Hồi 12: Khu trừ âm độc ngấm vào cao hoang

Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ liền thấy mạch đập rất lạ, bất giác kinh hãi vội ngưng thần nghe kỹ, nghĩ thầm: “Chất độc hàn thằng bé bị trúng thật cổ quái, không lẽ là bởi Huyền Minh thần chưởng? Chưởng pháp ấy thất truyền đã lâu, trên đời này làm gì có ai biết sử dụng?” Lại nghĩ: “Nếu không phải Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác vào đây cả. Thằng bé trúng độc đã lâu mà vẫn chưa chết, kể cũng lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng công lực thâm hậu của mình giúp nó sống lay lắt, bây giờ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, bám chắc trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu được thôi”.

Nghĩ vậy, Hồ Thanh Ngưu đặt Trương Vô Kỵ nằm trên ghế. Một lúc sau, Trương Vô Kỵ dần dần tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò sắc thuốc mà suy nghĩ xuất thần; Thường Ngộ Xuân vẫn nằm trên đám cỏ trước cửa, ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai lên tiếng.

Hồ Thanh Ngưu suốt đời say mê y thuật, nhiều chứng bệnh ngỡ là bó tay nhưng đến Hồ Thanh Ngưu đều được chữa khỏi, nên ông ta mới được tôn là Y Tiên. Chữa bệnh mà đạt tới chữ “Tiên”, tức là tuyệt kỹ thần kỳ lắm. Nhưng chất hàn độc của Huyền Minh thần chưởng thì cả đời Hồ Thanh Ngưu chưa gặp lần nào, mà trường hợp này trúng độc rồi lại dây dưa mấy năm chưa chết, để ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, thì lại càng chưa từng thấy. Hồ Thanh Ngưu vốn dĩ quyết không chữa trị cho Trương Vô Kỵ, nhưng gặp được chứng bệnh quái dị khó thấy trong đời này thì có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi thấy mùi thịt nướng, làm sao có thể bỏ qua?

Nghĩ ngợi hồi lâu, cuối cùng Hồ Thanh Ngưu tìm ra một cách hay: “Ta cứ chữa cho nó khỏi cái đã, sau sẽ giết nó đi”.

Thế nhưng khu trừ chất âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng Trương Vô Kỵ thật phải chẳng dễ. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ hơn hai canh giờ rồi lấy ra mười hai miếng đồng mỏng mảnh, vận lực cắm vào các huyệt như huyệt Trung Cực ở bên dưới đan điền, huyệt Thiên Đột ở dưới cổ, huyệt Kiên Tỉnh ở vai, tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là nơi giao hội của kinh Túc Tam Âm và mạch Nhâm; huyệt Thiên Đột là nơi giao hội của hai mạch Âm Duy và mạch Nhâm; huyệt Kiên Tỉnh là nơi giao hội của các kinh Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, mạch Dương Duy. Mười hai miếng đồng cắm xong, thì thập nhị kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch trong cơ thể Trương Vô Kỵ đã được gián cách với nhau.

Trong cơ thể con người: tâm, phế, tì, can, thận gọi là ngũ tạng, cộng với tâm bào là sáu thứ thuộc âm. Vị, đại tràng, tiểu tràng, đởm, bàng quang, tam tiêu gọi là lục phủ – sáu thứ này thuộc dương. Lục phủ ngũ tạng cộng với tâm bào thành thập nhị kinh thường mạch. Còn tám mạch: Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều, không thuộc âm dương chính kinh, không phối hợp biểu lý, đi theo các đường riêng, được gọi là kỳ kinh bát mạch.

Sau khi đã gián cách thường mạch và kỳ kinh trên cơ thể Trương Vô Kỵ làm cho chất âm độc trong lục phủ ngũ tạng không còn thông với nhau nữa, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ nóng, gọi là Vân Môn, Trung Phủ ở vai, tiếp đến các huyệt từ cánh tay xuống ngón cái như Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương mười một huyệt này thuộc “Thủ thái âm phế kinh” nhằm tiêu giảm chất âm độc trong phổi của Trương Vô Kỵ. Cách này lấy nhiệt công hàn, nỗi đau đớn mà Trương Vô Kỵ phải chịu đựng cũng chẳng khác gì lúc chất âm độc phát tác. Cứu xong “Thủ thái âm phế kinh”, Hồ Thanh Ngưu cứu tiếp “Túc dương minh vị kinh”, “Thủ quyết âm tâm bào kinh”…

Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng buồn để ý tới việc Trương Vô Kỵ có đau hay không, cứ dùng ngải cứu tới mức chỗ nào trên cơ thể Trương Vô Kỵ cũng đen sì. Trương Vô Kỵ thì cố không tỏ ra hèn yếu, nghĩ thầm: “Người tưởng ta rên rỉ, ta sẽ không rên một tiếng”. Cậu bé cứ cười nói như không, đàm luận với Hồ Thanh Ngưu về bộ vị của kinh mạch huyệt đạo. Trương Vô Kỵ tuy không biết y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn từng truyền thụ cho cậu phép điểm huyệt, giải huyệt, thuật chuyển di huyệt đạo nên vị trí các huyệt đạo, cậu nắm rất vững. Kiến thức của Trương Vô Kỵ về huyệt đạo so với vị đương thế thần y này dĩ nhiên là thô thiển, nhưng lại liên quan đến y lý là môn mà Hồ Thanh Ngưu cực kỳ tâm đắc. Thế là Hồ Thanh Ngưu vừa cứu ngải, vừa giảng giải thao thao bất tuyệt.

Trương Vô Kỵ nghe mười chỉ hiểu được một, nhưng để tỏ ra là “phái Võ Đang ta cũng am hiểu”, chốc chốc cậu lại bình phẩm chen vào một câu hoặc tranh biện vài lời. Hồ Thanh Ngưu cố giảng giải ngắn gọn, đến khi nhận ra “thằng nhãi này thật ra chẳng biết gì hết, chỉ nói lăng nhăng” thì cũng đã tốn bao nhiêu là nước bọt. Tuy nhiên, ở chốn thâm sơn cùng cốc này, trừ vài đứa tiểu đồng sắc thuốc, nấu cơm, Hồ Thanh Ngưu đâu có ai làm bạn, hôm nay có thằng bé này đến nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thú.

Đợi cứu xong mấy trăm huyệt trên Thập nhị kinh thường mạch thì trời đã sẩm tối. Tiểu đồng dọn cơm ra bàn, lại bưng một mâm cơm rau dưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài, Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu xin Hồ Thanh Ngưu. Lúc đi ngủ, cậu ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng nằm trên bãi cỏ để tỏ ý hoạn nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả bộ không nhìn thấy, nhưng trong bụng nghĩ thầm: “Thằng bé này quả khác hẳn những đứa trẻ khác”.

Sáng hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại tốn nửa ngày để cứu các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Trương Vô Kỵ. Thập nhị kinh thường mạch giống như các dòng sông chảy không ngừng nghỉ, còn kỳ kinh bát mạch lại giống như hồ như biển, súc tích tàng trữ; thành thử việc khu trừ âm độc trong kỳ kinh bát mạch còn khó hơn nhiều. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng cách lấy độc trị độc. Trương Vô Kỵ uống xong thang thuốc đó rét run cầm cập nửa ngày, nhưng sau đó tinh thần khỏe khoắn hẳn lên.

Buổi chiều, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích, chọc tức để Hồ Thanh Ngưu chữa bệnh cho Thường Ngộ Xuân, nhưng y chẳng thèm lý đến, chỉ lạnh lùng nói:

– Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh bất phó thực. Chữ “Tiên” đâu dễ xưng bừa. Người ta gọi ta là Kiến Tử Bất Cứu, ta lại thích hơn.

Lúc này Hồ Thanh Ngưu đang châm huyệt Ngũ Khu ở giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt này là nơi giao hội giữa kinh Túc Thiếu Dương và mạch Đới, bên cạnh thủy đạo cách một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:

– Mạch Đới trên cơ thể con người là kỳ quái nhất. Hồ tiên sinh biết không, có một số người không có mạch Đới.

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:

– Đừng nói bậy! Không có mạch Đới sao được?

Trương Vô Kỵ vốn chỉ quen miệng nói lăng nhăng, lại tiếp:

– Thiên hạ rộng lớn chuyện gì cũng có, huống hồ mạch Đới cháu thấy chẳng có tác dụng gì lắm.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Mạch Đới khá kỳ diệu, bảo nó kém tác dụng là sai. Các y sư tầm thường không hiểu sự kỳ diệu bên trong, châm cứu cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết cuốn Đới mạch luận, ngươi lấy ra đọc thì biết.

Đoạn Hồ Thanh Ngưu vào gian trong lấy ra một cuốn sách mỏng, giấy đã vàng, đưa cho Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết: “Thập nhị kinh và kỳ kinh bát mạch đều đều lưu chuyển lên xuống. Riêng mạch Đới bắt đầu từ bụng dưới, phía dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng, như cái đai thắt lưng. Ba mạch Xung, Nhâm, Đốc cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng nối với mạch Đới…”

Tiếp đó bình thuật các sai lầm trong y thư cổ kim. Sách Thập tứ kinh phát huy nói mạch Đới chỉ có bốn huyệt. Sách Châm cứu đại thành nói mạch Đới có sáu huyệt; thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt khi ẩn khi hiện, lúc có lúc không, rất khó nhận biết. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không hiểu tinh túy bên trong nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức bất phàm, bèn đem những chỗ Hồ Thanh Ngưu phê bình tiền nhân ra thỉnh giáo.

Hồ Thanh Ngưu thích thú, vừa châm vừa giải thích, khi đã dùng kim vàng châm đủ mười huyệt trên mạch Đới, ông ta mới ngồi nghỉ một lát, nói:

– Ta còn có một bộ Tý ngọ châm cứu kinh ghi tất cả những điều tâm huyết của ta.

Đoạn vào gian trong mang ra bộ y thư gồm mười hai quyển viết tay.

Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này chưa biết gì về y lý, nhưng ông ta ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy quá tịch mịch. Những kẻ trước đây tới cầu chữa bệnh tuy rất đông, song ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời nói ấy hai chục năm nay nghe đã chán ngấy từ lâu. Thực ra điều làm cho ông ta thấy hãnh diện với người đời không phải là y thuật tinh tường, mà là ông đã có rất nhiều phát hiện về y học mà tiền nhân chưa tìm biết. Hồ Thanh Ngưu tự biết những thành tựu đó rất lớn lao, song chỉ có thể một mình thưởng thức, không khỏi tịch mịch. Bây giờ gặp cậu bé thích đọc trước tác của mình, ông ta lờ mờ cảm thấy có người tri kỷ nên đem bộ sách đắc ý ra khoe.

Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang đều chi chít những chữ nhỏ bằng con ruồi, viết theo lối chữ tiểu khải; bộ vị huyệt đạo, phân lượng thuốc men, thời khắc và độ nông sâu của mũi châm, cái gì cũng ghi chú rõ ràng. Cậu bé chợt nghĩ: “Mình phải để ý xem có đoạn nào nói về cách chữa trị cho Thường đại ca hay không?” Giở đến quyển thứ chín nhan đề Chương Võ học, trong đó mục Chưởng thương trị pháp, thấy có Hồng sa chưởng, Thiết sa chưởng, Độc sa chưởng, Miên chưởng, Khai sơn chưởng, Phá bi chưởng… các triệu chứng thương tích do các thứ chưởng lực gây nên, cách cấp cứu, cách điều trị, tất cả đều được ghi tỉ mỉ. Đọc hết một trăm tám mươi loại chưởng lực, quả nhiên mới thấy “Tiệt tâm chưởng”.

Trương Vô Kỵ cả mừng, lập tức chăm chú đọc kỹ một lượt. Trong sách miêu tả kỹ càng về Tiệt tâm chưởng, nhưng về cách chữa trị lại nói quá sơ lược, rằng “cần châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì; tùy theo sự biến đổi của âm dương ngũ hành, căn cứ ngũ hậu hàn, thử, táo, thấp, phong; tùy ngũ tình hỷ, nộ, ưu, tư, khủng của người bệnh mà bốc thuốc”.

Nên biết y đạo Trung Hoa biến hóa đa đoan, không quy định cứng nhắc; cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải căn cứ trời nóng lạnh, ngày đêm, đầy vơi, trước sau, động tĩnh, trong ngoài, nam nữ, lớn bé… tùy từng trường hợp mà đưa ra cách chữa trị, thay đổi thế nào là tùy thầy thuốc chứ ít có quy định sẵn. Bởi vậy, thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Sự vi diệu đó dĩ nhiên Trương Vô Kỵ không biết được, chỉ đọc cách chữa vài lần cho nhớ mà thôi. Phần cuối cùng trong mục Chưởng thương trị pháp là Huyền Minh thần chưởng, thì sau khi miêu tả các triệu chứng của người bị thương, đến chỗ “Cách chữa trị” chỉ có một chữ “Không”.

Trương Vô Kỵ gấp bộ y kinh lại, cung kính đặt trên bàn, nói:

– Bộ Tý ngọ châm cứu kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười chỉ hiểu được một. Mong được chỉ giáo, thế nào là “Ngự âm dương ngũ hành chi biến”?

Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt vỡ lẽ, nói:

– Ngươi định hỏi cách trị thương cho Thường Ngộ Xuân chứ gì? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chứ chuyện ấy thì không đâu.

Trương Vô Kỵ không còn cách nào khác, đành tự mình tra cứu các loại y thư, Hồ Thanh Ngưu để cậu muốn đọc gì thì đọc, không hề cấm đoán. Trương Vô Kỵ miệt mài tìm tòi suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, chẳng những đọc hết hơn một chục trước tác do Hồ Thanh Ngưu biên soạn, mà ngay cả các sách kinh điển y học như Hoàng Đế nội kinh, Hoa Đà nội chiêu đồ, Vương Thúc Hòa mạch kinh, Tôn Tư Mạo thiên kim phương, Thiên kim dực, Vương Đạo ngoại đài bí yếu đều đọc hết, chỉ cốt tìm ra ý nghĩa các câu liên quan đến cách chữa trị Tiệt tâm chưởng. Mỗi ngày cậu được Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho hai lần, vào giờ Thìn và giờ Thân, để trừ âm độc.

Cứ thế mấy hôm liền, Trương Vô Kỵ vùi đầu đọc đủ loại sách, tuy nhớ được một số y lý, bài thuốc, nhưng cái tinh diệu của y đạo, cậu tuổi nhỏ, học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày đủ hiểu được? Bấm đốt ngón tay, cậu tới Hồ Điệp cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu từng nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trị thì nội trong bảy ngày sẽ khỏi hẳn, ngoài bảy ngày dù có thể khỏi, song võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài bãi cỏ trước nhà sáu ngày đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ Thường Ngộ Xuân nằm trũng xuống, bùn nước lẫn lộn, nhưng vẫn tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ cả giận, nghĩ thầm: “Mình đọc các sách thuốc, trừ các cuốn do Hồ Thanh Ngưu soạn, sách nào cũng viết rằng thầy thuốc phải có lòng nhân, cứu đời cứu người; tiên sinh bụng đầy y thuật mà thấy chết không cứu, làm sao có thể gọi là lương y chứ?”

