Chương 18: Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc bực lên, biết lại sinh chuyện, vội vàng chạy đến thì Đại Ngọc đã cắt mất cái túi rồi, Bảo Ngọc cũng đã trông thấy cái túi ấy, tuy chưa làm xong, nhưng khéo lắm. Nay Đại Ngọc tự nhiên cắt đi, nghĩ cũng đáng tức. Bảo Ngọc vội vàng cỡi áo trong lấy cái túi của Đại Ngọc cho khi trước giơ ra nói:

– Em xem, cái gì đây! Khi nào tôi lại cho người ta nhưng cái em tặng tôi!

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc cẩn thận, sợ người ta lấy mất, đã đeo ở tận trong áo, rất hối hận đã quá nóng, cắt mất túi hương, nên cứ ngồi cúi đầu không nói câu gì.

Bảo Ngọc nói:

– Em không cần phải cắt. Tôi biết rằng em không thích cho tôi cái gì nữa. Ngay cái túi náy tôi cũng xin nộp lại có được không?

Nói xong, Bảo Ngọc ném cái túi vào lòng Đại Ngọc, rồi đi.

Đại Ngọc tức phát khóc lên, lại chực cắt nốt cái túi này.

Bảo Ngọc vội quay lại giật lấy, cười nói:

– Thôi! xin em tha cho nó!

Đại Ngọc vứt kéo đi, gạt nước mắt nói:

– Anh không nên thế, lúc thì tử tế, lúc thì giận dỗi. Không ưa nhau thì buông tha nhau ra.

Nói xong, bực tức lên giường nằm ngoảnh mặt vào tường chùi nước mắt. Bảo Ngọc lại phải chạy đến xin lỗi hết cô em thế nọ, đến cô em thế kia.

Giả mẫu cho người đến tìm Bảo Ngọc. Mọi người nói:

– Hiện đương ở buồng cô Lâm.

Giả mẫu nói:

– Được được! Để cho anh em nó chơi với nhau.Vừa rồi bố nó giam hãm nó mất nửa ngày, nay cho nó thỏa thuê một chút. Nhưng bảo chúng nó không được cãi nhau.

Mọi người vâng lời.

Đại Ngọc bị Bảo Ngọc làm rầy mãi, đành phải đứng dậy nói:

– Ý anh không muốn cho tôi yên, thì tôi đành phải xa anh.

Nói xong, chạy ngay ra ngoài.

Bảo Ngọc cười:

– Em đi chỗ nào, anh cũng đi chỗ ấy.

Một mặt lại cầm lấy cái túi đeo vào người.

Đại Ngọc giơ tay giăng lấy:

– Anh vừa nói không cần, sao lại còn đeo? Tôi lấy làm xấu hổ hộ anh!

Nói xong, phì ra cười. Bảo Ngọc nói:

– Em ơi, ngày mai lại khâu cho anh cái túi khác nhé!

Đại Ngọc nói:

– Để xem đã, lúc nào thích thì làm.

Hai người vừa nói, vừa đến buồng Vương phu nhân, thì gặp Bảo Thoa cũng ở đấy. Lúc này trong nhà Vương phu nhân bận rộn lắm. Vì Giả Tường đã mua mười hai người con gái ở Cô Tô về. Hắn mời người dạy hát và cả những đồ diễn tuồng nữa.

Tiết phu nhân thì dọn sang ở một ngôi nhà về phía đông bắc.

Viện Lê Hương được sửa sang lại cho phường hát ở để dạy con hát. Những người đàn bà già trong nhà, trước biết hát đều đến đó trông nom bọn con hát. Các khoản chi tiêu hàng ngày, các vật liệu cần dùng, đều do Giả Tường cai quản.

Lại có Lâm Chi Hiếu đến báo: mười hai ni cô, đạo cô trẻ tuổi đã đón về, hai mươi bốn bộ áo lễ nữa đã may xong. Ngoài ra có một vị sư cô để tóc, tên Diệu Ngọc, là người Tô Châu. Cô này dòng dõi nhà quan, khi bé lắm bệnh, phải làm bao nhiêu hình nhân thế mạng, vẫn không khỏi; sau cùng phải xuất gia vì thế đi tu mà vẫn để tóc. Năm nay cô ta mười tám tuổi, bố mẹ chết cả, chỉ còn có hai người vú và một a hoàn hầu hạ. Cô này chữ nghĩa rất thông, kinh kệ thuộc lòng, người lại đẹp. Nghe nói kinh đô có những di tích phật Quan âm và bản kinh viết bằng lá bối, nên năm ngoái cô ta theo sư phụ đến đây, hiện đương ở chùa Mầu Ni ngoài cửa tây. Sư phụ của cô ta, lấy số tiên thiên rất giỏi, nhưng đã chết từ mùa đông năm ngoái rồi. Theo lời dặn của sư phụ, Diệu Ngọc không nên về quê, cứ ở đây chờ tự khắc có kết quả tốt. Bởi vậy cô ta chưa về.

Vương phu nhân nói:

– Sao không mời cô ta?

Lâm Chi Hiếu nói:

– Nếu mời miệng thì cô ta sẽ nói: “Nhà quan hay cậy thế ức hiếp người, ta không khi nào chịu đến!”

Vương phu nhân nói:

– Cô ta là con gái nhà quan, tất nhiên hay làm cao. Ta viết thiếp mời, cũng không ngại gì.

Lâm Chi Hiếu vâng lời, ra bảo thư ký viết thiếp mời Diệu Ngọc, ngày mai sắp xe kiệu đi đón.

Bấy giờ có người đến trình: các thợ đang cần the lụa để trang trí, đến xin Phượng Thư mở lầu phát cho; lại có người đến trình: xin Phượng Thư nhận bỏ kho cho nhưng đồ vàng bạc, Vương phu nhân cùng các người hầu thân đều không ai được rỗi. Bảo Thoa nói:

– Chúng ta không nên ở đây làm quẩn chân, vướng tay người ta.

Bèn cùng Bảo Ngọc, Đại Ngọc đến buồng Nghênh Xuân nói chuyện phiếm.

Vương phu nhân ngày nào cũng bận túi bụi. Mãi đến cuối tháng mười thu xếp xong. Những người đốc biện đã tính toán và bàn giao sổ sách; các đồ cổ, các bức thư họa đã được bày biện ở các nơi; những chim muông như hạc, hươu, thỏ, gà, ngỗng đã mua về và đem thả ở trong vườn. Giả Tường cũng soạn xong hai mươi ba vở hát. Các ni cô, đạo cô niệm phật, tụng kinh đều đã thông thạo. Bấy giờ Giả Chính mới yên lòng, mời Giả mẫu vào vườn xem lại một lượt. Thấy mọi việc xếp đặt đã ổn thỏa đâu vào đấy không còn sai sót một ly. Giả Chính bèn chọn ngày tâu sớ lên. Chỉ vua truyền xuống: đến rằm tháng giêng sang năm là tiết thượng nguyên, Qúy phi sẽ về thăm nhà. Từ đó trong phủ họ Giả bận rộn suốt ngày, ăn tết cũng vội vã.

Thấm thoát gần đến tiết nguyên tiêu, từ mồng tám tháng giêng trở đi đã có viên thái giám đến xem xét phương hướng: chỗ thay áo, chỗ ngồi chơi, chỗ nhận lễ, chỗ ăn tiệc, chỗ nghỉ ngơi. Lại có viên thái giám tổng quản lý quan phòng đem bọn thái giám nhỏ đến xem xét chỗ canh gác, chỗ căng màn, và dặn bảo người nhà họ Giả các nghi lễ như chỗ nào phải lui ra, chỗ nào quỳ, chỗ nào dâng món ăn, chỗ nào tâu việc. Bên ngoài lại có nhân viên bộ công và ty ngũ thành binh mã phải đến quét dọn đường sá, ngăn cấm những người không có chức vụ qua lại.

Bọn Giả Xá thì đốc thúc những thợ làm đèn đuốc. Mãi đến ngày mười bốn, mọi việc mới xếp đặt xong. Đêm hôm ấy, không một ai được chợp mắt.

Hôm rằm, đầu canh năm, từ Giả mẫu trở xuống, theo chức tước mặc phẩm phục đại trào. Trong vườn Đại quan, màn rồng, rèm phượng, vàng bạc châu báu choáng lên khắp nơi.

Đỉnh đốt hương bách hợp, lọ cắm hoa trường xuân, bốn bề im lặng như tờ, không một tiếng động. Bọn Giả Xá đứng ngoài cửa Tây, bọn Giả mẫu đứng ở ngoài cửa chính phủ Vinh. Đầu đường cuối ngõ mùng màn che kín. Đang lúc chờ lâu sốt ruột, chợt có một viên thái giám cưỡi ngựa đến, Giả Chính đón hỏi tin tức.

Viên thái giám nói:

– Hãy còn sớm chán, đầu giờ mùi ngự cơm chiều, giữa giờ mùi đến lễ phật ở cung Bảo Linh, đầu giờ dậu vào cung Đại Minh hầu yến, xem đèn rồi mới xin thánh chỉ về, có lẽ đầu giờ tuất mới bắt đầu đi.

Phượng Thư nghe xong, nói:

– Thế thì mời bà và mẹ hãy về buồng nghỉ, chờ lúc ấy sẽ ra cũng không muộn.

Giả mẫu trở về. Công việc trong vườn đều do Phượng Thư trông nom.

Những người coi việc, mời bọn thái giám đi ăn uống, sau đó bảo người nhà gánh từng gánh nến đi thắp ở các nơi.

Chợt nghe bên ngoài có tiếng ngựa chạy rầm rập, chừng mười viên thái giám thở hồng hộc đến vẫy tay ra hiệu. Bọn thái giám ở đấy biết là quý phi sắp đến, đều theo phương hướng đứng xếp hàng. Giả Xá dẫn con cháu trong họ đứng chực ngoài cửa Tây. Giả mẫu dẫn đám đàn bà trong họ đứng ở ngoài cửa chính đón tiếp. Lặng lẽ một lúc, thấy hai viên thái giám đi từ từ đến cửa Tây, xuống ngựa đem buộc ở ngoài chỗ quây màn rồi ngoảnh mặt về phía tây, buông thõng tay đứng chực. Chốc sau lại có hai viên nữa. Rồi cứ thế lần lượt tới gần mười đôi, khi ấy mới nghe văng vẳng có tiếng âm nhạc từ đằng xa vọng lại. Rồi từng đôi một cầm quạt phượng, cờ rồng, lông trĩ, quạt rồng, và lẵng vàng đốt trầm hương. Theo sau là một cái tán vàng thêu bảy con phượng, che mũ, áo, đai, giày. Lại có bọn thái giám mang khăn tay. Ống nhổ, phất trần cũng từng đôi một lũ lượt đi qua. Sau cùng là tám viên thái giám rước cỗ xe loan thêu phượng màu vàng từ tử đi đến.

Giả mẫu vội quỳ xuống, có ngay bọn thái giám đến đỡ dậy. Xe loan đi vào cửa chính, rẽ sang phía đông, đến trước một nhà, có viên thái giám quì xuống, mời quí phi xuống xe thay áo. Khi vào đến cửa, bọn thái giám lui ra, chỉ có Tiêu Dung, Thái Tần 30 đỡ Nguyên Xuân xuống xe.

Trong vườn, đèn hoa sáng rực, đều làm bằng the lụa cực kỳ tinh xảo, trên treo một cái biển căng đèn, viết bốn chữ: “thể nhàn mộc đức” 31.

Nguyên Xuân vào thay áo rồi lại lên xe ra thăm vườn: khói thơm nghi ngút, bóng hòa rập rờn, chỗ nào cũng đèn sáng chói lọi, lúc nào cũng tiếng nhạc du dương, thật là cảnh tượng thái bình, phong lưu phú quí, nói không xiết được!

Nhớ lại những ngày ở dưới núi Thanh Ngạnh trong dãy núi Đại Hoang, mình sao mà buồn rầu tịch mịch vậy! Nếu không nhờ nhà sư chốc đầu và đạo sĩ khiễng chân mang đến đây, thì làm gì mình được thấy cái thế giới này. Muốn làm một bài phú đèn trăng, bài tụng tinh nhân, để ghi lại việc hôm nay, nhưng lại sợ vướng vào khuôn sáo của các sách. Với quang cảnh ấy, dù có làm bài phú, bài tụng, cũng không thể hình dung hết cái đẹp của nó; mà không làm thì những hào hoa mỹ lệ, chắc độc giả cũng có thể tưởng tượng ra được. Cho nên xin bớt đi, khỏi phải dài dòng, để quay về ý chính là hơn.

Giả phi ngồi trên kiệu trông thấy quang cảnh trong và ngoài vườn, lẳng lặng thở dài: “Xa hoa quá”. Chợt viên thái giám quì mời lên thuyền. Giả phi xuống kiệu, chỉ thấy một dòng nước trong uốn khúc như rồng lượn, hai bên bờ đá, treo các thứ đèn bằng thủy tinh hoặc pha lê, sáng như bạc, trắng như tuyết. Khắp trên cành cây liễu, cây hạnh, đều kết hoa giả bằng giấy lụa và thông thảo treo hàng bao nhiêu ngọn đèn. Dưới nước có những đèn hình hoa sen, hoa ấu, con le, con cò, đều làm bằng vỏ trai, ốc hoặc lông chim. Trên dưới đua sáng, trời nước một màu, thực là một thế giới lưu ly. Trên thuyền lại có các chậu hoa, các thứ đèn cực kỳ tinh xảo, rèm châu, màn gấm, chèo quế, sào lan, không cần phải nói nhiều… Vào bến đá, có một cái biển đèn đề bốn chữ: “Liễu đình hoa tự”.

Bạn đọc thử xem, những chữ: “liễu đình hoa tự”, “hữu phượng lai nghi”. Chỉ là những chữ Giả Chính muốn thử tài Bảo Ngọc, sao lại đem ra đề thực? Họ Giả lại là một nhà nền nếp thi thư, bạn bè qua lại đều là những tay tài giỏi, làm gì chả có mấy người đứng ra đề vịnh, sao lại lấy những câu của chú bé con để lấp liếm cho qua? Như vậy khác nào bọn hào phú, quẳng tiền ra, chuốc những chuyện tô son điểm phấn, như loại: Trước cửa khóa vàng cây liễu lục; sau nhà bình gấm chặng non xanh; và cho đó là nhã. Đằng này, hai phủ Ninh, Vinh mà suốt cuốn thạch đầu đã nêu ra thì không phải như vậy. Xem thế, đủ thấy trái ngược rất xa. Độc giả chưa hiểu, để vật ngu xuẩn nói rõ đầu đuôi cho hay.

Nguyên là Giả phi lúc bé được Giả mẫu nuôi dạy. Sau thêm được Bảo Ngọc. Giả phi là chị cả, Bảo Ngọc là em út. Giả phi nghĩ mẹ tuổi đã cao, mới sinh được đứa em nhỏ, nên rất thương yêu Bảo Ngọc, khác hẳn mọi người. Vả lại, chị em cùng ở với Giả mẫu, không rời nhau lúc nào. Khi Bảo Ngọc mới ba, bốn tuổi, chưa đi học, đã được Giả phi dạy truyền khẩu, thuộc lòng mấy quyển sách, biết đến mấy nghìn chữ. Tuy là chị em, nhưng chẳng khác gì mẹ với con. Sau khi vào cung, Giả phi thường nhắn tin cho cha mẹ: “Cần phải nuôi dạy Bảo Ngọc cẩn thận, không nghiêm thì sau này không thành người, nhưng nghiêm quá lại sợ xảy ra sự bất trắc, làm cho cha mẹ lo buồn”.

Lòng quyến luyến của Giả phi đối với Bảo Ngọc thật là không khuây chút nào. Mấy hôm trước, thấy thầy học khen Bảo Ngọc tài tình, Giả Chính chưa tin, nhân lúc vào thăm vườn, liền bắt đề thơ, để xem ý tứ hay dở thế nào. Ông ta nghĩ: “Câu đối, biển đề” có nhờ ngòi bút của bậc đại tài cũng chẳng khó gì. Song trẻ con làm ra, tuy không hay lắm, cũng có chỗ đáng lấy và có phong vị của nhà mình hơn”. Mặt khác, ông ta cũng muốn để Giả phi biết rằng: những câu đề vịnh này là của em nhỏ nghĩ ra, để khỏi phụ lòng Giả phi ngày thường mong mỏi. Vì thế ông ta mới để những câu đó lại. Còn chỗ nào hôm trước chưa đề, về sau đều đề thêm cả.

Giả phi xem bốn chữ này cười nói:

– Hai chữ “hoa tự” là được rồi, cần gì phả thêm “liễu đình” nữa?

Thái giám đứng hầu nghe vậy, vội lên bờ truyền cho Giả Chính. Giả Chính lập tức cho viết lại.

Bấy giờ thuyền đến bờ, ghé lại. Giả phi lên xe, thấy cung điện nguy nga, trên bức hoảnh viết bốn chữ lớn: “Thiên tiên bảo cảnh” 32 Giả Phi sai đổi là: “Tinh thân biệt thự” 33, rồi tiến vào hành cung. Ở đây, đèn đuốc rực trời, hương thơm nhát đất, cây lửa, hoa kỳ, cửa vàng, cột ngọc, rèm cuốn bằng móc râu tôm, đệm giải bằng da rái cá, đỉnh tỏa mùi xạ hương, tường treo quạt đuôi trĩ. Thực là: “Chốn thần tiền cửa vàng lầu ngọc, nhà hoàng phi đền quế, cung lan”

Giả phi hỏi:

– Tại sao nơi này không đề biển?

Thái giám đi theo hầu, quì tâu:

– Đấy là chính điện, không dám tự tiện đề trước.

