Chương 10: Thất tâm hải đường

Trình Linh Tố tắt cây nến, lẳng lặng bỏ vào bọc, không nói một lời.

Hồ Phỉ hỏi:

– Linh cô nương! Còn vị lệnh huynh là Mộ Dung Cảnh Nhạc thì tính sao đây?

Trinh Linh Tố chỉ “hứ” một tiếng chứ không trả lời. Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi nhưng Trình Linh Tố lại “hứ” chứ chẳng nói gì.

Hồ Phỉ khẽ hỏi:

– Sao? Trong lòng cô nương khó chịu lắm ư?

Trình Linh Tố buồn rầu đáp:

– Tiểu muội đã dặn dò mà đại ca chẳng để tâm một câu nào.

Hồ Phỉ sửng sốt, chợt nhớ lại nàng đã có ba điều giao ước mà mình không tuân thủ. Chàng tự nhủ:

– Cô dặn ta không được nói với ai mà ta chẳng những đã nói với họ lại còn khai cả họ tên ra. Cô dặn ta không được động võ thì ta đã đánh hai người. Cô bảo ta không được dời xa cô ba bước, mà ta, chậc, lại xa cô đến mười bước…

Hồ Phỉ càng nghĩ càng hối hận, chàng nói:

– Tại hạ thực có điều lầm lỗi. Vì thấy ba người kia hung dữ quá chỉ sợ họ làm tổn thương đến cô nương, trong lúc vội vã, tại hạ quên sạch những lời dặn dò.

Trình Linh Tố cười hích hích, thanh âm trở lại ôn hòa, cô nói:

– Thế ra đại ca hoàn toàn vì tiểu muội! Bản thân mình quên sạch sành sanh, lại đi đổ lỗi cho người khác thực khôn ngoan quá! Hồ đại ca, sao đại ca lại báo họ tên với người ta? Đôi vợ chồng nhà này thù dai lắm. Họ sẽ theo dõi đại ca như âm hồn bất tán, bám riết không tha. Ngoài sáng họ không đánh lại đại ca thì sẽ ngấm ngầm hạ độc. Họ có trăm phương nghìn kế xuất quỷ nhập thần, đại ca khó mà đề phòng cho xiết được.

Hồ Phỉ nghe cô nói không khỏi sởn da gà, biết rằng lời nói cô không phải là khoa trương cường điệu, nhưng chuyện đã lỡ rồi, có sợ hãi cũng vô ích.

Trình Linh Tố lại hỏi:

– Sao đại ca nói họ tên cho vợ chồng y biết?

Hồ Phỉ chỉ cười mát chứ không trả lời. Trình Linh Tố hỏi:

– Đại ca đánh hai người rồi sợ họ kiếm tiểu muội trả thù phải không? Đại ca muốn tự mình gánh hết trách nhiệm. Hồ đại ca, sao đại ca lại tốt với tiểu muội như vậy?

Hồ Phỉ đáp bằng giọng rất thành khẩn:

– Cô nương đã tử tế với tại hạ, giúp tại hạ tránh được nguy nan. Lấy tấm lòng đối đãi nhau dĩ nhiên tại hạ phải coi cô là hảo bằng hữu.

Trình Linh Tố rất cao hứng cười hỏi:

– Đại ca coi tiểu muội là hảo bằng hữu thực ư? Vậy tiểu muội hãy cứu mạng đại ca rồi hẵng nói.

Hồ Phỉ kinh hãi hỏi:

– Sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Bật lửa lên. Cái đèn lồng đâu rồi?

Cô cúi xuống tìm cái đèn lồng mà Tiết Thước còn bỏ lại, nhưng trời tối quá không tìm thấy. Chẳng hiểu mụ bỏ nó trong bụi cỏ nào.

Hồ Phỉ hỏi:

– Trong bọc cô hãy còn nửa khúc nến đó thôi?

Trình Linh Tố vừa cười vừa hỏi lại:

– Hồ đại ca có muốn bảo toàn tính mạng hay không? Cây nến đó là dùng chất “Thất tâm hải đường” chế ra đấy… à, à nó đây rồi!

Cô mò được cái đèn lồng trong bụi cỏ, quẹt lửa châm vào. Trong rừng tối một vầng ánh sáng vàng nhạt lập tức tỏa ra, bao phủ lấy hai người. Hồ Phỉ đã nghe vợ chồng Khương Thiết Sơn và Mộ Dung Cảnh Nhạc nhắc tới mấy lần bốn chữ “Thất tâm hải đường”, dường như đó là một độc vật cực kỳ lợi hại.

Dưới ánh đèn lồng, Mộ Dung Cảnh Nhạc vẫn nằm phủ phục dưới đất không nhúc nhích, tựa hồ một xác chết. Hồ Phỉ chợt tỉnh ngộ “à” lên một tiếng rồi nói:

– Nếu tại hạ không ra tay lỗ mãng thì vợ chồng Khương Thiết Sơn cũng bị cô nương chế phục rồi.

Trình Linh Tố mỉm cười đáp:

– Đại ca có một phần hảo tâm vì tiểu muội. Hồ đại ca, tiểu muội phải ghi nhớ món ân tình đó.

Hồ Phỉ nhìn cô vóc người nhỏ nhắn, gió thổi muốn bay thì trong lòng hổ thẹn, nghĩ thầm:

– Cô này còn nhỏ hơn ta mấy tuổi mà mưu kế sâu xa. Ta tự phụ thông minh thật là uổng, so với cô chưa được nửa phần.

Bây giờ chàng mới hiểu rõ đạo lý bên trong của vụ này. Cây nến của Trình Linh Tố làm bằng chất kịch độc, thắp lên rồi vẫn chẳng có mùi vị, lại không phun khói đặc, vì thế bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc ba người đều là những đại hành gia về sử độc cũng bị rơi vào bẫy mà không phát giác được. Nếu chàng không ra tay thì vợ chồng Khương Thiết Sơn còn phải ngửi phải độc khí ở cây nến thêm một ít nữa rồi cũng ngất đi. Nhưng lúc ấy hai người cùng giáp công Trình Linh Tố, ra tay tàn độc, e rằng chúng chưa ngất đi cô đã bị bại rồi.

Trình Linh Tố dường như đã đoán ra ý nghĩ của chàng, liền nói:

– Đại ca thử đụng đầu ngón tay vào vai áo tiểu muội coi.

Hồ Phỉ không hiểu cô có dụng ý gì, nhưng cũng khẽ đặt ngón tay trỏ lên vai cô. Đột nhiên chàng cảm thấy ngón tay như bị bỏng lửa, bất giác toàn thân giật bắn lên.

Trình Linh Tố thấy tình trạng chàng rất tội nghiệp, liền cười ngặt nghẽo một trận rồi nói:

– Vợ chồng y mà nắm lấy áo tiểu muội thì cũng được nếm mùi vị này.

Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ lên không, vẫy mấy lần đảo mấy vòng vẫn chưa hết đau, liền hỏi:

– Cái cô này! Trên áo cô bỏ thứ thuốc gì mà độc ghê gớm vậy?

Trình Linh Tố đáp:

– Đó là “Xích yết phấn”, song cũng chưa đáng kể vào đâu.

Hồ Phỉ giơ ngón tay trỏ soi gần vào đèn lồng thấy nổi lên những bọt nhỏ, bèn nghĩ thầm:

– Trong bóng tối may mà ta chưa chạm vào áo cô, không thì nguy to.

Trình Linh Tố nói:

– Hồ Đại ca! Đại ca đừng trách tiểu muội lừa đại ca vào bẫy. Tiểu muội muốn cho đại ca hay để lần sau có chạm trán mấy vị sư huynh sư tỷ này thì phải cẩn thận để phòng. Võ công của đại ca dĩ nhiên cao hơn bọn họ nhiều, nhưng đại ca thử nhìn lại bàn tay coi.

Hồ Phỉ xòe bàn tay xem, không thấy có gì khác lạ. Trình Linh Tố nói:

– Đại ca cứ đến gần lồng đèn mà xem cho kỹ.

Hồ Phỉ xòe bàn tay ra trước đèn lồng thấy có một lớp hắc khí ẩn, trong lòng kinh hãi, hỏi:

– Bọn… bọn họ đã luyện qua “Độc sa chưởng” rồi ư?

Trình Linh Tố bình thản đáp:

– Đã là đệ tử của Độc Thủ Dược Vương, thì lẽ nào lại không luyện “Độc sa chưởng”?

Hồ Phỉ “à” lên một tiếng rồi hỏi:

– Té ra tôn sư Vô Sân đại sư mới chính là Độc Thủ Dược Vương. Lão nhân gia qua đời rồi ư? Sao mấy vị sư huynh sư tỷ của cô nương lại vô tình bất nghĩa đến thế?