Buổi chiều, trời mưa càng to hơn, sấm chớp ầm ầm, loang loáng. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: “Mình phải đánh liều chữa cho Thường đại ca thôi, không còn cách nào khác”. Vô Kỵ lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu tám cây kim châm bằng vàng, ra ngồi bên cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:

– Thường đại ca, mấy hôm rồi tiểu đệ cố sức đọc các loại sách thuốc của Hồ tiên sinh, tuy chưa thông hiểu nhưng thời gian khẩn cấp lắm rồi nên không thể dây dưa thêm nữa, tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm tự châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ nhất định cũng không sống một mình đâu.

Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:

– Tiểu huynh đệ sao lại nói thế? Hãy mau châm kim cho huynh đi. Nếu may trời cho khỏi được, tức là Hồ sư bá bị một phen bẽ mặt. Nếu châm vài mũi huynh đã chết, thì cũng còn hơn là sống trong cái vũng bùn này.

Trương Vô Kỵ hai tay run run, nhìn kỹ, mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cắm một mũi kim vào huyệt Quan Nguyên. Cậu chưa hề tập luyện thuật châm cứu, động tác đâm kim hết sức vụng về, chẳng qua bắt chước cách làm của Hồ Thanh Ngưu đối với cậu hàng ngày mà thôi. Kim của Hồ Thanh Ngưu làm bằng vàng ròng, hơi mềm, phải là người có nội lực thâm hậu mới sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá, kim liền cong vẹo đi, không vào sâu nữa, đành phải rút ra đâm lại. Đúng thuật châm cứu thì khi rút kim ra không có chuyện chảy máu, đằng này do cậu lúng túng đâm không đúng chỗ, nên từ huyệt Quan Nguyên máu chảy trào ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới, là chỗ yếu hại của cơ thể, máu chảy không cầm được khiến Trương Vô Kỵ càng cuống quýt lo, chưa biết phải làm sao.

Bỗng nghe sau lưng có tiếng cười ha hả, Trương Vô Kỵ ngoảnh lại thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, nhìn hai tay cậu dính máu mà cười hì hì. Trương Vô Kỵ vội hỏi:

– Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca, máu cứ chảy thế này thì phải làm sao?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Dĩ nhiên ta biết cầm máu cách nào, nhưng việc gì phải nói cho ngươi hay?

Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:

– Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin tiên sinh mau cứu Thường đại ca, vãn bối sẽ chết ngay trước mặt tiên sinh.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Ta đã nói không chữa là không chữa, Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu, chứ đâu phải quỷ Vô Thường đi đòi mạng, ngươi chết thì có ích lợi gì cho ta? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ, ta cũng không cứu một Thường Ngộ Xuân.

Trương Vô Kỵ biết có nói thêm với Hồ Thanh Ngưu cũng chỉ tốn thời gian vô ích, nghĩ thầm loại kim này mềm quá, mình không dùng được, lúc này cũng không biết tìm kim bằng đồng bằng sắt ở đâu, nghĩ một chút, liền bẻ cành tre, dùng dao chẻ nhỏ, vót nhọn, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân. Kim tre đâm vào, quả nhiên không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu đen.

Trương Vô Kỵ không biết sau khi mình châm lung tung như thế khiến cho thương thế của Thường Ngộ Xuân nặng lên, hay là đã có công hiệu trục được huyết ứ trong cơ thể ra ngoài, lúc quay đầu nhìn Hồ Thanh Ngưu, thấy nét mặt “Y Tiên” có vẻ giễu cợt, song cũng có vài phần tán thưởng. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi kim tre vừa châm không sai lạc, bèn chạy vào nhà lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, rồi viết một toa thuốc. Cậu tuy đọc trong sách biết vị thuốc nào chữa bệnh gì, song chưa hề biết hình dạng thế nào là sinh địa, sài hồ, ngưu tất, mật gấu, bèn đem toa thuốc ấy giao cho tiểu đồng, nói:

– Nhờ cậu theo toa này sắc giùm một thang.

Tiểu đồng đưa toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi có nên sắc hay không. Hồ Thanh Ngưu khịt mũi, nói:

– Nực cười, nực cười! Ngươi theo đó mà sắc, uống xong mà bệnh nhân không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.

Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi vị còn một nửa. Tiểu đồng theo đó cắt thuốc đem sắc, thành một tô thật đậm đặc.

Trương Vô Kỵ bưng thuốc tới bên miệng Thường Ngộ Xuân, nghẹn ngào nói:

– Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ quả tình chưa biết.

Thường Ngộ Xuân cười, nói:

– Tốt lắm, tốt lắm! Cái này gọi là thằng thong manh chữa cho thằng mù.

Đoạn nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi cạn sạch.

Tối hôm ấy, Thường Ngộ Xuân bụng đau quằn quại, nhiều lần nôn ra máu. Trong mưa gió sấm chớp, Trương Vô Kỵ hầu hạ suốt đêm bên cạnh y. Sáng sớm hôm sau, mưa tạnh, Thường Ngộ Xuân bớt thổ huyết, máu nôn ra cũng từ đen chuyển thành tím, từ tím chuyển sang đỏ dần.

Thường Ngộ Xuân vui mừng, nói:

– Tiểu huynh đệ, thuốc đệ bốc hóa ra uống không chết người, huynh cảm thấy bệnh đỡ hẳn đi.

Trương Vô Kỵ cả mừng, nói:

– Thuốc của tiểu đệ, huynh uống thấy sao?

Thường Ngộ Xuân cười, nói:

– Tiên phụ biết trước có ngày thế này, nên mới đặt tên ta là Thường Ngộ Xuân, nghĩa là thường thường sẽ gặp được bậc danh y diệu thủ hồi xuân như tiểu đệ chẳng hạn. Có điều là tiểu đệ cắt thuốc hơi bá đạo, uống vào bụng mà cứ như có mấy chục con dao cắt xén trong ấy.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vâng, vâng, chắc là liều lượng hơi nặng.

Kỳ thực liều lượng cậu định ra không phải “hơi nặng”, mà là nặng gấp mấy lần, lại không thêm tá dược điều lý trung hòa nên mấy vị đó công phạt quá mạnh. Tuy cậu tìm được trong sách của Hồ Thanh Ngưu nói vị thuốc nào trị bệnh gì, nhưng đạo dùng thuốc “quân thần tá sứ” thì cậu hoàn toàn chưa biết, nếu Thường Ngộ Xuân không có thể chất cường tráng hơn người, hẳn là đã ô hô ai tai rồi.

Hồ Thanh Ngưu rửa mặt, chải đầu xong, thong thả bước ra, thấy Thường Ngộ Xuân sắc diện hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Một tên thông minh to gan, một tên thể chất tráng kiện, thương thế do Tiệt tâm chưởng gây ra thế mà trị được rồi”.

Trương Vô Kỵ viết thêm toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh, bao nhiêu vị thuốc bổ đều có. Kho dược liệu trong nhà Hồ Thanh Ngưu có đủ các vị quý hiếm, dược lực cực mạnh. Uống thuốc bổ mười ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công trở lại như xưa, bèn nói với Trương Vô Kỵ:

– Tiểu huynh đệ, nay thương thế của ta đã lành hẳn, đêm đêm đệ ra nằm dầm sương với huynh như thế đủ rồi. Chúng mình chia tay thôi.

Hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân cùng chung hoạn nạn, xả thân cho nhau, thành hảo hữu sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân chẳng thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.

Thường Ngộ Xuân nói:

– Tiểu huynh đệ đừng buồn, ba tháng nữa huynh sẽ trở lại thăm, nếu lúc đó chất hàn độc trong cơ thể đệ đã hết, huynh sẽ dẫn đệ trở về núi Võ Đang với thái sư phụ.

Gã vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:

– Đệ tử thương thế đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị, nhưng toàn là nhờ y thư của sư bá chỉ dẫn, lại uống không biết bao nhiêu dược liệu quý của sư bá.

Hồ Thanh Ngưu gật đầu, nói:

– Không sao cả. Thương thế của ngươi tuy đã khỏi, nhưng tuổi thọ của ngươi bị giảm mất bốn chục năm đó.

Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:

– Vì sao vậy?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Cứ theo thể chất của ngươi mà nói, ngươi có thể sống ít ra đến tám mươi tuổi. Nhưng tiểu tử dùng thuốc sai lầm, lúc châm kim lại sai cách, từ nay trở đi, mỗi lần mưa gió sấm chớp, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, đại khái là khoảng bốn mươi tuổi sẽ đi gặp Diêm Vương.[50]

Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang nói:

– Đại trượng phu giúp đời báo quốc, nếu lập nên công trạng thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì đến bốn mươi? Còn như sống một đời tầm thường, dù có thọ trăm tuổi cũng chỉ là tốn cơm tốn gạo thôi.

Hồ Thanh Ngưu gật gật đầu, không nói gì thêm.

Trương Vô Kỵ tiễn chân ra tận Hồ Điệp cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục cậu trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ thầm lập chí: “Mình chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến cho Thường đại ca bị giảm thọ bốn mươi năm, sau này mình phải tìm mọi cách giúp Thường đại ca phục hồi như ban đầu mới được!”

Từ đó Hồ Thanh Ngưu ngày ngày châm cứu, cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong cơ thể. Còn Trương Vô Kỵ ngày đêm miệt mài đọc y thư, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào khó hiểu lại thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Đó là những điều tâm đắc của Hồ Thanh Ngưu nên y chỉ giáo tỉ mỉ. Có lần Trương Vô Kỵ nêu ra câu hỏi lạ lùng mà Hồ Thanh Ngưu chưa bao giờ nghĩ tới. Ban đầu Hồ Thanh Ngưu định bụng chữa khỏi cho Trương Vô Kỵ rồi sẽ giết luôn, nhưng bây giờ nghĩ lại, nếu thằng bé chết đi, nơi đây sẽ chẳng còn ai đàm đạo hợp ý nên không còn tính đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.

Cứ như thế mấy tháng, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng phát hiện huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày của Trương Vô Kỵ khi châm vào không có phản ứng gì cả. Ba huyệt ấy đều thuộc “Thủ Thiếu Dương tam tiêu kinh”, Tam tiêu chia ra Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu là một trong lục phủ ngũ tạng, y thư xưa nay viết rằng rất huyền diệu bí ẩn, khó bề tìm được[51].

Hồ Thanh Ngưu khổ công trăn trở suy nghĩ, dùng đủ mọi cách khéo léo vẫn không trục được chất âm độc đã ngấm vào Tam tiêu của Trương Vô Kỵ. Sau hơn mười ngày, tóc ông ta bạc thêm nhiều sợi mà vẫn chưa tìm ra.

Trương Vô Kỵ thấy Hồ Thanh Ngưu suy tư khổ não như thế thì không khỏi cảm kích, áy náy không yên, nói:

– Hồ tiên sinh, tiên sinh đã tận tâm kiệt lực trừ độc cho vãn bối. Trên đời này ai ai cũng phải chết, chất âm độc ngấm vào Tam tiêu vãn bối không khu trừ được, âu cũng là số phận an bài, tiên sinh đừng tốn phí quá nhiều tâm sức cho việc cứu mạng vãn bối mà tổn hại thân thể.

Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, giọng lạnh nhạt:

– Ngươi coi thường Minh giáo, Thiên Ưng giáo quá đấy, không đời nào ta muốn cứu mạng ngươi. Có điều nếu ta không chữa khỏi cho ngươi, hóa ra Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Sau khi ta chữa khỏi cho ngươi, ta sẽ giết ngươi.

Trương Vô Kỵ lạnh người nghe Hồ Thanh Ngưu nói một cách thản nhiên, tựa hồ chuyện ấy chẳng đáng gì, song cậu biết những điều ông ta đã nói ra miệng thì cũng quyết không thay đổi, bèn thở dài, nói:

– Vãn bối xem ra chất hàn độc trong cơ thể không cách nào khu trừ, tiên sinh khỏi cần ra tay, vãn bối cũng sẽ chết. Người đời hình như chỉ mong mọi người khác chết sạch đi thì họ mới vui lòng. Người ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác đó sao?

Hồ Thanh Ngưu nhìn ra khoảng không xa vắng bên ngoài, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:

– Hồi trẻ ta miệt mài học y thuật, lập chí giúp đời cứu người, rồi ra mới biết mình lầm. Ta đã cứu sống một người, hắn lại trở mặt hại ta một cách tàn bạo. Có một thiếu niên ở Miêu Cương, Quý Châu, bị trúng Kim Tàm trùng độc, là loại chất kịch độc, ai trúng phải thể nào cũng chết, song trước khi chết phải chịu các cơn đau đớn khủng khiếp. Ta suốt ba ngày đêm không ngủ, hao tổn bao tâm lực cứu được y, cùng y kết nghĩa kim lan, tình như ruột thịt, lại còn hứa gả em gái cho hắn. Ai ngờ về sau hắn hại chết em gái ta. Ngươi có biết hắn là ai không? Hiện nay hắn chính là thủ lĩnh lừng lẫy tiếng tăm của một danh môn chính phái đó.

Trương Vô Kỵ thấy bắp cơ trên mặt Hồ Thanh Ngưu giật giật, thần sắc hết sức đau khổ, thì trong lòng cảm thông, nghĩ thầm: “Thì ra Hồ tiên sinh từng gặp không ít thảm cảnh trong đời, nên mới có cái tính thấy chết không cứu, bèn hỏi:

– Kẻ vong ân bội nghĩa, lòng lang dạ thú ấy là ai vậy?

Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:

– Hắn… hắn chính là Tiên Vu Thông, chưởng môn phái Hoa Sơn.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Sao tiên sinh không đi tìm hắn trả thù?

Hồ Thanh Ngưu thở dài:

– Trước sau ta đã ba lần tìm hắn, đều bị thảm bại. Lần sau cùng tưởng đã mất mạng dưới tay hắn rồi. Người ấy võ công cao cường, lại cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của hắn là Thần Cơ Tử mà. Ta tài nghệ quả thực thua xa, không phải đối thủ của hắn. Huống hồ hắn làm chưởng môn phái Hoa Sơn, người đông thế mạnh. Minh giáo ta trong mấy năm nay chia năm xẻ bảy, tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng chỉ bo bo lo giữ thân, không trợ giúp nhau. Hơn nữa, ta cũng ngại đi nhờ vả người khác. Mối thù này, chỉ e không thể báo được. Ôi, tiểu muội khốn khổ của ta ơi, ta mồ côi từ bé, chỉ có hai huynh muội nương tựa lẫn nhau…

Nói đến đó, nước mắt rưng rưng.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh thực ra vốn không phải là kẻ lạnh nhạt, vô tình”. Hồ Thanh Ngưu đột nhiên gay gắt nói:

– Chuyện ta kể hôm nay, từ rày không được nhắc đến, nếu ngươi tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho ngươi sống không nổi, chết không xong đó.

