Chương 11: Mênh mông những mối oan cừu

Sáng sớm hôm sau, ba người lại cưỡi ngựa lên đường. Khi đi, ngựa chạy nhanh nên chỉ mất một ngày là đã tới nơi. Nhưng lần trở về, phải đến tận khuya mới tới ngoài căn nhà nhỏ của Miêu Nhân Phụng.

Chung Triệu Văn thấy dưới gốc cây buộc bảy con ngựa cao lớn. Hắn động tâm khẽ nói:

– Hai vị hãy chờ đây một chút. Tại hạ vào trước xem sao.

Hắn quành ra sau nhà chợt nghe mấy người đang lớn tiếng nói chuyện. Hắn rón rén đến dưới cửa sổ dòm vào, thấy Miêu Nhân Phụng bịt mắt bằng tấm băng vải, đứng rất ngang nhiên. Ngoài cửa sảnh đường mấy hán tử tay cầm binh khí, dáng điệu rất hung dữ. Chung Triệu Văn nhìn quanh trong nhà chẳng thấy huynh trưởng Triệu Anh và tam đệ Triệu Năng đâu, tự hỏi: “Hai người lãnh trách nhiệm bảo vệ Miêu đại hiệp mà sao lại bỏ đi đâu?”. Trong lòng hắn không khỏi sinh nghi lo lắng.

Bỗng nghe một người trong năm hán tử lên tiếng:

– Miêu Nhân Phụng! Ngươi mù mắt rồi, có sống thêm ở thế gian cũng chỉ thêm tội tình. Hãy nghe ta nói đây, chi bằng ngươi tự kết liễu đời mình để các đại gia đây khỏi phải ra tay mất công.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng chứ không nói gì. Một hán tử khác nói:

– Ngoại hiệu của ngươi là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, trên chốn giang hồ đã cuồng ngạo mấy chục nằm trời. Bữa này ngươi ngoan ngoãn bò dưới đất dập đầu mấy cái trước các vị đại gia, không chừng các vị để ngươi sống thêm mấy năm nữa.

Miêu Nhân Phụng cất giọng trầm trầm hỏi:

– Điền Quy Nông đâu? Sao hắn không dám nói thẳng với ta?

Tên cầm đầu bọn hán tử cười đáp:

– Để phát lạc một kẻ đui mù như ngươi hà tất Điền đại gia phải ra tay?

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Điền Quy Nông không đến ư?

Giữa lúc ấy, Chung Triệu Văn cảm thấy có người khẽ vỗ vai, hắn giật mình kinh hãi tung người nhảy về phía trước ra xa nửa trượng. Hắn quay đầu nhìn lại thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố mới yên tâm.

Hồ Phỉ đi tới bên hắn, trỏ về phía tây, khẽ nói:

– Chung đại ca và Chung tam ca đã bị bọn tặc tử vậy hãm bên kia. Nhị ca mau qua đó tiếp viện. Tiểu đệ ở đây chiếu cố Miêu đại hiệp.

Chung Triệu Văn biết chàng bản lãnh cao thâm, trong lòng lại đang lo cho huynh đệ, liền rút phán quan bút bên hông ra chạy lẹ qua mé tây. Hắn tung mình vọt đi. Trong nhà đã phát giác. Một người lớn tiếng quát:

– Ai ở bên ngoài đó?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Một vị y sinh và một tên đồ tể.

Người kia tức giận quát:

– Y sinh, đồ tể nào?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Y sinh chữa mắt cho Miêu đại hiệp, còn đồ tể thì giết heo mổ chó.

Người kia phẫn nộ chửi tục một câu toan nhảy ra. Một tên hán tử khác cầm đầu liền nắm cánh tay hắn giữ lại, khẽ nói:

– Đừng mắc kế “Điệu hổ ly sơn” của chúng. Điền đại gia dặn chúng ta chỉ giết lão họ Miêu này, còn việc khác đừng có quan tâm.

Người kia cổ họng òng ọc mấy tiếng rồi dừng chân lại. Nguyên Hồ Phỉ sợ Miêu Nhân Phụng mắt không thấy gì nên dễ bị kém thế, muốn dẫn dụ địch nhân ra ngoài hạ từng tên một, nào ngờ chúng không mắc bẫy.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã về đấy ư?

Hồ Phỉ dõng dạc đáp:

– Tại hạ đã mời Độc Thủ Dược Vương lão nhân gia tới đây, đôi mắt của đại hiệp chắc chắn sẽ được chữa lành.

Chàng nói “Độc Thủ Dược Vương” đến để hư trương thanh thế nhằm hăm dọa địch nhân. Quả nhiên cả năm hán tử trong nhà đều biến sắc, chúng nhất tề quay đầu nhìn ra thì thấy hai người đứng ngoài cửa chỉ là một thiếu niên thô tráng và một cô bé gầy nhom, chứ làm gì có Độc Thủ Dược Vương?

Miêu Nhân Phụng nói:

– Năm con chó nhỏ này đâu đáng để tiểu huynh đệ phải quan tâm. Tiểu huynh đệ hãy mau mau đi tương trợ cho Chung thị tam hùng. Bọn giặc này không ít người đâu, chúng ỷ vào số đông để thủ thắng.

Hồ Phỉ chưa kịp đáp đã nghe sau lưng có tiếng bước chân vang lên. Một thanh âm dõng dạc nói lớn:

– Miêu huynh liệu sự như thần! Bọn ta quả nhiên đã ỷ đông người để thủ thắng.

Hồ Phỉ quay đầu lại liền giật mình kinh hãi khi thấy mười mấy hán tử kẻ cao người thấp, trong tay lăm lăm binh khí, từ từ đi tới. Ngoài ra còn mười mấy tên nô bộc cầm đuốc giơ cao. Chung thị tam hùng đều bị bắt trói thúc ké hai tay ra sau.

Một đại hán trung niên, đeo trường kiếm ngang hông, đi trước mọi người.

Hồ Phỉ thấy nhân vật này mi thanh mục tú, khí vũ hiên ngang. Chính là Điền Quy Nông mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Ngày ấy chàng còn là đứa con nít vàng võ gầy còm, mà hiện nay tướng mạo cùng thân hình chàng biến đổi rất nhiều nên hắn dĩ nhiên không nhận ra được.

Miêu Nhân Phụng ngửa mặt lên cười ha hả nói:

– Điền Quy Nông! Nếu người chưa giết được ta thì vẫn ăn không ngon ngủ không yên. Bữa nay ngươi đem người đến đông lắm nhỉ?

Điền Quy Nông đáp:

– Bọn tại hạ là lương dân, chỉ lo an phận thủ thường, khi nào dám hại mạng người. Bọn tại hạ đến đây chẳng qua là để cung thỉnh Miêu đại hiệp về tệ xá để hàn huyên mấy bữa, cho thỏa tình cố cựu giữa chúng ta mà thôi.

Hắn nói mấy câu một cách hời hợt, nhưng trong giọng nói nghe đầy vẻ dương dương tự đắc. Hôm nay Chung thị tam hùng khét tiếng vùng Tương Ngạc cũng bị bắt rồi, Miêu Nhân Phụng thì lại mù mắt, ngoài ra không còn tay cao thủ nào tương trợ nữa thì còn tìm đâu được cơ hội thoát thân? Còn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố đứng ngoài cửa thì hắn chẳng coi vào đâu, tựa hồ không có hai người này vậy.

Hồ Phỉ thấy địch đông mà mình ít. Chung thị tam hùng đều bị bắt sống, xem ra đối phương rất nhiều cao thủ, việc đẩy lùi địch cứu người không phải là chuyện dễ. Chàng đảo mắt quan sát tình thế bên địch, thấy đằng sau Điền Quy Nông có hai phụ nữ. Ngoài ra còn một lão già gầy nhom khô đét, tay cầm cây điểm huyệt quyết và một hán tử trung niên tay cầm thiết bài, cặp mắt lấp loáng tinh quang. Xem ra đây là hai tay kình địch. Ngoài ra còn bảy, tám hán tử kéo hai sợi xích sắt rất dài và nhỏ không hiểu dùng làm gì.

Chàng trầm ngâm một chút đột nhiên tỉnh ngộ lẩm bẩm:

– Phải rồi. Bọn chúng sợ Miêu đại hiệp tuy mù mắt mà vẫn lợi hại vô cùng. Hai sợi đây xích sắt kia cốt để ngáng chân y. Chúng lừa y mắt không nhìn thấy, bảy tám tên cầm xích sắt đứng xa từ từ bao quanh kéo lại. Võ công Miêu đại hiệp quá cao cường nên chúng phải tìm cách giật cho y ngã xuống mới yên tâm.

Chàng nhìn Điền Quy Nông, lửa giận bốc lên ngùn ngụt, mắng thầm:

– Mi đã quyến rũ vợ người ta. Miêu đại hiệp đã độ lượng tha cho, vậy mà còn bày ra hết độc kế này đến độc kế khác, chỉ muốn ép người ta vào chỗ chết mới cam lòng. Độc ác như mi thực chẳng khác chi loài cầm thú.

Kỳ thực, tuy Điền Quy Nông vốn là con người thâm độc nhưng hắn cũng có chỗ bất đắc dĩ không nói ra được. Từ ngày vợ Miêu Nhân Phụng là Nam Lan tư bôn theo hắn, hắn luôn nghĩ nàng là vợ của một tay cao thủ đệ nhất thiên hạ nên ngày nào hắn cũng ăn không ngon ngủ không yên. Mỗi khi gió thổi cỏ lay là lại nghĩ Miêu Nhân Phụng đến tầm cừu.

Ban đầu Nam Lan say mê hắn đến cực điểm, nhưng sau thấy hắn cứ ngày đêm nơm nớp lo sợ chồng cũ của mình thì không khỏi sinh lòng khinh bỉ, vì nàng coi Miêu Nhân Phụng chẳng có chi đáng sợ cả. Trong thâm tâm, nàng thấy chỉ cần hai người yêu nhau chân tình là đủ, dù có chết dưới kiếm của Miêu Nhân Phụng cũng chẳng có gì ghê gớm. Nàng nhận ra Điền Quy Nông quý tính mạng hắn hơn hẳn tình yêu đối với nàng. Nàng đã bỏ chồng con, bỏ cả danh tiết đi theo hắn, mà hắn lại không coi đó là những thứ trân quý nhất trên đời.

