Giới thiệu truyện Lĩnh Nam Trích Quái

Nguyên tác chữ Hán

Tác giả: Trần Thế Pháp (đời Trần)

Dịch giả: Lê Hữu Mục

Nhà xuất bản Khai Trí xuất bản năm 1961

Tựa Liệt Truyện Lĩnh Nam Chích Quái

Vũ Quỳnh hiệu đính

Quế Dương tuy ở Lĩnh ngoại, nhưng núi sông kỳ, đất đai linh, những người hào kiệt thường thường vẫn có. Từ đời Xuân Thu, Chiến quốc đến nay, nước dựng chưa lâu lắm, tục nước Nam đang còn giản lược, chưa có sử sách để chép việc thực cho nên việc cũ bị di vong rất nhiều, may chỉ nhờ nhân gian khẩu truyền mà còn lại không mất.

Kịp đến đời Tây Hán, Tam Quốc, Đông Tây Tấn, Nam Bắc Triều, rồi Đường, Tống, Nguyên mới có sử truyện để chép công việc, như mấy bản Lĩnh Nam Chí, Giao Quảng Chỉ Lược, rõ ràng có thể khảo được.

Nhưng, nước Việt ta từ xưa là đất yêu hoang, sự biên tập còn phần khuyết lược. Nước Việt ta lập quốc bắt đầu từ Hùng Vương, mà văn minh tiệm tiến thì tràn lan từ đời Triệu, Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến bây giờ cho nên quốc sử biên tập có phần tường tận hơn, thời bản liệt truyện này làm ra, không biết làm từ đời nào và người nào làm, ngờ rằng các bậc hồng sinh thạc nho đời Lý, Trần thảo sáng ra rồi các bậc quân tử hiếu cổ bác nhã ngày nay nhuận sắc lại.

Ngu đinh này xin xét lại đầu đuôi, cứ từ chuyện mà trình bày để suy minh thêm ý của tác giả, như truyện họ Hồng Bàng nói rõ lý do khai sáng ra nước Hoàng Việt, truyện Dạ Xoa Vương bày tỏ triệu chứng tiệm tiến của nước Chiêm Thành; Bạch Trĩ có chuyện chép đời Việt Thường; Kim Qui có truyện chép đời An Dương; tục sính lễ của người Nam không gì quý bằng trầu cau, nêu cho rõ ra, thời nghĩa vợ chồng, tình anh em càng thêm rõ rệt. Đến mùa hạ không gì quý bằng dưa hấu, cậy có vật của mình không cần đến ân chúa, như thế là rõ ràng. Truyện bánh chưng là để khen sự hiếu dưỡng, hạnh kiểm Ô Lôi là để răn sự tà dâm. Đổng Thiên Vương phá giặc Ân; Lý Ông Trọng uy hiếp hung nô là biết nước Nam có người tài đáng kể, Chử Đồng Tử gặp gỡ nàng Mị Nương, Thôi Vỹ gặp gỡ bạn tiên thì là chuyện người làm lành được có âm chất nên xem vậy. Đạo Hạnh, Không Lộ, mấy truyện ấy là tưởng lệ sự trả thù cha, bọn thuyền sư cũng không nên bỏ sót. Mấy truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh là nêu lên tài trừ yêu quái, đức của Long Vương cũng không thể bỏ quên. Trung nghĩa của hai Bà Trưng, chết làm thổ thần, nêu cao danh dự, ai bao không nên? Anh linh thần Tản Viên đã bài trừ loài thủy tộc, rõ ràng hiển dị, ai gọi không thiêng? Cùng với nước Nam Chiếu là dòng dõi Triệu Vũ, nước mất còn biết phục thù, nàng Man Nương là mẹ Mộc Phật, năm hạn làm được mưa rào, sông Tô Lich có thần Long Đậu, Xương Cuồng có tinh Chiên Đàn; một bên thời lập đền thờ cúng mà dân chịu được phúc, một bên thời dụng thuật trừ khử mà dân khỏi điều họa, việc tuy quái mà không đến đản, văn tay dị mà không đến yêu, tuy rằng có hơi hoang đàng, nhưng tông tích còn có căn cứ, đó chẳng qua là để khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ điều ngụy, tồn điều chân, làm cho phong tục thêm phần khích lệ vậy, so với Sưu Thần Ký của người nhà Tấn, Địa Quái Lục của người nhà Đường thì cùng một ý đó.

Than ôi! Lĩnh Nam có nhiều kỳ trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ thảy đều thông suốt, đem lòng ái mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương thường, quan ở phong tục, há có phải ít bổ ích đâu?

Mùa xuân năm Nhâm Tý niên hiệu Hồng Đức 1 , ngu sinh mới được bản truyện này, giở ra xem, không khỏi có sự lầm lẫn như Lỗ Ngư Âm Đào, quên mình là quê hèn, sắp đặt và hiệu chỉnh lại chia làm ba quyển nhan đề là Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện, cất ở trong nhà đề phòng xem lại. Bằng như đính chính và nhuận sắc để cho việc được đầy đủ, văn được xác thực, lời được tinh thông, ý được xa rộng, thời nhờ các bậc quân tử hậu lai hiếu cổ, há lại không có người hay sao? Vậy nên làm bài Tựa.

Niên hiệu Hồng Đức năm thứ hai mươi ba tiết Trọng thu. 2

Yến Xương Vũ Quỳnh, Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, 3

Giám sát đạo Kinh Bắc, Ngự sử, người Hồng Châu, xã Trạch Ổ 4 .

Lời nói đầu

Lĩnh Nam Chích Quái và Việt Điện U Linh Tập là hai văn phẩm có liên quan với nhau, bởi vậy, trong khi tác phẩm của Lý Tế Xuyên đang được ấn hành thì chúng tôi cũng cho tác phẩm của Trần Thế Pháp lên khuôn. Phương pháp nghiên cứu tác phẩm này vẫn là phương pháp nghiên cứu quyển trước. Những điều đã chú thích ở quyển trên sẽ không nhắc lại ở cuốn sau.

Bản Lĩnh Nam Chích Quái này được dịch theo một bản chép tay do Phạm Quỳnh đã thuê viết lại. Nhà học giả Phạm Quỳnh trong khi cho người sao lục những bản cổ văn thường sửa chữa lại những điểm mà ông cho là sai. Do đấy, bản chép tay mà chúng tôi gọi là bản Phạm Quỳnh này có nhiều chỗ khác với những bản A.33, A.749, A.750, A.1200, A.1300, A.1897, A.1920 v. v… mà Gaspardone đã nhắc tới trong Bibliographie Annamite. Chúng tôi sẽ có dịp làm hiệu bản một khi có đầy đủ những bản chép tay của Lĩnh Nam Chích Quái.

Bản phiên dịch cũng như phần dẫn nhập chắc chắn còn nhiều khuyết điểm; chúng tôi nhận thấy còn có thể nghiên cứu tác phẩm một cách kỹ lưỡng hơn nếu có đầy đủ thì giờ và phương tiện, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng nếu không bắt đầu bằng chỗ bắt đầu thì không có một công cuộc gì được khởi sự; do đấy, chúng tôi mạnh bạo cho ấn hành tập sách này để góp phần vào việc soạn thảo một bộ Việt Nam Văn Học Toàn Thư hiểu đúng nghĩa của chữ Toàn Thư. Trong tinh thần này, những tác phẩm cổ văn như Khóa Hư Lục, Thiền Uyển Tập Anh, Nhị Khê Thi Tập, Ức Trai Thi Tập, Kiến Văn Tiểu Lục, Hoàng Việt Thi Tuyển và Hoàng Việt Văn Tuyển v. v… đã nghiên cứu và phiên dịch xong, sẽ được lần lượt ấn hành.

Chúng tôi mong rằng những nỗ lực của chúng tôi sẽ được các học giả trong nước, các bạn giáo sư, sinh viên và học sinh tán thành ủng hộ để cho công cuộc nghiên cứu của chúng tôi được phổ biến một cách sâu rộng.

Huế ngày 1-2-1960

Lê Hữu Mục

Dẫn nhập

I. Nhan đề của tác phẩm:

Các nhà khảo cứu về Lĩnh Nam Chích Quái tỉ dụ Guspardone, Dương Quảng Hàm, Hoa Bằng, Maurice Durand v. v… đều viết tên của tác phẩm là Lĩnh Nam Trích Quái, chua chữ trích là 摭 và hiểu 摭 nghĩa là gom góp lượm lặt; trong bài Bibliographie Annamite 5 , Gaspardone đã dịch Lĩnh Nam Trích Quái là Recueil des êtres extraordinaires du Lĩnh Nam, nghĩa là chữ trích đã được hiểu theo nghĩa chữ recueil, một tập thu góp những bài đã có sẵn. Cố giáo sư Dương Quảng Hàm, trong Việt Nam Văn Học Sử Yếu, tuy đã chua chữ Trích là 摘 nhưng cũng đã hiểu Trích là nhặt lấy, là góp nhặt 6 . Như vậy chữ Trích đã được chua hai cách khác nhau, nhưng đã được hiểu theo một nghĩa. Sự thực ý nghĩa của hai chữ 摭 và 摘 trái ngược hẳn nhau; theo Từ Hải thì 摭 phải đọc là chi ích thiết, âm chích, và nghĩa là từ trên đất mà lượm lặt lên; do đấy, 摭 đọc là Chích cho đúng cách phát âm 7 diễn tả hành động của một người cúi xuống để lấy một vật gì ở dưới lên; cái ở dưới đất là một cái gì tầm thường, là cát bụi chẳng hạn, một cái gì lẻ tẻ, rời rạc, không có giá trị; về văn chương thì những cái tầm thường ấy có thể là những mẩu chuyện vu vơ, một vài tình tiết không có liên lạc gì với nhau, nay được một nhà trí thức chích lên, nghĩa là thu góp lại, sắp đặt cho có đầu đuôi, rồi tổ chức những tình tiết vụn vặt khi trước thành một câu chuyện có hệ thống, có ý nghĩa. Phải phân tích sâu xa chữ chích, ta mới thấy sự góp phần quan trọng của tác giả Lĩnh Nam Chích Quái trong công cuộc duy trì và phát huy những giá trị cũ của dân tộc; từ những câu chuyên Hồng Bàng, Ngư Tinh, Mộc Tinh mà có lẽ người bình dân đã được nghe lõm bõm đây đó, ông đã đúc kết thành một câu chuyện hấp dẫn về đời Hùng Vương, trình bày cả một bức tranh lịch sử linh hoạt và sinh động, người nghe đã bị chinh phục hoàn toàn đến nỗi ngộ nhận đó là một câu chuyện có thực.

Ngược lại, chữ 摘 8 có một ý nghĩa khác hẳn; nó diễn tả cử chỉ của một người giơ tay ra để hái những quả đã có sẵn ở trên cây; việc làm của người ấy không có gì là mới mẻ; quả hái được vẫn giữ những màu sắc cũ; một đôi khi những màu sắc ấy có thể phai nhạt đi, quả hái được cũng có thể héo khô đi. Nói một cách rõ hơn, chữ 摘 không bao hàm một cử chỉ sáng tạo; nó chỉ việc lấy của người ta đã làm sẵn sàng mà sử dụng; dĩ nhiên, trích cũng một đôi khi giả thiết một sự lựa chọn, nhưng dù sao, sự lựa chọn ấy cũng chỉ là một sự lựa chọn những cái đã hình thành, chẳng hạn những mẫu chuyện đã được viết xong, những tình tiết đã được sắp đặt một cách ngăn nắp. Do đấy, công việc chích 摭 tích cực bao nhiêu thì công việc trích 摘 tiêu cực bấy nhiêu; chích càng sáng tạo thì trích càng máy móc.

Vì những lý do đó, công việc của tác giả Lĩnh Nam là đã chích quái chứ không phải trích quái; bao nhiêu những chuyện truyền kỳ của ta xưa, ông đã không cứ để nguyên như vậy mà góp nhặt thành sách; công việc ấy quá dễ dàng; nhưng đàng này, tác giả đã chích quái nghĩa là từ những mẩu chuyện bé nhỏ rơi rớt trong dân gian, ông xây nên một lâu đài truyện cổ nguy nga; từ những cát bụi muôn phương, ông trau chuớt thành châu ngọc. Công sáng tạo của tác giả đáng được kể như là công trình của một nhà tiểu thuyết; tác phẩm của ông là một trong hai tập đoản thiên đầu tiên của văn học Việt Nam. Ta nói đến tác phẩm như là một sản phẩm tinh thần của tác giả cũng như là một tinh hoa của cuối đời Trần.

Căn cứ vào những lý do trên, tôi đề nghị nên để nhan đề của tác phẩm này là Lĩnh Nam Chích Quái. Những tên khác của tác phẩm cũng nên viết lại như thế, tỉ dụ Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện; Lĩnh Nam Chích Quái Truyện Lục; Lĩnh Nam Chích Quái Lục; Tham Bổ Lĩnh Nam Truyền Văn Thần Dị Chích Quái Liệt Truyện.

II. Trần Thế Pháp, tác giả Lĩnh Nam Chích Quái.

Những phân biệt ở trên cho ta thấy sự cần thiết phải biết tên tác giả.

