Hồi 40: Là chàng Trương đó mà không phải chàng

Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ dậy sớm, trèo lên một cây cao nhìn xuống chân núi, thấy quân địch cờ quạt phất phới, người ngựa chạy qua chạy lại, tiếng tù và nổi lên đây đó trong doanh trại, rõ ràng đang điều binh khiển tướng hết sức gấp rút. Trương Vô Kỵ gọi:

– Mẫn muội!

Triệu Mẫn thưa:

– Muội đây, có gì vậy?

Trương Vô Kỵ hơi chần chừ, nói:

– Không có gì, ta quen miệng gọi muội đó thôi.

Chàng vốn định bàn với nàng cách đánh lui quân Nguyên, nàng túc trí đa mưu, chắc sẽ có diệu kế; nhưng lại nghĩ thầm: “Nàng vốn là quận chúa trong triều đình, bỏ cha bỏ anh đi theo ta, ta còn đòi nàng bày kế giết đồng bào Mông Cổ của nàng, chẳng hóa ra ép buộc nàng quá lắm sao?” thành thử gọi rồi, nhưng không hỏi nữa. Triệu Mẫn nhìn mặt chàng, biết ngay chàng nghĩ gì, thở dài nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng hiểu được nỗi khổ tâm của muội, muội cũng không phải nói nhiều.

Trương Vô Kỵ trở vào nhà, bối rối chưa biết tính sao, tiện tay giở hai món bí kíp Triệu Mẫn lấy được tối qua, giở xem vài mục trong “Cửu âm chân kinh”, rồi đọc mấy chương trong “Vũ Mục di thư”, tình cờ thấy năm chữ tiểu đề mục “Binh khốn Ngưu Đầu sơn”, liền đọc kỹ, ở đó Nhạc Phi thuật lại chuyện bị quân Kim bao vây ra sao, làm thế nào thoát cảnh nguy khốn, bất ngờ xuất kỳ binh, nội ngoại giáp công giành toàn thắng bằng cách gì, mọi phương lược đều nói rõ.

Trương Vô Kỵ vỗ bàn thốt lên:

– Đúng là trời giúp mình!

Chàng gấp binh thư, ngồi suy tính. Tình thế trên núi Thiếu Thất hôm nay tuy khác hẳn tình cảnh Nhạc Phi bị vây khốn ở núi Ngưu Đầu, nhưng có thể dùng cái ý của người xưa truyền lại để xuất kỳ chế thắng. Chàng càng nghĩ càng khâm phục Nhạc Vũ Mục quả là bậc kỳ tài, nghĩ ra những cách đánh địch rất nguy hiểm mà thường nhân không thể nghĩ ra. Chàng nghĩ phép dụng binh cũng giống như võ công, nếu chưa được cao nhân chỉ vẽ cho những chỗ cao thấp khéo vụng, thì không thể vỡ lẽ, hiểu ra được mưu này kế nọ. Chàng chấm ngón tay vào nước trà, vẽ đồ hình lên mặt bàn, tuy cảm thấy lối đánh chàng vừa nghĩ ra rất mạo hiểm, có phần cầu may, song muốn lấy ít địch nhiều, thì không thể thủ thắng theo kiểu đường đường chính chính.

Lòng đã quyết, chàng liền tới Đại Hùng bảo điện, nhờ Không Văn phương trượng triệu tập quần hùng.

Lát sau các lộ anh hùng đã tề tựu trong điện. Trương Vô Kỵ đứng giữa sảnh nói:

– Hiện tại binh mã Thát tử đang tập trung dưới chân núi, chẳng mấy chốc sẽ tấn công lên đây. Chúng ta hôm qua tuy thắng một trận nhỏ, làm nhụt nhuệ khí của quân Nguyên, song nếu bọn Thát tử cứ liều chết đánh ùa lên, thì chúng ta rất khó chống đỡ. Tại hạ bất tài, được chư vị anh hùng cử tạm giữ chức chủ soái, để chung sức thắng địch, mong các vị nghe theo hiệu lệnh của tại hạ.

Quần hùng cùng nói to:

– Xin cứ ban lệnh, mọi người nhất nhất tuân theo!

Trương Vô Kỵ nói:

– Tốt lắm! Ngô kỳ sứ nghe lệnh!

Chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ Ngô Kình Thảo hiên ngang bước ra, cúi mình nói:

– Thuộc hạ chờ lệnh!

Y nghĩ thầm trong bụng: “Giáo chủ ban lệnh, người đầu tiên giao ngay cho ta, thật vinh hạnh biết bao cho ta. Bất kể sai ta làm việc nguy nan đến đâu, ta cũng quyết xả thân thực hiện”.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ngô huynh thống lĩnh huynh đệ trong kỳ, chấp chưởng quân pháp, bất kể vị anh hùng hảo hán nào không tuân theo hiệu lệnh, Nhuệ Kim kỳ được quyền giết ngay tại chỗ. Dẫu người vi phạm là bậc trưởng lão trong bản giáo, trưởng bối trong võ lâm, cũng không ngoại lệ.

Ngô Kình Thảo đáp to:

– Tuân lệnh!

Y rút ra một lá cờ trắng nhỏ, cầm sẵn trong tay. Danh vọng, võ công của Ngô Kình Thảo tuy chưa vào loại cao siêu trong giang hồ, người ngoài chưa kính trọng y, nhưng từ hôm Ngũ Hành kỳ đại hiển thần uy trên sân bãi, quần hùng đều biết, lá cờ trắng trong tay y ném tới đâu, lập tức sẽ có năm trăm mũi tên, năm trăm chiếc giáo, năm trăm cây rìu đồng loạt phóng tới, dẫu có bản lĩnh ngang trời cũng sẽ biến thành đống thịt bầy nhầy trong chớp mắt, thành thử nhìn lá cờ trắng đó, ai cũng bất giác rùng mình.

Nguyên Trương Vô Kỵ đọc trong “Vũ Mục di thư”, thấy ở chương thứ nhất có chép: “Đạo trị quân, nghiêm lệnh trước tiên”. Chàng biết một số hào sĩ giang hồ vốn dĩ đều tự phụ, không ai chịu ai, tuy người người võ công cao cường, nhưng tập hợp lại cũng chỉ là một đám người ô hợp, nếu không có quân lệnh ước thúc, buộc ai nấy phải tuân theo, thì không thể chống lại tinh binh Mông Cổ, cho nên việc trước tiên là phải sai Nhuệ Kim kỳ giám lệnh chấp pháp.

Trương Vô Kỵ chỉ bức tường ngang ở trước điện, nói:

– Chư vị anh hùng, tất cả những ai khinh công cao cường, nhảy một cái lên được bờ tường kia, xin thực hiện cho.

Không ít người trong đám quần hùng liền tỏ vẻ bất mãn, họ nghĩ bụng: “Giữa lúc tình thế khẩn cấp này, mà lại bảo bọn ta nhảy lên hụp xuống là cái quái gì?” Một số cao thủ tiền bối lại cho rằng chàng coi thường mọi người, nên càng khó chịu.

Trương Tòng Khê rẽ đám đông bước ra, nói:

– Tại hạ có thể nhảy được.

Rồi ông nhảy vọt lên qua tường, nhẹ nhàng đáp xuống bên kia. Công phu “Thê vân túng” của phái Võ Đang lừng danh thiên hạ, nhảy qua bức tường kia dễ như trở bàn tay, song ông không hề coi như trò đùa, mà thực hiện theo lệnh một cách hết sức nghiêm chỉnh.

Kế đó các đại cao thủ như Du Liên Châu, Ân Lê Đình, Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Dã Vương cũng tuân lệnh thực hiện. Chỉ thấy quần hùng cứ như bướm vờn hoa, hết người này đến người kia nhảy qua tường, có người còn thi triển khinh công, trên lưng chừng biểu diễn vài động tác ngoạn mục. Hơn bốn trăm người vượt qua, sau đó không ai nhảy nữa.

Bức tường chắn không thấp, khinh công không cao thì khó lòng nhảy một cái qua được. Quần hùng tu luyện khác nhau, thường thường nghiêng về quyền cước, binh khí, khinh công chỉ bình bình, các nhân vật thành danh chốn giang hồ thừa biết chẳng dại gì tự bộc lộ cái sở đoản trước mặt mọi người.

Trương Vô Kỵ thấy trong số hơn bốn trăm người kia, tăng chúng Thiếu Lâm đã chiếm tám, chín mươi người, thì nghĩ thầm: “Thiếu Lâm là môn phái số một trong võ lâm, quả nhiên danh bất hư truyền. Chỉ nói riêng về khinh công, số hảo thủ của họ đã vượt xa các môn phái khác”. Chàng bèn truyền lệnh:

– Du nhị bá, Trương tứ bá, Ân lục thúc, xin ba vị dẫn các vị anh hùng giỏi khinh công vừa rồi hư trương thanh thế, giả trang làm người trong chùa rủ nhau đào tẩu, dụ cho quân Nguyên đuổi theo, khi đến núi sau thì cứ như thế, như thế.

Võ Đang tam hiệp cùng lên tiếng vâng lệnh. Trương Vô Kỵ từng nhóm từng nhóm phân phái, ai mai phục, ai chặn hậu, ai tấn công, ai đánh hai bên sườn, bố trí thật tỉ mỉ, cắt đặt đâu ra đó.

Bọn Dương Tiêu thấy chàng sắp đặt khôn khéo, bày binh bố trận xem ra có phép tắc như đã tính toán chu đáo thì không khỏi kinh ngạc, đâu biết rằng chàng chỉ áp dụng di pháp của Nhạc Phi, căn cứ địa hình, bộ thuộc khác nhau mà thay đổi chút ít đó thôi.

Trương Vô Kỵ điều động xong xuôi, mới nói:

– Không Văn phương trượng, Không Trí thần tăng, xin hai vị chỉ huy phái Nga Mi cứu hộ thương binh.

Chu Chỉ Nhược không có mặt ở đây, phái Nga Mi không người cầm đầu, Trương Vô Kỵ tự cảm thấy mình có hiềm khích rất sâu với phái Nga Mi, không tiện chỉ huy, nên mời hai vị Không Văn, Không Trí thần tăng đức cao vọng trọng tất lĩnh, nghĩ rằng phái Nga Mi sẽ không dám chống lệnh. Lệnh của chàng đưa ra, quả nhiên nam nữ đệ tử phái Nga Mi lẳng lặng thi hành, không ai dám nói gì.

Trương Vô Kỵ dõng dạc nói:

– Hôm nay các chí sĩ Trung nguyên đồng tâm hiệp lực, quyết chiến với bọn Thát tử. Các vị sư phụ phái Thiếu Lâm chuyên lo kéo chuông đánh trống, xin hãy gióng chuông đánh trống lên cho.

Quần hùng reo hò vang dậy, rút đao tuốt kiếm, khí thế bừng bừng.

Liệt Hỏa kỳ đem củi cỏ chất đống trước cổng chùa, châm lửa đốt, trong giây lát khói lửa bốc ngút trời. Hậu Thổ kỳ đem bùn, cát phủ lên mái các tòa Phật điện, tiếp đó Liệt Hỏa kỳ mới xếp củi, đổ dầu trên mặt bùn, cát mà đốt, lửa khói bốc lên, các tòa điện không bị hư hại gì, nhưng từ dưới chân núi xa xa nhìn lên, thì chỉ thấy mấy trăm gian tự viện chỗ nào cũng khói lửa ngút trời.

Quân Nguyên dưới chân núi thoạt nghe tiếng chuông tiếng trống vang động thì chuẩn bị đối phó, sau đó thấy khói lửa bốc ngùn ngụt, đều nghĩ: “Không hay rồi, bọn man di kia phóng hỏa đốt chùa, chắc là toan đào tẩu”.

Du Liên Châu dẫn hơn một trăm năm chục người khinh công siêu việt, từ phía bên trái núi Thiếu Thất chạy xuống. Chạy tới lưng núi, thì đã thấy quân Nguyên reo hò, dàn thành từng đội đuổi lên. Mọi người chạy tứ tán, khiến quân Nguyên không thể dùng cung tên mà bắn được họ. Tốp thứ hai do Trương Tòng Khê dẫn đầu, tốp thứ ba do Ân Lê Đình chỉ huy, người nào cũng đeo một cái bọc to sau lưng, trong bọc là mẩu gỗ hoặc quần áo, chăn gối. Quân Nguyên trông thấy, cứ tưởng là họ bỏ chùa chạy thục mạng, bắn tên có trúng bọc thì cũng chẳng ai việc gì. Trong khói lửa mù mịt, quân Nguyên chẳng hiểu đối phương có bao nhiêu người, nên chia ra một vạn đuổi theo, còn một vạn ở nguyên chỗ cũ đề phòng biến cố.

Trương Vô Kỵ nói với Dương Tiêu:

– Dương tả sứ, tướng chỉ huy quân Nguyên có tài dùng binh, không dùng toàn quân đuổi theo, thế mới phiền.

Dương Tiêu nói:

– Vâng, quả là đáng lo!

Chỉ nghe dưới chân núi tiếng tù và vang động, hai ngàn quân Nguyên chia làm hai mũi tả hữu đánh lên; đường núi nhỏ hẹp gập ghềnh, vậy mà loài ngựa nhỏ của Mông Cổ chạy như bay, quân địch mặc áo giáp, cầm trường mâu, khí thế rất mạnh mẽ.

Đợi lúc quân tiên phong Mông Cổ lên tới bên sơn đình ở lưng núi, Trương Vô Kỵ phất tay một cái, người của Liệt Hỏa kỳ từ hai bên liền xông ra, nằm phục trong cỏ. Khi quân Nguyên tiến thêm hơn trăm trượng nữa, chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ huýt một tiếng còi, dầu thô từ các ống liền phun ra, lửa bùng lên, liếm vào bầy ngựa của địch. Lũ ngựa kinh hoảng, quá nửa lăn xuống núi, trận thế lập tức đại loạn.

Quân Nguyên kỷ luật rất nghiêm, đội tiên phong tuy thua, nhưng hậu đội không nao núng, lệnh ban ra, ba ngàn tên bỏ ngựa chạy bộ, lại tấn công lên. Liệt Hỏa kỳ lại phun lửa đốt cháy mấy trăm tên, nhưng bọn còn lại vẫn dũng cảm xông tới. Chưởng kỳ sứ Hồng Thủy kỳ là Đường Dương phất lá cờ đen, nước độc phun ra; tiếp đó Hậu Thổ kỳ ném cát độc xuống, đánh cho quân Nguyên thất điên bát đảo; tuy còn vài trăm tên lên được gần đỉnh núi, song đều bị Nhuệ Kim và Cự Mộc hai kỳ diệt nốt.

Bỗng nghe dưới chân núi tiếng trống dồn dập, năm ngàn tên địch giơ lá chắn, dàn hàng ngang như một bức tường sắt thong thả tiến lên. Với kiểu đánh này, lửa cháy, nước độc, cát độc sẽ không làm gì được; Cự Mộc kỳ liền lăn các khúc gỗ lớn xuống, nhưng cũng chỉ phá vỡ được vài mảng, không ăn thua gì.

Không Văn phương trượng thấy tình thế khẩn cấp, bèn nói:

– Trương giáo chủ, xin các vị mau rút đi để bảo toàn nguyên khí võ lâm Trung nguyên. Hôm nay có thua, mai sau còn có cơ phục thù.

Đang lúc bối rối, bỗng nghe dưới chân núi có tiếng chiêng, tiếng thanh la vang dội, một hỏa tiễn bay vọt lên trời, kế đến tiếng hò hét chém giết vang dậy bốn bề. Dương Tiêu cả mừng, nói:

– Giáo chủ, viện binh của ta đến rồi!

Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, không rõ lắm tình hình bên dưới, nhưng thấy khói bụi mịt mù, quân reo ngựa hí, rõ ràng quân tiếp viện kéo tới rất đông.

Trương Vô Kỵ lớn tiếng ra lệnh:

– Viện quân đã tới, tất cả xông trận!

Quần hùng trên núi ai nấy xông xuống chém giết. Trương Vô Kỵ lại hô to:

– Chư vị anh hùng, giết quan trước, giết lính sau!

Mọi người cùng hô theo:

– Giết quan trước, giết lính sau!

Quân Nguyên cứ mười người là một đội, do thập trưởng chỉ huy, lên trên có đội trăm người, đội ngàn người, đội vạn người, cứ từng đội từng đội răm rắp; khi lâm trận thì như thân thể chỉ huy cánh tay, cánh tay chỉ huy bàn tay, bàn tay chỉ huy ngón tay.