Điền Quy Nông vì quá lo sợ Miêu Nhân Phụng nên bao vẻ phong lưu tiêu sái biến đâu mất. Hắn không còn thấy hứng thú với cầm kỳ thi họa cũng ít khi nhìn nàng ngồi trang điểm trước bàn phấn nữa. Hắn để dành phần lớn thời gian cho việc rèn luyện võ công.

Cô tiểu thư nhà quan này vốn rất ghét những người tập đao múa kiếm, vì nàng nghĩ võ công dẫu có đạt đến trình độ cao thâm như Miêu Nhân Phụng đi nữa thì được cái gì. Huống chi nàng dù không biết võ công, nhưng cũng hiểu được rằng Điền Quy Nông vĩnh viễn không thể luyện được bản lĩnh như Miêu Nhân Phụng.

Điền Quy Nông biết rằng Miêu Nhân Phụng không chết thì mọi cuộc mưu đồ của hắn đều biến thành một trường mộng ảo. Bao nhiêu ước mơ có tài sản châu báu giàu nhất thiên hạ, quyền thế trùm hết cõi giang hồ, những thứ đó sẽ chỉ còn là chuyện mò trăng đáy nước mà thôi. Bởi thế dù hắn có lỗi với Miêu Nhân Phụng, nhưng buộc lòng phải giết cho bằng được họ Miêu.

Hiện giờ Miêu Nhân Phụng đã mù mắt, ba tay cao thủ trợ lực cho y đều bị bắt rồi. Trong nhà đã có năm tên cao thủ của Điền Quy Nông đang chờ hiệu lệnh để ra tay. Bên ngoài cũng hơn chục cao thủ chuẩn bị ngăn chặn. Huống chi còn hai sợi xích sắt dài lê thê mà Miêu Nhân Phụng không thể thấy được.

Từ nãy tới giờ, Trình Linh Tố đứng lẳng lặng bên Hồ Phỉ không lên tiếng nhưng có đã nhận rõ toàn bộ tình thế. Cô từ từ thò tay vào bọc lấy khúc nến cháy dở. Cô lại lấy hỏa tập ra, chỉ cần thắp nến lên là trong khoảnh khắc, bao nhiêu người xung quanh đều trúng độc ngã ra hết. Cô xoay lưng lại che cho mọi người khỏi trông thấy rồi châm lửa vào ngọn nến. Cô lại khều bấc lên cho dễ cháy hơn. Ban đêm thắp nến là chuyện thường nên chẳng ai để ý. Không ngờ sau lưng đột nhiên nghe đánh “vù” một tiếng. Mũi ám khí bắn tới. Mũi ám khí này phát ra từ chỗ gần đó lại rất chuẩn xác. Trình Linh Tố thảng thốt không kịp đề phòng, để khúc nến bị ám khí bắn đứt làm hai đoạn rớt xuống đất. Cô giật mình kinh hãi quay đầu, nhìn lại thấy một cô bé chừng mười lăm, mười sáu tuổi quát lớn:

– Ngươi đứng cho nghiêm chỉnh lại, đừng có giở trò quỷ ra nữa.

Mọi người đều đổ dồn ánh mắt nhìn Trình Linh Tố lộ vẻ kinh dị. Trình Linh Tố thấy ám khí là một cây thiết chùy, liền hững hờ hỏi:

– Làm trò quỷ gì nào?

Trong lòng cô không khỏi bồn chồn tự hỏi:

– Sao con bé kia lại khám phá ra âm mưu của ta? Vụ này khó xoay xở rồi đây.

Điền Quy Nông chỉ liếc mắt trông qua chứ không để ý. Hắn hỏi:

– Miêu huynh, hãy theo bọn tiểu đệ đi thôi!

Một hán tử thủ hạ của hắn đẩy mạnh vào vai Hồ Phỉ, quát hỏi:

– Ngươi là ai? Tránh ra! Ở đây chẳng có gì vui mà coi.

Gã thấy Hồ Phỉ và Trình Linh Tố tướng mạo tầm thường, liền cho là người ở gần đến coi chứ không dính líu gì tới Miêu Nhân Phụng. Hồ Phỉ cũng không trả đòn, giả vờ ngơ ngác tránh ra một bước.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đi lẹ lên, đừng lo gì đến ta nữa! Chỉ cần nghĩ cách nào cứu thoát Chung thị tam hùng là Miêu mỗ này vinh viễn không quên ơn đức.

Hồ Phỉ và Chung thị tam hùng trong lòng vô cùng cảm động nghĩ thầm:

– Miêu đại hiệp nhân nghĩa hơn người. Tuy y lâm vào tuyệt địa mà chỉ lo cho người ngoài, chứ chẳng kể gì đến mình.

Điền Quy Nông động tâm liếc mắt nhìn Hồ Phỉ tự hỏi:

– Chẳng lẽ gã tiểu tử này lại có bí quyết gì chăng?

Hắn hô lớn:

– Mời Miêu đại hiệp lên đường!

Câu này vừa hô khỏi cửa miệng, năm hán tử trong nhà đồng loạt giờ đao thương lên đâm vào năm chỗ hiểm yếu trên mình Miêu Nhân Phụng. Trong sảnh đường chật hẹp, trước mặt lại bị sáu người án ngữ, xem chừng Miêu Nhân Phụng không còn đường né tránh. Không ngờ y vung song chưởng lên xuyên giữa hai người tiến ra. Cả năm cây binh khí đều đâm vào chỗ không.

Mấy tiếng “rắc rắc” vang lên. Một cái ghế bị hai thanh đơn đao chém thành mấy mảnh. Miêu Nhân Phụng xoay mình lại, thần oai lẫm liệt đứng ngay ở cửa, chỉ có tay không, mắt lại băng bó, mà đứng án ngữ ngay trước cửa không cho năm địch nhân trốn đi. Hồ Phỉ toan xông vào giúp, nhưng thấy Miêu Nhân Phụng xoay mình đứng đó biết là y chẳng sợ hãi gì dù không thắng thì nhất thời cũng chưa đến nỗi thua ngay.

Năm hán tử đều nghĩ thầm:

– Bọn mình năm người liên thủ mà bữa nay không hạ nổi một gã mù thì còn mặt mũi nào bôn tẩu trên chốn giang hồ?

Miêu Nhân Phụng lại giục:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ chưa đi thì còn đợi đến bao giờ?

Hồ Phỉ đáp:

– Miêu đại hiệp cứ yên tâm. Lũ chó nhỏ này không ngăn cản được tại hạ đâu!

Miêu Nhân Phụng nói:

– Hay lắm, thiếu niên anh hùng. Hậu sinh khả úy!

Y nói mấy câu này rồi đột nhiên xông vào bọn người kia, múa tít hai bàn tay sắt, chân vung ra đá, uy phong mãnh liệt, không ai dám chống cự. Năm hán tử trong nhà đều không phải là hạng tầm thường, vậy mà khi thấy chưởng lực của Miêu Nhân Phụng cực kỳ hùng hậu đều phải lùi lại đứng tựa vào vách để chờ cơ hội tấn công. Trong lúc hỗn loạn, bàn phế nghiêng đổ, trong nhà đèn nén tắt hết. Bên ngoài hai người giơ cao ngọn đuốc tiến lại trước cửa. Miêu Nhân Phụng hai mắt đã mù, có lửa hay không cũng vậy, nhưng năm hán tử chiếm phần tiện nghi.

Đột nhiên một người gầm lên vung thương đâm tới bụng dưới Miêu Nhân Phụng. Thế thương vô cùng tàn độc. Miêu Nhân Phụng khoa chân phải bước tạt ngang vươn tay ra toan bắt lấy đầu thương. Không ngờ ở góc tây nam có người lặng lẽ mai phục, hắn huơ đao lên chém, nghe “phập” một tiếng, lưỡi đao đã chém trúng đùi Miêu Nhân Phụng.

Nguyên tên này cũng trí kế đa đoan. Hắn biết Miêu Nhân Phụng mù mắt không nhìn thấy gì, chỉ toàn nghe tiếng gió để đối phó với địch nhân. Hắn nín thở cúi xuống mà đi. Miêu Nhân Phụng đang hăng say chiến đấu, không hiểu hắn ngồi chỗ nào. Hắn chờ Miêu Nhân Phụng đưa chân phải tới trước mặt mới vung đao chém xuống. Cả người bên trong lẫn bên ngoài thấy Miêu Nhân Phụng bị thương đều đồng thanh hoan hô dữ dội.

Chung Triệu Anh quát lên:

– Tiểu huynh đệ. Vào giải cứu Miêu đại hiệp mau lên. Chỉ lát nữa là không kịp đâu.

Giữa lúc ấy vai bên trái Miêu Nhân Phụng lại trúng một roi. Y nghĩ thầm trong bụng:

– Tình thế bữa nay rất nghiêm trọng. Nếu tay không binh khí thì khó lòng phá nổi vòng vây.

Hồ Phỉ cũng đã nhìn rõ cục diện. Chàng tính thầm nếu như ném đơn đao vào cho Miêu Nhân Phụng thì y may ra mới có cơ thủ thắng. Nhưng kình địch bên ngoài cửa cũng không phải là ít, nếu mình không binh khí thì cũng khó bề chống cự. Trong lúc nhất thời, chàng loay hoay không tính được kế trọn vẹn cả hai bề. Đến lúc thấy tình thế cấp bách, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa liền hô lên:

– Miêu đại hiệp đón lấy đao!

