Giới thiệu tác phẩm “Thủy Hử”

Thủy hử hay Thủy hử truyện (水滸傳), nghĩa đen là “bến nước”, là một tác phẩm trong bốn tác phẩm lớn của văn học cổ điển Trung Hoa, thường gọi là nhóm Tứ đại danh tác (Ba bộ còn lại là Tam Quốc Diễn Nghĩa, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng). Tác giả Thủy hử thường ghi là Thi Nại Am. Truyện được viết dựa theo sách Đại Tống Tuyên Hòa di sự. Cốt truyện chính là sự hình thành và những thành tích của một nhóm người chống triều đình nhà Tống mà trở thành giặc cướp, thường gọi là 108 anh hùng Lương Sơn Bạc.

Là một trong tứ đại danh tác của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, Thủy hử truyện của Thi Nại Am làm đắm say biết bao trái tim bạn đọc không chỉ bởi nghệ thuật kết cấu truyện đặc sắc mà hơn hết là ở hình tượng của những bậc anh hùng, hảo hán. Để rồi, qua những hình tượng đó, độc giả thấy được quan niệm về người anh hùng của tác giả Thi Nại Am, một quan niệm vừa mang nét chính thống Nho gia, vừa mang nét dân gian, giang hồ.

Thủy hử có nhiều phiên bản, bản 70 hồi, 100 hồi, 114 hồi, 115 hồi, 120 hồi, 140 hồi,… Theo Lỗ Tấn, có tổng cộng sáu bản Thủy hử, thuộc hai loại: 70 hồi và trên 70 hồi. Trong đó, bản 100 hồi được xem là gần với nguyên tác nhất, với tựa đề ban đầu là Trung nghĩa Thủy hử truyện, nội dung gồm việc các anh hùng Lương Sơn Bạc tụ nghĩa (thường nằm trong khoảng 70 hồi) và bình Liêu đánh Phương Lạp. Bản Thủy hử phổ biến nhất là bản 70 hồi, do Kim Thánh Thán – một nhà phê bình nổi tiếng đời Thanh soạn lại. Kim Thánh Thán đã cắt bỏ hầu hết các nội dung khác, bao gồm việc đánh Liêu và Phương Lạp, chỉnh sửa lại theo quan điểm cá nhân, gia tăng bình luận của bản thân, từ đó tạo thành bản 70 hồi thường thấy ngày nay, gọi là Bình bản Thánh Thán hay Quan bảnKim bản.

Dịch giả: Á Nam Trần Tuấn Khải

Mục lục

Hồi 1: Vương Giáo Đầu, phủ Duyên lánh gót – Cửu Văn Long, thôn sử ra tay
Hồi 2: Sử Đại Lang nửa đêm đốt trại – Lỗ Đề Hạt giữa chợ giết người
Hồi 3: Triệu Viên Ngoại sửa lại Văn Thù Viện – Lỗ Trí Thâm khua động Ngũ Đài Sơn
Hồi 4: Chàng bé gan kinh hồn nơi ngọc trướng – Chàng to bụng ra sức xóm đào hoa
Hồi 5: Rừng Xích Tòng, Cửu Văn Long ra oai – Chùa Ngõa Quan, Lỗ Trí Thâm phóng lửa
Hồi 6: Hoa Hòa Thượng nhổ bậc gốc thùy dương – Báo Tử Đầu toạ vào nhà Bạch Hổ
Hồi 7: Đất Thương Châu Lâm Giáo Đầu chịu nhục – Rừng Dã Trư Hoa Hòa Thượng xung gan
Hồi 8: Mở cánh cổng Sài Tiến đón tân khách – Thử ngón gậy Lâm Xung hạ Giáo Đầu
Hồi 9: Một mũi dao, moi gan quân tàn ác – Ba chén rượu, say tít cả giang sơn
Hồi 10: Giả dạng giao du; thoát người hảo hán – Đề thơ cảm khái; kết bạn Lương Sơn
Hồi 11: Múa đao thần, Lâm Xung gặp người ngang sức – Bán gươm báo, Dương Chí giết cọp không lông
Hồi 12: Nơi Đông Quách, Cấp Tiên Phong tranh công – Đất Bắc Kinh, Thanh Diện Thú đấu sức
Hồi 13: Xích Phát Quỷ say nằm Linh Quan Điện – Tiểu Thiên Vương nghĩa nhận Đông Khê Thôn
Hồi 14: Ngô Học Cứu thuyết ba chàng Nguyễn – Công Tôn Thắng ưng bảy vì sao
Hồi 15: Tải kim ngân, Dương Chí vâng mệnh – Cướp lễ vật, Ngô Dụng dùng mưu
Hồi 16: Đánh chén không tiền gặp tay đao quỷ – Trói sư lập mẹo cướp núi Nhị Long
Hồi 17: Mỹ Nhiêm Công dùng mẹo lừa Sáp Sí Hổ – Tống Công Minh vì tình thả Tiều Thiên Vương
Hồi 18: Lâm Xung đốt cháy nơi Thủy Bạc – Tiều Cái cướp lấy vũng Lương Sơn
Hồi 19: Vì nghĩa chung, Tiều Cái lên ngôi chủ trại – Đền ơn cả, Lưu Đường rảo bước đêm trăng
Hồi 20: Diêm Bà say đánh Đường Ngưu Nhị – Tống Giang giận chém Diêm Bà Tích
Hồi 21: Hùa đảng gian dâm, trước nơi cửa huyện – Tha người hiếu nghĩa, trong chốn nhà hầm
Hồi 22: Quận Hoành Hải, Sài Tiến tiếp tân – Núi Cảnh Dương, Võ Tòng đánh hổ
Hồi 23: Gặp anh em thỏa lòng hòa thuận – Lừa Trai gái ghét giống gian dâm
Hồi 24: Bày mưu gian, bợm già dỗ khách – Ham tình dục, gái đĩ giết chồng
Hồi 25: Cửu Thúc giấu xương chờ khách hiệp – Võ Tòng giết chị tế hồn anh
Hồi 26: Đường Mạnh Châu, Mẫu Dạ Thoa bán thịt người – Bờ Thập Tự, Võ Đô Đầu gặp hảo hán
Hồi 27: Cự mặt Quản Doanh, anh tù cứng cổ – Mộ danh hảo hán, cậu trẻ ra ân
Hồi 28: Trại Bình An, lạy cầu có nghĩa sĩ – Rừng Khoái Hoạt say đánh Tưởng Môn Thần
Hồi 29: Thi Ân ba phen vào lao ngục – Võ Tòng một phen náo phi vân
Hồi 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám – Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công
Hồi 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt – Tống Công Minh gặp nạn được tha
Hồi 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt – Náo Phong Trại Hoa Vinh báo thù
Hồi 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra sức – Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu
Hồi 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư – Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn
Hồi 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới Tung – Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn
Hồi 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn – Nơi Giang Phủ đất khách rời chân
Hồi 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung – Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận
Hồi 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết – Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng
Hồi 39: Cướp nghĩa đảng – Anh hùng mến anh hùng
Hồi 40: Tống Giang mưu đánh Quân Vô Vị – Trương Thuận bắt sống Hoàng Văn Bính
Hồi 41: Hoàn đạo đồn, nhận ba quyền thiên thư – Tống Công Minh gặp Cửu Thiên Huyền Nữ
Hồi 42: Thương mẫu thân, Lý Quỳ giết bốn hổ – Cứu đồng đảng, Chu Quý dốc một lòng
Hồi 43: Cẩm Bảo Tử ngõ hẻm gặp Đới Tung – Bệnh Quan Sách, dương oai gặp Thạch Tú
Hồi 44: Phòng riêng ton tót, Dương Hùng gặp gái voi dày – Đêm vắng xông pha, Thạch Tú giết sư hổ lửa
Hồi 45: Núi Thúy Bình, Dương Hùng giết vợ – Điếm Chúc Gia, Thạch Tú đốt nhà
Hồi 46: Quỷ Kiểm Nhĩ nhờ thân giúp bạn – Tống Công Minh nổi giận dấy binh
Hồi 47: Bắt Nụy Hổ, nữ tướng ra côn – Đánh Chúc Gia, quân sư xuống cứu
Hồi 48: Mắc mẹo gian, Giải Bảo, Giải Trân phá ngục – Bầy mưu khéo, Tôn Lập, Tôn Lân cướp lao
Hồi 49: Bày kế liên hoàn, phá nhà Hổ, Chúc – Kéo cờ thắng trận, về trại Lương Sơn
Hồi 50: Sáp Sí Hổ vác gông đánh chết ả đào – Mỹ nhiêm Công mắc mưu mất toi cậu ấm
Hồi 51: Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích – Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu
Hồi 52: Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng – Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân
Hồi 53: Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm – Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến
Hồi 54: Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ – Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn
Hồi 55: Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp – Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn
Hồi 56: Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang – Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Hồi 57: Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu – Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc
Hồi 58: Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy – Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng
Hồi 59: Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép – Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên
Hồi 60: Lừa Ngọc Kỳ Lân Ngô Dụng lập mẹo – Quấy Kim Sa Đọ Trương Thuận trổ tài
Hồi 61: Bắn lãnh tiễn Yến Thanh cứu chúa – Cướp pháp trường Thạch Tú thi gan.
Hồi 62: Tống Giang đến đánh Đại Danh thành – Quan Thắng bàn phá Lương Sơn Bạc
Hồi 63: Đêm trăng Duyên Chước lừa Quan Thắng – Trời tuyết Công Minh bắt Sách Siêu
Hồi 64: Thác Tháp Thiên Vương, trong mơ hiển thánh – Lãng Lý Bạch Điều, dưới nước báo oán
Hồi 65: Đốt Thuý Vân Lâu, Thời Thiên vâng lệnh – Phá Đại Danh Phủ, Ngô Dụng lập công
Hồi 66: Về Sơn Bạc Tống Giang khao thưởng ba quân – Đến Lăng Châu Quan Thắng chiêu hàng hai tướng
Hồi 67: Tống Công Minh đánh phá Tăng Đầu Thị – Lư Tuấn Nghĩa bắt sống Sử Văn Cung
Hồi 68: Tới Đông Bình Phủ, Sử Văn Long mắc nạn – Bắt Song Thương Tướng, Tống Công Minh lập công
Hồi 69: Một Vũ Tiễn ném đá đánh anh hùng – Tống Công Minh bỏ lương bắt tráng sĩ
Hồi 70: Nhà Trung Nghĩa, bia đá nổi hàng văn – Vụng Lương Sơn, bạn vàng kinh giấc mộng

Giới thiệu tác phẩm “Tây Du ký”

Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân là tác phẩm đúc kết lên một triết lí nhân sinh, rằng con người có thể chinh phục mọi thứ nếu có sự đoàn kết, ý chí và sức mạnh.

Về tác giả Ngô Thừa Ân

Ngô Thừa Ân (1500 hoặc 1506 – 1581), tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương Sơn Nhân, là một tác giả văn học Trung Quốc, sống vào đời Minh.Ông sinh tại Hoài An, tỉnh Giang Tô. Gia đình ông làm nghề buôn bán nhỏ, chuyên bán chỉ và đồ thêu, nhưng lại có thú tàng trữ sách. Cả ông nội và cha Ngô Thừa Ân đều xuất thân là quan lại qua con đường khoa cử.

Ông học tại Nam Kinh Thái học (Đại học Nam Kinh cổ) trong hơn 10 năm. Theo tương truyền, Ngô Thừa Ân từ nhỏ đã say mê những truyện thần tiên yêu quái. Khi bị cha cấm, ông từng trốn cha mang những cuốn sách thể loại đó ra chợ ngồi đọc.Lớn lên, ông tỏ ra là người có tính tình khảng khái, những câu nói của ông lúc bấy giờ thể hiện tính cách của ông: “không để người đời thương hại”, “trong lòng mài mãi dao trừ tà, muốn dẹp sạch đi, buồn không đủ sức”. Ngô Thừa Ân nổi tiếng văn hay chữ tốt và rất thích hài kịch. Ông từng viết nhiều tạp kĩ, lừng danh một thời.

Tuy là người đa tài nhưng Ngô Thừa Ân lại lận đận trên đường thi cử. Ngô Thừa Ân thi nhiều lần, nhưng không đỗ. Mãi tới năm khoảng 43 tuổi, ông mới đỗ Tuế cống sinh. Sau đó, ông còn đi thi hai lần nữa nhưng đều hỏng. Năm 51 tuổi, vì cảnh nhà quẫn bách, ông đến Nam Kinh tìm việc nhưng cô thế không có nơi nương tựa nên việc cũng chẳng thành. Mãi đến năm 67 tuổi, ông đến Bắc Kinh để được tuyển dụng làm quan, ông nhận một chức quan nhỏ (huyện thừa) tại huyện Trường Hưng. Chẳng bao lâu sau, vì không chịu được cảnh luồn cúi, ông từ chức ra về.

Ngô Thừa Ân còn được tiến cử vào giữ chức kỉ thiện trong Kinh Vương phủ, chuyên coi việc lễ nhạc và văn thơ, nhưng được 3 năm thì bất đắc chí từ quan về nhà. Lúc đó Ngô Thừa Ân đã 70 tuổi. Từ đây, Ngô Thừa Ân sống bằng nghề viết văn, thơ, được hơn 10 năm thì mất.

Sáng tác của ông khá phong phú, nhưng đã bị mất mát gần hết, do chỉ có một con gái và gia cảnh bần hàn, nên hiện chỉ còn lại một số thơ văn được tập hợp lại thành bộ Xạ Dương tiên sinh tồn cảo gồm 4 quyển.

Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của ông là Tây du ký viết lúc đã ngoài 70 tuổi. Cuốn tiểu thuyết này được nhiều thế hệ người Trung Quốc yêu thích và là một trong những cuốn tiểu thuyết cổ điển phổ biến nhất ở Trung Quốc và nhiều quốc gia khác.Đương thời, khi ông còn sống, Tây du ký chưa được người đời biết đến, mãi tới sau khi ông mất nhiều năm, một người cháu ngoại họ Dương mới mang ra công bố tiểu thuyết này.

Về tác phẩm Tây du ký

Tây du ký là một trong những tác phẩm kinh điển trong văn học Trung Hoa. Được xuất bản với tác giả giấu tên trong những năm 1590 và không có bằng chứng trực tiếp còn tồn tại để biết tác giả của nó, nhưng tác phẩm này thường được cho là của học giả Ngô Thừa Ân.

Tác phẩm tổng cộng có một trăm hồi, ra đời vào năm Vạn Lịch thứ 29 (1601), triều Minh. Sau khi Tây du ký xuất hiện, trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm tiếp tục đề tài của Tây du ký, nhưng cốt truyện và nhân vật có thay đổi như Hậu tây du kýTục tây du ký và Tây du bổ. Trong đó, đáng chú ý và có giá trị nhất là Hậu tây du ký, không rõ tác giả.

Ngày nay, Tây du ký được xem là tác phẩm văn học đạt đến độ mẫu mực, đứng trong 4 tác phẩm văn học cổ điển vĩ đại nhất của Trung Hoa, gọi là Tứ đại danh tác (cùng với Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung, Thủy Hử của Thi Nại Am và Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần) .

Trong đó, tiểu thuyết kể về hành trình của Trần Huyền Trang đến Tây Trúc (Ấn Độ) để thỉnh kinh. Theo ông là ba đệ tử: Tôn Ngộ Không một tên khỉ do đá sinh ra; Trư Ngộ Năng – một yêu quái nửa người nửa lợn; Sa Ngộ Tĩnh –một thủy quái. Họ đều đồng ý giúp ông thỉnh kinh để chuộc tội. Bên cạnh đó, con ngựa mà Trần Huyền Trang cưỡi cũng là một nhận vật do hoàng tử của Long Vương (Bạch Long Mã) hóa thành. Cụ thể, câu chuyện diễn ra như sau:

Những chương đầu thuật lại những kì công của Tôn Ngộ Không, từ khi ra đời từ một hòn đá ở biển Hoa Đông , xưng vương ởHoa Quả Sơn, tầm sư học đạo, đại náo thiên cung, sau đó bị Phật Tổ Như Lai bắt nhốt trong núi Ngũ Hành 500 năm. Truyện kể lại Huyền Trang trở thành một nhà sư ra sao và được hoàng đế nhà Đường gửi đi thỉnh kinh sau khi hoàng đế thoát chết.