Đầu tiên, ta không thể theo các nhà khảo cứu đời Lê mà cho rằng tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái là Vũ Quỳnh hay Kiều Phú. Trước hết, Phan Huy Ôn trong cuốn Thiên Nam Lịch Triều Liệt Huyện Đăng Khoa Bị Khảo, quyển thứ tư nói về tỉnh Hải Dương, huyện Đường An tức là khi nói về quê quán của Vũ Quỳnh, đã cho rằng Vũ Quỳnh, đỗ tiến sĩ năm 1478 là tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái nhưng điều này, chính Vũ Quỳnh đã tự cải chính trước; trong bài tựa Lĩnh Nam Chích Quái đề năm 1492, ông thú nhận không biết sách được khởi tác vào thời nào, hoàn thành do ai mà tính danh bị bỏ khuyết không thấy chép 9 ; như vậy, công việc của Vũ Quỳnh chỉ là một công việc hiệu chỉnh, sắp đặt, là công việc tất nhiên của một nhà khảo cứu văn học và sử học như Vũ Quỳnh; ta cũng không thể vì công trình hiệu chính ấy mà để tên của Vũ Quỳnh lên đầu tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái. Điều này, chính Gaspardone đã nhắc nhở từ năm 1934 khi viết Bibliographie Annamite. Đã đành bản mà ta phỏng đoán là bản chính rất có thể không được bố cục một cách hợp lý như bản đã được Vũ Quỳnh sắp đặt lại 10 ; bản chính, nghĩa là bản mà Vũ Quỳnh chưa hiệu đính 11 , chưa được chia thành quyển, và thứ tự của các truyện 12 khác hẳn với thứ tự của các truyện trong bản của Vũ Quỳnh. Đây là bố cục của bản chính, theo như Vũ Quỳnh đã nói trong bài Tựa, và cũng dựa theo Phan Huy Chú trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí 13 :

1) Hồng Bàng

2) Dạ Soa

3) Bạch Trĩ

4) Kim Qui

5) Tân Lang

6) Tây Qua

7) Chưng Bỉnh

8) Ô Lôi

9) Phù Đổng

10) Lý Ông Trọng

11) Chử Đồng Tử

12) Thôi Vỹ

13) Từ Đạo Hạnh

14) Dương Không Lộ

15) Ngư Tinh

16) Hồ Tinh

17) Nhị Trưng

18) Tản Viên

19) Nam Chiếu

20) Man Nương

21) Tô Lịch

22) Mộc Tinh.

Bố cục này không được hợp lý vì không tôn trọng thứ tự thời gian; truyện Hồng Bàng đi với truyện Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, biểu dương những vĩ tích của Lạc Long Quân thì truyện Hồng Bàng được sắp ở số 1, Ngư Tinh số 15, Hồ Tinh số 16 và Mộc Tinh số 22; truyện Ô Lôi xảy ra đời Trần Dụ Tôn (1341-1357) lại được để trước truyện Nhị Trưng v. v… Vũ Quỳnh đã thấy những khuyết điểm này và đã sắp đặt theo như mục lục mà ta đọc ở sau bài Tựa của tác phẩm này. Tuy vậy, việc làm của Vũ Quỳnh cũng không được đúng lắm; đáng lẽ ra ông phải tôn trọng bố cục của tác giả, và chỉ được phê bình những khuyết điểm của bố cục ấy ở một chỗ khác. Công việc chỉ có thế mà Vũ Quỳnh đã được coi là tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái thì thực là một điều lạ.

Trong khi Phan Huy Ôn công nhận một cách sai lầm như thế thì Nguyễn Hoàn cũng sai lầm không kém. Trong Đại Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục 14 ghi tên những thí sinh trúng tuyển các kỳ thi từ năm 1075 đến năm 1787, Nguyễn Hoàn, trong quyển 1, tờ 20 đã cho Kiều Phú là tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái; Kiều Phú người xã Lạp Hạ, huyện Ninh Sơn (nay là phủ Quốc Oai, Sơn Tây) sinh năm 1447 và đỗ tiến sĩ năm 1475; như vậy, ông chỉ là một người đồng thời với Vũ Quỳnh vì Vũ Quỳnh sinh năm 1453; nếu Vũ Quỳnh công nhận Lĩnh Nam Chích Quái đã được khởi thảo từ đời Lý hay đời Trần 15 thì Kiều Phú không thể là tác giả của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái; tựa của Kiều Phú đề năm 1493, nghĩa là sau bài Tựa của Vũ Quỳnh một năm, không thể nào ông đảm nhận cho ông cái vinh dự làm tác giả cuốn Lĩnh Nam Chích Quái 16 .

Nếu Vũ Quỳnh và Kiều Phú không phải là tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái thì ai là người đã sáng tác ra nó? Tôi có thể nói người đó là Trần Thế Pháp.

Không ai biết rõ về Trần Thế Pháp cả. Toàn Thư cũng như Sử Ký không thấy nhắc đến tên ông; Bị Khảo cũng như Đăng Khoa Lục cũng vậy. Theo Lê Quý Đôn thì Trần Thế Pháp là người huyện Thạch Thất (Sơn Tây) và có tên hiệu là Thức Chi. Ông đã không có cái hân hạnh được sử sách nhắc nhở đến tên, nhưng ông được người bình dân quen biết, bởi vậy, trong Kiến Văn Tiểu Lục 17 , Lê Quý Đôn đã viết “Lĩnh Nam Chích Quái, 1 q. 18 tương truyền là tác phẩm của Trần Thế Pháp; bài Tựa Nam Bản của Thiếu Vi cũng nói thế; không biết Thế Pháp là người xứ nào” 19 . Giọng nói của Lê Quý Đôn là một giọng nói khẳng định; ông chỉ không biết Thế Pháp là người ở đâu, nhưng ông cho rằng theo lời người ta nói thì Trần Thế Pháp là người đã viết ra Lĩnh Nam Chích Quái; sợ rằng hai chữ “tương truyền” chưa đủ mạnh mẽ để cho người đọc tin, ông vội vã nói thêm đấy cũng là chủ trương của Thiếu Vi trong Nam Bản; ta tiếc không biết Thiếu Vi là ai và Nam Bản là gì, nhưng nếu đã là người mà tác giả đã dùng để tăng cường cho uy tín của mình thì nhất định phải là một người đáng kể, nhất là người ấy cũng từng là một người có vinh dự đề tựa cuốn Lĩnh Nam Chích Quái. Do đấy, trong khi chờ đợi những bằng chứng xác đáng hơn, ta có thể coi Trần Thế Pháp là tác giả của Lĩnh Nam Chích Quái chính bản, gồm 22 truyện mà ta đã liệt kê ở trên; 19 truyện phụ lục là của một nho sĩ họ Đoàn đời nhà Mạc đã thêm vào; ta sẽ không chú ý đến phần phụ lục này (tức Lĩnh Nam Chích Quái quyển 3) cũng như ta sẽ không nói tới quyển Tục Biên Lĩnh Nam Chích Quái Liệt Truyện do Nguyễn Nam Kim đã hoàn thành, quyển Lĩnh Nam Chích Quái Tiếm Đỉnh của một nho sĩ vô danh 20 v. v…

III. Soạn niên của Lĩnh Nam Chích Quái:

Vì không biết Trần Thế Pháp là người thời nào, ở đâu, ta khó lòng xác định được soạn niên của Lĩnh Nam Chích Quái, nhưng ta có thể lý luận để thử tìm hiểu tác phẩm đã được viết vào khoảng những năm nào.

Đầu tiên, căn cứ vào bài Tựa của Vũ Quỳnh đề năm 1492 trong đó nhà hiệu chỉnh thú nhận không biết Lĩnh Nam Chích Quái đã được hoàn thành vào thời kỳ nào, ta có thể nói tác phẩm đã được viết lâu năm trước thế hệ của Vũ Quỳnh. Vũ Quỳnh sinh năm 1453, đỗ tiến sĩ năm 1478, đề tựa Lĩnh Nam Chích Quái năm 1492, viết xong Đại Việt Thông Giám Thông Khảo năm 1510, như vậy, nhà văn học kiêm sử gia ấy có đủ phương tiện và học thức đề biết rõ về tác phẩm và tác giả mà đã đành chịu không nắm được tài liệu nào đủ biết thời Trần Thế Pháp còn sống phải rất xa đối với thời đại của Vũ Quỳnh. Ý kiến này cũng là ý kiến của Gaspardone. Từ năm 1492 trở lại năm 1428 là năm Lê Lợi lên ngôi, tình thế đã được ổn định, năm này qua năm khác không xảy ra một biến cố nào quan trọng, do đấy, nếu đến năm 1492 mà Vũ Quỳnh không biết gì về soạn niên của Lĩnh Nam Chích Quái thì từ 1428 trở đi, không có một tài liệu nào về tác phẩm nói trên đã được công bố; nếu đã có một tài liệu nào được công bố thì không có lý do gì tài liệu ấy lại bị thất lạc, không đến tay Vũ Quỳnh, giữa một thời kỳ mà không có một biến cố chính trị nào có thể làm cho tài liệu kia bị tiêu hủy. Như vậy, ta có thể nói soạn niên của Lĩnh Nam Chích Quái phải kể trước năm 1428.

Từ 1428 trở về 1407, lịch sử trải qua bao nhiêu giai đoạn khủng khiếp; đất nước rung chuyển dưới gót giày xâm lăng của quân Minh; giữa khói lửa tơi bời, trước những lời kêu gọi xuất quân của Giản Định Đế, của Trấn Quí Khoách, của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, khó lòng có một nhà nho nào ngồi yên lặng rở những cuốn Tài Quỷ KýNam Hải Cổ Tích Ký mà ghi lại những chuyện xa xưa. Nếu nhà nho ấy có can đảm sáng tác trong thời gian này thì những sáng tác phẩm ấy đã hồi quang những cảnh hỗn loạn của chiến tranh, những hình ảnh rùng rợn của máu lửa, hoặc đã là những lời ca tụng khí phách anh hùng như Nghĩa Sĩ Truyện, những lá thư khuyến dụ địch như những lá thư hùng dũng của Nguyễn Trãi gửi cho quân Minh. Ngược lại, Lĩnh Nam Chích Quái mang một nội dung khác hẳn; không khí của tác phẩm trang nghiêm nhưng yên tĩnh; đâu cũng là hòa bình, đơn giản, nghĩa là Lĩnh Nam Chích Quái không thể là một tác phẩm được hoàn thành trong khoảng thời gian từ 1407 đến 1427. Như vậv, ta có thể nói rằng soạn niên của Lĩnh Nam Chích Quái là từ khoảng Trần Dụ Tôn đến hết đời Hồ, nghĩa là từ 1341 đến 1407 nhưng soạn niên của tác phẩm ấy có thể đặt vào cuối đời Trần 21 thì đúng hơn là đặt vào đời Hồ.

Tại sao lại kể từ đời Trần Dụ Tôn mà thôi? Đó là ta căn cứ vào truyện Hà Ô Lôi xảy ra năm Thiệu Phong thứ 6 tức là năm 1346 đời Trần Dụ Tôn. Truyện Hà Ô Lôi là truyện thứ 8 trong mục lục của bản chính và là truyện thứ 21 trong bản hiệu đính của Vũ Quỳnh. Vai chính trong truyện là vua Trần Dụ Tôn và Hà Ô Lôi, một đứa con hoang có tài mà nhà vua rất tín sủng. Năm Ô Lôi 15 tuổi, tức là năm 1360 thì được nhà vua đãi vào hàng tân khách. Năm sau, tức là năm 1361, chàng được mật lệnh đi chinh phục cho nhà vua bà Quận chúa A Kim trẻ đẹp nhưng góa chồng ở làng Mọc. Theo sử, từ năm 1358, sau khi Trương Hán Siêu và Minh Tông mất đi, Dụ Tôn tha hồ tự do sống phóng túng, cờ bạc, rượu chè, say mê ca kịch đến nỗi đã cướp vợ của kịch sĩ Dương Khương mặc dầu bà này đã có mang hai tháng chỉ vì bà này là nữ kịch sĩ; bảy tháng sau, Dương Nhật Lễ ra chào đời, được làm con nuôi của Dụ Tôn và trước khi Dụ Tôn băng hà đã được chiếu nối ngôi dù Dụ Tôn còn có một người anh là Cung Định Vương Phủ; Dương Nhật Lễ làm vua từ 1369 đến 1370, sau bị Trần Ngô Lang lừa vào cung, Tuyên Vương Kính đem quân về kinh giết chết, nhưng trước khi chết còn được Cung Định Vương (sau đó là vua Nghệ Tông) chạy đến ôm lấy mà khóc, chứng tỏ anh em vua Dụ Tông vẫn còn say mê mẹ con Dương Nhật Lễ. Ta có thể nói Dương Nhật Lễ của lịch sử là Hà Ô Lôi của Lĩnh Nam Chích Quái. Cũng một nguồn gốc không có gì đẹp đẽ ấy, cũng một cái tài về ca kịch và cũng được mọi người say mê đến nỗi quên cả địa vị của họ và bỏ bê trễ cả công việc. Đọc truyện Hà Ô Lôi, ta thấy mọi tình tiết của câu chuyện ăn khớp với đời sống xa hoa trụy lạc của Trần Dụ Tông, từ cái tính quay cuồng vì nghệ thuật, những mánh khỏe cỏn con để săn sắc đẹp, đến cái vẻ quyến rũ của tiếng hát v. v… Phải là một người đương thời với Trần Dụ Tông mời có thể là một chứng nhân nhãn tiền như vậy. Căn cứ trên câu truyện Hà Ô Lôi, ta có thể nói rằng Trần Thế Pháp sống vào đời Trần Dụ Tông, và cuốn Lĩnh Nam Chích Quái đã được hoàn thành ngay sau thời kỳ ấy, từ 1370 đến 1400.