Chàng vận nội lực ném đơn đao vào đánh “véo” một tiếng. Luồng lực đạo rất mãnh liệt. Năm gã trong nhà mà vươn tay ra đón lấy tất bị chặt đứt tay. Chàng tiên liệu chỉ một mình Miêu Nhân Phụng mới có thể chụp được. Ngờ đâu lúc này Miêu Nhân Phụng giơ bả vai trái về phía tây nam để dụ địch, chờ khi gã kia vung đao chém tới, y liền xoay tay lại cướp được đơn đao. Y lắng nghe Hồ Phỉ ném đơn đao vào, liền giơ đao lên đón. Hai sống đao đã đụng nhau đánh “choang” một tiếng tia lửa bắn tung tóe. Thanh đao ném vào lại văng ra.

Miêu Nhân Phụng hô:

– Tiểu huynh đệ, hãy đứng đó coi ta mắt mù giết giặc.

Trong người y bị thương hai chỗ, nhưng tay đã có binh khí, tình thế lập tức thay đổi, không giống như trước nữa. Y chém veo véo hai đao bức bách địch nhân phải lùi lại tựa vào tường. Năm hán tử trong nhà đã biết uy danh Miêu gia kiếm, nhưng chúng nghĩ người tinh thông kiếm thuật thường sử đơn đao rất kém, nên cho rằng dù Miêu Nhân Phụng có đoạt được đơn đao đi nữa cũng chưa chắc đã hơn gì tay không. Cả bọn cùng quát to một tiếng rồi cầm binh khí xông vào.

Bỗng thấy ngoài cửa có ánh sáng lấp loáng, lại một thanh đao nữa được ném vào. Nhưng lần này là ném cho gã hán tử đã bị Miêu Nhân Phụng đoạt mất đơn đao. Hán tử vươn tay đón lấy, hắn vừa bị mất đao lấy làm vô cùng hổ thẹn, nếu không lập công thì khó mà vãn hồi thể diện. Hắn múa đao tấn công, chém vào mặt Miêu Nhân Phụng.

Miêu Nhân Phụng đứng yên không nhúc nhích, y nghe rõ trước mặt có đao chém tới, bên trái có cương tiên quật vào vẫn không né tránh hay đón đỡ. Y chờ khi đao, tiên còn cách mình không đầy nửa thước, mới xoay người vung đao chém một nhát trúng vào cánh tay phải hán tử sử tiên làm gã rống lên một tiếng rất thê thảm. Cây cương tiên rớt xuống đất. Người cầm đao sợ giật nảy mình, nằm phục xuống lăn người ra xa để tránh.

Hồ Phỉ động tâm tự hỏi:

– Chiêu “Kê tử phiên thân đao” rõ ràng là của “Hồ gia đao pháp”, sao Miêu đại hiệp cũng sử được, mà lại có phần tinh diệu hơn ta?

Lại thấy Miêu Nhân Phụng thi triển đơn đao, ánh hàn quang lấp loáng nhanh như gió. Bốn hán tử trong nhà sững sờ cả người, một tên la lên:

– Tên họ Miêu mù cũng biết sử đao.

Điền Quy Nông chợt nhớ ngày trước Hồ Nhất Đao và Miêu Nhân Phụng truyền dạy kiếm pháp và đao pháp cho nhau, lại còn trao đổi binh khí để tỷ võ, trong lòng cả kinh, vội hô lớn:

– Y sử “Hồ gia đao pháp” đó, khác hẳn “Miêu gia kiếm pháp” anh em phải cẩn thận.

Miêu Nhân Phụng hừ một tiếng đáp:

– Không sai! Bữa nay lũ chuột nhắt các ngươi sẽ biết “Hồ gia đao pháp” lợi hại thế nào!

Y tiến lên hai bước ra chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” xoay đao lướt một cái. Đó chỉ là hư chiêu. Tiếp theo y sử chiêu “Bế môn thiết phiến”. Thanh đơn đao đẩy ra rồi quét ngang. Lại một tên trúng đao vào hông ngã lăn xuống đất.

Hồ Phỉ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, miệng lẩm bẩm:

– Quả nhiên y sử “Hồ gia đao pháp” của nhà mình. Té ra hai chiêu này hư hư thực thực lại biến hóa đến thế!

Nên biết Miêu Nhân Phụng đã được chính miệng Hồ Nhất Đao chỉ điểm cho những yếu chỉ tinh diệu trong đao pháp. Căn bản võ công của y lại cao minh, nên so với Hồ Phỉ chỉ căn cứ vào đao phổ để tự mò mẫm luyện tập thì dĩ nhiên sở đắc của y phải tinh thâm hơn nhiều. Y vừa quát vừa ra chiêu “Sa Tăng bái Phật”, một người bị chặt gãy cây hoa thương và bả vai cũng bị chém lìa. Tiếp theo là chiêu “Thương bộ trích tinh đao”, lại một người nữa gãy chân té nhào.

Điền Quy Nông la lên:

– Tiền tứ đệ, ra đây! ra đây!

Hắn thấy Miêu Nhân Phụng đại triển thần uy, mà lúc này trong nhà chỉ còn một người sử đao là Tiền tứ đệ, dù có người xông vào tương trợ đi nữa cũng tất đã thắng địch, liền quyết ý dụ Miêu Nhân Phụng ra ngoài rồi dùng xích sắt bắt lấy.

Nhưng Miêu Nhân Phụng đứng chắn ngay cửa thì gã họ Tiền làm sao ra được? Miêu Nhân Phụng biết gã này đã dùng thủ pháp thâm độc để chém chân mình, nên quyết chẳng để gã trốn thoát một cách dễ dàng. Y vung đao lên, ánh cương đao lắp loáng buộc gã phải lùi vào góc nhà, rồi đột nhiên ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém xuống.

“Choang” một tiếng vang lên. Gã kia tuột mất đơn đao, nhưng gã cực kỳ xảo quyệt, thừa thế lăn dưới đất chui vào gầm bàn. Gã cho là Miêu Nhân Phụng mắt mù không nhìn được, dễ bề tìm đường trốn ra khỏi nhà. Miêu Nhân Phụng tiện tay chụp một cái ghế dài ném thật mạnh ra. Gã kia đang lúc ra khỏi gầm bàn, bỗng nghe đánh “rầm” một tiếng, cái ghế gỗ đã ném trúng ngực gã. Luồng lực đạo này cực kỳ mãnh liệt, lập tức cả ghế lẫn xương sườn của gã đều gãy hết, rồi gã chết giấc tại chỗ.

Chỉ trong khoảnh khắc, Miêu Nhân Phụng hạ năm tên liền. Y biết những người này hoàn toàn nghe lệnh Điền Quy Nông chứ chẳng có thù oán gì với mình nên y không hạ sát thủ, mà chỉ đánh họ trọng thương mà thôi. Những người bên ngoài không khỏi khiếp vía, ai cũng nghĩ thầm:

– Thằng cha này ngoại hiệu là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ” quả nhiên ghê gớm. Nếu hắn không mù mắt thì e rằng bữa nay mình chết chẳng có đất chôn.

Điền Quy Nông cười sang sảng nói:

– Miêu huynh! Võ công của đại ca càng ngày càng cao thâm. Tiểu đệ vô cùng khâm phục. Nào, hãy ra đây! Tiểu đệ dùng “Thiên long kiếm pháp” để lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” của Miêu huynh!

Hắn lại đưa mắt ra hiệu cho bọn hán tử cầm xích sắt tiến lên mấy bước, còn những người khác lùi lại.

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Được lắm!

Y cũng tiên liệu Điền Quy Nông tất có mưu kế thâm hiểm nhưng trong tình thế này, không ra ngoài động thủ không xong.

Hồ Phỉ đột nhiên lên tiếng:

– Hãy khoan! Họ Điền kia, các hạ muốn lãnh giáo “Hồ gia đao pháp” thì hà tất phải Miêu đại hiệp thân hành động thủ. Để tại hạ chỉ điểm mấy đường cũng đủ rồi!

Điền Quy Nông thấy thủ pháp và kình lực của Hồ Phỉ khi ném đao thì biết không phải là hạng tầm thường, những hắn cũng chẳng quan tâm. Hắn liếc mắt nhìn chàng cười lạt hỏi:

– Ngươi là ai mà đám ăn nói ngông cuồng trước mặt Điền đại gia?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ là bằng hữu của Miệu đại hiệp. Vừa rồi Miêu đại hiệp thi triển “Hồ gia đao pháp” khiến tại hạ rất khâm phục, liền nhớ lại mấy chiêu muốn diễn thử chơi một phen. Các hạ trong tay đã có kiếm, xin cảm phiền đại giá, hãy để tại hạ tặng cho vài chiêu!

Điền Quy Nông giận tím cả mặt, chưa nói gì, Hồ Phỉ đã hô:

– Xem đao đây!

Chàng ra chiêu “Xuyên thủ tàng đao” chém mạnh vào ngực Điền Quy Nông. Chính là chiêu số Miêu Nhân Phụng vừa mới sử dụng để đánh rớt binh khí trong tay gã họ Tiền. Điền Quy Nông giơ kiếm lên gạt đánh “choang” một tiếng. Đao kiếm đụng nhau. Người Điền Quy Nông lảo đảo. Hồ Phỉ cũng phải lùi lại một bước.

Điền Quy Nông là chưởng môn Thiên Long môn phe Bắc tông. Hắn đã luyện “Thiên Long kiếm pháp” từ thuở nhỏ, đến nay đã bốn mươi năm, công lực cao thâm hơn Hồ Phỉ nhiều. Hai người dùng nội lực tỷ thí thì dĩ nhiên Hồ Phỉ phải thua một bậc. Nhưng Điền Quy Nông không ngờ chàng còn nhỏ tuổi mà tý lực lại hùng hậu đến thế. Hắn đinh ninh rằng nhát kiếm vừa rồi sẽ hất tung thanh đơn đao đi và khiến đối phương phải chấn động nội tạng mà thổ huyết. Ngờ đâu Hồ Phỉ chỉ lùi lại một bước, sắc mặt bình thản như không, khiến hắn không khỏi ngấm ngầm kinh dị.

