỉ la thầm:

– Không xong rồi! Ta bị đoạt mất binh khí, bữa nay không khéo phải bỏ mạng trong tòa cổ miếu này.

Trong lúc nguy cấp chàng không thủ thế mà phản công, liền tung mình nhảy xô về phía trước đưa tay ra chụp lấy yết hầu nàng.  Chiêu “Ưng trảo câu thủ” này cực kỳ tàn độc. Hồ Phi tuy theo quyền phổ rèn luyện rất tinh thục, nhưng bình sinh chưa dùng qua.

Viên Tử Y cảm thấy một luồng nhiệt khí xô đến, bàn tay địch nhân đưa vào cổ họng nàng mà lúc này nhuyễn tiên ở ngoài, làm sao có thể rút về đỡ đòn cho kịp? Nàng đành buông tay, ngửa người về phía sau. Mấy tiếng “choang choảng” vang lên, cả đơn đao lẫn nhuyễn tiên đều cùng rớt xuống đất. Hồ Phỉ ra một chiêu trảo đắc thủ liền thi triển chiêu thứ hai là “Tiến bộ liên hoàn” tấn công ráo riết. Viên Tử Y lật tay lại dùng ngón tay đâm trúng tay trái của Hồ Phỉ. Trong bóng tối nàng không trông rõ huyệt đạo đối phương, nên đâm vào chỗ da thịt dày và cứng làm ngón tay đau nhói phải buột miệng la lên “ối chao”.

Hồ Phỉ la thầm:

– Thật đáng hổ thẹn. May nhờ bóng tối cô nương không nhìn rõ thân hình ta nếu không thì phát chỉ này đã trúng yếu huyệt rồi.

Hai người tay không giao đấu trong bóng tối đều thủ nhiều mà công ít vừa đánh vừa chờ cơ hội để đoạt binh khí dưới đất. Viên Tử Y thấy đối phương càng đánh càng dữ tợn, không còn là cuộc tỷ võ để so tài tay cao thấp nữa. Nàng càng nghĩ càng kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Tại y lại đột nhiên hung dữ như vậy chứ?

Từ ngày nàng rời khỏi Hồi Cương đã chạm trán không ít cao thủ, nhưng chưa từng gặp cuộc ác đấu nào như đêm nay. Đột nhiên nàng biến đổi thân pháp chạy quanh bốn phía không cho Phồ Phỉ đến gần. Hồ Phỉ thấy đối phương không bám sát nữa, chàng cũng chẳng truy kích mà chỉ giữ kín môn hộ, nghiêng tai lắng nghe để xem cha con Phụng Thiên Nam ẩn nấp ở nơi nào là lập tức phóng chưởng đánh chết chúng ngay. Nhưng Viên Tử Y chạy rất lẹ, tiếng áo quần phát ra phần phật, chưởng lực cũng nổi lên veo véo khiến chàng không tài nào nghe được tiếng hô hấp của cha con Phụng Thiên Nam. Hồ Phỉ bỗng nảy ra một kế, tự nhủ:

– Y chạy vòng bốn phía thì ta cũng bốn phía chạy vòng như vậy.

Chàng bèn chạy quanh trong đại điện từ đông qua tây, từ nam qua bắc theo phương vị đại tứ tượng, cứ nghiêng mình xông tới vung chưởng đánh bừa cốt để đụng vào cha con Phụng Thiên Nam, thì chúng chẳng chết cũng bị trọng thương. Cùng lắm nếu không đụng mà chỉ cần chúng né tránh thì lập tức chàng cũng phát hiện được chỗ chúng đang ẩn thân.

Hai người lúc trước đứng sát nhau để giao đấu, giờ đột nhiên đâm ra đánh bừa đánh ẩu tựa hồ chẳng còn ăn nhập gì nhau. Hễ ai nhảy tới gần chỗ binh khí rớt xuống là lập tức đối phương xông lại cản trở, hai bên trao đổi mấy chiêu rồi lại ra xa. Hồ Phỉ di chuyển trong đại điện hết một vòng mà chẳng phát giác ra hành tung của Phụng Thiên Nam đâu cả. Chàng thầm hỏi:

– Chẳng lẽ bọn chúng chuồn vào hậu điện? Không có lý nào! Hiện giờ họ mạnh mà ta yếu nếu họ xông cả lại là đưa ta vào đất chết được ngay. Nhất định họ ngấm ngầm bố trí cạm bẫy dụ ta vào tròng. Bậc đại trượng phu phải biết tùy cơ mà hành động. Bữa nay ta cần tìm đường thoát thân trước đã rồi sau sẽ tính.

Chàng liền từ từ tiến về phía cửa điện định chờ cơ hội nhảy ra. Bỗng tiếng phần phật vang lên rồi đột nhiên một cơn gió cực kỳ mãnh liệt quạt vào mặt. Trong bóng tối chàng nhìn thấp thoáng thấy bóng người cao lớn nhảy xô tới. Hồ Phỉ cả mừng, hô lớn:

– Tới đúng lúc lắm!

Chàng vung song chưởng đánh ra nghe “sầm” một tiếng trúng ngay trước ngực người kia. Phát chưởng đó chàng đã vận đến mười thành công lực để Phụng Thiên Nam phải xương gãy gân bong chết ngay tại chỗ, song bàn tay chàng vừa chạm phải người kia liên biết mình mắc bẫy, vì chỗ vừa chạm vào vừa lạnh, nhưng chưởng phóng ra rồi thu về không kịp. Bụi đất bay tứ tung rớt xuống rào rào. Té ra đó là một pho tượng thần trong miếu. Lại nghe mấy tiếng ầm ầm. Tượng thần đập vào tường vách, gãy thành nhiều mảnh.

Bỗng nghe tiếng Viên Tử Y cười, nói:

– Chưởng lực nặng quá!

Thanh âm này phát ra từ ngoài cửa sơn môn. Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng, đơn đao và nhuyễn tiên đều bị nàng cướp vào tay rồi. Hồ Phỉ tự hỏi:

– Khí giới đã bị y cướp mất. Bây giờ nên tiếp tục đánh nữa hay là tìm kế thoát thân trước?

Chàng biết đối phương tuy là một thiếu nữ nhỏ tuổi, nhưng võ cao cường chẳng thể coi thường được. Hai người cùng cầm bình khí tỷ đấu nhất thời cũng khó phân thắng bại. Bây giờ nàng có nhuyễn tiên trong tay, mình thì tay không, làm sao địch nổi, huống gì cô ta lại còn có thêm kẻ tương trợ.

Chàng nghĩ tới đây bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên. Viên Tử Y gọi to:

– Này này! Nam Bá Thiên! Sao lại bỏ đi ngay! Như vậy há chẳng tổn thương đến tình bằng hữu sao?

Trong tiếng mưa rào nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Viên Tử Y đã lên ngựa đuổi theo. Hồ Phỉ la thầm:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi!

Thế là phen này chàng bị thua liểng xiểng. Tuy bọn gia nhân cùng tùy bộc của Phụng Thiên Nam còn ở cả đó, nhưng tên đầu sỏ đã bỏ đi rồi, nếu có nổi nóng chém giết một trận hả giận thì cũng chẳng phải là bản sắc anh hùng. Chàng móc đá lửa trong bọc đánh lên, châm vào đống củi vừa mới tắt. Chàng nhìn lại trong điện thì thấy thần tượng Tương Phi đầu gãy tay đứt thành mấy mảnh, cơm trắng và rơm củi văng tung tóe khắp mặt đất. Ngoài miếu trời vẫn mưa không ngớt. Hồ Phỉ nhìn dấu vết cuộc ác đấu lại nhớ tới những sự nguy hiểm vừa qua, trong lòng không khỏi kinh tâm động phách. Chàng ngồi trước bệ thờ nhìn đống lửa ngơ ngác xuất thần. Chàng tự nhủ:

– Giữa Viên Tử Y và Phụng Thiên Nam tất có quan hệ dây mơ rễ má. Ðó là một điều chắc chắn không còn nghi ngờ gì nữa. Nam Bá Thiên có cường viện hùng hậu như vậy, lại người nhiều thế lớn ở trấn Phật Sơn, thì hắn thừa sức kiềm chế ta, cớ sao hắn lại đốt nhà bỏ trốn? Bữa nay bọn họ bố trí mai phục ở trong cổ miếu dĩ nhiên ta bị trúng kế. Nếu họ nhất tề bao vây thì mạng ta nguy mất? Sao họ đã chiếm được thế thượng phong mà còn rút lui? Ta coi bộ dạng Phụng Thiên Nam hai lần toan tự sát tuyệt không có gì là giả trá. Thế thì việc Viên Tử Y ngấm ngầm tương trợ dường như hắn lại không biết.

Chàng lại nghĩ tới Viên Tử Y võ công uyên bác, mưu mẹo trăm đường. Mỗi phen cùng nàng tỷ thí đều bị nàng đoạt mất tiên cơ. Vừa rồi chiến đấu trong bóng tối, do sợ bị thua nên chàng đã coi nàng như đại địch. Bây giờ nhớ lại chàng bỗng nở nụ cười trên môi, trong lòng nảy ra mối nhu tình êm ái. Bất giác chàng tự hỏi:

– Vừa rồi kịch đấu, ta lại ra tay chẳng nể nang gì cả là nghĩa làm sao?

Chàng khó mà trả lời được câu hỏi này. Dường như chàng đã vận toàn lực để công kích nhưng lại dường như không thật tâm hạ sát thủ. Rồi chàng lẩm bẩm:

– Lúc nàng xông vào gần để phát chưởng, ta có giết nàng bằng chiêu “Xuyên tâm trùy” mà sao ta không dùng? Ta phóng chiêu “Thượng mã đao”, nàng cúi đầu né tránh, sao ta không sử tiếp chiêu “Bá vương tá giáp”? Hồ Phỉ hỡi Hồ Phỉ! Thật ra ngươi sợ đả thương nàng!

Đột nhiên chàng động tâm tự nghĩ:

– Nàng đã vung roi đánh xuống đầu vai ta, đột nhiên thu về phải chăng nàng có ý tương nhượng hay chỉ là chuyện ngẫu nhiên? Lại còn lúc nàng phóng cước đá trúng đùi ta sao lại lập tức thu kình lực về?

Hồ Phỉ ôn lại những chiêu số vừa rồi nghiên cứu tỉ mỉ, trong lòng bỗng cảm thấy nảy ra một tình cảm ôn nhu, liền nhủ thầm:

– Nhất định nàng không muốn giết ta! Nhất định nàng không muốn giết ta. Chẳng lẽ… chẳng lẽ…

Chàng nghĩ tới đây không đám nghĩ tiếp nữa, bỗng cảm thấy bụng đói liền bưng cái chảo sắt mà lúc nãy chàng đá tung đi, coi lại thấy trong chảo hãy còn ít cơm trắng. Chàng liền lượm thêm ít cơm rơi vãi trên mặt đất, dùn nước mưa rửa sạch rồi đốt lửa lên nấu lại. Chẳng bao lâu, mùi cơm thơm ngát trong chảo nhè nhẹ bốc ra. Hồ Phỉ thở phào một cái, nghĩ bụng:

– Nếu lúc này mà ta cùng nàng ngồi sóng vai nấu cơm ăn với nhau há chẳng là cảnh tượng sung sướng. Không dè tên ác tặc Phụng Thiên Nam lại lần tới miếu.

Nhưng chàng lại tự nhủ:

– Chạm trán Phụng Thiên Nam cũng là một điều hay. Ta mà còn suy nghĩ vẩn vơ là lạc vào đường rẽ mất.

Lòng chàng ngấm ngầm cảnh giác, nhưng cứ nghĩ gương mặt xinh tươi của Viên Tử Y là lại cảm thấy bâng khuâng trong dạ. Mùi cơm cháy khét dần dần bốc lên mà chàng cũng không hay biết. Giữa lúc ấy ngoài cửa miếu có tiếng chân bước rồi cửa miếu mở ra nghe kèn kẹt. Hồ Phỉ vừa sợ vừa mừng, nhảy bổ lên, lẩm nhẩm:

– Nàng đã quay lại rồi!

Dưới ánh lửa chàng nhìn thấy hai người tiến vào. Một người là lão già ước chừng năm mươi tuổi, nước da vàng ủng, người gầy ốm, chính là Lưu Hạc Chân mà chàng đã gặp ở Phong Diệp trang thành Hành Dương. Còn người kia là một thiếu phụ khoảng ngoài hai chục tuổi. Một cánh tay Lưu Hạc Chân được bó bằng vải xanh treo lên cổ. Hiển nhiên lão đã bị thương. Thiếu phụ cũng đi tập tễnh, chân mụ bị thương không nhẹ. Cả hai người đều ướt đẫm toàn thân, bộ dạng trông rất thảm hại.

Hồ Phỉ toan cất tiếng thì Lưu Hạc Chân đưa mắt lạnh lùng nhìn chàng, rồi quay sang bảo thiếu phụ:

– Qua bên kia coi thử!

Thiếu phụ dạ một tiếng, rút đơn đao ở thắt lưng ra rồi đi vào hậu điện. Lưu Hạc Chân đứng tựa vào bệ thờ thở hổn hển. Đột nhiên, lão ngồi phệt xuống, vẻ mặt dường như đang chăm chú lắng nghe tiếng động bên ngoài. Hồ Phỉ thấy lão chưa nhận ra mình, chàng nghĩ bụng:

– Hôm ấy xảy cuộc tỷ võ ở Phong Diệp trang, ai ai cũng đều nhận ra lão và Viên cô nương. Còn ta lẫn vào đám đông như một thằng nhỏ nhà quê, dĩ nhiên là lão không nhận ra.

Chàng mở vung ra, mũi ngửi thấy mùi khét lẹt. Nửa nồi cơm cháy cả rồi. Chàng tủm tỉm cười, bốc từng nắm cơm một đút vào miệng nhai, nghĩ bụng Lưu Hạc Chân thấy mình ăn uống thô lỗ như vậy sẽ không để ý đến nữa.

Một lúc sau, thiếu phụ từ hậu điện trở ra, tay cầm một thanh củi đang cháy, nhìn Lưu Hạc Chân nói:

– Không có gì cả!

Lưu Hạc Chân thở phào, lòng cảnh giác được cởi mở một chút. Lão nhắm mắt ngồi tựa bệ thờ điều tức. Nước mưa trên áo lão chảy xuống đất thành vũng, trong nước có lẫn máu tươi. Thiếu phụ cũng cực kỳ mỏi mệt, mụ ngồi bên lão không nhúc nhích. Coi điệu bộ hai người tựa hồ là đôi vợ chồng, có điều chồng già vợ trẻ chẳng xứng đôi chút nào.

Hồ Phỉ tự hỏi:

– Bản lãnh của Lưu Hạc Chân trong võ lâm ít có địch thủ mà sao lão bị thảm bại đến thế? Thế mới biết trên chốn giang hồ ngoài trời lại có trời, trên người này còn có người khác, mình không thể coi thường được.

Giữa lúc ấy văng vẳng có tiếng vó ngựa từ xa vọng lại. Lưu Hạc Chân đứng bật dậy, rút binh khí ở sau lưng ra, binh khí là một cây đoản thương có quấn xích. Lão nói:

– Trọng Bình! Nàng chạy đi! Ta ở lại đây để liều mạng với hắn.

Lão nói rồi lấy trong bọc ra một vật bó dài chừng hơn thước, trao tay cho mụ và dặn:

– Nàng đưa cho y.

Thiếu phụ kia vành mắt đỏ hoe, đáp:

– Không! Nếu phải chết thì cùng chết một chỗ với nhau.

Lưu Hạc Chân tức mình gắt:

– Chúng ta chịu trăm đắng ngàn cay, mình mang thương tích mà phải chiến đấu là vì cái gì? Việc này mà chẳng làm xong thì ta chết cũng không nhắm mắt. Nàng mau ra cửa sau trốn đi để ta giữ chân kẻ địch.

Thiếu phụ kia vẫn quyến luyến không chịu bỏ đi, mụ khóc mà nói:

– Lão gia ơi! Chúng ta đã là vợ chồng, tiện thiếp mà không được hầu hạ lão gia thì… thì…:

Lưu Hạc Chân giậm chân ngắt lời:

– Nàng làm xong việc lớn này còn tốt hơn việc hầu hạ ta nhiều.

Lão đưa tay trái lên vẫy lẹ, miệng giục:

– Chạy lẹ đi! Chạy lẹ đi!

Hồ Phỉ thấy vợ chồng lão tình nghĩa thâm trọng không nỡ rời tay, trong lòng thấy bất nhẫn nghĩ thầm:

– Hạc Chân là người chính phái. Không hiểu ai làm khó dễ với lão? Ta đã gặp đây thì chẳng thể bỏ qua được.

Giữa lúc ấy tiếng vó ngựa dừng lại ngoài cửa miếu. Hồ Phỉ nghe thanh âm nhận ra ba người cưỡi ngựa thì hai người dừng lại ở cửa trước, còn một người quành lại cửa sau. Lưu Hạc Chân ra chiều tức giận nói:

– Họ chặn mất cửa sau, không đi được nữa rồi.

Thiếu phụ đảo mắt nhìn quanh, rồi xốc nách lão đỡ lên bệ thờ, ẩn vào trong khám thờ. Mụ lại nhìn Hồ Phỉ giơ tay ra hiệu, gương mặt tỏ vẻ khẩn cầu chàng chớ có tiết lộ. Bức màn vàng trước khám thờ buông xuống vừa xong thì hai người tiến vào trong cửa miếu. Hồ Phỉ vẫn ngồi dưới đất, bốc cơm nắm lại rồi bỏ vào miệng, thong thả nhai. Chàng liếc mất nhìn hai người, dù chàng đã gặp quái nhân rất nhiều trên chốn giang hồ mà lần này cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Hai người này cặp lông mày chếch xuống, cặp mắt hình tam giác một lớn một nhỏ, mũi to và hếch lên, tướng mạo cực kỳ xấu xí. Hai người nhìn Hồ Phỉ một cái nhưng không đếm xỉa gì đến. Chúng chia ra hai bên mé trái và mé phải để đi vào hậu điện, chẳng mấy chốc lại trở ra. Ngoài sân có tiếng động khe khẽ, một người từ nóc nhà nhảy xuống. Nguyên lúc hai người sục tìm trước sau thì người đứng chặn cổng hậu nhảy lên nóc nhà để quan sát.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Khinh công người này thật phi thường!

Bỗng thấy bóng người thấp thoáng, người đó đã vọt vào trong điện. Tướng mạo hắn cũng chẳng khác hai người kia mấy, vừa trông đã biết là huynh đệ. Ba người bỏ áo mưa ra. Hồ Phỉ lại một phen kinh hãi vì ba người này đều mặc hiếu phục bằng vải xô, lưng thắt dây cỏ, khăn xô quấn trên đầu, tựa hồ cha mẹ mới mất. Trên đại điện chỉ nhờ một que củi soi sáng. Trời vẫn mưa rả rích, gió lạnh vi vút thối ngọn lửa tạt đi lúc mờ lúc tỏ khiến cho ba bóng người chập chờn trên tường chợt lớn chợt nhỏ, chẳng khác gì loài quỷ mỵ. Bỗng nghe người đến sau cùng hỏi:

– Đại ca! Đôi nam nữ đó đều bị thương rồi, lại không cưỡi ngựa, theo lý chúng chưa thể đi xa được, mà gần đây lại không có nhà cửa thì còn ẩn vào đâu?

Người lớn tuổi nhất đáp:

– Quá nửa là chúng ẩn vào trong sơn động hay bụi cỏ bờ cây nào đó. Chúng ta đừng ngại khó nhọc hãy ra ngoài sục tìm. Bọn chúng tuy bị thương ở chân tay nhưng không nặng lắm. Lão già đó lợi hại lắm, ta nên thận trọng.

Người kia xoay mình toan đi, đột nhiên dừng bước, hỏi Hồ Phỉ:

– Này tiếu tử! Ngươi có thấy một lão già và một người đàn bà trẻ tuổi không?

Hồ Phỉ miệng vẫn nhai cơm, ngơ ngác lắc đầu. Gã đại ca đảo mắt nhìn quanh thấy dưới đất đồ vật tung tóe, ngổn ngang, một pho thần tượng bể thành nhiều mảnh bỏ dưới chân tường liền sinh lòng nghi hoặc. Hắn nhìn kỹ thấy dưới đất có vết chân còn dính nước. Vợ chồng Lưu Hạc Chân đội mưa mà tiến vào miếu, dĩ nhiên bàn chân đem theo vừa bùn vừa nước. Hồ Phỉ liếc mắt nhìn trên bệ thờ cũng rõ vết chân, vội đáp:

– Lúc nãy mấy người đánh nhau ở đây, có trai có gái, có già có trẻ, đánh cả Tương Phi nương nương té xuống đất. Kẻ thì chạy trốn, kẻ thì đuổi theo, mà người nào cũng cưỡi ngựa.

Gã tam đệ chạy ra hành lang, quả thấy rất nhiều vết chân ngựa cùng dấu bánh xe còn chưa khô, nên tin lời Hồ Phỉ là đúng. Hắn liền hỏi Hồ Phỉ:

– Bọn họ đi về ngả nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Dường như họ chạy về mặt bắc. Tiểu nhân nấp dưới gầm bàn, không dám nhìn kỹ.

Gã tam đệ gật đầu nói:

– Phải rồi!

Gã lấy ra một đĩnh bạc chừng bốn lạng liệng xuống trước mặt Hồ Phỉ, nói:

– Cho ngươi đó.

Hồ Phỉ tạ ơn không ngớt. Chàng lượm đĩnh bạc lên lộ vẻ hoan hỷ khôn xiết nhưng trong bụng nghĩ thầm:

– Ba tên ác quỷ này có vẻ đều là những nhân vật võ công cao cường. Nếu chúng đuổi kịp bọn Phụng Thiên Nam đánh loạn xạ ngầu một trận cũng là một màn hay.

Tên nhị ca nói:

– Lão đại! Lão tam! Chúng ta đi thôi.

Ba người khoác áo mưa đi ra cửa miếu. Hồ Phỉ còn loáng thoáng nghe tiếng người nói:

– Ngụy kế đó không phải tầm thường. Bất luận trường hợp nào không thể để hắn chiếm đoạt tiên cơ.

Lại nghe kẻ khác đáp:

– Nếu không ngăn chặn được thì đi báo tin hay hơn.

Người trước lại nói:

– Hỡi ơi! Y đâu có chịu tin lời chúng ta. Huống chi…

Lúc này ba người đã cưỡi ngựa chạy dưới trời mưa lớn nên họ nói gì chàng không nghe rõ nữa. Hồ Phỉ rất lấy làm kỳ, tự hỏi:

– Không hiểu cái ngụy kế lợi hại mà chúng nói đó là gì? Rồi lại đi báo tin cho ai?

Bỗng nghe trong khám thờ khẽ vang lên mấy tiếng lách cách, thiếu phụ đỡ Lưu Hạc Chân leo xuống khỏi bệ thờ. Ngày trước Hồ Phỉ thấy lão cùng Viên Tử Y tỷ võ ở Phong Diệp trang, thân thủ mau lẹ phi thường mà bây giờ leo xuống cái bệ thờ thấp lè tè cũng run lẩy bẩy chỉ sợ té nhào, bất giác lẩm bẩm:

– Không lạ gì lão lại bị thương trầm trọng đến thế. Ba tên ác quỷ kia liên thủ tấn công thì lão khó lòng địch nổi.

Lưu Hạc Chân leo xuống khỏi bệ thờ rồi nhìn Hồ Phỉ thi lễ, nói:

– Đa tạ đại ân cứu mạng của tiểu ca.

Hồ Phỉ vội đáp lễ, nhưng chàng không muốn tiết lộ thân phận nên vẫn giả vờ làm kẻ hương nông ngớ ngẩn, bèn mỉm cười đáp:

– Ba người đó hoành hành bá đạo chẳng khác gì bọn hung thần ác sát, mở miệng ra là tiểu tử này, tiểu tử nọ… Tại hạ không muốn nói thật với chúng

Lưu Hạc Chân hỏi:

– Lão phu họ Lưu tên gọi Hạc Chân.

Lão chỉ thiếu phụ nói tiếp:

– Đây là bà vợ của lão phu. Còn quý tính của tiểu ca là gì?

Hồ Phỉ nghĩ bụng: “Lão đã xưng danh tính với mình, mình không tiện gạt lão, nhưng tên mình không ra vẻ một kẻ hương nông cần đổi đi mới được”. Chàng liền đáp:

– Tại hạ họ Hồ tên gọi A Đại.

Chàng nghĩ rằng song thân chàng chỉ sinh hạ một mình chàng thì có xưng A Đại cũng không phải là nói dối. Lưu Hạc Chân nói:

– Tiểu ca tốt bụng lắm, chắc ngày sau được hưởng phúc vô cùng…

Lão nói tới đây lại chau mày nghiến răng nhịn đau. Thiếu phụ kia vội hỏi:

– Lão gia làm sao vậy?

Lưu Hạc Chân lắc đầu, tựa vào bệ thờ mà thở dốc. Hồ Phỉ nghĩ chắc hai vợ chồng lão có chuyện riêng muốn nói với nhau, chàng ngồi ở bên là điều bất tiện, liền nói:

– Lưu lão gia! Tại hạ ra nhà sau ngủ vậy.

Dứt lời chàng đốt một cây củi làm đuốc rồi đi vào hậu điện. Hồ Phỉ nhìn đống rơm cỏ trên thần đàn không khỏi ngơ ngẩn xuất thần, vì vừa mới đây Viên Tử Y đã nằm ở đó. Không ngờ diễn biến xảy ra, người ngọc đi rồi chỉ còn lại hoang sơn tịch mịch, cổ miếu thê lương. Chẳng biết sau này còn có dịp gặp nàng nữa hay không? Sau một lúc lâu, ánh lửa thanh củi trong tay chợt lóe lên cắt đứt dòng suy nghĩ, đột nhiên chàng la thầm:

-Trời! Nguy rồi! Bản “Quyền kinh đao phổ” của ta bị nàng ý lấy cắp đem đi mất rồi. Bây giờ ta còn có thể ngang sức với nàng, chờ khí nàng xem hết “Quyền kinh đao phổ” thì mỗi chiêu mỗi thức của ta nàng đều thuộc lòng. Nếu xảy ra cuộc động thủ, há chẳng đưa ta vào đất chết?

Mối nhu tình đang tràn ngập trong hồn lập tức biến thành nỗi hoảng sợ. Chàng ném thanh củi đi rồi ngồi phệt xuống đống rơm. Lúc chàng nằm đè lên cái bọc của mình, bỗng cảm thấy cái bọc có điều khác lạ, dường như nó to hơn trước nhiều. Từ trước đến giờ chàng vẫn dùng bọc để gối đầu, sau nghe tiếng Phụng Thiên Nam chàng tìm ra kẻ thù thì chẳng có ai động đến cái bọc, vậy mà bây giờ nó lại dời xuống ngang thắt lưng. Hồ Phỉ lấy làm kỳ, nghĩ bụng:

– Vợ chồng Lưu Hạc Chân và ba anh em quái nhân đều vào hậu điện, chẳng lẽ bọn họ đã đụng vào cái bọc của ta?

Chàng liền đánh lửa đốt lại cành củi cho cháy lên rồi mở bọc ra coi, bất giác ngẩn người. Chàng thấy ngoài quần áo của mình ra, còn thêm một cái áo ngoài, một cái quần, một đôi giày, một đôi tất. Những quần áo, giày tất, là vật của chàng.

