Tắt đèn – Chương I

Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò lục-tục kéo thợ cầy đến đoạn đường phía trong điếm tuần.

Mọi ngày, giờ ấy, những con-vật này cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần-lượt đi mò ra ruộng làm việc cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải-rác ở hai vệ đường, giống như một lũ phu vờ chờ đón những ông quan lớn.

Dưới bóng tối của rặng tre um-tùm, tiếng trâu thở hì-hò, tiếng bò đập đuôi đen-đét, sen với tiếng người khạc khúng-khắng.

Cảnh-tượng điếm tuần thình-lình hiện ra trong ánh lửa lập-lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh giẫy sào, giáo ngả nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần-phu lố-nhố ngồi trên lớp chiếu quằn-quèo. Có người phì-phò thổi mồi. Có người ve-ve mồi thuốc và chìa tay chờ đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người đang hai tay dụi mắt. Cũng có người gối đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu, ngảnh mặt vào vách mà ngáy.

Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm, sáu người chuyền tay, chiếu đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt, trong điếm chỉ còn tiếng nói chuyện rầm-rầm.

Gà gáy giục. Trời sáng mờ-mờ.

Trâu bò, con đứng, con nằm, thi nhau quai hai hàm răng nhai trầu xuông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái trứng.

Thợ cầy khắp lượt dùng bắp cầy, vai cầy làm ghế ngồi, cùng nhau bàn tán băng-cua về chuyện sưu thuế.

Những con chèo-bẻo chẽo-choẹt hót trên ngọn tre, như muốn họa lại khúc ca réo-rắt – mà người quê vẫn gọi là khúc “váy cô, cô cởi” – của mấy con chào-mào đậu trên cành xoan, đon-đả chào vẻ tươi đẹp của cảnh trời buổi sáng.

Toang cổng vẫn đóng chặt. Tuần-phu lại lần lượt thổi mồi hút thuốc lào.

– Ông Trương ơi, ông làm ơn mở cổng cho tôi đánh trâu ra đồng ạ. Mọi ngày bây giờ tôi đã cầy được ba sào ruộng rồi. Hôm nay, bây giờ còn nhong-nhóng ở đây… Phỏng chừng từ giờ đến trưa, cầy sao cho xong cái ruộng mẫu hai? Thôi ông làm phúc, làm đức…

Sau tiếng năn-nỉ của anh chàng cục-mịch, vai vác cầy, tay cầm thừng trâu, trương-tuần quẳng cái điếu cầy xuống đất, thở nốt khói thuốc trong miệng, rồi giương đôi mắt say thuốc lờ-đờ:

– Nay chẳng xong thì mai! Ông Lý đã bảo thuế còn thiếu nhiều, không cho một con trâu, con bò nào ra đồng hết thảy…

– Thưa ông, ông chủ tôi nóng tính lắm kia! Ông ấy đã dặn buổi nay tôi phải cầy cho xong ruộng ấy, nếu không xong, đến trưa về ăn cơm, ông ấy mắng như tát nước và nói như móc cơm ra… Chớ tôi có muốn vất-vả vào mình làm gì? Vả lại, ông Lý sai tuần đóng cổng, cốt để bắt trâu, bắt bò của người thiếu thuế kia chứ! Ông chủ tôi nộp thuế đủ từ hôm qua rồi, xin ông mở cổng cho tôi…!

Trương-tuần nhăn mặt:

– Tôi không phải tộc-biểu, không phải phần thu, biết điếc gì đâu ông chủ anh nộp thuế rồi hay chưa nộp. Bây giờ mở cổng cho anh, chốc nữa ông Lý ông ấy chửi cha tôi lên, anh có-nghe hộ tôi không?

Anh chàng cục-mịch lủi-thủi đánh trâu gồng cầy lùi xuống, để nhường khu đất trước điếm cho người khác vác bừa và đuổi trâu lên.

– Người ta trâu của nhà, ông chẳng cho ra thì chớ. Ðây tôi, trâu thuê… đồng hai một buổi đáp, ông ạ. Xin ông lượng tình mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng kẻo trưa quá mất rồi.

Người ấy nói tuy thiết-tha, trương-tuần chỉ đáp lại bằng cái lắc đầu:

– Nếu trưa quá thì bừa luôn đến chiều. Trâu thuê sợ gì!

– Thế được thì còn gì nói truyện gì nữa! Của một đống tiền, ai để cho mình ốp nó đến chiều? Chỉ đến non trưa, ông chủ có trâu cho thuê đã ra tận ruộng tháo vai trâu mà dắt trâu về, muốn bừa thêm một nửa đường nữa cũng không cho, ông ạ. Thôi! Mùa làm ăn, ông nghĩ lại…!

– Tôi chẳng nghĩ lại, nghĩ đi gì cả! Bố tôi sống lại, bảo tôi mở cổng này bây giờ, tôi cũng xin chịu đừng nói anh…

Người ấy lại vác bừa, đưa trâu trở lại chỗ cũ với cái sắc mặt thìu-thịu.

Mặt trời ngấp nghé mặt lũy, muốn nhòm vào điếm. Tuần-phiên lẻ-tẻ vác sào, cắp chiếu, đeo hiệu đi về. Trong điếm chỉ còn trương-tuần duỗi gối kiểu gọng bừa, ngồi trên chiếc chiếu điểm những tro mồi, bã điếu, đốc suất mấy tên đàn em ở lại canh ngày.

Xa xa nẻo trong đình, một hồi mõ cá thật dài, tiếp luôn đến trống ngũ-liên nện đủ ba hồi chín tiếng.

Như có vẻ kinh ngạc về những thứ hiệu lệnh dữ dội, mấy con trâu bò đanh nằm còng queo trên đường, đồng thời lóp-ngóp đứng dậy.

– Mẹ cha chúng nó! Hôm nay vẫn chưa đóng thuế, chúng nó định để tội vạ cho ai? Ðược! Cứ bướng đi, ông mà bắt hết trâu bò bán ráo!…

Tiếng chửi om-sòm như giục mấy chục cặp mắt ngơ-ngẩn của bọn cầy đều phải nghiêng về phía đình. Ông lý nách cắp cuốn sổ, một tay cầm cây gậy song, một tay xếch đôi ống quần móng lợn, vừa đi vừa ra phía điếm tuần vừa thét mắng những người chậm thuế.

Ðã năm hôm nay, nghĩa là sau khi bài-bổ trình phủ đã giao về với một chữ “y”, Lý-trưởng Ðông-xá ngày nào cũng vất-vả về thuế.

Ðầu tiên hắn còn cho mõ đi rao. Rồi đến tộc-biểu, phần thu đi hỏi. Rồi đến đầy-tớ của hắn đưa đầy-tớ chánh-tổng đi thúc từng người. Trong năm ngày nay, ngày nào cũng vậy, mõ cá, trống thúc liên hồi, hiệu ốc, hiệu sừng thổi inh-ỏi. Suốt từ sáng sớm cho tới tối mịt, trong làng lúc nào cũng như đám đánh cướp. Bây giờ đã gần đến ngày đổ thuế, công việc càng gấp. Hôm qua hắn đã lên phủ, xin với ông phủ phái cho một người cai lệ và hai người lính cơ về làng để trừng-trị những kẻ bướng-bỉnh.

Nhờ có cái thần-thế ấy, hắn mới chửi rỡ, thét mắng khắp làng cho oai.

Thợ cầy và tuần-phu đều biết cái hách- dịch của ông Lý, ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi chùm chửi lợp bằng sự nín im.

Trâu, bò nhiều con vẫy tai như muốn chào một người chức-việc chăm-chỉ phận-sự trong khi người ấy qua trước mặt chúng.

Bước lên sàn điếm, Lý-trưởng quăng tạch cuốn sổ xuống sàn, giơ tay chỉ vào mặt mấy tên đàn em:

– Hiệu không thổi, để làm sỏ bố chúng bay à?

Một hồi còi tu-tu đồng thời nổi lên, hiệu sừng sen với hiệu ốc theo đúng hiệu ốc cố theo đúng mệnh của “nhất lý chi trưởng”.

Ðập hai bàn chân vào nhau, rũ cho sạch bụi, rồi co chân lên ngồi vào chiếu, Lý-trưởng vớ luôn lấy chiếu điếu cầy và sai tuần-phủ lấy đóm, thổi lửa.

Mấy anh thợ cày của những điền-chủ đã nộp đủ thuế, bạo-dạn tiến đến trước mặt ông Lý:

– Thưa ông, trưa lắm rồi! Xin ông cho tuần mở cổng để chúng tôi đánh trâu đi cầy!…

– Thong thả! Hãy đứng đấy! Cầy đã nóng bằng thuế của nhà nước à?

Vừa nói, Lý-trưởng vừa giặt mồi thuốc vào điếu, hút luôn một sạp ba điếu. Khói thuốc theo hai lỗ mũi tuôn ra như hai ngà voi. Lý-trưởng dõng-dạc:

– Trương-tuần, anh bảo nó mở cổng ra. Nhà nào đủ thuế thì cho trâu bò ra đồng. Còn nhà nào thiếu thì bắt trâu bò điệu cả về đình cho tôi, để tôi liệu cho chúng nó!

Sau một tiếng dạ của Trương-tuần, mấy tên đàn em loay-hoay tháo nêm, rút then cổng. Rồi cùng đứng doãi chân chèo, cố lấy hết sức của lực điền, xuống gạch vì cối cổng đã mòn nhiều quá. Lý trưởng đứng lên mở sổ sướng tên những người đủ thuế cho Trương-tuần nghe. Ước chừng mươi con trâu bò được đi với bọn thợ cầy cùng ra ngoài cổng. Còn độ hai chục con nữa đều phải vâng lệnh ông Lý, theo gót Trương-tuần và tuần-phu lũ-lượt kéo vài sân đình, chờ khi phải chịu tội thay cho chủ.

Tắt đèn – Chương II

Mõ cá trên cột đình lạ há miệng nhận những cây dùi giận dữ. Trống cái dưới xá đình lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng. Vừa dứt hồi vang của những tiếng mõ, tiếng trống bị những lũy tre ngăn cản phải lật trở lại, Lý trưởng liệng dùi trống xuống sân đình và quát một cách a dáng ra phết:

– Từ sáng đến giờ vẫn chưa đem chiếu ra trải, thì cha nó ngồi vào đâu? À cái thằng Mới láo thật! Xong thuế rồi ông tống cổ…

Mẹ Mới ở phía sau đình lếch thếch ôm mấy chiếc chiếu đặt lên sàn đình:

– Bẩm ông hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng nay phải đi chợ sớm…

– Trải ra! Rồi đi gọi các ông phần việc đến đây… Kệnh dệnh, kệnh dệnh! Bố người ta đấy mà hôm nào cũng bắt người ta phải mời… Chẳng qua việc là việc làng, chứ việc riêng nhà ai!.. Ngày mai mà không đủ thuế, thì ông khai hết ra cho, thử xem thằng nào ngồi tù?

Ðằng sau có tiếng léo xéo:

– Làm gì mà gắt gỏng dữ thế ông Lý? Bà cháu bận đi mang cơm thợ cầy, tôi phải nấu chín nồi cám cho con lợn sề nó ăn. Vì nó mới đẻ, sợ bỏ đói thì nó mất sữa, rồi con nó xấu. Bởi thế tôi mới chậm ra một chút, chứ có kệnh dệnh gì đâu?

