Ẩn giấu pho võ công thượng đẳng Cửu Âm Chân Kinh và bộ Võ Mục Di Thư lừng lẫy, Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao đã gây nên những cuộc tranh giành không hồi kết giữa các bang phái võ lâm. Người cần đao để trả thù, người lại muốn giương danh với thế nhân, kẻ tham vọng hiệu triệu cả thiên hạ.
Giữa lúc triều đình phong kiến Trung Hoa đang dần suy yếu, đất nước đứng trước nguy cơ xâm lược của người Mông Cổ, sứ mạng tái thiết trật tự được đặt vào tay những người thành tâm và hùng tâm mà Trương Vô Kỵ là nhân vật tiêu biểu. Vô Kỵ sẽ thống nhất các bang phái như thế nào để hiệp tâm đánh bại quân Mông Cổ? Bí quyết ẩn giấu trong hai báu vật sẽ giúp Vô Kỵ ra sao?
Hãy khám phá bí mật trong 40 hồi Ỷ Thiên Đồ Long Ký
Ẩn giấu pho võ công thượng đẳng Cửu Âm Chân Kinh và bộ Võ Mục Di Thư lừng lẫy, Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao đã gây nên những cuộc tranh giành không hồi kết giữa các bang phái võ lâm. Người cần đao để trả thù, người lại muốn giương danh với thế nhân, kẻ tham vọng hiệu triệu cả thiên hạ.
Giữa lúc triều đình phong kiến Trung Hoa đang dần suy yếu, đất nước đứng trước nguy cơ xâm lược của người Mông Cổ, sứ mạng tái thiết trật tự được đặt vào tay những người thành tâm và hùng tâm mà Trương Vô Kỵ là nhân vật tiêu biểu. Vô Kỵ sẽ thống nhất các bang phái như thế nào để hiệp tâm đánh bại quân Mông Cổ? Bí quyết ẩn giấu trong hai báu vật sẽ giúp Vô Kỵ ra sao?
Hãy khám phá bí mật trong 40 hồi Ỷ Thiên Đồ Long ký – một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, được được Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông. Ỷ Thiên Đồ Long ký cùng với các bộ tiểu thuyết Xạ điêu anh hùng truyện và Thần điêu hiệp lữ có nội dung nối tiếp nhau và được tác giả xếp thành bộ ba gọi là Xạ điêu tam bộ khúc.
Mùa xuân bao phủ đất trời. Tiết Thanh minh hoa lê nở rộ. Cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết. Đêm khuya thanh vắng, vầng trăng vừa tắm, sương lạnh dăng dăng. Trên trời dưới đất, ánh trăng dát bạc.
Thiếu nữ như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh. Gót sen nàng in dấu muôn nơi.
Đó là bài từ nhan đề “Vô tục niệm” của một bậc võ học danh gia thời Nam Tống, họ Khưu, tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử, một trong bảy vị Toàn Chân thất tử, một nhân vật xuất sắc của giáo phái Toàn Chân. Sách Từ phẩm bình phẩm rằng “Trường Xuân Tử được người đời coi là vị tiên, mà thi từ của vị tiên ấy cũng bất hủ như ngài”. Bài từ này ca ngợi hoa lê, thực ra là tán thưởng một bạch y thiếu nữ vô cùng diễm lệ, ví “như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh”. Mỹ nữ tuyệt trần ấy là Tiểu Long Nữ, truyền nhân phái Cổ Mộ. Nàng quanh năm vận bộ bạch y, trông chẳng khác gì “cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết”, cộng với thiên tính thanh khiết, y hệt “vầng trăng vừa tắm”, thật xứng với ba chữ “Vô tục niệm”. Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ là láng giềng của nàng trên núi Chung Nam, sau lần gặp gỡ ấy đã viết bài từ trên.
Giờ đây Khưu Xứ Cơ lánh về cõi hạc đã lâu, nàng Tiểu Long Nữ cũng đã kết duyên với Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Trên con đường rừng ở núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam lúc này có một thiếu nữ đang cúi đầu ngâm ngợi bài từ kia.
Thiếu nữ tuổi chừng đôi tám, vận bộ hoàng y, cưỡi con lừa xanh, đang thong thả đi lên núi, nghĩ thầm trong bụng: “Cũng chỉ có người như Long tỷ tỷ mới xứng với chàng”. Chữ “chàng” dĩ nhiên là chỉ Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Nàng cũng chẳng buồn cầm cương, cứ mặc cho con lừa xanh chở nàng đi. Khá lâu sau nàng lại ngâm nga: “Hoan lạc thú, ly biệt khổ, tựu trung chỉ có nhi nữ si tình. Chàng thử nói xem, chàng đang ở chân trời góc bể nào đây?”
Đoản kiếm bên lưng, sắc diện lộ vẻ phong trần, rõ ràng nàng viễn du đã lâu. Tuổi xuân như hoa, chính đang lúc hồn nhiên vô ưu, vậy mà sắc diện nàng lại phảng phất nỗi sầu muộn, đầu mày cuối mắt không thể che giấu được.
Thiếu nữ này họ Quách, đơn danh có một chữ Tương, là thứ nữ của đại hiệp Quách Tĩnh và nữ hiệp Hoàng Dung, có một ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà. Một lừa một kiếm, nàng chu du tha thẩn nơi này chốn nọ cho vơi nỗi sầu. Nào ngờ chốn danh sơn lẻ bóng chỉ càng thêm hiu quạnh, chẳng khác gì uống rượu quên sầu càng sầu thêm.
Thế núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam hiểm trở, nhưng sơn đạo lại khá rộng và được lát các bậc đá, quy mô đồ sộ, tốn bao sức người, dài tám dặm này, được mở ra để vua Cao Tông đời Đường ngự giá Thiếu Lâm tự. Con lừa xanh của Quách Tương cứ cắm cúi đi, chỉ thấy từ trên quả núi đối diện có năm thác nước nhỏ đổ xuống, tung tóe muôn ngàn hạt ngọc; xung quanh trập trùng đồi núi, nhìn xuống bên dưới, vạn vật đã nhỏ như đàn kiến. Qua một khúc quành, thấy xa xa hiện ra một tòa tự viện tường vàng ngói xanh vô cùng bề thế.
Nàng ngắm tòa đại tự một hồi, thầm nghĩ: “Thiếu Lâm tự vốn là nguồn gốc võ học của thiên hạ, nhưng hai phen luận kiếm ở Hoa Sơn, tại sao trong số Ngũ tuyệt hoàn toàn không thấy một vị cao tăng nào của Thiếu Lâm tự? Chẳng lẽ các vị hòa thượng Thiếu Lâm tự biết không nắm chắc phần thắng, sợ làm mất uy danh nên không dám phó hội? Hay họ dốc lòng tu luyện tinh thâm, võ công cái thế, nhưng không muốn tranh cường đồ thắng với người ngoài?”
Nàng xuống lừa, thong thả đi bộ tới trước chùa, chỉ thấy cây cối um tùm, có một dãy bia đá. Các tấm bia đã bị hủy hoại quá nửa, chữ khắc mờ đi không còn đọc nổi. Nàng nghĩ: “Chữ khắc vào bia đá sau bao năm tháng còn bị mờ đi; vậy mà sao những gì khắc trong tim ta thì cứ càng ngày lại càng sâu đậm?”
Trên một tấm bia lớn có khắc lời Đường Thái Tông khen ngợi tăng chúng Thiếu Lâm tự đã lập công giúp Đường Thái Tông dẹp loạn Vương Thế Sung. Khi Đường Thái Tông cất binh thảo phạt, các hòa thượng Thiếu Lâm tự đã đầu quân, trong đó mười ba vị lập công lớn. Nhưng chỉ có một hòa thượng là Đàm Tông nhận tước phong Đại tướng quân, còn mười hai vị kia không muốn làm quan. Đường Thái Tông bèn ban cho mỗi vị một tấm áo cà sa bằng lụa tía.
Quách Tương nghĩ thầm: “Thời Tùy – Đường, võ công của Thiếu Lâm tự đã vang danh thiên hạ, mấy trăm năm nay lại càng thêm tinh xảo, chùa này ngọa hổ tàng long, hẳn có không biết bao nhiêu cao thủ”.
Ba năm trước, Quách Tương chia tay với Dương Quá và Tiểu Long Nữ trên đỉnh Hoa Sơn, từ bấy đến nay nàng không nhận được tin tức gì về hai người ấy nữa. Nàng nhớ họ da diết, liền thưa với phụ mẫu, rằng nàng muốn đi du sơn ngoạn thủy; thực ra là để nghe ngóng tin tức của Dương Quá. Không nhất thiết nàng phải gặp gỡ phu phụ Dương Quá, chỉ cần hay tin họ hành hiệp như thế nào trên giang hồ là nàng đủ mãn nguyện rồi. Đằng này từ sau khi từ biệt, phu phụ Dương Quá không hề lộ diện trên giang hồ, chẳng biết họ ẩn cư chốn nào. Quách Tương đã đi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, cơ hồ đi quá nửa đất Trung nguyên mà không nghe chút phong thanh gì về Thần điêu đại hiệp.
Hôm nay tới Hà Nam, nàng chợt nhớ ở Thiếu Lâm tự có một vị hòa thượng là Vô Sắc thiền sư vốn là hảo hữu của Dương Quá, khi nàng tròn mười sáu tuổi, do nể tình Thần điêu đại hiệp, Vô Sắc thiền sư đã cho người mang quà đến mừng tặng nàng. Tuy đôi bên chưa diện kiến, nhưng nàng cứ thử tới thăm hỏi Vô Sắc thiền sư một phen, không chừng thiền sư biết được tung tích của Dương Quá cũng nên. Vậy là nàng tới Thiếu Lâm tự.
Đang lúc xuất thần, bỗng từ phía sau cánh rừng có hàng bia vọng tới tiếng xích sắt loảng xoảng, một người đang tụng niệm kinh Phật: “Thị thời dược xoa cộng vương lập yếu, tức ư vô lượng bách thiên vạn ức đại chúng chi trung, thuyết thắng diệu già tha viết: Do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược ly ư ái giả, vô ưu diệc vô bố”[1].
Quách Tương nghe mấy câu kệ đó, bất giác sững người, nghĩ thầm: “Vì ái tình mà sinh lo buồn, vì ái tình mà sinh sợ hãi; nếu từ bỏ ái tình, sẽ khỏi lo buồn cùng sợ hãi”. Tiếng xích sắt và tiếng tụng kinh xa dần.
Quách Tương nói nhỏ: “Ta phải hỏi người ấy làm thế nào mới từ bỏ được ái tình, làm thế nào mới khỏi lo buồn cùng sợ hãi?” Nàng bèn buộc con lừa vào một gốc cây, rồi vạch lá đuổi theo người kia. Chỉ thấy trên con đường mòn có một hòa thượng quẩy đôi thùng lớn, thong thả đi lên núi. Quách Tương rảo bước theo, khi còn cách vị hòa thượng bảy, tám trượng, thì nàng bất giác cả kinh – hóa ra đó là đôi thùng bằng sắt, to gấp đôi loại thùng gánh nước quen dùng; mà vị hòa thượng thì cổ, tay và chân đều bị tròng xích sắt to tướng, mỗi bước đi lại kéo dây kêu loảng xoảng. Riêng đôi thùng sắt đã nặng hai trăm cân lại đựng đầy nước, sức nặng thật kinh hồn. Quách Tương gọi: “Đại hòa thượng, xin dừng bước, tiểu nữ có điều cần thỉnh giáo!”
Vị hòa thượng kia ngoảnh đầu lại, hai người nhìn thấy nhau cùng ngạc nhiên. Thì ra vị hòa thượng chính là Giác Viễn. Ba năm trước, hai bên đã có duyên diện kiến trên đỉnh Hoa Sơn. Quách Tương biết vị hòa thượng này tuy tính nết cổ hủ, nhưng nội công thâm hậu không thua kém bất cứ cao thủ nào, bèn nói:
– Tưởng ai, hóa ra Giác Viễn đại sư. Tại sao đại sư lại đến nông nỗi này?
Giác Viễn gật đầu, mỉm cười, chắp tay hành lễ, không nói một lời, quay mình đi. Quách Tương gọi:
– Giác Viễn đại sư, đại sư không nhận ra tiểu nữ sao? Tiểu nữ là Quách Tương đây mà.
Giác Viễn quay đầu lại, mỉm cười gật đầu, song vẫn không dừng bước.
Quách Tương hỏi:
– Ai xiềng xích đại sư như thế? Tại sao người ta lại ngược đãi đại sư tới mức này chứ?
Giác Viễn giơ tay trái ra sau gáy xua xua ngụ ý nàng khỏi cần hỏi han.
Quách Tương thấy có chuyện kỳ quái như vậy, chưa rõ nguồn cơn, lẽ nào nàng chịu để yên? Nàng chạy vọt lên tính chắn đường Giác Viễn, ai ngờ Giác Viễn tuy toàn thân đầy xích sắt, lại phải gánh đôi thùng sắt cực nặng, song Quách Tương chạy nhanh mấy cũng không thể đuổi kịp. Tính tự ái trẻ con trỗi dậy, nàng bèn thi triển thuật khinh công gia truyền, hai chân lướt như bay trên mặt đất. Khi tới gần, nàng giơ tay định chụp lấy miệng thùng sắt, nào ngờ chụp hụt, bàn tay vẫn còn cách miệng thùng hai phân. Quách Tương nói:
– Bản lĩnh của đại sư quả lợi hại, tiểu nữ phải theo cho kịp mới được.
Chỉ thấy Giác Viễn cứ thế đi tiếp, tiếng xích sắt vang lên như tiếng nhạc, càng lúc càng lên cao, vang đến tận sau núi.
Quách Tương đuổi đã mệt, hơi thở hổn hển mà vẫn còn cách Giác Viễn hơn một trượng, bất giác thán phục thầm: “Hồi trên đỉnh Hoa Sơn, phụ mẫu ta có nói vị hòa thượng này nội công rất cao, ta không tin lắm. Hôm nay thử tài một chút, mới biết lời phụ mẫu ta quả nhiên chẳng sai chút nào”.
Chỉ thấy Giác Viễn quay mình rẽ vào một tiểu thất, đổ hai thùng nước vào một cái giếng. Quách Tương rất đỗi ngạc nhiên, liền hỏi:
– Đại sư có khùng hay không mà lại đi gánh nước đổ vào giếng chứ?
Giác Viễn sắc diện vẫn bình thản, chỉ lắc đầu. Quách Tương chợt hiểu, cười nói:
– Chà, thì ra đại sư đang luyện một môn võ công cao siêu.
Giác Viễn lại lắc đầu.
Quách Tương bực tức, nói:
– Vừa nãy tiểu nữ đã nghe thấy đại sư tụng kinh rõ ràng không phải người á khẩu, tại sao đại sư không trả lời tiểu nữ?
Giác Viễn chắp tay hành lễ, vẻ mặt sượng sùng, không thốt một lời, lại quẩy đôi thùng đi xuống núi. Quách Tương ngó thử vào trong giếng, chỉ thấy nước trong veo, cũng chẳng có gì lạ; nàng ngẩn người nhìn theo Giác Viễn đang đi xuống núi, trong lòng khó hiểu.
Vừa rồi nàng gắng sức đuổi theo Giác Viễn nên bây giờ đã thấy thấm mệt, hơi thở còn hổn hển, nàng bèn ngồi xuống thành giếng ngắm phong cảnh. Chỗ nàng ngồi cao hơn Thiếu Lâm tự, nhưng nhìn lên thì núi Thiếu Thất vẫn còn cao ngất trời với những dải sương mù vắt ngang. Gió đưa tiếng chuông chùa từ phía dưới vọng lên khiến người nghe như trút hết phiền tục. Quách Tương nghĩ thầm: “Không biết đệ tử của vị đại sư kia ở đâu? Đại sư không chịu mở miệng thì mình đành tìm gã thiếu niên nọ hỏi cho ra lẽ”. Đoạn nàng lững thững đi xuống núi để tìm đệ tử của Giác Viễn tên là Trương Quân Bảo. Nàng đi một quãng, chợt nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, thì ra Giác Viễn đã lại gánh nước lên núi rồi. Nàng bèn nấp sau một gốc cây, nghĩ thầm: “Mình phải ngầm theo dõi xem lão hòa thượng này rốt cuộc làm trò quỷ gì đây”.
Tiếng xích sắt đã tới gần, chỉ thấy Giác Viễn vẫn gánh đôi thùng sắt, một tay cầm cuốn sách gì đó, chăm chú thấp giọng tụng kinh. Quách Tương chờ vị hòa thượng đi ngang qua thì thình lình nhảy ra hỏi:
– Đại sư đang đọc sách gì vậy?
Giác Viễn thất thanh la lên:
– Ối chà, làm bần tăng giật cả mình! Vẫn lại là cô nương.
Quách Tương cười thích thú:
– Đại sư giả câm không thành rồi.
Giác Viễn có vẻ hoảng hốt, nhìn sang hai bên rồi xua xua tay. Quách Tương hỏi:
– Đại sư sợ ai chứ?
Giác Viễn chưa kịp đáp, thì đột nhiên từ sau các bụi cây có hai hòa thượng mặc áo màu tro bước ra, một cao gầy, một thấp mập. Vị cao gầy quát:
– Giác Viễn không tuân thủ giới pháp, tự tiện mở miệng đối đáp với người ngoài bổn tự, huống hồ người ấy lại là một thiếu nữ. Vậy hãy theo ta lên gặp thủ tọa Giới luật đường.
Giác Viễn cúi mặt buồn bã, gật gật đầu, đi theo hai hòa thượng kia.
Quách Tương vừa ngạc nhiên vừa tức giận, nói lớn:
– Thiên hạ lại có luật cấm người ta mở miệng ư? Ta quen biết vị đại sư này, ta hỏi chuyện vị đó thì can hệ gì tới hai vị kia chứ?
Vị hòa thượng cao gầy trợn mắt nói:
– Cả ngàn năm nay Thiếu Lâm tự vẫn cấm nữ lưu lai vãng. Mời cô nương xuống núi ngay cho để khỏi chuốc lấy những điều khó xử.
Quách Tương càng giận, nói:
– Nữ lưu thì sao? Chẳng lẽ nữ lưu không phải là người? Tại sao các vị gây khó dễ cho Giác Viễn đại sư, đã xiềng xích đại sư, còn cấm đại sư nói là nghĩa lý gì?
Vị hòa thượng kia lạnh lùng đáp:
– Việc của bổn tự, ngay hoàng đế cũng không được can thiệp, cô nương hà tất đa vấn.
Quách Tương cả giận:
– Ta biết vị đại sư này là người hiền lành trung hậu, vậy mà các người lại hành hạ đại sư như thế thì lạ thật. Còn Thiên Minh thiền sư đâu rồi? Vô Sắc thiền sư, Vô Tướng thiền sư ở đâu cả? Các người mau gọi mấy vị ấy ra đây, ta muốn hỏi thử việc này là nghĩa lý gì.
Hai hòa thượng kia nghe nàng nói vậy thì giật mình. Thiên Minh thiền sư là Phương trượng của Thiếu Lâm tự, Vô Sắc thiền sư là Thủ tọa La Hán đường, Vô Tướng thiền sư là Thủ tọa Đạt Ma đường, ba vị ấy đức cao vọng trọng, tăng nhân trong chùa đều kính cẩn gọi các vị ấy là “lão Phương trượng”, “Thủ tọa La Hán đường”, “Thủ tọa Đạt Ma đường” chứ không dám gọi ngay pháp danh của họ; ai ngờ con nhỏ này lại dám lên núi lớn tiếng gọi thẳng pháp danh của họ ra như vậy.
Hai hòa thượng kia đều là đệ tử của Thủ tọa Giới luật đường, phụng mệnh Thủ tọa thiền sư giám thị Giác Viễn. Lúc này nghe thấy Quách Tương nói năng vô lễ, vị hòa thượng cao gầy liền quát:
– Nữ thí chủ kia nếu còn gây sự trước Phật môn thanh tịnh thì đừng trách bần tăng không khách khí.
Quách Tương nói:
– Chẳng lẽ ta ngán nhà ngươi ư? Nhà ngươi hãy mau mau cởi bỏ xiềng xích cho Giác Viễn đại sư, bằng không ta sẽ đi tìm Thiên Minh hòa thượng mà hỏi cho ra lẽ.
Vị hòa thượng thấp mập nghe Quách Tương nói năng lỗ mãng, lại thấy nàng đeo đoản kiếm, bèn xẵng giọng:
– Nữ thí chủ hãy để binh khí lại, bần tăng cũng không định tranh hơn thua làm gì, nữ thí chủ hãy mau xuống núi cho yên chuyện.
Hòa thượng này xuất gia ở Thiếu Lâm tự từ nhỏ, luôn nghe thấy các sư bá, sư thúc và sư huynh kể rằng Thiếu Lâm tự là khởi nguyên của võ học trong thiên hạ, rằng bất cứ nhân vật nào danh vọng lớn đến đâu, bất cứ cao thủ võ lâm nào tài ba đến mấy, xưa nay cũng chẳng dám mang theo binh khí vào cổng Thiếu Lâm tự. Cô nương này tuy chưa bước qua cổng Thiếu Lâm tự, nhưng đã ở trong phạm vi nhà chùa; nay nàng ta hai tay nâng kiếm thế kia hẳn là biết sợ rồi, hòa thượng bèn giơ tay cầm lấy thanh kiếm. Ngón tay của hòa thượng vừa chạm cán kiếm thì đột nhiên cánh tay ấy như bị điện giật, cảm thấy một cường lực từ thanh kiếm truyền sang, đẩy hòa thượng ngã ngửa ra phía sau, hai chân loạng choạng không vững, bị ngã sóng soài, chỗ ngã lại dốc, thế là y lăn xuống phía dưới mấy trượng mới chộp được búi cỏ khỏi bị lăn tiếp.
– Ngươi đúng là ăn tim sư tử, uống mật hổ báo nên mới dám đến Thiếu Lâm tự gây sự mà.
Đoạn tiến một bước, hữu thủ vung quyền, tả chưởng tiếp theo hữu quyền, thành song chưởng chém xuống, chính là thế thứ hai mươi tám “Phiên thân phách kích” của Sấn Thiếu Lâm.
Quách Tương cầm thanh kiếm còn nằm trong bao chém vào vai hòa thượng kia. Y trầm vai thu một tay về, tay kia chộp thanh kiếm. Giác Viễn đứng bên nhìn cảnh ấy, hoảng sợ kêu to:
– Đừng động thủ, đừng động thủ! Có gì hãy thương lượng thì hơn.
Lúc ấy vị hòa thượng kia đã chộp tới thanh kiếm, chính đang vận sức định giành lấy bỗng cảm thấy lòng bàn tay chấn động, rồi cả cánh tay tê dại, chỉ kịp kêu “Nguy tai!” thì Quách Tương đã dùng chân trái gạt ngang, đẩy y ngã lăn lông lốc xuống dốc, đầu và mặt y bị va nhiều chỗ, xây xát rớm máu, rồi mới dừng được.
Quách Tương nghĩ thầm: “Mình lên Thiếu Lâm tự là định thăm dò tin tức của đại ca, vô duyên vô cớ lại động thủ với hai hòa thượng kia, thật chẳng hay ho chút nào”. Nàng thấy Giác Viễn đứng bên với vẻ mặt khổ sở, bèn vung thanh kiếm chặt đứt xiềng xích ở chân tay của đại sư. Kiếm của nàng tuy chưa thuộc vào hàng bảo kiếm, nhưng cũng cực kỳ sắc bén nên vừa nghe “keng keng” mấy tiếng thì xiềng xích đã đứt thành ba đoạn. Giác Viễn luôn miệng kêu: “Không được đâu! Không được đâu!” Quách Tương nói:
– Sao lại không được?
Đoạn nàng chỉ về phía hai hòa thượng một cao một thấp đang chạy vào chùa, nói:
– Hai gã ác tăng kia chắc là chạy đi báo tin, chúng ta hãy đi thôi. Tiểu đồ đệ họ Trương của đại sư đâu rồi? Hãy đem gã đi luôn thể!
Giác Viễn chỉ xua xua tay. Chợt nghe sau lưng có tiếng người nói:
– Đa tạ cô nương quan tâm, tiểu đệ đây.
Quách Tương quay đầu lại, thấy phía sau có một thiếu niên trạc mười sáu mười bảy tuổi, mắt to mày thô, thân hình vạm vỡ, song vẻ mặt trông hết sức thơ ngây, chính là Trương Quân Bảo mà nàng đã gặp trên đỉnh Hoa Sơn ba năm về trước. Bây giờ Trương Quân Bảo cao lớn hơn hẳn hồi ấy, riêng vẻ mặt chẳng thay đổi chút nào. Quách Tương cả mừng, nói:
– Các ác tăng nơi đây khinh khi sư phụ của đệ, chúng ta rời bỏ nơi này thôi.
Trương Quân Bảo lắc đầu nói:
– Chẳng ai khinh khi sư phụ của đệ cả.
Quách Tương chỉ Giác Viễn nói:
– Hai gã ác tăng ban nãy đã dùng xiềng xích trói buộc sư phụ của đệ lại còn không cho nói nửa lời, chẳng phải là khinh khi đó sao?
Giác Viễn cười khổ, lắc đầu, chỉ tay xuống núi, ý bảo Quách Tương hãy mau thoát thân, kẻo ở lại sẽ gặp rắc rối.
Quách Tương thừa biết Thiếu Lâm tự có biết bao nhiêu cao thủ võ công hơn hẳn nàng, nhưng chứng kiến cảnh bất bình nhãn tiền thế này, nàng không thể khoanh tay làm ngơ. Song nàng lo ngại các cao thủ trong chùa ra ngăn chặn, bèn một tay kéo Giác Viễn, một tay kéo Trương Quân Bảo, giậm chân nói:
– Mau mau chạy đi đã, có việc gì xuống được dưới núi hãy nói.
Hai người kia cứ đứng im một chỗ.
Bỗng thấy trên sườn núi bên cửa hông Thiếu Lâm tự có bảy tám tăng nhân xông ra, tay cầm gậy, miệng quát:
– Con nhóc nào cả gan đến Thiếu Lâm tự gây sự đó?
Trương Quân Bảo lớn tiếng đáp:
– Các vị sư huynh chớ vô lễ, vị này là… Quách Tương vội ngăn:
– Đừng nói lộ tên của ta.
Nàng nghĩ vụ rắc rối này xem ra không nhỏ, không khéo chẳng thể dàn xếp ổn thỏa; bởi vậy không nên để liên lụy đến phụ mẫu. Thế là nàng giục thêm:
– Ba chúng ta cứ băng rừng mà chạy. Dù thế nào cũng chớ nhắc đến tên phụ mẫu và bằng hữu của tiểu nữ!
Chợt trên đỉnh núi phía sau nghe mấy tiếng quát, lại thêm bảy, tám tăng nhân xông tới.
Quách Tương thấy trước sau đều có các tăng nhân xuất hiện, bèn cau mày nói:
– Sao hai người cứ rụt rụt rè rè như thiếu nữ thế? Chẳng có chí khí nam nhi gì cả! Hai người có định chạy hay không nào?
Trương Quân Bảo nói:
– Thưa sư phụ, Quách cô nương đã có thiện ý như thế…
Lúc ấy từ bên cửa hông Thiếu Lâm tự lại có bốn hoàng y hòa thượng xông ra và lao về phía Quách Tương; tay họ không có khí giới, nhưng thân pháp lanh lẹ, tay áo quạt gió đủ biết võ công thuộc loại khá cao siêu. Quách Tương thấy tình thế này dù nàng muốn một mình thoát thân cũng chẳng nổi, bèn đứng yên coi diễn biến ra sao.
Một hòa thượng chạy tới cách nàng bốn trượng, dõng dạc cất tiếng:
– Tôn sư Thủ tọa La Hán đường truyền dụ: kẻ lạ mặt hãy bỏ khí giới, xuống Nhất Lô đình dưới chân núi tường trình sự việc và nghe pháp dụ.
Quách Tương cười nhạt:
– Đại hòa thượng của Thiếu Lâm tự thật là quan cách quá chừng! Chẳng hay các vị đại hòa thượng làm quan cho hoàng đế Đại Tống hay hoàng đế Mông Cổ vậy?
Thời gian này từ sông Hoài trở lên phía bắc, quốc thổ của Đại Tống đều đã rơi vào tay quân Mông Cổ; Thiếu Lâm tự nằm trên địa phận do Mông Cổ cai quản, nhưng vì đại quân Mông Cổ mấy năm nay liên tục tấn công vẫn chưa hạ nổi thành Tương Dương, còn bận điều binh khiển tướng, không có lực lượng cai quản chùa chiền am miếu nên Thiếu Lâm tự mới được giữ nguyên vẹn. Vị hòa thượng kia nghe Quách Tương mỉa mai lợi hại như vậy thì bất giác đỏ mặt, thầm nghĩ hạ lệnh cho người ngoài như vừa rồi cũng hơi quá, bèn đổi giọng, chắp tay nói:
– Không biết nữ thí chủ có việc gì mà quang lâm tệ tự, xin hãy bỏ khí giới, xuống Nhất Lô đình dưới chân núi dùng trà, nói chuyện.
Quách Tương nghe đối phương đổi giọng ôn hòa thì muốn nhân đây rút lui cho xong, bèn nói:
– Các vị không cho ta vào chùa thì thôi, ta đâu cần. Hừ, cứ làm như trong Thiếu Lâm tự có báu vật, ta được trông thấy thì sẽ vẻ vang hơn không bằng.
Đoạn nàng đưa mắt cho Trương Quân Bảo, thấp giọng hỏi:
– Thế nào? Có đi hay không?
Trương Quân Bảo lắc đầu, liếc mắt về phía Giác Viễn, ngụ ý là mình còn phải theo hầu sư phụ. Quách Tương nói rõ:
– Thôi được, vậy ta mặc các người, ta đi đây.
Đoạn nàng đi nhanh xuống núi.
Hoàng y hòa thượng thứ nhất né sang một bên nhường đường, nhưng vị thứ hai và thứ ba thì cùng giơ tay ngăn lại và nói:
– Hãy khoan. Bỏ khí giới lại đã!
Quách Tương cau mày, tay nắm cán kiếm. Hoàng y hòa thượng thứ nhất nói:
– Chúng tăng cũng không dám giữ khí giới của nữ thí chủ đâu. Nữ thí chủ xuống dưới kia rồi, chúng tăng sẽ hoàn trả bảo kiếm tức thì, đó là luật lệ của Thiếu Lâm tự đã có từ ngàn năm nay, mong nữ thí chủ hiểu cho.
Quách Tương nghe vị kia nói năng từ tốn, nghĩ thầm: “Nếu không để kiếm lại, ắt xảy ra quyết đấu, ta chỉ có một mình, làm sao địch nổi từng kia tăng chúng? Nhưng để kiếm lại, hóa ra làm mất hết thể diện của ông ngoại, của phụ mẫu, của đại ca ca và Long tỷ tỷ ư?”
Nàng đang phân vân chưa quyết, chợt loáng một cái bóng vàng phía trước, kèm theo tiếng quát:
– Cả gan mang kiếm tới Thiếu Lâm tự, lại còn đả thương người khác, có lý nào như vậy?
Rồi kình phong tràn tới, chỉ thấy năm ngón tay chộp lấy thanh đoản kiếm.
Nếu hòa thượng kia không đột nhiên động thủ, có lẽ sau giây lát phân vân, Quách Tương hẳn sẽ để kiếm lại. Tính nàng khác hẳn tính của Quách Phù là tỷ tỷ của nàng, tuy hào sảng, nhưng không thô lỗ; tình cảnh trước mắt quá ư bất lợi, thì đành nín nhịn, sau đó sẽ bàn với ông ngoại và phụ mẫu, trở lại vụ này. Đằng này đối phương lại bất ngờ cậy thế mạnh, nàng há có thể trơ mắt để người ta tước đoạt khí giới của mình?
Cầm nã thủ pháp của tăng nhân kia vừa độc địa vừa tinh xảo, y vừa chộp lấy bao kiếm bèn nghĩ thầm: “Con nhỏ thể nào cũng giằng lại, mà một hòa thượng đi giằng co với thiếu nữ thì coi sao được”, y liền vận nội công đẩy chếch sang bên tả, rồi kéo mạnh về bên hữu. Quách Tương bị y đẩy và kéo như thế, quả nhiên không giữ chắc nổi bao kiếm, nàng bèn nắm cán kiếm rút phắt ra; chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, hàn quang lóe lên. Hòa thượng kia hữu thủ đoạt được bao kiếm, nhưng hai ngón tay của tả thủ thì bị thanh kiếm tiện đứt, đau quá, y buông rơi bao kiếm, nhảy lùi sang một bên.
Các tăng nhân thấy đồng môn bị thương thì hết thảy tức giận, cùng vung côn và trượng xông tới. Quách Tương nghĩ thầm: “Đã trót thì trét; dầu sao hôm nay cũng không yên rồi”, nàng liền thi triển “Lạc Anh kiếm pháp” gia truyền, vừa đánh vừa chạy xuống núi.
Lạc Anh kiếm pháp là do Hoàng Dược Sư diễn hóa từ “Lạc Anh chưởng pháp” mà ra, tuy không tinh diệu như Ngọc Tiêu kiếm pháp, song cũng là một tuyệt kỹ của Đào Hoa đảo; chỉ thấy thanh quang loang loáng, kiếm hoa điểm điểm tựa như các cánh hoa rơi rụng tản mác tứ phía. Trong chớp mắt đã có hai tăng nhân bị thương, nhưng mấy người khác từ phía sau cùng xông tới, từ trên đánh xuống. Quách Tương bị hai mũi giáp công, lẽ ra nàng khó bề chống cự, song các hòa thượng Thiếu Lâm tự lấy từ bi làm gốc, không định hạ sát nàng, nên chiêu thức của họ chỉ cốt đánh ngã nàng hòng giáo huấn nàng một phen, tước khí giới rồi đuổi nàng xuống núi. Thế nhưng kiếm quang của Quách Tương rất lợi hại, họ chẳng dễ gì tiếp cận được.
Ban đầu các tăng nhân cứ tưởng hàng phục một thiếu nữ đâu có gì khó. Nhưng sau thấy kiếm pháp tinh xảo của nàng, mới đoán rằng nếu nàng không phải là môn hạ của một môn phái danh tiếng thì cũng là đệ tử của một danh sư; thế là họ sợ đắc tội, xuất chiêu càng thêm thận trọng, một mặt cho người cấp báo với Thủ tọa La Hán đường là Vô Sắc thiền sư.
Trong lúc diễn ra cuộc đấu, có một lão tăng cao gầy, hai tay lồng vào tay áo, thong thả đi tới, mỉm cười quan sát. Hai tăng nhân đến bẩm nhỏ vài câu với vị lão tăng. Quách Tương đấu đã mệt, kiếm pháp đã rối, liền lớn tiếng:
– Thế cũng đòi là nguồn gốc của võ học thiên hạ! Chẳng qua hàng chục hòa thượng vây đánh một người, cậy đông để thắng thôi.
Vị lão tăng kia chính là Vô Sắc thiền sư, Thủ tọa La Hán đường, thấy nàng nói vậy, bèn lên tiếng:
– Các người dừng tay!
Các tăng nhân lập tức xuôi tay nhảy sang hai bên. Vô Sắc thiền sư nói:
– Cô nương quý tính là gì, lệnh tôn và lệnh sư là ai? Cô nương quang lâm Thiếu Lâm tự chẳng hay có việc chi?
Quách Tương nghĩ thầm: “Mình không thể cho vị này biết danh tính của phụ mẫu. Ngay cả việc mình đến Thiếu Lâm tự để nghe tin tức của đại ca, cũng không thể nói ra trước mặt mọi người. Hôm nay mình gây chuyện rắc rối, ngày sau phụ mẫu và đại ca biết chuyện sẽ trách cứ mình, chi bằng mình cứ lẳng lặng mà đi thì hơn”. Nghĩ đoạn, nàng đáp:
– Tính danh tiểu nữ không tiện thưa với đại sư. Tiểu nữ chẳng qua thấy phong cảnh trên núi quá đẹp, nên tiện đường ghé qua du ngoạn. Nào ngờ Thiếu Lâm tự còn lợi hại hơn cả hoàng cung, động một chút đã bị người ta đòi tước binh khí. Thỉnh vấn đại sư, tiểu nữ đã bước vào đại môn của quý tự hay chưa? Năm xưa Đạt Ma tổ sư truyền lại võ nghệ chẳng qua cốt giáo huấn chúng tăng khỏe mạnh để tu hành tăng tiến; nào ngờ danh tiếng của Thiếu Lâm tự càng lớn, võ công càng cao, thì những vị cậy thế hiếp đáp người khác càng nhiều. Được thôi, các vị muốn tước khí giới của tiểu nữ thì cứ việc tước, cũng nên hạ sát tiểu nữ luôn, kẻo giới giang hồ thể nào cũng hay biết chuyện hôm nay.
Lý lẽ của Quách Tương khá sắc sảo, vả lại vụ này cũng không hoàn toàn do lỗi của nàng nên Vô Sắc thiền sư lúng túng chưa biết trả lời ra sao. Quách Tương quan sát sắc diện, nghĩ thầm: “Vụ rắc rối hôm nay mình sợ người ta biết đã đành, xem ra Thiếu Lâm tự càng không muốn lan rộng ra ngoài. Mười mấy hòa thượng vây đánh một thiếu nữ mà lộ ra thì hay ho nỗi gì?” Nàng bèn hừ một tiếng, ném thanh kiếm xuống đất, dợm chân bỏ đi.
Vô Sắc thiền sư bước tới, phất tay áo một cái, đã cuốn thanh kiếm lên, dùng hai tay nâng thân kiếm, nói:
– Cô nương đã không muốn để lộ gia môn sư thừa thì hãy thâu lại thanh bảo kiếm, lão tăng sẽ thân chinh tiễn cô nương xuống núi.
Quách Tương nhếch mép cười:
– Vị đại sư này còn thấu tình đạt lý, thế mới đúng phong cách của một danh gia.
Nàng được thể liền thuận miệng tán dương Vô Sắc thiền sư một câu, rồi giơ tay ra nhận thanh kiếm, nhưng bất giác kinh hãi vì đối phương phát ra từ lòng bàn tay một luồng lực đạo giữ chặt thanh kiếm, khiến nàng tuy đã nắm cán kiếm rồi nhưng không tài nào nhấc nổi. Mấy phen nàng vận lực vẫn không sao lấy được thanh kiếm, bèn nói:
– Được, thì ra đại sư định biểu diễn võ công kia đấy!
Đoạn nàng phẩy tả thủ, định điểm nhẹ vào hai huyệt Thiên Đỉnh và Cự Cốt ở phía cổ bên trái của Vô Sắc thiền sư. Vô Sắc thiền sư hơi rùng mình, nghiêng người né tránh, lực giữ thanh kiếm giảm đi, nhờ vậy Quách Tương lấy được thanh kiếm về.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Công phu “Lan hoa phất huyệt thủ”[2] quả là lợi hại! Chẳng hay cô nương xưng hô thế nào với Đào Hoa đảo chủ?
Quách Tương vừa cười vừa đáp:
– Đào Hoa đảo chủ ấy ư? Tiểu nữ gọi vị ấy là Lão Đông Tà.
Đào Hoa đảo chủ Đông Tà Hoàng Dược Sư là ông ngoại của Quách Tương, tính nết quái dị, xưa nay không câu nệ lễ giáo, thường gọi đứa cháu gái nhỏ là Tiểu Đông Tà; còn Quách Tương gọi ông ngoại là Lão Đông Tà. Nghe đứa cháu gọi mình như thế, Hoàng Dược Sư chẳng cho là hỗn xược mà còn lấy làm thích thú.
Nguyên Vô Sắc thiền sư thuở thiếu thời xuất thân lục lâm, sau vào cửa thiền tu luyện đã mấy chục năm, rất tinh thâm Phật học, nhưng hào khí thuở nào vẫn không giảm, nếu không đã chẳng kết thành hảo hữu với Dương Quá. Nay thấy tiểu cô nương không chịu để lộ lai lịch sư thừa, Vô Sắc thiền sư càng muốn nàng phải nói ra, bèn vừa cười vừa nói to:
– Cô nương thử tiếp mười chiêu của lão tăng, xem nhãn lực của lão tăng có thể nhận biết môn phái của cô nương hay chăng?
Quách Tương hỏi:
– Nếu trong mười chiêu mà không nhận biết nổi thì sao?
Vô Sắc thiền sư cười ha hả:
– Nếu tiểu cô nương tiếp được mười chiêu của lão tăng thì còn nói gì nữa, lão tăng nguyện làm theo ý của tiểu cô nương.
Quách Tương chỉ Giác Viễn, nói:
– Tiểu nữ và vị đại sư này từng có duyên diện kiến một lần, nên tiểu nữ muốn thỉnh cầu giúp đại sư này một việc. Nếu trong mười chiêu mà đại sư không nói được sư phụ của tiểu nữ là ai thì đại sư phải nhận lời tiểu nữ không hành tội vị này nữa.
Vô Sắc thiền sư hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Giác Viễn tính nết cổ hủ, mấy chục năm nay chuyên trông coi sách ở Tàng kinh các, không hề giao du với người ngoài, tại sao lại quen biết cô nàng này?” Nghĩ đoạn, liền đáp:
– Thực ra không ai hành tội Giác Viễn cả. Mọi tăng chúng bổn tự, hễ phạm giới luật, bất kể là ai, đều bị phạt cả; hơn nữa phạt như thế cũng không thể coi là hành tội.
Quách Tương bĩu môi cười nhạt, nói:
– Hừ, nói đi nói lại, các vị cũng chỉ tìm cách biện hộ thôi.
Vô Sắc thiền sư giơ song chưởng nói:
– Được, lão tăng chấp nhận. Nếu thua, lão tăng sẽ thay Giác Viễn sư đệ gánh ba ngàn một trăm lẻ tám gánh nước. Cô nương chú ý, lão tăng xuất chiêu đây!
Trong lúc đối đáp với Vô Sắc, Quách Tương sớm đã tính thầm: “Lão hòa thượng này nội công thâm hậu, võ công tất lợi hại. Nếu để lão động thủ trước, mình phải hết sức chống đỡ, ắt phải giở võ công của phụ mẫu ra. Chi bằng mình hãy chiếm tiên cơ, xuất liền mười chiêu”. Nghĩ tới đó đã nghe Vô Sắc nói “Cô nương chú ý, lão tăng xuất chiêu đây”, thế là nàng không đợi Vô Sắc xuất chưởng, liền vung đoản kiếm đâm thẳng tới ngực đối phương. Đây là chiêu “Vạn tử thiên hồng”[3] trong Lạc Anh kiếm pháp của Đào Hoa đảo, mũi kiếm trong lúc đâm cứ không ngừng di động, khiến đối thủ chẳng biết rốt cuộc mũi kiếm định nhắm vào đâu. Vô Sắc thiền sư biết thế công lợi hại, không dám đỡ, phải nhảy sang bên né tránh.
Quách Tương quát:
– Chiêu thứ hai!
Đoản kiếm thu về, rồi từ phía dưới xọc lên, đây là chiêu “Thiên thân đảo huyền”[4] của Toàn Chân kiếm pháp. Vô Sắc thiền sư nói:
– Khá lắm, đó là Toàn Chân kiếm pháp!
Quách Tương đáp:
– Vị tất như thế!
Đoản kiếm của nàng đâm không trúng, chỉ thấy Vô Sắc thiền sư chuyển từ thủ sang công, các ngón tay của thiền sư chộp tới cổ tay nàng thì kinh hãi nghĩ thầm: “Lão hòa thượng quả lợi hại, trước kiếm chiêu hung hiểm như thế, chỉ tay không mà vẫn tấn công trở lại được”. Nàng thấy các ngón tay của đối phương tới trước mặt liền vội thi triển chiêu “Ác khuyển lan lộ” thuộc chữ Phong trong “Đả cẩu bổng pháp”.
Nguyên hồi nhỏ nàng từng giao hảo với Lỗ Hữu Cước, bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang. Cái Bang có luật lệ quy định, rằng Đả cẩu bổng pháp[5] là thần kỹ trấn bang, chỉ có bang chủ mới được truyền lại. Trong lúc trà dư tửu hậu, Lỗ Hữu Cước thường biểu diễn Đả cẩu bổng pháp, nhờ thế Quách Tương mới học lóm được vài chiêu thức. Huống hồ mẫu thân nàng là Hoàng Dung cũng từng làm bang chủ nhiệm kỳ trước; còn bang chủ đương nhiệm Gia Luật Tề là anh rể của nàng; nàng nhiều lần được thấy “Đả cẩu bổng pháp”, tuy không rõ quyết yếu của phép đó, nhưng sử một chiêu y chang cũng đủ khiến người ngoài kinh hãi.
Ngón tay của Vô Sắc thiền sư vừa chạm cổ tay nàng, thì đột nhiên một đường bạch quang như tia chớp xẹt qua, mũi kiếm biến ảo thần diệu, suýt nữa tiện ngọt cả năm ngón tay của Vô Sắc thiền sư. May mà thiền sư võ công cao siêu, biến chiêu thần tốc, kịp thoái lui hai bước, chỉ nghe “soạt”, ống tay áo bên tả đã bị đoản kiếm lia đứt một mảnh dài. Vô Sắc thiền sư mặt biến sắc, lưng toát mồ hôi lạnh.
Quách Tương đắc chí hỏi:
– Vừa rồi là kiếm pháp gì nào?
Thực ra trong thiên hạ làm gì có thứ kiếm thuật đó, chẳng qua nàng học lóm được một chiêu trong Đả cẩu bổng pháp, đem ra sử dụng nửa thực nửa hư, khiến cho vị cao tăng lừng danh của Thiếu Lâm tự cũng phải ngẩn người không hiểu là kiếm pháp gì.
Quách Tương nghĩ thầm: “Mình chỉ cần thi triển tiếp vài chiêu của Đả cẩu bổng pháp là đánh bại lão hòa thượng kia; tiếc rằng mình nắm vững mỗi chiêu này thôi”. Không để Vô Sắc thiền sư kịp thở, thanh đoản kiếm đã lướt tới, thân hình nàng phiêu diêu như tiên nữ giáng trần, mũi kiếm cứ nhắm phía gối của thiền sư mà điểm lia lịa. Đây là chiêu “Tiểu viên nghệ cúc”[6] của Ngọc Nữ kiếm pháp mà nàng học được qua Tiểu Long Nữ.
Ngọc Nữ kiếm pháp do nữ hiệp Lâm Chiêu Anh sáng tạo từ hồi xưa, chẳng những kiếm chiêu lợi hại, mà phong thái thoát tục, tư thế tao nhã, chúng tăng chưa từng gặp qua, ai nấy vừa kinh ngạc vừa thích thú. Nên biết Đạt Ma kiếm pháp, La Hán kiếm pháp của phái Thiếu Lâm đều thuộc loại cương mãnh, còn Ngọc Nữ kiếm pháp thì tuyệt tích giang hồ từ lâu, vốn có bản chất tương phản với kiếm thuật của phái Thiếu Lâm. Thực ra luận về kiếm pháp vị tất đã hơn được kiếm thuật của phái Thiếu Lâm, có điều là ngắm nó uyển chuyển mỹ lệ vô cùng, hệt như kinh Phật có câu: “Dung nghi uyển mị, trang nghiêm hòa nhã, đoan chính khả hỉ, quan giả vô yếm”.
Vô Sắc thiền sư thấy kiếm thuật này quá mỹ diệu, chỉ mong ngắm một lần nữa, bèn né người sang bên chờ nàng sử thêm một chiêu nữa.
Kiếm chiêu của Quách Tương biến hóa, chỉ sang đông lại chém về tây, đoản kiếm rạch mấy đường nữa. Trương Quân Bảo đứng bên cạnh mà ngắm, đang ngẩn cả người, bỗng kêu “Ơ” một tiếng. Thì ra Quách Tương vừa sử chiêu “Tứ thông bát đạt” ba năm trước trên đỉnh Hoa Sơn Dương Quá đã truyền thụ cho Trương Quân Bảo. Lúc ấy Quách Tương đứng xem bên cạnh, bây giờ nàng đem ra sử dụng. Nhưng thứ Dương Quá truyền thụ là chưởng pháp, bây giờ Quách Tương biến thành kiếm pháp, uy lực tuy giảm đi mấy thành, song kiếm thuật kỳ diệu cũng đủ khiến Vô Sắc thiền sư kinh ngạc.
Tính ra Quách Tương đã sử năm chiêu mà Vô Sắc thiền sư vẫn chưa nhận biết được lai lịch. Thời trẻ tung hoành trên giang hồ, lịch duyệt phong phú; mười mấy năm nay làm thủ tọa La Hán đường, càng có dịp nghiên cứu võ công của các môn phái, đem so sánh với võ công Thiếu Lâm tự, chọn lấy sở trường của các môn phái bổ khuyết cho sở đoản của bổn tự. Do đó Vô Sắc thiền sư tự tin rằng bất cứ cao nhân của môn phái nào chỉ sử vài chiêu là sẽ nhận ra lai lịch ngay. Vô Sắc thiền sư giao hẹn với Quách Tương mười chiêu là đã dự phòng quá dư rồi. Ai ngờ phụ mẫu, sư phụ và bằng hữu của Quách Tương đều là những đệ nhất cao thủ đương thời, nàng chỉ cần sử một chiêu trong võ công của mỗi người ấy rồi kết nối với nhau cũng đủ khiến Vô Sắc thiền sư hoa mắt, làm sao đoán ra nổi lai lịch.
Sau bốn thức kiếm “Tứ thông bát đạt” của Quách Tương, Vô Sắc thiền sư nghĩ thầm: “Nếu cứ để cô nương ấy xuất chiêu trước, chỉ e sẽ giở hết quái chiêu này quái chiêu nọ, thì đừng nói mười chiêu, sau cả trăm chiêu ta cũng chẳng thể nhận ra lai lịch. Bây giờ ta phải chủ động tấn công, buộc cô nương ấy sử dụng võ công bản môn chống đỡ mới ổn”. Nghĩ đoạn Vô Sắc thiền sư xoay người sang bên trái, dùng chiêu “Song quán nhĩ”, hổ khẩu của hai quyền đối xứng với nhau, vạch thành hình cánh cung, thay nhau công kích.
Quách Tương thấy kình lực của thế quyền quá mạnh, không dám chống đỡ, vội xoay mình thoát ra khỏi phạm vi tấn công của hai quyền. Nguyên hồi trước ở đầm Hắc Long, nàng thấy cảnh Anh Cô đấu với Dương Quá, yếu không địch nổi mạnh, Anh Cô đã dùng “Nê thu công” thoái lui, nên lúc này nàng bắt chước y chang. Công lực và thân pháp của nàng đều không thể sánh với Anh Cô, nhưng Vô Sắc thiền sư hoàn toàn không định hạ sát nàng, để nàng nhẹ nhàng luồn ra.
Vô Sắc thiền sư khen:
– Thân pháp khá lắm, hãy tiếp thêm chiêu này!
Nói đoạn, tả chưởng xoay một vòng, khuỷu tay ở trước ngực, hổ khẩu hướng lên phía trên, chính là chiêu “Hoàng oanh lạc giá” trong Thiếu Lâm quyền. Vô Sắc thiền sư là đại sư võ học của Thiếu Lâm tự, thân phận không phải tầm thường, tuy am hiểu các loại võ công nhiều hơn hẳn Quách Tương; song mỗi chiêu thức sử dụng đều là võ công thuần chính của bổn tự. Các pho quyền của phái Thiếu Lâm quang minh chính đại, trông rất bình thường, không có gì lạ, nhưng luyện đến chỗ tinh thâm thì uy lực khôn cùng. Tả chưởng của Vô Sắc thiền sư vừa xoay một vòng, Quách Tương đã cảm thấy nửa thân mình phía trên của nàng nằm trong tầm khống chế của chưởng lực, vội quay cán kiếm, dùng kiếm thay ngón tay mà sử một chiêu “Nhất dương chỉ” học được của Võ Tu Văn, điểm tới ba huyệt Oản Cốt, Dương Cốc, Dưỡng Lão ở cổ tay Vô Sắc thiền sư. Phép điểm huyệt “Nhất dương chỉ” nàng mới học sơ sơ, nhưng thủ pháp dùng một ngón tay điểm ba huyệt lại chính là yếu quyết của nó.
Võ công “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư lừng danh thiên hạ, Vô Sắc thiền sư dĩ nhiên nhận biết, thấy Quách Tương sử một chiêu thì ngạc nhiên lắm, vội thu tay biến chiêu.
Thực ra, nếu Vô Sắc thiền sư không thu tay lại mà cứ để nàng điểm vào ba yếu huyệt, sẽ phát giác thứ “Nhất dương chỉ” mà nàng sử dụng là giả chứ đâu phải thật. Nhưng đôi bên đang giở toàn lực giao đấu, Vô Sắc thiền sư sao dám mạo hiểm để mất thanh danh một đời?
Quách Tương cười to:
– Đại sư đã thấy lợi hại chưa?
Vô Sắc thiền sư hừ một tiếng, đánh ra chiêu “Đơn phụng triều dương”[7], hai tay vung rộng lên cao rồi chém xuống, đoản kiếm trong tay Quách Tương không giữ được, bị rớt xuống đất.
Quách Tương thừa biết đối phương không định tâm hạ sát nàng, nên dù bị rơi mất kiếm nàng cũng chẳng sợ, hai quyền giao nhau, như có như không, sử dụng thức thứ năm mươi tư “Diệu thủ không không” trong bảy mươi hai thức “Không Minh quyền” – kiệt tác của Chu Bá Thông.
Không Minh quyền là do Chu Bá Thông sáng tạo, chưa hề lưu truyền trong giang hồ; Vô Sắc thiền sư dù uyên bác đến mấy cũng chẳng thể nhận biết, liền dùng chiêu “Thiên hoa thất tinh”, song chưởng vạch hình cánh cung, nhanh như chớp chặt xuống bàn tay Quách Tương; nếu nàng không xuất nội lực chống đỡ, bàn tay sẽ bị chặt gãy liền. Chiêu “Thiên hoa thất tinh” này của phái Thiếu Lâm tưởng chậm mà nhanh, tưởng nhẹ mà nặng, tuy là thức của Sấn Thiếu Lâm, nhưng kình lực lại xuất phát từ chỗ kỳ ảo của Thần hóa Thiếu Lâm.
Bàn tay Quách Tương bị khống chế, nàng nghĩ thầm: “Lẽ nào lão ta thực tâm đánh gãy bàn tay mình?”, bèn phẩy tay một cái, sử chiêu “Thiết bồ phiến thủ”, lấy chưởng đối chưởng, phản công tức thời. Chiêu này nàng học của Hoàn Nhan Bình là vợ của Võ Tu Văn, là tâm pháp mà Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận truyền lại. Môn “Thiết Chưởng công” này được các phái chưởng pháp trong võ lâm tôn là đệ nhất cương mãnh, Vô Sắc thiền sư nghiên cứu chưởng pháp tinh thâm, chắc hẳn phải biết. Thấy nàng sử chiêu thiết chưởng quan yếu này, Vô Sắc thiền sư bất giác giật mình, vội thâu chưởng về, một là không muốn đả thương nàng, hai là quả cũng hơi ngán môn võ công ấy. Thiền sư là người trung hậu, thấy chiêu nào của Quách Tương cũng đều đại diện cho một môn phái, không ngờ một thiếu nữ chưa đầy hai mươi tuổi lại am hiểu nhiều môn võ công đến thế thì vội thu chưởng về, thoái lui nửa trượng.
Quách Tương cười, nói to:
– Đây là chiêu thứ mười rồi, đại sư hãy xem tiểu nữ thuộc môn phái nào?
Đoạn nàng giơ tả thủ, rướn người lên, hữu thủ đẩy thẳng vào dưới cằm của Vô Sắc thiền sư.
Vô Sắc thiền sư và tăng chúng đứng xem bất giác cùng ồ lên kinh ngạc. Thì ra đây chính là chiêu “Khổ hải hồi đầu”, một chiêu trong La Hán quyền chính tông của phái Thiếu Lâm, chứ phái khác không hề có. Thủ pháp của chiêu này là tay trái nắm đỉnh đầu đối phương, tay phải tựa vào dưới cằm của địch thủ mà vặn đầu một cái, mạnh thì địch thủ gãy cổ, nhẹ cũng trật khớp xương, là một sát chiêu cực kỳ lợi hại.
Vô Sắc thiền sư thấy nàng dám sử dụng chiêu thức La Hán quyền, thật chẳng khác gì kẻ đánh trống trước cửa nhà sấm, múa búa trước cửa Lỗ Ban, thiền sư vừa giận vừa buồn cười. Chiêu thức này thiền sư luyện thành thạo từ mấy chục năm trước, dù đang ngủ gật mà gặp chiêu này cũng có thể đối phó khỏi cần suy tính. Vô Sắc thiền sư liền né mình bước lên, tả thủ tạt ngang qua phía trước ngực Quách Tương, phẩy tay một cái đã chộp được vai bên hữu của nàng; hữu thủ nhanh như chớp vỗ vào gáy nàng. Chiêu này gọi là “Hiệp sơn siêu hải”, vốn là chiêu thức hóa giải chiêu “Khổ hải hồi đầu”, hai tay nhấc bổng địch thủ lên khỏi mặt đất. Đáng lẽ Quách Tương phải dùng thức “Bàn trửu”[8] đè khuỷu tay của Vô Sắc thiền sư thì vừa có thể thoát nạn, vừa có thể phản kích đối phương, nhưng thủ pháp của Vô Sắc thiền sư quá mau lẹ; trong nháy mắt thân hình nàng đã bị nhấc bổng lên, cả hai chân rời khỏi mặt đất thì còn làm gì được nữa; dĩ nhiên là nàng đã thua.
Vô Sắc thiền sư tuy chế phục được Quách Tương, nhưng sực nghĩ: “Nguy tai! Ta chỉ mải mê hơn thua, chẳng để ý nhận biết môn phái sư thừa của cô nương ấy. Trong mười chiêu, cô nương ấy sử dụng quyền pháp của mười môn phái khác nhau, mình biết nói sao đây? Không thể bảo cô nương thuộc phái Thiếu Lâm được!”
Quách Tương cố giãy giụa, miệng la:
– Buông tiểu nữ ra đi!
Bỗng nghe “keng” một tiếng, từ trong người nàng có một vật gì đó rơi xuống đất. Quách Tương lại kêu:
– Lão hòa thượng còn không biết xấu hổ mà buông tiểu nữ ra ư?
Vô Sắc thiền sư là một cao tăng, coi chúng sinh đều bình đẳng, chẳng phân biệt nam nữ đã đành, ngay cả trâu bò heo chó cũng coi như nhau, liền cười nói:
– Lão tăng đáng tuổi tổ phụ của tiểu cô nương, có gì phải xấu hổ.
Nói đoạn thiền sư hẩy nhẹ tay một cái, Quách Tương đã văng xa hơn hai trượng.
Trận đấu vừa rồi Quách Tương tuy thua, nhưng qua mười chiêu mà Vô Sắc thiền sư rốt cuộc không nhận biết nàng thuộc môn phái nào, đang định mở miệng chịu thua, nhưng vừa cúi đầu chợt nhìn thấy dưới đất có một chùm vật gì đó màu đen, ngó kỹ thì ra hai vị La Hán bằng sắt đúc.
Quách Tương đứng vững rồi, bèn hỏi:
– Đại sư đã chịu thua hay chưa?
Vô Sắc thiền sư ngẩng lên, vui vẻ đáp:
– Lão tăng thua sao được? Lão tăng biết lệnh tôn là đại hiệp Quách Tĩnh, lệnh đường là nữ hiệp Hoàng Dung, Đào Hoa đảo Hoàng đảo chủ là ông ngoại của cô nương. Phương danh của Quách nhị tiểu thư là chữ Tương trong Tương Dương. Lệnh tôn học kiêm các vị tôn trưởng của Giang Nam thất quái, Đào Hoa đảo, Cửu chỉ thần cái và Toàn Chân phái. Quách nhị tiểu thư gia học uyên thâm, thân thủ quả nhiên bất phàm.
Nghe Vô Sắc thiền sư nói ra vanh vách, Quách Tương tròn mắt cứng lưỡi, không nói được gì nghĩ thầm: “Lão hòa thượng này hẳn là tà môn, mình sử mười chiêu lung tung mà lão ta vẫn nhận biết lai lịch của mình thì quái dị thật”.
Vô Sắc thiền sư thấy nàng ngẩn người như kẻ mất hồn, liền tủm tỉm cười, cúi xuống nhặt đôi La Hán nhỏ bằng sắt lên, nói:
– Quách nhị cô nương, lão tăng không thể nói dối tiểu bối được, lão tăng nhận biết cô nương là nhờ đôi La Hán này. Dương đại hiệp thế nào, cô nương có gặp Dương đại hiệp hay không?
Quách Tương chợt hiểu, liền vui mừng hỏi:
– Ồ, thì ra là Vô Sắc thiền sư, đôi La Hán này đại sư đã tặng tiểu nữ nhân dịp sinh nhật, cho nên đại sư nhận ra tiểu nữ! Chẳng hay đại sư có biết Dương đại ca và Long tỷ tỷ của tiểu nữ hiện ở đâu hay không? Tiểu nữ đến quý tự chính là để gặp đại sư, hỏi thăm tin tức hai người ấy, nghĩa là phu thê Dương đại hiệp ấy mà.
Vô Sắc thiền sư đáp:
– Mấy năm trước Dương đại ca có tới thăm bổn tự và ở chơi vài ngày, rất hợp chuyện với lão tăng. Sau nghe tin Dương đại hiệp ở thành Tương Dương chống giặc; lão tăng theo lời kêu gọi của Dương đại hiệp, cũng từng tham gia chống ngoại xâm. Còn hiện giờ thì không biết Dương đại hiệp ở đâu.
Quách Tương ngẩn người một lát, thở dài:
– Đại sư mà còn không rõ Dương đại hiệp đi đâu, thì ai biết nổi kia chứ?
Rồi nàng định thần nói:
– Đại sư là hảo bằng hữu của Dương đại ca, hèn chi võ công cao minh như thế. À, tiểu nữ còn chưa đa tạ đại sư đã tặng quà sinh nhật, hôm nay tiện đây xin đa tạ!
Vô Sắc thiền sư cười:
– Chúng ta đúng là đánh nhau bể đầu mới nhận họ. Khi nào có dịp gặp Dương đại hiệp, cô nương chớ có bảo lão tăng ỷ lớn bắt nạt tiểu cô nương nhé.
Quách Tương ngước mắt nhìn mấy ngọn núi xa xa, lẩm bẩm một mình:
– Biết bao giờ mới gặp được đây?
Lần sinh nhật năm Quách Tương mười sáu tuổi, Dương Quá bỗng nảy ra ý tưởng mới là viết thiếp mời đồng đạo giang hồ đến quây quần ở Tương Dương mừng sinh nhật nàng. Bấy giờ rất nhiều cao thủ võ lâm của Hắc – Bạch hai đạo đều nể mặt Dương Quá đến chúc mừng; ai không thể đến thì cũng cho người mang lễ vật quý giá tới tặng. Vô Sắc thiền sư nhờ người mang tặng cho nàng chính là đôi thiết La Hán tinh xảo này. Trong ruột đôi thiết La Hán có bố trí máy móc, mỗi khi lên dây là hai thiết La Hán lại đấu với nhau cả một pho La Hán quyền của phái Thiếu Lâm. Đôi thiết La Hán này do một vị kỳ tăng ở Thiếu Lâm tự hơn một trăm năm trước đã tốn bao tâm huyết sáng chế ra, thật vô cùng linh xảo tinh diệu. Quách Tương rất thích chơi món quà này, nàng luôn đem theo bên mình. Không ngờ vừa nãy nó từ trong túi rơi ra, nhờ đó Vô Sắc thiền sư nhận biết lai lịch của nàng. Chiêu thức quyền pháp Thiếu Lâm mà nàng sử dụng ban nãy cũng là học từ đôi thiết La Hán này.
Vô Sắc thiền sư mỉm cười nói:
– Do quy củ nhiều đời của bổn tự, không thể mời Quách nhị cô nương vào chùa du ngoạn, xin cô nương lượng thứ.
Quách Tương có vẻ buồn, đáp:
– Không có chi, việc tiểu nữ muốn biết thì cũng đã hỏi rồi.
Vô Sắc thiền sư chỉ Giác Viễn, nói:
– Còn về việc của vị sư đệ này, thư thả lão tăng sẽ giải thích cho cô nương rõ. Bây giờ lão tăng sẽ cùng cô nương xuống núi, tìm một phạn điếm để lão tăng thực hiện nghĩa vụ đãi khách uống rượu cái đã, cô nương nghĩ sao?
Địa vị của Vô Sắc thiền sư trong Thiếu Lâm tự rất cao, nay lại tỏ ý tôn kính một thiếu nữ tới mức thân chinh tiễn xuống núi và trịnh trọng khoản đãi, các tăng nhân nghe vậy hết thảy không khỏi kinh ngạc. Quách Tương đáp:
– Đại sư khỏi cần khách sáo. Tiểu nữ vừa rồi ra tay quá trớn, đắc tội với mấy vị đại sư, mong lão thiền sư xin lỗi giùm tiểu nữ. Giờ thì xin cáo biệt. Hậu hội hữu kỳ.
– Cô nương không cần lão tăng tiễn chân, lão tăng cũng cứ tiễn. Năm sinh nhật cô nương, lão tăng phụng mệnh Dương đại hiệp đi đốt kho lương thảo và thuốc súng của đại quân Mông Cổ ở Nam Dương, sau đó liền về bổn tự, không thể đến thành Tương Dương chúc mừng nên trong lòng áy náy không yên. Hôm nay cô nương quang lâm bổn tự, nếu không cung kính tiễn đưa ba mươi dặm, há là phải phép với quý khách?
Quách Tương thấy thiền sư thật lòng, nói năng hào sảng, nàng cũng muốn kết bạn vong niên với ngài, bèn mỉm cười nói:
– Vậy mời thiền sư đi cùng!
Hai người sánh vai xuống núi, sau khi ngang qua Nhất Lô đình, nghe có tiếng chân phía sau, nhìn lại thấy Trương Quân Bảo đi theo sau, nhưng cậu ta không dám đến gần. Quách Tương cười nói:
– Trương huynh đệ, huynh đệ cũng tiễn khách xuống núi phải không?
Trương Quân Bảo đỏ mặt, khẽ đáp: “Dạ!”
Lúc đó, từ trên Thiếu Lâm tự có một tăng nhân thi triển khinh công chạy như bay xuống núi, dáng vẻ hết sức vội vã. Vô Sắc thiền sư cau mày, hỏi:
– Làm gì mà hấp tấp thế?
Tăng nhân kia chạy tới bên Vô Sắc thiền sư, hành lễ, nói nhỏ mấy câu. Vô Sắc thiền sư mặt biến sắc, nói lớn:
– Có chuyện như thế được sao?
Tăng nhân kia đáp nói:
– Lão Phương trượng mời Thủ tọa về nghị sự ạ.
Quách Tương nhìn thần sắc của thiền sư liền biết là Thiếu Lâm tự có việc nghiêm trọng, nói:
– Lão thiền sư, bằng hữu tương giao quý ở chỗ tri tâm, đâu cần giữ lễ khách sáo. Lão thiền sư có việc cần kíp, xin cứ quay về quý tự. Dịp khác hữu duyên tương ngộ trên giang hồ, chúng ta sẽ uống rượu luận võ thỏa chí.
Vô Sắc thiền sư cả mừng:
– Thảo nào Dương đại hiệp quý trọng cô nương cũng phải. Cô nương quả là anh hiệp trong nhân quần, trượng phu trong nữ lưu, lão tăng vui lòng kết bạn với cô nương.
Quách Tương mỉm cười:
– Thiền sư là bằng hữu của Dương đại ca thì đã là bằng hữu của tiểu nữ từ sớm rồi còn gì.
Đoạn hai người cáo biệt nhau, Vô Sắc thiền sư trở lên Thiếu Lâm tự.
Quách Tương tiếp tục xuống núi. Trương Quân Bảo theo sau nàng, cách dăm sáu bước, không dám sánh vai đi ngang hàng. Quách Tương hỏi:
– Trương huynh đệ, vì sao các tăng nhân lại hành hạ sư phụ của huynh đệ như thế? Sư phụ của huynh đệ nội công thâm hậu, sợ gì bọn họ kia chứ?
Trương Quân Bảo tới gần hai bước, nói:
– Giới luật Thiếu Lâm tự rất nghiêm khắc, tăng chúng hễ phạm lỗi đều bị phạt, chứ không phải có ai cố ý hà hiếp sư phụ đâu.
Quách Tương ngạc nhiên:
– Sư phụ của huynh đệ là bậc chính nhân quân tử, thiên hạ chưa thấy ai tốt như thế, người đã phạm lỗi gì vậy? Ta nghĩ chắc sư phụ của huynh đệ chịu phạt thay cho ai đó, chứ người như thế còn phạm lỗi gì nữa.
Trương Quân Bảo nói:
– Nguyên ủy của việc này thực ra cô nương cũng biết đấy, tất cả chỉ bởi bộ kinh Lăng Già.
Quách Tương hỏi:
– Ồ, là bộ kinh bị hai tên Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây lấy trộm ấy à?
Trương Quân Bảo đáp:
– Phải. Hôm ấy trên đỉnh Hoa Sơn tiểu đệ được Dương đại hiệp chỉ giáo, chính tiểu đệ đã tự tay lục xét toàn thân hai kẻ đó, sau khi xuống núi thì không còn thấy tung tích của chúng đâu nữa. Hai thầy trò tiểu đệ đành trở về bẩm báo lão Phương trượng. Bộ kinh Lăng Già có bút tích của Đạt Ma tổ sư, Thủ tọa Giới luật đường khiển trách sư phụ tiểu đệ trông coi không cẩn thận, để mất bộ kinh vô giá đó nên mới phạt nặng như vậy. Phạt thế là đáng tội mà.
Quách Tương thở dài một tiếng, nói:
– Chẳng qua sư phụ của đệ gặp vận xui, chứ không thể bảo là đáng tội được.
Nàng chỉ lớn hơn Trương Quân Bảo vài tuổi, nhưng nghiễm nhiên tự coi mình là bề trên, lại hỏi: – Vì vụ ấy mà phạt không cho sư phụ của đệ nói năng hay sao?
Trương Quân Bảo đáp:
– Đó là giới luật truyền từ nhiều đời của bổn tự. Kẻ phạm lỗi phải đeo xiềng gánh nước, không được nói chuyện. Tiểu đệ nghe các lão thiền sư bổn tự bảo rằng tuy gọi là xử phạt, nhưng rất có ích cho kẻ bị phạt: một người không nói năng gì thì tu luyện càng dễ tăng tiến; còn bị xiềng mà gánh nước cũng là dịp tốt để rèn luyện thể phách.
Quách Tương cười:
– Nói thế chẳng hóa ra sư phụ của đệ không hề bị phạt mà đang luyện võ công, còn ta chính là kẻ đa sự.
Trương Quân Bảo vội biện bạch:
– Hảo tâm của cô nương, sư đồ tiểu đệ vô cùng cảm kích, vĩnh viễn không quên.
Quách Tương khe khẽ thở dài, nhủ thầm:
– “Nhưng có người hẳn đã quên ta rồi”.
Bỗng nghe có tiếng lừa kêu trong rừng cây. Chính là con lừa xanh của nàng đang gặm cỏ. Quách Tương nói:
– Trương đệ, đệ cũng khỏi cần tiễn tỷ nữa.
Đoạn nàng huýt một tiếng sáo miệng gọi con lừa xanh tới trước mặt. Trương Quân Bảo có vẻ quyến luyến, song chưa biết nói thế nào.
Quách Tương đưa đôi thiết La Hán đang cầm trong tay cho cậu:
– Tặng cho đệ đấy.
Trương Quân Bảo ngơ ngác, không dám giơ tay nhận, miệng ấp úng:
– Cái… cái này…
Quách Tương nói:
– Đã bảo là tặng đệ thì đệ cứ nhận lấy.
Trương Quân Bảo nói:
– Đệ… tiểu đệ…
Quách Tương liền nhét đôi thiết La Hán vào tay cậu, rồi nhảy lên lưng lừa.
Đột nhiên từ trên bậc đá lát đường sườn núi có tiếng người gọi vọng xuống:
– Quách nhị cô nương, hãy tạm dừng bước.
Chính là Vô Sắc thiền sư vừa từ Thiếu Lâm tự chạy ra. Quách Tương nghĩ thầm: “Lão hòa thượng này cũng đa lễ thật, hà tất cứ phải tiễn mình mới được?” Vô Sắc thiền sư đi rất nhanh, chỉ giây lát đã đuổi kịp Quách Tương. Thiền sư nói với Trương Quân Bảo:
– Ngươi hãy hồi tự, đừng đi lung tung trong rừng nữa.
Trương Quân Bảo cung thân vâng lệnh, nhìn Quách Tương một cái rồi đi lên núi.
Đợi cậu đi rồi, Vô Sắc thiền sư lấy trong tay áo ra một mảnh giấy nói:
– Quách nhị cô nương, cô nương có biết ai viết giấy này chăng?
Quách Tương nhảy xuống khỏi lưng lừa, cầm lấy mảnh giấy, thấy trên đó viết hai hàng chữ đậm, mực vẫn chưa ráo hẳn: “Võ công phái Thiếu Lâm, xưng hùng Trung nguyên, Tây Vực nhiều năm, Côn Luân Tam Thánh ít hôm nữa sẽ tới liều chết lĩnh giáo”.
Nét bút rất phóng khoáng và cứng cát. Quách Tương hỏi:
– Côn Luân Tam Thánh là ai vậy? Xem ra khẩu khí của ba người này khá ngông cuồng.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Thì ra cô nương cũng không quen biết họ.
Quách Tương lắc đầu:
– Chẳng những không quen biết, mà ngay mấy chữ Côn Luân Tam Thánh tiểu nữ cũng chưa nghe phụ mẫu nhắc bao giờ.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Thế thì lạ thật!
Quách Tương hỏi:
– Có gì lạ kia ạ?
Vô Sắc thiền sư nói:
– Lão tăng và cô nương tuy gặp nhau lần đầu, nhưng lão tăng coi cô nương như chỗ thân tình, có thể nói thật cho cô nương hay. Cô nương có biết mảnh giấy này tìm thấy ở đâu không?
Quách Tương nói:
– Côn Luân Tam Thánh sai người mang đến phải không ạ?
Vô Sắc thiền sư đáp:
– Nếu họ sai người mang đến thì không có gì lạ. Tục ngữ có câu “Cây cao chịu gió lớn”. Thiếu Lâm tự mấy trăm năm nay được coi là nguồn gốc võ lâm thiên hạ, cho nên liên tiếp có các bậc cao thủ đến chùa đòi tỷ võ tranh tài. Lần nào có người đến đòi so sánh tài nghệ, bổn tự cũng khoản đãi tử tế, cố tìm cách thoái thác, né tránh việc tỷ thí. Những người tu hành chú trọng tránh né sân si hỷ nộ, đâu muốn trình cường tranh thắng. Nếu ngày ngày chỉ lo tỷ thí với mọi người, còn gọi là đệ tử của Phật môn ư?
Quách Tương gật đầu:
– Lão thiền sư nói chí phải.
Vô Sắc thiền sư nói tiếp:
– Có điều là các võ sư đã tới bổn tự, nếu không thi thố vài miếng võ tất không cam chịu. La Hán đường của Thiếu Lâm tự phải chuyên trách cái việc tiếp các võ sư từ bên ngoài tới.
Quách Tương cười:
– Thế ra lão thiền sư phải chuyên trách cái vụ đánh nhau với người ngoài.
Vô Sắc thiền sư gượng cười:
– Nhìn chung các võ sư tới, dù võ công tài giỏi mấy, đệ tử của bổn đường cũng đủ khả năng đối phó, khỏi cần lão tăng phải ra tay. Riêng bữa nay thấy cô nương thân thủ bất phàm, lão tăng mới đứng ra đấu thử.
Quách Tương cười:
– Lão thiền sư coi trọng tiểu nữ quá rồi.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Chà, lão tăng càng nói càng xa đề! Chẳng giấu gì cô nương, mảnh giấy này được lấy xuống từ bàn tay tượng Phật Giáng Long trong La Hán đường.
Quách Tương hỏi:
– Ai đã gài nó vào bàn tay tượng Phật?
Vô Sắc thiền sư gãi đầu:
– Nào có biết. Thiếu Lâm tự đến mấy trăm tăng nhân, nếu có người lạ lẻn vào chùa, lẽ nào không ai phát hiện? Riêng La Hán đường luôn luôn có tám đệ tử luân phiên canh gác suốt ngày đêm. Vừa rồi có người phát hiện mảnh giấy này, vội phi báo với Phương trượng, ai nấy cho là kỳ quái nên mới triệu lão tăng về nghị sự.
Quách Tương nghe tới đây, đã hiểu ý của Vô Sắc thiền sư, bèn nói:
– Có phải lão thiền sư nghi tiểu nữ thông đồng với
Côn Luân Tam Thánh, tiểu nữ ở bên ngoài quấy nhiễu để ba kẻ kia lẻn vào La Hán đường gài mảnh giấy này, phải vậy không?
Vô Sắc thiền sư nói:
– Lão tăng đã gặp cô nương, dĩ nhiên không chút nghi ngờ. Nhưng có một sự trùng hợp là cô nương vừa rời khỏi bổn tự, thì người ta phát hiện ra mảnh giấy này trong La Hán đường. Phương trượng và Vô Tướng thiền sư không thể không nghi cho cô nương.
Quách Tương nói:
– Tiểu nữ không hề quen biết ba kẻ nọ. Lão thiền sư sợ gì kia chứ? Mươi ngày sau nếu chúng cả gan kéo đến, cứ tỷ thí với chúng một phen xem ai hơn ai kém là xong.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Sợ gì, dĩ nhiên là không sợ gì. Nếu cô nương không liên can gì tới chúng thì lão tăng khỏi cần lo ngại.
Quách Tương hiểu rằng Vô Sắc thiền sư có hảo ý, lo ngại Côn Luân Tam Thánh có quen biết với nàng, khi giao đấu sẽ phải giữ ý giữ tứ để khỏi đắc tội với bằng hữu, nàng bèn nói:
– Lão thiền sư, nếu bọn chúng thực tình muốn nghiên cứu võ công với quý tự thì thôi, bằng không lão thiền sư cứ giã cho chúng một trận nên thân. Cứ xem khẩu khí qua mảnh giấy này đủ thấy bọn chúng ngông cuồng lắm. Thế nào là “liều chết lĩnh giáo”? Chẳng lẽ Thiếu Lâm tự có bảy mươi hai tuyệt kỹ võ nghệ, bọn chúng đều muốn “liều chết lĩnh giáo” cả hay sao?
Nói đến đây, như chợt nghĩ ra việc gì, nàng tiếp:
– Không chừng trong quý tự có kẻ thông đồng với bọn chúng mà lén gài mảnh giấy này vào bàn tay tượng Phật cũng nên.
Vô Sắc thiền sư nói:
– Điều này các lão tăng cũng đã tính đến, nhưng chắc chắn bổn tự không có kẻ phản trắc như thế. Bàn tay của Phật Giáng Long La Hán ở trên cao, cách mặt đất hơn ba trượng, ngày thường quét bụi đều phải kê giá leo lên. Hiếm người có tài khinh công đủ nhảy cao tới đó. Bổn tự dù có kẻ phản nghịch chăng nữa, hắn cũng không thể tài giỏi như vậy.
Lòng hiếu kỳ của Quách Tương trỗi dậy, nàng rất muốn gặp mặt xem Côn Luân Tam Thánh rốt cuộc là các nhân vật thế nào, muốn xem bọn chúng tỷ thí võ nghệ với các tăng nhân Thiếu Lâm tự, xem ai thắng ai bại. Nhưng Thiếu Lâm tự có lệ không tiếp đãi nữ khách, xem ra nàng chẳng thể chứng kiến trận tỷ thí ngoạn mục kia.
Vô Sắc thiền sư thấy nàng cúi đầu trầm tư, tưởng nàng đang nghĩ kế hộ Thiếu Lâm tự, bèn nói:
– Một ngàn năm nay Thiếu Lâm tự từng trải qua bao phong ba bão tố mà vẫn bình yên. Nay nếu Côn Luân Tam Thánh cố ý gây khó dễ, họ sẽ biết thế nào là uy phong của Thiếu Lâm tự. Quách cô nương, nửa tháng nữa trên giang hồ cô nương hãy lắng nghe tin tức, xem Côn Luân Tam Thánh có làm gì nổi Thiếu Lâm tự hay không.
Nói tới đây, Vô Sắc thiền sư bỗng trở nên bừng bừng hào sảng như hồi tráng niên. Quách Tương mỉm cười nói:
– Ban nãy lão thiền sư vừa bảo còn sân si hỷ nộ thì không phải là đệ tử Phật môn kia mà? Được rồi, nửa tháng sau tiểu nữ sẽ chờ nghe tin mừng.
Đoạn nàng quay người nhảy lên lưng lừa, hai người nhìn nhau cùng mỉm cười.
Quách Tương giục con lừa xanh đi thẳng xuống núi, lòng đinh ninh thể nào cũng phải tìm cách mục kích cuộc nhiệt náo sắp tới cho bằng được.
Nàng nghĩ thầm: “Mình phải tìm một cách thật hoàn hảo để mươi ngày sau trà trộn vào Thiếu Lâm tự thưởng thức trận đấu ngoạn mục kia mới được”. Lại nghĩ: “Chỉ e Côn Luân Tam Thánh không có chân tài thực học, chưa chi đã bị các vị hòa thượng đánh bại thì cuộc nhiệt náo bất thành. Giả như bọn chúng có được nửa bản lĩnh của ông ngoại, của phụ thân hoặc của đại ca, thì sự kiện “Côn Luân Tam Thánh đại náo Thiếu Lâm tự” mới đáng xem”.
Nghĩ tới Dương Quá, nàng lại ấm ấm ức ức. Ba năm nay Quách Tương tìm kiếm chàng khắp nơi, nhưng hình bóng chàng vẫn biền biệt. Núi Chung Nam cổ mộ từng dãy, lũng Vạn Hoa muôn đóa rời cành, Tuyệt Tình cốc vắng vẻ tịch mịch, bến Phong Lăng ánh nguyệt lạnh lùng. Nàng đã bao lần tự nhủ: “Thực ra, dù ta tìm thấy chàng, thì cũng có nghĩa lý gì đâu? Hay chỉ nặng thêm mối tương tư, sầu não? Chàng sở dĩ lánh đi thật xa có lẽ chỉ cốt cho ta đỡ đau khổ cũng nên. Vốn biết chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước, hoàn toàn ảo ảnh, chẳng hiểu sao ta vẫn cứ nhớ nhung, tìm kiếm”.
Nàng để mặc con lừa xanh muốn đưa tới đâu thì tới, cứ thẩn tha trong núi Thiếu Thất, đi mãi về hướng tây, đã vào địa giới Tung Sơn, nhìn lại đỉnh núi Đông của núi Thiếu Thất chỉ thấy nó cao chót vót, dọc đường phong cảnh khá đẹp, ngắm không chán mắt. Cứ thế ngao du mấy hôm thì tới Tam Hưu đài, nàng nghĩ thầm: “Tam Hưu, Tam Hưu! Tại sao chỉ có Tam Hưu? Đời người có hàng ngàn hàng vạn Hưu, há chỉ có Tam Hưu?”
Nàng rẽ sang hướng bắc, qua một đỉnh núi, chỉ thấy có tới hơn ba trăm cây bách cổ thụ cao vút, rễ quấn quýt bên dưới, lá kết hoa trên ngọn, sáng đẹp cả một vùng. Nàng đang mải ngắm cảnh, bỗng nghe từ phía sau thung lũng văng vẳng tiếng đàn vọng lại, ngạc nhiên nghĩ thầm: “Giữa chốn hoang vu này lại có cao nhân nhã sĩ nào tới đây dạo đàn nhỉ”. Từ nhỏ nàng đã được mẫu thân giáo huấn, cầm kỳ thi họa môn gì cũng am hiểu, tuy chưa tinh thông nhưng nhờ bẩm tính thông tuệ, lại ưa tìm tòi phát hiện, nên khi đàm luận với mẫu thân về đàn, về sách, nàng thường đưa ra những kiến giải độc đáo, những phát hiện mới mẻ. Lúc này nghe thấy tiếng đàn, lòng hiếu kỳ trỗi dậy, nàng bèn xuống lừa, đi tìm về phía tiếng đàn.
Đi hơn chục trượng, thoạt nghe trong tiếng đàn có lẫn vô số tiếng chim; nhưng khi lắng nghe mới hay tiếng đàn và tiếng chim như đang ứng đáp, phối hợp tiết tấu với nhau hết sức ăn ý. Quách Tương nấp sau một bụi hoa, đưa mắt về phía phát ra tiếng đàn, thì thấy dưới gốc ba cây thông lớn có một bạch y nam tử ngồi quay lưng về phía nàng, cây tiêu vĩ cầm đặt trên gối, đang gảy đàn. Trên các cành cây xung quanh chàng ta có vô số loài chim như hoàng oanh, đỗ quyên, hỷ thước, sơn ca, sáo sậu, và nhiều giống chim không rõ tên hoặc đang đối đáp, hoặc hòa tấu cùng tiếng đàn. Quách Tương nghĩ thầm: “Mẫu thân kể rằng trong các nhạc khúc có khúc “Không sơn điểu ngữ” bị thất truyền từ lâu, chẳng lẽ chính là khúc này?”
Nàng nghe một lát, thấy tiếng đàn lên cao dần, tới mức bầy chim không kêu hót nữa; trên không trung bỗng tràn ngập tiếng chim vỗ cánh, từ bốn phía đông tây nam bắc cơ man nào là chim bay đến hoặc tụ tập trên các cành cây, hoặc bay lượn xập xòe khoe những bộ lông ngũ sắc, cứ y như một kỳ quan. Tiếng đàn trung chính bình hòa, cho thấy người gảy đàn có phong thái của bậc vương giả.
Quách Tương kinh ngạc nghĩ thầm: “Người kia dùng tiếng đàn mà quy tụ được ngần ấy chim muông, chẳng lẽ vừa rồi là nhạc khúc ‘Bách điểu triều phụng’? Chỉ tiếc ông ngoại không có ở đây, chứ không thì cây ngọc tiêu thiên hạ vô song của ông ngoại hòa với tiếng đàn người kia sẽ tuyệt diệu vô cùng”.
Người kia gảy tới khúc cuối, tiếng đàn thấp dần, bầy chim trên cây cùng nhau cất cánh bay lượn. Chợt “keng” một tiếng, tiếng đàn im bặt, chim muông dần dần bay tản đi.
Người kia tiện tay gảy vài âm ngắn, rồi ngửa mặt lên trời thở dài:
– Ôm trường kiếm, ngước nhìn trời, kìa nước xanh, nọ đá trắng, sao chẳng ở bên nhau! Thế gian không có tri âm tri kỷ, dù sống ngàn năm phỏng ích gì?
Nói đến đây, người nọ đột nhiên rút từ bên dưới cây đàn ra một thanh trường kiếm, chỉ thấy một đạo thanh quang lóe lên trong bóng cây. Quách Tương nghĩ thầm: “Thì ra người này văn võ toàn tài, không rõ kiếm pháp của y như thế nào?”
Người kia thong thả bước tới khoảng đất trống trước cây thông cổ thụ, dùng mũi kiếm vạch xuống đất các đường ngang dọc. Quách Tương ngạc nhiên nghĩ thầm: “Thế gian sao lại có thứ kiếm pháp quái lạ như vậy? Lẽ nào vạch mũi kiếm loạn xạ trên mặt đất là có thể thắng địch thủ được sao? Người này thật kỳ dị, khó đoán biết!”
Thử để ý chiêu thức, thấy chàng ta vạch ngang mười chín đường, rồi chuyển sang vạch dọc cũng mười chín đường; kiếm chiêu trước sau không thay đổi, toàn là vạch đường thẳng. Quách Tương dựa theo kiếm thế, dùng tay vạch theo trên mặt đất, suýt cười thành tiếng, thì ra có phải kiếm pháp kỳ quái gì đâu, chẳng qua chàng ta dùng mũi kiếm vẽ một bàn cờ, ngang dọc mỗi chiều mười chín đường.
Vẽ bàn cờ xong, chàng ta dùng mũi kiếm vẽ một vòng tròn ở phía trên góc trái và phía dưới góc phải, vạch dấu chữ X phía trên góc phải và phía dưới góc trái. Quách Tương đã thấy rõ đó là bàn cờ vây, những vòng tròn là quân trắng, dấu X là quân đen. Đoạn chàng ta khuyên một vòng tròn nữa ở phía trên góc trái, cách vòng tròn ban đầu ba ô, còn bên dưới vòng tròn hai ô thì vạch một dấu X. Khi chàng ta đặt đến quân cờ thứ mười chín thì chống mũi kiếm, cúi đầu suy tư, chưa quyết định nên thí quân lấy thế, hay là tranh lực ở góc bàn cờ.
Quách Tương nghĩ thầm: “Hóa ra người kia cũng cô đơn lẻ bóng như ta, ngồi gảy đàn chốn núi hoang, lấy chim muông làm tri âm, đánh cờ không đối thủ, đành tự đấu với mình vậy”.
Người kia nghĩ một lát, quân trắng chưa chịu thua, đang triển khai kịch chiến với quân đen ở góc trái; đôi bên tranh giành ngang ngửa, từ bắc xuống nam, dần dần tới vùng Trung nguyên là giữa bàn cờ. Quách Tương chăm chú theo dõi, cứ bước tới mỗi lúc một gần, thấy quân trắng ở thế thua, trước sau luôn luôn bị lép vế, đến nước thứ chín mươi ba thì gặp thế công liên hoàn của quân đen, đã vô cùng nguy cấp, song chàng ta vẫn cố chống chọi. Tục ngữ có câu “Cờ ngoài bài trong”. Quách Tương tuy không cao cờ, nhưng cũng nhận ra, nếu quân trắng không chịu thí quân thì khó tránh toàn quân ở Trung nguyên bị tiêu diệt; nàng không nhịn được, bèn buột miệng nói to:
– Sao không bỏ Trung nguyên mà giành lấy Tây Vực?
Người kia rùng mình, thấy ở mé tây bàn cờ có một khoảng trống rộng lớn, nếu nhân lúc này đặt luôn hai quân chiếm lấy, thì dù có bỏ mảng giữa, cũng vẫn duy trì được cục diện bất phân thắng bại. Người kia được Quách Tương mách nước, ngửa mặt lên trời cả cười, miệng nói:
– Hay, hay lắm!
Đoạn đi tiếp vài nước, mới sực nhớ có người lạ ở bên cạnh, bèn quẳng kiếm xuống đất, quay người lại hỏi:
– Tại hạ đa tạ vị cao nhân nào vừa chỉ giáo?
Rồi chàng ta hướng về phía Quách Tương ẩn núp mà vái một vái.
Quách Tương thấy người kia mặt dài, mắt sâu, má hõm, trạc ba mươi tuổi. Tính nàng vốn phóng khoáng, chẳng câu nệ nam nữ, liền từ phía sau bụi cây bước ra, cười nói:
– Vừa rồi được nghe tiên sinh tấu khúc nhạc “Không sơn điểu ngữ” khiến chim muông quây quần, tiểu nữ thật thán phục! Sau lại thấy tiên sinh vẽ bàn cờ trên mặt đất, tự đấu cờ tài tình, tiểu nữ đứng ngoài xem không nhịn nổi mới lên tiếng xen vô, mong tiên sinh lượng thứ.
Người kia thấy Quách Tương là một thiếu nữ thì quá ngạc nhiên, nhưng nghe nàng ca ngợi tiếng đàn liền cao hứng đáp lại:
– Cô nương thông hiểu nhạc lý, liệu có thể cho tại hạ thưởng thức vài bản đàn hay chăng?
Quách Tương cười nói:
– Tiểu nữ tuy có được thân mẫu dạy đàn, song không thể so với tuyệt kỹ thần kỳ của tiên sinh. Có điều tiểu nữ đã được nghe diệu khúc của tiên sinh, mà không hồi đáp thì e thất lễ quá. Vậy tiểu nữ xin gảy một bài, chỉ mong tiên sinh đừng cười.
Người kia nói:
– Đâu dám.
Đoạn dùng cả hai tay nâng cây đàn đến trước mặt Quách Tương.
Quách Tương thấy cây đàn rất cổ, có nhiều vết rạn nứt; nàng lên dây, dạo thử vài tiếng, rồi gảy khúc “Khảo bàn”. Thủ pháp của nàng dĩ nhiên không có gì kỳ diệu, nhưng người kia nghe đàn với vẻ mặt ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Thì ra khúc nhạc này xuất xứ từ một bài thơ trong Kinh Thi, ca ngợi bậc ẩn sĩ, đại ý là có một đấng trượng phu ngao du sơn thủy, bên dòng suối vắng, đơn độc một mình, dáng vẻ tiều tụy, nhưng chí hướng cao khiết thì không bao giờ thay đổi.
Người kia nghe tiếng đàn diễn tả đúng tâm sự của mình liền cảm kích vô cùng; tiếng đàn đã dứt mà chàng ta vẫn cứ đứng ngây ra đó.
Quách Tương đặt nhẹ cây đàn xuống, quay mình rời khỏi chốn này, vừa cất tiếng ca bài Kinh Thi vừa rồi, vừa vẫy con lừa xanh tới, nàng lại cưỡi lừa đi tiếp vào rừng sâu.
Ba năm lang thang đây đó trên giang hồ, nàng từng gặp biết bao nhiêu điều kỳ dị, chuyện người kia gảy đàn rủ chim, vạch bàn cờ tự đấu cũng chỉ như cánh bèo tụ tán, nhanh chóng thoảng qua, chẳng còn dấu vết.
Hai ngày sau, bấm đốt ngón tay, nàng nhớ từ hôm rời Thiếu Lâm tự đến nay đã mười ngày, đã gần tới thời gian Côn Luân Tam Thánh hẹn ước tỷ thí võ nghệ với chúng tăng Thiếu Lâm tự. Quách Tương chưa biết làm cách thế nào lẻn vào trong chùa xem cuộc nhiệt náo, nghĩ thầm: “Mẫu thân ta gặp việc gì cũng chỉ cau mày một cái là nghĩ ngay ra mười mấy diệu kế, mình thì quá ngu xuẩn, một kế tính mãi cũng chẳng xong. Thôi được, dẫu sao bây giờ mình hãy cứ đến bên ngoài Thiếu Lâm tự xem rồi liệu sau. Không chừng các tăng nhân mải lo đối phó với kẻ địch mà quên cả việc ngăn cản ta vào chùa cũng nên”.
Nàng ăn qua loa chút lương khô, rồi cưỡi con lừa xanh đi về phía Thiếu Lâm tự. Cách chùa mươi dặm, chợt nghe tiếng vó ngựa; trên con đường núi bên trái có ba người phóng ngựa tới. Ba con ngựa ấy phi rất nhanh, thoáng một cái đã lướt qua chỗ Quách Tương, thẳng về phía Thiếu Lâm tự. Ba người cưỡi ngựa đều trạc ngũ tuần, bận y phục ngắn màu xanh, treo túi binh khí trên yên.
Quách Tương liền nghĩ thầm: “Ba lão kia đều có võ công, dám mang binh khí tới chùa, hẳn là Côn Luân Tam Thánh. Mình mà đến chậm một bước, chỉ e lỡ mất dịp may”. Nghĩ đoạn nàng đét mạnh vào mông con lừa, nó ngẩng cao đầu hí một tiếng dài, phóng vội theo ba con ngựa.
Ba lão già cưỡi ngựa luôn tay vung roi giục ngựa; ba con ngựa tung vó lao nhanh, loáng một cái đã bỏ xa con lừa của Quách Tương. Một lão già ngoảnh nhìn lại, vẻ mặt hơi lạ.
Quách Tương thúc lừa đuổi theo hai, ba dặm nữa thì mất hút nhóm kỵ sĩ kia. Con lừa xanh của nàng sau một hồi gắng sức đã thở phì phò gấp gáp, có vẻ sắp kiệt sức. Quách Tương quát to:
– Con súc sinh vô dụng này, ngày thường chẳng vội thì cứ giở quẻ phóng nhanh; đến lúc bổn cô nương cần mi phóng thật nhanh thì mi chạy chậm như rùa.
Thấy thúc nó cũng chẳng xong, nàng bèn xuống lừa, vào một thạch đình bên đường ngồi nghỉ đôi chút, cho con lừa uống nước suối cạnh đó. Lát sau, bỗng nghe tiếng vó ngựa, thì ra ba lão già lúc nãy phi ngựa trở lại. Quách Tương ngạc nhiên quá đỗi, nghĩ thầm: “Tại sao họ phi ngựa trở lại, chẳng lẽ họ không chịu nổi vài đòn?”
Ba người kia phóng thẳng vào thạch đình, cùng nhảy xuống ngựa. Quách Tương bây giờ có dịp nhìn kỹ họ. Một lão lùn mặt đỏ như chu sa, mũi cũng đỏ choét, miệng tủm tỉm cười, trông hòa nhã dễ mến; lão thứ hai cao như sếu vườn, mặt xanh tái, tựa hồ quanh năm suốt tháng không ra nắng. Hai lão già kia thân hình và diện mạo hoàn toàn tương phản nhau; còn lão thứ ba tướng mạo bình thường, nhưng sắc mặt vàng khè như kẻ có bệnh.
Quách Tương nổi lòng hiếu kỳ, lên tiếng hỏi:
– Ba vị lão tiên sinh đã tới Thiếu Lâm tự hay chưa? Tại sao vừa mới lên đó đã quay trở xuống?
Lão mặt xanh lườm nàng một cái, tựa hồ trách cứ nàng dám lục vấn lung tung. Lão lùn mặt hồng mũi đỏ cười hỏi lại:
– Sao cô nương biết bọn ta đến Thiếu Lâm tự?
Quách Tương nói:
– Có mỗi con đường này, không đến Thiếu Lâm tự thì còn đi đâu kia chứ?
Lão lùn nói:
– Cô nương nói không sai, thế còn cô nương định đi đâu?
Quách Tương đáp nói:
– Các vị đến Thiếu Lâm tự, tiểu nữ cũng đến Thiếu Lâm tự.
Lão mặt xanh nói:
– Thiếu Lâm tự xưa nay không cho phép nữ lưu đến đó và cũng cấm người ngoài mang khí giới vào chùa.
Giọng nói của lão rất ngạo mạn, thân hình lại quá cao, nên lúc nói ánh mắt lão nhìn qua đầu chứ không phải nhìn vào mặt Quách Tương.
Quách Tương khó chịu nói:
– Thế sao các vị lại mang theo khí giới? Cái túi đeo bên yên ngựa kia chẳng phải đựng khí giới đó sao?
Lão mặt xanh lạnh lùng đáp:
– Ngươi làm sao có thể so bì với bọn ta?
Quách Tương cười nhạt:
– Ba vị thì hơn nỗi gì? Hơn ở sự ngang ngạnh chăng? Côn Luân Tam Thánh đã tỷ thí với các hòa thượng Thiếu Lâm tự hay chưa? Ai thắng ai bại vậy?
Ba lão già nghe vậy hơi biến sắc. Lão mặt đỏ hỏi:
– Tiểu cô nương, tại sao ngươi biết chuyện Côn Luân Tam Thánh?
Quách Tương đáp:
– Thì tự nhiên biết thôi!
Lão mặt xanh bỗng tiến một bước, quát hỏi:
– Tên họ mi là gì? Môn hạ của ai? Đến Thiếu Lâm tự làm gì?
Quách Tương trừng mắt nói:
– Không liên can tới ngươi.
Lão mặt xanh tức giận, giơ tay lên định cho nàng một cái tát, nhưng sực nghĩ mình cậy lớn hiếp nhỏ, cậy nam khinh nữ chẳng hay hớm gì; hơn nữa thân phận cao quý sao lại đi dính vào chuyện con nít nhà người. Nghĩ vậy, lão hơi chuyển mình, giơ tay rút thanh đoản kiếm đang đeo ở lưng Quách Tương. Thủ pháp của lão nhanh khôn tả. Quách Tương chỉ cảm thấy một làn gió lạnh thoảng qua, bóng người loáng một cái, thanh kiếm của nàng đã bị người ta đoạt mất.
Bất ngờ không kịp đề phòng, bị kẻ khác đoạt vũ khí, thật là điều chưa từng xảy ra từ khi nàng bước chân vào chốn giang hồ. Thực ra, võ công và lịch duyệt của nàng hoàn toàn chưa đủ để dấn thân vào chốn giang hồ, nhưng tám chín phần trong giới võ lâm đều biết nàng là quý nữ của Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Sau lần Dương Quá tổ chức mừng sinh nhật cho nàng, ngay trong giới bàng môn tả đạo hầu hết ai cũng đều biết nàng; nếu không trọng Quách Tĩnh và Hoàng Dung thì cũng phải nể mặt Dương Quá. Thêm vào đó, Quách Tương vừa xinh đẹp, vừa hào phóng hiếu khách, dù là dân bán hàng rong hay chủ tiệm thịt chó, nàng cũng coi trọng như nhau, thi thoảng vẫn thết họ chén rượu. Vì thế, tuy giang hồ đầy rẫy phong ba hiểm ác, song nàng đều hóa hung thành cát, chưa hề bị thất thế một lần. Bây giờ bất ngờ bị lão già mặt xanh kia đoạt kiếm, nàng chưa biết đối phó ra sao. Nếu xông lên giành lại, tự nghĩ võ công còn thua xa lão; song nếu bó tay, thì há cam lòng?
Lão mặt xanh dùng ngón trỏ và ngón giữa tay trái kẹp bao kiếm, lạnh lùng nói:
– Kiếm của mi, lão đây tạm giữ. Mi dám vô lễ với ta, hẳn do phụ mẫu và sư phụ của mi thiếu giáo huấn mà nên. Mi hãy về bảo họ tới gặp ta mà nhận lại kiếm; để ta hướng dẫn cho phụ mẫu và sư phụ của mi cách giáo huấn mi.
Lời lẽ đó khiến Quách Tương đỏ bừng mặt; nói thế khác gì bảo nàng không phải con nhà gia giáo. Nàng tự nhủ: “Được lắm! Lão chửi mắng ta, chửi cả ông bà cha mẹ ta nữa. Lão có bản lĩnh thông thiên hay sao mà dám cả gan như vậy?” Nàng định thần giây lát, cố nén giận, hỏi:
– Này lão kia, tên lão là gì?
Lão mặt xanh hừ một tiếng, nói:
– Ai bảo mi nói năng vô lễ như thế? Để lão dạy cho, mi phải hỏi: Xin thỉnh giáo quý tính đại danh của lão tiền bối là chi?
Quách Tương tức giận nói:
– Ta cứ thích hỏi lão tên gì đấy. Lão không muốn nói thì thôi, ta chẳng cần biết. Thanh kiếm kia cũng chẳng đáng gì, lão lớn tuổi mà không biết tự trọng lại đi cướp giật của kẻ hậu bối, ta chẳng thèm đòi.
Đoạn nàng quay người ra khỏi thạch đình.
Bỗng một cái bóng đỏ loáng qua trước mặt, lão lùn mặt đỏ đã chắn đằng trước, lim dim mắt, nói:
– Con gái chớ nên nóng nảy như thế. Rồi đây sắp về làm dâu nhà người, chẳng lẽ cứ thế nói năng với cha mẹ chồng hay sao? Thôi được, để lão nói cho cô nương biết, ba lão đây là sư huynh sư đệ, mấy ngày qua từ ngoài Tây Vực xa hàng vạn dặm tới Trung nguyên…
Quách Tương bĩu môi, ngắt lời:
– Lão không nói, ta cũng biết. Ở Thần Châu Trung nguyên này người ta không hề biết đến tự hiệu của ba lão.
Ba lão già đưa mắt nhìn nhau. Lão mặt đỏ hỏi:
– Xin hỏi cô nương, tôn sư là vị nào vậy?
Ở Thiếu Lâm tự, Quách Tương không chịu nói tên phụ mẫu; còn lúc này vì tức giận, nên nàng liền nói:
– Thân phụ ta họ Quách tên Tĩnh, thân mẫu ta họ Hoàng, tên Dung. Ta không có sư phụ, võ nghệ là do phụ mẫu chỉ dẫn qua loa đôi chút.
Ba lão già lại đưa mắt nhìn nhau. Lão mặt xanh lẩm bẩm: “Quách Tĩnh? Hoàng Dung? Họ thuộc môn phái nào vậy? Là đệ tử của ai nhỉ?”
Quách Tương nghe lão mặt xanh lẩm bẩm như thế thì càng bực, nghĩ thầm: “Phụ mẫu ta danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, chẳng riêng người trong võ lâm, ngay cả bá tánh tầm thường ai ai cũng biết Quách đại hiệp vì nghĩa giữ thành Tương Dương như thế nào”.
Nhưng nhìn mặt ba lão già kia, nàng thấy không có vẻ gì là giả dối, nàng chợt hiểu: “Côn Luân Tam Thánh ở tận Tây Vực xa xôi, chưa hề tới đất Trung nguyên. Võ công của họ cao siêu, phụ mẫu ta cũng chưa lần nào nhắc đến họ; thế thì họ không biết danh tiếng phụ mẫu ta cũng chẳng có gì là lạ. Chắc xưa nay họ ẩn cư chốn thâm sơn cùng cốc ở Côn Luân, chuyên tâm tập luyện võ nghệ, nên không hay biết gì chuyện bên ngoài”. Nghĩ tới đó, cơn giận tiêu tan, nàng vốn không phải là một thiếu nữ xấc xược, bèn nói:
– Tiểu nữ họ Quách, tên Tương, là chữ Tương trong “Tương Dương” ấy mà. Vậy là tiểu nữ đã xưng danh rồi đó. Còn ba vị, xin thỉnh vấn ba vị lão tiên sinh quý tính đại danh là chi?
Lão mặt đỏ cười hì hì:
– Hay lắm, tiểu cô nương như thế mới ngoan, vừa dạy đã hiểu liền. Thế mới là đạo tôn kính bề trên.
Lão chỉ người mặt vàng, nói:
– Đây là đại sư huynh của các lão, họ Phan, tên Thiên Canh. Lão đây là nhị sư huynh, họ Phương, tên Thiên Lao.
Đoạn chỉ người mặt xanh, nói:
– Còn đây là tam sư đệ, họ Vệ, tên Thiên Vọng. Ba huynh đệ lão đều có đệm chữ Thiên.
– Chẳng hay ba vị đã tới Thiếu Lâm tự chưa? Ba vị tỷ thí võ công với các hòa thượng phải không? Võ nghệ bên nào cao hơn?
Lão mặt xanh, tức Vệ Thiên Vọng, hừ một tiếng, quát nói:
– Sao chuyện gì mi cũng biết hết vậy? Bọn ta tính tỷ thí với đám hòa thượng Thiếu Lâm tự, thiên hạ này chưa ai hay biết, làm sao mi biết hả? Nói mau!
Vừa nói lão vừa sấn đến trước mặt Quách Tương, tay phải nắm chặt lại, mắt trừng trừng dữ tợn.
Quách Tương nghĩ thầm: “Ta há sợ sự uy hiếp của lão? Ta cũng định nói cho lão biết, nhưng lão càng tỏ vẻ hung ác, ta càng không nói”, đoạn nàng cũng trừng mắt nhìn lại, lạnh lùng nói:
– Cái tên của lão không hợp đâu, phải đổi thành Thiên Ác mới đúng.
Vệ Thiên Vọng cả giận, hỏi:
– Mi bảo sao hả?
Quách Tương đáp nói:
– Một nhân vật hung thần ác sát như lão, bổn cô nương đây chưa từng gặp. Lão đã cướp binh khí của người ta, lại còn hung hung hăng hăng, chẳng phải ác thần hạ phàm thì là gì?
Vệ Thiên Vọng kêu mấy tiếng ồ ồ trong họng như tiếng thú rống, ngực lão ta đột nhiên phình to gấp đôi lúc bình thường, râu tóc và lông mày như dựng đứng cả lên.
Lão mặt đỏ, tức Phương Thiên Lao, vội nói:
– Tam đệ, đừng nổi nóng!
Rồi cầm tay Quách Tương kéo nàng về phía sau mấy thước, tự mình đứng chắn ở giữa hai người.
Quách Tương thấy bộ điệu của Vệ Thiên Vọng như thế, lão ta mà động thủ hẳn khí thế phải đáng sợ lắm. Bất giác nàng ngầm lo sợ.
Vệ Thiên Vọng dùng tay phải rút kiếm khỏi bao, lấy hai ngón tay trái kẹp lưỡi kiếm, vận sức bẻ nghe “cắc” một tiếng, thanh đoản kiếm gãy đôi. Đoạn lão ta cắm nửa kiếm gãy vào bao, nói:
– Ai thèm lấy thanh đoản kiếm vô dụng của mi làm gì?
Quách Tương thấy sức mạnh của hai ngón tay lão ta như thế lại càng thêm kinh hãi.
Vệ Thiên Vọng thấy nàng tái mặt thì đắc chí, ngửa mặt cười ha hả; tiếng cười nghe chói cả tai, làm rung cành cạch cả lớp ngói lợp thạch đình.
Bỗng nghe “ịch” một tiếng, đỉnh thạch đình vỡ toác, hất xuống đất một vật lớn. Mấy người cùng cả kinh, ngay Vệ Thiên Vọng cũng không ngờ rằng mình vận nội lực để phát ra tiếng cười lại có thể làm chấn động lớp ngói lợp thạch đình, như vậy là trong thời gian gần đây nội công của lão ta đã tiến triển vượt bậc. Khi lão ta nhìn kỹ vật vừa rơi xuống thì càng kinh dị hơn, vì đó là một bạch y hán tử trạc tam tuần, hai tay ôm cây đàn, đang nằm đó ngủ khì.
Quách Tương mừng rỡ:
– Kìa, sao tiên sinh lại ở đây?
Thì ra đó chính là người gảy đàn và tự đấu cờ trong rừng thông ít hôm trước Quách Tương đã gặp.
Người kia nghe giọng nói của Quách Tương, liền choàng dậy, nói:
– Cô nương, ta tìm cô nương khắp nơi chẳng thấy, không ngờ lại gặp ở đây.
Quách Tương hỏi:
– Tiên sinh tìm tiểu nữ làm chi?
Người kia đáp nói:
– Vì ta quên thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương.
Quách Tương nói:
– Thỉnh với chả vấn quý tính đại danh, nghe văn vẻ sáo rỗng lắm, tiểu nữ chẳng thích nghe đâu.
Người kia ngẩn ra giây lát, rồi cười:
– Đúng lắm, đúng lắm! Càng văn vẻ sáo rỗng, càng làm bộ làm tịch, thì càng không có chân tài thực học. Những kẻ đó chỉ lừa dối được dân quê thôi.