IV. Nguồn gốc Lĩnh Nam Chích Quái.

Dân tộc nào cũng vậy, trong giai đoạn đầu tiên, cũng sản xuất ra một số truyện thần thoại, nghĩa là những truyện linh quái 22 để giải thích nguồn gốc của mình. Thần thoại nghĩa là nói đến thần, nhưng chữ thần ở đây không nhất thiết chỉ là những thực thể siêu nhiên, vô hình; thần ở đây có thể là những thần thánh, hoặc nửa thần nửa người, hoặc những anh hùng liệt sĩ mà những vĩ tích oai linh trong thế gian đã liệt vào hàng thần thánh. Sau truyện thần thoại là những truyện chắc chắn đã có từ khi có loài người, ta thấy xuất hiện nhiều loại truyện truyền thuyết trong đó tính cách linh quái đã phai nhạt rất nhiều và các tình tiết phô diễn được ẩn náu dưới những màu sắc của lịch sử. Cùng với hai loại này, ta còn nhận thấy loại truyện cổ tích, cốt yếu ở điểm duy trì và phát huy những phong tục, những tập quán, những quy ước luân lý cũ. Phân tích ba khuynh hướng này trong truyện truyền miệng của ta xưa, ta thấy rõ ràng nguồn gốc của Lĩnh Nam Chích Quái.

Đầu tiên về phương diện thần thoại, nói theo Lê Quý Đôn 23 , Lĩnh Nam Chích Quái “giả thác truyện hội rất nhiều, không thể kể xiết”. Maspéro 24 chứng minh truyện Hùng Vương là truyện trích ở các tác phẩm Trung Hoa 25 . Nguyễn Đổng Chi cho rằng “chiến tranh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh hay chiến tranh giữa Cường Bạo Đại Vương với Thần Sét có nhiều điểm rất giống chiến tranh giữa thần Chúc Dong với thần Cộng Công trong truyện thần thoại Trung Hoa, giữa thần Chang Lô Cô với thần Lun Cung trong truyện thần thoại của dân tộc Mán, giữa cua và quạ trong truyện thần thoại Ba-na”. Przyluski 26 có cảm tưởng đã đọc truyện Kim Qui ở đâu rồi bởi vì các miền vùng Nam Hải ngày xưa đều có những truyện tương tự. Những quan điểm này về nguồn gốc các truyện thần thoại trong Lĩnh Nam Chích Quái không phủ nhận bản sắc của truyện này bởi vì cùng nằm trong một địa phương, các dân tộc Đông Nam Á dĩ nhiên có sự giao lưu về phương diện văn hóa. Ngay từ thời Bắc Thuộc, Triệu Xương và Tăng Cổn là hai nhà hành chính Trung Hoa đã có cơ hội biên tập một ít truyện cổ của ta trong Giao Châu Ký đủ biết người Việt đã đủ khả năng sáng tạo văn nghệ từ trước rồi. Còn về những tác phẩm mà Maspéro 27 đã dẫn, làm thế nào để chứng minh rằng các tác phẩm ấy có trước những câu truyện truyền miệng của ta? Mọi quả quyểt về vấn đề này đều vội vã và sai lầm.

Về loại truyền thuyết, nguồn gốc của Lĩnh Nam Chích Quái là do sự truyền khẩu của dân gian, đúng như lời Vũ Quỳnh đã nói trong bài Tựa danh tiếng của ông. Những lời truyền khẩu này căn cứ trên những hiện tượng lịch sử xác thực, đồng thời được óc tưởng tượng hồn nhiên và phong phú của nhân dân tô điểm đã dựng nên những tình tiết lý thú. Qua những truyện Trầu Cau, Dưa Hấu, Bánh Chưng v. v…. ta thấy thức dậy cả một quá khứ xa xăm trong những nét vàng son rực rỡ. Về loại này, nguồn gốc của Lĩnh Nam Chích Quái là óc tưởng tượng rất sáng tạo của người Việt, những phong tục đặc biệt của ta xưa, những thổ sản mà chỉ riêng ta có.

Sau cùng, về loại truyện cổ tích, ta có thể tìm thấy ba nguồn gốc. Nguồn gốc Trung Hoa như Việt Tỉnh, và điều này, chính Lê Quý Đôn đã nói đến trong Kiến Văn Tiểu Lục; ngoài ra còn có nguồn gốc ở khẩu truyền, ở dã sử như truyện Lý Ông Trọng, truyện Nhị Trưng, Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ; sau cùng, có truyện là tác phẩm của chính Trần Thế Pháp. Có lẽ tác giả vì một lý do thận trọng hay khiêm tốn nào đó đã để lẫn lộn tác phẩm của mình vào với những truyện truyền miệng, gần giống như La Bruyère của văn học Pháp, khi xuất bản cuốn Les Caractères lần đầu tiên năm 1688 vì muốn đánh lạc dư luận, đã phải nhan đề tác phẩm của ông là tác phẩm dịch của một triết gia Hy Lạp sống vào thế kỷ thứ 4 trước Thiên Chúa Giáng Sinh 28 . Truyện rõ rệt là tác phẩm của Trần Thế Pháp là truyện Hà Ô Lôi.

V. Phân tích Lĩnh Nam Chích Quái.

A. Những truyện thần thoại:

Đây là những truyện như Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, Đổng Thiên Vương, Tản Viên.

Đầu tiên, ta thử phân tích truyện Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh mà ta có thể mệnh danh là Bốn vĩ tích của Lạc Long Quân 29 . Lạc Long Quân tên là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương, con cháu Thần Nông và Long Nữ, con gái của thần Động Đình Hồ.

Vĩ tích thứ nhất của Lạc Long Quân là triệt hạ Ngư Tinh. Ngư Tinh là một quái vật ăn thịt người; thân nó dài hơn năm mươi trượng, mặt như mặt người, chân giống như chân rết, biến hiện như gió bão. Dân chúng vô cùng kinh dị. Lạc Long Quân thương dân mới đóng một chiếc thuyền lớn chèo đến tận hang Ngư Tinh ở giữa biển Đông, rèn một khối sắt rồi bế một người lên giứ cho Ngư Tinh ăn; Ngư Tinh há miệng định nuốt mồi thì khối sắt nung đỏ đã được lao thẳng vào miệng. Cuộc thủy chiến giữa Lạc Long Quân và Ngư Tinh bùng nổ dữ dội. Được sự cộng tác của Thủy Dạ Xoa ngăn gió bão, Lạc Long Quân toàn thắng, đầu tiên chém được khúc đuôi của Ngư Tinh, sau chém được khúc đầu. Ngư Tinh chỉ còn một khúc giữa nổi lềnh bềnh trên mặt biển.

Vĩ tích thứ hai là diệt trừ Hồ Tinh chín đuôi. Con hồ này là một con yêu quái đã sống hơn một ngàn năm, chuyên môn dụ dỗ con trai con gái vào hang để làm gì không biết. Lạc Long Quân sai bộ hạ lái nước sông vào làm cho hang của hồ tinh bị ngập lụt trôi đi để lại một cái vực sâu nay gọi là Tây Hồ. Lạc Long Quân còn dùng bùa phép trấn yểm để cho hồ tinh không lai vãng đến được nữa.

Vĩ tích thứ ba của Lạc Long Quân là cộng tác với thân phụ là Kinh Dương Vương để sát hại Mộc Tinh. Mộc Tinh nguyên là cây chiên đàn sống hơn ngàn năm, thân cao nghìn tầng nên biến thành yêu tinh hay ăn thịt người, mỗi năm phải chọn một người cho nó ăn nó mới để cho dân chúng yên ổn. Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân thắng được yêu tinh nhưng cuộc giao chiến rất khủng khiếp; Mộc Tinh không bị giết mà chỉ thua chạy để rồi được nhân dân suy tụng là thần Xương Cuồng.

Vĩ tích thứ tư của Lạc Long Quân là bắt cóc nàng Âu Cơ, vợ yêu của Đế Lai. Đế Lai chống cự mãnh liệt nhưng Lạc Long Quân có sức mạnh quán thế lẽ nào lại chịu bó tay, nhất là khi Âu Cơ đã thỏa thuận chung sống với chàng. Đế Lai buồn bã trở về Bắc, sau bị hại vào tay Hoàng Đế.

Truyện thần thoại thứ hai là truyện Đổng Thiên Vương tức truyện Thánh Gióng. Câu truyện xảy ra đời Hùng Vương thứ ba, tức là đời khuyết sử. Trong khi Hùng Vương đang lo âu vì bị Ân Vương đàn áp thì Long Quân xuất hiện báo trước sự giáng sinh của một kỳ nhi. Kỳ nhi giáng thế, ba năm qua rồi mà vẫn chưa biết nói; một hôm, một sứ giả đến làng Phù Đổng tức là làng của kỳ nhi và kỳ nhi bỗng biết nói; sau đấy, kỳ nhi lớn như thổi, cưỡi ngựa sắt xông ra mặt trận, gươm sắt của kỳ nhi vung lên làm cho lực lượng của Ân Vương tan tành. Nạn can qua chấm dứt, kỳ nhi cỡi ngựa bay thẳng lên trời, chỉ để lại cho thế gian một vết chân trên núi đá.

Truyện núi Tản Viên cũng là một truyện thần thoại rất lý thú. Thần Tản Viên hay là Tản Viên Sơn Đại Vương là một trong số năm mươi người con trai của Lạc Long Quân theo bố lên núi. Đại Vương từ phía cửa Thần Phù mà đi lên, thường thích dừng chân ở những nơi đồi núi để ngắm cảnh. Sau Đại Vương cùng với Thủy Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương; Vương được Mỵ Nương nhưng bị Thủy Tinh muôn đời căm thù, lúc nào cũng muốn làm cho hạnh phúc của Vương ngập lụt trong cơn phẫn nộ của chàng.

Như vậy, qua phần phân tích trên, ta thấy rằng truyện thần thoại trong Lĩnh Nam Chích Quái là những truyện giải thích nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, biểu dương những công trình gian khổ của tổ tiên trong nỗ lực xây dựng đất nước, đề cao tính cách thần thánh của giống nòi. Ta không dám nói đó chỉ là những chuyện hoang đường, bởi vì truyện dù hoang đường đến đâu cũng chứa đựng một phần sự thực và truyện thực đến đâu cũng pha trộn đôi chút hoang đường. Tính cách nổi bật trong loại truyện này là thần lực đã giữ một vai trò chủ yếu, nhưng thần lực tán trợ cho nhân lực để cho nhân lực thực hiện được những vĩ tích siêu phàm. Các nhân vật trong truyện còn mang những kích thước kỳ dị của thời đại ban sơ; không khí còn thơm mùi đất mới; cả thế gian đang bừng nở trong ánh nắng buổi đầu.

B. Những truyện truyền thuyết:

Sau truyện thần thoại là truyện truyền thuyết. Truyện này không biểu dương năng lực của giống nòi trong quá khứ mà chỉ giải thích lý do của một phong tục, biện minh nguồn gốc của một hiện tượng lịch sử hay địa lý. Dĩ nhiên thời gian của câu truyện vẫn có thể là thời tiền sử như truyện Trầu Cau, Truyện Bánh Chưng, Dưa Hấu, hoặc trong những thời đại sau như trong truyện Kim Qui v. v…. Truyện thường được dựng trong khung cảnh của một di tích lịch sử mà ý nghĩa đã bị lớp bụi thời gian làm phai mờ; đó là truyện Kim Qui, một truyện truyền thuyết lịch sử; có khi truyện nhắc lại nguồn gốc sâu xa của một tập tục như truyện Trầu Cau, truyện Bánh Chưng và đó là những truyện truyền thuyết phong tục; ngoài ra, còn có những truyện truyền thuyết giải thích một hiện tượng địa lý, tỉ dụ truyện Dưa Hấu, truyện sông Tô Lịch.

1) Lịch sử:

Về loại truyền thuyết lịch sử, ta có thể kể truyện Kim Qui là một truyện điển hình. Truyện và lịch sử có thể xác nhận An Dương Vương không phải là một nhân vật hoang đường. Theo Giao Châu Ngoại Vực Ký 30 viết vào thế kỷ thứ 3 thì Triệu Đà “cử chúng công An Dương Vương”, như vậy An Dương Vương thực sự là một nhân vật lịch sử, mặc dầu bị Maspéro phủ nhận 31 . Nhưng câu chuyện xảy ra giữa An Dương Vương và Triệu Đà đã được nhà viết truyện truyền thuyết sắp đặt lại. Mở đầu là dòng dõi của An Dương Vương và mối thù truyền kiếp của nhà vua với Hùng Vương mà duyên do cũng chỉ là một câu truyện tình. Sau đấy là những nỗi khó khăn của nhà vua khi xây thành, việc nhà vua gặp một ông già từ phương Tây đi đến báo cho nhà vua biết sự cộng tác của Sứ giả Thanh Giang tức thần Kim Qui. Thế rồi tác giả kể lại những phút sôi nổi khi thần Kim Qui đương đầu với chủ quán Ngộ Không là người đã dùng tà thuật để làm cho thành của An Dương Vương bị lay đổ. Ngộ Không thất bại, quỷ tinh tan rã, thành Cổ Loa được xây cất, nhưng lúc thần Kim Qui ra đi là lúc An Dương Vương gặp khó khăn với Triệu Đà. Triệu Đà không thắng được Vương vì Vương có nỏ thần của Kim Qui trao tặng. Một mưu nhỏ của Đà đã đủ làm cho Trọng Thủy là con thành phò mã và chính vì sự nhẹ dạ của Mỵ Nương mà Trọng Thủy biết được bí quyết của Vương và làm cho Vương thất bại. Trên đường đi tìm thần Kim Qui, Vương đã giết Mỵ Nương; Trọng Thủy tìm đến với nàng thì chỉ còn ôm ấp một thây ma đã lạnh ngắt. Thành Cổ Loa vẫn còn đấy cùng với giếng Trọng Thủy, cách Hà Nội 17 cây số về phía Đông quan lộ số 3, ở giới hạn hai tỉnh Bắc Ninh và Phúc Yên. Câu truyện có lẽ chỉ có một phần nào đúng sự thực, và khung cảnh sẵn có của thành Cổ Loa chắc đã cung cấp nhiều tài liệu cho nhà làm truyện vốn giàu tưởng tượng sáng tạo. Nhà viết truyện truyền thuyết chỉ cần một di tích lịch sử đã đủ xây dựng nên cốt truyện. Cái tài của ông là tìm cho những thành phần của di tích lịch sử ấy một sự liên lạc hợp lý. Sự liên lạc hợp lý ấy đã có trong truyện Kim Qui.