Những câu phân trần tha thiết kéo dài từ ngoài đường vào đến giọt đình. Thủ quỹ nhanh nhảu bước lên thềm đình với cái tráp sơn đen bệ vệ nấp ở sườn tay phải. Lý trưởng vội vàng nói chữa:

– Tôi nói là nói người khác kia! Chứ ông… nhà neo, lắm việc, tôi có trách gì ông đâu… Kìa các ông ấy đã ra cả kìa!

Chưởng bạ ôm ống sổ và một tập sổ đi đầu một bọn độ hơn mười người: Thư ký lồng khăn xếp vào cánh tay, Phó lý quần áo thâm trên cổ. Chánh hội vắt áo the bên vai, năm sáu ông kỳ cựu và tộc biểu lệt xệt kéo đôi guốc gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai nấy trụt guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình, đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên trên.

Con vợ thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đình một cái điếu đàn đựng trong một chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài chừng một sải. Hai đứa con nó kỳ kệch khiêng lên chỗ đó nồi nước chè khô mới nấu, khói đương bốc lên nghi ngút và chồng bát đàn sơn bằng những cáu nước chè.

Chánh hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì người nhà Lý trưởng lễ mễ bưng một bộ khay đèn thuốc phiện rước Chánh tổng từ nẻo xóm dưới đi lên. Ông cai lệ và hai ông lính cơ hộ tống cụ Chánh vào trước cửa đình. trong đám đông mỗi người một câu:

– Cụ đã ra!

– Lạy cụ.

– Xin mời cụ lên trên.

Chánh tổng khoan thai bỏ giầy, bước qua một giẫy chiếu dưới, để lại mặt chiếu hai hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc chiếu trên cùng. Bộ khay đèn tự tay người nhà Lý trưởng sang tay cai lệ, lên nằm làm bạn với “quan trong hàng tổng”.

Ngay từ sáng sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà Lý trưởng, cho nên cụ rất tỉnh táo. Nghiêm nghị, cụ lên giọng kẻ cả:

– Các ông chức việc làng này thật lười quá. Hôm nay mà thuế còn thiếu be thiếu bét, chưa thu được một nửa bài chỉ! Tôi hạn từ giờ đến tối phải thu cho đủ. Nếu không đủ, sáng mai tôi phải trình quan.

Lý trưởng đón:

– Vâng! Xin cụ thúc giục đi cho! Chứ mấy hôm nay các ông ấy cứ ỳ ra đó, chẳng ông nào chịu ra miệng ra tiếng.. thì phỏng ai nó nộp cho?

Mọi người đều im lặng. Không phải sợ câu dọa nạt của Chánh tổng Lý trưởng, họ còn mãi nhìn ra cổng đình.

Thằng Mới kĩu kịt trên vai chiếc đòn gánh treo hai chiếc quang. Giằng trước là một xanh vừa gan vừa phổi, vừa tiết để trên rỗ lòng. Ðằng sau thì một thúng thịt lợn.

Lững thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đình, và mời ông Lý ra xem.

– Bẩm ông, hôm nay thịt đắt, tất cả hết sáu đồng rưỡi.

Ông Chánh hội, ông thủ quỹ và nhiều ông khác cùng đổ xô ra. Ai nấy đều biểu môi chê đắt, Chánh tổng nằm trong giữa đình nói ra:

– Ðắt với rẽ chẳng qua cũng của mấy đứa phụ canh, các ông có mất gì đâu! Thôi để cho nó đem về làm đi, trưa lắm rồi!

Thằng Mới mừng rỡ lại cất quang gánh lên vai. Lý trưởng dặn theo:

– Phải đánh mỗi mâm một bát tiết canh, mày nhé!

Rồi mọi người cùng lên sàn đình, bắt đầu nhúng tay vào việc.

Lý trưởng quăng cuốn sổ điền ra chiếu và bảo thư ký:

– Ông đọc cho các ông kia tính, xem rằng chủ nào bao nhiêu… rồi biên ghi vào mảnh giấy. Tính những chủ chưa nộp đồng nào ấy thôi.

Thủ quỹ mở tráp lấy ra cái bàn tính, cái bút chì và một tờ giấy tây, rồi đưa bàn tính cho ông Lý cựu:

– Ông tính ta, tôi tính tây, rồi cùng kháp lại, hễ hai đằng mà không sai nhau là đúng.

Một người đàn bà rón rén bước vào sàn đình với một chuỗi tiền chinh trong tay:

– Lạy cụ Chánh, lại các cụ ạ…

Bên bàn đèn, một cậu lính cơ ngẩng cổ lên quát:

– Làm gì mà đến hôm nay mới đem nộp thuế? Lại còn vác những khải định ra đấy! Ai lấy cho?

Lý trưởng gạt đi:

– Người nhà tôi đấy… các ông tính giùm, xem của bà ấy có bao nhiêu ruộng tất cả.

Thư ký giở sổ đọc:

– Nguyễn Thị Quí điền dĩ hạ: nhất sở Ðồng Bắc xứ bảy sào chín thước, nhất sở Ðồng Cá xứ sáu sào ba thước hai thốn…

Lý cựu vừa gẫy con toán lách tách vừa nhẩm:

– Nhất ngũ như ngũ, nhị ngũ nhất thập chi, tam ngũ nhất thập ngũ…

Thủ quỹ chăm chỉ để hai con mắt vào mảnh giấy tây dưới ngọn bút chì. Một hồi sau, Thư ký đọc hết, Lý cựu hỏi:

– Có phải ba mẫu bốn sào năm thước ba thốn hay không?

Thủ quỹ đáp:

– Không biết. Bây giờ tôi mới tính. Cộng bằng tính tây vẫn chậm hơn tính ta. Ông biết thế.

Thị Quí nói theo:

– Vâng, ông thủ tính kỹ cho. Ruộng nhà cháu có đâu mà được ba mẫu!

Một hồi nữa, thủ quỹ hì hục với cây bút chì, rồi ngẩng đầu lên mắng Thị Quí:

– Bà nói lạ! Bốn mẫu hai ruộng cả thảy, sao dám bảo không được ba mẫu!

Thị Quí thề sống, thề chết:

– Cháu có ăn gian thì trời không chứng! Thật quả ruộng của nhà cháu chỉ có hai mẫu bẩy sào…

Lý cựu, Thủ quỹ cùng sô lại dồn Thị Quí. Người đàn bà ấy nhất định không chịu. Cái bàn tính và cây bút chì phải làm việc thêm nhiều lần nữa.

Chánh tổng sốt ruột, giục Lý trưởng:

– Ai tính cứ tính, ai đi đốc cứ đi đốc. Chứ xúm nhau ở cả đây, thì đến tết cũng không thể thu xong thuế!

Lý trưởng lấy làm phải, liền sai mấy tên gia nhân đi đưa các ông lệ, lính cơ đầy tớ Chánh tổng vào khắp những nhà đinh cùng và dặn:

– Ðứa nào chưa có sưu hay chưa có thuế thì cứ trối cổ nó lại và điệu ra đây, để tôi cho chúng một mẻ.

Mõ lại thúc, trống lại giục, tù và lại inh ỏi thổi lên.

Ánh nắng bứt rứt chiếu đến nửa sân đình. Mấy con trâu, bò vẫn nằm gò lưng dưới những gốc gạo, gốc đa, hơi thở trong cổ họng kéo ra hồng hộc.

Tắt đèn – Chương III

Nếp nhà tranh lủn củn nấp dưới rặng tre là ngà, lặng lẽ úp lấy khu đất dề thành và kín đáo náu trong một con xóm cuối làng Ðông xá, đứng xa ngó lại, có thể lầm với nơi nhốt lợn hay chứa tro, đó là nhà của Nguyễn Văn Dậu.

Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy mái hiên cườm cượp nhòm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái cộc bươu đầu choáng óc, nếu họ quên không cúi đầu.

Với lớp rêu xanh điểm những lá tre vàng úa và những cỏ gấu phất phơ, cái sân đất rộng bằng đường bừa, lỗ chỗ vết chân chó sen vết chân người, vừa làm đường đi, vừa làm khu vực “hoãn xung”, phòng bị những lúc mưa rào, đất ở chân thành khỏi lở vào thềm và cửa.

Bao nhiêu bộ phận cần có của một gia đình, đều được thu cả vào trong nhà.

Nhà cất theo lối kiến trúc phổ thông của các cụ, toàn thể gồm có một chái và hai gian.

Gian đầu là buồng.

Bức mành rách mép lướt thướt rủ ngoài cửa buồng, cũng như bức phên nan nứa sừng sững chắn ngang lòng nhà, đều hết sức giữ cho trong buồng có vẻ bí mật. Trái lại, những khe hở ở cạnh cửa và nhưng lỗ thủng ở chân phên lại cùng ra ý phô sòng, như muốn khai rằng: ngoài chiếc giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có một chum mẻ, vại hàn, chen nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột.

Ðối với buồng, ấy là bếp đun, cảnh tượng lại càng bề bộn.

Dưới từng máy chái thấp hẹp, những luồng ánh sáng xanh tía, thông thống kéo thẳng từ nóc đến nền, cố hun cho khô những chỗ đêm qua mưa dột.

Cạnh bó củi giong ẩm ướt, đoàn vung sứt miệng hềnh hệch nằm ngửa trong những cái rế tre, như muốn cười với lũ mêu đất thư nhàn, lông lốc lăn nghiêng lăn ngửa.

Trên bãi tro trấu tanh bành, nguội lạnh, mấy hòn gạch vỡ chầu đầu vào nhau, nghiêng mình nằm theo thế chân vạc, đương chờ đến lúc đội nồi.

Kề đó đến bàn thờ.

Chiếc ngưỡng tre uốn lưng gù gù đỡ lấy một đố tre, dõng dạc đứng ra hình chữ “môn” và hộ vệ cho một mớ nan tre lành phành long bựt, giường thờ giống như cái chạn đựng bát. lơ lửng gác giữa khoảng cột của bếp và buồng.

Tờ giấy xanh lạnh lùng phủ ngoài vách đất tỏ rằng nhà mới có tang.

Nhưng mớ mạng nhện chằng chịt quấn trên đám chân hường lơ thơ, lại làm chứng cho một thời gian khá lâu, chủ nhân không hề cúng lễ. Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ trên tấm phản long đinh.

Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đòi ăn, ăng ẳng kêu không dứt tiếng.

Và ở ngoài hiên, quang, gánh, liềm, hái sen, với áo yếm, áo, váy, quần, lôi thôi rủ suốt mấy gian ruổi.

Trong tay bồng đứa con gái hai tuổi, chị Dậu thơ thẩn ngồi trên chiếc chõng long nan. Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc ngọt, cái sinh sắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen giòn và cái nuột nà của người đàn bà hai mươi bốn tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo phiền buồn bã trong đáy tim. Nét mặt rầu rầu, chị im lặng nhìn sự ngoan ngoãn của hai đứa con nhỏ.

Cái Tý và thằng Dần, đương hỳ hục bới đống rễ khoai, tìm những củ mập, củ giày, bỏ vào trong rổ. Chúng nó mừng reo hý hửng khi thấy một củ nguyên lành, và chúng nó cãi cọ lầu nhầu khi lục mãi chẳng được gì cả.

