Giới thiệu tác phẩm “Hiệp khách hành”

Hiệp khách hành xoay quanh cuộc phiêu lưu của Thạch Phá Thiên và bài thơ “Hiệp khách hành” của thi tiên Lý Bạch.

Hiệp khách hành là câu chuyện hoàn toàn không có sự liên hệ với lịch sử, với những tình tiết mang tính chất mờ ảo, thần thoại. Chỉ có thể đoán rằng nó xảy ra trong thời kỳ nhà Minh, khi mà đã xuất hiện phái Võ Đang với huyền thoại Trương Tam Phong. Người đang chấp chưởng trưởng môn phái Võ Đang lúc ấy là Ngu Trà đạo trưởng.

Mạch chuyện xoay quanh huyền thoại về đảo Hiệp Khách ở ngoài Đông Hải, trên đó có một lực lượng võ công cao cường. Cứ mười năm một lần, đảo chủ sẽ cử vào Trung Nguyên hai người gọi là hai sứ giả Thưởng thiện Phạt ác tìm đến các bang hội lớn trên giang hồ đưa hai tấm thẻ đồng (một tấm gọi là Thưởng thiện, một tấm gọi là Phạt ác) mời đích danh người đứng đầu đến dự tiệc cháo Lạp Bát trên đảo Hiệp khách.

Bang hội nào không tuân theo đều bị tiêu diệt, hai sứ giả này võ công cực kỳ cao cường, không có bang hội nào đánh lại. Đã ba lần đảo Hiệp khách đến mời người, và những người đi đều không trở về. Đảo Hiệp khách được bao trùm bởi một màn sương mù bí ẩn, chết chóc, là nỗi khiếp sợ của võ lâm Trung Nguyên, và kiếp nạn này lại sắp xảy ra…

Tác phẩm được phát hành lần đầu tiên trên Minh báo vào năm 1965.

Dịch giả: Đông Hải

Mục lục

Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh
Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa
Hồi 03: Ma Thiên Nhai
Hồi 04: Bang chúa Trường Lạc Bang
Hồi 05: Đinh Đinh Đang Đang
Hồi 06: Vết thương
Hồi 07: Tuyết Sơn kiếm pháp
Hồi 08: Thằng ngốc
Hồi 09: Đòn Bánh Tét
Hồi 10: Kim Ô đao pháp
Hồi 11: Rượu thuốc
Hồi 12: Hai tấm bài đồng
Hồi 13: Tình cốt nhục
Hồi 14: Tứ đại môn phái ở Quan Đông
Hồi 15: Chân tướng
Hồi 16: Thành Lăng Tiêu
Hồi 17: Tự đại thành cuồng
Hồi 18: Điều phải cầu xin
Hồi 19: Cháo Lạp Bát
Hồi 20: Hiệp Khách Hành
Hồi 21: Ta là ai?
Hậu ký

Hồi 01: Huyền Thiết Lệnh

Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Tạp đạp như lưu tinh

Thập bộ sát nhất nhân

Thiên lý bất lưu hành

Sự liễu phất y khứ

Thâm tàng thân dữ danh

Nhàn quá Tín Lăng ẩm

Thoát kiếm tất tiền hoành

Tương chích đạm Chu Hợi

Trì khương khuyến Hầu Doanh

Tam bôi thô nhiên nặc

Ngũ nhạc đảo vi khinh

Nhẵn hoa nhĩ phục hậu

Ý khí tố nghi sinh

Cứu Triệu huy kim trụy

Hàm Đan tiên chấn kinh

Thiên thu nhị tráng sĩ

Huyền hách Đại Lương thành

Túng tử hiệp cốt hương

Bất tàm thế thượng anh

Thùy năng thư các hạ

Bạch thủ thái huyền kinh.

(Khách nước Triệu phất phơ giải mũ,

Kiếm ngô câu rực rỡ tuyết sương.

Ngân yên bạch mã huy hoàng,

Vó câu vun vút như ngàn sao bay.

Cách mười bước giết người chẳng trật,

Nghìn dặm xa vùng vẫy mà chi.

Việc xong rũ áo ra đi,

Ẩn thân rừng núi kể gì tiếng tăm.

Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến,

Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi.

Này nem này rượu khuyên mời,

Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh.

Ba chén cạn, thân mình sá kể,

Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng.

Mắt hoa mặt đã nóng bừng,

Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh.

Chùy cứu Triệu vung tay khẳng khái,

Thành Hàm Đan run rẩy kinh hoàng.

Nghìn thu tráng sĩ hai chàng,

Tiếng tăm hiển hách rỡ ràng Đại Lương.

Người dù chết còn xương thơm ngát,

Chẳng hổ ngươi đáng mặt anh hào.

Kìa ai ẩn náu trên lầu,

Chép kinh đến thuở bạc đầu chưa xong.)

Đây là bài cổ phong Hiệp Khách Hành của Lý Bạch, viết về chuyện của Hầu Doanh và Chu Hợi, hai vị môn khách của Tín Lăng Quân ở nước Ngụy thời Chiến Quốc. Ngàn năm sau, hậu nhân đọc lại vẫn thấy lời văn sắc bén, tráng khí hào hùng, như hiệp sĩ oai phong ở ngay trước mặt. Thành Đại Lương trong bài cổ thi này ở cạnh sông Hoàng Hà, sau gọi là Biện Lương, tức là phủ Khai Phong huyện Hà Nam ngày nay. Nơi đây tuy đã mấy đời là chốn kinh thành, nhưng phong tục dân chúng vẫn còn chất phác. Khí thế hào hiệp, khẳng khái anh hùng từ thời cổ đại truyền mãi về sau cho hậu thế, đến nay vẫn chưa mai một.

* * *

Cách cửa đông thành Khai Phong chừng mười hai dặm có một thị trấn nhỏ gọi là Hầu Giám Tập. Thị trấn nhỏ này có tên như thế, vì Hầu Doanh vốn là Di Môn Giám Giả của Đại Lương. Phía đông thành Đại Lương vốn có một quả núi hình thế bằng phẳng gọi là Di Sơn, nên cửa đông còn gọi là Di Môn. Di Môn Giám Giả chính là một chức quan nhỏ coi việc đóng mở cửa thành phía đông Đại Lương.

Lúc ấy trời đã xế chiều. Dân chúng ngoại thành về họp chợ ở thị trấn, kẻ gánh người đội quay về nhà thật là tấp nập. Đột nhiên, ở phía Đông Bắc văng vẳng có tiếng vó ngựa dồn dập. Tiếng vó ngựa mỗi lúc một gần, cả một đại đội nhân mã, ít ra phải có đến hai trăm kỵ sĩ đang phi như bay. Vó ngựa chạy đã rất gấp, mà người cưỡi ngựa còn cố gia roi cho nhanh hơn nữa. Mọi người bàn tán xôn xao: “Chắc đây là quan quân của triều đình.” Có người nói: “Chúng mình mau tránh ra là hơn, lỡ binh mã quan quân kéo qua xô ngã, đổ cả gánh hàng, cũng phải chịu thôi. Giả tỉ bị xéo chết thì lại càng khốn nạn.”

Đột nhiên lại nghe những hồi còi xen lẫn vào tiếng vó ngựa. Sau chốc lát, những hồi còi này tựa hồ đông gọi tây thưa, nam xướng bắc họa, dường như bốn mặt tám phương đều có tiếng còi, vây chặt Hầu Giám Tập. Mọi người kinh hãi thất sắc. Những ai có chút hiểu biết đều không khỏi phỏng đoán: “Phải chăng đây là cường đạo?”

Trong tiệm tạp hóa ở ngay đầu thị trấn, một tên phụ việc lè lưỡi nói: “Úi chà! E rằng mấy vị lão ca đó sắp đến rồi!”

Chủ quán họ Vương sắc mặt tái mét, giơ cánh tay mập mạp run rẩy lên, tưởng chừng như muốn đập gãy đầu tên phụ việc đó. Hắn quát mắng: “Con mẹ nó! Ngươi nói cái gì mà lão ca với tiểu ca? Giả tỉ các vị đại gia đó đến đây thật mà nghe thấy, thì cái mạng nhỏ xíu của ngươi có còn giữ được không? Vả lại, ta cũng chưa thấy giữa ban ngày ban mặt mà có chuyện như thế bao giờ? Úi chà! Chắc… chắc là có chuyện gì rồi…”

Tới nửa câu cuối cùng, hắn há hốc miệng ra không nói thêm được nữa, vì bỗng thấy mé đông đầu thị trấn có bốn năm con tuấn mã chạy tới. Bọn kỵ sĩ đều mặc áo đen, đầu đội nón rộng vành, tay cầm cương đao sáng loáng. Chúng lớn tiếng quát: “Bà con cô bác ở đâu phải đứng yên đó, không được nhúc nhích. Hễ ai cục cựa thì đừng trách đao kiếm không có mắt.” Chúng vừa quát tháo vừa quất ngựa chạy về hướng Tây. Móng ngựa bịt sắt nện xuống đường lát đá xanh bật lên những tiếng côm cốp, nghe vừa kinh hãi vừa hồi hộp.

Tiếng vó ngựa chưa dứt thì từ hướng tây lại có bảy tám con ngựa chạy đến. Bọn kỵ sĩ cũng mặc toàn áo đen, đầu đội nón rộng vành kéo sụp xuống. Mấy người này cũng hò hét om sòm: “Ngoan ngoãn đứng yên thì không sao hết! Còn ai muốn nếm mùi đao thì cứ việc chạy ra.”

Tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bỗng cười khẩy một tiếng, rồi nói: “Đao thì làm gì có mùi…” Hắn chỉ muốn nói giỡn một câu, nào ngờ nói chưa xong thì đã bị một đại hán vung roi vào trong quán quấn trúng cổ, rồi thuận tay giật một cái. Lập tức nghe một tiếng “bình”, gã đã văng ra, nằm lăn giữa mặt đường.

Đại hán đó cứ phóng ngựa chạy về phía trước, lôi cả tên giúp việc đi. Một con ngựa đi sau phóng nhanh tới, vó trước xéo lên một cái. Tên giúp việc chỉ rú được một tiếng rồi im, dĩ nhiên đã mất mạng rồi. Mọi người đứng xung quanh thấy bọn này hung hãn như vậy, làm sao dám nhúc nhích nữa? Có người muốn về đóng cửa lại, nhưng hai chân tựa như bị đóng đinh xuống đất, toàn thân run bần bật, chân tay lóng cóng, muốn nhúc nhích cũng không được nữa.

Cách tiệm tạp hóa đó năm sáu căn có một tiệm bán bánh tiêu và dầu cháo quẩy. Chảo dầu đang sôi sùng sục, trên rổ sắt có đặt bảy tám cái bánh. Một ông lão đầu tóc hoa râm đang ngồi trước cái chảo, cúi xuống nặn bột thành những viên nhỏ, rồi lại đè bẹp ra thành miếng hình tròn, tựa như không nhìn thấy những chuyện kinh tâm động phách xảy ra trước mắt. Lão lại cho một ít nhân vào giữa miếng bột, gói lại thành cái bánh, rắc lên một ít mè, rồi dùng kẹp sắt bỏ bánh vào chảo dầu sôi.

Lúc này tiếng còi bốn mặt đã ngừng thổi, ngựa cũng không chạy nữa. Cả một thị trấn bảy tám trăm người tuyệt không tiếng động. Ngay những đứa nhỏ đang khóc cũng bị bố mẹ chúng bịt miệng lại, không cho phát ra chút thanh âm nào, mọi người hầu như nín thở. Bỗng nghe vang lên những tiếng lộp cộp của giày da nện trên đường phố lớn ở mé tây.

Người này đi rất thong thả, chân bước trầm trọng. Mỗi bước chân của y đều khiến mọi người lo lắng, tưởng chừng như chân y xéo lên trái tim mình. Tiếng bước chân mỗi lúc một gần.

Mặt trời sắp khuất sau núi phía tây. Một bóng người dài lê thê in xuống mặt đường, theo tiếng bước chân mà chậm chạp nhích gần lại. Mọi người đều sợ hãi đứng thộn mặt ra, chỉ có một mình ông lão kia là vẫn tiếp tục chiên bánh. Tiếng giày da lộp cộp đến trước cửa tiệm bánh này thì dừng lại. Người đó để mắt ngó ông lão từ đầu đến chân rồi đột nhiên bật lên mấy tiếng cười lạnh.

Lão bán bánh từ từ ngẩng đầu lên, thấy người đó thân hình cao lêu nghêu, mặt chỗ lồi chỗ lõm như vỏ cam, chằng chịt những mụn cóc. Lão bán bánh gật đầu chào, hỏi: “Đại gia muốn mua bánh phải không? Một đồng một chiếc.” Rồi lão cầm chiếc kẹp sắt gắp bánh ra, đặt chiếc bánh tiêu nóng bỏng lên một tấm ván màu trắng.

Gã cao kều cười nhạt nói: “Đưa đây!” Rồi hắn đưa tay trái ra. Lão già nheo mắt lại, “Vâng!” một tiếng, rồi gắp chiếc bánh nóng hổi đặt vào bàn tay gã.

Gã cao kều đột nhiên dựng đứng lông mày, giận dữ quát: “Lúc này mà ngươi còn dám giỡn mặt lão gia ư?” Rồi gã cầm cái bánh liệng vào mặt lão già đánh vèo một tiếng. Lão già chậm rãi nghiêng đầu đi, chiếc bánh bay vù qua rồi rớt vào rãnh nước bẩn bên cạnh đường.

Gã cao kều vừa liệng bánh ra, lập tức xoay tay về sau lưng rút ra một cặp song câu. Ánh tịch dương chiếu vào đầu câu liêm, phát ra ánh xanh lè khiến người ta phải kinh hãi. Gã lớn tiếng quát hỏi: “Đến bây giờ còn chưa chịu đưa cái đó ra ư? Họ Ngô kia! Ngươi có hiểu biết thời thế không?”

Lão già bán bánh đáp: “Đại gia nhìn lầm người rồi. Lão họ Vương, người ta kêu bằng lão Vương bán bánh, ở Hầu Giám Tập này ai cũng biết.”

Gã cao kều lại cười khẩy: “Con mẹ nó! Bọn ta đã điều tra rõ ràng, ngươi lại còn giả bộ ư? Ngươi cải trang thì bất quá trốn được một năm sáu tháng, nhất định không trốn được cả đời.”

Lão già bán bánh nheo mắt, chậm rãi nói như không có chuyện gì: “Ta vẫn nghe nói An trại chủ Kim Đao Trại thường cướp của người giàu để giúp người nghèo. Trên chốn giang hồ ai đề cập đến hắn cũng đưa ngón tay cái lên mà khen là hiệp đạo. Thế mà sao hôm nay hắn lại phái bọn tiểu lâu la đi làm càn, lại kiếm chuyện cả với lão bán bánh tiêu nghèo hèn này là nghĩa làm sao?” Nhìn lão thì thấy không có khí lực chi hết, thế mà nói mấy câu này lại rất dõng dạc rõ ràng.

Gã cao kều giận dữ quát: “Ngô Đạo Thông! Ngươi nhất định không đưa ra ư?”

Lão già bán bánh hơi đổi sắc mặt, má bên trái hơi giần giật, nhưng vẫn thản nhiên hỏi lại: “Ngươi đã biết Ngô mỗ mà còn dám đến đây vô lễ, lá gan có bị to quá không?”

Gã cao kều mắng lại: “Gan mật của lão gia to hay nhỏ, đến hôm nay ngươi mới biết hay sao?” Tay trái gã vung câu ra chiêu Thủ Đáo Cầm Lai, nhanh như chớp móc xuống vai bên trái Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông né mình qua phải, cây thiết câu của gã cao kều móc vào quãng không. Gã lập tức rút tay trái về, hữu câu nhằm vào sau lưng Ngô Đạo Thông mà móc. Ngô Đạo Thông đột nhiên lún mình xuống tránh khỏi chiêu này, rồi co chân phải đá vào lò lửa đỏ rực. Toàn bộ than hồng trong lò bay vọt đến gã cao kều, chảo dầu sôi để chiên bánh tiêu cũng tạt thẳng tới.

Gã giật mình kinh hãi, vội nhảy lùi lại tránh được than hồng, nhưng không tránh được chảo dầu sôi. Gã rú lên một tiếng “Úi chao!”, chảo dầu đầy đã tạt trúng hai đùi, đau đớn thét lên be be.

Ngô Đạo Thông vận sức xuống chân để nhảy vọt lên không, hạ xuống nóc nhà đối diện, trong tay vẫn nắm chiếc kẹp sắt để nướng bánh. Đột nhiên thanh quang lấp loáng, một lưỡi đơn đao chém thẳng xuống đầu lão.

Ngô Đạo Thông đưa kẹp sắt lên đỡ đánh choang một tiếng, lửa bắn tóe ra.

Cái kẹp sắt trông đen thui chẳng đẹp đẽ gì, nhưng lại được đúc bằng thép ròng, nên mới gạt được lưỡi đao ngược trở lại.

Giữa lúc ấy, một cây đoản thương từ bên trái, và một cặp song đao từ bên phải đồng thời đánh tới, thì ra chung quanh nóc nhà đã bố trí mai phục. Ngô Đạo Thông hứ lên một tiếng rồi quát mắng: “Bọn vô liêm sỉ, ỷ đông người để thủ thắng!”

Lão vươn người lên, tách cái kẹp làm đôi. Mỗi tay lão cầm nửa cái kẹp, bên trái gạt thương, bên phải đỡ song đao. Thế là cây kẹp để gắp bánh tiêu biến thành một đôi phán quan bút.

Đôi bút của Ngô Đạo Thông vung ra liên tiếp, chiêu nào cũng nhằm vào huyệt đạo trọng yếu của đối phương, tuy phải lấy một chọi ba mà vẫn chiếm được thượng phong. Bỗng lão quát lên: “Trúng!”. Gã sử đoản thương la lên một tiếng “Úi chao!”, đùi trái trúng một bút, lăn long lóc từ trên nóc nhà xuống.

Trên một mái nhà ở phía tây bắc, có một lão già vừa lùn vừa ốm đang đứng chắp tay sau lưng, lạnh nhạt nhìn ba người giao đấu.

Ánh bạch quang lấp loáng, gã sử đơn đao lại bị cây bút bên trái của Ngô Đạo Thông đâm trúng ngực té nhào, đầu cắm thẳng xuống đường phố. Gã sử song đao hình như đã khiếp sợ muốn trốn, múa tít cặp đao như tuyết rơi hoa rụng che kín trước người, chỉ thủ chứ không công nữa.

Lão già vừa lùn vừa ốm từ từ bước tới, khi đến gần, ngón tay trỏ đột nhiên chĩa ra, điểm tới mắt trái của Ngô Đạo Thông. Phát chỉ này thần tốc vô cùng, buộc Ngô Đạo Thông vội vã thu bút về gạt. Ngón tay của lão lùn ốm hạ xuống một chút, né được cây thiết bút, rồi đâm thẳng vào yết hầu đối thủ. Thế bút của Ngô Đạo Thông đã hết đà, không thể biến chiêu, đành phải lùi lại một bước.

Lão lùn ốm cũng tiến lên một bước, lại vung ngón trỏ ra toan điếm vào bụng dưới đối phương. Ngô Đạo Thông vung tả bút gạt đi, hữu bút nhằm đập xuống đầu lão lùn ốm. Ngờ đâu lão lùn ốm lại xông thẳng tới trước, nhảy xổ vào người y.

Lão nhảy vọt tới vừa tránh khỏi chiêu bút của đối phương, vừa vung cả hai tay nhằm nắm vào trước ngực Ngô Đạo Thông.

Ngô Đạo Thông cả kinh thất sắc vội lùi lại phía sau. Bỗng nghe “soạt” một tiếng, ngực áo lão đã bị đối phương túm lấy rồi xé rách một mảnh lớn. Ngô Đạo Thông trong lúc hoang mang cũng không kịp xem mình đã bị thương chưa. Lão xoay tay đảo ngược song bút, xuất chiêu Hoàn Bão Lục Hợp, hai chuôi bút nhằm gõ vào huyệt thái dương ở hai bên đầu lão lùn ốm.

Lão lùn ốm không né tránh mà cũng không chống đỡ, lại xông về phía trước, vung song chưởng đánh trúng trước ngực Ngô Đạo Thông. Mấy tiếng lách cách vang lên, không biết đã có mấy cái xương sườn bị gãy. Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà nhào thẳng xuống đất.

Cặp đùi của gã cao kều đã bị dầu sôi đổ vào phỏng hết cả. Gã kêu la ầm ĩ, nhưng vì hai chân bị thương mà không thể nhảy lên nóc nhà để liều mạng được. Gã lại biết lão già lùn ốm Chu Mục kia tính khí cao ngạo tự phụ, đã ra tay thì không muốn ai vào trợ lực, nên chỉ nằm ngửa mặt lên xem hai bên giao đấu. Vừa thấy Ngô Đạo Thông từ trên nóc nhà ngã lăn xuống, gã cao kều cả mừng nhảy xổ lại, vung song câu đâm thẳng vào bụng kẻ thù, rồi lấy làm đắc ý, ngửa mặt lên trời cười sằng sặc.

Chu Mục vội la lên: “Phải hỏi cung đã!” Nhưng chậm mất rồi, song câu đã đâm thủng bụng Ngô Đạo Thông.

Bất thình lình, gã cao kều la lên: “Úi chao!” rồi loạng choạng lùi lại mấy bước, trước ngực đã bị hai cây thiết bút đâm suốt từ ngực ra sau lưng. Máu từ bốn lỗ vết thương chảy ra ào ào, gã lảo đảo mấy cái rồi té huỵch xuống. Thì ra Ngô Đạo Thông lúc lâm tử còn dồn tàn lực đánh một đòn, gã cao kều không kịp đề phòng nên bị thiết bút đâm vào yếu huyệt. Bọn người Kim Đao Trại vội chạy tới nâng gã dậy, thì gã đã tắt hơi rồi.

Chu Mục không ngó ngàng gì đến gã cao kều, khóe miệng lộ ra một nét cười bỉ ổi. Lão sờ xem Ngô Đạo Thông, thấy họ Ngô đã hết thở, bèn chau mày quát lên: “Lột y phục nó ra, khám xét kỹ lưỡng!”

Bốn tên thuộc hạ lập tức “Dạ” một tiếng, lột sạch áo Ngô Đạo Thông ra thì thấy sau lưng hắn có đeo một cái bọc. Hai đại hán áo đen mở bọc ra xem, thì thấy trong bọc lại còn nhiều lớp bọc nữa, toàn gói bằng vải dầu. Hai gã cứ mở một lớp thì Chu Mục lại vui mừng thêm một chút. Chúng đã mở tới mười mấy lớp vải dầu, những gói sau càng lúc càng nhỏ hơn. Tới lúc cái gói chỉ còn chừng ba tấc vuông, Chu Mục ra vẻ ủ rũ, đưa tay ra giật lấy, nắn thử một cái, rồi giận dữ nói: “Con mẹ nó! Toàn là thứ để lừa bịp người ta, chẳng cần xem nữa. Mau vào lục soát trong nhà.”

Mười mấy hán tử áo đen vâng dạ chạy vào nhà. Tiệm bánh này trước sau chỉ có hai phòng, bọn chúng xông vào lục soát lung tung hết cả gầm giường gầm ghế. Những thứ bát đĩa, quần áo dần dần bị quăng hết ra ngoài.

Chu Mục la hét liên hồi: “Phải tìm thật kỹ, đừng để sót chỗ nào.”

Chúng lục soát mất nửa ngày thì trời đã tối mịt không còn thấy gì nữa. Bọn đại hán đốt đuốc lên tìm tiếp, đập cả tường vách, đập cả bếp lò.

Choang một tiếng, một cái lu bị quăng ra giữa đường vỡ thành mấy chục mảnh. Bột trong lu bay tứ tán đầy đường.

Trong màn đêm, một bàn tay dơ bẩn từ góc tường bên cạnh len lén thò vào rãnh nước bẩn, sờ soạng nhặt được cái bánh tiêu rồi len lén rút về.

Đó là tay của một đứa ăn xin chừng mười hai mười ba tuổi. Nó đã nhịn đói cả ngày, không ngồi tựa vào góc tường nổi nữa. Từ lúc Ngô Đạo Thông đưa cho gã cao kều cái bánh tiêu này, rồi gã lại liệng xuống rãnh nước bẩn, đứa ăn xin cứ mở to đôi mắt, nhìn chầm chập vào chiếc bánh. Từ lâu nó đã muốn thò tay ra lượm lấy mà ăn, nhưng thấy bọn hán tử áo đen dữ tợn như hung thần ác sát thì sợ đến không dám nhúc nhích. Cạnh cái bánh tiêu này vốn đã có thi thể của tên giúp việc trong tiệm tạp hóa, lát sau lại thêm hai cái xác của Ngô Đạo Thông và gã cao kều.

Mãi đến lúc trời tối mịt, ánh đèn không chiếu đến chỗ rãnh nước, đứa ăn xin mới đánh bạo thò tay ra lượm lấy chiếc bánh tiêu. Bụng đói quá nên nó chẳng nghĩ đến nước hôi thối hay đất bùn đã thấm vào bánh nữa, đưa lên miệng cắn luôn một miếng, rồi ngậm lại chứ không dám nhai, vì nó sợ nhai tóp tép phát ra tiếng động sẽ bị bọn hán tử cầm đao nghe thấy. Bánh còn ngậm trong miệng chưa nuốt xuống, nhưng trong bụng nó đã cảm thấy khoan khoái rồi.

Lúc này bọn hán tử áo đen đã lục lọi đảo lộn cái tiệm bánh đến không nhận ra nữa, ngay cả gạch lát nền cũng bị móc lên hết. Chu Mục thấy tìm mãi chẳng được gì, cuối cùng cũng quát lên: “Rút lui!”

Những tiếng còi lại vang lên, rồi vó ngựa chạy rầm rập, từng đoàn hảo hán Kim Đao Trại rút ra khỏi Hầu Giám Tập. Hai tên trong bọn khiêng thi thể gã cao kều đặt vắt ngang yên ngựa. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn họ đi hết chẳng còn một ai.

Đến lúc tiếng vó ngựa hoàn toàn không nghe thấy nữa, trong Hầu Giám Tập mới có tiếng người thì thào. Nhưng họ sợ bọn hán tử cưỡi ngựa đi rồi còn quay lại nên không ai dám nói to. Chủ tiệm tạp hóa cùng một tên giúp việc khác ra khiêng thi thể gã lắm mồm vào tiệm, rồi đóng chặt cửa lại, không dám ra nữa. Rồi bên đông nghe ken két, bên tây nghe loảng xoảng, nhà nào cũng vội đóng cửa cài then. Chẳng mấy chốc, mọi đường phố trong thị trấn đã vắng bóng người, cũng không còn âm thanh gì nữa.

* * *

Đứa ăn xin thấy thi thể Ngô Đạo Thông nằm lăn dưới đất không ai nhìn đến thì trong lòng cũng hơi sợ hãi. Nó trệu trạo nhai cái bánh rồi nuốt một miếng nhỏ, đang sắp nuốt một miếng nữa thì bỗng thấy thi thể Ngô Đạo Thông đột nhiên động đậy. Nó giật mình kinh hãi, dụi mắt nhìn lại thì thấy tử thi từ từ ngồi dậy. Nó sợ đến ngẩn người, tim đập loạn xạ. Rồi tử thi duỗi thẳng hai chân ra, đứng thẳng dậy. Mấy tiếng lạch cạch khẽ vang lên, chính là tiếng hai hàm răng của đứa ăn xin khua vào nhau.

Tử thi ngoảnh đầu lại. May mà đứa ăn xin đang ngồi co rúm vào sau góc tường, nên tử thi không nhìn thấy. Lúc này, trăng đang chênh chếch chiếu xuống, đứa ăn xin nhìn rõ khóe miệng tử thi vẫn còn rỉ máu tươi, cặp thiết câu vẫn còn cắm ở bụng. Nó cố cắn chặt hai hàm răng, không để khua lên lách cách nữa.

Rồi tử thi khuỵu chân cúi xuống, thò tay ra sờ soạng, nhặt lấy một cái bánh tiêu, xé đôi rồi vứt đi. Tử thi sờ đến cái bánh thứ hai cũng xé đôi vứt đi. Cảnh tượng này làm trái tim của đứa ăn xin nhảy mạnh như muốn văng ra khỏi miệng. Tử thi vẫn tiếp tục mò mẫm trên mặt đất, sờ thấy vật gì cũng không để ý, cứ sờ đến bánh tiêu thì xé ra rồi vứt đi. Tử thi vừa sờ soạng vừa nhích lại gần rãnh nước. Lúc bọn hán tử áo đen lục lọi trong tiệm bánh, chúng đã hất nguyên cái rổ có hơn hai chục cái bánh tiêu xuống đất. Bây giờ tử thi lại nhặt lên từng cái, nhưng không ăn mà chỉ xé ra xem rồi vứt đi.

Đứa ăn xin thấy tử thi lết dần đến gần góc tường thì sợ quá, chỉ muốn vắt chân lên cổ mà chạy trốn. Nhưng nó đang hoảng sợ đến nhũn người ra, hai chân cất lên làm sao được? Cử động của tử thi rất chậm chạp, thời gian cháy hết nén hương mới xé hơn hai chục chiếc bánh. Tử thi tìm mãi không thấy bánh nữa, bèn từ từ quay đầu lại, như để quan sát bốn phía xem còn nữa không. Lúc này đứa ăn xin đột nhiên phát hiện một điều, hồn vía bỗng bay mất hết. Thì ra nó nấp sau góc tường, ánh trăng từ sau lưng soi cái bóng đầu bù tóc rối của nó xuống đất, ngay cạnh chân của tử thi. Đứa ăn xin vừa thấy chân tử thi nhúc nhích, bỗng kêu được lên một tiếng rồi co giò bỏ chạy.

Tử thi cố gắng mở miệng kêu: “Bánh tiêu! Bánh tiêu!”, rồi cũng cất bước đuổi theo.

Đứa ăn xin vấp phải cái gì đó dưới đất, ngã lăn ra. Tử thi liền khom người xuống, thò tay ra toan nắm lấy lưng nó. Nó lăn một vòng tránh khỏi, rồi lại co giò chạy.

Tử thi loạng choạng mất một lúc mới chống tay xuống đất đứng lên được. Nhưng chân tử thi dài hơn nên bước được xa, tuy đi lắc lư như người say rượu mà chỉ mười mấy bước đã đuổi tới sau lưng đứa ăn xin, túm được gáy nó, nhấc bổng lên.

Tử thi cất tiếng hỏi: “Ngươi… ngươi ăn cắp bánh tiêu của ta phải không?” Đứa ăn xin không dám chối cãi, đành gật đầu.

Tử thi lại hỏi: “Ngươi… ngươi ăn rồi ư?” Nó lại gật đầu.

Tử thi đưa tay kéo áo đứa ăn xin, nghe “soạt” một tiếng, áo nó đã rách, để hở da thịt từ trước ngực xuống bụng. Tử thi lại nói: “Ta phải mổ bụng ngươi để lấy ra.”

Đứa ăn xin hồn bất phụ thể, run giọng nói: “Cháu… cháu… mới cắn một miếng…”

Thì ra Ngô Đạo Thông tuy bị song chưởng của Chu Mục đánh trúng ngực, lại bị gã cao kều đâm song câu vào bụng, nhưng chỉ ngất đi mà chưa chết, hồi lâu dần dần tỉnh lại. Bụng tuy là chỗ trọng yếu của con người, nhưng bị thương vào bụng thì không chết ngay được. Ngô Đạo Thông có một vật không thể nào quên, khi biết người ngựa của Kim Đao Trại đã rút đi hết, bèn mặc kệ vết trọng thương ở ngực và bụng, sống chết cố bò đi tìm vật đó.

Từ khi lão đoạt được vật đó, đã hóa trang thành một ông già bán bánh, ẩn cư tại Hầu Giám Tập ba năm bình yên vô sự, nhưng chưa tìm ra được chủ nhân của vật đó. Khi lão nghe tiếng còi và vó ngựa dồn dập của hai trăm nhân mã bao vây, chưa chắc là chúng đến tìm mình, nhưng cũng thấy cục diện nguy hiểm. Trong lúc cấp bách lão không biết giấu vật đó vào đâu, liền nhét ngay vào một chiếc bánh tiêu. Tới lúc gã cao kều xuất hiện, chìa tay ra bảo “Đưa đây”, Ngô Đạo Thông đi một nước cờ liều là đưa ngay cái bánh có giấu vật đó cho gã. Quả nhiên không ngoài dự liệu, gã cao kều tức giận liệng cái bánh đi.

Sau khi Ngô Đạo Thông trọng thương rồi tỉnh lại, không nhớ được mình đã giấu vật đó trong cái bánh nào, nên phải xé từng cái ra tìm, trước sau vẫn không thấy. Cuối cùng, lão túm được đứa ăn xin, đoán rằng thằng nhóc này đói quá mà nuốt chửng luôn vật kia vào bụng rồi, bèn định mổ bụng nó ra lấy lại. Nhưng lúc này lão không có dao kéo gì, bèn nghiến răng rút cây cương câu đang cắm ở bụng mình ra, xoay mũi câu lại toan rạch bụng đứa ăn xin.

Nhưng cương câu vừa rút ra khỏi bụng, lão bỗng thấy đau đớn không chịu nổi, máu từ vết thương phun ra như suối. Đầu nhọn của cương câu vừa chạm vào bụng gã ăn xin thì tay trái Ngô Đạo Thông bỗng nhũn ra, buông người nó rớt xuống đất. Cây câu trong tay phải Ngô Đạo Thông đâm lạc vào quãng không. Lão ngã lăn ra đất, giãy giụa mấy cái rồi nằm im, lần này thì chết thật.

Thằng bé bị đè dưới người Ngô Đạo Thông, phải cố giãy giụa hồi lâu mới bò ra được, lập tức co giò chạy thẳng. Thật là một phen hú vía. Nó mới chạy được mấy bước thì chân nhũn ra ngã nhào xuống, ngất xỉu đi. Tay nó vẫn nắm chặt cái bánh tiêu mới cắn được một miếng.

* * *

Ánh trăng mờ ảo chiếu xuống thi thể Ngô Đạo Thông, rồi xoay dần sang chiếu vào người thằng bé ăn xin.

Đột nhiên có tiếng vó ngựa văng vẳng vọng lại, tiến tới rất nhanh, vừa nghe xa xa, chớp mắt đã đến gần. Dân cư ở Hầu Giám Tập còn chưa hết hoảng sợ, lại nghe tiếng vó ngựa giữa đêm khuya thì không khỏi phập phồng lo sợ. Người nào cũng run bần bật, rúc kỹ vào chăn. Nhưng lần này chỉ có hai con ngựa, mà cũng không có tiếng còi.

Đôi ngựa này hình dạng rất kỳ lạ. Một con từ đầu đến đuôi đen nhánh, bốn vó sắc trắng, đó là giống danh câu Ô Vân Cái Tuyết. Còn con kia thì trái lại, chỉ có bốn vó màu đen còn toàn thân trắng như tuyết, trong Mã Phổ gọi là Mặc Đề Ngọc Thố, rất hiếm thấy ở Trung Nguyên.

Người cưỡi ngựa bạch là một thiếu phụ mặc y phục tuyền màu trắng. May mà trên tóc nàng có giắt một bông hồng, ngang lưng lại thắt đai màu đỏ sậm, nếu không thì rất giống như đang mặc tang phục. Trên cái đai màu đỏ có đeo một thanh trường kiếm, vỏ kiếm cũng màu trắng. Người cưỡi ngựa ô là một hán tử trung niên, toàn thân mặc y phục đen, trên lưng đeo một thanh trường kiếm vỏ đen. Hai con ngựa phóng nhanh như bay, sóng vai chạy đến.

Hai người bỗng nhìn thấy thi thể Ngô Đạo Thông trên đường phố, nằm giữa đám đồ đạc bị vứt lung tung, đồng thanh la lên: “Úi chà!”

Hán tử áo đen vung roi ngựa ra quấn lấy cổ thi thể Ngô Đạo Thông, kéo đi mấy thước cho ánh trăng rọi vào mặt. Thiếu phụ lên tiếng: “Đây là Ngô Đạo Thông! Xem ra An Kim Đao đã lấy được cái đó rồi.”

Hán tử áo đen hất roi ngựa một cái, liệng xác Ngô Đạo Thông xuống đường rồi nói: “Ngô Đạo Thông chết chưa lâu, vết thương hãy còn rỉ máu. Ta có thể đuổi kịp được.” Thiếu phụ gật gật đầu.

Hai con ngựa lại phóng về phía tây. Tám vó ngựa gõ xuống đường lát đá xanh nghe lộc cộc rất đều, nghe như chỉ có một con ngựa đang chạy mà thôi. Đôi ngựa này vó trước vó sau cất lên hạ xuống rất nhịp nhàng và đẹp mắt. Bất luận là ai nhìn thấy bước chân của chúng, cũng phải nghĩ rằng chúng đã được huấn luyện lâu ngày, dù phóng nước đại mà cũng chẳng sai lệch chút nào.

Đôi ngựa càng chạy càng nhanh, chốc lát đã tới ngoài thành Biện Lương. Đến quãng đường hẹp không thể đi song song được nữa, thiếu phụ liền dừng cương một chút để nhường cho hán tử lên trước. Hán tử quay lại mỉm cười rồi phóng ngựa đi luôn. Thiếu phụ cho ngựa chạy theo sau.

Đôi tuấn mã này cước lực tuyệt luân, cứ theo tình trạng thi thể của Ngô Đạo Thông mà đoán, thì đã phải đuổi kịp được nhân mã Kim Đao Trại từ lâu, thế mà trước sau vẫn chẳng thấy tung tích gì cả. Hai người không ngờ rằng lúc Ngô Đạo Thông chết thật thì bọn người trại Kim Đao đã đi xa rồi.

Đôi ngựa đuổi không dừng vó thêm một giờ nữa, hai người mới dừng cho ngựa nghỉ một chốc, rồi lại lên ngựa đi tiếp. Tới lúc gần sáng thì họ nhìn thấy xa xa ở trong vùng hoang dã có lửa bốc lên. Hai người nhìn nhau mỉm cười, rồi nhảy xuống ngựa. Thiếu phụ đón lấy dây cương trong tay hán tử, dắt đôi ngựa buộc vào một cành cây to. Hai người thi triển khinh công chạy về phía có lửa cháy.

Lửa ngoài đồng trống xem thì rất gần, mà thực ra xa tới mấy dặm. Hai người thi triển khinh công thượng thặng đi như gió cuốn mây bay, lúc gần đến nơi, quả nhiên thấy một đoàn người ngồi vây quanh mười mấy đống lửa bưng những bát mì lớn mà ăn, nghe cả tiếng húp xì xụp. Hai người cũng muốn xem xét trước đã, nhưng nơi đây là một khu bình nguyên bát ngát không có chỗ ẩn núp, nên khi còn cách mười mấy trượng, hai người đành phải sóng vai đi thong thả tới.

Trong đám người bỗng có tiếng quát hỏi: “Ai đó? Đến đây làm chi?”

Hán tử áo đen bước lên một bước, ôm quyền cười hỏi: “An trại chúa có trong đó không? Những bằng hữu nào đang ở đây?”

Lão già lùn Chu Mục ngẩng lên nhìn. Giữa ánh lửa sáng, lão nhìn rõ hai người mới đến đều khoảng trung niên, một nam một nữ, một áo đen một áo trắng, sóng vai mà đứng. Hán tử thì tuấn tú phong độ, thiếu phụ cũng thanh nhã diễm lệ, áo xiêm phấp phới, lưng cùng đeo trường kiếm.

Chu Mục chợt động tâm, biết ngay hai người này là ai. Lão uốn mình đứng phắt dậy, chắp tay nói: “Thì ra là phu phụ Thạch trang chúa Huyền Tố Trang tại Giang Nam đại giá quang lâm!” Rồi lão lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ mau mau đứng lên thi lễ! Hai vị này là phu phụ Thạch trang chúa, tiếng tăm lừng lẫy khắp đại giang nam bắc.” Mọi người đều đứng dậy cúi chào.

Chu Mục nghĩ thầm trong bụng: “Vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu vốn chẳng đi lại gì với Kim Đao Trại, thế mà mới mờ sáng lại tìm tới đây, chẳng biết có dụng ý gì? Hay là họ cũng vì vật đó mà đến?” Lão đảo mắt nhìn bốn phía thì thấy chung quanh hoang vắng, tuyệt không có người nào nữa, lại nghĩ: “Nghe nói kiếm thuật vợ chồng này rất giỏi, nhưng dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông. Không hiểu họ đến đây làm gì?”

Thạch phu nhân là Mẫn Nhu khẽ bảo chồng: “Vị này là Chu Mục lão gia ở Ưng Trảo Môn.”

Tuy nàng nói nhỏ, nhưng Chu Mục cũng nghe rất rõ ràng, không khỏi đắc ý nghĩ thầm: “Thì ra Băng Tuyết Thần Kiếm cũng biết tên mình.” Lão vội lên tiếng: “Không dám! Chu Mục ở Kim Đao Trại xin bái kiến Thạch trang chúa và Thạch phu nhân.” Rồi lão lại cúi mình thi lễ.

Thạch Thanh mỉm cười nói với mọi người: “Các bằng hữu đang dùng bữa, tại hạ không dám quấy nhiễu. Xin các vị cứ ngồi xuống.” Rồi ông quay sang nói với Chu Mục: “Chu bằng hữu không cần khách sáo. Phu phụ tại hạ đã mấy lần được gặp Nhất phi xung thiên Trang huynh Trang Chấn Trung của quý môn. Vậy chúng ta cũng là chỗ quen biết chứ không phải người ngoài.”

Chu Mục đáp: “Nhất Phi Xung Thiên là sư thúc của lão phu.” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Tuổi ngươi còn nhỏ hơn ta nhiều, mà dám kêu sư thúc ta bằng Trang huynh, rõ ràng tự cho mình là bậc trưởng bối.” Lão nghĩ đến đây, bỗng thấy đối phương đến đây chẳng có ý định gì tử tế, bất giác thêm phần cảnh giác. Trong võ lâm, hai chữ “vai vế” hết sức quan trọng. Vãn bối gặp hàng trưởng bối dĩ nhiên phải tỏ vẻ cung kính, trưởng bối sai bảo điều gì thì không được coi thường, nếu không, bị bắt bẻ là phạm thượng thì đuối lý ngay.

Thạch Thanh thấy Chu Mục sa sầm nét mặt, lập tức hiểu ý, liền cười nói: “Thật là đắc tội! Ngày trước gặp nhau ở Tung Sơn, Trang huynh đã nhắc đến võ công quý môn, vợ chồng tại hạ hết sức khâm phục. Cũng là chỗ quen biết, tại hạ có một chuyện lẽ ra không nên nói, mong Chu thế huynh bỏ lỗi cho.” Thạch Thanh gọi Chu Mục bằng Chu thế huynh, rõ ràng tự xếp mình vào hàng trưởng bối.

Chu Mục nói: “Nếu tại hạ có điều mạo phạm tới hai vị, tưởng hai vị cũng nên châm chước cho. Hai vị dạy bảo điều chi mà sức tại hạ có thể làm nổi, nhất định sẽ tuân theo. Còn nếu việc có dính líu đến tệ trại thì địa vị tại hạ kém cỏi, không thể chủ trương được.”

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Thằng cha này thật là lão luyện, chưa biết ta muốn gì đã đẩy trách nhiệm qua người khác.” Ông liền nói: “Vụ này không có liên quan gì đến quý trại, tại hạ chỉ muốn hỏi riêng Chu thế huynh một việc. Vợ chồng tại hạ đang tìm một người họ Ngô, tên là Ngô Đạo Thông, chuyên sử đôi phán quan bút. Nghe nói gần đây y cải trang thành một ông già, mai danh ẩn tích ở gần thành Biện Lương. Chẳng hiểu Chu thế huynh có nghe tin tức gì về hắn không?”

Thạch Thanh vừa nói đến ba chữ Ngô Đạo Thông, bọn người Kim Đao Trại đều nhốn nháo. Có tên đặt cả bát mì chưa ăn xong xuống.

Chu Mục nghĩ thầm: “Hắn từ phía đông đến đây, dĩ nhiên đã thấy thi thể Ngô Đạo Thông rồi. Nếu mình không nhận thì cũng không được.” Lão liền cười ha hả, đáp: “Thật là hay quá. Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Hai vị hỏi đến người đó thì thật là xảo hợp. Tại hạ dù võ công chẳng cao cường gì, nhưng đã lập được công lao cho hai vị. Gã Ngô Đạo Thông kia đắc tội với hai vị, nên Kim Đao Trại bọn tại hạ đã xử lý hắn rồi.” Chu Mục vừa nói vừa chăm chú nhìn Thạch Thanh, để xem ông lộ vẻ vui mừng hay tức giận.

Thạch Thanh lại mỉm cười: “Ngô Đạo Thông vốn không quen biết bọn tại hạ, thì làm gì có chuyện đắc tội? Nói ra sợ Chu thế huynh chê cười, bọn tại hạ đi tìm hắn chỉ vì một món vật trong người hắn.”

Da mặt Chu Mục hơi máy động, nhưng trấn tĩnh lại được ngay. Lão cười đáp: “Tin tức của hai vị thật là mau lẹ. Về chuyện này, tệ trại cũng đã biết rồi. Chẳng giấu gì Thạch trang chúa, chuyến này tại hạ dẫn huynh đệ đến đây cũng vì việc đó.” Lão thở dài một tiếng rồi nói tiếp: “Không biết quân chó má nào đã phao tin thất thiệt khiến cho Song bút Ngô Đạo Thông phải uổng mạng. Hơn hai trăm anh em tại hạ uổng công một phen đi lại thì chẳng kể làm chi, nhưng còn sợ khi trở về sẽ bị An đại ca quở trách là hành động bất lực. Trên chốn giang hồ cũng có rất nhiều chuyện đồn đãi. Nếu thiên hạ tưởng Kim Đao Trại được vật đó thật, kéo nhau đến kiếm chuyện với tệ trại, chẳng hóa ra oan uổng lắm ư? Trương huynh đệ! Chúng ta đánh chết họ Ngô trong trường hợp nào, lục lọi đến nát bét cái quán bánh tiêu ra sao, ngươi hãy thuật lại tỉ mỉ cho Thạch trang chúa và Thạch phu nhân được rõ!”

Một hán tử nhỏ con, vẻ mặt rất tinh quái, lên tiếng: “Võ công của gã họ Ngô đó cũng rất khá. Đầu lĩnh Lý Đại Nguyên cũng bỏ mạng dưới tay hắn. Sau cùng Chu đầu lĩnh phóng song chưởng hất họ Ngô từ nóc nhà xuống đất, gân cốt toàn thân bị chấn động đứt hết, ngũ tạng cũng tan nát…” Miệng lưỡi gã này rất linh hoạt, nói trơn như cháo lại còn gia thêm mắm muối, kể hết một lượt, thuật cả chuyện bọn chúng cạy từng viên gạch lên, đổ cả lu bột mì ra, phá cả tường vách, đào hố dưới nền nhà, nhưng chuyện Chu Mục đã lấy cái bọc sau lưng Ngô Đạo Thông thì lại lờ đi.

Thạch Thanh gật gật đầu, nghĩ thầm: “Chu Mục từ lúc mới thấy chúng ta đã có vẻ đề phòng, hồi hộp không yên. Giữa Huyền Tố Trang và Kim Đao Trại trước nay không có chuyện gì xích mích. Nếu lão chưa lấy được vật kia, thì hà tất phải đề phòng vợ chồng mình đến thế?” Ông biết rằng nếu bọn này chưa lấy được vật đó thì thôi, còn nếu đã lấy được thì nhất định ở trong mình Chu Mục. Thạch Thanh liếc mắt nhìn thấy bọn Kim Đao Trại có tới hơn hai trăm người, mà tên nào cũng vừa tráng kiện vừa hung hãn. Tuy trong đám này không có cao thủ hạng nhất, nhưng số đông cũng khó mà đối phó. Vừa rồi Chu Mục nói chuyện tuy khách sáo nhưng không có ý tôn trọng, cũng chỉ vì ỷ thế đông người. Ông nghĩ thế nên vẫn tươi cười, trỏ tay sang một khu rừng xa xa phía trái, nói: “Tại hạ còn có chuyện muốn thương lượng với Chu thế huynh, xin mời qua kia nói chuyện.”

Làm sao Chu Mục chịu đi một mình được? Lão bèn đáp: “Ở đây đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu cả. Không có chuyện gì…” Còn bốn chữ “họ không nghe được” chưa kịp nói ra, thì đột nhiên cổ tay trái lão đã bị Thạch Thanh nắm lấy, rồi cả thân thể tê dại, tay phải cũng không còn chút sức lực nào. Chu Mục vừa kinh hãi vừa phẫn nộ. Từ khi vợ chồng Thạch Thanh xuất hiện, lão đã hết sức đề phòng, thế mà Thạch Thanh đang nói chuyện đã xuất thủ nhanh như điện chớp, chụp lấy cổ tay lão. Cầm nã thủ pháp chính là nghề ruột của Ưng Trảo Môn, thế mà Chu Mục chưa kịp ra tay đã bị đối phương kiềm chế huyệt đạo. Lúc này toàn thân lão không vận kình được nữa, tuyệt không còn cách nào giãy thoát, chốc lát đã toát mồ hôi trán.

Thạch Thanh lớn tiếng nói: “Chu thế huynh đã đồng ý qua bên kia nói chuyện, thật là tuyệt diệu.” Rồi ông quay lại bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Ta cùng Chu thế huynh qua bên kia nói chuyện mấy câu rồi quay lại lập tức. Sư muội hãy chờ ở đây một chút.” Nói xong, ông chậm rãi bước đi.

Mẫn Nhu dịu dàng đáp: “Sư huynh cứ tùy tiện!” Hai người đã kết tình phu phụ từ lâu, nhưng vẫn xưng hô là sư huynh sư muội.

Bọn Kim Đao Trại thấy Thạch Thanh cười nói vui vẻ, cùng đi với Chu Mục tựa hồ không có ác ý gì, vẫn để phu nhân ở lại đây thì không nghi ngờ chút nào. Chúng không ngờ bản lãnh của Chu Mục tới như vậy, mà bị người khác kiềm chế không một tiếng động.

Thạch Thanh nắm tay Chu Mục bước đi mỗi lúc một nhanh. Chu Mục chỉ chậm lại một chút là phải ngã lăn ra, nên cứ cắm đầu cắm cổ đi theo. Từ mấy đống lửa đến khu rừng phải đến một dặm, hai người chỉ đi một chốc đã đến nơi.

Thạch Thanh bỗng bỏ tay ra, cười nói: “Chu thế huynh!…”

Chu Mục nổi giận hỏi: “Ngươi làm trò gì thế?” Tay phải lão biến thành trảo, ra chiêu Bác Sư Thủ chụp vào trước ngực Thạch Thanh.

Tay trái Thạch Thanh vung từ trái sang phải thành một đường cong, lại chụp trúng cổ tay đối phương. Ông hất tay sang bên trái, nắm luôn cả tay kia của Chu Mục, rồi bẻ quặt cả hai tay lão ra sau lưng. Chu Mục vừa kinh hãi vừa tức giận, co chân phải đá ngược ra sau.

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Hà tất Chu thế huynh phải giận dữ như thế.”

Chu Mục bỗng thấy hai huyệt Phục Thố và Hoàn Khiêu bị tê nhức, chân phải của lão chưa phóng ra thì đã mềm nhũn đi, thõng xuống lại. Như vậy lão chỉ còn một chân trái chấm đất, nếu lại cất lên đá hậu nữa thì dĩ nhiên phải ngã chúi về phía trước. Lão thẹn quá, mặt đỏ bừng lên, tức giận ấp úng: “Ngươi… ngươi…”

Thạch Thanh nói: “Cái vật trong người Ngô Đạo Thông, chắc Chu thế huynh đã lấy được rồi. Thế huynh lấy ra cho tại hạ mượn xem một chút.”

Chu Mục đáp: “Đúng là thế, nhưng vật đó không ở trong mình ta. Ngươi có muốn xem, thì chúng ta trở về bên kia trước đã.” Lão muốn gạt Thạch Thanh về đến chỗ đống lửa rồi sẽ ra hiệu cho thuộc hạ vây đánh, thì dù võ công vợ chồng Thạch Thanh có cao cường đến đâu cũng phải quả bất địch chúng.

Thạch Thanh cười nói: “Tại hạ chưa dám tin, xin lục soát trong mình Chu thế huynh một chút. Mong thế huynh đừng trách.”

Chu Mục tức giận hỏi: “Ngươi định khám xét ta ư? Ngươi cho ta là hạng người nào?”

Thạch Thanh không nói gì nữa, đưa tay ra tháo chiếc giày bên trái của lão. Chu Mục bỗng la lên một tiếng: “Trời ơi!” Bỗng thấy Thạch Thanh móc trong giày ra một cái gói nhỏ, chính là cái gói mà Chu Mục đã lấy trong bọc đeo trên lưng Ngô Đạo Thông.

Chu Mục vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, tự hỏi: “Cái này… cái này… Sao hắn biết là ở đây? Chẳng lẽ hắn đã nhìn trộm từ lúc mình cất giấu ư?” Thực ra, Thạch Thanh vừa nói đến chuyện lục soát thì thấy Chu Mục bất giác liếc nhìn chân trái, rồi đảo mắt ra chỗ khác ngay. Ông bèn đoán là lão giấu vật đó trong giày, quả nhiên vừa tìm đã thấy ngay.

Thạch Thanh nghĩ thầm: “Lúc nãy tên kia đã kể lại cảnh lục soát tiệm bánh tiêu, nghe không phải giả dối. Thế mà lão này lại giấu bảo vật trong người, chắc định nuốt lấy một mình.” Ba ngón tay trái của ông nắn cái bao đó mấy cái, rồi hơi lộ vẻ thất vọng.

Chu Mục đỏ bừng mặt, cũng chưa biết có nên mở miệng kêu người cứu viện hay không. Bỗng Thạch Thanh lên tiếng: “Ngươi đã phản bội An trại chủ mà lại còn định hô hoán lên cho mọi người biết, muốn chịu cực hình chặt mười đầu ngón tay ư?”

Chu Mục cả kinh, bất giác run giọng hỏi: “Sao… sao ngươi lại biết chuyện này?”

Thạch Thanh đáp gọn: “Dĩ nhiên là ta biết.” Rồi ông thả lỏng cổ tay hắn ra, nói tiếp: “An Kim Đao thông minh tinh tế. Ngươi giấu ta còn chưa xong, thì giấu y thế nào được?”

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng sột soạt, rồi tiếng người cười ha hả, dõng dạc nói: “An mỗ xin đa tạ Thạch trang chúa đã quá khen.” Chưa dứt lời, ba bóng người đã tiến vào rừng.

* * *

Chu Mục vừa nhìn thấy bọn này, lập tức sắc mặt xám xịt như đất bùn. Ba người này là Đại trại chủ An Phụng Nhật, Nhị trại chủ Phùng Chấn Võ và Tam trại chủ Nguyên Trừng đạo nhân của Kim Đao Trại. Lúc An trại chủ phái Chu Mục đi truy bắt Ngô Đạo Thông, y không hề nói chuyện phái người đi tiếp ứng, không hiểu sao lại đích thân hạ sơn. Chu Mục nghĩ đến chuyện mình mưu đồ chiếm riêng bảo vật đã bại lộ, bây giờ dĩ nhiên thân bại danh liệt, tính mạng cũng khó mà giữ được. Trong lúc hoảng hốt, lão vội nói: “An đại ca! Cái đó… cái đó bị hắn cướp mất rồi.”

An Phụng Nhật chắp tay thi lễ với Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa danh vang thiên hạ, An mỗ ngưỡng mộ đã lâu, chỉ giận mình vô duyên chưa được gặp lần nào. Tệ trại cũng ở gần đây, xin mời Thạch trang chúa cùng phu nhân đến chơi mấy hôm để các huynh đệ đều được nghe lời giáo huấn.”

Thạch Thanh thấy An Phụng Nhật mắt tròn râu rậm, người thấp lùn to khỏe, vẻ mặt thô hào, không ngờ hắn nói chuyện rất uyển chuyển. Hắn tuyệt không nhắc nhở gì đến chuyện ông đoạt mất vật kia, lại còn mời đến chơi Kim Đao Trại. Nhưng nếu ông vào trại của hắn rồi thì dễ gì mà thoát thân được? Thạch Thanh liền chắp tay đáp lễ, rồi thuận tay đút cái gói nhỏ vào trong bọc, cười nói: “Đa tạ thịnh tình của An trại chủ…”

Đột nhiên trước mắt thanh quang lấp loáng, Nguyên Trừng đạo nhân đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, vừa phóng mũi kiếm đâm vào cổ tay Thạch Thanh, vừa quát lên: “Ngươi bỏ vật đó ra trước đã.”

Chiêu kiếm này mau lẹ phi thường, nhưng hắn đã nhanh mà Thạch Thanh còn nhanh hơn. Ông uốn người đi một cái đã đến bên Nguyên Trừng đạo nhân, lấy cái gói nhỏ ra đặt vào tay trái hắn, rồi cười bảo: “Cầm lấy!” Nguyên Trừng đạo nhân mừng rỡ vô cùng, không kịp suy nghĩ gì nữa, giơ tay ra đón lấy. Không ngờ cổ tay phải hắn hơi tê nhức, trường kiếm đã bị đối phương đoạt mất.

Thạch Thanh xoay ngược kiếm lại chém vào cổ tay Nguyên Trừng đạo nhân, quát lên: “Bỏ ra.” Nguyên Trừng đạo nhân giật mình kinh hãi, trước mắt hàn quang lấp loáng, mũi kiếm chỉ còn cách cổ tay hắn không đầy năm tấc. Hắn định rụt tay về để tránh thì không kịp nữa, đành xoay tay ném trả cái gói nhỏ lại.

Phùng Chấn Võ la lên: “Hảo công phu!” Không đợi Thạch Thanh đón lấy cái gói, hắn đã vung đơn đao lên, lăn dưới đất chém vào đùi ông. Thạch Thanh vung trường kiếm đánh véo một tiếng, đâm thẳng vào đầu Phùng Chấn Võ. Ông ra chiêu sau mà lại đến trước. Đơn đao của Phùng Chấn Võ chưa kịp chém tới chân phải của Thạch Thanh, thì trường kiếm của ông đã sắp ghim đầu của Phùng Chấn Võ xuống đất.

An Phụng Nhật thấy tình trạng nguy cấp liền lớn tiếng la lên: “Hạ thủ…” Thanh kiếm của Thạch Thanh vẫn tiếp tục đâm xuống. Phùng Chấn Võ trong lòng kinh hãi vô cùng, nhắm mắt chờ chết, nhưng chỉ thấy má bên trái hơi rát. Thanh trường kiếm của Thạch Thanh không đâm tới nữa. Quả nhiên ông đã lưu tình, mũi kiếm phóng tới mặt Phùng Chấn Võ lại thu về. Thạch Thanh xuất chiêu rồi thu chiêu, cả lực đạo lẫn bộ vị đều cực kỳ chính xác. Tiếp theo một tiếng “cạch” khẽ vang lên, Thạch Thanh dùng thanh trường kiếm đỡ lấy cái gói nhỏ về. Lúc đó, hai chữ “…lưu tình” của An Phụng Nhật mới ra khỏi miệng.

Thạch Thanh thu trường kiếm về rồi nói: “Xin đắc tội!” Đoạn ông lùi ra hai bước.

Phùng Chấn Võ đứng thẳng lên, cầm ngược đơn đao, vẻ mặt vừa sợ hãi vừa hổ thẹn, lùi ra đứng sau lưng An Phụng Nhật. Trong miệng hắn lẩm bẩm gì đó, không hiểu là đa tạ Thạch Thanh hạ thủ lưu tình, hay là trách ông dụng tâm gian trá. Chuyện đó thì chỉ có hắn mới biết.

An Phụng Nhật đưa tay tháo chiếc đai đồng trước ngực, rút thanh đao đeo ở sau lưng ra khỏi vỏ. Lúc này mặt trời mới mọc, ánh triêu dương xuyên qua kẽ lá chiếu vào thanh kim đao lấp lánh trông hoa cả mắt. Thanh đao này sống dày lưỡi mỏng, quả là lợi khí, sắc bén vô cùng. An Phụng Nhật dựng đứng kim đao lên, nói: “Trang chúa võ nghệ kinh người, bội phục, bội phục. Bây giờ tại hạ muốn lãnh giáo mấy chiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười đáp: “Hôm nay được gặp cao nhân, thật là may mắn.” Y lại giơ tay lên, ném chiếc gói nhỏ ra, bốn người đều ngẩn ra nhìn theo. Chỉ nghe “soạt” một tiếng, Thạch Thanh đã phóng thanh kiếm vừa đoạt của Nguyên Trừng đạo nhân ra theo, cắm chặt cái gói nhỏ vào một cành cây đối diện. Mũi kiếm xuyên vào một góc cái gói, hoàn toàn không tổn hại gì đến vật ở trong. Thủ pháp của Thạch Thanh đã thần tốc mà kình lực lại càng xảo diệu, chẳng kém gì hai chiêu vừa đánh bại Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ.

Bốn người nhìn lên cành cây rồi lại nhìn Thạch Thanh, bỗng thấy trong tay ông đã cầm một thanh trường kiếm màu đen như mực. Thạch Thanh lên tiếng: “Hắc kiếm gặp Kim đao, điểm tới là ngưng, ai thắng được nửa chiêu thì lấy vật kia. Các vị thấy có được chăng?”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh cắm vật kia vào cành cây, rồi lại dùng cách tỉ võ để định đoạt, tuyệt không ép người chút nào. Hắn hết sức kính phục, đáp ngay: “Thạch trang chúa, xin mời!” Hắn từng nghe nói kiếm thuật của vợ chồng Thạch Thanh, Mẫn Nhu ở Huyền Tố Trang cực kỳ tinh diệu, vừa rồi lại thấy Thạch Thanh kiềm chế Nguyên Trừng đạo nhân và Phùng Chấn Võ, quả thật danh bất hư truyền. Hắn không dám sơ ý chút nào, thận trọng phóng ra ba hư chiêu.

Thạch Thanh trỏ mũi kiếm xuống đất, toàn thân bất động, chỉ nói: “Xuất chiêu đi!”

Lúc đó An Phụng Nhật mới vung đao chém đến, nhưng mới ra nửa chiêu lại đột nhiên xoay đao chém ngược lên. Hắn vừa động thủ đã dùng tới tuyệt kỹ Phách Quái Đao. Đao pháp này có bảy mươi hai đường, mỗi đường có nhiều chiêu, mỗi chiêu lại có nhiều thức, biến hóa vô cùng. Thạch Thanh cũng vung thanh Hắc kiếm lên, chỉ đón đỡ từng chiêu, phòng thủ nghiêm mật. Tới hơn ba chục chiêu thì ông bỗng quát khẽ một tiếng, triển khai tấn công, kiếm pháp càng lúc càng nhanh. An Phụng Nhật đón đỡ được chừng ba chục chiêu thì hoàn toàn không nhìn rõ thế kiếm của đối phương nữa, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi. Hắn chỉ còn cách múa đao để giữ kín những bộ vị trọng yếu.

Hai người qua lại tới bảy chục chiêu mà đao kiếm vẫn chưa chạm nhau. Bỗng nghe một tiếng keng nhỏ nhẹ, mũi hắc kiếm đã đè trúng sống kim đao, rồi thuận đà lướt lên phía trên. Chiêu này gọi là Thuận Lưu Nhi Hạ, là một chiêu số thông thường để dùng kiếm phá đao. Nếu võ công đối thủ kém hơn, thì An Phụng Nhật chỉ cần xoay đao một cái là hất văng lưỡi kiếm ra. Nhưng thế kiếm của Thạch Thanh nhanh đến kỳ lạ, giả tỉ An Phụng Nhật có xoay đao mà gạt được, thì trường kiếm cũng phải chạm đến ngón tay trỏ của hắn rồi. An Phụng Nhật vô cùng kinh hãi, nghĩ bụng: “Bốn ngón tay của ta sắp đứt lìa rồi.” Nếu hắn muốn vứt đao lùi lại thì cũng không kịp nữa. Giữa lúc An Phụng Nhật hoảng hốt thì thanh kiếm của Thạch Thanh đột nhiên dừng lại, rồi chẳng những không lướt tới mà còn lùi lại mấy tấc. An Phụng Nhật biết ông hạ thủ lưu tình, lúc này không bỏ đao cũng không được. Hắn đành buông lỏng tay cho thanh đao rớt xuống.

Không ngờ thanh Hắc kiếm lại xoay nửa vòng, đỡ lấy Kim đao không để rơi xuống đất. Thạch Thanh lên tiếng: “Chúng ta ngang sức ngang tài, khó phân cao thấp.” Rồi ông khẽ rung trường kiếm, hất Kim đao lên trả.

An Phụng Nhật cảm kích vô cùng, năm ngón tay lại nắm chặt lấy chuôi đao. Hắn biết rõ đối phương đã thắng, nhưng muốn giữ thể diện cho mình, vội dựng thẳng Kim đao lên kính cẩn hành lễ. Đó chính là Nam Hải Lễ Phật, thế thu đao của môn Phách Quái Đao.

Bỗng nhiên hắn phát giác mình vừa thi triển xong bảy mươi hai đường Phách Quái Đao, bất giác kinh hãi đến biến sắc mặt. Hiển nhiên đối phương đã thuộc lòng tuyệt kỹ này, đợi mình thi triển tới đường thứ bảy mươi mốt rồi mới xuất chiêu kiềm chế. Nếu vừa giao đấu mà đối phương đã tấn công, thì chẳng hiểu mình có đỡ nổi mười chiêu không.

An Phụng Nhật đang định nói mấy lời cảm tạ thì Thạch Thanh đã tra kiếm vào vỏ, chắp tay nói: “Thạch mỗ xin kết giao làm bằng hữu với An trại chủ, bất tất tỉ thí làm chi nữa. Lúc nào trại chủ tiện đường qua tệ trang, xin mời vào chơi mấy hôm.”

An Phụng Nhật buồn rầu đáp: “Chắc chắn tại hạ sẽ đến bái kiến.” Rồi hắn tung mình nhảy đến gốc cây kia, rút thanh kiếm của Nguyên Trừng đạo nhân ra, đón lấy cái gói nhỏ. Hắn cắm một đao một kiếm xuống đất, đi tới trước mặt Thạch Thanh rồi nói: “Thạch trang chúa cứ lấy đi.” Tuy hắn được vật rồi lại bị mất, nhưng Thạch Thanh giữ cho hắn cả thể diện lẫn bốn ngón tay, đã là thịnh tình rồi.

Không ngờ Thạch Thanh chắp tay đáp: “Xin có ngày tái hội.” Rồi ông quay người bước đi, không cầm lấy cái gói.

An Phụng Nhật la lên: “Thạch trang chúa, xin dừng bước! Trang chúa đã cố giữ thể diện cho An mỗ, có lý nào An mỗ lại không hay? Hiển nhiên An mỗ đã thua rồi, trang chúa hãy mang vật này đi. Nếu không, hóa ra trang chúa xem An mỗ là kẻ tiểu nhân vô lại không biết tốt xấu ư?”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “An trại chủ! Cuộc tỉ võ hôm nay chưa phân thắng bại. Trại chủ còn chưa thi triển những đao pháp tinh diệu như Thanh Long Đao, Đoạn Môn Đao, sao đã gọi là thua? Vả lại trong gói đó chẳng có vật chi hết. Tại hạ e rằng Chu thế huynh mắc lừa người ta rồi.”

An Phụng Nhật sửng sốt hỏi: “Bên trong không có vật đó ư?” Hắn vội xé bao ra xem, cứ xé hết lớp này đến lớp khác, đến lớp thứ năm thì chỉ thấy ba miếng gì đó. Hắn để ý nhìn kỹ, đó chỉ là mấy đồng tiền tròn, giữa có lỗ vuông, vừa dẹp vừa mỏng, nếu không phải là ba đồng tiền xu thì là gì nữa? Hắn vừa kinh hãi vừa tức giận nhưng cố nén, quay lại hỏi Chu Mục: “Chu huynh đệ! Chuyện này… chuyện này… Ngươi đùa giỡn kiểu gì đây?”

Chu Mục run rẩy đáp: “Thuộc hạ… thuộc hạ cũng không biết, trên người Ngô Đạo Thông chỉ lục được cái gói nhỏ này thôi.”

An Phụng Nhật hiểu ngay, vật đó nếu Ngô Đạo Thông không giấu vào chỗ bí mật dị thường, thì cũng đã giao cho người khác. Phen này thật chẳng những uổng công, lại còn thương tổn đến oai phong của Kim Đao Trại. Hắn liền quẳng cái gói giấy xuống đất, rồi quay sang hỏi Thạch Thanh: “Thật là làm trò cười cho Thạch trang chúa. Không hiểu sao trang chúa lại biết?”

Vừa rồi, khi Thạch Thanh đoạt được cái gói đó, ông đã sờ thử, phát giác trong gói có ba miếng tròn mỏng, tuy chưa biết là ba đồng tiền, nhưng biết chắc không phải là vật mình muốn tìm. Ông mỉm cười đáp: “Tại hạ cũng chỉ đoán bừa thôi. Chúng ta đều bị lừa gạt, mong rằng An trại chủ đại lượng mà thứ lỗi.” Thạch Thanh dứt lời, lại chắp tay thi lễ với bọn Nguyên Trừng đạo nhân, Phùng Chấn Võ và Chu Mục, đoạn quay người rảo bước ra khỏi khu rừng.

* * *

Thạch Thanh quay lại chỗ đống lửa, bảo Mẫn Nhu: “Sư muội! Đi thôi!” Hai người nhảy lên ngựa, theo đường cũ quay về.

Mẫn Nhu nhìn nét mặt lang quân, không cần hỏi nhiều cũng biết là chẳng được việc gì. Nàng cảm thấy đau lòng, bất giác nhỏ mấy giọt nước mắt xuống vạt áo. Thạch Thanh nói: “Kim Đao trại chủ cũng mắc lừa. Chúng ta quay lại lục tìm trong người Ngô Đạo Thông. Không chừng các bằng hữu ở Kim Đao Trại đã sơ xuất.” Mẫn Nhu tuy biết là chẳng ăn thua gì nhưng không muốn trái ý lang quân, nên cũng nghẹn ngào “Vâng” một tiếng.

Đôi ngựa một trắng một đen phi thật nhanh, chưa tới trưa đã về đến Hầu Giám Tập.

Dân cư trong thị trấn này hãy còn khiếp sợ, chưa có nhà nào dám mở cửa. Những chuyện giết người cướp của đã được báo quan trong thành Biện Lương, nhưng chưa thấy ai đến. Hiển nhiên quan lại địa phương chưa dám đến ngay mà còn bận điều binh khiển tướng, theo đúng phương châm “tới trễ một chút là an toàn thêm một chút”.

Vợ chồng Thạch Thanh phóng ngựa đến cạnh thi thể Ngô Đạo Thông, chỉ thấy một thằng bé ăn xin mười hai mười ba tuổi ngồi bên góc tường, còn bốn bề tuyệt không có người nào khác. Thạch Thanh lập tức lục soát trong mình Ngô Đạo Thông rất tỉ mỉ, tháo cả búi tóc, gỡ cả giày vớ ra tìm. Còn Mẫn Nhu thì vào trong tiệm bánh lục lọi tra xét.

Một lúc sau, hai vợ chồng nhìn nhau, cùng thở dài chán nản. Mẫn Nhu nói: “Sư huynh! Xem chừng ông trời đã định là mối thù đó khó lòng trả được. Sư huynh đã nhọc mệt quá rồi, bây giờ chúng ta vào thành Biện Lương nghỉ ngơi, xem kịch hay nghe kể chuyện để giải cơn phiền muộn.”

Thạch Thanh biết vợ mình vốn ưa tĩnh mịch, chẳng thích ca kịch hay đi Biện Lương chơi gì hết, nàng nói vậy là quan tâm tới mình mà thôi. Ông bèn đáp: “Đã tới đất Hà Nam, cũng nên vào thành Biện Lương dạo chơi một tí. Nghe nói bọn thợ bạc ở Biện Lương đều là cao thủ, chúng ta vào đó sắm mấy món trang sức cũng hay.”

Mẫn Nhu nổi tiếng là một mỹ nhân trong võ lâm, vốn đã thích trang điểm. Bây giờ nàng đã vào tuổi trung niên, lại càng chú trọng đến việc trang sức để giữ sắc đẹp. Nàng nở một nụ cười thê lương, đáp: “Đồ trang sức huynh mua cho muội suốt mười ba năm nay, từ lúc Kiên nhi chết đi, đã đủ để mở một tiệm kim hoàn.”

Nàng nói đến câu “từ lúc Kiên nhi chết đi” thì không kìm được nữa, nước mắt tuôn xuống má. Lúc đó nàng trông thấy thằng bé ăn xin đang sợ sệt ngồi ở góc tường trông thật là bẩn thỉu, bất giác sinh lòng thương hại, liền cất tiếng hỏi: “Mẫu thân ngươi đâu? Tại sao mà phải đi ăn xin?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu… không thấy mẫu thân đâu cả.”

Mẫn Nhu thở dài, móc trong bọc ra một thoi bạc nhỏ, liệng xuống chân nó rồi nói: “Cầm lấy, mua bánh mà ăn.” Nàng đã nhảy lên ngựa, còn quay lại hỏi: “Hài tử! Tên ngươi là gì?”

Thằng bé đáp: “Cháu… cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Mẫn Nhu ngẩn ra, nghĩ bụng: “Là Chó Lộn Giống ư? Sao lại có cái tên lạ như thế?”

Thạch Thanh lắc đầu nói: “Thật là một đứa ngốc nghếch.”

Mẫn Nhu đáp: “Đúng thế! Thật là tội nghiệp!” Hai người vừa nói vừa giật cương cho ngựa chạy về phía thành Biện Lương.

* * *

Thằng bé ăn xin kia đã bị tử thi Ngô Đạo Thông làm hoảng sợ đến ngất đi, đến sáng sớm mới tỉnh dậy. Lúc nó mở mắt ra thì thấy thi thể Ngô Đạo Thông bê bết máu vẫn đang nằm cạnh mình, kinh hãi quá lại vội đứng dậy, chạy trốn vào một góc tường, lại ngủ đi một giấc. Lúc Thạch Thanh đến nơi thì nó đã tỉnh táo, toan chạy trốn xa hơn, nhưng thấy Thạch Thanh lật ngửa thi thể Ngô Đạo Thông lên, lại sợ quá không dám nhúc nhích. Nó không ngờ thiếu phụ xinh đẹp kia lại ném cho một thỏi bạc, bèn nghĩ bụng: “Mua bánh làm gì, mình đã có rồi.”

Nó đưa tay lên, trong tay vẫn còn cái bánh tiêu mới cắn được một miếng. Lúc này nó đã bớt sợ, lại cảm thấy đói. Nó há miệng ngoạm vào, bỗng nghe “cốp” một tiếng, hai hàm răng đau nhức tựa như cắn phải sắt hay đá gì đó, bèn lấy cái bánh ra khỏi miệng. Nhưng trong miệng vẫn còn một vật rắn, nó nhả ra lòng bàn tay thì thấy đó là một miếng sắt đen sì.

Thằng bé ăn xin liếc qua một cái, cũng chẳng nghĩ xem tại sao trong bánh lại có miếng sắt này, nhìn kỹ cái bánh thấy không còn vật gì nữa, liền cắn ăn lấy ăn để. Chỉ trong khoảnh khắc, thằng bé ăn xin đã ăn hết tấm bánh. Gã đưa mắt nhìn thi thể Ngô Đạo Thông thì thấy gần đó còn mười mấy tấm bánh đã bị xé đôi. Gã tự hỏi: “Bánh tiêu bị con ma đó xé ra vứt đi thế này, chẳng biết còn ăn được không?”

Thằng bé còn đang ngần ngừ, đột nhiên trên đỉnh đầu có tiếng người nói: “Đã bao vây hết bốn mặt rồi.” Nó kinh hãi ngẩng lên nhìn, thấy trên nóc nhà có ba gã đàn ông mặc áo trắng đang đứng. Rồi sau lưng nó lại có tiếng gió vù vù, nó xoay mình lại thì thấy bốn người cũng mặc áo trắng, tay cầm trường kiếm, đang chia hai bên tả hữu tiến đến.

Tiếp theo lại có tiếng vó ngựa dồn dập. Một người phi ngựa như bay tới, lớn tiếng hỏi: “Có phải là các bằng hữu phái Tuyết Sơn chăng? Các vị đã đến Hà Nam, xin thứ lỗi cho An mỗ không kịp ra xa nghênh tiếp.” Trong chớp mắt, một con ngựa vàng đã xông đến, người cỡi ngựa là một gã thấp lủn thủn mà béo chùn béo chụt, râu mọc tua tủa. Hắn không cần dừng ngựa, đột nhiên nhảy xuống. Con ngựa vàng chạy lạng qua một bên, vòng một vòng nhỏ rồi dừng lại, hiển nhiên đã được huấn luyện rất thuần thục.

Ba gã áo trắng từ trên nóc nhà cùng nhẹ nhàng nhảy xuống, trong tay đều lăm lăm trường kiếm. Một hán tử to lớn trạc tứ tuần lên tiếng: “Các hạ có phải là An trại chủ của Kim Đao Trại không? May được gặp ở đây!” Gã vừa nói vừa đưa mắt ra hiệu cho mấy tên đồng bọn đứng sau lưng An Phụng Nhật.

Thì ra sau khi An Phụng Nhật bị Thạch Thanh đánh bại, hắn ủ rũ một lúc rồi bỗng tự hỏi: “Vợ chồng Thạch trang chúa trở lại Hầu Giám Tập làm gì? Phải rồi! Chu tứ đệ mắc lừa, không lấy được vật kia, vợ chồng y nhất định tới đó tìm lại. Mình đã bị bại về tay y, nếu y lấy được thì ta chỉ biết lấy mắt mà nhìn. Nhưng nếu y không lấy được, chẳng lẽ ta không thể quay lại tìm cầu may lần nữa hay sao? Chắc Ngô Đạo Thông đã cất vật này vào một nơi nào bí hiểm lắm, tìm mười lần chưa thấy thì tìm thêm lần thứ mười một cũng chẳng hại gì.” An Phụng Nhật quyết định chủ ý, rồi lập tức lên ngựa ra đi.

Ngựa của hắn không nhanh bằng đôi tuấn mã một trắng một đen của vợ chồng họ Thạch, hơn nữa hắn cho ngựa đi thong thả vì không muốn tới gần họ quá. Vì thế mà Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lục soát thi thể Ngô Đạo Thông và tiệm bán bánh xong rồi bỏ đi, hắn mới đến Hầu Giám Tập. Hắn vừa đến cửa trấn, đã nhìn thấy xa xa trên nóc nhà có ba người mặc toàn màu trắng lưng đeo trường kiếm. Theo cách ăn mặc thì bọn này nhất định là đệ tử phái Tuyết Sơn gần biên giới Tây Tạng. An Phụng Nhật ruổi ngựa gần tới nơi, thì thấy ba gã kia để hết tâm trí vào mình như gặp đại địch. Hắn tưởng ba gã này đang định đánh lén vợ chồng họ Thạch, nhớ ngay đến ân tình của Thạch Thanh đối với mình vừa rồi, bèn lớn tiếng gọi để cảnh giác. Không ngờ khi hắn chạy đến nơi thì chẳng thấy bóng dáng vợ chồng họ Thạch đâu, chỉ có bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang bao vây một đứa ăn xin.

An Phụng Nhật hết sức ngạc nhiên, nhìn lại thấy đứa ăn xin này tuổi còn rất nhỏ, mặt mũi lem luốc mà cũng không ra vẻ biết võ công. Hắn thấy mắt tên hán tử áo trắng cứ liếc ngang đảo dọc liên tiếp, bèn nhìn kỹ gã ăn xin một lần nữa.

Lần này hắn giật mình kinh hãi, vì nhìn thấy trong tay gã có một miếng sắt đen sì, dường như đó là Huyền Thiết Lệnh trong truyền thuyết. Hắn lại thấy bốn tên áo trắng đứng đằng sau lăm lăm trường kiếm trong tay, dường như đang định chiếm đoạt miếng sắt kia. An Phụng Nhật không kịp suy nghĩ gì nữa, vội xoay tay rút Kim đao ra sử chiêu Bát Phương Tàng Đao Thế. Thân hình hắn vừa chuyển động, đã xoay quanh gã ăn xin đủ một vòng. Thanh Kim đao chia ra tả một đao, hữu một đao, trước một đao, sau một đao, chỉ trong nháy mắt mỗi phương đã chém ba đao, tám phương là hai mươi bốn đao, mà đao nào cũng chỉ cách gã ăn xin chừng nửa thước. Thân hình gã bao phủ đao ảnh trùng trùng.

Gã ăn xin thấy ánh đao lóa mắt, quanh người gió lộng vù vù, bèn òa lên khóc. Ngay lúc đó bảy tên áo trắng đều vung trường kiếm ra kết thành một màn kiếm quang, bao trùm lấy An Phụng Nhật cùng gã ăn xin. Bảy thanh trường kiếm tạo thành một vòng bạch quang lớn vây bên ngoài, trong vòng này lại có một vòng kim quang nhỏ. Giữa vòng kim quang lại có gã ăn xin đang khóc rống lên, nước mắt nước mũi đầm đìa.

Bất thình lình tiếng vó ngựa dồn dập lại vang lên. Một con ngựa trắng một con ngựa đen từ phía tây lao tới, chính là vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu trở lại.

Thì ra khi hai người ruổi ngựa vào thành Biện Lương, đi không lâu đã thấy bọn đệ tử phái Tuyết Sơn xuất hiện. Hai vợ chồng bàn bạc mấy câu, lập tức giục ngựa quay trở lại, thấy tám người đang vung đao múa kiếm, bèn la lên: “Các vị bằng hữu phái Tuyết Sơn! An trại chủ! Chúng ta đều là chỗ quen biết, có chuyện gì xin lấy lời lẽ nói với nhau, chớ nên làm tổn thương hòa khí.”

Hán tử cao lớn đứng đầu bảy tên đệ tử phái Tuyết Sơn giơ thẳng thanh trường kiếm lên. Cả bảy tên cùng thu kiếm lại, nhưng vẫn đứng vây quanh An Phụng Nhật.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu phi ngựa đến gần, nhìn thấy miếng sắt trên tay gã ăn xin, bất giác cùng la lên một tiếng: “Úi chà!” Tuy hai người chưa hiểu rõ đó có phải là vật mình muốn tìm hay không, nhưng trong lòng đã cực kỳ hồi hộp. Thạch Thanh nhảy vội xuống ngựa, tiến tới mấy bước rồi hỏi: “Tiểu huynh đệ! Trong tay cháu đang cầm vật gì đó? Cho ta xem một chút được không?” Trước nay ông vốn là người điềm tĩnh, nhưng khi nói hai câu này cũng không khỏi hơi run giọng. Ông biết rằng An Phụng Nhật tất không ngăn trở mình, chỉ cần gã ăn xin đưa tay ra là mình lấy được. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn chắc chắn không cản nổi ông.

Hán tử áo trắng cao lớn lại lên tiếng: “Thạch trang chúa! Trong vụ này, bọn tại hạ là người đến trước.”

Lúc này Mẫn Nhu cũng đã xuống ngựa, đáp ngay: “Cảnh huynh! Huynh thử hỏi chú bé xem, thỏi bạc ở dưới chân nó có phải là của ta cho nó không?” Đây là một chứng cớ hùng hồn. Nàng đã cho bạc gã ăn xin, dĩ nhiên là đã gặp nó trước bọn áo trắng nhiều.

Gã hán tử cao lớn họ Cảnh tên Vạn Chung, là một cao thủ trong hàng đệ tử thứ hai của phái Tuyết Sơn. Gã nói: “Thạch phu nhân! Không chừng hai vị có đến trước và đã cho bạc chú em này thật, nhưng Huyền Thiết Lệnh là do bọn tại hạ nhìn thấy trước.”

Ba tiếng Huyền Thiết Lệnh vừa thốt ra khỏi cửa miệng Cảnh Vạn Chung, thì Thạch Thanh, Mẫn Nhu và An Phụng Nhật đều run lên lẩm bẩm: “Quả nhiên là Huyền Thiết Lệnh!” Sáu tên đệ tử phái Tuyết Sơn kia cũng lộ vẻ khác thường. Thật ra thì cả bảy tên chưa một ai nhìn được kỹ miếng sắt trong tay gã ăn xin, nhưng chúng thấy vợ chồng họ Thạch cùng An trại chủ Kim Đao Trại tỏ vẻ nghiêm trọng, bèn đoán vật ấy là Huyền Thiết Lệnh. Còn ba người Thạch, Mẫn, An lại nghĩ rằng bọn bảy người phái Tuyết Sơn không phải là hạng tầm thường, lại đã nhìn thấy tấm thiết bài từ trước, nhất định không phải nói ngoa.

Cả mười người cùng nghĩ như nhau, chẳng ai bảo ai đều xòe tay ra trước mặt gã ăn xin, nói: “Tiểu huynh đệ! Chú hãy cho ta!”

Mười người kiềm chế lẫn nhau, không ai dám xuất thủ cưỡng đoạt. Ai cũng biết rằng nếu dùng cường lực thì gặp bất lợi ngay tức khắc, những người xung quanh nhất định sẽ thừa cơ để tấn công vào chỗ sơ hở. Ai cũng chỉ mong gã ăn xin tự đưa miếng sắt cho mình.

Gã ăn xin có ngờ đâu cả mười người cùng muốn lấy miếng sắt suýt làm nó gãy cả hàm răng? Tuy nó đã ngừng khóc, nhưng lúc này không biết phải làm gì, nước mắt lại long lanh trong khóe mắt, lúc nào cũng có thể tràn ra.

Đột nhiên một giọng rất trầm cất lên: “Ngươi cho ta là tốt nhất!”

Một bóng người nhảy vào giữa vòng đao kiếm, vừa vung tay ra đã giật được miếng sắt trong tay gã ăn xin.

Mỗi người quát mắng một câu: “Bỏ xuống!” “Làm gì thế?” “Đồ liều mạng!” “Khốn nạn!”, rồi cả đao lẫn trường kiếm cùng vung lên nhằm vào bóng người mới đến. An Phụng Nhật đứng gần gã ăn xin nhất, vung Kim đao ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật chém xuống đầu người đó. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã luyện tập rất tinh thục, đồng thời xuất thủ, bảy thanh trường kiếm phóng ra đâm vào bảy phương vị khác nhau. Dù người đó có tránh được trên vai cũng không tránh được dưới chân, giữ được trung bàn thì phải hở hạ bàn hay thượng bàn. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu chưa nhìn rõ người đó là ai, nên không muốn hạ độc thủ. Huyền Tố song kiếm vung lên thành một màn kiếm quang sáng chói hình bán nguyệt, phủ quanh người đó.

Bỗng người kia vung tay loạn lên, rồi nghe những tiếng leng keng vang lên liên tiếp. Không biết y dùng thủ pháp gì mà chỉ trong chớp mắt đã đoạt được thanh Kim đao của An Phụng Nhật cùng bảy thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy hổ khẩu tê nhức, suýt nữa rớt kiếm, hốt hoảng vội lùi lại. Thạch Thanh sắc mặt lợt lạt còn Mẫn Nhu thì mặt lại đỏ bừng. Trên thiên hạ chẳng mấy ai có thể thắng nổi song kiếm hợp bích của vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang. Thế mà bây giờ, ngón tay của người đó chỉ búng vào kiếm một cái, mà thanh kiếm trong tay hai người suýt nữa bay đi. Trước nay hai người lâm địch chưa từng gặp phải cảnh này.

Một lưỡi kim đao, bảy thanh trường kiếm đã cắm xuống đất thành một cái vòng, người mới đến ngang nhiên đứng giữa. Lão mặc áo bào xanh, râu ngắn, tuổi trạc ngũ tuần, dung mạo thanh tú. Mặt lão ẩn hiện sắc xanh, đang lộ vẻ vui mừng khó tả. Thạch Thanh chợt nhớ tới một người, buột miệng hỏi: “Phải chăng tôn giá là chủ nhân Huyền Thiết Lệnh?”

Người kia cười ha hả nói: “Hắc Bạch Song Kiếm tại Huyền Tố trang được người giang hồ xưng tụng kiếm thuật thông thần, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão phu chỉ lấy một phần công lực chia ra đối phó với tám vị bằng hữu này, dùng tới chín phần để đối phó với hiền phu phụ, mà không đoạt được binh khí của hai vị. Hỡi ôi! Công phu Đàn Chỉ Thần Thông của lão phu ngày nay, “đàn chỉ” thì có mà “thần thông” thì không, xem chừng phải khổ luyện thêm mười năm nữa.”

Thạch Thanh nghe lão nói thì không còn hoài nghi nữa, liền chắp tay nói: “Vợ chồng tại hạ chuyến này đến Hà Nam là có ý định lên Ma Thiên Nhai để bái kiến tôn giá. Tuy nguyện vọng không thành, nhưng có duyên được gặp tôn giá nơi đây, thì chuyến đi này không đến nỗi vô ích. Mấy chiêu kiếm pháp mèo què của vợ chồng tại hạ thật không bõ làm trò cười trong mắt của tôn giá. Hôm nay tôn giá thu được Huyền Thiết Lệnh về, thật là đáng mừng, thật là đáng mừng.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe Thạch Thanh nói vậy thì than thầm: “Lão mặc áo xanh này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh ư? Lão vừa ra một chiêu đã đoạt được hết trường kiếm của bọn mình, không phải lão thì trên đời còn người thứ hai nào như vậy nữa?” Bảy người ngơ ngác nhìn nhau, lẳng lặng không ai lên tiếng.

An Phụng Nhật võ công không cao lắm, nhưng lịch duyệt giang hồ thì hơn hẳn bọn đệ tử Tuyết Sơn, lập tức chắp tay nói: “Vừa rồi tại hạ không biết mà mạo phạm tiền bối, bây giờ xin có lời tạ lỗi.”

Người áo xanh này chính là Tạ Yên Khách ở Ma Thiên Nhai. Lão cười ha hả rồi nói: “Theo quy củ ngày thường của lão phu, các ngươi đã dùng binh khí để công kích ta, là ta phải trả lại từng chiêu một. Tỉ dụ như ngươi dùng Kim đao chém vào vai trái của ta, thì ta cũng dùng Kim đao để chém vào vai trái ngươi.” Lão nói tới đây thì cầm miếng sắt tung lên một cái, mỉm cười nói tiếp: “Nhưng hôm nay lão phu đang vui vẻ, nhát đao đó hãy tạm ghi vào sổ nợ. Ngươi đâm vào ngực lão phu. Ngươi đâm vào huyệt Hoàn Khiêu ở đùi lão phu. Ngươi đâm vào bên trái lưng lão phu. Ngươi chém vào đùi lão phu…” Miệng của lão vừa nói, tay vừa chỉ vào từng tên đệ tử Tuyết Sơn.

Bảy tên này nghe lão nói đúng từng chiêu của mình không sai chút nào thì trong lòng cực kỳ kinh hãi. Chỉ trong chớp nhoáng mà lão nhớ được rành mạch ai xuất chiêu đánh vào đâu. Bỗng lão lại nói tiếp: “Tất cả những món nợ đó ta sẽ ghi lại, hôm nào gặp chuyện bực mình sẽ đến tìm các ngươi để đòi.”

Tên lùn nhất trong đám đệ tử Tuyết Sơn lớn tiếng nói: “Chúng ta tài nghệ chẳng bằng người, thua thì đành chịu, lão còn chọc ghẹo làm chi? Bất tất lão phải ghi vào sổ nợ, cứ đâm ta một nhát cho thoải mái! Ai hơi đâu mà để món nợ đó trong lòng được.” Gã này tên gọi Vương Vạn Nhận, lúc này tay không binh khí mà dám nói mấy câu này, rõ ràng đã đem tính mạng giao cho địch thủ. Bọn sư huynh đệ đồng môn đều định lên tiếng ngăn cản, nhưng gã chỉ nói một hơi là xong hết.

Tạ Yên Khách gật đầu nói: “Được lắm!” Rồi lão rút thanh trường kiếm dưới đất của Vương Vạn Nhận đâm thẳng ra, gã này vội nhảy lùi ra sau để tránh. Ngờ đâu thế kiếm của Tạ Yên Khách thần tốc phi thường, người Vương Vạn Nhận còn lơ lửng trên không, mũi kiếm đã đâm vào ngực gã. Tạ Yên Khách rung tay một cái rồi thu kiếm về.

Lúc hai chân Vương Vạn Nhận chấm đất, gã thấy trước ngực mát rượi, liền cúi xuống nhìn, bất giác kêu lên một tiếng: “Úi chà!” Gã thấy ngực mình hở ra một lỗ tròn to bằng miệng chén. Thì ra lúc Tạ Yên Khách rung tay, đã dùng mũi kiếm khoét một vòng tròn trước ngực áo gã. Ba lớp áo đều bị khoét gọn để hở da thịt ra, giả tỉ lão xuất thủ nặng hơn chút nữa thì đã móc trái tim gã ra ngoài.

Vương Vạn Nhận sợ đến mặt xám như đất, ngây người ra. An Phụng Nhật thán phục tận đáy lòng, không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô: “Hảo kiếm pháp!”

Nói về phóng kiếm chuẩn xác, kình lực vừa đủ, thì chiêu thức của Tạ Yên Khách vừa rồi, vợ chồng Thạch Thanh nếu cố gắng cũng có thể làm được. Nhưng kiếm thế đi mau lẹ khiến cho đối phương biết rõ chỗ nào mà vẫn không tránh được, thì Thạch Thanh và Mẫn Nhu tự biết mình không bao giờ bì kịp. Hai người đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ: “Võ công lão này thật là tinh xảo tuyệt diệu, không biết đến đâu mà lường!”

Tạ Yên Khách lớn tiếng cười ha hả, rồi cất bước đi luôn.

Một thiếu nữ trong phái Tuyết Sơn đột nhiên la lên: “Tạ tiên sinh! Khoan đã!”

Tạ Yên Khách quay lại hỏi: “Có chuyện gì?”

Thiếu nữ đáp: “Vừa rồi tôn giá đã hạ thủ lưu tình, không hạ sát Vương sư ca của tại hạ, cả phái Tuyết Sơn cùng cảm tạ ân đức. Nhưng tại hạ muốn hỏi một câu: Miếng sắt tôn giá đang cầm có phải là Huyền Thiết Lệnh không?”

Tạ Yên Khách ngạo nghễ hỏi lại: “Phải thì sao? Mà không phải thì sao?”

Thiếu nữ đáp: “Nếu không phải là Huyền Thiết Lệnh thì bọn tại hạ còn phải đi tìm, còn nếu là Huyền Thiết Lệnh thì tôn giá có điều lầm lỗi rồi.”

Bỗng trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay lập tức. Cảnh Vạn Chung quát lên: “Hoa sư muội! Không được nói nhiều!” Mọi người đều đã nghe Tạ Yên Khách tàn nhẫn hiếu sát, lúc chính lúc tà, hành sự chỉ theo ý mình, không biết bao nhiêu hảo hán cả hắc đạo lẫn bạch đạo đã chết về tay lão. Hôm nay lão bị mười người vây đánh mà không đả thương một ai, thì đã là đại từ bi lắm rồi, trước nay chưa thấy. Hoa Vạn Tử tính tình cương trực, không biết nặng nhẹ mà dám thốt ra lời xúc phạm, chẳng những bọn đồng môn phái Tuyết Sơn kinh hãi mà vợ chồng họ Thạch cũng lo cho nàng đến toát mồ hôi lạnh.

Tạ Yên Khách giơ miếng sắt lên, lớn tiếng đọc: “Huyền Thiết chi lệnh, hữu cầu tất ứng!” Rồi lão xoay mặt kia lại, đọc tiếp: “Ma Thiên Nhai Tạ Yên Khách”. Lão ngừng một chút, lại nói: “Loại Huyền Thiết này đao kiếm chém không vào, hiếm có trong thiên hạ.” Lão lượm một thanh kiếm ở dưới đất, chém vào miếng sắt đánh choang một tiếng. Thanh trường kiếm gãy làm hai đoạn, đoạn trên văng đi, còn miếng sắt không có chút dấu vết nào. Lão trầm mặt xuống, lớn tiếng hỏi: “Ta lầm lỗi ở chỗ nào?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Tiểu nữ từng nghe bằng hữu giang hồ đồn rằng Tạ tiên sinh có ba tấm Huyền Thiết Lệnh, năm xưa đã chia ra tặng ba người có ơn với tiên sinh, thề rằng ai đưa lệnh bài đó đến trao trả thì có thể nhờ tiên sinh làm một việc, bất luận khó khăn nguy hiểm đến đâu tiên sinh cũng làm cho được. Chuyện đó có thật không?”

Tạ Yên Khách đáp: “Đúng thế! Chuyện này trong võ lâm không ai không biết.” Thanh âm của lão ra chiều đắc ý.

Hoa Vạn Tử nói: “Nghe nói trong ba tấm Huyền Thiết Lệnh thì hai tấm đã quay về tay tiên sinh, vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa. Tấm Huyền Thiết Lệnh này là tấm cuối cùng, có phải vậy chăng?”

Tạ Yên Khách nghe nàng nói “vì thế mà võ lâm xảy ra hai việc kinh thiên động địa” thì sắc mặt hòa hoãn lại. Lão đáp: “Phải rồi! Vị bằng hữu được ta tặng tấm Huyền Thiết Lệnh này bản lãnh rất cao cường, chẳng có việc gì là không làm nổi, tấm lệnh bài này chẳng dùng làm gì được cả. Ông ấy lại không có con cái, nên khi ngao du tiên cảnh thì lệnh bài không biết lưu lạc nơi đâu. Mấy năm nay bao nhiêu người liều mạng đi tìm kiếm nó để sai lão phu làm việc cho họ. Ha ha! Ngờ đâu hôm nay ta thu được nó về một cách dễ dàng, bằng hữu giang hồ không khỏi thất vọng. Nhưng đó cũng là một điều may, ai nấy đều tai qua nạn khỏi.” Lão vung chân đá thi thể Ngô Đạo Thông ra xa mấy trượng, lại nói tiếp: “Ví dụ như tên này đã được lệnh bài, nhưng muốn tìm ta cũng khó. Hắn chưa kịp đem đến làm phiền ta, thì chính mình đã thành kẻ địch chung của thiên hạ. Trong võ lâm chẳng ai không muốn giết hắn, chẳng ai không muốn đoạt lấy lệnh bài. Ngay cả vợ chồng Thạch trang chúa ở Huyền Tố Trang là người hiền đức cũng chưa thoát vòng trần tục, huống chi người khác. Ha ha! Ha ha!”

Câu nói sau cùng của lão đầy vẻ trào phúng. Thạch Thanh bất giác thẹn đỏ mặt tía tai. Ông vốn đối tốt với mọi người, võ công đã cao, danh vọng lại lớn, trước nay nói gì cũng được nghe theo, chẳng ai phản kháng. Không ngờ hôm nay ông bị Tạ Yên Khách chê cười, luận về lý lẽ hay sức lực đều thua kém. Bình sinh ông rất cao ngạo, lúc này bị mất mặt thật là không thể chịu nổi. Mẫn Nhu nhìn sắc mặt Thạch Thanh, cũng biết lang quân đang muốn rút kiếm liều mạng với Tạ Yên Khách. Tuy ông biết rõ mình không địch nổi, nhưng nỗi tức này không thể nuốt trôi được.

Tạ Yên Khách lại nói: “Vợ chồng Thạch trang chúa vốn là anh hùng hào kiệt. Nếu hai vị có tấm Huyền Thiết Lệnh này, bắt lão phu phải bôn ba vất vả làm một việc khó khăn, thì cũng còn được. Nhưng nó mà lọt vào tay kẻ tiểu nhân vô sỉ, không chừng hắn cầm đến bắt lão phu tự chặt chân tay, sống không được chết chẳng xong. Thậm chí nếu hắn yêu cầu ta tự sát, ta mà không chịu thì còn gì là lời thề Hữu cầu tất ứng nữa? May mà vận khí lão phu không tệ, thu hồi được lệnh bài một cách dễ dàng. Ha ha!” Tiếng cười của lão làm rung động cả mái ngói.

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Nghe nói ngày trước Tạ tiên sinh đã thề độc, bất luận ai đem lệnh bài đến đều được tiên sinh làm theo ý muốn. Dù kẻ đó là oan gia bảy kiếp cũng không bị tiên sinh động đến một ngón tay. Tấm lệnh bài này Tạ tiên sinh đoạt lấy trong tay tiểu huynh đệ kia, sao tiên sinh biết nó không yêu cầu chuyện gì?”

Tạ Yên Khách cười khẩy rồi nói: “Thằng nhóc ăn xin đó là cái thá gì? Tạ Yên Khách này mà đi nghe lời một thằng nhóc ăn xin, ha ha, người ta lại không cười đến chết ư?”

Hoa Vạn Tử dõng dạc nói: “Các vị bằng hữu đã nghe thấy chưa? Tạ tiên sinh nói rằng chú nhỏ hành khất kia không phải là người, nên lời thề không đáng kể.” Nghe cô ta nói vậy, lẽ ra mọi người xung quanh đều phải mỉm cười, còn đồng môn sư huynh đệ phải phụ họa thêm mới phải, thế mà lúc này bốn phía vẫn im hơi lặng tiếng, nếu một mũi kim rơi xuống đất vẫn có thể nghe được.

Trên mặt Tạ Yên Khách lại thoáng hiện ánh xanh rồi biến mất ngay. Lão nghĩ bụng: “Con nha đầu này nói chuyện như thế thật là bắt mình cứng họng, không khỏi bị người ta nói sau lưng là Tạ mỗ không giữ chữ tín.” Đột nhiên lão động tâm la thầm: “Úi chà! Hỏng rồi! Không chừng thằng ăn xin này do chúng cố ý bày ra cạm bẫy, dụ mình đưa tay cướp lấy lệnh bài, rồi xúi nó bắt mình làm gì đó.” Lão cười lạnh, ngạo nghễ nói: “Đối với họ Tạ ở Ma Thiên Nhai, trong thiên hạ chẳng có việc gì là khó nữa. Thằng nhóc kia! Ngươi cứ đi theo ta, rồi có việc gì yêu cầu ta sẽ giải quyết cho, không can dự gì đến người khác.” Đoạn lão dắt tay gã ăn xin toan cất bước đi. Tuy Tạ Yên Khách chẳng xem bọn người trước mặt vào đâu, nhưng lão e rằng sau lưng gã ăn xin lại có kẻ giật dây, trước đám đông đưa ra một vấn đề nan giải, đại khái như bắt lão chặt chân tay, thì biết làm thế nào? Vì vậy mà lão định đưa nó đến chỗ không người để dò hỏi cho tỉ mỉ.

Hoa Vạn Tử tiến ra một bước, dịu dàng nói: “Tiểu huynh đệ! Cháu là một đứa bé ngoan. Lão bá đây rất thích giết người, cháu mau mau yêu cầu lão từ nay đừng giết…” Nàng chưa dứt lời thì đột nhiên có một luồng kình phong xô vào mặt, ba chữ “…người nào nữa” lại phải nuốt vào, không nói được ra lời.

Thì ra Hoa Vạn Tử biết Tạ Yên Khách đã hứa điều gì là làm đúng như vậy. Vừa rồi nàng cũng phóng kiếm đâm vào mặt lão, lão đã nói là ghi lại đó để sau này lúc nào muốn thì đòi. Như vậy tất có ngày nàng bị lão rạch mặt. Huống chi sáu vị sư huynh nàng, trừ một mình Vương Vạn Nhận ra, ai cũng còn nợ lão một kiếm. Món nợ này còn ghi lại đó, sau này dĩ nhiên có người phải mất mạng. Vì thế nàng mạo hiểm chọc giận lão, bảo gã ăn xin yêu cầu lão không giết người nữa. Chỉ cần nó nói ra thì dĩ nhiên lão phải nghe theo, mình cùng năm vị sư huynh có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ Tạ Yên Khách đã nhìn ra dụng ý, liền phất tay áo phóng kình phong vào mặt, ngăn không cho nàng nói hết câu. Lão tức giận quát lên: “Con nha đầu kia! Lại còn dám lảm nhảm ư?” Rồi một luồng kình phong nữa lại xô đến. Hoa Vạn Tử đứng không vững, ngã ngửa ra sau.

Hoa Vạn Tử lưng vừa chấm đất, liền nhảy bật dậy ngay. Nàng toan kêu la gì đó, nhưng Tạ Yên Khách đã dắt gã ăn xin đi vào ngõ hẻm. Hiển nhiên lão không muốn cho nó nghe người khác xúi giục.

Mọi người thấy Tạ Yên Khách chỉ phất tay áo ở ngoài mấy trượng mà đánh ngã Hoa Vạn Tử, ai cũng kinh hãi, chẳng dám nói gì nữa.

Hồi 02: Thiếu niên gây đại họa

Thạch Thanh tiến ra hai bước, nhìn Cảnh Vạn Chung và Vương Vạn Nhận, chắp tay nói: “Cảnh hiền đệ! Vương hiền đệ! Cô nương đây kiến thức đảm lược hơn cả bọn tu mi nam tử, chắc là Hàn Mai nữ hiệp Hoa cô nương vang danh thiên hạ có phải không? Ngoài ra còn bốn vị huynh đệ nữa, xin được giới thiệu cho biết.”

Cảnh Vạn Chung nhăn mặt, không trả lời mà lại nói: “Tại hạ được gặp hiền phu phụ Thạch trang chủ ở đây thật là may mắn, đỡ phải đến Giang Nam ra mắt.”

Thạch Thanh thấy vẻ mặt bảy người kia đều không có thiện cảm, lúc đầu nghĩ là bọn họ vừa bị Tạ Yên Khách đoạt kiếm lại hất ngã người nên buồn bực trong lòng. Nhưng Cảnh Vạn Chung cùng mình là chỗ bạn thân, đất khách gặp người cố cựu tưởng nên tay bắt mặt mừng, sao lại tỏ vẻ lạnh nhạt? Hơn nữa trước nay hắn vẫn kêu mình bằng Thạch đại ca, không hiểu vì lẽ gì mà đột nhiên thay đổi cách xưng hô? Ông ngẫm nghĩ một chút rồi tự hỏi: “Phải chăng đứa con bảo bối của ta đã gây nên tai vạ gì ư?” Ông vội nói: “Cảnh hiền đệ! Phải chăng thằng nhỏ bướng bỉnh của tiểu huynh đã làm cho hiền đệ phải khó chịu? Vợ chồng ta sẽ đền tội cho hiền đệ. Lại đây! Tiểu huynh xin làm chủ nhân, mời cả bảy vị đến thành Biện Lương uống mấy chén rượu.”

