Chương 110 – Hội tóc hung

Mùa thu năm ngoái, tôi đến thăm Sherlock Holmes thì bắt gặp anh đang say sưa trò chuyện với một người đàn ông đứng tuổi có vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, tóc màu hung đỏ rực như lửa.

Tôi xin lỗi vì sự đường đột và đang định quay ra thì Holmes vội kéo tôi vào phòng.- Watson thân mến, anh đến thật đúng lúc.

– Holmes nhiệt tình nói.- Tôi e là anh đang bận.- Đúng thế! Tôi đang rất bận là đằng khác.- Vậy tôi sẽ sang phòng bên cạnh đợi anh.- Ồ không.

Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson đây là người cộng sự và là trợ thủ đắc lực của tôi trong nhiều vụ án.

Tôi tin chắc trong vụ này của ông, anh ấy cũng sẽ giúp được tôi rất nhiều.Người đàn ông to béo kia hơi nhổm dậy, gật đầu chào tôi, cặp mắt ti hí của ông ta liếc nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.- Anh ngồi trên chiếc ghế tựa kia đi.

– Holmes nói rồi trở lại ghế của mình, mười ngón tay đan chéo vào nhau.Đây là thói quen của Holmes khi quá tập trung suy nghĩ về một vấn đề gì đó.

– Watson thân mến, tôi biết anh cũng giống tôi, không thích những thứ tầm thường, đơn điệu, mà thích khám phá những điều kỳ quặc, bí ẩn.

Và anh còn cẩn thận, tỉ mỉ ghi chép lại tất cả.

Điều đó chứng tỏ rằng, anh rất hứng thú khám phá các vụ án.

Nếu anh không phiền thì hãy ngồi lại, cùng tôi bước vào những công việc mạo hiểm mới.Tôi trả lời:- Quả thực những vụ án của anh luôn làm tôi vô cùng thích thú.

Chắc anh còn nhớ tôi nói với anh trước khi nhận giải quyết một vụ đơn giản cho cô Mary Sutherland rằng: để thu được kết quả mỹ mãn, để có được sự phối hợp ăn ý tuyệt đối, chúng ta cần phải dấn thân vào cuộc sống, nơi chứa đựng sự mạo hiểm nằm ngoài sức tưởng tượng.- Vậy sao, bác sĩ? Tôi hơi hoài nghi về cách nói này của anh.

Nhưng anh rồi vẫn phải đồng ý với tôi thôi.

Vì nếu không, tôi sẽ đưa ra một loạt dẫn chứng thực tế khiến anh phải tâm phục khẩu phục mới thôi.

Nhưng chuyện đó để sau.

Ông Jabez Wilson đây sáng sớm hôm nay đã đặc biệt đến thăm và kể cho tôi nghe một trong những câu chuyện kỳ lạ nhất mà tôi từng biết.

Như tôi đã nói với anh là những chuyện kỳ lạ nhất, độc đáo nhất thường không liên quan gì đến những vụ án lớn, mà lại hay liên quan đến những vụ nhỏ hơn, thậm chí đôi khi còn cần phải suy xét xem liệu có đúng là đã có một hành động phạm tội hay không.

Với những gì được nghe, tôi vẫn chưa thể khẳng định được liệu đây có phải là một vụ án hay không, nhưng rõ ràng qua những tình tiết mà ông Wilson kể lại thì quả thật đó là câu chuyện đặc biệt nhất mà tôi từng nghe.

Ông Wilson, liệu ông có thể kể lại câu chuyện từ đầu một lần nữa được không? Tôi yêu cầu như vậy không phải chỉ vì anh bạn bác sĩ Watson của tôi chưa được nghe phần đầu, mà còn vì chuyện này quá lạ lùng, khiến tôi muốn nghe lại từ chính miệng ông để nắm bắt mọi tình tiết dù là nhỏ nhất.

Thông thường, chỉ cần nghe qua vài tình tiết là tôi đã có thể liên tưởng đến hàng ngàn vụ án tương tự, nhưng với vụ này, tôi phải thừa nhận là nó quá đặc biệt, không giống với bất kỳ vụ nào.Vị khách béo tốt ưỡn người, với vẻ khá kiêu hãnh.

Ông ta lôi từ trong chiếc áo khoác to đùng đang mặc ra một tờ báo ố bẩn, nhàu nát, đặt nó lên đùi và vuốt thẳng, rồi cúi xuống xem mẩu tin quảng cáo trên đó.

Lúc này tôi mới quan sát vị khách, mong có thể tìm ra được điều gì đó thông qua quần áo và vẻ bề ngoài của ông ta như Holmes vẫn hay làm.Tuy nhiên, những gì tôi đoán biết được sau khi quan sát không nhiều.

Nhìn bề ngoài, có thể thấy vị khách này là một thương nhân người Anh không giàu có, béo phì, hãnh tiến và chậm chạp.

Ông ta mặc một chiếc quần xám cũ kỹ, áo choàng không mấy sạch sẽ, cúc áo trước không đóng.

Chiếc áo chẽn ngắn đến thắt lưng cũng một màu xám xịt với một sợi dây xích nặng nề bằng đồng thau có mặt trang trí là một miếng kim loại hình vuông.

Trên thành ghế ông ta ngồi đặt chiếc mũ đã sờn và áo khoác bạc màu có cổ áo bằng nhung nhăn nhúm.

Tôi thấy vị khách này ngoài bộ tóc màu hung, vẻ mặt đầy chán nản và thất vọng ra, thì không có gì đặc biệt cả.Đôi mắt tinh nhanh của Sherlock Holmes mau chóng nhận ra ý đồ của tôi.

Khi bắt gặp ánh mắt nghi ngờ của tôi, anh mỉm cười, lắc đầu và nói:- Ông đây đã từng làm công việc nặng nhọc vất vả, nghiện thuốc nặng và là hội viên của Hội Tam Điểm, từng đến Trung Quốc, gần đây viết khá nhiều.

Ngoài những điểm đó ra, tôi không suy luận được thêm điều gì khác nữa.Ông Jabez Wilson bỗng đứng phắt dậy, tay vẫn cầm chặt mẩu báo cũ, nhưng mắt thì nhìn chằm chằm vào Holmes.- Ôi lạy Chúa, ông Sherlock Holmes! Làm sao ông biết nhiều chuyện về tôi như vậy? Sao ông lại biết tôi từng làm việc chân tay? Chính xác, trước tôi đã từng là thợ đóng tàu.

– Ông ta trợn tròn mắt, ngạc nhiên hỏi.- Thưa ông, chính cánh tay của ông nói lên điều đó.

Tôi thấy tay phải của ông to hơn tay trái rõ rệt.

Vì ông lao động nhiều bằng tay phải nên cơ bắp tay phải của ông phát triển hơn tay trái.- Ồ, đó là chuyện vặt vãnh.

Còn chuyện hội viên Hội Tam Điểm thì sao?- Tôi không dám qua mặt ông bằng cách nói cho ông biết vì sao tôi nhận ra điều đó.

Có thể thấy rất rõ là ông đang đeo một chiếc ghim càvạt hình 1/3 vòng cung compa.- Ồ, đúng vậy, tôi quên mất điều này.

Nhưng còn việc viết lách?- Đó là vì gấu ống tay áo bên phải của ông đã bạc trắng, và phần gần khuỷu tay bên trái, nơi thường xuyên tì vào bàn, lại có một đường vá rất cẩn thận.- Vậy về Trung Quốc thì sao?- Hình xăm trên cổ tay phải của ông chỉ có thể thực hiện được ở Trung Quốc.

Tôi cũng đã nghiên cứu về các hình xăm, thậm chí đã từng viết bài về vấn đề này.

Chỉ ở Trung Quốc mới có cách pha mực tinh xảo và có thể tô màu hồng mịn như thế này cho hình con cá.

Ngoài ra, tôi còn thấy một đồng xu tiền Trung Quốc treo ở dây đồng hồ của ông, điều này càng khẳng định cho giả thiết của tôi.Ông Jabez Wilson cười phá lên.

Ông ta vui vẻ nói:- Đúng quá, tôi đã không nghĩ đến những điều này! Ban đầu tôi nghĩ ông thật là một người thông minh, nhưng sau khi hiểu rõ vấn đề thì thấy chẳng có gì là khó hiểu cả.Sherlock Holmes quay sang tôi:- Watson này, bây giờ tôi mới biết mình không nên giải thích hết mọi việc ra như thế.

Đó là một sai lầm.

Anh biết đấy, danh tiếng của tôi có thể bị hủy hoại nếu tôi cứ quá ngay thẳng, thật thà.

Ông Wilson, ông đã tìm ra mẩu quảng cáo đó chưa?- Tôi thấy rồi.

– Ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào chỉ vào giữa mục quảng cáo – Nó đây.

Toàn bộ câu chuyện bắt đầu chính từ cái mẩu tin này đây.

Xin ông tự đọc lấy thì hơn.Tôi đón lấy tờ báo, rồi đọc to:“Gửi hội những người tóc hung.Thể theo di chúc của ông Ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania, Mỹ, hiện nay chúng tôi đang cần một người tóc hung đảm nhận một vị trí công việc nhàn nhã với mức lương bốn bảng Anh một tuần.

Điều kiện dự tuyển: Nam, tóc hung, trên hai mươi mốt tuổi, sức khỏe tốt, trí lực tốt.

Đơn dự tuyển nộp trực tiếp cho ông Duncan Ross vào sáng thứ hai, lúc 11 giờ tại văn phòng Hội, số 7 Pope’s Court, đường Fleet, London”.Sau khi đọc đi đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ lạ này, tôi bật kêu lên:- Thế này là thế nào?Sherlock Holmes ngồi đung đưa trên chiếc ghế và mỉm cười, đó là biểu hiện khi anh đang ở trạng thái hưng phấn.

Anh nói:- Mục quảng cáo này kỳ lạ quá đúng không? Còn bây giờ ông Wilson, ông hãy kể tất cả những gì về ông, về người ở cùng ông, và mẩu quảng cáo này đã ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ông.

Bác sĩ Watson, trước tiên anh hãy ghi lại tên tờ báo và số báo lại đã.- Đó là tờ “The Morning Chronicle”, ra ngày 27 tháng 4 năm 1890, cách đây đúng hai tháng.- Tốt lắm, nào ông Wilson, ông hãy bắt đầu kể đi.- Vâng, thưa ông Sherlock Holmes.

Như tôi vừa mới kể với ông, – Jabez Wilson vừa nói vừa nhăn trán – tôi có một hiệu cầm đồ nhỏ ở quảng trường Coburg gần trung tâm thành phố.

Nó quả là không bề thế gì, mấy năm nay lời lãi chỉ đủ ăn.

Trước kia tôi có thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng giờ chỉ còn thuê được một người và cũng khó trả đủ tiền lương cho anh ta.

Anh ta chấp nhận hưởng mức lương bằng một nửa mức bình thường, để học hỏi kinh nghiệm kinh doanh.- Thế anh chàng tốt bụng này tên là gì? – Sherlock Holmes hỏi.- Tên anh ta là Vincent Spaulding.

Thực ra thì anh ta cũng không còn trẻ nữa, nhưng rất khó đoán tuổi.

Anh ta là một nhân viên nhanh nhẹn, hoạt bát, ông Sherlock Holmes ạ! Tôi thừa biết rằng anh ta dễ dàng kiếm được một công việc khá hơn với số lương gấp đôi thế.

Nhưng anh ta vẫn nhận lời làm ở chỗ tôi, và nếu anh ta đã bằng lòng như vậy thì tôi cũng chẳng có gì phải phản đối cả.- Đúng.

Tại sao phải làm vậy? Xem ra ông thật may mắn khi có một người phụ việc chấp nhận tiền lương rẻ mạt như vậy.

Đây quả là một điều khá bất thường.

Liệu anh chàng giúp việc này có kỳ lạ như chính mẩu quảng cáo này không?Ông Wilson tiếp tục:- À, anh ta cũng có điểm yếu đấy, thưa ông.

Tôi chưa từng gặp ai thích chụp ảnh như anh ta.

Anh ta mang máy đi chụp khắp nơi, rồi vội vàng chui xuống tầng hầm để rửa ảnh.

Đó là nhược điểm lớn nhất của anh ta.

Nhưng nhìn chung, anh ta là một nhân viên tốt, rất mực trung thành.- Tôi đoán hiện anh ta vẫn đang sống cùng ông?- Vâng, thưa ông.

Ngoài anh ta ra còn có một cô bé mười bốn tuổi chuyên lo việc bếp núc và dọn dẹp nhà cửa.

Trong nhà chỉ có ba người, vì tôi góa vợ và không có người thân.

Chúng tôi sống rất bình lặng, có nợ thì cùng lo chi trả, cho đến khi một loạt chuyện xảy ra.

Chuyện đầu tiên làm thay đổi cuộc sống của chúng tôi chính là mẩu quảng cáo này.

Đúng tám tuần trước, Spaulding bước vào văn phòng với tờ báo này trong tay và nói: “Ông Wilson ạ, tôi ước gì Chúa ban cho tôi một mái tóc hung”.“Tôi hỏi:- Sao vậy?- Tại sao ư? – Anh ta nói – Hội tóc hung đang cần tuyển một người.

Ai mà có được công việc này thì sẽ khấm khá.

Theo tôi được biết, họ còn thiếu nhiều hội viên so với tiêu chuẩn, số tiền của ban điều hành còn không biết sử dụng vào việc gì.

Nếu mái tóc của tôi đổi màu thì tôi sẽ xin nhập hội ngay, vì đây quả là một cơ hội tốt.- Sao, vậy nghĩa là sao? – Tôi hỏi anh ta.“Ông thấy đấy, tôi là người sống rất kín đáo, công việc lại không đòi hỏi phải bôn ba ngược xuôi, nên có khi suốt mấy tuần liền tôi không bước chân ra khỏi nhà.

Vậy nên tôi không biết nhiều về những chuyện xảy ra ngoài xã hội, do đó mỗi khi có tin tức gì mới tôi đều rất thích thú.- Ông chưa bao giờ nghe kể về Hội tóc hung này sao? – Anh ta tròn mắt nhìn tôi và hỏi lại.- Chưa bao giờ.- Lạ thật đấy, vì ông hoàn toàn có đủ điều kiện để có được làm việc ở đó đấy.- Thế công việc đó được bao nhiêu?- Ồ! Lương một năm chỉ khoảng hai trăm bảng Anh, nhưng bù lại việc này rất nhàn nhã, không ảnh hưởng gì đến công việc hiện nay của ông.“Vâng, các ngài cũng dễ dàng nhận thấy rằng điều này đã thực sự hấp dẫn tôi.

Mấy năm nay, công việc làm ăn của tôi không phát đạt lắm, nên cơ may kiếm được vài trăm bảng quả là hết sức hấp dẫn.

Vậy là tôi nói với anh ta: “Anh hãy kể cho tôi nghe những gì anh biết về cái hội này đi”.“Anh ta đưa cho tôi xem mẩu quảng cáo nọ và nói: – Vâng, đây ông tự mình xem đi.

Hội đó đang có một chỗ trống.

javascript:if(typeof(admSspPageRg)!=’undefined’){admSspPageRg.draw(2026976);}else{parent.admSspPageRg.draw(2026976);}
Họ cho địa chỉ rõ ràng, ông có thể đến đó để phỏng vấn.

Theo tôi được biết, hội này do Ezekiah Hopkins, một triệu phú tính tình kỳ lạ người Mỹ, lập ra.

Ông ta có bộ tóc hung đỏ và rất thân thiện với những ai có bộ tóc cùng màu.

Vì thế mà sau khi mất đi, ông ta để lại một tài sản khổng lồ cho những người được ủy quyền quản lý với yêu cầu là dùng lợi tức từ khoản tiền đó để tạo cơ hội tốt cho những người đàn ông có cùng màu tóc hung như ông ta.

Theo những gì tôi được biết thì công việc này rất đơn giản mà đãi ngộ lại rất tốt.“Tôi bất giác nghi ngờ:- Nhưng, cũng sẽ có hàng triệu đàn ông tóc hung đến xin làm công việc này mất.“Anh ta trả lời chắc chắn:- Không nhiều đến thế đâu.

Ông nghĩ mà xem, họ chỉ dành công việc này cho những người đàn ông là người London thôi.

Vì ông triệu phú này vốn sinh ra và lập nghiệp ở London, nên ông ta muốn làm những việc tốt đẹp cho thành phố này.

Hơn nữa, tôi còn nghe nói Hội sẽ không tuyển những người có mái tóc màu hung nhạt, hung sẫm hay bất kỳ màu hung nào khác ngoài màu hung đỏ tự nhiên.

Ông Wilson, nếu ông muốn nhận công việc này thì ông hãy đến ngay đi.

Thật là khó từ chối một cơ hội kiếm tiền tốt như vậy.“Thưa các ngài, như các ngài thấy đấy, quả thực tóc tôi có màu hung đỏ rực rất nổi bật.

Bởi vậy, tôi nghĩ mình có nhiều ưu thế nếu tham gia dự tuyển cho công việc béo bở này.

Vincent Spaulding xem ra có vẻ rất am hiểu chuyện này, nên tôi nghĩ có thể anh ta có ích cho tôi.

Vậy là tôi liền bảo anh ta đóng cửa hàng một ngày rồi đi với tôi.

Anh ta rất vui vì có một ngày nghỉ và cùng tôi đi đến địa chỉ đăng trên báo.“Ông Holmes ạ, có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được những gì mình đã nhìn thấy hôm đó.

Tất cả những người có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ từ bốn phương đều lũ lượt kéo về thành phố để ứng cử vào vị trí việc làm đăng trên báo.

Phố Fleet chật cứng những người tóc hung, sân nhà thờ trông giống như một chiếc xe chở đầy cam của tay bán hàng rong vậy.

Tôi không ngờ rằng một mẩu quảng cáo nhỏ lại có thể thu hút được nhiều người đến thế.

Tóc của họ cũng đủ màu: vàng rơm, vàng nâu, vàng chanh, hung đỏ, cam, màu gạch, màu gan gà… Nhưng Spaulding nói, số người có mái tóc đỏ rực tự nhiên như tôi thì không nhiều.

Khi thấy có quá nhiều người đứng đợi, tôi rất thất vọng và chán nản, định bỏ về.

Nhưng Spaulding không chịu nghe.

Tôi cũng chẳng hiểu khi đó anh ta chen lấn thế nào mà lôi tôi được vào trong đám đông và chúng tôi đã đến đứng ngay dưới chân bậc thềm dẫn lên văn phòng.

Trên cầu thang có hai dòng người lên xuống, những người đi lên có vẻ tràn đầy hy vọng, còn những người đi xuống thì lại vô cùng buồn bã và chán nản.

Chúng tôi nhanh chóng chen lên, và cuối cùng thì tôi thấy mình đã ở trong văn phòng.”Sherlock Holmes đứng cạnh vị khách của mình, hít một hơi thuốc dài, trầm tư suy nghĩ rồi nói:- Đoạn ông đang kể là thú vị, rất đáng quan tâm, xin ông hãy kể tiếp đi.- Trong văn phòng, ngoài chiếc ghế gỗ và một cái bàn thì chẳng còn có gì cả.

Ngồi sau cái bàn là một người đàn ông nhỏ nhắn, màu tóc còn đỏ rực hơn cả của tôi.

Mỗi khi người dự tuyển nào đến trước mặt, anh ta chỉ nói vài câu rồi cố tìm ra một lỗi nào đó để đánh trượt họ.

Xem ra, để có được công việc này thật không dễ dàng chút nào.

Tuy nhiên, khi đến lượt chúng tôi, anh chàng nhỏ bé này lại tỏ ra lịch sự và ưu ái tôi hơn hẳn những người khác.

Sau khi chúng tôi vào phòng, anh ta đóng cửa lại để có thể trò chuyện với chúng tôi một cách thoải mái.“Anh chàng giúp việc của tôi nhiệt tình giới thiệu:- Đây là ông Jabez Wilson, ông ấy sẵn sàng vào làm ở vị trí mà Hội đang tuyển.“Anh chàng kia cũng vui vẻ trả lời:- Ông rất thích hợp với công việc này.

Ông đáp ứng tất cả những yêu cầu của chúng tôi.

Tôi chưa từng gặp ai có mái tóc tuyệt vời hơn thế.“Anh ta lùi một bước, nghiêng đầu nhìn chằm chằm vào mái tóc của tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng bối rối.

Rồi bất ngờ anh ta lao tới như tên bắn, chạy lại nắm lấy tay tôi, nhiệt liệt chúc mừng tôi đã dự tuyển thành công.“Anh ta nói:- Chẳng cần phải chần chừ hơn nữa.

Song xin lỗi ông, cẩn thận vẫn là hơn, tôi hy vọng ông không phật ý.“Nói rồi anh ta dùng cả hai tay túm chặt lấy tóc tôi rồi giật mạnh, khi tôi phải hét lên vì đau đớn thì anh ta mới buông tay ra.- Ông ứa nước mắt rồi kìa.

– Anh ta nói và thả tay ra – Tôi cũng biết là không nên làm thế.

Nhưng tôi vẫn phải thận trọng vì chúng tôi đã bị lừa hai lần, một lần là một tên tóc giả, lần khác là một tên nhuộm tóc.“Rồi anh ta bước nhanh đến bên cửa sổ và gào lên bằng một giọng to nhất có thể: “Đã chọn được người rồi”.“Từ dưới vọng lên những tiếng la hét vì thất vọng, và đoàn người nhanh chóng kéo nhau bỏ đi, tản ra nhiều ngả.

Sau khi họ ra về, chỉ còn tôi và anh chàng lo việc tuyển chọn là có mái tóc màu hung đỏ.“Anh ta nhẹ nhàng tự giới thiệu:- Tôi tên là Duncan Ross, một trong những người được hưởng tiền trợ cấp từ ông chủ cao quý của chúng ta để lại.

Ông Wilson, ông đã lập gia đình chưa?“Khi nghe tôi trả lời là góa vợ, hiện nay đang sống một mình, lập tức gương mặt anh ta sầm xuống.

Anh ta nói với giọng nghiêm túc:- Hừ, đây là vấn đề lớn đấy.

Tình hình của ông khiến tôi lo ngại.

Vì lẽ mục đích của quỹ này là để dành cho những người có mái tóc hung và gia đình họ để sinh ra nhiều người có mái tóc hung hơn nữa.

Nhưng ông lại là người độc thân, thật đáng buồn!“Ông Holmes ạ, nghe đến đây tôi cảm thấy rất thất vọng vì nghĩ rằng thế là xong, mình đã để tuột mất công việc này vì một lý do thật đáng trách.

Nhưng sau khi suy nghĩ một hồi, anh ta lại cho rằng không có vấn đề gì cả.“Anh ta nói:- Nếu như với người khác, việc này quả là không thể bỏ qua.

Nhưng với người có mái tóc đẹp như của ông, chúng tôi sẽ thử phá lệ một lần.

Vậy lúc nào thì ông có thể nhận công việc mới này?“Tôi băn khoăn nói:- Có một điều hơi khó là tôi đang có một cửa hàng nhỏ ở nhà.“Vincent Spaulding đứng cạnh đỡ lời:- Ồ, ông Wilson! Ông đừng bận tâm về điều đó! Tôi có thể thay ông trông coi cửa hàng.“Tôi hơi ngần ngừ rồi hỏi tiếp:- Thời gian làm việc từ mấy giờ đến mấy giờ?- Từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều.“Ông Holmes ạ, cửa hàng cầm đồ của tôi chủ yếu làm việc vào buổi tối, đặc biệt là tối thứ năm và tối thứ sáu, ngay trước ngày trả lương.

Bởi vậy nếu đến đây làm buổi sáng thì không có gì bất tiện cho lắm.

Hơn nữa, tôi biết anh chàng giúp việc của mình là người đáng tin cậy và tháo vát, chuyện gì anh ta cũng có thể lo liệu được.“Tôi hỏi, giọng vui vẻ:- Thế thì cũng rất tiện cho tôi.

Còn tiền lương thì sao?- Bốn bảng một tuần.- Tôi phải làm những việc gì?- Đó là những việc rất bình thường.- Ý ông là sao?- Ồ, trong suốt thời gian làm việc, ông phải ở văn phòng, hoặc ít nhất thì cũng phải ở trong căn phòng này.

Nếu ông bỏ ra ngoài, ông sẽ bị sa thải và phải bồi thường.

Việc này đã được quy định rất rõ ràng.

Ông cũng vi phạm hợp đồng trong trường hợp ra khỏi văn phòng trong thời gian làm việc.- Chỉ là bốn tiếng một ngày thì chắc chắn tôi sẽ không nghĩ đến việc ra khỏi đây nửa bước.“Ông Duncan Ross vẫn tiếp tục nói bằng một giọng hết sức nghiêm nghị:- Chúng tôi sẽ không chấp nhận bất cứ lý do nghỉ việc nào cho dù là ốm đau, việc gấp của gia đình hay bất cứ việc gì khác.

Dù thế nào ông cũng phải ở lại văn phòng, nếu không ông sẽ bị đuổi việc.- Vậy tôi sẽ phải làm gì?- Công việc của ông là chép lại bộ Bách khoa toàn thư của Anh quốc.

Ở đây đã có quyển 1 được xuất bản lần đầu.

Ông phải tự lo mực, bút, giấy.

Chúng tôi chỉ dành cho ông cái bàn và cái ghế này.

Ngày mai ông sẵn sàng bắt đầu vào việc được chứ?- Tất nhiên là được rồi.

– Tôi hào hứng trả lời.- Vậy bây giờ xin tạm biệt ông, ông Jabez Wilson.

Một lần nữa, chúc mừng ông đã may mắn nhận được vị trí quan trọng này.

– Anh ta cúi đầu lễ phép chào tôi.“Tôi và cậu giúp việc rời khỏi căn phòng, trở về nhà.

Tôi vô cùng sung sướng vì mình đã quá may mắn.

Vâng, chuyện đó khiến tôi mừng thầm suốt ngày.

Nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo lắng vì cứ có cảm giác toàn bộ câu chuyện này là một trò đùa hay một sự lừa gạt nào đó, mà tôi không thể đoán được mục đích của nó là gì.

Thật khó tin khi có người để lại bản di chúc lạ như thế và chịu bỏ ra một khoản tiền lớn chỉ để thuê làm một việc vô cùng đơn giản là chép cuốn Bách khoa toàn thư Anh quốc.

Vincent Spaulding đã tìm mọi cách để giải thích và cổ vũ tôi.

Đến khi ngủ, tôi quyết không nghĩ đến chuyện đó nữa.

Thế nhưng, sáng sớm hôm sau tôi vẫn quyết tâm đến đó để xem chuyện thực hư thế nào.

Tôi mua một lọ mực, một cây bút, bảy tờ giấy khổ lớn rồi đến Pope’s Court.“Và điều khiến tôi sửng sốt và lấy làm sung sướng là mọi chuyện đều diễn ra hết sức tốt đẹp.

Một chiếc bàn đã được kê sẵn, anh chàng Duncan Ross đứng đó lo liệu mọi chuyện để tôi bắt đầu một cách thuận lợi.

Anh ta bảo tôi chép từ vần A rồi ra ngoài để tôi ở lại một mình, nhưng chốc chốc lại vào xem tôi làm việc thế nào, có cần gì không.

2 giờ chiều, anh ta khen tôi chép được nhiều và tạm biệt tôi.

Sau khi tôi ra khỏi văn phòng, anh ta liền khóa cửa lại.“Ông Holmes ạ, công việc đó cứ tiếp diễn từ ngày này sang ngày khác.

Đến thứ bảy, anh ta bước vào phòng và phát cho tôi bốn đồng vàng để trả tiền lương tuần đầu tiên cho tôi.

Các tuần sau, mọi chuyện cũng diễn ra tương tự như thế.

Sáng nào tôi cũng có mặt ở văn phòng lúc 10 giờ và ra về lúc 2 giờ chiều.

Về sau, Duncas Ross đến thưa dần, chỉ một lần vào buổi sáng, cuối cùng thì không thấy anh ta đến nữa.

Tuy vậy, tôi vẫn không bao giờ dám rời văn phòng dù chỉ một phút.

Vì làm sao tôi biết chắc được lúc nào thì anh ta xuất hiện, hơn nữa công việc rất tốt, thu nhập cao và hợp với sở thích của tôi, nên tôi không muốn bị sa thải.“Tám tuần liền trôi qua như vậy.

javascript:if(typeof(admSspPageRg)!=’undefined’){admSspPageRg.draw(2026981);}else{parent.admSspPageRg.draw(2026981);}

Tôi đã chép được nhiều phần ở vần A và hy vọng với tốc độ này, tôi sẽ sớm chuyển sang vần B.

Tôi cũng tốn một ít tiền để mua giấy viết, số giấy mà tôi chép được đã chất đầy một giá sách.

Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng nhiên kết thúc một cách rất bất ngờ.”- Kết thúc sao?- Thưa ông, vừa mới sáng nay thôi.

Tôi đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc 10 giờ, nhưng thấy cửa khóa.

Và trên then cài cửa có một mẩu giấy nhỏ hình vuông.

Mẩu giấy đó đây, ông có thể tự đọc.Rồi ông Wilson chìa ra một mẩu giấy trắng, cỡ bằng một trang sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ:“Hội những người tóc hung giải thể từ ngày 9 tháng 10 năm 1890”.Holmes với tôi cùng xem mẩu giấy nhỏ và nhìn gương mặt rầu rĩ của vị khách, cho tới lúc không nhịn được nữa trước hai hình ảnh ấy, cả hai chúng tôi cùng cười phá lên.Vị khách của chúng tôi vô cùng tức giận kêu lên:- Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện này cả.

Nếu các ngài không thể làm gì khác hơn ngoài việc nhạo báng tôi thì tôi xin phép đi chỗ khác.- Không, không.

– Holmes kêu lên và kéo Wilson xuống ghế – Tôi thực tình không thể bỏ qua vụ án này được.

Nó thật khác thường khiến người ta phải tò mò, nhưng nếu ông không phiền thì tôi vẫn phải nói thật là chuyện này quả hơi buồn cười.

Xin hỏi, khi nhìn thấy tờ giấy trên cánh cửa, ông đã làm thế nào?- Thưa ông, khi đó tôi vô cùng ngạc nhiên và không biết phải làm thế nào.

Tôi đi hỏi những người ở xung quanh khu phòng đó, nhưng xem ra họ cũng chẳng biết gì cả.

Cuối cùng tôi đến chỗ chủ nhà, ông ta là kế toán và sống ở tầng dưới.

Tôi hỏi ông ta có biết chuyện gì đã xảy ra với Hội tóc hung không.

Ông ta bảo ông ta chưa từng nghe nói về cái hội nào như thế cả.

Sau đó tôi hỏi ông ta có biết Duncas Ross hiện giờ ở đâu không.

Ông cũng nói chưa từng nghe thấy cái tên đó.- À, là cái ông ở phòng số 4 đó mà.

– Tôi nói địa chỉ phòng gã.- Ồ, có phải là người đàn ông có mái tóc hung đỏ không?- Đúng vậy “Ông ta nói tiếp:- Ông ta nói ông ta tên là William Morris.

Ông ta là luật sư và thuê phòng của tôi làm văn phòng luật sư tạm thời, chờ văn phòng chính hoàn thành.

Tối hôm qua, ông ta đã chuyển đi rồi.- Tôi có thể tìm ông ta ở đâu?- À, ở văn phòng mới của ông ta.

Ông ta đã cho tôi địa chỉ, đó là nhà số 17, phố King Edward, cạnh nhà thờ St.

Paul.“Tôi vội đến đó ngay, ông Holmes ạ.

Nhưng khi tôi tìm đến nơi thì chỉ thấy một cái xưởng sản xuất nhỏ.

Ở đó chẳng ai biết đến cái tên William Morris hay Duncan Ross nào cả.”Holmes hỏi:- Vậy sau đó ông làm gì nữa?- Tôi quay về nhà mình ở quảng trường Coburg để hỏi cậu giúp việc nên làm thế nào, nhưng anh ta cũng chẳng giúp được gì.

Anh ta chỉ nói rằng tôi chịu khó chờ, rồi có thể tôi sẽ nhận được thư thông báo của họ.

Thế nhưng ông Holmes ạ, tôi vẫn thấy không thể yên tâm được.

Tôi không muốn bị mất công việc nhàn nhã mà lương lại cao này.

Tôi nghe nói ông luôn giúp đỡ những người đáng thương, nên tôi lập tức đến đây để nhờ ông.- Ông hành động rất khôn ngoan.

– Holmes an ủi – Vụ này của ông rất đáng quan tâm, quả là có một không hai đấy, và tôi rất sẵn lòng đứng ra giải quyết.

Từ những gì ông kể cho chúng tôi thì tôi nghĩ vụ này nghiêm trọng hơn những gì chúng ta tưởng nhiều.Ông Jaber Wilson rầu rĩ:- Thế này cũng đủ nghiêm trọng rồi, ông nghĩ mà xem, mỗi tuần tôi bị mất bốn bảng Anh lận.- Riêng về phần ông, – Holmes giải thích – tôi nghĩ là ông chẳng có gì phải phàn nàn cả.

Ngược lại, ông đã kiếm được hơn ba mươi bảng và học thêm kiến thức cho mình từ việc chép các mục trong vần A.

Trong việc này, ông không hề bị thiệt gì đâu.- Đúng là tôi không bị thiệt gì cả.

Nhưng thưa ông, tôi muốn biết sự thật là thế nào và bọn họ là những ai, họ chơi trò này với tôi nhằm mục đích gì.

Nếu đây là một trò đùa, thì quả là trò đùa khá tốn kém, vì họ đã mất hơn ba mươi bảng.- Về điều này, chúng tôi sẽ cố làm sáng tỏ những băn khoăn giúp ông.

Nhưng trước tiên, ông Wilson, ông hãy trả lời tôi vài câu hỏi.

Thứ nhất, anh chàng giúp việc của ông, người đầu tiên khiến ông phải chú ý đến mẩu quảng cáo kia, đã làm cho ông lâu chưa? – Trước đó khoảng một tháng.- Anh ta đến làm cho ông như thế nào?- Anh ta đen theo quang caó tìm ngươi toi đang tren baó.- Chỉ một mình anh ta đến đăng ký thôi sao?- Không, có mười người đến dự tuyển.- Sao ông lại chọn anh ta?- Vì anh ta rat thaó vat ma lai chap nhan mưc lương thap.- À phải, tiền lương chỉ bằng nửa so với nơi khác.- Đúng thế.- Trông anh chàng Vincent Spaulding này như thế nào?- Dáng người thấp, khỏe khoắn, nhanh nhẹn, mặc dù đã khoảng ngoài ba mươi tuổi, da mặt nhẵn nhụi.

Trên trán có một vết sẹo bị bỏng do axit.Holmes bỗng ngồi bật dậy với vẻ rất kích động.

Anh hỏi tiếp:- Tôi cũng nghĩ vậy.

Ông để ý thấy anh ta có bấm lỗ tai không?- Có, thưa ông.

Anh ta nói với tôi rằng một người Digan đã xỏ cho anh ta khi anh ta còn trẻ.- Hừm.

– Holmes nói và ngồi xuống ghế – Anh ta còn ở chỗ ông không?- Thưa còn, tôi vừa ở chỗ anh ta rồi mới đến đây.- Khi ông không ở nhà, việc kinh doanh vẫn do anh ta quản lý chứ?- Thưa ông, tôi không có gì phải phàn nàn về công việc của anh ta, buổi sáng thường chưa có ai đến mua bán gì.- Thôi, như vậy là được rồi, ông Wilson.

Vài ngày nữa tôi sẽ báo cho ông biết thông tin của vụ này.

Hôm nay là thứ bảy, tôi hy vọng trước ngày thứ hai chúng tôi sẽ đưa ra kết luận.- Vậy Watson, anh thấy vụ này thế nào? – Sau khi vị khách ra về, Holmes hỏi tôi.- Tôi không phát hiện ra manh mối gì cả.

Đây quả là một vụ bí hiểm.

– Tôi thành thật trả lời.- Thường thì chuyện kỳ lạ đến đâu, sau khi được làm rõ cũng sẽ không có gì khó hiểu cả.

– Holmes bình luận – Những vụ bình thường, không có gì đặc biệt mới là những vụ khó lý giải.

Nó giống như một khuôn mặt bình thường, tuy không có gì đặc biệt nhưng cũng lại khó nhận biết.

Nhưng tôi phải tiến hành điều tra vụ này ngay lập tức, càng nhanh càng tốt.- Vậy giờ anh định làm gì? – Tôi hơi tò mò hỏi.- Hút thuốc.

– Holmes thản nhiên nói – Vụ này phải hút hết ba điếu thuốc mới giải quyết được.

Tôi yêu cầu anh trong vòng năm mươi phút đừng nói gì với tôi cả.Rồi Holmes thu người lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu co lại gần chạm vào cái mũi diều hâu.

Anh ngồi đó mắt lim dim, mồm ngậm chiếc tẩu màu đen trông giống như cái mỏ nhọn dài của một giống chim kỳ lạ.

Thấy vậy, tôi nghĩ chắc là anh đã ngủ thiếp đi nên cũng tranh thủ đánh một giấc.

Đúng lúc đó, bỗng anh chồm bật dậy như vừa nghĩ ra sáng kiến gì và đặt chiếc tẩu lên thành lò sưởi.Holmes nói:- Chiều nay có buổi hòa nhạc tại thính đường St.

James.

Anh nghĩ sao Watson? Liệu bệnh nhân của anh có thể để anh tạm nghỉ vài tiếng không?- Hôm nay tôi chẳng phải làm gì cả.

Công việc của tôi không bận rộn lắm đâu.- Vậy thì hãy đội mũ vào, và cùng tôi đi thôi.

Chúng ta sẽ đi qua trung tâm thành phố rồi tiện thể ăn trưa luôn.

Hôm nay có một chương trình hòa nhạc Đức rất hay.

Tôi vẫn thích nhạc Đức hơn nhạc Ý hay nhạc Pháp.

Nhạc Đức khiến người ta phải suy ngẫm, hồi tưởng, mà bây giờ thì tôi đang cần điều đó.

Chúng ta đi nào.Chúng tôi đi tàu điện đến Aldersgate, rồi đi bộ một đoạn tới quảng trường Coburg, nơi diễn ra câu chuyện kỳ lạ có một không hai mà chúng tôi được nghe kể lúc sáng.

Đây là một con phố nghèo, nhỏ hẹp cũ kỹ với bốn dãy nhà hai tầng xây gạch màu xám, xung quanh có tường rào.

Trên sân có một khoảng trống cỏ mọc um tùm với mấy cây nguyệt quế ngoan cường vươn lên, trái ngược hẳn với quang cảnh mờ mịt u ám xung quanh.

Trên một tòa nhà ở đoạn rẽ có một tấm biển gỗ màu nâu, trên đó ghi hai chữ màu trắng “Jabez Wilson” cùng ba quả cầu đúc bằng kim loại.

Tấm biển cho biết đó là cửa hàng của vị khách có mái tóc màu hung ban sáng.

Holmes đứng ngay trước cửa hàng, nghiêng đầu ngắm nghía kỹ lưỡng mọi thứ bằng đôi mắt sáng quắc.

Anh thong thả đi dọc theo con phố rồi lại quay lại chỗ rẽ đó, mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà.

Cuối cùng anh quay trở lại cửa hiệu cầm đồ, dùng chiếc gậy nện mạnh xuống vỉa hè hai, ba lần rồi tiến thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa.

Lập tức một anh chàng mặt mũi trông sáng sủa, hoạt bát, râu tóc gọn gàng ra mở cửa và mời Holmes vào.

Đó chính là anh chàng giúp việc của vị khách ban sáng.- Cám ơn.

– Holmes nói – Tôi chỉ muốn nhờ anh chỉ giúp đường từ đây đến phố Strand.- Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, rồi đến ngã tư tiếp nữa thì rẽ trái.

Giới thiệu

Vào năm thứ ba mươi sáu của thế kỷ XX, một sự kiện được ghi lại trong lịch sử văn học hiện đại nước Mỹ. Đó là sự ra đời của một tác phẩm văn học chẳng những mau chóng thu phục được tấm lòng người dân Mỹ mà còn cả trái tim của hàng triệu người trên khắp các lục địa. Tác phẩm ấy mang tên Cuốn theo chiều gió (Gone with the wind).

Chỉ ba tuần sau khi được xuất bản Cuốn theo chiều gió đã thu hút ngay sự chú ý của hơn mười bảy vạn độc giả. Và liền năm sau 1937, nó được tặng giải thưởng Pulitzer, một giải thưởng được nhiều nhà văn ao ước. Đến tháng Mười hai cây Sồi năm 1938 hơn một triệu bảy bản đã được ấn hành tại nước Mỹ. Sau đó đúng một năm khi bộ phim dựa theo cuốn tiểu thuyết này lần đầu tiên ra mắt khán giả Mỹ, hơn hai triệu bản Cuốn theo chiều gió đã được in và dịch ra mười sáu thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tính đến năm 1962 thì lên tới hơn mười triệu bản và cuốn sách được dịch ra hơn ba chục thứ tiếng và đã được chuyển thể thành sách cho người mù đọc.

Cuốn theo chiều gió là cuốn tiểu thuyết duy nhất của nữ tác giả Margarett Mitchell. Bà sinh năm 1900 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ) và cũng qua đời tại thành phố này ngày 16 tháng 8 năm 1949. Cha bà là một luật gia nổi tiếng chủ tịch Hội nghiên cứu lịch sử Atlanta. Mẹ và anh Margarett Mitchell cũng rất thích lịch sử. Sống trong một bầu không khí như thế, cô bé Margarett ham say nghe những chuyện kể về cuộc Chiến tranh Ly khai Nam Bắc. Sau khi tốt nghiệp trung học tại Atlanta, Margarett theo học y khoa tai trường Đại học Smith. Nhưng cái chết đột ngột của mẹ đã thay đổi hoàn toàn hướng đi của Margarett. Cô trở về quê hương sống với cha và anh. Sau đó cô bắt đầu nghề báo dưới bút danh Peggy Mitchell. Nhưng một tai nạn đã là Margarett giập mắt cá và buộc phải bỏ nghề làm báo. Năm trước, 1925 cô đã kết hôn với John.R.March, giám đốc phụ trách quảng cáo cho Công ty Điện lực Georgia.

Trước đó nhiều lần Margarett Mitchell đã thử viết tiểu thuyết và một số truyện ngắn. Nhưng lần nào bản thảo cũng bị trả lại với một lời xin lỗi và nhận xét gần như muôn thuở: “Sách của bà khá lý thú, nhưng đăng vào lúc này không thích hợp”. Nhưng Margarett Mitchell không hề nản chí mà vẫn kiên trì sáng tác. Cũng vào năm 1936 bà bắt tay thật sự vào cuốn tiểu thuyết lịch sử vĩ đại Cuốn theo chiều gió. Bà đã viết trong mười năm ròng trong một tâm trạng gần như bệnh hoạn. Cung cách là việc của Margarett Mitchell khá là độc đáo. Chẳng hạn bà đã viết kết luận trước khi triển khai cốt truyện. Bà thu thập các tình tiết, góp nhặt những tư liệu mới, phát triển tính cách các nhân vật của mình, thậm chí sống cuộc sống của họ. Người ta kể lại rằng, một đêm Margarett ngồi cặm cụi viết trong căn phòng nhỏ của mình. Bỗng nhiên ngưòi nhà nghe thấy tiếng nức nở của bà. Người ta gõ cửa phòng nhưng Margarett nhất định không chịu mở cửa. Sáng hôm sau, đầu tóc rối bù, mắt thâm quầng vì qua một đêm không ngủ, Margarett Mitchell hét lên “Melannie đã chết rồi!” Lời nói đó thốt ra từ trái tim nặng trĩu của tác giả khóc than cho số phận một nhân vật mà bà vô cùng yêu mến. Nỗi đau khổ tột cùng này, gợi cho ta nhớ lại tâm trạng của L.Tolstoy hay của G.Flaubert trước cái chết thảm thương của Anna Karenina và của bà Bovary.

Năm 1935, H.S.Latham, phó giám đốc nhà xuất bản MacMilian, một nhà xuất bản lớn của Mỹ, đến Atlanta, ông đã xem qua công trình đồ sộ nhưng còn dị dạng kia. Ông đã ấn định một thời hạn và vào mùa xuân năm 1936 cuốn tiểu thuyết ra đời. Nó đã thu được một thắng lợi vang lừng. Có những ngày năm vạn cuốn sách bán hết tại nước Mỹ. Vinh quang rực rỡ đó không hề thay đổi bản chất của Margarett Mitchell.
Bà vẫn tiếp tục tự do sống trong ngôi nhà nhỏ tại Atlanta, tiếp tục một cuộc sống vô cùng giản dị. Thư từ và hàng vạn điện tín của độc giả tới tấp gửi đến ca ngợi bà. Ngày ngày Margarett Mitchell đã ngồi trong phòng kiên nhẫn và hòa nhã trả lời thư tín của các độc giả ngưỡng mộ bà. Tuy nhiên bà đã buộc phải ra mắt công chúng nhân dịp cuốn phim cùng tên Cuốn theo chiều gió được chiếu lần đầu, vì có nhiều kẻ gian dối đã mạo danh bà làm điều xằng bậy. Năm bốn mươi chín tuổi, trong khi cùng chồng đi qua một đường phố Atlanta, bà bị một chiếc xe tải đâm phải. Năm ngày sau bà qua đời giữa muôn vàn thương tiếc của người thân và bạn đọc. Người phụ nữ nhỏ bé, duyên dáng và khiêm nhường có đôi mắt màu xanh xinh đẹp đó đã từng nói: “Tôi chỉ tìm thấy mình trong công việc và tác phẩm mà thôi; còn cái riêng tôi thì chẳng là gì cả.”

Các nhà phê bình văn học đã viết rất nhiều về Cuốn theo chiều gió. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá khác nhau về tác phẩm văn học này.

Nhưng có một điều không thể chối cãi được là vào bất kì thời nào nó cũng được các bạn đọc trẻ tuổi ham thích. Câu chuyện được đặt trong bối cảnh lịch sử của cuộc chiến tranh Nam Bắc phân tranh giữa một bên là Miền Bắc công nghiệp, đại diện cho lực lượng tiến bộ chủ trương thủ tiêu chế độ nông nô, và một bên là Miền Nam – đại diện cho lực lượng bảo thủ phản động ngoan cố duy trì chế độ nô lệ da đen. Nhân vật chủ yếu của cuốn tiểu thuyết hơn một nghìn trang là Scarlett O’Hara. Scarlett là một cô bé xinh đẹp, con gái một điền chủ giàu có. Được nuông chiều từ bé, Scarlett rất ngang bướng và ích kỷ, nhưng có nhiều nghị lực. Sau khi Atlanta thất thủ, Scarlett quay về trang trại của mình và bắt tay xây dựng lại từ đầu. Nhờ có tính ngoan cường và cách suy nghĩ thực tế, Scarlett đã cứu cửa nhà khỏi sự tàn phá của quân lính tướng Sherman. Những khó khăn khủng khiếp do cuộc chiến tranh tàn khốc gây ra đã rèn luyện tính cách của Scarlett nên đến cuối chiến tranh nàng đã trở thành một con người hoàn toàn khác hẳn. Song song với Scarlett là một nhân vật rất điển hình: Rhett Butler, một con người hết sức thực dụng và mưu trí. Rhett Butler đã lợi dụng chiến tranh và phong tỏa để thực hiện nhiều vụ áp phe lớn mang lại cho y rất nhiều lợi nhuận. Scarlett và Rhett hợp nhau ở rất nhiều điểm, nhưng vì kiêu căng và ngộ nhận, Scarlett đã cự tuyệt tình yêu, mãi đến cuối cùng sau khi đã chia tay với Rhett, nàng mới nhận thức sâu sắc rằng chính Rhett mới là người yêu lý tưởng của mình. Trong khi đó suốt bao nhiêu năm ròng nàng vẫn tưởng mình yêu Ashley Wilkes, chồng Melanie.

… Tuy là nhân vật thứ yếu, Melanie và Ashley đã để lại một ấn tượng khá sâu sắc trong lòng người đọc. Melanie gợi nhớ lại cho ta hình ảnh của Agnes dịu hiền trong David Copperfield của Dickens. Nhưng nhguời con gái yếu đuối đôn hậu kia trong giây phút quyết liệt đã dám nổ súng vào kẻ thù để cứu bạn. Còn Ashley thì quả là một nhân vật đầy mâu thuẫn. Phải chăng đó là một kẻ hèn nhát, thiếu nghị lực và quyết đoán, một vai trò tẻ nhạt tầm thường? Tuy nhiên khi đi sâu tìm hiểu tâm tư tình cảm của con người hào hoa phong nhã đó, ta sẽ thấy cảm thông với chàng thanh niên dũng cảm, hăm hở lên đường ra trận nhưng hoàn toàn vỡ mộng sau thảm hại ở Appomatto.

Câu chuyện thực ra không có gì là phức tạp, rắc rối cả. Mọi tình tiết đều diễn ra rất logic, ít mang tính kịch cao. Nhưng xoay quanh những tình tiết không mấy li kì đó, Margarett Mitchell đã khắc họa nên những nhân vật hết sức điển hình, tiêu biểu cho những cá tính và những quan niệm riêng biệt, độc đáo. Điều này cắt nghĩa tại sao Cuốn theo chiều gió được sự hưởng ứng mạnh mẽ và mau lẹ của độc giả trong và ngoài nước Mỹ. Dĩ nhiên ta không thể phủ nhận là bộ phim phát hành năm 1939 đã góp phần không nhỏ vào hành công to lớn và lâu dài của cuốn sách.
Hơn năm mười năm đã qua từ ngày Cuốn theo chiều gió xuất hiện trên văn đàn thế giới. Bao nhiêu cuộc chiến tranh đã xảy ra trên hành tinh chúng ta, phi nghĩa cũng như chính nghĩa. Bao nhiêu thế hệ độc giả đã say sưa đọc và xem Cuốn theo chiều gió. Những thế hệ tương lai sẽ tiếp tục say mê Cuốn theo chiều gió. Vì cuốn tiểu thuyết lớn của Margarett Mitchell đã khơi dậy trong lòng các thế hệ độc giả khác nhau tình yêu quê hương xứ sở, tình thương đồng đội. Nó đã tiếp thêm nghị lực và kiên nhẫn để vượt qua mọi đau thương gian khổ mà chiến tranh mang lại cho con người. Và quan trọng nhất là nó đã dựng được những nhân vật điển hình khó lòng quên được.

Vì thế mặc dù Cuốn theo chiều gió còn nhiều thiếu sót về mặt quan điểm lịch sử, mặc dù những sai lầm nghiêm trọng trong nhận thức đối với bọn ba K (KKK – Ku Klux Klan), chúng ta không thể phủ nhận cống hiến của Margarett Mitchell đối với kho tàng văn học thế giới.

Chương 1

Scarlett O’ Hara không đẹp, nhưng nam giới ít nhận ra điều đó mỗi khi bị cuốn hút bởi sự duyên dáng của nàng, như trường hợp hai anh em song sinh Tarleton. Khuôn mặt nàng là một sự kết hợp hài hoà giữa những đường nét kiều diễm của mẹ, người quý tộc miền duyên hải thuộc dòng dõi Pháp, và những góc cạnh thô kệch của người cha Ái Nhĩ Lan da dẻ hồng hào. Tuy thế, đó là khuôn mặt ưa nhìn với cằm thon, hàm nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng nở rộng. Đôi mắt xanh biếc của nàng được viền bởi những hàng mi dài rậm uốn cong vút . Bên trên đôi mắt đó là hai vệt mày chênh chếch vạch thành hai đường nghiêng đậm nét trên làn da trắng trong của hoa mộc lan – màu da mà phụ nữ miền Nam vô cùng quý trọng và cẩn thận giữ gìn bằng những chiếc nón rộng vành, mạng che mặt và bao tay để chống lại ánh nắng gay gắt của xứ Georgia.

Ngồi với Stuart và Brent Tarleton dưới bóng mát của mái hiên Tara, đồn điền của cha nàng, giữa một chiều nắng tháng Tư năm 1861, Scarlett là hiện thân của hình ảnh yêu kiều. Chiếc áo mới bằng sa-tanh có điểm hoa xoè rộng mười một thước trên những viền đai, xứng hợp hoàn toàn với đôi giày da bê thuộc màu xanh mà cha nàng vừa mua từ Atlanta. Chiếc áo làm nổi bật tột cùng cái vòng eo bốn mươi hai phân rưỡi, vòng eo thon mảnh nhứt của địa hạt xứ Georgia, và chiếc yếm bó sát vừa vặn để lộ bộ ngực tròn trịa của một thiếu nữ 16 tuổi ? Tuy nhiên, dẫu tà áo đã được khép kín quanh, dẫu mái tóc láng mịn đã được búi gọn đúng vẻ trang nghiêm, và dẫu hai bàn tay trắng nhỏ đã được xếp tréo trên đùi, Scarlett cũng không che giấu nổi con người thật sự của nàng trên khuôn mặt cố giữ nét đoan trang, đôi mắt màu lam vẫn không ngớt lóng lánh ánh nhiệt cuồng, bướng bỉnh và khát sống, tương phản rõ rệt với cái vẻ bề ngoài cố làm ra thùy mị. Phong cách của nàng là kết tinh những lời khuyên dạy của mẹ và kỷ luật nghiêm khắc của mẹ, nhưng đôi mắt vẫn là mắt của riêng nàng.

Mỗi người một bên Scarlett, hai anh em sinh đôi nhàn nhã ngồi trên ghế, vừa nói cười, vừa lơ đãng nhìn ánh nắng chiếu xuyên hai ly rượu ngọt bạc hà to tướng, và hững hờ bắt tréo đôi chân dài mang giày ống cao tới gối, cuồn cuộn những bắp thịt rắn chắc của người quen sống trên lưng ngựa. Cùng 19 tuổi, cùng cao 1m85, xương dài thịt chắc, hai anh em cùng giống nhau như hai bành bông vải, cũng những khuôn mặt sạm nắng, cũng tóc đỏ hoe, cũng ánh mắt tươi vui ngạo nghễ, cũng mặc một loại áo màu xanh và quần kỵ mã màu hột cải.

Bên ngoài, nắng chiều chiếu nghiêng xuống khoảnh sân, ném những tia sáng chói chang lên hàng cây dương đào với từng chùm hoa trắng trên bối cảnh xanh um. Ngựa của 2 anh em song sinh được cột ngoài mã lộ, 2 con cao lớn bộ lông hung đỏ không khác gì tóc chủ. Vơ vẩn quanh chân ngựa là một lũ chó mảnh khảnh, hung hăng, đang gầm gừ nhau, và bất cứ lúc nào cũng theo sát Stuart với Brent. Xa hơn 1 chút, dường như để ra điều quý phái, một con chó lông lốm đố đen nằm gác mõm lên hai chân trước, nhẫn nại đợi chủ trở về dùng bữa tối.

Giữa đàn chó, đôi ngựa và hai anh em song sinh nảy sinh 1 mối thân tình còn sâu đậm hơn cả mối tình của những kẻ luôn khăng khít bên nhau. Tất cả đều cuờng tráng, vô tư, lành lặn duyên dáng và dũng cảm, hai gã con trai cũng hung hăng như ngựa họ, hung hăng và nguy hiểm nhưng đồng thời cũng ngoan ngoãn với những ai khéo xử.

Mặc dầu được sinh trưởng giữa cuộc sống dễ dãi ở đồn điền, được săn sóc hầu hạ từ lúc bé nhưng cả 3 khuôn mặt dưới mái hiên không có gì uể oải hay mềm yếu. Họ vẫn có đủ nghị lực và sự mẫn tiệp của dân quê đã từng quen sống ngoài trời và không một mảy may bận trí bởi những điều nhạt nhẽo trong sách vở. Cuộc sống ở hạt Clayton, miền Bắc Georgia hãy còn mới mẻ và có phần sống sượng so với trình độ ở các hạt Augusta, Savannah và Charleston. Người miền Nam kỳ cựu và nghiêm trang nhất thường nhìn dân sống ở cao nguyên Georgia với con mắt khinh thường, nhưng ở đây tại miền Bắc Georgia, vấn đề thiếu sót những điểm cầu kỳ trong nền giáo dục cổ điển chẳng có gì đáng cho là xấu hổ, miễn là người đàn ông có đủ khả năng để thực hiện những việc thích nghi. Và trồng bông vải, cưỡi ngựa hay bắn giỏi, khiêu vũ nhẹ nhàng, biết hầu chuyện nữ giới một cách lịch thiệp và biết uống ruợu như một khách hào hoa là tất cả những gì đáng kể.

Về các phương diện đó, hai anh em Tarleton tỏ ra xuất sắc, lại còn vượt bực hơn với sự bất lực rõ ràng về chuyện không thể thâu thập nổi bất cứ những gì chứa đựng trong sách vở. Gia đình họ quá giàu, nuôi nhiều ngựa và nhiều nô lệ hơn bất cứ ai trong toàn hạt, nhưng cả hai thì lại ít học hơn bất cứ người Cracker (người da trắng nghèo khổ ở miền Nam Hoa Kỳ) nào chung quanh.
Đó là lý do chánh yếu đã khiến cho Stuart và Brent nhàn hạ giết thì giờ ở cổng đồn điền Tara vào buổi chiều tháng Tư này. Họ vừa bị trục xuất ra khỏi Đại học Georgia, trường đại học thứ tư trong vòng 2 năm đã đuổi họ ra khỏi cửa, và anh em của họ là Tom và Boyd cũng bỏ học, cùng về, bởi vì họ không thể tiếp tục ở lại nơi đã từng thẳng tay xử tệ với hai anh em song sinh. Đối với Stuart và Brent thì lần bị đuổi học sau cùng này chỉ là một trò đùa, và Scarlett, kể từ khi rời khỏi nữ học xá Phayetteville, không buồn lật qua một trang sách nào nữa cả, cũng cho đó là một điều thú vị.

Nàng nói:

− Tôi biết hai anh bất cần chuyện đuổi học, cả anh Tom cũng vậy. Nhưng chẳng biết anh Boyd sẽ ra sao? Anh ấy hiếu học, nhưng hai anh lại làm cho anh ấy lần lượt phải bỏ học ở Virginia, Alabama, South Carolina, và bây giờ tới Georgia. Cứ cái đà này, chắc chẳng bao giờ anh ấy tốt nghiệp được.

Brent hững hờ:

− Ồ, có gì đâu . Anh ấy có thể học luật tại văn phòng thẩm phán Parmalee ở Phayetteville. Vả lại, chuyện cũng chẳng có gì quan trọng. Đằng nào thì bọn này cũng phải trở về trước khi hết học trình.

− Sao vậy ?

− Chiến tranh chớ còn sao nữa Cô bé khờ, chiến tranh sắp sửa bùng nổ bất cứ khi nào. Cô tưởng có đứa nào trong bọn này sẽ chịu đi học trong khi chiến tranh diễn ra, phải không?

Scarlett khó chịu:

− Các anh dư biết là không có chiến tranh mà chỉ nói cho có chuyện thôi. Nếu có thì tại sao anh Asley Quilkes và ba anh ấy nói với ba tôi là mấy ông đặc uỷ của mình tại Hoa Thịnh Đốn tuần tra đã đi tới một thoả hiệp với ông Lincoln về chánh sách Liên Bang. Vả lại, bọn Yankee quá sợ mình thì làm sao dám đánh. Nhứt định là không có chiến tranh đâu, tôi chán nghe chuyện đó lắm rồi.

Cả hai anh em song sinh đều bất bình kêu lên dường như họ đã bị đánh lừa:

− Không có chiến tranh!

Và Stuart tiếp ngay:

− Có chớ, cưng ơi, nhứt định sắp có chiến tranh. Có lẽ bọn Yankee vẫn sợ mình, nhưng qua cái lối Đại tướng Beauregard nã đại bác đẩy bật chúng ra khỏi căn cứ Sumter, chúng bắt buộc sẽ phải đánh trả nếu không muốn cả thế giới coi chúng là những tên khiếp nhược. Tại sao, Liên bang…

Scarlett mím môi, bực tức:

− Nếu các anh nói tới “chiến tranh” một lần nữa, tôi sẽ vào nhà và đóng cửa lại ngay. Chưa bao giờ tôi chán nản tiếng nào hơn tiếng “chiến tranh” ngoại trừ tiếng “phân ly”. Hết sáng tới trưa và tối, ba không ngớt nói chuyện chiến tranh, và bao nhiêu khách tới nhà cũng bô bô nói về chuyện căn cứ Sumter, về quyền lợi của các Tiểu bang và ông Abe Lincoln đến nỗi tôi chán ngấy muốn hét lên. Rồi bọn con trai cũng nói vậy và nhắc chuyện bộ đội xưa cũ của họ. Cứ vậy mà mùa xuân này chẳng có một hội hè nào cho ra đám, bởi vì bọn con trai chẳng có gì để nói khác hơn. Tôi hết sức bằng lòng Georgia đã chờ đến qua lễ Giáng Sinh mới ly khai, nếu không thì mấy cuộc vui dịp Giáng Sinh đều hỏng cả. Nếu các anh lặp lại lần nữa tiếng “chiến tranh” là tôi vào nhà ngay.

Scarlett sẽ làm đúng như đã nói vì rằng nàng không thể chấp nhận được bất cứ một câu chuyện nào mà trong đó nàng không phải là chủ đề. Tuy vậy, nàng vẫn mỉm cười trong khi nói, cố làm cho đồng tiền ở má lúm sâu thêm, và chớp nhanh hàng mi đen rậm như cánh bướm. Đúng như nàng mong mỏi, cả hai đều thoả thích và vội vàng xin lỗi đã làm người đẹp mất vui. Họ không hề buồn phiền chút nào về việc nàng không thích thú nghe chuyện của mình. Chiến tranh là việc của đàn ông chớ không phải của nữ giới, và họ xem thái độ của nàng như một dấu hiệu hiển nhiên của nữ tính.

Sau khi đưa hai người bạn trai ra khỏi câu chuyện nhàm chán về chiến tranh, Scarlett kéo vấn đề trở lại hiện tình của họ.

− Hai anh bị đuổi học, bác gái có nói gì không?

Hai anh em sanh đôi làm ra lúng túng, nhớ lại thái độ của bà mẹ ba tháng trước khi họ bị trục xuất khỏi Đại học Virginia.

Stuart đáp:

− Ơ, bả chưa kịp nói gì cả. Tom và tụi này rời nhà lúc sáng sớm trước khi bả dậy, Tom thì đi qua chơi bên gia đình Phontaine còn tụi này đi thẳng lại đây.

− Đêm qua, lúc mấy anh về tới, bác cũng không nói gì sao?

− Đêm qua, tụi này gặp vận may. Ngay trước khi bọn này về con ngựa giống mà má đặt mua ở Kentucky tháng trước được đưa tới, và cả nhà náo động lên. Đúng là con ngựa phi thường, Scarlett. Cô phải nói với ba cô qua xem cho biết… dọc đường nó cắn thằng này và đạp nhầu hai thằng hắc nô mà má sai ra đón ở ga xe lửa Jonesboro. Và ngay trước khi bọn này về tới, nó đã phá tan hoang tàu ngựa và suýt giết chết con Straquberry, con ngựa nòi già của má. Lúc tụi này về tới, má đang ở ngoài tàu ngựa với cả một bịch đường để nhử nó và đã thành công không mấy khó. Mấy đứa hắc nô thì đeo cứng trên xà tàu ngựa, mắt đứng tròng, bọn nó sợ dữ lắm, còn má thì nhỏ to bên tai con thú làm như là bạn cũ. Trong khi đó, con ngựa đứng yên ăn đường của bà già đút cho. Chưa có ai trị ngựa bằng má. Và vừa thấy mặt tụi này, má hét lớn : “Trời ơi! Bốn đứa mày lại về nhà làm gì nữa đây? Tụi bây còn độc hại hơn bệnh dịch ở bên Ai Cập!”. Vậy là con ngựa bắt đầu khịt khịt và chồm lên. Bà già lại hét : “Đi hết ngay! Bộ tụi bây không thấy con ngựa cưng của tao bực mình đó sao? Sáng mai tao sẽ hỏi tội cả lũ”. Không chần chờ gì nữa, cả bọn đi ngủ, và sáng nay, tụi này đi sớm trước khi bà già thức dậy, để anh Boyd ở lại xoay xở .

− Theo các anh thì bác gái có đánh anh Boyd không?

Cũng như tất cả những người khác trong hạt, Scarlett không lạ gì chuyện bà Tarleton nhỏ thó thường trừng trị các con bà bằng cách dùng roi ngựa quất tưới vào lưng họ mỗi khi nhận thấy đó là điều hữu hiệu nhứt.

Beatrice Tarleton là một phụ nữ luôn luôn bận rộn nhứt, dưới tay bà chẳng những có trọn một đồn điền bông vải rộng lớn, cả trăm hắc nô và 8 đứa con, lại còn thêm cả một trại nuôi ngựa to nhứt xứ. Là người nóng tánh, bà rất dễ nổi cơn thịnh nộ với những chuyện xằng bậy thường xuyên của 4 cậu con trai, và cho rằng thỉnh thoảng nện cho họ một trận đòn cũng chẳng có gì tai hại, mặc dầu đối với ngựa và bọn hắc nô, bà tuyệt đối cấm bất cứ ai sử dụng roi vọt.

Stuart kiêu hãnh với chiều cao hơn một thước tám của mình:

− Nhứt định là bà già không đánh anh Boyd. Chưa bao giờ anh Boyd bị đòn nhiều cả bởi vì anh là con trưởng mà cũng là đứa đẹt nhứt trong bọn. Bởi vậy tụi này mới để ảnh ở lại để nói rõ cho bà già hiểu.

Thiên địa ơi, đáng lẽ má đừng đánh tụi này nữa mới phải. Hai đứa này đã 19 tuổi rồi và anh Tom cũng 21 tuổi, vậy mà bà làm như cả đám mới lên sáu.

− Ngày mai bác gái có cỡi con ngựa mới đi dự dã yến bên gia đình Quilkes không?

− Bà già tính vậy nhưng ba nói là nguy hiểm lắm. Dầu sao thì bọn con gái cũng phải đi dự tiệc như một mệnh phụ, phải đi bằng xe đàng hoàng.

− Mong sao ngày mai đừng mưa. Suốt cả tuần, gần như ngày nào cũng có mưa. Chẳng có gì chán hơn là một dạ yến lại biến thành một bữa tiệc trong nhà.

Stuart làm ra vẻ thông thạo:

− Không có mưa đâu và trời sẽ ấm như tiết tháng sáu. Nhìn mặt trời lặn kia thì biết. Tôi chưa thấy có mặt trời nào đỏ rạng như vậy bao giờ. Muốn biết thời tiết, chỉ có việc xem mặt trời lặn ra sao.

Họ cùng nhìn ra những mẫu đất mới cày thuộc đồn điền bông vải của ông Gerald dài mút mắt tới tận chân trời đỏ thẫm . Phía sau những ngọn đồi bên kia sông Phlink mặt trời đang lặn từ từ giữa một vùng sắc đỏ tía trộn lẫn vào nhau, sức nóng của một ngày tháng tư cũng trở nên mát dịu .

Tiết xuân đã đến sớm hơn thường lệ với những trận mưa rào ấm áp, với những chùm hoa hồng đào nở rộ và những cành dương đào rải trắng sao hoa trên mặt đầm, u tối ở dãy đồi xa. Mặt đất đã cày gần xong và vầng hào quang đỏ thắm của mặt trời tưới nhuộm những luống cày mới trở của miền đất đỏ xứ Georgia. Đất mới còn ẩm ướt phơi mình như lắng đợi hột bông vải gieo vào, trổ sắc hồng trên đầu luống cát và biến thành màu châu sa, màu đỏ thắm và nâu sậm trong lòng luống. Ngôi nhà sở bằng gạch tô vôi trắng trông như một hòn đảo giữa một biển son đang chuyển động, một vùng biển với những đợt sóng xoáy lốc, xoay tròn bỗng dưng như dừng sửng lại giữa lúc các đầu sóng màu hồng vừa vỗ tới bờ. Ở đây không có loại đường cày thẳng tắp như thường thấy ở những cánh đồng đất sét vàng thuộc vùng bình nguyên trung bộ Georgia hay ở vùng đất đen lầy phù sa miền duyên hải. Vùng đồi núi thoai thoải miền Bắc Georgia là nơi lưỡi cày vạch thành hàng triệu đường cong để giữ cho đất màu mỡ khỏi chuồi tuột xuống lòng sông rạch.

Đó là một vùng đất đỏ hoang sơ, đỏ như màu máu, sau các cơn mưa phai như gạch nung vào mùa nắng, và đó cũng là vùng sản xuất loại bông vải tốt nhứt thế giới. Đó là một miền gồm toàn những ngôi nhà trắng xinh xinh, những cánh đồng lặng lẽ và những dòng nước lờ đờ, nhưng đó cũng là một miền có lắm sự tương phản giữa ánh nắng chói chan và bóng mát dày đặc. Những vùng trống trải của đồn điền với hàng dặm dài bông vải ngửa mặt chào đón ánh mặt trời ấm áp, hiền hoà và sung mãn . Nhưng chung quanh đồn điền là những khu rừng già, đầy bóng tối và tươi mát dù dưới sức nắng của những ngày oi ả nhứt, những khu rừng huyền bí với đôi chút âm hiểm, cùng ngàn thông xao động với tất cả nhẫn nại muôn đời dường như lúc nào cũng hắt ra những lời đe doạ theo gió thoảng: “Ta đã từng chiếm giữ các người. Hãy coi chừng! Hãy coi chừng! Ta vẫn có thể tái chiếm những gì đã mất”.