Trương Vô Kỵ định cãi vài câu, nhưng động lòng trắc ẩn, biết Hồ tiên sinh gặp thảm sự, nên cậu chẳng chấp nê, chỉ nói:

– Vãn bối sẽ không nhắc đến làm gì.

Hồ Thanh Ngưu xoa xoa đầu cậu, thở dài:

– Tội nghiệp, tội nghiệp!

Nói đoạn quay vào gian trong.

Từ khi nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy khó khu trừ chất hàn độc đã ngấm vào Tam tiêu của thằng bé, dù có đem y thuật tinh thâm chữa trị cũng chỉ sống thêm được vài năm thì Hồ Thanh Ngưu thay đổi cả tâm tính. Tuy ông ta không thổ lộ thêm thân thế và tâm sự của mình, nhưng thấy thằng bé nhanh hiểu ý người, lại sống chốn núi rừng tịch mịch, có nó bầu bạn thật là hay, thế nên ngày ngày Hồ Thanh Ngưu chỉ dẫn cho Trương Vô Kỵ về sự biến đổi âm dương ngũ hành trong y lý, thuật châm cứu, xem mạch, cắt thuốc. Trương Vô Kỵ miệt mài học hỏi. Hồ Thanh Ngưu thấy thằng bé ngộ tính cao lạ lùng, đọc các bộ y thư, như Hoàng Đế hà mô kinh, Tây Phương Tử Minh Đường cứu kinh, Thái Bình thánh huệ phương, Châm giáp ất kinh, Thiên kim phương đều am tường, tâm đắc, thì than thầm: “Thông minh tài trí như ngươi, lại được bậc minh sư trăm đời có một là ta chỉ giáo, thì chưa đến hai mươi tuổi ngươi đã sánh ngang Hoa Đà, Biển Thước. Tiếc rằng… ôi, tiếc rằng…”

Ý của Hồ Thanh Ngưu muốn nói rằng dù Trương Vô Kỵ học có giỏi y thuật bao nhiêu đi chăng nữa, nhưng chỉ sống ít lâu, vậy sự khổ học kia phỏng có ích gì? Trương Vô Kỵ thì trong lòng đã chủ tâm quyết ý nắm chắc y thuật cao minh để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân sẽ chữa cho y trở lại sức khỏe bình thường, lại chữa cho Du Đại Nham có thể tự mình đi lại, không cần nhờ ai nâng dắt. Đó là hai đại tâm nguyện của Trương Vô Kỵ, sau khi hoàn tất thì dù có chết ngay cũng không có gì ân hận.

*

*       *

Sống trong rừng yên ổn vô sự, ngày tháng trôi mau, thấm thoắt đã hơn hai năm. Trương Vô Kỵ nay đã mười bốn tuổi. Hai năm qua, Thường Ngộ Xuân ghé thăm cậu mấy lần, nói Trương Tam Phong nghe tin bệnh tình của Vô Kỵ thuyên giảm khiến Trương lão vô cùng hoan hỉ, dặn cứ ở lại Hồ Điệp cốc chữa trị cho khỏi hẳn. Trương Tam Phong và sáu đệ tử đều gửi cho thằng bé quần áo, vật dụng, ai cũng thương nhớ, nhưng vì môn phái khác biệt nên không tiện đến thăm.

Trương Vô Kỵ đối với thái sư phụ, các sư bá sư thúc cũng muôn phần thương nhớ, chỉ hận không thể bay ngay về núi Võ Đang.

Thường Ngộ Xuân kể lại tin tức bên ngoài, mấy năm nay người Mông Cổ đối với người Hán càng thêm bạo ngược, trăm họ không đủ ăn đủ mặc, trộm cướp nổi lên như rươi, xem chừng thiên hạ sắp sửa đại loạn. Đồng thời cuộc tranh chấp giữa các thế lực tự xưng danh môn chính phái trên giang hồ với các thế lực bị coi là Ma giáo tà phái ngày thêm kịch liệt, đôi bên đều tử thương nặng nề, oán cừu trở nên ngày một sâu.

Thường Ngộ Xuân mỗi lần đến Hồ Điệp cốc chỉ ở lại vài hôm rồi đi liền, hình như việc trong Minh giáo rất bận rộn.

Một buổi tối, Trương Vô Kỵ đang đọc cuốn y thư Thử sự nan tri của Vương Hiếu Cổ thì cảm thấy mệt mỏi, đầu nặng như chì, bèn gấp sách đi ngủ. Sáng sau tỉnh dậy thấy nhức đầu quá chừng, đang định tìm mấy thứ thuốc trị phong hàn, ra đến gian ngoài thấy mặt trời đã chếch sang phía tây, hóa ra đã quá trưa, thì giật mình nghĩ thầm: “Sao mình lại ngủ một giấc mê mệt như thế, hay là bệnh rồi”, bèn bắt mạch, thấy không có gì lạ, lòng thầm kinh hãi: “Hay là chất âm độc phát tác, mình đến ngày tận số rồi ư?”

Trương Vô Kỵ đi sang gian nhà của Hồ Thanh Ngưu, thấy cửa đóng chặt, ho khẽ một tiếng. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nói ra:

– Vô Kỵ, hôm nay ta khó chịu, đau họng, ngươi tự mình học đi nhé.

Trương Vô Kỵ đáp:

– Vâng.

Quan tâm đến bệnh tình của Hồ Thanh Ngưu, cậu nói:

– Tiên sinh, để vãn bối xem thử cổ họng của tiên sinh xem thế nào, được không ạ?

Hồ Thanh Ngưu đáp, giọng khàn khàn:

– Không cần, ta đã soi gương, thấy không nặng lắm, đã uống “Ngưu hoàng tê giác tán” rồi.

Bữa tối hôm đó, lúc tiểu đồng bưng cơm vào phòng, Trương Vô Kỵ cũng đi theo, thấy Hồ Thanh Ngưu mặt mày tiều tụy, nằm trên giường. Hồ Thanh Ngưu xua tay nói:

– Ra ngoài đi. Ngươi biết ta bị bệnh gì không, bệnh đậu mùa đấy.

Trương Vô Kỵ nhìn, thấy trên mặt và tay Hồ Thanh Ngưu quả nhiên thấy có nhiều chấm đỏ, nghĩ bệnh đậu mùa phát ra thật nguy hiểm, chữa không khéo, nặng thì chết, nhẹ cũng bị rỗ mặt. Hồ Thanh Ngưu y đạo tinh thâm, tuy nhiễm ác bệnh cũng tự chữa trị được, song Trương Vô Kỵ vẫn không khỏi lo ngại.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ngươi không được vào phòng của ta nữa, đũa bát chén đĩa dùng cho ta đều phải nhúng nước sôi, ngươi và các tiểu đồng không được dùng chung.

Ngừng giây lát, Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Vô Kỵ, ngươi nên rời Hồ Điệp cốc đi nơi khác ở tạm mươi bữa nửa tháng, để khỏi lây bệnh đậu mùa của ta.

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Không cần đâu, tiên sinh bị bệnh, vãn bối lại tránh đi, vậy ai lo lắng cho tiên sinh? Dẫu gì vãn bối cũng hiểu y lý hơn hai tiểu đồng kia.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ngươi tránh đi vẫn hơn.

Hồ Thanh Ngưu nói mãi, Trương Vô Kỵ vẫn không chịu. Mấy năm qua, hai người sớm tối bên nhau, Hồ Thanh Ngưu tuy tính nết kỳ dị, song hai thầy trò rất thân tình với nhau, huống hồ lúc thầy hoạn nạn mà mình lại tránh đi là trái với bản tính của Trương Vô Kỵ. Hồ Thanh Ngưu đành nói:

– Thôi được, thế nhưng ngươi nhất thiết không được bước vào phòng ta đó.

Cứ thế ba hôm liền, sớm tối Trương Vô Kỵ tới trước cửa vấn an, Hồ Thanh Ngưu tuy bị khản tiếng, nhưng tinh thần vững vàng, cơm nước xem ra còn ăn nhiều hơn lúc thường, chắc không có gì đáng ngại. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu đọc các vị thuốc và liều lượng, tiểu đồng theo đó sắc bưng vào cho tiên sinh uống.

Đến chiều hôm thứ tư, Trương Vô Kỵ đang ngồi trong thảo đường đọc sách Hoàng Đế nội kinh, tới chương “Tứ khí điều thần đại luận”, có câu:

“Cho nên thánh nhân không trị bệnh đã phát, mà trị bệnh từ khi chưa phát, không trị khi đã loạn mà trị từ khi chưa loạn là vì vậy. Đại bệnh phát rồi mới cắt thuốc, loạn xảy ra rồi mới cứu chữa, có khác gì khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đúc chùy, thì đã quá muộn”.

Trương Vô Kỵ gật gù, nghĩ thầm: “Mấy câu này đúng quá, khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đúc binh khí, quả là không kịp. Để quốc gia loạn rồi mới đi dẹp, dù có trở lại bình yên thì nguyên khí cũng bị đại hao tổn. Trị bệnh phải trị từ khi bệnh chưa phát ra mới hay. Còn bệnh đậu mùa của Hồ tiên sinh là ngoại cảm, có muốn trị từ trước cũng chả được”. Lại nhớ đến chương “Âm dương ứng tượng đại luận” trong Hoàng Đế nội kinh có câu:

“Thầy thuốc giỏi chữa khi bệnh còn ở ngoài da, người kém hơn thì chữa khi bệnh vào máu thịt; tiếp đến người kém nữa thì chữa khi bệnh vào gân mạch, sau đến người chữa khi bệnh vào lục phủ, rồi ngũ tạng. Trị bệnh đã vào đến ngũ tạng thì đã nửa phần sống nửa phần chết”. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lương y thấy bệnh vừa chớm là phải trị ngay. Bệnh vào đến ngũ tạng mới chữa, thì chỉ còn hi vọng một nửa. Như mình âm độc đã ngấm sâu vào lục phủ ngũ tạng, đâu phải chỉ nửa sống nửa chết, mà là cửu tử nhất sinh”.

Còn đang tán thưởng kiến thức trác tuyệt của tiền nhân, chợt nghe có tiếng vó ngựa từ phía cốc khẩu vọng vào, không lâu sau đã tới bên ngoài dãy nhà tranh, rồi có tiếng người nói lớn:

– Võ lâm đồng đạo cầu kiến Y Tiên Hồ tiên sinh, xin lão nhân gia trị bệnh.

Trương Vô Kỵ đi ra cửa, thấy một hán tử mặt mũi đen sì đứng đó, tay dắt ba con ngựa, trên lưng hai con có hai người nằm phủ phục, quần áo loang lổ vết máu, hiển nhiên là bị trọng thương. Hán tử đó đầu băng một mảnh vải trắng, vải cũng thấm máu, tay phải treo lên cổ, xem ra cũng bị thương không nhẹ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Các vị đến thật không đúng lúc, chính Hồ tiên sinh cũng đang bị bệnh nằm liệt giường, không thể trị bệnh giúp các vị được, mời các vị tìm thầy giỏi khác.

Hán tử kia nói:

– Chúng tôi chạy mấy trăm dặm đến đây, sống chết chỉ trong sớm tối, chỉ còn trông chờ Y Tiên cứu mạng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hồ tiên sinh đang bị bệnh đậu mùa rất nặng, đó là chúng tôi nói thực, không dám dối.

Hán tử nói:

– Ba chúng tôi lần này bị trọng thương, nếu không được Y Tiên cứu chữa, ắt chỉ còn nước chết mà thôi. Phiền tiểu huynh đệ bẩm lại một lời, xem Hồ tiên sinh dạy bảo thế nào.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đã vậy, xin cho biết quý tính đại danh.

Hán tử nói:

– Ba chúng tôi tiện danh không đáng nói, xin cứ bẩm là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.

Nói tới đó, y lảo đảo chực ngã, xem chừng đã không chịu nổi liền ộc ra một ngụm máu tươi.

Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm Tiên Vu Thông là kẻ thù lớn của Hồ tiên sinh, không biết tiên sinh xử trí thế nào, đến trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, nói:

– Tiên sinh, bên ngoài có ba người bị trọng thương đến xin chữa trị, nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.

Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, sẵng giọng:

– Không chữa, không chữa, bảo chúng xéo đi!

Trương Vô Kỵ đáp “Dạ!” rồi trở lại thảo đường, nói với hán tử:

– Hồ tiên sinh rất mệt, không thể tiếp khách, mong hãy lượng thứ.

Hán tử nhíu mày, đang định năn nỉ, thì một gã nằm trên lưng ngựa, dáng gầy gò, ngẩng đầu lên, giơ tay búng ra, loáng một ánh kim quang, nghe “cạch” một tiếng, một ám khí nho nhỏ cắm xuống mặt bàn trong thảo đường. Y nói:

– Ngươi đem mũi Kim Hoa ấy cho Kiến Tử Bất Cứu xem, nói ba người bọn ta đều bị chủ nhân của bông hoa vàng này đả thương; kẻ đó nay mai sẽ đến tìm Hồ tiên sinh rửa hận. Nếu Hồ tiên sinh chữa khỏi cho bọn ta, bọn ta sẽ ở lại đây giúp Hồ tiên sinh chống địch. Dù võ công của bọn ta kém cỏi, song có thêm ba trợ thủ cũng vẫn hơn.

Trương Vô Kỵ thấy gã nói năng không lễ độ như hán tử kia, cậu tới bên bàn, thấy ám khí là một bông mai đúc bằng vàng, kích thước y như một bông mai thật, nhụy hoa bằng bạch kim, trông vô cùng tinh xảo. Cậu giơ tay nhặt lên, nào ngờ gã kia ban nãy búng quá mạnh, bông mai cắm chặt xuống bàn, phải lay lay mấy cái mới nhổ lên được. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Gã kia võ công không xoàng, bị chủ nhân Kim Hoa đánh trọng thương như thế, gã bảo người ấy sẽ tới tìm Hồ tiên sinh trả thù, mình phải báo cho tiên sinh biết mới được”. Liền cầm ám khí Kim Hoa tới trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, thuật lại lời vừa nghe.

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Đưa cho ta coi.