2) Phong tục:

Về loại phong tục, ta có thể kể hai truyện điển hình là truyện Trầu Cau và truyện Bánh Chưng.

Truyện Trầu Cau giải thích tục lệ ăn trầu và cưới xin của ta. Đó là truyện của hai người anh em ruột là Cao Tân và Cao Lang đang ở thuận hòa với nhau thì bỗng nhiên một người con gái đến làm cho hạnh phúc của họ tan vỡ. Người em buồn bã đi lang thang rồi chết hóa thành cây; người anh về sau cũng chết hóa thành một tảng đá; người vợ thương chồng đi tìm cũng lại chết hóa thành cây trầu. Sau đấy Hùng Vương biết truyện và tình cờ khám phá ra cái thú ăn cau trầu. Đó là một cách bóng bẩy để nói đến căn bản của hôn nhân Việt Nam là ái tình.

Truyện Bánh Chưng kể lại sự quý trọng của người Việt Nam đối với bánh dày và bánh chưng. Nguồn gốc của hai thứ bánh ấy có tính cách thần thánh vì chính thần thánh đã báo mộng cho Lang Liệu biết cách làm bánh. Bánh dày hình tròn là hình trời; bánh chưng hình vuông là hình của đất, nhân là chất làm cho trời đất có liên hệ và do đấy có sinh sản.

Hai truyện này được xếp vào loại truyền thuyết vì tính cách giải thích của truyện quá rõ rệt; lời giải thích rất khách quan và có cứ điểm trong thực tại. Có lẽ ý định giáo huấn cũng cảm thấy thấp thoáng sau khung của câu truyện, nhưng ý định ấy chỉ gián tiếp và hoàn toàn phụ thuộc. Bởi vậy, ta không xếp những truyện này vào loại cổ tích bởi vì cổ tích bao giờ cũng chứa đựng một ý hướng giáo huấn.

3) Địa lý:

Truyện truyền thuyết còn có một tính cách là giải thích một hiện tượng địa lý. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, hiện tượng đó là sự sản xuất dưa hấu của ta và lịch sử sông Tô Lịch.

Tại sao ta chú ý đến việc trồng tỉa dưa hấu? Nhà viết truyện truyền thuyết giải thích cho ta hiểu nguồn gốc của cây dưa hấu ở nước ta. Đây cũng là một nguồn gốc thần thánh vì chính chim – sứ giả của trời – đã mang hạt dưa đến cho An Tiêm lấy giống. An Tiêm đã tin ở trời; vì lòng tin ấy mà An Tiêm bị Hùng Vương nghi kỵ rồi đẩy ra một hòn đảo hoang vắng; bị đầy ải, An Tiêm vẫn tin ở trời, và tin ở cần lao. Trời đã cảm động trước cuộc đời nhẫn nại ấy và đã sai chim mang hạt dưa đến. Nhờ dưa, An Tiêm đã sống sung túc và làm hòa được với Hùng Vương.

Ngoài ra, ta còn có sự tích sông Tô Lịch kể trong truyện Nam Chiếu. Tô Lịch là tên một vị thần tóc trắng xóa mà Cao Biền thường thấy xuất hiện ở một phụ lưu của sông Cái; sau đấy, Biền lấy tên của thần để đặt cho tên sông. Đó là sông Tô Lịch.

Những truyện này là những giai thoại liên can đến lịch sử, phong tục hay địa lý. Những giai thoại này không được chính sử nhắc đến nhưng chúng rất ích lợi để cho ta hiểu rõ bộ mặt sau của sử học, địa lý và phong tục học.

C. Những truyện cổ tích:

Trong khi truyện thần thoại nói về thần thánh thì truyện cổ tích nói về người với một mục đích ám tàng hay hiển thị là giáo huấn người ấy theo tinh thần của câu truyện đã xảy ra ngày xưa, bởi vậy, truyện cổ tích thường có tính cách luân lý. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta có thể phân biệt nhiều loại cổ tích.

1) Lịch sử:

Đầu tiên là loại cổ tích lịch sử đề cập đến một nhân vật lịch sử như Lý Ông Trọng, sau đấy cường điệu nhân vật ấy bằng những nét mạnh bạo hơn cốt nhấn mạnh vào một ưu điểm nào như truyện Không Lộ, Giác Hải, hoặc tô điểm cho truyện thêm những nét kỳ dị khác thường, tỉ dụ truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không.

Truyện Lý Ông Trọng xảy ra cuối đời Hùng Vương, qua An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng. Lý Ông Trọng tên thực là Lý Thân, thân cao hai trượng ba thước, cống hiến sang Tần Thủy Hoàng được trọng dụng và trở thành một sự sợ hãi cho Hung Nô; ngay sau khi đã chết mà Lý Thân vẫn đủ uy lực làm cho Hung Nô khiếp đảm và dân Trung Hoa thờ phụng. Truyện cổ tích này có mục đích nêu lên những cái hùng mạnh của dân Việt để tiêu trừ tinh thần tự ti mặc cảm của người mình đối với Bắc phương.

Truyện Không Lộ và Giác Hải kể lại tiểu sử của hai vị thiền sư danh tiếng đời Lý cốt đề cao cuộc đời tu hành khổ hạnh của hai ngài, trình bày một tấm gương sáng về đạo đức cho người đời noi theo.

Truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không cũng vậy, nhưng nhiều chi tiết ly kỳ đã được thêm thắt ra để cho đời sống của hai vị ấy có một màu sắc đặc biệt hấp dẫn.

2) Thế sự:

Loại cổ tích thế sự trình bày những bức tranh tả chân về người đời, lột trần những hành vi xấu xa giả dối của họ, tố cáo những cảnh bất công ngang trái của đời người.

Truyện Man Nương đưa ra ánh sáng đời sống mâu thuẫn của một tăng già, một đàng chăm chỉ tụng niệm, một đàng lại phạm những tội ác ghê tởm sau khi đã xâm phạm tiết hạnh của một người con gái trong chùa tên là Man Nương.

Truyện Hà Ô Lôi phản ảnh những nếp sống hư đốn đời Trần Dụ Tôn, tố cáo cuộc sống bê tha trụy lạc của các bậc vua chúa ngày xưa, sự dâm ô của họ không kiêng nể một ai và sẵn sàng bênh vực cho tội lỗi. Cảnh sống giả dối của các bà góa cũng được phơi bày bằng những nét thô bạo. Cả một xã hội suy tàn được trưng ra với tất cả những cái xấu xa bỉ ổi. Kết luận của câu truyện là một con người say mê thanh sắc như Hà Ô Lôi đã bị đền tội một cách xứng đáng. Xã hội đã phỉ nhổ con người điếm đàng ấy. Giọng ca dâm dật của nó không làm cho phong tục dịu dàng hơn mà chỉ gây ra những cảnh náo nức dục tình.

Nhưng thế sự không phải chỉ có những cảnh bế tắc bi đát. Truyện Việt Tỉnh cho ta hiểu rằng cái thiện sẽ thắng thế gian, đạo đức bao giờ cũng được trọng thưởng bằng một đời sống đầy đủ về sau. Thôi Vỹ nhờ công đức của cha mẹ cũng như của chính mình đã được Ân Vương muôn đời hàm ân và tưởng lệ.

3) Tình cảm:

Sau cùng, truyện cổ tích còn mang những màu sắc tình cảm rất đậm đà. Đàm Nhất Dạ là khung cảnh của một truyện tình thi vị như ca dao giữa một công chúa trẻ đẹp và một bác dân quê chài lưới nghèo nàn. Nhưng công chúa đã gặp chàng đánh cá trong một trường hợp hết sức tiền định. Công chúa tưởng rằng sẽ mãi mãi không lập gia đình đã trở về với tình yêu. Họ đã sống với nhau những ngày chứa chan hạnh phúc, trong một tình yêu trong sáng, một tín ngưỡng vững vàng và một tinh thần lao động rất đáng khen. Truyện Đầm Nhất Dạ đã đưa ra một mô hình về tình yêu chân chính trong tự do.

VI. Giá trị của Lĩnh Nam Chích Quái.

A. Nội dung.

Qua phần phân tích trên, ta thấy Lĩnh Nam Chích Quái có những ưu điểm này về nội dung:

1) Một căn bản triết học chắc chắn:

Đầu tiên, tác giả tin vào nguồn gốc thần thánh của nhân loại, nghĩa là tin vào sự sáng thế, vào uy quyền tuyệt đối của Hóa Công và tính cách bất tất, hữu hạn của loài người. Luôn luôn giữa Hóa Công và nhân loại có một sự liên lạc chặt chẽ. Tưựng trưng cho quan niệm này là chiếc bánh chưng và chiếc bánh dày. Cái nhân ở giữa là một yếu tố quan hệ của sự hóa dục của trời đất. Nhờ sự sáng tạo, còn người xuất hiện ở trần gian. Sự hiện diện ấy không vô lý vì nó có một ý nghĩa. Con người hoàn toàn tự do trong chấp thuận hay không chấp thuận ý nghĩa ấy. An Tiêm đã lựa chọn cho đời mình có một giá trị. Tiên Dung cũng thế. Kết quả là Tiên Dung đã sống một cuộc đời vật chất hoàn toàn sung sướng trong hiện tại và hai vợ chồng về sau trở thành tiên bay về trời. Cuộc đời có ý nghĩa là ý nghĩa trong tự do. Cả tác phẩm toát ra cái không khí tự do ấy; nhưng tự do là tự do trong một vị trí, trong một vài điều kiện. Điều kiện ấy có thể là cần lao. An Tiên đã lao động cần cù. Chàng tin ở bàn tay mình cũng như tin ở Thượng đế. Trên hai nghìn năm, chàng đã là “tiền thân” của “ông già và biển cả”. Chử Đồng Tử và Tiên Dung cũng đã cần lao cặm cụi, hy sinh và nhẫn nại. Điều kiện ấy là tin yêu. An Tiêm đã tin và đã yêu. Tiên Dung cũng đã tin và đã yêu. Điều kiện ấy là những hàng động vị tha, những thực hiện đạo đức. Thôi Vỹ xả kỷ và Thôi Vỹ đã được sống ở Dao Trì. Con người là một thực thể bất diệt nên sẽ trở về nơi trường sinh. Xác thịt có thể tàn tạ nhưng linh hồn thì bất tử. Trần gian chỉ là một nơi thử thách tạm bợ. Dao Trì, Thủy Phủ, Thiên Cung mới là nơi vĩnh phúc. Đó là lời của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Không Lộ và Giác Hải. Tin tưởng này dẫn đến một tinh thần lạc quan tích cực và nồng nhiệt. Tinh thần lạc quan tiêu cực chỉ sinh ra thất bại, tỉ dụ trường hợp An Dương Vương. Sự thành thực dù yếu đuối mà đưa đến tan vỡ cũng sẽ được đền bù, tỉ dụ trường hợp Mỵ Nương. Sự hối hận có thể sửa chữa những tội ác vô ý thức, tỉ đụ trường hợp Trọng Thủy. Vũ trụ quan sâu xa của Trần Thế Pháp cũng như của dân chúng vô danh đã gây được một nhân sinh quan rất lành mạnh.

2) Tinh thần đấu tranh:

Trước hết là tinh thần đấu tranh để thống nhất dân tộc. Những vĩ tích của Lạc Long Quân đối xứng với những giai đoạn bình định của xứ sở. Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh là những lực lượng phá hoại ẩn náu trong dân chúng làm cho họ điêu đứng khổ sở. Người anh hùng dân tộc là người biết hy sinh cuộc đời của mình cho chính nghĩa.

Sau đấy là tinh thần đấu tranh để bảo vệ giang sơn. Thánh Gióng là một anh hùng dân tộc luôn luôn nêu cao ý nghĩa quốc gia. Tinh thần ấy vô vị lợi, nhưng mãnh liệt và quả cảm. Lý Ông Trọng tượng trưng cho tinh thần bất khuất của người Việt. Thân hình vĩ đại của Lý Ông Trọng là lòng ước muốn to lớn của nhân dân Việt Nam được sống quật khởi và anh hùng hơn cả người Trung Hoa là người thường đàn áp họ.

Sau cùng là tinh thần đấu tranh để san bằng những cảnh bất công trong xã hội. Cái chết ô nhục của Hà Ô Lôi mang lại sự đắc thắng cho công lý. Kẻ có tội phải đền bù. Người xấu xa phải bị trừng phạt.