Ngồi dưới mái hiên, cả ba người trẻ tuổi vẳng nghe tiếng chân thú nện trên mặt đất, tiếng khua leng keng của yên cương và tiếng cười the thé vô tư của đám hắc nô trên đường từ đồng áng trở về. Từ trong nhà thoảng vọng ra tiếng nói nhẹ nhàng của mẹ Scarlett, bà Ellen O’Hara, gọi đứa nữ tì da đen phụ trách việc mang giỏ đựng chìa khóa của bà. Giọng chát chúa trẻ con đáp lại: “Thưa bà, vâng”, và có tiếng bước chân đi ra cửa sau, tiến lần về phòng xông khói nơi bà Ellen sắp sửa chia khẩu phần cho những nô lệ vừa về tới. Có tiếng khua tô dĩa và tiếng muỗng nĩa bằng bạc chạm nhau trong khi Pork, người hầu cận trung tín của Tara sắp đặt bữa ăn tối.
Nghe những tiếng động sau cùng đó, bọn Stuart biết là đã tới giờ phải về nhà. Nhưng họ lại ngán phải chạm trán với bà mẹ nên cứ dần dà mãi với hy vọng sẽ được Scarlett mời dùng bữa .

Brent nói:

− Nầy, Scarlett. Tôi muốn nói chuyện ngày mai. Không phải vì tụi này ở xa, chẳng hay biết gì về buổi dạ yến và cuộc khiêu vũ mà bọn này không có quyền nhảy thật nhiều đêm mai. Chắc cô chưa hứa với bọn họ, phải không?

− Chưa sao được! Làm sao tôi biết trước là tất cả các anh cùng trở về? Không lẽ tôi phải giữ vai trò ngồi chơi xơi nước để đợi các anh.

Cả hai cùng cười phá lên:

− Cô mà ngồi chơi xơi nước à?

− Cưng ơi, cưng phải cho tôi được cùng nhảy bản luân vũ đầu tiên và dành cho Stu bản cuối cùng, và phải ngồi ăn tối chung với tụi này. Bọn mình sẽ ngồi ở bệ thang và bắt Mammy Jincy đoán số mạng.

− Tôi không thích những lời bói toán của Mammy Jincy đâu. Bà ấy bảo tôi sắp kết hôn với một anh chàng tóc đen huyền, râu mép cũng đen và dài sọc. Tôi không ưa mấy anh chàng tóc đen nổi.

Brent nhăn nhó:

− Như vậy là cưng ưa mấy thằng tóc đỏ, phải không? Nào, hứa với tụi này đi, hai bản luân vũ và bữa ăn tối.

Stuart chêm vào:

− Nếu chịu hứa, tụi này sẽ cho nghe một chuyện bí mật .

Scarlett kêu lên, tò mò như một đứa bé:

− Sao? Chuyện gì vậy?

− Có phải đó là chuyện mình mới nghe ở Atlanta ngày hôm qua không, Stu? Nếu là chuyện đó, mầy nhớ là tụi mình đã hứa không được nói lại .

− Ừ, cô Pitty có dặn vậy .

− Cô gì?

− Cô biết mà, đó là Pittypat Hamilton, cô ruột của Charles và Melanie Hamilton ở Atlanta, có họ với Ashley Quilkes.

− Biết rồi, và đó cũng là một bà gái già ngốc nghếch nhứt mà tôi chưa từng thấy trong đời.

− Ừ, hôm qua khi bọn này tới Atlanta đợi chuyến xe về nhà thì xe cô ấy đi ngang qua nhà ga và dừng lại nói chuyện với bọn này. Cô ấy cho biết là giữa cuộc khiêu vũ đêm mai người ta sẽ loan báo một lễ đính hôn.

Scarlett thất vọng:

− Tưởng gì chớ chuyện đó thì biết rồi. Chính thằng cháu đần độn của bà ta là Charlie Hamilton sẽ đính hôn với con Honey Quilkes. Mấy năm nay ai cũng biết là bọn nó rồi có ngày sẽ lấy nhau, mặc dầu Charles không mấy sốt sắng về chuyện đó .

Brent hỏi:

− Cô cho là nó đần độn hả ? Giáng sinh năm rồi, chính cô đã để cho nó đeo dính một bên.

Scarlett thờ ơ nhún vai:

− Làm sao cản được? Trông y như một đứa lại cái .

Stuart ra chiều đắc thắng:

− Nhưng có phải là lễ hỏi của hắn đâu. Đây là chuyện của Ashley Quilkes và chị của thằng Charlie tức là cô Melanie.

Mặt Scarlett không đổi sắc nhưng môi nàng trắng lợt ra – giống như kẻ vừa lãnh một quả đấm bất ngờ, vừa giữa lúc kinh động vẫn chưa hiểu việc gì xảy ra – đó là khuôn mặt của nàng khi nhìn sững Stuart và anh chàng này không bao giờ bận tâm phân tách, cho rằng Scarlett chỉ quá ngạc nhiên thôi và cảm thấy vô cùng thích thú.

− Theo cô Pitty thì người ta muốn để sang năm mới loan báo vì Melly không được mạnh khoẻ, nhưng với tất cả những tin đồn dồn dập về chiến tranh, cả hai gia đình cũng nghĩ là nên cho thành hôn càng sớm càng tốt. Do đó mà có lời loan báo đêm mai giữa buổi tiệc. Rồi đó, Scarlett, tụi này đã tiết lộ hết rồi, bây giờ cô phải hứa cùng ngồi ăn chung với tụi này đi.

Scarlett trả lời như người máy:

− Vâng, tôi hứa.

− Và tất cả những bản luân vũ?

− Tất cả.

− Điệu quá! Chắc chắn là đám con trai khác nhảy dựng lên mà tức.

Brent nói:

− Có tức cũng chẳng sao. Chỉ hai đứa mình là cũng đủ đối phó rồi. Nầy, Scarlett, ngồi với tụi này luôn bữa dã yến sáng nữa nghe.

− Cái gì?

Stuart lặp lại lời đề nghị:

− Cố nhiên.

Hai anh em sanh đôi mặt sáng rỡ nhìn nhau nhưng không khỏi ngạc nhiên đôi chút . Mặc dầu vẫn tự xem mình là những kẻ thích hợp nhứt với Scarlett nhưng chưa bao giờ họ được hưởng những ân huệ dễ dàng thế cả . Thông thường nàng để cho họ van lơn, nài nỉ hết lời trong khi nàng vẫn lửng lơ chẳng chịu chẳng không, cười cợt khi họ dỗi hờn và lạnh lùng khi họ phát cáu. Và bây giờ nàng đã hiển nhiên hứa dành cho họ trọn ngày mai – ngồi bên cạnh nhau trong dã yến, cùng nhảy tất cả các bản luân vũ (và họ sẽ làm mọi cách cho tất cả các bản nhạc đều toàn một điệu luân vũ) và tiếp họ giữa tiệc tối. Vậy là bị đuổi khỏi Đại học cũng chẳng có gì đáng tiếc.

Với sự thành công bất ngờ, cả hai phấn khởi thêm, họ tiếp tục lân la, bàn đến chuyện dã yến và buổi dạ vũ, nói về Ashley Quilkes và Melanie Hamilton, thỉnh thoảng ngắt lời nhau, bông đùa và cười cợt với nhau nhưng cũng không quên nói gần nói xa một cách lộ liễu về ước vọng được mời ở lại ăn tối . Cứ thế mãi một lúc khá lâu, họ mới nhận ra là Scarlett gần như chẳng nói năng gì cả . Không khí đã có phần đổi khác . Hai anh em song sanh chẳng biết rõ vì sao, nhưng biết rõ là cảm giác hăng say của họ đã tan biến cùng với buổi chiều . Scarlett dường như không chú ý mấy đến những gì họ nói, mặc dầu vẫn ứng đáp phải lẽ . Mơ hồ nhận thấy có một điều gì mà họ không thẻ hiểu ra đã làm ngăn trở và gây chán nản, cả hai cố ở nán thêm lúc nữa, rồi miễn cưỡng đứng lên nhìn đồng hồ tay.

Mặt trời đã xuống thấp trên các cánh đồng mới cày và hàng cây cao bên kia dòng sông đã biến thành những bóng đen. Chim én liệng mau như những lằn tên ngang qua sông, từng đàn gà vịt, gà tây vênh váo và núng na núng nính từ ngoài đồng kéo trở về trong hỗn loạn.

Stuart gọi to: “Jeems!” Và chỉ trong khoảnh khắc, một gã da đen cao lớn trạc tuổi họ hộc tốc chạy vòng ngôi nhà tiến thẳng ra nơi cột ngựa. Jeems là người hầu riêng của hai anh em, và cũng như đàn chó, gã theo sát chủ khắp nơi. Gã cũng là bạn nô đùa của họ từ thuở nhỏ, và được giao đứt cho họ khi cả hai ăn mừng sinh nhật từ năm mười tuổi.

Vừa thấy bóng anh chàng da đen, đàn chó nằm trong bụi cỏ vụt đứng lên ngóng chủ. Hai anh em Tartleton nghiêng mình chào, bắt tay và cho Scarlett biết là họ sẽ sang nhà Ashley vào sáng sớm để chờ nàng. Rồi cả hai cũng phóng bước ra nơi cột ngựa, nhảy phóc lên yên, phía sau anh chàng Jeems theo bên gót. Họ cho ngựa sải mau trên con đường đổ dốc giữa hai hàng cây bách hương, vừa phất nón vừa hò hét vói lại Scarlett.

Sau khi cho ngựa rẽ qua một khúc quanh trên con đường đầy bụi vừa khuất khỏi Tara, Brent cho ngựa dừng trước lùm cây dương đào, Stuart cũng dừng theo, và gã da đen cho ngựa đứng lại cách mấy bước phía sau. Được nới lỏng dây cương, mấy con thú vươn cổ gặm cỏ non mùa xuân, và đàn chó lúc nào cũng kiên nhẫn, lại cùng nằm bệt xuống mặt đất đầy bụi đỏ mịn màng, ngước nhìn một cách thèm muốn những con én liệng vòng trong buổi hoàng hôn, Khuôn mặt chất phát của Brent hiện rõ nét băn khoăn với đôi chút bất bình .

− Nầy, mầy có nghĩ rằng đáng lẽ con bé phải mời mình ở lại ăn không?

Stuart đáp:

− Tao cũng nghĩ vậy. Tao chờ cho nó lên tiếng nhưng nó chẳng nói, mầy thấy thế nào ?

− Tao không nghĩ gì cả. Có điều tao thấy đúng ra là nó phải mời mình. Dầu sao đây cũng là hôm đầu tiên bọn mình trở về và nó đã không gặp mình từ lâu rồi. Với lại bọn mình còn có cả khối chuyện để nói với nó.

− Theo tao thì ngay lúc mình vừa tới nó mừng ra mặt.

− Tao cũng thấy vậy .

− Và rồi, khoảng nửa giờ sau, nó bỗng lặng thinh làm như bị nhức đầu.

− Tao cũng nhận thấy như vậy nhưng lúc đó thì không để ý. Theo mầy thì con nhỏ bị chuyện gì?

− Có biết gì đâu. Bộ mầy tưởng bọn mình có nói gì xúc phạm đến nó hả?

Cả hai cùng suy nghĩ giây lát .

− Tao cũng không thể nghĩ ra gì cả. Vả lại, mỗi lần Scarlett nổi sùng là ai cũng thấy rõ ngay. Nó không thèm tự kềm chế giống như một vài đứa khác.

− Đúng, nhờ vậy mà tao thích nó. Lúc nổi giận là nó nói toạc hết ra, không làm ra vẻ lạnh nhạt hay oán hận. Chắc có lẽ mình đã làm hoặc nói gì đó khiến nó không nói chuyện nữa và trông như bị bệnh.

Tao dám chắc là con nhỏ rất hài lòng khi thấy bọn mình tới và đã có ý định mời bọn mình ăn tối.

− Chẳng biết là có phải tại tụi mình bị đuổi học không?

− Trời, không phải đâu. Đừng ngu quá vậy. Nó vẫn cười giỡn khi bọn mình cho biết. Chẳng những thế, nó cũng bất cần chuyện học hành không khác bọn mình .

Brent quay người lại, gọi:

− Jeems!

− Dạ .

− Mầy có nghe tụi tao nói chuyện với Scarlett không?

− Dạ không, thưa cậu Brent. Sao cậu cho rằng tôi dám dọa dẫm người da trắng?

− Trời ơi, dọa dẫm! Bọn da đen tụi mầy thì có chuyện gì là không biết . Nầy, thằng láo, chính mắt tao thấy mầy núp gần bên thềm trong cụm lài bên cạnh bờ tường . Đâu, mầy cho biết coi bọn tao có nói gì làm phật ý cô Scarlett… hay làm cho cô ấy tức giận không?

Thế là gã Jeems bỏ luôn màn kịch tỏ ra không hề nghe lén. Gã nhíu đôi mày đen sậm:

− Dạ không, tôi không nghe hai cậu nói gì làm cho cô giận. Cô ấy hết sức bằng lòng khi gặp lại hai cậu, cô nói huyên thuyên như con chim, nhưng tới khi hai cậu kể chuyện cậu Ashley và cô Melly Hamilton thì cô ngồi sửng làm như con chim nhỏ nhìn thấy diều hâu bay trên trời .

Hai anh em song sinh nhìn nhau, gật đầu, nhưng chẳng hiểu ra sao cả .

Stuart lên tiếng trước:

− Thằng Jeems nói đúng. Nhưng tao cũng không hiểu tại sao. Ông ơi! Ashley có nghĩa gì với nó đâu, chỉ là một người bạn. Nó có mê gì thằng Ashley, chỉ có bọn mình là nó khoái.

Brent gật đầu:

− Mầy có nghĩ là có lẽ Ashley không cho nó biết trước chuyện loan báo đêm mai nên nó nổi giận. Đã là bạn cũ thì nó cần được biết trước khi mọi người đều hay. Con gái thì đứa nào cũng coi việc biết trước những chuyện đó là quan trọng.

− Ừ, có thể là như vậy. Nhưng có ăn thua gì khi người ta không cho hay trước. Đó là chuyện cần giữ kín để tạo một sự bất ngờ vui vẻ, và người đàn ông có quyền giữ riêng chuyện cưới hỏi của họ chớ, phải không? Bọn mình có lẽ cũng không biết nếu cô của Melly không nói ra. Nhưng phần Scarlett thì phải biết chuyện đó phải xảy ra. Từ nhiều năm nay ai cũng biết, dòng họ Quilkes và Hamilton luôn luôn gả cưới những người trong họ. Người nào cũng biết là Ashley sẽ cưới Melly một ngày nào đó, cũng như Honey Quilkes sắp kết hôn với em của Melly là thằng Charles.

− Thôi, tao chịu thua. Nhưng tao vẫn khó chịu vì con nhỏ không mời mình ở lại ăn tối. Tao thề là tao không muốn về nhà giờ này để nghe má tụng về chuyện bị đuổi học.

− Có lẽ giờ này anh Boyd đã làm dịu được bà già. Anh ấy già mồm lắm, lúc nào cũng có thể làm bà già nguôi giận.

− Đồng ý, nhưng Boyd phải mất nhiều thì giờ. Ảnh phải nói quanh co cho tới khi má không rõ là chuyện gì nữa cả và bảo ảnh bớt nói lại để giữ giọng trong khi thực tập làm luật sư. Nhưng tao lo là ảnh chưa tìm ra chỗ đúng lúc. Tao cá với mầy là má vẫn còn xúc động nhiều về con ngựa mới về, đến nỗi không nhận ra là bọn mình đã trở về . Rồi, tới tối nay khi ngồi vào bàn ăn, thấy anh Boyd… Và trước khi bữa ăn kết thúc, má vẫn hét ra lửa. Và có thể là tới 10 giờ đêm, trước khi anh Boyd nói cùng má là tụi mình chẳng đứa nào còn mặt mũi nếu cứ ở lại trường, sau khi ông Viện trưởng mắng tao và mầy xối xả. Và cho tới nửa đêm, anh Boyd mới có thể chọc tức được má khiến má giận ông Viện trưởng, và hỏi anh Boyd sao không bắn ông ta. Không, tụi mình không thể về nhà trước nửa đêm.
Hai anh em buồn bã nhìn nhau. Họ bất chấp ngựa hoang, họ dám dây huyên náo và bất bình cho những người láng giềng, nhưng họ lại kinh hoảng trước lời lẽ nhiếc móc của người mẹ tóc đỏ, cũng như ngọn roi ngựa mà bà không ngần ngại quất vào mông họ.

Brent đề nghị:

− Hay là mình sang nhà Quilkes. Ashley và bọn con gái chắc sẵn sàng mời ăn.

Stuart vẫn băn khoăn:

− Không, đừng qua đó . Họ còn bận lo các món ăn trong buổi dã yến ngày mai, vả lại …

Brent nói mau:

− Ồ, tao quên mất. Thôi, không qua đó .

Họ thúc ngựa và đi bên nhau trong yên lặng một lúc lâu, một thoáng ngại ngùng hiện ra trên đôi má nâu sậm của Stuart. Hè năm rồi, Stuart vẫn theo tán tỉnh India Quilkes với sự đồng ý của gia đình hai bên và của cả toàn hạt. Người trong hạt cho rằng tính tình trầm lặng của India có thể sẽ làm cho anh chàng bớt nóng nảy hơn. Tất cả đều mong như thế với bất cứ giá nào. Stuart có lẽ cũng thành hôn rồi nếu Brent không bất mãn. Brent cũng mến India nhưng cho rằng cô ta quá tầm thường và nhạt nhẽo, và anh ta không thể yêu India được chỉ vì còn muốn chơi thân với Stuart. Đó là lần đầu tiên, hai anh em bất đồng ý kiến, và Brent đã giận Stuart sao lại để mắt tới một thiếu nữ mà anh ta cho là chẳng có điểm nào đặc sắc.

Rồi, mùa hạ năm rồi, tại một cuộc hội thảo chính trị giữa khu rừng sồi ở Jonesboro, cả hai bỗng cùng để ý tới Scarlett O’Hara. Họ đã biết nàng từ nhiều năm, và ngay từ lúc bé, Scarlett đã là bạn thân thiết nhất của họ vì nàng cũng biết cỡi ngựa và trèo cây không kém họ. Nhưng bây giờ, trước sự ngạc nhiên của họ, Scarlett đã biến thành một thiếu nữ thanh lịch đã tới tuổi trưởng thành, và là một thiếu nữ kiều diễm nhất đời.

Lần đầu tiên họ để ý tới ánh mắt xanh biếc và linh hoạt của nàng cười, đến đôi tay và đôi chân nhỏ nhắn cùng vùng eo thon. Những nhận định của họ khiến Scarlett cười dòn tan, và tự nghĩ rằng nàng đã coi hai anh em mình như những kẻ xuất sắc, họ đâm ra tự đánh giá cao hơn.
Đó là ngày đáng ghi nhớ nhất trong đời hai anh em song sinh. Về sau, mỗi lần nhắc lại, họ cứ mãi tự hỏi tại sao không nhận ra nhan sắc của Scarlett sớm hơn. Chẳng bao giờ họ tìm ra một câu trả lời chính xác, bởi vì câu trả lời đó, Scarlett chẳng nói ra, bởi vì hôm đó, nàng quyết tâm làm hai anh em chú ý tới mình . Nàng tự nguyện là không bao giờ chấp nhận bất cứ một người đàn ông nào yêu một phụ nữ khác hơn mình, và khi thấy sự thân mật của Stuart và India tại buổi hội thảo, nàng không chịu nổi. Không riêng với Stuart, nàng còn quăng lưới cả Brent với tất cả quyết tâm làm cho họ mê mệt mình.

Và bây giờ, cả hai đều đã yêu nàng, India và Litty Munroe ở Lovejoy, cô gái mà Brent đã từng theo ve vãn, đều bị quên lãng . Rồi người thua cuộc sẽ làm gì, nếu Scarlett chọn một trong hai anh em, đó là điều mà họ không bao giờ nghĩ tới. Họ chỉ có việc phải qua cầu khi chiếc cầu hiện ra trước mắt. Ngay hiện thời, họ cũng hài lòng như nhau vì cùng chấm một cô gái, bởi vì giữa họ không hề có vấn đề ganh tị. Tình trạng đó khiến cho người láng giềng vô cùng thích thú, nhưng lại gây phiền muộn cho bà mẹ vì bà không thích Scarlett.

Bà nói:

− Rồi bọn bây sẽ biết nếu con nhỏ quỉ quái đó lấy một trong hai đứa bây. Không chừng nó sẽ lấy cả hai và chừng đó, bọn bây chỉ có nước dọn qua Utah nếu bọn Mormons chịu chấp nhận – nhưng đó là điều còn nghi ngờ – Tất cả những cái gì làm cho tao buồn nhứt là có ngày tụi bây say mèm và nổi ghen với nhau vì cái bị thịt, khuôn mặt và hai con mắt xanh lè đó, rồi bắn giết nhau. Nhưng dầu sao, đó cũng không phải là một ý nghĩ xấu.

Từ sau ngày dự cuộc hội thảo, Stuart đâm ra ngượng ngùng mỗi khi đối diện với India. Tình trạng đó không phải do India phiền trách hay tỏ dấu bằng ánh mắt hay cử chỉ là đã biết rõ sự thay đổi đột ngột của anh ta rồi. Nàng vẫn tỏ ra quá thanh lịch. Nhưng Stuart thì vẫn có mặc cảm phạm tội và bối rối trước mặt nàng. Anh ta biết là chính mình đã làm cho India yêu mình và cô nàng vẫn còn yêu, do đó, anh ta tự thấy là mình không xứng đáng. Anh vẫn thương nàng sâu đậm và trọng nể nàng qua phong cách dịu dàng, qua trình độ học vấn và tất cả những đức tính quí giá của nàng. Nhưng khốn nỗi, nàng vẫn cứ tái mét và xoàng xĩnh mãi mãi bên cạnh bóng sắc tươi sáng và bản chất phong phú của Scarlett. Bất cứ lúc nào người ta cũng đọc được ý nghĩ của India một cách dễ dàng, nhưng với Scarlett thì khó mà đoán được chút gì. Chỉ bao nhiêu đó cũng làm cho đàn ông thú vị lắm rồi.

− Thôi, mình qua Cade Calvert ăn tối đi. Scarlett cho biết là Cathleen vừa từ Charleston về. Có thể cô ta biết thêm được chút ít tin tức về căn cứ Sumter.

− Cathleen thì chẳng biết gì đâu. Tao cá hai ăn một là con nhỏ cũng không biết có căn cứ nằm trong hải cảng ở đó, đừng nói là biết đến chuyện có đầy nhóc quân Yankee cho tới khi mình đẩy bật chúng đi. Tất cả những gì mà cô ta biết là những cuộc khiêu vũ đã được tham dự, và mấy thằng nhân tình vớ được.

− Đúng vậy, nhưng nghe nó bí ba bí bô cũng vui tai. Ngoài ra, mình còn có chỗ để ẩn trú chờ khi má đi ngủ.

− Được rồi. Tao thích Cathleen và muốn nghe nó nói về chuyện Caro Rhett cùng những người quen biết khác ở Charleston. Nhưng dầu có bị đày xuống địa ngục, tao cũng khó ngồi chung bàn ăn lần nữa với bà mẹ kế người Yankee của cô ta.

− Đừng nặng lời, Stuart, bà ta là người tốt.

− Tao có ác ý gì với bà ta đâu. Tao thương hại bà ta, nhưng tao không thích những kẻ làm cho mình thương hại họ. Bà ta, lúc nào cũng rối rít, săn đón, cố làm cho khách được thoải mái, cuối cùng chỉ nói và làm toàn những chuyện không phải chỗ . Bà ta làm tao muốn đứt thần kinh luôn. Và cho rằng người miền Nam toàn là những kẻ man rợ. Có lần bà ta nói với má như vậy. Bà ta sợ người Nam lắm. Hễ lúc nào mình tới là bà ta sợ điếng hồn. Trông bà ta không khác một con gà mái ốm đứng co ro trên ghế, mắt trợn trừng trắng dã, sẵn sàng kêu hoảng và đập cánh dầu chỉ với một tiếng động thật nhẹ.

− Mầy không nên trách bà ta. Chính mầy đã bắn vào chân thằng Cade.

− Hôm đó tao say quá, nếu không tao đâu có làm vậy . Mà thằng Cade có thù hận gì đâu. Cả Cathleen, Raiphord và ông Calvert cũng không nói gì. Chỉ có cái bà mẹ ghẻ Yankee đó là la ầm lên, mắng tao là quân mọi rợ và cho rằng người lịch sự không thể nào sống yên được với người Nam kém văn minh.

− Hừ, mầy không thể trách bả . Bả là người Yankee, không quen với những hành vi mã thượng . Vả lại, dù sao thì mầy cũng đã bắn thằng con ghẻ của bả.

− Mẹ kiếp, đó không phải là lý do để mắng chửi tao. Mày là con đẻ của má, nhưng má có la ầm ĩ vậy đâu khi mầy bị thằng Tony Phontaine bắn vào chân? Không, bà già chỉ cho mời lão bác sĩ Phontaine đến băng bó và còn hỏi cái gì đã làm cho thằng Tony bắn không trúng. Má lại đoán chừng vì rượu cho nên nó đã nhắm không trúng mục tiêu. Mầy có nhớ là thằng Tony Phontaine lúc đó giận vô kể không?

Cả hai anh em cùng cười vang dội.

Brent nói với tất cả tình thương mẹ:

− Má thật là cừ khôi. Mình có thể luôn luôn tin tưởng ở má để làm đúng và khỏi phải lúng túng trước mặt những kẻ khác.

− Đúng, nhưng đêm nay, lúc mình về, má vẫn thừa khả năng làm mình bối rối trước mặt ba và đám con gái . Brent, tao đoán là tụi mình hết đi Âu châu được rồi. Má nói là nếu mình bị đuổi học lần nữa, thì hết được đi du lịch.

− Hừ, mình cóc cần, phải không? Có gì để xem ở Âu châu đâu? Tao cá là mấy người ngoại quốc đó chả có gì mà ngay ở Georgia này mình không có. Tao cá là ngựa họ không nhanh bằng ngựa mình, con gái không đẹp hơn, và tao dám chắc là họ không thể có được loại Whisky bằng lúa mạch nào đương nổi với rượu của ba.

− Ashley Quilkes bảo là họ có cả khối hí viện và phòng hoà nhạc. Ashley thích Âu châu. Anh ta cứ nói tới luôn.

− Hừ … Mầy đã biết dòng họ Quilkes ra sao rồi mà. Họ say mê âm nhạc, sách vở và sân khấu. Má cho biết đó là do nội tổ của họ gốc Virginia. Má bảo là xứ Virginia rất say mê những thứ đó.

− Mặc họ . Cứ cho ta một con ngựa giỏi để cỡi và rượu ngon để uống, gái đẹp để ve vãn, một cô khác lẳng lơ để đùa giỡn là mọi người mặc tình ôm lấy Âu châu của họ … Không được du lịch thì ăn nhằm gì. Thí dụ như lúc này mình đang ở Âu châu và chiến tranh xảy ra thì sao? Làm sao mình về sớm kịp? Đánh giặc còn sướng hơn đi Âu châu nhiều.

− Tao cũng nghĩ vậy, ngày nào … Ê, Brent, tao biết chỗ mình có thể tới kiếm ăn rồi . Bây giờ mình băng qua đầm tới chỗ của Able Quynder, cho anh ta biết là cả bốn đứa đều về tới và sẵn sàng tập quân sự.

Brent reo mừng:

− Ý kiến hay. Bọn mình còn biết thêm tất cả các tin tức liên quan tới Bộ đội và coi họ đã chọn màu sắc nào cho quân phục.

− Nếu quân phục giống của bọn Zouave thì dù có bị đày xuống địa ngục, tao cũng không nhập ngũ . Mặc cái thứ quần đỏ rộng thùng thình đó, tao sẽ giống hệt một tên lại cái . Trông nó có vẻ như là quần lót bằng nỉ đỏ của đàn bà.

Gã hắc nô nói xen vào:

− Bộ mấy cậu tính sang nhà ông Quynde’ hả ? Tới đó không có gì ăn đâu. Thằng bết chết rồi mà ổng cũng chưa mua được đứa mới, Bây giờ là một con mẹ làm việc ngoài đồng vô nấu ăn, tụi da đen cho biết con mẹ đó nấu ăn tồi nhất nước.

− Coi kìa, sao không mua một đứa làm bếp khác ?

− Mấy người da trắng nghèo cặn bã đó làm sao mua nổi người da đen? Ở nhà không khi nào có hơn được bốn đứa.

Giọng nói của Jeems biểu lộ rõ sự khinh thường. Địa vị xã hội của nó được kể như được bảo đảm vì họ Tarleton có cả trăm nô lệ, và cũng như tất cả các hắc nô ở những đồn điền lớn, nó khinh miệt các nông gia nghèo chỉ có vài đứa tớ.

Stuart giận dữ:

− Tao đập chết mầy bây giờ. Đừng dở giọng gọi Able Quynder theo kiểu đó. Ông ta nghèo nhưng không phải là cặn bã. Và dầu có bị đày xuống địa ngục, tao cũng nhứt định không để cho một kẻ nào, dầu đen hay trắng, chạm tới ông ta. Trong khắp hạt này, chẳng có người nào hơn ông ta nổi, nếu không thì tại sao được Bộ đội tuyển chọn làm Thiếu Uý?

Jeems vẫn không ngại nét mặt hầm hừ của chủ:

− Cái này thì thiệt là không hiểu nổi, đáng lẽ phải lựa sĩ quan trong các người giàu thay vì lựa đám cặn bã ở đầm lầy.

− Ông ta không phải là cặn bã, mầy nghe rõ chưa? Bộ mầy muốn so sánh ông ta với tụi da trắng cặn bã như Slattery hả ? Able không giàu, vậy thôi. Ông ta là một nông gia ít đất, không phải là chủ một đồn điền lớn, nhưng đó không phải là cái cớ để bất cứ đứa da đen nào xúc phạm tới ông ta. Bộ đội, người ta biết rõ chuyện phải làm.

Đội kỵ binh đã được thành lập 3 tháng trước, ngay trong ngày xứ Georgia tách ra khỏi liên bang, và cũng kể từ đó, các tân binh được huấn luyện gấp rút cho chiến tranh. Mặc dầu không thiếu những đề nghị, đội quân vẫn chưa có danh hiệu . Mỗi người đều có một ý kiến riêng và cứ muốn cho đó là ý kiến hay, cũng như mỗi người đều có một quan điểm riêng về màu sắc và kiểu quân phục . “Đoàn mèo rừng của Clayton”, “Những kẻ nuốt lửa”, “Kỵ binh miền Bắc Georgia”, “Đoàn quân Zouave”, “Các tay súng trường nội địa” (mặc dầu Bộ đội chỉ được võ trang súng lục và gươm giáo chớ không hề có súng dài), “Những người xám của Clayton”, “Đơn vị Máu và Sấm sét”, “Những kẻ gan lì”, … ngần ấy danh hiệu đều có người khăng khăng bênh vực . Trong khi chờ đợi quyết định, mọi người đều gọi tổ chức là Bộ đội, và danh hiệu đó thế rồi tồn tại luôn.

Sĩ quan được các đoàn viên đề cử lên, vì rằng không một ai trong hạt có được chút ít kinh nghiệm về quân sự, ngoại trừ một vài cựu chiến binh đã từng dự các trận chiến Mễ Tây Cơ (Mexico) và Seminole, ngoài ra Bộ đội không bao giờ chấp nhận cho một cựu chiến binh cầm đầu họ, nếu người đó không được họ mến chuộng và tin cậy . Mọi người đều thích bốn gã con trai của họ Tarleton và ba anh chàng của nhà Phontaine, nhưng buộc lòng không thể chọn vì đám Tartleton uống rượu mau say, còn đám Phontaine thì dễ nổi máu sát nhân. Ashley Quilkes được cử làm Đại uý nhờ có biệt tài kỵ mã, và tinh thần trầm tĩnh của chàng có thể nêu gương sáng trong quân ngũ để duy trì kỷ luật. Raiphord Calvert được đề bạt chức Trung úy, vì được mọi người mến chuộng. Phần Able Quynder, con một người làm nghề sập bẫy ở ao đầm, thì được làm Thiếu úy.

Able là một chàng khổng lồ, dốt đặc nhưng thông sáng, tốt bụng trọng tuổi hơn các thanh niên khác, và cũng sử xự hết sức thanh lịch trước mặt nữ giới. Trong Bộ đội ít người chú ý tới địa vị xã hội. Phần lớn ông bà và cha mẹ họ đều xuất thân từ thành phần nông dân nghèo khó, rồi mới dựng được cơ nghiệp đồ sộ như ngày nay. Hơn nữa, Able là tay súng thiện xạ nhứt trong Bộ đội, có thể bắn trúng phóc con mắt của một chú sóc ở cách xa khoảng bảy mươi thước, ngoài ra y lại còn thấu đáo tất cả nghệ thuật sống ngoài trời như nhóm lửa dưới mưa, theo chân thú và tìm ra mạch nước. Bộ đội thán phục chân tài đó, đã thế họ lại còn ưa thích y nên Able được đưa lên hàng sĩ quan. Y nhận lấy vinh dự ấy một cách đứng đắn, không tự kiêu, dường như cho đó là một chuyện cố nhiên. Tuy thế, các bà chủ sở và các nô lệ đồn điền không chịu quên rằng Able là kẻ thuộc dòng hạ lưu, mặc dù chồng con và chủ họ không lưu tâm tới điều đó.

Mới đầu, Bộ đội chỉ tuyển mộ riêng biệt con cái của các chủ sở, mỗi người tự sắm ngựa lấy, tự mua võ khí, quân trang, quân dụng và người theo hầu. Nhưng ở hạt Clayton chưa thành hình được bao lâu, làm gì có được nhiều chủ điền giàu có, bởi thế muốn có được một đoàn quân hùng mạnh, người ta phải gọi thêm tân binh trong đám con cái nông dân nghèo, thợ săn thú ở rừng sâu, các tay bẫy sập ở ao đầm, những người Cracker, và trong một số ít trường hợp, cả những người da trắng nghèo khổ, với điều kiện nếu họ khá hơn chút ít đối với người trong giới họ.

Những binh sĩ thuộc hạng sau này cũng nao nức được đánh quân Yankee không kém gì những làng giềng giàu có hơn. Rồi vấn đề khó khăn về tài chánh được nêu lên, chỉ một ít nông dân nghèo là có ngựa . Công việc đồng áng toàn là nhờ cả vào loại la, ít khi có hơn được bốn con. Họ không thể hy sinh những con la đó cho quân ngũ, dầu rằng Bộ đội chịu chấp nhận, nhưng đó là chuyện hoàn toàn không ai nghĩ tới. Riêng những người da trắng nghèo khổ, có được một con la cũng đã khá lắm rồi. Phần các thợ săn trong rừng rậm, những người sống bằng bẫy sập, thì chẳng có ngựa mà cũng chẳng có la. Họ chỉ sống toàn là nhờ vào thú săn hay bẫy được rồi mang đi bán, nên quanh năm có khi chẳng được 5 Mỹ kim tiền mặt. Việc sắm ngựa và quân phục vượt quá tầm tay họ . Nhưng họ cũng kiêu hãnh ghê gớm về sự nghèo khó của mình, chẳng khác gì những ông chủ đồn điền tự đắc về sự nghiệp lớn lao, và họ nhứt định không đón nhận bất cứ những gì được coi như lòng từ thiện của những láng giềng giàu có . Do đó, để giữ được sĩ diện của mọi người, đồng thời cũng nhằm tăng cường sức mạnh cho Bộ đội, cha của Scarlett, các ông John Quilkes, Buck Munroe, Jim Tarleton, Hugh Calvert, nói chung là mỗi chủ sở to lớn trong hạt, ngoại trừ người duy nhứt là Angus Mac-in-tosh, đều đóng góp tiền bạc để lấp bằng sự khiếm khuyết của Bộ đội, cả ngựa lẫn người. Chung cuộc là mỗi chủ nhân đồn điền đồng ý xuất tiền sắm quân trang, quân dụng cho con cái của họ và một số thanh niên khác, nhưng vấn đề quan trọng là phải dàn xếp thế nào để cho những người nghèo chịu nhận lãnh mà danh dự không bị tổn thương.

Mỗi tuần, Bộ đội tập hợp hai lần tại Jonesboro để thao luyện và cầu nguyện chiến tranh tới sớm. Mặc dầu chưa mua được đầy đủ ngựa, những kẻ có sẵn ngựa vẫn tới thao dượt trên cánh đồng phía sau pháp đình và diễn tập điều mà họ cho là kỹ thuật chiến đấu của kỵ binh, bụi cát tung bay mù mịt giữa những tiếng reo hò khản cổ và những cánh tay vun vút múa các thanh kiếm từ đời chiến tranh Cách Mạng vừa được tháo gỡ ở phòng khách xuống. Những người chưa có ngựa thì ngồi ở lề đường, trước cửa hiệu Bullard, nhìn theo đồng đội, vừa nhai thuốc lá vừa kể chuyện phiêu lưu mạo hiểm, hoặc thi đua bắn súng. Bất cứ người đàn ông nào ở miền Nam cũng không cần phải tập bắn, vì họ đều được sanh trưởng với khẩu súng trên tay, và các cuộc săn bắn thường xuyên đã biến họ thành những tay thiện xạ.

Từ những ngôi nhà rộng lớn của chủ đồn điền, tới các căn lều lụp xụp ở ao đầm là cả một sự khác nhau về vũ khí . Nào là những khẩu súng săn nạp đạn thượt dạo nào còn mới, nào những cây súng nạp đạn ở đầu nóng đã bắn hạ nhiều tên da đỏ vào thời kỳ tân khai xứ Georgia, những khẩu súng lục đã được sử dụng từ năm 1812 trong các trận chiến Seminol và Mễ tây cơ, súng cán bạc dùng để song đấu, súng bỏ túi, súng hai nòng và một vài cây súng trường mới tinh của Anh quốc, với bá gỗ bóng láng .

Các buổi tập dượt luôn luôn được chấm dứt ở các quán rượu nơi Jonesboro và cho tới lúc chiều tối thì nhiều vụ ấu đả xảy ra đến nổi các sĩ quan phải vất vả lắm mới tránh cho họ khỏi bị thương tích, trước khi quân Yankee có thể gây cho họ. Chính trong một của những cuộc xô xát đó mà Stuart Tarleton đã bắn Cade Calvert và Tony Phontaine bắn Brent. Hai anh em song sinh đang ở nhà, sau khi mới bị trục xuất khỏi Đại học Virginia, ngay lúc Bộ đội được thành lập và họ đã hăng hái gia nhập ngay, nhưng sau vụ bắn nhau, hai tháng trước bà mẹ lại bắt họ vào Đại học quốc gia và phải ở luôn tại đó. Họ buồn bực vì không được dự vào những dịp náo nhiệt qua các buổi tập luyện và nhận thấy rằng chuyện học hành thật là vô bổ, chỉ mong sao được cưỡi ngựa, hò hét và bắn súng với các bạn.

Brent nhắc lại:

− Thôi, mình băng đồng qua nhà Able đi. Mình vượt qua lòng rạch của ông O’Hara và đồng cỏ của nhà Phontaine là tới nơi trong chốc lát.

Jeems vẫn cố chống:

− Qua đó họ chỉ cho mình ăn toàn rau cải và thịt chuột rừng thôi.

Stuart nhíu mày:

− Còn mầy thì chẳng được ăn cóc gì. Mầy phải trở về nói cho má tụi tao hay là tụi này không ăn tối .

Jeems kêu hoảng:

− Không, tôi không đi đâu. Không, nhứt định không. Tôi không muốn bị bà Beetriss ném ra ngoài . Trước hết, bà hỏi tại sao tôi để hai cậu bị đuổi nữa . Kế nữa, bà hỏi tại sao tôi không đem hai cậu về tối nay để bà nện. Rồi bà nhảy tới chụp tôi như con vịt chụp con bọ và đổ hết lỗi cho tôi. Nếu hai cậu không dẫn tôi theo qua nhà ông Able Quynder, thì tôi sẽ ở trong rừng suốt đêm và sẽ bị lính tuần chộp đầu. Thà bị bắt còn sướng hơn là bị bà Beetriss vồ khi bà nổi xung.

Hai anh em song sinh nhìn nét mặt cương quyết của gã da đen, vừa do dự vừa bực tức .

− Điên khùng như nó thì dễ bị lính tuần bắt lắm, mà như vậy là má sẽ có chuyện để chế nhạo thêm mấy tuần. Tao quả quyết là bọn da đen còn rắc rối hơn ai hết. Lắm lúc tao nghĩ bọn chủ trương bãi bỏ chế độ mãi nô có lý.

− Để thằng Jeems gánh chịu những gì chính mình phải chịu là không tốt. Mình phải đem nó theo. Nầy thằng mọi khùng mặt dày mày dạn kia, nếu mầy lỡ lời hay làm bộ làm tịch trước đám hắc chủng của ông Quynder, và nói bóng nói gió là nhà mình luôn luôn ăn gà quay và đùi heo muối trong khi họ chỉ được ăn thỏ và chuột rừng thôi, thì tao… Tao sẽ nói cho bà biết. Và tụi tao cũng không cho mầy đi theo đánh giặc.

− Làm bộ làm tịch gì? Tôi mà phải cần lên mặt với lũ da đen rẻ tiền đó à? Thưa cậu, không đâu. Tôi là người đàng hoàng, lịch sự mà. Bà Beetriss dạy tôi cách xử sự cũng như đã dạy hai cậu.

Stuart chép miệng:

− Rất tiếc là bà già đã uổng công với cả ba. Thôi đi.

Anh ta thúc đinh giày vào hông ngựa khiến nó nhảy vọt qua một cách dễ dàng bức rào chắn giữa con lộ và đồn điền đất mềm của ông O’Hara. Brent phóng ngựa theo và kế đó là Jeems, nhưng gã da đen phải ôm ghì lấy bờm ngựa. Jeems không thích nhảy rào, nhưng nó buộc lòng phải phóng qua những bức rào cao hơn để luôn luôn theo sát chủ .
Giữa lúc ba thầy trò băng qua những luống cày đỏ sậm đi xuống triền đồi để tới lòng sông trong màn đêm buông xuống, Brent bỗng nói to với em:

− Ê, Stu! Mầy có thấy là đáng lý con Scarlett phải mời mình ở lại không?

Stuart đáp ngay:

− Theo tao thì phải vậy. Tại sao mầy nghĩ là …

Chương 2

Khi hai anh em song sinh để một mình Scarlett ở lại dưới vòm cổng Tara, và khi tiếng vó ngựa chìm khuất đằng xa, Scarlett đi trở về ghế như một kẻ thụy du. Da mặt nàng như bị căng ra vì đau đớn, và miệng thì đau nhức vì cứ phải cố nhoẻn cười để cho hai anh chàng Tarleton không phát giác được sự bí ẩn của mình. Nàng mệt mỏi ngồi xuống, co một chân lên lót dưới đùi, và tim nàng càng lúc càng phồng to trong nỗi thống khổ gần như sắp nổ tung. Nó cứ nhảy nhói lên từng lúc, hai bàn tay lạnh ngắt với cảm giác của một sự sụp đổ có thể xảy ra. Mặt nàng lộ rõ niềm đau xót và vẻ ngẩn ngơ, sự ngẩn ngơ của một đứa bé được nuông chìu, lúc nào cũng được thoả mãn tất cả những gì đòi hỏi để rồi bây giờ, lần đầu tiên trong đời, bị roi đời quất ngược.

Ashley sắp cưới Melanie Hamilton!

Ô, đó không thể là sự thật! Hai gã Tarleton đã lầm. Họ chỉ đùa nghịch theo bản tính của họ thôi. Ashley không thể, không có thể yêu được Melanie. Không một ai có thể yêu được cô gái loắt choắt và nhát nhúa đó. Scarlett khinh bỉ nhớ lại thân hình gầy xẹp như con nít đó, với cái khuôn mặt trái tim quá tầm thường không gợi lên được một chút hứng khởi nào. Và Ashley có thể không gặp cô ta từ nhiều tháng nay. Chàng đã không có mặt ở Atlanta quá hai lần kể từ khi tổ chức một cuộc hội họp vào năm ngoái ở Twelve Oaks. Không, Ashley không thể yêu được Melanie vì chàng… – Ô, nàng không thể lầm lẫn được – Bởi vì chàng đã yêu mình! Phải, chính Scarlett là người được chàng yêu, nàng quá rõ điều đó!

Nghe tiếng bước chân nặng nề của Mammy làm rung chuyển sàn nhà trước, Scarlett vội vàng kéo chân ra và cố làm vẻ tỉnh táo. Không nên để cho Mammy nghi ngờ. Mammy tự cho là cả họ O’Hara thuộc về bà, cả thể xác lẫn linh hồn, và những bí ẩn của họ cũng chính là những bí ẩn của đời bà, và chỉ cần nghi ngờ một chút thôi là cũng đủ làm cho bà cương quyết phát giác cho kỳ được với sự xông xáo của loài chó săn. Qua kinh nghiệm, Scarlett hiểu rõ là nếu sự tò mò chưa được giải toả, nhứt định là Mammy sẽ nói lại với Ellen và chừng đó, Scarlett sẽ bị bắt buộc phải cung khai tất cả với mẹ nàng, hoặc phải nghĩ ra một chuyện nói dối cho có vẻ thuận lý.

Mammy bước ra, một phụ nữ đồ sộ và lớn tuổi với đôi mắt nhỏ bé nhưng tinh quái như mắt voi. Da đen bóng, đúng giống người Phi châu, và sẵn sàng trung thành với dòng họ O’Hara tới giọt máu cuối cùng, bà là điểm tựa chánh của bà Ellen, là nỗi chán chường của ba cô con gái và là sự khủng khiếp đối với tất cả tôi tớ trong nhà. Mammy là người da đen nhưng thái độ xử sự và ý thức tự trọng của bà đôi khi còn cao hơn chủ. Bà được nuôi nấng từ nhỏ trong nhà bà Solange Robillard, mẹ của bà Ellen O’Hara, một phụ nữ Pháp, mũi cao và nghiêm khắc, không ngần ngại trừng phạt con cái hoặc gia nhân mỗi khi có ai làm gì thương tổn đến gia phong. Bà là nhủ mẫu của Ellen và cùng đi với chủ từ Savannah tới cao nguyên sau ngày Ellen lấy chồng. Người nào được Mammy thương thì người ấy luôn luôn bị la rầy. Và vì quá yêu quí Scarlett, và đã đặt tất cả hãnh diện vào, nên sự quở phạt của bà gần như liên tục.

− Mấy cậu về rồi sao? Sao không mời người ta ở lại dùng bữa ? Tôi đã bảo Pork dọn thêm hai bộ dĩa cho họ . Đó là lối xã giao nào vậy?

− Ối, tôi đã chán nghe họ nói chuyện chiến tranh đến nổi không thể nào chịu đựng thêm nữa suốt bữa ăn, nhứt là khi có ba phụ họa và không ngớt la ó về ông Lincoln.

− Cô cư xử không hơn một đứa quê mùa. Bao nhiêu công khó của tôi và bà Ellen cuối cùng chẳng ra gì. Và cô lại không choàng khăn nữa! Và đêm lại lạnh! Tôi đã nói bao nhiêu lần rồi là cô sẽ bị cảm sốt nếu ngồi ngoài trời đêm mà không chịu choàng khăn lên vai. Đi vào nhà đi, cô Scarlett.

Scarlett quay mặt sang phía khác với dáng điệu cố làm ra vẻ ung dung, mừng thầm là Mammy đã không phát hiện ra được gì bởi bận tâm về vụ khăn choàng.

− Không, tôi muốn ngồi đây để ngắm mặt trời lặn. Đẹp lắm. Mammy làm ơn vào lấy giùm khăn choàng đi, tôi sẽ ngồi đây đợi ba về.

Giọng Mammy nghi ngờ:

− Coi, sao tiếng nói của cô giống như bị cảm vậy?

Scarlett hơi lo:

− Không phải đâu. Bà vào lấy khăn dùm đi.

Mammy lệch bệch đi vào nhà và Scarlett nghe tiếng bà gọi đứa tớ gái trên lầu:

− Rosa đâu? Ném cái khăn choàng của cô Scarlett xuống đây.

Và giọng bà trở nên gắt gỏng hơn:

− Đồ mọi cái ăn hại! Lần nào gọi cũng không có. Bây giờ tao lại phải đích thân lên đó lấy.

Scarlett nghe thang lầu kêu răng rắc và nàng nhẹ nhàng đứng lên. Khi Mammy trở ra, bà ta lại nhai tới nhai lui về thái độ khiếm nhã của Scarlett đối với khách, và nàng sẽ không chịu đựng nổi những lời vô vị nhạt nhẽo đó trong khi tim nàng sắp vỡ toang ra. Giữa lúc nàng đứng đó, ngập ngừng chưa biết tìm chỗ nào ẩn lánh, để chờ cho sự đau đớn trong lồng ngực dịu bớt đi, thì một ý nghĩ chợt loé lên, mang tới một tia hy vọng. Cha nàng đã đi qua bên Twelve Oaks, đồn điền của họ Quilkes hồi xế này để mua Dilcey, người vợ to lớn của người hầu Pork. Ở Tquelve Oaks, Dilcey vừa là trưởng toán nữ gia nhân vừa và cô đỡ, và kể từ đám cưới sáu tháng trước cho tới nay, Pork cứ theo quấy rầy chủ từ sáng tới tối về chuyện xin mua Dilcey về để cho hai vợ chồng được sống chung trong một đồn điền. Và xế nay, sau khi đã mềm lòng, ông Gerald đã sang bên đó để thương lượng việc mua Dilcey.

Scarlett nghĩ, chắc chắn ba biết rõ chuyện đó có thật hay không. Dầu cho người chẳng nghe được rõ rệt điều gì, có thể người cũng nhận thấy một dấu hiệu nào đó qua sự xôn xao bên nhà họ Quilkes. Nếu mình có thể gặp riêng ba trước lúc ăn tối, có thể mình sẽ biết ra sự thật, đó chỉ là một trong những trò đùa ác hại của anh em song sinh.

Đã tới lúc Gerald sắp về, và nếu nàng có ý định gặp riêng ông thì chẳng có cách nào khác hơn là đón ông ở ngay chỗ giáp giới của đường mòn và quan lộ. Nàng rón rén bước xuống các bực thềm, vừa ngoái đầu nhìn lại để biết chắc là Mammy không từ trên các cửa sổ lầu nhìn theo. Không bắt gặp khuôn mặt đen to lớn nào với mái tóc trắng như tuyết núp sau màn cửa, nàng bạo dạn kéo tà áo xanh thêu hoa lên, và chạy về phía đường mòn với tất cả sức nhanh của đôi giày nhỏ buộc dây.

Tàng cây bách hương từ hai bên con đường trải sạn giao đầu vào nhau làm thành một mái vòm trên cao, biến con đường dài thành một đường hầm tối ám. Ngay khi vừa chạy tới phía dưới những tàng cây bách hương, nàng biết là đã thoát khỏi tầm quan sát của người nhà, nên đi chậm lại . Vì dây nịt áo đã được buộc quá chặt, Scarlett mệt thở chẳng ra hơi, nhưng vẫn cố cố gắng bước mau. Chẳng mấy lúc nàng đã ra tới đường cái, nhưng cứ tiếp tục đi cho tới một khúc quanh, nơi có một lùm cây to làm thành một bức bình phong giữa nàng và ngôi nhà.

Mặt đỏ ửng và thở hồng hộc, nàng ngồi lên một gốc cây bị đốn để đợi cha. Đúng ra thì giờ này ông đã về nhưng nàng lại hài lòng vì ông đã về muộn. Khoảng thời gian chậm lại đó sẽ giúp cho nàng điều hoà hơi thở và lấy lại bình tĩnh trên nét mặt để cha khỏi nghi ngờ. Cứ mỗi lúc nàng tưởng như nghe thấy tiếng vó ngựa khua, và thấy cha phóng nhanh lên đồi với tốc độ nguy hiểm quen thuộc của ông. Nhưng thời gian cứ trôi qua mà Gerald vẫn chưa về tới. Nàng ngó mong xuống đường và trái tim lại bắt đầu căng phồng thêm mãi .
Nàng nghĩ:

− Ô, đó không thể là sự thật! Tại sao ba chưa chịu về ?

Nàng đưa mắt dài theo con đường quanh co, đỏ như màu máu sau trận mưa buổi sáng. Nàng phác hoạ trong đầu một con đường chạy dài xuống triền núi, cho tới dòng sông Phlint lặng lờ, băng qua những đầm lầy, rồi leo lên ngọn đồi kế đó dẫn tới vùng Twelve Oaks, nơi Ashley cư ngụ. Bây giờ con đường đó đã có ý nghĩa khác hơn, con đường đưa tới Ashley và ngôi nhà xinh xắn với hàng cột trắng toát sừng sững trên đồi như một đền Hy lạp.

− Ô, Ashley, Ashley!

Nàng nghĩ tới chàng và tim đập rộn.
Cái cảm giác lạnh buốt của nỗi ngỡ ngàng và sự sụp đổ đè nặng lên nàng do sự thóc mách của hai anh em Tarleton gây ra đã bị đẩy lui và thay vào đó là ngọn lửa nóng bỏng đã nung nấu lòng nàng từ hai năm qua.

Kể cũng lạ là từ khi lớn lên, nàng nhận thấy ở Ashley chẳng có gì là hấp dẫn cả. Từ những ngày thơ ấu, nàng thấy chàng đến rồi đi và chẳng chú ý gì hơn. Nhưng cho tới một ngày cách đây hai năm, khi Ashley trở về sau ba năm du lịch Âu châu, đến Tara thăm viếng, nàng chợt thấy đã yêu chàng. Chỉ giản dị thế thôi.

Hôm ấy, nàng đang đứng trên thềm và Ashley cỡi ngựa đi trên con đường dài, y phục bằng nỉ mỏng toàn màu xám và chiếc cà vạt rộng khổ màu đen làm nổi bật chiếc sơ mi xếp nếp hình tổ ong. Cho tới bây giờ, nàng vẫn còn hình dung được từng chi tiết về y phục của chàng, đôi giày bóng sáng chói làm sao ấy và cái kẹp mang hình đầu nữ quái Medusa, chiếc nón Panama rộng vành mà chàng vội lấy xuống cầm tay ngay khi thấy mặt nàng. Chàng đã nhẹ nhàng rời lưng ngựa và ném dây cương cho một thằng bé da đen, để ngắm nàng với đôi mắt mở to, với nụ cười nở rộng, và ánh mắt tươi sáng đã biến mái tóc vàng óng ả của chàng thành một mũ bạc rực rỡ. Và chàng đã nói : “Em lớn lắm rồi, Scarlett ạ”. Và nhẹ nhàng bước lên các bậc thềm, chàng đã hôn tay nàng. Và giọng nói của chàng! Nàng không bao giờ quên được nhịp nhảy rộn ràng của tim mình, khi nghe giọng nói ấy lần đầu tiên, nó êm lướt, trầm ấm và dìu dặt làm sao!

Nàng đã thấy cần chàng, ngay phút đầu tiên, cần một cách đơn giản và không thiết tìm hiểu, như nàng đã thấy cần có thức ăn, có ngựa cỡi và một chiếc giường êm dịu.
Luôn hai năm, chàng đã đưa nàng dạo chơi khắp hạt, dự các buổi khiêu vũ, câu cá, các bữa ăn ngoài trời… không quá thường xuyên như hai anh em Tarleton hoặc Cade Calvert, không gây bực mình như mấy gã con trai nhỏ tuổi nhà Phontaine, không hề bỏ sót một lần viếng Tara mỗi tuần.

Thật ra, chàng chưa bao giờ nói yêu nàng và đôi mắt màu lam đó cũng chưa bao giờ chiếu ra những tia nóng rực mà Scarlett từng bắt gặp ở những đàn ông khác. Vậy mà … vậy mà … nàng biết chàng đã yêu nàng. Nàng không thể lầm lẫn được. Linh cảm mạnh hơn lý trí và sự hiểu biết nhờ vào kinh nghiệm cho nàng hay là chàng đã yêu nàng. Lắm lần nàng đã bắt gặp ánh mắt chàng không thờ thẫn và xa vắng nữa, khi chàng nhìn nàng nửa khao khát nửa buồn rầu, khiến nàng không hiểu ra sao cả . Nàng đã biết chàng yêu mình. Tại sao chàng không chịu nói ra? Đó là điều nàng không hiểu nổi. Nhưng cũng còn quá nhiều chuyện liên quan tới chàng mà nàng không hiểu nổi.

Chàng luôn luôn lễ độ, nhưng xa cách. Không ai đoán được chàng đang nghĩ gì, Scarlett lại còn kém hơn ai cả . Ở một nơi mà mọi người đều có thói quen nói trắng ra mọi ý nghĩ của mình, thì thái độ dè dặt của Ashley khiến cho nhiều người phải bực mình . Chàng cũng xuất sắc như tất cả những thanh niên khác về những trò tiêu khiển trong hạt như săn bắn, đánh bạc, khiêu vũ và chánh trị, mà cũng là tay kỵ mã có biệt tài hơn cả, nhưng càng khác biệt hẳn mọi người trong việc cho rằng các hoạt động thú vị đó không phải là mục đích của đời mình. Và chàng đã riêng rẽ tìm nguồn vui trong sách vở, âm nhạc và say mê thi văn.

Ô, tại sao tóc chàng lại vàng óng đến thế, tại sao lại lễ độ cách biệt như thế, tại sao lại quá cuồng nhiệt bận tâm kể những mẫu chuyện về Âu châu, âm nhạc, thi văn và những chuyện mà nàng không thấy thú vị chút nào – nhưng lại là người rất đáng yêu? Đêm đêm ,mỗi khi lên giường, sau khi đã ngồi nói chuyện với chàng trong ánh sáng mờ mờ ở thềm nhà, nàng trằn trọc luôn nhiều giờ và chỉ tự an ủi với ý nghĩ là chàng sẽ mở lời trong lần gặp tới. Nhưng lần gặp tới diễn qua đi, nhưng kết quả chẳng có gì – chẳng có gì ngoại trừ cơn sốt trong nàng cứ dâng cao và nóng bỏng hơn thêm.

Nàng yêu chàng, cần thiết có chàng, nhưng không sao hiểu được chàng. Nàng thẳng thắn và giản dị như những ngọn gió thổi qua Tara, như con sông đục vàng uốn quanh đồn điền, và có lẽ cho tới ngày cuối của cuộc đời nàng vẫn không sao hiểu nổi một chuyện gì phức tạp. Và bây giờ, lần đầu tiên trong đời, nàng phải đương đầu với một tình trạng phức tạp.

Ashley được sinh ra từ dòng dõi của những người quen dùng sự nhàn hạ của họ để suy nghĩ chớ không phải để hành động, để theo đuổi những giấc mộng màu sắc rực rỡ không một chút thực tế. Chàng sống giữa một nội giới đẹp đẽ hơn xứ Georgia và chỉ bước vào thực tế một cách miễn cưỡng. Chàng nhìn xem mọi người, không ưa cũng không ghét họ. Chàng nhìn xem cuộc đời, không phấn khởi cũng không sầu não. Chàng chấp nhận cái vũ trụ trong đó có một chỗ cho mình, và mặc nó ra sao, chàng nhún vai quay trở về với sách vở, âm nhạc và cái thế giới mỹ miều hơn của riêng mình.

Scarlett không hiểu được vì sao chàng có thể chiếm được hồn nàng, trong khi đầu óc chàng vẫn cứ là của một kẻ xa lạ đối với nàng. Chính cái sự bí ẩn của chàng đã khơi dậy tính tò mò của nàng, giống như một cánh cửa không then cài, không ổ khóa. Những gì ở chàng mà nàng không hiểu nổi lại càng làm cho nàng yêu chàng hơn lên, và thái độ tán tỉnh kỳ lạ, hạn chế của chàng, càng khiến nàng thêm cương quyết chiếm chàng cho kỳ được. Nàng không bao giờ nghi ngờ việc một ngày nào chàng sẽ ngỏ lời vì nàng hãy còn quá trẻ và quá được nuông chiều để có thể chấp nhận được một sự thất bại nào. Và bây giờ, tin tức kinh khủng đó đã đến với nàng như một tiếng sét bên tai. Ashley sắp cưới Melanie! Không thể có thật được!

Tại sao, chỉ mới tuần qua thôi, trong khi hai người từ Phairhill cỡi ngựa về vào một buổi hoàng hôn, chàng đã nói: “Scarlett, anh có một chuyện quan trọng muốn nói với em, nhưng anh không biết phải ngỏ ý như thế nào”.

Nàng đã ngượng ngùng nhìn xuống, tim đập rộn ràng, cho rằng giây phút thần tiên đã tới . Nhưng rồi chàng lại nói: “Bây giờ thì không còn đủ thời giờ để nói. Ô, Scarlett, anh đúng là một kẻ khiếp nhược!” Và anh thúc vào hông ngựa, chàng phóng lên triền đồi Tara.

Ngồi trên gốc cây, Scarlett nhớ lại những lời lẽ đó đã từng làm cho nàng ngây ngất, và bỗng nhiên nàng lại thấy nó có một ý nghĩa khác, một ý nghĩa gớm ghiếc. Phải chăng chàng đã có ý muốn báo tin lễ hỏi này?

Ô, ước gì ba về tới lúc này! Nàng không thể chịu đựng thêm được nữa. Nàng lại sốt ruột đưa mắt nhìn suốt con đường và một lần nữa, nàng thất vọng.

Mặt trời đã chìm khuất và chân trời đỏ chói bây giờ đã xuống màu hồng lợt. Vòm trời màu thiên thanh từ từ biến thành xanh lam như màu vỏ trứng họa mi, và sự yên tĩnh lạ thường của cảnh chiều tà nơi đồng nội len nhẹ vào nàng. Bóng tối nhòa nhòa lan rộng. Những đường cày hồng thắm và con đường trải dài vắt ngang đồng ruộng như một vết thương đỏ ối đã mất hẳn cái màu máu huyền bí của nó, chỉ còn lại màu nâu trơ của đất. Bên kia đường trên đồng cỏ, ngựa, la và bò cái đứng im lìm, thò đầu qua rào, chờ đợi về chuồng. Chúng không chịu được những cái bóng đen ngòm của các lùm cây rậm rạp mọc quanh đồng cỏ, và phe phẩy vành tai về phía Scarlett, dường như khoan khoái được có người bên cạnh.

Trong bóng tối chập chờn, những cây thông cao lớn bên bờ rạch lầy lội lúc nãy tươi xanh dưới nắng chiều, bây giờ đã đen sậm trên nền trời xám màu chì trông như một hàng người khổng lồ có phận sự che khuất dòng sông vàng đục dưới chân. Trên ngọn đồi bên kia sông, mấy ống khói cao vút và trắng toát của nhà họ Quilkes từ từ mờ khuất vào bóng đen của những cây sồi rậm rạp chung quanh, và xa xa chỉ có các đốm sáng của những ngọn đèn ăn tối mới chứng tỏ nơi đó có một ngôi nhà . Hương hoa cỏ mùa xuân ấm áp và ẩm ướt, trộn lẫn với mùi đất mới cày và tất cả những cây lá vươn lên, khiến hồn nàng nhẹ lâng lâng.

Cảnh mặt trời lặn, tiết xuân nồng và cây cỏ xanh tươi mới mẻ không phải là chuyện lạ đối với Scarlett. Với nàng, vẻ đẹp thiên nhiên cũng như không khí để thở và nước để uống, bởi vì chưa bao giờ nàng ý thức được một sự xinh đẹp nào khác hơn là nét đẹp trên khuôn mặt đàn bà, nét đẹp qua vóc dáng của loài tuấn mã, của các loại áo lụa và của tất cả những gì có thể sờ mó được . Thế nhưng, bóng tối mong lung yên tĩnh, bao trùm mảnh đất khéo chăm sóc của Tara đã đem lại cho đầu óc rối loạn của nàng một chút lắng dịu . Nàng đã quá yêu mảnh đất này mà không ngờ tới, yêu nó như yêu khuôn mặt của mẹ trong giờ cầu kinh dưới ánh đèn.

Trên con lộ quanh co, vẫn chưa thấy bóng Gerald. Nếu Scarlett phải đợi lâu hơn nữa, chắc chắn Mammy sẽ ra tìm và bắt buộc nàng phải vào nhà với những lời quở trách. Nhưng giữa lúc nàng đang mòn mỏi ngóng nhìn con đường tối sẫm, nàng chợt nghe có tiếng vó ngựa phía dưới đồng cỏ và thấy bò ngựa hoảng hốt chạy tán loạn. Gerald O’Hara đang băng đồng với tất cả tốc độ.

Ông đang phóng bay lên đồi trên lưng con ngựa mập mạp với 4 chân dài thon mảnh. Từ xa, trông ông như một đứa bé ngồi lỏng lẻo trên lưng con vật dềnh dàng. Mái tóc dài bạc trắng bay xoả ở phía sau, ông vừa thúc ngựa vừa hò hét, vung roi.

Mặc dầu tràn ngập bởi nhiều nỗi lo buồn, Scarlett vẫn không khỏi ngắm nhìn cha với một sự hãnh diện trìu mến, bởi vì Gerald quả là một tay kỵ mã đại tài.

Nàng tự hỏi: “Chẳng biết tại sao người cứ luôn luôn thích nhảy rào mỗi khi đã có chút rượu vào. Và nhứt là sau khi đã ngã té năm rồi làm gãy xương đầu gối. Mình tưởng là chỉ một bài học đó cũng đủ lắm rồi, và đặc biệt là đã thề với má rằng không bao giờ, không bao giờ nhảy nữa”.

Scarlett không sợ cha mà còn cảm thấy gần gũi với ông hơn là hai cô em gái, bởi vì Gerald thường kiêu hãnh một cách trẻ con với đôi chút sảng khoái, sau khi phạm tội trong những lần nhảy rào giấu vợ. Tính khí đó thích hợp với sự thích thú ngầm của nàng mỗi khi qua mặt được Mammy. Scarlett đứng lên để ngắm nhìn cha.

Con ngựa cao lớn đã tới sát rào, nó thu mình lại và bay bổng qua rào dễ dàng như một con chim, trong khi người cỡi reo hò nhiệt náo, ngọn roi vụt đen đét trên không, và những lọn tóc bạc phơ bay phất phới . Gerald không nhìn thấy con đang đứng khuất mình trong bóng cây. Ông dừng cương lại trên đường, vỗ nhẹ vào cổ ngựa với sự tán thưởng.

− Không một con ngựa nào trong toàn hạt này có thể sánh được với mầy. Cả nước chắc cũng không.

Ông kiêu hãnh nói với con vật bằng giọng Ái nhĩ lan mà ông vẫn chưa bỏ được, mặc dầu đã sống trên đất Mỹ ba mươi chín năm rồi. Rồi ông hối hả vuốt lại mái tóc rối bời, sửa áo cho thẳng thớm và kéo lại chiếc cà vạt đang vắt ở mang tai. Scarlett biết rõ là cha nàng đang sửa soạn để đến khi gặp mẹ nàng, ông có được cái dáng điệu của một con người phong nhã vừa đi viếng bạn trở về một cách thong dong. Nàng cũng biết là tình cảnh đó rất thuận lợi để nàng bắt chuyện với cha, mà khỏi phải cần nêu lý do xác thực.

Nàng cười lớn lên, và quả đúng như điều mong mỏi, tiếng cười làm cho Gerald giựt nẩy mình, nhưng ngay khi nhận ra Scarlett, khuôn mặt hồng hào của ông lộ rõ vẻ nửa ngượng ngùng nửa nghi ngại . Ông xuống ngựa một cách khó khăn vì gối cứng đơ, rồi quấn dây cương vào tay, ông khập khiễng đi về phía cô con gái.
Vừa nhéo vào má con, ông vừa hỏi:

− Nầy, tiểu thơ, có phải cô rình rập tôi để rồi cũng như con Suellen em cô tuần trước, mét lại với má cô không?

Giọng nói trầm khàn của ông pha lẫn một chút bất bình và tâng bốc. Scarlett vừa tróc lưỡi chọc cha vừa sửa lại chiếc cà vạt của ông cho ngay ngắn. Hơi thở của ông phà vào mặt nàng nực nồng mùi rượu Bourbon với một chút hương vị bạc hà. Người ông còn toát ra mùi thuốc lá, mùi da đánh bóng và mùi ngựa – một sự pha trộn của những thứ mùi mà nàng đã quen thuộc nơi cha, và tự nhiên nàng thấy thích như thế ở những người đàn ông khác.

− Không, ba, con không bép xép như Suellen đâu.

Scarlett trấn an cha và bước lùi ra để kiểm soát lại bộ diện của ông.
Gerald người nhỏ thó, cao khoảng trên một thước rưỡi, nhưng to bề ngang và lớn cổ, cho nên với cái bề ngoài đó, mỗi khi ông ngồi, người lạ có thể tưởng lầm ông là người to lớn. Thân hình vạm vỡ của ông được giữ bởi đôi chân ngắn nhưng chắc nịch, lúc nào cũng không rời đôi giày ống bằng loại da hảo hạng, và lúc nào cũng dạng ra trông như một đứa bé vênh váo. Phần đông những người thấp bé muốn lấy điệu bộ nghiêm trang đều có đôi chút lố bịch, nhưng nếu loại gà bantam – bé nhỏ nhưng hùng dũng – được đồng loại kính nể bao nhiêu thì Gerald cũng thế . Không một ai dám táo bạo coi Gerald O’Hara như là một kẻ thấp bé buồn cười.