Giả phi gật đầu. Thái giám mời Giả phi ngồi nhận lễ. Hai bên thềm tấu nhạc. Hai viên thái giám dẫn bọn Giả Xá, Giả Chính xếp hàng ở dưới thềm. Chiêu Dung truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lui ra. Lại dẫn bọn Giả mẫu từ thềm bên đông lên. Chiêu Dung lại truyền dụ: “miễn lễ”. Mọi người lại lui ra. Ba tuần dáng trà xong. âm nhạc nghi. Giả phi xuống ngai, vào nhà bên thay áo, rồi lên xe ra vườn chơi. Đến nhà Giả mẫu, Giả phi muốn làm lễ gia đình, Giả mẫu quì xuống ngăn lại. Thoạt gặp mặt nhau, Giả phi rỏ nước mắt, một tay nắm Giả mẫu một tay nắm Vương phu nhân. Ba người đều thổn thức, nói không ra lời. Hình phu nhân, Lý Hoàn, Vương Hy Phượng, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đứng bên cạnh cũng đều rỏ nước mắt không nói gì. Một lúc Giả phi mới nén buồn, cười gượng an ủi:

– Ngày trước đã đưa tôi đến chỗ không bao giờ được về gặp người nhà, nay may được về đây, mẹ con lại không cười, không nói, cứ khóc! Chốc nữa tôi đi, biết bao giờ lại được gặp nhau?

Nói xong Giả phi không nhịn được, lại thổn thức khóc.

Hình phu nhân vội đến khuyên giải. Giả mẫu mời Giả phi về chỗ ngồi. Giả phi theo thứ tự hỏi han từng người, lại khóc một phen nữa. Rồi đến những người coi việc ở phủ đông, phủ tây đứng ngoài hiên làm lễ. Sau lần lượt đến bọn hầu đàn bà con gái. Giả phi hỏi:

– Dì Tiết, Bảo Thoa, Đại Ngọc ở đâu không đến.

Vương phu nhân thưa:

– Vì họ là ngoại, không có chức vị gì, nên không dám thiện tiện vào hầu.

Giả phi liền bảo mời vào. Một lúc, Tiết phu nhân vào, muốn theo quốc lễ, nhưng Giả phi truyền miễn cho, rồi cùng kể “Hành chi thanh phân”, trên gác, lên lầu, qua ngòi, quanh núi, nhìn ngắm quanh co, chỗ nào cũng trang hoàng lộng lẫy, cái gì cũng tô điểm mới lạ. Nguyên phi khen ngợi không ngớt, lại khuyên: “Làm thế này là quá lạm, lần sau không nên xa xỉ quá. Đến chính điện, Nguyên phi truyền miễn lễ, mọi người vào chỗ ngồi. Tiệc yến bắt đầu. Giả mẫu ngồi dưới tiếp, bọn Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư thì dâng canh, nâng chén.

Nguyên phi truyền lấy bút mực sẵn, tay mở giấy hoa tiên, chọn chỗ nào vừa ý thì đặt tên. Tên vườn thì đặt là “Đại quan viên” 34, biển ở chính diện đề là: “Cố ân tư nghĩa” 35.

Câu đối đề:

Trời đất mở lòng nhân, con đỏ dân đen đều mến phục,

Xưa nay rộng ân điển, chín cháu muôn nước đội vinh quang.

Chỗ có biển đề: “Hữu phượng lai nghi” thì đặt tên là: “Tiêu Tương quán” 36 Chỗ đề: “Hồng hương lục ngọc”, thì đổi là: “Di hồng khoái lục” 37, và đặt tên là: “Di hồng viện”. Chỗ đề “Hành chí thanh phân” thì đặt tên là: “Hành vu uyển”. Chỗ đề: “Hạnh liêm tại vọng” thì đặt tên là: “Cán các sơn trang” 38 lầu giữa đặt tên là: “Đại quan lâu”. Lầu bên đông đặt tên là: “Xuyết cẩm các” 39. Lầu bên tây đặt tên là: “Hàm phương ác”. Lại còn những tên “Lục phong hiên”, “Ngẫu hương tạ” 40, “Từ lang châu” 41, “Hành diệp chứ”. Biển đề có những chữ: “Lê hoa xuân vũ”, “Đồng tiễn thu phong” 42, “Địch lộ dạ tuyết” 43. Nguyên phi lại truyền không nên bỏ những câu đối và bức hoành đã đề trước, rồi đề một bài tứ tuyệt như sau:

Non nước bao quanh khéo lạ lùng,

Biết bao công của mới làm xong.

Thợ trời thêm thợ người tô điểm,

Gọi Đại quan viên có xứng không?

Nguyên phi đề xong, cười bảo các chị em:

– Tôi xưa nay vẫn kém tài mẫn tiệp, không quen ngâm vịnh, các em đều đã biết cả. Đêm hôm nay gọi là nghĩ qua loa để khỏi phụ cảnh này thôi. Bao giờ rỗi tôi sẽ soạn bài “Đại quan viên ký” và bài “Tình thân tụng” để kỷ niệm ngày hôm nay. Chị em cũng nên mỗi người đề một cái biển, vịnh một bài thơ, chớ vì tài mọn của tôi mà phải gò bó. Bảo Ngọc cũng biết đề vịnh, điều ấy đáng mừng. Trong các nơi, ta thích nhất “quán Tiêu Tương” và “Hành Vu uyển” rồi đến “viện Di Hồng” và “Cát cân sơn trang”, bốn nơi này phải có thơ đề vịnh riêng mới được. Những câu đề trước tuy cũng khá, nhưng phải làm mỗi nơi một bài thơ, để ta thử tài tại chỗ, mới không phụ công ta vất vả dạy dỗ từ bé!

Bảo Ngọc vâng lời, lui ra nghĩ thơ.

Trong bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân thì Thám Xuân hơn cả. Nhưng biết trước không thể đua tài với họ Tiết, họ Lâm được, tuy nhiên, nàng cũng phải gắng gượng làm cho qua chuyện. Lý Hoàn cũng gắng sức làm một bài. Giả phi lần lượt xem:

Biển đề KHOÁNG TÍNH DI TÌNH

Phong cảnh vườn này thực lạ ghê.

Vâng lời đề biển, thẹn tay đề.

Cõi trần đâu có nơi nào thế,

Dạo cảnh ai là chẳng phải mê!

Nghênh Xuân

Biển đề VẠN TƯỢNG TRANH HUY 44.

Vườn này xây đắp thực nguy nga,

Vâng mệnh đề thơ thẹn bút hoa.

Tinh xảo nhường nào không kể xiết,

Quả nhiên muôn vật đẹp thêm ra.

Thám Xuân

Biển đề VĂN CHƯƠNG TẠO HÓA

Non nước bao quanh mấy dăm dài,

Lâu đài cao ngất giữa từng mây.

Sánh cùng nhật nguyệt cùng tươi sáng,

Bác thợ trời kia cũng kém tài.

Tích Xuân

Biển đề VĂN THÁI PHONG LƯU

Bốn bề non nước cảnh chơi vơi,

So với Bồng lai đẹp tuyệt vời.

Quạt lướt màu xanh làn cỏ ngát,

Quần xòe sắc đỏ cánh hoa rơi.

Ngọc chờ đời thịnh càng lên giá.

Tiên ở đài dao lại xuống chơi.

Từ lúc vườn này chào khách quí,

Phàm trần đã đến được bao người.

Lý Hoàn

Biển đề NGƯNG HUY CHUNG THỤY 45.

Vườn hoa xây cạnh đế thành,

Một vùng trời đẹp mây lành lạ sao.

Rời hang oanh đã đậu cao,

Trúc kia đợi phượng múa chào cùng vui.

Gió văn thổi lúc ra chơi,

Thăm nhà trọn hiếu dạy người theo noi.

Tài tiên cao diêu tuyệt vời,

Thẹn mình còn dám thêm lời nữa sao?

Tiết Bảo Thoa

Biển đề THẾ NGOẠI TIÊN NGUYÊN 46

Dạo chơi Người lại thêm vui,

Cõi tiên nào phải là nơi bụi hồng!

Đẹp thay mượn cảnh non sông,

Điểm tô cảnh lại lạ lùng đẹp hơn.

Rượu kim cúc ngát mùi hương,

Chào mừng người ngọc rõ ràng hoa tươi.

Mong sao trên đội ơn trời,

Vườn này thường được đón mời xe loan.

Lâm Đại Ngọc

Nguyên phi xem xong khen mãi, cười nói:

– Rút cục bài của em Tiết, em Lâm hơn hẳn các bài. Chị em chúng ta không ai bằng.

Ngay đêm ấy, Đại Ngọc định trổ hết tài át hẳn mọi người. Không ngờ Nguyên phi chỉ bảo đề mấy chữ hoành biển và một bài thơ, nên không dám trái lời, chỉ làm qua loa một bài thơ cho tác trách.

Bảo Ngọc mới làm xong hai bài “Tiêu Tương quán” và “Hành vu uyển”, đang nghĩ bài “Di hồng viện”. Bảo Thoa liếc mắt nhìn, thấy trong bản nháp của Bảo Ngọc có câu “Lục ngọc xuân do quyển” 47. Nhân lúc mọi người không để ý, bèn đẩy Bảo Ngọc bảo:

– Qúy phi không thích những chữ “hồng hương lục ngọc” mới đổi ra “di hồng khoái lục”, giờ anh lại dùng hai chữ “lục ngọc” như thế chả phải là cố làm trái ý người hay sao? Vả chăng điển tích lá chuối cũng có nhiều, nên đổi đi là phải.

Bảo Ngọc thấy Bảo Thoa nói thế, gạt mồ hôi nói:

– Bây giờ tôi nghĩ mãi cũng chẳng nhớ ra được điển tích nào?

Bảo Thoa cười:

– Anh chỉ đổi chữ “lục ngọc” làm chữ “lục lạp” 48 là được.

Bảo Ngọc nói:

– Chữ “lục lạp” xuất xứ ở đâu?

Bảo Thoa khẽ bĩu môi, gật đầu nói:

– Đêm nay mới có thế mà anh đã cuống lên, sau này thi ở trước đền vàng, có lẽ họ Triệu, họ Tiền, họ Tôn, họ Lý cũng quên tất. Bài thơ Vịnh ba tiêu của Hàn Dực nhà Đường có câu: “Lãnh chúc vô yên lục lạp can” 49 anh quên rồi à!

Bảo Ngọc nghe xong chợt nhớ ra cười nói:

– Đáng chết! Đáng chết! Chữ ngay trước mắt tôi cũng không nghĩ ra. Chị đáng là “Nhất tự sư” 50 vậy. Từ rầy tôi xin gọi là thầy, chứ không dám gọi là chị nữa.

Bảo Thoa khẽ cười nói:

– Làm nhanh đi, đừng chị chị em em nữa. Ai là chị? Người mặc áo vàng ngồi trên kia mới là chị.

Sợ làm mất thì giờ của Bảo Ngọc, Bảo Thoa vừa cười nói, vừa quay đi chỗ khác.

Bảo Ngọc làm xong bài này, mới là ba bài. Bấy giờ Đại Ngọc chưa được trổ hết tài, vẫn chưa mãn nguyện. Nhân thấy Bảo Ngọc nghĩ ngợi khó khăn, nghĩ bụng: “Sao ta không làm giúp vài bài cho anh ấy đỡ mệt”. Rồi chạy đến bên bàn Bảo Ngọc khẽ hỏi đã làm xong chưa. Bảo Ngọc nói:

– Mới làm xong ba bài, còn thiếu bài “Hạnh liêm tại vọng”.

Đại Ngọc nói:

– Đã vậy anh cứ chép ba bài kia đi, còn bài này tôi sẽ làm giúp.

Nói xong nghĩ ngợi một lúc, làm xong một bài, viết vào mảnh giấy, vê tròn ném cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc giở ra xem, thấy hay hơn ba bài của mình nhiều, vội chép cẩn thận rồi đưa nộp. Nguyên phi xem thấy:

HỮU PHƯỢNG LAI NGHI

Ngọc tốt vừa ra quả,

Đang chờ phượng đến chơi.

Rờn rờn xanh mấy ngọn,

Thoang thoáng mát đầy nơi.

Qua bực, e thềm ướt.

Lọt rèm thơm sặc mùi,

Bóng kia đừng rung động,

Giấc mộng đẹp đường dài.

HÀNH CHỈ THANH PHÂN

Vườn kia im lặng như tờ

Hành la đua nở đương chờ đợi ai?

Có xuân xanh lẫn màu trời,

Dải hồng tha thướt quyệt mùi hương thơm.

Khói bay nhè nhẹ bên đường,

Áo quần xanh đẫm hơi sương lạnh lùng.

“Trì đường” là khúc hóa công,

Anh em họ Tạ giấc nồng nàn thay.

DI HỒNG KHOÁI LỤC

Một vùng sân vắng ngày dài,

Thuyền quyên hai ả cả hai đẹp dòn,

Trời xuân anh vẫn cuộn tròn,

Áo hồng thơ thẩn khuya còn đứng đây.

Bên kia áo đỏ gió bay,

Khói xanh, dựa đá bên này đỡ chơi.

Trước gió đông đứng hàng đôi,

Chủ nhân ướm hỏi ai người biết thương?

HẠNH LIÊM TẠI VỌNG

Cờ rượu treo mời khách,

Kề non dựng một tòa.

Cỏ thơm ao tắm ngỗng,

Dâu tốt yến xây nhà.

Rau xuân xanh bát ngát,

Mùi lúa nức gần xa.

Đời thịnh nào ai đói.

Canh cửi vội chi mà.

Bảo Ngọc kính đề

Nguyên phi xem xong, thích lắm, nói:

– Học đã tiến rồi đấy!

Lại bảo:

– Trong bốn bài, thì bài “Hạnh liêm” hơn cả.

Rồi đổi tên “Cán cát sơn trang” làm “Đạo hương thôn 51.

Nguyên phi sai Thám Xuân lấy giấy hoa tiên chép cẩn thận những bài thơ ấy, rồi cho thái giám đưa ra nhà ngoài. Bọn Giả Chính xem, đều khen ngợi mãi. Giả Chính lại dâng bài “Qui tính tụng”. Nguyên phi sai lấy các đồ vàng ngọc thưởng cho Bảo Ngọc và Giả Lan. Giả Lan hãy còn bé, chưa hiểu gì, chỉ biết theo mẹ và chú đến tạ.

Giả Hoàn bị Ốm từ trong năm đang điều dưỡng nên không nói đến.

Bấy giờ Giả Tường đã dẫn một ban hát đứng ở dưới lầu, chờ mãi sốt ruột, chợt có một viên thái giám chạy đến bảo: thơ làm xong rồi, đem trình ngay các mục vở hát lên. Giả Tường vội đem trình các mục vở hát và danh sách mười hai ca nữ. Một lúc thấy chấm bốn vở:

1. Hào yến,

2. Khất sảo,

3. Tiên duyên,

4. Li hồn.

Giả Tường vội xếp đặt các vở đem ra diễn. Những điệu hát lên cao, lanh lảnh, những điệu múa biến ảo như ma, tuy chỉ là lối biểu diễn hóa trang, nhưng nỗi vui buồn đều biểu lộ rõ

Hát xong, bọn thái giám bưng lên một mâm kẹo bánh, hỏi:

– Ai là Linh Quan?

Giả Tường biết là để thưởng cho Linh Quan, vội vàng nhận lấy và bảo Linh Quan ra tạ Ơn. Thái giám nói: Qúi phi truyền “Linh Quan giỏi lắm, hát thêm hai vở nữa. Vở gì cũng được”.

Giả Tường vội vàng vâng lời, bảo diễn thêm hai vở “Du tiên” và “Kinh mộng”.

Linh Quan nói:

– Không quen hát hai vở ấy.

Hắn nhất định không nghe và xin hát hai vở “Tương ước và “Tương mạ”. Giả Tường ngăn không được, đành để cho hát, Nguyên phi thích lắm, truyền: “Không nên bắt ép đám trẻ con quá, để nó học tập dần”. Và đặc cách thưởng cho hai tấm nhiễu trong cung, hai cái túi và mấy thoi vàng bạc nhỏ. Tan tiệc Nguyên phi lại ra ngắm cảnh những chỗ chưa dạo qua. Chợt thấy ngôi chùa ở bên núi, Nguyên phi vội vàng rửa tay, thắp hương lễ phật, đề biển bốn chữ “Khổ hải từ hàng” 52, rồi đặc cách ban thưởng cho bọn ni cô, đạo cô.

Một lúc thái giám quì tâu: “Đồ ban thưởng sắp cả rồi, xin theo lệ phân phát”. Rồi trình bản kê lên. Nguyên phi xem từ đầu đến cuối, không nói gì, truyền cứ theo thế mà làm. Thái giám đem xuống ban cho mọi người. Giả mẫu được một đôi như ý 53 bằng vàng và bằng ngọc, một cái gậy bằng gỗ trầm hương, một chuỗi tràng hạt, bốn tấm đoạn “phú quí trường xuân” 54, bốn tấm phiễu “phúc thọ miên trường” 55, mười hai thoi vàng “bút đĩnh như ý” 56, mười thoi bạc “cát khánh hữu du 57. Hai phần của Hình phu nhân, Vương phu nhân cũng thế, chỉ kém cái gậy, thoi như ý và tràng hạt. Giả Kính, Giả Xá, Giả Chính, mỗi phần hai bộ tân thư ngự chế, hai hộp mực quí, hai chiếc chén vàng. Còn đồ biếu khác thì cũng như trên. Chị em Bảo Thoa, Đại Ngọc, mỗi người một bộ tân thư, một cái nghiên quí, bốn thoi vàng bạc đúc kiểu mới. Bảo Ngọc, Giả Lan thì hai cái vòng bằng vàng bạc, bốn thoi vàng bạc. Vưu thị, Lý Hoàn, Phượng Thư, mỗi người bốn thoi vàng bạc, bốn thứ đồ biếu. Hai mươi bốn thứ đồ biếu, tiền năm trăm quan, thì thưởng cho bọn vú bõ và a hoàn hầu Giả mẫu và các phòng. Giả Trân, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung đều mỗi người một thứ đồ biếu, hai thoi vàng bạc. Một trăm tấm lụa hoa, một nghìn lạng vàng bạc, rượu ngự tiếc hoa thì thì cho bọn trông nom công việc bày biện, đi lại, coi ban hát, trông đèn nến ở hai phủ Vinh, Ninh. Năm trăm quan thưởng cho những người trông nom bếp nước, chèo hát, các trò chơi, sai vặt…

Mọi người tạ Ơn xong, viên thái giám chấp sự tâu: “Nay đã đến giữa giừ sửu, mời loan giá về cung”.