Mặt trời gần đến đỉnh đầu.

Ánh nắng xuyên qua lũy tre chiếu xuống trước thềm khoang cửa.

Ðằng sau gà gáy te te.

Nóc bếp láng giềng ngọn khói bốc lên nghi ngút.

Thằng Dần với bộ mặt thìu thịu, bỏ đống rễ khoai đứng dậy lùng bùng:

– Nhặt mãi từ sáng đến giờ mới được ba mẫu khoai ranh! Con không phải tội mà bới nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu cơm trưa rồi, nhà ta vẫn chưa ăn cơm sáng! Chúng con đói quá!

Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào:

– Con hãy cố nhặt thêm vài chục mẫu nửa, rồi chị nó luộc cho ăn, chứ u làm gì có tiền đông gạo?

Thằng bé phụng phịu:

– Hôm qua và hôm kia u bán hai gánh khoai lang được năm hào mà… đã tiêu gì đâu!

Vừa nói nó vừa tung tăng chạy đến cạnh mẹ, toan lần dải yếm của mẹ. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em:

– Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông Lý chứ? Dễ được đem mà mua gạo đấy hẳn? Em có đói thì hãy ăn tạm củ khoai sống vậy!

Câu nói nghĩa lý của con bé bảy tuổi, hình như có một sức mạnh thần bí, khiến cho chị Dậu hai hàng nước mắt chạy quanh. Uể oải, chị bế cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã về chưa.

Chồng chị, – anh Nguyễn Văn Dậu – tuy mới hai mươi sáu tuổi, nhưng đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm.

Với cái sức khỏe mạnh, với cái tính nhanh nhẩu, với cái đức chịu thương chịu khó trong nghề cầy thuê cuốc mướn, những năm son rỗi, vợ chồng nhà anh cũng vẫn kiếm được thừa ăn. Mấy năn nay phần vì thóc cao, gạo kém, phần thì con đẻ thêm ra, vợ bận mọn luôn, sự tiêu dùng của anh mới không được rồi rào như trước, vặt mũi chỉ đủ đút miệng mà thôi.

Rồi tháng tám năm ngoái, mẹ anh bị bệnh qua đời. Lại tháng giêng năm nay, thằng em trai của anh cũng vì phải gió mà chết. Dầu anh hết sức tằn tiện, hai cái ma ấy cũng cứ lôi kéo đi mất của anh hai món là làng hết đúng sáu đồng, và hai cổ quan tài hết gần tám đồng. Nhà không có, anh phải quang co tần tảo cho có. Hai cái rớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh rồi. Hơn nữa, tháng ba đến giờ thần bệnh sốt rét ở đâu kéo đến, nó bắt anh cứ phãi nghĩ việc nằm nhà.

Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của một gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay trắng của người đàn bà con mọn.

Sự đói rách của con và sự lầm than của vợ, đắp đổi tiến đến trước mắt, đã làm cho anh gan ruột nẫu nà. Thêm mấy bữa nay, Lý trưởng ngày ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến bò trong chảo nóng, không biết lo liệu thế nào. Sớm ngày, cơn sốt đã tan anh phải gắng gượng chống gậy ra đi, cũng định vay mượn lấy một vài đồng, trả cho xong “món nợ nhà nước”. Nhưng đi thì đi, chính anh cũng không tự biết mình sè đi đến nhà a, và chừng bao giờ thì về.

Mong mãi không thấy bóng chồng, chị Dậu lại bỗng cái Tỉu trở vào, ngồi phịch xuống chõng.

Cái Tý vẫn loay hoay với đống rễ khoai. Thằng Dần đương ráu ráu nhai mẫu khoai sống.

Bên nhà láng giềng có tiếng mâm bát lạch cạch. Mấy con nít tíu tít gọi nhau ăn cơm. Mùi canh rưa và mùi cá khi theo ngọn gió nồm đưa sang ngào ngạt.

Thằng bé háu đói nuốt vội miếng khoai trong miệng, vớ tấm áo nâu toạc vạt khoác luôn vào mình, đon đả chạy lại vỗ vào vai mẹ:

– Con sang chơi bên nhà ông Bác, u nhé!

Cái Tý chừng mắt:

– Bên ấy sắp sửa ăn cơm ấy mà…! Sang làm gì? Rồi bà Bác lại đuổi oai oái như hôm nọ ấy. Thôi, đói thì chịu vậy, chứ em cứ nhặt cố lấy mấy củ nữa, rồi chị đứng lên bắc nồi.

Thằng Dần quăng tọt cái áo vào chõng, ngoảnh đít quay lại, trên mặt đầy vẻ thất vọng:

– Khổ lắm, bao nhiêu củ ngon củ lành, u đã lựa hết đem bán, ở đây chỉ còn những rễ và rễ, lấy đâu ra khoai mà nhặt?

Cái Tý lại dịu nét mặt:

– Chả bán thì lấy tiền đâu đóng sưu?… Em hãy chịu khó nhặt đi với chị! Hãy còn vô khối củ mẫm ra đấy. 

– Nhưng mà em còn đói vàng cả mắt, không nhặt được nữa…!

Nói xong, thằng Dần bước đến bên cạnh rổ khoai, chọn lấy một củ lớn nhất, nó chùi vào bụng cho sạch cát bụi rồi cho vào mồm cắn…

Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói, nhưng ở khóe mắt, nước mắt lại cứ chan chứa chảy ra. Chừng như không muốn để cho các con thấy sự đau lòng của mình, chị vờ ngảnh mặt nhìn vào trong vách.

Tắt đèn – Chương IV

Con chó cái nằm ở gậm phản bỗng chốc vẫy đuôi rối rít, tỏ ra dáng bộ vui mừng.

Anh Dậu lữ thử từ cổng tiến vào với cái vẻ mặt xanh ngắt và buồn rứt như kẻ sắp bị tù tội.

Cái Tý, thằng Dần cùng vỗ tay reo:

– A! Thầy đã về! A! Thầy đã về!…

Mặc kệ chúng nó, anh chàng ốm yếu im lặng dựa gậy lên tấm phên cửa, nặng nhọc chống tay cào gối và bước lên thềm. rồi lảo đảo đi đến cạnh phản, anh ta lăn kềnh lên trên chiếc chiếu rách.

Chị Dậu ôm con vào ngồi bên phản, sờ tay vào trán chồng và sẽ sàng hỏi:

– Thế nào? Thầy em có mệt lắm không? Sao chậm về thế? Trán đã nóng lên đây mà!

Anh Dậu nằm thừ không cựa, cũng không trả lời. Chị Dậu lại gặng:

– Chắc thầy em mệt lắm thì phải? Từ sáng đến giờ đi những đâu? Hỏi vay của ai?

Vắt tay lên trán, anh Dậu thở một tiếng dài và cất cái giọng lề dề của người ốm:

– Tôi lên nhà lão Hội Ích.

– Có được đồng nào hay không?

– Chẳng được gì cả. Tôi cũng biết cái thằng già ấy nó bẩn như chó, mình đả mắc nợ của nó, chẳng khi nào nó lại cho mình vây thêm. Nhưng vì bí quá cho nên phải nhắm mắt đi liều. Quả nhiên mới cất miệng hỏi, nó đã mắng sấm xơi sới, rồi lại dọa rằng: “Ba đồng cầm đất cầm nhà, lãi mười hai phân, đến tháng sáu này thì vừa hết hạn, tính thành ra năm đồng một hào sáu xu. Nếu không trả được nó sẽ cắm cả nhà đất để làm chuồng xí”.

Chị Dậu cau đôi lông mày:

– Trời đất ơi! Cắm cả nhà đất để làm chuồng xí! Ăn nói như thế thì còn trời đất nào nữa?… Thế sao thầy em không đến ông cậu hỏi tạm lấy một đồng vậy?

– Có! Tôi có hỏi! nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Ông ấy nhiếc mãi vợ chồng sức dài, vai rộng mà có vài ba đồng bạc tiền sưu cũng không chạy nổi…

Chị Dậu giậm chân xuống đất:

– Khốn nạn! Ấy ông cậu đấy! Ông cậu giàu có nứt đổ lá vách, cả đời cháu mới hỏi vay mấy đồng, còn nỡ nhiếc móc như thế, trách chi người ngoài!… Thế bây giờ thầy em đã định hay chưa?

Anh Dậu nín lặng một hồi, rồi lại thở dài tiếng nữa:

– Tôi đã nói với cụ Nghị Quế ở thôn Ðoài… hay là bán quách…

Ðương nói giở câu, anh Dậu ngập ngừng lại thôi, như có vật gì nghẹn ở cổ họng. Chị Dậu cố gắng:

– Bán quách cái gì? Thầy em cứ nói, ở đây có ai mà sợ!

Anh Dậu đơm dớm nước mắt:

– Hay là bán quách cái Tý cho cụ ấy?

Chị Dậu cũng nước mắt chảy qua gò má dòng dòng. Chị cứ cúi gầm mặt xuống, không biết trả lời ra sao. Cái Tý nghe thấy ru,ng rời củ khoai trong tay, vội vàng đứng lên năn nỉ:

– Con van thầy! Con van U! thầy u để con ở nhà chơi với em con. Con van thầy! Con van U! Thầy U đừng đem bán con.

Thằng Dần nhả vội miếng khoai trong miệng, và sụt sịt khóc:

– Em không, nào! Em không, nào! em không cho bán chị Tý nào! Có bán thì bán cái Tỉu kia kìa!

Anh Dậu cũng như chị Dậu, ai náy sè sẽ gạt thầm nước mắt và cũng giả cách làm thinh.

Cái Tý vẫn bai bải van như tế sao, một hai xin thầy u đừng bán nó đi, tội nghiệp cho nó.

Chừng như cầm lòng không đậu với những lời ngây thơ và thê thảm của con bé ngoan ngoãn. Chị

Dậu xoa suýt cái Tỉu và yên ủi cái Tý:

– Không! Thầy con nói đùa ấy thôi! Bán con thì lấy ai ẩm con bé này cho u đi làm?

Cái Tý vui vẻ ngồi vào cạnh đống rễ khoai, nó lại hý hoáy bới bới nhặt nhặt.

Một bầu không khí tẻ ngắt bao phủ cả mấy gian nhà, người ta có thể nghe rõ tiếng dập ở hai trái

tim của hai vợ chồng anh trai cùng.

Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát. Rồi tiếng roi quất vào vách đèn đẹt. Rồi tiếng người hỏi dữ dội:

– Ðĩ Dậu có nhà đấy không?

Chị Dậu lật đật bỗng con bé con ra cổng đuổi chó. Anh Dậu cũng ngồi nhỏm dậy và ngó ra sân.

Người nhà Lý trưởng nghênh ngang múa chiếc tay thước với sợi dầy thừng, đưa ông Cai lệ và cây roi song hùng dũng bước vào trong cổng. Hai người cùng ra oai giộ con chó cái và cùng nhẩy lên thềm. Phủ đầu, ông Cai lệ chỉ cây roi vào mặt anh Dậu và quát:

– Sưu đâu? Sao không đem nộp? Người ta vào hỏi vẫn còn ngồi ỳ ra đó!

Anh Dậu lẩy bẩy đứng dậy. Cái mặt xanh xao khi ấy đã đổi ra sắc tái mét. Run run, anh sẽ giơ tay gãi tai:

– Thưa ông, tôi chưa có.