Ông đã sáu mươi tuổi và mái tóc quăn đã bạc phơ, nhưng khuôn mặt thông minh chưa có một vết nhăn nào, và đôi mắt xanh biếc đầy quả cảm của ông vẫn còn giữ được ánh trong sáng của một kẻ không bao giờ mệt trí với các vấn đề trừu tượng, hơn là phải nghĩ cách để thắng một ván bài . Khuôn mặt Ái nhĩ lan của ông cũng giống như hình dáng của mảnh đất quê hương mà ông đã phải rời bỏ từ lâu – một khuôn mặt tròn trịa, da đỏ hồng, mũi ngắn, miệng rộng và hiếu động.

Dưới cái bề ngoài hung bạo đó, Gerald O’Hara ẩn chứa cả một lòng nhân đức. Ông không thể nhìn được cảnh một tên nô lệ bị mạt sát, dầu là đáng tội, cũng không thể chịu được tiếng mèo ngao hay tiếng khóc của trẻ con; nhưng ông lại sợ bị người khác nhận ra. Ông không làm sao biết được rằng lòng nhân ái của ông chỉ trong vòng năm phút là bị phát giác ngay bởi những kẻ tiếp xúc ông, và ông sẽ vô cùng khổ sở nếu nhận ra điều đó, bởi vì ông thích nghĩ rằng mỗi khi ông quát tháo vang rần là tất cả đều run sợ và tuân lịnh . Không bao giờ ông hiểu được rằng chỉ có một tiếng nói duy nhứt ở đồn điền là có đủ quyền uy khiến mọi người tùng phục – tiếng nói dịu dàng của vợ ông, bà Ellen. Đó là một bí ẩn mà ông không bao giờ khám phá nổi, bởi vì tất cả, từ bà Ellen cho đến gã nông nô đần độn nhứt, đều ngấm ngầm và khả ái toa rập với nhau để cho ông cứ mãi tin tưởng rằng chính tiếng nói của ông mới thật sự là pháp luật.

Ít hơn ai hết, Scarlett chẳng sợ sệt bao nhiêu trước tánh nóng và những lời quát tháo của cha. Nàng là con trưởng, và bây giờ Gerald đã nhận rõ ra rằng ông sẽ không bao giờ có một đứa con trai nào nữa, ngoài ba đứa đang nằm trong nghĩa địa nhà, nên ông bắt đầu xử sự với Scarlett như đối với một nam nhi, điều mà Scarlett cảm thấy vô cùng thích thú. Nàng rất giống cha nhiều hơn là mấy cô em gái. Carreen, tên thật là Caroline Irene, thì yếu đuối và đa cảm; Suellen, tên thật là Susan Elinor, thì lại tự kiêu về sự làm dáng cho ra vẻ đài các của mình.

Ngoài ra, Scarlett với cha còn cấu kết với nhau một thoả hiệp ngầm về sự che giấu cho nhau. Nếu Gerald bắt gặp nàng trèo rào thay vì phải đi nửa dặm mới ra tới cổng, hoặc ngồi nán lại quá khuya dưới thềm nhà để nói chuyện với một gã con trai nào đó, ông sẽ đích thân mắng trách dữ dội, nhưng sẽ không nói lại chuyện đó cho vợ hoặc Mammy biết. Và hễ Scarlett bắt gặp cha phóng ngựa qua rào sau khi đã hứa với vợ là không tái diễn trò đó nữa, hoặc khám phá được số tiền đích xác đã thua bạc của ông, như thường được biết qua sự bàn tán của người trong hạt, nàng sẽ không đề cập đến việc đó trong bữa ăn tối, như Suellen đã từng thường làm với thái độ vụng về có tính toán. Scarlett và cha cùng long trọng bảo kết với nhau rằng đem những chuyện đó tới tai bà Ellen chỉ làm cho bà khổ sở thêm mà thôi, và chẳng có gì khiến họ phải làm tổn thương đến tinh thần hoà ái của bà.

Nhìn cha đứng trong bóng tối cuối ngày, tự nhiên không hiểu sao Scarlett bỗng cảm thấy ấm áp trước sự hiện diện của người. Có một cái gì rắn rỏi và bình dị từ người ông toát ra khiến nàng được an ủi.

Là người kém óc phân tách nhứt, nàng không hiểu được rằng đó là cảm giác nẩy sinh từ chỗ nàng và cha có quá nhiều điểm phù hạp nhau về bản chất, mặc dầu đã được Ellen và Mammy cố gắng uốn nắn tánh tình luôn mười sáu năm trời.

Nàng nói với cha:

− Bây giờ, trông ba đàng hoàng rồi đó. Chắc chắn là không ai biết được những trò nghịch ngợm của ba đâu, nếu ba không khoe với họ. Nhưng theo con thì sau khi bể xương đầu gối năm rồi cũng vì chính cái rào này…

− Nè, dầu có phải chết đi nữa tôi cũng không để cho con gái của tôi dạy tôi có nên nhảy rào nữa hay không – Ông hét lớn và lại nhéo vào má Scarlett – Cái cổ là cổ của riêng tôi, nó có gãy cũng kệ tôi.

Còn cô, tiểu thơ, cô làm gì ở ngoài này mà không mang khăn choàng?
Nhận thấy cha lại giở những trò quỉ quái quen thuộc để tránh khỏi bị sa vào một câu chuyện bất lợi, Scarlett luồn tay vào tay cha:

− Con ra đón ba. Con không ngờ là ba về trễ quá. Con không thể hiểu là ba có mua Dilcey về không.

− Mua thì có chớ sao không, nhưng với một giá mắc tàn tệ. Mua nó và cả con quỉ cái nhỏ của nó là Prissy. John Quilkes muốn cho không nhưng ba không chịu, chẳng lẽ để cho thiên hạ đồn ầm lên là

Gerald lợi dụng tình bạn trong chuyện mua bán. Ba bắt ông ta phải nhận ba ngàn đồng cả hai đứa.

− Trời ơi, ba ngàn đô la sao, ba! Mình có cần mua con nhỏ Prissy đó làm gì đâu?

Gerald hét lớn ra điều hùng biện:

− Đã tới lúc chính con gái tôi ngồi phê phán hành vi của tôi rồi sao? Prissy là một con… và như vậy …

Scarlett vẫn bình thản:

− Con biết nó. Nó là một con nhỏ xảo quyệt mà đần độn. Ba mua nó chẳng qua là tại Dilcey cầu khẩn ba.

Gerald ngượng và bối rối, đúng như mỗi lần bị bắt gặp làm một việc nghĩa . Trước thái độ lột rõ chân tướng của cha, Scarlett bật cười.

− Nè, tôi có làm điều gì sái quấy đâu? Chẳng lẽ mua con Dilcey về rồi cứ để nó rầu khổ vì nhớ con? Nè, kể từ nay trở đi, tôi không bao giờ để một tên hắc nô nào ở đây lấy vợ bên ngoài. Hao tốn quá . Nè cô bé, thôi đi vào.

Bóng tối đã dày đặc, màu xanh lợt lạt cuối cùng trên không đã tắt lịm và không khí đã trở nên mát lạnh thay chỗ cho tiết Xuân ấm áp . Nhưng Scarlett cố trì hoãn, tự hỏi chẳng biết phải vào đề bằng cách nào để dọ hỏi vụ Ashley mà không làm cho cha phái nghi ngờ . Đó là cả một sự khó khăn vì bản chất của nàng không quen tế nhị, nghĩa là cũng giống như cha nên khó mà che giấu được ông cũng chính như ông không che giấu được nàng.

− Bên Twelve Oaks có gì lạ không, ba?

− Cũng bình thường. Cade Calvert có ở bển. Sau khi tính vụ con Dilcey xong, cả bọn ra ngoài hành lang uống luôn nhiều ly toddy. Thằng Cade vừa từ Atlanta tới đó. Ở Atlanta, người ta nhốn nháo hết, người nào cũng nói chuyện chiến tranh và …
Scarlett thở dài . Một khi Gerald đã đề cập chuyện chiến tranh và phân ly thì phải hằng giờ sau ông mới chịu ngưng. Nàng xoay chuyện qua hướng khác.

− Họ có nói gì cuộc dã yến ngày mai không, ba?

− Bây giờ ba mới nhớ tới . Cô… tên là gì đây… cái con bé nhỏ thó, mềm mại, năm ngoái có qua bên mình, con biết không, nó bà con với thằng Ashley… à, nhớ ra rồi, cô Melanie Hamilton, đúng cái tên đó rồi… con nhỏ và thằng Charles, em nó cũng vừa từ Atlanta về đó và…

− Ồ, cô ta cũng đã tới đó?

− Chớ sao, và con nhỏ mới mềm mại và lặng lẽ làm sao. Không một tiếng nào nói cho mình hết, đúng tư cách một người đàn bà. Thôi vô con, đừng cà rề nữa. Coi chừng má con ra kiếm bây giờ.

Những tin tức vừa nghe khiến tim nàng se thắt . Nàng đã mong mỏi một chuyện ngoài hy vọng là Melanie Hamilton vẫn còn ở lại Atlanta và bây giờ lại nghe chính miệng cha nàng khen ngợi tư cách dịu hiền của cô ta, trái ngược với tánh tình mình, nàng không chịu nổi nữa nên đi thẳng vào đề:

− Ashley cũng có mặt ở đó hả ba?

− Có chớ .

Gerald buông tay con gái ra, và quay nhìn sát mặt con:

− Nếu chỉ vì chuyện đó mà con ra đây đợi ba thì tại sao không nói trắng ra mà lại vòng vo?

Scarlett không biết phải nói gì, nàng nghe mặt mình nóng ran lên.

− Nè, nói đi chớ .

Nàng vẫn chưa nói được, ước gì có quyền được nắm lấy cha mình và lay mạnh bắt người im miệng lại.

− Nó có ở đó và nó vồn vã hỏi thăm con, bọn em gái nó cũng vậy. Tụi nó mong con sẽ không vắng mặt trong cuộc dã yến ngày mai.

Và ông tinh tế hỏi thêm:

− Bây giờ con nói thật coi, có chuyện gì giữa con và thằng Ashley?

Scarlett vừa trả lời gọn vừa ôm lấy tay cha:

− Có gì đâu. Mình đi vào, ba.

Gerald để ý thái độ của con:

− À, bây giờ thì tới phiên con muốn vào nhà . Nhưng ba thì ba muốn đứng hoài ở đây cho tới khi nào hiểu rõ con muốn gì. Bây giờ ba nhớ ra rồi, mấy lúc gần đây coi bộ con hơi khác. Nó có giỡn cợt với con không?

− Không.

− Vậy là nó sẽ không bao giờ hỏi cưới con đâu.

Scarlett giận dữ nhưng Gerald đã dùng tay giữ nàng lại.

− Rán giữ mồm giữ miệng, thưa cô! Ba mới hay chuyện đó hồi xế này do John Quilkes nói lại và dặn phải hết sức giữ bí mật. Đó là chuyện Ashley sắp cưới Melanie. Người ta sẽ loan báo ngày mai.

Bàn tay Scarlett rời thỏng tay cha. Vậy là có thật!

Tim nàng nhức buốt như đang bị vò xé bởi những chiếc răng nhọn dã thú. Giữa cơn đau lịm đó, nàng vẫn còn thấy đôi mắt cha nhìn mình, đôi mắt vừa thương hại, vừa bối rối trước một vấn đề nan giải. Ông yêu quí Scarlett nhưng đồng thời cảm thấy khó chịu khi bị cưỡng bách phải tìm một giải pháp cho những vấn đề trẻ con của nàng. Ellen thì bao giờ cũng có sẵn những đáp biện. Lẽ ra, Scarlett nên đặt những vụ rắc rối đó với vợ ông.

Gerald gào to, giọng ông vang lớn mỗi lần bị xúc động mạnh:

− Vậy là cô đã tự biến thành một trò cười… biến cả nhà thành trò cười cho thiên hạ rồi, phải không? Vậy là cô đã chạy theo một thằng đàn ông không hề yêu cô, trong khi cô có thể chiếm được bất cứ một đứa con trai nào trong hạt, phải không?

Sự phẫn nộ và lòng tự trọng bị tổn thương, khiến cho cơn đau của Scarlett nhẹ bớt đi:

− Con không hề chạy theo anh ấy . Chỉ … chỉ vì ngạc nhiên thôi.

− Láo!

Gerlad quát lớn, rồi nhìn đăm đăm vào khuôn mặt thất sắc của con, ông bỗng bất ngờ đổi giọng âu yếm:

− Ba buồn lắm, con. Nhưng dầu sao con cũng hãy còn nhỏ, còn cả khối con trai khác.

Giọng Scarlett nghe như nghẹn:

− Hồi má lấy ba, má mới mười lăm tuổi, bây giờ con mười sáu tuổi rồi còn gì.

− Má con thì khác. Tánh má không nông nổi như con. Thôi, con gái vui lên đi. Tuần tới ba sẽ đưa con về Charleston thăm dì Eulalie, và rồi với tất cả những xôn xao về vụ căn cứ Sumter, chỉ trong một tuần là con sẽ quên mất thằng Ashley.

Scarlett nghĩ thầm, nửa buồn tủi, nửa tức giận nghẹn ngào: “Ổng cứ tưởng mình con nít, hễ cứ cho một món đồ chơi mới là mình quên hết mấy trận đòn”.

− Thôi, đừng có chĩa cằm về phía tôi nữa chớ. Nếu con biết suy nghĩ một chút, con sẽ chọn thằng Stuart hoặc thằng Brent Tarleton từ lâu. Nghĩ thiệt kỹ đi con. Lấy một trong hai đứa sanh đôi đó thì hai đồn điền sẽ kết hợp nhau, rồi Jim Tarleton và ba xây cho hai đứa bây một ngôi nhà xinh đẹp, ngay chỗ hai đồn điền giáp nối, trong khu rừng thông to lớn và…

Scarlett la lớn:

− Đừng coi con như con nít nữa! Con không cần đi Charleston, con không muốn có một ngôi nhà hay kết hôn với hai đứa song sinh đó. Con chỉ muốn …

Nàng vụt nhưng nói, nhưng đã trễ.

Giọng nói của Gerald bình tĩnh một cách lạ lùng, và ông nói thật chậm rãi, dường như những ngôn ngữ đó vừa được lấy ra khỏi một kho tàng tư tưởng ít khi được sử dụng.

− Con chỉ muốn có Ashley và rồi con sẽ không bao giờ chiếm được nó. Và nếu nó có muốn cưới con, mà ba có phải tán thành vì ba nể tình bạn giữa ba và John Quilkes thì ba cũng sẽ lo ngại không ít.

Nhìn ánh mắt kinh ngạc của con, Gerald nói tiếp:

− Ba muốn con gái của ba được sung sướng, nhưng chắc chắn con sẽ không tìm thấy hạnh phúc khi chung sống với Ashley.

− Ồ, được mà! Được mà!

− Không đâu con. Chỉ có những cặp vợ chồng hợp tâm tính nhau mới có hạnh phúc.

Scarlett muốn hét lớn : “Ba và má có giống nhau đâu sao vẫn có hạnh phúc” nhưng nàng kịp thời dừng lại, sợ cha tát tai vì tội vô lễ.

Gerald tiếp tục nói chậm rãi, chọn lời:

− Dòng họ mình khác hẳn với nhà họ Quilkes. Họ cũng khác với bất cứ láng giềng nào … khác với mọi gia đình mà ba quen biết. Họ là những kẻ kỳ dị, thà cứ để họ cưới lẫn nhau giữa những người bà con để giữ riêng cái kỳ dị đó còn hơn.

− Không, ba, Ashley đâu có…

− Hãy giữ mồm giữ miệng, con gái! Ba không có ý nói xấu nó đâu bởi vì ba mến nó. Ba bảo kỳ dị chớ không nói là điên. Nó không điên như bọn Calvert dám hy sinh mọi thứ vì một con ngựa, cũng không như đám Tarleton cứ mỗi một lứa là đẻ ra một hoặc hai thằng say, cũng chẳng giống đám Phontaine võ phu, nóng nảy, dám ám sát người vì một sự nhục mạ tưởng tượng. Cái lối kỳ dị đó rất dễ hiểu, chắc chắn như vậy . Và nếu không nhờ Thượng đế thì Gerald O’Hara này cũng không thoát khỏi những tệ hại đó! Ba cũng không có ý nói là Ashley sẽ chạy theo một con đàn bà khác, nếu con là vợ nó, hoặc nó sẽ đánh đập con. Được vậy có lẽ con còn sung sướng hơn vì ít ra con cũng hiểu được vì sao. Nhưng nó lại khác thường với những lối khác không làm sao hiểu nổi. Ba mến nó nhưng phần lớn những chuyện nó nói, ba chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả. Đâu, con nói thật coi con có hiểu nổi những chuyện lăng nhăng trong sách vở, thi ca, âm nhạc, và hội họa cùng những thứ khùng điên tương tự như nó kể hay không?

Scarlett sốt ruột:

− Kìa, ba! Nếu con lấy anh ấy, con sẽ thay đổi tất cả.

− Ồ, con có thể thay đổi à?

Gerald nhìn chăm chú vào mặt con, nói tiếp:

− Như vậy là con chẳng hiểu gì về đàn ông, chưa nói tới Ashley. Không một người vợ nào có thể thay đổi được tánh tình chồng, con đừng quên điều đó . Còn nói tới chuyện thay đổi một người trong dòng họ Quilkes thì … là chuyện vá trời, con ơi! Cả họ đều như vậy, và cứ muôn đời như vậy . Ba bảo là họ kỳ dị ngay từ lúc mới sanh ra. Cứ xem họ chịu khó đi cho tới Nữu ước và Boston để coi ca kịch và tranh sơn dầu. Rồi còn gởi mua sách Pháp và Đức trong mấy tiệm buôn của Yankee! Rồi ngồi ì ra đó, vừa đọc vừa mơ mộng có Trời mà biết chuyện gì, trong khi đáng lý ra phải dùng thì giờ đó để săn bắn và đánh phé như bao nhiêu người bình thường khác.

Tức giận vì Ashley bị chê là quá gần với nữ tính, Scarlett phản đối:

− Không một ai trong hạt này có thể cỡi ngựa giỏi hơn Ashley, không một ai cả, ngoại trừ cha anh ấy. Còn về chuyện đánh phé bộ không phải Ashley mới ăn của ba hai trăm đô-la tuần qua tại Jonesboro sao?

Gerald hết chối cãi:

− Vậy là mấy thằng nhóc Calvert lại bép xép nữa rồi, nếu không thì con làm sao biết được con số. Ashley có thể cỡi ngựa hay so với người hay nhứt và đánh phé giỏi với người giỏi nhứt – và người đó chính là ba. Và ba cũng không chối cãi là nó uống rượu cũng cừ khôi, có thể hạ ngã anh em Tarleton không mấy khó. Nó có thể làm tất cả những chuyện đó nhưng chẳng để tâm vào . Chính vì vậy mà ba bảo là nó kỳ dị.

Scarlett lặng thinh, tim nàng thắt lại . Đối với nhận xét sau cùng của cha, nàng nhận thấy rõ là đúng. Ashley không hề chú tâm vào bất cứ những thú tiêu khiển nào thuộc loại đó mặc dầu chàng tự chúng tỏ có biệt tài. Tất cả những gì người khác cho là đặc biệt thú vị, chàng chỉ tham dự với một ít hứng thú của người biết giữ lễ cho phải phép.

Hiểu rõ sự im lặng của Scarlett, Gerald vỗ nhẹ vào tay con và nói với giọng đắc thắng:

− Con thấy không, Scarlett! Con đã nhận đó là sự thật . Con sẽ sống ra sao với một người chồng như Ashley. Những người trong dòng họ Quilkes đều gàn cả.

Rồi với giọng vỗ về, ông nói tiếp:

− Lúc nãy khi ba nói với con về mấy anh em Tarleton, không phải là ba cố ý đề cao chúng . Bọn nó đều xứng đáng, nhưng nếu con để mắt tới thằng Cade Calvert, ừ, thì là con giống ba. Họ Calvert gồm toàn những người tốt mặc dầu ông già chúng nó lấy một bà vợ Yankee. Và tới khi ba qua đời … im, con gái cưng nghe ba nói! Ba sẽ để cả đồn điền Tara này cho con và thằng Cade…

Scarlett giận dữ ngắt lời:

− Dầu có đặt Cade ngồi trên mặt kho tàng, con cũng không thèm . Ba đừng đề cao hắn với con! Con không thèm Tara cũng chẳng cần bất cứ một đồn điền cổ lỗ nào. Đồn điền mà không có nghĩa gì khi…

Nàng định nói “khi mà không sống được với người mình yêu”, nhưng tức giận trước sự khinh mạn gạt ngang của con đối với món quà mà ông quí trọng nhứt đời – chỉ thua có Ellen – Gerald gầm lên:

− Scarlett O’Hara, cô dám đứng đó nói với tôi rằng Tara mảnh đất này – chẳng nghĩa lý gì hết hả ?

Scarlett bướng bỉnh gật đầu . Nàng đã đau đớn đến độ không còn biết sợ cơn thịnh nộ của cha.

Khoa rộng hai cánh tay lớn và chắc nịch, Gerald quát lớn:

− Đất đai là vật duy nhất có ý nghĩa trên đời, bởi vì đó cũng là vật duy nhất tồn tại mãi, cô đừng quên điều đó! Đó là vật duy nhất xứng đáng để bỏ công làm lụng, xứng đáng để chiến đấu bảo vệ… và xứng đáng để chết vì nó.

Scarlett kêu lên, giọng nhàm chán:

− Kìa, ba! Ba nói y hệt như một người Ái Nhĩ Lan.

− Có khi nào tôi xấu hổ là người Ái Nhĩ Lan đâu? Không, tôi còn hãnh diện nữa mà . Và cô, cô đừng quên là cô cũng có một nửa dòng máu Ái Nhĩ Lan trong người thì mảnh đất mà họ sống trên đó chính là một bà mẹ hiền . Ngay lúc này, tôi mắc cỡ vì cô. Tôi dâng cho cô mảnh đất xinh đẹp nhứt trên đời – ngoại trừ mảnh đất ở hạt Meath – rồi cô tỏ thái độ gì ? Cô gạt ngang đi!

Gerald sắp ầm ĩ nổi cơn thịnh nộ thì thoáng thất nét bi thương trên mặt của con nên dừng lại:

− Nhưng thôi, con còn trẻ quá. Tình yêu đất rồi sẽ đến với con. Là người Ái Nhĩ Lan, con không làm sao rời bỏ được đất đai. Con còn nhỏ và chỉ biết nghĩ tới đám thanh niên theo tán tỉnh. Tới chừng nào lớn lên, con sẽ biết tình yêu đất ra sao… Thôi, con cứ quyết định chọn Cade hoặc một trong hai đứa sanh đôi Tarleton, hay một đứa nào đó của Evan Munroe rồi con sẽ thấy ba tốt với con tới bực nào!

− Kìa, ba!

Tới lúc đó Gerald đã hoàn toàn chán nản cuộc đối thoại với con và hết sức buồn khổ trước vấn đề nan giải. Đã vậy, ông còn đau buồn hơn vì Scarlett cứ mang bộ mặt thảm não sau khi được hứa cho chọn bất cứ người con trai ưu tú nào trong hạt, lại còn được hứa tặng cả Tara. Ông muốn những quà tặng của ông phải được đón nhận với những tiếng vỗ tay và những cái hôn đáp lễ .

− Thôi, đừng nhăn nhó nữa, tiểu thơ! Cô lấy ai cũng được miễn là người đó hoà hợp với cô, một người phong nhã miền Nam, và biết tự trọng. Đối với đàn bà, tình yêu tới sau hôn nhân.

− Ồ, ba! Đó là quan niệm cổ hủ bên xứ của ba!

− Nhưng đó là một quan niệm đúng! Cái trò ở Mỹ này muốn xếp đặt những đám cưới vì tình, như bọn đầy tớ, bọn Yankee! Những cuộc hôn nhân tốt đẹp nhất là do cha mẹ tác thành cho con gái chớ làm sao một đứa bé nông nổi giống như con mà có thể biết được đứa nào tốt, đứa nào đểu cáng? Cứ xem dòng họ Quilkes thì biết. Cái gì đã làm cho người của họ từ đời này tới đời kia vẫn khoẻ mạnh và kiêu dũng? Có gì lạ đâu, họ chỉ kết hợp lẫn nhau, cưới gả những người trong họ hàng do chính gia đình của họ muốn như vậy.

− Ồ!

Scarlett rên rỉ, nỗi đau xót lại đến với nàng vì những lời của Gerald lại gợi ra một sự thật phũ phàng . Nhìn cái đầu cúi gầm của con, Gerald lắc lư trên đôi chân một cách khổ sở:

− Con khóc đó hả ?

Ông vừa hỏi vừa vụng về nâng cằm con lên, nét mặt hiện rõ tình thương.

− Không.

Scarlett hét lớn và vùng khỏi tay cha.

− Con nói láo, nhưng ba lại rất hãnh diện. Ba rất bằng lòng là con vẫn còn biết tự trọng. Ba muốn được thấy con như vầy trong cuộc dã yến ngày mai. Ba không muốn cho cả hạt này đàm tiếu và cười vào mặt con về chuyện đem trái tim dâng cho một người đàn ông chẳng ngó ngàng gì tới mình, ngoại trừ tình bạn thông thường.

Scarlett buồn rầu nghĩ thầm: “Anh ấy có nghĩ tới mình. Nghĩ rất nhiều. Mình biết chắc như vậy. Mình có thể nói ra nếu mình có thêm được một ít thì giờ, mình có thể làm cho anh ấy phải nói ra… Ồ, phải chi những người trong dòng họ Quilkes đừng có ý nghĩ là phải cưới hỏi giữa những người cùng họ hàng!”.

Gerald quàng lấy tay con.

− Bây giờ mình vào nhà ăn tối, và nhớ đây là chuyện giữa hai cha con mình thôi. Ba sẽ không làm buồn lòng mẹ con về vụ này… Con cũng vậy. Hỉ mũi đi, con.
Scarlett hỉ mũi vào chiếc khăn tay đã bị vò nát, và hai cha con tay trong tay cùng ngược lên lối đi tối sẫm, con ngựa chậm chạp theo sau. Gần tới nhà, Scarlett sắp sửa tiếp nối câu chuyện thì nhìn thấy mẹ đang đứng trong bóng tối mờ dưới mái hiên. Bà đội nón, quàng khăn và đeo bao tay. Phía sau bà là Mammy đang hầm hừ, tay xách chiếc túi da màu đen dùng để đựng thuốc men mà bà Ellen O’Hara thường dùng để săn sóc và chữa bệnh cho bọn nô lệ. Môi của Mammy vốn đã dày và xệ, gặp lúc bất bình, lại còn dày và xệ gấp đôi. Bây giờ, nó đang xệ dài ra, và Scarlett hiểu ngay là Mammy đang bực tức về một chuyện nào đó.

− Ông O’Hara!

Ellen gọi khi nhìn thấy hai cha con đang đi tới… bà thuộc thế hệ của những người quí trọng nghi thức mặc dầu đã sống với nhau mười bảy năm và đã có sáu con…

− Ông O’Hara, nhà Slattery có người bịnh. Đứa con mới sanh của Emmie đang hấp hối và cần được đặt tên Thánh. Tôi và Mammy phải qua bên đó để xem có giúp ích được gì không.

Bà hơi cất giọng lên như để hỏi và sẵn sàng chờ quyết định tán thành của chồng, dầu chỉ là hình thức nhưng cũng làm mát ruột Gerald..

Gerald nói oang oang:

− Trời ơi, sao bọn da trắng rác rến đó lại khiến cho bà rời khỏi nhà ngay trong giờ ăn tối và giữa lúc tôi đang cần kể cho bà nghe về chuyện chiến tranh đang được bàn tán xôn xao ở Atlanta! Xin cứ đi, bà O’Hara. Bà sẽ không thể nào ngủ yên được khi biết là có chuyện đau khổ ở ngoài mà không có mặt bà tại chỗ để giúp đỡ.

− Bà làm sao ngủ yên được dầu phải đi ban đêm để cứu trị cho bọn hắc chủng và đám ra trắng.

Mammy vừa càu nhàu vừa đi xuống những bậc thềm tiến thẳng ra chiếc xe đợi sẵn bên mã lộ. Ellen vuốt nhẹ vào má Scarlett:

− Chút nữa vào bàn ăn, con nhớ ngồi thay chỗ má.

Mặc dầu nước mắt cứ trực trào ra, Scarlett vẫn rung động với sự vuốt ve lúc nào cũng chứa đầy huyền lực của mẹ nàng, vưới mùi hương sả nhẹ nhàng toát ra từ chiếc áo lụa của bà. Ở Ellen O’Hara có một cái gì khiến cho Scarlett ngất ngây, một sự mầu nhiệm cùng chung sống với nàng dưới một ngôi nhà, và sự mầu nhiệm đó vừa làm cho nàng sợ hãi đồng thời cũng khiến nàng say mê và cảm thấy ấm áp lạ thường.

Gerald đỡ vợ lên xe rồi dặn gã đánh xe cẩn thận. Phụ trách việc nuôi ngựa cho Gerald suốt hai chục năm, Toby biểu lộ sự bất bình vì bị chỉ dạy trong ngay lãnh vực chuyên nghiệp của anh ta. Toby với Mammy ngồi bên cạnh xe rõ ràng là hai hình ảnh chính xác phơi bày thái độ bất mãn bằng cách xệ môi dài ra của chủng tộc Phi châu.

Gerald cáu kỉnh:

− Nếu mình không tận tâm giúp đỡ bọn Slattery để chúng nó mạt rệp luôn, có lẽ chúng nó đã bán lại cho mình mấy mẫu đất lầy lội đó và cả hạt này sẽ không còn bị phiền hà gì về chúng nữa.

Rồi, mặt bỗng tươi lên với ý nghĩ sắp bẫy một màn đùa cợt, ông nói tiếp:

− Mình vào đi con, mình sẽ cho tên Pork biết là thay vì mua Dilcey về, ba đã bán Pork luôn cho John Quilkes.

Ông ném dây cương cho một thằng bé da đen đứng gần đó và bước lên thềm. Ông đã quên khuấy chuyện đau buồn của con gái và chỉ nghĩ tới chuyện trêu chọc người hầu. Scarlett uể oải bước theo, chân nặng như chì. Nàng nghĩ, dầu sao thì một sự kết hợp giữa nàng và Ashley cũng chẳng có gì kỳ dị hơn sự kết hợp giữa cha nàng và Ellen Robillard O’Hara. Rồi cũng như mọi khi, nàng tự hỏi chẳng biết tại sao, một con người ầm ĩ và thiếu tế nhị như cha nàng, lại có thể cưới được một người vợ như mẹ nàng, bởi vì cả hai quá cách biệt nhau về tuổi tác, trình độ giáo dục và tư tưởng.

Chương 3

Ellen O’Hara đã ba mươi hai tuổi, ở vào thời đó, bà được coi như một thiếu phụ trung niên, đã từng sanh 6 đứa con và chôn hết 3. Bà cao lớn, cao hơn chồng một cái đầu nhưng với dáng đi mềm mại làm nhún nhảy nhịp nhàng tà áo phồng to, bà đã làm cho mọi người quên để ý tới chiều cao đó. Chiếc áo chẽn lụa đen làm nổi bật cái cổ tròn trịa, thon thon và trắng ngần như sữa. Cái cổ đó dường như lúc nào cũng ngửa ra sau bởi sức nặng của mái tóc xum xuê bọc trong bao lưới. Mẹ bà là người Pháp mà cuộc Cách mạng 1791 cha mẹ đã phải trốn chạy khỏi đảo Haiti. Ở mẹ, bà thừa hưởng đôi mắt huyền hơi xếch, những hàng mi dài rậm và mái tóc đen nhánh. Với cha, từng là một chiến sĩ của Nã phá luân, bà giống ở sóng mũi dài và thẳng, ở quai hàm vuông nhờ đôi má bầu bĩnh làm dịu nét . Nhưng chính nhờ cuộc sống mà Ellen có được cái sắc thái kiêu hãnh nhưng không khinh mạn, dáng vẻ yêu kiều và nét sầu mơ làm mất hẳn cả sự tươi vui.

Bà sẽ là một giai nhân tuyệt sắc nếu có được một chút ánh sáng trong đôi mắt, một chút nồng nhiệt ở nụ cười, hoặc một chút hồn nhiên trong giọng nói, cái giọng nói êm như ru thường rót vào tai chồng con và đám gia nhân. Giọng bà êm dịu nhưng hơi líu ríu của người miền duyên hải xứ Georgia, nguyên âm dính liền nhau, phụ âm tách rời ra với chút ít âm điệu Pháp. Đó là thứ tiếng nói chẳng bao giờ cất cao khi ra lịnh hoặc quở trách con, nhưng là tiếng nói mà mọi người ở Tara phải tuân hành tức khắc, trong khi những lời gầm thét ỏm tỏi của chồng bà bị kể như vô hiệu .

Từ lúc hiểu biết tới nay, Scarlett vẫn thấy mẹ nàng không hề biến đổi, giọng nói vẫn êm và dịu dầu là ngợi khen hay rầy bảo, cử chỉ vẫn khoan thai và hữu hiệu mặc dầu luôn luôn bận rộn với bao nhiêu công việc khẩn cấp và náo nhiệt hằng ngày trong ngôi nhà của Gerald, đầu óc bà luôn luôn bình tĩnh và lưng vẫn thẳng, ngay cả trong ngày chết của ba đứa con trai. Scarlett cũng chưa bao giờ nhìn thấy mẹ dựa lưng vào ghế. Nàng cũng chẳng hề thấy mẹ ngồi ở nơi nào mà không có kim chỉ trên tay, ngoại trừ lúc dùng bữa, lúc cứu chữa người bệnh hoặc tính toán sổ sách của đồn điền. Khi tiếp khách, trên tay bà luôn luôn có một món đồ thêu, nhưng vào những lúc khác, bàn tay bà lại bận rộn với những chiếc sơ mi nhầu nát của Gerald, với những chiếc áo của ba cô con gái hoặc y phục của bọn hắc nô. Scarlett không thể tưởng tượng ra hình ảnh của mẹ mà không có cái bao đầu ngón tay bằng vàng. Nhớ tới mẹ là nàng cũng thấy ngay hình ảnh của mẹ đi qua trong tiếng sột sọat của tà áo lụa, theo sau là một con bé da đen có bổn phận duy nhứt là rút chỉ lượt và mang hộp đồ may bằng gỗ tử đàn, đi từ phòng này sang phòng khác, trong khi Ellen rảo quanh khắp nhà để kiểm soát việc nấu nướng, quét dọn và việc may y phục cho người làm ở đồn điền.

Chưa bao giờ, ngày cũng như đêm, Scarlett bắt gặp mẹ rời khỏi dáng vẻ trang nghiêm bình lặng cũng như chưa bao giờ nhận thấy cách phục sức của bà thiếu thích nghi. Khi Ellen sửa soạn dự một cuộc khiêu vũ hay tiếp khách hoặc đi Jonesboro dự lễ, bà phải cần tới hai tiếng đồng hồ, hai người tớ gái và cả Mammy phụ lực vào để lo việc ăn mặc sao cho thích hợp. Tuy thế, trong những trường hợp khẩn cấp, bà lại thay đổi y phục một cách mau lẹ khác thường.

Vì cửa phòng mở ra hành lang đối diện của phòng mẹ nên ngay từ thuở nhỏ, Scarlett đã quen với tiếng động rón rén của những bàn chân da đen bước thoăn thoắt trên sàn gỗ cứng từ lúc tờ mờ sáng, những tiếng gõ cửa gấp rút ở phòng của mẹ, và tiếng nói nghẹn ngào sợ sệt của bọn hắc nô thì thào về chuyện đau ốm, sanh đẻ, chết chóc trong dãy phòng quét bằng vôi trắng, nơi chúng ở. Lúc nhỏ, nàng thường len lén ra cửa nhìn qua khe hở nhỏ, và thấy Ellen từ trong gian phòng tối om bước ra trong khi cũng ở nơi đó, tiếng ngáy của Gerald vẫn đều đều và vô tư lự. Mẹ nàng đi vào vùng ánh sáng chập chờn của ngọn nến, tay kẹp hộp thuốc men, tóc vẫn thẳng thớm, áo chẽn gài cẩn thận.

Lúc nào cũng vậy, Scarlett luôn luôn cảm thấy ấm áp khi nghe mẹ thì thầm với giọng chắc, gọn nhưng đầy âu yếm trong khi bà nhón chân đi:

− Suỵt, đừng có ầm ĩ thế. Bọn bây làm ông O’Hara mất giấc ngủ bây giờ . Bịnh chúng nó chưa đến nổi chết đâu.

Quả vậy, nàng cảm thấy ấm lòng trở lên giường, biết rằng Ellen đang ở bên ngoài trong đêm tối và mọi việc đều đâu vào đó cả.

Lại có những buổi sáng, sau khi trọn đêm săn sóc những người sanh nở hoặc cứu chữa những kẻ sắp chết trong khi chẳng một ai tìm được hai bác sĩ Phontaine – một già, một trẻ – đến để tiếp tay, Ellen vẫn chủ toạ bữa điểm tâm như thường lệ, đôi mắt huyền nổi quầng thâm vì mệt mỏi. Dưới cái bề ngoài hiền thục uy nghiêm đó là cả một tinh thần cương nghị khiến cho tất cả đều kinh sợ kể cả chồng bà và mấy cô con gái, mặc dầu thà chết còn hơn là phải nhìn nhận điều đó – đối với Gerald.

Đôi khi Scarlett nhón chân hôn mẹ, nàng để ý đến vành môi trên quá ngắn và quá mềm mại của bà, một cái miệng dễ bị đời gây đau khổ. Nàng tự hỏi chẳng biết cái miệng đó có khi nào cười nhảm nhí lúc còn con gái, hoặc thức trọn những đêm dài để tâm tình với bạn gái hay không. Không, đó là một điều không thể có. Mẹ nàng vẫn luôn luôn là một, là cột trụ của uy lực, là nguồn gốc của khôn ngoan, con người duy nhứt bao giờ cũng có sẵn mọi giải đáp.

Nhưng Scarlett đã lầm, vì rằng nhiều năm về trước, Ellen Robillard của Savannah cũng cười ngớ ngẩn như bất cứ một cô gái nào ở tuổi 15 trong thành phố duyên hải nên thơ đó, cũng thức trắng đêm với bạn bè, trao đổi tâm tình, tiết lộ tất cả các bí ẩn của đời mình – chỉ trừ một việc. Đó là năm mà Gerald O’Hara, lớn hơn Ellen 25 tuổi bước vào cuộc đời bà – và đó cũng là năm mà người anh họ trẻ trung, mắt đen huyền, Philippe Robillard, bước ra khỏi đời bà. Khi Philippe với đôi mắt long lên sòng sọc, và với điệu bộ hung hãn, vĩnh viễn rời bỏ Savannah, người con trai đó cũng mang theo luôn ngọn lửa lòng của Ellen, để cho anh chàng Ái Nhĩ Lan chân vòng kiềng kia kết hôn với một cái vỏ sò trống rỗng nhưng xinh xắn.

Nhưng bao nhiêu đó cũng đủ đối với Gerald, một dịp may bất ngờ để cưới được người con gái ấy. Và nếu có một cái gì đã ra khỏi cuộc đời nàng, thì cái gì đó có mất mát gì đối với ông đâu. Là người sáng suốt, ông hiểu rằng chỉ có phép lạ mới khiến cho một gã Ái nhĩ lan vô gia đình, không sự sản lại có thể chiếm được ái nữ của một trong những gia đình giàu có và kiêu hãnh nhứt ở miền duyên hải . Bởi vì chính Gerald chỉ là một kẻ tự lập.

Từ Ái nhĩ lan, Gerald bước chân lên đất Mỹ vào năm hai mươi mốt tuổi. Cũng như nhiều người Ái nhĩ lan trước đó, hơn hoặc kém ông, Gerald đã phải ra đi hấp tấp chỉ với một ít quần áo trên lưng, với hai đồng si linh và với cái đầu được treo giá một khoản tiền khá lớn, lớn hơn tội của ông nhiều. Ở xứ ông, không một tên Orange nào đáng giá tới một trăm đồng bảng Anh đối với chánh phủ Anh quốc, nhưng người Anh xúc động vì một viên quản lý của một điền chủ Anh đã bị ông đánh chết thì ông chỉ có việc là phải bỏ trốn và trốn ngay. Quả tình ông có gọi tên quản lý đó là “đồ tạp chủng Orange”, nhưng có thế mà hắn lại dám chửi vào mặt ông bằng cách huýt sáo điệu nhạc “The Boyne Quater”.

Trận Boyne đã xảy ra cách hơn một trăm năm, nhưng đối với người trong họ O’Hara và các láng giềng thì như chỉ mới hôm qua khi mà đất đai và gia sản của họ tan biến trong vầng mây bụi che phủ cuộc đào tẩu của hoàng thân Stuart, để cho Quilliam oph Orange và đoàn quân khả ố của ông đeo huy hiệu màu cam tàn sát những kẻ đứng về phe hoàng tộc Stuart.

Vì lẽ đó và nhiều lý do khác nữa, gia đình O’Hara tưởng rằng chuyện rắc rối chẳng có gì quan trọng lắm, ngoại trừ trường hợp nó bị kết liền với những hậu quả nghiêm trọng khác. Từ nhiều năm, họ O’Hara thường bị nhân viên cảnh sát Anh nghi ngờ về những hoạt động lén lút chống chánh phủ, và Gerald không phải là người đầu tiên trong gia đình phải chạy ba chân bốn cẳng để rời khỏi Ái nhĩ lan giữa lúc hừng sáng. Hai người anh lớn, James và Andrequ mà ông chỉ nhớ mang máng là hai thanh niên kín đáo thường đi đi về về ban đêm vào những giờ giấc khác thường, đôi khi biến mất luôn cả mấy tuần khiến bà mẹ ngồi đứng không yên. Họ đã trốn sang Mỹ nhiều năm trước, ngay sau khi một số súng chôn giấu dưới những chuồng heo nhà O’Hara bị khám phá. Hiện nay, họ đã là những thương gia phát đạt “mặc dầu chỉ có Trời mới biết vì sao” như lời bà mẹ mỗi khi nhắc tới hai đứa lớn nhứt của đám con trai bà. Chính Gerald đã được gởi gấm cho hai người anh đó .

Ông rời nhà với chiếc hôn vội vàng của mẹ, với những lời bà cầu nguyện văng vẳng bên tai và lời khuyên của người cha: “Mầy phải nhớ là không bao giờ lấy cắp một món gì của ai”. Năm người anh cao lớn tiễn biệt ông với những nụ cười thán phục pha lẫn chút ý nghĩa khích lệ, bởi vì Gerald hãy còn nhỏ mà là kẻ thấp bé trong một gia đình cao lớn khoẻ mạnh.
Năm người anh cũng như cha ông, đều cao từ một thước tám trở lên, nhưng về phần Gerald năm hai mươi mốt tuổi, ông tự hiểu là chiều cao một thước sáu mấy phân là tất cả những gì mà Thượng đế đã ban cho. Chỉ có hạng người như Gerald mới không phí thì giờ tiếc rẻ cái tầm vóc thấp bé của mình và không bao giờ coi đó là một chướng ngại trên đường tiến thủ. Trái lại, chính cái thân hình thu gọn đó đã tạo cho ông thành người như ngày nay, bởi vì ông đã sớm hiểu rằng những người thân hình nhỏ bé cần phải đầy đủ quả cảm mới sống còn được giữa những kẻ to lớn. Và Gerald đúng là người quả cảm.

Các anh ông đều ảm đạm và trầm lặng. Ở họ, sự lưu truyền của những thời vàng son trong gia tộc đã vĩnh viễn qua rồi, đã bị dồn nén thành một mối hận thù câm nín và nếu có phải phát tiết thì chỉ với hình thức chua xót. Nếu Gerald cũng cao lớn, khoẻ mạnh như các anh, có lẽ tánh tình ông cũng như họ và có lẽ ông đã lặng lẽ biến thành một thành phần chống đối chánh phủ. Nhưng Gerald là đứa “rộng họng cứng đầu” như mẹ ông thường mắng yêu như thế, dễ nổi xung và hay đấm đá. Ông giống như một con gà “bantam” nhỏ bé nhưng hung hăng đi nghênh ngang giữa một đàn gà khổng lồ loại “cochin”, nhưng các anh ông vẫn nuông chiều ông và chỉ khi nào xét thấy quá cần để răn dạy thằng em nhỏ bé, họ mới phải sử dụng tới những nắm tay to lớn.

Về phần học vấn, Gerald mang theo lên đất Mỹ một kiến thức kém cỏi, nhưng ông không cần nhận thức điều đó, và nếu có ai nói rõ với ông như thế, ông vẫn dửng dưng. Bà mẹ đã dạy cho ông biết đọc và biết viết. Ông cũng khá tinh thông về toán pháp. Và trình độ chữ nghĩa ông chỉ tới chừng đó thôi. Phần ngôn ngữ La tinh mà ông đã được biết qua chỉ đủ cho những lời xướng hoạ trong lễ Misa và sự hiểu biết về sử học của ông chỉ gồm toàn những chuyện đau thương, đen tối đã dồn dập xảy tới cho Ái nhĩ lan. Ông chẳng biết tí gì về thi ca ngoại trừ mấy bài thơ của Moore và cũng không hiểu gì về âm nhạc trừ một vài bản dân ca. Trong khi vẫn ngưỡng mộ những kẻ có học thức hơn mình, ông chẳng bao giờ nhìn nhận trình độ học lực của mình là một thiếu sót đáng kể . Vả lại, những điều học hỏi đó có giúp ích được gì tại một xứ khai phá, nơi mà những người Ái nhĩ lan dốt đặc cũng đã lập nên sự sản to lớn ? Ở một nơi chỉ đòi hỏi người đàn ông phải có sức khoẻ và không ngại lao tác ?

Cả James và Andrequ, hai người anh đã cho ông tá túc trong một cửa hàng ở Savannah, cũng không hề hối tiếc về sức học quá thiếu sót của đứa em. Bàn tay khéo léo cùng những phép tính chính xác và khả năng linh mẫn của ông đã khiến họ trọng nể . Thật vậy, ở đây, nếu cậu em Gerald mà có được tài nghệ văn chương hoặc âm nhạc thì chắc chắn hai người anh của cậu ta sẽ không khỏi bất bình, khinh ghét. Mỹ quốc vào những năm đầu thế kỷ, dường như ưu đãi người Ái nhĩ lan. James và Andrequ bắt đầu công cuộc làm ăn bằng cách chuyên chở hàng hoá trong những cổ xe phủ kín từ đi từ Savannah tới tận các thành phố nội địa Georgia và đã phát đạt để dựng lên một thương cuộc riêng có Gerald cùng chung hưởng.

Gerald yêu mến miền Nam, và chưa đầy bao lâu, ông tự cho mình là một người Nam chánh cống . Kể ra thì hãy còn quá nhiều chuyện về miền Nam – và những người Nam – mà ông không làm sao hiểu nổi, nhưng với bản chất mộc mạc, ông chấp nhận tất cả những tư tưởng và thói quen nào gần gũi với ông – chẳng hạn như chơi phé và đua ngựa, các cuộc bàn cãi chánh trị sôi nổi và luật lệ song đấu, quyền lợi các quốc gia và lên án bọn Yankee, binh vực chế độ nô lệ và quí trọng mảnh đất được mệnh danh là Vua Bông Vải, khinh rẻ bọn da trắng cặn bã và tỏ ra lịch sự thái quá đối với nữ giới. Ông cũng tập cả thói nhai thuốc lá . Riêng về tửu lượng thì ông khỏi phải tốn công để học hỏi vì là một kẻ có máu rượu ngay tư thuở mới ra đời.

Nhưng Gerald vẫn cứ là Gerald. Lề lối sống và tư tưởng của ông thay đổi nhưng ông vẫn cứ giữ nguyên cốt cách của ông, dầu rằng ông có đủ sức để thay đổi nó. Ông thán phục cái dáng điệu sang trọng buông thả của các đại phú nông và chủ đồn điền giàu có từ những lãnh địa đầy rêu của họ đến viếng Savannah, chễm chệ trên lưng những con ngựa nòi, theo sau là các cổ song mã chở những bà vợ xinh đẹp và phía sau nữa là một số xe đầy nhóc bọn nô lệ . Nhưng Gerald thì chẳng bao giờ có được cái điệu bộ sang trọng . Giọng nói uể oải và điệu bộ hững hờ của họ đối với ông nghe thật êm tai nhưng cái giọng của người Ái nhĩ lan vẫn bám chặt ở lưỡi ông. Ông thích cái thái độ ung dung của họ khi thương lượng các vấn đề quan trọng . Nếu có phải vì một cây bài mà mất đi một sản nghiệp, một đồn điền hay một tên nô lệ, họ vẫn viết giấy nhường lại những thứ đó cho người thắng cuộc với một dáng vẻ bất cần như khi họ ném vãi một số xu đồng cho đám trẻ con da đen. Nhưng Gerald là kẻ từng sống trong cảnh nghèo khó nên ông không bao giờ học được cái tư thái thua tiền một cách ung dung thanh lịch đó. Người ở miền duyên hải Georgia này họp thành một sắc dân nhỏ khả ái với giọng nói êm dịu, với những cơn giận bất ngờ và tính khí vô chừng khiến Gerald yêu thích họ. Tuy thế, bên trong con người trẻ tuổi vừa mới rời khỏi một xứ sở mà các đầm lầy đầy sương mù không dung chứa bịnh sốt rét, luôn luôn có gió ẩm và lạnh, bên trong con người đó còn có một khí lực sinh động và hoạt nhiệt khiến cho anh ta khác hẳn với hạng người trang nhã nhưng lặng lờ quen sống ở phong thổ bán nhiệt đới với những ao đầm đầy muỗi sốt rét.

Ở họ, ông chỉ học lấy những gì mà ông cho là cần thiết, phần còn lại, ông bất chấp. Ông nhận thấy đánh phé là trò hữu dụng nhứt trong tất cả các tập quán miền Nam, đánh phé và uống rượu thật cừ; và chính cái năng khiếu về phé và rượu mạnh đó đã đem lại cho Gerald hai trong ba vật sở hữu quí nhứt đời ông, đó là gã hầu cận và đồn điền bông vải . Vật quí nhứt còn lại chính là vợ của ông mà mỗi khi nghĩ tới, ông chỉ biết cho rằng đó là hạnh phúc trời ban.

Gã hầu cận, tên Pork, là một hắc nô da đen nhánh, đứng đắn và thuần thục về nghệ thuật thời trang. Anh ta là kết quả của một sòng bài phé suốt đêm giữa Gerald và một chủ đồn điền từ đảo St. Simon tới . Lối tố phé của ông ta cũng gan lì chẳng kém Gerald, nhưng về tửu lượng đối với món Rhum Nequ Orleans thì ông ta không phải là đối thủ . Về sau, mặc dầu người chủ cũ của Pork có đề nghị mua lại anh ta với giá mắc gấp đôi, Gerald vẫn cương quyết từ chối, bởi vì có được một gã nô lệ hầu cận đầu tiên mà đó lại là “tên hầu cận gioinhứt miền duyên hải” tức là đánh dấu được bước đầu tiên trong giấc mộng lớn của ông: có được thật nhiều nô lệ và thành một địa chủ thanh lịch.

Từ lâu ông đã có chủ ý là sẽ không giống như James và Andrequ cứ suốt ngày mặc cả với khách hàng rồi thức khuya tính toán những hàng cột dài chi chít số dưới ngọn nến mờ . Trái với hai anh, ông đã nhận thấy một cách sắc bén rằng xã hội chẳng bao giờ có ấn tượng đẹp đối với những “người là thương mãi”. Gerald muốn trở thành một chủ đồn điền . Với tất cả lòng hăng say của một người Ái nhĩ lan đã từng là tá điền, ông muốn chính mắt nhìn ngắm những mẫu đất xanh tươi của riêng mình . Trong mục đích duy nhứt đó, ông kỳ vọng có một ngôi nhà, một đồn điền, thật nhiều ngựa và nô lệ cho riêng mình . Và ở đây, ở một xứ vừa được khẩn hoang, không còn phải lo sợ đến hai mối tai hoạ vẫn luôn xảy ra ở quê hương ông – thuế má ăn mòn huê lợi và sự đe doạ thường xuyên của một án lịnh tịch biên bất ngờ – ông nhứt quyết phải thực hiện mộng ước . Nhưng, cùng với thời gian trôi qua, ông nhận thấy rằng có một ước vọng và biến ước vọng đó thành sự thật là hai chuyện khác nhau.
Rồi bàn tay của định mệnh liên kết với bàn tay của thần đổ bác đã giúp cho ông có một đồn điền mà về sau ông gọi là Tata, đông thời đưa ông ra khỏi vùng duyên hải lên tận vùng cao nguyên Bắc Georgia.

chuyện xảy ra vào một đêm mùa xuân oi bức trong một quán rượu ở Savannah khi Gerald thoáng nghe câu chuyện của người bên cạnh. Khách lạ là người sanh quán ở Savannah vừa từ nội địa trở về sau mười hai năm xa cách. Ông ta là một trong những người trúng được đất đai do nhà nước xổ số để phân chia vùng đất mênh mông bát ngát của vùng Trung bộ Georgia do dân da đỏ nhượng lại một năm trước khi Gerald đặt chân lên Mỹ quốc. Ông ta đã lên trên đó và tạo dựng một đồn điền, nhưng hiện thời, ngôi nhà lớn đã bị thiêu huỷ, ông ta quá nản cái “chỗ ghê tởm” nên có ý định phủi tay.

Luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý nghĩ làm chủ một đồn điền, Gerald nhờ người giới thiệu với khách. Và càng lúc ông càng quan tâm hơn khi nghe người lạ kể chuyện là ở miền Bắc đó đang tràn ngập những người đi lập nghiệp từ Carolinas và Virginia tới. Sống khá lâu ở Savannah nên Gerald quan niệm rằng, ngoài vùng duyên hải ra, tất cả các nơi khác đều là rừng rú với một tên da đỏ ẩn núp sau mỗi bụi rậm. Trong khi tải hàng cho thương cuộc “Anh em O’Hara”, ông đã từng đi qua Augusta, phía bên con sông Savannah khoảng một trăm dặm, và ông cũng đã từng đi sâu tới các thành phố xưa cũ nằm về phía Tây của thị trấn này. Ông nhận thấy khu vực đó cũng được xây dựng an bày như vùng duyên hải, nhưng theo lời người lạ thì đồn điền của ông ta còn ở sâu vào một nội địa cách Savannah tới hai trăm rưỡi dặm về phía Tây và Bắc. Và chỉ cách con sông Chattahoochee chừng vài dặm. Gerald cũng biết rằng vượt quá con sông đó về phía Bắc là nơi chiếm cứ của giống dân da đỏ Cherokee, do đó ông không khỏi ngạc nhiên khi thấy người lạ kể qua những vụ đụng độ với dân da đỏ bằng một vẻ khinh thường, và cũng ở đấy, nhiều thị trấn bắt đầu mọc lên và đồn điền phát đạt vô cùng.

Một giờ sau, khi câu chuyện bắt đầu lạt lẽo, với một thủ đoạn làm ra vẻ ngây thơ chất phác phản chiếu từ đôi mắt trong xanh, Gerald đề nghị chơi bài. Khi đêm càng khuya và rượu uống đã nhiều, bao nhiêu người khác đều dừng tay, chỉ còn Gerald và người khách lạ . Khách xô hết đống tiền ra và tố luôn với tờ bằng khoán đất . Gerald cũng xô tuốt cộc tiền của mình và đặt trên đó trọn bóp bạc . Đặt trường hợp số bạc trong bóp đó là tiền của Công ty “Anh em O’Hara”, Gerald cũng không hối hận bao nhiêu vì ông sẽ về thú tội trước lễ Misa sáng hôm sau. Ông biết rõ điều ông muốn, và khi Gerald muốn có một cái gì, ông cố chiếm lấy bằng con đường trực tiếp. Vả lại, ông còn có cả một đức tin vào số mạng và “xây thiều dĩ ” của mình nên không một chút bận tâm về việc làm cách nào để hoàn trả số tiền lại cho các anh nếu bài của người lạ lớn hơn.

Người lạ chỉ có đôi ách vừa thở ra vừa gọi mượn giấy bút và nói:

− Thắng ván này ông cũng chẳng được lợi bao nhiêu. Phần tôi thì khỏi phải lo đến việc thuế khoá . Ngôi nhà lớn bị cháy năm rồi. Đồn điền, cây cối mọc hoang và đầy những thông con. Nhưng dù sao nó cũng đã thuộc về ông.

Cũng ngay đêm đó, Gerald đã nghiêm trang bảo Pork khi anh ta đỡ ông lên giường:

− Đừng lầm lẫn chuyện bài bạc với rượu Quhisky trừ khi mình là tay cừ về rượu lậu Ái Nhĩ Lan.

Và gã nô lệ hầu cận bày tỏ sự thán phục của anh ta đối với chủ mới bằng một thứ thổ âm pha trộn giữa địa phương của anh ta và địa phương của chủ mà chỉ có hai người đối thoại là hiểu nổi với nhau mà thôi, kỳ dư chẳng ai có thể biết là gì cả.

Con sông Phlint đục bùn lặng lờ chảy giữa hai bức tường thông và sồi bao phủ bởi những cây leo, ôm lấy giãi đất của Gerald như một cánh tay mở rộng ôm choàng qua hai phía. Đứng trên nền đất, trước là nền của ngôi nhà chánh, Gerald say sưa ngắm bức tường chắn cao ngất và xanh um ấy, coi như đó là bờ rào do chính ông dựng lên để phân định ranh giới mảnh đất của mình. Từ trên nền đá đen xạm vì hỏa hoạn nhìn xuống lối đi có trồng cây hai bên chạy ra đường cái, Gerald chửi thề ỏm tỏi vì vui sướng quá đến nỗi quên tạ ơn Thượng đế. Hai dãy cây song song nhau kia là thuộc quyền sở hữu của ông, cả cái sân hoang phế kia cũng là của ông, nơi đó cỏ đã mọc cao tới thân người bên dưới những khóm hoa mộc lan đầy bông sao trắng. Những cánh đồng không ai canh tác, lố nhố những thông non và bụi rậm, trải dài bình diện đất đỏ xa lần ra bốn phía cũng là của Gerald – tất cả đều thuộc quyền sở hữu của ông chỉ vì ông có dòng máu Ái nhĩ lan mạnh rượu và có cái can đảm dám liều sanh tử trong một ván bài.

Gerald nhắm mắt lại, và giữa sự yên tĩnh của vùng đất đỏ bỏ hoang, ông có cảm tưởng như vừa trở lại quê nhà . Ở đây, ngay dưới chân ông, một ngôi nhà tường vôi trắng sẽ mọc lện Bên kia đường sẽ có nhiều bức rào để chứa lũ gia súc béo phị và những con ngựa giống, và giãi đất đỏ thoai thoải đổ xuống triền đồi ra tận thung lũng phì nhiêu kia sẽ trắng xoá như lông tơ vịt biển dưới ánh mặt mặt trời

– đó là bông vải, hàng mẫu và hàng mẫu bông vải ! Vận số của dòng họ O’Hara lại sắp được tỏa rạng .

Với một ít bạc mượn được của hai người anh không mấy nhiệt thành và một khoản tiền khá lớn cầm thế đất, Gerald mua được một số nô lệ chuyên việc đồng áng và lên đường tới Tara sống độc thân trong ngôi nhà nhỏ chỉ có bốn phòng của viên quản gia trong khi chờ ngôi nhà lớn cất lên.

Ông cho khai quang các cánh đồng để trồng bông vải, mượn thêm tiền của James và Andrequ để mua nô lệ. Họ O’Hara đoàn kết như một bộ lạc, luôn luôn bám sát vào nhau trong hoàn cảnh sung túc cũng như những lúc gặp tai ương, không phải vì quá thương mến nhau mà là vì trong suốt nhiều năm đen tối, họ đã hiểu được nếu muốn sống còn thì cả gia đình phải liên kết chặt chẽ với nhau để đối phó với bên ngoài. Họ cho Gerald mượn tiền, rồi những năm sau đó, tiền lại được trả vào tay họ với một số lời . Đồn điền từ từ bành trướng trong khi Gerald mua thêm một số đất bên cạnh, và ngôi nhà trắng đã từ trong mộng hiện ra.

Ngôi nhà do bọn nô lệ xây lên trông vụng về như bò trườn ra. Nó nằm chễm chệ trên gò đất nhìn xuống đồng cỏ tươi tốt trải dài nghiêng nghiêng xuống tận dòng sông, và Gerald đã hết sức hài lòng vì mặc dầu mới được xây cất, trông nó già giặn như từng trải mưa nắng nhiều năm. Những cây sồi cổ thụ đã từng nhìn thấy dân da đỏ đi qua dưới cành lá của mình ôm chặt lấy ngôi nhà, nhánh nhóc chìa ra che phủ mái nhà trong một vòm bóng mát. Sân cỏ được săn sóc kỹ càng bây giờ đã xanh mướt với loài xa trục thảo và loại cỏ Bermuda và Gerald luôn luôn nhắc nhở người làm phải trông chừng cẩn thận . Từ con đường lớn hai bên có trồng cây bách hương đến dãy lều trắng dùng làm nơi cư trú cho nô lệ, Tara toát ra một không khí chắc chắn, vững vàng và trường cửu. Cứ mỗi lần phi ngựa qua khúc quanh trên đường cái và nhìn thấy mái nhà của chính mình nhô lên khỏi cành lá xanh tươi là mỗi lần ông cảm thấy hãnh diện dường như lúc nào cũng chỉ mới nhìn thấy lần đầu.

Chính ông – chính cái anh chàng Gerald bé nhỏ, cứng đầu và ồn ào – đã tạo dựng được nó.
Gerald luôn hoà nhã với tất cả các láng giềng trong hạt, chỉ trừ đám Macintosh có đất nằm sát mé trái đồn điền của ông và bọn Slattery chỉ có vỏn vẹn ba mẫu đất, cằn cỗi ở về phía phải, chạy dài theo những ao đầm nằm giữa con sông và đồn điền của John Quilkes.

Đám Macintosh là người Tô cách lan – Ái nhĩ lan lại thuộc phe Orange nên cho dầu họ có được tất cả những đức tánh cao quí của bao nhiêu vị Thánh có tên trong lịch Thiên Chúa giáo thì dòng họ tổ tiên của họ vẫn cứ đáng bị nguyền rủa muôn đời trước mắt Gerald. Thật sự, họ đã tới sống ở Georgia được bảy chục năm rồi, và trước đó, cũng đã trải qua suốt một thế hệ ở Carolinas, nhưng những người đầu tiên trong tông tộc của họ đã từ Ulster đặt chân lên đất Mỹ và chỉ nội một việc đó cũng đủ cho Gerald thù hận lắm rồi.

Bọn họ toàn những kẻ thâm trầm và ương ngạnh, chỉ quanh quẩn trong thế giới riêng của họ và gả cưới lẫn nhau giữa những người thân tộc ở Carolinas. Không phải chỉ một mình Gerald là giận ghét họ, bởi vì dân trong hạt ai ai cũng niềm nở và hợp quần với nhau thì khó mà tha thứ được đối với những kẻ thiếu những đức tánh đó . Những lời đồn đãi về việc họ thiên về phe chủ trương giải phóng nô lệ lại càng làm cho người trong hạt lánh xa họ Macintosh. Mặc dầu lão Angus chưa hề giải phóng cho một tên nô lệ nào và mặc dầu ông ta đã làm một điều hết sức trái ngược với chủ nghĩa phế nô là bán một vài đứa nô lệ cho những người mãi nô đưa lên những cánh đồng mía ở Louisiana, những lời đồn đãi kia vẫn cứ tồn tại.
Gerald nói với John Quilkes:

− Không nghi ngờ gì hết, y là một tên phế nô. Nhưng ở một đứa theo phe Orange, khi một nguyên tắc chạm vào cái thế kín như bưng của Tô cách lan thì nguyên tắc đó phải lâm nguy.

Đối với đám Slattery thì lại là một vấn đề khác. Là những người da trắng nghèo đói, họ không được dành một chút nể trọng bất đắc dĩ nào như đối với dòng họ Mac intosh qua việc sống triệt để độc lập với họ hàng. Lão già Slattery cứ bám dính lấy mấy mẫu đất nghèo nàn với tất cả sự lười biếng và sầu thảm, mặc dầu Gerald và John Quilkes đã nhiều lần đề nghị mua lại . Vợ lão là một người đàn bà tóc tai rối nùi, trông bịnh hoạn và thất sắc, lại còn phải chăn nuôi cả một lũ con nhút nhát – cứ mỗi năm lại mỗi tăng nhân số. Tom Slattery không có tới một tên nô lệ và hai đứa con trai lớn của y lại không chịu liên tục cố gắng trồng bông vải, trong khi bà vợ và đám trẻ con quanh quẩn trên một lõm đất được coi như là vườn rau cải của gia đình. Do đó, bông vải chẳng bao giờ được mùa, và vườn rau thì chẳng mấy khi cung cấp đủ cho cả nhà, bởi vì bà Slattery cứ luôn luôn mất thì giờ cho việc sanh đẻ.

Cảnh Tom Slattery thất thểu đi từ nhà này sang nhà khác để ăn mày hạt giống bông vải hay một lát thịt để sống qua ngày là một chuyện quá quen mắt. Còn một chút hơi tàn nào là Slattery thù hận chút ấy đối với các láng giềng qua sự khinh khi ra mặt của họ, nhứt là với bọn hắc nô tự phụ vì được làm tôi đòi cho đám nhà giàu. Bọn tôi tớ da đen trong hạt luôn luôn tự cho mình cao cả hơn những kẻ da trắng rác rến, và thái độ khinh ngạo không che giấu của chúng làm cho y uất ức, nhưng đồng thời cũng khiến cho y thèm muốn địa vị của chúng . Trong khi y phải sống trong cảnh nghèo khổ thì bọn da đen đó lại được ăn uống đầy đủ, quần áo tươm tất, lại còn được săn sóc tử tế lúc bịnh hoạn hay khi già nua. Bọn chúng hãnh diện về danh tiếng của chủ và phần lớn đều tự kiêu vì được dịp hầu hạ người cao quí.

Tom Slattery có thể bán nông trại của y với một số tiền mắc gấp ba lần giá trị thật sự cho bất cứ chủ điền nào trong hạt. Họ sẵn sàng coi đó như là một món tiền xứng đáng dùng tống khỏi cộng đồng một vật chướng mắt. Tuy thế, y lại rất hài lòng được ở lại trên mảnh đất đó để chịu đựng cuộc sống cùng khổ chỉ với một bành bông vải mỗi năm với lòng từ thiện của những láng giềng.
Riêng đối với bao nhiêu người khác thì Gerald luôn giữ vững tình giao hảo và một vài trường hợp còn đi tới chỗ thân thiết. Những người trong họ Quilkes, Calvert, Tarleton và Phontaine đều tươi cười khi trông thấy con người nhỏ thó của ông ngồi trên lung một con ngựa bạch cao lớn sải như bay ngược dốc trên đường vào nhà họ. Họ tươi cười và nâng cao những chiếc ly lớn có pha một muỗng rượu Bourbon cùng một ít lá bạc hà nghiền nát. Gerald là một người khả ái, và lần lần người láng giềng nhận ra điều mà bọn trẻ, đám hắc nô và lũ chó đã phát giác ra ngay từ khi mới thấy ông lần đầu rằng ông là một người tốt bụng, chịu khó nghe và luôn luôn cởi mở mặc dầu con người bề ngoài của ông là một kẻ hay la hét và có vẻ hung tợn.

Cứ mỗi lần ông tới đâu là lũ chó mừng rỡ sủa như điên, và bọn trẻ da đen hò hét vang rần, chạy ào ra đón, giành nhau đặc ân giữ ngựa trong khi ông quát mắng mấy câu trìu mến . Đám trẻ con da trắng thì đòi được ông cho đu đưa trên gối, giữa lúc ông không ngớt miệng tố cáo với người lớn về sự phỉ báng của các chánh trị gia Yankee; các cô gái con của bạn ông thì kể riêng với ông về những chuyện tình của họ, và các cậu trai không dám thú nhận với cha về một món nợ danh dự nào đó thì lại coi ông như là một người bạn cần thiết .

Thế là ông mắng ngay:

− Thằng ranh con, vậy là mầy đã mắc nợ cả tháng rồi ! Khốn kiếp, tại sao mầy không chịu nói với tao sớm hơn?

Đã quá quen với lối ăn nói cục mịch của ông, nên không ai coi đó như một sự sỉ vả, và các cậu trai chỉ biết rụt rè cười nhăn nhó:

− Thưa bác, con không dám làm phiền bác. Cha con…

− Cha mầy là một người tốt, đó là điều không thể chối cãi. Nhưng ông ấy nghiêm khắc . Đây, cầm lấy cái này và không được nhắc tới chuyện đó nữa .

Vợ của các ông chủ đồn điền là những người cuối cùng nhận ra điều đó. Nhưng, đến khi bà Quilkes, “một phụ nữ quí phái và kín đáo chẳng ai bằng” – như Gerald thường bảo – một đêm đã nói với chồng sau khi Gerald phóng ngựa ra về rằng “ông ta ăn nói hơi sỗ sàng nhưng đó là một người phong nhã”, Gerald mới thật sự được chấp nhận vào xã hội thượng lưu.
Gerald không ngờ là phải mất suốt mười năm mới nhận được điều vinh hạnh đó, vì chẳng bao giờ ông nghĩ là, ngay từ đầu, người láng giềng đã coi ông như là một kẻ không xứng đáng. Ngay từ khi mới đặt chân lên đồn điền Tara, chẳng một chút nghi ngờ gì cả, ông đã tự cho mình đương nhiên thuộc về giai cấp đó rồi.

