Hồi 5 – Ðánh Chương Hàm, Võ Tín bại binh

Người cầm đầu toán quân vừa xuất hiện chính là Lưu Bang.

Từ khi Lưu Bang chém rắn ở Mang Ðãng, chiếm Phong Bái làm căn cứ, hợp quân hơn mười vạn, tiếng dậy bốn phương.

Nay nghe Hạng Lương khởi binh đánh Tần, liền cùng với Hạ Hầu Anh, Phàn Khoái, dẫn quân ra đón, định hiệp lực đánh Tần.

Hạng Lương và Phạm Tăng ra tiếp rất vui vẻ. Hai đội quân họp lại qua sông Hoài thẳng đến Vu Thai.

Trần Anh hay tin kéo quân ra tiếp đón.

Hạng Lương đem đại binh vào thành thống suất binh mã, rồi chia ra một đội, tự mình điều khiển, đến đóng nơi bờ sông Tứ Thủy để làm thế ỷ giác.

Từ đấy vua Hoài Vương đóng đô ở Vu Thai, quân thần đông đảo, quân sĩ kiêu hùng, các hào kiệt bốn phương lần lượt đến đầu phục mỗi lúc một đông hơn.

Một hôm, có người ở Hoài Âm tên Hàn Tín, chống gươm đến bờ sông Tứ Thủy, yết kiến Hạng Lương.

Hạng Lương thấy Hàn Tín gầy gò, không muốn dùng.

Phạm Tăng nói:

– Người này tuy dáng điệu gầy gò song chứa đựng một tiềm tàng về thao lược. Ngài chớ nên bỏ. Vả lại, đang lúc chúng ta chiêu hiền đãi sĩ, bỏ rơi một người có thể làm phật ý hàng trăm hào kiệt bốn phương.

Hạng Lương nể lời Phạm Tăng, cho Hàn Tín làm chấp kích lang, lưu ở dưới trướng để sai khiến.

Hàn Tín là người Hoài Âm. nhà nghèo, thường câu cá ở sông Hoài, nhưng nghề câu không đũ nuôi sống, nhiều bữa phải nhịn đói suốt ngày.

Bên cạnh nhà có người phiếu mẩu (thợ giặt) thấy Hàn Tín đói, thương dẫn về nhà cho ăn.

Hàn Tín cảm nghĩa, nói:

– Ngày sau tôi sẽ đền ơn bà.

Người phiếu mẫu mắng:

– Sức vóc đàn ông mà nuôi thân không nổi. Ta thương tình dẫn về cho ăn, có mong vì sự đền ơn của kẻ bất tài.

Tuy không vui nhưng Hàn Tín cũng lặng thinh

Lại một hôm, Hàn Tín ra chợ bán cá, có một anh hàng thịt thấy Hàn Tín quá nghèo nàn dùng lời khinh bỉ:

– Này Tín, mày kiếm không đủ cơm nuôi bữa, cái thân trai như mày thực đê tiện, thế mà ngày nào cũng đeo gươm đi khắp phố phường để làm gì? Mầy có dám đâm ta không? Nếu không dám thì quăng gươm xuống luồn trôn ta đây, chớ làm ra mặt hào kiệt!

Hàn Tín nghe nói đỏ mặt. Sau một lúc ngẫm nghĩ Tín đành chịu khúm núm luồn qua trôn gã hàng thịt.

Cả chợ trông thấy cười ồ, chê Tín là đứa nhút nhát.

Duy có một người tên Hứa Phụ vốn giỏi nghề xem tướng, nói nhỏ với Tín:

– Anh có tướng Vương hầu, tuy khổ cực, song ngày sau gặp cơ hội có thể phú quý tột bực.

Hàn Tín cười nhạt, đáp:

– Tấm thân khốn nạn, tài hèn không đủ nuôi thân có đâu nói đến chuyện phú quý.

Kịp lúc Hạng Lương khởi binh đánh Tần, Hàn Tín tìm đến tiến thân, không ngờ Hạng Lương khinh bỉ cho làm chức chấp kích lang lẫn lộn trong đám quân hầu.

Tuy buồn bực nhưng Hàn Tín không lấy thế làm bất mãn.

Quân Sở đóng nơi Vu Thai độ vài tuần, rồi bắt đầu tiến đánh các vùng lân cận. Ðánh đến đâu được đến đấy, uy danh lừng lẫy, tiếng đồn đến Hàm Dương, Triệu Cao lo sợ, cho gọi Chương Hàm đến nói:

– Hiện nay thiên hạ loạn lạc, giặc giã nổi lên như ong, Hạng Lương lập vua nước Sở, mua chuộc lòng dân, lại họp với quân Lưu Bang đóng ở Vu Thai, mười phần lợi hại. Tướng quân thống suất binh mã, thế mà không chịu đem quân đi đánh dẹp là ý làm sao?

Chương Hàm nói:

– Mấy ngày nay được tin cáo cấp, tôi toan vào bệ kiến xin xuất quân, nhưng Thừa Tướng đòi hội nghị, thành thử chậm trễ. Vậy để tôi ra quân dẹp loạn, không trì hoãn.

Nói xong, kiếm điểm quân mã, cùng với Tư Mã Hân, Ðổng Ể và Lý Do kéo ba mươi vạn binh ròng ra cửa Hàm Cốc, thẳng đến phương Ðông đánh nước Ngụy trước, rồi sau mới đánh Sở.

Quân Ngụy thấy quân Tần quá mạnh, không dám giao phong, vội sai sứ đến hai nước Tề và Sở cầu cứu.

Vua nước Tề là Ðiền Chiêm, đích thân dẫn quân đi cứu Ngụy.

Trong lúc đó thì nước Lỗ vừa hạ được Trương Dương, thu được hàng tướng là Hạng Minh và ba vạn quân mã.

Hoài Vương liền sai Hạng Minh đem quân sang đất Ngụy đóng đồn để giữ thanh thế.

Chương Hàm một mặt sai Tư Mã Hân chống quân Tề, một mặt sai Ðổng Ể cự với quân Sở, còn mình dẫn đại binh đi hậu vệ, phòng cứu ứng.

Tư Mã Hân kéo quân đến, gặp đạo quân vua Tề là Ðiền Chiêm, liền chia quân làm hai đạo, phục hai bên đường, rồi dẫn một toán khinh binh đến khiêu chiến.

Ðiền Chiêm thấy quân của Tư Mã Hân quá ít, bèn đốc quân hỗn chiến.

Ðánh được vài mươi hiệp Tư Mã Hân giả thua bỏ chạy, Ðiền Chiêm đuổi theo được vài dậm, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, tức thì quân phục hai bên đường túa ra đánh. Ðiền Chiêm biìết mình mắc mưu, vội thu quân về, chẳng ngờ quân Tần dùng cung tên bắn loạn xạ, Ðiền Chiêm trúng tên tử trận. Tư Mã Hân chém lấy thủ cấp.

Trong lúc đó Ðổng Ể kéo quân đánh quân Sở gặp tướng Hạng Minh trên đất Ngụy.

Quân Ðổng Ể từ xa kéo đến, binh tướng mỏi mệt chưa kịp nghỉ ngơi thì bị Hạng Minh đến đánh. Ðổng Ể không cự nỗi, phải kéo quân bỏ chạy ngoài ba mươi dặm mới dám hạ trại.

Ðóng quân chưa yên thì Hạng Minh lại kéo đến truy kích, Ðổng Ể bị thua to, thu góp tàn quân chạy trở về.

Trong cơn nguy cấp may gặp toán hậu quân của Chương Hàm đến kịp.

Chương Hàm sai Lý Do dẫn một toán quân ra tiếp cứu.

Hạng Minh đuổi đánh Ðổng Ể suốt ngày đêm, người mỏi mệt nên giao chiến với Lý Do chưa đầy ba hiệp, bị Lý Do chém rơi đầu.

Chương Hàm đắc thắng, họp ba đạo quân làm một đến vây thành vua Ngụy.

Ngụy vương hay tin quân cứu bại trận, cùng Thái tử Ngụy Báo bỏ thành, thoát ra cửa Tây chạy trốn.

Chương Hàm đem quân vào thành phủ dụ nhân dân, rồi kéo quân đến đóng đồn nơi Ðông A.

Tàn quân của Hạng Minh chạy về cáo cấp với Hoài Vương.

Hoài Vương kinh hãi, triệu các tướng hội kiến.

Hạng Lương tâu:

– Hạ thần xin lãnh một đạo quân đến lấy đầu Chương Hàm trước, rồi sẽ lấy đất Tần sau.

Hoài Vương chuẩn tấu Hạng Lương dẫn Hạng Vũ, Phạm Tăng và một số tướng cận, thống suốt hai mươi vạn tinh binh, kéo đến Ðông A cách thành ba mươi dặm hạ trại.

Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ ra khiêu chiến. Hạng Vũ bày binh bố trận xong thúc ngựa đến bên thành gọi lớn:

– Chưong Hàm! Hãy ra đây nạp mạng!

Chương Hàm nổi giận lên ngựa khai thành.

Hạng Vũ nói:

– Vua Tần nhà bây vô đạo, trăm họ than vãn. Kẻ nịnh thần Triệu Cao lung lạc, chẳng bao lâu nhà Tần bị diệt, điều ấy đã hiển nhiên, cớ sao chúng bây không rõ.

Chương Hàm nói:

– Ta đem binh thiên triều dẹp loạn, đi đến đâu trúc chẻ ngói tan. Chúng bay chỉ là bọn giặc cỏ, tài cán gì mà phách lối.

Hạng Vũ nổi giận cùng Chương Hàm giao chiến.

Ðánh được ba mươi hiệp, Chương Hàm đuối sức bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo ước mươi dặm, bỗng gặp tên kiện tướng của nhà Tần là Quý Do đem một toán quân đến chặn đường, giải thoát cho Chương Hàm.

Hạng Vũ hét lên một tiếng, Quý Do cả người bủn rủn, lùi ngựa hơn bốn mươi thước, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo. Tướng Tần Tư Mã Hân và Ðổng Ể trông thấy vội tiếp cứu, nhưng đánh chỉ mới ba hiệp đã phải bỏ chạy.

Hạng Vũ quyết đuổi theo bát sống, Hạng Lương sợ Hạng Vũ vào sâu nội địa của địch e nguy hiểm, liền sai Hoàn Sở và Anh Bố ra lệnh thu quân.

Chương Hàm thua to, lui về hơn năm mươi dặm mới dám hạ trại, và bàn với các tướng:

– Hạng Vũ sức mạnh như thần nếu dùng sức khó thắng nổi. Nay phải cố thủ, chờ cho quân Sở trễ biếng, thừa cơ đánh bất ngờ mới phá được.

Các tướng cho là phải. Từ đó, Chương Hàm cố thủ, không chịu ra quân.

Hạng Vũ dẫn quân trở về yết kiến Hạng Lương, và nói:

– Chương Hàm vừa thua một trận sợ uy quân ta cố thủ không dám ra quân. Ngàv mai quân ta chia làm ba đạo đánh úp ba mặt mới có thể tiêu diệt trại địch.

Hạng Lương gật đầu nói:

– Chương Hàm là một lão tướng, tuổi già sức yếu, không làm nên việc gì.

Liền mở tiệc khao thưởng ba quân, hẹn ngày mai xuất quân đột chiến.

Rạng ngày, Hạng Lương sai Hạng Vũ lãnh đạo trung quân, Anh Bố lãnh đạo tả quân kéo về hướng Tây, Lưu Bang lãnh đạo hữu quân kéo về hướng Ðông, ba đạo quân đánh trống reo hò, áp vào trại địch.

Chương Hàm thấy ba đạo quân kéo đến, liệu sức địch không nổi liền nhổ trại rút lui.

Ba đạo quân Sở đuổi theo truy kích, đánh quân Tần đứt làm ba đoạn.

Chương Hàm chạy ra Ðịnh Ðào, Tư Mã Hân, Ðổng Ể chạy ra Bộc Dương, Quý Do chạy ra Ung Khâu.

Hạng Vũ đuổi theo Quý Do vừa đến Ung Khâu thì chém được Quý Do, quân Tần bị chết thây phơi chật đất.

Lưu Bang đuổi Tư Mã Hân chay đến Bộc Dương, Tiêu Hà bàn:

– Giặc cùng không nên đuổi gấp e chúng liều chết chiến thắng ta. Chi bằng cứ đóng quân nơi Bộc Dương tùy cơ tác chiến.

Lưu Bang nghe lời, đóng quân lại không đuổi nữa.

Còn Anh Bố đuổi Chương Hàm đến Ðịnh Ðào, Chương Hàm đóng cửa thành thủ thế. Anh Bố hạ trại xong, cởi ngựa đến dưới thành khiêu chiến suốt mấy ngày, Chương Hàm nhất định không xuất quân. Anh Bố chưa biết tính sao, còn đang bối rối, bỗng có tin Hạng Lương kéo binh đến tiếp ứng.

Anh Bố mừng rỡ, ra khỏi trại tiếp đón.

Hạng Lương nói:

– Chương Hàm thế cùng sức yếu, chạy đến thành này lánh nạn, ta phải tiêu diệt ngay, nếu để lâu ngày cứu binh đến thì khó trừ đặng.

Anh Bố nói:

– Chương Hàm tuy thất trận, song binh lực còn mạnh, đánh gấp khó thắng. Ý tôi muốn đóng quân lại đây chờ cơ hội thuận tiện sẽ lấy.

Hạng Lương gắt:

– Sao ngươi làm tướng mà nhát gan như vậy. Thế quân ta đang mạnh không diệt địch còn đợi cơ hội nào?

Nói xong chia quân làm bốn đạo, đánh trống reo hò, dùng thang bắc lên mặt thành công hãm.

Chương Hàm ở trên thành trông thấy khiến quân dùng tên lửa bắn ra, bao nhiêu thang đều cháy hết.

Quân Sở chết rất nhiều, đành phải rút lui về trại.

Hạng Lương tức giận truyền đóng mấy trăm xung xa. Quyết phá thành cho được.

Xung xa đóng xong, vừa đem ra xung kích thì trên thành Chương Hàm lại truyền lấy dây xúc xích buộc vào những dùi sắt ném xuống. Bao nhiêu xe đều gãy hết.

Hạng Lương thất bại, vừa giận vừa buồn, ngày đêm thẫn thờ tính chưa ra kế.

Bấy giờ có viên chấp kích lang là Hàn Tín thấy vậy vào thưa:

– Việc quân tấn thối không nên diên trì. Nay quân ta phá thành không được mà cứ đóng mãi dưới thành, đêm ngày trễ biếng, phỏng như quân địch dò biết được, nửa đêm kéo ra cướp trại thì nguy! Ðánh thành là việc nhỏ, phòng bị là việc lớn, xin tướng quân thận trọng.

Hạng Lương hét lớn.

– Ta từ lúc khởi binh nơi Cối Kê uy danh lừng lẫy. Chương Hàm là đứa thất phu, nghe đến tên ta đã vỡ mật, còn dám mở cửa thành đem binh ra cướp trại ư! Ngươi là một tên quân hầu biết gì mà nói nhảm.

Tống Nghĩa thấy vậy cũng can:

– Hàn Tín tuy là tên quân hầu nhưng lời nói đầy thao lược, xin tướng quân chớ khi dễ. Kẻ thắng mà tự kiêu là bắt đầu nếm mùi thất bại đó.

Hạng Lương nghe Tống Nghĩa nói càng giận thêm.

Ðêm ấy, Chương Hàm dò biết quân Sở không phá thành được, sanh ra chán nản, trễ biếng, liền truyền lệnh ba quân ăn uống thật no, nai nịt chỉnh tề, im hơi lặng tiếng mở cửa thành kéo đến trại Sở.

Quân Sở bấy giờ đang ngủ say, bỗng nghe một tiếng pháo lệnh, bốn bề tiếng reo ó nổi lên vang trời dậy đất.

Hạng Lương say rượu, nằm mê mệt, không biết gì. Bọn tả hữu phải vực ra ngoài viên môn. Nhưng còn cháng voáng chưa lên ngựa kịp đã bị tướng Tần là Tôn Thắng xông đến chém một nhát rụng đầu.

Người sau có thơ nói đến Hạng Lương:

Vì nước vì dân quyết rửa thù

Phất cờ khởi nghĩa tíếng thiên thu

Sa cơ một phút, dành chung kiếp

Làm kẻ trung thần thiếu trí mưu

Hạng Lương bị giết, quân Sở rối loạn, dày xéo lên nhau mà chạy.

Tống Nghĩa, Anh Bố hết sức chống giữ nhưng không nổi, bất đắc dĩ phải bỏ trại thoát thân.

Chương Hàm toàn thắng, kéo quân thẳng đến Trần Lưu đóng đồn, thanh thế lừng lẩy.

Lưu Bang hay tin Hạng Lương thất trận vội kéo quân đến cứu ứng, nhưng không kịp, đành phải cùng Tống Nghĩa thu nhặt tàn quân kéo đến Ung Khâu rồi báo tin cho Hạng Vũ biết.

Hạng Vũ được tin Hạng Lương bỏ mình, hét lên một tiếng, ngã xỉu xuống đất.

Bọn ta hữu vội vàng đỡ dậy. Hồi lâu, Hạng Vũ mới tỉnh, vừa khóc vừa nói:

– Chú ôi! Cháu từ lúc tuổi thơ, cha mẹ mất sớm được chú nuôi dưỡng nên người. Nay sự nghiệp chưa thành, ơn chú chưa đền mà chú đã bị hại, thù này cháu quyết chẳng đội chung trời.

Các tướng đều xúm lại khuyên giải, Hạng Vũ mới nguôi dần.

Phạm Tăng nói:

– Làm tướng cầm quân ra trận chết sống lẽ thường. Nay Vũ Tín Quân dẫu qua đời, nhưng sự nghiệp càng ngày càng vững chắc. Tưóng quân cần nối chí lớn ấy, lo việc phục hưng, đem lại vinh quang cho dòng giống. Ðược vậy người chết dưới suối vàng cũng hài lòng, và nhiệm vụ báo thù của tướng quân mới tròn được.

Hạng Vũ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn, và nói:

– Tôi xin tuân lời chỉ dạy của tiên sinh.

Nói xong, khởi quân thẳng đến Ðịnh Ðào, hội với Tống Nghĩa và Lưu Bang hạ lệnh cho ba quân để khăn trắng, thu hài cốt Vũ Tín Quân tẩn liệm an táng nơi Ðịnh Ðào, rồi kéo quân đến Trấn Lưu để đánh Chương Hàm báo thù.

Nhưng, quân Sở chưa đến nơi đã được tin Chương Hàm dẫn quân sang sông đánh Triệu.

Vua Triệu là Hấp, cùng với hai tướng Trần Dư, Chương Nhĩ đem quan ra thành cự địch, nhưng đánh không lại phải lui về Cự Lộc, đóng cửa thành cố thủ và cho người sang cầu cứu nước Sở.

Tống Nghĩa bàn với Hạng Vũ:

– Chương Hàm thắng luôn mấy trận, thanh thế lừng lẫy, quân sĩ đang hăng. Còn ta, Vũ Tín Quân mới mất, vua Hoài Vương cô lập nơi Vu Thai, nếu tiến binh e bất tiện. Chi bằng trở về Thiên Ðô, qua Bành Thành để giữ thế thủ, rồi sẽ liệu sau.

Hạng Vũ đem ý ấy bàn với các tướng. Mọi người đều đồng ý.

Hạng Vũ ra lệnh thu quân trở về Vu Thai.

Vua Hoài Vương được tin Vũ Tín Quân tử trận, lòng thương xót vô cùng, cả ngày chỉ ngồi than thở.

Hạng Vũ tâu:

– Quân ta vừa bị bại, thế quân bị giảm yếu, nay phải củng cố thế thủ trước rồi sẽ tính đến thế công, xin bệ dời đô qua Bành Thành để làm thế ỷ giác, chớ nên chậm trễ.

Hạng Vũ nói vừa dứt lời, có tin nước Triệu sai sứ đến cầu cứu.

Hoài Vương cho vào yết kiến, sứ Triệu tâu:

– Quân Tần ba mươi vạn, vây thành Cự Lộc ngót một tháng trời, trong thành lương đã hết, quân sĩ mỏi mòn, chẳng bao lâu thành bị vỡ, xin đại vương thương tình cứu cấp.

Hoài Vương liền phong Tống Nghĩa làm đại tướng, Hạng Vũ làm phó tưóng, Phạm Tăng làm quân sư, thống lãnh hai mươi vạn quân đi cứu Triệu.

Quân Sở đến đóng nơi An Ðương cho người thám thính.

Qua hai ngày, Tống Nghĩa vẫn cho án binh bất động không chịu ra quân, lại sai con là Tống Tương sang làm tướng nước Tề.

Hạng Vũ lấy làm lạ, nói:

– Thành Cự Lộc sắp mất, quân ta có nhiệm vụ đến cứu, cớ sao tướng quân lại án binh bất động.

Tông Nghĩa nói:

– Quân Chương Hàm vây thành Cự Lộc đã lâu, thể nào cùng phải trễ biếng. Ta cứ đóng quân nơi đây chờ xem cái cơ suy nhược của nó. Lúc nào quân địch mỏi mệt, ta chỉ đánh một lần là xong.

Hạng Vũ hậm hực bước ra, đợi hơn một tuần cũng không thấy Tống Nghĩa động binh, hoặc có kế hoạch nào khác, ngày đêm chỉ uống rượu, say sưa.

Hạng Vũ vào nói với Tống Nghĩa:

– Quân Tần vây Triệu mười phần nguy cấp. Tướng quân cứ đóng quân nơi đây, ngày đêm say sưa làm sao thực hiện được trọng trách của mình?

Tống Nghĩa cười nhạt nói:

– Ví phỏng mặc áo dầy, cầm giáo nhọn, xông pha trận địa thì tôi không bằng ông, nhưng ngồi mà lập mưu, bày chước, chắc ông còn kém tôi.

Nói xong, Tống Nghĩa hạ lệnh cho ba quân:

– Ðâu đó phải im lìm, chớ nên hành động gì cả. Ai trái lệnh chém đầu.

Rồi đó, Tống Nghĩa lại rượu chè say sưa như cũ.

Bấy giờ vào tiết mùa đông, trời mưa dầm, rét mướt, quân sĩ đói khát, chết chóc rất nhiều.

Một hôm, Hạng Vũ lén vào trong quân để dò xem tình hình thấy quân sĩ ai cũng đem lòng oán vọng.

Hạng Vũ lập tức thẳng đến dinh Tống Nghĩa, nghiêm sắc mặt, nói:

– Tướng sĩ đều đem thân liều chết đánh Tần, bao nhiêu sinh mạng gởi vào tay tướng quân, thế mà tướng quân cứ ngồi yên hưởng lạc, không kể đến ai! Trên phụ lòng vua, dưới gây oán thù với tướng sĩ, người như vậy không đáng làm tôi xã tắc.

Tống Nghĩa nổi giận, chỉ vào mặt Hạng Vũ nói:

– Ta giữ quyền Tướng ấn, nhà người phải phục tùng,lại dám dùng lời nhục mạ ta sao?

Hang Vũ hét lên một tiếng, rút gươm chém Tống Nghĩa một nhát bay đầu rồi nói lớn:

– Tống Nghĩa đưa con sang làm tướng nước Tề, lại không tuân mệnh vua cứu Triệu, rõ là đứa phản nghịch.

Chư tướng thấy Hạng Vũ giết Tống Nghĩa đều mừng rỡ, đồng thanh nói:

– Ngươi khởi xướng lập nước Sở là tướng quân. Nay tướng quân đã giết bỏ kẻ phản nghịch thật hợp với lòng công chúng

Tướng sĩ đều một lòng tôn Hạng Vũ lên làm Thượng tướng.

Hạng Vũ nói:

– Ðiều ấy phải được mệnh vua. Bây giờ cần nhất trừ cho tuyệt loài phản phúc.

Bèn sai tướng đuổi theo bắt Tống Tương để giết.

Tống Tương sang nước Tề, còn đương tìm cách tiến thân, ở nơi quán trọ, tướng Sở tìm được chém đầu đem về nạp. Hạng Vũ làm sớ kể tội cha con Tống Nghĩa dâng về triều. Hoài Vương sai Chung Ly Muội cầm cờ Tiết đến phong Hạng Vũ làm Thượng tướng.

Từ đó, uy phong Hạng Vũ đồn khắp chư hầu.

Mọi việc đã xong. Hạng Vũ sai Anh Bố làm tiên phong, kéo quân sang sông, còn mình điểm quân đi hậu tập.

Chương Hàm nghe tin liền sai Tư Mâ Hân và Ðổng Ể kéo quân đóng nơi phía Nam để ngăn địch.

Anh Bố đến nơi, hai tướng xông ra chận đánh.

Ðánh vừa mới được ba mươi hiệp, đạo hậu quân nước Sở kéo đến, hai tướng Tần thấy Hạng Vũ thất kinh bỏ chạy. Hạng Vũ đốc binh đuổi theo cướp trại, đoạt lương thực rất nhiều, Tư Mã Hân và Ðổng Ể thoát chết chạy về miền Hà Bắc lánh nạn, đợi chờ tình thế êm dịu mới dám lần về báo tin cho Chương Hàm hay.

Hồi 6 – Hạng Vũ chín lần thắng Chương Hàm

Thắng được quân Tần, Hạng Vũ truyền họp đại binh để qua sông. Lại truyền quân sĩ chỉ mang lương thực theo đủ ăn trong ba ngày. Hễ quân qua sông rồi các chiến thuyền đều đánh đắm hết, thề quyết không trở về.

Tướng sĩ thấy Hạng Vũ quyết chí như thế, người người đều rạo rực.

Phạm Tăng và Chung Ly Muội mật bàn với Hạng Vũ:

– Tướng quân đuổi đánh Chương Hàm mà chỉ đem theo ba ngày lương, lại đắm thuyền, đạp chỗ, nếu trong ba ngày mà chưa thắng được địch tất hư việc lớn, chi bằng sai một nha tướng tâm phúc mật báo với Triệu vận lương cho để phòng trác trở, như thế mới vẹn toàn.

Hạng Vũ thuận ý, sai ngưoi đến nước Triệu báo tin.

Giữa lúc đó, hai bại tướng Tư Mã Hân và Ðổng Ể dẫn một số tàn quãn chạy về báo với Chương Hàm:

– Anh Bố kiêu dũng, chúng tôi không thể địch nổi. Hiện giờ quân Hạng Vũ đã qua sông, xin tướng quân phòng bị.

Chương Hàm liền họp các tướng Vương Ly, Sa Gian, Tô Giác, Mạnh Phòng, Hán Chương, Lý Ngô, Chương Bình, Chu Hồng, Vương Quang đến cả dưới trướng bàn luận.

Chương Hàm nói:

– Hạng Vũ là tay dũng tướng, không ai địch nổi. Bọn các ngươi, mỗi người lãnh một đội quân, chia làm chín đạo, đóng trại cách xa nhau, chờ ta ra đối địch với Hạng Vũ sẽ lần lượt tiếp ứng. Khi nào Hạng Vũ vào sâu trọng địa, cả chín đạo cùng kéo đến một lúc vây đánh, như thế may thắng nổi.

Chư tưóng vâng lời, kéo quân ra đi, ai lo phần nấy.

Chẳng bao lâu, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm ra ngựa nghênh chiến.

Hạng Vũ thấy Chương Hàm, nghiến răng, trợn mắt hét:

– Cừu nhân! Ngươi giết hại chú ta, thù ấy ta cùng ngươi quyết không đội chung trời!

Nói dứt lời vung gươm chém Chương Hàm. Chương Hàm đưa thương đỡ, nhưng Hạng Vũ chém quá mạnh làm cho ngựa Chương Hàm lui ba bước.

Ðánh được năm mươi hiệp, Chương Hàm mồ hôi ướt đẫm, nhắm không cự nổi nữa, liền quất ngựa bỏ chạy.

Hạng Vũ thúc ngựa đuổi theo độ năm dặm, bỗng có đạo quân Vương Ly xông ra tiếp cứu.

Hạng Vũ hét lớn:

– Ngươi muốn chết thế cho Chương Hàm sao?

Vương Ly cầm giáo đâm tới, Hạng Vũ đỡ ra quá mạnh làm cho Vương Ly té nhào xuống ngựa, bị quân Sở bắt trói dẫn về trại.

Chương Hàm thấy Vưong Ly bị bắt, liền phóng ngựa bỏ chạy, Hạng Vũ giục ngựa đuổi theo, nói lớn:

– Nghịch tặc! Ngươi chạy đường nào khỏi tay ta! Hãy dâng đầu tạ tội đã sát hại chú ta ngày trước.

Con ngựa Ô Truy của Hạng Vũ chạy vùn vụt như bay. Quân sĩ đều chạy theo sau, không ai theo kịp.

Chương Hàm thấy Hạng Vũ một mình đuổi theo, liền quay lại đấu chiến. Hạng Vũ quyết hạ cho được Chương Hàm, ngờ đâu có bộ tướng của Chương Hàm là Sa Nhân đem quân tiếp cứu.

Hạng Vũ tức giận, quay giáo đâm Sa Nhân.

Sa Nhân chới với bị Hạng Vũ chém một nhát té nhào xuống ngựa. Bọn nha tướng liều chết xông ra cứu thì đạo hậu quân của Hạng Vũ đã kéo đến, chém chết quân Tần vô số.

Chương Hàm nhân lúc hỗn loạn thoát khỏi vòng quân, bỏ chạy.

Hạng Vũ thấy mặt trời đã lặn, e có phục binh, nên truyền thu quân về trại.

Phạm Tăng bàn với Hạng Vũ:

– Tướng quân vào sâu nơi đất giặc, đêm nay trời nhiều mây, không trăng, quân địch có thể lợi dụng đến cướp trại tưóng quân cần đề phòng.

Hạng Vũ cho là phải, liền truyền lệnh bao nhiêu binh mã kéo sang chân núi bên kia hạ trại. Còn nơi đại trại thì chứa cỏ khô và đồ dẫn hỏa.

Lại gọi Hoàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Công, Ung Sĩ đến truyền rằng:

– Bốn người đem quân ra ngoài mai phục. Hễ thấy trong trại bốc lửa lập tức đem quân đánh vào bốn mặt, chớ cho quân địch chạy thoát.

Bốn tướng tuân lệnh kéo quân ra đi.

Hạng Vũ lại gọi riêng Anh Bố đến dặn:

– Ngươi dẫn ba ngàn quân, lén đến cách trại Chương Hàm ba dặm, phục nơi đó đừng cho chúng tiếp viện.

Hạng Vũ sắp đặt xong thì trời đã vừa khuya.

Ðêm ấy Chương Hàm thu góp tàn quân, cùng với các tướng nghị luận.

Tô Giác nói:

-Nay quân sư vừa thắng trận, khí thế đang mạnh. Hễ mạnh tất phải kiêu căng, việc canh phòng trễ biếng.

Tôi xin lãnh một toán quân kỵ, từ mé Ðông đi lẻn vào sau trại. Tướng quân dẫn đại binh đi đường Tây, đánh vào trước trại. Hai bên xung kích một lượt tất trại Sở phải mất. Chương Hàm khen phải, làm theo kế Tô Giác.