Đoạn nhìn chằm chằm vào mặt Vệ Thiên Vọng mà cười nhạt mấy tiếng. Quách Tương cả mừng, không ngờ chàng ta hiểu hàm ý của nàng nhanh đến thế, lại còn lên tiếng bênh vực nàng nữa.
Vệ Thiên Vọng cũng trợn mắt nhìn người kia, mặt càng xanh thêm, lạnh lùng hỏi:
– Các hạ là ai?
Người kia chẳng buồn trả lời, nói với Quách Tương:
– Cô nương, cô nương tên là gì nhỉ?
Quách Tương đáp nói:
– Tiểu nữ họ Quách, tên Tương.
Người kia vỗ tay reo lên:
– Ồ, tại hạ quả có mắt mà không thấy Thái Sơn. Thì ra đây là Quách đại cô nương lừng danh bốn bể. Lệnh tôn Quách Tĩnh đại hiệp, lệnh đường Hoàng Dung nữ hiệp, trừ mấy kẻ vô tri vô thức, lẫn lộn tốt xấu ra, trên giang hồ có ai không biết. Hai vị đó văn võ song toàn, đao thương kiếm kích, quyền chưởng khí công, cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, môn nào cũng thông hiểu hơn người. Ha ha, chỉ có mấy gã ngông cuồng ngu xuẩn mới không biết hai vị ấy thôi!
Quách Tương thầm khoái chí: “Thì ra chàng ta nấp trên thạch đình đã nghe thấy ta đối đáp với ba lão già kia, chớ thực ra chàng ta cũng có biết phụ mẫu ta là người thế nào đâu. Mình thứ hai, mà chàng ta lại gọi mình là Đại cô nương, lại bảo phụ thân ta thông hiểu cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, quả thật tức cười”. Nghĩ đoạn, nàng hỏi:
– Thế còn tiên sinh tên chi?
Người kia đáp:
– Ta họ Hà, tên Túc Đạo.
Quách Tương cười:
– Hà Túc Đạo ư! “Hà Túc Đạo” là có gì đáng nói đâu. Sao tiên sinh lại dùng cái tên khiêm nhường như thế?
Hà Túc Đạo giải thích:
– Vì ta không muốn bắt chước mấy gã tiểu tử ngông cuồng tự đại, dám ví mình như thiên như địa này nọ, mới nghe qua cái tên đã thấy lờm lợm.
Hà Túc Đạo cứ liên tiếp mỉa mai ba huynh đệ Vệ Thiên Vọng. Bọn họ thấy chàng ta đè vỡ được mái thạch đình mà xuống, hẳn chẳng phải tầm thường, nhưng ban đầu cố nhịn để xem lai lịch của Bạch y quái khách này ra sao. Thế nhưng càng nghe càng thấy lời lẽ của y quá mai mỉa, thì Vệ Thiên Vọng hết chịu nổi, bèn vung chưởng nhắm vào má trái của Hà Túc Đạo.
Hà Túc Đạo cúi đầu luồn bên dưới cánh tay của lão già; Vệ Thiên Vọng chỉ cảm thấy cổ tay trái hơi tê, thì thanh đoản kiếm trong tay đã bị cướp mất. Khi Vệ Thiên Vọng đoạt kiếm của Quách Tương, thân pháp lanh lẹ vô cùng, khiến người ta không sao nhìn rõ; đằng này khi Hà Túc Đạo đoạt kiếm của Vệ Thiên Vọng thì thân pháp và thủ pháp hết sức đơn giản nhẹ nhàng, chẳng có gì kỳ lạ.
Vệ Thiên Vọng giật mình, tiến lên một bước, giơ năm ngón tay như năm cái móc chộp tới vai Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo né người một chút, bàn tay của Vệ Thiên Vọng bị chộp hụt. Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao đột nhiên nhảy lùi khỏi thạch đình. Lúc ấy Vệ Thiên Vọng đã dùng tả quyền hữu chưởng tấn công dồn dập bảy, tám chiêu liền, còn Hà Túc Đạo tránh phải né trái, ngay vạt áo của chàng ta cũng chưa bị chạm tới. Tay chàng cầm đoản kiếm mà chẳng buồn sử dụng, mặc cho quyền chưởng của đối phương tấn công tới tấp, trước sau chàng vẫn chỉ hơi lắc thân tránh né. Các chiêu đòn của Vệ Thiên Vọng đều bị lạc vào khoảng không.
Quách Tương còn ít tuổi, võ công tuy chưa tinh thâm, nhưng thân hữu của nàng toàn là những cao thủ võ lâm đệ nhất đương thời, nên nàng có kiến thức rất cao. Nay thấy Hà Túc Đạo thân pháp vô cùng uyển chuyển, né tránh được mọi chiêu thức cương mãnh của đối phương, võ công cao siêu khác hẳn các môn phái lừng danh ở Trung nguyên, nàng càng xem càng kinh ngạc.
Vệ Thiên Vọng tấn công liền hơn hai mươi chiêu vẫn không buộc được đối phương xuất thủ thì tức giận gầm một tiếng, biến đổi quyền pháp, xuất chiêu chậm lại, nhưng quyền lực rất nặng và mạnh. Quách Tương đứng trong thạch đình, cảm thấy quyền phong cứ dồn ép vào người mình, đẩy nàng lùi dần ra bên ngoài.
Lúc này Hà Túc Đạo cũng không dám chỉ né tránh mà không phản công; chàng cắm thanh kiếm vào bao thắt lưng, hai chân đứng vững như bàn thạch, quát to:
– Ngươi biết Ngạnh công, chẳng lẽ ta không biết sử dụng hay sao?
Chờ song chưởng của Vệ Thiên Vọng đẩy tới, mới dùng tả chưởng phản kích, lấy Ngạnh công đối phó Ngạnh công; nghe “bùng” một tiếng, Vệ Thiên Vọng loạng choạng thoái lui hai bước. Hà Túc Đạo vẫn đứng nguyên chỗ cũ.
Vệ Thiên Vọng ỷ mình có ngoại môn Ngạnh công cao siêu, hiếm có đối thủ trong thiên hạ, nào ngờ Ngạnh công của đối phương chẳng cần lấy đà tạo thế gì cả vẫn có thể đẩy lão ta thoái lui mấy bước. Lão ta chưa phục, liền hít mạnh một hơi, thét to một tiếng, lại dùng song chưởng tấn công lần nữa. Hà Túc Đạo cũng quát một tiếng, phản kích lại một chưởng; chỉ nghe mấy tiếng răng rắc, nóc thạch đình rung chuyển, cát bụi rớt xuống mù mịt.
Vệ Thiên Vọng thoái lui bốn bước mới đứng vững nổi. Sau khi đối chưởng, lão ta đầu tóc rối bù, hai mắt lồi ra, trông bộ dạng thật đáng sợ. Lão ta hai tay ôm đan điền, vận khí mấy cái, ngực lõm vào, bụng phình ra như cái trống, các khớp xương toàn thân kêu lách cách, thong thả tiến từng bước về phía Hà Túc Đạo.
Hà Túc Đạo thấy tư thế của đối phương như vậy, không dám khinh thường, vội điều vận chân khí đối địch.
Tới cách đối phương chừng bốn, năm thước, Vệ Thiên Vọng lẽ ra cần phải phát chiêu, song chân lão ta vẫn chưa dừng mà tiến thêm hai bước, tới mức mặt đôi bên rất gần, hơi thở phả vào mặt nhau thì mới giơ song chưởng lên, một đánh vào mặt, một đánh vào bụng dưới kẻ địch. Lần này song chưởng một trên một dưới như thế là nhằm buộc địch thủ phải phân tán sức lực. Cả thế công lẫn chưởng lực đều vô cùng lợi hại.
Hà Túc Đạo cũng giơ song chưởng cùng lúc, nhưng chưởng lực của chàng một cương một nhu. Vệ Thiên Vọng chỉ cảm thấy tả chưởng đánh vào bụng dưới của đối phương như đánh vào chỗ trống không, còn hữu chưởng đánh vào mặt thì như đụng phải tường đồng vách sắt. Biết là nguy tai, thì một luồng lực đã lùa tới đẩy lão bật khỏi thạch đình.
Đây là cách dùng cương đối cương, lực đối lực, bên nào lực yếu hơn ắt bị thụ thương, hoàn toàn không có sự nửa vời; bất luận Vệ Thiên Vọng còn đứng vững hay ngã sóng soài, thì chưởng lực phản kích của lão ta cộng với chưởng lực của Hà Túc Đạo cũng đủ làm cho lão ta phải hộc máu tươi.
Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao đồng thanh la to:
– Xuất thủ!
Hai lão cùng giơ tay ra, mỗi người đỡ một bên cánh tay của Vệ Thiên Vọng nhấc vội lên mới làm tiêu tan chưởng lực cương mãnh của Hà Túc Đạo. Vệ Thiên Vọng tuy chưa thụ thương, nhưng ngũ tạng đảo lộn, xương cốt toàn thân tưởng như sắp gãy vụn, mệt tưởng đứt hơi, chân tay bủn rủn.
Lão già mặt đỏ, tức Phương Thiên Lao, thấy sư đệ bị đòn đau như vậy thì ngầm kinh hãi và tức giận, nhưng ngoài mặt lại cười hi hi nói:
– Chưởng lực của các hạ mạnh như vậy, quả là thế gian hiếm có, thán phục, thán phục!
Quách Tương nghĩ thầm: “Nói về sức cương mãnh của chưởng lực, ai dám sánh với Giáng Long thập bát chưởng của phụ thân ta chứ? Ba lão Côn Luân Tam Thánh ở chốn khỉ ho cò gáy, ếch ngồi đáy giếng, ngông cuồng tự đại, tất có ngày được nếm tài ba của các nhân vật Trung nguyên”. Nghĩ tới đây, nàng chợt đau nhói trong lòng, vì người mà nàng muốn Côn Luân Tam Thánh được nếm tài ba của các nhân vật Trung nguyên không phải phụ thân, mà chính là Dương Quá.
Chỉ nghe Phương Thiên Lao nói tiếp:
– Tiểu lão nhi bất tài, mong được lĩnh giáo kiếm pháp của các hạ.
Hà Túc Đạo nói:
– Phương huynh đối với Quách cô nương rất chu đáo, tại hạ không dám trách cứ. Hai ta cũng chẳng nên tỷ thí.
Quách Tương ngẩn người: “Thế ra chàng ta làm cho lão họ Vệ khổ sở là vì lão đối xử xấu với ta ư?”
Phương Thiên Lao đi tới bên con ngựa, lấy từ trong túi khí giới ra một thanh trường kiếm, rút xoẹt khỏi bao, búng ngón tay vào thân kiếm nghe nó ngân lên “coong coong” hồi lâu. Với thanh kiếm trong tay, lão ta nghiêm mặt không cười nữa, tay trái trình kiếm quyết, từ từ đưa ra, quyết chỉ hướng lên trời, hữu thủ cầm kiếm chỉ lên trời bất động, chính là thế “Tiên nhân chỉ lộ”.
Hà Túc Đạo nói:
– Phương huynh cứ đòi động thủ, tại hạ đành dùng đoản kiếm của Quách cô nương hầu vài chiêu vậy.
Nói đoạn chàng nhặt thanh đoản kiếm gãy của Quách Tương; thanh kiếm này vốn dài hai thước, sau khi bị Vệ Thiên Vọng bẻ gãy, lưỡi kiếm chỉ còn dài bảy, tám tấc, mũi kiếm thì tù, hết cả nhọn, chẳng thể gọi là kiếm. Tay trái chàng cầm bao kiếm, tay phải cầm thanh kiếm gãy, đột nhiên tấn công.
Lần này chàng xuất chiêu cực nhanh, Phương Thiên Lao chỉ thấy cái bóng trắng loáng trước mắt một cái. Hà Túc Đạo đã tấn công liền ba chiêu. Tuy thanh kiếm quá ngắn, không thể đả thương lão ta, nhưng lão ta cũng thầm kinh hãi: “Ba chiêu tấn công lẹ quá, không tài nào chống đỡ, là thứ kiếm pháp gì chứ? Ví thử trong tay y là thanh trường kiếm, chỉ e lúc này mình mất mạng rồi”.
Sau khi tấn công liền ba chiêu, Hà Túc Đạo bèn nhảy sang một bên, đứng bất động. Phương Thiên Lao triển khai kiếm pháp, nửa thủ nửa công, chém tới. Hà Túc Đạo chỉ né tránh chứ không phản công, nhưng chốc chốc lại tấn công liền ba chiêu thần tốc khiến thủ vong cước loạn, rồi chàng lại nhảy ra ngoài. Phương Thiên Lao bây giờ dồn dập tấn công, kiếm quang vùn vụt, xuất thủ cực kỳ mau lẹ.
Quách Tương nghĩ thầm: “Chiêu thức của lão này cương mãnh giống như chưởng pháp của lão họ Vệ kia, nhưng linh hoạt hơn, cho nên cũng lợi hại hơn mấy phần…” Nàng vừa nghĩ tới đó bỗng nghe Hà Túc Đạo quát “Cẩn thận này!” Chữ “này” vừa dứt thì bao kiếm ở tay trái chàng đã nhanh như chớp chụp vào mũi kiếm của Phương Thiên Lao, còn đoản kiếm gãy bên tay hữu gí vào cổ họng lão ta.
Trường kiếm đã bị chụp vào bao, Phương Thiên Lao không cách gì chống đỡ, trước mũi kiếm tuy cùn nhưng gí sát cổ họng, lão ta chỉ còn cách buông rơi trường kiếm, ngã người lăn một vòng tránh thế công. Lão ta chưa đứng lên thì một bóng người vút tới, Phan Thiên Canh đã chộp được cán kiếm, rút đánh xoẹt ra khỏi bao. Hà Túc Đạo và Quách Tương cùng lúc thốt lên:
– Thân pháp tuyệt vời!
Lão già mặt vàng như nghệ, trước sau chưa nói nửa lời, võ công hẳn là cao hơn hai lão kia. Hà Túc Đạo nói:
– Võ công của các hạ cao siêu, tại hạ thán phục vô cùng!
Đoạn chàng quay sang nói Quách Tương:
– Quách cô nương, sau hôm nghe cô nương nhã tấu, ta có sáng tác một nhạc khúc, muốn được cô nương phẩm bình.
Quách Tương hỏi:
– Nhạc khúc gì vậy?
Hà Túc Đạo ngồi xếp chân bàn tròn, đặt cây đàn trên đùi, so dây, định gảy.
Phan Thiên Canh nói:
– Các hạ liên tiếp đánh bại hai sư đệ của tại hạ, tại hạ muốn được thỉnh giáo.
Hà Túc Đạo xua xua tay:
– Võ công tỷ thí xong rồi, tại hạ không còn hứng cái trò ấy nữa. Để tại hạ gảy đàn cho Quách cô nương nghe. Đây là một nhạc khúc mới. Ba vị muốn thưởng thức thì xin mời ngồi xuống nghe, hiểu hay không là tùy các vị.
Nói rồi tay trái vê dây, tay phải gảy đàn tức thì.
Quách Tương chỉ nghe vài cung đã vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Thì ra nhạc khúc này một phần là điệu “Khảo bàn” trong Kinh Thi mà nàng đã gảy bữa trước, một phần là điệu “Kiêm hà” trong Tần Phong[9]. Hai điệu thơ này khác hẳn nhau, được chàng phối hợp thành một nhạc khúc, một ứng một đáp, nghe xúc động diệu kỳ. Khi nghe cầm vận tấu tới đoạn “Khảo bàn tại giản, thạc nhân chi khoan. Kiêm hà thương thương, bạch lộ vi sương, sở vị y nhân, tại thủy nhất phương… thạc nhân chi khoan, thạc nhân chi khoan… Tố hồi tòng chi, đạo trở thả trường, tố du tòng chi, uyển tại thủy trung ương… độc mỵ ngụ ngôn, vĩnh thỉ phất huyên, vĩnh thỉ phất huyên…”, thì Quách Tương có cảm tưởng nhạc khúc này bày tỏ sự nhớ nhung gắn bó, dường như có nhắc đến nàng; bất giác nàng đỏ mặt thẹn thùng.
Nhạc khúc quá ư huyền diệu, nguyên vận hai bài “Khảo bàn” và “Kiêm hà” không lạc nhau chút nào, cứ nhịp nhàng ứng đáp, mỗi bên vẫn giữ đầy đủ sự hoa mỹ của mình. Đời nàng chưa bao giờ có diễm phúc được nghe một nhạc khúc như thế cả.
Ba lão già nghe đàn chẳng hiểu gì hết. Bọn họ không biết Hà Túc Đạo tính tình cuồng phóng, si tình, pha chút hủ nho, chàng mới sáng tác nhạc khúc này nên phải tìm Quách Tương để nàng thưởng thức cho bằng được; huống hồ nhạc khúc này đúng là vì nàng mà sáng tác, nên chàng chẳng còn để ý đến mọi chuyện khác. Thấy chàng chăm chú gảy đàn, chẳng buồn để mắt tới ba lão già, hiển nhiên là không coi họ ra gì, thử hỏi họ chịu sao đặng? Phan Thiên Canh liền cầm trường kiếm chỉ vào vai trái Hà Túc Đạo, quát lớn:
– Mau đứng dậy, ta phải đấu thử với các hạ một phen!
Hà Túc Đạo đang đắm mình say sưa theo khúc nhạc, tựa hồ một gã cuồng sinh đang ngao du sơn thủy, thấy trên tiểu đảo xa xa giữa hồ nước hình bóng một thiếu nữ dịu dàng, thế là bất chấp núi non cách trở, chàng liền lao về phía nàng… Bỗng nghe vai trái đau nhói, chàng ngẩng nhìn lên, thấy trường kiếm của Phan Thiên Canh điểm vào vai chàng làm rách một chút da thịt; nếu chàng không mau chống đỡ, e sẽ bị kiếm đả thương. Nhưng nhạc khúc chưa gảy xong, lại có kẻ phàm tục kè kè quấy nhiễu, bảo sao Hà Túc Đạo không nổi giận; chàng liền rút phắt thanh kiếm gãy, hất trường kiếm của Phan Thiên Canh bật ra, tay phải vẫn tiếp tục dạo đàn.
Lúc này Hà Túc Đạo mới giở hết tuyệt kỹ bình sinh, tay trái sử kiếm, tay phải gảy đàn, không còn tay nào để nắn dây nên khi nào âm vực cần lên cao thì chàng vận khí thổi cho dây đàn lõm xuống như dùng tay nắn vậy, nhờ đó tiếng đàn vẫn dìu dặt luyến láy như thường.
Phan Thiên Canh tới tấp tấn công mấy chiêu, Hà Túc Đạo chỉ thuận tay chống đỡ, hai mắt vẫn chăm chú vào dây đàn, miệng lo thổi hơi sao cho âm thanh của đàn đúng nốt. Phan Thiên Canh cả giận, kiếm chiêu càng nhanh càng hiểm, song trường kiếm của lão đâm tới bất cứ chỗ nào cũng đều bị Hà Túc Đạo dễ dàng gạt đi.
Quách Tương mải nghe đàn, thả hồn theo nhạc điệu, cũng chẳng để ý tới kiếm thế lợi hại của Phan Thiên Canh, chỉ đôi lúc nhận thấy tiếng kiếm va nhau không ăn nhập với tiếng đàn. Nàng dùng hai tay nhè nhẹ đánh nhịp, cau mày trách Phan Thiên Canh:
– Vị này xuất chiêu lúc nhanh lúc chậm, chẳng hợp nhịp đàn, lẽ nào không hiểu chút gì về âm vận? Giá như biết xuất chiêu hợp theo tiết tấu bản đàn, có phải dễ nghe hơn không.
Phan Thiên Canh không đếm xỉa gì đến nàng. Lão ta thấy đối thủ ngồi dưới đất, chăm chú chơi đàn, một tay sử dụng thanh kiếm gãy, chẳng thèm để mắt tới mình, thì lão ta càng giận thêm, đột ngột thay đổi kiếm pháp tấn công dồn dập liên hồi. Tiếng hai thanh kiếm va chạm nhau sầm sập như tiếng mưa rào. Tiếng đàn cũng gấp gấp một chập, không hòa hợp với âm vận dìu dặt ôn hòa.
Hà Túc Đạo trừng mắt, truyền kình lực vào đoản kiếm, chỉ nghe “coong” một tiếng, trường kiếm của Phan Thiên Canh bị gãy đôi, nhưng lúc này dây thứ năm của cây thất huyền cầm cũng đứt phựt.
Phan Thiên Canh mặt nhợt nhạt như kẻ mất hồn, không nói nửa lời, quay người ra khỏi thạch đình. Ba lão già cùng nhảy lên ngựa, phóng vội lên núi.
Quách Tương vô cùng ngạc nhiên, hỏi:
– Ủa, ba người kia đã bại trận, sao lại còn lên Thiếu Lâm tự làm gì? Chẳng lẽ họ định đánh chí chết hay sao?
Nàng quay lại, thấy Hà Túc Đạo vẻ mặt rầu rĩ, tay xoa xoa sợi dây đàn bị đứt, tựa hồ đau đớn không nói nên lời. Quách Tương nghĩ thầm: “Đứt một sợi dây đàn, hà tất phải rầu rĩ đến thế?” Nàng liền đỡ cây thất huyền cầm, tháo đoạn dây đứt ra, kéo đoạn dây bên trên buộc vào trụ bên dưới, rồi lên dây thử tiếng.
Hà Túc Đạo lắc đầu thở dài:
– Tu luyện ngần ấy năm, rốt cuộc tâm vẫn chưa an. Tuy tay trái vận sức đánh gãy khí giới đối phương nhưng tay phải lại gảy đứt dây đàn.
Giờ Quách Tương mới hiểu thì ra Hà Túc Đạo buồn phiền vì võ công của chàng luyện chưa tới mức thuần thục, liền cười an ủi:
– Tiên sinh thử nghĩ xem, tay trái giao đấu với địch lợi hại như vậy mà tay phải vẫn thong thả dạo đàn, gọi là phép phân tâm nhị dụng, thiên hạ chỉ có ba vị đạt tới mức tuyệt kỹ mà thôi. Tiên sinh cũng chẳng nên vì thế mà phiền lòng.
Hà Túc Đạo hỏi:
– Ba vị nọ là những ai?
Quách Tương đáp:
– Người thứ nhất là Chu Bá Thông, người thứ hai là phụ thân của tiểu nữ, người thứ ba là Dương phu nhân Tiểu Long Nữ. Ngoài ba vị ấy, ngay những người võ công cao siêu như ông ngoại của tiểu nữ là Đào Hoa đảo chủ, thân mẫu của tiểu nữ và Thần điêu đại hiệp Dương Quá cũng chưa luyện thành tuyệt kỹ.
Hà Túc Đạo nói:
– Thế gian có các kỳ nhân vậy ư? Chẳng hay khi nào cô nương dẫn kiến ta gặp họ?
Quách Tương thản nhiên đáp:
– Muốn gặp phụ thân của tiểu nữ không khó, còn hai vị kia thì không biết đã đi đâu mất dạng.
Thấy Hà Túc Đạo ngẩn ngơ, Quách Tương tưởng chàng ta vẫn nghĩ đến việc đứt dây đàn, bèn an ủi:
– Một mình tiên sinh đã đánh bại Côn Luân Tam Thánh cũng đủ hãnh diện với thế gian, hà tất phải buồn phiền về sợi dây đàn bị đứt?
Hà Túc Đạo kinh ngạc, hỏi:
– Côn Luân Tam Thánh? Cô nương bảo sao? Sao cô nương biết?
Quách Tương cười:
– Ba lão già ban nãy từ Tây Vực đến chính là Côn Luân Tam Thánh chứ còn ai. Võ công của họ quả có chỗ độc đáo, nhưng đòi khiêu chiến với Thiếu Lâm tự thì e rằng không biết tự lượng sức…
Nói tới đây, thấy vẻ mặt Hà Túc Đạo càng thêm kinh ngạc nàng bất giác ngừng lời, hỏi:
– Có gì lạ chăng, tiên sinh?
Hà Túc Đạo lẩm bẩm:
– Côn Luân Tam Thánh… Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo chính là ta đây.
Quách Tương sửng sốt:
– Tiên sinh là Côn Luân Tam Thánh ư? Vậy còn hai người nữa đâu?
Hà Túc Đạo nói:
– Côn Luân Tam Thánh trước giờ chỉ có một người, đâu phải có ba. Ta ở Tây Vực có chút danh tiếng, được bằng hữu khen là có ba tuyệt kỹ cầm – kỳ – kiếm, đáng gọi là cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh. Ta lại sống ở Côn Luân nên họ mới đặt cho ta ngoại hiệu Côn Luân Tam Thánh. Song ta nghĩ đâu dễ xứng với chữ “thánh”, nên mới thêm hai chữ “túc đạo” vào họ Hà, hợp lại thành Côn Luân Tam
Thánh Hà Túc Đạo, nghĩa là “không đáng gọi là Côn Luân Tam Thánh” để người trong thiên hạ khỏi chê ta ngông cuồng tự đại.
Quách Tương cười:
– Hóa ra vậy, thế mà tiểu nữ cứ ngỡ Côn Luân Tam Thánh tức là phải có ba người. Vậy ba lão già ban nãy là ai?
Hà Túc Đạo nói:
– Bọn họ ư? Bọn họ thuộc phái Thiếu Lâm.
Quách Tương càng thêm kinh ngạc, nói:
– Hóa ra ba người ấy lại là đệ tử của phái Thiếu Lâm! Phải rồi, võ công của họ quả nhiên cùng một kiểu cương mãnh. Đúng rồi, lão mặt đỏ chẳng đã sử dụng Đạt Ma kiếm pháp là gì? Còn lão mặt vàng trông như bệnh nhân cứ tấn công tới tấp hẳn là Vĩ Đà phục ma kiếm? Lão ta có biến đổi một chút nên nhất thời tiểu nữ chưa nhận ra. Tại sao họ từ Tây Vực lại tới đây?
Hà Túc Đạo nói:
– Chuyện này kể ra có duyên cớ của nó. Mùa xuân năm ngoái, ta đang gảy đàn trên đỉnh Kinh Thần Phong tại Côn Luân, bỗng nghe bên ngoài lều tranh có tiếng ẩu đả, bèn ra xem, thì thấy có hai kẻ đang vật lộn nhau kịch liệt, mà cả hai đã cùng thụ thương trí mạng. Ta quát họ dừng tay, họ không nghe, ta đành xông vào gỡ họ ra. Một người trợn mắt nhìn ta, rồi thở hắt ra chết liền. Người thứ hai còn thoi thóp, ta bèn dìu vào trong lều, cho uống một viên
Thiếu Dương đan, nhưng vì thương thế quá nặng, linh đan cũng chẳng cứu sống nổi, được nửa ngày cũng tắt thở. Lúc lâm chung, y trăn trối, rằng y là Doãn Khắc Tây…
Quách Tương “ồ” một tiếng, hỏi:
– Vậy kẻ ẩu đả với y là Tiêu Tương Tử rồi. Có phải hắn vừa gầy vừa cao, mặt trông chẳng khác gì tử thi?
Hà Túc Đạo ngạc nhiên:
– Phải đó, tại sao chuyện gì cô nương cũng biết?
Quách Tương nói:
– Tiểu nữ có biết mặt họ, ai ngờ hai kẻ đó cuối cùng lại đánh lẫn nhau mà mất mạng.
Hà Túc Đạo kể:
– Doãn Khắc Tây nói rằng trong đời hắn tác ác đa đoan, lúc chết có hối cũng đã muộn. Hắn nói hắn cùng Tiêu Tương Tử có lấy trộm một cuốn kinh của Thiếu Lâm tự. Hai gã cứ canh chừng lẫn nhau, quyết không cho người kia đọc trước, vì sợ đối phương học được võ công cao hơn sẽ ra tay hạ thủ mình để độc chiếm cuốn kinh. Hai gã ăn cùng bàn, ngủ cùng giường, quả thật không rời nhau nửa bước; nhưng khi ăn thì sợ kẻ kia hạ độc, khi ngủ thì lo kẻ kia ám hại, lúc nào cũng lo sợ thấp thỏm chẳng yên. Chúng còn lo các hòa thượng Thiếu Lâm tự truy đuổi nên mới chạy đến tận Tây Vực. Khi tới đỉnh Kinh Thần Phong, cả hai đều kiệt sức hẳn, đều biết nếu cứ tiếp tục sống như thế thì sẽ chết vì mệt; rốt cuộc đôi bên xáp vào ẩu đả nhau. Doãn Khắc Tây nói võ công của Tiêu Tương Tử vốn cao hơn hắn, ngờ đâu Tiêu Tương Tử ra tay trước, mà kết quả hắn lại chiếm được thượng phong. Sau đó hắn mới nghĩ ra, Tiêu Tương Tử vốn bị trọng thương trên đỉnh Hoa Sơn, nguyên khí vẫn chưa phục hồi. Nếu hai gã không tranh giành nhau, hẳn chúng chẳng khi nào tới vùng Côn Luân làm gì.
Quách Tương nghe kể, tưởng tượng cái cảnh suốt dọc đường hai gã kia lúc nào cũng lo ngay ngáy đủ điều, bất giác nàng sinh lòng thương hại, thở dài nói:
– Vì một cuốn kinh mà phải khổ sở rồi mất mạng như thế, thật chẳng đáng!
Hà Túc Đạo kể tiếp:
– Doãn Khắc Tây nói tới đó thì thở dốc, cuối cùng hắn cầu xin ta đến Thiếu Lâm tự một phen, để nói với Giác Viễn hòa thượng ở đó, rằng cuốn kinh nào đó vẫn ở trong dầu. Ta nghe rất lạ, cuốn kinh ở trong dầu là nghĩa làm sao? Định hỏi hắn cho rõ chi tiết thì hắn đã ngất lịm đi. Ta tính chờ hắn ngủ dậy, lại sức, sẽ hỏi cho rõ. Nào ngờ, đó là giấc ngủ ngàn thu của hắn. Ta nghĩ, liệu có phải cuốn kinh được gói trong giấy dầu? Nhưng khám kỹ cả hai gã, chẳng thấy có dấu vết kinh kệ gì cả. Đã nhận lời ủy thác của người, vốn bình sinh chưa bao giờ đặt chân vào Trung nguyên, nên nhân cơ hội này muốn ngao du một chuyến, thế là ta đến Thiếu Lâm tự đây.
Quách Tương hỏi:
– Tại sao tiên sinh lại vào chùa hạ chiến thư, đòi tỷ thí võ nghệ với họ?
Hà Túc Đạo mỉm cười:
– Việc ấy là do ba lão vừa rồi mà ra. Ba người kia là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm Tây Vực. Theo lời giới võ lâm ở Tây Vực thì cả ba đều có vai vế chữ “Thiên”, ngang hàng lão phương trượng Thiếu Lâm tự hiện thời là Thiên Minh thiền sư. Nghe đâu sư tổ của họ xưa kia vì bất đồng ý kiến với sư huynh đệ trong chùa nên đã giận dữ bỏ đi tới tận Tây Vực xa xôi, lập ra một chi phái Thiếu Lâm tự ở Tây Vực. Võ công của phái Thiếu Lâm vốn do Đạt Ma tổ sư truyền từ Thiên Trúc tới Trung nguyên, rồi từ Trung nguyên phân chia ra một chi phái ở Tây Vực thì cũng đâu có gì lạ. Ba người kia nghe ngoại hiệu Côn Luân Tam Thánh của ta, cứ theo đòi tỷ võ với ta. Đi đâu họ cũng luôn miệng dương ngôn rằng võ công của phái Thiếu Lâm là thiên hạ vô địch, ta muốn xưng là “cầm thánh”, “kỳ thánh” gì gì cũng được tuốt, nhưng họ quyết không cho phép ta xưng “kiếm thánh”, họ đòi ta phải từ bỏ ngoại hiệu Tam Thánh. Đúng lúc đó ta gặp Doãn Khắc Tây, nghĩ bụng thôi thì nhân tiện đi Thiếu Lâm tự làm luôn hai việc một lần; ta bèn phái người hẹn với ba lão kia ở Thiếu Lâm tự, rồi khởi hành đi Trung nguyên liền. Ai dè ba vị ấy cũng nhanh chân phải biết, họ khởi hành sau ta mà cũng tới kịp rồi.
Quách Tương cười:
– Ồ, đầu đuôi câu chuyện là thế, hóa ra tiểu nữ đoán sai hết cả! Ba lão đó lúc này hẳn đã tới Thiếu Lâm tự, không biết họ sẽ nói gì đây?
Hà Túc Đạo nói:
– Ta với đám hòa thượng Thiếu Lâm tự vốn không quen biết, cũng chẳng thù oán gì nhau; sở dĩ ta hẹn mươi ngày là muốn chờ cho ba lão này tới kịp, ta mới hành động. Vừa nãy đánh nhau rồi, bây giờ hai ta cùng lên trên đó, đợi ta chuyển lại lời trối trăn của Doãn Khắc Tây, rồi xuống núi là xong.
Quách Tương cau mày, nói:
– Luật lệ của giới hòa thượng nhiều và nghiêm lắm, không cho nhi nữ vào chùa.
Hà Túc Đạo nói:
– Luật với chả lệ! Hai ta cứ tiến thẳng vào trong chùa, để xem ai giết nổi ai?
Quách Tương vốn tính hiếu kỳ, nhưng nàng đã kết giao với Vô Sắc thiền sư, cũng không có ý thù địch với Thiếu Lâm tự, nên nàng cười, lắc đầu:
– Tiểu nữ ở bên ngoài chờ tiên sinh, tiên sinh cứ vào trong mà chuyển lời cho đỡ phiền phức.
Hà Túc Đạo gật đầu:
– Vậy cũng được. Nhạc khúc ban nãy ta chưa đàn xong, chờ lát nữa ta sẽ đàn lại hầu cô nương.
Hai người thong thả đi lên núi, từ đây tới thẳng cổng lớn Thiếu Lâm tự không một bóng người.
Hà Túc Đạo nói:
– Ta cũng chẳng vào chùa nữa, cứ mời vị hòa thượng nọ ra nói vài lời thôi.
Đoạn chàng lớn tiếng gọi:
– Hà Túc Đạo từ Côn Luân tới thăm Thiếu Lâm tự, có lời muốn thưa!
Câu này vừa dứt, bỗng nghe mười mấy cái chuông lớn trong chùa cùng gióng lên vang động cả núi rừng.
Đột nhiên cổng lớn mở toang, tả hữu hai hàng tăng nhân mặc áo bào xám bước ra, mỗi hàng năm mươi tư người, tổng cộng một trăm linh tám người, là đệ tử của La Hán đường, đúng bằng con số một trăm linh tám vị La Hán. Tiếp sau là mười tám vị tăng nhân cũng mặc áo bào xám, nhưng trên phủ cà sa màu vàng nhạt, tuổi vị nào cũng lớn hơn các đệ tử của La Hán đường, đó là đệ tử của Đạt Ma đường, cao hơn đệ tử La Hán đường một bậc. Tiếp sau có bảy lão tăng khoác áo bào kẻ ô vuông, mặt đầy nếp nhăn, vị trẻ nhất cũng ngoại thất tuần, vị cao niên đã ở cửu tuần, đó là Tâm Thiền đường thất lão. Đoạn Thiên Minh phương trượng thong thả bước ra, bên tả có Thủ tọa Đạt Ma đường Vô Tướng thiền sư, bên hữu có Thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư. Đằng sau có Phan Thiên Canh, Phương Thiên Lao và Vệ Thiên Vọng. Cuối cùng còn có bảy tám chục đệ tử tục gia phái Thiếu Lâm.
Ngày Hà Túc Đạo bí mật đột nhập La Hán đường, dán mảnh giấy vào tay tượng Phật Giáng Long La Hán, thì võ công cao siêu của chàng ta đã khiến Thiên Minh phương trượng cùng Vô Sắc và Vô Tướng thiền sư cả kinh. Mấy ngày sau nhóm Phan Thiên Canh từ Tây Vực đến, kể về việc Hà Túc Đạo ước hẹn tỷ thí, các cao tăng trong chùa càng tăng cường phòng bị. Nên biết chi phái Thiếu Lâm ở Tây Vực do đường sá xa xôi cách trở, mấy chục năm nay hiếm khi lai vãng hoặc thông tin với phái Thiếu Lâm ở Trung nguyên. Nhưng các cao tăng trong chùa đều biết vị sư thúc tổ Khổ Tuệ thiền sư năm xưa bỏ đi Tây Vực lập chi phái Tây Vực có võ công cao siêu khôn tả; các đồ đệ, đồ tôn của Khổ Tuệ thiền sư được truyền thụ võ công đó nhờ vậy cũng có võ công phi phàm. Nghe nhóm Phan Thiên Canh thuật lại về Côn Luân Tam Thánh với vẻ đầy kính nể, họ hiểu rằng “Thiện giả bất lai, lai giả bất thiện”[10], nên trong chùa càng đề phòng nghiêm mật. Phương trượng còn hạ pháp chỉ cho các tăng tục đệ tử trong vòng năm trăm dặm đều phải trở về chùa nghe lệnh điều động.
Ban đầu tăng chúng cũng tưởng Côn Luân Tam Thánh là ba người, sau nghe nhóm Phan Thiên Canh nói mới biết chỉ có một người, song diện mạo và tuổi tác thì nhóm Phan Thiên Canh cũng không rõ, chỉ biết người ấy tự phụ là cầm-kiếm – kỳ tam tuyệt. Hai môn gảy đàn và đánh cờ thuộc loại ăn chơi buông lỏng tâm tính, là thứ Thiền tông đại cấm kỵ, tăng chúng Thiếu Lâm tự xưa nay vốn không màng tới; riêng những ai trong chùa là cao thủ kiếm thuật thì đều ra sức ôn luyện, để chuẩn bị so tài cao thấp với nhân vật tự xưng là Kiếm thánh.
Ba sư huynh đệ Phan Thiên Canh nghĩ rằng vụ này do họ gây nên, phải do tự tay họ kết thúc, vì thế hàng ngày ba lão liên tục cưỡi ngựa tuần tiễu trước núi sau núi, dự tính đón đường ngăn cản Côn Luân Tam Thánh, đánh cho y phải tháo chạy về Tây Vực; rồi ba lão sẽ trở lại chùa thử tài với các tăng nhân trong chùa, đánh bại họ, để phái Thiếu Lâm Trung nguyên từ rày không dám vênh mặt lên nữa. Ai ngờ ở thạch đình, Hà Túc Đạo mới chỉ dùng một nửa công lực đã khiến ba huynh đệ lão cuốn gói chạy dài.
Thiên Minh thiền sư nghe tin, thầm biết hôm nay là giờ phút vinh nhục thịnh suy của Thiếu Lâm tự, nhưng tự lượng võ công của bản thân, của Vô Sắc và Vô Tướng chưa chắc đã cao hơn ba huynh đệ Phan Thiên Canh là bao; đành phải thỉnh Tâm Thiền đường thất lão ra áp trận. Có điều võ nghệ của Tâm Thiền đường thất lão cao tới mức nào thì không ai hay biết; liệu các vị ấy có đủ khả năng xuất thủ chế ngự nổi Côn Luân Tam Thánh hay chăng, lão phương trượng cùng Vô Sắc và Vô Tướng thiền sư cũng không dám cả quyết điều gì.
Lại nói lão phương trượng Thiên Minh thiền sư thấy Hà Túc Đạo và Quách Tương thì chắp tay nói:
– Vị này hẳn là Hà cư sĩ, biệt hiệu Cầm Kiếm Kỳ Tam Thánh. Lão tăng không kịp ra ngoài xa nghênh tiếp, xin lượng thứ cho.
Hà Túc Đạo cúi mình đáp lễ, nói:
– Vãn sinh Hà Túc Đạo, cuồng danh Tam Thánh, thật không đáng nói! Vãn sinh phiền nhiễu quý tự, tự thấy áy náy; lại còn kinh động các vị cao tăng ra ngoài nghênh tiếp thế này, vãn sinh thật hổ thẹn!
Thiên Minh thiền sư nghĩ thầm: “Gã cuồng sinh này nói năng đâu có ngông cuồng. Y trạc tam tuần, mà sao đánh bại được nhóm Phan Thiên Canh nhỉ?”, bèn nói:
– Hà cư sĩ khỏi cần khách sáo, xin mời vào dùng trà. Còn vị nữ cư sĩ này thì…
Nói tới đó giọng lão phương trượng ngập ngừng, ngụ ý khó xử.
Hà Túc Đạo hiểu ý người nói không cho phép Quách Tương vào chùa, thế là thái độ cuồng phóng của chàng phát tác ra liền; chàng ngửa mặt cả cười, nói:
– Lão phương trượng, vãn sinh tới quý tự là do nhận lời ủy thác của người khác, đến đây chuyển một lời trối; cũng định nói xong lời trối đó là phủi tay đi liền; không dè quý tự trọng nam khinh nữ, thanh quy giới luật quái quỷ quá nhiều, vãn sinh thấy có lắm điều chướng mắt. Nên biết Phật pháp vô biên, chúng sinh như nhất, phân biệt nam nữ là tâm còn vẩn đục.
Thiên Minh phương trượng là bậc cao tăng hữu đạo, thiền tâm minh triết, tính cách khoan dung, nghe Hà Túc Đạo nói vậy thì mỉm cười:
– Đa tạ cư sĩ đã chỉ giáo. Thiếu Lâm bổn tự cứ phải phân biệt nam nữ thì cũng có phần hẹp lượng, vậy xin mời Quách cô nương cùng vào dùng trà luôn thể.
Quách Tương nhìn Hà Túc Đạo, tủm tỉm cười, nghĩ thầm: “Chàng cũng khéo ăn khéo nói thật, chỉ vài câu đã thuyết phục được lão phương trượng”. Thấy Thiên Minh phương trượng đứng sang một bên, đưa tay mời khách, nàng đang định cất bước đi vào chùa, bỗng có một lão tăng rất gầy gò đứng bên trái Thiên Minh phương trượng bước ra, nói:
– Chỉ vì một lời của Hà cư sĩ mà Thiếu Lâm bổn tự phải bỏ luật lệ vốn có từ ngàn năm, kể ra cũng được, song cũng nên xem người nói lời đó có bản lĩnh thật sự, hay chỉ là hư danh. Vậy mong Hà cư sĩ hãy chứng tỏ thân thủ một chút, để chúng tăng được thêm kiến thức, cũng là để mọi người trong bổn tự biết tại ai mà phải phế bỏ luật lệ đã có từ ngàn năm.
Lão tăng vừa nói chính là thủ tọa Đạt Ma đường Vô Tướng thiền sư. Giọng thiền sư trầm hùng, chứng tỏ trung khí sung mãn, nội lực dồi dào.
Ba sư huynh đệ Phan Thiên Canh nghe vậy, mặt hơi biến sắc. Vô Tướng thiền sư nói như vậy là có ý xem thường ba người ấy, Hà Túc Đạo tuy đánh bại cả ba sư huynh đệ, nhưng vị tất đã có bản lĩnh hơn người.
Quách Tương thấy Vô Sắc thiền sư có vẻ rầu rĩ, nàng nghĩ thầm: “Vị hòa thượng này thật tốt bụng, lại là bằng hữu của đại ca ca; nếu Hà Túc Đạo và tăng chúng Thiếu Lâm tự vì ta mà giao đấu, bất cứ bên nào thua, ta đều không muốn”. Nàng bèn nói to:
– Hà đại ca, tiểu muội không nhất thiết cứ phải vào Thiếu Lâm tự. Đại ca cứ vào chuyển xong lời nọ, rồi ta đi cũng được mà.
Đoạn nàng chỉ Vô Sắc thiền sư, nói:
– Vô Sắc thiền sư đây là hảo bằng hữu của tiểu muội, mong đôi bên chớ vì tiểu muội mà tổn thương hòa khí.
Hà Túc Đạo ngẩn người, nói:
– Ồ, ra là vậy!
Rồi quay sang nói với Thiên Minh thiền sư:
– Lão phương trượng, quý tự có một vị là Giác Viễn thiền sư, vị ấy đâu? Có người nhờ vãn sinh chuyển lời tới vị đó.
Thiên Minh phương trượng lẩm bẩm: “Giác Viễn thiền sư ư?” Địa vị của Giác Viễn thiền sư trong Thiếu Lâm tự thấp kém, mấy chục năm nay tăng nhân đó chỉ ẩn thân trong Tàng kinh các, chẳng mấy ai biết tới, chẳng ai thêm hai tiếng “thiền sư” vào pháp danh Giác Viễn cả; bởi thế khi nghe Hà Túc Đạo nhắc đến, lão phương trượng nhất thời chưa biết đó là ai. Lão phương trượng ngẩn người giây lát, rồi sực nhớ:
– À, lão tăng nhớ rồi, người ấy đã thất chức vì để mất cuốn kinh Lăng Già. Hà cư sĩ tìm Giác Viễn có liên quan gì tới vụ kinh Lăng Già chăng?
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Vãn sinh không biết.
Lão phương trượng bảo một đệ tử:
– Bảo Giác Viễn ra gặp khách.
Người kia lập tức chạy đi.
Vô Tướng thiền sư lại nói:
– Hà cư sĩ có biệt hiệu “Cầm – kiếm – kỳ tam thánh”, thiết tưởng một chữ “thánh” người thường không ai dám nhận thì phải? Hà cư sĩ có cả ba tuyệt kỹ ấy. Hôm trước Hà cư sĩ đã để lại giấy, hẹn sẽ thể hiện võ công; hôm nay đã quang lâm, sao chẳng chịu ban cho vài thế để chúng tăng được chiêm ngưỡng tuyệt kỹ!
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Cô nương này vừa nói rồi, đôi bên chúng ta đều không nên làm tổn thương hòa khí.
Vô Tướng cả giận, nghĩ thầm: “Chính ngươi gửi thư thách đấu, bây giờ đến lúc thì lại thoái thác, cả ngàn năm nay có kẻ nào dám vô lễ với Thiếu Lâm tự như vậy? Huống hồ nhóm Phan Thiên Canh bị đánh bại dưới tay ngươi, chuyện này giang hồ biết tới, sẽ đồn rằng đại đệ tử của phái Thiếu Lâm thua ngươi, hai chữ “Kiếm Thánh” sẽ càng lừng lẫy hơn. Xem chừng các đệ tử không phải là đối thủ của ngươi, ta đích thân ra tay mới được”. Nghĩ vậy, Vô Tướng tiến lên hai bước, nói:
– Tỷ thí võ công chưa hẳn đã làm tổn thương hòa khí, Hà cư sĩ khỏi cần thoái thác.
Đoạn quay lại quát các đệ tử Đạt Ma đường:
– Mang kiếm ra đây! Chúng ta sẽ lĩnh giáo kiếm thuật của “Kiếm thánh”, xem “thánh” tới mức nào?
Trong chùa các loại khí giới đã được chuẩn bị sẵn, chỉ vì mọi người phải xếp hàng đón khách, không tiện đem ra để khỏi mang tiếng; nay mấy đệ tử nghe Vô Tướng hạ lệnh như thế, liền mang ra bảy tám thanh trường kiếm, hai tay bưng ngang mày, tới trước mặt Hà Túc Đạo, hỏi:
– Chẳng hay Hà cư sĩ sử dụng bảo kiếm tự mang đến, hay dùng loại kiếm tầm thường của tệ tự?
Hà Túc Đạo không đáp, cúi xuống nhặt một viên đá nhọn, bất ngờ vẽ một bàn cờ lớn trên tảng đá xanh trước cổng chùa, ngang dọc mỗi chiều mười chín vạch có khoảng cách đều tăm tắp, vạch nào vạch nấy hằn sâu hơn nửa tấc. Nên biết, tảng đá xanh lát đường kia cứng như sắt, trải qua mấy trăm năm bao người qua lại chỉ bị bào mòn tí chút, nay Hà Túc Đạo tiện tay vẽ bàn cờ mà hằn sâu thế kia, đủ thấy nội công của chàng quả thực hiếm có trong thiên hạ. Mọi người chỉ nghe chàng vừa cười vừa nói:
– Đấu kiếm e là bá đạo, thi thố tiếng đàn thì không có cách gì. Đại hòa thượng đã cao hứng vậy hai ta đấu một ván cờ thôi.
Thiên Minh, Vô Tướng, Vô Sắc cùng Tâm Thiền đường thất lão chứng kiến tuyệt kỹ vô song kia của Hà Túc Đạo đều trố mắt nhìn nhau kinh hãi. Lão phương trượng thừa biết trong chùa không một ai có nội lực hùng hậu như thế; là người có tấm lòng khoáng đạt, đang định lên tiếng nhận thua, bỗng nghe tiếng xiềng xích kêu leng keng, Giác Viễn gánh đôi thùng sắt lớn, theo sau một thiếu niên cao lớn, đi tới trước mặt. Giác Viễn tay tả giữ quang gánh, tay hữu giơ lên hành lễ với Thiên Minh, nói:
– Nghe Phương trượng phán gọi, tiểu tăng tới chờ sai bảo.
Thiên Minh nói:
– Vị Hà cư sĩ kia có điều gì đó muốn nói với ngươi.
Giác Viễn quay sang phía Hà Túc Đạo, thấy không quen biết, liền hỏi:
– Tiểu tăng Giác Viễn, chẳng hay cư sĩ có điều chi dạy bảo?
Hà Túc Đạo vừa vẽ xong bàn cờ, cao hứng nói:
– Câu chuyện ấy để lát nữa nói hẵng chưa muộn. Bây giờ để vị đại hòa thượng đấu với ta một ván cờ đã.
Thực tình chàng không định phô diễn tài ba, song bình sinh đối với ba môn cầm – kỳ – kiếm lại si mê lạ lùng, đã nổi hứng thì trời có sụp chàng cũng bất chấp. Bây giờ chàng nổi hứng đánh cờ, rất cần có người cùng chơi, đã quên hẳn chuyện tỷ thí võ công.
Thiên Minh thiền sư nói:
– Hà cư sĩ vạch đá thành bàn cờ, thần công như thế, bần đạo bình sinh chưa từng thấy, tăng chúng tệ tự nguyện bái phục cư sĩ.
Giác Viễn nghe phương trượng nói thế, nhìn xuống mặt đá thấy bàn cờ lớn vừa vạch ra mới biết người lạ kia tới đây thể hiện võ công, liền để nguyên đôi thùng sắt trên vai, hít một hơi, vận hết công lực dồn xuống hai chân mà bước theo các lằn vạch của bàn cờ.
Bàn chân của Giác Viễn đặt tới đâu là hằn dấu vết rộng năm tấc trên mặt đá chỗ đó, xóa nhòa hết các đường Hà Túc Đạo vừa vạch. Tăng chúng thấy vậy cùng ồ lên sửng sốt. Thiên Minh, Vô Tướng, Vô Sắc lại càng kinh ngạc xen lẫn vui mừng. Ai ngờ một lão tăng ngơ ngơ ngẩn ngẩn như vậy lại có nội công thâm hậu dường này. Mọi người chung sống với Giác Viễn mấy chục năm trong chùa lại không hề nhận biết một chút gì. Thiên Minh, Vô Tướng, Vô Sắc đều hiểu rằng một người dù nội lực mạnh đến mấy cũng chẳng tài nào để lại vết chân trên đá như thế. Đây là nhờ Giác Viễn đang gánh đôi thùng sắt chứa đầy nước, sức nặng tổng cộng phải tới hơn bốn trăm cân. Sức nặng đó từ trên vai dồn xuống dưới chân cùng dây xích sắt sẽ như cái đục đục vào đá, mới xóa nhòa các đường vạch của Hà Túc Đạo. Nếu Giác Viễn đi người không thì chẳng thể làm được như vậy. Dầu sao biết mượn lực làm được điều đó cũng quả là thần công hiếm có trên đời.
Hà Túc Đạo không chờ Giác Viễn đi hết ba mươi tám đường vạch ngang dọc, đã nói to:
– Đại hòa thượng, nội công thâm hậu quá chừng, tại hạ không sao bằng lão rồi!
Giác Viễn lúc này cảm thấy tuy chân khí trong đan điền vẫn rất dồi dào, nhưng hai bàn chân là máu thịt đã đau nhức vô cùng; nghe Hà Túc Đạo nói thế liền dừng bước, mỉm cười hỏi:
– Chắc là cư sĩ thấy khỏi cần đấu cờ nữa?
Hà Túc Đạo đáp:
– Không sai! Khỏi cần đấu cờ nữa, vãn sinh chịu thua rồi. Nay muốn lĩnh giáo kiếm pháp của đại hòa thượng.
Nói đoạn rút phắt thanh trường kiếm giấu dưới đáy huyền cầm, chỉ mũi kiếm giữa ngực mình, chuôi kiếm chênh chếch ra phía ngoài. Chiêu thức khởi đầu thật quái dị, chẳng khác gì dùng kiếm tự sát, trong các thứ kiếm pháp của thiên hạ chưa có chiêu nào khó hiểu như thế.
Giác Viễn nói:
– Lão tăng chỉ biết tụng kinh, quét sân, phơi sách, chứ võ công chẳng biết môn nào cả.
Hà Túc Đạo đời nào chịu tin. Chàng ta cười nhạt, tung mình nhảy tới, thanh kiếm oằn cong rồi bật ra, mũi kiếm đâm thẳng vào ngực Giác Viễn. Xuất chiêu quá nhanh, kiếm pháp nào cũng không lẹ bằng. Thì ra chiêu này không phải đâm thẳng, mà trước hết tụ đủ nội lực rồi mới hất mũi kiếm ra. Nhưng nội công của Giác Viễn quả đã luyện tới cảnh giới tùy tâm sở dục, thu phát tùy ý. Kiếm chiêu của Hà Túc Đạo tuy mau lẹ, song tâm niệm của Giác Viễn còn nhanh hơn, ý sao tay vậy, thân ý hợp nhất; Giác Viễn thu tay phải vào, thùng sắt lớn tức thời được hất ra phía trước mặt, chỉ nghe “keng” một tiếng, mũi kiếm đâm vào thùng, thân kiếm uốn cong thành hình vòng cung. Hà Túc Đạo vội thu trường kiếm, rồi đâm tiếp một kiếm; tay trái của Giác Viễn hất thùng ra, lại nghe “keng” một tiếng.
Hà Túc Đạo nghĩ thầm: “Võ công của lão dù cao đến mấy, với đôi thùng nước nặng thế kia, làm sao lão đủ khả năng tránh kịp thế công mau lẹ của ta? Giả sử lão tay không đối địch, ta còn e ngại đôi phần”. Chàng ta búng ngón tay vào thân kiếm, kiếm thanh phát ra như long ngâm, rồi chàng nói to:
– Đại hòa thượng, hãy cẩn thận!
Thanh trường kiếm chuyển động thoăn thoắt, loang loáng trước sau tả hữu, chỉ vài khoảnh khắc đã tấn công mười sáu chiêu.
Chỉ nghe “keng keng” dồn dập đủ mười sáu tiếng, mười sáu chiêu kiếm thần tốc của Hà Túc Đạo cuối cùng vẫn đâm vào đôi thùng sắt. Mọi người đứng xem thấy Giác Viễn luống cuống chân tay, thân hình loạng choạng, rõ ràng chẳng có vẻ là người biết võ công; nhưng mười sáu chiêu kiếm thần diệu vô phương của Hà Túc Đạo đều bị đôi thùng sắt chậm chạp nặng nề của Giác Viễn cản được hết, mà lại cản được bằng tư thế vụng về đến tức cười.
Vô Tướng, Vô Sắc và các vị cao tăng cùng bất giác lo sợ cho Giác Viễn, đồng thanh la lên:
– Hà cư sĩ, xin hãy nhẹ tay!
Quách Tương cũng nói:
– Chớ nên sát thương!
Mọi người đều thấy Giác Viễn không biết võ công, Hà Túc Đạo là người trong cuộc nhưng đã tận lực tấn công mà vẫn không làm gì nổi đối phương. Chính Giác Viễn chưa từng học võ công; sở dĩ lão hòa thượng chống đỡ được các chiêu kiếm kia hoàn toàn là nhờ nội công thượng thừa mà hòa thượng luyện thành một cách vô chủ ý.
Hà Túc Đạo tấn công mau lẹ không xong, liền quát to một tiếng, thấy loáng ánh hàn quang, mũi kiếm nhắm bụng dưới của Giác Viễn đâm tới. Giác Viễn la hoảng:
– Úi chà!
Trong lúc vội vã, Giác Viễn chụp tay lại, khiến đôi thùng sắt kẹp chặt trường kiếm vào giữa. Hà Túc Đạo ráng sức rút thanh kiếm ra, nhưng không sao lay chuyển nổi. Chàng ứng biến cực nhanh, tay hữu buông luôn kiếm, dùng cả hai tay cùng đẩy thẳng vào mặt Giác Viễn, chưởng lực như bài sơn đảo hải[11].
Lúc này Giác Viễn không còn tay đâu chống đỡ. Trương Quân Bảo đứng bên thấy tình thế của sư phụ thập phần nguy cấp, liền vọt tới, sử dụng chiêu “Tứ thông bát đạt” mà Dương Quá từng dạy cho chàng, đánh chéo một chưởng vào vai Hà Túc Đạo. Lúc này kình lực của Giác Viễn đã truyền vào đôi thùng sắt, hai dòng nước từ đôi thùng bay thẳng tới mặt Hà Túc Đạo. Nước và chưởng lực đụng nhau, nước bắn tung tóe làm cả đôi bên ướt sũng, chưởng lực của Hà Túc Đạo do đó bị triệt tiêu.
Hà Túc Đạo đang tập trung toàn lực tấn công Giác Viễn, không để ý đến Trương Quân Bảo, nên bị trúng một chưởng vào vai. Ai ngờ Trương Quân Bảo còn ít tuổi, chưởng pháp đã lạ mà nội lực cũng khá thâm hậu khiến Hà Túc Đạo đứng không vững phải lùi sang bên tả ba bước.
Giác Viễn nói:
– A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, Hà cư sĩ hãy lượng thứ cho lão tăng! Kiếm của cư sĩ làm cho lão tăng hết cả hồn vía.
Đoạn vội giơ vạt áo lau nước trên mặt và đứng tránh sang một bên.
Hà Túc Đạo cả giận nói:
– Thiếu Lâm tự là nơi ngọa hổ tàng long, quả nhiên lợi hại khôn lường. Ngay một thiếu niên mới ngần này tuổi mà thân thủ cũng đã cao thế này. Gã tiểu tử kia, hai ta phải tỷ thí một phen, nếu ngươi tiếp được mười chiêu của ta, thì Hà Túc Đạo này thề suốt đời không trở lại Trung Châu nữa.
Vô Tướng, Vô Sắc thiền sư đều biết Trương Quân Bảo chỉ là một thiếu niên quét dọn trong Tàng kinh các, chưa hề tập luyện võ công, vừa rồi chẳng hiểu trời đất run rủi thế nào lại đánh trúng một chưởng; chứ nói phải đấu võ thật sự thì nói chi mười chiêu, chỉ e một chiêu cũng đã táng mạng dưới tay Hà Túc Đạo. Vô Tướng liền xen ngang vào:
– Hà cư sĩ lầm rồi! Cư sĩ được tôn là Côn Luân Tam Thánh, võ học siêu tuyệt cổ kim, ai lại đi tỷ thí với một tiểu tử chỉ biết đun nước quét nhà? Nếu cư sĩ vui lòng, lão tăng xin tiếp cư sĩ mười chiêu.
Hà Túc Đạo lắc đầu:
– Cái nhục một chưởng ban nãy, tại hạ há có thể bỏ qua? Tiểu tử, tiếp chiêu đi!
Nói đoạn, Hà Túc Đạo giáng luôn một quyền giữa ngực Trương Quân Bảo. Thế của đòn quyền này nhanh lạ lùng, Trương Quân Bảo lại đứng gần bên chàng ta, Vô Tướng, Vô Sắc có muốn tiếp cứu cũng không kịp.
Ai nấy thầm tội nghiệp cho chàng thiếu niên, chỉ thấy Trương Quân Bảo vẫn đứng yên tại chỗ, chỉ dùng đầu ngón chân di chuyển là thân hình quay sang bên hữu, nhẹ nhàng khéo léo tránh khỏi quyền của đối phương; tiếp đó dùng chiêu “Hữu xuyên hoa thủ”, một chiêu trong quyền pháp cơ bản của phái Thiếu Lâm, tay tả che ngang bụng, tay hữu chém ra, khí ngưng tụ như sơn, chưởng thế như sóng lớn trường giang, dáng dấp y như một cao thủ võ lâm lão luyện, chứ không phải thân thủ của một gã thiếu niên.
Từ lúc bị một chưởng trúng vai, Hà Túc Đạo đã biết nội lực của Trương Quân Bảo vượt xa nhóm Phan Thiên Canh, nhưng chàng tự tin nội trong mười chiêu hẳn sẽ đánh bại gã thiếu niên này; thấy chiêu “Hữu xuyên hoa thủ” tuy là chiêu thức nhập môn của Thiếu Lâm quyền, nhưng lúc phát chưởng và xoay mình, kình lực hùng hậu, thân hình Trương Quân Bảo rất trầm ổn, không để lộ bất cứ sơ hở nào, chàng phải buột miệng thốt:
– Quyền pháp tuyệt diệu!
Vô Tướng nghĩ gì đó, quay sang mỉm cười với Vô Sắc:
– Mừng sư huynh đã có đệ tử đắc ý!
Vô Sắc lắc đầu nói:
– Không phải…
Chợt thấy Trương Quân Bảo sử dụng liên tiếp ba chiêu “Ảo bộ lạp cung”, “Đơn phụng triều dương”, “Nhị lang đản sam”, pháp độ chính xác, kình lực mạnh mẽ, không thua gì một cao thủ của phái Thiếu Lâm.
Thiên Minh, Vô Tướng, Vô Sắc và Tâm Thiền thất lão thấy Trương Quân Bảo sử dụng mấy chiêu của Thiếu Lâm quyền xuất sắc như thế thì cùng nhìn nhau kinh hãi. Vô Tướng nói:
– Quyền pháp của y chính xác, nghiêm cẩn như thế cũng chưa lạ; kỳ lạ nhất là nội công…
Lúc này Hà Túc Đạo đã đánh tới chiêu thứ sáu, nghĩ bụng: “Với một gã thiếu niên miệng còn hôi sữa, ta đối phó chẳng xong, lại cả gan gửi thư khiêu chiến với Thiếu Lâm tự, ắt hẳn các anh hùng trong thiên hạ cười ta vỡ bụng mất thôi”. Đột nhiên chàng quay mình sử chiêu “Thiên Sơn tuyết phiêu” chưởng ảnh quay cuồng vây chặt lấy thân hình Trương Quân Bảo từ tứ diện bát phương.
Về phần Trương Quân Bảo, khi ở trên đỉnh Hoa Sơn chỉ được Dương Quá dạy cho bốn chiêu, ngoài ra chàng chưa hề thụ giáo một danh sư nào cả. Nay đột nhiên bị tấn công bằng một thứ chưởng pháp thượng thừa, kỳ ảo, biến hóa khôn lường, làm sao biết cách chống đỡ? Trong lúc nguy cấp, chàng xoay lưng sang bên trái thành thế “Hàn kê”, song chưởng giơ trên trán, hổ khẩu của hai bàn tay đối xứng nhau, chính là chiêu “Song khuyên thủ” trong Thiếu Lâm quyền. Chiêu này ngưng trọng như núi, tự hóa giải các chiêu thức của đối phương. Bất kể Hà Túc Đạo tấn công từ phương vị nào cũng đều bị “Song khuyên thủ” bao trùm.
Các đệ tử của Đạt Ma đường và La Hán đường reo vang như sấm để bày tỏ sự thán phục và cổ vũ cho Trương Quân Bảo, vì chàng đã dùng một chiêu thức hết sức bình thường trong pho Thiếu Lâm quyền để hóa giải các chiêu thức kỳ ảo của đối phương.
Trong tiếng reo hò, Hà Túc Đạo thét lớn một tiếng, đấm mạnh một quyền vào ngực Trương Quân Bảo. Đòn này kình lực phi phàm. Trương Quân Bảo dùng chiêu “Thiên hoa thất tinh”, đưa song chưởng ra chống đỡ, quyền chưởng đụng nhau, chỉ nghe “bùng” một tiếng, Hà Túc Đạo loạng choạng, còn Trương Quân Bảo phải thoái lui ba bước. Hà Túc Đạo “hừ” một tiếng, sấn tới hai bước, đấm một quyền nữa, kình lực vô biên. Trương Quân Bảo vẫn dùng chiêu “Thiên hoa thất tinh”, song chưởng đẩy mạnh ra. Lại nghe “bùng” một tiếng lớn hơn. Lần này Trương Quân Bảo phải thoái lui năm bước. Hà Túc Đạo nhoài tới, tái mặt quát lớn:
– Chỉ còn một chiêu này nữa, ngươi hãy dùng toàn lực mà đỡ!
Chàng sấn tới ba bước, từ từ đấm một quyền.
Lúc này mấy trăm người ở phía trước Thiếu Lâm tự đều nín thở, ai nấy đều biết đòn này của Hà Túc Đạo liên quan đến thanh danh của cả đời chàng, hẳn chàng dồn hết sức bình sinh vào đó.
Trương Quân Bảo một lần nữa dùng chiêu “Thiên hoa thất tinh”, song lần này quyền chưởng đụng nhau lại không gây ra tiếng vang nào. Đôi bên cùng vận nội công đẩy ra để lấn át đối phương. Nói về chiêu thức võ công thì Hà Túc Đạo am hiểu gấp trăm lần Trương Quân Bảo; nhưng về chuyện tỷ thí nội lực thì Trương Quân Bảo đã học được tâm pháp “Cửu dương chân kinh” nên nội lực dồi dào cứ không ngớt dâng trào. Giữa lúc đó Hà Túc Đạo biết mình không nắm chắc phần thắng, bèn nhảy vọt sang một bên để chưởng lực của Trương Quân Bảo hoàn toàn lạc không, rồi chàng xoay chưởng đẩy nhẹ một cái vào lưng Trương Quân Bảo. Trương Quân Bảo ngã sóng soài xuống đất, nhất thời không đứng dậy nổi.
Hà Túc Đạo phẩy tay, cười khổ, nói:
– Hà Túc Đạo ơi là Hà Túc Đạo, ngươi thật quá ngông cuồng!
Đoạn hướng về phía Thiên Minh thiền sư cúi đầu vái rạp, nói:
– Võ công của Thiếu Lâm tự lừng danh ngàn năm, quả thật phi thường; hôm nay kẻ cuồng sinh này mới sáng mắt ra. Thán phục, thán phục!
Rồi quay người, nhún mình một cái đã vọt ra ngoài xa mấy trượng. Chàng dừng bước, quay lại nói với Giác Viễn:
– Giác Viễn đại sư, câu trối mà người nọ nhờ tại hạ chuyển tới đại sư là “Cuốn kinh ở trong dầu”.
Đoạn chàng nhún mình mấy cái nữa đã lướt đi rất xa, thân pháp nhanh hiếm thấy.
Trương Quân Bảo chậm chạp bò dậy, mặt mũi lấm lem bụi đất. Chàng thiếu niên này tuy bị Hà Túc Đạo đánh ngã, nhưng các cao thủ đều biết Hà Túc Đạo chỉ khôn khéo hơn mà thôi; câu nói của chàng ta trước lúc bỏ đi đã ngụ ý rõ chàng ta không phải là đối thủ của thần công Thiếu Lâm tự.
Vị gầy gò nhất trong Tâm Thiền thất lão đột nhiên lên tiếng:
– Võ công của đệ tử này là do ai truyền thụ?
Giọng nói của lão nghe thé, chói lói y như tiếng cú kêu trong đêm lạnh, ai nấy bất giác rùng mình. Thiên Minh, Vô Tướng, Vô Sắc đều đã nghi ngờ, lúc này cùng quay nhìn Giác Viễn và Trương Quân Bảo. Thầy trò Giác Viễn đứng ngẩn người, nhất thời chưa biết nói sao cho xuôi. Thiên Minh nói:
– Nội công của Giác Viễn tuy tinh thâm, nhưng y chưa học qua quyền pháp. Vậy Thiếu Lâm quyền của gã thiếu niên kia là do ai truyền dạy?
Các đệ tử của Đạt Ma đường và La Hán đường đều nghĩ thầm, chẳng ai ngờ hôm nay bổn tự gặp nguy nan, gã thiếu niên vô danh tiểu tốt kia lại đánh bại cường địch, chắc sẽ được lão phương trượng ban thưởng hậu hĩnh, còn sư phụ truyền thụ nội công và quyền pháp cho y hẳn cũng được hưởng vinh dự lớn.
Lão tăng gầy gò kia thấy Trương Quân Bảo đứng ngẩn người ở đó, không nói được gì, liền cau mày, mặt đầy sát khí, quát lớn:
– Ta hỏi ngươi, pho La Hán quyền là do ai dạy cho ngươi?
Trương Quân Bảo lấy trong túi ra đôi thiết La Hán mà Quách Tương đã tặng và nói:
– Đệ tử xem đôi thiết La Hán này phô diễn mà tự học theo vài chiêu thức, chứ thực tình không được ai truyền dạy cả.
Lão tăng kia bước tới hạ thấp giọng, nói:
– Ngươi hãy nhắc lại cho thật rõ một lần nữa: Pho La Hán quyền hoàn toàn không phải do vị sư phụ nào trong chùa truyền dạy, mà do ngươi tự học lấy.
Giọng nói của lão tuy nhỏ, nhưng lần này đã chứa đựng vẻ dọa nạt.
Trương Quân Bảo thản nhiên, tự nghĩ mình hoàn toàn không làm việc gì xấu, tuy thấy lão tăng hung hăng truy vấn, chàng cũng chẳng sợ, liền nói rõ to:
– Đệ tử tối ngày quét dọn, đun nước pha trà trong Tàng kinh các, hầu hạ sư phụ Giác Viễn. Pho La Hán quyền hoàn toàn không phải do vị sư phụ nào trong chùa truyền dạy mà do đệ tử tự học lấy. Chắc là sử dụng chưa đúng, mong lão sư phụ chỉ giáo.
Mục quang của lão tăng kia dường như nảy lửa, cứ trừng trừng nhìn Trương Quân Bảo hồi lâu.
Giác Viễn biết vị lão tăng Tâm Thiền đường thất lão này vai vế rất cao, lại là sư thúc của Thiên Minh phương trượng; nay thấy lão ta bỗng dưng quát tháo Trương Quân Bảo, Giác Viễn chưa hiểu tại sao nhưng nhìn ánh mắt chứa đầy oán độc của lão ta, Giác Viễn sực nhớ ra năm nọ trong Tàng kinh các ngẫu nhiên có đọc một cuốn sách mỏng.
Cuốn sách mỏng ấy có chép lại một đại sự trong Thiếu Lâm tự.
Hơn bảy chục năm về trước, phương trượng của Thiếu Lâm tự là Khổ Thừa thiền sư, là sư tổ của Thiên Minh thiền sư hiện thời. Tết Trung thu, theo lệ của chùa, mỗi năm đều có cuộc khảo thí võ công của các đệ tử Đạt Ma đường, do phương trượng cùng hai vị thủ tọa Đạt Ma đường và La Hán đường làm chủ khảo, xét võ công của các đệ tử xem một năm qua tiến bộ đến mức nào. Khi các đệ tử trình diễn xong, thủ tọa Đạt Ma đường là Khổ Trí thiền sư thăng tọa bình phẩm.
Bỗng nhiên có một tên đầu đà còn để tóc dài gạt mọi người xông ra, lớn tiếng nói:
– Lời bình phẩm của Khổ Trí thiền sư nghe không ngửi được! Khổ Trí thiền sư căn bản chẳng hiểu võ công là gì, mà cũng đòi làm thủ tọa Đạt Ma đường, thật nhục nhã!
Ai nấy kinh hãi, nhìn kỹ kẻ kia, mới hay đó là tên đầu đà hỏa công chuyên việc nhóm lửa ở bếp Hương Tích. Các đệ tử của Đạt Ma đường chưa đợi sư phụ của mình lên tiếng đã nhất tề quát mắng tên kia. Tên đầu đà ấy quát lại:
– Sư phụ các ngươi ngu xuẩn, các ngươi còn ngu xuẩn hơn!
Đoạn hắn nhảy vào giữa sới võ. Các đệ tử xông tới tấn công hắn, nào ngờ đều bị hắn đánh bại nhanh chóng bằng vài ba quyền cước. Xưa nay trong Đạt Ma đường, các đồng môn đấu với nhau ai nấy đều nương tay, không bao giờ hạ độc thủ. Đằng này tên đầu đà kia ra tay quá tàn ác, chín đại đệ tử Đạt Ma đường, người gãy tay kẻ què chân, người thì thụ trọng thương dưới đòn của hắn.
Khổ Trí thiền sư vừa kinh ngạc vừa tức giận. Thấy hắn sử dụng toàn các chiêu thức của phái Thiếu Lâm, chứ hắn hoàn toàn không phải là cao thủ các môn phái khác cố ý trà trộn vào chùa quậy phá, Khổ Trí thiền sư cố nén giận, hỏi xem võ công của y là do ai truyền dạy.
Tên đầu đà kia đáp:
– Chẳng ai truyền dạy hết, mỗ tự học lấy.
Thì ra tên kia làm việc nhóm lửa ở bếp Hương Tích. Tăng nhân giám quản bếp này là một người tính tình nóng nảy, thô bạo động một tí lại đánh đập thủ hạ. Y biết võ công, lại khỏe như vâm. Trong vòng ba năm, tên đầu đà nhóm bếp bị y đánh hộc máu ba lần nên ngầm oán hận, bí mật học lóm võ công. Người người trong Thiếu Lâm tự đều giỏi võ, muốn học lóm chẳng thiếu gì cơ hội. Hắn đã khổ công rèn luyện, lại có trí hơn người, nên sau hơn hai chục năm đã luyện được võ công thượng thừa. Nhưng hắn vẫn giấu kỹ, không để lộ ra, vẫn lặng lẽ tiếp tục bổn phận nhóm lửa ở nhà bếp. Lão giám quản có đánh đập hắn, hắn cũng không đánh đỡ, nhờ nội công đã tinh thâm nên hắn không thụ thương như trước nữa.
Tên đầu đà này tính nết thâm trầm, hắn suy tính khi nào võ công của hắn giỏi hơn tất cả tăng chúng trong chùa thì hắn mới biểu lộ trong cuộc thi đấu dịp tết Trung thu. Mấy chục năm tích uất lũy hận trong lòng, khiến hắn căm hận tăng chúng trong chùa, vì vậy lúc ra tay hắn không nể nang gì hết.
Khổ Trí thiền sư hỏi rõ nguyên ủy rồi cười nhạt, nói:
– Ngươi khổ tâm học hỏi như vậy, kể cũng đáng kính!
Đoạn thiền sư bước ra tỷ võ với hắn. Thiền sư là cao thủ Thiếu Lâm tự, nhưng một là tuổi đã cao, trong khi tên đầu đà đang độ tráng niên; hai là xuất thủ nương nhẹ, trong khi tên đầu đà toàn hạ độc thủ. Hai bên đấu hơn năm trăm hiệp Khổ Trí thiền sư mới có phần thắng thế; đến chiêu “Đại triền ti”, bốn cánh tay quấn chặt lấy nhau, hai tay của Khổ Trí thiền sư đã ấn vào tử huyệt ở giữa ngực đối phương, chỉ cần phát nội lực một cái là tên đầu đà táng mạng, không còn cách nào hóa giải nổi. Nhưng Khổ Trí thiền sư nghĩ tiếc cho hắn khổ công tự học mà đạt tới võ công thượng thừa, thiền sư không nỡ giết hắn, bèn buông hai tay và quát: “Lui ra!”
Ai ngờ tên đầu đà hiểu lầm hảo ý của Khổ Trí thiền sư, chỉ biết đối phương đang sử một chiêu trong “Thần chưởng bát đả”. “Thần chưởng bát đả” là một trong những tuyệt học của võ Thiếu Lâm; hắn từng thấy các đại đệ tử của Đạt Ma đường sử dụng, song chưởng chỉ chém một cái là đánh gãy một cây cọc, kình lực phi phàm. Võ công của tên đầu đà tuy cao cường nhưng toàn là học lóm, chưa hề được danh sư chỉ giáo; võ Thiếu Lâm bác đại tinh thâm, hắn chỉ dòm trộm thì dù bao nhiêu năm cũng không thể thấu triệt nổi. Khổ Trí thiền sư thực ra dùng chiêu “Phân giải chưởng”, mượn lực giải lực, để đôi bên cùng lùi cả ra, là có ý ngừng đấu. Ai ngờ tên đầu đà lại tưởng lầm là “Liệt tâm chưởng”, chưởng thứ sáu trong “Thần chưởng bát đả”; hắn nghĩ thầm: “Lão muốn giết ta, nhưng đâu có dễ”. Hắn phi thân tới, song quyền cùng giáng xuống.
Song quyền này lực như bài sơn đảo hải ập tới, Khổ Trí thiền sư cả kinh, vội quay chưởng lại chống đỡ nhưng đã muộn; chỉ nghe “răng rắc” mấy tiếng, cánh tay trái và bốn cái xương sườn của thiền sư đã bị đánh gãy.
Tăng chúng đứng bên kinh hoàng biến sắc, nhất tề xông lại tiếp cứu, nhưng Khổ Trí thiền sư chỉ thở thoi thóp, không nói được một lời, nội tạng đã bị trọng thương. Lúc nhìn lại tên hỏa công đầu đà thì nhân lúc hỗn loạn hắn đã lủi đi mất tăm. Khuya hôm đó, Khổ Trí thiền sư viên tịch vì thương thế quá nặng. Trong lúc cả Thiếu Lâm tự đang đau buồn, tên hỏa công đầu đà lại lẻn vào chùa giết hại vị hòa thượng giám quản bếp Hương Tích và năm tăng nhân khác vốn bất hòa với hắn. Cả Thiếu Lâm tự chấn động, phái mấy chục cao thủ đi khắp nơi truy nã hắn, song tìm khắp Giang Nam Giang Bắc cũng chẳng thấy tung tích.
Các vị cao tăng trong chùa vì vụ ấy mà sinh ra tranh cãi, đổ lỗi cho nhau. Thủ tọa La Hán đường Khổ Tuệ thiền sư nổi giận bỏ đi Tây Vực, sáng lập phái Thiếu Lâm Tây Vực. Ba người Phan Thiên Canh, Phương Thiên Lao, Vệ Thiên Vọng là đệ tử tái truyền của Khổ Tuệ thiền sư vậy.
Sau biến cố tang tóc kia, võ học của Thiếu Lâm tự bị suy vong mấy chục năm. Và cũng từ đó, nhà chùa mới có quy định: phàm đệ tử nào không được sư phụ truyền thụ mà học lóm võ công, nếu bị phát hiện, nặng sẽ bị xử tử, nhẹ cũng bị cắt đứt gân mạch toàn thân trở thành phế nhân. Mấy chục năm qua, trong chùa đề phòng nghiêm mật, không còn ai dám học lóm võ công, nên tăng chúng quên dần quy định ác nghiệt kia.
Lão tăng Tâm Thiền đường gầy gò này chính là tiểu đệ tử của Khổ Trí thiền sư năm xưa; cảnh thảm tử của ân sư khắc sâu trong tâm trí lão bảy chục năm qua, nay thấy Trương Quân Bảo lại học lóm võ công thì xúc động hồi tưởng chuyện cũ, ắt vừa buồn vừa giận.
Giác Viễn coi sách trong Tàng kinh các, sách nào cũng đọc qua, chợt nhớ lại chuyện cũ thì toát mồ hôi lạnh, nói:
– Lão phương trượng, việc này… không thể trách cứ Trương Quân Bảo…
Lời chưa dứt, đã nghe thủ tọa Đạt Ma đường Vô Tướng thiền sư quát lớn:
– Các đệ tử Đạt Ma đường, hãy nhất tề xông ra bắt tên tiểu tử kia!
Mười tám đệ tử Đạt Ma đường lập tức ào ra vây lấy thầy trò Giác Viễn từ bốn phương tám hướng. Phương vị của mười tám người đó rất rộng, cả Quách Tương cũng bị ở trong vòng vây.
Lão tăng Tâm Thiền đường gầy gò cao giọng quát lớn:
– Chúng đệ tử La Hán đường, sao không tiến lên hợp lực!
Một trăm linh tám đệ tử La Hán đường đồng thanh “Dạ!” nghe như sấm động, quây thành ba vòng tròn bên ngoài mười tám đệ tử Đạt Ma đường.
Trương Quân Bảo tứ chi luống cuống, cứ ngỡ mình đánh đuổi Hà Túc Đạo là phạm giới quy của chùa, miệng lắp bắp:
– Sư phụ, đệ tử… đệ tử…
Giác Viễn đã hơn mười năm sống chung cùng đệ tử, tình như phụ tử; biết rằng Trương Quân Bảo bị bắt thì chắc hẳn sẽ bị xử tử hoặc biến thành phế nhân. Chỉ nghe Vô Tướng thiền sư quát:
– Sao không động thủ, còn chờ gì nữa?
Mười tám đệ tử Đạt Ma đường miệng niệm nam mô, dợm chân bước tới. Giác Viễn chẳng kịp nghĩ ngợi liền quay đôi thùng sắt một vòng, một luồng kình phong quạt mạnh, ngăn không cho tăng chúng tới gần. Giác Viễn quay mạnh một vòng nữa, hất văng nước trong đôi thùng ra, đoạn nghiêng thùng bên tả múc lấy Quách Tương, nghiêng thùng bên hữu múc lấy Trương Quân Bảo, quay đôi thùng liên tiếp bảy tám vòng nữa. Đôi thùng sắt lớn tựa như hai cây chùy nặng ngàn cân, ai dám giơ tay ngăn cản?
Các đệ tử Đạt Ma đường vội vã dạt cả sang bên. Nhanh như bay, Giác Viễn gánh Quách Tương và Trương Quân Bảo chạy xuống núi. Tăng chúng hô hoán đuổi theo, chỉ nghe tiếng xích sắt càng lúc càng xa dần, đuổi được chừng bảy tám dặm thì không nghe thấy nữa.
Luật lệ của Thiếu Lâm tự rất nghiêm, một khi thủ tọa Đạt Ma đường đã hạ lệnh bắt giữ Trương Quân Bảo, các tăng nhân tuy thấy đuổi chẳng kịp nhưng vẫn phải gắng gượng truy đuổi. Thời gian càng dài, cước lực của từng người lộ ra cao thấp, người nào khinh công kém sẽ tụt lại phía sau. Đuổi tới lúc trời tối thì tốp đi đầu chỉ còn năm đại đệ tử, trước mặt lại là ngã ba, không biết Giác Viễn chạy về ngả nào. Vả lại họ thừa biết, dù có đuổi kịp, bọn họ năm người cũng chẳng địch nổi hai thầy trò Giác Viễn, nên họ đành lủi thủi trở về Thiếu Lâm tự chờ lệnh.
Giác Viễn gánh hai người chạy mấy chục dặm mới dừng bước, nhìn quanh thì đây là một cánh rừng sâu, sương mù bao phủ khắp nơi, từng đàn quạ đang trở về tổ. Giác Viễn tuy nội lực dồi dào, nhưng đã xả thân chạy một mạch xa như thế cũng đã mỏi gối chồn chân, nhất thời kiệt sức chưa thể gỡ đôi thùng sắt ra khỏi vai.
Quách Tương và Trương Quân Bảo từ trong thùng nhảy ra, mỗi người gỡ một chiếc thùng khỏi vai Giác Viễn. Trương Quân Bảo nói:
– Sư phụ hãy nghỉ ngơi, đệ tử đi kiếm thức ăn đã.
Nhưng giữa chốn núi non hoang vu, cỏ cao, dây leo chằng chịt này thì kiếm đâu ra thức ăn. Trương Quân Bảo đi chán chê mới kiếm được ít trái mâm xôi đem về. Ba người ăn qua loa rồi tựa lưng vào phiến đá mà nghỉ.
Quách Tương nói:
– Đại sư, tiểu nữ thấy nhiều tăng nhân Thiếu Lâm tự, ngoài đại sư và Vô Sắc thiền sư ra, đều kỳ quái tệ hại cả.
Giác Viễn chỉ ậm ừ, không nói gì.
Quách Tương nói tiếp:
– Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo tới Thiếu Lâm tự khiêu chiến, cả chùa không ai địch nổi, chỉ nhờ hai thầy trò đại sư đánh lui chàng ta, mới bảo tồn được danh dự Thiếu Lâm tự. Họ đã chẳng cảm kích đại sư thì chớ, lại hùng hùng hổ hổ đòi bắt giữ Trương đệ đây, họ lẫn lộn thị phi hắc bạch như thế, thật vô lý hết sức!
Giác Viễn lại thở dài, nói:
– Việc này cũng không thể trách lão phương trượng và Vô Tướng sư huynh được. Thiếu Lâm tự vốn có một điều luật…
Nói tới đây, Giác Viễn hụt hơi, ho sặc sụa một hồi không dứt. Quách Tương đấm nhè nhẹ vào lưng Giác Viễn, nói:
– Đại sư mệt mỏi rồi, hãy cố ngủ một giấc, ngày mai hãy kể tiếp.
Giác Viễn thở dài:
– Phải, lão tăng thấm mệt rồi.
Trương Quân Bảo nhặt một ít cành khô, nhóm lửa hong khô y phục cho Quách Tương và cho mình. Ba người ngủ tạm dưới gốc một cây cổ thụ.
Quách Tương ngủ đến nửa đêm, chợt mơ mơ màng màng nghe Giác Viễn lẩm bẩm một mình như đang tụng kinh, liền tỉnh giấc. Nàng thấy Giác Viễn nói nhỏ:
– … Lực của đối phương vừa mới chạm tới da ta thì ý niệm của ta đã vào tới xương tủy của y. Hai tay chống đỡ, một hơi quán xuyến. Tả trọng thì tả hư mà hữu đã đi; hữu trọng thì hữu hư mà tả đã đi…
Quách Tương giật mình nghĩ thầm: “Vị hòa thượng này hoàn toàn không phải đang tụng kinh Phật, đại loại ‘Không tức thị sắc, sắc tức thị không’, mà đang đọc võ học quyền kinh thì phải”.
Nàng lắng nghe tiếp:
– … Khí như xa luân, toàn thân phải có khí đi tới; chỗ nào không tới, thân sẽ tán loạn, muốn cứu vãn phải nhờ đến lưng và đùi…
Quách Tương nghe tới câu này thì hiểu rằng Giác Viễn đang đọc một yếu lĩnh võ học, nàng nghĩ thầm: “Vị hòa thượng này hoàn toàn không biết võ công, chỉ đọc sách thành si mê, phàm những gì ghi trong sách, đều coi là thiên kinh địa nghĩa bất di bất dịch. Mấy năm trước trên đỉnh Hoa Sơn, lần đầu gặp lão, mình từng nghe lão nói, rằng Đạt Ma lão tổ sau khi tự tay viết kinh Lăng Già, lại viết bộ ‘Cửu dương chân kinh’ vào các khoảng trống của cuốn kinh Lăng Già; rằng muốn cho thân thể khỏe mạnh cần tập luyện theo bộ ‘Cửu dương chân kinh’. Hai thầy trò lão học theo cách đó, chứ không nhờ ai chỉ giáo, cuối cùng đạt tới được cảnh giới thượng thừa trong thiên hạ từ lúc nào không biết. Năm ấy Tiêu Tương Tử đánh lão một chưởng, lão chịu đòn mà không việc gì, trái lại Tiêu Tương Tử bị trọng thương. Thần công cao siêu như thế, hẳn phụ thân và đại ca ca của mình cũng chưa chắc sánh kịp. Hôm qua thầy trò lão lẳng lặng đánh bại Hà Túc Đạo, có lẽ là nhờ bộ ‘Cửu dương chân kinh’. Lúc này lão đang đọc liệu có phải bộ kinh đó chăng?”
Nghĩ tới đây, để khỏi làm bấn loạn tinh thần của Giác Viễn, nàng rón rén ngồi dậy, lắng nghe lời tụng niệm của Giác Viễn và cố ghi nhớ. Nàng nghĩ thầm: “Nếu quả đó là ‘Cửu dương chân kinh’, thì bộ kinh ấy tinh vi ảo diệu, không thể hiểu trong giây lát.
Mình phải nhớ kỹ, để mai thỉnh giáo lão cũng chưa muộn”. Chỉ nghe Giác Viễn lẩm bẩm:
– … Trước tiên dùng tâm sai khiến thân, theo người chứ không theo mình, theo thân có thể theo tâm, do mình tức là theo người. Do mình ắt trệ, theo người ắt hoạt. Theo được người thì trong tay có sẵn chừng mực, cân đo kình lực kích thước của đối phương không sai một li. Tiến trước thoái sau, bước nào cũng chính xác, càng luyện càng tinh xảo…
Quách Tương nghe tới đây, bất giác lắc đầu, nghĩ thầm: “Không đúng, không đúng. Phụ mẫu mình thường nói, khi đối địch, ta phải chế ngự người trước, chứ không để người chế ngự ta. Vậy là lão đọc sai rồi”. Lại nghe Giác Viễn đọc:
– … Người không động, ta không động, người hơi động, ta đã động trước. Kình lực tưởng nhẹ mà không lỏng lẻo, làm như sắp thi triển mà chưa thi triển, kình lực đã dứt mà ý chưa dứt…
Quách Tương càng nghe càng thấy mông lung. Nàng học võ từ thời thơ ấu, toàn nghe dạy rằng phải trước tiên chế ngự người, chiêu thức nào cũng phải tranh tiên, phải ra tay trước đối phương. Những bí quyết quyền kinh mà Giác Viễn đang đọc, kiểu như câu “Do mình ắt trệ, theo người ắt hoạt”, trái hẳn với những lý thuyết nàng được học bấy nay. Nàng nghĩ thầm: “Khi gặp địch động thủ, đôi bên đấu trí mạng với nhau mà ta lại bỏ ta theo người, kẻ địch muốn Đông ta theo Đông, kẻ địch muốn Tây ta theo Tây, thế thì có khác gì tha hồ cho kẻ địch tấn công?”
Nàng mải nghĩ, Giác Viễn đọc lại nhỏ, nên nàng nghe câu được câu mất. Dưới ánh trăng, bỗng thấy Trương Quân Bảo cũng đang ngồi xếp chân bằng tròn chăm chú lắng nghe, Quách Tương nghĩ thầm: “Bất kể lão nói đúng hay không đúng, mình cứ việc nhớ cho kỹ. Vị hòa thượng này đã khiến Tiêu Tương Tử bị chấn thương, Hà Túc Đạo phải rút lui, là điều chính mình mục kích. Vậy pháp môn võ công mà lão đọc đây hẳn phải có lý lắm”. Thế là nàng lại lắng nghe và cố nhớ.
Giác Viễn cứ nhớ tới đâu đọc thuộc lòng tới đó, có lúc lẫn vào lời văn của kinh Lăng Già, kể về việc Phật tổ ở đảo Lăng Già lên núi thuyết pháp. Là bởi bộ kinh “Cửu dương chân kinh” được viết xen vào chỗ trống của cuốn kinh Lăng Già, Giác Viễn thì cứ rập khuôn mà đọc thuộc lòng, nên mới có sự xen lẫn như vậy. Kinh Lăng Già vốn là văn tự Thiên Trúc, điều Giác Viễn đọc lại là lời dịch, đôi chỗ lẫn lộn, nghe cứ câu được câu mất, may nhờ thông minh đĩnh ngộ, nên Quách Tương vẫn hiểu được vài phần.
Mặt trăng chếch non Đoài, bóng người cứ dài dần ra, tiếng đọc kinh của Giác Viễn cũng thấp dần, nghe chẳng rõ nữa. Quách Tương liền lên tiếng:
– Đại sư, đại sư đã mệt suốt cả ngày rồi, xin hãy nằm nghỉ một chút.
Giác Viễn tựa hồ không nghe thấy lời khuyên của nàng, vẫn tiếp tục đọc:
– … Mượn lực của người, khí phát ra từ sống lưng. Vì sao khí từ sống lưng phát ra? Khí trầm xuống dưới, do hai vai thu vào cột sống, dồn xuống thắt lưng. Khí này từ trên đi xuống, gọi là hợp. Từ thắt lưng lan ra cột sống, ra hai cánh tay, khí này từ dưới đi lên, gọi là khai. Hợp là thu vào, khai là phóng ra. Hiểu được khai hợp là biết âm dương…
Tiếng tụng kinh của Giác Viễn càng lúc càng nhỏ, cuối cùng im bặt, hình như lão hòa thượng đã ngủ thiếp đi.
Quách Tương và Trương Quân Bảo không dám kinh động, chỉ lặng lẽ ngồi ôn lại lời kinh.
Trên trời trăng đã lặn, sao đã mờ. Mây đen kéo tới bao phủ tứ phía, mặt đất tối như mực. Chừng bằng thời gian ăn xong một bữa, phía đông sáng dần, chỉ thấy Giác Viễn nhắm mắt, ngồi bất động, nét mặt như lộ vẻ tươi cười.
Trương Quân Bảo chợt thấy phía sau một gốc cổ thụ thoáng một bóng người, hình như đó là vạt áo cà sa màu vàng. Chàng giật mình, hỏi to:
– Ai đó?
Chỉ thấy một hòa thượng cao gầy từ phía sau thân cây bước ra. Chính là thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư.
Quách Tương vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, hỏi:
– Đại hòa thượng sao cứ đuổi theo mãi thế? Lẽ nào cứ phải bắt hai thầy trò họ về chùa mới được hay sao?
Vô Sắc thiền sư đáp:
– Thiện tai, thiện tai! Lão tăng còn biết phải trái, đâu phải là kẻ chỉ biết câu nệ giới luật xưa cũ. Lão tăng tới đây từ lúc nửa đêm, nếu định động thủ thì khỏi cần chờ tới lúc này. Này Giác Viễn sư đệ, Vô Tướng thiền sư suất lĩnh đệ tử Đạt Ma đường đang đuổi về phía đông, thầy trò sư đệ hãy mau mau chạy về phía tây!
Chỉ thấy Giác Viễn cứ cúi đầu nhắm mắt, vẫn chưa tỉnh giấc.
Trương Quân Bảo bước lại, thưa:
– Sư phụ tỉnh dậy thôi, có thủ tọa La Hán đường đang nói chuyện với sư phụ đó.
Giác Viễn vẫn bất động. Trương Quân Bảo kinh hãi, vội rờ tay vào trán sư phụ, thấy lạnh giá như băng, thì ra Giác Viễn đã viên tịch từ lúc nào rồi. Trương Quân Bảo đau đớn phục xuống, gọi to:
– Sư phụ! Sư phụ!
Tiếng gọi của chàng làm sao có thể khiến sư phụ tỉnh lại kia chứ?
Vô Sắc thiền sư chắp tay hành lễ, miệng niệm kệ:
– Chư phương vô vân ế, tứ diện giai thanh minh, vi phong xuy hương khí, chúng sơn tịnh vô thanh.
Kim nhật đại hoan hỉ, xả tức nguy thúy thân. Vô sân diệc vô ưu, ninh bất đương hân khánh?[12]
Đoạn Vô Sắc thiền sư nhẹ nhàng rời chân.
Trương Quân Bảo khóc một hồi, Quách Tương cũng chảy không ít lệ. Tăng chúng Thiếu Lâm tự khi viên tịch đều được hỏa táng; hai người bèn nhặt củi, chất lại hỏa thiêu Giác Viễn.
Quách Tương nói:
– Này Trương đệ, tăng chúng Thiếu Lâm tự sẽ không buông tha đệ đâu, đệ phải hết sức thận trọng đó. Chúng ta chia tay ở đây, ngày sau ắt sẽ có dịp gặp lại.
Trương Quân Bảo ứa lệ, nói:
– Quách tỷ tỷ đi đâu? Còn tiểu đệ biết đâu mà đi đây?
Quách Tương nghe Trương Quân Bảo hỏi đi đâu thì nàng cũng mủi lòng, nói:
– Tỷ tỷ thì góc biển chân trời, hành tung bất định; tỷ tỷ cũng chưa biết mình sẽ đi đâu. Đệ thì tuổi còn nhỏ, lại chưa duyệt lịch trong giang hồ. Tăng chúng Thiếu Lâm tự đang lùng sục tróc nã đệ. Vậy…
Nói tới đây nàng rút cái vòng vàng đeo ở cổ tay ra, trao cho Trương Quân Bảo dặn:
– Đệ hãy cầm cái này, đến thành Tương Dương tìm phụ mẫu tỷ tỷ, họ sẽ che chở cho đệ. Được phụ mẫu tỷ tỷ che chở thì dù tăng chúng Thiếu Lâm tự tàn ác đến mấy, đệ cũng khỏi lo.
Trương Quân Bảo rưng rưng lệ đỡ lấy chiếc vòng. Quách Tương lại nói:
– Đệ hãy thưa với phụ mẫu tỷ tỷ, rằng tỷ tỷ rất khỏe và vui, để họ khỏi nặng lòng thương nhớ. Phụ thân tỷ tỷ rất quý các thiếu niên anh hùng, thấy đệ là người tài năng, không chừng sẽ nhận đệ làm đệ tử. Còn em trai của tỷ tỷ rất thật thà trung hậu, nhất định sẽ thân với Trương đệ. Riêng chị gái của tỷ tỷ tính tình nóng nảy, có điều gì không bằng lòng là chị ấy bốp chát, chẳng nể nang gì đâu. Nhưng đệ chỉ cần nghe theo chị ấy là ổn thỏa.
Nói xong nàng quay mình đi liền.
Trương Quân Bảo cảm thấy trời đất bao la mà mình không chốn nương thân. Chàng đứng rất lâu bên chỗ hỏa táng sư phụ, rồi mới bước đi. Đi hơn mười trượng, chàng bỗng quay lại, lấy đôi thùng sắt của sư phụ gánh lên vai, rồi thong thả bước. Giữa chốn núi rừng hoang vu, một thiếu niên cao gầy lầm lũi trơ trọi đi về hướng tây, trông tội nghiệp vô cùng.
Đi đã nửa tháng, tới địa giới Hồ Bắc, còn cách thành Tương Dương không bao xa. Tăng chúng Thiếu Lâm tự vẫn không đuổi kịp chàng. Đó là nhờ Vô Sắc thiền sư ngầm hỗ trợ, chỉ dẫn tăng chúng đuổi ngược đường về hướng đông nên càng ngày càng cách xa chàng.
Chiều một ngày nọ, chàng tới chân một dải núi lớn, chỉ thấy cây cối um tùm rậm rạp, sơn thế cực kỳ hùng vĩ. Hỏi khách bộ hành ngang qua mới biết đây là núi Võ Đang.
Chàng ngồi tựa lưng vào một tảng đá dưới chân núi nghỉ ngơi. Chợt thấy hai người nhà quê, một nam một nữ, sánh vai nhau đi trên con đường mòn ngang qua chỗ chàng, thái độ thân mật rõ là một cặp vợ chồng trẻ. Cô vợ cứ luôn miệng trách chồng, còn anh chồng thì cúi đầu lầm lũi mà đi.
Cô vợ nói:
– Chàng là nam nhi đại trượng phu, không tự lập thân, cứ đi nhờ vả người anh rể nên mới bị họ sỉ nhục như vậy. Vợ chồng mình đủ chân đủ tay, tự làm lấy mà ăn, tuy rau dưa đạm bạc nhưng được cái tự do ung dung. Đằng này chàng chẳng có chút chí hướng gì hết, sống trên đời cứ như cái giá áo túi cơm vậy.
Anh chồng ậm ừ mấy tiếng. Cô vợ lại nói:
– Cổ nhân có câu “Cùng lắm là chết, chết thì hết chuyện”, hà tất chàng cứ phải dựa dẫm kẻ khác mới sống được hay sao?
Anh chồng bị vợ trách một hồi, không dám nói lại một câu, ngượng đỏ cả mặt, cứ thế mà đi.
Những lời cô vợ kia nói, câu nào cũng buộc Trương Quân Bảo phải suy nghĩ. “Chàng là nam nhi đại trượng phu, không tự lập thân… nên mới bị họ sỉ nhục như vậy… Cổ nhân có câu ‘Cùng lắm là chết, chết thì hết chuyện’, hà tất chàng cứ phải dựa dẫm kẻ khác mới sống được hay sao?” Chàng cứ ngẩn ra nhìn theo cặp vợ chồng kia. Bỗng thấy anh chồng ngẩng đầu lên, thẳng lưng lại, nói mấy câu gì đó, rồi hai vợ chồng cười rộ một hồi; tựa hồ anh chồng đã quyết chí tự lập nên cả hai mới vui vẻ như thế.
Trương Quân Bảo nghĩ bụng: “Quách cô nương bảo rằng bà chị của cô nương tính tình nóng nảy, nói năng bốp chát chẳng nể nang ai, mình phải nhất nhất nghe lời chị ta. Mình là nam nhi đại trượng phu, hà tất phải cúi đầu nín nhịn, ủy khúc cầu toàn ư? Cặp vợ chồng nông phu kia còn biết nỗ lực tự cường, Trương mỗ ta há phải làm nô lệ cho người sai khiến?”
Nghĩ như thế, tâm ý đã quyết, chàng đứng dậy, quẩy đôi thùng đi lên núi, tìm một cái hang, khát uống nước suối, đói ăn trái cây, chăm chỉ luyện tập theo “Cửu dương chân kinh” do sư phụ Giác Viễn truyền thụ.
Mấy năm sau, chàng chợt ngộ ra: “Đạt Ma tổ sư là người Thiên Trúc, nếu soạn bộ kinh bằng văn tự Trung Hoa ta thì lời văn ắt thô sơ. Đằng này bộ ‘Cửu dương chân kinh’ lời văn cô đọng thâm thúy, người ngoại quốc quyết không thể sáng tác được như thế. Đây hẳn là sáng tác của các nhân sĩ Trung Châu, đa phần là các tăng lữ Thiếu Lâm tự; rồi mượn danh Đạt Ma tổ sư mà chép xen vào cuốn kinh ‘Lăng Già’ bằng văn tự Thiên Trúc”. Giác Viễn đã tin tưởng hoàn toàn vào lời văn trong cuốn kinh. Trương Quân Bảo lúc này còn ít tuổi, cũng không dám quả quyết rằng suy đoán của mình là đúng.
Chàng được sư phụ Giác Viễn truyền thụ đã lâu nên bộ “Cửu dương chân kinh” nhớ được năm, sáu phần, sau mười mấy năm trời, nội lực tăng tiến rất nhiều, chàng lại đọc nhiều kinh Đạo tạng, hiểu biết rất sâu về thuật luyện khí của Đạo gia. Một bữa nọ đang lững thững dạo chơi trong núi, ngẩng lên nhìn trời thấy mây trôi như nước chảy, Trương Quân Bảo chợt ngộ ra, trở vào hang vắt óc suy nghĩ bảy ngày bảy đêm, cuối cùng lĩnh hội được đạo lý trong võ công là lấy nhu khắc cương, bèn ngẩng mặt lên trời mà cười vang.
Đấy là tiếng cười của một vị đại tông sư thừa tiên khải hậu, người đã dựa vào quyền pháp mà mình sở ngộ, đạo lý “Xung hư viên thông” của Đạo gia và nội công nói trong bộ “Cửu dương chân kinh” mà phát minh, sáng lập nên phái Võ Đang – một môn phái võ công rạng rỡ ngàn thu.
Về sau chàng du ngoạn lên phía bắc, đến Bảo Minh, thấy ba đỉnh núi sừng sững giữa biển mây, về võ học lại ngộ thêm, bèn lấy tự hiệu Tam Phong, và Trương Tam Phong trở thành kỳ nhân độc nhất vô nhị trong lịch sử võ học Trung Hoa.
Hoa nở hoa tàn, hoa tàn hoa nở. Chàng thiếu niên năm nào rồi cũng thành bậc tiền bối trên giang hồ; thiếu nữ má hồng rốt cuộc cũng thành lão bà tóc bạc.
Bấy giờ là năm Chí Nguyên thứ hai thời Nguyên Thuận Đế, triều đại nhà Tống bị diệt vong đến lúc này đã hơn năm mươi năm.
Đang giữa tháng Ba, cuối mùa xuân; ở miền duyên hải Giang Nam có một lam y tráng sĩ trạc ba mươi tuổi, chân đi hài cỏ, rảo bước trên đường cái quan. Thấy trời đã ngả hoàng hôn, tráng sĩ không để ý thưởng thức hương sắc tươi thắm của cảnh vật mùa xuân ven đường, mà cứ vừa đi vừa suy tính: “Hôm nay hai mươi bốn tháng Ba rồi, đến mồng chín tháng Tư chỉ còn mười bốn ngày, ta phải nhanh chân mới kịp về tới núi Võ Đang mừng đại thọ ân sư chín mươi tuổi”.
Tráng sĩ họ Du, tên Đại Nham, là đệ tử thứ ba của tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong. Đầu năm nay, Du Đại Nham phụng mệnh sư phụ đi Phúc Kiến diệt trừ một bọn đạo tặc chuyên giết hại lương dân. Nghe tin Du Đại Nham tới, chúng liền ẩn náu một nơi, tạm ngưng hoạt động. Du Đại Nham phải tốn hơn hai tháng mới tìm ra sào huyệt của chúng, liền tới khiêu chiến, sử dụng Huyền tư đao pháp do sư phụ truyền dạy, đến chiêu thứ mười một thì giết chết tên đầu đảng, giải tán băng cướp. Lúc đầu dự tính mươi ngày là xong việc, ai ngờ mất đứt hơn hai tháng trời; bấm đốt ngón tay, đã quá gần tới ngày mừng thọ sư phụ chín mươi tuổi, vì thế Đại Nham vội vã từ Phúc Kiến trở về, hôm nay đã tới phía nam sông Tiền Đường, tỉnh Chiết Đông.
Chàng rảo bước một hồi, thấy đường mỗi lúc một hẹp dần, bên phải giáp bờ biển, thấy có nhiều mảnh ruộng vuông vắn mỗi chiều bảy tám trượng, trông phẳng và sáng như gương. Đại Nham đã đi khắp nam bắc Trường Giang, mắt thấy nhiều thứ, song đồng ruộng kỳ dị thế này thì chưa gặp bao giờ. Hỏi dân địa phương, họ Du bất giác phì cười khi biết đó là các ruộng muối. Diêm dân[13] dẫn nước bể vào ruộng, phơi nắng gió cho khô bớt, lại dẫn vào ruộng khác, nước có độ mặn hơn, cuối cùng nước bay hơi hết, họ sẽ cào lấy muối hạt. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Mình ăn muối ba mươi năm, không ngờ phải tốn bao công sức mới có được hạt muối”.
Đang đi, bỗng thấy trên con đường nhỏ phía tây có hơn hai chục người quang gánh đi tới. Du Đại Nham nhìn kỹ, thấy họ đều mặc y phục màu xanh ngắn tay, đội nón lá, gánh hai thúng muối. Chàng biết nhà đương cục bạo ngược, thu thuế muối rất nặng, nên mặc dù ở ngay ven biển nhưng dân chúng cũng không sao mua nổi muối quan mà ăn, phải mua muối của dân buôn lậu (tránh thuế nên rẻ). Du Đại Nham đoán kia là nhóm buôn lậu muối, người nào người nấy vạm vỡ, đòn gánh trên vai họ có cái lạ, không phải bằng tre, đen thui và thẳng đơ, hình như là các cây côn sắt. Gánh muối của họ nặng hơn hai trăm ký mà họ đi cứ vùn vụt. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối này tay nào cũng biết võ công. Nghe nói ở Giang Nam có phái Hải Sa buôn lậu muối, thanh thế rất lớn, phái đó có nhiều danh gia võ học nhưng chẳng mấy khi những hơn hai chục cao thủ tụ tập thành một bọn như đám này”. Giả sử lúc khác, hẳn Đại Nham quyết tìm cho ra manh mối, nhưng bây giờ chàng còn phải về cho kịp dự lễ chúc thọ sư phụ, chẳng để tâm chuyện trời ơi đất hỡi làm gì. Nghĩ thế, Đại Nham rảo bước thật nhanh.
Gần tối, chàng tới trấn Am Đông, huyện Dư Diêu, từ đây qua sông Tiền Đường là tới Lâm An, rẽ sang phía tây bắc, qua hai tỉnh Giang Tây, Hồ Nam mới về đến núi Võ Đang ở tỉnh Hồ Bắc. Buổi tối không có thuyền đưa khách qua sông, Đại Nham đành vào một tiểu khách điếm trấn Am Đông nghỉ tạm.
Cơm nước xong,chàng vừa định đi nằm, bỗng nghe ồn ào ngoài sân khách điếm – có nhiều người tới trọ. Những người kia toàn nói giọng Chiết Đông, song trung khí rất mạnh, đủ hiểu là dân võ nghệ. Chàng ló đầu nhìn ra, mới hay chính là đám buôn lậu muối đã gặp dọc đường. Du Đại Nham chẳng để ý nữa, lên giường ngồi xếp bằng tròn luyện khí hành công ba lần rồi mới ngủ.
Nửa đêm, bỗng nghe phòng bên cạnh có tiếng lịch kịch nhè nhẹ, Du Đại Nham tỉnh giấc ngay. Có tiếng nói nhỏ: “Bọn ta cứ lẳng lặng mà đi, đừng lên tiếng khiến người khách phòng bên hay biết, khỏi sinh rắc rối”. Cả đám không nói gì, chỉ khẽ mở cửa đi ra sân. Du Đại Nham nhìn qua cửa sổ, thấy đám buôn lậu muối quảy gánh rời khách điếm. Đại Nham nhớ đến câu nói ban nãy “Bọn ta cứ lẳng lặng mà đi, đừng lên tiếng khiến người khách phòng bên hay biết, khỏi sinh rắc rối”, thì nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối này lén lén lút lút thế này, hẳn định gây trò xấu xa gì đây. Mình đã biết, không thể không ngăn cản. Ví thử ta ngăn cản chúng hãm hại người lương thiện, cứu được vài mạng người, thì dù có lỡ ngày chúc thọ ân sư, ân sư cũng không nỡ trách cứ ta”. Nghĩ vậy, Du Đại Nham liền đeo túi binh khí lên vai, vọt qua cửa sổ, nhảy lên bờ tường.
Nghe tiếng chân người đi về hướng đông bắc, Du Đại Nham thi triển khinh công đuổi theo. Đêm nay mây phủ đầy trời, trăng sao mất dạng, trong bóng tối thấp thoáng hơn hai chục bóng người gồng gánh đi như bay trên bờ ruộng muối. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Đám buôn lậu muối lên đường giữa đêm hôm là chuyện rất thường; nhưng tên nào tên ấy võ công cao cường, nếu chúng định câu kết nhau làm trò phi pháp, đừng nói vào nhà phú ông ăn trộm, có muốn cướp phá ngân khố, quan quân cũng chẳng cản nổi; hà tất chúng phải đi buôn lậu muối, kiếm chút lợi nhỏ? Chắc bên trong có mưu đồ gì đây?”