Năm bốn mươi ba tuổi, Gerald mập tròn và da mặt hồng hào trông chẳng khác một địa chủ sang trọng trong một bức tranh săn bắn. Cũng vào năm đó, ông nhận thấy, mặc dầu Tara rất quí giá đối với ông và các bạn láng giềng luôn niềm nở đón tiếp ông, ông vẫn còn thấy thiếu một cái gì. Ông muốn có một người vợ.

Tara cần phải có một nữ chủ. Người nấu ăn trước kia được cắt đặt trông coi sân gà vịt được nâng lên hàng đầu bếp vì thiếu người, chẳng bao giờ dọn ăn đúng giờ giấc, còn đứa hầu phòng trước chỉ là một nữ nông nô, luôn luôn để bụi phủ đầy bàn ghế và dường như chẳng bao giờ lo sẵn quần áo sạch cho đủ mặc, do đó, mỗi lần có khách tới là cả nhà nhốn nháo lên. Pork, người da đen duy nhứt được huấn luyện về cách phục vụ chủ, có nhiệm vụ giám sát toàn thể tôi tớ trong nhà, nhưng rồi cũng lần lần đâm ra lười biếng và bất cẩn sau nhiều năm tiêm nhiễm thói sống không cần nghi thức của chủ nhân. Là người hầu cận, hắn phải dọn dẹp buồng ngủ của Gerald cho ngăn nắp, và với phận sự hầu bàn, hắn dọn ăn một cách trịnh trọng và khéo léo, nhưng đối với các chuyện khác hắn cứ để mặc cho ra sao thì ra.

Với năng khiếu bén nhạy của người Phi châu, bọn hắc nô đều nhận thấy rõ ràng Gerald chỉ sủa chớ không bao giờ cắn, và bọn chúng đã lợi dụng điều ấy một cách không xấu hổ . Thời đó, lúc nào người ta cũng nghe nói tới chuyện bán nô lệ xuống miền Nam, và những trận đòn thảm khốc, nhưng ở Tara thì chẳng có một gã nô lệ nào bị bán, và chỉ có một trận đòn duy nhứt xảy ra vì hôm đó, tên mã phu quên lo cho con ngựa quí của Gerald sau trọn ngày săn đuổi.

Bằng đôi mắt xanh biếc, Gerald tỉ mỉ quan sát sự xếp đặt gọn ghẽ tại các ngôi nhà trong vùng và ông cũng không quên để ý tới những bà nội trợ tóc chải láng, ung dung điều khiển bọn gia nhân. Ông không hề biết được rằng những bà vợ đó đã phải làm việc không hở tay từ sáng sớm đến nửa khuya, lúc thì trông coi việc nấu nướng, săn sóc con cái, lúc thì điều khiển việc may và giặt giũ. Ông chỉ thấy có những kết quả bề ngoài và chính những kết quả đó đã ám ảnh ông.

Sự cần thiết cấp bách phải có một người vợ trở nên rõ rệt hơn vào một buổi sáng giữa lúc ông đang mặc đồ để đi ra thị xã dự lễ, Pork mang vào cho ông một chiếc sơ mi xếp nếp thành hình tổ ong nhưng con nữ tì lại vá quá vụng về đến nỗi không ai dám mặc ra ngoài, ngoại trừ gã hần cận.

Trong khi chủ nổi giận hét vang, Pork xếp chiếc áo lại với vẻ hân hoan:

− Thưa ông Gerald, ông cần phải có một người vợ, và bà vợ đó phải là một người đã từng có một nhà chứa đầy nô lệ.

Gerald mắng ngay gã hầu cận về tội vô lễ của hắn, nhưng ông cũng nhìn nhận là hắn có lý. Ông muốn có vợ, có con, và nếu không thực hiện sớm thì có lẽ đã trễ lắm rồi . Nhưng ông không thể cưới bất cứ ai, như Calvert đã lấy người đàn bà Yankee dạy riêng cho các đứa con của ông ta. Vợ ông phải là một người đàn bà quí phái, quí phái từ trong huyết quản, phải có tư cách và duyên dáng như bà Quilkes đã thực hiện một cách toàn hảo tại đồn điền của chồng bà.

Nhưng có hai việc khó khăn trong việc cưới hỏi tại những gia đình ở đồn điền. Trước nhất là chẳng còn bao nhiêu cô gái đến tuổi thành hôn. Thứ hai, và đây là vấn đề quan trọng hơn, Gerald chỉ là một “người mới” mặc dù đã cư ngụ trong xứ gần mười năm, và bị coi như một ngoại nhân. Không một ai biết gì cả về gia thế của ông. Và mặc dầu xã hội trên cao nguyên Georgia không kiên cố mấy về sự bảo toàn danh giá như các giới quí tộc miền duyên hải, chẳng một gia đình nào muốn cho con gái kết hôn với một kẻ mà tổ phụ của kẻ ấy không từng được biết đến .

Gerald hiểu rằng mặc dầu vẫn được sự mến chuộng của những người đã từng cùng ông săn bắn, uống rượu và bàn luận chánh trị, ông vẫn ít có hy vọng được cưới con gái của một người nào trong số đó . Ông cũng không muốn để thiên hạ cứ mỗi bữa ăn tối lại xì xầm với nhau là ông nọ hoặc ông kia đã từ chối không cho Gerald O’Hara tán tỉnh con gái mình . Tuy biết thế, ông vẫn không cảm thấy hạ thể chút nào đối với các láng giềng . Chẳng có gì khiến cho Gerald cảm thấy thấp kém đối với bất cứ ai. Trong hạt, có tục lệ khá buồn cười là người ta chỉ gả con gái cho những ai đã sống ở miền Nam quá hai mươi năm, và kẻ đó phải có một mảnh đất, có nhiều nô lệ và chỉ biết say mê những trò vui thích hợp của thời ấy thôi.

Gerald bảo Pork:

− Sửa soạn đồ đạc mau. Mình đi Savannah. Và nếu tao nghe mầy nói : “Suỵt” hay “Số mạng”, chỉ một lần thôi, là tao sẽ bán mầy liền, bởi vì tao cũng ít khi xài những tiếng đó.

James và Andrequ có thể giúp ý kiến về chuyện hôn nhân, vả lại còn một số thiếu nữ con của bạn họ mà ông có thể cầu hôn và sẽ được chấp nhận. James và Andrequ nhẫn nại nghe ông nói nhưng chẳng có một chút khích lệ nào. Ở Savannah, họ không có người trong thân quyến để nhờ vả tới, bởi vì họ đã có vợ trước khi tới Mỹ châu. Và các cô gái con của bạn họ đã có chồng từ lâu và đã có con.

James nói với Gerald:

− Chú không được giàu và cũng không phải thuộc dòng dõi thế gia.

− Tôi đã có thể làm ra tiền thì tôi cũng có thể dựng được một gia đình quyền quí.

Andrequ chỉ nói cộc lốc:

− Chú trèo quá cao !

Nhưng họ vẫn cố giúp Gerald. James và Andrequ là những người cũ và có địa vị ở Savannah. Bạn bè của họ khá đông, và trong vòng một tháng, họ đã đưa Gerald đi từ nhà này sang nhà khác, ở lại dùng các bữa ăn tối, dự các cuộc khiêu vũ và các bữa ăn ngoài trời .
Cuối cùng, Gerald tuyên bố:

− Ở đây, tôi chỉ để mắt có một người, và khi tôi đặt chân lên đất Mỹ, người ấy vẫn chưa được sanh ra.

− Chú nói ai ?

− Cô Ellen Robillard.

Gerald cố nói với giọng điệu thản nhiên nhưng thật ra thì đôi mắt buồn hơi xếch của Ellen Robillard đã làm ông xúc động nhiều. Tuy chỉ mới mười lăm tuổi, nhưng cái dáng vẻ hững hờ kín đáo của cô bé đã làm cho Gerald thật sự say mê. Đã vậy, cái nhìn ám ảnh như chứa chan niềm thất vọng của cô ta lại càng làm cho ông đắm đuối thêm và tỏ ra lịch thiệp như chưa từng bao giờ có với một người nào .

− Nhưng tuổi chú đáng làm cha cô ta !

Gerald bất mãn:

− Nhưng tôi đang ở thời kỳ tráng niên mà .

James từ tốn:

− Gerald, ở Savannah không có cô gái nào mà chú ít hy vọng được cưới hơn cô gái đó . Cha cô ta là người thuộc họ Robillard, và mấy người Pháp đó còn kiêu căng hơn cả quỉ Lucipher. Và mẹ cô ấy cầu trời cứu rỗi cho linh hồn bà – trước kia đúng là một mệnh phụ.

Gerald phát cáu :

− Cóc cần ! Vả lại, mẹ cô ta đã chết, còn cụ Robillard thì lại mến tôi.

− Mến như một người bạn thì đúng, chớ không phải như một thằng rể .

Andrequ chen vào:

− Dầu thế nào cô ta cũng không chịu chú . Cả năm nay, cô ta yêu thằng anh họ cuồng nhiệt của cô ta là Philippe Robillard, mặc cho gia đình luôn luôn cản trở.

Gerald nói ngay:

− Nó đã đi Louisianna tháng này rồi .

− Sao chú biết ?

− Biết chớ !

Gerald trả lời vắn tắt, không muốn nói rõ chính Pork đã tiết lộ cho ông mẩu tin đáng giá đó, và rằng anh chàng Philippe đã bắt buộc đi tận miền Tây theo lệnh của gia đình anh ta. Và Gerald tiếp:

− Tôi nghĩ là dầu yêu thương thằng kia cách mấy cũng chưa chắc là cô ta không thể không quên hắn được. Mới 15 tuổi thì làm gì hiểu rõ được chuyện ái tình.

− Thà họ chịu gả con gái cho thằng liều mạng đó còn hơn cho chú.

Chính vì vậy mà James và Andrequ không khỏi kinh ngạc hết sức như bao nhiêu người khác khi nghe tin là ái nữ của Pierre Robillard sắp thành hôn với một người Ái nhĩ lan thấp bé trên vùng cao nguyên.

Cả thành phố Savannah thầm thì bàn tán và băn khoăn về chuyện Philippe Robillard bỏ đi, nhưng những lời đàm tiếu ấy không đưa tới được chút ánh sáng nào. Việc cô gái cưng của nhà Robillard sắp thành hôn với một gã đàn ông không cao tới mang tai vợ, mặt đỏ gay, to tiếng vẫn cứ mãi là điều bí ẩn đối với mọi người.

Ngay cả chính Gerald cũng không bao giờ hiểu được sự thể một cách trọn vẹn. Ông chỉ biết là một phép lạ đã xảy ra. Và, lần đầu tiên trong đời, ông hết sức khiêm tốn khi Ellen, da mặt trắng nhợt, nhưng vô cùng bình tĩnh, đặt bàn tay nhỏ nhắn lên cánh tay ông và bảo : “Ông O’Hara, tôi bằng lòng thành hôn với ông”.
Cả gia đình Robillard hoang mang chỉ hiểu được có phần nào câu chuyện, chỉ có Ellen và bà vú của nàng mới rõ trọn vẹn việc đêm ấy, khi một cô gái khóc ròng như mưa, lòng tan nát, sáng hôm sau, khi thức dậy lại quyết chỉ như một người đàn bà .

Như đã dự liệu, Mammy đã mang cho tiểu chủ một gói nhỏ do một người lạ trao tay từ Nequ Orleans. Gói đó chứa đựng một bức ảnh nhỏ của Ellen mà nàng đã ném xuống sàn với tiếng kêu thảm thiết, ngoài ra còn bốn bức thư viết tay cho Philippe Robillard và một mảnh giấy của một tu sĩ vắn tắt cho biết, Philippe đã chết trong quán rượu, sau một cuộc ấu đả.

− Chính họ đã đuổi anh ấy, cha tôi, Pauline và Eulalie. Họ đã xua đuổi anh ấy. Tôi thù oán họ, tôi ghét tất cả, tôi không bao giờ muốn gặp họ nữa. Tôi muốn bỏ đi, tôi sẽ đi đến nơi nào để không còn nhìn thấy họ nữa, nhìn thấy thành phố này, những người quen sẽ làm cho tôi nhớ … nhớ tới anh ấy.

Và khi gần tàn đêm, Mammy khóc trên mái tóc xanh mướt của tiểu chủ, van lơn:

− Con ơi, con không làm như vậy được.

− Tôi sẽ làm . Ông ta là một người dễ thương lắm . Tôi sẽ làm như vậy hoặc vào một tu viện ở Charleston.

Chính vì lời doạ vào tu viện đó đã làm cho ông Pierre Robillard phải ưng thuận dù đang bối rối và đau lòng . Ông theo phái Trưởng Lão giáo trong khi nhà ông theo Công giáo và ý nghĩ con gái sẽ trở thành một nữ tu sẽ làm ông khó chịu hơn là lấy Gerald O’Hara. Sau cùng, ông chẳng có gì để phản đối Gerald ngoài sự hiểu biết về gia thế của ông.
Vì thế, Ellen, đoạn tuyệt với họ Robillard, quay lưng lại Savannah, để không bao giờ trở lại nữa, và cùng với một người chồng đứng tuổi, Mammy và hai mười đầy tớ da đen lên đường đi về Tara.

Năm sau, đứa con thứ nhất ra đời, được đặt tên là Katie Scarlett, theo tên của mẹ Gerald. Gerald hơi thất vọng vì ông ta mong con trai hơn, tuy vậy, ông hài lòng đứa con gái tóc đen nhỏ xíu đã có dịp cho ông đãi đằng bọn nô lệ da đen nhậu nhẹt và để chính ông được la hét ăn uống một bữa.

Nếu Ellen có hối tiếc về quyết định lấy ông, thì cũng chẳng ai biết, ngay cả Gerald vì mỗi khi nhìn vợ, ông gần như kiêu hãnh. Nàng đã bôi xoá Savannah và kỷ niệm ở đó khi rời bỏ thành phố miền biển đầy phong tục cao quí, và ngay khi đặt chân lên hạt này, miền Bắc Georgia đã trở thành quê hương của nàng.

Khi rời khỏi căn nhà của cha, nàng đã để lại sau nó với những đường nét thật đẹp và nở nang như thân hình đàn bà, như một chiếc thuyền buồm no gió. Một ngôi nhà tô hồ như cẩm thạch hồng, cất theo kiểu nhà thuộc địa Pháp, vươn lên cao cái hình dáng xinh xắn, phía trước có thang xoáy, tay vịn làm bằng sắt rèn như đăng ten, một ngôi nhà sang trọng, lộng lẫy nhưng vô cùng lạnh lẽo.
Chẳng những nàng rời nơi trú ẩn kia mà còn lìa bỏ hoàn toàn đời sống văn minh đã được xây dựng từ trước ở đó. Và nàng tự thấy mình đang ở một nơi xa lạ, khác biệt như nàng đã vượt qua một địa lục khác.

Đây là miền Bắc Georgia, một nơi hiểm trở được khai phá bởi những người sắt đá. Trên đỉnh cao nguyên nằm dưới chân rặng núi Blue Ridge, Ellen có thể thấy những ngọn đồi tròn đất đỏ, với những hiện tượng đột khởi của đá hoa cương và những hàng thông cao vút, khắp nơi. Tất cả đều có vẻ hoang vu, không làm sao hợp mắt một người miền biển, đã từng quen thuộc với hải đảo, những cây cối đẹp êm ả phủ đầy rêu xám, hải đảo xanh, những bãi cát nóng dưới ánh nắng miền bán nhiệt đới và quen thuộc với con đường cát nằm dài dưới hai hàng dừa hoặc kè.

Ở vùng này, người ta chỉ biết có cái lạnh buốt xương của mùa đông cũng như cái nóng thiêu đốt của mùa hè, và tinh thần, nghị lực của dân chúng ở đây quá xa lạ với nàng. Họ là một mẫu người lịch thiệp, quảng đại và nhiều tánh tốt, nhưng thật là hùng hổ, dũng mãnh và dễ nổi giận. Dân miền biển mà nàng đã rời bỏ, có thể tự hào về cách đối xử hờ hững những công việc của họ, ngay cả lúc đấu gươm, đấu súng hoặc lúc thanh toán oán thù cũng vậy, nhưng người Georgia có mầm bạo động trong người họ. Trên miền biển, đời sống lụn dần, ở đây, luôn luôn tươi trẻ, cường tráng và mới mẻ.
Tất cả những người mà Ellen quen ở Savannah dường như được đúc cùng khuôn, rập nhau về quan điểm và tập tục, nhưng ở đây mỗi người mỗi khác. Những người định cư miền Bắc Georgia đã tới từ nhiều nơi khác nhau, những vùng khác ở chính Georgia, Carolinas, Virginia, Âu châu, Bắc Mỹ … Một số bọn họ, như Gerald, đi lập nghiệp, một số giống như Ellen thuộc về thành phần những gia đình cố cựu, thấy rằng không thể nào chịu được cuộc sống dưới mái nhà đúc của họ và tìm kiếm một nơi ẩn náu xa hơn. Một số đông thì chẳng còn có lý do gì cả, ngoại trừ huyết quản họ, dòng máu của những tiền nhân khai phá lúc nào cũng sôi sục.

Những người tứ xứ này tô lên cuộc sống của hạt một vẻ giản dị mới mẻ đối với Ellen, điều xa lạ mà nàng không bao giờ quen thuộc được. Theo năng khiếu, nàng đoán biết được hành động của người dân miền biển trong bất cứ trường hợp nào. Nhưng ở đây, không được.

Và để khêu lại sự hoạt động trong xứ, một phong trào phồn thịnh tràn xuống miền Nam. Cả thế giới kêu gào bông vải, và đất mới trong địa hạt rất phì nhiêu vì chưa khai thác, sản xuất một cách phong phú. Bông vải là nhịp tim của vùng này, trồng trọt và gặt hái cũng như hai thời kỳ trương tâm và thu tâm của đất đỏ. Sự thịnh vượng đến từ những luống cày cong cong và sự kiêu ngạo cũng như bắt nguồn từ đó, kiêu hãnh vì cây lên nhiều nụ, vì hàng ngàn mẫu ruộng nhỏ trổ hoa đẹp như mây trắng. Nếu bông vải làm cho họ sung túc suốt đời thì những thế hệ sau còn phồn thịnh hơn thế nữa.
Sự chắc chắn của tương lai làm họ thú vị và hăng hái, dân trong hạt bằng lòng cuộc sống của họ một cách khoan khoái mà Ellen không bao giờ hiểu được . Họ có đủ tiền, có nô lệ để vui chơi, và họ thích vui chơi. Hình như không bao giờ họ bận rộn đến phải bỏ ngang công việc để đi câu cá, đi săn hay đua ngựa và không có tuần nào mà họ quên mở dã yến hay khiêu vũ.

Ellen không bao giờ muốn hoặc có thể làm giống như họ được, bà đã bỏ lại Savannah rất nhiều cá tính của mình. Nhưng bà rất kính phục họ và lâu dần, bà biết thán phục sự thành thật và lòng quả quyết của họ. Đó là những người thận trọng và biết xác định giá trị con người một cách đứng đắn.

Bà trở thành một người láng giềng được ưa thích nhứt trong vùng, một người bình dị, một bà chủ đúng nghĩa, một mẹ hiền và một người vợ tận tụy . Thay vì hiến dâng cõi lòng tan nát và tinh thần vị kỷ cho tôn giáo, bà đã đặt trọn tâm hồn vào mấy đứa con, mái nhà và người đàn ông đã mang bà ra khỏi Savannah, ra khỏi bao nhiêu kỷ niệm mà không hỏi câu nào cả.

Khi Scarlett được một tuổi, mạnh khoẻ và đẹp hơn bất cứ đứa nhỏ nào khác – Mammy nghĩ như vậy – thì Ellen sinh đứa thứ hai, tên Susan Elinor, nhưng thường gọi là Suellen, và sau đó Carreen được ghi vào gia phả là Caroline irene. Và sau đó là ba cậu trai, nhưng tất cả đều chết trước khi biết đi… Ba cậu bé đó hiện giờ đang an nghỉ dưới rặng bách hương gân guốc trong mảnh đất mai táng cách nhà chừng một trăm thước với ba tấm bia cùng ghi “Gerald O’Hara, Jr.”.

Kể từ ngày đầu Ellen đến Tara, vùng đất đã thay đổi nhiều. Mặc dầu mới 15 tuổi, Ellen vẫn sẵn sàng đảm nhận vai trò của một bà chủ đồn điền. Trước khi lấy chồng, các cô gái cần phải dịu dàng quí phái và biết trang điểm, nhưng sau ngày thành hôn, các cô phải có khả năng cai quản những toà nhà chừng một trăm người hay hơn nữa, gồm cả da trắng lẫn da đen. Họ được huấn luyện từ nhỏ nhằm mục đích ấy.

Ellen đã được chuẩn bị trước cho ngày cưới cũng như các cô gái nhà lành đã hấp thụ, và bà còn có Mammy, người có thể làm phấn chấn những tên hắc nô lười nhứt. Bà mang đến sự ngăn nắp, trang nghiêm và sang trọng cho căn nhà của Gerald và mang lại cho Tara một vẻ đẹp trước kia chưa từng có.

Căn nhà không xây theo một hoạ đồ kiến trúc nào cả, người ta có thể xây thêm những phòng đặc biết nếu thấy tiện, nhưng nhờ sự cẩn thận và chú ý của Ellen, nó dần dần trở nên duyên dáng để bù đắp các khuyết điểm. Con đường nhỏ trồng bách hương từ đường chính vào nhà, con đường mà các nhà vườn ở Georgia không thể nào hoàn toàn như vậy được, có bóng râm mát, làm nổi bật màu xanh của các cây khác. Cây tử đằng hoa leo phủ mái hiên phô màu rực rỡ trên vách tường vôi trắng và phối hợp với những nụ trân châu thái (sim) gần cửa ra vào, những cụm trắng hoa mộc lan trong sân… che đậy phần nào sự vụng về của gian nhà.

Vào mùa xuân và hạ, cỏ Bermuda và xa trục thảo trên sân trước đổi sang màu lục tươi, trông vui mắt đến nỗi đám gà tây và ngỗng trắng mặc dầu thường ngày lang thang sau nhà cũng bị quyến rũ. Một vài con già nhứt trong đám mon men tiến đến sân trước, bị lôi cuốn bởi cỏ xanh và sự hứa hẹn ngon lành của những nụ lài bách nhật. Chống lại sự phá phách của chúng là một đứa bé hắc nô đứng trước thềm, võ trang một mảnh giẻ. Đứa nhỏ da đen ngồi trên bực thềm ấy là một bối cảnh của Tara. Nó chẳng vui vẻ gì lắm, vì nó bị cấm không được đánh đập đám gia cầm ấy mà chỉ được phe phẩy mảnh giẻ để xua đuổi chúng đi mà thôi.

Ellen đã trao nhiệm vụ đó cho vài chục thằng bé da đen, đó là chức vụ đầu tiên ở Tara đối với một nô lệ trai. Khi đã được 10 tuổi, nó sẽ được gởi cho lão Daddy thợ vá giày của đồn điền để học nghề, hoặc Amos thợ mộc và đóng bánh xe, hay Phillip chăn bò, Cuphphee chăn la. Nếu chúng không đủ khả năng học những nghề này, chúng sẽ làm việc ngoài đồng, và đối với bọn da đen, như thế là mất luôn quyền có địa vị trong xã hội.

Cuộc sống của Ellen không dễ dàng mà cũng không sung sướng, nhưng bà không mong cuộc đời dễ dàng hơn. Và nếu không được sung sướng thì đó cũng là số phận của nữ giới . Thế giới chỉ dành riêng cho đàn ông và bà chỉ có việc chấp nhận nó . Đàn ông làm chủ sản nghiệp, và đàn bà quản trị sản nghiệp đó. Đàn ông hưởng hết công trạng của việc khai thác, và đàn bà có bổn phận khen ngợi sự khéo léo của đàn ông. Đàn ông gầm thét như bò rừng khi bị xóc dầm, còn đàn bà phải cắn răng không rên rỉ khi sinh nở vì sợ chồng lo lắng . Đàn ông ăn nói cộc cằn và hay say sưa. Đàn bà không được nói lấp tiếng và dìu người say lên giường mà không hề trách móc một lời. Đàn ông thô lỗ và hay nói thẳng . Đàn bà phải luôn luôn ân cần, cao quí và khoan dung.
Ellen đã được giáo dục theo nếp sống cổ truyền của các bà quí tộc. Bà đã được dạy cách mang gánh nặng của gia đình trên vai mà vẫn giữ vẻ vui tươi, ý định của bà là làm cho ba đứa con gái cũng trở nên các phu nhân quí phái. Với hai cô con nhỏ, bà đã thành công. Suellen thích làm dáng nên sẵn sàng chú ý và ngoan ngoãn vâng lời dạy dỗ của mẹ, Carreen thì rụt rè và dễ hướng dẫn. Nhưng Scarlett, xứng đáng là con gái của Gerald, cho rằng con đường đi đến nữ tính thật khó khăn.

Mammy giận dữ cho rằng, Scarlett thích làm bạn với lũ trẻ da đen trong đồn điền hay mấy đứa con trai hàng xóm hơn là hai cô em gái đoan trang hoặc mấy cô Quilkes lễ phép. Nàng có thể trèo cây hoặc ném đá không thua gì bọn con trai. Mammy lo ngại vô cùng vì đứa con gái của Ellen đã biểu lộ những cá tánh đó và thường khuyên bảo Scarlett : “Hãy có tư cách của một tiểu thơ”. Nhưng Ellen khoan dung và nhìn xa hơn. Bà biết rằng những bạn bè lúc thơ ấu sẽ trở thành những vị hôn phu sau này, và bổn phận đầu tiên của một cô con gái là phải lấy chồng. Bà tự nhủ là tại con mình quá tràn trề sức sống mà thôi, và còn đủ thì giờ để dạy bảo nó có nghệ thuật và sự duyên dáng để thu hút đàn ông.

Trong mục đích đó, Ellen và Mammy cùng cố gắng. Và càng lớn lên, Scarlett càng có khiếu về thuật quyến rũ đàn ông, dầu các môn khác đều dở. Mặc dầu đã có nhiều nữ sư phó đã cố gắng và hai năm được gởi nội trú tại nữ học viện Phayetteville gần nhà, sự học của nàng không được hoàn toàn. Tuy thế, không một cô gái nào trong hạt có thể khiêu vũ đẹp bằng nàng, Scarlett biết mỉm cười làm sao cho má lúm đồng tiền, biết nhón gót cho chiếc váy phồng to và đu đưa, biết cách ngước nhìn một người đàn ông rồi sụp mắt xuống, chớp thật nhanh làm như rung động vì cảm xúc. Nhứt là nàng còn biết giấu kín trí thông minh sắc bén dưới một khuôn mặt khả ái và tròn trịa như một đứa trẻ, khi đứng trước đàn ông.
Ellen khuyến cáo nhẹ nhàng, còn Mammy thì luôn luôn chỉ trích, cố khắc sâu vào đầu nàng những đức tánh sẽ giúp nàng xứng đáng là người vợ mà đàn ông ai cũng mong ước.
Ellen nói với con:

− Con phải tỏ ra lịch thiệp hơn, nghiêm trang hơn. Con không nên ngắt lời những người thanh lịch, ngay cả khi con nghĩ rằng con hiểu biết nhiều hơn họ. Đàn ông tao nhã không ưa những cô gái quá tiến bộ.

Mammy rầu rĩ tiên đoán:

− Các cô gái hay nhăn mặt, đưa càm lên và nói “Tôi sẽ …”, và “Tôi muốn …” sẽ kiếm không ‘a chồng . Các cô phải ngó xuống và nói : “Vâng, thưa ông”, và “Vâng, ông nói thế đúng lắm, thưa ông”.

Họ dạy Scarlett tất cả những gì một bà quí phái cần phải biết, nhưng nàng chỉ học bề ngoài của những phép lịch sự ấy thôi, không thiết tới bề trong của nó, không bao giờ biết đến tại sao phải học tập như thế. Bề ngoài đủ dùng rồi, với nó, nàng được mọi người mến chuộng và nàng chỉ muốn có chừng đó. Gerald cho rằng Scarlett đáng làm hoa khôi của cả năm hạt, cũng đúng một phần nào, vì hầu hết trai trẻ trong vùng lân cận và một số ở xa hơn nữa như Atlanta, Savannah cũng đều cầu hôn nàng .

Năm 16 tuổi, nhờ Mammy và Ellen, nàng trông thật dịu dàng kiều diễm và lơ đãng . Nhưng thực ra, rất thực tế, ngoan cố, tự đắc và bướng bỉnh. Nàng thừa hưởng của người cha Ái nhĩ lan tánh nóng nảy và không còn gì khác hơn, ngoài bề ngoài có vẻ vị tha, nhẫn nại của bà mẹ. Ellen không bao giờ nhận ra đó chỉ là lớp vỏ bên ngoài, vì lúc nào trước mặt mẹ, Scarlett cũng phô diễn những hình thức đẹp đẽ nhứt, giấu kín hành vi nghịch ngợm, cố gắng tự chế và tỏ ra dịu dàng để mẹ khỏi quở mắng đến có thể phát khóc được .
Nhưng Mammy không nuôi một ảo tưởng nào về Scarlett. Lúc nào bà cũng lo ngại cái bề ngoài ấy tan vỡ. Mắt của bà sắc hơn Ellen, và Scarlett nhớ lại cả đời nàng, chưa bao giờ nàng lường gạt Mammy được lâu.

Hai vị cố vấn ấy không phàn nàn về tinh thần hăng hái, sức sống mãnh liệt và thuật quyến rũ của Scarlett, mà trái lại, đều là người miền Nam, họ lấy làm kiêu hãnh vì những đức tánh ấy. Nhưng đầu óc táo bạo và sự hung hăng mà Scarlett thừa hưởng nơi Gerald làm họ lo âu. Đôi lúc họ sợ họ không thể che đậy kịp những tệ hại có thể xẩy ra trước khi Scarlett có được một cuộc hôn nhân xứng đáng. Nhưng Scarlett quyết định lấy chồng … lấy Ashley … và nàng sẵn sàng trở thành đoan trang, dễ dạy và hơi lơ đãng, nếu những điều ấy làm cho đàn ông thích . Tại sao đàn ông cũng rập một khuôn, nàng không hiểu nổi. Nàng chỉ biết rằng phương pháp ấy có hiệu quả . Nàng không bao giờ cố gắng tìm nguyên nhân, không biết gì về đời sống nội tâm con người, kể cả của chính nàng . Scarlett biết rằng nếu nàng nói rằng như thế này, như thế kia thì đàn ông có thể trả lời một cách chắc chắn những câu đầy đủ thích ứng. Giống như một công thức toán, không khó lắm vì toán là môn mà Scarlett học dễ dàng nhứt lúc ở trường.

Nếu nàng chỉ biết thật ít oi về những tư tưởng của đàn ông, thì nàng còn tệ hơn nữa với những tư tưởng của đàn bà, vì nàng chẳng hề chú ý đến họ . Nàng chưa có một cô bạn gái nào nhưng không thấy đó là điều thiếu thốn. Đối với nàng, kể cả hai cô em, đều là những kẻ thù tự nhiên, cùng săn đuổi một con mồi chung : đàn ông.

Tất cả đàn bà, nhưng trừ mẹ nàng ra. Ellen O’Hara khác hẳn, Scarlett chiêm ngưỡng bà như một đấng thiêng liêng, đứng ngoài nhơn loại. Khi còn bé, Scarlett lầm lẫn mẹ nàng với Thánh mẫu, và bây giờ, càng lớn nàng càng thấy không có lý do gì để thay đổi ý kiến đó. Đối với Scarlett, Ellen tượng trưng cho sự che chở an toàn mà chỉ có Thượng đế hay một bà mẹ mới có thể làm được. Nàng biết mẹ nàng là hiện thân của công bình, sự thật, tình thương tràn trề và khôn ngoan thâm trầm … Thật là một người đàn bà cao cả.

Scarlett rất muốn được giống mẹ, chỉ có một điều khó là muốn công bằng, thành thật, dịu dàng, vị tha thì phải mất hầu hết những vui thú của cuộc đời và chắc chắn là sẽ mất đi những kẻ si tình. Và đời sống thật quá ngắn ngủi để cho chúng ta thiếu vắng những thú vui ấy. Ngày nào đó, khi nàng đã lấy Ashley và già đi, ngày đó nàng sẽ có đủ thời giờ để tập lại, và dĩ nhiên sẽ được giống Ellen. Nhưng, trong lúc chờ đợi thì …

Chương 4

Tối hôm ấy, Scarlett thay thế mẹ chủ tọa bữa ăn, nhưng đầu óc nàng cứ rối cuồng vì cái tin kinh khủng về Ashley và Melanie. Tuyệt vọng, nàng mong mẹ trở về từ nhà Slattery bởi vì, nếu không có bà, nàng cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Bọn Slattery với những chứng bịnh không ngớt của chúng có quyền gì đem Ellen ra khỏi nhà, trong khi nàng Scarlett, cần bà biết bao?

Suốt bữa ăn buồn bã ấy, giọng nói oang oang của Gerald cứ đập mạnh vào tai khiến Scarlett tưởng rằng không thể nào chịu đựng được nữa. Gerald đã hoàn toàn quên hẳn câu chuyện hồi chiều và không ngớt độc thoại về những tin tức giờ chót đối với căn cứ Sumter, nhấn mạnh bằng cách đấm lên bàn và khoa nắm tay tứ tung. Thói quen của ông trong bữa ăn là điều khiển những câu chuyện, và thường thường, Scarlett bận rộn với những ý nghĩ riêng, chỉ nghe một cách ơ hờ. Nhưng tối nay, Scarlett không thể nào không để lọt vào tai giọng nói của cha, dù nàng hết sức vểnh tai lắng đợi tiếng bánh xe ngựa báo hiệu mẹ về.

Dĩ nhiên, nàng không có ý kể cho mẹ nghe tâm sự thảm não của mình, vì Ellen sẽ bất bình và phiền muộn khi nghe con gái bà đi yêu một người đàn ông đã đính hôn với một thiếu nữ khác. Nhưng lần đầu tiên trong đời gặp phải một chuyện bi thương, nàng muốn tìm an ủi nơi mẹ. Nàng thường cảm thấy an toàn hơn khi được gần bên Ellen, vì mẹ nàng luôn luôn biến được những cảnh ngộ khó khăn trở nên tốt đẹp, chỉ bằng sự hiện diện của bà.

Nàng đứng bật lên khi nghe tiếng bánh xe lọc cọc ngoài đường và rồi lại ngồi xuống khi tiếng xe chạy vòng quanh để ra nhà sau. Chắc không phải Ellen, vì nếu là bà, thì Ellen đã xuống xe ngay thềm trước. Kế đó, có tiếng bập bẹ và tiếng cười ầm ĩ của bọn da đen vang lên ở sân sau. Qua cửa sổ, Scarlett trông thấy Pork, vừa từ trong nhà bước ra, tay cầm một bó đuốc nhựa thông cháy lập loè và một vài người không rõ mặt đang bước xuống một cổ xe chở hàng. Trong đêm tối vang lên tiếng xì xào, tiếng cười ồm ồm, những âm thanh vui vẻ quen thuộc, vô tư lự, những âm thanh trong cổ họng trầm bổng như âm nhạc . Kế đó có tiếng chân kéo lê trên bậc thềm trước, vào lối đi dẫn đến nhà chánh rồi dừng lại trong đại sảnh, ngay trước cửa phòng ăn. Có tiếng thì thầm một lúc và Pork bước vào, mất hẳn dáng điệu nghiêm chỉnh hàng ngày, mắt tròn xoe và răng trắng xoá. Hắn thở hổn hển báo tin với vẻ kiêu hãnh của một tân lang.

− Thưa ông Gerald, người đàn bà mới của ông đã tới rồi.

Gerald giả bộ giận dữ:

− Đàn bà mới nào, tao chẳng có mua đứa đàn bà mới nào cả !

− Dạ thưa ông, có mà, thưa ông Gerald ! Vâng, nó đang đứng ngoài kia, nó muốn thưa chuyện với ông.

Pork vừa trả lời, vừa vặn tay lo lắng.

− Thôi được, cho tân nương vào.

Pork quay lại, ngoắc vợ hắn vào. Đó là người đàn bà mới từ đồn điền nhà Wilkes và sẽ trở thành gia nhân của Tara. Vợ hắn bước vào, sau lưng là một đứa bé gái mười hai tuổi bị che khuất bởi cái váy rộng bằng vải chúc bâu, đang bám lấy chân mẹ.

Dilcey, người cao lớn, thân hình luôn luôn thẳng đứng. Căn cứ vào nét mặt, người ta có thể gán cho mụ giữa ba mươi tới sáu mươi, vì đó là một bộ mặt ít nếp nhăn và bất động như đồng. Ở mụ, dòng máu người da đỏ ấn lát những đặc điểm của người da đen. Trên mặt mụ người ta nhận thấy có sự pha trộn của hai chủng tộc với màu da đỏ, vầng trán cao nhưng hẹp, lưỡng quyền nhô cao, mũi quặm như mỏ chim ưng nhưng lại hẹp ở chóp và vành môi cộm của người da đen. Đó là một mẫu người tự chủ với dáng đi đĩnh đạc còn vượt hơn cả Mammy, bởi vì Mammy đã phải tự luyện còn với Dilcey thì những cái đó thuộc về bẩm sinh.

Tiếng nói của mụ không quá lắp bắp như phần đông dân hắc chủng, đã vậy mụ còn biết chọn từng lời:

− Kính chào quí vị tiểu thơ, kính chào ông Ge’ald, tôi ‘ất buồn phải làm phiền quí vị, nhưng tôi muốn vào đây để cám ơn quí vị đã mua tôi và đứa con tôi. Có nhiều vị có thể chỉ chịu mua tôi chớ không chịu mua luôn con P’issy của tôi, thế này thì tôi không còn gì phải buồn ‘ầu, và tôi cám ơn quí vị. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tỏ ‘a mình không bao giờ quên…

− Hừm … hừm …

Gerald chỉ có thể tằng hắng như thế để che giấu sự bối rối của mình khi bị phát giác lộ liễu một nghĩa cử.
Dilcey quay sang phía Scarlett và có một cái gì ở khóe mắt mụ giống như một nụ cười:

− Thưa cô Sca’lett, Po’k có nói với tôi là chính cô đã yêu cầu ông Ge’ald mua tôi. Do đó, tôi ‘ất sung sướng để con P’issy làm nữ tỳ ‘iêng của cô.

Mụ vói tay ra sau lôi đứa bé tới trước . Đó là một con bé loắt choắt, da nâu, chân khẳng khiu như chim, trên đầu xoắn tít những lọn tóc vô số bằng chỉ sợi . Mắt nó sắc bén, chẳng một điều gì có thể lọt qua nhưng mặt lại làm ra ngu dại.
Scarlett đáp:

− Cám ơn Dilcey, nhưng tôi ngại là Mammy chẳng tán thành . Bà đã từng phục dịch tôi ngay từ lúc mới sanh ra.

Dilcey đáp lại bằng một giọng thản nhiên có thể làm cho Mammy tức điên lên nếu bà có mặt:

− Mammy đã già ‘ồi! Bà là một người vú tốt, nhưng cô bây giờ là một thiếu nữ ‘ồi, cần phải có một nữ tỳ giỏi, và con P’issy của tôi đã từng hầu hạ cô India tới một năm ‘ồi . Nó biết may vá và cài tóc khéo như người lớn.

Bị mẹ đẩy tới, cô bé vừa cúi chào vừa cười toe toét, khiến Scarlett chẳng thể nào đừng cười trả lại. Nàng nghĩ: “Đúng là một con quỉ nhỏ lém lỉnh” và nói lớn:

− Cám ơn Dilcey, mình sẽ bàn lại chuyện đó khi mẹ tôi về tới.

− Dạ, cám ơn cô. Chúc cô ngon giấc.

Dilcey nói xong, quay lại dẫn đứa con ra khỏi phòng, riêng Pork vẫn còn đứng hầu. Đồ ăn đã dẹp hết, Gerald tiếp tục bài diễn văn của ông, nhưng ít hứng thú hơn, còn mấy thính giả của ông thì chẳng thích chút nào. Với một giọng hùng hồn, ông nêu ra những dự đoán về cuộc chiến tranh và những câu hỏi cũng hùng hồn như là miền Nam có chịu khoanh tay ngồi ngó hay không trước sự lăng nhục của bọn Yankee và chỉ được các con ông trả lời lí nhí: “Phải, thưa ba” và “Không phải, ba”.

Carreen ngồi trên gối lót, dưới ngọn đèn lớn đang chăm chú đọc chuyện tình của một thiếu nữ đi tu sau khi người yêu chết, rơi nước mắt xúc động âm thầm vừa thích thú tưởng tượng lúc mình đang đội chiếc mũ trắng của nữ tu. Suellen thì ngồi thêu mấy món đồ mà cô gọi đùa là “Của Hồi Môn”, thầm nghĩ xem có thể nào tách rời được Stuart Tarleton ra khỏi Scarlett ngày mai không, để mê hoặc Stuart với những đức tánh dịu dàng rất đàn bà của cô mà Scarlett không thể có. Trong khi đó, Scarlett đang nát lòng vì chuyện Ashley.

Tại sao ba cứ nói hoài về vụ căn cứ Sumter và bọn Yankee, trong khi ba biết trái tim mình đang tan nát ? Cũng như những cô gái trẻ khác, nàng lạ lùng chẳng hiểu tại sao người ta lại quá ích kỷ đến nỗi quên luôn sự đau đớn của nàng và tại sao trái đất cứ tiếp tục quay không chút ngó ngàng tới tâm trạng đau xót của nàng .

Nàng tưởng tượng như có cơn lốc vừa thổi qua, và ngạc nhiên thấy phòng ăn vẫn yên ổn, vẫn không thay đổi, y hệt như trước nay. Bàn ăn, tủ trà bằng gỗ đào hoa tâm, muỗng nĩa bằng bạc nguyên chất, tấm thảm chói lọi trên nền nhà bóng loáng đều ở đúng vị trí quen thuộc của chúng, như chẳng có chuyện gì xảy ra. Đây là gian phòng thân thuộc, tiện nghi. Thường thường Scarlett yêu thích những giờ êm ấm lúc gia đình còn nán lại sau bữa ăn tối, nhưng hôm nay, nàng ghét nhìn thấy nó, và, nếu không ngại những câu hỏi sang sảng của cha, chắc nàng đã chuồn ra ngoài, xuống tiểu phòng làm việc của Ellen, ngồi trên trường kỷ khóc để vơi sầu.

Đó là gian phòng Scarlett thích nhứt nhà. Nơi đó mỗi sáng, sau bàn giấy cao nghệu, Ellen ngồi tính toán việc chi thu của đồn điền và nghe phúc trình của Jonas Wilkerson, viên quản gia. Gia đình cũng tề tựu ở đó để giết thì giờ trong khi Ellen tính sổ bằng bút lông, Gerald ngồi trong cái đu cũ kỷ, các cô gái thì chiếm giữ mấy cái gối lót đã phai màu của trường kỷ, vì móp méo nên không đặt ở phòng ngoài. Scarlett nóng lòng được ngồi một mình với Ellen và đặt đầu lên gối mẹ khóc cho thoả thích. Mẹ vẫn chưa về sao?

Nhưng rồi, có tiếng bánh xe vang rộn ràng trên đường trải đá, và có giọng thầm thì êm dịu của Ellen vọng vào khi bà cho người xà ích đi nghỉ. Mấy cha con cùng sốt ruột ngẩng đầu lên khi bà bước nhanh vào, váy đong đưa, nét mặt mệt nhọc và buồn bã. Cùng một lượt với bà mùi dầu sả thoang thoảng trong phòng, mùi hương lúc nào cũng bám theo những nếp xếp của áo bà, mùi hương luôn luôn nối liền tư tưởng của Scarlett với mẹ. Mammy theo sau vài bước, tay xách túi da, môi dưới xệ xuống, mày nhíu thấp. Mammy lẩm bẩm, giữ thấp giọng để người ngoài không nghe ra, nhưng đủ to để chứng tỏ sự bất bình!

− Tôi rất tiếc phải về quá trễ.

Ellen vừa nói, vừa gỡ khăn choàng trao cho Scarlett, nựng nhẹ gò má con.
Mặt Gerald sáng rực lên như bởi một ma thuật khi vợ ông bước vào. Ông hỏi:

− Đứa nhỏ được đặt tên Thánh chưa?

Ellen đáp:

− Rồi, và, tội nghiệp, nó đã chết. Tôi sợ Emmie cũng chết theo, nhưng tôi nghĩ là nó có thể sống được.

Mấy cô gái đưa mắt nhìn bà, ngạc nhiên dọ hỏi trong khi Gerald lúc lắc đầu một cách điềm tĩnh:

− Vậy cũng xong, thằng nhỏ đó chết là tốt, không còn nghi ngờ gì nữa, đứa con hoa…

− Khuya lắm rồi, mình cầu kinh ngay đi.

Ellen ngắt lời, thật êm ái đến nỗi nếu Scarlett không biết rõ mẹ, sự ngắt lời đó sẽ trôi qua mà nàng không cảm thấy có ẩn ý nào.
Thật là thú vị khi biết ai là cha đứa con của Emmie, nhưng Scarlett hiểu không bao giờ nàng được biết sự thật nếu chờ mẹ nói ra. Scarlett nghi cho Jonas Wilkerson, vì nàng thường thấy hắn đi chung với Emmie những buổi chiều tối. Jonas là người Yankee và độc thân. Chức vụ quản gia đã ngăn cản hắn không được giao thiệp với xã hội trong hạt. Không gia đình đàng hoàng nào trong hạt có thể gả con cho hắn, không người nào có thể kết thân với hắn ngoại trừ Slattery và bọn hạ lưu như vậy. Vì trình độ học vấn của hắn cao hơn Emmie nhiều bực nên hiển nhiên là hắn không muốn cưới cô ta, mặc dầu hắn thường đi chung với cô ta vào lúc hoàng hôn.

Scarlett thở dài, vì tính tò mò bén nhọn của nàng không được thoả mãn. Dưới mắt mẹ nàng, mọi việc chẳng đáng chú ý bao nhiêu cũng giống như chẳng hề xảy tới. Ellen làm ngơ trước tất cả những việc trái ngược với tư tưởng của riêng bà và cố gắng dạy Scarlett như vậy, nhưng kết quả chẳng bao nhiêu.
Ellen bước tới cái kệ trên lò sưởi lấy xâu chuỗi trong các hộp khảm xà cừ nhưng Mammy ngăn lại một cách quả quyết:

− Thưa bà Ellen, bà cần phải ăn một chút t’ước khi đọc kinh.

− Cám ơn Mammy, nhưng tôi không đói.

− Tôi sẽ tự tay dọn ăn cho bà và bà phải ăn mới được.

Trán nhăn tít vì bực dọc, bà bước xuống nhà bếp, gọi lớn:

− Po’k, bảo con bếp nhúm lửa, bà Ellen về ‘ồi.

Trong khi sàn nhà rung rinh dưới sức nặng của bà, những lời lầm bầm của bà từ lúc mới trở về càng ngày càng lớn, rõ tận tai của mỗi người trong phòng ăn:

− Mình đã nói như vậy nhiều lần. Chẳng có ích gì khi giúp đỡ bọn da t’ắng không ‘a gì đó. Chúng là thứ lười nhứt, bội bạc nhứt. Và bà Ellen lại đi giúp đỡ chúng. Cứ cho mấy đứa da đen săn sóc chúng là đủ ‘ồi . Mình đã nói với bà Ellen là…

Giọng của bà kéo lên cho đến lúc bà bước vào hành lang chỉ lợp nóc đưa tới nhà bếp. Mammy có phương pháp riêng để phát biểu ý kiến chính xác của bà về mọi chuyện. Bà biết phẩm cách của người da trắng thượng lưu không cho phép họ để ý đến những lời lầm bầm trong miệng một người da đen. Bà biết rằng để bảo toàn cái phẩm cách đó, họ phải làm bộ không nghe những gì bà nói, dù bà có đứng ở gian phòng kế bên và la thật lớn. Điều đó tránh được cho bà mọi sự khiển trách mà mọi người vẫn có thể nghe được quan điểm của bà về một số vấn đề.

Pork bước vào phòng ăn, mang theo một cái dĩa, muỗng nĩa bằng bạc và một khăn ăn, theo sau là Jack, một đứa bé da đen 10 tuổi, hấp tấp gài nút chiếc áo khoác bằng nỉ trắng với một tay, còn tay kia thì cầm một phất trần đuổi ruồi làm bằng nhiều miếng giấy báo cắt nhỏ, cột ở đầu một cây sậy cao hơn nó. Ellen có một cây đuổi ruồi thật đẹp bằng lông công, nhưng nó chỉ được dùng trong những trường hợp đặc biệt, và bà phải chống lại với quan điểm của bọn gia nhân, vì theo chúng, lông công là điềm xui xẻo.
Ellen ngồi xuống chiếc ghế Gerald vừa đẩy tới cho bà, và bốn giọng nói tranh nhau mở lời:

− Má, áo dạ hội con sút ren rồi, con muốn bận nó ngày mai ở Twelve Oaks. Má có thể kết lại cho con chớ?

− Má, cái áo của Scarlett đẹp hơn của con, màu hồng làm cho con xấu như quỉ. Tại sao chỉ không mặc màu hồng và để cho con cái màu xanh của chỉ? Chỉ mặc màu hồng hợp lắm.

− Má, con có thể dự dạ vũ được không? Con mười ba tuổi rồi!

− Bà O’Hara ơi, bà có tin thế không… Suỵt, mấy đứa con gái, coi chừng ăn roi nghe! Cade Calvert vừa ở Atlanta về sáng nay… Mấy đứa bây có chịu im để tao còn được nghe tiếng nói của tao hay không?… Hắn nói tình trạng ở đó rất hỗn loạn, ai cũng nói về chiến tranh, tập luyện dân quân, thành lập quân đội. Và hắn nói, theo những tin từ Charleston, rằng họ sẽ làm cho quân Yankee không bao giờ phỉ báng mình được nữa…

Ellen mỉm cười mệt nhọc. Giữa những sự ồn ào đó, bà trả lời câu hỏi của chồng trước, đúng theo bổn phận của một người vợ:

− Nếu những người Charleston đáng kính ấy đã chọn đường lối kia thì tôi tin sớm muộn gì chúng ta cũng chọn cùng đường lối với họ.

Bà nói thế vì bà tin tưởng mãnh liệt rằng phần lớn những dòng máu quí phái của đại lục đều nằm trong thành phố hải cảng nhỏ xíu kia và đa số người Charleston đều đồng ý về điểm này.

− Không, Carreen, hãy đợi sang năm, con gái cưng. Lúc đó con mới có thể thức khuya để khiêu vũ, mặc quần áo người lớn, và con sẽ có một đôi má hồng thật đẹp. Đừng giận, con gái! Con dự dã yến được và có thể thức đến khi xong bữa ăn tối, nhưng không được dự dạ vũ khi con chưa tới mười bốn tuổi, hãy nhớ điều đó!

− Đưa cái áo con cho má, Scarlett, má sẽ vắt đăng ten lại khi cầu nguyện xong.

− Suellen, má không ưa cái giọng của con. Cái áo hồng rất dễ thương và hợp với màu da của con lắm, cũng như áo của Scarlett hợp với nước da của nó vậy. Tối nay má sẽ cho con mượn xâu chuỗi thạch lựu ngọc.

Suellen, đằng sau Ellen, đắc thắng nhăn mũi với Scarlett, vì nàng đã định xin mẹ đeo xâu chuỗi ấy. Scarlett thè lưỡi chọc lại, Suellen đúng là một cô em khó chịu với tánh ích kỷ và hay than van, và nếu Ellen không kềm giữ được, chắc chắn Scarlett đã nhiều lần bạt tai em. Ellen nói:

− Bây giờ, ông O’Hara hãy kể xem ông Calvert còn nói gì về Charleston nữa không?

Scarlett biết mẹ không hề quan tâm về những thứ như chánh trị, chiến tranh và nghĩ rằng đó là những chuyện của đàn ông, không người đàn bà nào có thể xen vào một cách thông thạo. Nhưng điều này làm cho Gerald thích thú được phô trương quan điểm của ông, và Ellen luôn luôn ân cần với những thú vui của chồng.

Trong khi Gerald nói huyên thuyên về những tin tức nghe được. Mammy đặt trước mặt bà chủ mấy dĩa bánh nướng, vàng óng, ức gà chiên và củ khoai mỡ vàng đã lột vỏ trộn chung với bơ lỏng bốc khói nghi ngút. Mammy véo Jack một cái, nó hấp tấp làm nhiệm vụ bằng cách phe phẩy nhè nhẹ cây đuổi ruồi phía sau Ellen. Mammy đứng bên cạnh bàn, nhìn mỗi miếng ăn đi vào miệng Ellen, làm như bà có ý định nhét các thức ăn ấy vào cổ Ellen nếu bà tỏ dấu chán ngán. Ellen cố gắng ăn, nhưng Scarlett thấy rõ là bà quá mệt nhọc tới nổi không biết mình đang ăn món gì. Chỉ có gương mặt lạnh như đồng của Mammy mới ép buộc bà làm như vậy được.

Khi dĩa đã cạn thức ăn và Gerald đang ở đoạn giữa những lời chỉ trích về bọn ăn cắp Yankee, muốn phóng nô mà chẳng chịu đóng góp một xu để trả giá sự tự do của chúng, thì Ellen đứng dậy.
Bà miễn cưỡng hỏi chồng:

− Chúng ta có thể cầu nguyện được chưa?

− Được, khuya rồi ! Ủa, đã mười giờ rồi kìa!

Đúng lúc đó, đồng hồ tường khúc khắc gõ mười tiếng bằng quả lắc thiếc.

− Carreen đáng lẽ phải ngủ lâu rồi. Mang đèn lại đây, Pork, và cuốn kinh của tôi, Mammy.

− Được.

Mammy nhắc bằng một giọng thì thào khàn khàn, Jack cất cây đuổi ruồi trong một góc và dọn dẹp mấy dĩa ăn, trong khi Mammy lục lọi trong những ngăn kéo tủ trà tìm quyển kinh Thánh cũ của Ellen. Pork nhón gót, với lên cái khoen xích và kéo chầm chậm ngọn đèn xuống cho tới khi trần nhà mất dạng trong bóng tối và mặt bàn tràn ngập ánh sáng chói chang. Ellen thu gọn váy và quì xuống sàn nhà, trải quyển kinh Thánh trên bàn ngay trước mặt và chắp tay lên đó. Gerald quì cạnh bên, Scarlett và Suellen vẫn ở chỗ quen thuộc của các cô ở bên kia bàn, gấp chiếc váy rộng chêm dưới gối để bớt đau vì sàn nhà quá cứng. Carreen vì tác nhỏ hơn tuổi, không thể quì một cách thoải mái trước bàn nên quì bên một cái ghế, chống khuỷu tay lên đó. Cô rất thích bộ vì này vì cứ thường ngủ gục trong khi cầu nguyện, cho nên trong tư thế đó, cô thoát khỏi sự chú ý của mẹ.

Đám gia nhân kéo nhau tập trung trong đại sảnh và quì ở ngưỡng cửa. Mammy suýt xoa hơi lớn tiếng khi quì xuống, còn Pork thì lưng thẳng như chày vồ. Rosa và Teena, hai cô gái hầu dịu dàng xoè váy vải màu tươi sáng, Cookie, gầy guộc và vàng vọt trong bộ quần áo cũ trắng lóng lánh và Jack khờ đi vì buồn ngủ, tránh xa khỏi Mammy để khỏi bị ngắt véo. Những đôi mắt đen của họ ngời chiếu niềm tin vì được cầu nguyện với chủ là một trong những việc quan trọng một ngày. Đối với họ, những câu kinh cổ và màu mè đó không có ý nghĩa gì hết nhưng vẫn làm thoả mãn một cái gì trong lòng họ, và họ thường lay động khi xướng họa những câu “Xin Đức Chúa Trời thương xót chúng con”, “Xin đấng Christ thương xót chúng con”.

Ellen nhắm mắt lại và bắt đầu cầu nguyện. Giọng của bà lúc vượt cao, lúc hạ xuống, lúc dịu đi như ru ngủ. Tất cả các mái đầu đều cúi xuống dưới vòm ánh sáng vàng rực của ngọn đèn, trong khi Ellen tạ ơn Thượng đế đã ban sức khoẻ và hạnh phúc cho ngôi nhà, cho gia đình và cho những người da đen của bà.

Khi bà chấm dứt những lời cầu nguyện cho những người sống dưới mái nhà Tara, cho cha mẹ, chị em, cho ba đứa con trai đã chết của bà, và “cho những linh hồn bất hạnh ở Tỉnh Tội Giới”, bà siết chặt xâu chuỗi trong tay và bắt đầu lần hạt. Y như tiếng rì rào của một làn gió nhẹ, những lời xướng hoạ tuôn ra khỏi cổ họng người da trắng lẫn da đen.

“Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng tôi là kẻ có tội, khi này và trong giờ lâm tử”.

Dù đang đau đớn, xót xa bởi không thể khóc lên được, một cảm giác âm trầm, êm dịu và bình an vẫn cứ tới với Scarlett trong những giờ phút đó. Nàng đã gạt bỏ được sự chán nản hôm nay và sự sợ hãi ngày mai, nhường chỗ cho một niềm hy vọng đột khởi. Không phải sự hướng thượng của nàng đối với Thượng đế đã mang tới cho nàng hương vị đó, vì đối với nàng Tôn giáo không có gì hơn là những lời thì thầm và cầu nguyện. Chính là sự nhìn thấy khuôn mặt thánh thiện của mẹ nàng xoay về ngai Chúa, các Thánh và Thiên thần của Ngài, và xin giáng phúc cho những người bà yêu thương đã cho nàng cảm giác đó. Khi Ellen khẩn cầu đấng Tối cao, Scarlett chắc chắn là Người cũng nghe thấy.

Ellen ngừng lại, và Gerald, chẳng bao giờ tìm ra xâu chuỗi của mình trong giờ cầu nguyện, len lén đếm trên mười đầu ngón tay.
Nghe âm thanh đều đều của cha, tư tưởng của Scarlett bắt đầu tản mác, không còn tự chế được . Nàng biết là phải tự vấn lương tâm.
Ellen đã dặn nàng, cứ mỗi ngày, nàng có bổn phận phải xét kỹ lương tâm để thú nhận tội lỗi, cầu xin Chúa Trời thứ tội và ban cho sức khoẻ để khỏi bao giờ tái phạm . Nhưng hôm nay, Scarlett lại tự vấn trái tim nàng .

Nàng giấu đầu trong lòng bàn tay để mẹ không nhìn thấy mặt, và những ý nghĩ của nàng buồn thảm quay về Ashley. Tại sao chàng lại định cưới Melanie trong khi thật lòng yêu nàng, Scarlett? Và trong khi chàng cũng biết là nàng yêu chàng? Tại sao chàng có thể chủ tâm bóp vỡ trái tim nàng?
Đột nhiên, một ý tưởng sáng lòe và mới mẻ, xẹt như sao chổi qua trí óc nàng :

− Ủa, Ashley đâu có biết là mình yêu chàng !

Suýt nữa nàng đã thở ra thật mạnh vì sự khích động bất ngờ đó. Tư tưởng nàng dừng lại như bị tê liệt một lúc lâu, hụt hơi trong một lúc rồi lại phóng sổ về phía trước.

− Làm sao chàng biết được? Mình luôn luôn tỏ ra kiêu kỳ, đứng đắn và cao quí trước mặt chàng, chàng có thể nghĩ mình chỉ coi chàng như một người bạn. Đúng rồi, chính vì vậy mà chàng không bao giờ tỏ tình với mình. Chàng nghĩ chàng đã yêu trong tuyệt vọng, chính vì vậy mà chàng trông có vẻ quá…

Scarlett hồi tưởng thật mau tới những lúc bắt gặp Ashley nhìn mình với một vẻ kỳ lạ, lúc đó đôi mắt xám như bức màn hoàn toàn che lấp cảm nghĩ của chàng như mở lớn ra, chứa đựng một vẻ thống khổ và tuyệt vọng.

“Chàng đau lòng vì cho rằng mình yêu Brent, Stuart hay Cade. Và có lẽ chàng đã nghĩ rằng nếu không cưới được mình thà làm vui lòng gia đình bằng cách cưới Melanie. Nhưng nếu Ashley biết mình yêu chàng …”

Đầu óc hay thay đổi của nàng bắn vọt từ chỗ ngã lòng sâu xa nhứt lên đến cõi phấn khởi cuồng nhiệt . Đó là do bản tánh ít nói và lối xử sự lạ lùng của chàng. Chàng không hề biết lòng tự kiêu của nàng nổi dậy với sự tiếp sức do lòng thèm muốn tin tưởng của nàng, biến niềm tin thành sự thật. Nếu Ashley biết nàng yêu chàng, chàng sẽ hấp tấp đến với nàng ngay. Nàng chỉ còn …

“Ồ”, nàng suy nghĩ một cách say sưa, mấy ngón tay bấu vào trán. “Mình thật là ngốc, đã không nghĩ đến điều ấy sớm hơn! Mình phải nghĩ cách biểu lộ cho chàng biết. Chàng sẽ không thể cưới Melanie được nếu biết mình yêu chàng ! Làm sao chàng có thể làm như vậy được?…”

Scarlett giựt mình khi thấy Gerald chấm dứt đọc kinh và mẹ đang nhìn nàng chòng chọc. Nàng vội vã bắt đầu lần chuỗi một cách máy móc nhưng giọng nàng lạc hẳn vì xúc động khiến cho Mammy hé mắt nhìn với vẻ dò xét. Nàng vừa dứt cầu kinh thì Suellen và kế đó là Ellen tiếp tục, trí óc nàng lại phóng hết tốc độ tới những cảm nghĩ vừa đột nhập.
Bây giờ cũng chưa trễ lắm! Từ lâu, trong hạt người ta thường đàm tiếu về những vụ cô dâu hoặc chú rể bỏ trốn khi người thứ ba xuất hiện giữa lúc hai họ đang làm lễ cưới trước bàn thờ. Vả lại, lễ đính hôn của Ashley đã được loan báo đâu? Vậy là hãy còn đủ thì giờ!

Nếu giữa Ashley và Melanie không có tình yêu mà chỉ là sự giao kết từ lâu, thì tại sao chàng lại không thể huỷ bỏ lời giao kết này để cưới mình? Chắc chắn chàng sẽ làm vậy, nếu chàng biết mình, Scarlett, yêu chàng. Nàng phải tìm cách cho chàng biết. Nàng phải tìm ra một cách nào đó! Và rồi …

Scarlett thình lình tỉnh mộng vì nàng bỏ qua mấy lời xướng họa theo kinh và Ellen nhìn nàng một cách trách móc. Vừa lấy lại điệu bộ, nàng vừa hé mắt liếc nhìn thật mau quanh phòng. Những dáng người quì gối, ánh phản chiếu dịu dàng của ngọn đèn, những bóng lờ mờ lắc lư của bọn da đen và ngay những vật quen thuộc mà nàng rất ghét nhìn cách đây một giờ, trong khoảnh khắc đều mang lại những sắc thái do những cảm xúc riêng của nàng. Và một lần nữa, gian phòng hình như là một nơi đáng yêu. Nàng sẽ không bao giờ quên giây phút và cảnh tượng này!
“Đức Mẹ trọn đời đồng trinh”, mẹ nàng lâm râm đọc. Kinh kính mừng Maria bắt đầu, và Scarlett ngoan ngoãn tiếp:

− Cầu cho chúng ta.

Và Ellen với một giọng trầm dịu, ca tụng biểu tượng của Đức Chúa Trời .
Lúc còn bé, Scarlett thường coi Ellen đáng tôn kính hơn Đức Mẹ nữa. Có thể đó là một ý tưởng phạm Thánh, Scarlett thường mở hé mắt nhìn khuôn mặt ngẩng lên của mẹ chớ không nhìn gương mặt của Thánh mẫu lúc lặp lại những câu cũ rích: “Sức mạnh cho những kẻ bịnh tật”, “Đức Bà tha thứ cho những kẻ có tội”, “Đóa hường mầu nhiệm …” đó là những ngôn từ đẹp đẽ, vì nó là biểu tượng của Ellen. Nhưng đêm nay vì khích động, Scarlett nhận thấy trong lễ cầu nguyện, trong những tiếng êm êm, những câu xướng họa thì thầm, một vẻ đẹp vượt lên trên tất cả những gì nàng đã từng chứng kiến. Và nàng dâng trái tim lên cho Thượng đế, thành thật tạ ơn Ngài đã mở một con đường dưới chân nàng, để đem nàng ra khỏi cảnh khốn cùng và tiến thẳng vào vòng tay của Ashley.
Khi tiếng Amen cuối cùng được đọc lên, tất cả cùng đứng dậy, hơi tê người một chút. Mammy gượng đứng dậy với sự giúp đỡ của Teena và Rosa, Pork lấy cuộn mồi lửa trên kệ, đốt đèn lên, rồi bước ra phòng ngoài. Đối diện với cầu thang là tủ đựng chén bát bằng gỗ hồ đào, vì quá lớn nên không sử dụng được trong phòng ăn. Bên trên mặt tủ có đặt nhiều đèn và một dãy chúc đài cắm sẵn nến. Pork thắp xong một ngọn đèn với ba ngọn nến rồi với vẻ trịnh trọng của một ngự tiền thị vệ trong nội cung, soi đèn cho đức Vua cùng Hoàng hậu về thư phòng, dẫn đoàn người lên thang, nâng cao ngọn đèn lên khỏi đầu. Ellen nắm vịn Gerald bước theo ông, mấy cô gái, mỗi cô cầm một chúc đài bước theo sau.

Scarlett về phòng, đặt giá nến lên nóc tủ kéo và lục lọi trong cái tủ ngầm ở tường kiếm bộ áo khiêu vũ cần phải khâu lại.
Kẹp áo trong tay, nàng im lặng băng qua phòng ngoài. Cửa phòng của cha mẹ vẫn còn hé mở. Nàng sắp sửa gõ cửa thì bỗng nghe giọng nói thật thấp nhưng nghiêm nghị của Ellen:

− Ông O’Hara, ông phải cho Jonas Wilkerson nghỉ việc.

Gerald to tiếng:

− Rồi tôi sẽ tìm đâu ra một đứa quản gia khác, không lường gạt của tôi lấy một xu?

− Phải đuổi nó lập tức, ngay sáng mai. Sam khổng lồ là thằng cai giỏi, nó có thể làm thế công việc cho đến khi ông mướn được người quản gia khác.

Giọng Gerald vang rõ:

− A ha! Tôi hiểu rồi, thì ra cái thằng Jonas xứng đáng của tôi đã thổi phình cái bụng…

− Phải đuổi hắn ngay.

Scarlett nghĩ thầm:

− Thì ra Jonas là cha của đứa bé con Emmie Slaterry. Ồ, đúng rồi, còn đoán xa đoán gần gì nữa đối với một tên Yankee và một đứa con gái da trắng đốn mạc.

Cẩn thận chờ cho tiếng càu nhàu của cha mình lắng xuống, Scarlett gõ cửa, trao cho mẹ cái áo rồi về phòng.
Trong lúc cởi áo ra và tắt nến, nàng phác họa một chương trình làm việc với đủ mọi chi tiết cho ngày mai. Đó chỉ là một chương trình đơn giản, rất hợp với đức tính của Gerald, nghĩa là rất quả quyết. Nàng không lơi mắt trước mục tiêu và chỉ nghĩ đến những bước trực tiếp nhứt để đạt được thành quả.

Trước tiên, nàng sẽ làm bộ “rất kiêu hãnh” như Gerald đã dạy. Ngay lúc đến Twelve Oaks nàng sẽ làm như tươi vui nhứt, không ai có thể ngờ là nàng đang đau xót về chuyện Ashley với Melanie. Nàng sẽ làm dáng với tất cả mọi người. Điều đó hơi tàn nhẫn đối với Ashley, nhưng nó sẽ làm cho chàng khao khát nàng hơn, nàng sẽ không bỏ qua một người đàn ông nào còn trong tuổi kén vợ. Từ Frank Kennedy râu đỏ, già xọm – kẻ trồng cây si Suellen – cho tới Charles Hamilton rụt rè mắc cở và trầm lặng, em của Melanie. Họ sẽ vây quanh nàng như con ong vầy quanh tổ, và Ashley sẽ rời Melanie để nhập bọn với những kẻ ái mộ nàng. Rồi nàng sẽ tìm cách nói chuyện riêng với Ashley vài phút, xa đám đông. Nàng hy vọng mọi việc sẽ xảy ra êm thấm và nếu không có thể sẽ khó khăn hơn. Và nếu Ashley không ngỏ lời trước thì chính nàng sẽ làm điều đó.

Cuối cùng, khi cả hai đã hoàn toàn riêng rẽ, chàng sẽ nhớ ngay tới hình ảnh những gã đàn ông mới chen lấn quanh nàng và Ashley sẽ cảm xúc hơn nữa với sự kiện tất cả những kẻ ấy đều ao ước chiếm được nàng. Và nét buồn thảm pha lẫn thất vọng của hôm nọ sẽ hiện lên ở mắt chàng. Bấy giờ nàng sẽ làm cho chàng khoan khoái trở lại bằng cách để cho chàng thấy nàng vẫn yêu thích chàng hơn mọi đàn ông trên thế giới. Và khi thú nhận điều đó, nàng sẽ làm ra khiêm tốn, dịu dàng và hàng ngàn phương cách khác nữa. Dĩ nhiên, nàng sẽ thực hiện tất cả những việc đó trong phạm vi của phụ nữ đoan trang. Nàng sẽ không mơ mộng mà nói một cách trơ tráo là yêu chàng, đó là một việc không đưa tới thành công. Nhưng chọn cách nào để nói vẫn là một chi tiết chẳng làm nàng bối rối bao nhiêu. Từ trước, nàng đã sắp xếp được những hoàn cảnh tương tự thì nàng vẫn có thể lại làm như thế dễ dàng.