Tô Giác kéo quân đến sau trại Sở, thấy tinh kỳ xiêu vẹo trống canh chểnh mảng, lòng mừng rỡ, lẩm bẩm:

– Phen này thì dẫu có mười tướng Hạng Vũ cũng phải mất đầu.

Liền đốc quân ùa vào. chẳng ngờ đó là một trại trống không người.

Tô Giác biết mình trúng kế vội vã lui binh.

Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bốn bề lửa cháy rần rần, hai đạo binh Sở kéo đến chận đường, cầm đầu là Vũ Anh và Hoàn Sở.

Hai tướng thét lớn:

– Tần tặc, hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi, còn chờ gì nữa

Tô Giác sợ hãi, quất ngựa chạy theo đường mòn về phía hũu. Nhưng chạy chưa được bao xa, lại gặp binh Sở đón lại, tướng cầm đầu là Hạng Vũ.

Tô Giác thấy Hạng Vũ tay chân run lẩy bẩy, bị Hạng Vũ chém một nhát bay đầu.

Giữa lúc đó, Chương Hàm kéo đại binh đến trước trại, nghe tiếng quân sĩ reo ó vang lừng trong trại lửa cháy mịt trời ngỡ là quân Tô Giác đang cướp trại, liền đốc quân xông vào.

Bỗng gặp lại gặp hai tướng Sở là Ðinh Công và Ung Sĩ cản:

– Tặc tướng, ngươi đã lầm kế mà chưa chịu bó tay sao?

Chưong Hàm thất kinh, vung đao cùng với hai tướng Sở giao tranh.

Vừa đánh được mười hiệp, quân Hạng Vũ kéo đến, Chương Hàm thấy thế trận không còn giữ được, liền mở huyết lộ chạy trốn.

Các đạo quân Tần đóng lẻ tẻ, Hán Chương, Lý Ngô hay tin đến tiếp cứu, nhưng bị đạo binh phục của Anh Bố đón lại đánh tơi bời.

Hạng Vũ đuổi theo Chương Hàm giết quân Tần không biết bao nhiêu mà kể, đoạt quân trang quân dụng rất nhiều. Cho đến khi vầng đông ló dạng, Hạng Vũ mới thu quân về.

Chương Hàm về đến trại kiểm điểm quân mã, đợi đến tối sẽ thi hành diệu kế.

Ciữa lúc đó, Hạng Vũ toàn thắng, mở tiệc khao quân, người người hớn hở, rượu thịt no nê.

Phạm Tăng nói với Hạng Vũ:

– Chưong Hàm tuy thua, nhưng vốn là một mưu tướng, đêm nay thế nào cũng phục quân để phòng ta cướp trại.

Hạng Vũ nói:

– Quân sư luận rất hay. Vậy ta phải làm gì để sớm trừ chúng nó?

Phạm Tăng nói:

– Mượn kế nó làm kế mình. Ðêm nay tướng quân kéo mộ đạo binh đến đóng trước trại, giả làm thanh thế, khua chiêng, đánh trống, lại sai các đạo binh khác phục sẵn, chận những toán binh phục của địch mà đánh, như thế Chương Hàm sẽ không còn đường thoát thân.

Hạng Vũ theo lời, sai Anh Bố lĩnh một vạn quân đi về hướng Nam, Hoàn Sở lãnh một vạn quân đi về hướng Bắc. còn mình tự lĩnh ba vạn quân đi tiền đạo. Tất cả chuẩn bị sẵn sàng, đợi đến đầu canh hai khởi sự.

Ðêm ấy không trăng, ánh sao lờ mờ chiếu xuống khoảng không gian như màu sữa đục. Rừng núi phủ màu đen, các ven đường rải rác những lùm cây rậm, lấp loáng bóng người, đó là hai đạo binh phục của hai tướng Sở kéo đến.

Cảnh vật đang chìm đắm trong giấc ngủ u buồn, bỗng vang lên những tiếng quân reo, tiếng chiêng trống rợp trời.

Chương Hàm mừng rỡ, ngỡ là quân Sở dến cướp trại, liền truyền hai toán quân phục của mình xông đến bao vây. Nhưng liền lúc đó, hai cánh quân Tần bị chận lại, do hai cánh quân Sở đã phục sẵn.

Chương Hàm được tin, biết cơ mưu đã hỏng, truyền quân nhổ trại lui binh.

Hạng Vũ đuổi theo hơn hai mươi dặm thì đến nước Triệu.

Trong thành nghe tiếng quân reo biết quân Sở đến cứu, truyền khai thành để tiếp ứng,hai mặt đánh dồn lại, quân Tần không biết đường nào chạy, bị giết hơn nữa.

Chương Hàm không còn thiết gì đến quân sĩ, dẫn mấy tên kỵ mã chạy trốn về Khúc Dương.

Giải vây được nước Triệu, vua Triệu dẫn bọn Chương Nhĩ. Trần Dư ra ngoài thành đón tiếp quân Sở vào thành đại yến.

Hạng Vũ nói:

– Bây giờ chưa phải là lúc vào thành an nghỉ. Chương Hàm vừa bại trận. ta phải thừa thắng đuổi đến đất Tần, tiêu diệt lực lượng. Nếu vào thành e chậm trễ thì giờ, giặc được nghỉ ngơi, nuôi thêm thế lực, ta phải tốn thêm nhiều công phu.

Nói xong, truyền Quý Bố, Chung Ly Muội thống lãnh hai mươi vạn quân hạ trại ngoài thành Triệu, còn mình thống suất đại binh đuổi theo Chương Hàm.

Quân Hạng Vũ đi đến đâu cũng được quần chúng tiếp đón nồng hậu. Các chư hầu đều ra bái vọng hai bên đường tỏ sự biết ơn của mình đối với nước Sở.

Phạm Tăng nói vói Hạng Vũ:

– Nay Chương Hàm trốn đã xa rồi, lòng người đều ngưỡng vọng quân ta, các chư hầu phục tùng nước Sở, đó là lúc tướng quân lấy nước làm nhà, hà tất phải dấn mình trong đám mưa tên rừng giáo làm chi? Sức mạnh một người không bằng sức mạnh của toàn thể của chính nghĩa. Phương chi, mới có ba ngày, tướng quân thắng luôn chín trận, phá ba mươi vạn quân Tần, từ xưa đến nay chưa có tướng nào lập được kỳ công như vậy. Tôi thiết tưởng nay hãy tạm dồn binh ở Chương Nam để dưỡng sức quân đã. Hiện nay Triệu Cao đang chuyên quyền, áp chế vua Nhị Thế. Triệu Cao là đứa tiểu nhân, ganh tị, Chương Hàm chẳng bao lâu cũng bị hại. Chờ cho triều đình vua Nhị Thế rối loạn, ta sẽ tìm kế tiến thủ.

Hạng Vũ khen phải, nói:

– Xin tuân lời quân sư chỉ giáo.

Ðoạn. truyền đóng quân lại ở Chương Nam.

Trong lúc đó, Chưong Hàm thu nhặt tàn quân, còn lại độ mươi vạn, kéo qua Chương Hà, đóng đồn tại cửa Hàm Cốc, và làm sớ gởi về triều xin quân tiếp viện.

Triều thần hay tin Chương Hàm thua luôn chín trận, tổn thất ba mươi vạn quân, đều khiếp sợ, ăn ngủ không yên.

Triệu Cao quyền chính gồm một tay, các việc quan hệ đều giấu hết, không để lộ cho vua Nhị Thế biết.

Các quan ai trái ý, lập tức tìm cách ám hại, vì vậy ai cũng sợ, không dám nhìn mặt.

Một hôm, Triệu Cao đem dâng cho vua Nhị Thế một con hươu, mà nói là con ngựa.

Vua Nhị Thế cười lớn, nói:

– Thừa Tướng lầm rồi! Ðó là con hươu chứ đâu phải con ngựa. Nhị Thế ngoảnh qua hỏi triều thần:

– Có người lặng thinh không dám nói, có người nói thẳng là con hươu, có người a dua theo Triệu Cao nói là con ngựa.

Người nào nói thẳng đều bị Triệu Cao tìm cách hãm hại. Quần thần lại càng sợ Triệu Cao hơn.

Thừa Tướng Lý Tư thấy vậy lòng băn khoăn không yên. Triệu Cao biết Lý Tư không ưa mình, một hôm tìm cách nói: – Nay cõi Quan Ðông giặc giã nổi lên như ong vỡ tổ, Chương Hàm thua mấy trận, nước nhà đương cơn nguy ngập, tôi là quan hoạn không được phép tâu bày, đó là nhiệm vụ chính của quân hầu, sao quân hầu vẫn lặng yên không tiến gián?

Lý Tư buồn bã nói:

– Bệ hạ ở mãi trong thâm cung, tôi làm sao tiến gián đươc.

Triệu Cao hăm hở nói:

– Quân hầu cứ sắp sẳn lời tấu đi, lúc nào có thể tiến gián được tôi sẽ tin cho quân hầu biết để vào yết kiến.

Lý Tư ngỡ Triệu Cao có thiện cảm với mình, ngờ đâu đó là ác ý của triệu Cao.

Triệu Cao nhân lúc vua Nhị Thế đang say sưa với các phi tần trong thâm cung, ìửa dục phừng phừng trong men rượu, liền sai người bảo Lý Tư:

– Lúc này có thể tâu bày dược, xin Thừa Tướng vào yết kiến.

Lý Tư tin thật, xin vào tâu.

Lần thứ nhất vua Nhị Thế từ chối. Lý Tư lại xin lần thứ hai, rồi lần thứ ba.

Vua Nhị Thế thấy Lý Tư lải nhải mãi, nổi giãn mắng:

– Trẫm đang lúc vui vầy với phi tần, sao Lý Tư lại dám vô lễ như vậy?

Triệu Cao liền lợi dụng cơ hội kiếm lời dèm tấu:

– Lý Tư cậy mình có công lập Bệ hạ trước kia ước vọng được bê hạ cắt đất phong vương, nhưng ước vọng ấy không thành đem lòng oán trách. Vừa rồi sai con là Lý Do làm quan Thái Thú ở Tam Xuyên mục đích để tư thông với Sở xin bệ hạ phải xét mới được.

Từ đó vua Nhị Thế có ý ghét Lý Tư, và Lý Tư cũng biết Triệu Cao muốn hại mình, liền làm biểu dâng lên kể tội Triệu Cao, xin vua bỏ cung A Phòng lo chỉnh đốn việc nước.

Vua Nhị Thế xem tờ biểu, mắng Lý Tư:

– Trẫm biết Triệu Cao là người hiền, thờ trẫm rất trung hậu. Nếu không có Triệu Cao thì trẫm không còn ai sai khiến. Còn ngươi bảo trẫm bỏ cung A Phòng thật là điều phi quân. Cung A phòng của tiên đế lập ra, ngươi đã không ngăn được trộm giặc để bốn phương nổi loạn, thế mà còn bảo trẫm làm trái ý tiên đế để mang tội bất hiếu.

Nói xong, giao Lý Tư xuống Ðình ủy nghị tội, ghép án tư thông với nước Sở chiếu ngũ hình, bắt phải tội chém ngang lưng và tru di tam tộc.

Vũ sĩ trói cha con Lý Tư, dẫn ra chợ Hàm Dương, Lý Tư nhìn con nói:

– Nay cha con mình dẫu muốn dắt chó ra đất Thương Thái săn thỏ để làm vui đâu còn được nữa.

Hai cha con nhìn nhau ứa lệ, rồi cùng bị xử trảm.

Người sau có thơ chê Lý Tư:

Họ Lý không thông vận thế thời

Ngày tàn còn nghĩ cuộc vui chơi

Công thành chẳng liệu lui mình trước

Phú quí vinh hoa, miệng bả đời!

Từ lúc hại được Lý Tư, quyền thế Triệu Cao càng lớn, quần thần không ai dám nhìn mặt.

Chương Hàm đóng quân ở Hàm Cốc lương thực hết sạch, tướng sĩ mỏi mòn, nhiều lần sai người về triều cáo cấp, nhưng Triệu Cao giấu nhẹm, không cho vua Nhị Thế biết.

Một hôm, vua Nhị Thế đi săn về, vào cung nằm tựa gối lim dim đôi mắt, bỗng vẳng nghe bên tai. hai cung nhân hầu hạ thì thầm:

– Công việc ngoài biên ải hiện nay ra sao?

Nguy lắm! Chương Hàm thua luôn chín trận, quân sĩ hao mất ba mươi vạn, bất nhật quân Sở kéo đến đây, chúng ta khó toàn mạng.

Vua Nhị Thế thất kinh, vùng dậy, nắm lấy cung nhân, hỏi:

– Các ngươi vừa nói chuyện gì?

Cung nhân quỳ mọp xuống đất van xin:

– Tâu bệ hạ, chúng tôi ngỡ Bệ hạ yên giấc nên nói chuyện riêng, xin Bệ hạ tha tội.

Vua Nhị Thế gắt:

– Cứ nói đi. Có chuyện gì phải giấu ta?

Cung nhân tâu:

– Hiện nay thiên hạ mười phần rối loạn, Chương Hàm thất trận quân sĩ chết rất nhiều. Nếu tình thế này kéo dài mãi nhà Tần phải diệt vong.

Vua hỏi:

– Do đâu các ngươi biết chuyện đó?

Cung nhân tâu:

– Cả nước không ai không rõ, duy Bệ hạ bị Triệu Cao che mắt mãi yên vui, không biết mà thôi.

Vua Nhị Thế tức giận đòi Triệu Cao đến mắng:

– Ngươi làm Thừa Tướng, việc lớn nhỏ đều ở trong tay. Nay thiên hạ rối loạn, nước nhà nguy cấp, quân ta tổn thất hơn ba mươi vạn, thế mà không tâu cho trẫm biết, lại còn bịa lời nói dối, tội ngươi đáng chém!

Triệu Cao run cầm cập, bỏ mũ, dập đầu xuống tâu:

– Tâu Bệ hạ, thần là một Tể Tướng, chỉ quản cố được công việc bên trong, cung phụng bệ hạ họa hưởng thái bình mà thôi. Còn như việc đánh dẹp ngoài biên ải là nhiệm vụ của quan Ðại tướng. Nay việc đã xảy ra như vậy xin bệ hạ sai người đến vấn tội Chương Hàm, rồi sai một viên đại tướng khác ra thay, tất phải cứu nguy được. Và mọi việc ngoài biên chẳng qua chỉ là lời đồn đại, nếu có gì sao không thấy Chương Hàm cáo cấp? Bệ hạ chớ quá tin bọn cung hoạn mà thống trách vi thần như vậy.

Nhị Thế nghe Triệu Cao nói bùi tai, liền bỏ qua, không nghĩ đến chuyện giặc giã nữa.

Triêu Cao về tư dinh,mồ hôi chưa ráo cho là Chương Hàm vì lâu nay mình giấu nhẹm mấy tờ cáo cấp nên sai người đút lót bọn cung nhân để gièm pha mình. Nghĩ như thế, Triêu Cao căm tức Chương Hàm vô cùng.

Chẳng bao lâu được tin Chương Hàm sai quan Trưởng Sử là Tư Mã Hân về triều cấp tấu.

Triệu Cơ ra lệnh Tư Mã Hân phải đợi ngoài triều môn.

Tư Mã Hân đợi đến ba ngày vẫn chưa được vào tâu, lòng nóng như dốt, liền lấy vàng đút lót cho nhà Triệu Cao, để dò xem tin tức.

Tên lính hầu của Triệu Cao nói riêng với Tư Mã Hân:

– Thừa Tướng đang căm tức Chương tướng quân muốn bới móc tội bại binh để khép án. Tướng quân về triều hôm nay chẳng khác chui đầu vào lưới.

Tư Mã Hân nghe nói vội vàng trở ra nhà trọ, gói ghém hành trang nội trong đêm ấy, lén trốn ra Hàm Cốc.

Sờ dĩ Triệu Cao để Tư Mã Hân chầu chực ba ngày là muốn lập mưu bắt cả gia quyến xử tội, không ngờ Tư Mã Hân đã trốn trước.

Triệu Cao tức giận vào tâu với Nhị Thế:

– Bọn Chương Hàm cầm binh ngoài cõi, thua luôn mấy trận, hao binh tổn tướng, thật nhục nhã, nay lại sai người lén về triều dò thám chắc là âm mưu phản loạn, xin bệ hạ sai người ra thế, và bắt Chương Hàm về triều trị tội, thì việc nước mói yên được.

Nhị Thế chuẩn tấu, Triệu Cao sai cháu là Triệu Thường đến Hàm Cốc đòi Chương Hàm về.

Trong lúc đó, Tư Mã Hân chạy suốt ngày đêm, tất tưởng đến Hàm Cốc, vào yết kiến chương Hàm, nói:

– Hiện nay Triệu Cao chuyên quyền, che mắt trong ngoài, tìm cách hãm hại tướng quân, kiếm lời dèm pha, không chịu phát quân cứu viện. Nếu tôi không nhanh chân thoát thân thì đã bị Triệu Cao hại mạng rồi.

Chương Hàm nghe nói rụng rời, ngước mặt lên trời than:

– Trong thì gian thần tác loạn, ngoài thì giặc giã tranh hùng, nhà Tần ắt chẳng còn bao lâu nữa.

Liền họp các tướng đàm luận.

Ðổng Ế nói:

– Triệu Cao là đứa gian ác chỉ dùng một lời nói mà Lý Tư bị tru di tam tộc. Bọn chúng ta khó thoát khỏi tay hắn.

Ðang lúc bàn bạc, thì Triệu Thường cầm chiếu đến.

Các tướng ra ngoài dinh nghênh tiếp, và mở chiếu ra đọc.

Chiếu rằng:

Ngày thường ăn lộc nước, lúc loạn phải tận trung, nay bọn các ngươi cầm binh dẹp loạn, húy tử tham sanh, để cho hao binh tổn tướng. làm nhục quốc thể, tội đáng chết. Lại còn sai ngườl về triều, chưa thỉnh mệnh đã bỏ trốn đi, rõ là tinh thần phản nghịch. Nay sai Triệu Thường phụng sứ bắt các ngươi lập tức hồi triều, nếu cải lệnh khó dung.

Nay chiếu.

Chương Hàm nghe đọc chiếu xong, chư tướng đều đứng cả dậy, nắm lấy sứ giả nói lớn:

– Bọn chúng ta mặc giáp, cầm thương, xông pha tên đạn, coi chết như lông hồng, cay đắng khó nhọc biết chừng nào. Ðã mấy lần cáo cấp về triều bị Triệu Cao giấu nhẹm, không phát quân. Lỗi sờ sờ ra đó, thế mà còn buộc tội chúng ta sao? Theo sứ về triều chịu chết thà chém sứ phản đối tên phản nghịch.

Dứt lời, các tướng rút gươm toan chém Triệu Thường

Hồi 7 – Giận bạo chúa, Chương Hàm đầu Sở

Chương Hàm thấy các tướng giận dữ muốn chém sứ, liền cản lại nói:

– Không nên vì đứa phản thần mà chém sứ e mang tội kháng mệnh triều đình. Chi bằng giữ Triệu Thường lại, phiên tấu về triều xem vua xử như thế nào đã.

Các tướng theo lời, bắt Triệu Thường giam lại.

Trong lúc Chương Hàm đang thảo sớ, bọn Trần Hy kéo đến nói:

– Tôi nghe tin Triệu Cao đã in sâu vào đầu óc vua Nhị Thế dẫu chúng ta có minh oan đến đâu cũng chẳng ai xét đến. Cái họa diệt tộc không tránh khỏi. Ấy vậy, cứ chém sứ đi cho hả lòng, rồi sẽ liệu sau.

Chương Hàm còn lưỡng lự. Cách hai ngày sau có thư Trần Dư từ nước Triệu gởi đến.

Trong thư nói:

Xưa Ngô Khởi làm tướng nhà Tần, đánh thành, cướp nước, biết bao khó nhọc, thế mà cuối cùng không khỏi tội chết. Còn như Mông Ðiềm đuổi rợ Hung, mở đất Trung Du dài hơn nghìn dậm. Công lớn dường ấy mà cũng không tránh khỏi thác oan!

Nay tướng quân ba đời làm tướng, công lao không nhỏ. Thế mà mới thua mấy trận, thiệt mất vài muôn vạn quân, trên dưới đã nhao nhao dèm síểm. Rõ là nhà Tần có tánh đố kỵ tơi trung.

Trời đã muốn làm mất nhà Tần, ai còn có thể cứu vãn được. Người ta tận trung vua thảo tôi hiền còn đem thân hy sinh cho kẻ tàn bạo, vong ân mà uổng mạng.

Tướng quân, trong không thể trực gián, ngoài làm một bại tướng, cô lập, sống sao nổi? Vả lại,thiên hạ đang lầm than, anh hùng đua nhau phất cờ khởi nghĩa, đưa xã hội tiến tới cuộc sống huy hoàng, tướng quân làm cái việc giữ lấy bánh xe lịch sử không cho quay, như thế tưởng không phải là thượng sách. Theo tôi, tướng quân nên liên kết với chư hầu, trừ bạo ngược, trước bảo vệ thân mình, sau để người đời khỏi chê trách.

Kính thư

Chương Hàm xem xong, bàn với chư tướng:

– Trần Dư nói cũng có lý, song chẳng biết nên đi phương nào cho phải?

Trần Hy nói:

– Các nước mới lập, sức còn yếu chưa có thể nương thân được. Duy có Sở, Hạng Vũ oai danh lừng lẩy, thế lực kiêu hùng, các chư hầu đều phải tùng phục. Tôi chắc sau này nhà Tần sẽ mất về tay nước Sở. Nếu chúng ta theo về Sở ngôi công khanh chẳng mất.

Chương Hàm nói:

– Trước kia ta giết Hạng Lương, Hạng Vũ đem lòng thù oán, khi nào lại dùng ta.

Trần Hy nói:

– Tôi xin vì tướng quân sang Sở làm thuyết khách, dò ý Hạng Vũ rồi sẽ liệu.

Chương Hàm nói:

– Ðược, xin ngài cứ thử xem, tôi chờ đợi kết quả.

Trần Hy cỡi ngựa sang Sở, sai người vào bẩm:

– Có sứ Tần xin vào yết kiến.

Hạng Vũ cho vào, hỏi sứ giả:.

– Các tướng Tần khốn đốn đã lâu, không chịu nổi, hoàn cảnh ấy sai ngươi đến đây thuyết khách chăng?

Trân Hy nói:

– Kẽ trượng phu vì nghĩa dẫu tan xương nát thịt cũng chẳng phàn nàn huống chi điều khổ nhọc. Tôi đến đây không phải để thuyết khách mà để trình bày với tướng quân một điều bất nghĩa.

Hạng Vũ hỏi:

– Ðiều bất nghĩa là điều gì?

Trần Hy nói:

– Chương tướng quân tôi khó nhọc suốt ba mươi năm trời, phò nhà Tần bảo vệ lấy giang sơn, nằm gai nếm mật nơi rừng giáo mưa tên. Lẽ ra, đó là một công trạng đối với nước Tần, thế mà Triệu Cao đem lòng gian ác, dèm siểm vua Tần, mưu kết tội Chương tướng quân tôi. Thật là điều bất nghĩa.

Hạng Vũ hỏi:

– Ngươi đem chuyện ấy nói với ta để làm gì?

Trần Hy nói:

– Trước là để tướng quân thấu rõ được lòng dạ kẻ bất nghĩa sau là để tướng quân thấy nỗi lòng oán vọng của Chương Hàm đối với Triệu Cao.

Hạng Vũ cười lớn, nói:

– Như thế ta lại càng dễ diệt nước Tần chứ sao!

Trần Hy nói:

– Ðúng vậy. Nhưng nếu tướng quân biết lợi dụng lánh của Chương Hàm thì mới dễ, bằng để cho Chương Hàm cầm quân bảo vệ nhà Tần, tôi e khó diệt nhà Tần được.

HạngVũ hỏi:

– Nhà ngươi muốn ta lợi dụng lòng oán thù của Chương Hàm như thế nào?

Trần Hy nói:

– Chương Hàm tuy bị cô lập, nhưng trong tay còn hơn mươi vạn quân, và nhiều kiện tướng, nếu cho Chương Hàm đầu Sở, chung sức diệt Tần để báo thù, đó lợi dụng được Chương Hàm đó.

Hạng Vũ vỗ án hét:

– Chương Hàm giết chết chú ta, thù ấy chưa trả, ta quyết bắt Chương Hàm sẻ thịt ăn gan, lẽ nào lại cho nó quy hàng!

Trần Hy không đáp, mỉm miệng cười.

Hạng Vũ hét lớn nói:

– Ngươi cười gì? Muốn đem xác đến đây thử lưỡi kiếm của ta sao?

Trần Hy nói:

– Tôi cười tướng quân chỉ chăm chăm lo việc nhỏ mà bỏ mất việc lớn. Ðã là tướng ra trận, ai vì chúa nấy, sao tướng quân lại nghĩ đến tình riêng mà cố chấp như vậy. Kẽ trượng phu vì nước quên nhà, vì lợi chung bỏ thù thù riêng mới gọi là người đại lượng.

Phạm Tăng ghé vào tai Hạng Vũ, bàn:

– Hiện nay uy thế của tướng quân rất mạnh, thế mà chưa vào được cửa quan là vì có Chương Hàm ngăn giử. Chương Hàm đầu Sở tức là trời muốn giúp tướng quân diệt Tần, tướng quân nên bỏ thù riêng lập ơn mới, Chương Hàm mang ơn tướng quân tất phải tận tâm, tận sức Ðó là thủ đoạn của kẽ anh hùng hào kiệt vậy.

Hạng Vũ nghe nói tĩnh ngộ, khen:

– Nếu không có quân sư tôi đã làm môt việc đáng tiếc.

Liền nói với Trần Hy:

– Tôi vì nặng tình gia đình mà quên nghĩa lớn. Thù thúc phụ chỉ là thù riêng, còn việc nước là việc chung của thiên hạ. không lẽ vì thù riêng mà bỏ việc công. Vậy nếu Chương Hàm thực lòng đầu Sở, ta sẽ bỏ hết thù xưa, cùng nhau cộng sự, mai sau phú quí cùng hưỏng.

Trần Hy từ giã Hạng Vũ trở về thuật lại với Chương Hàm.

Chương Hàm nói:

– Cứ như lời túc hạ thì đầu Sở là phải. Nhưng ta e Phạm Tăng nhiều quỉ kế, gạt ta đến đó ám hại chăng. Vậy túc hạ chịu khó đi một lần nữa xem hư thực thế nào.

Trần Hy vâng lời, Cởi ngựa sang dinh Sở, yết kiến Hạng Vũ và nói:

– Chương tướng quân tôi bản ý muốn đầu hàng, nhưng lại e tướng quân có nhớ thù cũ, nén chưa dám xếp giáp.

Hạng Vũ cười nói:

– Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Trượng phu đã nói một lời ngàn vàng khôn chuộc!

Nói xong cầm mũi tên bẻ làm đôi, giao cho Trần Hy một nữa đem về đưa cho Chương Hàm.

Chương Hàm tức tưởi khen, và nói:

– Hạng Vũ thật là kẻ anh hùng nghĩa khí, đáng cho ta theo phò.

Tức thì thăng trướng, hội chư tướng chém đầu Triệu Thường, rồi hợp hai mươi vạn quân kéo thẳng đến Chương Nam, cách trại Sở ba mươi dặm.

Hạng Vũ truyền quân trong trại đội ngủ chĩnh tề, gươm tuốt khỏi võ đứng hai hàng để thu nhận hàng tướng.

Chương Hàm đi đến trước trại Sở, xuống ngựa, thẳng vào viên môn, sụp lạy trước trướng, nói:

– Chương Hàm tôi bị Triệu Cao dèm báng, vua Nhị Thế không tiếp quân lương, sức cùng lực tận, may nhờ tướng quân rộng lượng mở đường cho chúng tôi nương tựa, ơn ấy dẫu chết chẳng dám quên. Xin đem thân trâu ngựa đền đáp.

Hạng Vũ bước xuống cầm tay Chương Hàm an ủi:

– Nay tướng quân đã đến đây cùng tôi lo chung việc thiên hạ, vậy xin hết lòng hết dạ, mai sau diệt được nước Tần công lao chẳng nhỏ….

Chương Hàm lạy tạ, rồi đem binh tướng mình nhập vào binh Sở.

Tin ấy đồn đến hàm Dương, Triệu Cao vào tâu với vua Nhị Thế:

– Chương Hàm thực có ý làm phản, nay đã đem cả binh bộ đầu Sở rồi!

Vua Nhị Thế giận dữ hạ lệnh bắt cả tôn thuộc của Chương Hàm và các tướng chém hết.

Chương Hàm hay được tin khóc sướt mướt, oán vọng Triệu Cao thấu trời, liền vào bàn với Hạng Vũ:

– Nhân lúc nhà Tần không có tướng giữ cửa quan, tướng quân nên dẫn quân qua sông Chương, đến thẳng đất Tân An và Miên Chỉ, chỉ một trận là diệt được nhà Tần.

Hạng Vũ mời Phạm Tăng vào bàn bạc.

Phạm Tăng nói:

– Binh ta ở ngoài đã lâu ngày, lương thực không được sung đủ. Còn Hoài Vương hiện ở Bành Thành thiếu người bảo giá. Vả lại Tần đất rộng, dân đông, nếu rủi ro, bề nào đầu đuôi gián đoạn. Chi bằng trở về Bành Thành cũng cố triều chính, cho quân sĩ dưỡng sức rồi lập thành hai đạo quân, chia nhau tiến vào đất Tần một lượt, như vậy mới vẹn toàn.

Hạng Vũ đồng ý, truyền lệnh rút quân về Bành Thành, vào yết kiến Hoài Vương, lại dẫn các hàng tướng nước Tần vào bệ kiến.

Hoài vương mừng rỡ, truyền mở tiệc khao thưởng ba quân, phong Hạng Vũ làm Lỗ Công phong Lưu Bang làm Bái Công cho về hươu dưỡng quân sĩ đợi ngày xuất chinh.

Bái Công từ đó tuyển tướng luyện quân, chiêu mộ kẽ hào sĩ bốn phưong. Chỉ mới hai tháng mà các mưu thần, mãnh tướng rất đông như, Tiêu Hà, Phàn Khoái, Tào Tham, Chu Bột, Vương Lãng, Hạ Hầu Anh, Sài Vũ, Ngạn Hấp, Lưu Quán, Ðinh Phục,Chu Xương, Phó Khoan, Tiết Âu, Trần Bái, Chương Thương, Nhâm Ngao. Tướng hơn 50 viên, quân hơn 50 vạn.

Còn Lỗ Công thì dưới trướng có: Phạm Tăng, Anh Bố,Quý Bố, Chung Ly Muội, Hàn Sở, Vũ Anh, Ðinh Báo, Chưong Nhĩ, Trần Dư, Cung Ngao, Tang Ðồ, Long Thư, v.v… Tướng hơn một trăm viên, quân hơn năm mươi vạn. Bái Công chú trọng vê nhân nghĩa, không thích sát phạt, dùng đức thu phục nhân tâm.

Còn Lỗ Công uy thế càng mạnh thì tính khí càng nóng nảy, các tướng sợ uy hơn là đức, cả đến vua Hoài Vương cũng có ý sợ sệt.