Trương Vô Kỵ truyền lệnh giết bọn chỉ huy trước, nếu là đôi bên đối lũy, dàn trận đánh nhau thì khó thực hiện; đằng này quân Nguyên phân tán rộng trên sườn núi, quân tuy tinh nhuệ, song các viên chỉ huy võ công làm sao bì kịp các anh tài võ lâm Trung nguyên, mấy tên thiên phu trưởng, bách phu trưởng, rất nhanh chóng bị giết chết. Quân Nguyên tức thì rối loạn.

Bọn Trương Vô Kỵ tràn xuống nửa chừng, thấy dưới chân núi cờ xí phấp phới, lá cờ mạn nam thêu chữ “Từ”, lá cờ mạn bắc thêu chữ “Thường”, biết là Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đã tới. Từ, Thường hai người vốn ở vùng Hoài Tứ, lúc này may sao lại ở Dự Nam, nghe Bố Đại Hòa Thượng Thuyết Bất Đắc truyền tin giáo chủ và quần hùng bị vây trên núi Thiếu Thất, liền đem hết bộ thuộc đi suốt đêm tới cứu. Hiện thời suốt một dải Dự Nam Ngạc Bắc, quân của Minh giáo với quân Nguyên quanh năm hỗn chiến, đất đai của đôi bên thành thế cài răng lược, muốn đến thì đến, thậm chí rất nhanh, chưa đến hai ngày mà đã tới kịp. Giáo chúng dưới quyền Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân đều dày dạn chiến trận, quân số lại đông hơn, nên buộc quân Nguyên phải rút về hướng tây.

Còn một vạn quân Nguyên đuổi theo đám hào sĩ giả bộ đào tẩu khỏi chùa, thì đuổi đến tận sơn cốc phía tây. Du Liên Châu, Trương Tòng Khê và Ân Lê Đình dẫn hơn bốn trăm hảo hán khinh công trác việt, vừa đánh vừa rút vào hẻm núi. Tên vạn phu trưởng thấy trong hẻm núi ba mặt là vách đá dựng đứng, địa thế hung hiểm, nhưng thấy đối phương nhân số ít ỏi, dù trong hẻm núi có mai phục thì cũng thừa sức đối phó, bèn xua quân xông vào trong hẻm núi.

Bọn Du Liên Châu chạy tới chân vách đá, từ trên cao có sẵn mấy chục sợi dây thòng xuống, mọi người lập tức bám dây leo cả lên. Tên vạn phu trưởng thấy bị trúng kế, vội hạ lệnh tháo lui, nào ngờ lối ra vào hẻm núi đã bị lửa, cát độc, nước độc, vũ tiễn bắn tới như mưa, Cự Mộc kỳ lại lăn các súc gỗ xuống bịt kín mất rồi.

Lúc ấy, cánh quân thứ hai của quân Nguyên thua chạy tới đây, thấy đằng trước đã bị chặn đứng, bèn bỏ chạy tán loạn lên các sườn núi và bãi hoang. Trương Vô Kỵ và Từ Đạt lần lượt đuổi tới, đều thốt lên:

– Tiếc quá!

Giá họ liên lạc trước được với nhau, thì cứ để cho cánh quân thứ hai một vạn tên của địch cùng vào hẻm núi mà diệt gọn luôn thể. Trương Vô Kỵ không ngờ quân Nguyên chỉ cho một nửa đuổi theo, cũng không ngờ lực lượng cứu viện đến nhanh như vậy. Dù sao thì chỉ huy chiến trận cũng không phải là sở trường của chàng, chiến pháp chép trong “Vũ Mục di thư” dẫu rất hay, nhưng vừa học đã vận dụng ngay, cũng chưa thành thục; giả dụ Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân không kịp thời kéo đến, thì chùa Thiếu Lâm cũng khó tránh khỏi kiếp nạn, một vạn quân Nguyên bị chặn trong sơn cốc cũng sẽ được cánh quân thứ hai cứu ra.

Từ Đạt sai quân vác đá chặn thêm cửa sơn cốc, các tốp cung nỏ thì từ trên các mỏm đá cao bắn tên xuống. Quân Nguyên lâm vào tuyệt địa, không cách gì chống trả, chỉ còn nước nấp vào sau các tảng đá.

Không lâu sau Thường Ngộ Xuân cũng dẫn quân đuổi tới, hội kiến với Trương Vô Kỵ; lâu ngày gặp lại, hai người đều hết sức vui mừng. Thường Ngộ Xuân nói oang oang:

– Dọn gỗ đá khỏi cửa sơn cốc, chúng ta xông vào giết sạch bọn Thát tử!

Từ Đạt cười, nói:

– Trong sơn cốc không nước không gạo, chỉ bảy tám ngày bọn Thát tử không chết khát cũng chết đói, việc gì phải tốn công huynh đệ ra tay?

Thường Ngộ Xuân cũng cười, nói:

– Mình tự tay giết chúng vẫn thích hơn.

Thường Ngộ Xuân nhiều tuổi hơn Từ Đạt, nhưng thường ngày vẫn phục Từ Đạt mưu trí, lại thấy Trương Vô Kỵ tán thành lời nói của Từ Đạt, nên không bàn thêm nữa.

Từ, Thường hai người dày dạn chiến trận, mọi hiệu lệnh đều chu đáo, ổn thỏa. Trương Vô Kỵ tự biết chàng không bằng họ, bèn giao cho hai người chỉ huy việc đánh giết số quân Nguyên chạy tán loạn.

Đêm đó tiếng reo hò vang dậy chân núi Thiếu Thất, nghĩa quân Minh giáo cùng các lộ anh hùng ăn mừng chiến thắng. Quần hùng mấy ngày liền ở chùa Thiếu Lâm toàn phải ăn chay, mồm miệng nhạt thếch, nay được một bữa rượu thịt no nê thỏa thích.

Trong bữa tiệc, Trương Vô Kỵ hỏi thăm sức khỏe của Thường Ngộ Xuân hồi này thế nào, có chữa trị theo bài thuốc chàng cho hay không, Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:

– Giáo chủ khỏi lo, thuộc hạ khỏe như vâm, mỗi bữa ăn ba cân thịt, sáu chén cơm; đi đánh trận ba ngày đêm liền không ngủ cũng chẳng hề hấn gì.

Y nói là không cần thuốc thang gì cả. Trương Vô Kỵ nhớ đến lời Hồ Thanh Ngưu nói năm xưa, tha thiết khuyên anh ta chịu khó uống thuốc, giữ gìn sức khỏe. Thường Ngộ Xuân ậm ừ vâng dạ, trong bụng không coi trọng việc đó.

Từ Đạt rót đầy bát rượu, bưng tới trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

– Chúc mừng giáo chủ, xin cạn chén này.

Trương Vô Kỵ cầm lấy uống cạn. Từ Đạt nói tiếp:

– Thuộc hạ vẫn khâm phục giáo chủ can đảm hơn người, võ công tuyệt luân; không ngờ giáo chủ còn biết dùng binh thần diệu đến thế, phúc của bản giáo, may cho bách tính.

Trương Vô Kỵ cười vui, nói:

– Từ đại ca đừng khen bản nhân làm gì. Đại thắng hôm nay, trước là nhờ Từ, Thường hai đại ca thần tốc cứu viện; sau là nhờ di giáo của Nhạc Vũ Mục, bản nhân thực chả có chút công lao gì.

Từ Đạt lấy làm lạ, hỏi:

– Di giáo của Nhạc Vũ Mục là sao, mong giáo chủ giảng cho.

Trương Vô Kỵ móc túi lấy ra cuốn lụa mỏng màu vàng, chính là “Vũ Mục di thư” giấu trong thanh đao Đồ Long, giở mục “Binh khốn Ngưu Đầu sơn”, đưa cho Từ Đạt xem, Từ Đạt đỡ lấy bằng hai tay, đọc kỹ một lượt, bất giác vừa kinh ngạc vùa thán phục, thốt lên:

– Vũ Mục dùng binh như thần, người đời sau thật không sánh kịp. Nếu Nhạc Vũ Mục còn sống đến hôm nay, thống lĩnh hào kiệt Trung nguyên, lo gì không đánh đuổi được quân Mông Cổ về sa mạc phương bắc.

Nói đoạn cung kính trao lại di thư.

Trương Vô Kỵ không nhận, nói:

– “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”, ý nghĩa của mười sáu chữ đó, bản nhân hôm nay mới hiểu. Nói “Võ lâm chí tôn”, không phải bản thân thanh bảo đao, mà là di thư giấu trong đao. Nếu dùng binh pháp này đánh địch, chắc sẽ đánh đâu thắng đó, nên cuối cùng mới nói “hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng”. Nếu chỉ dựa vào thanh đao Đồ Long thì làm sao có thể hiệu lệnh được thiên hạ? Từ đại ca, bộ binh thư này ta tặng cho đại ca đó, mong đại ca nối chí Nhạc Vũ Mục, tiến tới thắng lợi, giành lại giang sơn.

Từ Đạt cả kinh, vội nói:

– Thuộc hạ đâu có tài đức gì mà dám nhận món quà quý giá này của giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Từ đại ca đừng từ chối. Ta vì trăm họ mà trao binh thư này cho đại ca đó.

Từ Đạt cầm binh thư mà hai tay run run. Trương Vô Kỵ nói tiếp:

– Trong võ lâm truyền ngôn còn hai câu Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”. Nay kiếm Ỷ Thiên đã gãy làm hai, nhưng sau này sẽ nối lại được. Bên trong thanh kiếm có giấu một pho bí kíp võ công vô cùng lợi hại. Ta đã hiểu ý hai câu này, binh thư là dùng để đánh đuổi bọn Thát tử; nhưng nếu người nào sau này chấp chưởng đại quyền, lại tác oai tác quái, lấy bạo ngược thay bạo ngược, trăm họ lại phải chịu lầm than; thì cuối cùng sẽ có một vị anh hùng cầm kiếm Ỷ Thiên đến lấy đầu tên bạo chúa. Kẻ thống lĩnh trăm vạn hùng binh quyền khuynh thiên hạ, cũng chưa chắc chịu nổi một nhát chém của kiếm Ỷ Thiên. Từ đại ca, câu đó mong đại ca hãy ghi nhớ.

Từ Đạt mồ hôi ướt lưng, không dám từ chối nữa, nói:

– Thuộc hạ cẩn tuân lệnh chỉ của giáo chủ.

Y đặt “Vũ Mục di thư” trên bàn, cung kính lạy bốn cái, rồi lạy tạ Trương Vô Kỵ đã ban tặng di thư.

Quả nhiên từ đó Từ Đạt dùng binh như thần, liên tiếp đánh bại quân Nguyên, cuối cùng thống lĩnh quân đội đánh lên phương bắc, đuổi quân Mông Cổ ra ngoài biên ải, uy chấn vùng sa mạc phương bắc, lập công tích hiển hách một thời.

Từ đó anh hùng Trung nguyên đều ngả theo Minh giáo, hiệu lệnh của Trương Vô Kỵ tới đâu cũng được tuân phục. Minh giáo mấy trăm năm qua bị người đời căm ghét, bị coi là yêu ma dâm tà, kể từ đại biến cố long trời lở đất này, đã trở thành thủ lĩnh của quần hùng Trung nguyên, phục hưng đại nghiệp của con cháu Hán tộc. Tuy về sau Chu Nguyên Chương thay lòng đổi dạ, thực hiện mưu gian mà lên ngôi hoàng đế, nhưng những người phò tá y đều là người của Minh giáo, cho nên quốc hiệu không thể không xưng là nhà Minh. Minh triều làm chủ thiên hạ từ năm Mậu Thân Hồng Võ nguyên niên đến năm Giáp Thân Sùng Trinh thứ mười bảy, tổng cộng hai trăm bảy mươi bảy năm, đều là nhờ Minh giáo mà có.

*

*      *

Quần hùng vui say đến tận sáng mới thôi. Trưa hôm đó, mọi người lục tục cáo từ Không Văn, Không Trí hai vị thần tăng.

Trương Vô Kỵ thấy đệ tử phái Nga Mi tả tơi, trong lòng thương hại, thấy Tống Thanh Thư vẫn còn nằm trên cáng, không biết sống chết thế nào, bèn tới gần, nói với Tĩnh Tuệ:

– Để tại hạ xem thương thế cho Tống đại ca.

Tĩnh Tuệ lạnh lùng nói:

– Rõ khéo mèo khóc chuột, khỏi cần giả nhân giả nghĩa!

Chu Điên đứng gần đó, không nhịn được, chửi luôn:

– Giáo chủ của ta chỉ vì chút tình cũ với chưởng môn của các người mới trị thương cho gã họ Tống kia, chứ hạng người khi sư phản phụ như hắn, ai cũng chỉ mong giết quách cho xong, mụ ni cô xấu xa này còn lèm bèm cái gì?

Tĩnh Tuệ định đấu khẩu vài câu, nhưng thấy Chu Điên mặt mày dữ tợn, thần sắc hung ác, chỉ sợ lão bất chấp lý lẽ, ra tay với mình thì mình chỉ thiệt thân, bèn cố nén giận, cười khẩy, nói:

– Chưởng môn phái Nga Mi ta đời này truyền đời khác đều là nữ nhi băng thanh ngọc khiết. Chu chưởng môn nếu không phải là hoàng hoa khuê nữ, giữ thân như ngọc, thì sao có thể làm chưởng môn bản phái kia chứ? Hừ, hạng gian tặc như Tống Thanh Thư ở trong bản phái chỉ làm ô danh Chu chưởng môn mà thôi. Lý sư điệt, Long sư điệt, mau đem hắn trả cho phái Võ Đang.

Hai đệ tử phái Nga Mi đáp lời, khiêng cái cáng Tống Thanh Thư đến trước mặt Du Liên Châu bỏ đó mà đi về.

Mọi người hết sức kinh ngạc, Du Liên Châu nói:

– Sao… cái gì? Hắn không phải là chồng của chưởng môn các người hay sao?

Tĩnh Tuệ hậm hực nói:

– Chưởng môn của tệ phái đâu có coi kẻ này ra gì? Chu chưởng môn quá giận tên tiểu tử Trương Vô Kỵ thay lòng đổi dạ, bỏ đi giữa buổi lễ thành hôn, làm nhục bản phái trước anh hùng thiên hạ, nên giả vờ nhận gã tiểu tử này làm chồng. Nếu biết… hừ, nếu sớm biết như thế, Chu chưởng môn hà tất phải gánh cái tiếng xấu ấy? Hiện tại Chu… Chu…

Trương Vô Kỵ đứng nghe mà ngơ ngẩn, không nhịn được, bèn bước lên hỏi:

– Sư thái bảo nàng… nàng kỳ thực không phải là Tống phu nhân ư?

Tĩnh Tuệ quay mặt đi, hầm hầm nói:

– Ta không thèm nói chuyện với ngươi.

Lúc ấy Tống Thanh Thư đang nằm trên cáng, khẽ cựa quậy, vừa rên vừa hỏi:

– Đã giết… giết được Trương Vô Kỵ chưa?

Tĩnh Tuệ cười khinh bỉ:

– Đừng mê sảng nữa! Chết đến nơi còn ham chuyện viển vông.

Ân Lê Đình thấy Tĩnh Tuệ hậm hà hậm hực, nói năng úp úp mở mở, bèn hỏi nhỏ một nữ đệ tử phái Nga Mi là Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, đầu đuôi câu chuyện ra sao?

Bối Cẩm Nghi năm xưa rất thân với Kỷ Hiểu Phù, nghe hỏi, ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:

– Tĩnh Tuệ sư tỷ, Ân lục hiệp không phải người ngoài, để muội nói cho Ân lục hiệp nghe có được chăng?

Tĩnh Tuệ nói:

– Cái gì mà người ngoài với chả người trong? Không phải người ngoài cũng nói, là người ngoài lại càng phải nói. Chu chưởng môn của chúng ta hoàn toàn trong trắng, không dính dáng gì với tên gian đồ họ Tống kia. Các người chính mắt nhìn thấy “thủ cung sa”[140] trên cánh tay Chu chưởng môn; việc này cần nói rõ cho đồng đạo võ lâm khắp thiên hạ cùng biết, để khỏi hủy hoại quy củ của phái Nga Mi suốt trăm năm nay…

Ân Lê Đình nghĩ thầm: “Vị Tĩnh Tuệ sư thái này đầu óc xem ra không được sáng sủa lắm, nói chẳng có đầu đuôi gì hết”, bèn hỏi Bối Cẩm Nghi:

– Bối sư muội, đã thế, thì nói toạc ra đi. Tống sư điệt của tiểu huynh vì sao gia nhập quý phái, rốt cuộc có quan hệ thế nào với quý chưởng môn, để tiểu huynh còn về bẩm cáo với sư phụ. Việc này hệ trọng đối với hai phái chúng ta, không nên làm tổn thương hòa khí của hai bên thì hơn.