Trình Linh Tố khẽ buông tiếng thở dài. Cô bước tới cây đại thụ nhổ cành ngân châm cùng mũi Thấu cốt đinh và hai tờ huấn dụ của sư phụ cất vào áo. Bây giờ trên tờ dụ thứ nhất có ánh sáng, nét đã nhạt đi, không còn thấy gì, chỉ còn lộ hai hàng chữ đen “Trì danh bất cụ”.

Hồ Phỉ hỏi:

– Tờ giấy này có phải do cô nương viết ra hay không?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải! Đại sư huynh có nhiều thủ bút sao lục dược kinh ở nơi sư phụ, nên tiểu muội quen nét chữ của y lắm. Có điều mấy hàng chữ này tiểu muội chưa học đến nơi, nó chỉ giống về hình thức chứ chưa đạt về tinh thần. Thư pháp của y nổi tiếng là cứng cáp tuấn dật.

Hồ Phỉ tuy võ công cao cường, nhưng từ thuở nhỏ không ai dạy đọc sách, đối với những thứ thư pháp gì đó chàng chẳng hiểu chút gì, cho nên nghe cô nói vậy, chẳng tiếp thu được câu nào.

Trình Linh Tố lại nói:

– Trước nay sư phụ vẫn dùng loại nước phèn sa đã qua ba lần luyện để viết thủ dụ (lời huấn dụ viết trên giấy). Khi có ánh đèn soi vào mới nổi chữ lên. Tiểu muội dùng tủy xương hổ bôi đi một lượt, trong đêm tối nó mới phát ra ánh sáng lấp loáng. Đại ca hãy coi đây.

Cô tắt đèn đi, quả nhiên trên mặt giấy lấp loáng hiện ra bút tích của phụ trong tờ thủ dụ. Khi thắp đèn lồng lên, nét chữ sáng lại mất hết, chỉ còn lại hàng chữ ngắn ngủi của Trình Linh Tố. Hàng chữ này viết xen kẽ vào giữa hai hàng của tờ thủ dụ, vì thế mà trên cùng một tờ giấy, khi có ánh sáng thì ra những chữ của Trình Linh Tố, mà trong bóng tối lại hiện ra những lời thủ dụ.

Dù chẳng có gì ly kỳ bí kiểm, nhưng bọn Mộ Dung Cảnh Nhạc đang để hết tinh thần vào việc kịch đấu, đột nhiên nhìn thấy thủ dụ của sư phụ xuất hiện ở trên cây, làm sao không khỏi giật mình kinh hãi? Trình Linh Tố cầm cây nến đi ra, trong lúc nhất thời, bọn họ chỉ nghĩ tới pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại. Dù có thận trọng đến đâu, họ cũng không đề phòng cây nến ở trên tay cô tỏa ra hơi độc.

Những chuyện kỳ bí được phanh phui từng điều một khiến Hồ Phỉ tỉnh ngộ, trên mặt lộ vẻ vui mừng.

Trình Linh Tố cười hỏi:

– Đại ca đã trúng “Độc sa chưởng”, mà sao còn cao hứng như vậy?

Hồ Phỉ cười đáp:

– Cô nương đã hứa lời cứu mạng cho tại hạ. Có cao đồ của Dược Vương ở đây thì tại hạ còn lo gì nữa.

Trình Linh Tố nhoẻn miệng cười, đột nhiên cô thổi mạnh một hơi tắt đèn lồng, rồi đi tới bên cái giỏ. Chỉ nghe mấy tiếng lách cách khẽ vang lên, không hiểu cô bắt vật gì ở trong giỏ. Sau một lúc cô trở lại thắp đèn lồng lên. Trước mắt Hồ Phỉ sáng lòa. Chàng thấy cô đã đổi một bộ quần lam áo trắng.

Trình Linh Tố cười nói:

– Quần áo này không có độc phấn, đại ca khỏi hồi hộp. Chỉ sợ đại ca không cẩn thận chạm phải quần áo của tiểu muội.

Hồ Phỉ thở phào một cái nói:

– Việc gì cô nương cũng lo nghĩ rất chu đáo. Cái tuổi của tại hạ đúng là sống trên lưng chó, chỉ cần có được một phần trí thông minh của cô nương tưởng cũng đã hay lắm rồi.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội học cách dùng độc, suốt ngày phải suy nghĩ tính toán hạ độc cách nào cho người ta không phát giác, lại còn đề phòng người ta hạ độc ngược lại mình. Tiểu muội phải vắt nát óc để suy nghĩ những chuyện này, chậc, bì thế nào được với đại ca tâm trí thảnh thơi, thênh thang như trời cao biển rộng?

Cô nói rồi khẽ buông tiếng thở dài. Cô kéo tay mặt Hồ Phỉ, dùng cây ngân châm đâm một lỗ nhỏ trên từng ngón tay của chàng. Cô lại dùng hai ngón tay cái vuốt từ lòng bàn tay đến ngón tay chàng cho huyết dịch theo các lỗ nhỏ chảy ra, quả nhiên máu đã tím đen, cô châm kim rất vừa vặn bộ vị nên chàng chẳng thấy đau đớn chi hết. Ngón tay cô nặn máu rất nhẹ nhàng khéo léo. Chẳng bao lâu máu đổi thành màu hồng tươi.

Đúng lúc ấy, Mộ Dung Cảnh Nhạc đột nhiên cử động. Hồ Phỉ nói:

– Lão đã tỉnh lại rồi kìa!

Trình Linh Tố đáp:

– Chưa tỉnh nổi đâu, ít ra phải ba giờ nữa.

Hồ Phỉ nói:

– Vừa rồi tại hạ gánh lão đi thì lão như người chết nên tại hạ chẳng biết chi hết. Lão đã cứng đờ đúng như xác chết cứng đờ, còn tại hạ ngu ngốc đúng là thực sự ngu ngốc.

Trình Linh Tố mỉm cười đáp:

– Đại ca cứ mồm năm miệng mười bảo mình ngu ngốc, thì đúng là chẳng ngu ngốc tí nào.

Sau một lúc, Hồ Phỉ lại hỏi:

– Các vị đó nhắc lại cuốn “Dược Vương thần biên” gì đó, phải chăng là một pho sách thuốc?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải rồi! Gia sư đã hao phí tâm huyết một đời người mới làm ra được bộ sách này. Tiểu muội lấy cho đại ca coi!

Cô liền thò tay vào trong áo trước ngực lấy cái bọc nhỏ, mở tấm vải dầu bọc ngoài. Bên trong còn lần giấy dầu nữa rồi mới đến một cuốn sách giấy vàng dài sáu tấc, rộng bốn tấc. Trình Linh Tố dùng cây ngân châm để tật trang sách. Bên trong đầy những chữ viết theo lối tiểu khải to bằng đầu ruồi. Không cần nói cũng biết những trang sách này đều có chất kịch độc. Người nào không biết cứ sờ tay vào lật là lập tức trúng độc, hôn mê ngay.

Hồ Phỉ thấy cô đối với mình hết mực chân thành, cả những điều bí mật trọng đại cũng không giấu giếm, nên trong lòng rất hoan hỷ. Có điều nhìn thấy bộ độc kinh chàng không khỏi sởn da gà, dường như chàng hiểu rằng xem nhiều đôi mắt có thể bị trúng độc, bất giác đem lòng úy kỵ.

Trình Linh Tố lại gấp sách bọc cẩn thận cất vào áo rồi lấy ra một cái bình màu vàng, đổ một chút phấn xoa vào những lỗ kim châm trên ngón tay Hồ Phỉ. Cô nắm bóp đốt xương tay mấy cái, bột phấn liền theo lỗ kim châm thấm vào.

Hồ Phỉ cả mừng nói:

– Đại quốc thủ! Thần kỹ này suốt đời tại hạ chưa từng thấy qua.

Trình Linh Tố cười nói:

– Cái đó ăn thua gì? Nếu đại ca thấy gia sư mổ bụng người, tiếp cốt nối gân mới đáng gọi là thần kỹ.

Hồ Phỉ bỗng la lên:

– Phải rồi! Tôn sư tuy giỏi dùng độc nhưng chắc cũng giỏi trị bệnh cứu người, không thì tại sao người ta lại tôn là “Dược Vương”?

Trình Linh Tố lộ vẻ hân hoan đáp:

– Nếu sư phụ được nghe đại ca nói mấy câu này chắc lão nhân gia hoan hỷ lắm và sẽ bảo đại ca là thiếu niên tri kỷ. Hỡi ôi! Đáng tiếc lão nhân gia đã qua đời.