Hoài Vương thường nói với quần thần:

– Bái Công là người nhân hậu, sau nay có thể đem lại hạnh phúc thái bình cho trăm họ được.

Một hôm, có người từ Hàm Dương lại, kể sự tàn bạo của vua Nhị Thế và sự chuyên quyền của Triệu Cao mỗi ngày một quá quắt, trăm họ sống không yên.

Lỗ Công hay tin, vào tâu vua Hoài Vương:

– Thần luyện tập binh mã đã lâu, nay chính là lúc cần xuất quân để trừ kẻ vô đạo cứu lấy muôn dân, xin Bệ hạ chỉ phán.

Vua phán:

– Trẫm đang muốn sai hai người chia đường đánh Tần. Khanh tâu như vậy rất hợp ý.

Liền truyền Bái Công và Lỗ Công đến gần, phán:

– Trăm họ rên siết dưới ách bạo chúa nhà Tần đã lâu, cứu dân sớm được ngày nào hay ngày ấy. Nay đánh cần phải chia làm hai nẻo, vì Tần đất rộng dân đông, đánh một mặt khó lấy hết được. Tuy nhiên, trẫm chưa biết sai ai đường nào, vậy hai khanh tạm lui ra, để trẫm bàn với quần thần đã.

Quần thần đều nói:

– Ðánh Tần có hai con đường: một đường phía Ðông, một đường phía Tây. Hai con đường ấy xa bằng nhau. Tuy nhiên, muốn cho được công bình xin Bệ hạ viết một lá thăm, ai bắt trúng đường nào đi đường ấy.

Hoài Vương chuẩn tấu liền viết tên hai con đường: Ðông, Tây bỏ vào hũ.

Lỗ Công bắt trúng Ðông lộ, còn Bái Công trúng Tây lộ.

Hai bên bái tạ vua trở về chỉnh đốn binh mã xuất chinh.

Ba quân hăm hở, cờ xí rợp trời, binh nào tướng ấy rất uy nghi.

Ngày khởi hành vua Hoài Vương cầm tay Lỗ Công, Bái Công nói:

– Các khanh lập ta lên làm vua là để hợp với nguyện vọng nhân dân, song ta xét mình tài hèn, đức bạc, không đủ đem hanh phúc cho thiên hạ. Hai khanh vào đất Tần lần này, người nào vào trước được Hàm Dương ta sẽ phong cho làm vua Tần, người nào vào sau phải chịu làm tôi. Hai khanh nên ghi nhớ lời ước của trẫm. Sau này thiên hạ được thái bình các khanh để cho trẫm một nơi nhàn cư, như thế trẫm mãn nguyện.

Lỗ công và Bái Công đồng thanh tâu:

– Chúng tôi xin hết lòng vì nước, mở rộng cơ đồ, đem thiên đô về Tràng An, gây lại được cơ nghiệp hùng vĩ của nhà Châu trước kia mới toại nguyện.

Nói xong, hai ngưòi lạy tạ, kéo binh mã thẳng đến Ðịnh Ðào, hợp hai làm một, đặt tiệc ăn mừng, kết làm anh em.

Bái Công làm anh, Lỗ Công làm em, tình ý rất thân mật

Ðoạn hai người chia tay, ai đi đường nấy.

Bái Công theo Tây lộ đem quân đến ấp Bắc Xương, lúc ấy vào tiết mùa xuân, trời không nắng lắm, thỉnh thoảng có mưa phùn, ban đêm gió ngàn thổi lạnh.

Thành Bắc Xương cửa đóng kín cờ xí cắm la liệt trong thành lơ thơ với bóng quân canh.

Phàn Khoái xin đánh thành, Bái Công nói:

– Chổ này là ấp nhỏ, thành quách sơ sài. Vả lại dân chúng đã khổ cực nhiều dưới ách bạo chúa, nay ta còn sát phạt sao đành.

Lời nói đầy nhân đạo ấy đồn vang khắp nơi. Các bậc bô lão trong thành hay được bàn tán:

– Những kẽ sống dưới ách tàn bạo, mong một lời nhân nghĩa chẳng khác nào kẻ đang khát trông nước uống. Bái Công người nhân đức như thế chúng ta lẽ nào không tùng phục.

Bèn rủ nhau đến nói với quan Ấp Lệnh:

– Dân chúng tôi khổ với chế độ nhà Tần như chìm trong nước lửa. Nay gặp đại quân của Bái Công đến đây như trời hạn gặp mưa, xm quan lớn mở thành đầu hàng đê dân chúng nếm mùi ân đức.

Quan Ấp Lệnh theo lời, mở cửa thành nghênh tiếp.

Bái Công kéo quân vào thành, hạ lệnh cấm quân sĩ không dược lấy của dân một vật gì.

Trăm họ đem lòng ái mộ. Tiếng thơm đồn đi khắp nơi. Quân Bái Công đi đến đâu dân chúng đều mở cửa tiếp.

Một hôm, đến đất Cao Dương quan Ấp Lệnh là Vương Ðức ra khỏi thành ba mươi dặm đón rước, Bái Công thấy Vương Ðức nói năng hoạt bát, khí tượng hơn người, liền dắt tay vào thành, mời ngồi, và nói:

– Hiền hầu đã vui lòng qui thuận, vậy xin cùng với Bang này đi đánh Tần trừ bạo chúa.

Vương Ðức chắp tay thưa:

– Tôi tài hèn, dốt nát, không giúp tướng quân được bao nhiêu, vả lại, mấy năm chánh sách nhà Tần tàn bạo, tôi cai trị nơi đây dùng nhân nghĩa rải cho dân vì vậy dân chúng mến tôi lắm, không nỡ rời. Nơi huyện này có một hiền sĩ họ Lịch tên Tự Cơ, nhà nghèo, tính phóng đãng, tuy bề ngoài có vẽ ngông cuồng, nhưng bên trong chứa đầy mưu lược. Nhân lúc thiên hạ loạn lạc, nhà Tần đốt sách, chôn học trò, liền mới mượn chén giả say. Ông ta thường nói với tôi: Tôi say suốt ngày, nhưng nếu gặp minh quân tôi tỉnh lại ngay. Xin tướng quân cho cho mời người ấy làm chức Biệt giá để sớm tối bàn bạc thì ích lợi hơn tôi nhiều.

Bái Công mừng rỡ, nhờ Vương Ðức đi mời Lịch Sinh.

Ðến nơi, Lịch Sinh còn đang say, nằm chưa dậy.

Gia đồng đánh thức, Lịch Sinh khoác áo ra chào và nói:

– Hôm nay quý chức hạ cố đến tệ xá hẳn có điều chi dạy bảo?

Vương Ðức nói:

– Thường ngày tiên sinh ước được gặp minh chủ, nay tôi xem Bái Công, người khoan nhân đại độ, đáng bậc đế vương, tôi đã tiến dẫn tiên sinh làm chức Biệt giá, xin tiên sinh bằng lòng cho.

Lịch Sinh nói:

– Tôi đã có nghe đức độ của Bái Công, song chưa giáp mặt chẳng biết lời đồn đãi ấy hư thiệt thế nào. Nếu quả gặp được minh chủ từ nay tôi hết say.

Dứt lời, cười ha hả, sửa soạn khăn áo theo Vương Ðức vào thành, yết kiến Bái Công.

Bái Công đang ngồi cho hai tỳ nữ rửa chân, Lịch Sinh chỉ xá một cái chứ không lạy. Rồi qua một lúc cất tiếng hỏi:

– Túc hạ muốn giúp nhà Tần đánh chư hầu hay giúp chư hầu đánh nhà Tần?

Bái Công thấy Lịch Sinh già nua, ăn nói sổ sàng như thế, cau mày, mắng:

– Chà! Anh hủ nho này hỏi mới ngu chứ! Thiên hạ khổ vì nhà Tần đã lâu, nay ta phụng mệnh vua Hoài Vương trừ bạo chúa, cứu muôn dân, sao lại dám nói giúp nhà Tần?

Lịch Sinh nói:

– Túc hạ muốn đánh Tần trừ bạo chúa, cất nghĩa binh thu phục lòng người, thế mà lại đối xử với hiền sĩ bằng cử chỉ ngạo như thế đó thì ai còn giúp mình lo việc lớn.

Bái Công nghe nói, thôi rửa chân, vội vàng đội mũ, mặc áo, mời Lịch Sinh lên ngồi, và xin lỗi:

– Vừa rồi tôi vô ý, không biết tiên sinh, lỡ thất lễ xin tiên sinh vui lòng hỉ xả.

Qua một lúc, Bái Công hỏi:

– Tiên sinh đã hạ cố đến đây, có điều gì cao kiến xin chỉ giáo?

Lịch Sinh đem chuyện lục quốc tung hoành, và chánh sách tàn bạo của vua Tần ra nói, miệng như nước chảy thao thao bất tuyệt. Bái Công lấy làm đắc ý, hỏi đến mưu đánh Tần.

Lịch Sinh nói:

– Túc hạ đem đoàn quân ô hợp vào đất Tần chẳng khác nào lùa bầy dê vào hang cọp. Tôi thấy sự thất bại trước mắt.

Bái Công nói:

– Tôi lấy nghĩa binh đánh với quân bất nghĩa cớ sao thất bại?

Lịch Sinh nói:

– Ðành vậy! Nhưng binh Tần đông, lương thực đầy đủ, việc nghĩa có sức mạnh lâu dài, bạo lực có sức mạnh cấp thời. Túc hạ không củng cố căn bản thì khó thắng được.

Bái Công hỏi:

– Ý tiên sinh muốn phải làm thế nào?

Lịch Sinh đáp:

– Trần Lưu là cho xung yếu nhất trong thiên hạ, bốn mặt tám bề hình thể hiểm trở, trong thành lương thảo rất nhiều, quan Thái Thú là Trần Ðồng vốn có quen với tôi. Tôi có thể dụ được. Nếu lấy Trần Lưu làm chổ căn bản trú quân, rồi thừa cơ chiếm Quan Trung, đó là thượng sách.

Bái Công mừng rỡ, nhờ Lịch Sinh đến Trần Lưu phủ dụ.

Quan lệnh Trần Lưu nghe Lịch Sinh đến, ra đón vào hậu đường đặt tiệc khoản đải.

Lịch Sinh nói:

– Làm tôi chọn chúa mà thờ. Lâu nay vì nhà Tần vô đạo. Tôi mượn chén giả say, gạt bỏ việc đời. Vừa rồi, gặp được Bái Công là đấng hiền lương, đáng mặt minh chủ, tôi đã đem thân quy phục. Hiền hầu giữ cái thành nhỏ này, dưới chánh lệnh tàn bạo, muôn dân thán oán, chi bằng theo giúp Bái Công phất cờ khởi nghĩa cứu lấy muôn người khỏi cảnh lầm than.

Trần Ðồng ngồi cúi mặt suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Tiên sinh nói cũng phải, song tôi ăn lộc nước, nỡ nào phản lại nhà Tần.

Lịch Sinh vừa cuời vừa nói:

– Vua Tần tàn bạo, làm khổ trăm họ, giết đi là chánh đạo, sao lại bảo là phản?

Trần Ðồng đứng dậy nói:

– Tôi xin lĩnh ý tiên sinh.

Hai người tâm sự một lúc rồi mở cửa thành đón Bái Công vào.

Bái Công đóng quân nơi Trần Lư ngót một tháng, chiêu tập binh mã các cứ được thêm hơn năm vạn.

Lương thực sung túc, quân lực dồi dào.

Bái Công nói với Lịch Sinh:

– Từ khi gặp tiên sinh, tôi chẳng khác nào như cá gặp nước, ơn tiên sinh rất lớn.

Nói rồi phong cho Lịch Sinh làm Quảng Dã quân, ở luôn bên cạnh bàn mưu giúp kế.

Lịch Sinh nói:

– Tôi tuy được túc hạ trọng đãi. song tài năng chưa đáng với lòng ưu ái của túc hạ. Gần đây có một người gồm đủ kinh luân, thừa tài thao lược, mưu trí dẫu Y Doãn đời vua Thang, Lã Vọng đời nhà Châu cũng chưa hơn nổi. Nếu được người ấy giúp sức lo gì không thu đoạt thiên hạ, diệt nhà Tần?

Bái Công hỏi vội:

– Người ấy là ai? Hiện ở đâu?

Lịch Sinh nói:

– Người ấy hiện ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, chữ là Tử Phòng, quyến thuộc năm đời làm tướng nước Hàn. Nay muốn vì nước Hàn báo thù, nhưng nước Hàn mới lập thế quân còn yếu ớt chưa khởi sự được.

Bái Công nói:

– Người ấy đã làm tướng nước Hàn, lẽ nào còn chịu đến giúp ta.

Lịch Sinh nói:

– Tôi có một kế, dụ Trương Lương đến đây, rồi dùng lời khích lệ tất Trưong Lương phải theo ta.

Bái Công nói:

– Xin tiên sinh vì tôi bày kế.

Lịch Sinh nói:

– Túc hạ viết môt phong thư sai người đem đến nước Hàn, mượn 50000 hộc lương. Nước Hàn không có lương tất cho Trương Lương sang giúp.

Bái Công theo lời, viết phong thư gửi cho vua Hàn.

Vua Hàn mở thư ra xem, trong thư nói:

Ðại tướng quân nước Sở là Lưu Bang kính dâng Hàn vương điện hạ nhã giám.

Trộm nghĩ: Thủy Hoàng vô đạo, Nhị Thế bất lương, trăm họ khổ đau, oán hờn chồng chất. Tôi nay phụng mệnh Sở Hoài Vương trả thù cho sáu nước bị diệt vong, cứu thiên hạ qua cơn tai biến, ngặt vì quân đi trăm dặm, lương thực không đủ dùng, vậy sai sứ thần là Lịch Tự Cơ sang vay quý quốc năm mươi vạn hộc lương, chờ lúc diệt xong nước Tần sẽ hoàn lại. Xin cho đó là việc nghĩa, mà cũng là nhiệm vụ chung chớ chối từ. Nay kính thư

Hàn Vương xem thư xong. họp quần thần nghị luận.

Quần thần nói:

– Nước Hàn ta mới lập, binh lương nghèo nàn, tự mình cứu mình còn chưa xong, lấy đâu để giúp người?

Hàn vương nói:

– Bái Công phụng mệnh đánh Tần, thực là việc chung của thiên hạ. Ta cũng có một phần trách nhiệm đối với chư hầu, lẽ nào từ chối. Nếu muốn góp phần giúp đỡ thì lấy đâu ra năm vạn hộc lương. Khó thay!

Trương Lương bước ra tâu:

– Xin Ðại vương tiếp sứ, tôi sẽ theo sứ thần đến yết Bái Công và có cách giải được điều khó khăn đó.

Hồi 8 – Cung Vọng Di, Nhị Thế bị hại

Thấy Trương Lương tình nguyện đến yết kiến Bái Công.

Hàn Vương nói:

– Nhà ngươi nên khéo léo, đừng để mất lòng Bái Công.

Lịch Sinh nghĩ thầm:

– Trương Lương đã trúng kế ta rồi!

Liền từ giã Hàn Vương, dắt Trương Lương đến yết kiến Bái Công.

Dọc đường, Trương Lương mỉm cười, tự nghĩ:

– Ý Lịch Sinh đến đây cốt mượn ta chớ đâu phải rnượn lương. Ta đi đây cốt để xem thử Bái Công đãi người như thế nào?

Bái Công vốn đã bàn mưu với Lịch Sinh nên sắp xếp sẳn sàng đợi Trương Lương.

Khi đươc tin, Bái Công sai Phàn Khoái ra rước.

Thoạt nhìn thấy Phàn Khoái, Trương Lương nghĩ thầm:

– Người này quả là một bậc khai quốc công thần.

Khi vào đến cửa, Bái Công lại dẫn Tiêu Hà, Tào Tham ra tiếp đón.

Trương Lương thấy Bái Công mũi lớn, mặt rồng, thật đáng là một vị an bang chân mệnh, còn bọn Tiêu Hà mày ngài, hàm én, trông đúng là những bậc anh hùng cái thế, lòng mừng thầm:

– Có minh quân tất có tôi hiền. Ta đi chuyến này đúng là gặp dịp. Xưa kia thầy ta Hoàng Thạch Công bảo sau này phò thánh quân lưu danh vạn cổ, thế thì đây là nơi dung thân rồi.

Nghĩ vậy, liền đến vái lạy Bái Công và nói:

– Nay Minh công đem quân đánh Tần, đi đến đâu trăm họ cung đốn đầy đủ, lương thực ê chề, cớ sao lại nghe lời anh cuồng sĩ đến nước tôi mượn lương? Hay là Minh công muốn mượn Lương tôi đến giúp việc chăng?

Bái Công nghe Trương Lương nói thất kinh, không biết trả lời thế nào.

Tiêu Hà vội đỡ lời.:

– Chúa tôi lấy cớ mượn quân lương, nhưng kỳ thực muốn mượn Trương Lương đó. Còn tiên sinh lại đây yết kiến Chúa tôi, kỳ thực là để thuyết khách. Tuy nhiên tiên sinh lại không dở giọng thuyết khách, có lẽ tiên sinh thấy Chúa tôi có thể giúp tiên sinh thỏa được chí bình sinh chăng?

Trương Lương nghe Tiêu Hà nói chắp tay xá một cái và nói:

– Tâm cang tôi túc hạ đã thấu rõ, tôi không dám chối, xin đem thân giúp Minh Công, song phải trở về tâu lại với Hàn Vương tôi đã, rồi mới dám tùy hành.

Bái Công mừng rỡ, mở tiệc tiếp đải Trương Lương rất ân cần.

Hôm sau. Bái Công cùng đi với Trương Lương qua Hàn thành.

Hàn Vương được tin dẫn bá quan ra nghênh tiếp.

Hàn Vương nói:

– Tiểu quốc tôi mới lập, thực còn nghèo lắm, không lấy gì giúp đỡ túc hạ được. Vừa rồi tôi có sai Trương Lương đến cáo lỗi, chẳng hay túc hạ có niệm tình chăng?

Bái Công nói:

– Ðiện Hạ không có lương, tôi đâu dám nài ép. Nay tôi đem quân đánh Tần, nghe Tử Phòng là người thao lược, vậy xin mượn Tử Phòng ít lâu, sớm tối bàn việc quân cơ, chờ lúc diệt Tần xong sẽ giao trả lại.

Hàn Vương nói:

– Trương Lương với tôi không thể xa rời được một chốc, nay tướng quân. vì việc chung của thiên hạ mà mượn, tôi cũng vui lòng. Song, sau khi thành công phải trả lại, chớ sai ước.

Bái Công vâng lời, bái tạ Hàn Vương rồi cùng Trương Lương trở về dinh.

Từ đó, Bái Công với Trương Lương ăn cùng mâm, ngồi cùng chiếu, đêm ngày bàn bạc việc thiên hạ.

Trương Lương đem các sách lục thao tam lược nói không hề thiếu sót chỗ nào.

Trương Lương khâm phục, nhủ thầm:

– Từ khi Hoàng Thạch công cho ta quyển sách này, ta giảng cho ai nghe cũng lờ mờ không hiểu nổi, thế mà Bái Công chỉ nghe qua đã tinh tường, không sót một nghĩa, thật là kẻ thông minh đáng vì chân chúa.

Sau một thời gian chỉnh đốn quân binh, Bái Công nhổ trại kéo vào cửa quan đất Tần.

Vừa đến đất Vũ Quan, bỗng có một đạo quân từ trong núi xông ra đón lại, cầm đầu là một viên đại tướng hình dung tuấn tú, diện mạo đường đường, hét lớn:

– Hỡi Bái Công, hãy ra đây hội kiến cùng ta.

Hai tướng tiên phuông của Bái Công là Phó Khoang và Phó Bất nổi giận giục ngựa tới đánh.

Ðánh được vài mươi hiệp, tướng ấy bắt sống Phó Khoang, còn Phó Bất thua chạy.

Phàn Khoái đi trung đạo, thấy tiền quân dồn lại, nghe hai tướng tiên phuong bị bạ, liền xông đến đánh.

Tướng ấy nói:

– Ta muốn mời Bái Công ra đây nói chuyện, sao các ngươi lại hung hăng thế?

Phàn Khoái vung tít cây phương thiên họa kích, hét:

– Nếu đỡ nổi cây kích của ta thì ta mới mời chúa công ra cho ngươi nói chuyện, bằng không đừng có phách lối.

Nói xong vung kích đâm tới. Hai bên rước đánh. Ðánh nhau hơn sáu mươi hiệp vẫn chưa phân thắng bại.

Trương Lương nói với Bái Công:

– Tôi xem tướng ấy không phải là kẻ tầm thường, nay muốn gặp Chúa công hẳn có điều gì muốn nói, xin Chúa công chớ bỏ qua.

Bái Công liền giục ngựa đến trước hỏi:

– Tướng quân muốn thấy Lưu Bang này có điều chi chỉ giáo chăng?

Tướng ấy thấy Bái Công ăn nói nhã nhặn khí tượng ung dung, liền xuống ngựa thủ lễ và hỏi:

– Tôi đợi Minh công ở đây đã lâu, nay đặng gặp mặt thật vạn hạnh. Vừa rồi tôi đánh nhau với các tướng cốt là để thí võ chứ không dám có ý đối địch.

Bái Công hỏi:

– Dám hỏi tướng quân danh hiệu là chi? Quê quán ở đâu?

Tướng ấy đáp:

– Tôi họ Quán tên Anh, quê ở Lạc Xuyên. Trước đây tôi đi buôn bán ở Tây Xuyên, một hôm gặp bọn giặc cỏ hơn một trăm đứa đón đường cướp giựt, tôi độc lực ra đánh, bọn chúng đầu hàng. Nhân cơ hội, tôi ở lại sào huyệt, chiêu thêm binh mã, định trừ bạo chúa cứu muôn dân. Ðoàn quân tôi hiện được hơn ba ngàn, nay nghe Minh công vì nghĩa, cất binh đánh Tần nên đón nơi đây để đầu hàng. Nếu ngài không chê bất tài, tôi xin làm tiên phuông đi đánh giặc.

Bái Công mừng rỡ, thu nhận Quán Anh, để cùng đi đánh Vũ Quan.

Tướng giữ Vũ Quan là Chu Mạnh, thấy thế binh của Bái Công quá mạnh, không dám ra đánh, sai sứ về Hàm Dương cứu cấp.

Triệu Cao hay tin thất kinh, không dám tâu cho vua Nhị Thế biết. Muốn sai tướng ra quân, nhưng không có tướng nào đảm nhiệm được. Một ngày hai ba tin cáo cấp. Triệu Cao sợ vua Nhị Thế bắt tội, giả bệnh không vào triều.

Vua Nhị Thế không hề hay biết gì cả, suốt ngày đêm vui chơi với phi tần trong cung A Phòng.

Một hôm, nằm chiêm bao thấy mình đi săn, bị một con bạch hổ trong bụi cây nhảy ra vồ. Vua Nhị Thế thất kinh đòi quan Chiêm bốc đến hỏi.

Quan Chiêm bốc tâu:

– Ðiềm chiêm bao rất dữ, xin bệ hạ xa lánh cung A phòng mới mong tránh được tai nạn.

Vua Nhị Thế theo lời, dời giá sang Vọng Di. Từ đó suốt ngày lo sợ, ăn ngủ không yên.

Một hôm, hỏi bọn tả hữu:

-Trong nước lâu nay được yên ổn chăng?

Bọn tả hữu lau nước mắt tâu:

– Quân Sở đánh đến Vũ Quan rồi, các nước chư hầu đều họp quân trợ giúp. Nhà Tần ta chẳng bao lâu phải mất.

Vua Nhị Thế thất kinh, đòi Triệu Cao đến hỏi:

Nhưng Triệu Cao giả bệnh từ chối, và nghĩ thầm:

– Nếu ta chẳng lo bảo tồn tánh mệnh, sau này hối chẳng kip.

Liền mật đòi người rể là Diêm Nhạc và em ruột là Triệu Thành đến bàn:

– Nay quân giặc đã đánh đến cửa quan, trong triều không còn tướng nào đủ sức chống cự. Vua Nhị Thế lại đổ tội cho ta, chẳng lẽ khoanh tay ngồi chịu chết. Các người phao tin đồn trong cung có giặc, rồi đem quân đến cung Vọng Di, bắt vua Nhị Thế giết quách đi, tôn công tử Tử Anh là người hiền đức có thể dùng trấn an thiên hạ được.

Diêm Nhạc và Triệu Thành tuân lệnh dẫn một ngàn binh mã đến vây cung Vọng Di, bắt bọn quân canh trói lại, và nói:

– Giặc vào thành, sao chúng bay không biết?

Quân canh run rẩy nói:

– Bốn mặt thành đêu có binh tướng canh gác ngày đêm, làm gì có giặc.

Diêm Nhạc chém đầu bọn canh cửa, rồi truyền quân đánh vào.

Bọn hoạn quan hầu cận thất kinh chạy tán loạn.

Triệu Thành, Diêm Nhạc thẳng đến chỗ vua Nhị Thế, vung gươm hét lớn:

– Nhà vua ác nghiệt! thiên hạ than oán, chư hầu đều phản, giặc giã khắp nơi, nay lại cứ an hưỡng cảnh vàng son sao?

Vua Nhị Thế hỏi:

– Ai bày các ngươi làm chuyện phản phúc vậy?

Triệu Thành nói:

– Nhà vua thiếu đức cần phải chọn vua khác để cứu giang sơn, lòng dân muốn vậy.

Vua Nhị Thế nói:

– Thừa Tướng đâu? Ta có thể gặp mặt được chăng?

Diêm Nhạc quắc mắt, hét:

– Không được.

Vua Nhị Thế ngập ngừng nói:

– Thế trẫm xin làm chức Vạn Hộ Hầu có được chăng?

– Không được.

Thế trẫm xin được sống với vợ con có được chăng?

– Không được.

Thế các khanh nhất định không để trẫm sống!

Triệu Thành nói:

– Một ông vua bị phế không thể sống. Nếu nhà vua biết điều nên tự xử lấy mình. Chúng ta vâng mệnh Thừa Tướng đến đây, đừng kêu ca vô ích!

Nhị Thế thấy không thể bảo vệ cái sống được nữa đành phải tự vẫn.

Triệu Thành, Diêm Nhạc trở về báo lại với Triệu Cao:

– Nhị Thế tự tử rồi, Thừa Tướng mau lập vua khác.

Triệu Cao liền họp quần thần tuyên bố:

– Vua không nghe lời can gián của ta, làm lắm điều bạo ngược khiến thiên hạ loan lạc, điêu linh, chư hầu nổi lên làm phản, nay ta đã giết vua rồi. Nước Tần từ xưa vẫn xưng vương, đến đời Thủy Hoàng lại xưng đế, làm phật ý chư hầu. Nay bỏ hiệu xưng đế, xưng vương như cũ, bình đẳng với sáu nước, tự nhiên sáu nước sẽ hài lòng rút quân về, các quan nghĩ sao?

Các quan đều nói:

– Thừa Tưóng nói phải lắm.

Triệu Cao lại nói:

– Tử Anh là cháu gọi vua Nhị Thế bằng chú, vốn nhân đức, đáng lập lên kế vị, các quan nghĩ sao?

Các quan đều nói:

– Thừa Tướng nói phải lắm.

Triệu Cao truyền đem hài cốt vua Nhị Thế chôn nơi vườn Nghi Xuân, rồi cùng quần thần đem ngọc tỷ đến mời Tử Anh lên ngôi.

Tử Anh bình nhật thấy Triệu Cao dua nịnh, hãm hại tôi trung, lòng không phục. Tuy nhiên, lại cũng không thể vì vậy mà bỏ sự nghiệp tổ tiên, nên nói:

– Ta phải trai cung năm ngày mới có thể tức vị được.

Ðêm đến, Tử Anh gọi hai con đến bảo:

– Triệu Cao phản nghịch giết vua, sợ đình thần bắt tội mới giả nhân nghĩa đến đón ta về làm vua. Nếu để Triệu Cao, trăm họ oán vọng. Hai con nên cùng với gia tướng Hàm Ðàm, Lý Tất đem quân đao phủ phục ở sau nhà Thái Miếu. Hết hạn, năm ngày ta cáo ốm không đến triều, thế tất Triệu Cao phải thân hành đến đón. Chừng ấy hai con hô phục binh nổi dậy giết quách đi để rửa thù cho tiên vương

Hai vị công tử tuân lệnh đến dẫn gia tướng và đao phủ phục sẵn nơi trai cung.

Ðến hôm thứ năm, Triệu Cao nghe báo Tử Anh bị bệnh liền thân hành đến trai cung thăm viếng.

Ðến nơi, không thấy Tử Anh đâu, bỗng nghe tiếng quát to đứa phản tặc đã đến kia. Quân đâu, hãy bắt nó.

Triệu Cao thất kinh, toan bỏ chạy, nhưng binh phục đã áp đến bằm Triệu Cao nát như tương.

Giết xong Triệu Cao, Từ Anh vào triều, quần thần rước lên ngôi, xưng hiệu Tam Thế Hoàng Ðế.

Vua Tam Thế truyền bắt cả tôn tộc của Triệu Cao giết hết, bêu đầu trước chợ Hàm Dương.

Dân chúng trông thấy ai nấy đều hả dạ.

Vua Tam Thế hỏi quần thần:

– Trẫm mới lên ngôi, trong triều chưa định, ngoài thì quân Sở hoành hành, các khanh có kế gì chăng?

Quần thần tâu:

– Ðịch quân kéo đến cửa quan tình thế rất gấp, xin bệ hạ sai tướng ra giữ cửa quan trước, còn việc triều chính sẽ định sau.

Vua Tam Thế theo lời, sai Hàn Vinh và Cảnh Bái dẫn năm vạn quân hiệp lực với Chu Mạnh cố thủ nơi quan ải.

Bái Công dẫn quân đến cửa Quan Trung thấy bọn Hàn Vinh đã đặt quân canh phòng cẩn mật, khó vượt qua được, liền hội chư tướng bàn luận.

Trương Lương nói:

– Quân Tần mạnh lắm chưa thể đánh ngay được. Tướng Tần tuy cầm quân nhưng cũng rõ được lẽ tồn vong trong thiên hạ. Nay hãy tạm dừng binh lại, sai người lên đỉnh núì cạnh cửa quan, cặm cờ đỏ để làm thinh thế, rồi sai Lục Giả, Lịch Tư Cơ sang làm thuyết khách, lấy lẽ phải trái dụ hàng, đợi cho quân địch chểnh mảng không phòng bị, ta sẽ thừa cơ tấn công thì mới thắng.

Bái Công theo lời cho quân lên núi cắm cờ la liệt, rồi sai Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang du thuyết.

Lục Giả và Lịch Tư Cơ sang yết kiến Hàn Vinh, Chu Mạnh.

Lục Giả nói:

– Nay quân Tần vô đạo, trăm họ khổ sở, thiên hạ đua nhau dấy nghĩa! Lòng dân đã muốn tất trời phải theo. Nếu tướng quân biết thương dân, không muốn cho dân lâm vào cảnh binh đao tang tóc, xin mở cửa thành đầu hàng.

Bái Công sẽ tâu với vua Nghĩa Ðế phong tướng quân hàm Vạn Hộ Hầu thì danh tiếng không mất.