Bối Cẩm Nghi thở dài, nói:

– Võ công, phẩm chất của vị Tống thiếu hiệp này kể cũng hiếm có trong võ lâm; nhưng chỉ vì si tình mà sa vào nghiệp chướng. Chu chưởng môn hình như có hẹn với y, khi nào giết được Trương Vô Kỵ, rửa được nỗi nhục trong buổi lễ thành hôn, thì sẽ lấy y làm chồng. Vì thế y cam tâm gia nhập bản phái, để được Chu chưởng môn truyền cho võ công kỳ diệu. Trước đại hội quần hùng, Chu chưởng môn đột nhiên tự xưng là Tống phu nhân, là vợ của Tống thiếu hiệp, các đệ tử bản phái ai ai cũng kinh ngạc. Hôm kia Chu chưởng môn uy chấn quần hùng, chế phục các môn phái…

Chu Điên nói:

– Đấy là giáo chủ của bọn ta cố ý nhường cho, chẳng có gì đáng huênh hoang!

Bối Cẩm Nghi không buồn lý tới, nói tiếp:

– Các đệ tử bản phái tuy hết sức vui mừng, nhưng tối về mọi người mới hỏi ba chữ “Tống phu nhân” là thế nào. Chu chưởng môn mới để lộ cánh tay trái ra, nói: “Mọi người hãy nhìn đây!” Tất cả bọn ta đều nhìn rõ, vết “thủ cung sa” trên cánh tay vẫn đỏ chót như xưa, quả nhiên nàng vẫn là một xử nữ hoàn toàn trong trắng. Chu chưởng môn nói rằng: “Ta tự xưng Tống phu nhân là cái kế quyền nghi nhất thời, chẳng qua chỉ cốt chọc tức tiểu tử Trương Vô Kỵ, khiến cho y tâm thần bất định, khi tỷ võ mới thừa cơ đánh thắng được y. Tên tiểu tử đó võ công trác việt, ta quả thật không sánh kịp y. Vì thanh danh của bản phái, thanh danh của bản thân ta nào có đáng gì”.

Mấy câu này Bối Cẩm Nghi cố ý nói to cho mọi người cùng nghe rõ, rồi tiếp:

– Nam nữ đệ tử bản phái, nếu không xuất gia tu đạo, vốn không cấm lấy vợ lấy chồng. Nhưng từ Quách tổ sư sáng phái tới nay, phàm là võ công tối cao thâm, chỉ truyền cho xử nữ. Mỗi nữ đệ tử khi bái sư, sư phụ đều chấm một chấm “thủ cung sa” trên cánh tay trái. Hàng năm vào ngày giỗ Quách tổ sư, sư phụ đều kiểm xét, hồi trước Kỷ sư tỷ… vì chuyện đó…

Nàng nói tới đây thì ấp úng ngừng lại. Bọn Ân Lê Đình hiểu rằng Bối Cẩm Nghi muốn nhắc đến việc Kỷ Hiểu Phù bị thất thân với Dương Tiêu, chấm “thủ cung sa” biến mất, mới bị Diệt Tuyệt sư thái phát giác. Ân Lê Đình giờ đã kết hôn với Dương Bất Hối, ái tình mặn nồng, song lúc này nhớ đến Kỷ Hiểu Phù thì lòng không khỏi bồi hồi, bất giác liếc nhìn Dương Tiêu, thấy ông ta mắt rưng rưng, quay đi chỗ khác.

Bối Cẩm Nghi nói tiếp:

– Ân lục hiệp, Chu chưởng môn có ý chọc tức giáo chủ Minh giáo, vừa hay Tống thiếu hiệp kia lại si mê nàng quá chừng, nên mới sinh ra bao nhiêu chuyện. Đợi khi nào Tống thiếu hiệp lành bệnh, xin Ân lục hiệp lựa lời thưa với Trương chân nhân và Tống đại hiệp, để tránh hiềm khích giữa hai phái chúng ta.

Ân Lê Đình gật đầu, nói:

– Hẳn là phải thế. Gã sư điệt của tiểu huynh phản nghịch phạm thượng, tội đáng chết, thực là xấu hổ cho tệ phái, tiểu huynh chỉ mong nó sớm chết đi cho rảnh nợ.

Ông vốn yếu lòng, nghĩ đến việc Tống Thanh Thư giết hại Mạc Thanh Cốc, trong lòng càng thêm thống hận.

Đang nói chuyện, bỗng nghe từ xa xa vọng lại một tiếng thét kinh hoảng, hình như là tiếng kêu của Chu Chỉ Nhược, chắc nàng gặp một biến cố khủng khiếp nào đó.

Mọi người nghe tiếng thét ấy bất giác cùng rùng mình sởn gai ốc; giữa lúc trời quang mây tạnh, bốn phía đầy người, vậy mà nghe tiếng kêu kia tưởng chừng có ác quỷ hiện hình, ai nấy cùng quay nhìn về phía vọng tới tiếng kêu. Trương Vô Kỵ, Tĩnh Tuệ, Bối Cẩm Nghi đều chạy vội về phía đó.

*

*      *

Trương Vô Kỵ sợ Chu Chỉ Nhược gặp phải kẻ địch lợi hại, nên chàng lao thật nhanh, chỉ nhô lên hụp xuống vài cái đã xuyên qua cánh rừng, thấy một cái bóng xanh đang lao tới như điên, chính là Chu Chỉ Nhược. Chàng chạy tới đón, hỏi:

– Chỉ Nhược, có chuyện gì thế?

Chu Chỉ Nhược mặt đầy vẻ kinh hoàng, kêu lên:

– Ma, ma, có ma đuổi muội!

Nàng ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ, người cứ run bần bật.

Trương Vô Kỵ thấy nàng hồn xiêu phách lạc như thế, thì vỗ nhẹ vai nàng, an ủi:

– Đừng sợ, đừng sợ! Làm gì có ma. Muội nhìn thấy cái gì vậy?

Chàng thấy quần áo nàng bị gai cào rách tả tơi, trên mặt có không ít vết xước rớm máu, một nửa ống tay áo bên trái bị rách, để lộ ra cánh tay trắng như ngọc, trên da có một nốt chấm như san hô đỏ, như hồng ngọc, chính là dấu “thủ cung sa” của con gái đồng trinh.

Trương Vô Kỵ tinh thông y dược, biết ra người con gái sau khi chấm nốt “thủ cung sa”, nếu không lấy chồng hoặc không bị thất thân, thì dấu ấy còn lại suốt đời không phai. Lúc nãy chàng nghe Tĩnh Tuệ và Bối Cẩm Nghi nói còn bán tín bán nghi, bây giờ chính mắt nhìn thấy thì không còn ngờ gì nữa, trong giây lát hiện ra bao ý nghĩ: “Chuyện lấy Tống Thanh Thư gì gì đó chỉ toàn là giả, vậy nàng lừa ta để làm gì? Tại sao nàng cần chọc tức ta? Không lẽ quả thật nàng hám cái danh hiệu “đệ nhất võ công thời nay”? Hay là muốn thử xem mình có còn tình ý với nàng hay không?” Chàng lại nghĩ thầm: “Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược là kẻ thù lớn đã giết biểu muội của mi, nàng ta còn là gái đồng trinh hay đã lấy chồng thì cũng thế, đâu có gì khác đối với mi?” Nhưng thấy nàng sợ hết hồn hết vía, chàng cũng không nỡ đẩy nàng ra.

Chu Chỉ Nhược phủ phục trong lòng Trương Vô Kỵ, cảm thấy bộ ngực ấm áp rắn chắc của chàng, ngửi thấy hơi hướng đàn ông nồng nàn, thì dần dần trấn tĩnh, nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng đấy ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Phải, ta đây. Muội đã gặp cái gì thế? Có gì mà sợ đến thế?

Chu Chỉ Nhược đột nhiên lại kinh hãi, òa lên khóc, nước mắt ròng ròng, gục đầu vào vai chàng mà nức nở. Lúc này, Phạm Dao, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Ân Lê Đình, Tĩnh Tuệ đều đã chạy tới cả, thấy cảnh đó bèn nhìn nhau, lặng lẽ rút đi. Trong tâm tư người của Minh giáo, phái Võ Đang và phái Nga Mi, ai cũng chỉ mong Chu Chỉ Nhược tái hợp với Trương Vô Kỵ, kết thành vợ chồng. Mối oán thù của họ ngày trước đối với Triệu Mẫn vẫn chưa tan, hơn nữa Triệu Mẫn dù sao cũng là con nhà quyền quý người Mông Cổ, Trương Vô Kỵ lấy Triệu Mẫn làm vợ, chỉ e sẽ gây trở ngại cho sự phục hưng đại nghiệp.

Chu Chỉ Nhược khóc một hồi, rồi đột nhiên hỏi:

– Vô Kỵ ca ca, có ai đuổi theo không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không có ai đuổi theo cả. Thế ai đuổi theo muội vậy? Có phải Huyền Minh nhị lão hay không?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không, không phải! Chàng nhìn kỹ chưa? Quả thật không có ai… không, không phải là người, không có cái gì đuổi theo chứ?

Trương Vô Kỵ mỉm cười, nói:

– Giữa thanh thiên bạch nhật thế này, chẳng lẽ còn nhìn không rõ.

Giọng chàng trở nên dịu dàng:

– Chỉ Nhược, mấy ngày liền nàng dùng sức quá độ, bị mệt mỏi, đầu váng mắt hoa, nên nhìn gà hóa cuốc đấy thôi.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không phải, nhất định không phải thế. Muội thấy nó ba lần, ba lần liền kia mà.

Giọng nàng run run, cơn khiếp sợ vẫn chưa tan hết. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Nàng ba lần nhìn thấy cái gì?

Chu Chỉ Nhược vịn vai chàng, lẩy bẩy đứng lên, quay lại nhìn phía sau một cái, cái nhìn này tựa hồ nàng phải thu hết can đảm, nhìn xong vội quay lại ngay; thấy sắc mặt chàng đầy vẻ quan hoài trìu mến, thì trong lòng chua xót, chân tay bủn rủn, ngồi phệt xuống đất, nói:

– Vô Kỵ ca ca, muội… mọi việc muội đều lừa dối chàng. Kiếm Ỷ Thiên và thanh đao Đồ Long chính muội lấy cắp… Ân… Ân Ly cô nương là do muội… giết hại… Tạ đại hiệp đã bị chính tay muội điểm huyệt. Muội… muội không lấy Tống Thanh Thư. Trong lòng muội chỉ có… quả thật trước sau chỉ có một mình chàng mà thôi.

Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Những chuyện đó, ta đều biết cả rồi. Có điều… tại sao nàng lại phải khổ như thế?

Chu Chỉ Nhược khóc, nói:

– Chàng chưa biết, sư phụ của muội ở trên tháp chùa Vạn An đã nói gì với muội đâu. Sư phụ nói cho muội biết bí mật trong thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên, bắt muội phải thề lấy cho được đao kiếm làm rạng rỡ phái Nga Mi, bắt muội phải thề độc, giả vờ yêu chàng, nhất quyết không được thực tình với chàng.

Trương Vô Kỵ vuốt ve cánh tay nàng, nhớ lại năm nào chính mắt nhìn thấy Diệt Tuyệt sư thái giáng chưởng đánh chết Kỷ Hiểu Phù, nghe bà ta ở giữa sa mạc thề tiêu diệt Minh giáo, thấy bà ta cầm kiếm Ỷ Thiên loạn sát giáo chúng Nhuệ Kim kỳ. Sau này ở tháp chùa Vạn An, bà ta thà chết chứ không để cho chàng cứu giúp, đủ biết bà ta thù hận Minh giáo biết chừng nào. Chu Chỉ Nhược kế thừa y bát, nhận di mệnh của bà ta, cho nên mọi hành vi tàn ác độc địa kia đều là do Diệt Tuyệt sư thái trối trăn mà ra. Chàng bản tính rất dễ tha thứ cho lỗi lầm của người khác, xưa nay không nhớ hận thù, nghĩ lại năm xưa trên sông Hán Thủy nàng bón cơm cho mình ăn, rồi trong trận ác đấu trên đỉnh Quang Minh giữa chàng với vợ chồng Hà Thái Xung và Hoa Sơn nhị lão, nếu không có nàng đứng bên cạnh chỉ điểm, không chừng chàng đã bỏ mạng tại trận rồi. Nghĩ cho kỹ, thì mọi hành vi gian trá tàn bạo của nàng cũng đều xuất phát từ mối thâm tình của nàng đối với chàng. Lúc này nàng yếu đuối nằm phục trong lòng chàng, bất giác chàng cảm thấy rất thương nàng, bèn dịu dàng nói:

– Chỉ Nhược, nàng thấy cái gì mà sợ hãi đến thế?

Chu Chỉ Nhược đứng phắt dậy, nói:

– Muội không nói đâu. Chính cái oan hồn đó cứ bám theo muội, muội làm nhiều điều ác, tất nhiên phải bị quả báo thế này. Hôm nay muội sẽ nói rõ tất cả với chàng… chắc muội chẳng còn sống được bao lâu nữa…

Nói xong nàng ôm mặt chạy nhanh xuống núi.

Trương Vô Kỵ không hiểu đầu đuôi thế nào, nghĩ thầm: “Oan hồn nào bám theo nàng? Chả lẽ bang chúng Cái Bang trả thù, giả làm ma quỷ dọa nàng hay sao?” Chàng liền đi theo, chỉ thấy nàng đã lẫn vào trong đám đệ tử phái Nga Mi, Bối Cẩm Nghi khoác lên người nàng một chiếc áo ngoài. Chu Chỉ Nhược nói nhỏ mấy câu gì đó, các đệ tử nhất tề cúi mình vâng lệnh.

Lúc này trên núi Thiếu Thất lại thêm rất nhiều người ra về; Không Văn, Không Trí hai vị bận từ biệt khách. Bọn Phạm Dao, Dương Tiêu đến tề tựu xung quanh Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ nói:

– Chúng ta cũng chuẩn bị ra về thì vừa.

Chàng thấy Chu Chỉ Nhược đến trước mặt Không Văn nói nhỏ mấy câu, Không Văn sắc mặt đại biến, sững sờ một hồi, lắc đầu, tựa hồ không tin. Chu Chỉ Nhược lại nói thêm mấy câu, rồi đột nhiên quỳ xuống, chắp tay lẩm bẩm khấn khứa. Không Văn thần sắc trang nghiêm, miệng niệm Phật hiệu.

Chu Điên nói:

– Giáo chủ, việc này giáo chủ phải ngăn lại mới được, thể nào cũng phải ngăn lại.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Ngăn cái gì?

Chu Điên nói:

– Chu cô nương định xuất gia làm hòa thượng, nàng ta… nàng ta mà vào cửa Phật rồi, thì giáo chủ nguy tai.

Dương Tiêu cười nói:

– Chu cô nương có xuất gia thì cũng làm ni cô, chứ đâu có làm hòa thượng? Có lý nào bái nhà sư làm thầy?

Chu Điên gõ mạnh một cái lên trán mình, nói:

– Đúng, đúng! Lão phu nhất thời hồ đồ. Thế Chu cô nương cầu khẩn Không Văn việc gì vậy? Một người là chưởng môn phái Thiếu Lâm, một người là chưởng môn phái Nga Mi, hoàn toàn ngang vai nhau, sao nàng ta lại quỳ?

Thấy Chu Chỉ Nhược đã đứng dậy, vẻ mặt đã dịu đi. Trương Vô Kỵ thở dài, nói:

– Thôi chuyện của người khác, mình chẳng thể bao đồng.

Rồi chàng ngoảnh đầu lại, nói:

– Mẫn muội, chúng ta đi thôi.

Nhưng ngó quanh chẳng thấy Triệu Mẫn đâu cả.

Mấy ngày qua, Triệu Mẫn lúc nào cũng ở bên chàng như hình với bóng kia mà, Trương Vô Kỵ chột dạ, hỏi:

– Triệu cô nương đâu rồi?

Trong bụng than thầm: “Hỏng rồi, chắc là lúc Chu Chỉ Nhược nằm phục trong lòng ta, Triệu Mẫn đã trông thấy, tưởng ta tình cũ không chịu dứt, nên đã bỏ ta mà đi chăng?” Chàng vội chen vào đám đông tìm kiếm. Chưởng kỳ sứ Liệt Hỏa kỳ Tân Nhiên nói:

– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ nhìn thấy Triệu cô nương xuống núi rồi!