Trương Vô Kỵ khẽ đẩy cửa, vén mành, thấy trong phòng tối om, biết rằng bệnh nhân đậu mùa rất sợ gió, sợ ánh sáng, đã dùng mền che kín các cửa. Hồ Thanh Ngưu che mặt bằng một mảnh vải xanh, chỉ hở đôi mắt. Trương Vô Kỵ lo sợ nghĩ thầm: “Không biết sau tấm vải che, các nốt đậu trên mặt như thế nào, sau khi lành liệu có bị rỗ hay không?”

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Đặt Kim Hoa trên bàn, rồi đi ra cho mau.

Trương Vô Kỵ theo lời, đặt bông mai xuống bàn, vén màn bước ra, chưa kịp đóng cửa lại đã nghe Hồ Thanh Ngưu nói:

– Ba tên kia sống hay chết, không liên can gì đến ta. Hồ Thanh Ngưu ta sống hay chết, cũng khỏi cần ba kẻ đó để tâm.

Nghe “vèo” một tiếng, bông mai vàng đã xuyên qua màn cửa, bay vụt ra ngoài, rơi xuống đất. Trương Vô Kỵ sống với Hồ Thanh Ngưu hơn hai năm, không hề thấy Hồ tiên sinh luyện võ công, không ngờ vị thần y trông có vẻ thư sinh này lại là một cao thủ, tuy đang bệnh nặng, song võ công không mất.

Trương Vô Kỵ nhặt bông mai lên, mang trả gã gầy gò, lắc đầu, nói:

– Hồ tiên sinh quả thật bệnh nặng…

Chợt nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, tiếng xe lọc cọc chạy vào cốc.

Trương Vô Kỵ đi ra bên ngoài, thấy chiếc xe ngựa chạy rất nhanh, thoáng cái đã tới trước nhà, đỗ lại. Một hán tử trẻ tuổi, nước da vàng, ôm một lão già hói đầu từ trên xe xuống, hỏi:

– Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Môn hạ phái Không Động là Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp từ xa tới xin chữa…

Nói chưa hết câu đã lảo đảo, cùng lão già hói ngã lăn ra đất. Thật trùng hợp, hai con ngựa to khỏe kéo xe cũng kiệt sức, miệng sùi bọt mép, cùng gục xuống.

Nhìn thần sắc hai người, không hỏi cũng thừa biết từ xa đến đây, vì dọc đường không dừng nghỉ nên cả người lẫn ngựa mới mệt mỏi như thế. Trương Vô Kỵ nghe mấy chữ “môn hạ phái Không Động” liền nhớ lại trên núi Võ Đang năm xưa trong số những kẻ tới bức tử cha mẹ mình có Không Động ngũ lão, tuy không thấy lão hói này, nhưng chắc cũng chẳng phải là người tử tế, đang định cự tuyệt, lại thấy sơn đạo thấp thoáng bóng người, thêm bốn năm người nữa chạy tới, kẻ chống gậy khập khiễng, kẻ thì dìu nhau mà đi, ai cũng bị thương cả.

Trương Vô Kỵ cau mày, không đợi bọn họ tới gần, nói to:

– Hồ tiên sinh bị bệnh đậu mùa, chính tiên sinh chưa biết có sống nổi không, chẳng thể nào chữa trị cho các vị. Xin các vị sớm đi tìm danh y khác để khỏi lỡ dịp trị thương.

Bọn kia đến gần hơn, nhìn rõ năm người, ai nấy mặt nhợt nhạt không chút huyết sắc, nhưng trên thân thể không có thương tích, xem ra đều bị nội thương. Người đi đầu vừa cao vừa mập, gật gật đầu với lão hói Giản Tiệp và gã gầy gò ném Kim Hoa. Ba người đó nhìn nhau cười gượng, hóa ra đều biết nhau. Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, hỏi:

– Các vị đều bị chủ nhân Kim Hoa đả thương ư?

Gã mập đáp:

– Không sai.

Hán tử đến đầu tiên đã bị hộc máu, hỏi:

– Tiểu huynh đệ họ gì? Là bà con thế nào với Hồ tiên sinh?

Trương Vô Kỵ nói:

– Tại hạ là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, biết Hồ tiên sinh đã bảo không chữa là nhất quyết không chữa, các vị có nán lại đây cũng vô ích.

Đang nói chuyện, lại có bốn người nữa lục tục kéo đến, kẻ đi xe, kẻ cưỡi ngựa, đều cầu khẩn được gặp Hồ Thanh Ngưu.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ: “Hồ Điệp cốc là nơi hoang vắng, trừ người trong Ma giáo ra, trên giang hồ ít ai hay biết. Những người này hoặc thuộc phái Không Động, hoặc thuộc phái Hoa Sơn, không phải Ma giáo, sao không hẹn mà cùng bị thương, không hẹn mà cùng tới xin chữa trị?” Lại nghĩ thầm: “Chủ nhân của Kim Hoa tài nghệ lợi hại thế, muốn giết những người này đâu có khó gì, sao lại chỉ đánh cho họ trọng thương?”

Mười bốn người kia, có kẻ lên tiếng nài nỉ, có kẻ một lời chẳng nói, nhưng không ai chịu đi, nhìn ra trời đã sắp tối, mười bốn người ngồi chật cả thảo đường. Tiểu đồng bưng cơm ra cho Trương Vô Kỵ. Cậu cũng chẳng khách sáo gì cứ ngồi ăn tự nhiên, rồi thắp một ngọn đèn dầu, giở y thư ra đọc, làm như không thấy mười bốn người kia vậy, nghĩ bụng: “Ta học y thuật của Hồ tiên sinh, cũng phải học luôn công phu Kiến Tử Bất Cứu của Hồ tiên sinh”.

*

*      *

Đêm vắng lặng, ngoài tiếng giở sách sột soạt của Trương Vô Kỵ, tiếng thở nặng nề của đám người bị thương, không còn âm thanh gì khác. Bỗng nhiên từ bên ngoài có tiếng bước chân nhè nhẹ của hai người chậm chạp đi tới.

Lát sau, giọng nói thánh thót của một bé gái cất lên:

– Mẹ ơi, trong nhà có ánh đèn, mình đến nơi rồi.

Nghe giọng nói thì bé gái còn nhỏ lắm. Rồi tiếng phụ nữ hỏi:

– Hài nhi, con có mệt lắm không?

Đứa bé đáp:

– Con không mệt đâu. Mẹ ơi, thầy lang trị bệnh cho mẹ, mẹ sẽ hết đau thôi.

Tiếng phụ nữ:

– Ừ, nhưng không biết thầy có chịu chữa bệnh cho mẹ không.

Trương Vô Kỵ giật mình: “Giọng người này nghe quen quá, hình như là Kỷ Hiểu Phù cô cô”. Đứa bé nói:

– Thể nào thầy cũng chữa cho mẹ thôi. Mẹ đừng lo, mẹ đỡ đau chưa?

Tiếng phụ nữ:

– Đỡ rồi, ôi, tội nghiệp con!

Trương Vô Kỵ nghe đến đây, không còn nghi ngờ gì nữa, chạy luôn ra cửa, gọi:

– Kỷ cô cô, cô cô đó ư? Cô cô bị thương hay sao?

Dưới ánh trăng thấy một phụ nữ mặc áo xanh, tay dắt một bé gái, chính là Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi.

Khi nàng gặp Trương Vô Kỵ trên núi Võ Đang, cậu bé chưa đầy mười tuổi, cách lúc này ngót năm năm. Cậu bé đã thành thiếu niên, đêm nay bất ngờ gặp lại, nàng không thể nhận ra, chỉ ấp úng:

– Cậu… cậu…

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, cô cô không nhận ra cháu ư? Cháu là Trương Vô Kỵ đây. Hôm cha mẹ cháu qua đời trên núi Võ Đang, cô cháu ta gặp nhau một lần.

Kỷ Hiểu Phù hoảng hốt “à” lên một tiếng, ai ngờ lại gặp Vô Kỵ nơi này, nghĩ mình thân gái chưa chồng giờ lại dắt một đứa con, Trương Vô Kỵ lại là sư điệt của hôn phu Ân Lê Đình của nàng, tuy cậu ta còn ít tuổi, nhưng chẳng thể nào giải thích cho xuôi, không khỏi vừa thẹn vừa quẫn, mặt đỏ bừng. Nàng bị thương không nhẹ, giờ lại kinh hoảng, thân hình lảo đảo chực ngã.

Đứa con gái của nàng chừng tám chín tuổi, thấy mẹ loạng choạng, vội đưa hai tay ra đỡ, nhưng bé bỏng sức yếu như nó thì làm được gì? Thấy hai mẹ con họ sắp ngã, Trương Vô Kỵ vội chạy lại đỡ vai Kỷ Hiểu Phù, nói:

– Kỷ cô cô, mời cô cô vào nghỉ trong này.

Trương Vô Kỵ dìu nàng vào thảo đường, dưới ánh đèn thấy vai và cánh tay bên trái bị vết kiếm chém rất nặng, máu không ngừng ngấm ra lớp vải băng, Kỷ Hiểu Phù cứ ho liên tục không sao ngăn được.

Y thuật của Trương Vô Kỵ hiện thời đã hơn khối vị danh y bình thường, nghe tiếng ho của Hiểu Phù khác lạ, biết là phổi bị chấn thương nặng, bèn nói:

– Kỷ cô cô, cô cô dùng tay phải đối chưởng với người ta, bị thương ở phế mạch Thái Âm.

Nói xong cậu lấy ra bảy mũi kim, châm xuyên qua áo vào huyệt Vân Môn ở vai, huyệt Hoa Cái ở ngực, huyệt Xích Trạch ở khuỷu tay… tất cả bảy chỗ. Hiện thời thuật châm cứu của Trương Vô Kỵ so với lúc trị thương cho Thường Ngộ Xuân đã là một trời một vực. Hơn hai năm qua, cậu theo Hồ Thanh Ngưu miệt mài khổ học cả chẩn đoán bệnh tình lẫn cách dùng thuốc nay đều đã hiểu biết rất nhiều, tuy còn thua xa Hồ Thanh Ngưu, nhưng riêng về châm cứu thì cậu đã học được bảy, tám thành bản lĩnh của “Y Tiên”.

Kỷ Hiểu Phù thấy cậu mang kim ra, thoạt đầu chưa hiểu dụng ý, ai ngờ Trương Vô Kỵ thủ pháp cực nhanh, trong giây lát bảy mũi kim đã được châm vào các huyệt đạo. Bảy huyệt này đều thuộc Thủ Thái Âm phế kinh, kim vừa châm xong, tình trạng tức ngực khổ sở lập tức giảm hẳn. Nàng vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, nói:

– Hảo hài tử, không ngờ cháu lại ở đây, học được bản lĩnh thần diệu thế này.

Hôm ở trên núi Võ Đang, Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố tự sát, thương xót Trương Vô Kỵ cô đơn khổ sở, từng dịu giọng an ủi, lại gỡ cái vòng vàng trên cổ tặng cho nó, nhưng lúc đó Trương Vô Kỵ trong lòng phẫn khích đau đớn, cho rằng tất cả những người lên núi đều là kẻ thù bức tử cha mẹ cậu, thành thử cậu đã gắt gỏng với Kỷ Hiểu Phù, khiến nàng chả biết ăn nói ra sao. Sau đó ít lâu, Trương Vô Kỵ được biết chính hôm ấy cha nó cùng các sư bá sư thúc đã định liên thủ với các nữ hiệp phái Nga Mi cùng chống cường địch, mới hay phái Nga Mi là bạn chứ không phải thù, cho nên mỗi lần nhớ đến tấm lòng của Kỷ Hiểu Phù, cậu bé lại thấy cảm kích.

Hai năm trước ở trong cánh rừng đêm nọ, Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân nấp sau gốc cây đã thấy Kỷ Hiểu Phù ra sức cứu Bành hòa thượng nên càng nghĩ Kỷ cô cô là người rất tốt, còn chuyện Kỷ cô cô chưa lấy chồng mà sinh con, vì sao không phải với Ân thúc thúc, thì cậu còn nhỏ tuổi, không hiểu gì về ái tình nam nữ, nghe qua rồi cũng chẳng để tâm. Còn Kỷ Hiểu Phù bất ngờ gặp người thân của Ân Lê Đình, nên thẹn thùng lúng túng, chứ đâu biết hai năm trước Trương Vô Kỵ đã nghe Đinh Mẫn Quân nói ra. Trương Vô Kỵ cho rằng Đinh Mẫn Quân là người không tốt, thành thử những điều Đinh Mẫn Quân bảo là xấu thì vị tất đã là xấu.

Trương Vô Kỵ thấy đứa con gái của Kỷ Hiểu Phù đứng cạnh mẹ có đôi lông mày đẹp như tranh vẽ, đôi mắt to đen láy cứ đăm đăm nhìn cậu đầy vẻ hiếu kỳ. Cô bé ghé tai mẹ hỏi nhỏ:

– Mẹ, thầy lang bé thế ư? Mẹ còn đau không?

Kỷ Hiểu Phù nghe đứa bé gọi “mẹ”, lại đỏ bừng cả mặt, đến nước này cũng chẳng thể giấu được nữa, lộ vẻ hết sức ngượng ngùng, nói:

– Đây là Trương gia ca ca, phụ thân của Trương ca ca là bằng hữu của mẹ.

Nàng quay sang nói với Trương Vô Kỵ:

– Em nó… em nó tên là Bất Hối.

Ngừng giây lát, nói tiếp:

– Họ Dương, là Dương Bất Hối.

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Hay nhỉ, tiểu muội muội, tên của muội cũng na ná như tên của huynh, huynh là Trương Vô Kỵ, còn muội là Dương Bất Hối.

Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Vô Kỵ thần sắc bình thường, không hề có ý trách cứ, thì yên tâm nói với con:

– Bản lĩnh của Vô Kỵ ca ca giỏi quá, mẹ đỡ đau hẳn rồi.

Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối ngó qua ngó lại, đột nhiên con bé đến trước mặt Trương Vô Kỵ ôm lấy cậu, thơm vào má cậu “chụt” một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa gặp ai, lần này mẹ bị trọng thương, trong lúc hoạn nạn được Trương Vô Kỵ chữa cho bớt đau khiến cô bé cảm kích quá, trước nay mỗi khi biểu lộ sự yêu thích và cảm tạ đối với mẹ, cô bé lại sà vào lòng thơm lên má mẹ; nên lúc này cô bé cũng làm như thế với Trương Vô Kỵ.

Kỷ Hiểu Phù mỉm cười, nói:

– Bất nhi, đừng làm thế, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.

Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi Trương Vô Kỵ:

– Ca ca không thích à? Sao ca ca lại không thích tiểu muội làm như thế?

Trương Vô Kỵ cười đáp:

– Huynh thích chứ.