Hàn Vinh nói:

– Tôi ăn lộc nhà Tần, lẽ nào lại bội nghĩa.

Tiên sinh hãy tạm trú nơi nhà tôi, để tôi nghĩ lại đã.

Lục Giả nhận lời trở về dinh. Hàn Vinh đem việc ấy bàn với chư tướng.

Tướng lỉnh, có kẻ bảo đầu, người lại bảo không ; bởi thế Hàn Vinh do dự bỏ trễ việc quân.

Hôm sau, Tự Cơ đến yết kiến Hàn Vinh, nói:

– Tướng quân đã suy xét kỹ chưa?

Hàn Vinh thẩn thờ, nói:

– Các tướng không nhất ý, biết làm thế nào?

Tự Cơ cười nhạt đáp:

– Cám ơn tướng quân! Cứ như thiện cảm của tướng quân dẫu tướng quân không hàng, Chúa công tôi cũng kính mến. Tôi có đem theo một trăm nén vàng để tạ ơn tướng quân.

Hàn Vinh từ chối:

– Tôi với Bái Công là đối thủ, lẽ nào lại nhận lễ.

Tự Cơ nói:

– Tướng quân không nhận lễ là tướng quân muốn tuyệt tình với Chúa công tôi. Sau này chư hầu kéo quân tới lấy thành tất tướng quân không giữ nổi chừng ấy tướng quân muốn gây ân nghĩa với Chúa công tôi cũng khó. Chi bằng hãy tạm nhận cái lễ này để phòng bất trắc về sau, tướng quân nên nghĩ kỹ.

Hàn Vinh bấm trán đắn đo một lúc, rồi thuận tình nhận lễ vật.

Tự Cơ trở về thuật lại với Bái Công:

– Tướng Tần tuy không chịu hàng song lòng lưỡng lự việc canh phòng không còn nghiêm nhặt nữa.

Trương Lương nói:

– Thế là cơ trời đã đến

Liền gọi Tiết Âu và Trần Bái đến, bảo:

– Hai ngươi dẫn vài mươi quân kỵ lẻn vào con đường tắt sau chân núi, đốt lửa sau thành làm kế nghi binh. Ta cùng Hàn Khoái đem đại binh đánh vào mặt thành, chúng sẽ tưởng quân ta chận hai đầu tất sợ hãi bỏ thành chạy.

Các tướng làm y kế. Quả nhiên quân trong thành hoảng hốt chạy tán loạn.

Hàn Vinh từ khi nhận lễ, không nghĩ đến việc đánh giặc nữa, cả ngày chỉ uống rượu làm vui.

Khi nghe tiếng quân ó vang trời, mặt trước và mặt sau lửa cháy đỏ rực, tưởng quân Sở đã vào được thành rồi, vội khiến quân mở cửa thành ùa ra thoát nạn.

Hàn Vinh chay đến Lam Ðiền mới dám đóng quân.

Ngày hôm sau, chỉnh đốn quân ngủ kéo đến định quyết chiến

Nhưng, Trương Lương đã đoán được, cho hai đạo binh phục sẳn. Hàn Vinh vừa đến nơi, bị phục quân nổi dậy, đánh một trận tơi bời, không còn manh giáp, chạy thẳng về Hàm Dương cáo cấp.

Bái Công kéo binh thẳng đến Bái Thượng bấy giờ vào mùa đông, tháng mười, năm ất Vị, vua Tam Thế nhà Tần sợ hãi, họp quần thần thương nghị:

– Các khanh tính kế gì trong tình thế nguy cấp?

Quan Thượng đại phu Phù Tất tâu:

– Việc này rất gấp! Bệ hạ nên thương lấy sinh linh khuất giá ra bên đường đầu hàng để tránh tai vạ. Lòng dân lâu nay thán oán nhà Tần, dẫu có đem sức chống cự cũng vô ích.

Vua Tam Thế khóc òa, sai lấy ngọc tỷ gói vào lụa buộc vào cổ rồi đi xe mộc, ngựa trắng ra đầu hàng.

Bái Công mừng rỡ, cùng vua Tam Thế thi lễ.

Vua Tam Thế khúm núm thưa:

– Tử Anh này là kẻ bất tài thiếu đức, không đáng làm chủ muôn dân. Nay thấy tướng quân xa giá Tây chinh, tình nguyện đầu hàng, tránh cảnh lửa binh, cứu nguy trăm họ.

Nói xong, đem ngọc tỷ dâng lên.

Bái Công thu nhận và nói:

– Quân hầu đã dốc lòng qui hàng tôi xin bảo tấu với vua Nghĩa Ðế ân xá cho. Ðoạn, giao Tử Anh cho người coi giữ.

Chư tướng đều nói:

– Tần Vương bạo ác, tội đáng giết sao Minh Công lại tha?

Bái Công nói:

– Kẻ bạo ác chỉ khi nào nắm được quyền hành trong tay mới làm được chuyện đó. Nay nhà Tần đã mất, còn bạo ác được sao? Vả lại giết một kẻ quy hàng là điều bất nghĩa, sau này ai còn dám đầu hàng nữa.

Nói xong cất quân vào thành, truyền mở tiệc khao thưởng ba quân.

Nhà Tây Tần từ vua Trang Vương đến đời Nhị Thế, tất cả được 43 năm và vua Tam Thế lên ngôi được 43 ngày.

Hàm Dương cung điện nguy nga, lầu đài tráng lệ, 36 cung, 24 viện, nào lầu ngọc nhà vàng, nào tường hoa thềm gấm, đâu đâu cũng rực rỡ muôn màu.

Chư tướng tranh nhau kho vàng lấy của cải, chỉ có Tiêu Hà không lấy gì cả, vào ngay phủ Thừa Tướng thu đồ tịch ( sổ đinh và sổ điền ). Bởi thế, Bái Công được biết nơi nào hiểm yếu, nơi nào đông dân, nơi nào nghèo, nơi nào giàu.

Bái Công vào cung A Phòng thấy mỹ nữ dẩy đầy như một vườn hoa muôn sắc, ra đến triều đường thấy ngai vàng, bệ ngọc uy nghi, bèn tấm tắc khen:

– Nhà Tần phú quý đến thế này là cực phẩm! Ðời ta chưa từng thấy bao giờ.

Rồi quay lại nói với chư Tướng:

– Ta muốn ở đây trấn an nhân tâm, tự nhiên các chư hầu không còn cạnh tranh nữa.

Phàn Khoái thấy Bái Công đắm say cảnh vàng son hoa mỹ liền can:

– Ðây chỉ là một khung cảnh vong quốc sao Minh công lại thích nó làm gì? Bởi xa xỉ thế này mà nhà Tần diệt vong. Xin lấy cái gương ấy tránh xa là hơn.

Bái Công do dự, Trương Lương nói tiếp:

– Trong mê sắc đẹp, ngoài thích chim muông, vẽ cột, sơn tường, rượu chè, hát xướng. Phạm một trong các điều ấy tức là triệu chứng bại vong. Vì cái giàu sang vô đạo của Tần mà Minh công mới đến được nơi đây. Nay thiên hạ chưa định, Minh công đã say mê sự giàu sang còn ai phục mình nữa. Xin Minh công nghe lời Phàn Khoái chớ lưu luyến.

Bái Công vở lẽ, truyền niêm phong cung điện, dẫn quân về Bái Thượng đồn trú đợi quân chư hầu đến.

Tiêu Hà nói:

– Dân chúng lâu nay cam khổ dưới chế độ nhà Tần.

Nay Minh công trừ được nhà Tần cũng nên tuyên bố một vài ân đức để được lòng dân.

Bái Công nói:

– Vàng son đã làm cho óc ta u tối, quên điều đại nghĩa.

Liền truyền xuống các huyện, họp tất cả thân hào, bô lão đến Bái Thượng, hiểu dụ rằng:

– Pháp luật nhà Tần quá khắc nghiệt, dân sống không yên, muôn ngàn khốn đốn. Ta nhận lời ước của Hoài Vương: “Vào được Quan Trung trước thì làm vua nước Tần”. Nay ta vào trước, lấy tư cách lời ước ấy ban bố bỏ các luật lệ của nhà Tần, chỉ để lại ba điều như sau:

Giết người phạm tội chết, hại người và ăn trộm bị tội nặng, còn các tội khác tùy nặng nhẹ lượng tình phân xử.

Ta đến đây chỉ cốt vì dân trừ hại, dân sự cứ yên ổn làm ăn đừng lo sợ.

Nói xong, truyền lệnh ba quân không được quấy nhiễu dân chúng, ai trái lệnh bị tội chém.

Dân chúng thấy Bái Công nhân đức như vậy tranh nhau đem trâu, dê, cơm, rượu đến hiến thưởng quân sĩ.

Bái Công không nhận, nói:

– Thóc kho còn nhiều, chẳng dám phiền đến dân.

Trong lúc Bái Công đã lấy được Hàm Dương, diệt nhà Tần an định dân chúng, thì Hạng Vũ mới lấy được Hà Bắc, đem hết quân chư hầu kéo vào Quan Trung để tiến vào Hàm Dương.

Bấy giờ, cửa Quan Trung, quân Bái Công chiếm giữ.

Hạng Vũ truyền đóng trại ngoài thành để liệu kế.

Hồi 9 – Xem thiên văn Phạm Tăng đoán thời

Ðêm ấy, Hạng Vũ lẻn đi tuần các doanh trại.

Vừa đến trại hàng tốt quân Tần, thấy quân sĩ thì thào nhau:

– Chúng ta bị Chương Hàm đánh lừa, theo hàng Hạng Vũ, ông ta chỉ chuyên về bạo ngược, thưởng phạt bất công. Nghe nói Bái Công là ngườl nhân đạo, không hay chém giết, lại vào được Quan Trung trước chắc sau này sẽ làm vua thiên hạ. Bọn mình rủi không được theo người ấy.

Hạng Vũ nghe đến đấy lòng căm tức, trở vào trung quân gọi Anh Bố đến truyền:

– Hàng tốt nhà Tần muốn làm phản, ta vừa đi tuần, nghe chúng bàn nhau. Vậy phải trừ bỏ để khỏi lo hậu hoạn, chỉ chừa lại Chương Hàm, Tư Mã Hân và Ðổng Ê mà thôi.

Phạm Tăng thấy Hạng Vũ xử sự như vậy, can:

– Không nên. Ðối với sĩ tốt cần phải lấy lượng khoan hồng chinh phục. Tướng quân dùng hình phạt chỉ làm cho ba quân sợ mà không phục.

Hạng Vũ không nghe. Ðêm hôm ấy Anh Bố đem ba mươi vạn quân đến thành Nam và chỗ hàng tốt nhà Tần đóng, bắt tất cả hai mươi vạn người đem chôn sống hết! Chỉ để lại ba hàng tướng mà thôi.

Chương Hàm thấy vậy thở dài, vội đến trung quân lãnh tội.

Hạng Vũ nói:

– Ba người không có tội gì, đừng ngại. Bởi vừa rồi ta đi tuần, nghe bọn hàng tốt âm mưu làm phản nên buộc lòng ta phải trừ bỏ đấy thôi.

Sáng hôm sau Hạng Vũ kéo quân đến trước mặt thành. Phàn Khoái hay tin, vội đến nói với Bái Công:

– Nước Tần giàu, địa thế hiểm trở, nay nghe Hạng Vũ phong hàng tướng nhà Tần là Chương Hàm làm vua, hiện kéo binh đến cửa quan, ý muốn vào chiếm Hàm Dương trái lời ước của vua Nghĩa Ðế, nếu không lo sớm e mang hại.

Bái Công nói:

– Nếu Hạng Vũ đến đây, uy thế ta không còn nữa.

Phàn Khoái nói:

– Hãy sai tướng ra giữ cửa Hàm Cốc, không cho quân chư hầu vào, rồi mộ thêm quân Quan Trung cự địch.

Bái Công theo lời, sai Tiết Ân và Trần Bái ra giữ cửa quan.

Hạng Vũ thấy quân Bái Công đóng chặt cửa thành, canh phòng cẩn mật, nói với Phạm Tăng:

– Bái Công không muốn quân chư hầu vào Hàm Dương là ý gì?

Phạm Tăng nói:

– Bái Công muốn giữ lời ước vua Hoài Vương, làm vua Qnan Trung đó. Minh Công lập lên vua Hoài Vương, chinh chiến ba năm khó nhọc, gây dựng uy thế trong thiên hạ còn Bái Công chỉ dựa vào sự nghiệp của Minh công, chiếm đoạt công lao, như thế làm sao nhịn được?

Hạng Vũ nói:

– Dẫu Lưu Bang có chiếm được Hàm Dương nhưng quân chưa đầy mười vạn, sức không bằng Chương Hàm,

làm thế nào cự nổi ta?

Phạm Tăng nói:

– Nay lấy cớ Bái Công đóng cửa quan, không cho chư hầu vào, đem quân đánh thành đã rồi hãy viết thư nói phải trái với Bái Công sau.

Hạng Vũ liền sai Anh Bố đem mười vạn quân công thành.

Tiết An và Trần Bái đóng cửa thành lại, tuần hành rất nghiêm nhặt.

Hạng Vũ viết thư bắn vào thành, quân sĩ lượm được cấp trình cho Bái Công xem.

Thư rằng:

Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.

Khi trước tôi cùng hiền huynh nhận ước vua Hiền vương kết làm anh em, hợp sức đánh Tần trừ bạo chúa, cứu muôn dân. Nay hiền huynh sớm được vào Hàm Dương, tài năng ấy tôi rất phục.

Song, nếu tôi không dựng vua Sở, thu lòng thiên hạ, không đánh Chương Hàm, thu phục chư hầu, thì nay hiền huynh có thể vào được Hàm Dương chăng? Kẽ đắc thế thường hay quên công khó của kẽ khác. Tôi, binh hùng tướng mạnh, sức có thể xẻ núi lấp sông, sá gì một cửa thành cỏn con, mà hiền huynh ngăn đón?

Hiền huynh nên tính kỹ, kẻo đến lúc tôi hạ thành tình nghĩa không còn. Vả lại, lời ước trước kia, tôi sẽ tự xử, hiền huynh không phải lo“.

Bái Công xem thư, hỏi Trương Lương:

-Vùc này rất khó nghĩ, tiên sinh có kế chi chăng?

Trương Lương nói:

– Quân Hạng Vũ mạnh lắm, cửa quan không thể giữ được lâu. Nếu dùng sức kháng cự quân ta sẽ bị tiêu diệt, như thế không lợi cho bước đường tiến thủ sau này. Chi bằng mở cửa quan cho họ vào rồi sẽ liệu.

Bái Công sai ngưòi cầm cờ tiết đến bảo mở cửa ải cho quân Sở vào.

Tiết, Trần, hai tướng được lệnh, leo lên mặt thành gọi lớn:

– Mời tướng Sở lại đây nói chuyên.

Anh Bố cỡi ngựa đến hỏi:

– Bọn ngươi có điều gì hãy nói mau?

Tiết Âu nói:

– Chúa công tôi sai chúng tôi ra đây cốt đề phòng bọn cướp chứ không phải kháng cự với quân Sở. Nay tôi vừa tiếp được lệnh của Bái Công bảo mở cửa quan mời tướng quân vào. Vậy tướng quân cứ dẫn quân vào đi.

Anh Bố liền hạ lệnh kéo quân vào thành. trực chỉ đến Hồng Nhạn hạ trại.

Ðồn binh xong, Hạng Vũ sai người đi khắp Hàm Dương điều tra quân tình và hành động của Bái Công.

Riêng Phạm Tăng cũng cho người đi dò xét.

Quân thám thính trở về thuật lại mọi việc, Hạng Vũ buồn bã nói:

– Bái Công không ham vàng bạc châu báu, chinh phục lòng dân là có ý muốn làm vua đất Tần rồi!

Ðêm ấy, Phạm Tăng dắt người chú của Hạng Vũ là Hạng Bá, ra bờ sông Hồng Nhạn, lên một gò cao ngắm các lâu đài cung điện nhà Tần.

Bốn bề vắng ngắt, trăng sao lấp loáng nhả ánh sáng lờ mờ trong bầu vũ trụ u huyền.

Phạm Tăng vỗ vào vai Hạng Bá hỏi:

– Hiền hữu có biết xem thiên văn chăng?

Hạng Bá đáp:

– Tôi thuở bé có người bạn ở nước Hàn là Trương Lương, thường bàn đến thiên văn, và nói:

– Làm tướng phải biết thiên văn, phải thông địa lý, phải hiểu mây gió, phải biết khí sắc thì mới cầm quân được. Tuy nhiên, tôi chỉ biết qua loa, không rành lắm.

Phạm Tăng chỉ lên trời, dẫn giải cho Hạng Bá biết.

Trước chia phương hướng, sau án kinh, vĩ ngũ hành. Nào là mười hai đường Cháu Thiên, nào là hai mươi tám vì tinh tú, cả thảy ba trăm sáu mươi lăm độ. Ðâu là Bắc thần, đâu là Tả phù, Hữu bật, vì sao nào thuộc về Lỗ Công vì sao nào thuộc về Bái Công.

Xem qua một lượt rồi quay về phía sông Hồng Nhạn, thấy sát khí đầy trời, tướng tinh rất mạnh, nhưng chỗ ẩn phục khí vận không được tốt.

Lai quay về Bái Thượng, thấy một tòa đế tinh sáng sủa, trong như nước nguồn mới chảy, mặt trời mới mọc, long lanh muôn dậm vằng vặc một trời.

Phạm Tăng hỏi Hạng Bá:

– Hiền hữu xem Lưu, Hạng, hai người thế nào?

Hạng Bá nói:

– Sao đế tinh chiếu về Bái Thương có lẽ vượng khí về Lưu Bang. Còn về Hồng Nhạn, tuy sát khí đây trời, song đó chỉ là tướng tinh của một trang dũng tướng chói ngời trong hoàn vũ mà thôi.

Phạm Tăng gật đầu khen:

– Ông xem thiên văn cũng khá lắm. Nhưng xưa Thân Bao Tư có nói: “Nhân định thắng thiên”. Trời tạo ra định mệnh, nhưng con người cũng cố thể sửa định mệnh được. Nay chúng ta đã đem thân thờ Hạng Vũ, há dám hai lòng. Vậy cứ mưu đổi mệnh trời, dầu chết cũng cam.

Hạng Bá khen:

– Tiên sinh thực là kẽ trung liệt..

Ðêm khuya, sương xuống nhiều, hai người dắt tay nhau về trại.

Ngày hôm sau, Hạng Vũ hội chư tướng bàn luận việc binh, bỗng có quân vào báo:

– Có quan Tả Tư Mã của Bái Công là Tào Võ Thương sai người đến dâng mật thư.

Hạng Vũ truyền cho vào, và mở thư ra đọc.

Bức thư viết

Kẻ hèn là Tả Tư Mã Tào Võ Thương cúi đầu trăm lạy.

Thiết nghĩ: Thiên hạ sống dưới ách nhà Tần chẳng khác nào sống trong hỏa ngục. Nay nhờ uy đức của Minh Công ; trở gươm sang mé Tây, nhà Tần thúc thủ, kéo quân sang Hà Bắc chư hầu ngưỡng vọng làm tôi. Công đức ấy dẫu đúc tượng vàng thờ kính muôn đời chưa xứng đáng.

Còn Bái Công chẳng qua là một kẽ xu thời, lợi dụng việc người làm việc mình, mượn uy vũ của Minh Công kéo quân vào Hàm dương, lẽ ra phải cúi đàu tùng phục, giúp Minh Công xây dựng nghiep Bá vương mới phải.

Lại dám sai quân giử cửa quan, mưu đoạt công lao, xây sự nghiệp mình trên công lao kẽ khác. Bái Công tự lượng sức mình, trứng không chọi nổi đá, nên mới mở cửa ải cho minh công vào, song vẫn âm thầm sắp sẳn quân để tác chiến. Tôi vẫn làm tôi của Bái Công, song lòng ngay không nín được, dâng bức thư này xin Minh Công xét nghĩ“.

Hạng Vũ đọc thư xong nổi giận, vỗ án hét:

– Lũ chuột đó lại cố tình muốn gây sự với ta ư?

Phạm Tăng nói:

– Bái Công lúc còn ở Sơn Ðông là một kẻ tham tài hiếu sắc ai cũng khinh bỉ. Nay vào Hàm Dương của báu không thích, sắc đẹp không yêu, hẳn đã có chí lớn. Minh công nên liệu trước, chồi non không bẻ, rễ sâu khó đào.

Hạng Vũ lập tức truyền chỉnh đốn binh mã, kéo qua đánh Bái Thượng.

Phạm Tăng can:

– Quân ta mới đến, chớ nên kinh động, vả lại Lưu Bang vào được Hàm Dương trước nhân tâm đã phục, quân lính hơn mười vạn, thủ hạ lại đông. Chi bằng đêm hôm nay, vào đầu canh ba, chia quân làm hai đạo, kéo theo đường tắt, vào đất Bái Thượng bắt Lưu Bang chém đi là xong.

Hạng Vũ khen phải, mật truyền quân sĩ, đúng canh ba khởi sự.

Hạng Bá là bạn thân của Trương Lương, biết Trương Lương hiện ở Bái Thượng, sợ Hạng Vũ đột kích bất ngờ, hại đến sinh mệnh bạn mình, muốn sai người đem mật thư bảo Trương Lương tránh đi nơi khác, nhưng sợ quân canh biết được không cho đi liền thân hành tìm Trương Lương.

Ðúng trong đêm ấy, Trương Lương ra ngoài xem sao thấy trên trời có môt vệt sáng, chỏ vào vùng Bái Thượng trông rất lợi hại, giữa có một đám khánh vân ấn bên trong.

Trương Lương giật mình trở lại dinh Bái Công để đàm luận.

Bái Công hỏi:

– Giờ này đã khuya, cớ sao tiên sinh chưa an nghỉ?

Trương Lương nói.

– Tôi vừa xem thiên văn, thấy có sát khí chiếu vào trại, đêm nay chắc có quân Sở đến đột kích, tình hình rất nguy cấp, phải phòng bị mới được.

Bái Công giật mình nói:

– Quân ta ít, địch sao lại với quân Sở? Tiên sinh có kế gì tự vệ chăng?

Trương Lương nói:

– Dẫu có sát khí, nhưng bên trong lại có khánh vân che chở tôi chắc không hề gì, xin Minh công chớ lo.

Nhắc lại, Hạng Bá chờ cho đến lúc sẩm tối, một mình lên ngựa bôn bả ra cửa dinh, bỗng gặp viên tùy tướng của Hạng Vũ là Ðinh Công đang đi tuần tra, trông thấy chạy lại hỏi:

– Ngài đi đâu trong đêm tối?

Hạng Bá đáp:

– Ta di thám thính quân tình đây.

Ðinh Công thấy Hạng Bá ra đi một người một ngựa, lại là chú của Hạng Vũ nên không dám hỏi nữa.

Hạng Bá phi ngựa về phía Bái Thượng cách trại Bái Công hai mươi dặm bọn quân tuần tiểu của Bái Công đón lại.

Tướng Hạ Hầu Anh chận đường hỏi:

– Lão tướng làm gì đến đây đêm tối?

Hạng Bá nói:

– Tôi là bạn của Trương Lương có việc khẩn cấp xin đến yết kiến.

Hạ Hầu Anh thấy thái độ trầm tĩnh của Hạng Bá, biết không phải quân gian, liền dẫn vào trại Trương Lương.

Qua mấy vòng binh, bốn mặt tinh kỳ sáng chói, hàng ngũ đâu đó có thứ lớp.

Hạng Bá khen thầm:

– Bái Công quả không phải là kẻ tầm thường, lời khen của Phạm Tăng thật đúng vậy?

Hạ Hầu Anh vào báo:

– Có người xưng là bạn của Trương Tiên sinh đến đây xin yết kiến.

Trương Lương mừng rỡ, vỗ tay nói lớn:

– Phúc tinh đã đến đây rồi.

Liền vội vàng ra đón tiếp. Té ra đó là Hạng Bá.

Trương Lương dắt tay Hạng Bá vào nội dinh trò chuyện.

Hiền hữu tri kỷ lâu nay không cho phép tôi vì công danh mà quên nghĩa cũ, nên đến đây nói cho hiền hữu biết ; Ðêm nay Lỗ Công đến cướp trại, xin hiền hữu lánh đi kẻo mang họa.

Trương Lương nói:

– Tiểu đệ vì vua Hàn theo Bái Công, nay biết Bái Công có nạn thoát thân một mình sao đành, để tôi nói cho Bái Công biết đă.

Hạng Bá cản lại nói:

– Ấy chết! Tôi vì hiền hữu đến đây mách bảo, nếu hiền hữu làm lộ cơ mưu, té ra tôi là người phản lại Lỗ vương sao?

Trương Lương nói:

– Không hề chi, Bái Công quân lực yếu ớt, nếu biết cũng khó tránh nổi tai họa.

Nói xong chạy vào thuật lại với Bái Công.

Bái Công sợ hãi, hỏi:

– Việc này tiên sinh nghĩ thế nào?

Trương Lương ghé vào tai Bái Công nói nhỏ một hồi, rồi chạy trở ra tiếp kiến Hạng Bá và nói:

– Xin mời Hạng huynh quá bộ vào tiếp Bái Công một lát để hiễu rõ đức độ của một hiền nhân.

Hạng Bá ngần ngại nói:

– Tôi chỉ cốt đến đây báo tin cho hiền huynh, vậy tiếp kiến Bái Công làm chi?

Hạng Bá từ chối, nhưng Trương Lương nài ép mãi bất đắc dĩ Hạng Bá phải theo Trương Lương vào yết kiến Bái Công.

Bái Công sừa soạn khăn áo ra đón, và đặt tiệc khoản đãi.

Hạng Bá nói:

– Tôi vì nghĩa anh em mà lại đây, đa tạ Minh công có lòng chiếu cố.

Bái Công khiêm tốn đáp:

~ Ðây chỉ là chút tình hoài vọng bấy lâu, nay được gặp mặt. Bang này nghe ngài có hiền công tử chưa định gia thất, nay Bang có một tiện nữ, muốn cùng ngài kết nghĩa thông gia để thỏa tình tri ngộ hôm nay, và xin ngài về dinh đem cái chân tình của Bang nói với Lỗ Công ; Bang này thực không có lòng dám kháng cự. Nếu Lỗ Công nguôi giận, Bang này được tái sinh, thực nhờ ơn tái tạo của ngài đó.

Hạng Bá nói:

– Hai nhà cự địch trí dũng đua nhau, tôi lại thông gia với Minh công, e người ngoài dị nghị, vì vậy tôi chẳng dám nhận lời.

Trương Lương nói:

– Hạng huynh nói cũng phải, nhưng Lưu, Hạng trước đây kết làm anh em cùng nhau hiệp lực đánh Tần, nay Tần đã bị diệt, thì hai nhà tính việc thông gia với nhau là phải lẽ, việc gì phải sợ người ngoài dị nghị.

Nói xong, Trương Lương lấy vạt áo của Hạng Bá và Bái Công cột chung lại, rồi lấy gươm cắt làm hai miếng, trao cho mỗi người một nửa.

Hạng Bá bất đắc dĩ phải nhận lời, uống thêm vài chén trà nữa rồi đứng dậy từ giã và dặn:

– Sáng mai thế nào Minh Công cũng phải đến Hồng Môn yết kiến Lỗ Công cho Lỗ Công bớt giận, tôi xin đứng ra liệu bề phân giải, thế nào Lỗ Công cũng phải nghe.

Trương Lương sai Hạ Hầu Anh dẫn hai mươi tên lính kỵ tiễn chân Hạng Bá về dinh.

Ðêm đó cuối canh hai, Phạm Tăng và Hạng Vũ kiểm điểm nhân mă để kéo sang Bái Thượng cướp trại.

Binh tướng đều đủ mặt, chỉ thiếu một Hạng Bá.

Phạm Tăng nói:

– Quái lạ! Hạng tướng quân sao không đến?

Minh Công nói:

– Lúc sẩm tối, tôi thấy Hạng đại nhân cỡi ngựa ra phía Ðông bảo là đi thám thlnh dân tình.

Phạm Tăng thở dài nói:

– Thế là hỏng! Xin Minh công hãy đình binh lại đã.

Hạng tướng quân ra đi thế nào cung tiết lộ cơ mưu của ta rồi.

Hạng Vũ nói:

– Thúc phụ ta người trung thành, hơn nữa đối với ta tình ruột thịt lẽ nào đem việc cơ mật của ta tiết lộ, tiên sinh chớ ngại!

Phạm Tăng nói:

– Hạng tướng quân tuy không tiết lộ hết chuyện, nhưng đã là cơ mật nếu lộ ra một tí gì thì khó thành. Tôi thiết tưởng đêm nay không nên cất quân.

Vừa dứt lời có người vào bẩm:

– Hạng tướng quân đã về.

Hạng Vũ ra nghênh tiếp, và hỏi:

– Thúc phụ đi đâu thế?

Tôi có bạn cũ nguời. nước Hàn, họ Trương tên Lương, từ thuở bé đến giờ chơi nhau rất thân. Vì sợ đêm nay Minh công cất quân tiêu diệt thì người ấy chết mất, nên đến dặn nhỏ một lời, bảo hắn tìm đường thoát nạn.

Nhân hỏi chuyện Lưu Bang vào Quan Trung như thế nào, thì hắn nói:

– Lưu Bang thực không có tình ý gì cả, sở dĩ sai tướng giử cửa quan, bất quá phòng trộm giặc nhà Tần, chứ không dám cự với quân Sở. Kho tàng châu báu đều niêm phong lại, cung phi mỹ nữ không màng, bắt được vua Tần là Tử Anh vẫn không dám định đoạt, chỉ để đợi Lỗ Công. Tôi thiết nghĩ, nếu Lưu Bang không vào cửa quan trước thì bọn ta còn phải tốn biết bao nhiêu sức lực mà chưa dễ đã vào ngay được. Nay người ta có công lớn, mình lại nghe lời đứa tiểu nhân, chực hại người ta, thì còn gì là thiên đạo nữa! Ngày mai Lưu Bang đến đây tạ tội, Lỗ Công nên lấy nghĩa mà đối xử thì mới được tiếng khen.

Hạng Vũ nghe xong, nói:

– Thúc phụ nói rất phải. Thực ra Lưu Bang cũng chưa có tội gì. Nếu ta giết e thiên hạ chê cười chăng?

Phạm Tăng nói:

– Muốn mưu tmh đại sự nhiều lúc kẻ có tội vẫn phải khoan hồng, ngược lại, kẻ vô tội vẫn phải trừ bỏ. Tôi sở dĩ khuyên Minh công giết Lưu Bang vì thấy Lưu Bang sau này có thể tranh ngôi bá chủ với Minh công. Nay không trừ đi tất sau hối không kịp. Lão tướng nhà ta có lẽ đã mắc mưu Trương Lương rồi, xin Minh công đừng nghe.

Hạng Vũ do dự một lúc rồi nói:

– Giết một kẻ chưa có tội là trái lương tâm. Vả lại, muốn hại Bái Công thì thiếu gì cách cần chi phải lén đến cướp trại trong đêm khuya, uy danh ta bị tổn thương, xin tiên sinh nghĩ kế khác.