Trương Vô Kỵ cảm thấy không chịu nổi, nghĩ thầm: “Triệu Mẫn vứt bỏ tất cả để theo ta, đã trải qua bao nhiêu hoạn nạn, ta há có thể phụ nàng?” Bèn quay sang nói với Dương Tiêu:

– Dương huynh, việc ở đây nhờ huynh lo liệu, bản nhân phải đi trước một chút!

Rồi chàng cáo biệt Không Văn, Không Trí; chào từ biệt Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình; cuối cùng nói với Chu Chỉ Nhược:

– Chỉ Nhược, nàng hãy cố bảo trọng, hậu hội hữu kỳ.

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, chỉ nhè nhẹ gật đầu, từ khóe mắt mấy giọt lệ ứa ra, rơi xuống.

*

*      *

Trương Vô Kỵ thi triển khinh công chạy như bay xuống chân núi. Suốt mấy dặm toàn là các lộ anh hùng từ chùa Thiếu Lâm đang trên đường về, chàng không muốn chào hỏi ai, nên gặp người đều lướt qua thật nhanh, mãi vẫn không thấy hình bóng Triệu Mẫn đâu cả. Chàng đi một mạch hơn ba chục dặm, trời sắp tối, người đi trên đường càng lúc càng thưa, chợt nghĩ: “Triệu Mẫn đa mưu túc trí, nếu định tránh mặt ta, nàng sẽ không đi theo đường lớn. Nếu không, ta đi nhanh như thế, đã phải gặp nàng rồi. Hay là nàng trốn trong núi Thiếu Thất, chờ ta đi rồi, nàng mới đi sau?” Lòng như lửa đốt, chàng không quản đói khát, cứ chạy rẽ vào các cánh rừng, chốc chốc lại leo lên các cây cao, đỉnh dốc mà đưa mắt tìm kiếm tứ phía. Núi rừng tịch mịch, chỉ thấy quạ bay về tổ.

Chàng vòng trở lại núi Thiếu Thất rồi, vẫn không thấy Triệu Mẫn, nghĩ thầm: “Bất kể thế nào ta cũng không thay lòng đổi dạ với nàng, dẫu phải đến chân trời góc biển, ta cũng quyết tìm được nàng mới thôi”. Bụng đã quyết, tâm thấy an hơn. Thấy trong thung lũng góc đông bắc có hai cây hòe lớn mọc cạnh nhau, chàng bèn nhảy lên cây, tìm một cái chạc mọc ngang, nằm ngả lưng xuống đó. Trải qua một ngày bao nhiêu biến cố, người mệt mỏi, nằm một lát liền ngủ thiếp đi.

Chàng ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe có tiếng bước chân cách vài chục trượng, lập tức tỉnh giấc. Lúc này vầng trăng đã chếch sang phía tây, dưới ánh trăng thấy một bóng người trên dốc núi di chuyển cực nhanh xuống phía nam. Người ấy dáng thon thả, thắt đáy lưng ong, là một thiếu nữ mảnh dẻ.

Chàng cả mừng, đã mở miệng định gọi “Mẫn muội!” nhưng biết là mình nhìn lầm, vì thiếu nữ này cao hơn Triệu Mẫn một chút, thân pháp khinh công khác hẳn, bước chân nhẹ nhàng hơn Triệu Mẫn, song chưa uyển chuyển bằng Chu Chỉ Nhược.

Lòng hiếu kỳ trỗi dậy, chàng nghĩ thầm: “Đêm hôm khuya khoắt, cô gái này đi một mình là có chuyện gì?” Việc này chẳng liên can gì tới chàng, chàng cũng không muốn rình mò chuyện riêng tư của con gái nhà người, nhưng lại nghĩ: “Không chừng từ cô gái này, mình sẽ tìm thấy Triệu Mẫn. Nếu nàng ta không dính dáng gì tới Triệu Mẫn, thì mình lặng lẽ tách ra là xong; có chút manh mối nào mình cũng không nên bỏ qua”. Thế là chàng đu vào cành cây nhẹ nhàng nhảy xuống đất.

Chàng sợ bị thiếu nữ kia phát giác, không dám lại gần, nghĩ bụng đêm khuya bám theo một thiếu nữ không quen biết, dễ bị người ta nghi ngờ có dã tâm. Chỉ thấy thiếu nữ kia mặc bộ đồ màu đen, chính đang đi về phía chùa Thiếu Lâm, nghĩ thầm: “Dù nàng ta không liên quan gì tới Triệu Mẫn, thì cũng có mưu đồ gì đây với võ lâm. Nếu nàng ta toan làm điều gì bất lợi cho Thiếu Lâm tự, mình nhất định sẽ phải ra tay can thiệp”. Chàng dừng bước dỏng tai nghe, bốn bề không thấy có ai khác, biết thiếu nữ kia chỉ đi một mình.

Đi chừng thời gian bằng ăn xong một bữa cơm, thiếu nữ không hề ngoảnh lại. Trương Vô Kỵ lờ mờ cảm thấy nhìn từ phía sau nàng rất quen thuộc, dường như đã gặp ở đâu rồi thì phải, nghĩ thầm: “Là Võ Thanh Anh cô nương chăng? Hay là một nữ đệ tử phái Nga Mi?” Đi thêm vài dặm nữa, chùa Thiếu Lâm đã ở trước mặt. Thiếu nữ kia qua một cái đèo, tới cạnh chùa, nàng đi chậm lại, lẩn rất nhanh sau các gốc cây, mỏm đá, rõ ràng là sợ bị người ta nhìn thấy.

Bỗng nghe từ đại điện trong chùa truyền ra tiếng khánh, rồi tiếng tụng kinh bằng Phạn ngữ của hàng trăm nhà sư. Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Sao quá nửa đêm mà các nhà sư Thiếu Lâm còn tụng kinh, hơn nữa lại đông đến thế, chẳng lẽ có đại pháp sự gì hay sao?”

Thiếu nữ kia di chuyển càng thận trọng hơn, đi thêm vài chục trượng, đã tới bên đại điện. Bỗng có tiếng bước chân nhè nhẹ, thiếu nữ nằm phục xuống cỏ, kế đó có bốn hòa thượng tay cầm thiền trượng, giới đao đi tuần ngang qua. Đợi bốn hòa thượng qua rồi, thiếu nữ nhổm dậy, nhảy một cái đến bên cửa sổ dài của đại điện. Cú nhảy này nhẹ như bay, là khinh công của một cao thủ bậc nhất trong võ lâm.

Trương Vô Kỵ thấy tay nàng không cầm binh khí, chỉ có một thân một mình, không có vẻ đến chùa Thiếu Lâm để gây sự, chàng rất muốn nhìn rõ mặt nàng, xem có phải là người quen biết hay chăng, bèn rón rén cúi mình vòng phía sau nàng tới góc tây bắc của đại điện. Chàng tự biết tình cảnh hiện tại vô cùng khó ăn khó nói, ví thử bị các hòa thượng Thiếu Lâm phát giác, với địa vị như chàng, nửa đêm tới chùa nhòm ngó, đối phương dẫu làm như không hay biết, mình cũng mất cả thể diện; bởi vậy chàng hết sức cẩn thận trong từng cử động, nhẹ nhàng còn hơn cả mèo rình chuột.

Lúc này trong đại điện tiếng tụng kinh lại nổi lên, chàng ghé mắt qua khe cửa nhìn vào, thấy trong đại điện có mấy trăm nhà sư, ngồi từng hàng ngay ngắn trên bồ đoàn, mặc hoàng bào, lại khoác bên ngoài đại hồng cà sa thêu kim tuyến, người thì cầm pháp khí, người thì chắp tay tụng kinh, chính là một buổi lễ cầu siêu. Trương Vô Kỵ chợt hiểu: “Đại hội anh hùng kỳ này có không ít người bỏ mạng, quân Nguyên lại đánh lên, hai bên tử thương lại càng nhiều. Các nhà sư Thiếu Lâm làm lễ cầu siêu cho vong hồn người chết được tiêu diêu cực lạc”. Trương Vô Kỵ thấy Không Văn đại sư đứng ngay trước bàn thờ đích thân chủ tế, bên phải Không Văn đại sư là một thiếu nữ.

Trương Vô Kỵ nhìn mặt thiếu nữ thì hơi kinh ngạc, hóa ra là Chu Chỉ Nhược. Tuy chỉ nhìn nghiêng, song cũng thấy rõ thần sắc nàng bất an, mày liễu cau cau, như có điều gì lo lắng. Chàng nghĩ thầm: “Phải rồi, hồi chiều Chu Chỉ Nhược quỳ trước mặt Không Văn đại sư, thì ra là để xin đại sư làm lễ cầu siêu, hẳn là nàng sám hối những gì đã làm, bởi nàng đã giết quá nhiều người vô tội”. Chàng nhìn kỹ trên bàn thờ, thấy ở chính giữa là một bài vị trên viết bảy chữ rành rành “Nữ hiệp Ân Ly chi linh vị”.

Trương Vô Kỵ đau lòng nhớ đến cuộc đời buồn thảm của biểu muội, tình cảm sâu nặng của nàng đối với chàng, bất giác nước mắt ứa ra.

Trong tiếng khánh tiếng mõ, Chu Chỉ Nhược quỳ xuống vái, miệng lẩm bẩm khấn. Trương Vô Kỵ vận thần công, cố nghe cho được, loáng thoáng có câu “Ân cô nương… ở trên trời linh thiêng… xin hãy yên nghỉ… đừng hiện về phá tôi…”

Chàng tì tay vào tường, trong đầu rộn lên bao ý nghĩ: “Biểu muội chết dưới kiếm của Chu Chỉ Nhược, cố nhiên tội nghiệp thật, nhưng nội tâm của Chu Chỉ Nhược bị ray rứt hành hạ có lẽ còn khổ hơn cả biểu muội”. Trong óc chàng đột nhiên nhớ đến mấy câu hát của giáo chúng Minh giáo trên đỉnh Quang Minh năm trước: “Khi sống đã chẳng vui, Thì chết có gì khổ? Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy! Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy!”

Chu Chỉ Nhược từ từ đứng dậy, hơi nghiêng người, mặt hướng sang phía đông, đột nhiên biến sắc, kêu lên:

– Ối… lại hiện về… đấy!…

Tiếng kêu của nàng át cả tiếng khánh tiếng mõ trong đại điện. Trương Vô Kỵ nhìn theo hướng mắt nàng, thấy lớp giấy dán trên khung cửa sổ đã bị rách từ lúc nào, chỗ đó lộ ra một khuôn mặt thiếu nữ đầy vết rạch, khiến chàng run bần bật, không nhịn được phải kêu lên.

Khuôn mặt thiếu nữ đầy vết rạch, tuy không còn nổi u từng cục như năm nào, song hiển nhiên là của nàng Ân Ly đã chết từ lâu.

Chàng toan bước lên gọi, hai chân tự dưng cứng đờ, không xê dịch được. Chỉ thấy khuôn mặt kia đột nhiên biến mất, trong đại điện nghe huỵch một cái, Chu Chỉ Nhược đã ngã ngửa ra.

Trương Vô Kỵ lúc này cũng chẳng còn sợ phái Thiếu Lâm hiềm nghi, lớn tiếng gọi:

– Thù Nhi! Thù Nhi! Là nàng đấy ư?

Không ai trả lời. Chàng hơi định thần, phi thân đuổi theo về đường cũ, chỉ thấy vầng trăng lạnh lẽo lơ lửng, toàn các bóng cây, hắc y thiếu nữ không biết đã đi hướng nào. Chàng vốn không tin có ma quỷ, nhưng gặp cảnh vừa rồi, không khỏi toát mồ hôi lạnh, sởn gai ốc, đứng lại lẩm bẩm: “Đúng là nàng! Đúng là nàng! Hèn chi sau lưng nhìn quen quá, hóa ra là Thù Nhi. Không lẽ linh hồn nàng biết các vị cao tăng Thiếu Lâm tụng kinh siêu độ cho nàng nên tìm đến nghe kinh? Không lẽ nàng chết oan nên âm hồn không siêu thoát được?”

Các hòa thượng Thiếu Lâm nghe tiếng động, đã có mấy vị chạy chạy ra xem xét, thấy Trương Vô Kỵ thì họ không khỏi kinh ngạc. Một vị đứng tuổi bước lên hành lễ, nói:

– Không biết Trương giáo chủ đêm khuya giá lâm, chưa kịp nghênh đón, xin thứ tội cho.

Trương Vô Kỵ chắp tay nói:

– Không dám!

Chàng vào ngay đại điện, thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt nhắm nghiền, mặt cắt không còn hột máu, vẫn chưa hồi tỉnh. Chàng lại bên cạnh, day day nhân trung nàng mấy cái, rồi lại xoa bóp sau lưng nàng. Chu Chỉ Nhược từ từ tỉnh lại, vừa trông thấy Trương Vô Kỵ, liền ôm chặt lấy chàng, kêu lên:

– Có ma, có ma!

Trương Vô Kỵ nói:

– Chuyện này kể cũng quái lạ thật, nàng đừng sợ. Ở đây có rất nhiều vị cao tăng, thể nào cũng hóa giải được mối oan nghiệt này.

Chu Chỉ Nhược lâu nay vốn là người đoan trang ổn trọng, lúc này vì quá kinh hoảng, nên trước mặt bao người mà cứ ôm chặt lấy Trương Vô Kỵ, nghe chàng nói thế mới đỏ mặt, vội buông chàng ra, đứng lên, nhưng vẫn còn run rẩy, nắm chặt tay chàng không chịu rời.

Trương Vô Kỵ thi lễ với Không Văn, kể lại chuyện vừa rồi có kẻ ở bên ngoài nhòm trộm. Không Văn và các nhà sư đều không nhìn thấy, song vết giấy ở cửa sổ vừa bị xé rách kia còn sờ sờ ra đó. Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca… Trương giáo chủ, muội nhìn thấy, đúng là người đó.

Trương Vô Kỵ gật đầu, Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Thế giáo… chủ nhìn thấy… ai?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Thấy Ân cô nương, biểu muội của ta.

Chu Chỉ Nhược kêu khẽ một tiếng, lại ngất đi. Lần này Trương Vô Kỵ đang nắm tay nàng, nên nàng không bị ngã, chỉ ngất xỉu một lát là tỉnh ngay. Trương Vô Kỵ nói:

– Ta nhìn thấy biểu muội, nhưng nàng… là người, chứ không phải là ma!

Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Không phải là ma thật ư?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta đã đi theo biểu muội một quãng đường dài đến tận đây, thấy nàng ta đi đứng bình thường, không thể là ma được!

Mấy câu này chỉ cốt an ủi Chu Chỉ Nhược, chứ trong bụng chàng cũng không dám chắc.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Quả thật giáo chủ thấy nàng ta đi đứng bình thường, không thể là ma chứ?

Trương Vô Kỵ nhớ lại quãng đường bám theo hắc y thiếu nữ tới đây, thấy nàng nép mình sau cửa sổ nhìn vào, nhất cử nhất động đều đúng là một cô nương giỏi võ công, không có chút gì khác lạ, bèn quay sang hỏi Không Văn đại sư:

– Phương trượng, tại hạ có điều chưa rõ, muốn thỉnh giáo phương trượng. Người chết đi rồi, có thật còn hồn ma hay không?

Không Văn trầm tư một lát, nói:

– Chuyện ở cõi u minh, quả thực khó nói.

Trương Vô Kỵ hỏi tiếp:

– Đã thế, sao phương trượng lại thành kính tụng niệm để siêu độ cho các u hồn?

Không Văn nói:

– Thiện tai, thiện tai! U hồn không cần siêu độ. Người chết nghiệp vẫn còn, thiện có thiện báo, ác có ác báo. Nhà Phật lập đàn tụng niệm là cốt cho người sống yên tâm, siêu độ là siêu độ cho người còn sống đó.

Trương Vô Kỵ bây giờ mới ngộ, chắp tay nói:

– Đa tạ phương trượng chỉ điểm. Tại hạ canh khuya đến quấy nhiễu, quả áy náy trong lòng, mong phương trượng thứ tội cho.

Không Văn mỉm cười, nói:

– Giáo chủ là đại ân nhân của tệ phái, mấy phen cứu giúp phái Thiếu Lâm thoát nạn, hà tất phải khách khí.

Trương Vô Kỵ bèn cáo biệt các nhà sư, nói với Chu Chỉ Nhược:

– Ta đi thôi!