Miêu Nhân Phụng đứng ngay ở sau cũng nghe rõ Hồ Phỉ tiến lên, tiếng đao phong chém tới, hai bên đao kiếm chạm nhau rồi Hồ Phỉ lùi lại. Y liền nói:

– Tiểu huynh đệ! Huynh đệ sử chiêu “Xuyên thủ tàng đao” không sai trật một ly. Nhưng yếu chỉ “Hồ gia đao pháp” là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức. Xin tiểu huynh đệ hãy tránh ra để ta thu thập hắn!

Hồ Phỉ nghe hai câu “Yếu chỉ của Hồ gia đao pháp là ở chiêu số tinh kỳ chứ không phải ở chỗ lấy sức chọi sức” thì động tâm nghĩ thầm:

– Hai câu này của Miêu đại hiệp đã khai thông được chỗ tối tăm cho ta. Dùng sức để chống cự là sở đoản của mình, mà lại là sở trường của địch.

Chàng lại nhớ tới hồi ở Thương gia bảo, những lời chỉ điểm của Triệu Bán Sơn về chỗ tinh yếu của võ học cũng phù hợp với cách thức của Miêu Nhân Phụng, bất giác trong lòng hớn hở, liền la lớn:

– Hãy khoan! Vừa rồi Miêu đại hiệp sử dụng đao pháp, tại hạ mới thử một chiêu còn mấy chục chiêu nữa muốn thử nốt.

Chàng quay đầu lại nhìn Điền Quy Nông, hỏi:

– Chiêu “Xuyên thủ tàng đao” đó, các hạ đã nếm mùi lợi hại chưa?

Điền Quy Nông quát lên:

– Thằng lỏi con kia! Đừng để ta phải đuổi đi.

Hồ Phỉ đáp:

– Được lắm! Các hạ không phục thì tại hạ sẽ đem “Hồ gia đao pháp” thi triển từng chiêu. Nếu tại hạ sử không đúng, đánh không lại các hạ, tại hạ sẽ dập đầu nhận thua. Nhưng nếu như các hạ thua thì sao?

Điền Quy Nông giận tím cả ruột, quát lớn:

– Thì ta cũng dập đầu lạy ngươi!

Hồ Phỉ cười nói:

– Đâu cần phải thế. Nếu các hạ không địch lại “Hồ gia đao pháp” thì chỉ cần buông tha Chung thị tam hùng. Ba vị này võ nghệ cao minh hơn tại hạ nhiều lắm. Nếu đơn đả độc đấu, nhất định các hạ không phải là địch thủ của ba vị đâu. Các hạ ỷ vào số đông thủ thắng thì còn chi là anh hùng?

Chàng nói mấy câu này một là để chọc giận đối phương, hai là rửa hận cho Chung thị tam hùng. Ba anh em họ Chung hai tay bị cột nghe chàng nói vậy trong lòng lấy làm cảm kích.

Điền Quy Nông trước nay hành động rất ung dung; bị Hồ Phỉ châm chọc, hắn không dằn lòng được, nghĩ thầm:

– Mi tưởng thua rồi chỉ dập đầu lạy ta là xong ư? Làm gì có chuyện dễ dàng như thế! Bữa nay mi đừng hòng trốn khỏi lưỡi kiếm của ta.

Hắn phất tay áo một cái, tay phải nắm kiếm quyết bước chênh chếch ba bước. Trong lòng hắn tuy nóng giận, nhưng không tấn công lỗ mãng, mà sử đúng “Nhất tự kiếm pháp” của Thiên Long môn chính tông.

Mọi người thấy thủ lãnh ra tay liền lùi cả lại, cầm đuốc giơ cao lên thành một vòng tròn sáng rực. Hồ Phỉ hô:

– “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu. Tiếp theo đến chiêu “Bế môn thiết phiến”.

Chàng miệng hô tay phóng đơn đao rồi quét ngang một cái, giống hệt như Miêu Nhân Phụng vừa rồi. Điền Quy Nông nghiêng người né tránh, quét kiếm đâm tới. Hồ Phỉ lại lớn tiếng hỏi:

– Miêu đại hiệp! Chiêu dưới làm sao? Tại hạ đối phó không xong rồi!

Miêu Nhân Phụng nghe chàng hô tên hai chiêu “Hoài trung bảo nguyệt và “Bế môn thiết phiến” thì biết cũng chẳng có chi quái dị, vì “Hồ gia đao pháp” xem bề ngoài về chiêu số cũng chẳng khác gì mấy các đường đao pháp trong võ lâm, nó chỉ hay ở chỗ biến hóa kỳ diệu. Khi công thì thế đao cực kỳ lợi hại, khi thủ thì môn hộ vô cùng kín đáo, trong công có thủ, trong thủ có công thâm sâu khôn lường khiến đối thủ không biết đường đâu mà lần. Bây giờ y nghe Hồ Phỉ hỏi gấp, bèn chau mày hô:

– Sa Tăng bái Phật!

Hồ Phỉ theo lời vung đao chém tới. Điền Quy Nông huơ xéo trường kiếm đâm vào cổ tay Hồ Phỉ. Miêu Nhân Phụng lại hô:

– Diêu thủ phiên thân!

Y chưa dứt lời, Hồ Phỉ đã sử chiêu “Diêu thủ phiên thân” chém tới. Điền Quy Nông giật mình kinh hãi vội lùi một bước. “Soạt” một tiếng, trường bào của hắn đã bị mũi đao cắt đứt một góc. Mặt hắn hơi đỏ lên, hắn phóng liền ba kiếm cực kỳ thần tốc và tự nhủ:

– Chẳng lẽ Miêu Nhân Phụng còn chỉ điểm kịp cho mi ư?

Miêu Nhân Phụng cả kinh, thầm kêu khổ trong bụng. Bỗng nghe Hồ Phỉ cười hỏi:

– Miêu đại hiệp, tại hạ đã tránh khỏi ba kiếm, bây giờ phản kích bằng cách nào?

Miêu Nhân Phụng thuận miệng hô lớn:

– Quan Bình hiến ấn!

Hồ Phỉ đáp:

– Hay lắm!

Quả nhiên chàng ra chiêu “Quan Bình hiến ấn”. Thanh đao chém tới, kình phong rít lên, uy lực vô cùng lợi hại. Nhưng Miêu Nhân Phụng đã hô lên trước, mà Điền Quy Nông lại là chưởng môn nhân của một phái lớn trong võ lâm, sở học đã tinh thâm, thân thủ lại linh hoạt thì dĩ nhiên biết đường né tránh. Tiếp theo Hồ Phỉ ra chiêu “Dạ Xoa thám hải”, thế đao đã sử nửa vời, Miêu Nhân Phụng mới hô:

– Dạ Xoa thám hải!

Qua lại mười mấy chiêu, Điền Quy Nông đã bị bức bách tay chân luống cuống lâm vào thế hạ phong. Hắn liếc mắt nhìn người đứng xem, thấy ai nấy đều lộ vẻ kinh dị, liền biến đổi kiếm pháp đánh ráo riết. Hồ Phỉ cũng thi triển sở học bình sinh, dùng khoái đao chống lại khoái kiếm. Miêu Nhân Phụng hô liên tiếp:

– Thượng bộ sang đao! Lượng đao thế, Quan Âm tọa liên, Lãng tử hồi đầu…

Mọi người thấy Hồ Phỉ phóng đao rất phù hợp với lời hô của Miêu Nhân Phụng thì chẳng ai là không sinh lòng khiếp sợ.

Thực ra cũng chẳng có chi kỳ lạ. Cuối đời nhà Minh sang đầu nhà Thanh, Trung Quốc có bốn nhà đều nổi tiếng về võ công đó là Hồ, Miêu, Phạm, Điền.

Miêu Nhân Phụng là đại hiệp một thời, tinh thông kiếm thuật, thuộc lòng cả “Thiên Long kiếm pháp” nữa. Bây giờ Điền Quy Nông và Hồ Phỉ tỷ đấu với nhau, tuy mắt y không nhìn được. Nhưng nghe tiếng gió cũng biết được hai bên sử dụng chiêu số gì.

Hồ Phỉ cứ theo sở học bình sinh của mình mà dốc toàn lực để thi triển đao pháp, nếu phải nghe Miêu Nhân Phụng chỉ điểm rồi mới phát chiêu thì trong cuộc đấu sinh tử, sống chết nằm trong đường tơ kẽ tóc như thế này làm sao ra chiêu cho kịp? Có điều “Hồ gia đao pháp” của chàng với đao pháp của Miêu Nhân Phụng cùng xuất phát từ một nguồn, chẳng có gì khác nhau. Lời hô của Miêu Nhân Phụng và chiêu thức của Hồ Phỉ ăn khớp với nhau một cách hoàn hảo như áo trời không thấy đường may, giống như hai người đã tập luyện với nhau rất thành thục, rồi bây giờ đem ra biểu diễn cho mọi người xem.

Điền Quy Nông nghĩ thầm:

– Phải chẳng gã này là đệ tử của Miêu Nhân Phụng? Hay Miêu Nhân Phụng chưa mù mắt, chỉ giả vớ lấy vải buộc lại nhưng thực ra hắn vẫn trông thấy rõ ràng?

Hắn nghĩ tới đây bất giác sinh lòng khiếp sợ. Hồ Phỉ múa đơn đao càng lúc càng mau lẹ.

Đến lúc này. Miêu Nhân Phụng không có cách nào nghe rõ chiêu số của hai người được nữa, liền dừng lại không hô tiếp. Y tính thầm:

– Chàng thiếu niên này đao pháp tinh kỳ, không hiểu y là đệ tử của cao nhân nào?

Nếu như y sáng mắt, thấy Hồ Phỉ sử dụng “Hồ gia đao pháp” rất tinh thuần thì đã đoán ra chàng là truyền nhân của Hồ Nhất Đao rồi!

Vòng vây mỗi lúc một rộng thêm ra, ai cũng sợ mũi đao lưỡi kiếm đụng vào. Hồ Phỉ xoay mình thấy Trình Linh Tố đứng trong vòng vây, vẻ mặt lộ vẻ rất quan tâm lo lắng, không hiểu sao giữa lúc kịch đấu thế này, trong đầu óc chàng lại chợt nhớ đến khúc tình ca Vương thợ rèn hát cho chàng nghe lúc ra đi, bất giác trên môi khẽ nở một nụ cười.