Phần tiếp của câu chuyện kể về các hiểm nguy mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu, trong đó nhiều yêu quái là đồ đệ của các vị Tiên, Phật. Một số yêu tinh muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ họ bằng cách biến thành đàn bà đẹp. Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên, Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa…

Cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật.Đây cũng được tính là một khổ nạn cho bốn thầy trò. Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua ông. Khi đang chở Tam Tạng qua giữa sông, Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi, nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì vậy, kinh đến Trung thổ không được toàn vẹn. (Nguồn: ĐHKHXH&NV)

Dịch giả: Thụy Đình, Chu Thiên

Mục lục

Chương 1: Khí thiêng kết tụ sanh khỉ đá – Tâm thành tu niệm đạo nhân gian
Chương 2: Phép nhiệm nhờ thầy truyền bí thuật – Tài cao về xứ giết yêu ma
Chương 3: Thiên động ngàn non đều sợ phép – Diêm quang mười cửa thảy kiêng oai
Chương 4: Chức phong Bậc Mã lòng chưa muốn – Hiệu gọi Tề Thiên dạ mới đành
Chương 5: Phá vườn đào, Ðại Thánh trộm linh đơn – Loạn cung trời, chư thần bị bại trận
Chương 6: Quan Âm phó hội hỏi căn do – Tiểu Thánh ra oai trừ Ðại Thánh
Chương 7: Ðại Thánh trốn khỏi lò Bát quái – Thích ca nhốt yêu núi Ngũ hành
Chương 8: Như Lai tạo kinh truyền Cực Lạc – Quan Âm vâng chỉ xuống Tràng An
Chương 9: Dinh Giang Châu, mẹ con gặp gỡ – Sông Hồng Giang, chồng vợ đoàn viên
Chương 10: Long Vương phạm tội Thiên Tào – Ngụy Trưng gởi thơ Âm phủ
Chương 11: Xuống Âm Ti, Thái Tôn huởn sanh – Ði dâng dưa, Lưu Toàn gặp vợ
Chương 12: Trần Huyền Trang làm chay thỉnh Phật – Quan Thế Âm dạy sãi cầu kinh
Chương 13: Nơi Hổ huyệt, Kim Tinh cứu nạn – Lưu Gia Trang, Tam Tạng tụng kinh
Chương 14: Núi Lưỡng giới, thần hầu thoát nạn – Ðường Tây Phương, thầy tớ băng ngàn
Chương 15: Núi Xà Bàn, các thần giúp sức – Suối Ưng Sầu, con ngựa gò cương
Chương 16: Chùa Quan Âm, thầy tu tham báu vật – Núi Hắc Phong, yêu quái trộm Cà sa
Chương 17: Hành Giả đánh yêu ăn trộm – Quan Âm bắt gấu thành tinh
Chương 18: Quan Âm điện, Ðường Tăng khỏi nạn – Cao lão trang, Hành Giả bắt yêu
Chương 19: Vân San động, Ngộ Không thâu Bát Giới – Phù đồ Sơn, Tam Tạng gặp Thiền sư
Chương 20: Tới Huỳnh Phong, Ðường Tăng mắc nạn – Gặp tiên phuông, Bát Giới trổ tài
Chương 21: Hộ Pháp hóa nhà cứu Ðại Thánh – Linh Kiết cho phép bắt Huỳnh Phong
Chương 22: Bát Giới cự chiến sông Lưu Sa – Mộc Tra vâng phép thâu Ngộ Tịnh
Chương 23: Tam Tạng chẳng quên đạo – Tứ Thánh thử lòng thiền
Chương 24: Vạn Thọ sơn, Trấn Ngươn cầm cố hữu – Ngũ Trang am, Hành Giả trộm nhơn sâm
Chương 25: Trấn Nguơn tiên bắt thầy Tam Tạng – Tôn Hành Giả phá viện Ngũ trang
Chương 26: Tôn Ngộ Không non cao tìm thuốc – Quan Thế Âm nước phép cứu cây
Chương 27: Thây ma ba thứ trêu Hòa Thượng – Tam Tạng nhiều phen đuổi Ngộ Không
Chương 28: Núi Hoa quả, quần hầu gặp chúa – Rừng Hắc tòng, Tam Tạng bị yêu
Chương 29: Tam Tạng khỏi tai qua Bửu Tượng – Ngộ Năng vâng chỉ đến rừng sâu
Chương 30: Huỳnh Bào bắt Sa Tăng – Bạch Mã trông Hành Giả
Chương 31: Trư Bát Giới nói khích Hầu vương – Tôn Hành Giả mưu trừ yêu quái
Chương 32: Núi Bình Ðảnh, Công Tào báo tin – Ðộng Liên Hoa, Bát Giới mang họa
Chương 33: Ngân Giác di sơn đè Ðại Thánh – Ngộ Không dụng kế đổi hồ Lô
Chương 34: Chúa yêu giỏi dắn giựt Kim Thằng – Ðại Thánh phỉnh phờ thâu bửu bối
Chương 35: Chúa động bị thâu về với chủ – Ngộ Không đặng báu trả cho Tiên
Chương 36: Vào chùa báu, Ngộ Không dọa sãi – Ngụ am thanh, Tam Tạng xem trăng
Chương 37: Quỷ vương cầu cứu với Ðường Tăng – Hành Giả mách tin cho Thái Tử
Chương 38: Ðông Cung hỏi mẹ, hay tà chánh – Bát Giới cõng thây, biết giả chơn
Chương 39: Một hột thuốc linh trời đã nấy – Ba năm chúa cũ mạng còn dài
Chương 40: Hồng Hài lập kế bắt Ðường tăng – Hành Giả dùng mưu trừ yêu quái
Chương 41: Ngộ Không mắc lửa thiêu – Bát Giới bị yêu bắt
Chương 42: Ðại Thánh ân cần cầu Phật mẫu – Quan Âm nhơn đức trói Hồng Hài
Chương 43: Yêu quái Hắc Hà mưu bắt sải – Ðộng cung Tây Hải tới thâu cù
Chương 44: Ðường Tăng nghe tiếng kinh hồn – Hành Giả đập xe cứu sãi
Chương 45: Miễu Tam Thanh, Ðại Thánh để danh – Nước Xa Tri, Ngộ Không đấu phép
Chương 46: Ðạo sĩ cậy tài khi đạo Phật – Ngộ Không đấp phép hại loài tà
Chương 47: Sông Thông Thiên, thầy trò bị cản – Miễu Linh Cảm, yêu quái tróc vi
Chương 48: Yêu quái hóa tuyết bủa khắp sông – Ðường Tăng cưỡi ngựa đi trên gia
Chương 49: Tam Tạng bị giam trong thủy thạch – Quan Âm thương đến bắt Kim ngư
Chương 50: Nghe tiếng phỉnh phờ, sanh cực khổ – Cãi lời ngay thẳng, bị yêu ma
Chương 51: Thánh Thần có phép còn chưa giỏi – Nước lửa Không Linh rước uổng công
Chương 52: Hành Giả cầu Phật Tổ – Lão quân bắt chúa yêu
Chương 53: Sải uống nước sông mà có chữa – Thần cho dòng suối giải không thai
Chương 54: Rửa sạch ruột gan mình cũng sạch – Giống hung thì có thứ trừ hung
Chương 55: Gái yêu ép uổng điều trăng gió – Sải thánh dốc gìn nết đá vàng
Chương 56: Hành Giả trừ chánh đảng – Tam Tạng đuổi Ngộ Không
Chương 57: Qua Nam Hải, Tề Thiên trình Bồ Tát – Tại Thủy Liêm, bầy khỉ giả Ngộ Không
Chương 58: Hai hình Hành Giả mờ trời đất – Một tiếng Như Lai rõ chánh tà
Chương 59: Thương thầy Tam Tạng, gặp Hỏa Diệm sơn – Lầm quạt Ba tiêu, cười Tôn Hành Giả
Chương 60: Ngưu Ma Vương vào non Loạn Thạch – Tôn Ngộ Không lấy quạt Ba Tiêu
Chương 61: Ngưu Ma vương giả hình Bát Giới – Tôn Ngộ Không mất quạt Ba Tiêu
Chương 62: Tam Tạng có lòng quét tháp – Ngộ Không gặp dịp bắt yêu
Chương 63: Hai thầy đánh quái vỡ long cung – Các thành trừ yêu thâu bửu bối
Chương 64: Núi Kinh Cát , Ngộ Không ra sức – Am Mộ Tiên , Tam Tạng ngâm thơ
Chương 65: Loài yêu riêng giả Lôi Âm nhỏ – Các sải đồng vương ách nạn lo
Chương 66: Chư thần lâm hoạn nạn – Di Lặc trói yêu tinh
Chương 67: Trổ tài, Ngộ Không trừ rắn độc – Ra công, Bát Giới ủi đồ Dơ
Chương 68: Châu Tử vương treo bảng cầu thầy Tôn Hành Giả trỗ tài làm thuốc
Chương 69: Tôn Hành Giã ban đêm hiệp thuốc Châu Tử vương trong tiệc luận yêu
Chương 70: Yêu ma hóa phép gió cát vang – Ngộ Không ăn cắp lục lạc lửa
Chương 71: Hành Giả mượn danh trừ yêu quái – Quan Âm xuống động bắt yêu vương
Chương 72: Ðộng Bảng Tư, Thất Tinh bắt sãi – Suối Trạt Cấu, Bát Giới khuấy yêu
Chương 73: Bảy yêu quái báo cừu độc hiểm – Ba thầy trò bị thuốc mê mang
Chương 74: Trường Canh giả dạng đem tin quỷ – Hành Giả trổ tài hóa phép linh
Chương 75: Ngộ Không khoan bửu bình – Chúa động nhốt Ðại Thánh
Chương 76: Tề Thiên khuấy ruột gan – Bát Giới bị yêu quái
Chương 77: Chúa yêu bắt Tam Tạng – Hành Giả viện Như Lai
Chương 78: Sai Ðồng làm tổ cứu đồng nhi – Giảng đạo cứu vua thành Tiểu tử
Chương 79: Phá động đánh yêu cho Lão Thọ – Ðến trào giúp chúa cứu con thơ
Chương 80: Gái ma giả dạng cầu đôi lứa – Sải thánh cao tài biết phải chăng
Chương 81: Chùa Trấn Hải, Ngộ Không đánh quỷ – Rừng Hắc Tòng, TamTạng bị tinh
Chương 82: Thử Tinh ép Ðường Tăng – Hành Giả cứu Sư Phụ
Chương 83: Tề Thiên kiện Lý Tịnh – Na Tra bắt nữ yêu
Chương 84: Quan Âm mách miệng cứu Ðường Tăng – Hành Giả cạo đầu vua Diệt Pháp
Chương 85: Ngộ Không gạt Bát Giới – Lão quái bắt Ðường Tăng
Chương 86: Bát Giới trợ oai trừ lũ quái – Ngộ Không hóa phép trị loài yêu
Chương 87: Quân Phụng Tiên, khinh trời bị hạn – Sải Ngộ Không, cứu thế cầu mưa
Chương 88: Ngọc Hoa cầu sải thánh – Hòa Thượng dạy học trò
Chương 89: Huỳnh Sư tinh tập Ðinh Ba hội – Tôn Ngộ Không đánh Báo Ðầu sơn
Chương 90: Sư tử với thiên sư về một động – Ðạo đồ Cùng vương đạo rẽ hai phe
Chương 91: Bốn thầy ngoài tiệc, ăn uống vui say – Một ả trong phòng, điểm trang chải chuốt
Chương 92: Ba sải cả đánh Thanh Long sơn – Bốn sao giúp bắt Tê Ngưu quái
Chương 93: Ghé Cô viên, hỏi dọ nhằm thầy – Ðến Thiên Trúc, đi chầu gặp nộm
Chương 94: Phủ Kim Bình, Ngươn Dạ xem đèn – Cầu Kim Ðăng, Ðường Tăng bị bắt
Chương 95: Hành Giả biết yêu, trừ Ngọc Thố – Thiên Bồng nhớ tật, níu Hằng Nga
Chương 96: Khấu Viên ngoại ưa đãi thầy tu Ðường Trưởng lão chẳng màn của cúng
Chương 97: Tam Tạng bị vụ ăn cướp – Ngộ Không cãi tử hồi sinh
Chương 98: Ðộc Mộc kiều, Tiếp Dẫn đưa đò Lăng Văn Ðộ, Ðường Tăng bỏ xác
Chương 99: Mười mấy năm trời qua Cực lạc Tám ngày phép Phật tới Trường An
Chương 100: Tam Tạng thỉnh kinh về Ðông Ðộ Năm thánh hưởng phước tại Tây Phương

Giới thiệu tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa”

Tam quốc diễn nghĩa (giản thể: 三国演义; phồn thể: 三國演義, Pinyin: sān guó yǎn yì), nguyên tên là Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa, là một tiểu thuyết về lịch sử Trung Quốc được La Quán Trung viết vào thế kỷ 14 (đời Minh), kể về thời kỳ hỗn loạn Tam Quốc (190–280) với 120 chương hồi, kết hợp giữa sự thật lịch sử và các truyện kể dân gian theo phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu).

Tiểu thuyết này được xem là một trong Tứ đại danh tác của văn học Trung Quốc (3 bộ còn lại là: Thủy Hử, Tây Du Ký, Hồng Lâu Mộng).