Hôm ấy chàng bị Viên Tử Y đẩy xuống ao bùn. Khi chàng xuống sông tắm rửa, mớ quần áo giày tất này bị nàng đoạt đem đi mất, không ngờ bây giờ lại được giặt giũ sạch sẽ. Hai vết thủng trên áo cũng được khâu lại chỉnh tề. Chàng mở áo ra coi thấy cuốn “Quyền kinh đao phổ” nằm trong đó. Bên đao phổ còn một con phụng hoàng bằng ngọc bích dài ba tấc. Con phụng hoàng này được chạm trổ tinh vi, toàn thân bóng loáng, chạm vào tay nghe mát lạnh. Hồ Phỉ ngẩn người ra một lúc rồi gói bọc lại. Chàng cầm con ngọc phụng hoàng trong tay, thổi tắt thanh củi. Chàng ngả người trên đống rơm, lòng ngổn ngang trăm mối:

– Nếu nàng tốt với ta thì tại sao khi ta muốn giết Phụng Thiên Nam nàng lại hết sức đối địch với ta? Nếu nàng không tốt với ta thì tặng ngọc phụng rồi giặt giũ và vá quần áo cho ta để làm gì?

Chàng cứ trằn trọc trong bóng tối, hai mắt mở thao láo, không sao ngủ được.

Chương 08: Phong ba hiểm ác chốn giang hồ

Đột nhiên ở cửa điện có ánh lửa lập lòe, Lưu Hạc Chân một tay cầm que củi, tựa vào vai vợ, từ từ đi vào hậu điện, nói:

– Hay là nằm ở chỗ này chợp mắt một lúc cũng được.

Lão nói rồi đi về phía bệ thờ, có vẻ muốn nằm lên đống rơm mà Viên Tử Y vừa nằm lúc nãy.

Hồ Phỉ hãy còn trẻ tính, vội nói:

– Lưu lão gia! Lão gia leo lên leo xuống bất tiện lắm, cứ nằm dưới đất ngủ ngon giấc hơn. Tại hạ xin nhường chỗ nằm cho lão gia đó.

Chàng nói rồi, tay cầm bọc, sải bước về phía bệ thờ leo lên, giành trước đống rơm đó, Lưu Hạc Chân cảm tạ, nói:

– Tiểu ca thật là tốt bụng!

Hồ Phỉ nằm trong đống rơm còn ngửi thấy mùi hương u nùng thoang thoảng. Không hiểu mùi hương đó là do chàng tưởng tượng hay là của Viên Tử Y còn lưu lại. Lòng chàng vừa mừng lại vừa giận, bất giác đưa tay vuốt ve con ngọc phụng.

Hồ Phỉ chợp mắt bỗng nghe Lưu Hạc Chân khẽ hỏi:

– Trọng Bình! Vị tiểu ca này là người thật tử tế. Vợ chồng mình nên báo đáp y cho phải đạo.

Thiếu phụ tên Trọng Bình đó đáp:

– Phải rồi! Nếu y không hết sức che giấu cho thì vợ chồng chúng ta đã thành hai cái thây ma trong tòa cổ miếu này rồi.

Lưu Hạc Chân thở dài nói:

– Vừa rồi quả thật cùng cực nguy hiểm. Ba anh em Chung thị nếu như muốn làm khó dễ vị tiểu ca này thì dù ta có phải liều cái mạng già này mà cứu được y, ta cũng chẳng quản.

Trọng Bình đáp:

– Dĩ nhiên là thế. Người ta đem tấm lòng nghĩa hiệp đối đãi mình, mình cũng phải đáp lại bằng tấm lòng nghĩa hiệp. Vị tiểu ca này tuy không hiểu võ nghệ, nhưng lòng dạ còn quảng đại hơn rất nhiều bọn hào kiệt giang hồ.

Lưu Hạc Chân bảo vợ:

– Nói khẽ chứ để cho y ngủ.

Tiếp theo lão gọi khẽ mấy tiếng:

– Tiểu ca! Tiểu ca!

Hồ Phỉ chưa ngủ, nhưng nghe hai vợ chồng lão tán dương mình hết lời thì đoán là lão muốn ngỏ lời tạ ơn, chàng liền giả vờ ngủ say không đáp.

Trọng Bình nói:

– Y ngủ say rồi!

Lưu Hạc Chân “ừ” một tiếng. Sau một lúc lão khẽ hỏi vợ:

– Trọng Bình! Lúc nãy ta bảo nàng trốn đi một mình, sao nàng không đi?

Giọng nói đầy vẻ trách móc. Trọng Bình buồn rầu đáp:

– Hỡi ơi! Lão gia bị thương trầm trọng thế này có lý nào thiếp bỏ mặc không chiếu cố?

Lưu Hạc Chân nói:

– Sau khi bà nhà ta mất rồi, ta cứ nghĩ mình sẽ lênh đênh cơ khổ trên cõi đời, đâu ngờ được sẽ có nàng chiếu cố đến ta bằng cả tấm lòng ân ái. Làm sao ta với nàng có thể chia tay nhau được? Nhưng nàng có biết phong thơ này quan trọng thế nào không? Nếu chẳng được đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp thì không biết còn có bao nhiêu anh hùng hào kiệt phải chết oan uổng.

Hồ Phỉ nghe đến sáu chữ “Kim Diện Phật Miêu đại hiệp” thì trong lòng run lên, suýt nữa bật tiếng la. Chàng biết Miêu Nhân Phụng có mối liên quan trọng đại với phụ thân chàng hồi sinh tiền. Theo lời đồn đại trên giang hồ thì phụ thân chàng chết về tay y, nhưng mỗi khi hỏi đến Bình Tứ thúc, là người nuôi chàng từ nhỏ cho đến khi khôn lớn, thì lão nói vụ này không có gì chính xác. Hiện giờ chàng còn nhỏ tuổi, sau này chàng nhất định điều tra cho rõ ngọn ngành.

Năm trước, Hồ Phỉ đã có cơ duyên gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo nhưng vẫn nhớ y thần oai lẫm liệt. Khi đó chàng còn là đứa trẻ nít mà đối với y đã đem lòng khâm phục. Cho tới bây giờ, ngoại trừ Miêu Nhân Phụng và Triệu Bán Sơn, những nhân vật chàng gặp đều làm chàng chán nản. Triệu Bán Sơn cùng chàng kết nghĩa đệ huynh, còn Miêu Nhân Phụng chưa từng nói với chàng một câu, thậm chí chưa từng nhìn chàng một lần, nhưng mỗi khi nghĩ đến người này, chàng cho rằng làm người phải nên như vậy mới xứng đáng là anh hùng hào kiệt. Lại nghe Trọng Bình lên tiếng:

– Thôi, im đi! Vụ này muôn phần cơ mật. Ở chỗ vắng người, ta cũng không nên nói ra.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Phải rồi! Chúng ta bôn tẩu phen này là vì vô số anh hùng nghĩa sĩ, tuyệt không có một chút tư tâm. Hoàng thiên mà linh thiêng nhất định phù hộ cho chúng ta thành công.

Mấy câu nói này nghĩa khí lẫm liệt khiến Hồ Phỉ ngấm ngầm nảy lòng khâm phục. Chàng nghĩ bụng:

– Đây là một việc nghĩa hiệp. Không cần biết Miêu Nhân Phụng là ân nhân hay thù nghịch với ta, ta nhất định giúp cho Lưu Hạc Chân đưa thơ này đến nơi.

Hai vợ chồng nói tới đấy rồi im tiếng. Sau một lúc lâu, Hồ Phỉ đã mơ màng ngủ, chàng vừa chợp mắt lại bỗng nghe mặt bắc có tiếng vó ngựa vang lên. Ba anh em Chung thị đi rồi quay trở lại. Hồ Phỉ ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ bụng:

– Ba người này trở lại miếu lần thứ hai thì phen này e rằng Lưu Hạc Chân khó lòng trốn tránh. Chi bằng ta cứ ra ngoài miếu đánh bọn chúng trước. Dù ta không địch nổi họ thì vợ chồng họ Lưu cũng có thể thừa cơ chạy trốn để đem thơ đi.

Chàng liền đeo gói bạc lên vai, rón rén leo khỏi bệ thờ tiến ra cửa miếu, đi về phía ba anh em họ Chung đang cưỡi ngựa để chặn lại. Lúc này mưa đã tạnh, mặt đường ngập nước cao cả thước. Hồ Phỉ lội nước mà đi, chỉ trong khoảnh khắc chàng đã lờ mờ thấy ba con ngựa nối đuôi nhau chạy tới. Hồ Phỉ đứng lại giữa đường lớn tiếng quát:

– Đường núi này do ta mở ra, những cây này do ta trồng nên. Muốn đi qua đường này, hãy nộp tiền mãi lộ.

Chung lão tam đi đầu, sửng sốt quát lớn:

– Tên tiểu tặc kia ở đâu chui ra vậy?

Gã cầm roi ngựa xông về phía Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái ra chụp lấy cương ngựa kéo mạnh một cái. Con ngựa đang lao rất nhanh thế nặng không dưới đến tám, chín trăm cân, vậy mà Hồ Phỉ kéo giật dây cương một cái nó lập tức lùi lại mấy bước. Chàng đã sử tuyệt kỹ tá lực, nương theo đà lui của con ngựa đẩy mạnh một cái rồi nhấc lên, con ngựa cao lớn té huỵch xuống đất. May mà Chung lão tam nhanh trí vội nhảy xuống trước ở bên đường.

Diễn biến này khiến cho ba anh em họ Chung đều cực kỳ kinh hãi. Chung lão đại và Chung lão nhị đồng thời xuống ngựa. Cả ba người trong tay đều cầm một món binh khí hình dạng rất kỳ dị.

Lúc này, trời đã bình minh. Trước khi trời sáng tỏ phải một lúc u ám. Tuy trận mưa lớn đã tạnh nhưng mây đen đầy trời chưa tan hết. Dù Hồ Phỉ giương mắt lên nhìn nhưng chưa rõ khí giới trong tay ba người là thứ gì. Bỗng nghe một tiếng người cất lên ồm ồm:

– Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc đi qua quý địa, chưa kịp đến cửa bái phỏng, quả là thất lễ. Xin các hạ cho biết tôn tính đại danh.

Ba người nghe khẩu âm Hồ Phỉ còn non nớt biết chàng chưa lớn tuổi nên chẳng coi ra gì, nhưng khi thấy chàng kéo dây cương đẩy ra một cái khiến con ngựa khỏe phải ngã lăn xuống đất mới biết công lực chàng không phải tầm thường, chúng liền thay đổi sắc mặt. Lão đại là Chung Triệu Anh hỏi họ tên, lời lẽ đầy vẻ lễ kính. Hồ Phỉ tuy tính hay đùa giỡn và đa trí nhưng vốn không phải là kẻ khinh bạc, nên thấy đối phương ăn nói khách khí, liền đáp:

– Tại hạ họ Hồ, quên chưa thỉnh giáo đại hiệu của ba vị.

Chung Triệu Anh nghĩ bụng:

– Chung thị tam hùng nổi danh khắp thiên hạ, người võ lâm còn ai không biết. Gã đã nghe mấy chữ “Chung thị huynh đệ ở Ngạc Bắc” mà còn hỏi danh hiệu đủ tỏ kiến thức gã nông cạn lắm.

Hắn đáp:

– Tại hạ Chung Triệu Anh, nhị đệ là Triệu Văn, tam đệ là Triệu Năng. Anh em tại hạ có việc gấp xin Hồ đại ca nhường lối. Hồ đại ca đã khai sơn lập trại ở đây, thì lúc anh em tại hạ trở về nhất định sẽ đến nơi chân thành bái tạ.

Hắn nói rồi chắp tay thi lễ. Chúng Triệu Anh là nhân vật nổi tiếng giang hồ mà đối với hậu bối lại ăn nói tỏ vẻ khiêm cung như vậy, quả thực cực kỳ hiếm có. Chỉ vì hắn thấy Hồ Phỉ hiển lộ công phu rất đỗi thâm hậu, biết là khó lòng đánh bại huống chi chưa chắc chàng chỉ có một người, nếu còn thầy còn bạn ở bên cạnh lại càng thêm rắc rối. Hồ Phỉ cũng chắp tay đáp lễ hỏi:

– Chung lão sư thật quá đa lễ. Phải chăng ba vị đi kiếm vợ chồng Lưu Hạc Chân?

Lúc này trời đã dần sáng. Ba người nhận ra người đứng trước mặt chính là gã thiếu niên quê mùa vừa gặp ở trong miếu Tương Phi. Ba anh em họ Chung nhìn nhau nghĩ bụng:

– Lúc nãy mình nhận lầm người rồi. Té ra tên tiểu tử này cùng một phe với Lưu Hạc Chân.

Trong ánh bình minh, Hồ Phỉ cũng nhìn rõ những binh khí hình thủ kỳ quái trong tay ba anh em họ Chung. Chung Triệu Anh cầm thiết bài dài chừng hơn một thước, trên mặt thấp thoáng thấy có khắc chữ. Chung Triệu Văn cầm cây Khốc tang bổng. Binh khí của Chung Triệu Năng càng lạ nữa, nó là một cành Chiêu hồn phướn cắm trên linh tòa của người chết. Cây phướn phất phơ bay trong gió sớm, trông càng kỳ bí khôn lường. Tướng mạo ba người đã cực kỳ xấu xa, phục sức cũng quái dị mà khí giới đều hung hiểm, chưa cần động thủ đã khiến người ta mất cả hồn vía. Hồ Phỉ chỉ sợ bọn chúng đột nhiên sinh sự, chàng lại không hiểu ba món binh khí này lợi hại ra sao nên để hết tinh thần phòng bị không dám lơ đãng. Chung Triệu Anh hỏi:

– Giữa các hạ và Lưu Hạc Chân lão sư xưng hô thế nào?

Hồ Phỉ đáp:

– Bữa nay tại hạ mới gặp Lưu lão sư là lần thứ hai chứ chẳng có liên quan chi hết. Nhưng thấy ba vị bức bách họ thái quá nên phải thay mặt lão mà năn nỉ giùm. Người ta thường nói: “Nếu ngừng tay được nên ngừng gấp, có thể tha người nên tha ngay”. Vợ chồng Lưu lão đã bị thương, ba vị khoan dung cho mấy phần có được chăng?

Chung Triệu Anh trong lòng nóng nảy nghĩ thầm:

– Mình đã mất bao nhiêu thì giờ ở đây mà còn chần chờ nữa thì vợ chồng Lưu Hạc Chân tất thừa cơ tẩu thoát.

Hắn liền đưa mắt ra hiệu cho đại ca, đồng thời từ từ cất bước toan đi vòng qua Hồ Phỉ. Hồ Phỉ giơ hai tay ra nói:

– Giữa ba vị và Lưu lão sư có điều chi xích mích, tại hạ tuyệt không hay biết. Nhưng Lưu lão sư cũng đang có công việc gấp rút, xin ba vị tạm thời đợi sau khi Lưu lão sư xong việc rồi sẽ tìm lão trả oán nên chăng? Đến lúc đó thì tại hạ không dám can thiệp, dĩ nhiên là không dám mạo muội cản đường.

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Bọn ta không để lão làm việc đó, rốt cuộc các hạ có nhường lối hay không?

Hồ Phỉ nhớ tới lời đối đáp giữa vợ chồng Lưu Hạc Chân thì bức thư kia liên quan đến tính mạng của vô số nhân nghĩa sĩ, lại thấy Chung thị huynh đệ tướng mạo hung dữ, hiển nhiên bình sinh làm ác đã nhiều. Nếu bữa nay không động thủ thì vụ này khó lòng kết liễu. Chàng liền cười ha hả đáp:

– Muốn nhường lối cũng không sao, chỉ cần ba vị đưa ba trăm lạng bạc tiền mãi lộ.

Chung Triệu Văn cả giận vung cây Khốc tang bổng tiến lên toan động thủ. Không ngờ Chung Triệu Anh đưa tay trái lên cản lại, nói:

– Nhị đệ hãy khoan!

Hắn thò tay vào bọc lấy bốn đĩnh bạc nói:

– Chỗ này có ba trăm lạng bạc dư. Xin các hạ thu lấy.

Chung Triệu Văn lại la lên:

– Đại ca! Đại ca làm cái gì thế?

Hắn nghĩ đến Chung thị tam hùng tung hoành đất Kinh Sở mà đối với một gã hậu bối sao lại tỏ ra khiếp nhược đến thế? Nhưng Chung Triệu Anh biết không nhanh tay ngăn chặn Lưu Hạc Chân thì không được, vì hành sự thì có lúc nhẹ nhàng, có lúc trầm trọng, có khi thư thả, có khi gấp gáp. Hơn nữa Hỏ Phi chỉ là một thiếu niên vô danh, ba anh em có hợp sức đánh thắng cũng chẳng hay ho gì, nếu còn giằng co thì hỏng việc lớn. Do đó, khi hắn nghe chàng đòi tiền mãi lộ liền cầm hơn ba trăm lạng bạc đưa ngay. Việc này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng cười hì hì lắc đầu, không đưa tay lấy bạc mà nói:

– Đa tạ! Đa tạ! Chúng lão sư nói bốn đĩnh bạc này có dư ba trăm lạng, nhưng vãn bối chỉ định giá mỗi vị một trăm lạng, ba vị là ba trăm lạng. Nếu lấy nhiều là quá bất công. Bây giờ đành thế này vậy. Chúng ta đến thị trấn trước mặt, tìm cửa hàng đổi tiền, nhờ chưởng quỹ cân lại. Vãn bối chỉ lấy đúng ba trăm lạng, không dám lấy thêm một phân một hào…

Chung thị tam hùng nghe tới đây, lông mày đều dựng đứng cả lên. Chung Triệu Anh bỏ bạc vào bọc rồi nói:

– Nhị đệ! Tam đệ! Hai vị hãy đi trước.

Rồi quay lại phía Hồ Phỉ, quát lớn:

– Lấy khi giới ra. Tại hạ xin lĩnh giáo mấy cao chiêu của lão đệ.

Hồ Phỉ thấy hắn thần định khí nhàn, đúng là một tay kình địch mà đơn đao của chàng bị Viên Tử Y đoạt mất. Bây giờ tay không tấc sắt đấu với ba người e rằng khó bề thủ thắng. Chàng nghĩ tới Viên Tử Y lại thấy mát ruột, nhưng rồi lại tức tối, nghĩ thầm:

– Nếu nàng không lấy binh khí của ta thì bây giờ ta đâu đến nỗi lâm vào cảnh hiểm nghèo.

Chàng thấy Chung Triệu Văn và Chung Triệu Anh đi vòng qua hai bên mà không biết làm sao để ngăn trở. Chàng chợt nảy ra một ý, đột nhiên lạng người đi hai bước, hữu quyền vung lên, đấm “binh” một cái vào mũi con ngựa của Chung Triệu Anh. Thoi quyền này rất trầm trọng và chính là một sát chiêu cực kỳ lợi hại trong “Hồ gia quyền”. Con hoàng mã lập tức bị vỡ óc, ngã lăn xuống đất, không nhúc nhích nữa. Nó đã chết rồi. Thủ pháp ra tay trước để chiếm lấy tiên cơ này khiến cho Chung thị tam hùng đều thộn mặt ra. Hồ Phỉ tiện tay chụp lấy cái yên ngựa khẽ giật một cái, bao nhiêu dây buộc đều đứt hết. Chàng buộc yên ngựa vào trước ngực, mỗi tay đều cầm mỗi cái bàn đạp nói:

– Xin đắc tội! Chỉ vì tại hạ không đem theo bính khí nên phải mượn tạm cái yên ngựa và bàn đạp này.

Dứt lời tay trái chàng cầm bàn đạp vung lên nhằm đánh vào mặt Chung Triệu Văn, tay phải cầm bàn đạp đánh tới hông Chung Triệu Năng. Hai bàn đạp đồng thời đưa ra ngăn cản lối đi của hai người. Chung thị tam hùng vừa sợ vừa giận. Nguyên trước đây ba anh em nhà này vẫn sử phán quan bút, nhưng tám năm trước chúng bị bại về tay Miêu Nhân Phụng gây nên mối đại nhục. Từ đó chúng bỏ không dùng phán quan bút mà mỗi người luyện lấy một thứ binh khí quái dị. Tám năm ròng khổ luyện, võ công chúng tiến bộ rất nhiều. Chúng muốn đi kiếm Miêu Nhân Phụng để quyết một trận thư hùng, không ngờ ở nơi quê mùa hẻo lánh này chúng lại bị một gã thiếu niên vô danh làm nhục.

Chung Triệu Anh hú lên một tiếng. Chung Triệu Văn và Chung Triệu Năng cũng hú theo. Tiếng hú nghe như tiếng gió rú thê lương, thổi hơi lạnh ào ạt. Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm kinh hãi. Cả ba người vung Thiết lịnh bài, Khốc tang bổng và Chiêu hồn phướn chia ra ba mặt tấn công. Hồ Phỉ dùng yên làm tấm thuẫn để che ngực, hai tay múa hai cái bàn đạp sắt tựa hồ cặp lưu tinh chùy, vậy là vừa công vừa thủ.

Hồ Phỉ tuy tinh thông về đao pháp và quyền cước, song còn kém Viên Tử Y ở chỗ chưa tinh thông võ công các phái, lại chưa luyện qua công phu sử dụng Lưu tinh chùy. Chàng chỉ ỷ vào tâm cơ minh mẫn, thủ pháp mau lẹ, căn cơ võ học hơn người một bậc để đối phó. Tuy người ta nói rằng: “Nhất pháp thông, vạn pháp thông”, hễ thông suốt được một pháp là thông suốt cả vạn pháp, một cành trúc hoặc một cây gỗ trong tay cao thủ võ học đều có thể biến thành binh khí để chế địch hộ thân, nhưng Chung thị tam hùng đều là hảo thủ hạng nhất, về công lực bản thân mà nói người nào cũng cao hơn Hồ Phỉ. May mà chàng không hiểu chiêu thuật của Lưu tinh chùy mới cùng ba người trao đổi hai, ba chục chiêu vẫn chưa thất bại.

Nguyên Chung thị tam hùng là những người kiến văn quảng bác, chúng thấy Hồ Phỉ lấy hai cái bàn đạp để làm Lưu tỉinh chùy liền để ý tìm ra gia số võ công của đối phương. Chúng lại thấy Hồ Phỉ tay mặt cầm bàn đạp quét ngang, liền nghĩ ngay đây là chùy chiêu “Bạch hồng quán nhật” trong Lưu tinh chùy pháp của Trương gia ở Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông. Chúng yên trí cái bàn đạp nơi tay trái chàng cứ thuận đà quét ngang. Ngờ đâu Hồ Phỉ thấy cây Khốc tang bổng của Chung Triệu Văn từ dưới vung lên, đỉnh đầu hắn sơ hở liền vung bàn đạp đánh xuống đầu đối phương. Chung thị tam hùng trong lòng lấy làm lạ tự hỏi:

– Đây là gia số gì vậy?

Hồ Phỉ thấy Chung Triệu Văn giơ bổng lên gạt, cái bàn đạp bên tay mặt chàng liền quét tới Chung Triệu Năng. Chung thị tam hùng lẩm nhẩm gật đầu, nghĩ bụng:

– Phải rồi! Té ra gã là môn hạ Chữ Thập chùy ở Diên Châu, tỉnh Giáp Tây. Nửa dưới chiêu của “Dương mi thổ khí”, tất dùng cả hai bàn đạp đánh tới trước ngực.

Ba người đã thấy chàng kéo ngựa rồi đánh ngựa, tý lực cực kỳ mạnh mẽ. Nếu để song chùy đánh trúng ngực thì nguy đến tính mạng. Ba người liền đưa binh khí lên che ngực, vận kình lực ra cánh tay để đón đỡ chiêu này. Dè đâu Hồ Phỉ chẳng hề biết “Dương mi thổ khí” là chiêu số gì cả, chàng thấy ba người đưa binh khí lên che ngực, liền quét ngang cặp bàn đạp đánh xuống hạ bàn ba người. Chung thị huynh đệ giật nảy mình lên tự hỏi:

– Sao gã lại biết sử dụng chiêu “Phiên thiên phúc địa”?

Chung Triệu Năng vừa ra chiêu đỡ vừa lớn tiếng hỏi:

– Này! Lưu tinh hãn nguyệt Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên là thế nào với ngươi?

Nguyên Đồng lão sư ở phủ Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây giới sử dụng song chùy, ngoại hiệu là “Lưu tinh hãn nguyệt”, có mối thâm giao với Chung thị tam hùng. Chiêu “Thiên phiên địa phúc” là một tuyệt kỹ đơn truyền đối với bọn họ, các nhà khác sử dụng Lưu tinh chùy đều không biết chiêu này. Hồ Phỉ đánh bừa không ngờ lại phảng phất giống như chiêu “Thiên phiên địa phúc”. Chàng nghe Chung Triệu Năng hỏi vậy liền cười đáp:

– Đồng lão sư là sư đệ của tại hạ.

Đoạn chàng vung hai cái bàn đánh thẳng tới. Chúng Triệu Năng phì một tiếng, rồi thóa mạ:

– Thằng lỏi này nói nhăng nói càn!

Ba người thấy Hồ Phỉ dùng đôi bàn đạp phóng ra những chiêu xuất quỷ nhập thần, không có cách nào đoán được gia số võ công cùng sư thừa của chàng, đều lấy làm lạ quái, nghĩ thầm trong bụng:

– Mấy chục năm nay, anh em mình rong ruổi khăp thiên ha, có nhà nào, phái nào sử dụng Lưu tinh chùy mà chưa từng thấy qua. Chắc thằng lỏi thuộc về tà môn.

Xưa nay khi động thủ tỷ võ, nếu dò ra được gia số võ công của đối phương là có thể tranh được tiên cơ, dễ dàng chiếm thế thượng phong. Nhưng Chung thị tam hùng phỏng đoán mấy lần đều sai trật không khỏi rối loạn tâm thần, và những chiêu số đang sử dụng bỗng nhiên mất cả tác dụng. Nguyên nhân là bởi Hồ Phỉ dùng thần quyền đánh chết ngựa khiến ba người đem lòng úy kỵ, nếu không thì bọn chúng bất tất phải nhận định gia số cùng môn phái của chàng, cứ việc xông vào thi triển tuyệt chiêu thì Hồ Phỉ đã thua lâu rồi.

Sau khi trao đổi hai chục chiêu. Chung thị tam hùng nhận ra chiêu số của Hồ Phỉ tuy kỳ dị, nhưng uy lực chẳng có chi đáng kể, chúng liền thi triển tuyệt kỹ đã khổ luyện tám năm để dùng ba món binh khí quái dị là Thiết linh bài, Khốc Tang bổng, Chiêu hồn phướn tấn công tới tấp. Tấm linh bài của Chung Triệu Anh bằng thép đúc đi toàn những đường cương ngạnh, mãnh liệt. Bây giờ Hồ Phỉ mới nhìn rõ bốn chữ “Nhất kiến sinh tài” trên tấm linh bài. Chung Triệu Năng sử Chiêu hồn phướn phát huy toàn nhu công. Cây phướn giống như vải mà không phải là vải, giống như da mà chẳng phải là da. Bàn đạp đánh vào chẳng ăn thua gì nhưng nếu bị cây phướn phất trúng thì chắc là khó chịu lắm. Chung Triệu Văn sử cây Khốc tang bổng tựa hồ ở vào khoảng giữa cương và nhu, chiêu số lại càng phức tạp, pha tạp giữa tiên pháp và giản pháp.