Phạm Tăng nói:

– Tôi xin hiến ba kế giết Bái Công. Ðiều cốt yếu Minh Công phải quả quyết mới làm được. Tôi biết Minh Công tánh nóng mà trực. Tánh ấy có hại cho nghiệp lớn.

Hồi 10 – Yến Hồng Môn, Phàn Khoái cứu chủ

Hạng Vũ nói:

– Xin tiên sinh cho biết ba kế ấy, tôi nguyện theo.

Phạm Tăng nói:

– Minh công phải thấy Lưu Bang là cái lo quan trọng đối với Minh công. Minh công sẽ không thể cùng Lưu Bang sống chung trong hoàn vũ. Thế thì việc giết Lưu Bang là cần thiết cho bản thân, sự nghiệp Minh Công sau này. Tôi có ba kế: Một là mời Lưu Bang đến Hồng Môn dự yến, trong tiệc đem việc ngăn cản nơi cửa quan ra trách rồi giết phứt đi, đó là thượng sách. Hai là sai quân đao phủ phục dưới trướng, chờ lúc Lưu Bang vào tiệc, hô quân đao phủ áp lại giết, nếu Minh công không nỡ xuống tay. Ðó là trung sách. Ba là sai người chuốc rượu cho Bái Công say rồi khiêu khích cho Bái Công thất lễ, bắt tội giết đi. Ðó là hạ sách.

Hạng Vũ nói:

– Ba kế ấy có thể làm được cả, ít ra cũng phải làm cho mọi người thấy Lưu Bang có tội đã.

Nói xong truyền chư tướng chuẩn bị đâu đó sẳn sàng, rồi sai người mang thư mời Bái Công đến Hồng Môn dự yến.

Bái Công tiếp được thư mở ra đọc, thư viết như sau:

” Lỗ Công Hạng Vũ kính thư Bái Công hiền huynh nhã giám.

Tôi cùng hiền huynh hợp lực đánh Tần, chịu lời ước của vua Hoài vương. May thay! Hiền huynh kéo binh sang mé Tây, Tử Anh quy hàng, Quan Trung quy phục, nhà Tần bị diệt, giải phóng trăm họ, Công lao ấy thực to tát. Tôi lấy làm mừng, bày yến tiệc cùng hiền huynh chung vui, xin hiền huynh chiếu cố, để thỏa lòng mong ước – Hạng Vũ kính thư “.

Bái Công xem thư xong, Trương Lương nói:

– Tiệc này không là tiệc vui, chính là mưu của Phạm Tang, ta chớ nên xem thường.

Tiêu Hà nói:

– Binh lực củ Hạng Vũ đang mạnh, nếu hắn cố hại thì ta khó chống cự nổi. Nay nên lựa một người ăn nói giỏi đến thoái thác, cốt làm cho Hạng Vũ đừng nghi chúng ta có ý chiếm đoạt uy quyền, rôi tìm lấy một Châu quận khác mà ở, chỉnh đốn binh mã, sau sẽ tính.

Lịch Sinh nói:

– Tôi xin lãnh nhiệm vụ thuyết khách ấy.

Trương Lương bàn:

– Kế của hai ông chưa phải là thượng sách. Xưa Nhủ Tử Tư bảo hộ vua Bình Vương yến hội nơi Lâm Ðồng, mười tám nước chư hầu phải kính phục. Lạn Tương Như đến hội ở Miên Trì, đem ngọc bích về nước Triệu, thiên hạ đến nay còn khen. Tôi tuy bất tài, nhưng quyết bảo vệ Minh công đến dự yến nơi Hồng Môn, để khỏi mất thể diện.

Bái Công nói:

– Nếu có tiên sinh phò tá thì ta vững lòng.

Tnrơng Lương liền sai người phúc đáp rằng: “Ngày mai sẽ đến phó yến “.

Phạm Tăng được tin, nói với Hạng Vũ:

– Ngày mai Bái Công đến, xin Minh công cứ y theo ba kế ấy mà làm, chớ do dự.

Ðoạn, sai Ðinh Công, Ung Sĩ làm tướng canh cửa, cấm không cho những người vô phận sự tự tiện ra vào.

Hôm sau, Bái Công đem một trăm khinh kỵ và năm tướng tâm phúc là Trương Lương, Phàn Khoái, Ngạn Hấp, Kỷ Tín, Ðằng Công đến phó hội Hồng Môn.

Vừa đến nơi, thấy một toán quân kéo đến, gươm giáo rợp trời, tiếng loa dậy đất, cầm đầu là tướng Anh Bố, cởi ngựa hô lớn:

– Phụng mệnh Lỗ Công đến rước Bái Công phó hội.

Bái Công quay lại hỏi Trương Lương:

– Tiên sinh nghĩ sao? Lòng ta thấy hồ nghi lắm!

Trương Lương đáp:

– Xin Minh công cứ vững lòng tin, theo lời dặn của tôi mà làm.

Bái Công theo sau Anh Bố đến cửa quan, Trần Bình ra nghênh tiếp.

Nhìn vào trong thấy tinh kỳ la liệt, gươm giáo sáng ngời, chuông trống khua vang, chẳng khác vào một chốn pháp trường sắp đem tội nhân hành quyết.

Bái Công ngần ngại không dám đi, quay lại nói với Trương Lương:

– Lỗ Công dàn cảnh như vầy đâu phải thực tâm phó hội. Tiên sinh nghĩ sao?

Trương Lương nói:

– Ðã đến đây, nếu lùi một bước là trúng kế địch. Xin Minh công đứng nơi đây, để tôi vào yết kiến Lỗ Công trước đã

Nói xong, Trương Lương bước đến trước. Ðinh Công đóng cửa dinh lại không cho vào.

Trương Lương nói:

– Nhờ tướng quân vào bẫm với Lỗ Công. Bái Công sai tôi là Tá Sĩ Trương Lương vào yết kiến.

Ðinh Công vào bẫm lại.

Hạng Vũ hỏi Phạm Tăng

– Thế nào là Tá sĩ.

Phạm Tăng nói:

– Người này ở nước Hàn, năm đời làm tướng nay theo phò tá Bái Công nên gọi là Tá Sĩ. Bái Công đem Trương Lương đến đây dụng ý thuyết từ xin Minh công giết quách Trương Lương để cho Bái Công mất một tay nương tựa

Hang Bá nghe nói giật mình can:

– Không nên! Lỗ Công vào Hàm Dương, điều cốt yếu là phải thu phục nhân tâm, giành ưu thế cho rnình. Nếu vô cớ giết hiền sĩ thì ai còn khâm phục. Vả lại Trương Lương là bạn thân của tôi, tôi có thể dụ về bên Sở, tại sao giết đi.

Lỗ Công liền đòi Trương Lương vào.

Trương Lương thấy Hạng Vũ mặc giáp trụ, chống gươm ngồi trên trướng, mặt hầm hầm sát khí, liền nói:

– Tôi nghe Minh Vương trị thlên hạ chỉ khoe đức chứ không khoe võ, các bậc hiền nhân đối xử nhau dùng nghĩa chứ không dùng uy. Nay Minh công mở hội Hồng Môn, chung vui với chư hầu, tôi ngỡ đến đây được nghe đàn sáo, ca nhạc, chủ khách giao tiếp nhau với muôn ngàn hân hoan, ngờ đâu chỉ thấy gươm đao la liệt, giáp sĩ đứng song hàng, chiêng trống vang trời, một đoàn sát khí, khiến cho nhân tâm ngờ vực muốn trở về. Minh công chín trận được Chương Hàm, một tay phục thiên hạ, uy danh lừng lẫy ai mà chẳng biết, thế thì khoe cái uy dũng của mình chẳng có ích gì. Tôi thiết tưởng Minh công nên khoe cái đức của mình để cho thiên hạ thấy con nguời tài đức vẹn toàn, trăm họ tùng phục, như thế mới thật là đáng hào hùng trong thiên hạ vậy.

Hạng Vũ nghe nói đổi sắc mặt, truyền cho vũ sĩ lui ra một dặm, bỏ giáp trụ, mặc triều phục, rồi mời chư hầu vào dinh.

Ðinh Công lại rao lớn:

– Không ai được đem nhiều nhân mã, chỉ cho theo hầu một vài văn thần, vũ sĩ mà thôi.

Bái Công theo Trương Lương bước vào, khúm Núm dưới thềm, chắp tay nói:

– Lưu Bang xin vào hầu Minh công.

Hạng Vũ tái sắc, nói:

– Lưu tướng quân có ba tội, thế mà chưa biết sao?

Bái Công nói:

– Bang là kẻ Ðình trưởng ở Huyện Bái, chúng nhân tôn lên để mộ quân đánh Tần. Phàm việc lớn nhỏ đều theo lệnh Minh công, thực chưa dám làm điếu gì trái phép.

Hạng Vũ nói:

– Tướng quân tự tiện tha cho hàng vương Tử Anh, không coi vương mệnh là gì, đó là một tội. Mua chuộc lòng người thiện cải pháp luật, đó là hai tội. Sai tướng giữ cửa quan không cho quân chư hầu vào, đó là ba tội. Có ba tội ấy sao lại chẳng biết?

Bái Công ung dung đáp:

– Vua nhà Tần đầu hàng nếu Bang tôi giết đi mới chuyên quyền, nay tôi giữ lại chờ lệnh Minh công xét xử, thiết tưởng đó không phải là tội. Phép nhà Tần khắc khổ trăm họ lầm than, Bang tôi sớm đổi đi, đó chính là vì cái thịnh đức của Minh công đó. Thiên hạ sẽ nói rằng:

– Quân tiền khu mới đến Hàm Dương mà còn cho dân thọ ân như vậy, nếu Nguyên Súy đến thì ơn huệ biết chừng nào. Còn như sai tướng giữ cửa quan chẳng qua Bang tôi sợ dư đảng của nhà Tần nổi lên tác loạn, chứ dám đâu cản chư hầu. Kẻ thành tâm như thế mà bị chê trách, xin Minh công xét lại.

Hạng Vũ tuy nóng nảy, nhưng là kẻ cương trực, không nỡ giết người đã tùng phục mình, vả lại lời tâng bốc của Bái Công cũng làm cho Hạng Vũ khoái chí, nên Bái Công vừa nói dứt lời Hạng Vũ thay đổi sắc mặt, cầm tay Bái Công, nói:

– Vũ này không có lòng giận hiền huynh, chỉ vì có tên bộ tốt của hiền huynh là Tào Vô Thương đem lời dèm siểm nên mới sinh ra cớ sự.

Liền mời Bái Công ngồi. Các nước chư hầu đều sắp theo thứ lớp, an tọa. Phạm Tăng, Trương Lương, Hạng Bá được dự tiệc. Cung đàn nổi lên, bầu không khí thân mật lại trở về trong ly rượu nồng nàn.

Phạm Tăng thi kế thứ nhất không thành. Lại thấy Hạng Vũ không có ý hại Bái Công nên quân phục hai bên đều yên lặng.

Phạm Tăng đưa mắt nhìn Hạng Vũ nháy nhó, bảo thực hiện kế thứ hai, nhưng nháy đến ba lần mà Hạng Vũ vẫn bỏ qua.

Phạm Tăng tức giận sai Trần Bình ra rót rượu, cốt làm cho Bái Công say rượu thất lễ mà giết đi.

Tuy nhiên, Trần Bình thấy Bái Công tướng mạo uy nghi, vẻ phượng mặt rồng, đem lòng cảm mến, nghĩ thầm:

– Bái Công không phải kẻ tầm thường, chiều theo ý Phạm Tăng hại người hiền đức là trái đạo trời.

Nghĩ thế, Trần Bình rót rượu cho Bái Công thì ít, mà rót rượu cho Hạng Vũ thì nhiều. Nhờ đó, Bái Công khỏi say.

Phạm Tăng thấy ba kế không thành, than thầm:

– Ngày nay không giết được Lưu Bang tất di hại về sau.

Nghĩ rồi lui ra ngoài tìm cách mưu hại. Nhưng thơ thẩn mãi mà tính chưa ra kế.

Bỗng sau tường có tiếng hát, giọng hát nổi ìên một lúc một rõ dần. Hát rằng:

Tráng sĩ thanh gươm ấp mộng đời.

Công hầu khanh tướng chỉ trò chơi!

Gươm thiêng nhuộm máu say men rượu

Hồ hải tung hoành tít dặm khơi!

Ai người tri kỷ!

Nâng chén đầy vơi!

Cuộc cờ sẩy mấy buông lơi

Ăn năn thì đã muộn rồi còn chi?

Phạm Tăng biết đó là giọng hát của tráng sĩ, chợt nghĩ ra một kế, lẩm bẩm:

– Ta có thể dùng người này giết Lưu Bang được.

Liền leo lên đầu tường, thì thấy người ấy là Hạng Trang, đồng hương với Hạng Vũ.

Phạm Tăng gọi Hạng Trang đến, kề tai nói nhỏ:

– Minh công tính cương trực, mà không quyết đoán. Tiệc Hồng Môn hôm nay mục đích giết Lưu Bang, ta đã bày ra ba kế nhưng Minh công không chịu dùng kế nào. Nay tráng sĩ vào trước tiệc làm lễ chúc thọ, xin múa gươm giúp vui, rồi thừa cơ giết Lưu Bang đi, công tráng sĩ chẳng nhỏ.

Hạng Trang vén áo, bước vào tiệc, nói:

– Trong tiệc không có gì vui, tôi xin múa gươm hầu các ngài uống rượu.

Nói xong, rút gươm ra múa, lăm lăm chỉ chực thừa miếng chém Bái Công.

Trương Lương thấy Hạng Trang múa gươm, liền đưa mắt nhìn Hạng Bá.

Hạng Bá hiểu ý, vội đứng dậy, rút gươm nói:

– Múa gươm phải múa đôi xem mới thú.

Hạng Vũ nói:

– Xin mời thúc phụ múa gươm với Hạng Trang cho vui.

Hạng Bá được dịp, liền đứng dậy, vung gươm múa.

Trong lúc múa thường lấy mình che cho Bái Công, Hạng Trang không sao chém được.

Hai người múa gươm một lúc. Hạng Bá lần lần yếu sức. Trương Lương thấy nguy cấp đến nơi, liền đứng dậy ra ngoài. Ðinh Công, Ung Sĩ ngăn lại, hỏi:

– Ngài ra ngoài làm gì?

Trương Lương nói:

– Tôi xin ra ngoài lấy quốc bảo vào dâng.

Trần Bình vốn đã sẵn có cảm tình với Bái Công, thấy Ðinh Công cản Trương Lương, liền bước lại gần nói:

– Minh công truyền để cho Trương Lương ra ngoài có việc.

Ðinh Công tưởng thật, để cho Trương Lương ra ngoài.

Trương Lương ra nói với Phàn Khoái:

– Hạng Trang đang múa gươm mưu giết Minh công, việc rất gấp, tướng quân nên vào ngay để liều chết cứu Minh công mới được.

Phàn Khoái nghe nói hậm hực, xách gươm theo Trương Lương bước vào.

Trương Lương nói:

– Ðể tôi vào trước đã.

Ðoạn, rảo bước đi ngay. Ðinh Công thấy Trương Lương trở vào, hỏi:

– Quốc bảo đâu?

Trương Lương giả vờ chỉ vào bọc, nói:

– Có đây rồi.

Vừa nói vừa lách mình đến trước tiệc, thấy Hạng Bá và Hạng Trang con đang múa kiếm, chưa thôi.

Phàn Khoái thấy Trương Lương đã vào bên trong liền chạy đến trước cửa dinh nói lớn:

– Tiệc Hồng Môn hôm nay quá vui mà kẻ tùy tùng không được ly rượu nào cả, Khoái tôi xin đến trước mặt Lỗ Công để xin một ít rượu thịt.

Nói rồi, cắp gươm, gạt bọn Ðinh Công chạy thẳng vào đến trước mặt Lỗ Công, trợn mắt nhìn, tóc dựng ngược lên.

Lỗ Công lấy làm lạ, hỏi:

– Tráng sĩ tên gì?

Trương Lương đứng lên, bẩm:

– Ðó là quan tham tướng của Bái Công tên Phàn Khoái.

Hạng Vũ hỏi:

– Nhà ngươi vào đây để làm gì?

Phàn Khoái nói:

– Tôi nghe Minh công mở tiệc Hồng Môn, mừng nhà Tần tuyệt diệt, bất cứ lớn nhỏ ai ai cũng được cơm rượu no say, duy Khoái này từ sớm đến giờ chưa được bữa nào, nên lại đây xin Minh Công một bữa chén.

Hạng Vũ sai rót một chén rượu lớn đưa cho Phàn Khoái, Phàn Khoái tiếp lấy uống cạn. Hạng Vũ hỏi:

– Tráng sĩ muốn uống nữa chăng?

Phàn Khoái nói:

– Dẫu chết tôi còn chưa sợ thì sợ gì chén rượu mà không uống.

Hạng Vũ cười lớn hỏi:

– Nhà ngươi muốn vì ai mà chết?

Phàn Khoái đáp:

– Tôi chết vì chúa tôi. Thiết tưởng, chúa tôi đánh vỡ nhà Tần, vào Hàm Dương, của báu không tham, mỹ nữ không màng, lui binh về Bái Thượng để đợi lệnh tướng công. Khó nhọc như thế, công lao như thế mà có kẻ lăm le ám hại. Hành động ấy chẳng khác hành động đen tối của nhà Tần trước đây, còn ai khâm phục. Tôi phận hèn, nhưng lương tâm không phải gỗ đá, thấy kẻ hàm oan không đau lòng! Kìa, như hai kẻ đang múa gươm kia cốt muốn giết chúa tôi đó. Tôi đến đây liều chết cứu chúa chứ đâu phải xin vài chén rượu của tướng công?

Hạng Vũ nghe nói cũng chột dạ, truyền Hạng Trang thôi múa gươm, và khen:

– Phàn Khoái cương trực, đáng là tay vũ dũng.

Bái Công thấy Hạng Vũ đã say, lẻn ra ngoài cửa dinh. Ung Sĩ giữ lại không cho đi, Trương Lương chạy ra nói:

– Lỗ Công truyền lệnh chư hầu ai không uống được rượu nữa thì ra về, cớ sao tướng quân ngăn cản.

Trần Bình cũng chạy đến, xen vào:

– Minh công truyền cho Bái Công lui ra!

Ðinh Công và Ung Sĩ nghe Trần Bình nói, mới để cho Bái Công ra ngoài.

Bái Công ra khỏi cửa dinh thì đã có các bộ tướng Ngạn Hấp, Kỷ Tín nghênh tiếp, phò về Bái Thượng.

Phạm Tăng thấy kế không thành, buồn bã bỏ đi nằm, vì vậy Bái Công mới thoát nạn được.

Người sau có thơ nói đến hội Hồng Môn:

Chén rượu Hồng Môn vạn cổ truyền,

Anh hùng mắc giữa lưới hùm thiêng

Một lời khuất phục, toàn sinh mệnh

Vinh nhục bao nài cảnh vũ yên.

Trương Lương đưa Bái Công đi khỏi rồi, dừng chân đứng lại, nghe sau tường có người gõ vào thanh gươm hát:

Hùm đã về non

Ðất trời thênh thênh.

Trường giang sóng vỗ rập rềnh,

Làn mây rực đỏ, ác lên chói ngời.

Hát xong lại có tiếng cười nhạt.

Trương Lương quay trông người ấy, thấv sắc mặt hiện ra nửa trắng nửa vàng, tinh thần thanh sảng, liền hỏi:

– Tráng sĩ cười gì thế?

Người ấy đáp:

– Phạm Tăng phí tâm cơ, Trương Lương biết chân chúa, ngày nay thoát cửa Hồng, ngày mai định thiên hạ.

Nói xong đi mất.

Trương Lương tấm tắc khen:

– Trong thiên hạ còn lắm bậc kỳ sĩ!!!

Liền rảo bước, định tìm hỏi tông tích người, bỗng cố người đến báo:

– Lỗ Công đã tỉnh rượu, đang sai tìm Bái Công.

Trương Lương vội vả trở lại thưa với Hạng Vũ:

– Bái Công không uống được rượu nữa, đương khi Minh Công say người không dám kinh động, đã trộm về Bái Thượng, để Lương ở lại đây từ tạ.

Hạng Vũ nổi giận nói:

– Lưu Bang không từ tạ mà bỏ đi thật vô lễ. Nhà ngươi còn kiếm lời che chở sao?

Trương Lương thấy Hạng Vũ giận, toan tìm lời trấn an, thì Phạm Tăng bước tới nói:

– Lưu Bang tuy ăn nói nhỏ nhẹ, song kỳ thật là kẻ gian hùng. Lưu Bang trở về Bái Thượng một phần lớn do kế của Trương Lương, xin Minh công bắt Trương Lương trị tội mới xong.

Hạng Vũ nạt kẻ tả hữu, bảo đem Trương Lương ra chém.

Trương Lương kêu lớn:

– Minh công chém tôi tức là hư nghiệp Bá vương rồi.

Hạng Vũ hỏi:

– Chém nhà ngươi thì hại gì sự nghiệp ta?

Trương Lương nói:

– Có hai điều bất lợi. Một là chư hầu sẽ chê Minh Công vì không giết được Lưu Bang nên tức giận giết Trương Lương. Hơn nữa uy danh Minh công đang mạnh mà giết một kẻ chịu phục tùng mình như Lưu Bang thì sao khỏi bị chê là hẹp hòi, hèn nhát. Hai là Lưu Bang hiện nay đang giữ ngọc tỷ, nếu Minh công giết tôi, Lưu Bang tất sợ hãi chạy sang nước khác, đem ngọc tỷ dâng cho một người nào, thì Minh công khó đoạt nghiệp Bá vương sau này.

Hạng Vũ khen:

– Lời Trương Lương rất phải. Suýt nữa ta đã phạm lầm, hư việc lớn, mang tlếng xấu với thiên hạ. Ta nay anh hùng trăm vạn, hổ tướng ngàn viên, Lưu Bang làm gì được ta mà sợ.

Nói xong, gọi Trương Lương lại gần, bảo:

– Ngươi hãy trở về Bái Thượng đem ấn ngọc tỷ và đồ châu báu lại đây. Nếu sai lời ta sẽ đem quân đến Bái Thượng phân thây muôn mảnh.

Trương Lương vâng lời, bái tạ trở về, thuật chuyện lại cho Bái Công nghe.

Bái Công nói:

– Thoát được miêng hùm thật nhờ mưu trí của tiên sinh.

Nói xong, cho đòi Tào Vô Thương đến mắng nhiếc, rồi chém đầu làm gương cho kẻ khác.

Trương Lương nói:.

– Nay Lỗ Công đòi phải đem báu vật và ngọc tỷ đến dâng, ta không thể cưỡng lệnh.

Bái Công nói:

– Ngọc tỷ là báu vật truyền quốc, sao lại nhường cho ai!

Trương Lương nói?

– Ðược thiên hạ là ở đức chớ không phải ở ngọc tỷ. Nếu ta trái lời, Lỗ Công đem quân đến đánh, ta làm sao giữ nổi. Hy sinh ngọc tỷ để bảo vệ lực lượng mưu tính đại sự là hơn. Một đàng giữ ngọc tỷ mà mất thiên hạ, một đàng bỏ ngọc tỷ mà được thiên hạ.

Bái Công khen phải, hôm sau sai Trương Lương đem ngọc tỷ cùng châu báu đến Hồng Môn dâng cho Lỗ Công và bẩm:

– Bái Công dự tiệc quá say, đến nay vẫn chưa dậy nổi. Sợ thất tín nên sai tôi đến đây dâng đồ cống hiến, xin Minh công thu nhận cho.

Hạng Vũ thấy ấn ngọc cùng những châu báu bày la liệt trên bàn, hoa cả mắt, ngắm nghía hồi lâu, rồi cầm từng món lên xem, món nào cũng rực rỡ muôn ngàn ánh sáng.

Hạng Vũ thấy chén ngọc, nhấp nháy như ánh sao, thích chí cười lớn, trao cho Phạm Tăng và nói:

– Vật quý này xin kính biếu Tiên sinh.

Phạm Tăng cầm lấy, giận dữ ném xuống đất, và rút kiếm chặt ra từng mảnh, nói:

– Thôi! Việc thiên hạ hỏng mất rồi! Chúng ta sẽ chết về tay Bái Công cả, vật quý mà chi!

Hạng Vũ biến sắc, mắng lớn:

– Ôi chao! Cái lão này vô lễ đến thế! Cổ nhân có nói: “Vua cho thức ăn phải nếm trước, vua cho vật sông phải để mà nuôi”. Huống chi cái chén ngọc quý như vậy ta ban cho, lão đã không tạ ơn còn đập nát trước mặt ta như vậy.

Phạm Tăng nói:

– Xưa vua Huệ Vương nước Vệ chỉ biết quý ngọc Minh Châu, vua U Vương nước Tề cười và nói rằng:

Viên ngọc của ông dầu tốt đến đâu cũng chỉ rọi sáng được trăm cỗ xe mà thôi, còn người hiền thần của tôi có thể soi sáng được muôn dặm”, ấy vậy, cổ nhân trọng hiền nhân coi thường vật quý. Tôi nay chỉ muốn lấy đầu Bái Công để bình thiên hạ, còn vật quí không màng. Minh công không nghe lời tôi, để lỡ cơ hội, tôi vì quá bực tức chứ đâu phải khinh thường tấm lòng ưu ái của Minh Công.

Hạng Vũ cười lớn, nói:

– Bái Công là đứa đê hèn, làm gì nên việc mà tiên sinh lo ngại đến thế.

Phạm Tăng nói:

– Xin Minh Công chớ coi thường mà ăn năn không kịp.

Hạng Vũ quay lại nói với Trương Lương:

– Bái Công là một đứa tiểu nhân, không làm gì nên chuyện, nhà ngươi cứ ở đây theo ta.

Phạm Tăng nói:

– Minh Công trước kia muốn giết Trương Lương, nay lại muốn dùng, thế thì khác nào nuôi ong tay áo.

Hạng Vũ nói:

– Tiên sinh khéo lo xa, Trương Lương chỉ là một gã thư sinh dẫu ở gần ta lại làm gì ta đặng.

Rồi đó, Hạng Vũ không nghe lời Phạm Tăng, dùng Trương Lương dưới tướng.

Trương Lương chỉ bấm bụng cười thầm!

Một hôm, Lỗ Công bàn với chư tướng:

– Ðất Quan Trung đã hạ, ấn ngọc tỷ đã về tay, việc thiên hạ tạm yên, duy có Tần Vương, Tử Anh chưa thấy mặt, làm sao chư hầu hàng phục. Bây giờ phải sai người mang thư sang Bái Công, đòi Tử Anh lại đây giết đi mới xong việc được.

Bàn xong, viết thư sai người đem đưa cho Bái Công.

Thư rằng:

“Tôi và tướng công cùng đánh Tần để cứu muôn dân ra khỏi vòng nước lửa. Nay tôi vào Hàm Dương đã mười tháng trời mà chưa thấy mặt Tử Anh? Có lẽ tướng công muốn giấu nó để mưu việc gì khác chăng? Nếu quả thế tôi cùng tướng công không phải cùng một nhiệm vụ nữa! “

Bái Công xem thư xong, họp các tướng, bàn luận:

– Hạng Vũ nay đã trái ước muốn làm vua ở Hàm Dương. Nay lại viết thư đòi Tử Anh chắc là muốn mạo nhận công mình để phục mệnh Hoài Vương, và che miệng chư hầu. Ta không trả Tử Anh e nó động binh, bằng trả Tử Anh thì trái với ý nguyện. Vậy phải tính sao bây giờ?

Chư tướng đều bàn:

– Cái thế Hạng Vũ mạnh lắm, chúng ta không thể cãi mệnh được. Cứ giao Tử Anh cho hắn. Nếu hắn giết đi, thiên hạ càng thấy rõ đức khoan hồng của Minh Công.

Bái Công theo lời, liền gọi Tử Anh đến, nói:

– Trước kia ngươi dốc lòng quy thuận, ta không nỡ giết, không ngờ nay Lỗ Công trái lời ước, muốn làm vua nước Quan Trung, đưa thư đến đòi bắt ngươi. Ngươi nên đem các đồ châu báu và gái đẹp đến dâng cho Lỗ Công, họa may ông ta vì tham sắc mà tha chết chăng. Thôi, ngươi nên đi ngay đừng chậm trễ.

Tử Anh khóc rống lên, nói trong nghẹn ngào:

– Chúng tôi gặp cơn ly loạn tưởng hàng Minh Công được an thân, nay lại phải sang Lỗ Công, chẳng biết có toàn mạng chăng?

Bấy giờ các bô lão trong vùng hay tin đều đến than thở.

Bái Công nói:

– Uy lực của Lỗ Công vang lừng trong thiên hạ còn ai dám trái mạng nữa. Các người chớ lưu luyến tôi, lỡ Lỗ Công hay được tội chẳng nhỏ.

Dân chúng nghe nói ai cũng cảm động.

Tử Anh vào Chỉ Ðạo đầu hàng Lỗ Công.

Lỗ Công trông thấy Tử Anh đầu bịt khăn trắng, mình mặc áo sô, miệng ngặm biểu hàng trông rất khổ não, liền cho vào, lấy biểu xem.

Tờ biểu như sau:

Cháu Thủy Hoàng, con Phù Tô, vua Tam Thế nhà Tần, Tử Anh cúi đầu dâng biểu:

Trộm nghĩ:

Nhà Tần tôi thất lộc, hào kiệt nỗi lên. Bảy miếu khói lạnh hương tàn, bốn bề dầu sôi lửa đỏ.

Lòng người đã mất thế nước chẳng còn. Nay Minh Công cờ trở sang tây, sáu nước qui phục, vung gươm sang Bắc, muôn dân vui lòng. Thần uy sấm dậy vang trời. ân đức mưa nhuần khí hạ. Tử Anh này đâu dám cải mạng làm nhọc uy linh, chỉ mong được tồn sinh giữ gìn hương khói. Vua Thang dung con cháu nhà Hạ, sáu trăm năm cơ nghiệp vững bền, vua Vũ tha con cháu nhà Ân tám trăm năm cơ đồ thịnh trị.

Nay Minh Công đã diệt nhà Tần, xin lấy lượng Ân Chu tỏ lòng nhân đức. Ðược thế, Tử Anh này đến chết chẳng dám quên ơn, mấy lời kính dâng, muôn phần sợ hãi. Tử Anh kính biểu

Hạng Vũ xem biểu xong, nói:

– Xưa tiên đế nhà ngươi nuốt sống sáu nước, làm hại muôn dân, để tội lại cho nhà ngươi. Bây giờ nhà ngươi đền tội là đáng lắm rồi, còn kêu ca gì nữa.

Tử Anh thản nhiên đáp:

– Diệt sáu nước là việc của tổ tiên tôi, riêng tôi có tội tình gì? Tuy nhiên, Minh công bắt tôi phải chết tôi cũng không hề dám oán hận. Dân chúng ở Hàm Dương lâu nay sống trong chính thể khắt khe của các tiên vương tôi, nay xin ngài lấy đức ban ân, để trăm họ được sống yên vui, thì dẫu tôi có xuống suối vàng cũng cảm nghĩa.