Dịch giả: Phan Kế Bính

Mục lục

HỒI 1: Tiệc vườn đào, anh hùng kết nghĩa – Chém Khăn Vàng, hào kiệt lập công
HỒI 2: Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu – Hà Quốc Cữu mưu giết quan hoạn
HỒI 3: Tiệc Ôn Minh, Đổng Trác mắng Đinh Nguyên – Dùng vàng bạc, Lý Túc dụ Lã Bố
HỒI 4: Phế Hán Đế, Trần Lưu lên ngôi – Lừa Đổng tặc, Mạnh Đức dâng kiếm
HỒI 5: Phát hiệu triệu, các trấn hưởng ứng Tào Công – Phá cửa quan, ba anh hùng đánh Lã Bố
HỒI 6: Đốt Kim Quyết, Đổng Trác làm càn – Giấu ngọc tỉ, Tôn Kiên trái ước
HỒI 7: Viên Thiệu qua cầu đánh Công Tôn – Tôn Kiên sang sông đá Lưu Biểu
HỒI 8: Vương tư đồ khéo dụng liên hoàn kế – Đổng thừa tướng náo động Phụng Nghi Đình
HỒI 9: Trừ hung bạo, Lã Bố giúp Tư đồ – Chiếm Trường An, Lý Thôi nghe Giả Hủ
HỒI 10: Giúp nhà vua, Mã Đằng khởi nghĩa – Báo thù Bố, Tào Tháo cất quân
HỒI 11: Lưu hoàng thúc cứu Khổng Dung ở Bắc Hải – Lã Ôn Hầu phá Tào Tháo thành Bộc Dương
HỒI 12: Đào Cung Tổ ba lần nhượng Từ Châu – Tào Mạnh Đức một phen đánh Lã Bố
HỒI 13: Lý Thôi, Quách Dĩ một trận giao tranh – Dương Phụng, Đổng Thừa hai lần cứu giá
HỒI 14: Tào Mạnh Đức rời giá đến Hứa Đô – Lã Phụng Tiên đang đêm cướp Từ Quận
HỒI 15: Thái Sử Từ ham đả Tiểu Bá Vương – Tôn Bá Phù hăng đánh Nghiêm Bạch Hổ
HỒI 16: Cửa nha môn, Phụng Tiên bắn kích – Sông Vị Thủy, Mạnh Đức thua quân
HỒI 17: Viên Công Lộ cất bảy cánh quân – Tào Mạnh Đức gặp ba ông tướng
HỒI 18: Giả Văn Hòa liệu kế đánh thắng giặc – Hạ Hầu Đôn rút tên nuốt con ngươi
HỒI 19: Thành Hạ Phí, Tào Tháo dùng binh – Lầu Bạch Môn, Lã Bố tuyệt mệnh
HỒI 20: Tào A Man ra săn ruộng Hứa Điền – Đổng quốc cữu vâng chiếu trong nội các
HỒI 21: Tào Tháo uống rượu luận anh hùng – Quan Công lừa mưu giết Xa Trụ
HỒI 22: Viên, Tào đều cất ba quân mã bộ – Quan, Trương cùng bắt hai tướng Vương, Lưu
HỒI 23: Nễ Chính Bình khỏa thân mắng giặc – Cát Thái Y đầu độc bị hình
HỒI 24: Quốc tặc hành hung giết quý phi – Hoàng thúc thua chạy sang Viên Thiệu
HỒI 25: Đóng Thổ Sơn, Quan Công giao ước ba việc – Cứu Bạch Mã, Tào Tháo thoát khỏi vòng vây
HỒI 26: Viên Bản Sơ hao binh tổn tướng – Quan Vân Trường treo ấn gói vàng
HỒI 27: Mỹ Nhiệm Công cưỡi một ngựa bay nghìn dặm – Hán Thọ Hầu chém sáu tướng phá năm quan
HỒI 28: Chém Sái Dương, anh em hòa giải – Hội Cổ Thành, vua tôi tụ nghĩa
HỒI 29: Tiểu Bá Vương giận chém Vu Cát – Ngô Tôn Quyền ngồi lĩnh Giang Đông
HỒI 30: Đánh Quan Độ, Bản Sơ bại trận – Cướp Ô Sào, Mạnh Đức đốt lương
HỒI 31: Tào Tháo ở Thương Đình, phá vỡ Bản Sơ – Huyền Đức sang Kinh Châu, nương nhờ Lưu Biểu
HỒI 32: Cướp Ký Châu, Viên Thượng tranh hùng – Khơi sông Chương, Hứa Du hiến kế
HỒI 33: Tào Phi nhân loạn lấy Châu Thị – Quách Gia dặn kế định Liêu Đông
HỒI 34: Sái phu nhân nấp nghe chuyện kín – Lưu hoàng thúc nhảy ngựa Đàn Khê
HỒI 35: Huyền Đức qua Nam Chương, gặp người ẩn dật – Đan Phúc đến Tân Dã, tiếp chúa anh minh
HỒI 36: Huyền Đức dùng mẹo đánh úp Phàn Thành – Nguyên Trực tế ngựa tiến cử Gia Cát
HỒI 37: Tư Mã Huy hai lần tiến cử danh sĩ – Lưu Huyền Đức ba lượt đến tận lều tranh
HỒI 38: Long Trung quyết kế thiên hạ chia ba – Tôn thị báo thù, Trường Giang đại chiến
HỒI 39: Thành Kinh Châu, công tử ba lần cầu kế – Gò Bác Vọng, quân sư bắt đầu dùng binh
HỒI 40: Sái phu nhân bàn hiến Ký Châu – Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã
HỒI 41: Lưu Huyền Đức đưa dân qua sông – Triệu Tử Long một ngựa cứu chúa
HỒI 42: Trương Dực Đức đại náo cầu Trường Bản – Lưu Dự Châu thua chạy cửa Hán Tân
HỒI 43: Gia Cát Lượng khua lưỡi bẻ bọn nho – Lỗ Tử Kính dùng sức bác lời chúng
HỒI 44: Khổng Minh dùng kế khích Chu Du – Tôn Quyền quyết mưu đánh Tào Tháo
HỒI 45: Cửa Tam Giang, Tào Tháo hao binh – Hội quần anh, Tưởng Cán mắc mẹo
HỒI 46: Dùng chước lạ, Khổng Minh mượn tên – Dâng kế mật, Hoàng Cái chịu nhục
HỒI 47: Hám Trạch mật dâng thư giả hàng – Bàng Thống khéo dùng liên hoàn kế
HỒI 48: Mở tiệc yến, Tào Tháo ngâm thơ – Khóa chiến thuyền, bắc quân dùng võ
HỒI 49: Đàn thất tinh, Gia Cát cầu phong – Cửa Tam Giang, Chu Du phóng hỏa
HỒI 50: Gia Cát Lượng khéo tình đường Hoa Dung – Quan Vân Trường vì nghĩa tha Tào Tháo
HỒI 51: Tào Nhân đại chiến quân Đông Ngô – Khổng Minh chọc tức Chu Công Cẩn
HỒI 52: Gia Cát Lượng chối từ Lỗ Túc – Triệu Tử Long lừa mẹo lấy Quế Dương
HỒI 53: Quan Vân Trường tha Hoàng Trung không giết – Tôn Trọng Mưu đánh Trương Liêu bị thua
Hồi 54: Ngô Quốc Thái đến chùa xem rể hiền – Lưu hoàng thúc động phòng cưới vợ mới
HỒI 55: Huyền Đức khéo léo, nói khích Tôn phu nhân – Khổng Minh hai phen trêu tức Chu Công Cẩn
HỒI 56: Tào Tháo mở tiệc mừng đài Đổng Tước – Khổng Minh Ba lần trêu tức Chu Du
HỒI 57: Cửa Sài Tang, Ngọa Long đến viếng tang – Huyện Lỗi Dương, Phượng Sồ quản công việc
HỒI 58: Mã Mạnh Khởi cất quân báo thù – Tào A Man cắt râu, vứt áo
HỒI 59: Hứa Chử cởi trần đánh Mã Siêu – Tào Tháo xóa thư lừa Hàn Toại
HỒI 60: Trương Vĩnh Niên hỏi vặn Dương Thu – Bàng Sĩ Nguyên bàn lấy Tây Thục
HỒI 61: Triệu Vân chặn sông giằng A Đẩu – Tôn Quyền đưa thư đánh lui Tào Man
HỒI 62: Giữ Bổi Quan, Dương, Cao nộp mạng – Đánh Lạc Thành, Hoàng, Ngụy tranh công
HỒI 63: Gia Cát Lượng đau lòng khóc Bàng Thống – Trương Dực Đức vì nghĩa tha Nghiêm Nhan
HỒI 64: Khổng Minh dùng mẹo bắt Trương Nhiệm – Dương Phụ mượn quân phá Mã Siêu
HỒI 65: Mã Siêu đại chiến cửa Hà Manh – Huyền Đức nhận chức được đất Tây Thục
HỒI 66: Quan Vân Trường một đao tới hội – Phục hoàng hậu vì nước bỏ mình
HỒI 67: Bình Hán Trung, Tào Tháo thành công – Bến Tiêu Diêu, Trương Liêu khét tiếng
HỒI 68: Cam Ninh trăm kị cướp Ngụy doanh – Tả Từ quăng chén đùa Tào Tháo
HỒI 69: Bói Chu Dịch, Quản Lộ biết cơ – Đánh Tào Man, năm người tử tiết
HỒI 70: TrươngPhi khỏe, dùng mưu lấy Ngõa Khẩu Ải – Hoàng Trung già, bày kế đoạt Thiên Đăng Sơn
HỒI 71: Chiếm Đối Sơn, Hoàng Trung sức nhàn thắng sức mỏi – Giữ Hán Thủy, Triệu Vân quân ít phá quân nhiều
HỒI 72: Gia Cát Lượng dùng mẹo lấy Hán Trung – Tào A Man thu quân về Tà Cốc
HỒI 73: Huyền Đức lên ngôi Hán Trung Vương – Vân Trường đánh chiếm Tương Dương quận
HỒI 74: Bàng Đức mang áo quan, quyết trận tử chiến – Quan Công khơi dòng nước, tràn ngập bảy đạo quân
HỒI 75: Quan Vân Trường cạo xương chữa thuốc – Lã Tử Minh áo trắng sang đò
HỒI 76: Từ Công Minh đánh đến Miện Thủy – Quan Vân Trường thua chạy ra Mạch Thành
HỒI 77: Núi Ngọc Toàn, Quan Công hiển thánh – Thành Lạc Dương, Tào Tháo cảm thần
HỒI 78: Chữa bệnh nhức đầu, hại thân thầy thuốc – Trối trăn truyền lại, hết số gian hùng
HỒI 79: Anh chẹt em, Tào Thực ngâm thơ – Cháu hại chú, Lưu Phong chịu tội
HỒI 80: Tào phi bỏ Hiến Đế, cướp vận Viêm Lưu – Hán Vương lên ngôi rồng, nối dòng đại thống
HỒI 81: Vội báo thù, Trương Phi bị hại – Mong rửa hận, tiên chủ cất quân
HỒI 82: Tôn Quyền hàng Ngụy, chịu cửu tích – Tiên chủ đánh Ngô, thưởng sáu quân
HỒI 83: Đánh Hào Đình, tiên chủ bắt được thù nhân – Giữ Giang Khẩu, thư sinh cất làm đại tướng
HỒI 84: Lục Tốn đốt sạch trại liên doanh – Khổng Minh khéo bày đồ bát trận
HỒI 85: Lưu tiên chủ viết chiếu gửi con côi – Gia Cát Lượng ngồi yên bình năm đạo
HỒI 86: Tần Bật biện bác, hỏi vặn Trương Ôn – Từ Thịnh hóa công, phá quân Ngụy chủ
HỒI 87: Đánh nam khấu, thừa tướng cất quân – Chống thiên binh, Man vương bị bắ
HỒI 88: Qua Lư Thủy, Phiên vương hai lượt vào tròng – Biết trá hàng, Mạnh Hoạch ba phen bị bắt
HỒI 89: Võ Vương hầu bốn phen dùng mẹo – Nam Man vương năm lượt vào tròng
HỒI 90: Đuổi thú mạnh, sáu chuyến phá quân Man – Đốt giáp mây, bảy lần bắt Mạnh Hoạch
HỒI 91: Tế sông Lư, thừa tướng rút quân – Đánh giặc Ngụy, Võ Hầu dâng biểu
HỒI 92: Triệu Tử Long ra sức giết năm tướng – Gia Cát Lượng dùng mẹo đoạt ba thành
HỒI 93: Khương Bá Ước về hàng Khổng Minh – Võ Vương Hầu mắng chết Vương Lãng
HỒI 94: Gia Cát Lượng nhân tuyết phá quân Khương – Tư Mã Ý nhanh tay bắt Mạnh Đạt
HỒI 95: Mã Tốc trái lệnh mất Nhai Đình – Võ Hầu gảy đàn đuổi Trọng Đạt
HỒI 96: Khổng Minh gạt lệ chém Mã Tốc – Chu Phường cắt tóc lừa Tào Hưu
HỒI 97: Đánh nước Ngụy, Võ Hầu hai lần dâng biểu – Phá quân Tào, Khương Duy dùng mẹo hiến thư
HỒI 98: Đuổi quân Hán, Vương Song mắc mưu – Úp Trần Thương, Võ Hầu thắng trận
HỒI 99: Gia Cát Lượng cả phá quân Ngụy – Tư Mã Ý vào cướp Tây Xuyên
HỒI 100: Quân Hán cướp trại, phá Tào Quân – Võ Hầu đấu trận, nhục Trọng Đạt
HỒI 101: Ra Lũng Thượng, Gia Cát giả làm thần – Vào Kiếm Các, Trương Cáp bị mắc mẹo
HỒI 102: Tư Mã Ý chiếm giữ Bắc Nguyên, Vị Kiều – Gia Cát Lượng chế ra trâu gỗ, ngựa máy
HỒI 103: Hang Thượng Phương, Tư Mã mắc nạn – Gò Ngũ Trượng, Gia Cát dâng sao
HỒI 104: Rơi sao lớn, thừa tướng qua đời – Trông tượng gỗ, đô đốc mất vía
HỒI 105: Võ Hầu dự sẵn mẹo cẩm nang – Ngụy chủ dỡ lấy mâm thừ lộ
HỒI 106: Công Tôn Uyên thua trận, chết ở Tương Bình – Tư Mã Ý giả ốm, lừa được Tào Sảng
HỒI 107: Ngụy chủ trao quyền họ Tư Mã – Khương Duy bại trận núi Ngưu Đầu
HỒI 108: Trong mưa tuyết, Đinh Phụng đánh đoản binh – Trên tiệc rượu, Tôn Tuấn dùng mật kế
HỒI 109: Vây Tư Mã, mưu lạ Khương Duy – Bỏ Tào Phương, quả báo nhà Ngụy
HỒI 110: Văn Ương một ngự thoái quân hùng – Bá Ước men sông phá giặc lớn
HỒI 111: Đặng Sĩ Tái mẹo phá Khương Bá Ước – Gia Cát Đản khởi nghĩa đánh Tư Mã Chiêu
HỒI 112: Cứu Thọ Xuân, Vu Thuyên tử tiết – Lấy Trường Thành, Bá Ước dùng binh
HỒI 113: Đinh Phụng Lập mẹo đánh Tôn Lâm – Khương Duy đấu trận phá Đặng Ngải
HỒI 114: Tào Mao ruổi xe chết cửa nam – Khương Duy bỏ lương phá quân Ngụy
HỒI 115: Xuống chiếu thu quân, Hậu chủ tin gièm – Mượn nghề làm ruộng, Khương Duy lánh vạ
HỒI 116: Đường Hán Trung, Chung Hội chia quân – Núi Định Quân, Võ Hầu hiển thánh
HỒI 117: Đặng Sĩ Tái lẻn qua núi Âm Bình – Gia Cát Chiêm chết tại thành Miên Trúc.
HỒI 118: Khóc miếu tổ, Lưu Thầm tự tử – Vào Tây Xuyên, Chung, Đặng tranh công
HỒI 119: Giả đầu hàng, kế hay thành chuyện hão – Nhường ngôi báu, người sau học lối xưa.
HỒI 120: Tiến Đỗ Dự, lão tướng dâng mẹo hay – Bắt Tôn Hạo, tam phân lại hợp nhất.

Giới thiệu tác phẩm “Phong Thần diễn nghĩa”

Phong thần diễn nghĩa (nguyên bản) (giản thể: 封神演义; phồn thể: 封神演義; cũng gọi là Bảng phong thần, Vũ Vương phạt Trụ ngoại sử phong thần diễn nghĩa, Phong thần truyện, Thương Chu liệt quốc toàn truyện (tái bản), là một bộ tiểu thuyết được viết lại trên cơ sở cuốn Vũ Vương phạt Trụ bình thoại in đời Nguyên, trong đó bao gồm các tư liệu lịch sử cùng với các thần thoại, truyền thuyết.

Phong thần diễn nghĩa xoay quanh việc suy vong của nhà Thương và sự nổi lên của nhà Chu, cùng với đó là rất nhiều thần thoại, truyền thuyết Trung Hoa, bao gồm các thần, tiên, yêu quái v.v. Trong chừng mực nào đó, Phong thần diễn nghĩa mô tả cuộc sống của người Trung Hoa đương thời, nơi tôn giáo có một vai trò lớn trong cuộc sống hàng ngày.

Tác giả của Phong thần diễn nghĩa (bảng phong thần) có thuyết nói là Hứa Trọng Lâm (giản thể: 许仲琳; phồn thể: 許仲琳), hiệu là Chung Sơn Dật Tẩu, người Phủ Ứng Thiên huyện Trực Lệ biên soạn. Thuyết khác lại cho rằng tác giả rất có thể là Lục Tây Tĩnh (giản thể: 陆西星; phồn thể: 陸西星), hiệu Trường Canh, người huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô. (nguồn: wiki)

Mục lục

Hồi 1: Trụ Vương tế miễu bà Nữ Oa
Hồi 2: Phản nước Thương, Tô Hộ đề thơ
Hồi 3: Xem thơ Tây Bá hầu, Tô Hộ dâng Đát Kỷ
Hồi 4: Giết giai nhân, hồ ly mượn lệnh
Hồi 5: Vân Trung Tử dâng kiếm trừ yêu
Hồi 6: Làm Bào lạc Trụ Vương hại tôi trung
Hồi 7: Bí Trọng bày mưu phế Khương hậu
Hồi 8: Họ Phương cõng chúa phản Triều Ca
Hồi 9: Thương Thừa tướng liều mình gián chúa
Hồi 10: Tiếng sấm sinh dị nhân
Hồi 11: Tây Bá bị giam thành Dũ Lý
Hồi 12: Na Tra xuất hiện ải Trần Đường
Hồi 13: Thạch Cơ bị lửa thiêu hiện hình cục đá
Hồi 14: Na Tra nhờ thầy cứu nhập xác bông sen
Hồi 15: Khương Thượng về trần cưới vợ
Hồi 16: Tử Nha đốt quỷ hóa tỳ bà
Hồi 17: Đát Kỷ lập Sái Bồn giết hại cung nga
Hồi 18: Khương Tử Nha lội sông trốn chúa
Hồi 19: Bá Ấp Khảo dâng báu vật chuộc cha
Hồi 20: Táng Nghi Sanh mua lòng bọn nịnh
Hồi 21: Văn Vương khoe quan qua 5 ải
Hồi 22: Văn Vương thương con mửa thịt hóa thỏ
Hồi 23: Thấy Phi Hùng điềm lành ứng mộng
Hồi 24: Văn Vương rước Khương Thượng nơi sông Vị
Hồi 25: Hồ Ly dọn tiệc mời yêu quái
Hồi 26: Đát Kỷ bày mưu hại Tỉ Can
Hồi 27: Văn Trọng ban sư về nước dâng 10 khoản can vua
Hồi 28: Văn Vương phạt Trụ cứu dân
Hồi 29: Văn Vương chém Sùng Hầu Hổ
Hồi 30: Võ Thành Vương phản Trụ đầu Châu
Hồi 31: Văn Thái Sư đuổi theo Phi Hổ
Hồi 32: Hoàng Thiên Hóa gặp cha tại Đồng Quan
Hồi 33: Hoàng Phi Hổ đánh ải Tụy Thủy
Bài 34: Võ Thành Vương ra mắt Tử Nha
Hồi 35: Triều Điền đem binh thám thính
Hồi 36: Quế Phương vâng chiếu chinh Tây
Hồi 37: Tử Nha về núi cầu Nguyên Thỉ
Hồi 38: Tứ Thánh phò Trụ đánh Tây Kỳ
Hồi 39: Hai nịnh bị giá lạnh nằm co
Hồi 40: 4 tướng cậy phép đoạt thành
Hồi 41: Văn Trọng đi ngang Huỳnh Hoa trại
Hồi 42: Văn Thái Sư thâu được 4 tướng thần
Hồi 43: Văn Thái Sư thất trận cầu tiên giúp
Hồi 44: Khương Tử Nha bị trù, hồn bay về trời
Hồi 45: Nhiên Đăng phá trận thập tuyệt
Hồi 46: Quảng Thành Tử phá trận Kim Quang
Hồi 47: Triệu Công Minh ra sức phò Văn Trọng
Hồi 48: Lục Yểm lập kế bắt Triệu Công Minh
Hồi 49: Trận Hồng Hà, Võ Vương đành lâm nạn
Hồi 50: Trận Huỳnh Hà 3 cô bắt các tiên
Hồi 51: Tử Nha cướp trại đuổi binh Thương
Hồi 52: Núi Tuyệt Long, Văn Trọng chầu trời
Hồi 53: Đặng Cửu Công dâng sắc chinh Tây
Hồi 54: Thổ Hành Tôn khoe tài bắt tướng
Hồi 55: Thổ Hành Tôn thất thế đầu Tây Kỳ
Hồi 56: Tử Nha lập mưu bắt Thiền Ngọc
Hồi 57: Trụ Vương sai Tô Hộ phạt Tây Kỳ
Hồi 58: Trời khiến Tử Nha gặp Lữ Nhạc
Hồi 59: Ân Hồng giữa đường thâu Chánh Đáng
Hồi 60: Mã Nguyên xuống núi giúp con vua
Hồi 61: Ân Hồng nát thây trên thái cực đồ
Hồi 62: Trương Sơn kế tiếp việc chinh Tây
Hồi 63: Thân Công Báo khuyên nhất điện hạ đánh Tử Nha
Hồi 64: La Tuyên nổi lửa đốt Tây Kỳ
Hồi 65: Ân Giao mắc lời thề bỏ mạng
Hồi 66: Hồng Cẩm đẹp số se duyên
Hồi 67: Đàn Kim Đài, Tử Nha bái tướng
Hồi 68: Núi Thú Dương nghĩa sĩ cầm cương
Hồi 69: Khổng Tuyên ra tài bắt tướng
Hồi 70: Chuẩn Đề hóa phép cưỡi công
Hồi 71: Tử Nha kéo binh qua 2 ải
Hồi 72: Quảng Thành Tử 3 lần lạy giáo chủ
Hồi 73: Già trẻ, đôi hùm tranh cao thấp
Hồi 74: Khói trắng, hơi vàng, hai phép đồng nhau
Hồi 75: Thổ Hành Tôn trộm thú Dư Nguyên
Hồi 76: Trịnh Luân bắt tướng thâu Tị Thủy
Hồi 77: Lão Tử hóa Tam Thanh đánh giáo chủ
Hồi 78: Tây Phương hai vị phá Tru Tiên
Hồi 79: Ải Xuyên Vân, 4 tướng Châu bị bắt
Hồi 80: Trận Ôn Hoàng bị quạt mầu phá tiêu
Hồi 81: Ải Đồng Quan, họ Dư rải độc
Hồi 82: Trận Vạn Tiên Triệt Giáo sa cơ
Hồi 83: Phá trận dữ, tiên thú hiện hình
Hồi 84: Kéo binh lang đánh ải Lâm Đồng
Hồi 85: Hai vị chư hầu đầu thánh chúa
Hồi 86: Ngũ Nhạc trở về thiên tào
Hồi 87: Vợ chồng Thổ Hành Tôn tử trận
Hồi 88: Tử Nha độ binh vượt Huỳnh Hà
Hồi 89: Vua Trụ chặt chân lương dân để xem tủy
Hồi 90: Liễu Quỷ Đào Tinh bị đả thần
Hồi 91: Tử Nha lập kế thiêu Văn Hóa
Hồi 92: Dương Tiễn ra tài bắt Tử Chân
Hồi 93: Kim Tra lập kế đoạt ải Du Hồn
Hồi 94: Văn Hoán nổi xung chém Phá Bại
Hồi 95: Tử Nha hài tội ác Trụ Vương
Hồi 96: Nữ Oa đón thâu Đát Kỷ
Hồi 97: Lầu Trích Tinh, vua Trụ thiêu mình
Hồi 98: Phá đài báu, nhà Châu thí của
Hồi 99: Tử Nha vâng sắc phong thần
Hồi 100: Châu Võ Vương luận công chia nước

Giới thiệu tác phẩm “Đông Chu liệt quốc”

Đông Chu liệt quốc chí (chữ Hán: 東周列國志) là tiểu thuyết lịch sử gồm 108 hồi được Sái Nguyên Phóng thời Thanh cải biên từ Tân liệt quốc chí khoảng trên 700.000 chữ của Phùng Mộng Long thời Minh.