Chu Chỉ Nhược có vẻ lưỡng lự, không dám rời khỏi điện Phật. Trương Vô Kỵ cũng không tiện rủ thêm, chắp tay nói:

– Nếu vậy, chúng ta từ biệt ở đây.

Nói xong chàng quay mình đi ra cửa điện.

Chu Chỉ Nhược nhìn theo chàng, đột nhiên gọi:

– Vô Kỵ ca ca, chàng có còn gặp muội nữa hay không? Thôi… muội đi theo chàng vậy.

Nàng chạy theo chàng, cùng chàng sóng vai ra cổng chùa.

*

*       *

Đã cách chùa Thiếu Lâm một quãng xa, Chu Chỉ Nhược liền nép vào người Trương Vô Kỵ, nắm chặt lấy tay chàng. Trương Vô Kỵ biết là nàng sợ, cũng nắm lấy bàn tay mềm mại, ngửi thấy bên mình mùi thơm ngây ngất của nàng, trong lòng không khỏi rạo rực.

Hai người im lặng hồi lâu, đột nhiên Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Vô Kỵ ca ca, ngày nào hai ta lần đầu tiên gặp nhau trên sông Hán Thủy, muội được Trương chân nhân ra tay cứu giúp, nếu biết về sau phải chịu bao nỗi khổ sở thế này, thì bấy giờ muội chết ngay trên sông còn hơn.

Trương Vô Kỵ không trả lời, nhớ đến câu hát của giáo chúng Minh giáo, bèn khe khẽ hát:

“Khi sống đã chẳng vui, Thì chết có gì khổ? Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy! Thương thay cho người đời, Sao lo buồn lắm vậy!”

Chu Chỉ Nhược nghe lời ca, bàn tay nắm tay chàng hơi run run.

Nàng nói nhỏ:

– Trương chân nhân đưa muội đến núi Nga Mi là để cho muội được tốt lành, thế nhưng giá lão nhân gia giữ muội ở trên núi Võ Đang, cho muội làm môn hạ phái Võ Đang, thì mọi sự hôm nay đã khác hẳn. Ôi, ân sư đối với muội có gì không tốt nhỉ? Nhưng bà ấy đã bắt muội phải thề độc, bắt muội phải hận thù Minh giáo, bắt muội phải thù chàng, hại chàng, song trong lòng muội… quả thực…

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói rất chân thành, thì cảm động, biết nàng có nhiều điều khó xử, bao nhiêu việc ác độc đều là do di mệnh của Diệt Tuyệt sư thái mà làm, giờ thấy nàng hoảng sợ thế này thì càng thương nàng thêm.

Đường núi gió thổi vi vu, đưa tới từng chập hương thơm các loài hoa, lúc này là đầu mùa hạ, đêm thanh mát mẻ, lại nghe thiếu nữ xinh tươi thổ lộ nỗi lòng sâu kín, Trương Vô Kỵ không khỏi bồi hồi man mác; huống hồ hồi ở trên hòn đảo nhỏ, khi chàng giúp nàng đẩy chất độc ra khỏi cơ thể, hai người đã từng nhiều lần đụng chạm da thịt, ban đầu nàng lại từng có ơn với chàng, từng cùng chàng ước hẹn hôn nhân, lòng chàng không khỏi ngất ngây.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca ca, hôm ấy ở thành Hào Châu, chàng đang cùng muội bái đường thành thân, Triệu cô nương vừa tới gọi, chàng liền chạy theo cô ta là vì lẽ gì? Chàng thật sự mê cô ta đến thế kia ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Ta đang định giãi bày chuyện đó với nàng đây. Mình ngồi xuống nói chuyện nhé.

Chàng chỉ một tảng đá lớn bên đường.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không, lúc này lòng muội đang rối như tơ vò, nghe chưa lọt tai. Đi một quãng nữa cho muội bình tâm, hãy nói.

Trương Vô Kỵ gật đầu, để nàng cầm tay thủng thẳng bước đi. Chu Chỉ Nhược dẫn chàng rẽ vào một con đường nhỏ, đi bốn, năm dặm, tới bên một tảng đá lớn, cạnh một bụi cây rậm rạp, kéo chàng ngồi xuống, nói:

– Bây giờ thì chàng nói cho muội biết đi.

Trương Vô Kỵ liền kể lại việc Triệu Mẫn giơ cho chàng thấy một lọn tóc vàng của Tạ Tốn, khiến chàng không thể không đi theo nàng. Chu Chỉ Nhược nghe xong, thừ người im lặng. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Chỉ Nhược, nàng trách ta lắm phải không?

Chu Chỉ Nhược nghẹn ngào nói:

– Muội đã làm bao nhiêu việc sai trái, chỉ tự trách mình thôi, lẽ nào lại đi trách chàng?

Trương Vô Kỵ vỗ nhẹ vai nàng, dịu dàng nói:

– Những chuyện sai trái trên thế gian nhiều khi do tình thế đưa đẩy, khó mà liệu trước, nàng đừng vì thế mà quá đau lòng.

Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên nói:

– Vô Kỵ, muội có một câu hỏi chàng, chàng phải trả lời thật lòng, đừng giấu giếm gì hết.

Trương Vô Kỵ nói:

– Được, ta sẽ không giấu nàng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Muội biết trên đời này có bốn thiếu nữ thực lòng yêu chàng. Một là Tiểu Chiêu đã sang Ba Tư, hai là Triệu cô nương, người thứ ba là… nàng ta…

Chu Chỉ Nhược định nói “Ân cô nương”, song không dám, ngừng một chút, hỏi:

– Nếu cả bốn thiếu nữ đều còn sống và đều ở ngay bên cạnh chàng, thì người mà chàng thực lòng yêu thương là ai?

Trương Vô Kỵ trong lòng mê loạn, ấp úng:

– Cái đó… ồ, cái đó…

Hôm nào Trương Vô Kỵ cùng Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly, Tiểu Chiêu bốn nàng cùng ở trên một con thuyền lênh đênh giữa biển, chàng từng mấy lần nghĩ bụng: “Cả bốn cô gái này, ai đối với ta cũng tình sâu nghĩa nặng, ta biết làm sao cho phải đây? Dù ta kết hôn với bất cứ người nào, cũng sẽ làm cho ba nàng kia đau khổ. Rốt cuộc thì từ đáy lòng, ta thật sự yêu nàng nào nhỉ?” Từ bấy đến nay chàng cũng chưa giải đáp nổi câu hỏi đó, đành né tránh, có lúc chàng nghĩ: “Chưa đuổi được bọn Thát tử, chưa khôi phục giang sơn, chưa diệt xong Hung Nô, thì đừng tính chuyện gia thất. Đừng có vương vấn những chuyện nhi nữ riêng tư”. Có lúc chàng nghĩ: “Ta là giáo chủ Minh giáo, nhất cử nhất động đều có liên quan đến sự hưng suy của bản giáo và của võ lâm. Ta tự tin sẽ giữ phẩm hạnh trong sạch suốt đời, lẽ nào rơi vào vòng nữ sắc để anh hùng thiên hạ chê cười, hủy hoại thanh danh bản giáo?” Có khi chàng nghĩ: “Mẹ ta lúc lâm chung từng căn dặn ta, mỹ nữ rất giỏi lừa người, bảo ta phải suốt đời đề phòng, lời mẹ dặn há có thể bỏ ngoài tai?”

Kỳ thực chàng biện giải đủ cách, chẳng qua để tự dối mình, chứ nếu thực tình chuyên tâm yêu một cô gái, thì vị tất cản trở việc phục hưng đại nghiệp, càng không hại gì cho thanh danh của Minh giáo. Chẳng qua chàng thấy nàng này cũng hay, nàng kia cũng tốt, nên không dám mơ tưởng nhiều. Trương Vô Kỵ võ công tuy cao cường thật, song tính cách thì nhu nhược, cả nể, thiếu quyết đoán, việc gì cũng cứ để trôi đi tự nhiên, ít khi dám làm trái ý người khác, thà bỏ ý mình chiều theo ý người. Chàng tập luyện tâm pháp “Càn khôn đại na di” là nể lời thỉnh cầu của Tiểu Chiêu; làm giáo chủ Minh giáo là do tình thế bức bách và cũng vì nể tình Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương; chàng đính hôn với Chu Chỉ Nhược là theo lệnh của Tạ Tốn; còn không bái đường thành thân với Chu Chỉ Nhược thì là do Triệu Mẫn ép phải làm thế. Năm xưa Kim Hoa bà bà và Ân Ly giá như không dùng vũ lực cưỡng bức, mà ngọt ngào rủ chàng ra đảo Linh Xà, chắc hẳn chàng đã đi theo rồi.

Cũng có khi trong cõi lòng sâu kín, chàng nghĩ thầm: “Ước gì ta được chung sống suốt đời với cả bốn cô nương, tất cả thuận hòa thì chẳng sung sướng lắm ư?” Bấy giờ là cuối đời nhà Nguyên, đối với văn sĩ, thương nhân, hào khách giang hồ, chuyện năm thê bảy thiếp là hết sức thường tình, người một vợ một chồng mới là khó kiếm. Có điều là Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tư, giáo chúng bên đó sinh hoạt khắc khổ, dè sẻn, ngoài vợ ra ít khi lấy vợ lẽ nàng hầu. Trương Vô Kỵ tính nết khiêm hòa, cảm thấy trong bốn nàng ấy, lấy được ai cũng là phúc lớn cho chàng, nếu còn thêm thiếp này thiếp nọ thì thật là không phải, nên cái ý nghĩ lấy cả bốn nàng chỉ thoáng qua, không dám mơ tưởng tham lam, có chợt nhớ đến, lại tự trách mình: “Làm người phải biết thế nào là đủ, ta còn cái ý đó chẳng hóa ra quá đê tiện hay sao?”

Sau khi Tiểu Chiêu đi Ba Tư, Ân Ly qua đời, lại cho rằng Ân Ly là do Triệu Mẫn sát hại, trong bốn nàng chỉ còn lại Chu Chỉ Nhược, vậy theo lý thì Trương Vô Kỵ sẽ thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Ngờ đâu xảy ra bất trắc, hết chuyện này đến chuyện nọ rắc rối, rồi chân tướng lộ ra dần dần, sự thiện ác ban đầu của hai nàng Triệu Chu đã đảo ngược, may sao chàng chưa thành hôn với Chu Chỉ Nhược, đỡ một sự đại lầm lỡ. Triệu Mẫn công khai chống lại cha anh, chẳng còn gì phải khó nghĩ nữa. Ai ngờ Triệu Mẫn bỏ đi không một lời từ biệt, bây giờ Chu Chỉ Nhược lại nêu ra câu hỏi này.

Chu Chỉ Nhược thấy chàng trầm ngâm im lặng, bèn nói:

– Lời muội hỏi chàng chỉ là giả định hư ảo mà thôi. Tiểu Chiêu đã sang làm nữ giáo chủ Minh giáo Ba Tư. Muội thì lại… lại sát hại Ân cô nương. Bốn người bây giờ chỉ còn một mình cô nương họ Triệu. Muội chỉ muốn hỏi chàng, nếu cả bốn người đều bình yên, tử tế ở bên cạnh chàng, thì chàng tính sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Chỉ Nhược, việc đó ta cũng đã nghĩ rất lâu, dường như ta không thể tự quyết định được; nhưng đến hôm nay thì ta biết người mà ta thật sự yêu hơn cả là ai rồi.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Là ai vậy? Là… là Triệu cô nương phải không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng thế. Hôm nay ta tìm không thấy Triệu cô nương, thật chẳng thiết sống nữa. Nếu từ nay không còn được gặp Triệu cô nương, chắc ta cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tiểu Chiêu sang Ba Tư, ta vô cùng đau buồn. Biểu muội của ta qua đời, ta càng đau đớn hơn. Chỉ Nhược hóa ra thế này, lòng ta vừa đau đớn, vừa tiếc nuối. Nhưng Chỉ Nhược này, ta không muốn dối nàng làm gì, nếu kiếp này ta không còn gặp lại Triệu cô nương, thì thà chết còn hơn. Tâm sự này của ta, trước nay ta chưa từng nói với ai bao giờ.

Chàng đối với Chu Chỉ Nhược, Ân Ly, Tiểu Chiêu, Triệu Mẫn bốn nàng, cứ ngỡ là không ai hơn kém, nhưng hôm nay Triệu Mẫn bỏ đi, chàng đột nhiên mới phát hiện ra rằng Triệu Mẫn chiếm vị trí trong lòng chàng hơn hẳn ba nàng còn lại.

Chu Chỉ Nhược nghe chàng nói vậy, nói nhỏ:

– Hôm ở Đại Đô, muội thấy chàng tới quán rượu nhỏ gặp Triệu Mẫn, muội đã biết ai là người chiếm được trái tim chàng. Có điều là muội vẫn si tâm vọng tưởng, nếu thành hôn với chàng, thì có thể làm cho chàng hồi tâm chuyển ý, nào ngờ… nào ngờ… việc đó chẳng xong.

Trương Vô Kỵ buồn bã nói:

– Chỉ Nhược, ta đối với nàng luôn kính trọng, đối với biểu muội họ Ân thì vô cùng cảm kích, đối với Tiểu Chiêu thì tội nghiệp thương xót, còn riêng với Triệu cô nương thì đúng là mối tình khắc cốt minh tâm.

Chu Chỉ Nhược lẩm bẩm:

– Mối tình khắc cốt minh tâm, mối tình khắc cốt minh tâm.

Ngừng một lát, nàng nói nhỏ:

– Vô Kỵ ca ca, muội đối với chàng cũng là mối tình khắc cốt minh tâm đó, chàng… chàng có biết cho chăng?

Trương Vô Kỵ cảm động, nắm tay nàng, dịu dàng nói:

– Chỉ Nhược, ta biết chứ, tấm lòng của nàng đối với ta, đời này kiếp này ta chưa biết cách nào báo đáp. Ta… ta quả thật có lỗi với nàng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng không có lỗi gì với muội, chàng lúc nào cũng tốt với muội, lẽ nào muội không biết? Muội hỏi chàng: phen này Triệu cô nương bỏ đi không một lời từ biệt, nếu chàng vĩnh viễn không còn gặp lại nàng ta, nếu nàng ta bị kẻ gian giết hại rồi, nếu nàng ta thay lòng đổi dạ đối với chàng, thì chàng… chàng tính sao?

Trương Vô Kỵ cảm thấy khó chịu đựng đã lâu, nghe hỏi vậy thì không nhịn nổi, nước mắt trào ra, nghẹn ngào đáp:

– Ta… ta không biết! Nói tóm lại, trên trời dưới đất, dù thế nào ta cũng phải tìm nàng ta bằng được.

Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Nàng ta sẽ chẳng thay lòng đổi dạ đối với chàng đâu, chàng muốn tìm nàng ta, nào có khó gì.

Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, đứng ngay dậy, hỏi:

– Nàng ta đang ở đâu? Chỉ Nhược, mau cho ta biết.

Đôi mắt tuyệt đẹp của Chu Chỉ Nhược chăm chăm nhìn Trương Vô Kỵ, thấy vẻ mặt chàng vui mừng như sắp phát cuồng, thì thủng thẳng nói:

– Chàng đối với muội chưa bao giờ có mối quan hoài như thế này. Nếu chàng muốn biết Triệu cô nương đang ở đâu, thì phải bằng lòng làm cho muội một việc, nếu không vĩnh viễn chàng sẽ không còn gặp lại nàng ta.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Nàng muốn ta làm việc gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Việc đó bây giờ muội chưa nghĩ ra, khi nào nghĩ ra, sẽ cho chàng biết. Tóm lại là việc đó không trái với đạo hiệp nghĩa, cũng không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, cũng không làm mất thanh danh của Minh giáo và của chàng; có điều là sẽ không dễ thực hiện đâu.

Trương Vô Kỵ ngẩn người, nghĩ thầm: “Trước đây Triệu Mẫn muốn ta làm ba việc, cũng bảo là không trái với đạo hiệp nghĩa, đến nay nàng ta mới chỉ đòi ta làm hai việc, cả hai việc ấy đều không dễ dàng chút nào. Bây giờ Chu Chỉ Nhược lại học theo cái lối đó”.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng bằng lòng hay không là tùy chàng. Có điều đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời, một khi đã nhận lời muội, khi việc đến sẽ không được thoái thác.

Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ, nói:

– Nàng bảo việc đó không trái với đạo hiệp nghĩa, không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, cũng không làm mất thanh danh của Minh giáo và của ta, phải không?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Đúng thế!