3) Giá trị lịch sử:

Ngoài ra, Lĩnh Nam Chích Quái còn mang nhiều giá trị lịch sử, lịch sử vẻ vang của tổ tiên trong công cuộc xây dựng đất nước (truyện Hồng Bàng), lịch sử chính trị của ta ngày xưa, khi 50 người trai theo mẹ xuống biển, 50 người trai theo bố lên núi, ám chỉ nguồn gốc duy nhất của người Việt, người Mán, người Thổ, người Mường. Các sử gia có thể đưa ra những lý thuyết ưu bác, nhưng qua truyện Hồng Bàng, Lạc Long Quân cùng hậu duệ vẫn là hình ảnh oai hùng của những người Việt đầu tiên. Truyện Tản Viên cũng như truyện Phù Đổng Thiên Vương cho ta hiểu sâu hơn về hành động của tiên tổ. Những truyện truyền thuyết còn cho ta biết rõ hơn về những thổ sản của nước ta ngày xưa, về phong tục, về hôn nhân, về tri thức và tình cảm của người Việt trong quá khứ. Lĩnh Nam Chích Quái làm chứng một cách xác thực rằng dân Việt là một dân tộc có tinh thần tôn giáo từ buổi đầu, ưa thích nghề nghiệp và cần lao, có tinh thần gia đình từ những ngày đầu tiên của lịch sử và đã biết đặt hôn nhân trên căn bản ái tình và lễ giáo. Giá trị lịch sử còn được thể hiện trong những tên thôn, tên làng, tên của đền đài lăng miếu làm cho tác phẩm ấy có một sắc thái cổ kính và chứa đựng nhiều tài liệu cho người đi sau. Những truyện mà Maspéro hoặc Przyluski đã thấy giống những truyện Trung Hoa, Phù Nam, chỉ chứng tỏ một cách rõ ràng hơn sự liên lạc giữa Việt Nam và các nước láng giềng. Sự vay mượn những tác phẩm Trung Hoa như Thái Bình Hoàn Vũ Ký 32 , Thủy Kinh Chú 33 , Tục Bác Vật Chí 34 nếu có thực đi chăng nữa không làm giảm bớt giá trị lịch sử của Lĩnh Nam Chích Quái mà còn làm chứng cho một phần sự thực lịch sử của những dân tộc Á Châu.

B. Hình thức.

1) Văn chương:

Ta thấy ngay một khuyết điểm lớn của Lĩnh Nam là đã được viết bằng chữ Hán; tuy vậy, ta cũng nên biết rằng Hán văn của tác phẩm không phải là Hán văn thuần túy của Trung Hoa nữa mà là một thứ văn riêng, một thứ văn lai, tuy đôi chỗ còn tuân theo văn phạm cú pháp của Hán văn. Đọc Lĩnh Nam Chích Quái, ta biết ngay tác giả của nó là một người Việt, Việt từ nội dung đến văn chương, ta không biết đời Trần đọc Hán văn như thế nào, nhưng ta có thể phỏng đoán cách đọc đến đời Trần đã dị biệt với cách đọc của Trung Hoa nhiều và do đó, chữ Hán ở đây đã trở thành chữ Hán Việt, tiếng Hán là tiếng Hán Việt.

Theo nhận xét ấy, ta có thể khảo sát văn chương của Lĩnh Nam Chích Quái. Đó là một lối văn kể chuyện giản dị và nhẹ nhàng; không có một điển tích nào xa xôi, không có một từ ngữ nào mà ngày nay không có trong những Từ Điển Hán Việt; lối văn được viết theo lời nói thông thường nên không có tính cách bát cổ của trường thi, không có những câu đối ý đối chữ kéo dài từng hai vế đi đôi với nhau. Đâu cũng sáng sủa, gọn gàng, có tính cách Việt Nam đến nỗi nhiều đoạn chỉ cần phiên âm là thành một câu tiếng Việt.

Ngoài ra, truyện Hà Ô Lôi trong Lĩnh Nam Chích Quái có ghi ba bài thơ tứ tuyệt bằng chữ nôm, do đấy có thể cho ta một ý niệm về thi ca đời Trần và về tình trạng của chữ nôm. Chữ nôm không biết đã được sáng chế từ bao giờ, nhưng chắc chắn không phải từ đời Sĩ Nhiếp, đời Phùng Hưng hay đời Đinh Tiên Hoàng. Từ những thời kỳ này, ta đã thấy lẻ tẻ có một vài chữ nôm được cấu tạo theo lối giả tá là một lối giản dị nhất vì chỉ cần tìm những chữ Hán đồng âm với tiếng Việt là có được một chữ nôm, tỉ dụ chữ 布蓋, chữ 瞿 để phiên âm những tiếng Bố, Cái, Cồ. Theo lý luận và kinh nghiệm của ngôn ngữ học thì loại giả tá dễ nhất được cấu tạo trước hết, sau đến loại hình thanh và hội ý là những loại đòi hỏi một sự đối chiếu, một sự suy luận; loại hội ý là loại tương đối ít nhất bởi vậy loại chữ hình thanh là một cứ điểm để cho chúng ta nhận định về sự hình thành của chữ nôm. Ta đã thấy những gì trong những bài thơ nôm ghi trong truyện Hà Ô Lôi. Đây là câu thơ thứ nhất:

đọc là:

Chỉn đà náu đến nguyện làm tôi

Hai chữ thiên tiên để cha Lôi.

Những chữ chỉn, đà, náu, nquyện, tôi, thiên, để, cha, Lôi, tuy trình độ âm thanh khác nhau nhưng đều là những chữ giả tá, chỉ có ba chữ đến, hai, chữ là những chữ hình thanh. Chữ đến có thể viết bên là chữ chí để chỉ ý đi đến, bên là chữ điển để chỉ cách đọc; nhưng chữ đến cũng có thể viết 旦 (đán) theo lối giả tá. Như vậy, nhận xét của ta về câu thơ này là tuy những chữ giả tá chiếm đa số, chứng tỏ chữ nôm đang ở vào giai đoạn đầu nhưng cách viết chữ đến theo lối hình thanh chứng tỏ rằng đã bắt đầu có chữ hình thanh thuộc vào giai đoạn sau của chữ nôm. Bây giờ ta xét đến bài thơ thứ 2:

Sương kể dầu sương vẹn được mười

Những nơi quyền quý thiếu chi người

Bởi vì thanh sắc nên say đắm,

Khá tiếc cho mà lại khá cười.

Xem bài thơ trên, ngoài những chữ Hán Việt, ta thấy rất nhiều chữ giả tá như: kể, dầu, vẹn, được, mười, những nơi, thiếu, chi, vì, khả, tiếc, cho, tại, khá; những chữ hình thanh là: người, bởi, nên, mà, cười; như vậy, loại chữ hình thanh vẫn ít hơn loại chữ giả tá; những chữ hình thanh đáng chú ý là chữ người do bộ nhân đứng bên chữ ngại; chữ  đáng lẽ chỉ là một chữ giả tá (nghĩa là chữ ma đọc trại đi) ở đây đã thành một chữ hình thanh vì có chữ nhi ở dưới để biểu ý; chữ cười bộ khẩu bên chữ kỳ để biểu âm; những nhận xét này cho biết chữ nôm đã hình thành nhưng chưa có nhiều chữ hình thanh, nghĩa là vừa mới thoát khỏi giai đoạn giả tá. Trong bài thơ thứ ba, chữ hình thanh đã nhiều hơn, lên đến 8 chữ đối 10 chữ giả tá; đặc biệt trong bài này, ta thấy chữ  (trời) là một chữ hội ý (thiên + thượng = cao); đó là một chữ hội ý đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam. Vậy xét về cách chế tác của chữ, ta thấy chữ nôm trong giai đoạn trước nhà Hồ đang thoát dần từ giai đoạn giả tá mà ta gọi là giai đoạn thứ nhất của chữ nôm, kể từ đời Sĩ Nhiếp đến Nguyễn Thuyên, dần dần chuyển sang giai đoạn hình thanh mà ta gọi là giai đoạn thứ hai của chữ nôm kể từ Nguyễn Thuyên trở đi đến Hồ Quý Ly; từ Hồ Quý Ly trở đi, chữ nôm mới đủ từ ngữ để phô diễn những ý tình phức tạp; những bài thơ nôm nói trên làm chứng cho giai đoạn chuyển tiếp của chữ nôm từ thời kỳ thứ nhất sang thời kỳ thứ hai.

Xét về lời thơ thì ta thấy hình thức thi ca còn vụng về, hai câu thơ đầu gần như vô nghĩa; tại sao lại nói là “náu đến”? Câu sau có ý nói về nguồn gốc thần thánh của Lôi (hai chữ thiên tiên để cha Lôi) nhưng lời nặng nề biết chừng nào. Tuy chắc là mấy bài thơ này đã bị người sau sửa chữa nhưng ý thơ là một cái gì không thể sửa chữa được có thể cho ta một ý niệm về văn thơ chữ nôm đời Trần.

2) Kỹ thuật:

Đầu tiên là kỹ thuật bố cục toàn thể tác phẩm. Ai xem mục lục của Trần Thế Pháp (do Phan huy Chú ghi lại) cũng thấy rõ trật tự thời gian của các truyện đã bị xáo trộn như thế nào; có lẽ vì thế rnà Vũ Quỳnh đã hiệu đính tác phẩm và đã làm lại một bố cục khác; nhưng Vũ Quỳnh đã không thấy rằng sự xáo trộn ấy là một kỹ thuật của tác giả. Đọc Lĩnh Nam Chích Quái, ta công nhận tính chất lịch sử so với Việt Điện U Linh Tập đã được giảm bớt rất nhiều; tính chất thực sự của truyện là tính chất thần thoại biến thái thành truyền kỳ và cổ tích, do đấy, tác giả hình như đã có ý không tôn trọng trật tự thời gian, làm cho Lĩnh Nam Chích Quái là một trong những cuốn sách mà người ta có thể mở đọc bất cứ chỗ nào, lật trang này sang trang khác, đọc qua loa một vài đoạn rồi lại có thể ngừng bất cử ở đâu, như thế, người đọc không cảm thấy mỏi mệt, chán nản mà lại thấy rất nhiều thú vị.

Kỹ thuật kể chuyện cũng không kém tài tình. Người đọc cảm thấy có một sức lôi cuốn huyền bí. Ta đọc chuyện này sang chuyện kia một cách dễ dàng. Đó là nhờ ở cách tác giả dàn xếp các tình tiết của câu chuyện. Các tình tiết ấy liên tiếp nhau, ăn khớp với nhau chặt chẽ, theo một trật tự mà chỉ có một ý thức già giặn về kỹ thuật hành văn mới có thể trực giác thấy. Thường truyện được bắt đầu bằng phần giới thiệu nhân vật, giới thiệu dòng dõi, tên tuổi, quê quán; sau đấy, tác giả trình bày một vài đặc điểm của nhân vật, qua cuộc đối thoại của nhân vật với những nhân vật phụ thuộc đến một đoạn tả cảnh, tả tình rồi những tình tiết khác lại xảy ra làm cho câu chuyện ly kỳ hơn, phức tạp hơn, hấp dẫn hơn. Phần tả cảnh không được tác giả trau chuốt lắm như trong Việt Điện U Linh Tập của Lý Tế Xuyên nhưng phần tả tình đã được đặc biệt chú ý. Có thể nói, Lĩnh Nam Chích Quái là một tập ái tình tiểu thuyết, một thứ ái tình tự do nhưng lành mạnh, trong sạch, dù bị lễ giáo cấm đoán trong lúc đầu nhưng rồi về sau cũng được lễ giáo tha thứ và công nhận. Trong những lúc này, ngòi bút của Trần Thế Pháp rất phóng túng, dễ dàng và mỹ lệ. Một truyện như truyện Đầm Nhất Dạ hay truyện Trầu Cau vẫn để lại cho người đọc những ấn tượng sâu xa. Nhờ tính cách này mà sự phỏng đoán của ta về soạn niên của tác phẩm có căn cứ vững chắc. Năm 1329, Việt Điện U Linh Tập xuất hiện trong bầu không khí mới của Nho giáo vừa manh nha. Rồi sự quật khởi của nhà Minh, sự suy yếu của nhà Trần rõ rệt từ 1370 trở đi làm cho sự bành trướng của Nho học bị lâm vào một thời kỳ khủng hoảng từ 1370 đến 1400. Sự khủng hoảng về một ý thức hệ lấy Nho giáo làm căn bản bao giờ cũng đi đôi, ở Việt Nam, với một phong trào đối kháng chủ điểm dân tộc. Lĩnh Nam Chích Quái xuất hiện trong giai đoạn này.

Kỹ thuật của tác giả luôn luôn được nâng đỡ bằng những hình ảnh đặc sắc. Có khi hình ảnh là do sự tưởng tưởng của tác giả tạo thành, tỉ dụ hình ảnh thần Kim Qui đuổi quỷ tinh, hình ảnh thánh Gióng xông ra mặt trận; đấy là những bức tranh vĩ đại, những cuốn phim đại vĩ tuyến ngày xưa; những đường viền, đường nổi, bề sâu, bề rộng của bức tranh đều được vẽ bằng những nét mạnh bạo sắc sảo. Nhiều khi hình ảnh trong Lĩnh Nam Chích Quái là những chi tiết tả thực để nguyên vẹn hay được tô điểm thêm, được cường điệu hay kiểu thức hóa, tỉ dụ hình ảnh của Ngư tinh “mình dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như hình con rết” Những hình ảnh này mang đến cho tác phẩm một sự sinh động riêng, một màu sắc cổ sơ của những thời hoang dại.

VII. Kết luận:

Xét một cách đại lược, Lĩnh Nam Chích Quái là một tác phẩm hay. Trong khi chờ đợi những công trình nghiên cứu khoa học hơn, ta có thể nói rằng dù Trần Thế Pháp đã viết Lĩnh Nam Chích Quái bằng Hán văn, tác phẩm vẫn nói được với mọi người Việt Nam, qua những mẩu chuyện xảy ra ở Việt Nam, những rung động của một tâm hồn người Việt.