Rồi cậu cũng thơm nhẹ một cái lên đôi má bầu bĩnh của Dương Bất Hối. Cô bé vỗ tay reo:

– Thầy lang nhỏ ơi, mau chữa khỏi cho mẹ tiểu muội, tiểu muội sẽ lại thơm huynh lần nữa.

Trương Vô Kỵ thấy cô bé thơ ngây lanh lợi, thật dễ thương. Hơn mười năm qua, những người cậu gặp toàn là hạng sư bá sư thúc lớn tuổi, ngay Thường Ngộ Xuân tuy xưng hô huynh đệ nhưng cũng lớn hơn cậu tám tuổi. Lần gặp Chu Chỉ Nhược ở trên thuyền, hai đứa cũng chỉ được ở bên nhau một ngày, rồi lại chia tay, từ đó chưa hề có một người bạn nhỏ tuổi nào, lúc này bất giác cậu nghĩ thầm: “Giá mình có một tiểu muội muội dễ thương như thế này, thì ngày ngày mình sẽ dẫn nó đi chơi”. Trương Vô Kỵ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ gặp nhiều gian truân, thực ra chưa được dịp chơi đùa.

Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Giản Tiệp người nào cũng bị thương nặng, hiển nhiên chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn giành phần hơn, bèn nói với Trương Vô Kỵ:

– Các vị kia tới trước cô cô, Vô Kỵ hãy xem cho họ đã, bây giờ cô cô thấy đỡ nhiều rồi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị, song chính Hồ tiên sinh cũng đang bệnh nặng, không chữa trị cho ai được. Các vị đó chẳng chịu đi. Kỷ cô cô, cô cô không phải nhờ Hồ tiên sinh nữa. Tiểu điệt ở đây đã lâu, cũng biết chữa trị đôi chút, nếu cô cô tín nhiệm, tiểu điệt sẽ chữa cho cô cô.

Kỷ Hiểu Phù sau khi bị thương được người ta chỉ đường tới Hồ Điệp cốc, cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, tới cầu xin Hồ Thanh Ngưu chữa trị, nhìn tình trạng của bọn họ, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Trương Vô Kỵ vừa châm kim cho nàng, nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra cậu ít tuổi nhưng y đạo quả thật cao minh, bèn nói:

– Thế thì đa tạ điệt nhi. Đại quốc thủ không chịu chữa thì nhờ tiểu quốc thủ vậy.

Trương Vô Kỵ mời Kỷ Hiểu Phù vào sương phòng, cắt bỏ vải áo chỗ vết thương, thấy trên vai và cánh tay có tới ba vết chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy vụn như thế, về mặt ngoại khoa là cực kỳ khó chữa, nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại là chuyện nhỏ, Trương Vô Kỵ liền nối xương, bó thuốc trị thương cho Kỷ cô cô; lại kê một toa thuốc sai tiểu đồng đem sắc. Đây là lần đầu Trương Vô Kỵ nối xương gãy, thủ pháp tuy chưa được thành thạo nhưng sau một canh giờ cũng xong xuôi, cuối cùng nói:

– Kỷ cô cô, cô cô hãy nằm ngủ một giấc, khi thuốc tê tan hết, vết thương sẽ đau lắm đó.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Đa tạ điệt nhi.

Trương Vô Kỵ vào kho thuốc lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, ai ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi áo cô bé rồi trở lại thảo đường.

Gã đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy Trương Vô Kỵ liền vội đứng dậy chắp tay vái một cái thật dài, nói:

– Tiểu tiên sinh, Hồ tiên sinh đã nhiễm bệnh, chắc phải phiền tiểu tiên sinh chữa trị cho chúng tôi, mọi người xin tận cảm đại đức.

Trương Vô Kỵ từ khi học y thuật tới giờ, ngoài Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa chữa trị cho ai. Nay thấy mười bốn người kia, kẻ nội tạng chấn thương, kẻ tứ chi bị gãy, thương thế mỗi người một khác. Người đời có câu, học phải gắn với hành, quả thực Trương Vô Kỵ cũng rất muốn chữa thử xem sao nhưng ngặt vì Hồ Thanh Ngưu đã bảo không chữa, nên đáp:

– Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tại hạ cũng chỉ là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, đâu dám tự tiện như thế.

Gã hán tử thấy Trương Vô Kỵ từ chối không có vẻ gì quả quyết, bèn giở bài năn nỉ, nịnh một câu:

– Xưa nay danh y vị nào cũng phải là già năm, sáu chục tuổi, ai ngờ tiểu tiên sinh đây tuổi còn trẻ quá mà đã có bản lĩnh như thế, quả thật hi hữu trên đời, mong tiểu tiên sinh ra tay một phen.

Gã mập trông như phú thương, nói:

– Mười bốn người chúng tôi trên giang hồ đều có chút danh tiếng, nếu được tiểu tiên sinh cứu chữa, cả bọn ra ngoài tuyên dương, khắp giang hồ sẽ biết tới đại danh y thuật thần tình của tiểu tiên sinh, thế là chỉ trong sớm tối tiểu tiên sinh đã lừng danh thiên hạ.

Trương Vô Kỵ còn ít tuổi, chưa hiểu thế thái nhân tình, nghe hai gã kia nịnh mấy câu không khỏi vui thích:

– Lừng danh thiên hạ để làm gì? Hồ tiên sinh đã không chịu chữa, tại hạ cũng chả dám. Nhưng các vị đều bị thương nặng, thôi để tôi cho vài thứ giảm đau.

Rồi cậu lấy túi thuốc ra bôi, đắp để cầm máu, giảm đau cho họ.

Khi xem kỹ vết thương của từng người, Trương Vô Kỵ càng lúc càng kinh ngạc. Hóa ra thương thế mỗi người một khác, cách đả thương cũng đặc biệt, toàn là những triệu chứng mà Hồ Thanh Ngưu chưa hề dạy cho cậu. Có người bị ép uống mấy chục mũi kim thép, mũi kim lại còn tẩm thuốc độc. Có người gan bị nội lực chấn thương, nhưng các yếu huyệt để chữa gan như Hành Gian, Trung Phong, Âm Bao, Ngũ Lý đều bị mũi kiếm đâm nát, hiển nhiên kẻ hạ thủ rất tinh thông y lý, cốt cho thầy thuốc không còn cách chữa trị. Có người hai lá phổi bị cắm hai cái đinh sắt, cứ ho ra máu không ngừng. Có người bị đánh gãy hết hai bên xương sườn, nhưng tim phổi vẫn nguyên vẹn. Có người hai tay bị cắt, rồi đem nối tay bên này sang tay bên kia, máu thịt bê bết, trông chẳng ra hình thù gì cả. Có kẻ toàn thân sưng phù, nói là bị mười mấy loại trùng độc như rết, bò cạp, ong vàng cắn đốt.

Trương Vô Kỵ mới xem vết thương của sáu bảy người đã phải nhíu mày, nghĩ thầm: “Thương thế của những người này kỳ quái vô cùng, mình không thể chữa nổi lấy một trường hợp. Hung thủ đả thương họ sao lại nghĩ cách hành hạ kẻ khác gớm ghiếc đến thế chứ?”

Trương Vô Kỵ chợt nghĩ: “Vết thương ở vai và cánh tay của Kỷ cô cô lại rất bình thường, hay là Kỷ cô cô bị nội thương loại đặc biệt, chứ chẳng lẽ một mình cô ấy là ngoại lệ?” Trương Vô Kỵ liền trở vào sương phòng, xem mạch cho Kỷ Hiểu Phù, lập tức giật mình vì chỉ thấy mạch đập chợt mạnh chợt yếu, lúc sáp, lúc hoạt, hiển nhiên nội tạng có sự khác lạ, nhưng tại sao ra như vậy thì thật là khó biết nguyên do.

Mười bốn kẻ kia thương thế kỳ dị, Trương Vô Kỵ cũng chẳng để tâm, thầm nghĩ mấy kẻ thuộc phái Không Động trong số đó có liên quan đến việc bức tử cha mẹ cậu, nay bị thế có chết cũng đáng tội. Riêng Kỷ Hiểu Phù thì không thể không cứu, thế là cậu tới trước cửa phòng Hồ Thanh Ngưu, thấp giọng hỏi:

– Hồ tiên sinh đã ngủ chưa?

Nghe Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Việc gì thế? Dù là ai, ta cũng không chữa đâu.

Trương Vô Kỵ nói:

– Vâng. Có điều là mấy người kia bị thương lạ lắm.

Rồi kể lại thương thế quái dị của từng người cho Hồ Thanh Ngưu nghe. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nghe, chỗ nào không rõ lại bảo Trương Vô Kỵ ra khám, rồi cho hay. Trương Vô Kỵ mất gần một canh giờ mới kể hết tỉ mỉ thương thế của mười lăm người. Hồ Thanh Ngưu luôn miệng ừ hử, rõ ràng cũng đang suy nghĩ, lâu sau mới nói:

– Các chứng quái thương ấy, ngoài ta ra, không ai…

Đằng sau Trương Vô Kỵ bỗng có người nói tiếp:

– Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của Kim Hoa bảo ta nói với tiên sinh như sau: “Ngươi uổng xưng Y Tiên, mười lăm loại kỳ thương quái độc này, ngươi đừng mong chữa nổi dù chỉ một loại”. Ha ha, quả nhiên tiên sinh giả vờ cáo ốm để né tránh.

Trương Vô Kỵ ngoảnh lại thấy kẻ nói câu đó là lão hói Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động. Trên đầu lão không một sợi tóc, thoạt tiên Trương Vô Kỵ ngỡ lão ta bẩm sinh không có tóc, sau mới biết lão bị người ta bôi một loại thuốc độc lên đầu khiến tóc rụng hết, chất độc vẫn đang ăn sâu vào trong, chỉ e vài hôm nữa sẽ ngấm vào trong não, hẳn sẽ phát điên. Hiện thời hai tay lão bị mấy người đồng bọn dùng dây xích cột lại không cho đưa lên gãi đầu, nếu không, do bị ngứa ngáy hết chịu nổi, hẳn lão đã cào gãi đến lòi xương sọ rồi.

Hồ Thanh Ngưu lạnh nhạt nói:

– Ta chữa nổi hay không chữa nổi cũng chẳng sao, nhưng với ngươi thì ta nhất quyết không chữa. Ta xem ra ngươi chỉ còn sống được bảy tám ngày, hãy mau về nhà còn được gặp mặt vợ con một lần, ở đây nói lảm nhảm phỏng có ích gì.

Giản Tiệp đầu ngứa không chịu nổi, vẫn thường phải hoặc cọ xát, hoặc cụng đầu vào tường khiến dây xích trói tay kêu loảng xoảng, lúc này thở hổn hển, nói:

– Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của Kim Hoa nọ sớm muộn cũng tới đây tìm tiên sinh, ta thấy tiên sinh cũng chẳng được chết yên lành đâu, chi bằng mọi người liên thủ cùng chống cường địch, chẳng hơn là tiên sinh nằm trốn trong buồng một mình, khoanh tay chờ chết hay sao?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Các ngươi nếu đánh nổi hắn thì đã giết được hắn từ lâu rồi! Nay có thêm mười lăm cái bị thịt giúp ta phỏng có ích gì?

Giản Tiệp năn nỉ một hồi, Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới. Cuối cùng Giản Tiệp nổi khùng, quát:

– Đã thế, đằng nào cũng chết, ta cho một mồi lửa đốt phăng cái chuồng chó này đi cho rồi! Bọn ta mỗi người một đao, xông vào đâm tên thầy lang khốn kiếp này cùng chết cho xong.

Lúc đó từ bên ngoài có một người khác bước vào, chính là gã hán tử thổ huyết. Gã thò tay vào bọc lấy ra cái Nga Mi thích, gí vào ngực Giản Tiệp, nói:

– Lão đắc tội với Hồ tiền bối, Tiết mỗ thanh toán với lão trước vậy. Lão muốn đao nhuộm máu thì để Tiết mỗ cho lão biết tay.

Giản Tiệp võ công vốn cao hơn gã họ Tiết, nhưng hai tay bị xích lại, không thể kháng cự, đành trợn mắt ra nhìn, thở hồng hộc.

Gã họ Tiết nói to:

– Hồ tiền bối, vãn bối là Tiết Công Viễn, là đệ tử môn hạ của Tiên Vu tiên sinh phái Hoa Sơn, xin khấu đầu trước lão nhân gia!

Đoạn gã quỳ xuống, rập đầu mấy cái. Giản Tiệp chợt cảm thấy có chút hi vọng. Với Hồ Thanh Ngưu, nói nặng không xong, gã tiểu tử này lạy lục cầu khẩn, không chừng lại được cũng nên. Tiết Công Viễn hành đại lễ xong, nói:

– Hồ tiền bối đang có bệnh, chúng tôi quả thật kém phúc. Ở đây có vị tiểu huynh đệ y đạo cao minh, xin Hồ tiền bối ưng thuận để cậu ấy chữa trị cho chúng tôi. Chúng tôi ai nấy đều bị độc thương quái dị, ngoài đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên ra, khắp thiên hạ không còn ai trị nổi.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Thằng bé ấy tên Trương Vô Kỵ, là đệ tử phái Võ Đang, con trai của Ngân Câu Thiết Hoạch Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp, đệ tử tái truyền của Trương Tam Phong. Còn Hồ Thanh Ngưu ta là người trong Minh giáo, các vị trong danh môn chính phái coi như đồ bỏ, đâu có can hệ gì với đệ tử của cao nhân như Trương Vô Kỵ? Trương Vô Kỵ trúng phải âm độc, cầu ta chữa bệnh, nhưng ta đã lập trọng thệ, trừ người trong Minh giáo ra, ta quyết không chữa bệnh cho ai cả. Trương Vô Kỵ không chịu gia nhập Minh giáo, ta đâu có cứu chữa cho hắn?

Tiết Công Viễn thất vọng, ban đầu cứ ngỡ Trương Vô Kỵ là đệ tử của Hồ Thanh Ngưu, bản lĩnh dù không bằng sư phụ nhưng gặp chỗ khó hẳn sẽ được Hồ Thanh Ngưu chỉ điểm, nào ngờ chính Trương Vô Kỵ cũng chỉ là một bệnh nhân xin chữa không được mà thôi.

Lại nghe Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:

– Các vị cứ ở lì trong nhà ta không chịu đi, hừ, bộ các vị tưởng ta sẽ rủ lòng thương chăng? Các vị cứ hỏi thằng bé ấy xem nó ở đây bao lâu rồi.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp cùng nhìn Trương Vô Kỵ, thấy cậu giơ hai ngón tay, rồi lại giơ hai ngón một lần nữa. Tiết Công Viễn hỏi:

– Hai mươi ngày à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Tính ra hai năm hai tháng rồi.