Nằm dài trên giường, đắm mình trong ánh trăng, Scarlett hình dung suốt cảnh ấy . Nàng tưởng tượng tới sự ngạc nhiên và hạnh phúc hiện rõ trên mặt Ashley khi nàng xác định là nàng thật lòng yêu chàng và nàng sẽ được nghe những lời chàng phải nói để cầu hôn.

Tự nhiên là nàng sẽ trả lời rằng nàng không thể nghĩ tới chuyện kết hôn với một người đàn ông đã đính ước với một cô gái khác, nhưng chàng sẽ cố van nài và nàng sẽ làm như bị thuyết phục. Kế đó, cả hai cùng quyết định trốn đi Jonesboro ngay xế trưa hôm ấy và…

Ủa ! Trong đêm mai vào giờ này nàng có thể đã là bà Ashley Wilkes!
Scarlett ngồi bật dậy trong vòng tay ôm gối và trong lúc lâu tràn ngập hạnh phúc, nàng thấy mình đã là bà Ashley Wilkes – vợ của Ashley! Nhưng một cảm giác lạnh buốt bỗng xua tới. Nếu mọi việc không tiến hành theo một chiều thuận lợi? Nếu Ashley không khẩn cầu nàng trốn đi với chàng? Nàng xua đuổi một cách quả quyết tư tưởng đó ra khỏi óc.

“Mình sẽ không nghĩ tới chuyện đó bây giờ, nó sẽ làm mình rối trí lên mất. Chẳng có lý do gì mọi việc sẽ không xảy ra theo chiều hướng mong muốn của mình, nếu chàng yêu mình. Và mình biết chàng phải yêu mình.”

Nàng ngẩng càm lên, và đôi mắt xanh viền mi đen lấp lánh ánh trăng, Ellen chưa bao giờ nói với nàng rằng điều ước mơ và sự thành tựu là hai việc rất khác nhau. Cuộc sống chưa dạy nàng rằng kẻ thắng cuộc đua không phải chỉ là những người mau nhứt . Nàng nằm xuống trong ánh bạc với lòng can đảm vượt lên, và phác họa những dự định của một cô gái 16 tuổi, mà cuộc đời thật hoàn mỹ, đến nỗi thất bại chỉ là một chuyện không tưởng, còn một cái áo đẹp hay một làn da mịn màng mới là khí giới để chiến thắng số phận.

Chương 5

Mười giờ sáng, ngày có hơi ấm so với tiết tháng tư, và xuyên qua bức màn xanh treo ở khung cửa sổ rộng, những tia nắng vàng rực rỡ tràn vào phòng Scarlett. Những bức tường màu kem rực hồng ánh sáng, hóc kẹt của bàn ghế bằng gỗ đào hoa tâm phản chiếu màu đỏ sậm như rượu chát. Trừ những chỗ trải thảm, sàn nhà lóng lánh như gương với những đốm màu vui mắt.

Không khí mùa hạ đã lảng vảng quanh nhà, cái dấu hiệu đầu tiên của mùa hạ xứ Georgia đến ngay giữa tiết xuân mãn, miễn cưỡng nhường chỗ cho hơi nóng oi nồng. Một luồng gió ấm mang hương thơm của cây cối trổ bông, mùi hoa cỏ vừa nẩy lá, mùi hăng nồng của đất đỏ ẩm ướt mới cày, lùa vào phòng nàng. Qua vuông cửa, Scarlett trông thấy hai hàng thuỷ tiên đồng đầy hoa, trồng dọc hai bên đường trải đá sỏi và từng cụm lài vàng phơi phới trên đất trông như một tấm vải bông. Vài con sáo và cà cưỡng tranh nhau, bởi mối thù truyền kiếp, để chiếm hữu cây mộc lan ngoài cửa sổ. Trong những tiếng chí choé của chúng, người ta phân biệt được tiếng kêu chát tai của những con cà cưỡng, những tiếng êm ru như kể lể của con sáo.

Những buổi sáng rực rỡ như thế thường mời mọc nàng tới bên cửa sổ, tựa tay lên thành cửa để cho hương thơm và âm thanh của Tara thấm vào hồn. Nhưng hôm nay, nàng không để ý tới cảnh đẹp trời, tới nắng ấm, mà chỉ có một ý nghĩ vội vàng: “Tạ ơn Chúa, Trời không mưa”. Xếp cẩn thận trong một hộp giấy cứng, nằm trên giường là chiếc áo dạ vũ bằng lụa có vân thuỷ ba xanh với những tràng đăng ten bằng tơ vàng óng, sẵn sàng mang qua Twelve Oaks để cho Scarlett mặc lúc khiêu vũ. Nhưng nàng rùng vai khi nhìn thấy nó. Nếu kế hoạch của nàng thành tựu, nàng khỏi phải mặc chiếc áo ấy tối nay. Thật lâu, trước khi buổi dạ vũ bắt đầu, nàng và Ashley đã cùng trên đường đến Jonesboro để làm lễ cưới rồi. Chỉ còn một vấn đề rắc rối nữa thôi: nàng sẽ mặc áo gì trong dã yến?

Mặc chiếc áo nào để làm nổi bật lên và khiến cho Ashley không cầm lòng được trước sắc đẹp của nàng? Từ lúc tám giờ, nàng đã thử và loại bỏ nhiều thứ áo, và bây giờ, vừa chán nản, vừa tức giận, nàng chỉ mặc có cái quần lót viền đăng ten, cái áo nịt và cái váy lót bằng len có ba hàng đăng ten. Chung quanh nàng, trên giường, trên ghế chất đống những màu sắc rực rỡ, những dây băng ngổn ngang.

Cái áo bằng sa mỏng, màu hồng với khăn choàng cổ dài rất vừa vặn với nàng, nhưng nàng đã mặc nó vào mùa hè năm ngoái nhân dịp Melanie viếng thăm Twelve Oaks và chắc chắn là cô ta sẽ nhận ra nó. Và cô ta sẽ có đủ thâm hiểm để nhắc lại chuyện này. Cái áo canh tơ chỉ vải đen, tay phồng, cổ viền đăng ten, làm nổi bật màu da trắng của nàng thật tuyệt mỹ nhưng lại khiến cho nàng trông có vẻ già đi một chút. Scarlett lo lắng nhìn kỹ khuôn mặt mười sáu tuổi của mình trong gương, hình như nàng sợ thấy những nếp nhăn, những bắp thịt cằm chùn xuống. Nàng không muốn mình có vẻ già dặn nghiêm nghị trước một Melanie trẻ trung như thế. Cái áo sa mỏng sọc xanh lợt thật đẹp với những lớp đăng ten rộng và những đường viền rõ ràng nhưng lại không hợp với mẫu người nàng. Nó rất thích hợp với trắc diện sắc sảo và làn da nhợt nhạt của Careen, nhưng Scarlett nghĩ rằng nó sẽ làm nàng giống một nữ sinh. Nàng không bao giờ muốn biến thành một cô học trò bên cạnh Melanie thật là điềm tĩnh. Cái áo bằng vải sọc vuông Tô cách lan, màu xanh, dợn sóng và mỗi lượn sóng đều có cặp một hàng nhung sọc màu xanh thì vừa vặn nhứt . Thật ra nó là cái áo nàng thích nhứt, nó làm cho cặp mắt nàng sậm màu ngọc bích, nhưng ngay thân áo trước có một đốm mỡ trông thật rõ ràng . Lẽ dĩ nhiên cây trâm của nàng có thể cài che đi chỗ ấy, nhưng Melanie rất tinh mắt. Bây giờ chỉ còn lại những chiếc áo bằng vải màu loè loẹt mà Scarlett không thể nào mặc được trong dịp này. Chiếc dạ y và cái áo bằng sa thêu màu xanh nàng đã mặc hôm qua. Nhưng đó cũng không phải là cái áo mặc buổi chiều . Không thể mặc trong buổi dã yến được vì tay áo ngắn, phồng và cổ quá rộng so với áo khiêu vũ . Nhưng chẳng còn gì để lựa chọn, nàng đành phải mặc nó. Vả lại nàng cũng không có gì để xấu hổ với cái cổ, cánh tay và bộ ngực, ngay cả việc để hở chúng vào buổi sáng là điều không mấy đứng đắn.

Vừa xoay người trước tấm gương để nhìn nghiêng, Scarlett vừa nghĩ rằng không có gì trên mặt làm cho nàng phải xấu hổ. Cổ nàng ngắn nhưng tròn, hai cánh tay tròn lẳn và quyến rũ. Bộ ngực cao nhờ cái áo nịt, thật là một bộ ngực xinh xắn. Không bao giờ, như những cô gái mười sáu tuổi khác, Scarlett không bao giờ may những lớp lụa nhún tổ ong để lót bên trong chiếc áo ngực khiến cho bộ ngực có những đường cong theo ý muốn. Nàng sung sướng vì được thừa hưởng ở Ellen bàn tay trắng trẻo và mảnh dẻ, bàn chân thon thon. Nàng còn mong được cao như Ellen nhưng chiều cao của nàng cũng làm nàng hài lòng rồi. “Thật đáng tiếc là không thể để lộ được đôi chân đẹp”. Vừa nghĩ ngợi, nàng vừa kéo chiếc váy lên tiếc rẻ nhìn đôi chân xinh xắn, tròn trịa dưới lớp vớ. Đôi chân nàng đẹp thật. Ngay cả những người bạn gái của nàng ở nữ học xá Fayetteville cũng phải khen. Còn về vòng eo của nàng thì … không một ai ở Fayetteville, Jonesboro hoặc trong ba hạt quanh đây có được vòng eo thon như thế.

Sự suy nghĩ về vòng eo đã đem lại cho nàng những điều thiết thực. Vòng eo của cái áo bằng sa xanh được mười bảy phân Anh, và Mammy đã nới cái áo canh tơ chỉ vải ra mười tám phân Anh. Mammy phải siết chặt dây vào. Scarlett mở cửa, lắng nghe tiếng chân nặng nề của Mammy ở phòng ngoài, từng dưới. Nóng nảy, nàng lớn tiếng gọi, biết chắc mình sẽ không bị rầy vì tiếng kêu ấy vì Ellen đang ở trong phòng xông khói phân phát thực phẩm trong ngày cho Cookie.

− Tụi nhà quê cứ tưởng mình cùng loại ăn cắp với chúng.

Mammy vừa lẩm bẩm vừa kéo lê bước chân lên cầu thang. Bà thở hổn hển bước vào, với sắc mặt của một kẻ sẵn sàng đón nhận một cuộc tranh đấu. Trên cánh tay dài đen đúa, bà bưng một mâm thức ăn bốc khói, hai củ khoai mỡ phủ bơ, một chồng bánh lúa mạch nướng tẩm đường, một khoanh thịt đùi heo lỏng bỏng trong nước xối thịt. Nhìn thấy cái mâm nặng trĩu của Mammy, Scarlett đổi sắc mặt . Từ giận dỗi biến thành cau có. Mệt mỏi vì phải thử quá nhiều áo, Scarlett quên mất qui luật nghiêm nhặt của Mammy là, trước khi dự hội, các cô gái nhà O’Hara phải ngốn thật nhiều thức ăn ở nhà đến nổi không thể ăn hoặc uống một thứ gì khác ở bữa tiệc.

− Không cần mấy món này đâu! Vú đem dẹp xuống bếp liền đi!

Mammy đặt mâm xuống bàn, tay chống nạnh, ngực ưỡn ra:

− Nè, thưa cô, tôi sẽ không để xảy chuyện như kỳ dã yến trước đâu, lúc ấy tôi bị bịnh nặng, không thể mang dồi heo lên cho cô được. Tôi sẽ không dẹp cái mâm trước khi cô đi. Cô phải ăn hết cái mâm này.

− Thôi ! Bây giờ vú tới đây siết cho tôi cái thắt lưng này đi, trễ rồi. Mới có tiếng xe ngựa chạy qua trước cửa đó.

Mammy đổi giọng dụ dỗ:

− Nào, Scarlett, cô ngoan lắm, lại ăn một miếng nhỏ đi coi. Cả hai cô Carreen và Suellen đã ăn hết cả rồi.

Scarlett nói với vẻ khinh miệt:

− Chẳng có gì lạ! Đầu óc chúng không hơn những con thỏ. Nhưng tôi thì khác. Tôi chưa quên bữa tôi đã ăn hết một mâm ở nhà trước khi sang bên nhà Calvert đó. Họ mời ăn kem mua từ Savannah về mà tôi chỉ có thể ăn một muỗng nhỏ. Tôi muốn bữa nay tôi sẽ được vui vẻ và ăn những món gì tôi thích.

Trước sự thách thức ấy, Mammy nhíu mày tức giận. Đối với bà, điều mà một cô gái có thể làm hoặc không được phép làm thì thật phân biệt, như màu trắng với màu đen, và cũng không có một sự dung hoà nào giữa hai hành động trên. Suellen và Carreen được nhồi nặn trong hai tay nhiều quyền lực và những lời dạy dỗ của bà. Nhưng đối với Scarlett, bà phải luôn luôn phấn đấu mới dạy được nàng hiểu rằng phần lớn những xung động bẩm sinh của nàng không hề thích hợp cho một phụ nữ quí phái. Những thắng lợi của Mammy thường trải qua những cam go kèm theo các mưu mô quỉ quyệt, mà người da trắng không thể nào nghĩ ra.

Bà biết rõ ý định của Scarlett:

− Nếu cô không muốn nghe người ta nói gì về cô thì tôi rất tiếc . Tôi không muốn những người trong dạ hội nói rằng cô không được giáo dục tử tế . Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần với cô là một phụ nữ quí phái phải ăn uống nhỏ nhẹ như chim. Và tôi không thích phải dẫn cô qua nhà ông Wilkes để cô ngốn ngấu như một con nô lệ và ăn tạp như heo con.

Scarlett chống chế:

− Nhưng mẹ tôi là một bà quí phái, bà cũng ăn vậy.

− Khi cô lấy chồng rồi, cô mới có thể ăn được như vậy.

Mammy bắt bẻ:

− Hồi bà Ellen bằng tuổi cô, bà không bao giờ ăn cái gì cả khi đi ra ngoài. Ngay cả dì Pauline và Eulalie cũng vậy. Và họ đều kết hôn được hết. Thường thường mất cô gái ăn nhiều không bao giờ kiếm được chồng.

− Tôi không tin chuyện đó. Trong kỳ dã yến trước, lúc vú bịnh tôi đã không ăn gì trước khi đi, và Ashley Wilkes đã nói với tôi là chàng thích nhìn một cô gái ăn nhiều.

Mammy lắc mạnh đầu:

− Lời nói và sự suy nghĩ của các ông quí phái là hai việc khác nhau. Và tôi có bao giờ thấy ông Ashley cầu hôn cô đâu.

Scarlett nhăn mặt, muốn to tiếng nhưng dằn xuống, không thể nào tranh luận nổi với Mammy. Thấy vẻ mặt ngoan cố của Scarlett, Mammy bưng mâm lên, và với một mánh khóe tuyệt diệu của chủng tộc bà, Mammy đổi chiến thuật, vừa bước ra cửa vừa thở dài:

− Được, tốt lắm, tôi đã nói với con bếp khi nó sửa soạn cái mâm này là, nếu thấy cô không ăn gì hết thì có thể gọi “họ” là người quí phái . Và tôi kể cho nó nghe là chưa bao giờ tôi gặp một phu nhân da t’ắng nào ăn ít hơn cô Melly Hamilton t’ong kỳ cô ấy viếng nhà ông Wilkes. À quên, tôi muốn nói viếng cô India.

Scarlett nghi ngờ liếc nhìn Mammy, nhưng trên khuôn mặt to lớn của bà chỉ biểu lộ sự hối tiếc thực thà, tại sao Scarlett không được thanh lịch bằng Melanie Hamilton.
Scarlett cau có:

− Vú để mâm xuống và lại giúp tôi siết chặt sợi dây lưng này coi. Sau đó tôi sẽ cố gắng ăn một chút. Nếu tôi ăn bây giờ, lát nữa làm sao siết dây lại.

Ra điều như không thiết tới chiến thắng của mình, Mammy đặt mâm xuống:

− Con trừu con của vú định mặc áo gì đó?

− Cái này – Scarlett đáp và chỉ cái áo sa có lông to bằng nhung xanh. Mammy liền phản đối:

− Không được, không mặc cái áo này vào buổi sáng được . Cô không thể để hở bộ ngực t’ước ba giờ chiều, và cái áo này không có cổ cũng không có tay. Nắng sẽ làm da cô nổi lên những vết lốm đốm.

Tôi không muốn cô bị nổi mụn đỏ. Tôi đã dùng sữa thoa lên những mụn đỏ mà cô bị khi đi tắm biển Savannah mùa đông rồi. Tôi sẽ mét với bà liền cho coi.

Scarlett lạnh lùng:

− Nếu vú nói một lời nào với mẹ tôi trước khi mặc áo xong, tôi sẽ không ăn một miếng nào hết . Mẹ tôi không đủ thì giờ bắt tôi thay áo khác đâu.

Mammy thở dài, bỏ cuộc vì đã đoán được phản ứng của Scarlett. Giữa hai điều tệ hại này, thà để cho Scarlett mặc áo trái buổi còn hơn để cho nàng ngốn thức ăn như heo con.

− Cô dựa chỗ nào và hít hơi vô đi.

Scarlett làm theo, cố gắng nắm chặt lấy giường . Mammy siết mạnh sợi dây và vòng đai áo càng lúc càng nhỏ lại, cặp mắt của bà đầy vẻ kiêu hãnh và âu yếm . Mammy nói với giọng rất hài lòng :

− Không có cô gái nào có được cái eo như con t’ừu con của vú . Mấy lần vú siết dây nịt cho Suellen dưới hai mươi phân là con nhỏ đã muốn xỉu.

Scarlett thở ra và nói thật khó khăn:

− Tôi không bao giờ xỉu đâu.

Mammy khuyên:

− Thỉnh thoảng cũng nên làm như sắp ngất đến nơi, nhiều lúc cô chẳng biết xấu hổ gì hết cô Scarlett, tôi muốn nói với cô là khi gặp rắn hay chuột thì làm như sắp chết coi mới được. Tôi nói không phải cô làm vậy ở nhà mà phải lựa lúc đang ở giữa đám đông kìa. Và tôi đã nói với cô là…

− Ồ, mau lên chớ vú! Đừng có dài dòng hoài vậy chớ. Tôi sẽ kiếm một ông chồng được mà, vú sẽ thấy tôi không cần phải kêu thất thanh và ngất xỉu đâu. Được lắm, nịt sát lắm rồi, mặc áo vào cho tôi đi.

Mammy cẩn thận khoác 11 thước sa xanh lên chiếc váy phồng, gài những móc lưng dây nịt và cái áo trên rồi dặn dò:

− Nhớ choàng khăn lên vai khi ra nắng và đừng lột nón khi thấy nóng. Nếu không thì khi về nhà cô sẽ đen lên giống như mụ Slatte’y cho coi. Nào, lại đây ăn đi cưng, nhưng đừng ăn mau quá.

Scarlett bước lại ngồi trước mâm, ngạc nhiên chẳng biết có thể nào nhét nổi thức ăn vào dạ dầy được nữa không, và làm sao đủ chỗ để thở nữa. Mammy lại bàn phấn lấy cái khăn rộng quấn quanh cổ Scarlett trải những nếp xếp trắng phủ lên vai áo nàng. Scarlett bắt đầu với món đùi heo mà nàng ưa thích nhứt và nàng ăn hết ngay.

− Cầu trời cho tôi lấy chồng phứt cho rồi!

Nàng vừa nói một cách tức giận vừa miễn cưỡng dùng sang món khoai mỡ. Tôi chán ngấy phải sống không hợp với bản tính và không bao giờ được làm việc gì mình muốn làm. Tôi chán ngấy cái lối đóng kịch ăn nhỏ nhẹ như chim, phải đi khoan thai trong lúc muốn chạy và phải nói rằng sắp ngất sau khi nhảy xong một bản luân vũ trong khi tôi có thể khiêu vũ luôn hai ngày không thấy mệt. Tôi chán phải nói: “Ông thật tuyệt diệu” với những kẻ chỉ thông minh bằng phân nửa tôi, và tôi ghét phải làm bộ không biết gì cả, để đàn ông giải thích dài dòng và lên mặt quan trọng khi nghe họ nói… Thôi, tôi không ăn nổi nữa đâu.

Mammy nói với giọng lạnh nhạt:

− Cô ăn bột lúa mạch nướng đi.

− Tại sao phải làm ra vẻ khờ dại như vậy mới kiếm chồng được?

− Tôi nghĩ có lẽ đàn ông họ không hiểu được họ muốn gì. Họ chỉ biết được cái mà họ nghĩ rằng họ muốn thôi. Và trao cho cái mà họ muốn để cứu vớt cả đống đàn bà để đàn bà khỏi trở thành gái già. Và họ tưởng họ muốn những cô gái đó, bé bỏng như chim và chẳng có chút gì gọi là thông minh trong đầu. Đàn ông sang trọng họ không thích cưới một phụ nữ mà họ ngờ là thông minh hơn họ.

− Vú có tưởng là họ sẽ ngạc nhiên vì sau ngày cưới mới khám phá ra vợ họ không ngốc như họ tưởng?

− Có thể lắm chớ, nhưng lúc đó đã trễ vì họ đã lấy nhau rồi. Mặt khác, đàn ông cũng muốn vợ họ không đến nỗi tồi lắm.

− Một ngày nào đó, tôi sẽ làm và nói những gì mà tôi muốn. Và nếu mọi người không thích, tôi cũng cóc cần.

Mammy nhăn nhó:

− Không được, không làm như vậy được cho tới khi tôi không còn thở nữa. Ăn bánh nướng đi, nhúng nó vào nước xối thịt đó cưng.

− Tôi nghĩ rằng, gái Yankee không phải đóng kịch ngu ngốc như thế. Ở Saratoga năm rồi, tôi để ý phần đông bọn họ xử sự như những người rất thông minh, ngay trước mặt đàn ông cũng vậy.

Mammy khịt mũi:

− Hừm, gái Yankee! Vâng, tôi đoán chừng họ diễn tả tư tưởng hay lắm, nhưng vú thấy ở Sa’atoga chẳng có ai cầu hôn với họ cả.

Scarlett cãi lại:

− Người Yankee cũng phải lấy chồng chớ. Họ đâu có mọc lên một mình được. Họ phải lấy vợ lấy chồng và đẻ con. Họ có nhiều trẻ con lắm mà.

Mammy quả quyết:

− Đàn ông lấy họ là vì tiền mà thôi.

Scarlett chấm miếng bánh nướng vào nước xốt và cho vào miệng. Có lẽ Mammy nói có phần đúng. Phải có phần đúng vì Ellen cũng nói vậy tuy tế nhị hơn. Thật ra mẹ của các bạn gái nàng đã in sâu vào đầu óc con họ sự cần thiết phải biến thành người nhu nhược và bám víu như thỏ cái. Thật ra, phải tập luyện nhiều mới làm ra được như thế. Có lẽ bàn luận với Ashley một cách thẳng thắn về ý nghĩ của nàng. Hay là việc ấy cùng sở thích đi bộ, cỡi ngựa của nàng đã đẩy chàng ra khỏi nàng để đi tới Melanie yếu ớt kia? Có lẽ, nếu nàng thay đổi chiến thuật… Nhưng nàng cảm thấy rằng nếu Ashley bị chế ngự bởi những mưu mô của đàn bà, thì nàng sẽ không bao giờ kính phục chàng nữa. Những người đàn ông ngốc tới nỗi phải luỵ trước một nụ cười không tự nhiên chút nào, trước một trò bất tỉnh hay vì câu nói: “Ồ, ông thật là tuyệt diệu” đều không xứng đáng để cho nàng kết hôn. Nhưng tất cả bọn họ hình như đều thích những cái giả dối ấy.

Nếu nàng đã dùng một chiến thuật sai lầm đối với Ashley trong quá khứ… Được lắm, chuyện đó đã qua rồi! Hôm nay, nàng phải dùng một chiến thuật khác, chính xác hơn. Nàng muốn chiếm Ashley và nàng chỉ có vài giờ để chiếm đoạt chàng. Nếu cần phải ngất, nàng cũng sẵn sàng thi hành thủ đoạn này. Nếu cần phải cố gắng cười gượng, phải làm dáng, phải tỏ ra là một người có đầu óc rỗng tuếch, để Ashley thích thú thì nàng sẽ vui lòng làm dáng ngay, và sẽ giả vờ ngu hơn cả Cathleen Calvert nữa. Nếu phải cần tới những thủ đoạn liều lĩnh nhứt nàng vẫn cứ sử dụng. Hôm nay chính là ngày trọng đại.

Không ai nói với Scarlett về nhân cách của nàng, mặc dầu quá sung mãn, vẫn làm cho đàn ông thích hơn là những chiếc mặt nạ nàng có thể mang vào. Nói với nàng điều ấy, nàng đã hài lòng nhưng không tin tưởng mấy. Và nền văn minh mà nàng lệ thuộc vào cũng không tin tưởng. Bởi vì trước đó hay từ đây trở đi, người ta đánh giá quá thấp thiên bẩm của nữ giới.

Khi cổ xe ngựa mang nàng xuống dốc con đường đất đỏ đưa tới đồn điền Wilkes, Scarlett cảm thấy khoan khoái một cách tội lỗi là mẹ nàng và Mammy đã không dự tiệc hôm nay. Sẽ không có ai trong dã yến nhíu mày hoặc mím môi, có thể làm trở ngại chương trình của nàng . Dĩ nhiên là Suellen chắc chắn sẽ đồn đại câu chuyện này ngày mai. Nhưng nếu tất cả đều diễn ra đúng như Scarlett hy vọng, thì gia đình nàng, trước chuyện nàng đính hôn với Ashley, hay chuyện nàng bỏ nhà theo trai sẽ phải băn khoăn lo lắng nhiều hơn là bất mãn. Vâng, nàng sung sướng lắm khi Ellen phải ở nhà vì bận việc.

Sáng nay, Gerald uống brandy đã khá say, cho Jonas Wilkerson nghỉ việc và Ellen phải ở lại đồn điền để kết toán sổ sách trước khi hắn ra đi. Scarlett đã hôn từ giã mẹ lúc đó đang ngồi trong căn phòng nhỏ, trước bàn giấy cao với những ngăn kéo đầy giấy tờ. Jonas Wilkerson, nón cầm tay, đứng bên cạnh bà, da mặt màu vàng tái căng lên. Hắn không che đậy được sự căm thù mãnh liệt vì bị đuổi không báo trước ra khỏi chân quản gia tốt nhất của hạt này. Tất cả chỉ vì một chuyện lăng nhăng nhỏ nhặt. Hắn lặp đi lặp lại với Gerald rằng cả tá đàn ông khác, cũng có thể dễ dàng như hắn, là cha của đứa bé Emmie Slattery. Gerald cũng tán đồng điểm này, nhưng về phần Ellen thì trường hợp của hắn không đáng được giảm khinh chút nào. Jonas thù ghét tất cả những người miền Nam. Hắn ghét những phong cách lạnh lùng mà người ta đối với hắn, ghét sự khinh miệt đối với địa vị xã hội của hắn mà người ta che đậy không ổn dưới lớp màu mè lịch sự . Hắn thù ghét Ellen O’Hara hơn mọi người khác vì bà là tiêu biểu cho tất cả những gì mà hắn thù ghét ở người miền Nam.

Mammy, người cầm đầu phái nữ gia nhân trong đồn điền ở lại tiếp tay cho Ellen, và chính Dilcey ngày hôm nay, thay bà ngồi gần chỗ xà ích, bên cạnh Toby với cái hộp đựng các chiếc áo khiêu vũ của các cô đặt trên đầu gối . Gerald cỡi con ngựa săn to lớn bên cạnh cổ xe, mặt đỏ phừng hơi rượu, thích thú vì đã thanh toán lẹ làng vụ khó nghĩ về Wilkerson. Ông đã trút hết trách nhiệm lên Ellen, mà không cần nghĩ là Ellen có thể tiếc vì không dự dã yến được, bởi cũng là dịp bà có thể gặp gỡ bạn bè.

Trời mùa xuân êm ả, cánh đồng của ông tuyệt đẹp, chim chóc líu lo và ông cảm thấy mình trẻ quá, vui vẻ quá đến nổi chẳng còn nghĩ gì tới ai nữa cả. Thỉnh thoảng, ông cất giọng hát “Peg đi trên xe ngựa có ghế dựa”, những cổ điệu Ái nhĩ lan khác hoặc bản bi ca của Robert Emmet: “Nàng rời xa miền đất nơi người anh hùng trẻ tuổi của nàng nằm xuống”.

Ông rất sung sướng, vui vẻ một cách kích động trước viễn ảnh sắp được trọn ngày bàn luận về bọn Yankee, về chiến tranh và về ba cô con gái xinh đẹp trong những chiếc váy phồng lộng lẫy dưới những chiếc dù bằng đăng ten ngộ nghĩnh. Ông không còn nhớ đến câu chuyện với Scarlett ngày hôm qua, vì nó đã hoàn toàn thoát ra khỏi ký ức của ông rồi. Ông chỉ nghĩ rằng Scarlett rất đẹp và làm vẻ vang ông, cặp mắt của nàng xanh biếc như những đồng cỏ Ái nhĩ lan. Tư tưởng sau cùng này làm cho ông thấm thía, rung động vì sự nên thơ của nó. Với một giọng oang oang, hơi sai nhịp, ông dành cho con gái bản “Người mặc áo xanh”.

Scarlett nhìn ông với vẻ âu yếm tự tôn của một bà mẹ đối với những đứa con vênh váo. Biết rằng chiều này ông sẽ say mèm, về nhà trong bóng đêm dày đặc sẽ cố gắng như thường lệ, nhẩy qua hết mấy cái hàng rào giữa Twelve Oaks và Tara, nàng cầu mong đấng Thánh linh nhân từ che chở và nhờ linh giác của con ngựa ông sẽ khỏi bị gãy cổ. Ông sẽ không thèm đếm xỉa tới cây cầu, cho ngựa lội qua rạch và luôn miệng gào thét. Trong những trường hợp như vậy, Pork sẽ là người luôn luôn chờ ông với ngọn đèn trên tay và sẽ để ông nằm ngủ trên trường kỷ kê ở phòng ngoài.
Ông sẽ làm hư bộ đồ mới bằng nỉ xám của ông để rồi sáng hôm sau lấy đó làm nguyên do để ông mắng chửi ỏm tỏi và kể lể dài dòng cho Ellen nghe tại sao con ngựa của ông lại qua khỏi cầu trong đêm tối. Đó chỉ là một chuyện bịa đặt hiển nhiên, không đánh lừa được ai, nhưng ai cũng phải thừa nhận chuyện này và nó làm cho ông cảm thấy ông thật là một người sắp đặt tài tình.

Scarlett suy nghĩ với một mối suy nghĩ thiện cảm dồi dào. Ba yêu quí, ba thật dễ thương, vị kỷ và khinh suất làm sao. Nàng cảm thấy, sáng hôm nay thật là xúc động và vui vẻ đến nỗi nàng bao gồm cả vũ trụ và Gerald vào trong tình thương của mình. Nàng thật đẹp, và nàng biết rõ điều ấy. Nàng sẽ chiếm được Ashley trước khi ngày tàn. Ánh nắng ấm dịu và mùa xuân Georgia trải trước mắt Scarlett vẻ rực rỡ của nó. Dọc theo đường, dâu rừng với lớp lá xanh mềm mại che phủ những con rạch đỏ ngầu được vạch ra bởi những cơn mưa mùa đông. Những phiến hoa cương nhẵn nhụi trồi lên trên mặt đất đỏ khuất lấp bởi những cây đổng thảo sắc tím lợt. Bên trên con rạch, trên những ngọn đồi xanh, những nụ dương đào óng ánh trắng như những đốm tuyết chưa tan trên lá. Những cây táo dại trổ hoa và hỗn loạn màu sắc, từ màu trắng lợt đến màu hồng thẩm và dưới những tàng cây, nơi ánh nắng bị cắt nát rọi tới những lá thông nhọn hoắt, những cây kim ngân hoa trải tấm thảm nhiều màu đỏ tươi, màu cam và màu hồng. Gió thoảng hương thơm của cây cỏ hoang dã và hương vị đời sống đáng thèm.

Scarlett suy nghĩ:

− Mình sẽ nhớ mãi những cái đẹp của ngày hôm nay cho tới chết. Có lẽ, hôm nay là ngày thích hợp với hôn lễ của mình.

Và nàng nghĩ tiếp, tim đập mạnh, xế này hay trong đêm nay, dưới ánh trăng, nàng và Ashley phóng ngựa thật nhanh xuyên qua vùng hoa cỏ tuyệt vời này đến Jonesboro tìm một linh mục. Dĩ nhiên, sau đó nàng sẽ làm lễ hôn phối nơi một cố đạo ở Atlanta, nhưng đó là việc mà Gerald và Ellen phải lo. Nàng hơi run khi nghĩ tới sự sỉ nhục mà Ellen nhận lúc nghe tin con gái đã bỏ nhà theo vị hôn phu của một cô gái khác, nhưng nàng biết Ellen sẽ tha thứ cho nàng khi thấy nàng hạnh phúc. Và Gerald sẽ quở mắng và chửi rủa nhưng qua tất cả những lời phê bình không chấp nhận nàng kết hôn với Ashley hôm qua, ông vẫn sẽ hết sức vui lòng về sự kết hợp giữa gia đình ông và dòng họ Wilkes.

“Nhưng đó chỉ là những việc phải lo lắng sau ngày cưới”. Nàng thầm nghĩ, gạt bỏ những suy tư ra khỏi đầu óc.

Không cảm thấy gì khác ngoài một niềm vui chan hoà, dưới ánh nắng ấm tiết xuân, với những ống khói của Twelve Oaks vừa ló dạng trên những ngọn đồi bên kia rạch. Scarlett nghĩ:

− Mình sẽ sống ở đây và mình sẽ còn thấy được độ năm mười mùa xuân như thế này hoặc đẹp hơn nữa và mình sẽ kể cho con cháu nghe mùa xuân này đẹp như thế nào, đáng yêu hơn mọi mùa xuân chúng được thấy sau này.

Sung sướng bởi ý nghĩ sau cùng này, nàng nối tiếp khúc cuối bản “Người mặc áo xanh” làm Gerald vỗ tay ầm ĩ.

− Em chẳng biết tại sao sáng nay chị vui vẻ quá vậy.

Suellen càu nhàu hỏi bởi cô nghĩ rằng nếu cô được mặc chiếc dạ y xanh của Scarlett thì cô sẽ đẹp hơn chị cô nhiều. Và tại sao Scarlett lại luôn luôn ích kỷ, chẳng bao giờ cho cô mượn cái áo cũng như mũ của chị ấy. Và tại sao mẹ cứ ủng hộ chị ấy, cho rằng màu xanh không hợp với Suellen?

− Chị cũng biết rõ như em là lễ đính hôn của Ashley sẽ được loan báo tối nay. Ba đã nói sáng nay rồi mà. Và em còn biết chị mết anh ta từ mấy tháng nay.

− Mầy chỉ biết có bấy nhiêu sao?

Scarlett vừa hỏi vừa thè lưỡi, không muốn để mất khí sắc vui tươi của nàng. Suellen sẽ hết sức ngạc nhiên vào giờ này ngày mai.

Carreen phản đối như bị đụng chạm:

− Susie, chị cũng biết là không phải vậy, Scarlett chỉ mết có Brent thôi mà.

Scarlett quay sang, đôi mắt xanh như cười với cô em út, ngạc nhiên nghĩ tại sao người ta lại khả ái như vậy. Cả gia đình đều biết rằng trái tim mười ba tuổi của Carreen đã giao cho Brent Tarleton, người chẳng bao giờ chú ý tới cô nếu cô không phải là em của Scarlett. Mỗi khi Ellen không có nhà, hai cô chị thường trêu ghẹo Carreen đến phát khóc về chuyện Brent.
Scarlett vui vẻ vì được tỏ ra rộng lượng:

− Em cưng, chị chẳng để ý gì đến Brent đâu, và anh ta cũng chẳng để ý gì đến chị cả. Anh ấy đang chờ em lớn đấy.

Khuôn mặt tròn trịa của Carreen đỏ bừng lên, lòng thích thú nhưng vẫn nghi ngờ:

− Ồ, Scarlett, thật không?

− Scarlett, chị biết là má đã nói Carreen còn nhỏ không được nghĩ tới bồ bịch sao chị lại nhét những ý nghĩ đó vào đầu nó?

Scarlett đáp:

− Được, mầy muốn lưu ý hay nói nhảm nhí tuỳ ý, tao không cần. Mầy muốn chèn ép Sissy bởi vì mầy biết chỉ trong một năm nữa nó sẽ đẹp hơn mầy.

Gerald lên tiếng:

− Tụi bây chịu dẹp cái giọng thường ngày đó vào hôm nay hay không? Hay tao lại quất cho mấy roi bây giờ. Thôi im đi, tao có nghe tiếng xe ngựa thì phải? Có thể là đám Tarleton hay Fontaine.

Khi đến gần giao lộ, nơi gặp nhau của hai con đường từ đồi cây rậm rạp ở Mimosa và Fairhill đổ xuống, họ đã nghe tiếng bánh xe, vó ngựa và những giọng đàn bà vang ra từ sau màn cây dầy đặc càng lúc càng rõ ràng và ầm ĩ hơn. Gerald đi đầu, ghì ngựa lại và ra hiệu cho Toby dừng xe ngay chỗ hai con đường gặp nhau.

− Đúng là bà Tarleton và mấy cô con gái.

Mặt ông tươi như hoa. Trừ Ellen ra, trong hạt này không có bà nào được ông thích bằng bà Tarleton tóc đỏ.

− Và chính bà ta cầm cương, thật là một người biết điều khiển ngựa! Hai bàn tay nhẹ như lông chim, mạnh như roi da và cũng đủ đẹp để hôn lên. Tụi bây chẳng có đứa nào có bàn tay như vậy .

Ông tiếp, đôi mắt dịu dàng quở trách các con:

− Carreen thì sợ mấy con ngựa, còn Sue thì tay cứng như bàn ủi khi cầm cương, còn con thì…

Scarlett bất mãn:

− Được lắm, nhưng con chưa bao giờ té ngựa hết. Còn bà Tarleton kỳ săn nào cũng bị ngựa quăng xuống đất.

Gerald tiếp ngay:

− Và gãy xương quai xanh như một người đàn ông, nhưng không bất tỉnh, không kêu la. Thôi, bà ấy tới kìa.

Ông đứng trên hai bàn đạp ngựa, dở nón vạch một vòng chào, trong khi cổ xe của nhà Tarleton chất đầy con gái mặc áo sặc sỡ, che dù và khăn trùm đầu phất phới, đến nơi với bà Tarleton tay cầm cương như Gerald đã nói. Với bốn cô con gái, bà vú, những hộp giấy dài đựng áo khiêu vũ chật ních xe, quả thật không còn chỗ cho tên xe xà ích ngồi nữa. Vả lại Beatrice Tarleton không ưng thuận cho ai cầm cương, da trắng hay da đen cũng vậy, trừ khi bà bị băng treo tay lên cổ. Gầy gò, yếu đuối, màu da trắng tới nỗi người ta tưởng như mái tóc đỏ rực của bà đã hút khí sắc trên mặt, nhưng bà lại không thiếu sức lực và hăng hái. Bà đã sanh tám lần, đứa nào cũng tóc đỏ và đầy sức sống như bà, và bà đã dạy bảo chúng rất có kết quả, như dân trong hạt đã nói, bởi vì bà đã trao cho chúng tất cả tình thương vô bờ bến và một kỷ luật nghiêm nhặt như khi bà nuôi đám ngựa con. “Uốn nắn nhưng đừng làm gãy tinh thần chúng”. Đó là châm ngôn của bà Tarleton.
Bà thương ngựa và nói về chúng bất cứ lúc nào. Bà rất tin tưởng bầy ngựa của bà, đặc biệt là con ngựa cái màu đỏ tên Nellie, khôn như người. Khi nào quá bận rộn việc nhà, bà giao cho một đứa bé da đen tô đường và dặn nó:

− Hãy đút cho Nellie một nắm đầy và nói với nó ta về ngay! Trừ những dịp hiếm có, lúc nào bà cũng mặc đồ kỵ mã dù có cỡi ngựa hay không vì bà luôn luôn sẵn sàng lên yên, bởi thế bà có thói quen nai nịt gọn gàng từ sáng sớm. Cứ mỗi sáng, dầu mưa hay nắng, Nellie đều sẵn sàng yên cương và quần tới quần lui trước cửa nhà, chờ đợi lúc bà Tarleton rỗi rảnh cỡi chạy một vòng. Nhưng Fairhill là một đồn điền không dễ quản trị nên bà ít có dịp được rảnh tay. Do đó, Nellie cứ phải một mình đi tới đi lui hết giờ này sang giờ khác, trong khi bà Beatrice Tarleton bận rộn cả ngày với tà váy vắt trên tay và bên dưới là đôi giầy bóng loáng ống cao mười lăm phân.

Hôm nay, trong chiếc áo lụa đen tầm thường với chiếc váy hẹp và lỗi thời, bà vẫn còn có vẻ như đang mặc đồ cỡi ngựa bởi chiếc áo được may cắt quá giống với y phục kỵ mã của bà. Đã vậy, chiếc nón đen nhỏ nhắn được gắn lông chim cũng màu đen một bên vành sụp xuống gần đôi mắt nâu khiến nó cũng giống như chiếc nón đi săn cũ kỹ của bà.

Bà khoa roi ngựa trên không làm dấu hiệu chào đón Gerald, và ghì cương cho đôi ngựa đỏ dừng lại, và bốn cô gái ngồi phía sau cùng nghiêng đầu ra kêu thét đón mừng chị em Scarlett khiến cho cặp ngựa lồng lên vì hoảng hốt. Đối với người bàng quan thì sự chào đón quá nồng nhiệt đó có thể khiến họ nghĩ rằng hai nhà Tarleton và O’Hara đã chẳng có dịp gặp nhau nhiều năm, nhưng thật ra thì họ chỉ mới có xa cách nhau hai hôm. Nhưng người trong họ Tarleton đều quen tánh niềm nở và rất mến thích các bạn láng giềng, nhứt là các cô O’Hara. Điều đó có nghĩa là họ chỉ thích Suellen và Carreen thôi. Trong hạt, chẳng một cô gái nào thật sự mến thích Scarlett, ngoại trừ cô bé đầu óc rỗng tuếch Cathleen, nhưng điều đó cũng không có gì bảo đảm.

Vào những dịp hè, trung bình mỗi tuần đều có một dã yến và một cuộc dạ vũ được tổ chức trong hạt, nhưng đối với các cô Tarleton tóc đỏ, bẩm tính thích vui chơi, thì cứ mỗi dã yến và mỗi cuộc dạ vũ đều vô cùng thích thú giống như họ chỉ mới được dự lần đầu. Cả bốn cô gái đều mủm mỉm, xinh xắn, ngồi chật nứt trong xe đến nỗi các chiếc váy phồng và những lằn ren đè bẹp lên nhau, và mấy cây dù cứ xô lấn nhau bên trên những chiếc nón rơm rộng vành kiểu Ý đại lợi gắn đầy hoa hồng trong khi các quai nón bằng nhung đen bay phất phới. Dưới bốn chiếc nón đó là đủ loại màu tóc đỏ. Hetty thì tóc đỏ tươi, Camilla màu dâu tây chín, Randa màu đồng đỏ còn cô bé Betsy thì đúng là màu cà rốt.

Gerald dừng cương bên hông xe, khen nịnh:

− Tất cả đều quá đẹp, thưa bà. Nhưng muốn hơn được mẹ thì các cô hãy còn cách quá xa.

Bà Tarleton đảo tròn đôi mắt và cắn môi làm ra điều e thẹn khôi hài. Mấy cô gái đồng phụ họa:

− Má, má không được đảo mắt nghe! Tụi con sẽ mét ba cho coi! Và thưa bác O’Hara, chúng cháu phải thú thật rằng chẳng bao giờ má để cho tụi cháu có một cơ hội tốt nào cả khi có mặt một người hào hoa phong nhã như bác.

Cũng như mọi người, Scarlett không khỏi bật cười trước những lời đùa hóm hỉnh đó, nhưng bao giờ cũng vậy, nàng nhận thấy cái lối ăn nói quá tự do của mấy con nhỏ Tarleton với mẹ là chướng tai. Chúng cứ tưởng như mẹ cũng cùng trang lứa. Đối với Scarlett chỉ nội nghĩ tới có thể nói như thế với mẹ cũng gần như mắc tội phạm Thánh. Thế nhưng… thế nhưng… có một cái gì gần gũi, ấm áp giữa mấy con nhỏ Tarleton và mẹ chúng, mặc dầu hay trêu chọc mẹ, chúng vẫn hết sức kính trọng bà. Không được, Scarlett thành tâm tự nhủ một cách vội vàng, không phải vì vậy mà nàng thích có một người mẹ như bà Tarleton hơn là Ellen nhưng dầu sao kể cũng ngộ nghĩnh khi được đùa giỡn với mẹ. Nàng nhận thấy ý nghĩ đó đã đủ bất kính đối với Ellen và cảm thấy xấu hổ. Nàng cũng biết là loại ý nghĩ đó chẳng bao giờ quấy rầy bốn khối óc dưới những mái tóc chói chang đang ngồi trên xe kia. Và, cũng như bao nhiêu lần khác, nàng cảm thấy ngượng ngùng bực dọc vì nhận ra mình không giống các bạn láng giềng.

Trong bộ óc không có thói quen phân tách, một cái gì thoáng hiện mà nàng chỉ nhận ra một cách lờ mờ rằng, sở dĩ các con nhỏ Tarleton có những thái độ đó là vì chúng cũng bất kham như những con ngựa con, hoang dại như thỏ rừng. Ở bọn họ, một trong những di truyền tính là giản dị, vô tư. Cả cha và mẹ họ đều cùng là dân xứ Georgia – Bắc Georgia – chỉ cách xa những tổ phụ khai hoang có một thế hệ . Họ tự tin và tin tưởng ở những vật chung quanh. Theo bản năng, họ tự nhiên biết là họ phải làm gì – cũng như người trong họ Wilkes, mặc dầu chiều hướng dị biệt thật rõ ràng. Với họ không hề có chuyện xáo trộn thường xuyên ở nội tâm như trường hợp Scarlett, trong huyết quản có cung cách quí phái của miền duyên hải trộn lẫn với đầu óc thực tế và giòng máu yêu đất của một nông dân Ái nhĩ lan. Scarlett muốn tôn sùng yêu kính mẹ như một thần tượng, muốn làm rối tóc và muốn trêu nghịch mẹ. Nàng tự biết mình có thể vừa là thế này vừa là thế khác. Đó là một điều trái ngược đã làm cho nàng ước ao có một vẻ nhu mì, một cô gái quí phái có giáo dục với con trai, nếu có thể được thì cũng là một thiếu nữ bất cần đời không tiếc gì một vài cái hôn.

Bà Tarleton hỏi:

− Sáng nay Ellen đi đâu?

− Bà ấy ở nhà soát lại sổ sách kế toán với tên quản gia, chúng tôi vừa sa thải hắn. Ông nhà và mấy con trai đâu?

− Ồ, họ đi Twelve Oaks lâu rồi, họ muốn nếm thử món rhum pha sữa, chanh, đường xem có mạnh không. Tôi cam đoan là họ nếm món rượu ấy từ giờ đến sáng mai! Tôi sẽ nhờ ông Wilkes giữ họ qua đêm, dầu họ có thể bò về ngủ trong chuồng ngựa. Năm người đàn ông say rượu thì quá nhiều… Ba người thì còn được, chớ…

Gerald vội vàng ngắt lời chuyển sang đề tài khác. Ông cảm thấy mấy cô con gái ông đang cười thầm sau lưng ông vì chúng còn nhớ tới tình trạng khi ông trở về nhà sau buổi dã yến mùa thu năm ngoái.

− Sao bữa nay bà không đi ngựa? Chắc chắn là bà trông không có vẻ gì là bà nữa khi không có con Nellie ở cạnh bà. Bà trông giống như con stentor..

Bà Tarleton la lên, nhái giọng Ái nhĩ lan của Gerald:

− Stentor, ông mới dốt làm sao! Chắc ông muốn nói centaur là quái vật nửa người nửa ngựa chớ còn stentor là một người có giọng nói như đồng mà.

Dầu nói sai, Gerald vẫn thản nhiên :

− Stentor hay centaur gì cũng được. Chính bà cũng là người giọng đồng kia mà bà Tarleton, lúc bà hét đám chó săn.

Hetty nói :

− Đó, má thấy chưa. Con đã nói là má la hét giống như một tên da đỏ Comanche mỗi lần má gặp một con chồn.

Bà Tarleton quay lại:

− Như đâu có lớn như mầy kêu thét lúc bị Mammy rửa tai. Ý là mầy đã 16 tuổi rồi đó! À, tại sao tôi không cỡi ngựa sáng nay hả, con Nellie mới vừa đẻ hồi sáng sớm.

− Nó đẻ rồi à?

Gerald kêu lên với một vẻ thích thú thật sự. Tánh ham mê ngựa của người Ái nhĩ lan nơi ông hiện rõ trong ánh mắt. Và Scarlett một lần nữa cảm thấy xúc động khi so sánh mẹ nàng với bà Tarleton. Đối với Ellen, ngựa cái hay bò cái không bao giờ đẻ. Cùng lắm là gà mái sanh ra trứng. Ellen làm như không bao giờ biết tới các chuyện ấy, còn bà Tarleton thì cứ sao nói vậy.

− Một con ngựa cái con phải không?

− Không, một con ngựa giống chân dài chừng hai thước. Ông phải tới coi nó, ông O’Hara. Quả là một con ngựa của họ Tarleton. Lông nó đỏ như mấy lọn tóc của con Hetty.

− Và trông giống Hetty lắm .

Camilla nối lời mẹ, vừa nói xong liền bị biến mất dưới đống váy, quần và nón, miệng la hét ầm ĩ, vì Hetty, cô gái có mặt thật dài, bắt đầu ngắt véo cô.

Bà Tarleton nói:

− Mấy con ngựa cái con của tôi sáng nay coi bộ hăng lắm. Chúng nó tía lia khi nghe tin Ashley và con em họ nó ở Atlanta. Tên nó là gì hả? Melanie, phải không? Cầu trời ban phước cho con nhỏ đó. Thật là một đứa nhỏ dịu dàng, nhưng tôi thì chẳng nhớ tên mà cũng chẳng nhớ mặt nó. Con đầu bếp của tôi là vợ của thằng bồi coi hầm rượu nhà Wilkes, hắn ở bên nhà tôi đêm qua và cho vợ hắn biết chuyện lễ đính hôn tối nay, hồi sáng con bếp mới cho tôi hay. Mấy đứa con gái của tôi đứng ngồi không yên, tôi chẳng hiểu tại sao. Từ mấy năm rồi ai cũng biết Ashley sẽ cưới con nhỏ đó, nếu cậu ta không cưới một trong các cô em họ Burr ở Macon. Cũng như Honey Wilkes sẽ lấy Charles, em của Melanie. Ông O’Hara, ông cho tôi biết coi có ai không cho phép họ Wilkes lấy người ngoài họ không? Bởi vì nếu…

Scarlett không thể nghe được phần còn lại vì bị tiếng cười lấp mất. Trong giây lát, mặt trời như bị che khuất bởi một đám mây lạnh buốt khiến cho vạn vật chìm trong bóng râm, các màu sắc đều biến mất. Màu xanh tươi của lá cây như bịnh hoạn, cây dương đào trở nên trắng nhợt và cây táo dại trỗ bỗng tàn tạ, tiêu điều. Scarlett bấu các ngón tay vào nệm xe và trong một lúc, chiếc dù nơi tay nàng run rẩy. Hay tin Ashley đính hôn là một chuyện, còn nghe người ta bàn tán về chuyện đó mà vẫn giữ vẻ hờ hững lại là một chuyện khác. Nhưng rồi sức phấn đấu của nàng trở lại thật mạnh và mặt trời lố dạng, cảnh vật trở lại tưng bừng như lúc nãy. Nàng biết Ashley yêu nàng. Thật sự như vậy. Và nàng mỉm cười tưởng tượng hình ảnh nhà Tarleton ngạc nhiên khi chẳng có lễ đính hôn nào được loan báo tối nay… và sẽ ngạc nhiên biết bao nếu một vụ đào hôn xảy ra. Rồi bà sẽ kể cho hàng xóm nghe rằng Scarlett quả là một con ranh mãnh, vì nàng vẫn ngồi lặng thinh nghe bà nói chuyện Melanie, trong khi nàng và Ashley đã… Nàng cười lúm chiếc đồng tiền với ý nghĩ đó, và Hetty, nãy giờ chăm chú quan sát hiệu quả những lời nói của mẹ cô, ngồi thụp xuống với bộ mặt nhăn nhó vì chẳng hiểu ra sao cả .
Bà Tarleton trịnh trọng:

− Ông có nói gì cũng vậy thôi, ông O’Hara! Theo tôi thì lấy nhau trong họ hàng là bậy. Ashley cưới con họ Hamilton cũng đã không phải rồi, còn Honey sắp lấy thằng Charles Hamilton xanh mét kia thì…

− Honey chẳng bao giờ kiếm được ông nào nếu cô ta không chịu lấy Charlie.

Randa nói một cách tàn nhẫn và tự tin rồi tiếp :

− Cô ta chẳng bao giờ có một tình nhân nào ngoài Charlie. Và hắn chẳng bao giờ ngó ngàng tới cô ta, mặc dù họ đã đính hôn với nhau rồi. Scarlett, chị còn nhớ anh ta cứ bám sát chị hồi lễ Giáng sinh trước?

Bà Tarleton quay lại:

− Đừng hàm hồ, họ hàng không thể lấy nhau, dù là họ hàng xa đi nữa. Nó làm yếu dòng dõi, không thể giống như loài ngựa. Người ta có thể đẻ một con ngựa cái nhảy với một con ngựa anh hoặc một con ngựa con nhảy với một con ngựa cha và sẽ có giống tốt nếu mình biết rõ chúng thuộc về nòi gì. Nhưng không thể làm như vậy được với loài người. Có lẽ sẽ coi tốt mã lắm nhưng không bền. Người ta…

− Đây, thưa bà. Tôi không đồng ý với bà về vấn đề này. Bà có thể kể cho tôi nghe tên một người nào hơn họ Wilkes không? Và họ đã lấy nhau như vậy từ đời này sang đời khác.

− Nhưng bây giờ đúng là lúc họ phải dẹp chuyện đó lại, vì nó đã bắt đầu có triệu chứng xấu rồi. Ồ, Ashley cũng không đến nỗi gì, nó quả là thắng chó đẹp trai dầu rằng nó… Nhưng hãy xem mấy đứa con gái tái mét của họ Wilkes! Thật tội nghiệp! Đẹp thật, dĩ nhiên, nhưng quá ốm yếu, nhợt nhạt. Cứ nhìn con nhỏ Melanie thì rõ, mỏng như một cái lá chắn và ốm tới nỗi gió thổi cũng bay chẳng có vẻ gì là hăng hái. Chẳng có một khái niệm nào trong đầu. “Phải, má”, “Không phải, thưa má”, nó chỉ biết nói có vậy thôi. Ông rõ tôi muốn nói gì chớ? Gia đình đó cần phải có một dòng máu mới mẻ, một dòng máu hoàn toàn tráng kiện như mấy con nhỏ tóc đỏ nhà tôi hay cháu Scarlett. Nào, đừng hiểu lầm. Họ Wilkes là những người thanh nhã nhất trong cái lối của họ, ông biết là tôi rất mến thích họ, nhưng phải thẳng thắn mà nói! Có phải họ đã được giáo dục quá mức và cũng do tự nhiên mà ra hay không? Họ có thể xuất sắc trên đường khô, trên đường bằng phẳng, nhưng ông nghe kỹ tôi đây. Tôi không tin tưởng rằng họ chưa học được sức chịu đựng, và hễ nguy hiểm xảy ra, tôi tin rằng họ không thể ứng phó được. Họ chỉ là giống được dùng trong nhà vào mùa khô ráo chớ không phải như một con ngựa tốt có thể chạy được với bất cứ thời tiết nào. Những vụ họ hàng cưới nhau của họ đã làm họ khác biệt với những người chung quanh. Lúc nào cũng loay hoay với cây dương cầm hoặc vùi đầu vào sách vở! Tôi quả quyết rằng Ashley thích đọc sách hơn là đi săn. Tôi thành thật tin tưởng như vậy, ông O’Hara. Ông hãy nhìn bộ xương của họ, quá mảnh mai. Họ cần có những giống đực và những giống cái thật mạnh khỏe.

− Á! À! Hừm! Gerald bỗng thấy như phạm tội khi nhận thấy câu chuyện thật là thích thú và hợp ý ông nhưng đối với Ellen thì hoàn ngược lại. Thật vậy, ông biết Ellen sẽ mãi mãi buồn phiền nếu biết được con gái bà đã ngồi nghe một câu chuyện trắng trợn đến thế. Nhưng bà Tarleton, luôn luôn làm ngơ trước những cảm nghĩ của kẻ khác khi theo đuổi đề tài thú vị nhứt của bà. Đó là về nuôi dạy, người hay ngựa.

− Tôi biết rõ những gì tôi nói ra vì tôi có một vài người bà con lấy lẫn nhau. Tôi cho ông biết là con cái của họ đều mắt lồi như mắt ếch, thật thảm hại. Và khi gia đình tôi muốn tôi kết hôn với một người bà con xa, tôi nhảy dựng lên như một con ngựa con. Tôi đã nói: “Không đâu, má. Con không chịu như vậy đâu. Mấy đứa con của con sẽ bị chai chân và thở dốc như ngựa”. Và mẹ tôi đã ngất xỉu khi nghe tôi nói về mấy cái vụ chai chân, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ ý định và bà ngoại tôi cũng ủng hộ tôi. Bà cũng biết một ít về vấn đề nuôi ngựa ông thấy, và bà nói tôi có lý. Sau đó bà giúp tôi bỏ trốn với ông Tarleton. Ông hãy nhìn mấy đứa con tôi, to lớn và mạnh khỏe không có một chứng bịnh nào cũng như không có đứa nào lùn, mặc dầu thằng Boyd chỉ cao khoảng một thước bảy. Còn bọn Wilkes…

− Thôi, mình sang chuyện khác đi!

Gerald hấp tấp ngắt lời, vì ông chú ý tới cặp mắt ngơ ngác của Carreen và sự thèm thuồng tò mò trên mặt Suellen. Ông sợ chúng sẽ hỏi Ellen nhiều câu rắc rối khiến bà biết được ông là một người giám hộ chẳng ra gì. Về phần Scarlett, ông rất sung sướng khi thấy nàng, hình như nàng đang nghĩ ngợi về chuyện đâu đâu, đúng tư cách của một thiếu nữ cao quí.
Hetty giúp ông thoát khỏi cảnh lúng túng, cô sốt ruột kêu lên với bà Tarleton :

− Trời ơi, má để tụi con đi chớ. Mặt trời luộc chín con rồi nè. Cổ con phồng da rồi đây.

Gerald nói :

− Một phút nữa thôi, trước khi bà tiếp tục đi. Bà quyết định ra sao về chuyện bán lại ngựa cho chúng tôi dùng cho Bộ đội? Chiến tranh có thể bùng nổ nay mai, và bọn trẻ muốn mọi việc đâu vào đó. Đó là đạo quân của hạt Clayton và chúng ta cần có ngựa cho họ. Nhưng bà là người bướng bỉnh, chắc bà sẽ không chịu bán mấy con thú ưu tú của bà.

− Có lẽ chiến tranh không xảy ra đâu.

Bà Tarleton trì hoãn, bà đã hoàn toàn quên hết tục lệ cưới hỏi của dòng họ Wilkes.

− Tại sao vậy, thưa bà, bà không thể nào …

Hetty lại ngắt lời :

− Má, má và ông O’Hara có thể bàn về chuyện ngựa ở Twelve Oaks tốt hơn ở đây.

Gerald nói:

− Đúng vậy, và tôi không giữ các cô quá một phút nữa đâu. Chúng ta sẽ đến Twelve Oaks trong chút xíu nữa, và tất cả mọi người, già hay trẻ, đều muốn biết vấn đề ngựa ngã ngũ như thế nào. A, nhưng thật là đau lòng cho tôi nếu một bà mẹ cao quí đẹp đẽ như mẹ các cô lại quá keo kiệt về mấy con thú. Nào, lòng ái quốc của bà đâu, bà Tarleton? Có phải Liên bang miền Nam chẳng có nghĩa lý gì với bà không, bà Tarleton?

Con bé Besty la lên:

− Má, Randa ngồi trên áo con, làm nhăn hết rồi!

− Thì hất con Randa ra và câm miệng lại. Nào, bây giờ hãy nghe tôi, ông O’Hara! – Bà trả đũa, mắt bắt đầu long lên – Ông đừng ném mấy tiếng Liên bang miền Nam vào mặt tôi. Những tiếng đó có rất nhiều ý nghĩa đối với tôi cũng như với ông. Phần tôi, có tới bốn đứa con trong quân đội, còn ông, chẳng có gì hết! Nhưng đám con tôi, chúng có thể tự lo lấy chúng, còn mấy con ngựa cưng của tôi thì không. Tôi sẽ rất sung sướng được giao ngựa vô điều kiện nếu tôi biết rõ chúng sẽ được cởi bởi những người tôi quen, những người đã quen với ngựa thuần chủng. Không, tôi sẽ không do dự một phút nào . Nhưng để cho những tên rừng rú hoặc bọn trộm cắp cỡi những con tuấn mã của tôi, những kẻ chỉ quen cỡi lừa ! Không, thưa ông, tôi sẽ không ngủ được khi nghĩ rằng chúng sẽ chạy với vết cứa của bộ yên cương và không được săn sóc kỹ càng . Ông có nghĩ rằng tôi chịu để cho những tên ngốc nghếch cỡi những con ngựa mõm thật đẹp của tôi, và rồi nhìn miệng chúng nát bét ra và bị đánh đập tới khi mất hết trí khôn không? Đây, tôi đã rợn người rồi nè, ngay khi nghĩ về những chuyện đó. Không, ông O’Hara, ông đã có lòng tốt nghĩ về mấy con ngựa của tôi, nhưng tốt hơn ông nên đi Atlanta mua mấy con ngựa già cho mấy gã thô kệch của ông đi. Họ chẳng bao giờ thấy được sự khác biệt nào hết!

Camilla hỏi, cũng sốt ruột như mấy chị em:

− Má, mình chưa đi sao? Má biết là cuối cùng rồi má cũng phải nhường lại mấy con thú cưng của má. Khi ba và tụi con trai cùng hô hào rằng Liên bang miền Nam cần đến chúng, chừng đó, má sẽ khóc nức nở nhưng cũng đành để cho chúng ra đi.

Bà Tarleton nhăn mặt và giựt cương:

− Tao sẽ không nhường con nào hết.

Bà vừa nói vừa phớt nhẹ ngọn roi lên mình ngựa. Cổ xe vọt tới.

− Thật là một người đàn bà tuyệt vời.

Gerald vừa nói vừa đội nón lên và cho ngựa lui về bên cạnh cổ xe các con ông.

− Đi thôi, Toby. Bọn này sẽ làm hao mòn ý chí của bà ta và sẽ có ngựa. Dĩ nhiên là bà ta đúng. Nếu một người đàn ông không phải là người quí phái, kẻ ấy chẳng dính dáng gì đến chuyện ngựa. Hắn phải ở trong đám bộ binh. Nhưng còn nhiều phiền phức, con của chủ đồn điền trong hạt không đủ số để thành lập trọn một đạo quân. Con nói gì đó, Scarlett?

− Ba, ba nên cỡi ngựa đằng sau hay phía trước chúng con. Ba làm tung bụi khiến chúng con nghẹt thở cả.
Scarlett nói, vì nàng cảm thấy không thể kéo dài cuộc đàm luận lâu hơn nữa . Điều này làm cho nàng xao lảng ý tưởng, trong khi nàng muốn sắp xếp vừa ý tưởng vừa mặt mày của nàng cho có vẻ quyến rũ trước khi đến Twelve Oaks.
Gerald thúc ngựa và giữa một vầng mây bụi đỏ ngòm, ông theo sau xe của họ Tarleton để tiếp tục đàm luận về chuyện ngựa.

Chương 6

Họ băng qua con rạch và cổ xe bắt đầu lên đồi. Ngay trước khi Twelve Oaks xuất hiện, Scarlett đã nhìn thấy một đám khói là đà trên những tàng cây cao và nàng ngửi được mùi vị pha trộn của gỗ hồ đào đang cháy và thịt heo, thịt cừu đang nướng.

Những bếp lò đào dưới đất đã được đốt cháy âm ỉ từ đêm qua, bây giờ có lẽ đã biến thành những cái móng dài đỏ rực, với những xiên thịt đang được quay trên đó và những giọt mỡ đang nhỏ xuống xì xèo trên mặt than. Scarlett biết thứ hương vị được gió mang đi đó là ở từ khu rừng sồi nhỏ phía sau ngôi nhà lớn. John Wilkes luôn tổ chức các cuộc dã yến nơi này, trên triền đồi xinh đẹp dẫn tới vườn hồng, nơi có bóng mát dịu và là một chỗ thi vị hơn, nếu so sánh với lần tổ chức dã yến bên nhà Calvert chẳng hạn. Bà Calvert không thích những món ăn dã yến và tuyên bố rằng mùi thức ăn sẽ tồn tại trong nhà nhiều ngày nên thực khách của bà phải chịu toát mồ hôi trên một nơi phẳng lì trơ trọi cây cối, cách nhà một phần tư dặm. Nhưng ông John Wilkes nổi tiếng khắp xứ về tinh thần hiếu khách, biết rõ cách tổ chức một dã yến.

Những dãy bàn kê dài, phủ bằng loại vải đẹp nhất của gia đình Wilkes, được đặt vào những nơi có bóng mát rậm nhứt, hai bên là những băng dài không lưng dựa. Những chiếc ghế nệm gòn và gối lót được đặt rải rác ở những chỗ trống, dành cho những người không thích ngồi băng. Được đặt ở một khoảng cách vừa đủ cho thực khách khỏi bị khói, là những hố dài đang nướng thịt và mùi xốt Brunswick. Ông Wilkes luôn luôn có hơn mươi tên da đen bận rộn bưng mâm chạy tới, chạy lui để phục vụ thực khách. Ở sân sau cùng còn có một số bếp lò khác dành cho gia nhân, xà ích và các cô hầu gái của thực khách mở tiệc riêng. Thực phẩm của chúng gồm có bánh bột bắp nướng, khoai mỡ và dồi heo, món lòng thú mà bọn da đen thích nhứt, và nếu đang có mùa dưa hấu, chúng sẽ được một bữa thỏa thích.

Ngay khi ngửi thấy mùi thịt nướng thơm dòn, Scarlett nhăn mũi khoái trá. Hy vọng khi đồ ăn đã nấu nướng xong thì nàng cũng đã tới lúc cảm thấy đói. Bây giờ thì bụng đang đầy ắp và dây nịt siết quá chặt đến nỗi nàng sợ sẽ bị nấc cụt bất cứ lúc nào. Quả là chuyện đáng chán khi chỉ có người già nua mới có quyền nấc cụt trong bữa ăn mà không sợ bị cho là vô lễ.

Xe đã lên đầu dốc và căn nhà trắng vươn lên với vẻ cân đối hoàn toàn trước mắt nàng. Hàng cột cao, mái hiên rộng, nóc bằng, đẹp như một giai nhân tin tưởng nơi duyên dáng của mình đến nỗi tỏ ra hào phóng với mọi người. Scarlett yêu Twelve Oaks hơn Tara vì vẻ đẹp oai nghiêm và phong cách êm đềm không hề có ở ngôi nhà của Gerald.

Ở khúc quanh rộng của con đường đã đông nghẹt ngựa thắng yên và những cổ xe song mã. Thực khách đang xuống xe với những câu chào hỏi bạn bè. Bọn da đen luôn luôn sốt ruột trong những bữa tiệc, vừa nhăn nhó vừa dắt mấy con ngựa vào sân sau tháo yên cương. Từng đám trẻ cả da trắng lẫn da đen hò hét chạy giỡn trên sân cỏ xanh mới mọc, chơi lò cò, đuổi bắt và khoác lác về chuyện chúng sắp ăn bao nhiêu thứ.

Gian đại sảnh chiếm hết bề ngang ngôi nhà đã đầy người, và chiếc xe của O’Hara chưa kịp ngừng lại, Scarlett đã thấy mấy cô gái trong lớp áo vải bông, rực rỡ như bươm bướm, đi lên đi xuống thang lầu, tay người này đập lên lưng người khác, đôi khi họ dừng lại dựa vào lan can, tươi cười gọi những cậu trai có mặt ở từng dưới.
Xuyên qua vuông cửa sổ kiểu Pháp, Scarlett có thể nhìn lướt qua những bà trọng tuổi, ngồi trong phòng khách, nghiêm trang trong những bộ áo lụa đậm màu, vừa phe phẩy quạt vừa nói chuyện về con cái, về bịnh hoạn và về những lý do của người này hoặc người kia đã cưới hỏi nhau. Người hầu rượu của nhà Wilkes, tên Tom, hấp tấp qua lại trong phòng, tay bưng một khay bạc, cúi chào hoặc nhe răng khi dâng những cốc rượu cho các thanh niên mặc quần màu xanh hung hung hay xám với loại sơ mi cổ xếp thật thanh lịch.