Cô nói tới đây bất giác vành mắt đỏ hoe.

Hồ Phỉ nói:

– Lệnh sư tỷ lưng còng bảo sư phụ có lòng thiên ái, chỉ thương yêu tiểu đồ đệ. Y nói thế không phải là quá đáng. Tại hạ nhận ra chỉ có một mình cô nương là thương nhớ đến sư phụ.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiên sư bình sinh thu nhận bốn đồ đệ, mà tối nay đại ca đã gặp hết. Mộ Dung Cảnh Nhạc là đại sư huynh. Khương Thiết Sơn là nhị sư huynh. Tiết Thước là tam sư tỷ. Sư phụ định không thu nhận thêm đồ đệ nữa, nhưng thấy ba vị sư huynh sư tỷ làm nhiều chuyện sai quấy, lão nhân gia sợ sau khi người trăm tuổi, không ai kiềm chế được ba người này để họ mặc sức làm càn, gây chuyện hại người không ít, nên lúc lão nhân gia tuổi già lại thu tiểu muội làm ấu đồ.

Cô dừng lại một chút rồi tiếp:

– Bản tính của ba vị sư huynh sư tỷ nguyên trước không đến nỗi tệ hại. Chỉ vì tam sư tỷ thành hôn với nhị sư huynh rồi, mà đại sư ca kết mối thâm thù. Ba người chẳng ai chịu nhường ai, về sau càng đi đến chỗ không sao vãn hồi được nữa.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Có phải đại sư huynh của cô nương cũng muốn lấy tam sư tỷ không?

Trình Linh Tố đáp:

– Những việc xảy ra lâu rồi, tiểu muội không nhớ rõ. Chỉ biết đại sư ca đã có sư tẩu, tam sư tỷ lại yêu mến đại sư ca nên liền đánh thuốc độc cho sư tẩu chết đi.

Hồ Phỉ “ủa” một tiếng, cảm thấy học công phu dùng độc lợi ít mà hại nhiều, tự nhiên người tử tế biến thành người tàn nhẫn.

Lại nghe Trình Linh Tố nói tiếp:

– Đại sư ca tức quá, cho tam sư tỷ uống thứ độc dược thành lưng gù, chân què. Nhị sư ca ngấm ngầm thương yêu tam sư tỷ, tuy mụ đã thành tàn phế, y cũng không đem lòng rẻ rúng mà kết hôn với mụ. Không hiểu tại sao sau khi hai người thành hôn, đại sư ca lại nhớ đến những điểm tốt của tam sư tỷ nên đâm ra quấn quít với mụ. Gia sư bị ba người làm cho phiền não, nhưng có giáo huấn cách nào đi nữa, ba người vẫn lằng nhằng mắc mứu mãi không sao gỡ ra được. Nhị sư ca là người tương đối chính phái, đối với vợ con chung thủy một lòng. Hai người đến bên hồ Động Đình dùng sắt đúc một tòa Dược Vương trang. Ngoài trang còn trồng thứ “Huyết nụy lật” để đề phòng đại sư ca gây rắc rối. Về sau vợ chồng y gây nhiều thù oán trên chốn giang hồ, tòa Dược Vương trang lại biến thành nơi ẩn lánh của họ.

Hồ Phỉ gật đầu nói:

– Té ra là thế. Thảo nào trên chốn giang hồ người ta đồn đại về Độc Thủ Dược Vương mỗi người một khác. Người thì bảo Dược Vương là lão nho sinh, kẻ lại nói Dược Vương là đại hán thô hào, có người bảo là một mụ đàn bà lưng gù, lại còn có người nói là một lão hòa thượng.

Trình Linh Tố đáp:

– Độc Thủ Dược Vương chân chính thực ra không phải là ai trong số những người đó cả. Gia sư vốn không thích cách xưng hô này. Lão nhân gia bảo “Ta sử dụng độc vật là để trị bệnh cứu người. Ai gọi ta là “Dược Vương”, ta lấy làm hổ thẹn không dám nhận. Bên trên thêm hai chữ “Độc Thủ” thì hóa ra lão hòa thượng Vô Sân này có thể tùy tiện giết người hay sao?”. Vì gia sư nổi danh sử  dụng độc vật, mà ba vị sư huynh sư tỷ lại lạm dụng quá mức, có khi hại lắm người tử tế nên bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương” đồn đại vang dội trên chốn giang hồ. Gia sư không cho ba vị sư huynh sư tỷ tiết lộ họ tên cùng lai lịch của người. Do đó, ở đâu có xảy ra vụ án mạng hạ độc ly kỳ, người ta cũng đổ lên đầu bốn chữ “Độc Thủ Dược Vương”. Đại ca bảo có oan uổng hay không?

Hồ Phỉ hỏi:

– Lẽ ra tôn sư nên ra mặt biện minh cho thiên hạ biết!

Trình Linh Tố thở dài đáp:

– Vụ này biện minh hay không cũng…

Cô nói tới đây thì đã nắn bóp và buộc thuốc xong cho năm ngón tay Hồ Phỉ. Cô đứng dậy nói tiếp:

– Đêm nay chúng ta còn lại hai việc khẩn yếu phải làm. Nếu không…

Đột nhiên cô ngưng nói miệng tủm tỉm cười.

Hồ Phỉ nói theo:

– Nếu tại hạ không làm trái lời cô nương thì hai việc này dễ dàng quá rồi, nhưng hiện giờ không khỏi tốn công rất nhiều.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Đại ca biết vậy là hay. Chúng ta đi thôi.

Hồ Phỉ trỏ vào Mộ Dung Cảnh Nhạc nằm dưới đất hỏi:

– Lại mời ông bạn này vào giỏ hay sao?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Xin phiền đại ca.

Hồ Phỉ liền xách Mộ Dung Cảnh Nhạc bỏ vào trong giỏ, quảy trên vai gánh đi. Trình Linh Tố đi trước dẫn đường tiến về phía tây nam. Đi chừng ba dặm thì đến trước căn nhà nhỏ. Cô cất tiếng gọi:

– Vương đại thúc! Đi thôi!

Một hán tử toàn thân đen sì quảy gánh, mở cửa bước ra. Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Lại thêm một chuyện kỳ quái nữa đây.

Nhưng chàng đã kịp rút kinh nghiệm không dám hỏi nhiều, cứ cắm cúi theo sau Trình Linh Tố không dời xa cô ba bước. Trình Linh Tố quay lại mỉm cười tỏ ý khen ngợi. Hán tử kia theo sau hai người không nói nửa lời. Trình Linh Tố quay về phía bắc. Hết canh tư thì ba người tới ngoài Dược Vương trang.

Cô lấy trong giỏ ra ba bó hoa lam lớn, chia cho Hồ Phỉ và hán tử mỗi người một bó. Ba người vượt qua hàng cây Huyết nụy lật, đến gần tòa nhà tròn bằng sắt đúc. Trình Linh Tố cất tiếng hỏi:

– Nhị sư ca! Tam sư tỷ! Có mở cửa cho không?

Cô hỏi ba câu vẫn không thấy trong tòa nhà có phản ứng gì, liền nhìn hán tử gật đầu. Hán tử đặt gánh xuống. Một đầu đòn gánh là cái bễ thợ rèn. Hán tử thổi bễ đốt than đỏ, để làm cho thép chảy ra. Đúng là một gã thợ rèn. Hồ Phỉ trông thấy lấy làm kỳ quái.

Chỉ trong khoảnh khắc, hán tử đã nung sắt chảy ra nước rồi sờ kẽ nứt trên nóc nhà sắt mà rưới vào. Té ra đây là cửa sổ thông gió, bây giờ đã bị gắn kín lại. Khương Thiết Sơn, Tiết Thước tuy ở trong nhà nhưng úy kỵ Trình Linh Tố nên không dám ra ngăn cản.

Trình Linh Tố thấy những kẽ hở trong tòa nhà sắt mười phần đã bịt kín đến tám, chín. Người trong nhà chẳng còn cách nào đột phá vòng vây để ra được nữa. Cô liền nhìn Hồ Phỉ vẫy tay. Hai người vượt qua đầu cây Huyết nụy lật, rồi tiến về phía tây bắc mấy chục trượng, chỉ thấy toàn những tảng đá lớn nằm ngổn ngang trên mặt đất.

Trình Linh Tố vừa cất bước vừa đếm. Cô đi về phía bắc mấy bước lại qua hướng tây mấy bước rồi nói khẽ:

– Đây rồi!