Không đầy nửa canh giờ, đám buôn lậu muối đã đi được hơn hai chục dặm. Du Đại Nham dùng khinh công bám theo, không phát ra một tiếng động; đám buôn lậu kia tựa hồ mải lo việc hệ trọng, cứ mải miết đi không hề ngoái lại, nên chẳng biết có người dõi theo. Lúc này cả bọn đã tới sát bờ biển, tiếng sóng vỗ vào bờ đá ầm ào bất tuyệt.
Đang đi, chợt nghe người dẫn đầu giậm chân một cái, tất cả dừng bước. Người đi đầu hỏi:
– Ai đó?
Trong bóng tối có tiếng khàn khàn hỏi lại:
– Có phải là các bằng hữu có ba chấm thủy?
Người đi đầu đáp:
– Phải. Các hạ là ai?
Du Đại Nham nghĩ bụng: “Các bằng hữu có ba chấm thủy là gì nhỉ?” Rồi chàng hiểu ngay, đúng là phái Hải Sa rồi. Ba chữ “phái Hải Sa”, mỗi chữ đều có ba chấm thủy bên cạnh. Giọng khàn khàn nói:
– Vụ thanh đao Đồ Long, ta khuyên các vị đừng nhúng tay vào.
Người đi đầu nói, giọng ngạc nhiên xen lẫn tức giận:
– Các hạ cũng vì thanh đao Đồ Long mà tới đây ư?
Người có giọng khàn khàn cười khinh khỉnh vài tiếng, không trả lời.
Du Đại Nham đang nấp sau một tảng đá, liền vòng ra phía trước, chỉ thấy có một người cao gầy đứng chắn đường. Trong bóng tối nhìn không rõ diện mạo y, chỉ thấy y bận bộ đồ màu trắng; đi đêm mà bận y phục màu trắng, rõ ràng là kẻ rất tự phụ về võ công của mình.
Chỉ nghe thủ lĩnh phái Hải Sa nói tiếp:
– Thanh đao Đồ Long là của bổn phái, bị kẻ gian lấy trộm, đương nhiên bổn phái phải đòi lại.
Kẻ bận đồ trắng lại cười khinh khỉnh ba tiếng “hi-hi-hi”, vẫn nghênh ngang chắn lối. Người đứng sau kẻ dẫn đường quát lớn:
– Tránh ra, tên ác cẩu! Ngươi muốn chết phải khô… ông…
Hắn chưa dứt câu đã rú lên và ngã ngửa ra phía sau. Cả đám thất kinh, trong bóng tối chỉ thấy cái bóng trắng loang loáng vài cái rồi biến mất liền.
Bọn Hải Sa tới bên kẻ bị đánh ngã, thấy hắn nằm co quắp, đã tắt thở. Ai nấy vừa kinh hãi vừa tức giận, có mấy người đặt gánh xuống, đuổi theo kẻ bận đồ trắng nhưng y biến đi quá nhanh, trời lại tối đen, làm sao tìm ra y?
Du Đại Nham nghĩ thầm: “Bạch y quái khách xuất thủ quá lẹ, đó là thủ pháp Đại lực Kim Cương trảo của phái Thiếu Lâm, nhưng trong bóng tối nhìn không rõ lắm. Nghe khẩu âm của y, rõ ràng y là người vùng biên giới tây bắc. Phái Hải Sa gây thù chuốc oán với kẻ thù ở nơi xa xôi thật đó!” Chàng vẫn nấp sau tảng đá, không dám cử động mạnh, sợ bọn Hải Sa phát hiện ra mình sẽ vô cùng nguy hiểm. Chỉ nghe người dẫn đầu nói:
– Hãy đặt xác lão Tứ sang một bên, khi quay về sẽ mai táng sau, nhất quyết phải làm rõ vụ này.
Đám buôn lậu đáp ứng, lại gánh muối đi tiếp.
Du Đại Nham đợi họ đi xa mới tới gần tử thi xem xét, thấy cổ họng hắn có hai lỗ thủng nhỏ, máu tươi từ đó vẫn đang trào ra, lỗ thủng hiển nhiên là do ngón tay chộp vào. Chàng cảm thấy vụ này thật khó hiểu, bèn gia tăng cước bộ đuổi theo bọn Hải Sa.
Đám kia đi được mấy dặm thì người dẫn đầu huýt một tiếng sáo, cả đám tản ra tứ phía, chậm rãi tiến lại gần một ngôi nhà lớn ở phía đông bắc. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Thanh đao Đồ Long mà bọn họ nói đến, chẳng lẽ ở trong tòa nhà kia?” Chỉ thấy từ ống khói tòa nhà bốc lên một cột khói đen, khói cứ tụ lại hồi lâu không tản ra. Đám người buôn lậu muối đặt gánh xuống, mỗi tên lấy ra một cái gáo gỗ, múc từ trong sọt ra một thứ gì đó rồi rải tứ phía. Du Đại Nham thấy vật họ rải là chất bột trắng như tuyết, rõ ràng là muối biển, thì nghĩ thầm: “Rắc muối xuống đất làm gì nhỉ? Quái lạ thật! Mình về kể chuyện này với các sư huynh sư đệ, chắc họ chẳng tin”.
Chàng thấy trong lúc rải muối bọn kia làm rất chậm và nhẹ, tựa hồ chúng sợ bị các hạt muối dính vào người vậy. Chàng chợt hiểu thì ra đấy là loại muối cực độc; bọn kia rải muối xung quanh ngôi nhà, hẳn là để hãm hại người bên trong. Chàng nghĩ thầm: “Đôi bên ai phải ai trái ta chưa cần biết, nhưng bọn này hành sự quỷ quái, quá ư mờ ám; dù thế nào ta cũng phải báo cho người trong nhà biết để họ khỏi bị chúng hãm hại mới được”. Thấy bọn kia còn rải muối ở phía trước nhà, chàng bèn vòng ra phía sau tòa nhà rồi vọt qua tường vào trong.
Tòa nhà tính từ ngoài vào có năm dãy, tổng cộng ba bốn chục gian. Trong nhà tối om, chẳng thấy một ngọn đèn. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Mình thấy có khói đặc bốc lên từ ống khói tòa nhà, thế nào cũng có người mới phải”, bèn ngẩng lên xác định rõ chỗ ống khói, rồi đi về phía đó, nghe từ trong đại sảnh vọng ra tiếng lửa cháy phừng phừng. Đại Nham vòng qua một cái vách chiếu, tiến vào đại sảnh, chợt lóa mắt và có một luồng khí nóng phả mạnh vào mặt, thì ra giữa sảnh có một lò lửa lớn xây bằng đá; lửa trong lò cháy ngùn ngụt, cạnh lò có ba người đang điều khiển ba cái bễ thổi khí vào lò. Trong lò đặt ngang một thanh đao đen đen dài chừng ba thước.
Ba người kia đều ở tuổi lục tuần, y phục màu xanh, bị thủng lỗ chỗ vì các tàn lửa trong lò bắn ra làm cháy; cả ba lão tro bụi phủ đầy mặt, đang ra sức kéo bễ quạt gió vào lò, khiến ngọn lửa bốc cao năm thước, phát ra tiếng ù ù, liếm quanh thanh đao. Du Đại Nham cách xa lò lửa mấy trượng mà còn thấy nóng rực. Lửa trong lò từ màu đỏ đã chuyển sang màu xanh, từ màu xanh chuyển sang màu trắng, vậy mà thanh đao kia trước sau vẫn đen sì, không hề đỏ hồng lên chút nào.
Giữa lúc ấy, từ trên mái nhà bỗng có tiếng quát lớn:
Nghe tiếng nói, Du Đại Nham nhận ra ngay đó chính là bạch y quái khách. Ba lão già kéo bễ luyện đao làm như không nghe thấy, càng kéo bễ gấp hơn. Chỉ nghe trên mái ba tiếng cười “hi-hi-hi” khinh khỉnh, ngoài hiên có tiếng động, rồi người kia nhảy vào sảnh.
Trong sảnh lửa đang sáng rực, Du Đại Nham nhìn rõ bạch y quái khách là một người trạc tứ tuần, mặt trắng bệch pha màu xanh nhạt. Người ấy lạnh lùng nói:
– Trường Bạch Tam Cầm, các vị giành được bảo đao Đồ Long sao không giữ gìn, lại cả gan dùng lửa lớn hủy hoại báu vật ấy?
Vừa nói y vừa tiến lên.
Lão già đứng phía tây trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm bước tới, giơ năm ngón tay trái bổ thẳng vào mặt gã bạch y mặt trắng. Gã né mặt và tiến thêm một bước. Lão già đứng phía đông trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm thấy gã đến gần mình, liền nhặt cây búa lớn cạnh lò, thét một tiếng, bổ mạnh xuống đỉnh đầu đối phương. Gã hơi né mình, cây búa bổ hụt xuống sàn nhà, chỉ nghe “bùng” một tiếng, đom đóm lửa văng tứ tung. Thì ra sàn nhà không phải được lát bằng gạch tầm thường mà bằng loại đá hoa cương cứng dị thường. Lão già đứng phía tây xáp tới giáp công, hai tay lão cứ như hai cái chân gà, múa lên múa xuống trông rất lợi hại.
Du Đại Nham thấy võ công của gã bạch y hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm nhưng xuất thủ cực kỳ hiểm độc, khác hẳn thủ pháp cương mãnh mà quang minh chính đại của phái Thiếu Lâm. Đấu qua vài hiệp, lão già sử dụng cây búa quát hỏi:
– Các hạ là ai? Muốn cướp bảo đao cũng phải để lại danh tính cái đã.
Gã bạch y cười nhạt mấy tiếng, không đáp, chỉ thấy gã xoay mình một cái, “rắc rắc” hai tiếng, hai cổ tay của lão già đứng phía tây đã bị đánh gãy, cây búa của lão già đứng phía đông thì văng lên, xuyên qua mái nhà, rồi rơi xuống sân trước, nghe “ịch” một tiếng nặng nề. Lão già bèn nhặt cây kìm đưa vào lò lửa gắp thanh đao ra.
Lão già đứng phía nam trong nhóm Trường Bạch Tam Cầm thủ sẵn ám khí trong tay, chờ cơ hội tấn công địch thủ, nhưng gã bạch y xoay trở quá lẹ, khiến lão chưa ra tay được. Lúc này thấy lão già phía đông dùng kìm gắp thanh đao, lão già phía nam bèn thò luôn tay vào chộp lấy thanh đao lôi ra trước, từ bàn tay cầm đao bốc lên một đám khói trắng, ai nấy ngửi thấy mùi thịt khét lẹt, chứng tỏ lòng bàn tay lão ta bị cháy xém, song lão ta không chịu buông cây đao mà lùi vội về phía sau, thân hình lảo đảo chực ngã. Hình như cây đao quá nặng, lão ta phải dùng cả tay trái đỡ lấy sống đao, thế là lại nghe “xèo xèo”, lòng bàn tay trái của lão ta cũng bị cháy xém luôn.
Mọi người kinh hãi, ngẩn cả ra, song lão ta vẫn hai tay giữ chặt cây đao, lao như điên ra cửa.
Gã bạch y cười nhạt, nói:
– Đâu có chuyện dễ thế!
Đoạn gã duỗi dài cánh tay một cái đã chộp tới vai lão già. Lão già thuận tay chém một đao ngược ra sau lưng; lưỡi đao chưa tới nhưng hơi nóng đã phả vào mặt, tóc và lông mày gã bạch y đều quăn cả lại. Gã không dám chống đỡ, bèn dồn sức vào tay đẩy mạnh một cái, hất lão già về phía lò lửa.
Du Đại Nham từ nãy đứng bên, thấy mấy kẻ kia tên nào cũng hung ác, mà sự việc chẳng dính dáng gì tới mình, nên không can thiệp. Nay thấy lão già cầm đao sẽ hóa thành tro nếu ngã vào lò lửa, phải tức thời ra tay cứu giúp, chàng liền tung mình vọt tới, người đang lơ lửng trên cao đã giơ tay túm tóc lão già nhấc lão lên, rồi chàng nhẹ nhàng khéo léo đặt chân xuống cạnh lò lửa.
Gã bạch y và Trường Bạch Tam Cầm thấy chàng đứng trong sảnh từ lâu, không hề can dự, bỗng nhiên giở môn khinh công thượng thừa kia ra thì cả kinh. Gã bạch y tròn mắt, hỏi:
– Vừa rồi có phải là thủ pháp “Thê vân tung” lừng danh thiên hạ hay chăng?
Du Đại Nham thấy gã nói trúng biệt danh khinh công của mình thì giật nảy người, song bất giác cũng cảm thấy đắc ý, nghĩ thầm: “Võ công của phái Võ Đang ta lừng danh thiên hạ, ai mà chẳng biết”, bèn nói:
– Không dám, xin hỏi quý tính đại danh của các hạ là chi? Chút võ công nhỏ mọn của tại hạ đâu có gì đáng nói?
Gã bạch y đáp:
– Hay, hay lắm! Khinh công của phái Võ Đang quả nhiên độc nhất vô nhị.
Giọng điệu của gã tuy khen, song lại ra vẻ khinh mạn, tựa hồ bề trên khen kẻ dưới. Du Đại Nham tuy bực, nhưng nén giận, nói:
– Dọc đường các hạ vung tay một cái đã đánh chết cao thủ của phái Hải Sa, võ công xuất quỷ nhập thần như thế khiến người ta khó bề đoán định.
Gã bạch y giật mình, nghĩ bụng: “Hành động của ta hắn thấy rõ cả, trong khi ta không nhìn thấy hắn, chẳng hiểu lúc đó hắn nấp ở đâu?” Y lạnh lùng nói:
– Phải, ngón võ công ấy của ta, người ngoài khó bề lĩnh hội; đừng nói các hạ, ngay cả lão già họ Trương chưởng môn phái Võ Đang cũng vị tất hiểu nổi.
Du Đại Nham nghe gã kia sỉ nhục ân sư như vậy, nín nhịn sao nổi? Song đệ tử phái Võ Đang rất chú trọng tu tâm dưỡng tính, nên Đại Nham nghĩ thầm: “Y cố tình khiêu khích, chẳng hiểu có dụng ý gì? Người này võ công kỳ dị, ta không nên vì vài lời vô lễ mà gây thù chuốc oán cho phái Võ Đang”, bèn mỉm cười, nói:
– Võ học thiên hạ vô cùng vô tận, chính phái với tà đạo nhiều vô số phái. Võ Đang chỉ là một hạt thóc trong vựa thóc võ lâm. Như võ công của các hạ đây, cứ tưởng thuộc phái Thiếu Lâm nhưng không phải là Thiếu Lâm, chỉ e tôn sư bổn phái cũng không biết thật.
Câu nói của chàng tuy khiêm nhường, song ngụ ý rằng phái Võ Đang quả thực chẳng thèm biết đến võ công của bọn bàng môn tả đạo. Gã kia nghe câu “cứ tưởng thuộc môn phái Thiếu Lâm nhưng không phải là Thiếu Lâm” lập tức tái mặt.
Lão già cầm cây đao, hai lòng bàn tay da thịt đã bị cháy đến tận xương; còn hai lão già kia thì đang sẵn sàng xông tới đoạt lấy thanh bảo đao. Bỗng “vù” một tiếng, lão già cầm đao vung thanh đao lên xông thẳng ra ngoài. Lão ta vung đao chỉ để dọn đường, không định chém ai, song Du Đại Nham đứng ngay trước mặt lão nên phải vội vàng nhảy vọt lên cao né tránh. Đại Nham không ngờ mình vừa cứu sống lão ta, vậy mà lão ta trở mặt chém chàng.
Lão già hai tay cầm đao cứ vừa vung chém như điên vừa xông ra. Gã bạch y và hai lão già còn lại đều sợ đao thế lợi hại, không dám ngăn chặn, chỉ đuổi theo sau hò hét. Lão già hai tay cầm đao đã lao ra khỏi cổng, đột nhiên vấp chân, ngã bổ nhoài về phía trước, rú lên một tiếng lớn, tựa hồ đã bị trọng thương.
Gã bạch y và hai lão già còn lại cùng chạy tới, giơ tay cướp thanh đao; nhưng không hẹn mà cùng kêu thét lên như bị rắn độc cắn. Gã bạch y vừa ngã đã bật dậy, chạy vội ra bên ngoài; riêng ba lão già thì cứ nằm lăn lộn dưới đất, không sao đứng dậy nổi.
Du Đại Nham thấy thảm cảnh ấy, đang tính ra tay cứu người, bỗng giật mình sực nhớ việc phái Hải Sa rắc muối độc ở bên ngoài tòa nhà, da thịt đụng phải thì nguy. Lúc này quanh tòa nhà toàn là muối độc, bản thân Đại Nham cũng khó bề thoát ra. Đưa mắt nhìn quanh, Đại Nham thấy ở hai bên cổng có hai chiếc ghế dài, bèn dựng hai cái ghế ấy lên theo chiều thẳng đứng, đặt chân bên trên mà đi ra ngoài như đi cà kheo. Lúc đi qua chỗ lão già hai tay cầm đao đang lăn lộn, Đại Nham xé vạt áo bọc bàn tay, cúi xuống chộp lưng lão ta mà đi cà kheo thật nhanh về hướng đông.
Hành động của Du Đại Nham khiến phái Hải Sa bị bất ngờ hoàn toàn. Bọn họ tưởng ba lão già sắp chết thì sẽ dễ dàng đoạt được thanh đao, ai dè bị đối phương cướp đi; bọn họ liền hò hét đuổi theo, vừa đuổi vừa tung mười mấy loại ám khí về phía đối phương.
Du Đại Nham vận sức vào hai chân, hai cái ghế dài làm cho chân tựa hồ dài thêm bốn thước, chỉ dăm sáu bước chàng đã bỏ xa bọn Hải Sa, các thứ ám khí của chúng đều ném hụt. Du Đại Nham thấy bọn họ cứ la hét đuổi theo, bèn hất mạnh hai cái ghế về phía sau; chỉ nghe mấy tiếng la oai oái, hẳn có mấy tên bị ghế văng trúng. Du Đại Nham đã cách xa bọn chúng hơn mười trượng, tuy một tay phải xách lão già, song chàng chạy càng lúc càng nhanh, bọn Hải Sa không thể đuổi kịp được nữa.
Du Đại Nham chạy gấp một hồi, chỉ nghe có tiếng sóng biển chứ không có tiếng chân người đuổi theo, bèn hỏi lão già:
– Nè lão, sao rồi?
Lão già rên rỉ, không trả lời. Du Đại Nham nghĩ bụng: “Lão ta bị dính muối độc, phải tắm rửa cho lão cái đã”; liền xách lão ra sát mép biển, nhúng lão ta xuống nước. Nước biển gặp thanh đao nóng sôi “xèo xèo” và bốc khói trắng. Lão già nửa tỉnh nửa mê, được ngâm nước biển hồi lâu, vẫn chưa tự bò dậy nổi. Du Đại Nham đang định kéo lão ta lên thì có một lớp sóng lớn tràn tới đẩy lão ta lên bãi cát.
Du Đại Nham nói:
– Bây giờ lão đã thoát hiểm, tại hạ còn bận việc lớn, vậy chúng ta chia tay ở đây.
Lão già gượng dậy, nói:
– Các hạ… sao không cướp… lấy bảo đao?
Du Đại Nham cười đáp:
– Thanh đao quý thật, song không phải của tại hạ, làm sao tại hạ có thể cướp nó?
Lão già kinh ngạc, không dám tin, nói:
– Các hạ có quỷ kế gì, định làm gì lão phu vậy?
Du Đại Nham đáp:
– Tại hạ và lão không thù không oán, thấy lão thụ thương thì tại hạ cứu giúp, chứ có quỷ kế gì đâu.
Lão già lắc đầu nói to:
– Tính mạng lão phu ở trong tay các hạ, muốn giết thì giết, chứ đừng giở thủ đoạn hiểm độc với lão phu; lão phu mà chết cũng biến thành ma quỷ không buông tha cho các hạ đâu.
Du Đại Nham biết lão ta thụ trọng thương, thần trí bấn loạn nên chẳng buồn cãi vã với lão, chỉ mỉm cười, đang định bỏ đi thì bỗng có một đợt sóng lớn tràn tới, lão già rên rỉ, người ướt sũng, run lên cầm cập.
Du Đại Nham nghĩ thầm, cứu người thì cứu cho trót, lão già này trúng độc rất nặng, nếu ta cứ bỏ mặc mà đi, hẳn lão sẽ chôn thây dưới đáy biển. Thế là chàng túm lấy lão già, xách lên một cái gò nhỏ, đưa mắt nhìn xung quanh, thấy trên sườn núi phía đông bắc có một căn nhà trông như cái miếu, bèn đem lão già tới đó; thấy trước cửa có tấm biển đề ba chữ đã mờ “Hải Thần miếu”, liền đẩy cửa bước vào, thấy trong miếu rất sơ sài, nền nhà đầy cát bụi, không ai trông coi.
Chàng đặt lão già nằm trên bục gỗ trước bàn thờ thần Biển, đá lửa trong túi chàng đã bị nước biển làm ướt; chàng tới bàn thờ sờ tìm một lát, quả nhiên thấy có đá lửa, liền đánh lửa châm cây nến cháy dở ở đó. Nhờ ánh sáng nến, chàng thấy mặt lão già tím bầm, hiển nhiên chất độc đã ngấm sâu, bèn móc túi lấy ra một viên “Thiên tâm giải độc đơn”, nói:
– Lão hãy nuốt viên giải độc này đi.
Lão già đang nhắm nghiền hai mắt, nghe vậy liền mở mắt, nói:
– Lão phu không sử dụng thứ độc dược hại người của các hạ đâu.
Dù giỏi nhịn đến mấy, lúc này Du Đại Nham cũng hết chịu nổi, trợn mắt nói:
– Lão nghĩ tại hạ là ai hả? Môn hạ Võ Đang há làm việc gì hại người? Đây là viên thuốc giải độc, nhưng chưa chắc có thể cứu lão thoát chết vì lão trúng độc quá nặng, song chí ít nó cũng giúp lão sống thêm ba hôm nữa, đủ để lão mang thanh bảo đao kia đổi lấy thuốc giải độc của phái Hải Sa, cứu mạng mình đó.
Lão già đột nhiên đứng phắt dậy, nói to:
– Lão phu nhất quyết không cho bất cứ ai lấy thanh đao Đồ Long này.
Du Đại Nham nói:
– Đến tính mạng lão chẳng còn, cố giữ bảo đao phỏng ích gì?
Lão già nói, giọng run run:
– Lão phu thà chết chứ thanh đao Đồ Long phải là của lão phu!
Nói đoạn lão ôm chặt lấy thanh đao, áp má vào nó ra chiều yêu quý vô cùng, vừa nhận viên “Thiên tâm giải độc đơn” nuốt vào bụng.
Du Đại Nham nảy sinh tính hiếu kỳ, rất muốn biết thanh đao Đồ Long rốt cuộc quý hiếm ở chỗ nào, nhưng thấy cặp mắt của lão già chứa đầy vẻ tham lam hung ác như con dã thú đói khát đang nhắm ăn thịt con mồi, trông thật đáng ghét, chàng bèn quay lưng bỏ đi. Bỗng nghe lão ta quát lớn:
– Đứng lại! Các hạ đi đâu?
Du Đại Nham cười đáp:
– Tại hạ đi đâu thì việc gì đến lão?
Đoạn chàng rảo bước đi liền. Nhưng được vài bước, chợt nghe lão già khóc rống lên, chàng ngoảnh lại hỏi:
– Tại sao lão khóc?
Lão già nói:
– Lão phu cực khổ biết bao mới lấy được thanh đao Đồ Long, nhưng chẳng mấy chốc sẽ bỏ mạng, thì thanh bảo đao còn có ích chi?
Du Đại Nham hừ một tiếng, nói:
– Ngoài việc đem thanh đao ấy đi đổi lấy thuốc giải độc của phái Hải Sa, lão không còn cách nào khác.
Lão già lại khóc:
– Nhưng lão phu không nỡ rời bỏ thanh đao Đồ Long.
Trông thần thái của lão già thật tức cười, Du Đại Nham cười chẳng nổi, lát sau chàng nói:
– Người có võ hoàn toàn dùng võ công của chính mình để khắc địch chế thắng, hành hiệp trượng nghĩa, lưu danh hậu thế. Còn bảo đao bảo kiếm chỉ là vật ngoại thân, được chẳng đáng mừng, mất cũng không đáng buồn, lão trượng hà tất phải phiền não như vậy?
Lão già nổi giận:
– “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”, mấy câu ấy, các hạ đã nghe bao giờ chưa?
Du Đại Nham cười đáp:
– Bốn câu ấy dĩ nhiên tại hạ đã nghe, còn hai câu tiếp nữa, là “Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Đấy là nói về một chuyện kinh thiên động địa trong võ lâm mấy chục năm về trước chứ không phải nói về thanh bảo đao nào cả.
Lão già hỏi:
– Chuyện kinh thiên động địa nào vậy?
Du Đại Nham nói:
– Là chuyện hồi trước Thần điêu đại hiệp Dương Quá giết hoàng đế Mông Kha của Mông Cổ, khiến ai ai là người Hán chúng ta cũng hả lòng hả dạ. Từ đó, Dương đại hiệp có hiệu lệnh gì, các anh hùng võ lâm đều “mạc cảm bất tòng”[14]. Chữ “Long” là chỉ hoàng đế của Mông Cổ, “Đồ Long” tức là “giết hoàng đế của Mông Cổ”, chứ thế gian làm gì có rồng để mà giết?
Lão già cười nhạt:
– Lão phu hỏi các hạ, năm xưa Dương đại hiệp sử dụng binh khí gì?
Du Đại Nham ngẩn người giây lát mới đáp:
– Tại hạ nghe sư phụ nói rằng Dương đại hiệp mất một cánh tay, bình thường không sử dụng binh khí. Lão già nói:
– Đúng vậy, thế Dương đại hiệp giết hoàng đế Mông Cổ bằng cách gì?
Du Đại Nham đáp:
– Dương đại hiệp dùng đá ném chết hoàng đế Mông Kha, việc ấy thiên hạ ai chẳng biết.
Lão già có vẻ đắc chí, hỏi tiếp:
– Dương đại hiệp bình thường không sử dụng binh khí, lại giết hoàng đế Mông Cổ bằng cách ném đá, vậy thì câu “bảo đao Đồ Long” đâu phải nói về chuyện kinh thiên động địa như các hạ vừa nói?
Câu này khiến Du Đại Nham không biết đối đáp ra sao, lát sau mới nói:
– Câu ấy hẳn là do võ lâm thuận miệng nói vậy, chẳng lẽ lại bảo “thạch đầu đồ long”[15] thì khó nghe quá!
Lão già cười khẩy:
– Giải nghĩa như thế nghe chối tai lắm! Lão phu hỏi các hạ, hai câu “Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong” nghĩa là gì?
Du Đại Nham trầm ngâm, đáp:
– Tại hạ không biết. “Ỷ Thiên” có lẽ là tên người chăng? Nghe nói võ công của Dương đại hiệp là do Dương phu nhân truyền thụ, vậy thì “Ỷ Thiên” có thể là tên của Dương phu nhân, hoặc là biệt hiệu của đại hiệp Quách Tĩnh, người tử thủ thành Tương Dương.
Lão già nói:
– Vậy ư? Lão phu nghĩ các hạ không biết, chỉ đoán mò thôi. Để lão phu giảng cho mà nghe. Đồ Long là một thanh đao, tức thanh đao lão phu cầm đây, còn Ỷ Thiên là tên một thanh kiếm. Ý của sáu câu trên là: vật chí tôn trong võ lâm là thanh đao Đồ Long, ai có được nó thì dù phát ra hiệu lệnh gì, các anh hùng hảo hán trong thiên hạ đều phải tuân theo. Một khi thanh kiếm Ỷ Thiên chưa xuất hiện thì thanh đao Đồ Long là thứ khí giới thần diệu nhất thiên hạ.
Du Đại Nham bán tín bán nghi, nói:
– Lão trượng đưa thanh đao đó tại hạ coi thử, xem có gì thần kỳ không nào?
Lão già ôm khư khư lấy thanh đao, cười khẩy:
– Các hạ tưởng lão phu là con nít hay sao mà đòi lừa lấy thanh đao của lão phu.
Lão ta sau khi trúng độc, thần trí và sức lực đều suy nhược, vừa rồi nhờ viên giải độc đơn của Du Đại Nham mới phấn chấn đôi chút, lúc này lại sử dụng nhiều sức nên rên rỉ đau đớn. Du Đại Nham cười nói:
– Không cho xem thì thôi. Lão trượng tuy được thanh đao Đồ Long, nhưng có sai khiến nổi ai đâu? Chẳng lẽ tại hạ thấy lão trượng ôm thanh đao kia mà phải tuân lệnh lão trượng hay sao? Thật nực cười! Lão trượng ngần ấy tuổi rồi mà còn đi tin những lời đồn đại hoang đường, rốt cuộc sắp mất mạng tới nơi vẫn chưa chịu tỉnh ngộ. Lão trượng đã không sai khiến nổi tại hạ, đủ biết thanh đao ấy thực ra chẳng có gì thần kỳ.
Lão già ngẩn người hồi lâu, mới nói:
– Này lão đệ, lão phu ước hẹn thế này: nếu lão đệ cứu lão phu khỏi chết, lão phu sẽ chia cho lão đệ một nửa lợi ích của thanh đao này.
Du Đại Nham ngửa mặt cả cười, nói:
– Sao lão trượng coi rẻ đệ tử phái Võ Đang thế? Cứu nguy giúp người là phận sự của huynh đệ tại hạ, đâu phải muốn trông chờ báo đáp! Lão trượng đã trúng phải muối độc, tại hạ thì không biết cách giải, vậy lão trượng hãy đi mà cầu cứu phái Hải Sa cho thuốc giải.
Lão già nói:
– Thanh đao này, lão phu lấy trộm của phái Hải Sa, bọn chúng căm hận lão phu, đời nào chịu cho thuốc giải?
Du Đại Nham nói:
– Lão trượng trả thanh đao cho họ là hóa giải được ngay oán cừu, như thế họ còn giết hại lão trượng làm gì nữa?
Lão già nói:
– Lão phu thấy võ công của lão đệ rất cao siêu, thừa sức đến lấy trộm thuốc giải của phái Hải Sa về cứu sống lão phu.
Du Đại Nham nói:
– Một là tại hạ có việc cần làm, không thể trì hoãn; hai là lão trượng lấy trộm bảo đao của người ta, là cái sai của lão trượng, làm sao tại hạ có thể hùa theo cái sai kia chứ? Thôi, lão trượng hãy mau đi cầu cứu phái Hải Sa cho thuốc giải! Còn chần chừ, để chất độc phát tác thì không cứu kịp đâu.
Lão già thấy chàng dợm bước định đi, vội nói:
– Thôi được, lão phu hỏi ngươi câu này, lúc ngươi xách người lão phu lên, có cảm thấy gì khác lạ chăng?
Du Đại Nham nói:
– Tại hạ cũng thấy lạ thật, lão trượng gầy ốm như thế, mà sao nặng đến hai trăm cân là ít, lại chẳng thấy lão trượng mang theo vật nặng nào cả.
Lão già đặt thanh đao Đồ Long xuống đất, nói:
– Bây giờ lão đệ thử nhấc lão phu lên coi.
Du Đại Nham nắm vai lão già nhấc lên, quả nhiên thấy nhẹ hẳn, chỉ chừng tám chục cân, nghĩ thầm: “Hóa ra thanh đao kia nặng tới hơn trăm cân, quả không phải vật tầm thường” bèn đặt lão già xuống và nói:
– Thanh đao Đồ Long quả rất nặng!
Lão già lại vội ôm lấy thanh đao Đồ Long, nói:
– Nó không chỉ nặng thôi đâu. Chẳng hay lão đệ họ Du hay họ Trương?
Du Đại Nham đáp:
– Tại hạ họ Du, tên thường gọi Đại Nham, tại sao lão trượng hỏi vậy?
Lão già nói:
– Trương chân nhân phái Võ Đang có bảy đệ tử, kêu là Võ Đang thất hiệp. Trong đó Tống đại hiệp trạc tứ tuần, nhị vị Ân, Mạc chưa tới hai mươi tuổi, nhị hiệp và tam hiệp cùng họ Du, tứ hiệp và ngũ hiệp cùng họ Trương, trong võ lâm ai chẳng biết. Thì ra lão đệ là Du tam hiệp, thảo nào võ công siêu tuyệt đến thế. Võ Đang thất hiệp danh tiếng vang thiên hạ, hôm nay lão phu được gặp, quả thật danh bất hư truyền.
Du Đại Nham tuy tuổi chưa nhiều nhưng cũng đã lão luyện giang hồ, giờ nghe lão già khen ngợi như thế thì thừa biết chẳng qua lão ta muốn cầu cạnh mình thôi nên trong lòng thầm ác cảm, bèn nói:
– Thế quý tính đại danh của lão trượng là gì?
Lão già đáp:
– Lão phu họ Đức, tên Thành, các bằng hữu vùng Liêu Đông đặt cho lão phu ngoại hiệu Hải Đông Thanh.
Hải Đông Thanh là một loài ác điểu lớn ai cũng biết ở vùng quan ải Liêu Đông, chuyên ăn thịt các loài cầm thú nhỏ.
Du Đại Nham chắp tay lại, nói:
– Ngưỡng mộ lão trượng đã lâu.
Rồi ngẩng lên nhìn trời. Đức Thành biết chàng sắp bỏ đi, nếu không dùng mối lợi lớn quyến rũ chàng ở lại thì khó bề cầu chàng cứu mạng, bèn nói:
– Lão đệ tưởng lầm tám chữ “Hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng” là ai có thanh đao Đồ Long thì ra lệnh gì, người người đều phải tuân theo. Hiểu như thế thì lầm to, lầm to.
Lão già vừa nói tới đó, Du Đại Nham chợt biến sắc mặt, tay phải giơ ra phẩy một cái, ngọn nến trên bàn thờ tắt phụt, khẽ nói:
– Có người tới!
Nội công của Đức Thành tu luyện không bằng Đại Nham nên lão chẳng nghe thấy gì lạ, còn đang bán tín bán nghi, bỗng có tiếng í ới từ xa vọng tới, rồi có tiếng chân chạy về phía miếu. Lão kinh hãi nói:
– Kẻ địch đã đuổi tới, mau rút ra phía sau miếu!
Du Đại Nham nói:
– Phía sau miếu cũng có người chắn rồi.
Đức Thành nói:
– Có lẽ nào…
Du Đại Nham nói:
– Đức lão trượng, bọn đang tới đây là phái Hải Sa đó, như vậy rất tiện cho lão trượng hỏi xin họ thuốc giải độc. Tại hạ không muốn dính vào chuyện này…
Đức Thành giơ tay trái nắm chặt cổ tay Đại Nham, run giọng:
– Du tam hiệp, lão đệ chớ bỏ lão phu mà đi, chớ…
Du Đại Nham cảm thấy năm ngón tay của lão lạnh như băng, bấu chặt vào da thịt mình, chàng bèn vặn cổ tay, dùng nửa chiêu “Cửu chuyển đơn thành” xoay một vòng, hất mấy ngón tay của lão ra.
Lúc này chỉ nghe tiếng chân rầm rập chạy thẳng tới miếu, rồi “sầm” một cái, ai đó dùng chân đạp mạnh đẩy toang cửa miếu, rồi nhiều tiếng “chíu chíu”, các hạt gì đó tới tấp bay vào. Du Đại Nham vội co người lại, nhún mình nhảy lên nấp sau bức tượng Hải Thần Bồ Tát. Chỉ nghe Đức Thành khẽ kêu “ối” một tiếng, lão ta đã bị trúng ám khí, ngã khuỵu xuống. Những tiếng “chíu chíu” vang lên từng chập dồn dập. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Đó là thứ muối độc của bọn Hải Sa”. Rồi nghe trên mái có mấy tiếng “lịch kịch”, có kẻ dỡ ngói ra để ném muối xuống.
Du Đại Nham đã tận mắt chứng kiến cảnh gã bạch y và Trường Bạch Tam Cầm bị hại bởi muối độc như thế nào. Gã bạch y võ công cao siêu thế mà mới bị dính muối độc đã kêu thất thanh và vội vã đào tẩu, đủ hiểu thứ muối kia độc tới mức nào. Lúc này các hạt muối độc bay tứ tung trong miếu, Đại Nham biết cứ thế này thì chẳng mấy chốc mình sẽ bị dính phải nó, nghĩ cách chống đỡ, chợt gõ nhẹ vào bức tượng, biết là tượng rỗng, bèn đấm mấy quả thủng lưng bức tượng, co mình lại chui vào bên trong, lập tức có cảm giác đang khoác một bộ y phục thật dày bằng đất, muối độc dù nhiều mấy cũng chẳng làm gì được chàng.
Chỉ nghe ở bên ngoài miếu bọn Hải Sa lớn tiếng bàn tán:
– Không thấy kêu la nữa, chắc mê man bất tỉnh rồi.
– Gã trẻ tuổi võ công cao siêu lắm, hãy đợi thêm chút nữa, hà tất phải vội.
– Chỉ sợ hắn đã chuồn xa, không có trong miếu.
Rồi có tiếng quát:
– Này mấy kẻ trong kia, khôn hồn mau đầu hàng đi!
Giữa lúc ấy bỗng nghe xa xa có tiếng vó ngựa, phải tới mười mấy con ngựa đang phi tới, xen lẫn tiếng vó ngựa là giọng người nói lớn:
– Nhật nguyệt quang chiếu, Ưng Vương vỗ cánh.
Bọn Hải Sa bên ngoài miếu lập tức im như thóc, lát sau có kẻ run run nói:
– Đó là Thiên… Ưng giáo, bọn chúng… sắp tới đó…
Lời chưa dứt, tiếng vó ngựa đã tới miếu, có kẻ trong bọn Hải Sa nói:
– Chạy chẳng kịp nữa rồi!
Chỉ nghe tiếng mấy người đi vào miếu. Du Đại Nham giấu mình trong ruột bức tượng, thấy có ánh sáng, chắc bên ngoài có kẻ mang đèn đuốc tới. Một lát sau, có tiếng hỏi:
– Các ngươi biết chúng ta là ai chứ?
Bọn Hải Sa đồng thanh đáp:
– Dạ, dạ, các vị là bằng hữu Thiên Ưng giáo!
Tiếng người kia nói:
– Vị này là Lý đường chủ Thiên thị đường của Thiên Ưng giáo. Lý đường chủ hiếm khi vi hành; hôm nay bọn các ngươi có diễm phúc lắm mới được kiến diện đó. Lý đường chủ hỏi các ngươi: thanh đao Đồ Long hiện ở đâu, khôn hồn hãy dâng ngay ra, Lý đường chủ sẽ đại phát từ bi tha chết cho hết thảy bọn ngươi.
Một kẻ trong bọn Hải Sa nói:
– Là hắn… hắn lấy trộm thanh đao Đồ Long mang đi, bổn phái đuổi theo hắn tới đây, thưa Lý… đường chủ.
Tiếng người Thiên Ưng giáo nói:
– Hừ, vậy thanh đao Đồ Long đâu, ta hỏi ngươi?
Câu này hiển nhiên là nhắm vào Đức Thành, nhưng không thấy Đức Thành trả lời. Chỉ nghe “huỵch” một tiếng, có người ngã xuống đất. Mấy người cùng ồ lên.
Tiếng người Thiên Ưng giáo nói:
– Hắn chết rồi, hãy khám người hắn xem nào.
Có tiếng xé vải, tiếng lật xác người, rồi tiếng người kia nói:
– Bẩm đường chủ, trong người tên này không có vật gì cả.
Kẻ thủ lĩnh của phái Hải Sa nói, giọng run rẩy:
– Bẩm Lý đường… đường chủ, chính hắn là kẻ lấy… trộm bảo đao; chúng tại hạ quyết không dám nói gạt…
Nghe giọng nói của kẻ đó, rõ ràng là đang bị Lý đường chủ quắc mắt soi mói nên hoảng sợ.
Du Đại Nham nghĩ thầm: “Thanh đao ấy rõ ràng Đức Thành ôm khư khư, sao lại biến đâu mất nhỉ?”
Chỉ nghe tiếng người Thiên Ưng giáo nói:
– Các ngươi bảo hắn lấy trộm đao, tại sao tìm không thấy trong người hắn? Vậy là các ngươi đã ngầm giấu nó đi. Bây giờ ai nói thật sự việc ra, Lý đường chủ sẽ tha mạng cho. Cả bọn ngươi, chỉ một người được tha mạng, ai nói trước thì được sống.
Trong miếu im phăng phắc, lát sau, thủ lĩnh phái Hải Sa nói:
– Lý đường chủ, chúng tại hạ quả thật không biết. Vật mà Thiên Ưng giáo muốn có, chúng tại hạ quyết không dám giữ…
Lý đường chủ hừ một tiếng, không nói gì, chỉ nghe gã thuộc hạ của y nhắc lại:
– Kẻ nào bẩm báo đúng sự việc sẽ được tha mạng.
Một lát sau, phái Hải Sa vẫn không ai lên tiếng.
Đột nhiên có người nói:
– Chúng ta đến đây lấy đao, còn chưa kịp vào trong miếu thì các vị đã tới; các vị Thiên Ưng giáo cũng là người bước vào miếu trước, làm sao chúng ta lấy được bảo đao. Các vị nhất quyết không tin, đằng nào cũng chết, chi bằng hôm nay chúng ta liều mạng với các vị một phen. Bảo đao ấy cũng chẳng phải của Thiên Ưng giáo, thế mà các vị hoành hành bá đạo, để xem.
Lời chưa nói hết đã im bặt, chắc người đó đã bị hạ sát chết tươi.
Một giọng khác run rẩy nói:
– Ban nãy có một đại hán chừng tam tuần đã cứu lão già kia đưa tới đây, khinh công của hắn vô cùng cao siêu, thoáng một cái đã chẳng ai nhìn thấy hắn biến đi đâu. Bảo đao chắc hẳn bị hắn lấy đi rồi.
Lý đường chủ nói:
– Khám xét từng tên một!
Mấy tiếng “dạ” đồng thanh, rồi tiếng y phục bị xé rách, hẳn là mấy gã Thiên Ưng giáo đang khám xét từng người phái Hải Sa. Lý đường chủ nói:
– Có lẽ gã đại hán lấy đao đi rồi.
Tiếng mấy người ra khỏi miếu, rồi tiếng vó ngựa xa dần về hướng đông bắc.
Du Đại Nham không muốn tự dưng can dự vào cuộc tranh chấp đôi bên, tính chờ cho bọn Hải Sa cũng đi hẳn rồi mới chui ra, nhưng chờ hồi lâu trong miếu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì, tựa hồ phái Hải Sa đã lẳng lặng rút đi cả rồi sao. Từ trong ruột bức tượng, Đại Nham ló đầu nhìn ra, thấy hơn hai chục gã buôn muối thuộc phái Hải Sa vẫn đứng trơ trơ, ai nấy bất động, có lẽ đều bị điểm huyệt.
Du Đại Nham ra khỏi ruột tượng, nhặt bó đuốc bọn kia vứt lại dưới đất lên, soi trong miếu thấy mặt mũi bọn Hải Sa người nào người nấy bầm tím đáng sợ, chàng nghĩ thầm: “Thiên Ưng giáo là giáo phái nào sao mình chưa nghe nói bao giờ nhỉ? Xem ra phái Hải Sa không phải là địch thủ của chúng, vừa gặp bọn Thiên Ưng giáo đã sợ hết hồn. Đúng là ác nhân sẽ có ác nhân trị”. Đoạn Du Đại Nham giơ tay ấn vào huyệt Hoa Cái của một tên đứng bên cạnh để giải khai huyệt đạo cho hắn.
Ngờ đâu người hắn cứng đờ, ấn mãi hắn cũng không cử động, thử đằng mũi thì thấy đã tắt thở, hóa ra hắn bị điểm vào tử huyệt. Hơn hai chục đại hán phái Hải Sa đều chết ráo, chỉ còn một người đang quằn quại dưới đất, thở thoi thóp, chắc là người nói câu cuối cùng nên được tha mạng. Du Đại Nham ngạc nhiên tự nhủ: “Thiên Ưng giáo khi hạ độc thủ không phát ra một tiếng động nào, đủ biết thủ pháp của bọn chúng cực kỳ hiểm độc”. Chàng đỡ người sống sót kia đứng dậy, hỏi:
– Thiên Ưng giáo là giáo phái nào? Giáo chủ của chúng là ai vậy?
Nghe hai câu hỏi liên tiếp, gã kia cứ trố mắt ngơ ngác như kẻ mất trí. Du Đại Nham nắm cổ tay gã thăm mạch thì thấy mạch rối loạn; xem ra bọn Thiên Ưng giáo tha mạng cho gã, nhưng đã đánh đứt mất vài kinh mạch để biến gã thành một kẻ ngớ ngẩn.
Lúc này Du Đại Nham không còn ngạc nhiên, chỉ giận dữ nghĩ thầm: “Thiên Ưng giáo là thứ giáo phái quỷ quái gì mà hạ thủ tàn ác quá chừng?” Lại nghĩ võ công của chúng thực cao siêu, chàng đơn thương độc mã không thể địch nổi. Phải trước hết về núi Võ Đang thỉnh thị sư phụ điều tra rõ lai lịch của Thiên Ưng giáo rồi sẽ tính sau.
Nhìn trong miếu vung vãi muối trắng như tuyết, lại là muối độc, Du Đại Nham nghĩ thầm: “Sớm muộn dân chúng cũng tới miếu thờ cúng, họ không biết đây là muối độc, cứ chạm vào ắt sẽ bị họa. Muối độc và các tử thi thu nhặt thật khó, chi bằng phóng hỏa thiêu luôn cái miếu này đi cho khỏi hậu họa”. Chàng bèn dìu người bị đứt kinh mạch hóa thành ngớ ngẩn ra khỏi miếu, quay trở vào thì thấy trong khi hơn hai chục cái xác đều đứng trơ như phỗng, lại có một tử thi phủ phục cạnh bàn thờ, lưng đẫm máu. Du Đại Nham cảm thấy hơi lạ, vừa kéo cái xác đó lên xem thử, người chàng liền bị chúi về phía trước, hóa ra cái xác đó quá nặng. Trông thân hình cũng bình thường, đâu có to béo vạm vỡ mà sao lại quá nặng như vậy?
Chàng nhìn kỹ cái xác đó, thấy trên lưng có một vết thương lớn, rờ tay coi thử, chạm phải vật cứng lạnh, lôi ra thì là một thanh đao, nặng chí ít cũng phải trên trăm cân, chính là thanh đao Đồ Long mà bao nhiêu người đã xả thân thí mạng để tranh đoạt bằng được. Chàng chợt hiểu: thì ra khi lão Đức Thành lúc chết ngã xuống, thanh đao trong tay lão đã chém ngập vào sau lưng một gã thuộc phái Hải Sa. Thanh đao quá nặng, lại cực sắc, nên khi rơi xuống đã cắm phập thật sâu vào lưng gã nọ. Bọn Thiên Ưng giáo khi khám xét mọi người đã không phát hiện ra.
Du Đại Nham chống thanh đao xuống đất, nhìn quanh, nghĩ thầm: “Thanh đao này có đúng với lời đồn là vật chí tôn của võ lâm hay không chưa rõ, chỉ biết nó là một vật rất xui xẻo. Hải Đông Thanh Đức Thành và mấy chục gã buôn muối phái Hải Sa đã uổng mạng vì nó. Giờ mình cần mang thanh đao này về dâng sư phụ, tùy Người định đoạt”. Đoạn chàng nhặt bó đuốc dưới đất lên, châm lửa đốt ngôi miếu, thấy lửa lan rộng, bèn ra khỏi miếu.
Du Đại Nham lau chùi thanh đao, đứng bên đám lửa xem kỹ nó. Thanh đao màu đen nhánh, không phải vàng, không phải sắt, chẳng biết chế bằng chất gì. Thoạt đầu Trường Bạch Tam Cầm thiêu đốt trong lò lửa lớn mà thanh đao không hề hấn gì, quả là một kỳ vật. Chàng lại nghĩ thầm: “Thanh đao nặng thế này, lúc giao đấu làm sao sử dụng? Đến như Quan Vũ thần lực hơn người mà cây đao Thanh long yển nguyệt của Người cũng chỉ nặng tám mươi mốt cân”. Chàng gói thanh đao vào bọc, rồi hướng về phía Đức Thành đang được hỏa thiêu, thầm khấn: “Đức lão trượng, tại hạ hoàn toàn không tham đoạt thanh đao này. Nhưng nó là một kỳ vật trong thiên hạ, nếu lọt vào tay kẻ ác ắt sẽ gây nguy hại cho nhân gian. Sư phụ của tại hạ là bậc đại trí công tâm, tất sẽ có cách xử trí hoàn hảo”. Khấn xong, Du Đại Nham vác bao lên vai, rảo bước đi về hướng bắc. Chừng nửa canh giờ, chàng đến bờ sông. Lúc này ánh trăng sao chiếu xuống mặt sông, nhìn dưới nước thấy đầy sao, đưa mắt nhìn quanh thì chẳng có chiếc thuyền nào, đành thả bộ ven sông. Thời gian chừng dùng xong một bữa ăn, chàng thấy xa xa phía trước có ánh đèn nhấp nháy, một chiếc thuyền câu đậu cách bờ vài trượng. Du Đại Nham lên tiếng gọi:
– Ngư phủ đại ca, làm ơn cho qua sông, xin hậu tạ!
Có lẽ vì chiếc thuyền ở xa bờ, ngư phủ tựa hồ không nghe tiếng chàng gọi nên vẫn ngồi yên. Du Đại Nham hít một hơi sâu, gọi đò một tiếng thật dài. Lát sau, từ phía thượng lưu có một chiếc thuyền nhỏ bơi vào phía bờ, người lái đò hỏi:
– Có phải khách định qua sông chăng?
Du Đại Nham cả mừng đáp:
– Phải, phiền đại ca giúp cho.
Người lái đò giục:
– Vậy mời xuống thuyền.
Du Đại Nham nhảy xuống thuyền, chiếc thuyền ngay lập tức bị chúi hẳn xuống. Người lái đò ngạc nhiên hỏi:
– Quan khách mang thứ hàng gì nặng thế?
Du Đại Nham cười đáp:
– Không có thứ hàng gì, tại thân xác tôi vụng về thôi, đi được rồi!
Chiếc thuyền giương buồm lên, vừa thuận gió vừa xuôi dòng chạy xéo về hướng đông bắc, qua sông rất nhanh. Chừng hơn một dặm, bỗng nghe có tiếng sấm ì ầm, tiếng ào ào xa xa, Du Đại Nham hỏi người lái đò:
– Đại ca, trời sắp mưa lớn ư?
Người lái đò cười nói:
– Đấy là tiếng nước triều đêm trên sông Tiền Đường đó, trôi theo nước triều, chỉ một lúc nữa là tới bờ bên kia.
Du Đại Nham phóng tầm mắt sang phía đông chỉ thấy từ chân trời lớp lớp sóng bạc đầu, tựa như thiên binh vạn mã đang ào ạt tràn tới, sóng lớn cứ như những bức tường nước từ xa đổ tới dồn dập không ngừng. Chàng nghĩ thầm: “Trong trời đất lại có cảnh hùng tráng thế này, hôm nay mình mới được dịp mở rộng tầm mắt, cũng không uổng một chuyến đi vất vả”. Đang ngắm cảnh, chợt thấy có một chiếc thuyền buồm đè sóng lao tới, trên cánh buồm trắng thêu một con chim ưng lớn màu đen, dang rộng đôi cánh như sắp sà xuống, chàng liền nghĩ đến ba chữ “Thiên Ưng giáo” và thầm phòng bị.
Đột nhiên người lái đò nhảy phắt xuống sông, thoắt một cái đã mất hút trong dòng nước. Chiếc thuyền không người lái, bị dòng nước cuốn bắt đầu xoay tròn, Du Đại Nham vội nhảy tới đuôi thuyền bẻ lái. Lúc ấy chiếc thuyền buồm lớn trờ tới, “sầm” một tiếng, mũi thuyền bịt sắt của chiếc thuyền lớn đâm vào chiếc thuyền nhỏ làm nó thủng một lỗ to, nước tràn vào ào ào. Du Đại Nham tức giận nghĩ bụng: “Thiên Ưng giáo các người xảo trá thật! Thì ra gã lái đò chính là người của chúng bố trí dụ ta vào bẫy”. Thấy chiếc thuyền nhỏ sắp chìm, chàng liền nhún chân vọt sang mũi chiếc thuyền lớn.
Vừa lúc ấy có một đợt sóng lớn đánh tới, đẩy chiếc thuyền lên cao hơn một trượng, Du Đại Nham đang lơ lửng trên không, liền rớt xuống lòng thuyền. Trong lúc nguy ngập, chàng hít một hơi, tay trái đẩy vào mạn thuyền lấy đà, thi triển khinh công “Thê vân túng” tung mình lên cao hơn một trượng, cuối cùng đáp chân xuống mũi chiếc thuyền lớn.
Chỉ thấy cửa khoang thuyền đóng kín, không một bóng người. Du Đại Nham gọi:
– Các bằng hữu Thiên Ưng giáo!
Chàng gọi hai lần, trong thuyền không ai đáp lời; chàng dùng tay đẩy vào cửa khoang, thấy giá lạnh vô cùng, hóa ra nó được đúc bằng gang hết sức vững chắc. Du Đại Nham vận sức vào hai cánh tay, quát to một tiếng, hai tay đẩy thật mạnh, “hịch” một cái, cửa khoang vẫn đóng, nhưng chưởng lực của chàng làm cho mộng cửa long ra, cánh cửa rung rinh qua lại, chỉ giáng thêm một chưởng nữa là cửa sẽ mở toang.
Từ bên trong có tiếng người vọng ra:
– Khinh công “Thê vân túng” và chưởng lực “Chấn sơn chưởng” của phái Võ Đang quả là danh bất hư truyền. Du tam hiệp, hãy để thanh đao Đồ Long trên lưng lại đây, bổn giáo sẽ tiễn Du tam hiệp qua sông tức thì.
Lời lẽ tuy khách sáo, nhưng giọng điệu rất ngạo mạn, nghe như mệnh lệnh vậy. Du Đại Nham nghĩ thầm: “Không hiểu sao hắn biết tên mình nhỉ?”
Người kia lại nói:
– Du tam hiệp hẳn ngạc nhiên, không hiểu tại sao bổn giáo lại biết đại danh của các hạ chứ gì? Thực ra chẳng có chi lạ, phép khinh công “Thê vân túng” và chưởng lực “Chấn sơn chưởng”, trừ các cao thủ của phái Võ Đang, nào ai có thể sử dụng xuất thần nhập hóa như thế chứ? Du tam hiệp đến Giang Nam, Thiên Ưng bổn giáo là chủ nhân đất này, dọc đường chưa bố trí đón tiếp, những mong các hạ lượng thứ.
Du Đại Nham chưa biết đối đáp ra sao cho phải, bèn nói:
– Xin cho biết quý tính đại danh, thỉnh các hạ hiện thân tương kiến.
Tiếng người kia nói:
– Thiên Ưng giáo với quý phái Võ Đang không hề quen biết, cũng chẳng có oán cừu, không thấy mặt nhau thì hơn. Chỉ cần Du tam hiệp đặt thanh đao Đồ Long ở mũi thuyền, bổn phái sẽ đưa Du tam hiệp qua sông liền.
Du Đại Nham tức giận nói:
– Thanh đao Đồ Long đâu phải của quý giáo?
Người kia nói:
– Vẫn biết thế. Nhưng thanh đao Đồ Long là vật chí tôn của võ lâm, các cao thủ trong thiên hạ ai ai cũng muốn chiếm giữ nó.
Du Đại Nham nói:
– Thế thì thanh đao Đồ Long đang ở trong tay tại hạ, tại hạ phải mang về núi Võ Đang để sư tôn định đoạt, chứ tại hạ không thể tùy tiện giao nó cho ai cả.
Người kia nói nhỏ mấy câu gì đó, nghe loáng thoáng như tiếng muỗi kêu, Du Đại Nham nghe không rõ, bèn hỏi:
– Các hạ bảo sao?
Trong khoang thuyền, người kia lại nói mấy câu, thanh âm còn nhỏ hơn lúc nãy, Du Đại Nham chỉ nghe loáng thoáng “Du tam hiệp… thanh đao Đồ Long…” Chàng liền tiến lên hai bước, hỏi:
– Các hạ bảo sao?
Vừa lúc ấy có một đợt sóng lớn vỗ tới, đẩy mũi thuyền lên cao, chàng chợt cảm thấy chỗ ức và đùi của mình nhói một cái như bị muỗi đốt. Dạo này đang là đầu xuân, lẽ ra không hề có muỗi, song chàng chẳng để ý, chỉ nói to:
– Thiên Ưng giáo vì thanh đao Đồ Long mà sát hại bao nhiêu người, riêng ở miếu Hải Thần để lại mấy chục tử thi, thật là hạ thủ quá tàn ác.
Người kia nói:
– Thiên Ưng giáo xưa nay hạ thủ đều có phân biệt nặng nhẹ. Đối với ác nhân, phải thẳng tay; còn đối với người tử tế, bổn giáo rất nương nhẹ. Như trường hợp của Du tam hiệp nổi danh nghĩa hiệp trong thiên hạ, bổn giáo không nỡ lấy mạng. Du tam hiệp chịu để thanh đao Đồ Long lại, tại hạ sẽ trao cho thuốc giải “Văn tu châm”[16] tức thời.
Du Đại Nham nghe ba tiếng “Văn tu châm” thì giật mình, vội đưa tay rờ chỗ ức vừa bị muỗi đốt chỉ thấy tê tê, ngưa ngứa, hệt như muỗi đốt thật, thì liền tỉnh ngộ: “Vừa rồi hắn cố ý nói nhỏ để dụ mình lại gần, thừa cơ phóng ám khí”. Nhớ lại cái cảnh mấy gã buôn muối thuộc phái Hải Sa sợ Thiên Ưng giáo như sợ độc xà, chàng đoán thứ ám khí này hẳn rất độc, bây giờ phải tóm cổ hắn trước, mới mong buộc hắn trao thuốc giải độc ra. Nghĩ vậy, chàng quát nhỏ một tiếng, tay trái che mặt, tay phải che ngực, tung mình nhảy vào khoang thuyền.
Chân chưa đặt xuống lòng thuyền, Đại Nham đã thấy từ trong bóng tối có kình phong thổi tới, người trong khoang múa chưởng đón đánh. Du Đại Nham cả giận, dồn mười thành công lực vào hữu chưởng giáng mạnh một cái. Hai chưởng đập vào nhau nghe “bốp” một tiếng, kẻ trong thuyền bay về phía sau, loảng xoảng mấy tiếng, chắc là không ít vật dụng bị gãy vỡ. Du Đại Nham thì cảm thấy lòng bàn tay đau buốt tận xương: thì ra vừa rồi đối phương cầm vật nhọn tua tủa trong tay, khi hai chưởng đập vào nhau, vật nhọn ấy đâm sâu vào lòng bàn tay chàng. Tuy đối phương cũng thụ thương không nhẹ bởi chưởng lực của chàng, song trong khoang tối om, không biết kẻ địch thế nào, nhiều hay ít, chàng không dám mạo hiểm xông vào nữa, đành trở lại mũi thuyền.
Chỉ nghe người kia ho vài tiếng, nói:
– Chưởng lực của Du tam hiệp quả thực lợi hại, tại hạ thán phục, thán phục! Nhưng “Thất tinh đinh” trong bàn tay tại hạ cũng lợi hại chẳng kém. Đôi bên tám lạng nửa cân, lưỡng bại câu thương.
Du Đại Nham vội lấy mấy viên “Thiên tâm giải độc đơn” nhai nuốt, đoạn cởi bao lấy thanh đao Đồ Long ra, hai tay cầm cán đao, quát một tiếng, phạt ngang một cái, cánh cửa sắt đứt lìa thành hai mảnh, thanh đao quả thực sắc bén tuyệt luân. Chàng chém luôn bảy, tám nhát; khoang thuyền đúc bằng gang mà gặp phải bảo đao cứ như lau sậy bị chém tơi tả. Người ở trong khoang phải nhảy lùi về phía đuôi thuyền, miệng kêu to:
– Các hạ bị trúng độc hai lần, còn muốn ra oai nữa ư?
Du Đại Nham múa đao xông tới, phạt ngang lưng. Người kia thấy thế công của chàng hung mãnh, tiện tay giơ cái neo sắt lên đỡ, chỉ nghe “keng” một tiếng nhẹ, cây neo đã đứt đôi, người kia vội né sang bên, nói:
– Muốn giữ mạng sống, hay là muốn bảo đao?
Du Đại Nham nói:
– Được, ngươi đưa thuốc giải cho ta, ta sẽ trao đao cho ngươi.
Lúc này chỗ bị trúng “Văn tu châm” trên đùi chàng đang ngứa mạnh dần, chàng tự biết “Thiên tâm giải độc đơn” không giải được chất độc này, mà thanh đao Đồ Long chẳng qua vô tình lượm được, chàng vốn cũng không coi trọng gì nó cho cam, nên chàng bèn ném ngay nó vào khoang thuyền.
Người kia cả mừng, cúi xuống dùng cả hai tay nâng thanh đao đặt lên đùi, lấy vạt áo lau lau chùi chùi ra chiều yêu quý nó vô cùng. Hắn ngồi sấp bóng trăng nên không nhìn rõ mặt, hắn chỉ mải ngắm thanh đao mà không đưa thuốc giải. Du Đại Nham cảm thấy lòng bàn tay đau nhức ghê gớm, bèn giục:
– Thuốc giải đâu?
Người kia cười ha hả, tựa hồ hắn nghe một câu chuyện cực kỳ hoạt kê không bằng. Du Đại Nham nổi giận:
– Ta bảo ngươi đưa thuốc giải thì có gì tức cười?
Người kia giơ ngón trỏ tay trái chỉ mặt chàng mà cười:
– Ha ha, ngươi quá ngốc nghếch, sao không chờ ta trao thuốc giải rồi hãy đưa đao cho ta?
Du Đại Nham tức giận nói:
– Quân tử không nói hai lời, ngựa hay chỉ cần một roi. Ta đã nhận lời ngươi dùng đao đổi lấy thuốc, thì đưa đao trước hay sau có khác gì nào?
Kẻ kia cả cười:
– Ngươi nắm bảo đao trong tay, ta còn nể sợ ngươi vài phần. Giả sử ngươi địch chẳng nổi ta, ngươi ném đao xuống sông, vị tất ta mò lên được. Bây giờ bảo đao đã nằm trong tay ta, ngươi đừng hòng ta trao thuốc giải ra.
Du Đại Nham nghe kẻ kia nói vậy thì cảm thấy một luồng khí lạnh chạy từ sống lưng lên gáy. Chàng tự nhủ, phái Võ Đang và Thiên Ưng giáo vô oán vô cừu, tên kia võ công khá cao, cũng phải là một nhân vật có địa vị, đã nhận được thanh đao Đồ Long rồi, sao lại có thể nuốt lời? Chàng xưa nay vốn hành xử thận trọng, đâu dễ bị dối lừa; có điều phen này chàng bị mất tiên cơ, một mình rơi vào thuyền địch, thầm biết đối phương giăng bẫy sẵn, trong thuyền ắt có đồng bọn tiếp tay, lại hiềm thân mình hai lần trúng độc, chỉ mong mau nhận thuốc giải, cho nên mới bị thua bởi sự xảo trá đê hèn của đối phương, bèn nén giận, hỏi:
– Các hạ quý tính đại danh là chi?
Kẻ kia cười:
– Tại hạ chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt trong Thiên Ưng giáo, phái Võ Đang muốn tìm Thiên Ưng giáo báo thù, đã có Giáo chủ và các vị Đường chủ của bổn giáo nghênh tiếp. Kể ra đêm nay Du tam hiệp chết một cách mờ ám thế này, tổ sư Trương Tam Phong của phái Võ Đang dù có tài thông thiên thiết địa, cũng chắc gì biết được Du tam hiệp chết bởi tay ai.
Hắn nói bằng cái giọng tựa hồ Du Đại Nham sắp tắt thở rồi không bằng.
Du Đại Nham cảm giác như có hàng ngàn con kiến cùng nhất loạt đốt lòng bàn tay chàng, buốt ngứa không sao chịu nổi, bèn chộp lấy nửa cái neo sắt mà chàng chém đứt ban nãy, nghĩ bụng: “Đêm nay dù ta có chết, ta cũng phải cho ngươi mất mạng luôn thể”.
Kẻ kia đang thao thao ra chiều cao hứng thì Du Đại Nham quát to một tiếng, tay trái vung nửa cái neo, tay phải phóng ra một chưởng, nhằm vào mặt và ngực kẻ kia mà đánh tới.
Kẻ kia kêu “ối” một tiếng, vung thanh đao Đồ Long định chống đỡ, nào ngờ thanh đao nặng đến lạ thường, hắn quen tay vung đao, không ngờ mới được nửa vòng thì cổ tay bỗng trầm hẳn xuống. Nguyên võ công của hắn cũng sử dụng được thanh đao này, có điều là khi vận lực, hắn không ngờ cây đao quá nặng, lực vận không đủ, thanh đao rơi thẳng xuống, chém ngay vào đầu gối hắn; hắn thất kinh, tay cầm đao đang cố nâng thanh đao lên thì cảm thấy kình phong quạt vào mặt, cây neo sắt đang bổ tới. Tình thế muôn phần nguy ngập, hết đường chống đỡ, hắn đành nhún chân lộn người xuống sông.
Kẻ kia tuy tránh được cái neo sắt, nhưng vẫn bị trúng một chưởng giáng vào bụng dưới, hắn chỉ cảm thấy lục phủ ngũ tạng lộn tùng phèo, lúc ngã xuống nước đã bất tỉnh nhân sự.
Du Đại Nham hít một hơi dài, thấy tên kia tuy trúng chưởng nhưng vẫn nắm chặt thanh đao Đồ Long không chịu buông thì chàng cười khẩy, nghĩ thầm: “Ngươi lấy được bảo đao, rốt cuộc đem thân làm mồi cho cá”.
Bỗng đâu có một dải lụa trắng bay vút xuống sông, cuốn lấy ngang thắt lưng tên kia và cả thanh đao mà kéo lên thuyền. Du Đại Nham kinh ngạc, nhìn theo dải lụa trắng thì thấy ở mũi thuyền có một người gầy gò, mặc áo xanh, hai tay đang thoăn thoắt kéo dải lụa lên thuyền. Chàng định tung mình nhảy về phía đó, nhưng chất độc trong người phát tác, trước mắt tối sầm, chàng ngã vào khoang thuyền, ngất đi luôn.
Không biết bao nhiêu thời gian trôi qua, khi Du Đại Nham mở mắt ra, vật nhìn thấy trước tiên là một lá cờ của tiêu cục, trên thêu một con cá chép vàng. Chàng nhắm mắt lại một lát, khi mở mắt ra vẫn thấy lá cờ nhỏ ấy được cắm trong một cái bình hoa bằng sứ sứt mẻ. Con cá chép thêu chỉ vàng óng ánh trên lá cờ cứ như đang đùa giỡn với sóng nước, chàng nghĩ thầm: “Lá cờ này là của tiêu cục Long Môn phủ Lâm An. Mình bị làm sao thế nhỉ?” Lúc này đầu óc Du Đại Nham mê mê tỉnh tỉnh, ý nghĩ rối loạn; phải định thần giây lát, chàng mới phát giác mình đang nằm trên một cái cáng do hai người khiêng, và hình như đang ở trong một tòa đại sảnh. Chàng định quay đầu sang hai bên xem sao nhưng cổ cứ cứng đơ, không sao cử động nổi.
Du Đại Nham cả kinh, muốn ngồi dậy, song chân tay tựa hồ đã không còn là của chàng nữa, dù vận lực thế nào cũng không thể cử động, bấy giờ mới sực nhớ trên sông Tiền Đường mình đã bị trúng hai thứ ám khí tẩm chất độc là “Văn tu châm” và “Thất tinh đinh”.
Chợt nghe tiếng nói chuyện giữa hai người, một người giọng sang sảng cất tiếng hỏi:
– Quý tính đại danh của các hạ là gì?
Người kia đáp:
– Khỏi cần biết tính danh của ta, ta chỉ hỏi các vị, có nhận món hàng này hay không?
Du Đại Nham tự nhủ: “Giọng người này trong trẻo, có lẽ là một thiếu nữ!”
Giọng sang sảng nói có vẻ phật ý:
– Tiêu cục Long Môn không thiếu gì việc. Các hạ đã không chịu cho biết tính danh thì xin mời đến giao dịch với tiêu cục khác.
Giọng thiếu nữ nói:
– Ở phủ Lâm An chỉ có tiêu cục Long Môn làm ăn khá giả hơn các tiêu cục khác. Nếu các hạ không phải là nhân vật quyết định thì mau mời Tổng tiêu đầu ra đây.
Nghe khách hàng nói năng vô lễ, người có giọng sang sảng quả nhiên không vui, nói:
– Tại hạ là Tổng tiêu đầu đây. Bây giờ tại hạ có chút việc bận, không thể hầu chuyện, mong các hạ lượng thứ.
Giọng thiếu nữ nói:
– Ủa, vậy các hạ chính là Đa Tý Hùng Đô Đại Cẩm…
Thiếu nữ nói tới đó, ngừng một lát, mới nói tiếp:
– Đô Tổng tiêu đầu, tại hạ ngưỡng mộ đại danh đã lâu. Tại hạ họ Ân.
Đô Đại Cẩm có vẻ nguôi giận, nói:
– Chẳng hay quý khách có gì sai bảo?
Người khách họ Ân nói:
– Tại hạ trước hết cần hỏi Đô Tổng tiêu đầu, Đô Tổng tiêu đầu có dám nhận bảo tiêu món hàng này không đã, món hàng này không phải tầm thường, tuyệt nhiên không được để lỡ việc.
Đô Đại Cẩm cố nén giận, nói:
– Bổn tiêu cục Long Môn hoạt động đã hai chục năm nay, quan tiêu, diêm tiêu, kim ngân châu báu, món hàng quý giá đến mấy cũng đều nhận bảo tiêu, chưa từng có chuyện để xảy ra thất thoát lần nào.
Du Đại Nham cũng từng nghe danh Đô Đại Cẩm, biết y là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, quyền chưởng đơn đao đều cao siêu, nhất là ám khí Liên châu cương tiêu, y có thể phóng đi liền một hơi bảy bảy bốn mươi chín chiếc phi tiêu bằng thép, nên giang hồ đặt cho y ngoại hiệu Đa Tý Hùng[17]. Tiêu cục Long Môn của y cũng nổi tiếng khắp vùng Giang Nam. Chẳng qua đệ tử hai phái Võ Đang và Thiếu Lâm lâu nay không thân cận với nhau, nên tuy nghe danh không quen biết.
Thiếu niên họ Ân mỉm cười, nói:
– Nếu tại hạ không biết thanh danh của tiêu cục Long Môn thì tìm tới đây làm gì? Đô tổng tiêu đầu, tại hạ có một món hàng giao cho các hạ, nhưng với ba điều kiện.
Đô Đại Cẩm nói:
– Bổn tiêu cục cũng có lệ: món hàng nào có tranh chấp, tiêu cục không nhận; món hàng nào lai lịch bất minh, và món hàng nào trị giá dưới năm vạn lượng bạc, tiêu cục không nhận.
Y chưa nghe đối phương nói ra ba điều kiện, đã nói trước điều kiện của mình.
Thiếu niên họ Ân nói:
– Món hàng của tại hạ, thật đáng tiếc, nói ra hơi không phải, lại có tranh chấp, lai lịch cũng bất minh, trị giá bao nhiêu cũng khó nói. Ba điều kiện của tại hạ cũng chẳng dễ đáp ứng. Thứ nhất, phải do Đô tổng tiêu đầu thân chinh áp tải. Thứ hai, từ phủ Lâm An đây tới phủ Tương Dương Hồ Bắc, phải đi gấp cả ngày lẫn đêm để kịp đưa hàng tới nơi nội trong mười hôm. Thứ ba, nếu có gì sơ sảy, thì hì-hì, đừng nói tính mạng của Đô tổng tiêu đầu chẳng còn, mà toàn bộ tiêu cục Long Môn, già trẻ lớn bé sẽ không một ai sống sót.
Nghe “ầm” một tiếng, chắc là Đô Đại Cẩm đập mạnh tay xuống bàn, rồi nghe y quát:
– Các hạ muốn đùa giỡn thì đi tìm nơi khác, chớ có đến Long Môn bổn tiêu cục! Nể các hạ gầy gò ốm yếu, thân hình chỉ được vài ba lượng thịt, chứ không thì hôm nay Đô mỗ không để cho yên đâu!
Thiếu niên họ Ân cười khẩy mấy tiếng hi-hi-hi, rồi nghe “kình kịch” mấy tiếng, có vật nặng được quẳng lên mặt bàn, giọng thiếu niên nói:
– Đây là hai ngàn lượng vàng, là tiền thuê bảo tiêu của tại hạ. Đô tổng tiêu đầu hãy nhận trước đi!
Đô Đại Cẩm sửng sốt nghĩ thầm: “Hai ngàn lượng vàng, giá trị tới mấy vạn lượng bạc, tiêu cục không biết phải vất vả bao nhiêu năm mới kiếm được món bạc khổng lồ này”!
Du Đại Nham cổ gáy bị cứng đờ không thể cử động, chỉ nhìn thấy lá cờ tiêu cục thêu con cá chép cắm trong bình hoa; lúc này trong đại sảnh yên lặng như tờ, chỉ nghe có tiếng con nhặng xanh bay vù qua mặt và tiếng thở nặng nhọc của Đô Đại Cẩm. Du Đại Nham tuy không nhìn thấy mặt Đô Đại Cẩm, nhưng cũng đoán được lúc này y đang trợn mắt há hốc mồm nhìn hai ngàn lượng vàng sáng lóa trên bàn. Từ ngày lập ra tiêu cục, số tài sản lớn ngần này y vẫn thường gặp nhưng toàn là của người khác. Bây giờ bỗng dưng có người mang hai ngàn lượng vàng đặt ngay trước mặt y, y chỉ cần gật đầu một cái, hai ngàn lượng vàng kia sẽ thành của y, bảo sao y chẳng động lòng?
Một lát sau, nghe Đô Đại Cẩm nói:
– Ân đại gia định nhờ bổn tiêu cục bảo tiêu món hàng gì?
Thiếu niên họ Ân đáp:
– Trước tiên Đô tổng tiêu đầu hãy trả lời, có thể đáp ứng đủ ba điều kiện của ta hay không?
Đô Đại Cẩm nghĩ giây lát, rồi vỗ mạnh vào đùi, đáp:
– Ân đại gia đã thù lao hậu hĩnh như thế, Đô mỗ dù có phải bán mạng cho Ân đại gia cũng sẵn lòng. Chẳng hay bảo vật của Ân đại gia khi nào mới đem tới?
Thiếu niên họ Ân nói:
– Thứ mà tại hạ muốn nhờ tiêu cục bảo tiêu chính là người đang nằm trên cáng kia.
Nghe câu ấy, Đô Đại Cẩm cố nhiên “ớ” lên một tiếng sửng sốt, riêng Du Đại Nham lại càng kinh ngạc hơn, chàng không nhịn được, liền kêu lên:
– Ta… ta…
Chàng há miệng thật lớn, nhưng nói không ra hơi; cứ như kẻ đang ngủ bị bóng đè, dù cố gắng dùng sức đến đâu toàn thân cũng không nghe theo trí óc sai khiến. Hiện tại mình mẩy tứ chi tê liệt, chỉ còn mắt chưa mù và tai chưa điếc mà thôi. Chỉ nghe Đô Đại Cẩm hỏi:
– Là vị… thiếu gia… này ư?
Thiếu niên họ Ân đáp:
– Phải, Đô tổng tiêu đầu phải thân chinh hộ tống, được phép thay xe thay ngựa chứ không thay người. Phải đi suốt ngày đêm, nội nhật mười hôm kịp tới núi Võ Đang ở phủ Tương Dương Hồ Bắc, giao cho tổ sư phái Võ Đang là Trương Tam Phong chân nhân.
Du Đại Nham nghe câu đó mới thở một hơi dài nhẹ nhõm. Đô Đại Cẩm nói:
– Phái Võ Đang ư? Đệ tử phái Thiếu Lâm chúng tôi tuy không có oán thù gì với phái Võ Đang, nhưng… nhưng xưa nay không hề qua lại… Việc này…
Thiếu niên họ Ân lạnh lùng nói:
– Vị thiếu gia này thân có vết thương, chậm trễ giây lát, dù vạn lượng vàng cũng không chuộc được. Món hàng này, Đô tổng tiêu đầu có nhận hay không là tùy. Đại trượng phu cần nói năng dứt khoát, đừng nên ấp úng này nọ.
Đô Đại Cẩm nói:
– Được, nể mặt Ân đại gia, bổn tiêu cục Long Môn xin nhận!
Thiếu niên họ Ân mỉm cười, nói:
– Hay lắm! Hôm nay là hai mươi chín tháng Ba, đến ngày mồng chín tháng Tư, nếu Tổng tiêu đầu không đưa vị thiếu gia này bình an tới núi Võ Đang thì tại hạ sẽ không để cho một ai của tiêu cục Long Môn toàn mạng!
Chỉ nghe “chíu chíu” vài tiếng, mười mấy chiếc kim bạc nhỏ xíu đã được bắn đi, trúng vào chiếc bình hoa cắm lá cờ tiêu cục, chiếc bình sứ vỡ tan thành mấy mươi mảnh, văng tứ tung.
Tài sử dụng ám khí như thế thật táng đởm kinh hồn. Đô Đại Cẩm thốt lên “úi chà!” một tiếng. Du Đại Nham cũng rùng mình. Chỉ nghe thiếu niên họ Ân quát:
– Đi thôi!
Hai kẻ khiêng cáng đặt cáng chở Du Đại Nham xuống đất rồi theo thiếu niên họ Ân ra khỏi tiêu cục Long Môn tức thời.
Một lát sau Đô Đại Cẩm mới định thần lại, tới trước mắt Du Đại Nham, hỏi:
– Vị thiếu gia quý tính đại danh là chi, có phải là người của phái Võ Đang hay chăng?
Du Đại Nham chỉ đăm đăm nhìn y, không sao đáp thành lời. Chàng thấy vị Tổng tiêu đầu này tuổi trạc ngũ tuần, thân hình vạm vỡ, cơ bắp ở hai cánh tay vồng lên, tướng mạo oai phong, hiển nhiên là một cao thủ ngoại gia.
Đô Đại Cẩm nói:
– Ân đại gia trông tuấn tú nho nhã, mà võ công siêu việt như thế, không biết là thuộc môn phái nào vậy?
Đô Đại Cẩm hỏi, Du Đại Nham liền nhắm mắt lại, chẳng để tâm tới y nữa. Y tự nghĩ, mình là một hảo thủ sử dụng ám khí nổi tiếng, được giang hồ tặng cho ngoại hiệu Đa Tý Hùng, nhưng thiếu niên họ Ân kia chỉ phẩy tay một cái đã búng mấy chục cây kim bạc nhỏ xíu như sợi tóc làm vỡ tan chiếc bình sứ, tài nghệ như thế mình thật không sao bì kịp.
Đô Đại Cẩm chủ trì tiêu cục Long Môn đã hơn hai chục năm, từng chứng kiến biết bao chuyện lạ lùng trên giang hồ, nhưng trả công những hai ngàn lượng vàng chỉ để thuê vận chuyển một người sống thì đừng nói Đô Đại Cẩm, chỉ e mọi tiêu cục trong thiên hạ cũng chưa từng gặp bao giờ. Đô Đại Cẩm cất vàng đi, sai cáng Du Đại Nham vào phòng nghỉ, rồi lập tức triệu tập các tiêu đầu của tiêu cục, chuẩn bị xe ngựa khởi hành ngay trong ngày.
Ai nấy ăn uống và chuẩn bị xong xuôi, lá cờ lớn thêu cá chép của tiêu cục được cuộn vào cán cờ, khi ra khỏi cổng lớn tiêu cục liền được bung ra, kèm theo tiếng hô to:
– Long Môn lý tam diệu, ngư nhi hóa vi long[18].
Du Đại Nham nằm trong cỗ xe lớn, lòng đầy cảm khái: “Du Đại Nham ta bao lâu tung hoành trên giang hồ, bình sinh nhìn đám bảo tiêu bằng nửa con mắt, không ngờ phen này gặp đại nạn, lại phải do họ hộ tống về núi Võ Đang”. Lại nghĩ thầm: “Vị bằng hữu họ Ân cứu ta không biết là ai, nghe giọng nói giống như một thiếu nữ, song Đô Đại Cẩm lại bảo, trông Ân đại gia dung mạo tuấn tú nho nhã mà võ công trác tuyệt, hành sự khác người, tiếc thay ta không được thấy mặt, cũng chẳng thể đa tạ một câu. Du Đại Nham ta nếu còn sống, nhất định phải báo đáp ơn này”.
Đoàn người và xe tiến thẳng về phía Tây, ngoài ba vị tiêu đầu Đô, Chúc, Sử, còn có bốn thiếu niên tiêu sư khỏe mạnh nhanh nhẹn. Họ theo đúng lời dặn của “Ân đại gia”, dọc đường chỉ thay xe đổi ngựa, chứ không thay người, đi liền một mạch không nghỉ suốt ngày đêm.
Khi ra cửa tây phủ Lâm An, Đô Đại Cẩm cứ ngờ rằng không biết dọc đường sẽ xảy ra bao nhiêu trận ác chiến đây, thế nhưng đã rời khỏi tỉnh Chiết Giang, qua tỉnh An Huy, vào địa phận tỉnh Giang Tây, mấy ngày liền đều bình yên vô sự. Hôm ấy đã qua Phàn Thành, khách điếm Thái Bình, bến đò Tiên Nhân, huyện Quang Hóa, vượt sông Hán Thủy đến Hà Khẩu, còn cách núi Võ Đang chỉ một ngày đường. Hôm sau chưa tới giờ Ngọ đã đến Song Tỉnh Tử, cách núi Võ Đang chẳng qua vài chục dặm. Hành trình tuy vất vả mệt nhọc, nhưng rốt cuộc đúng theo điều kiện thời gian của “Ân đại gia”, vừa vặn ngày mồng chín tháng Tư thì tới núi Võ Đang. Ngót chục ngày vừa qua cứ cắm đầu mà đi, ai nấy đều lo sợ, mãi đến bây giờ các tiêu sư mới cảm thấy yên tâm.
Đang là cuối xuân đầu hạ, bên đường núi muôn hoa khoe sắc, như nghênh đón viễn khách vậy. Đô Đại Cẩm cầm roi ngựa chỉ lên đỉnh Thiên Trụ ẩn hiện trong mây, nói:
– Chúc tam đệ, mấy năm qua thanh thế của phái Võ Đang rất mạnh, tuy chưa bằng phái Thiếu Lâm chúng ta, song danh tiếng của Võ Đang thất hiệp hiện lừng lẫy khắp giang hồ. Cứ nhìn đỉnh Thiên Trụ cao sừng sững kia thì biết nơi này địa linh nhân kiệt. Phái Võ Đang xem ra đúng là hùng cứ một phương.
Chúc tiêu đầu nói:
– Thanh thế của phái Võ Đang mấy năm qua tuy phát mạnh nhưng chưa có bề dày, không thể nào sánh kịp phái Thiếu Lâm có ngàn năm lịch sử được. Không nói đâu xa, cứ riêng “Nhị thập tứ Giáng ma chưởng” và tài sử dụng bốn mươi chín cây phi tiêu liên châu của Tổng tiêu đầu, người của phái Võ Đang đã chẳng ai bì kịp.
Sử tiêu đầu tiếp lời:
– Đúng thế. Những chuyện đồn đại trên giang hồ chỉ đáng tin vài phần. Danh tiếng Võ Đang thất hiệp lừng lẫy thật, nhưng sự thực võ công của họ tới mức nào, chúng ta chưa từng chứng kiến. Chỉ sợ một số kẻ trong giang hồ kiến thức non nớt cứ thêm mắm thêm muối, đồn đại bản lĩnh của thất hiệp lên tận mây xanh cũng nên.
Đô Đại Cẩm mỉm cười, hiểu biết của y cao hơn hẳn Chúc, Sử, thầm biết danh tiếng của Võ Đang thất hiệp quyết không phải do đồn đại, chắc chắn họ có võ nghệ kinh hồn. Chẳng qua y hành nghề bảo tiêu hai chục năm nay hiếm gặp địch thủ, y rất tự tin tự phụ về võ công của mình, nay lại nghe Chúc, Sử ca ngợi tài nghệ của y – những lời như thế y nghe không biết bao nhiêu lần – nên bất giác cũng thấy đắc ý.
Đường núi càng lên cao càng hẹp dần, ba người cưỡi ngựa không thể sánh vai nhau như cũ, Sử tiêu đầu phải ghìm ngựa lùi lại vài bước. Chúc tiêu đầu nói:
– Tổng tiêu đầu, lát nữa gặp lão đạo sư Trương Tam Phong của phái Võ Đang thì nên dùng lễ gì chào hỏi?
Đô Đại Cẩm nói:
– Chúng ta khác môn phái, ai nấy bằng vai phải lứa với nhau cả. Có điều Trương lão sư sắp chín mươi tuổi, là bậc đệ nhất cao niên trong võ lâm. Chúng ta tôn trọng bậc võ lâm tiền bối, cúi lạy vài cái là được.
Chúc tiêu đầu nói:
– Theo ý đệ, chúng ta nên cúi mình nói: “Trương chân nhân, chúng vãn bối xin kính lạy người!” Lão ta nhất định sẽ giơ tay cản lại và nói: “Từ phương xa tới là quý khách, khỏi cần đa lễ”. Vậy là chúng ta khỏi phải cúi lạy.
Đô Đại Cẩm mỉm cười, vẫn mải nghĩ không biết người đang nằm trong cỗ xe kia rốt cuộc là ai, lai lịch ra sao. Suốt mười ngày qua chàng ta không nói năng cử động, việc ăn uống và đại tiểu tiện đều phải do phu xe giúp đỡ. Đô Đại Cẩm và các tiêu sư đã mấy lần bàn tán với nhau vẫn không đoán nổi thân phận của chàng ta. Chàng ta có phải là đệ tử của phái Võ Đang? Hay là bằng hữu? Hay chàng ta là kẻ thù của phái Võ Đang, bị người ta bắt đưa lên núi? Càng gần đến núi Võ Đang, những nghi vấn ấy càng luôn lởn vởn trong óc Đô Đại Cẩm, chờ khi gặp Trương Tam Phong tất sẽ biết ngay. Nhưng đó là phúc hay họa, y khó đoán biết nên không kém phần lo ngại.
Đang trầm ngâm, bỗng nghe có tiếng vó ngựa trên sơn đạo dãy núi phía Tây, rồi có mấy con ngựa phóng về phía này. Chúc tiêu đầu tế ngựa lên xem xét. Một lúc sau, có sáu người cưỡi ngựa cắt rừng chạy xéo sang, cách đoàn người xe của tiêu cục mươi trượng thì họ gò cương, dàn thành hai hàng giữa đường mà cản lối. Đô Đại Cẩm nghĩ bụng: “Không ngờ đến chân núi Võ Đang mà còn gặp chuyện rắc rối”. Y nói nhỏ với Sử tiêu đầu: “Cẩn trọng bảo vệ cỗ xe!” Đoạn y thúc ngựa tiến lên, một tiêu sư cầm lá cờ của tiêu cục thực hiện động tác cuốn cờ và phất cờ là nghi thức kính lễ và nói:
– Tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An đi qua quý địa, lễ giáo thiếu chu đáo, mong các vị hảo bằng hữu lượng thứ.
Đô Đại Cẩm quan sát sáu người chắn đường, thấy hai người đội mũ màu vàng kiểu đạo sĩ, bốn người trang phục kiểu tục gia; cả sáu đều mang bao khí giới, ai nấy trông thật dũng mãnh, hăng hái. Đô Đại Cẩm liền nghĩ thầm: “Sáu người này là lục hiệp trong Võ Đang thất hiệp chăng?” Bèn giục ngựa tiến thêm vài bước, bao quyền, nói:
– Tại hạ là Đô Đại Cẩm, tổng tiêu đầu tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An, thỉnh vấn quý tính đại danh của sáu vị?
Đứng bên tay phải ở hàng trước là một người cao lớn, má bên trái có một nốt ruồi lớn màu đen với ba sợi lông để dài, người ấy lạnh lùng hỏi:
– Đô huynh lên núi Võ Đang làm gì?
Đô Đại Cẩm đáp nói:
– Bổn tiêu cục nhận lời ủy thác đưa một người bị thương lên quý sơn, muốn được kiến diện chưởng môn quý phái Trương chân nhân.
Người kia nói:
– Đưa một người bị thương ư? Là ai vậy?
Đô Đại Cẩm nói:
– Bổn tiêu cục nhận ủy thác của một vị đại gia họ Ân, đưa một người bị trọng thương lên núi Võ Đang. Còn người bị thương là ai, bị thương như thế nào và tại sao thì bổn tiêu cục không hay biết. Tiêu cục Long Môn nhận sự ủy thác của người, chỉ lo làm tròn phận sự của mình, còn mọi việc riêng tư của khách hàng, bổn tiêu cục xưa nay không bao giờ hỏi tới.
Đô Đại Cẩm lăn lộn mấy mươi năm trên giang hồ, lại chuyên sống bằng nghề bảo tiêu, dĩ nhiên hành sự vô cùng khôn khéo; lời vừa nói cốt để cho thấy rằng Du Đại Nham dù là bằng hữu hay thù địch của phái Võ Đang thì cũng chẳng liên can đến y.
Người mặt có nốt ruồi nhìn hai đồng bọn, rồi hỏi:
– Vị đại gia họ Ân ư? Hình dạng người đó trông như thế nào?
Đô Đại Cẩm đáp:
– Đó là một người trẻ tuổi, dung mạo tuấn tú nho nhã, sử dụng ám khí đại tài.
Người kia hỏi:
– Đô huynh đã động thủ với người ấy rồi sao?
Đô Đại Cẩm vội đáp:
– Chưa, chưa hề, là vị đó tự…
Chưa nói hết câu, thì người hói đầu đứng chắn đường ở hàng trên cướp lời:
– Thanh đao Đồ Long đâu? Hiện giờ ở trong tay ai?
Đô Đại Cẩm ngạc nhiên hỏi lại:
– Thanh đao Đồ Long nào? Có phải là thanh đao vẫn nghe nhắc tới trong câu “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long” hay chăng?
Người hói đầu tựa hồ tính khí nóng nảy, kém nhẫn nại, đột nhiên từ trên lưng ngựa nhảy phắt xuống đất, đến bên cỗ xe, vạch tấm vải che mà nhòm vào bên trong.
Đô Đại Cẩm thấy thân pháp của người kia quá ư cứng cỏi và thành thục, nghĩ thầm: “Vị tổ sư sáng lập phái Võ Đang Trương Tam Phong từng ngụ trong Thiếu Lâm tự, võ công của phái Võ Đang quả nhiên vẫn chưa thoát khỏi phạm vi của phái Thiếu Lâm, chưa thật sự độc đáo cho lắm!” lòng càng hoài nghi, bèn hỏi:
– Chẳng hay các vị có phải là Võ Đang thất hiệp lừng lẫy giang hồ? Vị nào là Tống đại hiệp? Tiểu đệ nghe đại danh đã lâu, lòng vốn ngưỡng mộ.
Người mặt có nốt ruồi nói:
– Chút hư danh ấy, Đô huynh hà tất nhắc tới làm gì, Đô huynh quá khiêm nhường.
Người hói đầu trở lại, lên ngựa, nói:
– Người kia thương thế rất nặng, không nên chậm trễ giây phút nào nữa. Chúng ta tiếp nhận trước đã.
Người mặt có nốt ruồi ôm quyền, nói:
– Đô huynh đi xa như vậy, thật là vất vả, tiểu đệ xin đa tạ.
Đô Đại Cẩm chắp tay đáp lễ:
– Không dám, không dám.
Người kia nói:
– Vị thiếu gia này thương thế không nhẹ, chúng tiểu đệ phải đưa ngay lên núi cứu chữa.
Đô Đại Cẩm chỉ mong sớm thoát trách nhiệm, liền nói:
– Được, như vậy là bổn tiêu cục coi như đã giao người cho phái Võ Đang.
Người kia nói:
– Đô huynh an tâm, cứ trao cho tiểu đệ phụ trách là được. Chẳng hay tiền công bảo tiêu Đô huynh đã nhận đủ chưa?
Đô Đại Cẩm đáp:
– Đã nhận đủ cả.
Người kia lấy trong túi ra một thỏi vàng ròng chừng hai mươi lượng, chìa ra, nói:
– Gọi là chút tiền trà nước, nhờ Đô huynh thưởng cho các vị huynh đệ.
Đô Đại Cẩm khước từ:
– Bổn tiêu cục đã nhận hai ngàn lượng vàng tiền công, đủ cho mọi chi phí rồi, Đô mỗ không phải là kẻ lòng tham không đáy.
Người kia nói:
– Chà, những hai ngàn lượng vàng!
Hai người đồng hành của người kia giục ngựa tiến lên phía trước, một người nhảy lên chỗ của xà ích, tiếp lấy dây cương, quất ngựa kéo xe đi trước, bốn người hộ tống phía sau xe.
Người mặt có nốt ruồi khẽ vẩy tay tung thỏi vàng tới trước mặt Đô Đại Cẩm, cười nói:
– Đô huynh chớ nên khách sáo, xin hãy trở về Lâm An!
Thỏi vàng bay tới trước mặt, Đô Đại Cẩm đành phải giơ tay bắt, định ném trả lại thì người kia đã quay ngựa phóng vội đi, chỉ thấy cỗ xe lớn do năm người cưỡi ngựa hộ tống, quành sang eo núi, lát sau đã mất dạng.
Đô Đại Cẩm nhìn kỹ thỏi vàng, thấy có năm vết ngón tay hằn lõm xuống vài phân. Vàng tuy mềm hơn sắt và đồng, nhưng chỉ lực của người kia mạnh như thế thật đáng sợ. Đô Đại Cẩm ngẩn người nhìn theo, nghĩ thầm: “Đại danh của Võ Đang thất hiệp chẳng phải tự dưng mà có. Trong phái Thiếu Lâm ta, chỉ có vài vị sư bá sư thúc luyện tập ‘Kim Cương chỉ lực’ mới có công lực thế này”.
Chúc tiêu đầu cũng ngẩn người nhìn năm vết ngón tay hằn lõm trên thỏi vàng, rồi nói:
– Tổng tiêu đầu, đệ tử phái Võ Đang thật không biết lễ giáo gì hết, kiến diện không thèm xưng danh tính, chúng ta từ ngàn dặm xa xôi tới tận chân núi Võ Đang mà họ không mời lên ăn uống nghỉ ngơi. Cùng giới võ lâm với nhau mà đối xử chẳng thân thiện chút nào.
Đô Đại Cẩm trong thâm tâm cũng bất mãn từ sớm, chỉ là không tiện nói ra, nên chỉ cười nhạt, nói:
– Như thế chúng ta càng đỡ phải đi thêm một đoạn đường nữa, chẳng hơn sao? Đệ tử phái Thiếu Lâm mà đi vào đạo quán của phái Võ Đang kể ra cũng bất tiện lắm. Thôi, hai vị hiền đệ, chúng ta quay ngựa trở về thôi!
Chuyến đi bảo tiêu này tuy không xảy ra rắc rối, nhưng việc gì cũng khó hiểu, mình không được biết, lại cứ bị người ta vô tình hay cố ý khinh khi. Như Võ Đang thất hiệp đó, đến danh tính họ cũng chẳng buồn xưng, hiển nhiên là bọn họ chẳng coi y ra gì. Đô Đại Cẩm càng nghĩ càng căm tức, thầm tính cách trả mối hận này. Đoàn người đi ngược trở lại đường cũ, Đô Đại Cẩm lòng không vui, còn các tiêu sư và xà ích thì ai nấy cao hứng, nghĩ tới mười ngày đêm hành trình vất vả nhưng tiêu cục được nhận những hai ngàn lượng vàng, Tổng tiêu đầu vốn là người rộng rãi, hẳn các huynh đệ đều sẽ được hưởng hoa hồng hậu hĩnh.
Chiều tối, còn cách Song Tỉnh Tử chừng hơn mười dặm, Chúc tiêu đầu thấy Đô Đại Cẩm vẻ mặt rầu rĩ, bèn nói:
– Tổng tiêu đầu, chuyện hôm nay Tổng tiêu đầu chẳng cần để bụng. Núi cao sông dài, trên giang hồ rồi sẽ có lúc tương phùng. Để xem uy phong của Võ Đang thất hiệp còn được bao lâu nữa?
Đô Đại Cẩm thở dài:
– Có một việc khiến ta nghĩ lại mà ân hận.
Chúc tiêu đầu hỏi:
– Việc gì vậy?
Bỗng từ phía sau có tiếng vó câu lộp cộp, rồi một con ngựa chạy tới, con ngựa ấy chạy trông rất nhởn nhơ, mà tốc độ nhanh lạ thường, thoáng giây lát đã tới gần. Mọi người cùng quay đầu lại, thấy con ngựa ấy thân cao hơn giống ngựa thường cả thước, có bộ vó đặc biệt dài, nhờ vậy mà chạy cực nhanh. Loài ngựa Thanh Thông[19] này lông xanh trải khắp thân mình và rất mướt.
Chúc tiêu đầu thốt lên tán thưởng:
– Ngựa đẹp quá!
Rồi nói tiếp:
– Tổng tiêu đầu, chúng ta có điều gì thất thố ư?
Đô Đại Cẩm buồn rầu nói:
– Đấy là chuyện của ta hai mươi lăm năm về trước. Bấy giờ ta học võ công ở Thiếu Lâm tự. Ân sư khuyên ta học thêm năm năm nữa sẽ truyền thụ hết bộ “Đại Vĩ Đà chưởng”; nhưng dạo ấy ta còn trẻ người non dạ, tưởng rằng với bản lĩnh hiện có đã đủ để hành tẩu trên giang hồ, không nghe lời ân sư kiên trì tiếp tục khổ luyện trong Thiếu Lâm tự. Ôi, giả sử dành thêm năm năm khổ học thì hôm nay đâu chịu để Võ Đang thất hiệp khinh khi vũ nhục như vậy…
Nói tới đó thì con ngựa Thanh Thông kia lướt qua đoàn tiêu cục, người ngồi trên mình ngựa liếc nhìn Đô Đại Cẩm và Chúc tiêu đầu bằng ánh mắt rất lạ.
Đô Đại Cẩm thấy có người lạ đi ngang qua, liền dừng lời, nhìn sang. Đó là một thiếu niên chừng hai mươi tuổi, diện mạo tuấn tú, nước da hơi xanh, nhưng thần sắc sáng sủa, thân hình gầy ốm không giấu được vẻ dũng mãnh. Chàng ta ôm quyền, nói:
– Xin phép, mạn phép!
Con ngựa của chàng vọt qua tiêu đội, phi nhanh lên trước.
Đô Đại Cẩm nhìn theo người kia, nói:
– Chúc hiền đệ có nhận ra đó là nhân vật nào không?
Chúc tiêu đầu đáp:
– Người ấy từ trên núi xuống, có lẽ là đệ tử phái Võ Đang. Có điều là không mang theo binh khí, thân hình lại gầy ốm, chẳng giống người có võ công chút nào.
Lời vừa dứt thì chàng thiếu niên kia bỗng nhiên cho ngựa chạy trở lại, rồi còn cách khá xa đã ôm quyền, nói:
– Tiểu đệ xin mạn phép được hỏi một lời, xin các đại huynh chớ cho là lạ!
Đô Đại Cẩm thấy chàng nói năng khách sáo, liền đáp:
– Các hạ muốn hỏi gì?
Chàng thiếu niên nhìn lá cờ thêu cá chép do một phu xe đang giương cao, hỏi:
– Quý cục có phải là tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An chăng?
Chúc tiêu đầu nói:
– Phải!
Chàng thiếu niên nói:
– Thỉnh vấn quý tính đại danh của các vị đại huynh là chi? Đô tổng tiêu đầu của quý cục có mạnh giỏi hay chăng?
Chúc tiêu đầu tuy thấy chàng thiếu niên nói năng lễ độ, nhưng dân giang hồ khó biết lòng dạ thế nào, không thể sơ kiến đã tỏ ra thành thật, bèn đáp:
– Tại hạ họ Chúc, còn quý danh của bằng hữu? Bằng hữu có quen biết Tổng tiêu đầu của bổn tiêu cục ư?
Chàng thiếu niên nói:
– Tại hạ họ Trương, tên thường gọi Thúy Sơn, tại hạ ngưỡng mộ Đô tổng tiêu đầu của quý cục đã lâu, tiếc rằng chưa có duyên hội ngộ.
Vừa nghe chàng thiếu niên xưng danh Trương Thúy Sơn thì Đô Đại Cẩm và Chúc, Sử tiêu đầu đều kinh ngạc. Trong Võ Đang thất hiệp, Trương Thúy Sơn đứng thứ năm; mấy năm qua người trong võ lâm nhắc đến Trương Thúy Sơn đều ca ngợi chàng có võ công cực kỳ cao siêu, không ngờ lại là một thiếu niên nho nhã, mảnh khảnh, gió thổi dễ bay thế này.
Đô Đại Cẩm bán tín bán nghi, tế ngựa tới gần nói:
– Tại hạ chính là Đô Đại Cẩm, chẳng hay các hạ chính là người mà giang hồ vẫn gọi là Ngân Câu Thiết Hoạch Trương ngũ hiệp?
Chàng thiếu niên mỉm cười đáp:
– Đô tổng tiêu đầu quá khen, tại hạ đâu xứng với anh danh đó. Các vị đến núi Võ Đang, tại sao qua cửa không vào? Hôm nay chính là ngày mừng gia sư đại thọ chín mươi tuổi, nếu các vị không bận bịu, xin mời lên núi uống vài chung rượu lạt được chăng?
Đô Đại Cẩm nghe chàng nói chân thành như vậy thì nghĩ thầm: “Sao nhân phẩm của Võ Đang thất hiệp lại khác nhau đến thế? Sáu người kia ngạo mạn vô lễ, trong khi Trương ngũ hiệp thật khiêm nhường khả ái”. Bèn xuống ngựa, mỉm cười nói:
– Giá lệnh sư huynh cũng quý mến bằng hữu như Trương ngũ hiệp, thì giờ này chúng tôi đã ở trên núi Võ Đang rồi.
Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:
– Sao? Đô tổng tiêu đầu đã gặp sư huynh của tại hạ ư? Đã gặp sư huynh thứ mấy vậy?
Đô Đại Cẩm nghĩ bụng: “Ngươi thật giảo hoạt, đến lúc này mà còn giả bộ ngây ngô”, bèn nói:
– Tại hạ hôm nay thật xui xẻo, trong một ngày bị toàn bộ Võ Đang thất hiệp dối lừa.
Trương Thúy Sơn kêu “ớ” một tiếng, ngẩn người ra, hỏi:
– Cả Du tam ca của tại hạ, Đô tổng tiêu đầu cũng gặp rồi ư?
Đô Đại Cẩm nói:
– Du Đại Nham Du tam hiệp ấy à? Đô mỗ chẳng biết vị nào là Du tam hiệp. Gặp cả sáu vị một lúc, tất nhiên trong số đó có Du tam hiệp.
Trương Thúy Sơn nói:
– Gặp cả sáu người? Kỳ thật! Làm sao lại gặp cả sáu người kia chứ? Đô Đại Cẩm nói:
– Thì các sư huynh sư đệ của các hạ có chịu xưng danh đâu mà Đô mỗ biết được? Các hạ là Trương ngũ hiệp, sáu vị kia dĩ nhiên là Tống đại hiệp cho đến Mạc thất hiệp chứ gì.
Cứ mỗi chữ “hiệp” y lại dài giọng, ngụ ý giễu cợt.
Nhưng Trương Thúy Sơn đang mải nghĩ, không nhận ra thái độ đó, lại hỏi:
– Đô tổng tiêu đầu gặp họ thật ư?
Đô Đại Cẩm nói:
– Không riêng tại hạ, mà cả mấy chục con mắt tiêu đội chúng tôi cùng nhìn thấy.
Trương Thúy Sơn lắc đầu:
– Không thể có chuyện đó được. Tống sư ca hôm nay luôn luôn túc trực ở cung Tử Tiêu trên núi chờ lệnh sư phụ, không rời nửa bước. Sư phụ và Tống sư ca thấy Du tam ca quá Ngọ vẫn chưa về tới bèn sai tiểu đệ xuống núi nghe ngóng, làm sao Đô tổng tiêu đầu lại gặp Tống sư ca được kia chứ?
Đô Đại Cẩm hỏi:
– Người mặt có nốt ruồi đen với ba sợi lông mọc dài từ nốt ruồi ra là Tống đại hiệp hay Du tam hiệp? Trương Thúy Sơn ngớ ra, nói:
– Tất cả các sư huynh sư đệ của tại hạ, không ai có nốt ruồi trên mặt cả.
Đô Đại Cẩm nghe câu ấy thì lạnh hết người, nói:
– Sáu vị ấy tự xưng Võ Đang lục hiệp, đã xuất hiện dưới chân núi Võ Đang, trong đó lại có hai vị đội mũ đạo sĩ, chúng tôi dĩ nhiên…
Trương Thúy Sơn ngắt lời:
– Sư phụ tại hạ tuy là Đạo nhân, nhưng Người chỉ thu nhận tục gia đệ tử. Sáu người ấy tự xưng là Võ Đang lục hiệp thật ư?
Đô Đại Cẩm điểm lại tình hình lúc đó, mới nhớ ra rằng vừa mới gặp mình đã tự gọi họ là Võ Đang lục hiệp, chứ đối phương không nói câu nào bộc lộ thân phận cả; bọn họ chỉ không phủ nhận sự ngộ nhận của y thôi. Bất giác Đô Đại Cẩm và Chúc, Sử tiêu đầu đưa mắt nhìn nhau ngơ ngác một hồi, mới nói:
– Vậy thì chỉ e sáu người kia có ác ý. Chúng ta phải mau đuổi theo!
Đoạn nhảy ngay lên ngựa, ra roi phóng ngược lên núi.
Trương Thúy Sơn cũng giục ngựa phóng theo. Ngựa của chàng chân dài, chạy trông thong thả mà nhanh, lát sau đã tới tới ngang đầu ngựa của Đô Đại Cẩm. Trương Thúy Sơn nói:
– Sáu vị ấy mạo nhận danh tính, Đô huynh đừng chấp nhặt chuyện đó làm gì!
Đô Đại Cẩm nói:
– Nhưng còn người kia nữa? Bổn tiêu cục nhận lời ủy thác phải đưa người ấy lên núi Võ Đang giao cho Trương chân nhân. Nay sáu kẻ kia giả mạo tính danh, đã tiếp nhận người kia, chỉ e… chỉ e sự việc nguy mất…
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Đô huynh mang ai tới giao cho sư phụ tiểu đệ? Sáu kẻ kia đã tiếp nhận ai thế?
Đô Đại Cẩm vừa giục ngựa phi nhanh hơn, vừa đem chuyện vận chuyển một người thụ trọng thương lên núi Võ Đang kể cho Trương Thúy Sơn nghe. Trương Thúy Sơn ngạc nhiên, hỏi:
– Danh tính người bị thương là gì? Diện mạo ra sao?
Đô Đại Cẩm nói:
– Cũng không biết danh tính người ấy là gì, người ấy thụ thương sao đó không nói, cũng không cử động được. Người ấy tuổi trạc tam tuần.
Đoạn miêu tả diện mạo của Du Đại Nham.
Trương Thúy Sơn cả kinh, nói:
– Đó… chính là Du tam ca!
Tâm trí bấn loạn cả lên, nhưng chàng lập tức trấn tĩnh, giơ tay tả nắm lấy cương ngựa của Đô Đại Cẩm ghìm lại. Con ngựa đang phi nước đại, bị Trương Thúy Sơn ghìm phắt lại, không thể phi thêm nửa vó, bên mép bật máu tươi, hí to một tiếng đau đớn. Đô Đại Cẩm bị văng khỏi yên ngựa, rơi xuống đất, chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, đã rút thanh đơn đao ra, y thầm sợ, không ngờ chàng thiếu niên mảnh khảnh chỉ giơ tay gò cương mà đã giữ cứng lại một con ngựa đang phi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đô huynh chớ hiểu lầm, Đô huynh vất vả hộ tống Du tam ca từ ngàn dặm xa xôi tới đây, tiểu đệ vô cùng cảm kích, chứ không có ý gì khác.
Đô Đại Cẩm “hừ” một tiếng, cắm đao vào bao, tay phải vẫn nắm cán đao.
Trương Thúy Sơn nói:
– Du tam ca bị thương như thế nào? Đối thủ là ai? Người nào nhờ Đô huynh mang Du tam ca về đây?
Cả ba câu hỏi ấy, Đô Đại Cẩm đều không thể trả lời. Trương Thúy Sơn cau mày, lại hỏi tiếp:
– Kẻ tiếp nhận Du tam ca hình dạng ra sao?
Sử tiêu đầu nhanh miệng trả lời. Nghe xong, Trương Thúy Sơn nói:
– Tiểu đệ phải đi trước đây.
Đoạn ôm quyền, phóng ngựa đi liền.
Con ngựa của chàng đi thong thả đã nhanh lạ thường, lúc này nó phi thì chỉ nghe gió thổi ù ù bên tai, cây cối hai bên đường vùn vụt lùi về phía sau. Võ Đang thất hiệp, đồng môn học nghệ, chung vai hành hiệp, tình hơn cốt nhục, Trương Thúy Sơn nghe tin Du tam ca thụ trọng thương, lại rơi vào tay những kẻ lai lịch mờ ám thì lòng như lửa đốt, liên tiếp ra roi giục ngựa, giả dụ con ngựa có chết vì kiệt sức, chàng cũng chẳng tiếc.
Phi một mạch tới thảo điếm, chỗ ấy là ngã ba đường, một dẫn lên núi Võ Đang, một chạy về hướng đông bắc đến Vân Dương. Trương Thúy Sơn nghĩ bụng: “Sáu kẻ kia mà có hảo tâm chở Du tam ca lên núi thì khi từ trên núi đi xuống mình đã gặp họ rồi”, bèn kẹp hai đùi vào lưng ngựa, phóng về hướng đông bắc.