MỤC LỤC

1. Truyện Hồng Bàng
2. Truyện Ngư Tinh
3. Truyện Hồ Tinh
4. Truyện Mộc Tinh
5. Truyện trầu cau
6. Truyện đầm Nhất Dạ
7. Truyện Đổng Thiên Vương
8. Truyện bánh chưng
9. Truyện dưa hấu
10. Truyện bạch trĩ
11. Truyện Lý Ông Trọng
12. Truyện Việt Tỉnh
13. Truyện Kim Qui
14. Truyện Man nương
15. Truyện núi Tản Viên
16. Truyện hai vị thần Long Nhãn và Như Nguyệt
17. Truyện Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không
18. Truyện Nam Chiếu
19. Truyện Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải
20. Truyện Hà Ô Lôi
21. Truyện Dạ Xoa Vương
22. Truyện Sĩ Vương Tiên
23. Truyện Sóc Thiên Vương
24. Truyện ba vị phu nhân Kiền Hải
25. Truyện Long Độ Vương Khí
26. Truyện thần Minh Chủ núi Đồng Cổ
27. Truyện thần Ứng Thiên hóa Dục Hậu Thổ
28. Truyện Long Trào Khước Lỗ [1]
29. Truyện Bố Cái Đại Vương
30. Truyện Trinh Linh Nhị Trưng phu nhân
31. Truyện Mỵ Ê Trinh Liệt Phu Nhân
32. Truyện Hồng Thánh Đại Hồng Vương
33. Truyện Minh Ứng An Sở Thần Từ
34. Truyện Đại Than Đỗ Lỗ Thạch Thần
35. Truyện Xung Thiên Chiêu Ứng Thần Vương
36. Truyện Khai Thiên Trấn Quốc Đằng Châu Phúc Thần
37. Truyện Bạch Hạc Thần Từ
38. Truyện Thần Châu Long Vương
39. Truyện ni sư Đức Hạnh
40. Truyện Phạm Tử Hư thờ thầy

1. Truyện Hồng Bàng

Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc.

Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Lọng Quân dạy dân ăn mặc, bắt đầu có trật tự về quân thần tôn ty, có luân thường về phụ tử phu phụ; hoặc có lúc đi về Thủy phủ nhưng trăm họ vẫn được yên ổn. Dân lúc nào có việc cần thời kêu Lạc Long Quân: “Bố đi đằng nào, không đến mà cứu chúng ta”, (Người Nam gọi cha bằng Bố, gọi quân bằng vua là từ đấy), thì Lạc Long Quân lập tức đến ngay, uy linh cảm ứng không ai có thể trắc lượng được. Đế Nghi truyền ngôi cho Đế Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên hạ vô sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp được tiên nữ, Đế Lai bèn khiến Xi Vưu tác chủ quốc sự mà nam tuần qua nước Xích Quỷ, thấy Long Quân đã về Thủy phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu Cơ cùng với bộ chúng thị thiếp ở lại hành tại. Đế Lai chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú, tê tượng, đồi mồi, kim ngân, châu ngọc, hồ tiêu, nhũ hương, trầm đàn, các loại sơn hào hải vị không thứ nào là không có; khí hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế Lai ái mộ quá, quên cả ngày về. Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân về nên mới đem nhau kêu rằng:

– Bố ở phương nào, nên mau về cứu nhân dân.

Lạc Long Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu Cơ ở một mình, dung mạo đẹp lạ lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi lang phong tư mỹ lệ, tả hữu thị tùng đông đảo, tiếng đàn ca vang đến hành tại. Âu Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long Quân bèn rước nàng về núi Long Trang. Đế Lai về không thấy Âu Cơ bèn sai quần thần tìm khắp thiên hạ. Long Quân có thần thuật, biến hiện trăm cách, nào là yêu tinh quỷ mị, nào là long xà hổ tượng, kẻ đi tìm úy cụ, không dám lục đảo tận cùng. Đế Lai trở về Bắc, lại truyền ngôi cho Đế Đu, cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền không hơn nên tử trận; họ Thần Nông bèn mất. Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai, nàng đem về nuôi nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại, trí dũng song toàn, ai cũng úy phục, bảo nhau đó là những anh em phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân:

– Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.

Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương Dạ; Âu Cơ nói:

– Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò võ.

Long Quân bảo:

– Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu. Bây giờ phải ly biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy phủ phân trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau.

Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã mà đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu – (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (bây giờ là nước Chiêm Thành), chia trong nước làm mười lăm bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Ninh Sơn, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Quế Dương, Vũ Ninh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Quế Lâm, Tượng Quận, sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng, con trai vua gọi là Quang Lang 35 , con gái gọi là Mỵ Nương, quan Hữu ty gọi là Bồ chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ, xưng thần là khôi, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo, thay đời truyền cho nhau đều hiệu là Hùng Vương không đổi.

Dân ở rừng núi xuống sông ngồi đánh đá, thường bị giao long làm hại nên bạch với vua. Vua bảo rằng:

– Núi là loài rồng cùng với thủy tộc có khác, bọn chúng ưa đồng mà ghét dị cho nên mới xâm hại.

Bèn khiến lấy mực chạm hình trạng thủy quái ở thân thể, từ đó tránh được nạn giao long cắn hại; cái tục văn thân 36 của Bách Việt thực khởi thủy từ đấy. Ban đầu, quốc dân ăn mặc chưa đủ, phải lấy vỏ cây làm áo mặc, dệt cỏ ống làm chiếu nằm; lấy gạo ngâm làm rượu, lấy cây quang lang, cây soa đồng làm bánh; lấy cầm thú, cá tôm làm nước mắm, lấy rễ gừng làm muối; lấy dao cày, lấy nước cấy: đất trồng nhiều gạo nếp, lấy ống tre thổi cơm; gác cây làm nhà để tránh nạn hổ lang; cắt ngắn đầu tóc để tiện vào rừng núi, con đẻ ra lót lá chuối cho nằm; nhà có người chết thì giã gạo để cho hàng xóm nghe mà chạy đến cứu giúp; trai gái cưới nhau trước hết lấy muối làm lễ hỏi, rồi sau mới giết trâu dê làm lễ thành hôn, đem cơm nếp vào trong phòng cùng ăn với nhau cho hết, rồi sau mới thương thông; lúc bấy giờ chưa có trầu cau nên phải thế.

Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.


1Năm 1492, khoảng tháng 2.
2Năm 1492, khoảng tháng 8.
3Năm 1478, khi ấy Vũ Quỳnh 26 tuổi.
4Xã Mộ Trạch, theo Dương Quảng Hàm. (Việt Nam Văn Học Sử Yếu, trang 251, lời chú 22)
5Đăng trong Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême Otieat, lome XXXIV) N° 1-2, pp, 1-174.
6Việt Nam Văn Học Sử Yếu, trang 251.
7Người Trung Hoa đọc 
8Đọc là Trích như thường lệ.
9
10Theo tình trạng tài liệu hiện hữu, khó lòng biết rõ được bản nào là bản chính.
11Xin đọc bài tựa của Vũ Quỳnh.
12Bản chính có 22 truyện.
13Quyển 45.
14Thường gọi tắt là Đăng Khoa Lục, gồm 4 q. tựa đề năm 1779.
15Xem kỹ bài Tựa.
16Xin nhắc lại đây đang nói đến bản chính, nghĩa là bản gồm 22 truyện kể trong quyển 1 và q. 2 ; còn q. 3 là phần của một nho sĩ họ Đoàn.
17Quyển 4, trang 4a.
18Tức là cuốn chưa được Vũ Quỳnh hiệu chỉnh. Tuy là 1 q. nhưng gồm 22 truyện.
19
20Xin xem Bibliographie Amnamite của Gaspardone.
21Maspéro (Protectorat, p.584 n° 1, Etudes, I, p. 26, note).
22Danh từ ghép hai chữ u linh của Lý Tế Xuyên và chữ quái của Trần Thế Pháp để diễn tả một tánh cách kỳ lạ, siêu phàm. Chữ đồng nghĩa ở tiếng Pháp là merveilleux.
23Kiến Văn Tiểu Lục, q. IV, 4a.
24Etudes d’Histoire d’Annam, IV, BEFEO XVIII, 3, p. 6 s.
25Thái Bình Hoàn Vũ Ký, Thủy Kinh Chú.
26La princesse a l’odeur de posson et la nàgi in Etudes Asiatiques, 1925. II, tr. 265 s.
27Vì tinh thần khoa học, Maspéro ít tin vào dã sử, nhưng ông quên rằng Bắc sử cũng có nhiều sự sai lầm. Vì tự tôn, rất có thể người Trung Hoa không cần biết đến Phùng Hưng chẳng hạn.
28Đây là tên sách mà La Bruyère đã đặt: Le Caractères de Théophraste, traduits du grec, avec les Caractères ou les Mœurs de ce siècle.
29Ta liên tưởng đến Les sept travaux du roi Hercule trong thần thoại La-Hy.
30Quyển 37, tờ 4 b, cột 8-12, theo dẫn chứng của René Despierres trong Cổ Loa, Capitale du Royaume Âu Lạc, trang 22.
31Xem Thông Báo, quyển 23 (1924), trang 373-393.
32của Nhạc Sử đời Tống (q. 170, 9).
33của Lịch Đạo Nguyên, viết năm 535 (q. 37s 7).
34của Lý Thạch đời Đường (q. 5)
35Xem nguyên bản viết là 光 .
36Vẽ mình, xâm mình

2. Truyện Ngư Tinh

Trong biển Đông Hải có loài Ngư tinh, mình dài hơn năm mươi trượng, có nhiều chân giống như chân rết, biến hóa vô cùng, linh dị khó dò được; mỗi khi đi đâu thì nổi cơn mưa gió, hay ăn thịt người, ai cũng đều sợ hãi.

Thời thượng cổ có loài cá mặt giống như mặt người, thường đi chơi trên bờ Đông Hải, hóa thành hình người, ngôn ngữ thông hoạt dần dần sinh lớn ra người trai gái, lấy cá tôm, hến ốc làm vật ăn; lại có giống người mọi sinh ở hải đảo lấy sự bắt người làm sinh nhai, cũng thành ra người, cùng với đàn ông đổi chác các phẩm vật như muối gạo, áo quần, dao búa, thường qua lại ở biển Đông Hải; trong có núi Ngư Tinh, miệng, răng nhô ra ngoài bờ biển; ở dưới núi có một chiếc hang lớn, đó là nơi cư trú của Ngư Tinh; thuyền nhân dân qua lại phần nhiều bị hại; phong ba hiểm yếu, họ không có đàng nào mà tránh; muốn mở một lối đi ngả khác thì họ lại gặp cát đá không thể nào đào được.

Một đêm kia, có tiên xuống moi đá làm kênh cho sự thông hành của loài người được tiện lợi; kênh sắp được đào xong thì Ngư Tinh hóa ra một con gà trắng gáy ở trên núi; quần tiên nghe thấy ngỡ là trời gần sáng nên đều tự nhiên bay đi hết, nay gọi là đường Phật.

Đào Kinh Long 1 thương dân bị hại mới làm một con thuyền lớn, ra lệnh cho Thủy Dạ Xoa cấm thần biển không được làm gió sóng, chèo thuyền đến núi Ngư Tinh, giả đem một người đến cho Ngư Tinh ăn; Ngư Tinh há miệng toan nuốt thì liền có một khối sắt nướng đỏ liệng vào trong miệng; Ngư Tinh vùng vẫy nhảy đến đánh thuyền; Long Quân chém được khúc đuôi, lột da treo lên trên núi, nay gọi là Bạch Long Vỹ; khúc đầu trôi ra ngoài biển, hóa ra chó mà chạy mất; Long Quân lấy đá lấp biển thì chém được, nó bèn hóa ra đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu; khúc mình trôi vào Man Cầu, nay gọi là Cẩu Man Cầu là bởi đó vậy.


1hay Lạc Long Quân.

3. Truyện Hồ Tinh

Thành Thăng Long ngày xưa gọi là đất Long Biên, đời Thượng cổ đã có người ở rồi. Đến đời vua Lý Thái Tổ chèo thuyền ở bến sông Nhị Hà, có hai con rồng dẫn thuyền đi, nhân đó mới đặt tên là Thăng Long và đóng đô ở đấy, tức là kinh thành ngày nay vậy.

Buổi đầu, chỗ đất này về phía Tây có một ngọn núi đá, dưới núi có một cái hang, có một con hồ chín đuôi sống hơn một nghìn năm thành ra yêu quái, biến hóa vạn trạng, có lúc hóa người, lúc hóa khỉ, đi khắp cả nhân gian. Lúc bấy giờ ở dưới chân núi Tản Viên có giống người mọi gác cây kết cỏ mà ở; trên núi có một vị thần được người mọi phụng thờ. Vị thần ấy dạy cho người mọi cày ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, nhân đó gọi là Bạch y man 1. Hồ chín đuôi hóa ra người áo trắng nhập vào trong bọn mọi, cùng lũ mọi ca hát, dụ dỗ được người con trai con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá; người mọi lấy làm khổ sở về việc ấy. Long Quân mới sai bộ hạ Thủy phủ dâng nước lên đánh phá núi Tiểu Thạch Sơn, đào thành một cái đầm lớn, chính giữa thành có một chiếc vực sâu, gọi là Thi Hồ Trạch (nay là hồ Tây) rồi lập chùa quán để trấn yểm nữa (nay là Thiên Niên quán); bờ phía Tây bên đầm thì đồng nội bằng phẳng, ruộng ao cày cấy, gọi là Lỗ Hồ Động. Chỗ nào cao ráo thì đều có dân cư, tục gọi là Hồ thôn. Còn cái hang nay gọi là Lỗ Hồ Đàm vậy.


1Mọi áo trắng.

4. Truyện Mộc Tinh

Thuộc địa giới Phong Châu, về đời thượng cổ có một cây đại thụ tên là Chiên Đàn, thân cao nghìn tầng, cành lá sum sê không biết mấy nghìn dặm, có chim thước làm ổ ở trên cây nên chỗ đất ấy đặt tên là Bạch Hạc. Cây Chiên Đàn trải qua không biết mấy nghìn năm đến khi khô hủ thì hóa làm yêu tinh, biến hiện dũng mãnh, hay thương sót nhân dân.