Cô thắp đèn lồng lên soi thì thấy giữa hai tảng đá có một cái huyệt động lớn bằng miệng bát. Trên động lại có một tảng đá gác lên. Trình Linh Tố khẽ nói:

– Đây là lỗ thông hơi của họ.

Cô thắp nửa cây nến còn lại, đặt ở cửa động rồi cùng Hồ Phỉ lùi ra xa đứng trông. Cây nến được thắp lên rồi, những tỉa khói nhẹ mầu nhạt theo làn gió hiu hiu lan tỏa vào trong động. Hồ Phỉ nhìn tình trạng này đem lòng kính sợ thủ đoạn của Trình Linh Tố. Chàng nghĩ bụng không hiểu những người trong nhà sắt hít phải khói độc này liệu còn sống được chăng, bất giác không khỏi nảy lòng lân mẫn.

Chàng tự nhủ:

– Làn khói nhẹ này khó mà phát giác được, dù cho kịp thời phát giác thì lỗ thông hơi đã bị bít rồi, sẽ bị nghẹt thở mà chết, chỉ khác nhau ở chỗ chết mau hay chết chậm mà thôi. Chẳng lẽ ta nhìn thấy hành động tàn độc tuyệt diệt toàn gia mà không ra tay ngăn cản?

Lại thấy Trình Linh Tố cầm cái quạt nhỏ khẽ quạt cho làn khói nhẹ theo khe hở bay cả vào trong huyệt động. Hồ Phỉ không nhịn được nữa đứng phắt dậy hỏi:

– Linh cô nương! Giữa sư huynh sư tỷ và cô có mối thù không cởi được hay sao?

Trình Linh Tố đáp:

– Không có đâu.

Hồ Phỉ lại hỏi:

– Phải chăng lệnh sư để di mệnh sai cô nương thanh lý môn hộ?

Trình Linh Tố đáp:

– Hiện giờ chưa tới mức này.

Hồ Phỉ ngập ngừng:

– Thế thì… thế thì…

Trong lòng quá xúc động, chàng không biết hỏi sao nên nhất thời không thốt ra được lời nào.

Trình Linh Tố quay đầu lại hờ hững hỏi:

– Chuyện gì vậy? Sao đại ca có vẻ cấp bách như thế?

Hồ Phỉ định thần lại đáp:

– Nếu lệnh sư ca, sư tỷ… chưa đến mức phạm tội đại ác không giết không được, thiết tưởng cô nương cũng nên mở cho họ một con đường để họ cải ác tòng thiện.

Trình Linh Tố nói:

– Phải rồi! Gia sư cũng bảo vậy.

Cô dừng lại một chút rồi tiếp:

– Đáng tiếc đại ca chưa gặp được gia sư, không thì một già một trẻ nhất định ý hợp tâm đầu.

Miệng cô nói mà tay vẫn không ngớt quạt khói.

Hồ Phỉ gãi đầu, trỏ vào cây nến, ngập ngừng hỏi:

– Khói độc này… khói độc này có làm chết người không?

Trình Linh Tố đáp:

– Ủa! Té ra Hồ đại ca của chúng ta phát tâm đại từ bi. Tiểu muội đang muốn cứu mạng người chứ không phải làm việc thương thiên hại lý.

Cô nói rồi quay lại nhoẻn miệng cười, vẻ mặt rất yêu kiều khả ái. Hồ Phỉ đỏ mặt lên, tự thẹn vì mình lại làm thêm một trò ngu ngốc. Tuy chàng không hiểu tại sao quạt khói độc vào lại là cứu người, nhưng trong lòng chàng cũng cảm thấy cực kỳ khoan khoái.

Trình Linh Tố đưa ngón út ra, dùng móng tay khắc vào cây nến một vết, rồi bảo Hồ Phỉ:

– Đại ca coi chừng giùm đừng để gió thối tắt cây nến. Khi nào cháy tới đường vạch là thổi tắt nến đi.

Cô đưa cây quạt cho Hồ Phỉ, đứng lên quan sát bốn mặt lắng nghe động tĩnh. Hồ Phỉ bắt chước theo cô, khẽ quạt khói vào huyệt động, Trình Linh Tố đi quanh một vòng ở ngoài xa hơn mười trượng không thấy có gì khác lạ. Cô ngồi xuống một tảng đá tròn, nói:

– Người dẫn chó sói đến xéo nát vườn hoa của tiểu muội đêm ấy là con trai của nhị sư ca tên là Tiểu Thiết.

Hồ Phỉ “ủa” lên một tiếng hỏi:

– Gã cũng ở dưới này ư?

Chàng vừa nói vừa trỏ vào lỗ thông hơi trong kẽ đá.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Phải rồi! Chúng ta phải phí công phu mới cứu gã được. Trước hết làm cho sư ca sư tỷ ngất đi thì hành động mới không vướng bận chân tay.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng bụng bảo dạ:

– Té ra là thế.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Nhị sư ca và tam sư tỷ có một kẻ đối đầu họ Mạnh. Hắn đến Động Đình hồ đã nửa năm, kiệt tận tâm cơ mà không sao giải được chất độc ở cây Huyết nụy lật, nên không đánh vào được Dược Vương trang. Hai kẻ chết bên bờ Động Đình hồ, mười phần hết chín là người của Mạnh gia. Giống hoa lam do tiểu muội trồng là một thứ khắc tinh của Huyết nụy lật. Vợ chồng nhị sư ca vẫn không hay biết gì hết. Mãi đến lúc đại ca cùng Chung nhị gia cài hoa lam tiến vào mà không sợ chất độc, y mới kinh hãi mà phát giác ra.

Hồ Phỉ chợt nhớ điều gì nói:

– Phải rồi! Tại hạ cùng Chung nhị ca lúc tới nơi đây, văng vẳng nghe trong nhà sắt có tiếng người la hoảng chắc là vì thế.

Trình Linh Tố gật đầu đáp:

– Độc tính của giống Huyết nụy lật không có thuốc nào giải được, chỉ người nào thường ăn những hạt dẻ mới không bị chất độc ở cây dẻ xâm hại. May mà giống Huyết nụy lật tuy độc nhưng khó lòng hại được người và súc vật, vì lẽ nơi nào chỉ cần có một cây đã mọc lớn là trong vòng mười bộ cây cỏ không mọc được, sâu kiến cũng tuyệt tích, hễ nhìn là biết ngay.

Hồ Phỉ nói:

– Thảo nào xung quanh Dược Vương trang này không có lấy một tấc cỏ. Tại hạ đã bịt mõm hai con ngựa rồi mà cũng không tránh được chất độc. Nếu tại hạ không được cô nương tặng hoa lam…

Chàng nói tới đây lại nhớ đến những chuyện xảy ra không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ:

– Chả trách trên chốn giang hồ mỗi khi nhắc tới Độc Thủ Dược Vương ai cũng biến sắc. Chung nhị ca hết sức đề phòng chẳng phải là không có nguyên nhân.

Trình Linh Tố nói tiếp:

– Hoa lam của tiểu muội là một thứ giải dược được trồng thử, may mà đại ca không rẻ rúng, giữa đường không vứt đi.

Hồ Phỉ mỉm cười đáp:

– Thứ hoa này rất đẹp, trông rất thích mắt.

Trình Linh Tố nói:

– May mà hoa đẹp, nếu nó không đẹp chắc đại ca đã vất đi rồi, phải không?

Hồ Phỉ nhất thời không biết đáp thế nào, cứ ấp úng:

– Cái đó… cái đó…

Chàng nghĩ thầm:

– Giả tỷ đóa hoa lam đó mà xấu xí thì chưa chắc mình đã cất vào trong bọc? Phải chăng vì nhờ bông hoa xinh đẹp mới cứu được tính mạng mình và Chung nhị ca?

Ngay lúc đó, một trận gió thổi tới, Hồ Phỉ mải suy nghĩ, không đưa quạt ra che gió, ngọn nến chập chờn rồi tắt ngay. Chàng hốt hoảng khẽ la “Úi dà!” rồi vội móc hỏa tập toan quẹt lên thắp nến, bỗng nghe Trình Linh Tố ở trong bóng tối lên tiếng:

– Thôi được! Ngần đó cũng tạm đủ rồi.

Hồ Phỉ nghe giọng nói của cô có ý không vừa lòng, chàng tự trách: Cô bảo ta làm việc gì ta cũng không làm cho ra hồn, tựa hồ nước đổ đầu vịt.

Chàng cảm thấy áy náy bèn nói:

-Tại hạ thành thực xin lỗi. Chẳng hiểu tại sao đêm nay tại hạ cứ như người mất hồn.