Đột nhiên chàng quay đầu lại, hô lớn:

– “Hoài trung báo nguyệt” vốn là hư chiêu!

Tiếng hô chưa dứt bỗng nghe đánh “choang” một tiếng. Thanh trường kiếm của Điền Quy Nông đã rớt xuống đất, cánh tay hắn máu chảy đầm đìa. Hắn loạng choạng lùi lại, người lảo đảo hai cái, miệng hộc máu tươi.

Nguyên “Hoài trung bảo nguyệt” vốn chỉ là hư chiêu, rồi mới đến chiêu “Bế môn thiết phiến”. Hai chiêu này một hư một thực. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đã sử dụng qua một lần rồi. Điền Quy Nông tận mắt thấy rõ. Đang lúc kịch đấu, hắn vừa nghe hô “Hoài trung bảo nguyệt” vốn là hư chiều. Theo phản xạ tự nhiên liền đề phòng chiêu tiếp theo “Bế môn thiết phiến”.

Không ngờ “Hồ gia đao pháp” tuyệt diệu ở chỗ hư mà biến thành thực, hốt thực hốt hư. Chiêu “Hoài trung bảo nguyệt” đột nhiên biến thành thực chiêu, Hồ Phỉ xoay đao chém vào cổ tay Điền Quy Nông đồng thời chàng vung chưởng kèm theo đao, đánh trúng ngực hắn một chưởng thật trầm trọng. Hồ Phỉ cười hỏi:

– Sao các hạ nóng tính thế, không chịu nghe hết lời của tại hạ? Tại hạ hô “Hoài trung bảo nguyệt” nguyên là hư chiêu, biến thành thực chiêu làm sao mà đỡ? Các hạ mới nghe một nửa phần trên, không nghe phần dưới.

Điền Quy Nông nghe ngực nhộn nhạo, tựa hồ muốn hộc máu ra nữa. Hắn biết bữa nay bị thua liểng xiểng, mà còn sợ Miêu Nhân Phụng chưa chắc đã mù mắt thực sự. Hắn miễn cưỡng vận khí chịu đau, trỏ vào Chung thị tam hùng ra hiệu cho bọn thuộc hạ cởi trói, rồi vẫy tay một cái, xoay mình đi luôn. Hắn không nhịn được nữa, lại thổ thêm một búng máu tươi.

Vị cô nương phóng chùy là Điền Thanh Vân, con gái người vợ trước của Điền Quy Nông, thấy phụ thân bị thương trầm trọng, vội lại đỡ hắn, khẽ hỏi:

– Gia gia, chúng ta về thôi chứ?

Điền Quy Nông gật đầu. Bọn thuộc hạ của hắn như rắn mất đầu, nên dù đông người nhưng chẳng ai còn ý chí chiến đấu nữa. Miêu Nhân Phụng chụp năm người bị thương ở trong nhà ném ra từng tên một. Bọn thủ hạ Điền Quy Nông đón lấy rồi trở gót đi ngay.

Trình Linh Tố gọi lớn:

– Tiểu cô nương! Đem cây thiết chùy này về nhà đi:

Cô giơ tay lên một cái. Cây thiết chùy bay về phía Điền Thanh Văn. Điền Thanh Văn không quay đầu, xoay tay trái ra phía sau bắt lấy. Thủ pháp thị cực kỳ lanh lẹ. Đâu dè thị vừa cầm lấy thiết chùy, toàn thân giật bắn người lên, lập tức ném ngay cây thiết chùy xuống đất, tay trái vung vẩy liên hồi, tựa hồ bị cây thiết chùy làm cho bỏng tay.

Hồ Phỉ cười khanh khách la lên:

– Xích yết phấn!

Trình Linh Tố đáp lại bằng một nụ cười. Quả nhiên cô đã rắc “Xích yết phấn” vào cây thiết chùy. Trong khoảnh khắc bọn Điền Quy Nông bỏ đi hết sạch. Trước căn nhà nhỏ lại tối đen như mực.

Chúng Triệu Anh dõng dạc lên tiếng:

– Miêu đại hiệp! Bữa nay bọn tặc tử thua chạy rồi, chắc không dám trở lại nữa. Anh em tại hạ bảo vệ bất lực, thực lấy làm xấu hổ. Mong rằng cặp mắt của đại hiệp chóng bình phục

Hắn quay lại nói với Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ. Bọn Chung mỗ may mắn được kết bạn với tiểu huynh đệ. Sau này có việc gì sai khiến, bọn Chung mỗ xin nguyện hết sức!

Đoạn ba người chắp tay từ biệt rảo bước lên đường. Hồ Phỉ biết bọn họ lỡ tay bị bắt trong lòng hổ thẹn, chàng cũng không tiện nói gì nữa. Miêu Nhân Phụng trong lòng ân oán phân minh, ông không thích nói nhiều, chỉ vòng tay đáp lễ. Y lắng nghe bọn Điền Quy Nông đi về phía bắc, Chung thị tam hùng đi về phía nam.

Trình Linh Tố nói:

– Hai vị võ công kinh nhân, quả thực tiểu muội bữa nay được mở rộng tầm mắt. Miêu đại hiệp! Xin đại hiệp vào nhà để tiểu nữ xem thử cặp mắt.

Ba người liền tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ sắp xếp lại những bàn ghế đã bị ngã đổ ngổn ngang, rồi thắp đèn lên. Trình Linh Tố khẽ cởi tấm vải buộc mắt Miêu Nhân Phụng, tay cầm ngọn nến chăm chú quan sát vết thương.

Hồ Phỉ không nhìn vào mắt Miêu Nhân Phụng mà chỉ nhìn vẻ mặt Trình Linh Tố. Chàng biết chỉ cần nhìn thái độ của cô là có thể đoán xem thương thế của Miêu Nhân Phụng còn có thể chữa được không. Nhưng Trình Linh Tố cặp mắt long lanh sâu thẳm như một làn nước trong vắt, ngưng thần quan sát, trên mặt không lộ vẻ lo ngại cũng chẳng có biểu hiện vui mừng, khiến người ta không sao đoán được. Miêu Nhân Phụng và Hồ Phỉ đều là những người cực kỳ gan dạ, mà lúc này trong lòng lại hồi hộp bất an, hơn cả khi thân bị hãm vào trùng vây của kẻ địch. Qua một hồi lâu, Trình Linh Tố vẫn ngưng thần quan sát, không nói một tiếng nào.

Miêu Nhân Phụng mỉm cười lên tiếng:

– Loại độc dược này lợi hại quá, mà lại đã qua nhiều ngày. Nếu không chữa được, cô nương cũng cứ nói rõ, đừng ngại chi hết.

Trình Linh Tố đáp:

– Nếu chữa cho người thường thì chẳng khó gì, nhưng Miêu đại hiệp không phải người thường.

Hồ Phỉ lấy làm kỳ hỏi:

– Thế là nghĩa làm sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Miêu đại hiệp được người ta tôn vinh là “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”. Võ công đã tinh thâm như vậy thì mục lực cũng không phải tầm thường. Hơn nữa nội lực đã thâm hậu thì mục quang tất lấp loáng có thần, phát ra uy phong lẫm liệt. Nếu tiểu muội trị theo cách phổ thông làm tổn thương đến thần quang, há chẳng đáng tiếc lắm ư?

Miêu Nhân Phụng cười ha hả, nói:

– Cô nương ăn nói bất phàm, dĩ nhiên thủ đoạn cực cao. Nhưng tại hạ chưa hiểu cô xưng hô Nhất Sân đại sư bằng gì?

Trình Linh Tố hỏi lại:

– Té ra đại hiệp là cố nhân của tiên sư…

Miêu Nhân Phụng sửng sốt, hỏi:

– Nhất Sân đại sư qua đời rồi ư?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải.

Miêu Nhân Phụng đứng bật dậy hỏi:

– Tại hạ có lời cần nói cho cô nương hay.

Hồ Phỉ thấy thái độ y có điều khác lạ, trong lòng lấy làm kỳ, nghĩ thầm:

– Sư phụ của Trình cô nương là Độc Thủ Dược Vương có pháp danh Vô Sân đại sư, sao Miêu đại hiệp lại hô là Nhất Sân?

Lại nghe Miêu Nhân Phụng nói tiếp:

– Ngày trước tôn sư cùng tại hạ có chuyện xích mích nho nhỏ, tại hạ vô lễ đã làm tổn thương đến tôn sư.

Trình Linh Tố la lên:

– Ủa! Tay trái của tiên sư mất hai ngón, là do Miêu đại hiệp đã dùng kiếm chặt đứt ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Đúng thế! Tuy nhiên, chuyện xích mích đó tôn sư đã trả đũa ngay. Thế là hòa cả làng, chẳng bên nào chịu thiệt. Đêm trước tiểu huynh đệ đây lúc ra đi cầu cứu tôn sư, tại hạ tưởng không ăn thua, chỉ một phen uổng phí tâm cơ. Bữa nay cô nương lại đến, tại hạ đã tưởng cô vâng lệnh tôn sư để dĩ đức báo oán, trong lòng cảm kích vô cùng. Nhưng tôn sư đã qua đời, chắc cô nương chưa hiểu rõ chuyện cũ.

Trình Linh Tố lắc đầu đáp:

– Tiểu nữ không biết.

Miêu Nhân Phụng vào nội thất, bưng cái hộp đưa cho Trình Linh Tố, nói:

– Đây là di vật của tôn sư. Cô nương cứ xem rồi sẽ rõ.