Binh khí của Chung thị tam hùng khác nhau, ba cán bình khí lại được sử dụng như ba cây phán quan bút cương nhu hỗ trợ cho nhau. Hồ Phỉ thầm kêu khổ trong bụng, chàng biết nếu còn tiếp tục chiến đấu thì chỉ trong khoảnh khắc là phải thất bại. Đột nhiên chàng thu hai tay về đặt ở phía sau yên ngựa rồi đẩy mạnh ra. Phát đẩy này luồng lực đạo rất mạnh. Nghe “vù” một tiếng, yên ngựa bắn vọt ra khiến Chung thị tam hùng phải nhảy lên né tránh. Chúng không hiểu chàng lại sắp sử dụng quái chiêu gì.

Hồ Phỉ lớn tiếng hô:

– Tại hạ vốn chỉ vì hảo tâm mà khuyên can các vị, chứ tuyệt không có ý động thủ nên chẳng đem binh khí chi hết. Cái tấm yên ngựa này thì làm sao chống nổi ba vị anh hùng đương thế? Bữa nay kể như Hồ Phỉ nhận thua là xong.

Dứt lời chàng tránh sang bên đường để nhường lối. Chung thị tam hùng biết rõ chàng nói khích, nhưng trong lòng có việc gấp không muốn giằng co nữa. Chung Triệu Năng lên tiếng đáp:

– Hay lắm! Lần sau đại hiệp lấy binh khí quen dùng, bọn tại hạ sẽ lãnh giáo mấy cao chiêu.

Dứt lời hắn cất bước toan đi. Hồ Phỉ vừa cười vừa nói:

– Lần sau, lần sau, cái hẹn lần sau quả là hay! Té ra Chung thị tam hùng chỉ là những nhân vật đến thế mà thôi.

Chung Triệu Văn tức giận hỏi:

– Đến thế là làm sao? Ngươi không đem binh khí lại còn trách ai nữa?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ có một giải pháp tuyệt diệu, chỉ sợ các vị không đám tỷ thí với tại hạ.

Chung thị tam hùng thấy chàng nói khích lần nữa không thể nhịn được, liền đồng thanh giục:

– Các hạ cứ việc vạch đường ra đi!

Chung Triệu Anh nói tiếp:

– Hai vị huynh đệ của tại hạ ở lại lãnh giáo. Tại hạ xin cáo từ.

Hắn nói rồi tung mình vọt đi. Hồ Phỉ cũng tung người, hai tay ở trên không giang ra cản đường. Chung Triệu Anh không ngờ thân pháp chàng mau lẹ đến thế, liền vung cây thiết bài đánh vào trước mặt chàng. Công phu quyền cước của Hồ Phỉ còn cao hơn hắn nhiều. Chàng không né tránh mà khi chân chạm đất đã xoay tay phải chụp vào cổ tay hắn vặn một cái. Suýt nữa tấm thiết bài của hắn đã bị chàng đoạt mất.

Triệu Văn, Triệu Năng đều giật mình kinh hãi chia hai bên tả hữu đánh tới để giải nguy cho huynh trưởng. Hồ Phỉ nổi tràng cười rộ, nhảy lùi lại hơn một trượng. Tiện tay chàng bẻ một cành thông bên đường, miệng hô:

– Ba vị có dám tỷ thí đao pháp với tại hạ không?

Vừa rồi Chung Triệu Anh tuy chưa bị chàng đoạt mất thiết bài nhưng cổ tay bị chụp hãy còn ngấm ngầm đau, trong lòng lại tăng thêm mấy phần nghi ngờ úy kỵ. Hắn nghĩ:

– Gã thiếu niên này không phải là hạng người tầm thường. Nếu mình đuổi theo Lưu Hạc Chân để nhị đệ và tam đệ ở lại đây cũng không yên tâm. Thôi thì ba anh em ta cứ hợp lực thu thập xong gã này đã. Dù có bị lỡ việc cũng đành vậy.

Chung Tiệu Văn thấy Hồ Phỉ tay cầm một cành thông dài bốn thước, không hiểu chàng giở trò gì, bèn đưa mắt nhìn đại ca để hỏi ý. Chung Triệu Anh nén giận đáp:

– Các hạ muốn tỷ đao pháp, đáng tiếc là bọn tại hạ cũng không mang đơn đao theo. Nếu có cũng xin bồi tiếp.

Hồ Phỉ nói:

– Chúng ta vốn không quen biết, lại chẳng có thâm cừu đại hận gì, nên khi tỷ thí chỉ cần điểm tới là ngưng, ba vị thấy có được không?

Chung Triệu Anh đáp:

– Đúng vậy!

Hồ Phỉ lấy tay hái bỏ những cành lá trên cành thông, chỉ còn lại một khúc lớn trơ trụi, rồi nói:

– Cành thông này cũng coi như thanh đao. Mời ba vị cùng tiến lên. Chúng ta nên giao hẹn với nhau trước. Cành thông này đâm trúng chỗ nào cũng coi như đã bị cương đao chém trúng. Lời nói của ba vị Chung thị tam hùng không biết có đáng tin không?

Chung Triệu Văn thấy chàng khoác lác lại càng tức mình, lớn tiếng:

– Chung thị tam hùng ở Ngạc Bắc nổi danh là những nhân vật chính nghĩa khắp chốn giang hồ, khi tiểu huynh đệ còn chưa ra đời kia!

Hồ Phỉ nói:

– Thế thì hay lắm! Coi đao đây!

Chàng vung cành thông quét ngang đánh “véo” một tiếng. Chung Triệu Văn ở phía sau tiến lên vung cây bổng phản kích. Hồ Phỉ nhảy nghiêng người né tránh, cành thông đã chém vào cổ Chung Triệu Năng. Chung Triệu Năng xoay ngược cây phướn đập vào cành thông. Đồng thời Chung Triệu Anh cũng vung thiết bài đánh tới. Hồ gia đao pháp quả thật tinh diệu tuyệt luân. Chung thị tam hùng tuy võ công cao cường nhưng Hồ Phỉ dùng cành thông làm thanh đao tấn công, tung hoành giữa ba người. Chàng cầm cành thông nhỏ chém ngang bổ dọc, đâm trên quét dưới hiển lộ uy lực vô cùng.

Chung thị tam hùng càng đấu càng đưa ra những chiêu kỳ diệu. Nhưng Hồ Phỉ quyết không để cành thông nhỏ bé đụng vào ba thứ binh khí quái dị kia nên chiêu nào cũng lợi dụng sơ hở của đối phương để đánh vào nơi yếu hại. Chung thị tam hùng dù bị cành thông đánh trúng cũng chẳng sao, nhưng đã có lời giao ước nên quyết không để nó chạm vào người. Chung Triệu Văn nổi nóng quét ngang cây bổng đập mạnh vào xương đùi Hồ Phỉ. Ba anh em họ Chung chiêu nào cũng tiếp ứng với nhau, chỉ chờ Hồ Phỉ nhảy lên né tránh là Chung Triệu Năng vung Chiêu hồn phướn đánh vào đầu còn Chung Triệu Anh đưa thiết bài đánh bên hông trái. Ngờ đâu Hồ Phỉ không nhảy lên mà tiến lên một bước rồi đập cành thông trúng vào vai trái của Chung Triệu Văn.

Chiêu này cực kỳ lợi hại. Nếu đó là thanh cương đao thì lập tức Chung Triệu Văn phải đã đứt một cánh tay trái, còn cành thông đánh trúng dĩ nhiên không có gì đáng kể. Nhưng Chung Triệu Văn cũng tái mặt la lên:

– Hỏng rỏi! Hỏng rồi!

Hắn liệng cây Khốc tang bổng xuống đất, buông tay lùi lại. Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng trong lòng run sợ, cây Thiết bài, Chiêu hồn phướn thi triển những sát chiêu đánh rát hơn. Họ chỉ mong đập trúng Hồ Phỉ một phát là ngừng tay, xem như hòa. Nhưng sau mấy chiêu Chung Triệu Anh bị cành thông quét trúng cổ, Chung Triệu Năng bị vạch một đường vào chân phải. Hai người nhìn nhau, nét mặt thê thảm, rồi cùng quăng bình khí đi. Đột nhiên Chung Triệu Anh ọe một tiếng, miệng hộc ra một đống máu tươi.

Hồ Phỉ thấy bọn chúng tuân giữ lời ước, chàng nghĩ thầm:

– Ba anh em họ Chung tuy là người hung ác nhưng biết thủ tín, đã nói là giữ lời.

Chàng không đả thương Chung Triệu Anh mà hắn bị lửa giận công tâm đến thổ máu tươi nên trong lòng cảm thấy ấy náy, bèn chắp tay toan nói vài lời xin lỗi.

Chung Triệu Anh hừ một tiếng đáp:

– Võ công các hạ quả thật kinh nhân. Bội phục! Bội phục! Có điều đáng tiếc là các hạ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà không đi vào chính đạo thật phí cho một thân mang tuyệt kỹ.

Hồ Phỉ ngạc nhiên hỏi:

– Tại hạ có gì mà không đi theo chính đạo cơ chứ?

Chung Triệu Văn tức giận đáp:

– Tam đệ! Còn nói với y làm chi?

Rồi chúng đỡ Chung Triệu Anh lên ngựa dắt đi ngay. Ba món bình khí cổ quái bỏ cả lại trong vũng nước, chẳng thấy ai quay lại lấy. Hồ Phỉ thấy ba người cắm đầu đi thẳng một hơi không hề ngoảnh lại, trên mặt đất chỉ còn lại một xác ngựa và ba món binh khí, chàng không khỏi xúc cảm, nhìn theo một lát rồi quay lại cổ miếu. Chàng tiến vào trong miếu, kiếm cả điện trước lẫn điện sau không thấy bóng vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu cả thì biết là hai người đã thừa cơ bỏ trốn xa rồi. Chàng cảm thấy mình vừa làm nên hảo sự trong lòng lấy làm đắc ý, Hồ Phỉ tự nhủ:

– Không hiểu Miêu Nhân Phụng ở đâu? Tuy người này mang ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nhưng võ công không hiểu đến trình độ nào?

Chàng nghĩ tới giữa nhân vật này và tiên phụ có mối liên quan trọng đại. Ngày trước, tại Thương gia bảo chàng đã gặp một lần, hai trang đầu trong cuốn “Quyền kinh đao phổ” của chàng cũng nhờ vào uy phong của y mới lấy lại được từ tay Diêm Cơ. Lúc này thời gian cấp bách, chàng không biết có nên theo dõi vợ chồng Lưu Hạc Chân hay không? Còn Phụng Thiên Nam tuy đã trốn chạy nhưng chắc chưa đi xa, thù này mà không báo thì sao đáng mặt trượng phu? Trong lúc nhất thời, chàng không biết phải làm việc gì cho đúng. Chàng cúi đầu ngẫm nghĩ rồi quay lại đường cũ. Chàng đến chỗ vừa động thủ với ba anh em họ Chung thì không thấy ba món bình khí cổ quái đâu nữa, chỉ còn xác ngựa nằm dài trên mặt đất.

Chàng rất lấy làm lạ tự hỏi:

– Ta vừa đi vừa về chỉ trong khoảnh khắc mà bây giờ trời hãy còn sớm, không hiểu có người qua đường nào đã thuận tay nhặt lấy, hay là chưa có người qua lại. Chẳng lẽ ba anh em họ Chung đi rồi còn quay trở lui?

Chàng đi quanh bốn phía dò xét không thấy có gì khác lạ. Chàng quan sát lần nữa bỗng nhận ra trên cành cây lớn cách chỗ tỷ đấu chừng ba chục trượng có vết chân dính bùn. Vết chân cao cách mặt đất chừng một trượng ba thước, in vào chỗ cành cây không hướng ra đường, nếu không quan sát cẩn thận thì không thể nào phát hiện được. Vết chân dính bùn hãy còn ướt, chứng tỏ lưu lại chưa lâu. Vết chân đi giày nhỏ bé, hiển nhiên là giày đàn bà.

Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẽ lại là nàng? Lúc ta tỷ đấu với Chung thị tam hùng, nàng ẩn mình trên ngọn cây để theo dõi chăng?

Nghĩ tới đây chàng thấy trống ngục đập bình bình, liền tung mình lên vịn một cành cây, lộn mình trèo lên. Quả nhiên trên một cành đâm ngang, chàng lại nhìn thấy hai dấu chân phụ nữ hãy còn ướt. Bên cạnh cành cây nằm ngang này còn có hai cành như bị đạp gãy, vết gãy hãy còn rất mới.

Hồ Phỉ cảm thấy nghi hoặc, nghĩ thầm :

– Nếu là Viên cô nương thì khinh công rất cao, quyết không thể đạp gãy hai cành này.

Chàng trèo cao hơn lại thấy trên một cành nằm ngang khác có hai vết chân đàn ông. Mối nghi ngờ trong lòng liền được sáng tỏ, nhưng không khỏi cảm thấy thất vọng. Chàng lẩm bẩm:

– Té ra hai vợ chồng Lưu Hạc Chân đã nấp ở đây.

Lòng chàng lại nẩy ra nhiều điều nghi vấn:

– Hai người này đều bị trọng thương thì làm sao lên ẩn trên cây cao được mà không hề bị ta phát giác? Chung thị tam hùng đi rồi sao vợ chồng lão không gọi ta?

Trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, chàng bụng bảo dạ:

– À, phải rồi! Vợ chồng lão tưởng ta không hiểu võ nghệ rồi đột nhiên thấy ta đả bại Chung thị tam hùng nên sinh lòng ngờ vực, sợ ta gây điều bất lợi cho họ nên không dám lộ diện. Trên chốn giang hồ đầy sóng gió hiểm ác, các bậc tiền bối thường để tâm đề phòng mọi chỗ. Huống chi họ đang có việc gấp, khi nào dám lơ đãng?

Nghĩ đến đó, chàng thấy lòng nhẹ nhõm. Chàng thấy dấu chân bùn trong đám cỏ đi về phía đông bắc, liền động tính hiếu kỳ lần theo dấu chân đuổi theo. Trời mưa lớn suốt đêm, đường đất chỗ nào cũng bùn lầy, dấu bàn chân một nam một nữ hiện lên rất rõ, việc theo dõi chẳng tốn công sức gì. Hồ Phỉ thấy thủy chung vết chân đều tránh đường lớn, cứ lần theo những bụi nhỏ quanh co mà đi. Chàng đi chừng hơn một giờ thì đến một thị trấn nhỏ. Bên ngoài thị trấn, dấu chân loạn xạ không nhận được rõ. Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Hai người nhịn đói một đêm, bây giờ rất cần ăn uống. E rằng họ chỉ mua bánh bao ăn lót dạ rồi xuyên qua thị trấn mà đi. Như vậy không dễ gì mà truy tìm được.

Hồ Phỉ vào thị trấn mua một một cái áo tơi và một cái nón lá. Chàng khoác áo đội nón che sụp nửa mặt và dò chừng mấy phạn điếm cùng những hàng lừa ngựa. Chàng quan sát mấy nhà mà chẳng thấy dấu vết vợ chồng Lưu Hạc Chân đâu. Thị trấn này nhỏ bé, chớp mắt đã đi tới cuối phố. Chàng toan quay lại mua cơm ăn thì đột nhiên nghe tiếng một phụ nữ cất lên:

– Đại tẩu có kim chỉ xin cho tiểu muội mượn một chút.

Thanh âm chính thị của vợ Lưu Hạc Chân. Hồ Phỉ cúi đầu rồi liếc mắt nhìn qua dưới vành nón, thấy câu nói từ một căn nhà dân thường vọng ra, liền nghĩ bụng:

– Vợ chồng lão sợ địch nhân lần theo hành tung nên không dám vào khách điếm nghỉ chân. Họ đề phòng nghiêm mật như vậy, e rằng ngoài ba anh em họ Chung còn có những kẻ đối đầu khác lợi hại hơn đang gây khó dễ. Phóng lao thì phải theo lao, ta cứ ngấm ngầm bảo vệ họ cho bức thư kia được đến tay Miêu đại hiệp.

Chàng quay lại không tới bảy, tám căn nhà đã thấy có một tiểu khách điếm liền vào đó thuê phòng nghỉ chân, nhưng thủy chung mắt vẫn không rời khỏi căn nhà có vợ chồng Lưu Hạc Chân. Mãi cho đến chiều tối, vợ chồng Lưu Hạc Chân vẫn không lộ diện lần nào.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Các bậc tiền bối làm việc rất thận trọng. Nhất định họ chờ đến trời tối mịt mới khởi hành.

Quả nhiên vào khoảng canh hai, chàng thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân rời căn nhà người dân đó và rảo bước ra khỏi thị trấn. Cước bộ họ rất mau lẹ chẳng giống người bị thương chút nào.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Té ra lúc trước vợ chồng lão bị thương là hoàn toàn giả trá, chẳng những lừa được ba anh em họ Chung, mà còn lừa cả ta nữa.

Chàng không dám chần chờ, nhảy qua cửa sổ bám theo sau. Chàng thấy dưới nách Lưu Hạc Chân cắp một cái bọc khá dài, không hiểu trong bọc đựng gì. Khinh công của Hồ Phỉ cao thâm hơn Lưu Hạc Chân rất nhiều. Chàng rón rén theo sau mà hai người tuyệt nhiên không hề phát giác.

Hai người đi chừng năm, sáu dặm thì đến trước một căn nhà nhỏ. Lưu Hạc Chân đánh tay ra hiệu cho vợ nấp vào trong bụi cỏ. Lão tiến lại mấy bước dõng dạc nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp có nhà không? Có bằng hữu từ phương xa đến bái phỏng.

Trong nhà có người hỏi vọng ra:

– Vị bằng hữu nào đó? Xin miễn trách cho Miêu Nhân Phụng mắt kém chưa nhận ra được.

Tiếng nói vang dội, nhưng Hồ Phỉ nghe ra bỗng có cảm giác vừa thê lương vừa đôn hậu. Lưu Hạc Chân đáp:

– Tiểu nhân họ Chung, vâng lệnh của ba anh em họ Chung ở Quỷ Kiến Sầu tại Ngạc Bắc có phong thư khẩn yếu đem đến cho Miêu đại hiệp.

Hồ Phỉ lấy làm lạ, tự hỏi:

– Tại sao lá thư này lại là của anh em họ Chung. Vậy thì việc gì họ lại ngăn cản?

Miêu Nhân Phụng nói:

– Xin mời vào!

Trong nhà có ánh đèn thắp lên. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa đã mở ra. Hồ Phỉ ẩn ở phía sau gốc cây dẻ, nhìn thấy bóng người cao lêu khêu đứng ở bục cửa, đầu y gần chạm vào đà cửa, tay phải cầm cây đèn. Lưu Hạc Chân chắp tay thi lễ rồi tiến vào trong nhà.

Hồ Phỉ chờ hai người vào nhà rồi mới nhẹ nhàng đi vòng tới bên cửa sổ mé trái dòm vào.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Còn hai vị nữa sao không vào?

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Làm gì còn những hai người?

Miệng lão chỉ ậm ừ cho xuôi chuyện. Hồ Phỉ nghe Miêu Nhân Phụng nói còn hai vị, trong lòng không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

– Miêu Nhân Phụng quả cực kỳ lợi hại. Ta bước chân rất nhẹ mà lão đã sớm biết có cả thảy ba người cùng đến.

Chàng nghĩ đứng đây nhìn trộm thế nào cũng bị phát giác. Còn đang suy nghĩ, bỗng nghe Lưu Hạc Chân hỏi:

– Tám năm trước đây, ba anh em họ Chung đã lãnh giáo những cao chiêu của Miêu đại hiệp, trong lòng vô cùng khâm phục. Hiện giờ họ đã luyện được ba món khí giới đặc biệt nên sai tiểu nhân đem đến cho Miêu đại hiệp coi trước, để khi động thủ Miêu đại hiệp khỏi cho là họ dùng binh khí quái dị để chiếm phần tiện nghi.

Lão nói rồi mở bao, lấy ba món binh khí để trên bàn kêu loảng xoảng. Hồ Phỉ nhận thấy hành động của Lưu Hạc Chân mỗi lúc một khó hiểu. Chàng cúi đầu nhìn qua khe cửa vào bên trong, thì thấy ba món binh khí để trên bàn là tấm Thiết lịnh bài, cây Khốc tang bổng và cành Chiêu hồn phướn. Trên các món binh khí đó hãy còn dính bùn đất loang lổ, chưa kịp lau chùi sạch sẽ. Miêu Nhân Phụng đằng hắng một tiếng, liếc mắt nhìn ba món binh khí không nói gì. Lưu Hạc Chân thò vào bọc, lấy một phong thư, hai tay đưa lên rồi nói:

– Xin Miêu đại hiệp mở ra xem. Tiểu nhân đã đưa thơ tới nơi, giờ xin cáo từ.

Dứt lời lão chắp tay thi lễ lui ra. Miêu Nhân Phụng cầm lá thư, nói:

– Hãy khoan! Sau khi ta coi xong thư còn phiền ông bạn chuyển lời nhắn lại.

Y tưởng đây là một chiến thư liền mở bóc ra coi. Hồ Phỉ nhân lúc Miêu Nhân Phụng coi thư, nhìn kỹ lại dung mạo thì thấy y so với mấy năm trước chàng gặp ở Thương gia bảo dường như già đi rất nhiều, vẻ mặt lại càng tiều tụy. Miêu Nhân Phụng coi thư, cặp mắt dần trợn ngược lên, phát ra những tia sáng cực kỳ phẫn nộ. Hồ Phỉ kinh hãi toan lùi ra thì đột nhiên thấy Miêu Nhân Phụng hai tay cầm lá thơ xé roạt thành hai mảnh. Thơ vừa bị xé rách bỗng thấy trước mặt y xuất hiện một làn khói vàng nhạt.

Miêu Nhân Phụng kêu lên:

– Thôi chết rồi!

Hai tay y dụi mắt, gương mặt lộ vẻ đau đớn. Lưu Hạc Chân nhảy lùi ra sau xa hơn một trượng. Biến cố xảy ra trong khoảnh khắc nhưng Hồ Phỉ đã hiểu rõ:

– Té ra Lưu Hạc Chân giấu thuốc độc trong thơ để làm mù cặp mắt của Miêu đại hiệp.

Chàng quát lên:

– Cẩu tặc đứng lại!

Chàng phi thân nhảy về phía Lưu Hạc Chân. Lão giang chân, cườm tay hạ xuống, rút cây liên tử thương xoay lại đâm một nhát, Hồ Phỉ trong lòng vừa thẹn vừa giận, nghiêng mình né tránh rồi vươn tay ra đoạt lấy cây liên tử thương. Bỗng chàng nghe thấy phía sau có tiếng gió mạnh xô tới rất gấp, một luồng chưởng lực mãnh liệt tuyệt luân đánh vào sau lưng. Hồ Phỉ đánh vung song chưởng phản kích, đón lấy chưởng lực của đối phương. Chàng biết Miêu Nhân Phụng trong lúc nóng giận, chưởng lực phóng ra không phải tầm thường, nên không dám trực tiếp đối chưởng mà sử dụng diệu thuật “Âm dương quyết” trong Thái Cực quyền do Triệu Bán Sơn truyền thụ để mong chế ngự được chưởng lực của đối phương.

Ngờ đâu hai tay chàng vừa đụng phải chưởng lực của Miêu Nhân Phụng liền cảm thấy mắt tối sầm lại, trước ngực cơ hồ nghẹt thở, chàng loạng choạng lùi lại ba bước liền. Chưởng lực của Miêu Nhân Phụng chỉ bị chế ngự một nửa, còn một nửa chàng phải hứng chịu. Chàng vội la lên:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đến giúp đại hiệp bắt giặc đây mà.

Lưu Hạc Chân thừa cơ hai người đấu chưởng lén chạy trốn. Miêu Nhân Phụng cảm thấy hai mắt đau đớn kịch liệt, chẳng khác gì mấy chục mũi kim đâm vào. Y cùng Hồ Phỉ trao đổi một chiêu cảm thấy võ công chàng rất cao cường, đúng là một tay kình địch thì không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, nên câu Hồ Phỉ nói “Tại hạ giúp đại hiệp bắt giặc” y không nghe thấy.

Hồ Phỉ nhìn thấy vợ chồng Lưu Hạc Chân chạy về phía tây toan rượt theo bỗng phía trước có ba người chạy nhanh tới. Ba người này đều mặc áo xô quấn khăn tang, không cần nhìn rõ mặt cũng nhận ra Chung thị tam hùng. Hồ Phỉ quay đầu lại thấy Miêu Nhân Phụng hai tay bưng mắt, vẻ mặt cực kỳ đau khổ, muốn đến giúp nhưng lại sợ đột nhiên y phóng chưởng đánh ra.

Chàng vội hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ tuy chẳng phải là bằng hữu của đại hiệp nhưng quyết không có ý gia hại. Đại hiệp tin được chăng?

Mấy câu này chàng nói bằng một giọng cực kỳ thành khẩn. Miêu Nhân Phụng tuy chưa nhìn thấy mặt chàng, lại mới bị gian nhân ám toán, cặp mắt đau như dao cắt, nhưng vừa nghe câu nói đó tự nhiên cảm thấy thiếu niên này không phải hạng tồi bại. Thật là anh hùng lại biết anh hùng, mới nửa câu đã ý hiệp tâm đầu. Y nói ngay:

– Tiểu huynh đệ ngăn chặn gian nhân ở ngoài cửa cho ta.

Y không trả lời câu hỏi “Tin được chăng?” của Hồ Phỉ, mà bảo chàng ngăn chặn ngoại địch thì dĩ nhiên coi chàng như bạn thân. Hồ Phỉ trước ngực nóng bừng, cảm thấy câu nói này hào khí ngất trời. Nếu chẳng phải bậc đại anh hùng đại hào kiệt lòng dạ khoát đạt thì quyết không thể thốt ra được. Quả thật là chưa gặp nhau vẫn nghĩ đến nhau, mới gặp lần đầu mà đã như có tình cố cựu. Miêu Nhân Phụng nói một câu đủ khiến cho Hồ Phỉ cam tâm vì y nhảy vào dầu sôi lửa bỏng. Chàng thấy ba anh em họ Chung còn cách cửa nhà chừng hai chục trượng liền cầm cây đèn chạy vào bếp, dùng bầu múc nước trong lu đưa cho Miêu Nhân Phụng nói:

– Đại hiệp rửa mắt lẹ đi!

Miêu Nhân Phụng tuy mắt đau kịch liệt nhưng tâm trí hãy còn rất minh mẫn. Y nghe rõ trên đường lớn trước mặt có ba người chạy tới, mặt sau lại có bốn người đã nhảy lên mái nhà.Y đón lấy bầu nước tiến vào nội phòng, bế đứa con gái nhỏ đang nằm trên giường lên rồi mới cúi đầu xuống rửa mắt. Thứ độc dược này thật là khủng khiếp, dùng nước rửa lại càng đau thấu tâm can.

Đứa con gái y đang ngủ mơ mơ màng màng, cất tiếng hỏi:

– Gia gia! Gia gia chơi với Lan nhi phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Ừ! Lan nhi ngoan lắm! Gia gia đang bế Lan nhi đây, Lan nhi đừng mở mắt ra cứ nhắm mắt lại mà ngủ đi nhé.

Con bé hỏi:

– Con sói già không ăn thịt cừu non chứ?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Dĩ nhiên là không ăn. Người đi sắn tới nơi, con sói già liền cúp đuôi chạy mất!