Trương Vô Kỵ nói:

– Được, nếu không trái với đạo hiệp nghĩa, không cản trở đại nghiệp phục hưng đất nước, thì ta bằng lòng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vậy thì mình vỗ tay thay lời thề.

Nàng giơ bàn tay ra, chờ chàng.

Trương Vô Kỵ biết rằng một khi chàng vỗ vào bàn tay nàng, thì trên cổ sẽ quàng một cái gông rất nặng, thiếu nữ họ Chu này bề ngoài hiền thục tao nhã, nhưng mưu kế sâu xa, hành sự tàn nhẫn thì chẳng kém gì Triệu Mẫn, nên đã đưa tay lên rồi mà nhất thời chưa vỗ vào tay nàng.

Chu Chỉ Nhược mỉm cười, nói:

– Chàng chỉ vỗ một cái, là trong chớp mắt sẽ được gặp người trong mộng.

Trương Vô Kỵ lòng rạo rực, chẳng suy tính gì nữa, vỗ luôn ba cái vào tay nàng. Chu Chỉ Nhược cười, nói:

– Chàng xem ai đây.

Nói xong giơ tay vạch bụi cây ở sau lưng, chỉ thấy phía sau cành lá có một thiếu nữ ngồi đó, mặt như cười mà không phải cười, chẳng phải Triệu Mẫn thì còn ai?

Trương Vô Kỵ vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, thốt lên:

– Mẫn muội!

Bỗng nhiên từ xa mấy trượng phía sau lưng, có tiếng con gái kêu Ôi” lên, tựa hồ quá kinh ngạc về sự xuất hiện đột ngột của Triệu Mẫn vậy. Tiếng kêu ấy rất nhỏ, song Trương Vô Kỵ nghe rất rõ ràng.

Chàng ngẩn người, trong đầu hiện ra vô số ý nghĩ, thong thả giơ tay nắm lấy tay Triệu Mẫn, thấy tay nàng cứng đơ, chàng hiểu ngay, hôm nay nàng bỏ đi không nói một lời, chàng tìm khắp nơi không thấy, thì ra đã bị Chu Chỉ Nhược bắt giữ, điểm huyệt, giấu ở đây. Chu Chỉ Nhược cố ý đưa chàng đến tận chỗ này ngồi nói chuyện, cốt để Triệu Mẫn nghe rõ từng câu. Giả dụ chàng không nỡ để Chu Chỉ Nhược phải đau lòng, đi nói những lời tình ý mặn nồng, thậm chí còn ôm ấp Chu Chỉ Nhược, thì đã trúng kế của nàng ta, Triệu Mẫn nhất định sẽ quyết chí bỏ đi mãi mãi. Chàng nghĩ như vậy, thầm kêu “Hú vía!” toát mồ hôi lạnh, chàng tiện tay thăm mạch cho Triệu Mẫn, thấy khí huyết vận hành như thường, không hề bị thương.

Dưới ánh trăng, chỉ thấy nàng đầu mày cuối mắt tươi cười, sung sướng, trông vô cùng duyên dáng khả ái, hẳn là mọi lời chàng nói với Chu Chỉ Nhược vừa rồi, nàng đều nghe rõ cả. Nàng tuy không cử động được, không nói được, nhưng ở sau lưng chàng, nghe chàng thổ lộ tâm sự, rằng chàng có mối tình khắc cốt minh tâm, tình ý nồng nàn với mình, thì không khỏi sung sướng rạng rỡ.

Chu Chỉ Nhược cúi xuống, ghé tai Trương Vô Kỵ nói nhỏ mấy câu. Trương Vô Kỵ cũng thì thầm đáp lời. Thế rồi nghe tiếng Chu Chỉ Nhược giận dữ quát:

– Trương Vô Kỵ, rốt cuộc ngươi không coi ta ra gì cả. Ngươi nhìn cho kỹ đi, Triệu cô nương trúng độc thế này, liệu còn sống nổi nữa không?

Trương Vô Kỵ thì lắp bắp:

– Nàng… nàng bị trúng độc rồi! Là cô nương hạ độc ư?

Chàng cúi xuống xem xét, vạch mí mắt trái của Triệu Mẫn lên coi, bỗng cảm thấy sau lưng tê đi, đã bị điểm trúng huyệt đạo. Trương Vô Kỵ kêu to “Ối chao”, người loạng choạng, Chu Chỉ Nhược ra tay nhanh như gió, ngón tay thon vận kình điểm liền năm đại huyệt ở vai trái, bên sườn và sau lưng chàng.

Trương Vô Kỵ ngã ngửa, chỉ thấy loáng lên một đạo thanh quang, Chu Chỉ Nhược đã rút trường kiếm chĩa vào ngực chàng, miệng quát:

– Đã trót thì trét, hôm nay ta lấy mạng ngươi cho xong. Nếu không, oan hồn Ân Ly cứ bám theo ta, xem ra ta cũng chẳng thể sống nổi; thế thì cho cả bọn cùng chết một lượt!

Nói xong giơ kiếm đâm thẳng vào ngực Trương Vô Kỵ.

*

*      *

Bỗng nghe có tiếng thiếu nữ vang lên sau lưng:

– Hãy khoan! Chu Chỉ Nhược, Ân Ly đâu đã chết!

Chu Chỉ Nhược ngoảnh lại, thấy một hắc y thiếu nữ từ trong bụi cỏ lao ra, giơ ngón tay điểm tới. Chu Chỉ Nhược nghiêng sang bên tránh được, thiếu nữ kia quay đầu lại, chỉ thấy dưới ánh trăng xiên xiên, một khuôn mặt xinh xắn, mờ mờ mấy vết sẹo ngang dọc. Trương Vô Kỵ nhìn rõ, thiếu nữ kia chính là biểu muội Ân Ly, có điều là các cục u trên mặt đã lặn hết, các vết sẹo ngang dọc không làm mất được vẻ xinh xắn, trông không khác mấy khuôn mặt của cô bé tú lệ đi theo Kim Hoa bà bà tới Hồ Điệp cốc năm nào.

Chu Chỉ Nhược lùi lại hai bước, tay trái che ngực, mũi kiếm trong tay phải vẫn chĩa vào ngực Trương Vô Kỵ, quát:

– Ngươi còn tiến lên một bước, ta sẽ đâm hắn chết trước!

Ân Ly không dám cử động, vội nói:

– Chu… cô nương làm bấy nhiêu chuyện tàn ác còn chưa đủ hay sao?

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Cô nương rốt cuộc là người hay là ma?

Ân Ly nói:

– Dĩ nhiên ta là người.

Trương Vô Kỵ đột nhiên gọi to:

– Thù Nhi!

Chàng bật dậy, ôm chầm lấy Ân Ly, nói:

– Thù Nhi… muội… muội nhớ ta khổ sở lắm phải không?

Sự việc xảy ra bất ngờ khiến Ân Ly cả sợ kêu thét lên, Trương Vô Kỵ liền ôm chặt nàng đến nghẹt thở. Chu Chỉ Nhược cười hì hì, nói:

– Vừa rồi không làm thế, cô nương đâu chịu chui ra.

Nàng quay lại, giải huyệt cho Triệu Mẫn, xoa bóp cơ thể cho khí huyết lưu thông. Triệu Mẫn bị nàng bỏ ở đây đã hơn nửa ngày, trong bụng vô cùng tức giận, nhưng vừa rồi được nghe Trương Vô Kỵ thổ lộ tâm tình thì chuyển giận thành vui. Song bỗng dưng lại xuất hiện thêm nàng Ân Ly, thế là thêm bao nhiêu khúc mắc, hận cũ chưa hết, sầu mới đã sinh.

Ân Ly làm bộ giận, nói:

– Ca ca làm sao cứ ôm chặt người ta như thế? Có Triệu cô nương, Chu cô nương ở đây, còn ra thể thống gì nữa?

Triệu Mẫn nói:

– Hừ, nếu như bổn cô nương và Chu cô nương không có ở đây, thì thành thể thống hay sao?

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Huynh thấy biểu muội chết rồi còn sống lại, mừng không để đâu cho hết, biểu muội, mọi sự… đầu đuôi thế nào?

Ân Ly nắm cánh tay chàng, xoay mặt chàng về phía có ánh trăng, ngắm một hồi, đột nhiên nắm tai trái của chàng véo mạnh một cái. Trương Vô Kỵ đau quá, kêu:

– Ối đau, biểu muội làm gì vậy?

Ân Ly nói:

– Ca ca đúng là cái gã xú bát quái đáng tùng xẻo! Ca ca… ca ca đem chôn sống muội, khiến muội phải chịu bao nhiêu là khổ sở.

Nói rồi đấm vào ngực chàng bình bịch ba cái liền.

Trương Vô Kỵ không dám vận “Cửu dương thần công” chống đỡ, nhịn đau chịu ba quyền của nàng, cười nói:

– Thù Nhi, huynh cứ tưởng biểu muội… chết thật rồi, làm cho huynh đau đớn khóc lóc mấy phen. Biểu muội còn sống thì thật là hay quá, đúng là trời xanh có mắt.

Ân Ly giận dữ nói:

– Trời xanh có mắt, còn cái gã xú bát quái là ca ca thì mù, người ta sống hay chết cũng không phân biệt nổi. Muội chẳng tin ca ca đâu. Chắc ca ca hiềm muội mặt mày sưng húp xấu xí, chẳng chờ ta tắt thở hẳn, đã đem chôn phắt đi. Ca ca là gã vô lương tâm, là tiểu tử chết tiệt lang tâm đoản mệnh!

Nàng la mắng chàng một hồi, cung cách và lời lẽ y hệt dạo trước. Trương Vô Kỵ chỉ cười hì hì, gãi đầu, nói:

– Biểu muội cứ chửi đi, chửi nhiều nữa vào. Lúc ấy huynh thật là hồ đồ, thấy biểu muội mặt mũi đầy máu, không còn thở gì cả, tim cũng ngừng đập, lại ngỡ là hết cách cứu…

Ân Ly nhảy tới, giơ tay véo tai chàng, chàng cười hì hì tránh vội sang bên, chắp tay vái nàng:

– Thù Nhi ngoan, hãy tha cho huynh!

Ân Ly nói:

– Không tha cho ca ca được! Hôm ấy chẳng hiểu bằng cách nào muội tỉnh lại, thấy bốn bề toàn là đá lạnh ngắt như băng giá, ca ca đã muốn chôn sống muội, sao lại chất lên người muội cành cây với đá cục? Tại sao không lấy đất lấy cát mà vùi để ta hết thở, có phải chết luôn rồi không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tạ trời tạ đất, may sao thoạt tiên huynh chỉ đắp lên người biểu muội cành cây với đá cục.

Chàng không nhịn được, liếc Chu Chỉ Nhược một cái. Ân Ly tức giận nói:

– Nàng ta xấu xa lắm, muội không cho phép ca ca nhìn nàng ta.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Sao lại thế?

Ân Ly nói:

– Nàng ta là hung thủ giết chết muội, ca ca còn để mắt tới nàng ta làm gì?

Triệu Mẫn nói xen vào:

– Cô nương không chết, Chu cô nương đâu còn là hung thủ giết cô nương?

Ân Ly nói:

– Bổn cô nương đã chết một lần, nàng ta đã một lần là hung thủ!

Trương Vô Kỵ khuyên:

– Thù Nhi ngoan, biểu muội thoát hiểm trở về, bọn này hết sức vui mừng. Biểu muội hãy ngồi xuống đây, thong thả kể cho bọn này nghe đầu đuôi câu chuyện biểu muội chết đi sống lại như thế nào.

Ân Ly nói:

– Cái gì mà “bọn này” với chẳng “bọn này”. Muội hỏi ca ca, hai chữ “bọn này” là gồm những ai vậy?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Ở đây chỉ có bốn người, dĩ nhiên là gồm có huynh, Chu cô nương và Triệu cô nương.

Ân Ly cười khẩy, nói:

– Hừ, muội không chết, chắc ca ca cũng có vài phần vui mừng thật sự, chứ còn Chu cô nương với Triệu cô nương, thử hỏi xem họ có mừng hay không?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Ân cô nương, hôm đó muội nổi tà tâm, làm hại tỷ tỷ, sau đó muội vô cùng hối hận, ngay trong giấc ngủ cũng chẳng yên ổn; nếu không thế, thì hôm nay đột nhiên gặp tỷ tỷ ở trong rừng, muội đã chẳng sợ hãi tới mức đó. Bây giờ thấy tỷ tỷ bình an không sao, đã miễn được tội nghiệt cho muội, thề có trời chứng giám, muội sung sướng vô ngần.

Ân Ly nghiêng đầu ngẫm nghĩ, rồi gật đầu, nói:

– Kể cũng có lý. Ta vốn định tìm Chu cô nương để hỏi tội, đã thế thì thôi, không chấp nữa.

Chu Chỉ Nhược quỳ xuống, nghẹn ngào nói:

– Muội… muội quả thật có tội với tỷ tỷ.

Ân Ly tính nết vốn cố chấp, giờ thấy Chu Chỉ Nhược chịu nhận tội, thì lập tức mềm lòng, vội đỡ nàng ta dậy, nói:

– Chu cô nương, chuyện đã qua rồi, thôi đừng ai để bụng nữa, dẫu sao thì ta vẫn còn sống.

Ân Ly kéo Chu Chỉ Nhược cùng ngồi xuống, rồi vuốt tóc, kể tiếp:

– Cô nương lấy kiếm rạch mấy nhát lên mặt ta, cũng không phải là không có cái hay. Mặt ta vốn sưng vù, nhờ rạch mấy nhát kiếm mà máu độc chảy ra hết, mặt dần dần khỏi sưng.

Chu Chỉ Nhược nghe thế thì trong lòng vui mừng hết chỗ nói.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Huynh với Chỉ Nhược và nghĩa phụ sau đó còn ở trên đảo rất lâu. Thù Nhi, biểu muội sau khi ở trong mộ chui ra, tại sao không đến gặp bọn ta?

Ân Ly tức giận đáp:

– Muội không muốn gặp huynh. Huynh với Chu cô nương lúc ấy cứ chàng chàng thiếp thiếp, nghe mà lộn cả ruột. Hừ! “Từ nay trở đi ta chỉ có yêu nàng hơn, chiều nàng hơn thôi! Hai vợ chồng mình là một, đời nào ta lại chọc giận nàng?”

Ân Ly bắt chước giọng của Trương Vô Kỵ nói mấy câu ấy, rồi lại bắt chước giọng của Chu Chỉ Nhược nói:

– “Nếu thiếp có lỡ làm sai điều gì, thì chàng có đánh thiếp, có mắng thiếp, có giết thiếp chăng? Thiếp từ nhỏ không có cha mẹ dạy bảo, không khỏi có lúc sai phạm”.

Ân Ly ho một tiếng, lại bắt chước giọng của nam giới, nói:

– “Chỉ Nhược, nàng là ái thê của ta, dù có sai sót gì, ta cũng sẽ không nặng lời với nàng”.

Rồi chỉ tay lên trời, nói:

– “Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta”.

Thì ra cái đêm Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược đính ước với nhau, nói với nhau những gì, đều bị Ân Ly nghe thấy cả, bây giờ đem kể lại, khiến Chu Chỉ Nhược mặt đỏ bừng, Trương Vô Kỵ cũng ngượng ngùng lúng túng. Chàng liếc trộm Triệu Mẫn, thấy Triệu Mẫn tức giận tái cả mặt, bèn đưa tay sang nắm cổ tay nàng. Triệu Mẫn lật bàn tay một cái, hai ngón tay để móng dài véo sâu vào tay chàng. Chàng đau điếng, nhưng không dám kêu, cũng không dám động đậy.

Ân Ly thò tay vào bọc, rút ra một thanh gỗ, vứt xuống trước mặt Trương Vô Kỵ, nói:

– Huynh nhìn cho rõ xem là cái gì?

Trương Vô Kỵ nhìn, thấy trên tấm gỗ có khắc hàng chữ “Ái thê Thù Nhi Ân Ly chi mộ. Trương Vô Kỵ cẩn lập”, chính là tấm bia gỗ chàng đã cắm trên mộ Ân Ly.

Ân Ly hậm hực nói:

– Khi muội từ trong mộ bò ra, thấy thanh gỗ này chẳng hiểu sao cả. Ô hay, cái gã Trương Vô Kỵ lang tâm đoản mệnh đã tới đây ư? Muội nghĩ mãi vẫn không tài nào hiểu nổi. Mãi sau nghe lén hai cô cậu trò chuyện với nhau, thấy Chu cô nương cứ luôn miệng “Vô Kỵ ca ca”, mới đại ngộ, hóa ra Trương Vô Kỵ chính là Tăng A Ngưu, còn Tăng A Ngưu chính là Trương Vô Kỵ. Huynh thật là kẻ không có lương tâm, lừa dối muội đến thế thì thôi!