Giản, Tiết hai người nhìn nhau, cùng buông một tiếng thở dài. Hồ Thanh Ngưu nói:

– Nó có ở lì tại đây mười năm, ta cũng không cứu mạng. Trong vòng một năm nữa thôi, âm độc tích tụ trong lục phủ ngũ tạng nó sẽ đại phát tác, dẫu thế nào nó cũng chẳng thể sống đến ngày này sang năm. Hồ Thanh Ngưu ta từng lập trọng thệ trước Minh tôn là dù cho cha ruột ta, con cái ta mà nếu không phải là đệ tử Minh giáo thì ta cũng không cứu chữa.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp thất vọng hoàn toàn, đang định lùi ra, chợt Hồ Thanh Ngưu nói:

– Gã đệ tử phái Võ Đang này cũng biết đôi chút y lý, y lý của phái Võ Đang tuy còn thua xa Minh giáo ta nhưng cũng không đến nỗi làm chết người. Phái Võ Đang của hắn thấy chết có cứu hay không là việc của hắn, không liên quan tới Minh giáo hay Hồ Thanh Ngưu ta cả.

Tiết Công Viễn sững lại, nghe lời nói của Hồ Thanh Ngưu dường như có ý ưng thuận để Trương Vô Kỵ chữa trị cho mình, liền nói:

– Hồ tiền bối, vị Trương tiểu hiệp này nếu ra tay cứu độ thì chúng tôi có hi vọng sống sót phải không?

Hồ Thanh Ngưu đáp:

– Hắn cứu hay không cứu, không can hệ gì đến ta. Vô Kỵ, ngươi nghe đây, ở trong nhà của ta, ngươi không được giở trò chữa trị, trừ khi ra khỏi nhà ta rồi, ngươi làm gì ta không cần biết.

Tiết Công Viễn và Giản Tiệp thoạt tiên có hi vọng, giờ nghe nói thế thì lại hoang mang, ngơ ngác, chưa hiểu ý tứ của Hồ Thanh Ngưu thế nào.

Trương Vô Kỵ so với họ thông minh hơn hẳn, cậu hiểu ngay, nói:

– Hồ tiên sinh đang bệnh, các vị không nên quấy nhiễu tiên sinh nữa, xin hãy theo tôi ra ngoài kia.

Ra đến thảo đường, Trương Vô Kỵ nói:

– Các vị, tại hạ nhỏ tuổi kiến thức nông cạn, thương thế của các vị lại quái dị, chữa trị được hay không, thật chẳng dám nói chắc. Nếu các vị tin tưởng, thì tại hạ sẽ thử xem sao, sống chết tùy ở ý trời.

Lúc này mọi người ai cũng bị thương, không ngứa thì đau, không tê thì xót, tình cảnh sống dở chết dở, dù có bảo họ uống tì sương độc dược, họ cũng cho là ngọt như mật mà uống liền, miễn sao đỡ đau đớn khổ sở nhất thời, giờ nghe Trương Vô Kỵ nói vậy thì ai nấy hoan hỉ ra mặt.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hồ tiên sinh không cho phép tại hạ chữa bệnh trong nhà tiên sinh, e chết người tổn hại uy danh “Y Tiên”, vậy tất cả hãy ra khỏi nhà.

Mọi người lại lưỡng lự, thấy cậu chẳng qua chỉ mười bốn mười lăm tuổi, tài nghệ chắc chỉ có hạn, ở trong nhà Y Tiên, ít ra còn có chỗ dựa, nếu ra khỏi đây, lỡ cậu chữa trị lung tung, thương thế nặng thêm lại khổ.

Giản Tiệp lớn tiếng kêu:

– Đầu ta ngứa muốn chết, tiểu huynh đệ, hãy chữa cho ta trước đi.

Đoạn lão chạy ra ngoài trước, dây xích kêu loảng xoảng.

Trương Vô Kỵ nghĩ một hồi, vào kho thuốc lấy hơn mười vị như Nam Tinh, Phòng Phong, Bạch Chỉ, Thiên Ma, Khương Hoạt, Bạch Phụ Tử, Hoa Nhị Thạch rồi sai tiểu đồng cho vào cối giã nát, trộn rượu mạnh, chế thành cao đem ra đắp lên đầu Giản Tiệp. Cao vừa đắp lên, Giản Tiệp xót quá, nhảy cẫng lên, vừa nhảy vừa kêu:

– Xót quá, xót chết mất thôi! Ôi, nhưng mà xót thế này còn dễ chịu hơn là ngứa rất nhiều!

Lão nghiến răng ken két, cứ đi đi lại lại như điên trên bãi cỏ, kêu luôn miệng:

– Xót ơi là xót, mẹ kiếp! Thằng nhỏ này quả là tài tình! Không, Trương tiểu hiệp, Giản mỗ phải đa tạ cậu mới đúng.

Bọn kia thấy chứng ngứa đầu của Giản Tiệp có công hiệu ngay lập tức ùa ra nhờ Trương Vô Kỵ chữa trị. Lúc ấy có một người ôm bụng lăn lộn dưới đất mà kêu la, hoá ra y bị bắt ép nuốt hơn ba chục con đỉa sống. Lũ đỉa vào trong bụng không chết, liền bám vào thành dạ dày và thành ruột mà hút máu. Trương Vô Kỵ nhớ trong y thư có viết: đỉa gặp mật ong sẽ hóa thành nước. Hồ Điệp cốc này thiếu gì mật ong, bèn sai tiểu đồng mang một tô cho người kia uống.

Cứ thế cho đến khi trời sáng, hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù thức dậy, đi ra thấy Trương Vô Kỵ vẫn đang tất bật trị thương cho mọi người. Kỷ Hiểu Phù bèn phụ giúp việc băng bó, truyền tin cho tiểu đồng về các vị thuốc. Chỉ có cô bé Dương Bất Hối vô tư vô lự vừa nhai táo, vừa tung tăng đùa giỡn với bướm.

Mãi đến quá trưa Trương Vô Kỵ mới sơ bộ hoàn tất việc trị ngoại thương, cầm máu, giảm đau. Nhưng thương thế mỗi người đều kỳ quái, rắc rối, trị ngoại thương mới chỉ là chữa phần ngọn. Trương Vô Kỵ vào phòng ngủ vài canh giờ, đang ngủ nghe bên ngoài có nhiều tiếng kêu la, vội choàng dậy chạy ra, thấy vài người bớt đau, còn phần đông lại trở nên nguy kịch. Trương Vô Kỵ bó tay, đành chạy vào kể cho Hồ Thanh Ngưu nghe.

Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng nói:

– Bọn họ không phải người trong Minh giáo, họ sống hay chết, đối với ta chả có can hệ gì hết.

Trương Vô Kỵ chợt nghĩ ra một cách, nói:

– Nếu như có đệ tử của Minh giáo, bên ngoài không có thương tích gì, song bên trong máu tụ sưng phồng lên, mặt phù màu đỏ, mê man sắp chết, tiên sinh sẽ chữa trị bằng cách nào?

Hồ Thanh Ngưu nói:

– Nếu như đó là đệ tử của Minh giáo thì ta dùng Sơn Giáp, Quy Vĩ, Hồng Hoa, Sinh Địa, Linh Tiên, Huyết Kiệt, Đào Tiên, Đại Hoàng, Nhũ Hương, Một Dược cho vào rượu mà sắc, sau đó thêm nước tiểu trẻ con vào mà uống tất sẽ trừ được huyết ứ.

Trương Vô Kỵ lại hỏi:

– Nếu như có đệ tử của Minh giáo bị người ta đổ thiếc vào tai trái, rót thủy ngân vào tai phải, mắt lại bị trét sơn sống, đau đớn chịu không nổi, không nhìn thấy được, vậy phải chữa thế nào?

Hồ Thanh Ngưu nổi giận, nói:

– Kẻ nào dám hãm hại đệ tử của Minh giáo như thế?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kẻ đó quả thật tàn bạo, nhưng vãn bối nghĩ rằng mình phải chữa vết thương ở tai, mắt cho đệ tử của Minh giáo đã, rồi sẽ truy tìm họ tên và tung tích của kẻ thù.

Hồ Thanh Ngưu nghĩ một lát, nói:

– Nếu người đó là đệ tử của Minh giáo, ta sẽ đổ thủy ngân vào tai trái y, thiếc sẽ tan vào thủy ngân mà chảy ra, lại dùng kim châm ngoáy vào tai phải, thủy ngân sẽ bám vào kim từ từ kéo ra. Còn sơn sống trét ở mắt, hãy thử giã cua, lấy nước rửa mắt, có thể hóa giải được.

Cứ như thế, Trương Vô Kỵ lần lượt đem các bệnh án khó chữa, giả là của đệ tử Minh giáo để thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu dĩ nhiên hiểu dụng ý của Trương Vô Kỵ, song vẫn dạy cho cách chữa trị. Song thương thế của bọn người kia quá kỳ quái, Trương Vô Kỵ tuy có theo cách chỉ dẫn mà chữa, nhưng không kiến hiệu thì Hồ Thanh Ngưu lại nghĩ ra cách khác.

Cứ thế, dăm sáu ngày sau thương thế của mọi người đều thuyên giảm. Nội thương của Kỷ Hiểu Phù vốn do trúng độc, Trương Vô Kỵ sau khi chẩn đoán rõ ràng mới dùng thang thuốc gồm các vị Sinh Long Cốt, Tô Mộc, Thổ Cẩu, Ngũ Linh Chi, Thiên Kim Tử, Cáp Phấn để cho nàng uống giải độc, làm tan máu ứ, khi xem mạch thấy tế mà hoãn, thương thế giảm hẳn.

Lúc này mọi người đã dựng bên ngoài thảo đường một ngôi nhà tranh, trải cỏ mà nằm. Hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù ở một cái chòi cách đó vài trượng, do Trương Vô Kỵ bảo mọi người dựng giùm. Mười bốn người kia vốn là hào khách ngang dọc giang hồ, hiện thời tính mạng nằm trong tay Trương Vô Kỵ nên hết thảy những gì cậu thiếu niên này sai bảo, họ đều không dám trái lời. Trương Vô Kỵ tuy bị một phen vất vả túi bụi nhưng cũng học được nhiều bài thuốc hay, nhiều cách chữa trị thần tình của Hồ Thanh Ngưu.

Một buổi sớm, khi Trương Vô Kỵ quan sát Kỷ Hiểu Phù chợt thấy hai đầu lông mày có ẩn hiện một làn hắc khí, tựa hồ thương thế tái phát, chất độc đã giải trừ lẽ nào tăng lên? Cậu vội bắt mạch, lại bảo Kỷ cô cô nhổ nước miếng vào Bách Hợp tán xem sao, quả nhiên chất độc trong cơ thể đã tăng lên. Trương Vô Kỵ suy nghĩ hồi lâu không hiểu, chạy vào gian trong thỉnh giáo Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu thở dài, bày cách trị. Trương Vô Kỵ làm theo thấy quả nhiên kiến hiệu.

Da đầu Giản Tiệp lại loét ra, hôi thối chịu hết nổi. Chỉ trong vài ngày, thương thế của cả mười lăm người đều có biến chứng; rõ ràng đã bớt được tám chín phần, nay sau một đêm lại bỗng dưng trở nặng.

Trương Vô Kỵ không hiểu nguyên do, vào hỏi Hồ Thanh Ngưu, thì Y Tiên nói:

– Những người này bị thương quái dị, nếu chữa một lần đã khỏi thì việc gì họ phải tới Hồ Điệp cốc khẩn khoản cầu xin?

Đêm đó, Trương Vô Kỵ nằm trên giường suy nghĩ: “Thương thế lúc nặng lúc nhẹ là chuyện thường, nhưng cả mười lăm người cùng bị sau một đêm thì lạ thật!” Nằm trằn trọc mãi tới canh ba cũng vì chuyện đó mà không ngủ được, bỗng nghe ngoài song có tiếng chân người đạp trên lá cây xào xạc, ai đó đang rón rén bước qua.

Trương Vô Kỵ nổi tính hiếu kỳ, thè lưỡi làm thủng lớp giấy dán cửa, nhìn ra ngoài, thấy một bóng người lướt qua, ẩn vào sau cây hòe; nhìn quần áo thì ra Hồ Thanh Ngưu.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh làm gì vậy? Tiên sinh đã khỏi bệnh đậu mùa rồi ư?” Trông cách đi đứng của Hồ Thanh Ngưu, hiển nhiên tiên sinh không muốn cho ai nhìn thấy. Lát sau, thấy Hồ Thanh Ngưu đi về phía cái chòi của hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù. Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thịch, nghĩ bụng: “Không lẽ Hồ tiên sinh định làm nhục Kỷ cô cô? Mình không phải là đối thủ của Hồ tiên sinh, nhưng việc này không thể cho qua”. Cậu bèn rón rén đi ra, bí mật bám theo sau. Chỉ thấy Hồ Thanh Ngưu lẻn vào chòi. Cái chòi ấy làm tạm cho xong, không tường không cửa, chỉ cốt che mưa nắng, người ngoài ai muốn ra vào cũng được.

Trương Vô Kỵ theo gấp tới phía sau căn chòi, nằm phục xuống nhìn vào, thấy hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù ôm nhau ngủ say trên đám cỏ khô, Hồ Thanh Ngưu lấy trong túi ra một viên thuốc, bỏ vào chén thuốc của Kỷ Hiểu Phù, rồi quay mình đi ra. Trong giây lát, Trương Vô Kỵ thấy người kia mặt che vải xanh, chẳng biết bệnh đậu mùa đã khỏi hẳn chưa. Trương Vô Kỵ lập tức hiểu ra, lưng đổ mồ hôi lạnh: “Thì ra Hồ tiên sinh nửa đêm lén ra ngoài hạ độc, cho nên thương thế của những người kia mới nặng lên”.

Hồ Thanh Ngưu lại đi vào ngôi nhà tranh của bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn, rõ ràng cũng là để lén lút bỏ thuốc độc, đợi một hồi lâu vẫn chưa thấy trở ra, chắc là phải sử dụng mười mấy loại chất độc khác nhau cho từng người, nên tốn nhiều thời gian. Trương Vô Kỵ bước nhẹ vào chòi của Kỷ Hiểu Phù, cầm chén thuốc lên ngửi. Chén thuốc này vốn là Bát tiên thang được chuẩn bị sẵn cho Kỷ Hiểu Phù uống vào sáng sớm mai sau khi thức dậy. Bây giờ chén thuốc có mùi lạ xộc lên mũi. Lúc đó bên ngoài có tiếng bước chân lướt qua, chắc là Hồ Thanh Ngưu đã quay về buồng ngủ.

Trương Vô Kỵ đặt chén thuốc xuống, khẽ gọi:

– Kỷ cô cô, Kỷ cô cô.