Đông Chu liệt quốc đề cập đến thời kỳ lịch sử rất dài khoảng hơn 500 năm (770 TCN – 221 TCN) của Trung Quốc, bắt đầu từ đời Tuyên vương nhà Chu cho đến khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa. Sử sách cũng gọi thời kỳ ấy là đời Đông Chu, được chia làm hai giai đoạn là Xuân Thu và Chiến Quốc. Trong lịch sử Trung Hoa đây là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến đến tập quyền. Đông Chu liệt quốc không những đề cập đến các mốc lịch sử rất dài đồng thời cũng đề cập, mô tả rất nhiều nhân vật nổi tiếng của lịch sử Trung Hoa, từ các bậc anh hùng như Tín Lăng quân, Lạn Tương Như, Ngô Khởi, Ngũ Tử Tư đến các nhà quân sự lỗi lạc như Tôn Tử, Phạm Lãi, Tôn Tẫn và các nhà chính trị-tư tưởng lớn như Khổng Tử, Quản Trọng (nguồn: wiki).

Mục lục

Chương 1: Nghe lời hát Tuyên Vương khinh sát – Giải tình oan , Ðỗ Bá hiển linh
Chương 2: Bao Quýnh chuộc tội dâng mỹ nữ – U Vương đốt lửa lừa chư hầu
Chương 3: Quân Khuyển Nhung làm loạn Kiểu kinh – Vua Bình Vương thiên đô Lạc Ấp
Chương 4: Tần Vương nằm mộng thấy con trời – Trịnh Trang tìm mẹ đào hầm đất
Chương 5: Châu, Trịnh hai nước gởi con tin Lỗ, Tống một lòng đi chinh phạt
Chương 6: Vì nghĩa, Thạch Thác giết con – Mượn lịnh, Trang công đánh Tống
Chương 7: Ganh tài, Công tử Át giết Khảo thúc – Tham chức, Công tử Vận hại vua hiền
Chương 8: Mưu sâu, Hoa Đốc phế vua Tống – Làm cao, Trịnh Hốt chê vợ Tề
Chương 9: Văn khương, gái Tề về nước Lỗ – Chúc Đạm, tướng Trịnh bắn vua Châu
Chương 10: Ngôi nhà Châu , Hùng Thông tiếm vị – Nơi nước Trịnh, Tề Túc thay vua
Chương 11: Ỷ công lao , Tống Trang Công đòi của – Giết rể Ung, Trịnh Tế Túc đuổi vua
Chương 12: Tuyên Công dâm loạn lập Tân đài – Cừ Di âm mưu tôn vua khác
Chương 13: Lỗ Hầu cùng vợ sang Tề – Trịnh Vĩ , chúa tôi bị giết
Chương 14: Trái lệnh, Châu Thiên Tử nổi xung – Gặp ma, Tề Tương Công hoảng hốt
Chương 15: Ung Lẫm lập mưu giết tân chúa – Lỗ công bại trận nơi Kiều thời
Chương 16: Giữ lời hứa , Thúc Nha tiến Quản Trọng – Lập mưu cao, Tào Quới thắng binh Tề
Chương 17: Nước Tống ăn lễ giết Trường Vạn – Vua Sở tham sắc bắt Tức Hầu
Chương 18: Tào muội vung gươm dọa Tề hầu – Hoàn công thắp đuốc phong Ninh Thích
Chương 19: Trịnh Lệ công lập mưu về nước – Châu Huệ vương tìm kế phục thù
Chương 20: Tấn Hiến công mê sắc lập Ly cơ – Sở Thành Vương chuộng tài phong Đấu Cấu
Chương 21: Quản Trọng đoán thần Du nhi – Tề hầu đánh nước Cô Trúc
Chương 22: Quí Hữu đảm đương nước Lỗ – Tề hầu trông thấy yêu ma
Chương 23: Ham chim hạc, Vệ hầu mất nước – Giận sở vương, Tề chúa hưng binh
Chương 24: Tề hoàn công lấy lòng đãi sứ Sở – Hội chư hầu nhất dạ phục vua Châu
Chương 25: Đánh nước Quắc, Tuân tức mượn đường – Nuôi trâu giỏi , Lý Hề làm tướng
Chương 26: Bách Lý Hề nhận được vợ cũ – Tần Mục công mộng thấy điềm lành
Chương 27: Ly Cơ lập kế giết Thân Sinh – Hiến công gần chết dặn Tuân Tức
Chương 28: Lý Khắc một tay giết hai vua – Di Ngô nhờ Tần về nước Tấn
Chương 29: Tấn Huệ công bắt giết người trung – Quản Di Ngô trối trăng việc nước
Chương 30: Tấn Huệ công bội ước cử binh – Tần Mục Cơ giận thân tự tử
Chương 31: Tấn Huệ công nổi giận giết tướng – Giới Tử Thôi cắt thịt nuôi vua
Chương 32: Án Nga Nhi thủ tiết chết theo Tề – Công Tử tranh ngôi nổi loạn
Chương 33: Thế tử Chiêu trở về nước Tề – Tống Tương công mắc lừa nước Sở
Chương 34: Tống Tương công lá cờ nhân nghĩa – Tề Khương thị chén rượu biệt ly
Chương 35: Tấn Trùng Nhĩ trở về nước nhà Tấn Hoài Doanh vui vầy duyên mới
Chương 36: Tấn Hoài công trốn sang Cao Lương – Tần Mục công phù lập Trùng Nhĩ
Chương 37: Giới Tử Thôi cõng mẹ đi ẩn – Công tử Đái tham sắc làm càn
Chương 38: Chu Tương Vương tránh sang nước khác – Tấn Văn công thu phục lòng dân
Chương 39: Triển Hỉ hỏi kế Liễu Hạ Huệ – Ngụy Thù đốt nhà Hỉ Phụ Cơ
Chương 40: Tiên Chẩn lập kế lừa Đắc Thần – Tấn Sở giao binh tại Thành Bộc
Chương 41: Thành Đắc Thần rút gươm tự tử – Tấn Văn công phụng mệnh đăng đàn
Chương 42: Tương vương thiết triều ở Hà Dương – Nguyên Huyền khiếu oan cho Thúc Vũ
Chương 43: Ninh Du lập kế cứu vua Vệ – Chúc Vũ thương thuyết lui quân Tần
Chương 44: Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn – Huyền Cao giả mệnh khao quân Tần
Chương 45: Mạnh Minh cậy tài bị Tấn vây – Tiến Chẫn cởi giáp cho địch bắn
Chương 46: Thượng Thần giết cha ở trong cung – Quân Tần chết trận được cúng tế
Chương 47: Lộng Ngọc cưỡi phượng theo Tiêu Sử – Triệu Thuẫn bội Tần lập Di Cao
Chương 48: Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn – Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần
Chương 49: Công tử Bão phóng tiền mua nước – Tề Ý Công tham sắc hại thân
Chương 50: Trọng Toại tôn lập Oa công tử – Triệu Thuấn khuyên can Tấn Linh Công
Chương 51: Ðồng hồ chép thẳng án Đào Viên – Vua Sở mừng công mở đại hội
Chương 52: Công tử Tống nghĩ ghen miếng ăn – Trần Linh Công qúa mê sắc đẹp
Chương 53: Sở Trang Vương trả lại đất Trần – Tấn Cảnh Công đem quân đánh Trịnh
Chương 54: Sở Vương đuổi quân Lâm Phủ – Ưu Mạnh đóng vai Tôn Thúc Giao
Chương 55: Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở – Kết cỏ bắt được tướng nước Tần
Chương 56: Tề Khoảnh Công bày cuộc mua cười – Phùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ
Chương 57: Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ – Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn
Chương 58: Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc – Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù
Chương 59: Tư Đồng cậy thế tấn Lệ Công – Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả
Chương 60: Tuân dinh hiến kế chia quân ngạch chư hầu đem binh vây bức dương
Chương 61: Tấn Điệu Công cử binh đánh Sở – Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua
Chương 62: Chư hầu đem quân vây Tề quốc – Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh
Chương 63: Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt – Phạm Ưởng lập kế hiếp Ngụy Thư
Chương 64: Loan Doanh diệt tộc thành Khúc Ốc – Kỷ Lương tử chiến cửa Thả Vu
Chương 65: Giết Tề Quang, Thôi, Khánh cướp quyền – Rước Vệ Khản, Ninh Hỉ chuyên chính
Chương 66: Miễn Dư giết hại nhà Ninh Hi – Thôi Trữ mắc lừa mưu Khánh Phóng
Chương 67: Lư Bồ Quí đuổi được Khánh Phong – Sở Linh Vương tranh làm bá chủ
Chương 68: Tấn Bình Công thích nghe âm nhạc – Trần Vô Vũ chịu phóng gia tài
Chương 69: Sở Linh Vương cậy thế hùng cường – Án Bình trọn thi tài ăn nói
Chương 70: Giết ba anh, Sở Bình Vương lên ngôi – Hội Chiêu hầu, Tấn Chiêu Công làm chủ
Chương 71: Vì quả đào, cùng nhau sống chết – Tham gái đẹp, quên tình cha con
Chương 72: Dụ hai con, Sở Bình lập kế – Nghĩ một đêm, Ngũ Viên bạc đầu
Chương 73: Ngũ Viên giả dại hát giữa chợ – Chuyên Chư dâng cá giết Vương Liêu
Chương 74: Giết Vô Cực tỏ lòng Nang Ngoã – Đâm Khánh Kỵ nổi tiếng Yêu Ly
Chương 75: Tôn Vũ dạy cung nữ tập trận – Nang Ngoã bắt chư hầu lễ tiến
Chương 76: Hạp Lư tiến vào thành Sinh Đô – Ngũ Viên khai quật mộ vua Sở
Chương 77: Giọt lệ Bao Tư tràn sân Tần – chiếc thuyền Chiêu Vương về nước Sở
Chương 78: Lê Di hiến kế dùng lai binh – Khổng Tử kể tội giết Thiếu Chính
Chương 79: Lê Di lập kế hại Khổng Tử – Văn Chủng bày mưu thông Bá Hi
Chương 80: Phù Sai mắc mưu tha vua Việt – Câu Tiễn hết sức thờ nước Ngô
Chương 81: Tây Thi làm mê hoặc vua Ngô – Tử Cống đi du thuyết các nước
Chương 82: Ngũ Viên liều chết can vua Ngô – Khoái Qúi lập mưu về nước Vệ
Chương 83: Diệp Công khởi binh đánh Vu Thắng – Câu Tiễn báo thù giết Phù Sai
Chương 84: Trí Bá tháo nước vào Tấn Dương – Dự Nhượng đánh áo Triệu Tương Tử
Chương 85: Vì việc nước, Nhạc Dương bỏ con – Hại tiền dân, Hà Bá lấy vợ
Chương 86: Ngô Khởi giết vợ cầu quan – Trâu Kỵ gẩy đàn làm tướng
Chương 87: Vệ Ưởng hết lòng giúp Hiếu Công – Quỉ Cốc truyền phép cho Tôn Tẫn
Chương 88: Tôn Tẫn giả điên thóat nạn – Bàng Quyên bại trận Quế Lăng
Chương 89: Vạn cây nỏ bắn chết Bàng Quyên – Năm con trâu phân thây Thương Ưởng
Chương 90: Tô Tần làm tướng sáu nước – Trương Nghi tức giận sang Tần
Chương 91: Nhường ngôi báu, Yên Khoái hại mình – Dâng đất dối, Trương Nghi lừa Sở
Chương 92: Cậy sức khỏe, vua Tần gãy chân – Mưu mưu lừa, vua Sở chạy trốn
Chương 93: Triệu Chủ Phụ chết đói cung Sa Khâu – Mạnh Thường Quân ra thóat cửa Hàm Cốc
Chương 94: Thử Mạnh Thường, Phùng Hoan gõ gươm hát đánh kiệt Tống, vua Tề hợp đại binh
Chương 95: Nhạc Nghị diệt Tề thống đại quân – Điền Đan phá Yên thả trâu lửa
Chương 96: Lạn Tương Như hai lần khuất vua Tần – Mã Phục Quân một mình giải vây Triệu
Chương 97: Phạm Chuy giả chết trốn sang Tần – Tu Giả thoát tội bỏ về Nguỵ
Chương 98: Vua Tần đòi thủ cấp Nguỵ Tề – Bạch Khởi chôn mấy vạn quân triệu
Chương 99: Võ An Quân có công bị chết oan – Lã Bất Vi lập kế buôn ngôi báu
Chương 100: Lỗ Trọng Liên quyết không chịu tôn Tần – Tín Lăng Quân trộm binh phù cứu Triệu
Chương 101: Tần Vương diệt Chu dời chín đỉnh – Liêm Pha chém tướng bại quân Yên
Chương 102: Đạo Hoa âm, Mông Ngao Bị Thua Sông Hồ Lư, Kịch Tân Tự Tử
Chương 103: Lý Quốc cữu tranh quyền giết Hoàng Yết – Phàn Ô Kỳ truyền lệnh đánh vua Tần
Chương 104: Cam La còn bé làm quan lớn – Lao Ái gian dâm loạn cung tần
Chương 105: Mao Tiên cởi áo can vua Tần – Lý Mục dùng kế lui Hoàn Xỉ
Chương 106: Vương Ngao phản gián giết Lý Mục – Điền Quang đâm cổ tiến Kinh Kha
Chương 107: Dâng địa đồ Kinh Kha náo Tần đình – Bàn binh pháp Vương Tiễn thay Lý Tín
Chương 108: Kiêm sáu nước thống nhất thiên hạ – Lên ngôi báu tự xưng Thủy Hoàng

Hán Sở tranh hùng – Lời nói đầu

Ðạo Trời vô cùng. Lòng người bất trắc. Chỉ có Nhân và Nghĩa là thứ bảo vật bất biến vĩnh hằng. Nhân Nghĩa là bảo vật vì từ nghìn xưa cho tới nghìn sau, luôn luôn được ưa chuộng. Trái lại hung bạo bị căm thù. Ðược ưa thì thắng, bị ghét thì thua, cuộc đấu tranh trường diễn của lịch sử, lời tiên nho nói không sai: “Cương cường tất tử nhân nghĩa vương “.

Truyện Hán Sở tranh hùng là một minh họa có sức thuyết phục cho chân lý ấy. Tần Thủy Hoàng dùng sức mạnh tóm thâu lục quốc. Nhưng vì chỉ biết lấy bạo lực, không biết lấy nhân nghĩa thu phục lòng người mà lòng người rời bõ, rốt cuộc bị Hạng Vũ tiêu diệt. Nhưng thắng Tần rồi Hạng Vũ lại lầm đường đi vào vết xe đổ nên đã bị Lưu bang trừ khử. Lưu Bang tức Hán Cao Tổ đã thấy sức mạnh và độ bền của Nhân, Nghĩa, biết dùng Nhân Nghĩa làm keo sơn gắn bó lòng người nên đã củng cố Hán tộc được khá lâu dài. Ðọc Hán Sở tranh hùng là để soi tấm gương không mòn còn mãi: Tấm Gương Nhân nghĩa.