Nói xong giơ thanh gỗ đánh mạnh xuống đầu

Trương Vô Kỵ, “cộp” một tiếng, thanh gỗ gãy thành mấy mảnh, văng tung tóe. Triệu Mẫn tức giận nói:

– Sao cứ động một tí lại đánh người ta thế?

Ân Ly cười khanh khách, nói:

– Ta đánh hắn thì đã sao nào? Cô nương đau lòng lắm à?

Triệu Mẫn đỏ mặt, nói:

– Đó là chàng nhường nhịn cô nương, cô nương đừng có mà lấn lướt.

Ân Ly cười, nói:

– Cái gì mà lấn lướt? Cô nương cứ yên tâm, ta không thèm tranh giành với cô nương cái gã xú bát quái này đâu. Ta chỉ một lòng một dạ yêu thương một người, là cái cậu Trương Vô Kỵ đã cắn chảy máu tay ta ở Hồ Điệp cốc. Còn cái gã xú bát quái trước mặt ta đây, gọi hắn là Tăng A Ngưu hay Trương Vô Kỵ thì cũng thế cả, ta chả thích hắn chút nào.

Nàng quay sang, nói nhỏ nhẹ với Trương Vô Kỵ:

– A Ngưu ca ca, ca ca đối với muội rất tử tế, muội thật là cảm kích. Nhưng lòng muội sớm đã trao cho cái gã tiểu tử Trương Vô Kỵ lang tâm hung ác nọ mất rồi. Ca ca không phải là người ấy, không, không phải người ấy…

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

– Chính huynh là Trương Vô Kỵ đây, sao lại… sao lại…

Ân Ly dịu dàng nhìn chàng, ngẩn ngơ một hồi, ánh mắt thay đổi khó hiểu, cuối cùng lập tức, nói:

– A Ngưu ca ca, ca ca không hiểu rồi. Ngày ấy ở sa mạc vùng Tây Vực, ca ca với muội đồng sinh cộng tử, ở hòn đảo nhỏ giữa biển cả, ca ca đối với muội nhân chí nghĩa tận. Ca ca là một người tốt. Nhưng như muội từng nói với ca ca, lòng muội đã sớm trao cho cái gã Trương Vô Kỵ nọ. Muội phải đi tìm y, ca ca bảo liệu y có còn đánh muội, chửi muội, cắn muội nữa hay không?

Nói rồi không đợi Trương Vô Kỵ trả lời, nàng quay mình, chậm rãi bỏ đi.

Trương Vô Kỵ chợt hiểu, người mà Ân Ly thực sự yêu thương là một Trương Vô Kỵ tưởng tượng trong lòng, là cậu bé Trương Vô Kỵ mà Ân Ly đã gặp ở Hồ Điệp cốc, kẻ từng cắn nàng, cái gã Trương Vô Kỵ ngang bướng hung dữ, chứ không phải anh chàng Trương Vô Kỵ đàng hoàng, nhân hậu, khoan dung, đã khôn lớn đang ở ngay trước mắt nàng.

Chàng nhìn theo bóng nàng chìm dần trong bóng đêm, lòng chàng có ba phần thương cảm, ba phần lưu luyến, lại thêm ba phần an ủi. Chàng biết suốt đời Ân Ly sẽ chỉ nhớ thương cậu bé hung dữ ở Hồ Điệp cốc, lúc nào nàng cũng chỉ muốn đi tìm cậu bé ấy. Đương nhiên Ân Ly sẽ không tìm thấy, song cũng có thể nói rằng nàng đã tìm thấy từ lâu, bởi cậu bé đó luôn luôn nằm trong đáy lòng nàng. Người thực việc thực thì làm sao tốt đẹp bằng bóng hình tưởng tượng trong tim?

Chu Chỉ Nhược thở dài, nói:

– Cũng tại lỗi của muội khiến cho Ân cô nương hóa thành dở dở ương ương như thế.

Trương Vô Kỵ thì nghĩ thầm: “Ân Ly quả là có phần dở dở ương ương, nhưng đó chính là lỗi của ta. Vậy mà những người đầu óc tỉnh táo chắc gì đã sung sướng hơn nàng?”

Triệu Mẫn thì nghĩ tới chuyện khác, Ân Ly đến rồi đi, còn Chu Chỉ Nhược thì sao? Ân Ly đã không chết, Tạ Tốn cũng bình an vô sự, võ công giấu trong kiếm Ỷ Thiên, binh thư cất trong thanh đao Đồ Long, luôn cả thanh đao, đều đã được giao cho Trương Vô Kỵ, thì các tội lỗi của Chu Chỉ Nhược xem ra cũng không đáng kể nữa. Dĩ nhiên vì nàng ta mà Tống Thanh Thư đã giết hại Mạc Thanh Cốc, nhưng đó là tội ác của Tống Thanh Thư, trước đó Chu Chỉ Nhược hoàn toàn không hay biết hoặc xúi bẩy gì. Trương Vô Kỵ từng có ước định hôn nhân với Chu Chỉ Nhược, mà chàng thì không phải hạng người bội tín tuyệt nghĩa.

Chu Chỉ Nhược đứng dậy, nói:

– Thôi mình đi chứ?

Triệu Mẫn hỏi:

– Đi đâu?

Chu Chỉ Nhược đáp:

– Vừa rồi ở trong chùa Thiếu Lâm, muội thấy Bành Oánh Ngọc hòa thượng lật đật đi tìm Vô Kỵ ca ca, hình như có việc gì khẩn cấp trong Minh giáo.

Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm: “Ta không thể vì chuyện nhi nữ thường tình mà bỏ lỡ đại sự của Minh giáo”, vội nói:

– Thế thì mình mau đi coi.

Ba người liền rảo bước, không bao lâu đã tới chỗ nghỉ đêm của giáo chúng Minh giáo.

Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Oánh Ngọc… đang sai người đi khắp nơi tìm giáo chủ, thấy chàng về, ai nấy vui mừng; song lại có hai nàng Triệu, Chu cùng đi, thì không khỏi kinh ngạc.

Trương Vô Kỵ nhìn vẻ mặt ủ rũ của mọi người, đoán có chuyện chẳng lành, bèn hỏi:

– Bành đại sư, đại sư tìm bản nhân có việc gì vậy?

Bành Oánh Ngọc chưa trả lời, thì Chu Chỉ Nhược liền khoác tay Triệu Mẫn, nói:

– Mình ra đằng kia ngồi chơi đi.

Triệu Mẫn biết ý nàng ta tránh không nghe chuyện bí mật của Minh giáo, nên hai người cùng sánh vai bước ra ngoài.

Bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc càng lấy làm lạ, nghĩ bụng: “Hôm làm lễ cưới ở thành Hào Châu, hai cô nương này đấu nhau chí chết, lúc này sao lại thân mật với nhau như tỷ muội; không biết giáo chủ làm cách nào giảng hòa hai người, đúng là người tài thì làm gì cũng giỏi. Cái môn xoay chuyển càn khôn này quả là đáng nể phục!”

Bành Oánh Ngọc đợi Triệu, Chu hai nàng ra ngoài rồi, mới nói:

– Khải bẩm giáo chủ, bên mình thua một trận lớn ở Hào Châu, Hàn Sơn Đồng Hàn huynh đã tuẫn nạn.

Trương Vô Kỵ đau đớn thốt lên:

– Trời ơi!

Bành Oánh Ngọc nói tiếp:

– Hiện nay việc quân ở vùng Hoài Tứ do Chu Nguyên Chương huynh đệ chỉ huy. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai vị huynh đệ nghe tin đó đã đem quân tới cứu viện, Hàn Lâm Nhi huynh đệ cũng đi theo. Việc khẩn cấp quá nên không kịp đợi lệnh của giáo chủ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Như thế là phải.

Đang bàn bạc việc quân, thì Ân Dã Vương hớt hải chạy vào, nói:

– Khải bẩm giáo chủ, Cái Bang cho người đến báo tin đã tìm ra tung tích của tên Trần Hữu Lượng.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Hắn ở đâu vậy?

Ân Dã Vương đáp:

– Tên khốn kiếp ấy trà trộn vào làm thuộc hạ của Từ Thọ Huy huynh đệ, nghe đâu Từ huynh đệ hết mực tin dùng hắn.

Trương Vô Kỵ ngẫm nghĩ, nói:

– Nếu thế, chúng ta không nên hành sự nóng vội. Thưa cữu cữu, phiền cữu cữu phái người thông tri cho Từ huynh, tên Trần Hữu Lượng là kẻ xảo quyệt nham hiểm, cho ở gần sẽ chuốc họa, nhất quyết đừng thân cận.

Ân Dã Vương vâng lệnh, nhưng lại nói thêm:

– Sao không giết quách hắn đi cho xong, việc ấy cứ giao cho ta là được.

Trương Vô Kỵ còn đang suy nghĩ, bỗng có giáo chúng mang đến một phong thư khẩn của Từ Thọ Huy. Dương Tiêu cau mày, nói:

– Hỏng rồi, hỏng rồi! Hắn đã đi trước một bước rồi.

Trương Vô Kỵ mở thư ra xem, thì ra là tờ bẩm cáo của Từ Thọ Huy, rằng Trần Hữu Lượng trước đây đắc tội với giáo chủ, tự biết tội nặng, hối hận vô cùng, nay thành tâm gia nhập bản giáo, quyết lập công chuộc tội, xin giáo chủ cho y một con đường sống. Trương Vô Kỵ bèn đưa thư cho Dương Tiêu, Ân Dã Vương cả bọn cùng coi. Ân Dã Vương nói:

– Từ huynh đệ bị hắn lừa dối, sau này thể nào cũng có họa.

Dương Tiêu thở dài, nói:

– Trần Hữu Lượng quả là nham hiểm, nhưng nếu chúng ta giết hắn, không khỏi bị người ta cho là hẹp hòi, để bụng thù oán cũ, không có lượng bao dung, khiến anh hùng thiên hạ e ngại.

Trương Vô Kỵ nói:

– Dương tả sứ nói rất đúng. Bành đại sư, đại sư thân với Từ huynh, nhờ đại sư đi khuyên Từ huynh hãy cẩn thận đề phòng, nhất thiết không giao đại quyền binh mã cho Trần Hữu Lượng.

Bành Oánh Ngọc vâng lệnh. Ngờ đâu Từ Thọ Huy không nghe lời khuyên, cứ tin dùng hắn, cuối cùng chết bởi tay hắn. Trần Hữu Lượng thống lĩnh nghĩa quân Tây lộ của Minh giáo, tự xưng Hán vương, tranh đoạt thiên hạ với nghĩa quân Đông lộ, cho đến trận đại chiến hồ Phàn Dương, hắn mới thua trận bỏ mạng. Trong mấy chục năm gây chuyện binh đao, hắn đã gây thương vong nặng nề cho hào kiệt Minh giáo.

Đêm đó, Trương Vô Kỵ cùng bọn Dương Tiêu, Bành Oánh Ngọc bàn tính việc phân phái lực lượng đi tiếp ứng cho các lộ nghĩa quân. Bàn xong thì đã khuya. Sáng hôm sau, Triệu Mẫn nói:

– Chu tỷ tỷ đêm qua đã ra đi, nói không kịp từ biệt chàng.

Trương Vô Kỵ bồi hồi, nghĩ đã lâu chưa về thăm Trương Tam Phong, nhớ thái sư phụ quá chừng, bèn dẫn Triệu Mẫn, Tống Thanh Thư đi cùng Du Liên Châu, Ân Lê Đình… về núi Võ Đang.

*

*      *

Núi Võ Đang không xa núi Thiếu Thất, chỉ vài ngày là đến. Trương Vô Kỵ theo Du Liên Châu, Trương Tòng Khê, Ân Lê Đình vào bái kiến Trương Tam Phong, rồi qua thăm Tống Viễn Kiều và Du Đại Nham.

Tống Viễn Kiều nghe nói con trai đang ở bên ngoài, thì đanh mặt lại, cầm trường kiếm chạy ra. Bọn Trương Vô Kỵ biết có khuyên cũng vô ích, nhưng vẫn phải khuyên, nên cùng theo ra đại điện. Trương Tam Phong cũng ra theo.

Tống Viễn Kiều quát lớn:

– Tên súc sinh bất hiếu phản nghịch đâu rồi?

Ông thấy Tống Thanh Thư nằm trên cáng, đầu quấn băng trắng, che kín cả mắt, liền giơ kiếm đâm luôn vào người hắn, nhưng mũi kiếm chưa đến người hắn thì cánh tay bủn rủn, không đâm nổi. Trong giây lát, nghĩ đến tình phụ tử, nghĩa đồng môn, lòng ngổn ngang trăm mối, ông xoay ngược mũi kiếm đâm vào bụng mình.

Trương Vô Kỵ vội giơ tay giằng lấy thanh kiếm, nói:

– Đại sư bá, xin đừng làm thế. Việc này xử lý ra sao, mong được thái sư phụ chỉ bảo.

Trương Tam Phong thở dài, nói:

– Phái Võ Đang chúng ta chẳng may nảy nòi ra một tên đệ tử không ra gì; Viễn Kiều, đó cũng không phải là nỗi bất hạnh của riêng con; tên nghịch tử này có cũng như không!

Trương lão vung tay phải, nghe bộp một tiếng, đánh ngay vào ngực Tống Thanh Thư.

Tạng phủ của hắn vỡ nát, hắn tắt thở tức thì.

Tống Viễn Kiều quỳ xuống, khóc nói:

– Sư phụ, đệ tử không biết dạy con, để thất đệ phải bỏ mạng dưới tay hắn. Đệ tử thật có lỗi với sư phụ và thất đệ.

Trương Tam Phong đỡ ông dậy, nói:

– Việc này con quả có sai lầm, chức chưởng môn bản phái từ hôm nay sẽ do Liên Châu tiếp nhiệm. Con hãy chuyên tâm nghiên cứu “Thái cực quyền pháp”, còn tục vụ chưởng môn khỏi cần bận tâm.

Tống Viễn Kiều bái tạ phụng mệnh.

Du Liên Châu từ chối không nhận, nhưng Trương Tam Phong cương quyết trao phó, nên đành bái lĩnh.

Mọi người thấy Trương Tam Phong đánh chết Tống Thanh Thư, cách chức Tống Viễn Kiều, môn quy rất nghiêm, thì ai cũng nơm nớp lo sợ. Trương Tam Phong quay sang hỏi về đại hội quần hùng và tình hình nghĩa quân kháng Nguyên, đối với Trương Vô Kỵ tỏ ra hết sức ân cần.

Triệu Mẫn quỳ xuống khấu đầu với Trương Tam Phong, tạ tội năm trước vô lễ. Trương Tam Phong cười khà khà, bảo không để bụng. Du Đại Nham tàn phế, Trương Thúy Sơn bỏ mình, đều là do thủ hạ cũ của nàng là A Đại, A Nhị, nhưng hồi ấy nàng còn chưa ra đời, không phải là tội của nàng. Trương Tam Phong thấy nàng tình nguyện bỏ cha, anh nàng đi theo Trương Vô Kỵ, thì cười nói:

– Hay lắm, hay lắm! Thật khó lắm thay!

*

*      *

Trương Vô Kỵ ở chơi trên núi Võ Đang mấy ngày, rồi cùng Triệu Mẫn đi Hào Châu.

Dọc đường chàng liên tiếp nhận được tin thắng trận của bản giáo, lại nghe đâu đâu cũng nổi lên khởi nghĩa. Cô Tô có Trương Sĩ Thành, Đài Châu có Phương Quốc Trân, tuy không thuộc Minh giáo, nhưng đều là lực lượng kháng Nguyên. Trương Vô Kỵ cả mừng, cùng Triệu Mẫn cưỡi ngựa đi mãi về hướng đông. Nhìn giang sơn sắp được phục hồi, chỉ mong thiên hạ chóng thái bình, trăm họ được an cư lạc nghiệp, không uổng mấy năm nay vào sinh ra tử, lo lắng ngược xuôi.

Chàng không muốn làm kinh động mọi người, nên dọc đường không gặp gỡ các tướng lĩnh nghĩa quân, chỉ lẳng lặng quan sát, thấy quân kỷ của nghĩa quân nghiêm minh, không hề quấy nhiễu trăm họ, đâu đâu cũng nghe ca tụng nguyên soái Chu Nguyên Chương và đại tướng Từ Đạt.