Kỷ Hiểu Phù võ công không phải kém, vốn tai thính mắt tinh, dù đang ngủ say nhưng chỉ cần một tiếng động nhẹ là tỉnh ngay; đằng này Trương Vô Kỵ gọi đến mấy lần mà Kỷ cô cô vẫn chưa thức giấc. Trương Vô Kỵ đành khẽ lay vai nàng, lay đến bảy tám cái Kỷ Hiểu Phù mới choàng tỉnh, giật mình hỏi:

– Ai đó?

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

– Kỷ cô cô, là điệt nhi Vô Kỵ đây. Chén thuốc của cô cô có kẻ bỏ thuốc độc vào rồi, đừng uống nữa. Cô cô hãy đổ xuống suối, nhưng chớ cho ai biết, sáng mai điệt nhi sẽ nói rõ cho cô cô hay.

Kỷ Hiểu Phù gật đầu. Trương Vô Kỵ lại sợ Hồ Thanh Ngưu phát giác nên khi về đến phòng ngủ của mình bèn trèo lối cửa sổ mà vào.

Hôm sau, ăn sáng xong, Trương Vô Kỵ và Dương Bất Hối cùng nhau chạy đuổi bướm trong thung lũng, mỗi lúc một xa. Kỷ Hiểu Phù biết ý, lẽo đẽo đi theo. Mấy hôm rồi Trương Vô Kỵ thường dẫn Dương Bất Hối đi chơi, nên lúc này mọi người thấy ba người đi với nhau cũng chẳng để ý. Đi khoảng một dặm, tới một triền núi, Trương Vô Kỵ ngồi xuống bãi cỏ. Kỷ Hiểu Phù nói với con:

– Bất nhi, đừng đuổi bướm nữa, con hãy đi hái hoa, làm ba cái vòng đội đầu cho mỗi người một cái đi.

Dương Bất Hối thích quá, liền đi hái hoa.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, Hồ Thanh Ngưu có thù oán gì với cô cô hay không mà lại ra tay hạ độc?

Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc, nói:

– Ta với Hồ tiên sinh không hề quen biết, đến hôm nay cũng chưa thấy mặt lần nào, làm sao có chuyện thù oán được?

Nàng trầm ngâm một lát, nói tiếp:

– Phụ thân và sư phụ ta mỗi khi nhắc đến Hồ tiên sinh đều bảo Hồ tiên sinh y thuật như thần, thời nay không một ai sánh kịp, chỉ tiếc ở trong Minh giáo, đi theo tà đạo. Phụ thân và sư phụ của ta cũng không quen biết Hồ Thanh Ngưu, tại sao y… y lại hại ta nhỉ?

Trương Vô Kỵ liền thuật hết việc đêm qua Hồ Thanh Ngưu vào chòi lén bỏ thuốc độc vào chén thuốc, rồi nói:

– Điệt nhi ngửi thang Bát tiên, thấy xộc lên mùi Thiết Tuyến thảo và Thấu Cốt khuẩn. Hai vị thuốc đó vốn có thể trị thương, song độc tính cực mạnh, chỉ dùng với liều lượng chút ít, nhất là rất kỵ dùng với các vị trong Bát Tiên thang, nếu uống chung sẽ rất hại, có thể không chết, nhưng khiến bệnh dây dưa khó trị.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Điệt nhi bảo cả mười bốn người kia cũng bị hạ độc thì việc này quái dị thật. Nếu bảo phụ thân ta hoặc phái Nga Mi vô tình đắc tội với Hồ Thanh Ngưu, không lẽ cả mười bốn người kia cũng thế sao?

Trương Vô Kỵ hỏi lại:

– Kỷ cô cô, Hồ Điệp cốc là nơi vô cùng kín đáo, tại sao cô cô biết mà tìm đến? Chủ nhân của Kim Hoa đả thương cô cô là ai vậy? Mấy chuyện đó không liên quan tới điệt nhi, đáng ra không nên hỏi, nhưng sự việc trước mắt quá rắc rối, mong cô cô đừng trách.

Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, hiểu ý Trương Vô Kỵ ngại chuyện này có liên quan đến việc nàng chưa lấy chồng mà đã có con, e nói ra xấu hổ, bèn đáp:

– Điệt nhi cứu sống ta, ta còn giấu điệt nhi làm chi? Huống hồ điệt nhi đối xử quá tử tế với ta và Bất Hối, tuy điệt nhi còn ít tuổi, song nỗi khổ tâm trong lòng ta, trên đời này ta không có ai thân thiết để thổ lộ ngoài điệt nhi ra.

Nói tới đây, Hiểu Phù không cầm được nước mắt. Nàng lấy khăn tay lau nước mắt, nói tiếp:

– Hơn hai năm trước ta và một vị sư tỷ có mối bất hòa nên ta không dám trở về gặp sư phụ, cũng không dám về nhà mình…

Trương Vô Kỵ nói:

– Hừ, cái mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân thật là tệ hại! Cô cô không việc gì phải sợ mụ ta cả.

Kỷ Hiểu Phù kinh ngạc:

– Ồ, sao điệt nhi lại biết?

Trương Vô Kỵ bèn kể lại chuyện đêm đó cậu và Thường Ngộ Xuân ẩn trong rừng đã thấy Kỷ Hiểu Phù cứu Bành hòa thượng ra sao. Kỷ Hiểu Phù lại buồn bã thở dài, nói:

– Muốn người ta không biết, trừ phi đừng có làm! Tai mắt người đời, thật không sao che giấu nổi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Cô cô, Ân lục thúc tuy là người rất tốt, nhưng nếu cô cô không thích, không lấy lục thúc thì cũng không sao. Khi nào gặp lục thúc, điệt nhi sẽ xin lục thúc đừng ép buộc cô cô làm chi.

Kỷ Hiểu Phù nghe Trương Vô Kỵ nói thật hồn nhiên, coi mọi sự trên đời nhẹ nhàng như thế, thì cười gượng, thong thả nói:

– Vô Kỵ, không phải cô cô có ý phụ bạc Ân lục thúc đâu, sự việc hồi đó không có cách nào khác, nhưng… nhưng cô cô cũng không có gì phải ân hận…

Nhìn khuôn mặt thơ ngây hồn nhiên của Trương Vô Kỵ, Kỷ Hiểu Phù nghĩ thầm: “Thằng bé này tấm lòng trong trắng, chuyện ái tình nam nữ ta đừng kể với nó thì hơn, vả lại chuyện trước mắt cũng chẳng liên quan gì sự việc sự việc đó cả”. Liền nói tiếp:

– Sau khi có chuyện bất hòa với Đinh sư tỷ, ta không về núi Nga Mi mà đưa Bất nhi đi ẩn cư ở núi Thuấn Canh, cách xa hơn ba trăm dặm về phía tây. Hai năm qua, ngày ngày chỉ bầu bạn với tiều phu thôn quê, mọi chuyện yên ổn cả. Nửa tháng trước, ta dẫn Bất nhi lên chợ thị trấn mua vải, định may cho bé vài cái áo, thì thấy trên góc tường có hình vẽ bằng phấn trắng vòng hào quang và một thanh kiếm nhỏ. Đó là tín hiệu triệu tập đồng môn của phái Nga Mi. Ta nhìn thấy tín hiệu đó thì vô cùng kinh ngạc. Suy nghĩ một hồi, ta tuy bất hòa với Đinh sư tỷ, song không phải lỗi ở ta, ta cũng không làm việc gì khi sư phản môn, nay nhìn tín hiệu đồng môn lâm nạn, không thể không tới cứu giúp. Thế là ta theo tín hiệu chỉ đường, đi tới Phụng Dương.

Ở trong thành Phụng Dương lại thấy có tín hiệu, ta bèn dắt Bất Hối đến Lâm Hoài tửu lâu, chỉ thấy trên tửu lâu đã có bảy tám nhân sĩ võ lâm, Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp của phái Không Động, Tiết Công Viễn của phái Hoa Sơn cùng hai sư đệ cũng trong số đó, song không thấy ai là đồng môn phái Nga Mi cả.

Trước kia ta từng gặp Giản Tiệp và Tiết Công Viễn, khi ta hỏi nguyên do, họ bảo họ cũng nhìn thấy tín hiệu triệu tập đồng môn, liền tìm đến đây, còn vì chuyện gì thì bọn họ không hề hay biết.

Hôm ấy ta chờ cả ngày cũng không thấy đồng môn phái Nga Mi đâu cả, chỉ thấy lục tục kéo đến một số người khác thuộc Thần Quyền môn, phái Cái Bang, ai cũng bảo nhận được tín hiệu của đồng môn tới Lâm Hoài tửu lâu tụ hội. Hôm sau lại thêm mấy người nữa, nhưng toàn là người nhận tín hiệu chứ không phải là người đưa ra tín hiệu.

Mọi người bàn với nhau, ai cũng nghi ngờ: chẳng lẽ đều bị kẻ địch đùa bỡn?

Nhưng tất cả mười lăm người tụ tập tại Lâm Hoài tửu lâu, bao gồm chín môn phái, mỗi môn phái truyền tín hiệu dĩ nhiên khác hẳn nhau, lại giữ nghiêm bí mật, phải là người cùng môn phái mới hiểu hàm ý, chứ người ngoài nhìn thấy cũng chẳng hiểu thế nào. Nếu quả có kẻ địch ngầm lập mưu, không lẽ hắn biết được ám hiệu của cả chín môn phái sao? Ta dẫn theo Bất nhi, ngại gặp hung hiểm, hơn nữa cũng ngại gặp đồng môn, giờ thấy không phải đồng môn cầu cứu, bèn dắt Bất nhi toan ra về.

Ta đang định đi xuống tửu lâu thì bỗng nghe tiếng cộc cộc như có người dùng gậy gõ vào cầu thang, tiếp đến tiếng ho liên hồi, một bà lão lưng còng, tóc bạc như cước, đi lên. Bà lão đi vài bước lại ho vài tiếng, trông rất khổ sở, dìu bà lão bên cánh tay trái là một thiếu nữ mười hai, mười ba tuổi. Ta thấy bà lão già nua, lại bệnh hoạn, bèn đứng tránh sang một bên nhường bà lão lên trước. Thiếu nữ thần thanh cốt tú, diện mạo vô cùng xinh xắn. Bà lão tay phải chống một cây gậy bằng gỗ trắng, mặc áo vải gai, rõ là một bà già nhà nghèo, nhưng chuỗi tràng hạt bằng vàng trên tay trái thì sáng lấp lánh, ta nhìn kỹ lại thấy mỗi hạt trên chuỗi tràng hạt đó là một bông mai đúc bằng vàng… Trương Vô Kỵ nghe tới đây thì nhịn không nổi, liền hỏi xen vào:

– Bà lão ấy chắc là chủ nhân của Kim Hoa?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Phải! Nhưng lúc ấy có ai ngờ được!

Hiểu Phù lấy trong bọc ra một bông mai nhỏ đúc bằng vàng giống y hệt Kim Hoa mà bữa trước Trương Vô Kỵ đã cầm vào cho Hồ Thanh Ngưu xem. Trương Vô Kỵ cảm thấy quá lạ, mấy hôm rày cậu cứ tưởng chủ nhân của Kim Hoa phải là một kẻ hung ác dữ tợn, hình thù đáng sợ, giờ nghe Kỷ Hiểu Phù kể, hóa ra chỉ là một bà lão già nua bệnh hoạn, thật là ngoài sức tưởng tượng của cậu.

Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:

– Bà lão ấy lên lầu, lại ho rũ rượi một trận. Thiếu nữ dìu một bên, nói: “Bà ơi, bà uống thuốc nhé?” Bà lão gật đầu, thiếu nữ lấy ra một cái bình nhỏ, đổ ra vài viên thuốc, bà lão nhai trệu trạo, tụng hai câu “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”, cặp mắt già nua hấp háy, miệng lẩm bẩm: “Chỉ có mười lăm người, hừ, ngươi thử hỏi xem, phái Võ Đang và phái Côn Luân có ai đến không?”

Lúc bà lão lên lầu, chẳng ai để ý, giờ bỗng nghe bà lão nói thế, mấy vị thính tai liền ngoảnh cả lại nhưng chỉ thấy bà lão ốm yếu nghèo hèn nên cứ tưởng tai mình nghe lầm. Thiếu nữ cao giọng nói: “Này, bà bà hỏi các vị, phái Võ Đang và phái Côn Luân có ai tới đây hay không?” Tất cả mọi người ngẩn ra, không ai trả lời. Lát sau, Giản Tiệp phái Không Động mới nói:

– Tiểu cô nương, cô hỏi gì vậy?

Thiếu nữ nói:

– Bà bà hỏi, tại sao chưa thấy đệ tử của hai phái Võ Đang và Côn Luân?

Giản Tiệp hỏi:

– Bà cháu cô là ai?

Bà lão gập người ho sù sụ một hồi.

Đột nhiên một luồng kình phong ào tới trước ngực ta. Luồng kình phong ấy không biết từ phía nào đánh tới, chỉ cảm thấy nhanh lạ thường, ta vội giơ chưởng chống đỡ, lập tức thấy tức ngực, khí huyết dồn lên, đứng không vững, phải ngồi bệt xuống sàn, nôn ra mấy ngụm máu tươi. Ta đang hoang mang thì thấy bà lão thân hình phiêu động, tung chưởng phía này, đấm quyền phía kia, miệng vẫn ho, trong giây lát đánh ngã nốt mười bốn người còn lại trong tửu lâu. Bà lão xuất thủ bất ngờ, thân pháp quá lanh lẹ, kình lực mạnh mẽ, cả mười lăm người không ai đỡ được một chiêu nửa thức nào cả. Kẻ thì bị điểm huyệt, kẻ thì bị chấn thương tạng phủ. Bà lão kia liên tiếp vung tay trái, từng đóa kim hoa trong chuỗi tràng hạt phóng đi, cắm vào cánh tay cả mười lăm người. Rồi bà lão quay sang vịn vào thiếu nữ, miệng niệm “A Di Đà Phật!” run rẩy đi xuống lầu. Chỉ nghe tiếng gậy của bà lão chống lộc cộc chầm chậm vào bậc thang, mỗi bước một xa dần, xen lẫn tiếng ho khan.

Kỷ Hiểu Phù kể tới đây thì Dương Bất Hối đã làm được một cái vòng đội đầu bằng hoa, cười thích thú chạy lại, nói:

– Mẹ, cái này cho mẹ đội này.

Đoạn con bé đội ngay lên đầu mẹ.

Kỷ Hiểu Phù cười, kể tiếp:

– Lúc ấy trên Lâm Hoài tửu lâu cả mười lăm người đều nằm ngổn ngang dưới sàn, có người rên rỉ, có người hổn hển thở không ra hơi…

Dương Bất Hối sợ hãi, nói:

– Mẹ kể chuyện lão bà bà độc ác ấy ư? Đừng kể, đừng kể, con sợ lắm.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Bé ngoan, chạy đi làm cho Vô Kỵ ca ca một cái chuỗi hoa xem nào.