Nguyên phi lại nước mắt giàn giụa, nhưng phải gượng cười cầm tay Giả mẫu và Vương phu nhân dặn dò nhiều lần: “Giữ lấy sức khỏe, không nên thương nhớ. Hiện giờ ơn trên rộng rãi, mỗi tháng cho vào cung thăm một lần, gặp mặt cũng dễ dàng, việc gì phải buồn rầu? Nếu sang năm ơn trên lại cho về thăm nhà, thì không nên bày vẽ xa xỉ như thế này”. Giả mẫu khóc nức nở, nói không ra lời. Nguyên phi tuy không nỡ rời tay, nhưng vì theo phép tắc nhà vua, nên đành dằn lòng lên xe. Mọi người khuyên giải Giả mẫu và Vương phu nhân rồi dìu về nhà.

30      Các nữ quan trong cung.

31      Nhờ nhân đức nhà vua.

32      Cảnh đẹp cõi tiên.

33      Nhà riêng về thăm cha mẹ.

34      Vườn lớn, nhiều phong cảnh đẹp, làm cho người du lãm có một tầm mắt bao la.

35      Trông thấy ơn vua thì nghĩ đến nghĩa lớn.

36      Quán tên sông Tiêu, sông Tương.

37      Màu đỏ, màu xanh cùng vui tươi.

38      Trại giặt vải ở gần núi.

39      Lầu trăng gấm.

40      Thơm mùi ngó sen.

41      Hoa súng tía.

42      Lá ngô đồng gặp gió mùa thu.

43      Hoa lan gặp đêm tuyết.

44      Muôn vẻ đua sáng.

45      Họp mọi màu sáng và chung đức điểm lành.

46      Suối cõi tiên ở ngoài cõi trần.

47      Ngọn ngọc mùa xuân còn đang cuốn (chỉ cây chuối).

48      Cây sáp xanh.

49      Ngọn đuốc không có khói mà cây sáp xanh cứ khô dần.

50      Thầy dạy một chữ.

51      Thơm mùi lúa.

52      Bè từ bi độ chúng sinh trong bể khổ.

53      Nguyên là một tên đồ dùng để gãi lưng về sau làm đồ trần ngoạn, hoặc bằng vàng, hoặc bằng ngọc, ngụ ý chúc tụng những sự tốt lành.

54      Đều là những danh từ chúc tụng.

55      Đều là những danh từ chúc tụng.

56      Đều là những danh từ chúc tụng.

57      Đều là những danh từ chúc tụng.

Chương 19: Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói – Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương

Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói

Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương

Giả phi về cung, hôm sau vào chầu Vua tạ Ơn và tâu lại về việc thăm nhà. Mặt rồng rất vui, lại phát những vàng bạc, gấm vóc trong kho thưởng cho Giả Chính và gia thuộc.

Nói về hai phủ Vinh, Ninh suốt mấy ngày làm hết hơi sức, sau đó lại phải thu xếp những đồ trần thiết trong vườn, hai ba ngày mới xong, ai cũng mỏi mệt. Phượng Thư là người bận hơn cả. Nếu như người khác còn có thể lảng tránh công việc, nhưng Phượng Thư thì không sao làm ngơ được; vả lại chị ta tính hiếu thắng, không chịu để người chê trách, nên ôm đồm hết thảy mà vẫn làm ra dáng ung dung như không bận rộn gì. Trái lại, chỉ có Bảo Ngọc là người nhàn rỗi nhất. Một buổi sáng, mẹ Tập Nhân đến hầu Giả mẫu, xin phép cho con về nhà ăn cỗ đầu năm, đến chiều mới về. Vì thế Bảo Ngọc chỉ đánh cờ, chơi đùa với lũ a hoàn. Đương lúc buồn, chợt thấy người hầu vào nói: “ông Trân bên phủ Đông mời cậu sang xem hát, đốt cây bông”. Bảo Ngọc nghe nói, bảo thay quần áo. Lúc sắp đi, thì Giả phi sai người đem cho bánh sữa. Bảo Ngọc nghĩ ngay đến Tập Nhân thích ăn thứ bánh này, liền bảo để dành, rồi xin phép Giả mẫu đi xem hát.

Những trò hát bên nhà Giả Trân là “Đinh lang nhận phụ”, “Hoàng Bá Ương đại bài âm hồn trận”, “Tôn hành giả đại náo Thiên cung”, “Khương thái công trảm tướng phong thần”. Lúc thì quỷ thần biến ảo, lúc thì ma quái ly kỳ; phất cờ chạy đèn, dâng hương niệm phật, tiếng chuông trống, hò hét ầm ĩ, cả ngoài đường cũng nghe thấy. Người qua lại trên phố đều tán tụng: “Vui quá nhỉ? Nhà khác làm gì có trò này”. Bảo Ngọc thấy phồn hoa huyên náo quá, không chịu được, ngồi một lúc rồi ra dạo chơi các nơi. Trước hết, vào nhà trong nói quấy với Vưu thị và các tỳ thiếp một lúc, rồi đi ra cửa. Vưu thị tưởng Bảo Ngọc lại ra xem hát, nên không để ý. Bọn Giả Trân, Giả Liễn, Tiết Bàn thì lăn vào đánh đố, uống rượu, giở trăm trò vui, ai nấy cứ cho là Bảo Ngọc đi vào nhà trong, nên không hỏi đến. Cả những người lớn theo hầu Bảo Ngọc cũng cho là Bảo Ngọc thế nào đến chiều mới về. Được dịp rỗi, họ họp nhau đánh bạc, hoặc đi uống rượu ở nhà họ hàng, bạn hữu. Mỗi người tản đi mỗi nơi, hẹn nhau đến chiều mới về. Bọn trẻ con thì chen nhau vào buồng xem hát.

Bảo Ngọc không thấy có người nào theo hầu, liền nghĩ: “Nhà này có một thư phòng nhỏ, trong có treo bức tranh mỹ nhân rất thần tình. Bây giờ ở đây vắng người, mỹ nhân ấy chắc cũng hiu quạnh lắm. Ta cần phải đến đó thăm hỏi xem sao”. Nghĩ thế rồi đi. Đến nơi, mới vào cửa, nghe trong phòng có tiếng thở. Bảo Ngọc giật mình, nghĩ: Có lẽ mỹ nhân hiện thành người thật chăng? Rồi đánh bạo, dấp nước bọt, chọc thủng cửa sổ giấy nhìn vào, thấy mỹ nhân vẫn y nguyên ở trong tranh. Té ra Dính Yên đương đè một người con gái, ôn lại bài học của nàng tiên Cảnh ảo trước đây. Bảo Ngọc ăn không được, đạp cửa vào hét to: “Qúa lắm nhỉ!” Hai người nghe động, ôm lấy áo sợ run lên.

Dính Yên trông thấy Bảo Ngọc, vội quỳ xuống kêu van. Bảo Ngọc nói:

– Đương lúc ban ngày ban mặt, mày làm trò gì thế? Nếu anh Trân biết thì mày sống hay chết?

Nhìn lại thấy người con gái, mặt mũi sạch sẽ, tuy không đẹp lắm, nhưng có vẻ dễ thương, hổ thẹn cúi đầu, đứng im không nói gì. Bảo Ngọc giậm chân nói:

– Còn không đi à?

Cô gái nghe xong chạy đi ngaỵ Bảo Ngọc lại theo ra nói to:

– Đừng sợ! Tao không mách ai đâu.

Dính Yên vội kêu lên:

– Ông trẻ ơi! Thế là ông mách người ta rồi còn gì?

– Con bé ấy bao nhiêu tuổi?

– Độ mười sáu mười bảy tuổi.

– Ngay tuổi nó mày cũng không hỏi, mà đã làm cái trò ấy! Thật là nó vớ uổng phải mày! Đáng thương! Đáng thương! Còn tên nó là gì?

– Nếu nói tên nó ra thì chuyện cũng dài và mới lạ lắm. Nó nói: khi sắp đẻ, mẹ nó nằm mộng thấy được một tấm gấm, trên mặt thêu hoa năm sắc hình chữ “Vạn”, vì thế đặt tên nó là Vạn Nhi.

– Thế thì lạ thật, chắc sau này nó cũng khá đấy.

Nói xong, Bảo Ngọc lặng lẽ nghĩ ngợi giờ lâu.

Dính Yên hỏi:

– Hát hay thế, sao cậu không xem?

– Xem một chốc, buồn quá, chạy ra ngoài chơi thì gặp chúng baỵ Bây giờ nên làm gì đây?

Dính Yên cười khì khì:

– Bây giờ không ai biết, tôi lẳng lặng đưa cậu ra ngoài thành chơi một chốc rồi sẽ về.

– Không được, cẩn thận đấy, kẻo mẹ mìn nó bắt đi. Và nếu họ biết thì lại làm ầm lên. Sao bằng đi chơi nơi nào gần đây rồi lại trở về.

– Nếu đi gần đây thì nên đến nhà ai? Kể cũng khó đấy!

– Cứ ý ta, chúng ta đến thăm chị Hoa 1 xem chị ấy ở nhà làm gì.

– Được được, nhưng tôi không nhớ nhà chị tạ Vả lại, nếu họ biết tôi dẫn cậu đi chơi nhảm, thì tôi sẽ bị đòn.

– Đã có ta.

Dính Yên nghe nói, dắt ngựa đến, rồi hai người từ cửa sau đi ra. May là nhà Tập Nhân không xa, chỉ độ nửa dặm đường thoắt đã đến cửa.

Dính Yên vào trước gọi anh Tập Nhân là Hoa Tự Phương. Bấy giờ mẹ Tập Nhân đương ăn hoa quả với Tập Nhân và mấy người cháu gái. Nghe bên ngoài có người gọi “anh Hoa”, Hoa Tự Phương vội chạy ra, thấy hai thầy trò Bảo Ngọc. Hắn sợ hãi không biết có việc gì, vội vàng bế Bảo Ngọc xuống ngựa, rồi chạy vào nhà nói to: “Cậu Bảo đến đấy!” Tập Nhân nghe thấy, không biết chuyện gì, vội chạy ra đón, dắt tay Bảo Ngọc, hỏi:

– Có việc gì mà cậu đến đây?

– Buồn quá, đến xem chị làm gì thôi.

Tập Nhân nghe xong mới yên lòng, nói:

– Cậu cũng liều quá, đến đây làm gì?

Rồi hỏi Dính Yên:

– Còn có ai đi theo hầu không?

– Chẳng có ai cả.

Tập Nhân lại sợ hãi nói:

– Như thế sao được! Nếu gặp người quen, hay ông nhà hoặc ngoài đường người chen, ngựa giẫm, có việc gì xảy ra thì sao? Có phải chuyện chơi đâu? Các người quả to gan thật. Chỉ tại thằng Dính Yên bày trò ra cả. Khi về, ta mách các vú nhất định đánh cho chết thằng giặc này.

Dính Yên bĩu mỏ nói:

– Cậu mắng tôi, đánh tôi, bắt phải đưa đi, bây giờ lại đổ tội cho tôi. Tôi đã bảo đừng đến mà! Nếu thế, chúng tôi về quách.

Hoa Tự Phương khuyên can:

– Cậu đã trót đến đây rồi, nói lôi thôi mãi làm gì. Chỉ hiềm nhà tôi nhà rách, vách nát, chật hẹp, bẩn thỉu, biết mời cậu ngồi đâu được?

Mẹ Tập Nhân ra đón. Bảo Ngọc thấy trong buồng có bốn năm người con gái. Trông thấy Bảo Ngọc, họ đều cúi đầu, thẹn đỏ mặt. Mẹ con Hoa Tự Phương sợ Bảo Ngọc lạnh, mời lên ngồi trên bục, mang hoa quả, nước trà đến. Tập Nhân cười nói:

– Đừng làm cuống lên, vô ích, tôi biết cậu ấy rồi, đừng nên cho ăn nhảm.

Nói xong đem cái nệm của mình giải trên ghế, rồi dắt Bảo Ngọc ngồi xuống. Lại mang cái lồng ấp chân của mình để vào chân Bảo Ngọc. Lại lấy ở túi ra hai cái bánh mai hoa đưa cho Bảo Ngọc và đốt lồng ấp tay của mình, đậy kín lại, để vào lòng Bảo Ngọc. Rồi lại lấy chén riêng của mình pha trà mời Bảo Ngọc uống. Bấy giờ anh và mẹ Tập Nhân đã bày sẵn một mâm hoa quả. Tập Nhân thấy không có gì đáng ăn, liền cười nói:

– Cậu đã đến đây, có nhẽ nào lại về không, hãy nếm một tí gọi là lần đầu đến chơi nhà tôi.

Nói xong, lấy một ít hạt dẻ bóc sạch vỏ, đựng vào khay tay đưa cho Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc trông thấy Tập Nhân hai mắt đỏ hoe, mặt phấn hơi ướt, khẽ hỏi:

– Chị khóc gì thế?

– Ai khóc bao giờ, vì ngứa mắt, tôi dụi đấy thôi.

Rồi bỏ qua chuyện ấy. Nhân thấy Bảo Ngọc mặc áo vóc đỏ chẽn tay, thêu rồng vàng lót da cáo, ngoài khoác áo xanh lót da cừu. Tập Nhân nói:

– Khi cậu đến đây mặc áo mới, ở nhà không ai hỏi à?

– Anh Trân mời xem hát, nên mới thay mặc bộ này.

Tập Nhân gật đầu, lại nói:

– Hãy ngồi một lát rồi về. Chỗ này không phải là chỗ cậu đến đâu nhé.

– Chị nên về nhà ngay mới được. Tôi đã để phần chị một thứ ngon lắm.

– Nói khẽ chứ, người ta nghe thấy thì còn ra làm sao?

Rồi giơ tay tháo “viên ngọc thiêng” ở cổ Bảo Ngọc ra, cười nói với các chị em:

– Này hãy xem đi. Ngày thường các chị cứ phàn nàn không được trông thấy của hiếm này, bây giờ thì xem cho chán đi, có gì là lạ, chẳng qua nó cũng chỉ thế thôi.

Nói xong, Tập Nhân đưa viên ngọc cho mọi người chuyền tay nhau xem một lượt, rồi lại đeo vào cổ Bảo Ngọc.

Tập Nhân bảo người anh đi thuê xe hoặc kiệu đưa Bảo Ngọc về. Hoa Tự Phương nói:

– Để tôi đưa đi, cậu ấy cưỡi ngựa cũng được.

Tập Nhân nói:

– Không phải là không được, chỉ sợ người ta trông thấy.

Hoa Tự Phương vội đi thuê một cỗ kiệu lớn, mọi người không tiện giữ lại, đành để Bảo Ngọc ra về. Tập Nhân lại đưa một nắm quả cho Dính Yên và cho nó tiền mua pháo, rồi bảo:

– Nếu nói với ai, cả mày cũng có tội đấy.

Rồi đưa Bảo Ngọc ra cửa, lên xe, buông màn xuống. Hoa Tự Phương và Dính Yên dắt ngựa đi theo. Đến phủ Ninh, Dính Yên bảo dừng xe, rồi nói với Hoa Tự Phương:

– Tôi và cậu Hai hãy vào phủ Đông chơi một lúc sẽ về, để người ta khỏi ngờ.

Hoa Tự Phương cho là phải, vội ẵm Bảo Ngọc xuống kiệu, rồi đỡ lên ngựa. Bảo Ngọc cười:

– Làm phiền anh quá.

Liền đi về cửa sau.

Thấy Bảo Ngọc đi vắng, lũ a hoàn tha hồ chơi đùa, đánh cờ, đánh bài, vất đầy vỏ hạt dưa ra. Vú Lý chống gậy đến thăm Bảo Ngọc, thấy bọn a hoàn xúm nhau lại chơi đùa, vú rất khó chịu, thở dài:

– Dạo này ta ít đến đây, chúng bay càng làm bừa bãi quá. Các vú khác chẳng ai dám nói động đến chúng bay cả. Bảo Ngọc như cây đèn cao ngất, chỉ biết đi soi nhà người, còn nhà mình thì không hề soi đến, để cho chúng nó phá phách đến thế này, chẳng còn thể thống gì cả.

Bọn a hoàn xưa nay biết Bảo Ngọc không để ý đến những việc lặt vặt; vú Lý đã thôi việc cáo lão về nhà rồi, còn cai quản thế nào được chúng. Vì thế, mụ nói gì mặc mụ, chúng cứ việc chơi đùa. Vú Lý lại hỏi:

– Bây giờ Bảo Ngọc mỗi bữa ăn được bao nhiêu cơm? Đến giờ nào đi ngủ?

Bọn a hoàn trả lời qua loa. Có đứa còn nói: “Cái mụ già này chán thật!”

Vú Lý lại hỏi:

– Bánh sữa trong bát kia sao không đưa ta ăn?

Nói xong, vú Lý lấy ngay ra ăn. Một a hoàn bảo:

– Mụ đừng động vào! Cậu bảo là để phần chị Tập Nhân. Lát nữa cậu về là lôi thôi đấy. Má ăn thì má phải chịu lấy, đừng để rầy rà đến chúng tôi.

Vú Lý nghe xong vừa tức vừa xấu hổ, liền nói:

– Ta không ngờ cậu ấy lại xử tệ với ta như thế. Đừng nói một bát bánh sữa chứ một thứ gì quý giá hơn nữa ta ăn cũng đáng. Lẽ nào cậu ấy lại quý Tập Nhân hơn tả Lẽ nào cậu ấy lại không nghĩ vì ai mới lớn được như thế? Vì máu ta hoá sữa cho cậu ấy bú rồi mới lớn lên. Bây giờ ta ăn một bát bánh sữa mà cậu ấy lại sinh sự với ta à? Ta cứ ăn, xem cậu ấy làm trò gì? Chúng bay có biết Tập Nhân là đứa thế nào không? Nó là một đứa a hoàn bé con, do tay ta gây dựng, chứ có quý hoá gì.