Con bé yên tâm thở phảo một cái, dúi gương mặt bầu bĩnh vào ngực phụ thân mà ngủ. Hồ Phỉ nghe hai cha con đối đáp ban đầu sửng sốt một chút rồi chàng hiểu ngay. Trước khi con bé đi ngủ đã nghe phụ thân kể chuyện cổ tích con sói già muốn ăn thịt con cứu non. Nó đang mơ ngủ chợt sực nhớ lại nên mới hỏi. Lúc này Chung thị tam hùng chỉ còn cách cửa lớn chừng mười trượng, bỗng nghe “vút” hai tiếng, hai người từ trên nóc nhà nhảy xuống sân. Hồ Phỉ đóng cửa lớn lại, kéo cái bàn chặn phía trong để cho ba anh em họ Chung không thể vào nhà ngay được, nhằm khỏi bị tiền hậu giáp công. Tiếp theo chàng phất tay áo quạt tắt ngọn nến. Hai người nhảy xuống sân rồi thấy trong nhà không có lửa sáng chưa dám sấn vào ngay.

Miêu Nhân Phụng khẽ nói:

– Hãy để bọn bốn người tiến cả vào.

Hồ Phỉ đáp:

– Dạ!

Chàng lấy hỏa tập quẹt lửa, châm vào cây đèn cho sáng lên rồi đặt xuống bàn. Bỗng nghe ngoài cửa lớn Chung Triệu Anh cất tiếng hô:

– Ba anh em Chung Triệu Anh, Chung Triệu Văn, và Chung Triệu Năng ở Ngạc Bắc xin bái kiến Miêu đại hiệp để báo việc khẩn cấp.

Miêu Nhân Phụng “hừ” một tiếng chứ chẳng thèm để ý. Hai người trong sân một cầm đao, còn một cầm cây tam tiết côn. Chúng thấy Miêu Nhân Phụng cặp mắt nhắm nghiền không mở ra được, nhưng bị khiếp bởi oai danh “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” nên chưa dám tiến vào nhà. Gã cầm đao nhìn lên nóc nhà vẫy tay một cái, hô:

– Hắn mù mắt rồi:

Hai người trên nóc nhà cả mừng nhảy xuống. Hồ Phỉ nhìn thấy thân thủ hai người rất này rất mau lẹ. So với hai người kia, bản lãnh của chúng còn cao cường hơn nhiều. Chàng liền lạng người đến sau lưng hai gã đó đẩy song chưởng về phía trước, quát lớn:

– Vào đi!

Luồng chưởng lực này cực kỳ cương mãnh, hai người không dám đỡ phải xông tới phía trước mấy bước, xoạc chân bước qua bục cửa, tiến vào nhà khách. Hồ Phỉ đứng ngoài cửa hông khẽ hít một hơi chân khí rồi thở mạnh ra, cây đuốc cao hơn một trượng đột nhiên tắt phụt. Trong nhà khách tối đen như mực.

Bốn người đến tập kích giật nảy mình, chúng sửng sốt một lúc rồi cầm binh khí xông vào đánh Miêu Nhân Phụng. Con bé ngủ trong lòng Miêu Nhân Phụng trở mình hỏi:

– Gia gia! Tiếng gì thế? Con sói già trở lại ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không phải con sói già, chỉ có bốn con chuột cống.

Bỗng nghe tiếng binh khí rít lên nhằm đầu mình đánh xuống, lại có tiếng loảng xoảng của khóa sắt, y biết đây là những loại võ khí như tam tiết côn, liên tử thương, liền vươn tay chụp lấy đầu cây tam tiết côn rung mạnh một cái. Gã kia “ối” lên một tiếng, cánh tay tê chồn để cây tam tiết côn tuột mất. Miêu Nhân Phụng thuận tay vung ra đánh “chát” một tiếng trúng vào sau lưng hắn. Hắn lập tức ngưng thở ngất đi. Còn hai người sử đao, một người sử thiết tiên lặng lẽ từ ba mặt đánh tới. Con bé hỏi:

– Gia gia! Con chuột có cắn người không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chuột mò đến toan cắn trộm người, nhưng thấy con mèo già, lũ chuột liền chạy trốn.

Con bé lại hỏi:

– Tiếng gì vang lên thế? Có phải gió bão không? Gia gia! Trời sắp mưa rồi ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lát nữa còn có sấm nổ nữa đó!

Con bé hỏi:

– Lôi công Bồ Tát chỉ đánh người tàn ác chứ không đánh người tử tế phải không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi! Lôi công Bồ Tát thích những đứa bé gái ngoan ngoãn lắm.

Miêu Nhân Phụng một tay chiết giải ba món binh khí, miệng lại đối đáp với con gái, tựa hồ chẳng coi ba địch nhân vào đâu. Ba người kia ra chiêu tàn độc đều bị Miêu Nhân Phụng đưa tay mặt ra phản kích, hóa giải hết. Hán tử sử đao thứ nhất kinh hãi la lên:

– Gió dữ! Tản ra!

Hắn trở gót toan chạy ra ngoài, vừa tới bên cửa lớn liền bị hồ Phỉ vung chân trái ra quét té nhào xuống đất, tiện tay chàng đoạt lấy đơn đao. Miêu Nhân Phụng nói:

– Con cưng ngoan! Nghe sấm nổ đây này!

Y vung quyền đánh trúng vào hàm dưới hán tử sử thiết tiên đánh “binh” một tiếng, khiến hắn văng qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống sân. Còn hán tử sử đao nữa, võ công cao hơn cả bọn, thủ cước rất linh hoạt, Miêu Nhân Phụng đánh liền hai quyền, hắn đều tránh thoát. Miêu Nhân Phụng sợ con gái khiếp sợ liền ngồi xuống ghế không rượt theo.

Bây giờ người kia biết rõ Miêu Nhân Phụng tuy mù mắt nhưng hắn không thể địch nổi. Hắn còn biết người giữ cửa cũng là tay cực kỳ lợi hai. Hắn bị khốn trong căn nhà nhỏ chẳng khác gì ba ba trong rọ, chẳng lẽ bó tay chịu chết? Đột nhiên hắn vung đao chém xuống đầu Miêu Nhân Phụng. Hắn nhân lúc Miêu Nhân Phụng né tránh lạng người tiến vào phòng ngoài bật lửa lên đốt rèm, rồi theo cửa sổ chuồn ra, nhảy lên nóc nhà. Tấm rèm cửa sa cháy rất lẹ, chỉ trong chớp mắt đã um khói cả nhà. Chung Triệu Anh ở ngoài cửa hô lớn:

– Miêu đại hiệp! Ba anh em tại hạ đến đây để tỷ võ nhưng hiện giờ quyết chẳng nhân lúc đại hiệp nguy cấp mà động thủ. Đại hiệp cứ yên lòng.

Chung Triệu Văn thấy ngọn lửa ló ra ngoài cửa sổ liền la hoảng:

– Cháy! Cháy!

Chung Triệu Năng cũng lên tiếng:

– Bọn tặc tử đê hèn như vậy. Đại ca, chúng ta phải mau cứu hỏa đã.

Ba người nhảy lên nóc nhà muốn tìm nước chữa lửa. Hồ Phỉ biết ba anh em họ Chung võ công rất cao thâm, bọn bốn người vừa rồi không thể bì kịp. Miêu Nhân Phụng dù bản lãnh cao cường, nhưng hai mắt không nhìn thấy gì, lại bế đứa nhỏ trong lòng thì khó bề chống đối. Chàng thấy mình nên ra tay tương trợ, liền lớn tiếng quát:

– Bọn gian đồ vô sỉ không được tiến vào!

Con bé la lên:

– Gia gia ơi, nóng quá!

Miêu Nhân Phụng đẩy cái bàn sang bên, vung chân đá ra, hai cánh cửa văng bay đi đến bốn, năm trượng. Y bế đứa nhỏ ra khỏi cửa lớn, rồi quay lên nóc nhà vẫy tay nói với ba anh em họ Chung:

– Xuống đây động thủ được rồi.

Y sợ con gái kinh hãi nên gọi địch nhân cũng cất giọng khe khẽ. Y nghĩ tới tám năm trước cùng Chung thị tam hùng đối địch, trong căn nhà bốc lửa và y cũng bị trọng thương, chỉ khác ở chỗ người bầu bạn với y không phải là con bé mà là một vị cô nương sau làm vợ y. Không phải, vị cô nương kia không bầu bạn với y, mà gặp lúc nguy cấp liền bỏ chạy ra ngoài trước….

Hồ Phỉ thấy thế lửa dữ quá, chỉ trong chớp mắt là thành trận cháy lớn. Chàng tính Miêu Nhân Phụng còn có thể chống cự được một lúc, mà lúc này việc cứu hỏa là khẩn cấp liền ném thanh đơn đao đi và chạy vào bếp thấy ba cái lu đá, lu nào cũng đầy nước. Chàng liền ôm một lu, quát to một tiếng:

– Lên!

Rồi nhấc bổng cái lu nặng bốn, năm trăm cân lên. Tuy chàng lực đã vào hạng nhất lưu cao thủ mà chân bước vẫn lảo đảo. Chàng phải nín hơi vận lực bê lu nước đến phòng ngoài, ném cả lu lẫn nước vào. Ngọn lửa bị lu nước đội lên liền nhỏ đi nhưng chưa tắt. Chàng lại bê lu thứ hai đến trước cửa phòng ngoài, toan vận hết lực ném vào thì đột nhiên nghe sau lưng đánh “véo” một tiếng, liền biết có người tập kích. Nguyên hán tử mới đây bị chàng đá té đã lượm đơn đao nhằm chém xuống sau lưng chàng.

Hồ Phỉ hai tay bê lu nước không cách nào kháng cự, vội xoay chân đá móc về phía sau. Cú đá này rất quái dị. Năm trước Diêm Cơ học được chiêu này mà đã khiến Mã Hành Không, một võ sư nổi danh, cũng khó bề chiết giải. Bây giờ Hồ Phỉ vung chân đá ngược trúng vào bụng dưới hán tử đánh “binh” một tiếng. Cả người lẫn đao hán tử bắn qua đầu Hồ Phỉ rớt xuống lu nước mà chàng đang ôm trong tay. Cái lu đá này chàng ôm vốn đã khó khăn lắm rồi, giờ đây lại tăng thêm năm, sáu chục cân nữa thì sao chịu nổi? Chàng thuận tay đẩy một cái cả lu nước lẫn người bay vào trong đống lửa. Cái lu nước vỡ tan làm cho hán tử khắp mình bị thương. May mà ngọn lửa tắt rồi nên hắn chưa bị nguy đến tính mạng.

Hồ Phỉ thấy lửa tắt, toan lại trợ lực Miêu Nhân Phụng, bỗng nghe sau nhà có tiếng quát tháo, chửi mắng xen lẫn tiếng quyền cước. Có hai kẻ đang đánh nhau kịch liệt. Tiếng quát mắng chính là thanh âm của Lưu Hạc Chân. Lão quát lớn:

– Hảo gian tặc! Ngươi mắc bẫy ta rồi!

Hồ Phi tự hỏi:

– Lão động thủ với ai vậy? Lão chính là kẻ đầu sỏ trong vụ này, phải bắt lão mới được.

Chàng từ cửa sau chạy ra thì thấy hai thanh đao bay lên không. Lưu Hạc Chân cùng một người nữa đang tay không đánh giáp lá cà. Chàng nhìn kỹ lại thì thấy chính là gã vừa phóng hỏa. Hồ Phỉ rất lấy làm quái lạ, nghĩ bụng:

– Những chuyện bữa nay thật khó hiểu. Hai người này rõ ràng là cùng một phe sao lại đánh nhau? Nhưng chúng đều chẳng phải là người tốt.

Chàng liền vọt lên trước thi triển đại cằm nã thủ chụp vào lưng hai người. Vì hai người đang đánh nhau kịch liệt, nên không kịp kháng cự, bằng không với bản lĩnh của họ dễ gì Hồ Phỉ chỉ chộp một cái là đã thành công.

Hồ Phỉ lắng tai nhưng không nghe thấy thanh âm cuộc đấu ngoài cửa lớn nữa. Chàng sợ Miêu Nhân Phụng chẳng nhìn thấy gì tất sẽ bị ba anh em họ Chung hạ độc thủ. Chàng nhìn thấy bên cạnh có cái giếng liền mỗi tay tóm một người, ném cả Lưu Hạc Chân cùng gã hán tử kia xuống đó. Chàng lại chạy vào bếp ôm cái lu thứ ba đè lên miệng giếng, rồi mới chạy quanh căn nhà ra phía cửa trước.

Chàng thấy ba anh em họ Chung đã nhảy xuống đất đứng cách Miêu Nhân Phụng bảy, tám trượng, tay chúng đều cầm một cặp phán quan bút mà không thể vào gần để động thủ. Chàng nói:

– Miêu đại hiệp! Đại hiệp để tại hạ bế em nhỏ cho.

Miêu Nhân Phụng ngẫm nghĩ:

– Ta mù mất rồi, dù có đánh lui được ba anh em họ Chung, nhưng bình sinh do cái ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quá quái ác, khiến ta kết oán với vô số kẻ thù. Tin ta bị mù mắt đồn đại ra ngoài giang hồ, cường địch tới tấp kéo đến thì làm sao chống cự nổi? Xem ra ta khó lòng bảo toàn được tính mạng, chỉ còn lo cho đứa con gái nhỏ mà thôi.

Y lấy tai thay mắt, lắng nghe Hồ Phỉ vừa đánh lui địch vừa dập tắt lửa một cách gọn ghẽ, quả là người trí dũng kiêm toàn. Tuy y chưa từng quen biết nhưng thấy chàng giàu lòng nghĩa khí như vậy, có thể giao con gái được, liền cất tiếng hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Tôn tính đại danh là chi? Có liên quan gì với ta chăng?

Hồ Phỉ nghĩ tới tiên phụ không hiểu rốt cuộc có phải chết về tay Miêu Nhân Phụng hay không, nhưng lúc này chưa tiện nhắc tới, liền đáp:

– Bậc đại trượng phụ kết giao, ý khí tương đồng thì chỉ cần lấy tấm lòng đối đãi nhau, hà tất phải nêu tên đọc họ? Miêu đại hiệp mà tin được, thì tại hạ có tan xương nát thịt cũng quyết bảo vệ cho lệnh ái được chu toàn.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Hay lắm! Miêu Nhân Phụng ta độc lai độc vãng, bình sinh chỉ có hai người bạn tri giao. Một là Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao và hai là vị tiểu huynh đệ mà ta chưa biết họ tên cũng không thấy được mặt mũi này đây

Dứt lời y bế đứa nhỏ đưa cho Hồ Phỉ. Hồ Phỉ đối với Miêu Nhân Phụng một lòng khâm phục, nhưng vẫn e y là kẻ thù giết cha, ân oán hai bên khó bề xử sự. Chàng nghe phụ thân mình là bạn tri giao thuở bình sinh với Miêu Nhân Phụng thì trong dạ mừng thầm, đưa hai tay đón lấy đứa nhỏ. Chàng thấy nó mới bảy, tám tuổi mà rất xinh xắn. Chàng bế con bé trong tay, thấy vừa nhẹ nhàng vừa mềm mại. Dưới ánh sáng lờ mờ, chàng thấy nó đang nhắm mắt ngủ, hơi thở nhè nhẹ, khóe miệng khe khẽ mỉm cười.

Chung thị tam hùng thấy Hồ Phỉ cũng ở đây, lại nghe hai người đối đáp trong lòng đều lấy làm lạ. Miêu Nhân Phụng xé mảnh áo buộc lấy mắt, hai tay chắp để sau lưng, cất giọng trầm khàn nói:

– Loài gian tặc vô sỉ kia! Xông vào cả đi! Con gái ta đang ngủ, các ngươi đừng lớn tiếng làm nó phải thức giấc.

Chung Triệu Anh tiến lên một bước, giận dữ nói:

– Miêu đại hiệp! Ngày trước đồ nhi của bọn ta chết về tay đại hiệp. Anh em ta tìm đến để thanh toán món nợ đó. Vẻ sau mới biết ra gã đồ nhi dòm ngó đồ quý của người khác, hành sự không đoan chính, chết là đáng kiếp. Vụ này bọn ta đa tạ đại hiệp đã giúp bọn ta.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng, đáp:

– Ngươi nói nhỏ ta cũng nghe được.

Chung Triệu Anh tức giận lại nói:

– Có điều khi ấy đại hiệp bị thương ở chân, ba anh em ta vẫn không địch nổi, trong lòng bất phục nên tám năm qua đã khổ luyện võ công. Bữa nay lại đến để thỉnh giáo. Dọc đường được biết có gian nhân mưu đồ ám toán đại hiệp, anh em ta bôn ba tới đây để báo cho đại hiệp biết mà đề phòng. Bây giờ gian nhân chạy đi rồi, tứ giáo hay không là tùy ở nơi đại hiệp. Sao đại hiệp buông lời khinh bạc, lại còn buộc hai mắt lại? Phải chăng Chung thị tam hùng là hạng bất tiếu không đáng để đại hiệp mở mắt ra xem? Hay là đại hiệp tự cho mình võ công tinh tuyệt, bịt mắt lại cũng thừa sức đả bại anh em ta?

Miêu Nhân Phụng nghe hắn nói thì dường như vụ mình bị trúng độc mù cả hai mắt, hắn chẳng hay biết, bèn hạ thấp giọng xuống đáp:

– Mắt ta mù rồi!

Chung Triệu Anh cả kinh, cất tiếng run run nói:

– Trời ơi! Nếu vậy thì bọn tại hạ trách lầm Miêu đại hiệp. Anh em tại hạ khổ công rèn luyện bảy, tám năm trời, võ công chẳng lấy gì làm tiến bộ. Việc lãnh giáo thôi hãy bỏ đi không nhắc tới nữa. Đại hiệp có biết một nhân vật ở Vi Đà môn tên là Lưu Hạc Chân không? Vừa rồi trong bọn người bị đại hiệp đánh đuổi không thấy có hắn. Chỉ một hai ngày nữa, hắn sẽ tới đây bái phỏng, mà đại hiệp lại bị mù mắt nên khi hắn đến cần phải đề phòng.

Hồ Phỉ hỏi xen vào:

– Chung đại gia! Vụ Lưu Hạc Chân hạ độc, đại gia không biết thật ư?

Chung Triệu Anh hỏi lại:

– Rốt cuộc ngươi là bạn hay là thù của Miêu đại hiệp? Chúng ta muốn ngăn chặn Lưu Hạc Chân sao ngươi lại cực lực giúp hắn?

Hồ Phỉ đáp:

– Vụ này nói ra càng thêm xấu hổ. Những điều ngoắt ngoéo bên trong tại ha không hề biết rõ. May thay gã Lưu Hạc Chân đã bị tại hạ bắt và đẩy xuống giếng sau nhà. Chúng ta hỏi hắn thì sẽ biết đầu đuôi.

Chàng quay lại hỏi Miêu Nhân Phụng:

– Rốt cuộc ba anh em họ Chung là người tốt hay là kẻ bại hoại?

Chung Triệu Văn lạnh lùng đáp:

– Chúng ta không hành hiệp trượng nghĩa, lại chẳng tế bần trợ cô thì còn là hảo nhân gì nữa?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Chung thị tam hùng tuyệt nhiên không phải là hạng tiểu nhân đê hèn.

Ba anh em họ Chung nghe Miêu Nhân Phụng bình phẩm câu này trong lòng hớn hở. Đúng là một lời khen của kẻ có tài còn hơn là vinh hoa phú quý. Ba gương mặt xấu xí đều lộ vẻ hoan hỷ lẫn cảm kích. Chung Triệu Văn cùng Chung Triệu Năng quành ra sau nhà, khiêng lu nước trên miệng giếng đặt sang một bên, quát lớn:

– Nhảy lên đây!

Bỗng nghe trong giếng có tiếng thở hồng hộc mà là thanh âm hai người. “Binh” một tiếng vang lên, lại “chát” một tiếng xen lẫn tiếng nước động bì bõm. Dường như hai người đang đánh nhau chí mạng. Cái giếng này một người xoay sở còn khó khăn, mà hai người lại đánh đấm nhau thì cảnh tượng thảm hại không cần hình dung cũng đủ biết

Chung Triệu Anh thòng cái thùng xuống, lớn tiếng hô:

– Bám vào miệng thùng để ta lôi các ngươi lên.

Y cảm thấy dây nặng trĩu biết là có người phía dưới nắm lấy, liền vận kình lực thu dây lại. Quả nhiên y kéo lên hai người mình mẩy ướt như chuột lột. Lưu Hạc Chân chân chưa chấm đất đã phóng chưởng đánh người kia. Người kia võ công kém hơn lão, ở trong giếng đã bị ăn đòn lại bị uống nước no, cứ ngầy ngầy ngật ngật Chung Triệu Năng thấy phát chưởng đó có thể đánh chết gã kia liền vươn tay ngăn lại, cầm cặp quán quan bút gí vào sau lưng hai người quát:

– Muốn sống thì đừng động thủ nữa.

Ba anh em họ Chung nắm hai người lôi vào trong nhà. Lúc này Hồ Phỉ đã giao đứa nhỏ lại cho Miêu Nhân Phụng. Chàng thắp đèn lên, rồi cùng Chung Triệu Anh đứng hai bên.

Phòng ngủ bị trận hỏa tai, nước đồ đầy nhà không còn chỗ đứng, Miêu Nhân Phụng đặt con gái xuống giường của mình ở trong sương phòng, lúc quay ra thì ba anh em họ Chung đã bắt Lưu Hạc Chân và người kia đưa tới.

Miêu Nhân Phụng thở dài nói:

– Thanh danh của Vi Đà Song Hạc hai mươi năm trước ta đã nghe nói đến. Hai vị Lưu sư huynh cùng Vạn sư huynh không phải là hạng tồi bại giang hồ.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ mắc lừa kẻ gian, hối hận thì đã không kịp nữa. Mắt đại hiệp bị thương nặng lắm không?

Ba anh em họ Chung cùng “ủa” lên một tiếng. Họ không biết Miêu Nhân Phụng bị thương ở mắt là việc vừa mới xảy ra. Miêu Nhân Phụng không đáp, mà xoay về phía hán tử sử đao nói:

– Phải chăng ngươi là đệ tử của Điền Quy Nông? Võ công của Thiên Long môn ngươi đã học đến bảy thành hỏa hầu rồi.

Gã kia hồn vía lên mây, bèn quỳ mọp xuống dập đầu lia lịa đáp:

– Miêu đại hiệp! Tiểu nhân vâng lệnh người sai khiến chứ không phải tự mình hành động. Xin lão nhân gia rộng lượng dung tha.

Hắn “ọe” hai tiếng, miệng thổ ra đầy nước, Lưu Hạc Chân thóa mạ:

– Gian tặc! Ngươi lừa gạt khiến ta thật đau khổ!

Lão nhảy tới toan động thủ. Chung Triệu Anh giơ tay cản lại hỏi:

– Có điều gì cứ nói tử tế. Đầu đuôi vụ này ra làm sao?

Lưu Hạc Chân cũng là nhân vật nổi danh trong võ lâm, chỉ vì mắc lừa kế kẻ khác, mà khi nổi nóng lên không kiềm chế được. Lão bị Chung Triệu Anh cản liền nghĩ tới mình hành động sai lầm, lại bị người ném xuống giếng, tình trạng vô cùng thảm hại, quả thực bình sinh lão chưa gặp chuyện đại nhục thế này bao giờ. Lão tối sầm mắt lại, ngồi thừ người ra đáp:

– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Miêu đại hiệp! Tại hạ đối với đại hiệp thực sự quá sai…

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Trong một đời người có ai lại không bị kẻ tiểu nhân lừa. Cái đó có chi đáng kể? Chắc Lưu huynh bị kẻ khác lừa gạt đưa thơ cho tại hạ?

Hai mắt trúng độc, hiển nhiên đã mù rồi mà vẫn nói năng ôn hòa, khiến Hồ Phỉ cùng ba anh em họ Chung đều sinh lòng bội phục. Chỉ định lực đó thôi, người khác cũng không thể bì kịp.

Lưu Hạc Chân đáp:

– Gã này tại hạ mới gặp tại Phong Diệp trang ở Hành Dương. Gã tự xưng danh là Trương Phi Hùng, bảo rằng ngày trước đã chịu ơn của Vạn sư ca nên được tin Vạn sư tạ thế liền đến điếu tang:

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Vạn Hạc Thành lão sư chết rồi ư?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Đúng thế! Tại hạ thấy gã họ Trương này nói năng thành khẩn mà gã lại có ý muốn kết thân với tại hạ nên không nghi ngờ gì cả. Bọn tại hạ kết bạn đi ngược về mạn bắc. Dọc đường gã thấy Chung thị tam hùng liền tỏ vẻ khiếp sợ. Tối hôm ấy, tại hạ cùng gã ngủ chung một phòng trong khách điếm nghe gã nằm mơ nói những gì là nếu phong thư này mà không đưa được tới nơi thì bao nhiêu nhân sĩ hào kiệt sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Tại hạ tưởng việc này mình không thể tự thủ bàng quan liền hỏi dò thì gã nói: “Lưu lão sư! Tại hạ thấy lão sư làm khó dễ bọn thị vệ ở Thanh cung, đúng là bậc anh hùng hào kiệt, nên vụ này không cẩn phải giấu giếm lão sư”. Rồi gã lấy một phong thử ra nói là cần đưa đến tay Kim Diện Phật Miêu đại hiệp để xin đại hiệp ra tay cứu giúp, không thì mấy chục nghĩa sĩ sẽ bị Thanh đình giết chết.

Miêu Nhân Phụng vẫn ngồi im, không nói gì. Lão ngừng lại một chút rồi kể tiếp:

– Gã gian tặc họ Trương còn nói Chung thị tam hùng có mối thù với Miêu đại hiệp, nhất định sẽ tìm cách cản trở, mà gã không phải là đối thủ của Chung thị tam hùng nên xin tại hạ giúp cho một tay. Tại hạ nhận thấy có nghĩa vụ phải giúp đỡ gã liền nhận lời ngay. Nhưng dọc đường cùng Chung thị tam hùng giao thủ, lão già ta không địch nổi. Sau đó nội nhân Vương Trọng Bình đến tương trợ, nhưng vẫn không địch lại. Sự việc quả khéo xếp đặt, tại hạ đến Tương Phi miếu lại gặp tiểu huynh đệ đây. Ngày ở Phong Diệp trang tại hạ đã được y giúp đỡ. Sau lại thấy y hiển lộ thân thủ, võ công quả thật cao thâm. Thế rồi vợ chồng tại hạ giả vờ bị thương, sắp đặt mưu kế nhờ chàng cản trở Chung thị tam hùng. Quả nhiên vị tiểu huynh đệ đây mắc lừa tại hạ, còn tại hạ lại mắc lừa gian tặc.

Lão nói rồi hai mắt trợn ngược, chòm râu rung động, tỏ ra cực kỳ phẫn nộ.

Hồ Phỉ nghĩ lại những điều đã qua, thầm nhủ:

– Những lời lão này nói không có vẻ dối trá. Té ra những chuyện rắc rối giữa ta và Viên Tử Y phần lớn đã bị lão nhìn thấy.

Chàng nghĩ tới đây, thấy trước ngực nóng lên, chợt liếc thấy ba món binh khí để trên bàn, chàng hỏi:

– Lưu lão sư lượm binh khí của Chung thị tam hùng đến đây làm chi?