Tác giả: Chân Vĩ (thời nhà Minh)

Dịch giả: Mộng Bình Sơn

Lời nói đầu của Nhà Xuất Bản Ðại Nam

Mục lục

Hán Sở tranh hùng – Lời nói đầu
Hồi 1 – Thâu sáu nước, Thủy Hoàng dựng nhà Tần
Hồi 2 – Hài Công trọng nghĩa đâm bạo chúa
Hồi 3 – Trãm Bạch Xà, Lưu Quý dấy binh
Hồi 4 – Trừ thần mã, Hạng Vũ lấy vợ.
Hồi 5 – Ðánh Chương Hàm, Võ Tín bại binh
Hồi 6 – Hạng Vũ chín lần thắng Chương Hàm
Hồi 7 – Giận bạo chúa, Chương Hàm đầu Sở
Hồi 8 – Cung Vọng Di, Nhị Thế bị hại
Hồi 9 – Xem thiên văn Phạm Tăng đoán thời
Hồi 10 – Yến Hồng Môn, Phàn Khoái cứu chủ
Hồi 11 – Giận Hoài Vương, Hạng Vũ tự lập
Hồi 12 – Cứu Hán vương, Trần Bình lập kế
Hồi 13 – Vì vua Hán, Trương Lương quyết chí
Hồi 14 – Lập kế, Trương Lương dụ Hàn Tín
Hồi 15 – Tìm chân chúa, anh hùng cất bước
Hồi 16 – Yết Ðằng Công, Hàn Tín tỏ can trường
Hồi 17 – Hàn tướng quân khuất thân làm đô uý
Hồi 18 – Cầu nguyên soái, Hán Vương bái tướng
Hồi 19 – Chém Ân Cái, Hàn Tín giữ phép
Hồi 20 – Bắt Chương Bình, Hàn Tín dấy binh
Hồi 21 – Chém mãnh hổ, Tân Kỳ gặp Hàn Tín
Hồi 22 – Lấy Phế Khâu, Hàn Tín dụng thủy chiến
Hồi 23 – Dụ Ngụy Báo, Trương Lương khéo nói
Hồi 24 – Bắt Thái Công, Phạm Tăng hiến kế
Hồi 25 – Bị bạc đãi, Trần Bình đầu Hán
Hồi 26 – Ðất Bành Thành, Hạng Vương đại thắng
Hồi 27 – Trương Lương dụng kế khích Hàn Tín
Hồi 28 – Hứa Phụ âm mưu phản Hán
Hồi 29 – Thành Ðại Châu, Trương Ðồng chết theo Hạ Duyệt
Hồi 30 – Về Bành Thành, Phạm Tăng lìa Sở Bá
Hồi 31 – Ðánh Huỳnh Dương, quân Sở giết Trung Thu
Hồi 32 – Ðuổi Bành Việt, Hạng vương chiếm Ngoại Hoàng
Hồi 33 – Tề vương nấu dầu luộc Lịch Sinh
Hồi 34 – Lập nghiệp riêng Khoái Kiệt xui Hàn Tín
Hồi 35 – Núi Quảng Võ, Hán Sở tranh chiến
Hồi 36 – Cắt Hồng Câu, Lưu, Hạng giảng hòa
Hồi 37 – Trương Lương cố sức họp chư hầu
Hồi 38 – Nàng Ngu Cơ Viết Thư Khuyên Hạng Vũ
Hồi 39 – Một trận thư hùng, Hạng Vương lầm chước quỉ
Hồi 40 – Ngu Cơ liều thân nơi Cai Hạ
Hồi 41 – Nghi Hàn Tín, Hán Vương cải phong
Hồi 42 – Nghe Lâu Kính, Hán Đế thiên đô
Hồi 43 – Vào Bạch Ðằng trúng kế, Hán Đế Hầu nguy
Hồi 44 – Trần Hy mưu phản Triệu Ðại
Hồi 45 – Cung Vị Ương, Lã Hậu giết Hàn Tín
Hồi 46 – Thành Lạc Dương, Loan Bố khóc Bành Việt
Hồi 47 – Trương Lương bày kế giúp Thái Tử
Hồi 48(hết) – Lã Thái Hậu Mưu Giết Công Thần

Hồi 1 – Thâu sáu nước, Thủy Hoàng dựng nhà Tần

Từ nhà Châu suy yếu, các chư hầu nổi dậy thôn tính lẫn nhau, tạo trong thiên hạ một thời hỗn loạn.

Thời ấy gọi là thời Chiến Quốc kéo dài 873 năm.

Bấy giờ thiên hạ gồm vào bảy nước: Tần, Sở, Triệu, Tề, Hàn, Ngụy, Yên.

Trong bảy nước ấy, nước Tần mạnh nhất. Trong có Thừa tướng Lã Bất Vi chuyên quyền, ngoài có tướng giỏi như Vương Tiễn chinh phạt diệt nhà Châu, kiêm tính sáu nước, đem thiên hạ về một mối.

Tần Thủy Hoàng Vua Tần là Thủy Hoàng con Dị Nhân (Chiêu Tương Dương ) và Dương Hoa Chánh Hậu vốn là kẻ bạo ngược.

Sau khi thống nhất được sơn hà, cho mình là đấng anh hùng cái thế, cổ kim không ai sánh kịp, tự suy tôn hiệu Thủy Hoàng đế, đời thứ hai gọi là nhị thế, đời thứ ba gọi là tam thế, cho đến vạn thế, v.v…

Rồi chia thiên hạ ra làm 36 quận, vẽ một bức địa đồ thống nhất, bắt tất cả những mưu sĩ đem về an trí nơi Hàm Dương (Kinh đô nước Tần) đúc mười hai pho tượng để khoa trương nước nhà giàu mạnh, lập cung A Phòng ở vườn Thượng Lâm, tập họp tất cả những gái đẹp bốn phương về đó ước hơn nghìn người, ngày đêm tửu sắc vô độ.

Lã Bất Vi vì tư thông với Dương Hoa Thái Hậu, nên bị Tần Thủy Hoàng trừ đi lập Lý Tư lên thay thế.

Năm thứ 27, Thủy Hoàng hội quan thần, phán:

– Các vua thời xưa thường tuần du đây đó để quan sát dân tình. Nay trẫm muốn làm cái việc đó, các quan nghĩ sao?

Quần thần đều tâu:

– Nơi cửu trùng thăm thẳm, nếu không ngự giá tuần du làm sao rõ đặng lòng dân. Xưa nay những bậc anh quân đều lấy dân làm gốc, bệ hạ muốn như vậy thực hợp với cổ ý..

Thủy Hoàng hớn hở, truyền lệnh sửa sang xa giá, bắt đầu du hành từ phía Bắc đất Lũng Tây..

Trời không nắng lắm, xa xa cây cỏ một màu xanh, nhấp nhô bên các sườn núi miệt Kê Ðầu, trông khá đẹp mắt. Long xa sau trước, các quan cận thần và quân lính hầu hạ chật ních.

Bỗng trên đỉnh núi Kê Ðầu có một đám mây mờ, hiện ra năm vầng hào quang sáng chói.

Thủy Hoàng lấy làm lạ, đòi cận thần Tống Vô Kỵ đến hỏi.

Vô Kỵ tâu:

– Tâu Bệ hạ, hạ thần đã trông nhiều thứ mây như: tường vân, phù vân, thụy vân, tể vân, khánh vân, nhưng không có thứ mây nào giống thứ ám khí này. Ðây là một điềm ứng phi thường thật khó biết đặng.

Thủy Hoàng ngơ ngác hỏi:

– Thế thì phải làm sao để trừ được điềm lạ ấy?

Vô Kỵ tâu:

– Xin Bệ hạ quay thánh giá sang phía Ðông Nam, lấy bảo vật mà yếm thì mới có thế trừ đặng hung khí.

Thủy Hoàng theo lời, thuyền xa giá đi về hướng Châu Dịch, bày lễ tế phong ở núi Ðông Nhạc và Thái Sơn, rồi lấy thanh bảo kiếm của mình thường đeo, yếm dưới chân núi.

Ðoạn qua sông Giang, sông Hoài, đến Nam quận, hồi giá về Hàm Dương. Quần thần ra khỏi Kinh đô ba mươi dặm đón rước.

Từ đấy lúc nào Thủy Hoàng cũng nghĩ đến vừng vận khí ở phương Ðông Nam lòng không vui.

Một hôm có viên cận thần đến tâu:

– Mấy hôm nay khí trời mát mẻ, nơi ngự lâm viên trăm hoa đua nở, xin Bệ hạ mệnh giá qua chơi để giải trí.

Ðang lúc lòng buồn bực, Thủy Hoàng nhận lời, dẫn một bọn cung phi và mấy viên cận thần đến vườn Ngự lâm ngoạn cảnh.

Tiếng gió rì rào thổi phất phơ những cành hoa vừa hé nhụy, trong quang cảnh tưng bừng của bình minh.

Thủy Hoàng dạo gót khắp nơi. Mãi cho tới lúc ánh nắng bắt đầu gay gắt, Thủy Hoàng thấy mình rồng mỏi mệt, liền lên Hiển Thánh điện để nghỉ.

Giấc điệp mơ màng, Thủy Hoàng chợt nghe bên tai một tiếng nỗ long trời lở đất.

Rồi một vầng thái dương đỏ ửng từ trên trời rơi xuống.

Bỗng thấy một đứa bé áo xanh, mặt đen chạy đến ôm vầng thái dương toan chạy. Liền lúc đó, lại có một đứa bé khác, mặc áo đỏ, đôi mắt sáng quắc từ phương Nam chạy đến hét lớn:

– Tên áo xanh kia! Hãy để vầng thái dương đấy. Ta vâng lệnh Ngọc hoàng đến lấy vàng thái dương đây.

Ðứa bé áo xanh không chịu, cả hai ôm nhau vật lộn. Ðứa bé áo xanh vật ngã đứa bé áo đỏ bảy mươi hai lần. Nhưng bất thình lình đứa bé áo đỏ đá một đá thật mạnh, đứa bé áo xanh ngã lăn xuống đất chết tươi.

Thủy Hoàng thấy vậy kêu lên:

– Hỡi hài đồng kia! Ðừng vội đoạt vầng thái dương, hãy bảo cho ta biết chúng bay là ai?

Ðứa bé đáp:

– Ta là dòng dõi Thuấn Nghiêu, quê ở Phong Bài vì dân dấy nghĩa. Thượng đế đã cho ta hưởng lịch bốn trăm năm.

Nói xong, đứa bé áo đỏ ôm vầng thái dương chạy biến về phương Nam. Thủy Hoàng đưa mắt nhìn theo bóng đứa bé mờ dần rồi khuất sau vầng hào quang giống như vầng vân khí nơi núi Kê Ðầu.

Thủy Hoàng bừng mắt tỉnh dậy, mới biết đó là chiêm bao, lòng bâng khuâng tự nghĩ:

– Giấc mộng này lành ít dữ nhiều. Nhà Tần ta có lẽ vận mạng đã hết, thiên hạ ắt về tay kẻ khác….

Liền truyền xa giá trở về cung. Từ đó lòng buồn bã lo âu, không lúc nào vui.

Một hôm Thủy Hoàng cùng quần thần bàn tính, muốn tìm thuốc trường sanh bất tử để sống làm vua mãi, hưởng cảnh lạc thú hồng trần.

Cận thần Tống Vô Kỵ tâu:

– Ở miền Ðông Hải có ba đỉnh núi thần, phong cảnh tốt tươi, cỏ hoa muôn vẽ, khí hậu ấm áp, hạ thần chắc đó là nơi bồng lai, có thể tìm thuốc trường sinh được.

Thủy Hoàng mừng rỡ, phán:

– Khanh đã bao giờ đến đó chưa?

Vô Kỵ tâu:

– Hạ thần chưa đến, nhưng có một người bạn tên Từ Phúc, lúc trước từng qua chơi nơi Ðông Hải, gặp các tiên cỡi loan hạc, phong độ thoát phàm. Từ Phúc hiện nay còn ghé chơi nơi nhà hạ thần, nếu Bệ hạ tin dùng, hạ thần sẽ đưa vào yết kiến.

Thủy Hoàng liền sai Vô Kỵ cấp tốc đi triệu Từ Phúc.

Từ Phúc theo Vô Ky vào bệ kiến.

Thủy Hoàng phán hỏi cách tìm thuốc trường sinh, Từ Phúc tâu:

– Thuốc trường sinh là một món thuốc quý, từ xưa nay khó có ai tìm được. Nay Bệ hạ muốn có thuốc ấy tất phải chịu tổn phí, đóng thuyền và cấp hành trang cho hạ thần vượt bể thì mới tìm được.

Thủy Hoàng hỏi:

– Nhà ngươi cứ hết lòng giúp trẫm, nếu được, hai ta cùng uống và cùng sống mãi hưởng cảnh vàng son ; Còn gì hạnh phúc bằng. Chẳng hay nhà ngươi muốn đóng bao nhiêu thuyền, và hành trang như thế nào?

Từ Phúc tâu:

– Vượt bể Ðông chẳng phải chuyện dễ. Cần có mười chiếc thuyền lớn, trong thuyền phải đủ hạng thợ, và phải kén lấy năm trăm đồng nam, năm trăm đồng nữ, phòng khi dùng đến.

Thủy Hoàng liền hạ lệnh sắm đủ mọi thứ cho Từ Phúc ra đi.

Tháng ngày trôi qua như ngựa qua cửa sổ, chẳng mấy chốc đã hơn năm tháng trời, Thủy Hoàng ôm lòng chờ đợi mãi mà chẳng thấy Từ Phúc trở về.

Quá nóng lòng, Thủy Hoàng liền sai một người nho sĩ là Lư Sinh đi tìm Từ Phúc.

Ôi! Bốn phương mù mịt, Từ Phúc ra đi như bóng nhạn lưng trời, biết đâu mà tìm. Tuy nhiên, lệnh vua đã phán, ai dám trái lời, Lư Sinh đành vâng chỉ, một mình cất bước ra đi.

Ði mãi, đến bờ bể, vời trông chỉ thấy sóng gào gió thét trong khoảng nước xanh trời thẳm, bát ngát muôn trùng, chẳng biết đâu là bồng lai, đâu là tiên giới.

Lư Sinh ngước mặt lên trời thờ dài, nghĩ thầm:

– Thủy Hoàng là một bạo chúa, tham sống mà coi rẻ mạng người. Nếu ta không tìm được Từ Phúc trở về, tánh mạng ắt chẳng còn. Thôi thì cứ nhắm mắt đưa chân, rủi có chết thì cũng như Từ Phúc, một đi không về thế là xong.

Lư Sinh lần theo hướng Nam, đi vào miền núi Thái Nhạc, rồi đến núi Thái Hoa.

Suốt mấy tháng trường trong gian khổ, bỗng một hôm Lư Sinh gặp một người hình dung cổ quái, đầu bù tóc rối, mắt tròn như lục lạc, đang ngồi tựa một phiến đá, nhìn về hướng trời xa.

Lư Sinh nghĩ thầm:

– Nơi đây sơn lâm cùng cốc, người thường đâu dễ mấy ai mò đến, chắc là một dị nhân.

Liền bước đến vái chào. Dị nhân quay lại thấy Lư Sinh, liền hỏi:

– Người là ai. Có việc gì lại đến đây?

Lư Sinh đáp:

– Thưa tiên sinh, tôi vâng ìệnh Thủy Hoàng đi tìm thuốc trường sinh bất tử.

Dị nhân cười lớn nói:

– Con người sống chết đã do mệnh trời định sẳn, sao lại có ý ngông cuồng như vậy. Làm gì có thuốc trường sinh bất tử.

Lư Sinh nhìn tướng mạo dị nhân một lúc, biết không phải người phàm nên cố năn nỉ:

-Tôi là người phàm mắt thịt, trí não u ám, xin tiên sinh thương tình cứu tôi thoát nạn.

Dị nhân thấy Lư Sinh khẩn khoản ngồi im ra vẽ suy nghĩ. Một lúc dị nhân đứng dậy đưa tay đẩy tấm vách đá, bên trong lộ ra một cửa hang rất lớn.

Lư Sinh thất kinh lòng chưa hết ngạc nhiên thì dị nhân đã bước vào trong, cầm một quyển sách đem ra đưa cho Lư Sinh, và nói:

– Hãy đem sách này về cho vua Tần xem, trong đó có nói rõ về “sinh tử tồn vong”.

Lư Sinh tiếp lấy thấy trên bìa sách có đề bốn chữ “Thiên Lục Bí Quyết” toan hỏi lại nhưng Dị nhân đã bước lên ngồi bên phiến đá mắt nhắm nghiền như ngủ say.

Lư Sinh không dám hỏi nữa, cầm sách trở về dâng cho Thủy Hoàng thuật lại mọi việc.

Thủy Hoàng mở sách ra xem, bên trong chép theo lối cổ tự, chữ ngoằn ngoèo rất khó đọc, liền sai Lý Tư dịch ra.

Lý Tư đọc cho Thủy Hoàng nghe. Ðó là sách nói về việc thuyên chuyển của lịch đại. Lại có câu rằng “Vong Tần giả Hồ”.

Thủy Hoàng thất kinh nói:

– Cứ như trong sách thì rợ Hồ sẽ làm mất nhà Tần.

Liền sai Mông Ðiềm đem tám mươi vạn dân phu ra ngoài biên ải đắp trường thành để phòng rợ Hồ.

Ngoài ra con bắt thêm dân chúng khắp nơi, bất luận già trẻ đều phục dịch cho công tác ấy.

Dân chúng khổ cực trăm bề, quanh năm suốt tháng, áo chỉ còn bâu, người chỉ còn bộ xương, đói khát, con xa mẹ, vợ xa chồng, mồ hôi lộn nước mắt, thây vùi khắp chân trường thành, oán hận ngút trời.

Thủy Hoàng lại sợ đời sau chê cười, và có kẽ rõ được hành động mình nên truyền đốt sách chôn sống học trò ước hơn 460 người.

Lại ra nghiêm lệnh hễ ba người tụ họp nói chuyện xầm xì thì phạm vào tội chết chém.

Một lời phán gớm ghê của bạo chúa làm chấn động cả nhân gian.

Người con trưởng Thủy Hoàng là Phù Tô thấy cha tàn ác quá. vội can:

– Sách vở là văn học của một nước, học trò là tiêu biểu cho thế hệ đời sau. Phụ vương hủy hoại đi e thiên hạ oán vọng, ngôi nhà Tần khó giữ được.

Thủy Hoàng nổi giận, hét:

– Nghịch tử dám dùng lời vô lễ với trẫm sao?

Tức thì ra lệnh đày Phù Tô ra Bắc biên làm chức Giám Quân cùng với Mông Ðiềm coi việc đắp trường thành. Cấm không được về Kinh đô nữa.

Tuy nhiên Thủy Hoàng vẫn còn lo sợ vần vân khí ở miền Ðông Nam, e có kẽ ngầm mưu loạn, nên truyền xa giá tuần du về miền ấy để trấn áp sanh linh.

Thuở đó, nơi phía Nam, cách nước Hàn lối ba mươi dặm, có một quán rượu, thường ngày các bô lão trong vùng đến đó bắt chén giải buồn.

Một hôm có bốn cụ già ngồi khề khà nhìn mây, nhìn nước trao đổi tâm tình.

Trong số bốn cụ già ấy có một người tên Triệu Tam Công, nhân lúc cao hứng, nói:

– Các ngài ơi! Trăm năm về trước, thiên hạ thái bình, con người sống trong cảnh đáng sống, không một chút gì bận tâm nhọc trí cả. Ðời sống như thể chẳng khác gì chốn tiên bồng.