Phi một mạch chừng hơn nửa canh giờ, ngựa quý dù khỏe mấy, sức cũng có hạn, mỗi lúc một chạy chậm dần, nhìn sắc trời sắp tối, mà cả một vùng núi non quạnh vắng, chẳng gặp được ai để hỏi thăm. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Du tam ca võ công trác tuyệt, sao lại bị đánh trọng thương được nhỉ? Nhưng cứ nhìn sắc diện của Đô Đại Cẩm thì chắc không phải y bịa chuyện”. Nhìn đường xem chừng sắp tới trấn Thập Yển, bỗng thấy có một cỗ xe lớn lật nghiêng trong bãi cỏ ven đường, lại gần vài bước, thấy một con la kéo xe nằm chết bên cạnh, đầu vỡ toang, não phòi ra ngoài.
Trương Thúy Sơn nhảy xuống ngựa, vạch rèm che cửa xe, bên trong không có ai, quay mình lại, thì thấy trong trong đám cỏ cao có một người nằm sấp bất động, tựa hồ đã chết hàng giờ trước đó. Trống ngực đập thình thình, Trương Thúy Sơn vạch cỏ chạy tới, nhìn kỹ sau lưng đúng là tam sư huynh Du Đại Nham, vội luồn hai tay ôm người kia lên. Trong ánh hoàng hôn chỉ thấy Du Đại Nham hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt nhợt nhạt đáng sợ. Trương Thúy Sơn vừa kinh hãi vừa đau đớn, áp má mình vào mặt sư huynh, cảm thấy còn chút hơi ấm. Chàng cả mừng, đưa tay rờ ngực sư huynh, thấy tim còn đập, tuy rất chậm, lúc đập lúc dừng, mạch có thể mất bất cứ lúc nào.
Trương Thúy Sơn trào lệ, gọi:
– Tam ca, tam ca… sao đến nỗi… Ngũ đệ đây…mà…
Trương Thúy Sơn nhẹ nhàng ôm sư huynh đứng dậy, thấy tứ chi của sư huynh thõng thượt mềm nhũn, thì ra tất cả các khớp tứ chi đã bị bẻ gãy, từ các khớp cổ tay, khuỷu tay, các ngón tay, cổ chân chỉ thấy máu tươi ri rỉ chảy ra, hiển nhiên kẻ địch hạ thủ cách đây chưa lâu, hơn nữa hắn hạ thủ tàn bạo như thế khiến chàng kinh sợ không nỡ nhìn.
Trương Thúy Sơn cảm thấy lửa giận bừng bừng, con ngươi mắt như muốn nổ tung, chàng biết kẻ địch đi chưa xa, bằng con tuấn mã, chàng thừa sức đuổi kịp, trong cơn cuồng nộ chàng chỉ muốn băm vằm kẻ địch thành trăm mảnh; nhưng lại nghĩ, sư huynh phải được cứu chữa sớm chút nào hay chút đó, quân tử báo thù mười năm chưa muộn. Lúc xuống núi, chàng chỉ định sẽ trở lên ngay, nên không mang theo binh khí và túi thuốc, giờ nhìn tình cảnh Du Đại Nham thế này, nếu đi ngựa lắc qua lắc lại, mỗi bước đều làm cho sư huynh đau đớn; chàng liền nhẹ nhàng ôm sư ca lên tay, thi triển khinh công chạy nhanh lên núi. Con tuấn mã lẽo đẽo theo sau, thấy chủ nhân không cưỡi mình, có lẽ nó cũng lấy làm lạ.
Hôm nay là ngày mừng đại thọ vị tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong tròn chín mươi tuổi. Từ sáng, cung Tử Tiêu đã tràn ngập không khí tưng bừng, sáu đệ tử từ đại đệ tử Tống Viễn Kiều trở xuống đều lần lượt bái thọ sư phụ, trong bảy đệ tử chỉ thiếu Du Đại Nham chưa về. Trương Tam Phong cùng mọi người biết rằng Du Đại Nham hành sự thận trọng, xuống phương nam diệt bọn đạo tặc nọ cũng chẳng phải thuộc loại lợi hại gì cho lắm, nên nghĩ thể nào cũng về kịp. Thế nhưng đợi đến chính Ngọ vẫn chưa thấy Du Đại Nham về tới, ai nấy nóng lòng sốt ruột. Trương Thúy Sơn thưa với sư phụ:
– Để đệ tử xuống núi đón tam ca.
Nào ngờ Trương Thúy Sơn đi chán cũng chẳng đem tin về. Con ngựa Thanh Thông chàng cưỡi là loại cước lực cực nhanh, dù có chạy đến tận Lão Hà Khẩu thì cũng phải trở về nhà rồi. Đằng này đã tới giờ Dậu vẫn chưa thấy tăm hơi. Bàn tiệc từ lâu đã bày sẵn sàng trong đại sảnh, cây nến hồng lớn đã cháy quá nửa, hết thảy mọi người đều cảm thấy bồn chồn lo lắng. Đệ tử thứ sáu Ân Lê Đình, đệ tử thứ bảy Mạc Thanh Cốc cứ sốt ruột đi ra đi vào cung Tử Tiêu không biết bao nhiêu lần. Trương Tam Phong biết rõ tính cách hai đệ tử của mình, Du Đại Nham thận trọng, đáng tin cậy, có thể đảm đương đại sự; Trương Thúy Sơn thì thông minh cơ trí, biện sự nhanh nhẹn, lâu nay không hề do dự chậm chạp, đến lúc này vẫn chưa về tới, hẳn phải có biến cố bất thường.
Tống Viễn Kiều nhìn cây nến hồng, nói:
– Sư phụ, tam đệ và ngũ đệ chắc hẳn gặp chuyện bất bình nên phải ra tay can thiệp đấy thôi! Sư phụ vẫn thường giáo huấn chúng con cần tích đức hành thiện, hôm nay là ngày đại hỉ ngàn thu mới có một lần của lão nhân gia, hai sư đệ có làm được việc nghĩa hiệp thì mới là cách mừng thọ hay nhất.
Trương Tam Phong vuốt bộ râu dài, cười:
– Ha ha, sinh nhật lần thứ tám mươi của ta, ngươi có cứu được một quả phụ đâm đầu xuống giếng, thật là hay! Có điều là cách mười năm mới làm được một việc nghĩa hiệp thì bàn dân thiên hạ phải chờ đợi quá lâu, phát ngán mất thôi.
Năm đệ tử cùng cười rộ. Trương Tam Phong tính tình vui vẻ nên sư đồ vẫn thường cười đùa với nhau.
Đệ tử thứ tư Trương Tòng Khê nói:
– Sư phụ tối thiểu sẽ thọ đến hai trăm tuổi, chúng con cứ mười năm làm được một việc nghĩa hiệp, cộng lại cũng chẳng ít đâu.
Đệ tử thứ bảy Mạc Thanh Cốc cười:
– Ha ha, chỉ sợ bảy đệ tử chúng con không sống lâu được đến ngày ấy…
Y nói chưa dứt câu, Tống Viễn Kiều và đệ tử thứ hai Du Liên Châu cùng bật dậy, chạy ra ngoài hiên, hỏi:
– Tam đệ đó phải không?
Chỉ nghe Trương Thúy Sơn nói:
– Là đệ!
Tiếng thưa có vẻ nghẹn ngào, chỉ thấy chàng hai tay bồng một người tiến vào, mặt đầy vết máu lẫn mồ hôi, đến trước mặt Trương Tam Phong thì quỳ xuống khóc không thành tiếng, nấc lên:
– Sư phụ, tam… tam ca bị ám toán…
Mọi người vô cùng kinh hãi, chỉ thấy Trương Thúy Sơn loạng choạng rồi ngã ngửa ra phía sau. Chàng vừa gắng chạy một chặng đường dài, trong lòng lại quá đau thương, cuối cùng về đến chỗ sư phụ và huynh đệ đồng môn thì hết chịu nổi, ngã lăn ra bất tỉnh.
Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu biết rằng Trương Thúy Sơn ngất lịm chỉ vì tâm thần xúc động, lại vừa lao lực quá độ mà ra; còn tam sư đệ Du Đại Nham thì chưa biết sống chết thế nào, hai người không hẹn mà cùng giơ tay bế Du Đại Nham lên, chỉ thấy hơi thở thoi thóp, mạng sống mong manh như sợi tơ.
Trương Tam Phong thấy đệ tử yêu của mình bị thương nghiêm trọng tới mức ấy thì bàng hoàng, không kịp hỏi han, vội vào nội đường lấy ra một bình “Bạch hổ đoạt mệnh đan”. Miệng bình được gắn kín bằng sáp trắng, lúc này chẳng hơi đâu cạy sáp mở nắp, Trương Tam Phong dùng hai ngón tay trái bóp nhẹ, chiếc bình vỡ luôn, lấy ba viên thuốc màu trắng nhét vào miệng Du Đại Nham. Nhưng Du Đại Nham đã mất hết tri giác, làm sao nuốt xuống được?
Trương Tam Phong dùng hai ngón cái và ngón trỏ của cả hai tay hợp lại thành thế “Hạc chủy kình”, đầu ngón trỏ ấn vào “Long dược khiếu” cách vành tai ba phân về phía trên, vận nội lực day nhè nhẹ. Với công lực của mình hiện tại, khi sử dụng “Hạc chủy kình điểm Long dược khiếu”, Trương Tam Phong sẽ làm cho người mới tắt thở cũng phải hoàn hồn giây lát, đằng này Trương lão day đến hai chục lần mà Du Đại Nham vẫn không động đậy.
Trương Tam Phong khẽ thở dài, hai tay đặt thành kiếm quyết, lòng bàn tay úp xuống, cùng ấn vào huyệt Giáp Xa của Du Đại Nham. Huyệt Giáp Xa nằm ở hai bên má, chỗ hai hàm răng cắn chặt lại. Trương Tam Phong âm thủ điểm vào, lập tức ngửa lòng bàn tay lên, chuyển thành dương thủ, một âm một dương đổi cho nhau, đổi qua đổi lại đến lần thứ mười hai, thì Du Đại Nham mới há miệng ra, từ từ nuốt đan dược vào cổ họng.
Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc từ nãy nín thở lo lắng dõi theo, lúc này cùng reo lên một tiếng “a”.
Nhưng bắp cơ ở cổ họng Du Đại Nham đã cứng đơ, đan dược vào tới đó mà không xuống bụng. Trương Tòng Khê liền vuốt xuôi cổ họng cho Du Đại Nham, còn Trương Tam Phong thì dùng ngón tay đóng bế hai huyệt Khuyết Bồn và Du Phủ trên vai, hai huyệt Dương Quan và Mệnh Môn ở sau lưng Du Đại Nham, để khi chàng tỉnh dậy sẽ không vì đau đớn quá ở tứ chi mà lại ngất đi.
Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu quen thấy sư phụ dù gặp đại sự hung hiểm cách mấy cũng vẫn bình thản như không; vậy mà lần này hai tay Trương lão hơi run, mắt lộ vẻ kinh hoàng, thì hai người biết rằng thương thế của tam sư đệ hẳn là vô cùng nguy kịch.
Trương Tam Phong không trả lời vào câu hỏi, chỉ nói:
– Thúy Sơn, thế gian có ai bất tử?
Chợt có tiếng chân người, rồi một tiểu đồng tiến vào bẩm báo:
– Ngoài kia có một tiêu khách xin cầu kiến tổ sư gia, nói là Đô Đại Cẩm của tiêu cục Long Môn phủ Lâm An.
Trương Thúy Sơn bật dậy, mặt đầy vẻ giận dữ, nói:
– Chính hắn đó!
Đoạn chàng chạy ra ngoài, chỉ nghe mấy tiếng loảng xoảng của binh khí bị quăng xuống đất. Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc đang tính chạy ra trợ giúp sư huynh, thì thấy Trương Thúy Sơn tay phải nắm cổ một đại hán đẩy vào, giúi giúi đầu hắn xuống đất, giận dữ nói:
– Chính kẻ này đã làm hỏng hết mọi sự.
Mạc Thanh Cốc nghe nói kẻ kia làm cho sư ca bị trọng thương, bèn co chân đá Đô Đại Cẩm. Tống Viễn Kiều khẽ quát:
– Hãy khoan!
Mạc Thanh Cốc liền thu chân lại.
Từ bên ngoài có tiếng nói vọng vào:
– Phái Võ Đang các người không cần lý lẽ thì phải? Chúng tôi có hảo ý cầu kiến, sao lại sỉ nhục chúng tôi như thế?
Tống Viễn Kiều cau mày, giơ tay vỗ nhẹ vài cái vào lưng và bả vai Đô Đại Cẩm, giải các huyệt đạo do Trương Thúy Sơn vừa điểm, nói vọng ra:
– Khách ở bên ngoài không nên huyên náo, chờ đó một lát sẽ phân định đúng sai!
Hai câu đó ngữ khí uy nghiêm, nội lực sung mãn; Chúc, Sử tiêu đầu vừa nghe đã khiếp phục ngay, ngỡ rằng Trương Tam Phong lên tiếng ngăn chặn, nên không dám ho he gì nữa.
Tống Viễn Kiều nói:
– Tam đệ bị thương ra sao, ngũ đệ hãy từ từ kể lại coi, đừng vội.
Trương Thúy Sơn quắc mắt nhìn Đô Đại Cẩm, rồi kể lại việc tiêu cục Long Môn nhận lãnh hộ tống Du Đại Nham về núi Võ Đang ra sao, đem giao cho sáu kẻ mạo danh như thế nào. Tống Viễn Kiều đã thấy võ công của Đô Đại Cẩm, sớm biết người như thế quyết không đủ bản lĩnh sát hại Du Đại Nham, huống hồ y còn dám lên đây cầu kiến, ắt thực tâm chứ không phải man trá, nên dịu giọng ôn tồn hỏi kỹ Đô Đại Cẩm về sự việc xảy ra.
Đô Đại Cẩm nhất nhất cứ thực tình thuật lại, cuối cùng rầu rĩ nói:
– Tống đại hiệp, họ Đô tôi biện sự không chu đáo, khiến Du tam hiệp bị thảm họa thế này, tội thật đáng chết. Có điều toàn bộ thân quyến của chúng tôi ở phủ Lâm An hiện giờ không rõ tính mệnh ra sao?
Trương Tam Phong liên tiếp dùng song chưởng đặt lên hai huyệt Thần Tàng và Linh Đài của Du Đại Nham, đem nội lực của mình truyền sang cơ thể chàng, nghe Đô Đại Cẩm nói vậy, liền nói:
– Liên Châu, con hãy cùng Thanh Cốc lập tức đi Lâm An bảo hộ mọi người ở tiêu cục Long Môn.
Du Liên Châu đáp lời, tuy chàng ngạc nhiên, nhưng hiểu ngay lòng từ bi, hiệp nghĩa của sư phụ. Vị họ Ân nọ từng nói rằng nếu để việc hộ tống Du Đại Nham xảy ra nửa phần sơ suất, sẽ giết sạch già trẻ lớn bé ở tiêu cục Long Môn. Câu nói đó nghe chỉ như một lời hăm dọa, nhưng Đô Đại Cẩm và các hảo thủ của tiêu cục đều đi bảo tiêu ở bên ngoài cả rồi, nếu quả gặp nguy biến, sẽ không có ai chống đỡ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Sư phụ, gã họ Đô này hành sự hồ đồ ngu xuẩn, để tam sư ca đến nông nỗi này, chúng ta không hỏi tội gã thì thôi, lẽ đâu còn cất công đi bảo hộ gia quyến cho gã nữa?
Trương Tam Phong chỉ lắc đầu, không nói gì. Tống Viễn Kiều nói:
– Ngũ đệ sao hẹp lượng như thế? Đô tổng tiêu đầu bôn ba ngàn dặm tới đây là vì ai?
Trương Thúy Sơn cười nhạt:
– Gã vì hai ngàn lượng vàng, chứ đâu phải vì tử tế với Du tam ca?
Đô Đại Cẩm vừa nghe thì mặt đỏ bừng, nhưng ngẫm ra thì y nhận bảo tiêu chuyến này đích thị là vì khoản tiền công hậu hĩnh.
Tống Viễn Kiều quát:
– Ngũ đệ, không được vô lễ với khách, đệ đã vất vả nửa ngày rồi, mau đi nghỉ đi!
Trong phái Võ Đang, sư huynh có uy quyền rất lớn, Tống Viễn Kiều tính lại đoan nghiêm, từ Du Liên Châu trở xuống ai ai cũng đều kính nể. Trương Thúy Sơn nghe Tống Viễn Kiều trách mắng, không dám cãi nửa lời, nhưng vì lo lắng cho thương thế của Du Đại Nham, nên chưa chịu lui vào nghỉ. Tống Viễn Kiều nói với Du Liên Châu:
– Nhị đệ, sư phụ đã có lệnh, nhị đệ cùng thất đệ phải đi suốt ngày đêm, sự việc khẩn cấp, không được chậm trễ.
Du Liên Châu và Mạc Thanh Cốc đáp lời, vội về phòng mình chuẩn bị binh khí và y phục.
Đô Đại Cẩm thấy Du, Mạc hai người phải gấp đi Lâm An bảo hộ gia quyến của y thì vô cùng xúc động, ôm quyền nói với Trương Tam Phong:
– Trương chân nhân, việc của vãn bối thật không dám làm phiền Du, Mạc nhị hiệp, xin cáo từ!
Tống Viễn Kiều nói:
– Các vị đêm nay hãy tạm nghỉ lại đây, chúng tôi còn vài điều cần thỉnh giáo.
Lời lẽ của Tống Viễn Kiều tuy bình thường nhưng có một vẻ uy nghiêm khiến người ta không dám trái lời. Đô Đại Cẩm đành im lặng, ngồi sang một bên.
Du Liên Châu và Mạc Thanh Cốc bái biệt sư phụ, bịn rịn nhìn nhìn Du Đại Nham mấy lần, rồi mới xuống núi. Lòng họ nặng trĩu, chẳng biết lần này là sinh li hay tử biệt, không biết mai ngày còn gặp lại Du Đại Nham nữa chăng.
Lúc này trong đại sảnh không một tiếng động, chỉ nghe tiếng hít thở nặng nề của Trương Tam Phong, lại thấy nhiệt khí từ đỉnh đầu Trương lão bốc lên như từ cái nồi hấp vậy. Chừng hơn nửa canh giờ sau, bỗng nhiên Du Đại Nham kêu “A” một tiếng rõ to, vang động cả đại sảnh. Đô Đại Cẩm giật mình, đưa mắt nhìn trộm Trương Tam Phong, thấy mặt Trương lão không lộ vẻ buồn hay vui nên không thể đoán tiếng kêu vừa rồi là lành hay dữ.
Trương Tam Phong chậm rãi nói:
– Tòng Khê, Lê Đình, hai ngươi khiêng tam ca vào phòng nghỉ ngơi đi!
Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình đưa Du Đại Nham vào trong phòng rồi trở ra. Ân Lê Đình không nhịn nổi, hỏi:
– Sư phụ, võ công của tam ca có thể phục hồi được toàn bộ không ạ?
Trương Tam Phong thở dài, lát sau mới đáp:
– Y có bảo toàn được tính mạng hay không, phải một tháng sau mới rõ. Gân cốt tứ chi đứt gãy cả, không cách gì nối lại được. Ôi cả một đời, cả một đời…
Trương Thúy Sơn bật dậy, “bốp” một tiếng, Đô Đại Cẩm bị đánh một cái bạt tai. Lần này chàng ra tay nhanh như chớp, Đô Đại Cẩm vội giơ tay đỡ nhưng tay đưa ra thì mặt đã trúng chưởng rồi. Trương Thúy Sơn không nén được cơn giận, cùi chỏ trái lại xoay qua thúc luôn vào mạng sườn. Chiêu đó cực nhanh, song Trương Tòng Khê đã kịp đưa tay đẩy nhẹ vào vai Trương Thúy Sơn nên cùi chỏ của chàng chệch ra ngoài. Đô Đại Cẩm vội lùi về phía sau tránh né, chợt nghe “kịch” một tiếng, thỏi vàng từ trong bọc của y rớt xuống đất.
Trương Thúy Sơn dùng chân trái hất thoi vàng lên, giơ tay bắt lấy, cười khẩy:
– Đồ tham tài vô nghĩa, người ta ném cho ngươi một thoi vàng là ngươi liền giao Du tam ca của ta cho chúng hành hạ…
Lời chưa dứt, chàng đột nhiên kêu “Ủa!” một tiếng, nhìn đăm đăm năm vết ngón tay hằn trên thoi vàng, nói:
– Đại sư ca, cái này là… là công phu “Kim Cương chỉ” của phái Thiếu Lâm.
Tống Viễn Kiều cầm thoi vàng xem qua, rồi đưa cho sư phụ. Trương Tam Phong lật qua lật lại, xem kỹ thoi vàng mấy lần, đưa mắt nhìn Tống Viễn Kiều, cả hai không nói một lời.
Trương Thúy Sơn nói to:
– Sư phụ, đây chính là công phu “Kim Cương chỉ” của phái Thiếu Lâm, thiên hạ làm gì có môn phái thứ hai sử dụng công phu này; phải vậy chăng, sư phụ?
Trong chớp mắt, Trương Tam Phong hồi tưởng thuở thơ ấu mình ở trong Tàng kinh các của Thiếu Lâm tự hầu hạ thiền sư Giác Viễn ra sao, đấu chưởng với Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo như thế nào, rồi bị tăng chúng Thiếu Lâm tự truy bắt phải chạy lên núi Võ Đang, chuyện mấy mươi năm cũ thoáng hiện cả về trong trí nhớ. Vẻ mặt Trương lão lộ vẻ hoang mang, cứ theo vết ngón tay hằn trên thoi vàng này, hiển nhiên là “Kim Cương chỉ” của phái Thiếu Lâm; Trương Thúy Sơn nói không sai, thế gian này không môn phái thứ hai nào có nổi công phu ấy. Phái Võ Đang ta chuyên luyện nội công thâm hậu, không chú trọng đến môn Ngạnh công nén vàng đập đá; còn các môn phái ngoại gia, dù luyện chưởng lực, quyền lực, cước lực, lực cánh tay, lực chân đá, cho đến việc dùng đầu mà đánh, dùng cùi chỏ mà thúc, dùng đầu gối hoặc cạnh bàn chân, cạnh bàn tay thật cao siêu chăng nữa thì riêng công phu Chỉ lực không thể nào sánh kịp phái Thiếu Lâm.
Nghe Trương Thúy Sơn hỏi thẳng như thế, nếu nói ra sự thật thì các đệ tử quyết chẳng chịu để yên cho phái Thiếu Lâm; mà như vậy thì giữa hai đại môn phái lớn mạnh nhất võ lâm sẽ khó tránh khỏi cơn đại phong ba bão táp.
Trương Thúy Sơn thấy sư phụ trầm ngâm không nói, biết suy nghĩ của mình là đúng, lại hỏi:
– Sư phụ, trong võ lâm có kỳ nhân dị sĩ nào tự luyện thành môn “Kim Cương chỉ” không?
Trương Tam Phong chậm rãi lắc đầu, nói:
– Phái Thiếu Lâm phải tích lũy kinh nghiệm ngàn năm mới luyện thành tuyệt kỹ này, không thể một sớm một chiều mà xong. Dù là người thông minh tuyệt đỉnh cũng không tài nào tự nghĩ ra nổi.
Ngừng một lát, Trương lão tiếp:
– Hồi ta còn nhỏ ở Thiếu Lâm tự, vì chưa hề được truyền thụ võ công, nên đến giờ vẫn không hiểu nổi làm thế nào mà tấm thân bằng xương bằng thịt, chứ không phải bằng gang bằng sắt, lại có thể luyện ngón tay có sức mạnh đến thế?
Mắt Tống Viễn Kiều bỗng lóe lên một tia sáng khác lạ, nói:
– Gân cốt tứ chi của tam đệ chính là bị “Kim Cương chỉ” làm đứt gãy rồi!
Ân Lê Đình kêu “A” một tiếng, mắt rưng rưng rồi lệ chảy thành dòng.
Đô Đại Cẩm nghe nói người tàn hại Du Đại Nham rốt cuộc là đệ tử phái Thiếu Lâm thì càng kinh hoảng, há hốc miệng, lát sau mới nói:
– Không, quyết không thể thế được! Tại hạ học nghệ hơn mười năm ở Thiếu Lâm tự, chưa hề thấy mặt kẻ có nốt ruồi đen kia bao giờ.
Tống Viễn Kiều ngưng thần nhìn y, không lộ thái độ gì, thản nhiên nói:
– Lục đệ hãy đưa Đô tổng tiêu đầu và các huynh đệ Long Môn vào hậu viện nghỉ ngơi, sửa soạn cơm rượu, dặn lão Vương tiếp đãi khách phương xa cho chu đáo, không được sơ suất.
Ân Lê Đình vâng lời, dẫn tiêu đội của Đô Đại Cẩm ra hậu viện. Đô Đại Cẩm còn muốn biện bạch vài câu, nhưng trong tình cảnh ấy dù nửa câu cũng chẳng nói nổi.
Ân Lê Đình lo liệu cho đám tiêu sư xong quay trở lại phòng Du Đại Nham, chỉ thấy tam sư ca mắt mở trừng trừng như kẻ mất trí, còn đâu dáng vẻ anh hùng hào sảng mọi khi, chàng đau đớn thốt lên hai tiếng “tam ca” rồi ôm mặt chạy ra đại sảnh, thấy Tống Viễn Kiều cùng mấy huynh đệ đang ngồi trước mặt sư phụ, bèn lại ngồi bên cạnh Trương Thúy Sơn.
Trương Tam Phong đăm đăm nhìn cây hòe lớn ngoài sân, lắc đầu nói:
– Việc này ta thật khó nghĩ, Tòng Khê, ngươi nghĩ sao?
Trong bảy đệ tử của phái Võ Đang, Trương Tòng Khê là người túc trí đa mưu hơn cả. Thường ngày Tòng Khê trầm mặc ít nói, nhưng suy tính liệu sự đã nói là đúng. Từ lúc Trương Thúy Sơn ôm Du Đại Nham về tới, tuy trong lòng đau đớn, song Tòng Khê vẫn suy xét mọi chuyện xem bên trong có gì, giờ nghe sư phụ hỏi mới lên tiếng:
– Cứ như đệ tử nghĩ, thủ phạm không phải phái Thiếu Lâm, mà là thanh đao Đồ Long.
Trương Thúy Sơn và Ân Lê Đình cùng “à” lên một tiếng, Tống Viễn Kiều giục:
– Tứ đệ, sự lý bên trong ra sao, tứ đệ đã suy tưởng minh bạch, mau nói ra để còn xin sư phụ định liệu.
Trương Tòng Khê nói:
– Tam ca hành sự thận trọng, vững vàng, đối xử với người rất hữu hảo, chắc không dễ gây thù chuốc oán. Tam ca đi phương nam diệt trừ bọn đạo tặc đầu trộm đuôi cướp vốn là bọn ai ai trong võ lâm cũng căm ghét, phái Thiếu Lâm quyết không phải vì việc ấy mà hạ thủ với tam ca.
Trương Tam Phong gật gù. Trương Tòng Khê nói tiếp:
– Gân cốt ở tứ chi tam ca bị đứt gãy, đó là ngoại thương; nhưng trước đó tại phủ Lâm An tỉnh Chiết Giang đã bị trúng độc nặng. Đệ tử nghĩ rằng chúng ta trước tiên cần đến Lâm An tra xét xem tam ca bị trúng độc ra sao, ai là kẻ hạ độc?
Trương Tam Phong gật đầu, nói:
– Chất độc mà Đại Nham bị trúng rất quái dị, ta vẫn chưa nghĩ ra đó là chất gì. Lòng bàn tay phải của Đại Nham có bảy cái lỗ nhỏ, đùi có mấy vết kim châm li ti. Trên chốn giang hồ chưa nghe nói có cao thủ nào sử dụng hai loại ám khí kịch độc như vậy.
Tống Viễn Kiều nói:
– Vụ này quái dị thật! Theo lẽ thường mà suy, người phát xạ thứ ám khí nhỏ li ti mà tam đệ không tránh nổi phải là một đệ nhất hảo thủ, nhưng đã là hảo thủ hạng nhất đích thực thì sao lại đi tẩm độc dược vào ám khí?
Mọi người im lặng, ai cũng thầm nghĩ xem nhân vật sử dụng ám khí đó là thuộc môn phái nào. Một lúc sau cả năm người chỉ nhìn nhau, không nghĩ được là ai cả.
Trương Tòng Khê nói:
– Tại sao kẻ mặt có nốt ruồi lại đánh gãy gân cốt của tam ca? Nếu hắn có thù oán với tam ca thì chỉ cần một chưởng cũng đủ giết được rồi; còn nếu hắn muốn cho tam ca thêm khổ sở đau đớn, vậy sao không đánh gãy xương sống, xương sườn? Vì sao thì đã rõ: hắn chỉ muốn bức tam ca phải cung khai. Vậy hắn cần hỏi điều gì? Cứ như đệ tử suy tưởng, ắt hẳn là về thanh đao Đồ Long. Đô Đại Cẩm đã kể, một trong sáu người nọ có hỏi “Thanh đao Đồ Long đâu? Hiện trong tay ai?”
Ân Lê Đình nói:
– “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”. Câu này lưu truyền đã mấy trăm năm, chẳng lẽ đến nay mới xuất hiện thanh đao Đồ Long hay sao?
Trương Tam Phong nói:
– Không phải mấy trăm năm, cùng lắm chỉ bảy, tám chục năm thôi! Hồi ta còn trẻ chưa từng nghe thấy mấy câu đó.
Trương Thúy Sơn nhỏm dậy, nói:
– Tứ ca nói rất đúng, thủ phạm tàn hại tam ca ắt chỉ ở vùng Giang Nam, chúng ta phải tìm cho ra hắn! Song tên ác tặc phái Thiếu Lâm hạ thủ tàn ác như thế, chúng ta cũng quyết không thể bỏ qua cho hắn.
Trương Tam Phong nói với Tống Viễn Kiều:
– Viễn Kiều, ngươi thấy trước mắt phải tính sao?
Mấy năm gần đây, mọi việc của phái Võ Đang, Trương Tam Phong đều trao cho Tống Viễn Kiều định liệu; vị đại đệ tử này làm việc gì cũng chu đáo mực thước, không để sư phụ phải bận tâm. Nghe sư phụ hỏi, y đứng dậy cung kính nói:
– Việc này không đơn thuần chỉ báo cừu rửa hận cho tam đệ, mà còn liên quan đến đại sự của bổn phái; chỉ cần ứng phó kém thích đáng một chút thôi, e rằng có thể gây ra phong ba bão táp trong võ lâm, kính mong sư phụ chỉ dạy.
Trương Tam Phong nói:
– Được! Ngươi cùng Tòng Khê và Lê Đình mang thư của ta đến Thiếu Lâm tự trên núi Tung Sơn bái kiến phương trượng Không Văn thiền sư, trình bày việc này, thỉnh phương trượng chỉ thị. Vụ này chúng ta khỏi cần nhúng tay, Thiếu Lâm tự quy củ nghiêm cẩn, phương trượng Không Văn là bậc võ lâm vọng trọng, ắt sẽ có cách xử lý thích đáng.
Tống Viễn Kiều, Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình ba người cùng đứng nghiêm vâng lệnh.
Trương Tòng Khê nghĩ thầm: “Nếu chỉ là mang một lá thư, thì chỉ cần sai lục đệ đi cũng đủ; đằng này sư phụ bảo đại sư ca xuất mã, còn sai ta đi theo, bên trong chắc có thâm ý. Có lẽ đề phòng việc Thiếu Lâm tự muối mặt không nhận, nên để bọn mình tùy cơ hành sự”.
Quả nhiên Trương Tam Phong nói tiếp:
– Bổn phái và phái Thiếu Lâm đôi bên có mối liên quan khá đặc thù. Ta vốn là đồ đệ đào tẩu khỏi Thiếu Lâm tự. Bao năm rồi, có lẽ họ nghĩ ta tuổi tác đã cao, nên họ không đến đây bắt về, tuy nhiên đôi bên dầu sao cũng có chỗ không thuận thảo.
– Các ngươi đến Thiếu Lâm tự, đối với phương trượng Không Văn thiền sư dĩ nhiên phải cung kính, song cũng không nên làm mất thanh danh của bổn môn.
Ba đệ tử cùng lên tiếng vâng lệnh.
Trương Tam Phong quay sang Trương Thúy Sơn:
– Thúy Sơn, sáng mai ngươi đi Giang Nam tìm cách tra xét, mọi việc hãy nghe nhị sư ca phân phó.
Trương Thúy Sơn xuôi tay vâng lệnh.
Trương Tam Phong nói:
– Chung rượu thọ đêm nay thôi khỏi uống. Một tháng sau, tất cả sẽ tề tựu về đây, giả dụ không cứu chữa được cho Đại Nham thì sư huynh sư đệ cũng được nhìn thấy y lần cuối.
Nói tới đây, Trương lão không khỏi bùi ngùi, không ngờ mình lừng lẫy võ lâm suốt mấy mươi năm, đến khi tròn chín mươi tuổi, một đệ tử tâm ái lại gặp chuyện bất hạnh nhường này. Ân Lê Đình đưa tay áo gạt lệ, khóc rưng rức. Trương Tam Phong phất tay áo một cái, nói:
– Tất cả đi ngủ.
Tống Viễn Kiều nói:
– Sư phụ, tam sư đệ một đời hành hiệp trượng nghĩa, tích đức thật dày. Cổ nhân dạy rằng ở hiền gặp lành. Trời xanh có mắt, ắt không để sư đệ phải… yểu… mệnh…
Nói đến đó thì lệ chảy ròng ròng, biết rằng có tìm cách an ủi càng làm cho sư phụ thêm thương cảm, bèn cùng các sư đệ chúc sư phụ ngủ ngon rồi chia nhau về phòng.[20]
Trương Thúy Sơn lòng đầy đau thương, căm giận, mà không phát tiết ra được, nằm trằn trọc hơn một canh giờ thì rón rén trở dậy quyết định tìm bọn Đô Đại Cẩm để trút giận. Chàng e ngại đại sư huynh, tứ sư huynh ngăn cản, không dám gây tiếng động, rón rén đi ra, khi tới đại sảnh lại thấy một bóng người hai tay chắp sau lưng đang đi đi lại lại.
Trong ánh sáng mông lung mờ ảo, thấy người kia thân dài lưng rộng, bước chân ngưng trọng, chính là sư phụ. Trương Thúy Sơn nấp sau cột, không dám đi lại, tuy chàng thầm biết phải về phòng ngay, nhưng như thế tất sư phụ sẽ hay biết, nếu bị lục vấn chàng ắt phải nói thực thì khó tránh khỏi bị sư phụ trách cứ.
Chỉ thấy Trương Tam Phong đi lại một hồi, ngẩng đầu ngẫm nghĩ, bỗng nhiên giơ tay hữu lên không trung làm cây bút mà viết chữ. Trương Tam Phong văn võ toàn tài, ngâm thơ viết chữ đều thông, các đệ tử ai cũng biết nên không lấy làm lạ. Trương Thúy Sơn dõi theo nét bút của ngón tay, hóa ra sư phụ viết đi viết lại hai chữ “tang loạn” mấy lần, rồi viết hai chữ “đồ độc”. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Thì ra sư phụ đang nghĩ đến ‘Tang loạn thiếp’”. Chàng có ngoại hiệu Ngân Câu Thiết Hoạch, bởi lẽ tay trái chàng sử dụng “Lạn ngân hổ đầu câu”, tay phải sử dụng “Tân thiết phán quan bút” mà ra. Từ khi mang ngoại hiệu ấy, chàng sợ mang tiếng danh bất phó thực, sợ giới văn nhân chê cười, nên một mực chăm chỉ học thư pháp, các kiểu chữ Chân, Thảo, Triện, Lệ, kiểu nào chàng cũng tập viết. Lúc này sư phụ dùng ngón tay làm bút, viết không có nét nào duỗi ra mà không thu vào, không nét nào đi rồi mà không trở lại, chính là bút ý của Vương Hy Chi trong “Tang loạn thiếp”.
Bài “Tang loạn thiếp”, hai năm trước Trương Thúy Sơn cũng từng xem qua. Tuy cảm nhận được cách dụng bút phóng túng, thanh cương tiêu bạt của người viết, song nghĩ rằng nó không được nghiêm trang, tràn đầy khí tượng như hai bài “Lan đình thi tự thiếp” và “Thập thất thiếp”. Lúc này chàng nấp sau cột, nhìn sư phụ dùng tay thay bút viết lên không trung liền một mạch mười tám chữ “Hi Chi đốn thủ: Tang loạn chi cực, tiên mộ tái li đồ độc, truy duy khốc thậm”, nét nào nét ấy đều toát ra vẻ uất ức bi phẫn, chàng lập tức hiểu ra tâm tình của Vương Hy Chi khi viết bài “Tang loạn thiếp”.
Vương Hy Chi là người thời Đông Tấn. Thời bấy giờ vùng Trung nguyên cực kỳ rối ren, rơi vào tay dị tộc. Họ Vương, họ Tạ đầy thế lực phải di cư xuống phía nam tránh giặc, trong cơn tang loạn ấy, phần mộ của tổ tiên cũng bị đào bới, giày xéo; những nỗi đau thương uất ức chất chứa trong lòng đều ẩn tàng trong bài “Tang loạn thiếp”. Trương Thúy Sơn dạo trước tuổi còn niên thiếu, vô tư vô lự, làm sao có thể lãnh hội thâm ý trong bài thiếp? Lúc này gặp cái cảnh sư huynh bị đại họa chưa biết sống chết thế nào, chàng mới hiểu hai chữ “tang loạn”, hai chữ “đồ độc”, bốn chữ “truy duy khốc thậm”.
Trương Tam Phong viết đi viết lại mấy lần, thở một tiếng thật dài, bước ra giữa sân, trầm ngâm một hồi, rồi lại giơ ngón tay lên viết. Lần này kiểu chữ khác hẳn trước. Trương Thúy Sơn dõi theo nét bút, thấy chữ đầu tiên là chữ “võ”, chữ thứ hai là chữ “lâm”, tiếp theo tổng cộng hai mươi bốn chữ, chính là mấy câu được nhắc tới ban nãy “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong?” Tựa hồ Trương Tam Phong đang cố xác định thâm ý ẩn chứa trong hai mươi bốn chữ kia, suy tưởng xem vì lẽ gì Du Đại Nham bị trọng thương? Vụ này có liên quan gì tới hai loại binh khí thần kỳ nói trong truyền thuyết là đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên hay chăng?
Chỉ thấy Trương Tam Phong viết một lần hai mươi bốn chữ, rồi viết lần thứ hai, nét bút mỗi lúc dài thêm, nhưng đưa tay mỗi lúc một chậm, sau đó đóng mở ngang dọc hệt như đang thi triển quyền cước. Trương Thúy Sơn ngưng thần quan sát, trong lòng vừa sợ vừa mừng, hai mươi bốn chữ sư phụ viết kia hợp lại với nhau hiển nhiên là một pho võ công thật cao minh, mỗi chữ gồm vài chiêu, mỗi chiêu lại có vài cách biến hóa. Chữ “long” và chữ “phong” nhiều nét nhất, chữ “đao”, chữ “hạ” ít nét hơn cả, nhưng chữ nhiều nét mà không rườm rà, chữ ít nét mà không thô lậu, lúc thu vào như con sâu co mình, lúc bung ra thì như con thỏ vuột chạy, sảng khoái lâm ly, cương kiện hùng hồn; nét phóng túng thì như gió vờn tuyết múa, nét hậu trọng như hổ bước voi đi. Trương Thúy Sơn định thần chú tâm ghi nhớ. Trong hai mươi bốn chữ ấy có hai chữ “bất”, hai chữ “thiên”; song hai chữ ấy viết ra hình giống nhau mà ý không đồng, khí từa tựa nhưng thần thì không, biến hóa kỳ diệu, quả là một công phu.
Những năm vừa qua Trương Tam Phong ít khi hiển thị võ công. Võ công của hai tiểu đệ tử Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc phần lớn do Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu thay sư phụ truyền thụ; còn Trương Thúy Sơn tuy danh nghĩa là đệ tử thứ năm của Trương Tam Phong, nhưng đích thực là quan môn đệ tử, được sư phụ đích thân truyền dạy. Dạo trước Trương Thúy Sơn học chưa đến nơi đến chốn, nhiều khi nhìn sư phụ thi triển quyền kiếm mà chàng chưa lĩnh hội được những chỗ bác đại tinh thâm. Mấy năm gần đây võ học của chàng tiến bộ vượt bậc, đêm nay hai sư đồ lại tâm ý tương thông, tình chí hợp nhất, cùng gặp cảnh tang loạn mà bi phẫn, gặp cảnh đồ độc mà uất ức. Trương Tam Phong bèn đem cái tình xúc động mà viết hai mươi bốn chữ kia thành một pho võ công. Lúc đầu viết chữ, Trương lão chưa có ý đó, mà Trương Thúy Sơn nấp sau cột cũng chỉ là cơ duyên xảo hợp. Tâm thần hai sư đồ cùng say sưa chìm đắm vào cảnh giới kết hợp võ công với thư pháp, quên hết cả người lẫn ta.
Pho quyền pháp này, Trương Tam Phong diễn đi diễn lại suốt hơn hai canh giờ. Khi trăng đã lên tới đỉnh đầu, Trương lão hú một tiếng dài, hữu chưởng vạch một nét từ trên thẳng xuống như ánh kiếm loáng vung, như mũi tên lao vút, nhanh hơn cả tia chớp, chính là nét sổ cuối cùng trong chữ “Phong”.
Trương Tam Phong ngẩng nhìn trời, hỏi:
– Thúy Sơn, đường thư pháp đó, ngươi thấy sao?
Trương Thúy Sơn giật mình, không ngờ chàng nấp sau cây cột, sư phụ không hề quay đầu lại mà vẫn biết từ lâu, vội chạy ra thưa:
– Đệ tử có phúc được coi lén tuyệt kỹ của sư phụ, thật là no mắt thỏa lòng. Đệ tử đi gọi các sư ca ra cùng ngưỡng mộ, có được không ạ?
Trương Tam Phong lắc đầu, nói:
– Hứng của ta hết rồi, chỉ e có viết lại cũng chẳng thể đẹp như thế. Viễn Kiều, Tòng Khê không hiểu thư pháp, dẫu họ có coi cũng chẳng lĩnh hội được bao nhiêu.
Đoạn Trương lão phất tay áo đi vào nội đường.
Trương Thúy Sơn không dám đi ngủ, sợ sau một giấc sẽ quên mất những chiêu thuật tinh diệu vừa được xem, liền ngồi xếp bằng, cố nhớ lại từng nét bút, từng chiêu thức. Lúc nào nổi hứng, chàng lại đứng lên biểu diễn vài đường. Cũng không biết bao nhiêu lâu sau chàng mới ghi nhớ hết mọi biến hóa của hai mươi bốn chữ gồm hai trăm mười lăm nét đó.
Chàng đứng dậy tập một lần, tự cảm thấy các động tác thư pháp cứ như nhạn bay ưng lượn, khi xoãi cánh, lúc vươn cổ, thế tựa mây bay, toàn thân nhẹ lướt hệt như đằng vân giá vụ. Chưởng sau cùng chàng chém thẳng xuống, nghe “bụp” một tiếng, đánh rách ngay một mảng vạt áo của mình. Trương Thúy Sơn vừa kinh ngạc vừa vui mừng, ngoảnh đầu lại thấy vầng dương đã ở bức tường phía đông. Chàng đưa tay dụi mắt, chỉ sợ mình nhìn lầm, định thần cho kỹ mới hay quả nhiên đã quá Ngọ. Thì ra chàng mải mê luyện công, không ngờ đã qua hơn nửa ngày trời.
Trương Thúy Sơn lấy tay áo lau mồ hôi, chạy vào phòng tam sư ca, thấy Trương Tam Phong đang đặt hai bàn tay áp lên ngực và bụng Du Đại Nham mà vận công trị thương. Thúy Sơn hỏi ra mới biết Tống Viễn Kiều, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình ba người đã lên đường từ sáng sớm; họ thấy chàng lúc ấy đang tĩnh tọa mặc tưởng, nên không quấy rầy việc chàng luyện công. Đám tiêu sư Long Môn tiêu cục cũng đã xuống núi. Lúc này toàn thân Trương Thúy Sơn đầm đìa mồ hôi, nhưng nóng lòng báo thù cho sư huynh nên chàng không kịp tắm rửa thay quần áo, lấy ngay binh khí, y phục, vài chục lượng bạc tùy thân, lại qua phòng Du Đại Nham, nói:
– Sư phụ, đệ tử đi đây!
Trương Tam Phong gật đầu, mỉm cười như có ý khích lệ.
Trương Thúy Sơn đến bên giường, thấy Du Đại Nham sắc diện xám xịt, lưỡng quyền nhô cao, hai má lõm sâu, cặp mắt nhắm nghiền, ngoại trừ mũi còn thở nhè nhẹ, nếu không thì trông chẳng khác gì xác chết. Chàng đau nhói trong lòng, nghẹn ngào nói:
– Tam ca, tiểu đệ dẫu tan xương nát thịt cũng sẽ báo thù cho tam ca.
Đoạn chàng quỳ xuống lạy sư phụ rồi ôm mặt chạy ra ngoài.
Trương Thúy Sơn cưỡi con ngựa Thanh Thông vó dài, phi nhanh xuống núi. Lúc ấy trời đã xế chiều, chạy được hơn năm chục dặm là trời tối. Chàng vừa vào khách điếm, thì mây đen ùn ùn kéo tới, rồi mưa đổ xuống ào ào như trút nước. Mưa mỗi lúc một mạnh, mãi tới khuya vẫn không tạnh. Sáng hôm sau thức dậy, chàng thấy tứ phía mờ mịt, trời vẫn mưa rả rích. Chàng gọi chủ quán mua một chiếc áo tơi, rồi chàng đội mưa mà đi. Cũng may con Thanh Thông quả là thần mã, đường lầy lội, trơn trượt nhưng nó vẫn phóng như bay.
Khi tới Lão Hà Khẩu, qua sông Hán Thủy, chỉ thấy sóng nước đục ngầu, băng băng cuồn cuộn chảy xuôi, trông thật nguy hiểm. Ngang qua Tương Phàn, chàng nghe người đi đường kháo nhau, rằng bên dưới hạ lưu đê bị vỡ, người bị thương không đếm xuể. Hôm đến Nghi Thành, thấy dân chúng chạy lụt bồng bế con trẻ, tay xách nách mang, lũ lượt từng đoàn mà trời vẫn mưa tầm tã, ai nấy ướt như chuột lột, tình cảnh thật đáng thương.
Trương Thúy Sơn đang đi, chợt thấy phía trước có một đoàn người ngựa, tiêu kỳ giương cao, chính là đám tiêu sư Long Môn tiêu cục. Chàng thúc ngựa chạy lên, vượt qua tiêu đội, quay đầu ngựa lại chặn ngay giữa đường.
Đô Đại Cẩm thấy Trương Thúy Sơn đuổi tới, giật mình sợ hãi, ấp úng nói:
– Trương… Trương ngũ hiệp có điều chi chỉ giáo?
Trương Thúy Sơn nói:
– Dân chúng bị thủy tai, Đô tổng tiêu đầu thấy chứ?
Đô Đại Cẩm không ngờ Trương Thúy Sơn lại hỏi y như vậy, ngẩn người hỏi:
– Sao kia?
Trương Thúy Sơn cười khẩy:
– Ta muốn Đô tổng tiêu đầu rộng lòng đem một số vàng ra cứu tế dân bị nạn.
Đô Đại Cẩm tái mặt, nói:
– Chúng tôi làm nghề bảo tiêu, đem tính mạng mình đặt trên đường đao mũi kiếm để kiếm sống, lấy đâu ra tiền của cứu tế dân bị nạn?
Trương Thúy Sơn hạ thấp giọng nói:
– Ngươi mau đem hai ngàn lượng vàng trong bọc ra đây, đưa cả cho ta!
Đô Đại Cẩm tay nắm cán đao, nói:
– Trương ngũ hiệp, có phải hôm nay Trương ngũ hiệp nhất quyết gây khó dễ với Đô mỗ chăng?
Trương Thúy Sơn nói:
– Không sai! Ta phải cho ngươi biết tay.
Hai tiêu đầu Chúc, Sử đều rút khí giới, đứng sóng vai với Đô Đại Cẩm. Trương Thúy Sơn vẫn hai tay không, cười nhạt mấy tiếng, nói:
– Đô tổng tiêu đầu, ngươi đã nhận vàng của người ta thì phải làm tròn việc người ta ủy thác chứ? Hai ngàn lượng vàng kia, ngươi mặt mũi nào mà nhận?
Đô Đại Cẩm tím mặt, nói:
Du tam hiệp chẳng đã về đến núi Võ Đang đó sao? Khi người ta giao y cho chúng tôi, y đã bị trọng thương trước rồi, hiện giờ vẫn còn sống đó thôi!
Trương Thúy Sơn cả giận, quát:
– Ngươi còn dám cãi, Du tam ca của ta khi rời phủ Lâm An, chân tay có bị gãy hay không?
Đô Đại Cẩm im lặng. Sử tiêu đầu xen vào:
– Trương ngũ hiệp, người rốt cuộc muốn gì, cứ nói toạc ra đi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta muốn bẻ gãy xương tứ chi các ngươi từng cái một.
Vừa nói, chàng vừa nhảy xuống, phi thân đến. Sử tiêu đầu vung côn định đánh, Trương Thúy Sơn liền giơ tay trái chộp lấy, dùng luôn môn võ công vừa học được, chính là yếu quyết nét phẩy trong chữ “Thiên”. Cây côn tuột khỏi tay Sử tiêu đầu, y cũng văng khỏi yên ngựa. Chúc tiêu đầu muốn co mình lùi lại, nhưng làm sao kịp? Trương Thúy Sơn thuận tay sử nét nhấn của chữ “Thiên”, ngón tay quét ngang trúng ngay xương sườn Chúc tiêu đầu, nghe “bụp” một tiếng, hất luôn y cả người lẫn yên ngựa ra xa hơn một trượng. Thì ra hai chân Chúc tiêu đầu quặp chặt vào yên, trong khi kình lực của nét quét kia quá mạnh khiến cái đai buộc yên ngựa cũng bị đứt lìa, Chúc tiêu đầu chân vướng trong ngàm, nên ngã lăn ra không dậy nổi.
Đô Đại Cẩm thấy chàng xuất thủ quá nhanh, sợ hãi giật cương thúc ngựa xông lên. Trương Thúy Sơn quay người, quyền trái đấm ra, chính là nét chấm trong yếu quyết chữ “Hạ”, nghe “hự” một tiếng, trúng vào hậu tâm Đô Đại Cẩm. Đô Đại Cẩm thân hình rung động, võ công của y so với hai tiêu đầu Chúc, Sử thì cao hơn nhiều, nên không bị ngã ngựa. Đô Đại Cẩm nổi giận, nhảy xuống ngựa định giao đấu, bỗng thấy cổ họng mằn mặn, ọe một tiếng, ộc ra một ngụm máu tươi. Hai chân Đô Đại Cẩm loạng choạng, y vội hít một hơi, chỉ cảm thấy trong ngực máu nóng dồn lên, cố giữ vẫn không sao chịu nổi, hai gối nhũn ra, ngồi bệt luôn xuống đất.
Trong tiêu đội còn ba tiêu sư và một số phu xe, trông thấy thế chỉ biết há hốc mồm, trơ mắt đứng nhìn, không ai dám chạy tới đỡ.
Trương Thúy Sơn thoạt đầu lửa giận bừng bừng, những tưởng sẽ bẻ gãy chân tay từng người trong bọn Đô Đại Cẩm cho bõ tức. Nhưng chàng thấy mình vừa thuận tay một quyền một chưởng đã đánh ba gã tiêu đầu bò lê bò càng, Đô Đại Cẩm còn bị trọng thương, thì chàng bất giác thầm kinh dị, không ngờ hai mươi bốn chữ trong bộ “Ỷ Thiên Đồ Long công” vừa học được lại có uy lực lớn mức ấy. Trong lòng mừng rỡ, chàng không muốn ra tay tàn nhẫn, bèn nói:
– Họ Đô kia, hôm nay ta xuống tay lưu tình, đánh ngươi như vậy là đủ. Ngươi hãy mang hết hai ngàn lượng vàng trong túi ra đem cứu tế dân bị nạn. Ta sẽ kín đáo theo dõi, nếu ngươi giữ lại dù chỉ một lượng, ta sẽ đến tiêu cục Long Môn các ngươi giết sạch già trẻ lớn bé cho coi.
Câu cuối cùng là lời chàng từng nghe Đô Đại Cẩm thuật lại, lúc này chợt nhớ đến nên thuận miệng nói ra.
Đô Đại Cẩm từ từ đứng dậy, nhưng thấy giữa lưng đau nhói, hễ cử động mạnh lại thổ ra một ngụm máu tươi. Sử tiêu đầu chỉ bị sây sát ngoài da, tự biết mình không phải là đối thủ của Trương Thúy Sơn, cũng không dám mạnh miệng nói cứng nữa, y nói:
– Trương ngũ hiệp, chúng tôi tuy có nhận tiêu kim của người ta, nhưng chuyến này làm không nên việc, tất phải đem số vàng đó hoàn trả họ. Hơn nữa, số vàng đó lại để hết ở tiêu cục phủ Lâm An, chúng tôi ở chốn tha hương xa xôi này lấy đâu ra tiền cứu tế dân chúng bị nạn?
Trương Thúy Sơn cười khẩy, nói:
– Bộ ngươi coi ta là con nít chăng? Tiêu cục Long Môn các ngươi có gì quý đều dốc mang theo cả, ở phủ Lâm An chẳng còn hảo thủ nào giữ nhà, số vàng đó dĩ nhiên các ngươi phải đem theo đây.
Chàng nhìn qua tiêu đội vài lượt, bước tới một cỗ xe lớn, vung chưởng lên đánh một cái, thùng xe vỡ toang rơi ra mấy chục thoi vàng.
Các tiêu sư ai nấy tái mặt, kinh hãi nhìn nhau, không rõ tại sao chàng biết chỗ giấu vàng. Họ đâu biết rằng Trương Thúy Sơn tuổi tuy còn rất trẻ, nhưng đã cùng các sư huynh hành hiệp khắp thiên hạ, chuyện trên chốn giang hồ chứng kiến đã nhiều. Chàng thấy bánh cỗ xe này lún xuống bùn đất sâu hơn cả, còn ba gã tiêu sư lực lưỡng ban nãy thấy Đô Đại Cẩm bị thương ngã xuống mà không chạy tới cứu, lại đến bên cỗ xe này canh chừng, thì chàng đủ biết trong xe ắt giấu thứ gì quý giá. Thấy các thoi vàng rơi vung vãi trên mặt đất, chàng cười khẩy mấy tiếng, nhảy lên ngựa phóng đi.
Trương Thúy Sơn rất khoái chí về việc vừa làm, nghĩ rằng Đô Đại Cẩm lo sợ tính mạng già trẻ lớn bé trong tiêu cục nên gã nhất định sẽ phải đem hai ngàn lượng vàng ra cứu tế dân chúng bị nạn. Chàng vừa phi ngựa trên đường, vừa nghĩ tới sự biến hóa chiêu số của hai mươi bốn chữ mới học được. Đêm chàng học lỏm pho võ công này, chỉ cảm thấy sư phụ xuất chiêu biến hóa kỳ diệu mà thôi, đâu ngờ khi đem thi triển mới thấy quả là thần uy nên trong lòng sung sướng gấp mười lần so với việc nhặt được báu vật. Song vừa chợt nghĩ đến Du Đại Nham sống chết chưa biết ra sao, chàng bất giác thở dài não nuột.
Mưa lớn suốt mấy ngày đường, con ngựa Thanh Thông tuy tráng kiện nhưng cũng không chịu nổi, đến địa phận tỉnh Giang Tây, miệng nó bỗng sùi bọt trắng, thân sốt nóng bừng bừng. Trương Thúy Sơn thương cho con vật, đành đi chậm lại. Hôm chàng đến phủ Lâm An thì đã là chiều tối ngày ba mươi tháng Tư.
Trương Thúy Sơn vào một khách điếm, nghĩ thầm: “Mình đi đường chậm thế, không biết bọn Đô Đại Cẩm đã về tới tiêu cục chưa? Nhị ca và thất đệ hiện giờ không biết ở đâu nữa? Mình đã làm cho bọn tiêu đầu mất mặt, không tiện đến gặp họ, đêm nay mình thử đến tiêu cục thám thính xem sao”.
Ăn xong bữa tối, chàng hỏi thăm chủ quán thì biết tiêu cục Long Môn nằm trên bờ Tây Hồ. Chàng ra phố mua một bộ khăn áo, thêm một chiếc quạt xếp vốn nổi tiếng của đất Hàng Châu, về tắm gội sạch sẽ, chải đầu gọn ghẽ, thay y phục mới, soi gương thấy mình đã trở thành một công tử điển trai, chẳng còn vẻ gì một hiệp sĩ uy chấn võ lâm. Chàng mượn bút mực, định đề thơ lên chiếc quạt, nào ngờ vừa cầm bút lên, tự nhiên không chủ ý mà viết liền bốn chữ “Ỷ Thiên Đồ Long” nọ, nét nào nét ấy cứ như muốn xuyên qua lớp giấy mà đi. Viết xong, chàng giơ lên ngắm, không khỏi đắc ý nghĩ thầm: “Học được sư phụ pho quyền pháp, ngay cả thư pháp của mình cũng tiến bộ hơn hẳn”. Chàng phe phẩy chiếc quạt, tha thẩn dạo bước, nhắm hướng Tây Hồ mà đi.
Hồi đó nhà Tống đã bị diệt, phủ Lâm An rơi vào tay quân Nguyên. Lâm An vốn là kinh đô cũ của triều Nam Tống, người Mông Cổ sợ dân chúng còn nhớ tiền triều, lưu luyến chúa cũ, nên đặt trọng binh trấn áp. Để ra oai, quân Mông Cổ ở đây tỏ ra tàn bạo hơn những nơi khác, nên trong thành mười nhà thì đến chín bỏ trống, dân chúng đã dời đi vùng khác. Trăm năm trước, phủ Lâm An chốn chốn đàn sáo, nhà nhà liễu rủ, cảnh tượng phồn hoa nay chẳng còn.
Dọc đường Trương Thúy Sơn đi qua, chỗ nào cũng ngói vỡ tường xiêu, cảnh vật tiêu điều, đô thành hoa lệ nổi danh một thời của miền Giang Nam nay chỉ còn là hư phế. Trời chưa tối hẳn mà nhà nào cũng cửa đóng then cài, ngoài đường hiếm người qua lại, chỉ thấy kỵ binh Mông Cổ phi ngang phi dọc tuần tra.
Trương Thúy Sơn không muốn bị phiền nhiễu, mỗi khi nghe tiếng quân thiết kỵ tới gần là chàng lại náu mình vào một góc tường hoặc hẻm nhỏ để tránh né.
Thời trước cứ vừa chập tối là trên hồ đã đầy đèn đóm; nhưng bây giờ khi Trương Thúy Sơn tới mặt đê, chỉ thấy vùng hồ tối đen, không một bóng du khách. Theo lời chỉ dẫn của điếm tiểu nhị, chàng tìm đến tiêu cục Long Môn.
Tiêu cục Long Môn là một tòa nhà lớn gồm năm dãy, mặt hướng ra Tây Hồ, trước cổng có một đôi sư tử bằng đá trắng, khí thế oai phong. Trương Thúy Sơn từ xa nhìn tới, thong thả lại gần, thấy trên mặt hồ đối diện với tiêu cục có một du thuyền, mũi thuyền treo hai cái đèn lồng bằng vải sa màu xanh, dưới ánh đèn có một người đang ngồi tựa án uống rượu.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Người kia kể cũng có nhã hứng thật”. Lại thấy cái lồng đèn lớn treo ngoài cổng tiêu cục không đèn nến gì, cánh cổng có vòng đồng sơn màu đỏ đóng im ỉm, hẳn là người trong tiêu cục đã ngủ cả rồi.
Trương Thúy Sơn đến trước cổng, nghĩ thầm: “Hơn một tháng trước có người đưa tam ca qua cổng này vào bên trong, không biết người ấy là ai?” Lòng dạ bùi ngùi, chàng bỗng nghe sau lưng có tiếng thở dài.
Trong bóng đêm tĩnh lặng, tiếng thở dài não nuột kia nghe như tiếng của hồn ma, Trương Thúy Sơn quay phắt lại, thấy sau lưng không có ai hết, chàng đảo mắt nhìn quanh, trừ người khách ngồi một mình trên chiếc thuyền nhỏ kia, bốn phía tịnh không một bóng người. Trương Thúy Sơn lấy làm lạ, liếc xéo du khách trên thuyền kia, thấy y áo xanh khăn vuông giống hệt chàng, cũng trang phục theo lối văn nhân, dưới ánh sáng mờ mờ chẳng nhìn rõ diện mạo, nhìn nghiêng chỉ thấy mặt y xanh như tàu lá. Ánh đèn lồng chiếu vào mặt y, màu nước hồ xanh lục hắt lên, nước lạnh thuyền đơn, tối tăm lạnh lẽo, trông như không phải người trần thế. Chỉ thấy y ngồi trên thuyền hồi lâu, rất lâu, trừ việc để gió thổi vào áo quần phơ phất, y tuyệt nhiên không hề động đậy.
Trương Thúy Sơn vốn định chọn chỗ tối vượt tường vào tiêu cục, nhưng thấy có người trên thuyền, cảm thấy đêm hôm làm như vậy không được quang minh chính đại cho lắm, bèn tới bên cổng cầm cái vòng đồng gõ vào cánh cổng coong coong ba tiếng. Trong đêm vắng, ba tiếng đó kêu rất to và vang đi rất xa. Đợi một lát, bên trong không có ai ra mở cổng, Trương Thúy Sơn lại gõ thêm ba tiếng nữa, lần này kêu to hơn, chàng dỏng tai nghe, bên trong vẫn không thấy tiếng chân người. Chàng lấy làm lạ, dùng tay đẩy cổng một cái, cánh cổng liền mở ra không một tiếng động. Thì ra cửa không cài then. Chàng bước vào gọi to:
– Đô tổng tiêu đầu có nhà không?
Rồi tiến vào đại sảnh.
Trong sảnh tối mò mò, không đèn đuốc gì cả. Ngay lúc đó bỗng nghe “sình” một tiếng, cánh cổng đóng sập lại.
Trương Thúy Sơn càng thấy lạ, vội nhảy ra cổng thì thấy cánh cổng đã đóng chặt, lại cài then ngang hẳn hoi, hiển nhiên trong nhà có người. Chàng cười hì hì mấy tiếng, nghĩ thầm: “Người ta giở trò quỷ gì đây?” Rồi mạnh dạn đi thẳng vào đại sảnh.
Vừa bước vào cửa sảnh, chợt nghe hơi gió từ trước sau phải trái thổi tới, có bốn người cùng ập tới tấn công. Trương Thúy Sơn nghiêng mình nhảy qua. Trong bóng tối hơi loáng qua một đạo bạch quang, thấy cả bốn người kia đều sử dụng khí giới. Chàng xoay sang trái một bước, tiến qua phía tây, hữu chưởng từ trái chém ngang sang phải, nghe “bốp” một tiếng, trúng vào huyệt Thái Dương của một người, kẻ đó lập tức ngã lăn ra bất tỉnh; tiếp đó tả chưởng từ góc phải phía trên đánh chéo xuống góc trái bên dưới, trúng mạng sườn một người khác. Hai chiêu đó là một nét ngang, một nét phẩy của chữ “Bất”. Hai cú đòn vừa xong, tay trái gạt xuống, tay phải đấm ra, đủ bốn nét của chữ “Bất”, đánh ngã luôn bốn đối thủ.
Chàng không biết bọn mai phục trong sảnh để tập kích hạng người nào nên ra tay không lấy gì làm nặng, mỗi chiêu chỉ sử chừng ba thành kình lực. Người thứ tư bị cú đấm phải lùi lại mấy bước, nghe “rắc rắc”, đã làm gãy một chiếc ghế gỗ cứng, liền quát to:
– Ngươi tàn ác, hạ độc thủ như vậy; nếu là nam tử hán đại trượng phu thì hãy nói rõ tính danh.
Trương Thúy Sơn cười đáp:
– Nếu ta thực sự hạ độc thủ, liệu ngươi còn sống được chăng? Tại hạ là Trương Thúy Sơn phái Võ Đang đây.
Người kia kêu “ồ” một tiếng tựa hồ vô cùng kinh ngạc, nói:
– Có thực người là Trương ngũ… Trương ngũ… Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn phái Võ Đang? Ngươi không mạo danh đó chứ?
Trương Thúy Sơn mỉm cười, đưa tay vào bên hông lấy ra hai thứ binh khí, “Lạn ngân hổ đầu câu” và “Tân thiết phán quan bút”, đánh hai thứ vào nhau loong coong một chập, tia lửa bắn ra tung tóe.
Các tia lửa ấy giúp Trương Thúy Sơn nhận ra cả bốn người kia đều mặc tăng y màu vàng, hóa ra họ là hòa thượng. Có hai người ở ngay đối diện nên chàng nhìn thấy diện mạo họ. Chàng thấy hai người đó mặt đầy vết máu, ánh mắt lộ vẻ oán độc, tựa hồ họ muốn băm thịt lột da chàng mới hả. Chàng ngạc nhiên hỏi:
– Bốn vị đại sư là ai?
Chỉ nghe một tăng nhân kêu lên:
– Mối huyết hải thâm cừu này hôm nay chưa trả được, đi thôi!
Đoạn bốn hòa thượng cùng đứng dậy chạy ra cửa, trong đó một người chân khập khiễng, được vài bước đã ngã lăn, tựa hồ bị đòn của Trương Thúy Sơn quá nặng. Hai hòa thượng quay lại đỡ lên, dìu y ra khỏi sảnh.
Trương Thúy Sơn thấy chuyện tối nay hết sức lạ lùng, suy nghĩ một hồi vẫn không hiểu nổi nguyên do tại sao trong tiêu cục Long Môn lại có bốn hòa thượng mai phục? Chàng vừa bước vào đã bị họ tập kích, lại còn nói cái gì “huyết hải thâm cừu”? Chàng nghĩ thầm: “Chuyện này phải hỏi người trong tiêu cục mới giải được nghi nan”, bèn cao giọng gọi:
– Đô tổng tiêu đầu có nhà hay không? Đô tổng tiêu đầu có nhà hay không?
Đại sảnh trống không, vang vọng tiếng chàng dội lại, song tuyệt nhiên không có ai trong tiêu cục trả lời.
Chàng nghĩ thầm: “Chắc chắn không phải họ ngủ say đến thế. Chẳng lẽ họ sợ ta nên trốn hết cả rồi sao? Lẽ nào mọi người trong tiêu cục đều trốn đi cả, không còn một ai?” Chàng thò tay vào bọc lấy bùi nhùi đánh lửa, thắp sáng lên, thấy trên bàn trà có một cái chân nến cháy dở, liền châm vào đó, đi ra phía hậu đường, đi được vài bước thì thấy một phụ nữ nằm sấp dưới đất, không hề động đậy. Trương Thúy Sơn gọi:
– Đại thư, sao nằm đó?
Người phụ nữ vẫn không cựa quậy. Trương Thúy Sơn cúi xuống lay vào vai, soi nến vào mặt chị ta, bất giác kêu lên kinh ngạc.
Người phụ nữ kia mặt tươi cười, nhưng các cơ lạnh cứng, đã chết từ lâu. Khi chàng lay vai chị ta, chàng đã nghi rằng có lẽ chị ta đã chết, nhưng tại sao còn cười? Ban đêm tự dưng nhìn thấy thế thì không khỏi giật mình. Chàng đứng thẳng lên, thấy sau cây cột bên trái cũng có một người nằm thẳng cẳng, tới gần thấy đó là một ông già trang phục như một nô bộc, mặt cũng mỉm cười ngô nghê, nằm chết ở đó.
Trương Thúy Sơn rất hồi hộp, tay trái chàng rút cái Hổ đầu câu bên thắt lưng, tay phải giơ cao cây nến, từng bước từng bước đi xem xét, chỉ thấy chỗ này một người, chỗ kia một người, cả trong lẫn ngoài đến mấy chục mạng người nằm chết la liệt, xem chừng tiêu cục Long Môn có lẽ không còn ai sống sót. Trương Thúy Sơn hành tẩu giang hồ, bình sinh những cảnh thảm khốc từng chứng kiến không ít, nhưng nhìn cái cảnh sát diệt mãn môn bày trước mắt thế này thì chàng không khỏi trống ngực đập thình thình, chỉ thấy bóng mình trên tường cứ lập lòe, hóa ra tay chàng cầm nến run run làm cho bóng in lên tường rung theo.
Chàng dừng lại, nhớ đến câu “Dọc đường nếu để xảy ra sơ suất, ta sẽ giết sạch già trẻ lớn bé của tiêu cục Long Môn không chừa một ai”. Cảnh tượng trước mắt mọi người ở tiêu cục Long Môn đều chết, rõ ràng là do Đô Đại Cẩm hộ tống Du Đại Nham không chu đáo. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Kẻ hạ độc thủ như thế này hẳn là vì Du tam ca, vậy thì kẻ đó phải là hảo bằng hữu của tam ca. Kẻ đó đã có bản lĩnh cao hơn Đô Đại Cẩm rất nhiều, lại biết dọc đường có thể xảy ra hung hiểm, sao không thân chinh hộ tống tam ca về núi Võ Đang? Tam ca là người nhân hậu chính trực, ghét kẻ ác như kẻ thù, sao lại giao du với kẻ có tâm địa hiểm độc như vậy?” Càng nghĩ càng thêm nhiều nghi nan, chàng cất bước từ sảnh phía tây đi ra. Dưới ánh nến thấy có hai hoàng y tăng nhân tựa lưng vào tường, mắt mở trừng trừng, cười nhe hết cả răng.
Trương Thúy Sơn vội lùi hai bước, giơ Hổ đầu câu lên, hỏi to:
– Hai vị làm gì ở đây?
Hai hòa thượng kia cứ ngồi yên bất động, chàng chợt hiểu hai người ấy cũng đã chết từ lâu; bỗng chàng lạnh toát cả người, thốt lên:
Lúc này chàng mới hiểu tại sao bốn hòa thượng ban nãy lại nói “Ngươi tàn ác, hạ độc thủ như vậy; nếu là nam tử hán đại trượng phu thì hãy nói rõ tính danh”, rồi “Mối huyết hải thâm cừu hôm nay chưa trả được”. Xem ra món nợ máu mấy chục mạng của tiêu cục Long Môn đều bị trút xuống đầu chàng. Lúc ấy vì không hiểu chuyện này nên chàng chẳng những xưng rõ tính danh, lại còn để lộ món binh khí thành danh là Ngân câu thiết hoạch của mình. Nhưng lai lịch của bốn hoàng y hòa thượng ấy là thế nào nhỉ ?
Trương Thúy Sơn xuất thủ quá nhanh, chỉ bằng bốn nét bút của tự quyết chữ “Bất” đã đánh ngã cả bốn tăng nhân, không kịp nhận biết gia số võ công của đối phương; nhưng kình lực của bốn tăng nhân khi tấn công đều rất cương mãnh, rõ ràng là phong cách ngoại gia của phái Thiếu Lâm. Đô Đại Cẩm là đệ tử phái Thiếu Lâm, mấy tăng nhân kia hẳn là do y mời đến cứu viện cho tiêu cục Long Môn; vậy không biết Du nhị ca và Mạc thất đệ hiện giờ ở đâu, sư phụ đã sai họ tới bảo hộ già trẻ lớn bé trong tiêu cục Long Môn, với tài năng của nhị ca sao lại để người ta hạ độc thủ như thế này?
Trương Thúy Sơn trầm ngâm suy nghĩ, lát sau hiểu một phần nguyên do, nghĩ thầm: “Bốn hòa thượng kia bỏ đi, phái Thiếu Lâm thể nào cũng đổ tội lên đầu ta nhưng cuối cùng chân tướng sẽ lộ rõ hung thủ là ai; hai phái Võ Đang và Thiếu Lâm liên thủ tra xét, nhất định sẽ lần ra manh mối. Hiện tại hãy cứ để nguyên như thế này, mình phải đi tìm nhị ca và thất đệ trước đã”. Đoạn chàng thổi tắt nến, đi tới bên tường, nhảy ra ngoài.
Chân chưa chạm đất, bỗng nghe “vù” một tiếng thật lớn, một thứ binh khí nặng đánh ngang qua thắt lưng, kèm theo tiếng quát:
– Trương Thúy Sơn, ngã này!
Trương Thúy Sơn lơ lửng trên không, chẳng có cách gì né tránh, cú đánh của đối phương đã hiểm lại mạnh, trong lúc nguy ngập, chàng giơ tả chưởng đè xuống binh khí của địch, mượn sức đẩy của nó nhẹ nhàng nhảy trở lên bờ tường. Chiêu này chính là nét mác trong tự quyết chữ “Võ”, đúng như câu “Sai trì yến khởi, chấn tốc hồng phi, lâm nguy chế tiết, trung hiểm đằng ky”[21], trong đường tơ kẽ tóc đã chuyển nguy thành an.
Trong lúc lâm vào tình thế hết sức hung hiểm, chàng không ngờ pho võ công mới học được khi thì nặng như đá lở, lúc lại nhẹ tựa sương khói, không tốn sức mà hóa giải được đòn sấm sét của đối phương. Chân trái vừa đặt trên bờ tường, tay phải đã rút phán quan bút ra; biết rằng ngón đòn vừa rồi của đối phương vừa hiểm vừa mạnh là của một hảo thủ chẳng thể coi thường.
Người vừa xuất thủ tập kích thấy Trương Thúy Sơn có thể nhẹ nhàng khéo léo tránh thoát, thật ngoài dự liệu, không nén nổi cũng phải thốt lên “ái chà!” rồi nói:
– Hảo tiểu tử, ngươi quả chẳng vừa!
Trương Thúy Sơn tay trái cầm móc câu, tay phải cầm bút, mũi câu và ngọn bút đều chĩa chếch xuống phía dưới, là chiêu “Cung linh giáo hối”, biểu thị thái độ khiêm nhường cung kính khi đối địch với bậc tiền bối võ lâm. Vừa rồi đối phương xuất thủ mạnh và hiểm, Trương Thúy Sơn giả dụ chưa tình cờ học được pho võ công được biến hóa từ thư pháp ra thì có lẽ chàng đã gãy lưng nát xương; trong bụng tuy rất tức giận, song chàng nhớ lời sư huấn, không dám thất lễ với hảo thủ võ lâm.
Trong bóng đêm, chàng thấy ở dưới chân tường, hai bên phải trái có hai hoàng y tăng nhân án ngữ, mỗi vị cầm một cây thiền trượng to chắc. Vị đứng phía trái dộng mạnh cây thiền trượng xuống đất nghe “hịch” một cái, nói:
– Trương Thúy Sơn, Võ Đang thất hiệp các ngươi cũng được coi là nhân vật thành danh trên chốn giang hồ, sao lại hành sự tàn ác như vậy?
Trương Thúy Sơn nghe đối phương gọi thẳng tên chàng, không gọi là Trương ngũ hiệp, cũng không gọi là Trương ngũ gia thì trong bụng hơi bực, lạnh lùng nói:
– Đại sư chẳng buồn hỏi duyên do, phải trái gì hết đã nấp ngay sau tường mà lén lút tập kích, như thế đáng gọi là hành vi của anh hùng hảo hán chăng? Vẫn nghe võ công phái Thiếu Lâm lừng danh thiên hạ, ai ngờ thủ đoạn ám toán cũng có bí quyết độc đáo khác người.
Tăng nhân đó gầm lên, cầm ngang cây thiền trượng nhảy lên bờ tường, người chưa tới nhưng đầu thiền trượng đã chọc tới. Trương Thúy Sơn cảm thấy một luồng kình phong đâm thẳng trước ngực, liền vung hổ đầu câu ngăn chặn thế đến của thiền trượng; phán quan bút lập tức điểm ra, “cạch” một tiếng, ngọn bút trúng ngay thân cây thiền trượng. Tăng nhân chỉ thấy cánh tay bị chấn động, người không thể đứng lên bờ tường nữa mà nặng nề rơi phịch xuống đất. Nhưng sau chiêu vừa rồi, Trương Thúy Sơn cũng cảm thấy hai cánh tay tê chồn, tức là lực cánh tay của tăng nhân rất mạnh; chàng bèn quát:
– Hai vị là ai, hãy xưng pháp hiệu đi!
Tăng nhân đứng bên phải từ tốn nói:
– Bần tăng là Viên Âm, còn kia là sư đệ Viên Nghiệp.
Hóa ra là hai vị đại sư thuộc hàng chữ “Viên” của phái Thiếu Lâm. Tại hạ ngưỡng mộ thanh danh đã lâu, không biết các vị đại sư có điều chi chỉ giáo?
Viên Âm nói, giọng nghe yếu ớt, hơi thở hổn hển:
– Chuyện này liên quan đến đại sự môn hộ của hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang, sư huynh đệ bần tăng không đủ tư cách để nói, song vụ việc xảy ra tối nay, bần tăng muốn hỏi: trai gái mấy chục mạng người ở tiêu cục Long Môn, trong đó có cả hai sư điệt của bần tăng, đều chết dưới tay Trương ngũ hiệp. Cổ nhân có câu “Nhân mệnh quan thiên”[22], sao cho an lành về sau, thử hỏi Trương ngũ hiệp định thế nào?
Câu nói của hòa thượng tựa hồ khiêm hòa từ tốn, nhưng lời lời kết tội, xem ra vị này lợi hại hơn Viên Nghiệp nhiều. Trương Thúy Sơn cười nhạt nói:
– Án mạng ở tiêu cục Long Môn do kẻ nào gây ra, chính tại hạ cũng đang lấy làm lạ. Đại sư mở miệng liền gán ngay là do độc thủ của tại hạ, đại sư có tận mắt chứng kiến hay không?
Viên Âm gọi:
– Tuệ Phong, ngươi hãy ra đối chất với Trương ngũ hiệp.
Từ sau các gốc cây bước ra bốn hoàng y tăng nhân, chính là bốn người bị Trương Thúy Sơn đánh ngã bên trong tiêu cục ban nãy bằng một chiêu trong tự quyết chữ “Bất”. Người có pháp danh Tuệ Phong khom lưng nói:
– Khải bẩm sư bá, mấy chục mạng người ở tiêu cục Long Môn, trong đó có cả hai sư đệ Tuệ Thông, Tuệ Quang, đều là… do tên ác tặc họ Trương kia hạ độc thủ.
Viên Âm hỏi:
– Hai ngươi có tận mắt chứng kiến hay không?
Tuệ Phong đáp:
– Đích thực chứng kiến tận mắt, nếu bốn đệ tử chúng con không chạy nhanh thì cũng bỏ mạng bởi tay tên ác tặc này rồi.
Viên Âm nói:
– Đệ tử Phật môn không được bịa đặt. Việc này liên quan đến hai đại môn phái Thiếu Lâm chúng ta và phái Võ Đang, ngươi tuyệt nhiên không được nói bậy.
Tuệ Phong liền quỳ xuống, chắp tay nói:
– Có Đức Phật ở trên, đệ tử Tuệ Phong xin thưa, quả thực chân tình, quyết không dám lừa dối sư bá.
Viên Âm nói:
– Ngươi chứng kiến những gì, hãy kể lại đầu đuôi xem nào.
Trương Thúy Sơn nghe tới đó, liền từ trên bờ tường nhảy xuống. Viên Nghiệp ngỡ chàng định sát hại Tuệ Phong, bèn vung thiền trượng quét ngang đầu chàng. Trương Thúy Sơn rùn mình xuống, vọt lên trước, thoáng cái đã vòng ra sau lưng Tuệ Phong. Viên Nghiệp một đòn chưa trúng, theo chiêu số của Phục Ma chưởng, vốn phải hồi chuyển đầu cây trượng đâm tới vai của Trương Thúy Sơn, nhưng lúc này chàng đã ở sau lưng Tuệ Phong, nếu hồi chuyển cây thiền trượng, ắt sẽ đánh vào Tuệ Phong trước, bởi thế Viên Nghiệp phải thu thiền trượng về, quát:
– Ngươi định giở trò gì?
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta cần nghe thật rõ, xem hắn kể hắn thấy ta sát hại người trong tiêu cục Long Môn như thế nào.
Tuệ Phong thấy Trương Thúy Sơn đã đứng cách mình không đầy hai thước, chỉ cần vung binh khí một cái là y sẽ táng mạng tức thời, dù có hai vị sư bá ở đó cũng chẳng kịp cứu; nhưng y trong lòng giận dữ nên chẳng sợ hãi, lớn tiếng nói:
– Sư thúc Viên Tâm ở Giang Bắc nhận được thư cáo cấp của sư huynh Đô Đại Cẩm, liền phái hai vị sư huynh Tuệ Thông, Tuệ Quang gấp đi cứu nguy, sau lại lệnh cho đệ tử đem theo ba sư đệ đến tiêu cục Long Môn. Chúng con vừa đến tiêu cục thì Tuệ Quang sư huynh nói đêm nay chỉ e có cường địch tấn công, nên sai bốn người chúng con phục ở chân tường phía đông, đón địch, còn dặn phải cẩn thận đề phòng kẻ địch dùng kế điệu hổ li sơn, không được tự ý rời khỏi nơi đó.
Viên Âm giục:
– Rồi thế nào, nói mau đi!
Tuệ Phong kể tiếp:
– Trời tối một lúc, thì nghe có tiếng sư huynh Tuệ Thông chửi mắng và động thủ với ai đó ở hậu sảnh, rồi nghe sư huynh rú lên thảm thiết, tựa hồ bị trọng thương. Đệ tử vội chạy về phía đó, chỉ thấy Tuệ Thông đã… đã viên tịch, tên ác tặc họ Trương này…
Nói tới đó, Tuệ Phong giậm chân, giơ tay chỉ thẳng mặt Trương Thúy Sơn, nói:
– Chính ta thấy ngươi dùng một chưởng đánh Tuệ Quang sư huynh văng vào tường chết tươi. Ta tự biết không phải là đối thủ của tên ác tặc, nên nằm phục ở bên ngoài cửa sổ, thấy ngươi chạy thẳng ra hậu viện giết người, sau thấy có tám người của tiêu cục từ hậu viện chạy ra, ngươi đuổi theo họ, dùng chỉ[23] điểm chết từng người một, già trẻ lớn bé không còn một ai, bấy giờ ngươi mới nhảy qua tường đi mất.
Trương Thúy Sơn lẳng lặng đứng nghe. Tuệ Phong nói, nước bọt bắn ra, văng cả vào mặt chàng. Chàng cũng không né tránh, không động thủ, chỉ lạnh lùng hỏi:
– Rồi sau thế nào?
Tuệ Phong phẫn uất nói:
– Rồi thế nào ư? Rồi ta trở lại bức tường phía đông, bàn với ba vị sư đệ, cùng thấy ngươi võ công quá mạnh, bốn người chúng ta địch không nổi, chỉ còn cách xem xét tình hình, sau sẽ tính. Ai ngờ đợi chưa lâu thì ngươi lại đạp cửa xông vào, còn gọi đích danh Đô tổng tiêu đầu ra đối đáp. Bốn người chúng ta biết ra là chết, song cũng liều sống mái với ngươi một phen. Ta hỏi tính danh của ngươi, ngươi chẳng phải đã tự báo danh hiệu, là “Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn” đó ư? Ta lúc đầu chưa tin, nghĩ rằng Võ Đang thất hiệp có khi nào lại tàn ác giết người không chớp mắt như thế, nhưng khi ngươi tự lộ binh khí thì còn là giả được sao?
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta tự báo tính danh, để lộ binh khí, việc đó không phải là giả, bốn sư huynh đệ các ngươi cũng đúng là do ta đánh ngã. Nhưng ngươi hãy nói lại một lần nữa coi: án mạng mấy chục người trong tiêu cục này, đích thị ngươi tận mắt chứng kiến họ Trương ta ra tay giết hại?
Lúc ấy Viên Âm phất tay áo một cái, kéo Tuệ Phong ra xa vài thước, nghiêm nghị nói:
– Ngươi hãy nhắc lại một lần nữa, để cho vị Trương ngũ hiệp lừng danh thiên hạ kia không còn cách gì chối cãi.
Viên Âm kéo Tuệ Phong ra khỏi nơi nguy hiểm, là đề phòng Trương Thúy Sơn trong cơn giận dữ có thể đột nhiên sát nhân diệt khẩu, không còn ai đối chứng.
Tuệ Phong nói:
– Được, để ta nhắc lại lần nữa chính mắt ta chứng kiến, thấy ngươi xuất chưởng đánh chết hai vị sư huynh Tuệ Thông và Tuệ Quang, thấy ngươi xuất chỉ điểm chết tám người trong tiêu cục.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ngươi có nhìn rõ diện mạo của ta hay không? Y phục của ta như thế nào?
Đoạn chàng đánh lửa châm đuốc, chiếu ngay vào mặt mình. Tuệ Phong chăm chú quan sát diện mạo của chàng, hậm hực nói:
– Y phục của ngươi đúng như thế này, áo dài khăn vuông, không sai. Lúc ấy tay trái ngươi cầm một cái quạt xếp, cái quạt đó hiện đang gài sau gáy ngươi kia.
Trương Thúy Sơn giận như điên, không hiểu vì sao kẻ kia lại vu hãm cho chàng như thế, liền giơ cao cây đuốc, tiến thêm hai bước, quát:
– Ngươi có dám nhắc lại một lần nữa kẻ giết người là Trương Thúy Sơn ta đây chứ không phải ai khác?
Tuệ Phong bỗng nhiên đôi mắt phát ra ánh kỳ dị, tay chỉ về phía chàng, miệng ú ớ:
– Ngươi… ngươi… ngươi không…
Đoạn ngã vật xuống đất, nằm lăn ra. Viên Âm và Viên Nghiệp cùng hoảng hốt kêu lên, chạy tới đỡ y dậy, chỉ thấy y hai mắt mở trừng trừng, đầy vẻ kinh hoàng, khí đã tuyệt hoàn toàn.
Viên Âm nói:
– Ngươi… ngươi đánh chết hắn rồi ư?
Sự việc xảy ra quá nhanh, Viên Âm và Viên Nghiệp dĩ nhiên vừa kinh sợ vừa tức giận, Trương Thúy Sơn cũng bị bất ngờ, vội quay đầu lại, chỉ thấy lùm cây phía sau rung động nhẹ. Trương Thúy Sơn quát:
– Không được chạy!
Chàng tung mình nhảy tới, biết trong lùm cây có người ẩn núp, xông vào đó vô cùng nguy hiểm, nhưng trong tình thế này nếu không bắt được hung thủ vừa sử dụng ám khí giết người thì chàng khó thoát khỏi liên can.
Nào ngờ thân còn lơ lửng trên không, chàng nghe có tiếng ù ù phía sau, hai cây thiền trượng từ hai bên tả hữu đánh tới, đồng thời nghe hai hòa thượng quát:
– Ác tặc đừng hòng bỏ chạy!
Trương Thúy Sơn quét bút và câu xuống, đưa tay ra sau sử tự quyết chữ “đao”, ngân câu móc vào đầu cây thiền trượng của Viên Nghiệp, phán quan bút điểm vào cây thiền trượng của Viên Âm, thân hình mượn sức nhảy lên bờ tường, đưa mắt chăm chú nhìn vào lùm cây, chỉ thấy tán cây hơi rung động, còn người nấp trong đó đã biến mất tăm.
Viên Nghiệp liên tiếp gầm lên, vung thiền trượng định nhảy lên bờ tường liều mạng giao đấu. Trương Thúy Sơn quát:
– Đuổi theo hung thủ là cần kíp hơn cả, hai vị chớ có ngăn cản.
Viên Âm hổn hển nói:
– Ngươi… ngươi giết người ngay trước mắt ta, còn định chối cãi nữa ư?
Trương Thúy Sơn vung quét hổ đầu câu, không để cho Viên Nghiệp nhảy lên bờ tường.
Viên Âm nói:
– Trương ngũ hiệp, hôm nay chúng ta cũng không cần lấy mạng của ngươi, ngươi hãy hạ khí giới, theo chúng ta về Thiếu Lâm tự là được.
Trương Thúy Sơn nổi giận nói:
– Hai vị làm vướng chân vướng tay ta, để cho hung thủ chạy mất, đến bây giờ vẫn còn chưa rõ đầu đuôi thế nào, đòi ta theo các vị về Thiếu Lâm tự làm gì?
Viên Âm nói:
– Về Thiếu Lâm tự nghe phương trượng bổn tự phán định, ngươi sát hại liền một lúc ba mạng người của bổn tự, chuyện tày đình thế này, bần tăng chẳng dám định đoạt.
Trương Thúy Sơn cười khẩy:
– Uổng cho đại sư là hảo thủ thuộc hàng chữ “Viên” của phái Thiếu Lâm, để hung thủ đào tẩu ngay trước mắt mà chẳng hay biết.
Viên Âm nói:
– Thiện tai, thiện tai! Ngươi sát hại nhân mạng, quyết không thể để cho ngươi đào tẩu.
Trương Thúy Sơn nghe Viên Âm cứ khăng khăng coi chàng là hung thủ thì càng lúc càng phẫn nộ, vừa đấu khẩu với y vừa ngăn chặn không cho Viên Nghiệp nhảy lên bờ tường, cuộc giao đấu mỗi lúc một mãnh liệt, chàng cười khẩy, nói:
– Hai vị đại sư có bản lĩnh thì bắt ta xem có nổi chăng?
Viên Nghiệp chống cây thiền trượng xuống đất đẩy một cái, mượn sức nhảy lên cao, Trương Thúy Sơn cũng nhảy lên, khinh công của chàng cao hơn hẳn Viên Nghiệp, từ trên đánh xuống, khác gì cưỡi gió. Viên Nghiệp giơ ngang thiền trượng định đỡ, hổ đầu câu của Trương Thúy Sơn chuyển qua, nghe “xoẹt” một tiếng, đã móc trúng vai Viên Nghiệp, máu tươi chảy ròng ròng. Viên Nghiệp kêu rống lên, ngã huỵch xuống đất. Đấy là Trương Thúy Sơn hạ thủ lưu tình, nếu không chỉ hướng móc câu xéo qua một chút, móc vào yết hầu Viên Nghiệp thì y bỏ mạng tại chỗ rồi.
Viên Âm kêu lên:
– Viên Nghiệp sư đệ, bị thương nặng không?
Viên Nghiệp giận dữ nói:
– Không sao cả! Sư huynh mau xuất thủ, khỏi cần nhiều lời!
Viên Âm ho một tiếng, vung thiền trượng đánh lên. Viên Nghiệp vẫn hùng hổ, bất chấp vết thương ở vai, cứ múa trượng như gió, hai bên cùng xáp lại công kích. Trương Thúy Sơn thấy lực cánh tay của hai hòa thượng rất mạnh, họ sử dụng thứ khí giới cứng nặng, nếu để họ nhảy lên được bờ tường, một mình chàng chống đỡ đôi bên sẽ khó bề thủ thắng, liền phòng bị môn hộ cực kỳ nghiêm mật, từ trên cao đánh xuống, hai hòa thượng chẳng có cách gì đánh lên được. Ba hòa thượng thuộc hàng chữ “Tuệ” võ công thấp hơn nhiều, thấy hai vị sư bá đánh mãi chẳng ăn thua gì, cũng muốn nhảy vào trợ lực, nhưng biết chen vào chỗ nào?
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Hiện tại cách hay nhất là phải điều tra ra hung thủ, chẳng nên luẩn quẩn ở đây mãi”, bèn giơ bút và câu chéo ra trước mặt để ngăn chặn mọi thế công đánh tới, hú một tiếng, đang định nhảy vọt đi, bỗng nghe phía bên trong tường có người rống to như sấm, từ sau lưng có một luồng kình phong đánh tới. Trương Thúy Sơn nhảy xuống đất, thấy một tăng nhân cao lớn vọt qua tường, giơ cả hai tay ra đoạt binh khí của chàng. Trong bóng đêm không nhìn rõ diện mạo người ấy, chỉ thấy mười ngón tay y như móc câu, trảo cứng mà đoạt cũng mạnh, chính là “Hổ trảo công” cực kỳ lợi hại của phái Thiếu Lâm. Viên Nghiệp nói:
– Viên Tâm sư huynh, dẫu thế nào cũng đừng để tên ác tặc ấy chạy thoát.
Trương Thúy Sơn từ khi học võ thành công, hiếm khi gặp đối thủ; nửa tháng trước chàng lại học thêm được “Ỷ Thiên Đồ Long công” nên võ nghệ càng cao hơn. Nay thấy tăng nhân kia công kích uy mãnh, để chọc tức đối phương, chàng bèn giắt hổ đầu câu cùng phán quan bút vào lưng, nói:
– Hỡi ba đại sư Thiếu Lâm tự, hãy cùng liên thủ xông tới đây, Trương Thúy Sơn ta đâu có ngán!
Thấy tay trái của Viên Tâm trảo tới, hữu chưởng của chàng vờn ra thăm dò thật nhanh rồi ngoắt ngón tay chộp lại, nghe “soạt” một tiếng đã xé rách một mảnh tay áo tăng bào của Viên Tâm. Thủ trảo của Viên Tâm đang định chộp tới vai Trương Thúy Sơn, thì chân trái của chàng đã đá lên trúng ngay đầu gối của y.
Nào ngờ hạ bàn công của Viên Tâm cực kỳ vững chắc, đầu gối bị trúng một cước rất nặng, nhưng y chỉ loạng choạng chứ không ngã. Viên Tâm gầm lên như hổ, tay phải lại chộp tới. Đồng thời hai cây thiền trượng của Viên Âm và Viên Nghiệp cũng đánh tới, một thọc vào sườn, một bổ xuống đầu. Viên Âm nói năng yếu ớt, lại húng hắng ho như đang bị bệnh nặng, song thực ra trong ba hòa thượng kia, y là vị có võ công cao nhất. Cây thiền trượng bằng đồng nặng mấy chục cân mà y sử dụng linh hoạt như thứ đao kiếm bình thường, đâm đỡ chém gạt nhẹ nhàng như không.
Trương Thúy Sơn gặp được đối thủ, nghĩ thầm: “Võ Đang ta và phái Thiếu Lâm những năm gần đây cùng lừng danh trong võ lâm, song ai cao ai thấp, chưa hề có dịp so sánh. Hôm nay chính là một dịp hay để thử xem thủ pháp của các cao tăng Thiếu Lâm tới mức nào”. Chàng liền thi triển hai tay không đối phó với hai cây thiền trượng, một đôi hổ trảo, chàng cứ tung hoành tới lui, chém chặt chộp phạt, chỉ chọc chưởng tạt, tuy là một địch ba mà dần dần lại chiếm thượng phong.
Võ công của hai phái Võ Đang và Thiếu Lâm mỗi bên có sở trường sở đoản riêng. Phái Võ Đang có được bậc kỳ tài cái thế Trương Tam Phong, thì phái Thiếu Lâm có hơn ngàn năm truyền thụ tu chính, nào phải loại thường. Chẳng qua hiện thời võ công của Trương Thúy Sơn thuộc hàng đệ nhất cao thủ trong phái Võ Đang, còn ba hòa thượng Viên Âm, Viên Tâm, Viên Nghiệp tuy võ công cũng cao, song chỉ thuộc hàng thứ hai ở Thiếu Lâm tự mà thôi. Giao đấu càng lâu, Trương Thúy Sơn càng thần định khí túc, động tác nhẹ nhàng. Chàng tay phải vươn ra sử thế móc trong tự quyết chữ “Long”, chộp lấy thiền trượng của Viên Nghiệp, thuận tay hất ra trúng vào thiền trượng của Viên Âm đang đánh tới, tức là mượn lực đánh địch, chỉ nghe “choang” một tiếng lớn điếc cả tai, lực khí của Viên Âm, Viên Nghiệp đều mạnh, cộng thêm lực đạo của Trương Thúy Sơn, khiến cho hổ khẩu của hai hòa thượng bị chấn động ứa máu. Viên Tâm vội xông tới tiếp cứu. Trương Thúy Sơn đưa chân ra móc một cái, lật chưởng vỗ vào lưng y, lại là mượn lực đánh địch, mượn sức y đang xông tới trước mà đẩy y ngã chúi xuống. Trương Thúy Sơn cười khẩy, nói:
– Muốn bắt ta đem về Thiếu Lâm tự, chỉ e các vị phải khổ luyện vài năm nữa.
Đoạn quay lưng bỏ đi. Viên Tâm bật dậy quát:
– Hung đồ chớ hòng đào tẩu!
Viên Âm và Viên Nghiệp cũng đuổi theo chàng. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Ba lão hòa thượng này cứ quấn lấy chân mình mãi thế này, chẳng lẽ phải đánh chết họ?” Liền đề khí thi triển khinh công vọt đi.
Viên Tâm và Viên Nghiệp hò hét ầm ĩ đuổi theo. Khinh công của họ không bằng Trương Thúy Sơn, chỉ vừa hét to:
– Bắt lấy hung thủ giết người! Ác tặc đừng hòng tẩu thoát!
Vừa chạy đuổi theo chàng trên bờ hồ. Trương Thúy Sơn cười thầm trong bụng, nghĩ: “Các ngươi đuổi sao cho kịp ta!” Bỗng nghe Viên Tâm và Viên Nghiệp không hẹn mà cùng kêu:
– Ối!
Viên Tâm cũng rú lên một tiếng đau đớn, tựa hồ bị trúng thương nặng.
Trương Thúy Sơn kinh ngạc ngoảnh lại, chỉ thấy ba hòa thượng lấy tay ôm mắt bên phải, tựa hồ mắt đó bị trúng ám khí. Quả nhiên nghe Viên Tâm lớn tiếng quát:
– Họ Trương kia, ngươi có giỏi thì đánh mù nốt mắt trái của ta đi!
Trương Thúy Sơn càng ngạc nhiên hơn: “Chẳng lẽ mắt phải của y đã bị người nào làm mù rồi ư? Rốt cuộc là ai ám trợ mình chứ?” Chợt nghĩ ra, bèn gọi:
– Thất đệ, thất đệ, đệ ở đâu?
Trong Võ Đang thất hiệp, Mạc Thanh Cốc là người sử dụng ám khí tài tình hơn cả nên Trương Thúy Sơn mới đoán là thất đệ đã tới.
Chàng gọi mấy tiếng nhưng không thấy ai trả lời. Trương Thúy Sơn vội chạy một vòng quanh mấy cây liễu lớn ven hồ, song chẳng thấy một bóng người.
Viên Nghiệp bị bắn mù một mắt, tức giận điên cuồng, bất kể sống chết muốn xông lên liều mạng với Trương Thúy Sơn. Nhưng Viên Âm biết dù có lành lặn cả hai mắt, ba người họ cũng chẳng thể địch nổi Trương Thúy Sơn, nên níu giữ Viên Nghiệp lại:
– Viên Nghiệp sư đệ, việc báo thù đâu phải chuyện nhất thời. Vụ này dù ta và sư đệ có bỏ qua thì phương trượng và hai vị sư thúc cũng chẳng bỏ qua đâu.
Trương Thúy Sơn thấy ba hòa thượng không đuổi theo chàng nữa thì lòng đầy nghi hoặc: “Người náu mình trong bóng tối ám trợ ta là ai?” Chàng không dám ở lại lâu bên bờ hồ, vội rảo bước trở về khách điếm, được hơn mười trượng bỗng thấy đám lau sậy bên hồ không ngừng chao động.
Lúc này không có gió, lau sậy chao động, hẳn là có người nấp bên trong. Trương Thúy Sơn nhẹ bước tới gần, đang định lên tiếng hỏi, thì từ trong đám lau sậy có một người nhảy vụt ra, vung đao bổ xuống đầu chàng, miệng thét to:
– Ngươi không chết thì ta chết!
Trương Thúy Sơn né nghiêng người, chân đá lên, trúng cổ tay kẻ kia, cây đao vuột khỏi tay y, nhoáng một vệt sáng, cây đao đã rơi tõm xuống hồ. Nhìn kẻ kia thấy mặc tăng bào, đầu trọc, lại là hòa thượng Thiếu Lâm tự. Trương Thúy Sơn quát:
– Ngươi làm trò gì ở đây?
Chỉ thấy trong đám lau còn ba người nữa, không biết là người chết hay bị thương. Chàng nghĩ hòa thượng này võ công tầm thường, chẳng có gì đáng ngại, bèn bước lên mấy bước, cúi xuống nhìn cho rõ, thì ra ba người kia chính là Đô Đại Cẩm và hai tiêu đầu Chúc, Sử của tiêu cục Long Môn.
Trương Thúy Sơn kinh ngạc, nói:
– Đô tổng tiêu đầu, ngươi… ngươi làm sao…
Lời chưa dứt, y đã nhảy lên, hai tay túm chặt lấy ngực áo của Trương Thúy Sơn, nghiến răng nói:
– Ác tặc, ta chẳng qua giữ lại có ba trăm lạng vàng, vậy… mà ngươi cũng hạ độc thủ!
Trương Thúy Sơn nói:
– Ngươi làm gì vậy?
Chàng định thi triển Cầm nã pháp để thoát ra, thấy Đô Đại Cẩm ở khóe mắt, khóe miệng đều có máu tươi, lúc này tuy trời tối, nhưng hai người cách nhau chưa đầy nửa thước, chàng nhìn khá rõ, ngạc nhiên hỏi:
– Ngươi bị nội thương hay sao vậy?
Đô Đại Cẩm quay sang hòa thượng kia, nói:
– Sư đệ, sư đệ hãy nhìn cho rõ, đây là Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn, chính là… hung thủ giết người. Sư đệ mau chạy đi, chạy ngay đi, chớ để hắn đuổi kịp!
Đoạn hai tay y nắm chặt ngực áo Trương Thúy Sơn, dùng đầu đập thật mạnh vào trán chàng, cho cả hai cùng vỡ đầu mà chết.
Trương Thúy Sơn vội hai tay xoay qua, đẩy vào vai Đô Đại Cẩm, chỉ nghe “soạt” một tiếng, vạt áo chàng bị rách toạc một mảnh lớn, Đô Đại Cẩm thì ngã văng xuống đất.
Trương Thúy Sơn tuy rất gan dạ, nhưng tối nay gặp bao nhiêu chuyện quái dị, thần sắc của Đô Đại Cẩm lại trông cực kỳ đáng sợ, nên bất giác tim chàng đập thình thịch, cúi xuống nhìn, thấy hai mắt Đô Đại Cẩm đã trợn trừng, khí đã tuyệt, vậy là y bị nội thương quá nặng từ trước, chứ một cái đẩy của chàng vào vai làm sao đủ giết chết y.
Vị hòa thượng kia thất thanh kêu lên:
– Ngươi… ngươi… lại giết Đô sư huynh…
Đoạn quay mình chạy thục mạng, nhưng vì kinh hoảng và vội vã, mới được vài bước đã ngã sóng soài.
Trương Thúy Sơn lắc đầu, thấy hai tiêu đầu Chúc, Sử chân ngâm trong nước hồ, chết đã lâu. Nhìn ba thi thể, bất giác thương cảm. Chàng với Đô Đại Cẩm tuy không có giao tình, việc tiêu cục Long Môn hộ tống Du Đại Nham cũng không chu đáo khiến chàng rất căm giận, song nhìn ba người họ chết một cách oan ức khó hiểu như thế, chàng khó tránh khỏi thương cảm. Chàng đứng bên bờ hồ giây lát, bỗng nghĩ thầm: “Đô Đại Cẩm có nói “Ác tặc, ta chẳng qua giữ lại có ba trăm lạng vàng, vậy… mà ngươi cũng hạ độc thủ!” Mình bảo y đem hai ngàn lượng vàng cứu tế dân bị nạn, chắc y tiếc của nên giữ lại ba trăm lượng. Đừng nói là mình hoàn toàn không hay biết, mà dẫu có biết thì mình cũng chỉ cười một tiếng, có lẽ nào vì chuyện đó mà làm khó cho y?”
Chàng nhấc thử cái bọc sau lưng Đô Đại Cẩm, quả nhiên thấy nó nặng chình chịch, mở ra, có mấy thoi vàng lăn ra cạnh mặt Đô Đại Cẩm. Lúc này chàng chợt nhận thấy nhân sinh vô thường, vị Tổng tiêu đầu này suốt đời vất vả, ngàn dặm bôn ba, liều thân trên đường đao mũi kiếm, chẳng qua cốt kiếm được một số vàng bạc, giờ thì vàng bạc lăn lóc ngay trước mặt đó nhưng y nào được hưởng dụng. Lại nghĩ mới rồi chàng dốc sức kịch chiến với ba hòa thượng Thiếu Lâm, tuy toàn thắng, được tiếng anh hùng nhất thời, nhưng một trăm năm nữa, so với Đô Đại Cẩm thì cũng có khác gì đâu. Nghĩ đến đó, chàng bất giác thở dài buồn bã.
Bỗng dưng có tiếng đàn tình tang từ mặt hồ vẳng tới. Trương Thúy Sơn ngẩng đầu lên, thấy người đang gảy đàn trên thuyền chính là thiếu niên văn nhân mà chàng đã thấy ở dưới hồ trước cửa tiêu cục Long Môn ban đầu. Nhìn ba thi thể dưới chân, nếu chiếc du thuyền kia lại gần, người kia trông thấy ắt kinh hoảng kêu lên, tuần binh Mông Cổ nghe được sẽ khó tránh khỏi phiền toái. Chàng đang định bỏ đi, bỗng nghe văn nhân trên thuyền gảy nhẹ ba tiếng đàn, rồi y ngẩng lên nói:
– Huynh đài đã có nhã hứng du ngoạn trên hồ canh khuya, sao không xuống thuyền chơi?
Đoạn vẫy tay một cái. Từ phía lái thuyền có một người chờ sẵn nhỏm dậy đẩy hai mái chèo, đưa thuyền bơi vào gần bờ.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Người kia từ đầu tới giờ vẫn ở trên hồ, có lẽ y nhìn thấy gì chăng, tại sao mình không hỏi thăm y thử xem”. Nghĩ vậy, chàng đi lại phía mé nước, đợi chiếc thuyền tới gần liền nhẹ nhàng nhảy xuống mũi thuyền.
Chàng thư sinh trên thuyền đứng dậy, mỉm cười, chắp tay hành lễ, tay trái chìa ra phía đối diện, mời khách ngồi. Dưới ánh đèn lồng che bằng vải sa màu xanh, trông thư sinh tay trắng ngần, trắng hơn cả tuyết, mặt ngọc hơi gầy, mi cong mũi thẳng, lúc cười thì má trái lúm đồng tiền, nhìn xa ngỡ là một công tử phong lưu nhàn nhã, bây giờ đối diện mới thấy rõ là một mỹ nữ giả trai.
Trương Thúy Sơn tuy là người phóng khoáng tự nhiên, nhưng theo quy củ sư môn, chuyện nam nữ ngăn cách rất chặt chẽ. Võ Đang thất hiệp hành tẩu giang hồ, về phương diện nữ sắc ai nấy đều nghiêm cẩn, nay thấy đối phương là một thiếu nữ, chàng liền ngạc nhiên, hai má đỏ bừng, đứng ngay dậy nhảy trở lại bờ, chắp tay nói:
– Tại hạ không biết cô nương cải nam trang, vô ý mạo muội.
Thiếu nữ không nói gì. Chỉ nghe tiếng mái chèo khuấy nước, con thuyền lặng lẽ bơi ra giữa hồ, thiếu nữ thì gảy đàn hát:
“Nhã hứng kia đêm nay đã tận, mong đêm mai lại đến cùng nhau, Lục Hòa tháp, dưới chân cầu, bên cây liễu rủ thuyền câu đón chờ. Quân tử hỡi, nếu chàng không ngại, tới nơi kia du ngoạn một phen”.
Con thuyền xa dần, lời ca cũng nhỏ dần, chỉ thấy sóng nước chao động, ngọn đèn chỉ còn bằng hạt đỗ, chìm lẫn vào sắc nước trong đêm.
Sau một phen kịch chiến giữa kiếm ảnh đao quang, gió tanh mưa máu, bỗng dưng gặp cảnh lả lướt phiêu diêu như thế, Trương Thúy Sơn lặng người đứng tần ngần trên bờ hồ, bất giác lòng thấy nao nao, hơn nửa canh giờ sau mới trở về khách điếm.
Hôm sau trong thành Lâm An truyền ra vụ đại huyết án mấy chục nhân mạng ở tiêu cục Long Môn lan truyền ra, ai ai cũng biết. Trương Thúy Sơn dáng người nho nhã nên không một ai nghi ngờ chàng. Từ sáng tới chiều chàng nhàn du khắp phố phường, đền miếu, nghe ngóng tin tức của nhị sư huynh Du Liên Châu và thất đệ Mạc Thanh Cốc, nhưng đi cả buổi cũng chẳng tìm được ký hiệu liên lạc nào của Võ Đang thất hiệp.
Đến chiều tà, trong lòng lại rộn lên tiếng hát của người thiếu nữ: “Nhã hứng kia đêm nay đã tận, mong đêm mai lại đến cùng nhau, Lục Hòa tháp, dưới chân cầu, bên cây liễu rủ thuyền câu đón chờ. Quân tử hỡi, nếu chàng không ngại, tới nơi kia du ngoạn một phen”. Hình ảnh thiếu nữ cứ chập chờn ẩn hiện trong óc chàng. Chàng nghĩ thầm: “Mình giữ đúng lễ, thì gặp nàng một lần cũng có sao đâu? Giá có nhị sư ca và thất sư đệ đi cùng thì hay quá, nhưng lúc này, trừ việc hỏi thăm thiếu nữ kia, không còn nơi nào khác có thể nghe ngóng để tìm ra chân tướng án mạng đêm qua”.
Dùng bữa tối xong, Trương Thúy Sơn nhắm hướng tháp Lục Hòa bên sông Tiền Đường đi tới.
Sông Tiền Đường đến chỗ tháp Lục Hòa thì chuyển qua một khúc quanh lớn, rồi mới chảy thẳng về phía đông. Chỗ này cách phủ Lâm An không gần, khi Trương Thúy Sơn tới đó thì trời đã tối, thấy phía đông ngọn tháp quả nhiên có ba cây liễu lớn, bên dưới đậu một chiếc thuyền. Chiếc thuyền trên sông Tiền Đường này có buồm, lớn hơn hẳn loại du thuyền trên Tây Hồ, nhưng mũi thuyền vẫn treo hai chiếc đèn lồng vải sa xanh y hệt tối qua. Trương Thúy Sơn hồi hộp, tim đập mạnh, cố trấn tĩnh đi tới bên cây liễu lớn, thấy thiếu nữ nọ ngồi một mình ở mũi thuyền, y phục màu xanh nhạt, hôm nay đã đổi sang trang phục nữ nhi.