Trình Linh Tố lẳng lặng không nói gì. Hồ Phỉ lại nói:

– Tại hạ đang nghĩ tới câu nói của cô, không ngờ lại có cơn gió đột ngột thổi đến. Linh cô nương, lúc cô cho hai bông hoa lam, tại hạ hoàn toàn không biết đó là vật cứu mạng, nhưng đã là vật mà người ta có lòng tốt tặng cho, dĩ nhiên mình phải trân trọng giữ gìn.

Trình Linh Tố nghe Hồ Phỉ nói giọng rất thành khẩn, bèn “à” một tiếng rồi không nói gì.

Trong bóng tối hai người ngồi đối diện một lúc. Hồ Phỉ lại lên tiếng:

– Tại hạ mồ côi cha mẹ ngay từ thuở nhỏ, hiếm khi được ai cho cái gì.

Trình Linh Tố đáp:

– Phải rồi! Tiểu muội cũng không có gia gia má má từ thuở nhỏ, chẳng phải vẫn sống được đến ngày nay đấy ư?

Nói xong, cô lại thắp đèn lồng lên rồi nói:

– Đi thôi!

Hồ Phỉ liếc mắt nhìn trộm thấy dường như cô không có ý tức giận, chàng không dám hỏi nữa, cứ việc lẽo đẽo theo sau. Hai người quay về đến trước nhà sắt, thấy gã thợ rèn ngồi dưới đất đang hút thuốc lá. Trình Linh Tố nói:

– Vương đại thúc! Phiền đại thúc đục những kẽ hở ra.

Những chỗ nàng chỉ đều là những chỗ lúc nãy nàng bảo gã thợ rèn bịt lại. Gã thợ rèn không hỏi gì cả, lấy búa và đục sắt đập choang choảng. Trong khoảng thời gian chừng ăn chưa xong một bữa cơm, hắn đã đục xong kẻ hở. Trình Linh Tố bảo hắn:

– Mở ra đi!

Người thợ rèn dùng búa sắt đục bên này mấy cái, bên kia mấy cái rồi lật ngược cái búa lại, dùng cán búa nạy lên. “Choang” một tiếng. Một tấm cửa sắt lớn rớt xuống để lộ cái cửa cao sáu thước rộng ba thước. Gã vươn tay đến mép cửa kéo ra một cái thang sắt nhỏ từ trên cửa thông vào bên trong. Trình Linh Tố nói:

– Chúng ta bỏ hoa lam ở bên ngoài.

Ba người cùng cầm các bó hoa lam bỏ xuống đất. Trình Linh Tố khoa chân toan theo thang sắt đi xuống, bỗng cô hít nhẹ một hơi rồi hỏi:

– Hồ đại ca! Sao trong mình đại ca còn hoa lam? Đừng đem vào trong nữa.

Hồ Phỉ “ồ” một tiếng rồi móc trong bọc ra cái túi vải. Chàng vừa mở túi vừa nói:

– Mũi cô nương thính quá. Tại hạ để hoa trong bọc mà cô còn ngửi thấy.

Trong bọc vải đựng cả “Quyền kinh đao phổ” cùng những đồ vặt vãnh. Đóa hoa lam Trình Linh Tố cho chàng bỏ vào đây hằng nửa ngày, bây giờ đã héo khô. Hồ Phỉ lấy ra đặt cả xuống tấm cửa sắt.

Trình Linh Tố thấy chàng cất bông hoa trịnh trọng, biết những lời chàng vừa nói không phải là giả trá, trong lòng rất đỗi hoan hỷ, nhìn chàng nhoẻn miệng cười đáp:

– Đại ca quả không lừa gạt ai!

Hồ Phỉ ngơ ngác nghĩ bụng:

– Ta lừa gạt cô mà làm gì?

Trình Linh Tố trỏ vào tấm cửa của ngôi nhà sắt, nói:

– Người trong tòa nhà này ngày thường ăn Huyết nụy lật quen rồi. Hoa lam là khắc tinh khiến họ chịu không nổi.

Cô cầm đèn lồng tiến vào trong nhà. Hồ Phỉ cùng Vương Thiết Tượng cũng đi theo. Đi hết cây thang sắt thì đến một thông đạo hẹp, lại chuyển qua hai khúc quanh nữa thì tới một tòa tiểu sảnh đường. Trên tường treo những bức thư họa cùng câu đối. Bàn ghế trong nhà bằng trúc Tương Phi. Cách bài trí rất trang nhã.

Hồ Phỉ nghĩ bụng:

– Khương Thiết Sơn tướng mạo thô lỗ mà ở căn nhà như của một vị tú tài.

Trình Linh Tố chân không dừng bước đi thẳng vào phía sau. Hồ Phỉ theo cô vào đến căn phòng giống như nhà bếp. Cảnh tượng trước mắt khiến chàng giật mình kinh hãi: Khương Thiết Sơn và Tiết Thước nằm lăn dưới đất, không hiểu còn sống hay đã chết rồi. Lúc quạt khói ngọn nến chế bằng “Thất tâm hải đường” để khói bay vào chàng đã tiên liệu nhất định xảy ra tình trạng này nên chẳng lấy chi làm lạ. Lạ ở chỗ có một thanh niên ngồi ở trong chảo đầy nước nóng. Gã này thân thể lõa lồ, mà hơi nước trong chảo lại bốc lên nghi ngút, dù nước chưa sôi nhưng cũng nóng lắm, không chừng gã đã chết rồi.

Hồ Phỉ cất bước lại gần toan kéo thanh niên ra khỏi chảo nước thì Trình Linh Tố la lên:

– Đừng động vào gã! Đại ca xem thử… xem thử người gã còn có áo quần không đã?

Hồ Phỉ thò đầu nhìn vào trong chảo đáp:

– Y chỉ mặc một cái quần đùi.

Trình Linh Tố hơi đỏ mặt lên, cô gật đầu tiến lại gần sờ mũi gã, rồi nói:

– Đại ca cho thêm củi vào bếp!

Hồ Phỉ giật bắn người lên, nhìn lại thanh niên kia, nhận ra gã chính là kẻ đã dẫn bầy sói đến xéo nát vườn hoa lam. Đôi mắt gã nhắm nghiền, miệng há hốc ra, bộ ngực tráng kiện hãy còn thoi thóp. Quả nhiên gã chưa chết nhưng đã ngất đi không biết gì nữa. Chàng hỏi:

– Phải chăng y là Tiểu Thiết, con của hai người này?

Trình Linh Tố đáp:

– Phải, tệ sư ca và sư tỷ muốn trục độc khí ra khỏi người gã nhưng không có phấn hoa “Thất tâm hải đường” thì không trị được.

Bây giờ Hồ Phỉ mới yên lòng. Chàng thấy lửa trong bếp cháy yếu, liền chất thêm củi, nhưng vẫn sợ nước nóng quá, Tiểu Thiết không chịu nổi nên không dám cho nhiều. Trình Linh Tố cười nói:

– Cho thêm ít củi nữa, đun không kỹ, hầm thịt không chín được.

Hồ Phỉ theo lời lại bỏ mấy thanh củi nữa vào bếp. Trình Linh Tố thò tay vào trong chảo để coi nước nóng lạnh thế nào. Cô lấy trong bọc ra một bình thuốc nhỏ đổ chút phấn vàng ra bôi vào mũi Khương Thiết Sơn và Tiết Thước. Sau một lúc, hai người hắt hơi mấy cái rồi mở bừng mắt ra thấy Trình Linh Tố tay cầm gáo, múc nước nóng trong chảo đổ ra ngoài, rồi lại múc nước lạnh trong lu đổ vào chảo.

Hai vợ chồng Khương Thiết Sơn đưa mắt nhìn nhau. Ban đầu khi vừa tỉnh lại, hai người vừa kinh hãi vừa tức giận, nhưng sau lộ vẻ vui mừng biết rằng Trình Linh Tố đã ra tay giải cứu thì đứa con độc nhất của họ có thể thoát chết.

Hai người lẳng lặng đứng lên, không nói gì mà trong lòng nổi lên nhiều ý nghĩ khôn tả:

– Đứa con yêu của mình rõ ràng đã trúng phải độc thủ của y, bây giờ y lại đến giải cứu. Tạ ơn y là không đáng, nhưng nếu y không giải cứu thì con mình không sống được. Hơn nữa y chẳng qua chỉ là tiểu sư muội, còn nhỏ tuổi hơn cả thằng con mình. Ai ngờ sư phụ lòng dạ riêng tây, truyền thụ cho y một bản lĩnh cao thâm hơn vợ chồng mình. Cả một đêm bị y kiềm chế như người bị cột trói chân tay, không còn đất để trả đũa.

Trình Linh Tố thấy nước bốc hơi nhiều, lại lấy gáo múc nước nóng ra cho nước lạnh vào, để trục hết khí độc trong người Tiểu Thiết ra.