Mái hiên sáng sủa trước nhà cũng đã đông khách, có lẽ cả hạt đều qui tụ về đây, Scarlett thầm nghĩ. Bốn cậu con trai Tarleton và cha họ đang dựa vào mấy cây cột cao vút. Anh em song sinh Brent và Stuart sát bên nhau cũng như bất cứ lúc nào. Boyd và Tom đứng với cha, ông James Tarleton. Ông Calvert đang đứng kế bên người vợ Yannkee của ông, và dù đã ở Georgia hơn mười lăm năm, bà chẳng có vẻ hoàn toàn thích hợp với những nơi này.

Mọi người đều tỏ ra lịch sự và ân cần đối với bà chỉ vì họ thấy thương hại, nhưng không ai có thể quên được trước đó bà là người dạy học riêng cho mấy đứa con Calvert. Hai cậu con của Calvert, Raiford và Cade đều có mặt với cô em gái hoạt bát, Cathleen. Họ đang trêu chọc Joe Fontaine và Sally Munroe, vị hôn thê xinh đẹp của anh. Alex và Tony Fontaine đang thì thầm những gì vào tai của Dimity Munroe khiến cô ta cười khúc khích.

Có những gia đình từ xa tới như Lovejoy, cách đây mười dặm hoặc từ Fayetteville hay Jonesboro, còn có một số ở tận Atlanta và Macon. Ngôi nhà như muốn nứt ra vì đám đông, tiếng chuyện trò đứt đoạn, tiếng cười rầm rĩ hoặc khúc khích, tiếng ríu rít của phụ nữ, và những tiếng kêu hỏi oang oang.

John Wilkes đứng trên ngưỡng cửa, với mái tóc bạch kim, thân người thẳng tắp trông dáng vẻ thanh lịch trầm lặng. Ông ân cần với khách, ấm áp và nồng nàn như trời mùa hạ Georgia. Bên cạnh ông là Honey Wilkes luôn luôn ngọt ngào đối với tất cả mọi người – từ cha cho đến bọn hắc nô – đúng như tên Honey (mật ngọt) của cô ta, đang lăng xăng và khúc khích cười chào đón khách.
Rõ ràng là cô ta mong mỏi được chinh phục đàn ông với các vẻ hoàn toàn tương phản với dáng điệu nghiêm trang của cha, và Scarlett nghĩ có lẽ những gì bà Tarleton nói có phần đúng. Chắc là chỉ có đàn ông trong họ Wilkes mới có dáng vẻ của dòng họ. Hàng lông mi dầy và vàng đậm viền quanh đôi mắt xám của John Wilkes và Ashley, thì lại lưa thưa và úa màu ở Honey và cô em gái India. Thiếu lông mi, trông Honey có vẻ kỳ dị như một con thỏ, còn India thì chẳng hề có thể miêu tã bằng tính từ nào khác hơn là xoàng xĩnh.

Chẳng thấy India đâu cả, nhưng Scarlett biết là có thể cô ta đang ở trong bếp để dặn dò lần cuối những người làm. Tội nghiệp India, Scarlett nghĩ. Cô ta đã quá bận rộn công việc nhà từ ngày mẹ mất đến đổi chẳng bao giờ có dịp may để tìm ra một ý trung nhân nào khác trừ Stuart Tarleton. Và chắc là mình chẳng có lỗi gì nếu Stuart cho là mình đẹp hơn cô ấy.

John Wilkes bước xuống thềm, đưa tay cho Scarlett. Vừa xuống xe nàng đã nhận ra Suellen đang cố tạo một nụ cười, cô bé có ý định tách Frank Kennedy ra khỏi đám đông.
Nàng vừa mỉm cười cám ơn ông John Wilkes, vừa nghĩ thầm một cách khinh bỉ:

“Bộ mình chẳng kiếm được một anh chàng nào khá hơn là thằng già của con bé này chắc!”

Frank Kennedy hấp tấp đến bên xe đỡ Suellen xuống, và Suellen khinh khỉnh đến khiếp, Scarlett muốn tát cô em một cái. Frank Kennedy là người có nhiều đất hơn bất cứ ai trong hạt này và là người rất tử tế. Nhưng những thứ đó chẳng đáng kể được gì cả so với cái tuổi bốn mươi và tánh khinh thị và nóng nảy. Những thứ đó cũng không làm cho người ta quên đi bộ râu đỏ hoe và kiểu cách như một cô gái già của hắn. Nhưng Scarlett nhớ lại kế hoạch của mình, nàng cố che đậy sự khinh bỉ và ném một nụ cười chào đón làm hắn sửng lại, cánh tay còn hướng về Suellen, hắn trố mắt nhìn Scarlett với vẻ ngạc nhiên thích thú.
Scarlett đảo mắt nhìn Ashley trong đám đông trong lúc nàng đang nói chuyện với ông John Wilkes, nhưng không có chàng trên thềm. Hơn một chục tiếng la hét chào đón Scarlett, Stuart và Brent Tarleton tiến về phía nàng. Mấy cô con gái nhà Munroe vội vàng đổ xô tới để hoan hô chiếc áo của nàng. Trong chốc lát nàng đã thành trung tâm của một vòng tròn, tiếng nói càng lúc càng cất cao hơn hơn mãi để được nghe ra giữa chỗ ồn ào. Nhưng Ashley đâu? Còn Melanie và Charles? Nàng cố không để lộ gì ra trên mặt khi ngẩng đầu lên tìm kiếm chung quanh và sâu trong đại sảnh, nơi đang có một đám đông cười đùa vui vẻ.

Nàng vừa cười nói huyên thuyên vừa liếc thật nhanh ngoài sân và trong nhà. Mắt nàng bỗng dừng sửng nơi một kẻ lạ mặt, đứng một mình trong đại sảnh, mắt hắn ánh lên vẻ lạnh lùng ngạo mạn khi nhìn nàng, nó vừa mang đến cho nàng cảm giác hài lòng của một thiếu nữ tự biết mình có sức quyến rũ đàn ông vừa làm cho nàng cảm thấy lúng túng như áo nàng đang mặc quá hở hang. Hắn có vẻ hơi già, ít nhứt cũng ba mười lăm tuổi. Người hắn cao lớn, thân hình vạm vỡ. Scarlett thầm nghĩ là chưa bao giờ nàng thấy một người đàn ông có vai rộng và bắp thịt rắn chắc như vậy, quá nhiều bắp thịt so với một người thượng lưu. Khi mắt nàng gặp hắn, hắn mỉm cười, để lộ hàm răng trắng toát như răng thú dưới bộ râu mép đen tỉa sát. Mặt hắn sạm nắng như mặt một tên hải khấu, mắt hắn thật đen và liều lĩnh như một tên tướng cướp đang ước lượng giá trị chiếc thuyền buồm mà hắn sắp đánh chiếm, hay một thiếu nữ mà hắn sắp cưỡng đoạt. Có một vẻ gì táo bạo, lạnh lùng trên mặt và bóng dáng ngạo mạn, thô lỗ trên miệng hắn khi hắn mỉm cười với nàng, làm nàng nghẹn thở. Cái nhìn của hắn có thể làm cho nàng cảm thấy bị sỉ nhục, nhưng nàng bất mãn với chính mình là tại sao lại không cảm thấy cái nhục ấy. Nàng không rõ hắn là ai, nhưng có một điều không thể chối cãi được là hắn có vẻ là người thuộc dòng máu thượng lưu. Điều này được chứng tỏ ở cái mũi cong và nhọn, đôi môi đỏ rất đầy đặn, vầng trán cao và cặp mắt to của hắn. Nàng nhìn sang nơi khác, không cười đáp lại hắn và hắn cũng quay lưng lại khi nghe có tiếng gọi:

− Rhett ! Rhett Butler ! Tới đây mau, tôi muốn giới thiệu với anh trái tim cứng rắn nhứt của Georgia.

Rhett Butler? Cái tên mang một âm thanh quen thuộc, như dính dấp đến một vụ xấu xa thú vị nào, nhưng nàng chỉ nghĩ đến Ashley và không băn khoăn nữa.

− Tôi cần lên lầu để chải tóc lại. Scarlett nói với Stuart và Brent, đang cố kéo nàng ra chỗ vắng.

− Hai anh chờ tôi ở đây và đừng có lăng nhăng với cô nào hết, không tôi giận à nghen!

Nàng nhận thấy Stuart hôm nay có vẻ khó sai khiến hơn nếu nàng hơi lẳng với một cậu khác. Stuart đã uống say và nàng thừa biết, cái vẻ mặt xấc xược và gây gổ kia thế nào rồi cũng có chuyện lộn xộn. Nàng dừng trong đại sảnh để nói chuyện với vài người bạn và chào India vừa từ nhà sau lên, tóc tai rối bù và mồ hôi đầy trán. Tội nghiệp india ! Cô ta thật là quá xấu với mái tóc và rèm mi xơ xác, với cái càm nhô biểu hiện cho tánh chất ương ngạnh. Không còn gì hơn nơi India ngoài cái tuổi hai mươi và là một cô gái già đang xuống giá. Nàng lấy làm lạ tự hỏi chẳng biết India có buồn lắm không khi nàng cướp Stuart khỏi tay cô. Một số người cho rằng cô ta vẫn còn yêu Stuart, nhưng không ai bao giờ đoán được người ở họ Wilkes đang nghĩ gì. Nếu buồn về chuyện đó, không bao giờ cô ta tỏ một dấu hiệu gì, vẫn đối xử với Scarlett một cách thận trọng, êm ái, lịch sự và ân cần như lúc nào.

Scarlett nói chuyện vui vẻ với India rồi lên thang lầu. Vừa nhô lên, nàng đã nghe một giọng rụt rè gọi tên nàng. Quay lại, nàng gặp ngay Charles Hamilton. Charles là một thanh niên khá xinh trai, tóc màu nâu thật dầy xoắn lại trước vầng trán trắng trẻo và cặp mắt màu nâu đậm trong trẻo, lịch sự như một chú chó chăn cừu của Tô cách lan. Charles Hamilton rất vừa vặn trong chiếc quần màu hột cải, cái áo choàng đen, và chiếc sơ mi xếp nếp cùng cái cà vạt đen thật rộng và hợp thời trang nhứt. Mặt anh ta đỏ lên vì mắc cở khi Scarlett quay lại. Giống như phần đông rụt rè, anh rất phục những cô gái ung dung, hoạt bát và luôn luôn khinh khoái như Scarlett. Từ trước đến nay nàng không bao giờ trao cho anh ta cái gì hơn là lịch sự chiếu lệ, và do đó khi thấy nụ cười sáng sủa, thích thú và cánh tay của nàng đưa ra, anh ta không thể nào thở nổi nữa.

− Ồ, Charles Hamilton, anh đẹp trai quá, tôi đoán chắc anh từ Atlanta về đây, anh chỉ có một mục đích là làm tan nát trái tim khốn khổ của tôi thôi.

Charles Hamilton ấp úng vì quá bối rối khi nắm bàn tay nhỏ nhắn, ấm áp của Scarlett, và nhìn sâu vào đôi mắt xanh biếc của nàng. Anh không bao giờ hiểu được tại sao các cô gái cứ đối xử với anh như là một cậu em, họ luôn luôn tử tế và ân cần, nhưng họ không bao giờ bận tâm đến chuyện chọc phá anh. Charles muốn được những cô gái làm dáng và đùa giỡn với anh như những thanh niên kém đẹp trai và kém giàu hơn. Nhưng trong một ít trường hợp mà chuyện đó xảy ra, anh không thể nào biết nói năng ra sao cả và rất đau khổ về sự lúng túng của mình. Anh thao thức suốt đêm để nghĩ ngợi về tất cả những phương cách nịnh đầm duyên dáng mà anh có thể sử dụng được, nhưng ít khi có được một dịp thứ hai, bởi vì các cô lại bỏ rơi anh sau một hoặc hai lần chọc phá.

Ngay với Honey cũng thế, dầu cô ta sẽ là người được ngầm phối hợp với anh khi anh đến tuổi trưởng thành, vào mùa thu tới, anh vẫn im lìm và do dự. Đôi lúc anh có ý nghĩ không được đường hoàng lắm về tánh hay đỏng đảnh và phong cách ung dung của cô vì nó không phải dành riêng cho anh. Thật vậy, đầu óc Honey luôn luôn xáo trộn vì những người đàn ông. Anh tưởng rằng có thể cô ta cũng sử dụng những kiểu cách ấy đối với bất cứ ai nếu có dịp thuận tiện. Charles chẳng mảy may băn khoăn về viễn ảnh phải cưới Honey, vì cô ta chẳng gợi ở lòng anh một chút xúc động lãng mạn nào, vì rằng những sách vở mà anh tin tưởng đã bảo đảm với anh rằng đó mới là đặc tánh của một tình nhân. Anh thường khao khát là người yêu của những giai nhân nồng nàn và tinh quái.
Bây giờ, bỗng Scarlett đến trêu chọc anh về chuyện làm lòng nàng tan nát!

Charles cố tìm một cái gì để nói nhưng không được, anh đành im lặng tạ ơn nàng đã nói luôn miệng tránh cho anh mối lo phải mở miệng ra hầu tiếp. Thật là quá đẹp để tin là có thật.

− Nào, bây giờ anh hãy đợi tôi ngay chỗ này cho tới khi tôi trở lại, vì tôi muốn dự dã yến bên anh. À, anh đừng có ve vãn cô nào nghe, tôi ghen ghê lắm đấy!

Những lời không thể ngờ đã được nói lên từ đôi môi đỏ, từ lúm đồng tiền ở hai má và hàng mi đen viền quanh một cách nghiêm trang ở đôi mắt xanh biếc của nàng.

− Vâng !

Cuối cùng, Charles cũng đã cố lấy hết hơi nói được một tiếng, anh không bao giờ ngờ rằng Scarlett đang coi anh ta như là một con bê đang đợi người đồ tể .
Nàng dùng quạt đánh nhẹ vào tay Charles rồi tiếp tục lên thang lầu và mắt nàng lại chạm phải người đàn ông tên Rhett Butler, đang đứng một mình cách Charles vài bước . Hiển nhiên là hắn đã nghe hết câu chuyện vừa rồi, vì hắn đang nhe răng cười nàng với một vẻ tinh quái của con mèo đực . Và lần nữa cặp mắt của hắn quấn trọn lấy nàng, đăm đăm, hoàn toàn không có vẻ gì ngưỡng mộ tôn sùng như nàng vẫn thường gặp nơi bao nhiêu người khác.

− Trời đất!

Scarlett nói thầm một cách bất bình, nàng dùng câu nguyền rủa thích thú nhứt của Gerald và nghĩ tiếp:

− Hắn nhìn như thể … như thể hắn đã thấy mình lúc không mặc áo lót!

Và mặt vênh lên, Scarlett bước lên lầu.
Trong phòng ngủ, nơi cất mấy gói áo, nàng thấy Cathleen Calvert đang sửa sang mái tóc trước tấm gương và cắn môi để cho đỏ thắm hơn. Mấy nụ hường tươi trên khăn choàng cũng xứng màu má của cô, và đôi mắt màu xanh tím long lanh vì phấn khởi.

Scarlett vừa cố kéo áo nịt cho cao hơn vừa gọi:

− Cathleen, gã thô tục Butler ở nhà dưới là ai vậy?

Cathleen thì thào với Scarlett nhưng vẫn để mắt dòm chừng phòng kế nơi Dilcey và bà vú của họ Wilkes đang nói chuyện tầm phào với nhau.

− Bộ chị không biết sao? Tôi không hiểu tại sao ông Wilkes lại chịu để cho hắn có mặt ở đây?

Nhưng tại hắn đến thăm ông Kennedy ở Jonesboro – mấy chuyện mua bán bông đó mà – và dĩ nhiên, ông Kennedy phải mang hắn theo, chẳng lẽ bỏ hắn ở lại một mình.

− Hắn đã làm chuyện gì không hay hả?

− Hắn không còn được chấp nhận trong giới thượng lưu.

− Thật hả?

− Thật chớ!

Scarlett im lặng suy nghĩ vì từ trước đến giờ nàng chưa có dịp sống kề cận với người nào bị xã hội khước từ. Thật là lý thú.

− Hắn đã làm gì vậy?

− Ồ, Scarlett, tai tiếng hắn kinh khủng lắm, tên hắn là Rhett Butler ở Charleston và gia đình hắn là một trong những danh gia vọng tộc ở đó, nhưng cha mẹ hắn chẳng nói gì đến hắn. Caro Rhett có kể cho tôi nghe mùa hè năm trước. Hắn chẳng có bà con gì với cô, nhưng cô ta biết chút ít về hắn, còn ai mà không biết! Hắn đã bị trục xuất khỏi trường West Point. Tưởng tượng nổi không! Hắn còn tằng tịu với một cô gái rồi hắn không chịu cưới cô ta. Hắn còn nhiều chuyện tồi tệ đến đỗi Caro cũng không biết hết.

− Kể cho tôi nghe chuyện đó đi.

− Chị không biết gì hết thật à? Caro có kể cho tôi nghe một ít về chuyện này hè năm trước, mẹ cô mà biết cô rõ chuyện này, dầu biết một ít thôi, bà cũng có thể chết đi được. Như vầy nè, ông Butler đó chở cô gái đi bằng xe ngựa. Tôi không biết cô ta là người thế nào, nhưng đáng nghi ngờ lắm. Cô ta không thể là người đàng hoàng vì đi ra ngoài ban đêm với hắn mà không có người giám hộ. Và chị ơi, họ đi đâu cả đêm hôm ấy, về nhà rất trễ, nói rằng con ngựa nổi điên đạp nát chiếc xe và họ bị lạc lối trong rừng. Chị có thể đoán được là…

− Không đoán được đâu, kể tiếp tôi nghe đi.

Scarlett sốt sắng bảo, hy vọng được nghe một chuyện tồi tệ nhứt .

− Hắn từ chối hỏi cưới cô gái trong ngày hôm sau.

− Ồ!

Scarlett kêu lên, tiêu tan hy vọng.

− Hắn nói rằng, hắn chẳng … ở … chẳng có làm gì với cô ta hết và không thấy có lý do gì để cưới cô ta. Và dĩ nhiên, anh cô gái đến tìm hắn, và Rhett Butler đã nói, thà hắn bị bắn chết còn hơn là cưới một con khùng  và ngu đần. Vậy là họ đấu súng với nhau, Rhett Butler bắn chết anh cô gái. Hắn rời Charleston và bây giờ chẳng ai chấp nhận hắn nữa.

Cathleen chấm dứt câu chuyện với một vẻ đắc thắng, vừa đúng lúc Dilcey bước vào phòng để trông chừng trang phục của Scarlett.

− Cô ta có con với hắn không ?

Scarlett thì thầm vào tai Cathleen.

Cathleen lắc đầu quầy quậy:

− Nhưng đằng nào cô ta cũng mất hết danh giá rồi.

“Mình cầu mong Ashley làm tổn thương danh giá mình” Scarlett đột ngột nghĩ, chàng là một người quí phái, chàng sẽ cưới mình luôn. Nhưng dù sao, tự nhiên Scarlett cũng cảm thấy kính phục Rhett Butler về chuyện từ chối một cô gái ngốc nghếch.

Scarlett ngồi trên trường kỷ bằng gỗ tử đàn, dưới bóng mát của rặng sồi khổng lồ cạnh biệt thự, vạt áo kết đăng ten và nhúm tổ ong che gần hết thân thể nàng, chỉ để lộ một chút đôi giày da màu xanh như hầu hết những phụ nữ lịch sự có thể để lộ ra mà vẫn không mất phẩm cách. Tay cầm một dĩa thức ăn mà nàng chỉ vừa nếm qua và đã có đến bảy thanh niên vây quanh nàng. Dã yến đang đến lúc sôi nổi nhứt, không khí ấm áp đầy tiếng cười nói, tiếng lách cách của muỗng nỉa bằng bạc chạm vào đồ sứ, mùi thịt nướng và nước sốt thịt thơm nồng. Thỉnh thoảng khi gió bỗng trở chiều, khói từ những lỗ nướng thổi lan tới đám đông và các bà các cô kêu thét lên và những chiếc quạt lá kè vung vẫy liên hồi.

Phần đông các cô gái đều ngồi chung với các bạn đồng vũ của mình trên băng dài ngay trước mặt bàn, nhưng Scarlett nhận thấy như vậy thì chỉ có hai bạn trai ở hai bên mà thôi nên nàng đã chọn chỗ ngồi riêng để có thể tụ họp nhiều bạn trai hơn.

Ngay chỗ các gốc cây là các bà đã có gia đình, y phục đậm màu làm thành những đốm đoan trang giữa rừng áo màu sắc vui tươi. Những người có chồng bất kể tuổi tác, thường quây quần xa các cô gái mắt long lanh với các cậu trai trẻ luôn miệng cười đùa, vì ở miền Nam không một người đàn bà có chồng nào có quyền làm đẹp. Từ bà cô Fontaine vì quá già nên được quyền khạc nhổ, cho đến Alice Munroe mười bảy tuổi, đang chống chỏi những cơn nôn mửa của lần ốm nghén đầu tiên, họ châu đầu vào những câu chuyện bất tận về phổ hệ, sanh đẻ khiến cho những buổi tụ họp như vậy trở nên lý thú và bổ ích.

Khinh khỉnh nhìn về phía họ, Scarlett thấy họ giống như một đám quạ khoang mập mạp. Đàn bà có chồng chẳng bao giờ được vui đùa. Điều này không thể xảy đến cho nàng nếu nàng thành hôn với Ashley. Nếu nàng sẽ bị bỏ một bên, cạnh những bóng cây, trong phòng khách với những bà đã có chồng, mặc những bộ quần áo bằng lụa mờ, cũng nghiêm trang và buồn tẻ như họ và không được tham dự những cuộc vui chơi… Cũng như hầu hết các cô gái khác, óc tưởng tượng chỉ đưa nàng đến bệ thờ và không đi xa hơn nữa. Vả lại, nàng đã quá khổ sở để tiếp tục nghĩ những chuyện hãy còn xa vời.

Nàng nhìn xuống đũa và ăn nhỏ nhẻ một cách khả ái miếng bánh ngọt với vẻ lịch sự và hoàn toàn mất ngon, rất được Mammy tán thành. Tới lúc này, nàng đã có quá đông số người tán tỉnh nhưng vô ích vì chưa bao giờ nàng thấy khốn cùng như thế. Trong một chiều hướng nào đó, nàng không hiểu vì sao kế hoạch của nàng đêm qua đã hoàn toàn thất bại vì Ashley đã không tham dự vào. Nàng đã quyến rũ được cả lố trai trẻ, nhưng không có Ashley, và cơn sợ hãi tối qua lại bùng lên, làm cho tim nàng như ngừng đập và da mặt nàng có lúc trở nên xanh mét.
Ashley không hề có ý định nhập bọn với đám người đang vây tròn Scarlett, và nàng cũng không hề nói riêng được một tiếng với Ashley từ khi tới đây, hay nói đúng hơn là từ khi chào hỏi nhau đến giờ . Chàng đã tiến đến chào khi nàng vừa bước vào vườn hoa, nhưng chàng đang nắm tay Melanie, con Melanie cao chưa đến vai chàng.

Cô ta quả là một mẫu người nhỏ thó, gầy còm, giống như một đứa bé cải trang trong cái váy quá rộng lớn của mẹ. Ảo giác này càng rõ rệt thêm bởi vẻ rụt rè, lúc nào cũng như sợ sệt trong đôi mắt to màu nâu. Mái tóc đen của cô ta với những lọn cong cong như bị bó kín tàn nhẫn trong bao lưới đến đỗi không một sợi nào ló ra ngoài. Mái tóc đen và cái đuôi tóc dài giữa trán càng làm cho khuôn mặt cô giống hình quả tim hơn. Với xương gò má quá đẹt, cái cằm quá nhọn, cô trông có vẻ dịu dàng và nhút nhát nhưng ngay thật. Cô chẳng có một mánh khóe quyến rũ nào khiến cho người ta quên được khuôn mặt chẳng có gì đặc sắc. Trông cô có vẻ đơn sơ như đất, ngon như ổ bánh mì và trong như nước mùa xuân. Nhưng, tuy không được đẹp lắm và mặc dầu quá bé nhỏ, cử chỉ của cô tỏ ra đoan trang, phảng phất một vẻ kỳ bí và quá già so với tuổi mười bảy của cô.

Cái áo bằng vải mỏng màu xanh xám, với khăn choàng cổ sa tanh màu anh đào che đậy dưới lớp đăng ten và những nếp nhăn cho thấy rõ thân hình chưa phát triển đầy đủ của cô. Chiếc nón vàng với sợi băng dài màu anh đào làm cho nước da màu kem của cô có rực rỡ lên. Đôi hoa tai nặng viền vàng dưới gút lưới của mái tóc gọn gàng đu đưa ngang tầm mắt nâu của cô, đôi mắt có những tia sáng êm đềm như một ao rừng mùa đông với những chiếc lá nâu lóng lánh xuyên qua mặt nước nằm im.

Cô rụt rè cười khi chào Scarlett và khen nàng thật đẹp trong bộ áo màu xanh, nhưng Scarlett khó khăn lắm mới trả lời lịch sự lại được vì nàng rất mong mỏi được nói chuyện riêng với Ashley. Từ lúc đó, Ashley ở gốc cây ngay dưới chân Melanie, rời hẳn khách khứa, nói chuyện với cô một cách êm đềm, thỉnh thoảng lại mỉm cười, nụ cười mơ màng mà Scarlett yêu thích nhứt. Điều tồi tệ hơn là sau mỗi cái cười của Ashley, mặt Melanie lại như có một ánh lửa nhỏ bùng lên, khiến Scarlett phải nhìn nhận cô ta hầu như đẹp hoàn toàn trong lúc đó. Và khi Melanie nhìn Ashley, khuôn mặt tầm thường của cô sáng lên như lửa cháy bên trong. Chưa bao giờ trái tim đa tình của Melanie Hamilton hiện rõ trên mặt bằng lúc này.

Scarlett cố gắng rời mắt ra khỏi đôi uyên ương đó nhưng không được, và sau mỗi cái liếc, nàng lại vui vẻ gấp đôi với người bạn trai bên cạnh. Nàng cười đùa, nói năng, chọc phá họ và lắc lư đầu để đôi hoa tai nhảy múa khi được họ ca tụng. Nàng đả đớt nhiều lần bảo rằng chẳng có ai trong bọn họ là thật lòng và thề chẳng bao giờ tin lời họ. Nhưng Ashley hình như chẳng lưu ý gì đến nàng. Chàng không rời mắt Melanie và Melanie nhìn xuống chàng với sự biểu lộ là nàng đã thuộc về Ashley.
Scarlett quá đau khổ.

Bề ngoài, nàng là một thiếu nữ chẳng có nguyên do gì để đau khổ. Không nghi ngờ gì cả, nàng là hoa khôi của dã yến, trung tâm điểm sự chú ý của mọi người. Lòng hâm mộ mà nàng gây ra nơi đàn ông và làm các cô gái khác uất ức đều có thể làm nàng hài lòng những lúc khác.

Charles Hamilton, đã bạo dạn hơn nhờ sự lưu ý của nàng, bám dính chỗ ngồi bên phải nàng, dù anh em song sinh Tarleton cố gắng hợp lực để cạy anh ra. Một tay cầm quạt của Scarlett, tay kia bưng dĩa thịt nướng mà anh chưa hề ăn một miếng nhỏ, anh vẫn khư khư tránh đôi mắt của Honey, đôi mắt dường như sắp sửa khóc. Cade ngã người dài bên trái nàng, kéo nhẹ chiếc váy để lôi kéo sự chú ý của nàng và ném một cái nhìn ghen ghét về phía Stuart. Không khí đã căng thẳng giữa Cade và hai anh em song sinh, những lời lẽ thô lỗ đã được họ dùng tới. Frank Kennedy kiểu cách như gà mái đối với gà con, chạy lăng xăng từ bóng cây sồi đến các bàn khác tìm mấy món ăn ngon cho Scarlett. Ông ta làm như nhà họ Wilkes chẳng có đến một lố gia nhân để phục dịch. Và sau cùng, nét mặt nhăn nhó vì giận dữ của Suellen đã vượt qua mức mà một người đàn bà quí phái có thể che giấu được. Cô bé nhìn Scarlett trừng trừng. Còn cô bé Carreen thì muốn khóc vì tuy đã được Scarlett khuyến khích từ buổi sáng, Brent chẳng nói gì với cô, ngoài một câu: “Ê, chào cô bé !” và giựt mạnh sợi dây băng đeo tóc của cô trước khi theo săn đón Scarlett. Thường thường cậu ta rất ân cần với Carreen đến đỗi khiến nàng chợt cảm thấy lớn hẳn ra và thường mơ đến ngày được vén tóc cao, được mặc váy dài hơn và tiếp đón cậu ta như một ý trung nhân thực sự. Và bây giờ, hình như Scarlett đã đoạt mất cậu rồi. Chị em Munroe cố che giấu sự phiền muộn về sự bội bạc của anh em Fontaine, nhưng cũng không khỏi khó chịu về điệu bộ của Tony và Alex len lỏi kiếm một chỗ gần Scarlett.

Họ gởi một cái nhíu mày cho Hetty Tarleton bày tỏ sự bất mãn về hạnh kiểm của Scarlett. “Lố lăng”, từ ngữ duy nhứt mà họ đã gán cho Scarlett. Cùng một lúc, họ giương dù đăng ten lên, cáo lỗi đã quá no, nói lời cám ơn và đặt mấy ngón tay mềm mại lên lòng bàn tay người đàn ông gần nhứt, dịu dàng ngỏ ý muốn đi xem vườn hồng, nhà mát hay con suối. Cuộc di tản chiến thuật trong vòng trật tự ấy không lọt qua mắt của người đàn bà nào, còn đàn ông thì chẳng ai để ý.

Scarlett cười khẩy khi thấy ba người đàn ông đã tách rời tầm thu hút của nàng để đi xem những địa điểm quá quen thuộc với các cô từ lúc nhỏ, và nàng liếc nhìn Ashley có nhận thấy điều đó không. Nhưng chàng đang nghịch với chéo khăn Melanie và đang cười với cô ta. Sự đau khổ đang bóp nát trái tim Scarlett. Nàng cảm thấy sung sướng nếu được cấu vào làn da trắng ngà của Melanie cho chảy máu ra.
Khi vừa rời mắt Melanie, nàng bắt gặp cái nhìn của Rhett Butler, không đứng với đám đông mà đang nói chuyện với ông John Wilkes. Hắn đã quan sát nàng từ lâu, và khi thấy nàng nhìn, hắn cười không giấu giếm. Scarlett lo âu khi nghĩ rằng người đàn ông không được thừa nhận đó là người duy nhứt thấy được bề trái sự vui vẻ của nàng và điều này đã làm cho hắn thích thú một cách ngạo nghễ . Nàng cũng sẽ thích thú lắm nếu được cấu hắn một cái.

Nàng nghĩ thầm : “Nếu mình chịu đựng nổi đến chiều, khi tất cả đám con gái lên lầu nghỉ trưa để được tỉnh táo cho buổi dạ vũ, mình sẽ ở lại dưới này và tìm cách nói chuyện với Ashley. Chắc chắn là chàng sẽ chú ý đến sự ngưỡng mộ của nam giới đối với mình”.

Nàng lại ru ngủ trái tim bằng một hy vọng mới .
Dĩ nhiên là chàng phải chăm sóc Melanie, chỉ vì cô ta là em họ, và cô ta không được hâm mộ lắm, nếu chàng không lo lắng cho cô ta, chắc chắn cô ta sẽ bị bỏ quên ngay.
Scarlett thầm phấn khởi vì ý nghĩ đó và cố gắng niềm nở với Charles gấp đôi. Anh ta đang nhìn nàng với cặp mắt thèm khát. Hôm nay là ngày tuyệt vời mà chẳng cần phải cố gắng làm gì cả. Với sự xúc động mới mẻ này, Honey của chàng biến mất trong đám sương mù. Honey chỉ còn là một con chim se sẻ có giọng hót chát tai, còn Scarlett là một con chim rực rỡ sắc màu. Nàng chọc phá Charles, ưu đãi anh ta hơn, nàng hỏi thật nhiều câu và tự trả lời lấy, làm cho anh có vẻ như sáng suốt khi khỏi phải nói một tiếng nào. Các cậu khác thì bối rối và chán nản vì việc Scarlett hoàn toàn quan tâm đến Charles, vì họ biết Charles quá rụt rè để có thể nói được hai tiếng liên tiếp, và họ đã cố gắng lắm mới giấu được sự giận dữ càng ngày càng lớn hơn. Mọi người đều tức bực và nếu không có Ashley, nàng đã thật sự đắc thắng.
Khi ăn xong đến mấy món heo gà và cừu cuối cùng, Scarlett thầm mong đã đến lúc India đứng dậy đề nghị các bà, các cô vào nhà nghỉ. Đã hai giờ chiều, mặt trời vẫn nóng, nhưng India đã mệt mỏi với ba ngày sửa soạn cho dã yến, vẫn còn sung sướng ngồi ở gốc cây, hét vang với lão điếc ở Fayetteville.

Một tình trạng ngầy ngật mơ màng bao trùm đám đông. Bọn da đen lười biếng dọn sạch thức ăn còn sót trên bàn dài. Tiếng cười nói trở nên ít sôi động và đây đó, từng nhóm đã ngừng nói. Mọi người đều chờ đợi bà chủ nhà ra hiệu chấm dứt buổi tiệc sáng. Quạt lá kè phe phẩy chậm dần, và nhiều ông có vẻ buồn ngủ vì trời nóng và quá no. Dã yến chấm dứt và mọi người đều bằng lòng được nghỉ ngơi trong lúc trời oi bức nhứt.

Giữa bữa tiệc ban ngày và cuộc khiêu vũ ban đêm, họ có vẻ thư thái nhẹ nhàng. Riêng đám trai tráng vẫn còn giữ được vẻ hăng hái. Đi từ nhóm này qua nhóm khác, mang theo cái giọng êm dịu của họ, họ đẹp như những con ngựa nòi và cũng không kém nguy hiểm. Sự uể oải của buổi trưa buông xuống đám đông, nhưng tánh khí được che giấu bên trong có thể chổi dậy giết người trong một giây và đốt cháy tất cả trong khoảnh khắc. Đàn ông và đàn bà đều đẹp và man dại, tất cả đều có một mầm bạo động trong lớp vỏ dễ thương, và chỉ một chút thôi.
Trời càng lúc càng nóng, Scarlett và mọi người đều hướng về India. Các cuộc đàm thoại tàn dần, giữa không khí yên lặng đó, mọi người nghe rõ giọng giận dữ của Gerald, đứng không xa các bàn ăn, ông đang tranh luận với ông John Wilkes.

− Trời đất ! Hòa giải với tụi Yankee hả ? Sau khi bắn tụi vô lại đó ở đồn Sumter ? Ôn hòa ? Miền Nam phải chứng tỏ bằng võ lực vì nó không thể chịu đựng sự nhục mạ và việc nó tách rời khỏi Liên bang không phải do lòng tốt của Liên bang mà do chính sức mạnh của nó.

Scarlett thầm nghĩ:

“Thôi rồi, ba đã lôi vụ ấy ra thì rồi mọi người sẽ ngồi đây cho tới khuya”.

Trong khoảnh khắc, tình trạng mơ mơ màng màng rời khỏi đám người uể oải và một cái gì như điện vừa chạy qua. Đàn ông đứng bật lên khỏi băng, khỏi ghế, khoa tay múa chân, cố la to để giành quyền trình bày ý kiến của mình giữa sự huyên náo. Suốt buổi sáng họ không được bàn cãi về chánh trị hay về nguy cơ chiến tranh, vì ông John Wilkes đã yêu cầu đừng làm các bà phiền muộn. Nhưng bây giờ, Gerald vừa hét lên những chữ “Đồn Sumter” tất cả đàn ông đều quên lời khuyến cáo của gia chủ.

− Cố nhiên chúng ta sẽ đánh!

− Đồ Yankee ăn cắp!

− Chúng ta sẽ hạ chúng trong một tháng!

− Ồ, một người miền Nam có thể đánh gục hai chục tên Yankee!

− Hãy cho chúng một bài học nhớ đời!

− Ôn hòa ? Chúng sẽ không để mình yên ổn đâu!

− Nào, hãy nhìn ông Lincoln sỉ nhục những đặc uỷ của chúng ta.

− Đúng ! Chúng ta bắt họ phải chờ đợi hàng tuần và thề sẽ cho triệt thoái khỏi Sumter.

− Chúng muốn chiến tranh, mình sẽ làm chúng đau khổ vì chiến tranh.

Và vượt lên trên các giọng oang oang đó là tiếng gào thét của Gerald, Scarlett có thể nghe rõ hết những câu như: “Quyền lợi của quốc gia trên hết” được lặp đi lặp lại nhiều lần, Gerald đã tạo những giây phút thích thú nhứt, nhưng không phải cho con gái của ông.

Phân ly… chiến tranh… những từ ngữ này từ lâu đã quấy rầy nàng nhiều lần đến nỗi nàng đã thuộc lòng, nhưng hiện tại nàng ghét những tiếng đó vì nó có nghĩa là mọi người sẽ đứng đây hàng giờ để diễn thuyết và nàng sẽ không có dịp gặp riêng Ashley. Dĩ nhiên, sẽ không có chiến tranh đàn ông đều biết như vậy. Nhưng họ thích nói và nghe nói về chuyện ấy.
Charles Hamilton không đứng lên như mọi người và nhận ra chỉ còn lại một mình với Scarlett, anh ta xích lại gần nàng với sự bạo dạn của mối tình đầu, thì thầm tự thú:

− Cô O’Hara… Tôi… tôi đã sẵn sàng quyết định rằng chúng ta sẽ phải chiến đấu. Tôi sẽ đi Nam Carolina để nhập ngũ. Đó là tôi muốn nói ông Wade Hampton đã tổ chức một đội kỵ binh, và cố nhiên tôi muốn đi với ông, ông là người nổi tiếng và là bạn thân nhứt của cha tôi.

Scarlett nghĩ thầm : “Làm sao bây giờ … cho vài lời an ủi ?” Vì thái độ của Charles chứng tỏ anh ta sắp thố lộ những bí ẩn trong lòng. Nàng chẳng tìm được lời gì để nói nên đành đưa mắt nhìn, ngạc nhiên tự hỏi tại sao đàn ông khờ khạo nghĩ rằng đàn bà vừa lòng với tất cả mọi chuyện. Charles lầm tưởng cử chỉ của nàng có nghĩa là ưng thuận và anh ta nói tiếp mau hơn, bạo dạn hơn:

− Tôi đi… cô… cô có buồn không, cô O’Hara?

− Tôi sẽ khóc ướt gối mỗi đêm.

Scarlett nói, có ý đùa cợt, nhưng Charles tưởng thật và mặt anh ta đỏ lên vì khoan khoái. Bàn tay nàng đã giấu trong vạt áo nhưng anh ta cũng rụt rè nắm lấy và siết chặt, ngỡ ngàng vì sự trơ tráo của mình và sự ưng thuận của nàng.

− Cô sẽ cầu nguyện cho tôi?

“Thật là ngu !”, Scarlett khinh miệt nghĩ, lén liếc quanh hy vọng được giải thoát khỏi cuộc đàm thoại này.

− Cô sẽ cầu nguyện chớ?

− Ồ, có chớ anh Hamilton. Lần ba chuỗi mỗi đêm, ít nhứt là ba chuỗi!

Charles nhìn thật nhanh chung quanh và thở mạnh vào, dạ dày anh ta như thắt lại. Cả hai gần như ở riêng một nơi và anh ta chẳng bao giờ có được một dịp thuận tiện như vậy nữa. Và ngay cả có gặp lại trường hợp may mắn bất ngờ như thế, anh ta cũng chẳng còn can đảm.

− Cô O’Hara… Tôi muốn nói với cô một chuyện … Tôi… Tôi yêu cô!

− Hả?

Scarlett trả lời một cách lơ đãng, cố gắng nhìn sâu vào đám đông đang cãi cọ để tìm chỗ Ashley ngồi nói chuyện dưới chân Melanie.

− Phải!

Charles thì thào với sự khoái trá vì Scarlett không phá lên cười, cũng không hét lên ngất xỉu như anh ta vẫn tưởng các cô gái sẽ làm vậy trong những trường hợp tương tự .

− Tôi yêu cô… Cô là tất cả … tất cả …

Lần đầu tiên trong đời, Charles tìm ra được những tiếng này .

− Cô là người con gái đẹp nhứt mà tôi chưa hề thấy, dịu dàng nhứt, tử tế nhứt, có vẻ dễ thương nhứt và tôi yêu cô với tất cả tấm lòng. Tôi không thể tin nổi cô có thể yêu một người như tôi, nhưng cô O’Hara yêu quí,  nếu cô có thể cho tôi vài lời khuyến khích, tôi sẽ làm bất cứ việc gì trên thế gian này để cô yêu tôi. Tôi sẽ …

Charles dừng lại, vì anh ta không tìm được một điều gì thật khó khăn để thực hiện hầu chứng tỏ với Scarlett mối cảm tình sâu đậm của anh. Cuối cùng, anh chỉ có thể nói :

− Tôi muốn cưới cô.

Scarlett như từ trên trời rơi xuống cùng lúc với âm thanh tiếng “cưới”. Nàng đã nghĩ về lễ cưới, đến Ashley, và nàng nhìn Charles với một vẻ phẫn nộ khó che giấu hết .
Tại sao thằng ngu như bò này lại mang tâm tính của hắn đến quấy rối nàng trong ngày riêng tư này, trong khi nàng đang quá khổ sở, đang muốn điên lên? Nhìn vào đôi mắt nâu sậm của anh ta, nàng chẳng tìm ra một nét đẹp nào nơi người con trai nhút nhát vừa biết yêu, một sự sùng bái, một lý tưởng biến thành sự thật hay hạnh phúc vô biên và sự thiết tha đang bùng cháy như ngọn lửa. Scarlett đã quen được cầu hôn, đó là những người đàn ông hấp dẫn hơn Charles Hamilton, và có người đàn ông lịch sự nào lại đi ngõ lời trong dã yến khi nàng đang còn nhiều chuyện cần giải quyết trong đầu. Nàng chỉ thấy anh ta là một thanh niên hai mươi tuổi, đỏ như củ cải tía và trông đần độn nữa. Nàng ước ao được nói lên cho Charles biết là anh ta đần độn đến mức nào. Nhưng tự nhiên lời dạy của Ellen về cách trả lời trong những trường hợp này vẫn hiện tới môi nàng. Chớp nhẹ mi mắt nhờ lâu ngày thành thói quen, nàng thỏ thẻ:

− Ông Hamilton, tôi chẳng phải không biết tới cái danh dự ông đã đặt vào tôi để hỏi tôi làm vợ, nhưng việc này thật quá bất ngờ với tôi, tôi không biết phải nói sao.

Đó là phương pháp khéo léo nhứt để ru ngủ một người đàn ông tự kiêu mà vẫn làm anh ta nuôi chút hy vọng. Charles cắn câu ngay, dường như miếng mồi quá mới và anh ta là người đầu tiên được đớp lấy.

− Tôi sẽ chờ mãi mãi ! Tôi không muốn gì cả trong khi cô chưa quyết định. Tôi van cô, cô O’Hara, cô hãy nói cho tôi biết là tôi có thể hy vọng gì không?

− Hừm!

Scarlett nói, đôi mắt sắc bén của nàng đã nhận ra Ashley, không đứng lên nhập bọn với đám đông bàn về chiến tranh, chàng đang mỉm cười với Melanie. Nếu tên khùng đang vò bàn tay của nàng chịu ngồi yên một chút, nàng có thể nghe được đôi trai gái kia nói gì với nhau. Melanieđã nói gì mà làm cho Ashley có vẻ thích thú như vậy?
Giọng của Charles làm át những câu nàng muốn nghe.

− Ồ, suỵt!

Scarlett bấm cánh tay anh ta và chẳng thèm để ý tới anh ta nữa.
Hoảng hốt, Charles thoạt cuống lên rồi thẹn đỏ mặt, nhưng khi thấy Scarlett nhìn chị anh chăm chú, anh ta mỉm cười. Scarlett sợ người khác nghe được lời của mình chớ gì. Nàng ngượng nghịu, rụt rè và sẽ khổ sở nếu bị họ nghe thấy. Charles cảm thấy dâng lên cái cảm giác tự đắc của nam giới mà anh chưa hề có, vì đây quả là lần đầu tiên anh làm một cô gái luống cuống. Mối xúc động làm anh ta choáng váng. Charles sửa đổi nét mặt cho có vẻ – theo anh nghĩ – là thái độ hờ hững vô tình. Và anh ta cẩn thận quay lại bấm nàng một cái, chứng tỏ rằng anh ta cũng là tay lão luyện, bằng lòng chấp nhận sự khiển trách của nàng.
Nhưng Scarlett không cảm thấy cả cái bấm của anh ta vì nàng đã có thể nghe rõ ràng giọng nói êm ái của Melanie, đó là điểm chính yếu trong sự duyên dáng của cô ta:

− Em sợ là không thể đồng ý với anh về các tác phẩm của ông Thackeray lắm, ông ấy là một người theo thuyết hoài nghi. Em ngại ông ta không được cao quí như Charles Dickens.

Thật là ngớ ngẩn khi đem chuyện ấy nói với đàn ông, Scarlett nghĩ thầm, sẵn sàng cười nhẹ nhõm . Thì ra Melanie chẳng có gì khác hơn là một nữ sĩ quèn và ai cũng biết đàn ông nghĩ gì về loại đó. Phương cách để làm cho một người đàn ông thích thú và duy trì sự thích thú đó là phải nói về người ấy, và lần lần dẫn cuộc đối thoại hướng về phía mình… rồi giữ lại đó. Scarlett sẽ phải lo sợ nếu Melanie chỉ nói: “Anh tuyệt diệu làm sao !” hay là “Làm sao anh nghĩ được những chuyện đó ? Đầu óc ngu tối của em sẽ nổ tung ra dầu em chỉ mới vừa nghĩ tới”. Nhưng bây giờ, cô ta đang ngồi đó với một người đàn ông dưới chân, đàm luận nghiêm trang như đang ở trong một giáo đường. Scarlett bỗng thấy viễn ảnh tươi sáng hơn, tươi sáng đến nỗi nàng quay lại mắt rạng ngời nhìn Charles với một nụ cười vui sướng. Bị lôi cuốn bởi dấu hiệu thổ lộ tình cảm đó, Charles chụp lấy chiếc quạt của nàng và vung vẫy lia lịa đến nỗi tóc Scarlett sắp rối tung lên.

− Ashley, bạn chưa cho bọn này biết ý kiến riêng.

Jim Tarleton từ đám người đang to tiếng quay lại nói với Ashley khiến chàng khẽ khom mình chào, ra dấu hiệu xin lỗi rồi đứng lên. Chẳng một ai ở đây có thể đẹp bằng chàng, Scarlett nghĩ, trong khi nàng chú ý đến điệu bộ vừa trang nhã vừa hờ hững của Ashley với mái tóc vàng óng và bộ râu dưới ánh nắng mặt trời. Ngay cả những người lớn tuổi cũng ngưng lại để nghe chàng nói:

− Thưa quí vị, nếu Georgia chiến đấu thì tôi sẽ là người đứng trong hàng ngũ của xứ sở. Nếu không thì tại sao tôi lại gia nhập binh đội?

Đôi mắt xám của chàng mở to và vẻ uể oải thường ẩn hiện trong đó đã biến mất đến độ Scarlett không khỏi ngạc nhiên vì chưa bao giờ được thấy như thế cả. Ashley tiếp:

− Tuy nhiên, cũng như cha tôi, tôi ước mong những người Yankee để yên chúng ta và rồi sẽ không có trận chiến xảy ra…

Chàng đưa tay lên với một nụ cười khi một loạt tiếng nói ồn ào nổi dậy từ nhóm anh em Fontaine và Tarleton.

− Vâng, vâng, tôi biết là chúng ta đã bị họ lăng mạ và lừa dối nữa… nhưng nếu đặt địa vị chúng ta vào phía Yankee, thử hỏi thái độ chúng ta sẽ ra sao nếu có người muốn ly khai Liên bang? Có lẽ cũng đến thế thôi.

Hiển nhiên là chúng ta sẽ không ưa việc đó.
Scarlett nghĩ “Lại cái lối đó nữa . Cứ luôn luôn đặt mình vào địa vị kẻ khác”. Đối với nàng thì chỉ có một phía đứng mà thôi. Đôi khi nàng thật chẳng làm sao hiểu nổi Ashley.

− Chúng ta không nên quá nóng nảy và nên tránh bất cứ cuộc chiến tranh nào . Phần lớn những sự đau khổ của thế giới đều do chiến tranh gây ra. Và khi chiến tranh kết thúc, không ai hiểu được tại sao nó đã xảy ra.

Scarlett khịt mũi . May cho Ashley là chàng đã có sẵn lòng dũng cảm không ai chối cãi, bằng không, rắc rối có thể xảy ra. Giữa lúc nàng nghĩ thế, nhiều giọng nói bất bình Ashley nổi lên hung hãn.
Dưới vòm cây, lão điếc ở Fayetteville bấm vào tay India:

− Chuyện gì vậy? Họ đang nói gì đó?

Chấp hai bàn tay làm ống loa kê sát vào tai ông lão, India nói to:

− Chiến tranh ! Họ đòi đánh bọn Yankee!

− Chiến tranh! Vậy hả?

Và ông quờ quạng tìm chiếc gậy và đứng bật ra khỏi chiếc ghế với tất cả dũng khí từ lâu ông chưa dùng tới. Ông nói với India:

− Tôi sẽ nói với họ về chuyện chiến tranh. Tôi đã từng đánh giặc.

Kể ra rất ít khi lão McRae có dịp để nói về chiến tranh bởi vì phái nữ trong gia đình lão không một ai chịu nghe.
Lão điếc khập khểnh bước mau tới đám đông, tay vung gậy, miệng hét vang. Và bởi vì không thể nghe được bao nhiêu tiếng nói quanh mình, chẳng mấy lúc lão đã làm chủ tình hình thật dễ dàng.

− Nè, mấy cậu trai tráng, anh hùng rơm, nghe đây. Mấy cậu đừng hòng đánh giặc. Tôi đã đánh giặc rồi và tôi biết rõ. Tôi đã dự trận Seminole và còn có thật nhiều người đã từng đánh trận Mễ tây cơ nữa. Tất cả mấy cậu không ai biết chiến tranh là cái gì đâu. Mấy cậu tưởng đó là dịp để phóng ngựa đẹp, để cho các cô gái ném hoa vào người mình rồi trở về như một vị anh hùng . Không, không phải vậy đâu! Đó là đi vào đói khát, rồi mắc bịnh trái, sưng phổi và đau ruột, đau gan. Thưa Ngài, đúng vậy. Chiến tranh làm gì đối với ruột gan của người ta? Kiết lỵ và nhiều thứ na ná…
Nghe những tiếng ruột gan, kiết lỵ … các bà các cô đều đỏ mặt. Lão McRae là người còn sót lại của thời kỳ ăn nói sống sượng nhứt vùng này, cũng giống như bà cô Fontaine vẫn cứ thản nhiên ợ lớn trước mặt mọi người. Đó là cái thời kỳ mà tất cả đều muốn quên đi.
Người con gái của lão điếc đẩy con bé đứng bên cạnh:

− Chạy mau, kéo ông ngoại về.

Rồi cô ta quay lại phân trần nho nhỏ với những bà mới có chồng, đứng chung quanh:

− Mấy chị biết không, càng ngày, ổng càng tệ hơn. Các chị có tin là mới sáng nay ổng nói với con Mary… nó mới có 16 tuổi như thế này: “Bây giờ, Missy…”

Và tiếng nói của cô ta hạ thấp xuống trong khi đứa cháu ngoại cố lôi kéo lão McRae trở về chỗ ngồi dưới bóng mát.
Trong tất cả các nhóm người quần tụ dưới các gốc cây, các cô gái đang cười đùa thoả thích, đàn ông con trai cãi vã hăng say, chỉ có một người là vẫn giữ nguyên vẻ trầm lặng. Scarlett đưa mắt về phía Rhett Butler đang đứng dựa một thân cây, hai tay thọc sâu trong túi quần. Hắn đứng một mình từ lúc ông Wilkes rời nơi đó và chẳng nói một lời trong khi cuộc tranh luận càng lúc càng nóng sốt. Dưới bộ râu mép đen tỉa sát, vành môi đỏ của hắn như bĩu ra và ánh mắt đen ngời long lên một chút khinh ngạo – sự khinh ngạo như của một người lớn đang nghe trẻ con khoác lác. Đối với Scarlett thì nụ cười của hắn quả là khả ố. Hắn vẫn đứng yên cho tới khi Stuart Tarleton, mớ tóc đỏ rối nùi và mắt long sòng sọc, lặp lại câu:

− Nầy, chúng ta có thể nuốt chửng chúng trong một tháng! Người hào hoa bao giờ cũng chiến đấu giỏi hơn bọn đê tiện. Một tháng … chỉ một trận …

Rhett Butler bỗng nói chen vào:

− Thưa quí vị!

Với giọng nói chứng tỏ sinh quán ở Charleston, hắn tiếp lời nhưng vẫn giữ nguyên thế đứng và cũng chẳng rút tay ra khỏi túi quần:

− Chẳng biết tôi có được phép góp ý không?

Điệu bộ và ánh mắt hắn là cả một sự khinh mạn – sự khinh mạn được che đậy bởi lời lẽ lễ độ khiến thái độ chung của hắn có chút gì hài hước.
Tất cả đều quay lại nhìn hắn với sự biểu lộ chập nhận đúng theo phép lịch sự đối với một người ngoại cuộc.

− Trong quí vị ở đây có ai nhận thấy rằng kể từ giới tuyến Mason-Dixon trở xuống miền Nam, chúng ta chẳng có một xưởng chế tạo đại bác nào cả không? Có ai nghĩ tới số lò đúc thép quá ít ỏi không? Quí vị có nghĩ tới chuyện chúng ta chẳng có lấy một chiếc tàu nào trong khi cả hạm đội Yankee có thể phong toả hải cảng của chúng ta trong vòng một tuần chưa? Như vậy làm thế nào để chúng ta bán bông vải ra nước ngoài? Nhưng – dĩ nhiên và chắc chắn là quí vị đã nghĩ tới những chuyện đó rồi.

Scarlett tím mặt:

− Ủa, bộ hắn tưởng tất cả thanh niên ở đây đều là một lũ ngốc cả sao !

Hiển nhiên không phải chỉ một mình Scarlett bất bình, bởi vì đã có một số đông trai tráng đang hất càm tới trước. John Wilkes bước mau tới chỗ Rhett Butler dường như muốn chứng tỏ với tất cả rằng người vừa nói là khách của ông và hơn thế nữa, còn có sự hiện diện của nữ giới .
Rhett Butler nói tiếp :

− Vấn đề phiền toái đối với người miền Nam chúng ta là ít khi đi xa, và dù có du lịch đi nữa, chúng ta cũng không lợi dụng dịp đó để học hỏi được bao nhiêu. Dĩ nhiên là quí vị có mặt ở đây đều đã có du lịch. Nhưng quí vị đã nhìn thấy được gì? Âu châu, Nữu ước Philadelphia, và dĩ nhiên là quí bà đã từng tới viếng hồ Saratoga nổi tiếng (hắn hơi nghiêng mình về phía nữ giới ngồi dưới vòm cây). Quí vị đã ngụ tại các khách sạn, tới viếng các viện bảo tàng, tham dự những cuộc khiêu vũ và vào các giải trí trường. Và quí vị trở về với sự tin tưởng là chẳng nơi nào so sánh được với miền Nam này cả. Phần tôi, tuy sinh trưởng ở Charleston, nhưng đã có dịp sống qua miền Bắc mấy năm sau này…

Hắn cười để lộ hàng răng trắng toát như đã nhận ra rằng mỗi ngườicó mặt ở đây đều biết rõ vì sao hắn phải rời bỏ Charleston, đồng thời cho thấy là hắn bất cần dầu họ biết . Hắn nói tiếp:

− Tôi đã nhìn thấy nhiều thứ mà toàn thể quí vị chưa được thấy. Hàng ngàn người di cư sẵn sàng chiến đấu cho quân Yankee chỉ để được no bụng hoặc để lấy một vài đô la. Tôi đã nhìn thấy các cơ xưởng, các lò đúc, các xưởng đóng tàu, mỏ than và mỏ sắt… tất cả những gì chúng ta chưa có. Tất cả những gì chúng ta có chỉ là bông vải, bọn nô lệ và lòng cao ngạo. Họ sẽ nuốt chửng chúng ta trong một tháng.

Giữa không khí căng thẳng, tất cả đều lặng thinh. Rhett Butler rút chiếc khăn tay bằng lụa trong túi áo ra và ung dung phủi bụi trên tay áo. Rồi có tiếng xôn xao đầy đe doạ nổi lên từ đám đông và dưới vòm cây vang ra những tiếng xì xầm như ong vỡ tổ. Mặc dầu vẫn còn nóng mặt vì giận tức nhưng có một cái gì bên trong hộ óc thực tế của Scarlett cho nàng nhận thấy ngay là con người đó có lý. Thật vậy, nàng chưa bao giờ nhìn thấy một cơ xưởng máy, hoặc nghe ai nói nhìn thấy một cơ xưởng. Nhưng, dù đó là sự thật, hắn cũng không phải là một kẻ hào hoa phong nhã khi nói ra như thế… và nhứt là giữa một chỗ hội hè, nơi mà mọi người đều nghĩ tới chuyện giải trí.

Stuart Tarleton nhíu mày, xốc tới, sát gót anh ta là Brent. Dĩ nhiên là anh em song sanh Tarleton biết giữ tư cách sẽ không gây chuyện rắc rối lớn tại một dã yến, dù có khiêu khích tới đâu. Phái nữ cũng thế, họ cũng khoan khoái, xúc động vì rất ít khi được chứng kiến một vụ rắc rối hay gây gổ . Thường thường, họ chỉ được nghe kể lại những vụ như thế qua một người thứ ba.
Stuart gằn giọng:

− Thưa ông, ông muốn nói gì?

Rhett nhìn cậu ta rất lễ phép, nhưng ánh mắt vẫn ngạo nghễ:

− Tôi muốn nói đến điều mà Nã Phá Luân… cậu có nghe nói về ông ấy chưa? … đã có lần nhận định rằng “Thượng đế chỉ đứng về phe của đoàn quân mạnh nhứt”.

Và quay sang John Wilkes, hắn thật sự lễ độ:

− Ngài có hứa sẽ cho tôi viếng qua thư viện. Nếu tôi xin ngài một ân huệ được tới đó ngay bây giờ, ngài thấy thế nào? Tôi ngại là sẽ phải trở lại Jonesboro ngay chiều nay để tính toán công việc.

Hắn xoay người hướng về phía đám đông, đánh chụm gót giày lại rồi nghiêng mình chào như một khiêu vũ sư, một cái chào duyên dáng và mềm mại so với một thân hình vạm vỡ, đồng thời cũng xấc xược không kém như một cái tát vào mặt. Rồi ngẩng cao đầu, hắn đi qua sân cỏ với John Wilkes, và tiếng cười cao ngạo của hắn vẫn còn vọng tới tai nhóm người ở bàn ăn.

Sau một lúc im lặng ngạc nhiên, tiếng ồn ào lại nổi lên. India mệt mỏi đứng lên, đi về phía Stuart Tarleton đang trong cơn giận dữ. Scarlett không nghe thấy cô ta nói gì, nhưng căn cứ vào ánh mắt của cô ta nhìn Stuart, nàng cảm thấy như hối hận. Cái nhìn đó cũng thiết tha như Melanie khi nhìn Ashley, nhưng chỉ có Stuart là không nhận thấy. Thế là India đã yêu cậu ta. Scarlett nghĩ, nếu nàng đã không để cho Stuart tán tỉnh huyên thuyên vào dịp hội thảo chánh trị năm rồi, có lẽ cậu ta đã cưới India từ lâu. Nhưng rồi sự hối hận qua đi với ý nghĩ tự an ủi rằng, nếu các cô gái khác không giữ được người yêu của họ thì đó không phải là lỗi của nàng.

Cuối cùng, Stuart cũng cười với India, một nụ cười bất đắc dĩ và gật đầu như ưng thuận. Có thể là India đã van xin người yêu đừng theo Butler vào thư viện để gây sự. Rồi từ bóng mát của những tàng cây có tiếng xì xào nhã nhặn khi những người khách đứng lên nhẹ nhàng phủi bụi. Các bà có chồng gọi bọn tỳ nữ và con rồi hợp lại thành đoàn chuẩn bị ra về, trong khi các toán thiếu nữ vừa cười vừa nói cùng đi vào nhà để lên lầu nghỉ giấc trưa.

Tất cả các bà đều chuẩn bị ra về chỉ có bà Tarleton là rời khỏi bóng mát của những cây sồi phía sân sau, tiến về phía nam giới. Chính Gerald, Calvert và một số người khác nữa đã cố giữ bà ta lại, muốn bà trả lời dứt khoát về chuyện bán ngựa cho đoàn quân.

Ashley chậm rãi bước tới chỗ Scarlett và Charles đang ngồi với một nụ cười vui tươi, cẩn trọng. Chàng ngoái nhìn theo Butler:

− Ông ấy cao ngạo quá, phải không? Trông chẳng khác gì người của dòng họ Borgia.

Scarlett cố nghĩ thật mau nhưng chẳng nhớ có cái tên nào như thế trong các dòng họ tại hạt nàng hoặc ở Atlanta hay Savannah. Nàng hỏi:

− Tôi chưa biết họ. Ông ta là thân quyến của họ phải không?

Charles sửng sốt, sự hoài nghi và xấu hổ đang va chạm tình yêu. Nhưng cuối cùng, tình yêu đã thắng vì anh nhận định rằng đối với một thiếu nữ, chỉ cần có sự dịu hiền, ngoan ngoãn và xinh đẹp là cũng đủ rồi, không  cần phải có trình độ học vấn làm trở ngại cho duyên dáng. Charles vội đỡ lời:

− Dòng họ Borgia là người Ý .

Scarlett mất cả thích thú, kêu lên:

− Vậy à? Thì ra là người ngoại quốc.

Nàng cố cười thật tươi với Ashley, nhưng vì một nguyên nhân nào đó, Ashley không nhìn nàng . Chàng đang nhìn Charles, biểu lộ sự thông cảm và một chút thương hại.

oOo

Scarlett bước ra đầu thang, cẩn thận nghiêng mình qua bao lơn nhìn xuống đại sảnh. Hoàn toàn vắng trống. Từ những phòng ngủ từng trên vọng ra không ngớt những tiếng thì thầm, lúc bổng lúc trầm, thỉnh thoảng bị cắt ngang bởi những tiếng cười khúc khích và những câu:

− Mầy không có làm vậy mà!

− Anh ta nói ra sao?

Trong sáu gian phòng rộng lớn, các cô gái đang nằm nghỉ trên giường, áo ngoài đã được cởi ra, áo nịt đã được nới lỏng và tóc xoã ở lưng. Ngủ trưa là một thói quen trong vùng, và còn cần thiết hơn bao giờ trong những cuộc vui suốt ngày, khai mạc từ sáng sớm và kết thúc với một cuộc dạ vũ . Trong vòng nửa giờ, các cô nói chuyện khào và cười giỡn, sau đó bọn gia nhân sẽ kéo các tấm mành xuống, và trong ánh sáng mập mờ, câu chuyện sẽ biến thành những tiếng thì thào và cuối cùng rơi vào yên lặng với những hơi thở đều đều.

Scarlett đã biết rõ là Melanie đang nằm chung giường với Honey và Hetty Tarleton trước khi nàng sửa soạn lẻn xuống từng dưới. Từ một vuông cửa sổ, nàng có thể trông thấy phe nam giới đang ngồi dưới vòm cây, uống rượu với những chiếc ly to và nàng biết họ sẽ còn ngồi lại đó cho tới xế chiều. Nàng cố nhìn kỹ nhưng không thấy Ashley trong số đó. Rồi nàng thoáng nghe giọng nói của chàng. Đúng như nàng suy đoán, Ashley đang ở ngoài cổng để tiễn đưa các bà và lũ trẻ con.

Tim đập thật mau, Scarlett chạy ngay xuống lầu. Nếu gặp phải ông Wilkes thì phải nói thế nào? Phải giải thích ra sao về chuyện còn lảng vảng trong nhà giữa lúc bao nhiêu thiếu nữ khác đều ngủ giấc trưa? Mặc, nàng nhứt định đánh liều .

Vừa xuống tới bực cuối thang lầu, nàng nghe bọn gia nhân đang dọn dẹp bàn ghế trong phòng ăn để chuẩn bị lấy chỗ khiêu vũ. Bên kia đại sảnh là cánh cửa của thư viện đang mở rộng và nàng lẻn ngay vào trong đó. Nàng sẽ ở trong đó cho tới Ashley đưa tiễn khách xong và trở vào, nàng sẽ gọi chàng.

Ánh sáng trong phòng sách lờ mờ vì tất cả các lá chắn đều đã được kéo xuống che ánh nắng. Gian phòng mờ tối với những bức tường chất sách cao nghệu khiến nàng chán ngấy. Đây không phải là nơi xứng đáng cho một cuộc hẹn hò như ước vọng. Sách vở quá nhiều là một chuyện luôn luôn khiến nàng chán nản, cũng như đối với bất cứ người nào thích đọc nhiều sách. Điều đó có nghĩa là phải trừ Ashley ra. Bàn ghế cồng kềnh như đe doạ nàng trong bóng mờ chập choạng, những chiếc ghế lưng dựa quá cao, mặt ngồi lõm sâu và tay tựa rộng lớn dành riêng cho những người cao lớn trong họ Wilkes, ngoài ra còn một số ghế thấp nệm nhung đặt phía trước đó, dành cho các thiếu nữ. Mãi gần cuối gian phòng dài, ngay trước lò sưởi, là một chiếc trường kỷ rộng khoảng hai thước. Đó là chỗ ngồi thích nhứt của Ashley. Với lưng dựa quá cao trông như một con thú khổng lồ đang ngủ.

Nàng khép nhẹ cửa thư viện lại, cố trấn tỉnh cho tim khỏi đập mau. Nàng cố ôn lại thật chính xác những lời đã dự định đêm qua và sắp phải đem ra để nói với Ashley, nhưng chẳng nhớ được gì cả. Phải chăng nàng đã sắp đặt lời lẽ để nói với Ashley… hay nàng chỉ phác hoạ kế hoạch để làm cho Ashley phải nói ra với nàng? Nàng không sao nhớ ra nổi, và chợt nghe toát cả người. Nếu tim nàng đừng đập quá mạnh nữa có thể nàng sẽ nhớ ra. Nhưng ác hại, nó lại càng đập mau thêm khi nàng nghe Ashley nói lời tiễn biệt với người khách cuối cùng và đi trở vào.
Tất cả những gì nàng có thể nghĩ tới chỉ là chuyện yêu chàng … Yêu mọi thứ ở chàng, từ điệu bộ kiêu hãnh ngẩng mái tóc vàng lên cho tới đôi giày ống đen thon mãnh. Nàng yêu cả tiếng của chàng dù rằng nó vẫn có vẻ bí ẩn đối với nàng, và yêu luôn những lúc chàng im lặng như lạc hướng. Ồ, ước gì chàng bước vào đây với nàng ngay, ôm chầm lấy nàng, như vậy nàng khỏi phải nói gì nữa cả. Chàng phải yêu nàng… “Hay nếu mình cầu nguyện…” Nàng nhắm mắt lại lẩm bẩm “Lạy Đức Mẹ đại lượng …”

− Ủa, Scarlett!

Tiếng nói của Ashley bỗng vang lên, xuyên thủng màn âm thanh rì rào, lọt vào tai nàng khiến nàng vô cùng sửng sốt.
Ashley đứng ngoài đại sảnh nhìn vào qua khoảng cửa hở với nụ cười chế giễu:

− Em trốn ai vậy … Charles hay mấy anh em Tarleton?

Nàng suýt nghẹt thở. Thì ra chàng đã để ý đến đám đàn ông đã vây chung quanh nàng! Chàng đứng đó trông thật dễ yêu với đôi mắt long lanh, hoàn toàn như không hay biết tình yêu say đắm. Không nói được tiếng nào, Scarlett chỉ đưa tay ra và kéo Ashley vào trong. Chàng bước vào ngần ngại nhưng thích thú. Toàn thân Scarlett như toát ra vẻ khẩn trương, mắt như rực lửa mà từ trước đến nay Ashley chưa bao giờ thấy. Ngay dưới ánh sáng lờ mờ chàng cũng có thể nhìn thấy màu đỏ ửng hồng trên má nàng. Tự nhiên chàng đóng cửa lại và cầm lấy tay nàng.

− Chuyện gì vậy?