Ông Cai lệ thị hùng bằng hai con mắt giương tròn:

– Cả năm chỉ có hai đồng bảy hào tiền sưu, bây giờ anh vẫn chưa có bao giờ anh định mới có?

Với cái dáng điệu có vẻ van lơn, anh Dậu hổn hển thở và đáp:

– Thưa ông, vì tôi đau yếu, nên chưa lo kịp, xin ông thư cho đến mai. Thuế còn năm bữa nữa mới đăng trường kia mà!

– À! thuế còn năm hôm nữa mới đăng trường, cho nên anh không nộp vội, phải không?

Hỏi vậy nhưng ông Cai lệ không để cho kẻ bị hỏi được có thời gian phân trần. Nhanh như cắt, ông chuyển phắt cây roi song sang tay trái và nắm chặt năm ngón tay phải, đưa luôn vào ngực anh Dậu một mớ quả thụi. Cái thụi chuyên môn của người công khác hẳn thứ thụi phổ thông của thường dân. Anh Dậu chỉ ức ức mấy tiếng, chứ không thể kêu lên được. Thuận tay, ông Cai lệ túm lấy cổ áo anh Dậu và ngảnh lại bảo ông người nhà lý trưởng;

– Thừng đâu? Trói cổ nó lại. Có một suất sưu bây giờ chưa nộp lại còn chực giở lý sự?

Tức thì hai người xúm lại, mỗi người nắm một cánh tay anh Dậu bẻ quặt ra đằng sau lưng, rồi luồn thừng vào và riết thật chặt. Họ trói anh chàng khốn nạn giống kiểu như nhà quê trói chó để làm thịt vậy.

Thằng Dần òa khóc:

Cái Tý mếu máo nhếch nhác, chạy đến cạnh ông Cai lệ, chắp tay vái lấy vái để:

– Cháu lạy hai ông! Hai ông tha cho thầy cháu. Hai ông đừng trói thầy cháu!

Sẵn cây roi trong tay, ông Cai lệ quất luôn cho nó mấy cái vào đít và quát:

– Bước ngay!

Con bé đau quá. Nó lăn đành đạch xuống đất và nó rẫy rụa như con gà phải nước nóng. Thằng Dần càng khóc dữ.

Ông Cai lệ đương cơn thịnh nộ, lại thẳng tay giơ cay roi song, toan trừng phạt thằng bé này. Chị Dậu lếch thếch ôm con bé con chạy vào:

– Thôi. Tôi xin ông Cai! Ông tha cho cháu… Chúng nó hãy còn bé bỏng.

Lời nói tiết tha của người đàn bà có duyên vẫn có đôi chút hiệu lực. Thằng bé ngây thơ đã được ông Cai ân xá.

Ngảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá, mặt mũi nhăn như chuột kẹp, chị Dậu lạ dẽ dàng kêu van ông Cai:

– Nhà tôi đương ốm… Xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho!

Lần này không có kết qủa, những lời nằn nì của chị chỉ được ông Cai đáp lại bằng một giọng oai nghiêm:

– Không phải nới! Trói thế cũng chưa chết nào! Mà có chết nữa, chồng chị càng khỏi đóng sưu.

Anh Dần nói xen:

– Nhưng tôi đau quá… xin ông hãy nới lỏng ra cho tôi một tý. Nào tôi có chạy mất đâu!

Ông Cai lệ nổi cơn lôi đình, tặng luôn anh Dậu năm bảy cái tát vào mặt và hằm hè:

– Bướng với ông à. Mày có tội thì ông mới trói. Lại còn bướng với ông à!

Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con mắt đỏ ngầu:

– Thôi, tôi cũng lạy ông nữa! Chẳng qua nay mai đủ thuế thì thôi, làm gì ông phải hành hạ chồng tôi quá vậy? Có đánh thì ông cứ đánh tôi này. bao nhiêu tội tôi xin chịu cả. Chồng tôi đau ốm chẳng làm nên tội.

– À! Mày thách ông phải không? Hừ! Thấy ông nể mặt mày càng làm già! Ðược! Ông thử cho mày biết tay! Này thách! Này thách! Này thách!!!

Mỗi tiếng ” này thách” từ miệng ông Cai đã đưa ra, chị Dậu lại được hai ba quả thụi vào ngực.

Ðứng không vững, chị này ngã phịch xuống đất. Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẻo. Cái Tý, thằng Dần mỗi đứa nấp một xó cột nhìn trộm bố mẹ phải đòn. Cả hai đứa cùng nức nở khóc không ra tiếng.

Người nhà Lý trưởng chỉ cái tay thước vào mặt chị Dậu:

– Không thấy người nào lắm đều như chị. Nếu nhà ai cũng bướng như nhà này, có lẽ thuế của nhà nước đến bỏ. Thôi! Ðứng dậy mà đi chạy sưu cho chồng, đừng ngồi ăn vạ đây nữa!

Rồi hai ông hằm hằm túm lấy đầu thừng, sền sệt điệu anh Dậu xuống thềm. Tới cổng, anh chàng khốn nạn quay lại dặn vợ:

– U nó để cái Tỉu ở nhà, sang ngay bên cụ Nghị Quế cho tôi…

Tắt đèn – Chương V

Bước vào khỏi cổng thôn Ðoài, đã thấy nhà ông Nghị Quế.

Nó là một đám bung xung nhọn như ngọn tháp, hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như

phô nhà mình thóc để hàng bốn, năm mùa.

Nó là một lũ đốn rơm, đốn rạ lớn bằng trái núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông chủ cầy cấy đến mấy trăm mẫu.

Nó là những tòa mái ngói muốn bảo tồn quốc túy bằng những “đấu” vuông tròm trõm, những sôi tầu cong rướn và những con cá chép ” mảnh sứ” há miệng nằm giáp tường hồi.

Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảng chai, cảnh tượng phức tạp, giống như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ, mới.

Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để lại, ông Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.

Ông không đi buôn, không đi thầu, chỉ làm ông chủ ruộng kiếm ông chủ thả lãi.

Ðụng đến của ông nhẹ nhất cũng là mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng

hay nhà, hoặc phải gửi vật gì khác làm đồ bảo đảm. Quá hạn thì mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông cấy, hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.

Nhà ông đời đời phát phát về bên hào. Bước đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lý trưởng vượt qua những bậc Phó tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức vó nhau đưa ông lên ghế nghị viên.

Không như những kẻ mặt người dạ thú, mượn tiếng “thay mặt dân” để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc kia, ông ra nghị trường, chỉ cốt mua cái “vị thứ tân thời”, lấy chỗ mỗi năm vài lần, ăn uống và… ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.

Cái đức “không thèm biết…chữ” của ông hơn hẳn các bạn đồng viện, tuy những ông ấy chỉ xuất thân bằng nghề lái lợn hay cai phu. Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị khác, không bàn và không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giầy chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm trong khi ông phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông.

Từ ngày “giữ chức ông Nghị”, danh tiếng của ông đã bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm chí tối, ông không phải thết một ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ mẹ.

Cố nhiên, ông phải là một người cơ chỉ, so kè từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những dịp tết ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo những thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.

Với ông, vợ chồng Ðĩ Dậu không có họ hàng thân thích gì cả. Nhưng vì các hắn cầy thuê cấy mướn

cho ông đã nhiều, nên đều biết nhà, biết người.

Sau khi Cai lệ và người nhà Lý trưởng đã dẫn anh Dậu ra đình, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho cái Tý, vớ chiếc nón rách đeo vào cổ tay. Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm rĩ kêu đói. Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.

Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm vào mặt. Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chõ xôi. Những con cua chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ nhau bò lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ.

Ðông xá với Ðoài thôn vẫn là một xã, cách nhau độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con đường thiên lý trong bãi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi gì, vì đời chị đã quen hàng ngày rạn mặt với thần nắng.

Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách, chị chỉ bước rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời

đứng bóng. Trâu bò lũ lượt lôi thợ cầy ở ngoài đồng về. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào

trong cổng.

Trên cái sân gạch Bát tràng mông mênh như bãi đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Ðàn chim bồ câu chổng mông mổ trên nong đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít bón một bãi phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung quanh chậu nước vo gạo.

Không có người nào qua lại. Ðánh bạo, chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ ra. Chúng nó nhảy chồm lên tận mặt người lạ.

Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:

– Anh bếp có nhà không? Làm phúc đánh chó cho tôi với!

Trong nhà có tiếng thét ra the thé, nghe rõ là tiếng đàn bà:

– Làm gì mà nheo nhéo thế? Nhà ai không có chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp còn bận việc khác, nó không phải hầu chúng bay!

Rồi lại im. Thì ra vợ chồng ông Nghị đương ăn cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực mình, quát đổng vài câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế, chẳng khi nào lại chịu hạ mình mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người làm thuê.

Ðàn chó cứ vây kín chung quanh chị Dậu như quân đèn cù. Hình như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ: con nào con ấy nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái nón dùng làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành. Chị Dậu luống cuống không biết làm thế nào. Bí quá, chị phải giơ hai nắm tay đánh nhau bộ với “đội lính coi nhà” của ông Nghị.

Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật đật vác gậy chạy lên. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả.

Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến trước nhà khách. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu chảy đầm đìa. Ghé răng, chị xé một miếng ở đầu dải yếm, buộc chặt lấy chỗ bị thương. Rồi rụt rè, chị lên bực thềm:

– Thưa lạy hai cụ ạ!

Bà Nghị gắt:

– Chó cắn vào tay phải không? Cho chết!

Ðương lúc người ta ăn uống, ai bảo cứ dẫn xác vào? Hỏi gì?

Ông Nghị đặt bát xuống mâm, vừa nhai nhồm nhoàm vừa đón:

– Sáng ngày chồng nó đã sang xin bán đứa con. Chắc nó đến để nói nốt chuyện ấy, chứ gì nữa.

– Bẩm cụ phải, con sang thưa cụ về việc ấy.

Bà Nghị đưa mắt ra hiệu cho ông Nghị rồi bảo chị Dậu:

– Thong thả! Hãy ngồi đấy! Ðể cho người ta ăn xong cái đã. Ðừng quấy rầy!

Ông Nghị như đã hiểu ý của vợ, cứ việc chan chan gắp gắp, không nói không rằng.

Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống mặt thềm gạch. Mọi ngày tuy vẫn làm mướn cho ông Nghị ấy,

nhưng chi, chỉ thì thọt ra vào trong mấy gian bếp, chưa biết nhà trên thế nào. Hôm nay bạ men tới đây, ấy là lần đầu chị được trông thấy cảnh tượng nhà khách của ông dân biểu. Trong mắt chị nhà ấy lịch sự vô cùng. Nào ở cạnh bức hoàng phi khảm trai, mấy cô con gái tồng ngồng đùi, vú vừa nằm, vừa tủm tỉm cười tình.

Nào ở giữa đôi câu sơn then thiếp vàng hai thằng bé con béo tròn và xoay trần, lễ mễ khiêng hộp sữa bò cao lớn gần bằng chúng nó.

Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái điếu ống vất vểu vươn cành xe trúc dài thườn thượt như cái cần câu.

Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho, một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ khay chè

trắng bóng. Rồi ở trước cái sập gụ lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào một chiếc bàn

mây sơn xanh. Và ở đầu cái giường tây sơn quang dầu, quần lĩnh thâm và khăn quàng nhiễu xanh cùng vắt một chỗ. Biết bao của quí vật lạ, chị Dậu nhìn vẫn chưa khắp. Trên bàn ăn có tiếng leng

keng.

Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt húp một cái đánh “soạt”. Rồi ông vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Bà Nghị cầm đĩa dò kho ăn dở, chút vào trong niêu, sai thằng bếp treo lên lao màn và dặn:

– Bà đã đếm kỹ từng miếng rồi đấy. Còn mười bốn miếng tất cả. Hễ mất miếng nào thì chết với bà!

Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ đệ chậu nước vào. Ông Nghị, bà Nghị mỗi người dúng ba

ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép một lượt, rồi cùng uống nước, xỉa răng. Hai đứa đầy tớ đứng hai

bên cầm quạt phẩy lại. Bà Nghị mở cái tráp tròn lấy trầu và cau nhai với một vài sợi thuốc. Ông Nghị

nhắc cái điếu ống để trên trốc tủ, giặt thuốc, châm lửa, vít cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ “Ngũ” ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi:

– Con mẹ kia! Bán con bán cái thế nào? Vào mà nói chuyện với bà… !

Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và ngập ngừng:

– Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá, xin hai cụ cứu giúp con.

Bà Nghị nhả miếng bã trầu cầm tay, quai thật dài cặp môi cắn chỉ:

– Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có bán đứa con gái tao mua!

– Xin vâng!

– Sáng ngày chồng mày nói rằng con bé ấy đã lên bẩy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao triết đi một nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!

Chị Dậu ngơ ngác:

– Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bẩy, nó đẻ tháng dần năm Tý. Chúng con không dám nói dối thưa cụ!

– Tao không thể tin cái miệng vợ chồng nhà mày! Người ta mách tao là nó lên sáu, thì tao hay nó lên sáu. Chứ tao biết đâu nó đẻ năm tý hay đẻ năm tỵ năm tỳ.. !

Chị Dậu đờ mặt, không biết nói sao. Bà Nghị tiếp:

– Vì cái hai bên kia…

Ông Nghị cau mặt ngắt lời:

– Sao bà cứ gọi con bằng lối xách mé như vậy? Tôi đã dặn bà phải gọi nó là mợ… Bây giờ ở nhà các quan, con gái đều được kêu là mợ tất cả. Tôi hèn ra cũng là một Nghị viên, có lúc ngồi với quan Sứ quan Thượng, danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ, cũng không quá lạm kia mà!

Bà Nghị cười ngặt, cười nghẹo:

– Thế thì ông lầm rồi! Con dâu kia… người ta mới gọi là mợ; con gái thì người ta gọi là cô. Chẳng cứ gì nhà các quan, tôi thấy những nhà ông ký, ông phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều như thế cả.

– Miễn là đừng có gọi chúng nó bằng cái kiểu tục tằn của những nhà bố cu, bố đĩ… Mợ thì mợ, cô thì cô….

Bà Nghị ra bộ đắc ý:

– Vâng, thì cô!… Cô hai bên kia hiếm hoi mấy lần xem bói, thầy bói đều bảo cô ấy phải nuôi con nuôi thì mới đứng số. Bởi thế, tao muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó “gánh vác đỡ đi”. Chứ nhà tao đây thiếu gì người hầu hạ? Vả lại, con bé mới lên sáu tuổi, đã làm được công trạng gì mà tao phải chuốc? Huống chi nó sang ở với cô ấy, cơm no áo lành, lại không sung sướng gấp trăm gấp nghìn ở nhà với vợ chồng mày hay sao? Ðáng lẽ biếu không thì phải… Cho một đồng cũng quá lắm rồi. Không phải nài nẫn gì nữa!

Chị Dậu ngồi đờ như gỗ, không biết trả lời ra sao.

Tắt đèn – Chương VI

Bà Nghị chỉ tay quát thằng nhỏ lấy nước. Bà uống một hớp dấp giọng rồi hỏi chị Dậu:

– Thế nào mày nghĩ tao nói có đúng hay không?

Chị Dậu dơm dớm nước mắt:

– Vâng. Thưa hai cụ ý con cũng biết rằng cháu được sang đó nương nhờ hai cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm… Nhưng vì, nhà con thiếu hơn hai đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu chỉ có một đồng, thì còn hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy xin hai cụ đón tay làm phúc…

Ông Nghị quát:

– Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể gì? Mày định bổ vào nhà tao đấy à?

Chị Dậu thèn lẹn nâng dải yếm sẽ chùi vào mắt.

Bà Nghị yên ủi:

– Thiếu một đồng nữa thì xem trong nhà còn có cái gì đáng tiền, đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi, bây giờ cho không cũng không đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn….

– Thưa lại hai cụ, thật quả nhà con không còn cái gì đáng giá hai hào.

Bà Nghị cười nhạt:

– Sao bảo nhà mày có con chó cái khôn lắm?

– À, thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ, con nó hãy còn non lắm, có bán cũng không ai mua. Nếu có người mua cho, chúng con không phải bán con cháu.

– Nó đẻ mấy con? Con nó đả mở mắt chưa?

– Bẩm bốn con! Nó đả biết ăn cơm hai hôm nay… hay là xin cụ đỡ con hai đồng, lờ lã thế nào con cũng xin vâng. Chỉ độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó ấy cứng cát, bán được thì con xin nộp cụ.

Bà Nghị bĩu môi:

– Tiền tao có phải vỏ hến mà tao quẳng ra cho mày bây giờ? Dễ tao hám lãi của mày lắm đấy? Thôi.

Thế này này: Chó non tao cũng mua vậy. Bắt cả con chó cái và đàn con chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa. Với con bé kia một đồng là hai.. Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi chó, khỏi nuôi con. Sướng nhé!

Rồi bà Nghị vui vẻ nhìn mặt ông Nghị:

– Ấy tôi cứ hay thương người thế đấy! Người khác thì họ mặc kệ, ai hơi đâu? kêu lắm thì bã bọt mép.

Chị Dậu lại chứa chan nước mắt. Buồn rầu, chị sẽ ngồi xuống bực cửa và nói chầu lên:

– Vâng! Con cũng biết cụ có lòng thương nhà con mới thế. Chứ đàn chó vừa mới mở mắt, ai mua làm gì…? Nhưng, thưa cụ, giá chó bây giờ cũng không rẻ lắm, một con chó cái, con đem ra chợ bán ít nhất cũng được đồng rưỡi. Còn bốn con chó con, nếu nuôi thêm vài phiên chợ nữa, thế nào cũng được năm hào một con. Vậy là tất cả đến ba đồng rưỡi, cụ cho một đồng thì thiệt con quá. Xin cụ trông lại!

Ông Nghị đập tay xuống sập:

– Ðem ngay đi chợ mà bán! Không nói lôi thôi! Mất thì giờ! Thời Tây bây giờ, thì giờ là vàng bạc, không ai công đâu mặc cả với mày…. Hừ! Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng “bán không ai mua “, người ta làm phúc mua cho, lại còn nhằng ngằng kêu rẻ! Rẻ thì đem ngay ra chợ mà bán. Ra ngay!

Chị Dậu nhổm đít toan đứng lên. Bà Nghị thẽ thọt:

– Chúng bay cứ cái thói ấy, không trách chẳng ai buồn thương, khổ là đáng kiếp. Trong lúc thuế má ngặt ngòi, đồng bạc cho vay, lãi ngày năm xu, người ta đã phải bỏ ra mà mua đàn chó mới mở mắt,

thế là người ta làm ơn cho mày. Mày tưởng người ta không thể mua đâu được chó đấy chắc? Hay là chó của nhà mày bằng vàng? Thôi, cho thêm hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được hai đồng mốt. Bằng lòng không?

Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống:

– Bẩm cụ, một vài hào ở cụ chẳng thắm vào đâu, nhưng, ở con thì nó lớn lắm. Xin cụ cho con lấy năm hào nữa vậy.

Bà Nghị ra bộ dễ dãi:

– Con mẹ mày cũng ghê gớm lắm! Thấy bở thì đào mãi! Ừ, thì tao trả thêm một hào. Là hai đồng hai.

Bằng lòng thì lên nói với ông giáo làm văn tự cho. Và phải trả ông ấy hai hào giấy mực. Nghe không!

Chị Dậu thất vọng:

– Thế thì con chỉ được hai đồng đem về…

Ông Nghị lại cáu:

– Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! Thôi, cho thế cũng đắt lắm rồi. Bán thì đi làm văn tự. Không bán thì về. Về thẳng!

“Về thì đăm đầu vào đâu? Ðể chồng bị trói đến bao giờ nữa?… Thôi, trời đã bắt tội, cũng đành nhắm mắt liều… ” Bên tai chị Dậu, văng vẳng có tiếng như vậy. Nước mắt ứa ra, chị lại đứng dậy với bộ mặt não nùng:

– Vâng con xin bán hầu hai cụ. Nhờ các cụ cho bảo ông giáo làm giấy giúp con!…

Bà Nghị dõng dạc gọi xuống nhà dưới:

– Ðứa nào lên nhà học mời ông giáo xuống đây cho tao!

Ðồng hồ trên tủ thong thả đánh mười một tiếng. Giấy cót sổ ra xoe xòe.

Bà Nghị tươi cười nói với ông Nghị:

– Sao bây giờ mới mười một giờ? Hay là đồng hồ nhà ta chạy sai?

Ông Nghị rung đùi, vuốt chồm râu tây cong vắt trên mép ngậm tăm:

– Bà quê lắm! Ðồng hồ của Tây làm ra có bao giờ sai? Bây giờ mười một giờ là đúng. Nhà ta ăn cơm khi sớm.

Bóng nắng xuống thềm gần một hàng gạch.

Xe lửa “một giờ” toe toe hét còi.

Ông giáo kéo đôi giầy vá từ đầu nhà thờ đi sang. Trong tay đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và giấy thấm.

Với cái búi tóc ngất ngưởng trên đầu, với cái sức học chữ Nho bằng rưỡi quốc ngữ, ông ấy gọi là thầy đồ thì đúng hơn. Chỉ vì về phần nhà chủ nuôi cơm, tiếng nuôi ông đồ không bằng tiếng nuôi ông giáo, cho nên ông ấy phải đổi sang ngạch “thầy giáo”, để dậy mấy đứa trẻ học tam tự kinh và A B C, và viết văn tự cho những người đến nhà ông Nghị cầm cố vay mượn. Vào nhà khách, ông giáo se sẽ đẩy thúng gạo nếp trên chiếc tràng kỷ gỗ lát và lễ phép ngồi vào chỗ đó.

Sau một hồi để ý nghe lời ông Nghị dặn dò, ông giáo nghiêm trang cúi vào mặt bàn. Trịnh trọng ông ấy viết.

Cả nhà im lặng.

Năm phút, mười phút, nửa giờ… ông giáo ngẩng lên ngó mặt chị Dậu:

– Chị kia, sang đây tôi đọc cho nghe, rồi điểm chỉ vào!