Một cụ già đặt chén xuống bàn, vuốt râu nhìn Triệu Tam Công hỏi:

– Thế thì ngài cho cõi đời này là trần tục sao?

Triệu Tam Công lắc đầu đáp:

– Không phải là trần tục mà chính là địa ngục trần gian.

Ba cụ già già đồng vỗ tay cười lớn. Một cụ hỏi:

– Theo ngài thì những cực hình ghê gớm nhất của chốn địa ngục dương trần này là gì?

Triệu Tam Công lè lưỡi, đáp:

– Chịu thôi. Bây giờ phép nước nghiêm lắm, tôi không dám bàn đến chuyện đó.

Một cụ đưa mắt nhìn xung quanh, rồi nói:

– Nơi đây hẻo lánh, chỉ có ta với ta, hà tất phải ngại!

Bỗng từ bên trong hàng rượu có một thiếu niên bước ra, vừa cười vừa nói:

– Thưa các cụ, nếu có kẻ nào sợ pháp luật không dám nói, tôi xin thay kẻ ấy nói giúp vậy.

Mọi người quay nhìn thiếu niên. Người ấy mặt tròn, mắt sáng, áo vải, giày vai, trông ra vẻ một thiếu niên anh tuấn.

Triệu Tam Công nói:

– Nếu tiểu tử đủ can đảm, xin thay ta, nói cho các vị bô lão này nghe thử.

Thiếu niên ung dung nói:

– Thưa các cụ, các cụ còn lạ gì chính sách của bạo chúa Tần Thủy Hoàng! Con trai không được yên phận cày cấy, con gái không được yên phận canh cửi, cha xa con, vợ lìa chồng, gia đình tan tác. Nào đắp trường thành, nào dựng A Phòng, đốt sách vở, chôn sống học trò, nghe lời đứa dua nịnh lập ra phép dữ, oán khí ngất trời. Nghĩ làm thân trong chế độ này chẳng khác nào một tội nhân sống trong hỏa ngục! Nhục nhã thay!

Người thiếu niên còn muốn nói nữa, nhưng Triệu Tam Công đã bỏ đứng dậy toan chạy.

Ba vị bô lão nói:

– Nơi đây xa cách kinh kỳ, việc gì ngài lại sợ hãi đến thế?

Triệu Tam Công thở dài, nói:

– Dầu trong hang cùng ngõ hẻm cũng có mặt kẻ do thám của triều đình. Tai vách mạch rừng, các ngài chớ khinh khi mà rơi đầu vô ích.

Người thiếu niên thấy vậy, than thầm:

– Ôi! Nhân tâm như thế thì nỗi niềm riêng của ta biết tỏ cùng ai!

Hồi 2 – Hài Công trọng nghĩa đâm bạo chúa

Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng.

Tổ tiên Trương Lương năm đời làm danh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vong quốc quyết chí báo thù bỏ ra nghìn nén vàng, đi khắp thiên hạ, liên kết với các dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa.

Trong lúc Trương lương đang ngẩn người, buồn thế sự thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến chào Trương Lương, và nói:

– Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngài muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.

Trương Lương thấy người ấy mình cao một trượng, tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói:

– Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.

Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà.

Trà nước xong, Trương Lương hỏi:

– Xin tráng sĩ cho biết quý danh?

Tráng sĩ đáp:

– Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái đem lòng mến, chẳng hay quý hiệu là chi? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng?

Trương Lương nói:

– Tôi người nước Hàn, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi.

Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.

Hải Công hớn hở xua tay nói:

– Tôi nguyện tuân theo lời ngài.

Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi thám thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.

Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi một gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.

Tiếng trống rập rềnh từ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng.

Hải Công tay cầm chặt thanh chùy đứng chờ.

Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao.

Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.

Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết!

Vì Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn một chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đi trước.

Thế là Trương Lương đã thất bại!

Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.

Thủy Hoàng nghiến răng hét:

– Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó?

Thượng Hải Công trừng mắt đáp:

– Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều oán hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại, sao mày hỏi ngu thế?

Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn, quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.

Hải Công cười lớn, rồi đập đầu xuống đá tự vận.

Trương Lương lòng đau như cắt, dậm đất, kêu trời than:

– Trời ơi! Cái thù của nước Hàn ta biết bao giờ mới trả được. Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chúa để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao?

Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ Bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá.

Hạng Bá là cháu Hạng Yên, trước kia từng làm tướng nước Sở, với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà không để lộ tông tích.

Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngoài dạo cảnh.

Một hôm, bóng chiều vừa xế, khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối, lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rơi chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói:

– Này tiểu tử, hăy lại đây lượm chiếc giày cho ta.

Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đạo cốt, biết không phải người thường liền bước đến, cúi lượm chiếc giày trao cho ông lão rất kính cẩn.

Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rơi xuống nước. Trương Lương nhặt, cứ thế đến ba lần.

Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn.

Ông lão mỉm cười nhìn Trương Lương nói:

– Thằng bé này có thể dạy được đây!

Liền chỉ vào gốc cổ thụ gần đó nói:

– Năm ngày nữa, ngươi đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý! Chớ sai hẹn!

Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.

Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chổ gốc cây thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.

Ông già nhìn Trương Lương mắng:

– Ðã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm đó phải đến cho sớm.

Năm hôm sau, đầu trống canh năm, Trương Lương thức dậy ra gốc cây, dè đâu ông lão lại cũng đã ngồi ở đó rồi.

Ông lão mắng:

– Sao ngươi biếng nhác như thế. Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.

Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ra gốc cây ngồi chờ.

Trống canh năm vừa điểm, ông lão lểnh mểnh đến.

Trương Lương sụp lạy, nói:

– Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo.

Ông lão nói:

– Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tâp, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho ngươi ba quyển bí thư, trong có đủ kỳ mưu, thần toán. Dù Tôn, Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp. Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hàn báo thù, sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem lại thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ.

Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi:

– Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.

Ông lão nói:

– Ba năm nữa, nơi phía Ðông thành Ðại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng hoàng thạch tức là ta đó.

Trương Lương nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.

Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ “Thái Công binh pháp” ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ.

Giữa lúc đó, Thủy Hoàng đi Ðông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường.

Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông.

Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Ðông Nam, đi về huyện Bái.

Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.

Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói:

– Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.

Lý Tư tâu:

– Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hạ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng?

Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thám bắt bớ nữa.

Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.

Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ đến đâm Thủy Hoàng.

Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ:

– Không nên! Ðại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường!

Chàng trai cho là phải, không hành động nữa.

Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.

Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không lành.

Người chú là Hạng Lương thường mắng:

– Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đồ dốt nát.

Hạng Vũ nói:

– Thưa chú học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ địch nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.

Hạng Lương giận hỏi:

– Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi?

Hạng Vũ thưa:

– Cháu muốn học nghề gì mà nhất địch vạn nhân, như thế ngày sau mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiên hạ được.

Hạng Lương thấy cháu có ý lạ liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn này Hạng Vũ thích học, song cũng chỉ học những cái đại cương mà thôi.

Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thủy Hoàng tuần du đến.

Hạng Vũ vốn ghét Thủy Hoàng dâm bạo muốn giết đi, nhưng Hạng Lương kịp cản lại.

Từ đấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.

Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành, dân chúng khiếp sợ lẩn tránh liền tâu:

– Bệ ha. Bệ hạ tuần du đã lâu, trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ. Xin Bệ hạ khá hồi loan sửa sang chính trị, giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc.

Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan.

Ði đến địa phận Duyện Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ càng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến, Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu, nhắm sức không cự nổi, bỏ chạy.

Chạy đến một bờ biển. Nước xanh cuồn cuộn, sóng gió hãi hùng. Ðang cơn nguy cấp bỗng có một con Xích long từ trên trời sa xuống, há mồm ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi. Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào, tay chân rũ rượi.

Biết điềm mộng chẳng lành Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh.

Ði đến đất Sa Khâu, bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói:

– Trẫm biết không còn sống để thụ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất Trẫm có băng hà, khanh nên đến Thượng Quận đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiên hạ mới mong lạc nghiệp được.

Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư.

Lý Tư sụp lạy nhận mệnh. Thủy Hoàng nói:

– Ngươi phò Trẫm đã lâu, các việc lớn nhỏ Trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì nước chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái có thể dùng đức cải oán thiên hạ được. Ta tiếc rằng đời ta đã dùng bạo lực, phương thức không hay đối với chánh sách trị nước.

Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.

Lý Tư liền tẩm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.

Triệu Cao cản lại nói:

– Không nên! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu Thừa Tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.

Lý Tư nói:

– Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.

Triệu Cao cười nhạt, nói:

– Ðành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy, thà phụ lời di chúc mà giữ được địa vị còn hơn. Thừa Tướng đối với Thái tử đâu bằng Mông Ðiềm.

Lý Tư thở dài hỏi:

– Theo ý ngài nên làm thế nào?

Triệu Cao nói:

– Hãy đổi tờ di chúc, lập Công tử Hồ Hợi lên nối ngôi.

Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẩng nhìn Triệu Cao nói:

– Vâng, tôi xin theo lời ngài.

Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công tử Hồ Hợi nói:

– Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử, Thừa Tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô, chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.

Hồ Hợi cau mày nói:

– Ôi chao! Sao các ngài có ý nghĩ như thế? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, con không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được!

Triệu Cao nói:

– Ðấng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì.

Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai, gật đầu đáp:

– Ừ! thế thì các ngài hành động cách nào tùy ý.

Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quận, bắt Phù Tô phải tự tử. Ðoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.

Diêm Nhạc đến Thượng Quận truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu.

Phù Tô vội vàng ra sụp lạy.

Diêm Nhạc mở chiếu đọc rằng:

Nhà Ðại Tần ngày… tháng… năm thứ 37.

Thủy Hoàng đế hạ chiếu:

Ðời Tam Ðại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không dáng làm chủ thiên hạ.

Nay trưởng tử Phù Tô cải mệnh cha, không trọn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được, song theo phép tổ tiên không thể khoản miễn.

Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái Tử, truất Phù Tô xuống thứ dân, trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự xử lấy thân.

Còn như tướng Mông Ðiềm cầm quân cõi ngoại, không ích lợi gì cho nước, chỉ làm hao tốn muôn dân, lẽ ra phải theo pháp gia hình, nhưng vì trường thành chưa xong, tạm để cho Mông Ðiềm ở đó đôn đốc công việc.

Chiếu chỉ đến nơi, phải lập tức tuân theo. Khâm Thử.”

Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói:

– Ôi! Vua bảo chết. Tôi không thể không tuân, cha bảo chết con không thể cải mệnh. Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu.

Mông Ðiềm cản lại nói:

– Xin Ðiện hạ xét lại đã. Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi vạn quân đóng nơi biên cương, lại sai Ðiện hạ đến làm Giám Ðốc. Ðã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Ðiên hạ về triều thĩnh tội để rõ ngay gian.

Phù Tô lắc đầu, nói:

– Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi, nay bắt chết là do thánh ý, tôi không muốn cải lời.

Nói xong, sai quân đem thuốc độc đến, uống một hơi cạn chén.

Phù Tô chết, Mông Ðiềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.

Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi.

Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế hoàng đế.

Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.

Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trấn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.

Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước.

Vua Nhị Thế thấy Mông Ðiềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.

Quan Ðại thần Tử Anh can:

– Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.

Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Ðiềm giết hết.

Mông Ðiềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than:

– Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Ta cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.

Ðêm ấy, Mông Ðiềm uống thuốc độc tự vận.

Vua Nhị Thế nghe tin Mông Ðiềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Ðiềm đày qua Thục quận.

Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Ðiềm, nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nễ ai nữa.

Hồi 3 – Trảm Bạch Xà, Lưu Quý dấy binh

Triệu Cao và Lý Tư từ khi lập vua Nhị Thế lên ngôi, ra sức vơ vét của cải dân chúng, xui vua Nhị Thế hành phạt sinh linh, tất cả những nguy cơ trong nước đều dấu nhẹm không cho vua Nhị Thế biết.

Trộm cướp nổi dậy khắp nơi, các tay anh hùng hào kiệt đua nhau chiêu tập binh mã để mưu đồ quốc sự.

Khắp các miệt Sơn Ðông, Sơn Tây, Hồ Nam, Hồ Bắc và quanh vùng Ngô, Sở không chỗ nào không có giặc giã.

Trần Thắng khởi binh ở đất Tần, Vũ Thần khởi binh ở đất Triệu, Lưu Bang khởi binh ở đất Bái, Hạng Lương khởi binh nơi đất Ngô, bốn biển tung hoành, rộn ràng gươm giáo. Cái họa vong quốc đã đến nơi, thế mà vua Nhị Thế không hay biết gì cả, ngày đêm mải mê tửu sắc nơi cung A Phòng.

Trong số hào kiệt, Lưu Bang được nhiều người nói đến.

Lưu Bang quê ở đất Bái tên chữ là chữ Quý. Khi xưa bà mẹ Lưu Bang thường nằm trên một bờ bưng lớn nghĩ ngơi… Bỗng một hôm, thấy thần nhân đến cùng với mình giao cấu.

Lúc tỉnh dậy, trong mình rã rượi, rồi thụ thai. sinh ra Lưu Bang. Lưu Bang mũi cao, miệng rộng, trán cao, mặt rồng, dưới vế bên tả có bảy mươi hai nốt ruồi, tính tình rộng rãi, trọng nghĩa, yêu người, khi lớn lên được làm chức Ðình Trưởng ở Tứ Thượng. Tuy nhiên, phải cái bệnh ham mê tửu sắc, nên ai cũng chê.

Bấy giờ có ông Lã Văn người Ðan Phủ, ngắm tướng mạo Lưu Bang rồi nói với mọi người:

– Bang tuy là kẻ ham mê tửu sắc, song lúc gặp thời phú quý sẽ về tay. Với đức tánh hiền lương ấy, tôi tưởng gầy nên nghiệp cả không khó.

Một hôm, Lã Văn về bàn với vợ, muốn đem con gái mình là Lã Nha gả cho Lưu Bang.

Bà vợ cau mày nói:

– Sao ông lẩn thẩn thể? Trước kia quan huyện Bái đến cầu hôn, ông không chịu gả, bây giờ lại đem gả cho tên du đãng sao?

Lã Văn cười lớn, nói:

– Ai bảo bà Lưu Bang là kẻ du đãng? Bà có biết đâu người ấy là bậc anh hùng trong thiên hạ!

Hôm sau, Lã Văn mời Lưu Bang đến nhà, đặt tiệc khoản đãi.

Lúc đang ăn uống, Lã Văn nâng chén, nói với Lưu Bang:

– Tôi xem tướng ngài không phải là bậc phàm nhân, xin ngài phải tự trọng mới được. Nhà tôi có một gái, tuổi vừa cặp kê, tôi muốn cho theo hầu ngài để sửa tráp nâng khăn.

Lưu Bang khúm núm thưa:

– Tôi có ba việc chưa làm xong dám đâu nghĩ đến chuyện vợ con!

Lã Công nói:

– Ý tôi đã quyết, ngài chớ phụ lời. Vả lại kẻ trượng phu trên đời phải làm đến trăm nghìn việc, chớ cứ gì ba việc. Tôi chưa thấy ai vì bận việc mà từ chối không lấy vợ bao giờ.

Lưu Bang thấy Lã Công đem lòng quyến luyến không nỡ chối từ. Hai người bắt chén tương tri, rồi giã biệt.

Lã Công đưa tiễn Lưu Bang ra khỏi ngõ, bỗng có một chàng trai vồn vã chạy đến, nói với Lưu Bang:

– Ôi chao! Ngài đi đâu mà đã ba hôm tôi tìm không gặp.

Lã Công thấy chàng trai ấy hình vóc cao lớn, tiếng nói vang như sấm, khí phách đường đường, nghĩ thầm:

– Hẳn là một tay hảo hớn, gặp thời có thể vá trời lấp biển được!

Liền mời cả hai vào hàng rượu gần đó đánh chén.

Lã Công lựa lời hỏi thăm tên họ khách.

Khách đáp:

– Phàn tên Khoái, người huyện Bái, làm nghề bán thịt chó.

Nhân đi tìm Lưu Bang lại gặp ngài đây, thật vạn hạnh.

Lã Công nói:

– Tôi từng nghe danh tráng sĩ đã lâu, hôm nay mới gặp màt, muốn tỏ một lời, song còn e ngại.

Phàn Khoái kính cẩn hỏi:

– Việc gì xin ngài cứ thật tình dạy bảo.

Lã Công mỉm cười, nhìn Phàn Khoái hỏi:

– Tôi hỏi thế này tưởng cũng quá đường đột, nhưng xin tráng sĩ hỉ xả cho. Chẳng hay tráng sĩ đã có người nội trợ chưa?

Phàn Khoái đáp:

– Thưa ngài, tôi nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, việc ấy chưa thể nghĩ đến.

Lã Công nói:

– Tôi có hai gái, đứa lớn gả cho Lưu Bang rồi, còn đứa nhỏ là Tu, nếu tráng sĩ có lòng thương, tôi xin dâng nốt.

Phàn Khoái ngập ngừng chưa dám nhận, Lưu Bang mỉm cười bảo Phàn Khoái:

– Hôm nay là ngày kỳ ngộ, chỉ một bữa mà Lã đại nhân đem hai tiểu thư gả cho hai ta. Lã đại nhân đã có lòng thương, hiền đệ chớ nên từ chối.

Phàn Khoái vội vã đứng dậy tạ ơn Lã Công.

Rượu tan, ánh nắng chiều cùng bắt đầu nhạt dần, hai người bái biệt ra về.

Ngày hôm sau, quan huyện Bái sai Lưu Bang đưa phu đến núi Ly Sơn để phục vụ công tác xây thành.

Khi đi đường, bọn dân phu trốn thoát quá nửa. Tối hôm ấy nghỉ lại nơi trạm Chăm Phong Tây, Lưu Bang nói với mọi người:

– Các anh ra đi không biết ngày về, vợ đói con rét, người nào trốn được thì trốn, tội gì đem thân hy sinh cho công việc không đem lại lợi ích cho quốc gia.