Kinh Dương Vương dùng thần thuật thắng được yêu tinh, nhưng yêu tinh nay ở chỗ này, mai ở chỗ khác, biến hóa bất trắc, thường ăn người sống, dân phải lập đền thờ mà cầu đảo. Mỗi năm đến ngày ba mươi tháng Chạp dùng một người sống làm lễ tế thì con tinh ấy mới chịu thôi, mà nhân dân cũng được yên ổn, tương truyền với nhau là Thần Xương Cuồng. Địa giới phía Tây nam gần nước Mi Hầu, người trong nước khiến Bà Lộ Man (nay là Phủ Diễn Châu) cướp lấy một người Lào nạp làm lễ tế, năm nào cũng lệ thường như vậy. Kịp đến khi Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao sang làm quan Lệnh Long Xuyên, Nhâm Ngao đổi cái lệ đó, cấm không được đem người sống mà tế. Than giận, thần giết đi, từ đó về sau sự tế thần lại càng kính cẩn. Đến đời Đinh Tiên Hoàng, có một Pháp sư tên là Dũ Văn Mâu người Tàu, tu hành chín chắn, tuổi hơn bốn mươi, đã chu du các nước, thông hiểu nhiều ngôn ngữ, tập được phép nanh vàng răng đồng, khi sang đến nước ta thì đã tám mươi tuổi; Tiên Hoàng lấy lễ thường mà đãi đằng. Dũ Văn Mâu dạy lấy kỹ thuật phỉnh thần Xương Cuồng rồi giết đi. Phép ấy gọi là: Thượng kỵ, Thượng can, Thượng thát, Thượng toái, Thượng câu, Thượng hiểm, hoặc làm người ngã ngựa, hoặc làm đứa con hát, mỗi năm đến tháng mười một, làm một cái Phi lâu cao mười hai trượng, giữa trong một cây cọc, rồi lấy gai đánh một sợi dây lớn, dài một trăm ba mươi sáu trượng ba thước, lấy mây chẻ nhỏ vấn ra ngoài, hai đầu mối dây chôn cứng dưới đất, đoạn giữa gác lên trên cọc, Thượng kỵ là đạp trên dây, đi mau hai ba dạo mà không ngã, đầu bịt khăn đen mình mặc quần đen. Thượng can là lấy sợi dây dài một trăm năm mươi trượng, có ba ngả, hai người cầm cờ đi lên trên sợi dây, hễ gặp nhau ở ngã ba thì tránh đi, lên xuống không ngã. Hoặc làm phép Thượng thát là lấy cây gỗ lớn vuông vắn một thước ba tấc, bề dày bảy phân, đặt lên trên một cây cao mười bảy thước, Thượng thát ở trên bay nhảy hai ba lần, tới lui nghiêng ngửa. Hoặc làm phép Thượng toái là lấy tre đan một cái lồng hình như nơm cá, dài ba thước, chu vi bốn thước, Thượng toái gieo mình vào trong, đứng dậy mà không ngã. Hoặc làm phép Lạc mã là người cỡi trên ngựa cho ngựa phi, rồi cúi mình xuống lấy vật để trên mặt đất mà không ngã. Hoặc làm pháp Thượng can, Thượng hiểm là một người nằm ngửa, lấy chân đỡ cái sào dài, khiến đứa trẻ leo lên. Hoặc làm phép Xướng nghi là hội trẻ nhỏ lại đánh chiêng trống, rồi ca vũ ngâm xướng ồn ào huyên náo và giết sinh vật để tế thần. Thần tinh đến ăn và xem các trò; Pháp sư niệm bí chú, tuốt gươm chém đi. Thần Xương Cuồng và tất cả bộ hạ đều bị giết hết.

Từ đó miễn được cái họa dâng người hằng năm, mà sinh hoạt của nhân dân được bảo toàn vậy.

5. Truyện trầu cau

Đời thượng cổ có một chàng tên là Quang Lang 1 , trạng mạo cao lớn, Quốc vương cho họ là Cao, nhân lấy chữ Cao làm họ, sinh được hai trai, người đầu tên là Tân, người thứ tên là Lang, học với thầy Đạo sĩ họ Lưu.

Nhà họ Lưu có một người con gái, tuổi chừng mười bảy hay mười tám muốn tìm đôi bạn, nhưng không biết người nào là anh em, bèn bưng một bát cháo và một đôi đũa mời hai người ăn để xem ai là anh ai là em. Thấy người em nhường cho người anh ăn trước, nàng bèn ghi nhớ lấy, đem tình thực trình bày với cha mẹ. Cha mẹ gả cho người anh kết làm vợ chồng, tình ái càng ngày càng thân mật.

Sau đấy, người em thấy anh đãi xử với mình không bằng lúc xưa, đem lòng hờn giận mới bỏ anh mà đi. Đi đến một nơi thôn dã bỗng gặp một cái suối lớn; không có thuyền để sang ngang, người em ngồi một mình khóc ròng rồi chết hóa thành một cái cây. Đến khi người anh mất em mới bỏ vợ đi tìm thì thấy em đã chết bèn gieo mình bên gốc cây, mà tự tận hóa thành một tảng đá quẩn quanh gốc cây. Sau đấy, người vợ lấy làm lạ sao chồng mình đi đã lâu mà không thấy về liền bỏ đi tìm, thấy chồng đã chết, nàng cũng gieo mình ôm lấy tảng đá mà chết luôn, hóa ra một sợi dây leo vấn vít trên đá, ngọn lá mùi thơm và cay. Cha mẹ Lưu Thị đi tìm con, đến đó cũng than khóc, rồi lập đền ở chỗ ấy mà thờ, người đương thời đi qua đấy, ai cũng đốt nhang vái lạy, khen là anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa.

Trong khoảng tháng Bảy, tháng Tám, khí nóng còn nồng, Hùng Vương đi tuần hành thường nghỉ chân ở đây để tránh nắng. Trông thấy trước đền im mát, dây lá phủ trùm, Vương lên tảng đá đứng ngắm nghía, hỏi ra mới biết công việc như thế, Vương lập tức bảo cận thần hái một trái cây và hái một lá dây leo, Vương thân nhai đi rồi nhổ trên đá, thấy có sắc đỏ tươi biết là vị ngon mới lấy đem về, bảo lấy đá lửa nung đá làm vôi, cùng với trai cây, lá dây hợp làm một mà ăn, thấy vị ngọt béo, thơm cay, môi mép sinh đỏ, mới truyền ban ra thiên hạ, phàm những lễ giá thú, hội đồng lớn nhỏ, đều phải lấy vật này làm trước. Từ bấy giờ nước Nam có tục ăn trầu cau là bắt đầu từ đấy vậy.


1Xem nguyên văn.

6. Truyện đầm Nhất Dạ [1]

Hùng Vương truyền ngôi đến vua cháu ba đời, có sinh được một người con gái tên là Tiên Dung Mỵ Nương, tuổi vừa mười tám, dung mạo tú lệ, nguyện không lấy chồng, chỉ thích ngao du thiên hạ. Vương chiều mà nghe theo. Mỗi năm khoảng tháng Hai, tháng Ba, nàng sửa soạn thuyền ghe, lênh đênh ngoài biển, vui chơi quên cả ngày về.

Lúc bấy giờ Chử Xá Lang 2 có người tên là Chử Vy Vân sinh được một người con trai tên là Chử Đồng Tử, hai cha con tính vốn hiền lành, nhà nghèo lại gặp nhà cháy, của cải khánh tận chỉ còn một cái khố vải, cha con ra vào thay đổi nhau mà mặc. Bị bệnh già, cha bảo con rằng:

– Ta chết thì chôn lỗ cũng được, để cái khố lại cho con mặc kẻo xấu hổ.

Cha chết, người con không nỡ làm thế, cứ để cả khố mà chôn. Chử Đồng Tử bấy giờ thân hình trần truồng, lạnh đói khôn xiết, mới cầm cần câu đi đến bờ sông câu cá, trông thấy thuyền buôn đi qua, đứng vào giữa nước mà xin ăn. Nào ngờ thuyền của Tiên Dung bỗng đến đó; nghe thấy tiếng chuông trống đàn sáo, thấy những nghi trượng cờ xí, Đồng Tử sợ hãi, không biết trốn tránh vào đâu, trông thấy trong bãi phù sa có chồm lau sậy, lơ thơ năm ba gốc, bèn ẩn thân vào đó, đào cát thành huyệt để giấu mình, lại lấy cát vùi lên trên. Giây lát, thuyền của Tiên Dung ghé vào đó; nàng dạo chơi trên bãi cát, truyền lấy mùng màn vây kín cả chỗ lau sậy để tắm. Tiên Dung vào trong màn, cởi áo múc nước dội tắm; cát chảy, thân hình Đồng Tử lộ ra, hồi lâu Tiên Dung biết là con trai. Tiên Dung nói:

– Ta đã không thích lấy chồng, nay lại gặp người này ở trong huyệt cát, có lẽ trời khiến thế chăng? Thôi ngươi hãy dậy mà tắm rửa đi.

Rồi ban cho áo quần, cùng nhau xuống thuyền ăn uống hoan lạc; người trong thuyền đều cho là một sự gặp gỡ tốt lành xưa nay chưa từng có. Đồng Tử nói rõ sự tích cho Tiên Dung nghe; Tiên Dung thương xót, bảo làm vợ chồng. Đồng Tử cố từ. Tiên Dung nói:

– Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?

Những người tháp tùng đem việc ấy lâu lên với Hùng Vương; Hùng Vương giận bảo rằng:

– Tiên Dung không biết trọng danh tiết, không biết tiếc tiền của ta, đi chơi giữa đường lại hạ giá 3 với người nghèo, còn mặt mũi nào mà thấy ta nữa; từ nay mặc kệ nó, không cho trở về nước nữa.

Tiên Dung nghe tin, sợ không dám trở về mới cùng với Đồng Tử mở chợ búa, lập phố sá, cùng nhân gian mậu dịch, dần dần nơi ấy thành một ngôi chợ lớn (nay là chợ Hà Lõa); thương nhân ngoại quốc qua lại buôn bán, kính sự Tiên Dung Đồng Tử làm chủ; có một nhà đại thương đến nói với Tiên Dung rằng:

– Quý nhân xuất ra một thoi vàng, năm nay cùng với người nhà buôn ra ngoài biển mà mua vật quý, sang năm sẽ lời được một thoi.

Tiên Dung bảo Đồng Tử rằng:

– Vợ chồng ta do trời định khiến, ăn mặc là của trời cho, bây giờ nên lấy một thoi vàng cùng với người nhà buôn đi ra biển mà mua hàng đem về làm kế sinh nhai.

Đồng Tử bèn cùng đi với người nhà buôn; ngoài biển có một hòn núi tên là Quỳnh Viên Sơn; trên núi có một chiếc am nhỏ, người đi buôn ghé thuyền ở đấy mà múc nước; Đồng Tử lên chơi trên am, có một tiểu tăng tên là Phật Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử mới lưu lại am nghe thuyết pháp, giao vàng cho người đi buôn mua hàng, dặn lúc nào trở về thì ghé lại am để chở Đồng Tử về. Nhà sư mới tặng cho Đồng Tử một cái gậy và một cái nón, bảo rằng:

– Linh thông tại đây dó.

Đồng Tử trở về, đem chuyện đạo Phật nói hết với Tiên Dung, từ đó giác ngộ, bỏ chợ búa, nghề buôn, đem nhau đi tìm thầy học đạo. Một hôm trời đã tối mà chưa đến nhà trọ, họ mới ở lại giữa đường, cắm gậy úp nón lên trên để che. Đêm đến canh ba, thấy hiện ra thành quách, lầu son đền báu, đài các lăng miếu, kho tàng miếu xã, vàng bạc châu ngọc, chiếu giường mùng màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ la liệt đầy ở trước mặt. Sáng ngày, ai trông thấy cũng lấy làm kinh dị, tranh nhau đem những vật hoa hương ngọc thực đến dâng hiến và xưng thần. Văn võ bá quan phân quân túc vệ, biệt lập thành một nước.

Hùng Vương hay tin cho là con gái mình làm loạn mới phát binh đi đánh; quan quân đến rồi, quần thần xin phân quân án ngữ. Tiên Dung cười rằng:

– Chuyện này không phải tự ta làm ra, cũng là trời giun giủi; sinh tử tại thiên, ta đâu dám chống cha, phải thuận chịu điều chính, chờ lệnh chém giết.

Lúc bấy giờ những người mới tập hợp sợ hãi mà chạy tán loạn, chỉ còn bọn người cũ ở lại với Tiên Dung. Quan quân kéo đến đóng doanh ở bãi Tự Nhiên, chỉ còn cách một con sông lớn; ngày sắp tối nên chưa kịp tiến binh. Chừng đến nửa đêm, hốt nhiên gió lớn thổi làm nổi sóng đổ cây; quan quân đại loạn; bộ đảng, thành quách của nàng Tiên Dung nhất thời nhổ đi bay lên trời; đất ở chỗ ấy sập xuống thành một cái đầm lớn. Sáng ngày, dân gian trông không thấy thành nữa, cho là linh dị bèn lập miếu đường, thời thường đến tế, gọi đầm ấy là Nhất Dạ Trạch, châu ấy là Man Trù Châu (hoặc gọi là Tự Nhiên Châu), chợ ấy là Hà Lõa Thị. Sau đến đời Nam Đế, binh nhà Lương sang xâm chiếm nước ta, vua sai Triệu Quang Phục làm tướng đem binh ngăn giữ. Quang Phục suất chúng 4 tàng ẩn ở trong đầm, cái đầm ấy sâu rộng bùn lầy, khó bề tiến lui; Quang Phục cỡi chiếc thuyền độc mộc qua lại cho tiện, thường nhân đêm tối, cỡi thuyền độc mộc mà đột xuất đánh phá cướp lấy lương thực, làm kế trì cửu cho giặc kiệt quệ. Ba bốn năm trường giặc không đánh được. Bá Tiên than rằng:

– Đời xưa gọi là đầm nhất dạ thăng thiên, ngày nay lại là cái đầm nhất dạ đạo kiếp.