Dương Bất Hối nhìn Trương Vô Kỵ, hỏi:

– Ca ca thích màu gì?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Nếu có hoa màu đỏ, thêm cả màu trắng nữa, bông càng lớn càng tốt.

Dương Bất Hối dang hai tay hỏi:

– Lớn bằng ngần này à?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Được, cỡ đó.

Dương Bất Hối vỗ tay, chạy đi, nói:

– Muội làm xong, ca ca phải đội đấy.

Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:

– Trong lúc ta đang nửa tỉnh nửa mê lại thấy khoảng hơn chục người, toàn là tửu bảo, chưởng quỹ, nấu bếp của tửu lâu tới khiêng tất cả xuống nhà bếp. Bất Hối thì sợ quá nên con bé cứ khóc và theo sát bên ta. Tên chưởng quỹ tay cầm một tờ giấy, chỉ Giản Tiệp nói: “Bôi thuốc cao vào đầu lão này”. Tức thì một tên tửu bảo dùng thuốc cao đã chuẩn bị sẵn bôi lên đầu Giản Tiệp. Tên chưởng quỹ xem xem tờ giấy, chỉ một người khác: “Chặt tay phải tên này ráp qua tay bên trái”. Hai tên đầu bếp dùng dao sắc cứ thế mà làm. Đến lượt ta, may quá không bị thứ hình phạt quái dị nào, chỉ phải uống một bát nước ngòn ngọt. Ta biết trong đó có chất kịch độc, nhưng lúc ấy số phận nằm ở tay kẻ khác, đâu có thể chống cự?

Sau khi cả mười lăm người bị chúng thực thi khổ hình, tên chưởng quỹ nói: “Các vị người nào cũng đã bị các chứng bất trị, không ai sống nổi quá mươi bữa nửa tháng. Nhưng chủ nhân của Kim Hoa bảo rằng lão nhân gia với các vị vốn không thù không oán gì, thấy các ngươi rất đáng thương nên mở lòng từ bi chỉ cho một con đường sống. Các ngươi hãy mau tới bên hồ Nữ Sơn ở Hồ Điệp cốc, cầu khẩn một người có ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên tên là Hồ Thanh Ngưu chữa trị cho. Nếu người ấy bằng lòng ra tay, các ngươi còn có hi vọng sống sót; nếu không thì trên thế gian này chẳng ai cứu nổi các ngươi. Gã Hồ Thanh Ngưu còn có ngoại hiệu Kiến Tử Bất Cứu, các ngươi mà không hết mực khẩn cầu, gã sẽ chả chịu cứu chữa đâu. Các người hãy bảo với Hồ Thanh Ngưu rằng chủ nhân của Kim Hoa không lâu nữa sẽ đến tìm gã, nói gã mau mau chuẩn bị hậu sự đi là vừa”.

Đoạn tên chưởng quỹ chỉ dẫn lộ trình, thế nên cả bọn cùng kéo đến đây.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng lạ, nói:

– Kỷ cô cô, như thế thì cả bọn chưởng quỹ, tửu bảo, đầu bếp đều là đồng bọn của mụ già độc ác kia ư?

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Xem ra bọn chúng đúng là thủ hạ của mụ ta, tên chưởng quỹ cứ theo những điều viết trong tờ giấy của mụ ta mà thực thi khổ hình. Đến giờ ta vẫn chưa hiểu tại sao mụ lại làm những trò quái dị đó? Nếu có thù oán với bọn ta, muốn lấy mạng bọn ta cũng chỉ cần phẩy tay một cái là xong. Nếu muốn bọn ta khổ sở hơn, vậy sau khi đầu độc, cớ sao lại còn chỉ đường tìm đến Hồ tiên sinh xin chữa trị?! Lại bảo chính mụ ta không lâu nữa sẽ đến tìm Hồ tiên sinh báo thù. Chẳng lẽ cứ phải dùng đủ cách kỳ quái đối với bọn ta để thử tài cứu chữa của Hồ tiên sinh?

Trương Vô Kỵ trầm ngâm một hồi, nói:

– Nếu Kim Hoa bà bà muốn tìm Hồ tiên sinh để gây sự, về lý mà nói, Hồ tiên sinh phải chữa trị cho mọi người rồi cùng hợp sức chống đại địch. Vì thế Hồ tiên sinh miệng bảo không chữa, song vẫn chỉ dẫn điệt nhi cách chữa trị, đem áp dụng thì thấy quả nhiên cực kỳ công hiệu. Như vậy là bề ngoài bảo không cứu, nhưng bên trong lại ngầm mượn tay điệt nhi cứu người. Thế nhưng Hồ tiên sinh đã dạy điệt nhi chữa cho mọi người gần khỏi rồi, nửa đêm tiên sinh lại lén lút hạ độc làm cho mọi người sống dở chết dở, hành động đó thật là quái dị.

Hai người trò chuyện hồi lâu mà vẫn không hiểu nổi nguyên do. Dương Bất Hối đã làm xong một cái vòng hoa lớn đội lên đầu Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Kỷ cô cô, từ rày trừ phi đích thân điệt nhi mang thuốc tới cô cô hãy uống, nhất thiết chớ uống thứ khác. Ban đêm, cô cô nhớ để sẵn binh khí bên người đề phòng có kẻ hãm hại. Trước mắt cô cô chưa thể đi được, chờ điệt nhi làm ít thuốc tễ cho cô cô uống, khi không còn nội thương nữa mới tìm cách đưa Bất Hối trốn đi.

Kỷ Hiểu Phù gật đầu, nói:

– Vô Kỵ, tâm địa lão họ Hồ khó lường như thế, điệt nhi ở chung với lão ta không phải là hay, chi bằng chúng ta cùng trốn đi là hơn.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ồ, Hồ tiên sinh đối với điệt nhi trước giờ rất tử tế! Lúc đầu tiên sinh bảo rằng sau khi chữa khỏi âm độc trong cơ thể điệt nhi là sẽ ra tay giết điệt nhi. Nay tiên sinh chữa không xong, thành thử chẳng cần phải ra tay với điệt nhi làm chi. Kể ra bây giờ chúng ta trốn đi là hay nhất, nhưng việc chữa trị nội thương cho cô cô, điệt nhi còn vài điều chưa rõ, phải thỉnh giáo thêm Hồ tiên sinh đã.

Kỷ Hiểu Phù nói:

– Lão đã ngầm hạ độc ta, chỉ e khi chỉ dẫn cho điệt nhi, lão sẽ cố ý nói sai đi không chừng.

Trương Vô Kỵ nói:

– Không hẳn thế! Những phương pháp Hồ tiên sinh chỉ dẫn cho điệt nhi đều hiệu nghiệm như thần; nếu có chỗ sai, điệt nhi sẽ nhận biết ngay. Lạ nhất là ở điểm này. Điệt nhi nghĩ rằng nếu Kim Hoa bà bà muốn gây sự với Hồ tiên sinh, mà tiên sinh thì đang bị bệnh, cho nên điệt nhi không nỡ bỏ tiên sinh mà đi. Nhưng xem ra Hồ tiên sinh giả vờ bệnh đấy thôi.

*

*     *

Đêm hôm ấy, Trương Vô Kỵ nằm nhưng không ngủ, đến canh ba quả nhiên lại nghe tiếng chân Hồ Thanh Ngưu từ trong buồng đi ra, sang cái chòi của Kỷ Hiểu Phù để bỏ thuốc độc. Cứ thế ba hôm liền, Kỷ Hiểu Phù vì không uống thuốc có độc nên bệnh tình thuyên giảm rất nhanh. Còn bọn Giản Tiệp, Tiết Công Viễn thì cứ lúc nặng lúc đỡ, mấy kẻ tính nóng nảy đã công khai tỏ giọng oán thán, chê Trương Vô Kỵ y thuật kém cỏi. Trương Vô Kỵ chẳng buồn để tâm, định bụng chỉ một đêm nữa thôi, rồi sẽ cùng hai mẹ con Kỷ Hiểu Phù trốn đi thật xa, vì chất âm độc trong cơ thể không trừ được, cũng chả nên về núi Võ Đang làm gì cho thái sư phụ và các vị sư bá sư thúc thêm đau lòng. Thôi tìm một chốn thật hoang vu lẳng lặng mà chết là xong.

Tối đó lúc đi ngủ, Trương Vô Kỵ nghĩ sáng mai mình ra đi, Hồ Thanh Ngưu tuy cổ quái, song đối với cậu tử tế, không nhờ có tiên sinh chữa trị, làm sao mình sống được tới ngày hôm nay? Hơn hai năm qua lại được tiên sinh dạy cho biết bao y thuật, sống chung một nhà, nay sắp biệt ly thì trong lòng không khỏi lưu luyến, bèn đến trước phòng Hồ Thanh Ngưu vấn an vài câu. Lại nghĩ Kim Hoa bà bà nay mai tới đây sinh sự, không biết Hồ tiên sinh đối phó cách nào, tâm tư không khỏi lo lắng, nói:

– Hồ tiên sinh, tiên sinh sống bấy lâu ở Hồ Điệp cốc chẳng lẽ không thấy chán hay sao? Chi bằng hãy đi nơi khác cho khuây khỏa?

Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:

– Ta đang bệnh, làm sao đi được?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kiếm một cỗ xe là đi được thôi. Chỉ cần dùng vải che kín cửa xe, không cho gió lùa vào là ổn. Nếu tiên sinh muốn đi, vãn bối sẽ theo hầu.

Hồ Thanh Ngưu thở dài:

– Hài tử, đa tạ hảo tâm của ngươi! Thiên hạ tuy rộng lớn, nhưng e rằng ở đâu cũng thế cả thôi. Mấy hôm nay ngươi cảm thấy trong ngực thế nào? Ở đan điền hàn khí có xông lên hay không?

Trương Vô Kỵ nói:

– Hàn khí mỗi ngày một nặng, không thuốc gì trị được, thôi đành phó mặc.

Hồ Thanh Ngưu im lặng một lát, rồi nói:

– Để ta cho ngươi một bài thuốc cứu mạng như sau: dùng Đương Quy, Viễn Chí, Sinh Địa, Độc Hoạt, Phòng Phong năm vị, đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc vì thấy năm vị trên chẳng liên quan gì tới bệnh tình của mình, dược tính còn xung đột nhau là đằng khác, dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn càng khó hiểu, bèn hỏi:

– Tiên sinh, mấy vị đó, liều lượng ra sao?

Hồ Thanh Ngưu nổi giận nói:

– Liều càng cao càng tốt. Ta đã nói rồi, hãy mau mau xéo đi!

Hai năm vừa qua, mỗi lần Hồ Thanh Ngưu cùng Trương Vô Kỵ đàm luận y lý, dược tính, đều coi cậu nửa là học trò, nửa là bằng hữu, cung cách rất nhã nhặn; lúc này lại dùng lối nói năng bất nhã. Trương Vô Kỵ vừa nghe đã thấy máu nóng dâng lên, cậu quay về phòng ngủ, nghĩ thầm: “Mình có thiện chí khuyên lão ta đi xa tránh họa, để khỏi vô cớ bị sỉ nhục, vậy là lão ta lại cho mình một bài thuốc tầm bậy, tưởng dễ lừa được mình đấy ư?” Trương Vô Kỵ nằm trên giường, nghĩ đến câu nói bất nhã của Hồ Thanh Ngưu, đang lơ mơ sắp ngủ thiếp đi, chợt nhớ lại “Đương Quy, Viễn Chí… liều càng cao càng tốt, nghĩa là sao? Hay là… hay là Hồ tiên sinh muốn bảo Đương Quy là “Hãy đi về đi”?

Khi đã nghĩ ra Đương Quy là “Hãy đi về đi”, bèn nghĩ Viễn Chí tức là “Chí ở phương xa”, “cao chạy xa bay”, Sinh Địa và Độc Hoạt thì ý đã quá rõ, là phải có đất sống, mới có thể sống được, còn Phòng Phong là gì? Ồ, nghĩa là đề phòng tiết lộ phong thanh. Lại nói đến canh hai dùng Xuyên Sơn Giáp làm thuốc dẫn, uống ngay đi”, Xuyên Sơn Giáp tức là theo đường tắt xuyên rừng mà đào tẩu, đừng theo đường chính, hơn nữa phải trốn ngay vào canh hai này.

Nghĩ đến đây, Trương Vô Kỵ thấy bài thuốc quái dị của Hồ Thanh Ngưu đã giải được, liền ngồi bật dậy, song lại nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh đã biết đại họa sắp ập đến, có thiện ý bảo mình trốn đi ngay; song lúc này kẻ địch chưa tới, sao tiên sinh không nói thẳng cho mình biết, lại phải dùng mật ngữ đánh đố như thế? Giả sử mình không giải được, hóa ra hỏng việc ư? Bây giờ qua canh hai rồi, mình phải chạy thôi”. Nghĩ rằng Hồ Thanh Ngưu hẳn có điều khó nói, nên những ngày qua không bỏ trốn, rất có thể tiên sinh đã ngầm bố trí cơ quan xảo diệu để đối phó với đại địch rồi. Tuy Hồ tiên sinh bảo ta “Phòng Phong”, “Độc Hoạt”, nhưng mình không thể không cứu hai mẹ con Kỷ cô cô.

Bèn rón rén ra khỏi phòng, đi sang cái chòi của Kỷ Hiểu Phù, chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù nằm trên cỏ, nhưng bên trên có một người đang khom lưng đè lên người Kỷ Hiểu Phù. Dưới ánh trăng muộn chiếu vào chòi, Trương Vô Kỵ thấy người kia đầu choàng khăn vuông, mặc áo xanh, có tấm vải xanh che mặt, chính là Hồ Thanh Ngưu thì trong khoảnh khắc, bao nhiêu nghi ngờ cũng trỗi dậy.

Chỉ thấy Hồ Thanh Ngưu tay trái bóp hai má Kỷ Hiểu Phù, ép nàng phải há miệng ra, tay phải nhét một viên thuốc vào miệng nàng. Trương Vô Kỵ thấy tình thế cấp bách, vội nhảy vào, kêu lên:

– Hồ tiên sinh, không được hại người…

Người kia kinh ngạc quay đầu lại, tay lơi ra, nghe “hự” một tiếng, lưng đã bị trúng một chưởng rất mạnh của Kỷ Hiểu Phù. Người đó ngã vật xuống, tấm vải che mặt lật sang một bên.

Trương Vô Kỵ vừa nhìn đã bất giác kinh hoảng kêu lên, thì ra người kia không phải là Hồ Thanh Ngưu, mà là một thiếu phụ trung niên, mặt hoa da phấn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.