Cái hộp sắt này vuông vắn chừng tám tấc, sắt đã han rỉ mọi chỗ vì để lâu năm quá rồi. Trình Linh Tố mở hộp ra xem, chỉ thấy bên trong có xác một con rắn nhỏ đã khô và một cái bình nhỏ có khắc hai chữ “Xà dược”. Cô nhận ra bình thuốc này là vật thường dùng của sư phụ, nhưng không hiểu cái xác rắn kia có dụng ý gì. Miêu Nhân Phụng thản nhiên cười nói:

– Lệnh tôn sư cùng tại hạ nói năng có điều không hợp rồi hai bên xảy cuộc động thủ. Hôm sau, lệnh tôn sư sai người đưa cái hộp sắt này cho tại hạ và dặn “Nếu có gan hãy mở hộp ra xem, bằng không cứ vất xuống sông là xong”. Tại hạ khi nào lại chịu được lời nói khích đó, liền mở nắp hộp ra xem. Con rắn nhỏ này nhảy ra cắn vào mu bàn tay. Nọc nó độc vô cùng, nửa cánh tay tại hạ lập tức đen lại. Nhưng trong hộp sắt tôn sư còn để bình thuốc rắn, tại hạ uống thuốc rồi, không có điều gì đáng ngại đến tính mạng, nhưng phải một phen đau khổ cơ hồ chịu không nổi.

Y nói rồi nổi lên tràng cười ha hả, Hồ Phỉ và Trình Linh Tố cũng nhìn nhau cười, cùng nghĩ đến hành động đùa cợt của Độc Thủ Dược Vương.

Miêu Nhân Phụng lại nói:

– Tại hạ đã nói rõ cả, họ Miêu này quyết chẳng ngấm ngầm chiếm phần tiện nghi của ai. Cô nương vì hảo tâm chữa cho tại hạ chứ không phải bản ý của Nhất Sân đại sư. Tại hạ đã làm phiền cô nương phải một phen lặn lội, xin thành thực đa tạ.

Y nói rồi, đứng bên cửa chắp tay xá dài ra chiều tiễn khách. Hồ Phỉ rất khâm phục con người hành động theo di phong của cổ nhân, quả không thẹn với hai chữ “Đại hiệp”.

Trình Linh Tố vẫn ngồi yên nói:

– Miêu đại hiệp! Tiên sư sau này không còn là Nhất Sân nữa.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Cớ sao vậy?

Trình Linh Tố đáp:

– Trước khi tiên sư đi tu, tính nết rất mực nóng nảy. Khi xuất gia, lão nhân gia lấy pháp danh là Đại Sân. Về sau lão nhân gia tu tâm dưỡng tính có nhiều tiến bộ, đổi pháp hiệu là Nhất Sân. Khi Miêu đai hiệp động thủ với tiên sư, nếu lão nhân gia chưa đổi pháp danh là Nhất Sân, hãy còn là Đại Sân thì trong cái hộp này chỉ có rắn độc chứ làm gì có thuốc giải.

Miêu Nhân Phụng “ủa” lên một tiếng rồi khẽ gật đầu.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Hồi lão nhân gia thu tiểu nữ làm đồ đệ, pháp danh đã đổi thành “Vi Sân”. Ba năm trước đây, lão nhân gia đổi thành “Vô sân”. Miêu đại hiệp! Đại hiệp đã coi thường tiên sư quá rồi.

Miêu Nhân Phụng lại “ủa” lên một tiếng.

Trình Linh Tố nói:

– Khi lão nhân gia buông tay về cõi Tây Thiên đã đại triệt đại ngộ, thành Vô  Sân Vô Hỷ, đâu còn để tâm đến những mối ân oán nhỏ ngày xưa?

Miêu Nhân Phụng cả mừng, vỗ đùi đánh đét một cái, nói:

– Rõ rồi! Tại hạ quả đã đánh giá sai cố nhân. Cách biệt nhau hơn mười năm, người ta đâu có như Miêu Nhân Phụng chẳng tiến bộ được một mảy may. Quí tính cô nương là gì?

Trình Linh Tố bưng miệng cười, đáp:

– Tiện nữ họ Trình.

Rồi cô mở bọc ra lấy một cái hộp gỗ. Cô mở hộp gỗ, lấy ra một con dao nhỏ và một mũi kim, rồi nói:

– Miêu đại hiệp, xin đại hiệp buông lỏng hết huyệt đạo toàn thân đi.

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Được rồi!

Hồ Phỉ thấy Trình Linh Tố cầm dao kim đến trước mặt Miêu Nhân Phụng, chàng chợt nghĩ:

– Giữa Miêu Nhân Phụng và Độc Thủ Dược Vương đã có thù oán. Lòng người trên cõi giang hồ lại thâm hiểm khôn lường. Nếu họ an bài độc kế sai Trình cô nương mượn tiếng trị thương để hạ độc thủ thì há chẳng phải Hồ Phỉ này đưa cho người khác mượn đao để giết người lần thứ hai? Lúc Miêu đại hiệp đã buông lỏng huyệt đạo toàn thân, chỉ khẽ đâm một mũi kim trúng huyệt đạo cũng đủ chết rồi.

Chàng còn đang ngần ngừ thì Trình Linh Tố đã quay đầu lại, cầm con dao nhỏ đưa cho chàng, nói:

– Đại ca cầm dùm cái này cho tiểu muội.

Cô chợt trông thấy sắc diện chàng có điều khác lạ, liền hiểu ý ngay, cười hỏi:

– Miêu đại hiệp đã yên lòng, chẳng lẽ đại ca dạ vẫn còn lo?

Hồ Phỉ đáp:

– Giả tỷ cô nương trị thương cho tại hạ thì tại hạ rất đỗi yên lòng.

Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca cho tiểu muội là người tử tế hay là người tồi bại?

Hồ Phỉ không nghĩ ngợi gì đáp ngay:

– Dĩ nhiên cô nương là người tử tế.

Trình Linh Tố hoan hỉ nhìn chàng mỉm cười. Cô gầy ốm vàng vọt, không lấy gì làm đẹp, nhưng khi cười, mặt mũi tươi như đóa hoa xuân chớm nở. Hồ Phỉ không nghi ngờ gì nữa, đáp lại bằng nụ cười.

Trình Linh Tố hỏi:

– Hồ đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?

Mặt cô hơi đỏ lên, cô quay đi chỗ khác, không dám chạm vào mục quang của chàng nữa. Hồ Phỉ co ngón tay lên gõ vào trán mấy cái rồi cười nói:

– Phải đánh đòn gã tiểu tử hồ đồ này!

Chàng chợt động tâm tự hỏi:

– Sao khi cô hỏi “Đại ca đã thực lòng tin được tiểu muội rồi chứ?” thì mặt cô lại đỏ lên?

Mấy câu hát của Vương thợ rèn bỗng nhiên lại vang lên trong chàng:

Tiểu muội tử đãi tình lang

Ân tình thâm

Nễ mạc phụ liễu muội tử

Nhất ban tình

Nễ kiến liễu tha diện thời

Yếu đãi tha hảo

Nỗ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!

Trình Linh Tố cầm kim khẽ đâm vào ba huyệt đạo Miêu Nhân Phụng là huyệt “Dương bạch” ở trên mắt, huyệt “Tinh minh” ở bên mặt, huyệt “Thừa khấp” ở dưới mắt và dùng dao cắt đi một chút da ở dưới huyệt “Thừa khấp”. Cô lại đổi kim đâm vào huyệt đó. Cô vừa dùng ngón tay cái đè vào đuôi kim thì thấy có máu đen chảy ra. Nguyên mũi kim này rỗng ở giữa. Máu đen chảy ra không ngớt, dần dần biến thành máu tía, rồi chuyển thành máu đỏ.

Hồ Phỉ tuy không hiểu gì nhưng cũng biết chất độc ra hết rồi, liền cất tiếng hoan hô:

– Hay lắm!

Trình Linh Tố hái bốn lá “Thất tâm hải đường”, bóp nát ra rịt vào mắt Miêu Nhân Phụng. Miêu Nhân Phụng da mặt hơi cử động, rồi cái ghế y đang ngồi bỗng vang “rắc” một tiếng.

Trình Linh Tố nói:

– Miêu đại hiệp! Tiểu nữ nghe Hồ đại ca nói đại hiệp có vị thiên kim tiểu thư rất khả ái. Hiện giờ cô ấy ở đâu?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Nơi đây không bình yên, tại hạ đưa sang gửi nhà hàng xóm rồi.

Trình Linh Tố lại dùng tấm khăn vải buộc mắt cho Miêu Nhân Phụng nói:

– Được rồi! Ba ngày sau hết đau thì lại ngứa ngáy khó chịu, khi ấy mở băng vải ra là không việc gì nữa. Bây giờ xin mời đại hiệp hãy vào nằm nghỉ. Hồ đại ca, chúng ta đi làm cơm.

Miêu Nhân Phụng đứng dậy hỏi Hồ Phỉ:

– Tiểu huynh đệ! Ta hỏi huynh đệ một câu. Liêu Đông đại hiệp Hồ Nhất Đao là bá phụ hay là thúc phụ của huynh đệ?

Nên biết Hồ Phỉ dùng “Hồ gia đao pháp” đánh bại Điền Quy Nông, Miêu Nhân Phụng tuy không nhìn rõ nhưng nghe cũng biết đao pháp chàng đã đến trình độ không phải tầm thường. Nếu không được đích thân Hồ Nhất Đao truyền thụ thì quyết chẳng thể luyện đến trình độ này. Miêu Nhân Phụng còn biết Hồ Nhất Đao sinh được một đứa con, mà đứa nhỏ đó cũng bị người ta giết chết vất xác dưới sông, vì thế y đoán Hồ Phỉ là cháu Hồ Nhất Đao.

Hồ Phỉ bật tiếng cười khô khan, đáp:

– Vị Liêu Đông đại hiệp chẳng phải là bá phụ mà cũng không phải là thúc phụ của tại hạ.

Miêu Nhân Phụng rất lấy làm lạ, nghĩ bụng:

– “Hồ gia đao pháp” không truyền cho người ngoài, huống chi chàng thiếu niên này cùng họ Hồ.

Y lại hỏi:

– Hồ đại hiệp có họ hàng thân thích gì với tiểu huynh đệ?

Hồ Phỉ trong lòng rất khó xử, vì chàng không hiểu Miêu Nhân Phụng rốt cuộc có mối quan hệ thế nào với phụ thân. Chàng hỏi lại:

– Hồ đại hiệp ư? Lão qua đời đã lâu năm. Tại hạ làm gì có được phúc phận họ hàng với lão?