Vừa nói vừa tức, vú ăn hết cả bát bánh sữa. Một a hoàn cười nói:

– Các chị ấy vụng về, làm má tức giận. Cậu Bảo Ngọc vẫn thường biếu má thứ này thứ khác luôn, có nhẽ nào vì một bát bánh sữa mà cậu ấy không bằng lòng?

Vú Lý nói:

– Chúng mày cũng đừng nói mèo nói cáo đánh lừa tạ Mày tưởng bận trước chuyện đập chén trà của con Phiến Tuyết, ta không biết à? Ngày mai có xảy ra điều gì, ta sẽ đến nhận.

Nói xong hầm hầm đi ra.

Một lúc Bảo Ngọc về, sai người đi đón Tập Nhân, thấy Tình Văn nằm dài trên giường không dậy. Bảo Ngọc hỏi:

– Ốm hay thua bạc đấy?

Thu Văn nói:

– Nguyên là nó được bạc, nhưng vì vú Lý đến làm ồn, nó đối đáp không lại, nó tức khí đi ngủ đấy thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Các chị đừng để ý đến mụ ấy, mặc kệ mụ ấy là hơn.

Ngay sau đó, Tập Nhân về, mọi người chào nhau. Tập Nhân hỏi Bảo Ngọc hôm nay ăn cơm ở đâu? Về sớm hay muộn? Lại nói mẹ và em gửi lời hỏi thăm các chị em. Rồi thay quần áo, bỏ đồ trang sức ra. Bảo Ngọc sai người lấy bánh sữa. Bọn a hoàn nói: “Vú Lý ăn cả rồi”. Bảo Ngọc toan hỏi, thì Tập Nhân vội cười nói:

– Thế ra để phần cái ấy à? Cám ơn cậu lắm. Hôm nọ vì thấy ngon, tôi ăn nhiều, đâm ra đau bụng, sau phải nôn ra mới khỏi. Bà ấy ăn cho là may, nếu cứ bỏ đấy cũng phí đi thôi. Tôi chỉ thích ăn hạt dẻ, cậu bóc giùm cho mấy hạt để tôi đi thu dọn giường chiếu đây.

Bảo Ngọc nghe nói tưởng thật, không nghĩ đến chuyện bánh sữa nữa. Bèn lấy hạt dẻ đến gần đèn ngồi bóc. Nhân thấy trong buồng vắng người, Bảo Ngọc cười hỏi Tập Nhân:

– Hôm nay cái người mặc áo đỏ là bà con thế nào với chị?

– Là chị con bà dì tôi đấy.

Bảo Ngọc nghe nói thở dài mấy cái.

Tập Nhân nói:

– Việc gì mà cậu thở dài? Tôi biết bụng cậu rồi. Cậu cho là chị ấy không đáng mặc áo đỏ chứ gì?

Bảo Ngọc cười nói:

– Không phải thế, không phải thế! Người như thế không đáng mặc thì còn ai đáng? Vì tôi trông thấy chị ấy đẹp thật, làm thế nào để chị ấy đến ở với chúng ta thì hay lắm.

Tập Nhân cười nhạt:

– Một mình tôi làm tôi đòi chưa đủ, cậu muốn dắt cả bà con họ hàng tôi vào nữa hay sao? Cậu thì muốn chọn tất cả những người con gái thật đẹp đến ở nhà này ấy?

Bảo Ngọc vội cười nói:

– Chị lại hay đa nghi! Tôi bảo chị ấy đến ở nhà tôi, chứ có phải nhất định đến đây làm tôi đòi đâu; coi chị ấy như họ hàng không được à?

Tập Nhân nói:

– Đâu dám chơi trèo thế.

Bảo Ngọc không nói gì nữa, chỉ bóc hạt dẻ. Tập Nhân cười hỏi:

– Sao không nói chuyện nữa đỉ Chắc vừa rồi tôi nói có điều trái ý cậu. Ngày mai tức khí cậu phí mấy lạng bạc mua họ về là được ngay chứ gì?

Bảo Ngọc cười nói:

– Nói thế còn ai biết trả lời thế nào? Chẳng qua tôi khen chị ấy đẹp, đáng lẽ phải sinh vào nơi cửa cao nhà rộng như ở đây. Trái lại chúng tôi là hạng ô trọc lại được đẻ ở nhà này!

Tập Nhân nói:

– Chị ấy tuy không được may mắn như cậu nói, nhưng cũng được nuôi nấng chiều chuộng. Dượng và dì tôi coi như viên ngọc quí vậy. Năm nay chị ấy mười bảy tuổi, các đồ tư trang đã sắm đủ cả, sang năm sẽ đi lấy chồng.

Bảo Ngọc nghe hai tiếng “lấy chồng”, không nhịn được, lại thở dài, trong bụng áy náy khó chịu. Tập Nhân lại than thở:

– Trong mấy năm nay, chị em mỗi người mỗi ngả, nay tôi đang định xin về, thì họ lại sắp đi cả.

Bảo Ngọc nghe câu nói có ý tứ, giật mình, bỏ ngay hạt dẻ xuống hỏi:

– Vì cớ gì chị lại muốn về?

Tập Nhân nói:

– Hôm nay tôi thấy mẹ tôi và anh tôi bàn với nhau bảo tôi cố ở rốn lại một năm. Sang năm sẽ xin chuộc về.

Bảo Ngọc nghe nói, cuống cả lên hỏi:

– Làm sao lại chuộc chị về?

Tập Nhân nói:

– Cậu hỏi mới lạ chứ? Tôi có phải như những người khác, đời đời làm tôi đòi đâu. Cả nhà tôi ở nơi khác, chỉ có một mình tôi ở đây sao lại để mãi thế được?

– Nhưng tôi không bằng lòng thì chị cũng khó mà về được.

– Xưa nay không có nhẽ nào như thế. Đừng nói nhà cậu, ngay đến trong cung nhà vua cũng có lệ nhất định, mấy năm một lần tuyển, mấy năm một lần thải về, không có nhẽ nào giữ mãi người ta ở lại được.

Bảo Ngọc nghĩ thấy có lý, lại nói:

– Nhưng cụ không cho chị về thì sao?

Tập Nhân nói:

– Tại sao lại không cho tôi về? Nếu quả khó tìm được một người như tôi, cụ và bà Hai có bụng tiếc, cho nhà tôi thêm mấy lạng bạc nữa, giữ tôi ở lại, thì cũng có lý. Nhưng thực ra, tôi cũng chỉ là hạng tầm thường, còn rất nhiều người hơn. Khi bé, tôi theo cụ rồi hầu cô Sử mấy năm, bây giờ đến hầu cậu. Giá nhà tôi đến chuộc, có lẽ không mất tiền chuộc mà nên gia ơn cho tôi về mới phải. Còn bảo rằng tôi hầu cậu khéo, không cho về, thì không bao giờ có chuyện như vậy. Phận sự tôi là phải khéo hầu, chứ nào có công trạng gì. Tôi về thì sẽ có người hầu khéo hơn, đừng sợ vắng tôi không có người làm nổi việc.

Bảo Ngọc nghe vậy, thấy Tập Nhân chỉ muốn về chứ không muốn ở, trong bụng càng bồn chồn, liền nói:

– Chị nói thì đúng đấy, nhưng tôi cứ giữ chị lại, thế nào cụ cũng nói chuyện với bà nhà, và đưa thêm ít tiền, chắc bà cũng không nỡ đón chị về nữa.

Tập Nhân nói:

– Khi nào mẹ tôi dám cưỡng. Đừng kể đến chuyện nói tử tế và cho thêm tiền, dù chẳng bảo gì, chẳng cho đồng nào, cứ bắt tôi ở lại, mẹ tôi cũng không dám trái lệnh. Nhưng nhà ta xưa nay chẳng cậy thần thế ức hiếp bao giờ. Việc này không thể ví với các việc khác được, hễ cậu thích là bỏ nhiều tiền ra mua, người bán hàng không bị thiệt thế là được rồi. Nay vô cớ, giữ tôi lại, đã không ích gì cho cậu, lại làm cho ruột thịt nhà tôi chia lìa nhau. Việc này cụ và bà Hai có nỡ làm không?

Bảo Ngọc nghe xong nghĩ một lúc rồi nói:

– Theo lời chị nói thì chị định đi thật à?

Tập Nhân nói:

– Định đi thật.

Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Không ngờ người thế mà lại bạc tình bạc nghĩa!” Liền than thở:

– Nếu sớm biết ai cũng định đi cả, thì mình chuốc đến đây làm gì. Có lẽ sau này chỉ còn trơ trọi một mình.

Nói xong, bực bội lên giường ngu?

Nguyên khi về nhà, Tập Nhân được tin mẹ và anh muốn chuộc mình về. Tập Nhân nhất định không chịu, nói:

– Ngày trước nhà ta không có bát ăn, chỉ có một mình tôi là đáng giá mấy lạng bạc; nếu không bán tôi đi, để mẹ chết đói, sao cho đành lòng. Bây giờ may mắn tôi được vào nơi này, ăn mặc cũng như chủ nhà, lại không bị đánh hôm chửi mai gì. Vả chăng, cha đã chết rồi, nhà ta lại gây dựng được cơ nghiệp. Ví còn nghèo túng, định chuộc tôi về để kiếm thêm ít tiền, thì đã đành rồi. Nhưng thực ra nhà ta không đến nỗi thế. Vậy định chuộc tôi về làm gì? Cư coi như tôi đã chết rồi là xong, đừng nên nghĩ đến chuyện ấy nữa.

Rồi chị ta khóc lóc một hồi.

Mẹ và anh thấy Tập Nhân cương quyết như thế, tất nhiên là không chịu về. Vả chăng, trong văn tự là bán đứt. Nhưng thấy họ Giả là một nhà từ thiện phúc đức, nếu đến xin nài, có thể không phải mất tiền chuộc. Hai là họ Giả xưa nay ân nhiều uy ít chưa từng hành hạ người nhà bao giờ, bao nhiêu con gái hầu thân trong các phòng đều được biệt đãi, ngay các cô gái nhà thường dân chưa chắc đã được quý trọng bằng. Sau đó Bảo Ngọc đến chơi, sự thân mật giữa họ làm cho hai mẹ con càng thấy rõ như ban ngày, thật là ngoài sức tưởng tượng. Từ đó mọi người yên lòng, không nghĩ đến việc chuộc nữa.

Tập Nhân từ bé thấy Bảo Ngọc tính tình khác thường, cáu kỉnh, ngang bướng khác mọi đứa trẻ. Lại có những nết xấu rất kỳ quặc, không thể nói hết. Lâu nay được bà nuông chiều, bố mẹ không dám ngăn cấm. Bảo Ngọc càng phóng túng dông dài, không thích chăm lo việc chính. Nhiều lúc, Tập Nhân muốn khuyên nhủ, nhưng biết Bảo Ngọc chẳng chịu nghe nào. May sao hôm nay nhân có dịp nhà muốn chuộc mình về, Tập Nhân nói dối để dò ý và ngăn chặn Bảo Ngọc nhụt bớt đi, rồi sẽ tìm cách khuyên răn. Thấy Bảo Ngọc lẳng lặng đi ngủ, biết rằng cậu ta không nỡ dứt tình vơi mình và lòng đang chán nản. Tập Nhân vốn không thích ăn hạt dẻ, nhưng sợ vì một bát bánh sữa mà sinh chuyện, lại như chuyện chén trà của Phiến Tuyết lần trước, nên nói dối là thích ăn, để đánh lảng câu chuyện. Sau đó, chị ta cho bọn a hoàn nhỏ đem đi ăn, rồi đến đánh thức Bảo Ngọc. Thấy Bảo Ngọc nước mắt giàn giụa, Tập Nhân nói:

– Việc gì mà phải đau buồn thế? Nếu cậu thực bụng giữ lại thì khi nào tôi đi!

Bảo Ngọc thấy câu nói ý vị, liền nói:

– Theo như chị nói, thì tôi giữ chị lại làm sao được? Và chính tôi cũng chẳng biết nói thế nào nữa.

Tập Nhân cười:

– Hai chúng ta ngày thường tử tế với nhau, cái đó không cần phải nói. Nhưng cậu muốn giữ tôi ở lại, thì không phải chỉ ở chỗ tử tế với nhau. Tôi đề ra ba việc, cậu có nghe thì mới là thực bụng giữ tôi ở lại, dù dao kề cổ cũng không khi nào tôi đi.

Bảo Ngọc cười:

– Chị nói đi! Những việc gì? Chị Ơi, chẳng cứ ba việc, đến ba trăm việc tôi cũng theo; chỉ mong các chị Ở đây trông nom tôi giữ gìn tôi, khi nào tôi hóa thành tro bay, nhưng tro bay cũng chưa được, vì nó còn dấu vết, còn có tri thức! Phải chờ khi nào tôi hóa thành một làn khói nhẹ, gió thổi một cái là tan ngay, các chị không trông nom được tôi, tôi cũng chẳng đoái hoài đến các chị, lúc ấy tôi cũng vậy, các chị cũng vậy, tha hồ muốn đi đâu thì đi.

Tập Nhân vội vàng bịt mồm Bảo Ngọc lại bảo:

– Khéo lắm! Tôi đang muốn ngăn đi, cậu lại mở miệng nói độc rồi.

– Từ rầy tôi không nói thế nữa.

– Đấy là điều thứ nhất cậu cần phải đổi ngay.

– Xin đổi. Nếu tôi nói nữa thì chị cứ vả vào mồm tôi! Còn việc gì nữa không?

– Còn việc thứ hai: cậu thực lòng thích học hay giả vờ cũng mặc, nhưng không nên chê bai bừa bãi trước mặt ông nhà và mọi người. Cậu nên làm ra dáng chăm học để ông nhà đỡ bực mình và nên lựa lời nói khéo lấy lòng người tạ Trong bụng ông thường nghĩ nhà ta đời đời đọc sách, không ngờ từ khi có cậu, không những biếng học, làm cho ông buồn bực, lại khi vắng mặt người ta thì cậu hay chê bai nhảm nhí. Những người đọc sách để tìm đường tiến thủ, cậu đều đặt cái tên riêng cho họ như “con mọt ăn lộc”. Cậu lại nói, trừ mấy chữ “minh minh đức” ra, thì không còn sách nào nữa, toàn là do ý nghĩ nhảm nhí của người trước biên chép ra. Nói như thế tránh sao ông chả giận, chả muốn đánh cậu?

Bảo Ngọc cười nói:

– Thôi, không nói thế nữa. Đó là lúc tôi còn bé, không biết trời cao đất dày, quen miệng nói nhảm. Từ giờ tôi không dám nói những câu ấy nữa. Còn việc gì nữa không?

Tập Nhân nói:

– Cậu không được chế nhạo tăng đạo, không được chơi hoa chơi phấn. Điều cần nhất là không được ăn những sáp non đã đánh ở trên môi người ta, và những nết tính xấu như ưa thích màu hồng.

– Xin chừa hết, xin chừa hết. Còn việc gì nữa nói nết ra.

– Chẳng còn gì nữa, chỉ cần mọi việc, cậu phải suy nghĩ cẩn thận, không được làm liều là được rồi. Nếu cậu quả thực nghe theo những lời tôi khuyên, thì dù đem kiệu tám người khiêng đến, cũng không thể rước nổi tôi ra khỏi nhà này.

Bảo Ngọc cười nói:

– Chị cứ ở đây, cũng có lúc ngồi kiệu tám người khiêng.

Tập Nhân cười nhạt:

– Cái đó tôi chẳng thèm khát gì. Có phúc mà không có đức thì dù được ngồi kiệu cũng chẳng thú gì.

Hai người đương nói chuyện, thấy Thu Văn đến giục:

– Canh ba rồi, nên đi ngủ thôi. Vừa rồi cụ sai người sang hỏi, tôi trả lời cụ đã ngủ rồi.

Bảo Ngọc lấy đồng hồ xem thì kim đã trỏ giờ tý hai khắc, bấy giờ mới bắt đầu rửa mặt súc miệng, cởi áo đi nằm.

Sáng hôm sau, Tập Nhân dậy, thấy người khó chịu, đầu nhức, mắt hoa, chân tay nóng nực, lúc đầu còn cố, sau không gượng nổi, chỉ thích ngủ, bèn để nguyên cả áo nằm xoài trên giường. Bảo Ngọc vội trình Giả mẫu cho mời thầy xem mạch.

Thầy thuốc nói bị cảm lạnh, uống một vài thang phát tán sẽ khỏi. Rồi kê đơn sai người đi lấy thuốc về sắc. Bảo Ngọc dặn Tập Nhân uống xong phải trùm chăn cho ra mồ hôi. Sau đó Bảo Ngọc đến thăm Đại Ngọc.

Đại Ngọc đương nằm ngủ trưa. Bọn a hoàn đi chơi cả. Trong nhà im lặng như tờ. Bảo Ngọc vén rèm thêu vào, lay Đại Ngọc dậy, nói:

– Cô em vừa ăn xong đã đi ngủ à?

Đại Ngọc tỉnh dậy, thấy Bảo Ngọc, nói:

– Anh hãy ra ngoài chơi. Đêm qua tôi thức cả đêm, hôm nay chưa được nghỉ, đau nhừ cả người.

Bảo Ngọc nói:

– Đau mình là sự thường, chứ ăn mà ngủ ngay, thì thành bệnh tọ Tôi sẽ làm cho cô em đỡ buồn, để quên ngủ thì hơn.

Đại Ngọc cứ nhắm mắt, nói:

– Tôi không ngủ, chỉ nằm nghỉ một lát, anh hãy ra ngoài chơi, chốc nữa sẽ đến.

Bảo Ngọc nói:

– Tôi đi đâu bây giờ?

Đại Ngọc phì cười, rồi nói:

– Nếu muốn ở lại đây, thì sang bên kia ngồi nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ nói chuyện.

– Tôi cũng muốn ngả lưng.

– Thì anh cứ ngả lưng.

– Nhưng không có gối. Chúng ta gối chung một gối vậy.

– Bậy nào! Ở ngoài kia chẳng có gối là gì? Mang một cái đến mà gối.

Bảo Ngọc ra bên ngoài, nhìn một lượt rồi quay vào nói:

– Cái gối kia tôi không cần, không biết đó là gối của mụ già nào mà bẩn thế!