Chàng hỏi, gần như thì thầm .
Vừa chạm tay chàng, nàng đã bắt đầu run rẩy. Mọi chuyện sẽ xảy ra ngay lúc này, đúng như nàng mơ ước . Hàng ngàn ý nghĩ rời rạc hừng dậy trong đầu, nhưng nàng vẫn không thể nói được tiếng nào. Nàng chỉ còn có thể đứng đó vừa run rẩy vừa ngước nhìn lên mặt chàng. Tại sao chàng chưa chịu nói trước. Ashley bỗng hỏi:

− Chuyện gì vậy em? Muốn kể anh nghe một chuyện bí mật phải không?

Đột nhiên nàng lấy lại được giọng nói và cũng lúc đó những gì Ellen đã dạy nàng trong bao nhiêu năm trời đều biến mất, chỉ còn lại tánh quả quyết thuộc dòng máu Ái nhĩ lan của Gerald hiện ra ở môi nàng.

− Vâng… Một chuyện bí mật, em yêu anh!

Trong giây lát, sự im lặng ngột ngạt đến nỗi hình như không một ai trong hai người còn có thể thở được. Rồi bỗng nhiên nàng hết run và nét vui tươi cùng sự hãnh diện tràn ngập lòng nàng. Tại sao nàng không sử dụng phương pháp này trước? Có phải giản dị hơn những mánh khóe của một người đàn bà quí phái mà người ta đã dạy nàng không? Và mắt nàng lại tìm mắt Ashley. Nỗi kinh ngạc hiện lên trong mắt chàng như một sự hoài nghi hay một cái gì nữa đó… Nhưng là cái gì ? À, Gerald đã có một cái nhìn hệt khi con ngựa săn yêu quí của ông bị gãy chân khiến ông buộc lòng bắn chết nó. Tại sao mình lại có thể nghĩ đến chuyện đó lúc này? Thật là một ý tưởng ngớ ngẩn. Và tại sao nét mặt Ashley lại kỳ dị như vậy và chẳng nói cái gì cả? Lúc đó mặt chàng như kẻ vừa mang một chiếc mặt nạ tuyệt xảo. Chàng cười ve vuốt:

− Hôm nay em đã thâu góp tất cả các trái tim của đàn ông rồi như vậy chưa đủ sao?

Giọng chàng như ghẹo và săn đón như ngày trước.

− Có phải em muốn làm vừa lòng tất cả ? Được lắm, anh lúc nào cũng dành cho em, em biết như vậy chớ. Em đã dày vò nó từ lâu rồi.

Có cái gì không ổn – hoàn toàn không ổn – Nó không đúng với cách thức mà nàng đã hoạch định. Trong số những ý nghĩ hắc ám chập chờn nhảy múa trong đầu nàng, có một cái gì bắt đầu thành hình. Dầu sao – vì một lý do nào đó – Ashley đã hành động như chàng vẫn nghĩ rằng Scarlett chỉ đùa giỡn mà thôi. Nhưng chàng thừa biết không phải vậy, Scarlett biết chàng hiểu điều đó.

− Ashley… Ashley… Nói cho em nghe… Anh phải … Ồ, đừng đùa với em lúc này! Tim anh thuộc về em hả? Ồ, anh yêu, em…

Thật nhanh, bàn tay Ashley chặn môi nàng . Chàng đã lột bỏ chiếc mặt nạ:

− Đừng nên nói chuyện đó, Scarlett! Em không thể. Em không hề nói thật. Em sẽ giận em vì đã nói ra những chuyện ấy, và em cũng sẽ ghét luôn anh vì anh đã được nghe.

Nàng hất đầu ra. Hình như có một dòng nước ào ạt nóng hổi đang chảy suốt người nàng.

− Em không thể bao giờ ghét anh đâu. Em đã nói với anh là em yêu anh và em biết anh có để ý tới em. Bởi vì …

Nàng ngừng lại . Trừ trước chưa bao giờ nàng được nhìn thấy một khuôn mặt khổ sở đến thế kia.

− Ashley, anh có để ý tới em… có, phải không?

− Phải, anh có để ý.

Chàng nói một cách buồn thảm. Nếu chàng bảo ghét nàng có thể nàng cũng không quá sợ hãi như thế. Nàng bấu vào tay áo Ashley, không nói được lời nào.

Bỗng Ashley tiếp:

− Scarlett, chúng ta không thể tiến xa hơn được và em hãy quên những gì chúng ta vừa nói.

− Không, em không làm vậy được. Anh muốn nói gì? Anh không muốn… muốn cưới em hả?

− Anh sẽ cưới Melanie.

Dầu vậy, nàng chợt nhận ra mình đang ngồi trên chiếc ghế nhưng thấp và Ashley, trên tấm nệm dưới chân nàng, đang cầm lấy tay nàng siết thật chặt. Chàng đang nói gì đó … nói thật nhiều … nhưng chẳng có nghĩa gì cả. Đầu óc nàng hoàn toàn trống rỗng. Và những lời nói của chàng chẳng gây được một ấn tượng nào giống như mưa rơi trên mặt kiếng. Những lời âu yếm và đầy thương xót của chàng giống như lời người cha đang dỗ dành đứa con đau khổ.

Âm thanh của cái tên Melanie đã đánh thức tri giác của nàng và nàng nhìn thẳng vào ánh mắt xám trong của Ashley. Nàng thấy trong đó cái vẻ xa vắng xưa cũ, cái xa vắng đã làm cho nàng luôn luôn ngã lòng – một cái gì như tự hối.

− Ba anh sẽ loan báo lễ đính hôn vào tối nay. Ngày cưới cũng gần kề. Đáng lẽ anh phải cho em hay, nhưng anh nghĩ là em đã biết rồi. Anh nghĩ là mọi người đều biết – biết từ nhiều năm qua – anh không bao giờ mơ ước rằng em… Em có quá nhiều người đeo đuổi. Anh tưởng rằng Stuart…

Sinh lực, cảm giác và tri giác bắt đầu lưu chuyển trong Scarlett.

− Nhưng anh vừa nói là anh có để ý tới em.

Bàn tay nồng ấm của Ashley bóp siết tay nàng.

− Em cưng, em có buộc anh phải nói những lời làm em đau đớn không?

Sự im lặng của nàng khuyến khích chàng tiếp tục:

− Làm thế nào anh có thể cho em thấy được những điều này, cưng? Em còn quá trẻ và bất cần về có hiểu hôn nhân là gì không.

− Em biết là em yêu anh.

− Tình yêu không thể mang đến hạnh phúc hôn nhân khi hai người quả thật khác biệt nhau như em và anh. Em có thể đòi hỏi ở đàn ông tất cả … thể xác, trái tim, linh hồn, tư tưởng của y, Scarlett. Và nếu em không chiếm được những thứ đó, em sẽ khốn khổ. Còn anh thì không thể nào trao cả cho em những thứ đó. Anh cũng không thể trao tất cả cho ai. Và anh cũng không muốn chiếm giữ đầu óc và linh hồn em. Rồi em sẽ đau khổ thù ghét anh… thật cay đắng! Em sẽ ghét sách vở anh đọc, âm nhạc anh nghe, vì chúng sẽ mang anh khỏi em dù trong chốc lát. Và anh… Có lẽ anh…

− Anh có yêu Melanie không?

− Nàng giống anh, nàng cùng dòng máu với anh, nàng và anh hiểu nhau. Scarlett! Scarlett! Anh không thể nào làm cho em hiểu được là hôn nhân sẽ không mang lại không khí êm đềm nếu vợ chồng khác tính nhau sao?

Có người đã từng nói với nàng tương tự “chỉ những người hợp tâm tánh nhau mới có hạnh phúc khi lấy nhau”. Người đó là ai? Hình như nàng đã nghe từ hàng triệu năm về trước, nhưng tới bây giờ nó vẫn chẳng có ý nghĩa gì.

− Nhưng anh nói anh có để ý tới em.

− Đáng lý anh không nên nói với em như vậy .

Một nơi nào trong óc nàng, có ngọn lửa âm ỉ cháy và cơn giận dữ bắt đầu che khuất tất cả .

− Được, anh đã đủ hèn hạ khi nói thế …

Mặt Ashley tái hẳn đi.

− Anh là một thằng tồi khi nói vậy, trong khi anh sắp lấy Melanie. Đáng lý anh không nên nói thế, vì anh biết rằng em sẽ không hiểu. Làm sao anh có thể không để ý tới em… Em hiếu động nhưng anh thì không. Em có thể yêu và ghét một cách thật mãnh liệt trong khi anh không thể như thế được. Tại sao em nguyên sơ như lửa, như gió, còn anh thì…
Nàng nghĩ đến Melanie và bỗng thấy ánh mắt nâu êm ái và xa vắng, bàn tay nhẹ nhàng và nhỏ của cô ta trong bao tay bằng ren đen, và những lúc trầm mặc dịu hiền của cô. Và cơn giận lại bừng lên, cũng như cơn giận đã khiến Gerald giết người và bao nhiêu tiền nhân Ái nhĩ lan khác đã chỉ vì vài hành động bốc đồng mà rồi bị treo cổ. Nàng chẳng còn chút gì sót lại của dòng máu Robillard rất có giáo dục đến nỗi có thể giữ im lặng trước bất cứ kẻ sỗ sàng nào.

− Sao anh không nói ra, đồ hèn! Anh sợ phải lấy tôi. Anh thích sống với con nhỏ khùng khịu, đần độn ấy hơn, con nhỏ chẳng có thể mở miệng nói câu gì hơn là “Phải” và “Không”, và anh thích đẻ một đám con mềm mỏng, nhu nhược như nó! Tại sao…

− Em đừng nên nói về Melanie như vậy.

− Tôi không được nguyền rủa anh hả? Ai dám bảo là tôi không có quyền? Đồ hèn, đồ vô liêm sỉ, đồ… Anh làm cho tôi tin tưởng rằng anh sẽ cưới tôi!

Ashley van lơn:

− Thành thật đi em, có bao giờ anh…

Nàng không muốn thành thật dầu vẫn biết điều chàng nói là sự thật. Chưa lần nào chàng vượt qua biên giới của tình bạn đối với nàng, và khi nghĩ tới chuyện đó, lửa giận lại phừng lên, cơn giận của lòng tự tôn, tự đại của nữ giới bị tổn thương. Chính nàng đã chạy theo Ashley chớ không phải chàng. Thay vì nàng, chàng đã chọn một con bé ươn gàn, da trắng bệch. Ồ, phải chi nàng đã làm đúng theo lời giáo dục của Ellen và Mammy, và như thế nàng sẽ không bao giờ, không bao giờ tiết lộ cả những tiếng mến thích chàng… phải chi nàng đã làm như vậy để khỏi phải bị tủi nhục và xấu hổ như bây giờ.
Nàng đứng phắt dậy, hai bàn tay nắm chặt và Ashley cũng vội vàng đứng dậy, cao vượt xa nàng, nỗi buồn câm nín hiện rõ trên mặt. Đó cũng là nỗi thống khổ của một kẻ phải đương đầu với sự thật trong khi sự thật là những điều thảm não.

− Tôi sẽ thù hận anh cho tới chết, đồ tồi … quân ti tiện … ti tiện …

Nàng cố tìm những chữ tàn nhẫn, độc hại hơn, nhưng tìm không ra.

− Scarlett, em…

Ashley vừa nói vừa chìa tay về phía nàng, và cũng ngay lúc đó, Scarlett tát thẳng vào mặt Ashley với tất cả sức lực. Tiếng động âm vang như tiếng đập của ngọn roi trong gian phòng yên tĩnh. Và tự nhiên cơn giận của nàng vụt tan biến, chỉ còn lại ở nàng một nỗi đau khổ thê lương.

Vết hằn đỏ của cái tát nổi rõ trên da mặt trắng lợt của Ashley. Chẳng nói lời nào, chàng cầm lấy tay Scarlett đưa lên môi hôn. Rồi trước khi nàng kịp nói thêm, chàng bước ra khỏi phòng, nhẹ nhàng khép cửa lại.
Scarlett buông mình lên ghế thật mau, sức phản ứng của cơn giận, làm cho chân nàng mềm rũ ra. Chàng đã đi rồi, và hình ảnh của khuôn mặt bị tát đó sẽ ám ảnh nàng suốt cả đời .
Tiếng chân của Ashley nhỏ dần rồi chìm khuất, tới lúc đó nàng mới hoàn toàn nhận ra cái hậu quả to lớn do chính nàng gây ra. Nàng đã mất chàng vĩnh viễn. Bây giờ, có thể chàng oán ghét nàng và mỗi khi gặp lại nàng, Ashley sẽ nhớ lại chuyện nàng đã nhảy bừa vào lòng chàng trong khi chàng vẫn dửng dưng.

“Mình cũng tồi tệ như con Honey Wilkes! “, thình lình nàng nghĩ ra và nhớ lại chuyện bao nhiêu người – trong số đó, nàng hơn ai hết – đã khinh miệt Honey về chuyện lăn sả vào đàn ông. Nàng còn nhớ lại những cái ưỡn ẹo thân hình một cách khó coi của Honey và còn nghe rõ cái giọng lẳng lơ của cô ta khi cặp tay bọn con trai. Nghĩ tới đó nàng lại giận sôi lên, giận chính mình và giận cả thế giới. Vì đã giận chính mình nên nàng giận luôn tất cả với sức cuồng nhiệt của tuổi mười sáu vừa biết yêu là đã bị ngăn trở và nhục mạ. Chỉ có một chút sự thật được trộn lẫn trong mối tình nàng. Phần lớn còn lại thì gồm toàn thói kiêu ngạo và lòng tự tin vô bờ bến về mãnh lực quyến rũ của chính mình. Bây giờ nàng đã bại trận rồi, và lớn hơn sự thua thiệt đó là nỗi sợ sẽ biến thành trò cười trước công chúng. Mình có quá lộ liễu như Honey không? Có kẻ nào đang cười vào mặt mình chưa? Nàng không muốn nghĩ tiếp tới chuyện đó.

Tay buông rơi xuống mặt bàn bên cạnh, nàng vuốt ve chiếc bình đựng hoa hồng có khắc hình hai thằng bé ngộ nghĩnh đang cười ngạo nghễ . Gian phòng quá yên tĩnh đến nỗi nàng muốn hét to lên để phá tan sự ngột ngạt đó. Phải làm một cái gì, nếu không nàng sẽ điên mất. Nàng nhấc bình hoa lên, vung tay ném mạnh về phía lò sưởi ở cuối phòng . Chiếc bình bay phớt qua lưng dựa cao lêu nghêu của chiếc trường kỷ rồi rơi xuống bệ lò xây bằng cẩm thạch, bể loảng xoảng.

− Vừa thôi chứ!

Có tiếng người vang lên từ lớp nệm lõm sâu của ghế trường kỷ.
Chẳng có gì khiến nàng ngạc nhiên và kinh hoàng đến thế nữa. Miệng nàng khô cháy, không thể kêu thành tiếng. Nàng vội vịn lấy lưng ghế để đứng vững trong khi từ trên mặt ghế trường kỷ, Rhett Butler từ từ nhô người lên và cúi chào nàng với một vẻ trang trọng quá lố.

− Đang ngủ trưa mà bắt buộc bị nghe lõm câu chuyện lúc nảy cũng là quá lắm rồi, vậy mà suýt nữa tánh mạng bị hăm dọa là tại làm sao?

Đúng là người. Hắn không phải là ma. Nhưng lạy các Thánh, hắn đã nghe hết cả rồi! Nàng cố huy động tất cả sinh lực để làm ra vẻ nghiêm trang.

− Thưa ông, đáng lẽ ông phải cho biết là ông có mặt nơi đây.

− Thật vậy sao?

Răng hắn trắng ngời và ánh mắt như cười chế giễu:

− Đúng ra chính cô mới là kẻ quấy rầy. Tôi phải buộc lòng đợi ông Kennedy ở phòng này bởi vì theo tôi nghĩ, tôi sẽ là kẻ vô thừa nhận nếu có mặt ở sân sau. Do đó mà tôi phải vào đây, tự nghĩ là sẽ được bình yên.

Nhưng hỡi ôi!
Hắn rùn vai và cười nho nhỏ.
Scarlett lại sắp sửa nổi điên khi nghĩ rằng anh chàng thô kệch và hỗn láo này đã nghe thấy tất cả … hắn đã nghe những gì mà hiện thời dầu có chết nàng cũng không muốn nói ra. Nàng hằn học:

− Những kẻ nghe trộm …

Rhett nhăn mũi, tiếp nối ngay:

− Những kẻ nghe trộm thường được nghe những chuyện hết sức thú vị và bổ ích . Nhờ có một quá trình kinh nghiệm mà tôi đã …

− Thưa ông, ông không phải là người cao quí .

Hắn ung dung đáp:

− Một nhận xét thích đáng . Nhưng cô, thưa cô, cô cũng không phải là một thiếu nữ đoan trang.

Dường như nhận thấy Scarlett không đáng buồn cười, hắn lại cười nham nhở:

− Không một thiếu nữ nào còn được coi là đoan trang nữa sau khi đã nói và đã làm những chuyện tôi vừa chứng kiến. Tuy nhiên, các cô quí quái, đài các đối với tôi chẳng có gì hấp dẫn. Tôi biết rõ họ đang nghĩ gì, nhưng họ lại thiếu can đảm hoặc không đủ mất dạy để nói ra ý nghĩ của mình. Đôi khi đó cũng là một điều phiền muộn. Nhưng cô, thưa cô O’Hara quí mến, cô là một thiếu nữ hiếm có về tâm tánh, một thứ bẩm tính đáng ngợi khen, và tôi xin được dở nón hoan hô. Tôi không thể hiểu nổi làm cách nào để ông Wilkes trang nhã ấy có thể làm thuần phục được một cô gái khí thái bão tố như cô. Ông ấy nên quì xuống tạ ơn Thượng đế bởi vì với một người con gái có cái tánh… để coi ông ấy gọi thế nào… à… “hiếu động” còn ông ấy thì lại quá lừng khừng…

Nàng hét lớn:

− Ông không đáng lau giày cho anh ấy .

− Vậy mà tôi tưởng cô thù hận ông ấy suốt đời cô.

Hắn buông mình xuống trường kỷ và nàng lại nghe hắn cười nham nhở .
Nếu có thể giết chết hắn, nàng sẽ giết ngay. Nhưng nàng bước ra khỏi phòng cố lấy dáng điệu trang nghiêm rồi đóng sầm cửa lại .

oOo

Nàng lên cầu thang quá mau đến nổi vừa tới bên trên, nàng tưởng như sắp ngất đi. Nàng dừng lại, bám vào lan can, tim đập mạnh vì giận tức, vì xấu hổ và vì quá phí sức đến nổi như sắp nổ tung ra. Nàng cố thở sâu vào nhưng chiếc áo nịt đã bị Mammy siết quá chặt. Nếu nàng ngất đi và người ta bắt gặp nàng trong tình trạng đó ở đầu cầu thang, họ sẽ nghĩ gì? Ồ, họ sẽ dèm siểm đủ chuyện. Ashley và tên Butler thô bỉ ấy và các cô gái hiểm độc hay ghen tương đó sẽ nghĩ gì. Lần đầu tiên trong đời, nàng ước mong có mang theo thuốc khỏe để ngửi như các cô gái khác, nhưng nàng lại chẳng có một chai nhỏ nào về loại đó như giấm thanh chẳng hạn. Nàng luôn luôn hãnh diện là chưa hề bị choáng váng lần nào. Chỉ có cách là làm cách nào để khỏi ngất xỉu ở đây!

Lần lần cơn đau mệt phân tán. Chỉ trong một phút nàng sẽ trở lại bình thường và sẽ nhẹ nhàng lướt vào phòng trang phục bên cạnh phòng của India, nới lỏng thắt nịt rồi nằm lên một trong những giường bên cạnh các cô gái đang mê ngủ. Nàng cố làm cho nhịp tim chậm lại và sửa nét mặt thật tự nhiên, bởi vì nàng biết mình hiện thời trông chẳng khác một con điên. Nếu có một cô nào đó thức giấc, tất cả đều biết là có chuyện gì không ổn. Nhưng nhứt định chẳng bao giờ họ được biết chuyện gì đã xảy ra.

Qua vuông cửa rộng ở đầu thang, nàng nhìn thấy những người đàn ông lờ đờ uể oải trên những chiếc ghế dưới bóng mát các tàng cây. Nàng thèm muốn hoàn cảnh của họ! Còn gì sung sướng hơn là làm một người đàn ông và khỏi phải hứng lấy những cảnh khốn khổ như nàng vừa trải qua. Trong khi nàng đang quan sát họ, đầu óc choáng váng, hai mắt cay, bỗng có tiếng vó ngựa phi thật nhanh trên đường cái, tiếng đá sỏi kêu rào rào và một giọng lo lắng nào đó hỏi một người da đen. Sỏi đá lại tung bay và một kỵ mã phóng nước đại qua mặt nàng, băng ngang thảm cỏ, tiến về phía đám đông đang uể oải dưới các bóng cây.
Một người khách đến trễ! Nhưng tại sao y lại cho ngựa chạy băng qua thảm cỏ mà India thường tự hào? Nàng không nhận ra người đó, nhưng y đã nhảy xuống yên ngựa rồi vội vàng chụp lấy tay ông John Wilkes, nàng nhận thấy y đang hoàn toàn bị khích động. Đám đông vây quanh y, ly tách và quạt tay bỏ bừa bãi trên mặt bàn và mặt đất. Một lúc sau, nàng nghe thấy tiếng xôn xao, những câu hỏi, tiếng gọi, giọng cực kỳ sôi động, khẩn trương của đàn ông, nhưng giọng của Stuart Tarleton vượt lên trên tất cả, hắn mừng quýnh la hét: “Di-ai-i” như những lúc đi săn. Lần đầu tiên Scarlett được nghe tiếng kêu đó, nhưng nàng không ngờ đó lại là khẩu hiệu của quân phiến loạn.

Ngay sau đó nàng thấy bốn anh em Tarleton, theo sau là anh em Fontaine, tách rời đám đông, hấp tấp chạy về chuồng ngựa, gọi to:

− Jeems, Jeems đâu! Thắng yên cương mau.

“Chắc là ai bị cháy” Scarlett nghĩ thầm . Nhưng dù có hỏa hoạn hay không, việc riêng của nàng là phải trở lại phòng ngủ trước khi bị phát giác .

Tim đã dịu lại, nàng nhón gót bước vào gian phòng yên tĩnh . Một không khí mơ màng, nồng bức dường như bao trùm cả ngôi nhà, cũng đang ngủ như các cô gái để chờ đến tối sẽ bừng dậy rực rỡ với âm nhạc, với ánh nến. Nàng cẩn thận mở cửa phòng trang điểm bước vào. Tay vừa chạm vào nắm cửa nàng bỗng nghe giọng thì thầm của Honey Wilkes qua cánh cửa mở hé của phòng ngủ:

− Theo tôi thì Scarlett đã quá lố lăng hôm nay.

Scarlett nghe tim mình bắt đầu đập mau trở lại, tự nhiên nàng đặt tay lên ngực, làm như với cử chỉ đó nàng có thể làm cho nó phục tùng. “Những kẻ nghe trộm thường biết được nhiều chuyện bổ ích”, ký ức chế giễu nàng. Có nên trở ra không? Hay là nên đi thẳng vào cho Honey biết mình có mặt để nó phải ngượng ngùng? Nhưng một giọng kế tiếp làm nàng đứng yên một chỗ. Cả một đàn lừa cũng không thể nào lôi nàng đi được khi nàng nghe tới giọng nói của Melanie.

− Đừng Honey! Đừng xấu miệng như vậy! Cô ấy chỉ dạn dĩ và hoạt bát chớ có gì đâu. Theo chị thì Scarlett rất dễ thương.

“Ồ, để cho con nhỏ giả dối đó binh vực mình”, Scarlett vừa nghĩ thầm, vừa bấm móng tay vào ngực áo.
Thật còn khổ sở hơn là nghe những lời hiểm độc của Honey. Scarlett không bao giờ tin tưởng một người đàn bà nào, ngoại trừ mẹ nàng, với những lý do khác hơn là lòng ích kỷ. Melanie biết chắn chắn rằng nó đã có Ashley nên làm ra độ lượng để chứng tỏ tinh thần Thiên Chúa. Với Scarlett, sự binh vực của Melanie chỉ là một cách vừa khoe khoang sự chinh phục của cô ta, vừa chứng tỏ cô ta thuỳ mị. Scarlett thường dùng những mánh khoé ấy khi bàn cãi về các cô gái khác với đàn ông và mánh khoé này bao giờ cũng chinh phục được bọn đàn ông ngu ngốc với sự dịu dàng và vị kỷ của nàng. Honey cao giọng:

− Kìa chị! Bộ chị mù rồi sao?

− Im đi Honey! Cả biệt thự đều nghe rõ tiếng mầy.

Sally Munroe chen vào.
Honey vẫn tiếp tục nhưng hạ giọng:

− Nè, mấy chị đã thấy rõ nó tán tỉnh hết người này tới người khác … ngay cả Frank Kennedy, tình nhân của em nó. Tôi chưa bao giờ thấy ai như vậy! Và chắc chắn nó cũng đã ve vãn Charles rồi -Honey cười khúc khích – và mấy chị đều biết Charles và tôi…

− Thật không?

Nhiều người cùng thì thào hỏi.

− Thật, nhưng mấy bà đừng nói cho ai nghe, chưa có gì lắm đâu…

Tiếng cười khúc khích càng nhiều hơn, và tiếng lò xo giường kêu lên cót két như có người nào đè Honey. Melanie thì thầm với Honey là cô ta sẽ sung sướng vô cùng vì sắp có được một em dâu như cô ta.

Giọng Hetty Tarleton nghe như gây gổ :

− Nhưng tôi thì chẳng vui chút nào khi có người chị dâu như Scarlett vì cô ta là mẫu người phóng đảng mà tôi mới thấy có một. Nhưng cô ta kể như đã hứa hôn với Stuart rồi. Brent bảo rằng cô ta chẳng nghĩa lý gì với ảnh, dĩ nhiên ảnh cũng đã say mê cô ta đến điên lên.

Honey ra điều quan trọng và bí mật :

− Nếu mấy người muốn biết thì đây, chỉ có một người mà nó chú ý thôi, đó là Ashley.
Và trong khi tiếng thì thào càng lúc càng lớn, những câu hỏi, những câu ngắt lời nổi lên, Scarlett cảm thấy lạnh người vì sợ hãi và nhục nhã. Honey là một con ngu, đần độn, chẳng ra gì về khía cạnh đàn ông, nhưng đối với đàn bà, cô ta có một trực giác làm Scarlett phải e dè. Bị nhục nhã và tổn thương lòng kiêu hãnh như nàng đã chịu đựng trong thư viện với Ashley và Butler chỉ là một vết kim nhỏ so với những gì nàng vừa nghe. Người ta có thể tin cậy được sự kín miệng của đàn ông, ngay cả những người như Rhett Butler, nhưng cái miệng như con chó đang đi săn của Honey sẽ làm cho cả hạt này đều biết chuyện đó trước sáu giờ. Trong khi đó, Gerald đã nói tối qua rằng ông không muốn người trong hạt cười nhạo báng con gái ông. Và rồi, nàng sẽ bị chê cười biết bao! Mồ hôi lạnh bắt đầu tuôn xuống hai bên hông nàng.

Giọng Melanie cân nhắc và ôn hoà, với đôi chút trách móc:

− Honey, em đã biết là không phải vậy. Nói thế là bậy bạ quá!

− Thật đó Melly, và nếu chị không cứ bận rộn tối ngày đi tìm cái hay của những người bê bối, chị sẽ thấy điều đó. Và em sẽ sung sướng nếu chị làm như vậy. Scarlett O’Hara bao giờ cũng gây ra những mối bất hoà và cố gắng chiếm đoạt tình nhân của người khác. Chị biết rõ là nó đã đoạt Stuart ra khỏi tay India và rồi chẳng để ý gì đến anh ta nữa. Hôm nay nó cố gắng chiếm ông Kennedy, Ashley và Charles.

− Mình phải về nhà! Phải trở về nhà ngay!

Scarlett nhủ thầm như vậy. Nếu có phép lạ để bay về Tara ngay bây giờ để được an toàn hơn. Phải chi có Ellen bên cạnh để nàng nhìn bà, để níu áo bà khóc oà lên và trút hết tâm sự lên gối mẹ. Chỉ nghe thêm một tiếng nữa thôi, nàng sẽ xông vào bứt nhổ từng cọng tóc úa màu của Honey và nhổ vào mặt Melanie Hamilton để chứng tỏ rằng nàng đã biết thế nào về lòng nhân ái của cô ta. Nhưng nàng đã hành động quá thô tục hôm nay rồi, giống như những tên da trắng không ra gì kia… Bao nhiêu đó cũng đủ rắc rối rồi.

Nàng ép tay vào váy cho khỏi kêu sột soạt và rón rén như một con thú lúc quay ra. Về nhà, nàng nghĩ thầm trong khi bước xuống phòng lớn, vượt qua các cánh cửa đóng kín. Mình phải về nhà! Cũng không bỏ trốn được. Mình sẽ ở lại hết buổi, chịu đựng những lời độc hiểm của bọn con gái và gánh hết nhục nhã, đau thương của chính mình. Trốn chạy càng tiếp tay cho chúng.

Nàng đấm mạnh vào chiếc cột trắng cao vút bên cạnh và ước mong có được thần lực của Samson để kéo đổ hết Twelve Oaks và tàn sát hết mọi người trong đó. Nàng sẽ làm cho họ đau khổ. Nàng sẽ chứng tỏ cho họ thấy. Nàng chưa rõ phải thực hiện bằng cách nào để chứng tỏ nhưng nàng nhứt định phải làm cho kỳ được. Nàng sẽ làm cho họ đau đớn hơn những sự đau đớn mà họ đã gây ra cho nàng .
Trong một lúc Ashley chẳng còn là Ashley nữa. Y không còn là người đàn ông cao lớn mơ màng mà nàng đã yêu mà chỉ là một phần tử của dòng họ Wilkes của Twelve Oaks, của hạt này… Nàng ghét hết tất cả vì tất cả đã cười chê nàng. Tuổi mười sáu, lòng tự kiêu còn mạnh hơn cả ái tình và bây giờ quả tim nóng bỏng của nàng không còn chất chứa gì hơn là thù hận.

“Mình sẽ không về nhà, mình sẽ ở lại đây và sẽ làm cho họ đau khổ. Mình sẽ không bao giờ nói với má. Không, sẽ không bao giờ nói với ai cả”. Nàng vừa thầm nghĩ vừa tăng cường ý chí khi trở bước vào trong, đi lên lầu, định vào nghỉ trong một căn phòng khác.

Nhưng vừa quay lại, nàng đã thấy Charles bước vào đại sảnh. Vừa thấy nàng, nàng đã thấy Charles bước vào đại sảnh. Vừa thấy nàng, anh ta vội vàng chạy tới. Tóc rối bù và mặt gần như đỏ ngần vì cảm xúc, anh ta chưa tới bên Scarlett đã kêu to lên:

− Cô có biết chuyện gì vừa xảy ra không? Cô có nghe chưa? Paul Wilson vừa phi ngựa từ Jonesboro về báo tin.

Anh ta dừng lại khi tới gần nàng, thở chẳng ra hơi. Scarlett không nói gì cả, chỉ nhìn đăm đăm anh ta.

− Ông Lincoln đã ra lệnh mộ binh… Tôi muốn nói là quân tình nguyện… bảy mươi lăm ngàn người!

Lại cái ông Lincoln, đàn ông không thể nghĩ đến những chuyện gì khác nữa sao? Các tên ngốc nghếch này tưởng sẽ làm mình cảm xúc khi nói về mấy cái trò chơi khăm của ông Lincoln, trong khi trái tim mình tan nát và thanh danh kể như hoen ố.

Charles chăm chú nhìn nàng . Mặt nàng trắng bệch như màu giấy, mắt long lanh như hai viên ngọc bích. Anh chưa bao giờ nhìn thấy sắc diện của cô gái nào rực lửa đến như thế, cũng chưa hề thấy mắt người nào long lanh như vậy.

− Xin lỗi, tôi vụng về quá, đáng lẽ tôi phải nói từ từ. Tôi quên mất là phụ nữ rất yếu ớt. Tôi rất tiếc đã làm cô bị khích động như thế. Cô có cảm thấy sắp bị ngất không? Để tôi đi tìm một ly nước…

Scarlett cười gượng gạo:

− Cám ơn, tôi không sao đâu.

Charles nắm tay nàng :

− Chúng ta có thể ra băng ngồi?

Nàng gật đầu và Charles cẩn thận dìu nàng xuống thềm. Cả hai đi qua sân cỏ tới chiếc ghế dài bằng sắt đặt bên cây sồi to nhứt ở sân trước. Anh ta nghĩ thầm “đàn bà mỏng manh và yếu đuối quá, mới nghe nói tới chiến tranh và những chuyện tàn nhẫn là ngất xỉu”. Ý nghĩ này khiến anh ta tự thấy có nam tính hơn và anh càng lịch sự gấp đôi khi đỡ nàng ngồi xuống. Scarlett trông như mất hồn và có vẻ gì man dại trên khuôn mặt nhợt nhạt của nàng khiến tim anh nhảy mạnh. Có lẽ nàng buồn vì nghĩ rằng mình sắp phải chiến đấu! Không, nghĩ vậy là quá tự phụ. Nhưng tại sao mặt nàng lại lạ lùng như thế kia? Tại sao tay nàng run lên sờ mó chiếc khăn ren? Và tại sao hàng mi óng ánh của nàng… lại chớp nhanh như những cô gái mà anh ta đã đọc trong tiểu thuyết, chớp mắt vì rụt rè và yêu thương.
Anh ta hắng giọng ba lần để nói nhưng lần nào cũng nghẹn lời. Anh ta chớp mắt tránh cái nhìn như xuyên suốt mặt anh, nhưng dường như cái nhìn đó không phải là để thấy anh.
Scarlett suy nghĩ thật mau, một ý tưởng và một kế hoạch vừa được phác hoạ trong đầu:

“Hắn có tiền, không còn cha mẹ và lại sống ở Atlanta. Nếu mình lấy hắn ngay, điều đó sẽ chứng tỏ cho Ashley biết rằng mình không cần gì đến y, mình chỉ tán tĩnh y cho vui vậy thôi. Và hơn nữa, điều đó có thể giết chết Honey. Nó sẽ chẳng bao giờ kiếm được thằng con trai nào khác và mọi người sẽ cười cho tới chết. Và việc đó sẽ cũng làm khổ sở Melanie, vì cô ta thương Charles vô cùng, nó còn làm cho Stuart và Brent…”

Nàng hoàn toàn không hiểu tại sao nàng có ý muốn làm đau đớn anh em Tarleton nếu không phải vì họ có mấy cô em hiểm độc . Nàng nghĩ tiếp :

“Và họ sẽ tức sôi lên khi mình tới viếng họ trong một cổ xe lộng lẫy, với hàng lô y phục đẹp đẽ, ngoài ra mình còn có một ngôi nhà của riêng mình . Và họ không bao giờ, không bao giờ còn cười mình được nữa”.

Charles nói, sau mấy lần thu góp can đảm :

− Dĩ nhiên là chúng ta phải chiến đấu, nhưng cô đừng băn khoăn, cô Scarlett! Chỉ một tháng là chúng ta sẽ toàn thắng. Vâng, toàn thắng! Tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội. Tôi chắc là cuộc dạ vũ đêm nay sẽ chẳng có gì vui vì quân đội phải tập hợp ở Jonesboro. Anh em Tarleton đã đi loan tin rồi. Tôi biết rằng các bà sẽ hối tiếc.

− Ồ!

Scarlett kêu lên, muốn nói gì hơn nữa, nhưng nhận thấy thế cũng đủ rồi .
Nàng đã bình tĩnh lại và trí óc đã linh mẩn. Một lớp sương lạnh giá phủ lên cảm giác của nàng. Nàng nghĩ rằng kể từ nay nàng sẽ không còn tìm được một xúc động ấm áp nào nữa cả. Tại sao không lấy cậu trai xinh xắn và thẹn thùng này? Hắn cũng đàng hoàng như mọi người và nàng có cần gì đâu. Không, nàng sẽ không bao giờ quan tâm đến chuyện gì nữa, dầu cho có sống đến chín mươi tuổi.

− Tôi không thể quyết định được là nên đi với ông Wade Hampton trong quân đoàn Nam Carolina hay gia nhập Vệ đội Atlanta.

− Ồ!

Scarlett lại kêu lên và lần này mắt họ gặp nhau. Và chính Charles bị chớp mắt.

− Cô sẽ đợi tôi, phải không Scarlett? Chỉ … chỉ có Thượng đế mới biết là cô sẽ đợi tôi cho tới khi chúng ta đánh bại tụi Yankee!

Anh nói như không thở được, quan sát vành môi mỉm lại của nàng, lần đầu tiên nhìn rõ khóe miệng đó và suy nghĩ chẳng biết nếu hôn được thì sẽ ra sao. Bàn tay ướt đẫm mồ hôi của nàng bỗng chui vào lòng bàn tay Charles:

− Tôi không muốn đợi.

Nàng nói trong khi ánh mắt mờ đi. Charles níu lấy tay nàng, miệng há hốc. Nhìn Charles qua đôi mắt mở hé, Scarlett thờ ơ nghĩ rằng anh ta giống như một con ếch. Charles lắp bắp nhiều lần, ngậm miệng lại rồi mở ra, và mặt lại đỏ tía lên:

− Cô có thể yêu tôi không?

Scarlett im lặng nhưng nhìn xuống, và Charles sửng sờ chẳng biết phải làm sao trong hoàn cảnh vừa sung sướng tột cùng vừa bối rối. Có lẽ một người đàn ông không nên hỏi một cô gái như vậy. Trả lời một câu hỏi như thế có lẽ không được đoan trang lắm, đối với một cô gái. Chưa bao giờ có can đảm trong một tình cảnh như vậy, Charles không biết phải làm sao. Anh ta muốn la hét lên, muốn ca hát, muốn hôn nàng và muốn nhảy nhót trên bãi cỏ rồi kế đó chạy đi khoe tất cả mọi người, da trắng lẫn da đen, rằng nàng yêu anh. Nhưng anh ta chỉ siết chặt tay nàng cho tới khi những chiếc nhẫn của nàng lún vào thịt.

− Chúng mình sẽ làm lễ cưới sớm hơn, phải không, cô Scarlett?

− Ừm!

Nàng vừa đáp, vừa vân vê vạt áo .

− Chúng ta sẽ cùng làm hôn lễ một lượt với Mela…

− Không!

Nàng nói thật mau, mắt nàng long lên nhìn anh ta một cách gớm ghiếc.
Charles biết mình lại sai lầm lần nữa . Dĩ nhiên, cô gái ao ước lễ cưới của riêng họ … không thể chia xẻ vinh quang cho ai. Nàng thật độ lượng nên dễ tha thứ sự vụng về của anh. Chỉ cần trời tối hơn một chút, anh ta sẽ có thêm can đảm trong bóng tối để có thể hôn tay nàng và nói những điều mà anh khao khát từ lâu.

− Lúc nào tôi có thể nói với ba cô ?

− Càng sớm, càng tốt .

Nàng trả lời, hy vọng anh ta sẽ nới lỏng tay ra trước khi nàng bảo anh ta buông.
Charles nhảy cỡn lên, và trong một lúc nàng tưởng rằng anh ta sẽ nhào lộn, trước khi trở lại vẻ trang nghiêm. Anh ta nhìn xuống nàng một cách nồng nàn, trái tim giản dị của anh ta như lồ lộ trên đôi mắt. Nàng chưa hề thấy ai nhìn nàng như vậy bao giờ, và chẳng bao giờ còn ai nhìn nàng như vậy nữa, nhưng trong sự thờ ơ kỳ dị của nàng, nàng chỉ nghĩ anh ta giống như một con bê.
Charles mỉm cười thích thú:

− Tôi sẽ đi tìm ba cô ngay bây giờ. Tôi không thể đợi được nữa. Tha lỗi cho tôi nghe… cưng!

Sự say đắm đã tới rất khó khăn nhưng khi đã nói được một lần, anh ta lặp lại với sự thích thú.
Nàng trả lời:

− Vâng, tôi sẽ đợi ở đây. Chỗ này mát và đẹp quá.

Charles băng qua sân cỏ và mất hút trong ngôi nhà. Scarlett ngồi lại một mình dưới gốc cây sồi xào xạt. Từ chuồng ngựa, đàn ông túa ra liên tiếp, bọn hầu cận da đen chạy sau chủ của chúng. Anh em Munroe phe phẩy nón nhưng vẫn phóng như bay. Anh em Fontaine và Calvert theo sau reo hò ầm ĩ. Bốn anh em Tarleton vượt qua sân cỏ nơi nàng ngồi và Brent la lớn:

− Má sẽ cho chúng tôi ngựa. Di-ai-i!

Từng mảng cỏ bị bốc lên khi họ vượt qua, để nàng lại một mình.
Ngôi nhà trắng với những thân cột cao vút trước mặt nàng hình như tránh né nàng với một vẻ trang trọng xa vời. Nó chẳng bao giờ là ngôi nhà của nàng. Ashley chẳng bao giờ ôm nàng bước lên thềm nhà trong chiếc áo cô dâu nữa. Ồ! Ashley! Ashley! Em đã làm gì? Tận đáy lòng bên dưới lớp kiêu hãnh vừa bị xâm phạm và những tập quán lạnh lùng của nàng, một cái gì gợi dậy sự xót xa. Một ý niệm trưởng thành bắt đầu chớm nở, mạnh hơn lòng tự kiêu hay ích kỷ của nàng. Nàng yêu Ashley, nàng biết rõ là nàng yêu chàng và nàng chẳng bao giờ thấy rõ ràng điều đó bằng lúc nàng nhìn Charles mất hút nơi khúc quanh của con đường sỏi đá.

Chương 7

Chỉ trong hai tuần, Scarlett đã thành một người vợ và chỉ hơn hai tháng sau, nàng đã thành góa phụ . Nàng đã được giải thoát thật sớm khỏi mối liên hệ mà nàng đã nhận lấy một cách thật hấp tấp và thiếu suy tư, nhưng nàng chẳng bao giờ còn được hưởng cái tự do vô tư lự của những ngày chưa lấy chồng . Sự góa bụa đã theo sau ngay gót của hôn nhân và thật kinh hoàng cho nàng, bổn phận làm mẹ đến liền sau đó .

Nhiều năm sau, mỗi lần hồi tưởng những ngày cuối cùng của tháng tư năm 1861, Scarlett không bao giờ nhớ rõ được chi tiết ra sao cả . Thời gian và những biến cố đã đâm sầm vào nhau, hỗn loạn như một cơn ác mộng phi lý . Cho tới ngày chết, nàng vẫn không thể nào bổ khuyết được ký ức của nàng vào những ngày ấy . Chỉ còn một sự mờ nhạt trong trí nhớ của nàng về khoảng thời gian nhận lời cầu hôn của Charles và ngày cưới . Hai tuần lễ ! Thật quá ngắn đối với thời gian đính hôn không thể chấp nhận được trong thời bình . Thời gian trung bình hợp lễ là một năm hay ít lắm là sáu tháng . Nhưng miền Nam đã bốc lửa chiến tranh, biến cố đã kéo đến mau lẹ như có mang theo một trận cuồng phong, thổi tung hết những nhịp điệu êm đềm ngày cũ . Ellen vừa vặn vẹo hai bàn tay vừa khuyên nên trì hoãn để Scarlett được cạn nghĩ . Nhưng trước sự biện giải của mẹ, Scarlett nhíu mày làm ngơ. Nàng muốn lấy chồng và lấy thật mau. Chỉ trong hai tuần lễ thôi !

Biết rằng đám cưới của Ashley sẽ cử hành vào khoảng cuối tháng tư đến đầu tháng năm, để chàng có thể gia nhập quân đội ngay khi được gọi, Scarlett đã sắp đặt hôn lễ của nàng vào một ngày sớm hơn của Ashley. Ellen phản đối, nhưng Charles biện hộ với một tài hùng biện mới tìm ra, rằng anh nóng lòng đi Nam Corolina để gia nhập quân đoàn của Wade Hampton, và Gerald lại thuộc về phe hai người trẻ . Ông đã bị kích thích mạnh vì cơn sốt chiến tranh và rất hài lòng vì Scarlett đã tìm được một nơi xứng đáng, còn ai hơn ông để binh vực đường lối tình yêu của tuổi trẻ trong thời chiến ? Ellen điên đầu, nhưng sau cùng đành phải làm như những bà mẹ miền Nam khác đã làm . Thế giới nhàn rỗi của họ đã bị đảo lộn, mọi điều khiếu nại, biện hộ và khuyến cáo của họ chẳng có hiệu quả gì trước những lực lượng hùng mạnh đã cuốn họ đi.

Miền Nam đang chuếnh choáng bởi hăng say và khích động . Ai cũng biết là chỉ một trận đánh thôi cũng đủ kết liễu chiến tranh rồi và những người trẻ đều nô nức đầu quân trước khi chiến trận có thể chấm dứt … họ cũng hấp tấp cưới các tình nhân trước khi kéo đi Virginia để giáng một đòn vào mặt bọn Yankee. Hơn một chục đám cưới thời chiến được cử hành trong hạt và chẳng có một thời gian nào để khóc lóc giã từ, vì mọi người đều quá bận rộn và khích động, chẳng ai có thể long trọng nghĩ đến những giọt nước mắt . Đàn bà phải may đồng phục, đan vớ và cuộn băng cứu thương, còn đàn ông thì lo dượt và tập bắn . Mỗi ngày đều có chuyến xe lửa chở quân đội qua ngang Jonesboro tiến lên hướng Bắc về phía Atlanta và Virginia. Một vài quân đội vui vẻ trong bộ đồng phục màu đỏ tươi và màu xanh dương, xanh lục của vệ binh quốc gia. Một vài toán nhỏ bận áo vải dệt lấy và đội mũ bằng da, một vài nhóm khác không có đồng phục, chỉ mặc đồ bằng nỉ đẹp hay vải thượng hạng . Tất cả đều chưa được huấn luyện hoàn bị, võ trang sơ sài, man dại vì khích động . Họ reo hò như đang trên đường tới tham dự một cuộc cắm trại . Nhìn thấy những người này, bọn trai trẻ trong hạt lo sợ cuống cuồng là chiến tranh sẽ chấm dứt trước khi họ lên tới Virginia nên mọi chuẩn bị cho cuộc xuất quân đã được xúc tiến mau lẹ .

Giữa tình trạng cuồng loạn ấy, mọi sự chuẩn bị cho hôn lễ của Scarlett vẫn được tiến hành và, hình như trước khi biết rõ nàng phải làm gì, nàng đã mặc bộ áo và choàng chiếc khăn cưới của Ellen, bước xuống thang lầu Tara trong cánh tay của cha nàng, đối diện với căn nhà đầy thực khách . Một lúc sau, nàng sực nhớ ra, như vừa trải qua cơn mộng, nàng nhớ lại hàng trăm ngọn nến lung linh trên vách, gương mặt của mẹ nàng, đầy thương yêu ái ngại, hơi ngơ ngác và môi bà mấp máy đọc kinh cầu hạnh phúc cho con. Nàng nhớ lại hình ảnh Gerald mặt đỏ rần vì rượu Brandy và hãnh diện thấy con gái ông có được một người chồng thuộc dòng danh giá cố cựu vừa được một gia tài … và Ashley, cầm tay Melanie đứng dưới chân cầu thang.

Lúc vừa thấy mặt chàng, nàng tự nghĩ :

“Đây nào phải là sự thật, không thể được ! Đây chỉ là một cơn ác mộng . Mình sẽ tỉnh dậy và sẽ thấy rằng đó chỉ là một giấc mơ. Mình không thể suy tư về nó bây giờ, ngược lại mình sẽ hét lớn trước đám đông ngay. Mình chẳng suy nghĩ gì bây giờ được . Hãy để sau này, khi mình đã chịu đựng nổi, khi nào mình không còn trông thấy ánh mắt của chàng nữa”.

Thật vậy, tất cả đều giống như một giấc mơ, lúc băng qua lối đi giữa đám người vui vẻ, mặt Charles đỏ ửng lên, những câu nói lắp bắp của anh ta và những câu rõ ràng minh bạch của nàng trả lời cũng thật lạnh lùng . Sau đó là những lời chúc tụng, những cái hôn, những ly rượu mừng và khiêu vũ … tất cả, tất cả đều như trải qua trong mơ. Ngay cả cảm giác lúc Ashley hôn phớt lên má và giọng thì thầm của Melanie “Bây giờ chúng ta thực sự là chị em với nhau rồi đó” cũng đều không thật . Ngay cả lúc hồi hộp khi thấy bà cô mập của Charles, cô Pittypat Hamilton ngã xỉu cũng đều là những diễn biến của cơn ác mộng đó .

Nhưng sau khi cuộc khiêu vũ và lễ rượu mừng chấm dứt, bình minh lố dạng, khi tất cả khách từ Atlanta đến, tụ tập trong Tara và nhà của viên quản gia đã ngã mình trên giường, trên ghế dựa hoặc trên những tấm đệm trải ở sàn nhà đều ngủ say và tất cả những khách lân cận đã về nghỉ ngơi để sửa soạn cho hôn lễ ngày mai ở Twelve Oaks, lúc đó cơn mộng mới bị bể tan từng mảnh như pha lê nhường chỗ cho sự thật . Sự thật là Charles, mặt đỏ gay vì thẹn ló ra từ căn phòng trang điểm của nàng trong cái áo ngủ của anh ta, tránh né cái nhìn kinh ngạc của nàng qua lớp mền đắp lên tới cổ .

Dĩ nhiên nàng biết rằng vợ chồng phải nằm chung giường nhưng nàng chưa bao giờ nghĩ tới chuyện đó . Đó là chuyện quá hiển nhiên như trường hợp của cha mẹ nàng nhưng nàng chẳng bao giờ đặt mình vào chuyện đó . Và bây giờ, lần đầu tiên từ ngày dự dã yến, nàng mới ý thức rõ những gì do chính tay nàng mang tới cho nàng . Với ý nghĩ gã con trai xa lạ mà nàng chẳng thật tâm muốn lấy lại nằm chung giường giữa lúc mình đang quá đau khổ vì hối tiếc về những hành động hấp tấp của mình và chuyện mãi mãi nàng không còn được Ashley, thật là quá sức chịu đựng . Và khi Charles vừa mon men tới gần giường, nàng đã khàn khàn bảo nhỏ :

− Tôi sẽ la lớn lên khi anh tới gần tôi. Tôi sẽ la, tôi sẽ … thật lớn ! Tránh ra ! Đừng hòng đụng vào tôi !

Do đó Charles Hamilton đã trải qua đêm tân hôn trong một cái ghế bành đặt ở góc phòng . Anh ta không mấy thất vọng, vì hiểu hoặc tưởng rằng mình hiểu tánh dễ bị xúc động và sự thẹn thùng của vợ . Anh muốn đợi đến khi sự sợ hãi của nàng lắng xuống, chỉ có điều, chỉ có điều … anh thở dài, xoay người qua lại để chọn một lối nằm cho thoải mái … bởi vì anh ta phải ra mặt trận ngày gần đây.

Nếu đám cưới của chính Scarlett đã là một cơn ác mộng thì đám cưới của Ashley lại càng thảm não cho nàng hơn nữa . Scarlett mặc chiếc áo màu xanh vỏ táo, chiếc áo của ngày thứ nhì sau hôn lễ, đứng giữa phòng khách chói lọi bởi hàng trăm ngọn nến của Twelve Oaks. Gian phòng chật nứt với đám người đêm qua. Nàng nhìn khuôn mặt giản dị, nhỏ bé của Melanie, mặt cô ta sáng rỡ vì đã là bà Melanie Wilkes. Bây giờ Ashley đã xa nàng vĩnh viễn . Ashley của nàng . Không, bây giờ không còn là Ashley của nàng nữa . Nhưng còn bao giờ nàng được là của chàng không ? Tất cả những điều đó trộn lẫn trong tâm chí và trong đầu óc đã quá mệt mỏi và lạc lõng của nàng . Chàng đã nói yêu nàng, nhưng cái gì đã phân cách hai người ? Phải chi nàng có thể nhớ lại được ! Lấy Charles, nàng đã ngăn chặn được những lời gièm pha của người trong hạt, nhưng bây giờ vấn đề đó có nghĩa gì đâu ? Cái việc trước kia hình như rất quan trọng với nàng, bây giờ hoàn toàn vô nghĩa . Tất cả cái gì đáng kể, chính là Ashley. Nhưng bây giờ chàng đã rời xa nàng . Và nàng đã lấy một người, một người đàn ông mình chẳng hề yêu mà còn khinh bỉ nữa .

Ôi ! Nàng tiếc biết bao những chuyện ấy ! Nàng thường nghe nói “người ta tự cắt mũi vì ác cảm với khuôn mặt của mình”, nhưng lúc trước câu này chỉ là một hình dung pháp . Bây giờ nàng mới biết được ý nghĩa của nó . Và bây giờ nàng vừa điên cuồng ao ước không bị ràng buộc gì với Charles, trở về Tara làm một thiếu nữ chưa chồng như xưa, vừa nhận ra rằng chính nàng là người có lỗi . Ellen đã cố gắng ngăn nàng nhưng nàng chẳng chịu nghe.

Bởi thế nàng đã khiêu vũ suốt đêm trong lễ cưới của Ashley, quay cuồng một cách ngây dại, nói chuyện như một người máy, cười cợt, và ngạc nhiên về sự ngốc nghếch của người ngoại cuộc cứ nghĩ rằng nàng là một tân nương hạnh phúc mà không sao thấu hiểu nổi sự đau đớn của nàng . Tạ ơn trời, họ không sao thấy được.

Đêm đó, sau khi Mammy giúp nàng cởi áo và đi ra ngoài, Charles rụt rè nhô ra từ phòng trang điểm, tự hỏi không biết anh ta có phải trải qua một đêm thứ hai trong cái ghế nệm lông ngựa nữa hay không thì đột nhiên nàng oà ra khóc . Nàng khóc cho đến khi Charles leo lên bên cạnh nàng, cố gắng an ủi, nàng vẫn sụt sùi khóc cho đến khi không còn một giọt nước mắt và cuối cùng tức tưởi tựa vào vai Charles.

Nếu không có chiến tranh, họ phải bỏ ra một tuần lễ để viếng thăm các gia đình trong hạt, dự dạ vũ và dã yến khoản đãi vợ chồng mới cưới trước khi họ lên đường đi viếng hồ Saratoga hoặc White Sulphur. Nếu không có chiến tranh, Scarlett đã mặc đủ các loại áo ngày thứ ba, thứ tư, thứ năm sau hôn lễ để dự những bữa tiếp đãi nàng tại nhà Fontaine, Calvert hay Tarleton. Nhưng chẳng có tiệc tùng, cũng chẳng có du lịch . Một tuần sau ngày cưới, Charles đã phải lên đường gia nhập quân đoàn của đại tá Wade Hampton, và hai tuần sau đó, Ashley và bộ đội lên đường để lại cho hạt bao nhiêu buồn nhớ.

Trong hai tuần đó, Scarlett không bao giờ gặp Ashley một mình, không một lời riêng nào với chàng . Ngay cả giờ phút khủng khiếp của buổi lên đường, khi chàng dừng lại Tara trên đường tới nhà ga, nàng cũng không nói được một lời nào với chàng . Melanie đội nón, trùm khăn, nghiêm trang trong bổn phận làm vợ mới mẻ, vịn vào tay chồng . Và mọi người ở Tara, da trắng lẫn da đen, đều nghỉ việc để tiễn Ashley ra mặt trận .

Melanie nói với chồng :

− Anh phải hôn Scarlett chớ, bây giờ cô ấy là em của em rồi .

Và Ashley khom xuống, phớt đôi môi lạnh giá trên má nàng, nét mặt khẩn trương. Scarlett chẳng vui gì về cái hôn đó bởi chính Melanie đã nhắc nhở chàng . Cô ta đã làm nàng nghẹt thở vì cái ôm từ giã :

− Em phải lên Atlanta thăm chị và cô Pittypat nghe không ? Ồ, cưng, chị mong em lắm ! Gia đình muốn biết rõ vợ của Charlie hơn.

Năm tuần trôi qua, từ Nam Carolina, Charles gởi cho vợ một lá thơ rụt rè, ngây ngất và âu yếm kể lể về tình yêu của anh ta, về những dự định khi chiến tranh chấm dứt, về việc ước ao được là một anh hùng vì nàng, và về sự tôn sùng của anh đối với vị chỉ huy trưởng Wade Hampton. Đến tuần lễ thứ mười bảy, một bức điện tín do chính Đại tá Wade Hampton gởi tới, và sau đó là một bức thơ phân ưu với lời lẽ ân cần và trang nghiêm. Charles đã chết . Đại tá không thể báo tin sớm hơn vì Charles nghĩ rằng cơn bệnh của anh không nặng lắm, anh không muốn làm gia đình lo lắng . Người con trai bất hạnh đó chẳng những bị số mạng cướp đi tình yêu mà anh ta tưởng rằng đã chiếm được mà còn mất cả cao vọng được chết vinh dự trên bãi chiến . Anh đã chết một cách tầm thường và mau lẹ bởi chứng sưng phổi và sau đó là bệnh đậu mùa, và cũng chẳng tới gần được bọn Yankee bao nhiêu hơn là căn cứ Nam Carolina.

Đúng ngày tháng, con trai Charles chào đời và theo thói quen, người ta đặt tên cho đứa con theo tên vị chỉ huy trưởng của cha nó . Đứa nhỏ mang tên Wade Hampton Hamilton. Scarlett đã khóc hết nước mắt vì thất vọng khi biết mình có thai, nàng cầu mong được chết cho xong. Nhưng thời gian cưu mang đứa bé đã qua mau, và nàng sanh nó ra không khó nhọc lắm . Nàng chỉ hơi đuối sức và bình phục mau chóng đến nỗi Mammy bảo rằng trường hợp của nàng quá sức tầm thường … Các bà quí tộc cần phải đau đớn lâu hơn. Nàng không thấy thương con lắm . Nàng không hề muốn nó ra đời và còn oán hận vì nó đã được sanh ra. Nhưng bây giờ có nó rồi mà nàng vẫn thấy như chưa, như thằng bé có thể không phải là con nàng .

Tuy thể xác hồi phục mau lẹ sau khi sanh bé Wade, tinh thần nàng vẫn còn ngơ ngẩn và kiệt quệ . Nàng hoàn toàn xuống tinh thần, mặc dù tất cả những người trong đồn điền đều cố làm cho nó hồi sinh. Ellen đi qua đi lại với một vẻ lo lắng và các nếp nhăn trên trán . Gerald chửi thề nhiều hơn trước và thường mang từ Jonesboro về những món quà chẳng ích lợi gì cả . Ngay cả lão bác sĩ Fontaine, sau khi bảo nàng dùng thuốc bổ gồm lưu huỳnh, đá tam hợp và dược thảo, cũng thất bại trong việc làm nàng vui trở lại . Ông nói riêng với Ellen rằng sở dĩ Scarlett hay cau có và thờ ơ như vậy chỉ vì nàng đang có chuyện đau lòng . Nhưng nếu muốn nói ra, Scarlett có thể cho họ biết rằng chứng bệnh của nàng khác xa và phức tạp hơn tâm bệnh nhiều . Nàng không muốn cho ai biết rằng chính sự buồn nản quá mức, sự ngơ ngác vì trở thành người mẹ và hơn tất cả, sự vắng bóng của Ashley đã khiến nàng tiều tụy thiểu não .

Nỗi phiền muộn của nàng cứ như đau xé và dai dẳng . Cuộc sống trong hạt đã trống vắng những cuộc vui chơi và sinh hoạt bình thường kể từ khi những người trai tráng lên đường ra mặt trận . Tất cả những thanh niên hoạt náo đều ra đi … Bốn anh em Tarleton, hai người con trai nhà Calvert, nhóm Fontaine, nhóm Munroe và tất cả những người trai trẻ, dễ thương ở Jonesboro, Fayetteville và Lovejoy cũng thế . Chỉ còn lại những người già cả, những kẻ tàn tật và nữ giới, và họ luôn luôn bận rộn với chuyện may vá, trồng trọt thêm nhiều bông gòn và nhiều bắp, chăm nuôi thêm nhiều bò, heo và trừu để cung cấp cho quân đội . Gần như chẳng có bóng dáng thật sự của một người đàn ông nào cả, ngoài trừ toán quân lương dưới quyền chỉ huy của con người đứng tuổi Frank Kennedy, ý trung nhân của Suellen, cứ mỗi tháng trở về một lần để thâu góp phẩm vật tiếp tế . Các sĩ quan và binh sĩ quân nhu này không mấy hấp dẫn, lại thêm thái độ rụt rè của Frank khi tán tỉnh Suellen càng khiến cho Scarlett bực mình đến nỗi khó giữ được lễ độ đối với y. Thà hai đứa nó lấy nhau phứt cho rảnh mắt !

Dù cho những người trong toán vận lương đó có khả ái hơn đi nữa, họ cũng chẳng giúp được nàng thoát khói tình cảnh hiện thời . Nàng đã là góa phụ và trái tim được chôn theo dưới mộ chồng . Đó là điều mọi người cùng nghĩ thế và cùng muốn nàng phải xử sự theo đúng phẩm cách của một người vợ góa . Điều này càng làm cho nàng bực bội hơn, bởi vì mặc dầu có muốn đi nữa, nàng cũng không sao nhớ lại được những gì liên quan tới Charles, bộ trừ bộ mặt giống như bò con sắp chết của anh ta khi nghe nàng ưng thuận làm vợ . Ngay cả hình ảnh đó cũng bị lu mờ . Nhưng trên thực tế nàng vẫn là góa phụ và phải biết giữ gìn tiết hạnh . Nếp sống tươi trẻ của các cô gái chưa chồng không phải là của nàng nữa . Nàng phải tỏ ra nghiêm trang và cách biệt . Ellen đã nhấn mạnh dài dòng về điểm đó khi bà bắt gă>p trung uý Frank đẩy chiếc đu của Scarlett ngoài vườn khiến nàng cười ngặt nghẽo . Theo Ellen thì người goá phụ còn phải thận trọng gấp đôi hơn những người đang có chồng .

Vừa nghe mẹ dạy, Scarlett vừa nghĩ “có trời mới biết là những người đàn bà có chồng có gì vui sướng . Như vậy, ở góa kể như là đã chết”.

Người góa phụ phải mặc những chiếc áo đen sầu muộn và không được cài lên đó bất cứ món trang sức nào để cho vui mắt, không có hoa, không dây băng, không ren và không cả nữ trang. Họ chỉ được cài trâm tang hoặc đeo kiềng cổ bện bằng tóc của người chết . Và chiếc mạng che mặt màu đen phải dài từ trên nón phủ tới gối . Phải đợi ba năm sau của cuộc đời góa phụ chiếc khăn đó mới được cho để ngắn ngang vai. Góa phụ không được quyền trò chuyện với nhiệt tâm và không được cười lớn tiếng . Ngay cả lúc cười, họ cũng chỉ được cười ra vẻ buồn thảm . Điều đáng sợ hơn tất cả là họ không được phép tỏ ra tươi vui khi tiếp chuyện đàn ông. Và nếu có một người đàn ông mất dạy nào đó để lộ một chút tình ý gì thì người góa phụ phải chận đứng y lại ngay bằng lời lẽ trang trọng được chọn lựa kỹ càng nhắc tới người chồng đã qua đời . Scarlett chua chát nghĩ :

“Ồ, rồi cũng có một vài góa phụ tái giá nhưng lúc đó họ đã già rồi . Và họ đã phải xoay sở cách nào để tránh những cái nhìn tò mò của người lân cận . Và thường thường họ chỉ được tái giá với những ông chủ đồn điền góa vợ già khọm với cả chục đứa con”.

Lấy chồng đã là một điều tệ hại lắm rồi, còn góa chồng … Ôi, cuộc sống kể như vĩnh viễn không còn nữa . Chẳng biết người đời ngu đần đến mức nào lại có thể cho rằng dầu Charles mất đi nhưng nàng vẫn còn được an ủi nhờ có thằng bé Wade Hamilton ! Đã vậy họ lại còn cho rằng nàng có phước còn được một lẽ sống trên đời ! Mọi người cũng đồng ý với nhau rằng còn giữ lại được một chứng tích tình yêu của người chồng vắn số quả là một thứ hương tình ngọt lịm . Dĩ nhiên là nàng không có ý định cải đổi tư tưởng họ . Nhưng ý nghĩ của họ nào phải là của nàng . Nàng chẳng quan tâm tới bé Wade bao nhiêu, đôi khi nàng còn quên nó là con của nàng thật .

Mỗi sáng, sau khi thức giấc và trong lúc còn ở trạng thái nửa tỉnh nửa mê, nàng lại thấy mình vẫn còn là Scarlett O’Hara ngày trước và ánh nắng bên ngoài cửa sổ vẫn tươi sáng trên cây mộc lan, có tiếng chim ca hót và mùi thơm dìu dịu của thịt heo chiên thoảng đến bên mũi nàng . Nàng trở lại vô tư và trẻ dại . Nhưng rồi sau đó, bỗng có tiếng khóc chát tai đòi sữa, và lần nào cũng vậy … luôn luôn như thế, nàng trải qua một lúc ngạc nhiên khi nghĩ : “Ủa, có một đứa bé trong nhà !” Ngay sau đó nàng nhớ ra đứa bé chính là con nàng . Và tất cả những thứ đó khiến cho nàng hoang mang lạc hướng .

Còn Ashley ? Ồ, nhứt là Ashley ! Lần thứ nhứ trong đời, nàng oán ghét Tara, oán ghét con đường chạy dài từ đồi cao xuống bờ sông, oán ghét những cánh đồng nâu với bông vải xanh tươi. Mỗi tấc đất, mỗi ngọn cây và lạch nước, mỗi con đường mòn và mã lộ đều nhắc cho nàng nhớ tới Ashley. Chàng đã thuộc về một người đàn bà khác và đã bị cuốn theo luồng gió chiến tranh, nhưng hồn chàng vẫn còn phưởng phất trên những con đường vào mỗi hoàng hôn, vẫn cười với nàng bằng ánh mắt mơ màng trong bóng tối mái hiên. Không lần nào nghe tiếng vó ngựa từ Twelve Oaks mà nàng khỏi tưởng rằng người kỵ mã chính là … Ashley.
Bây giờ nàng oán ghét cả Twelve Oaks dù rằng đã có lần nàng yêu quí nó . Nàng oán ghét nó nhưng nàng vẫn cứ bị lôi cuốn về bên đó để nghe ông John Wilkes và các cô gái nói về Ashley… nghe họ đọc những bức thơ của chàng gởi về từ Virginia. Những lá thơ đó làm nàng đau xót nhưng nàng vẫn phải tới đó để nghe. Nàng ghét con bé India gàn bướng và con Honey hay nói xỏ nói nói xiên, và cũng biết bọn nó chẳng ưa gì mình, nhưng nàng không thể lảng tránh chúng . Và cứ mỗi lần từ bên đồn điền Twelve Oaks trở về, nàng chán nản nằm mẹp trên giường, bỏ bữa ăn tối .

Chính chuyện bỏ ăn đó khiến cho Ellen và Mammy lo âu nhứt . Mammy mang lên những thức ăn thật ngon, nói bóng gió để nàng nhớ ra rằng đã là góa phụ thì có thể ăn bao nhiêu tuỳ thích, nhưng bà chỉ hoài công.

Khi bác sĩ Fontaine nghiêm trang nói với Ellen rằng tâm bịnh thường làm tàn tạ và đẩy người đàn bà xuống mồ, Ellen xanh mặt, vì đó chính là mối lo đang đè nặng lòng bà .

− Không thể làm gì nữa sao bác sĩ ?

− Cách tốt nhứt là cho nó đi đổi không khí thôi.

Lão bác sĩ trả lời, mừng thầm vì chỉ mong thoát khỏi một thân chủ quá khó tánh .

Và Scarlett miễn cưỡng bồng con đi thăm viếng, trước hết là họ O’Hara và Robillard ở Savannah và sau đó là hai bà dì Pauline và Eulalie ở Charleston. Nhưng nàng đã trở về Tara một tháng sớm hơn ngày Ellen dự liệu mà không hề giải thích lý do trở về một lời nào . Ở Savannah, nàng được đối xử niềm nở, nhưng hai ông bác James và Andrew và hai bà vợ thật là thủ cựu, thích được ngồi yên một chỗ, kể lể chuyện xa xưa, những chuyện mà Scarlett không thích chút nào . Đối với họ Robillard cũng vậy, còn Charleston quả là khủng khiếp với nàng .

Dì Pauline và chồng dì, quá kiểu cách, sống trong một đồn điền cạnh dòng sông, hẻo lánh hơn Tara nhiều . Hàng xóm gần nhứt của họ ở cách đó hai chục dặm và muốn tới nơi người ta phải theo những con đường tối om, xuyên qua các khu rừng sồi và trắc bách diệp đắm mình trong đồng lầy . Những cây sồi với lớp màu rêu xám đong đưa trước gió làm Scarlett rỡn gáy và khiến nàng nhớ lại các câu chuyện của Gerald về những con ma Ái nhĩ lan lảng vảng trong sương mù . Ở đó chẳng có chuyện gì khác hơn là ngồi đan suốt ngày và nghe dượng Carey đọc to những tác phẩm cải cách của Bulwer-Lytton.