An Phụng Nhật thấy Thạch Thanh ra chiều thân mật với bọn đệ tử phái Tuyết Sơn, mà bọn này đối với mình lại chẳng thèm nhìn, đừng nói là thông báo danh tính hay nói mấy câu khách sáo. Hắn cứ đứng trơ ra đó, chẳng ai nói gì tới thì đã không hứng thú gì mà lại tức mình, nghĩ thầm: “Hừ! Phái Tuyết Sơn thì đã là cái gì? Ai lấy nhân nghĩa đối người như Thạch trang chủ, mới thật làm cho người ta thán phục.” Hắn bèn quay sang Thạch Thanh và Mẫn Nhu chắp tay nói: “Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! An mỗ xin cáo từ!” Thạch Thanh cũng chắp tay đáp lễ nói: “Xin An trại chủ miễn trách. Khuyển tử là Thạch Trung Ngọc hiện là môn hạ của Phong huynh tại phái Tuyết Sơn, tại hạ cứ mải hỏi thăm, thật là có điều thất lễ với An trại chủ.” An Phụng Nhật nghĩ bụng: “Chuyện này thì làm sao trách ông được?” Rồi kính cẩn đáp: “Trang chúa dạy quá lời!” Nói xong, hắn quay lưng đi thẳng.

Bọn Cảnh Vạn Chung bảy người thủy chung vẫn không nói nửa lời. Khi An Phụng Nhật đã đi xa, họ cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau ra chiều dè dặt, vẻ mặt lộ vẻ vừa khó chịu vừa lúng túng, vừa phẫn nộ lại vừa khinh bỉ, dường như chẳng ai muốn lên tiếng trước.

Thạch Thanh đã đưa con đến bái sư học võ của đại đệ tử phái Tuyết Sơn Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý. Tuy ông còn thâm ý khác, nhưng chính yếu vẫn là vì đứa con này hư hỏng quá, Mẫn Nhu lại hay bênh con, mình khó mà dạy dỗ. Ông thấy thái độ bọn Cảnh Vạn Chung, sợ rằng thằng con đã gây vạ lớn, liền tươi cười hỏi: “Bạch lão gia tử, Bạch lão thái thái vẫn khỏe chứ? Phong Hỏa Thần Long Phong huynh có được bình yên không?”

Vương Vạn Nhận không nhịn được nữa, lớn tiếng đáp: “Sư phụ và sư nương ta chưa bị thằng tiểu… tiểu… của ngươi làm tức đến chết là phúc lớn lắm rồi!” Chính ra họ Vương muốn mắng là thằng tiểu tạp chủng, nhưng thấy vẻ mặt Mẫn Nhu cực kỳ khổ sở nên hắn lắp bắp một chút, rồi cuối cùng dừng ngựa bên bờ vực thẳm. Tuy hắn đã nuốt mất hai chữ, nhưng chẳng cần phải nói ra miệng, chỉ nghe giọng nói cũng biết là hắn nặng lời thóa mạ.

Mẫn Nhu mắt đỏ hoe nói: “Vương đại ca! Ngọc nhi thật là quá hư hỏng, đắc tội với chư vị. Ta… ta… xin tạ tội.” Nàng nói xong, cúi mình thi lễ.

Bảy đệ tử phái Tuyết Sơn vội đáp lễ, Vương Vạn Nhận lớn tiếng nói: “Thạch đại tẩu! Thằng tiểu… tiểu… của đại tẩu thật chẳng ra gì. Nếu nó chỉ được một phần giống đại ca, đại tẩu thì đã… đã… không có gì phải nói. Có phải nó đắc tội với Vương Vạn Nhận này đâu, mà dù nó có đắc tội với ta cũng chẳng quan hệ gì. Ta nể mặt hai vị, bất quá chỉ túm lấy nó mà đấm đá một trận là xong. Nhưng nó lại đắc tội với sư phụ sư nương của ta, mà tính Bạch sư ca lại nóng như lửa. Thạch trang chúa! Không phải ta nói lấy lòng đâu, có lúc đã muốn đến thông báo cho trang chúa hay là Bạch sư ca còn muốn đốt cả Huyền Tố Trang… để hai vị tránh đi một chút. Chén rượu của trang chúa mời hôm nay, nói gì thì nói, Vương mỗ không thể uống được. Bạch sư ca mà biết ra, không trở mặt tuyệt giao với ta mới là chuyện lạ.”

Hắn nói huyên thuyên một hồi lâu, thủy chung vẫn không đề cập đến Thạch Trung Ngọc đã phạm tội gì. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, nghĩ bụng: “Mình cùng phái Tuyết Sơn kết giao đã mấy đời nay, mà sao Bạch Vạn Kiếm lại căm hận đến muốn đốt Huyền Tố Trang?” Ông liền nói: “Thằng súc sinh đó thật là hư hỏng đáng chết! Sao nó lại dám đắc tội cả với lão thái gia cùng lão thái thái?”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Nơi đây là chỗ thị phi, không tiện đứng lâu. Chúng ta vừa đi vừa nói chuyện hay hơn.” Gã nói xong, rút lấy thanh trường kiếm dưới đất rồi tiếp: “Xin mời Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân lên đường.”

Thạch Thanh gật đầu rồi cùng Mẫn Nhu đi về phía tây, hai con ngựa từ từ đi theo. Dọc đường, Cảnh Vạn Chung cũng đã giới thiệu mấy tên sư đệ sư muội, bọn này cũng nói mấy câu khách sáo với vợ chồng Thạch Thanh.

Đoàn người đi được chừng bảy tám dặm, thấy bên đường có ba cây dẻ cành lá xòe ra như cái lọng. Cảnh Vạn Chung lên tiếng hỏi: “Thạch trang chúa! Chúng ta qua bên kia nói chuyện được chăng?”

Thạch Thanh đáp “Được lắm!” Chín người đi tới gốc cây, chia nhau ngồi trên mấy tảng đá lớn cùng mấy chỗ rễ cây nổi lên. Vợ chồng Thạch Thanh tuy trong lòng nóng nảy nhưng không tiện mở miệng hỏi ngay.

Cảnh Vạn Chung lên tiếng trước: “Thạch trang chúa! Tại hạ cùng trang chúa giao hảo đã lâu, có lời nói thẳng, xin trang chúa đừng trách. Theo ý kiến tại hạ thì trang chúa hãy giao lệnh lang cho bọn tại hạ mang đi. Tại hạ sẽ hết sức năn nỉ sư phụ, sư mẫu và Bạch sư huynh, chưa chắc đã không bảo toàn tính mệnh được cho nó. Dù nó có bị tước bỏ võ công, còn hơn để hai bên trở mặt thành cừu địch, dấy động can qua.”

Thạch Thanh rất lấy làm kỳ, nói: “Từ khi thằng nhỏ qua bên quý phái, ba năm nay tại hạ chưa được gặp nó lần nào. Hết thảy mọi việc, tại hạ thật sự chưa biết tí gì. Mong rằng Cảnh huynh nói cho tại hạ hay, đừng giấu giếm gì.” Trước nay ông vẫn gọi là “Cảnh hiền đệ”, nhưng thấy vẻ mặt đối phương giận dữ, e rằng hai chữ “hiền đệ” nói ra sẽ bị trách cứ, bèn đối cách xưng hô.

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Thạch trang chúa không biết thật ư?”

Thạch Thanh đáp: “Không biết thật.”

Cảnh Vạn Chung vốn hiểu tính Thạch Thanh, trang chúa Huyền Tố Trang danh tiếng lẫy lừng không khi nào nói dối. Ông nói không biết, là không biết thật. Hắn liền đáp: “Thì ra Thạch trang chúa không biết gì hết.”

Mẫn Nhu không nhịn được, liền xen vào hỏi: “Vậy Ngọc nhi không ở thành Lăng Tiêu nữa ư?” Cảnh Vạn Chung gật đầu.

Vương Vạn Nhận nói: “Giả tỉ thằng tiểu… tiểu… đó hiện giờ còn ở thành Lăng Tiêu, thì dù có đến một trăm cái mạng cũng chết sạch rồi.”

Thạch Thanh trong lòng ngấm ngầm tức giận, nghĩ bụng: “Ta cho Ngọc nhi đến môn phái các ngươi học võ, chỉ vì kính trọng Bạch lão gia cùng Phong sư huynh, cũng là xem trọng võ công phái Tuyết Sơn. Nó hãy còn nhỏ tuổi, bản tính bướng bỉnh, dù có phạm môn quy gì thì các ngươi cũng phải nể mặt vợ chồng ta, sao lại nói đến chữ giết? Dù cho phái Tuyết Sơn võ công cao cường, người nhiều thế lớn, nhưng chẳng lẽ trên giang hồ không còn hai chữ đạo lý nữa hay sao?” Thế mà ngoài mặt ông vẫn thản nhiên, lạnh lùng nói: “Môn quy của quý phái vốn nghiêm ngặt, tại hạ đã biết rồi. Tại hạ đưa khuyển tử đến thành Lăng Tiêu học võ nghệ, vốn cũng muốn y học thêm khuôn phép.”

Cảnh Vạn Chung hơi trầm mặt xuống: “Thạch trang chúa nói quá lời. Tiểu tử Thạch Trung Ngọc lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác, nhưng không phải phái Tuyết Sơn dạy nó như thế.”

Thạch Thanh lạnh lùng hỏi: “Nó còn nhỏ tuổi như thế, thì tám chữ lưu manh vô sỉ, cùng hung cực ác từ đâu mà ra?”

Cảnh Vạn Chung quay lại bảo Hoa Vạn Tử: “Hoa sư muội! Nhờ sư muội đi xem xét bốn phía xem có ai tới đây không.” Hoa Vạn Tử dạ một tiếng rồi xách kiếm đi ngay. Vợ chồng Thạch Thanh đưa mắt nhìn nhau, đều biết rằng hắn bảo Hoa Vạn Tử ra xa là vì có chuyện không tiện nói trước mặt phụ nữ, trong lòng không khỏi thêm phần lo lắng.

Cảnh Vạn Chung thở dài nói: “Thạch trang chúa, Thạch đại tẩu! Bạch sư huynh của tại hạ không có con trai, chỉ có một đứa con gái, chắc các vị đã biết rồi. Sư điệt nữ của tại hạ năm nay mới mười ba tuổi, thông minh lanh lợi, tính tình khả ái. Bạch sư huynh dĩ nhiên yêu quý nó vô cùng, mà sư phụ sư mẫu tại hạ cũng xem nó như trái tim của mình. Có thể nói nó là tiểu công chúa của thành Lăng Tiêu trên núi Đại Tuyết. Bọn sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội tại hạ đều xem nó như một con phượng hoàng vậy.”

Thạch Thanh gật gật đầu nói: “Chắc là thằng con chẳng ra gì của tại hạ đã đắc tội với vị tiểu công chúa đó. Có đúng thế không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Hai chữ đắc tội thì còn nhẹ quá! Nó… nó… lớn mật đến độ dám trói chặt chân tay sư điệt nữ của tại hạ, rồi lột sạch y phục, toan bề cưỡng gian.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu la lên: “Trời ơi!” rồi đứng phắt dậy. Mẫn Nhu sắc mặt lợt lạt hẳn đi. Thạch Thanh nói: “Sao… sao lại có việc đó được? Thạch Trung Ngọc năm nay mới mười lăm tuổi, trong vụ này tất có sự hiểu lầm.”

Cảnh Vạn Chung nói: “Bản thân tại hạ cũng thấy chuyện này khó tin, nhưng đó là chuyện thật, ngàn vạn lần là thật. Hai đứa nha hoàn trông coi tiểu điệt nữ nghe tiếng giãy giụa mà chạy vào phòng, thấy vậy liền kêu cứu, thì một đứa bị chặt đứt cánh tay, còn một đứa bị chém vào đùi, cả hai ngất xỉu tại chỗ. May mà thằng lỏi kia thấy thế kinh hãi, không dám xâm phạm tới tiểu điệt nữ nữa, chạy trốn mất dạng.”

Trong võ lâm thì sắc giới là điều đại kỵ. Ngay cả những tay hảo hán hắc đạo cướp của, giết người, đốt nhà như cơm bữa, mà phạm đến chữ dâm thì lập tức bị đồng đạo thóa mạ. Ngay cả bọn đạo tặc lục lâm cũng không dám phạm vào chuyện hiếp dâm phụ nữ một cách khinh suất, huống hồ là nhân vật hiệp nghĩa. Mẫn Nhu nghe nói thế, mặt mày tái mét, kéo tay áo lang quân hỏi: “Sư ca! Phải… phải làm thế nào bây giờ?”

Thạch Thanh nghe chuyện này cũng tan nát cõi lòng. Giả tỉ ông nghe con trai gây họa giết người thì cũng khó chịu lắm, nhưng còn chịu được, còn vụ này thật không biết làm sao cho phải. Ông cố định thần đáp: “Thế là hoàng thiên còn bảo hộ. Bạch tiểu cô nương vẫn giữ được tấm thân trong trắng, chưa bị thằng nghiệt tử của ta làm ô uế đấy chứ?”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Chưa, nhưng đã đến thế thì cũng chẳng khác gì bị cưỡng gian rồi. Tính nết của sư phụ tại hạ thế nào thì trang chúa đã biết. Lão nhân gia lập tức cho người đi truy tầm thằng lỏi Thạch Trung Ngọc, dặn hễ ai thấy gã là chém chết ngay, không được để sống.”

Vương Vạn Nhân tiếp lời: “Gia sư còn nói người cùng trang chúa giao tình không ít, nếu bắt Thạch Trung Ngọc về, tất nể mặt trang chúa mà không giết nó. Tốt nhất là ai gặp nó bên ngoài thì chém một kiếm cho xong.” Cảnh Vạn Chung đưa mắt cho Vương Vạn Nhân, hình như có ý bảo hắn đừng nhiều lời quá. Vương Vạn Nhận cãi: “Sư phụ dặn thế thực. Chẳng lẽ đệ lại nói dối hay sao?”

Cảnh Vạn Chung mặc kệ hắn, nói tiếp: “Nếu thằng lỏi chỉ đả thương hai con nha đầu thì cũng chưa phải chuyện lớn. Nhưng sư điệt nữ của tại hạ tuy tuổi còn nhỏ mà tính tình cương liệt. Nó bị sỉ nhục như vậy, cảm thấy chẳng còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, ngồi khóc sướt mướt suốt hai ngày hai đêm ròng rã. Đến đêm thứ ba, nó lén chui cửa sổ ra ngoài, nhảy xuống vực sâu muôn trượng.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu lại la hoảng “Trời ơi!”. Thạch Thanh run giọng hỏi: “Rồi… rồi… có cứu được không?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Vực thẳm ngoài thành Lăng Tiêu thì Thạch trang chúa đã biết rồi, đừng nói là người, dù là hòn đá lăn xuống cũng vụn ra thành bụi. Một tiểu cô nương mà nhảy xuống, chắc chắn phải nát như tương.”

Một gã đệ tử phái Tuyết Sơn tên gọi Kha Vạn Quân, chừng hai bảy hai tám tuổi, cũng nói: “Oan uổng nhất là đại sư ca, vô cớ bị sư phụ chém cụt cánh tay phải.” Thanh âm của hắn cực kỳ phẫn nộ.

Thạch Thanh kinh hãi kêu lên: “Phong Hỏa Thần Long ư?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chứ còn ai nữa? Sư phụ thương tiếc đứa cháu gái cưng, lại không bắt được thằng con của trang chúa. Người nổi trận lôi đình trong đại sảnh, la mắng Phong sư huynh dạy đồ đệ không nghiêm, chỉ ăn tốn cơm chứ chẳng biết lo lắng, còn làm sư phụ cái khỉ gió gì. Người càng la mắng càng tức giận, rồi đột nhiên rút thanh kiếm đeo sau lưng Phong sư huynh, chém đứt một cánh tay của y. Sư mẫu tại hạ liền trách sư phụ là nóng nảy đến giận cá chém thớt. Hai vị lão nhân gia gây gổ trước mặt đệ tử, càng nói càng gay cấn. Không hiểu hai vị nhắc đến chuyện gì đó ngày xưa, rồi sư phụ tát sư mẫu một cái. Sư mẫu hầm hầm chạy ra khỏi cửa, nói rằng nếu còn trở lại thành Lăng Tiêu thì không phải giống người.”

Thạch Thanh hổ thẹn không tưởng nổi, nghĩ thầm: “Ta cảm phục võ công của Phong Vạn Lý mới cho thằng con độc nhất bái làm sư phụ, ngờ đâu liên lụy đến ông ấy phải thành phế nhân. Kiếm pháp Phong Vạn Lý mãnh liệt như gió bão, như lửa cháy, nên được người ta tặng cho ngoại hiệu là Phong Hỏa Thần Long. Ông ấy có vô số kẻ thù, nay bị mất hết võ công thì e rằng suốt đời không dám rời khỏi Đại Tuyết Sơn nửa bước. Hỡi ôi! Thật là hổ thẹn với ông bạn tốt.”

Vương Vạn Nhận lại nói thêm: “Kha sư đệ! Ngươi nói đại sư ca bị oan uổng, chẳng lẽ Bạch sư ca không oan uổng hay sao? Con gái bị hại chết, Bạch sư tẩu lại phát điên.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu càng nghe càng kinh hãi, chỉ mong mặt đất nứt ra một cái lỗ để chui vào cho khuất. Thực tình hai người chưa biết gì đến những thảm sự con mình đã gây ra tại thành Lăng Tiêu. Thạch Thanh cắn răng hỏi tiếp: “Bạch phu nhân… làm sao mà tâm thần bất định?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Còn không phải vì thằng con bảo bối của trang chúa ư? Tiểu điệt nữ vừa chết, Bạch sư ca lại trách sư tẩu không trông nom con cái cẩn thận, để nó nhảy qua cửa sổ trốn đi tự tử. Bạch sư tẩu đang than thân trách phận, lại còn phải nghe trượng phu trách mắng, bèn không ngớt la gọi: “A Tú! Mẹ đã hại chết con rồi! Mẹ đã hại chết con rồi!” Từ đó thần trí sư tẩu đâm ra hồ đồ. Hai vị sư tỷ đến nay vẫn không dám rời bà nửa bước, chỉ sợ bà nhảy xuống vực thẳm theo con. Thạch trang chúa! Như vậy thì Bạch sư ca của tại hạ muốn đốt Huyền Tố trang, trang chúa nói xem có nên không?”

Thạch Thanh đáp: “Nên đốt! Nên đốt! Vợ chồng tại hạ không còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa, dù phải đi hết chân trời góc biển cũng phải tìm bắt thằng nghiệt tử, đích thân đưa đến thành Lăng Tiêu, treo cổ trước linh vị Bạch cô nương…” Mẫn Nhu nghe tới đây, đột nhiên nấc lên một tiếng rồi ngất đi, ngã lăn vào lòng Thạch Thanh. Thạch Thanh liên tiếp nắn vỗ vào huyệt mạch, hồi lâu nàng mới dần dần tỉnh lại.

Vương Vạn Nhận lại nói: “Thạch trang chúa! Phái Tuyết Sơn còn có hai nhân mạng nữa phải ghi vào món nợ ở Huyền Tố Trang.”

Thạch Thanh kinh hãi hỏi: “Lại còn hai nhân mạng nữa ư?” Thạch Thanh vốn là người quen chịu sóng to gió lớn, nhưng chưa bao giờ gặp phải chuyện ác nghiệt như hôm nay. Năm xưa con thứ của ông là Thạch Trung Kiên bị kẻ thù giết chết, tuy ông vừa phẫn nộ vừa đau lòng đến cực điểm, nhưng cũng không bằng hôm nay phải vừa nhục nhã vừa kinh hãi. Giọng nói ông khản hẳn đi.

Vương Vạn Nhận lại tiếp: “Khi phái Tuyết Sơn gặp phải biến cố này, sư phụ đã phái mười tám đệ tử xuống núi, Bạch sư huynh cầm đầu một toán tới Giang Nam để đốt Huyền Tố Trang, lại còn dặn… còn dặn…” Hắn nói tới đây thì ấp úng không nói được nữa. Cảnh Vạn Chung vội đưa mắt ra hiệu ngăn lại.

Thạch Thanh rất hiểu đời, xem vẻ mặt hai người đã đoán ra họ muốn nói gì. Ông liền hỏi: “Chắc là dặn bắt vợ chồng tại hạ đem lên Đại Tuyết Sơn để đền mạng cho Bạch cô nương chứ gì?”

Cảnh Vạn Chung vội nói: “Thạch trang chúa nặng lời rồi. Đừng nói bọn tại hạ không dám, mà dù có đủ can đảm thì mấy chiêu võ công thô thiển làm sao mà mời được vợ chồng trang chúa? Sư phụ tại hạ chỉ dặn: Bất luận thế nào cũng phải tìm cho bằng được lệnh lang. Nhưng nó tuy nhỏ tuổi mà đã cực kỳ lanh lợi, nếu không thì trong thành Lăng Tiêu đông người truy bắt như vậy, làm sao nó biến mất được?”

Mẫn Nhu sa lệ nói: “Thế thì nhất định là Ngọc nhi nhảy xuống vực thẳm tự tử rồi.”

Cảnh Vạn Chung lắc đầu đáp: “Không phải. Dấu giày gã đi trên mặt tuyết lúc xuống núi rất rõ rệt, về sau lại phát hiện dấu giày đó ở một ngọn đồi. Nói ra xấu hổ, bọn tại hạ bao nhiêu người lớn mà không bắt nổi một thằng nhóc mười lăm mười sáu tuổi. Tệ sư phụ quả có ý mời hai vị đến thành Lăng Tiêu để bàn luận kế hoạch sau này.”

Thạch Thanh cố trấn tĩnh nói: “Nói qua nói lại, cũng chỉ là muốn bắt chúng ta phải đền mạng cho Bạch cô nương mà thôi. Vương sư huynh bảo còn hai mạng người phải tính, không hiểu là chuyện gì?”

Vương Vạn Nhận đáp: “Tại hạ vừa nói mười tám đệ tử chia làm hai, một toán chín người đi xuống Giang Nam. Còn toán kia thì do Cảnh sư huynh dẫn đi các nơi ở Trung Nguyên để tìm tung tích của con trai trang chúa. Nhưng thật là xui xẻo, thật là họa vô đơn chí…”

Cảnh Vạn Chung ngắt lời: “Vương sư đệ! Sư đệ bất tất phải nói nữa, vụ đó không liên quan gì đến Thạch trang chúa.”

Vương Vạn Nhận cãi: “Sao lại không liên quan? Nếu không vì thằng nhỏ đó thì Tôn sư ca cùng Chử sư đệ đâu đến nỗi phải uổng mạng một cách không minh bạch? Hơn nữa, đối thủ là ai, chúng ta vẫn chưa biết. Rồi đây về núi, Cảnh sư huynh sẽ bẩm lại với sư phụ như thế nào? Sư phụ mà nổi cơn thịnh nộ thì e rằng cánh tay của sư huynh khó mà bảo toàn được. Vợ chồng Thạch trang chúa giao du rất rộng, mình nói ra để hai vị đi nghe ngóng tin tức giùm có phải hơn không?”

Cảnh Vạn Chung nhớ tới Phong sư huynh bị cái thảm chặt tay, liền nghĩ ngay đến mình không có cách nào để phục mệnh cùng sư phụ. Hắn cũng cho rằng nhờ vợ chồng Thạch Thanh đi dò la tin tức cũng là một cách giải quyết, bèn đáp: “Được rồi! Sư đệ muốn kể thì cứ kể đi!”

Vương Vạn Nhận nói: “Thạch trang chúa! Trước đây ba hôm, bọn tại hạ được tin có một tên họ Ngô lấy được Huyền Thiết Lệnh, mai danh ẩn tích tại Hầu Giám Tập ngoài thành Biện Lương, giả làm một lão già bán bánh tiêu. Bọn sư huynh đệ tại hạ chín người bèn thương lượng với nhau, đều cho rằng tróc nã Thạch Trung Ngọc phải gặp may mới được. Thiên hạ bao la biết tìm đâu cho thấy? Nếu mười năm không tìm thấy gã, bọn huynh đệ tại hạ cũng mười năm không dám trở về thành Lăng Tiêu. Giả tỉ bọn tại hạ lấy được Huyền Thiết Lệnh thì dù không bắt được lệnh lang, cũng còn có chút công để về gặp sư phụ. Trong lúc bàn định, không khỏi có người trách mắng lệnh lang tuổi nhỏ gan lớn, thật là đáng chết. Đột nhiên có tiếng một lão già cười ha hả, nói vọng vào: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Thiếu niên như thế thật là hiếm có, thật là lương tài mỹ chất. Trên đời khó mà tìm được con người như gã!”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau, nghĩ bụng: “Người ta tán dương con mình như vậy, nghe còn khó chịu hơn là thóa mạ.”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Lúc đó bọn tại hạ nói chuyện trong phòng khách điếm, bốn mặt đều là tường gạch. Thế mà thanh âm kia lọt qua tường vào, nghe rõ ràng chẳng khác gì ngồi đối diện. Chín người bọn tại hạ cũng nói rất khẽ, không hiểu sao lão lại nghe được.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu động tâm nghĩ thầm: “Cách tường gạch mà nghe rõ, không chừng là tường có lỗ hổng hay khe nứt, cũng không chừng có người ngồi dưới cửa sổ nghe lén. Có khi bọn này cãi cọ om sòm mà lại tự cho là nói khẽ, thì cũng chẳng lấy chi làm kỳ. Nhưng cách tường mà nói cho bên này nghe rõ mồn một, dĩ nhiên nội công lão già đó phải thâm hậu vô cùng. Bọn này dọc đường gặp phải cao nhân, thật là bão trước chưa tan, bão sau lại đến.”

Kha Vạn Quân xen vào: “Bọn tại hạ nghe thấy thanh âm đó, đều phải ngẩn ra. Vương sư ca liền quát lên: “Thế này thì chịu làm sao được? Sao lại có kẻ đi nghe lén chuyện người khác thế kia?” Vương sư ca vừa quát hỏi, bên kia im bặt không còn có âm thanh gì nữa. Một lúc sau, lão tặc kia lại lên tiếng: “A Đang! Bọn này đều là người phái Tuyết Sơn. Sư phụ của chúng là lão họ Bạch, là kẻ mà gia gia ghét nhất trên đời. Nay lại có một thằng lỏi làm cho lão… phái Tuyết Sơn phải tan cửa nát nhà, thế có thú không? Ha ha, thật là tuyệt diệu.” Bọn tại hạ nghe họ nói thế, thì muốn nổi xung ngay lập tức, nhưng Cảnh sư ca vội xua tay ra hiệu cho mọi người đừng lên tiếng.”

“Lại nghe tiếng một tiểu cô nương vừa cười khanh khách vừa nói: “Thú quá! Thú quá! Nhưng lão chưa tức đến chết, thì cũng chưa phải là tuyệt thú.” Con bé đó còn nói mấy câu quỷ quái gì nữa, nhưng cách tường nên nghe cũng không rõ lắm. Chỉ nghe lão già kia ho mấy tiếng rồi nói: “Nếu lão… tức quá mà chết đi thì lại chẳng có gì thú nữa. Để khi gia gia rảnh rỗi dắt ngươi đến thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết, đích thân chọc lão… phải tức đến chết cho ngươi xem, mới thật là thú!” Hắn chỉ nói là “lão…” còn lão gì thì hàm hồ bỏ qua. Chắc là lúc lão già nhắc đến tên sư phụ hắn đã dùng chữ rất hỗn xược, nên hắn phải lờ đi, không dám kể nguyên văn.

Thạch Thanh nói: “Người này cực kỳ vô lễ, dám bất kính cả với Bạch lão gia. Chẳng hiểu hắn dựa vào đâu mà dám thế? Chúng ta không thể bỏ qua cho hắn được.”

Vương Vạn Nhận nói: “Đúng thế! Lão tặc đó coi dưới mắt không người, chúng ta có thí mạng thì cũng phải đấu với hắn một phen. Bọn tại hạ đang tức không chịu nổi, thì nghe có tiếng “úi chà” trong phòng khách, còn phòng bên có tiếng kẹt cửa, hai người tiến vào trong viện. Bọn tại hạ đều rút kiếm ra, muốn xông vào trong viện ngay, nhưng Cảnh sư ca lại khoát tay bảo anh em đừng nóng nảy. Bỗng nghe lão tặc kia lại nói: “A Đang! Hôm nay ta đã giết mấy người rồi?” Con tiểu quỷ kia đáp: “Mới giết có một tên.” Lão tặc lại nói: “Vậy bây giờ có thể giết hai tên nữa.”

Thạch Thanh bỗng “ồ” lên một tiếng, rồi nói: “Nhất Nhật Bất Quá Tam!”

Cảnh Vạn Chung từ nãy vẫn ngồi yên không nói gì, bây giờ vội hỏi: “Thạch trang chúa! Trang chúa có biết lão già đó ư?”

Thạch Thanh lắc đầu đáp: “Tại hạ cũng không biết hắn, nhưng có được nghe tiên phụ đề cập đến. Trong võ lâm có một nhân vật như vậy, ngoại hiệu là Nhất Nhật Bất Quá Tam gì đó, tự hạn chế một ngày nhiều lắm là chỉ giết ba người. Sau khi lão giết người thứ ba rồi, tự nhiên mềm lòng đi, không muốn hạ thủ giết người thứ tư nữa.”

Vương Vạn Nhận cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Một ngày giết ba người còn chưa đủ ư? Thứ gian ác như vậy mà còn sống được đến nay mới là chuyện lạ.”

Thạch Thanh không nói gì, nghĩ thầm: “Nghe nói lão tiền bối họ Đinh này hành sự nửa chính nửa tà, tuy tàn nhẫn hiếu sát, nhưng chưa nghe nói đã phạm trọng tội gì. Những người lão giết đều là đáng chết.” Nhưng mấy câu này mà nói ra là đụng chạm đến phái Tuyết Sơn, nên ông không nói.

Cảnh Vạn Chung lại hỏi: “Không hiểu lão tặc đó tên họ là gì? Thuộc môn phái nào?”

Thạch Thanh đáp: “Tại hạ nghe nói lão họ Đinh, tên thật là gì cũng không biết rõ, chỉ biết ngoại hiệu lão là Nhất Nhật Bất Quá Tam. Các vị tiền bối thường gọi tắt là Đinh Bất Tam.”

Kha Vạn Quân tức tối nói: “Lão tặc đó đúng là cái thứ hồ đồ Bất Tam Bất Tứ.”

Thạch Thanh nói: “Tại hạ còn nghe nói nhà đó có ba anh em. Lão còn một người anh là Đinh Bất Nhị, một người em là Đinh Bất Tứ.”

Vương Vạn Nhận lại mắng: “Con mẹ nó. Bất Nhị Bất Tam, Bất Tam Bất Tứ, lại có những cái tên thối như rắm chó đó hay sao?”

Cảnh Vạn Chung nói: “Vương sư đệ! Trước mặt Thạch đại tẩu, không nên buột miệng như thế.” Vương Vạn Nhận “Vâng” một tiếng, rồi quay sang Mẫn Nhu tạ lỗi.

Mẫn Nhu chỉ mỉm cười rồi nói: “Không chừng đó chỉ là ngoại hiệu. Làm gì có những cái tên cổ quái như thế?”

Thạch Thanh nói: “Địa vị anh em nhà họ Đinh trong võ lâm không phải tầm thường. Chắc Bạch lão gia có chuyện gì xích mích với lão nên không đề cập tới, vì thế mà các vị huynh đệ không biết đến. Thế rồi sao nữa?”

Vương Vạn Nhận kể tiếp: “Bỗng nghe lão tặc thúi mồm thúi miệng đó hỏi: “Có tên nào là Tôn Vạn Niên đó không? Lại còn một tên Chử Vạn Xuân nữa, hai ngươi chường mặt ra đây!” Nghe lão hống hách như vậy, bọn tại hạ còn nhẫn nại làm sao được, cả chín người liền xông ra một lúc. Nhưng lạ thay, trong viện chẳng có lấy một người. Mọi người tìm khắp bốn mặt, nhảy cả lên nóc nhà dòm ngó mà vẫn không thấy bóng một ai hết. Kha sư đệ thấy cửa phòng khách chỉ khép hờ liền xông vào, chỉ thấy một ngọn đèn cầy đặt trên bàn, chẳng thấy ma nào.”

“Bọn tại hạ còn đang nghi hoặc, thì nghe trong chính phòng mình có tiếng người, đúng là thanh âm lão tặc kia. Hắn nói: “Tôn Vạn Niên! Chử Vạn Xuân! Hai ngươi ở Lương Châu đã dám nhìn cháu gái của ta không chớp mắt, chỉ trỏ trêu ghẹo, mặt mũi đầy vẻ dâm tà. Cháu gái ta tuổi tác còn nhỏ, nhưng dung nhan xinh đẹp, hai thằng súc sinh này nhất định đã nảy ra những ý định xấu xa. Như vậy thì các ngươi còn oan uổng gì nữa không? Mau mau bước vào đây!” Tôn sư ca và Chử sư ca càng nghe càng cáu giận, sùng sục chống kiếm vào phòng. Cảnh sư ca la lên: “Phải cẩn thận đấy! Chúng ta xông cả vào đi!” Trong phòng đèn lửa tắt hết mà không thấy động tĩnh chi cả. Tại hạ lớn tiếng gọi: “Tôn sư ca! Chử sư ca!”. Nhưng không thấy hai người đáp lại, mà trong phòng cũng không có tiếng đánh nhau.”

“Bọn tại hạ đều sợ đến dựng tóc gáy, vội bật lửa lên xem thì thấy hai vị sư ca quỳ ngay ngắn dưới đất, trường kiếm để một bên. Cảnh sư ca và tại hạ vội nhảy vào để đỡ hai người dậy, nhưng vừa đụng đến thì hai người đã lăn ra đất, thì ra tắt thở chết rồi! Tại hạ sờ khắp thân thể hai người chẳng thấy vết thương nào, chẳng hiểu lão tặc kia đã dùng bùa phép ma quỷ gì hạ sát hai vị sư ca. Nói ra xấu hổ, từ đầu đến cuối bọn tại hạ không thấy bóng lão tặc và con tiểu quỷ.”

Kha Vạn Quân nối lời: “Dọc đường ở Lương Châu, bọn tại hạ chẳng hề để ý đến người già người trẻ chi hết. Mà cho dù hai vị sư ca có nhìn cháu gái của lão mấy cái, thì có gì đáng kể đâu.”

Thạch Thanh, Mẫn Nhu lẩm nhẩm gật đầu. Mọi người cùng im lặng mất một lúc.

Thạch Thanh lên tiếng: “Cảnh huynh! Thằng nghiệt chướng của tại hạ đã gây nên đại họa ở thành Lăng Tiêu vào ngày nào vậy?”

Cảnh Vạn Chung đáp: “Mùng mười tháng chạp.”

Thạch Thanh gật đầu nói: “Hôm nay đã là mười hai tháng ba, thế là Bạch sư huynh rời khỏi thành Lăng Tiêu đã ba tháng, bây giờ chắc Huyền Tố trang đã bị đốt rồi. Cảnh huynh, Vương huynh cùng các vị huynh đệ! Vợ chồng tại hạ có hai việc phải làm. Thứ nhất là đi tìm thằng nghiệt chướng, nếu bắt được sẽ trói đem về thành Lăng Tiêu để thỉnh tội cùng Bạch lão gia, Phong huynh và Bạch huynh. Thứ hai là phải dò la tin tức lão Nhất Nhật Bất Quá Tam. Vợ chồng tại hạ tuy không làm gì được lão, nhưng sẽ báo tin cho Bạch lão gia hay để lão nhân gia thân hành xuất mã đi lo liệu việc này. Xin cáo biệt.” Thạch Thanh nói xong, bèn chắp tay thi lễ cùng mọi người toan quay lưng đi.

Kha Vạn Quân vội hỏi: “Trang chúa… tưởng chỉ nói mấy câu rồi phủi tay bỏ đi mà được ư?”

Thạch Thanh hỏi: “Kha huynh đệ còn điều gì muốn nói?”

Kha Vạn Quân đáp: “Chúng ta không kiếm được thằng con của trang chúa, chỉ còn cách mời vợ chồng trang chúa cùng đến thành Lăng Tiêu để gặp sư phụ ta, mới coi là xong được.”

Thạch Thanh nói: “Dĩ nhiên là vợ chồng tại hạ phải lên thành Lăng Tiêu, nhưng phải tìm ra một chút manh mối trước đã, rồi mới nói chuyện được.”

Kha Vạn Quân hết nhìn Cảnh Vạn Chung lại nhìn Vương Vạn Nhận. Gã phẫn nộ nói: “Giả tỉ sư phụ biết là chúng ta gặp vợ chồng Thạch trang chúa mà không mời được hai vị lên núi thì… thì… chẳng hóa ra…”

Thạch Thanh đã biết ý hắn muốn cậy nhiều người để thủ thắng, cưỡng bức vợ chồng mình phải lên núi Đại Tuyết, bắt không được con thì đem cha ra thường mạng. Ông liền nói: “Bạch lão gia đức cao trọng vọng, oai danh lừng lẫy một góc trời Tây. Tại hạ đối với lão gia trước nay vẫn đem lòng tôn kính như bậc sư trưởng. Giả tỉ Bạch huynh ở đây, vâng mệnh Bạch lão gia gọi tại hạ đến thành Lăng Tiêu, thì nhất định tại hạ phải tuân mệnh. Thôi bây giờ đành thế này vậy.” Thạch Thanh tháo thanh hắc kiếm sau lưng ra, rồi nhìn Mẫn Nhu nói: “Sư muội! Muội cũng bỏ kiếm ra đi!” Mẫn Nhu vâng lời tháo kiếm. Thạch Thanh nâng song kiếm trên lòng bàn tay, đưa cho Cảnh Vạn Chung nói: “Cảnh huynh! Xin Cảnh huynh áp tải khí giới của vợ chồng tại hạ về trước.”

Cảnh Vạn Chung vốn biết đôi Hắc Bạch song kiếm này là binh khí quý giá hiếm có trên đời, trước nay vợ chồng Thạch Thanh coi trọng như tính mạng. Bây giờ ông đã tháo kiếm ra giao nộp, thì phái Tuyết Sơn đã có thể diện lắm rồi, cứ giữ song kiếm thì nhất định ông sẽ phải đến thành Lăng Tiêu để lấy về. Hắn bèn định nói mấy lời khiêm tốn rồi nhận lấy kiếm.

Bỗng dưng Kha Vạn Quân lại lớn tiếng: “Sư điệt nữ thác oan, Phong sư ca bị chặt một cánh tay, sư nương bỏ núi ra đi, Bạch sư tẩu phát điên, lại thêm Chử sư ca và Tôn sư ca chết không minh bạch. Chẳng lẽ hai thanh kiếm lại đủ để đền bồi hay sao? Cảnh sư ca có giao tình với ngươi, còn Kha mỗ thì không quen không biết ngươi. Họ Thạch kia! Hôm nay bất luận ngươi muốn hay không muốn, cũng phải về thành Lăng Tiêu.”

Thạch Thanh mỉm cười nói: “Tiểu nhi đã đắc tội rất nặng nề với quý phái, nhưng tại hạ ngoài cách tạ tội, cũng không còn biết nói gì. Kha sư huynh là một nhân tài của phái Tuyết Sơn, bản lãnh cao cường, tương lai rạng rỡ. Tại hạ tuy chưa được quen biết, nhưng đã ngưỡng mộ thanh danh của Kha sư huynh từ lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.” Hai tay ông vẫn nâng hai thanh trường kiếm, chờ Cảnh Vạn Chung đưa tay ra đón lấy.

Kha Vạn Quân nghĩ bụng: “Nếu bây giờ bọn mình bắt vợ chồng tên này phải lên Đại Tuyết Sơn thì khó lòng tránh khỏi một cuộc ác đấu. Hắn đã chịu đưa hai thanh bảo kiếm, thì còn gì hay hơn nữa? Cái đó kêu bằng tự mình gây nên tội nghiệt, còn trách ai được?” Gã sợ Thạch Thanh đột nhiên đổi ý mà thu kiếm về, liền tiến lên hai bước, thi triển công phu cầm nã của bản môn nắm chặt lấy hai thanh kiếm, rồi nói: “Vậy thì ta phải giữ binh khí của ngươi trước.” Gã toan lấy kiếm về, thì đột nhiên cảm thấy hai thanh kiếm như bị dính chặt vào lòng bàn tay Thạch Thanh, không thể nào kéo ra được.

Kha Vạn Quân cả kinh, vận kình lực vào hai cánh tay, quát một tiếng: “Lên!”. Ngờ đâu, ngay trong lúc hắn ra sức giật về thì sức hút trong lòng bàn tay Thạch Thanh đột nhiên biến mất.

Kha Vạn Quân đã vận công lực như để nhấc một vật nặng mấy trăm cân, mà hoàn toàn không có đối trọng, kình lực dồn hết vào cổ tay của mình. Chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, gã bị trật khớp cả hai cổ tay, la to lên một tiếng: “Úi chao!” Mười ngón tay gã lại lỏng ra, hai thanh kiếm lại rớt xuống lòng bàn tay Thạch Thanh.

Những người đứng quanh đều thấy rõ ràng hai bàn tay Thạch Thanh vẫn để yên, ngay cả đầu ngón út cũng không nhúc nhích, chỉ là Kha Vạn Quân vận lực bừa bãi, dùng lực đạo mấy trăm cân để tự giật sái cổ tay mình. Kha Vạn Quân vừa giận dữ vừa đau đớn, phóng chân toan đá vào bụng Thạch Thanh.

Cảnh Vạn Chung vội la lên: “Không được vô lễ!” Hắn vừa la gọi vừa nắm lấy lưng Kha Vạn Quân kéo lùi lại phía sau, thành ra phát cước này không trúng vào người Thạch Thanh được.

Cảnh Vạn Chung biết nội lực Thạch Thanh cực kỳ lợi hại. Giả tỉ Kha Vạn Quân đá trúng vào người Thạch Thanh, thì không chừng chính chân phải của hắn bị chấn động mà gãy mất. Về võ công cũng như về kiến thức, Cảnh Vạn Chung còn cao hơn Kha Vạn Quân rất nhiều. Hắn hít một hơi dài, vận nội kình vào mười đầu ngón tay rồi từ từ đưa ra cầm lấy hai thanh kiếm. Mười đầu ngón tay hắn vừa đụng vào kiếm thì toàn thân đã run bắn lên như bị điện giật, rồi một luồng nhiệt khí truyền vào trong ngực. Hiển nhiên Thạch Thanh đã dồn nội lực vào song kiếm. Gã la thầm: “Hỏng rồi!”, nghĩ rằng Thạch Thanh đã bày ra cạm bẫy để đưa mình vào thế phải tỉ đấu nội lực. Người luyện võ mà tỉ đấu nội lực là nguy hiểm nhất, ai mạnh hơn thì sống, còn kẻ yếu chắc chắn phải chết, không có cách nào tránh được. Trường hợp hai người nội lực chênh lệch không nhiều thì không chừng phải chết cả hai, muốn nhường nhịn hay muốn rút lui cũng không phải dễ. Lúc này tình thế nguy hiểm, không có cách nào xoay chuyển, Cảnh Vạn Chung chỉ còn cách vận nội lực để chống đỡ. Không ngờ nội lực của hai bên vừa đụng vào nhau, lập tức Cảnh Vạn Chung bị hất ngược trở lại.

Bấy giờ Thạch Thanh mới từ từ xoay tay lại, đặt song kiếm vào tay Cảnh Vạn Chung, rồi cười nói: “Chúng ta tình như huynh đệ, khi nào vì chuyện này mà để tổn thương hòa khí? Xin cáo từ.”

Lưng Cảnh Vạn Chung toát mồ hôi lạnh, biết nội lực của mình so với Thạch Thanh hãy còn kém rất xa. Vừa rồi nội lực của mình mới đụng vào nội lực của ông mà đã bị hất văng ra, dĩ nhiên không phải là đối thủ. Ông không đả thương hay làm mất thể diện mình, là đã hạ thủ lưu tình. Cảnh Vạn Chung cầm lấy hai thanh kiếm đứng ngẩn người ra, vẻ mặt đầy vẻ hổ thẹn, không biết nói thế nào cho phải.

Thạch Thanh quay lại bảo: “Sư muội! Bây giờ chúng mình vào thành Biện Lương.”

Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe, ấp úng nói: “Sư ca! Hài nhi…”

Thạch Thanh lắc đầu ngắt lời: “Thà như Kiên nhi bị người ta chém chết, còn dễ chịu hơn.”

Nước mắt Mẫn Nhu trào ra như mưa. Nàng nghẹn ngào nói: “Sư ca! Huynh… huynh…” Thạch Thanh đưa tay ra nắm lấy tay nàng, dắt đến bên con ngựa trắng, rồi đỡ lên yên. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy Mẫn Nhu dáng người yểu điệu, thật khó mà tin được đây lại là Băng Sương Thần Kiếm oai chấn giang hồ.

Hoa Vạn Tử thấy Huyền Tố Song Kiếm cưỡi ngựa sóng vai đi khỏi, liền quay về chỗ cũ, Vương Vạn Nhận đang sửa khớp cổ tay cho Kha Vạn Quân. Còn Kha Vạn Quân thì đang ngoác mồm ra mà thóa mạ, hết “lão gia tử” lại “con mẹ nó”. Hoa Vạn Tử hỏi rõ mọi chuyện, bất giác chau mày nói: “Cảnh sư ca! Vụ này e rằng không ổn.”

Cảnh Vạn Chung hỏi: “Có gì mà không ổn? Đối phương võ công cao quá, dù bọn ta có hợp lực bảy người cũng chẳng giữ họ lại được. Hiện giờ mình áp tải binh khí của họ về thành Lăng Tiêu, cũng có thể phúc trình sư phụ.” Rồi hắn rút kiếm ra khỏi vỏ. Bạch kiếm trắng như tuyết, Hắc kiếm đen như mực, hai thanh kiếm tỏa ra những luồng hàn khí ghê gớm, tưởng chừng như xông vào da thịt làm cho tê nhức. Quả là hai thanh bảo kiếm hiếm thấy trên đời. Hắn bèn nói: “Đôi kiếm này không phải là giả.”

Hoa Vạn Tử đáp: “Kiếm là thật, nhưng chúng ta đã không giữ được người thì e rằng cũng khó giữ được hai thanh bảo kiếm này.”

Cảnh Vạn Chung động tâm hỏi lại: “Hoa sư muội nói sao?”

Hoa Vạn Tử đáp: “Năm ngoái có một hôm tiểu muội ngồi rỗi nói chuyện với Bạch sư tẩu, có đề cập đến bảo đao bảo kiếm trong thiên hạ. Lúc ấy thằng giặc non Thạch Trung Ngọc cũng đứng bên hớt lẻo, khoe Hắc Bạch Song Kiếm của song thân gã là lợi khí vào bậc nhất thiên hạ. Gã còn nói, song thân gã cho gã lên Đại Tuyết Sơn học võ mấy năm không gặp thì còn được, chứ nhất định không rời đôi kiếm này lấy một ngày. Lúc này Thạch trang chúa đã giao bảo kiếm vào tay chúng ta, không chừng mấy ngày sau họ tìm cách lén đoạt lại. Rồi sau này họ lại đến thành Lăng Tiêu đòi kiếm, thì chúng ta khó mà trả lời được.”

Kha Vạn Quân nói: “Bảy huynh đệ chúng ta cứ giương mắt ra mà nhìn, thì dù hai thanh kiếm này có phép thần thông, mọc cánh cũng không bay đi nổi.”

Cảnh Vạn Chung im lặng một chút rồi nói: “Hoa sư muội không nên quá lo lắng. Thạch Thanh tuy là nhân vật không phải tầm thường, nhưng chúng ta gia tâm đề phòng thì họ muốn lật ngược thế cờ cũng không phải dễ.”

Vương Vạn Nhận cũng nói: “Đề phòng cẩn thận là chuyện rất đúng. Bắt đầu từ hôm nay, sáu nam nhân chúng mình phải thay phen mà trông nom đôi quỷ kiếm này.” Hắn ngừng một chút, rồi lại hỏi: “Cảnh sư ca! Bây giờ vợ chồng thằng cha họ Thạch đi vào thành Biện Lương. Chúng mình có nên đi không?”

Cảnh Vạn Chung suy tính, nếu nói không đi thì tỏ ra khiếp nhược. Đã xuống Trung Nguyên mà không vào nơi đô hội như thành Biện Lương thì chẳng khác gì qua cửa mà không vào nhà, sau này huynh đệ đồng môn nhắc tới thì thật là mất mặt. Nhưng đã biết rõ vợ chồng Thạch Thanh hiện ở thành Biện Lương, mà cứ đem bảo kiếm vào thành, thì thật là mạo hiểm. Hắn trầm ngâm một lúc mà chưa quyết định được.

Bỗng nghe có tiếng quát tháo om sòm, trên đường lớn có một đội quan binh đi tới. Trong đám này có bốn tên kiệu phu khiêng một cỗ kiệu lớn buông rèm xanh, đúng là quan phủ đến.

Cảnh Vạn Chung nghĩ bụng, ở Hầu Giám Tập vừa xảy ra án mạng, cường đạo giết người cướp của. Bọn mình bảy người tay cầm binh khí tụ tập ở đây, không khỏi làm cho người ta phải nghi ngờ. Giả tỉ có xích mích gì với quan phủ thì thật là phiền phức. Hắn liếc mắt nhìn mọi người rồi nói: “Đi thôi!”

Bảy người toan lánh đi cho mau, thì một tên sai nha đã lớn tiếng la: “Đứng lại! Quân cường đạo giết người kia đừng chạy nữa!” Cảnh Vạn Chung không thèm nói gì, vẫy tay cho đồng bọn đi mau. Bỗng lại nghe tiếng sai nha la lên: “Hung thủ giết người là Bạch Tự Tại, chính là lão bất tử chưởng môn của phái Tuyết Sơn. Lão Vô uy vô đức Bạch Tự Tại chỉ chuyên cướp của giết người, thật là tội phạm nguy hiểm.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn nghe vậy thì vừa kinh hãi vừa tức giận. Sư phụ bọn chúng là Bạch Tự Tại, ngoại hiệu Uy Đức tiên sinh. Tên sai nha này dám gọi thẳng tên lão ra thì đã là bất kính, còn dám nói là Vô uy vô đức. Nghe soạt một tiếng, Vương Vạn Nhận rút trường kiếm ra khỏi vỏ, thét lớn: “Đồ cẩu quan vô lễ! Ta phải cắt lưỡi ngươi trước rồi sẽ nói chuyện sau.”

Cảnh Vạn Chung vội cản: “Vương sư đệ hãy khoan! Bọn quan nha làm gì biết được ngoại hiệu cùng tên húy sư phụ? Dĩ nhiên sau lưng chúng còn có người sai khiến.” Hắn liền băng mình tiến lên, chắp tay hỏi: “Không hiểu là vị trưởng quan nào giá lâm?”

Đột nhiên nghe véo một tiếng, từ trong kiệu bay ra một mũi ám khí, bắn trúng vào huyệt Phục Thố trên đùi Cảnh Vạn Chung. Ám khí này rất nhỏ bé, nhưng lực đạo cực kỳ mãnh liệt, chân Cảnh Vạn Chung tức thì mềm nhũn, ngã lăn ra. Nhưng tay hắn vẫn rút trường kiếm ra, vận kình phóng vào trong kiệu. Người hắn tuy té xuống đất, nhưng vẫn sử được chiêu Hạc Phi Cửu Thiên vừa độc địa vừa chuẩn xác. Nghe vù một tiếng, thanh kiếm xuyên qua rèm kiệu đâm vào, hiển nhiên đã trúng người vừa phóng ám khí.

Cảnh Vạn Chung cả mừng, nhưng thấy bốn tên kiệu phu vẫn khiêng kiệu chạy như bay. Bỗng thấy một chiếc roi ngựa từ trong kiệu tung ra, cuốn vào chân trái Vương Vạn Nhận, giật mạnh một cái. Người Vương Vạn Nhận bị hất tung lên, thanh Hắc Kiếm trong tay gã bị roi ngựa cuốn mất.

Hoa Vạn Tử la lên: “Có phải Thạch trang chúa đấy không?” Nàng rút thanh Bạch Kiếm ra khỏi vỏ, toan chém tới cái roi ngựa. Lại nghe véo một tiếng, từ trong kiệu lại bay ra một viên ám khí trúng vào cổ tay nàng. Hoa Vạn Tử cổ tay tê nhức, làm rơi thanh Bạch Kiếm xuống đất. Một gã sư huynh liền đưa chân ra đạp lên thanh kiếm. Đột nhiên trong kiệu lại bay ra một vật chụp lấy đầu gã này. Gã bỗng thấy trước mắt tối sầm lại, vội co chân nhảy lùi ra sau, đồng thời đưa tay lên kéo vật trên đầu ra liệng xuống đất, nhìn lại thì ra một cái mũ của quan binh. Cái roi ngựa lại từ trong kiệu vung ra, quấn lấy thanh Bạch Kiếm rồi giật vào trong kiệu.

Bọn Kha Vạn Quân hò hét đuổi theo. Ám khí trong kiệu lại bay ra không ngớt, bọn đệ tử Tuyết Sơn kẻ bị trúng mặt, người bị trúng lưng, không ai tránh thoát, tuy không trúng vào chỗ trọng yếu, nhưng cũng đau đớn vô cùng. Mọi người nhìn lại loại ám khí này thì không khỏi kinh hãi. Đây toàn là khuy áo bằng đồng, hiền nhiên vừa giật ở áo ra. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đoán chắc người trong kiệu là Thạch Thanh, không chừng lại là cả hai vợ chồng, nếu đuổi theo động thủ thì cũng chỉ thêm mất thể diện.

Kha Vạn Quân giận quá thét lên: “Cái ổ họ Thạch này, thằng nhỏ đã lưu manh vô sỉ, thằng lớn lại càng vô sỉ lưu manh. Hắn vừa gửi binh khí làm tin, chớp mắt đã cướp lại rồi.”

Vương Vạn Nhận cũng trỏ tay về phía sau kiệu, dậm chân thóa mạ: “Quân chó đẻ! Đồ đê tiện!”

Cảnh Vạn Chung lên tiếng: “Vụ này mà đồn đại ra ngoài thì chẳng lợi gì cho danh tiếng phái Tuyết Sơn chúng ta. Mọi người phải giữ mồm giữ miệng là hơn, quay về bẩm báo với sư phụ rồi sẽ tính.”

Chuyến đi này liên tiếp thất bại, lúc ở thành Lăng Tiêu núi Đại Tuyết thì tự cao tự đại võ công phái Tuyết Sơn thiên hạ vô địch, nào ngờ khi gặp chuyện thì đụng đâu cũng như bị trói hết tay chân. Hắn không nhịn nổi phải thở dài sườn sượt, mặt đầy vẻ ảm đạm.

Hồi 03: Ma Thiên Nhai

Cỗ kiệu kia đi thêm mấy dặm rồi rẽ vào một con đường nhỏ. Hễ bọn phu khuân kiệu đi thong thả lại một chút, là roi ngựa từ trong kiệu lại vung ra veo véo đập vào lưng hai tên đi trước. Hai tên phu kiệu đằng trước không dám chạy chậm, hai tên đằng sau cũng chỉ còn cách cố sống cố chết chạy theo, bọn quan sai ở phía sau cũng phải chạy theo. Thêm bốn năm dặm nữa, người trong kiệu bỗng lên tiếng: “Được rồi! Dừng lại đi!”

Bốn tên phu kiệu nghe câu này, chẳng khác gì được nhà vua ban lệnh đại xá. Chúng thở hồng hộc, hạ kiệu xuống. Rèm kiệu vừa vén lên, một lão già dắt một thằng nhóc ăn xin bước ra. Lão già này chính là Tạ Yên Khách, chủ nhân Huyền Thiết Lệnh.

Lão nhìn mấy tên sai nha lớn tiếng quát: “Các ngươi quay về bảo với lão cẩu quan, việc hôm nay không được đồn đãi lung tung. Nếu ta mà nghe bất cứ tin tức gì về vụ này, thì lập tức chặt hết đầu của bọn ngươi, lại còn lấy cả ấn tín của lão cẩu quan đó liệng xuống sông Hoàng Hà.”

Mấy tên sai nha vừa lạy vừa đáp: “Dạ! Dạ! Bọn tiểu nhân nhất định không dám nhiều chuyện, lão gia cứ yên tâm thủng thẳng mà đi.”

Tạ Yên Khách nói: “Kêu ta đi chậm ư? Muốn gọi quan binh đến tróc nã ta phải không?”

Bọn sai nha vội đáp: “Không dám, không dám! Vạn vạn lần không dám.”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ta dặn bọn ngươi về nói gì với lão cẩu quan, bọn ngươi đã nhớ chưa?”

Bọn sai nha đáp ngay: “Bọn tiểu nhân đã thuộc lòng rồi. Bây giờ bọn tiểu nhân về trình quan là đã đến Hầu Giám Tập, chính mắt trông thấy lão già bán bánh tiêu cùng một tên giúp việc trong tiệm tạp hóa bị một người tên là Bạch Tự Tại giết chết. Hung thủ chính là chưởng môn phái Tuyết Sơn, ngoại hiệu là Uy Đức tiên sinh, nhưng thực ra là vô uy vô đức. Hung khí là thanh đơn đao hãy còn vết máu. Nhân chứng vật chứng đều đủ cả, chắc lão không còn chối vào đâu được nữa.” Bọn sai nha này đã bị lão Tạ Yên Khách đánh cho sợ đến vỡ mật, bịa ra những gì nhân chứng vật chứng là để nịnh nọt lão. Chuyện tìm một thanh đao để làm vật chứng, cũng chính là ngón nghề của bọn sai nha trong quan phủ.

Tạ Yên Khách cười khẩy, nói: “Nhưng lão họ Bạch kia lại sử kiếm chứ không dùng đao.”

Sai nha đáp ngay: “Dạ! Dạ! Hung thủ cầm một thanh kiếm thép đâm vào lưng lão bán bánh tiêu ở Hầu Giám Tập, mọi người đều trông thấy rõ ràng.”

Tạ Yên Khách cười thầm trong bụng, nghĩ thầm: “Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại muốn giết Ngô Đạo Thông mà phải dùng đến binh khí ư?” Lão không lý gì đến bọn sai nha nữa, tay trái dắt gã ăn xin, tay phải cầm đôi Hắc Bạch Song Kiếm của vợ chồng Thạch Thanh, thong thả bước đi, ra chiều đắc ý.

Thì ra từ lúc Tạ Yên Khách đem gã ăn xin đi, trong lòng vẫn nghi ngờ vợ chồng Thạch Thanh cùng bọn đệ tử phái Tuyết Sơn có mưu đồ bất lợi cho mình. Lão đi được mấy dặm thì điểm huyệt gã ăn xin, giấu vào một bụi cỏ rậm, rồi quay lại nghe trộm. Võ công Tạ Yên Khách so với vợ chồng Thạch Thanh còn cao thâm hơn nhiều, lão lén nấp sau một gốc cây mà Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng không phát giác ra, còn bọn Cảnh Vạn Chung thì chẳng nói làm gì. Tạ Yên Khách nghe rõ đầu đuôi, thấy hoàn toàn chẳng can dự gì đến mình. Lão thấy Thạch Thanh giao song kiếm cho Cảnh Vạn Chung, nảy ý đoạt lấy hai thanh kiếm này, liền quay lại bụi rậm giải khai huyệt đạo cho gã ăn xin, rồi dắt gã ra đi. Dọc đường lão gặp quan tri huyện dẫn sai nha đến điều tra vụ án mạng tại Hầu Giám Tập. Lão liền lôi quan huyện ra khỏi kiệu, uy hiếp bọn sai nha và bắt bọn kiệu phu khiêng lão cùng gã ăn xin đi đoạt song kiếm. Bọn Cảnh Vạn Chung không nhìn thấy mặt Tạ Yên Khách, dĩ nhiên phải cho rằng đây là thủ đoạn của vợ chồng Thạch Thanh.

Tạ Yên Khách dắt gã ăn xin đi tìm một nơi vắng vẻ. Lão ra đến bờ một con sông nhỏ thấy bốn bề vắng vẻ chẳng có một ai, liền buông tay gã ăn xin ra, cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu kề vào cổ gã, lớn tiếng quát hỏi: “Ai đã sai khiến ngươi? Nói dối nửa câu là ta giết ngay tức khắc.” Rồi lão vung thanh Bạch Kiếm lên, chém nhẹ vào một gốc cây nhỏ ở ven đường. Nghe soạt một tiếng, cái cây đứt thành hai khúc, nửa trên cả cành lẫn lá đều rớt xuống sông, theo dòng nước trôi đi.

Gã ăn xin sợ cuống quít, miệng nói lắp bắp: “Cháu… cháu… cái gì… sai khiến…”

Tạ Yên Khách lấy tấm Huyền Thiết Lệnh ra, lớn tiếng hỏi: “Ai giao cho ngươi cái này?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu… ăn bánh tiêu… lòi ra…”

Tạ Yên Khách cả giận, xoay tay trái lại toan tát vào miệng gã. Nhưng tay lão vừa sắp chạm tới mặt gã, thì đột nhiên nhớ tới lời thề độc ngày trước, là quyết không gia hại người nào đã giao tấm Huyền Thiết Lệnh cho mình. Lão vội ngừng tay, lại quát hỏi: “Ngươi chỉ ăn nói hồ đồ. Làm sao mà ăn bánh lại lòi miếng sắt ra được? Ta hỏi ngươi, ai đã giao cho ngươi cái này?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu lượm cái bánh tiêu ở dưới đất lên cắn ăn. Suýt nữa… cháu cắn phải nó… suýt gãy cả hàm răng.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Không chừng Ngô Đạo Thông đem lệnh bài này nhét vào trong tấm bánh tiêu.” Nhưng lão lại nghĩ: “Sao lại có chuyện quái dị đến thế? Thằng cha Ngô Đạo Thông nắm được tấm lệnh bài này, phải quý hơn cả tính mạng mới đúng, có lý đâu lại nhét vào trong tấm bánh?” Lão không biết lúc đó tình trạng khẩn cấp, người ngựa Kim Đao Trại đột ngột kéo đến vây kín cả bốn phương tám hướng Hầu Giám Tập, Ngô Đạo Thông cuống quít không còn đủ thì giờ để giấu cho cẩn thận. Lúc cấp bách lão bèn dùng kỳ mưu, nhét vội Huyền Thiết Lệnh vào trong cái bánh tiêu, rồi trao thẳng vào tay tên đầu lĩnh của Kim Đao Trại. Tên này trong lúc thịnh nộ, vứt luôn xuống rãnh nước bẩn dọc đường. Bọn cường đạo Kim Đao Trại tuy đã nghiêng cả trời xuống, lật cả đất lên mà lục lọi lung tung trong tiệm bánh tiêu, nhưng quên không nhặt mấy cái bánh tiêu bẩn thỉu vương vãi dưới đất lên mà xé ra xem.

Tạ Yên Khách quắc mắt lên nhìn gã ăn xin, lớn tiếng quát: “Tên họ ngươi là gì?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu… cháu tên là Cẩu Tạp Chủng.”

Tạ Yên Khách rất lấy làm kỳ, hỏi: “Sao? Tên ngươi là Cẩu Tạp Chủng ư?”

Gã ăn xin đáp: “Đúng đấy! Mẹ cháu vẫn kêu cháu là Cẩu Tạp Chủng.”

Trung bình một năm Tạ Yên Khách chỉ cười mấy tiếng, thế mà bây giờ không nhịn được phải cười ha hả. Lão nghĩ bụng: “Trên đời lắm người mê tín thường đặt những cái tên xấu xí cho con nít mới sinh, mong nó không bị ma quỷ quấy nhiễu, cũng chẳng có chi là lạ. Những cái tên chó, tên mèo mình thường nghe thấy luôn. Nhưng thằng nhỏ này tên là Chó Lộn Giống đã ít thấy, lại là tên do chính mẫu thân đặt cho mới thật là kỳ lạ.”

Tạ Yên Khách cười ngặt nghẹo. Gã ăn xin thấy lão cười rộ, cũng cười hì hì. Tạ Yên Khách hết cười rồi lại hỏi: “Vậy gia gia ngươi tên họ là gì?”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Gia gia cháu ư? Cháu… làm gì có gia gia?…”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Trong nhà ngươi có những ai?”

Gã ăn xin đáp: “Chỉ có cháu, má cháu và A Hoàng.”

Tạ Yên Khách hỏi: “A Hoàng là người thế nào?” Gã ăn xin đáp: “A Hoàng là một con chó vàng. Má cháu đi rồi không thấy về, cháu đi tìm má, A Hoàng cũng đi theo. Sau chắc nó đói quá, đi kiếm cái gì ăn rồi mất hút. Cháu tìm tới tìm lui mãi mà vẫn không thấy.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Thì ra đây chỉ là một thằng ngốc. Huyền Thiết Lệnh lọt vào tay nó thì thật là may mắn. Ta kêu nó xin ta một việc gì nhỏ để hoàn thành lời thề, thế là xong xuôi.”

Lão bèn hỏi: “Ngươi muốn yêu cầu ta…” Còn hai chữ “điều gì”, lão chưa nói ra miệng thì vội nuốt lại, chợt nghĩ: “Nếu thằng ngốc này lại bắt mình tìm má nó, thậm chí tìm con A Hoàng cho nó thì biết đâu mà tìm kiếm. Má má nó chắc là đã đi theo thằng cha nào rồi, còn con A Hoàng cũng bị người ta giết ăn thịt rồi chưa biết chừng. Mình tội gì mà rước lấy cái khó nhọc vào thân? Chẳng thà nó bảo mình đi hạ sát chín mười tay cao thủ võ lâm còn dễ hơn là đi kiếm má má nó hay con A Hoàng.”

Tạ Yên Khách trầm ngâm một lúc, sực nghĩ ra một kế, liền nói: “Hay lắm! Ta nói cho ngươi biết, bất luận là ai tra hỏi ngươi với ta đã nói chuyện gì, thì ngươi cũng không được kể lại. Nếu không, ta sẽ lập tức chặt cái đầu ngươi rụng xuống. Ngươi đã biết chưa?” Dĩ nhiên vụ gã ăn xin giao tấm Huyền Thiết Lệnh lại cho Tạ Yên Khách chẳng bao lâu sẽ đồn đại khắp võ lâm. Lão chỉ sợ có người xúi giục gã ăn xin cầu khẩn lão một việc nan giải mà lão không thể khước từ được, vì đã có lời thề ngày trước.

Gã ăn xin gật đầu đáp: “Xin vâng!”

Tạ Yên Khách vẫn chưa yên lòng, lại hỏi: “Ngươi đã nhớ chưa? Là việc gì?”

Gã ăn xin đáp ngay: “Ông dặn, nếu có ai hỏi cháu đã nói chuyện với ông những gì, cháu cũng không được mở miệng. Cháu chỉ nói một câu là ông chém đầu lập tức.”

Tạ Yên Khách nói: “Không sai! Thằng ngốc này cũng không đến nỗi ngu ngốc quá, trí nhớ cũng tốt. Nếu ngươi quả là đứa si ngốc thì khó mà nhớ được. Bây giờ ngươi hãy theo ta!”

Nói xong, lão dắt nó rời khỏi nơi hẻo lánh trở lại đường quan lộ. Hai người đi chẳng mấy chốc thì đến một quán bán bánh bên đường. Tạ Yên Khách mua hai tấm bánh bao rồi há miệng ra cắn ăn, tỏ vẻ ngon lành. Đồng thời lão liếc mắt nhìn gã ăn xin thử xem gã có mở miệng xin mình cho ăn không? Tạ Yên Khách vừa ăn vừa khen ngon luôn miệng. Một tay lão cầm bánh ăn, còn tay nữa lão với lấy thêm một tấm bánh bò thứ hai đưa qua đưa lại trước mặt gã ăn xin, nghĩ thầm trong bụng: “Thằng lỏi này đi ăn xin đã quen rồi. Nó thấy mình ăn bánh bao, có lý đâu lại không thèm đến chảy nước miếng? Chỉ cần nó mở miệng xin, mình đưa tấm bánh này cho nó là đã giữ trọn lời thề với tấm Huyền Thiết Lệnh, từ đây tiêu dao tự tại, không còn phải băn khoăn về vụ này nữa.” Lão nghĩ đến chuyện trọng đại là thu tấm Huyền Thiết Lệnh về, mà chỉ mất một tấm bánh bao để giải quyết thì có vẻ không nghiêm chỉnh, nhưng lại nghĩ đối với một gã ăn xin thì chỉ một cái bánh tiêu hay bánh bao gì đó là đủ rồi.

Nào ngờ gã ăn xin vừa nhìn tấm bánh bao vừa nuốt nước miếng không ngớt, nhưng mãi vẫn không mở miệng xin ăn. Tạ Yên Khách trong lòng nóng nảy, ăn hết một cái bánh bao rồi lại cầm cái thứ hai đưa lên miệng, còn toan thò tay vào nồi hấp lấy thêm. Gã ăn xin bỗng quay vào bảo chủ quán: “Cháu cũng ăn hai cái.” Rồi gã tự thò tay vào nồi hấp mà lấy.

Chủ quán đưa mắt nhìn Tạ Yên Khách, xem lão có cho thằng nhỏ ăn không. Tạ Yên Khách mừng thầm trong bụng, gật đầu một cái. Trong lòng lão nghĩ: “Thử xem lát nữa chủ quán tính tiền, ngươi có phải xin ta không.”

Gã ăn xin ăn xong cái này lại lấy cái khác, ăn hết thảy bốn cái bánh bao mới nói: “Cháu no rồi, không ăn nữa.”

Tạ Yên Khách ăn hết hai cái bánh rồi thôi, quay lại hỏi chủ quán: “Bao nhiêu tiền?”

Chủ quán đáp: “Hai đồng một cái. Cả thảy sáu cái, cộng là mười hai đồng.”

Tạ Yên Khách đáp: “Không được. Phần ai ăn người nấy trả tiền. Ta ăn hai tấm, vậy ta trả bốn đồng là đủ.”

Lão thò tay vào bọc toan móc tiền ra trả, nhưng sờ đi sờ lại mà chẳng còn một đồng nào. Thì ra hôm qua lão vào thành Biện Lương uống rượu, đã xài hết bạc vụn rồi. Trong mình lão có mang nhiều vàng lá, nhưng lúc ở Biện Lương lại quên chưa đổi ra tiền lẻ. Cái quán nhỏ xíu bên lề đường này thì lấy đâu ra tiền để đổi vàng? Trong lúc Tạ Yên Khách chưa biết giải quyết cách nào, thì gã ăn xin đã móc trong bọc ra một thỏi bạc, đưa cho chủ quán nói: “Tất cả mười hai đồng, để cháu trả cho.”

Tạ Yên Khách chưng hửng hỏi: “Sao? Ngươi lại trả tiền cho ta ư?”

Gã ăn xin cười đáp: “Ông không có tiền mà cháu có, cháu mời ông ăn mấy cái bánh bao phỏng có chi đáng kể?” Chủ quán cũng lấy làm kinh ngạc, lấy mấy miếng bạc vụn và mấy xâu tiền đồng thối lại. Gã ăn xin thu tiền cất vào bọc, rồi nhìn Tạ Yên Khách xem lão sai bảo gì.

Tạ Yên Khách bất giác nở một nụ cười chua chát, nghĩ thầm: “Tạ mỗ cố chấp thành tính, trước nay dù là một miếng cơm, một ly nước cũng chẳng chịu ơn ai, không ngờ hôm nay lại để một gã ăn xin mời ăn hai cái bánh bao.” Lão bèn hỏi: “Sao ngươi biết ta không có tiền?”

Gã ăn xin cười đáp: “Mỗi khi cháu vào chợ, thấy ai thò tay vào túi định lấy tiền trả, mà móc cả nửa ngày vẫn không ra, sắc mặt biến đổi kỳ dị, thì dĩ nhiên người đó không có tiền. Cháu còn nghe người ta nói, những người không có tiền mà muốn ăn quịt của người ta đều giống như thế cả.”

Tạ Yên Khách không nhịn nổi phải cười khổ, nghĩ thầm: “Chắc ngươi cũng tưởng là ta tính chuyện ăn quịt.” Nhưng lão chỉ hỏi: “Đĩnh bạc đó ngươi ăn cắp được ở đâu?”

Gã ăn xin đáp: “Sao lại ăn cắp? Vừa rồi một vị thái thái giống Quan Âm áo trắng đã cho cháu.”

Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ai mà ngươi lại nói là giống Quan Âm áo trắng?” Nhưng rồi lão hiểu ngay đó chính là Mẫn Nhu, liền lẩm bẩm: “Con mụ ấy lại làm hư chuyện của mình rồi.”

Hai người sóng vai mà đi, chừng vài chục trượng thì Tạ Yên Khách lại cầm thanh Bạch Kiếm của Mẫn Nhu giơ lên nói: “Thanh kiếm này sắc lắm. Vừa rồi ta chỉ khẽ cắt một nhát đã chặt được cái cây làm hai đoạn, ngươi cũng nhìn thấy đó. Ngươi có thích không? Nếu ngươi thích thì chỉ cần mở miệng xin ta một câu là ta cho ngay.”

Thực ra Tạ Yên Khách chẳng muốn phiền hà thêm với gã ăn xin dơ bẩn này. Lão chỉ mong cho gã mở miệng xin một điều gì, cho lão được hoàn thành tâm nguyện. Không ngờ gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Cháu không lấy đâu. Thanh kiếm này là của vị Quan Âm thái thái đó. Thái thái đó là người tốt, cháu không muốn lấy đồ vật của bà.”

Tạ Yên Khách lại rút thanh Hắc Kiếm ra, vung lên chém đứt một gốc cây khá lớn rồi nói: “Được lắm! Vậy ngươi có xin thanh Hắc Kiếm này không?”

Gã ăn xin lại lắc đầu đáp: “Thanh Hắc Kiếm này là của vị tướng công mặc áo đen. Tướng công cùng đi một đường với Quan Âm thái thái, cháu cũng không lấy đồ của tướng công đâu.”

Tạ Yên Khách hắng giọng một tiếng rồi nói: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cũng có nghĩa khí lắm nhỉ!”

Gã ăn xin không hiểu, hỏi lại: “Nghĩa khí là cái gì?”

Tạ Yên Khách lại hắng giọng một tiếng, nghĩ thầm: “Ngươi đã chẳng hiểu chuyện này thì có nói cũng như không.”

Gã ăn xin lại nói: “Thì ra ông không muốn nói đến nghĩa khí. Ông… ông không thích nghĩa khí phải không?”

Tạ Yên Khách giận xanh mặt, vung chưởng lên toan đập xuống đỉnh đầu gã ăn xin. Nhưng lão thấy vẻ mặt nó rất ngây thơ, liền thu tay về nghĩ thầm: “Ta đã thề không đụng tới nó dù chỉ một ngón tay, huống hồ nó chẳng biết nghĩa khí là gì, đương nhiên không cố ý mỉa mai mình.” Lão hỏi lại: “Sao ngươi bảo ta không thích chuyện nghĩa khí? Ta thích nghĩa khí lắm chứ!”

Gã ăn xin lại hỏi: “Nói đến nghĩa khí thì có tốt không ông?”

Tạ Yên Khách đáp: “Có nghĩa khí là hay lắm. Nói chuyện nghĩa khí hiển nhiên là việc tốt.”

Gã ăn xin lại nói: “Cháu biết rồi! Ai làm việc tốt là hảo nhân, ai làm việc không tốt là ác nhân. Ông lúc nào cũng làm việc tốt, nhất định phải là người rất tốt.”

Giả tỉ ai khác nói câu này thì Tạ Yên Khách sẽ coi là lời châm biếm, vung chưởng đánh chết lập tức. Suốt đời lão chưa nghe ai khen mình là người tốt, tuy đôi khi cũng làm mấy chuyện tốt nhưng chỉ là do hứng thú mà thôi, so với những chuyện không tốt của lão đã làm thì thật chẳng đáng gì. Tạ Yên Khách thấy gã ăn xin nói rất chân thành, cũng không biết mình nên cười hay nên khóc. Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này ăn nói điên điên khùng khùng, đã bảo mình không thích chuyện nghĩa khí, lại bảo mình là người rất tốt. Giả tỉ chuyện này mà lọt vào tai địch thủ của mình, thì thật là thành chuyện cả võ lâm đàm tiếu, Tạ mỗ chẳng biết phải giấu mặt vào đâu nữa. Bây giờ ta phải mau mau kết thúc vụ này, nhất định không chuốc thêm họa vào thân.”

Gã ăn xin đã không muốn lấy Hắc Bạch Song Kiếm, Tạ Yên Khách liền lấy một tấm vải xanh gói đôi kiếm lại, đeo vào sau lưng. Lão tự hỏi: “Không hiểu mình phải dụ nó yêu cầu mình chuyện gì đây?” Lão còn đang ngẫm nghĩ, chợt trông qua bên đường thấy có ba cây táo lớn, đầy quả chín đỏ, liền trỏ vào cây táo nói: “Mấy trái táo kia ngon quá!”

Lão thấy mấy cây táo rất cao, chỉ mong gã ăn xin nhờ mình hái giúp cho, thì đó cũng là một yêu cầu. Không ngờ gã ăn xin chẳng những không nhờ lão hái cho, lại còn hỏi: “Đại hảo nhân! Ông thích ăn táo phải không?”

Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Đại hảo nhân cái gì?”

Gã ăn xin đáp: “Ông là người rất tốt, nên cháu gọi ông là đại hảo nhân.”

Tạ Yên Khách trầm mặt xuống hỏi: “Ai nói ta là người tốt?”

Gã ăn xin liền đáp: “Ông đã không phải là người tốt thì tất nhiên phải là người xấu. Vậy để cháu gọi ông là đại hoại nhân.”

Tạ Yên Khách đáp: “Ta cũng không phải là người xấu.”

Gã ăn xin hỏi: “Thế thì kỳ thật. Ông đã không phải là người tốt mà cũng không phải là người xấu… À, đúng rồi, ông không phải là người.”

Tạ Yên Khách phẫn nộ quát lên: “Ngươi nói gì?”

Gã ăn xin đáp: “Bản lãnh ông rất giỏi, ông có phải là thần tiên không?”

Tạ Yên Khách lại quát: “Không phải!”, nhưng thanh âm cũng bớt phần nghiêm khắc. Rồi lão lại mắng: “Ăn nói bậy bạ!”

Gã ăn xin lắc lắc đầu, lẩm nhẩm trong miệng: “Thế này cũng không phải, thế kia cũng không phải, thế là thế nào?” Rồi đột nhiên nó chạy lại gốc táo, nhảy lên ôm lấy thân cây, đạp đạp hai chân trèo lên thoăn thoắt.

Tạ Yên Khách thấy nó tuy không hiểu võ công, nhưng chân tay rất linh hoạt. Nó lựa những trái táo lớn nhất, hái nhét vào trong áo, chỉ khoảnh khắc là bụng nó đã phình lên như cái trống. Nó liền tuột xuống, vốc một nắm đưa cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Ông ăn táo đi! Ông không phải người, cũng không phải ma quỷ, chẳng lẽ lại là bồ tát? Nhưng cháu thấy cũng không giống.”

Tạ Yên Khách không lý gì đến nó, cầm mấy trái táo bỏ vào miệng ăn. Táo này ăn vừa ngọt vừa mát, thật là thượng phẩm. Lão nghĩ thầm: “Té ra nó chưa yêu cầu mình điều gì mà mình đã phải yêu cầu nó.” Lão động tâm, lại hỏi: “Ngươi muốn biết ta là ai phải không? Chỉ hỏi ta một tiếng là được. Ngươi chỉ cần nói: Xin ông nói cho cháu biết ông là ai, có phải thần tiên hay bồ tát không? Ta sẽ trả lời ngươi.”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không cầu xin ai hết.”

Tạ Yên Khách giật mình vội hỏi: “Sao ngươi lại không cầu xin ai?”

Gã ăn xin đáp “Má má cháu thường bảo rằng: “Cẩu Tạp Chủng! Suốt đời ngươi đừng đi cầu xin ai cái gì hết. Khi người ta muốn cho ngươi cái gì, thì chẳng xin họ cũng cho. Nếu người ta không chịu cho, thì dù ngươi có cầu xin khổ sở cũng chỉ vô ích, lại còn bị ghét cay ghét đắng nữa.” Một hôm cháu thấy má má đang ăn cái gì ngon lành lắm, bèn mở miệng xin. Má má cháu đã không cho mà còn đánh cho một trận, vừa đánh vừa mắng: “Cẩu Tạp Chủng! Ngươi cầu xin ta làm gì? Sao không đi cầu xin cái con tiểu tiện nhân vừa xinh xắn vừa yểu điệu kia?” Từ đó cháu nhất quyết không cầu xin ai bất cứ một chuyện gì.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Con tiểu tiện nhân xinh xắn đó là ai?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu cũng không biết.”

Tạ Yên Khách vừa thất vọng vừa ngạc nhiên. Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này đã nhất định không cầu xin cái gì, thì ta biết làm thế nào để hoàn thành tâm nguyện được? Mẫu thân gã này không chừng là một mụ điên. Khi nào con xin ăn mà mẹ đánh đòn bao giờ, lại còn mắng “tiểu tiện nhân xinh xắn yểu điệu” gì gì đó. Chắc là chồng của mụ có mới nới cũ, ruồng bỏ mụ nên mụ mới đem lòng phẫn nộ mà trút lên đầu con. Bọn đàn bà nhà quê đa số đều ngu dốt.” Lão lại hỏi: “Ngươi là một đứa ăn xin, chẳng lẽ lại không xin tiền xin cơm của người ta hay sao?”

Gã ăn xin vẫn lắc đầu đáp: “Cháu chẳng xin bao giờ. Người ta đưa cho cái gì thì cháu cầm lấy. Có lúc người ta không cho, nhưng lúc họ xoay mình đi không để ý là cháu lấy luôn rồi chạy trốn.”

Tạ Yên Khách cười khẩy: “Nếu vậy thì ngươi không phải là một đứa ăn xin, mà là một thằng ăn cắp.”

Gã ăn xin lại hỏi: “Thằng ăn cắp là như thế nào?”

Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ngươi không hiểu ư? Hay là ngươi giả ngốc?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu không hiểu nên mới hỏi ông, sao ông lại bảo là cháu giả ngốc? Giả ngốc là như thế nào?”

Tạ Yên Khách chăm chú nhìn gã ăn xin, thấy mặt gã lem luốc đầy bùn đất, nhưng cặp mắt đen lay láy, chẳng có vẻ gì ngu xuẩn. Lão liền nói: “Ngươi chẳng phải là đứa con nít lên ba, ít ra cũng được mười mấy tuổi rồi mà sao chẳng hiểu một cái gì cả?”

Gã ăn xin đáp: “Má má cháu không ưa nói chuyện với cháu, còn nói hễ thấy mặt cháu là phát ghét lên rồi. Nhiều khi cả chín mười ngày, má má cứ mặc kệ cháu, chẳng nhìn gì đến, chẳng nói câu nào. Cháu chỉ thích nói chuyện với A Hoàng. Nó chỉ biết nghe chứ không biết nói, chẳng bao giờ nó bảo cháu là tiểu tặc hay giả ngốc chi hết.”

Tạ Yên Khách thấy ánh mắt gã ăn xin không có vẻ gì là lừa gạt hay xảo trá, bèn nghĩ bụng: “Xem chừng thằng lỏi này không cố ý nói bóng gió để chửi xéo mình.” Lão lại hỏi: “Thế ngươi không nói chuyện với hàng xóm hay sao?”

Gã ăn xin lại hỏi: “Hàng xóm là gì hả ông?”

Tạ Yên Khách chán ngán đáp: “Hàng xóm là những người ở gần nhà mình.”

Gã ăn xin nói: “Gần nhà cháu ư? Gần nhà cháu chỉ có mười một cây tùng lớn. Trên cây có rất nhiều sóc, còn trong đồng cỏ thì có gà rừng, có thỏ rừng. Đó đều là hàng xóm của cháu ư? Bọn chúng chỉ biết kêu chiêm chiếp hay chí chóe chứ không biết nói.”

Tạ Yên Khách lại hỏi: “Ngươi đã lớn từng ấy rồi, chẳng lẽ chưa nói chuyện với ai ngoài má má hay sao?”

Gã ăn xin đáp: “Nhà cháu ở trên núi, cháu chẳng xuống núi bao giờ, nên ngoài má má cháu ra, cháu cũng không gặp ai để nói chuyện. Mấy hôm trước đây cháu không thấy má má đâu nữa, mới chạy từ trên núi xuống đi tìm, rồi con A Hoàng cũng chẳng thấy đâu nữa. Cháu gặp người nào cũng hỏi má cháu đâu, A Hoàng đâu, nhưng ai cũng nói là không biết. Như vậy có phải là nói chuyện không?”

Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Té ra gã này ở chốn hoang sơn hẻo lánh, mẫu thân nó lại không nói năng gì với nó, chẳng trách nó không biết một tí gì cả.”

Tạ Yên Khách liền đáp: “Thế cũng kể là người ta đã nói chuyện với ngươi. Sao ngươi lại biết dùng tiền để mua bánh bao ăn?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu đã thấy người ta mua rồi. Bây giờ ông không có tiền mà cháu lại có tiền, ông muốn lấy phải không? Ông muốn lấy thì cháu cho ông.” Gã vừa nói vừa đưa tay vào bọc lấy mấy miếng bạc vụn đưa vào tay Tạ Yên Khách.

Tạ Yên Khách lắc đầu đáp: “Ta không lấy đâu.” Lão nghĩ thầm: “Thằng lỏi này lôi thôi lếch thếch, nhưng tính tình không phải hẹp hòi.” Lão càng nói chuyện lâu với nó càng thấy yên tâm, đã tin chắc nó không phải là một cái bẫy của kẻ khác bố trí hại mình nữa.

Gã ăn xin lại hỏi: “Ông vừa bảo cháu không phải là đứa ăn xin mà là thằng ăn cắp. Vậy cháu là đứa ăn xin hay thằng ăn cắp?”

Tạ Yên Khách mỉm cười đáp: “Người ta có bằng lòng cho ngươi tiền bạc hay thức ăn rồi ngươi mới lấy, thế là ăn xin. Còn nếu ngươi chưa biết người ta có cho hay không mà đã thò tay ra lấy, thì là ăn cắp.”

Gã ăn xin nghiêng đầu suy nghĩ một chút rồi nói: “Cháu chưa từng hỏi xin ai cái gì bao giờ, nhưng bất cứ người ta có chịu cho hay không, cháu cũng lấy ăn. Vậy thì cháu là thằng ăn cắp. Phải rồi! Ông là lão ăn cắp!”

Tạ Yên Khách giật mình hỏi: “Sao? Ngươi bảo ta là gì?”

Gã ăn xin hỏi lại: “Chẳng lẽ ông không phải là lão ăn cắp ư? Rõ ràng người ta không muốn cho ông hai thanh kiếm mà ông cứ cướp lấy. Ông lại không phải là thằng nhỏ, dĩ nhiên phải gọi là lão ăn cắp.”

Tạ Yên Khách không nổi giận, lại mỉm cười: “Mấy chữ thằng ăn cắp, lão ăn cắp đều dùng để mắng người ta. Ngươi không thể tùy tiện mắng ta như thế.”

Gã ăn xin hỏi lại: “Thế sao ông mắng cháu?”

Tạ Yên Khách đáp: “Được rồi! Ta không mắng ngươi nữa. Ngươi chẳng phải là đứa ăn xin, cũng không là thằng ăn cắp. Ta kêu ngươi là tiểu nhai nhi, ngươi kêu ta bằng lão bá bá.”

Gã ăn xin lắc đầu đáp: “Cháu không phải là tiểu nhai nhi gì hết. Cháu chỉ là Cẩu Tạp Chủng thôi.”

Tạ Yên Khách nói: “Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Má má ngươi gọi ngươi như vậy thì được, còn người ngoài không thể gọi ngươi như vậy. Ta không hiểu sao má má ngươi lại kỳ cục đến thế, gọi con mình bằng Cẩu Tạp Chủng.”

Gã ăn xin nói: “Cẩu Tạp Chủng thì có gì không tốt đâu? Con A Hoàng cũng là con chó, mà cháu đi với nó thấy thích thú lắm, cũng như đi với ông vậy. Có điều con A Hoàng không biết nói, chỉ sủa gâu gâu, còn ông thì nói được.” Gã vừa nói vừa đưa tay lên vuốt ve sau lưng Tạ Yên Khách mấy cái, ra chiều nhẹ nhàng tình cảm, chắc cũng như lúc vuốt ve con chó của gã.

Tạ Yên Khách liền vận nội lực lên lưng. Gã ăn xin vừa đụng vào người lão đã giật bắn người lên, tựa như sờ phải miếng than hồng. Gã vội buông tay ra, cảm thấy ruột gan nhộn nhạo cực kỳ khó chịu, tựa như muốn nôn ọe ra. Tạ Yên Khách cười nửa miệng, ngó gã ăn xin nghĩ thầm: “Ai bảo ngươi vô lễ với ta? Một vố này đủ cho ngươi biết thân chưa?”

Gã ăn xin vuốt ngực nói: “Lão bá bá! Người bá bá nóng quá, mau lại gốc cây kia nghỉ một lúc. Cháu đi lấy nước về cho bá bá uống. Lão bá bá có thấy chỗ nào khó chịu không? Người bá bá sốt quá, e rằng lâm trọng bệnh mất rồi.” Thanh âm của gã cực kỳ quan tâm thân thiết, lại đưa tay ra định dắt lão vào gốc cây ngồi nghỉ.

Tạ Yên Khách tuy hết sức cố chấp ngang tàng, nhưng thấy gã ăn xin đối đãi với mình chân thành như vậy, cũng không tiện vận nội lực đả thương gã nữa. Lão nói: “Ta vẫn mạnh khỏe như thường, có bệnh tật gì đâu? Ngươi xem, có phải ta đã hết sốt rồi không?” Rồi lão cầm lấy bàn tay nhỏ xíu của nó đặt lên trán mình.

Gã ăn xin sờ trán lão thấy mát rượi, lại càng hoang mang hơn, hốt hoảng la lên: “Úi chao! Nguy rồi! Lão bá bá chết đến nơi rồi!”

Tạ Yên Khách tức giận quát: “Ăn nói hồ đồ! Ta mà sắp chết ư?”

Gã ăn xin đáp: “Có một lần má má cháu mắc bệnh, cũng lúc nóng lúc lạnh như thế. Má má cháu kêu la rầm rĩ: “Ta sắp chết rồi! Ta sắp chết rồi! Đau đớn thế này thà chết đi còn hơn!” Quả nhiên lần đó má má cháu bệnh rất nặng, mấy lần chết hụt, phải nằm mấy tháng trời mới khỏi.”

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Ta không chết đâu.” Gã ăn xin khẽ lắc đầu, ra vẻ không tin.

Hai người lại nhằm hướng Đông Nam đi một hồi nữa. Bây giờ đã vào giờ ngọ, mặt trời nóng như thiêu như đốt. Gã ăn xin đột nhiên chạy vào bên đường hái bảy tám chiếc lá cây lớn. Tạ Yên Khách thấy vậy thì cho là nó còn tính con nít ham chơi, cũng không hỏi gì đến. Ngờ đâu gã ăn xin hái mấy lá cây đó để kết thành cái nón, đưa cho Tạ Yên Khách rồi nói: “Trời nắng nóng rất khó chịu. Bá bá đang bệnh, đội cái nón này lên cho đỡ nắng.”

Tạ Yên Khách bị gã ăn xin làm cho nửa giận nửa cười, nhưng cũng không nỡ từ chối tấm lòng tốt của nó, bèn cầm cái nón bằng lá cây đội lên đầu. Dưới nắng chói chang, đội cái nón như thế cũng thấy mát mẻ dễ chịu hẳn. Trước nay chỉ có người sợ lão, hận lão, chưa hề có ai quan tâm, tử tế với lão như thế, nên bất giác trong lòng lão cũng hơi thấy ấm áp.

Hai người đi chẳng mấy chốc lại tới một thị trấn nhỏ. Gã ăn xin nói: “Bá bá không có tiền, không chừng phen này sinh bệnh là vì bụng đói. Vậy bây giờ chúng ta hãy vào quán cơm ăn một bữa thật no.” Rồi nó kéo tay Tạ Yên Khách đi thẳng vào một quán cơm gần đó. Từ nhỏ tới lớn, gã ăn xin chưa từng vào quán cơm bao giờ. Nó cũng không hiểu cách gọi thức ăn, liền thò tay vào bọc moi hết bạc vụn cùng tiền đồng ra để trên bàn, rồi gọi tiểu nhị lại nói: “Cháu cùng lão bá bá này muốn ăn một bữa cơm có thịt có cá. Chú cầm lấy số tiền này.” Chỗ bạc đó có tới hơn ba lạng, đủ làm một bữa tiệc thịnh soạn.

Tiểu nhị cả mừng, liền dặn nhà bếp giết gà vịt, nấu cả thịt cá. Chẳng bao lâu, một mâm cơm đầy thức ăn bày ra. Tạ Yên Khách lại gọi hai cân rượu trắng. Gã ăn xin cũng thử uống một hớp rượu, nhưng nhổ ra ngay rồi kêu lên: “Cay quá, không ngon gì hết.” Rồi gã tự xới cơm gắp thịt mà ăn.

Tạ Yên Khách bụng bảo dạ: “Thằng nhỏ này ngây thơ không hiểu việc đời, nhưng được trời phú cho đức tính hào hiệp, mà cũng không đến nỗi ngu xuẩn. Giả tỉ nó được dạy dỗ đến nơi đến chốn, tất sẽ thành một hảo thủ võ lâm.” Nhưng rồi lão lại nghĩ: “Hỡi ơi, trên đời nhiều tên vong ơn phụ nghĩa lắm. Tư chất thằng súc sinh đồ đệ của mình cũng khá, trên đời ít gặp, nhưng đã hại ta thật chẳng thiếu chuyện gì. Sao ta còn định thu đồ đệ nữa làm gì?” Lão nghĩ tới tên đồ đệ cũ thì lửa giận lại bốc lên, im lặng ngồi gắp mấy miếng, uống sạch hai cân rượu trắng rồi bảo: “Đi thôi!”

Gã ăn xin hỏi: “Lão bá đã khỏe chưa?”

Tạ Yên Khách đáp: “Khỏe rồi!” Trong bụng lão nghĩ thầm: “Ngươi hết sạch tiền rồi, muốn ăn cơm nữa thì nhất định phải mở miệng xin ta. Ta phải tìm đến thị trấn lớn, đổi vàng lấy tiền rồi sẽ tính.”

Hai người rời thị trấn, đi về phía đông. Tạ Yên Khách bỗng hỏi: “Tiểu nhai nhi! Má má ngươi họ gì, đã nói với ngươi chưa?”

Gã ăn xin đáp: “Má má là má má, lại cần có họ hay sao?”

Tạ Yên Khách nói: “Dĩ nhiên là có chứ, người ta ai mà chẳng có họ tên?”

Gã ăn xin hỏi: “Thế cháu họ gì?”

Tạ Yên Khách đáp: “Chính ta cũng không biết. Cái tên Cẩu Tạp Chủng khó nghe lắm. Ngươi có muốn ta đặt cho một cái tên không?”

Giả tỉ gã ăn xin mở miệng xin lão đặt cho một cái tên, thì lão chỉ cần đặt bừa một cái là hoàn thành tâm nguyện.

Không ngờ gã ăn xin lại đáp: “Bá bá thích đặt tên cho cháu thì cũng được, nhưng sợ má má cháu không chịu. Má má cháu vẫn gọi cháu là Cẩu Tạp Chủng, cháu cũng quen rồi. Bây giờ cháu đổi tên chắc má má cháu không thích đâu. Mà cái tên Cẩu Tạp Chủng sao lại khó nghe?”

Tạ Yên Khách nhíu mày nghĩ thầm: “Tại sao ba chữ Cẩu Tạp Chủng lại khó nghe thì nhất thời mình cũng không biết giải thích thế nào cho nó hiểu được.”

Giữa lúc ấy, bỗng trong một khu rừng phía trước có tiếng khí giới chạm nhau chan chát. Tạ Yên Khách vừa nghe thấy, liền động tâm tự hỏi: “Ở đây sao lại có người đánh nhau? Hai người này thủ pháp rất mau lẹ, võ công nhất định không phải tầm thường.” Lão liền khẽ bảo gã ăn xin: “Chúng ta qua bên đó xem sao, nhưng tuyệt đối đừng có lên tiếng.”

Rồi lão đưa tay nắm lưng gã ăn xin xách lên, thi triển khinh công chạy về phía có tiếng động, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã đến sau một gốc cây lớn. Gã ăn xin tưởng như mình đi trên mây, thích thú vô cùng, muốn bật lên tiếng cười, nhưng lại nhớ lời Tạ Yên Khách dặn nên vội đưa tay lên bịt miệng.

* * *

Hai người nấp sau một gốc cây nhìn ra, thấy bốn người đang quần nhau thành cục diện ba người đánh một. Người bị bao vây là một lão già mặt đỏ, râu bạc chùng xuống đến ngực, tay không binh khí. Một thanh đơn đao rơi dưới đất cách đó một quãng, thân đao đã bị cong, hiển nhiên là bị người ta đánh rơi. Tạ Yên Khách nhận ra lão này là Đại Bi Lão Nhân ở đảo Bạch Kình, năm xưa đã từng thua mình một chiêu, võ công cũng rất khá.

Ba gã hợp công thì một gã thân hình cao lêu nghêu mà gầy khẳng gầy khiu, một đạo nhân mặt vàng ửng, còn gã nữa thì tướng mạo cực kỳ xấu xa quái dị. Trên má gã có hai vết sẹo rất lớn giao nhau thành hình chữ thập. Gã cao gầy sử thanh trường kiếm, đạo nhân sử liễn tử chùy, còn hán tử xấu xí thì sử một thanh quỷ đầu đao.

Tạ Yên Khách thấy lão già bị vây đánh đã thọ thương, máu đang nhỏ giọt xuống, nhưng song chưởng của lão vẫn đảo đi đảo lại phóng ra những chiêu cực kỳ dũng mãnh. Lão đang chạy quanh một gốc cây tránh tả né hữu, nhờ gốc cây lớn để cầm cự với ba người cầm khí giới. Tay trái lão xuất những chiêu cầm nã, còn tay phải lúc quyền lúc chưởng rất mau lẹ, vừa đây vừa kéo để dẫn dụ binh khí của ba người kia chạm vào nhau. Bản lãnh lão thật không phải tầm thường. Tạ Yên Khách đứng xa xa chỉ xem mấy chiêu đã nhận ra lão già kia lâm vào thế hạ phong, nghĩ thầm: “Hôm nay Đại Bi Lão Nhân lâm vào cảnh hổ xuống bình nguyên bị chó lờn, xem chừng khó mà thoát khỏi kiếp nạn.”

Ngọn liễn tử chùy thường xuyên uốn vòng qua thân cây để tập kích vào cạnh sườn Đại Bi Lão Nhân, lại còn tý lực của gã hán tử xấu xí mạnh mẽ kinh người, cây quỷ đầu đao phát ra những tiếng vù vù. Tạ Yên Khách ngấm ngầm kinh hãi: “Đã lâu mình không lăn lộn giang hồ, bây giờ mới biết võ lâm Trung Nguyên đã xuất hiện nhiều nhân vật lợi hại đến thế, lại không nhận ra chiêu số của ba tên này thuộc môn phái nào. Nếu bản lãnh chúng tầm thường thì Đại Bi Lão Nhân đâu đến nỗi phải hoang mang đến thế?”

Bỗng đạo nhân mặt vàng khàn khàn hét lên: “Bạch Kình đảo chúa! Bang Trường Lạc chúng ta với đảo chúa vốn không thù oán, Tư Đồ bang chúa lại ngưỡng mộ ông là nhân vật nổi danh, có hảo ý dùng lễ vật để mời ông nhập bang, thế mà ông lại đem lời nhục mạ. Bây giờ ông đầu hàng đi, ưng thuận gia nhập bổn bang thì chúng ta lập tức sẽ trở thành hảo huynh đệ, hảo bằng hữu, những việc đã qua nhất định không truy cứu. Như vậy há chẳng hay hơn ư? Chúng ta hợp lực với nhau để đối phó với Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, cùng vượt qua kiếp nạn này lại không tốt hơn ư?”

Tạ Yên Khách vừa nghe câu cuối cùng của lão, trong lòng bỗng dưng chấn động. Chẳng lẽ Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo lại tái xuất giang hồ rồi ư?

Đại Bi lão nhân tức giận đáp: “Ta đường đường là đại trượng phu, có lý đâu lại hòa mình với bọn đê hèn vô liêm sỉ như các ngươi, chẳng thà nhận Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh này để chết ở Hiệp Khách Đảo còn hơn. Các ngươi muốn ta gia nhập vào tà phái, làm những việc đồi bại, thì không được đâu. Các ngươi đừng mơ tưởng hão huyền nữa!”

Đột nhiên lão vươn tay trái ra một chiêu cầm nã chụp xuống vai hán tử xấu xí. Tạ Yên Khách la thầm: “Chiêu Long Trảo Thủ thật là tuyệt diệu!” Chiêu này nhìn có vẻ chậm chạp, nhưng thật ra thần tốc phi thường. Gã hán tử xấu xí tuy thân pháp mau lẹ, cố tránh né ngay, nhưng vẫn chậm mất một chút. Gã cao kều thấy vậy giật mình kinh hãi, hoa trường kiếm lên nhằm đâm vào mắt Đại Bi Lão Nhân.

Bỗng nghe đánh roạc một tiếng, vai áo bên hữu gã hán tử xấu xí đã bị xé rách một mảng lớn, máu tươi chảy ra đầm đìa. Long Trảo Thủ của Đại Bi Lão Nhân đã móc đứt một miếng thịt ở vai gã. Ba người lại càng giận dữ, liên tiếp xuất chiêu tấn công tới tấp như gió táp mưa sa.

Tạ Yên Khách kinh ngạc nghĩ thầm: “Không hiểu Trường Lạc Bang là bang hội như thế nào mà có lắm cao thủ thế này? Mình chưa từng nghe thấy, thì chắc bang này cũng mới sáng lập. Còn Tư Đồ bang chúa là ai, chẳng lẽ chính là Đông bá thiên Tư Đồ Hành? Trong võ lâm cũng ít hảo thủ ở họ Tư Đồ, ngoài người này ra thì không còn ai nữa.”

Bốn người càng đánh càng ác liệt. Gã hán tử xấu xí gầm lên một tiếng điên cuồng, vung đao quét ngang. Đại Bi Lão Nhân né mình tránh khỏi, đồng thời phóng một quyền về phía đạo nhân mặt vàng. Nghe “phập” một tiếng, thanh quỷ đầu đao của hán tử xấu xí đã chém ngập vào thân cây. Gã vận sức cố giật ra, nhưng không được. Đại Bi Lão Nhân thừa cơ hội này, thúc khuỷu tay phải xuống lưng gã hán tử xấu xí.

Thì ra Đại Bi lão nhân đang bị ba cao thủ vây đánh, phải chống đỡ vất vả vô cùng, tự lượng sức mình khó lòng thoát nạn. Giữa lúc đánh nhau khốc liệt, thỉnh thoảng lão vẫn liếc mắt quan sát bốn phương tám hướng, thấy sau gốc cây lớn thấp thoáng có bóng người ẩn nấp. Lão tưởng đây cũng là địch nhân nên nghĩ thầm: “Trước mắt mới có ba tên mà mình chưa chắc đã chống chọi nổi. Nếu đối phương lại thêm cường viện, thì hậu quả thật khó lường.” Đại Bi lão nhân còn nhận ra trong ba địch nhân trước mặt thì gã hán tử xấu xí là võ công kém nhất, nên cách duy nhất để thoát thân là phải mạo hiểm trừ khử bớt một tên. Vì thế khi thúc khuỷu tay vào lưng hán tử xấu xí, lão đã vận đến chín phần công lực.

Nghe “binh” một tiếng, khuỷu tay Đại Bi Lão Nhân đã cắm trúng ngay giữa lưng hán tử xấu xí. Lão mừng thầm trong bụng, chuyển mình lẹ quanh gốc cây để tới bồi thêm một đòn nữa. Giữa lúc ấy đạo nhân từ phía sau lại vung đồng chùy đập tới.

Đại Bi Lão Nhân vung tay trái gạt quả chùy, đột nhiên thấy bạch quang lấp loáng trước mắt. Lão vội né sang bên trái để tránh. Không ngờ lão tuổi già lại giao đấu đã lâu nên tinh lực không được sung mãn như người trẻ tuổi, định lạng người đi ba thước mới tránh khỏi, nhưng mới lạng ra được bảy tấc thì đã nghe “sột” một tiếng. Mũi trường kiếm của gã cao kều đã đâm trúng vai bên tả Đại Bi Lão Nhân, ghim lão dính vào một cành cây.

Biến cố này thật quá đột ngột, thằng bé ăn xin trong lúc vô ý không nhịn nổi, la lên một tiếng kinh hãi. Từ lúc nó thấy ba người vây đánh một lão già, trong lòng đã thấy bất bình. Bây giờ nó thấy lão nhân bị kiềm chế thì vừa kinh hãi, vừa tức giận vô cùng.

Gã cao kều lạnh lùng hỏi: “Bạch Kình đảo chúa! Rượu mời không uống lại uống rượu phạt, bây giờ đã chịu đầu hàng Trường Lạc Bang chưa?”

Đại Bi Lão Nhân trợn mắt, tức giận hét lên: “Ngươi đã biết ta là Bạch Kình Đảo Chúa, chẳng lẽ trên Bạch Kình Đảo lại có những kẻ như nhược quỳ gối đầu hàng hay sao?” Lão dùng hết sức giãy giụa, quyết tâm chịu bỏ cánh tay trái để thoát khỏi thanh trường kiếm, liều mạng với gã cao kều.

Đạo nhân mặt vàng lại vẫy tay phải một cái, ngọn liễn tử trùy bay tới, sợi xích sắt quấn mấy vòng quanh thân người Đại Bi Lão Nhân, rồi đầu chùy lại đánh vào ngực lão một đòn rất nặng, nghe “bịch” một tiếng. Đại Bi Lão Nhân gào lên một tiếng rồi ngoẹo đầu đi, trong miệng phun máu tươi ra.

Gã ăn xin không nhẫn nại được nữa, nhảy xổ ra la lớn: “Trời ơi! Ba người xấu lại vây đánh một người tốt.”