Đại Ngọc nghe nói, trừng mắt đứng dậy nói:

– Anh thực là sao “thiên ma” trong lá số của tôi. Đây xin mời gối cái gối này.

Nói xong, Đại Ngọc đưa cái gối của mình cho Bảo Ngọc, rồi lấy cái gối khác để gối. Hai người nằm đối diện nhau.

Đại Ngọc nhìn thấy bên má trái Bảo Ngọc có một nốt đỏ bằng cái khuya áo, liền xích lại gần lấy tay xoa kỹ xem rồi nói:

– Đã bị móng tay ai cào sứt ra đây?

Bảo Ngọc nằm nghiêng lại, cười nói:

– Chẳng có ai cào cả. Có lẽ lúc nãy lọc sáp cho họ bị sáp bắn lên một giọt.

Nói xong tìm khăn để lau. Đại Ngọc lấy khăn lụa của mình lau hộ, và chép miệng:

– Anh lại làm những trò ấy à? Làm thì đã đành rồi, nhưng cũng cần phải giấu đi. Dù cậu không thấy, nhưng nếu người khác thấy thì họ cho là một việc lạ lùng quái gở, sẽ kháo ầm lên, đến tai cậu thì chẳng ai yên được đâu.

Nhưng Bảo Ngọc chẳng nghe gì cả, chỉ ngửi thấy mùi thơm ở trong tay áo Đại Ngọc đưa ra, làm Bảo Ngọc tâm hồn mê mẩn, liền kéo tay áo Đại Ngọc xem trong ấy đeo thứ hương gì. Đại Ngọc cười nói:

– Đương buổi trưa này ai đeo hương làm gì?

– Thế thì mùi thơm này ở đâu ra?

– Tôi cũng không biết, hay là mùi hương ở trong hòm áo.

Bảo Ngọc lắc đầu:

– Chưa chắc. Mùi hương này lạ lắm, không giống như mùi hương bánh, hương quả cầu và hương trong túi đâu.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Làm gì có vị La Hán chân nhân nào đem cho tôi những mùi hương lạ ấy? Dù có chăng nữa, cũng chẳng có anh em ruột thịt nào lấy hoa, lấy nhụy, lấy sương, lấy tuyết chế ra cho tôi. Tôi chỉ có những thứ hương phàm tục thôi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Hễ tôi nói một câu, là em lại sinh sự bắt bẻ. Nếu không trị cho em một phen đáo để thì em không biết tay, từ giờ không tha thứ nữa đâu.

Nói xong, giơ hai tay lên, lấy ngón tay cù vào hai bên cạnh sườn Đại Ngọc. Đại Ngọc có máu buồn, thấy Bảo Ngọc giơ tay muốn cù thì cười giốc lên:

– Anh Bảo Ngọc, anh đùa nữa tôi giận đấy.

Bảo Ngọc mới dừng tay lại cười hỏi:

– Còn nói thế nữa thôi?

Đại Ngọc cười nói:

– Không dám nói nữa ạ.

Rồi vén tóc cười:

– Tôi có mùi “hương lạ” thì anh có mùi “hương ấm” không? 2

Bảo Ngọc nghe không hiểu, hỏi:

– Thế nào là “hương ấm”?

Đại Ngọc cười nói:

– Ngu quá! Anh có ngọc thì người ta có vàng để sánh đôi, thế mà người ta có “hương lạnh”, anh lại không có “hương ấm” à?

Bảo Ngọc mới nghe ra, cười nói:

– Vừa mới xin lỗi, đã lại nói kháy rồi.

Nói xong, lại chực giơ tay cù.

Đại Ngọc cười:

– Anh ơi! Tôi không dám thế nữa!

Bảo Ngọc cười nói:

– Tha cho em cũng dễ thôi, nhưng phải đưa tay áo cho tôi ngửi.

Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc trùm vào mặt ngửi mãi. Đại Ngọc giật tay nói:

– Thôi anh nên về đi.

Bảo Ngọc cười:

– Tôi không về đâu. Chúng ta cùng nằm tử tế nói chuyện với nhau.

Bảo Ngọc lại nằm ngả mình xuống. Đại Ngọc cũng nằm, lấy khăn lụa che mặt.

Bảo Ngọc thỉnh thoảng lại giở những chuyện vớ vẩn ra nói. Đại Ngọc đều không để ý. Bảo Ngọc hỏi Đại Ngọc: Khi đến kinh bao nhiêu tuổi? Đi đường thấy nhưng phong cảnh gì? Dương Châu có những cổ tích gì? Phong tục ở đấy thế nào? Đại Ngọc đều không trả lời. Bảo Ngọc chỉ sợ Đại Ngọc ngủ rồi sinh ốm, bên nói lừa:

– Ái chào! Ở trong thành Dương Châu, có một việc to lớn, em có biết không?

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc nói vẻ trịnh trọng, nghiêm nghị, tưởng là chuyện thực, bèn hỏi việc gì? Bảo Ngọc nín cười nói:

– Dương Châu có một ngọn Đại sơn, trên núi có động Lâm Tử.

Đại Ngọc cười nói:

– Đó là bày chuyện nói nhảm, xưa nay chẳng nghe thấy cái tên núi ấy bao giờ.

– Thiên hạ núi sông rất nhiều, em biết thế nào hết được, để tôi nói xong đã sẽ bình phẩm.

– Thế thì nói đi.

– Nguyên trước đây động Lâm Tử có một đàn chuột già đã thành tinh. Năm ấy vào ngày mùng bảy tháng chạp, một con chuột già lên ngồi trên cao truyền phán công việc: “Ngày mai là mồng tám tháng chạp, người ta đều nấu cháo “lạp bát”. Nay trong động ta đương thiếu hoa quả, đồ ăn. Nhân dịp này chúng ta đi kiếm lấy mấy thứ. Nói rồi liền rút một cái lệnh tiễn, sai một con chuột nhỏ thạo việc đi thăm dò các nơi. Sau đó con chuột nhỏ về báo: “Đã đi thăm dò các nơi rồi, chỉ có một ngôi miếu ở dưới núi là có nhiều hoa quả và thóc gạo”. Con chuột già hỏi: “Gạo, quả có mấy thứ?” Chuột nhỏ thưa: “Gạo, đậu hàng kho; quả có năm thứ: một là táo đỏ, hai là hạt dẻ, ba là lạc, bốn là củ ấu, năm là khoai thơm”. Chuột già nghe nói mừng lắm, rút một cái lệnh tiễn, hỏi: “Ai đi ăn trộm gạo?” Một con nhận lệnh đi. Lại rút một cái lệnh tiễn nữa hỏi: “Ai đi ăn trộm đậu?” Con khác nhận lệnh đi. Rồi hai con nữa đều nhận lệnh tiễn đi làm việc. Còn khoai thơm, chuột già rút lệnh tiễn ra hỏi: “Ai đi ăn trộm?” Có con chuột bé nhỏ, yếu đuối nhất chạy ra xin đi. Chuột già và các chuột khác thấy nó yếu đuối, sợ không quen việc, không cho đi. Nó nói: “Tôi tuy nhỏ yếu, nhưng pháp thuật rất mầu nhiệm, ăn nói linh lợi, có mưu sâu sắc, đi chuyến này chắc tôi ăn trộm tài hơn cả”. Một con khác hỏi làm thế nào mà cho là tài? Chuột con nói: “Tôi không ăn trộm đường hoàng như bọn kia. Tôi chỉ quay mình một cái biến thành củ khoai thơm, rồi lẩn vào trong đống khoai. Không ai nhận ra. Sau tôi khe khẽ khuân ra và dần dần khuân hết cả đống. Thế chẳng tài hơn bọn kia cứ trơ tráo đi ăn trộm hay sao?” Những con chuột kia đều nói: “Giỏi đấy, nhưng cách biến thế nào? Làm thử cho chúng ta xem nào?” Chuột con nghe rồi cười nói: “Việc ấy khó gì. Tôi biến cho mà xem”. Nói xong nó quay mình biến ngay thành một cô con gái rất đẹp. Mấy con chuột khác vội cười nói: “Nhầm rồi! Nhầm rồi! Trước nói biến thành củ khoai thơm, sao lại biến thành một cô gái?” Con chuột con trở lại nguyên hình cười nói: Chúng bay không biết rõ chuyện đời! Chỉ biết củ ấy là củ khoai thơm, mà không biết cô gái nhà cụ Lâm mới chính là “ngọc thơm” đấy!” 3

Đại Ngọc nghe nói, vùng ngay dậy, dí tay vào người Bảo Ngọc cười nói:

– Cái anh toét miệng này! Tôi biết ngay rằng anh lại đặt điều chế nhạo tôi mà!

Nói xong Đại Ngọc lại véo miệng Bảo Ngọc, Bảo Ngọc liền kêu van:

– Em ơi! tha cho tôi, tôi không dám thế nữa! Vì ngửi thấy mùi thơm của em, chợt nhớ đến chuyện cổ tích ấy.

Đại Ngọc cười nói:

– Tha hồ mắng người ta, rồi anh lại bảo là chuyện cổ tích!

Đương nói chuyện thì Bảo Thoa đến, cười hỏi:

– Ai nói chuyện cổ tích, cho tôi nghe với.

Đại Ngọc vội mời Bảo Thoa ngồi rồi cười nói:

– Chị xem đấy, còn ai nữa? Anh ấy mắng tôi, lại còn nói là chuyện cổ tích.

Bảo Thoa cười:

– A, thế ra cậu Bảo đấy à? Lạ nhỉ! Xưa nay cậu ấy nhớ rất nhiều chuyện cổ, nhưng chỉ tiếc có một điều: lúc đáng dùng điển cổ thì cậu ấy lại quên. Hôm nay nhớ được thì đêm hôm nọ làm bài thơ “ba tiêu” cũng phải nhớ chứ? Thế mà truyện ngay trước mắt cũng nghĩ mãi không ra. Lúc đó người ta thì rét run không chịu được, mà cậu ấy thì đổ mồ hôi ra. Bây giờ sao trí nhớ lại tốt thế!

Đại Ngọc cười nói:

– A di đà phật! Chị thực đáng là bậc chị của tôi! Giờ cậu Bảo mới gặp tay đối thủ. Thế mới biết rằng sự báo ứng không sai chút nào.

Họ nói chuyện đến đây, nghe thấy bên phòng Bảo Ngọc có tiếng cãi cọ ầm lên.

1      Tập Nhân họ Hoa (xem hồi 3).

2      Đại Ngọc nói bóng nói gió, nhắc đến “lãnh hương hoan” của Bảo Thoa (xem hồi thứ 7) có nghĩa là “hương lạnh” nên Đại Ngọc dùng nghĩa trái là “hương ấm”.

3      Theo chữ Trung Quốc: “khoai thơm”, “ngọc thơm” đều đọc giống nhau.

_________________

Chương 20: Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông – ọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt

Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông

Đại Ngọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt

Bảo Ngọc đang ở trong buồng Đại Ngọc nói chuyện con chuột, chợt Bảo Thoa đến chế Bảo Ngọc về việc tiết nguyên tiêu vừa rồi không nhớ điển “Lục lạp”. Ba người ngồi cười đùa chế giễu lẫn nhau. Bảo Ngọc sợ Đại Ngọc ăn xong đi ngủ ngay, lỡ ra không tiêu, hoặc đêm không ngủ được sẽ sinh bệnh. May có Bảo Thoa đến chơi, cùng nhau cười đùa làm cho Đại Ngọc không buồn ngủ nữa. Bấy giờ Bảo Ngọc mới yên lòng. Chợt bên buồng Bảo Ngọc có tiếng om sòm, mọi người lắng tai nghe. Đại Ngọc cười nói:

– Thôi lại bà vú của anh cãi nhau với Tập Nhân rồi. Tập Nhân đối với bà ấy vẫn tử tế, mà bà ấy cứ quát mắng luôn, thế mới biết là già hay trái tính.

Bảo Ngọc muốn chạy về, Bảo Thoa kéo lại nói:

– Không nên lôi thôi với bà ấy, già hay lẩm cẩm, nhịn đi một tí là hơn.

– Biết rồi.

Nói xong Bảo Ngọc chạy về, thấy vú Lý đương chống gậy đứng mắng Tập Nhân:

– Con đĩ ranh này vô ơn, công tao cất nhắc mày lên, nay tao đến đây, mày lại làm bộ làm tịch, nằm ngửa trên giường, không thèm chào hỏi một câu. Mày là giống cáo thành tinh, chỉ tìm cách cám dỗ Bảo Ngọc để nó nghe mày không nhìn đến tao. Mày chẳng qua là con hầu nhỏ mua bằng mấy lạng bạc mốc đem về đây. Thế mà mày đã sinh yêu sinh quái ở nhà này! Liệu hồn đấy! Tao thì lôi cổ mày ra đem gả cho một thằng ranh con nào đấy, xem mày còn giở thói yêu tinh cám dỗ Bảo Ngọc nữa thôi!

Tập Nhân chỉ tưởng vú Lý cáu vì vú vào mà mình nằm lỳ không dậy, nên phân trần: “Vì tôi ốm, phải trùm đầu cho ra mồ hôi, nên khi u vào tôi không trông thấy”. Sau nghe thấy những câu “cám dỗ Bảo Ngọc”, “gả cho thằng ranh con”, thì vừa xấu hổ, vừa ức, khóc òa lên.

Bảo Ngọc nghe thấy vậy, rất khó chịu nhưng không biết làm thế nào, đành phân trần hộ Tập Nhân: “Ốm đang uống thuốc… Nếu u không tin, cứ hỏi a hoàn khắc biết.”

Vú Lý nghe thấy thế, lại càng làm già:

– Cậu chỉ biết bênh con ranh ấy, còn chả biết tôi là ai nữa? Tôi biết hỏi ai? Bây giờ ai chẳng vào hùa với cậu, chẳng bị con Tập Nhân nó cám dỗ? Tôi biết hết cả rồi. Tôi với cậu hãy đến phân trần trước mặt cụ và bà Hai: vì có sữa tôi, cậu mới lớn được thế này, nay không cần bú nữa, cậu gạt tôi ra một xó, dung túng bọn con hầu khinh rẻ tôi!

Vú Lý vừa nói vừa khóc.

Bấy giờ Đại Ngọc, Bảo Thoa cũng đến khuyên ngăn:

– Thôi u rộng lượng tha thứ cho họ.

Vú Lý thấy họ đến, liền kể lể hết nỗi uất ức bấy nay: nào chuyện uống nước trà, Phiến Tuyết bị đuổi, chuyện ăn bánh sữa hôm quạ Nói lải nhải mãi không dứt. May sao lúc ấy Phượng Thư đang ở trong buồng tính sổ, nghe thấy tiếng ồn ào ở phía sau, biết là vú Lý già giở chứng, gắt mắng a hoàn của Bảo Ngọc, lại gặp hôm thua bạc, cáu lây sang cả người khác. Phượng Thư liền chạy sang ngay, kéo tay vú Lý cười nói:

– U đừng nóng tính thế! Nhà vừa mới có tiệc mừng xong, cụ mới vui vẻ được ít ngày. U là bậc có tuổi, người nào làm rầm rĩ u ngăn cấm đi mới phải, lẽ nào chính u lại không giữ phép tắc la hét ầm nhà, làm cho cụ bực mình. Ai hỗn với u, tôi sẽ đánh nó chọ Bên nhà tôi mới nấu thịt chim trĩ còn nóng, mời u sang uống rượu với tôi.

Phượng Thư vừa nói vừa dắt vú Lý đi, lại gọi “Phong Nhi! Mang gậy và lấy khăn lau mặt cho vú Lý!”

Vú Lý thất thểu theo Phượng Thư đi ra, còn ngoái cổ lại:

– Tao già rồi, chẳng cần gì nữa. Hôm nay tao liều, chẳng giữ phép tắc, làm rầm rĩ một phen, dù có mất thể diện cũng còn hơn chịu tức khí với con đĩ kia!

Bảo Thoa, Đại Ngọc thấy Phượng Thư dàn xếp như thế đều vỗ tay cười:

– Nhờ có trận gió nào mới lôi được mụ ấy đi.

Bảo Ngọc lắc đầu:

– Không hiểu cái nợ ấy từ đâu đến, cứ nhè vào người hiền lành mà bắt nạt. Cũng không biết cô nào cứ hay gây chuyện, để mụ ấy làm ầm lên.

Tình Văn đứng cạnh nói:

– Ai có hóa rồ mà gây chuyện với mụ ấy? Đã gây chuyện thì có gan nhận, cần gì để liên lụy đến người khác.

Tập Nhân vừa khóc vừa kéo tay Bảo Ngọc:

– Tôi đã có lỗi với vú ấy, cậu lại vì tôi mà có lỗi với người tạ Việc này một mình tôi chịu cũng chưa đủ hay sao? Lại còn lôi người khác vào!

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân đương ốm lại thêm buồn bực, nên cố nhịn, và an ủi Tập Nhân, bảo đi ngủ cho ra mồ hôi. Lại thấy người Tập Nhân nóng ran như lửa, Bảo Ngọc liền ngồi ghé bên cạnh khuyên giải Tập Nhân tĩnh dưỡng, không nên nghĩ vơ vẩn những việc không đâu. Tập Nhân cười nhạt:

– Vì những việc như thế mà bực tức, thì liệu có ai ở được nhà này một giờ không? Nhưng ngày tháng còn dài, nếu lúc nào cũng ầm ỹ như thế này, ai còn chịu nổi? Ngày thường tôi vẫn khuyên cậu chớ nên vì chúng tôi mà mang lỗi với người, nhưng có đôi lúc cậu không chú ý đến, thành ra họ nhớ mãi, gặp dịp sơ hở là họ nói ra những giọng khó nghe, như thế còn ra gì nữa?