Dì Eulalie, ẩn dật trong một ngôi nhà rộng lớn có tường cao bao bọc ở Battery trong vùng Charleston cũng không có gì vui hơn. Scarlett đã quen thuộc với khung trời bao la của những ngọn đồi đất đỏ cảm thấy như đang ở trong ngục thất . Ở đây không khí nhộn nhịp hơn nơi dì Pauline nhưng Scarlett không ưa những kẻ đến thăm dì nàng với vẻ kênh kiệu, với óc thủ cựu và sự chú tâm về gia tộc của họ . Nàng biết rõ rằng tất cả bọn họ đều nghĩ nàng là kết quả của một cuộc phối hợp bất xứng và họ ngạc nhiên sao một người trong họ Robillard lại có thể lấy một anh chàng Ái nhĩ lan mới sang lập nghiệp . Scarlett biết dì Eulalie thế nào cũng biện giải với họ sau lưng nàng . Những việc ấy làm cho nàng căm tức, bởi vì giống tánh cha, nàng không hề quan tâm tới vấn đề gia tộc . Nàng hãnh diện vì Gerald bởi ông đã dựng nên sự nghiệp mà không cần sự giúp đỡ của một ai, ngoài bộ óc Ái nhĩ lan minh mẫn .

Và dân Charleston quá buồn cười khi tự nhận trách nhiệm về vụ căn cứ Sumộter. Trời ! Họ không hiểu nổi là nếu họ không ngu xuẩn bắn những phát súng khơi mào chiến tranh thì cũng có những tên điên dại khác sẵn sàng làm hay sao ?

Quen với cách nói mau lẹ của người miền cao nguyên Georgia, cái giọng kéo dài đều đều của người bình nguyên có vẻ quá kiểu cách đối với nàng . Nàng nghĩ, nếu còn phải nghe những tiếng “paams” thay vì “palms”, hay “hoose” thay vì “house”, và “Maa”, “Paa” thay vì “Ma, Pa” chắc nàng sẽ hét lên vì quá bực mình . Nàng còn bực dọc đến nỗi trong một buổi thăm viếng đáp lễ, nàng đã nhái giọng Ái nhĩ lan của Gerald khiến cho dì nàng phải âu sầu . Sau đó, nàng về Tara. Thà chịu đựng những kỷ niệm về Ashley vò xé còn hơn là nghe cái giọng Charleston.

Ellen bận rộn suốt ngày đêm, tăng gấp đôi mức sản xuất của Tara để phục vụ Liên bang miền Nam, hết sức kinh hoàng khi thấy cô gái lớn trở về Charleston, gầy gò, xanh xao và cáu kỉnh . Chính bà cũng đã biết thế nào là tâm bịnh, và đêm này sang đêm khác, bà thao thức cạnh Gerald đang ngủ say, cố tìm cách làm vơi nỗi phiền muộn của Scarlett. Cô của Charles, Pittypat Hamilton, đã nhiều lần viết thơ cho bà, hối thúc bà cho phép Scarlett về Atlanta chơi một thời gian. Và bây giờ, lần đầu tiên Ellen cân nhắc giải pháp đó một cách thận trọng .

Cô Pittypat và Melanie sống trong một ngôi nhà rộng lớn và “không có sự bảo vệ của một người đàn ông nào”. Cô viết “Bây giờ Charlie đã qua đời . Dĩ nhiên, ở đây còn có em tôi là Henry nhưng chú ấy không ở cùng nhà với chúng tôi. Có lẽ Scarlett có nói với chị về Henry. Vì tế nhị, tôi không thể viết thêm nhiều về chú ấy trên thơ này . Melly và tôi sẽ khoan khoái và yên lòng hơn nếu có Scarlett bên cạnh . Ba người đàn bà trơ trọi còn hơn là hai. Và có lẽ cháu Scarlett sẽ tìm được đôi chút bình thản để quên buồn, cũng như Melly, bằng cách săn sóc những thanh niên dũng cảm của chúng ta trong bịnh viện … và cố nhiên Melly và tôi đều mong gặp mặt thằng bé cưng…”

Vậy là đồ đạc của Scarlett được gói ghém một lần nữa trong rương với những bộ tang phục . Rồi cùng thằng bé Wade Hampton và vú của nó, con Prissy, nàng lên đường đi Atlanta với một lô những lời căn dặn của Ellen và Mammy, cùng một trăm đô-la tiền giấy của Liên bang miền Nam của Gerald cho trong túi . Nàng không thích đi Atlanta lắm . Theo nàng thì cô Pittypat là người ngớ ngẩn nhứt trong các lão bà và ý nghĩ sống chung dưới một mái nhà với vợ của Ashley mới thật là nhờm tởm . Nhưng trong hạt đã có nhiều kỷ niệm khiến nàng không thể ở lại được cho nên bất cứ sự thay đổi nào cũng được cho là thích đáng.

Chương 8

Vào một sáng tháng Năm, năm 1862 ấy, khi chuyến xe lửa mang nàng lên miền Bắc, Scarlett nghĩ thầm chắc Atlanta không đến nỗi nào buồn thảm như Charleston và Savannah. Và mặc dù chẳng thích cô Pittypat và Melanie, nàng cũng tò mò nhìn ra phía trước để xem thành phố đã thay đổi ra sao sau lần thăm viếng cuối cùng của nàng vào mùa đông trước khi có chiến tranh.

Atlanta luôn luôn là nơi yêu thích đối với nàng hơn bất cứ thành phố nào khác, vì từ lúc bé nàng đã nghe Gerald bảo rằng nàng và Atlanta cùng một tuổi với nhau. Khi lớn lên, nàng khám phá ra rằng Gerald đã nói hơi quá sự thật phần nào vì thói quen muốn phong phú hóa câu chuyện của ông. Atlanta chỉ hơn nàng chín tuổi, và điều này làm cho thành phố vẫn còn trẻ trung một cách lạ thường so với những thành phố khác mà nàng được biết . Savannah và Charleston thật xứng đáng với cái tuổi của chúng, một đã ở thế kỷ thứ hai và một đang bước vào thế kỷ thứ ba. Và dưới đôi mắt trẻ trung của nàng, chúng lúc nào cũng như những tổ mẫu, phe phẩy quạt một cách bình lặng dưới ánh mặt trời . Nhưng chính Atlanta mới thuộc về thế hệ của nàng, xanh chua đúng nghĩa lại trẻ trung, ương ngạnh và sôi động như chính nàng .

Chuyện Gerald kể dựa trên sự kiện nàng và Atlanta cùng được đặt tên trong một năm. Chín năm trước khi nàng ra đời, thành phố đầu tiên mang tên là Terminus rồi sau đó là Marthasville, và nó chỉ được chính thức gọi là Atlanta vào năm Scarlett được sanh ra.

Ngày Gerald lên miền Bắc Georgia, chẳng có một Atlanta nào, ngay cả cái bề ngoài cho ra vẻ một ngôi làng cũng không và đất đai hoang dại . Nhưng năm sau, 1836, chánh phủ cho phép thành lập một đường xe lửa theo hướng Tây Bắc xuyên qua lãnh thổ của thổ dân da đỏ Cherokee vừa nhượng lại . Thiết lộ dự định chạy tới Tennessee và miền Tây thật là rõ ràng và xác định, nhưng khởi điểm đặt tại Georgia vẫn còn lờ mờ, cho đến một năm sau, một viên kỹ sư cắm một cây tiêu trong đất sét đỏ đánh dấu phần cuối cùng của con đường nơi miền Nam. Và Atlanta chào đời với cái tên Terminus, bắt đầu mở mang từ đó .

Lúc ấy chưa có xe lửa ở miền Bắc Georgia, còn các nơi khác thì rất ít . Nhưng trong những năm trước khi Gerald thành hôn với Ellen, một xóm định cư nhỏ bé cách Tara hai mươi lăm dặm về phía Bắc đã bắt đầu mở mang thành một ngôi làng và thiết lộ cũng từ từ tiến về phía Bắc . Rồi thì kỷ nguyên thiết lộ thực sự bắt đầu . Từ đó thị cố cựu Augusta, một con đường sắt thứ nhì vươn về phía Tây, băng ngang tiểu bang để tiếp liền với con đường mới đi Tennessee. Từ thành phố Savannah già nua, thiết lộ thứ ba đầu tiên đến Macon, ngay trung tâm Georgia, và sau đó chạy lên miền Bắc xuyên qua hạt của Gerald đến Atlanta, tiếp giáp với hai thiết lộ khác mở cho hải cảng Savannah một xa lộ hướng về miền Tây. Từ một giao điểm như Atlanta trẻ trung, người ta thiết lập một thiết lộ thứ tư theo hướng Tây Nam đến Montgomery và Mobile.
Được sanh ra bởi một thiết lộ, Atlanta bành trướng theo đà mở mang thiết lộ đó . Với sự hoàn tất bốn con đường, Atlanta bây giờ được nối liền với miền Tây, thông với miền Nam, miền duyên hải và qua Augusta nó còn được nối liền với miền Bắc và miền Đông. Nó trở nên ngã tư du hành của bốn miền, và ngôi làng nhỏ bé đã nhảy vọt một bước dài .

Không cần nhiều năm hơn tuổi mười bảy của Scarlett, Atlanta vươn mình từ một cây cọc cắm xuống đất thành một tiểu đô thị thịnh vượng với mười ngàn dân, khiến cho toàn quốc chú ý . Những thành phố lâu đời hơn, êm đềm hơn nhìn cái tân đô thị náo nhiệt đó với cảm nghĩ của một con gà mái ấp ra vịt con. Tại sao nó khác xa những đô thị khác của Georgia ? Tại sao nó phát triển quá mau như vậy ? Chỉ vì nó hoàn toàn không có gì cả để phó thác, ngoài mấy thiết lộ và một đám dân chúng biết nỗ lực xây dựng .

Những người đã thiết lập ra cái thành phố lần lượt được gọi tên là Terminus, Marthasville và Atlanta đúng là những người biết vươn lên. Không mệt mỏi, những người kiên trí đó từ những phần đất xưa cũ của Georgia và từ những tiểu bang xa hơn nữa đã tụ tập lại thành phố càng ngày càng mở rộng ra chung quanh giao điểm của các thiết lộ trong lòng nó . Họ đến với nhiệt tâm. Họ thiết lập những cửa hàng gần nhà ga, nơi năm con đường bùn lầy đất đỏ gặp nhau. Họ xây những ngôi nhà tráng lệ dọc theo đường Whitehall, Washington và dài theo giồng đất cao ráo, nơi liên tiếp nhiều thế hệ vết giày của dân da đỏ đã tạo thành một con đường mòn gọi là “đường mòn Cây Đào”. Họ rất kiêu hãnh về thành phố của họ, về sự phát triển của nó, tự đắc với chính họ đã góp phần mở mang cho nó . Hãy để cho những đô thị già nua muốn gọi nó là gì tuỳ ý . Atlanta không hề quan tâm tới .

Scarlett bao giờ cũng thích Atlanta vì chính những lý do mà Savannah, Augusta và Macon đã kết án nó . Giống như chính nàng, đô thị này là sự pha trộn giữa mới và cũ ở Georgia, trong đó cái cũ thường bị đè bẹp trong những cuộc xung đột với cái mới ngoan cố và nhiều nghị lực hơn. Hơn nữa, có một cái gì riêng tư khiến nàng cảm động đối với một thành phố đã ra đời … hay ít nhứt là đã được đặt tên cùng một năm với nàng .

oOo

Đêm qua mưa lớn gió to nhưng khi Scarlett vừa tới nơi, Atlanta đã ấm áp trở lại, ánh nắng đang cố gắng hong khô mấy con đường quanh co đã biến thành mấy lạch nước đỏ ngầu sau cơn mưa. Khoảng trống chung quanh nhà ga lầy lội và lồi lõm bởi sự qua lại không ngớt của hành khách và hàng hóa đến nỗi trông giống như một chuồng heo khổng lồ, đây đó vài chiếc xe đã mắc lầy đến trục bánh . Xe nhà binh, xe cứu thương đậu thành một hàng dài không gián đoạn, đang tiếp nhận và gởi đi các hàng hóa cùng thương binh nơi một chiếc xe lửa, càng làm cho bùn đất lầy lụa hơn. Mấy người xà ích chửi rủa luôn miệng, và bước chân của mấy con la bắn văng bùn tung toé .

Scarlett đứng trên bực thang thấp nhất của toa xe lửa, hơi xanh, mặt xinh xắn trong tang phục màu đen, khăn tang phất phới gần đụng gót . Nàng hơi do dự, không muốn giẵm giày và nhúng vạt áo trong bùn . Nàng nhìn quanh những cổ xe ngựa lẫn lộn hai bánh và bốn bánh tìm cô Pittypat, nhưng chẳng thấy người đàn bà mập mạp với đôi má hồng hào ấy . Trong khi nàng đang sốt ruột rảo mắt thì một lão da đen gầy còm, nón cầm tay, râu màu muối tiêu, cung cách trang trọng, bước qua vũng bùn tiến về phía nàng .

− Có phải bà là Scarlett không ? Tôi là Peter, xà ích của bà Pitty. Bà đừng đặt chân xuống bùn .

Ông ta nói nhưng ra lịnh khi thấy Scarlett vén áo sửa soạn bước xuống .

− Bà cũng yếu như cô Pitty, cô ấy giống như con nít, hễ chân ướt là bị đau ngay. Bà để cho tôi ẵm bà qua.

Ông nhấc Scarlett lên thật dễ dàng mặc dầu người ông quá gầy và đã khá trọng tuổi . Thấy con Prissy đang bế đứa bé đứng trên sàn xe, ông ngừng lại :

− Con bé giữ cậu nhỏ đó phải không, bà Scarlett ? Nó còn nhỏ quá làm sao coi chừng con cậu Charles được ? Nhưng thôi, hãy tính sau. Con nhỏ kia, đi theo tao ! Đừng làm rớt cậu nhỏ nghe không !

Scarlett cứ để yên cho ông ẵm ra cổ xe và ngoan ngoãn nghe những lời chỉ trích của ông về nàng và Prissy. Lúc họ vượt qua đám bùn với con Prissy càu nhàu theo sau, nàng nhớ lại những điều Charles đã nói về bác Peter này .

“Bác tham dự suốt trận đánh Mễ tây cơ với ba, săn sóc khi người bị thương… thật ra là chính bác đã cứu ba thoát chết . Chính bác Peter đã nuôi nấng anh và chị Melanie, vì tụi anh còn nhỏ xíu lúc ba má qua đời . Cô Pitty không hợp với chú Henry nên trong thời gian đó, cô sống chung với tụi anh… Cô chẳng được việc gì cả … giống như một đứa trẻ to xác ngoan ngoãn vậy thôi và bác Peter đối xử với cô như với con nít vậy . Cô chẳng làm nổi một việc gì dù để tự cứu mạng mình cũng vậy, nên bác Peter phải gánh vác mọi việc . Chính ông là người đã quyết định tăng thêm tiền trợ cấp cho anh khi anh 15 tuổi, và yêu cầu cho anh được học ở Harvard khi anh qua hết trung học, trong khi chú Henry thì muốn anh vào đại học của tiểu bang. Và ông cũng quyết định là Melly đã đến tuổi phải vấn tóc lên và được đi dự tiệc tùng . Ông còn nói cho cô Pitty biết khi nào trời lạnh hoặc ẩm quá thì không thể đi thăm viếng ai, và nhắc cô khi nào phải choàng khăn. Bác ấy là người lanh lợi và tận tuỵ nhứt trong số những người da đen mà anh từng biết . Chỉ phiền một điều là bác ta chiếm trọn cả ba người chúng anh, cả thể xác lẫn linh hồn . Chắc bác cũng biết rõ điều ấy”.

Những lời của Charles được xác nhận ngay khi bác Peter leo lên xe và cầm lấy con roi.

− Cô Pitty không được khỏe nên không thể đi đón bà . Cô sợ bà không hiểu nhưng tôi nói với cô rằng cô và bà Melly sẽ bị bùn đất làm dơ hết mấy cái áo mới, và tôi sẽ giải thích với bà điều đó . Bà Scarlett, bà nên ẵm đứa nhỏ thì hơn. Con mọi này làm rớt cậu nhỏ bây giờ .

Scarlett nhìn Prissy và thở dài . Prissy không kham nổi chức vụ vú em. Nó vừa được lên chức, từ một đứa bé da đen gầy ốm với chiếc váy ngắn trở thành nghiêm trang hơn với cái áo dài bằng vải chúc bâu và cái khăn trắng bịt đầu . Chức vụ mới làm nó lúng túng, không bao giờ nó được địa vị cao quí ấy sớm như vậy nếu không vì nhu cầu chiến tranh và sự đòi hỏi của ban quân nhu đối với Tara khiến cho Ellen quá bận rộn đến nỗi không thể để Mammy, Dilcey, ngay cả Rosa hay Teena theo Scarlett. Con Prissy chẳng bao giờ rời Tara hay Twelve Oaks quá một dặm, và chuyến du hành bằng xe lửa, thêm vào đó sự đặc cách thăng chức vú em đã hơi quá lắm đối với bộ óc ấu trĩ chứa đựng trong cái sọ bé xíu đen đũi của nó . Cuộc hành trình hai mươi lăm dặm từ Jonesboro đến Atlanta đã làm cho nó quá khích động đến đỗi Scarlett phải luôn luôn trông chừng đứa bé . Bây giờ nhìn thấy quá nhiều cao ốc và dân chúng đông đảo, Prissy càng hoang mang hơn. Nó không ngớt quay qua, quay lại, chỉ trỏ, thấp tha thấp thỏm và xốc đứa nhỏ tới nỗi nó phải gào lên thảm hại .

Scarlett tiếc là không có cánh tay mập mạp của Mammy ở đây. Bà chỉ cần ẵm đứa nhỏ lên là nó nín ngay. Nhưng Mammy phải ở lại Tara còn Scarlett thì không quen dỗ con. Nàng có ẵm thằng bé cũng vô ích . Nó sẽ hét lớn hơn khi nàng không bồng nó . Đã vậy, nó sẽ còn bứt phá mấy sợi dây băng trên nón và chắc chắn nó sẽ làm nhăn áo nàng . Nàng vờ như không nghe lời khuyên của bác Peter.

“Có thể một ngày kia mình sẽ biết về trẻ con. Nhưng chẳng bao giờ mình thích vui đùa với chúng”.

Scarlett bực mình nghĩ về chuyện đó, trong khi chiếc xe lắc lư cố gắng vượt qua vũng lầy quanh nhà ga. Và cho tới lúc mặt bé Wade tái ngắt vì đã khóc hết hơi, nàng gắt gỏng bảo:

− Priss, đưa chưa nó cái núm vú trong túi mầy . Miễn sao cho nó nín . Tao biết nó đói rồi, nhưng bây giờ chẳng làm gì được đâu.

Prissy lấy cái núm vú mà Mammy mới trao cho nó hồi sáng, và đứa bé liền nín khóc . Được yên tĩnh trở lại và với những cảnh tượng mới mẻ nàng vừa thấy, Scarlett bắt đầu cảm thấy vui vui. Khi chiếc xe ra khỏi vũng bùn, tiến vào đường Cây Đào, nàng tìm lại được cảm giác yêu đời đã mất mát mấy tháng qua. Thành phố đã phát triển quá đồ sộ ! Nó không còn như khi nàng đến lần cuối vào năm trước . Nàng không ngờ nổi là thị trấn Atlanta nhỏ bé kia lại thay đổi nhiều đến thế .

Năm trước, bị chi phối bởi quá nhiều phiền muộn riêng tư, bởi bực mình khi nghe nhắc đến chiến tranh, nàng đã không biết rằng ngay những phút đầu chiến tranh bùng nổ Atlanta đã biến đổi rồi . Cũng chính những thiết lộ đã biến thị trấn này thành giao điểm của mọi dịch vụ thương mại trong thời bình, bây giờ lại là những con đường chiến lược sanh tử . Nằm thật xa chiến tuyến, thành phố và hệ thống thiết lộ của nó đã làm một gạch nối giữa hai đạo quân của Liên bang miền Nam, đoàn quân Virginia với đoàn quân Tennessee và Tây bộ . Ngoài nơi gặp gỡ của các đạo quân với miền cực Nam, Atlanta còn là một căn cứ tiếp liệu . Để đáp ứng nhu cầu chiến tranh, Atlanta biến thành một trung tâm sản xuất, một tổng y viện và là một trong những kho dự trữ thực phẩm và quân trang, quân dụng cho các đoàn quân ngoài hỏa tuyến .

Scarlett nhìn quanh để nhớ lại cái thị trấn nhỏ bé mà nàng vẫn chưa quên. Tất cả đều thay đổi . Cái thành phố hiện thời dưới mắt nàng giống như một đứa bé chỉ qua một đêm đã biến thành một gã khổng lồ bận rộn .
Atlanta nhộn nhịp như một tổ ong, hãnh diện vì đã đóng một vai trò quan trọng trong Liên bang miền Nam và làm việc ngày đêm, để biến đổi từ lãnh vực nông nghiệp sang địa hạt kỹ nghệ . Lúc chưa có chiến tranh, ở đây chỉ có lèo tèo vài nhà máy sợi, dệt nỉ, vài cơ xưởng và binh xưởng của miền Nam Maryland… và đó là những gì mà miền Nam rất tự đắc . Miền Nam chỉ sản xuất ra những chính khách và chiến sĩ, nhà trồng trọt và bác sĩ, luật sư và thi sĩ, nhưng chắc chắn không đào tạo kỹ sư hoặc chuyên viên máy móc . Hãy để bọn Yankee chọn những nghề hạ tiện như vậy . Nhưng bây giờ những hải cảng miền Nam đều bị pháo hạm Yankee ngăn chận, chỉ có một ít hàng hóa từ Âu châu vượt được màn lưới phong tỏa đó, và miền Nam đành cố gắng chế tạo quân cụ lấy cho mình . Miền Bắc có thể kêu gọi thế giới cung cấp nhu yếu phẩm và binh sĩ cho quân đội của họ . Hàng ngàn người Ái nhĩ lan và Đức hăng hái gia nhập quân đội Bắc Mỹ . Miền Nam thì phải tự xoay xở lấy .

Ở Atlanta, các xưởng đúc chậm chạp sản xuất các động cơ để chế tạo chiến cụ … thật chậm chạp, vì nó chỉ có một số rất ít những máy móc có thể làm mẫu được, và hầu hết các bánh trớn và bánh xe răng cưa chỉ có thể tạo được theo những họa đồ của người Anh vượt vòng phong tỏa . Bây giờ có những bộ mặt lạ trên đường phố Atlanta, và những công dân cách đây một năm thường vểnh tai khi nhận ra một giọng nói miền Tây, bây giờ không thèm lưu ý tới những thứ tiếng xa lạ của người Âu đã vượt hàng rào phong tỏa để sang đây chế tạo máy móc và sản xuất đạn dược cho Liên bang miền Nam. Và nếu không nhờ tài năng của những người này, Liên bang miền Nam đã phải gặp rất nhiều khó khăn trong việc chế tạo súng lục, súng trường, đại bác và thuốc súng .

Dường như trái tim của thành phố cứ đập suốt ngày đêm, bơm chiến cụ lên đường sắt cung cấp cho hai chiến tuyến . Xe lửa gầm thét ra vào thành phố suốt ngày . Từ những cơ xưởng mới xây cất, khói đen tuôn nườm nượp trên những ngôi nhà trắng . Ban đêm, các lò vẫn rực lửa, tiếng búa còn vang dậy thật khuya sau khi dân chúng đã ngủ say. Những thửa đất bỏ trống năm trước, bây giờ trở thành các xưởng sản xuất yên cương và giày da, công binh xưởng sản xuất súng trường và đại bác, nhà máy cán và nhà máy đúc làm đường sắt và toa xe hàng để thay thế những thứ đã bị bọn Yankee phá hủy . Sau hết là những xưởng nhỏ chế tạo đinh thúc ngựa, hàm thiếc ngựa, móc lều, nút áo, súng lúc và gươm. Các lò đúc đã bắt đầu thấy thiếu sắt, vì chỉ có một số lượng sắt rất nhỏ vượt được rào phong tỏa . Riêng các hầm mỏ ở Atlanta hầu như ngưng hoạt động vì thợ mỏ đều ra ngoài chiến tuyến . Ở đây không còn rào sắt, nhà mát bằng sắt, cửa sắt, hay đến cả những tượng sắt trên sân cỏ cũng không, vì tất cả đều sớm chui vào các lò nấu kim khí trong nhà máy cán kim loại .

Dọc theo đường Cây Đào và các đường lân cận đều có các Bộ Chỉ huy của các binh chủng . Văn phòng nào cũng đen nghẹt những người mặc đồng phục, lính quân nhu, truyền tin, quân bưu, vận tải thiết lộ và quân cảnh . Ở ngoại ô có những trạm cấp ngựa, nơi đây la và ngựa được nhốt trong những chuồng rộng lớn, và hai bên đường là những y viện . Theo lời của bác Peter, Scarlett có cảm tưởng rằng Atlanta chỉ là một thành phố của thương binh, người ta không thể đếm biết bao nhiêu những bịnh viện tổng hợp, bịnh viện truyền nhiễm và trung tâm hồi phục . Và mỗi ngày, xe lửa lại càng mang từ Five Points về những thương binh và bịnh binh.

Thành phố nhỏ không còn nữa và bộ mặt của đô thị tiến bộ nhanh chóng này đã trở nên rộn rịp, hoạt động không ngừng nghỉ . Cảnh tượng náo nhiệt đó đã làm cho Scarlett, vốn quen thuộc với cảnh nhàn rỗi và yên tĩnh, nhưng nàng vẫn yêu thích nó dù muốn ngừng thở . Một không khí sôi động bao trùm thành phố làm cho nàng cảm thấy chới với dường như nhịp tim gấp rút của thành phố đang cùng một nhịp đập với tim nàng .
Lúc chiếc xe chòng chành vượt qua những hố bùn một cách chậm chạp để hướng về phố chính . Nàng ghi nhận một cách thú vị các cao ốc và những khuôn mặt mới . Lề đường chật ních những người mặc quân phục, đeo đủ cấp hiệu và huy hiệu của ngành mình . Con đường hẹp đã chen chúc xe cộ … xe bốn bánh, xe mui trần, xe cứu thương, xe che mui của quân đội với những gã xa phu thô lỗ luôn miệng chửi rủa mấy con la đang cố rút chân ra khỏi chỗ lún . Các quân bưu viên mặc đồng phục xám phóng thật mau trên đường, bắn bùn tung tóe . Họ di chuyển từ Bộ Chỉ huy này sang Bộ Chỉ huy khác, mang các mệnh lệnh và các điện tín hỏa tốc . Những người vừa hồi phục khập khễnh trên cặp nạng, thường thường có mỗi bà đi kèm theo với vẻ lo âu; tiếng kèn, tiếng trống, khẩu lệnh vang vang từ các thao trường, nơi đang huấn luyện các tân binh. Và Scarlett bỗng nghẹn thở khi lần đầu nhìn thấy bộ quân phục màu xanh của quân Yankee lúc bác Peter đưa ngọn roi chỉ về phía một đoàn quân thất thểu bị lùa về ga xe lửa để chở tới trại giam dưới sự canh gác của một toán binh sĩ Liên bang miền Nam, lưỡi lê gắn đầu súng .

“Ồ, mình bắt đầu thích sống ở đây rồi . Thật là náo nhiệt và thích thú !” Lần đầu tiên, kể từ ngày dự dã yến, Scarlett cảm thấy hài lòng thật sự .

Thật ra, thành phố còn sống động nhiều hơn nàng tưởng, ở đây đã có tới vài mươi quán rượu và theo sau quân đội là hàng loạt gái điếm tràn vào, rồi các nhà chứa mọc lên như nấm gây khiếp đảm cho bao nhiêu người mộ đạo . Mỗi khách sạn, mỗi nhà trọ và mỗi tư gia đều chật ních những người khách phương xa tới để thăm viếng và săn sóc thân nhân bị thương đang được cứu chữa trong các bịnh viện to lớn của Atlanta. Không tuần nào là không có những hội hè, những cuộc khiêu vũ, các buổi tổ chức phước thiện và vô số lễ cưới gấp rút vì chiến tranh, với các chú rể được nghỉ phép mặc quân phục bóng ngời, màu xám viền vàng cùng các cô dâu lộng lẫy trong lớp nhung lụa lọt qua được màn lưới phong tỏa, đem về từ các chuyến tàu . Họ đi qua hàng rào danh dự với hai hàng gươm tuốt trần giao nhau ở bên trên, họ uống sâm banh và sụt sùi khóc chia tay. Đêm đêm những con đường hai bên có nhiều cây rậm luôn luôn rộn rịp tiếng bước chân khiêu vũ và tiếng dương cầm thánh thót từ các phòng khác vang ra với các giọng ca cao vút hòa lẫn những giọng ca ồ ề của các binh sĩ được mời tới cùng xướng họa những nhạc khúc bi ai, chẳng hạn như “Tiếng kèn hưu chiến” và “Thơ em tới nhưng trễ mất rồi”, toàn là những điệu hoài cảm dễ khiến những kẻ chưa hề biết khóc vì đau khổ thật sự cũng rơi nước mắt .

Trong khi chiếc xe tiếp tục lăn bánh trên con đường lầy lội, Scarlett hỏi không ngớt miệng và bác Peter luôn luôn trả lời với ngọn roi chỉ trỏ đó đây, hãnh diện phô bày sự hiểu biết của mình .

− Đó là công binh xưởng, vâng, thưa bà, ở đó mới có súng . Không, thưa bà, đó không phải là tiệm buôn mà là các văn phòng coi về việc phong tỏa . Coi nào, bà Scarlett, bà biết đó là cái gì không? Đó là chỗ mấy người ngoại quốc tới mua bông vải của mình rồi từ Charleston và Wilmington đem bán ra ngoài và chở trở về với thuốc súng . Không, thưa bà, tôi không rõ họ là người nước nào . Cô Pitty nói họ là người Ái nhĩ lan nhưng không ai biết họ nói gì . Đúng đó, thưa bà, khói dữ quá và làm hư hết mấy tấm màn tơ của cô Pitty. Khói đó là của lò đúc và xưởng cán kim khí . Trời, ban đêm nó kêu ầm ầm ! Không ai ngủ được . Không được đâu, tôi không thể dừng xe để cho bà xem đâu. Tôi đã hứa với cô Pitty là sẽ đưa thẳng bà về nhà … bà Scarlett, bà chào người ta đi ! Đó là hai bà Merriwether và bà Elsing. Người ta đang chào bà đó .

Scarlett mơ hồ nhớ có hai bà mang tên đó đã từ Atlanta tới Tara dự lễ cưới của nàng và họ đều là bạn thân của cô Pittypat. Nàng mau mắn quay người lại cúi chào . Hai bà đang ngồi trên một tiệm hàng vải . Chủ tiệm và hai nhân công đang đứng trên lề đường trình bày một lô xấp hàng ôm trên tay. Bà Merriwether người cao lớn và mập mạp, đã siết thắt đai yếm quá độ đến nỗi ngực bà nhô ra trông chẳng khác mũi tàu . Tóc đã xám như màu sắt bà lại còn quấn thêm vào một cuộc tóc giỏ màu nâu, bất cần để ý đến chuyện hai sắc tóc đối chọi nhau kỳ dị . Khuôn mặt tròn trịa hồng hào của bà biểu lộ tánh tình chất phác, lanh lợi, đồng thời cũng phản ảnh thói hay sai khiến . Bà Elsing còn trẻ hơn, vóc người mảnh khảnh, đã một thời là hoa khôi, vẫn giữ được đôi chút tươi mát còn sót lại với dáng điệu kiểu cách thanh lịch .

Hai bà này và một bà khác mang tên Whiting đều là những trụ cột của Atlanta. Họ cai quản ba ngôi giáo đường, trông coi luôn các hàng tu sĩ, các ca đoàn và những người trong giáo khu. Họ tổ chức những buổi lễ phước thiện và chủ tọa các hội may vá, điều khiển các cuộc dạ vũ và những buổi ăn ngoài trời . Họ lại còn phân định đám nào xứng đôi vừa lứa, đám nào không, họ cũng biết kẻ nào đã lén lút uống rượu, những ai sắp có con và tới lúc nào mới đi sanh. Họ là những người biết rõ từng chi tiết về phổ hệ của mọi gia đình ở Georgia, Nam Carolina và Virginia, và bất cần để ý tới các người ở những tiểu bang khác vì cho rằng ngoài ba nơi vừa kể, chẳng còn một chỗ nào có được một ai xứng đáng . Họ kiêm luôn cả việc nhận định thế nào là hạnh kiểm đáng khen và thế nào là những hành vi xấu . Điều đáng nói là họ chẳng bao giờ quên phát biểu ý kiến riêng, tự cho đó là mực thước … bà Merriwether thì lúc nào cũng rống to, bà Elsing thì bằng một giọng kiểu cách lê thê còn bà Whiting thì cứ như thì thầm một cách chán chường, ra điều mình không mấy thích nói tới những chuyện đó . Cả ba bà đều ghét nhau và không bao giờ tin cậy lẫn nhau y hệt tình trạng của các chấp chánh quan trọng tổ chức Tam Đầu Chế đầu tiên ở La mã, và sự liên kết của họ có lẽ cũng vì nguyên do đó .

Bà Merriwether mỉm cười:

− Tôi đã nói với Pitty là tôi sẽ mượn cháu vào làm việc trong bịnh viện của tôi. Nhớ đừng có hứa với bà Meade hay bà Whiting!

− Thưa, không đâu.

Scarlett trả lời, chẳng nghĩ gì tới ý nghĩa câu nói của bà Merriwether mà chỉ cảm thấy ấm áp vì được săn đón và mời mọc .

Nàng nói tiếp:

− Rất mong được gặp lại bà .

Xe tiếp tục lăn bánh và phải ngừng lại một lúc để nhường chỗ cho hai phụ nữ tay ôm những thúng đựng đầy băng cứu thương dò từng bước một đi qua trên con đường lài trơn trợt . Đúng ngay lúc đó, Scarlett bỗng chú ý đến một người mặc y phục rực rỡ trên lề đường – quá rực rỡ để mặc đi ngoài phố – với chiếc khăn choàng loại nỉ mềm mại Tô cách lan dài chấm gót . Quay đầu lại, nàng nhận ra đó là một thiếu phụ cao lớn, khá đẹp với khuôn mặt dạn dĩ và mái tóc đỏ chói, quá đỏ để có thể tin là màu tóc thật . Đây là lần thứ nhứt nàng nhìn tận mắt một người đàn bà chắc chắn đã có “làm một cái gì trên tóc” và nàng nhìn ả ta một cách mê mẩn . Nàng thì thầm hỏi:

− Bác Peter, ai vậy ?

− Tôi không biết .

− Bác biết mà . Ai vậy ?

− Tên là Belle Watling.

Peter vừa đáp vừa xệ môi dưới xuống . Scarlett hiểu ra ngay vì bác ta không nói tới tiếng “cô” hay “bà” để nói về người đó .

− Nhưng là ai mới được ?

Peter sầm mặt, quất roi lên mình ngựa:

− Bà Scarlett, cô Pitty không thích bà đặt những câu hỏi không dính líu gì tới bà . Ở đây bây giờ có không biết bao nhiêu người không cần phải nói tới .

“Trời đất!” Scarlett im lìm nghĩ “chắc là một phụ nữ đồi trụy”.

Nàng chưa hề nhìn thấy một người đàn bà đồi truỵ nào cả nên ngoái đầu nhìn theo cho tới khi ả kia khuất dạng trong đám đông.

Các gian hàng và cơ sở quân sự lúc này đã ở cách nhau rời rạc, con đường còn nhiều thửa đất trống hai bên. Cuối cùng, khu thương mãi đã lùi lại phía sau và khu tư gia hiện ra trước mắt . Scarlett nhận ra những ngôi nhà quen thuộc, nhà của Leyden – bệ vệ oai nghiêm, nhà họ Bonnell với những chiếc cột trắng và cửa lá sách xanh, nhà của gia đình Mac Lure xây bằng gạch đỏ luôn luôn kín cửa sau hàng giậu hoàng dương. Xe phải đi chậm lại vì có nhiều người gọi Scarlett từ các mái hiên, từ các khu vườn và cả những người trên lề đường cũng chào hỏi nàng . Trong số những người đó có một ít nàng quen biết sơ sài, một số chỉ mang máng nhớ ra, còn phần lớn đều xa lạ . Vậy là cô Pittypat đã loan báo cùng khắp về chuyện nàng tới Atlanta. Nàng phải lần lượt trao thằng bé cho hết bà này tới bà khác . Họ đã không ngần ngại giẫm bừa vào bùn tới tận xe nàng để ôm lấy thằng bé, khen ngợi và hôn hít . Tất cả đều đòi hỏi nàng phải gia nhập các hội may vá, đan thêu và các uỷ ban bịnh viện của họ, nhứt là không được hứa với bất cứ ai. Thế là nàng phải hứa bừa với từng người .

Khi họ đi qua một ngôi nhà tường xanh, lợp ngói, một con nhỏ da đen đang đứng canh chừng trên thềm la lên: “Bà ấy tới rồi” thì bác sĩ Meade cùng vợ và đứa con trai Phil, mười ba tuổi chạy ra chào hỏi rối rít . Scarlett nhớ là họ đã có dự hôn lễ của nàng . Bà Meade leo đứng lên đòn xe của xe bà nghểnh cổ để nhìn rõ đứa con nàng . Phần bác sĩ Meade ông chẳng ngại bùn lầy, lội ra đến tận xe Scarlett. Ông hơi cao và gầy, chòm râu nhọn ở càm xám như màu sắt, quần áo rộng thùng thình bay phần phật giống như chúng vừa bị một cơn gió thổi mắc vào người ông. Atlanta xem ông như nguồn gốc của một sức mạnh và cẩn trọng, bởi thế chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi ông thu phục được lòng tin của họ . Nhưng mặc dầu có thói quen hay tiên đoán và hay tự phụ, ông vẫn là người xứng đáng của thành phố .

Sau khi bắt tay Scarlett và khều vào bụng Wade, khen ngợi nó, bác sĩ báo cho nàng biết cô Pittypat thề sẽ không để cho nàng phục vụ ở dưỡng đường hay hội quấn băng nào khác ngoài hội của bà Meade. Scarlett kêu lên:

− Chết chưa, tôi đã lỡ hứa với cả ngàn bà khác!

Bà Meade bất bình:

− Vậy là bà Merriwether lại xen vào . Tồi quá! Chắc chắn là bà ấy đứng đợi từ chuyến xe lửa tới .

Scarlett thú nhận:

− Tôi đã hứa vì chẳng có ý niệm gì về những chuyện đó . Mà uỷ ban bịnh viện là cái gì vậy ?

Hai vợ chồng bác sĩ hơi ngượng vì sự dốt của nàng . Bà Meade giải thích:

− Cháu cứ mãi sống ở đồng quê dĩ nhiên là không biết được . Chúng ta đã thành lập nhiều hội nữ điều dưỡng cho các dưỡng đường và hoạt động vào những ngày khác nhau. Chúng ta săn sóc thương binh, giúp đỡ bác sĩ cuộn băng, giặt quần áo và khi thương binh đã đủ sức xuất viện, chúng ta sẽ mang họ về nhà riêng để tĩnh dưỡng cho đến khi nào họ có thể trở về đơn vị được . Chúng ta còn phải chăm sóc vợ con của những thương binh nghèo khổ … phải nói là bần cùng mới đúng . Ông Meade làm việc ở y viện, nơi ủy hội của tôi đang hoạt động, ai cũng nói ông là một bàn tay mầu nhiệm và …

Bác sĩ Meade âu yếm ngắt lời vợ:

− Đó … thôi bà! Đừng nên đem tôi ra khoe khoang trước mặt người khác chớ . Tôi có làm gì đáng kể đâu, bởi vì bà không chịu cho tôi ra mặt trận mà .

Bà Meade giẫy nẩy:

− Không để ông đi! Ông đổ cho tôi hả ? Cả thành phố không chịu để ông đi chớ có phải tôi đâu, ông biết mà . Cháu Scarlett nghĩ coi, khi hay tin ông muốn đi Virginia làm quân y sĩ giải phẫu, các bà đều ký tên vào một thỉnh nguyện thơ, yêu cầu ông ở lại . Dĩ nhiên là thành phố này không thể làm được việc gì nếu chẳng có ông.

Bác sĩ lại ngắt lời, hiển nhiên xúc động bởi lời ca tụng của vợ:

− Nữa, bà lại nói vậy . Có lẽ đã có một thằng con ra trận là cũng đủ rồi .

Thằng bé Phil la lên, tràn trề hy vọng:

− Năm tới con cũng đi! Con sẽ giữ trống . Con biết cách đánh trống rồi . Ba má muốn nghe con đánh trống không? Để con lấy trống ra.

− Không, bây giờ chưa được, năm tới cũng vậy nữa, con! Có lẽ phải tới năm kia.

Bà Meade kéo con vào lòng, mặt chợt hiện nét lo âu. Phil đẩy bà ra:

− Đợi tới đó thì hết chiến tranh rồi còn gì . Má đã hứa với con mà .

Scarlett nhận thấy cả hai ông bà nhìn nhau lo ngại . Darcey Meade đang chiến đấu ở Virginia, bởi thế họ càng cố giữ đứa con trai duy nhứt còn lại .
Bác Peter hắng giọng:

− Cô Pitty không được khỏe lúc tôi đi, nếu tôi không về sớm, chắc cô ấy lại ngất .

Bà Meade chào:

− Tạm biệt cháu, chiều nay tôi sẽ đến thăm, cháu nhớ nói dùm với Pitty là nếu cháu không gia nhập ủy hội của tôi, bà ấy sẽ khổ với tôi đó .

Cổ xe vọt tới và lướt đi trên con đường trơn trợt . Scarlett dựa vào nệm mỉm cười . Lần đầu trong mấy tháng nay, nàng mới thật sự cảm thấy dễ chịu . Với số dân đông đúc, nhộn nhịp và làn sóng khích động ngấm ngầm, Atlanta thật là thú vị, sôi động và xinh đẹp hơn vùng đồn điền heo hút của Charleston, nơi đêm đêm chỉ nghe có tiếng cá sấu, nơi suốt ngày chỉ quanh quẩn mộng mơ trong những khu vườn có tường cao vây kín . Atlanta cũng có nhiều sinh khí hơn Savannah, nơi chỉ có những con đường rộng thênh thang, hai bên toàn là dừa với con rạch bùn lầy bên cạnh . Phải, ngay lúc này nó còn đẹp hơn cả Tara, cho dầu Tara đã chiếm một địa vị quan trọng đối với nàng cũng vậy .

Có một cái gì phấn khởi bao trùm thành phố với những con đường bùn lầy chật chội, những ngọn đồi trọc đất đỏ bao quanh, một cái gì non nớt và thô bạo như bản chất thô bạo và non nớt của nàng được che phủ bởi lớp vỏ dịu dàng mà Mammy và Ellen đã cố tạo ra. Đột nhiên nàng nhận ra, đây chính là nơi nàng mong mỏi, không trầm lặng êm ả như tánh chất của những thành phố cũ buồn tẻ bên cạnh những dòng sông nước đục ngầu .

Nhà cửa lần lần thưa thớt hơn. Scarlett nghiêng đầu ra nhìn ngôi nhà gạch đỏ, mái lợp đá đen của cô Pittypat. Gần như đây là ngôi nhà cuối cùng ở về phía Bắc thành phố . Xa hơn nữa, con đường Cây Đào thu hẹp lần và quanh co dưới những tàng cây khổng lồ, rồi mất hút trong khu rừng dầy bịt, im lìm . Hàng rào cây vừa được sơn trắng và sân trước lốm đốm vàng với những đóa hoa trường thọ cuối mùa .

Trên thềm đã có hai người đàn bà mặc đồ đen đứng đợi, phía sau là một người đàn bà mập mạp màu da vàng ẻo đang nhe răng cười, hai tay thọc vào trong chiếc khăn. Cô Pittypat béo tròn cứ lắc la lắc lư trên đôi chân bé xíu, một bàn tay đè trên ngực để trấn áp nhịp tim đang đập rộn . Nhìn thấy Melanie đang đứng bên cạnh cô, Scarlett ghê tởm nghĩ chính con bé gầy gò trong bộ tang phục kia sẽ là chướng ngại của nàng ở Atlanta này . Nàng cũng nhận thấy mấy lọn tóc đen lơ thơ của Melanie đã được vén lên cao gọn gàng, đúng tư cách của người đã có chồng và đón tiếp nàng với một nụ cười âu yếm, nét sung sướng hiện rõ trên khuôn mặt hình trái tim.

oOo

Khi một người miền Nam chịu khó sắp xếp hành lý và đã đi khoảng hai mươi dặm để thăm ai, cuộc viếng thăm ấy ít khi ngắn hơn một tháng, thường thì lâu hơn. Người miền Nam rất thích được làm khách và đãi khách . Không hiếm người thăm bà con vào dịp Giáng sinh thường ở nán lại cho tới tháng bảy . Những cặp vợ chồng mới cưới đi hưởng tuần trăng mật, có khi kéo dài thời gian cư trú nơi họ thích cho đến khi đứa con thứ hai của họ ra đời . Thường thường những bà cô, ông bác già đến chơi nhà con cháu vào một chúa nhựt nào đó đã ở lại luôn vài năm sau cho đến khi người ta đưa họ xuống mồ . Chuyện khách khứa không thành vấn đề ở miền Nam. Hầu hết nhà cửa đều quá rộng lớn, gia nhân đông và việc nuôi thêm nhiều miệng ăn chỉ là việc thứ yếu trong miền đất sung túc này . Bất cứ ở tuổi nào, phái nào, ai ai cũng có thể đi thăm viếng, chẳng hạn như những cặp vợ chồng hưởng tuần trăng mật, các bà mẹ trẻ đi khoe con mới sanh, người đang dưỡng bịnh, những kẻ mồ côi, các cô gái mà cha mẹ muốn cho xa lánh những cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối, các thiếu nữ đã gần tới tuổi ế chồng nguy hiểm và hy vọng tìm được một hôn phu xứng đáng nhờ sự mai mối của họ hàng nơi khác . Khách khứa làm sôi động và biến đổi nhịp sống đều đều của miền Nam cho nên tất cả đều được tiếp đón niềm nở .

Do đó, Scarlett đến Atlanta mà không biết rằng mình sẽ nấn ná lại bao lâu. Nếu chuyện viếng thăm của nàng cũng tẻ nhạt như ở Savannah và Charleston, có lẽ nàng sẽ trở về sau một tháng . Nếu được hài lòng, nàng có thể ở lại một thời gian vô định . Nhưng chưa được bao lâu, cô Pitty và Melanie đều cùng khuyên Scarlett hãy ở lại luôn với họ . Họ viện nhiều lý do có thể chấp nhận được . Họ muốn ở gần nàng vì họ thương yêu nàng . Họ cô độc và luôn luôn hồi hộp lo âu trong căn nhà rộng lớn này trong khi Scarlett thừa dạn dĩ để làm cho họ bớt sợ hơn. Vả lại, nàng cũng rất duyên dáng đủ để an ủi sự phiền muộn của họ . Hiện thời Charles đã chết, chỗ của nàng và con nàng phải là gia quyến Charles. Hơn nữa, theo di chúc của Charles, phân nửa ngôi nhà này thuộc về nàng . Lý do sau cùng là Liên bang miền Nam cần tới những bàn tay để may vá, đan thêu, quấn băng và săn sóc thương binh.

Chú của Charles, ông Henry Hamilton, sống độc thân trong khách sạn Atlanta gần nhà ga cũng nghiêm trang bàn với Scarlett về vấn đề này . Chú Henry thấp bé, bụng to là một ông già khó tính, mặt hồng hào, tóc để dài trắng phếu . Chú thường gắt gỏng với những người đàn bà nhút nhát hay nói nhảm . Đó là lý do khiến chú ít khi nói chuyện với em gái, cô Pittypat. Từ nhỏ, họ đã hoàn toàn bất đồng về tánh khí và càng ngày họ càng mất thêm thiện cảm với nhau bởi những lời phản đối của ông về cách giáo dục Charles của cô Pittypat. Có lần ông chú nói toạc ra:

− Biến đứa con trai của một chiến sĩ thành một thằng lại cái mà coi được à ?

Mấy năm trước, chú không ngớt mắng chửi cô Pitty cho đến nỗi tới ngày nay cô chẳng bao giờ nói gì về chú, ngoài những lời thì thầm kín đáo đủ khiến cho một người lạ có thể nghĩ rằng vị luật sư khả kính kia chính là một kẻ sát nhân. Chuyện đó xảy ra một hôm khi cô Pitty muốn rút năm trăm đô-la trong phần gia tài của cô do chú giữ để hùn vào một mỏ vàng chưa thành hình . Chú Henry từ chối, giận dữ mắng là đầu óc cô không hơn gì đầu óc của một con bọ . Chú lại còn nói thẳng ra là không thể nào chịu nổi khi ngồi gần cô năm phút . Kể từ ngày đó, cô chỉ gặp chú mỗi tháng một lần, khi bác Peter chở cô đến văn phòng của chú để lấy tiền chi dụng trong nhà .

Sau những lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy, cô Pitty thường hay nằm luôn cả ngày trên giường để khóc và hít thuốc khỏe . Melanie và Charles rất thuận thảo với chú, thường đề nghị để họ đứng ra dàn xếp mối gay cấn đó nhưng cô Pitty luôn luôn mím chặt cái miệng trẻ con của cô và từ khước . Henry là nỗi khổ của cô và cô muốn tự gánh lấy . Từ đó, Melanie và Charles khám phá rằng cô của họ cảm thấy hài lòng thật sự về những cảm xúc thỉnh thoảng có một lần, bởi vì đó là những xúc động duy nhứt trong cuộc sống quá bình lặng của cô.

Chú Henry thích Scarlett ngay vì theo lời ông, ông có thể nhận thấy bên trong cái kiểu cách ngớ ngẩn, nàng còn có một ít thông minh. Không những ông quản thủ tài sản của Pitty và Melanie mà còn luôn cả tài sản của Scarlett do Charles để lại . Scarlett hết sức ngạc nhiên khi biết mình là một thiếu phụ khá giả vì chẳng những Charles đã để lại cho nàng một nửa ngôi nhà của cô Pitty mà còn một số đất nông trại và bất động sản trong thành phố nữa . Thêm vào đó là những kho hàng và cửa tiệm dọc theo đường xe lửa, gần nhà ga, một phần thuộc về quyền thừa kế của nàng . Từ ngày có chiến tranh trị giá của những thứ đó đã gia tăng gấp ba lần . Khi chú Henry giao cho nàng bảng kết toán di sản, ông bàn luôn với nàng về chuyện ở luôn lại Atlanta. Ông nói:

− Khi Wade Hampton trưởng thành, nó sẽ là một thanh niên giàu có . Cứ theo cái đà phát triển của Atlanta hiện nay, tài sản của nó sẽ có giá trị mười lần hơn trong hai mươi năm tới . Và chẳng còn gì đúng hơn việc một đứa bé được nuôi dưỡng ngay nơi có tài sản của nó, vì nó cần phải học cách chăm sóc sản nghiệp của mình … ừ luôn cả gia tài của Pitty và Melanie nữa . Nó sẽ là người đàn ông độc nhứt mang họ Hamilton ở đây… chú chẳng còn sống được bao lâu nữa .

Về phần bác Peter, bác coi chuyện Scarlett ở luôn lại là chuyện tất nhiên. Bác không nghĩ tới việc đứa con duy nhứt của Charles có thể được nuôi nấng và dạy dỗ ở một nơi nào khác mà không có sự chăm sóc của bác . Trước những lý lẽ đó, Scarlett chỉ cười chớ không nói gì cả . Nàng không muốn hứa hẹn điều gì trước khi tìm hiểu xem mình có thể thích Atlanta và hòa hợp được với chị chồng hay không. Nàng cũng biết là cần phải có sự ưng thuận của Ellen và cả Gerald nữa . Hơn thế nữa bây giờ nàng đã xa lìa Tara, nàng cảm thấy nhớ kinh khủng, nhớ cánh đồng đất đỏ và những đọt lá non bông vải xanh rì, cùng những buổi chiều tàn êm đềm và yên tĩnh . Lần đầu tiên, nàng ý thức được một cách lờ mờ về ý nghĩa lời nói của cha khi ông bảo rằng trong huyết quản của nàng đã có sẵn tình yêu đất .

Bởi thế nàng lịch sự tránh né những câu trả lời xác định về thời hạn lưu ngụ trong chuyến thăm viếng này và làm quen một cách dễ dàng với đời sống trong ngôi nhà gạch đỏ ở cuối đường Cây Đào yên tĩnh đó .

Sống chung với thân quyến của Charles, nhìn thấy nơi đã đào tạo nên anh, Scarlett mới hiểu được phần nào về người con trai đã biến nàng thành đàn bà, thành góa phụ rồi sau đó là một bà mẹ trong một thời gian nhanh chóng . Nàng cũng dễ dàng nhận ra tại sao Charles lại quá rụt rè, quá ngây thơ và thiếu thực tế như vậy . Nếu Charles đã thừa hưởng ở người cha chiến sĩ dòng máu nghiêm nghị, dũng cảm và nóng nảy, thì cũng ngay từ lúc nhỏ dòng máu anh hùng đó đã bị tẩy sạch bởi cái không khí đàn bà mà anh đã sống và lớn lên trong đó . Anh đã hết lòng với cô Pitty tánh còn trẻ con, anh gần gũi với Melanie hơn mấy người anh. Đối với Charles đó là hai người đàn bà dịu dàng nhứt trên đời .

Sáu mươi năm trước, cô Pitty đã được chào đời với cái tên là Sarah Jane Hamilton, nhưng từ ngày người cha thân yêu của cô đã đeo dính cho cô cái hiệu Pitty ấy, vì cái điệu bộ lăng xăng hiếu động của cô trên đôi chân quá nhỏ, đến nay chẳng ai còn gọi cô tên nào khác nữa . Những năm sau lần đặt tên thứ hai đó, đã có nhiều thay đổi xảy ra khiến cho các biệt danh ấy trở nên không còn thích hợp nữa . Lúc nhỏ cô đi đứng mau lẹ nhưng đến bây giờ cô chỉ còn giữ lại hai bàn chân quá nhỏ, không cân xứng với sức nặng của cô, lại còn cái tật hay nói trăng nói cuội như trẻ con. Người đẩy đà, má hồng hào và tóc bạc trắng, cô luôn luôn như nghẹn thở vì siết quá chặt dây áo nịt . Cô không thể bước xa hơn một dãy nhà trên đôi chân bé nhỏ nhét chật cứng trong đôi giày cũng quá nhỏ . Hơi xúc động một chút là tim cô đập loạn lên, nhưng cô lại thích vậy và chẳng chút xấu hổ nào, cho nên cô cứ ngã ra bất tĩnh, bất luận bởi sự khích động nào .

Mọi người đều biết mấy vụ ngất xỉu của cô chỉ là những giả vờ của các bà quí phái, nhưng họ cũng mến cô nên chẳng nói ra. Tất cả đều mến cô và xử sự với cô như với một đứa bé – chỉ trừ một người và người đó là Henry – anh của cô.

Cô thích nói lăng nhăng hơn là những chuyện bàn tán cũng khá thích thú trong bữa ăn. Cô có thể nói tía lia hàng giờ một cách vô hại về chuyện của những người khác, cô cũng không nhớ tên tuổi, ngày tháng hay nơi chốn của việc gì hay của ai, và thường lẫn lộn các danh tánh của tài tử ở Atlanta với một nơi khác, và điều đó cũng chẳng khiến ai phải bận tâm. Không một ai muốn nói chuyện gì có vẻ khích động hoặc bêu riếu với cô, bởi vì cuộc sống gái già của cô cần phải được bảo vệ mặc dầu cô đã tới tuổi lục tuần, và những bạn bè của cô đều vui vẻ ngấm ngầm là cứ coi cô như một đứa bé được nuông chiều .

Melanie giống cô trên nhiều phương diện . Nàng cũng nhút nhát, dễ thẹn thùng và quá khiêm nhường như cô. Tuy nhiên, nàng vẫn có một khiếu nhận thức riêng. Scarlett bất đắc dĩ nhìn nhận “Trên phương diện nào đó mình không thể coi thường chị ta”. Cũng như cô Pitty, nét mặt của Melanie vẫn là của một đứa trẻ chẳng bao giờ chạm trán những gì khác hơn là cái tâm hồn mộc mạc và khoan thứ, sự thật và tình thương – một đứa bé chẳng bao giờ nhìn thấy những chuyện tàn nhẫn, đồi hoại và cho dầu có chứng kiến đi nữa, đứa bé đó cũng chẳng nhận ra như thế . Lúc nào cũng cảm thấy tràn trề hạnh phúc, Melanie muốn cho mọi người chung quanh đều có hạnh phúc, hay ít lắm là cũng bằng lòng với số phận của họ Trong chiều hướng đó, nàng luôn luôn thấy cái hoàn thiện ở mọi người . Nơi một con ở đần độn mấy nàng cũng có thể tìm thấy một chút gì trung thành và dễ thương, nơi một cô gái xấu xí và khó chịu đến đâu, nàng cũng tìm được vài nét duyên dáng hay thanh nhã và ở một người đàn ông vô dụng hay gắt gỏng, nàng cũng thấy được những điều tốt mà họ có thể thực hiện được hơn là những gì kẻ ấy đang làm .

Vì những đức tính chân thành và tự nhiên xuất phát từ tấm lòng quảng đại đó mà ai cũng đến với nàng . Còn ai có thể cưỡng lại được sự mê hoặc của một người chỉ tìm thấy ở kẻ khác những tánh tình đáng phục mà ngay họ cũng không dám mơ ước ? Nàng có thật nhiều bạn trai và bạn gái hơn bất cứ ai trong thành phố, nhưng nàng chỉ được rất ít người si mê vì chẳng có lấy một chút ương ngạnh hoặc ích kỷ nào để có thể mê hoặc đàn ông.

Những gì Melanie đã làm không ngoài những điều mà các cô gái miền Nam đã được dạy bảo để làm cho những người chung quanh họ cảm thấy thoải mái và thích thú hơn. Đó là một sự toa rập đáng yêu của nữ giới làm cho xã hội miền Nam trở nên thú vị . Phụ nữ miền Nam biết rằng một vùng đất mà đàn ông đã binh vực, đã hài lòng và đã được sống an toàn trong lớp vỏ tự phụ không hề bị chỉ trích của họ thì đó cũng là nơi mà đàn bà cho là đáng sống . Vì từ lúc ra đời cho tới khi xuống mộ nữ giới luôn cố gắng làm cho nam giới thỏa mãn lòng tự ái của họ, và những người đàn ông được thỏa mãn đó có bổn phận đền đáp bằng cách ngưỡng mộ đàn bà nhiều hơn. Thật vậy, đàn ông sẵn sàng trao cho đàn bà tất cả, ngoại trừ óc thông minh. Scarlett đã học tập cách làm ra duyên dáng cũng như Melanie, nhưng thiếu chăm chú và thiếu hoàn bị hơn. Cái khác biệt giữa Melanie và Scarlett nằm trong sự kiện Melanie nói năng hòa nhã, và tâng bốc mọi người để làm họ hài lòng, dầu trong chốc lát, còn Scarlett thì chẳng bao giờ như vậy được trừ phi đã có sẵn ý định chiếm đoạt mục đích riêng.

Từ hai con người mà Charles yêu mến nhứt đời đó, anh chẳng đã nhận được một ảnh hưởng quả cảm nào, không học hỏi được gì về sự tàn nhẫn hay thực tế của đời, và ngôi nhà mà anh đã sống cho tới tuổi trưởng thành thật quá êm đềm như một tổ chim. Nó hoàn toàn yên tĩnh, cũ kỹ và êm dịu quá so với Tara. Đối với Scarlett ngôi nhà này hãy còn thiếu mùi rượu mạnh ở đàn ông, mùi thuốc lá và mùi dầu Macassar; thiếu những giọng ồ ề, những tiếng chửi rủa; thiếu những cây súng, những bộ râu, yên cương ngựa và lũ chó săn lẩn quẩn bên chân. Nàng thấy nhớ những tiếng cãi lẫy, gây gổ nhau khi Ellen vừa quay lưng đi: Mammy gây với Pork, Rosa cãi với Teena, những cuộc đấu khẩu gay gắt giữa nàng và Suellen, những lời nạt nộ của Gerald. Charles có cái vỏ ẻo lả như con gái cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên vì đã lớn lên trong một ngôi nhà như vậy . Ở đây không hề có một dấu hiệu sôi động nào, không một tiếng nói to, ai cũng muốn làm theo ý kiến của kẻ khác và rốt cuộc một người da đen độc đoán ở trong nhà bếp đã nắm giữ hết quyền hành . Scarlett tưởng rằng đã thoát được sự kềm chế của Mammy, bây giờ lại khổ sở hơn vì những tiêu chuẩn của bác Peter về lối sống của các bà quí phái, đặc biệt là “quả phụ Charles” còn nghiêm nhặt hơn cả Mammy.

Sống giữa những con người đó, Scarlett trở lại với con người thật của nàng, và gần như trước khi ý thức được điều đó, tâm hồn nàng đã trở lại bình thản . Nàng chỉ mới 17 tuổi, dồi dào sinh lực và ý chí, đã vậy, người nhà của Charles còn cố gắng làm cho nàng được sung sướng . Nếu họ chỉ đạt được một phần nhỏ thì đó không phải là lỗi của họ, bởi không ai có thể xoa dịu được cơn đau nhói ở tim nàng khi nghe nhắc đến tên Ashley, mà Melanie lại thường hay đề cập đến cái tên ấy! Nhưng Melanie và cô Pitty dường như không thối chí trong mục tiêu làm nguôi sự phiền muộn mà họ ngỡ là nàng đang gánh chịu . Họ đặt chuyện buồn phiền của họ một bên để làm nàng khuây khỏa . Họ lo lắng đến chuyện ăn uống, giấc ngủ trưa và giờ đi dạo bằng xe của nàng . Không những họ ngưỡng mộ nàng thái quá về tánh tình linh hoạt, về thân hình đều đặn, về chân tay xinh xắn và làn da trắng nõn của nàng, họ lại thường nâng niu, ôm ấp và hôn hít nàng để nhấn mạnh thêm những lời thương yêu của họ .

Scarlett không quan tâm đến những sự mơn trớn, nhưng nàng cũng thấy thích thú với những lời ca tụng . Không một ai ở Tara nói những lời khoan khoái như thế cả . Thật thế, Mammy chỉ dùng thì giờ của bà để ngăn trở quan điểm sống của nàng . Thằng bé Wade từ lâu không còn quấy rầy nàng nữa, vì cả gia đình, từ da trắng lẫn da đen cho đến láng giềng đều ưa thích và không ngớt tranh nhau bồng ẵm nó . Nhứt là Melanie lại quá nuông chiều nó . Ngay cả những lúc nó la hét chói tai, Melanie cũng cho rằng nó dễ thương và còn nói thêm:

− Cục cưng vàng ngọc của cô, ước gì cưng là của cô.

Đôi khi, Scarlett thấy khó mà giấu được cảm nghĩ của mình, vì nàng vẫn cứ coi cô Pitty như là một bà già đần độn, và tánh ngớ ngẩn cùng những chuyện tầm phào của cô cứ làm cho nàng bực dọc . Với Melanie, lòng ghen ghét của nàng càng gia tăng . Nhiều lúc nàng đột ngột ra khỏi phòng trong khi Melanie mắt sáng ngời vì hãnh diện nói về Ashley hay đọc to những lá thơ của chàng . Nhưng dầu sao, đời sống cũng đã trở nên thoải mái phần nào . Atlanta thú vị hơn Savannah hay Charleston, hoặc Tara. Nó đem tới cho nàng nhiều bận rộn kỳ lạ trong tình trạng chiến tranh đến nỗi nàng ít có thì giờ để nghĩ ngợi hoặc buồn phiền . Tuy nhiên lắm lúc sau khi đã tắt đèn cầy và vùi đầu trong gối, nàng thường thở dài và nghĩ vẩn vơ:

“Phải chi Ashley chưa cưới vợ! Phải chi mình không làm nữ điều dưỡng trong cái nhà thương ôn dịch đó! Ồ, phải chi mình có được vài người theo tán tỉnh!”

Nàng ghê tởm nhiệm vụ nữ điều dưỡng ngay từ đầu, nhưng không thể nào tránh thoát bởi vì nàng có chân ở cả hai uỷ hội của bà Meade và Merriwether. Điều này có nghĩa là bốn ngày mỗi tuần, nàng phải làm việc trong nhà thương nóng bức và hôi hám, với mái tóc quấn cao gọn trong khăn và một chiếc yếm che từ cổ xuống chân. Những người có chồng dù trẻ hay già, đều phải làm nữ điều dưỡng . Họ làm phận sự với tất cả hăng say đến nỗi Scarlett cho đó là lòng cuồng tín . Họ cho rằng nàng cũng thâm nhiễm được lòng ái quốc nhiệt thành của họ, và họ sẽ kinh hoàng biết bao nếu biết được rằng Scarlett chẳng quan tâm mấy tới chiến tranh. Ngoại trừ sự đau đớn âm thầm vì việc Ashley có thể tử thương, nàng chẳng chú ý gì tới chiến tranh và phải làm nữ điều dưỡng chỉ vì nàng không biết làm sao từ chối được .

Việc săn sóc thương binh nhứt định là chẳng có gì thơ mộng cả . Với nàng, đó là những tiếng rên la, mê sảng, cái chết và mùi hôi tanh. Bịnh viện tràn ngập những người dơ bẩn, râu ria xồm xoàm, đầy chí rận hôi hám kinh khủng, mình đầy những vết thương ghê tởm đủ làm nôn mửa một tín đồ Thiên Chúa giáo . Các nhà thương đều dậy mùi hôi thối của chứng hoại thư, nó xông thẳng vào mũi nàng thật lâu trước khi nàng đi tới các cửa phòng, nó bám vào tay, vào tóc và ám ảnh nàng cả trong giấc mộng . Ruồi, nhặng và muỗi bay đua nhau vo ve quanh phòng bịnh tấn công tới tấp các bịnh nhân khiến họ chửi rủa ầm lên hoặc khóc thầm đau đớn . Scarlett vừa gãi những vết muỗi, vừa vung quạt lá đuổi ruồi cho đến lúc hai vai đau nhức . Và nàng rủa thầm sao họ không chết hết cả đi.

Melanie hình như không ngửi thấy mùi hôi tanh, không để ý đến những vết thương lở loét hay sự trần truồng của những thương binh. Scarlett thấy làm lạ tự hỏi, một người quá nhát nhúa và nết na như thế sao lại có thể như vậy được . Đôi lúc bưng bồn nước hoặc dụng cụ y khoa cho bác sĩ Meade cắt những lõm thịt thúi, mặt Melanie trắng bệch . Một lần, sau cuộc giải phẫu, Scarlett tìm thấy Melanie trong phòng chứa quần áo, nôn mửa lặng lẽ vào khăn. Nhưng lúc nào ở bên cạnh thương binh, Melanie vẫn khả ái, thật tế nhị và thường hay vỗ về họ . Tất cả thương binh đều gọi nàng là bà tiên nhân từ . Scarlett cũng thích tước hiệu đó, nhưng muốn vậy là phải nhúng tay vào những người lúc nhúc chí rận, phải sờ mó cổ họng những người đang mê thiếp để coi họ có nghẹt thở vì nuốt phải một mẩu thuốc lá hay không, băng bó những đoạn chân tay bị cưa hay bắt giòi trong những chỗ thịt lở loét . Không, nàng không thích làm nữ điều dưỡng chút nào . Nàng có thể cảm thấy dễ chịu hơn nếu được phép sử dụng vẻ duyên dáng của mình với những người vừa hồi phục, vì phần đông họ đều dễ nhìn và là con nhà danh giá, nhưng nàng lại không được cho làm ở đó vì tình trạng góa bụa . Các thiếu nữ quí phái trong thành phố không được làm nữ điều dưỡng vì người ta sợ họ chứng kiến những cảnh không xứng đáng với đôi mắt nguyên trinh của họ . Vì vậy họ được phó thác việc coi sóc những người vừa mới hồi phục sức khỏe . Không chồng mà cũng không phải góa bụa, họ hoàn toàn tự do, mặc sức chọc phá những người này . Ngay cả những cô kém duyên dáng nhứt, Scarlett buồn bã nhận thấy, cũng dễ dàng tìm được một anh chàng nào đó để đính hôn.

Ngoài sự hiện diện của những kẻ thiếu hy vọng cứu chữa hoặc bị thương nặng, Scarlett chỉ hoàn toàn sống trong thế giới đàn bà, càng làm cho nàng bực bội hơn bởi vì chẳng những không tin tưởng vào nữ phái, nàng lại luôn luôn khó chịu khi phải chung đụng với người cùng phái . Nhưng cứ ba chiều một tuần, nàng phải tới hội may vá và cuộn băng do thân hữu của Melanie tổ chức . Các cô gái hầu hết đều biết Charles, nên rất ân cần và niềm nở với nàng, đặc biệt là Fanny Elsing và Maybelle Merriwether, ái nữ của hai quả phụ quí tộc trong thành phố . Nhưng được họ kính mến nhiều nàng có cảm tưởng bị loại vào hạng già nua sắp bị phế thải . Họ không ngớt bàn về những buổi khiêu vũ, về những kẻ si mê họ khiến nàng vừa ghen tức hạnh phúc của họ vừa phẫn uất tình trạng góa bụa của mình đã không cho nàng được làm gì nữa cả . Ồ! Mình đẹp gấp ba lần Fanny và Maybelle! Ồ, tại sao cuộc đời cứ bất công! Tại sao mọi người đều cứ nghĩ rằng trái tim của mình đã được vùi xuống mồ trong khi sự thật nó đang ở Virginia với Ashley!
Nhưng mặc dầu có phải phiền muộn như vậy, nàng vẫn hài lòng về Atlanta. Và chuyến viếng thăm của nàng kéo dài từ tuần này sang tuần khác .