Tạ Yên Khách nhíu mày nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này lại gây chuyện rắc rối rồi. Nhưng thế cũng hay, không chừng ba tên kia giết quách gã đi càng tốt. Dù mình thấy gã chết mà không cứu cũng chẳng phải là phản bội lời thề. Còn nếu thằng nhãi này mở miệng cầu cứu, thì ta giúp nó xử lý ba tên này là xong.”

Tạ Yên Khách còn đang ngẫm nghĩ thì gã ăn xin đã chạy đến gốc cây, đứng chặn trước mặt Đại Bi Lão Nhân la lên: “Các ngươi không được làm khó dễ lão bá này nữa.”

Từ nãy gã cao kều cũng đã nhận thấy sau gốc cây lớn thấp thoáng có bóng người ẩn núp. Bây giờ gã thấy thằng nhỏ từ sau gốc cây chạy ra, vừa nhìn đã biết ngay nó không hiểu võ công chi hết, mà dám cả gan xông vào chỗ đánh nhau, nhất định đã bị người nào sai khiến. Gã cao kều nghĩ thầm: “Ta phải dọa thằng tiểu quỷ này kinh sợ một phen, người đứng sau giật dây dĩ nhiên phải chường mặt ra.” Hắn bèn rút lấy cây quỷ đầu đao đang dính trên thân cây, hét lớn: “Thằng quỷ con kia! Ai đã sai ngươi ra can thiệp vào chuyện của lão già? Để ta giết ngươi trước rồi mới giết tới lão già này. Ngươi có cút đi ngay không?”

Gã vừa nói vừa vung thanh quỷ đầu đao lên, tựa hồ chém gã ăn xin đứt đôi ngay tức khắc. Gã ăn xin vẻ mặt thản nhiên đáp: “Lão bá đây là người tốt, các ngươi đều là người xấu. Ta nhất định phải giúp cho người tốt, ngươi định giết người thì ta không đi đâu.” Hiển nhiên là mẫu thân của nó cũng có lúc vui vẻ mà kể cho nghe một vài câu chuyện, trong chuyện kể bao giờ cũng có người tốt người xấu. Trong lòng của trẻ con bao giờ cũng hướng về điều thiện, thích người tốt, ghét người xấu. Nhân chi sơ tính bản thiện, đây là chuyện thiên kinh địa nghĩa.

Gã cao kều tức giận hỏi: “Ngươi có quen biết lão không mà bảo là người tốt?”

Gã ăn xin đáp: “Vừa rồi lão bá bảo các ngươi là bọn tà bang ác đảng gì đó, lão bá dù chết cũng không chịu nhập bọn với các ngươi. Thế thì dĩ nhiên các ngươi là hạng người xấu xa rồi.” Gã nói xong, quay mình lại toan tháo dây xích của liễn tử trùy xuống. Lão nhân mặt vàng bèn xoay tay tát bốp vào mặt gã ăn xin, khiến nó phải đầu váng mắt hoa. Má bên trái nó sưng vù lên, hằn rõ năm vết ngón tay.

Gã ăn xin thực sự không biết trời cao đất rộng gì cả. Hôm qua tại Hầu Giám Tập, lúc Ngô Đạo Thông bị bọn người Kim Đao Trại đến vây đánh, một là gã chưa biết Ngô Đạo Thông là người tốt hay người xấu, hai là mấy người đánh nhau trên nóc nhà, Ngô Đạo Thông vừa lăn xuống đã bị song câu của Lý Đại Nguyên đâm thủng bụng ngay, nếu không thì có thể nó cũng chạy ra can thiệp. Chuyện có nguy hại đến bản thân mình hay không, thì nó thật sự không tính đến.

Gã cao kều thấy tên ăn xin tính khí cương cường không biết sợ hãi là gì, trong lòng không khỏi ngờ vực tự hỏi: “Thằng tiểu quỷ này ỷ vào cái gì mà dám ngang nhiên lảm nhảm trước mặt bản hương chủ ở Trường Lạc Bang?” Gã bèn quay đầu liếc nhìn về phía sau gốc cây lớn đó, quả nhiên nhìn thấy một bóng người gầy ốm. Người này trông rất giống chủ nhân Huyền Thiết Lệnh, được giang hồ gọi là Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách, chẳng lẽ chính là ông ấy? Gã liền vung quỷ đầu đao lên, quát lớn: “Ta đếch cần biết lai lịch ngươi, cũng đếch cần biết sư trưởng cùng môn phái ngươi. Ngươi một mình đến đây phá đám thì ta cứ coi ngươi như một đứa ăn xin ngu ngốc, chẳng hiểu biết gì, có chém chết ngươi cũng chẳng sao.”

Nghe một tiếng “vù”, thanh đao đã chém thẳng đến cổ của thằng bé ăn xin. Không ngờ nó cũng khá cứng đầu cứng cổ, lại cũng không biết nguy hiểm là gì, hoàn toàn không nhúc nhích. Gã cao kều vung đao lên bổ xuống, còn cách vài tấc đỉnh đầu gã ăn xin vài tấc lại thu đao về, buột miệng khen: “Hảo tiểu tử! Gan mật ngươi cũng không nhỏ lắm!”

Đạo nhân mặt vàng tính nóng như lửa, lại vung tay phải lên đánh một chưởng. Chưởng này tát vào má bên phải thằng bé, so với cái tát lần trước còn nặng hơn nhiều. Gã ăn xin đau quá không nhịn được, khóc òa lên.

Gã cao kều nói: “Ngươi đã biết sợ đau mà khóc, thì mau mau rời khỏi nơi đây!”

Gã ăn xin vừa khóc vừa nói: “Các ngươi hãy bỏ đi trước, đừng làm khó dễ lão bá nữa, là ta nín ngay lập tức.” Gã cao kều không nín được, phải phì cười. Còn đạo nhân lại phóng cước đá gã ăn xin lăn xuống đất. Nó té mạnh đến nỗi mặt mày sưng húp lên, nhưng vẫn lồm cồm bò dậy, lại đứng trước mặt Đại Bi Lão Nhân để hộ vệ cho lão.

Đại Bi Lão Nhân bản tính có phần cổ quái nên trong đời lão rất ít bạn bè. Bây giờ lão thấy thằng bé này chưa từng quen biết, lại dám liều mạng để hộ vệ cho mình, nhất là nó chẳng biết chút võ công nào, trong lòng lão xiết bao cảm kích. Lão liền nói: “Tiểu huynh đệ! Ngươi liều mình với chúng thì chỉ uổng mạng mà thôi. Trình mỗ đã đến tuổi già xế bóng, dù nhắm mắt xuống suối vàng cũng không tiếc gì nữa.”

Gã ăn xin nghe không hiểu lắm, nhưng cũng biết lão giục mình tránh đi, liền lớn tiếng nói: “Lão bá là người tốt. Cháu quyết không để bọn người xấu này hại chết lão bá.”

Trong ba người kia thì gã cao kều là tinh minh hơn hết. Gã nghĩ: “Thằng nhỏ này thật là kỳ lạ. Mình chẳng hiểu người núp sau gốc cây kia có phải là Tạ Yên Khách hay không, nhưng cũng chẳng nên kết thêm cừu địch. Nhưng giả tỉ thằng lỏi con mới nói mấy câu mà mình đã rút lui, thì chẳng hóa ra Trường Lạc Bang của chúng ta khiếp nhược lắm ư?” Gã bèn giơ thanh quỷ đầu đao lên, bảo gã ăn xin: “Thằng nhãi kia! Bây giờ ta tỉ thí với ngươi. Ta chém liền ba mươi sáu đao, nếu ngươi vẫn đứng yên không nhúc nhích, thì coi như ta phục ngươi. Nếu ngươi sợ chết thì cút đi là hơn, đừng bướng bỉnh vô ích.”

Gã ăn xin đáp: “Ngươi chém liền ba mươi sáu đao thì ai mà không sợ?”

Gã cao kều nói: “Ngươi biết sợ là phải. Vậy ngươi mau mau tránh đi!”

Gã ăn xin nói: “Trong lòng ta tuy sợ, nhưng không chịu bỏ đi đâu.”

Gã cao kều giơ ngón tay cái lên khen: “Hay lắm! Ngươi có gan thì hãy xem lưỡi đao của ta đây!” Nghe vù một tiếng, thanh đao lạng qua đỉnh đầu gã ăn xin.

Tạ Yên Khách đứng sau gốc cây nhìn ra rất rõ ràng. Gã cao kều lướt đao qua hết sức nhẹ nhàng, chỉ vận sức ở cổ tay để ra chiêu, dùng kiếm pháp để sử đao. Tuy lão không biết chiêu thức đó tên là gì, nhưng gã này vung thanh quỷ đầu đao rất nặng mà coi nhẹ như không, thật không phải tầm thường.

Nhát đao này lướt qua sát đỉnh đầu gã ăn xin, hớt đứt một mảng tóc. Nhưng gã ăn xin đó lại rất cứng đầu cứng cổ, người gã vẫn đứng thẳng, hoàn toàn không nhúc nhích. Tiếp theo đao quang lấp lóe liên tiếp, tựa như con linh xà bò đi bò lại, thè lưỡi ra rồi lại rụt vào. Thanh đao quét tả chém hữu, nhát nào cũng gần sát đỉnh đầu gã ăn xin. Tóc gã bị lưỡi đao hớt rơi lả tả.

Gã cao nghêu chém đến đao thứ ba mươi hai thì hét lên một tiếng, quỷ đầu đao từ trên cao chém xuống. Nghe soạt một tiếng, tay áo bên phải của gã ăn xin bị đứt một miếng. Kế tiếp tay áo bên trái cũng mất một mảng. Tiếp theo là ống quần bên trái, ống quần bên phải chỉ trong nháy mắt đều bị cắt đứt. Gã cao kều thu đao về, chuôi đao tiện đà thích vào huyệt Đản Trung trước ngực Đại Bi Lão Nhân một cái thật mạnh. Đoạn gã cười ha hả nói: “Thằng nhãi này thật là hay, thật là giỏi.”

Tạ Yên Khách thấy gã cao kều dùng kiếm pháp để sử đao, ba mươi sáu chiêu liên miên không dứt mà không để lộ chút sơ hở nào thì không khỏi khen thầm. Đến lúc lão thấy hắn thu chiêu lại dùng chuôi đao điểm vào tử huyệt của Đại Bi Lão Nhân, thì không khỏi nghĩ thầm: “Tên này hạ thủ thật là ác độc!”

Đầu tóc bù xù của thằng bé ăn xin đã bị cạo qua ba mươi hai đao, biến thành trọc lóc chẳng khác gì đầu chú tiểu. Nó bị gã cao kều vung đao quét liền ba mươi mấy nhát mà không nhúc nhích, thì dĩ nhiên một phần là cố làm gan để bảo vệ sinh mạng cho Đại Bi Lão Nhân, còn một phần là sợ quá mà đứng ngây người ra. Có thể nói là không phải nó không thèm nhúc nhích, mà là không thể nhúc nhích được. Nó đợi gã cao kều thi triển xong ba mươi sáu đao mới sờ lên đầu mình, thấy còn nguyên chưa đứt thì thở phào một cái, hết sức nhẹ nhõm.

Đạo nhân mặt vàng cùng hán tử xấu xí thấy đao pháp của gã cao kều cực kỳ thần diệu, cùng lên tiếng khen ngợi: “Mễ hương chủ! Kiếm pháp của hương chủ thật là tuyệt diệu!”

Gã cao kều mỉm cười nói: “Vị tiểu bằng hữu này gan dạ hơn người, hôm nay chúng ta đành nhượng bộ một chút vậy. Đi thôi!”

Đạo nhân cùng hán tử xấu xí đều thấy Đại Bi Lão Nhân đã trúng một chuôi đao cực kỳ trầm trọng, chỉ còn thoi thóp thở, trong chốc lát là chết hẳn. Chúng liền rút lấy binh khí rồi rảo bước ra đi. Gã hán tử xấu xí đó chân bước loạng choạng, hình như bị thương cũng không phải nhẹ. Còn gã cao kều vung tay phóng ra một chưởng. Thanh trường kiếm đâm sâu vào cành cây hơn một thước bị chưởng lực của gã rung động làm bật ra ngoài, máu tươi trên vai Đại Bi Lão Nhân lập tức phun ra. Gã cao kều đưa tay ra đón lấy thanh kiếm, cười vang lên rồi bỏ đi, không nhìn đến Tạ Yên Khách đứng sau gốc cây lần nào nữa.

Tạ Yên Khách chau mày, nghĩ bụng: “Té ra gã cao kều này họ Mễ, là một hương chủ ở bang Trường Lạc. Gã thi triển mấy thủ pháp sau này hiển nhiên là muốn ta trông thấy. Kiếm pháp của gã tuy có mau lẹ hiểm độc, nhưng so với vợ chồng Thạch Thanh của Huyền Tố Trang thì nhiều chỗ không bằng. Chỉ bằng chút công phu này mà muốn ra oai trước mặt ta ư? Hà hà…” Theo tính khí bình thường của lão, gã họ Mễ này đã xuất hai chiêu để khoe khoang trước mặt, đáng lẽ phải tiến lên mà dạy cho gã một bài học, nếu đối phương có chút xíu gì bất kính thì phải giết luôn. Chỉ vì tâm nguyện của Huyền Thiết Lệnh còn chưa hoàn thành, thật sự lão không muốn lúc này lại rước thêm chuyện phiền hà, nên chỉ đứng xem một cách thản nhiên, không hề lộ diện.

Gã ăn xin quay lại hỏi Đại Bi lão nhân: “Lão bá! Lão bá để cháu buộc vết thương cho nhé.” Gã vừa nói vừa lượm mấy mảnh áo mà gã cao nghêu đã hớt đứt định buộc vết thương trên vai cho Đại Bi lão nhân.

Đại Bi lão nhân hai mắt nhắm nghiền, gắng gượng đáp: “Không… không cần nữa. Trong túi áo ta… có mấy cái tượng đất nhỏ… Ta… cho ngươi…” Lão nói xong, ngoẹo đầu ra mà chết, thân hình cao lớn từ từ tuột xuống gốc cây.

Gã ăn xin kinh hãi gọi luôn mấy tiếng: “Lão bá! Lão bá!…” Gã đưa tay ra định đỡ lão dậy, nhưng người Đại Bi Lão Nhân co rúm lại, không nhúc nhích được nữa.

Bây giờ Tạ Yên Khách mới ra khỏi gốc cây, đến bên gã ăn xin hỏi: “Trước khi chết ông ấy nói gì thế?”

Gã ăn xin đáp: “Lão bá nói là… trong túi có tượng đất gì đó, nói là cho cháu.”

Tạ Yên Khách nghĩ: “Đại Bi Lão Nhân là một quái kiệt trong võ lâm. Về võ học thì lão chẳng kém gì ta. Không chừng vật lão đem theo bên mình đó hết sức quan hệ.” Tuy lão nghĩ vậy, nhưng bản tính cao ngạo nên không thèm lấy, dù lão biết chắc trong mình Đại Bi Lão Nhân có vật kỳ bảo hiếm thấy trong đời thì cũng thế thôi. Lão bèn không nhìn đến, bỏ ra chỗ khác, rồi quay lại bảo gã ăn xin: “Lão đã cho ngươi, thì ngươi cứ lấy!”

Gã ăn xin hỏi lại: “Lão bá đã cho mà cháu lấy, thì có phải là thằng ăn cắp không?”

Tạ Yên Khách mỉm cười đáp: “Như thế không phải là thằng ăn cắp!”

Gã ăn xin bèn thò tay vào bọc Đại Bi Lão Nhân, lấy ra một cái hộp gỗ, mấy đỉnh bạc cùng bảy tám mũi ám khí. Ngoài ra còn có mấy phong thư, một bức họa, dường như là một tấm địa đồ. Tạ Yên Khách cũng tò mò muốn xem trong thư viết gì, và bức vẽ đó như thế nào. Nhưng lão lại nghĩ rằng, nếu mình mà động vào đó thì mất cả thể diện của một cao nhân trên chốn giang hồ, nên lại không động đậy.

Gã ăn xin mở cái hộp gỗ ra, trong đó nhét đầy bông gòn, lại có ba hàng tượng đồ chơi nặn bằng đất, mỗi hàng có sáu cái, tổng cộng là mười tám cái.

Thứ đồ chơi này rất tinh xảo, mỗi cái là tượng một người đàn ông trần truồng, bên ngoài sơn trắng và vẽ những vạch đỏ, lại còn vô số chấm đen, đều là phương vị của kinh mạch và huyệt đạo. Tạ Yên Khách vừa thấy là biết ngay những món đồ chơi này vẽ đồ phổ để luyện nội công thượng thặng, chắc là bí quyết về nội công của phái Bạch Kình. Hiển nhiên Đại Bi Lão Nhân đem lòng cảm kích thằng nhỏ liều mạng hộ vệ cho mình, dù chẳng thành công cũng là nghĩa cử của bậc anh hùng, nên tặng cho gã hết. Tạ Yên Khách nghĩ bụng: “Lão Đại Bi này lúc chết còn nói chuyện ân tình vớ vẩn. Giả tỉ lão chẳng cho, thì nó cũng sờ vào tử thi, có cái gì mà chẳng lấy chơi?”

Thằng bé ăn xin thấy nhiều tượng đất thì hết sức thích thú, lại nghĩ: “Không hiểu sao chúng không mặc áo quần chi hết. Nếu má má chịu may y phục cho chúng mặc thì thật là tuyệt diệu.”

Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Tuy Đại Bi lão nhân với mình có điều xích mích, nhưng dù sao lão cũng là một nhân vật lừng danh trong võ lâm, không nên để thi thể lộ ra nơi hoang dã.” Lão bèn cất tiếng hỏi: “Lão bằng hữu của ngươi chết rồi, ngươi không mai táng ông ấy ư?”

Gã ăn xin vội đáp: “Có chứ, có chứ! Không hiểu phải mai táng như thế nào?”

Tạ Yên Khách hững hờ đáp: “Nếu ngươi có sức thì đào một cái hố mà chôn xuống đất. Nếu ngươi không đủ sức thì dùng một cái xẻng xúc đá phủ lên người lão cho kín cũng được rồi.”

Gã ăn xin nói: “Ở đây chẳng có cuốc xẻng, không thể đào hố. Để cháu lấy đất đá cành cây phủ lên thi thể vậy.” Rồi nó đi bốc đất, khuân đá, thu lượm cành cây phủ lấp lên thi thể Đại Bi Lão Nhân. Nó tuổi nhỏ sức yếu, cực nhọc lắm mới lấp xong xác chết, mệt quá mồ hôi toát ra đầm đìa.

Tạ Yên Khách đứng một bên, không hề ra tay giúp đỡ. Lão đợi nó chật vật lấp xong xác chết rồi bảo: “Chúng ta đi thôi!”

Gã ăn xin hỏi: “Đi đâu bây giờ? Cháu mệt lắm rồi, không đi với lão bá nữa.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Sao ngươi lại không đi với ta?”

Gã ăn xin đáp: “Cháu còn phải đi kiếm má má và A Hoàng.”

Tạ Yên Khách băn khoăn nghĩ thầm: “Đến bây giờ thằng lỏi này vẫn chưa mở miệng xin mình một điều gì. Nếu nó không chịu đi theo mình nữa, thì thật là một điều nan giải, mình không thể dùng sức mà cưỡng bách nó đi theo được.” Lão tần ngần một lúc rồi lại nghĩ: “Ngày trước mình phát thệ, chỉ thề là không dùng cường lực để bức bách người trao Huyền Thiết Lệnh, không thề là không được lừa người. Bây giờ ta phải lừa gạt nó cho được việc.” Quyết định xong, lão nói: “Ngươi cứ đi với ta. Ta dẫn ngươi đi tìm má má và con A Hoàng.”

Gã ăn xin cả mừng đáp: “Hay lắm! Cháu đi theo lão bá. Bản lãnh lão bá rất cao, nhất định sẽ tìm thấy má má cùng A Hoàng.”

Tạ Yên Khách lại nghĩ: “Nói nhiều vô ích, may mà nó vẫn chưa mở miệng chính thức nhờ mình đi kiếm mẫu thân và con chó kia. Giả tỉ nó lên tiếng cầu xin thì mình thật là khó xử.” Lão vội nắm lấy tay thằng nhỏ rồi bảo: “Chúng ta đi lẹ lên!”

Gã ăn xin vừa “Vâng” một tiếng thì chợt thấy người mình được kéo đi như bay. Miệng gã không ngớt la lên: “Thích quá! Thích quá!” Thì ra Tạ Yên Khách đã thi triển khinh công, vận nội lực lôi gã đi rất nhanh. Gã ăn xin thấy gió thổi vào mặt mát lạnh, cây hai bên đường vèo vèo chạy lùi lại phía sau, bèn trầm trồ khen ngợi: “Lão bá giỏi quá! Lão bá dắt cháu chạy nhanh thế này thì ghê thực!”

* * *

Hai người chạy đến tối mịt, chẳng hiểu đã chạy được bao nhiêu đường đất. Đến một khu rừng núi âm u, Tạ Yên Khách mới buông tay.

Gã ăn xin cảm thấy cặp giò nhũn ra, người loạng choạng rồi ngồi phệt xuống đất. Nó vừa ngồi xuống thì hai chân đau đớn vô cùng, chỉ một lúc chân đã sưng lên đỏ ửng. Nó kinh hãi la lên: “Lão bá! Hai chân cháu bị sưng lên rồi!”

Tạ Yên Khách nói: “Nếu ngươi xin ta chữa cho, thì ta lập tức làm cho chân ngươi khỏi sưng và hết đau ngay.”

Gã ăn xin đáp: “Nếu lão bá chịu chữa cho cháu khỏi, thì đương nhiên cháu phải biết ơn lão bá rồi.”

Tạ Yên Khách chau mày hỏi: “Có thật là trước nay ngươi chưa chịu mở miệng cầu xin ai cái gì không?”

Gã ăn xin nói: “Nếu lão bá muốn chữa trị cho cháu thì hà tất cháu phải năn nỉ. Nếu lão bá không muốn thì cháu có cầu xin cũng vô ích.”

Tạ Yên Khách hỏi: “Sao lại vô ích?”

Gã ăn xin đáp: “Lão bá đã không muốn chữa, thì dù cháu có khóc lóc lão bá cũng không chữa, lại còn khó chịu hơn là khác.”

Tạ Yên Khách hắng giọng rồi nói: “Ta chẳng khó chịu chi hết. Thôi bây giờ ngủ lại đây đi.” Trong lòng lão nghĩ: “Thằng bé này đã không chịu mở miệng cầu xin người khác, mà gọi nó bằng gã ăn xin thì thật là không hợp lý.”

Thằng bé ngồi tựa vào một gốc cây. Tuy hai chân đau đớn, nhưng nó chạy nửa ngày đã mệt nhoài nên chẳng bao lâu là ngủ thiếp đi, quên cả đói khát. Tạ Yên Khách nhảy lên ngọn cây mà ngủ. Lão chỉ mong nửa đêm có thú dữ qua đây ăn thịt thằng bé để giải quyết chuyện rắc rối giúp lão. Ngờ đâu suốt đêm cả con thỏ dại cũng không thấy bò ra, đừng nói đến mãnh thú. Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Ta đành dắt nó lên Ma Thiên Nhai. Nếu nó mở miệng cầu xin ta một việc dễ dàng thì may mắn, bằng không thì ta sẽ tìm cách kết liễu tính mạng nó đi là xong. Một thằng lỏi con mà mình cũng không xử lý xong, thì còn xưng là Ma Thiên Cư Sĩ thế nào được?”

Sáng sớm hôm sau Tạ Yên Khách lại dắt tay thằng bé đưa đi. Nó mới đi được mấy bước thì chân tựa hồ có hàng ngàn mũi kim nhọn đâm vào, đau quá không nhịn được phải “úi chao” một tiếng. Tạ Yên Khách hỏi: “Ngươi làm sao vậy?”

Lão đã chắc mẩm là nó sẽ yêu cầu mình ngồi nghỉ, không ngờ nó lại đáp: “Không sao hết. Chân cháu chỉ hơi đau một chút. Chúng ta đi thôi!” Tạ Yên Khách không biết làm thế nào, tức quá lôi nó chạy như bay.

Tạ Yên Khách chân không ngừng bước, mỗi lúc đi qua thị trấn lại tiện tay lấy bánh lấy thịt trong hàng cơm, đem theo vừa đi vừa ăn. Lão đưa cho thằng bé cái gì thì nó ăn cái ấy, không cho thì thôi, nó không xin xỏ lần nào. Hai người chạy luôn mấy ngày như vậy, đến ngày thứ sáu thì tới một nơi toàn núi non hiểm trở. Thằng bé tuy không hiểu võ công, nhưng Tạ Yên Khách dắt tới đâu thì nó vẫn đi tới đó được. Trong lòng Tạ Yên Khách chỉ mong nó xin được nghỉ ngơi, nhưng nó mãi không mở miệng, về sau thì lão cũng không nhịn nổi, phải khâm phục tính khí ngang nhiên cứng cổ của nó.

Hai người lại đi thêm mấy ngày, đường núi ngày càng dựng đứng, thằng bé khó mà trèo lên được. Tạ Yên Khách đành cõng nó lên lưng, dù gặp vách núi dựng thẳng hay sườn đồi cheo leo, lão vẫn chạy lên một cách dễ dàng. Thằng bé thấy vậy kinh hãi vô cùng, tim đập loạn xạ. Nhiều chỗ nguy hiểm quá, nó phải nhắm mắt lại không dám nhìn đến.

Một hôm vào giờ Ngọ, Tạ Yên Khách trèo đến một vách núi dựng đứng, liền đưa tay ra nắm lấy một sợi dây sắt thòng từ trên đỉnh núi xuống để trèo lên. Đây là một ngọn núi trọc, sườn núi lại trơn tuột không có chỗ đặt chân. Nếu không có sợi dây sắt này, dù võ công Tạ Yên Khách có cao thâm hơn nữa cũng không thể trèo lên được. Lên đến đỉnh núi, Tạ Yên Khách đặt thằng bé xuống nói: “Đây là Ma Thiên Nhai. Ngoại hiệu của ta là Ma Thiên Cư Sĩ, chính là lấy tên ngọn núi này. Bây giờ ngươi ở đây với ta.”

Thằng bé đảo mắt nhìn bốn phía, thấy đỉnh núi này cũng khá rộng rãi, chung quanh toàn là mây. Nó thấy mình đứng giữa mây, bất giác trong lòng kinh hãi hỏi: “Lão bá nói là dẫn cháu đi kiếm má má cùng A Hoàng kia mà?”

Tạ Yên Khách lạnh lùng đáp: “Thiên hạ bao la rộng lớn như thế, ta biết đi đâu tìm cho thấy mẫu thân ngươi? Bây giờ chúng ta hãy chờ ở đây, không chừng có một ngày mẫu thân ngươi sẽ dẫn A Hoàng đến đây tìm ngươi cũng không biết chừng.”

Thằng bé tuy còn nhỏ tuổi chưa biết gì, nhưng cũng hiểu là Tạ Yên Khách lừa gạt nó, vì ngọn núi cực kỳ hiểm trở, hoang sơ hẻo lánh thế này thì má má biết đâu mà tìm đến, cũng chẳng trèo lên đây được. A Hoàng thì lại càng không thể. Nó đứng thộn mặt ra, không biết phải nói gì nữa.

Tạ Yên Khách nói: “Bao giờ ngươi muốn xuống núi thì xin ta một tiếng, ta sẽ lập tức đưa ngươi xuống!” Lão nghĩ: “Ta không cho ngươi cái gì mà ăn, bảo đảm ngươi không nhịn nổi. Để xem lúc ngươi đói rã họng thì có mở miệng cầu xin ta không?”

Mẫu thân thằng bé tuy lạnh nhạt với nó, nhưng cũng chưa hề gạt nó bao giờ. Đây là lần đầu tiên nó bị người ta lừa gạt, nước mắt chảy quanh nhưng cố giữ cho khỏi trào ra. Tạ Yên Khách đi vào trong sơn động, lát sau khói đen trong động bốc ra nghi ngút. Thì ra lão vào động để nấu ăn. Một lúc sau, mùi thơm của thức ăn đưa ra ngào ngạt. Thằng bé đã đói meo, liền đi vào trong, thì thấy sơn động này rất rộng.

Tạ Yên Khách cố ý bày thức ăn ra trước mặt nó, khiến nó thèm thuồng mà phải xin mình cho ăn. Ngờ đâu, từ nhỏ nó chỉ ở với mẫu thân, chưa biết phân biệt của người hay của ta, hễ muốn ăn gì thì lấy, không hỏi xin bao giờ. Bây giờ nó thấy trên bàn đá đặt một đĩa thịt ướp và một nồi cơm, liền tự mình lấy đũa xới cơm, rồi ngồi xuống cầm đũa gắp thịt ăn tự nhiên.

Tạ Yên Khách thộn mặt ra nghĩ thầm: “Dọc đường đi, nó đã mời mình ăn bánh bao, ăn táo, ăn cơm, uống rượu. Nếu bây giờ không cho nó ăn thì rõ ràng Tạ mỗ không có nghĩa khí.” Lão nghĩ vậy, nên để mặc. Cứ như thế, hai người không nói chuyện gì, cứ cúi xuống ăn. Thằng bé ăn no bụng rồi tự động đi rửa chén bát nồi niêu, rồi lại đi bổ củi. Đó là những việc thông thường mà nó vẫn quen làm khi còn ở với mẫu thân.

Một hôm, nó chặt củi xong, toan gánh về sơn động thì bỗng nghe trong bụi rậm có tiếng xào xạc, rồi một con chồn nhảy ra. Thằng bé liền giơ búa lên đập trúng đầu, con vật chết ngay lập tức. Nó đem con chồn xuống khe suối mổ rửa sạch sẽ rồi đem về sơn động, chặt con chồn ra làm đôi, đem một nửa treo lên phơi khô, còn hai đùi thì cắt ra bỏ vào nồi nấu.

Tạ Yên Khách ngửi thấy mùi thịt chồn thơm ngon, liền lấy cái muôi gỗ múc một chút nếm thử, bất giác khoan khoái vô cùng. Món thịt chồn này rất ngon, so với lão thì thằng bé nấu nướng ngon gấp mười lần. Tạ Yên Khách nghĩ bụng: “Thật không ngờ thằng lỏi này lại nấu ăn giỏi như thế, sau này chắc ta thường được ăn ngon miệng. Nhưng nó đã biết săn bắn lại biết nấu nướng thì chẳng cần xin ta xuống núi, ta cũng không làm gì nó được.”

Mấy ngày sau thằng bé cứ ở trên Ma Thiên Nhai mà chăng lưới giăng bẫy, bắt chim chóc cùng dã thú. Chuyện này thì nó khá thạo, ngày nào cũng kiếm được thịt tươi để cùng ăn với Tạ Yên Khách, ăn không hết thì lại đem phơi khô hoặc ướp muối. Nghề làm bếp của nó thật có chỗ độc đáo, dù ở nơi núi thẳm rừng sâu mà vẫn nấu được ngon lành, Tạ Yên Khách cứ vừa ăn vừa khen ngợi. Có lần lão hỏi đến cách nấu ăn thì thằng bé nói là do mẫu thân dạy bảo. Hỏi tiếp, lão mới biết mẹ nó tuy nấu nướng rất giỏi, nhưng vừa nóng nảy vừa lười biếng. Mười bữa thì nó nấu hết chín bữa, nếu món nào nấu không hợp khẩu vị, bà ta mà vui thì chỉ bảo cho, còn không vui thì la mắng. Tạ Yên Khách nghĩ: “Mẹ của nó nấu ăn ngon như thế thì tất cũng thông minh lắm. Chắc mụ nhà quê này bị chồng ruồng bỏ nên mới ngang chướng như thế, mà cũng không chừng vì tính tình ngang chướng nên mới bị chồng ruồng bỏ.”

Tạ Yên Khách thấy thằng bé rất ít khi nói chuyện thì không khỏi ngấm ngầm sầu muộn. Lão nghĩ bụng: “Vụ này mà không giải quyết cho xong thì cũng là một cái họa trong lòng. Giả tỉ một ngày nào đó, có tên nào xúi nó yêu cầu mình tự phế võ công, hoặc tự chặt chân tay thành người tàn phế, thì thật là nguy hiểm. Không chừng nó lại yêu cầu mình suốt đời không được rời khỏi Ma Thiên Nhai, thế thì Tạ Yên Khách này biến thành một tên tù bị nhốt ở chốn rừng núi hoang vu này hay sao? Cho dù nó chỉ nhờ ta đi tìm mẹ và con chó A Hoàng, thì cũng là chuyện đau đầu lắm rồi.”

Tuy Tạ Yên Khách là người thông minh, lắm mưu nhiều trí, mà nghĩ mãi vẫn không ra kế hoạch gì.

* * *

Một hôm trời đã xế chiều, Tạ Yên Khách chắp hai tay lưng, lững thững thả bước trong rừng. Lão chợt thấy thằng bé đang đứng tựa lưng vào một khối đá, vẻ mặt tươi cười hớn hở nhìn vật gì trên tảng đá. Tạ Yên Khách chú ý nhìn kỹ, thì ra đó là mười tám pho tượng nhỏ xíu mà Đại Bi Lão Nhân đã cho nó. Thằng bé để mỗi pho tượng một chỗ, có lúc bày tượng thành hàng, có lúc bày thành trận thế đánh nhau. Nó nhìn ngắm ra chiều thích thú lắm.

Tạ Yên Khách lẩm bẩm: “Năm xưa Đại Bi Lão Nhân cùng ta tỉ thí trên núi Bắc Mang, chưởng pháp của lão đã mãnh liệt mà phép cầm nã cũng thần tốc biến ảo phi thường. Đánh nhau tới nửa giờ, lão mới thua một chiêu Khống Hạc Công của ta, lập tức nhận kém rút lui. Võ công lão tuy cao thâm, nhưng chỉ sở trường về ngoại gia công phu. Vậy đồ hình nội công vẽ trên tượng đất này chắc cũng chỉ thô sơ, chẳng đáng làm trò cười cho người khác.”

Lão cầm lấy một hình nhân đưa lên xem, thì thấy trên tượng có vẽ những huyệt đạo Dũng Tuyền, Nhiên Cốc, Chiếu Hải, Thái Khuê, Thủy Tuyền, Thái Chung, Phục Lựu, Giao Tín từ dưới chân ngược lên đến bụng. Còn phần trên là những huyệt Hoành Cốt, Thái Hách, Khí Huyệt, Tứ Mãn, Trung Chú, Mang Du, Thương Khúc tụ cả vào huyệt Liêm Tuyền ở dưới lưỡi. Lão biết ngay đó chính là họa đồ Túc Thiếu Âm Thận Kinh, vẽ thành một đường chỉ đỏ chạy từ bàn chân lên đến cổ họng. Lão nghĩ thầm: “Đây tuy là phép luyện nội công chính phái. Các môn phái lớn đều dùng phương pháp tương tự để luyện từ lúc nhập môn, chẳng có chi là đặc biệt. Phải rồi! Đại Bi Lão Nhân suốt đời chỉ rèn luyện ngoại công, nên mới đến tuổi tráng niên đã lăn lộn khắp giang hồ, mà rốt cuộc bản lãnh cũng chẳng bằng người. Không hiểu lão tìm đâu được mười tám cái tượng đất này, chắc là để kiêm luyện cả hai mặt nội ngoại công, không chừng thua dưới tay ta mới nghĩ đến chuyện này. Nhưng luyện nội công thượng thặng đâu phải chuyện một sớm một chiều? Huống chi, lão đã tuổi ngoại thất tuần, nội công phải đem xuống âm phủ mà luyện mới xong.”

Nghĩ tới đây, bất giác lão nổi lên một tràng cười ha hả. Thằng bé thấy Tạ Yên Khách ngó tượng đất của mình rồi cười rộ, thì cũng cười theo: “Lão bá nhìn xem, những tượng này đều có râu trên mặt, tất nhiên không phải là trẻ nít, thế mà lại chẳng mặc quần áo, trông thật là buồn cười.”

Tạ Yên Khách đáp: “Đúng rồi! Thật là tức cười!” Lão xem tiếp những pho tượng khác, thì thấy trên mười hai pho tượng có vẽ các kinh mạch là Thủ Thái Âm Phế Kinh, Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, Thủ Thái Dương Tiểu Trường Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Túc Thiếu Âm Thận Kinh, Thủ Thiếu Âm Tâm Bao Kinh, Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh. Đó là mười hai kinh mạch chính. Còn sáu tượng kia thì vẽ Nhâm Mạch, Đốc Mạch, Âm Duy, Dương Duy, Âm Khiếu và Dương Khiếu.

Trong kỳ kinh bát mạch thì phức tạp khó hiểu nhất là Xung Mạch và Đới Mạch, hai mạch này cũng được vẽ rất rõ ràng. Tạ Yên Khách nghĩ thầm: “Đây hình như là nội công nhập môn của phái Thiếu Lâm. Đại Bi Lão Nhân coi đây là bảo bối nên mới giấu trong mình, nhưng hãy còn khiếm khuyết chưa đầy đủ. Thật ra nếu lão muốn luyện nội công thượng thặng thì những cái nông cạn khiếm khuyết này đã ăn thua gì? Chỉ cần một gã đệ tử tầm thường ở chính phái nội gia chỉ bảo vài tháng là hiểu rõ ngay. Nhưng lão đã là tiền bối nổi tiếng võ lâm, khi nào lại hạ mình đi cầu người chỉ dẫn?” Nghĩ tới đó, Tạ Yên Khách cũng thấy thương hại đôi chút.

Tạ Yên Khách nhớ lại năm xưa cùng Đại Bi Lão Nhân tỉ đấu ở núi Bắc Mang, tuy có thắng được một chiêu, nhưng cũng dựa vào may mắn mà thôi.

Lão lại nghĩ: “May mà Đại Bi Lão Nhân không có căn bản nội công. Giả tỉ hồi còn thiếu niên mà lão được luyện nội công, thì chỉ sợ chưa tới ba trăm chiêu mình đã bị lão hất xuống vực thẳm rồi. Ha ha! Lão chết là hay lắm! Hay lắm!”

Trên mặt của Tạ Yên Khách lộ ra một nụ cười, toan quay lưng bước đi, nhưng đột nhiên lão sực nghĩ ra mộ chuyện: “Thằng lỏi này đang ngắm nghía tượng đất tới chỗ say sưa. Sao mình không nhân cơ hội này chỉ điểm cho nó học nội công theo hình tượng, rồi dẫn dụ nó tẩu hỏa nhập ma, nội lực xung tâm mà chết. Lời thề năm trước chỉ nói là ta không dùng sức, dù chỉ là một ngón tay, để hại người đã trao Huyền Thiết Lệnh cho mình. Nhưng đây là chính nó luyện nội công mà chết, chứ đâu phải ta giết? Cho dù mình bày kế dụ nó phải uổng mạng, cũng không phải là dùng sức để hại gã, không trái với lời thề. Phải lắm, phải lắm! Mình cứ thế mà làm.”

Tạ Yên Khách trước nay hành sự chỉ theo ý mình, bất phân thiện ác. Lão rất trọng chữ tín, đã nói ra cái gì là làm đúng theo cái ấy, còn những chuyện nhân nghĩa đạo đức trong mắt lão thì không đáng một đồng. Lão cầm pho tượng vẽ kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh giơ lên hỏi: “Thằng nhóc kia! Ngươi có biết những chấm đen và chỉ đỏ này là cái gì không?”

Thằng bé suy nghĩ một chút rồi đáp: “Đây chắc là người đất mắc bệnh.”

Tạ Yên Khách tức cười hỏi lại: “Sao lại nói nó mắc bệnh?”

Thằng bé đáp: “Năm ngoái cháu bị bệnh, khắp người cũng nổi những chấm đỏ.”

Tạ Yên Khách bật cười nói: “Đó là ngươi bị phát ban, còn đây là tượng đất thì có ốm đau gì được đâu? Những điểm này là bí quyết về võ học do người ta vẽ vào. Ngươi đã thấy ta cõng ngươi bay lên núi rồi đó, biết võ công thì có tốt hơn không?”

Lão nói tới đây, vì muốn cho thằng bé nổi lòng muốn học võ, liền điểm chân xuống đất, vọt người thẳng lên đánh vù một cái, nhảy lên ngọn cây thông. Lão điểm chân trái vào một cành cây để mượn đà nhảy vọt cao hơn nữa, cứ như bay lên tới trời, rồi từ từ hạ mình xuống cành cây. Lão hạ mình xuống rồi lại vọt lên ba lần như vậy, thì vừa lúc có hai con chim sẻ bay ngang. Tạ Yên Khách muốn khoe tài, bèn vươn hai tay ra chộp lấy hai con sẻ, rồi từ từ hạ xuống đất.

Thằng bé thích quá vỗ tay cười nói: “Lão bá giỏi quá! Giỏi quá!” Tạ Yên Khách xòe hai bàn tay ra, hai con sẻ vỗ cánh toan bay đi. Nhưng nó chỉ vỗ cánh chứ bay lên không được, vì lão đã vận nội lực vào lòng bàn tay, hút giữ lại. Thằng bé thấy hai con chim đập cánh mãi mà vẫn không bay thoát khỏi bàn tay đang mở, phấn khởi hoan hô: “Hay quá, hay quá!”

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Ngươi lại đây thử xem!”, rồi đặt hai con sẻ vào lòng bàn tay nó. Thằng bé nắm chặt lấy, không dám xòe bàn tay ra. Tạ Yên Khách lại tiếp: “Những nét vẽ trên tượng đất này là để dạy cho người ta luyện công. Ngươi đã liều mạng để giúp Đại Bi Lão Nhân, lão cảm on ngươi mới cho ngươi mấy món quý báu này. Ngươi đừng tưởng đó là đồ chơi, chỉ cần học theo hình vẽ trên tượng này thì có thể xòe bàn tay ra mà con chim không bay lên được.”

Thằng bé nói: “Trò này hay lắm! Cháu muốn tập, nhưng làm sao mà tập được?” Rồi nó xòe hai bàn tay ra, hai con sẻ chỉ vỗ cánh một cái là bay vù đi mất. Tạ Yên Khách ha hả cười lớn tiếng, thằng bé cũng ngây ngô cười theo.

Tạ Yên Khách nói: “Nếu ngươi xin ta dạy cho ngươi bản lãnh này thì ta có thể dạy cho ngươi, sau khi học xong thì vui thú vô cùng, ngươi có thể tự mình lên núi xuống núi mà không cần ta dắt.” Sắc mặt thằng bé phấn khởi hẳn lên. Tạ Yên Khách chăm chú nhìn, chỉ mong nó nói ra mấy chữ “xin lão bá dạy cho cháu.” Lão chờ đợi nôn nóng quá, hơi thở như cũng nặng nề hơn.

Qua một lúc sau, thằng bé mới nói: “Nếu cháu xin lão bá, thì lão bá sẽ đánh cháu mất. Cháu nhất định không cầu xin lão bá.”

Tạ Yên Khách nói: “Ngươi cứ xin đi, ta đã nói là không đánh ngươi mà. Ngươi đi theo ta lâu rồi, ta đã đánh ngươi bao giờ chưa?”

Thằng bé lắc đầu nói: “Chưa. Cháu cũng muốn học, nhưng cháu không xin ông dạy đâu.” Nó ở với mẹ từ nhỏ, đã chịu không biết bao nhiêu cực khổ, những kỷ niệm đó đã ăn sâu vào lòng. Bất kề nó mở miệng cầu xin chuyện gì, chắc chắn bị đòn lập tức, mà sau mỗi lần như thế thì mẹ nó lại khóc lóc mấy ngày không vui lên được. Mẹ nó thường quát tháo: “Con người vô lương tâm kia, ngày nào đêm nào ta cũng đợi ngươi cầu xin ta, mà đợi suốt mấy năm ngươi vẫn không đến, lại đi cầu xin con tiểu tiện nhân thua kém ta đủ mọi thứ. Bây giờ còn đến cầu xin ta làm gì nữa?” Nó nghe không hiểu gì, rồi lại bị mẹ mắng tiếp: “Bây giờ ngươi đến cầu xin ta thì đã trễ rồi, sao trước kia không đến?” Rồi bà lại xách cây đập lên đầu nó. Cảm giác bị mắng, bị đánh mà không hiểu tại sao thật là khó chịu. Nó cứ ăn đòn no nê như thế, lúc lên tám chín tuổi thì không thèm cầu xin mẹ một cái gì nữa. Lúc này nó ở chung với Tạ Yên Khách nơi rừng núi hoang vu, hoàn toàn không khác gì như khi còn ở với mẹ, nên bất giác trong lòng cũng đã coi lão bá này như mẹ của mình.

Trên mặt Tạ Yên Khách thoáng hiện ánh xanh, nghĩ bụng: “Vừa rồi giả tỉ ngươi mở miệng cầu xin, giúp ta hoàn thành tâm nguyện, thì ta chắc chắn dạy ngươi đủ bản lãnh để ngạo thị võ lâm. Thế mà ngươi lại tự tìm vào con đường chết, sau này không thể trách ta được.” Lão bèn gật đầu nói: “Được, ngươi không xin ta, nhưng ta cũng dạy cho ngươi.” Rồi lão cầm lấy pho tượng đất có vẽ kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh, giải thích và chỉ rõ vị trí và tên gọi của các huyệt đạo trên kinh mạch đó.

Thằng bé này thiên tư cũng không đến nỗi ngu dại, đã nghe là nhớ kỹ, chỗ nào không hiểu thì hỏi lại ngay. Tạ Yên Khách cũng dạy nó không giấu giếm gì, lại còn truyền thêm phương pháp luyện khí, bắt nó phải tự tập luyện lấy.

Sau hơn nửa năm, thằng bé đã luyện được thành thuộc cách vận khí theo kinh mạch Túc Thiếu Âm Thận Kinh. Tạ Yên Khách thấy nó tiến triển rất nhanh chóng, nghĩ thầm: “Xem ra cái thằng Chó Lộn Giống này lại có thiên bẩm rất tốt, luyện võ rất nhanh. Nhưng ngươi luyện càng nhanh thì chết càng sớm thôi.” Lão lại dạy cho nó về kinh mạch Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh, rồi cứ dần dần theo từng pho tượng một.

Thấm thoắt hai năm, thằng bé lại học xong thêm Thủ Thiếu Âm Tâm Bao Kinh, Túc Thái Âm Tì Kinh, Thủ Thái Âm Phế Kinh, Túc Quyết Âm Can Kinh, tổng số sáu âm kinh mạch này. Sau đó nó lại luyện tiếp Âm Duy và Âm Khiếu.

Thời gian này, thằng bé cứ siêng năng luyện nội công mỗi ngày ba lần sáng trưa chiều, lại vẫn tiếp tục săn bắt, nấu nướng, hoàn toàn không nghi ngờ Tạ Yên Khách dạy cho nó là có tư tâm. Lão cứ hướng nó tập luyện theo âm hàn, về sau lúc nào thân thể nó cũng thấy lạnh buốt, giá rét cơ hồ không chịu nổi. Tạ Yên Khách lại nói rằng những hiện tượng này, người luyện võ nào cũng phải gặp, nên nó cũng không lưu tâm lắm.

Nào ngờ Tạ Yên Khách lại nham hiểm đến thế, tuy dạy dỗ nó luyện công không có gì dối trá, nhưng thứ tự lại hoàn toàn đảo ngược. Lẽ ra thì thủy hỏa phải hòa hợp, âm dương phải tương tế, sau khi luyện Túc Thiếu Âm Thận Kinh thì phải luyện Túc Thiếu Dương Đảm Kinh, để Thiếu Dương và Thiếu Âm dung hợp mà điều hòa, khí lực mới dần dần tiến triển. Thế mà Tạ Yên Khách lại bảo nó luyện Thiếu Âm, Thái Âm, Âm Duy, Âm Khiếu, còn những kinh mạch về dương cương như Thiếu Dương, Dương Minh thì hoàn toàn không luyện. Vì thế mà sau mấy năm, âm khí trong người thằng bé đã rất dồi dào, nhưng dương khí thì không có chút nào. Âm hàn tích tụ đã trở thành cực kỳ nguy hiểm, chỉ cần một chút sai lệch là không sao cứu chữa được nữa.

Tạ Yên Khách thấy nó đến lúc này còn chưa chết thì rất kinh ngạc, suy nghĩ mãi mới hiểu ra. Thằng bé này đầu óc chưa được mở mang, chuyện đời hoàn toàn không biết, trong lòng không có tạp niệm, vì thế mới không bị tẩu hỏa nhập ma. Nếu là người khác thì trong suốt mấy năm này dĩ nhiên phải có vui buồn giận ghét, chỉ cần thất tình lục dục nổi lên, chân khí lập tức hỗn loạn mà chết từ lâu rồi. Lão lại nghĩ: “E rằng thằng Cẩu Tạp Chủng này còn sống với ta trên núi nhiều năm. Nếu thả nó xuống núi, vào trong thế giới phồn hoa đó chỉ vài ngày là cái mạng nhỏ xíu của nó đi đời lập tức. Nhưng nó mà xuống núi không chừng lại gặp phải nhân vật võ lâm, chỉ cần thằng Chó Lộn Giống này còn thở là bọn chúng lại có thể lợi dụng nó để uy hiếp ta. Mối hiểm họa này nhất định không thể coi thường.”

Tạ Yên Khách suy nghĩ một lúc, lại nảy ra một ý: “Bây giờ ta dạy thêm cho nó những mạch Cửu Dương, mà không dạy phương pháp phối hợp âm dương. Đến khi dương khí của nó tích tụ, một lúc nào đó âm dương sẽ xung khắc, long hổ sát đấu không chết không thôi. Cho dù trong lòng nó không khởi tạp niệm gì, nhưng nội tức không điều hòa cũng đủ bỏ mạng. Đúng vậy, ta cứ thế mà làm.”

Lão bèn truyền cho nó phương pháp luyện các dương kinh mạch. Lần này lão không dạy theo thứ tự từ Thiếu Dương trước, mà lại bắt đầu từ chỗ khó nhất là mạch Dương Khiếu. Lẽ ra luyện xong mạch này thì đến giai đoạn đả thông Nhâm Đốc, âm dương được tương thông, nhưng thằng bé làm sao mà luyện ngay lúc này được? Nhưng đó là theo đúng ý đồ của Tạ Yên Khách, nên lão cứ mặc kệ.

Thằng bé cứ theo phương pháp đó mà tu luyện, tuy tiến bộ chậm, nhưng nó hết sức kiên trì và có nghị lực, nên sau hơn một năm cũng luyện xong mạch Dương Khiếu. Từ đó trở đi, nó càng luyện càng thấy dễ dàng hơn.

Cứ mỗi lần gạo muối rượu tương trên núi sắp hết thì Tạ Yên Khách lại dẫn thằng bé xuống núi để mua. Lão không dám để nó một mình trên núi, chỉ sợ có ai thừa cơ hội lên cướp nó đi, thì sinh mạng của lão coi như giao vào tay người khác. Mỗi năm hai người đều xuống núi vài lần, vào một thị trấn nhỏ mua sắm rồi lập tức trở về, chưa từng ở lâu. Thằng bé ngày càng cao lớn, quần áo giày dép đều phải mua những thứ lớn hơn.

Thằng bé ăn xin năm nào nay đã trở thành một thiếu niên mười tám mười chín tuổi, thân thể rất cường tráng, cao hơn Tạ Yên Khách nửa cái đầu. Tạ Yên Khách ngoài việc truyền thụ nội công thì hoàn toàn không dạy bảo nó gì khác, cũng may thiếu niên này từ nhỏ đã ở với một bà mẹ lạnh lùng như thế, nên cũng quen rồi. Mẹ của nó còn thường xuyên la mắng nó, chứ Tạ Yên Khách thì không cười đùa, không giận dữ, lại càng không đánh đập nó bao giờ. Trên núi không có việc gì phải lo lắng phân tâm, ngoài những lúc săn bắn và nấu nướng ra, chàng thiếu niên cứ lo tập võ để lấp đầy thời gian trống. Những kinh mạch âm dương chàng đều đã luyện thành thuộc hết.

Năm Tạ Yên Khách ba mươi tuổi, lão gặp một việc không vừa ý nên chọn Ma Thiên Nhai để ẩn cư, rất ít khi lui tới giang hồ. Mấy năm gần đây lão phải ở chung với chàng thiếu niên này không dám rời đi, ngoài việc luyện tập công phu bản môn, lại còn sáng tác ra một đường quyền pháp và một đường chưởng pháp.

* * *

Một hôm Tạ Yên Khách dậy rất sớm, đã thấy chàng thiếu niên đang ngồi xếp bằng luyện công trên một tảng đá, quay về hướng mặt trời mọc. Nửa mặt bên phải của nó đã hơi có khí trắng xông lên, nội lực đã sắp đến lúc đủ hỏa hầu. Tạ Yên Khác không nén nổi phải gật gật đầu, trong lòng nghĩ: “Thằng nhóc này đã đặt một chân vào quỷ môn quan rồi.” Lão biết nó luyện như thế phải một lúc lâu mới dừng lại được, liền thi triển khinh công chạy đến khu rừng ở sau núi. Sương sớm còn chưa khô, trong rừng hết sức tĩnh mịch. Tạ Yên Khách hít một hơi rất sâu rồi từ từ nhả ra, đột nhiên hướng tay trái về phía trước, hữu chưởng đánh ra, thân thể di chuyển giữa mười mấy cây thông luồn qua lách lại, càng chạy càng nhanh. Song chưởng phát ra chỉ nghe những tiếng va chạm nhẹ nhàng trên cành cây, bước chân càng lúc càng nhanh, nhưng xuất chưởng thì càng ngày càng chậm.

Bộ pháp nhanh mà không gấp gáp, chưởng pháp thư thái mà không kém phần hiểm độc, đó chính là cảnh giới thượng thừa của võ công. Tạ Yên Khách luyện đến chỗ hưng phấn, quát lên một tiếng rồi vỗ hai bàn tay vào một cây thông. Lập tức nghe thấy những tiếng loạt soạt, lá thông rơi xuống như mưa. Lão lại thi triển chưởng pháp, hất ngược hàng ngàn hàng vạn lá thông đang rơi xuống bay trở lên trời, không để chúng rớt xuống đất. Những lá thông nhọn như kim, còn dễ bị gió thổi bạt đi hơn những lá cây bình thường, thế mà lão có thể dùng chưởng lực để điều khiển hàng ngàn hàng vạn lá thông múa may theo ý muốn. Nội lực tuy là vật vô hình vô chất, nhưng lúc này lại như ngưng tụ tại thành vật hữu hình.

Hàng ngàn hàng vạn lá thông biến thành một tấm lưới màu xanh, rung động không ngừng xung quanh người lão.

Hồi 04: Bang chúa Trường Lạc Bang

Tạ Yên Khách muốn thử xem mấy năm gần đây mình khổ luyện nội công đã đến cảnh giới nào, không ngừng vận nội lực đưa đẩy những lá thông đó càng lúc càng nhanh, rồi lại dần dần mở rộng vòng lá ra phía ngoài. Tới lúc cái vòng mở rộng hơn phạm vi nội lực của lão, một số lá cây ngoài cùng đã từ từ rơi xuống, Tạ Yên Khách hít một hơi chân khí rồi lại phát huy nội lực rộng ra, lá tùng không rơi xuống nhiều nữa. Lão mừng rỡ, cảm thấy không cần phải cố gắng vận nội lực nữa, tay chân tự nhiên duỗi ra, sảng khoái thư thái không nói hết được, quả nhiên đã tới cảnh giới thân ý khí điều hợp, vật ngã đều quên.

Một lúc sau, Tạ Yên Khách cảm thấy mình đã vận nội lực đến độ chót khá lâu, nếu tiếp tục thì sẽ tổn hại đến nguyên khí, bèn từ từ thu nội lực về. Những lá tùng từ từ rơi xuống xung quanh lão, đan thành một cái vòng màu xanh trên mặt đất.

Bất thình lình Tạ Yên Khách biến sắc, thấy tiền hậu tả hữu đã có cả thảy chín người vây mình vào giữa, mà lão không biết họ đến từ lúc nào. Chín người này đều cầm binh khí, không nói nửa câu mà chỉ giương mắt ra nhìn lão. Với võ công của Tạ Yên Khách, thì người ngoài đừng hòng âm thầm đến bên lão, dù còn xa mấy dặm cũng không thể qua tai mắt lão được. Nhưng vì lão đang để hết tâm trí huy động nội lực để thử chiêu Bích Châm Thanh Chưởng, nên không phân tâm chú ý ra ngoài, dù là vật ngay trước mắt cũng không nhìn thấy hay nghe thấy. Đừng nói chín tay cao thủ đến bên lão, dù cho đất lở núi nghiêng lúc này cũng chưa chắc lão đã hay biết.

Ma Thiên Nhai này trước nay không có người ngoài lui tới. Lão thấy có người xuất hiện, biết ngay họ đến đây là chẳng tử tế gì, lập tức tập trung tinh thần lại. Tạ Yên Khách lại để ý nhìn đám người mới đến thì thấy trong này có một người ốm nhom mà cao kều, một đạo nhân, một hán tử mặt mũi xấu xí. Hai năm trước đây lão đã gặp mấy người này vây đánh Đại Bi Lão Nhân ở ngoài thành Biện Lương, chúng tự xưng là nhân vật của bang Trường Lạc.

Chỉ trong khoảnh khắc, trong lòng Tạ Yên Khách nảy ra rất nhiều ý nghĩ: “Bất luận chúng là ai nhưng đã lên đến Ma Thiên Nhai không một tiếng động, thì rõ ràng đã xem thường ta, coi ta như là kẻ địch. Ta cùng bang Trường Lạc chưa đi lại giao thiệp bao giờ, thế thì chúng kéo lên đây là có dụng ý gì? Phải chăng chúng định dùng võ lực để áp bức ta gia nhập bang phái, cũng như Đại Bi Lão Nhân hay sao.” Rồi lão lại lẩm bẩm: “Trong bọn này thì có ba người ta đã biết rồi. Ngay ngày ấy, một mình ta cũng đủ đối phó với chúng, bây giờ thì đương nhiên lại càng không đáng sợ. Nhưng ngoài ba gã đó, không hiểu võ công những người còn lại ra sao? Sáu người kia đều bốn chục tuổi trở lên, ít ra là có hai gã công lực rất thâm hậu.”

Tạ Yên Khách nhìn họ cười lạnh nhạt nói: “Các vị đều là bằng hữu ở bang Trường Lạc phải không? Các vị đột ngột giá lâm Ma Thiên Nhai nên Tạ mỗ không biết trước để nghênh tiếp. Chẳng hiểu các vị có điều chi dạy bảo?”

Lão vừa nói vừa chắp tay. Chín người kia cũng khoanh tay đáp lễ. Bọn này vừa thấy Tạ Yên Khách thi triển Bích Châm Thanh Chưởng nội lực kinh hồn, nhưng chúng không nghĩ là Tạ Yên Khách để hết tinh thần luyện võ, mà lại tưởng lão ỷ vào võ công cao cường, thấy khách đến mà vẫn không thèm dừng tay. Chín người nghĩ như vậy đã tức mình, thấy lão chắp tay thi lễ lại sợ lão vận nội lực đả thương, nên ai nấy đều ngấm ngầm vận động chân khí để hộ vệ các yếu huyệt trong người. Trong đám này có hai người huyệt thái dương nhô cao lên, lại còn một người tay áo không gió mà rung động.

Ngờ đâu cái thi lễ của Tạ Yên Khách hoàn toàn không vận dụng nội lực. Bọn kia cũng không biết lão đã sử dụng hết toàn lực để thi triển Bích Châm Thanh Chưởng giống như đã quyết đấu với một cao thủ tuyệt đỉnh, mười phần nội lực đã dùng hết chín.

Một lão già mặc áo vàng lên tiếng: “Tại hạ cùng các huynh đệ đến đây thật là mạo muội, mong Tạ tiên sinh thứ tội.”

Tạ Yên Khách thấy sắc mặt lão già xanh mét, tiếng nói phều phào hết hơi, rất giống một người đang trọng bệnh. Đột nhiên lão nhớ ra một người, liền cất tiếng hỏi: “Phải chăng các hạ là Trước thủ hồi xuân Bối đại phu?”

Lão già đó chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, thấy Tạ Yên Khách biết danh hiệu mình cũng hơi đắc ý. Lão hắng giọng hai tiếng rồi đáp: “Lão phu không dám. Tiện danh có đáng chi mà tiên sinh cũng nhớ. Ngoại hiệu Trước Thủ Hồi Xuân này thật quá lớn lối, chẳng bõ làm trò cười cho Tạ tiên sinh.”

Tạ Yên Khách nói: “Tại hạ thường nghe Bối đại phu một mình qua lại giang hồ, không hiểu đã gia nhập bang Trường Lạc từ lúc nào?”

Bối Hải Thạch đáp: “Tại hạ nghĩ rằng sức một người chẳng đáng bao nhiêu, đồng tâm hiệp lực với huynh đệ trong bang thì hành sự tạo phúc cho thế gian được dễ dàng hơn.” Lão ho mấy tiếng rồi nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Bọn tại hạ đến đây thật là lỗ mãng, tự tiện xâm nhập bảo sơn, tiên sinh là người đại nhân đại lượng xin miễn trách cho. Bọn tại hạ thật chẳng dám vô sự mà quấy nhiễu, chỉ vì muốn yết kiến bang chúa tệ bang, cảm phiền Tạ tiên sinh dẫn vào ra mắt.”

Tạ Yên Khách ngạc nhiên hỏi lại: “Không hiểu bang chúa quý bang là ai? Tại hạ ít khi qua lại giang hồ, lại là người cô lậu, kiến thức hẹp hòi, đến ngay cả danh hiệu của quý bang chúa cũng thất lễ mà chưa được biết, làm sao tiến dẫn được?”

Tạ Yên Khách vừa dứt lời thì chín người đều lộ vẻ không bằng lòng. Bối Hải Thạch đưa tay trái lên vuốt râu, hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Tạ tiên sinh! Thạch bang chúa của tệ bang đã có giao tình với tiên sinh, hai vị dắt tay nhau mà đi, nên tệ bang suốt từ trên xuống dưới ai cũng đem lòng kính cẩn, coi tiên sinh như một bậc thượng khách không dám vô lễ chút nào. Hành động của Thạch bang chúa thì lẽ ra bọn thuộc hạ không dám hỏi đến, nhưng vì người rời khỏi tổng đàn đã lâu, mọi việc phải đợi người về lo liệu, lại còn hai việc rất lớn, cấp bách như dầu sôi lửa bỏng.”

Lão lại ho mấy tiếng rồi tiếp: “Vì thế khi vừa được tin Thạch bang chúa đã lên Ma Thiên Nhai, bọn tại hạ lập tức gấp rút đến đây. Đáng lẽ phải đưa danh thiếp lên trước, đợi Tạ tiên sinh chấp nhận mới được lên núi, nhưng vì sự việc cấp bách nên lễ số có phần khiếm khuyết, chỉ mong được cao nhân thứ lỗi.” Lão nói xong, lại cúi mình vái chào một cái nữa.

Tạ Yên Khách thấy lão này ra chiều thành khẩn, còn cả bọn tuy tay cầm binh khí mà vẻ mặt không có gì ác ý, thì nghĩ bụng: “Té ra mình đã hiểu lầm.” Rồi lão mỉm cười nói: “Trên Ma Thiên Nhai không có bàn ghế, nên tiếp đãi quý khách không được trịnh trọng, xin các vị tùy tiện tìm chỗ ngồi. Không hiểu Bối đại phu nghe ai nói lão phu dắt tay Thạch bang chúa cùng đi? Quý bang nhân tài như nước, hào kiệt như mây, thanh danh Thạch bang chúa lừng lẫy hiếm kẻ sánh bằng, còn lão phu chẳng qua chỉ là một kẻ chán đời ẩn cư nơi hoang sơn dã lĩnh, sao lại được Thạch bang chúa hạ cố tương giao? Ha ha! Thật đáng buồn cười!”

Bối Hải Thạch liền bảo đồng bọn: “Các huynh đệ! Chúng ta hãy ngồi cả đây nói chuyện!” Họ Bối quả nhiên là thủ lĩnh của bọn này, lão vừa hạ lệnh là mọi người đều ngồi xuống xung quanh, người ngồi xuống mỏm đá, người ngồi trên cành cây, Bối Hải Thạch thì ngồi xuống một ụ đất. Chín người thu khí giới lại, nhưng vẫn ngồi thành thế vây quanh Tạ Yên Khách.

Tạ Yên Khách đã hơi tức giận, nghĩ bụng: “Bọn ngươi thật là vô lễ. Đừng nói là ta không biết Thạch bang chúa hay Ngói bang chúa gì gì đó rúc ở xó nào, mà dù ta có biết chăng nữa, thì bộ dạng bọn ngươi như thế này, ta cũng không thèm nói.” Lão cười lạt, ngẩng lên nhìn mặt trời trên đỉnh đầu, không thèm nhìn đến bọn kia nữa.

Bối Hải Thạch cũng nghĩ: “Địa vị và thân phận ta trong võ lâm cũng không thấp, ngươi đối với ta ngạo mạn như thế cũng không khỏi quá đáng. Nhưng nghe nói người này võ công cao cường, lòng dạ nham hiểm, ra tay lợi hại. Trường Lạc Bang chúng ta cũng không nên kết thêm đối thủ như thế.” Lão bèn ra vẻ nể mặt Tạ Yên Khách là chỗ bạn bè với Thạch bang chúa, vẫn dùng lời lẽ lịch sự nói tiếp: “Tạ tiên sinh! Vì việc của tệ bang mà đến quấy quả tiên sinh, thật lấy làm áy náy. Lão phu chỉ xin tiên sinh dẫn vào yết kiến, rồi huynh đệ bọn tại hạ sẽ xin lỗi Tạ tiên sinh sau vậy.”

Tám người kia cùng suy nghĩ: “Bối đại phu khách sáo với lão này như thế cũng là nhịn lắm rồi. Cho dù võ công Tạ Yên Khách có cao hơn, nhưng chúng ta đến chín người dĩ nhiên không sợ lão ta. Chẳng qua lão là bạn của bang chúa nên không tiện đắc tội mà thôi.”

Tạ Yên Khách lạnh lùng nói: “Bối đại phu! Đại phu là hào kiệt thành danh, tiếng tăm lừng lẫy trên chốn giang hồ. Người ta thường nói: Ngựa hay chỉ quất một roi, quân tử chỉ nói một lời. Xem chừng đại phu ra chiều mạt sát lão phu không đáng là quân tử, có đúng thế không?”

Bối Hải Thạch nghe giọng Tạ Yên Khách đã có ý tức giận thì không khỏi âm thầm cảnh giác. Lão liền ôn tồn đáp: “Tại hạ không dám!”

Tạ Yên Khách lại tiếp: “Theo lời Bối đại phu thì dường như Tạ mỗ ăn nói không có mực thước. Lão phu đã bảo chưa thấy Thạch bang chúa mà đại phu nhất định không tin. Chẳng lẽ đại phu mới là bậc quân tử chí thành, còn Tạ mỗ chỉ là tiểu nhân nói dối ư? “

Bối Hải Thạch hắng giọng mấy tiếng rồi nói: “Sao Tạ tiên sinh lại nói nặng lời như thế? Anh em bọn tại hạ đã ngưỡng mộ Tạ tiên sinh từ lâu, tệ bang từ trên xuống dưới không ai dám không tôn kính. Lời nói của Tạ tiên sinh nặng như núi, nào ai dám coi thường? Chẳng qua Tạ tiên sinh đang bận tu luyện thần công, không có thời gian dẫn kiến bọn tại hạ vào ra mắt tệ bang chúa, nên bọn tại hạ không dám quấy nhiễu mà phải chia nhau tự đi tìm kiếm, cũng mong Tạ tiên sinh đừng trách.”

Tạ Yên Khách trước đã bực bội, bây giờ lại càng tức giận hơn, vẻ mặt xám xanh nói: “Bối đại phu chẳng những không tin lời Tạ mỗ, lại còn coi Tạ mỗ không vào đâu, toan làm điều càn rỡ trên Ma Thiên Nhai hay sao?”

Bối Hải Thạch lắc đầu đáp: “Không dám, không dám! Nói ra xấu hổ, giả tỉ câu chuyện Trường Lạc Bang phải năn nỉ người ngoài dẫn vào yết kiến bang chúa mà đồn đại ra giang hồ, thì thiên hạ phải cười đến sái quai hàm. Bọn tại hạ chẳng qua vì không thấy bang chúa mà phải tìm quanh đây một chút, chứ không dám làm gì càn rỡ, mong rằng Tạ tiên sinh đừng lấy thế làm bất mãn. Ma Thiên Nhai núi cao rừng rậm, nhiều nơi ẩn náu, không chừng Thạch bang chúa của tệ bang đã lên núi mà Tạ tiên sinh mải thanh tu nên chưa để ý.” Trong lòng lão nghĩ: “Ngươi không để chúng ta gặp mặt bang chúa, nhất định là có ý bất hảo rồi.”

Tạ Yên Khách thì lại nghĩ: “Trên đỉnh Ma Thiên Nhai này, mình có thấy lão bang chúa bang chó nào đâu? Bọn này thật là ngang ngược vô lễ, mượn tiếng tìm người để sục sạo trong khu vực của mình, dĩ nhiên đó chỉ là mượn danh nghĩa mà thôi. Chúng đã mờ ám lên đây như thế thì làm gì có chuyện tốt? Nhưng bọn Trường Lạc Bang đã biết danh Tạ mỗ mà còn dám khoa trương, đương nhiên là có chuẩn bị rồi.” Lão cũng biết tình thế lúc này rất nguy hiểm. Ngũ Hành Lục Hiệp Chưởng của Bối Hải Thạch cũng nổi tiếng võ lâm, giả tỉ một mình Bối Hải Thạch thì giỏi lắm cũng chỉ ngang sức với mình là cùng, nhưng còn thêm tám cao thủ khác thì cũng không dễ đối phó. Huống hồ mình cũng không biết trong Trường Lạc Bang có bao nhiêu cao thủ đã lên núi, không chừng còn một số đang ẩn nấp chung quanh để chờ cơ hội ra tay.

Tạ Yên Khách nghĩ ra một kế, đột nhiên đưa mắt nhìn về phía Tây Bắc, vẻ mặt ra chiều kinh hãi, miệng khẽ la lên một tiếng: “Ái chà!” Bọn chín người bang Trường Lạc cũng quay nhìn cả về phía Tây Bắc. Tạ Yên Khách chớp nhoáng vọt tới chỗ gã Mễ hương chủ cao kều, vươn tay ra toan rút lấy thanh kiếm trên lưng gã.

Mễ hương chủ cũng nhìn về phía Tây Bắc, chưa thấy gì khác lạ thì bỗng nghe gió ập đến, địch nhân đã lạng tới bên người. Gã cũng phản ứng nhanh như chớp, vung tay phải nắm lấy chuôi kiếm trước cả Tạ Yên Khách, rút đánh soạt một cái, trường kiếm đã ra khỏi vỏ. Thanh quang vừa lấp loáng thì dưới cạnh sườn gã cảm thấy tê nhức, thì ra đã bị ngón trỏ tay phải của Tạ Yên Khách đã điểm trúng huyệt đạo. Rồi sau lưng gã cũng đau buốt, đã bị người ta nắm lấy. Tạ Yên Khách nhìn về phía Tây Bắc chỉ là kế dụ địch. Cả đến chiêu tranh đoạt trường kiếm của đối phương cũng chỉ là dương đông kích tây. Quả nhiên Mễ hương chủ trúng kế, chỉ chú ý đến việc cố nắm lấy chuôi kiếm trước, để hở cạnh sườn và sau lưng.

Kể ra thì võ công Mễ hương chủ có kém Tạ Yên Khách, nhưng cũng không dễ gì trong một chiêu mà thất bại, bị kiềm chế ngay được. Nhưng ngày trước Tạ Yên Khách đã từng quan sát Mễ hương chủ đấu với Đại Bi lão nhân, lại thấy gã vung quỷ đầu đao để cạo trọc đầu thằng bé ăn xin. Lão còn nhớ thuộc lòng kiếm pháp của Mễ hương chủ. Thông thường người nào ra tay quá mau lẹ thì phòng thủ phải thiếu bề nghiêm cẩn, lão thử một chiêu quả nhiên đã đắc thủ ngay.

Tạ Yên Khách mỉm cười nói: “Mễ hương chủ! Tạ mỗ cam bề đắc tội.” Mễ hương chủ giận dữ vô cùng, nhưng chẳng làm gì được.

Bối Hải Thạch ngạc nhiên hỏi: “Tạ tiên sinh làm gì thế? Tiên sinh thật không cho bọn tại hạ tìm kiếm tệ bang chúa hay sao?”

Tạ Yên Khách nói: “Các vị muốn giết Tạ mỗ cũng không phải là chuyện dễ dàng. Tạ mỗ mà chết thì bên các vị cũng phải có mấy mạng đi trước đã.”

Bối Hải Thạch cười khổ: “Bọn tại hạ cùng Tạ tiên sinh vốn không thù oán, khi nào lại đem lòng gia hại? Huống chi võ công của Tạ tiên sinh biến ảo tuyệt diệu như vậy thì dù bọn tại hạ muốn gia hại cũng chỉ rước họa vào thân mà thôi. Chúng ta là chỗ bạn tốt, xin Tạ tiên sinh buông Mễ huynh đệ ra trước đã.” Lão thấy Tạ Yên Khách mới thi triển một chiêu mà đã nắm được Mễ hương chủ thì trong lòng hết sức thán phục.

Tay phải Tạ Yên Khách nắm lấy huyệt Đại Truy sau lưng Mễ hương chủ, chỉ huy động chưởng lực một chút là tâm mạch gã phải đứt hết ngay. Lão thấy mình đã uy hiếp được đối phương, liền nói: “Các vị cứ rời khỏi Ma Thiên Nhai trước, Tạ mỗ sẽ thả Mễ hương chủ ra ngay.”

Bối Hải Thạch đáp: “Muốn bọn tại hạ xuống núi thì cũng chẳng khó khăn gì, nhưng không chừng giờ Ngọ xuống thì giờ Thân lại trở lên.”

Tạ Yên Khách sa sầm nét mặt nói: “Bối đại phu! Ngươi giống như âm hồn bất tán, quanh quẩn mãi bên Tạ mỗ như vậy là có ý gì?”

Bối Hải Thạch đáp: “Anh em bọn tại hạ đâu có âm mưu ý định gì đâu?”

Bảy gã kia nãy giờ chưa hề mở miệng, bây giờ mới cùng lên tiếng: “Bọn tại hạ đến đây chỉ xin vào ra mắt bang chúa, và đón người về ngay tổng đà.”

Tạ Yên Khách tức giận hỏi: “Nói đi nói lại thì các ngươi vẫn nghi ngờ lão phu đem giấu bang chúa của các ngươi. Có phải thế không?”

Bối Hải Thạch đáp: “Bên trong còn có ẩn tình gì, trước khi gặp mặt Thạch bang chúa thì không ai dám vội vã đoán mò.” Rồi lão quay lại bảo một hán tử trung niên thân hình cao lớn: “Vân hương chủ! Ngươi cùng các vị hiền đệ chia nhau bốn mặt tìm kiếm, nếu thấy đại giá bang chúa thì lập tức báo cho ngu huynh biết.”

Gã Vân hương chủ này, tay phải cầm một đôi đoản kích bằng bạc sáng loáng, gật đầu nói: “Tuân lệnh.” Rồi gã lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Bối tiên sinh có lệnh, chúng ta phải đi kiếm bang chúa.”

Sáu gã kia đồng thanh đáp: “Vâng!” Bảy người đi giật lùi mấy bước rồi quay mình đi vào rừng.

Tạ Yên Khách tuy đã kiềm chế được một người, nhưng bọn người bang Trường Lạc chẳng quan tâm gì đến sự yên nguy của Mễ hương chủ, ai nấy cứ việc mà đi, chẳng e dè chi hết. Dường như lão có hạ sát Mễ hương chủ, chúng cũng coi là chuyện nhỏ. Chỉ có một mình Bối Hải Thạch ở lại, hiển nhiên có ý giám sát bản thân mình, chứ không phải để tìm cách giải cứu Mễ hương chủ. Tạ Yên Khách chợt nghĩ ra một chuyện: “Thiếu niên đó đã giao Huyền Thiết Lệnh cho mình, việc này chắc đã đồn rộng khắp giang hồ. Bọn này lấy danh nghĩa đi tìm bang chúa, dụng ý chắc là bắt cóc thiếu niên đó. Giả tỉ thiếu niên đó mà rơi vào tay chúng, Trường Lạc Bang sẽ có lợi thế để chế phục ta. Nhưng Tạ Yên Khách này là nhân vật như thế nào mà để cho người ta đến nhà mình ăn hiếp?”

Tạ Yên Khách quyết định được chủ ý, đợi bảy người kia đi xa, đột nhiên dồn nội lực vào sau lưng Mễ hương chủ rồi đẩy ra. Đây là chiêu Văn Thừa Võ úy, dùng thân thể Mễ hương chủ làm binh khí để tấn công Bối Hải Thạch.

Lão từng nghe Bối Hải Thạch nội lực tinh thâm, chỉ vì hồi trung niên bị nội thương, trong người thường xuyên có bệnh mà võ công có phần sút kém. Bối Hải Thạch cũng vì mắc bệnh lâu ngày, phải tìm cách chữa cho mình mà biết nghề thuốc, vì thế mà có ba chữ “Bối đại phu”, chứ y không phải là thầy lang thật sự. Tuy võ công y có phần giảm sút, nhưng vẫn còn lợi hại lắm. Chín năm trước đây, Kỳ Trung Tam Sát đã bị y đánh chết trong một đêm và ở ba nơi cách nhau đến hai trăm dặm. Mỗi khi nhân vật giang hồ nhắc tới vụ này đều phải hoảng hồn. Vì thế tuy Tạ Yên Khách thấy Bối Hải Thạch ho hen liên tục dường như chân khí hư nhược, nhưng lão cũng không dám coi thường, xuất thủ toàn những chiêu hiểm độc nhất.

Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách đột ngột động thủ, vừa ho vừa nói: “Tạ tiên sinh… Hà tất phải tổn thương hòa khí…” Câu nói của y bị những cơn ho cắt thành mấy quãng. Y vừa nói vừa giơ song chưởng ra, lúc gần đụng vào Mễ hương chủ thì đột nhiên phóng chân trái ra, đá trúng bụng dưới Mễ hương chủ, hất người gã bay vọt qua đỉnh đầu mình ra phía sau lưng, đồng thời song chưởng của y phóng đến trước ngực Tạ Yên Khách.

Chiêu này biến hóa thật là kỳ dị. Tạ Yên Khách tuy kiến văn uyên bác mà cũng không hiểu chiêu thức đó tên là gì. Lão giật mình kinh hãi, thuận tay đưa ra nghênh đón chưởng lực đối phương, bỗng cảm thấy mười đầu ngón tay tê nhức như bị muôn ngàn mũi kim đâm vào. Trong lúc Tạ Yên Khách gấp rút vận nội kình để đỡ chưởng lực của đối phương, lão cảm thấy trước ngực trống rỗng, tựa hồ nội lực toàn thân hoàn toàn biến mất. Lão kêu thầm: “Không xong rồi! Mình vừa luyện chưởng pháp, nội lực vô tình đã bị hao tán đến bảy tám phần. Bây giờ làm sao so với hắn được?” Lập tức lão hạ tay xuống kích vào bụng Bối Hải Thạch. Tay phải của Bối Hải Thạch cũng hạ thấp xuống, ngăn chặn thế đánh của đối phương. Tạ Yên Khách phất mạnh tay áo ra, phát huy Thiết Tụ Công phất vào mặt họ Bối.

Bối Hải Thạch nghĩ bụng: “Thế đánh của lão tuy rất hiểm độc, nhưng dường như nội lực suy kiệt, không chừng là muốn dụ ta vào tròng.” Y bèn nghiêng người đi để tránh né tay áo của họ Tạ. Bốn chữ Ma Thiên Cư Sĩ trong võ lâm không ai dám coi thường, Bối Hải Thạch lại vừa thấy lão thi triển Bích Trâm Thanh Chưởng, chưởng pháp tinh kỳ, nội lực thâm hậu, biết rằng mình không thể bằng được. Nhưng vì bang chúa mất tích không thể không tìm, bị ép động thủ thì phải động thủ, tuy phát giác nội lực của đối phương nông cạn mà cũng phải đề phòng, không dám coi thường.

Tạ Yên Khách thu tay áo về. Nghe véo một tiếng, lão mượn kình phong ở tay áo để băng mình lùi lại mấy trượng, rồi chắp tay nói: “Xin thứ lỗi, sau này sẽ có ngày tái hội.” Miệng nói chưa dứt lời, người lão đã lùi về phía sau mau lẹ phi thường, nhưng vẫn ra vẻ ung dung, chẳng có gì là hấp tấp hốt hoảng cả.

Tạ Yên Khách ra ba chiêu liên tiếp, thấy tình thế không ổn mà phải rút lui, nhưng cũng không thể nói là lão đã thua Bối Hải Thạch. Tuy lão bị ép phải xuống Ma Thiên Nhai, nhưng bị chín người đối phương vây đánh mà vẫn kiềm chế được một tay cao thủ là Mễ hương chủ. Như vậy chẳng những oai danh bang Trường Lạc bị thương tổn, mà nhuệ khí phái này cũng bị giảm sút nặng nề.

Tạ Yên Khách theo vách núi dựng đứng tung mình đi xuống, trong lòng thấy khoan khoái hơn là phẫn nộ. Đột nhiên lão nghĩ đến thiếu niên kia phải rơi vào tay kẻ địch, sau này hậu hoạn vô cùng. Lão lập tức cảm thấy phiền não, dự tính: “Khi nội lực của ta khôi phục lại, chắc phải đi đến Trường Lạc Bang để lật ngược cả tổng đà của chúng lên. Nếu chúng không gặp được Cẩu Tạp Chủng thì chắc chắn không làm gì ta được, còn nếu Cẩu Tạp Chủng bị chúng kiềm chế hay quyến rũ, vừa gặp mặt ta đã nói: “Cháu xin ông tự chặt một cánh tay” thì hỏng bét. May mà kinh mạch âm dương của thằng lỏi này đã đảo lộn hết. Nội công của nó chẳng bao lâu sẽ luyện thành, khi luyện thành thì mất mạng lập tức. Ta đợi nó chết mới đi tìm Trường Lạc Bang để trút hận cũng được. Quân tử báo thù mười năm không muộn, việc này không nên gấp rút, cứ theo kế sách an toàn nhất mà làm.”

* * *

Bối Hải Thạch thấy Tạ Yên Khách tự nhiên rút lui khỏi Ma Thiên Nhai thì sinh nghi tự hỏi: “Lão đã kết giao cùng Thạch bang chúa mà sao lại hạ độc thủ với Mễ hương chủ? Chuyện khuất khúc như thế này thực là khó nghĩ, chẳng lẽ… chẳng lẽ lão đã phát giác ra mưu kế của chúng ta, không biết có nói với Thạch bang chúa chưa?” Lão không nén nổi, suy nghĩ lung tung mất một lúc rồi im lặng lắc đầu.

Bối Hải Thạch liền quay lại nâng Mễ hương chủ lên, áp hai bàn tay vào hai yếu huyệt Hồn Môn và Phách Hộ trên lưng để trút nội lực sang cho gã. Chỉ trong khoảng khắc, mắt Mễ hương chủ hé mở, khẽ thều thào: “Đa tạ Bối tiên sinh cứu mạng.”

Bối Hải Thạch đáp: “Mễ huynh đệ cứ nằm yên nghỉ ngơi, ngàn vạn lần nhớ đừng vận khí.”

Vừa rồi Tạ Yên Khách ra chiêu Văn Thừa Võ Úy định đưa Mễ hương chủ vào đất chết, đồng thời lại hạ độc thủ toan sát hại cả Bối Hải Thạch. Giả tỉ họ Bối cũng xuất chưởng đón tiếp, thì Mễ hương chủ bị hai luồng nội lực giáp công, nhất định phải mất mạng. Nhưng Bối Hải Thạch đã dùng chân trái ra đỡ ở bụng dưới Mễ hương chủ, một mặt là hất người gã bay qua đầu mình, một mặt là hóa giải quá nửa phần nội lực của Tạ Yên Khách. Cũng may lúc đó nội lực của Tạ Yên Khách chỉ còn lại một phần, nếu không thì chiêu này của Bối Hải Thạch kỳ diệu đến đâu cũng không thể bảo toàn được sinh mạng của Mễ hương chủ.

Bối Hải Thạch nhẹ nhàng đặt Mễ hương chủ xuống đất, đặt hai tay vào trước ngực gã để vận nội lực trị thương. Bất thình lình có tiếng la lên: “Bang chúa đây rồi! Bang chúa đây rồi!”

Bối Hải Thạch cả mừng nói: “Mễ huynh đệ! Tính mạng của huynh đệ không có gì nguy hiểm nữa. Ta đi yết kiến bang chúa đã.” Dứt lời, lão chạy vội về phía có tiếng hô hoán, trong bụng nghĩ: “Tạ ơn trời phật! Nếu không tìm thấy bang chúa, chỉ sợ bản bang tiêu tan thành mây khói, đại họa trước mắt chẳng còn ai chống đỡ!”

Bối Hải Thạch chạy chưa đầy một dặm thì đã thấy một người ngồi trên tảng đá lớn. Lão ngẩng đầu lên nhìn, thì đúng là bang chúa bản bang Thạch Phá Thiên. Bọn Vân hương chủ bảy người đang thõng tay đứng trước tảng đá rất nghiêm cẩn. Bối Hải Thạch chạy nhanh tới trước. Lúc này mặt trời đang ở giữa đỉnh đầu chiếu xuống, soi rõ mặt mũi người ngồi trên tảng đá. Người này mày rậm mắt to, khuôn mặt vuông vắn, không phải Thạch bang chúa thì còn ai nữa? Bối Hải Thạch mừng quá reo lên: “Bang chúa! Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”

Lão vừa nói câu này thì phát hiện nét mặt Thạch bang chúa lộ vẻ cực kỳ đau khổ, má trái ẩn hiện sắc xanh như lạnh cóng, má phải đỏ nhừ như say rượu. Bối Hải Thạch là tay nội công cao cường, lại bị bệnh lâu ngày nên tinh thông y thuật. Lão thấy tình trạng này không ổn, giật mình kinh hãi nghĩ bụng: “Bang chúa… bang chúa làm gì vậy? Chẳng lẽ đang luyện nội công cao thâm hay sao? Thế thì nguy rồi, nhất định là Tạ Yên Khách đã truyền cho ông ấy. Trời ơi, chúng ta kéo nhau lên đỉnh núi này, e rằng đã làm phiền nhiễu đến việc luyện công của lão nhân gia.”

Chỉ trong chớp mắt, bao nhiêu mối nghi ngờ trong lòng Bối Hải Thạch đều thông suốt hết. Lão nghĩ: “Bang chúa đã mất tích nửa năm nay, tìm đâu cũng không ra, thì ra ẩn dật nơi này để luyện môn võ công cao thâm gì đó. Võ công của ông ấy càng cao thì bản bang càng có lợi, dĩ nhiên đó là việc tốt. Tạ tiên sinh chắc đã biết bang chúa luyện công đến lúc tối hậu, nếu người ngoài tới quấy nhiễu thì lão nhân gia sẽ phân tâm, vì thế mà bọn mình năn nỉ cách nào tiên sinh cũng nhất định không dẫn vào ra mắt. Tiên sinh có ý tốt như vậy mà bọn ta lại không biết điều, thật là đắc tội. Nhưng lão ta chỉ cần nói rõ là được, chẳng lẽ bọn ta nghe lại không hiểu hay sao? Trước giờ vẫn nghe nói lão họ Tạ này ngạo mạn, chắc thấy chúng ta tự tiện lên núi thì không vui, mới trở mặt xuất thủ giết người.”

Rồi lão lại nghĩ: “Xem vẻ mặt bang chúa thì dường như hai luồng nội lực âm dương trong người đang công kích nhau ghê gớm. Long hổ đâu có thể chung sống hòa bình với nhau được, nếu không ổn thì chắc chắn sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Tình trạng này nguy hiểm vô cùng.” Lão liền vẫy tay ra hiệu cho mọi người tạm rút lui. Khi đã cách xa phiến đá chừng mười trượng, Bối Hải Thạch mới nói rõ tình hình này cho mọi người nghe.

Mọi người nghe Bối Hải Thạch nói thì đều lộ vẻ vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Có người hỏi: “Bang chúa không đến nỗi tẩu hỏa nhập ma chứ?” Có người lại càu nhàu tự trách: “Chúng ta xông lên núi thật là lỗ mãng, quấy nhiễu lúc bang chúa luyện công, hậu họa e rằng không nhỏ.”

Bối Hải Thạch nói: “Mễ hương chủ đã bị Tạ tiên sinh đả thương, anh em nào qua đó săn sóc cho y một chút. Ta phải ở đây chầu chực, phòng khi bang chúa gặp nguy thì còn ra tay viện trợ. Còn các vị khác thì cứ ở gần đây chờ đợi, chớ làm huyên náo. Giả tỉ có địch nhân lên núi thì các vị tìm cách làm họ rút lui êm thấm, tuyệt nhiên không được kinh động đến bang chúa.” Mọi người đều là những tay lão luyện giang hồ, chẳng ai là không hiểu cái nguy khi đang luyện nội công mà có đại địch đến quấy nhiễu tâm thần. Họ đều vâng lời, chia ra canh gác những nơi hiểm yếu của Ma Thiên Nhai.

Bối Hải Thạch im lặng trở lại trước mặt Thạch bang chúa, thấy da mặt y đang co giật, toàn thân run lẩy bẩy, miệng há thật to như muốn la lên mà không phát ra tiếng. Hiển nhiên nội lực Thạch bang chúa đang đi vào đường rẽ, tính mạng nguy kịch trong khoảnh khắc. Bối Hải Thạch kinh hãi vô cùng, rất muốn cứu viện nhưng lại chưa hiểu Thạch bang chúa đang luyện nội công theo đường lối nào. Giữa lúc âm dương đang xung kích nhau, mình mà ra tay lầm lạc một chút là khiến y chết lẹ hơn.

Nhìn kỹ lại thì thấy y phục trên mình Thạch bang chúa bị rách tả tơi, da thịt đầy vết máu, trên đầu đang bốc ra một làn mù trắng dày đặc, ngưng tụ lại mà không tan đi. Bối Hải Thạch nghĩ: “Thạch bang chúa về chiêu số võ công thì biến ảo khôn lường, nhưng nội lực thì trước nay chẳng thâm hậu gì cho lắm. Nhưng trên đỉnh đầu đã bốc hơi trắng thì công lực phải cao thâm đến tột độ, có lý đâu mới nửa năm mà công lực lão nhân gia lại tiến bộ thần tốc đến thế?”

Bối Hải Thạch còn đang ngần ngừ, chưa biết làm thế nào thì đột nhiên ngửi thấy mùi khét lẹt, rồi trên vai áo bên phải Thạch bang chúa có một luồng khói trắng bốc lên. Đó chính là một hiện tượng tẩu hỏa nhập ma lúc luyện công, người luyện sẽ bị chết trong chớp mắt. Lão cực kỳ kinh hãi liền đưa tay ra nắm lấy huyệt Thanh Lãnh Uyên trên khuỷu tay phải của bang chúa, ít ra là để y tạm thời yên tĩnh lại một chút. Ngờ đâu, ngón tay lão đụng vào khuỷu tay Thạch bang chúa lại thấy lạnh ngắt, chẳng khác nào sờ phải một khối băng, bất giác run bắn người lên.

Bối Hải Thạch không dám vận nội lực để chống lại, vội rụt tay về tự hỏi: “Đó là nội công gì mà kỳ lạ thế? Tại sao nửa người lạnh thấu xương, còn nửa người lại nóng như lửa đốt.” Lão chưa biết phải làm sao, đột nhiên thấy người Thạch bang chúa co rúm lại thành một khối, lăn từ trên phiến đá xuống, giãy giụa mấy cái, rồi ôm đầu nằm yên không nhúc nhích nữa.

Bối Hải Thạch cả kinh la lên: “Bang chúa! Bang chúa!…” Rồi lão đưa tay xem thử thì thấy y hãy còn hô hấp, nhưng hơi thở rất yếu ớt, dường như bất cứ lúc nào cũng có thể tắt hơi. Bối Hải Thạch chau mày, cất tiếng la gọi, rồi đỡ Thạch bang chúa ngồi dậy, tựa vào phiến đá. Lão thấy tình hình rất nguy cấp, lập tức ngồi xếp bằng cạnh bang chúa, tay trái áp vào bụng, tay phải áp vào lưng y, vận nội lực để bảo hộ tâm mạch.

Lát sau mọi người trong bang cũng kéo đến. Họ thấy sắc mặt bang chúa lúc đỏ như say rượu, lúc xanh như chết cóng, thân thế không ngớt run lên bần bật thì ai nấy cả kinh thất sắc, ánh mắt cực kỳ lo âu nghi hoặc. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn cả vào Bối Hải Thạch, thấy trán lão không ngớt tuôn ra những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu, toàn thân rung động không ngừng, hiến nhiên lão cũng đang phải dùng toàn lực.

Sau rất lâu, Bối Hải Thạch mới từ từ buông tay, đứng dậy nói: “Hiến nhiên bang chúa đang tu luyện một môn nội công thượng thặng. Người có bị tẩu hỏa nhập ma hay không thì lúc này ta cũng chưa dám quyết đoán. Ta vừa tạm thời giúp lão nhân gia qua một cửa ải khó khăn, nhưng cũng không dám chắc về sau sẽ thế nào. Đây là một việc rất trọng đại, xin các vị huynh đệ cùng nhau bàn bạc xem có kế sách nào không.”

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, ai cũng nghĩ thầm: “Đến Bối đại phu mà còn nghĩ không ra thì chúng ta còn có ý kiến gì nữa?” Không ai lên tiếng nói chi hết.

Mễ hương chủ cũng đã được dìu đến, ngồi tựa vào gốc cây bách khẽ nói: “Bối tiên sinh! Tiên sinh bảo làm thế nào thì mọi người chỉ biết làm theo như vậy. Ý kiến của tiên sinh còn cao minh gấp mấy bọn tiểu đệ.”

Bối Hải Thạch lại nhìn Thạch bang chú nói: “Bốn môn phái lớn ở Quan Đông đã hẹn vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín sẽ đến thăm Tổng đà bản bang, đã sắp đến ngày rồi. Việc này có quan hệ đến sự vinh nhục tồn vong của bản bang, hết thảy anh em đều biết rõ. Thực ra thì bốn phái lớn ở Quan Đông, thiết kích, quỷ đầu đao, mười mấy con phi đao đó cũng không làm khó dễ được Trường Lạc Bang của chúng ta. Còn vụ về môn phái của bang chúa là chuyện nội bộ, chúng ta cũng chẳng lo đến làm chi, nhưng việc này nếu truyền ra giang hồ thì thật sự không ổn.” Lão ho mấy tiếng, lại nói tiếp: “Việc trọng đại thật sự thì mọi người đều biết rõ, đó là Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh của Hiệp Khách Đảo, chắc chắn phải do đích thân bang chúa nhận lấy. Nếu không… nếu không thì mọi người khó mà qua khỏi kiếp nạn này.”

Vân hương chủ lên tiếng: “Bối tiên sinh nói đúng lắm. Tiếng tâm bang Trường Lạc chúng mình trên giang hồ thế nào, anh em đều biết cả rồi. Huynh đệ chúng ta quen hành động mau lẹ, không khéo mồm miệng như bọn ngụy quân tử, người ta muốn thưởng thiện thì cũng chẳng có thiện gì mà thưởng, còn muốn phạt ác thì có nhiều món nợ thật là khó mà tính toán. Vụ này nếu không có bang chúa chủ trương thì e rằng… Chỉ ngại…”

Bối Hải Thạch nói: “Việc này không thể chậm trễ. Theo ý ta, thì phải gấp rút thỉnh bang chúa về tổng đà. Nếu có cát nhân thiên tướng bảo trợ cho mà lão nhân gia trong vòng mười ngày nửa tháng có thể phục hồi nguyên trạng thì thật là phúc đức. Mà dù bang chúa chưa khỏi bệnh nhưng có mặt ở tổng đà thì anh em chống ngoại địch cũng yên tâm được một phần. Có đúng thế không?”

Mọi người đều gật đầu đáp: “Tiên sinh nói rất phải.”

Bối Hải Thạch nói: “Đã thế thì chúng ta chia làm hai tốp, đưa bang chúa cùng Mễ hương chủ về tổng đà.”

Mọi người bèn chặt cành cây, lột vỏ cây buộc thành hai cái cáng, đặt Thạch bang chúa cùng Mễ hương chủ lên cáng, buộc chặt lại để khi xuống núi khỏi trơn tuột. Tám người luân phiên khiêng hai cái cáng từ Ma Thiên Nhai đi xuống.

* * *

Hôm ấy, chàng thiếu niên đang theo lời Tạ Yên Khách mà luyện nội công như mọi ngày. Vào khoảng giờ Ngọ, chàng cảm thấy khí nóng trong những kinh mạch Thủ Dương Minh Đại Trường Kinh, Túc Dương Minh Vị Kinh, Túc Thái Dương Bàng Quang Kinh, Thủ Thái Dương Tam Tiêu Kinh, Túc Thiếu Dương Đởm Kinh cuồn cuộn bốc lên không thể kiềm chế được. Trong lúc ấy, các kinh mạch thuộc Thái Âm, Thiếu Âm, Quyết Âm lại lạnh cóng, tựa hồ đông cứng thành băng. Bên nhiệt thì nóng ghê gớm mà bên hàn lại lạnh kinh khủng, hai bên không lưu thông với nhau được.

Thì ra mấy năm nay chàng chuyên cần tu luyện, công lực đã tăng tiến rất nhiều. Giờ Ngọ hôm nay, ngoài xung mạch, đới mạch ra, những kinh mạch âm dương đột nhiên xung kích kịch liệt với nhau. Chàng thiếu niên gắng gượng chống đỡ được chừng nửa giờ rồi mê man đi không biết gì nữa, cũng không biết đã bao lâu. Lúc thì chàng thấy mình rơi vào hỏa lò nóng bỏng, mồ hôi thoát ra đầm đìa, môi miệng khô như cháy, lúc lại tưởng như rơi vào một cái hầm đá, máu trong người như đông hết lại thành băng.

Chàng thiếu niên cứ hết nóng rồi lại lạnh, hết lạnh rồi lại nóng. Trong lúc mơ màng chàng thấy đủ hạng người, trai có, gái có, xấu có, đẹp có, qua lại trước mắt chàng, nói năng với chàng, mà sao chẳng nghe được câu nào. Chàng muốn kêu lên mà không sao thốt ra lời được. Có lúc chàng thấy trước mắt sáng lòa, có lúc lại tối đen. Có lúc chàng tưởng như người bên cạnh đang mời uống gì đó, được thức ngon thì tươi cười, mà uống phải những loại cay đắng thì nhăn mặt lại, cũng không biết đó là những loại nước gì.

Chàng thiêu niên cứ mơ mơ hồ hồ như vậy không biết đã mấy ngày, một hôm bỗng cảm thấy trán mát rượi, mũi ngửi thấy mùi thơm. Chàng từ từ mở mắt ra, vật đầu tiên nhìn thấy là một cây nến đỏ được thắp sáng, ánh sáng lung linh. Rồi chàng lại nghe thấy một thanh âm thanh tao, dịu dàng nói: “May quá, cuối cùng công tử cũng tỉnh lại rồi.” Trong giọng nói đầy vẻ hân hoan. Chàng thiếu niên đưa mắt nhìn về phía phát ra thanh âm, thì thấy người nói chuyện là một thiếu nữ chừng mười bảy mười tám tuổi, mặc áo xanh nhạt, khuôn mặt trái xoan rất kiều diễm, ánh mắt trong veo đang nhìn mình, khóe miệng lộ một nụ cười, lại nhẹ nhàng hỏi: “Công tử còn chỗ nào khó chịu nữa không?”

Trong đầu óc chàng lúc này trống rỗng, chỉ còn nhớ mình đang luyện công trên Ma Thiên Nhai thì đột nhiên cảm thấy nửa người nóng như lửa còn nửa người lại lạnh như băng, rồi mê man không biết gì nữa. Bây giờ vừa hồi tỉnh thì đột nhiên thấy thiếu nữ này xuất hiện, chàng lẩm bẩm: “Ta… ta…” rồi lại phát giác ra mình đang nằm trên một cái giường êm dịu, lại có chăn đắp trên người. Chàng toan ngồi dậy, nhưng vừa cựa mình thì khắp tứ chi mình mẩy đau đớn vô cùng, tựa như bị trăm nghìn mũi kim châm chích, không nhịn được phải la lên một tiếng.

Thiếu nữ nói: “Công tử vừa hồi tỉnh, không nên cử động nhiều. Tạ ơn Trời Phật! Thế là cái mạng nhỏ bé này có thể giữ được rồi.” Nàng nói xong, đột nhiên cúi xuống nhẹ nhàng hôn lên trán chàng, khi ngẩng dậy thì mặt đỏ bừng lên.

Chàng thiếu niên cũng không hiểu là nàng mắc cỡ, chỉ nhận thấy hai má nàng đỏ ửng lại càng xinh đẹp, bèn mỉm cười run run hỏi: “Ta… ta ở chỗ nào?”

Thiếu nữ cũng mỉm cười, dịu dàng giơ ngón tay trỏ lên để vào miệng ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Nàng khẽ nói: “Có người đến! Ta phải đi đây!” Bóng người thấp thoáng, nàng chuồn qua cửa sổ ra ngoài.

Chàng thiếu niên chỉ thấy hoa mắt lên một cái là thiếu nữ đã mất hút. Chàng lại nghe trên nóc nhà có những tiếng bước chân lạo xạo rất nhẹ, nhanh chóng rời xa, không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Nàng là ai? Nàng còn đến thăm ta nữa không?”

Một lát sau, quả nhiên có tiếng chân người đi đến bên cửa, rồi có tiếng hắng giọng. Cửa phòng kẹt mở. Hai người đi vào là một lão già mặt như người bệnh và một hán tử vừa ốm nhom vừa cao kều, nét mặt hơi quen quen như đã gặp ở đâu.

Lão già thấy chàng thiếu niên giương mắt lên nhìn thì lộ vẻ vui mừng tiến lại nói: “Bang chúa! Bang chúa thấy trong người thế nào? Hôm nay vẻ mặt bang chúa đã tươi tỉnh lắm rồi.”

Chàng thiếu niên ngập ngừng hỏi lại: “Lão… lão gọi ta là gì? Ta… ta… ở đâu đây?”

Lão già thoáng vẻ lo âu nhưng lại tươi cười ngay, đáp: “Bang chúa bị trọng bệnh đã bảy tám ngày, bây giờ thần trí phục hồi, thật là chuyện đáng mừng. Xin bang chúa cứ nằm nghỉ dưỡng thần, sáng mai thuộc hạ sẽ đến vấn an.” Lão nói xong, đưa ngón tay ra đặt lên cổ tay chàng để xem mạch, rồi một lát sau không ngừng gật đầu cười nói: “Tâm mạch bang chúa đã ổn định, không có gì đáng lo ngại nữa. Quả nhiên người tốt có hoàng thiên che chở, toàn bang cũng được hưởng phúc lây.”

Chàng thiếu niên kinh ngạc nói: “Ta… ta… là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa.”

Lão già cùng gã gầy đét nghe vậy lập tức ngẩn mặt ra, đưa mắt nhìn nhau. Lão già khẽ nói: “Xin bang chúa cứ yên nghỉ.” Lão đi giật lùi mấy bước, đoạn trở ra khỏi phòng.

Lão già này chính là Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch, còn gã gầy đét chính là hương chủ Mễ Hoành Dã.

Khi ở Ma Thiên Nhai, Mễ Hoành Dã đã bị Tạ Yên Khách dùng nội lực đả thương. Cũng may lúc đó nội lực Tạ Yên Khách đã suy giảm, lại nhờ Bối Hải Thạch võ công cao cường, y thuật tinh thông, kịp thời cứu viện gã đem về tổng đà bang Trường Lạc, điều dưỡng mấy ngày là dần dần bình phục. Nhưng gã một đời nổi tiếng anh hùng mà bị Tạ Yên Khách chỉ ra một chiêu đã bắt được, trong lòng phiền muộn vô cùng.

Bối Hải Thạch đã phải khuyên gã: “Mễ hiền đệ! Vụ này cũng tại chúng ta hành động lỗ mãng mà ra. Bây giờ nghĩ lại, phải chi Tạ Yên Khách nóng giận mà chế phục cả chín anh em, thì chắc không còn ai đến kinh động bang chúa khiến người phải tẩu hỏa nhập ma. Bây giờ bang chúa còn hôn mê bất tỉnh, tình thế nguy ngập, không ai dám đoán trước là lão nhân gia có qua khỏi được không. Môn nội công bang chúa đang luyện âm dương xung đột nhau như thế, dù chúng ta bản lãnh đến đâu cũng không thể luyện đến nơi được. Vạn nhất bang chúa xảy chuyện bất trắc thì Mễ hiền đệ là người tội nhẹ nhất trong chín anh em ta, vì hiền đệ vừa lên Ma Thiên Nhai đã bị Tạ tiên sinh kiềm chế, mất công lực từ trước khi thấy mặt bang chúa.”

Mễ Hoành Dã nói: “Bối tiên sinh không thể phân biệt kẻ có tội hay không bằng cách đó được. Bang chúa mà có mệnh hệ nào thì cả chín người chúng ta đều đại họa lâm đầu, còn phân biệt tội nặng với tội nhẹ gì nữa.”

Đến ngày thứ tám, Bối Hải Thạch và Mễ Hoành Dã vào thăm thì thấy Thạch bang chúa đã mở mắt ra và miệng đã nói được mấy tiếng, hai người mừng rõ vô cùng. Bối Hải Thạch bắt mạch thấy đã khá ổn định, còn chưa kịp mừng thì chàng thiếu niên lại nói một câu ngớ ngẩn “Ta là Cẩu Tạp Chủng chứ không phải bang chúa”, khiến cho Bối, Mễ hai người cả kinh thất sắc không dám nói gì nữa, lập tức lui ra.

Ra khỏi phòng, Mễ Hoành Dã hỏi Bối Hải Thạch: “Sao lại như thế?”