Trình Linh Tố đột nhiên nhìn lão thợ rèn họ Vương, nói:

– Nếu không động thủ thì không trả được thù.

Vương thợ rèn “vâng” một tiếng lượm một thanh củi nhằm đầu Khương Thiết Sơn bửa xuống.

Khương Thiết Sơn cả giận quát:

– Ngươi làm gì thế?

Hắn nắm lấy thanh củi toan đánh trả. Tiết Thước vội la lên:

– Thiết Sơn! Bữa nay chúng ta phải cầu cạnh sư muội mà không chịu nổi mấy đòn ư?

Khương Thiết Sơn thộn mặt ra, tức giận quát:

– Được!

Hắn buông tay ra. Vương thợ rèn cầm thanh củi đánh xuống. Khương Thiết sơn không né tránh cũng không đỡ gạt, lại nghênh đâu lên cho hắn đánh mạnh hơn.

Vương thợ rèn thóa mạ:

– Ngươi chiếm đoạt ruộng đất của lão gia, ép buộc lão gia phải đúc tòa nhà sắt này, lại còn đánh lão gia gãy ba rẽ xương sườn, phải nằm liệt giường hàng nửa năm. Quân chó đẻ kia, không ngờ lại có ngày nay!

Hắn thóa mạ một câu lại cầm thanh củi quật mạnh một cái. Hắn làm thợ rèn nện sắt đã gần mười năm. Tuy không hiểu võ công nhưng cánh tay hắn sức lực cực kỳ mãnh liệt, nên vừa quật một cái thanh củi cứng đã gãy đôi. Khương Thiết Sơn thủy chung không trả đòn, nghiến răng chịu đựng.

Hồ Phỉ nghe tên thợ rèn họ Vương thóa mạ biết là hắn đã bị vợ chồng Khương Thiết Sơn áp bức khổ sở. Bữa nay Trình Linh Tố xử đạo công bằng cho hắn trút hận. Đây là một hành động khiến lòng người khoan khoái.

Vương thợ rèn đánh gãy ba thanh củi, thấy Khương Thiết Sơn máu me đầy mặt, vẫn nghiến răng chịu đựng không rên một tiếng. Gã vốn là người lương thiện, nay thấy vậy đã hả được cơn giận. Tuy ngày trước bị cha con họ Khương đánh đập thê thảm hơn thế này nhiều, nhưng gã thấy trả đòn như vậy là đủ. Gã ném thanh củi đi, quay sang nhìn Trình Linh Tố chắp tay nói:

– Trình cô nương! Bữa nay cô nương giúp tại hạ trút được nỗi hận, ơn đức này tiểu nhân khó lòng báo đáp.

Trình Linh Tố đáp:

– Đại thúc bất tất phải đa lễ.

Cô quay lại hỏi Tiết Thước:

– Tam sư tỷ! Các vị trả lại ruộng đất cho Vương đại thúc, xin nể mặt tiểu muội mà đừng kiếm y để báo thù có được không?

Tiết Thước cất giọng trầm trầm đáp:

– Bọn ta vĩnh viễn không đặt chân vào tỉnh Hồ Nam nữa. Vả lại, hạng người này không đáng cho bọn ta phải để bụng làm gì.

Trình Linh Tố nói:

– Hay lắm! Vậy xin cứ thế. Vương đại thúc! Cứ về trước đi, ở đây không còn việc gì cho đại thúc nữa đâu.

Vương thợ rèn vẻ mặt hả hê, gã lượm nửa thanh củi gãy ở dưới đất lên, nghĩ bụng:

– Tên ác bá này ngày trước hành hạ lão gia rất thảm khốc. Nay lão gia giữ lại nửa thanh củi gãy này để làm vật kỷ niệm.

Gã nhìn Hồ Phỉ thi lễ rồi quay gót. Hồ Phỉ thấy gã vẻ mặt thuần hậu giống như một đứa trẻ con, chợt động tâm nhớ tới tấn thảm kịch ở miếu Bắc Đế trấn Phật Sơn. Ngày đó tên ác bá Phụng Thiên Nam bị chàng kiềm chế nên để mặc cho Chung A Tứ chửi mắng chứ không dám mở miệng nói một lời, thế mà chàng chỉ rời trong khoảng thời gian ngắn, cả nhà Chung A Tứ đã phải phơi thây giữa điện thờ. Nay vợ chồng Khương Thiết Sơn hung ác không kém gì Phụng Thiên Nam, bọn chúng vị tất đã giữ lời, chỉ e rằng khi Trình Linh Tố vừa đi khỏi là chúng lập tức hạ độc thủ với gã thợ rèn họ Vương.

Hồ Phỉ nghĩ đến đó, liền chạy ra cửa, gọi lớn:

– Vương đại thúc! Tại hạ có lời muốn nói.

Vương thợ rèn dừng bước quay lại nhìn chàng. Hồ Phỉ nói:

– Vương đại thúc! Vợ chồng họ Khương không phải là hạng người tử tế. Đại thúc nên bán gấp cửa nhà, ruộng đất mà đi cho xa, đừng chần chờ ở đây nữa. Thủ đoạn của bọn chúng rất tàn độc.

Vương thợ rèn ngẩn người ra, vì gã thấy quyến luyến chốn làng mạc mà gã đã ở gần chục năm. Gã hỏi:

– Bọn họ đã hứa lời vĩnh viễn không bước chân đến địa giới tỉnh Hồ Nam nữa kia mà?

Hồ Phỉ hỏi lại:

– Lời hứa của hạng người này mà tin được ư?

Vương thợ rèn tỉnh ngộ, đáp luôn miệng:

– Phải! Phải! Sáng mai tại hạ đi ngay!

Gã bước chân ra cửa còn quay lại hỏi:

– Thiếu hiệp quý tính là gì?

Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ họ Hồ.

Vương thợ rèn nói:

– Hay lắm! Hồ gia! Chúng ta có ngày tái ngộ. Hồ gia nên đối xử hết dạ với Trình cô nương.

Bây giờ đến lượt Hồ Phỉ sửng sốt. Chàng hỏi:

– Đại thúc bảo sao?

Vương thợ rèn cười ha hả đáp:

– Hồ gia, Vương thợ rèn này có ngu ngốc đâu, chẳng lẽ không thấy gì ư? Trình cô nương người đã thông minh, lòng dạ lại tử tế. Cái đó khỏi cần phải nói. Người ta đối với Hồ gia bằng cả tấm chân tình, vậy Hồ gia cũng nên nghe lời cô.

Dứt lời y lại nổi lên tràng cười ha hả. Hồ Phỉ nghe Vương thợ rèn nói biết là chắc có nguyên nhân nhưng không tiện hỏi nhiều nên chỉ ậm ừ cho qua chuyện rồi đáp:

– Hẹn ngày tái ngộ.

Vương thợ rèn nói:

– Hồ gia, hẹn ngày tái ngộ, hẹn ngày tái ngộ!

Rồi y quảy gánh lên đi luôn. Vương thợ rèn đi được mấy bước, đột nhiên cất giọng ồm ồm hát bản tình ca bên hồ Động Đình:

Tiểu muội tử đãi tình lang

Ân tình thâm

Nễ mạc phụ liễu muội tử

Nhất ban tình

Nễ kiến liễu tha điện thời

Yếu đãi tha hảo

Nễ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải

tại tâm!

(Tiểu muội tử chờ tình lang

Tấm lòng chờ đợi chứa chan ân tình

Chàng ơi, chớ phụ cô mình

Gặp nhau hãy giữ ân tình cho nhau

Rủi mai nước chảy xuôi cầu

Tấc lòng canh cánh, nỗi sầu khôn khuây)

Giọng gã nghe ồ ồ như vịt đực, nhưng giữa đêm khuya thanh vắng, bài hát đó vẫn khiến người nghe bồi hồi tấc dạ. Hồ Phỉ đứng ngay cửa lắng nghe tiếng hát xa dần đến khi mất hẳn mới quay lại trong nhà bếp.

Khương Tiểu Thiết đã hồi tỉnh, đứng dưới đất. Toàn thân gã ướt đẫm nhưng đã khoác áo dài. Nhà họ Khương ba người đối với Trình Linh Tố vừa úy kỵ, lại vừa tức giận, nhưng đối với thần kỹ dùng thuốc của cô thì trong lòng hết sức khen ngợi. Cả ba đứng đó, vẻ mặt lạnh lùng, không nói lời cảm ơn mà cũng chẳng biểu lộ ý gì.