Trương Thúy Sơn tới đây chỉ cốt hỏi thiếu nữ chuyện tối qua, giờ thấy nàng đổi sang trang phục nữ nhi thì còn đang ngần ngại, bỗng nghe nàng ngẩng mặt lên trời mà ngâm: “Ngồi ôm gối đầu thuyền đợi khách, biết khi nào chàng mới đến cho, gió kia với sóng muốn đùa, lay ai mau tỉnh qua cơn mơ màng”.
Trương Thúy Sơn nói to:
– Tại hạ Trương Thúy Sơn có điều muốn hỏi, chưa dám mạo muội!
Thiếu nữ nói:
– Mời chàng xuống thuyền.
Trương Thúy Sơn nhảy nhẹ xuống mũi thuyền.
Thiếu nữ nói:
– Tối qua mây đen đầy trời, không thấy ánh trăng. Tối nay mây tan trời trong, cảnh đẹp hơn nhiều.
Tiếng thiếu nữ trong trẻo ngân nga, song lúc nói nàng chỉ nhìn trời, chẳng buồn nhìn Trương Thúy Sơn lấy một lần. Chàng nói:
– Mạn phép được thỉnh vấn tôn tính của cô nương?
Thiếu nữ đột nhiên quay mặt lại, đôi mắt sáng lướt qua lướt lại trên mặt Trương Thúy Sơn, không trả lời. Chàng thấy diện mạo nàng vô cùng mỹ lệ, nhưng như có điều gì dồn bức, chàng chợt thấy ngượng ngùng, không dám hỏi thêm, đành quay mình nhảy luôn lên bờ, chạy ngược về phía mặt đường.
Chạy hơn mười trượng, chàng bỗng dừng bước, nghĩ thầm: “Trương Thúy Sơn ơi là Trương Thúy Sơn, mi bảy thước ngang tàng, nam tử hán đại trượng phu tung hoành giang hồ không biết sợ, vậy mà giờ đây lại sợ hãi một thiếu nữ là sao?” Ngoảnh nhìn lại chỉ thấy chiếc thuyền của thiếu nữ đang từ từ trôi xuôi theo dòng sông Tiền Đường, hai ngọn đèn lồng chiếu xuống mặt sông. Trương Thúy Sơn nhất thời chưa biết nên làm gì, bèn thả bộ men sông mà đi.
Người đi trên bờ, thuyền trôi dưới sông, một người một thuyền cứ thế song hành cùng nhau. Thiếu nữ vẫn ngồi ôm gối ở mũi thuyền, ngẩng nhìn mảnh trăng non phía chân trời.
Trương Thúy Sơn đi một hồi, bất giác cũng theo nàng nhìn lên trời, bỗng thấy phía đông bắc đùn lên một đám mây đen lớn. Trời quả thật không sao lường trước được, đám mây đen kia lan ra rất nhanh, chẳng mấy chốc đã che lấp mặt trăng, một trận gió thổi tới rải mưa lắc rắc. Bờ sông quãng này hoàn toàn trống trải, không có chỗ nào trú mưa. Trương Thúy Sơn cũng đang bận lòng, chẳng tính đến việc trú mưa, mưa tuy không nặng hạt, nhưng nếu mưa lâu thì sẽ ướt hết người. Thiếu nữ vẫn ngồi ở mũi thuyền, mặc cho mưa tạt vào ướt người.
Trương Thúy Sơn như sực tỉnh, nói:
– Cô nương, hãy vào khoang thuyền tránh mưa đi!
Thiếu nữ “à” một tiếng, đứng dậy, nói:
– Thế chàng không sợ mưa ướt hay sao?
Đoạn nàng chui vào khoang thuyền, cầm ra một cái dù, vung tay ném cây dù lên bờ.
Trương Thúy Sơn giơ tay đón lấy, thấy đó là một cây dù đỏ làm bằng giấy dầu, mở dù ra thấy trên tán vẽ cảnh sông núi xa gần, vài cây liễu rủ, một bức tranh thủy mặc thanh nhã, đề bảy chữ “Tà phong tế vũ bất tu quy”[24]. Các cây dù ở Hàng Châu thường có vẽ cảnh đề chữ, xưa nay vẫn thế, chẳng có gì lạ. Tranh vẽ và chữ viết của thợ làm dù cũng giống như trên đồ gốm Giang Tây, thường có cái vẻ của dân thợ. Còn tranh và chữ trên cây dù này lại rất tinh xảo, bảy chữ kia tuy nét bút hơi thiếu kình lực, nhưng là do con nhà khuê tú viết nên, đầy vẻ thanh lệ thoát tục.
Trương Thúy Sơn giương dù che mưa, ngẩng nhìn thư họa trên cây dù, chân vẫn không ngừng bước, nào ngờ phía trước có một con mương nhỏ, chân trái của chàng vẫn bước tới liền đạp vào chỗ trống không. Nếu là người thường, bước hụt này đương nhiên sẽ ngã bổ chửng. Nhưng chàng biến chiêu cực nhanh, chân phải đá mạnh về phía trước, thân hình đã vọt lên, nhẹ nhàng xảo diệu bay qua con mương. Chỉ nghe thiếu nữ trên thuyền thốt lên trong trẻo:
– Hay lắm!
Trương Thúy Sơn ngoảnh nhìn, thấy nàng đội nón lá đứng ở mũi thuyền, gió mưa thổi bay bay tà áo, trông hệt như tiên nữ đứng trên những ngọn sóng.
Thiếu nữ nói:
– Thư họa trên cây dù liệu có vừa mắt Trương tướng công chăng?
Trương Thúy Sơn vốn không lưu tâm đến hội họa, chỉ chú ý thư pháp, bèn nói:
– Nét bút là thư pháp của Vệ phu nhân trên “Danh Cơ thiếp”, bút dứt mà ý vẫn liền, bút ngắn mà ý vẫn dài, diễn tả hết cái kỳ diệu của trâm hoa tả vận.
Thiếu nữ thấy chàng nhận ra thể chữ của mình thì trong lòng rất vui, nói:
– Trong bảy chữ ấy, chữ “Bất” viết dở nhất.
Trương Thúy Sơn nhìn kỹ, nói:
– Chữ “Bất” viết rất tự nhiên, có điều không được hàm súc, như sáu chữ kia dư vận bất tận khiến người xem nhìn không biết chán.
Thiếu nữ nói:
– Phải rồi, tiểu muội cảm thấy chữ ấy viết có gì không ổn, nghĩ mãi chưa thấy dở ở chỗ nào, chàng vừa nói là tiểu muội nhận ra ngay.
Chiếc thuyền của thiếu nữ trôi xuôi theo dòng, Trương Thúy Sơn ở trên bờ đi theo, hai người trò chuyện với nhau về thư pháp, người hỏi kẻ đáp, không để ý đã đi cả dặm. Lúc này trời đã tối hơn, đôi bên không còn nhìn rõ mặt nhau nữa, thiếu nữ bỗng nói:
– Trò chuyện với chàng một buổi, hơn cả đọc sách mười năm. Đa tạ Trương tướng công chỉ bảo, giờ xin cáo biệt!
Rồi thiếu nữ giơ tay lên, người lái thuyền liền kéo buồm, chiếc buồm trắng từ từ được kéo lên, no gió, con thuyền lập tức trôi nhanh. Trương Thúy Sơn thấy cánh buồm xa dần, bất giác cảm thấy bồi hồi, chợt nghe giọng nàng vọng lại từ xa:
– Tiểu muội họ Ân, mai ngày có dịp, lại xin thỉnh giáo tướng công…
Trương Thúy Sơn nghe bốn chữ “Tiểu muội họ Ân” liền giật mình nhớ lại rằng Đô Đại Cẩm từng nói, người nhờ y hộ tống Du tam ca là một thư sinh diện mạo tuấn tú, tự xưng họ Ân, liệu có phải là thiếu nữ này giả trai? Nghĩ tới đó, chàng không còn ngại ngần chuyện nam nữ, liền đề khí đuổi theo. Thuyền căng buồm trôi nhanh, song chàng thi triển khinh công, chẳng mấy chốc đã đuổi kịp, lớn tiếng gọi vào thuyền:
– Ân cô nương, nàng có biết Du tam ca Du Đại Nham của tại hạ hay chăng?
Thiếu nữ quay đầu lại, nhưng không trả lời. Trương Thúy Sơn dường như nghe có tiếng thở dài, nhưng người ở trên bờ, người dưới thuyền, nghe không được rõ có đúng là tiếng thở dài hay không.
Trương Thúy Sơn lại nói:
– Trong lòng tại hạ có biết bao nhiêu là nghi vấn, cần hỏi cho rõ.
Thiếu nữ nói:
– Cứ nhất thiết phải hỏi cho rõ ư?
Trương Thúy Sơn nói:
– Ủy thác tiêu cục Long Môn hộ tống Du tam ca của tại hạ về núi Võ Đang phải chăng là Ân cô nương? Ân đức ấy có ngày phải báo đáp.
Thiếu nữ nói:
– Ân ân oán oán, cũng thật khó nói.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Du tam ca của tại hạ về đến chân núi Võ Đang còn bị người ta hạ độc thủ, Ân cô nương có biết hay chăng?
Thiếu nữ nói:
– Tiểu muội quả không vui, rất tiếc về việc đó.
Hai người một hỏi một đáp, gió mạnh dần, thuyền trôi càng nhanh. Trương Thúy Sơn nội lực thâm hậu, trước sau vẫn đi song song với con thuyền, không tụt lại nửa bước. Thiếu nữ nội lực tuy không bằng chàng, nhưng từng câu từng chữ đều nghe rõ ràng.
Sông Tiền Đường càng về phía hạ lưu mặt sông càng rộng. Mà gió nhẹ mưa nhỏ lúc đầu cũng dần dần biến thành cuồng phong bạo vũ.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Tối qua mấy chục mạng người ở tiêu cục Long Môn bị giết, cô nương có biết ai hạ độc thủ chăng?
Thiếu nữ đáp:
– Tiểu muội đã bảo Đô Đại Cẩm phải hộ tống thật chu đáo Du tam hiệp về núi Võ Đang, nếu dọc đường để xảy ra nửa phần sơ suất… Trương Thúy Sơn nói:
– Thì cô nương sẽ giết sạch già trẻ lớn bé trong tiêu cục của y chứ gì?
Thiếu nữ nói:
– Không sai! Hắn đã hộ tống Du tam hiệp không đến nơi đến chốn, đó là hắn tự rước họa vào thân, còn oán trách ai kia chứ?
Trương Thúy Sơn thấy lạnh người, nói:
– Chẳng lẽ… bấy nhiêu mạng người trong tiêu cục đều do… đều do…
Thiếu nữ đáp:
– Đều do tiểu muội giết đó.
Trương Thúy Sơn tai bỗng ù đi, chàng không thể ngờ một thiếu nữ kiều diễm nhường kia rốt cuộc lại là một hung thủ giết người không chớp mắt. Lát sau, chàng hỏi:
– Còn… còn hai hòa thượng Thiếu Lâm tự?
Thiếu nữ nói:
– Cũng là do tiểu muội giết. Tiểu muội vốn không định kết oán thù với phái Thiếu Lâm, nhưng bọn họ lại sử ám khí tẩm độc đả thương tiểu muội trước, nên không thể tha cho họ được.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thế sao… tại sao họ lại đổ oan cho tại hạ?
Thiếu nữ cười khanh khách, nói:
– Cái đó là do tiểu muội sắp đặt đó.
Trương Thúy Sơn cả giận nói to:
– Cô nương sắp đặt để họ đổ oan cho ta?
Thiếu nữ mỉm cười yêu kiều:
– Đúng vậy.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta với cô nương không thù không oán, tại sao lại làm như thế?
Chỉ thấy thiếu nữ phẩy tay áo, chui vào khoang thuyền. Đến nước này, Trương Thúy Sơn làm sao có thể không hỏi cho ra nhẽ? Thấy chiếc thuyền cách xa bờ mấy trượng, không thể nào nhảy xuống thuyền, trong cơn cuồng nộ, chàng liền vung chưởng đánh mạnh vào cây phong bên bờ sông, nghe “rắc rắc” mấy tiếng, hai cành lớn gãy rời. Chàng vận lực ném một cành xuống sông, tay trái cầm một cành, chân phải nhún một cái, nhảy xuống sông, chân trái đáp xuống cành cây nổi dưới đó liền mượn lực nhảy tiếp, cùng lúc ném cành thứ hai tới phía trước, chân phải đáp vào nó, lại mượn sức lần nữa, vọt lên mũi thuyền, quát to:
– Cô nương… cô nương sắp đặt như thế nào?
Khoang thuyền tối om, không một tiếng động. Trương Thúy Sơn dợm bước tiến vào, nhưng trong cơn thịnh nộ vẫn biết tự kiềm chế, nghĩ thầm: “Xông vào khoang thuyền của phụ nữ, e mang tiếng thất lễ!” Chàng đang ngần ngại, chợt trong khoang thuyền lóe lên ánh lửa, một ngọn nến được thắp sáng. Thiếu nữ nói:
– Mời vào!
Trương Thúy Sơn sửa lại áo mũ, khép dù, bước vào khoang thuyền và bất giác sững sờ khi thấy trong này là một thư sinh áo xanh khăn vuông, tay cầm quạt giấy phe phẩy, thần thái ung dung; thì ra thiếu nữ kia trong giây lát đã cải nam trang, nhìn thoáng qua diện mạo giống Trương Thúy Sơn như đúc. Thúy Sơn hỏi nàng sắp đặt như thế nào, để các hòa thượng phái Thiếu Lâm đổ oan cho chàng, bây giờ thiếu nữ kia cải trang, chẳng cần đáp, chàng cũng đã hiểu ra, trong đêm tối, ai ai cũng sẽ ngỡ hai người là một, chẳng trách Tuệ Phong và Đô Đại Cẩm cứ một mực đổ riệt cho chàng đã hạ độc thủ.
Thiếu nữ giơ chiếc quạt chỉ phía đối diện, nói:
– Trương ngũ hiệp, mời ngồi!
Nàng cầm ấm trà nhỏ trên kỷ lên, rót một chén, đưa tới trước mặt chàng, nói:
– “Hàn dạ khách lai trà đương tửu”[25], trong thuyền không có rượu, đúng là không khỏi giảm mất thanh hứng của Trương ngũ hiệp.
Cách nàng cầm ấm rót trà, bưng chén mời trà và lời nói thanh nhã khiến Trương Thúy Sơn nguôi bớt cơn giận, chỉ nghiêng mình nói:
– Đa tạ.
Thiếu nữ thấy y phục của chàng ướt sũng, liền nói:
– Trong thuyền có sẵn y phục, Trương ngũ hiệp hãy ra đằng lái mà thay.
Trương Thúy Sơn lắc đầu nói:
– Khỏi cần.
Đoạn chàng ngầm vận nội lực, một luồng hơi ấm từ đan điền bốc lên, toàn thân nóng bừng, quần áo dần bay hết hơi nước. Thiếu nữ nói:
– Nội công của phái Võ Đang đứng đầu võ lâm, tiểu muội bảo Trương ngũ hiệp thay y phục quả là ếch ngồi đáy giếng.
Trương Thúy Sơn nói:
– Cô nương thuộc môn phái nào, có thể cho biết chăng?
Thiếu nữ nghe chàng hỏi câu ấy, thì đưa mắt nhìn qua song cửa, đầu mày hơi cau biểu lộ nét buồn.
Trương Thúy Sơn thấy thần sắc nàng tựa hồ có điều u uất, không tiện gặng hỏi, nhưng lát sau chàng không nhịn được, lại hỏi:
– Du tam ca của tại hạ rốt cuộc là do kẻ nào đả thương, mong cô nương cho biết.
Thiếu nữ nói:
– Chẳng cứ gì Đô Đại Cẩm nhìn lầm, mà chính tiểu muội cũng bị lừa. Tiểu muội luôn nghĩ rằng Võ Đang thất hiệp phong tư anh sảng, chứ đâu thô lỗ táo tợn như thế.
Trương Thúy Sơn thấy nàng không trả lời câu hỏi của chàng, lại nhắc đến bốn chữ “phong tư anh sảng”, hiển nhiên là tán thưởng phong thái của chàng thì trong lòng rộn ràng, hai má nóng bừng, chưa rõ ý tứ câu nói vừa rồi của nàng là thế nào.
Thiếu nữ thở dài, đột nhiên vén tay áo bên trái lên, để lộ ra cánh tay trắng như ngọc. Trương Thúy Sơn vội cúi mặt xuống, không dám nhìn. Thiếu nữ nói:
– Trương ngũ hiệp có nhận ra thứ ám khí này chăng?
Trương Thúy Sơn nghe hai tiếng “ám khí” mới ngẩng lên, thấy trên cánh tay nàng có cắm ba mũi cương tiêu nho nhỏ màu đen, làn da nàng trắng như tuyết, chỗ trúng tiêu thì đen như mực. Phần đuôi của ba chiếc tiêu đều có hình hoa mai, thân tiêu dài không quá tấc rưỡi, song lại cắm sâu vào da thịt hơn một tấc. Trương Thúy Sơn ngạc nhiên đứng bật dậy, nói:
– Đây là Mai hoa tiêu của phái Thiếu Lâm, sao… sao nó lại màu đen?
Thiếu nữ nói:
– Không sai, là Mai hoa tiêu của phái Thiếu Lâm, mũi tiêu có tẩm chất độc.
Cánh tay trắng muốt của nàng có cắm ba cây tiêu nhỏ, dưới ánh nến trông đẹp đến nao lòng, song lại mang vẻ huyền bí đáng sợ, như trên giấy trắng ngần có ba giọt mực đen.
Trương Thúy Sơn nói:
– Phái Thiếu Lâm là danh môn chính phái, ám khí của họ quyết không thể tẩm chất độc. Nhưng ba đóa Mai hoa tiêu này, trừ đệ tử phái Thiếu Lâm ra, chưa từng nghe có nhân vật phái nào khác biết sử dụng. Cô nương trúng tiêu bao lâu rồi? Mau chóng tìm cách giải độc là điều cần kíp hơn cả.
Thiếu nữ thấy chàng hết sức quan tâm, bèn nói:
– Trúng tiêu đã hơn hai mươi ngày, độc tính đã bị tiểu muội dùng thuốc ngăn chặn, nhất thời chưa thể lan rộng, nhưng ba mũi ác tiêu này không dám rút ra, sợ nếu rút tiêu ra, chất độc sẽ theo máu lan đi tứ phía.
Trương Thúy Sơn nói:
– Trúng tiêu đã hơn hai mươi ngày, chỉ sợ… chỉ e… sau khi trị lành, trên da sẽ để lại vết sẹo rất lớn…
Thực ra chàng định nói “Chỉ sợ chất độc ở trong cơ thể quá lâu, cánh tay này phải cắt bỏ”.
Thiếu nữ nước mắt lưng tròng, rầu rĩ nói:
– Tối qua, tiểu muội đã cố… lục tìm thuốc giải bên người mấy hòa thượng Thiếu Lâm tự… Ôi, có lẽ cánh tay này của tiểu muội phải bỏ mất thôi…
Đoạn nàng từ từ kéo tay áo xuống.
Trương Thúy Sơn chợt thấy ngực nóng ran, nói:
– Ân cô nương, cô nương tin tại hạ chứ? Tại hạ nội lực tuy kém, nhưng tự tin có thể giúp cô nương trục xuất chất độc khỏi cánh tay này.
Thiếu nữ mỉm cười, trên má hiện rõ lúm đồng tiền, tựa hồ trong lòng vô cùng hoan hỉ, nhưng ngoài miệng lại nói:
– Trương ngũ hiệp, lòng chàng còn đầy nghi hoặc, tiểu muội phải nói rõ trước, kẻo sau khi chữa cho tiểu muội, chàng lại hối hận.
Trương Thúy Sơn khảng khái nói:
– Trị bệnh cứu người vốn là việc tại hạ phải làm, tại sao phải hối hận?
Thiếu nữ nói:
– Dẫu gì cũng đã chịu được hơn hai chục ngày rồi, trong giây lát chẳng cần vội. Tiểu muội cần phải nói với Trương ngũ hiệp, rằng sau khi giao Du tam hiệp cho tiêu cục Long Môn, tiểu muội có thân chinh đi theo sau tiêu đội, dọc đường có vài kẻ định hạ thủ Du tam hiệp, đều bị tiểu muội kín đáo loại trừ, nực cười thay Đô Đại Cẩm cứ như kẻ mơ ngủ.
Trương Thúy Sơn chắp tay nói:
– Đại ân đại đức của cô nương, đệ tử phái Võ Đang cảm kích vô cùng.
Thiếu nữ thản nhiên nói:
– Trương ngũ hiệp khỏi cần đa tạ tiểu muội, chỉ sợ rồi chàng lại hận tiểu muội không chừng.
– Dọc đường tiểu muội nhiều lần cải trang, lúc thành nông phu, lúc làm khách thương, theo sau tiêu đội một quãng khá xa. Nào ngờ đã tới chân núi Võ Đang còn gặp chuyện rắc rối.
Trương Thúy Sơn nghiến răng nói:
– Sáu tên ác tặc nọ, cô nương có thấy mặt chúng hay không? Chỉ giận gã Đô Đại Cẩm mù mù mờ mờ, không nói rõ được lai lịch của sáu tên ác tặc.
Thiếu nữ thở dài, nói:
– Tiểu muội chẳng những thấy mặt mà còn giao đấu với chúng nữa kia, song tiểu muội cũng mù mù mờ mờ, không nói rõ được lai lịch bọn chúng.
Nàng nâng chén trà, nhấp một ngụm, nói tiếp:
– Hôm ấy tiểu muội thấy từ trên núi Võ Đang có sáu người xuống đón, nghe Đô Đại Cẩm chào hỏi họ, gọi họ là “Võ Đang lục hiệp”, sáu người ấy cũng không phủ nhận. Tiểu muội từ đằng xa quan sát, thấy họ tiếp nhận cỗ xe lớn chở Du tam hiệp, tưởng là công việc đã hoàn tất, bèn gò ngựa né sang bên đường, nhường cho đám Đô Đại Cẩm đi qua. Thế nhưng tiểu muội bỗng nảy sinh nghi ngờ: “Võ Đang thất hiệp là huynh đệ đồng môn, tình như cốt nhục, Du tam hiệp bị trọng thương nằm đó, lẽ ra cả bọn phải tức thời đổ xô lại xem thương thế ra sao mới phải. Đằng này chỉ thấy mỗi một người trong bọn đến bên cỗ xe lớn ngó vào trong một cái, năm người còn lại chẳng đếm xỉa gì tới, lại còn tỏ vẻ vui mừng, rối rít giục nhau đánh xe đi, thật trái lẽ thường tình”.
Trương Thúy Sơn gật đầu:
– Cô nương rất tinh tế, nghi ngờ là phải lắm.
Thiếu nữ nói:
– Tiểu muội càng nghĩ càng thấy không phải, bèn phóng ngựa đuổi theo, hỏi tính danh bọn họ. Sáu người ấy nhãn lực cũng khá, vừa thấy tiểu muội đã biết là gái giả trai. Tiểu muội trách họ dám mạo danh đệ tử Võ Đang, cướp Du tam hiệp mang đi hẳn là có tâm địa bất lương. Đôi bên lời qua tiếng lại, tiểu muội xông lên động thủ. Trong sáu người ấy, một tên trạc ba mươi tuổi, thân hình gầy gò, ra đấu với tiểu muội, một gã đạo sĩ đứng bên trông chừng, còn bốn tên kia đánh xe chạy đi. Tên gầy bản lĩnh rất khá, tiểu muội đấu với hắn hơn ba mươi hiệp mà chưa thắng nổi, bỗng gã đạo sĩ đứng bên cạnh vung tay một cái, tiểu muội chỉ cảm thấy cánh tay tê chồn và ngứa ngáy, thế là không nghe một tiếng động, tiểu muội đã trúng ba mũi Mai hoa tiêu. Tên gầy nói năng vô lễ, toan bắt sống tiểu muội, tiểu muội phóng cho hắn ba mũi ngân châm, nhờ vậy mới thoát được.
Nói đến đây, má nàng ửng hồng, nhớ lúc tên gầy nọ thấy nàng là một thiếu nữ cô thân mỹ lệ đã định giở thói sàm sỡ với nàng.
Trương Thúy Sơn trầm ngâm nói:
– Mai hoa tiêu này, chúng phát xạ bằng tay trái ư? Môn hạ phái Thiếu Lâm sao lại xuất hiện đạo sĩ, chả lẽ cũng lại giả trang?
Thiếu nữ mỉm cười:
– Đạo sĩ cải trang thành hòa thượng thì phải cạo đầu, hòa thượng cải trang thành đạo sĩ thì quá dễ, chỉ cần đội mũ là xong.
Trương Thúy Sơn gật đầu. Thiếu nữ nói:
– Tiểu muội thầm biết sự việc nguy rồi, nhưng tự lượng sức mình không thắng nổi tên gầy, gã đạo sĩ xem ra còn lợi hại hơn, huống hồ bọn chúng những sáu người? Thật không còn cách nào khác.
Trương Thúy Sơn mở miệng định nói gì đó, song lại thôi.
Thiếu nữ tiếp:
– Tiểu muội đoán chàng định hỏi, tại sao tiểu muội không lên núi Võ Đang kể rõ sự việc với các vị trên đó, phải không nào? Tiểu muội làm sao có thể lên núi Võ Đang, nếu tiểu muội có thể lộ diện thì cần gì phải nhờ bọn Đô Đại Cẩm hộ tống kia chứ? Tiểu muội đang bàng hoàng vô kế khả thi, đang buồn phiền thì vừa hay thấy Trương ngũ hiệp nói chuyện với bọn Đô Đại Cẩm, sau đó thấy Trương ngũ hiệp đi tìm Du tam hiệp. Tiểu muội nghĩ Võ Đang thất hiệp đã đứng ra lo vụ này, tiểu muội cũng chẳng nên xen vào nữa. Với bản lĩnh nhỏ mọn của mình, tiểu muội có giúp cũng chẳng được bao nhiêu. Bấy giờ tiểu muội mới vội lo chuyện giải độc, đi ngược trở về phía đông, không biết Du tam hiệp sau đó thế nào?
Trương Thúy Sơn bèn kể cho nàng nghe việc Du Đại Nham bị người ta hạ độc thủ ra sao. Thiếu nữ thở dài, chớp chớp mắt xúc động, nói:
– Chỉ mong Du tam hiệp ở hiền gặp lành, cuối cùng sẽ được chữa khỏi, nếu không… nếu không…
Trương Thúy Sơn nghe giọng nói thành thực của nàng thì cảm động, nói:
– Đa tạ hảo tâm của cô nương.
Chàng rưng rưng nước mắt. Thiếu nữ lắc đầu, kể tiếp:
– Tiểu muội về tới Giang Nam, nhờ người xem giùm thứ Mai hoa tiêu này, có người nhận ra đó là ám khí độc môn của phái Thiếu Lâm, bảo rằng trừ phi người phát xạ ám khí cho giải dược bổn môn, nếu không khó lòng giải trừ được độc tính. Ở phủ Lâm An, ngoài tiêu cục Long Môn, đâu có ai khác thuộc phái Thiếu Lâm? Bởi thế đang đêm tiểu muội mới lẻn vào tiêu cục, định buộc họ trao giải dược, nào ngờ họ đã chẳng cho, lại còn mai phục nhân mã, tiểu muội vừa vào đến cửa liền bị họ hạ độc thủ. Trương Thúy Sơn “à” một tiếng, trầm ngâm nói:
– Cô nương bảo cố ý sắp đặt để họ tưởng lầm là tại hạ?
Thiếu nữ tỏ vẻ bẽn lẽn, cúi đầu nói nhỏ:
– Tiểu muội thấy chàng mua bộ y phục này, mặc vào trông rất… rất dễ ưa. Nên tiểu muội cũng bắt chước mua một bộ.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thì ra thế! Có điều cô nương ra tay giết liền mấy chục mạng người, quả là tàn ác, mà mọi người trong tiêu cục có thù oán gì với cô nương đâu.
Thiếu nữ sa sầm mặt, cười nhạt nói:
– Trương ngũ hiệp định giáo huấn tiểu muội sao? Tiểu muội sống mười chín năm nay, chưa nghe ai giáo huấn đâu. Trương ngũ hiệp đại nhân đại nghĩa thì mời đi chỗ khác. Trong con thuyền này toàn hạng người tàn ác, đâu dám mong kết giao với Trương ngũ hiệp!
Trương Thúy Sơn bị thiếu nữ nói cho một trận, bất giác đỏ mặt, đứng dậy tính rời khỏi thuyền, nhưng chợt nhớ mình đã nhận lời trị thương cho nàng, bèn nói:
– Cô nương vén tay áo lên đi.
Thiếu nữ hơi nhướn đôi mày ngài, nói:
– Trương ngũ hiệp hay mắng người như thế, tiểu muội không cần chàng trị thương cho đâu!
Trương Thúy Sơn nói:
– Vết thương trên cánh tay cô nương để vậy đã lâu, dây dưa thêm chỉ sợ… chỉ sợ chất độc phát tác khó trị.
Thiếu nữ giận dỗi nói:
– Có chết cũng không sao, chẳng qua đều do Trương ngũ hiệp làm hại tiểu muội.
Trương Thúy Sơn ngạc nhiên:
– Ô hay, bắn tiêu vào tay cô nương là kẻ ác của phái Thiếu Lâm, đâu có liên quan gì tại hạ?
Thiếu nữ nói:
– Nếu tiểu muội không vượt ngàn dặm hộ tống tam sư ca của Trương ngũ hiệp về núi Võ Đang, liệu tiểu muội có gặp sáu tên ác tặc nọ hay không? Khi chúng cướp tam sư ca của chàng đi, nếu tiểu muội tụ thủ bàng quan, liệu cánh tay có bị trúng tiêu hay không? Nếu chàng đến sớm một bước, giúp tiểu muội một tay, liệu tiểu muội có bị trúng tiêu độc hay không?
Trừ hai câu cuối cùng cưỡng từ đoạt lý, những lời khác nghe cũng hợp tình hợp lý, chàng chắp tay nói:
– Không sai, tại hạ giúp cô nương trị thương, chẳng qua chỉ báo đáp được một chút đại ân đại đức của cô nương.
Thiếu nữ nghiêng đầu nói:
– Trương ngũ hiệp nhận sai rồi chứ?
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Nhận sai cái gì?
Thiếu nữ nói:
– Trương ngũ hiệp bảo tiểu muội tàn ác, nói thế là sai. Mấy lão hòa thượng Thiếu Lâm tự, bọn Đô Đại Cẩm và những người trong tiêu cục đều đáng chết.
Trương Thúy Sơn lắc đầu nói:
– Cánh tay cô nương tuy bị trúng độc, vẫn còn cứu được. Tam sư ca của tại hạ bị trọng thương, cũng chưa mất mạng; mà dẫu có không chữa trị được, thì mình cũng chỉ nên tìm kẻ thủ ác, chứ giết hại một lúc mấy chục mạng người thì chẳng hợp lý chút nào.
Thiếu nữ nhướn đôi mày ngài, nói:
– Trương ngũ hiệp bảo tiểu muội giết lầm người ư? Thế kẻ phát xạ Mai hoa tiêu không phải là người của phái Thiếu Lâm hay sao? Tiêu cục Long Môn chẳng phải do người của phái Thiếu Lâm mở ra đó sao?
Trương Thúy Sơn nói:
– Môn đồ Thiếu Lâm ở khắp thiên hạ, đông ngàn vạn người, tay cô nương trúng ba mũi tiêu, không lẽ vì thế mà phải giết sạch môn hạ đệ tử của phái Thiếu Lâm?
Thiếu nữ cãi không lại, bỗng giơ tay phải vỗ một chưởng vào chỗ ba mũi Mai hoa tiêu trên cánh tay trái, cái vỗ đó khiến ba mũi tiêu ngập sâu vào thịt, thương thế càng nặng thêm.
Trương Thúy Sơn hoàn toàn không ngờ tâm tính nàng lại quái dị như thế, nghe một lời không vừa ý liền ra tay tàn hại chính cơ thể mình. Đối với bản thân nàng còn như vậy, thì việc nàng tùy tiện hạ độc thủ giết người đâu có gì lạ. Chàng định ngăn lại, nhưng không kịp, vội nói:
– Sao cô nương… tự hành hạ mình như vậy?
Chỉ thấy máu đen thấm ra tay áo nàng. Trương Thúy Sơn biết rằng lúc này vết thương đã rất nặng, nội lực của nàng không còn đủ sức ngăn máu độc chảy ngược lên, nếu không cứu chữa ngay chắc sẽ nguy đến tính mệnh, bèn đưa tay trái nắm lấy cánh tay trái của nàng, tay phải vén ống tay áo của nàng lên.
Bỗng sau lưng có người quát:
– Cuồng đồ không được vô lễ!
Nghe vù một tiếng, người ấy đã vung đao chém lưng chàng. Trương Thúy Sơn biết đó là gã lái thuyền, tình huống khẩn cấp, không kịp giải thích, chàng đá ngược một cú về phía sau, khiến hắn văng khỏi khoang thuyền.
Thiếu nữ nói:
– Tiểu muội không cần chàng cứu, tiểu muội tự mình muốn chết, đâu có liên quan đến chàng?
Nói đoạn nghe “bốp” một tiếng, thiếu nữ đã cho Trương Thúy Sơn một cái tát. Nàng xuất thủ quá nhanh, Trương Thúy Sơn không hề đề phòng, bị bất ngờ liền buông tay nàng ra. Thiếu nữ sầm mặt, nói:
– Trương ngũ hiệp lên bờ đi, tiểu muội không muốn thấy mặt chàng nữa!
Trương Thúy Sơn bị một cái tát của nàng, vừa xấu hổ vừa tức giận, nói:
– Được lắm! Tại hạ chưa từng gặp người nào vô lễ như cô nương!
Đoạn bước ra mũi thuyền. Thiếu nữ cười khẩy, nói:
– Chưa từng gặp thì bây giờ được gặp rồi đấy!
Trương Thúy Sơn cầm một tấm ván lên, tính ném xuống sông làm bàn đạp để lên bờ, nhưng chợt nghĩ lại: “Mình mà bỏ đi, thể nào nàng ta cũng mất mạng”, bèn nén giận trở vào khoang thuyền, nói:
– Cô nương đánh ta, ta cũng chẳng thèm chấp cái thứ lý sự khó nghe của cô nương. Hãy mau vén tay áo lên đi, cô nương có muốn sống hay không?
Thiếu nữ hậm hực nói:
– Tiểu muội muốn sống hay muốn chết thì liên quan gì Trương ngũ hiệp?
Trương Thúy Sơn nói:
– Cô nương vất vả đi ngàn dặm hộ tống Du tam ca của ta, ơn đó không thể không báo đáp.
Thiếu nữ cười nhạt nói:
– À, thì ra chẳng qua chàng thay mặt tam sư ca trả nợ thôi! Nếu tiểu muội không hộ tống tam sư ca của chàng, tiểu muội có bị thương nặng hơn thế này, chàng cũng thây kệ chứ gì?
Trương Thúy Sơn ngẩn ra, nói:
– Chưa hẳn như thế.
Chỉ thấy thiếu nữ co ro run rẩy, hẳn là chất độc đang lan đi, chàng vội nói:
– Mau vén áo lên nào, cô nương tính đùa bỡn với tính mệnh của mình hay sao?
Thiếu nữ nghiến răng đáp:
– Chàng không nhận sai, tiểu muội sẽ không chịu để chàng cứu đâu!
Sắc diện nàng vốn trắng trẻo, lúc này nàng vừa giận dỗi vừa sợ hãi, trông càng thêm phần đáng thương.
Trương Thúy Sơn thở dài:
– Thôi được, cứ coi như ta nói sai, cô nương giết người không sai.
Thiếu nữ nói:
– Không được, sai là sai, sao lại “coi như”?!!! Tại sao chàng thở dài rồi mới nhận sai, rõ ràng chưa thành tâm thành ý.
Trương Thúy Sơn nghĩ cứu người là cần kíp, giờ không phải lúc tranh cãi hơn thua với thiếu nữ, liền nói to:
– Hoàng thiên ở trên, giang thần ở dưới, tại hạ Trương Thúy Sơn hôm nay thành tâm thành ý… nhận với Ân… Ân…
Nói đến đó, chàng ngập ngừng; thiếu nữ tiếp lời:
– Ân Tố Tố.
Trương Thúy Sơn nói tiếp:
– Nhận với cô nương Ân Tố Tố là mình nói sai.
Ân Tố Tố cả mừng, nhoẻn miệng cười, nhưng chân nàng bỗng bủn rủn, lảo đảo ngồi phịch xuống ghế. Trương Thúy Sơn vội móc lọ thuốc trong bọc, lấy ra một viên Thiên tâm giải độc đơn cho nàng uống. Chàng vén tay áo nàng lên, thấy nửa cánh tay đã tím bầm, khí đen đang lan nhanh lên vai. Chàng dùng tay trái bóp chặt phía trên cánh tay của nàng lại, hỏi:
– Cô nương cảm thấy thế nào?
Ân Tố Tố nói:
– Tức ngực quá. Ai bảo chàng không chịu nhận sai sớm hơn? Tiểu muội có chết cũng do chàng hại đó!
Đến nước này, Trương Thúy Sơn chỉ đành dịu giọng an ủi:
– Cô nương cứ yên tâm. Đừng gắng gượng, hãy thả lỏng toàn thân, chớ vận khí, cứ làm như mình đang ngủ vậy.
Ân Tố Tố lườm chàng một cái, nói:
– Thì cứ coi như tiểu muội chết rồi đi.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Lúc này mà cô nàng vẫn ương ngạnh điêu ác, mai kia ai lấy phải nàng ta chắc khổ cả đời”. Nghĩ đến đây, chàng bỗng thấy bồi hồi trong lòng, mặt nóng bừng, chỉ lo Ân Tố Tố đoán biết ý nghĩ của mình, bèn liếc trộm một cái, chỉ thấy nàng đỏ bừng hai má, đầy vẻ thẹn thùng, không biết đang nghĩ gì. Ánh mắt đôi bên gặp nhau, không hẹn mà cùng ngó sang phía khác.
Ân Tố Tố bỗng nhỏ nhẹ:
– Trương ngũ ca, tiểu muội nói năng thiếu ý tứ, lại đánh chàng nữa, chàng… chàng đừng giận muội nhé!
Trương Thúy Sơn thấy Ân Tố Tố bỗng đổi cách xưng hô, từ “Trương ngũ hiệp” sang “Trương ngũ ca” thì tim đập rộn ràng, bèn hít một hơi, thâu nhiếp tâm thần, một luồng khí ấm từ đan điền dâng lên, truyền ra hai tay, chàng nắm chặt lấy hai phía trên dưới vết thương ở cánh tay Tố Tố.
Lát sau, từ đỉnh đầu Trương Thúy Sơn có làn hơi trắng bốc lên, hiển nhiên chàng đã dốc toàn lực, mồ hôi đang bốc hơi. Ân Tố Tố cảm động, biết đây là lúc quan trọng nhất trong việc trị độc, sợ chàng phân tâm, bèn nhắm mắt lại không dám nói chuyện. Bỗng “phựt” một tiếng, một cây Mai hoa tiêu từ cánh tay nàng bắn ra, văng xa hơn trượng, rồi một vòi máu đen từ vết thương phun ra. Máu đen dần dần chuyển sang màu hồng, mũi hoa tiêu thứ hai cũng bị nội lực của Trương Thúy Sơn trục khỏi cánh tay nàng.
Lúc đó bỗng nghe trên mặt sông có tiếng gọi to:
– Ân cô nương có ở đó chăng? Chu Tước đàn chủ xin tham kiến.
Trương Thúy Sơn thấy hơi lạ, nhưng đang lúc vận lực gấp gáp, chàng không bận tâm. Người kia lại gọi to một lần nữa. Chỉ nghe gã lái thuyền này nói:
– Ở đây có một kẻ ác đang muốn hại Ân cô nương, Thường đàn chủ mau tới cứu!
Người ở thuyền bên kia quát lớn:
– Ác tặc không được vô lễ, ngươi chỉ cần động tới một sợi tóc của Ân cô nương, ngươi sẽ bị băm vằm ngàn nhát.
Giọng người kia như tiếng chuông, vang vọng trên mặt sông nghe thật uy mãnh.
Ân Tố Tố mở mắt ra nhìn Trương Thúy Sơn mỉm cười, tựa hồ muốn chàng lượng thứ cho sự hiểu lầm này. Mũi Mai hoa tiêu thứ ba bị nàng đập ngập sâu vào trong thịt, Trương Thúy Sơn vận lực đạo ba lần liên tiếp vẫn chưa đẩy được nó ra ngoài. Chỉ nghe tiếng mái chèo khua gấp, chiếc thuyền bên kia đã áp tới gần, Trương Thúy Sơn thấy thuyền hơi chòng chành, hẳn có người đã nhảy sang, chàng đang mải vận lực, chẳng để tâm tới.
Người kia tiến vào khoang thuyền, thấy Trương Thúy Sơn đang dùng hai tay nắm chặt cánh tay trái của Ân Tố Tố, không biết chàng đang vận lực trị thương, bèn cả giận giáng ngay một chưởng vào hậu tâm của Trương Thúy Sơn, miệng quát:
– Ác tặc còn chưa buông tay ra!
Trương Thúy Sơn không cách gì giơ tay chống đỡ, bèn hít một hơi, phơi lưng cho hắn đánh một chưởng, chỉ nghe “hự” một tiếng, chưởng lực cực mạnh kia đã giáng ngay giữa lưng chàng. Trương Thúy Sơn nắm vững tinh yếu nội công của phái Võ Đang, toàn thân bất động, mượn lực dẫn chưởng lực trầm trọng kia ra lòng bàn tay, chỉ nghe “phựt” một tiếng, mũi Mai hoa tiêu thứ ba từ cánh tay Ân Tố Tố bật ra, cắm vào ván thuyền, dư lực còn mạnh nên rung rung hồi lâu.
Kẻ phát chưởng giáng tiếp chưởng thứ hai, nhưng thấy thế vội thu tay về, nói:
– Ân cô nương, cô nương… không bị thương chứ?
Chỉ thấy máu đen từ vết thương phun ra. Người ấy là đại hành gia trên chốn giang hồ, biết mình vừa đánh lầm người, trong lòng cảm thấy rất áy náy, nghĩ thầm chưởng vừa rồi của mình có kình lực đánh vỡ bia đá, không khéo nội tạng của chàng trai này bị chấn thương hết cả, chỉ e tính mạng khó toàn, hắn vội vàng mở bọc lấy thuốc trị thương đưa cho Trương Thúy Sơn uống.
Trương Thúy Sơn lắc đầu, thấy máu từ vết thương của Ân Tố Tố đã chuyển thành màu đỏ, mới buông tay ra, ngoảnh lại nói với người kia:
– Chưởng vừa rồi của các hạ, lực đạo quả không nhỏ.
Người kia sửng sốt, nghĩ thầm rằng một chưởng của hắn đã đánh chết không biết bao nhiêu hảo thủ đã thành danh trong võ lâm, chàng thiếu niên này không né tránh, lãnh trọn một chưởng, mà vẫn điềm nhiên như không. Hắn nói:
– Ngươi… ngươi…
Vừa quan sát sắc diện, vừa giơ tay xem mạch cho chàng. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Mình phải đùa y cho biết”, bèn ngầm vận nội kình, cho phúc mạc nâng lên khiến tim ngừng đập trong giây lát. Người kia bắt mạch cổ tay, thấy khí đã tuyệt thì càng sợ hãi.
Trương Thúy Sơn nhận chiếc khăn tay Ân Tố Tố đưa, buộc vào vết thương cho nàng, nói:
– Chất độc đã theo máu ra hết, cô nương chỉ cần uống thuốc giải độc thông thường là xong.
Ân Tố Tố nói:
– Đa tạ.
Rồi quay sang người kia, nghiêm mặt, nói:
– Thường đàn chủ không được vô lễ, đây là Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang.
Người kia lùi một bước, cúi mình thi lễ, nói:
– Hóa ra là Trương ngũ hiệp trong Võ Đang thất hiệp, thảo nào nội công thâm hậu như thế, tiểu nhân Thường Kim Bằng mạo phạm quá nhiều, mong Trương ngũ hiệp đừng trách cứ.
Trương Thúy Sơn thấy người kia tuổi trạc ngũ tuần, mặt mũi và hai tay bắp thịt cuồn cuộn từng múi, bèn đứng dậy đáp lễ.
Thường Kim Bằng thi lễ xong với Trương Thúy Sơn thì quay sang cung kính thi lễ với Ân Tố Tố. Ân Tố Tố chỉ lặng lẽ gật đầu. Trương Thúy Sơn hơi lạ, lại nghe Thường Kim Bằng nói:
– Huyền Vũ đàn Bạch đàn chủ có ước hẹn với nhân vật các phái Hải Sa, bang Cự Kình, môn phái Thần Quyền, sáng sớm ngày mai tương hội tại Vương Bàn sơn đảo ở cửa sông Tiền Đường để giương đao lập uy. Cô nương không được khỏe, để tiểu nhân hộ tống cô nương về phủ Lâm An. Việc trên Vương Bàn sơn đảo, do một mình Bạch đàn chủ lo liệu cũng dư sức.
Ân Tố Tố hừ một tiếng, nói:
– Phái Hải Sa, bang Cự Kình, môn phái Thần Quyền, được… Thế chưởng môn của phái Thần Quyền là Quá Tam Quyền cũng tới chứ?
Thường Kim Bằng đáp:
– Nghe đâu y sẽ dẫn mười hai đệ tử hảo thủ của phái Thần Quyền đến Vương Bàn sơn đảo phó hội.
Ân Tố Tố cười khẩy:
– Quá Tam Quyền tuy có địa vị cao, nhưng chịu chẳng nổi một đòn của Bạch đàn chủ. Còn có cao thủ nào nữa không?
Thường Kim Bằng ngập ngừng một lát, rồi nói:
– Nghe đâu phái Côn Luân có hai kiếm khách trẻ tuổi cũng đến phó hội, nói là muốn được thấy Đồ…
Đồ…
Nói tới đây, hắn liếc Trương Thúy Sơn một cái, không nói nữa. Ân Tố Tố lạnh lùng nói:
– Bọn họ cũng muốn xem thanh đao Đồ Long ư? Chỉ e thấy rồi lại nổi lòng…
Trương Thúy Sơn nghe đến bốn tiếng “thanh đao Đồ Long” thì giật mình, chỉ thấy Ân Tố Tố nói:
– Hừ, người của phái Côn Luân, không thể coi thường. Vết thương trên tay ta không đáng ngại, vậy chúng ta phải tới xem trò nhiệt náo ấy mới được, không chừng cũng giúp được Bạch đàn chủ một tay.
Đoạn nàng quay sang nói với Trương Thúy Sơn:
– Trương ngũ hiệp, hai ta tạm biệt ở đây thôi, muội sẽ đi thuyền của Thường đàn chủ, chàng hãy đáp thuyền này về phủ Lâm An. Phái Võ Đang của chàng không nên dính vào chuyện ngày mai.
Trương Thúy Sơn nói:
– Tam sư ca của tại hạ bị thương dường như có liên quan tới thanh đao Đồ Long, sự việc ra sao, mong cô nương cho biết.
Ân Tố Tố đáp:
– Những tình tiết và uẩn khúc của việc đó, muội cũng không biết rõ lắm, sau này chàng hỏi chính tam sư ca thì hơn!
Trương Thúy Sơn thấy Ân Tố Tố không chịu nói, biết có hỏi nữa cũng vô ích, nghĩ thầm: “Kẻ tàn hại tam ca của ta cốt nhắm đến thanh đao Đồ Long. Thường Kim Bằng nói rằng họ sẽ giương đao lập uy tại Vương Bàn sơn đảo, tựa hồ thanh đao Đồ Long đang ở trong tay họ. Sáu tên ác tặc kia nghe tin thể nào cũng tới phó hội”, bèn nói:
– Tên đạo sĩ phóng ba mũi Mai hoa tiêu nọ, cô nương bảo liệu hắn có tới Vương Bàn sơn đảo hay chăng?
Ân Tố Tố mỉm cười không đáp, chỉ nói:
– Nếu Trương ngũ hiệp tính đi xem trò vui, vậy chúng ta cùng đi.
Đoạn quay sang nói với Thường Kim Bằng:
– Thường đàn chủ, thuyền của ngươi hãy đi trước dẫn đường!
Thường Kim Bằng đáp:
– Tuân lệnh!
Đoạn cúi người đi lùi ra khỏi khoang thuyền, vẻ cung kính như đầy tớ đối với chủ. Ân Tố Tố chỉ gật đầu. Trương Thúy Sơn nể chút võ công của hắn nên đứng dậy tiễn ra ngoài khoang.
Ân Tố Tố thấy trường bào của chàng bị Thường Kim Bằng đánh rách một mảng, chờ lúc chàng trở vào trong khoang, bèn nói:
– Chàng hãy cởi trường bào ra, để muội vá lại cho.
Trương Thúy Sơn nói:
– Không cần đâu!
Ân Tố Tố nói:
– Chàng sợ muội khâu vá vụng về ư?
Trương Thúy Sơn nói:
– Đâu dám.
Nói xong hai tiếng đó, chàng im lặng nghĩ đến việc tối hôm qua Ân Tố Tố ra tay giết hại liền một lúc mấy chục mạng người già trẻ lớn bé trong tiêu cục Long Môn; hung thủ đại gian đại ác như thế, đáng lý chàng phải xuất thủ diệt trừ, đằng này chàng chẳng những ngồi cùng thuyền, mà còn trị thương cho nàng ta, tuy nói là báo đáp cái ơn đã hộ tống sư huynh, song dẫu sao cũng là thiện ác bất minh, lúc nào xong việc ở Vương Bàn sơn, mình sẽ lập tức chia tay, quyết không tái ngộ với nàng ta nữa.
Ân Tố Tố thấy vẻ mặt khó coi của Thúy Sơn, đoán biết ý nghĩ của chàng, bèn lạnh lùng nói:
– Không chỉ Đô Đại Cẩm và hai tiêu đầu Chúc, Sử; không chỉ gia môn tiêu cục Long Môn và hai hòa thượng Thiếu Lâm tự, mà cả Tuệ Phong cũng do muội giết đó!
Trương Thúy Sơn nói:
– Tại hạ cũng nghi cô nương từ sớm, có điều chưa hiểu cô nương giết y bằng cách nào.
Ân Tố Tố nói:
– Đâu có gì lạ? Muội ngâm mình dưới hồ, nghe các vị đấu khẩu với nhau. Gã Tuệ Phong bỗng phát hiện hai ta tướng mạo khác nhau, đang định nói ra, muội liền phóng một mũi ngân châm vào miệng gã. Chàng cứ đi tìm tung tích muội ở trên đường, trong lùm cây, thì thấy sao được?
Trương Thúy Sơn nói:
– Hèn chi phái Thiếu Lâm cứ một mực bảo rằng tại hạ là hung thủ. Ân cô nương, cô nương thật quá ư thông minh, quá ư thủ đoạn!
Câu sau cùng chàng nói bằng giọng đầy tức tối. Ân Tố Tố giả bộ không hiểu, đứng dậy nói:
– Không dám, Trương ngũ hiệp quá khen!
Trương Thúy Sơn hết chịu nổi, xẵng giọng:
– Họ Trương ta không thù không oán với cô nương, sao cô nương lại cố công hãm hại ta chứ?
Ân Tố Tố mỉm cười nói:
– Muội cũng không muốn hãm hại chàng đâu, chẳng qua Thiếu Lâm và Võ Đang hiệu xưng là hai đại tông phái võ học đương thế, muội muốn hai phái các vị đánh nhau một phen, xem bên nào mạnh bên nào yếu.
Trương Thúy Sơn quá kinh hãi, lửa giận nguôi hẳn, nhưng trong lòng thấy cần phải hết sức đề phòng thiếu nữ đáng gờm này: “Thì ra nàng ta không chỉ hãm hại riêng ta, mà còn có đại gian mưu khác. Nếu phái Võ Đang ta với phái Thiếu Lâm đánh nhau thật, tất sẽ lưỡng bại câu thương, thành một đại kiếp nạn trong võ lâm mất thôi”.
Ân Tố Tố mở chiếc quạt ra phe phẩy, thần sắc thản nhiên, nói:
– Trương ngũ hiệp, chàng có thể cho muội thưởng thức thư họa trên chiếc quạt của chàng được chăng?
Trương Thúy Sơn chưa kịp đáp, bỗng nghe có người ở thuyền của Thường Kim Bằng lớn tiếng hỏi:
– Có phải thuyền của bang Cự Kình đó không? Vị nào ở thuyền đó vậy?
Trên mặt sông phía bên hữu có tiếng đáp:
– Thiếu bang chủ bang Cự Kình đến Vương Bàn sơn đảo phó hội đây!
Người trên thuyền của Thường Kim Bằng nói:
– Tại đây có Ân cô nương và Thường đàn chủ Chu Tước đàn của Thiên Ưng giáo, lại có quý khách danh môn. Quý thuyền hãy lùi lại nhường đường đi! Người trên thuyền ở bên hữu đáp, giọng thô lỗ:
– Nếu là giáo chủ quý giáo giá lâm, bọn này sẽ nhường, người khác thì đừng hòng.
Trương Thúy Sơn trong lòng chợt động, nghĩ thầm: “Thiên Ưng giáo là tà giáo nào mà mình chưa hề nghe qua thế nhỉ? Xem thanh thế và lực lượng của họ thì chẳng phải nhỏ. Chắc giáo phái này nổi lên chưa lâu, mình lại ít xuống vùng Giang Nam, không biết họ là phải. Bang Cự Kình thì nghe tiếng đã lâu, là một bọn chẳng tử tế gì”. Chàng mở cửa sổ khoang thuyền, nhìn ra thấy ở mé bên phải có một chiếc thuyền đóng thành hình một con cá kình, mũi thuyền lấp lánh bạch quang, có mấy chục cây đao sắp thành hàm răng con cá kình, thân thuyền cong cong, đuôi vểnh lên y như cá. Chiếc thuyền đó buồm lớn, thân nhẹ, lướt nhanh hơn hẳn thuyền của Thường Kim Bằng.
Thường Kim Bằng đứng ở mũi thuyền, gọi to:
– Mạch thiếu bang chủ, Ân cô nương đang ở đây, bộ ngươi không nể mặt chút nào ư?
Từ trong khoang thuyền của bang Cự Kình bước ra một hoàng y thiếu niên, y cười khẩy, nói:
– Ở trên bộ thì Thiên Ưng giáo các vị là hơn, nhưng trên mặt nước thì phải là bang Cự Kình của bọn này chứ? Làm sao có thể nhường các vị đi trước?
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Mặt sông rộng nhường này, vài trăm chiếc thuyền cùng đi cũng được, hà tất đòi họ phải nhường đường, Thiên Ưng giáo này kể cũng ngang ngược thật”.
Lúc này thuyền của bang Cự Kình lại giương thêm một chiếc buồm, nên lướt càng nhanh. Hai thuyền cách nhau xa dần, thuyền này chẳng cách gì theo kịp. Thường Kim Bằng hừ một tiếng, nói:
Sông rộng, gió mạnh, sóng cao, hai thuyền cách nhau lại xa, chẳng hiểu Thường Kim Bằng nói những gì.
Mạch thiếu bang chủ nghe mấy tiếng “thanh đao Đồ Long”, nghĩ là chuyện hệ trọng, bèn lệnh cho thủy thủ quay thuyền trở lại, mỗi lúc một gần thuyền của Thường Kim Bằng, cao giọng hỏi:
– Vừa nãy Thường đàn chủ nói gì vậy?
Thường Kim Bằng nói:
– Mạch thiếu bang chủ… Bạch đàn chủ của Huyền Vũ đàn chúng tôi… thanh đao Đồ Long ấy…
Trương Thúy Sơn cảm thấy hơi kỳ “Sao hắn cứ nói lấp lấp lửng lửng vậy nhỉ?”
Chỉ thấy thuyền của bang Cự Kình đã tới gần, chỉ còn cách vài trượng, nghe “vù” một tiếng, Thường Kim Bằng đã cầm cây neo lớn ở mũi thuyền quăng mạnh sang phía thuyền bên kia, tiếng xích sắt loảng xoảng, hai tên thủy thủ bên đó rú lên thảm thiết, cây neo đã ngoắc vào thuyền của bang Cự Kình.
Mạch thiếu bang chủ quát:
– Ngươi làm gì thế?
Thường Kim Bằng tay chân thật nhanh nhẹn, nhấc luôn cây neo thứ hai quăng sang. Hai cây neo đã đánh chết ba thủy thủ thuyền đối phương, đồng thời móc chùm hai chiếc thuyền lại với nhau. Mạch thiếu bang chủ vội chạy ra mạn thuyền để gỡ cây neo. Thường Kim Bằng vung tay phải, tiếng xích leng keng, một trái dưa hấu to tướng màu xanh bay đi, rồi “bình” một tiếng, giáng trúng cột buồm cái của thuyền bang Cự Kình. Lúc này Trương Thúy Sơn mới biết trái dưa hấu lớn kia là binh khí thường dùng của Thường Kim Bằng, nó được đúc bằng sắt, vỏ sơn màu xanh sọc đen, có hai trái như thế, sử dụng như chùy lưu tinh, chỉ khác là mỗi trái dưa này nặng đến dăm sáu chục cân, cánh tay phải cực khỏe mới đủ sức nhấc lên.
Trái dưa sắt bên tay phải giáng trúng đích, cột buồm cái của thuyền bang Cự Kình kêu răng rắc. Thường Kim Bằng thu hồi vũ khí bên tay phải, lại vung trái dưa bên tay trái đánh sang, đến lần thứ ba thì cột buồm bên kia gãy gục. Bọn hải tặc trên thuyền bang Cự Kình kêu la om sòm. Thường Kim Bằng quăng hai trái dưa cùng một lúc, nhắm đánh vào cột buồm phụ phía sau, một đòn gãy liền.
Lúc đó hai thuyền cách nhau hơn hai trượng, Mạch thiếu bang chủ đành trơ mắt nhìn hai cột buồm lần lượt bị đánh gãy, chẳng thể làm gì, chỉ biết chửi bới ầm ĩ.
Thường Kim Bằng quát:
– Có Thiên Ưng giáo ở đây, ở dưới nước cũng chẳng có chỗ cho bang Cự Kình các ngươi xưng hùng!
Tay phải lại vung trái dưa sang, lần này đánh vào mạn thuyền bang Cự Kình, “bình” một tiếng, mạn thuyền vỡ ra một mảng lớn, nước tràn vào trong, bọn thủy thủ kêu la nhớn nhác.
Mạch thiếu bang chủ cầm chiếc “Phân thủy Nga Mi thích” nhún chân tung mình nhảy sang mũi thuyền của Thường Kim Bằng. Thường Kim Bằng chờ lúc y nhảy lên vị trí cao nhất liền văng trái dưa bên tay trái lên đánh thẳng vào mặt hắn; chiêu này rất hiểm, khi trái dưa sắt bay đến là lúc tên kia đang lơ lửng trên không, lực nhảy sắp suy, khó bề né tránh. Mạch thiếu bang chủ kêu “Ối cha!” vội dùng “Nga Mi thích” điểm vào trái dưa, muốn mượn lực bay trở lại, cảm thấy tức ngực ngộp thở, mắt tối sầm, lộn người trở ngược về thuyền mình.
Hai trái dưa của Thường Kim Bằng thay nhau tung ra thu vào, trong giây lát chiếc thuyền của bang Cự Kình đã bị đánh thủng bảy tám lỗ lớn. Thường Kim Bằng nắm dây neo, vận kình kéo mạnh. “Xoạch xoạch” hai tiếng, mạn thuyền kia bị toạc ván, hai cây neo được kéo về thuyền bên này.
Thủy thủ trên thuyền của Thiên Ưng giáo không đợi đàn chủ phân phó, liền giương buồm bẻ lái cho thuyền lướt thẳng lên phía trước.
Trương Thúy Sơn thấy Thường Kim Bằng đánh phá thuyền địch uy mãnh như thế, thầm kinh hãi: “Mình mà không được ân sư truyền thụ phép mượn lực ngự lực, thì một chưởng ‘Cự linh thần chưởng’ của hắn giáng vào giữa lưng mình chịu sao nổi. Tên này trong giây lát biết dụ địch phá địch, chẳng những võ công đáng gờm mà còn nham hiểm tàn ác, tâm kế đa đoan, quả là một nhân vật vô cùng lợi hại trong tà giáo”. Nhìn lại Ân Tố Tố, chỉ thấy nàng thần sắc thản nhiên, tựa hồ những chuyện thế này là chuyện thường ngày, chẳng đáng bận tâm.
Nghe có tiếng sấm ì ầm xa xa, ấy là thủy triều ban đêm trên sông Tiền Đường sắp tới. Bang chúng của bang Cự Kình tuy ai nấy thông thạo thủy tính, nhưng lúc này đang ở chỗ sông biển giao nhau, mặt nước rộng tới vài chục dặm, cách xa hai bờ nam bắc. Nghe thấy tiếng thủy triều sắp tràn tới, bang chúng bang Cự Kình không khỏi hoảng sợ kêu cứu ầm ỹ.
Hai chiếc thuyền của Thường Kim Bằng và Ân Tố Tố cứ thế lướt về phía đông, chẳng thèm để ý đến bọn kia.
Trương Thúy Sơn thò đầu ra ngoài, nhìn về phía sau, thấy chiếc thuyền của bang Cự Kình đã chìm non nửa dưới nước, khi thủy triều tràn tới ắt sẽ bị đánh vỡ tan. Nghe tiếng kêu cứu thảm thiết, chàng cầm lòng không đậu; nhưng thừa biết Ân Tố Tố và Thường Kim Bằng là hạng người tàn ác, dù có bảo họ dừng thuyền cứu hộ, họ cũng cự tuyệt, chỉ khiến mình thêm bực bội, nên chàng đành ngồi im không nói gì.
Ân Tố Tố nhìn thần sắc của chàng, mỉm cười, gọi to:
– Thường đàn chủ, quý khách Trương ngũ hiệp của chúng ta đại phát từ bi, người hãy mau cứu vớt bang chúng bang Cự Kình!
Điều này thật bất ngờ đối với Trương Thúy Sơn, chỉ nghe Thường Kim Bằng ở chiếc thuyền đằng trước đáp:
– Xin tuân lệnh quý khách!
Đoạn chiếc thuyền nghiêng qua, quay về phía ngược dòng. Thường Kim Bằng lớn tiếng nói:
– Bang chúng bang Cự Kình nghe đây, Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang cứu mạng các ngươi đó, kẻ nào muốn sống mau bơi xuống đây!
Bang chúng liền thuận dòng bơi xuống, thuyền của Thường Kim Bằng chạy ngược lên, chặn đầu thủy triều, vớt Mạch thiếu bang chủ và tám chín phần bang chúng lên thuyền, song vẫn còn ngót chục thủy thủ bị táng mạng trong sóng gió.
Trương Thúy Sơn như được an ủi, vui vẻ nói:
– Đa tạ cô nương!
Ân Tố Tố lạnh lùng nói:
– Bang Cự Kình giết người như ngoé, bọn chúng tên nào tay cũng dính máu, chàng cứu chúng làm gì kia chứ?
Trương Thúy Sơn ngẩn ra, không biết nói sao. Bang Cự Kình lừng danh tàn ác, là một trong tứ đại ác bang trên sông nước, chàng từng nghe danh, chẳng biết sao hôm nay lại cứu mạng chúng. Ân Tố Tố nói:
– Không vớt chúng lên thuyền, Trương ngũ hiệp lại rủa thầm muội là kẻ tâm địa tàn ác như độc xà, lại hối hận đã trị thương cho muội!
Câu này nói trúng tâm sự của Trương Thúy Sơn, khiến chàng đỏ mặt, đành cười gượng:
– Cô nương miệng lưỡi sắc sảo, tại hạ đối đáp chẳng lại. Cứu người là cô nương tích công đức cho cô nương, chứ liên can gì tại hạ.
Lúc đó thủy triều ầm ầm như sấm động váng cả tai, chiếc thuyền Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn đang đi cứ bị dồi lên giáng xuống, mọi lời nói đều bị tiếng sóng át đi. Trương Thúy Sơn nhìn qua cửa sổ, thấy sóng cao như bức tường trong suốt, bang chúng bang Cự Kình mà không được vớt từ sớm thì lúc này đã bị sóng cuốn vùi rồi.
Ân Tố Tố đi ra khoang sau, đóng cửa lại, lúc trở ra đã đổi sang y phục thiếu nữ. Nàng dùng tay ra hiệu Trương Thúy Sơn cởi trường bào. Chàng không tiện từ chối nữa, đành cởi áo ra. Cứ ngỡ Ân Tố Tố sẽ vá chỗ rách trên trường bào cho chàng, nào ngờ nàng đưa cho chàng cái trường bào mà nàng vừa thay, bảo chàng mặc vào, còn cái áo rách thì nàng đem cất vào khoang sau.
Trương Thúy Sơn trên mình chỉ còn chiếc áo ngắn, đành mặc cái trường bào giả trai của Ân Tố Tố. Cái áo ấy vốn rộng rãi, Trương Thúy Sơn tuy cao lớn hơn nàng nhiều, song chàng mặc cũng không đến nỗi quá chật; một mùi hương dễ chịu đưa lên mũi, chàng cảm thấy lâng lâng, không dám nhìn nàng, chỉ nghiêm trang ngồi giả bộ thưởng thức thư họa trên vách thuyền. Nhưng tâm sự của chàng giống như nước triều đưa con thuyền trồi lên hụp xuống, chứ đâu có nhìn thấy thư họa gì. Ân Tố Tố cũng không nói chuyện với chàng.
Bỗng có một đợt sóng lớn ập tới, con thuyền chao nghiêng, đèn nến tắt ngấm. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Trong khoang thuyền tối om chỉ có mình và Ân Tố Tố, tuy mình không làm gì mờ ám, nhưng có thể hại cho thanh danh của nàng”, chàng bèn đẩy cửa khoang sau, đi ra xem người lái đang vững vàng tay lái điều khiển con thuyền vượt lên sóng dữ.
Hơn nửa canh giờ sau, nước thủy triều rút trở ra biển, thuận gió xuôi dòng, thuyền chạy càng nhanh, sáng sớm hôm sau đã tới gần Vương Bàn sơn đảo.
Vương Bàn sơn đảo là một hoang đảo nhỏ ở cửa sông Tiền Đường, trên biển Đông. Đảo này đá núi lởm chởm, không có người ở. Hai chiếc thuyền tiến gần phía nam đảo, còn cách vài dặm đã nghe có tiếng tù và thổi vang trên đảo, hai người đứng trên bờ vẫy hai ngọn cờ lớn làm hiệu. Thuyền từ từ tiến vào, thấy hai lá cờ đều thêu một con chim ưng lớn dang rộng đôi cánh, trông thật uy vũ.
Đứng giữa hai lá cờ là một lão già. Lão lớn tiếng nói:
Giọng y chậm và dài, thanh âm quyện vào nhau, tuy không vang động nhưng khí lực hùng hậu. Thuyền cập bến, Bạch Quy Thọ đích thân bắc ván làm cầu cho khách lên bờ. Ân Tố Tố mời Trương Thúy Sơn đi trước, sau khi lên bờ mới đưa chàng lại giới thiệu với Bạch Quy Thọ.
Bạch Quy Thọ thấy Ân Tố Tố hết sức kính nể Trương Thúy Sơn, lại nghe chàng là Trương ngũ hiệp trong Võ Đang thất hiệp thì chột dạ, nói:
– Nghe thanh danh Võ Đang thất hiệp từ lâu, hôm nay được gặp, thực là đại vinh hạnh.
Trương Thúy Sơn khiêm tốn đáp lại vài câu.
Ân Tố Tố cười:
– Hai vị nói năng giữ kẽ, nghe chẳng thoải mái chút nào. Một vị thì nghĩ thầm: “Nguy rồi, người của phái Võ Đang cũng tới, thêm một nhân vật lợi hại giành giật thanh đao Đồ Long”. Vị kia thì nghĩ thầm: “Lão thuộc loại tà giáo tả đạo, ta đâu thèm kết giao với ngươi”. Bổn cô nương ta muốn hai vị cứ thích sao nói vậy, đừng nghĩ một đằng nói một nẻo.
Bạch Quy Thọ cười ha hả. Trương Thúy Sơn thì nói:
– Không dám! Bạch đàn chủ võ công tinh thâm, tại hạ được nghe công phu “Cách hải truyền thanh” của các hạ, trong lòng khâm phục bội phần. Tại hạ theo Ân cô nương tới đây xem trò vui, không hề có ý nhòm ngó thanh đao Đồ Long.
Ân Tố Tố nghe Trương Thúy Sơn nói vậy thì rất vui mừng, mặt tươi như hoa. Bạch Quy Thọ biết Ân Tố Tố mặt lạnh lùng, dạ lang sói, lâu nay chẳng tử tế với ai, nay đối với Trương Thúy Sơn quả nhiên khác hẳn thì đoán rằng nàng coi trọng nam tử lắm, lại nghe chàng tán tụng nội công của lão, nên lão hết coi chàng là thù địch, nói:
– Ân cô nương, một số nhân vật của phái Hải Sa, bang Cự Kình, môn phái Thần Quyền đã tới rồi, còn có hai kiếm khách trẻ tuổi của phái Côn Luân. Hai tên tiểu tử ấy đầy vẻ vênh váo, phách lối, đâu được như Trương ngũ hiệp danh vang thiên hạ mà vẫn khiêm nhường. Đủ biết có một phần bản lĩnh rồi, rất cần có một phần tu dưỡng…
Lão nói tới đó, thì bỗng nghe có tiếng người quát từ phía núi đằng sau:
– Lén lén lút lút phỉ báng sau lưng người khác, là cái thói gì chứ?
Tiếng nói dứt, có hai người đi ra, cả hai đều mặc trường bào màu xanh lưng đeo chéo một thanh trường kiếm, tuổi ngót tam tuần, vẻ mặt vênh vênh như muốn gây sự.
Bạch Quy Thọ cười, nói:
– Vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đến liền. Lại đây, lại đây nào, tại hạ sẽ giới thiệu các vị với nhau!
Hai kiếm khách của phái Côn Luân đang định sinh sự, bỗng nhiên thấy dung quang diễm lệ phi phàm của Ân Tố Tố liền bất giác cùng động lòng, một gã cứ nhìn nàng chằm chằm không chớp mắt, gã kia thì quay mặt đi rồi chốc chốc lại liếc trộm nàng.
Bạch Quy Thọ chỉ gã đang ngây người nhìn Ân Tố Tố, nói:
– Đây là Cao đại kiếm khách Cao Tắc Thành.
Đoạn chỉ gã thứ hai, nói:
– Vị này là Tưởng đại kiếm khách Tưởng Đào. Hai vị đều là cao thủ võ học của phái Côn Luân. Phái Côn Luân uy chấn Tây Vực, võ học có những môn bí truyền. Hai vị Cao, Tưởng đây lại là nhân vật kỳ tài, siêu quần của phái Côn Luân. Lần đầu đến Trung nguyên này, hẳn hai vị sẽ đại hiển tài nghệ để mở mắt cho mọi người.
Mấy câu trên hàm ý mỉa mai, Trương Thúy Sơn cứ tưởng hai gã kiếm khách nếu không tức thời động võ, hẳn cũng đấu khẩu vài câu, nào ngờ cả hai gã Cao Tưởng chỉ ậm à ậm ừ, tựa hồ chẳng nghe gì cả; lúc chàng ngó lại thần sắc của hai gã, thì chợt hiểu, vừa nhìn thấy Ân Tố Tố, một gã cứ đờ đẫn như kẻ mất hồn, một gã len lén nhìn trộm nàng, cả hai cùng như si như ngốc. Trương Thúy Sơn cười thầm: “Phái Côn Luân nổi danh thiên hạ, hiệu xưng kiếm thuật thông thần, ai ngờ đệ tử của họ lại thiếu tư cách đến thế”.
Bạch Quy Thọ nói tiếp:
– Vị này là Trương Thúy Sơn Trương tướng công thuộc phái Võ Đang, vị này là Ân Tố Tố Ân cô nương, vị này là Thường đàn chủ Thường Kim Bằng của bổn giáo.
Lão giới thiệu tính danh ba người một cách sơ lược, không màu mè, đối với Trương Thúy Sơn, lão gọi là Trương tướng công chứ không hề nhắc đến ba chữ “Trương ngũ hiệp”, chứng tỏ lão coi chàng là người rất thân cận.
Ân Tố Tố mừng rỡ trong lòng, đưa mắt nhìn lướt qua mặt chàng, làn thu ba lóng lánh, lúm đồng tiền hơi lộ.
Cao Tắc Thành thấy Ân Tố Tố tỏ ra thân mật với Trương Thúy Sơn thì không hiểu sao hậm hực, trừng mắt nhìn đối phương một cái, giọng lạnh lùng nói:
– Tưởng sư đệ, ở Tây Vực hình như chúng ta cũng có nghe nói phái Võ Đang cũng là danh môn chính phái trong võ lâm Trung nguyên thì phải?!
Tưởng Đào nói:
– Không sai, hình như có nghe qua.
Cao Tắc Thành nói:
– Quả nhiên tai nghe không bằng mắt thấy, chỉ nghe đồn thật khó mà tin.
Tưởng Đào nói:
– Vậy ư? Giang hồ thiếu gì tin đồn, mười điều chỉ đáng tin một thôi. Cao sư ca bảo phái Võ Đang làm sao?
Cao Tắc Thành nói:
– Đệ tử danh môn chính phái, sao lại đi đàn đúm với bọn tà giáo, như thế khác gì tự hạ thấp mình?
Hai gã kẻ xướng người họa, cứ nhắm Trương Thúy Sơn châm chọc; chúng không biết Ân Tố Tố cũng là nhân vật trong Thiên Ưng giáo, hai chữ “tà giáo” của chúng là chỉ hai lão Bạch, Thường.
Trương Thúy Sơn nghe hai gã nói năng vô lễ như thế, đã giận lắm, nhưng chợt nghĩ mình tới Vương Bàn sơn đảo chuyến này là nhằm điều tra hung thủ hãm hại Du tam ca; hai tên đệ tử phái Côn Luân kia tuy hơn tuổi chàng, nhưng chỉ là bọn vô danh, mới “ra khỏi lều tranh”, không cần hạ mình tranh biện với chúng, huống hồ Thiên Ưng giáo hành sự quả thực tà ác, cứ xem Ân Tố Tố cùng Thường Kim Bằng giết người như ngóe thì biết, mình không thể nào gắn bó với họ; thế nên chàng mỉm cười nói:
– Tại hạ với các vị Thiên Ưng giáo cũng mới quen, chẳng khác gì hai vị nhân huynh đây.
Câu nói của chàng, ai nghe cũng bị bất ngờ. Bạch, Thường hai đàn chủ cứ ngỡ Ân Tố Tố với chàng là chỗ thâm giao, ai ngờ chỉ mới quen. Ân Tố Tố thì trong bụng giận lắm, biết Trương Thúy Sơn nói như thế là có ý coi Thiên Ưng giáo chẳng ra gì. Hai gã Cao Tưởng thì nhìn nhau cười nhạt, nghĩ thầm: “Tên tiểu tử này là đồ bị thịt, mới nghe danh phái Côn Luân đã sợ huynh đệ ta rồi”.
Bạch Quy Thọ nói:
– Các vị quý khách đã tề tựu, chỉ còn thiếu Mạch thiếu bang chủ của bang Cự Kình, chúng ta khỏi cần chờ y. Bây giờ các vị tùy ý ngao du, chính Ngọ xin mời tới sơn cốc đằng kia uống rượu xem đao.
Thường Kim Bằng cười nói:
– Thuyền của Mạch thiếu bang chủ bị đắm, Trương tướng công ra lệnh cứu y, hiện giờ y đang ở dưới thuyền, đợi lúc đó mời y phó yến cũng được.
Trương Thúy Sơn thấy hai vị đàn chủ Bạch, Thường đối với chàng quá cung kính, Ân Tố Tố thì đầu mày cuối mắt cứ đắm đuối nhìn mình, chàng nghĩ phải làm sao xa lánh bọn này, bèn nói:
– Tại hạ muốn đi loanh quanh một mình, mong các vị cứ tự nhiên.
Cũng không đợi ai hồi đáp, chàng giơ tay lên ra hiệu, rồi đi về phía cánh rừng ở mé đông.
*
* *
Vương Bàn sơn là một đảo nhỏ, đá núi và thảo mộc chẳng có gì đáng ngắm. Ở góc đông nam có một cái vịnh, thấy lô xô cột buồm, đậu mươi chiếc thuyền lớn, chắc là của phái Hải Sa và bang Cự Kình. Trương Thúy Sơn thả bộ trên bờ biển. Chàng hết sức bất mãn về hành vi giết người tàn bạo của Ân Tố Tố, nhưng lạ thay, ý nghĩ về nàng cứ luôn lởn vởn trong tâm trí: “Ân cô nương có địa vị cực kỳ tôn quý trong Thiên Ưng giáo, hai lão Bạch, Thường đàn chủ đối với nàng ta cung kính cứ như với một nàng công chúa, nhưng rõ ràng nàng ta không phải giáo chủ, thế nghĩa là sao?” Lại nghĩ thầm: “Thiên Ưng giáo muốn giương đao lập uy trên đảo này, trong khi phái Hải Sa, Thần Quyền môn và bang Cự Kình đều do các thủ lĩnh phó hội, Thiên Ưng giáo chỉ phái hai vị đàn chủ chủ trì, tức không hề coi trọng các đối thủ. Xem ra Bạch đàn chủ của Huyền Vũ đàn có võ công cao hơn Thường đàn chủ của Chu Tước đàn. Thiên Ưng giáo đã trở thành mối lo cực lớn trong võ lâm; hôm nay mình cần dò xét cho rõ lai lịch của chúng, không chừng mai này Võ Đang thất hiệp sẽ phải đối đầu một mất một còn với chúng cũng nên”.
Đang trầm ngâm, bỗng nghe từ phía rừng cây vọng ra tiếng binh khí va chạm nhau, chàng nổi tính hiếu kỳ bèn đi về hướng đó, thấy dưới tán cây là Cao Tắc Thành và Tưởng Đào đang luyện kiếm với nhau, Ân Tố Tố đứng bên cạnh vừa xem vừa cười khúc khích. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Sư phụ thường nói kiếm thuật của phái Côn Luân có nhiều chỗ độc đáo, hồi trẻ lão nhân gia từng giao đấu với một danh gia của phái Côn Luân được tôn là “Kiếm thánh”, cơ duyên này thật hiếm có”. Thế nhưng nhân sĩ võ lâm khi đang luyện võ, rất kỵ người khác coi lén. Trương Thúy Sơn tuy rất muốn xem, nhưng phải theo quy củ võ lâm, chàng chỉ liếc một cái, rồi quay mình trở lui.
Song Ân Tố Tố đã trông thấy chàng, nàng vừa vẫy tay vừa gọi:
– Trương ngũ ca, mau lại đây.
Trương Thúy Sơn lúc này nếu cứ bỏ đi, sẽ bị người ta nghi là đã xem lén, chàng đành đủng đỉnh lại gần, nói:
– Hai vị huynh đài kia đang luyện kiếm ở đây, mình ra chỗ khác để người ta khỏi bực.
Chưa nghe Ân Tố Tố trả lời, chỉ thấy một đạo bạch quang lóe lên, Tưởng Đào trả đòn, đâm một kiếm trúng vai Cao Tắc Thành, máu tươi bắn ra. Trương Thúy Sơn kinh ngạc, cứ ngỡ Tưởng Đào lỡ tay đả thương sư huynh, nào ngờ Cao Tắc Thành bặm môi, mặt hầm hầm, nghe “chát, chát, chát” ba tiếng, vung trường kiếm đâm toàn vào những chỗ yếu hại của Tưởng Đào, chiêu số xảo diệu và hiểm độc. Trương Thúy Sơn nhìn kỹ mới biết hai gã đang đánh nhau thật, thì càng lạ thêm.
Ân Tố Tố cười, nói:
– Xem ra sư ca không bằng sư đệ, kiếm pháp của Tưởng huynh có phần tinh diệu hơn.
Cao Tắc Thành nghe vậy thì nghiến răng, đảo người hồi kiếm, kiếm quyết nghiêng đi, một chiêu “Bách trượng phi bộc” mũi kiếm từ trên lưng chừng đâm thẳng xuống. Trương Thúy Sơn không nhịn được, thốt lên:
– Hảo kiếm pháp!
Tưởng Đào rụt người tránh, nhưng kiếm thế của Cao Tắc Thành không sử hết, giữa chừng liền biến chiêu, mũi kiếm chợt đâm chéo sang, “kịch” một tiếng, đâm trúng vào đùi bên trái Tưởng Đào. Ân Tố Tố vỗ tay reo to:
– Thì ra sư huynh cũng có miếng đòn lợi hại, chiêu này thì Tưởng huynh chịu rồi.
Tưởng Đào nổi giận nói:
– Cái đó chưa hẳn!
Kiếm chiêu chợt biến hóa, pho kiếm pháp “Vũ đả phi hoa” được phô bày. Đường kiếm này toàn là đâm xéo, phiêu dật vô luân, cứ bảy tám chiêu đâm xéo lại xen một chiêu chọc thẳng, khiến đối phương rất khó chống đỡ. Đối với đường kiếm pháp của bản môn này, Cao Tắc Thành đã quá quen thuộc, cứ kiến chiêu chiết chiêu, trả đòn không chút nương tay. Cả hai gã đều bị thương, tuy không vào chỗ yếu hại, nhưng trong trận kịch đấu máu cứ văng tung tóe, mặt mũi, tay chân, quần áo đều có vết máu. Hai sư huynh sư đệ càng đấu càng hăng, tưởng chừng liều chết với nhau một phen. Ân Tố Tố đứng bên cạnh luôn miệng xui nguyên giục bị, tán dương Cao Tắc Thành vài lời, rồi lại tán dương Tưởng Đào vài câu làm cho hai gã như điên như si cứ lao vào đâm chém nhau, chứng tỏ kiếm pháp của mình cao cường để lấy lòng Ân Tố Tố.
Lúc này Trương Thúy Sơn đã hiểu hai gã kia xả thân ác đấu với nhau chẳng qua là do Ân Tố Tố xúi giục, nàng trả thù cái việc hai gã trước đó dám nói lời khinh bỉ Thiên Ưng giáo. Hai gã càng đấu càng ác, ban đầu chẳng qua chỉ muốn thủ thắng, về sau thì đều không tự kiềm chế được nữa, cứ như thể muốn lấy mạng đối phương, nếu cứ tiếp tục thế này, ắt gây ra đại họa. Nhìn kiếm pháp của hai gã tuy có tinh diệu nhưng biến hóa chưa linh hoạt, nội lực còn non yếu, chỉ phát huy được một hai thành uy lực mà thôi.
Ân Tố Tố vỗ tay thích thú, nói:
– Trương ngũ ca, chàng thấy kiếm pháp của phái Côn Luân thế nào?
Không thấy Trương Thúy Sơn đáp lời, nàng ngoảnh lại, thấy chàng hơi cau mày có vẻ chán ghét, bèn nói:
– Quanh đi quẩn lại chỉ có mấy đường, cũng chẳng có gì lý thú, thôi mình ra kia ngắm cảnh biển hay hơn!
Đoạn nắm lấy bàn tay trái của Trương Thúy Sơn mà bước đi.
Trương Thúy Sơn cảm thấy một bàn tay mềm mại ấm áp nắm lấy tay mình, lòng chợt bồi hồi, thừa biết Ân Tố Tố cố ý chọc giận hai gã Cao Tưởng, song cũng không tiện gỡ tay ra, đành cùng nàng đi ra phía biển.
Ân Tố Tố nhìn cảnh biển bao la vô bờ, lặng ngắm một hồi, rồi nói:
– Trong sách Trang Tử Thu thủy thiên có viết: “Nước trong thiên hạ, không gì lớn bằng biển, vạn dòng chảy về đó không ngừng nghỉ mà chẳng biết bao giờ đầy”. Song biển cả hoàn toàn không kiêu ngạo, chỉ nói: “Ta ở giữa trời đất, giống như viên sỏi, ngọn cỏ giữa núi lớn vậy”. Trang Tử quả là người bao dung, tài tình.
Trương Thúy Sơn thấy nàng xúi giục hai gã Cao Tưởng tàn sát lẫn nhau để lấy làm trò vui, chàng vốn rất bất mãn, bỗng nhiên nghe mấy câu này của nàng thì bất giác ngẩn người. Trang Tử là cuốn sách mà người tu dưỡng Đạo gia ai ai cũng phải đọc, trên núi Võ Đang, sư phụ Trương Tam Phong vẫn thường đem sách đó ra giảng giải cho bảy sư huynh sư đệ của chàng. Nay nữ ma đầu giết người không chớp mắt kia đột nhiên thốt lên mấy câu cảm khái như thế, quả là điều chàng không ngờ tới. Ngẩn người một lát rồi, chàng nói:
– Đúng thế, “Phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm”.
[26]
Ân Tố Tố nghe chàng cũng dùng lời trong sách Trang Tử, Thu thủy thiên miêu tả biển cả để trả lời, vẻ mặt không khỏi biểu lộ sự ngưỡng mộ, nói:
– Chàng nhớ đến sư phụ phải không?
Trương Thúy Sơn kinh ngạc, bất giác đưa tay phải nắm lấy bàn tay kia của nàng, nói:
– Sao cô nương biết?
Năm nào trên núi Võ Đang, chàng cùng đại sư huynh Tống Viễn Kiều và tam sư ca Du Đại Nham đọc chung sách Trang Tử, Thu thủy thiên, đến câu “Phù thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại, thiên nhận chi cao, bất túc dĩ cực kỳ thâm”, Du Đại Nham nói: “Huynh đệ chúng ta theo sư phụ học võ nghệ, càng học càng thấy mình thua xa lão nhân gia, tựa hồ mỗi ngày một kém đi. Dùng hai câu này của Trang Tử để hình dung công phu sâu không thể đo, cao không thể với của lão nhân gia thì thật là hợp”. Tống Viễn Kiều và Trương Thúy Sơn đều gật đầu tán đồng. Bây giờ nhắc đến câu kia của Trang Tử, chàng dĩ nhiên nhớ tới sư phụ.
Ân Tố Tố nói:
– Trông sắc mặt chàng, nếu không phải lòng đang nghĩ đến phụ mẫu thì cũng là nhớ sư trưởng, nhưng câu “thiên lý chi viễn, bất túc dĩ cử kỳ đại…” thì thời nay, ngoài Trương Tam Phong đạo trưởng, e rằng không có người thứ hai sánh nổi.
Trương Thúy Sơn cả mừng, nói:
– Cô nương thông minh quá.
Chợt nhận ra mình đang nắm hai tay Ân Tố Tố, chàng đỏ mặt, từ từ buông ra.
Ân Tố Tố nói:
– Võ công của tôn sư xuất thần nhập hóa như thế nào, chàng kể cho muội nghe được chăng?
Trương Thúy Sơn trầm ngâm giây lát, rồi nói:
– Võ công chỉ là tiểu đạo, sở học của lão nhân gia không chỉ dừng ở võ công, ôi, bác đại tinh thâm, biết kể từ đâu bây giờ?
Trương Thúy Sơn nghe nàng dẫn chương Nhan Hồi ca tụng Khổng Tử trong sách Trang Tử, mà trong lòng chàng quả thực kính phục sư phụ muôn phần, nên nói:
– Sư phụ của tại hạ chẳng cần chạy tung bụi, chỉ cần rảo bước thôi tại hạ đã chẳng theo kịp rồi.
Ân Tố Tố thông minh lanh lợi, có ý lấy lòng chàng, hai người trò chuyện ý hợp tâm đầu, mãi không biết chán, họ ngồi kề vai nhau trên phiến đá, không để ý gì đến thời gian.
Bỗng nghe từ xa có tiếng bước chân nặng nề, tiếng húng hắng ho, rồi tiếng gọi:
– Trương tướng công, Ân cô nương, đã tới giờ Ngọ, xin mời nhập tiệc.
Trương Thúy Sơn quay đầu lại thấy Thường Kim Bằng đứng cách mươi trượng, tuy thần sắc trang nghiêm cung kính, nhưng khoé miệng tủm tỉm, giống như một kẻ bề trên nhìn một cặp tình nhân trẻ tuổi xứng đôi vừa lứa thì rất hài lòng vậy. Ân Tố Tố luôn coi hắn là kẻ dưới, không cần giữ lễ, song lúc này nàng e lệ cúi đầu. Trương Thúy Sơn trong lòng quang minh lỗi lạc, nhưng nhìn vẻ mặt hai người kia, bất giác chàng cũng đỏ mặt.
Thường Kim Bằng quay người đi trước dẫn đường. Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Để muội đi trước, chàng đừng đi cùng.
Trương Thúy Sơn hơi lạ, nghĩ thầm: “Sao nàng ta lại sợ hiềm nghi nhỉ?” Chàng gật đầu, Ân Tố Tố rảo bước theo kịp Thường Kim Bằng, chỉ nghe tiếng nàng cười, hỏi:
– Hai tên ngốc phái Côn Luân đánh nhau tới đâu?
Trương Thúy Sơn trong lòng vui không ra vui, buồn chẳng ra buồn, nhìn hai người đi khuất sau hàng cây, mới thong thả tiến về phía sơn cốc.
Tới nơi, chàng thấy trên bãi cỏ xanh bày bảy tám chiếc bàn vuông, trừ bàn thứ nhất ở phía đông, bàn nào cũng đã có người ngồi. Thường Kim Bằng thấy chàng tới gần, nói to:
– Trương ngũ hiệp phái Võ Đang giá đáo!
Tám tiếng đó như tiếng sấm vang vọng sơn cốc. Thường Kim Bằng nói xong, liền cùng Bạch Quy Thọ bước nhanh lên trước mấy bước, mỗi người dẫn theo năm gã đà chủ của bổn đàn, tổng cộng mười hai người, sắp thành hai hàng đứng bên lối vào sơn cốc, cúi mình đón khách. Bạch Quy Thọ nói:
– Thuộc hạ của Ân giáo chủ Thiên Ưng giáo, Huyền Vũ đàn Bạch Quy Thọ, Chu Tước đàn Thường Kim Bằng cung nghênh Trương ngũ hiệp đại giá!
Ân Tố Tố tuy không bước ra đón chàng, nhưng cũng đứng dậy.
Trương Thúy Sơn nghe ba tiếng “Ân giáo chủ”, trong lòng chấn động, nghĩ thầm: “Giáo chủ của họ quả nhiên họ Ân!”, vội chắp tay đáp lễ:
– Không dám! Không dám!
Rồi chàng đi vào, chỉ thấy mọi người ở các bàn ai nấy tỏ vẻ bất bình, tức tối, chàng hơi lạ, nhưng cũng chẳng bận tâm. Chàng đâu biết rằng, khi thủ lĩnh các lộ như phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn tới đây, Thiên Ưng giáo chỉ cho một gã đà chủ ra đón, dẫn vào bàn tiệc, khác hẳn thái độ long trọng như đối với Trương Thúy Sơn, rõ ràng hàm ý coi thường bọn kia.
Bạch Quy Thọ dẫn Trương Thúy Sơn đến chiếc bàn thứ nhất ở phía đông, cung kính mời ngồi. Chiếc bàn này chỉ đặt một cái ghế, là bàn tôn quý nhất trong các bàn. Trương Thúy Sơn đưa mắt nhìn qua, thấy các bàn khác đều có bảy tám người, riêng bàn thứ sáu có hai người là Cao Tắc Thành và Tưởng Đào. Chàng bèn cao giọng khước từ:
– Tại hạ mạt học hậu tiến, không dám ngồi bàn đầu. Mong Bạch huynh cho chuyển xuống bàn dưới tiện hơn.
Bạch Quy Thọ nói:
– Phái Võ Đang hiện là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm thiên hạ, Trương ngũ hiệp uy chấn thiên hạ, nếu không ngồi bàn đầu, chắc không còn ai dám ngồi.
Trương Thúy Sơn nhớ thường ngày sư phụ vẫn dạy bốn chữ “ninh tĩnh khiêm ức”[28], nghĩ thầm: “Giá sư phụ hoặc đại sư ca ở đây, ngồi bàn đầu là đúng, còn mình đâu đã xứng đáng”. Bởi vậy chàng kiên quyết từ chối.
Cao Tắc Thành và Tưởng Đào đưa mắt cho nhau, Tưởng Đào đột nhiên cầm cái ghế của gã ném vọt sang bàn đầu. Chỗ gã ngồi cách bàn đầu năm bàn, sức ném của gã quả là mạnh mẽ, chiếc ghế bay vù qua đầu những người ngồi quanh năm cái bàn kia, rơi xuống đúng bên cạnh bàn đầu, ngay ngắn thẳng thắn, cách chiếc ghế đặt sẵn tại đó một thước, tài nghệ quả phi phàm. Tưởng Đào ném ghế xong, Cao Tắc Thành nói lớn:
– Hi hi, Thái Sơn, Bắc Đẩu ư, không biết ai phong cho danh hiệu Thái Sơn, Bắc Đẩu đó? Họ Trương kia không dám ngồi, chứ hai sư huynh sư đệ ta đâu có phải thuộc hạng khiếp nhược.
Đoạn hai gã thân pháp như gió lướt ngay tới chiếc bàn đầu.
Thì ra lúc sáng Ân Tố Tố có hỏi hai gã rốt cuộc võ công của ai cao hơn, nàng nói muốn học vài chiêu kiếm pháp của phái Côn Luân, mong được bậc cao thủ kiếm pháp chỉ giáo; hai gã không hề từ chối, lập tức rút kiếm phô diễn. Thoạt đầu cũng chỉ định thắng đối phương, nhưng càng đấu càng hung hăng, dần dần không nương tay được nữa. Ân Tố Tố đứng bên lại nói khích, khiến hai gã đánh nhau tới mức cùng bị thương. Đến khi thấy nàng và Trương Thúy Sơn thân mật nắm tay bỏ đi, hai gã mới biết đã mắc mưu nàng, bèn thu kiếm, băng vết thương, vừa đau vừa ức, song không dám gây sự với nàng. Lúc này hai gã thừa cơ đoạt lấy chỗ ngồi của Trương Thúy Sơn, định khích chàng xuất thủ để chúng có dịp làm cho chàng bẽ mặt một phen trước quần hùng.
Thường Kim Bằng giơ tay ngăn lại, nói:
– Hãy khoan!
Cao Tắc Thành giơ ngón tay định điểm vào huyệt ở khuỷu tay của Thường Kim Bằng.
Trương Thúy Sơn nói:
– Hai vị ngồi ở bàn số một này là thích hợp hơn cả. Tại hạ xuống bàn dưới cũng được!
Đoạn đi xuống chiếc bàn thứ sáu. Ân Tố Tố bỗng giơ tay vẫy, nói:
– Trương ngũ ca, lại đây nào!
Trương Thúy Sơn không biết nàng muốn nói gì, bèn bước tới gần. Ân Tố Tố đưa tay kéo một chiếc ghế, đặt ngay bên cạnh mình, mỉm cười, nói:
– Chàng hãy ngồi đây.
Trương Thúy Sơn không ngờ Ân Tố Tố lại bộc lộ hình tích ngay trước mắt quần hào thế này, còn đang phân vân, nếu ngồi xuống kề vai nàng, không tránh khỏi quá ư thân mật; nếu không ngồi, e sẽ làm cho nàng bẽ mặt. Ân Tố Tố thấp giọng nói:
– Muội có điều muốn nói với chàng!
Trương Thúy Sơn thấy vẻ mặt cầu khẩn của nàng thì không tiện từ chối, bèn ngồi xuống. Ân Tố Tố tươi như hoa, cười sung sướng, rót rượu mời chàng.
Bàn đằng kia, Cao Tắc Thành và Tưởng Đào tuy đã chiếm được vị trí tôn quý, nhưng nhìn cảnh ấy lại càng hậm hực. Chỉ thấy Bạch Quy Thọ phẩy phẩy tay mấy cái để phủi bụi, rồi cười, nói:
– Hai vị kiếm khách phái Côn Luân muốn ngồi bàn đầu, không sai chút nào, vậy thì mời ngồi, mời ngồi!
Đoạn cùng Thường Kim Bằng và mười tên đà chủ ai nấy trở về chỗ ngồi của mình. Cao Tắc Thành và Tưởng Đào đều nghĩ bụng: “Tên tiểu tử kia không dám ngồi bàn đầu, uy phong của phái Võ Đang rốt cuộc đã bị phái Côn Luân ta đè bẹp”. Hai gã đưa mắt cho nhau, vênh vang ngồi xuống.
Chỉ nghe “rắc rắc” hai tiếng, chân ghế gãy rời, cả hai ngã ngửa về phía sau. Kể ra võ công của họ cũng khá, lưng chưa chạm đất đã kịp dùng tay đẩy xuống đất mà bật người lên, tuy khỏi ngã bổ chửng nhưng cũng bị một phen hoảng hồn. Hào khách ở các bàn cùng cười ầm lên. Cao Tắc Thành và Tưởng Đào biết vừa rồi Bạch Quy Thọ phẩy tay phủi bụi đã lén ra tay, phải nói âm kình như thế quả lợi hại, hai gã tự liệu không thể bì kịp. Hai gã vốn hết sức tự phụ, coi Thiên Ưng giáo là loại bàng môn tả đạo tầm thường, lần này đến Vương Bàn sơn đảo là muốn trổ tài một phen, lúc này thấy Bạch Quy Thọ hiển thị chút công lực thì cả hai đã nhụt hết nhuệ khí.
Bạch Quy Thọ cười ha hả, nói:
– Võ công của phái Côn Luân, mọi người đều biết là cao; hai vị đâu cần làm gãy hai cái ghế cho bõ giận? Thứ công phu thô thiển ngồi làm sao cho gãy ghế, ở đây ai mà chẳng làm được?
Đoạn giơ tay chỉ về phía mười tên đà chủ ngồi ở bàn cuối, nói:
– Các ngươi cũng luyện được phải không?
Chỉ nghe rắc rắc rắc, mười chiếc ghế đều gãy rời. Mười tên đà chủ có chuẩn bị trước cả, ghế gãy rời mà họ vẫn ở tư thế ngồi cười ha hả, thần định khí nhàn, tỏ ra hơn hẳn hai gã Cao, Tưởng lảo đảo chới với ban nãy. Quần hào ở đây phần nhiều hiểu sâu biết rộng, thừa hiểu Bạch Quy Thọ hí lộng hai gã kia, song tình cảnh thật lý thú nên ai nấy cười rộ.
Mọi người còn đang cười thì có hai tên đà chủ của Thiên Ưng giáo bưng hai tảng đá tới bàn thứ nhất, giơ chân gạt hai cái ghế gãy ra, nói:
Ghế gỗ mỏng manh, không đỡ nổi quý thể của hai vị, xin mời hai vị ngồi trên hai tảng đá này vậy!
Hai tên đà chủ này nổi danh là đại lực sĩ của Thiên Ưng giáo, tuy võ công tầm thường nhưng thân thể thô tráng, trời phú thần lực, tảng đá mỗi người bưng kia phải nặng tới bốn trăm cân. Họ bưng tới, muốn giao cho hai gã kiếm khách tiếp nhận.
Cao Tắc Thành và Tưởng Đào kiếm pháp tinh diệu, chứ việc đỡ lấy tảng đá khổng lồ kia thì bất lực hoàn toàn.
Cao Tắc Thành cau mày nói:
– Bỏ xuống đi!
Hai tên đà chủ cùng kêu “hự” một tiếng, hai tay giơ thẳng tảng đá lên cao quá đầu và nói:
– Nhận lấy này!
Như thế là buộc hai gã Cao, Tưởng phải co người thoái lui, chỉ sợ một trong hai đại lực sĩ kia yếu sức, lỡ để tảng đá bốn năm trăm cân rơi xuống thì xương thịt nào chịu cho thấu. Hai gã trong bụng tức giận, nhưng không dám xuất thủ tập kích hai đại lực sĩ, tảng đá chênh vênh thế kia, chẳng dại gì xáp tới hiểm địa.
Bạch Quy Thọ cao giọng nói:
– Hai vị kiếm khách phái Côn Luân không dám ngồi bàn đó thì mời Trương ngũ hiệp ngồi cho!
Trương Thúy Sơn đang ngồi bên cạnh Ân Tố Tố, mùi hương thoang thoảng, tâm hồn ngất ngây, bỗng nghe Bạch Quy Thọ gọi thì tức thời cảnh giác: “Mình quyết không thể rơi vào ma chướng, bị nữ ma đầu tà giáo này lôi cuốn nữa!” bèn đứng ngay dậy, bước tới.
Bạch Quy Thọ nghe Thường Kim Bằng ca ngợi võ công của Trương Thúy Sơn cao cường, song lão chưa được tận mắt chứng kiến, lúc này muốn thử một chút, bèn đưa mắt ra hiệu cho hai tên đà chủ đại lực sĩ.
Hai tên kia hiểu ý, chờ lúc Trương Thúy Sơn tới gần liền nhất tề nói lớn:
– Trương tướng công cẩn thận, đỡ lấy này!
Lời vừa dứt, hai tên rùn mình, bốn cánh tay bung ra, thả hai tảng đá rơi thẳng xuống đầu Trương Thúy Sơn.
Bạch Quy Thọ vốn chỉ định thử võ công của Trương Thúy Sơn chứ không hề có ác ý, một phần vì danh tiếng Võ Đang thất hiệp quá lừng lẫy trên giang hồ, hôm nay thấy chàng chẳng qua chỉ là một thiếu niên thư sinh trông quá yếu ớt; một phần vì Ân Tố Tố lâu nay vốn chẳng coi ai ra gì, nay lại tỏ ra si mê chàng thiếu niên kia, hẳn sau này chàng ta sẽ có liên quan lớn lao đến Thiên Ưng giáo. Thấy hai tên đại lực sĩ thả rơi hai tảng đá, lão chợt hối hận, nghĩ thầm: “Nguy rồi!” song biết Trương Thúy Sơn là danh môn đệ tử, tất nhiên sẽ không để cho mình bị thương vì hai tảng đá, nhưng lúc hốt hoảng né tránh, tình cảnh cũng sẽ chẳng đẹp đẽ gì, không chừng còn bị bẽ mặt, Trương Thúy Sơn ắt tức giận, Ân cô nương lại càng phẫn nộ. Trong giây lát lão định ngay chủ ý, nếu tình huống bất lợi, lão sẽ quy tội cho hai tên đà chủ, thà thí mạng hai tên đó chứ không thể đắc tội với Ân cô nương.
Trương Thúy Sơn thấy hai tảng đá rơi xuống, cũng giật mình, giả dụ nhảy lùi về đằng sau né tránh thì có khác gì hai gã Cao – Tưởng phái Côn Luân, khó tránh làm tổn hại uy danh sư môn; thời điểm này không cho phép nghĩ lâu, người luyện võ vào sát-na cấp bách, công phu súc tích lâu dài sẽ tự nhiên nảy ra. Lập tức chàng dùng tay trái sử cái móc bên phải trong tự quyết chữ “Võ”, đẩy vào tảng đá bên trái; tay phải sử nét phất bên trái trong tự quyết chữ “đao”, đẩy vào tảng đá bên phải. Hai tảng đá vốn đã nặng dăm trăm cân, cộng với thế rớt từ trên xuống, quả thật nặng ghê gớm. Trương Thúy Sơn không có sức mạnh cơ bắp, bảo chàng bưng tảng đá kia lên cũng chẳng nổi, nhưng hai chiêu thuật chàng vừa sử là diễn hóa từ bộ thư pháp của võ công Trương Tam Phong mà ra, thực là thần kỳ, đoạt cả công phu của tạo hóa. Nên biết võ công của phái Võ Đang không chú trọng dùng sức mạnh, không yêu cầu ra chiêu nhanh, chỉ cần sử dụng lực đạo đúng cách thì bốn lạng cũng gạt được ngàn cân. Lúc này Trương Thúy Sơn sử dụng công phu tinh diệu nhất mà sư môn truyền thụ, mượn thế ném của hai tên đà chủ hất hai tảng đá bay lên trời.
Hai tảng đá bay lên chính là nhờ lực ném của hai tên đà chủ, chẳng qua chàng dùng chưởng đẩy, làm thay đổi phương hướng. Tay áo chàng phất múa, chưởng giấu trong tay áo, người ngoài nhìn vào cứ ngỡ tay áo chàng cuốn lấy hai tảng đá mà hất lên cao. Hai tảng đá một cao một thấp, nối nhau rớt xuống. Trương Thúy Sơn nhẹ nhàng tung mình nhảy lên, ngồi xếp bằng ở tảng đá bên trên.
Chỉ nghe “ình” một tiếng, mặt đất chấn động, một tảng đá rơi xuống trước, lún sâu quá nửa dưới đất, rồi tảng thứ hai rơi xuống ngay trên tảng thứ nhất, hai tảng đá va nhau, tia lửa bắn tung tóe, bát đĩa trên các bàn tiệc kêu loảng xoảng. Trương Thúy Sơn thản nhiên ngồi ở tảng đá bên trên, cười nói:
– Hai vị đà chủ thần lực kinh người, thán phục, thán phục!
Hai tên đà chủ sửng sốt, trợn mắt há hốc mồm, đứng ngây như phỗng, không thốt được một lời.
Trong giây lát, sơn cốc yên lặng như tờ, sau đó mới òa ra tiếng vỗ tay như sấm hồi lâu không dứt.
Ân Tố Tố nhìn Bạch Quy Thọ một cái, cười tươi như hoa, vô cùng đắc ý. Bạch Quy Thọ cả mừng, may sao Trương Thúy Sơn võ công siêu việt đã biến trò đùa nguy hiểm của lão ta thành cách làm vui lòng Ân cô nương. Thế là lão bèn tới bàn thứ nhất rót rượu vào chén, cao giọng nói:
– Từ lâu nghe uy danh của Võ Đang thất hiệp, bữa nay được thấy võ công của Trương ngũ hiệp, quả thực thán phục vô cùng. Tiểu nhân xin kính Trương ngũ hiệp một chén.
Đoạn lão uống cạn. Trương Thúy Sơn nói:
– Không dám!
Rồi cũng uống cạn một ly.
Bạch Quy Thọ đứng thẳng người, lớn tiếng nói:
– Tệ giáo gần đây có một thanh bảo đao, tên là Đồ Long. Thường nghe: “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng!”
Nói tới đây, lão ngừng lời, đưa ánh mắt sắc lạnh quét từ tả sang hữu một lượt toàn trường. Thân hình lão không cao lớn, nhưng ngữ thanh âm vang, mục quang sắc nhọn, thần khí uy nghiêm buộc người ta nể sợ. Lão nói tiếp:
– Ân giáo chủ tệ giáo cũng định gửi danh thiếp mời các lộ anh hùng thiên hạ đến núi Thiên Ưng dự hội để tệ giáo hiển thị bảo đao cho mọi người cùng chiêm ngưỡng; ngặt vì việc đó phải trù hoạch thời gian cho chu đáo. Hiện thời chỉ lo anh hùng thiên hạ chưa biết bảo đao đã ở trong tay tệ giáo, nên vừa rồi có mời các vị bằng hữu các bang hội ở Giang Nam tới đây chiêm ngưỡng bảo đao.
Nói tới đó, Bạch Quy Thọ khoát tay một cái, tám tên đệ tử của Thiên Ưng giáo đồng thanh dạ một tiếng thật to rồi quay mình đi vào một sơn động ở phía tây.
Quần hào nghĩ tám tên đó đi lấy bảo đao, nên đều chăm chú nhìn theo. Nào ngờ lúc từ trong sơn động đi ra, chúng đều ở trần, khiêng ra một cái đỉnh sắt lớn. Trong cái đỉnh ấy lửa đang cháy rừng rực, bốc cao hàng trượng. Tám tên cách xa đỉnh, dùng mấy chiếc đòn dài mà khiêng đỉnh ra, tên nào tên ấy thở phì phò, ỳ ạch đặt cái đỉnh xuống giữa bãi trống. Mọi người bị lửa phả vào mặt, cảm thấy nóng rát. Sau tám tên kia lại có bốn tên nữa, hai tên khiêng một cái đe sắt lớn, hai tên còn lại mỗi người vác một chiếc búa sắt lớn.
Bạch Quy Thọ nói:
– Thường đàn chủ, xin mời giương đao lập uy.
Thường Kim Bằng nói:
– Tuân lệnh!
Rồi quay qua nói lớn:
– Mang đao ra!
Hai tên đà chủ đại lực sĩ vác đá ban nãy đi vào sơn động, lúc ra thì một tên bưng một cái bao màu vàng đặt ngang, tên thứ hai đi bên cạnh hộ vệ. Sau khi giao cái bao cho Thường Kim Bằng, hai tên đứng ở hai bên tùy giá. Thường Kim Bằng mở bao, lộ ra một thanh đơn đao, Thường Kim Bằng cầm trong tay, đưa mắt nhìn quần hào một lượt, đoạn rút đao ra khỏi vỏ, nói:
– Đây chính là “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long”, mời các vị nhìn cho kỹ!
Đoạn hai tay nâng thanh đao lên ngang quá trán, vẻ cực kỳ cung kính.
Quần hào nghe uy danh bảo đao Đồ Long đã lâu, giờ thấy cây đao đen đen, chẳng đẹp chút nào, thì ai nấy nảy sinh nghi ngờ: “Làm sao biết thanh đao này thật hay giả?” Chỉ thấy Thường Kim Bằng thong thả trao thanh đao cho tên đà chủ đứng bên trái, nói:
– Thử búa đi!
Tên đà chủ tiếp lấy thanh đao, đặt trên cái đe, lưỡi đao hướng lên trời; tên kia quai cây búa sắt, nhắm lưỡi đao giáng xuống. Chỉ nghe “keng” một tiếng nhẹ, đầu búa bị cắt làm đôi, một nửa còn dính ở cán búa, nửa thứ hai rơi xuống đất. Quần hào kinh ngạc, lập tức đứng bật dậy, ai cũng nghĩ thầm: “Bảo kiếm, lợi đao có thể cắt vàng chặt ngọc dù là của hiếm, song vẫn có; nhưng thanh đao Đồ Long này cắt cây búa sắt ngọt như cắt miếng đậu phụ, ngay tiếng keng nghe cũng rất nhỏ, nếu không phải là thần vật thì bên trong ắt có gì man trá”.
Có người thuộc Thần Quyền môn và bang Cự Kình bước tới bên cái đe, nhặt mảnh búa dưới đất lên xem kỹ, thấy vết cắt phẳng lỳ, loang loáng, đúng là vết vừa bị cắt.
Tên đà chủ lại vung cây búa với nửa còn lại giáng xuống lưỡi đao, lại nghe “keng” một tiếng nhẹ, nửa đầu búa lại bị chém đứt đôi. Lần này quần hào hoan hô vang động.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Đao báu tới mức này, quả là chưa từng được nghe và nhìn thấy bao giờ!”