Miêu Nhân Phụng trong lòng buồn bã, ngơ ngẩn hỏi lâu, khẽ lắc đầu rồi vào phòng trong nằm nghỉ.

Trình Linh Tố thấy Hồ Phỉ mặt mày ủ rũ, muốn làm cho chàng vui vẻ liền nói:

– Hồ đại ca! Đại ca vất vả hàng nửa ngày trời rồi, hãy ngồi nghỉ một lát.

Hồ Phỉ lắc đầu đáp:

– Tại hạ không nhọc mệt gì cả.

Trình Linh Tố nói:

– Đại ca ngồi xuống đây. Tiểu muội có điều muốn nói.

Hồ Phỉ theo lời ngồi xuống, bỗng thấy mông đặt vào chỗ không, lại nghe “rắc” một tiếng, cái ghế gãy làm bốn, năm mảnh.

Trình Linh Tố vỗ tay cười, nói:

– Con bò mộng năm trăm cân cũng không nặng bằng đại ca.

Công phu hạ bàn của Hồ Phỉ rất vững. Tuy chàng ngồi vào chỗ trống không, song hai chân đứng vững lại ngay, không đến nỗi té nhào, trong lòng rất lấy làm lạ.

Trình Linh Tố lại nói:

– Lá “Thất tâm hải đường” rịt vào da thịt còn đau hơn gấp mười lần dao cắt. Nếu là đại ca, chỉ e đại ca réo đến cả tên má má của tiểu muội ra nữa là đằng khác.

Hồ Phỉ phì cười. Bây giờ chàng mới biết lúc nãy Miêu Nhân Phụng nhịn đau, tuy nét mặt thản nhiên, nhưng đã vận nội kình chịu đựng làm cho cái ghế dập nát. Hai người thổi nồi cơm, xào nấu ba món xong, mời Miêu Nhân Phụng ra cùng ăn.

Miêu Nhân Phụng hỏi:

– Tại hạ có ăn được không?

Trình Linh Tố đáp:

– Được tất, không phải cữ chi cả.

Miêu Nhân Phụng lấy ra ba bình rượu trắng, để trước mặt mỗi người một bình, nói:

– Chúng ta tự rót lấy mà uống, bất tất phải khách sáo.

Y nói rồi rót ra lưng chung ngửa cổ uống cạn. Hồ Phỉ cùng uống rượu được, bồi tiếp nửa chung. Trình Linh Tố không biết uống rượu, cô đổ chén rượu trắng vào chậu “Thất tâm hải đường”. Cô nói:

– Thứ hoa này phải tưới bằng rượu, nếu tưới nước là chết. Khi tiểu muội trồng “Đề hồ hương” mới ngộ ra cái đạo lý này. Mấy vị sư huynh, sư tỷ của tiểu muội không hiểu nên vất vả mười mấy năm mà trồng không được.

Nửa chung rượu còn lại, cô đổ vào chung của hai người, rồi tự mình xới cơm ăn cùng. Miêu Nhân Phụng lại uống nửa chung nữa, đã thấy trong lòng rất hào hứng, lên tiếng hỏi:

– Hồ huynh đệ! Ai đã dạy đao pháp cho huynh đệ?

Hồ Phỉ nói:

– Không có ai dạy cả. Tại hạ theo đồ hình và lời hướng dẫn trong một cuốn đao phổ mà tự luyện lấy.

Miêu Nhân Phụng “ồ” một tiếng.

Hồ Phỉ nói tiếp:

– Về sau tại hạ gặp Triệu tam đương gia ở Hồng Hoa hội, truyền cho mấy yếu quyết về Thái Cực quyền.

Miêu Nhân Phụng vỗ đùi một cái, lớn tiếng hỏi:

– Có phải Thiên thủ Như Lai Triệu Bán Sơn Triệu tam gia không?

Hồ Phỉ đáp:

– Chính thị!

Miêu Nhân Phụng nói:

– Thảo nào, thảo nào…

Hồ Phỉ đáp:

– Thảo nào là sao?

Miêu Nhân Phụng lại nói:

– Tại hạ ngưỡng mộ Trần tổng đà chủ ở Hồng Hoa hội là người hào hiệp trượng nghĩa, các vị đương gia đều là anh hùng nổi tiếng. Đáng tiếc những nhân vật này ẩn náu tại Hồi Cương nên Miêu mỗ không có cơ duyên gặp gỡ. Thật là điều ân hận cả đời!

Hồ Phỉ thấy y cực kỳ trọng vọng Triệu Bán Sơn cũng hoan hỷ trong lòng.

Miêu Nhân Phụng rót hết bình rượu ra chén uống cạn rồi đứng dậy sờ lấy thanh đơn dao đặt trên kỷ trà, nói:

– Hồ huynh đệ! Ngày trước tại hạ được gặp Hồ Nhất Đao đại hiệp. Y truyền cho tại hạ mấy đường “Hồ gia đao pháp”. Bữa nay tại hạ dùng nó đánh lui được cường địch. Hồ huynh đệ cũng dùng nó để đả bại Điền Quy Nông. Đao pháp đó, hà hà, quả đúng là hảo đao pháp!

Đột nhiên y ngửa mặt hú lên một tiếng thật dài, nhảy ra ngoài cửa tay cử đao đứng sững để thi triển “Hồ gia đao pháp”. Hồ Phỉ thấy bộ pháp vững vàng, đao phong lượn múa, có lúc khoan thai nhàn nhã, có khi cương mãnh thần tốc. Mỗi chiêu mỗi thức kình phong đều rít lên vù vù. Hồ Phỉ ngưng thần theo đõi, chàng nhận ra những chiêu số này đúng như chiêu số ghi trong đao phổ, có điều thế đao so với chàng thong thả hơn nhiều. Hồ Phỉ cho là y cố ý thi triển chậm chạp để chàng nhìn cho rõ.

Miêu Nhân Phụng đi hết đường đao pháp, cầm ngang thanh đao dừng lại, nói:

– Tiểu huynh đệ, trình độ đao pháp của huynh đệ thắng được Điền Quy Nông thì có dư, nhưng đợi khi ta lành mắt, muốn đấu ngang ngửa với ta thì vẫn còn chưa đủ.

Hồ Phỉ đáp:

– Dĩ nhiên là thế, vãn bối đâu phải là địch thủ của Miêu đại hiệp?

Miêu Nhân Phụng lắc đầu đáp:

– Nói thế là lầm. Ngày trước Hồ đại hiệp đã dùng đao pháp này cùng ta tỷ đấu năm ngày ròng rã, thủy chung vẫn không phân thắng bại. Y sử đao còn thong thả hơn ta nhiều.

Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:

– Té ra là thế ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Phải rồi. Để cho khách lừa chủ đâu bằng dùng chủ để phạm khách, non trẻ hơn già nua, chậm chạp hơn gấp gáp. Các bí quyết “triền, hoạt, giảo, sát, trừu, triệt” mạnh hơn “triền, mạt, câu, thích, phách”.

Nguyên “chủ lừa khách, khách phạm chủ” đều là những thế đao. Dùng mũi đao đẩy khí giới bên địch gọi là “nộn”’, đến gần dùng mũi đao để đẩy khí giới bên địch gọi là “lão”. Xuất chiêu thong thả gọi là “trì”, dùng đao trước thế công của địch gọi là “cấp”. Còn các yếu quyết “triền, hoạt, giảo, sát”… đều là cách thức sử đao.

Miêu Nhân Phụng thu đao về, cầm đũa và hai miếng cơm, rồi nói:

– Huynh đệ từ từ giác ngộ diệu lý này thì ngày sau ắt có thể xưng hùng trong võ lâm, vùng vẫy khắp giang hồ.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng, cầm đũa toan gắp mà không gắp, chàng mải suy nghĩ về mấy câu đao quyết nên dừng đũa ở lưng chừng.

Trình Linh Tố dùng đũa khẽ gõ vào đũa của chàng, cười hỏi:

– Không ăn cơm đi à?

Hồ Phỉ đang nghiền ngẫm đao quyết, bất giác kình lực toàn thân phát ra cánh tay phải. Đôi đũa của Trình Linh Tố vừa gõ vào, đôi đũa của chàng tự nhiên phát sinh ra một luồng kình lực phản chấn, hất ra đánh “chát” một tiếng, làm đôi đũa của Trình Linh Tố bị chấn động, gãy thành bốn đoạn!

Trình Linh Tố khẽ “a” lên một tiếng, rồi cười hỏi:

– Đại ca muốn khoa trương bản lãnh ư?

Hồ Phỉ vội cười giả lả, đáp:

– Xin lỗi cô nương. Tại hạ mải ngẫm nghĩ mấy câu nói của Miêu đại hiệp thành ra ngớ ngẩn.

Đoạn chàng đưa đôi đũa trong tay mình cho cô. Trình Linh Tố đón lấy tiếp tục ăn cơm.

Hồ Phỉ miệng lẩm bẩm:

– Non trẻ thắng già nua, chậm chạp thắng gấp gáp, để cho khách lừa chủ đâu bằng…

Chàng ngửng đầu thấy Trình Linh Tố dùng đôi đũa của mình để ăn cơm rất tự nhiên, chẳng ngại ngùng gì cả, bất giác đỏ mặt lên. Chàng muốn lấy lại để lau cho sạch thì đã không kịp nữa. Chàng định nói mấy câu xin lỗi, nhưng thấy như thế lại quá khách sáo, liền xuống bếp lấy đôi đũa khác.

Hồ Phỉ và mấy miếng cơm ăn rồi thò đũa vào để gắp rau thì đũa của Miêu Nhân Phụng cũng thò ra khẽ đụng nhau một cái đẩy đũa của chàng đi. Y nói:

– Đây là khẩu quyết về chữ “Triệt”.

Hồ Phỉ đáp:

– Đúng thế!