Lưu Hạc Chân đáp:

– Chung thị tam hùng đến đây tầm cừu, vị tất Miêu đại hiệp đã biết. Tại hạ muốn báo trước tin cho đại hiệp biết để mà đề phòng. Đưa binh khí tới trước là để thủ tín. Còn như tại hạ nói là thư này của anh em họ Chung đưa tới là cốt để cho huynh đệ nghe tiếng. Tại hạ biết tiểu huynh đệ vẫn bám sát theo sau, sợ tiểu huynh đệ có hành động bất lợi cho tại hạ. Tại hạ nói vậy khiến trong lòng tiểu huynh đệ đâm ra nghi hoặc, không biết đâu mà lần, do đó sẽ không động thủ với tạ hạ nữa. Còn Miêu đại hiệp coi thư sẽ hiểu đầu đuôi, ngờ đâu…ngờ đâu…

Lão nói tới đây khí tức xông lên cổ khiến lão nghẹn cả lời. Chung Triệu Anh nói:

– Anh em tại hạ vô tình nghe được gian mưu của họ Trương, lại thấy Lưu lão sư cứ cùng gã giấu giấu giếm giếm, liền đoán là hai người đến ám toán Miêu đại hiệp, nên bọn tại hạ hết sức ngăn cản. Không ngờ, trung gian còn nhiều điều ngoắt ngoéo. Miêu đại hiệp! Mắt đại hiệp bị thương ra làm sao?

Miêu Nhân Phụng không trả lời, giơ bàn tay to tướng như cái quạt lá bồ vẫy mấy cái, rồi nói:

– Việc đã qua rồi, không nên nhắc lại.

Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh, muốn kiếm lá thư mà Miêu Nhân Phụng đã xé ra thì thấy hai mảnh giấy còn rớt trong góc nhà, một mảnh đã bị thấm nước. Chàng sợ trên hai mảnh giấy có chất kịch độc nên không dám lại gần, mà chỉ phóng tầm mắt nhìn lại, thấy trên giấy chỉ lèo tèo có ba hàng chữ, chữ nào cũng lớn bằng hạt đào. Chàng đọc thấy trong lá thư ghi như sau.

“Nhân Phụng lão huynh! Lệnh ái tư chất cao quý mà lão huynh là kẻ võ phu, ở với nhau thật không hợp. Việc dạy dỗ lệnh ái ắt sẽ có chỗ sai sót. Nay sai người đến đón về để tiểu đệ nuôi dạy mới phải. Đệ là Điền Quy Nông đốn thủ”

Chàng đoán là Miêu Nhân Phụng quý con gái hơn cả tính mạng. Điền Quy Nông đã dụ dỗ vợ y tư bôn, bây giờ lại muốn mang con gái y đi nữa, làm sao y không tức giận được? Y thuận tay xé phong thư cũng là lẽ tự nhiên. Chất độc được giấu sẵn trong kẽ giáp giấy hoa tiên, khi phong thư bị xé lập tức bay ra, thân thủ có mau lẹ cách mấy cũng không thể tránh kịp. Mưu Kế của Điền Quy Nông có thể nói là cực kỳ thâm độc. Hồ Phỉ nhớ lại tình cảnh của Miêu Nhân Phụng, Miêu phu nhân, Miêu Nhược Lan và Điền Quy Nông bốn người ở Thương gia bảo. Chàng hận là không gặp Điền Quy Nông để cho hắn một đao kết liễu cuộc đời.

Lưu Hạc Chân càng nghĩ càng căm tức, lớn tiếng quát:

– Họ Trương kia! Ngươi vâng lệnh sư mệnh ám toán Miêu đại hiệp, thì sao không tự mình đưa thư lấy, lại còn lừa cả lão Lưu này?

Trương Phi Hùng ấp úng đáp:

– Tiểu nhân sợ… sợ Miêu đại hiệp nhận ra tiểu nhân là đệ tử ở Thiên Long môn, tất nhiên đề phòng… lại khiếp… thần oai của Miêu đại hiệp nữa…

Lưu Hạc Chân hằn học nói:

– Ngươi sợ nếu như mưu gian bại lộ, trốn chạy cũng không kịp. Hảo tiểu tử! Hảo tiểu tử!

Lão quay lại nhìn Miêu Nhân Phụng:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ xin đại hiệp giao thằng lỏi này cho tại hạ!

Miêu Nhân Phụng chậm rãi đáp:

– Lưu lão sư! Hạng tiểu nhân này ta không nên chấp chúng làm chi. Trương Phi Hùng! Ngoài sân còn hai tên đồng bọn của ngươi bị thương khá nặng. Ngươi dẫn chúng đi đi. Hãy về bảo sư phụ với sư mẫu ngươi rằng …

Y suy nghĩ không biết nên nói tiếp câu gì. Sau một lúc, y vẫy tay bảo gã:

– Ta cũng chẳng có gì để nói. Thôi ngươi đi đi!

Trương Phi Hùng đã tưởng mình làm mù mắt Miêu Nhân Phụng thì nhất định tính mệnh khó được bảo toàn, không ngờ y khoan hồng đại lượng không thèm truy cứu, thật là một điều vượt ra ngoài sự tiên liệu của gã. Trong lòng cảm kích, gã liền quỳ xuống, dập đầu binh binh lạy tạ.

Bọn chúng bốn người, định bụng thừa cơ Miêu Nhân Phụng mù mắt xông vào giết y, cướp lấy đứa bé mà chạy. Chẳng ngờ lại gặp Hồ Phỉ, một tay hảo thủ phi thường, can dự vào vụ này khiến độc kế của chúng chỉ mới thành công được bước đầu. Tên bị chàng gạt chân ngã nhào mình đầy thương tích nhân lúc nhốn nháo chạy trốn rồi. Còn hai tên bị Miêu Nhân Phụng dùng cây tam tiết côn và quyền đả thương rất nặng. Một tên đến giờ vẫn chưa hồi tình, một tên rên rỉ luôn mồm, toàn thân không còn chút sức lực nào.

Lưu Hạc Chân nghĩ thầm:

– Chắc là Miêu Nhân Phụng giả vờ tha cho ba người bọn chúng, nhưng không hiểu y dùng độc kế gì để hành hạ bọn này?

Lão từng trải giang hồ thường gặp nhiều người sau khi bắt được địch nhân rồi không giết ngay, mà làm cho chúng đau khổ sống dở chết dở rồi mới từ từ giết. Bỗng thấy Trương Phi Hùng đỡ hai gã sư đệ bị thương dậy, lê bước ra ngoài cổng rồi đi xa dần. Miêu Nhân Phụng thủy chung vẫn không ra tay. Lưu Hạc Chân thấy ba gã kia khuất dần trong bóng tối, lão không nhịn được nữa, bèn lên tiếng:

– Miêu đại hiệp! Gã họ Trương thủ cước rất linh hoạt, để gã đi xa e rằng gã chạy mất!

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Tại hạ đã tha chúng rồi, còn bắt lại làm chi?

Y dừng lại một chút rồi tiếp:

– Bọn chúng vốn không quen biết tại hạ. Vụ này chỉ do người khác sai khiến chúng mà thôi.

Lưu Hạc Chân vừa kinh ngạc vừa bẽn lẽn, liền đứng thẳng người lên nói:

– Miêu đại hiệp! Lưu Hạc Chân này chưa từng phụ ai, mà bữa nay vì đui mù ngu xuẩn làm hại đại hiệp.

Lão nói xong liền đưa ngón tay trỏ bên trái lên đâm vào mắt mình. Hồ Phỉ vội vươn tay cản lại, nhưng vẫn chậm một bước. Mọi người thấy lão đứng sững giữa phòng, trên mặt có hai dòng máu tươi chảy xuống, dĩ nhiên đôi mắt đã hỏng rồi. Ba anh em họ Chung cả kinh nhất tề đứng dậy.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Lưu lão sư sao lại tự làm khổ mình như vậy? Tại hạ chẳng có ý oán trách gì lão sư cả đâu.

Lưu Hạc Chân cười khanh khách, lão hoa tay một cái rảo bước ra ngoài cửa phòng. Thuận tay lão bẻ một cành cây làm gậy dò đường rồi cất bước đi thẳng. Chỉ một lúc sau, bỗng nghe tiếng phụ nữ thét lên kinh hãi, đó chính là Vương Trọng Bình, vợ lão. Năm người trong nhà đều cảm thấy thê lương, không ngờ Lưu Hạc Chân lại cương liệt đến thế.

Miêu Nhân Phụng chỉ sợ Hồ Phỉ cũng bị ray rứt liền nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta, vậy chớ có quên nhé.

Hồ Phỉ hiểu tâm ý, hiên ngang đáp:

– Đã lầm lỗi thì phải tận lực tìm cách cứu vãn bù đắp. Lưu Hạc Chân tự hủy hoại mình, trong lòng cảm thấy yên ổn nhưng hành động đó chẳng có ích gì.

Chung Triệu Anh thở dài nói:

– Đúng thế! Nhưng Lưu lão sư cũng xứng đáng là một hảo hán lừng lẫy.

Năm người ngồi đối diện nhau hồi lâu không nói gì. Sau một lúc, Hồ Phỉ lên tiếng hỏi:

– Miêu đại hiệp! Tròng mắt đại hiệp thế nào rồi? Có nên lấy nước rửa không?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Không cần nữa. Chỉ có điều là nó đau đớn vô cùng.

Y đứng lên, quay về phía ba anh em họ Chung nói:

– Ba vị lặn lội đường xa đến đây, mà chẳng có gì đãi khách, thật là khiếm khuyết quá đỗi. Tại hạ cần đi nằm một lúc, xin ba vị miễn trách cho.

Chung Triệu Anh đáp:

– Miêu đại hiệp cứ tùy tiện, bất tất phải khách sáo.

Ba người đánh tay ra hiệu, chia nhau đi canh giữ cửa trước cửa sau vì sợ Điền Quy Nông chưa chịu bỏ qua, hoặc lại phái người khác đến tập kích. Hồ Phỉ tay cầm đèn nến đi theo Miêu Nhân Phụng vào sương phòng. Y nằm xuống giường rồi, chàng lấy chăn đắp cho y. Con bé vẫn ngủ say. Đêm nay trong nhà xảy ra trận huyên náo đến long trời lở đất nó cũng không hề hay biết.

Hồ Phỉ toan quay lui, chợt nghe tiếng bước chân vang lên. Có người đang chạy tới rất gấp. Chung Triệu Anh quát:

– Tên tiểu tử kia! Ngươi còn trở lại nữa ư?

Nghe “choang” một tiếng! Có tiếng binh khí đụng nhau. Giọng nói của Trương Phi Hùng la lên:

– Tiểu nhân có đôi lời muốn nói với Miêu đại hiệp, thực tình chẳng có ý gì đen tối.

Chung Triệu Anh khẽ nói:

– Miêu đại hiệp ngủ rồi. Có chuyện gì hãy để đến sáng mai mà nói.

Trương Phi Hùng nói:

– Hay lắm! Vậy tiểu nhân nói với các hạ cũng được. Miêu đại hiệp đại nhân đại nghĩa tha mạng cho tiểu nhân, câu này chẳng thể không nói ra. Mắt của Miêu đại hiệp trúng phải phấn độc “Đoạn trường thảo” mà gia sư lấy nơi Độc Thủ Dược Vương. Tiểu nhân nghĩ rằng nếu cầu Độc Thủ Dược Vương điều trị may ra khỏi được. Tiểu nhân muốn tự ý đi thỉnh cầu, nhưng nghĩ mình vô danh tiểu tốt không thể làm nổi việc này.

Chung Triệu Năng “ủa” lên một tiếng. Tiếng bước chân lại vang lên, Trương Phi Hùng trở gót đi ngay. Hồ Phỉ nghe nói cả mừng, từ trong phòng chạy ra lớn tiếng hỏi:

– Vị Độc Thủ Dược Vương đó ở đâu?

Chung Triệu Anh đáp:

– Lão ẩn cư ở bờ hồ Động Đình, nhưng… nhưng…

Hồ Phỉ hỏi:

– Nhưng làm sao?

Chung Triệu Anh khẽ đáp:

– Cầu lão quái nhân đó trị bệnh e không phải là chuyện dễ.

Hồ Phỉ nói:

– Hay dở gì chúng ta cũng phải mời cho được lão đến đây. Lão đòi cài gì mình cứ đưa cái đó.

Chung Triệu Anh lắc đầu đáp:

– Khó ở chỗ lão chẳng đòi gì hết.

Hồ Phỉ nói:

– Dùng cách mềm dẻo mà không được thì đành phải cứng rắn vậy.

Chung Triệu Anh trầm ngâm không đáp. Hồ Phỉ nói:

– Việc này không thể chậm trễ được. Tiểu đệ lên đường ngay. Ba vị ở lại đây để bảo vệ cho Miêu đại hiệp, phòng ngừa địch nhân lại đến.

Chàng chạy vào sương phòng, nhìn Miêu Nhân Phụng, nói:

– Miêu đại hiệp! Tại hạ đi thỉnh y sinh về để chữa mắt cho đại hiệp.

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Mời Độc Thủ Dược Vương ư? Đừng đi cho vất vả lại về tay không.

Hồ Phỉ nói:

– Không thể thế được, thế gian chẳng có việc gì khó cả!

Dứt lời chàng xoay mình ra khỏi phòng hỏi:

– Chung đại gia! Vị Độc Thủ Dược Vương đó tên là gì? Có cách nào tìm ra chỗ ở của lão không?

Chung Triệu Văn đáp:

– Hay lắm! Tại hạ cùng đi với huynh đệ! Câu chuyện của lão, trên đường đi Chung mỗ sẽ từ từ nói cho huynh đệ nghe.

Gã quay lại nói với Chung Triệu Anh và Chung Triệu Năng:

– Đại ca, tam đệ ở lại đây canh chừng nhé!

Triệu Anh và Triệu Năng mặt hơi biến sắc, vì cùng có ý lo sợ. Họ đồng thanh nói:

– Đi đường cẩn thận!

Vì việc khẩn cấp, hai người Hồ, Chung liền thi triển khinh công chạy về hướng bắc. Đến khi trời sáng, hai người vào thị trấn mua được hai con ngựa, liền lên ngựa đi ngay.

Chương 09: Độc Thủ Dược Vương

Hai người đều biết mắt Miêu Nhân Phụng đã bị thương tổn trầm trọng. Chỉ nghe ba chữ “Đoạn trường thảo” thôi cũng đủ biết nó là độc dược lợi hại đến độ nào. Đôi mắt lại là nơi phản ánh mọi tình cảm vui buồn, sầu hận của con người. Giá như có mời được danh y mà bị chậm trễ thì cũng vô phương cứu chữa, do đó sớm được khắc nào hay khắc ấy.

Trừ những lúc cho ngựa nghỉ ngơi ăn uống, hai người cứ rong ruổi liên tục, không chút chần chừ. Dọc đường họ cứ ghé mua đồ lót dạ rồi cưỡi ngựa đi ngay, chỉ ngồi trên lưng ngựa ăn qua loa cho đỡ đói. Cứ rong ruổi như thế hai ngày đêm không ngủ. Hai người Hồ, Chung võ công đều cao cường nên vẫn chống chọi được. Giữa đường họ đổi hai con ngựa khác. Nhưng vì đường đi quá dài, hai con ngựa mới thay này cũng không chịu nổi, cước bộ loạng choạng như muốn ngã lăn ra.

Chung Triệu Văn nói:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta hãy để mấy con vật này nghỉ ngơi ăn uống một lúc đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng!

Trong lòng chàng lại nghĩ thầm:

– Nếu con ngựa ta cưỡi là con bạch mã của Viên cô nương thì bây giờ đã đến Động Đình hồ rồi.

Nghĩ tới Viên Tử Y, bất giác chàng đưa tay sờ vào bọc, mân mê con ngọc phượng, da tay thì mát lạnh, mà trong lòng lại lâng lâng ấm áp. Hai người xuống ngựa, ngồi nghỉ ở gốc cây ven đường để ngựa nghỉ ngơi ăn cỏ. Chung Triệu Văn cứ lặng thinh không nói, người ngơ ngẩn xuất thần, lông mày nhíu lại.

Hồ Phỉ biết chuyến đi này cũng không hy vọng thành công, liền hỏi:

– Chung nhị gia, Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn không đáp, tựa hồ y chưa nghe thấy câu hỏi. Một lúc sau, y chợt giật mình, hỏi lại:

– Tiểu huynh đệ vừa nói gì?

Hồ Phỉ thấy y trong lòng không ổn, biết rằng y đang suy nghĩ về bệnh trạng của Miêu Nhân Phụng, liền nghĩ bụng:

– Người này tuy hình dung cổ quái nhưng lòng đầy nghĩa khí. Trước đã đây y có hiềm khích với Miêu Nhân Phụng, mà bây giờ lại vì Miêu Nhân Phụng chịu khó lặn lội chẳng từ nan.

Nghĩ tới đây, chàng buột miệng nói:

– Chung nhị gia! Hôm trước vãn bối đắc tội, quả thực lấy làm xấu hổ. Nếu mà vãn bối sớm biết ba vị là những nhân vật trượng nghĩa thế này thì dù gan có to bằng trời cũng chẳng dám mạo phạm.

Chung Triệu Văn ngoác miệng ra cười ha hả, nói:

– Cái đó có gì đáng kể đâu? Miêu đại hiệp là bậc hảo hán lẫy lừng, nếu ba anh em ta thấy nguy không cứu thì còn là người nữa sao? Tiểu huynh đệ chẳng lẽ không như vậy hay sao? Anh em ta cùng Miêu đại hiệp tuy không có giao tình, nhưng cũng có một chút nhân duyên. Tại tiểu huynh đệ chưa gặp y đấy thôi.

Kỳ thực cách đây mấy năm, Hồ Phỉ gặp Miêu Nhân Phụng một lần ở Thương gia bảo, có điều lúc ấy chàng chỉ thấy một hán tử mặt vàng cao lêu khêu, nhìn không rõ mặt. Cách đây mười tám năm vào ngày Hồ Phỉ sinh ra đời, Miêu Nhân Phụng, tại một tiểu khách điểm ở Thương Châu tỉnh Hà Bắc, đã từng thấy mặt chàng. Việc ấy Miêu Nhân Phụng biết, còn Hồ Phỉ có thể không biết. Nhưng làm sao Miêu Nhân Phụng biết được rằng đứa bé sơ sinh mười tám năm trước chính là trang thiếu niên anh hùng hôm nay?

Chung Triệu Văn lại hỏi:

– Tiểu huynh đệ vừa hỏi gì ta vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối hỏi Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào?

Chung Triệu Văn lắc đầu nói:

– Ta cũng chẳng biết.

Hồ Phỉ lấy làm lạ hỏi lại:

– Chung nhị gia cũng không biết ư?

Chung Triệu Văn đáp:

– Bạn hữu ta trên chốn giang hồ không ít mà chẳng có ai biết được rốt cuộc Độc Thủ Dược Vương là nhân vật thế nào.

Hồ Phỉ nghe vậy lòng rầu rĩ, tự nhủ:

– Tên Trương Phi Hùng kia vị tất lại không biết. Mà cũng không đúng, nhất định là gã cũng không biết.

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng rồi không nói gì nữa. Chung Triệu Văn nói:

– Người ta chỉ biết Độc Thủ Dược Vương ở tại Bạch Mã Tự, bên bờ hồ Động Đình.

Hồ Phỉ hỏi:

– Chùa Bạch Mã ư? Sao y lại ở chùa?

Chung Triệu Văn đáp:

– Không phải, Bạch Mã Tự là tên một thị trấn.

Hồ Phỉ nói:

– Tưởng lão ở ẩn không gặp người ngoài nên mới không có ai biết mặt lão. Chẳng ngờ…

Chung Triệu Văn lắc đầu ngắt lời:

– Không phải! Nhiều người gặp lão rồi. Chính vì nhiều người gặp cho nên không có ai biết lão là nhân vật thế nào. Lão mập hay lão gầy, lão đẹp hay lão xấu, lão họ Trương hay họ Lý cũng chẳng ai hay.

Hồ Phỉ càng nghe càng thấy mơ hồ, bụng bảo dạ:

– Đã có nhiều người gặp sao lại không biết tên họ của lão, cả đến tướng mạo mập ốm hay đẹp xấu cũng không biết nốt?

Chung Triệu Văn nói tiếp:

– Có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một thư sinh tướng mạo thanh nhã, thân hình cao mà gầy giống như một vị tú tài. Lại có người nói Độc Thủ Dược Vương mập mà lùn, mặt ngang bè bè coi chẳng khác gì tên đồ tể mổ heo. Lại có người bảo Độc Thủ Dược Vương là một lão hòa thượng gần đến trăm tuổi.

Hắn dừng lại một chút rồi nói tiếp:

– Còn có người nói Dược Vương là một mụ đàn bà chân què, lưng gù.

Hồ Phỉ ngơ ngẩn, muốn cười mà không cười ra tiếng. Chung Triệu Văn lại nói:

– Ngoại hiệu người này đã là Dược Vương thì sao lại là đàn bà được? Nhưng vì người kể lại là một nhân vật nổi danh trên chốn giang hồ, đức cao vọng trọng, xưa nay chưa từng nói dối bao giờ, nên ai nghe cũng đều tin như vậy. Còn những người bảo lão là thư sinh, là đồ tể, là nhà sư đều là những người thật thà thận trọng, cân nhắc từng lời ăn tiếng nói, tiểu huynh đệ nói xem thử có kỳ quái không?

Hồ Phỉ khi rời khỏi Miêu gia trong lòng đầy tin tưởng, rằng chỉ cần kiếm thấy lão, rồi bất cứ bằng cách nào cũng mời cho bằng được lão về trị thương hay ít ra cũng xin được thuốc giải. Bây giờ chàng nghe Chung Triệu Văn nói vậy, bất giác lòng như chìm xuống. Con người đã chẳng ai biết rõ thì kiếm làm sao được? Chàng chợt nghĩ ra một điều, bèn nói:

– Phải rồi! Nhất định lão này rất giỏi về thuật dị dung, khi giả trai gái, lúc xấu lúc đẹp, khiến không ai nhận được bộ mặt thật của lão.

Chung Triệu Văn nói:

– Bạn hữu trên khắp giang hồ cũng đều nói vậy. Chắc vì lão là tay dùng độc thiên hạ vô song, hại người đã lắm, gây oán lại nhiều, nên lão phải giấu mặt để người ta không có cách nào tìm ra được lão mà báo thù. Nhưng lạ một điều là lão ở trấn Bạch Mã Tự bên bờ hồ Động Đình không phải là nơi xa xôi hẻo lánh, thì không hiểu sao việc tìm nhà lão lại khó khăn đến vậy?

Hồ Phỉ hỏi:

– Lão đã dùng độc làm hại chết không ít người rồi phải không?

Chung Triệu Văn nét mặt ngơ ngẩn xuất thần, đáp:

– Cái đó không biết đâu mà tính được. Có điều những người chết về tay lão phần lớn là đáng lắm, nếu chẳng phải hạng phi tặc đại đạo tàn ác thì cũng là loại thổ hào ác bá cậy thế hoành hành. Chưa từng nghe có người hiệp nghĩa nào lại chết về tay lão cả. Có điều tên tuổi lão quá lừng lẫy nên có những người trúng độc mà chết lại mong độc tính phát tác mãnh liệt để chết cho lẹ. Những vụ đó đều đổ lên đầu lão, chứ thực ra quá nửa chưa hẳn đã chết về tay lão. Có lúc hai người một ở nam, một ở bắc cách nhau cả ngàn đặm đều đồng thời trúng độc mà chết. Người ở Vân Nam thì bảo rằng Độc Thủ Dược Vương đã đến Vân Nam, còn kẻ ở Liêu Đông lại bảo Độc Thủ Dược Vương xuất hiện tại Liêu Đông. Cái kiểu tán dương như vậy khiến lão đã kỳ dị lại càng thêm dị kỳ. Gần đây không ai nói đến bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” nữa, dè đâu vụ Miêu đại hiệp trúng độc lại có liên quan đến lão. Hừ nếu đúng người này đã ra tay thì e rằng… e rằng.

Chung Triệu Văn nói tới đây bỗng dừng lại, lắc đầu không ngớt. Hồ Phỉ cảm thấy vụ này quả thật cực kỳ nan giải, không biết làm thế nào cho phải.

Chung Triệu Văn đứng lên nói:

– Chúng ta đi thôi! Tiểu huynh đệ! Huynh đệ nên nhớ một điều là khi đến Bạch Mã Tự, trong phạm vi cách Dược Vương trang chừng ba chục dặm chớ có uống một hớp nước hay ăn một thứ gì. Dù đói dù khát đến đâu cũng không thể cho một vật gì vào miệng.

Hồ Phỉ nghe hắn nói bằng một giọng trịnh trọng dĩ nhiên phải vâng lời. Chàng nhớ lại lúc y theo chàng rời khỏi Miêu gia, Chung Triệu Anh và Chung Triệu Văn lộ vẻ lo âu sợ hãi thì nghĩ tới tài dùng độc của Độc Thủ Dược Vương quả lợi lại, khiến cho những nhân vật như Chung thị tam hùng đã dám đến khiêu chiến với Đả biến thiên hạ vô địch thủ Miêu Nhân Phụng, mà khi nghe tới tên Độc Thủ Dược Vương cũng phải biến sắc kinh hãi. Vậy mà chàng chưa biết nếp tẻ gì đã coi việc trong thiên hạ quá dễ dàng. Chàng vừa đi dắt ngựa vừa hỏi:

– Chúng ta chẳng qua chỉ đến yêu cầu lão trị bệnh hoặc xin thuốc giải chứ hoàn toàn chẳng có ác ý gì. Lão không chịu đi là cùng, hà tất phải hại mạng chúng ta?

Chung Triệu Văn đáp:

– Tiểu huynh đệ hãy còn ít tuổi chưa hiểu lòng người hiểm trá trên chốn giang hồ. Tuy tiểu huynh đệ không có ác ý với lão, nhưng hai người chưa từng quen biết thì lão tin tiểu huynh đệ thế nào được? Việc trước mắt cũng là bằng chứng. Lưu Hạc Chân đối với Miêu đại hiệp tuyệt không có ác ý mà sao lại làm cho y phải mù mắt?

Hồ Phỉ lặng thinh. Chung Triệu Văn lại nói tiếp:

– Huống chỉ cừu gia của Độc Thủ Dược Vương ở khắp thiên hạ. Thậm chí nhiều vụ chết vì độc dược chẳng liên quan gì đến lão, mà người ta cũng đòi nợ máu. Làm sao lão biết được tiểu huynh đệ chẳng phải là con em hay đệ tử của kẻ thù? Lão bản tính đa nghi ra tay tàn ác, không thì sao trên hai chữ “Dược Vương” còn thêm vào hai chữ “Độc Thủ” làm chi? Ngoại hiệu kinh tâm động phách này chẳng lẽ tự nhiên mà có?

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Chung nhị gia nói phải lắm.

Chung Triệu Văn nói:

– Nếu tiểu huynh đệ không chê ta bản lãnh kém cỏi thì cứ gọi nhau là huynh đệ, đừng có xưng hô gia này gia nọ nữa, nghe khách sáo quá.

Hồ Phỉ nói:

– Nhị gia là bậc anh hùng tiền bối, còn vãn bối…

Chung Triệu Văn ngắt lời, lớn tiếng:

– Thôi! Thôi! Tiểu huynh đệ! Chẳng giấu gì tiểu huynh đệ, sau khi ba anh em ta động thủ với tiểu huynh đệ đều rất bội phục. Còn nếu như tiểu huynh đệ không muốn làm bạn thì xem như xong.

Hồ Phỉ thấy hắn là người mau lẹ, thẳng thắn liền vừa cười vừa hô:

– Chung nhị ca!