Bối Hải Thạch trầm ngâm một lát rồi đáp: “Hiện giờ tâm thần bang chúa còn chưa tỉnh táo, nhưng vẫn tốt hơn là cứ hôn mê. Tiểu huynh chỉ còn biết hết lòng chữa trị, sớm muộn gì thì chắc người cũng khỏi thôi.” Nói tới đây, lão ngưng lại một lát rồi tiếp: “Lúc này đang có nhiều việc gấp, mà chẳng biết bao giờ lão nhân gia mới hoàn toàn bình phục. Nhưng chỉ cần có bang chúa ở đây, cho dù trời có sập xuống cũng có người gánh vác.” Rồi lão vỗ nhè nhẹ lên vai Mễ Hoành Dã, mỉm cười nói: “Mễ hiền đệ! Ngươi không phải quá lo lắng, mọi việc ta sẽ lo liệu ổn thỏa.”

* * *

Chàng thiếu niên thấy hai người ra khỏi, lại mơ màng nhìn qua căn phòng một lượt. Chàng thấy mình nằm trên một chiếc giường rất lớn, trước giường là một án sách sơn son, bên án sách có hai chiếc ghế bành trải gấm. Trong phòng chỗ nào cũng bày biện xa hoa mỹ lệ, màn hồng đệm gấm, khói trầm đưa lên nhè nhẹ chẳng khác gì một động phủ thần tiên. Bỗng chàng thấy hơi hoa mắt, thấy chẳng có gì quen thuộc với mình, liền buông một tiếng thở dài nghĩ thầm: “Chắc là mình đang nằm mơ!”

Nhưng chàng nhớ lại thiếu nữ áo xanh nhạt vừa rồi dịu dàng nói chuyện, nét mặt rõ ràng lộ vẻ vui mừng. Cả đến động tác nàng chui qua cửa sổ chuồn đi cũng là sự thực hiển nhiên, không phải là mộng ảo. Chàng thiếu niên đưa tay phải lên toan sờ đầu, nhưng tay vừa động nhẹ thì toàn thân lại đau đớn như dần. Chàng không nhịn được, lại la lên một tiếng.

Bỗng trong góc phòng có tiếng người hắt hơi rồi hỏi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Đây đúng là thanh âm một thiếu nữ vừa thức dậy còn ngái ngủ. Đột nhiên cô ta thất thanh la gọi: “Thiếu gia đã tỉnh rồi ư?” Rồi một thiếu nữ áo vàng từ góc phòng nhảy vọt đến trước giường chàng.

Chàng thiếu niên tưởng đây là thiếu nữ lúc nãy vào thăm mình, bỗng thấy mừng rỡ. Nhưng chàng định thần nhìn kỹ thì thiếu nữ này mặc áo ngắn màu vàng, chẳng những màu áo khác nhau mà vẻ mặt cũng không giống. Thiếu nữ trước mắt chàng mặt tròn, mắt to, không xinh đẹp bằng cô áo xanh nhưng dịu dàng yểu điệu hơn. Hôm nay là lần đầu tiên chàng thiếu niên được đối diện chuyện trò với những cô gái trạc tuổi mình, đương nhiên không nhận xét được những sai biệt nhỏ, nhưng cũng hiểu cô này đang vừa vui mừng vừa kinh hãi. Chàng đáp: “Ta tỉnh rồi. Ta… ta không phải đang nằm mơ chứ?”

Thiếu nữ cười khanh khách nói: “Ai mà biết thiếu gia có đang nằm mơ hay không?” Đột nhiên mặt nàng nghiêm trang lại, hỏi tiếp: “Thiếu gia có cần gì không?”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên, vội hỏi lại: “Cô kêu ta là gì? Thiếu… thiếu gia nghĩa là gì?”

Thiếu nữ nhíu cặp lông mày ra chiều bất mãn, hỏi lại: “Bọn nô tỳ là phận tôi đòi, chẳng kêu chủ nhân bằng thiếu gia thì kêu bằng gì nữa?”

Chàng thiếu niên lẩm bẩm: “Vừa rồi một người kêu mình bằng… bang chúa gì gì đó, rồi bây giờ lại có một cô kêu bằng thiếu gia. Vậy thì mình là ai, và sao lại ở đây?”

Thiếu nữ dịu dàng lại, cất tiếng khuyên: “Thiếu gia! Hiện giờ thiếu gia chưa hoàn toàn khỏi hắn, đừng nói những chuyện này. Thiếu gia có ăn chút yến sào không?”

Chàng thiếu niên hỏi: “Yến sào ư?” Chàng không biết đó là cái thứ gì, nhưng cảm thấy rất đói bụng, có bất cứ cái gì ăn cũng tốt, nên liền gật đầu. Thiếu nữ đó bèn chạy sang phòng bên, lát sau bưng ra một cái khay. Trên khay có đặt một cái liễn sứ vẽ hoa màu xanh, mùi thơm bốc lên nghi ngút. Chàng thiếu niên vừa ngửi thấy đã chảy nước miếng, bụng sôi ùng ục.

Thiếu nữ tủm tỉm cười nói: “Bảy tám ngày nay thiếu gia chỉ uống sâm thang để cầm hơi, chắc bây giờ đói lắm rồi!” Cô vừa nói vừa đặt mâm xuống trước mặt chàng.

Dưới ánh nến, chàng thiếu niên thấy trong liễn đựng một thứ gì trắng như tuyết, trông như cháo mà không phải là cháo, lại loáng thoáng có mấy cánh hoa hồng bốc lên một mùi thơm thanh nhã. Chàng cất tiếng hỏi: “Cái này để ta ăn đây phải không?”

Thiếu nữ mỉm cười đáp: “Phải rồi! Thiếu gia lại còn phải hỏi ư?”

Chàng thiếu niên tự hỏi: “Không biết thứ này mất bao nhiêu tiền, mà mình chẳng có đồng bạc nào. Ta hỏi trước là hơn.” Chàng liền nói: “Trong mình ta không có tiền, thì… thì lấy gì trả cô được?”

Thiếu nữ sửng sốt, nhưng lát sau thì không nhịn được, cười khanh khách nói: “Thiếu gia vừa trọng bệnh mà tính nết vẫn chẳng thay đổi chút nào, nói ra toàn những lời đùa giỡn. Thiếu gia đã đói thì cứ ăn đi thôi.” Cô nói xong, liền bưng liễn yến sào đến gần.

Chàng thiếu niên cả mừng hỏi: “Ta ăn cái này không phải trả tiền ư?”

Thiếu nữ tưởng là chủ nhân trêu ghẹo, trong lòng hơi khó chịu liền xịu mặt xuống đáp: “Không phải trả tiền. Thiếu gia có ăn không?”

Chàng thiếu niên vội đáp: “Ta ăn, ta ăn…” Rồi chàng đưa tay ra cầm thìa, nhưng vừa cất tay lên thì toàn thân lại đau đớn không chịu được. Chàng nghiến chặt răng, từ từ giơ tay lên, nhưng tay cứ run bần bật không ngớt.

Thiếu nữ mặt lạnh như tiền hỏi: “Thiếu gia đau thật hay là giả vờ?”

Chàng thiếu niên lấy làm kỳ hỏi lại: “Đương nhiên là đau thật, tại sao phải giả vờ chứ?”

Thiếu nữ nói: “Được rồi! Thấy thiếu gia ốm thập tử nhất sinh, nô tỳ phá lệ mà đút cho thiếu gia ăn. Nhưng nếu thiếu gia lại thừa cơ mà đụng đậy chân tay bừa bãi, thì nô tỳ mặc kệ mà bỏ đi đấy.”

Chàng thiếu niên càng nghe càng thấy ngạc nhiên, lại hỏi: “Đụng đậy chân tay bừa bãi nghĩa là gì?”

Thiếu nữ đôi má ửng hồng, lườm chàng một cái rồi lấy muỗng múc yến sào trong liễn, đổ vào miệng chàng. Chàng thiếu niên ngơ ngác, không ngờ trên đời lại có người tử tế như vậy. Chàng há miệng ra nuốt một thìa yến sào thì thấy vừa thơm vừa ngon, khoan khoái không biết thế nào mà nói. Thiếu nữ không nói câu gì, múc cho chàng ba thìa liên tiếp. Cô vẫn sợ chàng có những hành động bất lịch sự nên cứ đứng cách giường xa xa, phải vươn tay ra mới đổ được yến sào vào miệng chàng.

Chàng thiếu niên đưa lưỡi liếm môi, khen luôn miệng: “Ngon quá! Thật là ngon quá! Ta hết sức cảm ơn cô!”

Thiếu nữ cười lạnh: “Thiếu gia đừng tưởng dùng ngụy kế mà đánh lừa được nô tỳ! yến sào chỉ là yến sào như mọi khi, thiếu gia ăn có đến hàng ngàn lần rồi, sao chẳng thấy khen ngon bao giờ?”

Chàng thiếu niên không khỏi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Mình đã ăn thứ này bao giờ đâu?” Chàng liền hỏi: “Cái này… cái này là yến sào ư?”

Thiếu nữ hắng giọng một tiếng rồi đáp: “Thiếu gia thật khéo giả vờ!” Nói xong câu này cô ta lùi một bước, trên mặt đầy vẻ cảnh giác.

Chàng thiếu niên thấy cô ta mặc áo ngắn màu vàng óng, mới ngủ dậy chưa kịp chải tóc nên hai lọn tóc trên đầu còn rối bù xù, chân cũng chưa đi tất, hai bàn chân trắng xỏ trong đôi hài thêu. Mẹ chàng quanh năm đi tất, lại chẳng cho chàng vào phòng bao giờ. Chàng chưa từng được thấy đôi chân đẹp đẽ như thế, không nhịn được phải cất tiếng khen: “Chân… chân của cô thật là đẹp.” Thiếu nữ đỏ mặt lên ra chiều giận dữ. Cô ta đặt thịch liễn yến xuống bàn, quay lưng đi tới góc phòng, cuốn chiếu rồi cầm cả chăn gối bước ra cửa.

Chàng thiếu niên kinh hãi hỏi: “Cô… cô đi đâu? Cô không nhìn đến ta nữa ư?” Giọng nói của chàng tỏ vẻ khẩn thiết.

Thiếu nữ nói: “Thiếu gia bệnh nặng đến chết đi sống lại, mới nhúc nhích được một chút đã lại nói những câu vớ vẩn rồi. Thiếu gia là chủ, nô tỳ là phận tôi đòi thấp kém, khi nào lại dám tự tiện bỏ đi, mặc kệ chủ nhân?” Nàng nói xong thì đã bước ra khỏi cửa.

Chàng thiếu niên thấy cô ta tức giận bỏ đi, cũng không hiểu mình đã lầm lỗi gì, nghĩ bụng: “Một cô nhảy qua cửa sổ, một cô bước khỏi cửa lớn mà đi. Mấy cô này nói gì mình cũng chẳng hiểu chi hết, thật không biết chuyện gì nữa.” Chàng còn đang ngơ ngẩn xuất thần, bỗng nghe tiếng bước chân rất nhẹ, thiếu nữ vừa rồi lại quay vào phòng. Mặt cô vẫn còn ra chiều tức giận, tay bưng một thau nước rửa mặt.

Chàng thiếu niên thấy nàng trở lại thì cả mừng. Thiếu nữ đặt thau nước xuống bàn, lấy trong thau ra một chiếc khăn mặt nóng còn bốc hơi nghi ngút. Nàng vắt cho ráo nước, rồi đưa lại trước mặt chàng, lạnh nhạt nói: “Thiếu gia lau mặt đi!”

Chàng thiếu niên vội đáp: “Vâng, vâng!” rồi vội đưa tay ra cầm lấy. Nhưng chàng vừa cử động hai tay thì toàn thân lại đau đớn vô cùng, nghiến răng cố chịu để đưa khăn lên lau mặt, nhưng tay giơ lên còn cách mặt chừng một thước thì không sao đưa gần vào được nữa.

Thiếu nữ thấy vậy bán tín bán nghi, cười lạnh nhạt nói: “Thiếu gia giả vờ khéo thật!” Cô đón lấy khăn mặt rồi nói tiếp: “Thiếu gia muốn nô tỳ lau mặt cho cũng chẳng khó gì, nhưng đừng có đưa tay ra quấy rối. Thiếu gia chỉ đụng tới một sợi tóc, là nô tỳ vĩnh viễn không vào phòng nữa.”

Chàng thiếu niên nói: “Ta không dám. Cô nương đừng lau mặt cho ta nữa. Tấm khăn trắng như bông thế này mà lau vào mặt ta, thì bị dơ bẩn mất.”

Thiếu nữ nghe giọng nói chàng nhỏ nhẹ hơn trước, lời lẽ thì hoàn toàn chẳng giống ngày trước chút nào, vớ vẩn chẳng ra nghĩa lý gì nữa, thì không khỏi sinh lòng ngờ vực. Cô ta nghĩ thầm: “Không chừng trận ốm này làm chàng tổn thương đến não. Nghe Bối đại phu kể thiếu gia đang luyện công thì bị tẩu hỏa nhập ma, tổn hại đến lục phủ ngũ tạng, tính mạng giữ được hay không còn khó nói. Nếu không tổn thương đến não thì sao chàng lại nói trăng nói cuội như thế?” Nghĩ vậy cô ta liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia còn nhớ tên tiểu tỳ không?”

Chàng thiếu niên đáp: “Cô nương chưa nói bao giờ, thì ta biết làm sao được?” Rồi chàng mỉm cười nói tiếp: “Tên ta không phải là Thiếu gia mà là Cẩu Tạp Chủng, mẫu thân vẫn gọi ta như vậy. Nhưng lão bá lại bảo Cẩu Tạp Chủng không phải là tên, chỉ là tiếng dùng để mắng người, nghe không hay. Còn cô nương tên là gì?”

Thiếu nữ càng nghe thì đôi mày càng nhăn tít lại, nghĩ thầm: “Vẻ mặt thiếu gia chẳng có vẻ gì là giỡn cợt hay chọc ghẹo. Đúng là chàng mất trí rồi.” Nghĩ vậy cô không khỏi đau lòng, liền hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia thật không nhận ra tiểu tỳ là Thị Kiếm nữa ư?”

Chàng thiếu niên hỏi lại: “Cô nương là Thị Kiếm phải không? Từ đây ta gọi cô nương là Thị Kiếm tỷ tỷ. Mẫu thân ta có dặn rằng: Nếu gặp nữ nhân hơn tuổi mình nhiều thì kêu bằng bà bà, nếu chỉ hơn vài tuổi thì kêu bằng tỷ tỷ. “

Thị Kiếm buồn bã cúi xuống, bất giác vừa khóc vừa nói: “Thiếu gia… Thiếu gia quên Thị Kiếm này thật, không phải giả vờ để lừa gạt tiểu tỳ ư?”

Chàng thiếu niên lắc đầu nói: “Thật sự ta không hiểu được cô nói gì. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao tỷ tỷ lại khóc? Tại sao tỷ tỷ không vui vẻ? Ta có lầm lỗi gì không? Mỗi khi mẫu thân của ta không vui vẻ thì lại đánh ta, mắng ta. Tỷ tỷ có đánh ta mắng ta cũng được.”

Thị Kiếm nghe vậy lại càng đau lòng như cắt. Nàng cầm khăn từ từ lau mặt cho chàng, hạ thấp giọng nói: “Tiểu tỳ là một đứa a hoàn, có lý nào lại đánh mắng thiếu gia? Tiểu tỳ chỉ mong rằng ông trời phù hộ cho thiếu gia mau mau khỏi bệnh. Nếu thật sự thiếu gia quên hết mọi chuyện, tiểu tỳ biết phải làm sao đây?”

Sau khi lau mặt xong, chàng thiếu niên nhìn thấy chiếc khăn mặt trắng tinh đó cũng không đến nỗi dơ lắm. Chàng không biết trong lúc mình mê sảng, mỗi ngày đều được Thị Kiếm lau mặt mấy lần, nhưng cũng cảm ơn không ngớt. Thị Kiếm hạ giọng hỏi: “Thiếu gia quên tên tiểu tì, nhưng còn nhớ được những việc khác không? Tỉ dụ như thiếu gia là bang chúa của bang nào?”

Chàng thiếu niên lắc đầu đáp: “Ta không phải là bang chúa chi hết. Lão bá bá truyền thụ võ công cho, ta đang rèn luyện thì đột nhiên nửa người bên này nóng như sôi lên, còn nửa người bên kia lại lạnh cứng. Ta… ta… không sao chịu đựng nổi, bỗng dưng xây xẩm mặt mày rồi không biết gì nữa. Thị Kiếm tỷ tỷ! Sao hiện giờ ta lại ở đây? Có phải tỷ tỷ đem ta về đây không?”

Thị Kiếm trong lòng chua xót, nghĩ bụng: “Cứ tình trạng này thì hiển nhiên là thiếu gia không còn nhớ một tý gì nữa.”

Chàng thiếu niên lại nói tiếp: “Lão bá đâu rồi? Người dạy ta luyện công theo những nét vẽ trên hình nhân, không hiểu sao mà thân thể vừa nóng vừa lạnh, ta muốn hỏi lại lão bá thử.”

Thị Kiếm nghe chàng thiếu niên nói đến những hình nhân thì sực nhớ ra bảy hôm trước đây, lúc thay áo cho chàng, thấy trong bọc rớt ra một chiếc hộp gỗ. Cô động tính hiếu kỳ mở hộp ra xem, thì thấy mười tám pho tượng đất nhỏ xíu toàn là nam nhân lõa thể, lập tức đỏ mặt lên. Cô cho là thiếu chủ nhân quen tính phong lưu lãng mạn không phải người đứng đắn, những tượng đất lõa thể chắc chắn không phải là vật tốt, nên đóng nắp hộp lại ngay rồi cất vào hộc tủ. Bây giờ cô lại nghĩ thầm: “Ta cứ thử đem những tượng đất đó cho thiếu gia xem, không chừng sẽ giúp cho chàng nhớ lại những việc trước khi tấu hỏa nhập ma.” Thị Kiếm liền lấy hộp gỗ ra rồi nói: “Thiếu gia nói hình nhân gì đó, có phải là những thứ này không?”

Chàng thiếu niên vui mừng đáp: “Phải rồi! Hình nhân đây rồi, còn lão bá đâu? Lão bá đi đâu rồi?”

Thị Kiếm hỏi lại: “Lão bá nào?”

Chàng thiếu niên đáp: “Lão bá là lão bá chứ còn lão bá nào? Danh hiệu lão bá là Ma Thiên Cư Sĩ.”

Thị Kiếm chẳng hiểu mấy về những nhân vật võ lâm, trước nay cũng chưa nghe danh hiệu Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách, bèn đáp: “Thiếu gia ơi, thiếu gia tỉnh lại là tốt rồi, những việc ngày trước chưa nhớ ra thì cũng chẳng quan trọng lắm. Trời hãy còn chưa sáng, thiếu gia hãy ngủ đi một lúc nữa. Thực ra thì những việc ngày trước, thiếu gia quên hết đi càng hay.” Cô nói xong, kéo chăn đắp cho chàng, thu dọn đồ vật toan ra khỏi phòng.

Chàng thiếu niên hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tại sao ta không nhớ lại những việc ngày trước thì lại tốt hơn?”

Thị Kiếm đáp: “Những việc ngày trước của thiếu gia…” Cô nói dở câu bỗng ngừng lại, cúi đầu xuống bước mau ra khỏi phòng.

* * *

Chàng thiếu niên hết sức hoang mang, dù cố nghĩ đến đâu cũng chẳng hiểu gì hết. Thỉnh thoảng chàng lại nghe bên ngoài có tiếng mõ lốc cốc, rồi tiếp đến tiếng thanh la leng keng. Chàng không biết đây là hiệu lệnh canh phòng, lại nghĩ rằng nửa đêm rồi mà người ta còn khua chiêng gõ mõ giỡn chơi.

Đột nhiên, huyệt Thương Dương ở ngón tay trỏ bên phải chàng nóng lên, một luồng nhiệt khí từ ngón tay truyền qua cổ tay, rần rần chạy lên cánh tay. Chàng kinh hãi la thầm: “Không xong!” Đồng thời huyệt Dũng Tuyền ở lòng bàn chân bên trái lại phát lạnh thấu xương. Hai luồng hàn khí và nhiệt khí xung kích nhau làm chàng khổ cực đã nhiều. Mỗi lần lên cơn, hai luồng chân khí bốc lên đau đớn kinh khủng, khiến người ta phải mê man không biết gì nữa. Có điều những lần trước thì biến diễn này xảy ra vào lúc chàng đã hôn mê sẵn, mà lần này trong lúc tỉnh táo thì thương thế đột nhiên phát tác, khiến chàng phải kinh tâm động phách.

Chàng thiếu niên cảm giác rõ ràng hai luồng hàn nhiệt từ hai nửa người từ từ chạy vào tâm phế, đau khổ than thầm: “Đời ta đến đây là hết. Những lần trước hai luồng hàn nhiệt không tụ trước bụng thì tụ sau lưng, lần này chúng lại công phá nhau ở tim phổi thì còn chịu thế nào được?” Chàng thiếu niên biết tình thế vô cùng nguy ngập, gắng gượng ngồi dậy toan xếp bằng lại, nhưng đôi chân không thể nào co vào được. Trong lúc khó khăn, trong lòng chàng chợt nghĩ: “Ngày trước lão bá luyện công phu cũng phải đau khổ như thế này ư? Lão bá từng để hai con chim sẻ trong lòng bàn tay, để chúng vỗ cánh mà không bay lên được, chẳng qua cũng là việc đùa giỡn mà thôi. Nếu sớm biết thế này thì ta chẳng luyện làm gì cho khổ.”

Bỗng ngoài cửa sổ có giọng một nam nhân vọng vào: “Bẩm bang chúa! Thuộc hạ là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường có việc cơ mật cần bẩm báo.”

Chàng thiếu niên nghe mà không nói được nửa tiếng. Hồi lâu bỗng thấy cánh cửa sổ từ từ mở ra, bóng người thấp thoáng, một hán tử mặc áo rách nát nhảy vọt vào. Hán tử vào đến trước giường, thấy chàng thiếu niên đã ngồi dậy thì không khỏi giật mình kinh hãi. Chàng đã cử động được là chuyện ngoài dự liệu, gã vội lùi lại hai bước.

Lúc này hai luồng nội lực hàn nhiệt trong người chàng thiếu niên đã gặp nhau ở giữa khoảng tim và phổi. Trái tim chàng đập kịch liệt, bất cứ lúc nào cũng có thể ngưng đập mà chết. Nhưng giữa lúc cực kỳ đau đớn, mà tinh thần chàng lại rất linh mẫn. Chàng nghe gã báo danh là Triển Phi ở Báo Tiệp Đường, thấy gã nhảy từ cửa sổ vào mà không hiểu gã muốn làm gì, chỉ giương mắt lên nhìn.

Triển Phi thấy chàng thiếu niên không động đậy gì, liền khẽ cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Tại hạ nghe nói lão nhân gia luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, trong người không được khỏe. Bây giờ bang chúa đã đỡ chưa?” Chàng thiếu niên run người lên mấy cái, không nói ra tiếng. Triển Phi cả mừng, lại hỏi: “Bang chúa! Hiện giờ bang chúa chưa khỏi hẳn, không nên cử động, có phải thế không?”

Gã nói rất nhỏ, nhưng Thị Kiếm ở phòng bên kia cũng nghe tiếng động lạ, liền chạy sang xem. Cô thấy vẻ mặt Triển Phi cực kỳ hung dữ thì kinh hãi hỏi: “Ngươi vào phòng bang chúa có việc gì? Sao không thông báo mà dám tự tiện nhảy vào? Ngươi muốn phạm thượng làm loạn chăng?”

Triển Phi lạng người nhanh như chớp đến bên Thị Kiếm, huých khuỷu tay phải vào sau lưng nàng, ngón tay điểm xuống đầu vai. Thị Kiếm bị gã điểm trúng huyệt đạo, lập tức ngã xuống nằm nghiêng trên một cái ghế, không sao nhúc nhích được. Triển Phi chuyên luyện công phu ngoại gia, phép điểm huyệt của gã chỉ khiến người khác bất động, nhưng vẫn nói chuyện được. Gã phải lấy một mảnh vải nhét vào miệng Thị Kiếm. Thị Kiếm trong lòng lo lắng vô cùng. Cô biết Triển Phi định làm hại bang chúa, nhưng không có cách nào gọi người đến cứu viện.

Triển Phi đối với bang chúa vẫn hết sức kiêng kị. Gã đưa hữu chưởng lên, nhỏ giọng nói: “Ta chỉ dùng một đòn Thiết Sa Chưởng là đủ giết con tiện tỳ này, chẳng có chi là khó.” Gã vung chưởng lên nhưng không đánh xuống ngay, nghĩ bụng: “Nếu bang chúa chưa mất hết nội công thì nhất định y sẽ ra tay giải cứu.” Gã vừa nghĩ vừa nhắm đỉnh đầu Thị Kiếm đập xuống, bàn tay chỉ còn cách chừng nửa thước mà bang chúa vẫn ngồi yên không nhúc nhích. Gã mừng thầm trong bụng, lập tức thu chưởng về, quay lại nhìn chàng thiếu niên cười hết sức độc ác: “Tiểu dâm tặc! Đời ngươi tác ác đã nhiều, không ngờ hôm nay lại chết về tay ta.” Rồi gã bước lên hai bước tới sát giường, thấp giọng nói: “Kể ra thì lúc này ta hạ thủ giết ngươi cũng không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Nhưng giữa ngươi và ta đã có mối thù sâu tựa biển, thì còn đếm xỉa đến lề luật giang hồ làm chi? Giả tỉ ngươi là kẻ hào kiệt biết trọng nghĩa khí, thì đã chẳng quyến rũ vợ ta.”

Chàng thiếu niên và Thị Kiếm tuy không nhúc nhích được, nhưng thần trí vẫn còn tỉnh táo. Chàng nghe Triển Phi nói rất rõ ràng mà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, tự hỏi: “Gã này nói gì mà có thù sâu tựa biền với ta, lại còn bảo ta quyến rũ vợ hắn.”

Thị Kiếm lại nghĩ: “Lão nhân gia đã nợ không biết bao nhiêu món nợ phong lưu rồi, cuối cùng hôm nay cũng phải chịu báo ứng. Ối chao, tên này thật sự muốn giết chết thiếu gia rồi.” Trong lòng cô hết sức hoảng sợ, cố gắng giãy giụa, nhưng tay chân bủn rủn vô lực, đột nhiên ngã lăn xuống đất nghe “bịch” một tiếng.

Triền Phi giận dữ nói tiếp: “Vợ ta đã phải thất thân với ngươi. Hừ! Ngươi tưởng là ta vừa đui vừa điếc không biết tí gì hay sao? Trước đây ta có biết nhưng chẳng làm gì được ngươi, đành ôm mối căm hờn, nén khổ trong lòng không thể nói ra. May mà trời còn có mắt, thằng quỷ dâm ác tội lỗi đầy đầu như ngươi lại có ngày lọt vào tay ta.” Dứt lời, Triển Phi đứng thủ thế, vận nội lực vào cánh tay, gân cốt chuyển nghe răng rắc, rồi vung chưởng đánh vào trước ngực chàng thiếu niên.

Triền Phi là một vị hương chủ ở Báo Tiệp Đường, một trong ngoại ngũ đường của bang Trường Lạc. Công phu Thiết Sa Chưởng của gã đã luyện đến hai mươi năm, không phải tầm thường, lại đã vận đủ mười thành công lực nhằm đánh vào huyệt Đản Trung ở giữa ngực đối phương. Thế mà chỉ nghe mấy tiếng lắc cắc, cánh tay phải Triển Phi đã bị gãy rời, người gã bị hất ngược lại xuyên qua cửa sổ, phá gãy cả song cửa, rồi té lăn xuống đất bên ngoài phòng. Kinh mạch toàn thân gã đều bị bế tắc, ngất xỉu ngay chỗ đó.

Ngoài căn phòng này là một vườn hoa, trong vườn lúc nào cũng có một đội tuần tiểu. Đêm nay là đúng phiên Báo Tiệp Đường canh gác. Phòng riêng của bang chúa là nơi được phòng thủ rất nghiêm mật. Triển Phi muốn trả thù từ mấy hôm trước, nhưng gã không dám hấp tấp, biết nếu không phải lúc mình canh gác thì khó mà hành sự, nên phải cố nén chờ đến hôm nay. Gã được giao việc canh gác phòng bang chúa, liền bẻ sẵn mấy chấn song cửa sổ để chui vào chui ra cho dễ.

Lúc này, Triển Phi ngã vào một bụi hoa hồng rậm rạp. Bọn tuần tiễu thấy khóm hồng lay động, hai tên bèn chạy lại giơ đuốc lên soi. Chúng thấy Triển Phi nằm không nhúc nhích, chẳng hiểu sống chết thế nào, lại cho là có cường địch lẻn vào phòng bang chúa, đều cả kinh thất sắc. Bọn chúng vội thổi còi báo động, rồi rút đơn đao ra, thò đầu nhìn vào cửa sổ. Trong phòng tối đen như mực, không thấy động tĩnh gì. Hai tên tuần tiễu vừa giơ đuốc soi vào, vừa vung đao lên để bảo vệ trước mặt. Đao quang lấp lóe, hai gã nhìn rõ bang chúa ngồi xếp bằng trên giường, dưới đất có một thiếu nữ, dường như là thị nữ của bang chúa đang nằm. Ngoài ra, không còn ai khác.

Giữa lúc ấy, bang chúng nghe còi báo động, từ cả trước lẫn sau lục tục chạy đến. Hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khưu Sơn Phụng rút thiết giản ra cầm tay, lớn tiếng la hỏi: “Bang chúa! Lão nhân gia có bình yên chăng?” Gã vừa hô vừa vén rèm chạy vào phòng, thấy toàn thân bang chúa run bần bật không ngớt. Đột nhiên bang chúa oẹ lên một tiếng, rồi thổ ra mấy bụm máu tím bầm, phải đến hàng mấy bát.

Khưu Sơn Phụng vội né người sang một bên để máu khỏi bắn vào quần áo. Gã còn đang kinh ngạc, thì bang chúa đã bước xuống giường, đỡ ả thị nữ lên rồi hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Hắn… hắn có đả thương tỷ tỷ không?” Chàng vừa hỏi vừa lấy tấm khăn nhét trong miệng Thị Kiếm ra.

Thị Kiếm thở phào một cái, hỏi lại: “Thiếu gia! Bang chúa có bị hắn đả thương không? Bang chúa cảm thấy như thế nào?” Nàng kinh hãi quá, nói cũng không được rõ ràng.

Nhưng chàng thiếu niên đáp ngay: “Gã đánh ta một chưởng, nhưng lại khiến ta khoan khoái vô cùng!”

Bỗng ngoài cửa có tiếng chân nhộn lên, rất nhiều người chạy đến. Bối Hải Thạch cùng Mễ Hoành Dã lật đật chạy vào phòng, còn những người địa vị thấp kém thì đứng cả ngoài cửa. Bối Hải Thạch chạy tới trước mặt chàng thiếu niên, vội hỏi: “Bang chúa! Thích khách đến làm kinh động lão nhân gia ư?”

Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi lại: “Thích khách cái gì? Ta chẳng thấy chi hết!” Lúc này có mấy cao thủ trong bang đã tiếp nội lực cho Triển Phi, cứu gã tỉnh lại rồi đưa vào trong phòng. Triển Phi đã biết luật lệ bản bang cực kỳ nghiêm ngặt. Kẻ nào can tội mạo phạm tôn trưởng, hay âm mưu phản bang đều bị gia hình cực kỳ khốc liệt. Phạm nhân sẽ bị lột trần, cột vào một phiến đá phía sau núi gọi là Hình Đài Thạch, để cho ong châm kiến đốt, rắn cắn rết hút, diều tha quạ mổ lôi từng miếng thịt, bị hành hạ đến tám chín ngày mới chết được.

Triển Phi vừa vận toàn lực để đánh bang chúa một đòn thật nặng. Ngờ đâu, chẳng những phát chưởng của gã không làm gì được, mà còn bị nội lực cực kỳ thâm hậu của đối phương hất ngược lại, chấn gãy cánh tay phải, lại còn bị nội thương cực kỳ trầm trọng. Bây giờ gã không nghĩ gì nữa, chỉ mong sao được chết mau lẹ. Gã thấy mình bị đưa vào phòng thì yên trí sẽ bị gia hình, liền ngưng tụ nội tức, chỉ chờ bang chúa ra lệnh một câu “Đem ra cột vào Hình Đài Thạch” là lập tức đập đầu vào vách để tự tử.

Bối Hải Thạch lại cất tiếng hỏi: “Bang chúa! Thích khách đã nhảy từ cửa sổ vào phải không?”

Chàng thiếu niên đáp: “Ta đang lúc mơ màng, trong người thật là khó chịu, tim đập loạn xạ đến muốn chết đi được, cũng không biết có ai vào không.”

Triển Phi nghe vậy thì rất lấy làm kỳ. Gã tự hỏi: “Chẳng lẽ lúc đó y vẫn còn mê man chưa tỉnh, không biết ta đã vung chưởng đánh y hay sao?” Nhưng gã lại nghĩ bụng: “Nhưng con nha đầu kia biết rõ mình đã hạ thủ, thế nào nó cũng kể ra.”

Quả nhiên, Bối Hải Thạch đưa tay ra vỗ vào lưng của Thị Kiếm mấy cái, vận nội lực để giải huyệt đạo cho cô, rồi cất tiếng hỏi: “Ai đã phong tỏa huyệt đạo của ngươi?”

Thị Kiếm chỉ vào Triển Phi đáp: “Là hắn.”

Bối Hải Thạch quay lại, chau mày nhìn Triển Phi. Triển Phi cười lạt một tiếng, toan thóa mạ mấy câu cho sướng miệng rồi chết cũng được. Nhưng gã chưa mở miệng thì bang chúa đã lên tiếng trước: “Là ta… ta bảo y làm đó.”

Triển Phi và Thị Kiếm đều ngẩn người ra nhìn chàng thiếu niên. Cả hai cùng không tin ở tai mình, đều tự hỏi: “Bang chúa nói vậy thì có dụng ý gì?” Chàng thiếu niên đó không hiểu rõ ràng bất cứ chuyện gì, nhưng chàng thấy tình thế cực kỳ nghiêm trọng, mà mọi người đều có vẻ tôn kính mình. Nếu bọn này biết Triển Phi đã điểm huyệt Thị Kiếm và phóng chưởng đánh mình thì thật là bất lợi cho gã.

Vì thế mà chàng buột miệng nói dối một câu để cứu nguy cho Triển Phi. Còn vì nguyên nhân gì mà chàng bảo vệ gã thì chính chàng cũng không biết. Chàng chỉ nhớ mang máng rằng lúc Triển Phi hạ thủ đánh mình, vẻ mặt gã cực kỳ phẫn nộ, chứng tỏ là có lý do gì bất đắc dĩ phải ra tay. Hơn nữa, lúc đó hai luồng khí hàn nhiệt trong người chàng đang xung kích nhau cực kỳ mãnh liệt cơ hồ không chịu nổi, nhờ phát chưởng của Triển Phi đánh trúng huyệt Đản Trung mà chàng hết đau đớn.

Huyệt Đản Trung là mấu chốt giao thông của các đường kinh mạch trong người. Chưởng lực của Triển Phi đã mãnh liệt phi thường, tại tình cờ đánh vào đúng chỗ đúng lúc. Phát chưởng đó kích thích cho kinh mạch Bát Âm và Bát Dương của chàng được âm dương hòa hợp, cũng giống như nước với sữa đã khuấy đều, không còn phân lớp hay có cặn chi hết.

Đồng thời, nội lực chàng đột nhiên gia tăng một cách không tưởng nổi, hất ngược lại chấn động gãy tay Triển Phi, lại tống gã ra ngoài cửa sổ. Chàng thiếu niên chẳng hiểu gì, chỉ cảm thấy những luồng hàn khí đang lạnh thấu xương trong người bỗng được ấm áp, mà khí nóng như lửa cũng mát dịu đi, khắp mình mẩy và tứ chi đều thư thái dễ chịu. Một lúc sau, ngay cả cảm giác ấm áp hay mát dịu cũng không thấy nữa, chàng chỉ thấy tinh lực tràn trề trong thân thế, nhịn không nổi muốn la lên.

Khi hương chủ Mãnh Hổ Đường là Khâu Sơn Phong tiến vào phòng, chàng thiếu niên hộc ra mấy ngụm ứ huyết, rồi từ lúc đó chàng cảm thấy tâm thần khoan khoái, nội lực phong phú, đầu óc cũng thêm phần minh mẫn.

Bọn Bối Hải Thạch thấy Thị Kiếm y phục xốc xếch, đầu tóc rối tung, vẻ mặt bơ phờ thì cùng nghĩ như nhau. Chúng vốn biết rõ bang chúa trước giờ vốn là người tham dâm háo sắc, vừa khỏi bệnh liền động ngay tạp niệm. Chắc chàng đang tính chuyện nài ép Thị Kiếm thì gặp lúc hương chủ Triển Phi đi tuần bên ngoài, liền gọi gã vào, hạ lệnh gã điểm huyệt Thị Kiếm. Nhưng họ không hiểu Triền Phi đã đắc tội thế nào với bang chúa mà bị chàng hất ra ngoài cửa sổ. Có thể là Triển Phi nghe lệnh cởi bỏ y phục của Thị Kiếm mà hành động chậm trễ nên bang chúa nổi giận, cũng có thể là Triển Phi giả vờ tìm cách đó để chuồn ra ngoài.

Bây giờ họ thấy thương thế Triển Phi cực kỳ trầm trọng, mặt mũi chân tay lại bị gai nhọn ở khóm hoa hồng đâm trầy xước, thì đều có ý thương hại gã, chỉ vì đang đứng trước mặt bang chúa nên họ chẳng dám đến thăm hỏi để an ủi gã mà thôi. Mọi người đều nghĩ như vậy, nên không ai đề cập đến chuyện thích khách nữa.

Mãnh Hổ Đường hương chủ Khâu Sơn Phong bỗng nghĩ ra mình đã gây cản trở đến chuyện bang chúa mua vui. Gã thấy Triển Phi như vậy, cũng lo bang chúa trở mặt trách phạt đến mình, nên không dám trùng trình ở lại nữa, liền khom lưng nói: “Xin bang chúa cứ nghỉ ngơi, thuộc hạ xin lui bước.” Mọi người cũng nghiêng mình thi lễ rồi lục tục dời khỏi.

Bối Hải Thạch thấy thần sắc bang chúa có vẻ kỳ dị thì băn khoăn lo lắng, liền đưa tay ra nói: “Để thuộc hạ chẩn mạch lại cho bang chúa.” Chàng thiếu niên bèn đưa tay ra cho y bắt mạch. Bối Hải Thạch vừa đặt hai đầu ngón tay lên cổ tay chàng, thì đột nhiên cánh tay run lên, nửa người tê dại, mấy đầu ngón tay bị hất mạnh ra. Bối Hải Thạch giật mình kinh hãi, nhưng rồi lộ vẻ vui mừng, lớn tiếng nói: “Chúc mừng bang chúa! Chúc mừng bang chúa! Thần công cái thế của bang chúa đã luyện thành rồi.”

Chàng thiếu niên vẫn chẳng hiểu đầu đuôi như thế nào, ngơ ngác hỏi lại: “Cái gì… cái gì là cái thế thần công?”

Bối Hải Thạch nghe hỏi vậy thì lại đoán là bang chúa không muốn tiết lộ cái thế thần công cho người ngoài hay biết, nên lão không dám nhắc lại nữa, liền nói chữa: “Dạ, dạ! Thuộc hạ ăn nói lung tung, xin bang chúa miễn tội cho!” Rồi lão cũng khom lưng thi lễ, vội vã ra khỏi phòng.

Một lúc sau, quần hào rút ra ngoài hết, trong phòng chỉ còn lại Triển Phi và Thị Kiếm. Triển Phi bị trọng thương, nhưng mọi người không biết bang chúa định xử trí gã ra sao. Bang chúa không ra lệnh gì, họ đành để mặc gã lại trong phòng, không ai dám dìu gã ra ngoài chữa trị. Triển Phi vừa bị gãy tay vừa bị nội thương, đau đớn vô cùng, mồ hôi trán toát ra đầm đìa. Gã thấy mọi người lui ra cả rồi thì căm hận nghiến răng nói: “Ngươi muốn hành hạ ta thì ra tay lẹ lên! Họ Triển này mà mở miệng van xin ngươi một câu thì không phải là hảo hán.”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên hỏi: “Tại sao ta phải hành hạ ngươi? Hừ! Cánh tay ngươi gãy rồi, phải nối lại mới được. Trước kia con A Hoàng của ta ngã lăn từ sườn núi xuống hố sâu bị gãy chân, chính ta đã chữa cho nó đấy.” Tư chất chàng thiếu niên này vốn rất thông minh. Hai mẹ con chàng ân cư trên núi hoang, bất luận việc gì chàng cũng phải ra tay làm lấy. Tuy chàng còn nhỏ tuổi, song các việc trồng trọt, săn bắn, nấu cơm, sửa nhà đều đã làm qua. Con chó A Hoàng bị gãy chân, chàng dùng thanh gỗ buộc cho nó, chỉ không đầy mười ngày là hồi phục.

Chàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn quanh, tìm một mảnh gỗ để bó xương lại cho Triển Phi. Thị Kiếm thấy bang chúa ngó qua ngó lại liền hỏi: “Thiếu gia muốn kiếm chi vậy?”

Chàng thiếu niên đáp: “Ta kiếm một khúc cây.”

Thị Kiếm tiến lại hai bước, quỳ xuống nói: “Thiếu gia! Nô tỳ xin thiếu gia tha cho y… Thiếu gia… đã lừa gạt vợ y rồi, xin đừng trách y nhất thời giận dữ, mà y cũng chưa đả thương được thiếu gia. Nếu quả thật thiếu gia muốn giết y thì cứ chém một đao là được rồi, xin đừng tra khảo hành hạ y làm gì!” Cô tưởng rằng bang chúa tìm khúc cây để tra khảo Triển Phi tới chết, còn đau khổ hơn chém bằng đao rất nhiều, bất giác trong lòng thấy thương xót mà năn nỉ hộ.

Chàng thiếu niên ngơ ngác hỏi: “Ta có lừa gạt vợ y đâu? Sao ta phải giết y? Cô nói ta giết người ư? Sao có thể giết người được?” Trong phòng ngủ bang chúa dĩ nhiên không có khúc cây nào. Chàng liền cầm chiếc ghế lên, bẻ lấy một chân. Bây giờ trong người chàng âm dương hòa hợp, thủy hỏa tương thông, thần công đã thành tựu nên sức mạnh vô cùng. Chàng mới bẻ nhẹ, cái chân ghế đã gãy rời nghe rắc một tiếng.

Chàng thiếu niên không biết nội lực bản thân mình ghê gớm, lại lẩm bẩm: “Cái ghế này hỏng rồi mà cứ để đây, ai vô ý ngồi lên không khỏi ngã lăn kềnh.” Chàng quay ra bảo Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Tỷ tỷ quỳ ở đó làm chi? Mau đứng dậy đi!” Rồi chàng tiến lại gần Triển Phi bảo: “Ngươi đừng có động đậy!”

Triển Phi tuy mồm miệng cứng rắn, nhưng nghĩ lại mình đánh bang chúa một chưởng mà bị chấn gãy cánh tay lại bị hất ra cửa sổ, nội lực người này thật là hùng hậu không gì sánh được. Gã không tự chủ được nữa phải run lên bần bật, mắt nhìn chằm chặp vào cái chân ghế trong tay chàng thiếu niên. Gã nghĩ thầm: “Dĩ nhiên không phải hắn cầm chân ghế để đánh mình, chắc là dùng chân ghế để tọng vào miệng ta, cắm từ cổ xuống đến dạ dày để sống không sống được, chết chẳng chết cho.”

Trong bang Trường Lạc có rất nhiều hình phạt khốc liệt, đúng là có chuyện dùng một khúc cây nhét vào miệng phạm nhân, cắm từ yết hầu đến bao tử. Kẻ thụ hình phải đau khổ vô cùng mà không chết ngay được. Hình phạt đó gọi là Khai Khẩu Tiếu. Triển Phi nghĩ ra mình sắp phải chịu cực hình Khai Khẩu Tiếu, đang sợ hết hồn thì thấy bang chúa đã đến trước mặt. Gã đâm liều vung tả chưởng lên đánh vào chàng thiếu niên.

Chàng thiếu niên không biết gã có ý đả thương mình, vẫn thản nhiên nói: “Chớ có cử động! Chớ có cử động!” Chàng vừa nói vừa vươn tay ra chụp lấy cổ tay trái Triển Phi. Gã lập tức cảm thấy nửa người tê nhức, không cục cựa được nữa. Chàng thiếu niên lấy nửa cái chân ghế ướm vào cánh tay gãy của Triển Phi rồi quay lại hỏi Thị Kiếm: “Thị Kiếm tỷ tỷ! ở đây có sợi dây nào không? Cột giùm cho y một chút.”

Thị Kiếm hết sức ngạc nhiên, hỏi lại: “Thiếu gia định nối xương cho y thật ư?”

Chàng thiếu niên cười đáp: “Nối xương là nối xương, lại còn thật hay giả nữa ư? Tỷ tỷ xem y đau đớn đến thế này, sao lại nói giỡn được?”

Thị Kiếm bán tín bán nghi, nhưng vẫn đi tìm một khúc dây đem đến. Cô đưa mắt nhìn chàng thiếu niên một lần nữa, rồi ngoan ngoãn lấy dây cột cánh tay gãy của Triển Phi vào chân ghế.

Chàng thiếu niên mỉm cười nói: “Hay lắm! Tỷ nương buộc rất khéo, so với ngày trước ta buộc chân A Hoàng còn chắc chắn hơn nhiều.”

Triển Phi nghĩ thầm: “Không hiểu tên bang chúa hoang dâm độc ác này đang định kiếm trò gì mới lạ hành hạ mình để tiêu khiển đây.” Gã còn đang ngẫm nghĩ, thấy chàng nhắc đến A Hoàng bị gãy chân, không nhịn được nữa bèn cất tiếng hỏi: “A Hoàng là ai?”

Chàng thiếu niên đáp: “A Hoàng là con chó của ta nuôi, nhưng tiếc là nó bỏ đi mất rồi.”

Triển Phi thấy chàng thiếu niên đem chuyện nối tay cho mình so với chuyện nối chân gãy cho con chó, thì cho là chàng coi mình như một giống súc sinh. Gã nổi giận bèn lớn tiếng mắng: “Ta là nam tử hán, là đại trượng phu. Ngươi giết ta thì được, chứ không thể làm nhục ta. Sao ngươi không hạ thủ ngay đi, lại còn đem ví ta với loài thú vật?”

Chàng thiếu niên vội nói: “Không, không! Ta chỉ lỡ miệng nói một câu như thế, đại ca đừng giận dữ. Xin đại ca tha lỗi cho.” Chàng vừa nói vừa chắp tay, hướng về y nghiêng mình thi lễ. Triển Phi biết nội công của chàng thiếu niên cực kỳ lợi hại, lại nghĩ rằng chàng giả bộ thi lễ nhưng thực ra là dùng nội lực đả thương người. Con người trước nay quen ngạo mạn vô lễ, nói vài câu tử tế với thuộc hạ đã là chuyện hiếm, làm gì có chuyện xin lỗi thuộc hạ? Gã bất giác né người tránh qua một bên, cặp mắt trừng trừng nhìn chàng thiếu niên để xem còn trò gì ác độc nữa.

Chàng thiếu niên ôn tồn hỏi: “Phải chăng đại ca họ Triển? Triển đại ca cứ trở về nghỉ ngơi đi. Cẩu Tạp Chủng này ăn nói vụng về thành ra đắc tội, xin Triển đại ca đừng trách!”

Triền Phi cả kinh nghĩ: “Cái gì… Cái gì? Hắn tự xưng là Chó Lộn Giống ư? Chắc chắn lại là chuyện vòng vo mắng xéo người ta rồi.”

Thị Kiếm thì nghĩ: “Thiếu gia mới tỉnh táo lại một chút, tâm thần lại hồ đồ ngay!” Cô liếc mắt nhìn chàng thiếu niên thì thấy chàng vẫn trố mắt ra, cặp lông mày nhíu lại ra chiều suy nghĩ. Cô liền đưa mắt ra hiệu cho Triển Phi bảo gã nên thừa cơ rút lui.

Nhưng Triển Phi vẫn chưa chịu ra, lại còn lớn tiếng nói: “Thằng lỏi họ Thạch kia! Ta cũng không muốn ngươi tử tế với ta làm chi. Ngươi muốn giết ta, ta cũng không trốn được. Lão gia tự biết mạng mình, không muốn sống thêm một giờ ba khắc làm gì. Ngươi còn không mau hạ thủ giết ta đi!”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên nói: “Người này nói chuyện lung tung, không thể nín cười được. Sao ta lại phải giết ngươi chứ? Mỗi lần mẫu thân ta kể chuyện cổ tích, cuối cùng đều dạy một câu: người xấu mới giết người, còn người tốt không bao giờ giết người. Dĩ nhiên ta không làm người xấu. Ngươi rõ ràng là một con người, chỉ mới gãy một cánh tay, sao ta lại giết được?”

Thị Kiếm đứng bên không nhịn được liền nói xen vào: “Triển hương chủ! Bang chúa đã tha cho ngươi rồi, sao còn chưa đi nhanh đi?”

Triền Phi đưa tay trái lên hết gãi đầu lại gãi tai, nghĩ bụng: “Không hiểu là thằng giặc con này bị hồ đồ, hay là mình bị hồ đồ?”

Thị Kiếm dậm chân nói: “Nhanh lên! Đi nhanh lên!” Cô vừa giục vừa đưa tay đẩy gã ra ngoài phòng.

Chàng thiếu niên cười ha hả nói: “Người này thật là kỳ cục, cứ mở miệng là bảo ta muốn giết y, cứ như ta thích giết người vậy. Không chừng y coi ta như một kẻ xấu xa hư đốn!”

Từ khi Thị Kiếm hầu hạ bang chúa đến nay, đây là lần đầu tiên cô thấy bang chúa nổi thiện tâm mà tha thứ cho thuộc hạ có lỗi, huống hồ Triển Phi đã phạm thượng mưu sát, thật là trọng tội không thể bỏ qua. Cô mừng thầm, mỉm cười nói: “Thiếu gia đương nhiên là người tốt, là người tử tế. Có là người tốt, người tử tế mới cướp vợ người ta, khiến cho gia đình họ phải tan rã…”

Cô nói đến đây, giọng nói hơi đổi thành chua chát, nhưng trước mặt bang chúa oai nghi cũng không dám mỉa mai bừa bãi, liền dừng lại không nói nữa. Chàng thiếu niên lại ngạc nhiên hỏi: “Tỷ tỷ nói ta đã cướp vợ của người khác ư? Vợ làm sao mà cướp được? Mà cướp để làm chi?”

Thị Kiếm nhỏ nhẹ nói: “Đã muốn làm người tốt mà cứ nói toàn giọng hạ lưu, giả vờ đứng đắn được một lúc rồi lại lòi đuôi chồn ra lập tức. Giả tỉ thiếu gia chịu giả vờ làm người tốt lâu hơn một chút nữa, thì tiểu tỳ cảm ơn thiếu gia nhiều lắm.”

Chàng thiếu niên trợn tròn mắt, há hốc miệng hỏi: “Tỷ tỷ… tỷ tỷ nói cái gì? Ta cướp vợ hắn để làm chi? Ta thật sự không hiểu, tỷ tỷ dạy ta đi.” Lúc này chàng thiếu niên cảm thấy tinh lực đầy rẫy chỉ muốn phát tán ra ngoài, đôi mắt chàng lộ thần quang sáng chói.

Thị Kiếm càng nghe chàng nói càng không hiểu gì cả, trong lòng rất kinh hãi liền lùi lại vài bước đến bên cửa, đề phòng nếu bang chúa xông tới chỗ mình thì lập tức nhảy vọt ra ngoài. Thật ra nàng cũng biết nếu bang chúa dùng sức mạnh để cưỡng bức thì mình không thể thoát khỏi tay người được. Trước kia đã mấy lần gặp nguy, nàng phải dùng cái chết để uy hiếp, kiên quyết không chịu, nên mới còn giữ được tấm thân trong trắng. Lúc này Thị Kiếm thấy cặp mắt chàng thiếu niên lóe sáng lên trông như mắt loài dã thú, nên lại càng không dám châm chọc nữa, tim đập loạn lên, run rẩy nói: “Thiếu gia… thân thể… còn chưa phục hồi, vẫn… Thiếu gia nên nghỉ ngơi một lát nữa đi.”

Chàng thiếu niên lắc đầu hỏi lại: “Nếu ta phục hồi thân thể rồi thì sao?” Thị Kiếm lại đỏ mặt lên, bước ra khỏi phòng, còn nghe chàng lẩm bẩm sau lưng: “Ở đây có nhiều việc ta thật sự không hiểu chút nào. Tỷ tỷ này hình như sợ ta lắm.”

Chàng nói xong, vịn hai tay vào thành ghế. Nội lực chàng phát huy nhiều quá, đầy rẫy trong người, hai bàn tay bứt rứt không ngừng bóp vào thành ghế. Chiếc ghế này làm bằng gỗ cẩm lai rất chắc chắn, ngờ đâu mới bóp vài cái đã nghe thấy tiếng lạch cạch, rồi lưng ghế gãy lìa ra. Chàng thiếu niên chẳng hiểu ra sao, ngấm ngầm kinh hãi trong lòng, lẩm bẩm: “Ở đây cái gì cũng giống như làm bằng bột mì vậy.”

Tạ Yên Khách lập mưu hiểm ác, đem nội công thượng thừa truyền thụ cho chàng mà đảo lộn cả thứ tự. Khi chàng luyện đủ hỏa hầu thì các mạch âm dương xung khắc với nhau, sẽ chết một cách thê thảm, lão không cần dùng một ngón tay mà cũng hại được mạng chàng. Chàng thiếu niên đã luyện mấy năm, âm dương đã xung đột, lẽ ra đã phải chết rồi.

Nhưng thật kỳ lạ, ngay lúc sinh tử quan đầu thì có Bối Hải Thạch ở kế bên. Bối đại phu tinh thông y đạo, dùng nội lực thâm hậu để bảo vệ được hơi thở tạm thời cho chàng. Khi về đến tổng đà của Trường Lạc Bang, mỗi đêm đều có người đến cho chàng uống Huyền Băng Bích Hỏa Tửu, là một loại rượu trân quý trong võ lâm, làm trì hoãn lại sự tương giao của hai luồng khí âm dương trong nội thế. Loại rượu thuốc này còn làm tăng nội lực của chàng lên rất nhiều.

Sau đó, đang lúc hiểm nguy thì lại gặp được Triển Phi phóng chưởng đánh vào huyệt Đản Trung để báo thù, nhờ đó mà chàng nôn ra được máu huyết ứ đọng trong Đan Điền. Bây giờ thủy hỏa điều hòa, hai luồng nội công thuần âm và thuần dương chẳng những không xung đột làm tổn hại đến thân thể chàng, mà lại còn hòa hợp thành một luồng nội tức rất kỳ lạ, xưa nay chưa từng thấy.

Trước giờ trong võ lâm chưa có ai dám nghĩ đến biện pháp luyện công nguy hiểm như thế. Cho dù Tạ Yên Khách đột nhiên nổi lòng hối hận, muốn cứu mạng chàng thì dứt khoát lão cũng không dám dùng chưởng lực mạnh để làm chấn động tâm khẩu của chàng. Nội lực kỳ lạ này lại do những chuyện xảo hợp mà có, rốt cuộc cũng không thể lý giải được.

Chàng thiếu niên không hiểu được như thế, vẫn mơ hồ như người trong mộng. Huyết khí chàng có đôi lúc bị đảo lộn, lúc thì muốn nôn mửa, lúc thì muốn nhảy cẫng lên, khó mà định tâm được. Chàng chẳng còn biết đâu là sự thực, đâu là huyễn ảo nữa.

Thị Kiếm dịu dàng nói: “Thiếu gia đã tha mạng cho Triển Phi hương chủ, lại nối xương cho y, sao còn thóa mạ y là giống súc sinh? Vì thế mà y càng căm hận thiếu gia đến xương tủy.” Cô thấy những tia sáng khác lạ ở mắt bang chúa, không chờ chàng trả lời đã vội vã lui ra.

Hồi 05: Đinh Đinh Đang Đang

Chàng thiếu niên càng lúc càng thấy mơ hồ, gãi gãi đầu nói: “Kỳ lạ! Kỳ lạ!” Bỗng chàng nhìn thấy hộp tượng đất còn đặt ngay ngắn trên bàn, liền nghĩ bụng: “Người đất còn cả đây, ta đâu có nằm mơ?” Chàng mở nắp hộp lấy người đất ra xem.

Hiện giờ thần công mới thành tựu, chàng không biết cách thu phát kình lực, cũng chưa biết nội lực mình đã ghê gớm đến mức nào. Tay chàng cứ mân mê tượng đất như mọi khi. Bỗng nghe sạo sạo mấy tiếng, lớp đất bên ngoài tượng bỗng vụn ra như bột phấn. Chàng thiếu niên la lên một tiếng “Ái chà”, còn đang tiếc ngơ tiếc ngẩn thì bỗng thấy bên trong tượng có lõi gỗ lộ ra. Chàng tò mò bóp nát hết lớp đất bọc ngoài, thì ra bên trong lại là một pho tượng gỗ, cũng không có y phục chi hết.

Tượng gỗ được quang dầu màu đồng, có vẽ những đường chỉ đen, chứ không ghi vị trí các huyệt đạo. Chàng thiếu niên thấy pho tượng gỗ này điêu khắc rất tinh xảo, linh động như người thật. Hai tay pho tượng đang ôm bụng, toét miệng ra cười, thần sắc vừa kỳ lạ vừa tức cười, tướng mạo khác hẳn tượng đất bên ngoài.

Chàng thiếu niên cả mừng thầm nghĩ: “Thì ra trong những hình nhân này là tượng gỗ, ngoài lại đắp một lớp đất dày có vẽ các đường kinh mạch và huyệt đạo. May mà mấy năm nay ngày nào mình cũng xem để tập luyện, đã thuộc lòng hết, nên phá đi cũng không tiếc. Chàng liền bóc đến những pho tượng khác, thì quả nhiên trong mỗi tượng đều xuất hiện một hình nhân bằng gỗ, vẻ mặt và dáng điệu đều khác nhau. Mặt tượng này cười cợt vui vẻ, mặt tượng kia khóc mếu nhăn nhó, có tượng thì mặt mũi hầm hầm giận dữ, có tượng lại lầm lì trầm ngâm, cặp mắt đăm chiêu. Những đường kinh mạch vẽ trên tượng gỗ cũng khác hẳn với người đất bên ngoài.

Chàng thiếu niên nghĩ bụng: “Những tượng gỗ này cũng thú vị lắm. Ta cứ theo những đường vẽ trên mình tượng để luyện công thử xem. Tượng này khóc mếu khó coi, còn tượng này suốt ngày cười hềnh hệch cũng chẳng tốt đẹp gì.” Sau chàng chọn lấy một pho tượng nét mặt hòa nhã vui tươi, nhưng có vẻ đứng đắn, quyết định: “Ông này được đây! Ta theo ông mà luyện công.” Chàng thiếu niên liền ngồi xếp bằng, đặt pho tượng gỗ vui tươi ở trước mặt. Chàng khẽ vận chân khí, thì thấy một luồng nội tức ấm áp trong huyệt Đan Điền từ từ đưa lên. Chàng điều động cho chân khí theo những đường vẽ trên tượng gỗ đi qua các huyệt đạo.

Chàng thiếu niên không biết, hình vẽ trên bộ tượng gỗ này là pho La Hán Phục Ma Thần Công do những vị thần tăng tiền bối của phái Thiếu Lâm sáng tác ra, mỗi pho tượng gỗ là một vị La Hán. Môn thần công này là một loại nội công thượng thừa của Phật gia, thâm sâu tinh diệu vô cùng, nhưng rất khó luyện. Chỉ bước đầu tiên là “nhiếp tâm quy nguyên”, phải dứt bỏ hết tạp niệm tục lụy trong lòng, mười vạn người chưa chắc đã có một người làm được. Muốn luyện La Hán Phục Ma Thần Công, phải bỏ hết tạp niệm thì việc tu luyện mới có thể thành. Người thông minh thường nhiều tạp niệm, còn những người tư chất ngu độn thì lại không thể hiểu nổi những biến hóa thiên hình vạn trạng của môn tuyệt kỹ này.

Năm xưa, những vị cao tăng sáng lập ra bộ thần công này cũng biết trên thế gian hiếm có nhân tài vừa thông minh vừa chất phác. Trong cửa Phật tuy có những người căn cốt thuận lợi, có nhiều vị tăng lữ đã tu tập đến mức không nhiễm vào vật dục, nhưng nếu luyện môn thần công này cũng không

tránh khỏi tâm ý để cả vào võ công, thì đó cũng là chướng ngại rất lớn trong bước đường tu đạo. Trong Phật pháp thì tham sân si gọi là tam độc, tham tài tham sắc dĩ nhiên là tham rồi, nhưng tham võ học cũng là một thứ tham. Vì thế nên các vị cao tăng mới đem bộ tượng La Hán này đắp thêm một lớp đất bên ngoài, vẽ lên những loại nội công nhập môn chính phái của Thiếu Lâm, để người đời sau khỏi phải nhìn thấy những tượng La Hán bên trong. Đó là họ đề phòng những người không biết tự lượng, cứ thấy võ công là luyện tập bừa bãi để đến nỗi mất mạng, hoặc là tham luyện đến mức rời khỏi con đường chính đạo của Phật môn.

Đại Bi Lão Nhân biết mười tám hình nhân này là vật chí bảo của phái Thiếu Lâm, đã phải tốn bao nhiêu tâm huyết mới đoạt lấy được. Nhưng lão chỉ thấy những môn nội công tâm pháp vẽ trên tượng đất hết sức bình thường, không có chi kỳ dị. Lão đã mất nhiều năm nghiên cứu mà vẫn không tìm ra được chút manh mối nào. Đại Bi Lão Nhân đã biết đây là một vật kỳ bảo, dĩ nhiên lão giữ rất cẩn thận không dám suy suyển chút nào. Nhưng lớp đất tô bên ngoài không vỡ nát, thì tượng La Hán bằng gỗ bên trong lại không xuất hiện. Cho đến lúc chết, lão vẫn chưa hiểu rõ được những bí mật ảo diệu bên trong bộ tượng này.

Cũng chẳng phải một mình Đại Bi Lão Nhân thắc mắc. Từ khi được các vị thần tăng phái Thiếu Lâm sáng tác, bộ tượng La Hán này đã qua tay đến mười hai người, nhưng người nào người nấy cứ một mực gìn giữ cẩn thận, rồi cùng ôm mối hoài nghi xuống tuyền đài.

Chàng thiếu niên được trời cho tư chất thông minh, lại ở trong rừng sâu núi thẳm từ khi còn nhỏ xíu, không hiểu việc đời nên vẫn giữ được thuần phác, thật là phù hợp. Cũng may là chàng vừa tỉnh dậy thì lập tức phát hiện ra thần công bí mật, nếu không thì làm bang chúa một thời gian cũng sẽ bị ô nhiễm, không bị thanh sắc làm cho mê muội, thì cũng dây vào những chuyện tranh đoạt hung ác. Giả tỉ tính tình chàng đủ lương thiện để không bị nhiễm, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, nhưng trong lòng cũng không tránh khỏi rất nhiều tư lự. Khi đó mà phát hiện mười tám vị La Hán bằng gỗ này, thì chàng luyện thần công chẳng những không thể thành tựu, mà lại có hại rất lớn.

Hiện nay trong người chàng thiếu niên đã âm dương hòa hợp, thủy hỏa tương tế, nội lực cực kỳ thâm hậu. Chàng vận nội lực theo những đường chỉ trên tượng gỗ đều được thông suốt, những chỗ ngưng trệ đều vượt qua rất dễ dàng. Chàng vận hành ba lượt, rồi nhắm mắt lại không nhìn vào tượng gỗ nữa mà vẫn vận công theo đúng đường lối, cảm thấy trong người cực kỳ khoan khoái. Sau đó chàng lại đổi sang một tượng La Hán khác để luyện công, toàn tâm toàn ý cực kỳ hứng thú, cứ hết tượng này lại sang tượng khác. Những sự vật bên ngoài chàng đều không nghe không thấy, cứ luyện từ sáng đến trưa, từ trưa đến tối, lại từ tối cho đến sáng.

Ban đầu Thị Kiếm sợ thiếu gia trêu ghẹo, chỉ thò đầu vào cửa phòng nhìn trộm, thấy chàng đang tập trung luyện công, lúc thì cười có vẻ ngu ngốc, lúc lại nhăn nhó như có gì khó chịu. Nàng có phần lo lắng, nên nhẹ nhàng đi vào phòng xem xét, thấy bang chúa luyện công không dừng suốt ngày suốt đêm thì trong lòng cũng hết sợ hãi, nhưng vẫn không yên tâm, cứ ra ngoài ngủ được một hai tiếng thì lại vào trong để phục thị chủ nhân.

Bối Hải Thạch cũng thỉnh thoảng lại ở ngoài phòng ngấp nghé nhòm trộm. Lão thấy đỉnh đầu bang chúa bốc lên một luồng bạch khí thì biết rằng chàng đang luyện công tới chỗ khẩn yếu, liền ra lệnh cho thuộc hạ phải canh phòng nghiêm mật bên ngoài, bất luận là ai cũng không được vào quấy nhiễu.

* * *

Đến khi chàng thiếu niên luyện xong môn Phục Ma Thần Công vẽ trên mười tám tượng La Hán thì đã đến bình minh ngày thứ ba. Chàng thở phào một cái khoan khoái vô cùng, đặt mười tám pho tượng vào hộp rồi đậy nắp lại. Bây giờ chàng thấy tinh thần thanh sảng, nội lực vận chuyến hoàn toàn như ý, nhưng chưa biết đó là môn La Hán Phục Ma Thần Công hiếm thấy trên võ lâm. Lẽ ra luyện công đến cảnh giới này phải mất năm sáu năm, thậm chí mấy chục năm, không ai có thể luyện trong một ngày một đêm mà được. Chàng thiếu niên này đã luyện được, chỉ vì nhị khí âm dương trong cơ thể chàng đã dung hợp một cách tự nhiên, căn cơ đã rất tốt, giống như nước biển hay hồ lớn đã tích tụ nhiều năm, còn pho La Hán Phục Ma Thần Công này chỉ là đường lối tự nhiên, cũng giống như nước tràn từ hồ lớn ra thì phải thành sông. Chàng khổ luyện mấy năm nội lực thuần âm rồi lại thuần dương, cũng chỉ là tích trữ nước mà thôi, lúc này đã điều vận tuần hoàn được như sông lớn.

Chàng thiếu niên chợt nhìn thấy Thị Kiếm nằm phục ở cạnh giường mà ngủ li bì, bèn từ từ bước xuống giường. Hiện giờ đã qua tiết Trung thu, hạ tuần tháng tám khí trời hơi lạnh. Chàng thấy Thị Kiếm chỉ vận y phục mong manh, bèn lấy chăn trên giường khẽ đắp lên người nàng.

Rồi chàng đi tới cửa sổ để hít thở không khí trong lành. Một làn hương hoa thơm ngát tràn vào mặt mũi, thật là dễ chịu. Bỗng có tiếng nói nhè nhẹ của Thị Kiếm: “Thiếu gia! Thiếu gia… thiếu gia đừng giết người nữa.”

Chàng thiếu niên quay đầu lại hỏi: “Sao cô cứ gọi ta bằng thiếu gia, lại bảo ta đừng giết người mãi thế?”

Thị Kiếm tuy đang ngủ, nhưng trong lòng lúc nào cũng phập phồng lo sợ. Cô nghe giọng chàng thiếu niên lập tức giật mình tỉnh dậy, vỗ nhẹ lên ngực mấy cái rồi lẩm bẩm: “Ôi chao… sợ quá…” Nàng nhìn lên giường không thấy thiếu gia đâu, liền quay đầu nhìn thấy chàng thiếu niên đứng bên cửa sổ, thì vừa kinh hãi vừa vui mừng cười nói: “Thiếu gia! Thiếu gia dậy rồi ư? Tiểu tỳ ngủ say quá…”

Cô đứng dậy, chợt thấy tấm chăn đắp trên vai tụt xuống thì cả kinh thất sắc, nghĩ ngay đến chuyện trong lúc mình ngủ say đã bị chủ nhân giở trò khinh bạc làm ô uế tấm thân, nhưng trông lại xiêm áo mình thì thấy hãy còn tề chỉnh. Trong lúc thảng thốt, cô vừa kinh hãi vừa nghi ngờ, run run hỏi: “Thiếu gia… thiếu gia… tiểu tỳ…”

Chàng thiếu niên mỉm cười nói: “Vừa rồi tỷ tỷ nói mê gì đó, lại kêu ta đừng giết người. Chẳng lẽ tỷ tỷ nằm mơ cũng thấy ta giết người hay sao?”

Thị Kiếm nghe chàng thiếu niên nói rất bình tĩnh, không có gì khác lạ, thì trong lòng trấn tĩnh lại liền tự hỏi: “Chẳng lẽ mình đã trách lầm thiếu gia rồi sao? Thật là cảm ơn trời đất.” Cô liền nói: “Vâng! Tiểu tỳ vừa nằm mơ thấy thiếu gia hai tay cầm đao, giết người thây chết ngổn ngang. Người nào cũng không… không…” Nói tới đây, bỗng cô đỏ mặt lên không nói nữa. Thì ra lúc ban ngày thấy gì thì đêm thường nằm mơ thấy cái đó. Suốt một ngày một đêm, nàng thấy mười tám pho tượng gỗ khỏa thân trước giường của chàng thiếu niên, nên lúc ngủ lại mơ thấy chàng thiếu niên giết toàn là nam nhân lõa thể.

Chàng thiếu niên không hiểu, liền hỏi lại: “Người nào cũng không… không… cái gì?”

Thị Kiếm lại đỏ mặt lên nói: “Người nào cũng không… phải là người xấu.”

Chàng thiếu niên hỏi: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Trong lòng ta có nhiều điều không hiểu, tỷ tỷ có thể nói cho ta biết được không?”

Thị Kiếm mỉm cười nói: “Ái chà! Thiếu gia mới một phen trọng bệnh mà tính tình đã biến đổi hết, là nghĩa làm sao? Thiếu gia nói chuyện với bọn nô tỳ mà cứ kêu tỷ tỷ muội muội hoài.”

Chàng thiếu niên nói: “Ta thật sự không hiểu tại sao tỷ tỷ cứ kêu ta bằng thiếu gia, mà tự xưng là nô tỳ. Rồi vị lão bá kia lại gọi ta là bang chúa, Triển đại ca lại bảo là ta cướp vợ ông ấy. Thật ra đó là những chuyện gì?”

Thị Kiếm chần chừ không đáp, nhìn chàng thiếu niên một lúc, vẫn thấy vẻ mặt chàng rất thành thực tuyệt không có ý gì đùa giỡn, bèn nói: “Thiếu gia đã một ngày một đêm chưa ăn gì. Ngoài kia đã có người nấu cháo nhân sâm, để nô tỳ lấy một bát cho thiếu gia ăn.”

Chàng thiếu niên nghe Thị Kiếm nhắc tới chuyện ăn uống thì bỗng thấy đói cồn cào không chịu được, bèn nói: “Để ta tự lấy cũng được, không dám làm phiền tỷ tỷ. Cháo để ở đâu?” Chàng hít hít mấy cái rồi mỉm cười nói tiếp: “Thôi, ta cũng biết rồi!” Rồi chàng sải bước ra ngoài.

Bên ngoài phòng ngủ của chàng là một gian phòng rất rộng. Trong góc phòng có một lò than nhỏ, nồi cháo đang sôi sùng sục. Chàng thiếu niên đưa mắt nhìn Thị Kiếm. Cô lập tức đỏ mặt la lên: “Trời ơi! Cháo bị khê mất rồi! Thiếu gia! Thiếu gia hãy tạm dùng một chút điểm tâm, nô tỳ lập tức nấu nồi cháo khác. Thật là hỏng bét! Nô tỳ ngủ say như chết, chẳng còn biết gì nữa.”

Chàng thiếu niên mỉm cười: “Khê rồi ăn cũng ngon, có sao đâu.” Chàng mở nắp ra thì mùi cháy khét bay vào mũi, nửa nồi cháo đã cháy thành cơm. Chàng liền múc một thìa cho vào miệng. Thứ cháo nhân sâm này có vị hơi đắng, chưa bỏ đường mà lại bị khê nên càng đắng hơn. Chàng chau mày một cái, húp hết một muỗng, thè lưỡi nói: “Đắng quá.” Rồi lại múc một muỗng nữa cho vào miệng, rồi nhăn mặt lại nói: “Đắng quá!”

Thị Kiếm giơ tay toan giật lấy cái muỗng trong tay chàng thiếu niên, đỏ mặt lên nói: “Cháo khê thế này mà thiếu gia còn ăn được ư?” Chàng thiếu niên không chịu buông muỗng xuống. Ngón tay cô vừa chạm tới, tay chàng tự nhiên sinh ra một sức đàn hồi làm Thị Kiếm thấy ngón tay rung lên, vội vàng rụt tay lại.

Chàng thiếu niên hoàn toàn không biết gì cả, lại ăn một thìa cháo nữa. Thị Kiếm ngước lên nhìn, chỉ thấy thiếu gia đang húp cháo khê rất nhanh như người sắp chết đói, thần sắc vừa kỳ lạ vừa tức cười. Món cháo này đương nhiên là không thơm ngọt gì, chỉ vừa đắng vừa ngán đến tận cổ. Nàng nhịn không nổi, cười nói: “Cũng không trách được, mấy ngày nay thiếu gia đã đói quá rồi.”

Chàng thiếu niên đã ăn hết nửa nồi cháo cháy. Thứ cháo nhân sâm này tuy khê nặc, nhưng nấu bằng lão sâm rất nhiều chất bổ. Chàng ăn một lát đã thấy tỉnh táo hẳn lên.

Thị Kiếm thấy sắc mặt chàng hồng hào liền cười hỏi: “Thiếu gia! Thiếu gia luyện thứ công phu gì vậy? Ngón tay nô tỳ vừa đụng vào tay thiếu gia đã bị giật bắn ra, mà mặt thiếu gia lại tươi tỉnh thế kia.”

Chàng thiếu niên nói: “Ta cũng chẳng biết đó là công phu gì, chỉ chiếu theo những nét vẽ trên hình nhân bằng gỗ đó mà luyện. Thị Kiếm tỷ tỷ! Ta… ta cuối cùng là ai?”

Thị Kiếm lại cười, hỏi lại: “Thiếu gia không nhớ thật, hay là đang đùa giỡn?”

Chàng thiếu niên gãi gãi đầu, đột nhiên hỏi: “Tỷ tỷ đã từng thấy mẹ của ta chưa?”

Thị Kiếm ngạc nhiên đáp: “Tiểu tỳ chưa được gặp! Thiếu gia! Trước nay tiểu tỳ chưa nghe ai nói đến thiếu gia còn có một vị lão thái thái. À phải rồi! Chắc là thiếu gia được lão thái thái chỉ bảo nhiều, nên mấy ngày gần đây tính tình thay đổi.” Nói xong, cô khẽ liếc chàng thiếu niên rồi nghĩ: “Sợ rằng chàng lại ngựa quen đường cũ mà thôi, cũng may là chưa có động tĩnh gì.”

Chàng thiếu niên nói: “Má má đã dạy bảo điều gì, dĩ nhiên ta phải nghe theo.” Chàng thở dài một hơi rồi nói tiếp: “Nhưng không biết mẹ của ta đã đi đâu rồi.”

Thị Kiếm nói: “Tạ ơn trời phật! Trên thế gian này vẫn còn có người quản cố được thiếu gia…”

Giữa lúc ấy, ngoài cửa bỗng có tiếng người dõng dạc hỏi: “Bang chúa đã tỉnh rồi ư? Thuộc hạ có việc xin vào bẩm báo.”

Chàng thiếu niên ngạc nhiên không đáp, hỏi nhỏ Thị Kiếm: “Có phải y hỏi ta không?”

Thị Kiếm nói: “Dĩ nhiên là y hỏi thiếu gia. Y nói là có việc cần vào trình lên thiếu gia.”

Chàng thiếu niên lo lắng nói: “Tỷ tỷ bảo y hãy chờ một chút. Bây giờ tỷ tỷ hãy nói cho ta hiểu trước đã.”

Thị Kiếm đưa mắt nhìn chàng, rồi lớn tiếng hỏi vọng ra: “Vị nào ở ngoài đó?”

Người kia đáp: “Thuộc hạ là Trần Xung Chi ở Sư Oai Đường.”

Thị Kiếm nói: “Bang chúa có lệnh, Trần hương chủ hãy chờ một chút.”

Trần Xung Chi ở ngoài cửa đáp vọng vào: “Xin tuân lệnh bang chúa.”

Chàng thiếu niên vẫy tay gọi Thị Kiếm trở về phòng, khẽ hỏi: “Thật ra thì ta là ai?”

Thị Kiếm nhíu mày ra chiều lo lắng, đáp: “Thiếu gia là Bang chúa của bang Trường Lạc, họ Thạch tên gọi Phá Thiên.”

Chàng thiếu niên lẩm nhẩm: “Thạch Phá Thiên… Thạch Phá Thiên!… Té ra mình là Thạch Phá Thiên. Thế là tên của ta không phải là Cẩu Tạp Chủng…”

Thị Kiếm thấy nét mặt chàng có vẻ lo lắng, liền mở lời an ủi: “Thiếu gia! Thiếu gia bất tất phải phiền não, từ từ trí nhớ sẽ phục hồi như cũ. Thiếu gia là Thạch Phá Thiên, là bang chúa của Trường Lạc Bang, đương nhiên không phải là Cẩu… Cẩu… gì gì đó.”

Chàng thiếu niên đó, từ nay xin gọi là Thạch Phá Thiên, nhỏ nhẹ hỏi: “Bang Trường Lạc là cái gì? Còn bang chúa là gì vậy?”

Thị Kiếm nghĩ bụng: “Bang chúa là gì, thật khó mà trả lời.” Cô im lặng một lúc rồi đáp: “Trường Lạc Bang có rất nhiều người, ví dụ như Bối tiên sinh, Trần hương chủ ở ngoài kia, đều là những người rất có bản lãnh. Thiếu gia là bang chúa, thì mọi người đều phải nghe lời của thiếu gia.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thế ta phải nói với họ những gì mới đúng?”

Thị Kiếm đáp: “Nô tỳ chỉ là một tiểu a đầu thì hiểu thế nào được? Thiếu gia! Nếu thiếu gia chưa có chủ ý thì có thể hỏi Bối tiên sinh thử xem. Tiên sinh là quân sư của bản bang, lại là người thông minh lanh lợi, lắm mưu nhiều trí.”

Thạch Phá Thiên nói: “Bối tiên sinh hiện giờ không có ở đây. Thị Kiếm tỷ tỷ! Tỷ tỷ có biết vị Trần hương chủ kia sẽ nói gì với ta không? Ông ấy hỏi ta cái gì, nhất định ta cũng không trả lời được. Tỷ tỷ… hay là tỷ tỷ bảo y về đi.”

Thị Kiếm nói: “Bảo ông ta quay về, e rằng không được hay lắm. Bất luận ông ấy nói gì, thiếu gia chỉ cần gật đầu là được rồi.”

Thạch Phá Thiên mừng rỡ nói: “Thế thì hay lắm. Việc đó chẳng khó gì, ta có thể làm được.”

Thị Kiếm liền đi trước, dẫn Thạch Phá Thiên ra phòng khách, ở phía ngoài, một hán tử thân hình cao lớn đang ngồi ghế vội đứng lên khom lưng thi lễ nói: “Thì ra bang chúa khỏe mạnh rồi ư? Thuộc hạ là Trần Xung Chi xin có lời vấn an.”

Thạch Phá Thiên cũng nghiêng mình thi lễ nói: “Trần… Trần hương chủ cũng khỏe mạnh đấy ư? Ta cũng có lời vấn an hương chủ.”

Trần Xung Chi cả kinh thất sắc, lùi lại hai bước. Gã vốn biết bang chúa là người kiêu ngạo vô lễ, tàn nhẫn hiếu sắc. Mình đến thi lễ vấn an, mà ông ấy thi lễ vấn an trở lại, thì chắc đã động lòng hiếu sát, toan hạ thủ mình rồi. Trần Xung Chi tuy cực kỳ hoảng sợ, nhưng gã bản lãnh cao cường, vôn là một tay hào kiệt thảo khấu ngang tàng, tính tình ngạo mạn cương cường, sao có thể đứng đó mà chờ chết được? Gã liền ngấm ngầm vận công lực vào song chưởng, trầm giọng nói: “Chẳng hiểu thuộc hạ đã phạm vào điều luật nào trong bản bang? Nếu bang chúa muốn xử phạt, thì hãy gọi bang chúng đến hội họp mà tuyên án trước đã.”

Thạch Phá Thiên chẳng hiểu chi hết, kinh ngạc hỏi: “Xử phạt? Xử phạt cái gì? Trần hương chủ muốn xử phạt ai?”

Trần Xung Chi phẫn nộ nói: “Trần Xung Chi này đối với bản bang cùng bang chúa vốn trung tâm bất nhị, hoàn toàn không chút lỗi lầm. Sao bang chúa lại có những lời lẽ chua cay đến thế?”

Thạch Phá Thiên chợt nhớ đến Thị Kiếm đã dặn, nếu gặp điều gì không hiểu thì cứ gật đầu, rồi sau sẽ hỏi lại Bối Hải Thạch cũng chưa muộn. Chàng bèn gật đầu lia lịa rồi nói: “Trần hương chủ hãy ngồi xuống đã, bất tất phải khách khí như vậy.”

Trần Xung Chi nói: “Trước mặt bang chúa, có lý đâu thuộc hạ lại dám ngồi?”

Thạch Phá Thiên lại gật đầu nói: “Phải, phải!”

Hai người cứ đứng đối diện nhau trơ ra như phỗng, chẳng ai nói câu gì, chỉ nhìn nhau không nháy mắt. Trần Xung Chi vẫn ngấm ngầm cảnh giác, nét mặt vốn khiếp sợ lại thêm phần phẫn nộ. Còn Thạch Phá Thiên thì lơ mơ chẳng hiểu gì, vẻ mặt nghi ngờ, nhưng vẫn ôn hòa niềm nở. Theo luật lệ của bang Trường Lạc thì khi thuộc hạ trình việc cơ mật lên bang chúa, không ai được đứng bên nghe ngóng, nên Thị Kiếm đã rút lui khỏi phòng khách. Giả tỉ lúc này nàng có ở đây thì đã giải thích mấy câu cho Trần Xung Chi, chỉ cần nói là bang chúa trọng bệnh mới khỏi, tinh thần chưa được sáng suốt thì Trần Xung Chi cũng đỡ phải lo lắng.

Thạch Phá Thiên thấy trên kỷ trà đặt hai chung trà thơm, liền tự mình cầm lấy một chén, còn chén kia đưa mời Trần Xung Chi. Họ Trần vừa sợ trong nước trà có thuốc độc, vừa sợ Thạch Phá Thiên thừa cơ động thủ. Gã không dám đưa tay ra đón lấy chén trà, bước lui lại. Chén trà bằng sứ rớt xuống nền nhà nghe choang một tiếng, vỡ tan.

Thạch Phá Thiên la lên: “Trời ơi!”, rồi mỉm cười nói: “Xin lỗi! Xin lỗi!” Rồi chàng đưa chung trà mình chưa uống cho Trần Xung Chi, nói: “Ngươi uống chén này đi.”

Lông mày Trần Xung Chi dựng ngược lên. Gã nghĩ thầm: “Đằng nào mình cũng không thoát khỏi độc thủ của hắn, đã là đại trượng phu thì sao lại sợ chết làm gì?” Hắn tự biết võ công mình cao hơn bang chúa, nhưng nếu ra tay đả thương chàng thì chắc chắn không sao trốn khỏi chốn đầm rồng hang cọp này. Gặp phải Bối đại phu thì không sao qua khỏi mười chiêu, lúc đó thì phải chết một cách thê thảm không lường nổi. Gã bèn đón lấy chén trà, nhanh chóng uống cạn rồi đặt mạnh cái chén xuống kỷ, nói bằng một giọng thê thảm: “Thuộc hạ đối với bang chúa vẫn một dạ trung thành. Mong rằng Trường Lạc Bang trường lạc ngàn năm, Thạch bang chúa sống lâu trăm tuổi.”

Thạch Phá Thiên nghe câu “Thạch bang chúa sống lâu trăm tuổi” thì cũng hiểu đó là một câu chúc, nhưng chàng không biết Trần Xung Chi nói như thế lại là phản ngữ, bèn đáp lại: “Ta cũng mong rằng Trần hương chủ sống lâu trăm tuổi.”

Vào tai Trần Xung Chi, thì câu này lại biến thành một câu châm biếm cay độc. Gã cười lạt, nghĩ bụng: “Mạng của ta chỉ còn trong khoảnh khắc, ngươi còn chúc ta sống lâu trăm tuổi ư?” Rồi gã dõng dạc nói: “Thuộc hạ không hiểu đã phạm tội gì với bang chúa, nhưng số mạng thuộc hạ đã thế, thì cũng không cần phải nói nhiều nữa. Hôm nay thuộc hạ chỉ muốn bẩm báo cùng bang chúa là đêm qua có hai người tự tiện xông vào Sư Oai Đường. Một người là hán tử trung niên bốn mươi mấy tuổi, còn người kia là một cô gái chừng hai mươi bảy hai mươi tám tuổi. Cả hai người này đều sử dụng trường kiếm, chiêu thức võ công giống như phái Tuyết Sơn ở thành Lăng Tiêu. Thuộc hạ dẫn bộ thuộc đi truy bắt, nhưng kiếm pháp của đối phương rất cao minh. Bên ta bị giết mất ba tên đệ tử, còn bên địch thì cô gái trúng một đao vào đùi nên đã bắt được, còn gã hán tử đã chạy mất. Thuộc hạ đến trình lên bang chúa để xin định tội.”

Thạch Phá Thiên nói: “Hừ! Hai người thì một bị bắt, còn một đã chạy mất ư? Không hiểu hai người này đến làm gì, định ăn trộm đồ đạc hay sao?”

Trần Xung Chi đáp: “Sư Oai Đường không mất mát gì hết.”

Thạch Phá Thiên chau mày nói: “Hai người này thật là hung ác! Sao lại giết chết ba người của chúng ta?” Rồi chàng nổi tính hiếu kỳ nói: “Trần Hương chủ! Ngươi đưa ta đi xem cô gái đó có được không?”

Trần Xung Chi khom lưng đáp: “Thuộc hạ xin tuân mệnh!” Nói xong gã quay lưng bước ra khỏi phòng khách, nghĩ thầm: “Cô gái mà ta bắt được dung mạo rất xinh đẹp. Tuy nàng lớn hơn bang chúa vài tuổi, nhưng nếu bang chúa ưa thích thì nổi hứng sẽ cho ta thuốc giải cho ta cũng chưa biết chừng.” Rồi gã lẩm bẩm: “Trần Xung Chi ơi là Trần Xung Chi! Thạch bang chúa hỉ nộ thất thường, kiêu ngạo vô lễ, bang Trường Lạc này không phải là chỗ yên thân. Nếu hôm nay mà ta may mắn sống sót thì về sau phải liệu đường xa chạy cao bay, mai danh ẩn tích, không nên nhúng mình vào cái ao nước bẩn này nữa. Nhưng rời khỏi bang lại là tội lớn, bản bang không thể tha thứ được, Trường Lạc Bang chắc chắn sẽ truy sát ta đến tận chân trời góc bể. Vậy ta phải làm sao đây?”

* * *

Thạch Phá Thiên theo Trần Xung Chi đi băng qua một căn phòng, hai khu vườn hoa thì đến trước một cái cổng đá. Ở đây có bốn gã hán tử tay cầm binh khí chia nhau đứng gác hai bên cổng. Bốn tên này thấy bang chúa cùng Trần hương chủ tới nơi, liền khom lưng thi lễ vừa cung kính vừa sợ hãi.

Trần Xung Chi đưa tay ra hiệu, hai tên hán tử lập tức mở cánh cổng đá ra. Bên trong cổng đá lại còn một cánh cửa sắt khóa bằng khóa lớn. Trần Xung Chi lấy chìa khóa bên mình ra, tự tay mở khóa. Đi vào trong cửa thì có một đường hầm khá dài, trong đường hầm có đốt những cây đuốc lớn, cuối đường hầm lại có bốn gã hán tử canh giữ một cái cửa sắt rất dày.

Trần Xung Chi mở cửa sắt ra. Bên trong là một gian phòng đá vuông vắn chừng hai trượng. Một thiếu nữ áo trắng ngồi trong nhà quay lưng ra ngoài, nghe tiếng kẹt cửa liền ngoảnh đầu nhìn lại. Trần Xung Chi đã cầm theo một cây đuốc trong đường hầm, bèn đặt lên ghế bên trong căn phòng. Ánh đuốc soi rõ mặt thiếu nữ. Thạch Phá Thiên “À” một tiếng rồi hỏi: “Cô nương phải chăng là Mai hoa nữ hiệp Hoa Vạn Tử ở phái Tuyết Sơn?”

Năm xưa ở Hầu Giám Tập, Hoa Vạn Tử đã có mấy câu khích bác Tạ Yên Khách. Hôm ấy họ nói chuyện gì, Thạch Phá Thiên chẳng hiểu gì hết. Thậm chí chàng cũng không hiểu những chừ “Mai hoa nữ hiệp” “Phái Tuyết Sơn”… nghĩa là gì, nhưng chàng có trí nhớ rất tốt, đã nghe nói gì thì dù không hiểu cũng nhớ rất lâu.

Câu chuyện ở Hầu Giám Tập đến nay đã cách bảy tám năm, mà diện mạo Hoa Vạn Tử cũng chưa thay đổi gì mấy, Thạch Phá Thiên vừa thấy đã nhận ra ngay. Nhưng ngày đó Thạch Phá Thiên là một thằng bé ăn xin mặt mũi lem luốc, hôm nay không những chàng ăn mặc rất sang trọng, mà đã trở thành một thanh niên phong tư tuấn nhã. Đương nhiên Hoa Vạn Tử không thể nhận ra, bèn giận dữ hỏi: “Sao ngươi lại biết ta?”

Trần Xung Chi thấy Thạch Phá Thiên vừa nhìn mặt thiếu nữ này là lập tức biết được môn phái, ngoại hiệu, cùng tên họ của nàng, thì ngấm ngầm kính phục vô cùng. Gã tự nhủ: “Nhãn lực bang chúa thật là lợi hại, người tầm thường không thể bì kịp.” Gã liền lớn tiếng quát bảo Hoa Vạn Tử: “Vị này là bang chúa của chúng ta, ngươi nói chuyện phải cung kính hơn mới được.”

Hoa Vạn Tử giật mình kinh hãi. Nàng không ngờ trong nhà ngục này mình phải gặp bang chúa Trường Lạc bang Thạch Phá Thiên, một người tiếng ác đồn đại khắp giang hồ. Nàng cùng sư ca Cảnh Vạn Chung nửa đêm xâm nhập Trường Lạc Bang cũng chỉ vì muốn tìm hiểu lai lịch của Thạch Phá Thiên. Nàng đã từng nghe đồn y là con quỷ háo sắc đã phá hoại danh tiết không biết bao nhiêu thiếu nữ, hôm nay lọt vào tay hắn chắc là dữ nhiều lành ít, không nên để hắn thấy mặt là hơn. Nàng nghĩ vậy, liền quay mặt vào vách đá. Chân tay nàng đều bị xiềng bằng xích sắt, va động vang lên những tiếng leng keng.

Thạch Phá Thiên từng nghe mẫu thân kể chuyện tù phạm phải bị xiềng xích chân tay, bây giờ chính mắt mới được nhìn thấy. Chàng quay lại hỏi Trần Xung Chi: “Trần hương chủ! Những thứ đeo trên tay chân Hoa cô nương chính là xiềng xích đấy phải không?”

Trần Xung Chi nghe mà không biết câu hỏi này có dụng ý gì, nên chỉ đáp gọn một tiếng “Vâng.”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Cô ta đã phạm tội gì mà phải xiềng xích tay chân?”

Trần Xung Chi không khỏi ngạc nhiên thầm nghĩ: “Chắc hẳn bang chúa trách ta về tội ngược đãi Hoa cô nương, nên mới hạ độc thủ giết ta. Thế thì ta phải tìm cách gỡ mới được. Nhưng bang chúa đường đường là nam tử hán đại trượng phu, vì một mụ đàn bà mà nỡ lòng sát hại thuộc hạ trung thành, thật là quá đáng.” Gã vội đáp: “Vâng, vâng! Thuộc hạ biết tội rồi!” Đoạn gã móc túi lấy chìa khóa, mở hết xiềng xích đang đeo trên tay chân Hoa Vạn Tử.

Hoa Vạn Tử tuy chân tay đã được tự do, nhưng trong lòng càng kinh hãi hơn, tay chân run lẩy bẩy. Ta nên biết Mai Hoa nữ hiệp Hoa Vạn Tử không những bản lãnh phi thường, lại còn mưu trí đảm lược chẳng kém gì những nam tử anh hùng hào kiệt trong võ lâm. Giá tỉ Thạch Phá Thiên ra oai uy hiếp, thì chẳng những nàng không chau mày mà còn thẳng thắn dùng lời nghĩa khí để thống mạ đối phương. Nhưng lúc này Thạch Phá Thiên tuyệt nhiên không uy hiếp một câu, mà lại ra vẻ trách móc Trần Xung Chi ngược đãi mình, thì rõ ràng tên này muốn lấy lòng để mưu chuyện không tốt với mình.

Hoa Vạn Tử quyết chí giữ mình băng thanh ngọc khiết, nghĩ đến tên Thạch Phá Thiên dâm ác mà sợ phát run, úp mặt vào vách đá lạnh lẽo. Trong lòng nàng cũng thắc mắc: “Không biết có phải gã tiểu tử đó không? Ta mà nhìn hắn mấy cái thì nhận ra ngay.” Nhưng nói gì thì nói, nàng cũng không dám nhìn Thạch Phá Thiên.”

Trần Xung Chi âm thầm điều hòa nội tức, cảm thấy sau khi uống chén trà có độc, trong thân thể hoàn toàn chưa có biểu hiện gì. Hắn nghĩ bụng: “Chất độc này cũng không cấp bách lắm, không chừng còn cách cứu chữa.” Gã lại càng muốn lấy lòng bang chúa, bèn nói: “Bang chúa! Thuộc hạ cho rằng bây giờ nên mời Hoa cô nương về phòng của bang chúa để cùng trò chuyện, ở đây tối tăm hôi hám, lại không có trà nước để khoản đãi quý khách, thì làm sao tỏ được tình địa chủ?”

Thạch Phá Thiên cả mừng đáp: “Phải lắm! Hoa cô nương! Bên phòng ta có yến sào ngon lắm. Mời cô nương qua đó ăn một chén.”

Hoa Vạn Tử giẫy nẩy đáp: “Không! Ta nhất định không đi!”

Thạch Phá Thiên nói: “Mùi vị yến sào rất ngon, cô qua đó ăn thử một chén đi!”

Hoa Vạn Tử tức giận nói: “Ngươi muốn giết thì cứ giết, bản cô nương đường đường là đệ tử phái Tuyết Sơn, nhất quyết không bao giờ cầu xin ngươi tha mạng. Tên ác ôn này mà toan sàm sỡ, thì ta thà đập đầu vào vách đá mà tự sát còn hơn. Ta quyết… quyết không đi đến phòng của ngươi.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Ta mà là tên ác ôn thích giết người ư? Thật là kỳ lạ! Khi nào ta lại dám vô cớ giết cô? Cô không thích ăn yến sào thì thôi, nhưng không ăn yến sào thì ăn gà vịt, thịt cá gì đó cũng được chứ?” Chàng quay lại hỏi Trần Xung Chi: “Trần hương chủ! Chúng ta có những thứ đó không?”

Trần Xung Chi đáp ngay: “Có! Có! Có! Hoa cô nương thích ăn bất cứ món gì trên thế gian, trong nhà bếp này cũng có hết.”

Hoa Vạn Tử “phì” một cái rồi giận dữ nói: “Bản cô nương thà chết chứ không chịu ăn những thức của Trường Lạc Bang, để ô uế lây đến miệng mình.”

Thạch Phá Thiên nói: “Thế thì Hoa cô nương muốn tự mình ra chợ mua lấy thức ăn có phải không? Cô nương có tiền bạc gì chưa? Trần hương chủ! Hương chủ có tiền không, tặng cho cô ấy một ít.”

Trần Xung Chi đáp: “Dạ dạ! Thuộc hạ xin đi lấy tiền.”

Hoa Vạn Tử lại càng phẫn nộ la lên: “Không cần, không cần! Ta có chết cũng không cần.”

Thạch Phá Thiên nói: “Thế thì chắc cô nương đã có tiền bạc rồi. Ta nghe Trần hương chủ nói chân của cô đã bị thương, định mời Bối tiên sinh đến xem xét. Nhưng cô đã chán ghét bang Trường Lạc thế này, thì cứ ra ngoài tự tìm y sĩ điều trị cũng được. Để máu chảy nhiều, e rằng không tốt.”

Hoa Vạn Tử nhất định không thể tin tên bang chúa này lại định thả mình ra thật. Nàng cho đây là trò mèo giỡn chuột, bèn hằn học đáp: “Bất kể ngươi dùng quỷ kế gì, ta cũng không để ngươi lừa gạt.”

Thạch Phá Thiên càng lấy làm lạ nói: “Gian phòng đá này giống hệt như nhà lao vậy, có gì vui đâu? Ta chưa thấy nhà lao, nhưng nghe mẹ ta kể chuyện thì chắc nhà lao cũng chẳng khác gì căn nhà này. Hoa cô nương! Cô nương nên ra ngoài cho thoải mái.”

Hoa Vạn Tử nghe gì mà “mẹ ta kể chuyện” thì cũng không hiểu ý, nhưng hình như hắn định thả mình ra thật chứ không phải chuyện giả trá. Nàng hắng giọng rồi hỏi: “Trường kiếm của ta đâu rồi? Bọn ngươi có trả hay không?” Nàng định bụng: “Giả tỉ trong tay mình có khí giới, thì nếu Thạch Phá Thiên giở trò bỉ ổi, dù mình không địch nổi cũng có thể dùng kiếm mà tự vẫn.”

Trần Xung Chi quay lại nhìn bang chúa hỏi ý. Thạch Phá Thiên nói: “Hoa cô nương muốn lấy trường kiếm lại. Trần hương chủ! Ngươi trả lại cho cô ấy có được không?”

Trần Xung Chi đáp: “Được chứ, được chứ! Kiếm ở ngoài kia, cô nương cứ đi ra rồi tại hạ xin trả lại ngay.”

Hoa Vạn Tử nghĩ bụng: “Mình cũng không thể ngồi đây làm tù phạm mãi được, cứ thử tùy cơ ứng biến. Mình đã liều mạng, chuyện sống chết chẳng để vào lòng, thì còn sợ gì nữa?”

Nàng quyết định được chủ ý, đứng phắt dậy, băng băng tiến ra ngoài cửa. Thạch Phá Thiên và Trần Xung Chi đi theo sau, qua hết đường hầm, cửa đá, rồi ra khỏi nhà lao. Trần Xung Chi muốn lấy lòng bang chúa, chạy vội đi lấy thanh trường kiếm của Hoa Vạn Tử, kính cẩn đưa cho Thạch Phá Thiên. Chàng đón lấy rồi đưa lại cho Hoa Vạn Tử.

Hoa Vạn Tử sợ chàng thừa cơ hạ thủ, liền vận chân lực vào đôi tay rồi đột ngột vươn tay ra chộp lấy thanh kiếm đánh vèo một cái. Lúc nàng chộp kiếm, tay phải cầm ngay lấy chuôi, khi giật kiếm về thì mũi kiếm cũng đã rút ra khỏi vỏ năm tấc. Sau đó nàng nhìn Thạch Phá Thiên, trong lòng chợt nghĩ; “Đúng là hắn rồi! Đây chính là thằng lỏi đó, không nghi ngờ gì nữa.”

Trần Xung Chi đã biết kiếm pháp nàng tinh diệu vô cùng. Gã sợ nàng ra tay đả thương người, vội xoay tay rút lấy thanh đơn đao trong tay một tên đệ tử đứng sau lưng. Thạch Phá Thiên nói: “Hoa cô nương! Chân cô bị thương có đau lắm không? Để ta coi thử, nếu bị gãy xương thì ta nối lại cho cô, cũng như con A Hoàng vậy.”

Câu này người nói vô tình, nhưng người nghe lại có ý. Hoa Vạn Tử thấy Thạch Phá Thiên chằm chằm nhìn chân mình, thì đỏ mặt lên mắng ngay: “Ngươi thật là đê hèn vô sỉ, nói toàn giọng hạ lưu.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Cái gì? Ta nói không đúng hay sao? Để ta xem vết thương cho cô.”

Chàng là con người ngây thơ chất phác, tuyệt không có tà niệm gì hết, nhưng Hoa Vạn Tử lại tưởng chàng có ý trêu cợt mình. Nàng rút trường kiếm ra khỏi vỏ đánh soạt một tiếng, rồi quát lên: “Gã họ Thạch kia! Nếu người còn tiến thêm một bước thì bản cô nương phải liều mạng với ngươi!” Mũi kiếm vung lên, một làn thanh quang lấp lánh vọt tới ngực Thạch Phá Thiên.

Trần Xung Chi mỉm cười nói: “Hoa cô nương! Bang chúa ta là một bậc thiếu niên anh tuấn, cô nương được người để mắt đến là phúc phận to lắm rồi. Cô nương nên biết, trong thiên hạ chẳng thiếu gì mỹ nữ thanh tân, nhan sắc đổ quán xiêu đình, tuổi mới cập kê, muốn kề cận tệ bang chúa một đêm mà phải xếp hàng chờ đến lượt.”

Hoa Vạn Tử sắc mặt lợt lạt, phóng ra chiêu Đại Mạc Phi Sa. Kiếm phong rít lên veo véo, nhằm đâm thẳng vào ngực Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên hiện giờ chỉ có nội công cực kỳ thâm hậu, còn về mặt nghinh địch giao phong thì trước nay chưa học tí gì. Chàng thấy Hoa Vạn Tử phóng kiếm đâm tới thì chân tay luống cuống, xoay mình chạy trốn. May mà nội công chàng luyện đến mực tinh thâm, nên tuy chân tay vụng về nhưng cũng chạy lẹ vô cùng, chỉ nghe vù một cái, đã ra xa ngoài mấy trượng.

Hoa Vạn Tử không ngờ Thạch Phá Thiên lại xoay mình chạy trốn, chỉ cất bước đã cách xa, chẳng khác nào con chim vừa đập cánh đã mất hút. Bình sinh nàng chưa thấy khinh công ai kỳ diệu đến thế, bất giác đứng thộn mặt ra, ngây người như tượng gỗ, không nói gì nữa.

Thạch Phá Thiên đứng xa xa, xua tay loạn lên mà nói: “Hoa cô nương! Ta sợ cô rồi, sao cứ động một tí là vung kiếm giết người. Được rồi! Cô muốn đi thì đi, muốn ở thì ở, ta… ta không nói gì với cô nữa.” Chàng nghĩ bụng: “Hoa Vạn Tử định vung kiếm lên giết mình tất phải vì một lý do nào đó, nhưng mình lại không hiểu những cốt lõi bên trong. Ta phải đi hỏi Thị Kiếm tỷ tỷ xem thế nào đã.” Thạch Phá Thiên nghĩ vậy rồi quay lưng bước đi.

Hoa Vạn Tử lại càng cảm thấy ngạc nhiên, lên tiếng hỏi: “Thạch bang chúa! Có thật ngươi thả ta ra không? Hay là ngoài kia ngươi đã đặt mai phục để ngăn cản rồi?”

Thạch Phá Thiên quay người lại hỏi: “Ta ngăn cản cô làm chi? Nếu ta không cẩn thận, bị cô đâm cho một nhát thì thật là hỏng bét.”

Hoa Vạn Tử nghe thì nghe vậy, nhưng trong lòng vẫn nghi hoặc, không thể tin hắn không làm khó dễ mình nữa. Nàng tự nhủ: “Thôi, mặc kệ hắn có quỷ kế gì cũng được, ta phải đi một bước rồi mới tính bước nữa.” Rồi nàng trợn mắt lên nhìn kỹ chàng, trong lòng lại nghĩ: “Quả nhiên là ngươi! Hèn gì thằng lỏi này lại vô lễ với phái Tuyết Sơn đến thế.” Rồi nàng quay gót đi luôn. Chân trái nàng đã bị thương, nên phải khập khiễng đi từng bước, nhưng trong lòng nghĩ là xa tên ác tặc này một bước thì an toàn thêm một chút, nên cứ nhịn đau mà bước đi cho lẹ.

Trần Xung Chi mỉm cười nói: “Tổng đà Trường Lạc Bang tuy chẳng ghê gớm gì lắm, nhưng ít ra cũng có mấy người giữ cửa. Giả tỉ Hoa cô nương muốn đi là đi, muốn đến là đến, chẳng hóa ra chúng ta là đồ giá áo túi cơm cả hay sao?”

Hoa Vạn Tử mày liễu dựng ngược, cầm ngang lưỡi kiếm nói: “Theo ý ngươi thì sao?”

Trần Xung Chi mỉm cười đáp: “Theo ý Trần mỗ, thì cô nương phải để tại hạ hộ tống ra ngoài là hay nhất.”

Hoa Vạn Tử nghĩ thầm: “Qua cửa phải cúi đầu, lần này mình lỗ mãng xem thường đối phương nên mới thất thủ. Thật sự mình muốn ra khỏi tổng đà Trường Lạc Bang này cũng không phải dễ dàng, bây giờ phải tạm thời ẩn nhẫn. Sau này sẽ hội họp các vị sư huynh sư đệ mở cuộc đại tấn công, mới mong rửa được cái nhục hôm nay.” Nàng nghĩ vậy liền hạ giọng đáp: “Nếu vậy thì xin làm phiền hương chủ vậy.”

Trần Xung Chi quay lại nói với Thạch Phá Thiên: “Bang chúa! Bây giờ thuộc hạ đưa Hoa cô nương ra ngoài.” Rồi gã hỏi nhỏ: “Bang chúa để cô ấy đi thật, hay là cho ra ngoài rồi bắt cô ta trở lại?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên nói: “Dĩ nhiên là cho cô ấy đi, còn bắt lại làm gì nữa?”