Bọn dân phu nói:

– Cám ơn ngài có lòng thương chúng tôi, song chúng tôi nỡ nào trốn thoát để ngài mang tội sao đành!

Không, các anh cứ đi! Tôi đây cũng phải tìm đường lánh nạn, chứ dại gì chịu chết!

Trong bọn dân phu có hơn mười người tráng sĩ, thấy Lưu Bang đầy lòng nhân đạo, đồng nói:

– Chúng tôi xin tình nguyện theo ngài!

Lưu Bang thuận tình. Ðêm ấy mọi người cùng Lưu Bang đánh chén thực say rồi theo lối tắt tìm đường đi trốn.

Ði được một quãng, bỗng thấy người dẫn lối quay trở lại nói:

– Ðàng trước có một con rắn dài ước mười trượng, nằm ngang giữa đường, không sao đi được. Phải tìm lối khác thoát thân.

Cả đoàn đều nhốn nháo. Riêng Lưu Bang vẫn điềm nhiên nói:

– Ðấng trượng phu không vì trở ngại mà lùi bước.Nói xong, cầm kiếm bước đến chém con rắn đứt làm hai đoạn, rồi vẫy tay nói với mọi người:

– Rắn đã chết, chúng ta tiến bước!

Mọi người le lưỡi, lắc đầu, bảo nhau:

– Bình nhật, Lưu Bang là kẻ nhút nhát, cớ sao hôm nay lại bạo dạn đến thế.

Cả đoàn kéo nhau vào ẩn nơi núi Mang Ðãng. Dân chúng trong vùng hay tin theo đến rất đông..

Cách mấy hôm, có người đến chỗ Lưu Bang chém con Bạch xà hôm trước, thấy có một bà già đang ôm xác con rắn khóc sướt mướt.

Người ấy lấy làm lạ, hỏi:

– Rắn chết thì trừ hại cho dân làng, cớ sao bà lại thương tiếc?

Bà già nói:

– Con tôi là con Bạch Ðế, hóa ra rắn nằm dọc đường, rủi bị ông Xích Ðế chém chết, vì vậy mà tôi thương khóc.

Bà già nói dứt lời biến mất. Dân trong vùng hay chuyên lạ bảo nhau:

– Ðó là một quái tượng!

Ðất Bái xung thiên khí đế vương

Trảm xà khởi nghĩa cứu tai ương.

Mở dầu sự nghiệp gây nhà Hán

Công đức Lưu Bang thật khó lường.

Từ khi Lưu Bang trảm xà, mưu việc lớn, bốn phương thiên hạ tình nguyện theo phò ước hơn hai trăm người.

Bấy giờ hai người Lại Mục huyện Bái là Tiêu Hà và Tào Tham thấy chính sách nhà Tần tàn bạo, thuế má nặng nề, bàn nhau tôn quan huyện Bái lên làm minh chủ, mộ quân chống lại nhà Tần.

Lưu Bang hay tin ấy, kéo đoàn nghĩa dũng của quân mình đến xin gia nhập.

Quan huyện thấy thanh thế của Lưu Bang thì sợ hãi, gọi Tiêu Hà và Tào Tham đến trách.

– Các ngươi mượn tiến cử ta làm minh chủ, nay lại viện quân ngoài đến, có khác gì thêm cánh cho hùm, sau này không tránh khỏi nội biến.

Tiêu Hà và Tào Tham nhìn nhau mỉm cười.

Ðêm ấy, hai người lén ra ngoài thành, tìm đến nói với Lưu Bang:

– Quan huyện Bái là kẻ tầm thường không mưu nổi việc lớn. Ngài nay thanh thế đã khá, nên thừa cơ hội này chiếm lấy thành trì huyện Bái, làm chỗ đồn trú quân mã, chiêu dụ hiền tài, khởi xướng việc nghĩa, mưu trừ kẻ tàn bạo, thì thiên hạ bốn phương mới có chỗ tôn phò.

Lưu Bang nói:

– Nếu hai ông sẵn sàng giúp tôi làm việc nghĩa, tôi đâu dám cãi lời. Song điều cần yếu hai ông phải giúp tôi làm nội ứng thì mới nên việc được.

Tiêu Hà và Tào Tham đồng đáp:

– Các bậc bô lão trong thành hiện nay đều mong mỏi có người tài cầm đầu khởi nghĩa, nếu ngài viết một bức thư vạch rõ lợi hại hiểu dụ, ắt trăm dân một lòng nghe theo, thành huyện Bái chiếm đoạt không khó gì.

Lưu Bang theo lời, viết một bức thư bắn vào thành, trong thư đại ý nói:

” Lâu nay thiên hạ khổ sở vì chính sách tàn bạo nhà Tần, vì vậy, hào kiệt bốn phương đua nhau dấy nghĩa, chọn người tài làm minh chủ liên kết chư hầu để đánh đổ bạo chúa, đem an cư, lạc nghiệp lại cho muôn dân là người trọng nghĩa vì dân nên cùng tôi ứng theo nghĩa cả “.

Các bô lão trong thành được thư, bàn nhau:

– Hiện nay Lưu Bang chiêu tập binh mã vì dân khởi nghĩa, chúng ta là những kẻ sống ngất ngưởng trong chế độ mục nát bạo tàn, lẽ nào lại không hưởng ứng.

Liền rủ nhau vào giết quan huyện Bái rồi mở cửa thành cho nghĩa binh Lưu Bang kéo vào.

Tiêu Hà, Tào Tham bàn với dân chúng lập Lưu Bang lên làm quan huyện Bái.

Lưu Bang từ chối, nói:

– Không thế được. Nay thiên hạ loạn lạc, các chư hầu đua tranh, cần phải tìm người tài tôn lên. Tôi đức bạc, tài hèn không đủ tín nhiệm làm chủ huyện Bái, xin các ông chọn người khác.

Mọi người đồng thanh nói:

– Lâu nay nghe tiếng ngài là bậc kỳ tài, đáng cho chúng tôi tôn làm minh chủ. Nếu ngài từ chối lòng dân ắt ly tán.

Lưu Bang thấy không thể từ chối được, phải nhận chức, tự xưng là Bái Công, dùng cờ đỏ làm “nghĩa kỳ”. Dân chúng đất Bái theo đến hơn ba ngàn người.

Cùng trong thời gian ấy, Hạng Lương và Hạng Vũ sang đất Cối Kê.

Quan Thái Thú Cối Kê là Ân Thông biết Hạng Lương là người mưu trí, liền mời đến bàn chuyện.

Ân Thông nói:

– Nay vua Nhị Thế vô đạo, Trần Thiệp khởi binh thiên hạ nhao nhao hưởng ứng. Tôi cũng muốn thừa cơ khởi nghĩa nên mời ngài đến cùng tôi hợp tác, ý ngài nghĩ sao?

Hạng Lương giả cách vâng lời, rồi trở về bàn với Hạng Vũ:

– Kẽ trượng phu cần tự lập, lẽ nào đem thân xu phụ người khác! Vả lại Ân Thông không phải là người đủ tài đức đứng ra gánh lấy việc đại nghĩa. Tuy nhiên, nếu ta không cướp lấy cơ hội thì làm sao có chỗ dung thân để mưu việc lớn.

Hạng Vũ nói:

– Việc ấy chẳng khó gì! Ngày mai chú vào giả cách đàm đạo với Ân Thông, cháu giắt kiếm vào lưng, theo chú đến đó, thừa cơ giết hắn đi chiếm lấy quận ấy để làm nơi nương tựa, chiêu tập binh mã, tích thảo dồn lương.

Hạng Lương nói:

– Nếu cháu làm được việc ấy thì hay lắm.

Sáng hôm sau Hạng Lương và Hạng Vũ cùng vào nha môn. Ân Thông đem việc phản Tần bàn với Hạng Lương.

Hạng Vũ đứng một bên, hét lớn:

– Ngươi với ta hai lãnh vực khác nhau. Ta là dòng dõi khanh tướng nước Sở. Nước Tần diệt nước Sở nên ta đối với Tần có cái thù bất cộng đái thiên. Còn ngươi là một quan thái thú, ăn lộc vua lại âm mưu phản quốc, rõ là kẻ bất trung, không giết còn để làm gì.

Dứt lời vung kiếm chém Ân Thông rơi đầu.

Nha môn im lặng như tờ không ai dám hé môi.

Hạng Vũ cầm đầu Ân Thông giơ cao, nói:

– Hạng Công là người tài trí, đáng lãnh đạo dân chúng trong quận. Người nào không thuận hãy xem tấm gương này.

Hai viên môn lại là Quý Bá và Chung Ly Muội bước lên công đường nói lớn:

– Ðến đất người, giết chủ người, sao gọi là làm việc nghĩa?

Hạng Vũ đáp:

– Hạng Công vì nước Sở trả thù Tần, vì thiên hạ cứu lầm than đó là chí lớn, nếu hai người bằng lòng qui thuận, nêu cờ khởi nghĩa chẳng phải là hành động đại nghĩa sao!

Hai người nghe nói đều phục xuống thềm, thưa:

– Chúng tôi xin nghe theo lời tướng quân.

Hạng Lương phong cho Quý Bá và Chung Ly Muội làm chức Ðô Úy.

Chẳng bao lâu, các nơi nghe tiếng kéo nhau đến theo hơn vạn người.

Hạng Lương sắp thành đội ngũ, thưởng phạt nghiêm minh ai cũng nức lòng phò tá.

Quý Bá và Chung Ly Muội bàn với Hạng Lương:

– Quân mạnh phải có tướng hùng mới nên việc. Nay thế quân của ta đã đông, nhưng tướng chưa đủ. Trong quận Cối Kê nơi Ðồ Sơn có hai viên tướng là Hoàn Sở và Vũ Anh, sức mạnh địch muôn người, đang chiêu mộ tinh binh ước hơn tám ngàn. Nếu dụ được hai tướng ấy thì hay lắm.

Hạng Lương nghe nói, lập tức sai Hạng Vũ và Quý Bá đến Ðồ Sơn chiêu dụ.

Hạng Vũ đến nơi, sai một tên tùy tùng vào nói.:

– Quan Ðại tướng nước Sở tôi là Hạng Vũ, tùy hành chỉ có vài người, mình không mặc giáp, tay không binh khí đến đây cốt để bàn với nhị vị việc Vương, Bá mà thôi.

Hoàn Sở và Vũ Anh nghe nói, cho mời Hạng Vũ vào.

Hạng Vũ nói:

– Nay vua Nhị Thế vô đạo, dân chúng lầm than, các anh hùng hào kiệt đều nổi lên dấy nghĩa, mong cứu dân khỏi vòng tai biến. Nhị vị tướng quân sẵn tài vũ dũng, có thể giúp ích cho đời, nếu cứ ẩn mãi trong chốn sơn lâm phỏng có ích gì. Hạng Công tích thảo dồn lương nơi quận Cối Kê, quyết lòng rửa hờn cho sáu nước, nếu hai vị tướng quân bằng lòng hợp tác sau này thành công phú quý cùng hưởng.

Hoàn Sở nói:

– Tần tuy vô đạo, song binh lực còn mạnh, nếu không có tài cái thế khó nổi thành công. Chúng tôi nhắm sức mình chưa đủ, không dám mưu việc lớn. Ngài đã dám đứng ra tính việc đại nghĩa, hẳn tài cán siêu quần. Bao giờ chúng tôi thấy được tài năng của ngài thì mới quy thuận, bằng không chỉ vẽ hổ không thành, mang tiếng với đời mà thôi.

Hạng Vũ nói:

– Nhị vị tướng quân muốn thử tài tôi bằng cách nào?

Hoàn Sở nói:

– Ở dưới sườn núi có miếu Vũ Vương. Trước miếu có cái đỉnh nặng mấy nghìn cân. Nếu ngài lay nổi ba lượt, thì quả là người có sức mạnh vô địch.

Hạng Vũ nói:

– Thế thì đưa tôi đến đó xem thử.

Hai tướng dẫn Hạng Vũ, Quý Bá và bọn tùy tướng xuống sườn núi, vào miếu Vũ Vương. Giữa sân có một cái đỉnh đồng cao bảy thước, chu vi năm thước, nặng ước năm ngàn cân. Hạng Vũ xem qua rồi bảo viên tiểu tướng đẩy thử xem. Viên tiểu tướng cố sức đẩy mạnh, mặt đỏ bừng, nhưng đỉnh đồng không hề lay chuyển.

Hạng Vũ, xăn tay áo, đẩy mạnh một cái, đỉnh đồng ngã xuống rồi lại đỡ lên như cũ. Ba lần như vậy, vẫn không lấy gì làm nặng nhọc.

Hai tướng vỗ tay reo lớn:

– Ôi chao! Quả là tay hảo hớn!

Hạng Vũ vừa cười vừa nói:

– Thế đã lấy gì làm lạ.

Dứt lời, cầm lấy chân đỉnh đưa cao lên trời, đi quanh miếu ba vòng, mà sắc mặt vẫn không thay đổi.

Hai tướng la lớn:

– Thật là bậc thiên thần, dẫu Mạnh Bôn tái sinh cũng chưa chắc đã địch nổi. Chúng tôi xin tùng phục ngài.

Hạng Vũ đem đỉnh đồng để xuống chỗ cũ, rồi theo hai tướng trở về trại.

Hai tướng đặt tiệc khoản đãi.

Ngày hôm sau thu xếp hành trang, thống suất binh mã, cùng theo Hạng Vũ hạ san.

Vừa đi khỏi Ðồ Sơn vài dặm, bỗng thấy một toán dân chúng hơ hải chạy đến.

Hạng Vũ ngạc nhiên, gò ngựa, hỏi:

– Các ngươi có việc chi sợ hãi thế?.

Vài người dân binh đến đầu ngựa cúi chào Hạng Vũ và nói:

– Trong vực lớn cạnh núi Ðồ Sơn có con rồng đen, hóa thành ngựa, ngày nào cũng đến thôn Nam Phụ gầm, thét, cắn, đá, phá hoại mùa màng, chúng tôi không làm cách nào đuổi đi được. Ai đến gần đều bị ngựa đá chết. Chúng tôi thấy đại binh qua đây, đến nhờ tướng quân vì dân trừ hại. Ðược vậy dân vùng này mang ơn tướng quân không ít.

Hồi 4 – Trừ thần mã, Hạng Vũ lấy vợ.

Hạng Vũ nghe nói lập tức dẫn Hoàn Sở cùng bọn tùy tướng đến bên vực.

Thần mã thấy có người đến, nhảy xổ tới, cắn đá rất hăng. Hạng Vũ xăn áo, túm lấy bờm ngựa ghì xuống, con ngựa không cử động nổi. Hạng Vũ lấy dây cương tròng vào, rồi cưỡi mươi vòng quanh bờ vực, thần mã toát mồ hôi, đứng rũ chân không còn dám hung hăng như trước.

Dân chúng thấy vậy đều sụp lạy, hoan hô, và xin cho biết danh tính.

Hạng Vũ nói:

– Tôi là Hạng Vũ, cháu Hạng Yên, quan Ðại tướng nước Sở thời xưa, nhân đi mộ quân đánh Tần mới qua đây.

Trong đám dân chúng có một ông lão đến gần nói:

– Tôi nghe danh tướng quân đã lâu nay mới gặp mặt, xin mời tướng quân quá bộ đến thảo trang, cùng xơi với lão một chén trà.

Hạng Vũ nhận lời, kéo cả đoàn quân đến nơi.

Ông lão đặt tiệc thiết đãi rất ân cần.

Hạng Vũ hỏi:

– Thưa lão trượng, chẳng hay lão trượng phương danh là chi, cớ sao có thịnh tình này?

Ông lão đáp.

– Tôi họ Ngu, người ta thường gọi tôi là Ngu Công, vì trọng tài tướng quân nên đem lòng quyến luyến. Chẳng hay tướng quân niên kỷ được bao nhiêu?

Hạng Vũ thưa:

– Tôi năm nay 24 tuổi.

Ngu Công hỏi:

– Và, đã có người nội trợ để nâng khăn sửa túi chưa?

Hạng Vũ đáp:

– Chí cả chưa thành, tôi chưa nghĩ đến chuyện đó.

Ngu Công ngập ngừng đáp:

– Lão hiếm hoi, chỉ có một gái tên Ngu Cơ, tư chất thông minh, tánh tình trang nhã. Khi tiện thê gần sinh cháu, mơ thấy năm con phượng đến múa trước nhà, lão chắc con gái lão sau này có số giàu sang, vì vậy lâu nay có ý chọn mặt gởi vàng. Nếu tướng quân không câu nệ nghèo hèn, lão xin đem tiện nữ dâng hầu tướng quân làm bầu bạn.

Hạng Vũ thấy lòng quyến luyến của Ngu Công, rất hân hoan, đứng dậy xin cảm ơn.

Ngu Công gọi Ngu Cơ ra chào. Thực là một đóa hoa tuyệt mỹ, giá đáng nghìn vàng.

Hạng Vũ cởi thanh kiếm đeo bên mình dâng cho Ngu Công làm lễ hứa hôn, rồi bái từ trở về Cối Kê, dẫn Hoàn Sở và Vũ Anh vào yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương thấy hai tướng hình dung vạm vỡ, khí phách kiêu hùng, lại dẫn theo hơn tám ngàn tinh binh đến đầu phục, lòng mừng rỡ vô cùng.

Hạng Vũ dắt con thần mã đến trình Hạng Lương.

Hạng Lương trông thấy con ngựa mình cao bảy thước, dài hơn một trượng, liền đặt tên là Ô Truy, và nói:

– Từ ta khởi binh đến nay gặp nhiều may mắn, có lẽ trời khiến nhà Tần phải diệt vong.

Cách mấy hôm, Hạng Lương cho đón Ngu Cơ về Cối Kê kết hôn với Hạng Vũ.