Tử Anh vừa nói đến đấy, Hạng Vũ đã truyền quân khai đao! ôi, Tử Anh là người hiền đức, một trái ngọt trong cội chua, mới làm vua có 43 ngày mà phải đền tội ác của tiền nhân.

Dân Tần thấy Tử Anh bị chết, thương xót vô cùng, oán trách hành động khắt khe của Hạng Vũ.

Hạng Vũ thấy lòng dân không phục mình, truyền quân do thám hễ người nào có ý bất mãn thì bắt giết lập tức.

Hồi 11 – Giận Hoài Vương, Hạng Vũ tự lập

Phạm Tăng thấy Hạng Vũ mỗi ngày mỗi nóng tính, đem lời bàn:

– Trước kia Lưu Bang vào Hàm Dương không lấy của dân một mảy, đem lời hiểu dụ, bỏ hết các hình luật nghiêm nhặt, khiến dân một lòng cảm mến. Nay Minh công nóng tính, xem thường sinh mệnh của dân, tôi e lại sa vào vết xe của nhà Tần thuở nọ.

Hạng Vũ nói:

– Ta đem quân đánh Tần, Tử Anh là vua Tần sao lại chẳng giết? Còn như dân Hàm Dương phản nghịch, tỏ ý oán hận ta, nếu không giết ngày sau di lụy.

Phạm Tăng nói:

– Ông Lỗ Công ngày xưa giết một cung nữ vô tội mà mắc chín năm đại loạn. Vua Cảnh Công giận giết một cung phi mà địa chấn ba dặm. Ấy vậy, sự hàm oan của con người có ảnh hưởng đến vũ trụ chẳng nhỏ. Nay mây sầu phủ đầy trời, khí oan kín đất, chính là vì Minh công đã giết oan Tử Anh đó. Nếu giờ lại giết nhân dân nữa e tổn thương hòa khí, xin Minh công xét lại.

Trong lúc Phạm Tăng đang tìm lời khuyên Hạng Vũ thì dân chúng Hàm Dương vì uất ức, mỗi lúc một xôn xao tiếng nguyền rủa, tiếng than oán không dứt.

Hạng Vũ không thể nén giận được, truyền Anh Bố đem quân vào thành bắt tôn tộc nhà Tần giết hơn 800 người, và họ hàng quần thần giết hơn 4.600 người.

Thành Hàm Dương trong phút chốc máu loang ngập đất, thây chất thành gò, đường sá vắng tanh, cửa nhà bỏ trống, thật là một thảm họa đau thương!

Hạng Vũ chưa nguôi giận, còn muốn giết một số nhân dân ngoại thành nữa. Phạm Tăng rơi lệ, can:

– Ðời vua Thang trời làm đại hạn, vua Thang đem thân mình chiu khổ cực cầu đạo ở Tam Lâm, lại kiểm điểm hành động để tự trách mình. Lòng thành thấu đến trời, mỗi được mưa nhuần gió thuận. Ấy, vua Thang biết bỏ mình cứu dân như thế nên sự nghiệp vững bền. Nay dân Tần trải bao nhiêu cay đắng, nhưng mong Minh công đến giải phóng đem lại an vui, thế mà Minh công lại giết hại, thì có ai phục?

Hạng Vũ thấy Phạm Tăng hết sức khổ gián lòng cũng nguôi ngoại, truyền thôi chém giết.

Ðoạn kéo quân đến Tần cung, thấy cung điện nguy nga, lâu đài tráng lệ, bất giác thở dài than:

– Nhà Tần phú quí đến thế này, mà không giữ được đáng tiếc!

Phạm Tăng nhân lời nói ấy tỏ ra vẻ chau buồn nói:

– Ấy bởi nhà Tần vô đạo, chém giết lương dân, không nghe lời khổ gián nên mới mất cơ nghiệp.

Hạng Vũ nín lặng không nói gì cả. Tối hôm ấy, sai người cầm đèn đến mời Phạm Tăng vào tư dinh bàn việc.

Phạm Tăng đến Hạng Vũ nói:

– Nay ta đã vào Hàm Dương lấy được ngọc tỷ, giết được Từ Anh trừ được nhà Tần thế là mọi việc đã xong,

bây giờ cần có một minh quân đứng ra trị dân, nếu để nước không vua lâu ngày bất tiện. Ta muốn lên ngôi vua

đất Quan Trung này, tiên sinh nghĩ có nên chăng?

Phạm Tăng nói:

– Chư hầu sở dĩ theo Minh công là họ cũng muốn được phong quan, thưởng tước, để vui cảnh giàu sang. Minh công nghĩ như vậy rất hợp lòng người. Nhưng trước hết phải bẩm lệnh Hoài Vương, xin một chiếu thư rồi sẽ tức vị, như thế thiên hạ mới phục.

Hạng Vũ y lời sai Hạng Bá vào Bành Thành thỉnh mệnh Hoài Vương.

Hạng Bá vào yết kiến, Hoài Vương phán:

– Ta đã có lời ước rồi, cần gì phải thỉnh mệnh.

Hạng Bá tâu:

– Tuy Bái Công vào được Hàm Dương trước, song Bái Công sức yếu thế cô, còn Lỗ Công uy quyền rất trọng, xin bệ hạ cứ cho Lỗ Công làm vua thì đất Quan Trung mới trấn an được

Hoài Vương nói.

– Không được! Nhân vô tín bất lập. Một lời nói của kẻ tầm thường mà còn phải tôn trọng thay huống hồ một ông vua. Ta không thể thất tín với thiên hạ. Nhà ngươi về nói với Lỗ Công phải theo lời ước cũ.

Hạng Bá trở về nói với Lỗ Công:

– Hoài Vương bắt phải theo lời ước, nhất định không hạ chiếu. Tôi cầu khẩn hai ba lần vẫn không được.

Hạng Vũ nổi giận nói:

– Hoài vương do ta lập nên, nghiêẽm nhiên được ngôi thiên tử. Ðã không xét công trạng ta, cố chấp như vậy thật là kẻ bất nghĩa. Công bình định thiên hạ do tay ta, cần gì phải cầu khẩn với ai.

Liền chọn ngày tự lập làm vua.

Phạm Tăng nói:

– Việc tức vị phải hợp với cổ kim, không phải việc dễ. Trương Lương là người học rộng, am hiểu lễ nghi có thể biết được, xin Minh công cho đòi Trương Lương đến, nếu hắn nói đúng theo lẽ phải tức là hắn trung thành, bằng sai tức là giả dối, gạt Minh công mang tiếng với thiên hạ đó. Minh công nên giết đi để trừ hậu hoạn.

Hạng Vũ toan sai người sang đòi Trương Lương thì vừa lúc Trương Lương ở Bái Thượng về, xin vào yết kiến.

Hạng Vũ nói:

– Nay ta muốn làm vua Quan Trung nhưng chẳng biết lập tôn hiệu thế nào cho phải. Nhà ngươi là người học rộng, dòng họ làm tướng năm đời nước Hàn, vậy ngươi thử nói ta nghe.

Trương Lương nghĩ thầm:

– Ðây là mưu Phạm Tăng định gieo vạ cho ta. Nếu ta nói thẳng tất Lỗ Công ghét, chi bằng đưa những tôn hiệu của các đời Vua trước, để Lỗ Công muốn chọn thế nào tùy ý.

Nghĩ rồi ôn tồn đáp:

– Tôn hiệu rất nhiều, tôi xin kễ qua để Minh công chọn. Xưa, sau đời Tam Hoàng thì có Ngũ Ðế, đó là Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Ðế Cốc, Ðế Nghiêu, Ðế Thuẫn.

Thiếu Hiệu tên là Chiết tự là Thanh Dương đóng đô ở Khúc Phụ, làm vua được 100 năm. Xuyên Húc, cháu vua

Hoàng Ðế, họ Cơ giúp vua Thiếu Hiệu trị thiên hạ, hai mươi tuổi mới lên ngôi, làm vua được 78 năm. Ðế Cốc, cũng họ Cơ, lên ngôi ở đất Bạc, làm vua 70 năm – Ðế Nghiêu họ Y Kỳ, mẹ là Khánh Ðô, hoài thai 14 tháng, sinh ra ông Nghiêu ở đất Ðan Lăng, hiệu là Phong Huân, 14 tuổi giúp vua Ðế Chi, phong làm vua ở đất Ðường, 20 tuổi mới lên ngôi hoàng đế làm vua được 50 năm – Ðế Thuẫn, dòng dõi vua Xuyên Húc, bà mẹ cảm cái hình cầu vồng mà sinh ra nơi đất Diêu, nên lấy họ Diêu, tự là Ðô Quân giúp vua Nghiêu trị thiên hạ. Sau nối ngôi xưng Ðế vị, thọ 100 tuổi. Ðó là tôn hiệu của 5 đời đế, gọi là Ngũ Ðế. Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?

Hạng Vũ tự nghĩ:

– Ngũ đế là bậc nhân đức, dùng tình thương trang trải giữa hoàn vũ, ta khó sánh kịp. Vả lại, ta vừa giết Tử Anh, dùng bạo lực trấn áp nhân dân, đế hiệu e không hợp.

Liền hỏi lại Trương Lương:

– Còn tôn hiệu nào khác chăng?

Trương Lương đáp:

– Sau năm đời đế thì có tam vương, tức là: nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu – vua Hạ Vũ họ Tự tên Cao Mật sinh trưởng ở Tây Thương, vua Nghiêu dùng làm Tư Không, nối cha là ông Cổn, giữ việc trị thủy. Ðóng đô ở An ấp, thọ 100 tuổi truyền được 19 đời, cộng 432 năm.

Nhà Ân là dòng dõi vua Ðế Cốc, họ Cơ tên Lý, tức là vua Thành Thang, đuổi vua Kiệt ra Nam Sào lên ngôi thiên tử, thọ 100 tuổi, truyền 31 đời cộng 629 năm – vua Văn Vương (nhà Châu) nhân vua Trụ (nhà Thương) vô đạo sửa chính đức, thu nhân tâm, sau vua Vũ nối nghiệp, bốn năm chinh phạt, giết vua Trụ, làm thiên tử, thọ 93 tuổi, cộng 867 năm. Ðó là đời tam vương, tu nhân tích đức Minh công muốn dùng tôn hiệu ấy chăng?

Hạng Vũ nói:

– Hiệu vương thì ta có thể xưng được. Song dưới hiệu vương còn có tôn hiệu nào khác chăng?

Trương Lương nói:

– Dưới tam vương thì có ngũ Bá, tức là: Tề Hoàn công, Tống Trương Công, Tần Mục Công, Tấn Văn Công,

Sở Trang Vương. Năm đời Bá đều vì thiên hạ trừ tàn bạo, gây một uy lực to lớn, bá tánh đều tùng phục. Minh công

dụng tôn hiệu ấy được chăng?

Hạng Vũ suy nghĩ một lúc rồi nói:

– Vương hiệu tuy hợp với cổ mà không hợp với kim, Bá hiệu thì hợp với kim lại không hợp với cổ. Muốn cho cổ kim hợp nhất ta lấy cả hai tôn hiệu, xưng là “Bá Vương”.

Ta vốn sinh ở đất Sở, từ sông Hoài sang phía Bắc, là địa phận Tây Sở, vậy từ nay ta xưng là Tây Sở Bá Vương.

Phạm Tăng vội can:

– Mình công nên xưng Vương hiệu và bỏ Bá hiệu đi. Bá hiệu các đời vua không đời nào được vững bền. Ðại Bá chỉ được năm đời, còn Tiểu Bá chỉ được ba đời. Xin chớ nghe lời Trương Vương sàm tấu.

Hạng Vũ nói:

– Năm đời Bá làm vua như thế kể cũng lâu dài. Công việc làm của ta chẳng những hợp với Tam Vương, mà còn đúng ý với Ngũ Bá nữa Thế thì xưng Bá Vương là phải. Tôn hiệu ấy do ta lựa chọn, Trương Lương chỉ là kẻ trình bày cho ta biết đó thôi.

Nói xong, trọng thưởng Trương Lương, Chọn ngày lành tháng tốt lên ngôi, xưng hiệu Tây Sở Bá Vương cai trị 9 quận nước Sở, đóng đô ở Bành Thành, tôn Hoài Vương lên làm Nghĩa Ðế, thiên sang Giang Nam.

Công việc xong, Bá Vương muốn xuất kho nhà Tần để ban thưởng quân sĩ, nhưng khi quân Bái Công vào Hàm Dương đã chuyển đi hết sạch, nay kho tàng đều trống rỗng, liền hỏi Phạm Tăng:

– Tướng sĩ theo ta đã lâu nay muốn thù lao lấy đâu làm việc ấy?

Phạm Tăng nói:

– Việc ấy không khó, Bái Công vào Hàm Dương trước của cải ở đâu tất biết. Xin hỏi Bái Công thì rõ.

Bá Vương theo lời, sai người đi vời Bái Công.

Trương Lương hay tin, cấp tốc biên thư mật gởi cho Bái Công nói:

– Minh công nên vào yết kiến Bá Vương, hễ Bá Vương có hỏi đến lương tiên, xin cứ chỉ cho Lương này.

Bái Công vào yết kiến, Bá Vương hỏi:

– Nhà Tần giàu có bội phần, tướng công vào Hàm Dương trước có biết của cải để đâu chăng?

Bái Công nói:

– Tôi mới đến, công việc bộn bề,chưa hề xét đến kho tàng xin đại vương hỏi Trương Lương mới biết được.

Bá Vương tức giận cho đòi Trương Lương đến trách:

– Nhà ngươi biết kho tàng nhà Tần, cớ sao không nói cho ta biết?

Trương Lương nói:

– Tâu đại vương, đại vương chưa hỏi đến, tôi đâu dám thưa. Cứ như nhà Tần, của cải tích trữ từ đời Hiếu vương đến nay kễ trong thiên hạ không đâu bằng. Tuy nhiên, đến đời Tần Thủy Hoàng, lấy ngân quỹ ra sửa sang cung điện ở Ly Sơn, của cải ấy hao quá nửa. Sau đó, lại để vào trong mộ Tần Thủy hoàng rất nhiều, vì vậy mà hiện nay kho tàng trống rỗng.

Bá Vương ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi Phạm Tăng:

– Của cải để trong mộ Tần Thủy Hoàng thì ta cứ đào lên lấy, để ban thưởng quân sĩ.

Phạm Tăng nói:

– Mộ Tần Thủy Hoàng chẳng qua bài trí những đồ chơi thường nhật, làm gì có của cải.

Trương Lương mỉm cười nói:

– Quân sư lầm rồi! Mộ Tần Thủy Hoàng chu vi chín dậm, cao đến năm mươi thước, lấy châu ngọc kế làm ngôi sao, lấy thủy ngân giả làm sông nước, lấy vàng bạc xây thành quách, lấy bách bảo làm đồ ngự thiện, bắt hơn vài trăm cung nữ chôn sống theo. Bao nhiêu của báu trong nước như san hô mã não phỉ thúy, lưu ly đều chất thành núi giả, ban đêm bảo khí trong mộ bốc lên như ánh trăng.

Bá vương truyền quân sĩ đến quật mộ Thủy Hoàng ngay, Phạm Tăng can:

– Thủy Hoàng tuy vô đạo, nhưng đó cũng là ngôi mộ của một vị đế vương, nay vô cớ quật lên, khác chi là lối cưóp mả, chớ nên làm thế.

Bá vương nói:

– Thủy Hoàng tàn bạo, gồm thâu sáu nước, vơ vét của thiên hạ đến tận xương tủy, ác hơn Kiệt, Trụ, đốt sách vỡ, chôn học trò, tội chất đầy trời. Ta đào mả Thủy Hoàng cốt vì dân trả oán, cần gì phải có của cải.

Ngày hôm sau, Bá Vương dẫn quân lên núi Ly Sơn. Cảnh vật trang nghiêm, muôn màu rực rỡ. Rừng tùng bách trải màu xanh mơn mởn, cung điện nguy nga lỏng bóng đài gương. Thềm lan quì ngựa đá, đường ngự uốn cầu vòng, thật là một cảnh bồng lai trong cõi thế.

Bá Vương tấm tắc khen thầm:

– Công trình kiến trúc tinh vi, bàn tay nhân tạo đúc nên cảnh vật. Thế này thì hết cả kho tàng, kiệt sức nhân dân là phải lắm.

Một lời ban lệnh, ngàn nhát búa vang động, cát bụi bay mịt mù, chim chóc giật mình tua tủa lượn vòng trong không gian như luyến tiếc nơi tổ ấm. Quân sĩ đào đến ba ngày mà chưa thấy chính huyệt.

Bá Vương treo bảng truyền lệnh ai biết được chính huyệt sẽ được ban thưởng.

Bỗng có một người đến tâu:

– Chính huyệt của Thủy Hoàng chỉ riêng hạ thần dược biết mà thôi.

Bá Vương quay lại, thấy người ấy là Anh Bố, mừng rỡ hỏi:

– Sao nhà ngươi lại biết được?

Anh Bố tâu:

– Khi trước tôi đem phu đi làm đốc công, coi ngôi mộ này, sau đó các dân phu đều bị Thủy Hoàng bắt giết hết, tôi may trốn thoát mới biết được.

Bá Vương truyền Anh Bố đem quân đi đào.

Ðào từ đường chính Bắc cho đến đường chính Nam dài hơn một trượng mới thấy một tiền phòng chu vi rộng tám thước. Trong tiền phòng lót bằng đá hoa, trần kết gấm, chính giữa một con đường chạy thẳng vào một khung cửa bằng

cẩm thạch, hai bên đứng la liệt các lão thần, chạm bằng mã não, mặc triêu phục, cầm hốt, mang hia đứng chầu.

Anh Bố dàn quân tiến đến phá tấm cửa đá. Tiếng dội thấu đến hai dặm.

Cảnh cửa đá tung ra để lo một căn phòng rộng, chính giữa một tấm bia rất lớn chạm chín con rồng, đang giương nanh múa vuốt. Sau tấm bia là một cái lầu, cũng xây bằng đá, bốn phía vách tường kín mít tuyệt nhiên không có cửa vào.

Quân sĩ ngơ ngác, không biết đi vào đâu nữa nữa.

Bố nói:

– Các người hãy quật cái bia ấy xuống tất nhiên sẽ có đường đi.

Thật vậy qua một lúc hì hục, quân sĩ đập vỡ bia đá, tức thì tám cánh cửa của thạch lâu mở ra, để lộ bên trong thành quách ngổn ngang, cung vàng điện ngọc, chẳng khác nào một đền vua trên mặt đất.

Cứ theo con đường nơi chánh điện đi thẳng vào, thì hai bên là tam cung lục viện, chính giữa là nhà để linh cữu, đâu đâu cũng chạm trổ toàn là trân châu, ngọc bích, sáng rực như ban ngày. Tuy ở dưới đường hầm nhưng ánh sáng không thiếu.

Anh Bố truyền đập các bờ thành lấy vàng bạc rồi khuân những bảo vật lên.

Bá Vương muốn đập linh cửu của Thủy Hoàng ra, Anh Bố nói:

– Thủy Hoàng bình sanh làm điều ác, sợ sau này có người quật mồ, phá xác nên đề phòng rất kỹ. Linh cữu làm bằng đá, trong có chứa rất nhiều tên sắt, thuốc nổ, nếu đập vỡ, cả đám quân sĩ vào đây đều phải chết hết. Chi bằng cứ để yên như thế lấp lại là hơn.

Bá Vương y lời, truyền khuân hết kim ngân châu báu lên mặt đất, đoạn sai đốt cung A Phòng. Lửa cháy ba tháng chưa tắt, bao nhiêu cung đài mỹ lê nguy nga thảy đều ra tro hết.

Ôi! Công trình dân chúng bao nhiêu năm trời xương máu, dưới tay bạo chúa, chỉ trong phút chốc tan tành.

Người sau có thơ rằng:

Chén ngọc vỡ tan xem tợ tuyết!

Quân Hàn nghìn vạn đều lưu huyết

Hàm Dương lửa cháy mấy tuần trăng

Bá nghiệp đang theo lan khói biếc

Cung điện nhà Tần ra tro, lòng dân Tần cũng lạnh lẻo, họ chán ngán hành động hung tàn của Hạng Vũ.

Các chư hầu đóng quân nơi Hàm Dương lâu ngày, muốn rút về, rủ nhau đến nói với Phạm Tăng:

– Chúng tôi đến đây đã lâu, chưa được phong thưởng tước lộc sợ rằng trong nước có biếng nên muốn xin lui về.

Phạm Tăng nói:

– Xin các ngài chờ đợi ít hôm, tôi sẽ bảo tấu với đại vương.

Nói xong vào yết kiến Bá Vương nói:

– Các vua chư hầu theo đại vương đánh Tần đều có công lao mà chưa được phong thưởng. Xin đại vương luận công hành thưởng rồi cho đâu về đấy để họ được an tâm.

Bá Vương nói:

– Ý ta muốn phong tước cho họ đã lâu song có một điều khó khăn nên còn do dự.

Phạm Tăng hỏi:

– Tâu Ðại vương, có thể cho tôi biết điều khó khăn chăng?

Bá Vương nói:

– Vua Hoài Vương có ước: Ai vào Quan Trung thì làm vua. Lấy lẽ công bình thì Bái Công được làm. Nay ta tiếm vị còn biết phong Bái Công làm sao!

Phạm Tăng nói:

– Nếu muốn thiên hạ khỏi cho Ðại vương là kẻ cướp công thì nên phong Bái Công vương chức. Ba Thục, cũng thuộc đất Quan Trung, nhưng non sông hiểm trở, nhà Tần trước đây thường đầy kẻ có tội vào đấy. Vậy cứ phong cho Bái Công làm Hán vương, rồi phong cho Chương Hàm, Tư Mã Lân, Ðổng Ể làm vua Tam Tần để chẹn đường hiểm yếu, không cho Bái Công thoát ra khỏi đất Ba Thục. phái chết già trong hung địa. Tuy tiếng là phong vương song kễ như là đày biệt xứ.

Sở Bá vương nói:

– Kế ấy rất hay.

Liền sai quan Quân Chính Tư đem sổ bộ để luận công phong thưởng.

Bá vương phong thưởng như sau:

– Bái công làm Hán vương, đóng đô ở Nam Trịnh, cai trị 41 huyện.

– Chương Hàm làm Ung vương, đóng đô ở Phế Khẩu, cai trị đất Thượng Tần, gồm 38 huyện.

– Tư Mã Hân làm Tắc vương, đóng đô ở Lịch Dương, cai trị đất Hạ Tần, gồm 18 huyện.

– Ðổng Ể, làm Ðịch vương, đóng đô ở Cao Nô, cai trị đất Trung Tần, gồm 30 huyện.

– Thần Dương làm Hà Nam vương, đóng đô ở Lạc Dương, cai trị Hà Nam gồm 20 huyện.

– Anh Bố, làm Cứu Giang vương, đóng đô ở Lục Hợp cai tn 45 huyện.

Và, những người sau đây cũng đều được lần lượt phong thưởng trấn những nơi không quan trọng lắm, như:

– Cung Ngao làm Lâm Giang vương.

– Ngô Nhuế làm Hoành Sơn vương.

– Ðiền An làm Tế Bắc vương.

– Ngụy Bái làm Tây Ngụy vương.

– Trương Nhĩ làm Thương Sơn vương.

– Tang Ðồ làm Yến vương.

– Triệu Yết làm Ðại vương.

– Ðiền Hoành làm Thượng Tề vương.

– Ðiền Úc làm Trung Tề vương.

– Trịnh Lã làm Hàn vương.

– Trần Thắng làm Lương vương.

– Ðiền Vinh làm Tiền Tề vương.

– Ðiền Khánh làm Triệu vương.

– Trần Dư làm Bắc Triệu vương.

– Hạng Trang làm Ðông Giáo vương.

– Hạng Chính làm Xuân Thắng vương.

– Phạm Tăng làm Thừa Tướng

– Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh.

– Chung Ly Muội làm hữu Tư Mã.

– Ðinh Công làm tả Tướng quân.

– Long Thư làm Ðại Tư Mã.

– Quý Bố làm tả Tư Mã.

– Ung Tôn làm hữu Tướng quân.

– Lưu Tần làm hậu Tướng quân.

– Trần Bình làm Ðô Úy.

– Tàn Sinh làm tả Giám Nghị.

– Vũ Anh làm Giầu Chiên Ðại tướng quân

– Hoàn Sở làm Ðại tướng quân.

– Tử Kỳ làm Ðại tướng quân.

– Hàn Tín làm Chấp kích lang.

Văn vũ bá quan sau khi được phong tước quyền mỡ tiệc ăn mừng trong ngoài rộn rịp.

Riêng Bái Công lòng bối rối không an. Chư tướng thấy vậy hậm hực nói:

– Hán Trung là chỗ nhà Tần dùng để đày tội nhân, nay Bá vương phong Chúa công vào trấn nơi đó, chẳng khác nào muốn giam lỏng, ấy là mưu của Phạm Tăng muốn hại Chúa công đó.

Phàn Khoái nỗi giận nói:

– Phạm Tăng khi chúng ta thái quá. Tôi xin liều chết đem thân chống lại quyết không nghe lời Bá vương.

Bái Công cũng tỏ ý hằn học:

– Công ta rất lớn, diệt nhà Tần, thâu đất Quan Trung, lẽ ra phải được làm vua nước Tần, đóng đô ở Hàm Dương mới đáng, sao lại đày vào nới lâm sơn chướng khí, bốn bề núi non rừng rậm, chịu sao được.

Tiêu Hà vội can:

– Làm vua ở Hán Trung tuy xấu, nhưng còn hơn mất cả sự nghiệp. Chịu khuất một người mà thu phục được thiên hạ đó là gương vua Thang, vua Vũ đời xưa vậy. Xin Ðại vương cứ vào Hán Trung, tích thảo dồn lương chiêu hiền đãi sĩ lấy Ba Thục làm căn cứ, mộ thêm quân, ngày kia kéo ra đánh Tam Tần, thì làm gì chẳng thu phục được thiên hạ.

Trương Lương cũng nói:

– Thục tuy là tội địa nhưng trong có núi non hiểm trở, ngoài có sông ngòi bao quanh, tiến thì có thể chiếm được thiên hạ, thoái thì có thể giữ được biên cương. Ðó thực là chỗ đất dụng võ. Ðại vương nên vui lòng nhận lấy.Nếu tỏ ý bất mãn tất Bá vương tìm cách ám hại. Hơn nữa, Phạm Tăng là kẻ mưu sâu, ta không nên chống đối.

Hán vương bùi ngùi nghe theo, và nói:

– Nếu không có Tiên sinh giải bày, ta đã lầm việc lớn.

Lịch Tư Cơ nói:

– Chúng ta vào Hán Trung có ba điều lợi. Thứ nhất, đất Thục hiểm trở, xa cách Trung nguyên, không ai rõ được thực hư. Thứ nhì, trong lúc Ðại vương có công, bị Bá vương bạc đãi, tất lòng dân mến chuộng. Thứ ba, chúng ta có đủ thời giờ, hoàn cảnh để tạo lấy thời thế. Có ba điều lợi như vậy lo gì không gồm thâu được thiên hạ sau này.

Hán vương mừng rỡ liền chọn ngày khởi hành.

Giữa lúc đó, Phạm Tăng, sau khi đề nghị phong Bái công làm Hán vương, trấn thủ Hán Trung, bỗng nghĩ lại rằng:

– Bái Công mạng hỏa, tất cả đồ dùng hoàn màu đỏ thuộc hỏa, nay đến Hán Trung, đất phương Tây thuộc kim. Kim mà gặp hỏa tất thành đại khí.

Nghĩ như vậy liền vào tâu với Bá vương:

– Bệ hạ phong Bái công làm Hán vương, Bái công có ý bất bình. Vả lại chư tướngg của Bái công phần nhiều là người Sơn Ðông, đều có ý oán Bệ hạ. Nếu không dùng uy lực trừ đi, sau này khó tính.

Bá vương nói:

– Ta đã phong tước rồi nay còn tranh cải nữa sao được

Phạm Tăng suy nghĩ một lúc rồi tâu:

– Ngày mai Bệ hạ đòi Hán vương vào chầu, nếu Hán vương tỏ ý bất mãn, xin Bệ hạ chém quách là xong.

Bá vương nhận lời. Hôm sau, Hán vương vào chầu.

Bá vương hỏi:

– Ta phong ngươi vào Hán Trung ngươi có thuận đi hay không?

Hán vương khúm núm tâu:

– Ðã làm tôi ăn lộc vua, thì sinh mệnh ở trong tay vua, có lẽ nào còn dám nói thuận hay không thuận. Tôi cũng như con ngựa của Bệ hạ, giật cương thì đi, gò cương thì đứng lại, thế thôi.

Bá vương cười khúc khích, nói:

– Nhà ngươi thật khéo ví dụ! Thôi, ta cho về thu xếp để lên đường, không còn gì hỏi han nữa cả.

Hán vương vội vàng trở về dinh.

Trương Lương mừng rỡ nói:

– Ðại vương có biết việc nguy hiểm ngày hôm nay chăng?

Hán vương ngạc nhiên không hiểu. Trương Lương nói tiếp:

– Ðại vương hồng phúc lớn lắm. Ban nãy nếu Ðại vương nói là “bằng lòng hay không bằng lòng” thì nguy rồi.

Hán vương bấy giờ mới biết đó là kế của Phạm Tăng, liền hỏi Trương Lương:

– Nếu cứ ở đây mãi e có điều nguy hiểm. Tiên sinh liệu sao?

Trương Lương nói:

– Ðể tôi bàn với Hạng Bá và Trần Bình rồi sẽ liệu. Bây giờ xin Ðại vương cứ thu xếp hành trang sẵn sàng để chờ dịp lên đường.

Rồi đó, Trương Lương đến nói với Hạng Bá và Trần Bình:

– Phạm Tăng có ý hại Hán vương. Hán vương muốn đi ngay cho thoát nạn. Hai ông có kế gì xin giúp đỡ. Tôi quyết chẳng quên ơn.

Trần Bình ngồi nghĩ một lúc rồi ghé vào tai Trương Lương nói mấy câu.

Trương Lương vỗ tay khen:

– Kế ấy hay lắm.

Hồi 12 – Cứu Hán vương, Trần Bình lập kế

Bá vương phong tước chư hầu xong, ý muốn về đóng đô nơi Bành Thành, nhưng hay tin vua Nghĩa Ðế chưa thiên đô sang Giang Nam, lòng nóng như đốt.

Một hôm, Bá vương triệu quần thần đến hỏi:

– Nay vua Nghĩa Ðế không chịu thiên đô qua Giang Nam, nhường Bành Thành cho ta, các khanh nghĩ thế nào?

Trần Bình bước ra tâu:

– Trời không hai mặt, nước chẳng hai vua. Nay Bệ hạ đã lên ngôi Thiên tử, lấy quyền hạn phong chư hầu, mà lại còn thỉnh mệnh Hoài vương, tránh sao khỏi thiên hạ chê cười. Cứ như ngu ý, Bệ hạ nên sai quân sư đem vài viên Ðại tướng đến Bành Thành bắt Hoài vương phải thiên đô đến một nơi cùng tịch, coi như bỏ đi vậy. Như thế tôn hiệu Bệ hạ mới chính đáng.