Chung Triệu Văn rất cao hứng, xoay mình nhảy lên lưng ngựa nói:

– Chỉ cần hai con ngựa này đừng chạy vào đường rẽ là chúng ta sẽ tới địa giới Bạch Mã Tự trước khi trời tối. Tiểu huynh đệ ghi nhớ lời ta, chẳng những không được ăn uống mà còn không được sờ vào đầu đũa nữa, đề phòng trên đũa có bôi chất kịch độc, sẽ truyền vào tay mình. Tiểu huynh đệ này, tiểu huynh đệ còn nhỏ tuổi, bản lãnh như vậy mà toàn thân cháy đen biến thành một xác chết cứng đờ, ta thấy có điều đáng tiếc!

Hồ Phỉ biết hắn nói câu này chẳng phải muốn làm ra vẻ quan trọng. Cứ coi việc Miêu Nhân Phụng chỉ xé một lá thư mà hai mắt đã mù, mà bây giờ lại đi vào khu vực của Độc Thủ Dược Vương thì chỗ nào lại chẳng có chất kịch độc? Chàng nghĩ tới Chung Triệu Văn cũng là một nhân vật thành danh trong võ lâm quyết chẳng phải hạng người khiếp nhược. Hắn đã nói thế thì hiển nhiên chuyến đi này vạn phần hung hiểm là đúng sự thật. Hắn đã biết nguy hiểm mà phải vì điều nghĩa đưa chàng đến Bạch Mã Tự, so với chàng chẳng hiểu trời cao đất dày cứ xông bừa xông ẩu lại càng hiếm có.

Đôi ngựa nghỉ một lúc lâu, sức lực phục hồi lại, vào quãng giờ Thân thì chạy tới cửa Lâm Tự. Hai người cho ngựa đi thong thả một đoạn rồi cho chạy nhanh một đoạn đường, chẳng mấy chốc đã đến thị trấn Bạch Mã Tự. Đường phố trong thị trấn này rất chật hẹp, hai người sợ đụng vào khách bộ hành xảy chuyện lôi thôi liền xuống ngựa dắt bộ. Chung Triệu Văn vẻ mặt nghiêm trọng, mắt chẳng trông ngang liếc dọc, còn Hồ Phỉ cứ phóng tầm mắt nhìn các cửa hàng cửa tiệm hai bên phố.

Khi tới cuối đường, Hồ Phỉ nhìn thấy chỗ đầu khúc quanh lộ ra một tiệm bán thuốc bảng đề năm chữ “Tế thế đường lão điếm”. Chàng chợt động tâm, nảy ra một ý, bèn cởi đơn đao ở sau lưng ra để cả vỏ cầm tay, nói:

– Chung nhị ca! Nhị ca cũng đưa phán quan bút cho tiểu đệ.

Chung Triệu Văn không khỏi sửng sốt nghĩ thầm:

– Mình đã bảo vào Bạch Mã Tự nên để ý thận trọng khắp mọi chỗ mới phải, sao gã lại động tới binh khí?

Nhưng hắn nghĩ trong trấn này ắt có nhiều tai mắt của Dược Vương, nên không tiện vặn hỏi, liền rút Phán quan bút ở sau lưng ra đưa cho chàng và khẽ dặn:

– Thận trọng nghe! Chớ có gây sự!

Hồ Phỉ gật đầu, đi tới quầy thuốc, nói:

– Cảm phiền! Bọn tại hạ đến Dược Vương trang bái phỏng trang chủ, không tiện đem theo binh khí, muốn gửi lại quý tiệm, khi trở ra sẽ lấy.

Lão già ngồi phía sau quầy nghe chàng nói, nét mặt lộ vẻ kinh dị, hỏi:

– Hai vị đến Dược Vương trang ư?

Hồ Phỉ không chờ lão ưng chịu hay không, cầm hai món binh khí đặt xuống mặt quầy, chắp tay thi lễ rồi rảo bước ra khỏi thị trấn. Đến chỗ vắng người bên ngoài thị trấn, Chung Triệu Văn chĩa ngón tay cái lên, nói:

– Tiểu huynh đệ! Thủ đoạn này thật khiến cho Chung lão nhị rất khâm phục. Chỉ có tiểu huynh đệ mới nghĩ ra.

Hồ Phỉ cười đáp:

– Đã quyết tỏ mặt hảo hán thì cũng phải làm chứ biết sao?

Nguyên chàng nghĩ bụng những tiệm thuốc ở thị trấn này tất có liên quan với Dược Vương, chàng đem binh khí gửi vào tiệm thuốc, nhất định người tiệm thuốc báo tin cho Dược Vương, điều đó chứng tỏ mình đến đây tuyệt chẳng có ý gì thù nghịch. Tuy dấn thân vào nơi nguy hiểm với tay không là đã hung hiểm lại càng hung hiểm, nhưng chàng đã cân nhắc nặng nhẹ, một liều ba bảy cũng liều một phen.

Hai người nương theo đường lớn đi về phía bắc, toan kiếm người để hỏi đường tới Dược Vương trang, bỗng thấy ở phía tây có một hòn núi nhỏ, một lão già tay cầm cuốc tựa hồ đang hái thuốc.

Hồ Phỉ thấy lão này tướng mạo tuấn nhã, thân hình cao lại gầy, ra vẻ một thư sinh trung niên, liền động tâm tự hỏi:

– Chẳng lẻ lão này là Độc Thủ Dược Vương?

Chàng liền tiến lên xá dài kính cẩn lớn tiếng hỏi:

– Xin hỏi tướng công lên Dược Vương trang đi đường nào? Hai người bọn tại hạ cần bái kiến trang chủ để thỉnh cầu một việc.

Người kia không để mắt đến Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn, cứ chăm chú cuốc cỏ trên núi. Hồ Phỉ hỏi luôn mấy câu, thủy chung lão vẫn không đáp lại tựa hồ người điếc. Hồ Phỉ không dám hỏi nữa. Chung Triệu Văn đưa mắt ra hiệu cho chàng rồi hai người tiếp tục tiến về hướng bắc.

Đi chừng được hơn dặm, Hồ Phỉ khẽ hỏi Chung Triệu Văn:

– Chung nhị ca! Không chừng người đó là Dược Vương. Nhị ca thấy thế nào?

Chung Triệu Văn đáp:

– Ta cũng mấy phần hoài nghi, nhưng còn nhiều điểm không sao khám phá được. Nếu lão không thừa nhận mà bọn ta lại lại nhận ra lão, như vậy là phạm vào điều đại kỵ của lão. Trước mắt chỉ có cách hãy đến Dược Vương trang trước. Chúng ta chỉ nhận đất chứ không nhận người là không có gì đáng ngại.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện, chuyển qua mấy khúc quanh bỗng nhìn thấy một vườn hoa lớn cách đại lộ chừng vài chục trượng. Một cô gái quê mùa mặc áo xanh đang khom lưng tưới hoa. Hồ Phỉ thấy sau vườn hoa có ba gian nhà tranh, lại phóng tầm mắt nhìn ra xa thì bốn mặt chẳng có khói lửa chi hết. Chàng liền tiến lên mấy bước nhìn cô gái, chắp tay hỏi:

– Xin hỏi cô nương, muốn lên Dược Vương trang phải đi đường nào?

Cô gái ngẩng đầu lên nhìn Hồ Phỉ. Đôi mắt cô đen láy và sáng ngời, tinh quang chiếu ra bốn phía. Hồ Phỉ sửng sốt tự hỏi:

– Sao đôi mắt cô gái quê mùa này lại sáng ngời một cách lạ thường đến thế?

Chàng thấy trừ đôi mắt ra, tướng mạo cô không lấy gì làm xinh đẹp, nước da đã khô lại vàng ủng sắc mặt xanh xao, tựa hồ quanh năm chẳng được ăn bữa nào no. Mái tóc cô vàng khè mà lơ thơ, hai vai gầy guộc, thân hình bé nhỏ ốm nhom, rõ là một cô thôn nữ bần hàn, từ thuở nhỏ đã thiếu ăn. Coi tướng mạo cô tựa hồ đã đến mười sáu, mười bảy tuổi, mà thân hình chỉ bằng đứa nhỏ mười bốn, mười lăm.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Lên Dược Vương trang không hiểu theo hướng đông bắc hay là đi về ngả tây bắc?

Cô thôn nữ đột nhiên cúi đầu xuống, lạnh lùng đáp:

– Không biết.

Giọng nói nghe rất trong trẻo. Chung Triệu Văn thấy cô vô lễ như vậy, nét mặt sa sầm toan nổi nóng, nhưng lại nghĩ nơi đây cách Dược Vương trang không xa chẳng nên gây sự với bất cứ ai, liền đằng hắng một tiếng, rồi bảo Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Chúng ta đi thôi. Dược Vương trang là nơi nổi danh ở Bạch Mã Tự lo gì chẳng tìm đến nơi được?

Hồ Phỉ thấy trời chẳng còn sớm sủa gì nữa, nếu lạc đường mà trong đêm tối cứ đi liều lại càng nguy hiểm. Gần đó lại chẳng có nhà nào để hỏi đường, chàng liền hỏi lại cô thôn nữ kia:

– Cô nương ơi! Gia gia má má cô có ở nhà không? Chắc các vị biết đường lên Dược Vương trang?

Cô thôn nữ không lý gì tới chàng, cứ cắm cúi nhặt cỏ. Chung Triệu Văn thúc gót, phóng ngựa chạy về phía trước. Đường đi rất chật hẹp, hai chân bên phải của con ngựa đạp trên đường lộ, còn hai chân bên trái lại đạp vào luống hoa của cô thôn nữ. Chung Triệu Văn tuy chẳng có ác ý, nhưng bản tính thô hào, lại giận cô thôn nữ vô lễ muốn bỏ đi ngay không thèm ngó ngàng tới. Hồ Phỉ thấy luống hoa bên đường bị vó ngựa đạp nát, vội vọt lên trước kéo dây cương ngựa qua mé phải, rồi nói:

– Coi chừng làm nát hoa của người ta.

Con ngựa do chàng dẫn dắt chân bên phải đạp xuống mé phải đường, chân bên trái đạp lên mặt đường. Chung Triệu Văn giục:

– Đi lẹ lên, đừng dềnh dàng ở đây nữa!

Dứt lời hắn giật cương phóng ngựa về phía trước.

Hồ Phỉ côi cút từ thuở nhỏ, thấy cô thôn nữ nghèo khổ, yếu ớt, dù cô chẳng chỉ đường cũng không tức giận, còn có ý lân mẫn. Chàng nghĩ tới cô trồng hoa bán làm kế sinh nhai, sợ để ngựa mình đạp nát hoa, liền đi bộ dắt ngựa qua khu vườn hoa rồi mới lên yên.

Cô thôn nữ nhìn chàng một cái, đột nhiên cất tiếng hỏi:

– Các hạ đến Dược Vương trang làm chi?

Hồ Phỉ dừng ngựa đáp:

– Ông bạn của tại hạ mắt bị trúng độc, bọn tại hạ đến cầu Dược Vương ban cho thuốc giải.

Thôn nữ hỏi:

– Các hạ có quen biết Dược Vương không?

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ chỉ nghe tiếng chứ chưa từng gặp dược lão nhân gia bao giờ.

Có thôn nữ từ từ đứng lên, ngắm nhìn Hồ Phỉ mấy lần rồi hỏi:

– Sao các hạ biết lão chịu cho thuốc giải?

Hồ Phỉ ra chiều khó nghĩ, đáp:

– Vụ này khó nói lắm.

Chàng chợt động tâm nghĩ thầm:

– Cô này ở đây, hoặc giả có thể biết tính tình cùng hành động của Dược Vương.

Chàng liên xuống ngựa xá dài, nói:

– Xin cô nương vui lòng chỉ đường dẫn lối cho.

Bốn chữ “chỉ đường dẫn lối” gồm hai ý nghĩa, có thể hiểu là chỉ đường đến Dược Vương trang, mà cũng có thể hiểu là xin cô dạy phương pháp để cầu thuốc giải. Thôn nữ nhìn Hồ Phỉ từ đầu xuống gót chân, tịnh không đáp lại câu hỏi của chàng, lại chỉ vào đôi thùng gánh phân nói:

– Các hạ lại hố phân múc chừng non nửa thùng, sau đó ra khe suối lấy thêm nước trong gánh cho đầy rồi về đây tưới hoa giùm ta.

Cô nói mấy câu này nằm ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ. Chàng tự hỏi:

– Ta chỉ hỏi đường thì sao thị lại bảo ta đi gánh phân tưới hoa? Đã thế thị còn lên giọng sai khiến coi ta như tôi tớ trong nhà là nghĩa gì?

Chàng tuy bần khổ từ thuở nhỏ, nhưng chưa làm những nghề bẩn thỉu như gánh phân bao giờ. Thôn nữ nói mấy câu rồi lại cúi xuống nhặt cỏ, chẳng thèm đưa mắt nhìn gì đến chàng nữa. Chàng ngơ ngác nhìn căn nhà tranh chẳng thấy ai, liền tự nhủ:

– Cô nương này ốm yếu mà phải gánh hai thùng phân to tướng thì thật là cực nhọc. Ta là nam tử hán, khí lực dồi dào, có gánh phân giúp cô một chuyến thì có gì mà ngại?

Chàng liền buộc ngựa vào gốc liễu, quẩy đôi thùng đến hố phân. Chung Triệu Anh đi một quãng không thấy Hồ Phỉ theo sau quay đầu nhìn lại. Hắn đứng đằng xa thấy chàng vai quẩy đôi thùng phân đến bên khe nước, trong lòng rất lấy làm lạ liền gọi lớn:

– Này, huynh đệ làm gì vậy?

Hồ Phỉ đáp:

– Tiểu đệ giúp cô nương đây một chút. Chung nhị ca cứ đi trước, tiểu đệ sẽ lên ngựa theo ngay.

Chung Triệu Văn lắc đầu, nghĩ thầm trong bụng:

– Con người tuổi trẻ thật không hiểu điều khinh trọng. Đã đến đây rồi mà còn la cà vào chuyện không đâu.

Đoạn hắn cho ngựa từ từ cất bước. Hồ Phỉ quảy gánh nước phân về đến vườn hoa, cầm gáo gỗ toan múc phân tưới hoa, bỗng nghe thôn nữ nói:

– Không được! Nước phân này đặc quá, tưới vào chỉ làm cho hoa phải chết khô.

Hồ Phi ngơ ngẩn không biết làm sao. Cô thôn nữ kia nói tiếp:

– Ngươi quay lại hố phân đổ xuống một nửa, rồi lấy thêm vào nửa thùng nước trong mới được.

Hồ Phỉ tuy đã nóng ruột, nhưng nghĩ người tốt đã làm việc gì phải đến nơi đến chốn. Chàng liền hành động theo lời cô thôn nữ đổ bớt phân thêm nước vào, rồi quay lại tưới hoa. Cô thôn nữ dặn:

– Coi chừng đó! Đừng để nước phân dính vào lá và cánh hoa.

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi!

Chàng thấy những bông hoa này màu lam thẫm, hình dạng rất kỳ dị, mỗi bông hoa giống như một chiếc hài, mùi u hương thoang thoảng, chẳng hiểu là hoa gì. Chàng bèn thận trọng múc nước phân tưới vào gốc cây cho kỳ hết cả hai thùng mới thôi. Cô thôn nữ lại nói:

– Này! Quảy thêm một gánh nữa đi.

Hồ Phỉ đứng thẳng người lên, cất giọng ôn tồn nói:

– Ông bạn tại hạ đang nóng lòng chờ đợi. Đợi khi tại hạ tìm đến Dược Vương trang trở về, lại giúp cô nương tưới hoa được chăng?

Thôn nữ đáp:

– Ngươi cứ ở đây tưới hoa hay hơn. Ta thấy ngươi làm được mới bảo ngươi gánh phân.

Hồ Phỉ nghe cô ăn nói kỳ quái, bụng nghĩ cứ còn chần chừ khắc nào là mất thời gian khắc ấy, bèn hối hả đi gánh nước phân tưới hết vườn hoa. Lúc này bóng tịch dương đã chìm sau núi, ánh kim quang phản chiếu lên một đóa hoa màu lam thật lớn trông rất rực rỡ, đẹp mắt. Hồ Phỉ không kiềm được liền buộc miệng xuýt xoa:

– Vườn hoa thật là đẹp?

Sau khi gánh phân tưới nước, chàng bỗng nảy sinh tình cảm với mấy luống hoa, nên tán dương băng giọng rất chân thành. Thôn nữ toan lên tiếng thì Chung Triệu Văn cưỡi ngựa quay về, gọi lớn:

– Huynh đệ! Đến bây giờ mà huynh đệ còn chưa chịu đi ư?

Hồ Phỉ đáp:

– Vâng, tiểu đệ đi ngay đây, đi ngay đây.

Chàng liếc mắt nhìn thôn nữ, mục quan lộ vẻ khẩn cầu. Thôn nữ sa sầm nét mặt, hỏi:

– Té ra ngươi tưới hoa giúp ta là cốt để ta chỉ đường cho có phải không?

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Quả tình mình muốn xin cô ta chỉ đường, nhưng việc giúp cô tưới hoa chỉ thuần là vì thương cô gầy yếu. Bây giờ mình mở miệng yêu cầu chẳng hóa ra có ý thi ân để mua chuộc.

Chàng sực nhớ lại ngày bắt hai gã Thiết Yết Tử và Tiểu Chúc Dung đến giao cho Viên Tử Y, nàng từng bảo:

– Cái đó gọi là thi ân cầu báo, chỉ có loại người cực kỳ bại hoại mới làm vậy.

Nghĩ đến đó, chàng bỗng cảm thấy trong lòng lâng lâng êm dịu, liền mỉm cười nói:

– Những bông hoa này đẹp thật!

Rồi chàng đến bên gốc liễu, cởi dây cương, tung mình lên ngựa. Cô thôn nữ nói:

– Hãy khoan!

Hồ Phỉ quay lại, sợ cô còn lằng nhằng, trong dạ rất bồn chồn. Cô thôn nữ kia ngắt hai đóa hoa lam ném cho chàng, nói:

– Ngươi khen hoa đẹp thì ta tặng ngươi hai đóa.

Hồ Phỉ giơ tay đón lấy, miệng đáp:

– Đa tạ cô nương!

Rồi thuận tay bỏ vào bọc. Cô thôn nữ hỏi:

– Hắn họ Chung, ngươi họ gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ họ Hồ.

Cô thôn nữ gật đầu nói:

– Các ngươi muốn đến Dược Vương trang thì nên đi theo ngả đông bắc là hơn.

Chung Triệu Văn đã đi theo ngả tây bắc, chờ lâu không thấy trong lòng nóng nảy mới quay trở lại kiếm chàng. Bây giờ hắn nghe nói vậy, bao nhiêu nỗi nóng nảy tiêu tan hết, mỉm cười khẽ nói:

– Tiểu huynh đệ, ngươi hay thật! Miễn cho tiểu huynh phí công đi một đoạn đường.

Hồ Phỉ vẫn đầy lòng ngờ vực, nghĩ thầm:

– Nếu Dược Vương trang ở về phía đông bắc thì lẽ ra y chỉ nói thẳng ra là xong, cớ sao lại bảo nên đi theo ngả đông bắc là hơn?

Nhưng chàng cũng không hỏi nữa mà cho ngựa đi theo hướng đông bắc. Hai người ruổi ngựa chạy thật nhanh một lúc chừng tám, chín dặm thì phía trước xuât hiện một hố nước không có đường qua. Chỉ có một lối đi nhỏ thông sang phía tây.

Chung Triệu Văn tức mình thóa mạ:

– Con nha đầu đó thật là khả ố. Thị không chịu chỉ đường thì thôi, sao lại bảo mình đi trật nẻo. Lúc trở vẻ phải cho thị một bài học mới được.

Hồ Phỉ cũng lấy làm lạ, chàng tự nghĩ mình tuyệt không có điều chi đắc tội với cô thôn nữ mà sao lại bị cô chơi khăm? Chàng liền nói:

– Chung nhị ca! Cô bé nhà quê kia nhất định có mối liên quan nào đó với Dược Vương trang.

Chung Triệu Văn hỏi lại:

– Ờ! Huynh đệ có tìm thấy manh mối gì không?

Hồ Phỉ đáp:

– Cặp mắt thị lấp loáng ánh thần quang, còn thái độ cùng cách ăn nói dường như không phải là một cô gái quê mùa chưa biết qua việc đời.

Chung Triệu Văn kinh hãi nói:

– Đúng rồi! Hai đóa hoa thị tặng cho đệ hãy mau vứt đi cho rồi.

Hồ Phỉ đưa tay vào áo, rút đóa hoa lam ra, thấy vẻ hoa kiều diễm không nỡ vứt bỏ, liền đáp:

– Hai đóa hoa nhỏ bé này tưởng cũng chẳng có gì đáng ngại!

Rồi chàng lại bỏ hoa vào bọc, phóng ngựa đi về mé tây. Chung Triệu Văn đi sau la lên:

– Này! Nên cẩn thận một chút!

Hồ Phỉ ậm ừ cho qua chuyện, vung roi quất vào vai ngựa cho nó phi nước đại về phía tây. Trong bóng chiều bảng lảng, từng đàn quạ lướt trên đỉnh đầu bay về tổ. Đột nhiên Hồ Phỉ và Chung Triệu Văn thấy có hai người phủ phục bên bờ hồ, tựa như đang uống nước. Hồ Phỉ liền dừng ngựa để hỏi đường nhưng thấy hai người kia thủy chung vẫn không nhúc nhích, trong lòng biết có điều khác lạ, liền nhảy xuống ngựa, nói lớn:

– Xin cảm phiền!

Hai người kia vẫn bất động. Chung Triệu Văn đưa tay đẩy vào, thì hai người này té ngửa ra, hai mắt trắng đã trợn trừng, rõ ràng đã chết từ lâu. Trên mặt xác chết thấy đầy các vết đen, cơ mắt méo mó trông rất dễ sợ. Đến xem người kia thấy cũng vậy.

Chung Triệu Văn nói:

– Họ bị trúng độc rồi.

Hồ Phỉ gật đầu, thấy trên người hai tử thi đều có vết binh khí, liền hỏi:

– Có lẽ là kẻ đối đầu với Độc Thủ Dược Vương chăng?

Chung Triệu Văn gật đầu.

Hai người lên ngựa đi tiếp. Lúc này trời đã tối hẳn. Hai người cảm thấy con đường trước mặt đầy hung hiểm. Hai người lại đi một quãng nữa bỗng tiếp bên đường cây cỏ thưa thớt. Càng tiến về phía trước, thảo mộc càng lác đác. Vẻ sau toàn là đất trơ trọi không có một bụi cỏ hay một gốc cây lớn, cây nhỏ gì hết. Hồ Phỉ sinh dạ hoài nghi, dừng ngựa lại hỏi:

– Chung nhị ca! Nhị ca nhìn xem, nơi đây rất là cổ quái.

Chung Triệu Văn đã thấy phong cảnh khác lạ, liền đáp:

– Nếu là nơi dọn cỏ đốn cây, tất còn lưu lại dấu vết của gốc rễ. Ta coi chừng…

Hắn trầm ngâm một chút rồi khẽ nói tiếp:

– Dược Vương trang nhất định gần đây rồi. Chắc lão đã rải chất kịch độc nên đến cả gốc cây cũng chẳng còn.

Hồ Phỉ gật đầu, trong lòng càng thêm khiếp sợ. Chàng xé mấy mảnh vải trong bọc bịt miệng ngựa Chung Triệu Văn, rồi bịt cả miệng ngựa của mình. Chung Triệu Văn biết chàng sợ tiến về phía trước lại gặp cây cỏ có chất độc, hai con vật gặm cỏ tất không khỏi ngộ độc. Hắn khẽ gật đầu và khen thầm chàng trẻ tuổi mà tâm tư tế mật. Đi chẳng bao lâu nữa đã trông thấy một tòa nhà ở phía xa xa. Khi đến gần mới thấy tòa nhà này hình thù cực kỳ cổ quái, giống như một ngôi mả lớn, đã không có cửa lớn cũng chẳng có cửa sổ, trông tối tăm âm u thật khủng khiếp.

Cả hai đều nghĩ: “Cứ xem hình thù tòa nhà này thì chắc đây là Dược Vương trang rồi”.

Cách tòa nhà chừng mấy trượng, có một hàng cây thấp nhỏ mọc xung quanh nhà. Lá cây giống như lá dẻ, màu lá đỏ ửng như màu máu, tựa hồ lá phong vào mùa thu. Lúc này trời nhá nhem tối, người nhìn thấy không rét mà run.

Chung Triệu Văn cả đời bôn tẩu giang hồ có chuyện hung hiểm nào lại chưa thấy qua? Ba anh em hắn đã ăn mặc như kiểu tang gia khiến người nhìn thấy phải sợ hãi, vậy mà gặp tình trạng này, trống ngực hắn không khỏi đập loạn lên. Hắn khẽ hỏi Hồ Phỉ:

– Làm thế nào bây giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Chúng ta theo lễ mà cầu kiến rồi tùy cơ ứng biến.

Hai người liền tung ngựa vọt tới, còn cách dãy cây thấp chừng vài trượng, liền xuống ngựa dõng dạc hô lớn:

– Chung Triệu Văn ở Ngạc Bắc và vãn bối là Hồ Phỉ ở Liêu Đông xin có lời thỉnh an Dược Vương tiền bối.

Mấy câu này từng chữ đều từ huyệt “Đan điền” đưa ra, thanh âm không vang đội mấy, nhưng ngân xa hàng mấy dặm. Người ở trong nhà dĩ nhiên phải nghe rõ từng lời. Sau một lúc trong nhà vẫn không thấy động tĩnh gì, Hồ Phỉ lại hô lần nữa. Trong tòa nhà tròn vẫn không có ai trả lời, tựa hồ không có người ở. Hồ Phỉ lại lớn tiếng nói:

– Kim Diện Phật Miêu đại hiệp trúng độc bị thương. Độc dược đó bị bọn gian nhân lấy cắp nơi tiền bối. Xin tiền bối mở dạ từ bi ban cho thuốc giải.

Bất luận chàng nói gì trong tòa nhà tròn kia thủy chung vẫn yên lặng như tờ. Sau một lúc khá lâu trời tối mịt. Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Chung Nhị ca! Nhị ca tính sao bây giờ?

Chung Triệu Văn đáp:

– Cặp mắt của Miêu đại hiệp đã mù, chúng ta đã đến đây chẳng lẽ lại trở về tay không?

Hồ Phỉ nói:

– Đúng thế! Dù là đầm rồng hang cọp cũng phải xông vào.

Cả hai người đều nổi lòng động võ, muốn dùng biện pháp cứng rắn. Họ đều nghĩ:

– Độc Thủ Dược Vương tuy chuyên nghề dùng độc, nhưng võ công vị tất đã cao thâm. Chúng ta dùng cả hai cách cương nhu vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn để xin thuốc giải cho bằng được.

Hai người liền xuống ngựa, tiến lại gần dãy cây thấp. Họ thấy những cây này cành lá rậm rạp sum suê, không thể xuyên qua được. Chung Triệu Văn tung mình nhảy lên cao, vượt qua bụi cây thấp để vào trong. Người hắn đang lơ lửng trên không, bỗng ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, mắt tối sầm lại, lập tức ngã vào trong bụi cây ngất đi.

Hồ Phỉ thấy vậy cả kinh, liền nhảy vào theo. Lúc chàng đang vượt qua dãy cây thấp, mũi ngửi thấy mùi hương khác lạ xộc vào mũi, người chỉ muốn nôn ọe. Chàng vừa hạ mình xuống đất vội đưa tay đỡ Chung Triệu Văn sờ mũi thấy vẫn còn hơi thở nhưng hai mắt nhắm nghiền, ngón tay và da mặt lạnh toát như băng.