Trình Linh Tố lấy trong bọc ra ba nắm dược thảo khô màu trắng đặt trên bàn, nói:

– Khi các vị ra khỏi nhà, thế nào bọn người nhà họ Mạnh cũng theo dõi chặn đường. Đây là ba bó “Đề hồ hương” chế luyện bằng “Thất tâm hải đường” có thể đẩy lui địch, mà không phải giết người làm tăng thêm cừu hận.

Khương Thiết Sơn nghe nói thế, nỗi vui mừng lộ ra ngoài mặt. Hắn nói:

– Trình sư muội! Đa tạ sư muội đã giúp cho ta thật chu đáo.

Hồ Phỉ lẩm bẩm:

– Cô ta cứu mạng cho con hắn, hắn không có được một lời cảm ơn. Bây giờ có giúp hắn đẩy lui địch thủ hắn mới cảm ơn, đủ thấy kẻ địch rất là lợi hại. Nếu không thì tại sao cả nhà họ Khương đều là những tay anh hùng hảo hán, lại không đám dùng thủ đoạn hạ độc mà đành phải ru rú ẩn náu trong căn nhà sắt này?

Trình Linh Tố hỏi:

– Tiểu Thiết, hai người trúng chất kịch độc “Quỷ biển bức” có phải là người nhà họ Mạnh không? Ngươi hạ thủ tàn độc quá lắm!

Lúc cô nói, mắt không nhìn Tiểu Thiết. Khương Tiểu Thiết giật nảy người lên tự hỏi: “Sao y lại biết”. Gã ấp úng:

– Tiểu điệt… tiểu điệt…

Khương Thiết Sơn đỡ lời:

– Tiểu sư muội! Tiểu Thiết có lỗi lắm trong vụ này. Ngu huynh đã trách phạt gã rồi.

Hắn nói rồi lại vén áo Tiểu Thiết lên, xoay người gã lại, chỉ cho thấy trên lưng gã đầy vết roi lằn dọc lằn ngang, huyết sắc tím bầm, đều là những vết roi mới cả. Trình Linh Tố khi chữa độc cho gã đã thấy những lằn roi này, nhưng cô nghĩ đến việc hạ độc người khác bằng chất kịch độc không có thuốc giải là điều đại kỵ của bản môn, nên buộc phải nhắc lại. Sở dĩ cô biết hai người kia bị Tiểu Thiết hạ độc là vì cô thấy những lằn roi mà suy ra vụ này.

Cô nhớ lại lời tiên sư là Vô Sân đại sư căn dặn môn đồ:

– Bản môn chuyên về dùng độc, người khác không hiểu cho là tuyệt ác, kỳ thực việc hạ độc cũng giống như việc sử dụng binh khí hay quyền cước, mà lại còn từ bi hơn một bậc. Sau khi hạ độc rồi mà thấy đối phương tỉnh ngộ xin tha, lập thệ ăn năn hối cải hoặc thấy hạ độc nhầm người thì đều có thể giải cứu. Đối phương dù là hạng đại gian đại ác đi nữa, ta cũng nên chừa một con đường để họ hồi đầu hối cải.

Cô lại nghĩ:

– Đại giới luật này của bản môn nhị sư ca và tam sư tỷ nhất định đã nói cho Tiểu Thiết hay, sao gã còn dám lớn mật phạm quy?

Có điều cô thấy trên lưng gã chằng chịt vết roi, chắc là gã đã bị cha mẹ đánh đập, lại bị ngâm nước nóng cực kỳ khổ sở, đó cũng là sự trừng phạt nặng nề rồi nên cô bèn khom lưng thi lễ, nói:

– Sư ca sư tỷ, tiểu muội có nhiều điều đắc tội. Chúng ta rồi sẽ có ngày tái ngộ.

Khương Thiết Sơn chắp tay đáp lễ. Tiết Thước chỉ đằng hắng một tiếng chứ không đoái hoài gì đến. Trình Linh Tố cũng không để bụng, đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ rồi cùng nhau ra cửa.

Hai người vừa nhớm bước ra khỏi cửa lớn, Khương Thiết Sơn rượt theo gọi lớn:

– Tiểu sư muội!

Trình Linh Tố quay lại thấy hắn lộ vẻ ấp úng, muốn nói lại thôi, biết ý hắn ngay, liền cười hỏi:

– Nhị sư ca có điều chi dạy bảo?

Khương Thiết Sơn đáp:

– Ba bó “Đề hồ hương” này cần được ba người công lực ngang nhau vận khí thi hành thì mới có thể cự địch, mà Tiểu Thiết công lực non nớt. Tiểu huynh muốn nhờ sư muội…

Hắn nói đến đây, dù trong lòng rất mong Trình Linh Tố lưu lại để tương trợ, nhưng thấy không thể nói ra được, nên mới nói đến mấy chữ “muốn nhờ sư muội” là phải bỏ dở không sao nói tiếp nổi.

Trình Linh Tố trỏ cái giỏ tre để ngoài cửa, nói:

– Đại sư ca ở trong giỏ, tiểu muội để lại phấn hoa hải đường đủ để giúp đại sư ca giải độc. Nhị sư ca sao không nhân cơ hội này khéo nói với y để có được một tay trợ lực giỏi?

Khương Thiết Sơn cả mừng. Lâu nay hắn bị đại sư ca gây lắm chuyện phiền não, không ngờ cô tiểu sư muội này sắp đặt diệu kế thành ra nhất cử lưỡng tiện, vừa có thể lui được cường địch lại giải được mối hiềm khích bấy lâu giữa sư huynh sư đệ. Hắn vội tạ ơn không ngớt, rồi đem cái giỏ vào nhà.

Hồ Phỉ lượm bông hoa lam đã khô ở trên cánh cửa bỏ vào bọc. Trình Linh Tố liếc mắt nhìn chàng rồi vẫy tay từ biệt Khương Thiết Sơn. Cô nói:

– Nhị sư ca! Đầu mặt sư ca chảy máu nhiều, độc khí trong người cũng tan theo, đừng trách tiểu muội vô lễ.

Khương Thiết Sơn ngẩn người ra rồi hắn đột nhiên tỉnh ngộ, nhủ thầm:

– Y bảo Vương thợ rèn đánh ta cố nhiên là để trừng phạt thói hung tàn của ta ngày trước nhưng không phải là không có thiện ý. Độc khí trong người Thước muội còn chưa tiêu tan, cũng cần phải làm cho chảy máu ra mới được.

Hắn nghĩ tới mọi việc đều nằm trong vòng tính toán của vị tiểu sư muội, hắn không thể nào là đối thủ. Hắn liền dứt khoát bỏ ý niệm tranh đoạt pho “Dược Vương thần biên” của sư phụ để lại.

Trình Linh Tố cùng Hồ Phỉ trở về căn nhà tranh. Chung Triệu Văn hãy còn say ly bì chưa tỉnh. Suốt một đêm bôn ba cực nhọc, bây giờ trời đã sáng rõ, Trình Linh Tố lấy thuốc giải ra bảo Hồ Phỉ cho Chung Triệu Văn uống. Đoạn hai người cầm cuốc ra vườn đào sạch những cây hoa lam mà đêm qua chó sói chưa xéo tới, đem vùi cả xuống đất. Trình Linh Tố nói:

– Ban đầu tiểu muội thấy bầy chó sói đến tập kích lại tưởng là người Mạnh gia kéo đến phá hoa lam. Sau thấy ở cổ Tiểu Thiết có đeo một bó dược thảo mới biết dụng ý của gã.

Hồ Phỉ hỏi:

– Gã làm sao lại trúng phải chất độc “Thất tâm hải đường”? Trong bóng tối tại hạ không nhìn thấy rõ.

Trình Linh Tố đáp:

– Tiểu muội dùng cây Thấu cốt đinh có bôi chất độc “Thất tâm hải đường” đâm gã một cái. Cây đinh này lại cắm lá thơ giả của đại sư ca, hẹn vợ chồng nhị sư ca gặp nhau tại rừng cây. Thấu cốt đinh là ám khí độc môn do đại sư ca tự đúc ra, nhị sư ca và tam sư tỷ thoạt nhìn là nhận ra ngay nên không còn nghi ngờ gì nữa.

Hồ Phỉ hỏi:

– Ám khí của đại sư ca, cô nương lấy ở đâu ra?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Đại ca thử đoán coi.

Hồ Phỉ ngẫm nghĩ một chút rồi nói:

– A, phải rồi! Khi ấy đại sư ca đã bị cô nương bắt giữ, ngồi hôn mê trong giỏ tre. Ám khí đó từ trong người y mà ra.