Bá vương chuẩn tấu, liền gọi Phạm Tăng đến, phán:

– Quân sư vì trẫm dẫn hai tướng Hoàn Sở, Vũ Anh thẳng đến Bành Thành, bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô ngay không được trì hoãn. Ðoạn, sửa sang cung thết trẫm ngự về đóng đô. Vì Bành Thành là nơi quê hương của trẫm.

Phạm Tăng tâu:

– Bệ hạ truyền chỉ tôi chẳng dám trái lời, song tôi chỉ sợ trong lúc vắng mặt tôi, có kẻ lừa dối Bệ hạ. Vì vậy, tôi xin ba điều.

Bá vương nói:

– Ðược, quân sư cứ nói.

Phạm Tăng tâu:

– Thứ nhất, Bệ hạ chớ nên rời khỏi Hàm Dương, vì Hàm Dương xưa nay là nơi trù mật, đất rộng, dân giàu, thiên hạ không đâu bằng. Thứ hai, nên trọng dụng Hàn Tín, vì Hàn Tín là kẻ có tài Nguyên Nhung. Nếu đắc dụng Hàn Tín sẽ là kẻ phi thường trong thiên hạ, không ai dám tranh phong. Nhược bằng không dùng thì phải giết đi, chớ nên dể lọt vào tay người khác. Thứ ba, chớ nên cho Hán vương vào Hán Trung vội. Hãy tạm giữ đến lúc tôi về sẽ tính. Ba điều ấy rất khẩn yếu, xin Bệ hạ chớ quên.

Bá vương nói:

– Quân sư cứ an tâm làm nhiệm vụ. Trẫm xin ghi nhớ.

Phạm Tăng liền dẫn bọn Vũ Anh, Hoàn Sở thẳng đến Bành Thành.

Ðêm hôm ấy, Trần Bình dâng biểu tâu với Bá vương:

Quốc gia lấy sự giàu mạnh làm gốc. Thánh vương lấy nhân nghĩa làm đầu. Bê hạ nay mới lên ngôi hai điều căn bản là giữ gìn kho tàng cho sung túc, ban bố điều ân cho dân lành. Thế mà chư hầu đều tụ họp ca nơi Hàm Dương này, mỗi ngày ít ra cũng phải cung cấp thực phẩm cho hơn 3, 4 vạn quân. Phải tính, mỗi ngày dùng hơn 300 gánh rượu, 200 con dê, 400 lợn, 100 trâu, 4000 cân gạo 3000 hộc đậu, 2000 bó củi v. v.. như thế thì chẳng bao lâu kho tàng hết sạch, dân chúng nghèo nàn đó là chưa nói những sự nhiễu hại của quân sĩ đối với nhân dân làm cho nhân dân, oán trách Bệ hạ. Xin Bệ hạ xét lại?

Bá vương xem biểu xong, truyền cho các nước chư hầu, hạn trong ba ngày phải lui quân về nước. Duy có Hán vương hãy tạm ở lại Hàm Dương, đợi phạm Tăng về sẽ liệu.

Hán vương được tin kinh sợ than:

– Ôi! Nếu chờ Phạm Tăng về, Phạm Tăng bày kế hại ta, còn vào Hán Trung sao được?

Liền đòi Trương Lương vào hỏi:

– Bây giờ Bá vương cho chư hầu đâu về đấy, chỉ riêng ta bị bắt ở lại đây, thật nguy lắm. Tiên sinh có kế gì giải cứu chăng?

Trương Lương nói:

– Nay gia quyến Ðại vương còn ở cả nơi Phong Bái, Ðại vương nên dâng biểu xin về thăm gia quyến và mang gia quyến đến đây. Thế rồi tôi sẽ có kế cứu thoát.

Hán vương theo lời, lập tức sai Lịch Tư Cơ dâng biểu.

Tờ biểu viết như sau:

Ðức Thánh vương lấy hiếu trì dân, làm cho dân theo về đạo hiếu, gia đình thỏa thuận nhà cửa sum vầy. Bang tôi vốn người Phong Bái, một kẽ thường dân, ngửa đội ơn trên, được phong vương tước. Tấm thân vinh quy đã đủ mười phần. Duy chỉ cha mẹ, vợ con còn ở nơi cố quán tấm lòng tấc cỏ chưa chút báo đền. Nay xin để hết binh mã lại đây một mình về thăm quê quán, trong hạn ba tháng sẽ cùng gia quyến đến Hàm Dương phục mệnh. Chút tình khuyển mã, cúi đầu trần tấu, xin Bệ hạ đoái hoài.

Bá vương xem biểu xong, phán:

– Hán vương xin về thăm cha mẹ, thật phải đạo làm con. Tuy nhiên, trẫm lại nghĩ rằng Hán vương xin đi đây không phải là chân ý, mà có lẽ vì bất mãn việc trẫm giữ lại Hàm Dương chăng?

Hán vương thất kinh, khúm núm tâu:

– Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hèn này được phong vương tước cũng đã đủ lắm rồi còn gì bất mãn nữa. Phụ thân tôi mình già, tuổi yếu, dưới gối không kẻ chăm nom, đạo làm con nghĩ không đành lòng. Xin Ðại vương thương tình rộng xét.

Nói xong, Hán vương gục xuống đất khóc nức nở.

Trương Lương bước ra tâu:

– Không nên để Hán vương về Phong Bái, nên bắt Hán vương vào ngay Hán Trung, rồi Bệ hạ sai người bắt Thái công và gia quyến đến đây làm con tin. Như vậy chẳng bao giờ Hán vương dám gian trá điều gì nữa.

Bá vương ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:

– Lúc đi, quân sư có dặn phải giữ Hán vương lại đây đừng để vào Hán Trung, e sanh dị ý.

Trân Bình bước ra tâu:

– Bệ hạ đã phong Lưu Bang làm Hán vương mà giữ lại đây mãi e thất tín với thiên hạ. Chi bằng cứ nghe theo lời Tử Phòng, bắt Thái công làm con tin, Hán vương đâu dám trái mệnh.

Bá vương nói:

– Nếu các ngươi thấy việc cho Hán vương vào Hán Trung là cần thiết cho uy tín, thì trẫm cũng y lời. Thế thì trẫm truyền cho Hán vương vào ngay Hán Trung, mà không được về Phong Bái.

Hán vương giả khóc lóc van xin mãi.

Bá vương lấy lời phủ dụ:

– Thôi, nhà ngươi cứ an lòng đi trấn nhậm. Ðợi lúc nào trẫm dời đô đến Bành Thành sẽ sai người rước Thái công về nuôi dưỡng thay cho nhà ngươi.

Hán vương tâu:

– Ðội ơn Bệ hạ! Kẻ hèn này dẫu đến chết cũng không quên ơn ấy.

Nói xong bái tạ lui ra. Chung Ly Muội thấy Bá vương cho Hán vương về Hán Trung, vội vã can:

– Lúc quân sư lâm hành có ân cần xin Bệ hạ đừng cho Hán vương vào Hán Trung, Bệ hạ đã quên rồi sao?

Bá vương nói:

– Ðã bắt gia quyến người ta quản thúc nơi đây, còn giữ người ta làm gì nữa. Vả lại lời ta đã phán, không thể làm khác hơn được. Nhà ngươi không cần nhắc đến chuyện ấy nữa.

Hàn Tín thấy vậy than thầm:

-Ðã cho vào Hán Trung mà còn giữ gia quyến ở đây mai sau họ vì gia quyến cố đánh để giải thoát thì chúng ta tất phải chết. Tiếc thay! Lời nói của quân sư không được xem trọng.

Hán vương về đến đại trại, lập tức chỉnh đốn binh mã, lên đường. Trăm họ kéo nhau tiễn biệt, đứng chật hai bên đường, ai nấy đều tỏ lòng ái mộ.

Các bậc bô lão đến trước ngựa, nói:

– Chúng tôi cầu mong Ðại vương được làm vua nơi Quan Trung này, nay Ðại vương lại vào Hán Trung, chúng tôi biết bao giờ còn trông thấy ánh mặt trời nữa.

Hán vương nói:

– Chúng dân cứ thủ phận làm ăn, có ngày sẽ tương kiến.

Tiêu Hà nói với các bô lão:

– Các cụ nên trở lại kẻo Bá vương hay được, chẳng những hại cho các cụ mà còn nguy hiểm đến Ðại vương nữa.

Nói xong, giục quân lên đường. Ði được một quãng dài, mà tiếng khóc than của dân chúng vẫn còn vang đến.

Trương Lương dẫn đường, vào mạn núi Thiểm Sơn.

Ði được 90 dặm thì tới huyện Phượng Tường rồi đến cửa ải Mê Bồn. Lại đi 30 dặm nữa đến huyện Bảo Kê rồi đến cửa quan Ðại Tân và đến Sạn đạo.

Quân Hán vương toàn là người Sơn Ðông, không quen trèo non, lặn suối, nay tới đường Sạn đạo chỗ thì cao vút mây xanh, chỗ thì xuống tận suối thẳm, một cái trợt chán có thể bỏ mạng được, lấy làm kinh sợ, nói với nhau:

– Chúng ta vào đây, bốn bề hoang vu, rừng thâm nước độc, nếu không liều chết giải thoát cho mình, thì trọn đời làm ma dại nơi hoang địa này.

Phàn Khoái nghe nói nổi giận hét lớn:

– Các ngươi nói rất phải, dẫu chết với bọn chúng cũng còn mát lòng hơn sống trong đất này. Tôi xin nguyện làm tiên phuông, cử binh chinh phạt cho.

Hán vương bùi ngùi nói:

– Ta thà chết còn hơn đem thân đến đây cầu sống. Một mai bọn Chương Hàm đóng quân chận lối này, dầu ta có cánh cũng không thoát ra được

Trương Lương, Tiêu Hà, Lịch Tự Cơ đều can:

– Nếu Ðại vương chán nản như thế e hỏng việc lớn.

Hán Trung càng hiểm trở bao nhiêu càng giúp cho Ðại vương dễ định thiên hạ bấy nhiêu. Ở đây Ðại vương tha hồ chiêu binh mai mã, dẫu cho Bá vương có tám tai bốn mắt cũng không thể nào biết được. Khi quân ta có đủ sức mạnh thì còn sợ gì gian nguy hiểm trở, trước địch Tam Tần, sau bình thiên ha có khó chi.

Hán vương nghe lời khuyên giải lòng cũng nguôi ngoai nên truyền Phàn Khoái đốc binh thẳng vào Bao Trung.

Khi đến núi Kim Ngưu, ba quân dừng lại nghỉ ngơi.

Hán vương hỏi:

– Sao lại gọi là Kim Ngưu?

Lịch Tự Cơ nói:

– Trước kia đường Hán Trung ra Trung Nguyên còn hiểm trở bằng vạn lần ngày nay, tuyệt không có lối nào đi lại. Vua Huệ vương nhà Tần muốn kiêm tính sáu nước, nhưng không có cách nào kéo quân vào đánh Thục đặng. Nghe nước Thục có năm người lực sĩ sức mạnh xẻ núi lấp sông, liền bày ra một kế đúc năm con trâu bằng sắt phao đồn rằng: nhà Tần có năm con trâu vàng mỗi ngày tiêu ra năm đấu vàng! Vua Thục tưởng thật, sai năm người lực sĩ, khai sơn phá thạch, lấy lối ra Tần, cướp năm con trâu ấy. Nhưng khi mở lối xong, cướp được trâu té ra là trâu sắt. Vua Huệ vương mượn con đường ấy đem quân vào đánh lấy đất Thục, làm ra con đường Sạn đạo, và đặt tên núi là Kim Ngưu.

Hán vương nói:

– Chỉ vì vua Thục tham vàng mà mở đường cho quân Tần vào cướp đất!

Quân sĩ nghĩ ngơi xong toan lên đường, Trương Lương bước đến nói với Hán vương:

– Tôi tiễn chân Ðại vương đến đây rồi, xin cho phép tôi được trở về cố quốc.

Hán vương kinh ngạc nói:

– Từ khi ta gặp được Tiên sinh, đã bao lần gian nguy khổ cực nhờ Tiên sinh giúp đỡ, mới mong được toàn mạng, nay Tiên sinh bỗng nhiên bỏ ta trong lúc sự nghiệp chưa thành ta còn biết nương cậy vào ai?

Trương Lương nói:

– Trước đây vì phải luôn luôn tranh đấu trước gian nguy, nên tôi không dám rời Ðại vương nữa bước. Nay Ðại vương vào Hán Trung, đâu còn gì nguy hiểm nữa? Giữ tôi bên cạnh, Ðại vương chẳng ích gì! Tôi xin từ giã Ðại vương trở về thăm cố chúa, nhân tiện tính giúp cho Ðại vương ba việc, xin Ðại vương cứ an tâm.

Hán vương hỏi:

– Ba việc ấy là ba việc gì xin Tiên sinh chỉ giáo.

Trương Lương nói:

– Một là: về du thuyết Bá vương, bày Bá vương thiên đô sang Bành Thành, dành Hàm Dương cho Ðại vương sau này, trở về lên ngôi thiên tử.

Hai là: đi du thuyết chư hầu bỏ Sở phò Hán, và tìm cách làm cho Bá vương không đế ý đến lực lượng Ðại vương nữa. Ba là: tìm cho Ðại vương một người Ðại nguyên soái, đủ tài diệt Sở hưng Lưu. Làm xong ba việc ấy tôi sẽ trở về Hàm Dương chờ đón Ðại vương.

Nay chỉ khuyên Ðại vương một điều là cố gắng nhẫn nhục, vì Hán Trung chỉ là nơi ở tạm, không quá ba năm Ðại vương sẽ vào Trung Nguyên làm chủ thiên hạ.

Hán vương nói:

– Nếu thực được như lời Tiên sinh thì Bang này dẫu khổ nhục đến đâu quyết chẳng dám sờn lòng. Nhưng Tiên sinh định tìm một vị Nguyên soái, mà Tiên sinh không trở về đây, làm thế nào được?

Trương Lương nói:

– Người ấy sẽ là một anh tài trong thiên hạ. Khi tìm được tôi sẽ chỉ tỏ đường lối để người ấy tìm đến đây. Ðại vương phải thu dụng, chớ thất tín.

Hán vương hỏi:

– Tiên sinh phải lấy gì làm tin, ta mới biết là người của Tiên sinh giới thiệu chứ?

Trương Lương nói:

– Tôi xin giao cho người ấy một giốc thư. Trong thư tôi sẽ viết những lời bí mật của Ðại vương nói với tôi lúc bình nhật.

Trương Lương nói xong, cúi đầu giã biệt.

Hán vương nắm tay rơi lệ nói:

– Xin Tiên sinh đừng sai ước. Tiên sinh về có gặp thân phụ tôi xin nói giúp một lời rằng: Bang này ngày đêm mong nhớ cội thung, nhưng hoàn cảnh không thể nào phụng dưỡng được. Xin người cứ giữ gìn thân thể, và trông nom các cháu. Còn trời còn đất, tất còn có ngày đoàn tụ.

Trương Lương nói:

– Vâng, tôi xin tuân mệnh.

Nói xong, lại dắt Tiêu Hà ra dặn dò mọi việc và nói:

– Lúc nào tôi tìm được vị Nguyên soái thì tướng quân phải hết lòng tiến cử nhé. Bức thư có rọc mất một chéo góc.

Tiêu Hà nói:

– Tiên sinh cứ yên lòng, nếu tôi thấy người cầm giốc thư đến đây quyết không để lỡ việc.

Trương Lương bái biệt Hán vương, giã từ tướng sĩ rồi lên ngựa trở lại.

Hán vương tiễn đưa mấy dặm đường.

Bỗng phía sau có tiếng kêu la ầm ĩ, và ngọn lửa cháy ngất trời, lan ra hơn ba mươi dặm. Hỏi ra mới biết Trương Lương đốt Sạn đạo rồi.

Hán vương thất kinh, ngước mặt lên trời than:

– Ôi chao! Trương Lương đã trở về còn nhẫn tâm đốt Sạn đạo là cố ý giam lỏng chúng ta nơi đây trọn đời bỏ xương trong núi thẳm rồi.

Quân sĩ cũng dều nhao nhao chửi rủa Trương Lương và nói:

– Trời ơi! Thế là chúng ta đành sống làm mọi nơi xứ Hán Trung, để rồi chết làm quỉ nơi hoang vu này, chứ còn đường sá nào mong trở về nửa.

Ðang lúc ba quân huyên náo, Tiêu Hà chạy lại nói nhỏ với Hán vương:

– Xin Ðại vương chớ oán Trương Lương. Sở dĩ Trương Lương đốt Sạn đạo là để cho Bá vương không còn để ý đến ta nữa, quân tướng Tam Tần ăn no ngủ kỹ không đề phòng xin Ðại vương lượng xét.

Hán vương như sực tỉnh, thở hào hển nói:

– Nếu không có nhà ngươi, ta đã hiểu lầm oán trách người hiền.

Nói xong, truyền ba quân tiếp tục lên đường.

Khi đến Bao Dung, Hán vương tìm lời phủ dụ quân sĩ, rồi chọn ngày lên ngôi, thi ân bố đức, dân chúng đem lòng cảm phục.

Năm ấy được mùa, dân chúng ấm no, trăm họ an vui, non sông tươi thắm.

Hán vương phong Tiêu Hà làm Tướng quốc, Tào Tham, Phàn Khoái, Chu Bội, Quán Anh đều làm tướng.

Từ đó, chiêu hiền đãi sĩ, tích thảo dồn lương, chỉ hơn vài tháng dân Hán Trung, đường không nhặt của rơi, đêm ngủ không cần đóng cửa, tuyệt nhiên không có một kẻ gian manh trộm cướp, thật là một cảnh thái bình.

Sau khi đốt Sạn đạo, Trương Lương đến Phương Linh nghỉ một hôm, ngày hôm sau qua Phượng Châu, Ích Môn, đi gần tới đia phận Bảo Kê, bỗng có một tướng kéo một đoàn quân ra đón đường hét lớn:

– Trương Lương! Ta vâng lệnh quân sư Phạm Tăng đến đây đón ngươi đã lâu.

Trương Lương kinh ngạc, xem lại thì thấy đó là nha tướng của Hạng Bá.

Hồi 13 – Vì vua Hán, Trương Lương quyết chí

Viên tướng ấy thấy Trương Lương sợ hãi, vội xuống ngựa, và cười lớn nói:

– Tiên sinh không nhận ra tôi sao? Hạng công biết tiên sinh vào nơi hiểm trở, nên sai tôi đến đây bảo vệ.

Trương Lương mừng rỡ nói:

– Hạng công thật là người chu đáo.

Rồi cùng theo tướng ấy vào thành đến nhà Hạng Bá.

Hai người gặp nhau trong bầu hoan hỉ.

Hạng Bá sai lấy quần áo cho Trương Lương thay, trao đổi niềm tâm sự, và mở tiệc đãi đằng cho đến tối mới đi nghỉ.

Ðêm ấy, Trương Lương lòng bàng hoàng không ngủ được, bỏ ra ngoài hiên dạo cảnh ngắm trăng, nhân hỏi thăm chuyện các nước chư hầu đối với Bá vương như thế nào.

Bọn quân canh nói:

– Chư hầu đều đến bái yết Bá vương, duy có vua nước Hàn là Cơ Thành vì đến chậm lại để Trương Lương theo phò Hán vương vào Bao Trung, nên Bá vương truyền chém đầu, đưa linh cữu về nước cách đây vài hôm.

Trương Lương hay tin như sét đánh bên tai, tay chân bủn rủn, vội vàng chạy vào phòng, suốt đêm khóc sướt mướt, nước mắt ướt đầm cả gối.

Sáng hôm sau, Trương Lương cáo từ Hạng Bá, trở về Hàn quốc.

Hạng Bá nóí:

– Lâu nay bận rộn việc nước, tuy gặp nhau nhưng chưa bao giờ được cùng nhau tâm sự. Vừa rồi, tôi sai người đón Tiên sinh đến dây cốt để thỏa tình hoài mộ, sao Tiên sinh vừa đến lại đã giã biệt?

Trương Lương đáp:

– Vừa rồi tôi nghe Hàn Vương bị Bá vương giết chết, chỉ vì tôi theo Hán vuơng vào Bao Trung. Tình vua tôi rất nặng xin hiền huynh cho tôi về nước, khóc cho Hàn vương rồi sẽ trở lại đây bái yết.

Nói dứt lời, hai dòng nước mắt chảy xuống đọng trên má.

Hạng Bá cảm động không dám ngăn, chỉ hẹn sau một tháng sẽ cho người đến đón.

Trương Lương ra đi… buồn bã về đến nước Hàn vào tiếp kiến các vị công tử, rồi ra trước mộ Hàn vương làm lễ, rồi khóc và than rằng:

– Chúa công ôi? Ðể cho Hạng Vũ hại Chúa công thật là tội của Lương này. Nếu Lương này không báo thù được cho Chúa công xin muôn kiếp không làm người.

Than rồi lại khóc. Các công tử xúm lại khuyên giải mãi, Trương Lương mới chịu gạt lệ trở về thăm gia quyến.

Ðược vài hôm, Trương Lương lại thu xếp hành trang ra đi. Quê người cảnh lạ, non nước đìu hiu, lòng buồn bả khôn khuây.

Vừa đi được mấy ngày, bỗng gặp người nhà của Hạng Bá sai đến đón.

Trương Lương nghĩ tình bạn, không nỡ từ chối, trở lại nhà Hạng Bá.

Hạng Bá thấy Trương Lương buồn rầu, ân cần hỏi:

– Tiên sinh định đi đâu mà có vẻ buồn bả như thế?

Trương Lương thản nhiên đáp:

– Bấy lâu vì nước quên nhà, tuyết sương chẳng quản. Nay cố chủ đã mất, thân hèn lại nhiều tật, chẳng mong gì ở cõi đời này nữa ; vì vậy muốn học thuật huyền vi của Lão Tử, theo lối phóng đãng của Trang Chu, hái rau vi theo Bá Di. Thúc Tề, rửa tai trâu học đòi Hứa Do, Sào Phủ chán vòng danh lợi, tìm thú sơm lâm, phú quý vinh hoa không dám nghĩ tới, hiền huynh đã là bạn, tôi chẳng dám giấu.

Hạng Bá biết không thể đem giàu sang làm vui Trương Lương được, nên chỉ xin lưu lại vài tháng để thỏa tình ngưỡng vọng.

Môt hôm, Hạng Bá vào chầu, Trương Lương ở nhà một mình đi bách bộ, đến một vườn hoa thấy có một tòa lâu đài tường cao, cửa rộng, cỏ hoa man mác trên có đề bốn chữ “Vạn quyển thư lâu”.

Trương Lương lần vào. Trong thư lâu có nhiều phòng, nhưng đặc biệt nơi phòng chính trang hoàng đồ sộ, án thư ở giữ muôn vẻ trang nghiêm. Cách tường, một giá sách dể toàn trúc giản đời cổ. Một bên có để những văn thư rất nhiều. Trương Lương mở ra xem thì thấy đó là những tờ sớ tấu của sáu nước, những lời biểu của bá quan, vì Hạng Bá làm Thượng Thư lệnh nên các văn thư đều phải kiểm duyệt trước rồi mới đệ trình lên Bá vương.

Bản chính đem vào triều bản sao để ở nhà.

Trương Lương đọc qua mọt loạt thấy những tờ biểu ấy có tờ cũng hay, có tờ cũng dở có tờ lại toàn là lời sàm nịnh, nói chung là không có gì xuất sác. Bỗng Trương Lương rút đến tờ biểu sau cùng, xem qua, trát mồ hôi ướt áo.

Tờ biểu ấy như vầy:

“Tôi nghe nói trị thiên hạ tối thiểu phải có hai điểm. Thế và Cơ. Thế là xét điểm thực hư lượng sức mạnh, yếu. Biết mình, hiểu người, ấy là nét cần bàn để trị thiên hạ. Nếu chỉ lấy sức mạnh hoành hành chẳng qua là một cơn gió lốc, cây cỏ tuy ngã rạp xuống, nhưng chẳng bao lâu sau sẽ đứng dậy chơm chởm như muôn ngàn mũi giáo chống lại uy vũ.

Cơ là hiễu rõ sự hưng vong, xét cơ trị loạn, nếu không biết đến cơ, chẳng qua là nhóm giặc cỏ nổi lên, bạo phát bạo tàn, lâu dài sao được?

Nay Bệ hạ tuy làm vua Quan Trung nhưng lòng người chưa phục. Dân chỉ sợ uy mà không mến đức. Trong vũ trụ, không có gì mạnh mà không đến lúc suy yếu. Cơn bão tố khủng khiếp kia, có thể xô tường, trốc đá nhưng rồi cũng phải dứt. Cái gì biểu lộ ra ngoài, cái ấy chóng vong. Ngược lại cái gì i?v, cái ấy lâu mất. Tỷ như lòng oán vọng của dân chúng, tuy không phát lộ, nhưng tồn tại mải trong lòng, khó mà tẩy sạch. Ðã uy rồi đến lúc phải khuất, đã mạnh rồi tất có lúc phải yếu. Nếu không thấu nghĩa chữ “cơ” làm sao có thể trị thiên hạ? Tôi thấy vậy mà lo cho Bệ hạ đó.

Như Hán vương khi ở Sơn Ðông tham tài hiếu sắc mà lúc đến Quan Trung thấy của không màng thấy sắc không lụy, thi ân bố đức, khiến cho dân Tần cảm mến, đó chẳng phải là kẻ hiểu được chữ “cơ” và chữ “thế” trong thiên hạ ư?

Nếu Hán vương thừa cơ xướng khởi, lấy lòng dân làm sức mạnh, lợi dụng cái yếu của Bệ hạ để làm cái mạnh của mình, có phải là lập được cái “thế” trong thiên hạ không?

Cứ xem như việc đốt Sạn Ðạo để Bệ hạ khỏi ngó về phương Ðông. Tam Tần không có ý phòng bị về đất Hán, rồi đem quân Ba Thục về lấy Quan Trung là hiểu “thế” và biết “cơ” trong thiên hạ lắm!

Hán vương là kẻ đối thủ của Bệ hạ mà Bệ hạ không thấy cái nguy hiểm ấy, tướng sĩ chỉ biết thừa thuận ý vua, tưởng chỉ dùng cái vũ của Bệ hạ sẽ trở thành người vô địch trong thiên hạ!

Tôi, dẫu là một kẽ hèn,nhưng đã ăn lộc vua lẽ nào không có lòng lo lắng, mạo muội đôi lời, không ngại trăm quan chê cười, hiền dâng vài kế: nay phải thêm quân phòng bị biên cương, rút bọn Chương Hàm về dùng vào việc khác, chọn người trí dũng chận lấp cửa quan, bắt gia thuộc Lưu Bang đến làm con tin, trong thì lo điều nghĩa, chọn sĩ cầu hiền, tuân theo chính lệnh nhà Châu, lấy dân làm gốc, ngoài thì trấn an chư hầu, sửa việc binh nhung, chọn người tài dùng làm Nguyên soái lo việc tảo trừ những mầm phản loạn, như thế, Lưu Bang nhất định không dám dòm ngó về phương Ðông, xã tắc vững bền như bàn thạch.

Vài lời trung trực giải bày xin Bệ hạ rộng xét “.

Ðọc xong tờ hiểu, Trương Lương rất kính phục, khen thầm:

– Người này đáng sánh với Y Doãn ở Nội Sằn, Thái Công ở sông Vị, nếu Bá vương dùng người này là nhà Hán phải nguy vong. Còn nếu Hán vương dùng được người này nước Sở phải mất. Chẳng biết hiện nay người này đang làm gì? Và có ở đây chăng?

Nghĩ rồi, đem văn thư xếp lại như cũ, dạo gót xuống lầu về thư phòng nằm nghỉ.

Một lúc sau, Hạng Bá đi chầu về, truyền mở tiệc khoản đãi, và nói:

– Tiên sinh với tôi chẳng khác nào anh em ruột, xin chớ khách tính nhé!

Trương Lương nói:

– Hiện nay tôi đã đặt mình ngoài vòng thế sự còn khách tính gì nữa.

Hạng Bá và Trương Lương cùng ngồi uống rượu.

Rượu được nửa chừng, Trương Lương hỏi:

– Nghe hiền huynh có vườn hoa đẹp, xin cho tiện đệ tiêu khiển một chốc có được chăng?

Hạng Bá đứng dậy mời Trương Lương.

– Vâng, xin Tiên sinh cùng tôi dạo mát.

Hai người dắt tay đến vườn hoa, đi đến thư lâu, Hạng Bá mời Trương Lương vào chơi, Trương Lương giở tập văn thư ra xem, giả vờ hỏi:

– Văn thư ở đâu nhiều thế này?

Hạng Bá đáp:

– Văn thư của sáu nước chưa tiến lãm, còn bỏ cả nơi đây. Trương Lương lục lạo một hồi rồi cầm tờ biểu ban sáng đưa cho Hạng Bá xem, và hỏi:

– Tờ biểu này của kẻ nào mà viết dài như thế?

Hạng Bá đáp:

– Người ấy chỉ là môt tên quân hầu. Tuy nhiên tài có thể sánh với Lã Vọng nhà Chu, tiếc rằng chưa gặp thời.

Trương Lương vồn vã hỏi.

– Tàì như thế mà chỉ làm môt tên quân hầu ư?

Hiền huynh có thể cho biết lai lịch người ấy chăng?

Hạng Bá chậm rãi nói:

– Người ở Hoài âm, tên Hàn Tín, nhà nghèo, thuở trước làm nghề câu cá. Phạm Tăng đã hai ba lần tiến cử, nhưng Bá vương không dùng, chỉ cho làm chức Chấp Kích thôi. Thật đáng tiếc, vừa rồi Hàn Tín dâng biểu này lên Bá vương. Bá vương toan bắt tội, may có tôi xin giúp mới toàn mạng.

Trương Lương nghĩ thầm:

– Chính là người mà ta đã gặp nơi Hồng Môn trước đây. Nếu Hán vương dùng được người này, lo gì không phá được Sở, mà thù nước Hàn ta cũng trả được.

Trương Lương lưu lại nhà Hạng Bá vài hôm, dò xét quân tình, xong, nói với Hạng Bá:

– Tôi muốn tìm cảnh núi non thanh vắng để an thân, vậy từ đây xin giã biệt hiền huynh.

Hạng Bá quyến luyến nói:

– Tiên sinh cứ ở đây, sớm cuộc cờ, tối chén rượu, như thế cũng thanh thoảng rồi, cần gì phải tìm nơi thanh vắng?

Trương Lương đáp.

– Tôi đã là người nhàn tản thì không thích chốn phồn hoa. Ở đây là trướng phủ, trước mắt rực cảnh vàng son, bên tai vang mùi thế sự, làm thế nào tâm hồn thoải mái được.

Hạng Bá dùng hết lời, gợi hết tình cảm nhưng không thể nào giữ Trương Lương lại được, liền tiễn chân ra khỏi Hàm Dương mặc cho Trương Lương vui phong nguyệt!

Trương Lương giã biệt Hạng Bá xong, thay áo quần, giả làm một đạo sĩ, lẻn vào thành, lúc thì dừng chân nơi cây cao bóng mát, lúc thì vào ngõ hẻm hang sâu, lúc vào đình chùa, làng mac, lúc đến nơi chợ búa, phố phường, lưng đeo mấy đồng tiền, tay cầm năm quả táo, hát nghêu ngao, nói vơ nói vẩn. Bọn trẻ thấy lạ xúm nhau xem suốt ngày.