Hồ Phỉ lòng thầm kêu khổ:

– Chưa cầu được thuốc giải cho Miêu đại hiệp thì Chung nhị ca lại trúng độc. Xem ra cả ta cũng thấm hơi độc rồi, có điều chất độc chưa phát tác mà thôi.

Chàng nhún thấp người xuống nhảy vọt đến trước căn nhà tròn, miệng hô lớn:

– Dược Vương tiền bối! Vãn bối tay không đến bái trang, thực chẳng có ý xấu. Nếu không cho bái kiến, vãn bối buộc phải hành động vô lễ.

Chàng nói câu này rồi nhìn kỹ bức tường xung quanh nhà tròn, chỉ thấy từ trên nóc nhà xuống đến chân tường toàn một màu đen sì, hiển nhiên không phải kiến tạo bằng thổ mộc. Chàng không dám đưa tay ra đẩy. Nhưng bốn phía đều được quét dọn sạch sẽ ngay cả một mảnh gạch hay một viên đá nhỏ cũng chẳng sao biết được. Chàng liền móc đĩnh bạc trong bọc ra khẽ gõ vào tường ba cái, quả nhiên nghe tiếng “choang choang của kim loại bị va đập.

Hồ Phỉ bỏ đĩnh bạc vào bọc, vừa cúi đầu xuống bỗng ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng thoang thoảng, tinh thần liền phấn khởi. Đầu óc đang ngầy ngật vừa ngửi thấy mùi hương lập tức tỉnh táo lại. Chàng cong lưng hơn chút nữa thấy mùi hương ngào ngạt hơn, té ra là mùi thơm đó tỏa ra từ đóa hoa màu lam mà cô thôn nữ đã tặng cho.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Xem chừng mùi hoa thơm có công hiệu giải độc. Quả nhiên cô có lòng tốt.

Chàng gia tăng cước lực đi quanh căn nhà tròn, chẳng những không thấy cửa ngõ mà ngay cả lỗ hổng cũng không có. Chàng tự hỏi:

– Chẳng lẽ trong nhà không có người ở ư? Nếu có sao tránh khỏi chết ngạt vì thiếu lỗ thông hơi?

Trong tay chàng lại không binh khí, nên đối với căn nhà toàn bằng sắt này thật vô kế khả thi. Chàng ngưng thần ngẫm nghĩ một lúc, rồi lấy hoa lam trong bọc ra để vào mũi Chung Triệu Văn. Một lúc sau, quả nhiên y hắt hơi một cái, rồi từ từ tỉnh lại. Hồ Phỉ cả mừng nghĩ bụng:

– Cô thôn nữa kia đã có phép giải độc. Chi bằng ta trở về cầu cô chỉ điểm.

Thế rồi chàng cài một đóa hoa lam vào vạt áo Chung Triệu Văn, tay chàng cầm một đóa. Chàng đỡ Chung Triệu Văn nhảy ra khỏi dãy cây thấp đó, hai chân vừa đặt xuống đất bỗng nghe trong nhà có người bật tiếng la hoảng:

– Ủa!

Hồ Phỉ quay lại hỏi:

– Dược Vương tiền bối! Tiền bối có chịu cho vãn bối gặp mặt chăng?

Trong ngôi nhà tròn lại yên tĩnh chẳng có thanh âm chi hết. Chàng hỏi hai câu, đối phương vẫn không trả lời. Đột nhiên hai tiếng “huỵch huỵch” vang lên như có vật nặng rớt xuống đất Hồ Phỉ quay lại nhìn thấy đôi ngựa đã nằm lăn ra đó. Chàng tung người vọt lại coi thì thấy hai con vật mắt nhắm nghiền, miệng sủi bọt đen. Chúng hiển nhiên đã bị trúng độc tắt hơi, trên mình chẳng có thương tích chi hết.

Đã đến nước đó, hai người không còn dám chần chờ ở nơi nguy hiểm này nữa, cùng nhau khẽ thương lượng mấy câu rồi quyết ý ra cầu cứu cô thôn nữ. Hai người theo đường cũ mà về. Chung Triệu Văn sau khi trúng độc, chân tay bải hoải, cứ đi một quãng lại phải nghỉ một lúc. Sang canh hai, hai người mới trở về căn nhà tranh của cô thôn nữ. Trong đêm tối mùi hoa lam trong vườn càng tỏa thơm ngào ngạt. Chung, Hồ vừa ngửi được mùi hương đó đã cảm thấy hết nhọc mệt, trong lòng thư thái.

Bỗng thấy ánh đèn từ trong nhà lọt qua cửa sổ ra ngoài. Nghe “kẹt” một tiếng, cánh cửa ra vào đã mở, cô thôn nữ bước ra, lên tiếng:

– Mời hai vị vào đây nhưng chỗ quê mùa chẳng có gì khoản đãi. Chỉ có trà thô cơm nhạt, thật là không phải với quý khách.

Hồ Phỉ nghe cô nói không có vẻ phàm tục, vội chắp tay thi lễ đáp:

– Đêm khuya đến quấy nhiễu, tại hạ thật áy náy.

Cô thôn nữ mỉm cười đứng tránh sang một bên, nhường lối cho hai người vào nhà. Hồ Phỉ bước vào thấy trong nhà kê bàn ghế gỗ, cách bài trí cũng như mọi nông gia thông thường, không có gì khác biệt, nhưng sạch sẽ không một hạt bụi. Cả khe tường, vách ván cũng không chút bụi bặm. Nơi đây sạch sẽ tương tự khu vực xung quanh tòa nhà tròn, khiến hai người lo ngầm trong bụng.

Cô thôn nữ nói:

– Chung gia, Hồ gia, xin mời ngồi!

Cô nói rồi xuống bếp lấy hai bộ bát đũa cùng ba món ăn, hai bát cơm trắng lớn bốc hơi nghi ngút. Ba món ăn là đậu hũ luộc, măng tươi và nấm xào rau. Tuy là cơm chay nhưng mùi vị ngon lành. Hai người đã đi hằng nửa ngày trời, bụng đều đói meo.

Hồ Phỉ cười nói:

– Đa tạ cô nương.

Tay trái chàng bưng bát cơm, tay phải cầm đũa ăn ngay. Chung Triệu Văn trong lòng nghi hoặc, nghĩ thầm:

– Cơm canh này thị đã dự bị từ trước, hiển nhiên thị tiên liệu chúng ta đi rồi quay trở ra. Chẳng thà chịu chết đói chứ cơm canh này ngàn vạn lần cũng không thể ăn.

Hắn thấy cô thôn nữ trở gót xuống nhà bếp, liền đưa mắt nhìn Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Huynh đệ! Ta đã đặn huynh đệ trong phạm vi ba chục dặm quanh Dược Vương trang không thể ăn uống gì được. Huynh đệ quên rồi ư?

Nhưng Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nếu cô này có ý làm hại ta thì quyết đã chẳng tặng hoa cho ta. Tuy vẫn phải đề phòng lòng người bất trắc, nhưng không ăn bữa cơm này thì nhất định đắc tội với cô.

Chàng toan trả lời thì cô thôn nữ từ trong bếp bưng ra một cái khay gỗ. Trên khay đặt một cái thùng nhỏ đựng đầy cơm trắng.

Hồ Phỉ đứng dậy, nói:

– Đa tạ cô nương có lòng hậu từ. Bọn tại bạ xin được bái kiến lệnh tôn cùng lệnh đường.

Thiếu nữ đáp:

– Gia gia má má tiểu nữ qua đời cả rồi. Tiểu nữ ở đây chỉ có một mình.

Hồ Phỉ “à” một tiếng rồi ngồi xuống cầm đũa tiếp tục ăn nữa. Ba món ăn trông rất ngon lành sạch sẽ, Hồ Phỉ vừa ăn vừa khen không ngớt miệng để lấy lòng cô.

Chung Triệu Văn bụng bảo dạ:

– Ngươi đã không nghe lời khuyên, ta cũng đành chịu. Chẳng lẽ cả hai cùng mắc bẫy người ta sao?

Hắn nhìn cô thôn nữ nói:

– Tại hạ vừa ngất xỉu một lúc lâu, trong bụng thấy nôn nao, không muốn ăn cơm.

Cô thôn nữ rót một chung trà, nói:

– Vậy xin mời Chung gia uống một chung trà xanh.

Chung Triệu Văn thấy nước trà xanh biếc lại trong trẻo ngon lành. Tuy hắn miệng khát muốn uống, nhưng chỉ ngỏ lời cảm tạ rồi đón lấy chung trà đặt xuống bàn chứ không uống. Cô gái cũng không để ý. Cô thấy Hồ Phỉ ăn như rồng cuốn, hết bát này tới bát khác, bất giác khóe mắt lộ vẻ vui mừng.

Hồ Phỉ trông thấy ánh mắt cô, thầm nghĩ:

– Ta đã lỡ ăn rồi, có ăn ít cũng trúng độc mà ăn nhiều cũng trúng độc vậy thôi!.

Chàng đánh bạo tiếp tục ăn thật no. Chàng ăn hết bốn bát cơm lớn, ba món ăn cũng hết sạch, để lộ cả đáy bát ra.

Cô thôn nữ lại cất dọn. Hồ Phỉ vội đặt bát đũa xuống rồi bưng mâm vào nhà bếp. Tiện tay chàng múc nước trong lu rửa sạch bát chén, lau khô rồi xếp vào chạn. Thôn nữ rửa nồi niêu, quét nhà. Hai người cùng nhau dọn dẹp. Hồ Phỉ cũng không nhắc tới chuyện vừa qua. Chàng thấy lu nước chỉ còn lại một nửa liền quẩy thùng ra khe suối ở ngoài cửa gánh nước đổ đầy lu. Gánh xong, chàng lên phòng trên thấy Chung Triệu Văn gục xuống bàn mà ngủ.

Cô thôn nữ nói:

– Nhà cửa chốn hương thôn không có chỗ tiếp khách, đành ủy khuất Hồ gia ngủ tạm trên ghế dài một đêm vậy!

Hồ Phỉ đáp:

– Cô nương không cần phải khách sáo!

Thôn nữ tiến vào phòng trong khẽ khép cửa lại, nhưng không nghe tiếng cài then. Chàng tự hỏi:

– Cô này trơ trọi ở đây một mình, sao dám để hai người đàn ông lưu trú, xem ra cô lớn mật quá.

Chàng liền đưa tay lay vai Chung Triệu Văn khẽ nói:

– Chung nhị ca, ra cái ghế dài mà nằm nghỉ!

Ngờ đâu, chàng vừa đụng vào đầu vai, Chung Triệu Văn đã té nhào xuống đất đánh “huỵch” một cái. Hồ Phỉ cả kinh, vội ôm hắn vực dậy, thấy người sốt cao như lửa. Hồ Phỉ rối rít hỏi:

– Chung nhị ca, nhị ca làm sao vậy?

Chàng bèn cầm đèn đưa lại gần xem cho rõ, thì thấy mặt hắn đỏ rực như người say rượu nồng nặc, Hồ Phỉ lấy làm quái lạ, tự nhủ:

– Y không uống lấy một ngụm trà cớ sao chỉ trong chớp mắt lại say bí tỉ thế này?

Bỗng nghe y nói mơ:

– Ta không say, không có say mà! Lại đây, ta cùng uống với ngươi thêm ba bát lớn nữa!

Hồ Phỉ trong lòng xoay chuyển ý nghĩ, biết Chung Triệu Văn đã mắc phải thủ đoạn của cô thôn nữ. Vì hắn không chịu ăn cơm uống trà, nên không biết cô ta dùng cách thức kỳ lạ nào để khiến hắn rơi vào tình trạng say mềm như bún. Hồ Phỉ hoang mang vừa kinh sợ, vừa thấy kỳ quái, không biết nên cầu cứu với cô thôn nữ hay cứ để tự nhiên cho hắn từ từ tỉnh lại.

Chàng lại nghĩ:

– Y bị trúng độc chứ không phải say rượu, vị tất có thể tự hồi tỉnh được?

Đúng lúc đó, bỗng có tiếng tru gào thê thảm của dã thú từ xa vọng lại. Giữa đêm hôm khuya khoắt nghe thấy âm thanh ấy không khỏi khiến ta rợn người sởn gáy. Tiếng tru gào nghe như tiếng chó sói. Ven Động Đình hồ phần lớn là vùng đồng bằng. Nếu có chó sói đi nữa thì chỉ một vài con chứ làm sao có từng đàn đông đảo như vậy. Tiếng tru gào mỗi lúc một gần. Hồ Phỉ đứng bật dậy, nghiêng tai lắng nghe. Trong tiếng chó sói gào có xen lẫn tiếng dê kêu be be. Hiển nhiên là bầy sói đang săn đuổi dê để ăn thịt. Hồ Phỉ cũng không để ý toan lại coi tình hình Chung Triệu Văn thì nghe cánh cửa kẹt mở. Cô thôn nữ tay cầm đèn bước ra, vẻ mặt kinh hoàng nói:

– Đó là tiếng chó sói tru gào.

Hồ Phỉ gật đầu đáp:

– Cô nương…

Chàng trỏ vào Chung Triệu Văn. Lại nghe tiếng vó ngựa dồn dập hòa lẫn với tiếng dê kêu, tiếng chó sủa náo loạn cả lên. Những thanh âm này đang tiến thẳng về phía căn nhà tranh.

Hồ Phỉ cả kinh thất sắc bụng bảo dạ:

– Nếu là bọn địch nhân kéo đông người đến tập kích thì căn nhà tranh này không chịu nổi một cái lay, huống chi Chung nhị ca bị trúng độc mê man bất tỉnh. Cô thôn nữ ở cạnh nách là bạn hay là thù cũng khó mà đoàn được. Biết làm thế nào bây giờ?

Chàng còn đang suy nghĩ bỗng thấy một con khoái mã lao tới. Hồ Phỉ trong tay không một tấc sắt, cúi xuống ôm Chúng Triệu Văn chạy vào nhà bếp để kiếm con dao thái rau, nhưng trong bóng tối chàng mò mẫm mãi mà chẳng tìm thấy gì.

Bỗng nghe thôn nữ lớn tiếng quát hỏi:

– Người nhà họ Mạnh đấy ư? Đêm hôm khuya khoắt đến đây làm gì?

Hồ Phỉ nghe giọng nói nghiêm khắc không có vẻ trá ngụy, xem ra người đến tập kích không phải cùng phe với cô, chàng mới hơi yên dạ. Chàng chạy ra sân sau chụp lấy một viên gạch, tung mình nhảy lên cây liễu, đặt Chung Triệu Văn vào chỗ chạc cây lớn.

Định thần nhìn kỹ, dưới ánh sao chàng thấy một hán tử áo xám tro cưỡi ngựa xông tới trước căn nhà tranh. Phía sau con ngựa bụi đất tung bay, tiếng tru gào náo loạn cả lên, tiếp theo đến mười mấy con chó sói đói đang đuổi tới. Cứ xem tình hình này thì dường như người kia dọc đường gặp bầy sói đói xông tới tấn công, nên phải vọt ngựa chạy trốn. Nhưng chàng nhìn lại thấy phía sau có một vật trắng toát. Té ra là một con dê còn sống. Hồ Phỉ cho đó là người đi săn dùng con dê làm mồi dụ bầy chó sói vào bẫy để bắt.

Người kia tung ngựa xông vào vườn hoa, chạy thẳng đến đầu phía đông rồi quay đầu ngựa trở qua hướng tây. Bảy sói đói rượt theo sau, tru inh ỏi. Người kia cứ chạy tới chạy lui khiến vườn hoa bị dẫm nát không còn hình dạng gì nữa. Con ngựa hán tử đang cưỡi quả là loại tuấn mã, thuật cưỡi ngựa của gã rất tinh thâm. Gã chạy lui chạy tới mà bầy sói đói kia thủy chung vẫn không cắn được con dê.

Hồ Phỉ xoay chuyển ý nghĩ, hốt nhiên tỉnh ngộ:

– A! Thằng cha này đến để giẫm nát hoa lam! Có lý nào ta lại tụ thủ bàng quan?

Chàng liền điểm hai chân vọt qua nóc nhà tranh. Bỗng nghe người kia la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi tung ngựa chạy nước đại về hướng bắc. Con dê vẫn để lại trong vườn hoa. Bầy sói nhảy xô lại xâu xé, khiến cho vườn hoa đã tan nát càng thêm tơi tả.

Hồ Phỉ mắng thầm:

– Dụng tâm của thằng cha này thật thâm độc!

Chàng liền ném hai mảnh gạch bay ra. Nghe “bốp, bốp” hai tiếng, hai con sói đứng đầu trúng phải mảnh gạch, óc vỡ ngã lăn ra đất chết liền. Hồ Phỉ lại ném hai mảnh gạch nữa, lần này viên gạch nhỏ hơn liền trệch đi một chút, một viên đánh trúng bụng một con sói, một viên bắn vào vào vai một con. Tuy cú va chạm không mạnh nhưng hai con sói dữ cũng đau đớn tru ầm lên. Bầy sói liên tiếp bị đánh, biết có người ở trên nóc nhà. Chúng ngửng đầu lên nhìn Hồ Phỉ, nhe răng múa vuốt tru gào ầm ĩ. Hồ Phỉ thấy bầy lang lộ vẻ hung dữ, cả người sởn gai ốc, vì chàng tay không, thực khó mà chống chọi được mấy chục con sói dữ. Chàng liền cầm viên gạch, nhằm đúng đầu con sói đực lớn nhất ném chênh chếch xuống trúng cổ họng nó. Con sói lăn lộn mấy vòng rồi không chịu đau nổi liền cúp đuôi chạy trốn. Một con sói lớn khác đang cắn con dê trắng cũng chạy theo. Chỉ trong khoảnh khắc tiếng sói tru mỗi lúc một xa. Vườn hoa lam đã bị giày phá tan nát.

Hồ Phỉ từ trên nóc nhà nhảy xuống, chặc lưỡi luôn miệng:

– Đáng tiếc! Đáng tiếc!

Chàng nghĩ tới cô thôn nữ phải cực nhọc trồng hoa, dày công làm cỏ bón tưới mới nên được một vườn hoa lam xinh đẹp, vậy mà trong khoảnh khắc đã bị phá hoại sạch sành sanh, chắc là cô đau khổ lắm. Không ngờ cô chẳng nhắc gì đến vườn hoa lam bị tàn phá, còn cười rúc rích, nói:

– Đa tạ Hồ gia đã ra tay tương trợ.

Hồ Phỉ đáp:

– Nói ra thêm hổ thẹn. Đáng trách là tại ha không thấy được cơ sự sớm hơn, ra tay chậm quá. Nếu tại hạ đánh tên ác tặc kia ngã ngựa sớm ở ngoài xa, thì vườn hoa này có thể bảo toàn được.

Cô thôn nữ mỉm cười nói:

– Vườn hoa lam này dù chẳng bị bầy sói dữ phá hoại thì qua mấy ngày nữa nó cũng tàn tạ. Chẳng qua là chậm hay sớm vài ngày, cũng chẳng có chi đáng kể.

Hồ Phỉ sửng sốt nghĩ thầm:

– Cô này ăn nói lạ thường, lời lẽ dường như còn hàm ẩn huyền cơ.

Chàng nói:

– Tại hạ tới nhà quấy nhiễu, mà chưa kịp thỉnh giáo tôn tính của cô nương.

Cô thôn nữ trầm ngâm một chút rồi đáp:

– Tiểu muội họ Trình, nhưng trước mặt người khác xin đại ca đừng nhắc tới họ của tiểu muội.

Cô nói mấy câu này đầy vẻ thân thiết, tựa hồ coi Hồ Phỉ như là người của mình rồi. Hồ Phỉ ra chiều cao hứng hỏi:

– Vậy tại hạ gọi cô nương bằng gì nào?

Cô thôn nữ đáp:

– Đại ca là người rất tốt. Tiểu muội nói cả tên cho đại ca hay. Tiểu muội là Trình Linh Tố. Chữ “Linh” của “Linh khu”, còn “Tố” trong “Tố vấn”.

Hồ Phỉ không hiểu “Linh khu” và “Tố vấn” là hai cuốn y kinh ở Trung Quốc, nhưng cảm thấy hai chữ này rất thanh nhã, chẳng giống tên của một cô gái quê mùa. Lúc này chàng mới biết cô nhất định không phải là cô gái bình thường chốn hương thôn. Chàng cũng không lấy làm lạ nữa, bèn nói:

– Vậy tại hạ kêu bằng “Linh cô nương”, người ngoài có nghe thấy họ cũng cho là “Lâm cô nương”.

Trình Linh Tố nhoẻn một nụ cười rất xinh, đáp:

– Đại ca thật khéo làm cho tiểu muội hoan hỷ.

Hồ Phỉ cũng hơi động tâm. Chàng thấy tướng mạo cô tuy không xinh đẹp lắm, nhưng từng câu cười tiếng nói đều có phong thái kiều mỵ đáng yêu. Chàng toan hỏi về vụ Chung Triệu Văn say rượu thì Trình Linh Tố đã nói:

– Vị Chung nhị ca kia uống rượu say chẳng có gì đáng ngại. Chỉ đến sáng mai là tỉnh lại. Bây giờ tiểu muội đi thăm mấy người, đại ca có đi theo không?

Hồ Phỉ thấy cô bé này hành động rất cổ quái, cô đi thăm người vào lúc đêm hôm khuya khoắt tất là có thâm ý. Chàng liền đáp:

– Dĩ nhiên tại hạ muốn đi theo cô.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca cùng đi thì chúng ta phải có ba điều quy ước. Một là đêm nay đại ca không được nói gì với ai…

Hồ Phỉ đáp:

– Được rồi! Tại hạ cứ làm người câm là xong.

Trình Linh Tố cười nói:

– Không cần phải thế. Đại ca nói với tiểu muội thì được. Hai là đại ca tuyệt đối không được động võ, phóng ám khí hay điểm huyệt. Ba là không được rời xa tiểu muội ba bước.

Hồ Phỉ gật đầu ưng thuận, nghĩ thầm:

– Té ra cô đưa mình đi đến gặp Độc Thủ Dược Vương. Cô bảo mình không được rời cô xa ba bước là sợ mình bị trúng độc nguy hiểm.

Chàng phấn khởi tinh thần hỏi:

– Bây giờ chúng ta đi ngay chứ?

Trinh Linh Tố đáp:

– Cần đem theo một vài thứ.

Cô vào phòng mình trong khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà rồi gánh đôi giỏ tre trở ra. Mặt giỏ có đậy nắp không hiểu trong đựng những gì, nhưng nhìn bộ dạng cũng biết cô phải gắng hết sức mới gánh nổi. Hồ Phỉ nói:

– Cô nương để tại hạ gánh cho.

Rồi chàng đón lấy gánh đặt lên vai, thấy nặng trên một trăm cân. Đôi giỏ nặng nhẹ không đều. Một bên nặng trĩu còn một bên nhẹ hều, thành ra khó gánh. Chàng thấy Chung Triệu Văn phục xuống bàn ngủ ngáy pho pho. Chàng đi qua bên mình hắn vẫn cảm thấy hơi rượu nồng nặc.

Hai người ra khỏi căn nhà tranh. Trình Linh Tổ khép cửa lại rồi đi trước dẫn đường. Hồ Phỉ hỏi:

– Linh cô nương! Tại hạ muốn hỏi một điều được chăng?

Trình Linh Tố đáp:

– Được chứ, nhưng chỉ sợ tiểu muội không biết đường mà trả lời.

Hồ Phỉ nói:

– Cô nương không trả lời được thì trong thiên hạ chẳng còn người thứ hai nào trả lời được. Chung nhị ca của tại hạ không uống một giọt nước nào mà sao lại say mê man như vậy?

Trình Linh Tố tủm tỉm cười đáp:

– Chính vì y không uống một giọt nước nào mà hóa ra như vậy đấy.

Hồ Phỉ nói:

– Vụ này tại hạ không sao hiểu được. Chung nhị ca là tay giang hồ lão luyện. Chung thị tam hùng ở Quỷ Kiến Sầu vùng Ngạc Bắc đều là những nhân vật nổi danh trong võ lâm, còn tại hạ là kẻ kiến thức thiển lậu. Ngờ đâu vì y thận trọng quá mức mà…

Chàng nói tới đây bỗng ngưng lại không nói nữa. Trình Linh Tố đáp:

– Đại ca nói phải lắm! Y thận trọng trong mọi trường hợp mà lại mắc lừa tiểu muội phải không? Đề phòng cần thận có ích gì đâu? Cứ vô tư như đại ca lại được bình yên vô sự.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tại hạ làm sao?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Bảo đại ca đi gánh phân là gánh liền, bảo ăn cơm là ăn ngay. Biết ngoan ngoãn nghe lời thì còn ai nhẫn tâm làm hại đại ca?

Hồ Phỉ cười nói:

– Té ra làm người là cần phải biết nghe lời. Nhưng cách thức cô ngương dùng để sửa lưng người khác lại quá đỗi xảo diệu, đến giờ này tại hạ cũng không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Được rồi! Tiểu muội nói sơ qua cho đại ca hiểu. Trong phòng lớn có chậu hoa trắng nhỏ, đại ca đã nhìn thấy chưa?

Lúc trước Hồ Phỉ không lưu ý bây giờ chàng nhớ lại quả nhiên ở trên bàn bên cửa sổ có một chậu hoa trắng nhỏ. Trình Linh Tố nói tiếp:

– Chậu hoa đó gọi là “Đề hồ hương”. Mùi thơm làm người ngây ngất, cực kỳ lợi hại. Ai ngửi một lúc là chẳng khác gì uống phải rượu nồng. Trong cơm canh và nước trà, tiểu muội đã hòa thuốc giải vào. Ai bảo y không chịu ăn uống làm chi?

Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ, đối với cô gái càng đem lòng kính sợ. Chàng lẩm bẩm:

– Ta chỉ nghe nói người ta hạ độc vào đồ ăn thức uống, ngờ đâu phương pháp hạ độc của cô lại cao minh hơn nhiều, đối phương dù không ăn uống gì cũng bị trúng độc.

Trình Linh Tố lại nói:

– Để lát nữa trở về tiểu muội cho uống thuốc giải là xong. Đại ca bất tất phải băn khoăn.

Hồ Phỉ động tâm nghĩ thầm:

– Cô nương này giỏi nghề dùng thuốc, không chừng có thể chữa được đôi mắt cho Miêu đại hiệp. Vậy thì chẳng cần phải đi cầu cạnh Độc Thủ Dược Vương nữa.

Chàng liền hỏi:

– Linh cô nương! Cô nương có biết cách giải trừ chất độc “Đoạn trường thảo” không?

Trình Linh Tố đáp:

– Cái đó khó nói lắm.

Hồ Phỉ thấy cô ngập ngừng, không tiện xin cô điều trị. Chàng nhìn cước bộ của cô nhẹ nhàng, yểu điệu. Cô đi trước không nhanh mà cũng không chậm, tuy không thi triển khinh công mà đi chưa bao lâu cũng đã được sáu, bảy dặm đường. Cô đi thẳng về phía chính đông, vậy không phải đến Dược Vương trang. Chàng chợt nhớ ra điều gì liền nói:

– Tại hạ còn muốn hỏi cô nương một chuyện. Vừa rồi tại hạ cùng Chung nhị ca đi Dược Vương trang, cô nương bảo tại hạ đi về phía đông bắc, cố ý bắt anh em tại hạ phải đi đường vòng xa thêm gần hai chục dặm nữa. Dụng ý của cô nương trong chuyện này, tại hạ quả tình không sao hiểu được.