Gặp lúc Hầu Cảnh tác loạn bên Trung Hoa, vua Lương triệu Bá Tiên về, ủy quyền cho tỳ tướng Dương Sằn thống lĩnh quần chúng.

Quang Phục trai giới thiết đàn ở trong đầm, đốt hương cầu đảo. Thoát thấy thần nhân cỡi rồng giáng xuống giữa đầm, bảo Quang Phục rằng:

– Ta lên trời nhưng linh dị còn ở đây, người có lòng thánh cầu đảo, ta đến giúp để bình loạn tạc.

Rồi cởi vuốt rồng đưa cho Quang Phục bảo giắt vào đầu đâu mâu, hễ đánh đâu là được đó. Nói đoạn lại bay lên trời; Quang Phục y như lời dặn đem binh đột kích, binh Lương đại bại, chém được tướng Dương Sằn ở trận tiền, binh Lương lui chạy.

Quang Phục nghe tin Nam Đế mất, bèn tự lập lên làm Triệu Vương, đóng đô ở quận Vũ Ninh núi Trâu Sơn. 5


1Đầm Một Đêm.
2Làng Chử Xá.
3Lấy một người dưới.
4Điều khiển một số người.
5Nghe giọng văn thì truyện Triệu Quang Phục khó lòng là một truyện có thực. Có lẽ là một truyện như các truyện khác, do óc tưởng tượng của nhà văn sáng tạo ra.

7. Truyện Đổng Thiên Vương

Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ thái bình, dân vật đầy đủ, Ân Vương lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm nước ta.

Hùng Vương nghe được mới triệu quần thần hỏi về kế hoạch đánh hay giữ. Có nhà phương sĩ dâng lời nói rằng:

– Không gì bằng cầu Long quân để nhờ âm phù.

Hùng Vương nghe theo mới đắp đàn trai giới, đặt vàng bạc lụa là ở trên bàn, đốt hương cầu tế ba ngày thì trời cảm sấm mưa, thoắt thấy một ông già cao hơn sáu thước mặt vuông, bụng lớn, râu mày bạc phơ, ngồi ở ngã ba mà nói cười ca múa; người ta trông thấy, ngờ là người phi thường mới tâu với vua. Vua thân hành ra bái yết, rước vào trong đàn; ông già không ăn uống, không nói năng gì cả.

Hùng Vương đến trước hỏi rằng:

– Nay binh nhà Ân sắp sang đánh, hơn thua ra sao, nếu có kiến thức gì xin bày cáo cho.

Ông già giây lát mò thẻ ra bói, thưa với vua rằng:

– Sau ba năm giặc mới qua đánh.

Vua lại hỏi kế hoạch để đánh giặc, ông già đáp rằng:

– Nếu có giặc đến thì phải nghiêm chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ tốt để cho nước có uy thế, rồi tìm khắp thiên hạ có ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp, hễ được người ấy thì dẹp được giặc ngay.

Nói đoạn, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân.

Vừa đúng ba năm, biên binh cáo cấp có quân Ân sang, Hùng Vương y theo lời nói của lão nhân, sai sứ đi khắp thiên hạ để tìm người dẹp giặc.

Sứ giả đến làng Phù Đổng, quận Vũ Ninh, trong làng có một ông nhà giàu đã hơn sáu mươi tuổi mới sinh được một người con trai ba tuổi không biết nói, chỉ nằm ngửa không ngồi dậy được. Bà mẹ nghe Sứ giả đến, nói bỡn với con rằng:

– Sinh được thằng nay thì chỉ biết ăn uống chớ không biết đánh giặc để lĩnh thưởng của triều đình mà đền ơn bú mớm.

Đứa trẻ nghe mẹ, thình lình nói lên rằng:

– Mẹ hãy gọi sứ giả vào đây, con hỏi thử xem là việc gì.

Bà mẹ cả kinh, mừng rỡ bảo với xóm làng:

– Con tôi đã biết nói.

Xóm giềng cũng lấy làm lạ mới rước sứ giả về nhà; Sứ giả hỏi rằng:

– Mầy là đứa trẻ mới biết nói mà bảo kêu ta đến làm gì?

Đứa trẻ mới ngồi dạy bảo sứ giả rằng:

– Lập tức về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao mười tám thước, một gươm sắt dài bảy thước, một cái nón sắt, trẻ này cỡi ngựa, đội nón đi đánh giặc cho, giặc sẽ phải tan tành, nhà vua việc gì mà lo.

Sứ giả chạy về trình cáo với vua. Vua mừng bảo rằng:

– Thế thì ta không lo gì vậy.

Quần thần đều tâu:

– Một người đánh giặc làm sao mà phá nổi?

Vua nói:

– Đó là Long Quân giúp ta, lời lão nhân đã nói trước không phải là nói không, các ngươi không nên ngờ.

Rồi sai tìm sắt cho được mười cân luyện thành ngựa sắt, gươm sắt và nón sắt; Sứ giả đem tất cả đến; bà mẹ thấy thế cả kinh, sợ họa đến cho mình, lo sợ hỏi con.

Đứa trẻ cả cười nói rằng:

– Mẹ đem cơm thật nhiều cho con ăn, con đi đánh giặc, mẹ dừng lo sợ.

Rồi đứa trẻ lớn rất mau, áo cơm hằng ngày bà mẹ cung cấp không đủ; hàng xóm nấu thêm cơm; làm thịt trâu, rượu, bánh, trái, thế mà đứa trẻ vẫn không no bụng; vải lụa gấm vóc mặc chẳng kín hình, đều phải lấy thêm hoa cây lô mà che nữa.

Đến khi quân nhà Ân kéo đến Trâu Sơn, đứa trẻ mới duỗi chân đứng dậy, mình cao hơn mười trượng, nghểnh mũi mà nhẩy, nhẩy mũi hơn mười tiếng rồi tuốt gươm nói lớn lên rằng:

– Ta là Thiên tướng đây!

Bèn đội nón nhảy lên ngựa, ngựa phi như bay, múa gươm xông đến trước, quan quân theo sau đến sát lũy giặc, dàn trận dưới núi Trâu Sơn. Quân Ân cả vỡ, trở giáo chạy lùi, Ân Vương chết ở Trâu Sơn, còn dư đảng thì la liệt sụp lạy và hô rằng:

– Thiên tướng, chúng tôi hết thảy xin đầu hàng.

Đứa trẻ đi đến núi Việt Sóc mới cởi áo mặc rồi cỡi ngựa bay lên trời, chỉ lưu dấu chân trên đá ở dưới núi mà thôi.

Hùng Vương, nhớ đến công lao, không biết lấy gì đền báo mới tôn làm Phù Đổng Thiên Vương, lập đền thờ ở vườn nhà làng ấy, cho ruộng một trăm khoảnh để làm lễ hưởng tế xuân thu.

Đời nhà Ân hai mươi bảy vua, trải qua sáu trăm bốn mươi năm, không dám đem binh sang đánh nữa.

Man di bốn phương nghe được như vậy cũng đều thần phục, về phụ với Vương. Sau vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Thần Vương, lập miếu tại làng Phù Đổng (nay ở huyện Tiên Du) bên chùa Kiến Phúc, tạc tượng ở núi Vệ Linh, xuân thu đều có lễ tế vậy.

Có bài thơ rằng:

Vệ Linh năm tháng đám mây nhàn.

Muôn tía nghìn hồng chói thế gian.

Ngựa sắt ở trời, danh ở sử.

Uy linh lừng lẫy khắp giang san.

8. Truyện bánh chưng

Sau khi Hùng Vương đã phá giặc Ân rồi, trong nước thái bình mới lo việc truyền ngôi cho con, hội hai mươi hai vị Công tử lại mà bảo rằng:

– Ta muốn truyền ngôi cho đứa nào làm vừa lòng ta là đến kỳ cuối năm biết đem trân am mỹ vị đến dâng cúng Tiên vương để tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho.

Các công tử lo đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc mua ở chợ, vụ được nhiều của ngon vật lạ không biết bao nhiêu mà kể. Duy có công tử thứ chín tên là Lang Liệu, bà mẹ hàn vi đã lâm bệnh mà quá cố rồi, tả hữu lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm thao thức ăn ngủ không yên.

Hốt nhiên mộng thấy thần nhân bảo rằng:

– Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là của để nuôi dân, người ta ăn mãi không chán, không có vật gì đứng trước được; nếu lấy gạo nếp hoặc gói làm hình tròn để tượng trời, hoặc gói làm hình vuông để tượng đất, ở trong làm nhân cho thật ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý cái ơn trời đất phát dục vạn vật, như thế thì lòng cha sẽ vui, tôn vị chắc được.

Lang Liệu kinh sợ tỉnh dậy, mừng rằng: “Thần minh giúp ta, ta nên bắt chước theo mà làm”.

Lang Liệu mới lựa hột nếp nào trắng tinh, hoàn toàn không sứt mẻ thì đem vút đi, để cho ráo rồi lấy lá chuối gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem nấu đi cho chín, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho thực nhuyễn, nắn làm hình tròn để tượng hình trời, gọi là bánh dày,

Đúng kỳ, Vương hội các con lại trưng bày phẩm vật; các con đem dâng không thiếu thức gì, duy chỉ có Lang Liệu đem bánh tròn, bánh vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liệu. Lang Liệu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vương thân hành nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không sao hơn được. Vương khen ngợi giây lát, rồi cho Lang Liệu được giải nhất.

Năm hết, Vương dùng bánh ấy dâng lên Tiên Miếu và cung phụng cha mẹ, thiên hạ bắt chước truyền đến bây giờ, lấy tên của Lang Liệu để gọi là Tiết Liệu.

Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liệu; hai mươi mốt anh em đều giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, cứ thủ núi sông để làm hiểm cố.

Về sau, họ hằng tranh nhau làm trưởng, mỗi người dựng mộc sách để che kín bởi vậy gọi là sách, là trại, là trang, là phường khởi thủy từ đấy vậy.

9. Truyện dưa hấu

Ngày xưa, đời Hùng Vương có một người tên là Mai An Tiêm, người ngoại quốc, mới được bảy tuổi, do thuyền buôn chở đến. Vương mua về làm đầy tớ, kịp lúc lớn lên thì diện mạo đoan chính, nhớ biết nhiều việc.

Vương đặt tên là Yển, tên chữ là An Tiêm và cho một người thiếp, sinh được một trai, Vương yêu dùng để sai bảo, dần dần Yển thành phú quý, ai cũng úy phục, và chen nhau đến dâng lễ vật không thức gì là không có; Yển sinh ra kiêu mạn, thường tự bảo rằng:

– Của cải này là vật tiền thân của ta, ta không từng trông nhờ vào ơn chúa.

Hùng Vương nghe được, cả giận nói rằng.

– Làm thần tử mà nó không biết ơn chúa, sinh ra kiêu mạn, nói rằng của cải đều là vật tiền thần của nó. Bây giờ ta đem bỏ nó ra ngoài biển, ra cái chỗ không người ấy coi thử nó có còn cái vật tiền thân của nó nữa hay không?

Bèn đày Mai Yển ra ngoài bãi cát cửa biển Nga Sơn, tứ phía không có dấu chân người đi đến, chỉ để cho lương thực đủ dùng trong bốn năm tháng mà thôi, ăn hết là chết đói. Chị vợ khóc ầm lên, bảo rằng ta chắc chết ở đây không lý gì sống được.

Tiêm nói:

– Trời đã sinh thì trời phải dưỡng, có lo gì?

Ở chưa bao lâu, đương lúc tháng Tư, bỗng thấy một con bạch hạc từ phương tây bay lại, đậu lên một mỏm núi cao, kêu lên ba bốn tiếng thì sáu bảy hạt dưa rơi trên mặt cát, đâm chồi nẩy lộc, lan trên cát, xanh tốt rườm rà, rồi kết thành trái dưa, nhiều không kể xiết.

An Tiêm mừng rỡ nói:

– Đây đâu phải là quái vật, đó là trời cho để nuôi ta đó.

Bổ dưa ra ăn thì mùi vị thơm tho ngọt ngào, ăn vào thì tinh thần khỏe khoắn; rồi cứ mỗi năm trỉa thêm, ăn không hết thì đem đổi lấy lúa gạo nuôi vợ con. Nhưng không biết dưa ấy tên là gì, mới nhân chim tha từ phương tây đem đến nên đặt tên là Tây qua.

Nhưng khách chài lưới, buôn bán, ưa mùi vị của nó đều đem phẩm vật của mình để đổi lấy dưa. Nhân dân xa gần, trên rừng dưới bến tranh nhau mua hạt, bắt chước trong tỉa khắp bốn phương; dân gian suy tôn An Tiêm làm “Tây qua phụ mẫu”.

Lâu ngày, Vương nhớ đến An Tiêm, sai người đến chỗ An Tiêm ở hỏi thăm có còn sống hay không.

Người ấy về tâu lại với Vương. Vương than thở hồi lâu mới nói rằng:

– Nó bảo là vật tiền thân của nó, thực là không nói dối vậy.

Vương bèn triệu An Tiêm về, trả quan chức lại và cho tỳ thiếp, đặt tên chỗ An Tiêm ở là “An Tiêm Sa Châu”; thôn ấy gọi là Mai An, đến nay còn lấy tây qua tôn phụng tổ khảo mà tế tự, là khởi đầu từ An Tiêm vậy.