Tập Nhân vừa nói vừa ứa nước mắt, nhưng lại sợ Bảo Ngọc buồn, nên phải cố nén đi. Một chốc, bà già bưng đến nước thuốc thứ hai. Bảo Ngọc thấy Tập Nhân mới ra mồ hôi, không muốn gọi dậy, tự tay mang thuốc đến cạnh gối cho uống. Rồi sai bọn a hoàn nhỏ sửa soạn giường chiếu. Tập Nhân hỏi:

– Cậu ăn cơm chưa? Hãy sang bên cụ hay bên bà ngồi chơi với chị em một chốc rồi lại về đây, cho tôi nằm nghỉ một lúc.

Bảo Ngọc nghe lời, chờ cho Tập Nhân tháo trâm vòng, nằm nghỉ, rồi mới lên nhà trên ăn cơm với Giả mẫu. Ăn xong, Giả mẫu muốn đánh bài với bọn vợ quản gia. Bảo Ngọc nhớ đến Tập Nhân, lại về buồng ngaỵ Thấy Tập Nhân đã ngủ say, Bảo Ngọc cũng muốn đi ngủ, nhưng trời còn sớm. Bấy giờ bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Thu Văn, Bích Ngân đều đi tìm trò chơi với Uyên Ương và Hổ Phách. Chỉ còn trơ Xạ Nguyệt ngồi đánh bài một mình ở gian nhà ngoài. Bảo Ngọc cười hỏi:

– Sao chị không đi chơi với họ.

– Không có tiền.

– Tiền để ở dưới gầm giường, không đủ cho chị đánh à?

– Đi chơi cả, nhà để ai trông? Một người ốm nằm đấy, trên thì đến, dưới thì lửa, các bà già vất vả suốt ngày, cũng nên để cho họ đi nghỉ; bọn a hoàn nhỏ cũng phải hầu hạ cả ngày, không cho họ đi chơi một lúc hay sao? Vì thế tôi phải ở nhà.

Thật rõ ràng là lời lẽ của Tập Nhân thứ hai, Bảo Ngọc liền cười nói:

– Giờ tôi ngồi ở đây, chị cứ yên tâm đi chơi.

Xạ Nguyệt nói:

– Cậu đã ở nhà thì tôi càng không cần phải đi nữa. Hai chúng ta nói chuyện với nhau chẳng hơn ư?

Bảo Ngọc nói:

– Chúng ta làm gì bây giờ? Cũng chẳng có chuyện gì. Thôi vậy, sớm hôm nay tôi thấy chị nói ngứa đầu, bây giờ rỗi, tôi chải đầu cho chị nhé.

Xạ Nguyệt nói:

– Cũng được.

Rồi mang hộp gương đến, tháo bỏ trâm vòng. Xạ Nguyệt rũ đầu ra cho Bảo Ngọc lấy lược chải. Mới chải được mấy cái, thì Tình Văn ở đâu chạy về lấy tiền. Trông thấy thế, Tình Văn cười nhạt:

– Kìa, chưa uống rượu giao bôi đã gỡ tóc cài trâm 1 cho nhau rồi?

Bảo Ngọc cười:

– Chị lại đây tôi chải cho luôn một thể?

Tình Vănnói:

– Chả dám. Tôi kém phúc lắm.

Nói xong, lầy tiền rồi bỏ rèm xuống đi ra.

Bảo Ngọc ngồi sau Xạ Nguyệt, Xạ Nguyệt soi gương. Hai người nhìn nhau ở trong gương cùng cười. Bảo Ngọc cười nói:

– Trong nhà này, chỉ có nó là lắm điều nhất.

Xạ Nguyệt vội xua tay ở trong gương. Bảo Ngọc biết ý. Chợt nghe tiếng rèm “xoạt” một cái, Tình Văn chạy vào hỏi:

– Thế nào là lắm điều? Nói ra cho rõ?

Xạ Nguyệt cười nói:

– Thôi cút đi, lại đến đây định vặn nhau à?

Tình Văn cười nói:

– Mày lại bênh cậu ấy à? Các người giở trò ma quỷ, tưởng đây không biết hay sao? Để tôi đi đánh gỡ vốn đã, rồi trở về sẽ bảo cho.

Nói xong, chạy một mạch.

Bảo Ngọc chải đầu cho Xạ Nguyệt xong, khẽ bảo sửa soạn cho mình đi ngủ, đừng làm Tập Nhân thức dậy.

Đêm hôm ấy, Tập Nhân ra được mồ hôi. Thấy người nhẹ đi. Sáng hôm say chỉ uống nước cháo và nằm tĩnh dưỡng. Lúc đó, Bảo Ngọc mới yên lòng. Ăn cơm xong, Bảo Ngọc sang chơi bên Tiết phu nhân.

Bấy giờ vào giữa tháng giêng, nhà trường còn nghỉ học, trong khuê các còn kiêng thêu thùa may vá, nên ai cũng rỗi cả. Giả Hoàn cũng sang đấy chơi. Gặp lúc Bảo Thoa, Hương Lăng và Oanh Nhi đương đánh xúc xắc, hắn cũng muốn đánh. Ngày thường Bảo Thoa coi hắn cũng như Bảo Ngọc, không phân biệt gì; nay thấy hắn muốn đánh, nên mời chơi một chân. Mỗi cuộc mười đồng. Cuộc đầu hắn được, trong bụng hí hởn lắm; ngờ đâu về sau hắn thua luôn mấy lần, đâm cuống. Lần này đến lượt hắn gieo xúc xắc, nếu gieo con “thất” thì được cả, con “lục” cũng được, trúng con “tam” thì thuạ Hắn cầm con xúc xắc gieo xuống thật mạnh, một con đã ngửa mặt “ngũ”, một con nữa còn quay tít. Oanh Nhi vỗ tay nói “yêu”. Giả Hoàn trừng mắt lên nói luôn: “lục”, “thất”, “bát”. Nhưng sao con xúc xắc lại ngửa mặt “yêu”. Giả Hoàn vội giơ tay nắm lấy con xúc xắc, chực vơ lấy tiền, nói là con “lục”.

Oanh Nhi nói:

– Rõ ràng là con “yêu”.

Bảo Thoa thấy Giả Hoàn cáu kỉnh, vội lườm Oanh Nhi một cái nói:

– Càng lớn càng không có phép tắc! Có lẽ nào các cậu lại nói dối? Sao mày không bỏ tiền xuống?

Oanh Nhi trong bụng rất ức, nhưng thấy Bảo Thoa nói thế không dám cãi lại, đành bỏ tiền xuống, càu nhàu:

– Đã là cậu mà lại còn ăn gian mấy đồng tiền của chúng tôi. Số tiền đó chúng tôi cũng chẳng coi vào đâu. Hôm nọ chơi với cậu Bảo Ngọc, cậu ấy thua mà chẳng thấy gắt gỏng gì, thừa đồng nào là đám a hoàn nhỏ cướp hết, cậu ấy cũng chỉ cười thôi.

Bảo Thoa liền ngắt lời không cho nó nói nữa.

Giả Hoàn nói:

– Tao bì thế nào được với cậu Bảo Ngọc? Chúng bay sợ cậu ấy, nên đều tử tế với cậu ấy và cho tao không phải là con đẻ của bà Hai, nên ai cũng khinh rẻ tao!

Nói xong khóc ầm lên.

Bảo Thoa vội khuyên giải:

– Em ơi! Đừng nói thế, người ta cười cho.

Rồi quay lại mắng Oanh Nhi.

Vừa lúc đó Bảo Ngọc chạy đến, trông thấy, hỏi:

– Làm sao thế?

Giả Hoàn không dám nói câu gì. Bảo Thoa xưa nay vẫn biết gia pháp nhà này, làm em thì phải sợ anh. Nhưng biết đâu Bảo Ngọc lại không muốn ai sợ mình. Trong bụng nghĩ: “Đã có bố mẹ dạy bảo, việc gì ta phải lắm chuyện khiến anh em xa nhau. Vả lại ta là con vợ cả, nó là con vợ lẽ, ta đối với nó nghiêm khắc thì người ngoài chê cười, ta còn cai quản thế nào được nó”. Hơn nữa, Bảo Ngọc còn có một ý nghĩ ngây ngộ Độc giả có biết ngây ngô thế nào không? Vì Bảo Ngọc từ bé luôn luôn ở chung với đám chị em, chị em ruột thì có Nguyên Xuân, Thám Xuân; chị em thúc bá thì có Nghênh Xuân, Tính Xuân; chị em ngoại thì có Tương Vân, Đại Ngọc, Bảo Thoa; Bảo Ngọc cho rằng, người thiêng hơn cả vạn vật, bao nhiêu tinh hoa trong sạch của trời đất, đều chung đúc vào con gái, bọn con trai chỉ là hạng cặn bã bẩn đục mà thôi. Vì thế, cậu ta cho tất cả con trai là hạng thô tục có cũng được, không cũng chằng sao. Chỉ vì theo lời dạy của Khổng Tử, thánh hiền bậc nhất thời xưa, đã nói về cha, chú, anh em, một điều không thể trái ngược, nên giữa anh em với nhau, chẳng qua phải ở cho có tình có lý. Cậu ta cũng chẳng nghĩ gì mình là anh trai, phải làm gương cho lũ đàn em. Do đó Giả Hoàn không sợ Bảo Ngọc, chỉ sợ Giả mẫu không bằng lòng, nên cũng nể phần nào thôi.

Bảo Thoa lại sợ Bảo Ngọc trách mắng Giả Hoàn đâm ra cụt hứng, nên tìm cách che đậy hộ hắn. Bảo Ngọc nói:

– Đầu giêng năm mới, sao mày lại khóc? Chỗ này không thích thì mày đi chơi chỗ khác. Mày ngày nào cũng đọc sách mà còn vơ vẩn như thế. Thí dụ, cái này mày không thích, thì đã có cái kia, mày cứ bỏ cái này đi mà chơi cái kia. Tội gì mày cứ khư khư giữ mãi cái ấy? Khóc liệu có ăn thua gì? Chơi cất lấy vui, mà lại hóa ra chuốc lấy cái buồn? Sao mày không đi chỗ nào cho yên chuyện?

Giả Hoàn nghe nói đành phải bỏ về.

Dì Triệu trông thấy, hỏi dồn:

– Chắc lại bị người ta bắt nạt ở đâu rồi về đấy chứ gì?

Giả Hoàn đáp:

– Tôi chơi với chị Bảo, bị Oanh Nhi ăn gian tiền, rồi anh Bảo Ngọc đuổi tôi về.

Dì Triệu mắng:

– Ai bảo mày chơi trèo? Đồ khốn nạn! Đồ mặt dày! Chỗ nào mày chơi chả được, sau lại cứ cắm đầu sang đấy?

Đương nói, Phượng Thư đi qua ngoài cửa sổ nghe thấy, nói với vào:

– Đầu giêng năm mới, sao dì lại thế? Em nó còn trẻ, có điều gì nhầm lẫn thì dì dạy bảo, sao dì lại giở những giọng ấy rả Dù nó thế nào chăng nữa, đã có ông và bà cai quản, sao lại ngoạc cái mồm ra mắng nó? Nó là cậu ấm, đã có người dạy bảo, việc gì đến dì? Em Hoàn, em ra đây theo ta đi chơi!

Giả Hoàn xưa nay vẫn sợ Phượng Thư hơn là sợ Vương phu nhân, nghe thấy gọi, vội chạy ra ngaỵ Dì Triệu cũng chẳng dám nói câu gì. Phượng Thư bảo Giả Hoàn:

– Mày là hạng người không có khí phách gì cả. Ta thường bảo mày muốn ăn, muốn uống, muốn chơi gì tùy ý, trong các anh, các chị, ưa người nào thì chơi với người ấy, mày không nghe lời, lại cứ đi nghe hạng người bậy bạ, ranh mãnh. Mình không biết tự trọng mình, chỉ theo lối hạ lưu bừa bãi, lại còn oán người ta đối đãi thiên lệch với mình. Thua có mấy đồng mà đến nỗi thế à? Thua hết bao nhiêu?

Giả Hoàn nói:

– Em thua hết một vài trăm đồng tiền.

Phượng Thư mắng:

– Cũng mang tiếng là cậu ấm, mới thua một hai trăm đồng mà đã thế à!

Rồi quay lại bảo Phong Nhi:

– Đi lấy một quan tiền ra đây. Các cô đương chơi ở đường sau kia, đưa cậu ra đấy chơi.

Lại quay bảo Giả Hoàn:

– Từ rầy mày còn giữ lối quỉ quái như thế, ta sẽ đánh trước rồi mách bên trường học cho người ta lột da ra! Vì mày không biết tự trọng, nên anh Bảo giận mày lắm. Nếu tao không can thì anh mày đã đá cho mày lòi ruột ra rồi. Thôi! Cút đi!

Giả Hoàn vâng vâng dạ dạ, theo Phong Nhi lấy tiền rồI ra chỗ bọn Nghênh Xuân chơi.

Bảo Ngọc đương ngồi chơi với Bảo Thoa, chợt thấy ngườI nói: “Cô Sử đã đến”. Bảo Ngọc chực chạy đi ngaỵ Bảo Thoa cười nói:

– Hãy chờ một tí, chúng ta cùng đến thăm cô ta một thể.

Nói xong, xuống giường cùng Bảo Ngọc đến chỗ Giả mẫu.

Sử Tương Vân đương cười cười, nói nói, thấy họ đến, vộI đứng dậy chào.

Đại Ngọc ngồi bên cạnh, hỏi Bảo Ngọc:

– Anh ở đâu về đấy?

– Đến thăm chị Bảo về.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Em đã nói mà, nếu không vướng mắc ở đâu thì đã bay đến ngay rồi.

– Thế tôi chỉ được ở nhà chơi đùa với cô em để cô em đỡ buồn thôi ư? Vừa mới sang bên ấy một lúc mà đã nói những câu ấy.

– Khéo vớ vẩn chưa! Đi hay không có liên can gì đến tôi? Ai khiến anh ở nhà để cho tôi đỡ buồn? Từ giờ trở đi, không cần anh để ý đến tôi nữa.

Nói xong, giận dỗi trở về buồng.

Bảo Ngọc vội chạy theo hỏi:

– Đang tử tế mà lại đâm ra giận dỗi rồi. Dù tôi có lỡ lời, em cũng nên ngồi chơi một lúc nói chuyện cho vui. Việc gì lại chuốc nỗi buồn vào người!

– Anh cấm đoán tôi à?

– Tôi nào dám cấm đoán em. Chỉ là em tự giày vò thân em đấy thôi!

– Tôi tự giày vò thân tôi! Tôi chết kệ tôi, có việc gì đến anh?

– Sao lại thế? Đầu giêng năm mới, cứ nói “chết” với “sống” mãi!

– Tôi chỉ nói “chết” thôi! Phen này tôi chết đấy! Anh sợ chết thì cứ sống đến trăm tuổi, có được không?

– Cứ rắc rối mãi thế này, tôi lại sợ chết à? Thà chết đi cho yên chuyện!

– Phải đấy, cứ rắc rối mãi thế này, thì thà chết hết đi cho yên chuyện!

– Tôi nói là tôi chết cho yên chuyện, em đừng nghe nhầm lại đổ oan cho tôi.

Hai người đương nói với nhau, thì Bảo Thoa chạy đến nói:

– Cô Sử đương chờ cậu đấy.

Rồi kéo Bảo Ngọc đi. Đại Ngọc càng tức, nhìn ra cửa sổ, nước mắt chảy ròng ròng.

Độ chừng uống cạn hai chén nước thì Bảo Ngọc trở về. Đại Ngọc trông thấy càng khóc nức nở. Bảo Ngọc thấy thế, biết rằng khó làm Đại Ngọc hồi tâm, nên cố tìm hết lời êm dịu để khuyên giải, nhưng chưa kịp mở mồm, Đại Ngọc đã nói:

– Anh còn đến đây làm gì? Sống chết kệ thây tôi! Vả chăng bây giờ đã có người chơi với anh rồi. Người ấy lại biết đọc sách, biết làm thơ, biết viết chữ, biết nói, biết cười. Họ sợ anh bực tức, mới lôi đi để cám dỗ anh. Bây giờ anh còn đến đây làm gì nữa?

Bảo Ngọc nghe nói, vội đến trước mặt Đại Ngọc khẽ nói:

– Em là người hiểu biết, có lẽ nào không biết câu “Thân bất cách sơ”, “Tiên bất tiếm hậu” 2 hay sao? Anh tuy dốt nát, nhưng cũng biết nghĩa hai câu đó. Điều thứ nhất, chúng ta là anh em con cô con cậu, chị Bảo với anh là đôi con dì, với em thì còn xa hơn. Điều thứ hai, em đến đây trước, hai chúng ta từ bé đến lớn, ăn cùng một bàn, ngủ cùng một giường, chị Bảo thì mới đến, lẽ nào tôi lại vì chị ấy mà xa em?

Đại Ngọc gạt đi:

– Tôi lại bảo anh xa người ta à? Như thế tôi còn ra gì? Tôi chỉ biết bụng tôi thôi!

– Tôi cũng chỉ biết bụng tôi thôi. Có lẽ nào em biết bụng em mà không biết bụng tôi?

Đại Ngọc cúi đầu lặng im, một lúc sau mới nói:

– Anh chỉ trách người ta làm cho anh bực mình, có biết đâu chính anh đã làm cho người ta khó chịu. Xem thời tiết hôm nay, trời lạnh như thế mà anh không khoác áo bông vào?

Bảo Ngọc nói:

– sao lại không mặc? Chỉ vì thấy em bực tức, anh phát nóng cả người, nên cởi áo ra đấy thôi.

Đại Ngọc phàn nàn:

– Rồi có bị cảm lại đổ tại vì cãi nhau với em mà đâm ốm.

Hai người đương nói thì Tương Vân chạy lại cười nói:

– Anh “ái” 4 ơi, chị Lâm ơi, các người ngày nào cũng chơi đùa một chỗ với nhau, còn tôi không mấy khi đến đây, thế mà chẳng ai thèm hỏi han đến tôi cả!

Đại Ngọc cười nói:

– Đã ngọng lại còn hay nói, ngay tiếng anh Hai cũng chẳng nói nên thân, lại gọi là anh “ái”, anh “ái”. Lúc đánh lú cũng lại ngọng nốt, cứ luôn mồm “yêu ái tam”.

Bảo Ngọc cười bảo Đại Ngọc:

– Em bắt chước quen đi rồi cũng đâm ngọng thôi!