Thường Kim Bằng thong thả bước ra bãi, giơ thanh đao lên sử một chiêu “Thượng bộ phách sơn”, chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, hắn đã chém đứt đôi cái đe sắt. Đột nhiên hắn lướt sang bên trái, phạt ngang một cái, chém đứt thân một cây tùng lớn; rồi hắn cứ nhảy qua chạy lại, vung đao liên tiếp chém qua mười tám cây đại thụ. Quần hào thấy hắn không ngừng huy động bảo đao mà sao các cây kia vẫn đứng thẳng không có gì lạ, thảy đều khó hiểu, thì Thường Kim Bằng đột nhiên cười một tiếng dài, chạy tới cây thứ nhất, phất tay áo một cái, đánh vào thân cây, “rầm” một tiếng lớn, cây đó đổ gục ra phía ngoài. Thì ra cây đã bị chém đứt đôi, nhưng vì bảo đao quá bén, Thường Kim Bằng lại sử dụng lực rất cân bằng, tuy nửa trên đã đứt đoạn nhưng vẫn đứng thẳng trên cây, đến khi bị ngoại lực đẩy vào mới đổ ụp xuống. Cây đại thụ thứ nhất đổ xuống tạo ra luồng gió mạnh, chỉ nghe “rầm rầm rầm” không dứt, mười bảy cây đại thụ còn lại lần lượt đổ theo.
Thường Kim Bằng cười ha hả, vung tay ném thanh bảo đao Đồ Long vào cái đỉnh sắt đang bốc lửa ngùn ngụt.
Tiếng cây đổ chưa dứt, bỗng nghe từ xa vọng lại tiếng chan chát như có người cũng đang chặt cây. Thường Kim Bằng và Bạch Quy Thọ kinh ngạc nhìn về hướng tiếng động kia truyền lại thì thấy các cột buồm trên thuyền ngoài vịnh đang lần lượt gãy đổ. Các cột buồm đều có treo cờ. Đám thủ lĩnh của Thiên Ưng giáo, Thần Quyền môn, phái Hải Sa, bang Cự Kình thấy cột buồm thuyền mình bị gãy đổ thì thảy đều ngạc nhiên và tức giận, lập tức phái thủ hạ đi tra vấn.
Tiếng chan chát rầm rầm vẫn không dứt, chỉ trong giây lát tất cả các cột buồm đều bị hoặc đánh gãy, hoặc đổ nghiêng, tựa hồ các con thuyền đậu trong vịnh bất ngờ bị cơn lốc hoặc thủy quái lần lượt đánh chìm chẳng còn một chiếc. Quần hào tề tựu trên bãi cỏ hoàn toàn không ai tiên liệu được biến cố này, nhất thời không nói nên lời, thoạt đầu còn nghi Thiên Ưng giáo có âm mưu phá hoại, sau thấy thuyền của Thiên Ưng giáo cũng ngộ kiếp nạn thì mới hết nghi.
Nhóm người thứ hai được phái đi tra vấn. Bãi cỏ này cách vịnh không xa lắm, hơn mười người phái đi mà chẳng một ai quay về.
Mọi người nhìn nhau hoang mang, kinh nghi bất định. Bạch Quy Thọ bảo một tên đà chủ bản đàn:
– Ngươi thử đi coi sao.
Tên đà chủ vâng lệnh đi liền. Bạch Quy Thọ cố trấn tĩnh, cười nói:
– Dù ngoài biển có biến cố chăng nữa, các vị cũng đừng quá lo. Thuyền bị đánh đắm cả, chẳng lẽ chúng ta không thể đi bè trở về hay sao? Thôi, mời các vị, ta cùng cạn chén nào, nào, nào!
Quần hào ai nấy bồn chồn, song không muốn để lộ sự hoảng sợ trước mặt người khác, bèn nhất tề nâng chén lên, nhưng vừa đưa chén tới môi đã bỗng nghe một tiếng rú thảm thương từ phía vịnh vọng vào.
Bạch Quy Thọ và Thường Kim Bằng nghe tiếng kêu liền nhận ra đó là tiếng của tên đà chủ vừa phái đi. Đang sững sờ thì có tiếng bước chân huỳnh huỵch chạy về gần, rồi một người mình mẩy máu me xuất hiện trước mắt mọi người, chính là tên đà chủ vừa nãy.
Hắn hai tay ôm bịt lỗ thủng trên mặt, máu từ các kẽ ngón tay chảy ra, đỉnh đầu bị lột da, quần áo từ ngực xuống qua bụng dưới, tới đùi đều rách nát, một vết thương thật dài, chẳng biết nông sâu, máu thịt bầy nhầy, hắn kêu lên thê thảm:
– Kim Mao Sư Vương, Kim Mao Sư Vương!
Bạch Quy Thọ hỏi:
– Một con sư tử ư?
Nghe tên kia nói, nghĩ là do mãnh thú, lão cảm thấy yên tâm. Tên đà chủ nói:
– Không, không! Là một người. Tất cả mọi người đều bị hắn xé xác, các thuyền đều bị đánh đắm rồi!
Chỉ nói được tới đó, hắn kiệt sức ngã quỵ xuống, tắt thở.
Bạch Quy Thọ nói:
– Ta phải đi coi.
Thường Kim Bằng cũng nói:
– Đệ đi với huynh.
Bạch Quy Thọ nói:
– Huynh ở lại bảo hộ Ân cô nương.
Lão biết tên đà chủ vừa rồi võ công không kém, được xếp vào loại cứng trong Thiên Ưng giáo, vậy mà trong giây lát đã bị đả thương như thế, đủ thấy đối thủ rất ghê gớm. Thường Kim Bằng gật đầu đáp:
– Xin vâng.
Bỗng nghe có tiếng người ho rồi nói:
– Kim Mao Sư Vương đây này!
Ai nấy sửng sốt, chỉ thấy từ sau một gốc đại thụ có một người chậm rãi bước ra. Người ấy cao lớn dị thường, tóc vàng xõa xuống vai, cặp mắt xanh biếc phát quang lóng lánh, tay cầm một cây lang nha bổng có hai đầu, dài chừng trượng sáu trượng bảy. Lão ta đứng sừng sững trước bàn tiệc, uy phong lẫm liệt, hệt như thiên thần thiên tướng.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Kim Mao Sư Vương? Biệt hiệu này chắc là do mái tóc vàng của lão mà ra. Lão là ai nhỉ? Mình chưa hề nghe sư phụ nhắc tới nhân vật này”.
Bạch Quy Thọ tiến lên mấy bước, nói:
– Thỉnh vấn tôn giá cao tính đại danh?
Người kia nói:
– Không dám, tại hạ họ Tạ, đơn danh một chữ Tốn, biểu tự Thoái Tư, có một ngoại hiệu là Kim Mao Sư Vương.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, đều nghĩ thầm: “Vị này thần thái uy mãnh thế kia mà tên nghe quá văn nhã, chỉ có ngoại hiệu nghe còn thích hợp”. Bạch Quy Thọ thấy người kia nói năng từ tốn, bèn nói:
– Vậy là Tạ tiên sinh. Tiên sinh với chúng tại hạ không quen biết, tại sao vừa tới đảo đã hủy thuyền giết người?
Bạch Quy Thọ nghĩ thầm: “Việc này chẳng giấu nổi y. Võ công của y dĩ nhiên lợi hại, song dẫu sao chỉ có một thân một mình; ta liên thủ với Thường Kim Bằng, lại có Trương ngũ hiệp và Ân cô nương ở bên cạnh trợ giúp, chắc có thể diệt được y”. Bèn cao giọng nói:
– Tệ giáo Thiên Ưng giáo mới có được một thanh bảo đao, nên mời bằng hữu chốn giang hồ tới đây cùng chiêm ngưỡng.
Tạ Tốn đưa mắt nhìn thanh đao Đồ Long hiện đang ở trong cái đỉnh rừng rực lửa, thấy thanh đao bị nung bởi nhiệt độ ngần kia mà không hề suy tổn, quả là lợi khí thần vật, liền sải bước tới đó.
Thường Kim Bằng thấy Tạ Tốn thò tay cầm lấy thanh đao, liền quát:
– Dừng tay!
Tạ Tốn ngoảnh lại, cười nhạt, hỏi:
– Cái gì?
Thường Kim Bằng nói:
– Thanh đao này là sở hữu của tệ giáo, Tạ bằng hữu chỉ có thể đứng xem từ xa, không được chạm vào.
Tạ Tốn nói:
– Thanh đao này bọn ngươi đúc ra, hay bọn ngươi mua được?
Thường Kim Bằng cứng họng, nhất thời chưa biết trả lời thế nào. Tạ Tốn tiếp:
– Bọn ngươi đoạt nó từ tay kẻ khác, ta đoạt lại từ tay bọn ngươi, trời đất công bằng, có gì mà không được chạm tới?
Đoạn họ Tạ quay lại để lấy đao.
Chỉ nghe loảng xoảng, Thường Kim Bằng đã gỡ từ lưng ra hai trái dưa lưu tinh chùy, quát:
– Tạ bằng hữu, nếu không dừng tay, tại hạ đành thất lễ!
Lời lẽ của Thường Kim Bằng nghe như cảnh cáo, kỳ thực nói là đánh ngay, trái dưa sắt từ tay trái nhắm thẳng hậu tâm Tạ Tốn mà bay tới. Tạ Tốn chẳng buồn quay đầu lại, hất cây lang nha bổng về phía sau, “xoảng” một tiếng lớn, trái dưa đụng phải lang nha bổng liền bay ngược lại với tốc độ kinh người. Thường Kim Bằng cả kinh, phóng luôn trái dưa sắt bên tay phải đi, hai trái dưa đụng vào nhau, ai ngờ thần lực của Tạ Tốn quả là khủng khiếp, cả hai trái dưa cùng bay trở lại giáng ngay vào ngực Thường Kim Bằng. Thường Kim Bằng lảo đảo ngã ngửa ra chết liền.
Khi ở trên sông Tiền Đường, hắn dùng chùy sắt đánh phá thuyền của Mạch thiếu bang chủ mới thần uy làm sao, vậy mà giờ đây không chịu nổi một đòn đỡ bằng lang nha bổng của Tạ Tốn.
Năm tên đà chủ thuộc Chu Tước đàn cả kinh, nhất tề xông lên. Hai tên khiêng Thường Kim Bằng lên, ba tên rút binh khí, liều mạng tấn công Tạ Tốn. Tạ Tốn tay trái cầm lấy thanh đao Đồ Long, cây lang nha bổng trong tay phải kề vào đáy đỉnh hất một cái; đỉnh sắt nặng mấy trăm cân kia liền bay lên, quét ngang, đè bẹp liền một lúc cả ba tên đà chủ, rồi dư thế còn khiến nó lăn đi, đè bẹp nốt hai tên đà chủ đang khiêng Thường Kim Bằng. Y phục trên thi thể của năm tên đà chủ cùng Thường Kim Bằng bén lửa cháy bùng, bốn tên đà chủ bị đỉnh đụng chết liền, chỉ còn tên thứ năm quằn quại hấp hối.
Mọi người nhìn cảnh ấy, ai nấy rụng rời. Tạ Tốn mới chỉ vung tay một cái đã đánh chết tươi năm hảo thủ giang hồ, còn tên thứ sáu đang quằn quại kia cũng sắp tắt thở. Trương Thúy Sơn hành tẩu giang hồ từng gặp không ít cao thủ, nhưng võ công thần lực siêu phàm như Tạ Tốn thì chàng chưa hề thấy, nghĩ thầm mình chẳng phải đối thủ của lão, ngay cả đại sư ca, nhị sư ca cũng không thể bì kịp. Hiện nay trong thiên hạ, trừ phi sư phụ xuống núi, ngoài ra chẳng biết có ai thắng nổi người này không.
Tạ Tốn giơ thanh đao Đồ Long lên, dùng ngón tay búng một cái, thanh đao phát ra âm thanh trầm uất không phải của vàng, không phải của gỗ, lão gật gù tán thưởng:
– Vô thanh vô sắc, thần vật tự giấu mình, quả là bảo đao!
Đoạn lão ngẩng đầu, nhìn về phía cái bao của thanh đao đặt bên cạnh Bạch Quy Thọ, hỏi:
– Có phải cái bao của thanh đao Đồ Long đó không? Đưa đây cho ta.
Bạch Quy Thọ thầm biết trong tình thế này tính mạng của mình mười phần chỉ còn một, nếu đưa cái bao đao cho Tạ Tốn, chẳng những anh danh một đời trôi theo dòng nước, mà sau này giáo chủ truy cứu tội trạng thì cái chết còn thảm khốc hơn; song chống lại Tạ Tốn lúc này chắc chết mười mươi, bèn ngang nhiên đáp nói:
– Người muốn giết thì cứ giết, họ Bạch này há là phường tham sống sợ chết ư?
Tạ Tốn mỉm cười, nói:
– Cứng cỏi lắm, cứng cỏi lắm! Thiên Ưng giáo quả cũng có vài nhân vật.
Rồi họ Tạ đột nhiên vung tay phải, thanh đao Đồ Long nặng hơn trăm cân bay vút về phía Bạch Quy Thọ. Bạch Quy Thọ sớm đã đề phòng, thấy thanh đao bay tới, biết kình lực của người kia nào phải tầm thường nên không dám dùng binh khí đón đỡ, cũng chẳng dám giơ tay đón bắt, vội né người tránh; thanh đao bay xéo qua, “xoạch” một tiếng, nó phóng ngay vào cái bao đao đặt nằm trên bàn, lực ném quá mạnh, khiến nó tiếp tục bay lên. Tạ Tốn liền giơ cây lang nha bổng vừa móc vừa khều thanh đao Đồ Long lại gần, rồi tiện tay giắt luôn vào thắt lưng. Thủ pháp ném đao thu bao vừa chuẩn xác vừa kỳ lạ, thật không ai có thể ngờ.
Mục quang của Tạ Tốn quét một lượt khắp mặt quần hào từ trái sang phải, đoạn lão hỏi:
– Tại hạ muốn lấy thanh đao Đồ Long này, các vị có dị nghị gì chăng?
Lão nhắc lại câu hỏi, không một ai dám trả lời.
Bỗng từ bàn tiệc của phái Hải Sa có một người đứng dậy, nói:
– Tạ tiền bối đức cao vọng trọng, danh vang tứ hải, đao này do Tạ tiền bối sở hữu là phải lắm. Chúng vãn bối đều hết sức tán thành.
Tạ Tốn hỏi:
– Các hạ là Tổng đà chủ phái Hải Sa Nguyên Quảng Ba thì phải?
Người kia đáp:
– Thưa phải.
Hắn thấy Tạ Tốn biết tính danh mình thì vừa vui mừng, vừa hoảng sợ.
Tạ Tốn nói:
– Ngươi có biết sư phụ của ta là ai không? Ta thuộc môn phái nào? Ta đã làm những hảo sự gì nào?
Nguyên Quảng Ba ấp úng nói:
– Cái đó… Tạ tiền bối…
Về mấy điều đó, hắn quả thật chẳng biết gì hết. Tạ Tốn lạnh lùng nói:
– Mọi điều về ta, ngươi không hay biết chút nào cả, sao lại bảo ta đức cao vọng trọng, danh vang tứ hải? Ngươi chỉ quen xu nịnh, nói láo quen mồm! Ta bình sinh chúa ghét hạng tiểu nhân vô liêm sỉ như ngươi, mau ra đây!
Câu cuối cùng mỗi tiếng nghe vang như sấm, Nguyên Quảng Ba bị uy thế của Tạ Tốn khuất phục, cúi đầu đi tới trước mặt lão ta, thân hình không cưỡng được cứ run cầm cập.
Tạ Tốn nói:
– Phái Hải Sa các ngươi võ công tầm thường, chuyên dùng muối độc hại người. Năm ngoái ở Dư Diêu đã hại chết toàn gia Trương Đăng Vân, đầu tháng này Âu Dương Thanh bị chết ở Hải Môn, đều là hảo sự của ngươi phải không?
Nguyên Quảng Ba kinh hãi, nghĩ bụng hai vụ đó được thực hiện cực kỳ bí mật, làm sao lão kia biết được chứ? Tạ Tốn quát:
– Bảo thủ hạ của ngươi mang hai tô muối độc ra đây, để ta coi xem rốt cuộc nó như thế nào nào?
Bang chúng phái Hải Sa tên nào cũng mang theo muối độc, Nguyên Quảng Ba không dám trái lời, đành lệnh cho thủ hạ bưng ra hai tô muối độc.
Tạ Tốn cầm một tô đưa lên mũi ngửi ngửi, rồi nói:
– Hai ta, mỗi người xơi một tô.
Đoạn cắm cây lang nha bổng xuống đất, túm lấy Nguyên Quảng Ba, bóp vào quai hàm buộc hắn phải há to miệng không sao ngậm lại được, đoạn đổ hết cả tô muối độc vào đó.
Toàn gia Trương Đăng Vân ở Dư Diêu bị giết hại trong một đêm, Âu Dương Thanh bị chết ở Hải Môn trong khách điếm, là hai nghi án trong võ lâm năm qua. Trương Đăng Vân và Âu Dương Thanh thanh danh trên chốn giang hồ không đến nỗi nào, ai ngờ đều bị Nguyên Quảng Ba phái Hải Sa hãm hại. Trương Thúy Sơn thấy hắn bị bức phải nuốt muối độc thì cảm thấy có phần thích thú.
Tạ Tốn bưng tô muối độc thứ hai, nói:
– Tạ mỗ làm việc gì cũng công bằng, ngươi đã xơi hết một tô, ta cũng tiếp ngươi một tô.
Đoạn lão há to miệng, trút muối độc vào bụng.
Việc này hoàn toàn bất ngờ đối với tất cả mọi người. Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn tuy hạ thủ tàn bạo nhưng chính khí ngang tàng, huống hồ mấy kẻ bị lão giết toàn là hạng hung ác, nên trong lòng nảy sinh hảo cảm đối với lão, không nhịn được bèn lên tiếng:
– Tạ tiền bối, hạng gian ác như hắn có chết cũng đáng tội, hà tất phải chịu đựng theo hắn?
– Hừ, ngươi là Trương ngũ hiệp phái Võ Đang, cũng tới đây tranh đoạt thanh đao Đồ Long ư?
Trương Thúy Sơn lắc đầu nói:
– Vãn bối tới đây chỉ cốt tra vấn nguyên ủy vì sao sư ca Du Đại Nham của vãn bối bị đả thương. Tạ tiền bối nếu biết rõ vụ đó, những mong chỉ giáo.
Tạ Tốn chưa kịp nói thì nghe Nguyên Quảng Ba rú lên thảm thiết, ôm bụng lăn lộn dưới đất mấy vòng, rồi co rúm người mà chết. Trương Thúy Sơn vội giục:
– Tạ tiền bối mau uống thuốc giải độc đi!
Tạ Tốn nói:
– Uống thuốc giải độc làm gì? Mang rượu cho ta!
Gã ty tân chuyên lo việc tiếp khách của Thiên Ưng giáo vội bưng vò rượu và chén ra. Tạ Tốn quát:
– Thiên Ưng giáo tính khí nhỏ nhen, mau mang vò rượu lớn cho ta!
Gã ty tân bưng ra một vò rượu lớn, cung kính đặt trước mặt Tạ Tốn, nghĩ thầm: “Trúng độc rồi còn nốc rượu vào, chẳng lẽ lão ta sợ chết chưa đủ nhanh chắc?”
Chỉ thấy Tạ Tốn bưng vò rượu lên tu ừng ực. Vò rượu này chí ít cũng tới hai mươi cân rượu, vậy mà trong giây lát Tạ Tốn tu hết sạch. Lão vỗ vỗ mấy cái vào cái bụng phình to, rồi bỗng nhiên há mồm, một dòng rượu phun mạnh ra, trúng ngay giữa ngực Bạch Quy Thọ. Bạch Quy Thọ còn đang kinh ngạc, thì cột rượu phun trúng người, tựa hồ bị một quả chùy nặng hàng trăm cân liên tiếp giáng vào ngực, khiến cho lão dù nội công thâm hậu cũng không chịu nổi, lảo đảo ngã lăn ra bất tỉnh.
Tạ Tốn quay đầu lại, phun rượu lên trời, thành đám mưa rơi xuống, bao phủ đám người bang Cự Kình. Từ bang chủ Mạch Kình trở xuống, tên nào cũng bị dính rượu đầy đầu đầy mặt, thấy thứ rượu đó hôi tanh nồng nặc, những kẻ công lực kém một chút đều ngất lịm. Thì ra Tạ Tốn nốc rượu vào bụng để rửa sạch muối độc trong dạ dày, rồi dùng nội lực phun ra, hơn hai mươi cân rượu biến thành rượu độc; trong bụng chỉ còn một chút chất độc, so với nội công như của lão thì chút độc tố ấy chẳng thấm tháp gì.
Bang chủ bang Cự Kình là Mạch Kình bị Tạ Tốn giễu cợt như thế, cả giận đứng lên, nhưng nghĩ thế nào lại không dám lên tiếng, bèn ngồi xuống.
Tạ Tốn nói:
– Mạch bang chủ, hồi tháng Năm năm nay, ngươi có cướp một hải thuyền viễn dương ở Mân Giang Khẩu phải không?
Mạch Kình mặt xám lại như tro, đáp:
– Không sai.
Tạ Tốn nói:
– Các ngươi làm hải tặc, không cướp bóc thì lấy gì mà sống? Điều đó ta không trách cứ, thế nhưng ngươi lại quẳng hết mấy chục thương nhân vô tội xuống biển, cưỡng hiếp đến chết bảy phụ nữ, cái đó có phải là quá thương thiên hại lý hay không?
Mạch Kình ấp úng nói:
– Việc đó… là do các huynh đệ trong bang làm, chứ… không phải tại hạ.
Tạ Tốn nói:
– Thủ hạ của ngươi làm những việc cùng hung cực ác mà ngươi không ngăn cản, vậy có khác gì ngươi làm? Việc đó do những tên nào làm?
Mạch Kình lúc này chỉ mong mình thoát chết, liền rút yêu đao, nói:
– Thái Tứ, Hoa Thanh Sơn, Hải Mã Hồ Lục, việc hôm đó ba ngươi đều có phần!
Nói đoạn “phập, phập, phập”, hắn vung đao chém luôn ba tên thủ hạ; hắn xuất thủ quá nhanh, ba tên kia chưa kịp chống đỡ đã trúng đao chết liền.
Tạ Tốn nói:
– Được! Nhưng quá muộn, lại không phải ngươi thực tâm muốn thế. Giá như hôm đó ngươi giết ngay ba tên kia thì hôm nay ta cũng chẳng tỷ thí với ngươi làm gì. Mạch bang chủ, công phu sở trường của ngươi là gì?
Mạch Kình biết không còn cách né tránh, nghĩ thầm: “Tỷ thí với lão ta ở trên bộ, chỉ e mình không tiếp nổi ba chiêu; nhưng dưới biển là giang sơn của ta, lỡ thua kém ta còn có đường đào tẩu, chẳng lẽ về thủy tính mà lão ta cũng giỏi hơn ta sao?” bèn nói:
– Tại hạ muốn lĩnh giáo Tạ tiền bối công phu dưới nước.
Tạ Tốn nói:
– Được, vậy hai ta ra biển tỷ thí.
Đi được vài bước, Tạ Tốn bỗng nói:
– Hãy khoan, ta ra ngoài kia, chỉ e bọn ở đây sẽ đào tẩu!
Ai nấy cùng giật mình, nghĩ thầm: “Lão ta sợ mọi người chạy trốn, chả lẽ lão tính giết hết mọi người ở đây hay sao?”
Mạch Kình vội nói:
– Thực ra có xuống biển tỷ thí, tại hạ cũng không phải là đối thủ của Tạ tiền bối, tại hạ nhận thua cho rồi.
Tạ Tốn nói:
– Ừ, như thế càng tiện. Ngươi đã nhận thua thì dùng đao tự sát đi!
Mạch Kình giật mình, nói:
– Cái chuyện… cái chuyện tỷ thí, thắng bại là chuyện thường, cần gì phải tự sát… Tạ Tốn quát:
– Nói láo! Cái hạng ngươi mà đòi tỷ thí với ta! Hôm nay ta tới lấy mạng các ngươi. Chúng ta con nhà võ, tay người nào chẳng vấy máu? Nhưng Tạ mỗ bình sinh chỉ giết những người biết võ; chúa ghét kẻ có võ công ỷ mạnh hiếp yếu, sát hại phụ nữ trẻ con không biết võ. Phàm những kẻ như thế, hôm nay Tạ mỗ quyết không bỏ qua.
Trương Thúy Sơn nghe vậy, bất giác nhìn trộm Ân Tố Tố một cái, nghĩ thầm: “Nàng sát hại mấy chục mạng người già trẻ ở tiêu cục Long Môn, trong đó không ít người không biết võ công, Tạ Tốn mà biết việc đó, hẳn sẽ tính sổ với nàng”. Chỉ thấy Ân Tố Tố mặt trắng bệch, môi run run, chàng lại nghĩ thầm: “Nếu Tạ Tốn định giết nàng, mình có ra tay cứu hay không nhỉ? Mình ra tay cứu, chẳng qua chỉ là nộp mạng cho lão. Huống hồ tội nàng đáng bị… có điều… có điều… Chẳng lẽ mình trơ mắt nhìn nàng bị hành hung hay sao?” Chỉ nghe Tạ Tốn lại nói:
– Chỉ e các ngươi chết mà không phục, nên ta cho các ngươi một dịp thi triển tuyệt nghệ bình sinh, chỉ cần thắng được ta một ngón nào đấy, ta sẽ tha chết ngay.
Nói xong, Tạ Tốn cúi xuống móc hai nắm đất lên đổ rượu vào hòa thành hai nắm bùn, rồi nói với Mạch Kình:
– Thủy tính hay dở, là xem nín thở lặn dưới nước lâu mau. Ta và ngươi dùng bùn bịt kín mũi miệng, ai không chịu nổi, đưa tay móc bùn ra trước để thở, kẻ đó sẽ phải vung đao tự tận.
Đoạn lão cũng chẳng đợi Mạch Kình có đồng ý hay không đã đưa nắm bùn tay trái lên bịt kín mũi miệng của mình, rồi vung tay phải, “bạch” một tiếng, nắm bùn thứ hai bay tới bịt kín mũi miệng Mạch Kình.
Mọi người nhìn cảnh tượng đó tuy quá tức cười, nhưng không ai cười nổi.
Trước khi bị bịt mũi miệng, Mạch Kình đã hít một hơi dài, giờ hắn liền ngồi xếp bằng, nín thở bất động. Từ bảy tám tuổi, hắn đã quen lặn xuống biển mò cua bắt cá, thủy tính cực cao, có thể lặn tàn một nén nhang mới trồi lên mặt nước vẫn không bị ngộp thở; bởi vậy trong cuộc tỷ thí này hắn tự tin quyết không thể thua; hết sợ rồi, hắn ngưng thần tĩnh tâm để trụ được lâu hơn.
Tạ Tốn thì chẳng ngồi bất động như hắn mà sải bước tới bên bàn tiệc của Thần Quyền môn, trừng mắt nhìn gã chưởng môn là Quá Tam Quyền.
Quá Tam Quyền sởn tóc gáy trước ánh mắt của Tạ Tốn, đứng dậy ôm quyền nói:
– Thưa Tạ tiền bối, tại hạ là Quá Tam Quyền.
Tạ Tốn miệng bị bịt, không nói được, giơ ngón tay chấm vào rượu, viết lên mặt bàn ba chữ. Quá Tam Quyền tức thời mặt xám ngoét, thần sắc cực kỳ hoảng hốt, tưởng chừng thấy ma quỷ hiện hình. Các đệ tử của hắn cúi nhìn mặt bàn, thấy ba chữ “Thôi Phi Yên” do Tạ Tốn vừa viết, họ không hiểu Thôi Phi Yên là gì, nghe có vẻ như tên phụ nữ, tại sao sư phụ của họ lại hoảng sợ như thế chứ?
Quá Tam Quyền dĩ nhiên biết Thôi Phi Yên là chị dâu của hắn, hắn cưỡng dâm không thành nên đã giết chị ta. Quá Tam Quyền nghĩ bụng: “Chắc chắn lão không tha cho ta, chi bằng nhân lúc lão đang bị bùn bịt kín mũi miệng, ta toàn lực tấn công, lão mà vận khí phát quyền, ắt sẽ thua Mạch Kình”, bèn lớn tiếng nói:
– Tại hạ chấp chưởng Thần Quyền môn, bình sinh có học quyền pháp, xin lĩnh giáo tiền bối vài chiêu!
Cũng chẳng chờ Tạ Tốn dự phòng, hắn tung ngay một quyền vào bụng dưới của Tạ Tốn, một quyền đã đánh ra, quyền thứ hai sẽ tiếp liền. Cái tên Quá Tam Quyền xuất hiện chính là vì quyền lực của hắn cực mạnh, một quyền có thể đấm chết tươi một con trâu đực, một võ sư tầm thường không thể chịu nổi ba cú đấm của hắn, từ đó giang hồ truyền đi, chẳng ai còn nhớ tên thật của hắn là gì nữa. Hắn thầm biết rằng tình thế lúc này phải tấn công thật lẹ, nếu Mạch Kình không nín thở nổi, phải móc bùn ra trước thì Tạ Tốn cũng sẽ móc ra để thở. Giờ là lúc hắn chiếm lợi thế hoàn toàn, đối phương không thể hít khí vận lực, võ công sẽ mất đi phần lớn sức mạnh.
Hai quyền của hắn đánh ra, Tạ Tốn tiện tay hóa giải; Quá Tam Quyền cảm thấy kình lực của đối phương quá yếu, khác hẳn thần uy lúc lão đánh chết Thường Kim Bằng và phun ngã Bạch Quy Thọ. Hắn bèn quát to:
– Quyền thứ ba này!
Cú đấm thứ ba của hắn có tên hẳn hoi, gọi là “Hoành tảo thiên quân, trực thôi vạn mã”[29], là chiêu lợi hại nhất trong sở học bình sinh của hắn; không ít anh hùng hảo hán thành danh chốn giang hồ đã bị đả thương bởi cú đấm này.
Lúc đó Mạch Kình mặt đỏ tía tai, mồ hôi vã ra như tắm, khó bề chịu đựng thêm. Mạch thiếu bang chủ thấy tình thế của phụ thân vô cùng nguy cấp, còn Tạ Tốn đang mải đối phó với Quá Tam Quyền, y chợt nghĩ ra một mẹo, giơ tay rút một cái ngân thoa cài trên tóc một nữ đà chủ trong bang, bẻ lấy một đoạn chừng hơn tấc, rồi nhắm miệng Mạch Kình mà búng tới. Đoạn thoa ấy tuy không khỏi làm tổn thương răng lợi của Mạch Kình, song sẽ tạo nên một lỗ thủng nhỏ qua lớp bùn, không khí theo đó được hít vào, Mạch Kình sẽ không thể thua cuộc.
Đoạn ngân thoa còn cách Mạch Kình hơn một trượng, Tạ Tốn liếc mắt thấy, liền giơ chân hất một cục đá nhỏ dưới đất lên trúng đoạn ngân thoa. Nó bay ngược trở lại, thế nhanh dị thường, chỉ nghe Mạch thiếu bang chủ rú lên một tiếng “ái” thảm thiết, giơ tay ôm mắt phải, máu tươi chảy ròng ròng qua kẽ tay, thì ra đoạn ngân thoa đã đâm mù một con mắt của y.
Mạch Kình đưa tay định móc bùn ở mũi ra thở, Tạ Tốn liền đá hai cục đá lên, nghe hai tiếng “pạch, pạch”, trúng hai bả vai của Mạch Kình, làm gãy xương bả vai khiến hai tay hắn không thể động đậy được nữa.
Lúc ấy cú đấm thứ ba của Quá Tam Quyền đánh trúng vào bụng dưới của Tạ Tốn. Quyền này thế như sấm sét, chưa tới mà đã rất uy mãnh. Quá Tam Quyền cho rằng đối phương không dám tiếp cú đấm này, sẽ phải né tránh, nhưng bất kể né phải tránh trái, rướn lên cao rùn xuống thấp, hắn cũng đã chuẩn bị sẵn đòn lợi hại tiếp theo. Nào ngờ Tạ Tốn chẳng hề di động thân hình. Quá Tam Quyền cả mừng, cú đấm thôi sơn của hắn giáng trúng bụng dưới của Tạ Tốn. Trên cơ thể người ta, bụng dưới vốn là nơi rất mềm, đằng này quyền của hắn đấm tới lại không khác gì đụng vào sắt đá, lúc biết nguy tai thì đã hộc máu chết.
Tạ Tốn quay đầu lại thấy Mạch Kình hai mắt trợn lên toàn lòng trắng, khí đã tuyệt hẳn. Lão móc bùn khỏi mũi miệng của Mạch Kình trước, thử xem tên đó còn thở hay không rồi mới gỡ bùn khỏi miệng mình, ngửa mặt lên trời cười một hồi, nói:
– Hai tên này bình sinh tác ác đa đoan, hôm nay mới bị báo ứng là hơi muộn.
Nói rồi lão đưa cặp mặt sáng quắc như tia chớp nhìn hai kiếm khách phái Côn Luân, từ Cao Tắc Thành sang Tưởng Đào, rồi lại quét từ Tưởng Đào sang Cao Tắc Thành, hồi lâu không nói.
Cao, Tưởng hai gã mặt trắng bệch, nhưng vẫn hiên ngang tay nắm đốc kiếm, giương mắt nhìn đối phương.
Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn trong khoảnh khắc hạ sát liền các thủ lĩnh của bốn đại bang hội, lúc này hẳn đang định hạ sát Cao Tắc Thành và Tưởng Đào, chàng bèn đứng dậy nói:
– Tạ tiền bối, cứ theo lời tiền bối, thì mấy kẻ vừa bị giết đều đáng chết vì quá nhiều tội, bị báo ứng. Nhưng nếu tiền bối cứ ra tay lạm sát, chẳng phân biệt nếp tẻ gì hết, thì có khác chi bọn chúng?
Tạ Tốn cười nhạt, nói:
– Có khác chi ư? Ta võ công cao, chúng võ công thấp, mạnh thắng yếu bại, khác ở chỗ đó đấy.
Trương Thúy Sơn nói:
– Người khác cầm thú ở chỗ phân biệt phải trái, nếu cứ ỷ mạnh hiếp yếu, vậy khác gì cầm thú?
Tạ Tốn cười ha hả, nói:
– Lẽ nào trên thế gian có phân biệt phải trái thật sao? Người Mông Cổ làm hoàng đế, muốn giết bao nhiêu người Hán thì giết, có nói chuyện phải trái với ngươi hay không? Bọn Mông Cổ muốn cướp vợ con, vàng ngọc của người Hán là cứ việc đưa tay ra cướp, người Hán mà không chịu, chúng rút đao chém liền, chúng có nói chuyện phải trái với ngươi hay không?
Trương Thúy Sơn im lặng một lát, rồi nói:
– Bọn Mông Cổ tàn ác bạo ngược, hoành hành như cầm thú, phàm những ai có chí khí, đều nghiến răng căm hận chúng, ngày đêm mong mỏi đuổi bọn Thát tử, lấy lại giang sơn.
Tạ Tốn nói:
– Thời trước người Hán làm hoàng đế, có phân biệt phải trái hay không? Nhạc Phi là đại trung thần, tại sao lại bị Tống Cao Tông giết hại? Tần Cối là đại gian thần, tại sao lại được giữ địa vị cao, tận hưởng vinh hoa phú quý?
Trương Thúy Sơn nói:
– Các hoàng đế Nam Tống trọng dụng gian thần, sát hại bậc trung lương, bài xích danh tướng, cuối cùng để giang sơn gấm vóc rơi vào tay bọn dị tộc, trồng cái nhân ác, hái cái quả ác, đó cũng là phân biệt phải trái.
Tạ Tốn nói:
– Hoàng đế Nam Tống hôn quân vô đạo đã đi một nhẽ, nhưng người Hán khắp thiên hạ đều bị bọn Mông Cổ, bọn người Kim tàn sát, thử hỏi Trương ngũ hiệp, bách tính có làm gì ác mà phải chịu bao nhiêu tai họa như vậy?
Trương Thúy Sơn im lặng.
Đột nhiên Ân Tố Tố lên tiếng:
– Bách tính vô quyền vô dũng, dĩ nhiên phải bị người ta chém giết. Người ta là dao thớt, mình là cá thịt, chuyện ấy âu cũng là lẽ thường trên đời.
Trương Thúy Sơn nói:
– Chúng ta khổ công học võ là để giải oan cứu khổ, diệt cường bạo, giúp kẻ yếu. Tạ tiền bối anh hùng vô địch, nếu đem võ công tuyệt thế này đi hành hiệp thiên hạ, người người đều được hưởng phúc lành.
Tạ Tốn nói:
– Hành hiệp trượng nghĩa có gì là tốt? Tại sao phải hành hiệp trượng nghĩa?
Trương Thúy Sơn ngẩn ra, từ nhỏ, trước khi học võ, chàng đã được sư phụ giáo huấn hành hiệp trượng nghĩa là đại sự phải làm suốt đời, cho nên học võ chính là để hành hiệp, hành hiệp là gốc, học võ chỉ là cái ngọn. Trong tâm trí, chưa khi nào chàng tự hỏi hành hiệp trượng nghĩa có gì là tốt? Tại sao lại phải hành hiệp trượng nghĩa? Chàng chỉ coi đó là cái lý đương nhiên, hoàn toàn sáng tỏ, căn bản không phải bận tâm suy nghĩ; lúc này nghe Tạ Tốn hỏi như thế, chàng ngây người, lát sau mới nói:
– Hành hiệp trượng nghĩa là để khuếch trương chính nghĩa, sao cho thiện được đền đáp, ác bị quả báo.
Tạ Tốn cười một hồi, nói:
– Thiện được đền đáp, ác bị quả báo! Ha ha, toàn là nói láo! Ngươi thử nói xem, trong võ lâm có chuyện thiện được đền đáp, ác bị quả báo thực không?
Trương Thúy Sơn nhớ đến Du Đại Nham, tam sư ca của chàng một đời làm bao nhiêu việc thiện, bỗng dưng lại bị thảm họa như thế, tám chữ “thiện được đền đáp, ác bị quả báo” kia chính chàng cũng khó tin là có thực, đành thở dài, nói:
– Đạo trời khó nói, việc người khó biết. Chúng ta chỉ mong tâm được an, thấy việc nghĩa thì làm, còn chuyện họa hay phúc, chả nên tính đến làm gì.
Tạ Tốn liếc xéo Trương Thúy Sơn một cái, nói:
– Nghe đồn tôn sư Trương Tam Phong tiên sinh võ công quán thế, tiếc rằng chưa có duyên diện kiến. Ngươi là cao đồ của y mà kiến thức tầm thường như thế, thiết tưởng Trương Tam Phong cũng chẳng hơn gì, không diện kiến cũng chẳng sao.
Trương Thúy Sơn nghe lời lẽ của lão hiển nhiên có ý coi thường ân sư thì không nhịn nổi, nói:
– Ân sư của vãn bối sở học cao siêu, kẻ phàm phu tục tử há có thể đo lường. Tạ tiền bối võ công cao cường, vãn bối hậu học không sánh kịp, nhưng so với ân sư, chẳng qua chỉ là cái dũng của kẻ thất phu mà thôi.
Ân Tố Tố kéo kéo vạt áo chàng, ngụ ý khuyên chàng tạm thời nhịn nhục để tránh cái họa trước mắt. Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Đại trượng phu thà chết, quyết không để lão ta làm nhục ân sư”.
Nào ngờ Tạ Tốn chẳng hề nổi giận, chỉ thản nhiên nói:
– Trương Tam Phong tiên sinh khai sáng tông phái, võ công chắc hẳn cao siêu hơn người. Võ học chi đạo, vô cùng vô tận, ta không bì kịp tôn sư thì cũng chẳng có gì lạ. Rồi sẽ có ngày ta lên núi Võ Đang lĩnh giáo một phen. Này Trương ngũ hiệp, công phu sở trường nhất của ngươi là gì, Tạ mỗ muốn được biết đến.
Ân Tố Tố nhìn thi thể Bạch Quy Thọ, Thường Kim Bằng, Nguyên Quảng Ba, Mạch Kình, Quá Tam Quyền ngổn ngang trên mặt đất, người nào động thủ với Tạ Tốn cũng không thoát chết, giờ nghe Tạ Tốn khiêu chiến với Trương Thúy Sơn, biết chàng võ công tuy cao, song hoàn toàn không phải là đối thủ của lão, bèn nói:
– Tạ tiền bối, thanh đao Đồ Long đã ở trong tay tiền bối, tất thảy mọi người đều thán phục tiền bối võ công cao cường, vậy tiền bối còn muốn gì nữa?
Tạ Tốn nói:
– Về thanh đao Đồ Long này, có mấy câu tương truyền lâu nay, cô nương có biết không?
Ân Tố Tố đáp:
– Vãn bối có nghe qua.
Tạ Tốn nói:
– Tương truyền đó là vật chí tôn của võ lâm, người nào có được nó, ra lệnh thế nào, thiên hạ đều phải tuân theo. Rốt cuộc thanh đao này có bí mật gì mà khiến quần hùng khắp thiên hạ phải tuân phục?
Ân Tố Tố nói:
– Tạ tiền bối việc gì cũng biết, vãn bối chính đang muốn thỉnh giáo.
Tạ Tốn nói:
– Ta cũng không biết. Ta muốn tìm một chốn thanh vắng để suy nghĩ kỹ về chuyện đó.
Ân Tố Tố nói:
– Vậy thì hay quá. Tạ tiền bối tài trí hơn người, Tạ tiền bối mà nghĩ không ra thì còn ai hiểu nổi.
Tạ Tốn nói:
– Hì hì, Tạ mỗ chưa đến nỗi cuồng vọng tự đại đâu! Nói về võ công, hiện nay trong thiên hạ người giỏi hơn ta thực chẳng phải ít. Chưởng môn phái Thiếu Lâm Không Văn đại sư này…
Nói tới đây lão dừng lại, vẻ mặt thoáng nét u ám.
– Hai vị đại sư Không Trí, Không Tính ở Thiếu Lâm tự, đạo trưởng Trương Tam Phong phái Võ Đang, rồi còn các vị chưởng môn phái Nga Mi, phái Côn Luân, vị nào chẳng có tuyệt học trong người? Phái Thanh Hải ở vùng biên cương phía Tây, võ công cũng có chỗ bí hiểm, độc đáo. Tả hữu Quang Minh sứ giả của Minh giáo… hì hì, chẳng phải loại thường. Rồi Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ của Thiên Ưng giáo cô nương, cũng là bậc kỳ tài hiếm có trên đời, ta chắc gì thắng nổi họ.
Ân Tố Tố đứng lên nói:
– Đa tạ Tạ tiền bối có lời khen ngợi.
Tạ Tốn nói:
– Ta lấy được thanh đao Đồ Long, dĩ nhiên không ít người ngoài sẽ thèm muốn. Hôm nay trên Vương Bàn sơn đảo này không một ai địch nổi ta, chẳng qua là do Ân giáo chủ tính lầm. Y tưởng rằng hai gã Bạch đàn chủ, Thường đàn chủ thừa sức đối phó với phái Hải Sa, bang Cự Kình, đâu ngờ giữa chừng Tạ mỗ lại xuất hiện…
Ân Tố Tố nói xen vào:
– Hoàn toàn không phải Ân giáo chủ tính lầm, chẳng qua Ân giáo chủ có việc hệ trọng, chẳng thể phân thân.
Tạ Tốn nói:
– Cứ cho là thế, nếu Ân giáo chủ ở đây, một là ta tự nghĩ võ công đôi bên kẻ tám lạng người nửa cân; hai là nghĩ đến giao tình cố nhân, rõ ràng chẳng nỡ tranh đoạt. Nếu thế, Tạ mỗ đâu tới đây làm gì?!! Ân giáo chủ xưa nay tự phụ tính toán không sai bao giờ, hôm nay thanh đao Đồ Long rơi vào tay ta, danh tiếng của giáo chủ khó tránh bị tổn hại.
Ân Tố Tố nghe Tạ Tốn nhắc có “giao tình cố nhân” với Ân giáo chủ, nàng liền cảm thấy đỡ lo, thế là tiếp tục tranh biện với Tạ Tốn, để lão quên đi cái việc đòi tỷ thí với Trương Thúy Sơn. Nàng nói:
– Việc người khó biết, ý trời khó đoán, vật bên ngoài không phải hễ muốn là được. Cho nên mới có câu “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Tạ tiền bối phúc trạch thâm hậu, dễ dàng lấy được thanh đao Đồ Long, người khác dốc hết tâm cơ bày thiên phương bách kế vẫn chẳng đoạt được.
Tạ Tốn nói:
– Thanh đao này từ khi ra đời, không biết đã bao lần đổi chủ, cũng chẳng rõ nó đã gây cho chủ nhân của nó bao nhiêu cái họa sát thân. Hôm nay ta giành được nó, không chừng ngày mai lại có cao thủ giỏi hơn tới giết ta, đoạt mất đao này.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau, cảm thấy câu nói của lão đầy thâm ý. Trương Thúy Sơn nhớ đến tam sư ca Du Đại Nham chỉ vì liên quan đến thanh đao này mà hiện giờ chưa rõ sống chết ra sao, còn chàng chỉ mới nhìn thấy nó mà tính mạng đã do người ngoài định đoạt.
Tạ Tốn thở dài, nói:
– Hai ngươi văn võ song toàn, diện mạo tuấn nhã, giết đi chẳng khác gì đập nát một đôi ngọc khí quý giá, kể cũng đáng tiếc, nhưng tình thế này không thể không giết.
Ân Tố Tố sợ hãi, hỏi:
– Vì sao?
Tạ Tốn nói:
– Ta đoạt đao mang đi, nếu trên đảo để cho một người sống sót, ắt chỉ vài hôm sau cả thiên hạ đều sẽ biết thanh đao Đồ Long đang ở trong tay họ Tạ, người này đi tìm, kẻ kia đến kiếm Tạ mỗ. Tạ mỗ lại chưa phải là vô địch thiên hạ, lấy gì bảo đảm không có sơ sảy? Chẳng nói đâu xa, ngay Bạch Mi Ưng Vương, Tạ mỗ chắc gì đã thắng nổi, huống hồ Thiên Ưng giáo của y người đông thế mạnh, Tạ mỗ lại có một mình.
Nói đoạn lão lắc đầu, tiếp:
– Ân Thiên Chính cả nội công lẫn ngoại công đều cương mãnh vô song, Tạ mỗ hết sức thán phục… Nhớ ngày nào… Ôi…
Đoạn lại thở dài, lắc đầu.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Thì ra giáo chủ Thiên Ưng giáo tên là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính”. Chàng lạnh lùng nói:
– Thì ra Tạ tiền bối muốn giết người diệt khẩu.
Tạ Tốn nói:
– Không sai.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đã vậy thì Tạ tiền bối cần gì phải kể tội mấy vị phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn?
Tạ Tốn cười ha hả, nói:
– Cái đó gọi là để chúng chết mà không oán hận, lúc chết vẫn phải bái phục ta.
Trương Thúy Sơn nói:
– Tạ tiền bối có lòng từ bi gớm.
Tạ Tốn nói:
– Người ta có ai không chết? Chết sớm chết muộn vài năm nào khác gì nhau? Trương ngũ hiệp và Ân cô nương đang tuổi xuân phơi phới, hôm nay bỏ mạng trên Vương Bàn sơn đảo, kể cũng tiếc thật. Nhưng một trăm năm nữa nhìn lại thì cũng có khác gì những kẻ kia đâu. Thời xưa giả dụ Tần Cối không hại chết Nhạc Phi, chả lẽ Nhạc Phi còn sống đến thời nay chăng? Người ta lúc chết chỉ cần tâm an lý đắc, không thống khổ vạn phần là được rồi. Những người học võ chúng ta muốn chết thư thái chẳng phải chuyện dễ. Bởi vậy ta muốn tỷ thí công phu với hai ngươi, ai thua sẽ chết, không gì công bằng hơn thế nữa. Hai ngươi còn trẻ, ta nhường lợi thế cho các ngươi. Binh khí, quyền cước, nội công, ám khí, khinh công, thủy công, tùy các ngươi chọn, ta sẵn sàng hầu tiếp.
Ân Tố Tố nói:
– Tạ tiền bối tự phụ quá đấy, tỷ thí công phu gì cũng được, đúng không?
Nàng nghe Tạ Tốn nói, biết hôm nay không còn cách gì tránh khỏi tai ương. Vương Bàn sơn đảo trơ trọi giữa biển, Thiên Ưng giáo lại ỷ đã có Bạch, Thường hai đại đàn chủ tại chỗ, chẳng thể sai sót, nên không phái cường viện tới đây. Nàng tuy nói cứng, nhưng giọng nghe đã hơi run.
Tạ Tốn ngẩn ra, nghĩ bụng lỡ nàng đòi ta thi may vá thêu thùa, chải đầu thoa phấn thì không ổn, bèn cao giọng nói:
– Dĩ nhiên chỉ tỷ thí trong phạm vi võ công, chả lẽ thi cả chuyện xơi cơm nốc rượu? Mà dù có thi xơi cơm nốc rượu, ngươi cũng chẳng thắng nổi cái hũ rượu túi cơm như ta đâu. Chúng ta chỉ tỷ thí một lần để quyết định thắng bại, các ngươi thua thì phải tự sát tức thời. Ôi, một đôi người ngọc tuấn nhã thế kia, ta quả thật không nỡ xuống tay hạ thủ.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nghe lão nói “một đôi người ngọc” thì cùng đỏ mặt.
Ân Tố Tố nhướn mày nói:
– Thế Tạ tiền bối thua cũng phải tự sát chứ?
Tạ Tốn cười:
– Ta thua sao được?
Ân Tố Tố nói:
– Tỷ thí ắt có kẻ thắng người thua. Vị Trương ngũ hiệp đây là danh gia đệ tử, không chừng có môn công phu thắng được Tạ tiền bối cũng nên.
Tạ Tốn cười, nói:
– Chàng ta mới ngần kia tuổi đầu, dù chiêu số cao mấy đi chăng nữa thì nội công cũng không thâm hậu.
Trương Thúy Sơn nghe hai người tranh biện, đang tính thầm: “Công phu gì mình có thể đấu ngang ngửa với lão ta nhỉ? Khinh công ư? Pho chưởng pháp mới học được ư?” Bỗng nhiên linh cơ nhất động, chàng nói:
– Tạ tiền bối, tiền bối đã buộc vãn bối động thủ, vãn bối đành bộc lộ sự kém cỏi vậy. Nếu vãn bối thua, sẽ rút kiếm tự sát liền; song nếu may mắn thủ hòa thì sao?
Tạ Tốn lắc đầu nói:
– Không có chuyện hòa, môn thứ nhất đấu hòa thì đấu môn thứ hai, khi nào phân rõ thắng bại mới thôi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Được, nếu vãn bối thắng một chiêu nửa thức, vãn bối cũng không đòi hỏi tiền bối thế này thế nọ, chỉ xin tiền bối đáp ứng một điều thôi.
Tạ Tốn nói:
– Nhất ngôn vi định. Thế ngươi định tỷ thí môn gì?
Ân Tố Tố lo lắng, hỏi nhỏ:
– Chàng tính thi môn gì với lão ta? Có chắc thắng không?
Trương Thúy Sơn đáp nhỏ:
– Không dám chắc, cứ cố hết sức thôi.
Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Nếu thấy không ổn, hai chúng mình tùy cơ đào tẩu, không lẽ bó tay chịu chết?
Trương Thúy Sơn gượng cười, nghĩ thầm: “Thuyền đã bị đánh đắm hết, trên hòn đảo nhỏ này còn biết đào tẩu đường nào?” Chàng sửa lại y phục, rút từ thắt lưng ra cây phán quan bút đúc bằng thép. Tạ Tốn nói:
– Trên giang hồ vẫn nghe danh Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn, hôm nay cây lang nha bổng hai đầu của ta được dịp lĩnh giáo tài ba của ngươi. Còn hổ đầu câu bằng bạc đâu, sao không đem ra nốt?
Trương Thúy Sơn nói:
– Vãn bối không đấu binh khí với Tạ tiền bối, chỉ thi viết vài chữ thôi.
Đoạn chàng thong thả tới bên vách đá thuộc ngọn núi bên trái, hít một hơi thật dài, hai chân nhún mạnh một cái, tung mình lên. Khinh công của phái Võ Đang đứng đầu các môn phái, vào thời điểm quyết định sống chết này nào dám sơ ý? Chàng tung mình lên cao hơn trượng, sử dụng tuyệt kỹ “Thê vân túng”, chân phải đạp vào vách đá một cái, mượn sức đẩy mình lên cao hơn hai trượng nữa, cây phán quan bút nhắm chuẩn vách đá, “xoẹt xoẹt” mấy tiếng, đã viết xong chữ “võ”. Viết xong một chữ, thân hình chàng sắp rơi xuống.
Tay trái chàng rút phắt cái ngân câu, móc ngay vào một kẽ nứt trên vách đá, treo giữ trọng lượng thân hình chàng, tay phải viết tiếp chữ “lâm”. Hai chữ này, mỗi nét mỗi vạch đều do Trương Tam Phong khổ công suy xét đêm nọ mà sáng tạo ra, bao hàm đủ âm dương cương nhu, tinh thần khí thế, có thể nói là một kiệt tác võ công của phái Võ Đang. Tuy Trương Thúy Sơn công lực còn non, nét chữ hằn vào đá chưa sâu, nhưng hai chữ ấy như rồng bay phượng múa, bút lực hùng kiện, tựa hồ được khắc nên bởi khoái kiếm trường kích vậy.
Xong hai chữ kia, chàng viết tiếp chữ “chí” và “tôn”, càng viết càng nhanh, chỉ thấy vụn đá rơi xuống rào rào, lúc như linh xà uốn khúc, lúc như mãnh thú chuyển mình, trong giây lát đã viết xong hai mươi bốn chữ. Việc viết chữ hằn sâu vào vách đá này thật đúng như mấy vần thơ Lý Bạch miêu tả “Tiêu phong sậu vũ kinh táp táp, Lạc hoa phi tuyết hà mang mang. Khởi lai hướng bích bất đình thủ, Nhất hàng sổ tự đại như đẩu. Hoảng hoảng như văn quỷ thần kinh, Thời thời chỉ kiến long xà tẩu. Tả bàn hữu túc như kinh lôi, Trạng đồng Sở Hán tương công chiến”[30].
Trương Thúy Sơn viết xong nét cuối cùng của chữ “phong”, ngân câu và thiết bút cùng đẩy một cái vào vách núi, xoay mình nhẹ nhàng khéo léo đáp xuống đúng ngay bên cạnh Ân Tố Tố.
Tạ Tốn lặng lẽ nhìn ba hàng chữ lớn trên vách đá hồi lâu, cuối cùng thở dài, nói:
– Ta chịu không viết nổi, ta thua rồi.
Nên biết hai mươi bốn chữ này, từ “Võ lâm chí tôn” đến “thùy dữ tranh phong”, là một pho bút ý do Trương Tam Phong sáng chế ra sau bao trăn trở suy tư; mỗi nét ngang, nét dọc, mỗi dấu chấm, dấu phẩy đều dung hợp thứ võ công tinh diệu nhất. Giả sử chính Trương Tam Phong tới đây, nhưng trước đó chưa qua một đêm khổ công suy tư thì cũng không có cái tâm cảnh thế này. Mà dù có được ngưng thần suy nghĩ hồi lâu, mới viết lên vách đá hai mươi bốn chữ kia, cũng quyết không đạt tới cảnh giới xuất thần nhập hóa như thế được. Tạ Tốn đâu biết căn nguyên bên trong, cứ tưởng Trương Thúy Sơn thấy cảnh tranh chấp thanh đao Đồ Long mà viết liền mấy câu tương truyền đó. Thực ra, ngoài hai mươi bốn chữ này, nếu bảo Trương Thúy Sơn viết các chữ khác, thì cảnh giới cao thấp, bút lực mạnh yếu sẽ lộ ra khác hẳn.
Ân Tố Tố vỗ tay cả mừng, nói:
– Tạ tiền bối thua rồi, không được nuốt lời đấy nhé.
Tạ Tốn nói với Trương Thúy Sơn:
– Trương ngũ hiệp lồng võ công vào thư pháp, mở con đường mới, khiến người ta sáng mắt, bội phục, bội phục! Trương ngũ hiệp có gì phân phó, xin cứ nói.
Bị buộc phải giữ lời cam kết, Tạ Tốn thật cảm thấy thất vọng lắm.
Trương Thúy Sơn nói:
– Vãn bối mạt học hậu tiến, may có chút kỹ năng nhỏ mọn nên được Tạ tiền bối khen ngợi, đâu dám nhận hai chữ “phân phó”? Chỉ đánh bạo cầu xin Tạ tiền bối chấp thuận cho một việc.
Tạ Tốn hỏi:
– Việc gì?
Trương Thúy Sơn nói:
– Tạ tiền bối cứ việc mang đao Đồ Long đi, nhưng hãy tha mạng cho mọi người trên đảo, chỉ yêu cầu họ thề độc, không được tiết lộ việc này.
Tạ Tốn nói:
– Ta đâu ngu tới mức tin vào lời thề của kẻ khác.
Ân Tố Tố nói:
– Hóa ra tiền bối nói không giữ lời; đã nói nếu thua sẽ nghe theo lời sai bảo của người khác, bây giờ lại nuốt lời là sao?
Tạ Tốn nói:
– Ta muốn nuốt lời thì nuốt lời đấy, ngươi làm gì được ta nào?
Rồi nghĩ lại, thấy mình ăn nói như thế quá ngang ngược, nên nói:
– Tính mạng của hai ngươi, ta tha cho; những kẻ khác thì không được.
Trương Thúy Sơn nói:
– Hai vị kiếm sĩ phái Côn Luân là danh môn đệ tử, bình sinh chưa làm điều ác…
Tạ Tốn ngắt lời chàng:
– Ác hay thiện gì đối với ta cũng vậy cả. Hai ngươi mau xé vạt áo lấy vải mà đút nút lỗ tai, rồi dùng hai tay bịt thêm bên ngoài cho kín. Muốn sống thì chớ có sơ hở.
Câu cuối cùng lão nói rất khẽ, hình như sợ người bên cạnh nghe thấy.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau, chưa hiểu Tạ Tốn có dụng ý gì, nhưng nhìn thái độ trịnh trọng của lão, ắt bên trong có duyên cớ gì đây, thế là vội xé vạt áo, lấy vải đút nút lỗ tai, rồi dùng hai tay bịt thêm bên ngoài nữa.
Đột nhiên Tạ Tốn há to mồm, hình như cất tiếng hú thật dài, hai người không nghe thấy, nhưng không hẹn mà thân hình cùng chấn động. Chỉ thấy tất cả mọi người Thiên Ưng giáo, phái Hải Sa, bang Cự Kình, Thần Quyền môn ai cũng há mồm líu lưỡi, mặt lộ đầy vẻ kinh hãi, tiếp đó biến thành vẻ đau đớn ghê gớm chịu khôn xiết, tựa hồ đang bị cực hình tra tấn, lát sau thì lần lượt ngã xuống, lăn lộn trên mặt đất.
Hai kiếm sĩ phái Côn Luân kinh hãi, vội ngồi xếp bằng, nhắm mắt, vận nội công chống đỡ tiếng hú. Trán họ mồ hôi to như hạt đậu chảy ròng ròng, các cơ mặt giật giật liên hồi, họ mấy phen đưa hai tay lên định bịt tai, nhưng không hiểu sao còn cách tai vài tấc đều lại buông thõng xuống. Bỗng chốc Cao, Tưởng hai người vọt lên cao hơn một trượng, rồi rơi phịch xuống đất, nằm bất động.
Tạ Tốn ngậm miệng ngừng hú, ra hiệu cho Trương, Ân hai người gỡ nút lỗ tai ra, nói:
– Bọn kia nghe tiếng hú của ta đã ngất lịm cả rồi, tính mạng có thể được bảo toàn, nhưng khi tỉnh dậy, thần kinh rối loạn hóa thành người mất trí, không nhớ và không thể kể lại chuyện đã chứng kiến ở đây được. Trương ngũ hiệp, điều phân phó của ngươi, ta đã thực hiện, hết thảy đám người kia, ta đều tha chết cho cả rồi đó.
Trương Thúy Sơn buồn rầu nghĩ thầm: “Lão tha chết cho họ, nhưng những người kia sống có khác gì chết, thà họ bị giết còn đỡ thảm khốc hơn”. Đối với hành vi tàn ác của Tạ Tốn, chàng thực vô cùng căm hận. Song nhìn Cao, Tưởng hai người đang nằm hôn mê kia, mặt mày vàng ệnh, chả khác gì xác chết, nghĩ thầm Tạ Tốn chỉ hú không thôi đã có thần uy kinh khủng như thế thì quả đáng sợ; nếu mình không nút lỗ tai, không hiểu tình cảnh giờ đây ra sao rồi.
Tạ Tốn thản nhiên, lạnh lùng nói:
– Chúng ta đi thôi!
Trương Thúy Sơn nói:
– Đi đâu kia?
Tạ Tốn nói:
– Về. Việc ở Vương Bàn sơn đảo xong rồi, còn ở lại đây làm chi?
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau, cùng nghĩ thầm: “Còn phải đi chung thuyền với tên ma đầu này một ngày một đêm nữa, trong mười hai canh giờ ấy không biết sẽ còn gặp biến cố gì đây?”
Tạ Tốn dẫn hai người đến sau một hòn núi phía tây đảo, thấy trong vịnh đậu một chiếc thuyền có ba cột buồm, là chiếc thuyền mà Tạ Tốn đã đi tới đây. Lão đến bên thuyền, cúi người nói:
– Mời hai vị lên thuyền.
Ân Tố Tố cười khẩy, nói:
– Lúc này Tạ tiền bối khách khí quá.
Tạ Tốn nói:
– Hai vị lên thuyền của ta, là khách quý của ta, sao lại không dùng lễ tiếp đãi chu đáo kia chứ?
Sau khi ba người lên thuyền, Tạ Tốn đưa tay làm hiệu lệnh cho các thủy thủ nhổ neo đưa thuyền ra.
Trên thuyền có tới mười sáu mười bảy thủy thủ, nhưng gã tiêu công cầm lái mỗi khi ra lệnh gì, chỉ giơ tay giơ chân, không nói một tiếng, tựa hồ tất cả bọn họ đều cấm khẩu. Ân Tố Tố nói:
– Tạ tiền bối tài thật, tìm được toàn những thủy thủ vừa câm vừa điếc.
Tạ Tốn cười nhạt, nói:
– Việc ấy có gì là khó? Ta chỉ cần tìm các thủy thủ mù chữ, rồi chọc thủng màng nhĩ và cho họ uống thuốc câm là xong.
Trương Thúy Sơn cảm thấy sởn gai ốc. Ân Tố Tố vỗ tay cười:
– Hay quá là hay! Đã câm điếc, lại mù chữ, Tạ tiền bối có bí mật gì, bọn họ cũng chẳng thể tiết lộ. Tiếc rằng họ còn phải lái thuyền, nếu không thì chọc cho mù luôn thể.
Trương Thúy Sơn lườm nàng một cái, trách:
– Ân Tố Tố, nàng là một cô nương non trẻ, sao nỡ tàn nhẫn như thế? Đây là một đại thảm sự trên thế gian, có gì đáng cười đâu?
Ân Tố Tố lè lưỡi, toan biện bạch, nhưng nhìn lại sắc diện của chàng, vội im lặng. Tạ Tốn thản nhiên nói:
– Lúc nào về tới đất liền, ta sẽ chọc mù mắt họ.
Trương Thúy Sơn nhìn mấy thủy thủ trên thuyền, thương thầm cho họ: “Chỉ một ngày đêm nữa thôi, các người ngay đôi mắt cũng không còn nốt”.
Buồm được kéo lên, thuyền từ từ quay mũi, Trương Thúy Sơn nói:
– Tạ tiền bối, còn những người trên đảo thì sao? Tiền bối đánh chìm hết thuyền của họ, họ biết về bằng gì?
Tạ Tốn nói:
– Trương tướng công, ngươi kể cũng tốt bụng, hỏi không sai, nhưng cũng đừng đa sự như đám đàn bà làm gì. Cứ mặc họ tự sinh tự diệt trên đảo, muốn ra sao thì ra, chẳng hay hơn sao?
Trương Thúy Sơn biết không thể nói lý lẽ với lão, đành im lặng nhìn con thuyền rời đảo xa dần, nghĩ thầm: “Những kẻ trên đảo tuy phần đông là bọn tác ác đa đoan, nhưng gặp cảnh ngộ bi thảm này, nếu không có ai đến cứu, nội nhật mươi ngày cũng chết hết thôi”. Lại nghĩ: “Hai đệ tử của phái Côn Luân bỏ mạng trên đảo, sư trưởng của họ tất phải tìm kiếm, xem ra võ lâm Trung nguyên chẳng mấy chốc sẽ nổi cơn sóng gió”.
Mấy năm qua Võ Đang thất hiệp tung hoành giang hồ, mọi việc đều chiếm thượng phong, thế mà hôm nay đành thúc thủ, tính mạng nằm trong tay kẻ khác, không cách gì phản kháng. Trương Thúy Sơn vừa buồn chán, vừa tức giận, chỉ cúi đầu ngẫm nghĩ, chẳng thèm để ý đến Tạ Tốn và Ân Tố Tố.
Lát sau, chàng quay đầu nhìn qua song cửa ngắm cảnh biển, thấy mặt trời sắp chìm vào các đợt sóng, ánh chiều tà chiếu trên mặt biển thành ngàn vạn con rắn vàng lấp lóa bất định; chàng đang xuất thần, chợt ngạc nhiên: “Sao tịch dương lại lặn ở phía đuôi thuyền?” bèn ngoảnh lại nói với Tạ Tốn:
– Tài công lái thuyền lạc hướng rồi, thuyền lại đi về hướng đông.
Tạ Tốn nói:
– Thì hướng đông, không sai.
Ân Tố Tố sợ hãi nói:
– Phía đông là biển cả mênh mông, mình đi đâu bây giờ vậy? Sao tiền bối không lệnh cho tài công đổi hướng?
Tạ Tốn nói:
– Ta chẳng đã nói với các ngươi rồi sao? Ta lấy được thanh đao Đồ Long, cần tìm một nơi yên tĩnh thanh vắng để suy nghĩ xem vì sao thanh đao này lại là “võ lâm chí tôn, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”. Trung nguyên là vùng đất lắm chuyện, lỡ có người biết bảo đao trong tay ta, nay kẻ này đến cướp, mai kẻ khác tới trộm, cứ phải lo đánh đuổi họ cũng đủ nhiêu khê phiền toái, làm sao tĩnh tâm được? Nếu người tìm đến lại là cao thủ như Trương Tam Phong tiên sinh, giáo chủ Thiên Ưng giáo, Tạ mỗ chắc gì đã thắng nổi họ? Bởi vậy phải ra ngoài đại dương bao la, tìm một hoang đảo không dấu chân người để ở.
Ân Tố Tố nói:
– Vậy hãy cho chúng vãn bối về trước đi.
Tạ Tốn cười:
– Các ngươi về Trung nguyên thì lộ hết hành tung của ta ư?
Trương Thúy Sơn giận dữ đứng phắt lên, hỏi:
– Vậy tiền bối định sao đây?
Tạ Tốn nói:
– Đành phiền hai vị cùng ta sống cuộc đời tiêu dao khoái lạc trên hoang đảo vậy.
Trương Thúy Sơn nói:
– Lỡ mười năm, tám năm tiền bối vẫn chưa nghĩ ra bí mật của thanh đao Đồ Long thì sao?
Tạ Tốn nói:
– Thì hai vị ở trên hoang đảo với ta mười năm, tám năm; nếu cả đời ta chưa nghĩ ra, thì hai vị theo ta cả đời. Hai vị trai tài gái sắc, tình đầu ý hợp, trên hoang đảo kết thành phu thê, sinh nhi dục nữ, há chẳng hay lắm sao?
Trương Thúy Sơn cả giận, đập bàn quát:
– Lão chớ nói bậy!
Chàng liếc nhìn Ân Tố Tố, thấy nàng thẹn thùng cúi đầu, hai má đỏ bừng.
Chàng thầm hoảng sợ, có linh cảm rằng nếu ở lâu bên cạnh Ân Tố Tố, chỉ e chàng khó tự kiềm chế. Tạ Tốn là một cường địch, cái tâm viên ý mã trong lòng chàng còn là loại cường địch ghê gớm hơn, như thế bốn bề đầy rẫy nguy cơ, phải nhanh chóng thoát ra sớm chừng nào hay chừng ấy. Nghĩ vậy, chàng nén lửa giận, nói:
– Tạ tiền bối, tại hạ là người nói sao làm vậy, quyết không tiết lộ hành tung của tiền bối. Ngay bây giờ tại hạ có thể lập trọng thệ sẽ không tiết lộ những điều tai nghe mắt thấy hôm nay với bất cứ ai.
Tạ Tốn nói:
– Trương ngũ hiệp là hiệp nghĩa danh gia, một lời nặng ngàn vàng, nói như đao chém đá, chốn giang hồ sớm đã lan truyền như thế. Nhưng Tạ mỗ từ năm hai mươi tám tuổi đã lập trọng thệ, ngươi hãy coi ngón tay của ta đây.
Nói đoạn chìa tay phải ra, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố thấy ngón út đã bị chặt đứt, chỉ còn bốn ngón.
Tạ Tốn thong thả nói:
– Năm đó, người mà ta bình sinh sùng kính nhất, yêu quý nhất đã làm nhục ta, hại ta nhà tan cửa nát, phụ mẫu thê nhi của ta chỉ trong một đêm chết không còn một ai. Bởi vậy, ta chặt ngón tay lập thệ, Tạ mỗ còn sống ngày nào thì quyết không tin bất cứ ai cả. Năm nay ta bốn mươi mốt tuổi, mười ba năm nay ta chỉ làm bạn với cầm thú, ta tin tưởng cầm thú chứ không tin con người. Mười ba năm qua ta giết cầm thú ít hơn là giết người.
Trương Thúy Sơn rùng mình, nghĩ thầm, thảo nào lão có võ công tuyệt thế mà chốn giang hồ không hề nghe nhắc đến tên tuổi, biến cố mà lão gặp năm hai mươi tám tuổi hẳn phải vô cùng thảm khốc nên lão mới phẫn thế kỵ tục, lánh mình ẩn cư, căm hận hết thảy mọi người trong thiên hạ. Chàng rất thống hận hành vi tàn ác bạo ngược của Tạ Tốn, nhưng lúc này nghe lão nói thế, chàng bất giác cảm thấy đôi chút đồng tình, trầm ngâm giây lát, rồi nói:
– Tạ tiền bối, mối thâm cừu đại hận ấy, tưởng tiền bối đã báo phục rồi chứ?
Tạ Tốn nói:
– Chưa. Kẻ hại ta võ công cực cao. Ta chưa thắng được hắn.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố không hẹn mà cùng ồ lên một tiếng, nói:
– Còn lợi hại hơn tiền bối kia à? Người đó là ai vậy?
Tạ Tốn nói:
– Tại sao ta phải nói tên hắn ra cho mình thêm nhục? Nếu không phải vì mối thâm cừu đại hận ấy, ta hà tất phải đi cướp thanh đao Đồ Long? Hà tất phải khổ công tìm hiểu bí mật của thanh đao? Trương ngũ hiệp, ta vừa gặp ngươi đã thấy hợp tính, nếu không cứ như tính nết của ta thì ta đã chẳng để ngươi được sống đến phút này. Ta để cho hai ngươi sống thêm một thời gian nữa đã là phá lệ rồi, chỉ e sẽ có chuyện không hay.
Ân Tố Tố nói:
– Sống thêm một thời gian nữa là sao?
Tạ Tốn thản nhiên nói:
– Là chờ đến khi ta nghĩ ra bí mật của thanh đao Đồ Long, lúc rời hoang đảo ta sẽ giết hai ngươi. Ta nghĩ ra chậm ngày nào, hai ngươi được sống thêm ngày đó.
Ân Tố Tố nói:
– Ồ, thanh đao này nặng nề, chỉ được cái sắc bén, lửa nung không chảy, chứ có gì bí mật đâu? Câu “hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng” chẳng qua chỉ có nghĩa nó là thứ binh khí có thể làm bá chủ thiên hạ thôi.
Tạ Tốn nói:
– Nếu đúng là vậy, ba chúng ta sẽ ở hoang đảo một thời gian dài lắm đó.
Bỗng nhiên thần sắc của lão trở nên sầu thảm, tuyệt vọng, cảm thấy nếu Ân Tố Tố nói đúng thì suốt cuộc đời lão sẽ không thể báo cừu.
Trương Thúy Sơn nhìn thần sắc của lão, nhịn không nổi định nói vài lời an ủi. Nào ngờ Tạ Tốn hừ một tiếng, thổi tắt ngọn nến, nói:
– Ngủ thôi!
Đoạn thở dài một tiếng não nuột, một tiếng thở dài chứa đựng nỗi thống khổ vô cùng, nỗi tuyệt vọng vô tận, tưởng như không phải tiếng người, mà là tiếng rên của con thú bị thương sắp chết. Tiếng đó lẫn vào tiếng sóng biển bên ngoài con thuyền, Trương Ân hai người nghe thấy không khỏi rùng mình.
Từ cửa khoang thuyền, gió biển thổi vào từng cơn, Ân Tố Tố y phục mỏng manh, một lát sau rét không chịu nổi, bắt đầu run. Trương Thúy Sơn hỏi nhỏ:
– Cô nương lạnh hả?
Ân Tố Tố nói:
– Còn chịu được.
Trương Thúy Sơn cởi trường bào, nói:
– Cô nương khoác lên người đi.
Ân Tố Tố vô cùng cảm kích, nói:
– Không cần đâu, chàng cũng lạnh mà.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta không sợ lạnh.
Rồi cứ giúi trường bào vào tay nàng. Ân Tố Tố cầm lấy khoác lên vai, cảm thấy hơi ấm của Trương Thúy Sơn thật êm dịu, bất giác mỉm cười sung sướng trong bóng tối.
Trương Thúy Sơn chỉ nghĩ kế thoát thân, suy đi tính lại chỉ có một cách: “Không giết Tạ Tốn, không thể nào thoát”.
Chàng dỏng tai nghe, giữa tiếng ầm ào của sóng biển, chỉ nghe tiếng thở ngưng trọng của Tạ Tốn, rõ ràng lão đã ngủ say. Chàng nghĩ thầm: “Người này lập trọng thệ suốt đời quyết không tin ai, nay đi chung thuyền với ta, lão lại yên tâm nằm ngủ, không sợ ta hạ độc thủ hay sao? Dẫu thế nào ta cũng phải mạo hiểm tấn công. Nếu trì hoãn, cả đời ta sẽ phải theo lão sống nơi hoang đảo”. Chàng nhẹ nhàng xích lại bên Ân Tố Tố, định kề tai nói nhỏ với nàng vài câu, nào ngờ lúc ấy Ân Tố Tố quay mặt lại, đôi bên chạm nhau, môi của Trương Thúy Sơn đặt ngay lên má nàng.
Trương Thúy Sơn giật mình, định biện bạch là mình không có ý khinh bạc, song chưa biết nói sao. Ân Tố Tố trong lòng vui sướng, ngả luôn đầu vào vai chàng, cảm thấy êm đềm dịu ngọt, những mong con thuyền cứ trôi mãi thế này giữa đại hải mênh mông, trôi cả trăm năm đừng tới bến. Chợt Trương Thúy Sơn lại ghé môi nói nhỏ bên tai nàng:
– Cô nương đừng giận nhé.
Ân Tố Tố thẹn thùng, đỏ bừng mặt như một đóa hồng, cũng thấp giọng nói:
– Chàng thích muội, muội sung sướng vô cùng.
Nàng tuy hành sự tùy hứng, giết người không chớp mắt, nhưng trong ái tình, nào có khác chi mọi thiếu nữ trong thiên hạ biết yêu lần đầu, trong lòng vừa mừng vừa lo, vừa hoảng sợ, nếu không phải trong bóng tối, chắc đến nói cũng chả dám.
Trương Thúy Sơn ngẩn người, không ngờ lời xin lỗi của mình lại khiến đối phương thổ lộ chân tình. Ân Tố Tố kiều diễm tuyệt trần, từ lần gặp đầu tiên, nàng đối với chàng mặn mà đầy tình ý, bảy tiếng nàng vừa thốt ra đã thể hiện tất cả lòng yêu thương. Trương Thúy Sơn đang tuổi thanh xuân khí huyết dồi dào, tuy tự kiềm chế để giữ lễ, song rốt cuộc đâu phải gỗ đá, chỉ cảm thấy thân hình mềm mại của nàng ngả vào bên vai mình, mùi hương nhẹ nhàng ngây ngất xông lên mũi, chàng đang định nói với nàng vài lời tình tứ, bỗng sực nghĩ: “Trương Thúy Sơn, đại địch đang ở trước mặt, sao không lo đến? Lời giáo huấn của ân sư, mi quên sạch rồi ư? Dẫu nàng và mi có tình cảm với nhau, nàng có ơn với Du tam ca, nhưng suy cho cùng nàng xuất thân tà giáo, hành vi bất chính, mi có muốn lấy nàng, cũng phải thưa bẩm với ân sư, được lão nhân gia cho phép lại phải nhờ mai mối, há có thể làm điều xằng bậy trong bóng tối?” Nghĩ đến đây, chàng liền ngồi thẳng người dậy, nói nhỏ:
– Hai đứa mình phải tìm cách chế ngự lão ta, mới có thể thoát thân.
– Hai ta lâm vào hiểm cảnh, nếu nhân lúc lão ta ngủ say mà tấn công thì không phải là hành vi của đại trượng phu. Ta sẽ gọi lão dậy, đấu chưởng với lão, nàng hãy ném ngân châm đả thương lão. Lấy hai địch một, kể ra không đúng cách con nhà võ, nhưng võ công của hai ta so với lão quá chênh lệch, đành phải dùng cách đó vậy.
Mấy câu này chàng nói thật nhỏ, nghe chỉ như tiếng muỗi vo ve, lại kề môi sát tai Ân Tố Tố mà nói, nào ngờ nàng chưa kịp đáp thì Tạ Tốn ở khoang sau đã cười ha hả, nói:
– Nếu ngươi bất ngờ đánh lén, Tạ mỗ tuy chẳng để cho ngươi làm được gì, song cũng còn chút hi vọng; nay lại muốn quang minh chính đại, bảo toàn môn phong nghĩa hiệp của danh môn chính phái, thì quả thật chỉ chuốc khổ vào thân thôi.
Chữ thôi vừa dứt, thân hình đã vọt tới trước mặt Trương Thúy Sơn, vung chưởng đánh vào ngực chàng.
Trương Thúy Sơn khi đang nghe lão nói, sớm đã ngưng tụ chân khí, ám vận công lực, đợi lúc chưởng của lão vừa đánh ra, liền giơ hữu chưởng sử dụng “Miên chưởng” sư môn tâm truyền chống đỡ. Hai chưởng đụng nhau, chỉ nghe khẽ “bộp” một tiếng, chưởng lực bài sơn đảo hải của đối phương đã ào tới. Trương Thúy Sơn biết công lực của đối phương hơn mình quá xa, nên đã dự tính trước chỉ thủ không công, cầm cự được phút nào hay phút đó. Vì thế khi hai chưởng đụng nhau, chưởng của chàng bị đẩy lùi tám tấc. Tám tấc sai biệt đó khiến chàng phòng ngự càng thêm dễ dàng, bất kể Tạ Tốn vận kình thế nào, nhất thời cũng không phá được chưởng lực phòng ngự của chàng.
Tạ Tốn đẩy ra liên tiếp ba luồng lực đạo, chỉ cảm thấy chưởng lực của đối phương yếu hơn mình rất nhiều, nhưng yếu mà không suy, nhẹ mà không kiệt, chưởng lực của lão càng đẩy ra càng mạnh, song Trương Thúy Sơn vẫn chống đỡ được. Tạ Tốn bèn đưa tay trái ra nhắm đỉnh đầu Trương Thúy Sơn mà đè xuống. Trương Thúy Sơn cánh tay trái hơi co lại, dùng chiêu “Hoành giá kim lương” chống đỡ. Võ công phái Võ Đang vốn lấy sự mềm khít làm sở trường, các phái khác không thể bì kịp, võ công đôi bên tuy chênh lệch rất xa, nhưng Trương Thúy Sơn vận dụng tâm pháp sư truyền, Tạ Tốn nhất thời vẫn chưa làm gì được.
Hai người đấu chưởng một hồi, Trương Thúy Sơn mồ hôi như tắm, người ướt đẫm, sốt ruột nghĩ thầm: “Sao Ân Tố Tố còn chưa xuất thủ? Lão ta đang toàn lực tấn công ta, Ân Tố Tố mà phóng ngân châm vào các huyệt của lão, dù không hạ được lão thì cũng buộc lão phải thu chưởng chống đỡ, chỉ trong một sát-na, lão sẽ lập tức bị trúng thương bởi chưởng lực của ta”.
Điều đó Tạ Tốn sớm đã nghĩ tới, lão cứ ngỡ rằng khi lão dùng song chưởng tấn công, Trương Thúy Sơn lập tức sẽ bị trọng thương, ai ngờ chàng tuy trẻ tuổi nhưng nội công lại phi phàm, chống đỡ đến hết một tuần trà rồi vẫn chưa núng thế. Hai người tỷ thí chưởng lực, đồng thời nghe ngóng động tĩnh từ phía Ân Tố Tố. Trương Thúy Sơn ngưng khí ở ngực, không dám mở miệng gọi nàng. Tạ Tốn thì không đến nỗi đó, nói:
– Tiểu cô nương, ngươi chưa động thủ là khôn, nếu không ta biến chưởng thành quyền, thì ý trung nhân của ngươi sẽ đứt hết gân cốt.
Ân Tố Tố nói:
– Tạ tiền bối, chúng vãn bối bằng lòng đi theo tiền bối, mau thu chưởng lại đi.
Tạ Tốn nói:
– Trương tướng công nghĩ sao?
Trương Thúy Sơn sốt ruột hết mức, trong bụng kêu thầm: “Phóng ngân châm đi, phóng đi! Cơ hội hiếm có này sao không nắm bắt?” Ân Tố Tố vội nói:
– Tạ tiền bối mau thâu chưởng lại, nếu không vãn bối sẽ liều mạng với Tạ tiền bối.
Tạ Tốn kỳ thực cũng sợ Ân Tố Tố bất ngờ dùng ngân châm tập kích lão, khoang thuyền chật hẹp, ngân châm nhỏ xíu, trong bóng tối phóng ra chỉ e vô hình vô thanh, thật chẳng dễ gì đối phó, dù lão có lập tức đánh chết Trương Thúy Sơn, cũng không đạt ý muốn, lão nghĩ thầm: “Con bé kia sợ uy thế của ta, không dám động thủ, chứ không thì trong tình cảnh này, chỉ e cả ba sẽ cùng phải chết”, bèn nói:
– Nếu các ngươi không có ý khác, ta có thể tha mạng cho cả hai.
Ân Tố Tố nói:
– Tiểu nữ không hề có ý gì khác.
Tạ Tốn nói:
– Vậy ngươi hãy lập thệ thay hắn đi.
Ân Tố Tố nghĩ một chút, rồi nói:
– Trương ngũ hiệp, hai ta không phải là địch thủ của Tạ tiền bối, thôi thì mình theo Tạ tiền bối ra hoang đảo ở một vài năm. Với tài trí của mình, việc tìm ra bí mật của thanh đao Đồ Long đối với Tạ tiền bối hoàn toàn không phải là chuyện khó, thôi để muội lập thệ thay chàng vậy!
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Thề với chả thốt! Mau phóng ngân châm, mau phóng ngân châm đi!” Khổ nỗi chàng không thể mở miệng, trong đêm tối chẳng có cách gì ra hiệu cho nàng, huống hồ cả hai tay đều đang dính chặt vào tay đối phương, muốn ra hiệu cũng chẳng được.
Ân Tố Tố thấy Trương Thúy Sơn trước sau không lên tiếng, bèn nói:
– Chúng tôi, Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn, quyết ý theo Tạ tiền bối sống trên hoang đảo cho đến khi tìm ra bí mật của thanh đao Đồ Long. Nếu chúng tôi có dị tâm, xin chịu chết dưới đao kiếm.
Tạ Tốn cười nói:
– Chúng ta là con nhà võ, chết dưới đao kiếm thì có gì lạ?
Ân Tố Tố nghiến răng, nói:
– Được, vậy thì tiểu nữ không sống đến hai mươi tuổi!
Tạ Tốn cười ha hả, thu chưởng về.
Trương Thúy Sơn toàn thân thoát lực, ngồi bệt xuống sàn thuyền. Ân Tố Tố vội đánh lửa thắp đèn dầu, thấy mặt chàng vàng như nghệ, hơi thở yếu ớt, thì nàng cuống quýt lo sợ, vội rút khăn tay lau mồ hôi đầm đìa trên mặt chàng.
Tạ Tốn cười nói:
– Đệ tử phái Võ Đang quả nhiên danh bất hư truyền, giỏi lắm!
Trương Thúy Sơn giận Ân Tố Tố bỏ lỡ cơ hội hiếm có không phóng ngân châm đánh địch, nhưng thấy nàng rưng rưng lệ, vẻ mặt đầy lo lắng, quả thật chí tình với chàng thì cảm động thở dài, toan nói vài lời an ủi, bỗng thấy trước mắt tối sầm, trong cơn mê man còn nghe loáng thoáng tiếng kêu của Ân Tố Tố:
– Lão Tạ kia, lão đánh chết Trương ngũ ca rồi, ta quyết liều mạng với lão.
Tạ Tốn chỉ cười ha hả.
Đột nhiên thân hình Trương Thúy Sơn chao qua một bên, lăn đi mấy vòng, có tiếng Tạ Tốn, Ân Tố Tố cùng hét lớn, lẫn trong tiếng gió rít ù ù, tiếng sóng ầm ầm, tưởng như có hàng ngàn hàng vạn con sóng cùng ập tới.
Trương Thúy Sơn chỉ cảm thấy toàn thân lạnh giá, mồm mũi đầy nước mặn, chàng vốn đang mê man bị nước lạnh tạt vào người lập tức tỉnh lại. Ý nghĩ đầu tiên lóe lên là: “Chẳng lẽ đắm thuyền?” Chàng không biết bơi, vội quờ quạng đứng dậy. Ván thuyền dưới chân chao mạnh qua bên trái, nước trong thuyền hắt cả ra ngoài, nhưng cuồng phong vẫn rú rít, xung quanh người toàn là nước biển. Chàng chưa hiểu chuyện gì xảy ra, bỗng nghe Tạ Tốn quát to:
– Trương Thúy Sơn, mau ra đuôi thuyền giữ tay lái!
Tiếng quát ấy vang như sấm, trong cảnh gió to sóng cả vẫn toát ra đầy vẻ uy nghiêm. Trương Thúy Sơn không kịp nghĩ ngợi, nhảy ngay về phía đuôi thuyền, chỉ thấy một bóng đen bay qua, một thủy thủ đã bị sóng lớn hất khỏi thuyền xa tới mấy trượng, tiếp đó bị sóng cuốn mất tiêu.
Trương Thúy Sơn chưa tới được đuôi thuyền, lại có một con sóng khác ập tới. Con sóng này chẳng khác gì một bức tường nước khổng lồ, chỉ nghe sầm một tiếng, đã đánh văng mấy tấm ván thuyền bay đi. Lúc này võ công khổ luyện một đời của Trương Thúy Sơn có dịp sử dụng, hai chân chàng xuống tấn trên mặt sàn, như đóng đinh vào ván, không hề lay chuyển, chờ con sóng đi qua, mới sải bước tới đuôi thuyền, giơ tay giữ chặt tay lái.
Chỉ nghe mấy tiếng “phập phập” rất mạnh, Tạ Tốn đã dùng lang nha bổng đánh gãy cột buồm chính và cột buồm đằng mũi. Hai cây cột buồm mang theo hai cánh buồm trắng rơi luôn xuống biển.
Nhưng gió quá lớn, lúc này tuy chỉ còn một cột buồm ở phía đuôi còn no gió, nhưng thuyền vẫn cứ nghiêng ngả qua lại, quay cuồng trồi hụp trên mặt biển. Tạ Tốn cố sức hạ cánh buồm đó xuống, mặc dù võ công đầy mình, nhưng trước cái uy của sóng gió giữa đất trời, lão cũng đành thúc thủ vô sách. Cột buồm bị nghiêng sang trái, tới sát mặt nước, Tạ Tốn lớn tiếng chửi:
– Lão tặc thiên kia, sóng gió chi dữ vậy!
Xem chừng nếu do dự, thuyền sẽ bị lật úp, Tạ Tốn đành vung lang nha bổng đánh gãy nốt cây cột buồm cuối cùng.
Ba cột buồm đều gãy cả, con thuyền giữa sóng to gió lớn biến thành hồn ma vô chủ, chỉ theo gió mà trôi.
Trương Thúy Sơn gọi to:
– Ân Tố Tố, nàng ở đâu?
Chàng gọi mấy tiếng liền, không nghe nàng trả lời, gọi thêm lần cuối, chợt nghe như có tiếng khóc nghẹn ngào. Bỗng có một bàn tay vịn vào gối chàng, một con sóng lớn ào qua đầu chàng, giữa khối nước biển ấy có người ôm chặt ngang lưng chàng.
Khi con sóng đã tràn qua mặt thuyền, người ôm chàng kia đưa tay níu cổ chàng, dịu dàng hỏi:
Chàng vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nghĩ thầm: “Nàng đang ở bên ta đây, nàng không bị rơi xuống biển”. Trong thời điểm bất cứ lúc nào cũng có thể bị cuồng phong cự lãng cuốn xuống đáy biển, sống chết chỉ trong gang tấc, chàng bỗng phát hiện bản thân đang lo cho sự an nguy của Ân Tố Tố còn hơn cho chính mình.
Ân Tố Tố nói:
– Trương ngũ ca, hai ta có gì thì chết chung với nhau.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng! Hai ta có gì thì chết chung với nhau.
Nếu ở cảnh ngộ thông thường, hai người chính tà khác biệt, phải suy tính rất nhiều, dù có tình luyến ái đằm thắm, cũng chẳng thể chỉ trong giây lát đã hai lòng như một. Còn lúc này hai người ôm chặt lấy nhau, xung quanh họ tối như mực, thân thuyền cứ kêu răng rắc không ngừng, bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ nát thì trong lòng họ lại cảm thấy êm ái ngọt ngào lạ lùng. Sau một phen đấu chưởng với Tạ Tốn, Trương Thúy Sơn bị kiệt sức, nhưng giờ được khích lệ bởi ái tình của Ân Tố Tố, tinh thần chàng lập tức phấn chấn, dẫu bốn bề sóng to gió cả, trước sau chàng vẫn giữ vững tay lái không chút ngả nghiêng.
Tất cả số thủy thủ câm điếc đều đã bị cuốn xuống biển, trận cuồng phong bạo vũ này ập đến không một điềm báo trước. Thì ra dưới đáy biển đột nhiên có địa chấn, cộng với sự kích động của hải lưu, khí lưu mà gây nên giông bão, nếu Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn không phải là những người có võ công cao siêu, hẳn đã chẳng thể trụ nổi. Cũng may con thuyền này kiên cố, tuy nóc khoang, ván thuyền bị đánh vỡ xơ xác, nhưng thân thuyền vẫn nguyên vẹn.
Trên đầu mây đen đầy trời, mưa xuống như trút, bốn bề sóng cao như núi, chẳng thể phân biệt đông tây nam bắc. Mà dù có biết phương hướng thì cột buồm đã gãy cả, họ cũng chẳng cách gì lái thuyền đi được.
Tạ Tốn đi tới đuôi thuyền, nói:
– Trương huynh đệ, rất may có ngươi, thôi để ta cầm lái, hai ngươi vào trong khoang mà nghỉ.
Trương Thúy Sơn đứng dậy, trao lại tay lái cho Tạ Tốn, nắm tay Ân Tố Tố định bước đi, thì một con sóng lớn bay tới, hất văng hai người ra khỏi thuyền. Con sóng này ập tới quá đột ngột, hai người hoàn toàn không kịp phòng bị.
Trương Thúy Sơn vừa cảm thấy kinh hoàng thì thân hình đã bị hất tung lên không, lúc rơi xuống thì dưới chân đã là các lớp sóng giồi, tay trái vội chộp lấy cổ tay Ân Tố Tố, trong đầu chỉ có một ý nghĩ duy nhất: “Ta sẽ cùng nàng chết giữa biển cả, quyết không rời nhau”. Tay trái chàng vừa nắm được cổ tay Ân Tố Tố thì đột nhiên có một sợi dây chão quấn vào cánh tay phải, chỉ cảm thấy thân hình được kéo bay ngược lại, vượt qua ngọn sóng, trở lên thuyền. Hoá ra Tạ Tốn kịp thời phát giác, đã tung ngay sợi dây cột buồm ở dưới chân ra cuốn lấy hai người trở lại thuyền. “Bịch, bịch” hai tiếng, hai người đã nằm trên sàn thuyền. Một phen chết đi sống lại, quả thật không ai ngờ, Tạ Tốn cũng kêu lên:
– May quá!
Ví thử dưới chân không có sẵn sợi dây chão cột buồm, dù có tài ba gấp mười lần cũng chẳng cứu nổi.
Trương Thúy Sơn dìu Ân Tố Tố vào trong khoang, con thuyền lúc thì trồi lên cao như lao lên đỉnh núi, lúc lại hẫng hụt như rơi xuống vực sâu, nhưng hai người vừa trải qua giây phút nguy nan, lúc này chẳng còn chú ý tới hiện trạng nữa. Ân Tố Tố ngả người vào lòng Trương Thúy Sơn, kề môi bên tai chàng dịu dàng nói:
– Trương ngũ ca, nếu hai ta không chết, muội muốn được vĩnh viễn sống bên chàng.
Trương Thúy Sơn ngây ngất nói:
– Ta cũng đang định nói với nàng một câu: khắp thế gian này, chân trời góc biển, hai ta mãi mãi bên nhau.
Ân Tố Tố vui mừng vô hạn, nhắc lại:
– Khắp thế gian này, chân trời góc biển, hai ta mãi mãi bên nhau.
Hai người má tựa vai kề, thầm cảm tạ trận giông tố đáng sợ này.
Tạ Tốn thì trong bụng không ngớt kêu than, dù võ công cao cường đến mấy, trước cuồng phong hải lãng, cũng đành thúc thủ, đành phó mặc cho trời, sóng gió muốn đẩy tới đâu thì tùy.
Giông tố kéo dài hơn ba canh giờ mới giảm dần. Mây đen trên trời dần dần tan hết, trời sáng ánh sao đêm.
Trương Thúy Sơn đi tới đuôi thuyền, nói:
– Đa tạ tiền bối đã cứu mạng hai tiểu nhân.
Tạ Tốn lạnh lùng nói:
– Câu đó e rằng còn quá sớm. Tính mạng ba chúng ta, tám chín phần mười đang ở trong tay tặc lão thiên.
Trong đời Trương Thúy Sơn, chưa bao giờ nghe ai thêm chữ “tặc”[31] vào chữ “lão thiên”[32], thầm nghĩ người này hận đời tới mức chẳng còn úy kỵ gì nữa, song nghĩ lại, con thuyền nhỏ bé cô đơn trôi giạt trên biển cả mênh mông ngó bộ không mấy hi vọng. Chàng và Ân Tố Tố vừa mới thổ lộ ái tình với nhau, đang vô cùng lưu luyến thế gian, khác gì mỹ tửu vừa rót vào chén ngọc lại bị kẻ khác đoạt mất, cái cảnh tạo hóa trớ trêu với ba chữ “tặc lão thiên” càng ngẫm kỹ càng thấm thía.
Chàng thở dài, cầm lái thay Tạ Tốn, lão đã hơn nửa ngày vất vả mỏi mệt, liền vào khoang nằm nghỉ.
Ân Tố Tố ngồi bên Trương Thúy Sơn, ngẩng đầu nhìn sao trời, theo cái cán gáo chòm Bắc Đẩu, tìm thấy sao Bắc Cực, nàng thấy con thuyền thuận dòng hải lưu đang trôi về phương bắc, bèn nói:
– Ngũ ca, thuyền cứ trôi mãi lên phương bắc thế này.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng thế, giá như thuyền trôi sang hướng tây, chúng mình mới có hi vọng về nhà.
Ân Tố Tố thừ người một lát, rồi nói:
– Giả sử thuyền cứ đi mãi về phía đông, không biết sẽ tới đâu.
Trương Thúy Sơn nói:
– Phía đông là biển khơi vô tận, chỉ lênh đênh bảy tám ngày là chúng ta hết nước uống…
Ân Tố Tố mới hưởng phong vị ái tình, như mơ như say, không muốn nghĩ đến cảnh đau thương chết chóc, nói:
– Nghe người ta bảo ngoài biển Đông có núi tiên, ở đó đó các vị tiên trường sinh bất lão, không chừng chúng ta sẽ tới được đảo tiên, gặp các vị tiên mỹ lệ…
Nàng ngẩng nhìn dải Ngân Hà trên trời, nói tiếp:
– Thuyền ta trôi mãi, có khi đến dải Ngân Hà, chúng mình sẽ gặp Ngưu Lang Chức Nữ trên cầu Ô Thước cũng nên.
Trương Thúy Sơn cười nói:
– Mình đem thuyền tặng cho Ngưu Lang, mỗi khi chàng ta muốn gặp Chức Nữ, chỉ việc chèo thuyền qua sông, khỏi phải đợi đến mồng Bảy tháng bảy mới qua cầu gặp được.
Ân Tố Tố nói:
– Mình đem thuyền tặng Ngưu Lang rồi, hai đứa mình muốn gặp nhau, biết lấy gì mà đi?
Trương Thúy Sơn mỉm cười, nói:
– Khắp thế gian này, chân trời góc biển, hai ta mãi mãi bên nhau. Đã ở bên nhau rồi, còn phải bơi thuyền qua Ngân Hà làm chi?
Ân Tố Tố cười sung sướng, mặt tươi như hoa mới nở, nắm lấy tay Trương Thúy Sơn mà vuốt ve.
Hai người tình cảm chứa chan như mật ngọt, tựa hồ có biết bao điều muốn nói, song lại thấy không cần phải thốt thành lời. Hồi lâu, Trương Thúy Sơn cúi xuống thấy Ân Tố Tố mắt rưng rưng lệ, vẻ mặt u buồn, vội hỏi:
– Nàng nghĩ gì vậy?
Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Trên thế gian, dưới đáy biển, muội được ở bên chàng, nhưng mai sau chết đi, chàng được lên thiên đường, muội… muội… phải xuống địa ngục.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đừng nói bậy nào.
Ân Tố Tố thở dài:
– Muội biết mà, trong đời muội đã làm nhiều việc ác, giết hại không biết bao nhiêu người.
Trương Thúy Sơn kinh hãi, thầm hiểu nàng là kẻ tàn ác, với chàng thực không phải mối lương duyên, nhưng phần thì ái tình đã đậm đà, phần thì trong cảnh thập tử nhất sinh giữa biển cả hãy khoan tính chuyện mai sau; bèn an ủi nàng:
– Từ rày nàng hãy sửa lỗi hướng thiện, tích công đức cho dày. Người đời có câu: “Biết lỗi mà sửa, không gì thiện hơn” đó.
Ân Tố Tố lặng thinh, lát sau nàng bỗng khe khẽ cất giọng ca khúc “Sơn pha dương[33]”: “Chàng với thiếp, thiếp với chàng, hai đàng cùng thương nhớ. Hỡi oan gia, sao kết mối duyên này. Kịp khi thác xuống tuyền đài, Diêm vương ném vào cối giã, lấy cưa cưa đầu, bỏ vào vạc dầu, vạc dầu ối a! Sống mà phạm tội, chết ắt mang gông, ối à mang gông. Ôi chao lửa cháy, cháy sém lông mày, mau quay đầu lại, quay đầu lại mau!”
Bỗng từ trong khoang thuyền vọng ra tiếng nói lớn của Tạ Tốn:
– Khúc ca hay, hay lắm! Ân cô nương, ta thấy cô nương hợp ý ta hơn hẳn cái gã Trương tướng công giả nhân giả nghĩa kia.
Ân Tố Tố nói:
– Tiền bối và tiểu nữ đều là kẻ ác, sau này tất sẽ bị đọa đày.
Trương Thúy Sơn nói nhỏ:
– Nếu sau này nàng bị đọa đày, ta sẽ cùng chịu cảnh đọa đày với nàng.
Ân Tố Tố vừa ngạc nhiên vừa vui sướng, chỉ thốt được hai tiếng “Ngũ ca!”
*
* *
Hôm sau, trời vừa sáng, Tạ Tốn dùng lang nha bổng đánh được một con cá chừng mươi cân. Cây lang nha bổng có móc câu ở đầu, dùng làm dụng cụ đánh cá rất tiện lợi. Ba người bị đói đã hai ngày. Cá sống ăn rất tanh, nhưng vẫn thấy ngon lành. Trên thuyền không có nước ngọt, đành ép thịt của cá lấy nước, tạm uống cho đỡ khát.
Hải lưu vẫn chảy về phía bắc, đẩy con thuyền không ngừng trôi về hướng đó. Ban đêm, sao Bắc Cực cứ lấp lánh ở mũi thuyền, mặt trời mọc phía hữu, lặn bên phía tả, mười ngày liên tục như vậy, con thuyền không hề đổi hướng.
Khí hậu mỗi ngày thêm lạnh, Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn nội công thâm hậu, còn chịu được; Ân Tố Tố thì càng ngày càng tiều tụy, Trương Tạ hai người phải cởi áo ngoài cho nàng mặc, cũng chỉ đỡ rét phần nào. Trương Thúy Sơn nhìn nàng gượng vui, cố chống đỡ cái lạnh thì trong lòng chàng rất thương, nếu con thuyền cứ tiếp tục trôi ít hôm nữa về phương bắc, không khéo Ân Tố Tố bị chết cóng mất thôi.
Thật may là trời còn thương, một hôm thuyền đột nhiên trôi vào giữa một đàn hải cẩu. Tạ Tốn dùng lang nha bổng đánh chết mấy con, ba người lột da hải cẩu làm áo khoác lên người rất ấm, thịt hải cẩu ăn cũng được, cả ba vô cùng vui sướng.
Chiều nọ ba người đang ngồi ở đuôi thuyền trò chuyện, Ân Tố Tố cười hỏi:
– Loại cầm thú nào tốt nhất trên thế gian nhỉ?
Cả ba cùng cười, đáp:
– Hải cẩu!
Chợt có mấy tiếng keng coong nghe rất lạ. Ba người ngẩn ngơ. Tạ Tốn tái mặt, kêu lên:
– Băng trôi!
Lão lấy lang nha bổng thọc xuống biển khoắng mấy cái, quả nhiên lang nha bổng đụng phải một số khối đá cứng.
Lúc này, tâm tình cả ba người tức thời trở nên lạnh lẽo như băng giá, hiểu rằng nếu con thuyền tiếp tục ngày đêm trôi lên phương bắc, sẽ càng ngày càng lạnh, bây giờ trên biển chỉ xuất hiện các tảng băng nhỏ, dần dần mặt biển sẽ đầy băng, con thuyền sẽ bị kẹt trong băng, không di động được, cả ba sẽ hết đường sống sót.
Trương Thúy Sơn nói:
– Trong sách Trang Tử, Tiêu dao du có câu: “Tại miền cực bắc có biển tối, gọi là ao trời”. Chúng ta đã đến ao trời rồi chăng?
Tạ Tốn nói:
– Không phải ao trời thì cũng là biển tối, biển chết.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau cười khổ.
Tối và đêm hôm đó ba người cứ nghe tiếng các khối băng va vào nhau keng coong liên tục, không ai ngủ được.
Sáng hôm sau, mặt biển đã đầy các cục băng to bằng cái đấu, va vào thuyền nghe “cùng cục”. Tạ Tốn cười nhăn nhó, nói:
– Ta si tâm vọng tưởng, muốn tìm bí mật ẩn chứa trong thanh đao Đồ Long, ngờ đâu lại đến biển băng, làm người băng, thành băng nhân mai mối cho hai ngươi, thật là danh phó kỳ thực.
Ân Tố Tố đỏ mặt, nắm lấy tay Trương Thúy Sơn.
Tạ Tốn cầm thanh đao Đồ Long lên, hậm hực nói:
– Thôi thì ta cho mi xuống Long cung để mi giết rồng mẹ rồng con gì thì giết!
Lão toan quẳng thanh đao xuống biển, nhưng nghĩ sao đó lại thở dài, ném vào trong khoang thuyền.
Lại trôi về phương bắc bốn ngày nữa, các khối băng nổi trên mặt biển đã to như cái bàn, cái nhà, ba người hiểu rằng tình thế vô phương cứu vãn, chẳng thiết nghĩ đến chuyện sống chết nữa. Hôm đó, nửa đêm đang ngủ, bỗng nghe “sình” một tiếng lớn, con thuyền rung chuyển rất mạnh.
Tạ Tốn kêu to:
– Được lắm, hay lắm đấy! Đụng cha nó vào núi băng rồi!
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau cười khổ, ngồi xích lại gần nhau, chỉ thấy nước biển lạnh buốt từ từ dâng lên ngập tới bắp chân, hiển nhiên đáy thuyền đã bị vỡ thủng. Rồi tiếng Tạ Tốn nói to:
– Hãy nhảy lên núi băng đi, sống thêm ngày nào hay ngày đó. Tặc lão thiên muốn ta chết sớm, ta không chịu, xem tặc lão thiên làm gì nổi ta!
Trương Ân hai người vọt ra mũi thuyền, trước mặt sáng lóa lên dưới ánh trăng một tòa núi băng lớn màu xanh tím, trông vừa đẹp lạ lùng, vừa đáng sợ. Tạ Tốn đã đứng trên một tảng băng hình thoi bên sườn núi băng, chìa cây lang nha bổng cho hai người níu lấy. Ân Tố Tố giơ tay kéo mạnh nó một cái, cùng Trương Thúy Sơn nhảy lên núi băng.
Đáy thuyền thủng một lỗ quá lớn, nên chỉ chừng ăn xong một bữa cơm, con thuyền đã chìm nghỉm mất tăm.
Tạ Tốn lấy hai tấm da hải cẩu trải xuống mặt băng, ba người kề vai ngồi xuống. Tòa núi băng này trông như một hòn núi nhỏ trên đất liền, nhìn ra chiều ngang chừng hai chục trượng, chiều dọc chừng tám chín trượng, so với con thuyền thì mặt bằng rộng rãi hơn nhiều. Tạ Tốn ngẩng mặt lên trời, hú một tiếng, nói:
– Ở dưới thuyền mãi buồn quá, thôi ta lên đây càng được giãn gân giãn cốt.
Đoạn lão đứng dậy, đi đi lại lại trên núi băng, ra chiều đắc ý. Mặt băng tuy trơn trượt, nhưng bước đi của lão trầm ổn, cứ như đi trên đất liền bằng phẳng vậy.
Núi băng theo chiều gió và thủy lưu vẫn không ngừng trôi về phương bắc. Tạ Tốn cười, nói:
– Tặc lão thiên tặng chúng ta một con thuyền lớn này, đón chúng ta đi hội kiến Bắc Cực tiên ông đây mà.
Ân Tố Tố hình như chỉ cần có tình lang bên cạnh là thỏa lòng, dù trời có sập nàng cũng chẳng màng. Trong ba người, chỉ một mình Trương Thúy Sơn cau mày, buồn rầu về vận nguy trước mắt.
Núi băng lại trôi về hướng bắc bảy, tám ngày nữa. Ban ngày băng trắng phản chiếu ánh nắng làm cháy rám da người, mắt bị chói sưng tấy lên, thành thử ban ngày họ lấy tấm da hải cẩu trùm đầu mà ngủ, chiều tối mới trở dậy bắt cá, săn hải cẩu. Kể cũng lạ thật, càng đi lên phương bắc, ngày càng dài ra, về sau ban ngày dài đến mười một canh giờ, ban đêm chỉ còn một canh giờ.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố càng lúc càng uể oải, mặt mày tiều tụy, riêng Tạ Tốn thần sắc dần dần khác thường, mắt phóng ra những tia sáng quái dị, thường giậm chân, chỉ tay lên trời mà chửi mắng, những lời lẽ oán độc trong lòng cứ thế xổ ra không còn kiềm chế được nữa.
Một chiều nọ, Trương Thúy Sơn đang che tấm da hải cẩu nằm ngủ bỗng nghe có tiếng Ân Tố Tố kêu to:
– Buông ta ra, buông ta ra!
Trương Thúy Sơn vội bật dậy, dưới ánh sáng lấp lóa của núi băng, thấy Tạ Tốn đang ôm chặt vai Ân Tố Tố, miệng cứ phát ra tiếng gầm gừ như mãnh thú. Mấy hôm nay Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn thần sắc quái dị đã ngầm đề phòng, nhưng không ngờ lão lại xâm phạm Ân Tố Tố, chàng bất giác vừa ngạc nhiên vừa tức giận, nhảy vụt tới, thét lớn:
– Buông tay ra!
Tạ Tốn lầm lì nói:
– Tên gian tặc kia, mi giết chết thê tử của ta, được, hôm nay ta sẽ bóp chết thê tử của mi, cho mi phải sống cô quạnh một mình trên trần thế!
Đoạn lão dùng tay trái bóp cổ Ân Tố Tố. Ân Tố Tố kêu thất thanh một tiếng “á”.
Trương Thúy Sơn kinh hãi nói:
– Vãn bối không phải là kẻ cừu nhân của tiền bối, vãn bối không hề giết thê tử của tiền bối, tiền bối hãy mau tỉnh lại đi, vãn bối là Trương Thúy Sơn, Trương Thúy Sơn phái Võ Đang ấy mà, không phải là cừu địch của tiền bối đâu.
Tạ Tốn ngẩn ngơ, nói:
– Nữ nhân này là ai? Có phải mụ vợ của mi không?
Trương Thúy Sơn thấy lão nắm cổ Ân Tố Tố, rất lo sợ, vội nói:
– Đó là Ân cô nương, Tạ tiền bối, nàng không phải là thê tử của cừu địch đâu.
Tạ Tốn gầm lên:
– Bất kể nó là ai, thê tử của ta bị người giết hại, mẫu thân ta bị người giết hại rồi, ta phải giết sạch nữ nhân trong thiên hạ!
Đoạn tay trái bóp mạnh, Ân Tố Tố lập tức cảm thấy khó thở, không kêu được tiếng nào.
Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn đột nhiên phát điên, không thể nói lý lẽ, vội ngưng khí dồn vào hữu chưởng vỗ vào hậu tâm của lão. Tạ Tốn hất tay trái ra sau, đánh lại một chưởng. Trương Thúy Sơn loạng choạng, vì mặt băng trơn trượt nên chàng ngã lăn ra. Tạ Tốn tung chân phải đá vào eo chàng. Trương Thúy Sơn biến chiêu thật lẹ, đẩy tay xuống băng, vọt người lên, dùng ngón tay điểm huyệt ở đầu gối Tạ Tốn. Tạ Tốn đá chân đến nửa đường thì giật ngược về, hữu chưởng đánh xuống đỉnh đầu chàng.
Ân Tố Tố nghiêng người, vung tay trái chém xuống đầu Tạ Tốn. Tạ Tốn chẳng để ý, tiếp tục giáng chưởng xuống đầu Trương Thúy Sơn. Trương Thúy Sơn dùng song chưởng đưa ra tiếp một chưởng của lão, tức thời chàng cảm thấy ngực khó thở, chân khí không vận lên nổi. Cú chém của Ân Tố Tố trúng vào gáy Tạ Tốn, chỉ thấy gáy của lão vừa dai vừa cứng, tay nàng bị dội trở ra, cạnh bàn tay tê dại đau điếng. Tạ Tốn hai mắt đỏ ngầu như tóe lửa, bàn tay hộ pháp của lão lại đưa ra tóm lấy cổ nàng, nàng kêu lên thất thanh.
Ngay lúc ấy, phía trước bỗng sáng bừng, ở phương bắc hiện ra một khung cảnh màu sắc kỳ dị khó tả, vô số màu sắc diễm lệ trong bóng tối lúc nở bùng ra, lúc thu gọn lại, ánh vàng xen lẫn màu tím nhạt, dải màu tím càng lúc càng dài ra, màu tím xen lẫn các tia vàng, lam, lục, hồng. Tạ Tốn sửng sốt kêu “ồ” một tiếng, buông cổ Ân Tố Tố ra. Trương Thúy Sơn cũng cảm thấy áp lực trên tay mình nhẹ hẳn đi.
Tạ Tốn hai tay chắp sau lưng, đi ra mạn bắc của núi băng, đăm đăm ngắm khung cảnh màu sắc kỳ ảo. Thì ra ba người theo hải lưu trôi đi, lúc này đã tới gần Bắc Cực, khung cảnh màu sắc kỳ ảo kia gọi là Bắc Cực quang, người Trung Hoa xưa nay chưa một ai được thấy bao giờ.
Trương Thúy Sơn bước lại đỡ Ân Tố Tố, trống ngực hai người còn đập thình thình.
Tối hôm đó, Tạ Tốn đứng ngắm Bắc Cực quang, không động tĩnh gì nữa. Sáng hôm sau màu sắc nhạt dần, Tạ Tốn cũng đã hồi tỉnh, không hiểu có quên biến chuyện phát điên chiều tối qua hay không mà ngôn ngữ cử chỉ lại rất nho nhã.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đều nghĩ thầm: “Phụ mẫu thê tử của Tạ Tốn đều bị sát hại, chẳng trách lão ta quá đau lòng, nhưng không biết cừu nhân của lão là ai?” Chỉ sợ bệnh điên của lão tái phát, hai người không dám nhắc đến chuyện đó.
Cứ thế mấy ngày nữa, núi băng tiếp tục trôi lên phương bắc. Tạ Tốn lại bắt đầu chửi rủa “tặc lão thiên” mỗi lúc một thậm tệ hơn, lắm lúc ánh mắt lão lại tóe ra tia sáng long sòng sọc giống như mãnh thú. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố tuy không nói ra lời, nhưng đều ngấm ngầm đề phòng, chỉ e lão bất chợt nổi điên.
Một ngày kia, mặt trời đỏ ối cứ dừng lại mãi ở trên mặt biển phía tây, không chịu lặn xuống biển. Tạ Tốn đột nhiên nhảy lên, chỉ vầng dương mà lớn tiếng lăng mạ:
– Cái mặt trời kia mi cũng chọc tức ta, tặc thái dương, quỷ thái dương, ta mà có cây cung cứng, mũi tên dài, thì, hừ, chỉ bắn một phát là xuyên thủng cái mặt mi.
Lão đột ngột chém mạnh tay xuống băng, làm vỡ một tảng lớn, nhặt lên ném về phía mặt trời. Tảng băng văng xa hai chục trượng, rơi tõm xuống biển. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Cánh tay người này khỏe thật, nếu là mình, chỉ e ném không xa bằng một nửa”.
Tạ Tốn ném hết tảng này tảng khác, tổng cộng sáu, bảy chục tảng mà kình lực không suy giảm. Lão cứ ném tới ném lui, tựa hồ chưa tính đúng khoảng cách bao xa với mặt trời vậy. Rồi lão đá lung tung vào băng, khiến vụn băng bay tứ tung.
Tạ Tốn ngoảnh lại, mắt vằn các tia máu, ngẩn ngơ nhìn nàng. Ân Tố Tố thầm hoảng sợ, gượng nở nụ cười. Tạ Tốn bỗng nhiên hét lên, nhảy tới ôm lấy nàng, nói:
– Ta giết mi! Ta giết mi! Tại sao mi giết mẫu thân ta, giết nhi tử của ta?
Ân Tố Tố tưởng như mình đang bị kẹp trong một cái lồng sắt và cái lồng ấy cứ xiết chặt dần dần.
Trương Thúy Sơn vội gỡ tay Tạ Tốn ra, nhưng cánh tay lão không hề nhúc nhích. Thấy Ân Tố Tố lè lưỡi, nghẹt thở đến nơi, chàng liền vung chưởng giáng vào huyệt Thần Đạo ở hậu tâm lão, nghe “hự” một tiếng. Ai ngờ chưởng này như trúng vào sắt, Tạ Tốn vẫn cứ gầm gừ như dã thú, vòng tay càng xiết chặt thêm. Trương Thúy Sơn nói:
– Lão mà không buông ra, tại hạ sẽ sử dụng binh khí đó.
Thấy lão chẳng lý gì đến mình, chàng bèn rút cây phán quan bút điểm mạnh vào huyệt Tiểu Hải ở khuỷu tay lão. Tạ Tốn dùng tay phải giật lấy cây phán quan bút ném vèo xuống biển.
Ân Tố Tố thấy vòng tay lão lỏng ra, vội chuội xuống mà thoát ra ngoài. Tạ Tốn tả chưởng đánh xéo vào cổ Trương Thúy Sơn, tay hữu thì chộp lấy vai Ân Tố Tố, nghe “roẹt” một tiếng, cái áo da hải cẩu của nàng đã bị năm ngón tay của lão cào rách một đường. Trương Thúy Sơn biết nếu chàng né tránh, Ân Tố Tố hẳn sẽ bị Tạ Tốn chộp được, bèn tức thời sử chiêu “Tự tại phi hoa” trong Miên chưởng để chế ngự chưởng lực của lão, ai dè bàn tay chàng và cạnh bàn tay của lão vừa chạm vào nhau ngay lập tức cảm thấy có một sức hút cực mạnh, không tài gì tách ra được, chàng đành vận nội kình chống đỡ.
Sau khi dùng một chưởng chế ngự Trương Thúy Sơn, Tạ Tốn liền kéo chàng về phía Ân Tố Tố. Ân Tố Tố tung mình nhảy lên, hai chân chưa chạm xuống đất thì Tạ Tốn đá một cái làm bảy tám cục băng bay lên, có cục trúng vào đùi phải của nàng, nàng kêu “ối” và ngã lăn xuống.
Tạ Tốn đột nhiên phát xuất chưởng lực đánh Trương Thúy Sơn văng xa mấy trượng. Lực văng rất mạnh, Trương Thúy Sơn rơi xuống mép núi băng, băng trơn, khiến chân phải của chàng vừa tính đứng lên liền bị trượt, nghe “ùm” một tiếng, chàng đã rơi xuống biển.
Trương Thúy Sơn tay trái vung ngân câu móc vào núi băng, mượn thế nhảy lên, ngỡ rằng Ân Tố Tố đã rơi vào tay Tạ Tốn nhưng không ngờ dưới ánh trăng suông chỉ thấy Tạ Tốn hai tay ôm mắt, rên rỉ đau đớn, còn Ân Tố Tố nằm trên mặt băng.
Lời chưa dứt, Tạ Tốn gầm lên, xông tới. Trương Thúy Sơn ôm lấy Ân Tố Tố lăn liền mấy vòng, tránh ra chỗ khác thật lẹ, chỉ nghe “bình bình” nhiều tiếng, Tạ Tốn đang vung cây lang nha bổng đánh vào núi băng. Đoạn lão vứt lang nha bổng xuống, hai tay nhấc một tảng băng lớn nặng hơn trăm cân, ném về phía Trương Ân hai người.
Ân Tố Tố định bật dậy chạy trốn, Trương Thúy Sơn lấy tay ấn lưng nàng xuống, hai người nấp trong hốc lõm của núi băng, không dám thở mạnh. Tạ Tốn ném tảng băng rồi, đứng im bất động, hiển nhiên đang nghe ngóng tìm chỗ ẩn núp của hai người. Trương Thúy Sơn thấy hai mắt lão chảy hai dòng máu tươi, biết là Ân Tố Tố trong cơn nguy cấp rốt cuộc đã phóng ngân châm, Tạ Tốn lúc ấy thần trí hôn mê không hề đề phòng, cả hai mắt đều trúng kim trở thành người mù. Nhưng thính giác của lão cực kỳ linh mẫn, chỉ cần một tiếng động nhỏ, lão cũng sẽ chồm tới, hậu quả ra sao thật khó lường. Cũng may trên biển còn có tiếng sóng ì ầm, tiếng gió ù ù, tiếng các khối băng đụng nhau át đi tiếng thở của hai người, chứ không thì khó bề thoát khỏi độc thủ của Tạ Tốn.
Tạ Tốn nghe ngóng một hồi, trong tiếng sóng, tiếng gió, tiếng băng đụng nhau, lão không thể phát hiện nổi hai người kia đang núp ở đâu, hai mắt lại đau nhức, trước mắt toàn một màu tối đen, lão vừa cuồng nộ vừa hoảng sợ, kêu rống lên, tay đấm chân đá loạn xạ vào núi băng, nhặt các cục băng ném tứ phía, nghe cứ rầm rầm liên hồi. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nép sát vào nhau, sợ hãi mặt cắt không còn hột máu, có vô số cục băng bay vèo vèo qua đầu, lỡ trúng một cục thôi cũng đủ táng mạng.
Trận ném băng của Tạ Tốn kéo dài nửa canh giờ mà Trương Ân hai người tưởng chừng phải đến mấy năm.
Tạ Tốn ném băng chán chê, không thấy hiệu quả, bèn dừng tay, nói:
– Trương tướng công, Ân cô nương, vừa rồi Tạ mỗ nhất thời hồ đồ, nổi điên phá phách, chắc là mạo phạm, những mong hai vị đừng trách.
Lời lẽ Tạ Tốn ôn tồn, khiêm hòa, thần thái trở lại bình thường. Lão nói xong, ngồi xuống tảng băng, im lặng chờ hai người lên tiếng trả lời.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đâu dám lên tiếng trong tình cảnh này. Tạ Tốn nhắc lại vài lần, không thấy hai người hồi đáp, thì đứng dậy thở dài, nói:
– Hai vị không chịu lượng thứ, thì ta cũng chả có cách gì khác.
Đoạn lão hít một hơi thật dài. Trương Thúy Sơn giật mình, nhớ lại hôm Tạ Tốn cất tiếng hú tại Vương Bàn sơn đảo khiến mọi người gục ngã, lão cũng đã hít mạnh một hơi như thế này. Lão tuy mù hai mắt, nhưng tiếng hú chế ngự địch thủ thì đâu có gì khác trước. Lúc này nguy cơ sẽ ập tới liền, muốn xé áo nhét kín lỗ tai đã muộn, chàng không kịp nghĩ ngợi gì nữa, bèn ôm Ân Tố Tố nhảy ùm xuống biển.
Ân Tố Tố chưa rõ chuyện gì thì tiếng hú của Tạ Tốn đã cất lên. Trương Thúy Sơn ôm nàng hụp xuống, nước lạnh thấu xương ngập lút đầu, cũng che lấp luôn hai tai. Tay trái chàng cầm ngân câu móc vào núi băng, tay phải ôm Ân Tố Tố, trừ bàn tay trái ở trên mặt nước, còn toàn thân hai người đều chìm dưới nước, vậy mà vẫn nghe văng vẳng và cảm thấy uy lực của tiếng hú kia. Núi băng không ngừng trôi về phương bắc mang theo hai người ở dưới nước. Trương Thúy Sơn thấy vẫn còn may, giả sử vừa rồi bị mất không phải thiết bút mà là ngân câu, thì dẫu có thoát khỏi tiếng hú của Tạ Tốn cũng chết đuối dưới biển.
Lâu lâu hai người lại trồi mũi lên trên mặt nước, hít một hơi, hai tai vẫn chìm trong nước; sáu bảy phen như thế tiếng hú của Tạ Tốn mới ngừng. Đợt hú này quá dài, tiêu hao rất nhiều nội lực nên lão cảm thấy mệt mỏi, không còn hơi sức dò tìm hai người sống chết ra sao, đành phải ngồi xuống băng điều tức. Trương Thúy Sơn giơ tay làm hiệu, hai người lẳng lặng leo lên núi băng, vặt một ít lông hải cẩu trên mảnh da thú, nhét kín vào lỗ tai, coi như tạm qua cơn kiếp nạn.
Nếu cứ ở chung với Tạ Tốn trên một núi băng, chỉ cần phát ra một tiếng động nhỏ, đại họa sẽ tức thời giáng xuống. Hai người buồn bã nhìn nhau, rồi nhìn về phía tây, nơi mặt trời đỏ như máu mãi vẫn chưa lặn xuống mặt biển. Họ không biết ở gần Bắc Cực ngày giờ khác hẳn, có chỗ sáu tháng là ngày liên tiếp, sáu tháng còn lại là đêm vô tận, họ chỉ ngạc nhiên thấy bao điều quái dị, ngỡ đã tới nơi tận cùng của thế gian.
Ân Tố Tố toàn thân ướt sũng, rét buốt thấu xương, người cứ run cầm cập, răng đánh vào nhau canh cách. Thế là Tạ Tốn nghe thấy. Lão rống lên, cầm lang nha bổng lao tới đánh ngay xuống. Trương Ân hai người đã có phòng bị, liền nhảy tránh, chỉ nghe rầm một tiếng, lang nha bổng đánh vào băng. Cú đánh này lực đạo phải tới bảy tám trăm cân, làm cho bảy, tám tảng băng lớn bay văng xuống biển. Hai người kinh hãi nhìn nhau, thấy Tạ Tốn múa vung lang nha bổng, phát ra ngàn đạo ngân quang, ép thẳng tới. Cây lang nha bổng đó dài đã hơn một trượng, khi múa lên thì uy lực bao trùm đến dăm trượng xung quanh, hai người nhảy tránh lẹ mấy cũng không thoát nổi, chỉ còn cách liên tiếp lùi về phía sau, lùi một hồi đã tới mép núi băng.
Ân Tố Tố hoảng hốt kêu “Ối chà!” Trương Thúy Sơn nắm cánh tay nàng, hai chân nhún một cái, nhảy luôn xuống biển. Hai người còn đang lơ lửng trên không, chỉ nghe tiếng băng rơi rào rào sau lưng, có cục văng trúng người khá đau. Lúc nhảy, Trương Thúy Sơn đã nhắm một tảng băng to bằng cái bàn, tay trái chàng vung ngân câu móc luôn vào đó. Tạ Tốn nghe tiếng hai người nhảy xuống biển, lão dùng lang nha bổng đập băng vỡ thành cục mà ném theo. Nhưng hai mắt lão đã mù, Trương Ân hai người ở dưới biển liên tục di động theo tảng băng trôi, cục băng đầu không trúng, các cục băng sau cũng rơi lạc cả.
Núi băng trôi trên biển, phần nổi trên mặt nước chỉ là phần nhỏ của toàn khối, phần chìm bên dưới mới thật lớn. Tảng băng mà Trương Ân hai người đang nằm phục trên đó là một khối băng do Tạ Tốn đánh vỡ ra, nhỏ chưa đến một phần ngàn của núi băng, cho nên nó theo dòng thủy lưu trôi rất nhanh, càng lúc càng xa núi băng nơi Tạ Tốn đang đứng. Đến chiều tối, ngoảnh nhìn lại, thân hình Tạ Tốn chỉ còn là một chấm đen trên cái núi băng đang lấp lóa phát quang.
Hai người bám vào tảng băng này, chỉ cốt nó không chìm, thân mình còn một nửa ngâm dưới nước, làm sao chịu được lâu? May sao trên đường trôi lên phương bắc, không lâu sau gặp được một núi băng nhỏ, chờ tới gần họ liền bám vào leo lên.
Trương Thúy Sơn nói:
– Bảo rằng trời không đẩy người vào tuyệt lộ. Thế mà hai ta cứ phải chịu bao nhiêu là khổ sở? Nàng nghĩ sao?
Ân Tố Tố nói:
– Tiếc là mình không đem theo được chút thịt hải cẩu. Chàng không bị thương đấy chứ?
Hai người nói mà như cho mình nghe, không hiểu bên kia nói gì, sau chợt hiểu, vội móc lông hải cẩu trong tai ra. Vì cố đào thoát, họ quên biến rằng hai tai còn bị nút chặt.
Hai người thoát đại nạn, sóng tình trong lòng càng dâng lên mạnh. Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố, hai ta dẫu chết trên núi băng thì cũng là vĩnh viễn bên nhau đó.
Ân Tố Tố nói:
– Ngũ ca, muội có câu muốn hỏi, chàng phải nói thật nhé. Giả dụ hai ta còn ở trên đất liền, không trải qua mọi nguy nan như vừa rồi, nếu muội quyết một lòng kết duyên với chàng thì chàng có muốn lấy muội hay không?
Trương Thúy Sơn ngẩn người, đưa tay gãi gáy, nói:
– Ta nghĩ rằng mình sẽ chưa thân nhau sớm đến thế, hơn nữa… hơn nữa… nhất định sẽ có nhiều trở ngại, gian lao, hai ta môn phái khác nhau…
Ân Tố Tố thở dài, nói:
– Muội cũng nghĩ vậy, nên hôm chàng đấu chưởng với Tạ Tốn, mấy lần muội tính phóng ngân châm hiệp trợ chàng, cuối cùng vẫn không phóng.
Trương Thúy Sơn ngạc nhiên nói:
– Vậy ư, vì sao thế? Ta cứ ngỡ là trong đêm tối nàng nhìn không rõ, sợ trúng phải ta kia đấy.
Ân Tố Tố nói nhỏ:
– Không phải vậy, giả dụ lúc đó muội đả thương lão, hai ta trở về đất liền, chàng sẽ không ở bên muội nữa.
Trương Thúy Sơn lòng dạ bồi hồi, thốt lên:
– Tố Tố!
Ân Tố Tố nói tiếp:
– Chàng có lẽ sẽ trách muội, nhưng lúc ấy muội chỉ mong được ở bên chàng, hai ta đến một hoang đảo không người, sống mãi với nhau ở đó. Tạ Tốn ép hai ta đi theo lão, chính hợp với tâm nguyện của muội.
Trương Thúy Sơn không ngờ nàng lại yêu thương mình sâu đậm đến thế, cảm động lắm, dịu dàng nói:
– Ta không trách nàng đâu, mà phải đa tạ nàng là đằng khác.
Ân Tố Tố ngả đầu vào lòng Trương Thúy Sơn, ngước lên nhìn vào mắt chàng, nói:
– Ông Trời đưa muội tới địa ngục băng giá này, muội không hề oán hận, chỉ vui sướng. Muội mong sao núi băng đừng trôi về phương nam, ôi, nếu có ngày hai ta trở về Trung nguyên, sư phụ của chàng hẳn sẽ căm ghét muội, còn phụ thân muội không chừng sẽ giết chàng…
Trương Thúy Sơn nói:
– Phụ thân nàng ư?
Ân Tố Tố nói:
– Phụ thân muội là Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính, giáo chủ sáng lập Thiên Ưng giáo.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thì ra vậy. Nàng đừng lo, ta sẽ luôn ở bên cạnh nàng, thân phụ nàng dữ cách mấy cũng không nỡ giết con rể của mình.
Ân Tố Tố đôi mắt sáng ngời, hai má đỏ bừng, nói:
– Chàng nói thật lòng đấy chứ?
Trương Thúy Sơn nói:
– Hai đứa mình kết thành vợ chồng luôn nhé.
Hai người tức thời quỳ ngay xuống mặt băng.
Trương Thúy Sơn cao giọng nói:
– Có hoàng thiên chứng giám, hôm nay đệ tử Trương Thúy Sơn cùng Ân Tố Tố kết thành phu phụ, họa phúc bên nhau, trước sau không phụ bạc.
Ân Tố Tố kính cẩn khấn:
– Xin hoàng thiên phù hộ độ trì, cho hai chúng con đời đời kiếp kiếp là phu phụ.
Ngừng một lát, nàng khấn tiếp:
– Nếu sau này trở về Trung nguyên, tiểu nữ quyết cải tà quy chính, sám hối tội lỗi đã qua, theo phu quân làm việc thiện, không bao giờ giết ai nữa. Nếu phạm lời thề, xin trời và người trừng phạt.
Trương Thúy Sơn cả mừng, không ngờ Ân Tố Tố lập thệ như vậy, vòng tay ôm lấy nàng. Hai người tuy toàn thân ướt sũng nước biển, nhưng trong lòng ấm áp, phơi phới gió xuân.
Rất lâu sau, cả hai mới nhớ ra là cả một ngày chưa ăn gì. Trương Thúy Sơn cầm ngân câu đứng rình bên mép núi băng, đợi cá bơi đến gần thì móc lên. Cá biển ở vùng này vì phải chống lạnh nên thịt dày và nhiều mỡ, ăn sống rất tanh, nhưng ăn vào sẽ tăng khí lực rất nhiều.
Hai người ở trên núi băng, biết rõ không có hi vọng quay về Trung nguyên, nhưng cũng chẳng lo buồn. Dạo này ngày rất dài mà đêm thì ngắn, hết sức khác thường, không có cách gì tính toán thời gian, cũng chẳng biết mặt trời mọc hay lặn trên biển đã bao nhiêu lần.
Một hôm, Ân Tố Tố chợt trông thấy ở chính phía bắc có một cột khói bốc lên, nàng sợ mất vía, gọi to:
Cột khói kia tuy nhìn thấy đó, song vẫn còn xa lắm, núi băng trôi suốt một ngày vẫn chưa tới gần nó, nhưng khói đen bốc càng lúc càng cao, rồi thấy trong khói thấp thoáng có ánh lửa.
Ân Tố Tố hỏi:
– Đó là cái gì nhỉ?
Trương Thúy Sơn lắc đầu không đáp. Ân Tố Tố run run nói:
– Hai ta chắc sắp hết kiếp rồi! Đó là… là cửa địa ngục đấy.
Trương Thúy Sơn cũng rất lo sợ, nhưng chàng vẫn an ủi, nói:
– Không chừng chỗ ấy có người ở, người ta đang đốt lửa trên núi.
Ân Tố Tố nói:
– Lửa gì mà bốc cao như thế?
Trương Thúy Sơn thở dài, nói:
– Đã tới miền quỷ quái này, mọi sự đều do ông Trời sắp đặt. Trời đã không để chúng mình chết rét, lại muốn chúng mình chết thiêu, là tùy ý trời thôi.
Kể ra thật lạ, núi băng hai người đang ở cứ từ từ trôi thẳng về phía có ánh lửa. Trương Ân hai người không hiểu nguyên do, chỉ nghĩ là do ông Trời sắp đặt, là họa hay phúc cũng đành phó mặc cho số mệnh. Họ đâu biết rằng cột lửa kia là một hỏa diệm sơn ở gần Bắc Cực đang hoạt động, khi phun lửa sẽ làm cho nước biển xung quanh ấm lên. Nước nóng chảy về phía nam, tự nhiên cuốn dòng nước băng từ phía nam đến thế chỗ, do vậy mà núi băng trôi tới càng lúc càng gần.
Núi băng này trôi một ngày đêm nữa thì tới chân hỏa diệm sơn, chỉ thấy xung quanh nó là một vùng xanh tươi, hóa ra là một hòn đảo cực lớn. Phía tây hòn đảo là núi đá lởm chởm, hình thù quái dị, Trương Thúy Sơn đã đi quá nửa Trung nguyên mà chưa thấy thế này bao giờ. Hai người chưa từng thấy hỏa diệm sơn, không hề biết các mỏm núi kia là do phún thạch hàng ngàn hàng vạn năm của hỏa diệm sơn kết thành. Phía đông hòn đảo là một bình nguyên mênh mông vô bờ, do tro của hỏa diệm sơn rơi xuống biển dần tạo nên. Vùng này tuy gần kề Bắc Cực, nhưng nhờ có lửa của hỏa diệm sơn hoạt động hàng vạn năm không tắt, nên khí hậu tương tự như dãy núi Trường Bạch, vùng Hắc Long Giang, trên núi cao có băng tuyết, dưới bình nguyên thảo mộc xanh tươi, tùng xanh bách biếc, cao to dị thường, lại có nhiều loài kỳ hoa dị thảo mà vùng Trung thổ không hề gặp.
Trương Thúy Sơn trong lòng cũng hết sức vui sướng, mơ mơ màng màng không nói nên lời. Nhìn trên bình nguyên, thấy một bầy mai hoa lộc đang cúi đầu gặm cỏ, đưa mắt ngó tứ bề, ngoài tòa hỏa diệm sơn đáng sợ kia thì, tất thảy đều thanh bình.
Thế nhưng núi băng trôi đến gần đảo, bị nước ấm đẩy ra, nên lại trôi ra xa. Ân Tố Tố vội kêu lên:
– Chao ôi, chao ôi, đảo tiên lại cách xa mất rồi!
Trương Thúy Sơn thấy tình thế không ổn, nếu không lên đảo, núi băng này sẽ trôi tiếp đi nơi khác, chưa biết khi nào mới dừng. Tình thế cấp bách, chàng dùng chưởng và ngân câu cùng đánh, “bộp, bộp bộp”, vỡ ra một tảng băng lớn. Hai người ôm lấy tảng băng, lăn xuống nước, tay chân quạt mạnh, cuối cùng cập vào đất liền.
Bầy mai hoa lộc thấy có người đến, giương mắt tròn xoe mà nhìn, đầy vẻ hiếu kỳ, không một chút hoảng sợ. Ân Tố Tố thong thả lại gần một con, đưa tay vuốt ve lưng nó, nói:
– Giá có thêm vài con hạc tiên, muội nghĩ đây chính là Nam Cực tiên cảnh.
Bỗng mặt đất rung rinh chao đảo, nàng ngã lăn ra. Trương Thúy Sơn cả kinh, gọi:
– Tố Tố!
Chàng chạy tới đỡ nàng dậy, nhưng hai chân cũng loạng choạng đứng không vững.
Chỉ nghe mặt đất rùng rùng chuyển động, thì ra hỏa diệm sơn lại phun lửa. Hai người ở trên biển trôi nổi mấy chục ngày, phong ba nhồi lên dìm xuống suốt ngày đêm, nay vừa lên bờ, dưới chân vẫn còn cảm giác bồng bềnh, nên mặt đất vừa chao động một cái đã ngã lăn ra.
Hai người hoảng sợ, nhưng chẳng thấy gì xảy ra, mới cười hà hà đứng dậy. Hôm ấy cả hai đã mệt lả, họ nằm ngay trên bãi cỏ ngủ một giấc hơn bốn canh giờ liền.
Lúc thức dậy, mặt trời vẫn chưa gác núi, Trương Thúy Sơn nói:
– Hai ta đi một vòng xem xung quanh thế nào, có người ở hay không, có độc trùng mãnh thú gì không?
Ân Tố Tố nói:
– Cứ nhìn bầy mai hoa lộc hiền thuận như thế, đủ biết đảo tiên này hết sức thanh bình.
Trương Thúy Sơn cười nói:
– Ước gì như thế! Vậy hai ta cũng phải đi bái yết các vị tiên chứ.
Ân Tố Tố lúc còn ở trên núi băng cũng đã cố giữ gìn dung nhan, y phục chỉnh tề, bây giờ đến đảo này, nàng càng chú ý chăm chút hơn; nàng chải đầu cho Trương Thúy Sơn, rồi mới cùng chàng đi thám thính. Tay nàng cầm trường kiếm. Trương Thúy Sơn đã mất phán quan bút, liền bẻ một cành cây thật chắc thay thế. Hai người thi triển khinh công, chạy từ nam lên bắc đến mươi dặm. Lâu lắm rồi mới có một vùng đất rộng để vẫy vùng, thực là sung sướng hết chỗ nói. Khắp nơi họ chạy qua, ngoài gò thấp và cây cao, toàn là kỳ hoa dị thảo; thi thoảng từ trong cỏ xuất hiện những loại muông thú nhỏ không biết tên, hiền thuận không làm hại người.
Hai người đi qua một cánh rừng rộng, thấy phía tây bắc có một ngọn núi đá, ở chân núi có một cái hang. Ân Tố Tố nói:
– Chỗ này thích quá!
Đoạn chạy lên trước. Trương Thúy Sơn nói:
– Cẩn thận!
Lời chưa dứt, có tiếng “gừm”, rồi từ trong hang lao ra một con gấu trắng.
Con gấu này lông dài, to như con bò mộng. Ân Tố Tố hốt hoảng vội nhảy lùi. Con gấu chồm tới, giơ cái chân trước to bè đập xuống đầu Ân Tố Tố. Ân Tố Tố vung trường kiếm chém vào vai con gấu. Ai ngờ nàng trôi giạt trên biển lâu ngày, thân thể suy nhược, xuất thủ kém lực, kiếm tuy chém trúng vai con gấu nhưng chỉ làm nó bị thương nhẹ, chiêu thứ hai vừa tới, con gấu chồm lên gạt phắt ra, “cạch” một tiếng, thanh kiếm đã văng xuống đất. Trương Thúy Sơn vội kêu:
– Tố Tố lui ra!
Chàng nhảy tới, vung cành cây quật ngang, trúng vào khuỷu chân trước của con gấu, nghe “rắc” một tiếng, cành cây gãy đôi, con gấu cũng bị gãy chân trái, nó đau quá liền rống lên vang động cả sơn cốc, hung hăng chồm tới tấn công Trương Thúy Sơn.
Trương Thúy Sơn hai chân nhún một cái, sử dụng khinh công “Thê vân túng” nhảy vọt lên cao hơn trượng, sử cái móc trong tự quyết chữ “tranh”, giáng mạnh cái ngân câu từ trên cao xuống trúng ngay huyệt Thái Dương của con gấu. Chiêu này kình lực quá mạnh, ngân câu móc sâu vào đến mấy tấc. Con gấu rống lên một tiếng kinh thiên động địa, hất văng cả ngân câu khỏi tay Trương Thúy Sơn, lăn ra giãy giụa mấy vòng, rồi chổng bốn vó lên trời mà chết.
Nghe tiếng gọi có vẻ kinh hoàng của chàng, Ân Tố Tố không kịp hỏi han, vội nhào vào lòng chàng, quay nhìn lại, giật mình kêu lên “ôi chao!” Thì ra ngay sau lưng nàng lại xuất hiện một con gấu trắng khác, nó nhe răng giơ vuốt, trông hung dữ đáng sợ.
Trương Thúy Sơn không có thứ vũ khí gì trong tay, vội kéo Ân Tố Tố nhảy lên một cây tùng lớn. Con gấu cứ đi loanh quanh dưới gốc, chốc chốc ngẩng đầu gầm một tiếng. Trương Thúy Sơn bẻ một cành tùng, nhắm mắt phải của nó phóng xuống, nghe phập một tiếng, đầu nhọn của cành tùng đã cắm trúng mắt nó. Con gấu đau quá, rống ầm ỹ, toan leo lên cây. Trương Thúy Sơn tiếp lấy thanh kiếm từ tay Ân Tố Tố, nhắm đầu con gấu, vận kình phóng xuống, nghe “bụp” một tiếng, lưỡi kiếm cắm ngập đến quá nửa, con gấu ngã vật xuống, chết dưới gốc cây.
Trương Thúy Sơn nói:
– Không biết trong hang còn con gấu nào hay chăng?
Chàng kiếm mấy cục đá ném vào hang, lát sau không thấy động tĩnh gì, mới tiến vào trước, Ân Tố Tố bám sát theo sau. Chỉ thấy cái hang này rất rộng, sâu bảy tám trượng, trên nóc lại có một cái khe có ánh sáng chiếu xuống, chẳng khác gì cửa sổ tự nhiên. Trong hang có nhiều thức ăn còn dư của cặp gấu trắng, mình cá, xương cá, hết sức tanh tưởi. Ân Tố Tố bịt mũi, nói:
– Hang này tốt thì tốt thật, nhưng hôi thối quá!
Trương Thúy Sơn nói:
– Chỉ cần ngày ngày quét dọn, rửa ráy, thì mươi bữa nửa tháng sẽ hết hôi.
Ân Tố Tố nghĩ đến việc từ nay sẽ cùng chàng chung sống mãi mãi trên hòn đảo này đến khi đầu bạc răng long, thì cảm thấy vừa sung sướng, vừa thê lương.
Trương Thúy Sơn ra ngoài hang, bẻ cành cây, làm thành một cái chổi lớn, cầm vào quét dọn rác rưởi trong hang. Ân Tố Tố cũng giúp chàng dọn dẹp. Rác đã quét sạch, nhưng mùi tanh hôi vẫn còn nguyên. Ân Tố Tố nói:
– Gần đây có suối nước mang về rửa thì hay quá. Nước biển quá nhiều mà mình không có thùng để gánh.
Trương Thúy Sơn nói:
– Huynh đã có cách.
Chàng ra chỗ lạnh giá ở khe núi, bưng về mấy tảng băng to, đặt ở chỗ cao trong hang. Ân Tố Tố vỗ tay reo lên:
– Hay quá!
Các tảng băng tan dần thành nước, chảy ra bên ngoài hang, nhưng như thế quá chậm.
Trong khi Trương Thúy Sơn chùi rửa trong hang, Ân Tố Tố ở bên ngoài dùng trường kiếm xẻ thịt hai con gấu, cắt thành nhiều miếng. Vùng này tuy có hỏa diệm sơn, nhưng gần Bắc Cực, khí hậu rất lạnh, các miếng thịt gấu có thể để nhiều tháng không hư. Ân Tố Tố thở dài, nói:
– Lòng người thật khó chiều, được voi đòi tiên, giá bây giờ có lửa, nướng bàn tay gấu mà ăn hẳn ngon biết mấy! Chỉ e tảng băng để trong hang không tan thì không hết mùi hôi.
Trương Thúy Sơn nhìn về phía miệng hỏa diệm sơn đang phun lửa, nói:
– Lửa thì khối ra kia, có điều lại quá lớn, để thư thả huynh nghĩ xem có cách gì lấy lửa mang về đây.
Tối hôm ấy, hai người ăn một bữa não gấu, rồi leo lên cây ngủ. Trong giấc ngủ, họ thấy mình vẫn đang ở trên núi băng trôi dạt trên biển cả, với tiếng sóng ì ầm nhấp nhô lên xuống, thực ra chỉ là gió thổi lay động cành lá.
Hôm sau Ân Tố Tố chưa mở mắt đã nói:
– Thơm quá! Thơm quá!
Nàng nhảy xuống đất, ngửi thấy một mùi hương dễ chịu của nhiều đóa hoa không tên thoang thoảng đưa tới. Nàng vui sướng nói:
– Trước cửa hang có nhiều hoa thơm thế này thì tuyệt trần!
Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố này, việc mừng để sau, có việc cần làm trước đây.
Ân Tố Tố nhìn vẻ mặt trịnh trọng của chàng, lo lắng hỏi:
– Việc gì vậy?
Trương Thúy Sơn nói:
– Huynh đã nghĩ ra cách lấy lửa.
Ân Tố Tố cười:
– Ồ, thế mà chàng cứ làm như có chuyện không hay vậy, cách gì đâu, chàng nói mau đi!
Trương Thúy Sơn nói:
– Lửa ở miệng hỏa diệm sơn quá lớn, không thể tới gần, chỉ sợ đến cách vài chục trượng thì đã chết cháy rồi. Mình phải lấy vỏ cây tết thành một sợi dây thừng, đem phơi khô, sau đó…
Ân Tố Tố vỗ tay reo:
– Hay lắm! Cách đó hay lắm! Sau đó mình buộc cục đá vào một đầu dây, ném tới miệng hỏa diệm sơn, lửa bén vào dây, mình kéo về.
Hai người ăn thịt sống đã lâu nên muốn có lửa ngay, nói xong làm liền, mất hơn hai ngày mới tết được một sợi dây dài trăm trượng, phơi một ngày gần khô, ngày thứ tư thì nhắm hướng miệng hỏa diệm sơn đi tới.
Miệng hỏa diệm sơn nhìn tưởng gần, vậy mà đi suốt hơn bốn chục dặm mới tới. Càng tới gần hai người càng thấy nóng, thoạt tiên cởi áo lông hải cẩu, rồi chỉ còn mảnh áo đơn cũng nóng không chịu nổi; đi một dặm nữa thì miệng khô lưỡi háo, mồ hôi vã ra như tắm, xung quanh không còn thảo mộc, chỉ toàn nham thạch màu vàng trơ trụi.
Trương Thúy Sơn vai vác cuộn dây, nhìn mấy sợi tóc dài của Ân Tố Tố bị nóng quá đã xoăn cả lại, lòng trào dậy niềm thương, nói:
– Nàng ở lại đây chờ huynh, để mình huynh đi được rồi.
Ân Tố Tố nói dỗi:
– Chàng còn nói thế nữa, muội sẽ mặc kệ chàng đấy. Cùng lắm mình không có lửa, suốt đời ăn thịt sống cũng chẳng sao!
Trương Thúy Sơn mỉm cười.
Đi chừng một dặm nữa, hai người đã thở phì phò như kéo bễ. Trương Thúy Sơn tuy nội công thâm hậu mà cũng bị hun tới mức nổ đom đóm mắt, đầu óc cứ ong ong. Chàng nói:
– Thôi, mình dừng ở đây, quẳng dây mà không tới chỗ bén lửa, thì… thì…
Ân Tố Tố cười, tiếp lời:
– Thì tức là trời bắt chúng mình làm một đôi phu thê ăn lông ở lỗ vậy.
Nói đến đó thì thân hình lảo đảo, mắt hoa lên, phải níu vào vai Trương Thúy Sơn mới đứng được. Trương Thúy Sơn nhặt một hòn đá, buộc vào đầu sợi dây, đề khí chạy lên phía trước vài trượng, quát một tiếng “Đi này!” rồi ném hòn đá đi.
Hòn đá bay như tên bắn, mang theo sợi dây thẳng băng, rơi xuống rất xa. Hơn chục trượng cách chỗ hai người đứng tuy có nóng hơn thật, nhưng so với miệng hỏa diệm sơn thì còn quá xa, làm sao sợi dây có thể bén lửa? Hai người đợi hồi lâu, cơ thể nóng ran, mắt muốn đổ lửa mà sợi dây vẫn thế, không thấy chút khói nào bốc lên cả. Trương Thúy Sơn thở dài, nói:
– Cổ nhân xiết gỗ, đánh đá lấy lửa, cũng đều được cả; thôi hai ta về, thong thả tìm cách khác vậy! Cách ném dây lấy lửa này không xong rồi.
Ân Tố Tố nói:
– Cách ném không xong, nhưng sợi dây thì khô lắm rồi. Mình đi tìm vài cục đá lửa, dùng kiếm đánh lửa xem sao.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng đấy!
Chàng cuộn sợi dây vào, xé tưa một đầu thành nhiều sợi nhỏ, làm bùi nhùi. Xung quanh có rất nhiều đá lửa, nhặt mấy hòn, dùng kiếm đập vào tức thời tóe ra mấy tia lửa, bắn vào bùi nhùi, thử mươi lần thì được lửa.
Hai người mừng rỡ ôm lấy nhau reo to. Sợi dây giữ lửa rất đượm, hai người hớn hở mang về hang. Ân Tố Tố gom củi nhóm thành một đống lửa lớn.
Có lửa, mọi việc đều xong, nào làm cho băng tan, nào nướng thịt, sấy thịt. Từ ngày đắm thuyền đến nay, họ chưa được ăn nóng, bây giờ lần đầu có miếng thịt nướng thơm nức, họ ăn một cách thèm khát, tựa hồ nuốt luôn cả lưỡi xuống bụng.
Đêm ấy trong hang hương hoa thoang thoảng, ánh lửa chập chờn. Từ hôm kết thành phu thê, đêm nay hai người mới hưởng cái thú động phòng thanh xuân.
Sáng hôm sau, Trương Thúy Sơn ra khỏi hang, đưa mắt nhìn ra xa, trong lòng đang khoan khoái, bỗng thấy trên một tảng đá ven biển xa xa nổi lên một bóng người sừng sững.
Người đó không phải Tạ Tốn thì là ai? Trương Thúy Sơn vô cùng hoảng sợ, những tưởng sau khi cùng Ân Tố Tố trải qua một phen đại nạn, hai người sẽ được an cư trên hòn đảo này, nào ngờ gã ma đầu kia cũng mò tới đây. Trong giây lát chàng như hóa đá, đứng ngây ra không dám cử động, nhìn Tạ Tốn lảo đảo sờ soạng tiến vào sâu trong đất liền. Hẳn là từ hôm bị mù, lão không thể bắt cá hoặc săn hải cẩu, phải nhịn đói tới giờ. Đi được vài trượng, lão bị vấp, ngã chúi về phía trước, cứ thế nằm phục dưới đất.
Trương Thúy Sơn trở vào hang, Ân Tố Tố thấy chàng, nũng nịu gọi:
– Ngũ ca, chàng…
Thấy sắc diện nghiêm trọng của chàng, nàng không nói nữa. Trương Thúy Sơn nói:
– Lão họ Tạ cũng tới rồi!
Ân Tố Tố giật mình, bật dậy hỏi nhỏ:
– Lão có nhìn thấy chàng không?
Chợt nhớ Tạ Tốn đã mù, nên nàng bớt sợ hẳn, nói:
– Hai ta mắt sáng, chẳng lẽ không đối phó nổi một lão mù?
Trương Thúy Sơn gật đầu, nói:
– Lão đói quá, nằm ngất xỉu rồi.
Ân Tố Tố nói:
– Thử ra xem.
Nàng xé tay áo ra bốn mảnh vải nhỏ, nhét hai mảnh vào tai Trương Thúy Sơn, hai mảnh vào tai mình, tay phải nàng lăm lăm trường kiếm, tay trái thủ sẵn mấy cái ngân châm, cùng chàng ra ngoài hang.
Hai người đến cách Tạ Tốn bảy tám trượng, Trương Thúy Sơn nói to:
– Tạ tiền bối, có đói không?
Tạ Tốn bỗng dưng nghe thấy tiếng người, vừa kinh ngạc, vừa vui mừng, nhưng nhận ra giọng của Trương Thúy Sơn, liền sa sầm mặt, hồi lâu mới gật đầu. Trương Thúy Sơn vào hang mang ra một tảng thịt gấu đã nướng chín từ tối qua, đứng xa xa ném tới, nói:
– Hãy đón lấy này!
Tạ Tốn nhỏm dậy, nghe gió nhận biết sự vật, giơ tay đón tảng thịt rồi thong thả nhai từng miếng nhỏ.
Trương Thúy Sơn nghĩ lão là một đại hán oai hùng như rồng như cọp, nay bị cái đói cái khát làm cho suy nhược thảm hại thì bất giác cảm thấy thương hại. Ân Tố Tố thì nghĩ thầm: “Ngũ ca thật quá nhân từ, cứ mặc lão ta chết quách đi, có phải đỡ rắc rối không? Lần này cứu sống lão ta, chỉ e rồi đây phiền não vô cùng, không chừng hai ta còn mất mạng bởi lão ta”. Song nghĩ nàng đã lập trọng thệ, quyết ý theo Trương Thúy Sơn làm người tốt, nên tuy trong bụng có ý không muốn cứu người, cũng chẳng dám nói ra.
Tạ Tốn ăn hết nửa tảng thịt thì nằm xuống ngủ, ngáy khò khò. Trương Thúy Sơn nhóm cho lão một đống lửa ở bên cạnh.
Tạ Tốn ngủ hơn một canh giờ thì tỉnh dậy, hỏi:
– Đây là đâu vậy?
Trương Ân hai người đang canh gần đó, thấy lão nhỏm dậy, mở miệng hỏi, bèn móc vải ở tai bên phải ra để nghe cho rõ, nhưng tay phải vẫn giữ cách tai chỉ vài tấc, đề phòng khi cần sẽ bịt tai lại tức thì mảnh vải bên tai trái vẫn để nguyên. Trương Thúy Sơn nói:
– Đây là một hoang đảo ở Bắc Cực.
Tạ Tốn “ừm” một tiếng, trong lòng nổi lên vô số ý nghĩ, lão thừ người hồi lâu, rồi nói:
– Như thế chúng ta không trở về được nữa!
Trương Thúy Sơn nói:
– Cái đó còn tùy ý ông Trời.
Tạ Tốn chửi liền:
– Ông Trời cái gì, đồ tặc thiên, đồ cẩu thiên, cường đạo lão thiên thì có!
Đoạn lão sờ soạng đến ngồi trên một phiến đá, ăn nốt miếng thịt gấu, hỏi:
– Các ngươi định đối xử với ta thế nào?
Trương Thúy Sơn đưa mắt nhìn Ân Tố Tố, chờ nàng lên tiếng. Ân Tố Tố đưa tay làm hiệu, ý nói mọi việc tùy chàng quyết định.
Trương Thúy Sơn trầm ngâm giây lát, rồi nói to:
– Tạ tiền bối, phu thê vãn bối…
Tạ Tốn gật đầu:
– Ừm, thành phu thê rồi đấy.
Ân Tố Tố đỏ mặt, nhưng có vẻ đắc ý, nói:
– Cũng có thể coi tiền bối là người làm mai, vậy xin đa tạ tiền bối đã tác thành.
Tạ Tốn hừ một tiếng, hỏi:
– Thế phu thê nhà ngươi định đối với ta sao đây?
Trương Thúy Sơn nói:
– Chúng tôi làm cho tiền bối bị mù, quả thật khó nghĩ, nhưng sự đã rồi, có nói muôn ngàn lời cũng vô ích. Ý trời đã muốn chúng ta sống chung với nhau trên hoang đảo này, xem chừng cả đời cũng không còn dịp trở về Trung thổ, vậy hai chúng tôi sẽ phụng dưỡng tiền bối suốt đời.
Tạ Tốn gật đầu, thở dài:
– Thì đành thế vậy.
Trương Thúy Sơn nói:
– Phu thê chúng tôi nghĩa trọng tình thâm, sống chết có nhau, tiền bối nếu bệnh điên tái phát, hại một trong hai chúng tôi thì người kia quyết không sống làm gì nữa.
Tạ Tốn nói:
– Nghĩa là ngươi muốn nói với ta rằng nếu hai ngươi chết, ta mù lòa thế này thì cũng chẳng thể sống nổi trên hoang đảo chứ gì?
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng vậy!
Tạ Tốn nói:
– Đã thế, các ngươi hà tất còn phải đút nút tai trái?
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau cười, moi giẻ trong tai ra, cùng kinh hãi nghĩ thầm: “Lão ta tuy mù lòa, song tai quá thính, tựa hồ có thể dùng tai thay mắt, hơn nữa lại thông minh cơ trí, liệu sự như thần, nếu không phải đang ở trên hoang đảo kỳ quái vùng Bắc Cực này, vị tất lão đã cần đến mình phụng dưỡng”.
Trương Thúy Sơn mời Tạ Tốn đặt tên cho hòn đảo này. Tạ Tốn nói:
– Đảo này đã có băng giá vạn niên, lại có hỏa diệm sơn muôn đời chưa tắt, vậy hãy gọi nó là Băng Hỏa đảo.
Từ đó ba người sống trên Băng Hỏa đảo khá bình yên vô sự. Cách hang gấu nửa dặm có một cái hang nhỏ hơn, vợ chồng Trương Thúy Sơn sắp xếp thành nơi ở rồi đưa Tạ Tốn tới đó. Ngoài thời gian bắt cá săn thú, phu thê họ còn nung đất làm chén bát, đắp đất làm lò, các vật dụng tuy thô sơ nhưng khá đầy đủ.
Tạ Tốn cũng không trò chuyện với hai người, chỉ ngồi ôm thanh đao Đồ Long, cúi đầu suy tư. Trương Ân hai người có lần thấy lão đáng thương, khuyên lão khỏi cần suy nghĩ về bí mật của thanh đao làm gì nữa cho khổ. Tạ Tốn nói:
– Ta thừa hiểu dù có tìm ra bí mật của thanh đao này, thì ở hoang đảo cũng hoàn toàn vô dụng, thế nhưng biết làm gì cho qua ngày đoạn tháng đây?
Hai người thấy lão nói có lý, cũng không khuyên can nữa.
Thấm thoắt đã mấy tháng, một hôm Trương Ân hai người nắm tay nhau đi du ngoạn về phía bắc của hòn đảo, hóa ra đảo này chu vi quá lớn, cứ trải dài lên phía bắc mãi, chưa biết đâu là tận cùng. Đi hơn hai mươi dặm, họ gặp một khu rừng rậm, cây cổ thụ cao vút che phủ bầu trời. Trương Thúy Sơn muốn đi sâu vào rừng thám hiểm, Ân Tố Tố lo sợ, nói:
– Đừng, lỡ trong rừng có gì cổ quái, thôi mình đi về là hơn.
Trương Thúy Sơn thấy hơi lạ, nghĩ thầm: “Tố Tố lâu nay vốn hiếu kỳ, sao gần đây có vẻ uể oải, khởi xướng việc gì nàng cũng gạt đi thế nhỉ?” Nghĩ đến đây, chàng hơi lo, bèn hỏi:
– Nàng có gì không được khỏe thì phải?
Ân Tố Tố bỗng đỏ mặt, nói nhỏ:
– Đâu có sao.
Trương Thúy Sơn thấy thần sắc nàng rất lạ, cứ gặng hỏi. Ân Tố Tố nửa cười nửa không, nói:
– Ông Trời thấy chúng mình tịch mịch quá, nên phái một người xuống làm trò vui nhộn đấy mà.
Trương Thúy Sơn ngẩn người, cả mừng, hỏi:
– Mình có con phải không?
Ân Tố Tố vội nói:
– Nói nhỏ thôi, kẻo người ta nghe thấy bây giờ.
Rồi nàng bật cười; giữa chốn hoang sơn tịch mịch này, làm gì có người thứ ba.
Khí hậu biến đổi, ngày ngắn dần mà đêm dài ra, sau đó ngày chỉ còn hai canh giờ là trời sáng, thời tiết cũng mỗi lúc một thêm lạnh giá. Ân Tố Tố từ khi mang thai cũng lười biếng hơn, nhưng các việc nấu nướng, khâu vá thì vẫn siêng năng.
Hôm đó, mười tháng mang thai sắp mãn, hai vợ chồng đốt lửa trong hang, ngồi tựa vào nhau trò chuyện. Ân Tố Tố nói:
– Chàng thử đoán xem mình sẽ sinh con trai hay con gái nào?
Trương Thúy Sơn nói:
– Con trai giống ta, con gái giống nàng, con trai hay con gái đều được cả.
Ân Tố Tố nói:
– Không, thiếp muốn con trai kia. Chàng hãy chọn cho con một cái tên đi.
– Mấy bữa nay chàng có tâm sự gì vậy? Muội thấy chàng dường như đang lo lắng thì phải.
Trương Thúy Sơn nói:
– Có gì đâu, chắc là sắp được làm cha nên ta sướng quá hóa ra hồ đồ một chút.
Câu này vốn là nói đùa cho vui nhưng vẻ mặt chàng không giấu nổi vẻ ưu tư. Ân Tố Tố dịu dàng nói:
– Chàng đừng giấu thiếp nữa, thiếp chỉ thêm lo. Chàng thấy có điều gì không ổn phải không?
Trương Thúy Sơn thở dài, nói:
– Chỉ mong là ta đa nghi. Ta thấy mấy bữa rày, thần sắc lão Tạ có vẻ bất thường.
Ân Tố Tố kêu “ôi” một tiếng, nói:
– Thiếp cũng thấy thế! Sắc diện lão ta càng lúc càng hung dữ, hình như lại sắp nổi điên.
Trương Thúy Sơn gật đầu, nói:
– Chắc lão nghĩ không ra bí mật của thanh đao Đồ Long, nên hóa buồn bực mà thế.
Ân Tố Tố nước mắt lưng tròng, nói:
– Vợ chồng mình có cùng chết với lão một lượt cũng chẳng sao, có điều… đằng này…
Trương Thúy Sơn nắm vai nàng, an ủi:
– Nàng nói đúng, chúng mình có con rồi, không thể liều chết với lão được. Lão tử tế thì thôi. Nếu hành hung tác ác, mình chỉ còn cách đành phải giết lão. Dẫu sao lão cũng mù lòa, không làm gì nổi chúng mình đâu.
Ân Tố Tố từ ngày mang thai không hiểu sao tự nhiên trở nên nhân từ. Hồi còn là thiếu nữ, một lúc giết cả chục mạng người nàng cũng không coi vào đâu, giờ đây làm thịt một con thú nàng cũng không nỡ. Có lần Trương Thúy Sơn bắt được một con hươu mẹ, con hươu con chạy theo về tận hang này, Ân Tố Tố đòi thả con mẹ ra, dù sau đó ba người phải ăn trái cây dại mấy ngày. Lúc này nghe Trương Thúy Sơn nói phải giết Tạ Tốn, nàng bất giác run lên.
Ân Tố Tố đang tựa vào người Trương Thúy Sơn, nên lúc run, chàng nhận biết ngay. Chàng nhìn vẻ hiền dịu của nàng, cười nói:
– Chỉ mong lão ta không nổi điên. Mình không rắp tâm hại người, song phải đề phòng mới được.
Ân Tố Tố nói:
– Đúng thế. Nếu lão ta lại phát điên, mình có cách gì chế ngự không? Hay là khi chuẩn bị thức ăn cho lão, mình bỏ độc dược vào… không, không, có lẽ lão không phát điên đâu, chúng mình đa nghi quá đấy thôi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta có cách này. Từ mai trở đi, mình dời vào sâu trong hang, bên ngoài đào một cái hào sâu, trên trải da và đất mềm.
Ân Tố Tố nói:
– Cách ấy kể cũng hay, nhưng ngày ngày chàng ra ngoài săn bắt, lỡ bị lão ta hành hung…
Trương Thúy Sơn nói:
– Ta một mình bỏ chạy dễ dàng, hễ thấy tình huống nguy nan, ta chạy lên mấy mỏm đá tai mèo, lão bị mù đuổi sao nổi?
Sáng sớm hôm sau, Trương Thúy Sơn bắt tay đào một cái hố sâu trước hang. Không có cuốc xẻng, phải bẻ cành cây làm dụng cụ, tốn sức mà kết quả chẳng là bao. May nhờ nội lực thâm hậu, bảy ngày sau chàng cũng vất vả đào xong một cái hố sâu ba trượng.
Thấy Tạ Tốn thần sắc ngày càng có vẻ bất thường, chốc chốc lại múa thanh đao Đồ Long như điên, Trương Thúy Sơn càng gắng đào sâu thêm, dự tính đến độ sâu năm trượng, sẽ cắm chông dưới đáy. Hố này trên rộng dưới hẹp, Tạ Tốn không tiến vào hang xâm phạm Ân Tố Tố thì thôi, nếu tiến vào ắt sẽ sa xuống hố. Cạnh hố chất sẵn không ít hòn đá lớn, khi lão sa xuống hố, sẽ dùng đá mà ném.
Xế trưa hôm đó, thấy Tạ Tốn cứ đi đi lại lại ở bên ngoài, cách cửa hang dăm trượng. Trương Thúy Sơn không dám tiếp tục đào, sợ lão nghe tiếng động sinh nghi ngờ. Chàng cũng không dám đi xa săn thú, chỉ thủ ở bên cạnh, theo dõi động tĩnh. Chỉ nghe Tạ Tốn luôn mồm thoá mạ, từ ông Trời đến Phật tổ tây phương, Quan Âm Đông Hải, Ngọc hoàng trên trời đến Diêm vương dưới đất, tiếp đó lão chửi rủa từ Tam hoàng Ngũ đế đến Nghiêu Thuấn Vũ Thang, Tần hoàng Đường tông, văn thì Khổng Mạnh, võ thì Quan Nhạc[34], bất kể đại thánh hiền, đại anh hùng đều bị lão chửi rủa thậm tệ. Tạ Tốn là người có học, nên khi nghe lão ta chửi bới, Trương Thúy Sơn thấy có nhiều câu khá thú vị.
Bỗng Tạ Tốn chửi tới các nhân vật võ lâm, từ Hoa Đà sáng tạo Ngũ Cầm Hí, tới Đạt Ma tổ sư của phái Thiếu Lâm, Thần quyền tán thủ của Nhạc Vũ Mục, ai và thứ gì cũng bị lão chửi tuốt. Có điều là lão không chửi suông, mà mỗi môn phái lão đều vạch rõ khuyết điểm, thiếu sót đâu ra đấy, hễ chửi là đúng. Nghe lão chửi từ đời Đường đời Tống, đến Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái, Trung Thần Thông cuối thời Nam Tống, đến Quách Tĩnh, Dương Quá, sau cùng chửi thậm tệ tổ sư phái Võ Đang Trương Tam Phong.
Lão chửi ai cũng mặc, đằng này lão nhục mạ Trương Tam Phong, bảo Trương Thúy Sơn làm sao nhịn nổi? Chàng toan lên tiếng đốp lại, đột nhiên Tạ Tốn thét lớn:
– Trương Tam Phong không ra gì, đệ tử Trương Thúy Sơn của hắn càng chẳng ra gì, ta phải bóp chết con vợ nó cái đã!
Đoạn lão xông tới, vượt qua bên cạnh Trương Thúy Sơn, xông vào hang.
Trương Thúy Sơn vội đuổi theo, chỉ nghe “hịch” một tiếng, Tạ Tốn đã sa xuống hố. Thế nhưng đáy hố chưa cắm chông, lão chưa bị thương, chỉ vì bất ngờ mà kinh hoảng thôi. Trương Thúy Sơn dùng ngay cành cây đang cầm, thấy Tạ Tốn từ dưới hố leo lên, chàng giáng mạnh xuống đầu lão ta. Tạ Tốn nghe tiếng gió, quơ tay trái chộp được cành cây, giật mạnh một cái. Trương Thúy Sơn cầm không chắc, cành cây tuột khỏi tay. Cú giật của Tạ Tốn rất mạnh, khiến hổ khẩu Trương Thúy Sơn bị rách, lòng bàn tay bị xước tóe máu. Tạ Tốn thì theo thế giật lại tụt xuống đáy hố.
Lúc này Ân Tố Tố đang trở dạ, nàng đau bụng đã nửa ngày, thoạt tiên thấy Tạ Tốn đi lại bên ngoài hang, nàng không dám nói cho phu quân biết việc mình trở dạ, sợ Tạ Tốn nghe được sẽ tìm cách gây sự sớm hơn. Bây giờ thấy tình thế nguy cấp, nàng cố nén cơn đau xé ruột, nhấc thanh trường kiếm đặt bên cạnh ném cho Trương Thúy Sơn.
Trương Thúy Sơn chụp lấy cán kiếm, nghĩ thầm: “Tạ Tốn võ công cao hơn ta quá nhiều, lão nhảy lên mà ta chém xuống, thì thể nào thanh kiếm cũng bị lão đoạt mất ngay”. Trong lúc nguy cấp, chàng bèn nghĩ cách: “Lão mù lòa, sở dĩ đoạt được vũ khí của ta là nhờ nghe tiếng gió mà vũ khí phát ra”.
Vừa lúc ấy, Tạ Tốn cười ha hả, lại tung mình nhảy lên. Trương Thúy Sơn nhắm chính xác đường lên của lão, chĩa mũi kiếm đúng đầu lão, giữ nguyên bất động. Tạ Tốn phóng người lên, thế phóng cực mạnh, đâm đầu vào đúng mũi kiếm chờ sẵn, vì thanh kiếm bất động, vô thanh vô tức, nên dẫu võ công cao siêu đến mấy, lão cũng không thể biết. Chỉ nghe “phập” một tiếng, Tạ Tốn rú lên, mũi kiếm đã đâm vào trán lão, sâu hơn một tấc. Phải nói lão ứng biến cực nhanh, mũi kiếm vừa chạm vào đầu, lão liền ngả đầu ra phía sau, đồng thời sử gấp công phu “Thiên cân trụy” rơi xuống hố. Giả dụ lão biến chiêu chậm một chút, mũi kiếm đâm thẳng vào óc thì lão đã chết tươi. Tuy thoát chết, song lão cũng đã bị trọng thương, máu chảy ròng ròng trên mặt, thanh kiếm cắm ở trán vẫn còn rung động.
Tạ Tốn rút bật thanh kiếm ra, xé vạt áo buộc vết thương, thấy choáng váng đầu óc, mắt hoa, tự biết bị thương không nhẹ, bệnh điên nổi lên, lão rút thanh đao Đồ Long bên thắt lưng ra, múa vù vù bảo vệ đỉnh đầu, lại nhảy lên lần thứ ba. Trương Thúy Sơn vác các hòn đá ném xuống, đều bị thanh đao gạt ra, chỉ thấy đao hoa như tuyết, hàn quang loang loáng. Tạ Tốn nhảy được lên khỏi hố, tiến thẳng vào hang. Trương Thúy Sơn lùi dần từng bước, đau đớn nghĩ rằng hôm nay chàng và Ân Tố Tố sẽ táng mạng mà không được nhìn thấy đứa con chào đời.
Tạ Tốn sợ Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố lẻn qua chỗ lão mà ra khỏi hang thì lão không thể đuổi kịp, bèn tay phải cầm thanh đao, tay trái cầm trường kiếm, sử dụng những chiêu số khống chế một phạm vi thật rộng, bao trùm hơn hai trượng vuông, tin chắc hai người không tài gì thoát ra.
Bỗng “oa, oa!” từ trong hang truyền ra tiếng khóc hài nhi, Tạ Tốn sửng sốt, tức thời dừng bước, tiếng hài nhi chào đời cứ oa oa liên tiếp.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố biết đại nạn lâm đầu, nhưng họ bất chấp, không thèm để ý đến Tạ Tốn mà chỉ chăm chú ngắm hài nhi vừa lọt lòng, đó là một bé trai cứ liên tục vùng vẫy tay chân, tiếng khóc rất to. Trương Ân hai người thừa biết Tạ Tốn chỉ cần một đao chém tới thì phu thê họ và hài nhi cùng bỏ mạng tức thời. Họ không nói nửa lời, mắt cũng không nhìn ngang, trong lòng thầm đa tạ ông Trời đã cho phu thê họ có dịp nhìn thấy hài nhi sơ sinh, được ngắm nó thêm giây lát nào là hưởng diễm phúc giây lát ấy. Phu thê họ đã mãn nguyện, không nghĩ gì đến số phận của mình, nếu giữ được mạng sống cho hài nhi thì tốt nhất, nhưng họ biết chẳng có hi vọng nên cũng chẳng trông mong.
Hài nhi sơ sinh vẫn khóc oa oa rất to. Đột nhiên lương tri của Tạ Tốn trỗi dậy, cuồng tính dịu hẳn đi, đầu óc trở nên tỉnh táo sáng suốt, nhớ lại hôm cả gia đình mình bị sát hại, vợ lão mới sinh hài nhi được ít ngày, rốt cuộc cả đứa bé sơ sinh cũng không thoát khỏi độc thủ của địch. Tiếng khóc oa oa lúc này gợi lão nhớ tới bao nhiêu chuyện cũ: sự ân ái của phu thê, sự hung tàn của kẻ địch, cảnh hài nhi vô tội bị quật chết thành một đám thịt bầy nhầy, sự lênh đênh cô khổ của lão, sự khổ công luyện võ mà vẫn chưa cách gì báo hận, nay tuy đã có thanh đao Đồ Long nhưng chưa tìm ra bí mật của nó… Lão đứng ngẩn ngơ xuất thần, vẻ mặt lúc thì hiền dịu vui tươi, lúc lại nghiến răng trợn mắt.
Trong giây lát trước đó, cả ba người lâm vào tình thế một mất một còn, nhưng ngay từ tiếng khóc oa oa đầu tiên của hài nhi, cả ba bỗng dưng cùng toàn thần chú tâm vào đứa bé.
Tạ Tốn đột nhiên hỏi:
– Con trai hay con gái?
Trương Thúy Sơn nói:
– Là con trai.
Tạ Tốn nói:
– Tốt lắm. Thế đã cắt rốn chưa?
Trương Thúy Sơn nói:
– Phải cắt rốn ư? À, phải rồi, phải rồi, quên biến đi mất.
Tạ Tốn quay ngược thanh kiếm, đưa phía cán ra. Trương Thúy Sơn nhận kiếm, cắt rốn cho đứa bé, bấy giờ mới nghĩ đến việc Tạ Tốn đang ở ngay bên cạnh, song lão ta không hề động thủ nên chàng lấy làm lạ, ngoảnh nhìn lão, thấy vẻ mặt của lão đầy vẻ quan hoài, tựa hồ lão sẵn sàng giúp một tay không bằng.
Ân Tố Tố nói, giọng yếu ớt:
– Để thiếp bế con.
Trương Thúy Sơn trao đứa bé vào lòng Ân Tố Tố. Tạ Tốn lại nói:
– Ngươi đã đun nước để tắm cho bé chưa?
Trương Thúy Sơn bật cười, nói:
– Tại hạ thật hồ đồ, chẳng chuẩn bị gì cả, làm cha thế này thật vô dụng.
Nói xong định chạy đi đun nước, nhưng vừa dợm bước, thấy thân hình cao lớn của Tạ Tốn sừng sững trước đứa bé, chàng sợ run lên. Tạ Tốn nói:
– Thôi ngươi ở lại săn sóc phu nhân và hài nhi, để ta đi đun nước cho.
Lão giắt thanh đao vào thắt lưng, đi ra khỏi hang, lúc tới bên cái hố thì nhẹ nhàng nhảy qua.
Lát sau quả nhiên Tạ Tốn đã bưng một chậu nước nóng vào, Trương Thúy Sơn tắm cho đứa bé. Tạ Tốn nghe tiếng khóc to của nó, hỏi:
– Bé giống cha hay giống mẹ?
Trương Thúy Sơn mỉm cười nói:
– Có vẻ giống mẹ nhiều hơn, không mập, mặt trái xoan.
Tạ Tốn thở dài, thấp giọng nói:
– Chỉ mong sau này khôn lớn, đa phúc đa thọ, ít gặp khổ nạn.
Ân Tố Tố nói:
– Tạ tiền bối thấy tướng mạo cháu bé không được tốt hay sao?
Tạ Tốn nói:
– Không phải thế. Có điều là nếu nó giống phu nhân thì sẽ quá tuấn mỹ, e rằng phúc trạch sẽ không nhiều, sau này bước vào đời dễ gặp nhiều tai ách.
Trương Thúy Sơn cười nói:
– Tạ tiền bối nghĩ quá xa, bốn chúng ta ở hòn đảo Bắc Cực này, sống đến già ở đây, làm gì còn có chuyện bước vào đời nữa?
Ân Tố Tố vội nói:
– Không, không! Chúng ta người lớn có thể không về, nhưng thằng bé này chẳng lẽ để nó lênh đênh cô khổ suốt đời trên hoang đảo? Vài chục năm nữa, ba chúng ta chết rồi, nó làm bạn với ai? Khi nó trưởng thành, làm sao lấy vợ sinh con?
Nàng từ nhỏ nhiễm tính cha, trong Thiên Ưng giáo toàn chứng kiến những sự độc ác, tàn bạo, cho nên bước vào đời hành sự cũng theo cách đó, coi là sự thường. Từ khi kết thành phu thê với Trương Thúy Sơn, nàng dần dà hướng thiện, hôm nay lại được làm mẹ, lòng nhân ái nảy sinh, nên toàn tâm toàn ý nghĩ đến con.
Trương Thúy Sơn buồn bã nhìn Ân Tố Tố, đưa tay vuốt tóc nàng, nghĩ thầm: “Hoang đảo này cách xa Trung thổ hàng vạn dặm, làm sao về được?” Nhưng chẳng nỡ làm cho nàng đau lòng, nên không nói ý nghĩ đó ra.
Tạ Tốn bỗng nói:
– Trương phu nhân nói đúng lắm. Ba chúng ta coi như xong đời, nhưng sao lại để đứa bé chết già trên hoang đảo, không được hưởng niềm hoan lạc của thế gian? Trương phu nhân, ba người mình phải dốc hết trí lực, thể lực, làm sao đưa cháu bé về Trung thổ.
Ân Tố Tố cả mừng, run rẩy đứng lên. Trương Thúy Sơn vội giơ tay đỡ nàng, lo lắng nói:
– Tố Tố, nàng làm gì vậy, cứ nằm nghỉ đã.
Ân Tố Tố nói:
– Không, ngũ ca, vợ chồng mình phải khấu đầu lạy tạ đại ân đại đức của Tạ tiền bối.
Tạ Tốn xua tay, nói:
– Đừng, đừng làm thế, cháu bé đã được đặt tên chưa?
Trương Thúy Sơn nói:
– Chưa, tiền bối học vấn uyên bác, xin hãy cho hài nhi một cái tên.
Tạ Tốn trầm ngâm nói:
– Ừm, phải đặt một cái tên thật hay, để ta nghĩ xem đã…
Ân Tố Tố chợt nghĩ thầm: “Chẳng lẽ quái nhân này lại yêu trẻ đến thế, nếu lão coi đứa bé như con mình, thì đứa bé sống trên đảo này sẽ không sợ lão sát hại, dù lão có nổi cơn điên, chắc cũng sẽ không hạ độc thủ”, bèn nói:
– Tạ tiền bối, tiểu nữ vì hài nhi này mà khẩn khoản cầu xin tiền bối một việc.
Tạ Tốn hỏi:
– Việc gì?
Ân Tố Tố nói:
– Xin tiền bối nhận hài nhi làm nghĩa tử! Lớn lên, nó sẽ phụng dưỡng tiền bối như thân sinh phụ thân. Có tiền bối che chở, nó sẽ không sợ bị ai ăn hiếp. Ngũ ca, chàng thấy có được chăng?
Trương Thúy Sơn hiểu ngay mối lo của nàng, nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Tạ tiền bối, xin hãy chấp nhận lời cầu khẩn của chúng tôi.
Tạ Tốn buồn rầu nói:
– Thân sinh hài tử của ta bị người ta đập chết, thành một đống máu thịt bầy nhầy, các ngươi biết không?
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhìn nhau, cảm thấy điều lão vừa nói lại có vẻ điên khùng, nhưng nghĩ cái cảnh thảm khốc mà lão phải chịu đựng thì cũng không khỏi se lòng. Tạ Tốn nói tiếp:
– Con ta không chết thì năm nay nó mười tám tuổi, ta đem võ công một đời truyền thụ cho nó, hà hà, thì nó cũng chẳng kém gì Võ Đang thất hiệp.
Câu nói đó vừa có vẻ thê lương, vừa có phần cuồng ngạo, trong cái tự phụ lại chứa chất nỗi thương tâm vô hạn. Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn bất giác cảm thấy ân hận: “Giá hôm trước trên núi băng mình không hủy hoại cặp mắt của lão ta, bốn người chung sống ở hoang đảo này, không lo nghĩ gì, chẳng hay lắm ru?”
Ba người im lặng giây lát. Trương Thúy Sơn nói:
– Tạ tiền bối, nếu tiền bối nhận hài nhi này làm nghĩa tử, chúng tôi sẽ cho nó đổi sang họ Tạ.
Tạ Tốn thoáng lộ vẻ vui mừng, nói:
– Ngươi chịu để nó mang họ Tạ ư? Đứa con của ta bị chết, tên nó là Tạ Vô Kỵ đó.
Trương Thúy Sơn nói:
– Nếu tiền bối muốn, thì thằng bé này cũng lấy tên là Tạ Vô Kỵ đi.
Tạ Tốn cả mừng, chỉ lo Trương Thúy Sơn nói rồi sau lại hối hận, bèn hỏi:
– Các ngươi đem con cho ta, còn chính mình thì sao?
Trương Thúy Sơn nói:
– Hài nhi dù họ Trương hay họ Tạ, chúng tôi cũng yêu thương nó. Sau này nó hiếu thuận với song thân, kính ái nghĩa phụ, không phân biệt thân sơ, há chẳng hay lắm sao? Tố Tố, nàng thấy thế nào?
Ân Tố Tố ngần ngại một chút, rồi nói:
– Chàng bảo sao thì là vậy. Hài nhi có thêm một người yêu thương thì càng may cho nó.
Tạ Tốn vái hai người một cái thật dài, nói:
– Vậy Tạ mỗ đa tạ hai vị, cái hận mù mắt, từ nay xóa bỏ. Tạ mỗ tuy mất con, nay lại có con, tương lai Tạ Vô Kỵ dương danh thiên hạ, người đời sẽ biết phụ mẫu của nó là Trương Thúy Sơn, Ân Tố Tố, còn nghĩa phụ của nó là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
Ân Tố Tố ban nãy hơi ngần ngại, vì nàng nghĩ Tạ Vô Kỵ, con của Tạ Tốn, đã bị người ta quật chết thảm khốc, nay con mình lấy tên đó e chẳng lành; nhưng khi thấy Tạ Tốn quá ư sung sướng, hẳn rồi đây lão sẽ cưng chiều thằng bé hết mực, thằng bé sẽ được hưởng rất nhiều may mắn, cái tình mẫu tử nó thế, việc dù nhỏ nhưng miễn có lợi cho con, thì đều hi sinh cả, bèn nói:
– Tiền bối có muốn bế nó một chút không?
Tạ Tốn chìa hai tay ra, bồng đứa bé bằng hai cánh tay, sung sướng quá chảy cả nước mắt, hai tay run run, nói:
– Trương phu nhân… ẵm nó đi, hình dạng ta thế này, nó sợ chết khiếp mất.
Thực ra trẻ sơ sinh đâu biết gì, nhưng lời nói của Tạ Tốn đã chứng tỏ lão yêu thương thằng bé lắm lắm. Ân Tố Tố mỉm cười, nói:
– Tiền bối thích thì cứ bồng nó một lát; sau này tiền bối còn dắt nó đi chơi.
Tạ Tốn nói:
– Hay lắm, hay lắm!
Nghe thằng bé khóc to, lão nói:
– Thằng bé đói rồi, cho nó bú thôi! Ta ra bên ngoài đây.
Thực ra lão mù lòa, Ân Tố Tố có vạch vú cho con bú cũng không sao, nhưng khi lão nổi điên thô bạo bao nhiêu đến khi tỉnh táo lại thành bậc quân tử nho nhã bấy nhiêu.
Trương Thúy Sơn nói:
– Tạ tiền bối…
Tạ Tốn ngắt lời, nói:
– Này, giờ chúng ta đã thành người một nhà, đừng có xưng hô tiền bối hậu bối gì nữa, nghe xa cách lắm. Để ta nói mà nghe, ba chúng ta hãy kết thành kim lan huynh đệ, lợi cả cho thằng bé sau này.
Trương Thúy Sơn nói:
– Các hạ là cao nhân tiền bối, vợ chồng chúng tôi thân phận thua kém quá xa so với tiền bối, sao dám với cao?
Tạ Tốn nói:
– Ồ, là con nhà võ, sao còn cổ hủ thế? Này ngũ đệ, ngũ muội, hai người gọi ta là đại ca, được hay không thì bảo?
Ân Tố Tố cười đáp:
– Để muội gọi đại ca trước cho, hai ta kết thành huynh muội. Nếu ngũ ca còn gọi đại ca là tiền bối thì muội cũng thành tiền bối của ngũ ca!
Trương Thúy Sơn nói:
– Đã thế, tiểu đệ đành phải tuân lệnh đại ca vậy.
Ân Tố Tố nói:
– Ba chúng ta cứ định trước như thế đã. Vài hôm nữa muội khỏe lại, mình sẽ làm lễ cáo tế thiên địa, bái kết nghĩa phụ, nghĩa huynh.
Tạ Tốn cười ha hả, nói:
– Đại trượng phu một lời đã nói, suốt đời không đổi, hà tất phải tế thiên cáo địa? Tặc lão thiên không lo nổi cho chính mình, Tạ Tốn này hận tặc lão thiên vô cùng.
Nói xong hiên ngang đi ra khỏi hang, chỉ nghe vọng vào tiếng cười ha hả đắc ý của lão. Trương Ân hai người từ dạo biết Tạ Tốn đến nay chưa bao giờ thấy lão hoan hỉ như thế.
Từ đó ba người toàn tâm toàn ý nuôi dưỡng thằng bé. Tạ Tốn thời trẻ vốn làm thợ săn, hiệu xưng Kim Mao Sư Vương, kỹ năng săn bắt và thuần dưỡng muông thú là vô song trong thiên hạ. Trương Thúy Sơn miêu tả tỉ mỉ địa hình trên đảo, đưa Tạ Tốn đi một lượt là Tạ Tốn nhớ hết. Từ đó việc săn bắt gấu, hươu do một mình Tạ Tốn lo liệu.
Thấm thoắt mấy năm trôi qua, ba người sống trên đảo bình yên vô sự. Thằng bé không bệnh tật gì, càng lớn càng khỏe mạnh. Trong ba người, hóa ra Tạ Tốn lại cưng chiều nó nhất, mỗi khi nó quá ương ngạnh, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố định trách phạt nó, Tạ Tốn lại can ngăn. Mấy lần như thế, nó biết có nghĩa phụ che chở nên hễ thấy phụ mẫu nổi giận là lập tức chạy sang cầu cứu Tạ Tốn. Trương Ân hai người chỉ còn còn cách lắc đầu cười nụ, nói đại ca nuông nó quá hóa hư.
Năm Tạ Vô Kỵ lên bốn, Ân Tố Tố dạy nó học chữ. Sinh nhật năm tuổi, Trương Thúy Sơn nói:
– Đại ca, thằng bé học võ được rồi đấy, từ hôm nay đại ca dạy cho nó được chưa?
Tạ Tốn lắc đầu:
– Chưa được, võ công của huynh quá sâu, trẻ con không thể lĩnh hội nổi. Đệ hãy truyền tâm pháp Võ Đang cho nó trước đi, đến năm nó lên tám, huynh sẽ dạy nó. Dạy hai năm thì các ngươi có thể trở về được rồi!
Ân Tố Tố ngạc nhiên hỏi:
– Đại ca nói trở về là về đâu? Về Trung thổ ư?
Tạ Tốn nói:
– Mấy năm nay huynh ngày đêm lưu tâm nghe ngóng hướng gió và thủy lưu, hàng năm, đến thời gian đêm tối dài nhất đều có gió bắc thổi liên tiếp mấy chục ngày đêm. Mình có thể đóng một cái bè gỗ lớn, giương buồm lên, thuận theo gió bắc xuôi bè về nam, nếu tặc lão thiên không phá đám thì các người có thể về đến Trung thổ.
Ân Tố Tố nói:
– Chỉ vợ chồng muội thôi ư? Còn đại ca sao không đi cùng?
Tạ Tốn nói:
– Ta mù lòa, về Trung thổ mà làm gì?
Ân Tố Tố nói:
– Dù đại ca không đi cùng, chúng tôi cũng quyết không bỏ đại ca ở lại một mình. Thằng bé chắc cũng không chịu, thiếu nghĩa phụ, ai cưng chiều nó đây?
Tạ Tốn thở dài:
– Huynh cưng chiều nó mười năm là đủ rồi. Tặc lão thiên vốn hay sinh sự với huynh, nếu thằng bé ở bên huynh quá lâu, chỉ e tặc lão thiên giận nó, giáng họa cho nó mất thôi.
Ân Tố Tố run sợ, mong rằng Tạ Tốn chỉ thuận miệng nói thế thôi, nên cũng không để tâm.
Trương Thúy Sơn truyền thụ cho thằng bé nội công thật căn cơ, nghĩ rằng nó còn nhỏ, chỉ cốt sao khỏe mạnh là đủ, chứ ở trên hoang đảo này thì đánh nhau với ai. Tạ Tốn tuy có nhắc đến việc trở về Trung thổ, nhưng sau đó cũng không lần nào đề cập nữa, xem ra chỉ là cái hứng nhất thời, không thể theo đó mà làm.
Đến năm thứ tám, Tạ Tốn quả nhiên muốn Vô Kỵ theo lão học võ. Khi truyền thụ, lão không gọi Trương Ân hai người đứng bên cạnh xem, mà vợ chồng họ cũng tuân thủ quy củ võ lâm, tránh ra một chỗ thật xa, về sự tiến triển võ công của thằng bé, họ cũng không dò hỏi, tin rằng những gì Tạ Tốn truyền cho đều là tuyệt học cao minh dị thường.
Trên đảo không có gì đáng nhớ, tháng ngày trôi như nước chảy, thắm thoắt lại hơn một năm nữa qua mau.
Từ khi Vô Kỵ ra đời, Tạ Tốn trong lòng đã có chốn ký thác nên không để tâm đến thanh đao Đồ Long nữa. Một đêm nọ Trương Thúy Sơn mất ngủ, nửa đêm ra ngoài tản bộ, dưới ánh trăng thấy Tạ Tốn ngồi xếp bằng trên một tảng đá, tay nắm thanh đao Đồ Long, đang cúi đầu trầm tư. Trương Thúy Sơn giật mình, định tránh đi, nhưng Tạ Tốn đã nghe thấy tiếng chân của chàng, nói:
– Ngũ đệ này, tám chữ “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long” xem ra chỉ là hư vọng.
Trương Thúy Sơn tới gần, nói:
– Trong võ lâm có rất nhiều chuyện hoang đường, người thông minh tài trí như đại ca sao lại quá tin vào mấy truyền thuyết về một thanh đao kia chứ?
Tạ Tốn nói:
– Ngũ đệ có điều chưa biết đấy, huynh từng nghe một vị cao tăng của phái Thiếu Lâm là Không Kiến đại sư nói về việc này rồi.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ồ, Không Kiến đại sư ư? Nghe nói đó là sư huynh của chưởng môn phái Thiếu Lâm Không Văn đại sư, viên tịch đã lâu.
Tạ Tốn gật đầu nói:
– Phải, Không Kiến đại sư chết rồi, là do huynh đánh chết đó.
Trương Thúy Sơn cả kinh, nghĩ trong giang hồ có câu “Thiếu Lâm thần tăng, Kiến, Văn, Trí, Tính” là chỉ bốn vị hòa thượng võ công tối cao của phái Thiếu Lâm đương thời Không Kiến, Không Văn, Không Trí, Không Tính; sau nghe tin Không Kiến đại sư viên tịch vì bệnh, không ngờ là bị Tạ Tốn đánh chết.
Tạ Tốn thở dài, nói:
– Không Kiến đại sư quá ư cố chấp, toàn để ta đánh, trước sau không chịu đánh trả, huynh đánh Không Kiến đại sư được mười ba quyền thì đại sư chết.
Trương Thúy Sơn càng thêm kinh hãi, nghĩ thầm: “Người nào chịu nổi một quyền một cước của đại ca mà chưa chết, đã được xếp vào loại đệ nhất cao thủ võ lâm, vậy mà vị thần tăng của phái Thiếu Lâm chịu được tới quyền thứ mười ba, thân thể có lẽ còn hơn thiết thạch”.
Chỉ thấy Tạ Tốn thần sắc thê lương, có vẻ hối hận, hẳn trong vụ này ẩn giấu điều gì rất hệ trọng. Từ dạo chàng kết nghĩa huynh đệ với Tạ Tốn đến nay đã tám năm cùng sống trên hoang đảo, tình như cốt nhục, song đối với vị nghĩa huynh này, dù kính trọng bảy phần vẫn còn ba phần kinh hãi, không dám hỏi nhiều, chỉ lo khơi lại hận cũ của lão.
Tạ Tốn nói tiếp:
– Huynh bình sinh chỉ khâm phục có vài người. Tôn sư Trương chân nhân, huynh ngưỡng mộ đã lâu, nhưng chưa có duyên diện kiến. Còn Không Kiến đại sư quả là một vị cao tăng. Tuy về võ công Không Kiến đại sư chẳng nổi danh như hai sư đệ Không Trí, Không Tính, nhưng dưới mắt huynh thì hai vị sư đệ kia không thể nào sánh kịp Không Kiến đại sư.
Trương Thúy Sơn cũng từng nghe Tạ Tốn bình phẩm về các nhân vật đương thời, phần đông đều bị lão chê bai, ai được lão chửi bới vài câu, đã được coi là nhân vật hạng nhất, được y tán thưởng một lời lại càng hiếm có; nào ngờ nhắc đến Không Kiến đại sư, lão lại tỏ ý khâm phục như vậy, quả thật bất ngờ, chàng nói:
– Có lẽ vì người ẩn cư thanh tu, ít hành tẩu giang hồ, nên tuy võ học cao siêu mà ít ai biết đến.
Tạ Tốn ngẩng mặt lên trời, lẩm bẩm một mình:
– Tiếc thay một vị kỳ sĩ cái thế trong võ lâm như thế, cuối cùng lại để cho ta đánh chết! Không Kiến đại sư tuy võ công cao siêu, song không lợi hại. Nếu dạo đó Không Kiến đại sư xuất thủ trả đòn thì Tạ Tốn này đâu còn mạng sống đến hôm nay?
Trương Thúy Sơn nói:
– Không lẽ võ công của vị cao tăng ấy còn thâm hậu hơn cả đại ca?
Tạ Tốn nói:
– Huynh làm sao bì kịp Không Kiến đại sư? Huynh còn thua xa, thua xa lắm! Đúng là cách nhau một trời một vực!
Lúc nói câu này, sắc diện và giọng nói Tạ Tốn đầy vẻ kính ngưỡng khâm phục.
Trương Thúy Sơn lấy làm lạ, thâm tâm không tin lắm, tự nghĩ ân sư Trương Tam Phong võ công hiếm có trên thế gian, so với Tạ Tốn chỉ e cao hơn nửa bậc, nếu Không Kiến đại sư quả thật so với Tạ Tốn là “một trời một vực”, vậy chẳng lẽ còn cao siêu hơn ân sư hay sao? Chàng cũng biết tuy trong danh tính của Tạ Tốn có chữ “Tốn” là khiêm tốn, song tính cách lão cực kỳ kiêu ngạo, nếu võ công của Không Kiến đại sư không thật sự cao siêu chắc chắn Tạ Tốn không khi nào chịu khâm phục như vậy.
Tạ Tốn tựa hồ đoán biết ý nghĩ của chàng, nói:
– Đệ không tin chứ gì? Được, hãy đi gọi Vô Kỵ lại đây, huynh kể chuyện cũ cho nghe.
Trương Thúy Sơn thầm nghĩ lúc tam canh bán dạ này, Vô Kỵ hẳn đã ngủ say, lay nó dậy để nghe chuyện cũ, đối với thằng bé thật vô ích, nhưng đại ca đã ra lệnh, chàng không thể chối từ, bèn đi vào hang lay gọi con dậy. Vô Kỵ nghe nói nghĩa phụ kể chuyện cũ thì reo lên mừng rỡ khiến Ân Tố Tố cũng dậy theo. Ba người cùng đi ra, ngồi xuống bên Tạ Tốn.
Tạ Tốn nói:
– Hài tử, không lâu nữa ngươi sẽ trở về Trung thổ…
– Nếu chiếc bè chúng ta làm bị chìm dưới biển khơi, hoặc trôi đi mất tăm thì khỏi nói, coi như hết. Nhưng nếu về được Trung thổ, ta dặn ngươi thế này: tâm địa người đời rất hiểm ác, không được tin bất cứ ai. Trừ phụ mẫu, còn hết thảy mọi người đều rắp tâm hại ngươi. Tiếc rằng thời ta còn nhỏ, không ai nói cho ta biết điều đó. Ôi, mà dù có nói, chắc dạo ấy ta cũng chẳng tin.
“Năm ta lên mười, vì một cơ duyên bất ngờ, ta trở thành môn đệ của một người có võ công cao siêu. Sư phụ của ta thấy ta tư chất cũng khá, nên đem hết tuyệt nghệ truyền thụ cho. Sư đồ ta tình như phụ tử, này ngũ đệ, dạo ấy ta đối với sư phụ cũng ngưỡng mộ kính ái chẳng khác gì ngũ đệ đối với ân sư Trương chân nhân đâu. Năm hai mươi ba tuổi, ta rời sư môn, đi mãi Tây Vực, kết giao với một số bằng hữu rất có danh vọng, được họ quý trọng, coi ta như huynh đệ. Này ngũ muội, lệnh tôn Bạch Mi Ưng Vương thời gian ấy cũng đã kết giao với huynh đó. Rồi ta lấy vợ sinh con, một nhà sum họp hết sức vui vầy.
“Năm ta hai mươi tám tuổi, sư phụ đến thăm gia đình ta mấy ngày, ta rất đỗi vui mừng, toàn gia thành tâm khoản đãi; khi rảnh rỗi, sư phụ lại chỉ giáo thêm cho ta về võ nghệ. Ai ngờ vị cao thủ thành danh trong võ lâm ấy rốt cuộc lại mặt người dạ thú, rằm tháng Bảy năm đó, uống rượu xong, bỗng giở trò cường bạo với thê tử ta…”
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng kêu “ôi” một tiếng, việc sư phụ cưỡng gian thê thiếp của đệ tử là điều chưa từng xảy ra trong võ lâm, có thể coi là đại ác sự mà cả trời lẫn người đều căm phẫn.
Tạ Tốn kể tiếp:
– Thê tử ta kêu cứu, phụ thân ta nghe tiếng chạy vào buồng, sư phụ ta thấy sự tình bại lộ liền một quyền đánh chết phụ thân ta, sau đó đánh chết luôn mẫu thân ta, đem đứa con ta chưa đầy năm là Tạ Vô Kỵ…
Vô Kỵ nghe nhắc đến tên mình, lấy làm lạ, hỏi:
– Tạ Vô Kỵ à?
Trương Thúy Sơn mắng nó:
– Không được hỏi, để nghĩa phụ kể.
Tạ Tốn nói:
– Phải, con trai ta trùng tên với ngươi, cũng gọi là Tạ Vô Kỵ. Sư phụ ta túm chân nó lên, quật xuống thành một đống máu thịt bầy nhầy.
Vô Kỵ không nhịn được, lại hỏi:
– Nghĩa phụ, thế y… y có sống được không?
Tạ Tốn rầu rĩ lắc đầu:
– Không sống được! Sống sao được!
Ân Tố Tố quay qua phía con, xua xua tay, bảo nó đừng hỏi nữa.
Tạ Tốn lặng người hồi lâu, mới kể tiếp:
– Lúc ấy ta thấy tình cảnh đó, sợ hết hồn, ngây ra chưa biết đối phó thế nào với vị ân sư bình sinh ta kính ái bậc nhất, thì đột nhiên sư phụ đã giáng một quyền vào ngực ta. Ta bàng hoàng đến mức không nghĩ đến việc chống đỡ, trúng một quyền liền ngã lăn bất tỉnh. Lúc tỉnh lại, sư phụ ta đã đi mất, chỉ thấy trong nhà ngổn ngang tử thi, phụ mẫu, thê tử, đệ muội, nô bộc, toàn gia mười ba người, đều chết dưới tay sư phụ. Có lẽ y tưởng rằng một quyền đã đánh chết ta nên không hạ độc thủ nữa.
“Ta bị một trận ốm nặng, sau đó ta khổ luyện võ công, ba năm sau đi tìm sư phụ báo cừu. Nhưng công phu của ta còn thua kém y quá xa, gọi là báo cừu, nào ngờ chỉ chuốc thêm nhục, nhưng món nợ máu mười ba nhân mạng kia, làm sao có thể bỏ qua? Thế là ta tìm kiếm mọi danh sư, luyện tập quên ăn quên ngủ, sự khổ công ấy cũng thành tựu phần nào. Năm năm sau, ta tự cảm thấy công phu đại tiến, lại đi tìm sư phụ. Ai ngờ công phu của ta tuy cao, song tài nghệ của lão ta còn cao hơn nhiều, chuyến báo cừu lần thứ hai, ta bị đánh trọng thương.
“Sau khi hồi phục không lâu, ta có được pho quyền phổ Thất Thương Quyền, đường quyền pháp này uy lực quả không tầm thường. Thế là ta chuyên luyện nội kình theo Thất Thương Quyền, hai năm sau thì quyền kỹ đại thành, tự cho mình đã ngang ngửa với các cao thủ đệ nhất trong thiên hạ. Sư phụ ta nếu không có sự kỳ ngộ nào khác, chắc chắn quyết không thể là địch thủ của ta. Ai ngờ lần thứ ba đi tìm lão ta, thì không thấy y ở chốn cũ nữa. Ta nghe ngóng khắp nơi trong giang hồ, vẫn không tìm ra tung tích lão ta, có lẽ lão ta đã lẩn tránh vào một nơi thâm sơn cùng cốc nào đó, đất trời bao la biết đằng nào mà tìm?
Ta vô cùng tức giận, liền đi gây án khắp nơi, giết người phóng hỏa, việc gì cũng làm. Mỗi vụ án, ta đều lưu lại danh tính của sư phụ ta trên tường!”
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng kêu “à” một tiếng. Tạ Tốn nói:
– Các ngươi đã biết sư phụ ta là ai rồi chứ?
Ân Tố Tố gật đầu, nói:
– Ồ, hóa ra đại ca là đệ tử của Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn.
Hơn hai năm trước, trong võ lâm đột nhiên xảy ra nhiều sóng gió, từ Liêu Đông đến Lĩnh Nam, trong vòng nửa năm xảy ra hơn ba chục vụ đại án, nhiều hào kiệt nổi danh bỗng dưng bị giết một cách mờ ám, hung thủ lần nào cũng lưu lại trên tường cái tên Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn. Người bị hại nếu không phải là chưởng môn phái, thì cũng là một lão anh hùng quảng giao. Mỗi vụ án đều liên quan đến nhiều người. Chỉ cần một vụ cũng đủ chấn động võ lâm, huống hồ liên tiếp hơn ba chục vụ. Dạo đó Võ Đang thất hiệp cũng được lệnh sư phụ xuống núi xác minh, song không lần ra manh mối. Mọi người đều biết rằng có kẻ cố ý giá họa cho Thành Côn. Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn võ công rất cao, trước nay thanh danh rất tốt, trong số nạn nhân lại có mấy vị bằng hữu thâm giao của Thành Côn, nên các vụ án kia tất nhiên không phải do lão gây ra. Song muốn biết hung thủ là ai, trước tiên cần tìm gặp Thành Côn đã, thế nhưng lão lại bỗng dưng biến mất, không chút tung tích, tăm hơi gì cả. Sau một thời gian náo loạn, hơn ba chục vụ án rồi cũng lắng dần. Tuy có hàng trăm hàng ngàn người muốn báo cừu rửa hận, song không biết hung thủ là kẻ nào, ai nấy đành ghi nhớ trong lòng. Nếu hôm nay Tạ Tốn không thổ lộ chân tướng, hẳn Trương Thúy Sơn cũng không bao giờ biết được nguyên ủy sự việc.
Tạ Tốn nói:
– Ta mạo danh Thành Côn gây án, là nhằm bức lão phải ra mặt, dù lão có rụt cổ rụt đầu như con rùa để trốn tránh, thì cũng có hàng ngàn người trong võ lâm đi tìm lão hỏi chuyện, dĩ nhiên phải hơn là một mình ta tìm kiếm.
Ân Tố Tố nói:
– Kế đó cũng hay, có điều là rất nhiều người vô tội phải chết dưới tay đại ca, thành các oan hồn dưới âm phủ, thật tội nghiệp.
Tạ Tốn nói:
– Thế phụ mẫu thê nhi của ta bị Thành Côn sát hại không phải là những người vô tội cả sao? Không tội nghiệp sao? Huynh thấy trước kia tính muội rất sảng khoái, sống chín năm với ngũ đệ, nay nhiễm phải cái tính ủy mị của hắn mất rồi.
Ân Tố Tố nhìn phu quân một cái, mỉm cười, nói:
– Đại ca, các vụ án kia bất ngờ xảy ra, rồi lẳng lặng chìm đi, sau đó đại ca có tìm thấy Thành Côn hay không?
Tạ Tốn nói:
– Không tìm thấy, không tìm thấy! Sau đó ở Lạc Dương ta gặp Tống Viễn Kiều.
Trương Thúy Sơn kinh ngạc, hỏi:
– Gặp đại sư ca Tống Viễn Kiều của tiểu đệ ư?
Tạ Tốn nói:
– Phải, chính là Tống Viễn Kiều, kẻ đứng đầu Võ Đang thất hiệp. Ta đã gây ra nhiều đại án, làm náo loạn đảo điên cả giới giang hồ, sư phụ ta Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn.
Vô Kỵ nói:
– Nghĩa phụ, lão ta xấu xa như thế, sao nghĩa phụ còn gọi lão ta là sư phụ?
Tạ Tốn cười buồn, nói:
– Ta từ nhỏ gọi thế quen miệng rồi. Vả lại, quá nửa võ công của nghĩa phụ là do lão ta truyền thụ. Tuy lão ta cực kỳ xấu xa tệ hại, nghĩa phụ cũng chả phải người tốt, không chừng mọi cái hay, cái dở của nghĩa phụ đều do lão ta dạy cả, cho nên ta vẫn gọi lão là sư phụ.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Đại ca một đời bị thảm họa, quá căm phẫn, nên hành sự không phân biệt phải trái. Vô Kỵ nghe các chuyện đó, ghi nhớ trong lòng, thì sau này lập thân sẽ rất có hại, vài bữa nữa mình phải giải thích rõ cho nó mới được”.
Tạ Tốn nói tiếp:
– Ta thấy sư phụ nín nhịn, nhất quyết không lộ diện như thế, bèn nghĩ rằng nếu không gây một vụ đại án kinh thiên động địa, thì khó lòng bức lão ta xuất hiện. Hiện nay trong võ lâm có hai phái Thiếu Lâm và Võ Đang được đề cao hơn cả, xem chừng phải giết một đệ nhất cao thủ của phái Thiếu Lâm hoặc phái Võ Đang, may ra mới kiến hiệu. Hôm đó ở Mẫu Đơn viên, bên ngoài quán Thanh Hư ở Lạc Dương, ta thấy Tống Viễn Kiều ra tay trừng trị một tên ác bá, võ công rất cao cường, ta quyết định đêm ấy sẽ giết hắn.
Trương Thúy Sơn nghe vậy thì sợ quá, chàng biết đại sư ca không hề bị Tạ Tốn sát hại, nhưng hình dung tình thế hung hiểm lúc đó, tâm tư không khỏi ghê sợ. Tạ Tốn võ công cao hơn hẳn Tống sư ca, huống hồ một người ở ngoài sáng, một kẻ trong bóng tối, nếu thực sự ra tay, đại sư ca khó bề toàn mạng. Ân Tố Tố cũng biết là Tống Viễn Kiều chưa chết, nói:
– Đại ca, chắc là tự dưng đại ca không nỡ giết người vô tội, chứ nếu đại ca giết Tống đại hiệp, thì Trương ngũ hiệp đây sớm đã liều mạng với đại ca, chứ đâu có kết thành huynh đệ.
Tạ Tốn hừ một tiếng, nói:
– Làm gì có chuyện nỡ hay không nỡ? Nếu là hôm nay, ta nể mặt ngũ đệ, sẽ không gây sự với phái Võ Đang; chứ dạo đó, ta chưa biết ngũ đệ, đừng nói Tống Viễn Kiều, có chính là ngũ đệ bị ta gặp chăng nữa, ta cũng giết đã rồi tính sau.
Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:
– Nghĩa phụ, tại sao nghĩa phụ lại muốn giết phụ thân con?
– Tặc lão thiên tuy có nhiều trò tệ hại, nhưng rốt cuộc không để ta giết Tống Viễn Kiều, nếu không, ta và thân phụ ngươi đâu có kết thành huynh đệ.
Ngừng giây lát, Tạ Tốn nói tiếp:
– Tối hôm đó, dùng bữa xong, ta ngồi dưỡng thần. Ta biết Tống Viễn Kiều là kẻ đứng đầu Võ Đang thất hiệp, võ công ắt cao siêu hơn người; nếu giáng một đòn không trúng, để hắn chạy thoát, hoặc hắn chỉ bị trọng thương chứ không chết, thì hành tung của ta sẽ bại lộ, mưu kế bức sư phụ xuất đầu lộ diện hóa thành xôi hỏng bỏng không, hào kiệt khắp thiên hạ sẽ dồn vào đánh ta, dù Tạ Tốn này có ba đầu sáu tay cũng chẳng địch nổi. Ta có chết cũng không sao, nhưng mối huyết hải thâm cừu kia làm sao báo được.
Trương Thúy Sơn nói:
– Thế đại ca tỷ thí với đại sư ca của tiểu đệ, sau đó thế nào? Lạ thật, đại sư ca chẳng kể gì với các sư đệ về vụ đó.
Tạ Tốn nói:
– Tống Viễn Kiều trước sau đâu hay biết chút gì, cả đến sáu chữ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn e rằng hắn cũng chưa nghe bao giờ, bởi lẽ sau đấy ta không đi tìm hắn nữa.
Trương Thúy Sơn thở phào, nói:
– Đa tạ thiên địa!
Ân Tố Tố cười, nói:
– Sao lại đa tạ tặc lão thiên, tặc lão địa, phải đa tạ Tạ đại ca ngay trước mặt mới đúng chứ!
– Tình cảnh tối hôm đó, giờ ta vẫn còn nhớ như in. Ta ngồi trên giường lò trong khách điếm, ngầm vận chân khí, ôn lại trong óc vài lượt pho Thất Thương Quyền. Ngũ đệ, ngươi chưa hề biết đến Thất Thương Quyền của ta, có muốn xem thử hay không?
Trương Thúy Sơn chưa kịp đáp, Ân Tố Tố vội nói:
– Chắc là thần diệu vô song, uy mãnh tuyệt luân. Đại ca, sao lúc đó đại ca không đi tìm Tống đại hiệp?
Tạ Tốn mỉm cười, nói:
– Muội sợ ta thử quyền sẽ đả thương phu quân muội chứ gì? Nếu không thu phát quyền lực tùy ý muốn, thì sao được gọi là “Thất Thương Quyền”?
Nói đoạn lão đứng lên, đi tới bên một cây đại thụ, quát một tiếng như tiếng sấm, giáng một quyền vào thân cây.
Cứ như công lực của lão, thì một quyền kia nếu không làm gãy lìa thân cây, cũng sẽ lõm sâu vào trong gỗ; nào ngờ khi lão thu quyền về, cây ấy không suy suyển gì cả, ngay lớp vỏ cây cũng chẳng hề sây sát. Ân Tố Tố không khỏi thương cảm, nghĩ thầm: “Đại ca ở trên đảo chín năm, võ công bị mất hết rồi. Bao năm nay mình không thấy đại ca ôn luyện, làm gì chẳng mất”. Sợ Tạ Tốn đau lòng, nàng vẫn lớn tiếng khen ngợi.
Tạ Tốn nói:
– Ngũ muội, lời khen của muội nghe gượng lắm. Muội tưởng võ công của ta kém hẳn ngày trước, phải không?
Ân Tố Tố nói:
– Ở chốn hoang đảo cực bắc, quanh quẩn chỉ có bốn người thân, còn luyện võ làm chi?
Tạ Tốn hỏi:
– Ngũ đệ, ngươi có nhận biết điều huyền diệu gì chăng?
Trương Thúy Sơn nói:
– Tiểu đệ thấy thế đánh một quyền của đại ca thập phần cương mãnh, vậy mà lúc đánh vào thân cây, đến cái lá cũng không lay động, điều đó tiểu đệ không sao hiểu nổi. Ngay bé Vô Kỵ đánh một quyền, cành cây cũng phải rung chuyển nữa là.
Vô Kỵ nói:
– Con làm được!
Thằng bé chạy tới, đấm “bình” một cái vào thân cây, quả nhiên cành lá rung chuyển, ánh trăng chiếu vào, bóng cây dưới mặt đất chao động không ngừng.
Phu phụ Trương Thúy Sơn thấy quyền của đứa con đánh ra có lực như thế, trong lòng vui mừng, cùng nhìn Tạ Tốn, chờ lão giảng giải đạo lý Thất Thương Quyền.
Tạ Tốn nói:
– Ba ngày sau, lá cây sẽ vàng úa và rụng dần, nửa tháng sau, cây kia sẽ khô héo hết. Ta đã đánh đứt các gân mạch bên trong thân cây rồi.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố không khỏi kinh hãi, biết Tạ Tốn không hề nói ngoa. Tạ Tốn rút thanh đao Đồ Long ra khỏi vỏ, chém vào thân cây một nhát, “rầm” một tiếng, nửa trên của cây đại thụ đổ ra phía ngoài. Tạ Tốn thu đao về, nói:
– Các ngươi nhìn xem uy lực Thất Thương Quyền của ta có còn uy mãnh hay không?
Ba người đến nhìn vết đao cắt ngang thân cây, thấy các gân mạch dẫn nước trong lõi cây quá nửa đã bị gãy đứt, bị vặn xoắn, vỡ nát, các thớ gỗ chỗ thì đứt làm vài đoạn, chỗ đứt chỗ không, hiển nhiên một quyền vừa rồi của Tạ Tốn bao hàm nhiều kình lực khác nhau. Trương Ân hai người vô cùng thán phục. Trương Thúy Sơn nói:
– Đại ca, hôm nay quả thật khiến cho tiểu đệ sáng mắt ra rất nhiều.
Tạ Tốn không giấu vẻ đắc ý, nói:
– Một quyền của ta bao gồm bảy kình lực khác nhau, cương mãnh có, âm nhu có, trong cương có nhu, trong nhu có cương, đánh ngang có, chém thẳng có, ép vào có. Đối phương đỡ được kình lực thứ nhất, không đỡ nổi kình lực thứ hai; đỡ được kình lực thứ hai cũng không đỡ nổi kình lực thứ ba. Hà hà, bởi thế mới có tên là Thất Thương Quyền! Ngũ đệ, hôm ngươi đấu chưởng lực với ta, nếu ta sử dụng Thất Thương Quyền, làm sao ngươi chịu thấu?
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng vậy.
Vô Kỵ muốn biết tại sao phụ thân lại đấu chưởng với nghĩa phụ, thấy mẫu thân liên tiếp xua tay nên không dám hỏi việc đó, chỉ nói:
– Nghĩa phụ dạy Thất Thương Quyền cho hài nhi được chăng?
– Vô Kỵ, sao ngươi ngốc thế? Môn võ công tinh diệu của nghĩa phụ ngươi phải có nội công thượng thừa trước đã, rồi mới luyện được.
Vô Kỵ nói:
– Phải rồi, vậy để con luyện nội công thượng thừa rồi sẽ hay.
Tạ Tốn lắc đầu:
– Môn Thất Thương Quyền này không luyện thì hơn. Trong cơ thể mỗi người đều có hai khí âm dương, ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ. Tim thuộc hỏa, phổi thuộc kim, thận thuộc thủy, tì thuộc thổ, gan thuộc mộc. Khi luyện Thất Thương Quyền thì cả bảy bộ phận đều bị thương. Mỗi lần luyện là một lần nội tạng bị tổn hại, nên gọi là Thất Thương, đúng là hại mình trước, hại địch sau. Chính vì ta luyện môn quyền pháp này mà bị thương tâm mạch, thi thoảng nổi cơn điên, không cách gì chế ngự đó.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố lúc này mới biết vì sao Tạ Tốn tài trí hơn người, võ công cao cường, nhưng khi nổi điên lại mất hết lý trí.
Tạ Tốn lại nói:
– Nếu như nội lực của ta vững vàng được như Không Kiến đại sư hoặc Trương chân nhân phái Võ Đang rồi mới luyện Thất Thương Quyền, có lẽ đã không bị tổn thương, hoặc chỉ tổn thương chút ít, không đáng ngại. Đằng này dạo đó ta quá nóng lòng báo cừu, phải tốn bao tâm lực mới đoạt được từ tay phái Không Động một bản sao rất cổ của pho Thất Thương Quyền, rồi quyền phổ vừa đến tay là ta đã luyện ngay, chỉ lo quyền công chưa thành mà lão sư phụ chết mất, cừu hận không báo được. Đến lúc phát giác nội tạng đã bị tổn thương nặng thì hết cách cứu chữa. Bấy giờ ta chưa nghĩ ra, phái Không Động nhiều đời tương truyền bản quyền phổ đó, tại sao không có một ai nổi danh thiên hạ về môn công phu này. Ta lại tham lam, thấy pho võ công này khi xuất quyền thì thanh thế lẫm liệt, cực kỳ oai phong. Ngũ muội, muội có hiểu đạo lý bên trong không?
Ân Tố Tố trầm ngâm, nói:
– Ừm, có phải quyền pháp này giống như công phu “tích lịch”[35] gì đó của sư phụ đại ca chăng?
Tạ Tốn nói:
– Chính thế. Sư phụ ta ngoại hiệu Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ, chưởng lực chẳng khác gì sấm sét, uy lực kinh người. Nếu ta tìm thấy lão ta, sử dụng môn Thất Thương Quyền mà đối địch, lão ta sẽ tưởng là môn võ công do y đích thân truyền dạy, đến lúc thân bị trúng đòn, nhận ra mình lầm thì đã muộn rồi. Này ngũ đệ, ngươi đừng trách ta dụng tâm hiểm độc, sư phụ ta bề ngoài có vẻ thô lỗ, nhưng là người đa mưu túc trí số một trong thiên hạ. Nếu không lấy độc trị độc, mối đại cừu kia làm sao báo được… Ôi, nói mãi mà vẫn chưa đả động tới Không Kiến đại sư. Lại nói tối hôm ấy ta vận khí ôn lại ba lượt Thất Thương Quyền công, rồi vượt tường ra ngoài, toan đi tìm Tống Viễn Kiều.
Ta nhảy qua tường, chân chưa chạm đất, bỗng cảm thấy có ai đó vỗ nhẹ vào vai. Ta giật mình kinh ngạc, với võ công của ta hồi đó, có kẻ giơ tay vỗ vào người mà ta không kịp chống đỡ là một điều khó bề tưởng tượng. Vô Kỵ, ngươi nghĩ coi, cái vỗ vai tuy nhẹ, nhưng nếu người vỗ dồn kình lực vào chưởng, thì có phải ta đã bị trọng thương rồi không? Ta vội đưa tay chộp nhưng chộp hụt, phản kích một quyền cũng chẳng trúng ai; lúc chân trái chạm đất, ta lập tức xoay người lại xem sao, thì lại bị người kia vỗ nhẹ một chưởng vào lưng, kèm theo tiếng thở dài sau câu nói “Biển khổ vô biên, quay lại là bờ”.