Trình Linh Tố cười đáp:

– Phải rồi! Đại sư ca nhìn thấy hoa lam của tiểu muội liền sinh nghi. Đại ca và Chung nhị gia lại hỏi đường nơi y. Y liền theo đõi hành tung đến đây, thế là tự chui đầu vào giỏ tre.

Hai người nói chuyện cao hứng, cùng chống cuốc mà cười rộ lên. Bỗng phía sau có thanh âm cất lên hỏi:

– Làm gì mà cười lắm thế?

Hai người quay đầu nhìn lại thấy Chung Triệu Văn mặt mũi bần thần đã ở dưới thềm, mặt còn đỏ bừng chưa hết say rượu. Hồ Phỉ run lên đáp:

– Linh cô nương! Miêu đại hiệp bị thương trầm trọng, bọn tại hạ cần về gấp. Cách dùng thuốc giải thế nào xin cô nương chỉ bày cho.

Trình Linh Tố hỏi:

– Miêu đại hiệp bị thương ở mắt, đó là chỗ mềm nhất trong cơ thể. Cách dùng thuốc nặng hay nhẹ cần phải châm chước. Tiểu muội chưa hiểu thương thế y ra sao?

Hồ Phỉ có ý muốn mời cô đi giải cứu, nhưng nghĩ mình với cô xưa nay không có liên quan gì, người ta lại là một thiếu nữ nhỏ tuổi, khiến Hồ Phỉ cũng giống Khương Thiết Sơn ban nãy, muốn thỉnh cầu mà khó mở miệng nói ra.

Trình Linh Tố mỉm cười nói:

– Nếu đại ca mở miệng yêu cầu tiểu muội, tiếu muội cũng bằng lòng đi, nhưng đại ca phải ưng chịu một điều kiện.

Hồ Phỉ cả mừng vội hỏi:

– Chịu ngay, chịu ngay! Điều kiện gì vậy?

Trình Linh Tố cười đáp:

– Bây giờ thì chưa biết, sau này tiểu muội sẽ nói cho đại ca hay. Chỉ sợ khi đó đại ca lại chối cãi.

Hồ Phỉ nói ngay:

– Tại hạ mà chối cãi thì thành cái giống rùa đen.

Trình Linh Tố tươi cười nói:

– Tiểu muội thu xếp và thay áo xong là chúng ta đi ngay.

Hồ Phỉ thấy người cô bé nhỏ gầy nhom, khẽ nói:

– Một đêm không ngủ, e rằng cô đã mệt quá rồi.

Trình Linh Tố lắc đầu, nhẹ nhàng đi vào phòng.

Chung Triệu Văn có biết đâu nửa đêm qua mình ngủ say mà đã xảy ra biết bao biến cố. Trong lúc nhất thời Hồ Phỉ cùng chưa kịp thuật chuyện cho hắn biết cặn kẽ. Chàng chỉ nói thuốc giải tìm được rồi. Trình Linh Tố là một hảo thủ về trị độc, cô đã nhận lời cùng đi chữa mắt cho Miêu Nhân Phụng.

Chung Triệu Văn muốn hỏi nữa thì Trình Linh Tố ở trong phòng ra. Lưng cô đeo một cái bọc nhỏ, tay bưng một chậu hoa nhỏ. Lá giống như lá cây hải đường bình thường, không có gì đặc biệt. Cánh hoa bám sát vào cành, hoa lại cứng như thép. Trên mỗi cánh hoa đều có bảy điểm chấm nho nhỏ màu đỏ.

Hồ Phỉ hỏi:

– Phải chắng đây là thứ “Thất tâm hải đường” lừng lẫy tiếng tăm?

Trình Linh Tố đưa chậu hơa đến trước mặt Hồ Phỉ. Chàng giật bắn cả người, bất giác lùi lại một bước.

Trình Linh Tố cười hích hích, nói:

– Thứ hoa này cả rễ, thân, nhánh, lá đều có chất kỳ độc tuyệt luân, nhưng chưa chế luyện thì không làm hại người ta được. Chỉ cần đại ca đừng ăn vào là không phải chết.

Hồ Phỉ cười hỏi:

– Cô cho tại hạ là trâu dê hay sao mà bảo ăn cỏ sống, hoa sống?

Chàng đưa tay đón lấy chậu hoa. Trình Linh Tố đóng cửa lại. Ba người cùng đi lên thị trấn Bạch Mã Tự, Hồ Phỉ vào tiệm thuốc lấy lại mấy món binh khí gửi trước. Chung Triệu Văn bỏ tiền ra mua ba con ngựa, không dám chần chờ, lập tức theo đường cũ trở về. Bạch Mã Tự là một trấn nhỏ, mua được ba con ngựa không phải chuyện dễ, mà chẳng phải là giống lương câu tuấn mã gì hết, mãi tận tối mới đi được hai trăm dặm. Ba người tranh thủ thời gian, mải mê rong ruổi quên cả ngủ, nhưng thấy ba con ngựa đã kiệt lực không đi được nữa đành dừng lại ngủ giữa trời trong khu rừng cây nhỏ.

Trình Linh Tố cũng mệt quá không chống chọi nổi, cô ngã ngay xuống đống cỏ khô mà Hồ Phỉ lót cho cô nằm, chỉ một lúc là ngủ ngay. Chung Triệu Văn giục Hồ Phỉ đi ngủ cho lại sức, bảo rằng đêm qua hắn đã ngủ rồi, đêm nay có thể thức để canh chừng.

Hồ Phỉ ngủ tới nửa đêm bỗng nghe mé đông văng vẳng tiếng hổ gầm chàng giật mình tỉnh giấc. Tiếng hổ gầm chẳng bao lâu lại xa dần. Hồ Phỉ thấy khó lòng ngủ trở lại liền nói:

– Chung Nhị ca! Nhị ca ngủ đi. Tiểu đệ không ngủ được nữa. Xin ngồi canh chừng.

Chàng ngồi một lúc nghe Trình Linh Tố cùng Chung Triệu Văn hơi thở đều đặn, biết cả hai đã ngủ say. Chàng tự nghĩ:

– Lần này lo chuyện bao đồng làm chậm trễ mất mấy ngày, việc Phụng Thiên Nam càng không dễ chút nào. Chẳng hiểu hắn có đến tham dự đại hội các chưởng môn không?

Chàng nghĩ hết việc nọ đến việc kia không sao tĩnh tâm được. Hồ Phỉ thò tay vào người, lấy bọc vải ra, rồi cất bông hoa lam vào bọc lại. Chợt nhớ tới khúc tình ca của Vương thợ rèn, chàng động tâm tự hỏi: “Chẳng lẽ y đối với ta quá tốt mà ta không nhận ra?”. Chàng đang ngơ ngẩn xuất thần bỗng nghe tiếng Trình Linh Tố cười hỏi:

– Trong cái bọc này đại ca giấu giếm bảo bối gì? Cho tiểu muội coi được chăng?

Hồ Phỉ quay lại, dưới ánh trăng lờ mờ thấy cô ngồi trên đống cỏ. Không hiểu cô tỉnh giấc từ lúc nào. Hồ Phỉ đáp:

– Tại hạ cho là bảo bối, nhưng cô nương coi thì có lẽ không bõ một tiếng cười.

Chàng cầm bọc mở ra, đưa đến trước mặt Trình Linh Tố, nói tiếp:

– Đây là thanh tiểu trúc đao của Bình tứ thúc cho tại hạ ngày còn nhỏ. Còn đây là đóa hoa hồng của vị huynh trưởng là Triệu tam ca tặng tại hạ. Đây là cuốn “Quyền kinh đao phổ” tổ truyền của tại hạ.

Khi trỏ vào con ngọc phụng của Viên Tử Y tặng cho, Hồ Phỉ ngập ngừng một chút rồi nói:

– Cái này là đồ chơi của một vị bạn hữu tặng.

Con ngọc phụng dưới bóng trăng phát ra ánh sáng lấp lánh dịu dàng, Trình Linh Tố nghe giọng nói chàng có điều khác lạ, liền ngửng đầu lên hỏi:

– Người bạn này phải chăng là một vị cô nương?

Hồ Phỉ đỏ mặt lên đáp:

– Phải.

Trình Linh Tố cười nói:

– Vật này há chẳng phải là bảo bối đáng giá liên thành ư?

Nói xong cô tủm tỉm cười trả lại cái bọc vải cho Hồ Phỉ, lại nằm xuống ngủ. Hồ Phỉ ngẩn người ra hồi lâu, chẳng biết nên vui hay nên buồn. Bản tình ca của gã thợ rèn họ Vương cứ văng vẳng bên tai.

Nễ bất kiến tha diện thời

Thiên thiên yếu thập thất bát biến quải tại tâm!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.