Tương Vân nói:

– Chị ấy không chừa một ai, chỉ tìm cách trêu chọc người tạ Nếu mình quả giỏi hơn, cũng không nên gặp người nào là trêu chọc người ấy. Tôi kể một người ra đây, chị dám trêu chọc thì tôi mới phục.

Đại Ngọc hỏi là ai. Tương Vân nói:

– Chị dám trêu chọc chị Bảo Thoa, tôi mới cho là giỏi.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Tưởng ai chứ chị ấy thì tôi đâu dám.

Bảo Ngọc không chờ nói hết, vội nói lảng ra chuyện khác.

Tương Vân cười nói:

– Hiện nay thì tôi chịu thua chị. Tôi chỉ cầu mong sau này chị lấy được người chồng cũng nói ngọng như tôi. Chị cũng có phen được nghe những tiếng ái” ấy thôi. A di đà phật! Lúc đó sẽ hiện ra trước mắt chị.

Câu nói ấy làm cho mọi người bật cười, Tương Vân vội chạy mất.

1      Trong đời phong kiến Trung Quốc, theo tục mới cưới, chú rể gỡ tóc cài trâm cho cô dâu. Ở đây Tình Văn dùng câu đó để nói đùa hai người.

2      Không vì người thân mà xa người sơ, cũng không vì người trước mà lấn người sau.

3      Tiếng Trung Quốc, chữ “ái” đọc gần giống chữa “hai” (nhi). Ái lại có nghĩa là yêu. Tương Vân nói ngọng bị Đại Ngọc chế, Tương Vân lại dùng chữ đó để trêu Đại Ngọc.

Chương 21: Giả cách giận hờn, Tập Nhân răn Bảo Ngọc

Giả cách giận hờn, Tập Nhân răn Bảo Ngọc

Trả lời khôn khéo, Bình Nhi cứu Giả Liễn

Sử Tương Vân sợ Đại Ngọc đuổi theo, chạy đi ngaỵ Bảo Ngọc ở đằng sau nói:

– Khéo vấp ngã đấy! Em không đuổi kịp được đâu!

Đại Ngọc vừa đến cửa, Bảo Ngọc giơ tay ngáng lại, cười nói:

– Thôi em hãy tha cho người ta lần này.

Đại Ngọc giằng tay ra:

– Tha cho nó! Trừ khi tôi chết.

Tương Vân thấy Bảo Ngọc đứng ngáng cửa, biết Đại Ngọc không thể ra được, bèn dừng lại cười nói:

– Chị Ơi, hãy tha cho tôi lần này.

Bảo Thoa ở đâu đến ngay sau lưng Tương Vân, cười:

– Thôi xin hai chị, nể mặt anh Bảo, hãy buông nhau ra.

Đại Ngọc nói:

– Tôi không nghe! Các người vào hùa với nhau đến trêu tôi à?

Bảo Ngọc khuyên:

– Thôi đi. ai dám trêu em? Em không nói đùa người ta, ai dám nói đến em?

Bốn người đang giằng co nhau, thì có người tới mời đi ăn cơm. Lúc lên đèn, Vương phu nhân, Lý Hoàn, Phượng Thư, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân đều qua bên phòng Giả Mẫu. Mọi người nói chuyện phiếm một lúc rồi đâu về đấy. Tương Vân về buồng Đại Ngọc ngủ.

Bảo Ngọc đưa hai người về buồng. Trời đã quá canh hai. Tập Nhân đến giục mấy lần mới chịu về. Hôm sau vừa sáng, Bảo Ngọc đã dậy, mặc áo, đi giày, sang buồng Đại Ngọc. Thấy vắng Tử Quyên, Thúy Lũ, chỉ có Đại Ngọc và Tương Vân nằm trong chăn. Đại Ngọc thì đắp kín người một cái chăn lụa đỏ, nhắm mắt ngủ saỵ Tương Vân thì tóc xõa ra cạnh gối, ngực quấn một cái chăn màu hồng điều, để hở ra ngoài hai cánh tay trắng muốt, trông rõ cả hai cái vòng vàng. Bảo Ngọc thấy vậy nói:

– Ngủ mà cũng không biết giữ gìn cẩn thận! Nhỡ bị cảm có đau vai mỏi cổ lại kêu.

Nói xong khẽ kéo chăn đắp hộ.

Đại Ngọc tỉnh dậy, biết có người, đoán ngay là Bảo Ngọc, quay nhìn ra nói:

– Sớm thế anh đã đến đây làm trò gì?

– Hãy còn sớm à? Em dậy mả xem!

– Anh hãy ra ngoài kia, để chúng tôi dậy đã.

Bảo Ngọc ra nhà ngoài. Đại Ngọc đánh thức Tương Vân. Hai người trở dậy mặc quần áo. Bảo Ngọc vào ngồi bên cạnh tủ gương. Tử Quyên, Thúy Lũ đến hầu rửa mặt, chải đầu. Tương Vân rửa mặt xong, Thúy Lũ toan đổ chậu nước đi, Bảo Ngọc bảo:

– Khoan đã, nhân tiện để lại cho tôi rửa, đỡ phải sang bên kia thêm tốn công.

Nói xong, khom lưng xuống vốc nước rửa.

Tử Quyên mang xà phòng thơm đến, Bảo Ngọc nói:

– Không cần, trong chậu đã có nhiều xà phòng thơm rồi.

Lại rửa lần nữa, rồi mới bảo đưa khăn mặt lau.

Thúy Lũ bĩu môi cười:

– Chứng nào vẫn tật nấy!

Bảo Ngọc không để ý đến câu ấy, vội đòi lấy muối đánh răng, súc miệng. Thấy Tương Vân chải đầu xong, Bảo Ngọc chạy lại, cười nói:

– Cô em chải đầu hộ tôi.

– Tôi không biết chải.

– Sao ngày trước cô vẫn chải hộ tôi?

– Bây giờ quên rồi.

Bảo Ngọc vật nài mãi.

– Hôm nay tôi không đi đâu, chỉ cần cô em tết mấy món tóc là đủ.

Tương Vân đành phải chải hộ.

Thường khi ở nhà, Bảo Ngọc không bao giờ đội mũ, chỉ vén tóc chung quanh, tết mấy búi nhỏ, rồi chập cả lên đỉnh đầu thành một búi to, buộc bằng dây đỏ. Trên búi tóc, giắt một chùm bốn hạt trân châu, phía dưới có cài một cái cặp bằng vàng.

Tương Vân vừa tết vừa nói:

– Sao chỉ còn ba hạt trân châu? Một hạt không đúng. Tôi nhớ anh có bốn hạt cùng một thứ kia mà, sao lại thiếu một?

– Rơi mất một hạt.

– Tất là khi anh đi ra ngoài, đánh rơi. Chi may cho kẻ nhặt được thôi.

Đại Ngọc đứng bên cười nhạt:

– Chưa biết chừng lả mất, hay lại đem nạm vào cái gì làm đồ trang sức cho người ta đeo rồi?

Bảo Ngọc không trả lời. Nhân thấy hai bên tủ gương có nhiều đồ phấn sáp, tiện tay lấy ra ngắm nghía. Khi thấy một hộp sáp bôi môi, Bảo Ngọc muốn bỏ vào miệng ăn, lại sợ Tương Vân cười. Đương lúc ngần ngừ, Tương Vân ở đằng sau giơ tay hất một cái, hộp sáp rơi xuống đất. Tương Vân nói:

– Chứng nào vẫn tật ấy, đến bao giờ anh mới chừa?

Đương nói chuyện thì Tập Nhân đến, trông thấy thế, biết là Bảo Ngọc đã rửa mặt chải đầu rồi, đành trở về. Bảo Thoa chợt đến hỏi:

– Anh Bảo đi đâu rồi?

Tập Nhân cười nhạt:

– Cậu Bảo còn có thì giờ nào ở nhà!

Bảo Thoa nghe nói hiểu ý ngaỵ Tập Nhân lại than:

– Chỗ anh chị em chơi đùa với nhau, cũng nên có chừng có mực, ai lại bất cứ ngày đêm, lúc nào cũng như lúc nào! Người ta khuyên răn thế nào cũng mặe, chỉ như gió thoảng ngoài tai thôi!

Bảo Thoa nghe nói, trong bụng nghĩ thầm: “Đừng nên coi thường con bé này. Nghe nó nói, xem ra cũng có chút kiến thức”. Bảo Thoa liền ngồi trên bục, thong thả chuyện trò, hỏi tuổi, hỏi gia đình, quê quán, để ý xem xét lời ăn tiếng nói và tính tình con người, thấy Tập Nhân rất đáng kính yêu.

Một lúc, Bảo Ngọc về, Bảo Thoa mới đi ra, Bảo Ngọc hỏi Tập Nhân:

– Chị Bảo đương nói chuyện vui vẻ, thấy tôi về, sao lại đi ngay?

Tập Nhân không trả lời. Bảo Ngọc hỏi mãi, Tập Nhân cười nói:

– Cậu hỏi tôi đấy à? Thật tôi chẳng hiểu các người ra làm sao cả.

Bảo Ngọc thấy nét mặt Tập Nhân khác hẳn ngày thường, cười hỏi:

– Vì sao chị lại giận dỗi thế?

Tập Nhân cười nhạt:

– Khi nào tôi dám giận dỗi. Chỉ xin từ giờ trở đi cậu đừng đến buồng này nữa. Dủ sao cậu cũng đã có người hầu hạ rồi, không cần phải sai khiến đến tôi. Tôi lại trở về hầu bên cụ vậy.

Nói xong, lên bục nằm nhắm mắt lại.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh vậy, rất lấy làm lạ, đành phải chạy lại van xin, nhưng Tập Nhân cứ nhắm mắt, mặc kệ. Bảo Ngọc không biết làm thế nào. Chợt thấy Xạ Nguyệt đến, Bảo Ngọc liền hỏi:

– Chị ấy làm sao thế?

Xạ Nguyệt nói:

– Tôi biết làm sao được! Cậu cứ tự hỏi mình khắc biết.

Bảo Ngọc nghe nói, ngẩn người một lúc, tự thấy chẳng còn thú vị gì, vùng đứng dậy nói:

– Không thèm nhìn đến tôi thì thôi, tôi đi ngủ vậy.

Nói xong vào giường nằm.

Hồi lâu, Tập Nhân thấy Bảo Ngọc nằm yên, có tiếng ngáy khò khò, biết đã ngủ rồi, bèn đứng dậy lấy áo tơi đắp cho Bảo Ngọc. Bỗng “soạt” một tiếng, áo tung ra, nhưng Bảo Ngọc vẫn nhắm mắt giả ngủ.

Tập Nhân biết ý, gật đầu cười nhạt:

– Cậu không cần phải dỗi nữa. Từ giờ trở đi, tôi chỉ như người câm thôi, không can cậu một câu nào, có được không?

Bảo Ngọc vùng ngay dậy hỏi:

– Tôi có điều gì mà chị phải khuyên ngăn? Kể ra, chị khuyên ngăn cũng được, nhưng vừa rồi tại sao chị chẳng thèm nói câu gì? Tôi về, chị không để ý đến, lại giận dỗi đi nằm. Tôi cũng chẳng rõ sao cả. Bây giờ chị lại bảo là tôi dỗi. Nào chị đã khuyên ngăn tôi câu gì đâu?

Tập Nhân nói:

– Tự cậu lại không biết, phải đợi tôi nói à?

Đương lúc ầm ĩ, thì Giả mẫu cho người gọi Bảo Ngọc đi ăn cơm. Bảo Ngọc ăn vội mấy bát rồi trở về buồng, thấy Tập Nhân nằm ở bục bên ngoài, Xạ Nguyệt ngồi bên cạnh đánh bài.

Bảo Ngọc biết hai người thân nhau, không hỏi han ai cả, mở rèm, vào ngay bên trong. Xạ Nguyệt đành phải theo vào. Bảo Ngọc đẩy ra, nói:

– Không dám phiền cô.

Xạ Nguyệt cười đi ra, gọi hai tiểu hoàn vào hầu. Bảo Ngọc lấy sách ngồi ngả người xem một lúc, nhân muốn uống nước, ngẩng trông thấy hai tiểu hoàn đứng dưới đất, đứa nọ lớn hơn đứa kia độ vài tuổi, mặt mũi cũng sáng sủa. Bảo Ngọc hỏi đứa lớn:

– Tên mày là cái gì “Hương” phải không?

– Tên tôi là Huệ Hương.

– Ai đặt tên ấy cho mày?

– Trước tôi đặt là Vân Hương, sau chị Hoa đổi cho tên ấy.

– “Hối khí” 1 thì phải, lại còn Huệ Hương cái gì! Mày có mấy chị em?

– Tôi có bốn chị em.

– Mày là thứ mấy?

– Tôi là thứ tư.

– Từ giờ trở đi cứ gọi mày là con Tư, không cần gọi Huệ với Lan nữa. Mấy ai đáng sánh với hoa này, chỉ tổ làm bẩn cả cái tên đẹp đi thôi.

Nói xong sai pha nước trà. Tập Nhân và Xạ Nguyệt ở bên ngoài nghe thấy, bĩu môi khẽ cười với nhau.

Cả ngày hôm ấy Bảo Ngọc không ra khỏi cửa, không đùa nghịch với các chị em và a hoàn, một mình buồn thiu, hết viết lại xem sách cho khuây khỏa. Có việc gì không sai bảo ai, chỉ gọi con Tư thôi. Con Tư là đứa khôn ngoan tinh quái, thấy được sai bảo luôn, bèn tim hết cách để chiều chuộng Bảo Ngọc.

Đến bữa cơm chiều, Bảo Ngọc uống vài ly rượu. Như mọi bận, sau những lúc tai nóng bừng bừng, mắt buồn ngủ ríu lại là đã có bọn Tập Nhân cười đùa vui vẻ; nhưng lần này thì vắng tanh, vắng ngắt, một mình ngồi trước ngọn đèn, chẳng thú vị gì. Nếu mình làm lành với họ, sợ họ được thể, sau càng giở giọng khuyên ngăn mãi, nhưng làm ra dáng bề trên mà lấn át họ, lại thành ra người quá vô tình. Thôi chẳng nghĩ làm gì cho bận lòng, cứ coi như họ đã chết cả rồi, thế là tự mình sống thế nào cũng xong, không bị bó buộc, lại hóa thoải mái vui vẻ.

Bảo Ngọc giở kinh Nam hoa 2 ra xem, đến Ngoại thiên Khư níp 3 có một đoạn văn:

… Cho nên bỏ hết thánh trí, trộm lớn mới thôi; phá hủy châu ngọc, trộm nhỏ sẽ hết. Đốt dấu đập ấn, dân mới thật thà; chặt đấu phá cân, dân không tranh nhau; bỏ hết pháp luật, dân mới có thể bàn bạc việc nước. Bộ sáu ống luật 4, đốt đàn sáo, lấp tai sư, Khoáng 5 thiên hạ mới không có người khoe thính tai; xóa văn chương, hủy năm sắc, sơn mắt Ly Chu 6, thiên hạ mới không có người khoe mắt sáng; bỏ mục thước, khuôn, mẫu, chặt tay Công Thùy 7, thiên hạ mới không có người khoe khéo tay vậy.

Bảo Ngọc xem đến đấy, lấy làm hứng thú lắm. Nhân lúc say rượu, cầm bút viết luôn mấy câu nối sau:

Đốt hoa, vứt xạ 8, trong khuê các mới hết lời khuyên can lôi thôi; hủy sắc đẹp cua Bảo Thoa. lấp khiếu thông minh của Đại Ngọc, dứt hết tình ý, trong khuê các mới không có kẻ xấu người đẹp chênh lệch nhau; thôi sự khuyên can, sẽ không lo nỗi sâm thương xích mích; hủy hết sắc đẹp, sẽ không còn mối luyến ái vấn vương; lấp khiếu thông minh, mới không còn vẻ tài tình quyến rũ. Kìa bọn Thoa, Ngọc, Hoa, Xạ đều là những kẻ chăng lưới, đào bẫy để cám dỗ hãm hại người vậy.

Viết xong, Bảo Ngọc quăng bút, gục đầu xuống gối, ngủ ngay một mạch, đến sáng bạch mới dậy. Giở mình trông ra, thấy Tập Nhân mặc cả áo nằm ngủ trên đệm, bao nhiêu việc hôm trước, Bảo Ngọc quên hết, bèn đẩy Tập Nhân bảo:

– Dậy thôi, ngủ thế không khéo lại bị lạnh!

Nguyên Tập Nhân thấy Bảo Ngọc không kể ngày đêm, lúc nào cũng vui đùa với bọn chị em. Nếu mình cứ lấy lời thẳng thắn khuyên ngăn, chưa chắc cậu ta đã sửa đổi, chi bằng làm ra bộ hờn dỗi nũng nịu, dù Bảo Ngọc có bực tức, rồi chỉ chốc lát sẽ lại tử tế như thường, không ngờ Bảo Ngọc vẫn không hồi tâm chuyển ý. Tập Nhân nghĩ luẩn quẩn không biết làm cách gì, thành ra suốt đêm không ngủ. Nay thấy vậy, biết là Bảo Ngọc đã nghĩ lại phần nào, nên càng cố ý lờ đi như không.

Bảo Ngọc thấy Tập Nhân không trả lời, bèn giơ tay cởi hộ áo. Một cái khuy vừa được cởi thì Tập Nhân đã hất tay ra, cài ngay khuy lại.

Bảo Ngọc không còn cách gì, đành kéo tay Tập Nhân cười nói:

– Chị vẫn làm sao thế?

Hỏi luôn mấy câu, Tập Nhân trừng mắt nói:

– Chẳng sao cả. Cậu đã dậy, thì sang ngay bên kia mà rửa mặt chải đầu, chậm sẽ không kịp đấy.

– Chị bảo tôi sang đâu?

– Cậu lại hỏi tôi, tôi biết sao được? Cậu thích sang đâu, cứ đấy mà sang. Từ giờ hai chúng ta hãy chia tay nhau ra để bớt những điều tiếng om sòm, làm trò cười cho người tạ Dù đến lúc cậu chán ở bên kia rồi, thì bên này đã có con Tư con Năm nào đấy hầu hạ. Còn thứ chúng tôi chỉ làm nhơ nhuốc cái tên đẹp họ đẹp đi thôi!