Vô Kỵ thấy câu chuyện hết sức lý thú, cười hỏi:
– Nghĩa phụ, người kia định đùa với nghĩa phụ à?
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đoán người ấy hẳn là Không Kiến đại sư. Tạ Tốn kể tiếp:
– Lúc đó ta lạnh toát cả người như bị rơi xuống vực sâu, người kia võ công như thế, muốn giết ta thật dễ như trở bàn tay. Tám chữ “Biển khổ vô biên, quay lại là bờ” y nói tuy chỉ trong giây lát, nhưng thong thả, đầy lòng từ bi, ta nghe rành rọt từng lời. Nhưng lúc đó ta chỉ cảm thấy vừa sợ vừa giận, quay mình lại, thấy một bạch y tăng nhân đứng cách xa bốn trượng. Lúc ta quay mình, nghĩ bụng y chỉ cách ta ba thước là cùng, nào ngờ vừa vỗ lưng ta xong, y đã bay ra xa những bốn trượng, thân pháp nhanh như thế, bộ pháp nhẹ như thế, thực không ai ngờ.
Lúc đó ta chỉ nghĩ “Có lẽ oan hồn của người bị ta giết hiện ra đòi mạng đây! Chứ làm gì có người sống nào thân pháp nhanh như chớp thế được?” Ta nghĩ đó là ma, thì trở nên can đảm, quát:
– Yêu ma quỷ quái kia, mau cút đi, trời ta không sợ, đất ta chẳng ngán, há ta sợ cô hồn dã quỷ?
Bạch y tăng nhân chắp tay nói:
– Tạ cư sĩ, lão tăng Không Kiến xin chào!
Ta vừa nghe hai chữ “Không Kiến”, liền nhớ trên chốn giang hồ có câu “Thiếu Lâm thần tăng, Kiến Văn Trí Tính”. Người này đứng đầu bốn vị thần tăng, thảo nào võ công cao siêu như vậy.
Trương Thúy Sơn nghĩ đến vị Không Kiến đại sư này sau đó bị Tạ Tốn đánh mười ba quyền mà chết, thì trong lòng bồn chồn không yên.
Tạ Tốn kể tiếp:
– Bấy giờ ta mới hỏi, có phải là Không Kiến thần tăng của Thiếu Lâm tự hay chăng? Bạch y tăng nhân đáp: “Hai chữ thần tăng, quả không dám nhận. Lão nạp chính là Không Kiến ở Thiếu Lâm tự đây”. Ta nói, tại hạ với đại sư vốn không quen biết, sao lại đùa giỡn như thế? Không Kiến đại sư nói: “Lão nạp đâu dám đùa giỡn với cư sĩ? Xin hỏi cư sĩ định đi đâu giờ này?” Ta nói, tại hạ đi đâu thì liên quan gì tới đại sư? Không Kiến đại sư nói: “Có phải đêm nay cư sĩ tính đi giết Tống Viễn Kiều đại hiệp của phái Võ Đang phải không?”
Ta nghe người kia nói trúng ý định thầm kín của ta thì vừa lấy làm lạ, vừa kinh hãi. Người ấy lại nói: “Tạ cư sĩ muốn gây một vụ đại án làm chấn động võ lâm, khích cho Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn xuất đầu lộ diện, để trả thù việc y giết hại toàn gia cư sĩ chứ gì…?” Ta nghe lão tăng nói đúng danh tính sư phụ ta thì lại càng kinh hãi. Nên nhớ, việc sư phụ giết hại cả gia đình ta, ta không hề nói cho người ngoài biết. Hành động xấu xa đê tiện ấy, sư phụ ta dĩ nhiên cố giấu, vậy tại sao Không Kiến đại sư lại biết?
Lúc ấy ta bị kích động mạnh, bèn nói, nếu đại sư chịu cho tại hạ biết Thành Côn hiện ở đâu, thì Tạ Tốn này nguyện suốt đời làm trâu ngựa cho đại sư. Không Kiến đại sư thở dài nói: “Hành vi mà Thành Côn đã làm, quả thật nghiệt chướng quá lớn, nhưng Tạ cư sĩ vì nóng giận mà sát hại nhiều nhân vật võ lâm, cũng là tội lớn, tội lớn!” Lúc ấy ta định nói, đại sư đừng có đa quản nhàn sự! Nhưng nghĩ lại thứ võ công mà Không Kiến đại sư vừa hiển thị, ta không phải là đối thủ; huống hồ mình đang phải cầu xin người, bèn nén giận, nói, tại hạ quả thật thế chẳng đặng đừng, Thành Côn lẩn trốn vô ảnh vô tung, bốn biển mênh mông, tại hạ biết tìm lão ta ở đâu bây giờ? Không Kiến đại sư gật đầu, nói: “Lão nạp cũng biết Tạ cư sĩ đầy lòng thù oán, không có chỗ phát tiết. Nhưng Tống Viễn Kiều là đệ tử số một của Trương Tam Phong phái Võ Đang, cư sĩ mà giết Tống Viễn Kiều thì cái họa này to lớn khôn lường”. Ta nói, thì chính tại hạ đang muốn gây đại họa, họa càng lớn, càng mau bức Thành Côn xuất hiện.
Không Kiến đại sư nói: “Tạ cư sĩ, cư sĩ mà giết Tống đại hiệp thì Thành Côn không thể không xuất hiện. Nhưng Thành Côn hôm nay không còn là Thành Côn ngày trước; võ công của cư sĩ còn thua xa Thành Côn, mối huyết hải thâm cừu chẳng báo được đâu”. Ta nói, Thành Côn là sư phụ của tại hạ, võ công của lão ta thế nào, tại hạ biết rõ hơn đại sư.
Không Kiến đại sư lắc đầu, nói: “Thành Côn có theo học một danh sư, ba năm nay tiến cảnh khó bề tưởng tượng. Cư sĩ tuy luyện được Thất Thương Quyền của phái Không Động, nhưng cũng chưa đủ tài đả thương được Thành Côn đâu”.
Ta kinh ngạc quá đỗi, mình bình sinh chưa hề gặp Không Kiến đại sư, vậy mà nhất cử nhất động của mình, Không Kiến đại sư đều thấy rõ. Ta ngẩn người giây lát, rồi hỏi, sao đại sư lại biết? Không Kiến đại sư đáp: “Là Thành Côn kể cho lão nạp đó”.
Tạ Tốn kể tới đây, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng kêu “ủa” một tiếng.
Tạ Tốn nói:
– Các ngươi lúc này nghe kể mà còn kinh ngạc, thử hỏi lúc ấy ta sửng sốt đến mức nào, ta nhảy dựng lên, quát, làm sao Thành Côn biết được? Không Kiến đại sư thong thả nói: “Mấy năm nay, lúc nào Thành Côn cũng ở bên cạnh Tạ cư sĩ, có điều y luôn luôn cải trang một cách dễ dàng, nên cư sĩ không nhận ra y đó thôi”. Ta nói, hừ, tại hạ mà lại không nhận ra lão ta ư? Dù lão ta có hóa thành tro, tại hạ cũng nhận ra. Không Kiến đại sư nói: “Tạ cư sĩ, cư sĩ không phải là người thô tâm đại ý, nhưng mấy năm qua cư sĩ chỉ chăm chăm luyện võ báo cừu, chẳng để ý gì tới mọi thứ quanh mình. Cư sĩ ở ngoài sáng, Thành Côn ở trong tối, không phải cư sĩ không nhận ra được, mà là cư sĩ không để tâm nhận diện”.
Câu nói đó, ta không thể không tin, huống hồ Không Kiến đại sư là cao tăng lừng danh thiên hạ, đâu có lừa dối ta làm chi. Ta nói, nếu thế, sao lão ta không giết tại hạ đi, cho khỏi rắc rối? Không Kiến đại sư nói: “Nếu Thành Côn có ý hại Tạ cư sĩ, y chỉ cần phẩy tay một cái là xong. Tạ cư sĩ, cư sĩ đã hai phen tìm y báo cừu, cả hai phen đều thua, nếu y muốn giết cư sĩ, sao lúc đó y không hạ độc thủ cho yên chuyện? Lại nói việc cư sĩ đi đoạt pho Thất Thương Quyền, cư sĩ từng đấu nội lực với ba đại cao thủ phái Không Động, vậy còn hai người trong Không Động ngũ lão kia đâu? Tại sao không thấy họ ra vây đánh cư sĩ? Giả sử cả ngũ lão cùng xông tới, liệu cư sĩ còn toàn mạng được chăng?”
Hôm đó, sau khi ta đả thương Không Động tam lão, mới phát giác hai lão còn lại đã bị trọng thương, thật không hiểu tại sao, nghi vấn đó ta vẫn giữ trong lòng. Chả lẽ nội bộ phái Không Động có tranh chấp? Hay là có cao thủ nào đó bí mật trợ giúp ta? Lúc nghe Không Kiến đại sư nói, ta chợt hiểu, hóa ra hai lão kia bị Thành Côn đả thương.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố càng nghe kể càng thấy ly kỳ, tuy chốn giang hồ chẳng thiếu gì chuyện khó hiểu, hai người kiến văn đều quảng bác, chuyện cổ quái mấy cũng từng nghe qua, nhưng câu chuyện Tạ Tốn đang kể thì thật khó tưởng tượng. Cả hai nghĩ thầm, Tạ Tốn đã là nhân vật kỳ tài, nhưng sư phụ Hỗn Nguyên Tích Lịch Thủ Thành Côn của lão bất kể về mưu trí hay võ công đều cao hơn lão một bậc.
Ân Tố Tố nói:
– Đại ca, Không Động nhị lão có đúng là do sư phụ của đại ca ngấm ngầm đả thương để trợ giúp đại ca chăng?
Tạ Tốn nói:
– Lúc ấy ta cũng đã hỏi như vậy. Không Kiến đại sư nói: “Không Động nhị lão bị thương ra sao, Tạ cư sĩ tận mắt chứng kiến, sắc diện hai người đó thế nào?” Ta im lặng một lát, rồi nói, nếu vậy, quả thực Không Động nhị lão là do sư phụ tại hạ đả thương. Nguyên ta nhớ lại, ta thấy Không Động nhị lão nằm dưới đất, mặt lấm chấm những vết máu đỏ, hiển nhiên hai lão đó dùng âm kình đánh người khác lại bị cao thủ dùng Hỗn Nguyên công đẩy trở lại. Tình trạng mặt lấm chấm đầy vết máu kia, theo chỗ ta biết, nếu không phải là do âm kình bị Hỗn Nguyên công đẩy trở lại thì chỉ do bệnh thương hàn gây nên, mà hôm ta gặp Không Động ngũ lão, thì cả năm lão đều khỏe mạnh bình thường, không thể có chuyện đột khởi bạo bệnh. Bấy giờ trong võ lâm, trừ hai sư đồ ta ra, không có người thứ ba luyện Hỗn Nguyên công.
Nghe ta nói vậy, Không Kiến đại sư gật đầu, thở dài, nói: “Sư phụ của cư sĩ uống rượu vào rồi làm chuyện vô đức, sát hại cả gia đình cư sĩ, tỉnh rượu rồi thì ân hận vô cùng, nên hai phen cư sĩ đến báo cừu, y đều không lấy mạng cư sĩ. Y thậm chí không muốn đả thương cư sĩ, nhưng cả hai phen cư sĩ đều nổi điên liều chết với y, nếu không đả thương cư sĩ thì y chẳng thể thoát thân. Sau đó y luôn luôn bám sát cư sĩ, ba lần cư sĩ gặp nguy, y đều bí mật giải cứu”.
Ta nhẩm tính, ngoài vụ Không Động ngũ lão, còn ba lần nữa, khi ta đang cực kỳ nguy khốn thì thế công của địch đột nhiên bị hóa giải, nhất là lần ta đấu với một cao thủ phái Thanh Hải, tình thế vạn phần nguy ngập. Không Kiến đại sư lại nói: “Thành Côn tự biết tội lỗi quá nặng, không thể cầu xin cư sĩ lượng thứ, chỉ mong cùng với thời gian, cư sĩ sẽ nguôi dần. Ai ngờ cư sĩ cứ ngày càng làm dữ, sát hại ngày một nhiều người. Hôm nay nếu cư sĩ giết Tống Viễn Kiều đại hiệp, đại họa này càng khó bề thu xếp cho yên”.
Ta nói, đã vậy, xin đại sư bảo sư phụ tại hạ ra gặp tại hạ. Chúng tôi sẽ thanh toán với nhau, chẳng liên quan gì đến người ngoài. Không Kiến đại sư nói: “Sư phụ của cư sĩ không còn mặt mũi nào gặp cư sĩ, hơn nữa, Tạ cư sĩ, không phải lão nạp coi thường cư sĩ, nhưng dẫu cư sĩ có gặp Thành Côn, thì cũng uổng công mà thôi”. Ta nói, đại sư là một vị cao tăng, trắng đen phải trái đương nhiên biết rõ. Lẽ nào món nợ máu cả gia đình tại hạ, nói bỏ qua là bỏ qua được ư? Không Kiến đại sư nói: “Thảm họa mà Tạ cư sĩ gặp phải, lão nạp cũng cảm thấy thương tâm lắm. Nhưng tôn sư vì say rượu mà làm bậy, thực không phải là bản ý, huống hồ y đã thành tâm sám hối, chỉ mong Tạ cư sĩ nghĩ đến tình sư đồ thuở trước mà mở cho một lối thoát”. Ta nổi giận, nói, tại hạ nếu đánh không lại lão ta, thì lão ta cứ việc đánh chết tại hạ, mối huyết cừu này không báo, tại hạ cũng chẳng thiết sống nữa.
Không Kiến đại sư trầm ngâm hồi lâu, nói: “Tạ cư sĩ, võ công của tôn sư nay đã khác hẳn trước, cư sĩ dù đã luyện thành Thất Thương Quyền, cũng không hạ nổi y đâu. Tạ cư sĩ không tin, hãy đánh thử lão nạp vài quyền thử coi”. Ta nói, tại hạ với đại sư vô oán vô cừu, đâu dám đả thương? Tại hạ tuy võ công thấp kém, song Thất Thương Quyền không phải là thứ dễ đối phó. Không Kiến đại sư nói. “Tạ cư sĩ, lão nạp đánh cuộc với cư sĩ. Tôn sư giết hại toàn gia cư sĩ tổng cộng mười ba người, vậy cư sĩ hãy đánh lão nạp mười ba quyền. Nếu cư sĩ đả thương được lão nạp thì lão nạp không can dự vào vụ này nữa, tôn sư sẽ tới gặp cư sĩ. Nếu không đả thương được, thì mối thâm cừu này coi như chấm dứt, được chăng?”
Ta trầm ngâm không đáp, thầm biết vị cao tăng này võ công vô cùng cao thâm, Thất Thương Quyền tuy lợi hại thật, nhưng nếu không đả thương nổi Không Kiến đại sư, chẳng lẽ món nợ máu không trả hay sao?
Không Kiến đại sư lại nói: “Nói thật với Tạ cư sĩ, lão nạp đã can dự vào vụ này, quyết không để cho cư sĩ giết hại các đồng đạo võ lâm vô tội nữa đâu. Nếu cư sĩ có ý hướng thiện, các vụ đã qua coi như quên hẳn. Còn nếu cư sĩ cứ tìm người báo cừu, lẽ nào gia nhân đệ tử của những người đã bị cư sĩ sát hại không biết đi tìm cư sĩ để báo cừu hay sao?”
Ta nghe giọng nói của Không Kiến đại sư trở nên nghiêm nghị, thì nổi điên lên, nói, được, tại hạ sẽ đánh mười ba quyền, lúc nào đại sư không chịu nổi nữa thì cứ nói, tại hạ sẽ dừng tay. Đại trượng phu một lời như đao chém đá, không chịu nổi là phải bảo sư phụ tại hạ đến gặp tại hạ đó. Không Kiến đại sư mỉm cười, nói: “Mời Tạ cư sĩ ra đòn!” Ta thấy Không Kiến đại sư thân hình thấp nhỏ, lông mày và râu bạc trắng như cước, tướng mạo từ bi trang nghiêm, lòng không nỡ đả thương đại sư, quyền thứ nhất chỉ sử ba thành công lực, “hự” một tiếng, giáng trúng giữa ngực đại sư.
Vô Kỵ kêu lên:
– Chao ôi, nghĩa phụ sử dụng thứ Thất Thương Quyền đã đánh đứt gân mạch cây cổ thụ kia ư?
Tạ Tốn nói:
– Không, quyền thứ nhất ta đánh ra là Tích Lịch Quyền do sư phụ Thành Côn truyền thụ. Bị quyền đó, Không Kiến đại sư loạng choạng lùi lại một bước. Ta nghĩ, quyền này mới có ba thành công lực, Không Kiến đại sư đã phải thoái lui một bước, nếu ta thi triển Thất Thương Quyền, hẳn chưa tới ba quả đấm đại sư đã bỏ mạng. Bèn tăng kình lực cho quyền thứ hai. Không Kiến đại sư lại loạng choạng lùi một bước. Quyền thứ ba, ta dồn đến bảy thành kình lực, Không Kiến đại sư cũng chỉ loạng choạng lùi một bước. Ta cảm thấy hơi lạ, kình lực quyền tiếp theo ta đã tăng gấp đôi, mà đánh vào cơ thể Không Kiến đại sư vẫn cứ trơ trơ như cũ. Với thân hình gầy gò thế kia, một quyền của ta cũng đủ đánh gãy hết gân cốt Không Kiến đại sư, vậy mà ta thấy cơ thể đại sư hoàn toàn chẳng phát ra lực phản kích, chịu đựng ba quyền cứ như không.
Ta nghĩ, muốn đánh gục Không Kiến đại sư thì phải dốc toàn lực, nhưng khi đó đại sư không chết cũng bị trọng thương. Ta tuy tác ác đã lâu, nhưng thấy vị cao tăng đầy lòng từ bi xả thân cứu người thế này, chợt cũng có phần kính nể, bèn nói, đại sư, đại sư không đỡ đòn thì tại hạ không nỡ đánh tiếp. Đại sư đã chịu nổi ba quyền rồi, tại hạ sẽ không đi hại Tống Viễn Kiều nữa. Nhưng Không Kiến đại sư nói: “Còn mối oan cừu với Thành Côn thì sao?” Ta nói, mối thù ấy không đội trời chung, chỉ có cách một mất một còn mà thôi. Ta ngừng giây lát, lại nói, nhưng nể đại sư xuất diện, tại hạ từ giờ trở đi sẽ chỉ tìm Thành Côn và gia nhân của y, chứ quyết không làm liên lụy đến đồng đạo võ lâm vô can nữa.
Không Kiến đại sư chắp tay nói: “Thiện tai, thiện tai! Tạ cư sĩ có ý như vậy, lão nạp thay mặt đồng đạo võ lâm đa tạ cư sĩ; có điều lão nạp đã lập tâm hóa giải trường oan nghiệt này, giờ còn lại mười quyền, xin cứ đánh tiếp”.
Ta thầm tính, chỉ có dùng Thất Thương Quyền đả thương Không Kiến đại sư, thì Thành Côn mới chịu lộ diện. Được cái là kình lực Thất Thương Quyền có thể thu phát tùy ý, ta xuất thủ có mức độ chuẩn xác, bèn nói, vậy tại hạ đành đắc tội! Quyền thứ tư đánh ra đã là Thất Thương Quyền. Quyền đánh vào ức, chỗ đó hơi lõm vào, Không Kiến đại sư tiến lên phía trước một bước.
Vô Kỵ hỏi:
– Sao lạ thế? Lần này Không Kiến đại sư không thoái lui, mà lại tiến lên!
Trương Thúy Sơn nói:
– Cái đó có phải là thần công “Kim cương bất hoại thể”[36] của phái Thiếu Lâm hay chăng?
Tạ Tốn nói:
– Ngũ đệ kiến đa thức quảng, đoán không sai chút nào. Quyền đó của ta đã khác hẳn ba quyền trước, cơ thể Không Kiến đại sư phát ra một lực phản chấn, khiến ta bị chấn động vùng ngực và bụng, tưởng chừng ngũ tạng đảo lộn hết cả. Ta biết Không Kiến đại sư buộc phải sử dụng thứ thần công kia, nếu không sẽ không chịu đựng nổi Thất Thương Quyền của ta. Từ lâu ta đã nghe danh “Kim cương bất hoại thể” của phái Thiếu Lâm là một trong năm đại thần công tự cổ chí kim, lúc đó chính mình được lĩnh giáo, quả thật ghê gớm. Quyền thứ năm của ta liền chuyển sang lực âm nhu, Không Kiến đại sư lại tiến lên một bước, một luồng kình lực âm nhu phản kích lại, ta cũng hóa giải được…
Vô Kỵ hỏi:
– Nghĩa phụ, lão hòa thượng nói là không trả đòn, tại sao còn dùng quyền kình phản kích nghĩa phụ?
Tạ Tốn xoa đầu thằng bé, nói:
– Ta đánh xong quyền thứ năm, Không Kiến đại sư nói: “Tạ cư sĩ, lão nạp không ngờ Thất Thương Quyền có uy lực ghê gớm đến vậy, lão nạp mà không vận công phản chấn, chắc hết chịu nổi”. Ta nói, đại sư không đánh trả, tại hạ cảm kích tấm thịnh tình đó. Rồi ta xuất quyền như gió, đánh liền một mạch quyền thứ sáu, quyền thứ bảy, quyền thứ tám, quyền thứ chín. Không Kiến đại sư quả thực bản lĩnh siêu phàm, cả bốn quyền giáng vào thân thể đại sư đều được phản chấn, cương nhu phân minh, tầng thứ đâu ra đó.
Ta thầm kinh ngạc, quát: “Cẩn thận này!” Quyền thứ mười ta nhẹ nhàng đánh ra. Không Kiến đại sư hơi gật đầu, không đợi quyền của ta chạm vào người, đã rướn tới hai bước, trong chớp mắt chiếm được tiên cơ.
Vô Kỵ dĩ nhiên chưa hiểu cái khó của hai bước đi trước kia. Trương Thúy Sơn thì biết rõ, khi cao thủ đối địch, thật khó đoán biết trước lúc nào địch thủ xuất chiêu, thông thường chỉ cần đoán trước một chiêu cũng đủ chiến thắng, chàng gật đầu, nói:
– Không xong rồi, không xong rồi!
Tạ Tốn kể tiếp:
– Quyền thứ mười ấy, ta đã sử toàn lực nhưng Không Kiến đại sư đã chiếm tiên cơ phản chấn, nên làm cho ta bị bật lùi hai bước. Tuy ta không nhìn thấy sắc diện của mình, song ta cũng đoán rằng lúc đó mặt mình nhợt nhạt như tờ giấy trắng, không còn hạt máu. Không Kiến đại sư chậm rãi thở ra một hơi, nói: “Quyền thứ mười một, cư sĩ đừng đánh vội, cứ định thần một chút rồi hãy đánh ra!” Ta tuy vạn phần hiếu thắng, nhưng bị tức thở, người lẩy bẩy, quyền thứ mười một quả thực chưa thể đánh ra.
Bọn Trương Thúy Sơn nghe tới đây, ai cũng bồn chồn, Vô Kỵ bỗng nói:
– Nghĩa phụ, còn ba quyền nữa, nghĩa phụ đừng đánh nữa là hơn.
Tạ Tốn hỏi:
– Vì sao?
Tạ Vô Kỵ đáp:
– Không Kiến đại sư là người quá tốt, nghĩa phụ đả thương đại sư, trong lòng sẽ áy náy không yên, mà để cho chính mình bị thương, thật cũng chẳng hay.
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm con mình tuy nhỏ tuổi mà đã có kiến thức như thế, quả thật hiếm có. Trương Thúy Sơn lại càng yên tâm khi thấy Vô Kỵ có tấm lòng nhân hậu, lại biết phân biệt phải trái.
Chỉ nghe Tạ Tốn thở dài, nói:
– Uổng cho ta sống ngần ấy tuổi, mà kiến thức lúc ấy không bằng một đứa bé. Lòng ta tràn ngập ý định báo cừu rửa hận, chưa tìm ra sư phụ của ta thì quyết chưa dừng, thừa biết nếu đánh tiếp hẳn một trong hai người tất bị tử thương, nhưng ta đâu còn tỉnh táo. Ta vận đủ kình lực, quyền thứ mười một lại đánh ra. Lần này Không Kiến đại sư rướn người lên, nên thay vì trúng ngực, quyền đó trúng vào bụng dưới. Không Kiến đại sư chau mày, rõ ràng đại sư rất đau đớn. Ta hiểu thiện ý của đại sư, nếu đại sư dùng ngực đỡ quyền của ta, lực phản chấn rất mạnh, sợ ta không chịu nổi; còn lực phản chấn của bụng sẽ nhẹ hơn đối với ta, song đại sư sẽ bị đau đớn gấp bội.
Ta ngẩn ngơ một hồi, nói, sư phụ của tại hạ tội nghiệt thâm trọng, chết là nhẹ, đại sư dại gì đem thân thể vàng ngọc của mình chịu đòn thay cho lão ta chứ? Không Kiến đại sư gắng điều hòa hơi thở, gượng cười, nói: “Ước sao chịu được hai quyền nữa, để… để hóa giải vụ kiếp nạn này”. Ta nghe Không Kiến đại sư nói, hơi thở bị đứt quãng, chợt nghĩ: “Xem chừng khi vận thần công Kim cương bất hoại thể, đại sư không được mở miệng ra, tại sao ta không dụ cho đại sư nói, rồi bất ngờ ra đòn?” Nghĩ vậy, ta bèn nói, nếu trong mười ba quyền, tại hạ đả thương được đại sư, đại sư có bảo đảm là sư phụ tại hạ nhất định sẽ ra gặp tại hạ không? Không Kiến đại sư nói: “Chính Thành Côn nói với lão nạp như…” Không đợi đại sư nói hết, ta giáng ngay một quyền vào bụng dưới của đại sư. Quyền này thế đi cực nhanh, lại đánh chỗ thấp, cốt sao đại sư không kịp phát động thần công hộ thể.
Nào ngờ thần công của Phật môn tùy tâm phát động, quyền của ta vừa chạm vào bụng của Không Kiến đại sư thì thần công của đại sư đã trải toàn thân. Ta chỉ thấy trời đất ngả nghiêng, tim phổi tựa hồ vỡ nát, bị đẩy lùi đến bảy tám bước, lưng đụng vào một thân cây mới đứng vững lại được.
Ta thất vọng quá, ác niệm nảy sinh, bèn nói, thôi, thế là hết! Thù này khó báo, Tạ Tốn này còn sống trên thế gian làm chi? Đoạn ta vung chưởng lên nhắm ngay “thiên linh cái”[37] của mình mà đánh xuống.
Ân Tố Tố thốt lên:
– Diệu kế, diệu kế!
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Vì sao?
Rồi chợt hiểu, nói:
– Ồ, dùng thủ đoạn đó đối phó với một vị cao tăng, thật quá hiểm độc.
Chàng đã hiểu ra, Tạ Tốn đánh thẳng xuống đỉnh đầu mình, Không Kiến đại sư chắc chắn sẽ kêu dừng tay, chạy bổ tới cứu, Tạ Tốn sẽ thừa cơ đại sư không phòng bị mà hạ độc thủ. Trương Thúy Sơn vốn thông minh cơ linh chẳng kém gì Ân Tố Tố, có điều bình thời không toan tính các trò dối trá, nên chậm hiểu thủ đoạn trên một chút.
Tạ Tốn thở dài buồn bã, nói:
– Ta đã lợi dụng từ tâm của vị thần tăng ấy, các ngươi đoán không sai. Ta vung chưởng đánh xuống thiên linh cái của mình, tuy là ngụy kế, nhưng rất nguy hiểm. Nếu chưởng đó đánh xuống không đủ mạnh, Không Kiến đại sư phát hiện sự giả trá, sẽ không chạy tới ngăn cản. Mười ba quyền, giờ chỉ còn một quyền cuối cùng. Quyền kình của Thất Thương Quyền quả lợi hại, song đâu phá nổi Thần công hộ thể? Việc tìm sư phụ ta để báo cừu coi như chấm dứt. Do đó, chưởng này quả thực ta phải dùng toàn lực đánh xuống, nếu đại sư không chạy tới cứu, ta sẽ tự đánh vỡ sọ mình mà chết, bởi lẽ nếu không trả được món nợ máu, ta cũng chả thiết sống nữa.
Không Kiến đại sư thấy sự việc diễn ra bất ngờ, bèn kêu: “Đừng, sao cư sĩ lại…” lập tức vọt tới, giơ tay chặn hữu chưởng của ta; thế là tay trái ta phóng ra một quyền trúng vào ức đại sư. Quyền này đại sư quả không hề phòng bị, ngay cả việc vận thần công hộ thể cũng chẳng nghĩ đến. Cái thể xác bằng xương bằng thịt của đại sư làm sao chịu nổi một quyền như thế? Lập tức nội tạng bị vỡ nát, Không Kiến đại sư ngã vật xuống.
Đánh quyền đó xong, ta thấy Không Kiến đại sư cầm chắc cái chết, thì thiên lương trong lòng ta trỗi dậy, ta phục xuống bên cạnh vị lão hòa thượng mà khóc to, nói, Không Kiến đại sư, Tạ Tốn này vong ân bội nghĩa, không bằng loài cẩu trệ!
Bọn Trương Thúy Sơn im lặng, cả ba đều nghĩ việc Tạ Tốn dùng ngụy kế đánh chết một vị cao tăng đức độ quả thật rất không nên.
Tạ Tốn nói:
– Không Kiến đại sư thấy ta khóc thì mỉm cười, an ủi ta rằng nào có ai không chết? Cư sĩ hà tất phải đau buồn? Sư phụ của cư sĩ sắp tới đó, cư sĩ hãy trấn tĩnh lại, đừng nên lỗ mãng. Lời nói của đại sư khiến ta tỉnh người, mười ba quyền vừa rồi đại hao chân lực, trước mắt đại địch sắp tới, há cứ khóc lóc cho hại đến tinh thần? Thế là ta ngồi xếp bằng, điều hòa hô hấp. Nào ngờ hồi lâu vẫn không thấy sư phụ ta đến. Ta ngạc nhiên nhìn Không Kiến đại sư.
Lúc đó đại sư hơi thở đã yếu lắm rồi, thều thào nói: “Ai… ai ngờ… y nuốt lời… chẳng lẽ… có người đột nhiên ngăn cản y hay sao?” Ta cả giận, quát, đại sư lừa dối tại hạ, tại hạ đánh chết đại sư, mà y có chịu ra gặp tại hạ đâu? Không Kiến đại sư lắc đầu, nói: “Lão nạp không lừa dối cư sĩ, lão nạp thật có lỗi với cư sĩ”. Trong cơn cuồng nộ, ta còn định mạ lị Không Kiến đại sư, bỗng nghĩ thầm: “Đại sư lừa dối ta đánh chết đại sư thì được lợi gì kia chứ? Ta đánh chết đại sư, mà đại sư còn xin lỗi ta”. Quá hối hận, ta bèn quỳ xuống bên lão hòa thượng mà nói, đại sư, đại sư có tâm nguyện gì, tại hạ xin dốc lòng thực hiện? Không Kiến đại sư mỉm cười, nói: “Chỉ mong sau này, khi nào định giết người, cư sĩ hãy nhớ tới lão nạp”.
Vị cao tăng ấy không những võ công tinh thâm, mà còn là bậc đại trí đại tuệ, hiểu rất rõ con người của ta. Đại sư biết ta không thể dứt lòng thù hận để trở thành người tốt, nên nói thẳng ra khi nào định giết người thì hãy nhớ tới đại sư. “Này ngũ đệ, hôm ở trên thuyền ta và ngũ đệ đấu chưởng lực với nhau, ta không lấy mạng của đệ chính vì ta chợt nghĩ tới Không Kiến đại sư đó”.
Trương Thúy Sơn không ngờ mình còn toàn mạng chính là nhờ Không Kiến đại sư, nên chàng càng thêm ngưỡng mộ vị cao tăng đó.
Tạ Tốn thở dài, kể tiếp:
– Hơi thở của Không Kiến đại sư càng lúc càng yếu, ta đặt bàn tay trên huyệt Linh Đài của đại sư, cố truyền nội lực để kéo dài tính mạng cho đại sư. Không Kiến đại sư bỗng hít mạnh một hơi, hỏi: “Sư phụ của cư sĩ vẫn chưa tới ư?” Ta đáp, chưa. Không Kiến đại sư nói: “Vậy thì y không đến nữa rồi”. Ta nói, đại sư cứ yên tâm, từ nay tại hạ sẽ không giết người bừa bãi để bức lão ta ra mặt nữa. Nhưng dù tại hạ có phải đi khắp chân trời góc biển, cũng quyết tìm lão ta bằng được. Không Kiến đại sư nói: “Ôi, có điều là võ công của cư sĩ chưa thể sánh với y… trừ phi… trừ phi…” Nói tới đó, giọng của Không Kiến đại sư nhỏ lắm rồi, ta phải ghé tai sát miệng đại sư để nghe: “… Trừ phi… tìm được thanh đao Đồ Long, tìm ra bí mật chứa trong bảo đao…” Nói đến đó thì Không Kiến đại sư tắt thở.
Đến bây giờ phu phụ Trương Thúy Sơn mới hiểu vì sao Tạ Tốn cố trầm tư mặc tưởng, quyết tìm cho ra bí mật chứa trong thanh đao Đồ Long, vì sao bình thời mềm mỏng nhã nhặn, nhưng khi nổi điên lại chẳng khác gì dã thú. Vì sao có võ công tuyệt thế mà lúc nào cũng sầu khổ…
Tạ Tốn nói:
– Về sau ta nghe tin về thanh đao Đồ Long, bèn đến Vương Bàn sơn đảo đoạt lấy. Ngũ muội, lệnh tôn trước kia là bằng hữu tri giao, vô cùng thân thiết với ta; Ưng Vương, Sư Vương, tên tuổi cùng một hàng trên thế gian, về sau lại hóa thành thù nghịch. Chuyện đó rắc rối, liên quan đến rất nhiều người, ta chưa thể nói cho ngũ muội biết được. Trước khi có được thanh đao Đồ Long, ta nghĩ trăm phương ngàn kế tìm Thành Côn; lúc đoạt được đao rồi, lại chỉ sợ Thành Côn tìm đến ta, cho nên phải tìm một nơi thật kín đáo để còn thong thả nghĩ cho ra bí mật chứa trong bảo đao. Vì ta lo các ngươi tiết lộ hình tích, nên mới đem hai ngươi đi cùng. Không ngờ thấm thoắt đã mười năm, Tạ Tốn ơi là Tạ Tốn, mi vẫn chưa làm xong việc gì.
Trương Thúy Sơn nói:
– Không Kiến đại sư lúc lâm chung nói chưa hết câu “Trừ phi… tìm được thanh đao Đồ Long, tìm ra bí mật chứa trong bảo đao…” không chừng lại có ý nghĩa khác cũng nên.
Tạ Tốn nói:
– Mười năm qua, mọi sự mọi điều ta đã nghĩ đến cả rồi, mà chưa có điều gì phù hợp với câu nói ấy. Thanh đao Đồ Long ẩn chứa bí mật lớn, đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa, song ta đã dồn hết tâm trí nhưng vẫn chưa đoán ra được.
Từ sau buổi trò chuyện tối hôm đó, Tạ Tốn không nhắc lại việc đó nữa, nhưng việc thúc giục Vô Kỵ luyện công thì trở nên nghiêm khắc lạ thường. Vô Kỵ bất quá hơn chín tuổi đầu, tuy thông minh, nhưng trong một thời gian ngắn làm sao lãnh hội đủ thứ võ công tuyệt thế của Tạ Tốn? Tạ Tốn lại dạy nó cách chuyển đổi huyệt đạo, thuật xung giải các huyệt đạo bị phong bế, là công phu rất cao thâm trong võ học. Vô Kỵ đến huyệt đạo còn chưa nhận ra được, lại chưa có căn cơ nội công, học làm sao nổi? Tạ Tốn thì hết đánh đập lại la mắng, không cho thằng bé nghỉ ngơi lúc nào.
Ân Tố Tố thường thấy mình mẩy thằng bé có những chỗ thâm tím, thì thương con quá, nói với Tạ Tốn:
– Đại ca, võ công cái thế của đại ca, trong vòng dăm ba năm Vô Kỵ làm sao luyện thành kia chứ? Trên hoang đảo này thời gian là vô tận, đại ca cứ thong thả dạy cho nó cũng được.
Tạ Tốn nói:
– Ta không dạy nó luyện, mà dạy nó ghi nhớ thật kỹ.
Ân Tố Tố không hiểu ý Tạ Tốn, biết vị đại ca này làm việc gì cũng khác người, đành để tùy ý lão. Mỗi lần thấy Vô Kỵ trên mình hằn các vết roi, nàng lại ôm con vỗ về một cách xót xa. Vô Kỵ thì hiểu nguyên do, nói:
– Mẹ ơi, nghĩa phụ muốn con giỏi giang hơn, đánh thật đau để con nhớ kỹ, nhớ lâu đấy.
Cứ thế chừng già nửa năm. Một sớm nọ, Tạ Tốn bỗng nói:
– Ngũ đệ, ngũ muội, bốn tháng nữa gió sẽ chuyển sang hướng nam, hôm nay chúng ta bắt đầu đóng bè được rồi.
Trương Thúy Sơn vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, hỏi:
– Đại ca bảo đóng bè để về Trung thổ ư?
Tạ Tốn lạnh lùng đáp:
– Chuyện đó còn phải xem ông Trời có nổi thiện tâm không đã. “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” mà. Thành công thì về được, không thành công thì bỏ xác giữa biển khơi.
Cứ như tâm ý của Ân Tố Tố, bốn người cứ ở trên cái hoang đảo thần tiên này mà tiêu dao tự tại, chả tội gì mạo hiểm trở về, nhưng nghĩ tới việc Vô Kỵ sau này lớn lên, làm sao lấy vợ sinh con, không thể để nó mai một cuộc đời ở chốn này, thế là nàng liền hăm hở bắt đầu đóng bè. Trên đảo có rất nhiều cây cổ thụ, vì mọc ở vùng lạnh giá nên chất gỗ thật bền chắc, cứng như sắt đá. Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn hì hục chặt cây, Ân Tố Tố thì tết dây, dùng da thú may buồm, Vô Kỵ chạy qua chạy lại đưa tin.
Tuy Tạ Tốn và Trương Thúy Sơn võ công tinh thâm, Ân Tố Tố cũng không phải hạng phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng vì không có dụng cụ nên việc đóng bè tốn rất nhiều công sức mà kết quả chẳng được bao.
Trong lúc đóng bè, Tạ Tốn bảo Vô Kỵ đứng bên cạnh, tra hỏi võ công sở học của nó. Bấy giờ vợ chồng Trương Thúy Sơn cũng không còn phải tránh ra chỗ khác nữa, nghe nghĩa phụ nghĩa tử hai người kia cứ một hỏi một đáp, toàn là các khẩu quyết mà thôi. Tạ Tốn thậm chí dạy cả đao pháp, kiếm pháp, nhưng toàn bắt Vô Kỵ học thuộc lòng như kiểu đọc thuộc sách vậy. Cái lối “dạy võ như học văn” của Tạ Tốn thật kỳ quái, không một lời giải thích, cứ y như một ông thầy vụng về bắt lũ trẻ tóc còn để chỏm ê a thuộc lòng “Thi vân Tử viết”[38]. Ân Tố Tố ở bên cạnh nghe, không khỏi thương Vô Kỵ, nghĩ thầm chẳng riêng thằng bé, ngay người lớn tinh thông võ học cũng vị tất nhớ nổi biết bao nhiêu chiêu thức, khẩu quyết, hơn nữa lại không hề diễn tập, chỉ nhớ suông trong đầu thì có tác dụng gì kia chứ? Không lẽ chỉ đọc thuộc các câu khẩu quyết là đủ thắng địch hay sao? Vậy mà hễ Vô Kỵ nhớ sai một chữ lại bị Tạ Tốn giáng cho một cái tát, tuy Tạ Tốn không dùng sức, nhưng cũng đủ khiến Vô Kỵ nổ đom đóm mắt, sưng cả má nửa ngày trời.
Cái bè gỗ lớn đóng hơn hai tháng ròng rã mới xong, việc dựng cột buồm lớn, cột buồm phụ lại mất hơn nửa tháng nữa. Tiếp đó phải đi săn, muối thịt, khâu túi da đựng nước ngọt. Đến khi mọi việc xong xuôi thì ngày đã trở nên cực ngắn, đêm thật dài, riêng gió vẫn chưa chuyển hướng. Ba người làm một cái lều cạnh bờ biển để che cái bè, chờ khi nào gió thổi về nam sẽ cho bè hạ thủy.
Dạo này Tạ Tốn không rời Vô Kỵ một bước, ban đêm cũng bắt thằng bé phải ngủ với mình. Phu phụ Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn đối với con mình vừa thân thiết, vừa nghiêm khắc như thế, chỉ còn cách nhìn nhau cười gượng.
*
* *
Nửa đêm nọ, Trương Thúy Sơn bỗng nhiên tỉnh giấc, nghe tiếng gió thổi có vẻ khác lạ. Chàng ngồi dậy, quả nhiên gió đã thổi từ phương bắc xuống, vội đánh thức Ân Tố Tố, mừng rỡ nói:
– Nàng nghe kìa!
Ân Tố Tố còn đang mơ màng, chưa kịp trả lời đã nghe tiếng Tạ Tốn từ bên ngoài vọng vào:
– Chuyển sang gió bắc rồi, chuyển sang gió bắc rồi!
Giọng nói giống như tiếng khóc thổn thức, giữa đêm khuya nghe thật thê lương.
Sáng hôm sau, phu phụ Trương Thúy Sơn vui mừng thu xếp hành trang. Họ đã sống ở Băng Hỏa đảo mười năm trời, nay rời bỏ nó, lòng không khỏi bùi ngùi quyến luyến. Khi mọi thứ đã chuyển xuống bè gỗ đâu vào đó thì đã chính Ngọ, ba người hợp lực đẩy chiếc bè xuống nước. Vô Kỵ là người trước tiên nhảy lên bè, kế đến là Ân Tố Tố.
Trương Thúy Sơn nắm tay Tạ Tốn, nói:
– Đại ca, chiếc bè ra cách bờ sáu thước, chúng ta cùng nhảy lên nhé!
Tạ Tốn nói:
– Ngũ đệ, huynh đệ ta từ đây vĩnh biệt, đệ nhớ bảo trọng nghe!
Trương Thúy Sơn chợt giật mình, tưởng như có ai giáng một quyền vào ngực mình, nói:
– Đại ca… đại ca…
Tạ Tốn nói:
– Ngũ đệ tấm lòng nhân hậu, phúc trạch thật dày, nhưng quá cố chấp phải trái thiện ác, nên cẩn thận là hơn. Vô Kỵ phóng khoáng, xem ra sau này hành sự xử thế sẽ thành công dễ hơn đệ đấy. Ngũ muội tuy phận nữ nhi, song không chịu kém ai. Người mà ta lo hơn cả, chính là ngũ đệ.
Trương Thúy Sơn càng nghe càng kinh ngạc, run run nói:
– Đại ca nói gì vậy? Đại ca không… về cùng… gia đình tiểu đệ ư?
Tạ Tốn nói:
– Ta đã nói với ngũ đệ từ mấy năm trước, ngũ đệ quên rồi sao?
Câu nói trên Trương Thúy Sơn nghe như tiếng sấm, lúc này chàng mới nhớ lại, quả thật dạo ấy Tạ Tốn có nói sẽ không rời đảo này, nhưng sau không nhắc tới chuyện đó nữa nên chàng và Ân Tố Tố cũng chẳng để tâm. Khi đóng bè, Tạ Tốn không để lộ chút nào về ý định một mình ở lại đảo, ai ngờ đến lúc khởi hành Tạ Tốn mới đột nhiên nói ra. Trương Thúy Sơn vội nói:
– Đại ca, một mình ở lại hoang đảo thì tịch mịch thê lương lắm. Chúng ta mau cùng xuống bè đi thôi.
Nói đoạn kéo tay Tạ Tốn. Nhưng thân hình Tạ Tốn y như một cây đại thụ rễ ăn chắc xuống lòng đất, không hề lay chuyển.
Trương Thúy Sơn gọi:
– Tố Tố, Vô Kỵ, mau lên bờ! Đại ca bảo sẽ không về cùng chúng ta!
Ân Tố Tố và Vô Kỵ nghe vậy cả kinh, cùng nhảy lên bờ, Vô Kỵ nói:
– Nghĩa phụ, sao không cùng đi? Nghĩa phụ ở lại, con cũng không đi đâu.
Tạ Tốn trong thâm tâm quả cũng không muốn xa lìa ba người, ba người đi rồi, vĩnh viễn sẽ không có ngày gặp lại, một mình lão cô đơn thui thủi trên hoang đảo, thực sống đấy mà khác gì chết? Lão với Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố kết nghĩa kim lan, lão lo cho phu thê họ còn hơn cả bản thân lão; còn đối với nghĩa tử Vô Kỵ thì lão yêu nó còn hơn con ruột. Lão nghĩ từ lâu, biết mình có nợ máu với quá nhiều người, trên chốn giang hồ bất luận là danh môn chính phái hay hắc đạo lục lâm, có biết bao nhiêu người cố tìm cách giết lão, huống hồ thanh đao Đồ Long đang ở trong tay lão, việc đó khó lòng giữ kín mãi được. Giả như thời trước, lão nào sợ gì ai; nhưng bây giờ hai mắt đã mù, quyết không thể chống chọi nổi sự vây công của số đông kẻ thù, mà Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố thấy thế cũng nhất định sẽ không khoanh tay đứng nhìn, sẽ liều chết cứu lão. Một khi tranh chấp xảy ra, cả bốn người sẽ phải bỏ mạng. Có về tới Trung nguyên, chỉ e bốn người không sống nổi già nửa năm. Những ý nghĩ đó, lão không thể nói cho phu phụ Trương Thúy Sơn biết, đành đợi đến phút cuối cùng mới nói rõ ý định ở lại đảo.
– Vô Kỵ, ngươi hãy nghe lời nghĩa phụ. Nghĩa phụ cao tuổi rồi, mắt lại lòa, ở đây dễ chịu lắm, về Trung nguyên chỉ e hết thảy mọi chỗ mọi thứ đều không quen thì sẽ khổ sở lắm.
Vô Kỵ nói:
– Về Trung nguyên rồi, hài nhi sẽ ngày ngày hầu hạ nghĩa phụ, sẽ không rời nghĩa phụ nửa bước. Nghĩa phụ muốn ăn uống gì, hài nhi sẽ đem tới ngay, thế thì có khác gì ở đây?
Tạ Tốn lắc đầu, nói:
– Không được đâu! Nghĩa phụ thích ở đây hơn.
Vô Kỵ nói:
– Hài nhi cũng thích ở đây. Phụ thân, mẫu thân, chi bằng chúng ta đừng đi nữa, tất cả ở đây vẫn tốt.
Ân Tố Tố nói:
– Đại ca có điều chi lo lắng, hãy nói rõ ra, mọi người cùng bàn tính xem sao. Chứ bỏ đại ca ở lại đây một mình, quyết không thể được.
Tạ Tốn nghĩ thầm: “Ba người kia đối với ta tình thâm nghĩa trọng, muốn họ bỏ ta mà đi, e rằng có nói khô cổ, họ cũng chẳng chịu. Phải nghĩ cách bắt họ ra đi thôi”.
Trương Thúy Sơn bỗng nói:
– Đại ca sợ kẻ thù quá nhiều, sẽ liên lụy đến gia đình tiểu đệ chứ gì? Bốn người chúng ta sau khi về tới Trung nguyên sẽ tìm một nơi hoang vắng sinh sống, không giao thiệp với người ngoài, thì có gì đáng lo? Tốt hơn hết là cả bốn người chúng ta lên trú ngụ trên núi Võ Đang, sẽ chẳng ai nghĩ rằng Kim Mao Sư Vương lại ở trên đó.
Tạ Tốn kiêu hãnh nói:
– Đại ca của ngũ đệ tuy khó sánh với tôn sư, nhưng cũng đâu đến nỗi phải núp bóng tôn sư Trương chân nhân!
Trương Thúy Sơn hối hận đã lỡ lời, vội nói:
– Đại ca võ công không thua gì sư phụ của tiểu đệ, không phải núp bóng ai cả. Hồi Cương, Tây Tạng, sa mạc phía bắc, thiếu gì chỗ cho bốn người chúng ta tiêu dao tự tại?
Tạ Tốn nói:
– Nếu tìm chốn hoang vắng để ở, thiên hạ còn chỗ nào tốt hơn chốn này? Các ngươi rốt cuộc có chịu đi hay không thì bảo?
Trương Thúy Sơn nói:
– Đại ca không đi, gia đình đệ quyết không đi.
Ân Tố Tố và Vô Kỵ cùng nói:
– Cả nhà quyết không đi, nếu người ở lại.
Tạ Tốn thở dài:
– Được lắm, tất cả không đi, đợi lúc ta chết các ngươi đi cũng chưa muộn.
Trương Thúy Sơn nói:
– Đúng thế, chúng mình ở đây mười năm rồi, không làm gì phải vội.
Tạ Tốn quát to:
– Ta chết rồi, các ngươi mới hết lưu luyến chứ gì?
Ba người còn đang kinh ngạc, thì “roạt” một tiếng, Tạ Tốn đã rút phắt thanh đao Đồ Long, đưa lên cắt ngang cổ.
Trương Thúy Sơn cả kinh, kêu lên:
– Khéo đả thương Vô Kỵ kìa!
Chàng biết với võ công của mình, chàng không thể ngăn cản nghĩa huynh vung đao tự tận, trong lúc nguy cấp vội kêu Tạ Tốn đừng đả thương Vô Kỵ, quả nhiên Tạ Tốn sững người, thu đao lại, hỏi:
– Cái gì?
Trương Thúy Sơn thấy Tạ Tốn quyết liệt như vậy, đành nghẹn ngào nói:
– Đại ca quyết ý như thế, tiểu đệ đành bái biệt.
Đoạn quỳ xuống lạy mấy lạy. Vô Kỵ nói to:
– Nghĩa phụ không đi, con cũng không đi! Nghĩa phụ tự tận, con cũng tự tận. Đại trượng phu nói sao làm vậy, nghĩa phụ dùng đao cắt cổ, con cũng sẽ làm như vậy.
Tạ Tốn quát:
– Con nít nói nhăng nói cuội!
Rồi chộp cổ thằng bé ném nó xuống bè, liền đó hai tay chộp Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố cùng quẳng xuống theo, cao giọng nói:
– Ngũ đệ, ngũ muội, Vô Kỵ! Lên đường thuận buồm xuôi gió! Mong các ngươi bình an vô sự, sớm về đến Trung nguyên!
Đoạn lão lại nói:
– Vô Kỵ, sau khi về đến Trung nguyên, hãy xưng là Trương Vô Kỵ, ba chữ Tạ Vô Kỵ chỉ nên giấu trong lòng, chớ có nói ra! Vô Kỵ khóc òa lên, gọi:
– Nghĩa phụ, nghĩa phụ!
Tạ Tốn giơ đao dọa:
– Các ngươi mà còn lên bờ, thì tình nghĩa chúng ta từ đây đoạn tuyệt!
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố thấy nghĩa huynh tâm ý kiên quyết, chẳng thể thay đổi, đành gạt lệ vẫy tay từ biệt. Lúc này hải lưu đẩy chiếc bè gỗ từ từ trôi xa, hình bóng Tạ Tốn mờ dần, mỗi lúc một nhỏ. Rất lâu sau thì không còn thấy bóng Tạ Tốn nữa, ba người mới quay đầu. Vô Kỵ gục vào lòng mẹ khóc mãi, sau đó ngủ thiếp đi.
*
* *
Chiếc bè trôi trên biển, từ hôm ấy quả nhiên chỉ toàn gió bấc đẩy chiếc bè trôi về phương nam. Giữa biển cả mênh mông, chả biết đâu là phương hướng, nhưng ngày ngày thấy mặt trời mọc phía tay trái và lặn bên tay phải, ban đêm thấy sao Bắc Cực lấp láy phía đuôi chiếc bè, mà chiếc bè cứ không ngừng trôi, đủ biết họ đang ngày một về gần Trung nguyên.
Hai mươi ngày đầu, Trương Thúy Sơn sợ chiếc bè va phải núi băng, chỉ giương một cánh buồm phụ, chiếc bè trôi tuy chậm nhưng an toàn, dù đụng vào núi băng cũng chỉ chao đảo rồi lại dạt ra. Khi đã ra khỏi vùng núi băng thật xa, chàng mới giương hết buồm.
Gió bấc ngày đêm không đổi hướng, chiếc bè trôi càng lúc càng nhanh, rất may trên đường không gặp bão biển, xem ra có bảy tám phần hi vọng về được cố hương. Suốt mấy tháng đó, vợ chồng Trương Thúy Sơn sợ Vô Kỵ đau lòng, không nhắc gì đến Tạ Tốn cả.
Trương Thúy Sơn nghĩ thầm: “Võ công mà đại ca truyền cho Vô Kỵ, liệu có dùng được không, thật khó nói. Vô Kỵ về đến Trung nguyên, phải để nó làm môn hạ phái Võ Đang”. Ở trên bè suốt ngày không biết làm gì, chàng bèn truyền thụ cho Vô Kỵ các công phu nhập môn về quyền pháp, chưởng pháp của phái Võ Đang. Phương pháp truyền thụ của chàng so với Tạ Tốn cao minh hơn hẳn, võ công nhập môn của phái Võ Đang lại hoàn toàn không khó, giảng giải vài lần, chỉ vẽ đôi chút là Vô Kỵ học được ngay. Hai cha con trên bè cứ thế tập dượt.
Một hôm Ân Tố Tố thấy mặt biển lặng sóng, chiếc bè gỗ căng gió trôi rất nhanh về phương nam thì không nhịn nổi, nói:
– Đại ca không chỉ võ công tinh thâm, mà còn tính toán chuẩn xác thiên thời địa lý, quả là bậc kỳ tài.
Vô Kỵ bỗng nói:
– Nếu cứ nửa năm gió thổi về nam, nửa năm gió thổi lên bắc, thì sang năm chúng ta quay lại Băng Hỏa đảo thăm nghĩa phụ.
Trương Thúy Sơn vui mừng nói:
– Vô Kỵ nói rất phải, khi nào ngươi trưởng thành, chúng ta lại lên phương bắc…
Ân Tố Tố bỗng chỉ về phía nam, kêu lên:
– Cái gì thế kia?
Chỉ thấy xa tít phía chân trời thấp thoáng hai chấm đen. Trương Thúy Sơn kinh ngạc nói:
– Liệu có phải là kình ngư không? Nó mà húc vào bè thì nguy lắm.
Ân Tố Tố nhìn kỹ một hồi, nói:
– Không phải kình ngư, không thấy nó phun nước lên cao.
Ba người cứ chăm chú nhìn hai chấm đen kia, hơn một canh giờ sau, Trương Thúy Sơn vui mừng reo lên:
– Là thuyền, là thuyền đó!
Chàng cao hứng nhảy tung người lên, lộn một vòng. Từ khi sinh Vô Kỵ, chàng ngày ngày bận bịu, chưa một lần có hành vi tinh nghịch kiểu con nít như vậy. Vô Kỵ cười khanh khách, bắt chước theo, cũng nhảy lộn hai vòng.
Chiếc bè trôi hơn một canh giờ nữa, dưới ánh nắng xiên xiên đã nhìn rõ hai chiếc thuyền lớn. Ân Tố Tố bỗng run người, tái mặt. Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:
– Mẫu thân, người sao vậy?
Ân Tố Tố môi mấp máy, không nói nên lời. Trương Thúy Sơn nắm lấy tay nàng, lộ vẻ quan tâm. Ân Tố Tố thở dài nói:
– Vừa về đã gặp rồi.
Trương Thúy Sơn hỏi:
– Gặp cái gì?
Ân Tố Tố nói:
– Chàng thử nhìn cánh buồm kia.
Trương Thúy Sơn nheo mắt, thấy chiếc thuyền lớn bên trái, trên buồm có vẽ một con chim ưng lớn màu đen dang rộng đôi cánh, hình dáng uy mãnh, chàng chợt nhớ lá cờ lớn của Thiên Ưng giáo năm nào mình nhìn thấy trên Vương Bàn sơn đảo, liền giật mình, hỏi:
– Là… Thiên Ưng giáo phải không?
Ân Tố Tố hạ giọng đáp:
– Đúng thế, chính là Thiên Ưng giáo của phụ thân thiếp!
Trong giây lát, rất nhiều ý nghĩ nổi lên trong đầu chàng: “Phụ thân của Ân Tố Tố là giáo chủ Thiên Ưng giáo, tà giáo này không từ việc ác nào, lúc ta gặp nhạc phụ, phải làm thế nào đây? Ân sư sẽ nói sao về cuộc hôn nhân này của ta?” Chàng thấy bàn tay nhỏ nhắn của Ân Tố Tố run run trong tay mình, biết là nàng cũng đang đầy nỗi niềm lo lắng, bèn nói:
– Tố Tố, hài tử của chúng mình lớn ngần kia rồi! Trên trời dưới đất, vĩnh viễn không xa nhau. Nàng có gì phải sợ?
– Chỉ mong chàng không vì thiếp mà bị gây khó dễ, có gì chàng hãy cứ nghĩ đến Vô Kỵ.
Vô Kỵ chưa bao giờ nhìn thấy thuyền, nên cứ chăm chú ngắm hai chiếc thuyền không chớp mắt, chẳng để ý tới những điều phụ mẫu đang nói.
Chiếc bè gỗ trôi tới gần, thấy hai chiếc thuyền kia đậu rất gần nhau. Nếu không đổi hướng, chiếc bè sẽ trôi qua chỗ giao thoa giữa hai chiếc thuyền kia, nhìn từ xa thấy chỉ cách mũi thuyền bên phải vài mươi trượng.
Trương Thúy Sơn nói:
– Có nên gọi người trên thuyền hay không? Thử hỏi thăm tin tức phụ thân nàng xem sao?
Ân Tố Tố nói:
– Đừng gọi. Để về tới Trung nguyên, thiếp sẽ đưa chàng và Vô Kỵ tới gặp gia gia.
Trương Thúy Sơn nói:
– Ừ, thế cũng được.
Bỗng Trương Thúy Sơn thấy trên thuyền đao quang lấp loáng, dường như có đến bốn, năm người đang giao đấu, bèn nói:
– Người trên hai thuyền kia đang đánh nhau.
Ân Tố Tố nhìn kỹ một hồi, có vẻ hơi lo, nói:
– Không biết gia gia ở trên chiếc thuyền nào?
Trương Thúy Sơn nói:
– Nếu đã gặp, chúng ta nên qua thăm.
Thế là chàng bẻ lái chiếc bè. Chiếc bè nghiêng sang trái, trôi về phía hai chiếc thuyền.
Tuy vẫn để buồm ăn gió, song chiếc bè trôi quá chậm, rất lâu mới tới gần hai chiếc thuyền. Chỉ nghe trên thuyền của Thiên Ưng giáo có tiếng nói lớn:
– Có việc giao thương nghiêm chỉnh, người ngoài không liên quan hãy tránh ra nơi khác.
Ân Tố Tố nói:
– Nhật nguyệt quang chiếu, Thiên Ưng triển xí, thánh diệm hùng hùng, phổ huệ thế nhân[39]! Đây là Đường chủ của tổng đà. Bên đó đàn nào nổi lửa thắp nhang vậy?
Câu nói của nàng là mật ngữ của Thiên Ưng giáo. Người trên chiếc thuyền kia lập tức cung kính đáp:
– Lý đường chủ của Thiên Thị đường, suất lĩnh Trình đàn chủ Thanh Long đàn, Phong đàn chủ Thần Xà đàn đang ở đây. Có phải là Ân đường chủ của Thiên Vi đường giá lâm đó chăng?
Ân Tố Tố nói:
– Là Tử Vi đường đường chủ.
Người trên thuyền kia nghe năm chữ “Tử Vi đường đường chủ” thì tức thời nhộn nhịp hẳn lên. Một lát sau, hơn một chục người đồng thanh reo to:
– Ân cô nương về rồi, Ân cô nương về rồi!
Trương Thúy Sơn thành hôn với Ân Tố Tố đã mười năm, song chưa hề hỏi nàng về việc của Thiên Ưng giáo, cũng chưa nghe nàng kể bao giờ, lúc này thấy đôi bên hỏi đáp mới biết nàng còn là “Tử Vi đường đường chủ” gì đó, xem ra địa vị của đường chủ cao hơn đàn chủ. Hồi ở trên Vương Bàn sơn đảo, chàng đã biết thân thủ của hai vị đàn chủ Huyền Vũ đàn và Chu Tước đàn, nói về võ công thì hai vị ấy cao hơn Ân Tố Tố, sở dĩ nàng giữ địa vị đường chủ vì nàng là quý nữ của giáo chủ. Vậy thì vị đường chủ họ Lý của Thiên Thị đường hẳn phải là một nhân vật cực kỳ lợi hại.
Chỉ nghe trên chiếc thuyền đối diện vang lên giọng nói của một vị cao niên:
– Nghe nói thiên kim tiểu thư của giáo chủ tệ giáo Ân cô nương trở về, chúng ta hãy tạm ngưng đấu được chăng?
Một giọng sang sảng đáp lại:
– Được! Tất cả dừng tay!
Tiếng binh khí chạm nhau lập tức im bặt, những người đang giao đấu liền dãn sang hai bên.
Trương Thúy Sơn nghe giọng nói sang sảng trầm hùng kia quá quen, chợt sững người, rồi gọi to:
– Có phải Du sư ca Du Liên Châu đó chăng?
Người trên thuyền đáp:
– Chính là Du Liên Châu đây… ôi… ôi… ngươi… ngươi…
Trương Thúy Sơn nói:
– Tiểu đệ Trương Thúy Sơn đây!
Chàng xúc động mạnh, thấy chiếc bè còn cách thuyền mấy trượng, bèn lấy một cây gỗ trên bè, vận kình ném ra, tiếp đó nhảy tới, đạp vào cây gỗ mượn lực mà vọt lên chiếc thuyền kia.
Du Liên Châu chạy tới, sư huynh sư đệ xa nhau mười năm, không biết sống chết thế nào, bây giờ gặp lại vui mừng xiết bao! Bốn bàn tay nắm chặt, bên gọi “Nhị ca!”, bên kêu “Ngũ đệ!” cả hai nước mắt rưng rưng, không nói nên lời.
Phía bên kia nghênh đón Ân Tố Tố rầm rộ lắm. Tám chiếc tù và bằng ốc biển loại lớn được thổi lên cùng lúc, Lý đường chủ đứng trên cùng, Phong Trình hai đàn chủ đứng phía sau Lý đường chủ, tiếp đến cả trăm giáo chúng. Từ thuyền lớn xuống bè có bắc ván làm cầu, bảy tám thủy thủ dùng sào dài móc giữ chiếc bè. Ân Tố Tố dắt Vô Kỵ theo tấm ván đi lên thuyền.
Giáo chủ Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính chia Thiên Ưng giáo ra làm Nội tam đường, Ngoại ngũ đàn, để cai quản các lộ giáo chúng. Nội tam đường là Thiên Vi đường, Tử Vi đường và Thiên Thị đường. Ngoại ngũ đàn là Thanh Long đàn, Bạch Hổ đàn, Huyền Vũ đàn, Chu Tước đàn và Thần Xà đàn. Đường chủ của Thiên Vi đường là Ân Dã Vương, trưởng tử của Ân Thiên Chính. Đường chủ của Tử Vi đường là Ân Tố Tố, còn đường chủ của Thiên Thị đường là Lý Thiên Viên, sư đệ của Ân Thiên Chính.
Lý Thiên Viên thấy Ân Tố Tố áo quần lam lũ, làm bằng lông và da thú, dắt theo một hài đồng thì không khỏi kinh ngạc, nhưng tức thời mừng rỡ, cười nói:
– Tạ trời tạ đất, cháu đã về, mười năm qua gia gia cháu mong ngóng quá chừng!
Ân Tố Tố vái lạy, nói:
– Sư thúc vẫn khỏe chứ?
Rồi bảo Vô Kỵ:
– Mau khấu đầu trước sư thúc tổ đi con.
Vô Kỵ quỳ xuống khấu đầu, đôi mắt đen láy chăm chăm nhìn Lý Thiên Viên. Thằng bé thấy trên thuyền quá đông người thì không khỏi hiếu kỳ.
Ân Tố Tố đứng dậy, nói:
– Sư thúc, đây là con của điệt nữ, cháu tên Vô Kỵ.
Lý Thiên Viên sửng sốt, nhưng lập tức cười ha hả, nói:
– Hay lắm, hay lắm! Gia gia cháu sẽ sướng điên người mất, không những quý nữ trở về, còn đem theo một đứa cháu ngoại tuấn tú thế này.
Ân Tố Tố thấy trên sàn cả hai chiếc thuyền đều ngổn ngang mấy tử thi, máu tươi vương vãi, bèn hỏi nhỏ:
– Đối phương là ai? Vì sao động võ?
Lý Thiên Viên nói:
– Là người của phái Võ Đang và phái Côn Luân đó.
Ân Tố Tố ban nãy nghe trượng phu gọi “Du sư ca” rồi nhảy lên chiếc thuyền bên kia, ôm chầm lấy một người, thì biết là bên đó có người của phái Võ Đang, bây giờ nghe Lý Thiên Viên nói vậy, bèn nói:
– Tốt nhất là đừng động thủ, cố hóa giải thì hơn.
Lý Thiên Viên nói:
– Phải.
Lý Thiên Viên tuy là sư thúc, nhưng trong Thiên Ưng giáo, Thiên Thị đường xếp chót trong Nội tam đường, sau Tử Vi đường. Luận về sư môn, Lý Thiên Viên ở vai trên, nhưng xử lý giáo vụ thì Ân Tố Tố có quyền cao hơn sư thúc.
Bỗng nghe Trương Thúy Sơn từ thuyền bên kia gọi:
– Tố Tố, Vô Kỵ, hãy sang bên này chào sư ca của ta.
Ân Tố Tố dắt Vô Kỵ đi sang thuyền bên kia. Lý Thiên Viên và Trình, Phong hai đàn chủ sợ nàng có điều gì thất thố, vội nối gót theo sau.
Sang đến thuyền bên kia, thấy có bảy tám người đứng, một người cao gầy trạc ngoại tứ tuần nắm tay Trương Thúy Sơn, thần thái vô cùng thân thiết. Trương Thúy Sơn nói:
– Tố Tố, đây là Du nhị sư ca mà ta thường nhắc đến! Nhị ca, còn đây là vợ tiểu đệ và cháu Vô Kỵ.
Du Liên Châu và Lý Thiên Viên nghe vậy thì cùng kinh ngạc. Thiên Ưng giáo và phái Võ Đang, hai bên chính đang liều chết ác đấu, nào ngờ mỗi bên lại có một nhân vật trọng yếu kết thành phu phụ, hơn thế nữa lại sinh một hài tử.
Du Liên Châu biết rằng nguyên ủy bên trong có nhiều uẩn khúc, chẳng thể nói rõ ngay được, bèn giới thiệu Trương Thúy Sơn với những người khác trên thuyền.
Một đạo nhân đội mũ vàng mập lùn là Tây Hoa Tử thuộc phái Côn Luân, một phụ nữ trung niên là sư muội của Tây Hoa Tử, Thiểm Điện nương nương Vệ Tứ Nương, người trên giang hồ vẫn gọi sau lưng mụ là Thiểm Điện nương nương. Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố từng nghe danh hai người này. Những người khác cũng đều là hảo thủ của phái Côn Luân, nhưng không nổi danh bằng Tây Hoa Tử và Vệ Tứ Nương. Lão Tây Hoa Tử tuy đã đứng tuổi nhưng không điềm tĩnh chút nào, vừa mở miệng đã hỏi ngay:
– Trương ngũ hiệp, tên ác tặc Tạ Tốn hiện ở đâu, ngũ hiệp có biết không?
Trương Thúy Sơn chưa về đến Trung thổ, còn đang ở giữa biển cả mênh mông đã gặp hai cái khó, một là bản môn rốt cuộc đang động thủ với Thiên Ưng giáo; hai là vừa gặp, ai cũng hỏi Tạ Tốn ở đâu. Chàng nhất thời chưa biết trả lời ra sao, bèn hỏi Du Liên Châu:
– Nhị ca, rốt cuộc chuyện này thế nào?
Tây Hoa Tử thấy Trương Thúy Sơn không trả lời câu hỏi của lão, liền nổi nóng quát to:
– Ngươi có nghe ta hỏi không? Tên ác tặc Tạ Tốn hiện ở đâu?
Trong phái Côn Luân, Tây Hoa Tử có địa vị rất cao, võ công xuất chúng, hống hách đã quen.
Phong đàn chủ của Thần Xà đàn thuộc Thiên Ưng giáo là người nham hiểm, trong cuộc ác đấu vừa rồi có hai đệ tử bị mất mạng dưới kiếm của Tây Hoa Tử, nên đang căm tức lão, lúc này bèn lạnh lùng nói:
– Trương ngũ hiệp là ái tế[40] của giáo chủ bổn giáo, ngươi nói năng nên lễ độ một chút.
Tây Hoa Tử cả giận, nói to:
– Yêu nữ của tà giáo, há được phép kết hôn với đệ tử danh môn chính phái? Vụ hôn phối này hẳn có điều mờ ám.
Phong đàn chủ cười khẩy, nói:
– Ân giáo chủ bổn giáo đã có cháu ngoại rồi, ngươi nói quàng nói xiên gì chứ?
Tây Hoa Tử tức giận nói:
– Con yêu nữ…
Vệ Tứ Nương đã nhận ra dụng ý của Phong đàn chủ là vừa muốn xúi giục hai phái Côn Luân và Võ Đang hiềm khích với nhau, vừa nhân đây lấy lòng Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố, mụ biết Tây Hoa Tử càng nói càng phun ra những lời khó nghe, vội can:
– Sư huynh, đừng nên đôi co những lời vô vị với họ, mọi người hãy nghe Du nhị hiệp chỉ giáo.
Du Liên Châu nhìn Trương Thúy Sơn, nhìn Ân Tố Tố một hồi, trong lòng có biết bao nghi vấn, nói:
– Mọi người hãy vào trong khoang nói chuyện. Những huynh đệ cả đôi bên bị tử thương, hãy mau cứu chữa trước đã.
Lúc này Thiên Ưng giáo là khách, mà quyền lực cao nhất hiện thuộc về đường chủ Tử Vi đường Ân Tố Tố. Nàng dắt Vô Kỵ đi vào khoang trước, tiếp đến Lý Thiên Viên.
Khi Phong đàn chủ bước vào khoang, chợt cảm thấy có làn gió nhẹ thổi tới sau lưng, y là người lịch lãm, biết ngay là đòn đánh lén của Tây Hoa Tử, y không đỡ mà nhào về phía trước và kêu to:
– Ối chà, đánh trộm à?
Thế là chiêu “Tam âm thủ” của Tây Hoa Tử bị hụt, ai nấy cùng quay lại nhìn hai người.
Vệ Tứ Nương đưa mắt lườm sư huynh. Mặt Tây Hoa Tử từ màu tía chuyển sang màu hồng. Ai nấy biết rằng khi đã lên thuyền này, cả bọn Phong đàn chủ đều là khách, cái trò đánh lén của Tây Hoa Tử thật làm mất đi thân phận của một cao thủ danh môn chính phái.
Hai bên phân chủ khách ngồi xuống. Ân Tố Tố là thủ tịch phía khách, Vô Kỵ đứng bên cạnh mẹ. Phía chủ thì Du Liên Châu đứng đầu, chàng chỉ chiếc ghế bên dưới Vệ Tứ Nương, nói:
– Ngũ đệ, ngồi đó đi.
Trương Thúy Sơn vâng lời ngồi xuống. Như thế hai vợ chồng Trương – Ân thành ra hai bên chủ khách, cũng là vào thế đối địch nhau.
Mười năm qua, Du Đại Nham bị trọng thương không thể ra ngoài, Trương Thúy Sơn mất tích, sống chết không ai hay, còn lại Võ Đang ngũ hiệp danh tiếng càng thêm lừng lẫy. Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu tuy chỉ là đệ tử đời thứ hai trong phái Võ Đang, nhưng trong võ lâm thì nghiễm nhiên ngang hàng với các cao tăng của phái Thiếu Lâm. Người trên giang hồ đối với Võ Đang ngũ hiệp cực kỳ kính trọng, vì vậy Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương phải nhường cho Du Liên Châu vai thủ tịch.
Du Liên Châu nghĩ thầm: “Ngũ đệ mất tích mười năm, hóa ra đã cùng con gái của giáo chủ Thiên Ưng giáo kết thành phu phụ, nếu bây giờ tra vấn trước mặt mọi người, ngũ đệ ắt có điều khó nói”. Bèn cao giọng nói:
– Chúng ta bao gồm Thiếu Lâm, Côn Luân, Nga Mi, Không Động, Võ Đang, cộng là năm phái, Thần Quyền, Ngũ Phụng Đao, cộng là chín môn, Hải Sa, Cự Kình, bảy bang, tổng cộng hai mươi mốt môn phái bang hội, vì việc truy tìm ba người là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, Ân cô nương của Thiên Ưng giáo và sư đệ Trương Thúy Sơn của tệ phái, mà có sự hiểu lầm với Thiên Ưng giáo, không may đôi bên đều có người tử thương, mười năm qua võ lâm chẳng được yên…
Du Liên Châu nói tới đây thì ngừng một lát, rồi mới nói tiếp:
– Thật may Ân cô nương và Trương sư đệ đột nhiên xuất hiện, biết bao nghi vấn sẽ lộ rõ chân tướng. Nhưng sự việc trong mười năm qua có quá nhiều uẩn khúc, không thể nói rõ ngay một lần. Tại hạ thiết nghĩ, chúng ta hãy cùng trở về đất liền, Ân cô nương bẩm rõ với giáo chủ, tệ sư đệ cũng về núi Võ Đang bẩm với gia sư, sau đó hai bên sẽ chọn nơi hội ngộ, phân biện phải trái đúng sai, nếu qua đó có thể biến cừu thù thành bằng hữu thì không gì bằng…
Tây Hoa Tử đột nhiên nói xen vào:
– Tên ác tặc Tạ Tốn hiện giờ ở đâu? Kẻ chúng ta cần tìm là tên ác tặc Tạ Tốn.
Trương Thúy Sơn nghe nói vì việc tìm kiếm ba người mình mà hai mươi hai môn phái bang hội trong võ lâm Trung nguyên đại động can qua, đánh nhau mười năm, chết chóc hẳn không ít thì trong lòng vô cùng áy náy. Chàng lại nghe Tây Hoa Tử luôn mồm truy vấn chỗ ở của Tạ Tốn, càng cảm thấy khó nói. Nếu nói thẳng ra, sẽ có không biết bao nhiêu cao thủ võ lâm đi Băng Hỏa đảo tìm Tạ Tốn báo thù; còn nếu không nói, vậy giấu bằng cách nào đây? Chàng đang phân vân, Ân Tố Tố đột nhiên nói:
– Tên ác tặc Tạ Tốn không từ việc ác, giết người không ghê tay, đã chết cách nay chín năm rồi.
Du Liên Châu, Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương cùng kinh ngạc kêu lên:
– Tạ Tốn chết rồi ư?
Ân Tố Tố nói:
– Hôm tiểu nữ sinh hài nhi này, tên ác tặc Tạ Tốn nổi cơn điên, định sát hại ngũ ca và tiểu nữ, bỗng nghe tiếng khóc của hài nhi, tâm bệnh phát tác, cái tên ác tặc Tạ Tốn hành động điên loạn đã chết tức thì.
Lúc này Trương Thúy Sơn chợt hiểu, lúc Ân Tố Tố nhắc lại câu “cái tên ác tặc Tạ Tốn đã chết rồi”, cũng không phải là nói trái sự thực, bởi lẽ từ khi Tạ Tốn nghe thấy tiếng khóc chào đời của Vô Kỵ, thiên lương liền trỗi dậy, chấm dứt cơn điên, bỏ ác hướng thiện, cho đến hôm Tạ Tốn buộc ba người rời đảo trở về, rõ ràng đó là hành vi xả kỷ vị nhân[41], đại nhân đại nghĩa, do đó hoàn toàn có thể nói “tên ác tặc Tạ Tốn không từ việc ác, giết người không ghê tay kia đã chết chín năm về trước”, và “Tạ Tốn cao thượng” đã sinh ra chín năm về trước.
Tây Hoa Tử nhăn mũi hừ một tiếng, lão cho rằng Ân Tố Tố là yêu nữ của tà giáo, lời nàng chẳng thể tin. Lão nói, giọng gay gắt:
– Trương ngũ hiệp, tên ác tặc Tạ Tốn có chết thật hay không?
Trương Thúy Sơn thản nhiên đáp:
– Đúng, tên ác tặc Tạ Tốn hành động điên loạn đã chết từ chín năm trước.
Vô Kỵ đứng bên, nghe mọi người chửi rủa tên ác tặc Tạ Tốn, cha mẹ nó thậm chí nói Tạ Tốn chết từ lâu rồi, nó tuy thông minh, nhưng làm sao hiểu nổi uẩn khúc chốn giang hồ? Tạ Tốn đối với nó ân sâu nghĩa nặng, chăm chút che chở cho nó đâu kém gì phụ mẫu, nó cảm thấy quá đau lòng, nhịn không được khóc òa lên, nói:
– Nghĩa phụ không phải là ác tặc, nghĩa phụ chưa chết, nghĩa phụ chưa chết!
Tiếng khóc và lời nói của thằng bé khiến mọi người trên thuyền cùng kinh hãi.
Ân Tố Tố cả giận, tát cho Vô Kỵ một cái, quát:
– Câm miệng!
Vô Kỵ mếu máo nói:
– Mẹ, sao mẹ lại bảo nghĩa phụ chết rồi? Nghĩa phụ rõ ràng còn sống kia mà?
Thằng bé từ nhỏ chỉ sống chung với ba người là phụ mẫu và nghĩa phụ, các mưu mô dối trá của người đời nó chưa từng gặp; nếu là một đứa trẻ sống trong giang hồ, dù chỉ thông minh bằng nửa nó thôi, cũng thừa biết người đời nói dối như cơm bữa, thì đâu có gây ra đại họa? Ân Tố Tố mắng nó:
– Người lớn đang nói chuyện, con nít không được xen vào! Mọi người đang nói về tên ác tặc Tạ Tốn, chứ đâu phải nói về nghĩa phụ của ngươi.
Vô Kỵ hoang mang không hiểu, nhưng cũng không dám nói nữa.
Tây Hoa Tử cười nhạt, hỏi Vô Kỵ:
– Tiểu đệ đệ, Tạ Tốn là nghĩa phụ của tiểu đệ đệ, đúng không? Hiện giờ Tạ Tốn ở đâu?
Vô Kỵ nhìn mặt phụ mẫu, biết rằng những điều họ nói là vô cùng hệ trọng, nghe Tây Hoa Tử hỏi vậy, bèn lắc đầu:
– Hài nhi không nói đâu.
Năm tiếng “Hài nhi không nói đâu” của nó càng chứng tỏ Tạ Tốn chưa chết.
Tây Hoa Tử trừng mắt nhìn Trương Thúy Sơn, nói:
– Trương ngũ hiệp, vị Ân cô nương của Thiên Ưng giáo kia có đúng là phu nhân của ngũ hiệp chăng?
Trương Thúy Sơn không ngờ lão ta lại hỏi như vậy, liền đáp:
– Phải, nàng là hiền thê của tại hạ.
Tây Hoa Tử gằn giọng:
– Phái Côn Luân chúng tôi có hai đệ tử bị hại bởi tôn phu nhân, biến thành sống dở chết dở, món nợ đó tính sao đây?
Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đều kinh ngạc. Ân Tố Tố chặn ngay:
– Nói năng hồ đồ!
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc đó chắc là sự hiểu lầm, vợ chồng tại hạ xa Trung thổ đã mười năm, làm sao có thể bức hại đệ tử của quý phái?
Tây Hoa Tử nói:
– Mười năm trước thì sao? Cao Tắc Thành và Tưởng Đào, hai người bị hại, tính ra cũng mười năm rồi.
Ân Tố Tố hỏi:
– Cao Tắc Thành và Tưởng Đào ư?
Tây Hoa Tử đáp:
– Phu nhân còn nhớ hai người đó chứ? Chỉ sợ phu nhân giết nhiều người quá, nhớ không xuể nữa.
Ân Tố Tố nói:
– Hai người ấy ra sao? Vì cớ gì vu cho tiểu nữ làm hại họ?
Tây Hoa Tử ngửa mặt cười ha hả, nói:
– Ta vu cho người, ta vu cho người ư? Ha ha! Cao Tắc Thành và Tưởng Đào tuy đã mất trí, nhưng vẫn nhớ được một việc, nói ra tên kẻ đã hại họ chính là “Ân… Tố… Tố!”
Ba chữ “Ân Tố Tố”, Tây Hoa Tử dằn mạnh từng tiếng, cách nói đầy vẻ oán độc, cặp mắt lão trừng trừng nhìn nàng, tựa hồ hận không thể tuốt gươm băm vằm cho hả giận.
Phong đàn chủ đột nhiên xen vào:
– Khuê danh của đường chủ Tử Vi đường bổn giáo há để cho lão đạo gọi ra tùy tiện? Đến giới luật thanh quy còn không theo đúng, mà đòi làm tiền bối võ lâm ư? Trình hiền đệ, hiền đệ thử xem trên đời có việc nào vô liêm sỉ đến thế không?
Trình đàn chủ tiếp lời:
– Chưa từng có! Trong danh môn chính phái lại có một gã cuồng đồ như thế, thật tức cười, tức cười!
Tây Hoa Tử cả giận, quát to:
– Hai ngươi bảo ai vô liêm sỉ? Bảo ai tức cười?
Phong đàn chủ không thèm nhìn lão, nói:
– Trình hiền đệ, có kẻ mới học được vài chiêu kiếm pháp võ vẽ đã vội vênh mặt lên, hiền đệ bảo đó là hạng người gì?
Trình đàn chủ nói:
– Phái Côn Luân từ khi Linh Bảo đạo trưởng lìa trần, đời sau càng kém hơn đời trước, thật chẳng ra gì!
Linh Bảo đạo trưởng là sư tổ của Tây Hoa Tử, đức độ và võ công, ai ai trong võ lâm cũng kính phục. Tây Hoa Tử nghe câu đó thì giận tím cả mặt, nhưng không dám đốp lại, nếu bảo câu đó sai, có khác gì vỗ ngực bảo mình giỏi hơn cả sư tổ danh chấn thiên hạ? Lão nhảy ra cửa khoang thuyền, rút kiếm, quát to:
– Tên ác đồ của tà giáo kia, có giỏi hãy ra đây thử sức!
Phong đàn chủ và Trình đàn chủ sở dĩ muốn khích cho Tây Hoa Tử nổi giận là để giải vây cho Ân Tố Tố, nghĩ Trương Thúy Sơn và Ân đường chủ đã thành phu phụ, quan hệ giữa phái Võ Đang và Thiên Ưng giáo bây giờ đã khác hẳn lúc trước, dù Du Liên Châu và Trương Thúy Sơn không tiện ra tay thì ít ra cũng không giúp bên nào, như vậy Thiên Ưng giáo đối phó với mấy người của phái Côn Luân quá dễ dàng.
Vệ Tứ Nương cau mày, nhận ra điều đó, nghĩ rằng với sáu bảy người mình và sư ca, không thể địch nổi quá nhiều cao thủ của Thiên Ưng giáo, huống hồ Trương Thúy Sơn trọng tình phu phụ, hẳn sẽ ra tay trợ giúp đối phương, bèn nói:
– Sư ca, người ta lên thuyền bên mình thì là khách, chúng ta nên nghe Du nhị hiệp chỉ giáo là hơn.
Mụ ta đẩy việc xử lý cho Du Liên Châu, nghĩ với danh vọng và địa vị của mình, họ Du không thể thiên vị. Ai ngờ Tây Hoa Tử tính tình nóng nảy, quát to:
– Phái Võ Đang của y đã kết thân gia với Thiên Ưng giáo, hợp dòng ô uế với nhau rồi, y làm sao có thể nói năng công bằng nữa?
Du Liên Châu là người thâm trầm, hỉ nộ không lộ ra ngoài mặt, nghe Tây Hoa Tử nói vậy cũng chỉ im lặng.
Vệ Tứ Nương vội nói:
– Sư ca, sao lại nói năng hồ đồ thế! Phái Võ Đang với phái Côn Luân ta đồng khí liên chi, cội nguồn sâu xa, mười năm nay liên thủ chống địch, quan hệ bền chặt; Du nhị hiệp lại là một hảo hán thiết diện vô tư, anh danh lừng lẫy giang hồ, thiên hạ có ai không khâm phục? Võ Đang ngũ hiệp xử sự đâu có thiên vị bao giờ?
Tây Hoa Tử hừ một tiếng, nói:
– Cái đó chưa chắc!
Vệ Tứ Nương thầm mắng sư ca hồ đồ không hiểu ngụ ý của mụ, bèn cao giọng:
– Sư ca, sư ca tự dưng đắc tội với Võ Đang ngũ hiệp, nếu sư phụ và sư thúc chưởng môn hỏi tới thì muội không chịu đâu đấy.
Mụ chỉ luôn miệng “Võ Đang ngũ hiệp”, không đả động gì tới Trương Thúy Sơn. Tây Hoa Tử nghe nhắc tới sư phụ và sư thúc chưởng môn, liền không dám nói nữa.
Du Liên Châu chậm rãi nói:
– Việc này liên quan đến các đại môn phái và đại bang hội trong võ lâm. Tại hạ vô đức vô năng, sao dám đưa ra chủ trương? Hơn nữa, việc này cũng đã mười năm rồi, có tốn thêm nửa năm hay một năm nữa cũng không phải là lâu. Tại hạ phải cùng Trương sư đệ trở về núi Võ Đang, bẩm rõ với ân sư và đại sư huynh, xin ân sư chỉ thị.
Tây Hoa Tử cười nhạt, nói:
– Cái chiêu “Như phong tự bế” của Du nhị hiệp dùng để thoái thác, quả thực quá cao minh.
Du Liên Châu là người vô cùng trầm tĩnh, không dễ nổi nóng, nhưng Tây Hoa Tử vừa nhạo báng chiêu “Như phong tự bế”, chính là công phu phòng thủ nổi danh thiên hạ của phái Võ Đang do ân sư Trương Tam Phong sáng tạo, như thế có khác gì Tây Hoa Tử làm nhục ân sư; nhưng Du Liên Châu nghĩ thầm: “Vụ này xử lý không khéo một chút, sẽ dẫn tới kiếp nạn ghê gớm trong võ lâm. Lão đạo sĩ nói năng hồ đồ này chẳng đáng để mình phải tranh biện”.
Tây Hoa Tử thấy Du Liên Châu nghe mấy câu lão vừa nói, liếc nhìn lão một cái, mà ánh mắt như tia chớp, thì giật mình nghĩ thầm: “Sư phụ và sư thúc chưởng môn của ta là cao thủ đứng đầu môn phái, mà nhãn thần xem ra không lợi hại bằng người này”. Ánh mắt của Du Liên Châu chợt dịu lại, nói giọng bình thản:
– Tây Hoa đạo huynh có cao kiến gì, tại hạ xin rửa tai lắng nghe.
Tây Hoa Tử vừa bị ánh mắt của Du Liên Châu quét qua, còn khiếp đảm, quay sang nói với Vệ Tứ Nương:
– Sư muội, sư muội bảo sao, không lẽ chuyện của Cao, Tưởng hai người mình đành buông tay cho qua?
Vệ Tứ Nương chưa kịp đáp, bỗng từ hướng nam nổi lên tiếng tù và rền rĩ. Một đệ tử phái Côn Luân chạy vào cửa khoang, nói:
– Phái Không Động và Nga Mi đã tới tiếp ứng!
Tây Hoa Tử và Vệ Tứ Nương cả mừng, Vệ Tứ Nương nói:
– Du nhị hiệp, chúng ta hãy nghe cao kiến của phái Không Động và phái Nga Mi luôn thể.
Du Liên Châu nói:
– Được!
Lý Thiên Viên và Trình đàn chủ đưa mắt nhìn nhau, mặt hơi biến sắc.
Trương Thúy Sơn có thêm nỗi lo: “Phái Nga Mi chẳng đáng ngại, còn phái Không Động có thâm cừu với Tạ Tốn đại ca. Tạ Tốn đã đả thương Không Động ngũ lão, đoạt lấy bộ kinh Thất Thương Quyền, bọn họ chắc chắn đã khổ công truy tìm chỗ ở của đại ca”.
Ân Tố Tố cũng nghĩ như thế, lại nghĩ giá như Vô Kỵ không nói ra lời ngây ngô của con trẻ thì sự việc đã dễ xử lý hơn rất nhiều. Thế nhưng nghĩ lại, Vô Kỵ từ nhỏ đến nay chưa bao giờ nghe nói dối, đối với Tạ Tốn tình sâu nghĩa nặng, bỗng dưng nghe bảo nghĩa phụ chết rồi, dĩ nhiên nó phải khóc phải kêu, chẳng thể trách mắng nó. Nàng nhìn má nó còn in vết mấy ngón tay hồng hồng bởi cái tát ban nãy, không khỏi thương thằng bé, bèn kéo nó vào lòng. Vô Kỵ vẫn chưa hết lo, ghé tai mẹ hỏi nhỏ:
– Mẹ, nghĩa phụ chưa chết, phải không mẹ?
Ân Tố Tố cũng ghé tai con, nói nhỏ:
– Chưa. Ta đánh lừa bọn họ đó. Mấy người kia độc ác, xấu xa, muốn hại nghĩa phụ của ngươi đó.
Vô Kỵ chợt hiểu, đưa mắt tức giận nhìn từng người, nghĩ thầm: “Hóa ra các người đều độc ác, xấu xa, định hại nghĩa phụ ta”.
Từ hôm nay, Trương Vô Kỵ bước chân vào chốn giang hồ, bắt đầu thấy sự hiểm ác của lòng người trên thế gian. Nó đưa tay rờ má, cái tát của mẹ nó vẫn còn đau rát. Nó biết tuy là mẫu thân đánh nó, nhưng lại do mấy kẻ độc ác xấu xa kia gây nên. Từ nhỏ đến giờ nó sống trong vòng tay bao bọc yêu chiều của cha mẹ và nghĩa phụ, đâu biết trên đời có những kẻ địch tâm địa độc ác. Tuy Tạ Tốn đã kể chuyện Thành Côn, nhưng mới chỉ là tai nghe, đến lúc này nó mới mắt thấy và đối mặt trực tiếp với kẻ địch..
Một lúc sau, có sáu bảy người thuộc phái Không Động, phái Nga Mi bước vào khoang thuyền chào hỏi Du Liên Châu, Tây Hoa Tử, Vệ Tứ Nương. Dẫn đầu phái Không Động là một lão niên gầy gò rắn rỏi, mặc áo vải gai. Dẫn đầu phái Nga Mi là một ni cô trung niên. Đám người vừa tới thấy bọn Lý Thiên Viên ở trong khoang thuyền thì không khỏi kinh ngạc.
Tây Hoa Tử lớn tiếng nói:
– Đường tam gia, Tĩnh Hư sư thái, phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo rồi! Kỳ này phe ta thua thiệt hẳn.
Lão niên gầy gò mặc áo vải gai là Đường Văn Lượng, một trong Không Động ngũ lão, còn ni cô Tĩnh Hư sư thái là đại đệ tử đời thứ tư của phái Nga Mi, đều là hảo thủ có danh vọng trong võ lâm, nghe Tây Hoa Tử nói vậy liền sững sờ. Tĩnh Hư sư thái là người tinh tế, vốn biết tính nóng nảy bộp chộp của Tây Hoa Tử, nên chưa nói gì. Riêng Đường Văn Lượng lập tức trợn mắt nhìn Du Liên Châu, hỏi:
– Du nhị hiệp, có đúng thế không?
Du Liên Châu chưa đáp, Tây Hoa Tử đã cướp lời:
– Phái Võ Đang đã kết thông gia với Thiên Ưng giáo, Trương Thúy Sơn đã thành ái tế của Ân Thiên Chính…
Đường Văn Lượng lấy làm lạ, nói:
– Trương ngũ hiệp mất tích mười năm, nay đã biết ở đâu rồi ư?
Du Liên Châu chỉ Trương Thúy Sơn, nói:
– Đây là ngũ sư đệ Trương Thúy Sơn của tại hạ, còn vị này là cao nhân tiền bối của phái Không Động, Đường tam gia Đường Văn Lượng, đôi bên hãy làm quen đi nào.
Tây Hoa Tử lại nói:
– Vợ chồng Trương Thúy Sơn biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, nhưng không chịu nói ra, lại còn tung tin bịa đặt rằng Tạ Tốn đã chết.
Đường Văn Lượng vừa nghe mấy chữ “Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn” thì vừa sợ vừa tức, quát hỏi:
– Hắn ở đâu?
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc này tại hạ phải bẩm rõ với gia sư trước đã, chưa thể nói bây giờ, mong các vị hãy lượng thứ.
Đường Văn Lượng mắt như tóe lửa, quát:
– Tên ác tặc Tạ Tốn ở đâu? Hắn giết cháu ta, Đường mỗ thề không đội trời chung với hắn. Hắn ở đâu? Ngươi có nói hay không thì bảo?
Câu sau cùng giọng của lão thật gay gắt, không còn nể nang gì hết.
Ân Tố Tố lạnh lùng nói:
– Các hạ chẳng qua là nhân vật có tuổi của phái Không Động, đâu đủ tư cách truy vấn Trương ngũ gia? Các hạ là bậc chí tôn trong võ lâm, hay là chưởng môn phái Võ Đang?
Đường Văn Lượng cả giận, giơ cả mười ngón tay toan bổ về phía Ân Tố Tố, nhưng thấy nàng là một thiếu phụ mảnh mai, còn mình đường đường là nhân vật tiền bối thành danh trong võ lâm, thật không tiện động thủ với nàng, đành nén giận hỏi Trương Thúy Sơn:
– Vị này là ai?
Trương Thúy Sơn nói:
– Là hiền thê của tại hạ.
Tây Hoa Tử nói xen vào:
– Chính là thiên kim ái nữ của Ân đại giáo chủ Thiên Ưng giáo. Hừ, yêu nữ của tà giáo, có tốt lành gì.
Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính võ công tinh thâm, cho tới nay, những ai trong võ lâm từng động thủ với Ân giáo chủ, chưa một ai chống đỡ nổi mười chiêu. Đường Văn Lượng vừa nghe nói nàng là nữ nhi của Bạch Mi Ưng Vương Ân Thiên Chính thì bất giác e ngại, chỉ nói:
– Được, được, được lắm!
Tĩnh Hư sư thái từ khi bước vào khoang thuyền vẫn im lặng, bây giờ mới lên tiếng:
– Việc này đầu đuôi ra sao, mong Du nhị hiệp cho biết.
Du Liên Châu nói:
– Chuyện này có rất nhiều uẩn khúc, lại kéo dài đã mười năm, nhất thời chưa thể làm sáng tỏ ngay một lúc. Thôi để ba tháng sau, tệ phái sẽ thiết yến tại lầu Hoàng Hạc ở Võ Xương, mời hết thảy các môn phái, bang hội hữu quan tham dự, đúng sai phải trái thế nào, bấy giờ sẽ rõ. Ý các vị ra sao?
Tĩnh Hư sư thái gật đầu:
– Như thế rất hay.
Đường Văn Lượng nói:
– Đúng sai phải trái, ba tháng sau luận cũng được, nhưng ác tặc Tạ Tốn ẩn thân nơi đâu, mong Trương ngũ hiệp hãy nói ngay bây giờ.
Trương Thúy Sơn lắc đầu:
– Hiện giờ quả thực chưa tiện nói ra.
Đường Văn Lượng tuy rất bất mãn, nhưng nghĩ thầm phái Võ Đang đã liên thủ với Thiên Ưng giáo, vậy tạm thời đành chịu, song lẽ công bằng là ở lòng người, để xem ba tháng sau họ sẽ ăn nói thế nào với quần hùng thiên hạ. Cho nên lão không nói thêm, liền đứng dậy, chắp tay nói:
– Vậy ba tháng sau tái kiến, cáo từ.
Tây Hoa Tử nói:
– Đường tam gia, mấy người chúng tôi đi nhờ thuyền các hạ trở về, có được chăng?
Đường Văn Lượng nói:
– Được, có gì mà không được Tây Hoa Tử nói với Vệ Tứ Nương:
– Sư muội, mình đi thôi.
Lão vốn đi cùng thuyền với Du Liên Châu tới đây, bây giờ làm thế, rõ ràng coi phái Võ Đang là thù địch. Du Liên Châu vẻ mặt thản nhiên, khách sáo tiễn ra mũi thuyền, nói:
– Chúng tôi về núi bẩm rõ với sư tôn, rồi sẽ gửi thiếp mời quý vị tới dự anh hùng yến.
Ân Tố Tố đột nhiên nói:
– Tây Hoa đạo trưởng, tiểu nữ có một việc muốn thỉnh giáo.
Tây Hoa Tử ngạc nhiên quay đầu lại hỏi:
– Việc gì vậy?
Ân Tố Tố nói:
– Đạo trưởng cứ luôn miệng bảo tiểu nữ là yêu nữ tà giáo, không biết tà ở việc gì, yêu ở chỗ nào?
Tây Hoa Tử sững người, nói:
– Tà ma ngoại đạo, hồ mị yêu dâm, thì là như thế, cần gì phải nói nhiều? Nếu không tại sao đường đường một vị Trương ngũ hiệp của phái Võ Đang lại bị ngươi mê hoặc kia chứ? Hi hi ha ha!
Nói đoạn lão ta cười khẩy một hồi.
Ân Tố Tố nói:
– Được, đa tạ đã chỉ điểm!
Tây Hoa Tử thấy câu nói của mình khiến cho Ân Tố Tố á khẩu vô ngôn, cũng lấy làm bất ngờ, thấy nàng không nói gì nữa, bèn bước lên tấm ván bắc cầu đi sang thuyền phái Không Động.
Hai chiếc hải thuyền đều thuộc loại lớn có ba cột buồm, tuy đậu cạnh nhau nhưng cũng cách nhau ngót hai trượng, cầu ván bắc ngang rất dài. Tây Hoa Tử đối đáp mấy câu với Ân Tố Tố, nên thành người đi sau cùng, mấy người kia đã sang chiếc thuyền bên kia cả rồi. Tây Hoa Tử đi tới giữa tấm ván, chợt nghe sau lưng có tiếng gió thoảng, kèm theo một tiếng xoẹt nhỏ. Lão ta tuy tính tình nóng nảy, song võ công chẳng phải vừa, hành tẩu giang hồ đã nhiều, biết là có kẻ ám toán nên lập tức quay người lại rút trường kiếm cầm lăm lăm. Ngay lúc đó, lão ta thấy dưới chân hẫng hụt, tấm ván bắc cầu đã gãy rời làm đôi. Lão ta vội tung mình nhảy lên, nhưng giữa hai chiếc thuyền là khoảng không, dưới chân là biển sâu màu lam, nhảy thêm rồi đâu có thể nhảy lên lần nữa, “ùm” một tiếng, lão ta đã rơi xuống nước.
Tây Hoa Tử không biết bơi, thế là phải uống liền mấy ngụm nước mặn, hai tay đập loạn xạ, đột nhiên túm được một sợi dây thừng, lão mừng quá, giữ chặt lấy, cảm thấy có người đang kéo dây đưa mình lên mặt nước. Tây Hoa Tử ngẩng đầu nhìn, thấy người cầm đầu dây chính là Trình đàn chủ của Thiên Ưng giáo, đang tủm tỉm cười.
Thì ra Ân Tố Tố giận lão nói năng vô lễ, đợi lúc khách qua thuyền, bí mật dặn Phong Trình hai đàn chủ sắp đặt mưu kế. Phong đàn chủ nổi danh giang hồ về tuyệt kỹ sử dụng ba mươi sáu lưỡi phi đao, xuất thủ vừa nhanh vừa chuẩn xác. Mỗi lưỡi phi đao đều do thợ giỏi rèn bằng thép ròng, mỏng như lá liễu, sắc bén lạ thường; đối thủ nếu đưa binh khí ra đỡ phi đao của y, thường là binh khí sẽ bị tiện đứt. Vừa rồi y dùng phi đao cắt ván cầu, chỉ nghe xoẹt một tiếng nhỏ là ván đã đứt luôn. Trình đàn chủ đứng bên chuẩn bị sẵn dây thừng, đợi Tây Hoa Tử uống vài ngụm nước biển mới tung dây kéo lão ta lên.
Bọn Vệ Tứ Nương, Đường Văn Lượng thấy Tây Hoa Tử rơi xuống biển, tuy đoán là thủ đoạn của đối phương nhưng Phong đàn chủ xuất thủ quá lẹ, mọi người lại chỉ chú ý phía trước, đâu có ai nhìn thấy ván cầu đứt đôi như thế nào, đến lúc mọi người hô cứu thì Trình đàn chủ đã kéo được Tây Hoa Tử lên mặt nước.
Tây Hoa Tử nén giận, định bụng khi lên trên thuyền sẽ lập tức tấn công đối phương. Nào ngờ Trình đàn chủ chỉ kéo lão lên cách mặt nước chừng một thước, rồi không kéo nữa, mà nói:
– Đạo trưởng, nhất thiết không được động đậy, tại hạ sức yếu, đạo trưởng cử động mạnh e rằng tại hạ tuột tay thì nguy đấy.
Tây Hoa Tử nghĩ thầm, nếu y giả bộ ngây dại, cho mình rơi xuống biển lần nữa, chỉ e chẳng phải chuyện đùa, thôi đành nắm chắc dây thừng ở yên một chỗ, không dám leo lên.
Trình đàn chủ nói:
– Cẩn thận này!
Cánh tay y hất một cái, sợi thừng vút lên không thành một nửa vòng tròn. Cánh tay y quá khỏe, hất một cái mà đẩy Tây Hoa Tử văng đi xa bảy, tám trượng, rồi kéo giật lại, cho rơi xuống thuyền bên kia.
Tây Hoa Tử buông dây ra, hai chân đặt trên sàn thuyền. Thanh kiếm của lão ta đã bị rơi xuống biển, lúc này lão ta giận điên người, lại nghe tiếng reo cười nổi lên bên thuyền của Thiên Ưng giáo, liền rút thanh bội kiếm của Vệ Tứ Nương đang giắt bên lưng, toan nhảy qua thí mạng. Nhưng hai thuyền cách nhau quá xa, khó lòng vọt qua, lão ta đành hậm hực dậm chân, chỉ tay chửi rủa, chẳng làm gì được.
Ân Tố Tố bỡn cợt Tây Hoa Tử như thế, Du Liên Châu nhìn thấy hết, nghĩ thầm thiếu phụ này quả thực tà môn, không phải mối lương duyên của ngũ đệ, bèn nói:
– Ân, Lý hai vị đường chủ, phiền hai vị về bẩm báo với Ân giáo chủ, ba tháng sau yến hội tại lầu Hoàng Hạc ở Vũ Xương, nếu lão nhân gia không coi là nhẹ, thỉnh người giá lâm. Hôm nay chúng ta từ biệt ở đây. Ngũ đệ, ngũ đệ theo huynh về gặp ân sư chứ?
Trương Thúy Sơn nói:
– Vâng!
Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu nói vậy, có ý bảo vợ chồng nàng phải xa nhau, bèn ngẩng lên nhìn trời, rồi cúi xuống sàn thuyền.
Trương Thúy Sơn biết nàng có ý nhắc lại lời thề “Trên trời dưới đất, vĩnh viễn bên nhau”, bèn nói:
– Nhị ca, tiểu đệ muốn đưa thê tử về khấu kiến ân sư, chờ khi nào lão nhân gia cho phép, sẽ đi bái kiến nhạc phụ, nhị ca nghĩ có được chăng?
Du Liên Châu hơi trù trừ, nghĩ thầm mình không nỡ bảo phu thê phụ tử sư đệ phải phân ly, nên gật đầu nói:
– Thế cũng được.
Ân Tố Tố cả mừng, nói với Lý Thiên Viên:
– Sư thúc, sư thúc hãy về bẩm với phụ thân tiểu nữ, rằng đứa con bất hiếu này may mắn thoát chết, ít bữa nữa sẽ trở về tổng đà bái kiến lão nhân gia.
Lý Thiên Viên nói:
– Hay lắm, ta ở tổng đà sẽ cung kính chờ đón hai vị đại giá.
Đoạn đứng lên cáo biệt Du Liên Châu.
Ân Tố Tố hỏi:
– Phụ thân tiểu nữ có khỏe không?
Lý Thiên Viên nói:
– Khỏe, khỏe lắm! Xem ra tinh thần còn mạnh mẽ hơn xưa.
Ân Tố Tố lại hỏi:
– Còn ca ca của tiểu nữ?
Lý Thiên Viên nói:
– Khỏe lắm! Lệnh huynh mấy năm nay võ công đột phi mãnh tiến, khiến sư thúc cố theo chẳng kịp, thật đáng hổ thẹn cho ta!
Ân Tố Tố mỉm cười:
– Sư thúc lại giễu cợt điệt nhi rồi.
Lý Thiên Viên nghiêm mặt nói:
– Ta không nói đùa đâu! Ngay cả phụ thân ngươi cũng phải khen ngợi là hắn đã giỏi hơn thầy, ngươi bảo thế có lợi hại không nào?
Ân Tố Tố nói:
– Ôi, trước mặt người ngoài, sư thúc mèo khen mèo dài đuôi, không sợ Du nhị hiệp chê cười hay sao.
Lý Thiên Viên cười:
– Trương ngũ hiệp đã là rể quý của chúng ta, Du nhị hiệp đâu còn là người ngoài nữa.
Nói xong ôm quyền cung kính chào, rồi bước ra khỏi khoang thuyền.
Du Liên Châu nghe mấy câu đó, trong lòng chẳng vui chút nào, chỉ hơi cau mày, không nói gì.
Trương Thúy Sơn chờ đám giáo chúng Thiên Ưng giáo rời thuyền rồi, vội hỏi:
– Nhị ca, thương thế của tam ca sau đó ra sao? Tam ca có… đỡ chút nào không?
Du Liên Châu “ừm” một tiếng, hồi lâu không đáp. Trương Thúy Sơn thì bồn chồn, chằm chằm nhìn sư ca, trong lòng cứ nổi lên cảm giác lo lắng, chỉ sợ nghe sư ca nói đến chữ “chết”.
Du Liên Châu chậm rãi nói:
– Tam đệ không chết, nhưng so với chết cũng chẳng khác bao nhiêu. Tam đệ tàn phế suốt đời, tứ chi không cử động được. Du Đại Nham Du tam hiệp, than ôi, trên giang hồ không còn nhân vật đó nữa!
Trương Thúy Sơn nghe nói tam ca không chết, lòng mừng rỡ, nhưng nghĩ tới một vị sư ca anh phong hiệp cốt mà phải chịu cảnh như thế thì chàng không nhịn được ứa nước mắt, nghẹn ngào hỏi:
– Cừu nhân hại tam ca là ai? Đã tìm ra chưa?
Du Liên Châu không đáp, ngoảnh đầu lại, đột nhiên mục quang như hai tia chớp chiếu thẳng vào mặt Ân Tố Tố, nghiêm nghị hỏi:
– Ân cô nương, cô nương có biết kẻ hại Du tam đệ của ta là ai không?
Ân Tố Tố không khỏi run rẩy, nói:
– Nghe bảo gân cốt tứ chi của Du tam hiệp bị người ta dùng “Kim cương chỉ lực” của phái Thiếu Lâm bẻ gãy.
Du Liên Châu nói:
– Đúng thế. Cô nương không biết là ai ư?
Ân Tố Tố lắc đầu, nói:
– Muội không biết.
Du Liên Châu không để ý đến nàng nữa, nói:
– Ngũ đệ, phái Thiếu Lâm nói là đệ đã giết tất cả già trẻ lớn bé của tiêu cục Long Môn ở phủ Lâm An, lại giết cả mấy vị tăng nhân phái Thiếu Lâm. Việc đó thật hay giả?
Trương Thúy Sơn nói:
– Việc đó…
Ân Tố Tố nói xen vào:
– Việc đó không liên quan gì tới ngũ ca, tất cả là do muội giết đấy.
Du Liên Châu nhìn nàng, mục quang lộ vẻ cực kỳ thống hận, nhưng trong giây lát liền dịu đi, vẻ mặt trở lại bình hòa, nói:
– Ta cũng biết ngũ đệ không đời nào giết người bừa bãi. Vì chuyện đó mà phái Thiếu Lâm ba lần cử người lên núi Võ Đang lý luận, song vì ngũ đệ đột nhiên mất tích, võ lâm ai ai cũng biết, nên việc đó không có ai đối chứng. Chúng ta nói phái Thiếu Lâm hại tam đệ, phái Thiếu Lâm thì nói ngũ đệ giết của họ mấy chục người. Rất may chưởng môn trụ trì Thiếu Lâm tự là Không Văn đại sư lão thành trì trọng không cho gây sự, nên mười năm nay mới tránh khỏi đại họa.
Ân Tố Tô nói:
Tất cả là do muội hồi ấy trẻ người non dạ, hành sự không biết nặng nhẹ tốt xấu, bây giờ nghĩ lại thật hối hận vô cùng. Thế nhưng người thì đã chết rồi, bây giờ mình cứ chối biến, không nhận đến cùng, là xong chuyện.
Du Liên Châu lộ vẻ mặt lạ lùng, liếc Trương Thúy Sơn một cái, nghĩ thầm sao hạng nữ nhi thế này mà ngũ đệ lại lấy làm vợ được.
Ân Tố Tố thấy Du Liên Châu tỏ ra lạnh nhạt với nàng, mở miệng chỉ gọi Ân cô nương, không hề gọi nàng là ” đệ tức” ( em dâu), thì bực thầm trong bụng, nói:
– Ai làm nấy chịu. Vụ đó muội quyết không để liên lụy đến phái Võ Đang của nhị ca, cứ để cho phái Thiếu âm đến kiếm Thiên Ưng giáo là xong.
Du Liên Châu cao giọng:
– Trên giang hồ, mọi việc không thể bỏ qua chữ “Lý”, không kể phái Thiếu Lâm hiện tà phái lớn nhất trong võ lâm, ngay đến cô nhi quả phụ vô quyền vô dũng, chúng ta cũng phải xử sự theo lý, chứ không thể ỷ mạnh hiếp yếu.
Nếu là mười năm trước, những lời giáo huấn nghiêm khắc của