Một hôm, Trương Lương gặp một đứa trẻ mặt mày sáng sủa đỉnh ngộ, bèn gọi đứa trẻ ấy vào một ngôi chùa vắng, cho mấy đồng tiền, mấy cái bánh rồi dạy mấy câu như sau:

Hổ trong nước lặng

Cá lội thảnh thơi

Dầu ai phú quí trong đời,

Quê hương chẳng biết, lẽ trời chưa thông

Bóng tối mông lung

Người mang áo gấm.

Áo kia dầu đẹp

Chẳng được tiếng khen

Chỉ dạy vài lượt, đứa bé đã thuộc lòng.

Trương Lương dặn:

– Nếu có ai hỏi, em cứ nói rằng: ” Em nằm mơ thấy thần dến dạy hát “, đừng nói ta dạy nhé! Nếu em nói như vậy, em sẽ được sống lâu, giàu có còn ta dạy thì lúc chết xuống âm phủ sẽ bị nấu vào vạc dầu sôi, em nghe rõ chưa?

Ðứa bé đáp:

– Thưa sư cụ, cháu xin vâng. Nhưng ngoài ra sư cụ còn dặn gì thêm nữa chăng?

Trương Lương nói.

– Em đem lời nói ấy dạy cho các đứa trẻ khác, càng nhiều càng tốt.

Nói xong Trương Lương cho thêm đứa bé mấy đồng tiền nữa rồi tìm chổ vắng vẻ tạm trú để dò thêm tin tức.

Từ khi Bá vương cho chư hầu về nước, đêm ngày vẫn áy náy lo sợ dân Tần không phục, tìm cách gây rối nên thường cho người ra ngoài thám thính.

Một hôm, quân thám thính nghe đứa trẻ hát, vội về báo lại với Bá vương.

Bá vương không tin. Chiều hôm ấy cải trang một thường dân ra ngoài chợ, Bá vương trong thấy mấy đứa trẻ đang vừa đi vừa hát liền gọi lại hỏi:

– Ai dạy chúng bay hát thế?

Một đưa trẻ trả đáp:

– Trời dạy chúng tôi hát đấy.

Bá vương kinh ngạc nghĩ thầm:

– Ðất Hàm Dương bị tàn phá, ta muốn thiên đô về Bành Thành. Nay câu đồng dao này ứng đúng theo ý định của ta, thế thì lòng trời hợp với lòng ta vậy.

Hôm sau, Bá vương hội quần thần, phán:

– Hiện nay có một câu đồng dao lưu truyền khắp chợ búa, tại sao các người không tâu cho ta biết. Câu hát ấy chính là trời muốn cho ta thiên đô về Bành Thành.

Bành Thành thuộc nước Sở, từ sông Hoàng sông Hà trở về phía Bắc, đất vuông nghìn dậm, chính là chổ nên đóng đô đó. Nước cũ làng xưa còn đâu hơn được.

Quan Gián nghị Hàn Sinh bước ra can:

– Tâu Bệ hạ, những lời đồng dao chẳng qua lời người đặt ra, tuyên đồn nhảm nhí, xin Bệ hạ chớ tin. Quan Trung là nơi kiên cố, bốn mặt núi rừng, chỉ hở có một mặt phía Ðông mà thôi, nhưng phía Ðông lại có sông Hoàng Hà. Ðịa thế như vậy quả là nơi Thiện phủ. Nhà Châu dùng làm đất Hưng vương, nhà Tần lấy chổ này làm nơi đồ Bá. Xin Bệ hạ chớ nghe lời đồng dao mà bỏ nơi thắng địa.

Bá vương lắc đầu nói:

– Lòng trời đã ưng theo ý muốn của ta, ngươi chớ đem lời ngăn cản. Ta thiên đô về Bành Thành có ba điều cần thiết: Một là đã ba năm nay, ta lo chinh Ðông phạt Bắc chưa về quê hương. Hai là xứ Quan Trung đất ít núi nhiều, tầm con mắt trông không được quang đãng. Ba là điềm trời đã ứng, trái lại không hay.

Hàn Sinh nói:

– Bệ hạ gồm thâu bốn bể như mặt trời soi trên quả đất, dẫu ở đâu nhân dân cũng ngưỡng vọng, hà tất phải trở về cố hương mới vinh hạnh?

Bá vương nói:

– Thôi, ngươi không cần nói nữa, đành rằng: “Bốn phương đâu cũng là trời, người trong bốn bể là tôi một nhà”. Nhưng ta thích ở dâu thì đóng đô ở đó, hề chi?

Hàn Sinh nói:

– Trước khi Quân sư đi có dặn Bệ hạ không nên rời Hàm Dương kia mà.

Bá vương cười lớn nói:

– Ta là vua, đem chí dọc ngang, tung hoành bốn bể, há lệ thuộc theo ý muốn của một kẻ nào sao?

Hàn Sinh không còn lời nào can ngăn nữa, tức giận bước xuống thềm, ngửa mặt lên trời thở phào ra một cái, rồi nói:

– Thường nghe người ta nói: người nước Sở như con khỉ tắm mà đội mũ. Lời nói ấy nay xét thấy không sai.

Bá vương thoáng nghe câu nói ấy, hỏi Trần Bình:

– Hàn Sinh muốn nói gì vậy?

Tràn Bình không dám giấu,tâu:

– Tâu Bệ hạ, Hàn Sinh oán Bệ hạ, lấy con khỉ mà ví người nước Sở.

Bá vương vỗ hét:

– Thế là ý gì?

Trần Binh nói::

– Tâu Bệ hạ, câu nói có nhiều ý. Con khỉ mà cho mặc áo đội mũ vào, tuy bề ngoài giống loài người, song bên trong vẫn là khỉ. Ðó là ý thứ nhất. Con khỉ không quen mặc áo đội mũ, thế nào nó cũng bỏ quần áo đi. Ðó là ý thứ hai.

Bá vương nghe xong nổi giận mắng lớn:

– Súc sanh! Dám buông lời sỉ nhục ta như thế sao?

Liền truyền Chấp Kích Lang trói Hàn Sinh lại, dẫn ra chợ. Dân chúng đến xem chật cả trong ngoài.

Trương Lương lúc bấy giờ cũng đang lẩn mặt trong đám dân chúng ấy.

Hàn Sinh thấy quân nấu vạc dầu, tức giận, nói:

– Hỡi người xứ Hàm Dương a ơi! Ta vì trung với nước mà phải nấu dầu, chứ xét chẳng có tội chi. Ta chắc không quá một trăm ngày nữa, quân Hán vương sẽ ra đánh Tam Tần, lấy Hàm Dương, chừng ấy các ngươi mới thấy loài khỉ đội mũ.

Hàn Tín nghe nói, bảo Hàn Sinh:

– Thôi, xin quan Gián nghị chớ nói nữa! Ông bảo là ông chết oan, nhưng theo tôi, tôi cho là ông chết đáng lắm.

Hàn Sinh trợn mắt cãi lại:

– Tại sao ngươi dám nói thế?

Hàn Tín nói:

– Ông làm chức Gián nghị, sao lúc giết tướng Tống Nghĩa, ông không can; lúc chôn hai mươi vạn hàng tốt, ông không can; lúc giết Tử Anh, đào mả Thủy Hoàng, đốt cung A Phòng, ông không can? Nay bệnh trạng đã quá trầm trọng dầu trời cũng chẳng cứu được thì ông lại nhảy vào can gián. Như thế chết là đáng lắm. Chỉ có được một điều, nếu hồn thiêng có oán hận thì nên oán hận kẻ đã tạo ra câu đồng dao kia, chớ có oán hận kẻ hành hình này.

Nói xong ném Hàn Sinh vào vạc dầu. Dân chúng đều nhắm mắt thở dài. Trương Lương đứng bên cạnh, nghe Hàn Tín nói, kinh sợ, biết không phải không phải là người thường, liền theo dõi về đến tận nhà để biết chổ ở của Hàn Tín.

Sáng hôm sau, Hàn Tín vào phục mệnh, tâu lại việc hành hình Hàn Sinh. Bá vương liền sai Quý Bố đem quân đến Bành Thành, đốc thúc công việc sửa sang cung. Các quan thấy Hàn Sinh chết, không ai dám ngăn nữa.

Hàn Tín về nhà, nằm vắt tay lên trán ngẫm nghĩ:

– Con chim làm tổ ở cây còi, chẳng bao giờ được êm ấm.

Tiếng chuông thu không vừa điểm, bóng tối nhá nhem, Trương Lương giắt thanh bảo kiếm vào mình chui qua thành đến trước nhà Hàn Tín, nói với quân giữ cửa:

– Tôi là người đồng hương với Hàn tướng quân, xin vào yết kiến.

Quân vào báo. Hàn Tín ngẫm nghĩ:

– Mình là kẻ bần tiện nơi Hoài Âm, chẳng dám chơi bời với ai, tại sao nay có người đồng hương đến viếng? Ðiều này thực cũng lạ.

Hàn Tín còn đang suy nghĩ thì Trương Lương đã vào đến nơi.

Trông qua ánh trăng, Hàn Tín thấy Trương Lương mặt mày tuấn tú, dáng điệu thanh cao, xem chừng hơi quen, nhưng không dám hỏi, liền mời vào trong nhà thi lễ, và nói:

– Hiền công ở chốn nào lại chơi? Quý hiệu là chi? Có điều gì chỉ giáo?

Trương Lương đáp.

– Tôi là người đồng hương với tướng quân, nhưng lưu lạc giang hồ từ thuở bé, nên tướng quân không rõ đặng. Nay nhân dịp qua đây, biết được tướng quân, nên xin vào thăm viếng.

Hàn Tín hỏi.

– Chẳng hay hiền công làm nghề gì mà dạo khắp giang hồ. Hẳn có một chí hướng?

Trương Lương đáp:

– Tôi vốn có nghề xem tướng. Tiền nhân tôi có để lại cho tôi ba thanh bảo kiếm rất quý, vì vậy bấy lâu nay tôi đi tìm bậc anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, kẽ nào đáng mặt thì dâng hiến. Hiện hai thanh bảo kiếm kia tôi đã dâng hai người xứng đáng rồi, còn một thanh này chưa gặp chủ. Nay nghe tướng quân là bậc hào kiệt, lại là kẻ đồng hương, nên mang lại đây kính biếu.

Hàn Tín thấy Trương Lương ca tụng thanh bảo kiếm liền hỏi:

– Thanh kiếm ấy có gì quý?

Trương Lương ngâm lên một bài thơ ca tụng thanh kiếm, đại khái như sau:

Ðê ngầm dưới nước, giao long khóc

Ðem bõ trên không, quỉ mị kinh

Lưu truyền thiên cổ

Gíá trị thiên kim

Kiếm báu không đem bán

Chỉ hiến kẽ hùng anh!

Giang sơn mặc sức tung hoành

Giúp người dựng nước, lưu danh muôn đời.

Hồi 14 – Lập kế, Trương Lương dụ Hàn Tín

Hàn Tín thấy Trương Lương tán tụng thanh kiếm mãi, và biết mình là hào kiệt, lòng hoan hỉ, vội đứng dậy nói:

– Tín tôi từ đến nước Sở, chẳng qua là một kẻ hư danh, nay Tiên sinh có lòng hạ cố đem thanh bảo kiếm đến đây, ơn ấy không sao nói hết. Vậy xin Tiên sinh cho tôi xem qua kiếm ấy.

Trương Lương rút kiếm trao cho Hàn Tín.

Kiếm vừa rút ra khỏi vỏ, hào quang chói sáng ngời.

Trên bao có đề một thơ như sau:

Kiếm báu lập lòe tay dũng sĩ

Non sông môt dãi chí hiên ngang.

Máu hồng men rượu say băng tuyết

Muôn dặm sơn hà một tấc gang.

Hàn Tín bình nhật rất thích kiếm, nay thấy thanh bảo kiếm này bằng lòng lắm, chỉ vì trong túi không có tiền, nên không dám hỏi giá.

Sau một lúc lăm le thanh kiếm, Hàn Tín hỏi:

– Ngài có ba thanh kiếm, thế thì hai thanh kia ngài đã bán được bao nhiêu?

Trương Lương nói:

– Tôi đã nói với tướng quân là kiếm tôi không phải bán. Nếu gặp người xứng đáng làm chủ, xin đem dâng không mà thôi, vì nghe tướng quân là bậc hào kiệt, mới đem kiếm đến đây.

Hàn Tín nói:

– Ða tạ Tlên sinh có lòng chiếu cố. Chỉ sợ Tín tôi chưa chắc phải là hào kiệt hay không?

Trương Lương nói:

– Nếu không phải là hào kiệt thì đến vạn nén vàng tôi cũng không thèm bán.

Hàn Tín mừng rỡ, sai gia nhân dọn tiệc rượu khoản đãi. Trong lúc nâng chén, Hàn Tín hỏi:

– Thưa Tiên sinh, ba thanh bảo kiếm đều có tên cả chứ?

Tnrơng Lương nói:

– Dĩ nhiên. Một thanh gọi là Thiên Tử kiếm, một thanh gọi là Tể Tướng kiếm, còn thanh này gọi là Nguyên Nhung kiếm. Thanh Thiên Tử kiếm còn gọi là Bạch Hồng Từ Ðiện, nguyên của Ngô vương đúc ra treo trên vách, giống tà ma quỉ mị phải xa lánh. Tể Tướng kiếm biệt danh là Long Tuyền Thái A, thanh kiếm này của Lôi Hoán đào được.

Lôi Hoán giỏi vốn về thiên văn xem thấy có một tia sáng vọt lên sao Ngưu, sao Ðẩu, liền sai người đào nơi nền nhà sâu hơn mười trượng, được một cái hòm, mở ra thấy trong đó có thanh kiếm. Từ đó ánh hào quang không còn chiếu sáng nữa. Sau Lôi Hoá đeo kiếm lội qua sông, bỗng nhiên thấy mất. Trông xuống sông thì thấy kiếm ấy hóa thành con Giao Long đang vẩy vùng trong nước.

Nguyên Nhung kiếm có tên là Can Tương, Mạc Tà.

Nguyên vua nước Ngô là Hạp Lư đúc ra hai thanh, một thanh “Thư” và một thanh “Hùng”. Tuy là của nhân tạo, song chọn ngày giờ, ứng theo các vì tinh tú, hợp khí âm dương, rèn vào lửa hơn mười năm mới thành, cho nên quý báu lắm.

Vì sự quý báu ấy nên tôi đi bán kiếm phải dùng người tài đức mà trao.

Hàn Tín hỏi:

– Người tài đức thế nào mới dùng được kiếm báu của Tiên sinh?

Trương Lương đáp:

– Người muốn dùng Thiên tử kiếm phải có đủ tám đức: Nhân, hiếu, thông, minh, kính, tắc, kiếm, học.

Hàn Tín hỏi tiếp:

– Còn dùng Tể Tướng kiếm phải có những đức nào?

Trương Lương đáp:

– Cũng phải có đủ tám đức mới đeo được.

Thế nào là tám đức tể tướng?

– Ðó là: Trung, chính, minh, biện, thứ, dong, khoan, hậu.

Hàn Tín hỏi:

– Còn như kiếm Nguyên Nhung cần phải có những đức gì?

Trương Lương đáp:

– Cũng phải đủ tám đức: Liêm, quả, trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, minh.

Hàn Tín lại hỏi:

– Tiên sinh đi bán kiếm mà hiểu thấu lẽ trời, quả là bậc anh tài. Song hai thanh kiếm kia Tiên sinh đã bán cho ai?

Trương Lương nói:

– Thanh Thiên Tử kiếm thì tôi đã bán cho ông Lưu Bang, người Phong Bái.

Hàn Tín kinh ngạc, hỏi:

– Tiên sinh xem tướng Lưu Bang như thế nào mà bán Thiên Tử kiếm?

Trương Lương thản nhiên đáp:

– Ông ấy là người khoan nhân đại độ, biết trọng dụng lương thần, biết nghe lời trung gián, không tham tài, không hiếu sắc, không bội nghĩa, không vong ân, thật là một người có đức, đáng làm Thiên tử. Trước đây, người ấy vì dân, chém bạch xà khởi nghĩa nơi núi Mang Ðãng, trừ nhà Tần tàn bạo, khiến thiên hạ mến phục. Ngay khi đó tôi đã hiến thanh kiếm cho ông ấy.

Hàn Tín hỏi:

– Còn thanh Tể tướng ngài đã trao cho ai?

– Tôi đã trao cho ông Tiêu Hà.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

– Người ấy có tài gì vậy?

Trương Lương gật gù nói:

– Thế, tướng quân cũng chưa biết cả ông Tiêu Hà nữa ư? Ông ta là người có tài thao lược, gồm đủ kinh luân, lại đầy đức khoan hồng, nhân nhượng, không lấy vũ lực làm trọng, chỉ lấy nhân nhu làm gốc, xem lúc ông ta theo Bái Công vào Hàm Dương, đem ba điều ước pháp truyền trong nhân dân, thì thật là tài Tể Tướng đă biểu lộ ra đó. Tôi dâng kiếm cho Tiêu Hà từ lúc ấy.

Hàn Tín nghe xong, mừng rỡ nóì:

– Tiên sinh bán kiếm cho Hán vương và Tiêu Hà thật xứng đáng. Nay thanh kiếm này Tiên sinh đem đến cho Tiểu tử, chỉ sợ rằng Tiểu tử không đủ tài đức Nguyên Nhung, phụ với lòng tin của Tiên sinh chăng?

Trương Lương nói:

– Cứ như tài đức và cái học vấn của tướng quân dấu Tôn Ngô đời xưa cũng không hơn được. Chỉ vì chưa gặp được minh quân. Tỷ như con Thiên lý mã ngày xưa, lúc chưa gặp được Bá Nhạc thì Thiên lý mã phải nhốt chung vào chuồng trâu, chịu nhục với đứa ăn, đứa ở. Khi Bá Nhạc biết được, đem về nuôi dưỡng, Thiên lý mã vó câu dong ruổi, nghìn dặm một giờ, ai nấy đều khen ngợi. Ấy vậy, Tướng quân bây giờ chẳng khác con Thiên lý mã chưa gặp Bá Nhạc. Nếu tướng quân gặp đặng minh quân, tài đức ấy sẽ làm khuynh thành, nghiêng quốc có khó chi.

Hàn Tín nghe Trương Lương động đến hào khí, bất giác thở dài, đứng dậy nói:

– Ða tạ Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh như soi vào buồng gan của kẻ thất thời này, khiến Tín tôi không thể cầm lòng được. Ðã lâu, tôi không thi thố được tài năng nào, mang danh là người tiểu tốt, mấy lần dâng biểu lên Bá vương, nhưng Bá vương không dùng. Nay Bá vương lại thiên đô về Bành Thành thì việc đời còn trông mong gì nữa? Chẳng bao lâu Tín tôi cũng trở về cố hương, tiêu dao ngày tháng cho nhàn thân.

Trương Lương nói:

– Ấy chết? Tướng quân nghĩ lầm rồi! Ðấng anh hùng nuôi chí, thua cuộc này bày cuộc khác, cớ sao lại tủi phận hờn duyên? Lấy cái học của tướng quân trong thiên hạ, thì thiếu gì nơi cá nước duyên ưa, có lẽ nào quay về làm một gã câu cá nơi xứ Hoài Âm nữa?

Hàn Tín nói:

– Thưa Tiên sinh, lời nói của Tiên sinh chẳng khác nào liều thuốc chữa cho người ốm! Tiên sinh lại đây cốt không phải bán gươm, mà e ý riêng gì đây. Thoạt trông dưới ánh trăng mờ, tôi đã hiểu, nhưng chưa dám nói. Tiên sinh có phải là Trương Tử Phòng, đang khuông phò Hán vương chăng?

Trương Lương vội vàng đứng dậy thủ lễ, và đáp:

– Tướng quân đã biết, Lương này đâu dám giấu.

Lâu nay nghe danh tướng quân, đem lòng ngưỡng vọng, nay mới hân hạnh được yết kiến!

Hàn Tín mừng rỡ, nắm tay Trương Lương nói:

– Thế thì trời xui Tiên sinh đến đây để giúp Tín tôi tìm nơi vin rồng cưỡi phụng, xin Tiên sinh vì Tín tôi chỉ bảo cho.

Trương Lương nói:

– Tôi xem các vua chư hầu, không ai bằng Hán vương, người ấy là bậc siêu nhân, có thế làm nên đại sự.

Nếu tướng quân muốn về Hán, tôi xin đưa cho một vật làm tin, vật này còn quý hơn viên ngọc Biện Hòa, và lạ hơn chén Ngọc đẩu nữa.

Hàn Tín hoan hỉ, tuân lời. Trương Lương thò vào túi rút ra bức thư đã viết sẵn, nói:

– Thư này, lúc đưa cho Hán vương vào Bao Trung, tôi có hứa sẽ đi cầu giúp người về làm Phá Sở Ðại nguyên soái lấy cái giốc thư này làm bằng. Nếu ai cầm giốc thư này đến tất được trọng dụng ngay. Xin tướng quân cẩn thận chớ để thất lạc.

Hàn Tín tiếp lấy, và nói:

– Cám ơn Tiên sinh tiến cử. Song Sạn đạo đã bị đốt, còn lối nào vào Bao Trung được nữa?

Trương Lương lại móc túi lấy ra bức họa đồ, giao cho Hàn Tín, và nói:

– Họa đồ này chỉ rõ đường ngang lối tắt, khe núi, chân đeo. Không cần đến Sạn đạo, muốn vào Bao Trung thì theo con đường nhỏ này đến ngã ba, rẽ vầo Trần Thương qua chân núi Cô Vân, vòng sang núi Kê Ðầu rồi cứ băng theo lối ấy đi độ hai trăm dặm nữa là tới nơi. Sau này tướng quân kéo binh ra bình định Tam Tần tất cũng phải dùng nẻo ấy. Con đường này bí mật lắm, ngay người Hán Trung cũng không ai biết. Thôi, tôi xin giã biệt tướng quân.

Hàn Tín ngạc nhiên hỏi:

– Tiên sinh định đâu? Không trở lo việc nước sao?

Trương Lương nói:

– Tôi còn đi dò xét tình hình xem nếu Bá vương dời đô về Bành Thành thì nhiệm vụ tôi còn phải đi du thuyết các chư hầu, khuyên họ bỏ Sở, phò Hán. Hễ chặt bớt được vây cánh của Sở, thì sau này tướng quân phá Sở mới dễ dàng.

Hàn Tín quyến luyến nói:

– Vậy thì mời Tiên sinh ở nán lại đây chơi với Tiểu tử ít hôm để xem cơ sự thế nào. Nay mai Tiểu tử cũng xin cử bộ.

Nhắc lại, Phạm Tăng từ lúc đến Bành Thành, vào yết kiến vua Nghĩa Ðế, và bắt buộc phải thiên đô.

Vua Nghĩa Ðế nói:

– Xưa nay vua ra lệnh cho bề tôi, có lẽ nào bề tôi lại bắt buộc vua. Ta lấy điều nghĩa, chiêu dụ chư hầu, bốn bề ngưỡng vọng, do đó, họ Hạng mới lập được công lớn. Trước khi vào Hàm Dương, ta có lời ước:

– Ai vào Quan Trung trước thì làm vua. Thế mà Hạng Vũ bội ước xưng vương, tự tiện phong chức cho chư hầu. Ðó là hành động khi quân, dẫm chân lên vết xe nhà Tần đã gãy đổ, cớ sao không biết thẹn?

Phạm Tăng tâu:

– Tâu Bệ hạ, thần khổ tâm can gián, nhưng Hạng vương nhất định không nghe. Nay lại sai Quý Bá đến Bành Thành kiến đô, thần vì mệnh chủ không thể không tuân.

Nghĩa Ðế nói:

– Ngươi là quân sư của Hạng Vũ, Hạng Vũ làm sai, lẽ ra phải liều chết can ngăn, sao lại phải tòng mệnh? Ngươi chỉ là đứa tiểu nhân, dua nịnh, không phải là kẻ đại thần lấy đạo thờ vua.

Phạm Tăng hổ thẹn, không dám nói nữa, bái lạy lui ra, rồi viết thư về báo cho Bá vương biết.

Bá vương tiếp được thư, nổi giận, hét:

– Hoài vương chẳng qua là đứa chăn dê, cắt cỏ nơi thôn dã, được ta đem về lập lên làm vua, tôn làm Nghĩa Ðế. Nay đã không biết ơn ta lại còn lên mặt vênh váo, ta phải trừ đi mới được.

Bèn đòi Cửu giang vương là Anh Bố, Hoành sơn vương là Ngô Nhuế, Lâm giang vương là Cung Ngao đến nói:

– Các ngươi đem mấy chiến thuyền vào sông Ðại Giang mai phục, cho người đến bắt vua Nghĩa Ðế phải thiên đô. Rồi đợi khi thuyền đến giữa sông, các ngươi giả cách làm nghiêng thuyền, nhận vua Nghĩa Ðế xuống sông và giết quách đi. Nếu có ai hỏi các ngươi nói: “Vua đi đến giữa sông gặp cơn phong ba chìm thuyền chết đuối”.

Ba người lãnh mệnh, thu xếp ra đi. Bá vương viết một phong thư dâng vua Nghĩa Ðế.

Thư như sau:

” Sở Bá vương Hạng Vũ cúi đầu dâng biểu: Tôi, trước phụng mệnh vào đánh nhà Tần, đến Hàm Dưong. Tử Anh chịu trói, giao cả sơn hà xã tắc. Chiến thắng của tôi đã đưa Bệ hạ lên địa vị Nghĩa Ðế, làm chủ thiên hạ. Nay nhận thấy đất Bành Thành chật hẹp, không phải chổ Ðế đô, còn Mân Châu (thuộc tỉnh Hồ Nam) bên tả có hồ Ðộng Ðình, bên hữu có hồ Bành Lãi, non xanh nước biếc, đáng làm chỗ để cho chư hầu tập trung đến chầu, vì vậy muốn thiên đô về đấy. Chẳng ngờ Bệ hạ lại nghe lời tiểu nhân không chìu theo ý. Thiết tưởng cơ nghiệp của Bệ hạ nhờ ai mà có, sao Bệ hạ không nghĩ. Tiếp được biểu này xin Bệ hạ ngự giá đi ngay, chớ nên chậm trễ “.

Vua Hoài vương xem biểu xong, nói với bá quan:

– Hạng Vũ không giữ ước tất lòng đã phản phúc, không kể tôi thần gì nữa. Nay viết biểu gởi lên, dùng lời bức bách nếu ta không liệu trước ắt mang tai vạ. Chi bằng chiều ý thiên đô cho xong.

Liền hạ lệnh cho bá quan chọn ngày khởi giá. Xa giá lên đường, dân chúng Bành Thành lũ lượt kéo đến bày hương án lạy đưa, tỏ lòng quyến luyến.

Vua Nghĩa Ðế thấy lòng dân như vậy cũng sa nước mắt, thở dài.

Một hôm, xa giá đến bờ sông, thuyền rồng đã sắp sẳn, vua bỏ đường bộ qua đường thủy, vưa đi đến giữa sông, bỗng có một con bạch ngư rất lớn, cản lại, sóng gió nổi lên dữ dội, thuyền không vượt lên được thủy thủ phải neo thuyền. Ðược một lúc, gió càng mạnh, thổi đứt phăng dây neo, thuyền dạt vào bãi.

Ðêm ấy, vua vừa chợp mắt, thấy năm sắc tường vân sa xuống măt nước, hương thơm ngào ngạt, tiếng nhạc vang rền, có hai vị Kim Ðồng, Ngọc Nữ từ trên không sa xuống, bước vào thuyền quỳ tâu:

– Chúng tôi vâng mệnh Ngọc Hoàng xuống rước Bệ hạ về Long cung tức vị. Hiện giờ bá quan đang chờ sẵn.

Hoài vương ngạc nhiên đáp:

– Không. Hôm nay trẫm thiên đô sang Mân Châu mà.

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

-Tâu Bệ hạ, vua Long cung phụng sắc mệnh Thượng đế, sửa sang cung điện, chờ đợi xe loan, xin Bệ hạ đi ngay cho.

Vua đáp:

– Long cung của Thủy Tề đâu phải côi trần gian? Ta làm sao ngự trị được?

Kim Ðồng, Ngọc Nữ tâu:

Thượng Ðế thương Bệ hạ là người có đức, lẽ ra cho làm Chúa trần gian, song vì hồng phúc của ông Xích Ðế lớn lắm, nên bắt Bệ hạ phải nhường ngôi ấy, xuống Long Cung giữ việc thủy phủ.

Hoài vương toan bước theo hai vị Thiên sứ, sực thấy nước lẫn với trời sóng gió ầm ầm, quang cảnh hỗn loạn, sợ hãi, giật mình thức dậy mới biết chiêm bao, liền gọi các quan hầu đến đoán mộng.

Có viên cận thần tâu:

– Ðã gặp cá đón đường, gió bạt thuyền trôi, bây giờ Bệ hạ lại chiêm bao như thế này thì không phải là điềm tốt.

Ngày mai xin Bệ hạ hồi loan rồi sẽ thương nghị.

Hoài vương nói:

– Xa giá đã khởi hành, đại tín đã truyền bá mà còn trở lại sao được! Vả lại số trời đã định, không thể tránh!

Hôm sau, Hoài vương thức dậy truyền tiến hành.

Long thuyền đến giữa dòng thấy ba chiếc thuyền của Anh Bố, Ngô Nhuế, Cung Ngao vùn vụt kéo đến, chiêng trống vang trời. Anh Bố đứng trước mũi thuyền nói lớn:

– Chúng tôi phụng mệnh Hạng vương đến đây nghênh giá. Bệ hạ có đồ kim phù, ngọc sách xin để lại đây.

Hoài vương nổi giận mắng:

– Ðồ bất nghĩa! Bây lại hùa theo Hạng Vũ làm phản à?

Bọn Anh Bố cầm gươm nhảy qua Long thuyền, chém chết vài thủy thủ. Người trong thuyền khiếp vía.

Hoài vương cả tiếng mắng:

– Thằng giặc Hạng Vũ kia. Mày bất nghĩa như thế còn trời nào dung tha mày.

Nói xong, trầm mình xuống Tràng giang tự vận.

Bao nhiêu người nấp sau thuyền đều bị bọn Anh Bố giết hết.

Sau Hồ Tăng có thơ rằng:

Ngọn cờ lơ láo glữa Tràng giang

Nước mất, thân chìm cảnh thảm thương

Chín suối khôn tan màu lửa hận

Vầng trăng lả tả ánh thê lương

Giết xong Hoài vương, bọn Anh Bố quay thuyền trở lại thấy nơi bờ sông dân chúng kéo đến đông như kiến, trỏ vào mặt mắng:

– Thằng Anh Bố kia? Mày nghe lời Hạng Vũ giết vua của thiên hạ, còn trời nào dung tha mày? Chúng ta vì vua Nghĩa Ðế nhất định báo thù.

Anh Bố tức giận truyền quân áp thuyền vào bờ, nhưng gặp gió ngược, nên thuyền đi chậm. Khi đến nơi dân chúng đã di tản hết rồi.