Dón dén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. Ông giáo đằng hắng ba tiếng, rồi bằng giọng cắt nghĩa cho học trò, ông ấy đọc:

“Tên tôi là Nguyễn Văn Dậu, hai mươi sáu tuổi ở làng Ðông xá, và vợ tôi là Lê thị Ðào, hai mươi bốn tuổi, cũng ở làng ấy, có mượn ông của ông bà Hoàng thị Sẹo, năm mươi tám tuổi, vợ cả ông Nghị viên Trần Ðức Quế ở làng Ðoài thôn, một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá hai chục đồng bạc. Hạn trong năm năm phải trả. Nếu không trả, chúng tôi xin chịu tội bội tín. “Giấy này làm tại làng Ðoài thôn ngày… tháng… năm…”

Chị Dậu nghe rồi rẫy nẩy:

– Thưa ông, ông lầm rồi. Tôi bán con và chó, chứ có mượn hoa tai của bà đâu?

Ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng mình, đặt ngang vào miệng tách nước:

– Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật mới nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không nói con, nói chó vào được. Sau này, mày cứ để cho con mày ở mãi với cô hai, thì cái giá ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con về, tao sẽ chiếu giấy bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy, chỉ cốt giữ cho nhà mày khỏi lật nhà tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi. Nghe không?

Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tách nước uống mọt hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà:

– Tùy đấy mày có tin nhà ta thì điểm chỉ vào đem về cho chồng mày ký tên, và xin chữ lý trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, thì tao sẽ giao tiền cho. Nếu mày không tin thì thôi. Ðây tao không ép.

Hai hàng nước mắt hòa với những giọt mồ hôi thánh thót rơi xuống gò má, chị Dậu cắm mặt đứng im. Một lát sau, chị quả quyết:

– Con xin vâng theo lời cụ

Thế rồi chị giơ bàn tay buộc rẻ chìa hai ngón tay để cho ông giáo bôi mực và in vào bứa văn tự. Xong việc, chị gập bức văn tự, giắt vào dải lưng. Bước ra thềm, chị nhặt lấy cái mê nón bị chó cắn rách. Ngần ngại, chị đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. Bà Nghị căn vặn nhắc đi nhắc lại:

– Nhớ lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng.

Tắt đèn – Chương VII

Bóng cây ngã đến gần đường bao lan. Mặt trời chênh chếch nhòm vào gốc đa, gốc gạo. Những con trâu, bò bị bắt và bị ký giam chỏng gọng nằm dưới ánh nắng, uể oải nhai những rễ khoai hoặc cỏ héo của chủ ban cho. Một lũ đàn bà chờ đợi nộp thuế, lê la ngồi khắp thềm đình.

Ðàn chó chui trong gậm đình, chực cướp xương rơi, con nọ cắn con kia ăng ẳng. Trên đình ăn uống đã tàn. Chánh tổng ngậm tăm nằm cạnh bàn đèn, hai mắt lim dim giở ngủ.

Cai lệ ngồi nhổm hai chân cạo lọ cặp môi thâm xịt nhành ra gần tới mang tai.

Cậu lính cơ lấy hết gân guốc trên bộ mặt đỏ gay, ra sức nghiền cục sái trong cái chén mẻ.

Mấy ông Hương trưởng, Tộc biểu, Trương tuần xúm quanh cái điếu đàn và chiếc ấm tay, kẻ hút

thuốc, người phùng miệng thổi bát nước nóng.

Lý trưởng tựa lưng bên bức câu lơn, thù tiếp Chánh hội, Phó hội bằng mâm cỗ chỉ còn rau chuối và lá tía tô. Thư ký, Chưởng bạ lễ phép chìa đũa, mời nhau gắp mấy miếng thịt mỡ khô cong các cạnh. Lý cựu, Phó lý, Thủ quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy những nhặng xanh, gật gù nhắc chén lên lại đặt chén xuống.

Người nhà Chánh tổng, người nhà Lý trưởng. mấy anh tuần phu canh ngày, ken vai vây lấy rá cơm “đi hơi” và chầu nước suýt ruồi chết nổi lều bều soàn soạt vừa và, vừa nuốt.

Mỗi người mỗi miệng, ai nói nấy nghe. Sự ầm ầm càng giúp sức cho sự nóng nực. Chị Dậu về đến cổng đình, vừa thấy tiếng ông Lý cựu quát vang trong đình:

– Thằng Mới đâu? Vào ty lấy thêm mấy chai rượu nữa ra đây! Chúng tao còn uống! Ai thôi mặc ai.

Tiếp đến tiếng ông Chánh hội:

– Hãy gượm! Rượu còn đấy các ông cứ uống cho hết. Ðể nó đi mua vài đồng thuốc phiện nữa đã. Cụ chánh đợi đã lâu rồi.

Rồi đến tiếng ông Hương trưởng:

– Thong thả hãy mua thuốc phiện cũng được. Miệng tao còn chưa rửa đây! Ra giếng múc tao chậu nước.

Rồi đến tiếng ông Thủ quỹ:

– Rồi hãy đi múc nước! Mày đi rót một tí nước mắm vào đây cái đã!

Rồi đến lượt ông Lý cựu vắt lại:

– Các ông đừng có bỉ mặt nhau! Tôi đương bảo nó đi lấy thêm rượu, các ông lại nỡ vỗ vào mặt tôi, người này sai nó việc này, người kia sai nó việc khác… Khỉnh nhau vừa vừa chứ!

Bạo dạn chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên đầu xuống:

– Chào các cụ, chào các ông.

Cả đình đổ xô trông ra. Người nhà Lý trưởng cháo ngược đôi đũa chỉ vào mặt chị:

– Sưu của anh ấy đủ chửa? Ðem mà nộp đi.

Cai lệ vừa cạo hết sái trong lọ, ngẩng đầu trông lên:

– À! Con vợ thằng gì ở xóm cuối làng phải không? Chị ta cứng cổ lắm, lý sự lắm. Sáng nay nếu không vội đi bắt đứa khác thì tôi biếu thêm chị ấy vài chục quả phật thủ nữa.

Phó lý chõ vào:

– Nó là vợ thằng Ðĩ Dậu chứ thằng gì? Sao ông không giã thêm cho nó một mẻ? Ông lý tôi mời ông về đây, chỉ cần có thế.

Lý trưởng rung đùi ra bộ đắc ý:

– Tôi nói trên có Cụ Chánh, có Ông Cau và đông các ông tất cả: Vụ thuế này tôi làm kể cũng cứng lắm. Không cần gì hết, đứa nào trái ý, đánh luôn. Mà cũng có thế mới được. Chúng tôi làm vua làm việc, quanh năm đầu trầy đít thớt, chỉ có những lúc “hồng thủy trướng giật” và những khi “sưu thuế giới kỳ” như thế này, thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ trói, trai làng thằng nào bướng bỉnh… đánh chết vô tội vạ.

Chị Dậu chẳng nói chẳng rằng. Ðiềm tĩnh, chị nhìn khắp mấy gian đình. Góc đình trong cùng, chừng hơn mười anh trai đinh doãi chân ngồi sắp hàng sau đám mâm bát lổng chổng. Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn song bởi một sợi dây thừng kếch xù.

Cố nhiên, đàn bà con gái không thể đi qua trước chỗ dân làng ăn uống. Chị Dậu bèn lùi trở xuống, quành ra cửa sau, rồi lẻn đến chỗ chồng ngồi.

Anh Dậu ngả đầu vào bức chấn song, mắt nhắm nghiền, miệng há hốc ra và thở hổn hển, mười đầu ngón tay xuống máu xưng lớn bằng mười quả chuối.

Chị Dậu rụng rời nổ đốt:

– Trời đất ơi, chồng tôi làm sao thế này?

Những bạn bị trói của anh Dậu, mỗi người trả lời một câu:

– Anh ấy lên cơn sốt rét từ hồi non trưa kia đấy. Bây giờ chừng như mệt quá, hắn mới lả đi và mới im được một lát, lúc nãy còn vừa run vừa rét, làm sốt cả ruột người ngoài.

– Thôi! Liệu mà vay mượn bán chác mau lên, cố lo cho đủ tiền sưu, rồi đem anh ấy về nhà. Chúng tôi khỏe mạnh thế này mà bị người ta trăng trói, cũng còn đau rức khổ sở đây, huống chi anh ấy đương ốm…!

Chị Dậu sụt sùi:

– Khốn nạn! Nào tôi có tiếc gì đâu? Trông thấy chồng con thế kia dầu có ruột gan là sắt cũng phải đau đớn. Nhưng vay chưa được, bán chưa kịp, các bác ạ!

Vừa nói, chị Dậu vừa nước mắt giàn giụa, ngồi xuống, chị sè sẽ vỗ vai chồng:

– Thầy em! Thầy em ơi! Tỉnh dậy cái nào!

Anh Dậu vẫn lì bì, lịch bịch.

Phó lý ở ngoài lòng đình ra oai:

– Con mẹ đĩ Dậu! Mày có câm đi, không thì ông vả vào mồm bây giờ! Ðình làng chứ xó buồng của vợ chồng mày đấy à? Ai cho chúng bay đú đởn với nhau ở đấy? Ðàn bà thối thây, suốt năm có một suất sưu của chồng mà không chạy nổi, lại còn nỏ mồm,..”thầy em” với “thầy anh”… Ngứa tai chúng ông!

Chị Dậu như không nghe biết chi hết, cứ việc nắm lấy vai chồng lay đi lay lại, như người ta cứu kẻ ngộ gió. Lâu lâu, anh Dậu lờ đờ mở to hai mắt trắng dã và rên hầm hừ.

Chị Dậu mếu máo:

– Thầy em làm sao thế? Có phải lên cơn sốt rét hay không? Hay là chỗ trói đau quá?

Anh Dậu ú ớ:

– U nó đã ra đấy ư? Ði lấy cho tôi bát nước. Khát lắm, ráo cả họng từ sáng đến giờ.

Chị Dậu vội gạt nước mắt đứng dậy, mượn thằng Mới cái bát yêu đàn, chị ra giếng xin một bát nước bưng vào. Anh Dậu vục đầu vào bát, òng ọc nốc một hơi dài, rồi anh ngửa cổ ra bức chấn song mà thở. Bụng sủi ầm ầm như suối reo.

Bên ngoài, mấy ông lý dịch vẫn uống rượu, vẫn hút thuốc, vẫn quạt phành phạch, vẫn giở lý luật cãi nhau lộn bậy.

Chị Dậu sờ trán chồng, sờ chân chồng, sờ cổ tay chồng, rồi chị lân la sờ cái nút thừng ở đằng lưng chồng, toan tính cởi trộm cho nó rộng ra một chút. Nhưng cái nút ấy, người thắt kiểu “móng lợn” và riết chặt lắm, chị không thể nào mà nới ra được. Một lát sau, anh Dậu hơi tỉnh, mơ màng nhìn vợ:

– Thế nào? U nó đã sang nhà cụ Nghị Quế hay chưa?

– Ðã. Tôi ở bên ấy về đây.

– Cụ ấy bằng lòng đấy chứ?

– Bằng lòng. Nhưng người ta bắt viết văn tự và bắt đèo thêm…

Chị không nỡ nói hết câu, ngập ngừng, chị cởi dải lưng, lấy mảnh giấy tây trao cho chồng:

– Tôi đã nhờ ông giáo bên ấy viết hộ văn tự rồi đây. Thầy em coi xem thế nào.

Anh Dậu tuy đón lấy bức văn tự, nhưng vì cánh tay bị dây thừng ghì lại chặt quá, anh không thể đưa nó lên dến gần mắt mà coi. Chị Dậu lại phải cầm lấy và chìa lên tận ngang mặt cho chồng lẩm nhẩm đánh vần.