Trần Xung Chi đáp: “Vâng, vâng.” Trong lòng gã nghĩ: “Chắc là bang chúa chê cô ta lớn tuổi nên không để vào mắt. Thật ra cô nương này da dẻ trắng nõn, cũng không phải là tệ. Nhưng bang chúa đã không thèm thì ta cũng chẳng cần khách sáo quá làm gì.” Gã bèn nói với Hoa Vạn Tử: “Đi thôi.” Thạch Phá Thiên thấy thanh trường kiếm sắc bén trong tay Hoa Vạn Tử tỏa thanh quang lấp lánh thì không khỏi kinh hãi. Chàng không dám nói chuyện nhiều, thấy Trần Xung Chi đưa nàng ra ngoài cửa thì thật không có gì tốt hơn nữa.

* * *

Thạch Phá Thiên một mình tìm đường trở về phòng, dọc đường ai gặp chàng cũng khép nép tránh sang bên để nhường bước, vẻ mặt người nào cũng ra chiều cung kính. Thạch Phá Thiên trở về tới phòng, đang muốn hỏi Thị Kiếm tại sao Hoa Vạn Tử bị Trần hương chủ nhốt trong lao, tại sao cô ta rút kiếm đâm mình, thì đột nhiên nghe người gác cửa hô lớn: “Bối tiên sinh đến.”

Thạch Phá Thiên cả mừng, đi lẹ vào trong phòng khách, vừa thấy Bối Hải Thạch đã nói ngay: “Bối tiên sinh! Vừa rồi đã xảy ra một việc rất kỳ lạ.” Rồi chàng đem vụ gặp Hoa Vạn Tử ra kể lại một lượt.

Bối Hải Thạch gật đầu, sắc mặt rất trịnh trọng nói: “Thuộc hạ cầu xin bang chúa một việc. Trần hương chủ ở Sư Oai Đường trước nay với bang chúa hết lòng kính cẩn, một dạ trung thành. Y lại là người có công lớn với bản bang, xin bang chúa rộng lượng tha mạng cho y.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Tha mạng cho y ư? Sao lại không thể tha mạng cho y được? Y là người rất tốt. Bối tiên sinh! Nếu y có mắc bệnh gì thì tiên sinh chữa cho y nhé.”

Bối Hải Thạch cả mừng xá dài nói: “Đa tạ bang chúa khai ân”, rồi lập tức rời đi.

Thì ra Trần Xung Chi đưa Hoa Vạn Tử đi rồi, liền chạy đến chỗ Bối Hải Thạch nhờ năn nỉ Thạch bang chúa cho thuốc giải. Bối Hải Thạch vạch mắt của hắn ra xem, rồi bắt mạch thử, biết hắn nếu có trúng độc thì cũng chẳng nặng gì, nghĩ thầm: “Chỉ cần bang chúa gật đầu một cái thì ta giải độc dễ như trở bàn tay.” Lão chỉ sợ Thạch bang chúa không phải là người dễ dàng khoan thứ, tuổi còn trẻ mà ra tay đã độc ác vô cùng, không ngờ vừa mở miệng đã xin được bang chúa tha mạng cho Trần Xung Chi. Lão hết sức vui mừng vì cứu được bằng hữu, lại giữ được thực lực cho bản bang để đối phó với những họa hoạn sắp xảy ra.

Bối Hải Thạch đi rồi, Thạch Phá Thiên liền đem những chuyện nghi ngờ ra hỏi Thị Kiếm. Bây giờ chàng mới biết địa phương này thuộc Trấn Giang, một nút giao thông quan trọng giữa hai vùng Nam Bắc. Đây là tổng đà của Trường Lạc Bang, và Thạch Phá Thiên là bang chúa. Bang Trường Lạc chia làm tam nội đường, ngũ ngoại đường để thống suất bang chúng các nơi, trong bang có rất nhiều cao thủ, mấy năm gần đây thanh thế lại càng thịnh vượng. Những nhân vật bản lãnh cao thâm như Bối Hải Thạch cũng đầu nhập trong bang, như vậy đủ thấy thanh thế của Trường Lạc Bang thật không yếu kém. Còn như Trường Lạc Bang ở trên giang hồ đã làm những việc gì, đã có thù hiềm gì với phái Tuyết Sơn, thì Thị Kiếm chỉ là một ả nha hoàn nhỏ tuổi, không thể nào biết được.

Thạch Phá Thiên nghe Thị Kiếm nói về tình hình bang Trường Lạc, chỉ hiểu sơ qua một phần mà thôi. Tuy chàng là người thông minh, nhưng chưa am hiểu thế sự, nên dĩ nhiên không có cách nào nhìn bao quát được hết tình thế bang này. Chàng suy nghĩ một lúc lâu rồi nói: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Nhất định là các vị nhận lầm ta rồi, không phải là ta mơ ngủ đâu. Vị bang chúa đó, nhất định phải là một người nào khác. Còn ta chỉ là một gã thiếu niên ở nơi rừng núi, không phải là bang chúa chi hết.”

Thị Kiếm mỉm cười nói: “Trong thiên hạ cũng có lắm người tướng mạo giống nhau, nhưng không thể giống đến mức độ như thế này. Thiếu gia! Gần đây thiếu gia luyện những công phu gì đó, e rằng đã bị chấn động đến đầu óc. Nô tỳ không nói chuyện với thiếu gia nữa, để thiếu gia nghỉ ngơi cho tâm thần thoải mái. Chắc chắn thiếu gia sẽ dần dần nhớ ra mọi chuyện thôi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không! Không! Trong lòng ta còn nhiều chuyện nghi ngờ không thể giải thích được, cần phải hỏi tỷ tỷ. Thị Kiếm tỷ tỷ! Tại sao tỷ tỷ lại thích làm nha hoàn?”

Thị Kiếm mắt đỏ hoe đáp: “Chẳng lẽ lại có ai thích làm nha hoàn ư? Từ thuở nhỏ nô tỳ đã mồ côi cha mẹ, không nơi nương tựa. Có người đem nô tỳ về nuôi, rồi đưa đến bán cho bang Trường Lạc. Đậu tổng quản giao cho nô tỳ hầu hạ thiếu gia, dĩ nhiên là nô tỳ phải tuân mệnh.”

Thạch Phá Thiên nói: “Nếu thế thì không phải tỷ tỷ muốn làm nha hoàn, vậy tỷ tỷ cứ việc đi đi. Ta cũng không cần người phục dịch, bất luận chuyện gì ta cũng tự làm lấy được.”

Thị Kiếm lo lắng nói: “Hiện giờ nô tỳ không còn ai thân thuộc nữa, thiếu gia bảo nô tỳ đi đâu? Đậu tổng quản mà biết thiếu gia không muốn cho nô tỳ hầu hạ nữa, thì nhất định sẽ trách phạt nô tỳ không hết lòng thị phụng. Nô tỳ sẽ bị đòn đến chết mất.”

Thạch Phá Thiên nói: “Để ta bảo ông ấy không đánh mắng tỷ tỷ là được rồi.”

Thị Kiếm lắc đầu nói: “Thiếu gia bệnh còn chưa khỏi, nô tỳ không thể bỏ mà đi được. Hơn nữa, nếu thiếu gia không khinh rẻ nô tỳ, thì nô tỳ cũng tình nguyện phục thị thiếu gia.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cô không chịu đi thì càng tốt, thật ra trong lòng ta cũng không muốn cô đi. Sao ta có thể khinh rẻ cô được? Từ trước đến giờ ta chẳng khinh rẻ ai cả.”

Thị Kiếm vừa tức mình vừa buồn cười, đưa tay bịt miệng nói: “Thiếu gia nói vậy, thì mọi người phải tưởng rằng Thạch đại bang chúa đã cải tà qui chính rồi.” Cô thấy chàng nói chuyện đàng hoàng, hoàn toàn không có thái độ khinh mạn chọc ghẹo như mọi khi, tuy có nghĩ rằng đây chỉ là chàng hứng thú nhất thời mà làm như thế, nhưng dẫu sao cũng là chuyện đáng mừng.

Thạch Phá Thiên im lặng không nói gì nữa, nghĩ thầm: “Vị Thạch bang chúa nào đó có vẻ rất ác độc, thích giết người, lại thích bức hiếp người, ai thấy ông ấy cũng phải sợ. Ông ấy còn đi cướp vợ của người khác, cũng không hiểu cướp để làm gì, muốn người ta nấu cơm giặt áo cho mình hay sao? Còn ta… ta phải làm sao đây? Ngày mai ta phải nói rõ cho Bối tiên sinh nghe, không thể để họ nhận lầm mình là bang chúa mãi được.” Thạch Phá Thiên ngẫm nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác. Có lúc chàng cảm thấy làm bang chúa thì được mọi người kính trọng, cũng thấy rất vui. Nhưng có lúc chàng nghĩ tới chỗ mình mạo danh người khác, khi bang chúa thật sự trở về chắc sẽ nổi nóng, không chừng còn hạ thủ giết mình, như thế thì thật là nguy hiểm.

* * *

Vào lúc hoàng hôn, dưới nhà bếp đem lên tám món ăn rất tinh tế, Thị Kiếm phục thị chàng dùng bữa. Thạch Phá Thiên bảo nàng ngồi xuống cùng ăn, cô đỏ mặt lên, nói sao cũng không chịu, Thạch Phá Thiên chỉ còn biết mặc kệ. Mấy món ăn thật là ngon, chàng ăn luôn bốn chén cơm lớn. Sau đó, chàng lại nói chuyện cùng Thị Kiếm, cứ hỏi hết chuyện này sang chuyện khác, dường như chuyện gì đối với chàng cũng là mới lạ.

Thị Kiếm thấy trời đã tối mà thiếu gia vẫn chưa để mình ra ngoài, bèn nghĩ thầm: “E rằng bệnh cũ thiếu gia lại tái phát, nảy ra ý đồ bất chính.” Nàng liền cáo từ ra khỏi phòng, tiện tay đóng cửa lại. Thạch Phá Thiên ngồi trên giường một mình cũng buồn vì chẳng có việc gì làm, lại luyện công theo đồ hình kinh mạch trên mười tám pho tượng La Hán gỗ.

Đêm đã khuya, bốn bề im vắng. Bất thình lình Thạch Phá Thiên nghe bên ngoài cửa sổ có ba tiếng gõ, chàng mở mắt lên nhìn thì thấy cánh cửa từ từ mở ra, một bàn tay nhỏ nhắn thò vào vẫy vẫy chàng. Chàng thấp thoáng nhìn thấy bên ngoài cửa sổ có một ống tay áo màu xanh nhạt, rất uyển chuyển. Thạch Phá Thiên động tâm, chợt nhớ tới thiếu nữ mặt trái xoan, mặc áo xanh nhạt đêm trước. Chàng liền nhảy xuống giường, chạy tới cửa sổ cất tiếng gọi: “Tỷ tỷ!…”

Bên ngoài cửa sổ, một thanh âm thiếu nữ trong trẻo đáp lại: “Sao lại gọi ta bằng tỷ tỷ? Ra đây nhanh lên!”

Thạch Phá Thiên đẩy cửa sổ nhảy ra, thì không thấy bóng một người nào. Chàng còn đang ngẩn ngơ thì đột nhiên thấy trước mắt hoa lên một cái rồi tối sầm lại. Một bàn tay mềm mại đã bịt lấy mắt chàng, sau lưng lại có tiếng cười khúc khích, rồi một mùi hương thanh nhã như hoa lan thoảng bay vào mũi.

Thạch Phá Thiên vừa ngạc nhiên vừa hoan hỉ, biết thiếu nữ này muốn đùa giỡn với mình. Từ thuở nhỏ chàng phải ở chốn hoang sơn hiu quạnh không có ai để chuyện trò, đành làm bạn với con chó vàng, bây giờ đột nhiên có bạn chơi đùa, dĩ nhiên khoan khoái vô cùng. Chàng quành tay ra sau định ôm lấy nàng, vừa nói: “Nào, thử xem ta có bắt được cô không?”

Ngờ đâu, chàng xoay tay đã nhanh, nhưng thiếu nữ tránh né lại càng mau lẹ dị thường, chớp nhoáng đã biến mất. Thạch Phá Thiên ngơ ngác, rồi bỗng thấy tà áo xanh phất phới trong bụi hoa hồng. Chàng liền chạy tới đưa tay chụp lấy, nhưng chỉ nắm được toàn là gai góc. Chàng đau không nhịn được, la lên một tiếng: “Úi chà!”

Thiếu nữ từ một khóm hoa khác ló đầu ra cười nhỏ nhẹ nói: “Chàng ngốc ơi, đừng lên tiếng nữa! Hãy đi theo ta!” Thạch Phá Thiên thấy thân hình nàng chuyển động, liền chạy theo sau.

Thiếu nữ chạy đến chân tường, toan nhảy lên mặt tường thì trong bóng tối đột nhiên có tiếng động rồi có hai người chạy đến, một người cầm đơn đao, còn một người xách đôi phán quan bút. Cả hai đứng chắn trước mặt thiếu nữ quát hỏi: “Ai đó? Đứng lại!”

Giữa lúc này Thạch Phá Thiên vừa chạy tới nơi. Hai gã kia là đệ tử bang Trường Lạc đang tuần tiễu trong vườn hoa. Chúng thấy Thạch Phá Thiên mỉm cười với cô gái kia, vội vàng tránh ra, thi lễ nói: “Thuộc hạ không biết cô nương đây là bạn của bang chúa, nên đã đắc tội. Xin bang chúa lượng thứ cho!” Rồi chúng quay lại nhìn thiếu nữ nghiêng mình thi lễ. Thiếu nữ nhìn bọn họ lè lưỡi một cái, rồi quay lại đưa tay ra vẫy Thạch Phá Thiên. Rồi nàng không nói gì, nhảy vọt lên mặt tường.

Thạch Phá Thiên tự lượng mình không đủ bản lãnh để nhảy lên bức tường cao như vậy. Nhưng thiếu nữ đang vẫy tay, mà hai tên đệ tử lại đang chăm chăm nhìn, chẳng lẽ chàng lại kêu người đi lấy thang để trèo lên? Chàng đành bấm bụng, co giò nhảy vọt lên. Thật là kỳ lạ, chân chàng tựa hồ phát sinh một sức mạnh không biết từ đâu mà có, chỉ nghe vù một tiếng là thân hình chàng đã vọt qua cả bức tường cao lẫn thiếu nữ đang đứng trên đầu tường. Hai tên đệ tử giật mình, không nhịn được phải lớn tiếng reo hò: “Công phu tuyệt diệu!”

Giữa lúc ấy, bên ngoài tường bỗng nghe đánh “bịch” một tiếng như có vật nặng rớt xuống. Thì ra Thạch Phá Thiên không biết cách hạ người xuống, nên té nhào xuống đất. Hai tên đệ tử ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu là tiếng động gì. Dĩ nhiên là chúng không đoán nổi, khinh công bang chúa đã tuyệt diệu như vậy mà lại té bịch xuống đất, ngửa mặt lên trời trông rất khó coi.

Thiếu nữ ở trên đầu tường nhìn rất rõ, thấy một lúc sau Thạch Phá Thiên vẫn chưa dậy được. Nàng giật mình kinh hãi, liền tung mình nhảy xuống, vừa đưa tay đỡ chàng, vừa dịu dàng nói: “Thiên ca! Thiên ca làm sao vậy? Thiên ca chưa khỏi bệnh hẳn, chớ nên vận công lực.” Nàng luồn tay vào nách, từ từ dìu chàng dậy.

Phen này Thạch Phá Thiên té nhào, mông đau quá không chịu nổi, phải nhờ thiếu nữ nâng đỡ chàng mới đứng lên được. Thiếu nữ lại nói: “Chúng ta đi đến chỗ cũ có được không? Huynh té có đau không, còn chạy được không?”

Thạch Phá Thiên công lực rất thâm hậu, tuy bị té nặng nhưng chỉ một lúc là hết đau ngay. Chàng nói: “Được! Ta không thấy đau đớn gì nữa, dĩ nhiên là đi được.”

Thiếu nữ kéo tay chàng nói: “Mấy hôm không gặp, Thiên ca có nhớ muội không?” Nàng mỉm cười nhìn thẳng vào mắt Thạch Phá Thiên.

Trước mắt Thạch Phá Thiên hiện ra một bộ mặt thanh tao thoát tục, khóe miệng đang nở nụ cười tinh nghịch, đôi mắt long lanh dưới ánh trăng trông tựa hai vì sao. Mũi chàng ngửi thấy trong người thiếu nữ thoảng ra một mùi u hương êm dịu, lòng chàng không khỏi mơ màng. Tuy chàng chưa hiểu gì về chuyện nam nữ, nhưng dẫu sao cũng là thanh niên tuổi đã hai mươi, dù có ngốc nghếch gấp đôi thì trước một thiếu nữ xinh đẹp như thế cũng phải nảy lòng ngưỡng mộ. Chàng thẫn thờ nói: “Tối hôm ấy cô nương lại thăm ta rồi bỏ đi ngay. Ta cũng hay nghĩ đến cô nương lắm.”

Thiếu nữ chúm chím đôi môi, cười nói: “Thiên ca đã mất tích bấy lâu, rồi lại hôn mê bất tỉnh mấy ngày, có biết trong lòng người ta lo lắng đến thế nào không? Đêm nào người ta cũng đến thăm Thiên ca, Thiên ca có biết không? Chỉ vì muội thấy Thiên ca đang ngưng thần luyện công, sợ mình quấy nhiễu thì nguy hại cho cuộc trị thương của Thiên ca, nên không dám lên tiếng gọi.”

Thạch Phá Thiên vui mừng hỏi: “Thật thế ư? Tại sao ta không biết? Hảo tỷ tỷ… sao tỷ tỷ lại tử tế với ta như thế?”

Thiếu nữ đột nhiên biến sắc, hất tay chàng ra nói: “Ngươi kêu ta bằng gì? Ta… ta… muội đã đoán ra rồi. Bấy lâu huynh không trở về… nhất định ở bên ngoài đã… đã ở cùng một nơi với những cô gái hư hỏng. Huynh gọi bọn chúng là hảo tỷ tỷ quen mồm, rồi cũng thuận miệng gọi muội như thế.”

Thạch Phá Thiên thấy thiếu nữ vừa mới tươi tỉnh vui cười, nói chuyện ôn hòa uyển chuyển, mà đột nhiên biến thành giận dữ thì chàng kinh ngạc chẳng hiểu ra sao, cứ ấp úng: “Ta… ta…”

Thiếu nữ thấy chàng ấp úng không nói gì thì lại càng tức giận. Nàng giơ tay ra nắm lấy tai chàng, giận dữ nói: “Lâu nay ngươi đã ở chung với đứa con gái nào? Có phải ngươi kêu nó bằng “hảo tỷ tỷ” không? Nói mau, nói mau, nói mau!” Mỗi câu “nói mau” là nàng kéo tai chàng một cái, nói ba câu thì đã kéo luôn ba cái.

Thạch Phá Thiên đau quá chịu không nổi phải kêu lên: “Úi chao!” Rồi chàng nói: “Cô hung dữ như thế, ta không chơi với cô nữa!”

Thiếu nữ lại kéo tai chàng một cái thật mạnh rồi quát: “Ngươi muốn ta để mặc như thế ư? Không dễ như vậy đâu. Ngươi đã ở chung với đứa con gái nào, mau mau khai ra.”

Thạch Phá Thiên nhăn nhó đáp: “Ta có ở cùng với một cô gái, cô ấy cũng ngủ trong phòng của ta.”

Thiếu nữ lại càng tức giận, kéo tai Thạch Phá Thiên đến chảy máu ra, gằn giọng: “Ta phải đi giết nó ngay lập tức.”

Thạch Phá Thiên bở vía la lên: “Đừng, đừng! Đó là Thị Kiếm tỷ tỷ. Cô ấy đã nấu yến sào, nấu cháo sâm cho ta ăn, tuy nấu cháo bị khê hơi đắng, nhưng cô ấy vẫn là người rất tốt. Cô… cô không nên đi giết cô ấy.”

Nước mắt đã chảy ròng trên má thiếu nữ, nhưng bỗng nhiên nàng phì cười, lập tức giật tai chàng một cái thật mạnh rồi nói: “Cứ tưởng “hảo tỷ tỷ” đó là ai, té ra là con nha đầu đó. Huynh cứ gạt muội hoài, chẳng được câu nào thành thật, quả không thể nào tin được. Mấy đêm nay muội đứng ngoài cửa sổ nhìn, thấy Thiên ca cùng con nha đầu vẫn rất đàng hoàng, cũng coi như huynh còn ngoan ngoãn.” Nàng lại giơ tay ra toan kéo tai chàng một cái nữa.

Thạch Phá Thiên kinh hãi, ngoẹo đầu đi để tránh. Thiếu nữ xòe tay xoa vào tai chàng, rồi mỉm cười hỏi: “Thiên ca, huynh có đau không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Dĩ nhiên là đau lắm.”

Thiếu nữ lại mỉm cười nói: “Huynh đau thì mặc kệ. Ai bảo huynh lừa gạt muội, lại còn kêu muội bằng “hảo tỷ tỷ” làm chi?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta thường nghe mẫu thân bảo, gọi người khác bằng tỷ tỷ là lịch sự. Chẳng lẽ như thế lại không đúng ư?”

Thiếu nữ nguýt chàng một cái rồi nói: “Huynh có lịch sự với muội hồi nào đâu? Được rồi, huynh không phục thì để muội đưa tai cho Thiên ca kéo lại là xong.” Nàng nói xong, nghiêng đầu lại cho mặt kề sát vào mặt chàng. Mùi thơm thoang thoảng ở má thiếu nữ lại lọt vào mũi Thạch Phá Thiên.

Chàng giơ tay lên nắm lấy tai cô, lắc đầu nói: “Ta không kéo đâu.” Rồi chàng lại hỏi: “Vậy ta phải gọi cô thế nào mới đúng?”

Thiếu nữ nhõng nhẽo hỏi lại: “Trước nay Thiên ca vẫn gọi muội là gì? Chẳng lẽ Thiên ca quên cả tên muội rồi ư?”

Thạch Phá Thiên định thần lại, nghiêm nghị nói: “Cô nương! Ta nói cho cô biết, cô nhận lầm người rồi. Ta không phải là Thiên ca gì gì của cô đâu, mà cũng không phải là Thạch Phá Thiên. Ta là Cẩu Tạp Chủng.”

Thiếu nữ ngơ ngác, nắm lấy hai vai chàng xoay đi nửa vòng để ánh trăng soi vào mặt chàng. Nàng ngưng thần nhìn kỹ lại một hồi, rồi cười khanh khách nói: “Thiên ca! Thiên ca thật là khéo nói giỡn, nghe cứ như thật. Vừa rồi muội sợ hết hồn, cứ tưởng mình nhận lầm người! Thôi, chúng ta đi thôi!” Rồi nàng kéo tay chàng, toan cất bước đi.

Thạch Phá Thiên vội nói: “Ta không nói giỡn đâu, cô nhận lầm người thật đấy. Ngay cả tên cô là gì, ta cũng không biết.”

Thiếu nữ dừng bước, quay đầu lại. Tay phải nàng vẫn nắm lấy tay trái Thạch Phá Thiên, mặt cười tươi như hoa, dịu dàng nói: “Được rồi! Thiên ca đã nhất định ăn thua với muội, thì muội chịu thua cho xong. Muội họ Đinh tên Đang, Thiên ca vẫn gọi đùa là Đinh Đinh Đang Đang, huynh đã nhớ chưa?” Nàng nói xong mấy câu này, lại vội chạy về phía trước. Thạch Phá Thiên bị nàng lôi kéo, loạng choạng mấy cái rồi cũng hướng về phía trước mà chạy. Ban đầu chàng thở hổn hển ra chiều nhọc mệt, nhưng một lúc sau nội lực điều hòa, càng chạy càng thấy nhẹ nhàng, tựa hồ không hao tổn một chút khí lực nào.

Thạch Phá Thiên cũng không biết đã chạy được bao xa, bỗng thấy trước mắt là mặt nước đang gọn sóng, thì ra đã đến bờ sông. Đinh Đang kéo tay chàng, khẽ vọt một cái đã nhảy lên một chiếc thuyền nhỏ đang neo ở bờ sông. Thạch Phá Thiên chưa hiểu cách vận nội lực cho thân thể nhẹ đi. Chàng gieo người xuống đầu thuyền nghe huỵch một tiếng, thuyền tròng trành, nước bắn lên tung tóe.

Đinh Đang “A” lên một tiếng rồi cười nói: “Cái anh này, muốn thuyền lật ngược lên mới vừa lòng ư?” Rồi nàng cầm cây sào tre, khẽ đẩy một cái cho thuyền ra giữa sông.

Lúc này trời yên gió lặng, mặt nước phẳng lì trong suốt, mảnh trăng khuyết in rõ xuống lòng sông. Lúc cây sào tre của Đinh Đang chống vào bờ đẩy chiếc thuyền đi, mặt nước lăn tăn sóng gợn. Mảnh trăng in đáy nước tan ra biến mất, ánh trăng chiếu xuống mặt sông lung linh như dát bạc. Con thuyền lướt nhẹ về phía trước.

Hai bên bờ sông là những rặng liễu um tùm, xa xa ẩn hiện mấy túp nhà thưa thớt. Canh khuya vắng vẻ, một mùi thơm man mác thoảng đưa vào mũi Thạch Phá Thiên. Chàng cũng chẳng hiểu đó là mùi thơm của hoa cỏ trên bờ đưa xuống, hay từ người thiếu nữ tiết ra.

Con thuyền nhỏ đi quanh co uốn khúc theo dòng sông rồi rẽ vào một ngách nhở, đến một cây cầu đá bắc ngang. Đinh Đang cho thuyền đậu dưới gầm cầu, rồi buộc dây vào một cành liễu. Rặng liễu cành lá um tùm xòe ra che kín cả cây cầu nhỏ bé. Ánh trăng luồn qua những khe lá liễu, gieo xuống những chấm vàng lốm đốm. Chiếc thuyền con đậu dưới gầm cầu rất kín đáo, chẳng khác một gian nhà nhỏ giữa thiên nhiên.

Thạch Phá Thiên cất tiếng khen: “Quang cảnh nơi đây thực là đẹp! Dù là ban ngày, ai vô tình cũng khó mà biết được có thuyền neo ở dưới này.”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Thế sao mãi đến hôm nay Thiên ca mới chịu khen?” Nàng chui vào trong khoang lấy ra một chiếc chiếu cỏ, sắp chén bát cho hai người, vừa đặt hồ rượu xuống vừa cười bảo: “Thiên ca ngồi xuống đây mà uống rượu!” Rồi nàng lại lấy thêm mấy thứ rau đậu, thịt khô bày ra trước mặt Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên thấy Đinh Đang cầm hồ rót rượu, mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Mấy năm trời chàng ở với Tạ Yên Khách trên Ma Thiên Nhai, thi thoảng chàng cũng uống với lão vài ly rượu, nhưng chỉ là thứ rượu trắng. Lúc này chàng đón lấy chén rượu Đinh Đang vừa rót giơ lên hứng lấy ánh trăng bạc chiếu vào, lại thấy sắc rượu nửa vàng nửa đỏ. Chàng uống một hơi cạn sạch, nghe nóng ran cả bụng, miệng lưỡi cũng thấy mùi cay đắng, không khỏi chau mày. Đinh Đang mỉm cười nói: “Đây là rượu Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng, cất đã hai chục năm mà còn không ngon ư?”

Thạch Phá Thiên toan đáp, thì bỗng ngay trên đầu chàng có một thanh âm khàn khàn cất lên: “Rượu Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng cất đã hai mươi năm, sao lại không ngon?”

* * *

Nghe choảng một tiếng, ly rượu trong tay Đinh Đang rớt xuống sàn thuyền, rượu đổ ra ướt cả áo, cái ly lăn ra rồi rớt xuống sông đánh tõm một tiếng. Đinh Đang mặt mày thất sắc toàn thân run rẩy, kéo tay Thạch Phá Thiên nói rất khẽ: “Gia gia của muội đã đến đó!”

Thạch Phá Thiên ngẩng đầu nhìn về phía có âm thanh, chỉ thấy một đôi chân không ngừng đung đưa ngay trên đỉnh đầu mình. Dĩ nhiên người đó đang ngồi trên cầu, hai chân xuyên qua cành lá dương liễu thòng xuống, chỉ cần thấp hơn một thước nữa là đụng vào đầu Thạch Phá Thiên. Đôi chân này mang một đôi vớ màu trắng thêu chữ thọ, đôi giày bằng vải đoạn màu tím, giày vớ đều rất sạch sẽ.

Lão già ở trên đầu lại nói: “Không sai! Gia gia ngươi đã đến đây! Con nha đầu kia, ngươi lén lút đi gặp tình lang đã là quá rồi. Ta đã tốn biết bao công phu mới cất được thứ rượu Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng hai mươi năm, sao ngươi lại dám lấy cắp đem cho tình lang uống?”

Đinh Đang gượng cười nói: “Y… y không phải là tình lang gì hết, chỉ là… là… một người bạn bình thường.”

Lão già tức giận nói: “Hừ! Bạn bình thường mà ngươi cũng đối đãi tốt như thế hay sao, ngay cả thứ rượu gia gia quý như tính mạng cũng dám ăn cắp đi mời.” Lão ngừng một chút rồi nói tiếp: “Ngươi mau ra đây, để lão già này xem thử tình lang của cháu gái ta là một thằng Xú Bát Quái như thế nào.”

Tay trái của Đinh Đang kéo tay phải của Thạch Phá Thiên lại, dùng ngón trỏ bên tay phải viết chữ vào lòng bàn tay chàng. Miệng nàng thì đáp: “Gia gia ơi! Người bạn này vừa dốt nát vừa xấu xí, gia gia mà nhìn thấy nhất định phải ngán ngẩm. Hài nhi lấy cắp rượu của gia gia không phải cố ý để mời y đâu, y không xứng đáng uống thứ rượu đó. Hài nhi lấy để tự mình uống, rồi nổi hứng muốn tìm một người cùng uống rượu mà thôi.”

Nàng đã viết vào lòng bàn tay Thạch Phá Thiên bảy chữ “Chớ có xưng là Thạch bang chúa.” Nhưng mẹ chàng chưa bao giờ dạy chàng đọc sách viết chữ, Tạ Yên Khách lại càng không dạy, nên ngay cả chữ nhất là một chàng cũng không biết. Chàng chỉ cảm thấy cô ta ngoáy qua ngoáy lại trong bàn tay của mình chẳng biết để làm gì, chỉ cảm thấy nhồn nhột, lại nghe nàng nói những lời khinh bạc, chê mình vừa ngu dốt vừa xấu xí, không đáng uống rượu của nàng, nên bất giác hơi bực mình, hất tay nàng ra. Đinh Đang lại kéo bàn tay Thạch Phá Thiên, viết vào mấy chữ “Có thể mất mạng, nhất nhất phải nghe lời.” Rồi nàng siết chặt tay chàng mấy cái để tỏ ý thân thiết, ra vẻ những lời dặn này quan trọng vô cùng.

Thạch Phá Thiên biết nàng thân mật với mình, dĩ nhiên rất vui lòng nhưng lại chẳng hiểu gì. Lão già trên cầu lại nói: “Cả hai đứa nhãi nhép chui ra đây hết cho ta! A Đang, hôm nay gia gia đã giết mấy người rồi?”

Đinh Đang run rẩy nói: “Hình như… mới giết một người.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Mình thật là xúi quẩy, toàn gặp phải những người cứ mở miệng ra là nói chuyện giết người.”

Chàng lại nghe lão già ngồi trên cầu nói: “Hay lắm! Hôm nay ta mới giết có một người, thì còn giết được hai tên nữa. Giết hai mạng để nhắm rượu kể ra cũng thích.”

Thạch Phá Thiên tự hỏi: “Giết người để nhắm rượu ư? Ông lão này nói chuyện thật là tức cười.” Đột nhiên chàng thấy Đinh Đang buông tay chàng ra, rồi trước mắt hoa lên một cái, trên thuyền đã có thêm một người nữa.

Lão này râu tóc bạc phơ, miệng cười toe toét trông ra vẻ một ông lão hiền hòa vui vẻ. Nhưng lúc mắt chàng chạm vào mắt lão thì lập tức không chịu nổi phải phát run. Cặp mắt lão chiếu ra những tia sáng hung dữ tà ác, khiến ai nhìn thấy cũng phải nổi da gà, tưởng chừng như bị giá lạnh thấu xương. Lão già cười khà khà, giơ tay lên vỗ vào vai Thạch Phá Thiên một cái rồi nói: “Hảo tiểu tử! Phúc khí của ngươi không nhỏ mới được uống rượu Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng đã hai mươi năm của lão gia.”

Lão chỉ khẽ vỗ vai Thạch Phá Thiên mà xương cốt chàng kêu răng rắc, tưởng chừng như bị gãy nát hết. Đinh Đang cả kinh, níu lấy cánh tay lão năn nỉ: “Gia gia… gia gia đừng đả thương y.” Lão già tiện tay vỗ vai một cái, nhưng đã vận đến bảy thành công lực, lẽ ra xương vai Thạch Phá Thiên gãy vụn ra mới phải. Ngờ đâu bàn tay lão vừa chạm vào vai Thạch Phá Thiên thì lập tức trên vai chàng phát ra một luồng nội lực rất hùng hậu và trầm ổn, chẳng những hộ vệ được toàn thân mà còn hất bàn tay lão ngược lại. Nếu lão không vội thúc đẩy thêm nội lực thì chắc chắn tay mình phải bị hất ngược lên trời, lúc đó thật là xấu hổ.

Lão già trong lòng kinh ngạc chẳng kém gì Đinh Đang, liền cười khà khà nói: “Hay lắm, hay lắm! Tiểu tử này cũng xứng đáng uống rượu của ta. A Đang! Rót thêm mấy chén nữa để gia gia mời hắn uống. Gia gia không trách phạt ngươi về tội trộm rượu nữa.” Đinh Đang vui mừng khôn xiết. Nàng vốn biết gia gia tính tình kiêu ngạo, trước nay chẳng coi ai ra gì. Chưa có cao thủ võ lâm nào được lão mời uống rượu. Thế mà lão vừa gặp Thạch Phá Thiên đã mời chàng uống rượu, thật là một chuyện ra ngoài dự liệu.

Đinh Đang đối với Thạch Phá Thiên tình ý nồng nàn, vốn coi chàng là một thiếu niên anh hùng trong thiên hạ. Gia gia coi trọng nhân cách chàng, thì nàng cũng chẳng lấy chi làm lạ. Nhưng rõ ràng nàng vừa nghe thấy giọng lưỡi của gia gia có ý muốn giết người, mà vừa gặp mặt chàng đã đổi giọng ngay, thì rõ ràng Thạch lang tuấn tú tiêu sái hơn người, ngay cả gia gia cũng bị làm khuynh đảo.

Đinh Đang tuyệt không biết Thạch Phá Thiên vừa trải qua một cơn đại nạn. Sở dĩ gia gia nàng thay đổi thái độ, chỉ vì lão phát giác ra nội lực của tên tiểu tử này đã đến chỗ kinh người. Thật ra tướng mạo Thạch Phá Thiên tuy không đến nỗi xấu xí nhưng cũng chẳng tuấn tú gì, còn hai chữ tiêu sái lại càng không xứng đáng chút nào. Đinh Đang vui mừng đi vào trong khoang thuyền lấy thêm ly chén. Nàng rót rượu vào đầy chén cho lão gia trước, rồi đến Thạch Phá Thiên, cuối cùng mới rót cho mình.

Lão già nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi đã lọt vào mắt xanh của A Đang, thì tất nhiên phải có chút lai lịch. Vậy ngươi tên họ là chi?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu… cháu…” Lúc này thì chàng sực nhớ ra người ta thường dùng ba chữ Cẩu Tạp Chủng để thóa mạ nhau, nói với người quen thì không sao, còn nói với người lạ thì có điều bất nhã. Nhưng ngoài tên này ra thì chàng chẳng có tên nào khác, nên cứ “Cháu… cháu…” rồi không nói được nữa.

Lão già tỏ vẻ không bằng lòng hỏi lại: “Ngươi không dám nói tên với gia gia hay sao?”

Thạch Phá Thiên ngang nhiên đáp: “Có gì mà không dám? Bất quá tên của cháu khó nghe mà thôi. Cháu tên là Cẩu Tạp Chủng!”

Lão già sửng sốt một chút, rồi đột nhiên phá lên cười ha hả, tiếng cười vọng đi rất xa, cười đến nỗi chòm râu bạc bay tung cả lên. Hồi lâu lão mới nói: “Tốt! Tốt! Tốt! Thằng lỏi này có cái tên rất hay! Cẩu Tạp Chủng!”

Thạch Phá Thiên đáp ngay: “Gia gia gọi cháu có việc gì?”

Đinh Đang cũng hé môi cười, hết nhìn gia gia lại nhìn Thạch Phá Thiên, khóe thu ba đưa đẩy rất hữu tình. Nàng nghe Thạch Phá Thiên bỗng gọi gia gia mình bằng gia gia, rõ ràng đã thừa nhận là thân thiết với mình. Nàng viết chữ vào bàn tay bảo chàng đừng thổ lộ thân phận, quả nhiên chàng ngoan ngoãn nghe ta lời. Đường đường là một bang chúa tôn quý, chịu tự nhận mình là Chó Lộn Giống, chàng vì ta mà chịu uất ức như thế, rõ ràng mối tình thân thiết với ta đã đến cực điểm rồi.

Còn lão già cũng rất hoan hỉ, vì lão gọi chàng bằng Cẩu Tạp Chủng mà chàng vui vẻ đáp ngay. Như thế thì người thiếu niên thân mang tuyệt kỹ này hết sức phục tùng, không dám quật cường với lão chút nào, nên lão rất lấy làm đắc ý. Lão già lại hỏi: “A Đang! Ngươi đã nói tên của gia gia cho tình lang biết chưa?”

Đinh Đang bẽn lẽn lắc đầu đáp: “Cháu chưa nói.”

Lão già trầm mặt xuống nói: “Ngươi thương yêu gã thật sự hay là chỉ giả vờ? Sao lại chưa kể thân thế cùng dòng dõi nhà mình cho gã nghe? Nếu ngươi chỉ lấy trộm thứ rượu Thiệu Hưng đã cất hai mươi năm đem cho gã uống, thì còn có thể tha thứ được. Nhưng cả Huyền Băng Bích Hỏa Tửu mà gia gia cố để dành làm thuốc cứu mạng, ngươi cũng lấy đem cho gã uống mấy ngày liền là nghĩa làm sao?” Lão càng nói càng lên giọng ra chiều tức tối. Mấy câu sau cùng, cả nét mặt lẫn thanh âm lão đều cực kỳ nghiêm khắc. Nhất là lúc nói đến năm chữ Huyền Băng Bích Hỏa Tửu, lão vừa dằn từng tiếng, tà khí trong mắt lão vừa lộ ra ghê gớm vô cùng.

Thạch Phá Thiên ngồi cạnh nhìn thấy, không khỏi sợ run lên. Đinh Đang nghiêng mình đi, lăn vào lòng lão già năn nỉ: “Gia gia! Cái gì gia gia cũng biết hết rồi. Gia gia tha cho A Đang đi!”

Lão già cười lạnh nói: “Tha cho A Đang! Ngươi nói thì dễ lắm. Ngươi có biết Huyền Băng Bích Hỏa Tửu công hiệu như thế nào không? Ngươi tự tiện lấy như thế thì có đáng tội hay không?”

Đinh Đang đáp: “Để A Đang gắng công chế lại thứ rượu đó, gia gia đừng lo lắng chi hết.”

Lão già nói: “Ngươi nói thì dễ lắm. Nếu thứ rượu đó muốn chế là chế được ngay, thì gia gia cũng chẳng để trong lòng làm gì.”

Đinh Đang nói: “A Đang thấy toàn thân chàng lúc thì nóng như lửa, lúc lại rét run, liền nghĩ ngay chỉ có thứ thần tửu của gia gia mới điều hòa được âm dương nhị khí, liền lấy cắp cho chàng uống một chút thì quả nhiên công hiệu ngay. Thế rồi nay uống một ít, mai uống một ít, bình rượu hết nhẵn lúc nào không biết. Bây giờ gia gia nói cách chế thứ rượu này cho A Đang nghe đi. A Đang ăn trộm cũng được mà ăn cướp cũng được, nhất định sẽ chế lại mấy bình cho gia gia.”

Ông lão cười gằn nói: “Ha ha, mấy bình, mấy bình… Lúc tóc ngươi bạc trắng hết, cũng chưa chắc đã tìm được đủ những thứ thuốc trân quý để chế lại cho ta nửa bình.”

Thạch Phá Thiên nghe hai ông cháu A Đang đối đáp với nhau thì mới vỡ lẽ ra, nghĩ bụng: “Té ra lúc mình bị hai luồng khí hàn nhiệt xung kích nhau trong thân thế mà mê man bất tỉnh, mỗi ngày Đinh Đang đã lấy thứ rượu quý Huyền Băng Bích Hỏa Tửu gì gì đó của gia gia mà đút cho mình uống, nhờ vậy mình mới không chết, cũng là do nàng rót rượu cho mình. Vậy nàng là đại ân nhân cứu mạng cho mình.” Bây giờ chàng thấy lão già gay gắt với nàng, liền lên tiếng: “Gia gia! Cháu đã uống rượu quý của gia gia, vậy gia gia cứ cháu mà đòi, cháu sẽ nghĩ cách lấy rượu về trả gia gia. Nếu cháu không trả được thì gia gia muốn trách phạt thế nào cháu cũng chịu, xin gia gia đừng làm khó dễ Đinh Đinh Đang Đang nữa.”

Lão già cười khà khà nói: “Hay lắm, hay lắm! Ngươi nói thế thì còn nghe được. A Đang! Sao ngươi không đem thân thế mình mà nói cho y biết?”

Đinh Đang vẫn ra vẻ thẹn thùng, ấp úng đáp: “Y… y chẳng khi nào hỏi đến, nên cháu cũng không nói ra. Gia gia đừng có nghi ngờ, cháu không có ý gì khác.”

Lão già hỏi: “Không có ý gì khác hay sao? Chưa chắc, chỉ sợ trong đó còn nhiều chuyện khác. Còn có chuyện gì trong lòng con tiểu nha đầu này mà gia gia không biết? Ngươi thật lòng thật dạ yêu thằng lỏi này, chỉ mong gã cưới về làm vợ. Ngươi sợ nói gốc gác mình ra thì hắn hồn phi phách tán mà chạy mất, nên cố ý giấu giếm được lúc nào hay lúc ấy. Ngươi nói thử xem có đúng thế không?”

Lão già nói một tràng dài đều đúng tâm sự của A Đang. Võ công của lão cao cường, nhưng quen giết người không nháy mắt, trong giang hồ ai nghe tên lão đều sợ vỡ gan vỡ mật. Chẳng ai muốn đến gần, chẳng ai dám giao hảo với lão, mà mỗi khi lão muốn thân thiết với ai, chỉ cần đối phương lộ vẻ sợ hãi hoặc chán ghét là lão hạ sát thủ ngay lập tức.

Đinh Đang hết sức khó nghĩ, trong lòng bối rối trăm chiều. Gia gia đã biết hết rồi, mình còn nói dối chỉ khiến lão giận thêm, việc này càng khó mà vãn hồi được. Còn nếu đem tên họ gia gia nói cho Thạch Phá Thiên nghe, thì mười phần hết chín là chàng kinh hãi, từ nay không dám gặp mình nữa. Một đằng nàng sợ gia gia tức giận hạ sát Thạch lang, một đằng nàng sợ Thạch lang biết được lai lịch của mình, thì mối tình hoài bão bấy lâu sẽ trôi theo dòng nước. Bất luận Thạch lang bị giết chết hay bỏ đi, thì nàng cũng đau lòng đến không sống được. Mặt Đinh Đang tái mét, ấp úng: “Gia gia! Cháu… Cháu…”

Lão già cười rộ rồi nói: “Ngươi sợ người ta coi mình không ra gì phải không? Ái chà, Đinh lão gia oai trấn giang hồ mà ngay cả cô cháu gái cũng không dám nhắc đến tên ông nội. Chẳng những ngươi có một vị gia gia như thế, đã không lấy làm vinh dự mà còn lại thấy tủi hổ ư? Ha ha! Thật là buồn cười!” Lão nói xong, cứ ôm bụng mà cười ra chiều khoái chí.

Đinh Đang đã hiểu nguy cơ tới trong khoảnh khắc. Nàng chẳng lạ gì gia gia vốn coi thứ rượu Huyền Băng Bích Hỏa Tửu quý hơn tính mạng, nàng đã ăn cắp rượu đem đi cứu tính mạng cho Thạch lang, mà lại không dám đem tên tuổi gia gia nói cho chàng biết, lão đã giận dữ đến cực điểm nên mới cười lớn như thế. Đinh Đang không làm gì được, đành nhìn Thạch Phá Thiên, nghiến răng nói: “Thiên ca! Gia gia muội ở họ Đinh.”

Thạch Phá Thiên nói: “Phải rồi! Cô nương họ Đinh thì dĩ nhiên gia gia cũng họ Đinh. Họ Đinh thật là dễ nghe.”

Đinh Đang nói: “Danh tự gia gia thượng Bất hạ Tam, ngoại hiệu của lão nhân gia là… là… Nhất Nhật Bất Quá Tam.” Nàng yên trí vừa nói ra danh hiệu Nhất nhật bất quá tam Đinh Bất Tam là Thạch Phá Thiên phải hồn xiêu phách lạc. Trong lòng nàng hoang mang đến cực điểm, cứ chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên.

Ngờ đâu Thạch Phá Thiên vẫn thản nhiên, chỉ mỉm cười nói: “Ngoại hiệu gia gia cũng thật là dễ nghe.”

Đinh Đang hết sức kinh ngạc. Nàng hoan hỉ vô cùng, nhưng vẫn không yên tâm, chỉ sợ chàng nói kiểu châm biếm, bèn hỏi lại: “Sao Thiên ca nói là dễ nghe?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Ta cũng không biết tại sao, chỉ thấy dễ nghe. Nhất Nhật Bất Quá Tam, thật là thú vị.”

Đinh Đang liếc mắt nhìn gia gia, chỉ thấy lão đắc ý vuốt râu ra vẻ vui mừng, lại đưa tay vỗ vào vai Thạch Phá Thiên một cái, nhưng lần này hoàn toàn không dùng nội lực. Lão lắc lắc đầu rồi nói: “Đời người chỉ tìm được một người tri kỷ là đủ mãn nguyện rồi. Mọi người nghe đến cái tên Nhất Nhật Bất Quá Tam, kẻ xu nịnh thì ca tụng công đức, kẻ nhát gan thì kinh hồn vỡ mật, cũng có mấy tên cuồng đồ trỏ tay vào mặt ta mà thóa mạ, chỉ một mình thằng lỏi này là giữ được vẻ thản nhiên, lại còn khen là danh hiệu ta dễ nghe. Tốt lắm! Tốt lắm! Gia gia phải thưởng cho ngươi, để nghĩ xem nên thưởng cái gì mới được.” Lão nói xong, ôm gối ngồi ngơ ngẩn xuất thần.

Xưa kia lão giết người nhiều quá, sau này đã tự mình sửa đổi bớt, đặt ra lề luật để hạn chế mình là một ngày không giết quá ba người. Nhưng một ngày ba mạng, mỗi năm cũng tới một ngàn. Không phải ngày nào lão cũng giết đủ ba người, nhưng trải qua mấy chục năm trời, con số đương nhiên không ít. Những người bị Đinh Bất Tam hạ sát thường thường chưa trông rõ mặt lão đã tắt hơi mà chết, ví dụ như hai tên đệ tử phái Tuyết Sơn là Tôn Vạn Niên và Chữ Vạn Xuân đã mất mạng về tay lão một cách không minh bạch.

Ngoại hiệu Nhất Nhật Bất Quá Tam cũng có chỗ hay, nhưng tiếc là mọi người trên giang hồ đều không thấy được mặt tốt của nó. Đinh Bất Tam thấy chàng thiếu niên Thạch Phá Thiên khi nghe danh hiệu của lão lại tỏ ra không khinh mạn, không chán ghét, mà còn thành thực vui mừng, bèn tự thấy mình được an ủi rất nhiều.

Năm nay Đinh Bất Tam đã ngoại lục tuần, thấu hiểu lòng người, hạng con nít giả vờ đóng kịch nhất định không thể qua mắt lão được. Trên đời trừ cô cháu gái Đinh Đang, không còn một người nào thực tâm yêu mến lão. Bây giờ lão được một chàng thiếu niên có ý thân thiết, lấy làm sung sướng vô cùng. Đinh Bất Tam trầm ngâm một lúc rồi nói: “Gia gia vốn có ba thứ bảo bối. Một là Huyền Băng Bích Hỏa Tửu thì con nhỏ kia đã ăn cắp cho ngươi uống hết rồi, nhưng đó là gia gia cho ngươi vay tạm thôi, sau này phải trả lại cho ta. Bảo bối thứ hai là võ công của gia gia, nếu ngươi học được thì dĩ nhiên rất có ích. Còn bảo bối thứ ba thì chắc ngươi đã biết rồi, chính là con cháu gái A Đang của ta. Trong hai bảo vật này, ngươi chỉ được chọn một. Ngươi muốn học võ công của gia gia, hay là muốn lấy A Đang?”.

Hồi 06: Vết thương

Đinh Bất Tam hỏi câu này khiến cho A Đang và Thạch Phá Thiên đều ngẩn người ra. Nhất là Đinh Đang lại càng rung động trong lòng. Nàng hoang mang nghĩ bụng: “Võ công của gia gia ít có địch thủ trên thế gian. Nếu chàng được gia gia truyền thụ thần công, thì tha hồ tung hoành trong giang hồ, oai danh lừng lẫy một đời. Chàng là bang chúa bang Trường Lạc, nghe nói bang này sắp gặp phải đại nạn ghê gớm, nếu chàng học được võ công của gia gia thì chẳng khác gì được thêm một tay viện trợ rất đắc lực. Chàng là nam tử hán đại trượng phu, tất nhiên lấy sự nghiệp làm trọng mà coi thường chuyện nhi nữ tư tình.” Đinh Đang vừa ngẫm nghĩ vừa liếc mắt nhìn trộm Thạch Phá Thiên thì thấy chàng lộ vẻ hoang mang, rõ ràng chưa định được chủ ý. Đinh Đang tưởng chừng như trái tim mình chìm hẳn xuống. Nàng lại nghĩ: “Thạch lang vốn là người phong lưu mã thượng, trong đời chẳng biết đã hẹn hò trăng gió với bao nhiêu cô gái. Nửa năm nay chàng đối với mình ra vẻ có mối tình nồng nhiệt, nhưng thật ra Đinh Đang này cũng chỉ là một đám mây bay, một làn khói tỏa mà thôi. Huống chi gia gia mình lại nổi tiếng tà ác trong võ lâm, danh tiếng bang Trường Lạc cùng Thạch Phá Thiên tuy chẳng tốt đẹp gì, nhưng còn chưa đến nỗi độc ác như gia gia. Bây giờ chàng đã biết thân thế cùng dòng họ nhà mình, thì còn thương yêu mình thế nào được?” Nàng nghĩ đến đây, trong lòng đột nhiên đau nhói, hai dòng lệ đã lăn xuống mặt.

Đinh Bất Tam thúc giục: “Nói nhanh lên! Ngươi đừng hòng tìm cách được cả hai thứ, học võ công trước rồi đòi lấy A Đang, hay ngược lại, lấy A Đang trước rồi lấy thân phận cháu rể mà xin ta dạy võ công. Cái đó chắc chắn không được. Ta cho ngươi biết, trong thiên hạ không ai có thể giở trò quỷ quái trước mặt Đinh Bất Tam này. Ngươi đã lấy thứ này thì đừng lấy thứ kia, không thì cái mạng nhỏ bé của ngươi không giữ được đâu. Ngươi mau nói nhanh lên.”

Đinh Đang thấy sự việc cấp bách, chàng chỉ cần nói một câu “Cháu muốn học võ công của gia gia” thì hạnh phúc đời mình tan biến ngay tức khắc. Nàng liền nói: “Gia gia! Để cháu nói thật với gia gia, chàng là bang chúa Thạch Phá Thiên của Trường Lạc Bang, cũng là một nhân vật có tiếng trong võ lâm.”

Đinh Bất Tam ngạc nhiên hỏi: “Cái gì? Thằng lỏi này mà là bang chúa Trường Lạc Bang ư? Ta xem chẳng giống chút nào.”

Đinh Đang đáp: “Giống, giống mà, tuổi của chàng tuy trẻ, nhưng mọi anh hùng trong Trường Lạc Bang đều rất phục chàng. Ngay như Trước thủ hồi xuân Bối đại phu võ công rất lợi hại, cũng phải nghe mệnh lệnh của chàng.”

Đinh Bất Tam nói: “Bối đại phu cũng nghe lệnh nó ư? Không thể như thế được!”

Đinh Đang nói: “Đó là sự thật, chính mắt cháu nhìn thấy, không thể là giả được. Võ công của gia gia tuy cao cường, nhưng muốn bang chúa Trường Lạc Bang học võ công của gia gia thì cái này… cái này…” Rõ ràng nàng định nói là võ công của Bối đại phu cũng không dưới gia gia, Thạch bang chúa chắc sẽ không học võ công của gia gia đâu, thôi để chàng cưới cháu cho rồi.

Đột nhiên Thạch Phá Thiên lên tiếng: “Gia gia! Đinh Đinh Đang Đang! Cả hai đều nhận lầm người rồi! Cháu không phải là Thạch Phá Thiên.”

Đinh Bất Tam hỏi: “Ngươi không phải là Thạch Phá Thiên, vậy ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Cháu không phải là Thạch bang chúa, cũng chẳng phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang. Cháu là Cẩu Tạp Chủng. Cái tên này tuy khó nghe, nhưng cháu thật sự là Cẩu Tạp Chủng.”

Đinh Bất Tam ôm bụng cười rộ, rất lâu mới nói: “Hay lắm! Ta muốn cho ngươi một bảo vật, không phải vì ngươi là bang chúa này bang chúa nọ, mà cũng không phải vì A Đang thương yêu hay không thương yêu ngươi. Chỉ vì Đinh Bất Tam này thích ngươi nên muốn tặng mà thôi. Ngươi là Cẩu Tạp Chủng cũng tốt, là Xú Bát Quái cũng tốt, mà là đồ rùa đen, là quân chó đẻ cũng tốt. Đinh Bất Tam này đã vừa lòng, thì dứt khoát ngươi phải nhận một bảo vật của ta.”

Thạch Phá Thiên hết ngó Đinh Bất Tam lại nhìn Đinh Đang. Chàng bụng bảo dạ: “Cái cô Đinh Đinh Đang Đang này cứ tưởng mình là Thiên ca của cô ấy, nhưng nhất định không bao lâu Thiên ca thật sẽ trở về. Mình mà muốn lấy cô, thì chẳng hóa ra lừa gạt cô, đồng thời lừa gạt cả Thiên ca của cô nữa. Thế nhưng nếu mình nói là không muốn lấy cô ấy mà chỉ muốn học võ công, thì làm cho cô ấy phải đau lòng. Ta chẳng lấy thứ gì là tốt nhất.” Chàng bèn lắc đầu đáp: “Gia gia! Cháu đã uống Huyền Băng Bích Hỏa Tửu của gia gia rồi, mà nhất thời cũng khó mà trả lại được. Chi bằng gia gia coi đó như là một báu vật đã cho cháu rồi, thế có phải hơn không?”

Đinh Bất Tam trầm sắc mặt xuống nói: “Không được, không được! Ta đã bảo là ngươi phải trả Huyền Băng Bích Hỏa Tửu lại cho ta. Ngươi định nuốt luôn không trả thì không được đâu. Ngươi đã chọn lựa xong chưa, lấy A Đang hay là học võ công?” Thạch Phá Thiên đưa mắt nhìn trộm Đinh Đang, không ngờ lúc ấy Đinh Đang cũng đang lén nhìn chàng. Ánh mắt hai người vừa chạm vào nhau, cả hai cùng bẽn lẽn nhìn lảng ra chỗ khác.

Đinh Đang sắc mặt lợt lạt, nước mắt lại trào ra không ngớt. Tính tình nàng vốn kiêu ngạo, bình thường thì đã đưa tay ra nắm lấy tay Thạch Phá Thiên mà lôi mà véo, hoặc đã dậm chân bỏ đi rồi. Nhưng bây giờ có gia gia trước mặt, những oai phong ngày thường đều biến hết, không sao phát huy ra được. Huống hồ trong lúc này véo tai hay dậm chân thì càng làm cho Thạch Phá Thiên dễ lựa chọn, nên nàng không dám biểu lộ ra nỗi giận hờn đau khổ của mình. Thạch Phá Thiên lại liếc Đinh Đang một cái, thấy nước mắt của nàng chảy ròng ròng thì trong lòng rất ái ngại, bèn dịu dàng nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Ta nói thật đấy, cô nhận lầm người rồi. Nếu ta đúng là Thiên ca của cô, thì phải lựa chọn làm gì nữa? Nhất định là ta sẽ lấy cô, chứ chẳng cần học võ công làm chi.”

Hai hàng lệ Đinh Đang trong veo như chuỗi hạt trân châu, vẫn từ hai khóe mắt chảy xuống không dừng. Nhưng khóe miệng nàng đã hé một nụ cười, rồi hỏi: “Huynh không phải là Thiên ca, chẳng lẽ trong thiên hạ lại còn Thiên ca thứ hai nào khác nữa sao?”

Thạch Phá Thiên chậm rãi đáp: “Chắc là ta rất giống Thiên ca của cô, vì rất giống nên mọi người mới nhìn lầm.”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Huynh còn không chịu nhận ư? Được rồi! Kể ra thì trong thiên hạ cũng có những người tướng mạo rất giống nhau. Nhưng muội hỏi huynh, hồi đầu năm nay lúc mình mới quen nhau, huynh đã nắm lấy tay của muội. Lúc đó muội chưa biết rõ huynh, liền xoay tay đánh lại. Có đúng thế không?”

Thạch Phá Thiên ngơ ngác nhìn Đinh Đang, không nói tiếng nào. Đinh Đang lộ vẻ không bằng lòng, lại hỏi tiếp: “Sau khi trọng bệnh dường như tâm thần huynh lạc mất rồi hay sao, mà cứ giả vờ ngơ ngơ ngáo ngáo như thế?”

Thạch Phá Thiên vò đầu bứt tai nói: “Rõ ràng cô nhận lầm người rồi. Ta làm sao biết được những chuyện giữa cô với Thiên ca của cô?”

Đinh Đang nói: “Huynh muốn cãi cũng không được đâu. Ngày đó hai tay muội đều bị huynh nắm lấy, trong lòng đã giận lắm rồi, còn huynh lại đưa miệng tới, định hôn vào mặt của muội. Muội vội nghiêng đầu đi tránh né, rồi cắn vào vai huynh một miếng đến máu chảy đầm đìa, huynh mới chịu buông ta ra. Huynh… huynh… thử cởi áo ra mà xem bên vai trái còn vết sẹo không. Cho dù huynh có chối là muội nhìn lầm người, nhưng vết sẹo trên vai huynh do muội cắn vào, chắc huynh không xóa đi được.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Không sai! Cô chưa cắn ta, thì đương nhiên trên vai ta cũng không có vết thương…” Chàng vừa nói vừa cởi áo để hở vai trái ra, đột nhiên người chàng run lên, bật tiếng la hoảng: “Thế này thì lạ quá.” Ba người đều trông thấy rõ ràng trên vai trái Thạch Phá Thiên có một vết sẹo do răng cắn vào, thành hai đường cong cong hợp lại thành hình cái miệng, vết sẹo lồi hẳn ra ngoài, hiển nhiên là do người cắn. Bất luận là vết thương gì khác, cũng chắc chắn không có hình dạng như vết sẹo này.

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Thằng nhãi này lại muốn chối, nhưng không chối được đâu. Ta bảo ngươi, lên núi nhiều thì chắc chắn có ngày gặp hổ. Ngươi đi đến đâu phong lưu đến đó, dĩ nhiên có ngày sẽ bị một cô gái túm được, không thể thoát thân. Gia gia lúc còn nhỏ tuổi cũng từng gặp phải chuyện này, nếu không thì trên thế gian làm sao có phụ thân của A Đang, làm sao có A Đang? Chỉ có thằng em Đinh Bất Tứ chẳng ra gì của ta suốt đời không cưới được vợ, đến già vẫn si si mê mê, nét mặt lúc nào cũng giống như con gấu chó đang khóc. Được rồi, những chuyện vặt này cũng không cần nói với ngươi làm gì. Như thế thì ngươi chọn lấy A Đang rồi phải không?”

Thạch Phá Thiên đang không hiểu gì hết, trong lòng rất lấy làm kỳ, nghĩ mãi không ra ai đã cắn vào vai mình. Nhìn vết sẹo thì rõ ràng chàng đã bị ai cắn thật đau, mà sao lại quên đi được? Chàng tự nhủ: “Mấy ngày nay mình gặp toàn những việc kỳ lạ, cũng biết là do người ta đã nhận lầm người. Chỉ có vụ này thì thật là không sao giải thích nổi.” Thạch Phá Thiên trong lòng mải suy nghĩ đến ngơ ngẩn xuất thần, nên Đinh Bất Tam hỏi thì cứ hỏi, chàng chẳng để câu nào lọt vào tai.

Đinh Bất Tam thấy Thạch Phá Thiên ngây ngô ngơ ngẩn, không nói năng gì, thì cho là thằng nhỏ này còn e lệ sượng sùng, không dám nói huỵch toẹt ra mơ ước của mình. Lão liền cười khanh khách rồi nói: “A Đang! Chống thuyền về đi thôi.”

A Đang vừa kinh ngạc vừa mừng thầm hỏi: “Gia gia! Gia gia bảo đưa cả chàng về nhà ư?”

Đinh Bất Tam đáp: “Nó là cháu rể của ta, thì sao lại không đưa về nhà? Nếu để gã chuồn thẳng một lèo thì từ nay về sau Đinh Bất Tam này còn mặt mũi nào làm người được nữa? Ngươi nói trong bang của nó có cả gã Trước thủ hồi xuân Bối đại phu, nếu thằng lỏi này cứ núp trong đó không chịu ló mặt ra, muốn bắt nó về cũng không phải là chuyện dễ dàng.” Đinh Đang liếc mắt nhìn Thạch Phá Thiên một cái rồi mỉm cười, đột nhiên mặt đỏ bừng lên. Nàng cầm cây sào tre nhẹ nhàng chống xuống nước, con thuyền chui ra khỏi gầm cầu rồi lướt đi trên sóng.

Thạch Phá Thiên muốn hỏi: “Đến nhà muội ư?” Nhưng lòng chàng bối rối nhiều mối nghi ngờ, chẳng biết nên hỏi câu nào trước. Rồi chàng rụt lưỡi vào không hỏi nữa.

Con sông nhỏ này trông tựa như một dải gấm đoạn màu xanh, ánh trăng vàng chiếu xuống mặt nước sáng lấp lánh như thêu kim tuyến. Mỗi lần Đinh Đang chống sào xuống nước đánh bõm một cái, là mặt nước lại lăn tăn gọn sóng thành những vòng tròn. Con thuyền nhỏ lướt êm ru trên làn nước bạc. Có lúc hoa cỏ hai bên bờ sông chạm vào mạn thuyền, phát ra những tiếng sột soạt như đang thầm thì kể chuyện. Những cành liễu trên bờ rủ xuống quét vào đầu Đinh Đang cùng Thạch Phá Thiên, tựa như những bàn tay mềm mại vuốt ve mái tóc hai người. Đêm khuya thanh vắng, mùi thơm êm dịu của hoa cỏ man mác ru hồn Thạch Phá Thiên vào cõi mộng.

Con thuyền nhỏ chui qua hết gầm cầu này đến gầm cầu khác theo dòng sông uốn khúc quanh co. Hồi lâu, thuyền đến bên một bến sông, bậc ghép toàn bằng đá trắng. Đinh Đang cầm dây buộc thuyền ném xuống, quấn vào một cái cọc bên bậc đá. Nàng nhìn Thạch Phá Thiên nở một nụ cười, rồi tung mình nhảy lên bến.

Đinh Bất Tam mỉm cười nói: “Hôm nay ngươi ở địa vị tân lang. Xin mời, xin mời.” Thạch Phá Thiên chẳng hiểu chi hết, cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn theo sau Đinh Đang, vào một cái cổng sơn đen rồi đi theo một con đường khá dài, rải toàn đá trứng ngỗng. Mọi người lại qua cổng tò vò, đi vào một vườn hoa, trong vườn hoa có một cái đình bát giác.

Đinh Bất Tam đi vào trong đình, mỉm cười nói: “Tân lang! Xin mời ngồi!” Thạch Phá Thiên chẳng hiểu tân lang là nghĩa gì, thấy Đinh Bất Tam bảo ngồi thì cũng ngồi xuống. Đoạn Đinh Bất Tam dắt tay cô cháu gái băng qua vườn hoa, đi mỗi lúc một xa. Lúc ấy trăng trong đã xế về tây, những bông hoa ngoài lương đình in bóng chênh chếch dài trên mặt đất. Ngọn gió hiu hiu lay động đầu cành, cái xích đu cạnh lương đình cũng đung đưa qua lại. Thạch Phá Thiên đưa tay sờ vào vết sẹo trên vai trái, cứ suy nghĩ lung tung.

Qua một hồi lâu, bỗng nghe tiếng bước chân nhè nhẹ từ ngoài tiến vào. Hai thiếu phụ trung niên đang theo lối đi cạnh những luống hoa, thoăn thoắt vào trước lương đình. Hai người nghiêng mình thi lễ, mỉm cười nói: “Xin mời tân quan nhân vào trong nội đường thay áo.”

Thạch Phá Thiên ngơ ngác không hiểu gì lắm, chỉ đoán rằng họ muốn mình đi vào trong nhà, bèn ngoan ngoãn đi theo. Ba người men theo một ao sen, rồi xuyên qua một dãy hành lang nữa mới đến một gian phòng. Trong gian phòng đã đặt sẵn một bồn nước nóng, cạnh bồn nước treo sẵn một đôi khăn bông. Một thiếu phụ cười nói: “Xin mời tân quan nhân. Lão gia bảo vì thời gian cấp bách, không kịp chuẩn bị áo mới. Tân quan nhân cứ dùng tạm lại y phục của mình cũng được.”

Hai thiếu phụ nói xong cười khúc khích, lui ra khỏi phòng khép cửa lại. Thạch Phá Thiên ngẩn người ra thầm nghĩ: “Rõ ràng mình là Cẩu Tạp Chủng, mà sao lại biến thành Thạch bang chúa Thạch Phá Thiên, bị gọi bằng Thiên ca thì cũng quen rồi. Nhưng bây giờ họ lại gọi ta là tân lang, là tân quan nhân gì gì nữa.” Sau chàng tự nhủ: “Thôi đành tới đâu hay tới đó. Xem chừng Đinh Bất Tam và Đinh Đang đối với mình cũng chẳng có vẻ gì độc ác.”

Bồn nước nóng đưa mùi thơm lên mũi. Ba bảy hai mươi mốt gì cũng mặc kệ, Thạch Phá Thiên chẳng thèm suy nghĩ nữa, cởi y phục ra ngồi vào trong bồn tắm rửa. Sau khi tắm xong, chàng cảm thấy tinh thần thoải mải dễ chịu. Thạch Phá Thiên vừa mặc quần áo xong, thì nghe có tiếng một nam nhân gọi: “Xin mời tân quan nhân lên sảnh đường làm lễ bái thiên địa.”

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi. Chàng vừa nghe ba chữ “bái thiên địa” liền hiểu ngay, cũng chợt nhớ ra ba chữ “tân quan nhân.” Thuở nhỏ mẫu thân đã kể chàng nghe chuyện tân quan nhân, tân nương tử làm lễ bái thiên địa. Thạch Phá Thiên ngẩn người ra chưa biết nói sao, thì lại nghe tiếng người bên ngoài hỏi: “Tân quan nhân đã mặc y phục xong chưa?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Xong rồi.”

Người kia đẩy cửa bước vào. Gã đeo vào cổ chàng một giải lụa đào, còn lấy một đóa hoa tết bằng nhiễu điều đính vào vạt áo trước ngực chàng. Gã cười nói: “Đại hỉ! Đại hỉ!” rồi nắm lấy tay chàng dắt ra ngoài.

Thạch Phá Thiên chân tay luống cuống, theo gã kia đi băng qua một căn phòng, ra đến đại sảnh. Trong đại sảnh có tám cây nến hồng sáng rực, ngọn lửa không ngớt lay động. Giữa nhà đặt một cỗ bàn bát tiên trải khăn hồng. Đinh Bất Tam đứng trong sảnh đường nhìn ra ngoài, vẻ mặt tươi cười.

Thạch Phá Thiên vừa bước lên sảnh đường thì ba gã nhạc công cùng lúc nổi lên đàn sáo véo von. Nam nhân vừa dắt Thạch Phá Thiên dõng dạc lên tiếng: “Xin mời tân nương tử ra sảnh đường.”

Lại nghe những tiếng xủng xoảng của ngọc kết trên một cái mũ phượng, hai thiếu phụ lúc nãy dìu một cô gái mình mặc áo gấm màu đỏ bước ra. Thạch Phá Thiên nhìn dáng điệu, biết ngay là Đinh Đang. Cả ba người đứng ở mé hữu của Thạch Phá Thiên. Ánh lửa chập chờn, xạ hương ngào ngạt, tâm thần Thạch Phá Thiên lúc này hết sức hồ đồ, vừa sợ hãi lại vừa vui mừng.

Nam nhân kia cất tiếng xướng: “Bái thiên!”

Thạch Phá Thiên thấy Đinh Đang quỳ xuống quay đầu ra cửa, còn đang ngơ ngẩn, thì nam nhân kia ghé vào tai chàng nói nhỏ: “Tân quan nhân quỳ xuống khấu đầu đi!” Đồng thời gã khẽ đẩy lưng chàng một cái.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Xem ra không lạy không được rồi.” Chàng liền quỳ xuống sì sụp lạy như tế sao. Một thiếu phụ đang dìu Đinh Đang thấy chàng lạy lấy lạy để thì không nhịn được, bật lên cười khúc khích.

Nam nhân kia lại xướng: “Bái địa!” Thạch Phá Thiên và Đinh Đang cùng xoay mình hướng vào bên trong, khấu đầu lạy xuống.

Nam nhân kia lại xướng: “Bái gia gia!” Đinh Bất Tam liền đứng ra giữa nhà, Đinh Đang phục xuống lạy ngay. Thạch Phá Thiên ngần ngừ một chút rồi cũng sụp lạy.

Nam nhân kia lại xướng: “Phu thê giao bái.” Thạch Phá Thiên thấy Đinh Đang xoay mình lại hướng vào chàng quỳ xuống, thì đột nhiên tỉnh táo lại lớn tiếng nói: “Gia gia! Đinh Đinh Đang Đang! Ta thật sự không phải là Thạch bang chúa gì gì đó, mà cũng không phải là Thiên ca của cô. Các vị đã nhận lầm người rồi. Sau này… thì đừng có trách ta.”

Đinh Bất Tam lớn tiếng cười ha hả nói: “Thằng nhãi láo khoét này, trong lúc thế này mà vẫn đùa giỡn được. Không ai trách ngươi đâu.”

Thạch Phá Thiên lại hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Ta phải hỏi trước đã, chúng ta bái thiên địa thế này là chuyện đùa hay chuyện thật đấy?”

Đinh Đang vẫn quỳ dưới đất, đầu trùm khăn hồng, đột nhiên nghe hỏi vậy liền cười đáp: “Dĩ nhiên là thật. Chuyện này làm sao có thể đùa giỡn được?”

Thạch Phá Thiên lớn tiếng nói: “Hôm nay cô đã nhận lầm người rồi. Việc này không phải tại ta, sau này cô có hối hận mà véo tai hay cắn vai ta là không được đấy.”

Mọi người trên nhà dưới nhà đều cười rộ lên. Đinh Đang không nhịn được, cũng bật cười khúc khích. Nàng khẽ bảo Thạch Phá Thiên: “Muội sẽ vĩnh viễn không hối hận. Muội chỉ mong được Thiên ca đối đãi tử tế, chẳng khi nào dám véo tai hay cắn vai Thiên ca hết.”

Đinh Bất Tam lớn tiếng nói: “Vợ véo tai chồng là chuyện tất nhiên, từ thời Bàn Cổ khai thiên lập địa cho đến đây đều phải như thế, có gì là được hay không được? Cháu rể ngoan của ta, A Đang đã quỳ trước mặt ngươi lâu như thế rồi, sao ngươi không trả lễ đi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Dạ dạ.” Rồi chàng quỳ xuống đáp lễ. Hai người làm lễ giao bái trên tấm thảm đỏ.

Nam nhân kia đọc lời chúc tụng: “Phu thê hành lễ, giao bái đã xong, đưa vào động phòng, tân lang tân nương, bách niên hòa hợp, lắm con nhiều cháu, đời đời hưng thịnh.”

Tiếng đàn sáo lại nổi lên. Một thiếu phụ cầm hai cây nến hồng đi trước dẫn đường, còn một thiếu phụ dắt tay Đinh Đang. Gã nam nhân xướng lễ dắt tay Thạch Phá Thiên. Cô dâu chú rể được quàng chung một giải lụa đào, đưa vào trong một gian phòng. Gian phòng này so với phòng của Thạch Phá Thiên ở tổng đà bang Trường Lạc thì nhỏ hơn nhiều, cách trần thiết cũng không được hoa lệ bằng. Nhưng ánh nến hồng lung linh, phía đông rủ màn điều, phía tây treo giấy đỏ, nên không khí trong phòng đầy vẻ vui tươi ấm cúng.

Mấy người dìu Thạch Phá Thiên và Đinh Đang ngồi xuống cạnh giường, cầm bình rượu đặt sẵn trên bàn rót ra hai chung, rồi đồng thanh nói: “Cung hỉ cô gia cùng tiểu thư uống rượu giao bôi.” Rồi bọn họ vừa cười khúc khích vừa đi ra khỏi phòng, đóng cửa lại.

Thạch Phá Thiên trống ngực đánh thình thình. Tuy chàng không hiểu chuyện đời lắm, nhưng cũng biết mình cùng Đinh Đang đã bái thiên địa, nên đạo vợ chồng rồi. Chàng thấy Đinh Đang ngồi nghiêm chỉnh, tấm khăn hồng phủ trên đầu vẫn để yên, người nàng không nhúc nhích. Qua một hồi lâu, Thạch Phá Thiên không biết phải nói gì, bèn lên tiếng hỏi: “Đinh Đang Đinh Đang! Trên đầu cô phủ khăn như vậy có khó chịu không?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Khó chịu lắm. Thiên ca mở giùm muội đi!” Thạch Phá Thiên đưa hai ngón tay nắm lấy một góc tấm khăn hồng, khẽ mở ra.

Dưới ánh nến hồng, Thạch Phá Thiên thấy Đinh Đang đánh phấn tô son lại càng kiều diễm. Chàng cũng vui mừng khôn tả, ngẩn người ra nhìn một lúc rồi nói: “Muội… muội thật là xinh đẹp.” Đinh Đang mỉm cười, trên má hiện rõ lúm đồng tiền, rồi nàng từ từ cúi đầu xuống.

* * *

Giữa lúc ấy, bỗng nghe ngoài phòng có tiếng Đinh Bất Tam nói lớn: “Hôm nay là ngày lành tháng tốt, lão phu làm lễ vu quy cho cháu gái. Bằng hữu phương nào quang lâm hãy xuống đây uống chén rượu mừng, xin đừng ngại gì.”

Ở trên cao có người đáp vọng xuống: “Tại hạ là Bối Hải Thạch dưới trướng Thạch bang chúa bang Trường Lạc, kính cẩn dâng lời thỉnh an lên Đinh tam gia. Đêm khuya quấy rối thật là đắc tội, mong Đinh tam gia lượng thứ cho.”

Thạch Phá Thiên khẽ nói: “Ồ! Bối tiên sinh đã đến đó.” Đinh Đang hơi nhíu mày, đặt ngón tay lên môi ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng.

Đinh Bất Tam cười khanh khách nói: “Lão phu cứ tưởng bọn tiểu tặc nào đến bắt gà trộm chó, té ra là mấy ông bạn ở bang Trường Lạc. Các vị muốn uống rượu mừng không? Xin đừng có to tiếng, làm kinh động đến cháu rể cùng cháu gái của lão phu.”

Lòi nói của Đinh Bất Tam hết sức bất lịch sự, nhưng Bối Hải Thạch lại không hề nổi giận, chỉ hắng giọng rồi đáp: “Thì ra hôm nay là ngày vu quy của thiên kim tiểu thư cháu gái Tam gia. Vậy mà huynh đệ tại hạ lỗ mãng đến đây không mang theo lễ mừng, thật là thất kính. Xin để ngày khác tới chúc đàng hoàng, khi đó sẽ uống rượu mừng sau. Hiện giờ tệ bang trước mắt có việc rất gấp, bọn tại hạ cần được ra mắt Thạch bang chúa, cảm phiền Đinh tam gia dẫn vào yết kiến, bọn tại hạ cảm kích vô cùng! Nếu không có việc gấp thì đêm hôm khuya khoắt thế này, bọn tại hạ có lớn mật đến đâu cũng không dám tới quấy nhiễu giấc ngủ của Đinh tam gia!”

Đinh Bất Tam nói: “Bối đại phu! Đại phu cũng là một cao nhân tiền bối trong võ lâm, bất tất phải khách sáo với Đinh lão tam. Đại phu nói Thạch bang chúa nào? Phải chăng là đứa cháu rể Cẩu Tạp Chủng của ta? Lão cho là các vị nhận lầm người, bất tất phải vào yết kiến nữa.”

Đi theo Bối Hải Thạch còn có tám tên cao thủ trong bang. Bọn chúng thấy Đinh Bất Tam thóa mạ bang chúa mình là Cẩu Tạp Chủng thì tức giận vô cùng, đã toan lên tiếng mắng lại. Nhưng Bối Hải Thạch đã nghe chính miệng Thạch Phá Thiên tự xưng là Cẩu Tạp Chủng, nên biết là Đinh Bất Tam không phải vô cớ nhục mạ. Nhưng bây giờ lão thấy bang chúa lại biến thành cháu rể của lão ma đầu Đinh Bất Tam này, trong lòng không khỏi lo lắng bèn nói: “Đinh tam gia! Thực tình tệ bang đang có việc khấn cấp, nhất định phải thỉnh thị bang chúa. Bang chúa của bọn tại hạ thích nói giỡn mấy câu, cũng là việc tầm thương mà thôi.”

Thạch Phá Thiên ngồi trong phòng nghe giọng nói của Bối Hải Thạch có vẻ khẩn thiết, thì nhớ ngay đến lúc mình ở trên Ma Thiên Nhai bị khốn vì hàn nhiệt công phạt, cũng may được lão ta cứu nạn. Sau này lão lại ngày đêm chăm sóc quan tâm đến mình, bây giờ thấy lão gặp việc khấn cấp phải lo âu, chàng không thể bỏ mặc được. Nghĩ vậy, chàng liền mở cửa sổ lớn tiếng gọi: “Bối tiên sinh! Ta ở chỗ này. Các vị kiếm ta phải không?”

Bối Hải Thạch cả mừng nói: “Chính phải! Thuộc hạ có việc khẩn cấp cần bẩm báo bang chúa.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta là Cẩu Tạp Chủng, chứ không phải là bang chúa gì đó của các ngươi. Nếu ngươi tìm ta thì được, chứ tìm bang chúa của các ngươi thì không phải.”

Bối Hải Thạch lộ vẻ khó chịu nói: “Bang chúa lại nói giỡn rồi. Xin bang chúa dời bước ra đây để bọn thuộc hạ được bẩm báo.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ngươi muốn ta ra đấy ư?”

Bối Hải Thạch nói: “Đúng thế!”

Đinh Đang đứng sau lưng Thạch Phá Thiên, nắm áo chàng khẽ nói: “Thiên ca! Đừng đi ra.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta ra nói cho rõ, rồi lập tức quay vào ngay.” Dứt lời, chàng chụm chân nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Chàng thấy Bối Hải Thạch đứng trên mặt tường ở hướng tây, phía sau còn có tám người đứng trên nóc nhà. Còn ở hướng đông có một người ngồi trên cành cây, chính là Đinh Bất Tam. Cành cây cứ nhịp nhàng trĩu xuống rồi lại đưa lên.

Đinh Bất Tam lên tiếng hỏi: “Bối đại phu! Các hạ muốn nói gì với cháu rể ta, lão phu muốn nghe có được không?”

Bối Hải Thạch ngập ngừng đáp: “Cái này…” Y rủa thầm: “Lão này đã là cao nhân tiền bối trong võ lâm, còn chưa biết quy luật trên chốn giang hồ ư? Ta đang đêm đến tìm bang chúa để trình việc cơ mật của bản bang, sao lại để cho người ngoài nghe được? Nghe đồn lão này tính tình cổ quái, quả nhiên danh bất hư truyền.” Y liền nói tiếp: “Việc này tại hạ không dám tự ý. Hiện có bang chúa ở đây, mọi việc xin để người định đoạt.”

Định Bất Tam nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi đem chuyện này đổ lên đầu cháu rể ta. Cẩu Tạp Chủng! Bối đại phu có chuyện nói với ngươi, ta cũng muốn nghe.”

Thạch Phá Thiên nói: “Gia gia muốn nghe thì nghe, có sao đâu?”

Đinh Bất Tam cười ha hả nói: “Cháu rể ngoan của ta thật là hiếu thuận! Bối đại phu! Có chuyện gì thì xin nói mau đi. Đêm xuân một khắc đáng giá ngàn vàng, cháu gái của ta đang động phòng hoa chúc, đại phu cứ lằng nhằng như thế, há chẳng làm phí thời gian tuyệt diệu này ư?”

Bối Hải Thạch thật không ngờ Thạch Phá Thiên lại trả lời như thế, nhưng đã lỡ lời thì khó mà vãn hồi lại được. Trong lòng lão rất khó chịu, nhưng cũng nói: “Bang chúa! Phái Tuyết Sơn có phái người đến viếng tổng đà.”

Thạch Phá Thiên chưa đáp thì Đinh Bất Tam đã nói xen vào: “Phái Tuyết Sơn có gì là hay ho đâu?”

Thạch Phá Thiên hỏi lại: “Phái Tuyết Sơn ư? Có cô nương Hoa Vạn Tử đến không?”

Trong võ lâm có đến hàng trăm hàng ngàn môn phái, nhưng Thạch Phá Thiên chỉ biết một phái Tuyết Sơn. Trong phái này cũng có cả trăm đệ tử, nhưng chàng chỉ biết một mình Hoa Vạn Tử, nên vừa mở miệng ra đã nhắc đến tên của cô ta. Tám người trong Trường Lạc Bang đi theo Bối Hải Thạch đều có công phu rất khá, cùng nghĩ: “Bang chúa của chúng ta thật là phong lưu hiếu sắc. Lão nhân gia đêm nay cưới vợ mới ở đây, thế mà vẫn không quên được cô nương mỹ miều kia ở phái Tuyết Sơn.”

Bối Hải Thạch nói: “Trong đó có cô nương Hoa Vạn Tử, lại còn những người khác nữa. Người đi đầu là Khí Hàn Tây Bắc Bạch Vạn Kiếm, thống lãnh tám chín sư đệ. Xem ra họ đều là hảo thủ của phái Tuyết Sơn.”

Đinh Bất Tam lại xen vào: “Bạch Vạn Kiếm thì có gì hay ho nào? Giả tỉ lão thất phu Bạch Tự Tại có thân hành đến thì cũng đã sao? Bối đại phu! Lão phu đã nghe nói công phu Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của ngươi thật sự không tệ, sao vừa nghe tin thằng lỏi Bạch Vạn Kiếm đến tìm đã hoang mang kinh hãi, nhặng xị cả lên?”

Bối Hải Thạch nghe Đinh Bất Tam khen ngợi môn Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của mình thì trong lòng cũng hơi đắc ý. Y nghĩ bụng: “Lão ma đầu này trước nay nổi tiếng tự phụ vô cùng, nhưng cũng còn biết đến môn Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của mình.” Rồi y mỉm cười nói: “Chút công phu nhỏ mọn của tại hạ thật chẳng đáng nhắc đến làm gì. Bang Trường Lạc của bọn tại hạ tuy là một bang phái nhỏ bé, nhưng trước nay suốt từ Ngũ Nhạc cho đến Trung Nguyên cũng chưa đến nỗi bị ai lấn áp. Tệ bang cùng phái Tuyết Sơn xưa nay vốn chưa hề giao du đi lại, thế mà Khí Hàn Tây Bắc lại đùng đùng kéo người đến đòi gặp mặt tệ bang chúa ngay lập tức, bọn tại hạ bảo chờ đến sáng mà hắn cũng không chịu. Trong vụ này tất có chuyện hiểu lầm, nên tại hạ phải xin tệ bang chúa cho chỉ thị.”

Thạch Phá Thiên nói: “Hôm qua, Hoa cô nương đã vào tổng đà, bị Trần hương chủ bắt được, nhưng sáng sớm hôm nay đã thả ra rồi. Có lẽ phái Tuyết Sơn bọn họ vì thế mà đem lòng tức giận chăng?”

Bối Hải Thạch nói: “Việc này nếu có liên quan thì cũng chút ít thôi. Thuộc hạ đã hỏi lại Trần hương chủ, thì y nói là Hoa cô nương được bang chúa đối xử rất lịch sự, một sợi tóc cũng không đụng đến, cũng không tra hỏi gì về tội tự tiện xông vào tổng đà, khi thả đi còn mời cô ấy ăn yến sào, muốn tặng tiền bạc. Thế thì bang chúa cũng đã nể mặt phái Tuyết Sơn lắm rồi còn gì nữa. Thuộc hạ nhìn thái độ Khí Hàn Tây Bắc thì sợ bên trong còn có vấn đề gì khác.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Bây giờ Bối tiên sinh muốn ta phải làm gì?”

Bối Hải Thạch đáp: “Bọn thuộc hạ phải chờ bang chúa ra hiệu lệnh. Nếu bang chúa bảo văn đối, thì bọn thuộc hạ quay về nói chuyện tử tế với họ. Còn nếu bang chúa bảo võ đối, thì bọn thuộc hạ sẽ cho họ biết đến tổng đà chúng ta thì dễ, mà ra đi thì khó, ai bảo bọn họ dám đến quấy nhiễu Trường Lạc Bang chúng ta? Nếu không, thì đích thân bang chúa quay về xem họ muốn gì rồi sẽ tùy cơ ứng biến. Phương pháp này có lẽ là hay nhất.”

Thạch Phá Thiên ở cùng phòng với Đinh Đang, tuy rất vui mừng nhưng cũng có phần sợ hãi, trong lòng vẫn không yên. Chàng không hiểu sau khi động phòng hoa chúc sẽ xảy ra chuyện gì nữa, lúc này thầm nghĩ: “Mình đã không phải là Thiên ca của cô ấy, cuộc bái thiên địa thành thân này cuối cùng cũng phải lộ tẩy thôi, khi đó mọi người đều khó xử. May mà có Bối Hải Thạch đến đây, đúng là một cơ hội tốt để ta thoát thân.”

Thạch Phá Thiên nghĩ vậy liền nói: “Thế thì để ta quay về xem thử. Nếu có chỗ hiểu lầm, ta sẽ nói rõ ràng sự thật là được rồi.” Chàng quay lại nói với Đinh Đang và Đinh Bất Tam: “Gia gia! Đinh Đinh Đang Đang! Ta phải đi đây.”

Đinh Bất Tam vò đầu nói: “Như thế không được! Bọn tiểu tử của phái Tuyết Sơn dám đến phá đám thì để ta đi dàn xếp cho cũng được. Trước đây ta đã giết hai tên đệ tử của họ, lại đã kết oán với Bạch lão nhi. Bây giờ ta có giết thêm mấy mạng nữa thì món nợ cũng chừng đó mà thôi.” Đinh Bất Tam đã giết Tôn Vạn Niên và Chử Vạn Xuân, phái Tuyết Sơn cũng thấy vụ này nhục nhã vô cùng, nên họ giữ kín không nói ra. Vợ chồng Thạch Thanh và Mẫn Nhu tuy đã được nghe việc này, nhưng không tiết lộ với ai, nên trên chốn giang hồ ít người biết đến.

Bối Hải Thạch nghe Đinh Bất Tam nói thế thì nghĩ bụng: “Thế lực phái Tuyết Sơn đang lúc hưng thịnh, chẳng những võ công sư đồ phái này đã cao cường, mà họ còn giao hảo với nhiều môn phái ở Trung Nguyên. Chúng ta cũng không nên vô cớ gây thù với họ. Sắp tới Trường Lạc bang gặp lắm chuyện phiền hà, thật sự không nên kiếm thêm rắc rối.” Y nghĩ vậy liền nói: “Bang chúa muốn đích thân quay về gặp mấy nhân vật phái Tuyết Sơn, thật không có gì tốt hơn nữa. Đinh tam gia! Những việc nhỏ mọn của tệ bang, không dám phiền đến đại giá Tam gia. Bọn tại hạ thu xếp xong vụ này, rồi sẽ quay lại tôn phủ bái yết có được không?” Bối Hải Thạch tuyệt không nhắc đến chuyện uống rượu mừng, chỉ đợi Thạch Phá Thiên về tới tổng đà là sẽ khuyên chàng bỏ ý niệm thành thân với nhà họ Đinh.

Đinh Bất Tam giận dữ nói: “Bối đại phu nói vậy là không được. Đinh mỗ đã nói đi, thì nhất định sẽ đi. Việc hôm nay của bang Trường Lạc, Đinh lão tam này nhất định phải lo liệu.”

Đinh Đang ở trong phòng nghe mọi người nói chuyện, liền đoán ngay phái Tuyết Sơn hưng binh vấn tội bang Trường Lạc cũng chỉ vì lang quân mình quen thói trăng hoa ong bướm. Chàng trông thấy Hoa Vạn Tử xinh đẹp liền hiếp đáp cô ấy, mười phần có đến tám chín là đã giở thủ đoạn cường bạo rồi. Còn chuyện Trần Hương Chủ nói những gì không đụng đến một sợi tóc, chắc cũng chỉ là giữ thể diện cho bang chúa thôi. Nếu không thì sáng hôm sau tặng tiền bạc để làm gì, lại còn mời cô ấy ăn yến sào để bồi bổ khí lực nữa.

Nàng nghĩ tới đêm nay là đêm động phòng hoa chúc, mà chồng mình chỉ nóng lòng quay về gặp Hoa Vạn Tử, bỏ mặc mình ở đây chẳng lo lắng gì. Nỗi tức đó nàng chịu làm sao nổi? Nàng nghe câu chuyện giữa gia gia và Bối Hải Thạch càng lúc càng căng thẳng, liền tung mình nhảy ra sân nói: “Gia gia! Trong bang của Thạch lang có việc, chắc chắn chàng phải quay về tổng đà, chúng ta không nên vì tư tình nhi nữ mà làm lỡ việc lớn của chàng. Bây giờ như thế này, cả hai ông cháu ta cùng theo Thạch lang quay về đó, thử xem trong phái Tuyết Sơn có những nhân vật nào định gây rối.”

Thạch Phá Thiên tuy muốn tránh chuyện động phòng với Đinh Đang cho đỡ rắc rối, nhưng cũng không muốn xa nàng. Nghe nàng nói vậy, chàng mừng rỡ vô cùng cười nói: “Hay lắm, hay lắm! Đinh Đinh Đang Đang! Nàng đi với ta, gia gia cũng đi.” Bọn Bối Hải Thạch thấy bang chúa nói vậy, không dám dị nghị điều chi nữa.

Đoàn người ra đến bờ sông, xuống một con thuyền lớn trở về tổng đà. Lúc trên thuyền, Bối Hải Thạch khẽ nói với Thạch Phá Thiên: “Bang chúa nên khuyên Đinh tam gia đừng xuất thủ sát hại người phái Tuyết Sơn mà kết thêm mối oan cừu, đó là chuyện không tốt chút nào.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Đúng vậy! Sao lại vô duyên vô cớ giết người được? Như vậy há chẳng phải là người xấu hay sao?”

* * *

Đoàn người về đến tổng đà bang Trường Lạc. Đinh Đang nói: “Thiên ca! Muội muốn vào phòng Thiên ca mà thay y phục nam nhân để đi theo Thiên ca cho tiện. Muội muốn xem nhan sắc Hoa cô nương nguyệt thẹn hoa nhường đến thế nào?”

Thạch Phá Thiên rất lấy làm hứng thú. Chàng cười hỏi: “Sao lại phải làm như thế?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Muội không muốn cô ấy biết muội là nương tử của huynh, khi nói chuyện sẽ thuận tiện hơn.”

Thạch Phá Thiên nghe nàng nói “muội là nương tử của huynh” thì vừa thẹn thùng lại vừa khoái chí, bất giác tâm thần phấn khởi. Chàng nói: “Hay lắm! Ta đưa nàng vào thay đổi y phục.”

Đinh Bất Tam nói: “Ta cũng muốn thay đổi diện mạo một chút. Ta hóa trang làm một tên tiêu đầu mục của quý bang được không?”

Bản tâm Bối Hải Thạch không muốn bọn người phái Tuyết Sơn biết Đinh Bất Tam đang ở cùng với bang Trường Lạc. Y nghe lão nói vậy thì rất hợp ý mình, liền thản nhiên đáp: “Đinh tam gia muốn thế nào cũng được, xin cứ tùy tiện.”

Hai ông cháu Đinh Bất Tam liền theo Thạch Phá Thiên tới phòng ngủ của chàng, đẩy cửa bước vào. Thị Kiếm đang ngủ chợt nghe tiếng kẹt cửa, liền la lên một tiếng, nhảy từ trên giường xuống. Cô nhìn thấy hai ông cháu Đinh Bất Tam thì rất đỗi ngạc nhiên. Thạch Phá Thiên không thể một lúc mà giải thích cho cô rõ được. Chàng chỉ nói: “Thị Kiếm tỷ tỷ! Hai vị này muốn hóa trang, tỷ tỷ giúp họ một tay đi.” Chàng sợ Thị Kiếm hỏi lôi thôi, nhất là vụ bái thiên địa không biết phải nói thế nào, liền đi thẳng ra phòng khách ở phía ngoài.

Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, Trần Xung Chi đứng ngoài sảnh đường nói: “Khải bẩm bang chúa! Các vị huynh đệ đang chờ đại giá bang chúa tại Mãnh Hổ Đường.”

Ngay lúc đó Đinh Đang cũng vén màn cửa đi ra ngoài, mỉm cười nói: “Được rồi, chúng ta đi thôi.”

Thạch Phá Thiên đột nhiên thấy trước mắt có một thiếu niên nam tử mặt đẹp như ngọc, chàng không khỏi chưng hửng. Đinh Đang mặc một bộ y phục màu xanh, đầu đội khăn nho sĩ, tay cầm quạt xếp. Tuy Thạch Phá Thiên không hiểu thế nào là phong lưu nho nhã, nhưng chàng thấy Đinh Đang cải trang thế này cũng đẹp không kém vị tân nương tử vừa rồi.

Còn Đinh Bất Tam mặc áo ngắn bằng vải thô, trên mặt cũng tô vẽ sơ sơ, chân đi giày gai. Vai bên trái lão độn cao hơn vai bên phải, đi bước cao bước thấp như người què, trông thật khó coi. Thạch Phá Thiên vừa nhìn thấy, cơ hồ không nhận ra. Một lúc sau chàng mới cười ha hả nói: “Gia gia! Điệu bộ gia gia thay đổi hẳn rồi.”

Trần Xung Chi khẽ hỏi: “Bang chúa! Bang chúa có cần giắt binh khí không?”

Thạch Phá Thiên trố mắt ra hỏi lại: “Giắt binh khí gì? Sao lại phải giắt binh khí?”

Trần Xung Chi tưởng chàng cho là mình hỏi khinh dễ, vội “Dạ dạ!” mấy tiếng rồi đi trước dẫn đường.

Bốn người đi tới Mãnh Hổ Đường. Trần Xung Chi vừa đẩy cửa ra, mấy chục người trong sảnh đường lật đật đứng dậy đồng thanh nói: “Xin tham kiến bang chúa.” Thạch Phá Thiên cũng không ngờ sảnh đường này lại rộng đến thế, chứa được rất đông người, chàng giật mình kinh hãi. Khi thấy mọi người khom lưng thi lễ, chàng không biết đáp lễ thế nào mà cũng không hiểu nói sao cho phải, chỉ đứng thộn mặt ra trước cửa, bất giác chân tay luống cuống.

Xung quanh sảnh đường chỗ nào cũng đặt đèn nến sáng trưng. Mấy chục hán tử cao có thấp có chia ra đứng hai bên, chính giữa đặt một chiếc ghế bành da hổ. Không khí trong đại sảnh rất oai nghiêm. Trước nay Thạch Phá Thiên chưa từng trông thấy cảnh tượng thế này bao giờ, đúng là rụt rè như một gã nhà quê, không dám thở mạnh, mắt nhìn chăm chăm Bối Hải Thạch để cầu viện, chỉ mong ông ta bảo cho mình cách ứng phó như thế nào.

Bối Hải Thạch vội bước đến bên cửa đỡ tay Thạch Phá Thiên, khẽ nói: “Bang chúa! Chúng ta an tọa trước đã, rồi sẽ mời những bằng hữu phái Tuyết Sơn vào sau.” Thạch Phá Thiên đương nhiên là để Bối Hải Thạch chủ trì mọi việc. Y đưa chàng vào cạnh cái ghế bành da hổ rồi khẽ bảo: “Mời bang chúa ngồi.”

Thạch Phá Thiên ngơ ngác hỏi: “Ta ngồi… ngồi ở đây ư?” Trong lòng chàng hồi hộp khôn tả, mắt chàng bất giác nhìn vào Đinh Đang. Chàng không tự chủ được, tựa như khẩn cầu nàng dắt tay mình ra khỏi nhà đại sảnh, trốn đi một nơi thâm sơn cùng cốc nào thật xa, không quay lại chỗ này nữa.

Đinh Đang nhìn chàng mỉm cười. Thạch Phá Thiên nhận thấy trong cặp mắt nàng tha thiết đầy tình ý, tựa như bảo mình: “Thiên ca đừng sợ! Muội ở ngay cạnh huynh, huynh có việc gì khó khăn, muội cũng có thể giúp đỡ được hết.” Chàng liền thấy tinh thần phấn khởi, trong lòng vừa cảm kích vừa được an ủi, bèn ngồi xuống chiếc ghế da hổ. Thạch Phá Thiên ngồi xuống, Đinh Bất Tam cùng Đinh Đang đứng ở phía sau, còn mấy chục hán tử trong sảnh đường đều theo thứ tự mà ngồi.

Bối Hải Thạch lên tiếng: “Các vị huynh đệ! Những ngày vừa qua bang chúa lâm trọng bệnh, may mà người lành được hoàng thiên bảo hộ, nay đã bình phục. Tuy nhiên tinh thần lão nhân gia chưa được hoàn toàn sáng suốt như cũ, lẽ ra cần được nghỉ ngơi mấy ngày nữa mới có thể đích thân lo liệu công việc trong bang. Không ngờ mấy bằng hữu phái Tuyết Sơn lại đòi gặp bang chúa cho bằng được, hình như họ tưởng bang chúa bệnh không dậy được nữa. Nhưng nội công bang chúa rất thâm hậu, một chút bệnh tật sao có thể làm khó được lão nhân gia? Thưa bang chúa, bây giờ chúng ta mời các bằng hữu phái Tuyết Sơn vào được chưa?”

Thạch Phá Thiên chỉ ậm ừ một cách mơ hồ, không nói rõ là được hay không được. Bối Hải Thạch nói: “Bây giờ chúng ta xếp đặt chỗ ngồi. Các vị huynh đệ bên hướng tây hãy chuyển sang hướng đông mà ngồi.” Mọi người vâng lời, di chuyển hết sang hướng đông. Còn hướng tây đặt một hàng chín chiếc ghế. Bối Hải Thạch lại nói: “Mễ Hương chủ! Hương chủ ra mời khách vào hội kiến cùng bang chúa.”

Mễ Hoành Dã vâng lời trở gót đi ra. Chẳng bao lâu, ngoài sảnh đường đã nghe tiếng chân người xào xạc. Bốn tên đệ tử mở cửa lớn ra. Mễ Hoành Dã nghiêng mình, dõng dạc nói: “Khải bẩm bang chúa! Các vị bằng hữu phái Tuyết Sơn đã tới.”

Bối Hải Thạch nhỏ nhẹ nói: “Chúng ta ra ngoài nghênh tiếp.” Rồi y khẽ kéo tay áo Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên hỏi: “Phải ra đó ư?” Chàng chần chừ một chút rồi đứng lên, theo Bối Hải Thạch ra cửa sảnh đường.

Lúc này chín người phái Tuyết Sơn đang tiến tới, tất cả đều mặc áo màu trắng. Người đi đầu tướng mạo hiên ngang, thân hình khôi vĩ, tuổi trạc tứ tuần, sắc mặt tuấn tú nhưng có vẻ tinh ranh. Hắn đi đến còn cách Thạch Phá Thiên khoảng một trượng thì đột nhiên dừng lại, cặp mắt nhìn thẳng vào Thạch Phá Thiên, chiếu ra những tia sắc bén tựa hồ xuyên thấu gan ruột chàng. Thạch Phá Thiên nở một nụ cười ngớ ngẩn, coi như là đã chào hỏi.

Bối Hải Thạch nói: “Khải bẩm bang chúa! Vị này là Bạch đại ca Khí Hàn Tây Bắc Bạch Vạn Kiếm oai danh vang dội miền Tây, kiếm pháp thiên hạ vô song, trong võ lâm chẳng ai là không biết tiếng.”

Thạch Phá Thiên khẽ gật đầu, lại mỉm cười một cách khờ khạo. Chàng bỗng nhìn thấy người đi sau cùng bên phái Tuyết Sơn là Hoa Vạn Tử, liền cười nói: “Hoa cô nương! Cô nương lại đến đây rồi?” Câu này vừa thốt ra, cả chín người phái Tuyết Sơn đều biến sắc. Hoa Vạn Tử cảm thấy bối rối, chỉ hứ một tiếng rồi quay đầu đi.

Bạch Vạn Kiếm là con cả của Uy đức tiên sinh Bạch Tự Tại, chưởng môn phái Tuyết Sơn. Bọn sư huynh đệ phái này đều dùng chữ “Vạn” để làm chữ đệm. Bạch Tự Tại lấy làm đắc ý được đứa con như hắn nên mới đặt tên là Bạch Vạn Kiếm, đủ biết kiếm pháp của hắn chắc chắn phải cao hơn sư huynh đệ. Hắn cùng với Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý được gọi chung là Tuyết Sơn Song Kiệt, thật sự có oai danh rất lớn trong võ lâm. Phen này nếu không phải đích thân hắn đến, Bối Hải Thạch chắc chắn đã không phải giữa đêm tìm đến nhà Đinh Bất Tam để mời Thạch Phá Thiên về.

Bạch Vạn Kiếm ngồi ngoài phòng khách, đợi Thạch Phá Thiên đã hơn hai giờ đồng hồ, trong lòng đã rất giận dữ. Một bình trà cứ chế rồi lại uống, uống hết lại chế tiếp, đến nỗi chỉ còn là nước lọc, không còn chút vị trà nào. Thật không dễ dàng gì mới vào được Mãnh Hổ Đường, thế mà bang chúa vẫn ngồi trên ghế, dáng vẻ rất là kiêu ngạo. Bối Hải Thạch đã báo danh của họ Bạch, thế mà bang chúa hoàn toàn không nói mấy câu khách sáo như ngưỡng mộ đã lâu gì gì, vừa mở miệng đã chào hỏi với Hoa sư muội trước.

Bạch Vạn Kiếm tức giận muốn vỡ cả ngực. Hắn lập tức nghĩ ngay: “Mấy ngày nay chúng ta đã thăm dò bốn phía, ai cũng nói Thạch bang chúa của Trường Lạc Bang tham dâm hiếu sắc, hết tám phần mười đúng là gã tiểu tử đó rồi. Gã coi mình chẳng vào đâu, mà lại ra vẻ ân cần với sư muội. Ở chốn đại sảnh đông người thế này mà gã còn lả lơi như vậy, lúc Hoa sư muội bị giam vào trong ngục tối thì không biết đến thế nào nữa.”

Bạch Vạn Kiếm là một nhân vật nổi tiếng anh hùng, không muốn lập tức phẫn nộ. Hắn chỉ đảo cặp mắt lạnh lùng nhìn Thạch Phá Thiên, miệng không nói gì, nhưng nét mặt lộ vẻ rất khó chịu.

Thạch Phá Thiên đột nhiên lại hỏi: “Hoa cô nương! Chỗ đùi cô nương bị kiếm đâm nay đã khỏi chưa? Còn đau lắm không?” Câu hỏi này khiến mặt Hoa Vạn Tử đỏ bừng lên, còn tám người kia đều nắm lấy chuôi kiếm.

Bối Hải Thạch thấy cục diện đi đến chỗ khẩn trương vội nói: “Các vị bằng hữu ở xa đến, xin mời ngồi. Gần đây tệ bang chúa trong người khó ở, lẽ ra không thể tiếp khách, nhưng vì nể mặt các vị nên mới gắng gượng ra đây tương kiến. Làm phiền các vị phải đợi lâu, bọn tại hạ thật áy náy vô cùng.”

Bạch Vạn Kiếm hắng giọng một tiếng rồi sải bước lại chỗ đầu hàng ghế hướng Tây ngồi xuống. Cảnh Vạn Chung ngồi ghế thứ hai, tiếp theo là Kha Vạn Quân, Vương Vạn Nhận… Hoa Vạn Tử ngồi ở sau cùng. Mọi người trong bang Trường Lạc đều mỉm cười đắc ý, nghĩ bụng: “Bang chúa vừa mở miệng đã lấn át được các ngươi rồi. Lão nhân gia chỉ quan tâm đến cái đùi của sư muội các ngươi, thử xem Khí Hàn Tây Bắc có làm gì được không?”