Ngu Cơ lại đem theo một người em họ là Ngu Tử Kỳ để dùng.

Từ đó, thanh thế Hạng Lương mỗi ngày một mạnh, các binh sĩ đào vong bốn phương nghe tiếng tìm đến hơn mười vạn.

Hạng Lương thấy binh hùng, tướng mạnh, lương thực đầy đủ, liền định ngày xuất quân đánh Tần.

Ngày khởi binh đến, các bô lão nơi thành Cối Kê ra đứng cả hai bên vệ đường, nói:

– Tướng quân ra đi, chúng tôi còn biết lấy ai trông coi chúng tôi.

Hạng Lương xuống ngựa, kính cẩn nói:

– Khi trước tôi lấy thành Cối Kê là tạm mượn chỗ để lưun đồn nhân mã. Nay đại quân đóng lâu ngày sợ nhiễu loạn nhân dân chăng? Tôi vì sanh linh trừ hôn quân vô đạo. Nếu nghiệp cả được thành, quyết chẳng bao quên ơn nơi đã giúp tôi khởi nghĩa.

Các bô lão đều cảm động, phục xuống đất, quyến luyến không nở rời.

Hạng Lương bùi ngùi ra lệnh ba quân tiến phát.

Ðại binh theo đường lớn, kéo thẳng qua sông Giang, đến sông Hoài.

Bỗng đạo tiền quân dừng lại, và có thám mã chạy đến báo:

– Phía trước có một toán quân ngăn đường.

Hạng Vũ vội vã giục ngựa tới trước, thấy trong toán quân đó có một tướng mặt mày vạm vỡ, khí thế uy nghi liền hỏi:

– Tướng kia là ai? Cớ sao lại cản đường quân ta?

Tướng ấy đáp:

– Ta là người đất Lục An, tên Anh Bố, lâu nay chiêu tập nghĩa binh để trừ gian, cứu thiên hạ. Các ngươi là toán quân vô danh ở đâu đến đây, ta quyết chẳng cho đi.

Hạng Vũ đáp:

– Tướng quân lầm rồi! Ta đây là Hạng Vũ, con cháu Hạng Yên nước Sở, bởi vua Nhị Thế bạo tàn nên dấy binh khởi nghĩa, trả thù cho sáu nước chư hầu, sao lại gọi là vô danh?

Hai người còn đang tranh phải trái, Hoàn Sở nghe tên Anh Bố, vội thúc ngựa ra trước quân, gọi lớn:

– Hiền huynh ơi! Hãy xuống ngựa quy hàng. Tiểu đệ đã tùng phục theo nước Sở rồi, xin hiền huynh giữ lời hứa cũ.

Hạng Vũ ngạc nhiên hỏi Hoàn Sở:

– Có lẽ hai người quen thân với nhau sao?

Hoàn Sở nói:

– Thưa phải. Anh tướng quân vũ dũng siêu quần, ít người sánh kịp. Trước kia phải đi làm phu dịch ở Ly Sơn, bỏ trốn đến nhà tôi tá túc. Hai tôi có hẹn nhau, lúc nào gặp được anh quân sẽ cùng nhau đem thân giúp nước. Vừa rồi, tôi có nghe Anh Bố chiêu tụ nghĩa quân, nhưng chẳng rõ thực hư. Nay gặp mặt, thật may mắn.

Anh Bố xuống ngựa nói:

– Nếu ngài đã vì đại nghĩa dấy binh, tôi xin tình nguyện đem thân giúp sức.

Hạng Vũ mừng rỡ, dẫn Anh Bố đến yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương tiếp đón niềm nở và nói:

– Muôn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm. Ðược tướng quân cộng tác, chẳng khác nào như hùm thêm vây.

Nói xong truyền thống hợp binh mã, tiếp tục lên đường.

Một hôm, Hạng Lương bàn với chư tướng:

– Quân mạnh, tướng hùng là điều kiện tất yếu trong quân, song trí dũng lúc nào cũng phải đi đôi với nhau mới có lợi. Quân ta sức mạnh đủ đánh Tần, chỉ thiếu một người mưu sĩ.

Quý Bố nói:

– Tôi nghe thôn Cư Sào, hạt Hoài Dương có một người họ Phạm tên Tăng, tuồi đã bảy mươi mà mưu trí còn thừa, dẫu Tôn, Ngô ngày xưa cũng khó bì kịp. Nếu Minh Công muốn dùng, tôi xin đi rước.

Hạng Lương mừng rỡ, sai Quý Bố đem lễ vật đến mời Phạm Tăng.

Quý Bố đến Cư Sào tìm nhà trọ nghỉ ngơi, dò hỏi tông tích Phạm Tăng.

Người chủ trọ nói:

– Ông ấy tuy ở gần thành thị, song không thích cảnh phố phường, lâu nay mai danh ẩn tích, chẳng chịu tiếp kiến ai bao giờ.

Quý Bố nghĩ thầm:

– Nếu không được giáp mặt Phạm Tăng làm sao bày tỏ cạn lời.

Nghĩ rồi hỏi chủ trọ:

– Ông có biết nhà Phạm Tăng hiện ở đâu chăng?

Chủ trọ đáp:

– Cách đây ba dặm, nơi chân núi Kỳ Cổ có ngôi nhà lá đó là nhà Phạm Tăng.

Quý Bố nghĩ ra môt kế, sai đứa tùy tùng giả làm khách buôn đến nói với người nhà Phạm Tăng:

– Chúng tôi người xứ lạ, đến Cư Sào buôn bán, chẳng may gặp vận rủi, hàng hóa lỗ lã nghe đồn tiên sinh đây là bậc kỳ mưu, đến xin yết kiến để lãnh vài lời chỉ giáo.

Phạm Tăng bình nhật vốn thích việc bày mưu, lập kế, nghe người nhà nói có khách buôn từ phương xa lại, liền cho vào.

Quý Bố lập tức cùng với tên tùy tùng vào yết kiến.

Thấy Phạm Tăng tóc bạc da mồi, khăn nâu áo vải, mà khí tượng đường bệ, ra vẻ tiên phong, đạo cốt, vội vã cúi chào.

Phạm Tăng hỏi:

– Khách từ đâu đến? Nghề nghiệp gì?

Quý Bố lập tức dâng lễ vật, quỳ mọp xuống đất thưa:

– Tiện nhân không phải khách xa lạ, cũng chưa từng buôn bán ở Cư Sào, vì sợ không được yết kiến Tiên sinh nên mượn lời nói vậy. Nay vua Nhị Thế vô đạo, lòng dân oán vọng, hào kiệt nỗi lên chiếm đất giành dân, mưu đường tiến thủ. Hạng tướng quân tôi vốn dòng dõi Hạng Yên nước Sở, tài kiêm văn vũ, lòng sẵn hiếu trung, vừa phất cờ khởi nghĩa ở Cối Kê, muôn dân hưởng ứng. Trộm nghe Tiên sinh mưu trí, hơn người, Tôn, Ngô, không sánh kịp, nên sai tôi đem lễ vật đến dâng, nếu được Tiên sinh giúp sức thì việc đại nghĩa ắt thành, xin tiên sinh vì cảnh lầm than của thiên hạ, ra cứu dân độ thế.

Pham Tăng bảo Quý Bố đứng dậy chỉ ghế mời ngồi và nói:

– Việc đồ vương định bá không thể quyết định trong chốc lát được. Túc hạ đã đến đây, xin tạm trú nơi tệ xá, ngày mai sẽ bàn.

Quý Bố cứ quỳ mãi dưới đất năn nỉ:

– Hạng tướng quân tôi mong được Tiên sinh chẳng khác nắng hạn trông mưa, lòng nóng như đốt, xin Tiên sinh vì cảnh điêu linh của muôn dân, đem tài cứu vớt, thiên hạ sẽ mang ơn Tiên sinh không nhỏ.

Phạm Tăng thấy Quý Bố năn nỉ quá, bất đắc dĩ phải nhận lời.

Tối hôm ấy Phạm Tăng bấm độn xem vận mệnh nước Sở, bỗng thở dài lẩm bẩm:

– Thôi! Ta lầm rồi! Sở không phải chân mệnh, khó lòng giúp nên công. Nhưng kẻ trượng phu đã nói một lời không thể thay đổi.

Hôm sau, Phạm Tăng thu dọn hành lý, cùng đi với Quý Bố đến giúp Hạng Lương.

Hạng Lương hay tin sửa sang áo mão, ra ngoài năm dặm đón rước vào đại trại, và nói:

– Lương tôi nghe tiếng Tiên sinh đã lâu, lòng khao khát, ngặt bận rộn việc quân, chưa đến bái yết được. Nay Tiên sinh không nỡ bỏ kẻ ngu hèn này đến đây dạy bảo, thật Lương tôi thỏa chí bình sinh.

Phạm Tăng đứng lên nói:

– Dòng dõi tướng quân mấy đời thờ nước Sở, nay vì dân khởi nghĩa, thiên hạ ai chẳng nức lòng. Tăng này dẫu tuổi già trí cạn, được tướng quân đoái tưởng, quyết tận tâm mưu tính nghiệp vương, để đền ơn tri ngộ.

Từ đó Hạng Lương cùng Phạm Tăng ngày đêm bàn tính việc quân cơ, rất tương đắc.

Một hôm Hạng Lương sai người đi dò thám tin tức Trần Thắng.

Quân thám thính về báo:

– Trần Thắng bị tướng Tần là Chương Hàm đánh bại, chạy về đất Nhữ Âm, bị tên Trang Giả giết chết. Chư hầu đều giải tán cả. Quân Chương Hàm hiện còn đóng ở Nam Dương.

Hạng Lương thất kinh, nói:

– Ta họp chư hầu cốt để giúp Trần Thắng đánh Tần, ngờ đâu Trần Thắng lại tử trận rồi. Quân ta không nên khinh thường kinh động.

Ðoạn, mời Phạm Tăng đến thương nghị.

Phạm Tăng nói:

– Trần Thắng là hạng tầm thường, chỉ tham lợi nhỏ mà không thấy được đại cuộc. Dẫu sống cũng chẳng làm được trò gì.

Hạng Lương hỏi:

– Thế nào là lợi nhỏ, thế nào là đại cuộc?

Phạm Tăng nói:

– Phàm kẻ mưu đại cuộc trước hết phải chinh phục lòng dân. Trong lúc muôn dân ly tán, không phân tính được chân, thiện, ác, lẽ ra Trần Thắng phải tìm dòng dõi vua Sở trước kia lập lên để tỏ ra mình vì đại nghĩa, đàng này Trần Thắng tự lập mình, cho mọi người nghi ngờ hành động của mình, rõ là kẻ bất trí.

Hạng Lương nghe Phạm Tăng nói, ngẩn người một lúc, rồi hỏi:

– Việc thất bại của Trần Thắng có ảnh hưởng gì đến đường tiến thủ của chúng ta chăng?

Phạm Tăng đáp:

– Dĩ nhiên đó là một bài học. Cứ như tướng quân khởi nghĩa chuyến này, dân chúng đâu đâu cũng hưởng ứng, vì tin chắc rằng tướng quân dòng dõi tôi thần nước Sở, tất sẵn lòng lập con cháu vua Sở lên làm vua. Mà như thế là chính nghĩa. Danh chánh ngôn thuận là một sức mạnh tuyệt đối, thắng bạo lực.

Hạng Lương cho là phải, liền dùng Phạm Tăng làm quân sư, sai người đi tìm con cháu vua Sở đem về lập lên ngôi.

Bọn thủ hạ đi tìm mãi không thấy tông tích con cháu vua Sở đâu cả.

Hạng Lương tức giận sai Chung Ly Muội dẫn một đám thủ hạ đi tìm.

Chung Ly Muội nói với bọn thủ hạ:

– Nước Sở từ khi bị nhà Tần diệt, con cháu ly tán, nếu còn thì nay cũng đổi họ tên, lẩn trốn nơi hoang dã, khó mà tìm được.

Ðoạn, cùng với bọn tùy tùng cất bước, lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm mà vẫn chưa tìm ra tông tích.

Một hôm, đi đến địa phận Nam Hoài, thấy một lũ chăn dê đang đuổi đánh một đứa trẻ đồng bọn.

Ðứa trẻ bị đánh ấy mặt mũi khôi ngô, trán cao, vai rộng, không phải như những đứa trẻ tầm thường, Chung Ly Muội gọi đứa trẻ ấy lại, hỏi:

– Tại sao chúng lại xúm nhau đánh mày như thế?

Ðứa trẻ đáp:

– Tôi vốn không nhà cửa.., mẹ cha, ở làm con nuôi cho nhà Vương Xã trưởng, vì vậy chúng nó khi dễ. Vừa rồi tôi nói với chúng nó rằng: “Chúng bây dẫu có mẹ cha, nhà cửa, nhưng là con nhà tầm thường, ta đây tuy không nhà cửa, mẹ cha, nhưng là dòng dõi nhà vua. Chúng cho tôi nói láo, xúm nhau đuổi đánh.

Chung Ly Muội nghe nói, có ý mừng thầm, hỏi vội:

– Em nói em là con cháu nhà vua, vậy quê quán em ở đâu?

Ðứa bé ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Tôi từ nhỏ lưu lạc đó đây, nay cũng không nhớ đâu là quê quán.

Muội hỏi vặn mãi, đứa bé sợ hãi bỏ chạy, Muội nắm áo kéo lại nói:

– Ðừng sợ! Ta muốn hỏi để biết rõ mà giúp đỡ em đó thôi.

Ðứa bé đứng trù trừ một lúc, rồi mới nói:

– Tôi năm nay mười ba tuổi, đến đây đã tám năm rồi. Mẹ tôi nói tôi là cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở.

Ðứa bé nói chưa cạn lời, Chung Ly Muội đã truyền bọn tùy tùng bế đứa bé bỏ lên lưng ngựa thẳng đến nhà Vương Xã trưởng.

Vương Xã trưởng thấy quân lính đến nhà ồ ạt, sợ liền quỳ trước cửa rên rĩ:

– Tôi là kẻ tiều phu thảo dã, không rõ phép nước chẳng hay có điều gì lầm lổi xin các ngài dung thứ!

Chung Ly Muội đặt đứa bé lên giường cao ngồi rồi nói:

– Hãy mời người mẹ đứa trẻ này ra đây cho ta nói chuyện.

Xã trưởng vâng lời chạy xuống bếp thay quần áo cho bà lão rồi dắt lên yết kiến Chung Ly Muội.

Chung Ly Muội hỏi lai lịch, bà lão ban đầu sợ sệt tìm lời chối quanh, nhưng sau thấy Chung Ly Muội một mực kính cẩn, liền lấy ra một chiếc áo lót mình đã cũ, đưa cho Chung Ly Muội xem.

Chung Ly Muội thấy trên áo có nét chữ, nhưng không rõ là chữ gì, bèn giơ lên trời xem, mới đọc được. Dòng chữ viết:

” Cháu đích tôn vua Hoài Vương nước Sở tên Mễ Tâm, Phu nhân Thái tử nước Sở là Vệ Thị “.

Dưới dòng chữ có đóng dấu quốc bảo của nước Sở.

Chung Ly Muội xem xong mừng rỡ, gọi Xã trưởng nói:

– Ông hãy thay áo quần sạch sẽ cho đức Ðiện hạ, rồi cùng tôi đưa đức Ðiện hạ đến hội kiến Hạng tướng quân, ông sẽ được trọng thưởng.

Vương Xã trưởng mừng rỡ, lấy quần áo cho Mễ Tâm thay rồi theo Chung Ly Muội đến Hoài Tây.

Hạng Lương hay tin, hội cả văn võ ra ngoài ba dặm tiếp đón, rồi tôn Mễ Tâm lên làm vua hiệu là Hoài Vương, Vệ Thị làm Vương Thái hậu.

Hoài Vương phong Hạng Lương làm Võ Tín Quân, Hạng Vũ làm Ðại Tư Mã phó tướng quân, Phạm Tăng làm quân sư, Quý Bố và Chung Ly Muội làm đô kỵ, Anh Bố làm thiên tướng quân, Hoàn Sở, Vũ Anh làm tán kỵ.

Bá quan văn võ thảy đều được hưởng hàm ân.

Còn Vương Xả trưởng được thưởng năm mươi lạng vàng, cho về quê quán.

Ngày hôm sau, có tướng nước Sở tên Tống Nghĩa đang mộ quân ở Giang Hạ, hay tin Hạng Lương lập con cháu nước Sở, liền dẫn ba vạn quân đến quy phục.

Hoài Vương phong Tống Nghĩa làm Khanh Tử Quán Quân, cùng với Hạng Vũ thống lãnh binh mã đi đánh Tần.

Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:

– Hoài Tây tuy là đất Sở, nhưng đóng đô không tiện. Nay Trần Anh hiện đang đồn quân ở Vu Thai, nơi đó địa thế hiểm trở, lúc tiến có thể đánh, lúc lui có thể giữ, ta nên đến đó chiêu dụ Trần Anh lấy Vu Thai làm căn bản để xử sự.

Hạng Vũ khen phải, liền vào tâu với Hoài Vương, rồi chỉnh đốn ba đội quân, chia làm ba đạo, kéo thẳng đến Vu Thai.

Ðạo tiên phong vừa kéo đến sông Hoài, thấy phía trước có bụi cát bay mịt mù, rồi một toán quân ồ ạt kéo đến.

Hạng Lương và Phạm Tăng cùng dừng ngựa lại xem, thấy tinh kỳ tề chỉnh, kiếm kích huy hoàng.

Phạm Tăng giật mình, lẩm bẩm:

– Chao ôi! Toán quân uy nghi như thế, kẻ cầm đầu phải là bậc siêu quần.

Vừa nói dứt lời, chợt thấy một tướng cỡi ngựa vọt tới trước đầu quân, mũi phụng, mặt rồng hào quang sáng chói.

Phạm Tăng thở dài, than:

– Ta lầm rồi! Chính người này mới là vị chân chúa.