Hôm ấy chàng tới bên ngoài thành Hào Châu. Chu Nguyên Chương hay tin, liền sai Thang Hòa, Đặng Dũ hai tướng dẫn quân ra nghênh đón, mời vào tân quán[141]. Thang Hòa bẩm:

– Chu nguyên soái, Từ đại tướng quân và Thường tướng quân đang thương nghị quân tình khẩn cấp, được tin giáo chủ tới, thật mừng quá đỗi. Ngặt nỗi quân vụ cần kíp, không tự ra đón, xin giáo chủ tha cho tội bất kính.

Trương Vô Kỵ cười nói:

– Chúng ta huynh đệ với nhau cả, hà tất phải lo chuyện đưa đón khách sáo.

Tối hôm ấy ở tân quán bày đại tiệc, hai tướng Thang Hòa, Đặng Dũ ngồi tiếp. Rượu được ba tuần, thấy Chu Nguyên Chương cùng đại tướng Hoa Vân vội vã tới, quỳ xuống trước bàn tiệc. Trương Vô Kỵ vội đỡ dậy. Chu Nguyên Chương tự mình rót rượu, cung kính mời Trương Vô Kỵ uống đủ ba chén, chén nào chàng cũng uống cạn.

Chu Nguyên Chương lại mời Triệu Mẫn, Triệu Mẫn cũng uống cạn.

Trên bàn tiệc, nói chuyện quân tình các nơi, Chu Nguyên Chương bẩm cáo, tô vẽ các chiến tích đánh thành chiếm đất, lời lẽ rất đắc ý. Trương Vô Kỵ hết sức khen ngợi.

Còn đang trò chuyện, thì đại tướng Liêu Vĩnh Trung hiên ngang bước vào sảnh, bái kiến giáo chủ, rồi ghé tai nói nhỏ với Chu Nguyên Chương:

– Bắt được rồi!

Chu Nguyên Chương nói:

– Hay lắm!

Bỗng nghe ngoài cổng có tiếng kêu to:

– Oan ta quá! Oan cho ta quá!

Trương Vô Kỵ nghe tiếng người kêu oan chính là Hàn Lâm Nhi, kinh ngạc hỏi:

– Có phải Hàn huynh đệ chăng? Chuyện gì vậy?

Chu Nguyên Chương nói:

– Khải bẩm giáo chủ, tên Hàn Lâm Nhi câu kết với bọn Thát tử, mưu đồ làm nội ứng, phản lại bản giáo.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nói:

– Hàn huynh đệ nhân nghĩa trung thành, làm sao có chuyện đó được? Mau dẫn y vào đây, để ta hỏi…

Lời chưa dứt, bỗng hoa mắt, trời đất tối sầm, ngất đi không biết gì nữa.

Khi tỉnh lại, Trương Vô Kỵ thấy chân tay bị dây thừng trói chặt, nhìn quanh tối như mực, kinh hãi không để đâu cho hết. Rất may chàng thấy có một thân hình mềm mại tựa vào ngực mình, thì ra Triệu Mẫn và chàng bị trói vào với nhau, nhưng nàng chưa tỉnh. Ngẫm nghĩ một chút, biết ngay Chu Nguyên Chương có tà tâm, chắc y nghĩ rằng sau này Minh giáo thành công, Trương Vô Kỵ dĩ nhiên sẽ làm hoàng đế; nên hắn đã bỏ thuốc mê cực mạnh vào rượu, toan ám hại chàng. Trương Vô Kỵ thử vận khí, cảm thấy trong cơ thể không có gì lạ, công lực không mất, thì cười thầm: “Mấy sợi dây này trói sao nổi ta kia chứ! Lúc này Triệu Mẫn chưa tỉnh, chả cần đi vội. Đợi đến sáng, ta sẽ nói rõ mưu gian của y cho giáo chúng biết”. Nghĩ vậy, chàng liền lặng lẽ dưỡng thần.

Hơn một canh giờ sau, bỗng nghe có tiếng mấy người đi vào phòng bên cạnh, nói chuyện với nhau. Nghe giọng, là Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân ba người.

Chàng thấy Chu Nguyên Chương nói:

– Người này phản bội bản giáo, đầu hàng Nguyên triều, chứng cứ rành rành, khiến mọi người đau lòng vô cùng. Hai vị huynh đệ nghĩ xem phải làm thế nào?

Không chờ Từ, Thường trả lời, Chu Nguyên Chương nói tiếp:

– Người này tai mắt nhiều lắm, trong quân chỗ nào cũng có kẻ tâm phúc của y, chúng ta chớ nhắc đến tên y.

Từ Đạt nói:

– Chu đại ca, muốn thành đại sự, đừng câu nệ tiểu tiết, phải nhổ cỏ tận rễ, khỏi sinh hậu họa.

Chu Nguyên Chương nói:

– Nhưng tên tiểu tặc này lại là thủ lĩnh của chúng ta, chúng ta không thể vong ân bội nghĩa, cơ nghiệp này suy cho cùng có thể nói là của y.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Đại ca sợ giết y trong quân sinh biến, thì chúng ta cứ lẳng lặng ra tay, khỏi mang tiếng cho đại ca.

Chu Nguyên Chương ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Hai vị huynh đệ đã nói vậy, thì cứ thế mà làm. Có điều là bình thời tên tiểu tặc này có ân đức với giáo chúng bản giáo, hai vị huynh đệ lại vốn thân thiết với y, việc này nhất thiết chớ để lộ ra ngoài. Ôi hôm nay chúng ta phải giết y, trong lòng đau đớn vô cùng.

Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân cùng nói:

– Vì đại nghiệp phục quốc, chuyện giao thiệp bằng hữu riêng tư phải gác bỏ.

Ba người nói xong, đi ra khỏi phòng.

Trương Vô Kỵ hít một hơi, vận thần công lên làm đứt tung dây trói, ôm Triệu Mẫn lẳng lặng vượt tường bỏ đi. Chàng đứng trên bờ tường, bất giác lòng ngổn ngang trăm mối: “Chu Nguyên Chương vong ân bội nghĩa đã đành. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân hai vị đại ca có giao tình với ta như thế, thế mà chỉ vì một chút phú quý cũng đang tâm phản ta. Ba người ấy đang giữ trọng nhiệm trong nghĩa quân, nếu ta giáng cho vài chưởng giết họ, chỉ e nghĩa quân sẽ tan vỡ. Trương Vô Kỵ ta vốn không ham danh lợi, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, hai vị coi thường ta quá đó”.

Chàng ngẫm nghĩ một lát, rồi ôm Triệu Mẫn lặng lẽ bỏ đi.

Ra khỏi thành rồi, chàng viết một phong thư, nhường chức vị giáo chủ lại cho Dương Tiêu, không đề cập chút gì đến chuyện mình gặp phải trong thành Hào Châu.

*

*      *

Trương Vô Kỵ đâu có biết rằng, “tên tiểu tặc” mà Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân nói đến là chỉ Hàn Lâm Nhi; còn việc Trương Vô Kỵ đến Hào Châu, hai người ấy hoàn toàn không biết; mọi trò đều do Chu Nguyên Chương ngầm sắp đặt, cốt làm cho Trương Vô Kỵ chán chường, thất vọng mà tự bỏ đi. Chu Nguyên Chương một là vốn lo sợ thần dũng của Trương Vô Kỵ, hai nữa chàng là giáo chủ bản giáo, người người kính phục, không dám giết chàng, thành sự thì không sao, vạn nhất vỡ lở, thì hậu quả khôn lường. Y biết Trương Vô Kỵ là người coi trọng đại sự phục quốc, đối với Từ, Thường hai người tình như huynh đệ, chỉ cần để cho chàng nghe thấy câu chuyện kia là chàng sẽ bỏ đi. Quả nhiên mọi việc diễn ra đúng như y dự liệu. Trương Vô Kỵ võ công vô địch thời nay, nhưng mưu kế biến hóa thì thua xa Chu Nguyên Chương, thành thử xuất hiện mắc mưu gian của kẻ đại gian hùng. Trương Vô Kỵ tuy chưa hề mơ tưởng làm hoàng đế, nhưng từ đó mỗi lần nghĩ đến sự vong ân bội nghĩa của Từ, Thường hai người, thì trong lòng lại uất ức khôn nguôi.

Còn chuyện Hàn Lâm Nhi câu kết với bọn Thát tử, mưu đồ phản bội Minh giáo vân vân thì cũng là do Chu Nguyên Chương vu hãm cả. Sau khi Hàn Sơn Đồng tuẫn nạn, trong quân tôn Hàn Lâm Nhi lên làm chủ. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Chu Nguyên Chương cả ba người đều trở thành thuộc hạ của Hàn Lâm Nhi. Chu Nguyên Chương bèn ngụy tạo một lá thư do Hàn Lâm Nhi viết thông đồng với địch, đem tiền bạc mua chuộc người tâm phúc của Hàn Lâm Nhi mang bức thư giả đó bí mật tố cáo với Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân. Từ, Thường hai người tin ngay, chẳng hề nghi ngờ, đòi giết. Chu Nguyên Chương còn giả bộ nhân nghĩa, nhất định không chịu, chờ Từ, Thường hai người đòi giết bằng được, mới chấp nhận.

Y đem Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nhốt ở buồng bên cạnh, thừa biết với võ công như chàng, việc bứt đứt sợi dây trói thật dễ như trở bàn tay; y lại sợ khi chàng thoát ra sẽ tìm y trả thù, nên nói chuyện với Từ, Thường hai người rồi, y lập tức trốn biệt. Trương Vô Kỵ bỏ đi rồi, Chu Nguyên Chương liền sai Liêu Vĩnh Trung đem Hàn Lâm Nhi ra sông dìm chết; cái kế một mũi tên nhắm trúng hai đích ấy không lộ chút sơ hở nào.

Sau đó Dương Tiêu tuy kế nhiệm chức giáo chủ Minh giáo, nhưng Chu Nguyên Chương đã đủ lông đủ cánh, thống lĩnh trăm vạn quân; Dương Tiêu lại tuổi già đức bạc, không sao có thể tranh ngôi hoàng đế với y. Chu Nguyên Chương lên ngôi, lại trở mặt nghiêm cấm Minh giáo, đem giết sạch những huynh đệ trong Minh giáo từng lập đại công. Thường Ngộ Xuân bị bệnh chết sớm, Từ Đạt cuối cùng cũng không thoát nạn.

*

*      *

Triệu Mẫn thấy Trương Vô Kỵ viết thư cho Dương Tiêu xong, cây bút lông trong tay còn chưa đặt xuống, vẻ mặt rất không vui, bèn nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng nhận lời làm cho muội ba việc, một là mượn hộ thanh đao Đồ Long, hai là hôm đó ở thành Hào Châu không thành hôn với Chu tỷ tỷ, hai việc ấy chàng làm xong rồi. Còn việc thứ ba, chàng không thể nói rồi lại nuốt lời đâu đấy. Trương Vô Kỵ kinh ngạc, ấp úng nói:

– Nàng… nàng… nàng lại có cái trò tinh quái gì đòi ta phải làm đây?…

Triệu Mẫn tủm tỉm cười, nói:

– Lông mày của muội nhạt quá, chàng vẽ hộ muội đi nào. Việc này chắc không trái với đạo hiệp nghĩa của võ lâm chứ?

Trương Vô Kỵ cầm bút, cười đáp:

– Từ rày trở đi, ta sẽ ngày ngày vẽ lông mày cho nàng.

Bỗng bên ngoài cửa sổ có tiếng ai đó cười khúc khích, nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng cũng đã nhận lời làm cho muội một việc nữa đấy.

Chính là tiếng nói của Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ chăm chú viết thư, không biết nàng đã tới bên song từ bao giờ.

Cánh cửa từ từ mở ra, khuôn mặt xinh xắn tươi cười của Chu Chỉ Nhược thấp thoáng dưới ánh nến. Trương Vô Kỵ giật mình, nói:

– Muội… muội cũng đòi ta làm việc gì đây?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười:

– Hiện thời muội còn chưa nghĩ ra. Không chừng đến hôm chàng bái đường thành thân với Triệu cô nương, muội lại nghĩ ra cũng nên.

Trương Vô Kỵ ngoảnh nhìn Triệu Mẫn, rồi lại quay sang nhìn Chu Chỉ Nhược, lòng ngổn ngang trăm mối, cũng không biết nên mừng hay lo, buông rơi cây bút xuống bàn.

Viết thêm

“Ỷ Thiên Đồ Long ký” là bộ thứ ba trong bộ sách “Xạ điêu”.

Nhân vật nam chủ chốt trong ba bộ sách này có tính cách hoàn toàn khác nhau. Quách Tĩnh thành thực chất phác, Dương Quá phóng đãng sâu sắc, cá tính của Trương Vô Kỵ tương đối phức tạp, cũng khá mềm yếu. Trương Vô Kỵ thiếu chút khí khái anh hùng, trong cá tính cố nhiên có nhiều ưu điểm, song cũng có nhiều khuyết điểm; có lẽ giống với mọi con người bình thường. Dương Quá có tính chủ động tuyệt đối. Quách Tĩnh về chuyện lớn thì rất chủ động, còn trong mọi chuyện nhỏ thì phải chờ Hoàng Dung thúc giục. Còn Trương Vô Kỵ suốt đời chịu ảnh hưởng của người khác, bị hoàn cảnh chi phối, không cách gì thoát khỏi sự ràng buộc. Trong ái tình, Dương Quá vùi đầu say mê Tiểu Long Nữ, bất chấp mọi quy phạm của xã hội; Quách Tĩnh thì dao động ngả nghiêng giữa Hoàng Dung với Hoa Tranh công chúa, đơn thuần xuất phát từ giá trị đạo đức. Trương Vô Kỵ thì trước sau dùng dằng không dứt khoát, đối với bốn cô nương Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly và Tiểu Chiêu, dường như chàng yêu Triệu Mẫn sâu sắc hơn cả, cuối cùng cũng nói với Chu Chỉ Nhược như thế, nhưng trong đáy lòng, rốt cuộc chàng yêu cô nào hơn, chỉ e chính chàng cũng không biết. Tác giả cũng không biết; đã miêu tả cá tính của chàng ta như vậy, thì toàn bộ sự phát triển phải do tính cách mà định, chứ tác giả cũng không thể can thiệp.

Người như Trương Vô Kỵ, dù võ công cao đến mấy, cuối cùng cũng không thể trở thành lãnh tụ lớn về chính trị. Đương nhiên, chàng ta căn bản không muốn làm, nếu miễn cưỡng phải làm, thì cuối cùng cũng nhất định thất bại. Lịch sử chính trị ba ngàn năm của Trung Quốc sớm đã đưa ra kết luận minh xác rồi. Một lãnh tụ chính trị thành công ở Trung Quốc, thì điều kiện thứ nhất là “nhẫn nhịn”, bao gồm nhẫn nhịn kiềm chế bản thân, nhẫn nhịn khoan dung người khác, cùng sự tàn nhẫn đối phó chính trị. Điều kiện thứ hai là “quyết đoán rõ ràng”; điều kiện thứ ba là ham muốn quyền lực cực mạnh. Trương Vô Kỵ không hề có các điều kiện ấy. Chu Chỉ Nhược và Triệu Mẫn đều có tài năng chính trị, cho nên hai cô gái ấy tuy xinh đẹp, song không khả ái.

Trong trái tim tôi, tôi thích nhất Tiểu Chiêu. Chỉ tiếc là không thể để cho nàng sống cùng Trương Vô Kỵ, nghĩ thật đáng buồn.

Bởi thế trong bộ sách này, chuyện tình yêu thời trước không được thật đẹp, tuy rằng trong thực tế có thể khá hơn chút ít.

Trương Vô Kỵ không phải là một lãnh tụ giỏi, nhưng có thể là người bạn tốt của chúng ta. Thực ra, trọng điểm tình cảm của bộ sách này không phải là chuyện tình yêu nam nữ, mà là tình nghĩa giữa nam giới với nhau, tình cảm giữa Võ Đang thất hiệp, tình cảm của Trương Tam Phong đối với Trương Thúy Sơn, của Tạ Tốn đối với người con nuôi là Trương Vô Kỵ.

Thế nhưng, nỗi đau đớn của Trương Tam Phong khi thấy Trương Thúy Sơn tự vẫn, của Tạ Tốn khi nghe tin Trương Vô Kỵ bị chết, trong sách được miêu tả quá hời hợt, trong cuộc sống thực tế không phải như vậy.

Đó là vì hồi viết sách, tôi còn chưa hiểu rõ.

KIM DUNG

Tháng 3 năm 1977