Bối Hải Thạch đưa Thạch Phá Thiên trở về chỗ ngồi, rồi gia nhân bưng trà lại. Bối Hải Thạch chắp tay nói: “Tệ bang từ trên xuống dưới đều rất ngưỡng mộ oai danh phái Tuyết Sơn, từ Uy Đức Tiên Sinh, Tuyết Sơn Song Kiệt đến hết thảy các vị bằng hữu. Chỉ hiềm tệ bang ở vào miền Giang Nam hẻo lánh nên khó bề thân cận. Hôm nay Bạch đại ca cùng các vị bằng hữu đã đến đây, tệ bang trên dưới đều được gặp những anh hùng ở Tuyết Sơn miền tây bắc, thật là tam sinh hữu hạnh.”

Bạch Vạn Kiếm chắp tay đáp lễ nói: “Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của Trước thủ hồi xuân Bối đại phu nổi tiếng thiên hạ vô song, tại hạ ngưỡng mộ vô cùng. Các vị bằng hữu quý bang đều là anh tài nổi tiếng, bọn tại hạ tuy chưa được gặp, nhưng nghe danh đã lâu.”

Hắn chỉ nói mấy câu xã giao với bọn môn đồ bang Trường Lạc, tuyệt không đề cập đến Thạch Phá Thiên. Bối Hải Thạch vờ như không biết, khiêm nhượng nói: “Không dám! Không dám! Chẳng hiểu các vị đến Trấn Giang đã mấy hôm rồi? Đã ghé qua Kim Sơn, Chiêu Sơn chưa? Hôm nào để tệ bang chúa làm chủ nhân thết đãi các vị tại một tửu điếm trong thị trấn, rồi cùng tham quan phong cảnh vùng Trấn Giang này.” Lão kéo dài câu chuyện xã giao, không hỏi gì đến bọn đệ tử phái Tuyết Sơn tới đây có việc gì.

Bạch Vạn Kiếm không nhẫn nại được nữa, liền dõng dạc hỏi: “Trên chốn giang hồ, người ta đồn đại võ công Thạch bang chúa cao thâm khôn lường. Không hiểu võ công của bang chúa thuộc môn phái nào?”

Câu hỏi vừa thốt ra, hết thảy bang Trường Lạc từ trên xuống dưới đều chau mày nghĩ “Từ trước đến giờ, bang chúa không hề nói tới võ công của mình là thuộc môn phái nào. Cứ thỉnh thoảng lại có người nói mấy câu nịnh bợ, nhưng lão nhân gia chỉ mỉm cười chứ không trả lời. Bối tiên sinh thì nói người vốn là sư điệt của Tư Không bang chúa, nhưng võ công lại chẳng giống chút nào. Không biết lúc này người có chịu nói hay không?”

Thạch Phá Thiên ấp úng nói: “Cái đó… cái đó… các hạ muốn hỏi võ công của ta ư? Ta… ta không biết chút xíu võ công nào.”

Bạch vạn Kiếm nghe vậy, nếu trước đây trong lòng còn chút nghi ngờ nào thì cũng mất hẳn. Hắn hừ một tiếng, rồi cười lạnh nói: “Trong Trường Lạc Bang vô số hiền tài, nếu Thạch bang chúa thật sự không hiểu rõ võ công thì làm chủ quần hùng thế nào được? Bang chúa nói vậy thì chỉ gạt được con nít mà thôi. Xem ra Thạch bang chúa xấu hổ không dám nói ra lai lịch sư thừa của chính mình, không biết là do duyên cớ gì?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Các hạ bảo ta lừa gạt con nít ư? Ai là con nít? Đinh Đinh Đang Đang… cô ấy cũng không phải là con nít, mà ta cũng không lừa gạt cô ấy. Ta cũng đã nói rõ cho nàng hay ta không phải là Thiên ca của nàng.” Tuy miệng chàng nói chuyện Thạch Vạn Kiếm, mà mũi chàng vẫn ngửi thấy mùi thơm từ người Đinh Đang đứng sau lưng tiết ra, trong lòng còn mải để ý đến nàng.

Bạch Vạn Kiếm chẳng biết Thạch Phá Thiên nói Đinh Đinh Đang Đang gì gì đó nghĩa là sao, lại cho là chàng quỷ quyệt cố ý đặt chuyện nói bừa, nên sắc mặt trầm hẳn xuống nói: “Thạch bang chúa! Chúng ta cứ nói thẳng ra đi! Bang chúa đã học võ công ở thành Lăng Tiêu, e rằng chưa quên hết được đâu.” Bạch Vạn Kiếm nói câu này, khiến cho quần hào bang Trường Lạc không khỏi thay đổi sắc mặt. Mọi người đều biết thành Lăng Tiêu ở Tây Vực là địa phương của phái Tuyết Sơn. Theo lời Bạch Vạn Kiếm thì Thạch bang chúa đã từng học võ công phái Tuyết Sơn, bọn họ rầm rộ kéo đến đây, chẳng lẽ vì việc có liên quan đến môn phái ư?

Thạch Phá Thiên mơ màng hỏi: “Thành Lăng Tiêu là gì? Ở đâu? Tại hạ chưa học võ công chi hết. Nếu đã học thì khi nào lại quên hết được?” Mấy câu này, ngay cả quần hào Trường Lạc Bang cùng Bối Hải Thạch nghe cũng không lọt tai. Đã là người võ lâm còn ai không biết cái tên thành Lăng Tiêu? Thạch Phá Thiên là bang chúa Trường Lạc mà lại nói là không biết đến thành này, lại chưa học võ công, thì rõ ràng là dối trá, không khỏi tự làm mất thể diện mình. Có người lại nghĩ, chắc chắn bang chúa nói như thế là còn có thâm ý khác.

Bọn Bạch Vạn Kiếm nghe mấy câu này lại cho là chàng có ý khinh nhờn, coi phái Tuyết Sơn chẳng vào đâu, mới sổ toẹt ba chữ “Lăng Tiêu Thành” như vậy. Vương Vạn Nhận nhịn không nổi lớn tiếng nói: “Thạch bang chúa nói như thế thật là mục hạ vô nhân. Trong mắt Thạch Bang chúa thì đệ tử phái Tuyết Sơn không đáng một đồng ư.”

Thạch Phá Thiên thấy sắc mặt họ Vương giận dữ thì nghĩ chắc là mình đã nói sai gì đó, nên vội vàng nói chữa: “Không phải, không phải! Sao ta lại có thể nói phái Tuyết Sơn không đáng giá đồng nào? Hình như… hình như… hình như…” Trước kia chàng ở với Tạ Yên Khách tại Ma Thiên Nhai, thỉnh thoảng có theo lão đến những thị trấn nhỏ để mua gạo muối, cũng biết cái gì càng đáng nhiều tiền thì càng quý, càng tốt.

Lúc này chàng chỉ muốn nói mấy câu lấy lòng để Vương Vạn Nhận nguôi giận, nhưng chỉ nói luôn ba tiếng “hình như” rồi ấp úng không nói được nữa.

Trong bọn này, chàng đã gặp Cảnh Vạn Chung, Kha Vạn Quân, Vương Vạn Nhận tại Hầu Giám Tập, nhưng chàng nhớ mặt mà không biết tên, chỉ có mình Hoa Vạn Tử là tương đối quen hơn cả. Trong lúc bối rối, chàng liền nói tiếp: “Hình như Hoa Vạn Tử cô nương đáng tiền, rất đáng tiền, phải rất nhiều tiền bạc mới mua được.”

Nghe vù một tiếng, chín người phái Tuyết Sơn nghe Thạch Phá Thiên nói câu này đều đứng phắt dậy, tiếp theo là ánh sáng xanh lè lóe lên, tám thanh trường kiếm tuốt ra khỏi vỏ. Trừ Bạch Vạn Kiếm ra, còn tám người chống kiếm đứng thành hình bán nguyệt, bao vây phía trước Thạch Phá Thiên. Vương Vạn Nhận trỏ tay vào mặt Thạch Phá Thiên thóa mạ: “Họ Thạch kia! Ngươi nói ra toàn những lời ô uế, thật là khinh người quá lắm! Bọn Tuyết Sơn đệ tử chúng ta tuy đã dấn thân vào nơi đầm rồng hang cọp, nhưng thà chết chứ không nuốt nổi cái giận này.”

Thạch Phá Thiên thấy bọn họ nổi giận bừng bừng lại càng chẳng hiểu gì, nghĩ bụng: “Rõ ràng mình nói những câu tử tế, mà sao bọn họ lại nổi cơn thịnh nộ?” Chàng quay lại hỏi Đinh Đang: “Đinh Đinh Đang Đang! Ta đã nói sai gì rồi ư?”

Đinh Đang nghe trượng phu của mình sỉ nhục Hoa Vạn Tử, biết chàng hoàn toàn không để cô nương đẹp đẽ đó vào lòng thì hết sức vui mừng. Nghe chàng hỏi, nàng che miệng cười đáp: “Muội cũng không biết. Hoặc giả Hoa cô nương không đáng tiền lắm cũng chưa biết chừng.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Cho dù Hoa cô nương có là vật tầm thường rẻ rúng, không đáng đồng tiền bát gạo, nhưng ta nói vậy thì họ cũng không nên tức giận mới phải.”

Thạch Phá Thiên vừa thốt câu này, quần hào bang Trường Lạc nổi lên cười rộ, tin chắc bang chúa nói vậy là muốn khiêu chiến với bọn phái Tuyết Sơn một phen. Có người lên tiếng nói: “Đắt tiền thì ta mua không nổi, chứ rẻ thì… Ha ha!… ta cũng cố xem thử…”

Một luồng thanh quang bỗng lóe lên, tiếp theo là một tiếng choang.

Thì ra Vương Vạn Nhận điên tiết lên, vung kiếm đâm vào ngực Thạch Phá Thiên, nhưng Bạch Vạn Kiếm thuận tay rút trường kiếm trên lưng nhè nhẹ gạt ra. Cổ tay Vương Vạn Nhận tê chồn, suýt nữa đánh rơi cả kiếm, nên nhát kiếm đó không phóng ra được.

Bạch Vạn Kiếm quát lên: “Con người này đối với bọn ta có mối thù sâu tựa biển, đâu có thể chỉ đâm một kiếm mà lấy mạng được?” Hắn nói xong, tra kiếm vào vỏ rồi trầm giọng hỏi: “Thạch bang chúa! Ngươi có nhận ra ta hay không?”

Thạch Phá Thiên gật đầu đáp: “Ta có biết ông. Ông là Khí Hàn Tây Bắc Bạch đại hiệp Bạch Vạn Kiếm ở phái Tuyết Sơn.”

Bạch Vạn Kiếm hỏi: “Hay lắm! Những việc ngươi đã làm, ngươi có dám nhận hay không?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Việc của ta đã làm, đương nhiên là nhận.”

Bạch Vạn Kiếm lại hỏi: “Hay lắm!

Thế thì ta hỏi ngươi, lúc ở thành Lăng Tiêu ngươi tên là gì?”

Thạch Phá Thiên gãi gãi đầu nói: “Ta ở thành Lăng Tiêu ư? Ta ở thành Lăng Tiêu hồi nào nhỉ? À phải rồi! Năm ấy ta xuống núi đi kiếm mẫu thân và con A Hoàng, đã qua nhiều thị trấn nhỏ, nhưng ta cũng không biết tên gì, trong đó có một nơi gọi là thành Lăng Tiêu cũng không chừng.”

Bạch Vạn Kiếm sắc mặt lạnh nhạt, nói từng chữ, từng chữ: “Ngươi đừng giả ngây giả dại, nói hươu nói vượn nữa. Tên thực của ngươi không phải là Thạch Phá Thiên.”

Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Đúng rồi, đúng rồi! Ta vốn không phải là Thạch Phá Thiên, mọi người đều nhận lầm ta hết. Rốt cuộc chỉ có Bạch đại hiệp nhận ra, biết ta không phải là Thạch Phá Thiên.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Vậy tên họ ngươi là gì, nói ra để mọi người nghe!”

Vương Vạn Nhận quát lớn: “Nó mà có tên họ quái gì? Hay là… Cẩu Tạp Chủng?”

Câu này vừa nói ra, đến lượt quần hào của bang Trường Lạc đứng dậy quát mắng om sòm. Mười mấy người tuốt gươm ra. Vương Vạn Nhận không kể đến chuyện sống chết nữa. Gã định bụng: “Mình đã mắng được gã là đồ Chó Lộn Giống thì dù có bị loạn đao phân thây, Vương mỗ quyết chẳng chau mày.”

Nào ngờ Thạch Phá Thiên cười ha hả, vỗ tay nói: “Đúng! Đúng rồi! Ta vốn tên gọi là Cẩu Tạp Chủng. Sao ngươi lại biết?”

Thạch Phá Thiên nói câu này, mọi người đều không hiểu, ngơ ngác nhìn nhau. Chỉ trừ Bối Hải Thạch, Đinh Bất Tam, Đinh Đang đã được nghe chính miệng chàng tự xưng là Cẩu Tạp Chủng nên không ngạc nhiên lắm, còn hết thảy đều kinh ngạc. Bạch Vạn Kiếm bụng bảo dạ: “Thằng lỏi này quả nhiên là đại gian đại ác, thật sự có chỗ hơn người, ngay cả nhục mạ nó mà nó cũng chịu được. Vậy đối với nó mình phải cực kỳ thận trọng, không thể coi nhẹ chỗ nào.”

Vương Vạn Nhận ngửa mặt lên trời cười ha hả rồi bảo Thạch Phá Thiên: “Té ra ngươi quả là Cẩu Tạp Chủng. Ha ha! Thật đáng buồn cười…”

Thạch Phá Thiên nói: “Tên ta là Cẩu Tạp Chủng thì có chi là đáng cười? Cái tên này tuy không đẹp, nhưng nếu như trước kia má má ngươi kêu ngươi là Cẩu Tạp Chủng, thì tên ngươi cũng là Cẩu Tạp Chủng chứ sao?”

Vương Vạn Nhận tức giận quát lên: “Không được ăn nói càn rỡ.” Dứt lời, gã vung trường kiếm lên quét ra một chiêu Phi Sa Tẩu Thạch, vận nội kình vào lưỡi kiếm. Kiếm quang lấp loáng nhằm trước ngực Thạch Phá Thiên đâm tới.

Bạch Vạn Kiếm có ý muốn xem những năm gần đây Thạch Phá Thiên đã học được võ công kỳ dị như thế nào, mà tuổi còn nhỏ như vậy đã làm bang chúa, khiến cho quần hào phải phục tùng. Hắn lên tiếng: “Vương sư đệ! Không được lỗ mãng!” Tuy hắn vờ lạng người đi toan ngăn trở, nhưng thật ra là để cho Vương Vạn Nhận từ bên cạnh mình chạy qua, cả người lẫn kiếm lao thẳng vào Thạch Phá Thiên.

Tuy Thạch Phá Thiên đã luyện được nội công thượng thừa, nhưng về chiêu thức động thủ với đối phương thì hoàn toàn chưa học. Chàng thấy làn kiếm quang của Vương Vạn Nhận vọt tới trước ngực cực kỳ hiểm ác, mà không biết né tránh cách nào, cũng không biết ra chiêu đỡ gạt. Trong lúc chân tay cuống quýt, bất giác chàng vung tay ra một cái. Chàng đang mặc trường bào, hai tay áo dài lê thê phất ra trúng vào thanh trường kiếm của Vương Vạn Nhận.

Bỗng nghe những tiếng lách cách vang lên rồi vù một cái, Vương Vạn Nhận đột nhiên vọt ngược ra sau, người gã đập vào cánh cửa đánh “bình” một tiếng. Sau khi chín người bọn sư huynh sư đệ phái Tuyết Sơn vào trong Mãnh Hổ Đường, bang chúng bang Trường Lạc án ngữ ngoài cửa lớn bèn dùng những cây trụ gỗ chặn bên ngoài cửa, để phòng khi hai bên xảy ra chuyện xích mích gây gổ mà đi đến chỗ động thủ thì tiện bề bắt giữ đối phương. Cánh cửa lớn của Mãnh Hổ Đường làm bằng gỗ cẩm lai rất kiên cố, lại đóng đai sắt, đinh đồng. Sau khi lưng Vương Vạn Nhận đập vào cửa, lại tiếp liền hai tiếng sột sột, hai khúc kiếm gãy xuyên vào vai gã. Thì ra hai tay áo Thạch Phá Thiên phát ra kình lực cực kỳ mãnh liệt, chẳng những đập gãy thanh trường kiếm của Vương Vạn Nhận làm hai đoạn, mà sức chấn động còn làm gãy luôn cả hai cánh tay gã.

Vương Vạn Nhận bị luồng kình phong của Thạch Phá Thiên xô ra đè ép đến mức cơ hồ nghẹt thở. Gã đã bị gãy tay không tự chủ được, lại còn bị hai đoạn kiếm gãy đâm vào, thân thể liền nhũn ra ngã lăn xuống đất. Ở vết thương trên vai, máu tươi cũng dần dần chảy ra. Chỉ trong chớp mắt, vạt trường bào màu trắng đã thấm máu đỏ lòm.

Kha Vạn Quân cùng Hoa Vạn Tử hấp tấp chạy lại, một người để tay lên sờ mũi Vương Vạn Nhận, còn một người bắt mạch ở cổ tay gã. May mà nội lực Thạch Phá Thiên tuy mãnh liệt, nhưng chàng chưa biết cách vận dụng để phát huy nên Vương Vạn Nhận chỉ bị ngoại thương, không đến nỗi trí mạng.

Một chiêu này của Thạch Phá Thiên cố nhiên làm cho bọn đệ tử phái Tuyết Sơn vừa tức giận vừa kinh hãi, còn quần hào bang Trường Lạc thì vui sướng như mở cờ trong bụng, nhưng không khỏi có phần kinh dị. Quần hào vốn cũng biết võ công bang chúa không khá lắm, sở dĩ để y làm chủ chỉ vì y chịu đứng ra để gánh vác hoạn nạn, cam chịu hy sinh mình để cứu sinh mạng cho trên dưới toàn bang. Thêm vào đó, Bối Hải Thạch dùng toàn lực giúp đỡ Thạch bang chúa nên mọi người lại càng vì nể. Thật ra, phần lớn quần hào chỉ sợ võ công của Bối Hải Thạch, không ngờ nội lực của Thạch bang chúa lại lợi hại đến thế. Còn Bối Hải Thạch thì ngấm ngầm gật đầu, trong lòng vừa lo sợ lại vừa hoan hỉ.

Bạch Vạn Kiếm cười lạnh nói: “Thạch bang chúa! Chúng ta đã là người võ lâm thì phải coi trọng vai vế lớn nhỏ. Kẻ phạm thượng làm loạn kỷ cương, thì bất cứ ai cũng có quyền tru diệt. Người đời thường nói: Nhất nhật vi sư chung thân vi phụ, người làm thầy một ngày thì phải coi như cha suốt đời. Ngươi đã là môn đồ học võ nghệ phái Tuyết Sơn, thì Vương sư đệ hay dở gì cũng vào hàng sư thúc ngươi. Thế mà ngươi dám hạ độc thủ tàn nhẫn như vậy với sư thúc thì còn ra nghĩa lý gì nữa? Khắp giang hồ không ai qua khỏi được hai chữ đạo lý. Dù võ công của ngươi có cao cường đến đâu cũng không thể xóa sạch được đạo tôn ti cùng nghĩa sư môn.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói gì, ta chẳng hiểu chi hết. Ta đã học võ nghệ phái Tuyết Sơn các ngươi từ bao giờ?”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Đến lúc này mà ngươi còn chưa chịu thừa nhận, lại còn tự xưng là Cẩu Tạp Chủng. Ha ha! Ngươi cam chịu là phường hạ lưu bỉ ổi thì chẳng nói làm gì, nhưng song thân ngươi là những bậc anh hùng có tiếng trên giang hồ, ngươi không sợ làm ô danh của cha mẹ ngươi ư? Ngươi không nhìn nhận sư phụ, chẳng lẽ lại không nhìn nhận luôn cả cha mẹ nữa hay sao?”

Thạch Phá Thiên cả mừng nói: “Ngươi quen biết gia gia cùng má má của ta ư? Thế thì còn gì hay bằng? Bạch đại hiệp! Xin đại hiệp nói cho ta biết má má ta hiện giờ ở đâu? Gia gia ta là ai?” Chàng nói xong đứng lên vái dài một cái, vẻ mặt cực kỳ thành khẩn.

Bạch Vạn Kiếm rất đỗi ngạc nhiên. Hắn không hiểu chàng giả vờ như vậy là có dụng ý gì, bèn xoay chuyển ý nghĩ rất nhanh: “Tên này đại gian đại ác, không thể lấy lý lẽ thông thường mà đo bụng dạ gã được. Gã vì muốn bưng bít thân phận của mình, cả cha mẹ cũng không nhận. Mà gã tự xưng là Cẩu Tạp Chủng, thì đương nhiên đã không để cả tổ tông cha mẹ trong lòng rồi.” Nghĩ vậy, trong lòng hắn cực kỳ cảm khái, buông một tiếng thở dài rồi nói: “Một nhân tài hiếm có như vậy mà không chịu học lấy điều hay, thật vừa đáng hận vừa đáng thương.”

Thạch Phá Thiên kinh hãi hỏi: “Bạch đại hiệp! Đại hiệp nói gì mà đáng giận và đáng thương? Hay là gia gia cùng má má ta làm sao rồi?” Giọng nói chàng tỏ ra vô cùng quan thiết.

Bạch Vạn Kiếm thấy chàng có vẻ chân tình chứ không phải giả vờ, bèn nói: “Nếu ngươi còn có tấm lòng lo lắng đối với gia gia má má, thì cũng chưa đến nỗi mất hết thiên lương. Gia gia và má má ngươi đều là những bậc anh hùng kiếm pháp thông thần, hai vợ chồng cùng dắt tay nhau bôn tẩu giang hồ, thì còn hung hiểm gì nữa?”

Quần hào của Trường Lạc bang nhìn nhau ngơ ngác nghĩ thầm: “Chúng ta hoàn toàn không biết lai lịch và thân phận bang chúa, thì ra cha mẹ của bang chúa là những nhân vật có danh tiếng trên giang hồ. Được Bạch Vạn Kiếm khen là anh hùng kiếm pháp thông thần, trong võ lâm những đôi vợ chồng xứng với sáu chữ này thật không có mấy, không hiểu là ai?”

Bối Hải Thạch lập tức suy đoán: “Chẳng lẽ bang chúa là con của Huyền Tố Song Kiếm ư? Chuyện này… chuyện này phiền phức lắm đây.”

Lúc này Vương Vạn Nhận đã được Hoa Vạn Tử và Kha Vạn Quân săn sóc, dần dần thở được đều đặn trở lại. Gã bật lên tiếng rên rỉ, thở dài sườn sượt. Thạch Phá Thiên nghe tiếng rên của hắn có vẻ rất đau khổ, cũng tỏ vẻ quan tâm hỏi: “Không hiểu tại sao vị đại ca này đột nhiên bay vọt ra, dường như đụng vào cửa mà bị thương rồi. Bối tiên sinh! Tiên sinh xem thử thương thế của y có nặng lắm không.”

Chàng hỏi câu này thực ra là vì lòng tốt, quan tâm đến Vương Vạn Nhận, nhưng người nghe thì ai cũng phải hiểu là chàng có ý mỉa mai châm biếm. Quần hào bang Trường Lạc có đến phân nửa rộ lên cười ha hả. Có người nói: “Thương thế của ông bạn này nói là nặng thì không nặng, nhưng nói là nhẹ thì sợ rằng cũng không phải.” Có người lại nói: “Những tay cao thủ phái Tuyết Sơn hùng hùng hổ hổ nửa đêm đến đây sinh sự, ta cứ tưởng họ có tuyệt nghệ kinh người. Ha ha! Quả nhiên ghê gớm, đúng là danh bất hư truyền!”

Bạch Vạn Kiếm lờ đi như không nghe gì, dõng dạc lên tiếng: “Thạch bang chúa! Hôm nay chúng ta đến đây là có việc với riêng bang chúa, còn với các bằng hữu khác thì chẳng có liên quan gì. Đệ tử phái Tuyết Sơn không muốn mồm năm miệng mười tranh hơi với ai. Thạch Trung Ngọc! Ta hỏi ngươi một câu, rốt cuộc thì ngươi có nhìn nhận hay không?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi lại: “Thạch Trung Ngọc ư? Ai là Thạch Trung Ngọc? Ngươi muốn ta nhìn nhận chuyện gì?”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Sư phụ ngươi là Phong Hỏa Thần Long Phong sư huynh, đã vì hành động tàn ác đê hèn của ngươi mà bị chặt một tay. Phong sư huynh đối với ngươi ơn nặng như núi, thế mà trong lòng ngươi hoàn toàn không hối hận chút nào hay sao?” Hắn nói mấy câu này hết sức thành khẩn, chỉ mong kích động được lương tâm của đối phương trỗi dậy, đem lòng hối Thạch Phá Thiên nghe mấy câu này lại càng chẳng hiểu chi hết. Chàng hỏi lại: “Phong Hỏa Thần Long Phong sư huynh là ai? Sao lại vì những chuyện tàn ác đê hèn của ta mà bị chặt một tay? Ta… ta đã làm những chuyện tàn ác đê hèn gì?”

Bạch Vạn Kiếm thấy chàng không chịu nhìn nhận chuyện gì, đã nổi giận. Hắn lại nghĩ tới chuyện Thạch Trung Ngọc toan hiếp đáp con gái mình, vụ này lộ ra khiến cho cô không chịu được nhục nhã, phải nhảy xuống khe núi tự sát một cách cực kỳ thê thảm. Nghe “soạt” một tiếng, Bạch Vạn Kiếm rút kiếm ra khỏi vỏ, rung tay một cái, rồi lại tra kiếm vào vỏ đánh “cách” một tiếng. Hắn chỉ lên cột nhà, dõng dạc tuyên bố: “Các vị bằng hữu! Kiếm pháp phái Tuyết Sơn chúng ta tuy thấp kém, không đáng làm trò cười cho các vị, nhưng từ ngày sáng lập bốn phái tổ sư đã truyền huấn dụ, nếu xuất thủ mà không may đả thương đối thương, thì phải lưu lại hình Tuyết hoa lục lăng này. Vì thế bản phái mới có tên là Tuyết Sơn.”

Mọi người nghe Bạch Vạn Kiếm nói vậy liền để mắt nhìn lên cột nhà, thì quả nhiên trên cây cột sơn son đã có sáu vết kiếm, mỗi vết đều vạch hình Tuyết hoa. Sáu vết xếp thành hình lục lăng trông rất ngay ngắn. Ai cũng thấy Bach Vạn Kiếm rút kiếm ra rồi tra lại vào vỏ chỉ trong nháy mắt. Ngờ đâu trong chớp nhoáng hắn đã kịp rung động cổ tay vạch sáu vết kiếm trên cột, quả là tuyệt nghệ trên đời ít ai bì kịp. Mọi người thấy Vương Vạn Nhận bị kình lực của Thạch Phá Thiên hất vọt ra sau, đã coi phái Tuyết Sơn không bằng nửa con mắt. Nhưng bây giờ họ thấy kiếm pháp của Bạch Vạn Kiếm đã đến chỗ tinh diệu phi thường, đa số chưa được mắt thấy tai nghe tuyệt nghệ độc đáo này. Có người im lặng kính cẩn, có người lớn tiếng khen ngợi.

Bạch Vạn Kiếm ôm quyền nói: “Các vị bằng hữu! Ở đây có không biết bao nhiêu vị kiếm pháp còn cao hơn Bạch mỗ. Bạch mỗ thật sự không dám múa rìu qua mắt thợ, đến tổng đà của quý bang để làm bừa. Chỉ vì có một điều Bạch mỗ xin quý vị hiểu cho, bảy năm trước đây tệ phái có một tên đệ tử chẳng ra gì tên là Thạch Trung Ngọc. Gã cả gan làm điều càn rỡ, dám động thủ tỉ đấu với Liêu sư thúc của tại hạ. Liêu sư thúc vì muốn dạy dỗ gã, đã đâm sáu kiếm bên đùi trái của gã, mỗi nhát kiếm đều thành đóa tuyết hoa lục lăng. Kiếm pháp của bản phái tuy bình thường chẳng có chi kỳ dị, nhưng khắp thiên hạ không có kiếm pháp thứ hai nào để lại vết thương như thế.” Nói đến đây, hắn quay lại nhìn Thạch Phá Thiên, nghiêm nghị nói: “Thạch Trung Ngọc! Ngươi toan lừa bịp mọi người, không dám bộc lộ thân thế của mình. Nếu ngươi có lòng thành thật thì vén ống quần bên trái lên, để các vị bằng hữu ở đây xem thử trên đùi của ngươi có những dấu vết đó hay không. Là thật hay giả, chỉ nhìn là biết ngay.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Bạch đại hiệp muốn ta vén ống quần lên cho mọi người xem ư?”

Bạch Vạn Kiếm đáp: “Đúng thế! Nếu trên đùi ngươi không có vết thương như thế, thì Bạch mỗ có mắt không tròng, vô duyên vô cớ đến quý bang quấy nhiễu, dĩ nhiên phải dập đầu quỳ lạy trước bang chúa để tạ tội. Nhưng nếu trên đùi bang chúa quả có vết thương đó, thế thì… thế thì… làm sao?”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Nếu trên đùi ta quả có sáu vết kiếm này, thì thật là chuyện lạ. Sao chính ta lại không hay biết chi hết?”

Bạch Vạn Kiếm nhìn chằm chặp vào mặt Thạch Phá Thiên. Hắn thấy chàng nói ra vẻ tự tin, lại nghĩ thầm: “Gã này chắc chắn là thằng lỏi Thạch Trung Ngọc rồi. Vì cách biệt mấy năm nên tướng mạo biến đổi, cử chỉ thái độ cũng có khác trước, nhưng khuôn mặt thì nhất định không sai. Hoa sư muội ngấm ngầm lẻn vào quan sát, lúc trở về cũng quả quyết là đúng gã. Chẳng lẽ bọn mình đều mờ mắt rồi cả hay sao?”

Bạch Vạn Kiếm còn trầm ngâm chưa biết nói gì, thì Trần Xung Chi mỉm cười lên tiếng: “Bạch đại hiệp muốn xem vết thương ở đùi của bang chúa ta, bang chúa ta lại muốn xem vết thương ở đùi của Hoa cô nương. Trước mặt đông người nơi đây, để lộ thân thể thì có chỗ không tiện. Chi bằng để hai người bọn họ đưa nhau vào nội thất, để có thể nhìn nhau, xem xét tỉ mỉ.” Hắn nói xong lại nhìn quanh một cái, quần hào Trường Lạc Bang đều ôm bụng cười vang động cả đại sảnh.

Bạch Vạn Kiếm nghe Trần Xung Chi mở lời trêu chọc thì hết sức giận dữ, nhưng chỉ mắng thầm: “Thật là vô sỉ.” Hắn xoay người một cái đã đứng giữa đại sảnh, hét lên: “Thạch Trung Ngọc! Ngươi có tật giật mình, không chịu để lộ vết thương ở đùi. Vậy ngươi hãy theo ta đến thành Lăng Tiêu để làm rõ chuyện này.” Soạt một tiếng, hắn rút trường kiếm ra cầm ở tay.

Thạch Phá Thiên nói: “Bạch đại hiệp hà tất phải tức giận. Đại hiệp nói là đùi ta có vết sẹo, mà ta nói là không có. Vậy các vị cứ xem thử là được, có gì quan trọng đâu.” Chàng nói xong, đưa chân trái đạp lên thành ghế có trải da cọp, rồi vén ống quần lên để lộ da thịt ra.

Trong đại sảnh im phăng phắc, rồi đột nhiên chẳng ai bảo ai, mọi người cùng à lên một tiếng. Trên đùi bên trái Thạch Phá Thiên quả nhiên có sáu vết thương xếp thành hình lục lăng. Tuy những vết thương trên đùi không được rõ rệt như khắc trên cột, nhưng hình lục lăng thì ai cũng nhìn thấy rất rõ ràng. Người kinh ngạc nhất chính là Thạch Phá Thiên. Chàng đưa tay xoa mạnh một cái mà sáu vết thương vẫn còn y nguyên, quả nhiên không phải là giả mạo. Chàng dụi mắt nhìn kỹ lại, vẫn thấy sáu vết thương trên đùi mình giống hệt sáu vết kiếm trên cột.

Mười tám con mắt của chín người phái Tuyết Sơn lạnh nhạt nhìn Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên buông ống quần xuống. Mồ hôi trên trán chàng nhỏ từng giọt. Chàng lại sờ lên vai, miệng lẩm bẩm: “Trên vai, trên chân ta đều có vết thương, sao người ngoài thì biết, còn ta… bản thân ta lại chẳng biết gì cả. Chẳng lẽ… chẳng lẽ những việc ngày trước mình quên hết cả rồi hay sao?”

Chàng đưa mắt nhìn Bối Hải Thạch, thì lão chầm chậm lắc đầu. Chàng quay lại nhìn Đinh Đang, thì nàng nhăn mày nhăn mũi làm bộ ngoáo ộp dọa chàng một cái. Chàng lại nhìn Đinh Bất Tam, thì lão giơ tay áo bên trái lên che, rồi lấy ngón tay giữa và ngón tay trỏ bên phải hướng về phía trước, có ý ra hiệu bảo chàng động thủ giết người.

Hồi 07: Tuyết Sơn kiếm pháp

Giữa lúc ấy Trần Xung Chi cầm một thanh trường kiếm, hai tay đưa lên trước mặt Thạch Phá Thiên. Gã khẽ nói: “Bang chúa! Bất tất phải nhiều lời với chúng nữa, cứ dùng võ lực mà nói chuyện, thắng là đúng mà bại là sai.” Thì ra họ Trần thấy Bạch Vạn Kiếm tuy kiếm pháp tinh xảo, nhưng về võ công cao cường hay nội lực thâm hậu thì nhất định không thể bằng bang chúa mình được, nên nghĩ thầm: “Bây giờ bằng chứng đã rõ ràng, dù có biện bác gì cũng vô ích, chỉ còn cách dụng võ. Giả tỉ bang chúa không địch nổi hắn thì bang Trường Lạc người nhiều thế mạnh, dư sức đánh cho đối phương không còn manh giáp mà về.”

Thạch Phá Thiên thuận tay nhận lấy thanh trường kiếm, trong lòng vẫn mơ hồ chưa nghĩ được gì.

Bạch Vạn Kiếm nghiêm nghị nói: “Thạch Trung Ngọc! Nghe ta nói đây. Ta vâng lệnh chưởng môn bản phái là Uy Đức Tiên Sinh, hôm nay phải thanh trừ môn hộ. Đây là việc riêng của phái Tuyết Sơn, hoàn toàn không can dự gì đến người khác, nếu động thủ ngay tại tổng đà bang Trường Lạc thì có điều không tiện. Chúng ta ra ngoài để kết liễu có được hay không?”

Thạch Phá Thiên vẫn mơ hồ hỏi lại: “Kết liễu… kết liễu cái gì?”

Đinh Đang đẩy nhẹ vai chàng một cái, khẽ bảo: “Cứ đánh nhau với hắn đi. Võ công Thiên ca cao hơn hắn nhiều, chỉ một nhát là giết được.”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Ta… ta không giết hắn. Sao lại giết hắn được? Bạch đại hiệp không phải là người xấu.” Chàng vừa nói vừa tiến về phía trước.

Bạch Vạn Kiếm vừa thấy chàng vẫy tay áo một cái đã làm Vương Vạn Nhận bị trọng thương, trong lòng nghĩ: “Sau khi thằng lỏi này rời khỏi thành Lăng Tiêu, không hiểu đã gặp những chuyện kỳ ngộ như thế nào mà luyện thành nội công thâm hậu như thế, võ công dĩ nhiên cũng có chỗ khác thường. Ta không thể sơ xuất được.” Hắn rung tay một cái, xuất chiêu Mai Tuyết Tranh Kiếm hư mà là thực, thực mà là hư. Đồng thời hắn sử dụng cả lưỡi kiếm và mũi kiếm, mũi kiếm như đóa tuyết hoa còn lưỡi kiếm tựa cành mai, bốn phương tám hướng tấn công vào Thạch Phá Thiên.

Chỉ trong chớp nhoáng, Thạch Phá Thiên thấy trước mặt toàn là kiếm quang trắng xóa mịt mù, chẳng phân biệt được đâu là lưỡi kiếm đâu là mũi kiếm nữa. Trong lúc hoảng hốt, chàng lại vung tay áo loạn lên, trong người tuy có nội lực thâm hậu vô song mà lại không biết vận dụng. Vừa rồi chàng hất được Vương Vạn Nhận ra xa mấy trượng chỉ là gặp may mà thôi. Bây giờ chàng cũng phất tay áo loạn xạ nhưng một là nội lực không phát huy được mãnh liệt, hai là võ công Bạch Vạn Kiếm cao hơn Vương Vạn Nhận nhiều.

Những tiếng roạc roạc vang lên, hai cánh tay áo Thạch Phá Thiên đã bị lưỡi kiếm của Bạch Vạn Kiếm cắt rơi xuống đất. Sau đó Thạch Phá Thiên lại cảm thấy cổ họng mình mát lạnh, đã bị mũi kiếm của đối phương dí vào.

Bạch Vạn Kiếm biết bên đối phương rất nhiều cao thủ, võ công của Bối Hải Thạch chắc chắn không dưới mình, mà đứng sau Thạch Phá Thiên còn một ông lão mắt lộ thần quang, cũng là một nhân vật rất lợi hại. Người vào hiểm địa, khi nào đã nắm được thời cơ còn để sểnh mất? Hắn vừa ra một chiêu thắng thế, lập tức tiến lên hai bước, vòng tay trái một cái cắp được ngang nách Thạch Phá Thiên, vận lực của cánh tay ép vào hai huyệt đạo ở trên lưng của Thạch Phá Thiên, rồi quát lớn: “Các vị bằng hữu! Hôm nay Bạch mỗ đắc tội với các vị, sau này sẽ có ngày đến tạ lỗi.”

Kha Vạn Quân thấy sư huynh đắc thủ, không chờ hiệu lệnh, lập tức cõng ngay Vương Vạn Nhận xông ra cửa lớn. Trần Xung Chi và Mễ Hoành Dã vung đao kiếm ra quát lên: “Thả ngay bang chúa ra!” Thanh đơn đao nhằm chém vào vai, còn kiếm quét vào dưới hông Bạch Vạn Kiếm.

Bạch Vạn Kiếm rung tay một cái. Nghe hai tiếng choang choang, thanh trường kiếm của hắn đã gạt cả đao và kiếm ra hầu như cùng một lúc. Nhưng trong lòng hắn cũng ngấm ngầm kinh hãi, vì đã bị nội lực của đối phương chấn động phải lùi lại một bước. Bạch Vạn Kiếm xoay chuyển ý nghĩ rất mau, bụng bảo dạ: “Võ công hai gã này cũng rất cao thâm. Nếu bọn chúng đồng thời tiến lên, thì chúng ta chắc chắn phải mất mạng hết ở đây.” Hắn vọt người một cái đã nhảy vọt lên đầu tường, rồi quát lớn: “Nếu có ai nhảy lên, thì tại hạ phải bóp chết thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này trước, rồi sẽ đấu với quý vị sau.”

Quần hào bang Trường Lạc không ngờ võ công bang chúa mình cao thâm là thế, mà chỉ một chiêu đã bị đối phương bắt được. Mọi người đều chưa có chủ ý gì. Đinh Đang lộ vẻ cực kỳ nóng nảy, kéo tay ra hiệu yêu cầu gia gia động thủ. Đinh Bất Tam vẫn mỉm cười, nghĩ thầm: “Thằng lỏi này võ công rất cao, vừa rồi ở trên thuyền, nó đỡ phát chưởng của ta nhẹ nhàng hết sức. Có lý đâu nó lại bị bắt dễ dàng như vậy, chắc là đang có thâm ý gì đây. Nếu ta vội vàng ra mặt, chỉ sợ làm hỏng mất mưu đồ của gã. Chi bằng ta ngấm ngầm theo dõi xem sao rồi sẽ tính.” Đinh Đang thấy gia gia vẫn mỉm cười không lộ vẻ gì cấp bách, thì chắc lão đã có chủ ý, nhưng thấy lang quân đã lọt vào tay địch thủ thì trong lòng nàng vẫn chưa hết lo lắng.

Lúc này Kha Vạn Quân đã đặt hai bàn tay vào cổng, đang vận kình lực đẩy ra. Những cây cột cổng đang kêu lên cót két. Bối Hải Thạch thấy Kha Vạn Quân sắp xô đổ cổng, vội nghiêng người nhảy ra nói: “Kha bằng hữu bất tất phải nóng nảy, để tại hạ kêu người mở cổng tiễn khách.”

Hoa Vạn Tử quát: “Lùi lại ngay!” Nàng vung kiếm che đỡ sau lưng Kha Vạn Quân. Bối Hải Thạch đưa tay chụp xuống lưỡi kiếm của nàng. Hoa Vạn Tử giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Chẳng lẽ bàn tay lão này không sợ đao kiếm hay sao?” Nàng ngần ngừ mất một chút, tay Bối Hải Thạch đã sắp đụng đến lưỡi kiếm. Không ngờ còn cách chừng vài tấc, đột nhiên lão cong ngón tay lại búng ra.

Nghe một tiếng “keng”, thanh trường kiếm tuột khỏi tay nàng rơi xuống đất. Bối Hải Thạch lại đưa tay phải ra, vỗ vào vai nàng một chưởng.

Hai động tác này chỉ trong nháy mắt, lão biến chiêu cũng thần tốc chẳng kém gì Bạch Vạn Kiếm khắc sáu đóa kiếm hoa trên cột. Đinh Bất Tam gật gật đầu nghĩ bụng: “Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng của Bối đại phu lừng lẫy võ lâm, quả nhiên là một bản lãnh phi thường.”

Chỉ thấy Bối Hải Thạch nhẹ nhàng lạng người từ tả sang hữu, bên này lão búng một chỉ, bên kia lão phóng một chưởng. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn lần lượt lăn xuống đất, mỗi người chống cự được với Bối Hải Thạch nhiều lắm ba chiêu là bị lão đánh ngã.

Bạch Vạn Kiếm la lên: “Tuyệt diệu! Công phu Ngũ Hành Lục Hợp Chưởng thật là tuyệt diệu! Hôm khác Bạch mỗ sẽ đến lãnh giáo.” Đột nhiên hắn tung người vọt lên. Nghe mấy tiếng răng rắc, nóc nhà bị phá thủng ra, hắn cắp Thạch Phá Thiên bay ra ngoài.

Bối Hải Thạch la lên: “Sao không lãnh giáo ngay bây giờ?” Rồi lão cũng nhảy lên theo, bỗng thấy trên đầu hào quang lóe mắt, tựa hồ hàng muôn ngàn đóa tuyết hoa đang rơi xuống. Bối Hải Thạch người đang lơ lửng trên không, tay chẳng có binh khí, trong lúc hốt hoảng cũng khó mà chống đỡ. Lão lập tức thi triển phép Thiên Cân Trụy hạ mình xuống. Chiêu này trông thì bình thường chẳng có chi là lạ, nhưng trong nháy mắt lão đã đột ngột đổi được thế nhảy vọt lên thành thế hạ mình xuống, chỉ cần chậm đi chút xíu là bị lưỡi kiếm đả thương. Những tay cao thủ trong nhà đại sảnh đều nổi tiếng hoan hô. Nhưng Bạch Vạn Kiếm đã nhân lúc này cắp Thạch Phá Thiên chạy đi rồi. Bối Hải Thạch lại nhún chân một cái, vọt qua lỗ thủng mái nhà rượt theo.

Đinh Đang lo lắng vô cùng. Nàng cũng tung mình toan vọt qua lỗ thủng trên nóc nhà. Đinh Bất Tam vội nắm lấy tay nàng nói: “Đừng gấp.”

Lúc này những tiếng “binh binh, chát chát” vang lên không ngớt, những viên ngói trên nóc nhà quanh lỗ thủng rớt xuống tới tấp. Trong tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn đang nằm la liệt dưới đất, đột nhiên có một thân hình nhỏ bé vọt lên, nhanh như vượn, khéo như mèo, theo lỗ thủng nóc nhà bay ra ngoài.

Trần Xung Chi xoay đao lại chém roạt một tiếng. Thanh đao hớt đứt một miếng đế giày của người nhảy lên, chỉ thiếu một tấc là chặt được chân hắn. Quần hào hết thảy đều kinh ngạc, chẳng ai ngờ trong phái Tuyết Sơn ngoài Bạch Vạn Kiếm ra còn tay cao thủ như vậy. Gã đã bị Bối Hải Thạch điểm huyệt rồi, mà vận khí tự giải khai được để chạy thoát thân. Mễ Hoàng Dã sợ bảy người kia lại trốn nữa, liền điểm thêm mỗi người mấy chỉ.

Lúc này trong bang Trường Lạc đã có mười mấy người cầm binh khí vọt qua lỗ thủng trên nóc nhà, chia mấy ngả rượt theo. Ai cũng nghĩ rằng: “Để người ta đến tận nhà ăn hiếp, bắt bang chúa đem đi, nếu không đoạt về được thì từ nay bản bang làm gì còn đất đứng trên chốn giang hồ nữa? Tuy có bắt được bảy tên địch, nhưng dù bắt bảy mươi hay bảy trăm tên cũng không rửa được cái nhục để bang chúa bị bắt.” Có người lại nghĩ: “Chỉ cần cầm chân được gã họ Bạch mấy chiêu để các huynh đệ kéo đến là cứu được bang chúa, đó là kỳ công rất lớn.” Ai nấy đều gắng sức chia ngả truy tầm.

Lúc này tiếng còi hiệu vang khắp bốn mặt, người bang Trường Lạc đuổi theo mỗi lúc một nhiều.

* * *

Bạch Vạn Kiếm chỉ một chiêu đã bắt được Thạch Phá Thiên, chính hắn cũng thấy khó mà tin được. Sau khi hắn chui qua nóc nhà ra thoát, miệng vẫn lẩm bẩm: “Thật là xấu hổ!”, cho đây là một chuyện may mắn phi thường. Tuy hắn đã thủ thắng nhất thời, nhưng nếu bang Trường Lạc kéo hết ra, thì khó mà chạy xa được.

Hắn đưa mắt nhìn quanh, thấy ở hướng Tây có một cây cầu vồng bắc qua sông, không kịp nghĩ gì thêm, lập tức chạy đến nhảy xuống gầm cầu. Tay trái hắn vẫn ôm Thạch Phá Thiên, tay phải đưa trường kiếm lên, lách mũi kiếm vào khe hai phiến đá ở trụ cầu, chịu lấy sức nặng hai người.

Một lát sau, Bạch Vạn Kiếm nghe tiếng quần hào bang Trường Lạc từ bờ sông hướng Nam đã chạy đến, bảy tám người chạy qua cầu sang hướng Bắc sông. Hắn đã định bụng, nếu mình bị lộ hình tích thì phải giết thằng lỏi này trước. Bên tai hắn nghe tiếng bang chúng bang Trường Lạc tìm kiếm dọc theo bờ sông, đột nhiên trong một bụi cỏ rậm bên sông nổi lên tiếng sột soạt, một người chạy vọt về hướng đông. Bạch Vạn Kiếm nghe tiếng chân người này, nhận ra đó là sư đệ Uông Vạn Dực, trong bụng mừng thầm.

Uông Vạn Dực là tay khinh công cao nhất trong phái Tuyết Sơn, chạy nhanh như bay. Hành động này của hắn hiển nhiên là kế điệu hổ ly sơn, cố ý dụ truy binh đuổi theo đường khác để Bạch Vạn Kiếm có cơ thoát hiểm. Quả nhiên quần hào bang Trường Lạc cứ theo tiếng bước chân gã mà đuổi. Bạch Vạn Kiếm lại nghĩ: “Ở trong Trường Lạc Bang không ít người kiến thức cao minh, đâu thể cứ sơ hở mãi để mình ung dung đi thoát?”

Bạch Vạn Kiếm còn đang ngần ngừ chưa biết làm thế nào, bỗng nghe có tiếng mái chèo khua trên mặt nước. Ba chiếc thuyền từ phía đông đi lại, hai thuyền đựng đầy rau cải, còn một thuyền thì chứa đầy rơm. Những thuyền này là của người ở thôn quê chở hàng đi đến thành Trấn Giang bán. Ba con thuyền nối đuôi nhau chui qua gầm cầu, Bạch Vạn Kiếm cả mừng, chờ chiếc thuyền sau cùng đi qua sát bên mình mới buông người nhảy xuống. Hắn cùng Thạch Phá Thiên rơi lên trên đống rơm. Rơm trong thuyền rất dày, nên hai người hạ xuống êm ru không phát ra một tiếng động, cả người ở trên thuyền cũng không hề phát giác. Bạch Vạn Kiếm kéo Thạch Phá Thiên trầm mình xuống, cùng chui vào giữa đống rơm.

Mấy chiếc thuyền này đi thẳng tới bến chợ thì đậu lại, bọn phu thuyền lên một quán trà ngồi ăn uống. Bạch Vạn Kiếm từ trong đống rơm thò đầu ra, thấy trong thuyền không có ai, liền kẹp Thạch Phá Thiên nhảy lên bờ. Hắn thấy một chiếc thuyền có mui đang neo ở hướng Tây, liền nhảy lên đầu thuyền, lấy ra một đỉnh bạc nặng khoảng ba lạng ném cho người trên thuyền rồi nói: “Thuyền gia! Ông bạn của ta đột nhiên bị bệnh nặng, mau mau đưa chúng ta đến Dương Châu. Thỏi bạc này là tiền thuê thuyền, không cần thối lại.” Thuyền gia trông thấy đỉnh bạc thì mừng rỡ vô cùng, liền nhổ sào đẩy thuyền đi ngay. Con thuyền đi quanh co một lúc, rồi vào sông Vân Hà đi về phía Bắc.

Bạch Vạn Kiếm nấp trong khoang thuyền. Hắn biết rằng thế lực bang Trường Lạc ở đây rất lớn, chỉ để lộ phong thanh một chút là quần hùng lập tức đuổi tới nơi, nên không dám lên tiếng, chỉ ngấm ngầm suy tính: “Ta may mắn mà bắt được thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này, nhưng bảy vị sư đệ sư muội cũng bị giữ tại bang Trường Lạc. Làm thế nào để cứu bọn họ ra khỏi chỗ hiểm nghèo đây?” Trong lòng hắn nửa mừng nửa lo, lại còn sợ Thạch Phá Thiên đang giả vờ. Cứ sau thời gian uống cạn tuần trà, Bạch Vạn Kiếm lại đưa ngón tay ra điểm thêm mấy huyệt đạo trên người chàng.

Lúc thuyền vào sông Trường Giang, Thạch Phá Thiên đã bị điểm đến tám chín huyệt đạo trong người. Bạch Vạn Kiếm nói: “Thuyền gia! Ngươi cứ cho thuyền đi xuôi dòng, ta thưởng thêm năm lạng bạc.”

Thuyền gia cả mừng nói: “Đa tạ khách quan thưởng hậu. Có điều con thuyền nhỏ của tiểu nhân khó mà chống nổi với sóng gió giữa sông Trường Giang, phải đi gần bờ mới miễn cưỡng xuôi dòng được.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Vậy thì cứ theo ven bờ hướng Nam mà xuôi dòng, lại càng hay.” Thuyền đi được hơn hai chục dặm, Bạch Vạn Kiếm thấy trên bờ có một tòa cổ miếu tường vàng, liền đứng lên đầu thuyền huýt một tiếng sáo. Trong miếu lập tức có tiếng còi đáp lại. Bạch Vạn Kiếm bảo chủ thuyền: “Áp thuyền vào bờ.” Thuyền gia áp mạn cắm sào, chưa kịp bắc cầu thì Bạch Vạn Kiếm đã cắp Thạch Phá Thiên tung người nhảy lên bờ rồi.

Bạch Vạn Kiếm vừa nhảy lên bờ thì trong miếu có mười mấy người vừa hô hoán vừa chạy tới. Thì ra đây là toán đệ tử tiếp ứng của phái Tuyết Sơn. Mọi người thấy Bạch Vạn Kiếm cắp một thanh niên mặc áo gấm liền hỏi: “Bạch sư ca! Người này là…”

Bạch Vạn Kiếm thả Thạch Phá Thiên rơi xuống đất, tức giận nói: “Các vị sư đệ! Tiểu huynh may mà đắc thủ, cuối cùng cũng bắt được thằng lỏi tội lỗi đầy đầu này. Chẳng lẽ các sư đệ không nhận ra nó ư?”

Mọi người nhìn kỹ lại Thạch Phá Thiên, thì thấy nét mặt chàng cũng hao hao giống như gã thiếu niên Thạch Trung Ngọc ngày trước đã ở thành Lăng Tiêu trốn đi. Ai cũng tức giận, người thì phóng chân đá, kẻ lại nhổ nước miếng vào mặt chàng. Một gã đệ tử lớn tuổi nói: “Các vị huynh đệ, đừng đánh gã bị thương. Bạch sư ca mã đáo thành công, thật đáng chúc mừng!”

Bạch Vạn Kiếm lắc đầu nói: “Tuy bắt được thằng lỏi này, nhưng bảy vị sư đệ sư muội lại bị giam bên địch, thật là cái được không bằng cái mất.” Mọi người vừa nói chuyện vừa đi vào trong tòa miếu nhỏ. Hai đệ tử phái Tuyết Sơn cũng khiêng Thạch Phá Thiên vào. Đây là một miếu thờ thổ địa đã bỏ hoang phế lâu ngày, trong miếu không có sư vãi chi hết. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn thấy nơi này vắng vẻ không bị quấy nhiễu, liền chọn làm nơi liên lạc và nghỉ chân.

Bạch Vạn Kiếm đi vào trong miếu, bảo bọn sư đệ dọn bữa cho ăn trước, rồi sẽ thương nghị hành động kế tiếp. Tuy gọi là thương nghị, nhưng thực ra Bạch Vạn Kiếm đã sắp sẵn kế hoạch rồi. Hắn nói câu nào, bọn sư đệ cũng không dám dị nghị. Bạch Vạn Kiếm nói: “Chúng ta phải nhanh chóng đưa thằng lỏi này về thành Lăng Tiêu ngay, để giao cho chưởng môn xử lý. Bảy vị sư đệ sư muội tuy bị hãm bên địch, nhưng tính mạng không có gì đáng phải lo. Dĩ nhiên bọn bang Trường Lạc phải nghĩ bang chúa của chúng còn trong tay ta, nhất định không dám làm khó dễ họ. Trương sư đệ, Vương sư đệ, Triệu sư đệ! Ba ngươi là người phương nam, nên ở lại thành Trấn Giang, hóa trang đi dò la tin tức. Cũng may các ngươi không đến Trường Lạc Bang, chúng không nhận ra được.” Trương, Vương, Triệu ba người đều tuân lệnh.

Bạch Vạn Kiếm lại nói: “Uông Vạn Dực sư đệ võ công cao cường lại tâm cơ linh mẫn. Vậy khi ba vị liên lạc với Uông sư đệ được rồi thì phải nghe theo kế hoạch của y. Đừng vì mình nhập môn sớm hơn mà ra kiểu sư huynh, làm hỏng mất đại sự.” Trương, Vương, Triệu ba người đối với Bạch sư ca vẫn một lòng kính nể, liền vâng dạ luôn miệng.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Chúng ta cứ ở đây, chờ trời tối sẽ đi về phía Đông, đến Giang Âm rồi ra khỏi Trường Giang, đi một vòng mới về thành Lăng Tiêu. Đi như vậy xa hơn, nhưng người bang Trường Lạc quyết không ngờ tới chúng ta lại theo con đường này, dĩ nhiên chúng đang đuổi về phía Giang Bắc.” Trong lòng hắn rất e sợ bang Trường Lạc, nhưng cứ nói thẳng ra không giấu giếm gì.

Bạch Vạn Kiếm xem xét xung quanh một vòng, rồi lại vào nói chuyện với bọn sư đệ. Hắn thở dài rồi nói: “Chuyến này bọn ta xuống Trung Nguyên đã thiêu hủy được Huyền Tố trang, bắt được tên nghịch đồ Thạch Trung Ngọc. Nhưng hai vị sư đệ Tôn, Chử bị uổng mạng, bọn Cảnh sư đệ lại bị địch cầm tù, thật là tổn thương rất lớn đến oai danh bản phái! Xét cho cùng, chỉ tại tiểu huynh chỉ huy không sáng suốt mà ra.”

Người lớn tuổi nhất trong đám là Hô Diên Vạn Thiện nói: “Bạch sư ca đừng tự trách mình, nguyên nhân thật sự là do bọn sư đệ ta không luyện được võ công đến nơi đến chốn. Tất cả anh em cùng được sư phụ truyền thụ như nhau, nhưng trừ Phong sư ca và Bạch sư ca ra, mọi người mới học được một chút vỏ bên ngoài, chưa luyện tới võ công tinh thâm của sư môn.”

Một gã đệ tử khác béo tròn béo trục tên là Văn Vạn Phu lên tiếng: “Chúng ta ở thành Lăng Tiêu tỉ thí với nhau đều tưởng mình là giỏi, có ra ngoài mới biết mình chẳng vào đâu. Bạch sư ca! Chúng ta phải chờ đến tối mới lên đường, bây giờ rảnh rỗi, xin Bạch sư ca chỉ điểm cho anh em mấy chiêu.” Bọn sư đệ cũng hùa theo, phụ họa với gã béo mập.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia gia truyền thụ võ công cho mọi người đều y hệt như nhau, hoàn toàn không thiên vị ai cả. Các sư đệ cũng thấy đó, Phong sư ca khổ công rèn luyện hơn ta nhiều, nên bản lãnh huynh ấy còn ở trên ta.”

Văn Vạn Phu nói: “Sư phụ hết sức công bằng, tuyệt không thiên vị, ai ai cũng biết. Tiểu đệ chỉ hận mình tư chất ngu muội, không lĩnh hội được hết yếu quyết mà thôi.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Từ đây về thành Lăng Tiêu dọc đường chưa chắc đã được bình yên vô sự. Học thêm được một chiêu kiếm pháp thì lực lượng chúng ta cũng hùng hậu thêm được một phần. Hô Diên sư đệ! Văn sư đệ! Hai sư đệ qua đây tỉ thí với nhau vài chiêu cho ta xem. Triệu sư đệ! Vương sư đệ! Hai sư đệ ra ngoài canh chừng, nếu thấy gì khác lạ thì lập tức báo ngay.”

Hai gã Triệu, Vương thấy các bạn đồng môn được Bạch sư ca chỉ điểm kiếm pháp cho, nghĩ rằng bọn họ may mắn gặp được cơ duyên, còn mình phải ra ngoài canh gác dĩ nhiên không khỏi so bì, nhưng cũng chẳng dám trái lệnh sư ca. Hai tên đành riu ríu vâng lời đi ra ngoài.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu phấn khởi tinh thần, cầm trường kiếm đứng đối diện nhau. Văn Vạn Phu là sư đệ đứng ở phía dưới, cất tiếng hô. “Xin mời Hô Diên sư ca!”

Hô Diên Vạn Thiện đảo ngược chuôi kiếm ra ngoài, chắp hai tay hướng về Bạch Vạn Kiếm nói: “Xin Bạch sư ca chỉ điểm cho!” Bạch Vạn Kiếm gật đầu. Hô Diên Vạn Thiện đột nhiên xoay mũi kiếm lại đâm xéo lên vai bên tả Văn Vạn Phu. Đó chính là chiêu Lão Chỉ Hoành Tà trong Tuyết Sơn kiếm pháp.

Trong ngoài thành Lăng Tiêu đều trồng đầy hoa mai. Năm xưa vị tổ sư sáng lập ra kiếm phái này rất thích hoa mai, nên phổ vào kiếm pháp lẫn lộn những hình hoa mai, nụ mai, cành mai, và nguyên cả cây mai, nên trong Tuyết Sơn kiếm pháp có cả cổ phong thuần phác lẫn phiêu dật tiêu sái. Đó là vì cành mai thì lấy khô khan gầy guộc làm quý, còn hoa mai thì lại lấy mãn khai tươi tốt làm hơn.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu giao thủ, chiêu thức có lúc đơn sơ hời hợt như mấy cành khô, nhưng vừa xoay chuyển thì lại mau chóng thành hoa tuyết tung bay đầy trời trong cơn bão tố, khí thế sầm sập như hô phong hoán vũ. Thân hình hai người lúc thì như cành hoa rung rinh trong gió, lại có lúc khuất trong màn kiếm quang như lạc đà chạy đuổi nhau ở vùng sa mạc cát bay, thỉnh thoảng mới hiện ra một chút.

Thạch Phá Thiên đang bị quăng vào một xó chẳng ai nhìn ngó gì đến. Lúc này chàng chẳng biết làm gì, đành ngồi nhìn Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu chiết giải kiếm pháp của nhau. Nội công chàng đã luyện đến mực rất tinh thâm, song về quyền thuật và kiếm pháp thì chưa biết tí gì. Hai sư huynh đệ chiết chiêu qua lại, công thủ tiến thoái rất là tinh diệu, Thạch Phá Thiên thấy họ càng đấu đến lúc khẩn trương, lại càng lấy làm thích thú.

Chàng lại xem một lúc nữa, bỗng thấy hai người cùng phóng kiếm đâm tới chẳng khác con nít giỡn chơi, rõ ràng chỉ cần đưa thêm về phía trước một chút là đâm trúng đối phương, nhưng lực đạo đột nhiên hết đà rồi ngừng lại, rõ ràng nội công vận thiếu mất một chút. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Sư huynh sư đệ họ đang luyện kiếm chứ không phải đánh nhau thật sự, dĩ nhiên không dùng hết sức.”

Bỗng nghe Bạch Vạn Kiếm quát to: “Dừng lại.” Rồi hắn từ từ đi vào trong điện, đón lấy thanh trường kiếm trong tay của Hô Diên Vạn Thiện, vạch ra một chiêu rồi nói: “Chiêu này chỉ đưa thêm về phía trước hai tấc là thắng rồi.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Bạch đại hiệp nói rất đúng. Chiêu kiếm đó mà đấy thêm ra hai tấc nữa là thủ thắng, nhưng không hiểu sao vị Hô Diên đại hiệp kia lại không đâm mạnh thêm chút nữa.”

Bỗng Hô Diên Vạn Thiện gật đầu nói: “Bạch sư ca chỉ giáo như vậy là đúng lắm. Nhưng chiêu Phong Sa Mãng Mãng đó của tiểu đệ chỉ phóng tới đó thì lực đạo đã hết, muốn đâm thêm về phía trước nửa tấc nữa cũng không được.”

Bạch Vạn Kiếm mỉm cười nói: “Muốn nội lực tinh thâm không phải là chuyện một sớm một chiều. Nhưng nội lực không đủ thì có thể dùng kiếm pháp để bổ sung vào chỗ khiếm khuyết. Tình thực mà nói, thì nội lực của bản phái vị tất đã có chỗ đặc biệt hơn người. Phái Tuyết Sơn của chúng ta so với các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Côn Luân, tuy nói là mỗi phái có cái hay riêng, nhưng thực ra sáng lập chưa lâu, so với các phái lớn còn kém đến mấy trăm năm. Nhưng bản phái lại có thể tự hào về kiếm pháp kỳ diệu vô song. Vậy các vị sư đệ khi lâm địch, thì nên phát huy sở trường của mình để đánh vào sở đoản của người ta. Nhất định không nên tỉ đấu nội lực, chỉ có thể nhờ vào biến chiêu tinh vi để thủ thắng.”

Bọn sư đệ đều gật đầu nghĩ bụng: “Câu này của Bạch sư ca quả là nói đúng vào chỗ quan trọng nhất của kiếm pháp bản phái.”

Chủ thành Lăng Tiêu, chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy đức tiên sinh Bạch Tự Tại từ nhỏ đã gặp cơ duyên may mắn, được uống linh dược nên nội lực tiến bộ khác thường, ngang với người bình thường luyện năm sáu chục năm. Kể ra thì nội lực phái Tuyết Sơn không có chi kỳ lạ, nhưng Bạch Tự Tại đi đường tắt nên nội lực của lão còn cao hơn cả những tay cao thủ phái Thiếu Lâm hay Võ Đang. Hiển nhiên là thứ linh đan diệu dược này không phải là vật dễ tìm, chỉ ngẫu nhiên mà gặp chứ không phải cầu mà được. Vì thế nội lực Bạch Tự Tại tuy thâm hậu, nhưng bọn đệ tử của lão thì hãy còn khiếm khuyết nhiều.

Uy Đức tiên sinh là người tự cao hiếu thắng, chẳng bao giờ nói cho đệ tử hiểu về sở đoản của bản môn. Bọn đệ tử đóng cửa ở trong thành Lăng Tiêu đã tưởng mình giỏi nhất thiên hạ, cứ cho rằng nội ngoại công của bản phái đã đạt tới mức đứng đầu võ lâm hiện nay. Phen này chúng kéo xuống Trung Nguyên bị thất bại liên tiếp mấy phen, bây giờ Bạch Vạn Kiếm mới hiểu mà nói ra sự thật, mọi người cùng tỉnh ngộ. Sau đó, Bạch Vạn Kiếm lại đem những chỗ biến hóa tinh diệu trong kiếm pháp, chỉ cho mọi người từng chiêu từng thức.

Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu đối chiêu xong, lại đổi đến hai tên sư đệ khác. Sau khi hai người này tỉ đấu, Bạch Vạn Kiếm bảo Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu ra canh gác bên ngoài, đổi phiên cho hai gã Triệu, Vương vào xem. Mọi người đã trải qua thực chiến, hiểu được rằng chỉ cần nửa chiêu kiếm pháp sử đến nơi đến chốn hay không là có thể quyết định chuyện sống hay chết của mình, nên ai nấy ngưng thần chú ý theo dõi từng ly từng tí, không giống như khi luyện kiếm tại thành Lăng Tiêu. Cứ sau mỗi lần phân tích chiêu thức, bọn chúng lại sử lại những chiêu kiếm pháp đó cho thành thuộc.

Thạch Phá Thiên vốn thông minh, chàng cứ ngồi nghe Bạch Vạn Kiếm tận tình chỉ dẫn. Đến khi cặp thứ bảy đối chiêu, thì Thạch Phá Thiên đã nhớ hết bảy mươi hai chiêu kiếm pháp phái Tuyết Sơn. Tuy tên gọi các chiêu thức thì chàng chỉ nhớ lõm bõm, những chỗ tinh diệu biến hóa cũng không thể nhất thời lĩnh hội được hết, nhưng khi đối phương xuất chiêu kiếm nào thì phải đón đỡ thế nào, phản kích ra sao, chàng cũng tưởng tượng được ra. Có thể nói chàng đã nắm được những yếu quyết về kiếm pháp của phái Tuyết Sơn rồi.

Mọi người để hết tâm thần luyện kiếm, kẻ học thì quên mệt, người xem cũng quên đói. Đến khi cả mười tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn chia làm chín cặp đã diễn đi diễn lại mỗi chiêu thức đến tám chín lần, Thạch Phá Thiên đã ghi nhớ được sáu bảy phần.

Đột nhiên có tiếng loong coong, Bạch Vạn Kiếm ném trường kiếm xuống đất, thở dài một tiếng. Bọn sư đệ phái Tuyết Sơn ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu vì lẽ gì mà Bạch sư ca lại quăng kiếm thở dài. Chỉ thấy Bạch Vạn Kiếm đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên đang ngồi tựa cột, nhẹ giọng nói: “Thằng lỏi này mới nhập môn phái ta hai ba năm mà đã lĩnh hội võ công bản phái đến chỗ tinh diệu, so với các vị sư bá sư thúc luyện tập mười mấy năm hãy còn tinh thâm hơn, dù công lực không bằng nhưng cơ biến thì lại hơn nhiều. Kiếm pháp bản phái lấy cơ linh biến hóa làm trọng, có đồ đệ như thế nên dĩ nhiên Phong sư ca lấy làm đắc ý, mà chưởng môn cũng nhìn gã bằng con mắt đặc biệt, chỉ mong sau này hắn làm rạng rỡ cho môn phái.”

Hắn thở dài luôn mấy tiếng, vẻ hối tiếc lộ ra ngoài mặt. Ta nên biết Khí hàn tây bắc Bạch Vạn Kiếm không những võ công cao thâm mà kiến thức cũng hơn người một bực. Hẳn vừa chỉ bảo cho mười hai tên sư đệ này luyện kiếm mất nửa ngày, cảm thấy bọn chúng tư chất thấp kém, phải cố gắng khổ luyện mới mong có kết quả. Hắn thấy bản phái không có ai kế thừa xứng đáng, lại nhớ đến gã tiểu tử Thạch Trung Ngọc thông minh kiệt xuất lại không chịu học lấy điều hay. Vừa rồi hắn để hết tâm thần vào chuyện rèn luyện kiếm pháp biến ảo nên lãng quên mối sỉ nhục của sư môn được một lúc, bây giờ nghĩ đến lại đau lòng.

Thạch Phá Thiên thấy Bạch Vạn Kiếm đưa mắt nhìn mình, trong ánh mắt vẫn tỏ vẻ mến tài và thương tiếc. Tuy chàng không hiểu rõ thâm ý của hắn, nhưng cũng bất giác thầm cảm kích.

* * *

Tòa miếu thổ địa nhỏ bé trở lại yên tĩnh không một tiếng động. Một lúc sau, Bạch Vạn Kiếm khẽ điểm chân trái xuống đất, thanh kiếm đột nhiên vọt lên như một vật sống động, tự nhảy vào tay hắn. Hắn cầm kiếm rồi từ từ bước ra giữa sân, dõng dạc nói: “Cao nhân phương nào đã đến đây, xin mời ra gặp mặt.”

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều hơi sợ sệt, nghĩ bụng: “Những tay cao thủ bang Trường Lạc đuổi đến nơi rồi ư? Sao Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu ở ngoài canh gác mà không báo động? Hoàn toàn không có một tiếng động mà sao Bạch sư ca lại biết có người đến?”

Nghe một tiếng vỗ tay nhè nhẹ, trong miếu đã có thêm hai người, một nam nhân mặc toàn màu đen, còn một nữ nhân lại mặc toàn màu trắng, nhưng trên lưng có thắt dây màu đỏ, trên tóc có cài một bông hoa màu đỏ, dĩ nhiên đó không phải là tang phục. Hai người cùng lưng đeo trường kiếm. Thanh kiếm của nam nhân buộc dải đen, còn thanh kiếm của nữ nhân lại phất pho dây thao trắng bạch. Hai người nhảy xuống cùng chấm đất một lúc, chỉ phát ra tiếng động rất khẽ. Tư thế của hai người này rất anh hùng khí khái, ai trông thấy cũng phải đem lòng vì nể. Bọn đệ tử Tuyết Sơn bất giác phải rung động trong lòng.

Bạch Vạn Kiếm quay ngược thanh kiếm lại, chắp tay dõng dạc nói: “Thì ra là Huyền Tố Trang Thạch trang chủ giá lâm.”

Hai người vừa nhảy xuống chính là trang chủ Huyền Tố Trang là Thạch Thanh, cùng vợ là Mẫn Nhu. Thạch Thanh mỉm cười, khoanh tay đáp lễ nói: “Bạch huynh giá lâm tệ trang mà bọn tại hạ không biết để đón tiếp, cũng chưa tỏ tình địa chủ ở nơi này, thật là có lỗi.”

Đám đệ tử phái Tuyết Sơn đã gặp vợ chồng Thạch Thanh tại Hầu Giám Tập đều đã bị bắt ở tổng đàn bang Trường Lạc. Bọn ở đây chưa biết mặt vợ chồng Thạch Thanh, bây giờ thấy họ tới đây thì trong lòng không khỏi sợ sệt nghĩ thầm: “Bọn mình đã thiêu hủy Huyền Tố Trang, chẳng hiểu họ đã biết chưa?”

Không ngờ Bạch Vạn Kiếm đã nói ngay: “Phen này chúng ta từ Tây Vực tới đây chỉ vì muốn tìm lệnh lang, nhưng chưa tìm được nên trong lúc nóng giận đã thiêu hủy quý trang.”

Thạch Thanh không động dung chút nào, chỉ nói: “Tệ trang xây dựng cũng chẳng có chi đẹp đẽ, Bạch huynh thấy không thuận mắt mà thay tại hạ đốt đi, cũng là chuyện tốt. Tại hạ còn phải đa tạ huynh đã nương tay, đuổi hết bọn gia đinh ra ngoài. Ngay cả con gà con chó cũng không bị thiêu chết, đủ biết tấm lòng nhân hậu của huynh.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia đinh bộc phụ quý trang chẳng có điều chi mạo phạm, khi nào tại hạ lại dám mạo muội giết nguôi. Sao Thạch trang chúa lại còn nói lời đa tạ?”

Thạch Thanh nói: “Quần hùng phái Tuyết Sơn đối với tiểu nhi hết dạ thương yêu, chỉ giận là nó không chịu học những điều hay, làm những việc hồ đồ để phụ lòng mong mỏi của Bạch lão tiền bối cùng Phong sư huynh. Vợ chồng tại hạ chẳng những cảm kích vô cùng, mà còn tự lấy làm xấu hổ. Bạch lão tiền bối vẫn được an hảo đấy chứ? Bạch phu nhân có được khang kiện không?” Thạch Thanh nói tới đây liền cùng Mẫn Nhu thi lễ ra chiều kính cẩn, cứ như vấn an chính song thân mình vậy.

Bạch Vạn Kiếm cũng khom lưng thi lễ rồi đáp: “Gia phụ nhờ phúc ấm nên vẫn được khang kiện. Còn gia mẫu vì chuyện lệnh lang, nên không còn ở trong thành nữa.” Nói đến đây, hắn bất giác lộ vẻ lo buồn.

Thạch Thanh nói: “Lão phu nhân võ công tinh thâm, đạo cao đức trọng, một đời hành thiện khó mà đếm hết, trên chốn giang hồ người người kính phục. Phen này lão phu nhân ra ngoài giải khuây một chuyến để tiêu tan lòng sầu muộn, ngọc thể chắc chắn sẽ trở lại khang cường.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Đa tạ trang chúa ban cho những lời vàng ngọc, tại hạ cũng chỉ mong được thế. Chỉ vì tuổi tác của gia mẫu đã cao mà lại trải phong sương, đạo làm con chẳng khỏi băn khoăn lo lắng.”

Thạch Thanh nói: “Bạch sư huynh thật là hiếu thảo. Phận làm con phải hiếu thuận với song thân, bậc làm cha mẹ phải lo lắng cho con cái, là lẽ thường tình của con người. Con cái mà có hành vi tội lỗi, thì cha mẹ ngoài việc đau lòng còn phải bắt về trừng trị gắt gao.”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Phu phụ Thạch trang chúa là bậc anh hùng nghĩa hiệp, được bằng hữu võ lâm ngưỡng mộ. Tại hạ còn nhớ trong đại sảnh Huyền Tố Trang có treo tấm biển đề bốn chữ lớn Hắc Bạch Phân Minh. Theo đó mà nói thì Hắc Bạch Song Kiếm phân biệt thị phi rất rõ ràng, mang tấm lòng hiệp nghĩa để chủ trì công đạo, không chỉ có oai phong ngang dọc giang hồ một cách đơn thuần.”

Thạch Thanh đáp: “Bốn chữ Tấm Lòng Hiệp Nghĩa thật không dám nhận, chỉ vì những người học võ như bọn ta đối với những việc thị phi chắc chắn không thể hàm hồ được. Nhưng không biết tấm biển này đã biến đâu mất rồi.”

Bạch Vạn Kiếm ngẩn ra một chút rồi gượng đáp: “Tại hạ đã đốt mất rồi.”

Thạch Thanh nói: “Hay lắm! Nhục nhi đã đến bái lạy xin làm môn hạ phái Tuyết Sơn, nếu phạm vào môn quy quý phái, dĩ nhiên phải được sư trưởng quý phái trừng trị, dù đánh dù giết, cha mẹ cũng không được quyền hỏi tới. Đó là lề luật của võ lâm. Nhưng ngày trước ở Hầu Giám Tập, vợ chồng tại hạ đã gửi hai thanh Hắc Bạch Song Kiếm cho quý phái, và nói rõ là sẽ áp giải nhục nhi tới thành Lăng Tiêu để chuộc kiếm về. Việc này có đúng không?”

Bạch Vạn Kiếm đã nghe bọn Cảnh Vạn Chung, Kha Vạn Quân kể rõ vụ này. Ngày đó Cảnh Vạn Chung bị đoạt mất song kiếm, lúc đầu thì nghĩ là do vợ chồng Thạch Thanh bố trí. Nhưng sau đó chúng gặp một đám kiệu phu cùng quan sai đang hoảng hồn chạy trốn, hỏi tường tận mới biết trong kiệu có một già một trẻ, theo phục sức và hình dáng thì hiển nhiên là Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách và thằng bé ăn mày. Bạch Vạn Kiếm cũng từng nghe Tạ Yên Khách võ công rất cao, hành tung vô định, muốn lấy lại đôi Hắc Bạch Song Kiếm này thật là một việc rất khó.

Bây giờ, Bạch Vạn Kiếm nghe Thạch Thanh nhắc đến cặp kiếm này thì không khỏi đỏ mặt. Hắn đáp: “Đúng thế! Nhưng đôi báu kiếm hiện không có ở đây, sau này nhất định bọn tại hạ sẽ đưa tới quý xứ để hoàn trả.”

Thạch Thanh cười ha hả nói: “Bạch huynh nói câu này chẳng hóa ra coi rẻ Thạch mỗ rồi ư? Bốn chữ Hắc Bạch Phân Minh không phải nói về vợ chồng Thạch mỗ đâu. Các vị hiện đã bắt giữ nhục nhi, lại cầm luôn cả khí giới của vợ chồng Thạch mỗ không chịu hoàn lại. Tại hạ không hiểu trong võ lâm có lề luật này chăng?”

Bạch Vạn Kiếm hỏi: “Theo Thạch trang chúa thì nên làm thế nào?”

Thạch Thanh nói: “Bậc đại trượng phu đã nói ra một lời thì bốn ngựa khó theo. Các vị giữ nhục nhi thì đừng giữ kiếm, mà giữ kiếm thì không được giữ người.”

Bạch Vạn Kiếm cũng là một tay tiếng tăm lừng lẫy, rất trọng chữ tín. Người trong phái đã để mất Hắc Bạch Song Kiếm, hắn không khỏi hổ thẹn với Thạch Thanh. Đáng lý ra hắn không nên cưỡng từ đoạt lý mà mở cuộc đấu khẩu. Nhưng hắn đã bàn bạc cùng bọn Cảnh Vạn Chung, nghi là không chừng Thạch Thanh ngấm ngầm cấu kết với Tạ Yên Khách, sau khi giao kiếm lại nhờ lão xuất thủ đoạt đi. Huống chi Thạch Trung Ngọc đã làm nhục đứa con gái yêu quý độc nhất của hắn, khó khăn lắm mới bắt được kẻ phạm tội vào tay, khi nào chỉ vì một câu nói mà chịu giao trả?

Hắn liền nói: “Việc này tại hạ không thể tự quyết định được, mong Thạch trang chúa thứ lỗi. Còn đôi bảo kiếm của quý vị thì Bạch Vạn Kiếm này xin lãnh trách nhiệm hoàn trả. Nếu Bạch mỗ không đủ sức giao lại Hắc Bạch Song Kiếm, sẽ đến quý trang tự chặt đầu tạ tội.”

Câu nói của Bạch Vạn Kiếm dứt khoát như đinh đóng cột, không ngắc ngứ chỗ nào. Vợ chồng Thạch Thanh biết địa vị hắn trong võ lâm rất cao, đã nói là làm. Hắn nói sẽ đem tính mạng để đền cặp kiếm, thì chẳng thể coi là nhẹ được. Nhưng hai người thấy đứa con yêu độc nhất đang nằm dưới đất dơ dáy vô cùng, thì nói sao thì nói cũng phải cứu nó về.

Mẫn Nhu tiến vào trong điện, mắt đăm đăm nhìn Thạch Phá Thiên không chớp. Bà đã xa đứa con bảo bối lâu ngày, bây giờ được trùng phùng chỉ muốn chạy lại ôm nó vào lòng, nước mắt đã sắp trào ra. Bạch Vạn Kiếm nói gì bà cũng không để ý, bất luận việc gì bà cũng nghe theo chủ trương của lang quân. Vì vậy bà cứ đứng bên Thạch Thanh, không nói tiếng nào.

Thạch Thanh nói: “Bạch sư huynh nói quá lời rồi. Đôi kiếm của vợ chồng tại hạ có đáng là bao, làm sao dám đem ra so bì với tấm thân ngàn vàng của Bạch sư huynh? Có điều chúng ta đã là những người bôn tẩu giang hồ, thì mọi việc phải theo chữ lý mà làm. Phái Tuyết Sơn dẫu cho kiếm pháp cao cường, nhân tài đông đúc, cũng chẳng nên hiếp đáp người khác, đã lấy kiếm lại muốn lấy người. Bạch sư huynh! Hôm nay vợ chồng tại hạ phải đem đứa con này về.”

Thạch Thanh vừa nói dứt câu, vai trái ông khẽ rung một cái. Đó là dấu hiệu để gọi vợ mình cùng rút kiếm ra. Hào quang lấp loáng trước mắt mọi người, Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đã phóng kiếm nhằm trước ngực Bạch Vạn Kiếm đâm tới. Hai thanh kiếm còn cách Bạch Vạn Kiếm không đầy một thước thì đột nhiên ngừng lại không nhúc nhích.

Thạch Thanh nói: “Xin mời Bạch sư huynh!” Vợ chồng ông quả nhiên vẫn giữ phong độ danh gia, không chịu hạ thủ đột ngột. Nếu Bạch Vạn Kiếm không rút kiếm đón đỡ thì dĩ nhiên song kiếm không đâm tới nữa. Bạch Vạn Kiếm chú ý nhìn mũi kiếm của song kiếm rồi bước lên nửa bước. Thạch Thanh, Mẫn Nhu rụt kiếm về một chút, vẫn giữ cự ly một thước trước ngực Bạch Vạn Kiếm.

Bạch Vạn Kiếm đột nhiên lùi lại một bước, vợ chồng Thạch Thanh cũng tiến lên một bước. Đột nhiên nghe thấy hai tiếng leng keng, Bạch Vạn Kiếm đã rút kiếm ra phản kích. Ba thanh trường kiếm rung lên thành ba đóa kiếm hoa. Thạch Thanh vốn sử dụng thanh Hắc Kiếm, lúc này lại cầm một cây Thanh Cương Kiếm tỏa sắc xanh lè. Ba thanh trường kiếm đụng nhau loảng xoảng, hàn khí giàn giụa đầy tòa miếu cũ.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn vẫn tưởng kiếm pháp của Bạch sư ca là trên đời có một, đều nghĩ bụng: “Dù Bạch sư ca có phải lấy một chọi hai, nhưng cũng nắm chắc phần thắng.” Mọi người đều rút kiếm cầm tay, đứng tựa vào tường chăm chú theo dõi cuộc đấu.

Lúc đầu vợ chồng Thạch Thanh Mẫn Nhu chia nhau ra hợp kích mỗi người một chiêu, đều là những chiêu tuyệt diệu. Qua lại được sáu bảy chục chiêu, hai người càng phóng kiếm mau lẹ hơn, không nhìn rõ kiếm chiêu nữa. Bạch Vạn Kiếm vẫn thi triển bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp luyện tập đã rất thành thục để đối phó với vợ chồng Thạch Thanh. Những chiêu kiếm pháp trông chẳng có chi kỳ dị mà từ tay hắn phóng ra cũng có uy lực mãnh liệt, vừa công vừa thủ.

Trong đại điện tòa miếu thổ địa chỉ thắp một cây nến, ánh sáng vàng lợt ảm đạm. Bóng ba người xoay chuyển lẫn giữa ba luồng kiếm quang khiến mọi người nhìn mà hoa cả mắt. Ai cũng hồi hộp đến phát run vì tình trạng vô cùng nguy hiểm, nhiều chiêu kiếm chỉ cách chừng sợi tóc là có cảnh máu chảy thây phơi ngay trước thần điện. Kiếm quang lấp loáng dưới ánh nến chiếu vào mặt ba người khi tỏ khi mờ. Bạch Vạn Kiếm vẫn lạnh lùng kiêu ngạo, Thạch Thanh vẫn ôn hòa ung dung, Mẫn Nhu vẫn dịu dàng hòa nhã như lúc bình thường. Thái độ ba người này lúc kịch chiến cũng giống hệt lúc thi lễ vấn an, nhưng hiển nhiên đang dùng toàn lực để phóng ra những chiêu hiểm độc.

Lúc hai vợ chồng Thạch Thanh vừa vào trong miếu, Thạch Phá Thiên đã nhận ra Mẫn Nhu chính là vị phu nhân xinh đẹp ngày trước đã tặng cho mình một thỏi bạc ở Hầu Giám Tập. Vợ chồng họ vừa vào trong miếu cứ nói chuyện hoài với Bạch Vạn Kiếm, rồi lại rút kiếm đánh nhau, đến giờ chàng vẫn chưa có cơ hội để lên tiếng chào hỏi. Ba người nói với nhau những gì chàng cũng không hiểu, chỉ biết Thạch Thanh muốn đòi hai thanh kiếm, rồi lại nhắc đến thằng nhỏ nào đó. Hắc Bạch Song Kiếm thì chàng biết, nhưng không ngờ thằng nhỏ mà ba người tranh chấp lại chính là mình.

Vừa rồi Thạch Phá Thiên đã được xem mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn luyện kiếm. Lúc này ba người rút kiếm giao đấu mà hoàn toàn không có nửa câu trách mắng, thần thái cũng rất bình tĩnh, nên chàng cứ tưởng họ đang nghiên cứu võ thuật như lúc nãy. Bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp chàng đã thấy qua, bây giờ lại được xem chính tay Bạch Vạn Kiếm thi triển. Kiếm chiêu cực kỳ thần tốc lại mãnh liệt vô cùng, mỗi chiêu đều khiến chàng cảm thấy tâm hồn thoải mái, thần sắc càng lúc càng sảng khoái.

Thạch Phá Thiên chăm chú ngó Bạch Vạn Kiếm một hồi, rồi quay sang để ý kiếm pháp của vợ chồng Thạch Thanh. Chàng nhận ra ngay kiếm pháp của ba người này rất khác nhau. Kiếm pháp của Thạch Thanh thì mở rộng phóng dài oai nghiêm trịnh trọng, Mẫn Nhu thì tùy thời mà chuyển động, sử kiếm mềm mại như một dải lụa. Những kiếm chiêu của hai vợ chồng họ hoàn toàn không giống nhau, một cương một nhu, một âm một dương, một thẳng một cong, một mau một chậm, cách vận nội kình cũng hoàn toàn trái ngược nhau.

Nhưng mỗi khi gặp thanh trường kiếm của Bạch Vạn Kiếm thì kiếm chiêu của hai vợ chồng lại tương hỗ với nhau mà đón đỡ, hợp với nhau thành một thể.

Ta nên biết rằng vợ chồng Thạch Thanh là sư huynh muội đồng môn, cùng học võ nghệ ở Thượng Thanh Quán. Từ khi còn học họ đã phát sinh tình cảm, sử dụng kiếm pháp đã tâm đầu ý hợp. Sau khi kết hôn, suốt hai chục năm trời họ chưa xa nhau lấy một ngày, mà cũng không ngày nào ngừng luyện kiếm, nên lại càng tâm ý tương thông, hai người như một. Về kiếm pháp âm dương lúc ly lúc hội mà lại tương hợp với nhau, thì trừ vợ chồng Thạch Thanh ra, trong võ lâm không còn hai người nào so sánh được nữa.

Những đạo lý cao thâm về kiếm pháp như thế, đương nhiên Thạch Phá Thiên chưa hiểu được. Chàng xem một hồi nữa, liền nhận thấy Bạch Vạn Kiếm một người phải chọi với hai, dần dần đi đến chỗ kém thế. Nguyên vợ chồng Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm thì về kiếm pháp cũng như nội lực đều tương tự như nhau, chẳng chênh lệch mấy tí. Hai người đánh một thì đối phương làm sao địch lại được? Có điều Bạch Vạn Kiếm ra những đòn ác liệt, còn Thạch Thanh vẫn giữ thái độ khoan thai bình ổn. Nhất là Mẫn Nhu yểu điệu thướt tha, tính tình hòa dịu, nên xuất thủ vẫn có mấy phần gượng nhẹ, vì vậy mà cuộc tỉ đấu giữa ba người mới kéo dài đến thế.

Mẫn Nhu trông thì mảnh dẻ thướt tha, mà thực ra kiếm pháp bà tinh thâm chẳng kém trượng phu. Bạch Vạn Kiếm đấu với hai người được bảy chục chiêu, hai lần suýt bị lưỡi kiếm của Mẫn Nhu quét trúng. Trong lòng hắn đã rất nao núng, chỉ vì bản tính cương cường, thà mất mạng dưới lưỡi kiếm của vợ chồng Thạch Thanh chứ nhất định không chịu khuất phục. Kiếm pháp của hắn càng lúc càng bối rối, công thủ dần dần bế tắc.

Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đã thấy tình trạng không êm, một gã lớn tiếng la lên: “Hai người đánh một thì có gì là giỏi? Thạch trang chúa! Nếu trang chúa là anh hùng hảo hán thì hãy đơn đả độc đấu với Bạch sư ca ta, còn muốn cậy nhiều hiếp ít thì chúng ta phải xông cả vào.”

Thạch Thanh mỉm cười gọi: “Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý sư huynh có ở đây không? Mời Phong huynh ra liên thủ với Bạch huynh, bốn người chúng ta tỉ thí một phen.” Câu nói của ông hết sức rõ ràng: trong phái Tuyết Sơn, trừ Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý, chẳng còn ai đáng liên thủ với Bạch Vạn Kiếm. Chính Thạch Thanh cũng tự biết, hai vợ chồng mình giáp công một mình Bạch Vạn Kiếm thì đã chiếm tiện nghi, nhưng nếu để đứa con duy nhất bị đưa về thành Lăng Tiêu thì không thể sống được. Huống chi trong miếu thổ địa lúc này, bên đối phương có tới mười mấy đồ đệ phái Tuyết Sơn, thì hai người phải đấu với mười mấy người chứ không phải lấy hai đánh một. Nếu nói ngoài Bạch Vạn Kiếm ra, bọn kia đều là hạng tầm thường, thì đó là lỗi của phái Tuyết Sơn không dạy thêm được mấy đệ tử kha khá mà chọi với người ta.

Bạch Vạn Kiếm nghe Thạch Thanh nhắc đến Phong Hỏa Thần Long Phong sư huynh thì lại càng căm hận rủa thầm: “Phong sư huynh vì nhận thằng tiểu quỷ con của ngươi làm đồ đệ, nên mới bị gia gia chặt đi một cánh tay. Thế mà ngươi còn mặt mũi nhắc đến Phong huynh nữa ư?” Những tay cao thủ tỉ võ không được để cho tâm thần rối loạn hay xúc động chút nào. Bạch Vạn Kiếm đã ở vào tình thế quẫn bách, vừa nổi giận liền sử chiêu Minh Đà Tuấn Túc hơi quá đà một chút.

Thạch Thanh lập tức nhận ra chỗ sơ hở của đối phương bèn vung kiếm lên gạt, vận nội công ra lưỡi kiếm rồi đè dính lên thanh kiếm của Bạch Vạn Kiếm. Hắn vội vàng vận hết kình lực để giật kiếm về, nhưng trong chớp mắt đó, thanh trường kiếm của Mẫn Nhu đã xuyên qua kẽ hở phóng thẳng vào trước ngực Bạch Vạn Kiếm. Hắn vội nhắm mắt lại, biết rằng thế kiếm này sắp xuyên thủng trái tim mình, không né tránh kịp nữa. Không ngờ trường kiếm của Mẫn Nhu phóng tới trước ngực Bạch Vạn Kiếm còn cách chừng nửa thước thì lại rụt về, rồi hai vợ chồng sóng vai nhảy lùi lại. Nghe soạt một tiếng, cả hai thanh kiếm đều tra vào vỏ, hai người không nói một câu.

Bạch Vạn Kiếm trợn tròn cặp mắt, mặt xám xịt lại. Hắn nhục nhã nghĩ thầm: “Đối phương cố ý tha mạng cho mình đã quá rõ ràng. Bây giờ vợ chồng họ muốn đem con đi, mình đã bại trận thì không tiện ngăn cản nữa. Mà nếu có mặt dày đánh tiếp thì song quyền khó địch bốn tay, cũng không thể địch nổi hai vợ chồng họ.” Hắn lại nhớ tới đứa con gái yêu quý bị con trai của họ hại chết, mình dẫn bọn sư đệ xuống Trung Nguyên, để bảy tên bị hãm tại tổng đà bang Trường Lạc mới bắt được Thạch Trung Ngọc, thế mà phải chịu mất đi. Hơn nữa, phái Tuyết Sơn trước nay vẫn tự phụ kiếm pháp thông huyền mà nay không địch nổi Huyền Tố Song Kiếm, thì coi như thanh danh của mình trôi theo dòng nước.

Bạch Vạn Kiếm càng nghĩ lại càng cay đắng, rồi đâm ra chán nản, mất hết tự tin. Hắn đứng ngây người ra như tượng gỗ, không nói gì nữa. Lúc này Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu cũng đã biết tin, chạy vào trong miếu. Chúng thấy Bạch sư ca bại trận liền lớn tiếng hô hoán: “Họ lấy nhiều đánh ít, chẳng lẽ chúng ta lại không được làm như thế ư?” Thế là cả mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn đều cầm kiếm xông ra bao vây vợ chồng Thạch Thanh Mẫn Nhu, toan tấn công.

Thạch Thanh nói: “Bạch huynh! Vợ chồng tại hạ liên thủ có chiếm được một chút thượng phong, nhưng chưa thể nói đã phân thắng bại. Vậy Bạch huynh hãy tiếp chiêu!” Ông dứt lời, lại phóng kiếm đâm tới.

Bạch Vạn Kiếm là người có địa vị khá cao, vừa rồi được đối phương tha mạng, dĩ nhiên không mặt mũi nào động thủ khiêu chiến nữa. Nhưng chính Thạch Thanh quyết định tấn công thì hắn có thể chông đỡ. Hắn bèn nghĩ thầm: “Được! Bây giờ lấy một chọi một, ta phải tử chiến với ngươi một phen.” Hắn liền vung kiếm lên gạt, rồi nghiêng người phản kích một chiêu.

Bạch Vạn Kiếm đấu với một mình Thạch Thanh, dĩ nhiên tình thế có khác trước. Vừa rồi một mình hắn địch với hai người nên luôn luôn bị uy hiếp, phải đem hết tâm lực để phòng thủ, tấn công đã thưa thớt lại không thể phát huy nội lực. Lúc hắn tấn công Thạch Thanh còn phải đề phòng Mẫn Nhu đánh đến, lúc phóng kiếm đâm Mẫn Nhu lại còn mải đỡ gạt Thạch Thanh ở bên này, hai người phối hợp với nhau thật là khó mà đón đỡ.

Lúc này một người đấu với một người, một kiếm chọi với một kiếm, nghĩ tới cái thua nhục nhã vừa qua, Bạch Vạn Kiếm lập tức đem bảy mươi hai đường Tuyết Sơn kiếm pháp phóng ra như gió táp mưa sa, kiếm chiêu trùng trùng cực kỳ lợi hại biến ảo.

Thạch Thanh không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Khí Hàn Tây Bắc quả thật danh bất hư truyền, đúng là một tay kiếm thủ bậc nhất võ lâm hiện nay.” Ông liền tập trung tinh thần để thi triển những chiêu tuyệt học, trong lòng nghĩ: “Ta phải cho ngươi biết kiếm pháp của Huyền Tố Trang cũng chẳng kém gì phái Tuyết Sơn. Sở dĩ ta cho con đến xin học võ ở phái ngươi là có thâm ý khác, ngươi đừng tự tôn tự đại mà nghĩ Thạch Thanh này không bằng Bạch Vạn Kiếm.”

Cuộc đấu kiếm giữa Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm lần này thật là kỳ phùng địch thủ. Bạch Vạn Kiếm ra chiêu thần tốc mãnh liệt, kiếm quang nhảy múa ngang dọc, kiếm phong rít lên veo véo. Thạch Thanh thì tư thế trang nghiêm vững chãi như núi, kiếm pháp cực kỳ nghiêm mật.

Bạch Vạn Kiếm đã phóng tới mười mấy kiếm chiêu mà vẫn chưa chiếm được chút thượng phong nào, trong lòng không khỏi kinh hãi: “Người này kiếm pháp còn cao hơn danh tiếng nhiều. Thế mà sao hắn còn cho con đến bản phái mà học võ?” Rồi hắn lại nghĩ: “Vừa rồi mình thất bại còn có thể nói là song quyền khôn địch bốn tay. Bây giờ lấy một chọi một, chỉ thua hắn nửa chiêu cũng đủ đem thanh danh phái Tuyết Sơn quét đất, sự nghiệp tiêu ma. Ta nhất định phải kiềm chế được chỗ yếu hại của hắn, rồi lại tha mạng. Nếu không làm được như thế, cái nhục hôm nay không tài nào rửa được.”

Bạch Vạn Kiếm vì trong lòng nóng nảy muốn thắng gấp, nên ra chiêu không khỏi có chỗ sơ hở. Thạch Thanh mừng thầm nghĩ bụng: “Ngươi càng muốn thắng lẹ bao nhiêu thì càng chóng thất bại dưới tay ta.”

Quả nhiên mới qua lại hơn chục chiêu, Bạch Vạn Kiếm liên tiếp gặp nguy hiểm. Hắn bỗng run lên tỉnh ngộ, lập tức trấn tĩnh tâm thần lại, bỏ bớt phần mạo hiểm mà đi vào chính đạo, không gấp rút tấn công để tranh tiên. Lúc này thì hai người trở lại tương đương, bất phân thắng bại.

Thạch Phá Thiên ngồi xem hai người tỉ đấu, dĩ nhiên là không hiểu những lý lẽ bên trong, nhưng từng chiêu từng thức đều lọt vào mắt chàng.

Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm đặt hết tinh thần vào cuộc đấu, quên cả mọi việc bên ngoài. Sau khi hai bên đã qua lại dư hai trăm chiêu, Bạch Vạn Kiếm trở nên say mê, cho rằng đây là trận đấu hào hứng nhất trong đời. Hắn không nghĩ gì tới cái nhục vừa bị Mẫn Nhu tha chết, cơ hồ quên mất. Thạch Thanh cũng rất vui mừng vì hôm nay gặp được đối thủ, hai người đều nảy tình luyến tiếc, thương mến nhau. Bao nhiêu ý nghĩ thù địch đều tiêu tan dần, hai người càng lúc càng muốn học hỏi lẫn nhau, cứ mang những tuyệt kỹ của mình ra để xem đối phương hóa giải thế nào.

Trong miếu vang lên những tiếng choang choảng liên tiếp do hai thanh kiếm chạm nhau. Một lúc sau, Bạch Vạn Kiếm ra chiêu Ám Hương Sơ Ảnh, mũi kiếm đâm chênh chếch tới. Thạch Thanh hô khẽ: “Hảo kiếm pháp!” rồi dựng trường kiếm lên đỡ. Chiêu này hai người đã vận nội lực, hai thanh kiếm đụng nhau thật mạnh, vang lên một tiếng rùng rợn. Thanh kiếm trong tay Thạch Thanh bị gãy làm đôi. Lập tức bên trái ông có một thanh kiếm đưa tới.

Thạch Thanh đưa tay trái ra đón lấy, xuất ngay chiêu Tả Hữu Phùng Nguyên, trường kiếm đưa từ trái qua phải, vạch thành một hình cánh cung để ngăn cản đối phương đánh tới. Không ngờ Bạch Vạn Kiếm lùi lại một bước, lên tiếng: “Đây chỉ vì thanh kiếm của Thạch bang chúa không được tốt, không phải vì kiếm chiêu cao hay thấp. Giả tỉ Thạch trang chúa có thanh Hắc Kiếm trong tay thì dĩ nhiên không thể gãy kiếm được. Đó chính là lỗi của tiểu đệ.”

Hắn nói tới đây đột nhiên biến sắc mặt, vì phát giác ra người đưa trường kiếm cho Thạch Thanh chính là Mẫn Nhu, đồng thời nhìn thấy mười tám đệ tử bản phái đã nằm lăn dưới đất. Thì ra trong lúc Bạch Vạn Kiếm để hết tinh thần vào cuộc tỉ đấu với Thạch Thanh, thì Mẫn Nhu đã đả thương hết mười tám đệ tử phái Tuyết Sơn. Người nào cũng chỉ bị thương rất nhẹ, nhưng Mẫn Nhu đã vận kình lực vào mũi kiếm đâm trúng huyệt đạo, khiến cho người đã trúng kiếm không nhúc nhích được nữa. Đó cũng là một tuyệt kỹ về kiếm pháp của Mẫn Nhu. Bà vốn tính tình nhân hậu không muốn sát hại địch nhân, nên đã dùng phép điểm huyệt gia truyền để vận vào kiếm thuật. Mười tám tên đệ tử phái Tuyết Sơn tuy nói là trúng kiếm, nhưng thực ra đã bị Mẫn Nhu điểm huyệt. Có điều nội lực của bà chưa đến cảnh giới thượng thừa, nếu không thì mũi kiếm đụng vào huyệt đạo đối phương là đủ khống chế, không cần tổn thương đến da thịt làm gì.

Mẫn Nhu đưa trường kiếm cho Thạch Thanh, rồi dùng mũi chân hất một thanh trường kiếm của bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đánh rơi xuống đất cho nó vọt lên, rồi nắm trong tay. Bà đứng sang bên trái, sau Thạch Thanh chừng ba bước, bất cứ lúc nào cũng có thể xông đến giáp công.

Bạch Vạn Kiếm thấy tình trạng này thì trái tim tựa hồ chìm xuống, tự nhủ: “Mình bất quá chỉ ngang sức với Thạch Thanh. Nếu Thạch phu nhân lại tham gia vào chiến cuộc thì tình trạng cũ sẽ tái diễn, còn tỉ đấu thêm làm gì nữa?” Hắn liền nói: “Tiếc là Phong sư ca không có ở đây. Nếu không thì bọn tại hạ hai người hợp lực còn có thể lãnh giáo hai vị một phen. Hôm nay thì thắng bại đã phân, chẳng còn gì để nói.”

Thạch Thanh đáp: “Không sai! Sau này có dịp gặp Phong Hỏa Thần Long…” Ông nói chưa dứt lời, chợt nhớ ra Phong Vạn Lý đã vì con mình là Thạch Trung Ngọc mà bị sư phụ chặt cụt một tay, dù sau này có gặp cũng không thể đấu kiếm được nữa. Thạch Thanh vội ngừng lại, không nói thêm nữa, trên mặt cũng lộ vẻ hối hận. Vợ chồng Thạch Thanh liên thủ đánh bại hết mười tám người phái Tuyết Sơn mà không thấy vui mừng chi hết.

* * *

Thạch Phá Thiên ngồi dưới đất, thấy Bạch Vạn Kiếm vẻ mặt xám xanh hiển nhiên đau khổ vô cùng, còn Thạch Thanh và Mẫn Nhu cũng lộ vẻ thương tiếc, thì nghĩ thầm: “Mười tám gã sư đệ phái Tuyết Sơn đều là đồ tồi, không gã nào đủ sức liên thủ với Bạch đại hiệp để đấu với vợ chồng Thạch trang chúa một trận ra hồn, thật là mất hứng thú.” Chàng nhớ tới hồi nãy Bạch Vạn Kiếm đã nhìn mình ra chiều luyến tiếc thì nghĩ bụng: “Bạch đại hiệp đối với mình rất tốt, còn vị phu nhân áo trắng kia cũng từng cho mình tiền bạc, đối đãi cũng không tồi. Bọn họ ở đây tỉ kiếm mà lại thiếu người, xem chừng họ chỉ trông mong vị Phong sư ca nào đó, nhưng y lại không ở đây nên mọi người đều mất hứng thú. Mình chẳng hiểu gì về kiếm pháp nhưng vừa rồi xem đã thuộc lòng, tưởng cũng nên giúp cho thêm phần hào hứng.”

Chàng nghĩ vậy liền đứng dậy, bắt chước Bạch Vạn Kiếm khi nãy, dí đầu ngón chân vào một thanh kiếm dưới đất, nội lực vừa tới, thanh kiếm đã vọt lên nghe vù một tiếng. Chàng giơ tay ra bắt lấy thanh kiếm rồi cười nói: “Các vị còn muốn đấu kiếm, mà lại thiếu mất một người nên cuộc đấu phải bỏ dở. Vậy tại hạ muốn cùng Bạch đại hiệp liên thủ để đấu tiếp cho vui. Nhưng tại hạ lại không biết sử kiếm, xin quý vị chỉ dạy thêm.”

Bạch Vạn Kiếm và vợ chồng Thạch Thanh thấy chàng đột nhiên đứng dậy đều giật mình kinh hãi. Nhất là Bạch Vạn Kiếm, hắn nhớ chính mình đã điểm mười mấy huyệt đạo toàn thân chàng, không hiểu sao chàng lại đứng dậy bước đi được. Hắn tự nhủ: “Chắc là Mẫn Nhu sau khi đánh ngã hết mười tám đệ tử bản phái đã sang đó giải khai huyệt đạo cho nó.”

Thạch Thanh và Mẫn Nhu thì nghĩ: “Bạch Vạn Kiếm đã bắt được con mình, dĩ nhiên hắn phải điểm vào những huyệt đạo trọng yếu đề phòng nó chạy trốn, sao lại đi được?” Mẫn Nhu la lên: “Ngọc…” Bà định gọi Ngọc nhi, nhưng chợt nghĩ ra điều gì liền im bặt, quay lại nhìn trượng phu hỏi ý.

Thực ra Thạch Phá Thiên bị Bạch Vạn Kiếm điểm huyệt rồi bỏ nằm dưới đất đã hơn hai giờ rồi. Bạch Vạn Kiếm điểm huyệt người khác như vậy, ít ra phải sáu giờ sau mới có thể tự giải khai được. Hắn không ngờ nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu, tuy chàng chẳng hiểu gì về cách giải khai huyệt đạo mà chưa tới một giờ, luồng nội lực ghê gớm tự động vận hành đã giải khai được hết những huyệt đạo bị phong tỏa. Thạch Phá Thiên cũng hoàn toàn không hay biết gì, chỉ cảm thấy tay chân đang tê cứng không thể động đậy được, bây giờ tự nhiên lại có thể cử động được.