Lý trưởng ngước mắt ngó thấy, cơn lôi đình nổi lên tức thì:

– Giấy má gì đấy! Con mẹ đĩ Dậu? Ðơn kiện phải không? Ừ được, có giỏi thì đi kiện ngay ông đi! Ông thử cho mày thêm một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể.

Rồi hắn đứng choàng ngay dậy, giơ chân toan bước. Nhưng cái cây thịt nó cứ ảo đảo như người lên đồng, xiêu xiêu, sẹo sẹo, chỉ chực ngã xuống sàn đình. Hắn phải vịn vào cột đình, và lại ngồi phịch xuống chiếu. Cậu lính cơ hùng hổ đứng lên:

– Ông lý trưởng cứ ngồi đấy. Ðể tôi trị chúng nó! Muốn đi kiện thì được đi kiện, khó gì?

Tắt đèn – Chương XIII

Vừa nói cậu Cơ vừa đùng chạy lại, giơ thẳng cánh tay tát đánh bốp vào mặt anh Dậu một cái. Và, mắm môi, mắm lợi, cậu thét:

– Mày đi kiện đi, ông xem! Bây giờ vẫn chửa nộp sửu, còn chực sinh sự với ông à?

Anh Dậu chết điếng người đi. Nước mắt chảy ra như mưa, anh sẽ đập đầu vào bức chấn song và kêu:

– Trời đất ơi! – cha mẹ ơi! Thân tôi sao mà nhục đến thế này? Nào tôi có định kiện tong gì ai cho cam!

Chị Dậu ậm ực muốn khóc, nhưng không khóc được. Những người bên cạnh đứng rớt nước mắt.

Cậu Cơ vẫn nét mặt hầm hầm. Nắm chặt bàn tay, cậu chĩa vào mặt anh chàng khốn nạn:

– Mày muốn vu vạ, bảo ông?

Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy. Một tay giơ bức văn tự, một tay nắm lấy cổ tay cậu Cơ thê thảm, chị nói bằng giọng van lơn:

– Thôi, em xin ông quyền. Nhà em đau yếu, ông tha cho! Có phải đơn kiện đơn tong gì đâu? Ðây ông coi, cái văn tự của em bán con bé cháu để lấy tiền nộp sưu cho nhà em đấy mà.

Chừng muốn tỏ ra mình là người thạo chữ, cậu Cơ đón bức văn tự, trầm tĩnh xem hết từ đến cuối.

Rồi cậu dịu giọng sẽ gắt:

– Nói láo! Cái giấy mượn đôi hoa tai bằng vàng đấy chứ, văn tự đâu mà văn tự?

Chị Dậu lễ phép:

– Thưa ông. thật văn tự đấy ạ ! Lúc nẫy, ở bên cụ Nghị, ông giáo viết xong, đọc cho em nghe. em cũng ngạc nhiên và đã nói như ông vừa nói. Cụ Nghị bảo rằng: Luật mới không cho cha mẹ được phép bán con, nên phải viết thế, chứ có hoa tai hoa tang gì đâu ? Nhà em kiết “xác mồng tơi”, ai còn giám rời hoa tai cho mượn ?

Những lời êm ái của chị hình như cũng có sức mạnh, làm cho nhà binh dằn lòng đứng lại, nghe cho hết câu. Rồi, cố liếc con mắt cho có vẻ tình để nhìn vào mặt chị chàng nhà quê, cậu Cơ trao trả chị này tờ giấy văn tự và hỏi một cách lả lơi:

– Ðức ông chồng vẫn chưa ký tên đây mà ! Sao không bảo đức ông chồng ký vào, rồi đi lấy tiền mà nộp sưu cho xong đi, cử để lôi thôi mãi thế ?

Ngay thật, chị chàng nhà quê không biết cải mối mánh khoé, vẫn đáp bằng giọng rầu rĩ:

– Em vừa giơ lên chao nhà em coi, các ông tưởng là đơn kiện, đã cùng đánh mắng om sòm…

Cậu Cơ nhăn răng vả cười hềnh hệch:

– Thế ra đức ông chồng phải đòn oan nhỉ.Nhưng thôi bây giờ đức ông chồng cho tên vào đó cũng chưa muộn gì.

Chị Dậu năn nỉ:

– Cánh tay nhà em bị trói chặt quá, không thể cầm bút ký được. Ông làm phúc cởi trói ra cho nhà em, thì em ơn ông vạn bội.

Cậu Cơ vẫn tủm tỉm:

– Tôi muốn làm… ơn cho chị lắm lắm… Nhưng còn quyền ở ông Lý.

Lý trưởng nghe nói tên mình, liền cất cái giọng nhè nhẹ:

– Ông Lý cái gì ? Việc gì mà nói đến ông Lý đấy ?

Cậu Cơ tơi tả chạy đến trả lời:

– Nhà chị gì kia, chị ta muốn xin ông cởi trói cho đức ông chồng, để đức ông chồng chị ta ký vào văn tự.

Lý trưởng lại kéo dài cái giọng khề khà:

– Thế nó không đi kiện nữa à, mà còn muốn xin cởi trói cho chồng ? Cậu bảo nỏ: “Không có phép” nhé ! Nộp đủ tiền sưu thì đây cởi cho !

Nếu mà tiền sưu chưa đủ, ông trời xuống đây cũng không tháo được cái thừng ở tay thằng Dậu. Đây còn trói. Có giỏi cứ đi kiện. Đây chỉ trói cho mà đi kiện !

Lý cựu bưng bát rượu kề gần lên môi, và gật gật gù gù:

– Mặc ! Ðây không biết. Ai trói cứ trói, ai cởi cứ cởi, mả ai đi kiện cứ đi kiện ! Ðây qua cầu rồi, cứ việc đánh chén cho đẫy ! Thằng Mới đâu ? Ông cho mày lấy thêm rượu, làm sao tự nẫy đến giờ chưa thấy ? Đừng láo, ông thì chẻ xác mày ra !

Chánh hội quăng tọt đôi đũa xuống mâm và nói dõng dạc:

– Ông Lý cựu ! Việc gì đến ông mà ông “đâm ba chầy củ” vào đấy ? Uống rượu cứ việc uống, người ta nói gì thì mặc người ta. Câu nào cũng chõ mồm vào, không để cho ai bàn bạc gì nữa !

Lý cựu đặt bát rượu vào mâm và đấm thật mạnh xuống sàn đình:

– À ! Ông cấm tôi nói à ? Quyền ông được thế phải không ? Ông Chánh hội !

Chánh hội vểnh bộ mặt hách dịch:

– Ừ đấy ! Quyền tôi được thế ! Quan sức cho tôi “hiệp dữ Lý trưởng” thôi đốc vụ thuế năm nay, người nào gai ngạnh tức là “hãn trở thuế sự”, tôi gông cổ lại cho mà xem !

Lý cựu sừng sộ:

– Miệng ông, ông nói; đình làng, ông ngồi ! Đố thằng nào làm gì được ông !

Chánh hội hùng hằng đứng lên, rốt lại loạng-choạng ngồi xuống, và quát:

– Tuần đâu ! Chúng bay trói thằng Lý cựu lại cho ông ! Tội đâu ông chịu !

Tuần phu im lặng không thưa, Lý cựu sắn nắn vén hai tay áo lên đến khuỷu tay:

– Cha thằng náo không trói được ông !

Chánh hội vớ luôn chai rượu cạnh mâm, toan liệng ra chỗ Lý cựu. Phó hội nhanh tay giằng được và can:

– Thôi ông ! Làm gì mà nóng lính thế ? Ông Lý cựu ông ấy say rượu đấy mà.

Lý cựu gằn gọc:

– À ! Ông Phó hội ! ông bảo tôi say rượu phải không ? Ừ thì tôi say ! Rượu uống chả say, thì ra rượu đổ vào hang chuột à ? Nhưng mà đây tôi không say, ông đừng nói bậy ! Thuế làng bổ hai đồng một mẫu, các ông thu của ngoại canh ba đồng năm hào, có ai nói với tôi được câu nào không ? Các ông mời tôi ra đây uống vài chén rượu, lại còn khà khịa ! Tôi khòng cần, đây tôi uống của mấy đứa phụ canh, không thèm uống nhờ thằng nào.

Lý trưởng động lòng:

– Tiền của phụ canh, nỏ vẫn dắt ở cạp váy nó ấy. Chúng nó ngồi dưới giọt đình kia kìa. Xuống lần cạp váy chúng nó mà uống. Bữa rượu hôm nay tiền túi của ông bỏ ra, ông muốn mời ai thì mời, ông không phải nói với đứa nào hết. Ông thu “lạm” đấy ! Thằng nào làm gì được ông ?

Lý cựu hung hăng như người điên:

– À ! Thằng Lý đương ! Mày bảo ông uống máu mấy con ngoại canh đãy à ?

Đánh “xoảng” một cái, cái bát ở mâm Lý cựu bay thẳng sang mâm Lý đương, và đánh “chát” một cái, cái chậu ở chiếu Lý đương cũng đập luôn vào cây cột bên cạnh Lý cựu. Nước canh, nước mắm bắn ra tứ tung. Hết thẩy mọi người đều lố nhố đứng dậy. Rồi, hết thẩy mọi người lại lảo đảo ngồi xuống. Tuần phu và người nhà Lý trưởng, người nhà Chánh tổng sấn sổ chen vào, chạy hết mâm, bát, chai, chén xuống sân đình.

Cai lệ rước chén thuốc phiện và bộ khay đèn sang thẳng gian đình bên kia.

Thủ quỹ cố ôm tráp bạc đứng dậy, nhưng không đứng được, lại phải ngồi thụp xuống.

Chánh tổng sực tan giấc mộng, ngơ ngác hỏi giật hỏi giọng:

– Cái gì thế ? Cái gì thế ? Nốc cho lắm rồi nói bậy ! Người nào gây chuyện với người nào ?

Trong đám đông mỗi người mỗi câu:

– Bẩm, ông Lý cựu với ông Chánh hội.

– Bẩm, ông Lý cựu với ông Lý đương.

Chánh tổng lên giọng hống hách:

– Tuần đâu ? Mày điệu cổ thằng Lý cựu xuống sân đình kia cho ông ! Nó định ăn cướp tiền thuế của Lý trưởng à ? Rồi ông trình quan cho nó.

Lý cựu vớ miệng mảnh chậu ở cạnh cột đình, toan rạch vào trán. Trương tuần vội vàng chạy đến giật được, vứt đi. Hẳn xốc vào nách Lý cựu và vực ra cửa. Rượu, thịt, rau, đậu tự trong miệng ông Lý cựu thông thốc tuôn ra thềm đình.

Tắt đèn – Chương IX

Hương trưởng, Tộc biểu, những người vô sự lẻ tẻ đứng dậy cố dìu Lý cựu về nhà. Chỉ còn mấy ông chức dịch đương thứ phải ở lại đây lo lắng việc thuế.

Chị Dậu chờ cho tan cơn ồn ào, mới dám rón rén bước lại nói với lý trưởng

– Thôi con lạy ông! Xin ông hãy tạm tha trói nhà con một lúc, để nhà con ký vào văn tự, con mới có tiền đóng sưu

Lý trưởng vẫn giận dữ:

– Ðừng lằng nhằng! Trói cũng ký được. Không phải tha.