Trình Linh Tố đáp:

– Việc chính đại ca muốn hỏi tiểu muội không phải việc này. Tiểu muội đoán chừng đại ca định hỏi Dược Vương trang rõ ràng ở hướng tây bác mà sao chúng ta lại đi về hướng đông, có phải không?

Hồ Phỉ cười, đáp:

– Cô nương đoán đúng. Tại hạ muốn hỏi điều đó.

Trình Linh Tố nói:

– Bây giờ chúng ta không đi về phía Dược Vương trang chỉ vì không phải chúng ta đi đến đó.

Điều này vượt ngoài sự tiên liệu của Hồ Phỉ, khiến chàng “ủa” lên một tiếng. Trình Linh Tố lại nói:

– Ban chiều tiểu muội yêu cầu đại ca tưới hoa một là để thử lòng đại ca, hai là để đại ca phải chậm trễ thêm một khoảng thời gian nữa. Sau tiểu muội lại bảo đại ca đi đường vòng xa thêm hai mươi dặm tốn thêm thời gian để đến khi trời tối đại ca mới tới được Dược Vương trang. Vì bên ngoài trang trồng những cây Huyết nụy lật, là giống dẻ lùn, lá đỏ như máu. Thứ cây này về đêm độc tính giảm đi. Tiểu muội tặng cho đại ca hai bông hoa lam là để khắc chế chất độc kia.

Hồ Phỉ nghe cô nói trong lòng khâm phục vô cùng. Chàng không ngờ cách dùng độc và thuốc giải cũng cần nhiều học vấn đến thế, mà vị tiểu cô nương dung mạo tầm thường này lại dụng tâm rất sâu xa, người thường không sao bì kịp. Chàng kể lại chuyện gặp hai xác chết bên bờ Động Đình hồ. Trình Linh Tố nghe đến chi tiết trên mặt xác chết có những đốm đen, cơ mặt bị méo mó, liền “hừ” một tiếng, rồi nói:

– Chất độc “Quỷ biển bức” đó không có thuốc giải nào trị được, bọn họ sao lại không biết.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– “Quỷ biển bức” là chất độc gì? Cô có nói ra mình cũng chẳng hiểu. Cô dặn gì thì mình cứ việc làm y như vậy. Càng hỏi nhiều chỉ tổ lòi cái dốt của mình ra.

Chàng đành im tiếng, cứ lầm lũi đi theo sau cô về phía đông. Hai người lại đi chừng năm, sáu dặm rồi tiến vào một khu rừng cây tối om om. Trình Linh Tố khẽ nói:

– Đến nơi rồi. Bọn họ chưa lại. Chúng ta chờ ở rừng cây này. Đại ca đem một cái giỏ tre đặt dưới gốc cây kia.

Cô vừa nói vừa trỏ một cây lớn. Hồ Phỉ theo lời y đem giỏ tre nặng trĩu đặt ở đó. Trình Linh Tố đi tới bên cạnh một bụi cỏ rậm cách gốc cây chừng tám, chín trượng. Cô nói:

– Còn cái giỏ nữa đem đến đặt tại đây cho tiểu muội.

Đoạn cô vạch bụi cỏ ra chui vào trong đó. Hồ Phỉ cũng không hỏi ai chưa lại và chờ họ để làm gì? Chàng nhớ lời dặn không rời ra cô quá ba bước liền đem cái giỏ kia đặt tại đó rồi cũng chui vào bụi cỏ, ngồi bên cạnh cô. Chàng ngửng đầu nhìn trời, thấy vành trăng đã xế về tây, đêm đã về khuya rồi. Trong rừng cây, tiếng côn trùng rả rich, thỉnh thoảng lại có vài tiếng kêu chát chúa.

Trình Linh Tố đưa cho Hồ Phỉ một viên thuốc, khẽ dặn chàng:

– Bỏ vào miệng ngậm, đừng có nuốt đấy!

Hồ Phỉ chẳng nhìn viên thuốc cứ lẳng lặng bỏ vào miệng. Viên thuốc này mùi vị đắng ngắt. Hai người ngồi đợi chừng nửa giờ. Hồ Phỉ nghĩ quanh nghĩ quẩn, chàng nhận thấy trong một ngày một đêm vừa rồi đã trải qua những biến cố kỳ dị, quái đản, có thể nói là chưa bao giờ gặp trong đời.

Đột nhiên chàng nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:

– Không hiểu hiện giờ nàng ở đâu? Nếu như ở bên ta không phải cô bé gầy nhom này mà là Viên cô nương thì nàng sẽ nói gì với ta?

Nghĩ tới đây bất giác chàng thò tay vào bọc sờ con ngọc phụng. Đột nhiên Trình Linh Tố đưa tay kéo vạt áo Hồ Phỉ trỏ về phía trước.

Hồ Phỉ nhìn theo tay nàng, thấy ở phía xa một ngọn đèn lồng đang từ từ tiến gần lại. Thông thường ánh sáng đèn lồng có màu hồng, nhưng ngọn đèn lồng này lại chiếu ra màu xanh lục. Ngọn đèn lồng tiến đến rất lẹ, chẳng mấy chốc chỉ còn cách trước mặt ngoài mười trượng. Ánh lửa soi rõ người cầm đèn là một nữ nhân lưng còng, bước cao bước thấp, tựa hồ què chân phải. Đi sát sau mụ là một hán tử thân hình cao lớn, bên hông đeo một thanh tiêm đao sáng loáng.

Hồ Phỉ nhớ tới lời nói của Chung Triệu Văn bất giác người hơi chấn động nhủ thầm:

– Chung nhị ca bảo Độc Thủ Dược Vương có khi là đại hán như đồ tể, có khi là phụ nữ lưng còng. Vậy trong hai người này tất có một người là Dược Vương.

Chàng liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, nhưng trong đêm tối không thấy rõ nét mặt cô, chỉ có cặp mắt lớn long lanh đang nhìn hai người kia không chớp. Cô lộ vẻ rất khẩn trương.

Hồ Phỉ nổi lòng nghĩa hiệp, bụng bảo dạ:

– Nếu Độc Thủ Dược Vương mà hành động bất lợi cho cô thì ta nhất định liều mạng để bảo vệ cô an toàn.

Một nam một nữ kia tiến tới mỗi lúc một gần. Người đàn bà dung mạo nho nhã xinh đẹp, tuy người mụ có tật, nhưng có thể nói đó là một mỹ nữ. Còn đại hán mặt đầy gân guốc, tướng mạo rất hung dữ. Cả hai người đều khoảng bốn chục tuổi. Hồ Phỉ dù mình mang tuyệt nghệ, có gặp bọn cường khấu đạo tặc cực kỳ lợi hại trên chốn giang hồ cũng không hề khiếp sợ, nhưng lúc này chàng không tự chủ được, trống ngực đánh thình thịch. Chàng nhận thấy lắm khi có võ công cũng bế tắc, muốn đối phó với hạng người này thì võ công chưa chắc đã có ích.

Hai người kia còn cách Hồ Phỉ chừng bảy, tám trượng đột nhiên quay sang mé tả đi thêm mười mấy trượng rồi dừng bước. Đại hán lớn tiếng hô:

– Mộ Dung sư huynh! Vợ chồng tiểu đệ theo lời hẹn tới đây. Xin sư huynh lộ diện để tương kiến.

Chỗ hắn đứng không xa Hồ Phỉ mấy, hắn đột nhiên mở miệng nói mà thanh âm lại rất lớn khiến Hồ Phỉ giật nẩy cả mình. Đại hán hô hai lần không người đáp lại.

Hồ Phỉ nghĩ thầm:

– Nơi đây trừ bốn người chúng ta ra chẳng còn ai khác. Làm gì có vị Mộ Dung sư huynh nào? Té ra hai người này là cặp vợ chồng.

Người đàn bà gù cất tiếng nhỏ nhẹ nói:

– Mộ Dung sư huynh đã không chịu hiện thân. Vậy vợ chồng tiểu muội đành phải vô lễ vậy.

Hồ Phỉ cười thầm nghĩ bụng:

– Cái này gọi là gậy ông đập lưng ông, vay gì trả nấy. Vừa rồi ta đến Dược vương trang bái phỏng, nói sao họ cũng không lý gì tới. Bây giờ lão muốn gặp người khác cũng mắc phải đòn này.

Bỗng thấy nữ nhân lấy trong bọc ra một bó cỏ châm vào đèn lồng cho cháy lên. Lập tức khói bốc mù mịt, chẳng bao lâu cả khu rừng như chìm trong làn sương trắng. Trong làn khói thoang thoảng có mùi gỗ đàn hương chẳng có gì khó ngửi.

Hồ Phỉ nghe mụ nói bốn chữ “đành phải vô lễ” thì biết là thứ khói này rất lợi hại, nhưng chính mình chẳng thấy gì khó chịu. Chàng chắc là do công hiệu của viên thuốc ngậm trong miệng, bèn quay nhìn Trình Linh Tố. Lúc này cô cũng đưa mắt nhìn chàng, mục quang đầy vẻ quan tâm. Hồ Phỉ trong lòng cảm kích, khẽ gật đầu. Làn khói mỗi lúc một dày đặc, đột nhiên trong cái giỏ tre đặt ở dưới gốc cây có tiếng người hắt hơi rất lớn.

Hồ Phỉ giật mình kinh hãi tự hỏi:

– Trong giỏ có người ư? Sao ta gánh đi cả nửa buổi mà chẳng biết gì? Vậy câu chuyện giữa ta và Trình cô nương y nghe thấy hết rồi ư? Dù không hiểu gì về y dược cùng độc vật, nhưng ta đã luyện võ công bao nhiêu năm thì chẳng thể gánh một người đi bao nhiêu dặm đường mà lại mơ hồ không biết, trừ phi đó là người chết thì không kể.

Trong lòng chàng rất đỗi kinh dị, lại nghe người trong giỏ hắt hơi liền mấy tiếng rồi tung nắp giỏ nhảy vọt ra. Chàng thấy người này mặc áo trường bào, đội mũ nhà nho. Chính là lão già mà chàng đã gặp ở trên đỉnh núi đang nhặt cỏ hái thuốc lúc ban chiều.

Lúc này quần áo lão rất lôi thôi, khăn đội lệch lạc, thần thái vô cùng thảm hại, không có gì giống với vẻ nho nhã lúc ban ngày. Lão thấy hai người nam nữ kia liền nổi giận, quát hỏi:

– Hay lắm! Khương sư đệ! Tiết sư muội! Các vị hạ thủ càng ngày càng âm độc.

Vợ chồng nhà kia thấy hình dung lão như vậy, dường như vượt qua ngoài sự tiên liệu của họ. Đại hán cười lạt hỏi:

– Sư huynh còn bảo bọn tiểu đệ hạ thủ âm độc ư? Sư huynh ngồi ẩn trong giỏ tre, ai mà ngờ được? Mộ Dung sư huynh…

Hắn chưa dứt lời, lão già lại hắt hơi, sắc mặt biến đổi hẳn. Lão vội thò tay vào bọc lấy một viên thuốc bỏ vào miệng. Mụ đàn bà lưng gù lấy chân giẫm đám thảo dược đang tỏa khói cho tắt đi, rồi lại bỏ vào bọc nói:

– Mộ Dung sư huynh! Không kịp nữa rồi! Không kịp nữa rồi!

Lão già kia mặt xám như tro tàn, ngồi bệt dưới đất hồi lâu mới nói:

– Thôi được, kể như ta thua.

Đại hán lấy trong bọc ra một cái bình nhỏ màu xanh, cầm trong tay nói:

– Thuốc giải ở trong này. Lệnh sư điệt trúng phải độc thủ của đại sư ca, vậy đại sư ca lấy thuốc giải ra trao đổi là xong.

Lão già hỏi:

– Nói bậy! Có phải các vị nói Tiểu Thiết không? Mấy năm nay ta không thấy mặt gã thì hạ độc thủ cái gì mới được chứ?

Mụ đàn bà lưng gù hỏi lại:

– Đại ca hẹn bọn tiểu muội đến đây để nói câu này thôi ư?

Mụ quay đầu lại bảo đại hán:

– Thiết Sơn! Chúng ta đi thôi.

Mụ nói xong, quay lưng toan đi ngay. Đại hán lộ vẻ do dự, nói:

– Tiểu Thiết…

Mụ kia ngắt lời:

– Y giận chúng ta thấu xương, chẳng thà y chịu mất mạng chứ quyết chẳng dung tha Tiểu Thiết. Mấy năm nay chẳng lẽ sư ca còn không nghĩ ra?

Đại hán muốn đi mà không đi ngay, lại hỏi:

– Mộ Dung huynh! Mối cừu hận bao nhiêu năm trời giữa chúng ta đến nay còn để bụng làm chi? Tiểu đệ khuyên đại sư huynh một câu: Chúng ta nên trao đổi thuốc giải cho nhau để cởi bỏ mối hiềm thù ngày trước.

Hắn nói mấy câu này bằng một giọng rất thành khẩn.

Lão già hỏi lại:

– Tiết sư muội! Tiểu Thiết trúng phải chất độc gì?

Mụ già cười lạt một tiếng chứ không trả lời.

Đại hán nói:

– Mộ Dung sư huynh! Đã đến nước này tưởng không nên giả ngây giả ngô nữa. Tiểu đệ kính mừng sư huynh đã trồng được thứ “Thất tâm hải đường”.

Lão già lớn tiếng hỏi:

– Ai trồng được “Thất tâm hải đường”? Chẳng lẽ Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Ta không có đâu. Ta không có đâu.

Lão nói mấy câu này ra chiều hốt hoảng, mối lo sợ lộ ra ngoài mặt. Hai vợ chồng kia đưa mắt nhìn nhau tự hỏi:

– Chẳng lẽ lão đóng kịch giống đến thế ư?

Mụ đàn bà hỏi:

– Thôi được! Mộ Dung sư huynh, đừng nói chuyện vô ích nữa. Sư huynh ước hẹn bọn tiểu muội đến đây tương hội có điều chi dạy bảo?

Lão già gãi đầu đáp:

– Ta có ước hẹn đâu? Các vị đem ta đến đây sao lại bảo ta ước hẹn?

Lão nói tới đây trong lòng vừa giận vừa thẹn, đột nhiên vung cước đá cái giỏ tre ra xa bảy, tám trượng.

Mụ đàn bà lạnh lùng hỏi:

– Chẳng lẽ phong thư này không phải của sư huynh viết? Nét chữ của sư huynh, bình sinh tiểu muội được coi có phải ít đâu.

Mụ vừa nói vừa lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên. Mụ giơ tay trái lên, tờ giấy bay về phía lão già. Lão già giơ tay toan đón lấy, đột nhiên lão rụt tay về vung chưởng đánh ra. Chưởng phong cản tờ giấy lơ lửng ở trên không. Ngón tay trái lão lại búng một cái bắn ra mũi ám khí. Mũi ám khí của lão già là một cây “Thấu cốt đinh” dài độ ba tấc bắn trúng tờ giấy hoa tiên. Nghe “bộp” một tiếng, mũi “Thấu cốt đinh” đã ghim tờ giấy hoa tiên vào thân cây.

Hồ Phỉ nghe lạnh cả người, thầm nghĩ:

– Những người này đối với nhau, hễ đối phương nói một câu, thở một hơi đều đề phòng bị hạ độc thủ. Lão già không dám đưa tay đón tờ giấy hoa tiên vì sợ trên giấy có chất độc.

Mụ già lưng gù giơ cao đèn lồng lên. Ánh sáng chiếu vào tờ giấy hoa tiên, trên nền giấy trắng có hai hàng chữ lớn. Hồ Phỉ ngồi ở đằng xa cũng nhìn rõ. Những chữ đó như sau: “Khương, Thiết hai vị. Sau canh ba mời hai vị đến Hắc Hổ lâm, có việc cần thương lượng”. Phía dưới ký tên bằng bốn chữ “Tri danh bất cụ”. Hai hàng chữ này nét bút khô gầy, lại hơi thẳng đứng. Chữ giống như người, phảng phất như thân hình lão già.

Lão già bật tiếng la “ô hay”. Dường như lão rất lấy làm quái dị.

Đại hán hỏi:

– Đại sư huynh! Có điều chi không ổn?

Lão già lạnh lùng đáp:

– Lá thư này không phải do ta viết.

Lão vừa nói câu này, vợ chồng đại hán lại đưa mắt nhìn nhau. Mụ lưng gù buông tiếng cười lạt, hiển nhiên không tin lời lão. Lão già nói:

– Bút tích trong thơ lại rất giống thư pháp của ta mới thật là kỳ.

Lão đưa tay trái lên sờ hàm râu dưới cằm, rồi nổi giận đùng đùng hỏi:

– Các ngươi bỏ ta vào giỏ tre khiêng đến đây làm chí?

Mụ lưng gù không trả lời, hỏi lại:

– Tiểu Thiết trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”, rốt cuộc sư huynh có chịu cứu trị hay không? `

Lão già hỏi:

– Đã chắc chưa? Có đúng là “Thất tâm… Thất tâm hải đường” không?

Lão nói đến bốn chữ “Thất tâm hải đường” thanh âm run rẩy, lộ vẻ sợ hãi tột độ.

Hồ Phỉ nghe tới đây mới hiểu dần ra. Chàng đoán có một tay cao thủ nào đó ra tay hý lộng, bố trí cuộc gặp gỡ này, khiến cho ba người nói lui nói tới mà vẫn chẳng ăn nhập gì với nhau. Tay cao thủ đó là ai? Bất giác chàng quay lại nhìn Trình Linh Tố thấy cặp mắt lớn và sáng ngời như ánh sao của cô lấp loáng trong bóng tối.

Chàng tự hỏi:

– Không lẽ cô bé mặt vàng ốm nhách này mà lại ghê gớm đến vậy ư? Điều này khó mà khiến cho người ta tin nổi.

Chàng còn đang ngẫm nghĩ bỗng nghe đại hán hú lên những tiếng “ô ô” rất quái dị, vội quay đầu nhìn ra thì thấy lão già và vợ chồng đại hán cùng cúi mình xuống hai tay đẩy về phía trước, sáu bàn tay dính vào nhau, miệng hú những tiếng “ô ô”. Tiếng lão già nghe gay gắt, tiếng đại hán thì thô mãnh, tiếng mụ già lưng còng lại the thé. Ba người hú lên từng tràng dài liên tục không ngớt.

Đột nhiên tiếng hú dừng lại, bỗng thấy lão già tung người nhảy lùi lại phía sau rồi ánh hàn quang lấp loáng, lão già đã phóng một mũi “Thấu cốt đinh” đánh tắt đèn lồng. Tiếp theo đại hán rú lên:

– Úi chao!

Hiển nhiên hắn bị lão già ám toán thụ thương. Lúc này trong rừng tối đen như mực, bốn mặt đều cảm thấy có nguy cơ rình rập. Hồ Phỉ tiện tay kéo Trình Linh Tố lùi lại phía sau, chàng đứng trước mặt cô để ngăn chặn. Hành động này của chàng chưa suy nghĩ vì thấy mối nguy hiểm cận kề, không thể không gắng hết sức để bảo vệ cho cô gái yếu đuối này, còn liệu sức mình có bảo vệ nổi hay không thì chàng tuyệt không màng tới.

Đại hán rú lên một tiếng rồi im bặt. Trong khu rừng tuy có cả thảy năm người mà không mảy may một tiếng động. Hồi lâu, Hồ Phỉ mới nghe tiếng côn trùng rả rích trong bụi cỏ. Xa xa có tiếng cú mèo rúc lên the thé.

Đột nhiên một bàn nhỏ nhắn mềm mại đưa ra nắm lấy bàn tay thô lớn của chàng. Hồ Phỉ rùng mình một cái, rồi chàng biết ngay là bàn tay của Trình Linh Tố. Chàng cảm thấy nó nhỏ bé mềm mại chỉ bằng bàn tay đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi.

Trong khu rừng tĩnh mịch, đột nhiên trước mắt hiện ra hai luồng khói bay lên cuồn cuộn. Một luồng khói trắng và một luống khói ấm tựa hồ hai con quái xà từ hai bên trườn mình vọt vào giữa để đánh nhau. Đồng thời có những tiếng veo véo rít lên không ngớt. Hồ Phỉ ngồi trong bóng tối giương lớn cặp mắt lên nhìn thấp thoáng thấy hai bên tả hữu đều có những đốm lửa. Đằng sau một đốm lửa là lão già, đằng sau đốm lửa kia là mụ lưng gù. Hai người đều cúi xuống, vận nội lực thổi khói về phía đối phương. Họ đã đốt dược thảo để phát khói độc tấn công nhau. Hai người thổi một hồi, trong rừng khói mù mỗi lúc một dày đặc.

Đột nhiên lão già “ủa” một tiếng. Lão đưa mắt nhìn tờ giấy hoa tiên bị “Thấu cốt đinh” găm trên cây đại thụ trước mặt. Hồ Phỉ nhìn thấy tờ giấy khẽ lay động, trên mặt lấp loáng hào quang do mấy hàng chữ phát sáng tạo ra. Vợ chồng mụ lưng gù cũng lấy làm quái dị, cùng quay đầu nhìn.

Hồ Phỉ cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Trình Linh Tố run lên. Tiếp theo dưới gốc cây về phía đối diện bỗng nghe đánh “chát” một tiếng.

Trên tờ giấy viết mấy hàng chữ:

Nay dặn dò cho Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước ba đồ đệ cùng biết: Các ngươi tàn hại lẫn nhau, chẳng nghĩ gì đến tình nghĩa sư môn khiến ta tô cùng chán nản. Các ngươi nên xóa bỏ hiềm khích trước kia nối tiếp di chí của ta. Đó là lời ta thiết tha căn dặn. Sự việc lúc ta lâm chung, đồ đệ Trình Linh Tố sẽ kể lại tường tận cho các ngươi hay. Tăng Vô Sân tuyệt bút.

Lão già và mụ lưng gù đều la hoảng:

– Sư phụ chết rồi ư? Trình sư muội! Sư muội ở chỗ nào?

Trình Linh Tố nhẹ nhàng rụt tay khỏi bàn tay Hồ Phỉ. Cô lấy trong bọc ra một cây nến, bật lửa châm vào, rồi thong thả bước ra. Lão già là Mộ Dung Cảnh Nhạc, mụ lưng gù là Tiết Thước đều biến sắc, lớn tiếng hỏi:

– Cuốn “Dược Vương thần biên” của sư phụ đâu? Có phải ngươi giữ không?

Trình Linh Tố cười lạt:

– Mộ Dung sư huynh! Thiết Sơn sư huynh! Tiết Thước sư tỷ! Suốt đời sư phụ dạy dỗ ơn đức tày non, vậy mà các vị chẳng quan hoài chi đến việc sinh tử của lão nhân gia, chỉ hỏi tới di vật của người, thật quá đỗi bất nghĩa vô tình! Khương sư huynh! Sư huynh có gì nói không?

Đại hán tức Khương Thiết Sơn bị thương nằm dưới đất, nghe Trình Linh Tố hỏi tới mới ngóc đầu lên tức giận đáp:

– Tiểu Thiết bị thương, nhất định đều đo tay con nha đầu này hý lộng quỷ thần. Mau đưa cuốn “Dược vương thần biên” ra đi!

Trình Linh Tố nhìn họ chằm chặp chứ không nói gì.

Mộ Dụng Cảnh Nhạc quát lớn:

– Sư phụ có lòng thiên ái, nhất định giao cái đó cho ngươi!

Tiết Thước nói:

– Tiểu sự muội! Sư muội hãy đem cuốn “Thần biên” ra để mọi người cùng coi.

Giọng nói của mụ rõ ràng ra chiều gạ gẫm. Trình Linh Tố đáp:

– Đúng thế. Sư phụ quả đã truyền lại cuốn “Dược Vương thần biên” cho tiểu muội.

Cô dừng lại một chút, lấy trong bọc ra một tờ giấy hoa tiên nói tiếp:

– Đây là huấn dụ của sư phụ viết cho tiểu muội. Ba vị hãy coi đi.

Cô cầm giấy đưa cho Tiết Thước. Tiết Thước đưa tay ra toan đón lấy thì Khương Thiết Sơn vội quát:

– Sư muội! Coi chừng!

Tiết Thước chợt tỉnh ngọộ, vội lùi lại một bước, trỏ vào cây lớn trước mặt. Trình Linh Tố buông tiếng thở dài, rút cây ngân trâm cài đầu cắm tờ hoa tiên vào. Cô giơ tay lên một cái, phóng cây trâm ghim trên thân cây.

Hồ Phỉ thấy cô xuất thủ, công phu không phải tầm thường, bụng bảo dạ:

– Không ngờ cô gái bé nhỏ gầy nhom này cùng ba người kia lại là huynh muội đồng môn.

Nhờ ánh sáng ngọn nến trong tay Trình Linh Tố, chàng nhìn rõ trên tờ giấy viết:

“Huấn dụ cho Trình Linh Tố được Sau khi ta chết rồi, ngươi lập tức báo cáo cho sư huynh sư tỷ. Trong ba người đó, nếu ai còn nghĩ đến lão tăng thì người cho coi cuốn Dược vương thần biên, còn ai không tỏ chút đau buồn tưởng nhớ là đã hết tình nghĩa, không phải đồ đệ của ta. Nhất thiết ngươi phải nghe theo lời di chúc này. Tăng Vô Sân tuyệt bút”.

Mộ Dung Cảnh Nhạc, Khương Thiết Sơn, Tiết Thước cả ba người xem những lời huấn dụ rồi ngơ ngác nhìn nhau. Ai cũng nghĩ thầm:

– Ta chỉ nghĩ đến di vật của sư phụ. Còn sư phụ cớ sao mà qua đời thì chẳng thèm hỏi đến một câu, lại không tỏ chút tình bi thương đau xót nào cả.

Cả ba người chỉ ngây người ra trong một thoáng, rồi đột nhiên quát to một tiếng, cùng nhảy xổ vào Trình Linh Tố.

Hồ Phỉ la hoảng:

– Linh cô nương, coi chừng!

Chàng phi thân vọt ra, thấy song chưởng của Tiết Thước đánh tới trước mặt Trình Linh Tố, vội vận chưởng lực phản kích. Đơn chưởng đối với song chưởng đụng nhau đánh ầm một tiếng, Tiết Thước bị hất ra xa ngoài hai trượng. Tay mặt chàng lập tức xoay lại như móc câu nắm lấy cổ tay Khương Thiết Sơn, vận dụng “Loạn hoàn quyết” trong Thái Cực quyền rồi mượn đà ném một cái. Thân hình to lớn và mập ú của Khương Thiết Sơn bay đi còn xa hơn cả Tiết Thước, rồi té huỵch xuống đất.

Nguyên hai người này tuy giỏi về nghề hạ độc nhưng võ công chưa phải là hạng nhất lưu cao thủ. Chàng quay lại toan đối phó với Mộ Dung Cảnh Nhạc thì thấy người lão lảo đảo hai cái rồi đột nhiên té xuống, không dậy được nữa.

Tiết Thước hỏi:

– Tiểu sư muội! Sư muội mai phục sẵn một tay trợ thủ rất lợi hại. Tên tiểu tử này là ai vậy?

Hồ Phỉ đáp ngay:

– Tại hạ họ Hồ tên Phỉ. Hiền phu phụ có điều chi cứ kiếm tại hạ mà hỏi…

Trình Linh Tố giậm chân hỏi:

– Ngươi nói cái gì vậy?

Hồ Phỉ sửng sốt. Lại thấy Khương Thiết Sơn lồm cồm đứng dậy. Hai vợ chồng nhìn Hồ Phỉ một cái rồi lập tức dắt tay nhau chạy ra khỏi rừng cây.