Bạch Vạn Kiếm lớn tiếng hỏi: “Sao ngươi lại muốn liên thủ với ta? Ngươi muốn thử những kiếm pháp đã học được của phái Tuyết Sơn ư?”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Vừa rồi ta thấy các ngươi luyện kiếm thực sự cũng học được một ít, chỉ không biết có đúng không.” Chàng liền gật đầu đáp: “Những gì ta học được cũng không biết có đúng không, xin được Bạch đại hiệp cùng Thạch trang chúa và Thạch phu nhân chỉ điểm thêm cho.” Chàng nói xong, vung thanh trường kiếm lên, đứng bên cạnh Bạch Vạn Kiếm. Chiêu kiếm đầu tiên chàng sử dụng chính là chiêu Song Đà Tây Lai trong Tuyết Sơn kiếm pháp.

Vợ chồng Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu cứ chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên. Từ lúc họ đưa chàng lên thành Lăng Tiêu học võ nghệ, đã mấy năm dài không gặp mặt. Bây giờ được trùng phùng ở đây, trong lòng họ không khỏi lẫn lộn nhiều thứ tình cảm, vừa thương mến, mừng vui, vừa căm phẫn, hối hận, thật khó mà diễn tả. Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy con đã cao lớn hơn lúc ra đi rất nhiều, thân hình rất tráng kiện, khuôn mặt đã có những nét phong trần tiều tụy, nhưng lại không mất vẻ anh hùng tuấn tú, nhất là đôi mắt sáng ngời ẩn tàng nội lực thâm hậu vô biên.

Thạch Thanh là bậc nghiêm phụ, nghĩ tới đứa con bất hiếu này đã làm bại hoại gia phong Huyền Tố Trang, phạm vào đủ thứ quy củ võ lâm, khiến cho vợ chồng mình phải xấu hổ với bằng hữu giang hồ. Mấy năm nay vợ chồng Thạch Thanh lén lút đi dò la tung tích con trai, hoàn toàn không dám giáp mặt đồng đạo võ lâm. Thế mà bây giờ chàng gặp song thân lại thản nhiên không bái kiến, lại còn cầm kiếm ra mặt chống đối lại cha mẹ. Chỉ một hành động này mà xét, cũng đủ thấy những hành vi ô uế trên phái Tuyết Sơn của chàng không phải là chuyện bịa. Thạch Thanh tức giận vô cùng, nhưng chỉ ngấm ngầm nghiến răng, cố nén để khỏi phát tác trước mặt Bạch Vạn Kiếm.

Mẫn Nhu lại có tấm lòng từ mẫu, tỏ ra vui mừng hơn là nóng giận. Bà vốn có hai đứa con trai, con thứ đã bị kẻ thù giết hại, nên bao nhiêu tình cảm thương yêu dồn hết sang cho Thạch Trung Ngọc. Bà đã từng bênh vực cậu quý tử trước mặt chồng, nói là lập luận một chiều của phái Tuyết Sơn chưa chắc đã đáng tin. Theo bà suy đoán, chắc khi ở thành Lăng Tiêu, Thạch Trung Ngọc đã bị người ta áp bức đến không còn chỗ dung thân, nhiều phần là đứa cháu gái của Bạch Tự Tại được nuông chiều đã ăn hiếp nó quá đỗi, nên nó giận dữ mà phản kháng. Nếu không thì một thằng bé như thế sao có thể gây ra những chuyện cưỡng gian phạm thượng, huống hồ con gái nhà họ Bạch lúc đó chỉ mới mười hai mười ba tuổi, Thạch Trung Ngọc chắc không thể nào đối xử với một tiểu cô nương như thế.

Mấy năm nay Mẫn Nhu dày dạn phong trần, cùng chồng len lỏi khắp nơi tìm con mà không rõ tung tích nó đâu. Lắm lúc bà quá thương con mà âm thầm khóc lóc, lo rằng con trai mình đã bỏ mạng trong Đại Tuyết Sơn bên Tây Vực, hay bị thú dữ ăn thịt mất rồi. Bây giờ Mẫn Nhu được gặp con, dù nó có tội lớn bằng trời đi nữa thì tấm lòng từ mẫu cũng tha thứ hết. Thấy Thạch Phá Thiên cầm kiếm tiến ra, chân bước như mây trôi nước chảy, tư thế ngay thẳng đĩnh đạc, thì bà càng nức lòng hả dạ, chỉ giận mình không thể chạy lại ôm choàng lấy nó vào lòng để vỗ về nâng niu một lúc, cho bõ tấm lòng thương nhớ lâu nay.

Mẫn Nhu biết rõ con mình từ nhỏ đã tâm cơ mau lẹ, nhanh trí hơn người. Bà chắc Thạch Phá Thiên cố ý liên thủ với Bạch Vạn Kiếm để tỉ kiếm với mình, nhất định là có kế hoạch gì đây. Bà nghĩ vậy, rồi một mặt thì băn khoăn lo lắng chồng mình có thể nóng giận trách mắng, mặt khác thì muốn xem võ công của con trai trong mấy năm nay đã tiến bộ đến mức nào, liền lên tiếng: “Được lắm! Bây giờ chúng ta đã có bốn người, vậy chia ra làm hai cặp để nghiên cứu võ công. Chúng ta giao hẹn cứ điểm tới đối phương là dừng tay, tưởng cũng không quan hệ lắm.”

Giọng nói của Mẫn Nhu hết sức dịu hiền lại tràn đầy yêu thương, chỉ vì trong lòng kích động nên âm thanh có phần run rẩy. Thạch Thanh liếc nhìn vợ một cái rồi gật đầu. Mẫn Nhu tính tình nhu hòa, bất luận việc gì nàng cũng làm theo ý lang quân, không bao giờ có chủ trương trái ngược với chồng. Nhưng những lúc hiếm hoi bà đưa ra một vài ý kiến thì Thạch Thanh đều nhất nhất nghe theo, không bao giờ phản đối cả. Ông thấy vợ nói như thế thì nghĩ rằng: “Một là nàng muốn xem võ công của con trai, hai là nàng muốn Bạch Vạn Kiếm thua nhanh mà phải tâm phục khẩu phục. Thật ra Thạch Trung Ngọc tuổi tác còn nhỏ, dù thông minh đến đâu thì kiếm pháp cũng không thể cao hơn mấy vị sư thúc của phái Tuyết Sơn vừa rồi đã bị Mẫn Nhu đánh ngã. Huống chi thằng con mình chẳng khi nào lại tận tâm ra sức giúp Bạch Vạn Kiếm để chống lại cha mẹ.”

Bạch Vạn Kiếm lại có chủ ý riêng. Hắn nghĩ bụng: “Ngươi muốn dùng kiếm pháp của phái Tuyết Sơn liên thủ với ta để chống lại kẻ địch, tức là ngươi đã thừa nhận làm đệ tử phái Tuyết Sơn. Bất luận cuộc tỉ đấu này có kết quả như thế nào, chỉ cần ta không bị ba người trong gia đình ngươi giết chết, nhất định có thể dùng lệnh phù của chưởng môn phái Tuyết Sơn để bắt ngươi theo ta về Tuyết Sơn. Vợ chồng Thạch Thanh mà ngăn trở, tức là họ phá hoại quy củ võ lâm.” Hắn bèn giơ trường kiếm lên nói: “Lấy hai chọi hai cũng được, mà lấy ba chống một cũng không sao. Dù sao thì Bạch mỗ cũng là bại tướng dưới tay Huyền Tố Song Kiếm, bây giờ có phải bỏ mạng để quân tử được thỏa lòng thì cũng đáng.” Hắn đã quyết định là chịu chết, nếu như ba người nhà họ Thạch bao vây tấn công mình thì dù sao cũng phải giết Thạch Trung Ngọc đã. Chỉ cần không lo tự bảo vệ mình, việc liều mạng giết nó xem ra cũng không khó lắm.

Thạch Phá Thiên để ý thấy thanh kiếm trong tay hắn đang rung lên trỏ vào Thạch Thanh, tựa như tấn công mà thực ra là phòng thủ, liền nói: “Thế thì để ta tấn công trước.” Chàng dứt lời, trường kiếm cũng rung lên, lập tức đâm tới bả vai Thạch Thanh. Chiêu kiếm này chàng phóng ra không lấy gì làm mau lẹ cho lắm, thế mà nội lực đi tới đâu kiếm phong rít lên veo véo tới đó.

Kiếm chiêu đúng là của phái Tuyết Sơn, nhưng nội lực thì hùng hậu vô cùng, Bạch Vạn Kiếm không thể bì kịp.

Thạch Phá Thiên vừa phóng ra một chiêu, cả ba người Bạch Vạn Kiếm, Thạch Thanh và Mẫn Nhu đồng thời la lên một tiếng: “Ái chà.”

Bạch Vạn Kiếm thấy Thạch Phá Thiên xuất chiêu này, tuy không khỏi kinh hãi nhưng cũng có ý coi thường, nghĩ bụng: “Chiêu Vân Hoành Tây Lĩnh mà ngươi giơ tay phải lên cao quá, chắc chắn sẽ bị quá đà. Tay trái lại không đặt đúng chỗ, để có thể đưa ngón tay ra điểm huyệt đối phương. Chân trái đưa ra quá bốn tấc, địch nhân có thể phản kích nhanh mà không sợ chân trái của ngươi phóng cước trả đòn.”

Bạch Vạn Kiếm vừa ngó qua đã thấy chiêu thức của Thạch Phá Thiên có đến bảy tám chỗ sơ suất, nhưng chỉ thoáng cái là khinh thị biến thành kinh ngạc. Kiếm khí của chàng mãnh liệt phi thường, hắn chưa từng thấy ai có nội lực nào ghê gớm đến thế. Chỉ có một lần phụ thân hắn uống rượu ngà ngà rồi biểu diễn kiếm pháp cho mấy cao đồ xem, lão phát huy nội lực cho kiếm phong rít lên veo véo. Nhưng cũng phải sau ba bốn chục chiêu, nội lực mới ngưng tụ dần dần, kiếm phong mới réo lên như thế. Hắn tự hỏi: “Thằng lỏi này mới xuất chiêu đầu mà đã có tiếng réo như thế, chẳng lẽ gã gắn còi hay vật quái gở gì vào chuôi kiếm để kiếm phong rít lên như thế hay sao?” Nhưng hắn nghĩ lại thì biết mình nghi bậy ngay.

Thạch Thanh la lên một tiếng rồi vội vung kiếm lên gạt. Nghe “choang” một tiếng, thanh trường kiếm trong tay ông vừa chạm vào kiếm của Thạch Phá Thiên là bị gãy làm hai đoạn, nửa trên bay vọt đi cắm ngập vào tường, sâu đến mấy tấc. Thạch Thanh cảm thấy cổ tay tê rần, cánh tay rung động đến tận vai, nửa thanh kiếm trên tay cũng suýt bị văng đi mất. Tuy ông đang tức giận đứa con hư đốn này, nhưng là người học võ gặp phải cao thủ hơn mình, bất giác thán phục mà buột miệng tán dương: “Hay lắm!”

Thạch Phá Thiên thấy thanh trường kiếm trong tay Thạch Thanh bị gãy, giật mình la hoảng: “Ái chà!” Rồi chàng lập tức thu kiếm về, trên mặt đầy vẻ hối hận và quan tâm. Lần này chàng quay mặt về phía có ánh nến. Thạch Thanh và Mẫn Nhu thấy thái độ của chàng liền cảm thấy đôi chút ấm áp trong lòng, nghĩ thầm: “Ngọc nhi vẫn là một đứa con hiếu thuận.”

Thạch Thanh liệng thanh kiếm gãy đi, lại dùng ngón chân hất một thanh kiếm khác ở dưới đất lên rồi nói: “Đừng kiêng nể chi hết. Tiếp chiêu đây!” Dứt lời, ông vung kiếm đánh vèo một cái nhằm đâm vào đùi trái Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên chưa từng luyện kiếm bao giờ. Nội lực chàng tuy rằng rất mạnh, nhưng trong lúc tấn công mới có thể phát ra uy lực, chứ gặp phải chiêu kiếm hư hư thực thực, chợt tả chợt hữu của Thạch Thanh thì chẳng biết đường nào mà đỡ gạt. Mới một chiêu mà chàng đã chân tay luống cuống, vội vã sử chiêu Thương Tùng Nghinh Khách hoành kiếm đón đỡ.

Trường kiếm của Thạch Thanh hơi nghiêng đi một chút, mũi kiếm đã vạch trúng đùi phải chàng. Giả tỉ trước mắt không phải là con trai mà là kẻ địch phải giết, thì chiêu kiếm này đã chặt đứt chân phải của Thạch Phá Thiên rồi. Trường kiếm của ông vừa nhè nhẹ nghiêng đi, Mẫn Nhu đã sợ hãi đến toát mồ hôi lạnh đầy người, la lên thất thanh: “Thạch ca!”

Thạch Phá Thiên nhìn xuống chân phải mình thì thấy ống quần rách một vệt dài, nhưng không thương tổn đến da thịt. Chàng bèn cười nói: “Đa tạ trang chúa hạ thủ lưu tình. Kiếm pháp của tại hạ chưa học được đàng hoàng, còn thua trang chúa xa lắm.”

Chàng nói câu này hết sức thành thực, nhưng khổ thay, người nói vô ý mà người nghe lại hữu tâm. Câu nói của chàng vừa lọt vào tai Bạch Vạn Kiếm, hắn lấy làm khó chịu, nghĩ bụng: “Ngươi nói kiếm pháp ngươi còn kém hắn xa, thì có khác gì ngươi bảo kiếm pháp phái Tuyết Sơn kém cỏi? Lại còn nói chưa học được đàng hoàng, tức là nói phái Tuyết Sơn của ta ích kỷ không chịu dạy dỗ ngươi tử tế. Câu này thật là làm mất thể diện phái Tuyết Sơn, Bạch Vạn Kiếm này dù chỉ còn một hơi thở cũng không chịu nổi thằng lỏi con sỉ nhục chê cười như thế.”

Thạch Thanh cũng nhíu mày suy nghĩ: “Nhu muội thường nói là Ngọc nhi ở phái Tuyết Sơn bị bọn sư thúc, sư huynh ăn hiếp, nhưng mình vẫn nghĩ rằng Bạch Tự Tại tiền bối là người ngay thẳng, Phong Vạn Lý là anh hùng nghĩa hiệp, đã nhận con mình làm đồ đệ thì chắc chắn không xử tệ với nó. Nhưng bây giờ mình xem Ngọc nhi sử hai chiêu kiếm pháp, tuy bề ngoài thì đúng nhưng sơ hở đến hàng trăm chỗ, làm sao có thể chống đối với địch? Xem thế thì quả nhiên nó chẳng học được chút võ công chân thật nào ở thành Lăng Tiêu hết. Chiêu kiếm đầu thì nội lực quả nhiên ghê gớm, nhưng nội lực đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến phái Tuyết Sơn, ngay cả nội lực của Uy Đức Tiên Sinh cũng chưa chắc đã thâm hậu được đến thế. Vậy thì nội lực của con mình nhất định đã do một kỳ duyên nào đó mà được. Mình phải truy cứu cho rõ vụ này, mới có thể phân biệt được trắng đen phải trái.” Ông liền nói: “Cứ lại đây. Chúng ta đừng kiêng dè gì cả, cứ tỉ thí đàng hoàng.”

Thạch Thanh vừa dứt lời, tay trái giữ kiếm quyết, phóng ra một chỉ đâm vào Bạch Vạn Kiếm. Hắn bèn vung kiếm lên gạt, đồng thời phóng kiếm trả đòn. Mẫn Nhu cũng từ từ phóng kiếm đâm tới Thạch Phá Thiên, nhưng bà cố ý ra chiêu thong thả để con trai mình không đến nỗi tránh né không kịp.

Thạch Phá Thiên thấy Mẫn Nhu chậm rãi đâm tới, chàng nhớ lại ngày trước ở Hầu Giám Tập đã được bà tặng bạc, liền toét miệng ra cười rồi gật đầu cảm tạ, sau đó mới nhẹ nhàng đưa kiếm lên đỡ. Mẫn Nhu thấy thái độ của chàng như vậy thì cho rằng nó đang chào mẹ, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Bà lại xoay tay kiếm lướt qua sau lưng chàng. Thạch Phá Thiên thoáng nghĩ trong đầu: “Đối với chiêu này thì ta phải chiết giải cách này mới ổn.” Rồi chàng sử một chiêu trong Tuyết Sơn kiếm pháp để gạt thế đâm tới của Mẫn Nhu.

Mẫn Nhu thấy kiếm pháp của Thạch Phá Thiên không thuần thục chút nào, xuất chiêu chậm chạp mà thủ pháp lại vụng về, thì trong lòng rất lấy làm khó chịu. Bà nghĩ bụng: “Những tay kiếm khách phái Tuyết Sơn vẫn tự hào là giàu lòng nghĩa hiệp, không ngờ họ dạy kiếm pháp cho con mình một cách lờ mờ như vậy.” Mẫn Nhu vừa nghĩ vừa biến chiêu nhằm đâm vào vai trái Thạch Phá Thiên. Mỗi chiêu phóng ra, bà đều đợi xem cách hóa giải của Thạch Phá Thiên rồi mới thực sự đâm đến. Nếu chàng không biết cách hóa giải thì bà ra đòn lại càng chậm chạp hơn để chờ đợi.

Mẫn Nhu ra chiêu chậm rãi như vậy, đây không còn gì là cuộc tỉ đấu nữa, mà giống như khi thầy trò chiết chiêu dạy kiếm, lại thêm vào tấm lòng nhẫn nại vô bờ của người từ mẫu. Mẫn Nhu và Thạch Phá Thiên qua lại được mười mấy chiêu, lòng tự tin của Thạch Phá Thiên đã tăng lên rất nhiều. Mẫn Nhu càng mừng thầm trong bụng, mỗi khi Thạch Phá Thiên sử được một chiêu không tệ thì bà lại gật đầu khen ngợi.

Thạch Phá Thiên cũng hiểu là bà muốn chỉ điểm kiếm pháp cho mình. Khi chàng thấy bà chưa gật đầu, lại sử chiêu đó một lần nữa. Nếu Mẫn Nhu vẫn cho rằng chiêu kiếm đó chưa được tốt thì chàng lại sử tới lần thứ ba. Bà cứ trở đi trở lại một chiêu, cho đến lúc chàng chiết giải thông thạo mới thôi.

Bên kia thì Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm đã đánh nhau đến lần thứ ba, hai người cùng hiểu rất kỹ bản lãnh đối phương từ chỗ sở trường tới chỗ sở đoản, nên lại càng không dám chếnh mảng hay để sơ hở chút nào. Mới trao đổi mấy chiêu, hai bên đã để hết tâm thần vào cuộc đấu, nên những chuyện gì xảy ra bên ngoài họ hoàn toàn không thấy không nghe gì hết. Cuộc tỉ thí giữa Mẫn Nhu và Thạch Phá Thiên là thật hay giả, ai chiếm thượng phong, Thạch Bạch hai người đều không rảnh rỗi để liếc qua xem thử. Họ biết rằng trong trận đấu này, một trong hai người chỉ hơi phân tâm một chút, sơ sẩy một ly là có thể mất mạng ngay, ít nhất cũng bị trọng thương.

Mẫn Nhu vừa chỉ điểm kiếm pháp cho Thạch Phá Thiên, vừa thoải mái quan sát trượng phu tỉ đấu cùng Bạch Vạn Kiếm. Bà lắng tai nghe thấy hơi thở của Thạch Thanh vẫn đều đặn thì biết nội lực của ông còn dư dật, nếu chưa nắm được phần thắng, thì nhất định cũng chưa đến nỗi hạ phong. Bà thấy Thạch Phá Thiên cứ diễn đi diễn lại từng chiêu cho đến hết, trong bảy mươi hai chiêu Tuyết Sơn kiếm pháp thì chàng đã quên mất hai mươi mấy đường. Bà cứ theo thứ tự mà dẫn dụ cho chàng diễn lại một lần nữa.

Thạch Phá Thiên vốn tư chất thông minh, nội lực lại cực kỳ hùng hậu. Chàng biểu diễn kiếm pháp đến lần thứ hai thì so với lần đầu đã khác nhau xa lắm, bây giờ đường kiếm của chàng đã đủ cả công lẫn thủ, chiết giải cũng mau lẹ hơn trước nhiều. Nhưng chàng chỉ học được có bốn mươi mấy chiêu kiếm pháp.

Mẫn Nhu thấy trượng phu cùng Bạch Vạn Kiếm vẫn đang giằng co bất phân thắng bại. Bà nghĩ thầm: “Ta chiết giải cho Ngọc nhi hết lần này nữa, sẽ qua đó tương trợ. Chúng ta không giằng co với Bạch Vạn Kiếm nữa, đưa Ngọc nhi lên đường quách cho xong.” Bà thấy Thạch Phá Thiên phóng kiếm đâm tới, liền vung kiếm lên gạt, rồi lại phản kích một chiêu. Bà tưởng chiêu này chàng đã hiểu cách hóa giải rồi. thì có thể đón đỡ dễ dàng.

Nào ngờ ngay lúc ấy mắt bà tối sầm lại. Thì ra ngọn nến đã cháy hết, đột nhiên tắt ngấm. Mẫn Nhu đang phóng kiếm ra, thấy nến tắt bèn lập tức thu chiêu về. Không ngờ Thạch Phá Thiên chưa có mảy may kinh nghiệm, mắt vừa tối sầm lại, đáng lý phải lùi về phía sau thì chàng lại tiến lên trước, toan kể lại chuyện cũ rồi ngỏ lời cảm tạ bà đã chỉ điểm kiếm pháp cho mình.

Thạch Phá Thiên bước lên, là tự đưa mình vào lưỡi kiếm của Mẫn Nhu. Mẫn Nhu thấy kiếm của mình đang thu về đột nhiên bị vướng lại, thì biết ngay lưỡi kiếm đã phạm vào người đối phương. Bà giật mình kinh hãi, vội liệng kiếm ra sau, rồi ôm choàng lấy Thạch Phá Thiên trong bóng tối, kinh hãi la lên: “Ngươi bị trúng kiếm rồi phải không? Bị thương ở chỗ nào?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Cháu… cháu…” Rồi chàng ho rũ rượi, nói không ra tiếng nữa.

Mẫn Nhu thắp lửa lên xem thì thấy trước ngực Thạch Phá Thiên máu chảy đầm đìa. Bà vốn là người rất bình tĩnh, mà lúc này phải hoảng sợ đến mất hồn, hoang mang quay lại gọi Thạch Thanh: “Sư ca… Làm sao bây giờ…”

Thạch Thanh và Bạch Vạn Kiếm vẫn tiếp tục tỉ đấu trong bóng tối, chỉ nghe tiếng gió cũng biết đường để đánh đỡ kịch liệt, không chịu ngừng tay. Mãi đến lúc Mẫn Nhu bật lửa lên rồi la hoảng, Thạch Thanh mới liếc mắt nhìn sang, thấy Thạch Phá Thiên nằm lăn dưới đất, còn vợ mình cực kỳ hoảng hốt. Tình cha con tha thiết khiến ông không khỏi nao nao trong dạ.

Ông vừa loạn tâm một chút đã để lộ sơ hở. Bạch Vạn Kiếm vừa nhìn thấy chỗ sơ hở của đối phương liền phóng kiếm đâm tới. Chiêu kiếm này rất nguy hiểm, Thạch Thanh muốn đỡ cũng không kịp nữa. Bạch Vạn Kiếm đưa thanh trường kiếm tới trước ngực Thạch Thanh còn cách chừng tám tấc, liền thu kiếm lại.

Vừa rồi Mẫn Nhu cũng đã ra chiêu đưa được Bạch Vạn Kiếm vào tử địa, rồi bà xoay kiếm đi không đâm tới, cố ý tha mạng cho hắn. Bây giờ hắn lại đưa được mũi kiếm tới yếu huyệt Thạch Thanh rồi thu chiêu về, lấy một mạng đổi một mạng, hai bên hòa nhau, không ai nợ ai nữa.

Thạch Thanh đang lo lắng về vết thương của con trai, chẳng còn lòng dạ nào nghĩ tới chuyện tỉ kiếm hơn thua vinh nhục nữa. Ông lập tức đi tới, cúi xuống xem vết thương của Thạch Phá Thiên thì thấy trước ngực chàng chỉ từ từ ứa máu ra, hiển nhiên mũi kiếm đâm vào không sâu lắm. Thì ra Mẫn Nhu phản ứng rất nhanh, mũi kiếm vừa đâm vào người Thạch Phá Thiên, bà đã vội rụt tay lại ngay.

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đã hơi yên tâm một chút, thì đột nhiên có một mũi kiếm lạnh toát chỉ vào cổ Thạch Phá Thiên. Bạch Vạn Kiếm lạnh lùng lên tiếng: “Lệnh lang làm nhục ái nữ của tại hạ, khiến cho nó tuy còn nhỏ tuổi mà cũng không chịu được nhục nhã, phải nhảy xuống vực thẳm tự tận. Cái thù đó chẳng thể không trả. Nếu hai vị để tại hạ đưa gã về thành Lăng Tiêu, thì ít ra gã cũng còn sống thêm được hai tháng. Nếu hai vị lại dùng vũ lực, thì tại hạ phải đâm gã chết ngay.”

Thạch Thanh và Mẫn Nhu đưa mắt nhìn nhau. Mẫn Nhu sợ hãi run lên, bà biết Bạch Vạn Kiếm đã nói là làm. Khi mũi kiếm này đâm xuống, thì dù hai vợ chồng có hiệp lực giết chết hắn cũng chỉ vô ích. Thạch Thanh đưa mắt ra hiệu cho Mẫn Nhu, rồi nắm lấy cổ tay vợ mình tung mình nhảy ra ngoài điện. Mẫn Nhu quay lại một lần nữa, nhìn Thạch Phá Thiên vẫn còn nằm dưới đất. Lòng bà vừa xót xa vừa đau đớn.

Mồi lửa trong tay bà loé lên một cái rồi tắt ngấm, trong miếu lại tối mò.

Bạch Vạn Kiếm nghiêng đầu lắng tai nghe, thấy bước chân hai vợ chồng Thạch Thanh mỗi lúc một xa. Tuy nhiên hắn biết rằng hai người nhất quyết không chịu buông trôi vụ này. Đường từ đây về thành Lăng Tiêu còn xa lắm, dọc đường thế nào cũng còn vô số phong ba, nhiều trận chiến đấu dữ dội. Nhưng ít ra thì ngay bây giờ vợ chồng Thạch Thanh không quay lại nữa. Bạch Vạn Kiếm hồi tưởng lại cuộc đấu kiếm vừa rồi, tự nhủ: “Thật là cực kỳ nguy hiểm. Giả tỉ cây nến chỉ dài thêm nửa tấc nữa, thì thằng lỏi họ Thạch này chắc chắn được cha mẹ cứu đi.”

Bạch Vạn Kiếm định thần lại, hít mạnh một hơi dài rồi thò tay vào bọc định lấy hỏa đao hỏa thạch ra thắp lửa thì chẳng thấy đâu. Hắn chợt nhớ ra, trước khi đi đến tổng đà bang Trường Lạc, hắn đã giao những thứ đó cho sư đệ Văn Vạn Phu cho khỏi vướng víu khi kịch đấu. Ta nên biết những tay cao thủ lúc động võ, có khi chỉ cách chừng sợi tóc là có thể nguy hiểm khôn lường, trong người nhẹ được chút nào thì linh hoạt thêm chút ấy. Bạch Vạn Kiếm liền mò vào bọc một tên sư đệ nằm cạnh đấy, lấy hỏa đao hỏa thạch cùng giấy mồi để thắp lửa lên. Hắn đang tìm nến để thắp, thì đột nhiên thộn mặt ra.

Thạch Trung Ngọc vốn nằm ngay bên chân hắn, không biết đã biến mất tự bao giờ.

Bạch Vạn Kiếm kinh hãi đến lạnh xương sống, mồ hôi toát ra đầm đìa, tóc dựng cả lên, la thầm: “Có ma! Có ma! Nếu không có ma quỷ xuất hiện thì sao gã Thạch Trung Ngọc này mới trong nháy mắt đã biến mất không thấy tông tích, mà chính mình cũng không phát giác?” Hắn vứt mồi lửa đi, xách trường kiếm chạy ra ngoài miếu. Nhưng trên trời lác đác sao thưa, bốn bề vắng ngắt, tuyệt không một bóng người.

Lúc đầu Bạch Vạn Kiếm la lên “Có ma”, nhưng rồi hắn nghĩ ra ngay, đây chỉ là một cao thủ nào đó đứng cạnh, nhân lúc mình móc túi lấy đá lửa mà cứu người đem đi. Nhiều phần đây là Bối Hải Thạch. Hắn vội nhảy lên nóc điện, đảo mắt nhìn quanh bốn phía thì thấy ở hướng đông nam có một khu rừng cây rậm rạp, không chừng kẻ gian còn nấp tại đó. Hắn liền tung người xuống, chạy thẳng tới ven rừng lớn tiếng quát: “Lén lút rình mò như vậy đâu phải là anh hùng hảo hán? Có giỏi thì ra đây quyết một trận tử chiến.”

Hắn đợi một lát, trong rừng vẫn không có tiếng người. Hắn lại la lên: “Bối đại phu! Là ngươi có phải không?” ở trong rừng cũng không có tiếng trả lời. Bạch Vạn Kiếm là người tài cao mật lớn, không sợ địch nhân ám toán, cứ ngang nhiên cầm trường kiếm tiến vào rừng. Nhưng bốn bề vắng ngắt, từng trận gió quạt vào mặt mát lạnh, lá cây rụng xuống xào xạc, mùa thu ở đất Giang Nam đã đậm lắm rồi.

Bao nhiêu lửa giận của Bạch Vạn Kiếm đã tiêu tan trong khoảnh khắc, cuộc đấu kiếm vừa rồi đã khiến hắn không dám coi thường anh hùng thiên hạ nữa. Bây giờ hắn mới hiểu câu người ta thường nói: “Ngoài trời còn có trời, trên người còn có người.” Bạch Vạn Kiếm bỗng cảm thấy trong lòng nguội lạnh, rồi bỗng dưng nhớ tới cô con gái còn nhỏ tuổi đã bị thảm tử, đau lòng không xiết.

Hồi 08: Thằng ngốc

Lúc Thạch Phá Thiên tự nhào vào lưỡi kiếm của Mẫn Nhu, chàng bị thương không lấy gì làm trầm trọng, mà cũng chẳng đau đớn gì cho lắm. Sau khi Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu đi khỏi, trong bóng tối chàng cảm thấy có người đưa tay ra bịt miệng mình, rồi người mình được nhấc bổng lên, đem đặt vào gầm bàn thờ. Sau một lúc, Thạch Phá Thiên lại thấy người đó ôm mình vọt ra khỏi miếu, rồi chạy đi rất nhanh. Đi được một quãng xa, người đó nhảy xuống một con thuyền nhỏ. Sau khi thắp đèn sáng, Thạch Phá Thiên giương mắt lên nhìn thì thấy người ngồi cạnh đèn chính là Đinh Đang. Chàng mừng rỡ không biết đến thế nào mà nói, reo to: “Đinh Đinh Đang Đang! Ai đã đem ta về đây?”

Đinh Đang bĩu môi làm mặt giận đáp: “Đương nhiên là gia gia rồi, còn ai vào đấy nữa.”

Thạch Phá Thiên ngoảnh đầu nhìn ra thì thấy Đinh Bất Tam đang ngồi bó gối ở đầu thuyền, ngẩng mặt nhìn lên trời. Chàng liền hỏi: “Gia gia! Gia gia đưa cháu đến đây làm chi?”

Đinh Bất Tam hắng giọng một tiếng rồi nói: “A Đang! Gã này đúng là một thằng ngốc, ngươi lấy làm chi? Bây giờ ngươi chưa chung phòng với gã lần nào, chém gã một đao đi cho gọn.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Không, không! Thiên ca vừa một phen trọng bệnh, đã quên mất rất nhiều việc. Nhất định chàng sẽ khỏi mà.” Nàng quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Thiên ca! Để muội xem vết thương xem thế nào?” Nàng nhẹ nhàng mở vạt áo trước ngực Thạch Phá Thiên ra, lấy khăn dấp nước lau huyết tích xung quanh vết thương, rịt thuốc cho chàng rồi xé áo buộc vết thương lại.

Thạch Phá Thiên nói: “Cảm ơn Đinh Đinh Đang Đang! Nàng cùng gia gia nấp dưới gầm bàn ở đó phải không? Cứ như đang chơi trốn tìm vậy, vui thật.”

Đinh Đang hỏi: “Thế mà Thiên ca còn nói giỡn được ư? Lúc gia gia và má má huynh đấu kiếm với gã họ Bạch, trong lòng muội hoang mang đến thế nào huynh có biết không?”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Gia gia má má ta ư? Muội nói người mặc áo đen đó là gia gia, còn phu nhân áo trắng đó là má má của ta…” Chàng ngập ngừng rồi nói tiếp: “Má má ta không giống thế, không đẹp như bà ấy đâu.”

Đinh Đang thở dài nói: “Thiên ca! Huynh bị cơn trọng bệnh này thật là thiệt hại, ngay cả cha mẹ mình cũng không nhớ nữa rồi. Muội thấy bảy mươi hai đường Tuyết Sơn Kiếm Pháp của huynh cũng không thành thuộc lắm. Chẳng lẽ ngay cả võ công huynh cũng quên hết rồi hay sao? Cái… Cái này làm sao được?”

Thì ra lúc Thạch Phá Thiên bị Bạch Vạn Kiếm bắt đi, hai ông cháu Đinh Bất Tam lập tức theo dõi. Khi Bạch Vạn Kiếm đi vòng vòng xem xét ngoài miếu, hai ông cháu thừa cơ núp dưới bàn thờ, thấy được hết tình hình vợ chồng Thạch Thanh đấu kiếm cùng Bạch Vạn Kiếm. Đinh Bất Tam vốn tưởng Thạch Phá Thiên tiến ra xuất thủ là có dụng ý gì, nào ngờ chàng sử kiếm tồi tệ quá khiến lão tức đến bể bụng, mắng thầm liên tục: “Thằng ngốc, thằng ngốc.” Nhân lúc Bạch Vạn Kiếm đang tìm hỏa đao hỏa thạch, lão đã cứu Thạch Phá Thiên ra ngoài.

Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Võ công của ta ư? Ta chẳng hiểu chút võ công nào hết. Câu này ta lại càng không hiểu.”

Đinh Bất Tam không nhịn được nữa, đột nhiên đứng phắt dậy, lớn tiếng quát: “A Đang! Cháu mê nó ở chỗ nào vậy? Sao lại đòi lấy một thằng ngốc hồ đồ như thế này? Tên nó là Cẩu Tạp Chủng thật là đúng lắm, để ta phóng một chưởng đánh chết đi cho xong. Mọi việc ngươi cứ để gia gia lo liệu, nhất định ta sẽ kiếm cho ngươi một chàng thiếu niên anh tuấn khác. Y phải là người thông minh, văn võ song toàn, có khí phách anh hùng để xứng với ngươi, và đáng là cháu rể ta.”

Đinh Đang hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Cháu… cháu không lấy người khác. Chàng… chàng không phải là kẻ ngốc, chỉ vì… chỉ vì lâm trọng bệnh nên đầu óc mê muội trong một lúc mà thôi.”

Đinh Bất Tam giận dữ nói: “Sao lại nói là mê muội trong một lúc? Cha mẹ nó rõ ràng rất giỏi võ công, thế mà nó lại tự xưng là Cẩu Tạp Chủng. Nó mà không phải là thằng ngốc thì gia gia ngươi là thằng ngốc. Ta thấy nó lúc nào cũng như bị quỷ ám, khiến ai cũng phải tức đến vỡ mật. Chân tay nó cứ quờ quạng, mỗi kiếm chiêu sơ hở đến hàng trăm chỗ, đối phương muốn đâm vào đâu cũng được. Rõ ràng người ta đã thu kiếm về mà gã còn tự nhào vào lưỡi kiếm của đối phương để bị thương mới chịu! Cái hạng bị thịt này, ta mà không giết thì sớm muộn cũng bị người hạ sát. Giang hồ sẽ đồn đại là cháu rể của Đinh lão tam bị kẻ khác đâm chết, thì ta còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa? Không được! Không thể không giết.”

Đinh Đang mím môi hỏi: “Gia gia! Gia gia muốn thế nào thì mới không giết chàng?”

Đinh Bất Tam đáp: “Hà hà! Như thế nào mới không giết gã ư? Không thể không giết, nếu không thì sau này Đinh lão tam sẽ mất thể diện. Người ta nghe nói Đinh Bất Tam tự tay hạ sát cháu rể mình thì chẳng lấy chi làm lạ, nhưng nếu họ đồn cháu rể của Đinh lão tam bị người hạ sát thì còn ra thể thống gì nữa?”

Đinh Đang nói: “Nếu thế thì gia gia đi trả thù cho chàng chứ có sao đâu?”

Đinh Bất Tam cười ha hả nói: “Ta mà đi trả thù cho những đứa tồi tệ như thế ư? Ngươi tưởng gia gia ngươi là người thế nào?”

Đinh Đang vừa khóc vừa nói: “Chính gia gia đã kêu cháu bái đường với chàng, bây giờ chàng đã là trượng phu của cháu rồi. Gia gia giết chàng đi, không phải biến cháu thành góa phụ hay sao?”

Đinh Bất Tam vò đầu bứt tai nói: “Khi ấy ta cũng đã thử qua, biết nội công của nó cũng không phải tệ, đáng làm cháu rể của ta. Ngờ đâu nó lại là một thằng ngốc. Còn nhất định muốn ta đừng giết nó, thế cũng được, nhưng phải nghe ta một điều.”

Đinh Đang thấy có cơ hội, cả mừng hỏi: “Phải nghe việc gì? Gia gia nói ngay đi!”

Đinh Bất Tam nói: “Ta nói nó là thằng ngốc đáng giết, ngươi lại nói nó không phải là thằng ngốc, không đáng giết. Được rồi! Ta hẹn cho nó trong vòng mười ngày phải đi tỉ võ với Bạch Vạn Kiếm và giết thằng cha Khí Hàn Tây Bắc đó, hay ít ra là đánh bại hắn, thì ta mới tha mạng nó, rồi cho ngươi cùng nó làm vợ chồng thật sự.”

Đinh Đang thở ra một hơi. Vừa rồi nàng thấy Bạch Vạn Kiếm đúng là một tay kiếm thuật thần thông, Thiên ca làm sao địch nổi với tay đại danh gia về kiếm thuật đó được? E rằng chàng luyện đến hai chục năm cũng chưa xong. Nàng liền nói: “Gia gia! Điều kiện của gia gia thật là khó khăn, không thể nào làm được.”

Đinh Bất Tam nói: “Khó cũng vậy mà dễ cũng vậy. Nếu nó không hạ được Bạch Vạn Kiếm, thì ta phải phóng chưởng đập chết cái đồ vô dụng đó đi.” Nói xong, lão tự thấy mình thật thông minh, thằng lỏi này dù sao cũng không làm được chuyện đó, nên rất tự đắc trong lòng.

Đinh Đang sầu khổ vô cùng, ngoảnh mặt nhìn Thạch Phá Thiên thì thấy chàng vẫn thản nhiên như không. Nàng khẽ nói: “Thiên ca! Gia gia muội ra điều kiện trong vòng mười ngày Thiên ca phải đả bại Bạch Vạn Kiếm. Huynh tính sao?”

Thạch Phá Thiên hỏi lại: “Bạch Vạn Kiếm ư? Kiếm pháp y rất giỏi, ta làm thế nào mà đả bại y được?”

Đinh Đang đáp: “Đúng thế, nhưng gia gia muội nói là nếu huynh không thắng được y, lão nhân gia sẽ giết huynh đó.”

Thạch Phá Thiên cười hì hì nói: “Tự nhiên sao lại vô cớ giết người? Gia gia nói đùa mà muội tưởng thật ư? Gia gia là người tốt, không phải là người xấu, dĩ nhiên không giết ta.”

Đinh Đang thở dài nghĩ bụng: “Thạch lang quả là bệnh thành ngu ngốc, không hiểu sự đời. Bây giờ ta đành tạm vâng lời gia gia rồi sẽ tính, trong vòng mười ngày nhất định sẽ tìm ra biện pháp để chàng trốn đi.” Nàng liền nhìn Đinh Bất Tam nói: “Được rồi, cháu đồng ý với gia gia. Trong vòng mười ngày chàng sẽ đả bại Bạch Vạn Kiếm là xong.”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Gia gia đói rồi, làm cơm ăn đã. Ta nhắc ngươi ba điều: một là không dạy, hai là không trốn, ba là không tha. Điều thứ nhất là gia gia quyết không truyền dạy võ nghệ cho thằng ngốc. Điều thứ hai là ngươi đừng hòng tha cho nó trốn thoát, nếu gia gia phát giác nó định đào tẩu thì dù chưa đủ mười ngày cũng giết ngay lập tức. Còn điều thứ ba, ta bất tất phải giải thích.”

Đinh Đang hỏi: “Gia gia đã bảo chàng là kẻ ngốc, thì dù gia gia có dạy võ nghệ chàng cũng không hiểu, sao lại không dạy?”

Đinh Bất Tam đáp: “Dù ta có chịu dạy, thì trong vòng mười ngày nó cũng chẳng thể giết Bạch Vạn Kiếm được. Dạy mười năm chưa chắc là đủ.”

Đinh Đang nói: “Thế thì gia gia không đủ bản lãnh dạy người. Võ công thiên hạ vô địch như gia gia mà không dạy được đồ đệ giỏi hơn đồ đệ của Bạch Tự Tại phái Tuyết Sơn ư? Chẳng lẽ lão Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại gì gì đó còn giỏi hơn gia gia sao?”

Đinh Bất Tam mỉm cười nói: “A Đang! Kế khích tướng của ngươi không được hay lắm. Thằng ngốc như thế này thì cho dù là thần tiên cũng không dạy nổi. Ngươi không nghe thấy vợ chồng Thạch Thanh nói gì với Bạch Vạn Kiếm ư? Thằng ngốc này đã học võ nghệ nhiều năm trên phái Tuyết Sơn, thế mà kiếm pháp của nó y hệt như con mèo một chân.” Người ta thường nói là kiếm pháp như mèo ba chân, nhưng lão tên là Đinh Bất Tam nên kị húy không nói đến chữ Tam, mèo ba chân sửa thành mèo một chân.

Gặp lúc gió đông đang thuận, thuyền giương buồm chạy ngược sông Trường Giang đi về hướng Tây. Bầu trời càng lúc càng sáng, nhưng khắp trên mặt nước vẫn mờ mịt sương mù. Đinh Đang nói: “Được lắm! Gia gia không dạy thì cháu dạy. Cháu không đi làm cơm nữa, phải dạy võ công cho Thiên ca đây.”

Đinh Bất Tam tức giận hỏi: “Ngươi không đi làm cơm, định để gia gia chết đói chăng?”

Đinh Đang đáp: “Gia gia muốn giết trượng phu của cháu, chi bằng cháu để gia gia chết đói trước đi là hơn.”

Đinh Bất Tam quát: “Không, không! Phải đi nấu cơm trước.”

Đinh Đang không lý gì đến lão nữa, quay sang bảo Thạch Phá Thiên: “Thiên ca lại đây. Muội dạy cho huynh một bộ công phu, để trong vòng mười ngày huynh đánh bại được Bạch Vạn Kiếm.”

Đinh Bất Tam gắt: “Chỉ ăn nói lung tung. Việc đó ngay cả ta còn làm không nổi, con tiểu a đầu như ngươi sao có thể làm được?”

Hai ông cháu cãi vã nhau hoài, thực ra chỉ vì Đinh Đang đang sầu muộn. Nàng biết Đinh Bất Tam tính tình cổ quái, năn nỉ lão cũng vô dụng, chỉ còn cách bướng bỉnh, hậm hực, họa may khiến lão hồi tâm chuyển ý được phần nào chăng? Mặt khác, Đinh Đang định bụng: “Ta không làm cơm cho gia gia ăn. Khi gia gia đói, thì chỉ còn cách dừng thuyền lên bờ tìm mua cái gì ăn, mình sẽ thừa cơ mà đưa Thạch lang chạy trốn.”

Ngờ đâu, Thạch Phá Thiên thấy Đinh Bất Tam đói đến mặt mũi nhăn nhó, chính chàng cũng thấy bụng đói meo. Chàng không hiểu được dụng ý của Đinh Đang, bèn đứng dậy nói: “Để cháu đi làm cơm.”

Đinh Đang tức giận nói: “Thiên ca vừa mới bị thương, bây giờ cử động nếu vết thương lại vỡ ra thì làm thế nào?”

Đinh Bất Tam nói: “Thuốc kim sang của nhà họ Đinh chúng ta linh nghiệm như thần, rịt vào là khỏi ngay lập tức. Huống chi, vết thương của gã chẳng trầm trọng gì thì còn chi đáng ngại? Thằng nhỏ ngoan, mau đi nấu cơm cho gia gia ăn.” Lão vì muốn ăn cơm, không gọi chàng là thằng ngốc nữa.

Đinh Đang hỏi: “Chàng nấu cơm cho gia gia ăn, thì gia gia có giết chàng nữa không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Nấu là nấu, giết là giết. Hai việc này riêng rẽ chẳng có liên quan gì đến nhau, sao lại đem việc nọ xọ vào việc kia được?”

Thạch Phá Thiên nắn thử vết thương trước ngực, quả nhiên không đau đớn gì mấy. Chàng bèn xuống chỗ lái thuyền vo gạo nấu cơm. Cuối thuyền có một lão già ngồi bẻ bánh lái, hoàn toàn không nghe ba người nói chuyện. Một mình Thạch Phá Thiên loay hoay thổi cơm cùng nấu nướng món ăn. Công việc này chàng rất thành thạo, chỉ trong khoảnh khắc đã nướng xong hai con cá rất thơm tho, rồi dọn nồi cơm trắng nóng hổi bốc hơi thơm phức ra.

Đinh Bất Tam vừa ăn vừa khen ngon luôn miệng. Lão nói: “Giả tỉ võ công của ngươi chỉ được bằng phân nửa tài nấu bếp của ngươi thì ta không thể giết ngươi được. Mà nếu ngươi đừng bái đường thành thân với A Đang, chỉ xin làm đầu bếp cho ta, thì chẳng những ta không giết ngươi mà dù ngươi bị kẻ khác hạ sát thì ta cũng không chịu để yên. Chỉ tiếc là ta đã định thời hạn mười ngày. Lời nói của Đinh Bất Tam này nặng như núi, nhất định không sửa đổi. Nếu ta hạn định một tháng thì được ngươi nấu cho ăn thêm hai mươi mấy ngày, há chẳng không tốt hơn sao? Nhưng bây giờ hối hận cũng không kịp, không còn cách gì sửa chữa được nữa.” Nói xong, lão thở dài một tiếng.

* * *

Ăn cơm xong, Thạch Phá Thiên ngồi sóng vai với Đinh Đang rửa chén bát ở đằng lái thuyền. Đinh Đang thấy gia gia ngồi phía mũi thuyền, liền khẽ bảo Thạch Phá Thiên: “Lát nữa muội sẽ dạy Thiên ca môn cầm nã thủ pháp, Thiên ca phải dụng tâm nhớ thuộc lòng mới được.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ta học xong rồi đi tìm Bạch đại hiệp để tỉ võ có phải không?”

Đinh Đang hỏi lại: “Chẳng lẽ Thiên ca biến thành ngẩn ngơ thật rồi chăng? Thiên ca… Thiên ca từ trước đến giờ có thế này đâu?…”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Ngày trước ta như thế nào?”

Đinh Đang hai má ửng hồng đáp: “Trước kia, hễ Thiên ca gặp muội là nói chuyện còn ngọt hơn đường phèn, cười cười nói nói lanh lợi vô cùng, khiến tiểu muội cảm thấy vui lòng hởi dạ. Còn bây giờ huynh nói ra câu nào cũng làm cho người ta chán ngấy, đã thật sự ngốc nghếch rồi ư?”

Thạch Phá Thiên thở dài nói: “Thực ra ta không phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang đâu. Y biết cách làm cho Đinh Đinh Đang Đang vui lòng, còn ta chẳng biết chi hết. Vậy Đinh Đinh Đang Đang đi mà kiếm y, có phải hay hơn không?”

Đinh Đang dịu dàng thỏ thẻ: “Thiên ca! Chẳng lẽ huynh giận muội rồi ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Sao ta lại giận Đinh Đinh Đang Đang được? Ta nói thật, mà Đinh Đinh Đang Đang vẫn không tin.”

Đinh Đang nhìn nước sông chảy cuồn cuộn bên mạn thuyền, lẩm bẩm một mình: “Không biết đến bao giờ chàng mới trở lại như xưa?” Nàng ngơ ngẩn xuất thần, vô ý đánh rớt một cái bát sành xuống sông. Cái bát chỉ lạng qua lại dưới làn sóng biếc mấy cái rồi chìm xuống mất tăm.

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Vĩnh viễn ta không trở thành Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang được, suốt đời ta cứ… ta cứ ngẩn ngơ thế này mãi, thì Đinh Đinh Đang Đang cũng vĩnh viễn không vui lòng, có đúng thế không?”

Đinh Đang nghẹn ngào muốn bật khóc, đáp: “Muội không biết! Muội không biết!” Đột nhiên nàng cực kỳ phiền não muốn phát tác, bèn cầm hết cái bát này đến cái bát khác liệng xuống sông.

Thạch Phá Thiên nói: “Ta… nếu mồm mép ta lanh lợi, Đinh Đinh Đang Đang thích ta nói năng hoạt bát cho vui thì ta sẽ nói liến thoắng suốt ngày không ngớt cũng chẳng ngại gì. Nhưng… nhưng ta thật sự không phải là Thiên ca của Đinh Đinh Đang Đang, dù muốn giả vờ cũng không giả vờ được.”

Đinh Đang đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên. Lúc ấy mặt trời mới mọc, nắng mai tươi hồng chiếu vào mặt chàng, đôi mắt chớp chớp ra chiều khẩn thiết. Nàng nhẹ thở dài rồi nói tiếp: “Nếu huynh không phải là Thiên ca thì sao trên vai lại có vết sẹo do muội cắn vào, sao huynh cũng thích trêu hoa ghẹo nguyệt, lả lơi với vợ của Triển hương chủ trong Trường Lạc Bang, rồi Hoa cô nương ở phái Tuyết Sơn? Mà nếu huynh đúng là Thiên ca thì sao đột nhiên trở nên ngớ ngẩn, không phong lưu hoạt bát như trước chút nào?”

Thạch Phá Thiên mỉm cười đáp: “Nếu ta làm trượng phu của Đinh Đinh Đang Đang mà thực thà chất phác, lại không hay hơn ư?”

Đinh Đang lắc đầu đáp: “Không! Thà huynh giống như lúc trước, khoái hoạt ham vui, cướp vợ của người ta cũng được, ghẹo con gái người ta cũng được. Muội không muốn thấy huynh đàng hoàng như lúc này.”

Thạch Phá Thiên vẫn chưa hiểu rõ việc cướp vợ của người ta, lập tức hỏi: “Cướp vợ của người ta để làm chi? Lão bá bá nói là không xin người ta trước mà đã lấy đồ của người ta, thì là tiểu tặc. Ta cướp vợ của người ta thì có gọi là tiểu tặc không?”

Đinh Đang nghe chàng càng nói càng ngớ ngẩn, thật không hiểu được nên nhịn không nổi nữa. Đột nhiên khí tức xông lên tận cổ, nàng đưa tay nắm lấy tai chàng kéo một cái thật mạnh, chảy cả máu ra. Thạch Phá Thiên đau quá, hất mạnh tay một cái. Đinh Đang cảm thấy một luồng nội lực mãnh liệt phi thường kích vào cánh tay mình, vội buông chàng ra. Người nàng bị hất mạnh về phía sau, suýt đụng gãy cả cột chống mui thuyền.

Đinh Đang la lên một tiếng: “Úi chao!” Rồi nàng lớn tiếng mắng: “Đồ vũ phu quỷ sứ! Đánh vợ mà mạnh tay như thế ư?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Xin lỗi, xin lỗi! Ta… ta không cố ý đâu.”

Đinh Đang nhìn xuống cánh tay mình thấy sưng vù lên và tím bầm lại, đột nhiên vẻ mặt đang tức tối bỗng trở nên mừng rỡ. Nàng nắm chặt lấy hai tay Thạch Phá Thiên lắc đi lắc lại mấy cái nói: “Thiên ca! Quả nhiên Thiên ca đang giả vờ để gạt muội.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên hỏi: “Ta giả vờ chuyện gì?”

Đinh Đang nói: “Võ công Thiên ca chẳng mất đi chút nào hết!”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta có biết võ công gì đâu?”

Đinh Đang nũng nịu nói: “Huynh cứ nói bừa nữa đi, xem muội còn lo lắng cho huynh nữa không?” Chưa dứt lời, nàng đã vung tay lên tát vào má bên trái Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên nghiêng đầu đi, đưa tay ra đỡ, nhưng chưởng pháp gia truyền của Đinh Đang cực kỳ lợi hại. Thế chưởng vừa huyền diệu vừa mau lẹ, Thạch Phá Thiên đỡ không đúng cách, dĩ nhiên không đỡ được. Chàng cảm thấy mặt mình đau nhức, bị nàng tát trúng vào má.

Nhưng cánh tay của Đinh Đang lại chấn động mạnh, cứ như cái má của Thạch Phá Thiên đã đánh bàn tay nàng vậy. Đinh Đang lại la hoảng: “Úi chao!” Tiếng la hoảng của nàng còn hãi hùng hơn lần trước.

Nàng tưởng võ công của Thạch Phá Thiên không mất hoàn toàn, dĩ nhiên sẽ tránh được cái tát của mình, nên phát chưởng đó đã phát huy kình lực âm nhu rất lợi hại, vì nếu không vận đủ nội lực thì chưởng phóng ra không nhanh được. Nàng không ngờ cái gạt của chàng lại vụng về đến thế, đúng là người không hiểu võ công, nhưng khi tay nàng vừa chạm vào má chàng thì lại bị chấn động rất dữ dội. Nàng vội đưa tay trái nắm lấy tay phải, nhìn thấy nửa mặt bên trái chàng đã in dấu bàn tay, thành một vết màu đen lõm hẳn xuống.

Hắc Sa Chưởng của nàng đã được ông nội dạy cho, hết sức lợi hại. May mà nội lực của nàng so với Thạch Phá Thiên thì quá nông cạn, nên chàng chỉ bị thương nhẹ mà thôi. Nhưng dấu bàn tay đen đó cũng in vào má chàng, nửa tháng sau cũng chưa chắc đã mất hẳn. Nàng cảm thấy vừa thương xót vừa áy náy, bèn ôm choàng lấy lưng Thạch Phá Thiên, dụi mặt mình vào má trái chàng, vừa khóc vừa nói: “Thiên ca! Thực tình muội không biết, té ra Thiên ca vẫn chưa hoàn toàn bình phục.”

Thạch Phá Thiên được người đẹp ôm lấy, quên cả đau thở dài nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng lúc thì tức tối, lúc lại vui mừng là nghĩa làm sao? Ta không hiểu được.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Bây giờ… bây giờ biết làm thế nào? Biết làm thế nào?” Nàng buông Thạch Phá Thiên ra, thò tay vào bọc lấy ra một cái bình sứ, vừa móc thuốc viên trong bình cho Thạch Phá Thiên uống vừa nói: “Ôi chao! Chỉ mong không để sẹo lại là tốt rồi.”

Hai người ngồi bên nhau ở đằng lái thuyền, chẳng ai nói gì nữa. Hồi lâu, Đinh Đang mới ghé vào bên tai chàng nói nhỏ: “Thiên ca! Sau khi chàng bệnh thì võ công quên sạch, nhưng nội lực vẫn còn nguyên như cũ. Để muội đem cầm nã thủ pháp chỉ điểm cho Thiên ca, sẽ rất hữu ích về sau.”

Thạch Phá Thiên gật đầu nói: “Muội mà chịu dạy thì ta sẽ cố dụng tâm để học.” Đinh Đang đưa mấy ngón tay khẽ xoa dấu bàn tay đen sì trên mặt chàng, trong lòng hối hận vô cùng. Đột nhiên nàng đặt môi lên vết bàn tay, khẽ hôn một cái.

Hai người đều nét mặt ửng hồng bẽn lẽn, nhưng trong lòng cảm thấy ngọt ngào không gì sánh được. Đinh Đang sửa lại mái tóc rồi đem mười tám đường cầm nã thủ biểu diễn từng đường một cho Thạch Phá Thiên xem. Ngay lúc đó nàng đã dạy được sáu đường, Thạch Phá Thiên đều nhớ hết, rồi hai người chiết giải những chiêu thức đó. Ngày hôm sau lại dạy được thêm sáu đường.

Ba ngày trôi qua, Thạch Phá Thiên đã luyện đến thuộc lòng mười tám đường cầm nã thủ pháp. Tuy bộ cầm nã thủ này chỉ có mười tám đường, nhưng biến hóa vô cùng phức tạp. Mấy ngày nay chàng cùng Đinh Đang phân tích mười tám đường cầm nã thủ, Đinh Bất Tam chỉ ngồi nhìn lạnh nhạt, thỉnh thoảng lại chê bai mấy câu.

Đến ngày thứ tư, vết kiếm thương trước ngực Thạch Phá Thiên đã bình phục rất nhiều. Đinh Đang thấy Thạch Phá Thiên luyện võ tiến bộ rất nhanh, trong bụng mừng thầm. Cứ mỗi lần nàng nghe Đinh Bất Tam mắng chàng là thằng ngốc, thì nàng lại hỏi: “Gia gia! Mười tám đường cầm nã thủ của nhà họ Đinh ta, nếu một thằng ngốc mà học thì phải hết mấy ngày mới xong?”

Đinh Bất Tam nghẹn họng không biết đáp sao. Lão thấy Thạch Phá Thiên quả đã học thuộc cầm nã thủ rồi, bèn nghĩ bụng: “Thằng lỏi này tuyệt không si ngốc chút nào. Hoặc là nó giả bộ, hoặc là đã quên hết những việc trước kia thật rồi.” Nhưng tính lão cố chấp, khi nào chịu thua cháu gái mà im miệng? Lão miễn cưỡng đáp: “Có loại ngốc thông minh, cũng có loại ngốc ngu dốt. Thằng ngốc thông minh thì chỉ nửa ngày là hiểu, còn thằng ngốc đần độn như Thạch lang của cháu thì phải ba ngày mới học được.”

Đinh Đang cong môi lên cười hỏi: “Gia gia! Ngày trước gia gia học bộ cầm nã thủ pháp này mất mấy ngày?”

Đinh Bất Tam nói: “Làm gì mà mất mấy ngày? Ta nghe tằng tố ngươi nói qua một lượt là xong. Kể cả luyện tập, không đầy nửa ngày là ta đã thành thuộc hết rồi.”

Đinh Đang phá lên cười rồi nói: “Ha ha! Thì ra gia gia thuộc vào loại ngốc thông minh.”

Đinh Bất Tam sầm mặt quát lên: “Ăn nói bậy bạ, chẳng còn biết thứ bậc trên dưới là gì nữa!”

Giữa lúc ấy, một con thuyền nhỏ từ phía hạ lưu đang đuối tới. Đoạn sông này hai bên bờ rất hoang vắng, dòng chảy cũng ổn định. Con thuyền này cũng thuận gió trương buồm, lại thêm bốn người chèo rất gấp, nên cứ lướt vèo vèo, mỗi lúc một gần lại. Đinh Bất Tam đã thấy hai hán tử áo trắng đứng ở đầu thuyền. Một gã lớn tiếng gọi: “Có phải thằng lỏi họ Thạch ở trên thuyền đó không? Dừng thuyền lại mau! Dừng thuyền lại mau!”

Đinh Đang khẽ hắng giọng một tiếng rồi nói: “Gia gia! Phái Tuyết Sơn lại truy đuổi Thạch lang rồi!”

Đinh Bất Tam hớn hở nói: “Bọn họ mà bắt thằng ngốc này đi chém một ngàn đao, một vạn đao thì mới hả dạ ta.”

Đinh Đang hỏi: “Không hiểu chúng muốn bắt kẻ ngốc thông minh hay muốn bắt kẻ ngốc ngu dại?”

Đinh Bất Tam đáp: “Đương nhiên là bắt thằng ngốc ngu dại. Ai dám bắt thằng ngốc thông minh?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Không sai! Kẻ ngốc thông minh mà lại võ công cao cường thì còn ai dám đắc tội?”

Đinh Bất Tam ngẩn người ra, tức giận nói: “Con nha đầu này! Ngươi dám uốn lưỡi nói quanh để thóa mạ gia gia ư?”

Đinh Đang lại hỏi: “Giả tỉ phái Tuyết Sơn giết cháu rể của gia gia, rồi sau này Trường Lạc Bang đến đòi người, thì Đinh Bất Tam lão gia có còn thể diện không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Sao lại không có thể diện? Rất có thể diện nữa mà khác.” Nhưng lão cũng thấy câu nói của mình nghe không xuôi tai, bèn tiếp: “Ai mà dám nói Đinh lão tam ta không có thể diện, ta sẽ bẻ gãy cổ hắn ngay lập tức.”

Đinh Đang lẩm bẩm như tự nói với mình: “Người khác thì không dám nói gì thật. Chỉ sợ Tứ gia gia của ta gan dạ hơn người, dám nói gia gia chỉ có một đứa cháu rể mà để người ta giết mất. Không biết gia gia có dám bẻ cổ em ruột của mình hay không? Mà cho dù có gan thì cũng không biết có đủ bản lãnh không?”

Đinh Bất Tam giận dữ nói: “Ngươi nói võ công của lão tứ mạnh hơn ta ư? Thúi lắm, thúi lắm! Nó kém ta rất nhiều.”

Hai ông cháu cãi cọ một lúc, chiếc thuyền kia đã đuổi gần tới nơi. Hai hán tử áo trắng trên con thuyền nhỏ bỗng lớn tiếng quát: “Thằng lỏi Thạch Trung Ngọc ở bang Trường Lạc có trong thuyền đó không? Sao không dừng thuyền?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Có người đuổi tới nơi, bây giờ biết làm thế nào?”

Đinh Đang nói: “Muội biết làm thế nào được? Thiên ca là nam nhi, chẳng lẽ không có chủ định gì ư?”

Lúc ấy con thuyền nhỏ chỉ còn cách chừng hơn một trượng. Hai hán tử áo trắng vừa la hét om sòm vừa tung mình nhảy vọt sang đằng lái thuyền này, ngay chỗ Thạch Phá Thiên đang ngồi. Cả hai đều cầm trường kiếm, hàn quang lóe mắt. Thạch Phá Thiên thấy hai gã này đều là đệ tử phái Tuyết Sơn mà chàng đã gặp trong tòa miếu thổ địa, bèn tự hỏi: “Không hiểu mình đã đắc tội gì với bọn họ, mà họ cứ cố tình đuổi theo mình như thế?”

Nghe soạt một tiếng, một gã đã phóng trường kiếm đâm tới vai chàng. Ba ngày nay Thạch Phá Thiên đã cùng Đinh Đang chiết giải các chiêu thức võ công, hễ chàng hơi chậm chân tay một chút là bị nàng nắm tai mà kéo, cũng đã chịu không ít khổ sở. Nhờ thế mà lúc này chàng đã mau lẹ hơn nhiều, so với lúc tỉ kiếm cùng vợ chồng Thạch Thanh tại miếu thổ địa đã khác lắm rồi.

Chàng vừa thấy thanh kiếm của địch phóng tới, liền lập tức ra chiêu thứ tám là Phụng Vĩ Thủ, tay phải vung ra theo đường vòng tới phía trước, chụp được cổ tay hán tử đó vặn một cái. Gã lập tức la lên một tiếng, thanh kiếm trong tay rớt xuống. Thạch Phá Thiên lại thuận đà hất khuỷu tay phải lên một cái. Khuỷu tay chàng đập trúng vào cằm hán tử nghe đánh bốp. Quai hàm gã bị gãy liền, miệng hộc máu tươi, mười mấy cái răng cũng phun ra theo máu.

Thạch Phá Thiên hoàn toàn không ngờ chiêu Phụng Vĩ Thủ của mình lợi hại đến thế. Chàng sợ quá đứng thộn mặt ra, trống ngực đánh thình thình. Tên đệ tử thứ hai phái Tuyết Sơn đang muốn tiến lên giáp công Thạch Phá Thiên thì đột nhiên thấy sư huynh đã bị trọng thương. Gã sư huynh này bản lãnh còn cao hơn hắn nhiều. Hắn liệu chừng nếu mình xông lên thì cũng chẳng tốt đẹp gì hơn, việc cứu người còn khẩn cấp hơn nhiều.

Hắn quyết định được chủ ý, liền ôm xốc sư huynh lên. Lúc ấy thuyền nhỏ và thuyền lớn đang chạy song song bên nhau, tên đệ tử này bèn cắp gã sư huynh bị thương, nhẹ nhàng nhảy trở về thuyền nhỏ. Hắn lớn tiếng quát tháo đồng bọn hạ buồm xuống, cho thuyền quay đầu lại chạy xuôi theo dòng nước về phía đông. Chẳng mấy chốc hai con thuyền đã cách nhau khá xa, nhưng những tiếng thóa mạ vẫn theo gió văng vẳng vọng lại.

Thạch Phá Thiên thấy trên ván thuyền hãy còn vũng máu tươi và mười mấy chiếc răng thì trong lòng vừa kinh ngạc vừa áy náy, ấp úng nói: “Chuyện này… chuyện này… ta thật là có lỗi.”

Đinh Đang từ trong khoang thuyền chui ra đến bên Thạch Phá Thiên, mỉm cười nói: “Thiên ca! Vừa rồi Thiên ca xuất chiêu Phụng Vĩ Thủ cũng không đến nỗi tồi!”

Chàng nghe đến đây liền lắc đầu nói: “Tại sao Đinh Đang không cho ta hay trước? Giả tỉ ta biết trước chiêu thức này đánh người lợi hại đến thế thì ta đã không học nữa.”

Đinh Đang cảm thấy trái tim tựa hồ chìm xuống. Nàng than thầm: “Bệnh ngớ ngẩn của chàng ngốc này lại phát tác rồi, nói toàn chuyện vẩn vơ.” Nàng lấy làm khó chịu bèn nói: “Đã học võ công thì chiêu thức lợi hại chừng nào hay chừng đấy. Vừa rồi nếu Thiên ca không sử chiêu Phụng Vĩ Thủ vừa đúng lúc vừa chuẩn xác như vậy thì trường kiếm của đối phương đã đâm vào vai huynh rồi. Huynh không đả thương người thì tất bị người đả thương, vậy huynh muốn đánh người ta hay thích để người ta đánh mình? Nói thực ra, đối phương bị đánh gãy mấy cái răng còn là nhẹ lắm, chứ trong võ lâm đã xảy cuộc động thủ thì lúc nào cũng có thể mất mạng như chơi. Lòng dạ của huynh dù có tốt nhưng lỡ lòng dạ đối phương độc ác thì sao? Giả tỉ họ đâm một kiếm giết chết huynh, thì lương tâm huynh có tốt gấp mười cũng chẳng có ích gì.”

Thạch Phá Thiên trầm ngâm suy nghĩ rồi đáp: “Tốt hơn hết là Đinh Đinh Đang Đang dạy ta thứ công phu không thể đả thương hoặc đánh chết người ta, đồng thời đừng để đối phương đánh mình chết hay bị thương, mọi người đều hoan hỉ kết bạn với nhau, đừng oán thù gì nữa.”

Đinh Đang nhăn nhó cười nói: “Thiên ca nói toàn chuyện ngớ ngẩn không đâu. Đã là người học võ thì khi động thủ phải thí mạng, chẳng lẽ giống như trẻ con chơi cút bắt hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta chỉ thích chơi trò cút bắt chứ không thích động thủ thí mạng. Nhưng tiếc là không có ai chơi cút bắt với ta, A Hoàng cũng không biết.”

Đinh Đang càng nghe càng giận, dậm chân nói: “Thiên ca thật là hồ đồ. Ai phải nói chuyện với huynh thì số mạng người đó thật là xui xẻo.” Dứt lời, nàng hầm hầm bỏ đi không lý gì đến chàng nữa, chui vào khoang thuyền nằm ngủ.

* * *

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi đã thấy chưa? Ta đã bảo nó là thằng ngốc, thì nó đúng là thằng ngốc. Võ công lợi hại cũng là thằng ngốc, mà võ công tệ hại cũng là thằng ngốc. Chi bằng ngươi giết nó đi càng sớm càng tốt, để đỡ phải bực mình.”

Đinh Đang tự nhủ: “Nếu Thạch lang thật sự vĩnh viễn hồ đồ như vậy thì mình ở với chàng thế nào được? Hay là cứ nghe lời gia gia mà một đao giết chết chàng đi, để lòng mình thanh tịnh?” Nhưng nàng nhớ tới trước kia chàng chưa mắc bệnh, nói toàn những lời ngọt ngào khả ái. Dù chàng chẳng nói gì mà chỉ đưa mắt nhìn mình một cái, thì đầu mày cuối mắt cũng thố lộ tình yêu nồng nàn, mình khác nào được uống rượu ngọt, tâm hồn ngây ngất say sưa. Từ khi phải chia ly, mình tương tư chàng đến điên đảo thần hồn, ngờ đâu chỉ sau một cơn bệnh là vị lang quân tuấn tú thông minh đã biến thành một pho tượng gỗ ngẩn ngơ hủ lậu.

Đinh Đang càng nghĩ càng phiền não trong lòng, không nén nôi phải để nước mắt tuôn ra giàn giụa. Nàng bèn kéo tấm chăn mỏng lên trùm kín đầu. Đinh Bất Tam nói: “Ngươi khóc thì có ích gì? Có khóc thì cũng không thể biến một tên si ngốc thành một trang tài tử được.”

Đinh Đang tức mình đáp: “Cháu thử khóc cho con người ngớ ngẩn biến thành thông minh, thử xem có được không?”

Đinh Bất Tam nổi giận quát lên: “Cả con nhãi này cũng ăn nói hồ đồ mất rồi!”

Đinh Đang khóc thầm, nghĩ bụng: “Hoa Vạn Tử cô nương phái Tuyết Sơn đối với Thạch lang có vẻ rất giận dữ, dường như cũng chưa bị chàng hưởng thụ. Chàng đối với những cô nương đẹp đẽ như thế mà còn không muốn chọc ghẹo, ra vẻ nam tử hán đại trượng phu. Nếu ta phải lấy pho tượng gỗ ngớ ngẩn này làm chồng, thì còn có lạc thú gì nữa.” Đinh Đang khóc tới nửa đêm rồi nghĩ bụng: “Ta đã cùng chàng bái đường thành thân, danh chính ngôn thuận nên nghĩa vợ chồng. Mấy hôm nay, ban ngày luyện công thì chàng cũng luyện rất đàng hoàng, không tìm cơ hội đụng chạm vào người của ta cái nào. Ban đêm thì ngủ bên nhau, khoảng cách chỉ mấy thước, mà chàng chẳng lần nào lại thân cận với ta một tí, cũng chẳng nắm tay sờ chân mình một lần nào cả. Thế thì đâu có phải là vợ chồng mới cưới? Đừng nói là vợ chồng son, cho dù là vợ chồng già bảy tám chục tuổi cũng phải thân thiết hơn mới đúng.”

Nàng lắng tai nghe thấy Thạch Phá Thiên nằm ở phía sau, hơi thở chầm chậm đều đều, rõ ràng đang ngủ say sưa. Lửa giận bốc lên, Đinh Đang rút thanh Liễu Diệp Đao bên mình ra, nghiến răng lẩm bẩm: “Lấy phải ông chồng tượng gỗ này, để y sống trên thế gian phỏng được ích gì?” Đinh Đang thủ dao trong tay, ngần ngừ một lúc rồi lẳng lặng đi ra phía lái thuyền. Nàng lẩm bẩm: “Thạch lang! Thạch lang! Đây là do chính chàng thay đổi, đừng trách lòng ta phụ bạc!”

Nàng giơ Liễu Diệp Đao lên, toan chém xuống đầu Thạch Phá Thiên, nhưng tay nàng chợt run run rồi dừng lại. Nàng nắm lấy vai chàng, nhè nhẹ lật người qua một bên, để nhìn chồng một cái nữa trước khi giết chết. Thạch Phá Thiên đang ngủ li bì, bị nàng lật người lại mà vẫn không biết gì. Dưới ánh trăng lò” mờ, Đinh Đang nhìn thấy mặt chàng vẫn đang cười, không hiểu chàng đang ở trong giấc mộng đẹp nào. Nàng nghĩ bụng: “Thôi thì ta cứ để chàng tan giấc mộng vui rồi hãy ra tay. Chàng chết sớm hay chết chậm chốc lát cũng chẳng có gì quan trọng.” Thạch Phá Thiên vẫn không hay biết gì hết. Đinh Đang ngồi bó gối ngắm nghía mặt chàng, chỉ chờ chàng ra khỏi giấc mộng thần tiên là hạ thủ ngay.

Một lúc sau, không hiểu Thạch Phá Thiên đã tỉnh lại chưa hay vẫn đang trong giấc mơ, chỉ nghe chàng lên tiếng gọi: “Đinh Đinh Đang Đang… tại sao muội giận? Nhưng nàng giận bao nhiêu lại càng xinh đẹp bấy nhiêu. Nàng xinh đẹp lắm… xinh đẹp vô cùng. Dù ta có ngắm hàng ngàn hàng vạn ngày cũng không chán mắt. Một vạn ngày… mười vạn ngày… không, năm mươi vạn ngày vẫn là không đủ…”

Đinh Đang im lặng nghe, bao nhiêu hờn giận chất chứa trong lòng đều tiêu tan hết. Nàng tự nhủ: “Thạch lang, Thạch lang! Cả lúc ngủ mơ mà chàng cũng không quên muội. Sao lúc tỉnh chàng không thổ lộ những câu ân ái nồng nàn này, có phải sung sướng biết bao nhiêu? Rồi sẽ có một ngày, cái bệnh hồ đồ của chàng sẽ khỏi, sẽ nói với muội những lời như thế.” Đinh Đang còn đang ngẫm nghĩ, chợt thấy những giọt sương đọng trên mép mui thuyền nhỏ xuống làm ẩm ướt sạp ván. Nàng lại thấy Thạch Phá Thiên chỉ phong phanh một chiếc áo mỏng thì không khỏi quan tâm, liền rón rén vào trong khoang lấy chiếc chăn đơn đắp lên người chàng. Nàng tần ngần ngắm nhìn Thạch Phá Thiên một lúc nữa rồi mới quay vào trong khoang thuyền.

Bỗng nghe Đinh Bất Tam cất tiếng thóa mạ: “Đêm hôm khuya khoắt thế này, mà ngươi cứ chui qua chui lại như loài chuột nhắt, đã định ra tay mà lại không dám hạ thủ. Nhát gan như ngươi thì còn làm nên trò trống gì nữa? Thật cũng không biết có phải dòng họ Đinh nhà ta hay không.”

Đinh Đang nghe gia gia mắng nhiếc, thì biết là lão đã nhìn rõ hết mọi cử động của mình. Nhưng lúc này lòng nàng đang rạo rực vui tươi, nên bỏ hết ngoài tai những lời nhiếc móc, trong đầu cứ văng vắng những câu nói trong mơ của Thạch Phá Thiên. “Nàng xinh đẹp lắm… xinh đẹp vô cùng. Dù ta có ngắm hàng ngàn hàng vạn ngày cũng không chán mắt.” Nghĩ tới đây Đinh Đang không khỏi mỉm cười hoan hỉ. Nàng nghĩ: “Anh chàng ngu ngốc này lúc nằm mơ cũng thốt ra những lời si ngốc. Cho dù có sống một trăm năm cũng chỉ mới ba vạn sáu ngàn ngày, làm gì được mười vạn hay năm mươi vạn? Nhưng biết Đinh Đang này được bao nhiêu ngày tuổi xuân tươi đẹp để chàng nhìn ngắm thương yêu?”

Đinh Đang ở vào tình trạng dở khóc dở cười, trằn trọc suốt đêm. Trống điếm canh tư nàng mới mơ màng ngủ được. Nhưng nàng vừa nhắm mắt được một lát, bỗng bị thanh âm của Thạch Phá Thiên làm tỉnh giấc. Chàng ở phía sau lớn tiếng la lên: “Trời ơi! Thật là kỳ lạ! Đinh Đinh Đang Đang! Sao chăn của muội lại biết chạy lên mình ta? Chẳng lẽ nó mọc chân hay sao?”

Đinh Đang ngẩn người ra. Nàng hổ thẹn vô cùng, nhỏm dậy vọt về phía lái thuyền. Thạch Phá Thiên thấy nàng tới, liền cầm chiếc chăn giơ lên hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Thế này có lạ không? Cái chăn này…”

Đinh Đang mặt đỏ bừng, giật lấy cái chăn khẽ gắt lên: “Đừng nói nữa! Cái chăn có chân có chi là lạ đâu?”

Thạch Phá Thiên nói: “Cái chăn có chân mà không kỳ lạ ư? Muội nói đi, cái chân của nó ở chỗ nào?”

Đinh Đang không đáp, ngẩng đầu nhìn ra thì thấy lão thuyền phu đang nhổ sào cởi dây đẩy thuyền đi, lão liếc mắt nhìn nàng tựa như cười mà không phải cười. Nàng ngượng quá, mặt đỏ như gấc chín, nũng nịu nói: “Huynh còn nói nữa ư?” Rồi nàng vươn tay ra, nắm lấy tai chàng mà kéo thật mạnh. Thạch Phá Thiên đưa tay lên, bất giác sử chiêu Hạc Tường Thủ trong Thập Bát Cầm Nã Thủ. Đinh Đang vòng tay lại chụp xuống nách Thạch Phá Thiên, chàng vội đưa ngang khuỷu tay trái ra để phong tỏa thế chụp của đối phương, đồng thời vung tay phải lên chụp xuống vai nàng.

Đinh Đang vội quăng cái chăn trong tay xuống sạp thuyền để ra chiêu phản kích. Nàng biết nội lực của chàng rất lợi hại, nên không dám công nhiên đối chưởng. Chớp mắt hai người đã qua lại mười mấy chiêu, Đinh Đang ra tay mỗi lúc một mau lẹ hơn, nhưng Thạch Phá Thiên để ý nhìn từng thế một, không để sơ hở chút nào. Được mấy chục chiêu nữa, Đinh Đang thi triển chiêu Long Đằng Trảo chụp xuống đầu Thạch Phá Thiên, chàng vội đưa cổ tay lên gạt ngược lại.

Chàng xuất thủ cực kỳ mau lẹ, Đinh Đang rút tay về không kịp, bị năm ngón tay chàng phất trúng vào huyệt đạo nơi cổ tay. Nàng liền cảm thấy một luồng kình lực nóng bỏng chuyền vào cổ tay, rồi từ cổ tay chuyền qua cánh tay, ra sau lưng, tiếp tục chuyền xuống dưới. Lúc luồng kình lực từ lưng chuyền xuống đến đùi, Đinh Đang không đứng vững nữa, người nàng nghiêng đi rồi ngã lăn ra. May mà nàng lại ngã trúng vào cái chăn mà nàng vừa bỏ xuống sạp thuyền.

Thạch Phá Thiên lại nổi lòng trẻ con, cúi xuống lấy cái chăn quấn quanh người Đinh Đang rồi bế nàng lên, mỉm cười nói: “Tại sao Đinh Đang lại nhéo ta? Ta phải liệng Đinh Đinh Đang Đang xuống sông cho cá nuốt.”

Đinh Đang bị Thạch Phá Thiên ôm chặt lấy, tuy cách một lần chăn mỏng mà nàng đã thấy bủn rủn cả người. Nàng vừa hổ thẹn vừa vui mừng, mỉm cười nói: “Thiên ca dám…”

Thạch Phá Thiên cướp lời: “Sao ta lại không dám?” Rồi chàng để nguyên chăn, khẽ ném Đinh Đang vào trong khoang thuyền. Đinh Đang chui trong chăn ra, lại chạy ra ngoài. Thạch Phá Thiên sợ nàng đánh nữa, vội lùi lại một bước, đưa hai tay ra thủ thế chuẩn bị tiếp chiêu.

Đinh Đang mỉm cười nói: “Thôi, không đùa nữa! Tư thế của Thiên ca chẳng khác gì anh chàng đi chụp ếch, chẳng ra phong độ cao thủ võ lâm chi hết!”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Ta có phải cao thủ võ lâm gì đâu?”

Đinh Đang nói: “Muội xin chúc mừng Thiên ca đã học được Cầm Nã Thủ Pháp đến mức độ tinh vi hơn cả sư phụ. Muội là thầy dạy môn này cho Thiên ca, mà đành chịu kém đồ đệ mất rồi.”

Bỗng nghe Đinh Bất Tam ở trong khoang thuyền cất giọng lạnh lùng nói: “Nhưng nếu ngươi muốn tỉ thí với Bạch Vạn Kiếm phái Tuyết Sơn thì hãy còn kém xa lắm.”

Đinh Đang nói: “Gia gia! Thiên ca học võ công nhanh như vậy, giả tỉ chàng được gia gia truyền thụ cho một năm hay dăm bảy tháng, thì dù chẳng trở nên cao thủ thiên hạ vô địch, cũng không đến nỗi quá kém cỏi làm phương hại đến thanh danh của gia gia. Có đúng thế không?”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Đinh lão tam đã nói ra thì không sửa đổi được. Thứ nhất, ta đã nói nó mà lấy ngươi làm vợ thì đừng hòng học võ công của ta. Thứ hai, ta đã hạn định trong vòng mười ngày nó phải đả bại được Bạch Vạn Kiếm. Nó chỉ còn sống được năm ngày nữa, còn nói gì đến chuyện một năm hay nửa năm?”

Đinh Đang nghe mà phát lạnh trong lòng. Mới đêm qua nàng toan tự tay hạ sát Thạch Phá Thiên, bây giờ nàng lại phập phồng lo sợ về chuyện chàng sẽ bị mất mạng dưới tay gia gia. Nhưng quả thật gia gia đã nói cái gì là làm đúng theo cái ấy, như thế thì phải làm sao mới được? Nàng nghĩ tới nghĩ lui, xem ra chỉ còn có cách trước đây mình đã nghĩ, phải tiếp tục truyền dạy võ công cho chàng, lấy mười tám đường cầm nã thủ làm căn bản để thực hiện cơ mưu.

Thế rồi mấy ngày sau đó, chỉ trừ lúc ăn uống hay đi ngủ, Đinh Đang dùng hết thì giờ, đem hàng mấy trăm biến thế của mười tám đường cầm nã thủ luyện đi luyện lại cho Thạch Phá Thiên, về sau, Thạch Phá Thiên đã luyện môn này đến chỗ cực kỳ tinh thục, dù chẳng cần phát huy nội lực cũng có thể chiết giải ngang tay với Đinh Đang.

Sáng sớm ngày thứ tám, Đinh Bất Tam đằng hắng một tiếng rồi nhắc: “Chỉ còn lại ba ngày.”

Đinh Đang nói: “Gia gia! Gia gia muốn Thiên ca đả bại Bạch Vạn Kiếm, cháu thấy cũng chẳng khó gì. Tuy kiếm pháp của Bạch Vạn Kiếm ở phái Tuyết Sơn lợi hại thật, nhưng đâu có bằng được võ công của nhà họ Đinh ta? Môn cầm nã thủ của Thiên ca luyện cũng khá lắm rồi, có thể chỉ dùng hai bàn tay không mà đoạt được trường kiếm trong tay Bạch Vạn Kiếm. Chàng tay không đoạt được trường kiếm của người ta, có thể gọi là thắng lợi hay không?”

Đinh Bất Tam cười lạnh nói: “Con tiểu a đầu này nói sao nghe dễ quá. Một chút xíu bản lãnh này mà đòi đoạt được trường kiếm trong tay của Khí Hàn Tây Bắc ư? Thôi thôi, ta can ngươi, đừng mơ tưởng hão huyền nữa. Ngay gia gia ngươi đây, nếu tay không cũng chưa dám nói đến chuyện đoạt kiếm trong tay gã họ Bạch.”

Đinh Đang nói: “Thì ra gia gia cũng không đoạt được. Thế thì cháu thấy võ nghệ của gia gia cũng… hừ hừ… cũng chẳng qua… hừ hừ…”

Đinh Bất Tam giận dữ hỏi: “Cái gì mà hừ hừ?”

Đinh Đang ngang đầu nhìn trời đáp: “Hừ hừ là hừ hừ chứ sao, chính là cháu định nói võ công của gia gia rất khá.”

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi nói chuyện quỷ quái gì vậy? Hừ hừ chính là nói võ công của ta bình thường, chẳng có chi kỳ lạ.”

Đinh Đang đáp: “Chính gia gia nói võ công của gia gia bình thường chẳng có gì kỳ lạ, chứ không phải là cháu nói.”

Đinh Bất Tam nói: “Ngươi hừ hừ cũng được, hà hà cũng được, nhưng nói sao thì nói, trong mười ngày mà nó chưa đánh bại Bạch Vạn Kiếm thì ta phải giết cái thằng ngốc con này.”

Đinh Đang cong môi lên nói: “Gia gia hẹn cho Thạch lang trong mười ngày phải đả bại được Bạch Vạn Kiếm, nhưng nếu trong mười ngày mà không tìm được gã họ Bạch, thì có phải là lỗi của Thạch lang hay không?”

Đinh Bất Tam nói: “Ta đã nói mười ngày là mười ngày, tìm được cũng tốt mà không tìm được cũng tốt. Trong vòng mười ngày mà nó chưa đánh bại Bạch Vạn Kiếm, thì ta giết.”

Đinh Đang lo lắng nói: “Bây giờ chỉ còn có ba ngày, gia gia bảo Thạch lang đi đâu kiếm cho ra gã họ Bạch đây? Gia gia… gia gia thực không chịu nói lý lẽ chút nào.”

Đinh Bất Tam mỉm cười nói: “Nếu Đinh lão tam này mà còn đi nói chuyện đạo lý với thiên hạ, thì đã không phải là Đinh Bất Tam nữa rồi. Ngươi cứ vào chốn giang hồ mà nghe ngóng, thử xem có ai thấy Đinh Bất Tam nói chuyện có lý lẽ chưa?”

* * *

Đến ngày thứ chín, trên môi Đinh Bất Tam vẫn nhoẻn một nụ cười. Có lúc lão liếc nhìn Thạch Phá Thiên bằng con mắt rất kỳ lạ, ba phần coi thường còn bảy phần sát khí.

Đinh Đang biết gia gia mình nhất định sẽ giết Thạch lang vào ngày thứ mười. Đừng nói lúc này võ công của Thạch lang còn kém xa Bạch Vạn Kiếm, cho dù có thắng được hắn thì chỉ trong hai ngày ngắn ngủi trên sông Đại Giang mờ mịt, biết tìm đâu cho thấy Bạch Vạn Kiếm?

Hôm ấy trời đã quá ngọ, Đinh Đang cùng Thạch Phá Thiên chiết giải cầm nã thủ một lúc thì mặt nàng đỏ như gấc chín. Bất giác nàng hắt hơi một cái rồi nói: “Đã tháng tám rồi mà trời còn oi bức thế này.” Nàng sánh vai cùng ngồi với Thạch Phá Thiên, trỏ tay vào đôi chim đang nhởn nhơ giỡn chơi trên mặt nước rồi nói: “Thiên ca! Huynh nhìn xem, đôi vợ chồng chim kia vui thú biết bao. Giả tỉ có người phóng tên bắn chết con trống để con mái phải cô đơn hiu quạnh, có phải là đáng thương hay không?”

Thạch Phá Thiên nói: “Khi ta còn ở trên núi, lúc bắn chim chẳng bao giờ nghĩ tới con nào là con trống hay con mái. Bây giờ Đinh Đinh Đang Đang đã nói vậy, thì từ nay ta chỉ lựa con mái mà bắn thôi.”

Đinh Đang buông một tiếng thở dài, lẩm bẩm: “Anh chàng Thạch lang của mình vẫn còn ngớ ngẩn lắm!” Lát sau nàng thấy mỏi mệt, liền tựa mình vào Thạch Phá Thiên, gối đầu lên vai chàng mà nhắm mắt lại ngủ gà ngủ gật.

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Muội mệt rồi phải không? Ta đỡ muội vào trong khoang thuyền ngủ nhé?”

Đinh Đang nói như người mơ ngủ: “Không! Muội thích ngủ như thế này.” Thạch Phá Thiên không muốn trái ý nàng, đành cứ để vai trái cho nàng gối đầu. Chàng thấy hơi thở của nàng mỗi lúc một đều đặn, ngủ mỗi lúc một say sưa. Mái tóc diễm lệ của nàng phơ phất chạm vào má bên trái chàng, tạo cảm giác hơi ngứa ngáy, nhưng lại êm dịu không bút nào tả xiết.

Đột nhiên, một giọng nói rất nhỏ lọt vào tai Thạch Phá Thiên. Thanh âm này vo ve như tiếng muỗi kêu, chàng phải lắng tai mới nghe rõ: “Chuyện mà muội sắp nói với Thạch lang, huynh nhớ im lặng mà nghe, đừng gật đầu mà cũng đừng lên tiếng. Huynh cũng đừng lộ vẻ kinh hãi hay ngạc nhiên chi hết. Tốt hơn hết là Thạch lang nhắm mắt lại giả vờ ngủ, thở khò khè một chút để lấp bớt thanh âm của muội đi.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên, cứ tưởng là nàng đang mơ ngủ. Nhưng bỗng chàng thấy đôi mi dài của nàng đang khép bỗng hé mở ra, chớp mắt hai cái rồi nhắm lại. Bấy giờ Thạch Phá Thiên mới tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Té ra nàng có chuyện bí mật muốn nói với ta, mà không muốn để gia gia nghe thấy.” Chàng bèn ngáp dài mấy cái rồi nói: “Mệt quá!”, rồi nhắm mắt lại.

Đinh Đang mừng thầm nghĩ bụng: “Thiên ca cũng không ngốc lắm, ta vừa nói đã hiểu ngay. Ta bảo chàng giả vờ ngủ, chàng cũng giả vờ rất giống.” Nàng liền nói rất khẽ: “Gia gia nói là võ công Thiên ca tệ quá, lại là một thằng ngốc, không xứng đáng làm cháu rể. Kỳ hạn mười ngày, đến mai là hết, gia gia nhất định sẽ giết huynh. Chúng ta không tìm được Bạch Vạn Kiếm, dù có tìm được hắn thì Thiên ca cũng không địch nổi hắn. Bây giờ chỉ còn một cách là vợ chồng ta đưa nhau đi trốn, tìm nơi thâm sơn cùng cốc ẩn lánh để gia gia không biết đâu mà kiếm.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Sao gia gia lại vô cớ giết ta? Đinh Đinh Đang Đang thật là trẻ con, tưởng câu gia gia nói giỡn chơi là chuyện thật. Nhưng giả tỉ hai đứa mình vào chốn thâm sơn ẩn lánh để gia gia không tìm thấy được, như vậy cũng vui lắm.” Chàng đã quen với cảnh chỉ có hai người ở nơi núi sâu rừng thẳm, cảm thấy đó là cuộc sống rất tự nhiên. Mấy tháng nay gặp phải nhiều chuyện không biết giải quyết thế nào, chàng thường muốn trở về rừng núi. Lại nghĩ đến sau này có Đinh Đinh Đang Đang xinh tươi khả ái kề cận bên mình, chàng bất giác hoan hỉ vô cùng.

Đinh Đang lại nói: “Nếu chúng ta lên bờ mà chạy thì gia gia nhất định rượt theo, bất luận thế nào cũng không trốn thoát được. Thiên ca nghe đây, đêm nay vào khoảng canh ba, muội sẽ bất ngờ ôm lấy gia gia rồi vừa khóc vừa năn nỉ: “Gia gia! Xin gia gia tha cho Thạch lang, đừng giết chàng.” Lúc ấy, huynh phải lập tức chạy vào khoang thuyền, tay phải ra chiêu Hổ Trảo Thủ, tay trái ra chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm nắm chặt lấy sau lưng gia gia. Huynh phải nhớ kỹ, vừa nghe muội la đến câu “đừng giết chàng” thì huynh phải động thủ cho nhanh. Gia gia bị muội giữ chặt hai tay, tất không gỡ ra mà chống đỡ ngay được. Nội lực của huynh rất thâm hậu, cứ nắm như thế thì gia gia không nhúc nhích được nữa.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Đinh Đinh Đang Đang thật tinh nghịch quá trớn, đem cả gia gia ra để giỡn chơi, chẳng hiểu gia gia có nổi giận không? Nhưng mà thôi, nàng đã muốn thế thì ta cứ làm theo ý nàng là xong. Như vậy kể ra cũng thú.”

Đinh Đang lại nhỏ nhẹ nói tiếp: “Hai chiêu này rất có quan hệ đến chuyện sống chết của hai người chúng ta. Thiên ca thử đưa tay trái sờ vào sau lưng muội, đúng chỗ huyệt Linh Đài. Chiêu Hô Trảo Thủ phải nhằm vào đó.” Thạch Phá Thiên vẫn nhắm mắt, từ từ đưa tay trái sờ nhẹ vào huyệt Linh Đài của Đinh Đang.

Đinh Đang nói: “Đúng rồi! Lúc đó ở trong bóng tối, Thiên ca cần ra tay cho nhanh, nhận huyệt cho đúng. Muội có ôm lấy gia gia thì cũng chỉ giữ được trong chớp mắt mà thôi. Lúc gia gia tỉnh ngộ mà hất được muội ra rồi, thì dù huynh có ra chiêu xảo diệu đến đâu cũng khó mà kiềm chế được gia gia. Bây giờ Thiên ca lại khẽ đụng vào huyệt Thiên Khu sau lưng muội thử xem có đúng không? Chiêu Ngọc Nữ Cô Châm chỉ dùng hai ngón tay là ngón cái và ngón trỏ bấm lấy huyệt Thiên Khu, đồng thời huynh phải thúc đẩy kình lực ra đầu ngón tay đánh thấu vào huyệt đạo.”

Thạch Phá Thiên chầm chậm dịch ngón tay xuống dưới một chút, nhẹ nhàng đặt hai đầu ngón tay vào huyệt Thiên Khu ở sau lưng Đinh Đang. Lúc này dĩ nhiên chàng không vận kình lực, nhưng Đinh Đang còn là hoàng hoa khuê nữ, vừa bị chàng sờ vào dưới lưng là buồn quá không nhịn được, bật lên cười khúc khích rồi khẽ quát: “Thiên ca nhộn quá!” Thạch Phá Thiên lớn tiếng cười ha hả. Đinh Đang cũng thò tay vào nách chàng mà cù trả, cả hai người đều cười ngặt nghẹo. Thế là chuyện giả vờ ngủ hai người quên mất, không nghĩ gì tới nữa.

* * *

Vào lúc hoàng hôn, lão thuyền phu đã neo thuyền vào bờ sông, cạnh một thị trấn nhỏ. Lão xách hũ lên bờ để mua rượu và thức ăn. Đinh Đang nói: “Thiên ca! Chúng ta cũng lên bờ đi chơi một lúc chăng?”

Thạch Phá Thiên nói: “Phải đấy!” Đinh Đang bèn dắt tay chàng lên bờ, tha thẩn cất bước.

Thị trấn này nhỏ bé, chỉ có tám chín chục nhà, đến hơn mười nhà là dân chài lưới. Hai người vào tới đầu thị trấn, đưa mắt nhìn quanh thấy bốn bề chẳng có một ai. Thạch Phá Thiên nói: “Bây giờ gia gia đang ngủ vùi trong khoang thuyền, chúng ta hãy chạy trốn ngay đi.” Chàng chỉ mong được sớm cùng Đinh Đang trốn vào chốn thâm sơn.

Đinh Đang lắc đầu đáp: “Không dễ như thế đâu. Dù chúng ta có chạy xa hàng mấy chục dặm, gia gia vẫn đuối kịp.”

Bỗng sau lưng có tiếng nói ồ ồ cất lên: “Dù các ngươi có chạy xa hàng mấy ngàn dặm, mấy vạn dặm thì bọn ta vẫn đuổi kịp.” Thạch Phá Thiên cùng Đinh Đang quay đầu nhìn lại, thì thấy hai tên đại hán từ sau bụi cây đi ra, toét miệng ra cười vừa hung dữ vừa khả ố. Thạch Phá Thiên nhận ra hai gã này chính là Hô Diên Vạn Thiện và Văn Vạn Phu ở phái Tuyết Sơn. Chàng không khỏi sửng sốt, trong lòng ngấm ngầm kinh hãi.

Khi bọn đệ tử phái Tuyết Sơn phát giác ra hành tung Thạch Phá Thiên trên sông Trường Giang rồi động thủ trên thuyền, một tên đã bị trọng thương. Bạch Vạn Kiếm nhận được tin này liền phái bọn sư đệ chia hai đường thủy bộ truy đuổi đến đây. Hô Diên Vạn Thiện cùng Văn Vạn Phu đi ngựa theo ngược dòng sông, trông về hướng tây mà đuổi, không ngờ lại chạm trán Thạch Phá Thiên tại thị trấn nhỏ này.

Hô Diên Vạn Thiện vốn là người tính toán kỹ lưỡng, cho rằng bọn mình hai người chưa chắc đã là đối thủ của thằng lỏi họ Thạch này. Hắn đã định theo lời dặn của Bạch sư huynh, phóng pháo hiệu lên không để cấp báo, không ngờ Văn Vạn Phu nóng tính không nhẫn nại được liền la ó om sòm.

Đinh Đang kinh hãi nghĩ thầm: “Hai gã này là đệ tử phái Tuyết Sơn, chẳng hiểu Bạch Vạn Kiếm có quanh quẩn ở gần đây không. Nếu hắn mà ló mặt ra, nhất định gia gia sẽ bắt Thạch lang phải động thủ với hắn thì hỏng bét.” Nàng đưa mắt nhìn hai gã rồi nói: “Chúng ta đang nói chuyện riêng, ai bảo các ngươi chõ miệng vào? Thiên ca, chúng ta về thuyền đi.” Thạch Phá Thiên trong lòng cũng phập phồng lo sợ, liền gật đầu đồng ý. Hai người quay mình toan bước đi.

Trước giờ Văn Vạn Phu vẫn xem đứa sư điệt này không ra gì, bèn nghĩ bụng: “Không hiểu sao hai người Vương Vạn Nhận sư ca cùng Trương Vạn Phụng sư đệ lại thua dưới tay thằng lỏi này. Nếu thật sự võ công nó cao cường thì sao mới một chiêu đã bị sư ca bắt được? Hôm nay mà ta bắt được nó thì coi như lập được đại công, có thể dương danh trong bản môn.” Gã liền quát hỏi: “Các ngươi chạy đi đâu? Thằng lỏi họ Thạch kia, biết điều thì đi theo chúng ta!” Gã vừa quát tháo vừa phóng tay trái ra chụp xuống vai Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên nghiêng người tránh né, rồi thi triển cầm nã thủ pháp mấy ngày qua Đinh Đang đã dạy, hất tay trái ra để gạt chiêu thức của đối phương. Văn Vạn Phu là một tay quyền cước rất tinh thâm. Gã chụp không trúng, liền phóng cước đá vào bụng dưới Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên chưa học tới cách phá giải khi đối phương phóng cước đá tới. Hàng nửa ngày trời, chàng chỉ nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng hai chiêu Hổ Trảo Thủ và Ngọc Nữ Niêm Châm, bây giờ gặp lúc nguy cấp, chàng cũng chỉ nhớ tới hai chiêu đó. Lúc này Văn Vạn Phu đứng đối diện với chàng, kể ra thì hai chiêu đó hoàn toàn không thể dùng được, nhưng chàng chẳng có thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện có dùng được hay không nữa, lập tức co giò chạy vòng ra phía sau Văn Vạn Phu.

Nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu vô cùng, dĩ nhiên chàng chuyển mình cực kỳ mau lẹ, tránh khỏi phát cước của Văn Vạn Phu rồi tay phải sử chiêu Hổ Trảo Thủ chụp vào huyệt Linh Đài, tay trái sử chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm chụp vào huyệt Huyền Khu đối phương. Nội lực chàng vừa truyền vào,

Văn Vạn Phu khẽ run lên một cái rồi nhũn người lăn ra.

Hô Diên Vạn Thiện đang muốn xông vào giáp công, đột nhiên thấy Thạch Phá Thiên dùng thủ pháp cực kỳ tinh diệu chụp được huyệt đạo trọng yếu của sư đệ thì trong lòng vừa nóng nảy vừa hoang mang đến cực điểm. Gã không kịp rút trường kiếm, vội phóng quyền đánh vào lưng Thạch Phá Thiên. Vì nóng lòng cứu viện cho sư đệ, gã đã vận đến mười thành công lực vào thoi quyền này. Chỉ nghe một tiếng “bình”, sau đó là mấy tiếng răng rắc, cánh tay trái gã đã bị gãy.

Thạch Phá Thiên chỉ cảm thấy sau lưng hơi đau một chút. Lúc chàng buông Văn Vạn Phu ra thì thấy người gã co rúm lại như một đống thịt không nhúc nhích được, vội nắm vai gã lật lên nhìn thì thấy hai mắt gã trợn ngược, vẻ mặt nhìn rất khủng khiếp. Thạch Phá Thiên hốt hoảng la lên: “Trời ơi! Nguy rồi! Đinh Đinh Đang Đang! Gã… gã… tại sao lại bị co rúm? Chẳng lẽ… chẳng lẽ gã chết rồi ư?”

Đinh Đang mỉm cười nói: “Thiên ca! Thiên ca sử hai chiêu đó rất tốt, chăng qua trong lúc hoang mang nên tư thế hơi khó coi một chút. Gã trúng phải đòn cầm nã như thế, tuy không thể chết được nhưng khó lòng tránh khỏi tàn phế chân tay, phải chữa trị nửa năm một năm mới khỏi được.”

Thạch Phá Thiên rất đỗi kinh ngạc. Chàng vội nâng Văn Vạn Phu dậy nói: “Ta thật là… thật là… có lỗi. Ta… ta… thực tình không cố ý đả thương ngươi. Làm thế nào bây giờ? Đinh Đinh Đang Đang! Muội phải nghĩ cách để chữa trị cho y chứ?”

Đinh Đang đưa tay ra rút lấy thanh trường kiếm đeo bên mình Văn Vạn Phu rồi nói: “Huynh muốn hắn đỡ phải đau khổ ư? Chuyện đó thì dễ lắm, chỉ chém một nhát là xong!”

Thạch Phá Thiên vội nói: “Không được! …”

Hồ Diên Vạn Thiện tức giận mắng: “Hai đứa tiểu yêu vô sỉ này! Đệ tử phái Tuyết Sơn thà chịu chết chứ không chịu nhục. Hôm nay sư huynh sư đệ ta đã bại dưới tay ngươi, vậy ngươi hạ thủ giết chúng ta đi, còn nói những câu chọc tức làm chi?”

Thạch Phá Thiên chỉ sợ Đinh Đinh Đang Đang chém chết Văn Vạn Phu, vội giật lấy thanh trường kiếm ở trong tay nàng cắm phập xuống đất rồi nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Chúng ta mau về thuyền đi.” Nói rồi, chàng kéo tay áo của nàng, ba chân bốn cẳng chạy về thuyền.

Đinh Đang nói: “Giang hồ vẫn đồn đại bang chúa bang Trường Lạc ác độc vô cùng, giết người không chớp mắt mà sao hôm nay chàng lại rụt rè đến thế? Câu chuyện vừa rồi Thiên ca không được nói hở cho gia gia biết.”

Thạch Phá Thiên nói: “Được rồi, ta không nói. Đinh Đinh Đang Đang! Nàng bảo y… y thật sự thành người tàn phế rồi ư?”

Đinh Đang nói: “Thiên ca đã chụp trúng hai đại huyệt mà không làm cho gã thành người tàn phế, thì mười tám đường cầm nã thủ pháp của nhà họ Đinh ta còn dùng làm gì được nữa?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Thế sao Đinh Đinh Đang Đang lại bảo ta dùng hai chiêu thức này để chụp vào gia gia?”

Đinh Đang mỉm cười đáp: “Chàng ngốc ơi! Gia gia chúng ta là hạng người nào? Gia gia đâu có phải như mấy cái bị thịt phái Tuyết Sơn này? Nếu Thiên ca may mà chụp trúng hai huyệt đạo này của gia gia, có vận dụng nội lực tối đa thì cũng chỉ khiến cho gia gia khó bề cử động trong hai ba giờ thôi. Chẳng lẽ huynh đủ sức đánh cho gia gia tàn phế hay sao?”

Thạch Phá Thiên nghĩ đến dáng vẻ rất dễ sợ của Văn Vạn Phu, cứ áy náy mãi trong lòng. Đêm đó chàng cứ mơ hồ nửa tỉnh nửa mê, đến nửa đêm quả nhiên nghe thấy Đinh Đang la hoảng trong khoang thuyền: “Gia gia! Xin gia gia tha mạng cho Thạch lang, đừng giết chàng! Đừng giết chàng!” Thạch Phá Thiên đứng phắt dậy, đi vào trong khoang. Chàng trông lờ mờ thấy Đinh Đang ôm chặt Đinh Bất Tam, miệng không ngớt kêu la: “Gia gia, đừng giết Thạch lang!”

Thạch Phá Thiên đưa hai tay ra toan chụp xuống sau lưng của Đinh Bất Tam. Nhưng chàng đột nhiên nhớ tới cảnh tượng Văn Vạn Phu co rúm người lại khổ sở vô cùng, nghĩ bụng: “Nếu mình mà chụp xuống khiến cho gia gia cũng biến thành tàn phế thì thật là có lỗi. Ta nhất định không thể làm thế.” Chàng nghĩ vậy rồi từ từ ra khỏi khoang thuyền, ôm đầu nằm ngủ tiếp. Đinh Đang thấy Thạch Phá Thiên chạy vào khoang thuyền, phối hợp hành động rất chính xác, đã mừng thầm trong dạ. Ngờ đâu chàng ngần ngừ một chút rồi bỏ đi, nàng thấy mình sắp thành công mà lại thất bại, trong lòng không khỏi vừa lo lắng vừa giận dữ.

Thạch Phá Thiên về đến đằng lái thuyền, trống ngực đánh thình thình. Lát sau chàng bỗng nghe tiếng Đinh Đang la lên: “Trời ơi! Gia gia! Sao cháu lại ôm lấy gia gia thế này? Cháu… cháu vừa nằm mơ thấy ác mộng. Cháu mơ thấy gia gia phóng chưởng đánh chết Thạch lang! Cháu cầu xin gia gia… gia gia tha mạng cho chàng, gia gia nhất định không chịu. Tạ ơn trời phật, đây chỉ là một giấc mơ.”