– Bẩm ông, xin ông trông lại! Thật quả nhà con bị trói chặt quá, cánh tay quặt mãi ra đằng sau lưng, không sao ký được! Chứ nếu nhà con ký được thì đâu dám kêu van cho rác tai ông!

– Ðưa văn tự đây ta xem!

Chị Dậu sẽ sàng nâng mảnh văn tự trao cho Lý trưởng, rồi im lặng chị nén lòng ngồi đợi ở cạnh câu lơn.

Mặt trời đã nghiêng sang phía sau đình.

Ánh nắng luồn qua chấn song, thấp thoáng soi chỗ anh Dậu.

Thằng Mới lật đật quét dọn cơm rau rơi vãi và mãnh bát, mảnh chậu ném ở sàn đình.

Vợ nó cặm cụi ngồi dưới sân đình rửa bát, rửa mâm, vét vói những bát thịt thừa canh dở.

Mấy mụ đàn bà ngoại canh lần lượt lên đình nói với Thủ Quỹ dở sổ tính thuế.

Lý trưởng đánh vần hết bức văn tự, liền thở hơi rượu vào mặt chị Dậu:

– Chỉ cần chồng mày lý vào văn tự thôi à?

– Cụ Nghị bắt phải xin triện của ông nhận thực cho nữa. Nhưng con sợ ông, nên chưa dám nói.

Lý trưởng cười nói khinh bỉ

– Triện của ông có phải củ khoai? Dễ ông đóng không cho mày đấy chắc!

– Xin ông thương con… Nếu không có triện của ông, cụ Nghị lại không giao tiền.

– Một đồng bạc! Nghe chửa! Thế là ông thương mày đấy, người khác thì phải năm đồng.

– Lạy ông, ông xét lại cho. Con bán cả con lẫn chó mới được có hai đồng bạc.

Mặc kệ. Không biết, đủ một đồng bạc thì ông sẽ đóng triện cho.

Chị Dậu vừa nói vừa khóc:

– Nếu ông không thương, con không lấy đâu được tiền nộp sưu

– Chẳng có tiền sưu thì chồng mày ngồi tù.

Thất vọng, chị Dậu rũ rượt ngồi im. Ðến lượt anh Dậu năn nì thay vợ

– Thưa ông, con có muốn chi thế này! Trời làm vận hạn đau yếu nên con phải chịu. Xin ông thương lại vợ chồng nhà con, một đồng bạc con cũng xin vâng, nhưng con hãy khất ngày mai đóng thuế con bắt nhà con cấy trừ hầu ông.

Chánh tổng phì cười;

– Bây giờ lại có lối đóng triện cấy trừ nữa. Thôi cũng được! Ông Lý nhận lời cho nó đi, đừng để chúng nó nói mãi điếc tai

Lý trưởng làm bộ khó khăn

– Vâng! Tôi nghe lời cụ Chánh

Rồi bèn quay hỏi chị Dậu

– Mầy định cấy trả nhà tao bao nhiêu?

– Con xin cấy hầu ông một mẫu

– Ðồng bạc một mẫu thế ra một hào một sào kia à? Không được, phải một mẫu rưỡi.

– Ông dạy thế nào con cũng xin vâng

Chuyện êm, anh Dậu được tạm thoát ly sợi thừng để đề tên vào văn tự. Nhưng anh bị trói đã lâu cánh tay sưng lớn và bại liệt, các đầu ngón tay tê tái, bấm không biết đau, lóng ngóng mãi không viết được một chữ.

Tắt đèn – Chương X

Thoáng thấy mẹ về đến cổng thằng Dần mừng nhẩy chân sáo:

– U đi đâu từ lúc non trưa đến giờ? Có mua được gạo hay không? Sao u lại về không thế?

Cái Tý ở trong cửa bếp sa sả mắng ra:

– Ðã bảo u không có tiền, lại cứ nhằng nhằng nói mãi! Mày tưởng người ta dám bán gạo chịu cho nhà này sao? Thôi! Khoai chín rồi đây, để tôi đổ ra cho ông xơi, ông đừng làm tội u nữa.

Rồi nó tất tả bồng em chạy ra trước thềm, đon đả chào mẹ:

– U đã về ạ! Ông Lý cởi trói cho thầy con chưa hử u? Cái nón của u làm sao bị rách tan tành thế ấy?

Tay u làm sao lại phải buộc rẻ thế kia?

Chị Dậu không trả lời. Thơ thẩn, chị đón lấy con bé con và ngồi ghé vào bên mép chõng. Cái Tý xoa đầu cái Tỉu kể lể bằng giọng hú hí:

– Cô ả này hôm nay quấy lắm đấy u ạ! U đi khỏi nhà, cô ta cứ ra rả khóc không dứt miệng. Dỗ thế nào cô ta cũng không nín cho. Ðặt ngồi xuống phản, cô ta lại níu lấy con và cố đứng lên. Con vừa đèo đẽo cắp cô ta ở sườn, lại vừa hì hục rửa khoai, tra nồi, xin lửa, dóm bếp. Củi thì ướt chẩy ướt nhã, lì lụt mãi vẫn không cháy cho. Thế mà con cũng luộc được chín nồi khoai rồi đấy! U bảo con có ngoan không?

Chị Dậu vẫn không nói gì. Buồn rầu, chị kéo “chéo yếm” cài trong dải lưng, vạch bầu vú nổi gân xanh lè, và bóp mạnh cổ vú, vắt những sữa chua xuống đất.

Thằng Dần lần thần đứng bên cạnh mẹ hau háu nhìn những tia sữa bằng hai con mát tiếc rẻ ngậm ngùi.

Cái Tỉu vừa ngậm vú mẹ vừa khóc lằng nhằng. Sữa trong vú chẩy ra không đủ sức nó nuốt. Nhả bên nọ, nguập bên kia, bú bên này, lại sờ bên khác, con bé vần hai đầu vú giống như con mèo vờn cái bong bóng bẹp hơi.

Mấy nét dăn dúm hiện trên sống mũi và mấy tiếng xuýt xoa sè sẽ tự trong đầu lưỡi đưa ra, chị Dậu chừng cũng rát ruột về sự phàm ăn của con. Tuy vậy, chị vẫn hết sức nín nhịn, và vẫn luôn luôn vuốt tay vào vú, cố ý dồn cho sữa xuống.

Cạnh chõng, nghi ngút một đám khói bay.

Cái Tý lễ mễ bưng rổ khoai luộc ghếch vào chân cột, và dặn thằng Dần:

– Hãy còn nóng lắm đấy nhé! Em đừng mó vào mà bỏng thì khốn.

Vừa nói, nó vừa tung tăng chạy đến rổ bát, lục lấy hai cái bát to và một đoi đũa, đem lại. Bới từ trôn rổ bới lên, nó gắp những mẫu khoai to xếp đầy hai bát. Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhành nó đặt một bát lên chõng:

– Mời u xơi khoai đi ạ!

Rồi nhanh nhảu, nó bưng một bát, bước qua tấm phản cặp khênh, ngửa cổ để lên bàn thờ, và quay xuống, nó bảo thằng Dần:

– Bát này chị để phần thầy đấy nhé! Chốc nữa thầy về thầy ăn. Ðứa nào ăn “vèn” của thầy thì chị không cho đi chơi với chị.

Thằng bé không để tiếng nào vào tai, nó cứ ngồi sán bên cạnh rổ khoai và nuốt nước rải ừng ực.

Cái Tý lật đật chạy đi tìm cái quạt nan, để quạt cho khoai chóng nguội.

Rổ khoai vừa đi hết khói, hai đứa xúm lại, lê la ngồi phệt dưới đất, mỗi đứa nhón lấy mỗi củ, không kịp bóc vỏ, chúng nó vừa thổi phù phù vừa cắn ngấu nghiến. Giống hai con cọp trong chuồng bách thú vớ miếng thịt bò tươi, đứa nào đứa ấy nhai nuốt một cách ngon lành gọn vẹn. Trừ ra khi gặp củ nào “hà nhậy”, đắng quá không thể nuốt được, chúng nó mới chịu nhổ đi, và khi bị củ nào nhiều sơ, dai quá không thể nhai được, chúng nó mới chịu nhả bã.

Những sự hiếu thảo, ngoan ngoãn của hai đứa trẻ ngây thơ vô tình lộ ra từ nãy đến giờ, hình như đều là những lưỡi dao găm cắt từng khúc ruột chị Dậu. Càng nhìn chúng nó, chị càng nước mắt ngắn dài.

Ngạc nhiên, cái Tý thỏ thẻ giục mẹ:

– U ăn khoai đi, để lấy sửa cho em nó bú. Từ sáng đến giờ, u chưa ăn gì, đói quá chịu làm sao được?

Chị Dậu vẫn cứ rầu rĩ nét mặt, những giọt nước mắt rơi xuống càng mau.

Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tý lại bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ:

– Này u ăn đi! Ðể mãi! U có ăn thì con mới ăn. U không ăn, con cũng không muốn ăn nữa.

Nể con, chị Dậu cầm lấy một củ, rồi chị lại đặt xuống chõng Vẻ nghi ngại hiện ra sắc mặt, con bé hóm hỉnh hỏi mẹ một cách thiết tha:

– Sáng ngày người ta đấm u có đau lắm không?

Chị Dậu sẽ gạt nước mắt;

– Không đau, con ạ!

– Thế làm sao u cứ khóc mãi mà không ăn khoai? Hay là u thương chúng con đói quá? Không, chúng con không đói nữa đâu. Hai đứa ăn hết ngần kia củ khoai thì no mòng bụng ra rồi, còn đói gì nữa? U cứ ăn đi, u cứ ăn hết bát khoai ấy đi! Nếu u không ăn, lấy đâu ra sửa cho em nó bú?

Chị Dậu vừa nói vừa mếu:

– Thôi u không ăn, để phần cho con. Con chỉ được ăn ở nhà bữa nay nữa thôi. U không muốn ăn tranh của con. Con cứ ăn cho thật no, không phải nhường nhịn cho u.

Cái Tý chưa hiểu hết ý câu nói của mẹ, nó xám mặt lại và hỏi bằng giọng luống cuống:

– Vậy thì bửa sau, con ăn ở đâu?

Ðiểm thêm một giây nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa:

– Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Ðoài

Cái Tý nghe nói giẫy nẩy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc:

– U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán con đi, tội nghiệp. U để cho con ở nhà chơi với em con.

Thằng Dần cũng khóc tru tréo, bỏ luôn rổ khoai đứng dậy, ngoay ngoảy lắc cái mông đít, nó nhắc lại câu đã nói sáng ngày:

– Em không! Nào! Em không cho bán chị Tý! Nào! Nào! Có bán thì bán cái Tỉu này này!

Chị Dậu chỉ thổn thổn thức thức không nói thêm được câu gì. Bộ mặt sầu thảm dần dần ngã xuống, đối thẳng với mặt con bé đương bú.

Bên đám lông mày cong rướm, mấy sợi tóc mai thả rủ xuống, hình như làn khói thuốc lá phớt phơ bay trước khuôn gương. Và trên cái gò má đỏ bừng, vài dòng nước mắt thánh thót đuổi nhau, chẳng khác hạt sương buổi mai lánh đọng trong cánh hoa hồng mới nở.