Chàng lại cầm đũa đưa lên, nhưng đôi đũa của Miêu Nhân Phụng lại phòng giữ nghiêm mật dị thường. Bất luận chàng giơ lên cao hay hạ xuống thấp, thủy chung cũng không thò đũa vào trong đĩa được.

Hồ Phỉ bụng bảo dạ:

– Khi động đao tỷ đấu, tuy mắt y chẳng nhìn thấy vật nhưng có thể thính phong biện khí, nghe tiếng gió của binh khí để xác định chiêu số của kẻ địch. Bây giờ đôi đũa nhỏ bé này của ta đưa ra chẳng có tiếng gió mà không hiểu sao y cũng phát giác được?

Hai người tiến thoái công thủ mấy chiêu. Hồ Phỉ đột nhiên tỉnh ngộ. Thì ra những chiêu số của Miêu Nhân Phụng toàn sử dụng yếu quyết “Hậu phát chế nhân”, tuy ra tay sau mà kiềm chế được người. Y chờ cho đũa của đối phương chạm vào rồi mới tùy cơ ứng biến. Đó là đạo lý “dĩ khách phạm chủ”, “trì thống ư cấp”. Khi hiểu ra đạo lý này rồi, Hồ Phỉ không đưa đũa vào đoạt rau nữa mà giơ đũa lên không, hai mắt chăm chú nhìn đũa của Miêu Nhân Phụng, đồng thời từ từ hạ đũa của mình xuống đĩa rau.

Đến lúc này, thủ pháp chàng biến đổi mau lẹ tuyệt luân. Chàng gắp một đũa rau đưa vào miệng ăn. Miêu Nhân Phụng không nhìn thấy đũa chàng đưa lên hay đưa xuống dĩ nhiên không cản trở được. Y đặt đũa xuống bàn cười ha hả.

Từ lúc Hồ Phỉ gắp được miếng rau ăn mới thực sự bước vào cảnh giới của hạng nhất lưu cao thủ. Chàng nhớ lại vừa rồi mình phải mất nhiều khí lực mới thắng nổi Điền Quy Nông, trong khoảnh khắc này, vừa thấy hoan hỷ, lại vừa thẹn thùng. Trình Linh Tố thấy chàng đoạt được rau ăn, cười hích hích nhìn chàng. Trong lòng cô cũng vô cùng cao hứng.

Miêu Nhân Phụng lên tiếng:

– Thế là từ nay “Hồ gia đao pháp” lại có truyền nhân rồi. Hồ đại ca hỡi Hồ đại ca!

Y nói tới đây, âm thanh đầy vẻ thê lương.

Trình Linh Tố nhận ra giữa Hồ Phỉ và Miêu Nhân Phụng dường như có mối oán kết khó lòng cởi mở. Cô không muốn Hồ Phỉ nhắc tới chuyện này nữa liền hỏi:

– Miêu đại hiệp! Giữa đại hiệp và tiên sư tại sao lại xảy chuyện kết thù? Đại hiệp kể cho bọn tiểu nữ nghe được chăng?

Miêu Nhân Phụng thở dài đáp:

– Vụ đó đến nay tại hạ cũng chưa rõ ràng. Mười tám năm về trước, tại hạ ngộ sát một vị hảo bằng hữu, chỉ vì trên lưỡi binh khí có bôi chất kịch độc gặp máu là làm tắc mạch ngay, không sao cứu chữa được. Tại hạ nghĩ rằng loại chất độc ghê gớm như thế, ắt quá nửa phải có liên quan đến tôn sư. Vì thế tại hạ liền tìm tới tôn sư để chất vấn. Tôn sư phủ nhận tất cả, bảo rằng không hiểu gì hết. Một là tại hạ ăn nói vụng về, hai là trong lòng quá đau xót không khỏi có điều đắc tội với tôn sư, rốt cuộc hai bên xảy ra cuộc động thủ.

Hồ Phỉ lẳng lặng ngồi nghe, một lúc sau mới hỏi:

– Theo lời đại hiệp thì chính tay đại hiệp đã làm chết vị hảo bằng hữu kia ư?

Miêu Nhân Phụng đáp:

– Đúng thế!

Hồ Phỉ hỏi:

– Còn phu nhân của vị kia thì sao? Đại hiệp nhổ cỏ tận gốc cũng giết luôn cả chứ gì?

Trình Linh Tố thấy chàng tay cầm chuôi đao, sắc mặt xám xanh. Cô nhận ra tiệc rượu đang vui vẻ chỉ trong chớp mắt có thể biến thành cục diện gió tanh mưa máu. Cô hoàn toàn chẳng hiểu ai phải ai quấy, nhưng trong lòng không còn ngần ngừ gì nữa:

– Nếu hai người sát phạt nhau thì ta lập tức phải giúp y vậy?

Chữ “y” ở đây dĩ nhiên là trỏ Hồ Phỉ. Lúc này trong lòng cô đã quyết định dứt khoát rồi.

Miêu Nhân Phụng cất giọng cay đắng, từ từ đáp:

– Vị phu nhân đó tự vẫn theo chồng ngay tại đương trường.

Hồ Phỉ hỏi:

– Thế là cái mạng đó cũng do đại hiệp hại chết phải không?

Miêu Nhân Phụng buồn rầu đáp:

– Đúng thế!

Hồ Phỉ đứng dậy sa sầm nét mặt, hỏi:

– Vị hảo bằng hữu của đại hiệp tên họ là gì vậy?

Miêu Nhân Phụng hỏi lại:

– Tiểu huynh đệ thực tình muốn biết hay sao?

Hồ Phỉ đáp:

– Vãn bối cần biết lắm.

Miêu Nhân Phụng nói:

– Được rồi! Tiểu huynh đệ hãy đi theo ta

Y rảo bước tiến vào hậu đường. Hồ Phỉ đi theo y, Trình Linh Tố cũng vội bám theo sát gót.

Bỗng thấy Miêu Nhân Phụng mở cửa sương phòng. Trong phòng có kê một cái bàn gỗ bạch mộc. Trên bàn đặt hai tấm linh vị. Một tấm đề “Nghĩa huynh Liêu Đông đại hiệp Hồ công Nhất Đao chi linh vị”. Còn một tấm đề “Nghĩa tẩu Hồ phu nhân chi linh vị”.

Hồ Phỉ nhìn linh bài hai vị, chân tay giá lạnh, toàn thân phát run.  Từ lâu chàng vẫn nghi ngờ cái chết của song thân mình tất có liên quan trọng đại với Miêu Nhân Phụng, nhưng thấy y là người khẳng khái hào hiệp, nên chỉ mong mối nghi ngờ của mình sai trật. Nhưng bây giờ y thẳng thắn công nhận chẳng uý kỵ gì. Có điều khi y nói câu “Tại hạ lỡ tay ngộ sát một vị bằng hữu” thì sắc diện cùng giọng nói đều lộ vẻ khổ đau vô hạn. Chàng không biết phải làm thế nào cho phải.

Miêu Nhân Phụng quay lại, hai tay chắp để sau lưng nói:

– Tiểu huynh đệ đã không chịu nói mối liên quan với Hồ đại hiệp thì ta cũng không truy vấn nữa. Tiểu huynh đệ! Huynh đệ đã nhận lời chiếu cố cho con gái ta thì nên nhớ kỹ. Thế là đủ rồi. Tiểu huynh đệ muốn trả thủ cho Hồ đại hiệp thì cứ việc động thủ đi.

Hồ Phỉ giơ đao lên dừng lại trên không nghĩ bụng:

– Ta chỉ cần dùng yếu quyết “Dĩ khách phạm chủ” mà y vừa dạy từ từ hạ đao xuống là y quyết không tránh khỏi, thế là ta trả xong mối đại cừu cho song thân.

Nhưng chàng thấy nét mặt y bình thản, đã không lộ vẻ thương tâm lại không ra chiều sợ sệt thì hạ đao thế nào được?

Đột nhiên chàng kêu to một tiếng rồi xoay mình chạy đi. Trình Linh Tố tay bưng chậu “Thất tâm hải đường”, vai khoác hai túi vải tùy thân chay theo. Hồ Phỉ chạy như điên như cuồng một mạch hơn mười dặm, rồi đột nhiên ngã lăn ra gào khóc. Trình Linh Tố bị tụt lại rất xa ở đằng sau. Mãi một lúc lâu cô mới chạy đến nơi. Cô thấy tình cảnh bi thương của Hồ Phỉ biết lúc này khuyên giải không được, đành lặng lẽ ngồi một bên để chàng tha hồ mà khóc đặng phát tiết hết nỗi bi thương trong lòng. Hồ Phỉ khóc hết nước mắt mới dừng lại nói:

– Linh cô nương! Y giết gia gia và má má của tại hạ. Thù này chẳng đội trời chung.

Trình Linh Tố ngẩn người ra hồi lâu mới hỏi:

– Vậy chúng ta chữa mắt cho y đã là một việc sai lầm.

Hồ Phỉ đáp:

– Việc chữa mắt cho y không có gì sai lầm cả. Chờ y sáng mắt trở lại tại hạ mới kiếm y để trả thù.

Chàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– Nhưng võ công y cao hơn tại hạ quá nhiều, tại hạ cần phải luyện võ nghệ trước mới được.

Trình Linh Tố đáp:

– Y đã dùng binh khí bôi chất độc sát hại lệnh tôn, thì chúng ta cũng dùng cách này để đáp trả.

Hồ Phỉ thấy cô hết lòng hết dạ ủng hộ mình, bất giác sinh lòng cảm kích. Nhưng chàng nghĩ tới việc cô dùng chất kịch độc để đối phó với Miêu Nhân Phụng thì tự nhiên trong lòng lại sợ run lên, điều đó quả thật là kỳ. Chàng nghĩ thầm trong bụng: “Vị cô nương này tài trí thông minh gấp mười ta, võ công cô cũng không phải hạng tầm thường, nhưng suốt ngày cô cứ kề cận với độc vật, vậy thì…”. Chính bản thân chàng cũng chưa hiểu “Vậy thì…” cái gì nhưng chỉ cảm thấy có điều bất ổn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.