Chàng lại nghe Đinh Bất Tam nói: “Ngươi nằm mơ thì cũng vậy, mà không nằm mơ thì cũng vậy. Ngày mai đã là ngày thứ mười. Ta thử chờ nốt ngày mai xem nó có tìm được Bạch Vạn Kiếm rồi đánh bại hắn hay không.”

Đinh Đang thở dài nói: “Cháu biết Thạch lang không phải là thằng ngốc.”

Đinh Bất Tam nói: “Đúng đấy! Nó có lương tâm rất tốt. Nhưng ta lại xem người nào có lương tâm là ngu dại, là si ngốc, là đáng chết. Ôi! Dùng Hổ Trảo Thủ chụp vào huyệt Linh Đài, dùng Ngọc Nữ Niêm Châm nắm lấy huyệt Huyền Khu. Thật là diệu kế! Thật là diệu kế! Nhưng kẻ nào mà có lương tâm không chịu hạ thủ, thì chính là thằng ngốc. Thằng ngốc thì đáng chết.”

Mấy câu nói từ trong khoang thuyền đưa ra ngoài, chẳng những lọt vào tai Đinh Đang mà cả Thạch Phá Thiên đang nằm ngoài sàn thuyền cũng nghe rõ. Hai người cùng giật mình kinh hãi tự hỏi: “Tại sao gia gia lại biết rõ kế sách của chúng ta?”

Thạch Phá Thiên còn ít, chứ Đinh Đang hết sức băn khoăn, toàn thân toát mồ hôi ra như tắm. Nàng lẩm bẩm: “Té ra gia gia đã biết trước từ lâu rồi, nhất định đã âm thầm chuẩn bị. Vừa rồi Thiên ca không động thủ, không biết đó là phúc hay là họa.” Thạch Phá Thiên thì vẫn ngây ngô, không tin ngày mai Đinh Bất Tam sẽ hạ thủ giết mình. Chỉ sau một lúc, chàng lại ngủ thiếp đi.

* * *

Lúc trời mờ sáng, bỗng trên bờ sông có tiếng người náo loạn, rồi có người la lên: “Đây rồi! Chính là chiếc thuyền này.” Có người lại hô: “Chúng trong thuyền kia rồi. Đừng để lão yêu quái tẩu thoát.”

Thạch Phá Thiên nghe tiếng la ó vội ngồi dậy, thấy trên bờ có đến mười mấy người, kẻ cầm đèn lồng, người cầm đuốc sáng rực cả một vùng, chạy đến bên thuyền. Bốn năm người đi đầu nhảy vọt lên thuyền, lớn tiếng quát: “Lão yêu quái đâu? Lão yêu hại người trốn đâu rồi?”

Đinh Bất Tam chui từ trong khoang thuyền ra, hét lớn: “Bọn nào dám đến đây quấy nhiễu giấc ngủ của lão gia?”

Một hán tử hét lên: “Chính hắn đấy! Chính hắn đấy! Phun ngay đi!” Hai người đứng sau anh ta lấy ra hai ống trúc, nhằm Đinh Bất Tam thụt ra hai tia máu. Bọn người trên bờ hoan hô rầm rĩ: “Máu chó mực phun trúng lão yêu quái rồi. Lão đừng hòng trốn được nữa.”

Thực ra hai ống máu chó đó làm sao phun trúng vào người Đinh Bất Tam được? Lão tức giận vô cùng, nhảy vọt lên lớn tiếng quát: “Bọn càn rỡ ở đâu đến đây, dám bảo lão phu là yêu quái rồi dùng máu chó mà bắn lão phu?”

Bọn kia đâu có biết lão già này hỉ nộ bất thường, lại chỉ cất tay một cái là giết người được ngay, nếu không thì chẳng dại gì gây sự với lão. Đinh Bất Tam còn chưa hạ mình xuống đã phóng song cước đá trúng hai gã hán tử cầm ống trúc, rồi lại phóng chưởng đánh trúng gã đại hán đứng đầu, hất văng ra ngoài. Cả ba người này đều không hiểu võ công, trúng phải quyền cước của một tay quái kiệt giang hồ thì làm sao giữ được mạng nữa? Hai người cầm ống trúc gục xuống chết ở ngay đầu thuyền, còn đại hán bị đánh tung lên thì người còn lơ lửng trên không, miệng đã hộc máu tươi ra.

Đinh Bất Tam lại toan phóng cước đá quét vào bọn người còn sống sót. Bỗng nghe Đinh Đang ở phía sau lạnh lùng nói: “Gia gia! Nhất nhật bất quá tam, một ngày không giết quá ba người.” Đinh Bất Tam không khỏi sửng sốt, vì giận quá mà suýt nữa quên cả lời trọng thệ. Nghe Đinh Đang la hoảng, chân lão chưa đá trúng ai đã vội thu về.

Mấy người kia sợ đến hồn vía lên mây, kêu la rầm rĩ: “Lão yêu quái này ghê gớm quá! Chạy cho mau! Chạy cho mau!” Chớp mắt chúng đã trốn hết, đèn đuốc cái thì quẳng xuống sông, cái thì vứt lại trên bờ. Ba cái xác chết, một cái trên bờ, hai cái ở đầu thuyền, cũng chẳng ai đụng đến nữa.

Đinh Bất Tam đá xác chết trên thuyền văng xuống sông rồi quay vào bảo lão thuyền phu: “Nhổ thuyền chạy cho lẹ! Bây giờ mà chúng còn kéo đến thì ta không thể giết thêm được nữa.” Lão thuyền phu sợ quá thộn mặt ra, hai tay run lẩy bẩy, không đủ sức để nhổ sào lên.

Đinh Bất Tam liền tự tay nhổ sào đẩy thuyền ra xa bờ. ống máu chó vừa rồi thụt không trúng người lão, vung vãi đầy trong khoang thuyền, mùi hôi tanh xông lên rất khó ngửi. Đinh Bất Tam cất giọng lạnh lùng hỏi: “Đinh Đang! Có phải ngươi giở trò quỷ này không?”

Đinh Đang không trả lời câu hỏi của gia gia, chỉ mỉm cười hỏi lại: “Gia gia! Gia gia đã nói ra gì thì có giữ lời không?”

Đinh Bất Tam đáp: “Có bao giờ ta nói mà không giữ lời đâu?”

Đinh Đang nói: “Hay lắm! Gia gia đã nói đến hết mười ngày mà Thạch lang không đánh bại được Bạch Vạn Kiếm thì gia gia sẽ giết chàng. Hôm nay là ngày thứ mười, nhưng gia gia đã giết ba mạng rồi.”

Đinh Bất Tam run lên rồi nói: “Con tiểu nha đầu này thực lắm mưu ma chước quỷ. Té ra gia gia đã mắc vào cạm bẫy của ngươi.”

Đinh Đang hết sức đắc ý, cười hì hì nói: “Đinh tam gia trước giờ nói thế nào thì làm thế ấy. Gia gia nói đến ngày thứ mười là nhất định sẽ giết Thạch lang, nhưng nhất nhật bất quá tam, hôm nay gia gia đã giết ba người rồi, không giết người thứ tư được nữa. Gia gia đã không giết chàng vào ngày thứ mười, thì sau này cũng không thể giết. Theo cháu thấy thì cháu rể của gia gia cũng không phải ngu ngốc gì, đợi khi thần trí hoàn toàn khôi phục thì võ công chàng dĩ nhiên sẽ tiến bộ rất mau, nhất định không làm mất thể diện của gia gia đâu.”

Đinh Bất Tam tức mình giơ chân lên dậm nghe rắc một cái, ván lót thuyền bị thủng một lỗ. Lão thét lên: “Không được, không được! Đinh Bất Tam ta không thể thua dưới tay con a đầu này được, nếu không thì thật là mất thể diện.”

Đinh Đang khoái chí cười nói: “A Đang là cháu gái của gia gia, người trong một nhà thì có gì mà mất mặt hay không mất mặt? Chuyện này cháu nhất định không nói ra cho ai biết.”

Đinh Bất Tam tức giận nói: “Ta đã thua ai thì trong lòng tự thấy khó chịu, ngươi có nói chuyện này ra hay không thì cũng thế thôi.”

Đinh Đang nói: “Thế thì coi như gia gia đã thắng cháu cũng được.”

Đinh Bất Tam nói: “Thua là thua, thắng là thắng. Ta đâu có phải lão Tứ gia gia vô dụng của ngươi? Hồi nhỏ hắn hay đánh nhau với ta, mỗi khi thua cứ cố cãi là mình thắng.”

Thạch Phá Thiên nghe hai ông cháu cãi vã nhau, đến lúc này mới tỉnh ngộ nghĩ thầm: “Té ra bọn người kia là do Đinh Đinh Đang Đang cố ý dẫn dụ đến để gia gia hạ sát ba người liên tiếp, rồi sau đó nhắc đến chuyện nhất nhật bất quá tam để gia gia không giết mình được nữa.”

Chàng chính mắt nhìn thấy chỉ trong chớp nhoáng Đinh Bất Tam đã giết ba người, thần thái hết sức hung hãn, thế thì lão nói muốn giết mình chắc cũng không phải chuyện nói đùa. Chàng thấy Đinh Đang mỉm cười đi ra sau thuyền, bèn nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng muốn cứu mạng ta mà làm ba người phải chết oan, như thế chẳng hóa ra… tàn nhẫn lắm hay sao?”

Đinh Đang sầm mặt hỏi lại: “Đó là Thiên ca hại người, sao lại còn trách muội?”

Thạch Phá Thiên ngo” ngác hỏi: “Là… là ta hại người ư?”

Đinh Đang nói: “Chứ còn gì nữa? Việc đến lúc quyết định mà Thiên ca không dám động thủ. Nếu huynh làm theo lời tiểu muội thì hai ta đã chạy xa rồi, đâu có liên lụy đến ba người phải vô cớ mà mất mạng?” Thạch Phá Thiên thấy nàng nói mấy câu này cũng không sai, nghẹn họng không biết nói sao nữa.

Bỗng Đinh Bất Tam cười ha hả rồi lớn tiếng nói: “Được lắm, được lắm! Thằng lỏi họ Thạch kia! Gia gia sẽ móc mắt chặt tay ngươi, để cho ngươi sống không sống được, chết chẳng chết cho, biến thành một phế nhân. Chỉ cần ta không lấy mạng ngươi, thì chưa phải là phá cái quy củ nhất nhật bất quá tam.”

Đinh Đang và Thạch Phá Thiên cùng nhìn nhau, thần sắc thay đổi hẳn. Đinh Bất Tam rất lấy làm đắc ý, lại nói luôn một hồi: “Diệu kế, diệu kế! Thằng ngốc kia, ta không giết ngươi, nhưng phải làm cho ngươi biến thành nửa người nửa ma. A Đang đâu rồi? Ta nói hợp lý đấy chứ?”

Ngay lúc này Đinh Đang thật chẳng biết nói gì, đành đáp: “Ngày thứ mười cũng chưa hết. Biết đâu hôm nay Thạch lang lại gặp Bạch Vạn Kiếm rồi đả bại hắn thì sao?”

Đinh Bất Tam cười ha hả nói: “Không sai, không sai. Chúng ta phải lấy đạo lý mà cư xử, dù già dù trẻ cũng không được ăn gian. Gia gia sẽ chờ đến canh ba đêm nay rồi mới động thủ cũng chưa muộn.”

Đinh Đang buồn bã vô cùng, nghĩ mãi mà không ra được biện pháp nào cứu Thạch Phá Thiên thoát được mối nguy này. Còn Thạch Phá Thiên thì vẫn không hề biết đại họa lâm đầu, ngớ ngẩn hỏi nàng: “Sao muội chau mày lại? Muội có tâm sự gì chăng?”

Đinh Đang bực bội đáp: “Thiên ca không nghe gì ư? Gia gia muốn móc mắt huynh, chặt đứt tay huynh.”

Thạch Phá Thiên cười nói: “Gia gia nói giỡn để dọa chơi, mà Đinh Đinh Đang Đang lại tưởng là thật ư? Ta chẳng đắc tội gì với gia gia, gia gia móc mắt cùng chặt tay ta để làm chi?”

Đinh Đang từ bực bội chuyển thành tức giận, nghĩ bụng: “Thạch lang bây giờ suốt ngày ngơ ngơ ngẩn ngẩn, đầu óc lờ mờ chẳng hiểu chi hết. Ta mà theo chàng cả đời thì cũng chẳng vui thú gì. Gia gia muốn giết chàng, thì cứ để chàng chết quách đi cho xong.” Nàng nghĩ tới gia gia định móc mắt chặt tay Thạch lang, thì lại nghĩ: “Thạch lang mà bị như thế thì chẳng còn cách nào chạy chữa cho khỏi được. Ta lấy phải người chồng tàn tật, thật khổ cả một đời.” Đinh Đang ngẩng mặt nhìn trời thấy thái dương đã xế về tây, nhìn xuống dưới sông thì thấy bóng mình cùng Thạch Phá Thiên song song in trên mặt nước, tựa hồ đang bơi lội, giỡn sóng mà đi.

Đinh Đang quay người lại, thấy lưng của Thạch Phá Thiên đang hướng về phía mình, bèn dùng cầm nã thủ kiềm chế yếu huyệt trên lưng chàng. Tay phải nàng sử chiêu Hổ Trảo Thủ nắm lấy huyệt Linh Đài, tay trái ra chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm chụp vào huyệt Huyền Khu. Thạch Phá Thiên không phòng bị chi hết, bị nàng nắm trúng huyệt đạo, lập tức toàn thân chàng nhũn ra không nhúc nhích được nữa. Đinh Đang cũng bị nội lực Thạch Phá Thiên chấn động, người nàng bị hất ra, suýt nữa ngã xuống sông. Nàng vội đưa tay ra nắm được mui thuyền rồi cất tiếng mắng: “Ngươi sắp bị gia gia móc mắt chặt tay. Con người tàn phế như vậy mà để sống trên đời, dù chẳng làm cho Đinh tam gia mất thể diện, thì Đinh Đang này cũng không còn mặt mũi trông thấy ai nữa. Chẳng cần gia gia động thủ, ta tự tay móc mắt ngươi ra trước.”

Nàng nói xong, tới đằng lái thuyền lôi ra một sợi dây rất dài, trói chân tay Thạch Phá Thiên lại. Nàng còn lấy vải buồm quấn dọc từ vai xuống đến chân, cột chằng chịt đến tám chín vòng khắp người chàng, trông như một đòn bánh tét lớn. Lẽ ra Thạch Phá Thiên đã bị cầm nã thủ chụp trúng huyệt đạo, thì trong một thời gian không thể nói chuyện được. Nhưng nhờ nội lực chàng thâm hậu, nên tuy tứ chi không cử động được mà vẫn có thể lên tiếng hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Sao nàng lại đùa dai thế?”

Miệng chàng nói vậy, song thấy mặt nàng đầy vẻ hung dữ thì biết là gặp chuyện không hay, trong ánh mắt chàng bỗng lộ vẻ van lơn. Đinh Đang vừa phóng chân đá vào lưng Thạch Phá Thiên vừa mắng nhiếc: “Hừ! Ta mà đùa với ngươi ư? Chết đến nơi rồi mà vẫn còn như người mơ ngủ. Những loại ngu ngốc như ngươi, dù chém tới ngàn đao vạn đao cũng không oan uổng.” Rồi nàng rút xoẹt lưỡi dao lá liễu ra, liếc qua liếc lại trên mặt Thạch Phá Thiên hai cái, như người đang mài dao.

Thạch Phá Thiên kinh hãi nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Từ nay trở đi, nhất định ta sẽ nghe lời nàng mọi chuyện. Nàng đừng giết ta, ta không sống lại được đâu!”

Đinh Đang giận dữ nói: “Ai cần ngươi sống trở lại? Ta đã có lòng cứu ngươi, nhưng ngươi lại không chịu nghe ta dặn bảo. Đó là tự ngươi đi tìm cái chết, còn trách ai được nữa? Bây giờ ta mà không giết ngươi, thì gia gia cũng chẳng tha ngươi. Hừ! Nếu chồng của ta bị giết thì cũng phải chính ta động thủ, chứ để người khác giết chồng mình thì suốt đời Đinh Đang này làm sao yên lòng được nữa?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Đinh Đang Đang! Nàng tha ta đi, ta không làm chồng nàng nữa là xong.” Đối với chàng thì mấy câu này đã là cầu xin cực độ. Chỉ vì từ nhỏ chàng đã nghe mẹ dạy không được cầu xin ai cả, nên hai chữ cầu xin khó mà nói ra miệng được.

Đinh Đang nói: “Đã cùng bái thiên địa rồi, sao lại không phải là chồng của ta? Ngươi mà còn làm ầm ĩ nữa thì ta chém vào đầu ngươi lập tức.” Thạch Phá Thiên cả sợ, không dám nói to lên nữa.

Bỗng nghe Đinh Bất Tam cười rộ lên rồi nói: “Hay lắm, hay lắm! Thế mới không thẹn là cháu gái ngoan của Đinh lão tam. Ngươi cứ sảng khoái vung một đao chém nó thành hai đoạn là xong.”

Thấy Đinh Đang giơ đao lên toan giết người, lão thuyền phu sợ đến tay run bần bật, bẻ lái thuyền đi lệch đường, suýt đụng vào một con thuyền nhỏ đang thuận dòng xuôi tới. Người chống sào bên thuyền nhỏ thấy thuyền mình sắp đâm vào thuyền Đinh Bất Tam, hốt hoảng la lên: “Bẻ lái thẳng lại! Bẻ lái thẳng lại!”

Đinh Đang giơ thanh Liễu Diệp Đao lên, ánh trời chiều phản chiếu lên lưỡi dao làm chói mắt Thạch Phá Thiên. Đột nhiên nàng vung tay đâm phập xuống ván thuyền, chỉ cách mặt chàng chừng vài tấc. Đinh Đang cắm đao xuống rồi buông tay ra, hai tay nàng ôm lấy người Thạch Phá Thiên, vận kình liệng mạnh chàng vào con thuyền nhỏ đang đi sát bên cạnh.

Đinh Bất Tam thấy cô cháu đột nhiên thi hành ngụy kế thì tức giận quát lên: “Ngươi… ngươi làm trò gì vậy?” Lão phi thân vọt tới, định chụp Thạch Phá Thiên lại nhưng đã chậm mất rồi. Nước sông chảy xiết, chỉ trong chớp mắt hai con thuyền đã cách nhau đến mười mấy trượng, dù khinh công Đinh Bất Tam có cao thâm gấp mười cũng không tài nào nhảy sang thuyền kia được. Lão xoay tay lại tát Đinh Đang một cái thật mạnh rồi la lên: “Quay thuyền lại! Quay thuyền lại! Đuổi mau!”

Nhưng sông Trường Giang sóng to gió lớn, làm sao trong một khoảnh khắc mà xoay chiếc thuyền lại được? Huống chi con thuyền nhỏ đang nhẹ nhàng lướt sóng, mỗi lúc một xa hơn, dù có quay được thuyền lại cũng khó mà đuối kịp.

Hồi 09: Đòn Bánh Tét

Thạch Phá Thiên nghe gió rít bên tai vù vù, thân thể lơ lửng trên không lăn đi nửa vòng, lúc rơi xuống thì nằm sấp. Người chàng rớt vào một chỗ mềm nhũn nên chẳng đau đớn gì, chung quanh tối đen không nhìn thấy chi hết. Chàng chợt nghe có tiếng người khẽ gọi, nhưng thân thể không nhúc nhích được nên không dám mở miệng. Mũi chàng ngửi thấy một mùi thơm man mác, tựa như đã về tới tổng đà bang Trường Lạc, nằm trên chiếc giường êm ấm trong phòng mình.

Thạch Phá Thiên định thần lại một chút, quả nhiên nhận ra mình đang nằm trên chăn đệm, mặt úp vào một cái gối. Trên gối lại có một mái tóc dài của nữ nhân đang buông xõa ra. Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, la lên một tiếng.

Rồi chàng nghe giọng một thiếu nữ hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên ấp úng: “Ta… Ta…” Chàng không biết đáp thế nào cho tiện.

Thiếu nữ tức giận nói: “Ngươi tự nhiên chui vào trong thuyền của chúng ta, tất không phải là hạng người tử tế. Bản cô nương phải chém chết ngươi cho xong!”

Thạch Phá Thiên lớn tiếng la lên: “Không! Ta không phải… tự nhiên chui vào thuyền này. Ta bị người khác ném vào đây.”

Thiếu nữ nói: “Ngươi… ngươi… cút ra mau! Sao ngươi dám chui vào chăn đệm của ta?” Thạch Phá Thiên định thần lại, quả nhiên chàng nhận thấy trên lưng mình có chăn mà dưới ngực lại có đệm, mặt úp lên gối. Trong đống chăn đệm này còn hơi ấm áp, rõ ràng vừa có người nằm.

Thì ra Đinh Đang thừa lúc con thuyền nhỏ đi sát thuyền mình mà liệng Thạch Phá Thiên đúng vào khoang thuyền. Theo lời thiếu nữ này nói thì đây chính là chỗ ngủ của nàng, thật là chuyện ngẫu nhiên phiền phức. Giả tỉ lúc này tay chân Thạch Phá Thiên không bị trói, thì chàng đã vùng dậy nhảy ra ngoài rồi. Khốn nỗi chàng bị điểm huyệt chưa ai giải khai cho, dù muốn giơ tay lên cũng không được chứ đừng nói đến chuyện cử động. Chàng đành năn nỉ: “Tại hạ không nhúc nhích được, xin cô nương đẩy ra giúp. Cô nương muốn liệng thì cứ liệng, muốn đá thì cứ đá, tại hạ chẳng dám kêu ca chi hết.”

Lại nghe thanh âm một bà già lên tiếng: “Thằng khốn kiếp này nói lăng nhăng gì vậy? Ngươi vung đao chém chết gã quách đi cho xong!”

Thiếu nữ kia lại nói: “Bà bà! Nếu cứ để gã nằm đây mà chém chết, máu me dây cả ra chăn đệm của con thì… làm thế nào?” Giọng nàng tỏ ra rất nóng nảy băn khoăn.

Mụ già tức giận quát lên: “Ngươi làm trò gì thế? Tên khốn nạn kia, sao không chui ra đây?”

Thạch Phá Thiên vội vàng đáp: “Ta thật sự là không động đậy được. Ta đã bị kiềm chế huyệt Linh Đài và huyệt Huyền Khu, toàn thân lại bị bó chằng bó chịt không thể nhúc nhích, chẳng biết làm thế nào? Vị cô nương hay thái thái nào đó, xin lại đây mau! Tại hạ nằm đây thực… thực không tiện chút nào.”

Thiếu nữ bĩu môi nói: “Thái thái nào đâu? Ta là một cô nương… ta cũng không cử động được. Bà bà! Bà mau tìm cách gì đi, gã này đúng là bị người ta trói thực.”

Thạch Phá Thiên nói: “Lão thái thái!… Tại hạ nhờ lão thái thái vào đây lôi tại hạ ra… Tại hạ thật là đắc tội với cô nương này… thật sự… thật sự không biết nói gì hơn.”

Mụ già tức giận quát lên: “Quân khốn kiếp! Bây giờ mà ngươi còn nói chuyện giỡn chơi được ư?”

Thiếu nữ nói: “Bà bà! Chúng ta kêu thuyền phu ở đằng lái vào kéo gã ra có được không?”

Mụ già vội nói: “Không được! Không được! Tình hình lộn xộn thế này làm sao để người khác thấy được? Nếu chúng biết bà cháu mình cùng không động đậy được, thì cái này… cái này…”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên tự hỏi: “Chẳng lẽ vị thái thái kia cùng cô nương đây cũng bị người ta trói chặt, không nhúc nhích được hay sao?”

Mụ già vừa tức giận vừa nóng nảy, chửi mắng luôn miệng: “Quân khốn kiếp! Quân khốn kiếp! Sao ngươi không đi thuyền nào khác lại nhảy vào thuyền này? A Tú! Ngươi giết phứt gã đi! Chăn đệm bị dây máu thì có gì quan hệ đâu? Sớm muộn gì cũng phải giết gã thôi.”

Thiếu nữ nói: “Cháu không đủ sức để giết người nữa.”

Mụ già kia nói: “Ngươi cứ dùng dao mà từ từ cứa đứt cổ họng nó là được. Quân khốn nạn này bị đứt cổ thì chắc chắn không thể sống được nữa.”

Thạch Phá Thiên vội la lớn: “Không được! Không được! Máu tại hạ tanh vô cùng, chăn đệm thơm tho thế này mà để máu dơ bẩn dây vào ư? Huống chi… huống chi… trong chăn đệm mà có xác chết thì thật là không tốt!”

Bỗng nghe một tiếng rên nho nhỏ, dường như cô nương này nghĩ tới trong chăn đệm có tử thi thì sợ phát run lên. Thạch Phá Thiên cả mừng, lại nghe nàng nói: “Bà bà! Con không đủ cả sức để rút dao nữa.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cô không có sức để rút dao, thật không có gì tốt hơn được nữa. Nếu bị cô nương giết chết, tại hạ nhất định sẽ biến thành quỷ nhập tràng nằm kế bên mình cô nương lại càng khủng khiếp hơn. Lúc này còn sống tại hạ không nhúc nhích được, khi chết đi biến thành quỷ nhập tràng dĩ nhiên cử động được như thường. Hai bàn tay lạnh toát như băng của quỷ nhập tràng sẽ túm chặt lấy cổ cô nương…”

Thiếu nữ nghe Thạch Phá Thiên nói vậy quả nhiên sợ hết hồn, vội la lên: “Ta không giết ngươi! Ta không giết ngươi!” Ngừng một lúc, nàng cất tiếng gọi: “Bà bà! Bà có nghĩ được biện pháp nào đem gã này ra không?”

Mụ già đáp: “Ta đang nghĩ cách đây. Ngươi đừng nói nhiều nữa!”

Trời đã tối mịt, trong thuyền chẳng nhìn rõ gì hết. Thạch Phá Thiên tuy nằm cùng chăn đệm với thiếu nữ, nhưng may mà khi bị liệng vào, chàng nằm chệch sang một bên, không chạm tới người nàng. Trong bóng tối, Thạch Phá Thiên chỉ nghe tiếng nàng thở rất gấp, tỏ ra vừa bồn chồn vừa sợ hãi. Đã khá lâu mà mụ già vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp nào.

Đột nhiên trên sông có hai tiếng sáo nổi lên lanh lảnh, giữa đêm khuya yên tĩnh nghe càng chói tai hơn. Tiếng sáo chưa dứt, làn gió trên sông đã đưa lại một tràng cười ha hả, đúng là thanh âm một lão già quắc thước. Lão già vừa cười vừa cất tiếng gọi: “Tiểu Thúy! Ta đợi nàng suốt một ngày một đêm rồi, sao bây giờ nàng mới đến?”

Cô nương kia hoảng hốt gọi: “Bà bà! Hắn… hắn đuổi kịp đến nơi rồi! Biết làm thế nào bây giờ?”

Mụ già hứ một tiếng rồi đáp: “Ngươi đừng lên tiếng nữa. Ta đang đề tụ chân khí, cố làm những kinh mạch dưới chân hơi thông một tí. Hễ nhúc nhích được một chút là ta sẽ nhảy xuống sông để khỏi bị lão yêu quái làm nhục.”

Cô nương đó vội vàng nói: “Bà bà! Như vậy không được đâu!”

Mụ già tức giận nói: “Ta đã bảo ngươi đừng có làm phiền ta nữa. Lúc ta nhảy xuống sông, ngươi có theo ta không?”

Cô nương ngần ngừ một chút rồi nói: “Cháu… cháu sẽ chết chung với bà bà.”

Mụ già nói: “Thế thì được.” Rồi mụ im lặng, không nói gì nữa.

Thạch Phá Thiên đã hai lần nếm mùi tẩu hỏa nhập ma. Chàng nghĩ bụng: “Té ra lão thái thái cùng tiểu cô nương này đều vì luyện nội công mà bị tẩu hỏa đến không nhúc nhích được nữa. Địch nhân lại đuối đến nơi giữa lúc này thì thật là khó xử!”

Tiếng lão già dưới hạ lưu lại vang lên: “Phen này nàng muốn đấu kiếm cũng được mà đấu quyền cũng được, Đinh lão tứ này nhất định tiếp đón đến cùng. Tiểu Thúy! Sao ta hỏi mà nàng không trả lời?” Câu này vừa dứt, thanh âm đã gần lại thêm mấy chục trượng. Một lúc sau, bỗng nghe trên không trung vang lên mấy tiếng loảng xoảng, rồi nghe một tiếng “bõm”, dường như vật gì nặng rớt xuống thuyền. Thì ra lúc con thuyền kia đi tới, có người liệng neo buộc xích sắt xuống cho thuyền dừng lại.

Người thuyền phu ở đằng lái la lên: “Trời ơi! Ai làm gì vậy? Ai làm gì vậy?”

Thuyền tròng trành mạnh. Thạch Phá Thiên không tự chủ được, bị lăn qua bên phải. Cô nương kia cũng lăn theo, tựa vào người chàng. Thạch Phá Thiên nói: “Cái này… cái này… cô nương…” Chàng định bảo cô ấy đừng tựa vào người mình, nhưng nghĩ lại cô ta cũng không nhúc nhích được chẳng khác gì mình, nên chàng đang nói dở câu liền ngừng lại. Tiếp theo chàng cảm thấy mũi thuyền chúi xuống, có người nhảy qua thuyền mình. Con thuyền lại tròng trành một lúc rồi mới ổn định.

Lão già đứng ở mũi thuyền lên tiếng nói: “Tiểu Thúy! Ta đã đến đây! Chúng ta có động thủ ngay không?”

Người thuyền phu ở đằng lái la lên: “Lão làm gì mà quấy rối ghê thế? Cả hai con thuyền bị đắm hết bây giờ.”

Lão già tức giận mắng: “Đồ chó chết! Ngươi có câm miệng ngay không?” Lão rút neo lên rồi quăng ra, hai con thuyền lại trôi băng băng theo dòng nước. Người thuyền phu thấy lão thần lực ghê người, cái neo quấn xích sắt nặng đến hàng trăm cân mà lão kéo phăng phăng coi nhẹ như không, liền sợ cứng lưỡi không dám nói gì nữa.

Lão già mỉm cười nói: “Tiểu Thúy! Ta cứ ở đầu thuyền đợi nàng. Nàng nằm trong khoang định ám toán ta, ta không bị lừa đâu.”

Thạch Phá Thiên nghe lão nói vậy thì yên tâm được một chút, nghĩ bụng: “Lão chưa vào khoang thuyền lúc nào thì hay lúc ấy.” Nhưng sau chàng lại nghĩ thầm: “Kéo dài thời gian chưa chắc đã hay. Bà già kia mà ngưng tụ chân khí được, là lập tức cắp tiểu cô nương này nhảy xuống sông tự vẫn.” Lúc này tai nàng đang kề vào miệng Thạch Phá Thiên, chàng khẽ bảo: “Cô nương! Cô bảo bà bà đừng nhảy xuống sông.”

Thiếu nữ nói: “Bà bà… bà bà không chịu đâu. Lão nhân gia nhất định phải nhảy xuống sông.” Lúc đó nàng cảm thấy quá đau lòng, không nhịn được nữa phải để nước mắt chảy ra, ướt cả mặt Thạch Phá Thiên. Rồi cô nghẹn ngào nói: “Xin… xin lỗi. Nước mắt của ta đã rớt trúng mặt ngươi rồi.” Thì ra cô nương này là người văn nhã, hiểu lễ nghĩa.

Thạch Phá Thiên khẽ thở dài rồi nói: “Cô nương bất tất phải khách khí. Mấy giọt nước mắt có gì đáng kể đâu?”

Nàng vừa khóc vừa nói: “Ta cũng không muốn chết, nhưng lão đứng ở đầu thuyền kia hung dữ lắm. Bà bà bảo là thà chết đi còn hơn để lọt vào tay lão. Ta… ta để nước mắt chảy vào mặt ngươi thật lấy làm áy náy. Ngươi đừng giận ta nhé…”

Giữa lúc ấy, bỗng nghe trên sạp thuyền có một tiếng bịch nhè nhẹ, đầu khoang thuyền kia có một bóng người ngồi. Thạch Phá Thiên trước thì nằm sấp, mặt úp xuống gối, nhưng vì thuyền xô nên chàng nghiêng người lên, có thể nhìn rõ. Vừa trông thấy người ngồi ở đó, trống ngực Thạch Phá Thiên đập thình thình. Chàng run giọng nói: “Cô… cô nương! Bà bà của cô ngồi dậy được rồi.”

Cô nương “à” lên một tiếng. Nàng đang đối diện với Thạch Phá Thiên nên không nhìn thấy tình hình ngoài sàn thuyền. Một lúc sau, Thạch Phá Thiên lại la lên: “Lão thái thái! Thái thái đừng nắm lấy cô nương, cô nương không muốn nhảy xuống sông tự tử đâu. Có ai đó không? Lại cứu người ngay!”

Lão già đứng ở đầu thuyền nghe trong khoang có thanh âm một chàng trai trẻ thì hết sức ngạc nhiên, bèn hỏi: “Gã nào la ó om sòm vậy?”

Thạch Phá Thiên hô lớn: “Lão bá mau tới cứu người. Lẹ lên! Lão thái thái sắp nhảy xuống sông tự tử rồi.”

Lão già giật mình kinh hãi, vung chưởng hất một nửa mui thuyền lên, đồng thời vươn tay phải chụp lấy cánh tay bà lão. Bao nhiêu chân khí của bà lão cố gắng ngưng tụ trong nửa ngày, bây giờ lập tức tiêu tan hết. Lão già kia vừa chụp tới, mụ đã ngã lăn ra. Lão già nắm lấy mạch môn rồi đưa tay ra giữ lấy lưng mụ. Lão thất kinh hỏi: “Tiểu Thúy! Nàng luyện công bị tẩu hỏa ư? Sao không bảo trước mà cứ gắng gượng chống cự?”

Bà lão thở hổn hển nói: “Buông tay ta ra! Mặc kệ ta, cút mau đi!”

Lão già nói: “Kinh mạch của nàng chạy ngược đường hết sức nguy hiểm, nếu không sớm chữa trị thì e rằng… e rằng sẽ thành tàn phế. Để ta giúp nàng một tay.”

Mụ già tức giận nói: “Nếu ngươi còn đụng chạm vào thân thể ta, thì dù ta không cử động được cũng quyết cắn lưỡi tự tận ngay lập tức.”

Lão già biết tính tình mụ này cương liệt nói sao làm vậy, nên vội rút tay lại la lên: “Mấy mạch Thủ thái âm phế kinh, Thủ thiếu âm tâm kinh và Thủ thiếu dương tam tiêu của nàng bị rối loạn cả rồi. Cái đó… cái đó…”

Mụ già nói: “Ngươi cứ cố thắng ta, bây giờ ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma còn chưa tốt hay sao? Như vậy là hợp với tâm nguyện ngươi rồi.”

Lão già đáp: “Thôi, không nói đến chuyện đó nữa. A Tú! Ngươi làm sao vậy, cố khuyên bà nội ngươi đi chứ? Ngươi… ngươi… sao lại ngủ chung với một nam nhân? Gã là tình lang hay là lang quân của ngươi?”

A Tú cùng Thạch Phá Thiên vội vã đáp “Không phải, không phải đâu. Chúng ta đều không nhúc nhích được.”

Lão kia vừa ngạc nhiên vừa tức cười, đưa tay kéo Thạch Phá Thiên ra. Ngờ đâu chàng đang bị trói bằng dây buồm chặt cứng, không co duỗi gì được, bị lão lôi từ trong mền ra như một cây gỗ. Lão kia thấy vậy giật mình không hiểu chi hết, nhưng định thần nhìn rõ lại liền nổi lên cười ha hả nói: “A Tú! Đây có phải là Tết Đoan Ngọ đâu mà ngươi giấu một đòn bánh tét lớn trong chăn màn?”

A Tú vội đáp: “Không phải! Gã ở ngoài bay vào đây, không phải ta giấu gã đâu.”

Lão già cười hỏi: “Sao ngươi cũng không cử động được? Chẳng lẽ cũng biến thành đòn bánh tét rồi sao?”

Mụ già giận dữ nói: “Ngươi dám đụng một ngón tay vào A Tú thì ta phải liều mạng với ngươi.”

Lão già thở dài nói: “Được! Ta không đụng vào người cô ấy.” Rồi lão quay lại bảo người phu thuyền: “Thuyền gia! Quay thuyền lại rồi giương buồm lên, chừng nào ta bảo thì mới được dừng thuyền!” Người phu thuyền không dám trái ý lão, liền dạ một tiếng rồi từ từ quay thuyền lại.

Mụ già tức giận hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

Lão già kia đáp: “Ta đưa nàng lên Bích Loa Sơn để điều dưỡng cho mau khỏi. Lần này nàng bị tẩu hỏa nhập ma không phải là nhẹ đâu.”

Mụ già quát: “Ta thà chết chứ không chịu lên Bích Loa Sơn. Ta đã thua ngươi đâu mà ngươi bắt ta phải đến cái ổ chó của ngươi?”

Lão kia nói: “Chúng ta đã ước hẹn tỉ võ trên sông Trường Giang, nàng thắng thì ta phải đến nhà nàng mà khấu đầu bái lạy, nàng thua thì phải ghé nhà ta một chuyến. Bây giờ nàng tự luyện nội công mà bị tẩu hỏa nhập ma cũng thế, mà nàng không thắng nổi ta thì cũng thế, nói sao thì nói cũng phải lên Bích Loa Sơn một phen. Mộng ước mấy chục năm nay của ta lần này coi như đạt được, thật là tuyệt diệu.”

Mụ già tức giận như phát điên, la rầm lên: “Không đi! Không đi! Ta nhất định không đi!” Mụ càng la, thanh âm nghe càng nghẹn ngào thê thảm, cơ hồ sắp ngạt thở mà ngất đi.

Lão già kia vẫn cười khì khì nói: “Nàng không đi thì cũng phải đi, chuyện hôm nay đâu có theo ý nàng được?”

Thạch Phá Thiên không nhịn được nữa, hỏi xen vào: “Bà bà đã không chịu đi, lão gia còn cưỡng ép bà làm chi?”

Lão già cả giận lớn tiếng quát: “Ai mượn ngươi chõ miệng vào? Thúi lắm!” Lão hùng hổ xoay tay lại, vung chưởng toan tát vào mặt Thạch Phá Thiên, tưởng chừng chàng sắp phải gãy mấy cái răng. Nhưng đột nhiên lão nhìn thấy trên mặt Thạch Phá Thiên có in vết bàn tay đen sì, liền chưng hửng một chút rồi thu chưởng về, mỉm cười nói: “Ha ha! Đại tống tử! Ta cứ tưởng là ai cột ngươi như đòn bánh tét, té ra chính là đứa cháu gái ngoan ngoãn của ta. Phát chưởng còn in trên mặt ngươi cũng là nó đánh, có đúng thế không?”

Thạch Phá Thiên chưa hiểu ra sao, hỏi lại: “Cháu gái của lão gia ư?”

Lão kia dằn giọng: “Ngươi chưa biết lão phu là ai hay sao? Ta là Đinh Bất Tứ. Đinh Bất Tam là ca ca của ta, tuổi hắn lớn hơn ta nhưng võ công lại không bằng ta… Đứa cháu gái của ta…”

Thạch Phá Thiên nhìn lại thấy mặt mũi của lão ta cũng khá giống Đinh Bất Tam, cách ăn mặc cũng tương tự, chỉ có ngang lưng thắt thêm một sợi dây vàng sáng lấp lánh, liền nói: “Phải rồi, Đinh Đinh Đang Đang là cháu gái của lão gia. Đúng thế! Phát chưởng này là do Đinh Đinh Đang Đang đã tát, mà cháu cũng bị nàng trói đấy.”

Đinh Bất Tứ ôm bụng cười vang: “Ta đã nói mà, khắp thiên hạ trừ con a đầu A Đang này ra, không còn người thứ hai nào lại tinh nghịch như thế. Hay lắm, hay lắm! Nhưng sao nó lại trói ngươi?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Gia gia nàng muốn giết tại hạ, vì tại hạ chẳng những võ công kém cỏi mà lại còn ngu ngốc.”

Đinh Bất Tứ lại càng khoái chí. Lão cười lăn cười lộn nói: “Người mà lão tam đã muốn giết, lại gặp lão tứ thì… thì…”

Thạch Phá Thiên kinh hãi hỏi lại: “Lão gia cũng muốn giết tại hạ ư?”

Đinh Bất Tứ nói: “Tâm ý của Đinh Bất Tứ, thiên hạ ai mà đoán trúng được? Ngươi tưởng là ta muốn giết ngươi thì ta lại không giết.” Lão đứng dậy, tay trái nắm lấy người Thạch Phá Thiên nhấc bổng lên, tay phải vung lên như lưỡi đao chém soạt soạt vào dây thừng quấn trên người Thạch Phá Thiên từ trên xuống dưới, mấy chục vòng dây cột buồm lập tức bị cắt thành từng khúc. Lưỡi đao thật e rằng cũng chưa sắc bén đến thế.

Thạch Phá Thiên trầm trồ khen ngợi: “Lão gia! Thủ pháp của lão gia lợi hại quá! Cái đó kêu bằng gì vậy?”

Đinh Bất Tứ vốn hiếu thắng, nghe Thạch Phá Thiên ca ngợi thì nức lòng hởi dạ, đáp: “Công phu đó dĩ nhiên phi thường, khắp thiên hạ trừ Đinh Lão Tứ ra e rằng không còn ai có bản lãnh này nữa. Cái công phu này gọi là…”

Lúc này mụ già đã hồi tỉnh, nghe Đinh Bất Tứ ba hoa khoác lác liền cười lạt nói: “Hừ! Đúng là mèo khen mèo dài đuôi. Cái chiêu này gọi là Khoái Đao Trảm Loạn Ma, bất luận kẻ nào đã học mấy miếng võ mèo què đều phải biết qua. Ngay cả bọn nhà quê khỏi cần học võ, chỉ cần biết cầm lưỡi liềm là sử dụng được rồi.”

Đinh Bất Tứ giận dữ quát: “Nói bậy, nói bậy! Kẻ mới học được mấy miếng võ mèo què mà có thể sử được chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma này ư? Nàng thử biểu diễn cho ta xem thử nào.”

Mụ già đáp: “Ngươi đã biết ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma mất hết khí lực nên mới nói móc ta chứ gì? Đòn bánh tét kia! Ta nói cho ngươi biết, ngươi cứ đến bất cứ một thị trấn nào mà tìm bọn sơn đông mãi võ bán thuốc bịp người lấy tiền, cho chúng vài đồng tiền thì đảm bảo là chúng sẽ biểu diễn chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma này cho ngươi xem, không khác lão già này chút xíu nào, còn có thể hay hơn lão nữa. Đó là trò bịp của hạng người lê la kiếm cơm khắp thiên hạ, chứ có chi là kỳ lạ đâu.”

Đinh Bất Tứ nghe mụ kia nhạo báng, bất giác nổi giận như điên, vươn tay ra toan chụp xuống vai mụ. Thạch Phá Thiên la lên: “Đừng nặng tay như thế.” Chàng nghiêng người đi, xoay tay lại nhằm chụp vào cổ tay Đinh Bất Tứ. Đó chính là chiêu Bạch Hạc Thủ trong mười tám đường cầm nã thủ mà Đinh Đang đã truyền thụ cho chàng. Chàng bị Đinh Đang điểm huyệt đã lâu, nội lực xung kích đã dần dần giải khai được huyệt đạo. Bây giờ dây trói bị đứt hết, khí huyết lưu thông khoan khoái, lập tức chàng cử động tự do được như ý muốn.

Đinh Bất Tứ la lên một tiếng: “Ái chà!”, xoay ngược tay lại móc vào cánh tay Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên đã luyện mười tám đường cầm nã thủ pháp rất thành thục, bèn lập tức biến chiêu, tay trái gạt ra, tay phải nhằm chụp vào hai mắt đối phương.

Đinh Bất Tứ quát lên: “Hay lắm! Đây chính là cầm nã thủ của lão tam.” Lão đưa cánh tay ra trước để đè khuỷu tay chàng xuống. Thạch Phá Thiên khoa hai cánh tay thành vòng tròn, song quyền phản kích vào huyệt thái dương hai bên đầu đối phương. Đinh Bất Tứ luồn hai cánh tay từ dưới lên trên, rồi gạt ra hai bên nhanh như điện chớp để hất cánh tay Thạch Phá Thiên đi. Lão cứ tưởng chiêu này đủ làm gãy cả hai cánh tay Thạch Phá Thiên, không ngờ khi bốn cánh tay đụng vào nhau Thạch Phá Thiên vẫn đứng yên không nhúc nhích, còn Đinh Bất Tứ lại thấy thân thể mình tê nhức. Lão giật mình, chân đạp gãy cả tấm ván thuyền, con thuyền tròng trành rất mạnh. Lão vội lùi lại một bước để tránh chỗ tấm ván thủng dưới sàn thuyền, lại “Ái chà!” một tiếng nữa.

Đinh Bất Tứ lần trước đã la lên một tiếng vì ngạc nhiên không hiểu sao Thạch Phá Thiên lại biết thi triển mười tám đường cầm nã thủ của nhà họ Đinh. Nhưng khi động chạm vào hai cánh tay của Thạch Phá Thiên rồi phải lui lại một bước, lão lại la lên một tiếng là vì kinh hãi thực sự, nhận ra nội lực chàng thanh niên này thâm hậu vô cùng vô tận. Vừa rồi lão đánh ra một đòn, tuy chưa huy động toàn lực, nhưng đối phương thản nhiên vô sự mà chính mình phải lùi lại loạng choạng giẫm gãy cả ván thuyền, như vậy chẳng khác nào mình đã thua một chiêu. Lão tự hỏi: “Gã này bản lãnh ghê gớm đến thế mà sao bị Đinh Đang bắt trói được? Sao gã lại bị nó đánh trúng một chưởng?” Trong lòng lão nảy ra không biết bao nhiêu nghi vấn.

Mụ già cũng không kém phần kinh hãi, có lẽ còn ngạc nhiên hơn cả Đinh Bất Tứ. Nhưng mụ thấy có cơ hội để mỉa mai lão, lập tức khoái chí cười ha hả nói: “Ngay một thằng nhóc này mà lão cũng… cũng… cũng.” Lúc đó hơi thở của mụ không được thông suốt, không thể nói tiếp được nữa.

Đinh Bất Tứ tức giận nói: “Nàng đừng ấp úng nữa, để ta nói giúp cho. Ngay một thằng nhóc này mà lão cũng đánh không lại thì sao còn gọi là anh hùng hảo hán, có phải như thế không? Câu này nàng không nói được, vì sợ ta đánh chết mất mạng chứ gì?” Mụ kia cười tươi, gật đầu lia lịa.

Đinh Bất Tứ nghiêng đầu nhìn Thạch Phá Thiên hỏi: “Đại tống tử! Sư phụ ngươi là ai?”

Thạch Phá Thiên gãi gãi đầu. Chàng nghĩ bụng: “Tuy mình có học võ công của Tạ Yên Khách, Đinh Đang, nhưng chưa làm lễ bái sư.” Chàng liền đáp: “Tại hạ không có sư phụ.”

Đinh Bất Tứ tức giận nói: “Ngươi đừng nói nhăng nữa. Vậy mười tám đường cầm nã thủ pháp ngươi đã học lén được của ai?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không phải tại hạ học lén, Đinh Đinh Đang Đang đã dạy tại hạ mất mười ngày. Nhưng nàng không phải là sư phụ của tại hạ mà là… là…” Chàng muốn nói “là vợ của tại hạ”, nhưng cảm thấy có chỗ không ổn, bèn dừng lại không nói nữa.

Đinh Bất Tứ tức giận mắng: “Con mẹ nó! A Đang đã dạy võ công cho ngươi ư? Nói năng bậy bạ!”

Lúc này mụ già đã điều hòa hơi thở trở lại, bèn lạnh lùng nói: “Trên giang hồ ai ai cũng bảo Đinh Thị Song Hùng nhất hùng nhất cẩu, quả thật không sai. Hôm nay chính mắt ta đã trông thấy.”

Đinh Bất Tứ tức quá quát lên oang oang: “Câu này đã có ai nói bao giờ? Nhất định là nàng mới bịa đặt ra. Nàng bảo ai là anh hùng, ai là giống chó? Võ công của ta còn cao cường hơn lão tam, trong võ lâm chẳng ai là không biết.”

Mụ già không nói nhanh được, cứ chậm rãi nói từng tiếng một: “Đinh Đang là cháu nội Đinh Lão Tam. Đinh Lão Tam truyền thụ võ công cho con, rồi con lão lại dạy cho Đinh Đang, bây giờ Đinh Đang lại truyền thụ cho thằng nhóc này. Gã chỉ học có mười ngày mà thắng được Đinh Lão Tứ. Vậy ngươi thử nghĩ xem, thiên hạ nói ai… ai… ai…” Mụ nói liên tiếp ba chữ “ai”, rồi lại không thở được nữa.

Đinh Bất Tứ nghe mụ nói chậm quá, nóng ruột không nhẫn nại được liền cướp lời: “Đừng ấp úng nữa, để ta nói nốt giùm cho. Thiên hạ nói ai là anh hùng, ai là giống chó? Đương nhiên Đinh Lão Tam là anh hùng, Đinh Lão Tứ là giống chó. Có phải thế không?” Lão càng nói thanh âm càng vang dội, sau cùng thành ầm ầm như sấm động, khắp trên sông ai cũng nghe thấy.

Mụ già mỉm cười gật đầu nói: “Ngươi… ngươi tự biết mình như vậy là tốt rồi.”

Mụ nói câu này rất nhẹ nhàng, nhưng Đinh Bất Tứ nghe vào tai cũng căm tức vô cùng. Lão quát lên: “Ai bảo gã Đại Tống Tử này thắng được Đinh Lão Tứ? Lại đây, chúng ta tỉ đấu một phen. Nếu ta không hất được cái đòn bánh tét này xuống sông trong… trong…” Lão muốn nói, trong vòng ba chiêu mà ta không hất được ngươi xuống sông thì phải như thế nào đó.

Nhưng lão chưa nói ra miệng, lại nghĩ võ công của tên này cũng không phải tầm thường, trong ba chiêu chắc không hạ được gã, mà đến mười chiêu cũng chưa nắm vững phần nào, nói là hai mươi chiêu cũng chưa chắc chắn. Nếu nói một trăm chiêu thì còn gì là khí khái anh hùng? Mình là một nhân vật có tên tuổi mà phải mất đến một trăm chiêu mới đánh bại được đồ đệ của đứa cháu gái thì còn gì là hay ho nữa?

Lão ngần ngừ một lúc, mụ già lại cướp lời: “Nếu trong vòng mười vạn chiêu mà ngươi không đánh bại được gã thì phải lạy gã… lạy gã… lạy gã…”

Đinh Bất Tứ giận dữ hét lên: “Nàng muốn bảo ta lạy gã làm sư phụ, có đúng thế không?” Chưa dứt lời, người lão đã vọt lên không, vung song chưởng đánh xuống đỉnh đầu và ngực của Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên tuy đã học qua mười tám đường cầm nã thủ pháp, nhưng chỉ mới dùng để chiết giải với Đinh Đang. Lúc học đã không linh hoạt, thì lúc ứng dụng đương nhiên cũng không thể linh hoạt được. Chàng thấy bóng chưởng của Đinh Bất Tứ trùng trùng, như có đến hàng ngàn hàng vạn bàn tay vỗ xuống đầu mình thì chẳng biết chống cự làm sao, đành giơ hai tay lên để che đỉnh đầu của mình. Giữa lúc ấy huyệt Đại Truy ở sau gáy chàng cảm thấy bị đè rất nặng, hiển nhiên đã bị trúng chưởng. Huyệt Đại Truy là chỗ quy tụ Tam Dương Đốc Mạch từ chân tay đưa lên, là chỗ yếu hại của con người, nhưng cũng chính là một chỗ có thể phát huy nội lực để phản kích rất mãnh liệt. Đinh Bất Tứ cảm thấy toàn thân run bắn, rồi bị hất văng sang một bên. Lão nhìn lại Thạch Phá Thiên thì thấy chàng vẫn thản nhiên như không.

Kể ra thì chiêu này Thạch Phá Thiên đã bị đánh trúng, nhưng Đinh Bất Tứ lại bị nội lực chàng hất ngược ra, không thể nói là ai hơn ai kém được. Thế mà mụ già bật lên cười khi dễ rồi nói: “Đinh Bất Tứ! Đây là gã cố ý để cho ngươi đánh trúng, rồi thừa cơ hất văng ngươi đi. Xem thế đủ biết ngươi đúng là đồ vô dụng, mới có một chiêu đã bị thua rồi.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Ta thua thế nào được? Chỉ nói bậy bạ.”

Mụ già nói: “Nếu ngươi chưa chịu thua thì cứ để cho gã đánh trả một chưởng vào huyệt Đại Truy xem thử thế nào. Nếu ngươi cũng không chết mà lại hất được gã ra mấy bước, thì mới là hai bên bằng nhau.”

Đinh Bất Tứ nghĩ thầm: “Nội lực thằng tiểu tử này thâm hậu phi thường, nếu mình để gã đánh vào huyệt Đại Truy thì chẳng chết cũng trọng thương.” Lão liền nói: “Sao ta lại phải để cho gã đánh một cách vô duyên như thế? Nàng thử để ta đánh một chưởng vào huyệt Đại Truy xem thế nào?”

Mụ già bĩu môi khinh bỉ nói: “Ta đã biết mà, ngươi chỉ là quân chó má không làm được gì, chỉ chuyên dùng công phu lừa bịp người ta mà thôi. Nếu ta bảo ngươi đấu chưởng đấu quyền với gã một cách công bằng, ai cũng không được tránh né, thì chắc chắn ngươi không dám.”

Đinh Bất Tứ bị mụ già nói trúng tâm sự hết sức khó chịu, bèn nghiêm giọng nói: “Đó là lối đánh nhau man rợ của bọn hán tử thô lỗ không hiểu võ công. Chúng ta là những nhà võ học nổi tiếng, sao có thể tỉ đấu theo cái kiểu ngu dốt này?” Lão vốn là người hiếu thắng, nhưng cũng tự biết mình cãi thế là không hợp lý, không thể biện bạch được. Nhân lúc mụ già còn đang cười khẩy chưa kịp nói gì, lão vội quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Lại đây, lại đây! Chúng ta tỉ thí một phen!”

Thạch Phá Thiên đáp: “Tại hạ chỉ học được ở Đinh Đinh Đang Đang có mấy chiêu cầm nã thủ pháp, còn ngoài ra chẳng hiểu võ công chi hết. Vừa rồi lão gia đã ra chiêu biến hóa thành hàng ngàn hàng vạn bàn tay cùng đánh xuống, tại hạ không biết đường chống đỡ, chỉ quơ tay loạn xạ thế thôi. Thế thì cứ kể như lão gia thắng rồi, chúng ta không nên tỉ thí làm gì nữa.”

Đinh Bất Tứ nghe chàng nói câu “kể như lão gia thắng rồi”, thật sự không êm tai chút nào. Lão lớn tiếng nói: “Thắng là thắng, bại là bại, kể như thắng là sao? Bây giờ ta để cho ngươi ra tay trước, qua đây đánh ta đi.”

Thạch Phá Thiên lắc đầu nói: “Tại hạ đã nói là không biết võ công mà.”

Đinh Bất Tứ thấy mụ già cứ cười khẩy hoài thì lửa giận bốc lên ngùn ngụt, liền cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi không biết thì để ta dạy cho, ngươi hãy xem đây. Bây giờ ngươi ra chiêu đánh ta thế này, thì ta phải chống lại thế này. Sau đó ta phóng tay kia đánh ngươi như thế này, thì ngươi phải nghiêng mình né qua như thế này, rồi lại dùng quyền trái đánh vào chỗ này.”

Thạch Phá Thiên học rất mau, chàng cứ theo đúng như lão nói mà xuất thủ. Đinh Bất Tứ xoay tay lại phản kích. Hai người biểu diễn hết bốn chiêu thì lão vung quyền đánh tới, Thạch Phá Thiên không biết trả đòn cách nào. Chàng buông thõng hai tay nói: “Sau đó thì tại hạ không biết nữa.”

Đinh Bất Tứ vừa tức mình lại vừa buồn cười, bèn nói: “Ta phải vừa dạy cho ngươi vừa đánh, thì còn nói đến chuyện tỉ đấu làm chi nữa?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thì tại hạ đã nói rồi, không cần phải tỉ thí nữa, cứ coi như là lão gia thắng rồi.”

Đinh Bất Tứ nói: “Không được! Nếu ta không thắng ngươi một cách chân chính, thì suốt đời cứ bị Tiểu Thúy chê cười. Đinh đại anh hùng mà bị bà ấy kêu bằng giống chó, bỏ qua vụ này thì ta còn mặt mũi nào nhìn thấy ai nữa? Ngươi nhớ lấy, ta đánh đòn này thì ngươi đừng đỡ gạt, cứ tiến lên một bước mà giơ ngón tay ra đâm vào bụng dưới ta. Chiêu này rất hiểm độc, quyền của ta chắc chắn không đánh trúng ngươi được, ta chỉ còn cách phải tránh né. Cái đó kêu bằng lấy công làm thủ, bắt địch nhân phải thu chiêu về để tự cứu mình trước.”

Lão vừa nói vừa vạch rõ từng chiêu, Thạch Phá Thiên cứ dụng tâm ghi nhớ. Học một lúc rồi hai người đánh lại từ đầu, đến lúc hết những chiêu thức mà Đinh Bất Tứ đã truyền dạy mới dừng lại. Sau đó một người lại tiếp tục dạy, một người lại tiếp tục học. Quyền pháp chưởng pháp của Đinh Bất Tứ vốn biến hóa rất phức tạp, nhưng lão đấu với Thạch Phá Thiên chỉ hạn định trong chỗ đã dạy mà thôi. Đinh Bất Tứ nghĩ bụng: “Nếu cứ thế này mãi thì làm sao mà thắng được gã? Mình chỉ trông mong vào cơ hội duy nhất là lúc nào thằng lỏi này quên mất chiêu thức đã học, hoặc có sai lầm trong khi hóa giải thì mới mắc phải độc thủ của mình!”

Nhưng Thạch Phá Thiên có trí nhớ rất tốt, Đinh Bất Tứ chỉ dạy một lần là chàng đã nhớ như chôn vào bụng. Hai người cứ tiếp tục qua lại đến mấy chục chiêu mà Thạch Phá Thiên vẫn không bị đối phương tìm thấy chỗ sơ hở. Mụ già thỉnh thoảng lại bật lên mấy tiếng cười lạnh nhạt, khiến cho Đinh Bất Tứ không dám đem những chiêu tầm thường ra truyền thụ. Lúc lão ra chiêu công thủ mà không đủ phần mãnh liệt hay biến hóa kỳ ảo là mụ lại lên tiếng chê bai. Tuy mụ bị tẩu hỏa nhập ma không cử động được, nhưng nhãn quang vẫn còn lợi hại, ngay những chiêu thức tuyệt diệu mà mụ cũng moi móc ra được chỗ để phê bình mấy câu chí lý. Huống hồ là những chiêu thức kém phần tinh tế, khi nào mụ chịu buông tha mà không chỉ trích?

Đinh Bất Tứ đem hết tinh thần truyền thụ quyền chưởng cho Thạch Phá Thiên, tận tâm tận lực chẳng kém gì phải đấu với mụ già bằng gươm đao thật sự. Sau khi dạy vài chục chiêu thì trời đã gần sáng. Lão bắt đầu cảm thấy lo lắng, đột nhiên biến đổi quyền pháp, sử dụng một chiêu đã dạy là Khát Mã Bôn Tuyền, cả người lẫn quyền lao vào Thạch Phá Thiên. Chàng vội la lên: “Không đúng thứ tự!”

Đinh Bất Tứ nói: “Có gì mà không đúng thứ tự? Chỉ cần chiêu thức ta đã dạy ngươi là được rồi.” Thạch Phá Thiên nhớ ngay là lão đã dạy chiêu Phấn Điệp Phiên Phi để đối phó với chiêu này. Chàng liền theo đúng cách thức tung mình nhảy tránh ra.

Đinh Bất Tứ nghĩ bụng: “Ta chỉ cần bức bách gã phải nhảy xuống sông là thắng rồi, dù Tiểu Thúy có lắm mồm cũng không cãi được nữa.” Lão tiến lên một bước phóng chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, vung cả hai tay quét ngang rất mạnh. Thạch Phá Thiên liền theo đúng bài bản sử chiêu Hòa Phong Tế Vũ tránh khỏi thế công dũng mãnh của đối phương. Nhưng chàng vừa lùi một bước thì chân trái đã giẫm lên mạn thuyền, suýt bị rớt xuống sông. Đinh Bất Tứ cả mừng quát lên: “Xuống nước đi!” Lão vừa quát vừa xuất chiêu Chung Cổ Tề Minh, song quyền cùng phóng ra đánh vòng vào hai bên huyệt

thái dương của Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên đáng lẽ phải chiếu theo lời dạy của Đinh Bất Tứ, lùi lại một bước rồi dùng chiêu Xung Văn Tác Triển để hóa giải song quyền của đối phương. Nhưng lúc này chàng không có chỗ để lùi nữa, chỉ nửa bước là rơi xuống dòng sông. Trong lúc hoang mang, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa, liền sử dụng hai chiêu thành thục nhất mà Đinh Đang đã dạy. Chàng lập tức lạng người đi một cái đã vòng ra sau lưng Đinh Bất Tứ, tay phải ra chiêu Hổ Trảo Thủ chụp xuống huyệt Linh Đài, còn tay trái sử chiêu Ngọc Nữ Niêm Châm nắm lấy huyệt Huyền Khu của lão. Hai cánh tay chàng chộp thật mạnh, kình lực vô cùng mãnh liệt. Đinh Bất Tứ kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn quay xuống sạp thuyền.

Thực ra dù nội lực Thạch Phá Thiên có mạnh đến đâu, nhưng chàng dùng thủ pháp cầm nã mới học được mấy ngày thì làm sao mà nắm trúng được cao thủ như Đinh Bất Tứ? Sở dĩ lão bị hạ là vì đang muốn ép Thạch Phá Thiên rớt xuống sông, cứ yên trí Thạch Phá Thiên phải dùng chiêu Xung Văn Tác Triển để giải khai chiêu Chung Cổ Tề Minh của mình. Nếu chàng sử dụng chiêu Xung Văn Tác Triển tất phải lùi lại một bước, mà lùi lại tức là rớt xuống sông. Giả tỉ lão đấu với một tay cao thủ nào khác thì dĩ nhiên phải đề phòng cẩn thận, vì đối phương có nhiều cách giải khai, sau khi phá giải lại có thể trả đòn lợi hại, đương nhiên lão sẽ đề phòng bốn phương tám hướng, chắc chắn không để ai vòng ra sau lưng mình nắm lấy những huyệt đạo trọng yếu. Đằng này lão đã cùng Thạch Phá Thiên đấu đến mấy trăm chiêu, mà chiêu nào chàng cũng chỉ một mực tuân theo đường lối của lão đã truyền thụ, nên trong lòng lão hoàn toàn không có một chút đề phòng. Mà lão cũng không ngờ tới thằng lỏi này đột nhiên lại biến chiêu nhuần nhuyễn đến thế.

Thạch Phá Thiên ra tay lẹ như gió, lúc Đinh Bất Tứ phát giác ra muốn né tránh thì đã không kịp nữa. Nội lực chàng thật là ghê gớm, đánh thấu vào huyệt đạo. Đinh Bất Tứ tuy nội công thâm hậu là thế mà cũng không gượng nổi. Biến cố này khiến cho cả Đinh Bất Tứ lẫn Thạch Phá Thiên đều kinh hãi vô cùng. Mụ già kia cũng không khỏi ngạc nhiên, rồi khoái chí nổi lên cười sằng sặc. Mụ cười như người phát điên, rồi đột nhiên ngất xỉu, hai mắt trợn lên trông rất dễ sợ.

Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên: “Lão bà! Bà… bà làm sao rồi?”

A Tú nằm trong khoang, không nhìn thấy tình hình ngoài thuyền. Nàng nghe Thạch Phá Thiên la hoảng, không hiểu là chuyện gì cũng líu lưỡi la hỏi: “Đại ca ơi, bà nội của muội thế nào rồi?”

Thạch Phá Thiên ấp úng đáp: “Trời ơi, bà bà… ngất đi rồi. Lần này… lần này hình như có gì không đúng, e rằng… sợ… sợ khó mà tỉnh dậy được.”

A Tú kinh hãi hỏi: “Huynh nói bà nội của muội đã… đã chết rồi ư?”

Thạch Phá Thiên đưa tay xem thử hơi thở của bà lão, rồi đáp: “Hơi thở vẫn còn, nhưng dáng vẻ… dáng vẻ hình như không được tốt lắm.”

A Tú lo lắng hỏi: “Sao lại không tốt?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Trông nét mặt thì dường như bà bà đã chết rồi. Tại hạ đỡ cô nương ra xem xem thử.”

A Tú vốn không muốn để chàng bế ra, nhưng nàng đang hết sức lo lắng cho bà nội, nên chỉ ngần ngừ một chút rồi khẽ nói: “Được! Nếu vậy thì phải làm phiền đại ca vậy!”

Suốt đời Thạch Phá Thiên chưa nghe ai nói năng nhã nhặn lễ phép như vậy. Khi ở bang Trường Lạc, chàng đã được nghe người ta nói năng kính cẩn, nhưng cái kính cẩn này đượm vẻ sợ hãi chứ không phải vì tình hữu nghị. Ngay cả tiểu a đầu Thị Kiếm lúc nào cũng có sắc thái sợ hãi trên mặt. Đinh Đang thì nói chuyện với chàng có lúc rất thân mật nhưng có lúc lại rất vô lễ, chỉ có vị cô nương này nói chuyện hết sức êm tai, làm người nghe cảm thấy thư thái trong lòng.

Thạch Phá Thiên nhẹ nhàng đỡ cô gái dậy. Chàng quấn quanh nàng một lần chăn mỏng, rồi bế nàng ra đầu thuyền.

A Tú thấy bà nội đang ngất xỉu thì la lên một tiếng, rồi hỏi: “Tiểu muội xin đại ca đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài của bà nội, chuyển cho một chút nội lực, có được chăng?” Nàng ngừng lại một chút rồi tiếp: “Chuyện thỉnh cầu này thật là quá mức, tiều muội áy náy vô cùng.”

Thạch Phá Thiên nghe thanh âm êm dịu, bất giác cúi xuống nhìn vào mặt nàng. Dưới ánh mặt trời mới mọc, khuôn mặt trái xoan của thiếu nữ vừa xinh đẹp vừa hòa nhã, đôi mắt to đen lấp lánh của nàng cũng đang nhìn chàng. Mục quang của hai người vừa chạm nhau, lập tức A Tú đỏ bừng mặt, nhưng nàng không có cách nào ngoảnh đầu ra chỗ khác để tránh né, đành nhắm mắt lại.

Thạch Phá Thiên buột miệng nói: “Cô nương! Thì ra cô xinh đẹp như thế!” Sắc mặt của A Tú lại càng đỏ hơn. Lúc này mặt hai người rất gần nhau, nàng sợ nói chuyện thì hà hơi vào mặt Thạch Phá Thiên, bèn ngậm miệng lại.

Thạch Phá Thiên ngẩn người ra nói: “Xin lỗi!” rồi vội đặt nàng xuống.

Chàng đặt bàn tay lên huyệt Linh Đài của bà lão, nhưng không biết cách vận nội lực thế nào, bèn bắt chước chiêu Hô Trảo Thủ mà Đinh Đang đã dạy, chụp vào huyệt Linh Đài rồi vận kình lực sang.

Mụ già bỗng la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi cất tiếng nói: “Thằng lỏi này làm gì vậy?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Vị cô nương này bảo cháu thúc đẩy nội lực vào người cho bà bà. Quả nhiên bà bà đã tỉnh lại rồi.”

Mụ già vẫn lớn tiếng mắng: “Huyệt đạo ta đã bị phong tỏa, ngươi có thúc đẩy nội lực vào thì cũng chẳng làm gì được.”

Thạch Phá Thiên run rây nói: “Xin lỗi, xin lỗi, thực sự cháu không biết. Xin bà bà dạy bảo cho.”

Vừa rồi chàng vận kình lực bừa bãi đã làm cho lục phủ ngũ tạng của bà lão chấn động như muốn đảo lộn lên, huyệt Linh Đài càng bị phong bế. Bà ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, huyệt đạo đã tự bế tắc, lúc này càng bế tắc hơn. Mụ vừa mới tỉnh lại tức giận vô cùng, nhưng phát hiện ra nội lực chàng hùng hậu không gì so sánh được, bèn nghĩ bụng: “Thằng ngốc này có nội lực thiên phú, không chừng đã được ăn tiên thảo hoặc được uống một thứ linh dược kỳ dị nào đó. Tuy gã nội lực phi thường nhưng lại chưa biết cách phát huy mà sử dụng. Ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma, không chừng có thể nhờ nội lực của gã mà đả thông được kinh mạch.” Mụ nghĩ vậy liền nói: “Được! Để ta dạy cho ngươi. Bây giờ ngươi ngưng tụ nội khí vào huyệt Đan Điền. Đã cảm thấy một luồng nhiệt khí trong Đan Điền hay chưa? Ngươi vừa tập trung ý niệm vừa chuyển luồng nhiệt khí đó theo kinh mạch Thiếu Dương Đảm Kinh ra bàn tay.”

Khi ở Ma Thiên Nhai, Tạ Yên Khách đã từng dạy chàng những tên gọi về huyệt đạo và kinh mạch. Thạch Phá Thiên làm theo lời mụ, tụ tập nội lực vào lòng bàn tay được ngay chẳng khó khăn gì. Ta nên biết Thạch Phá Thiên đã luyện La Hán Phục Ma Thần Công, một môn nội công tinh diệu vào bậc nhất của phái Thiếu Lâm, lại kiêm cả hai luồng chân khí dương cương và âm nhu. Chỉ có điều chàng có nội công thâm hậu nhưng chưa biết sử dụng, cũng giống như người ta có nguyên cả một kho vàng bạc, nhưng lại không có chìa khóa để mở ra. Lúc này chàng được mụ già chỉ dẫn sơ sơ, bèn theo đó mà làm, nội lực trong nội thể tuôn ra như sóng cồn.

Mụ già la lên: “Từ từ, chậm…” Mụ chưa dứt lời đã ộc lên một tiếng, thổ ra một bụm máu đen.

Thạch Phá Thiên cả kinh la lên: “Trời ơi! Bà bà sao rồi? Cháu làm không đúng hay sao?”

A Tú nói: “Đại ca ơi! Bà nội của tiểu muội bảo đại ca vận nội lực từ từ, đừng gấp rút quá.”

Mụ già lại mắng: “Thằng ngốc! Ngươi muốn lấy mạng của ta hay sao mà vận nội lực như thế? Bây giờ ngươi phát huy từng chút một, chờ ta hấp thụ được rồi hãy vận thêm.”

Thạch Phá Thiên vâng dạ, xin lỗi rối rít, rồi toan làm theo lời mụ thì đột nhiên thấy Đinh Bất Tứ ngồi nhỏm dậy la lên: “Con mẹ nó! Chúng ta tỉ đấu lại! Cuộc vừa rồi bỏ đi không tính.”

Mụ già nói: “Lão này rõ ràng không đếm xỉa đến thể diện nữa. Sao lại không tính? Rõ ràng là ngươi thua rồi. Vừa rồi nó mà chém vào ngươi một đao hay một kiếm, thử hỏi ngươi còn mạng hay không?”

Đinh Bất Tứ biết mình đuối lý, không đấu khẩu với mụ nữa, lập tức phóng chưởng đánh tới Thạch Phá Thiên, miệng quát: “Cách chống đỡ chiêu này ta đã dạy cho ngươi, nếu không đỡ được thì không sao cãi lý được nữa.” Thạch Phá Thiên vội thi triển chiêu thức mà Đinh Bất Tứ đã dạy cho để đối phó.

Đinh Bất Tứ lại đánh ra một chiêu nữa, vừa phóng chưởng vừa quát: “Chiêu này ta cũng đã từng dạy ngươi, không thể nói ta bất cần thể diện mà ăn hiếp tiểu bối nữa.” Mỗi lần lão ra chiêu đều nói là chiêu thức này mình đã dạy Thạch Phá Thiên, tỏ ra là người thủ tín. Lão đánh càng lúc càng nhanh, sau mười mấy chiêu thì không nói kịp, chỉ nhắc đi nhắc lại: “Chiêu đã từng dạy ngươi! Đã từng dạy ngươi! từng dạy, dạy… dạy…”

Đinh Bất Tứ cứ phóng chiêu tới tấp như thế, khiến cho Thạch Phá Thiên dù thông minh đến đâu cũng không tài nào chống đỡ kịp. Những chiêu thức này chàng mới học một lượt, lúc học dĩ nhiên không động thủ mau lẹ như bây giờ. Thạch Phá Thiên bị đánh rát quá, không tài nào ứng phó được, xem chừng chỉ mấy chiêu nữa là phải bị thương về tay Đinh Bất Tứ. Giữa lúc chàng hốt hoảng, chân tay luống cuống thì đột nhiên mụ già la lên: “Khoan đã! Ta muốn nói một câu.”

Đinh Bất Tứ dừng tay lại hỏi: “Tiểu Thúy! Nàng muốn nói gì?”

Mụ già nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Thằng bé kia! Trong mình ta hãy còn khó chịu lắm, ngươi qua đây dồn nội lực vào cho ta.”

Đinh Bất Tứ gật đầu nói: “Hay lắm! Người bị tẩu hỏa nhập ma thì kinh mạch ngưng trệ, nàng đã không muốn ta giúp đỡ, thì nhờ gã ra sức một tí cũng được. Thằng lỏi này tuy võ công không ra gì, nhưng nội lực rất mạnh.”

Mụ già đằng hắng một tiếng, rồi lạnh lùng nói: “Phải rồi! Võ công của hắn không ra gì nhưng nội lực rất mạnh. Võ công của hắn là do ngươi dạy, còn nội lực của hắn thì không phải do ngươi dạy.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Sao lại nói võ công của hắn là do ta dạy? Gã mới học có nửa ngày, chứ nếu được ta truyền thụ năm ba năm thì chắc là nhiều nhân vật tiền bối không phải là địch thủ của hắn nữa.”

Mụ già nói: “Dù gã có học ngươi bao lâu cũng vậy thôi, chẳng ích gì! Gã chưa học võ công của ngươi mà đã có thể đánh bại ngươi rồi. Ta e rằng sau khi hắn học được võ công của ngươi thì lại không đánh thắng ngươi được nữa. Càng học càng kém như vậy, ngươi nói thử xem gã có nên học ngươi hay không?”

Đinh Bất Tứ nghẹn họng một lúc không biết nói sao, đứng thộn mặt ra hồi lâu mới lên tiếng cãi: “Ngay cả hai chiêu Hổ Trảo Thủ và Ngọc Nữ Niêm Châm, không phải là gã học được của nhà họ Đinh ta hay sao?”

Mụ già nói: “Đó là cháu gái của Đinh Lão Tam dạy gã, chứ có phải ngươi dạy đâu? Thằng nhỏ kia, ngươi lại đây, đừng nói chuyện với lão nữa.”

Thạch Phá Thiên dạ một tiếng rồi lại ngồi kế bên mụ già, đặt tay vào huyệt Linh Đài để giúp mụ đả thông kinh mạch. Lần này chàng đưa nội lực sang rất từ từ, cứ nơm nớp sợ bà ta lại thổ máu ra.

Mụ già đưa tay áo lên che miệng để Đinh Bất Tứ không trông thấy mình nói chuyện, cũng không nghe được tiếng nói. Mụ nói rất khẽ với Thạch Phá Thiên: “Một lúc nữa lão cùng ngươi tái đấu, thì ngươi phải vận kình lực giống như thế này vào quyền, vào chưởng. Hễ thấy lão phóng chưởng đánh tới, ngươi cứ thi triển chiêu thức giống như lão, đỡ lấy bàn tay lão mà dồn nội lực sang. Ta nói cho ngươi biết, lão đang định hất ngươi xuống sông cho chết đuối đấy. Ngươi phải nhớ kỹ, hễ lão ra chiêu gì thì ngươi phải bắt chước cho giống hệt. Chỉ có cách ấy mới giữ được… giữ được mạng sống cho ba người chúng ta.”

Thì ra mụ già mới gặp Thạch Phá Thiên vài giờ nhưng đã nhận ra chàng là người lương thiện. Mụ e rằng nếu khuyên chàng làm khó dễ Đinh Bất Tứ để tự vệ thì chàng không chịu nghe theo, nên mụ mới bảo chàng “mới giữ được mạng sống cho ba người chúng ta” tức là bao gồm cả bà cháu mụ vào trong đó, để chàng vì lòng nghĩa hiệp mà hết sức đối phó với lão.

Thạch Phá Thiên gật đầu luôn mấy cái. Mụ già lại nói: “Bây giờ ngươi hãy tạm ngừng lại, đừng dồn nội lực vào cho ta nữa. Đợi lúc đánh nhau, đối chưởng với lão thì sẽ gấp rút dồn nội lực ra, càng mạnh càng tốt.”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Làm như thế liệu lão có thổ huyết không?”

Mụ già nói: “Không đâu! Ta luyện công bị tẩu hỏa nhập ma không còn chút hơi sức nào, mà nội lực ngươi thúc nhanh quá, ta không chống đỡ nổi nên mới bị thổ huyết. Còn nội lực lão cũng rất thâm hậu, vừa rồi ngươi đã nắm lấy huyệt đạo sau lưng lão mà lão có bị thổ huyết đâu? Giả tỉ ngươi không dốc toàn lực thì lại bị lão làm cho thổ huyết. Nếu ngươi bị thương thì không còn ai bảo vệ cho hai bà cháu ta nữa. Một bà già, một tiểu cô nương nằm thẳng cẳng không nhúc nhích được, thì chỉ còn có cách để mặc cho người muốn chém thì chém, muốn giết thì giết, muốn lăng nhục thì lăng nhục.”

Thạch Phá Thiên nghe tới đây, nhiệt huyết sôi lên sùng sục, lập tức nổi lòng nghĩa hiệp. Lúc này, vì bà già và cô nương này mà chết thì chàng cũng quyết chẳng chau mày. Còn hai bà cháu mụ là hạng người nào, thiện hay ác, chàng cũng không cần biết.

Mụ già từ từ hạ tay áo xuống nói: “Cảm ơn ngươi. Đinh Lão Tứ có chết cũng không chịu nhận là đã thua, thì ngươi cứ tiếp chiêu của lão xem thử sao. Ôi! Mụ già này sống đã nhiều rồi, đã gặp không ít anh hùng hảo hán trong thiên hạ, thật không ngờ lúc cuối đời sắp về chầu trời lại phải nhìn thấy một lão già chó má. Thật là oan nghiệt.”

Đinh Bất Tứ giận dữ hỏi: “Nàng mắng ai là lão già chó má?”

Mụ già mỉm cười đáp: “Con người dù ngu dốt đến đâu cũng nên tự hiểu, chẳng lẽ ta lại tự mắng mình ư? Đinh Bất Tứ! Ngươi muốn giết gã phỏng có khó gì? Ngươi cứ việc sử dụng những chiêu nào chua dạy, đảm bảo là gã không thể đỡ được.”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Đinh Bất Tứ này mà là hạng ngươi vô sỉ như thế ư? Ngươi cứ nhìn kỹ mà xem ta có xuất chiêu nào chưa dạy cho gã không.” Mụ già chỉ nói khích lão mấy câu, rồi buông tiếng thở dài không nói gì nữa. Đinh Bất Tứ hứ một tiếng rồi lớn tiếng quát: “Đòn bánh tét kia! Ta ra chiêu Nghịch Thủy Hành Chu để đánh ngươi đây. Chiêu này ta đã dạy ngươi, đừng quên nghe chưa!” Lão vừa nói vừa hơi co chân lại, đầu gối rùn xuống một chút, thành ra người lão lùn xuống một đoạn. Đột nhiên tay trái lão đưa từ dưới lên, phát chưởng đánh ra. Thạch Phá Thiên nghe lão nói đến chiêu Nghịch Thủy Hành Chu, chàng cũng co hai đầu gối rồi vung tả chưởng từ dưới đưa lên đánh ra.

Đinh Bất Tứ quát lên: “Sai rồi! Cách giải khai đâu phải như vậy.” Lão chưa dứt lời đã nhìn thấy bàn tay chàng sắp chạm vào bàn tay mình, bèn không khởi sợ run, nghĩ bụng: “Nội lực thằng lỏi này rất mạnh, còn hơn mình nhiều. Ta mà tỉ thí nội lực với gã thì có chi thú vị?” Lão liền thu tay trái về đẩy tay mặt ra, đó là chiêu Kỳ Phong Đột Khởi. Thạch Phá Thiên cứ theo lời mụ già, cũng sử chiêu Kỳ Phong Đột Khởi. Trong lòng bàn tay chàng đã vận đến bảy phần nội kình.

Đinh Bất Tứ thấy chưởng lực đối phương rất mạnh, bàn tay chưa tới mà chưởng phong đã quạt ràn rạt vào mặt, thì trong lòng kinh hãi. Lão lập tức biến đổi chiêu thức. Thạch Phá Thiên cứ chăm chú nhìn vào chiêu thức của Đinh Bất Tứ, lão ra tay thế nào thì chàng cũng xuất chiêu y hệt như vậy. Lúc này chàng chẳng cần nhớ cách phá giải chiêu thức như thế nào, chỉ cần bắt chước mà ra tay, bao nhiêu tâm trí dồn cả vào việc ngưng tụ nội lực. Quả nhiên chưởng phong từ bàn tay chàng cuồn cuộn xô ra, chưởng lực càng lúc càng hung mãnh.

Đinh Bất Tứ lo ngại trong lòng, lúc nào cũng phải đề phòng tay mình chạm vào tay đối phương. Nếu hai bàn tay dính vào nhau thì sẽ đi đến chỗ tỉ đấu nội lực, và khi đó những chiêu thức tinh diệu của lão không thi triển được nữa. Vì thế mà mấy lần lão đánh vào chỗ sơ hở của Thạch Phá Thiên, nhưng chàng cứ theo chiêu thức của lão mà đánh ra, thì lão không thể không lập tức biến chiêu. Từ ngày lão thành danh trong giang hồ đã gặp không biết bao nhiêu cao thủ võ lâm, nhưng chưa gặp đối thủ nào như Thạch Phá Thiên. Bất luận lão ra chiêu nào, đối phương cũng ra chiêu đúng như vậy. Giả tỉ đối phương là một nhân vật đã có tên tuổi, mà tỉ đấu theo kiểu học mót thế này, dĩ nhiên lão có thể dùng lời nói để mà đả kích. Nhưng Thạch Phá Thiên lại chỉ là một có nội lực chứ hoàn toàn không hiểu võ công, mà chàng cũng đã nói rõ là dùng những chiêu thức của lão dạy để đấu với lão, nên chàng cứ xuất chiêu y hệt như vậy cũng là danh chính ngôn thuận.

Đinh Bất Tứ không ngừng thầm mắng trong lòng, nhưng rốt cuộc cũng chẳng làm gì được Thạch Phá Thiên. Cuộc đấu kéo dài đến năm sáu mươi hiệp, Thạch Phá Thiên đã dần dần hiểu rõ phép vận nội lực. Mỗi quyền mỗi chưởng chàng phát ra, kình lực càng ngày càng lớn, rít gió vù vù như cuồng phong đang ập đến. Đinh Bất Tứ không dám lơ đãng, phải đem toàn lực ra đối phó. Lão nghĩ bụng: “Thằng lỏi này thật là tà môn. Phải chăng gã chỉ giả vờ ngớ ngẩn, mà thực ra là một tay cao thủ võ công tuyệt đỉnh?” Càng đánh lão lại càng cảm thấy khó tránh được chưởng phong của đối phương. Còn may ở chỗ Thạch Phá Thiên chỉ đánh theo những chiêu thức của lão, cho nên lão không phải đề phòng chàng có biến hóa gì khác.

Thêm mấy chiêu nữa, Đinh Bất Tứ đưa hai tay quạt ra đánh chênh chếch vào đối phương. Chiêu này gọi là Hoặc Tả Hoặc Hữu, chưởng lực hướng về tả nhưng lại đánh sang hữu, tùy theo tình hình thực tế mà phát kình. Lão ra chiêu này trong bụng mừng thầm, lẩm bẩm: “Thằng lỏi thối tha kia! Lần này ngươi có bắt chước ta cũng không được nữa. Ngươi làm sao biết được chưởng lực của ta đánh tới từ phía nào?”

Quả nhiên Thạch Phá Thiên thấy chiêu này khó mà sao chép. Chàng liền cất tiếng hỏi: “Lão đánh về bên trái hay bên phải thế?”

Đinh Bất Tứ cười rộ lên rồi quát: “Ngươi cứ đoán thử xem.” Miệng lão quát, hai tay vẫn tiếp tục vung lên quạt tới. Thạch Phá Thiên trong lòng kinh hãi, chỉ còn cách giơ cả song chưởng lên để chống đỡ chưởng lực của Đinh Bất Tứ. Chàng chẳng hiểu chưởng lực đối phương từ bên nào đánh tới, nên phải đồng thời vận kình lực vào cả hai tay.

Đinh Bất Tứ thấy Thạch Phá Thiên đưa cả song chưởng lên chống đỡ, bất giác kinh hãi vô cùng. Lão lẩm bẩm: “Chiêu này trong thực có hư, trong hư có thực, thằng lỏi ngốc này vụng về không bắt chước được. Chiêu thức của mình là Hoặc Tả Hoặc Hữu mà gã biến thành Diệc Tả Diệc Hữu, vận cả kình lực vào song chưởng chứ không hời hợt thì còn chi là chỗ ảo diệu của nó? Nhưng cứ tiếp tục thế này thì ta phải tỉ đấu nội lực với gã mất.” Giữa lúc nguy cấp, lão chợt nghĩ ra một cách, chuyển hướng song chưởng ở dưới đất đánh lên trên trời.

Chiêu này gọi là Thiên Vương Thác Tháp, chuyên để đối phó với địch nhân nhảy vọt lên không rồi từ trên đánh xuống. Lúc này không có ai từ trên không đánh xuống, đáng lý ra không nên sử dụng chiêu thức này. Nhưng Thạch Phá Thiên chiêu nào cũng bắt chước đối phương, thấy Đinh Bất Tứ sử chiêu Thiên Vương Thác Tháp chàng cũng vung chưởng phóng lên không đánh véo một tiếng, không hiểu ý lão muốn gì.

Hai người bốn tay cùng đánh vào chỗ trống, bốn mắt cùng giương lên nhìn nhau. Đinh Bất Tứ không nhịn được, nổi lên một tràng cười ha hả. Thạch Phá Thiên thấy lão không có vẻ cừu địch nữa, cũng cao hứng phá lên cười. A Tú đang ngồi tựa vào cột bên cửa khoang thuyền, thấy tình trạng này cũng phải mỉm cười. Chỉ có mụ già là ra vẻ khó chịu, cất tiếng mắng: “Đồ mặt dày! Không đánh nổi người ta, phải dùng quỷ kế để lừa gạt con nít.”

Chỉ trong chớp mắt mà Đinh Bất Tứ nghĩ ra biện pháp giải nguy, khỏi phải tỉ đấu nội lực cùng Thạch Phá Thiên. Lão đang đắc ý về sự thông minh nhanh trí của mình, nên tuy nghe mụ già mỉa mai mà lão cũng chẳng để tâm đến. Lão vẫn cười khà khà, nói giọng hòa giải: “Ta cùng thằng nhỏ này không thù không oán, cần gì phải tỉ đấu nội lực để lấy mạng nó?”

Mụ già đang định nhiếc móc nữa, thì đột nhiên con thuyền tròng trành mấy cái rồi tăng tốc độ trôi băng băng xuống hạ lưu. Thì ra khúc sông này hẹp lại, nước chảy rất xiết. Đinh Bất Tứ cười ha hả nói: “Tiểu Thúy! Đã đến Bích Loa Đảo rồi! Hai bà cháu nàng và cả đòn bánh tét lớn này, cùng lên đó chơi mấy hôm cho vui.”

Mụ già biến sắc mặt, run ray nói: “Không đi! Ta có chết thì chết, chứ không chịu đặt chân lên cái đảo quỷ đó.”

Đinh Bất Tứ lại dỗ dành: “Lên đó mấy hôm thì đã sao đâu? Nàng cứ ở trong nhà ta mà dưỡng thương một cách đàng hoàng thư thái.”

Bà lão kia giận dữ mắng: “Thư thái cái chó gì?” Trong lúc gấp rút, mụ chợt buông lời thô tục.

Nước sông chảy cuồn cuộn, sóng vô bôm bốp vào mạn thuyền. Thạch Phá Thiên nhìn theo ánh mắt của Đinh Bất Tứ thì thấy bên phải phía trước đã hiện ra một ngọn núi xanh biếc, hình dáng trên nhọn dưới tròn, quả giống như một cái vỏ ốc. Chàng nghĩ ngay: “Đây chắc là đảo Bích Loa rồi.”

Đinh Bất Tứ quay lại bảo người phu thuyền: “Áp thuyền vào bờ ở hòn đảo kia.” Ông già lái thuyền vâng dạ liên miệng. Đinh Bất Tứ cúi xuống cầm lấy chiếc neo sắt, rồi ra đứng ở đầu thuyền, đợi khi tới gần sẽ liệng mỏ neo lên đảo.

Thạch Phá Thiên nói: “Lão gia! Bà bà đây đã không muốn đến nhà lão gia, thì hà tất lão…” Chàng chưa dứt lời, đột nhiên mụ già đứng phắt dậy, đưa tay ra ôm lấy A Tú nhảy xuống sông.

Đinh Bất Tứ vội la lên: “Không được!” Lão xoay tay lại chụp thì đã không kịp nữa. Chỉ nghe đánh “ùm” một tiếng, nước sông bắn tóe lên, hai người đã chìm dưới nước. Thạch Phá Thiên hoảng hồn, rút lấy một tấm ván thuyền rồi cũng nhảy xuống sông. Hai chân chàng đạp vào mạn thuyền, vọt đi khá xa, nên tuy nhảy xuống sau mà lúc người chàng tới mặt nước thì đã đến gần hai bà cháu kia.

Thạch Phá Thiên không biết bơi, bị sóng đánh vào miệng phải nuốt nước ừng ực. Nhưng chàng quyết tâm cứu người, tay trái ôm khư khư tấm ván thuyền, tay phải quơ loạn xạ, chạm vào đầu tóc mụ già liền nắm chặt không buông ra nữa. Cả ba người trôi theo dòng nước xuôi xuống hạ lưu.

* * *

Thạch Phá Thiên bị sóng đánh dồn dập đến đầu nhức mắt hoa, không ngớt nuốt nước sông ừng ực vào bụng. Đột nhiên người chàng bị đụng mạnh một cái, lưng đau nhói lên, va phải một tảng đá. Thạch Phá Thiên cả mừng vận nội lực đạp chân vào tảng đá đó để dừng lại, lập tức đưa tay kéo bà lão đến gần. Chàng thấy hai tay mụ vẫn còn ôm chặt cô cháu gái thì trong bụng cả mừng, nhưng không hiểu họ còn sống hay đã chết.

Thạch Phá Thiên ôm cả hai bà cháu lên rồi bước thấp bước cao lội qua bãi sông bùn lầy, tiến vào trong đất liền. Chàng đi hơn mười trượng thì tới chỗ đất khô ráo. Bỗng nghe mụ già lên tiếng mắng: “Thằng lỏi này thật là vô lễ! Sao ngươi dám nắm tóc của ta?”

Thạch Phá Thiên chưng hửng, vội nói: “Dạ! Dạ! Thật là xin lỗi!”

Mụ già lại nói: “Sao ngươi cứ túm lấy tóc, làm ta đau đầu quá chừng!” Bỗng mụ oẹ lên một tiếng, trong miệng ộc ra một vũng nước sông.

A Tú nói: “Bà nội! Nếu không được đại ca đây cứu mạng, hai bà cháu mình lại không biết bơi, thì lúc này… lúc này…” Nàng nói tới đây, miệng cũng ộc nước ra.

Mụ già nói: “Thế ra thằng lỏi này đã có ơn cứu mạng cho chúng ta. Vậy thì cái tội vô lễ ta cũng bỏ đi.”

A Tú mỉm cười nói: “Gặp lúc nguy cấp cứu người, đâu có thể làm gì khác được? Vị đại ca này, thật là… thật là phải đa tạ rồi.”

Nàng đang bị Thạch Phá Thiên ôm vào lòng, bốn mắt cách nhau trong gang tấc. Nhưng lúc nàng nói, ánh mắt luôn quay đi chỗ khác, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Cả hai bà cháu thổ nước ra làm ướt đẫm cả người Thạch Phá Thiên. Nhưng toàn thân chàng đã bị nước sông ướt đẫm, có thổ bao nhiêu nước vào cũng chẳng hề gì, thế mà A Tú cũng đỏ mặt lên, tự trách mình vô ý thức.

Mụ già nói: “Được rồi! Ngươi cứ để chúng ta xuống đây. Chỗ này là đảo Tử Yên, cách chỗ ở của lão quái đó không xa, phải đề phòng lão đến quấy rối.” Thạch Phá Thiên vâng dạ luôn mấy tiếng, rồi đặt hai người xuống.

Bỗng nghe sau bụi cây rậm có tiếng người nói: “Chắc là tiểu tử đó chưa chết. Chúng ta nhất định phải tìm cho ra hắn.”

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, khẽ nói: “Đinh Bất Tứ đuổi tới nơi rồi!” Chàng liền ôm lấy hai người chạy vào bụi rậm, ngồi yên không nhúc nhích. Rồi có tiếng chân giẫm trên cỏ khô cùng lá rụng bật lên những tiếng sột soạt, hai người từ bên kia đi tới, là một lão già và một thiếu nữ.

Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, còn sợ hơn cả bị Đinh Bất Tứ đuổi tới nơi. Chàng nhận ra đây là Đinh Đang và Đinh Bất Tam, bèn run rẩy nói: “Hỏng bét! Đây là… là Đinh Tam gia gia.”

Mụ già thấy chàng có vẻ sợ hãi Đinh Bất Tam thì ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi lại sợ Đinh Bất Tam? Không phải cháu gái lão đã truyền thụ võ công cho ngươi hay sao?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đinh Bất Tam muốn giết cháu, còn Đinh Đinh Đang Đang thì giận cháu không chịu nghe lời nàng nên mới cột tại hạ thành một đòn bánh tét rồi ném xuống sông. Còn may là vừa đúng lúc thuyền của bà bà đi qua, nếu không… nếu không…”

Mụ già mỉm cười nói: “Nếu không thì ngươi đã thành món điểm tâm cho bọn rùa đen cùng cá mập rồi!”

Thạch Phá Thiên nói: “Vâng, vâng!” Chàng chợt nhớ tới cảnh mình bị Đinh Đang dùng dây buộc thuyền trói gô lại ngày hôm qua, trong lòng vẫn còn sợ sệt nói: “Thái thái! Bọn họ vẫn đang còn tìm cháu. Nếu lần này cháu lại bị họ bắt được thì nguy hiểm vô cùng.”

Mụ già tức giận nói: “Nếu ta không bị tẩu hỏa nhập ma thì cái thằng cha Đinh Bất Tam này có chi đáng kể! Ngươi đi kêu lão lại đây, thử xem lão có dám đụng đến một sợi tóc của ngươi hay không?”

A Tú vội khuyên can: “Bà nội! Hiện giờ bà nội chưa phục hồi công lực, hãy tạm thời tránh né hai anh em nhà họ Đinh một chút, đợi khi khoe mạnh sẽ đi tìm họ để trút giận cũng chưa muộn.”

Mụ già vẫn hậm hực nói: “Lần này bà nội của ngươi thật là xúi quẩy. Nói đi nói lại, chẳng qua chỉ vì thằng tiểu súc sinh và lão già không chịu chết đó không tốt mà ra.”

A Tú dịu dàng nói: “Bà nội! Những việc đã qua còn nhắc đến làm chi? Cả hai chúng ta cùng bị tẩu hỏa nhập ma, phải bình tâm tịnh khí để dưỡng thương mới mau khỏi được. Nếu trong lòng của bà nội bực tức, thì chỉ làm tổn hại cho thân thể.”

Mụ già vẫn chưa nguôi giận, hậm hực nói: “Thân thể bị tổn hại thì đã đáng gì? Hôm nay gặp phải vụ này, ta phải uống bao nhiêu nước sông thối tha vào bụng. Thế thì thanh danh một đời Sử Tiểu Thúy này thật là không còn sót lại một chút nào nữa.” Mụ phẫn hận trong lòng, càng nói càng to tiếng.

Thạch Phá Thiên sợ Đinh Bất Tam nghe thấy, liền khuyên can: “Lão thái thái! Thái thái hãy bình tâm lại, để cháu… cháu vận thêm một chút nội lực vào cho thái thái được không?” Rồi chàng không chờ mụ trả lời, đặt bàn tay vào huyệt Linh Đài, từ từ vận nội lực thúc đẩy vào người mụ. Sử bà bà ngưng thần vận khí, dẫn kình lực bên ngoài vào xông phá những nơi bế tắc trong mình, những kinh mạch cùng huyệt đạo được thúc đẩy và giải khai từng chút một. Mụ im tiếng không nói nữa.

Thạch Phá Thiên chỉ mong cho mụ đừng làm huyên náo để khỏi kinh động đến tai Đinh Bất Tam. Nội lực từ bàn tay chàng tiếp tục tràn vào người mụ không ngớt. Sử bà bà trong lòng ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Nội lực thằng lỏi này thâm hậu vô cùng, mà lại là luồng khí thuần dương. Hiển nhiên từ lúc gã còn là đứa trẻ nít đã học được kỹ thuật của danh môn chính phái, mà lại chẳng hiểu chút võ công nào thì thật là kỳ.” Mụ nghĩ tới đây, bất giác cảm thấy khí huyết trong người nhộn nhạo lên, nên không dám nghĩ nhiều nữa. Đến lúc đả thông được toàn bộ kinh mạch Túc thiếu dương rồi, mụ thở phào một cái nhẹ nhõm, rồi đứng lên mỉm cười nói: “Làm phiền ngươi quá.”

Thạch Phá Thiên cùng A Tú đều vui mừng khôn xiết, đồng thanh hỏi: “Bà bà cử động được rồi ư?”

Sử bà bà đáp: “Mới đả thông được một mạch ở chân, còn những kinh mạch khác chưa thông.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu còn chưa mệt. Chúng ta tiếp tục đả thông hết các kinh mạch khác đi.”

Sử bà bà chau mày nói: “Thằng lỏi này chỉ nói bậy bạ! Ta cùng A Tú vì luyện Vô Vọng Thần Quyết mà bị tẩu hỏa nhập ma, đâu phải là những loại nội thương bình thường? Hôm nay đả thông được một đường kinh mạch đã phải tạ ơn trời phật lắm rồi. Dù Đạt Ma tổ sư hay Trương Tam Phong chân nhân có phục sinh cũng chẳng thể chỉ một ngày mà đả thông được hết những kinh mạch bị bế tắc trong nội thể ta.”

Thạch Phá Thiên run rẩy nói: “Dạ dạ! Cháu không hiểu đạo lý bên trong.”

Sử bà bà bảo: “Hiện giờ chưa có chuyện gì, ngươi giúp A Tú đả thông kinh mạch Túc thiếu dương của nó đi!” Thạch Phá Thiên vâng dạ luôn miệng. Chàng nâng A Tú dậy, đặt nàng tựa vào một cành cây rồi áp bàn tay vào huyệt Linh Đài nàng. Chàng cứ theo chỉ thị của Sử bà bà, từ từ thúc đẩy nội lực vào người nàng. Nội lực của A Tú nông cạn hơn bà nội của cô nhiều, nên Thạch Phá Thiên phải mất thời gian gấp bốn lần mới đả thông được kinh mạch Túc thiếu dương cho nàng.

A Tú gắng gượng đứng lên, nhẹ nhàng nói: “Đa tạ đại ca! Bà nội! Chúng ta còn chưa biết cao tính đại danh của đại ca đây là gì để tiện xưng hô, như vậy thật là thất lễ!” Câu này tuy nàng nói với tổ mẫu mà thực ra là để hỏi danh tính Thạch Phá Thiên, chỉ vì thẹn thùng trước mặt chàng thanh niên này mà nàng ngại ngùng không dám hỏi thẳng chàng.

Sử bà bà nói: “Tên đại tống tử kia! Cháu gái ta hỏi tên họ ngươi đó.”

Thạch Phá Thiên nói: “Cháu… cháu… cũng không biết… Mẹ của cháu gọi cháu… gọi cháu là… là…” Chàng muốn nói cái tên Cẩu Tạp Chủng ra, nhưng bây giờ đã hiểu ba chữ đó thật là khó nghe, không tiện nói ra trước mặt một vị cô nương thanh khiết dịu hiền này. Chàng liền nói tiếp: “Mọi người cứ nhận lầm cháu là một người khác, mà thực ra cháu không phải là người đó… Cuối cùng cháu là ai, thật sự… thật sự… không thể nào nói ra được.”

Sử bà bà nóng nảy không nhịn được liền quát lên: “Ngươi muốn nói thì nói, không muốn nói thì thôi, sao lại ấp úng quanh co như vậy?”

A Tú nói: “Bà nội! Người ta không muốn nói thì chắc chắn là có chỗ khó nói ra, chúng ta cũng không nên hỏi nữa. Biết tên hay không cũng chẳng sao, miễn là chúng ta ghi nhớ ơn đức của người ta là được rồi.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không, không! Không phải là cháu không chịu nói, thật ra tên cháu khó nghe lắm.”

Sử bà bà nói: “Sao lại khó nghe với dễ nghe? Còn tên gì mà khó nghe hơn Đòn Bánh Tét nữa? Ngươi không nói thì ta kêu ngươi bằng Đại Tống Tử.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Đòn Bánh Tét còn dễ nghe hơn Chó Lộn Giống nhiều.” Chàng liền mỉm cười đáp: “Gọi cháu là Đại Tống Tử cũng được, chẳng có gì khó nghe cả.”

A Tú thấy Thạch Phá Thiên bản tính hiền hòa mà tổ mẫu mình nói năng thiếu lễ. Tuy chàng không lấy thế làm tức giận, nhưng trong lòng nàng vẫn áy náy, bèn nói: “Bà nội! Bà đừng có khinh dễ người ta nữa. Cũng xin đại ca đừng trách.”

Thạch Phá Thiên cười hì hì đáp: “Không hề gì. Tạ ơn trời đất. Chỉ cầu sao Đinh Bất Tam gia gia và Đinh Đinh Đang Đang đừng kiếm thấy cháu là được rồi. Hai vị ngồi nghỉ đây một lúc, để cháu đi kiếm xem có gì ăn không.”

Sử bà bà nói: “Trên đảo Tử Yên này có rất nhiều trái hồng, mùa này đang chín đỏ, ngươi đi hái về đây một ít. Lại còn những loại tôm cua trên đảo cũng béo lắm, ngươi bắt về mà ăn.”

Thạch Phá Thiên vâng lời, lạng người đi nấp vào sau gốc cây, rón rén chạy đi, chỉ sợ bị ông cháu nhà họ Đinh nhìn thấy. Chàng đi được chừng mấy chục trượng thì quả nhiên thấy trên sườn núi có mấy chục cây hồng, cây nào cũng lúc lỉu những trái hồng chín đỏ. Thạch Phá Thiên chạy lại gốc cây, giơ tay ra nắm lấy một cành rung mạnh mấy cái. Những trái chín mọng trên cây liền rụng xuống. Thạch Phá Thiên liền mở vạt áo ra hứng lấy, rồi chạy về chỗ bụi cây rậm cho Sử bà bà cùng A Tú ăn. Chân của hai bà cháu đã đi lại được, nhưng kinh mạch nơi tay hãy còn bế tắc. Sử bà bà còn gắng gượng giơ tay lên được, nhưng hai tay A Tú không sao nhúc nhích. Thạch Phá Thiên ngồi bóc vỏ một trái hồng đưa cho Sử bà bà, rồi lại bóc cho A Tú một trái.

A Tú thấy Thạch Phá Thiên đưa những trái hồng đã lột vỏ tới bên miệng của mình thì mắc cỡ quá, mặt đỏ bừng lên như trái hồng. Nàng không thể từ chối được, đành há miệng ra ăn những trái hồng mà chàng đưa tới. Thạch Phá Thiên toan đưa trái nữa vào miệng A Tú thì nàng nói: “Đại ca! Đại ca hãy ăn no trước rồi sau đó… rồi sau đó…”

Sử bà bà nói: “Từ đây đi về phía Tây Nam chừng hơn dặm có một thạch động. Chúng ta đợi đến tối sẽ tới đó ẩn thân, để anh em lão quỷ Bất Tam, Bất Tứ không tìm ra được.”

Thạch Phá Thiên cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu!” Chàng không sợ Đinh Bất Tứ lắm, nhưng hai ông cháu Đinh Bất Tam quyết ý giết chàng nên chàng cứ lo ngay ngáy, khi nghe Sử bà bà nói ở gần đây có chỗ ẩn nấp bất giác cả mừng.

Khi màn đêm buông xuống, Thạch Phá Thiên tay trái dắt Sử bà bà, tay phải nâng đỡ A Tú, ba người đi về mé Tây Nam. Sử bà bà hiển nhiên rất hay lui tới đảo Tử Yên này, rất thuộc địa thế ở đây. Quả nhiên ba người đi chưa đầy một dặm đã đến một nơi toàn là vách núi. Sử bà bà chỉ đường cho Thạch Phá Thiên vòng theo hai khúc quanh, rồi chui qua một bụi cây thấp thì thấy cửa động. Sử bà bà nói: “Đại Tống Tử! Đêm nay ngươi ngủ ở trước cửa động để canh gác, nhớ là không được đi vào trong này.”

Thạch Phá Thiên vâng dạ rồi nói tiếp: “Tiếc là chúng ta không dám đốt lửa lên để sưởi cho khô áo quần.”

Sử bà bà lạnh lùng nói: “Thật là hổ xuống bình nguyên bị chó lờn. Ngày sau anh em lão quỷ Bất Tam Bất Tứ sẽ bị báo ứng, trả nợ gấp mười lần”.