– Đến hôm nay chị vẫn còn nhớ những câu ấy à?

– Còn nhớ mãi đến trăm năm! Đâu lại như cậu, coi lời tôi như gió thoảng ngoài tai. Đêm nói, sáng dậy đã quên rồi.

Bảo Ngọc thấy dáng điệu hờn dỗi nũng nịu của Tập Nhân không thể dứt tình được, bèn lấy ngay cái trâm ngọc bên gối, bẻ ra làm đôi mà thề: “Từ giờ nếu tôi không nghe lời chị thì cũng như cái trâm này!”.

Tập Nhân vội nhặt trâm nói:

– Sáng sớm ra, làm gì đã thề với bồi? Nghe hay không là tùy ở cậu, cần gì phải làm như vậy.

– Lòng tôi đang bứt rứt, chị có biết cho đâu?

– Cậu biết lòng cậu bứt rứt, thế thì lòng tôi thế nào, cậu có biết không? Thôi hãy đi rửa mặt đã.

Rồi hai người cùng đứng dậy đi rửa mặt, chải đầu.

Sau khi Bảo Ngọc lên nhà trên, thì Đại Ngọc đến. Thấy Bảo Ngọc không ở thư phòng, Đại Ngọc liền giở sách trên bàn ra xem, vừa hay giở đúng bộ Trang tử. Đọc đoạn viết nối của Bảo Ngọc, Đại Ngọc vừa tức vừa buồn cười, cầm bút viết tiếp bốn câu:

Bỗng dưng múa bút ấy kìa ai

Tập tọng Nam hoa học mấy lời:

Chẳng biết tự mình không kiến thức,

Lại đem lời xấu vội chê người.

Viết xong, Đại Ngọc lên nhà trên thăm Giả mẫu và Vương phu nhân.

Phượng Thư có đứa con gái đầu lòng là Đại Thư bị Ốm. Phượng Thư rối rít cho đi mời thấy thuốc đến xem. Thầy thuốc nói:

– Em phát nóng là triệu chứng lên “tốt” 9.

Vương phu nhân và Phượng Thư vội hỏi:

– Có việc gì đáng lo không?

Thầy thuốc nói:

– Bệnh tuy nặng, nhưng không việc gì. Xin sắp sẵn cho ngay sâu dâu và đuôi lợn.

Phượng Thư vội sai quét dọn nhà cửa, đặt bàn thờ cúng “Bà chúa đậu mùa”; cấm người nhà không được dùng đồ xào rán; sai Bình Nhi xếp dọn chăn màn quần áo cho Giả Liễn sang ngủ buồng khác, lấy nhiễu điều ra cho bọn hầu thân may quần áo. Nhà ngoài được sửa soạn sạch sẽ; hai thầy thuốc được mời đến cắt lượt nhau xem mạch, bốc thuốc, suốt trong mười hai ngày liền. Giả Liễn dọn ra ngủ riêng ngoài thư phòng. Phượng Thư và Bình Nhi ngày nào cũng theo Vương phu nhân cúng lễ “Bà chúa đậu”.

Giả Liễn vừa xa Phượng Thư, đã lại sinh chuyện. Mới ngủ riêng hai đêm hắn đã không nhịn được, chọn ngay một đứa hầu nhỏ sạch sẽ tạm làm trò “tiêu khiển”.

Bấy giờ trong phủ Vinh có một đứa nấu bếp tên gọi Đa Quan, nghiện rượu be bét, không ra hồn người, người ta đặt cho nó cái tên là thằng “Đa hồ đồ”. Từ bé, bố mẹ nó lấy cho nó một người vợ mới hai mươi tuổi, có ít nhiều nhan sắc, ai thấy cũng yêu. Nhưng chị này tính lẳng lơ, hay khêu ong gợi bướm. Thằng Đa chỉ cốt có rượu, có tiền, ngoài ra vợ cũng mặc kệ. Vì thế người trong hai phủ Vinh, Ninh phần nhiều tằng tịu với ả. Ả này dâm đãng khác thường, nên người ta đặt cho cái tên là cô “Đa” 10. Giả Liễn đương lúc ngứa ngáy, ngày thường vốn đã say mê say mệt ả này, nhưng trong thì sợ vợ, ngoài sợ bọn hầu yêu, nên không dám chờn vờn. Cô “Đa” từ lâu cũng có tình ý với Giả Liễn, nhưng chưa có dịp thuận tiện; nay thấy Giả Liễn dọn ra ngủ ngoài thư phòng, ả ta chẳng có việc gì cũng mỗi ngày lượn đi lươn lại ba bốn lần. Giả Liễn như một con chuột đói, bàn ngay với bọn hầu thân, hẹn cho vàng, lụa, lẽ nào không được; vả chăng chúng là chỗ quen sẵn với cô “Đa” nên chỉ nói một câu là xong.

Đêm ấy “Đa hồ đồ” rượu say ngủ vật ở giường. Đến trống canh hai vắng người, Giả Liễn lén sang. Vừa trông thấy ả, hắn đã hồn phách rụng rời, không kịp to nhỏ câu gì, vội cởi áo giở trò ngaỵ Ả này có một thú lạ trời cho; hễ khi gần con trai là khắp người nó gân cốt mềm nhũn, khiến người ta có cảm giác như nằm trên đống bông. Nó lại có cái lối khêu gợi, lẳng lơ, hơn cả bọn kỹ nữ, nên ai nấy đều chết mệt. Giả Liễn say đắm quá, đến nỗi muốn được hóa thân ngay trên người nó. Ả lại cố ý trêu cợt, nằm dưới nói:

– Em nhà lên đậu, đương cúng bà chúa, cậu phải kiêng mấy ngày, sao lại vì em làm ô uế cả thân thể? Thôi cậu xa em ra!

Giả Liễn hứng quá, thở hồng hộc:

– Em là “bà chúa”, chứ còn ai là “bà chúa” nữa!

Ả càng trêu cợt, Giả Liễn càng giở hết trò xấu xa, xong đó hai người chỉ non thề biển, xoắn xuýt không nỡ rời. Từ đấy trở thành mê nhau.

Mười hai hôm sau, Đại Thư đậu bay hết, cả nhà làm lễ tiễn “Bà chúa”, tế trời, cúng tổ, thắp hương tạ Phật, ăn mừng và ban thưởng cho mọi người. Giả Liễn lại dọn về buồng ngủ. Trông thấy Phượng Thư, chính như câu tục ngữ nói: “Vợ mới không bằng đi xa về”. Đêm ấy hai người ân ái biết bao, không cần phải nói.

Sáng hôm sau, Phượng Thư trở dậy lên nhà trên, Bình Nhi nhặt nhạnh quần áo, chăn đệm của Giả Liễn ở bên ngoài đưa vào, không ngờ thấy ở trong lần gối thò ra một mớ tóc. Bình Nhi biết ý, vội giấu vào trong tay áo, chạy sang buồng bên, giơ mớ tóc ra cười hỏi Giả Liễn: “Cái gì thế này?” Giả Liễn trông thấy, vội chạy lại chực giằng lấy, Bình Nhi chạy đi, bị Giả Liễn kéo lại, đè lên giường cướp mớ tóc, cười nói:

– Con ranh này, mày không đưa, tao bóp gãy cổ bây giờ.

Bình Nhi cười nói:

– Cậu chẳng còn một tí lương tâm nào, tôi có bụng tốt giấu hộ và hỏi riêng cậu, cậu lại giở lối ăn hiếp ra. Cậu cứ ăn hiếp đi, tôi sẽ mách mợ cho mà xem.

Giả Liễn vội vàng van xin:

– Em ơi, em là người tốt, em thưởng cho ta vậy! Ta không dám ăn hiếp nữa.

Nói chưa dứt lời, chợt nghe tiếng Phượng Thư, Giả Liễn bấy giờ buông cũng giở, cướp lại cũng giở, đành phải nói:

– Xin em đừng mách nhé!

Bình Nhi vừa đứng dậy, Phượng Thư đã vào đến nơi, bảo Bình Nhi mở hòm tìm thứ vải mẫu cho Vương phu nhân. Trong lúc Bình Nhi đang tìm, Phượng Thư trông thấy Giả Liễn, chợt nghĩ ra bèn hỏi Bình Nhi:

– Đồ đạc hôm nọ mang ra ngoài kia đã nhặt hết về chưa?

– Nhặt hết rồi.

– Có thiếu gì không?

– Trước thiếu hai thứ, sau xem xét kỹ lưỡng, thấy không thiếu thứ gì.

– Có thừa gì không?

– Không thiếu là.may, làm gì có thừa?

Phượng Thư lại cười:

– Trong mười mấy ngày trời, khó lòng giữ được trong sạch. Có đứa nào hậu hĩ bỏ lại cái gì hoặc nhẫn, khăn mặt, túi thơm hay mớ tóc, móng tay cũng chưa biết chừng!

Giả Liễn nghe đến câu ấy, mặt xám đi, đứng sau lưng Phượng Thư, cứ lấm lét đưa mắt ra hiệu cho Bình Nhị Bình Nhi làm ra dáng không trông thấy, cười nói:

– Sao mà bụng tôi cũng giống hệt như bụng mợ! Tôi cũng ngờ ngợ có gì khác chăng, nên đã chịu khó lục lọi từng tí một, nhưng không thấy dấu vết gì, mợ không tin cứ lục lại mà xem.

Phượng Thư cười:

– Con ngốc này! Nếu có cái gì, ai lại chịu để cho chúng ta tìm thấy?

Nói xong, mạng những thứ vải mẫu đi ra.

Bình Nhi nhìn Giả Liễn, lắc đầu:

– Việc này cậu phải tạ tôi thế nào?

Giả Liễn mừng lắm, ngứa ngáy khắp người, chạy lại ôm lấy Bình Nhi, kêu luôn mồm “ruột gan thân yêu của ta đây”. Bình Nhi giơ món tóc lên cười nói:

– Cái này tôi nắm đằng đuôi đây. Tử tế thì chớ, không thì tôi lại chìa nó ra!

Giả Liễn cười:

– Em giữ cẩn thận, nhất thiết đừng để cho mợ biết nhé.

Mồm nói thế, nhưng mắt hắn vẫn nhìn. Lừa lúc Bình Nhi sơ ý, hắn giơ tay cướp ngay lấy, cười nói:

– Em có giữ cũng chẳng làm gì, để anh đốt đi là xong chuyện.

Vừa nói vừa nhét mớ tóc vào trong ống giày.

Bình Nhi nghiến răng nói:

– Con người bất lương! Vừa qua cầu đã cất nhịp ngay! Sau này cậu đừng hòng tôi giấu giếm hộ cho nữa!

Giả Liễn thấy vẻ ẻo lả trêu người của Bình Nhi, liền ôm lấy định giở trò. Bình Nhi giật tay ra chạy. Giả Liễn tức giận nói:

– Con ranh chơi ác lắm, cứ khêu gợi người ta phát cuồng lên rồi lại bỏ chạy.

Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, cười:

– Tôi khêu gợi mặc tôi, ai bảo cậu phát cuồng lên? Dễ thường tôi chiều cậu để cho người ta biết lại ghen với tôi à? Giả Liễn nói:

– Không cần sợ ai, hễ nóng tiết lên là ta đập cho lọ giấm 11 ấy vỡ tan tành, bấy giờ mới biết tay ta! Nó giữ ta như giữ giặc ấy. Nó nói chuyện với trai thì được, lại cấm ta nói chuyện với gái? Hễ ta đứng gần ai là nó ngờ ngờ vực vực, còn nó thì bất kỳ chú cháu, lớn bé, cứ cười đùa bừa đi, cũng đều được cả. Từ giừ trở đi, ta không cho nó dàn mặt với đứa nảo nữa!

Bình Nhi nói:

– Người ta giữ được cậu chứ cậu không thể ghen với người tạ Người ta cử chỉ đứng đắn, chứ cậu thì phần nhiều không thẳng thắn, ngay tôi cũng không yên lòng, còn nói gì ai.

Giả Liễn nói:

– Thôi được, các người đều một duộc với nhau, đều giữ phần phải về mình, chỉ có ta là dở thôi. Có khi các người sẽ chết với ta!

Phượng Thư chạy về, thấy Bình Nhi đứng ngoài cửa sổ, hỏí:

– Muốn nói chuyện, sao không vào trong nhà, lại phải đứng ngoài cửa sổ là nghĩa làm sao?

Giả Liễn ở trong nhà nói:

– Mợ hỏi nó mà xem, hình như ở trong nhà có con cọp chực vồ người đấy!

Bình Nhi nói:

– Trong nhà ngoài cậu ra, không có ai, tôi ở đấy làm gì?

Phượng Thư cười:

– Không có ai thì càng hay chứ sao?

Bình Nhi nói:

– Mợ định nói tôi à?

– Chẳng nói cô còn nói ai?

– Đừng để tôi phải nói nữa.

Nói xong, không vén rèm cho Phượng Thư vào, vùng vằng bỏ đi chỗ khác.

Phượng Thư phải tự vén rèm lấy, miệng lẩm bẩm:

– Con Bình điên rồi, mày định cưỡi cổ cả tao, giờ xác đấy!

Giả Liễn nằm ngay xuống giường, vỗ tay cười nói:

– Không biết Bình Nhi lại đáo để thế, từ giờ trở đi, phải chịu nó đấy.

Phượng Thư nói:

– Tại cậu nuông nó, tôi chỉ trách cứ ở cậu.

Giả Liễn bĩu môi nói:

– Hai người lủng củng với nhau, lại chực gắp cả tôi vào. Tôi lánh xa các người là xong.

– Để xem cậu lánh đi đâu?

– Tự khắc có chỗ.

Nói xong đứng dậy.

Phượng Thư nói:

– Đừng đi vội, tôi còn muốn nói một câu chuyện.

Chính là:

Gái đẹp đến giờ hay giận kín,

Vợ yêu từ trước vẫn ghen ngầm.

1      Hối khí: nghĩa là xấu, là xúi quẩy. Ở đây dùng nghĩa bóng, ý nói mùi hôi phản lại hương là mùi thơm. Theo tiếng Trung Quốc: chữ “Hối” và chữ “Huệ” đọc giống nhau.

2      Tên bộ sách của Trang Chu, tức Trang tử, người đời Chiến quốc.

3      Trong kinh Nam hoa có chia làm hai phần: nội thiên cho là của Trang tử làm; ngoại thiên cho là của người sau chép vào. Khư níp: mỏ trộm cái hộp kín, là khám phá ra những lý lẽ bí ẩn.

4      Sáu ống luật là những âm nhạc cổ.

5      Tên một nhạc sư nước Tấn đời Xuân thu, mù mắt, rất thính tai, giỏi về âm nhạc.

6      Tên một người mắt rất sáng ở đời cổ, có thuyết cho là Ly Lâu, người đời Hoàng Đế.

7      Tên một người thợ khéo đời cổ.

8      Hoa chi Tập Nhân; xạ chi Xạ Nguyệt.

9      Tục cổ, chứng đậu mùa là chứng rất nguy hiểm, nhưng phải kiêng. Trung Ouốc gọi là “hỉ” (tin mừng), ta gọi là “tốt”.

10      Có nghĩa là đa tình.

11      Chỉ Phượng Thư hay ghen.

Chương 22: Nghe câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền – Đánh đố thơ, Giả Chính lo lời sấm

Nghe câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền

Đánh đố thơ, Giả Chính lo lời sấm

Nghe Phượng Thư nói, Giả Liễn đứng lại hỏi việc gì. Phượng Thư nói:

– Hai mươi mốt này là ngày sinh nhật cô Bảo Thoa, cậu định làm thế nào?

– Tôi biết đâu đấy, xưa nay bao nhiêu lễ sinh nhật lớn, một mình mợ lo liệu được cả, bây giờ hỏi, tôi chẳng biết làm thế nào?

– Lễ sinh nhật lớn đã có lệ sẵn, nhưng lần này lớn không ra lớn, nhỏ không ra nhỏ, vì thế phải bàn với cậu.

Giả Liễn cúi đầu nghĩ ngợi một lúc nói:

– Mợ lẩn thẩn thật! Kể ra cũng có: lễ sinh nhật cô Lâm tức là lệ đấy. Năm ngoái mợ làm cho cô Lâm thế nào, năm nay cũng nên làm cho cô Bảo như thế.

Phượng Thư cười nhạt:

– Dễ thường tôi không biết? Tôi cũng đã nghĩ đến. Nhưng vì hôm qua bà hỏi đến sinh nhật của mọi người, nghe nói cô Bảo năm naỵmười lăm tuổi, không những là ngày sinh nhật, mà lại đến tuổi cập kê 1 rồi. Người bảo muốn lâm lễ sinh nhật cho cô ấy, tất nhiên không giống như của cô Lâm.

– Nếu thế thì làm to hơn một chút.

– Tôi cũng nghĩ như thế, nên mới phải hỏi cậu, cứ tự tiện làm, cậu lại kêu sao không nói trước.

– Thôi, thôi! Tử tế nước bọt ấy tôi không cần. Mợ không tra hỏi tôi là được rồi, tôi còn trách mợ nữa ư?

Nói xong hắn đi một mạch.

Sử Tương Vân đã ở chơi hai ngày, muốn xin về. Giả mẫu bảo:

– Cháu hãy ở lại, đến ngày sinh nhật chị Bảo, xem hát xong sẽ về.

Tương Vân vâng lời ở lại, sai người về nhà lấy hai bức thêu của mình sang mừng Bảo Thoa.

Từ ngày Bảo Thoa đến, Giả mẫu thấy cô ta là người đứng đắn, hòa nhã, nên rất yêu. Nhân gặp ngày sinh nhật lần thứ nhất của cô ta, Giả mẫu bỏ ra hai mươi lạng bạc gọi Phượng Thư đến bảo sửa tiệc rượu, bày trò chơi.

Phượng Thư nhân lúc vui, nói pha trò:

– Bà làm lễ sinh nhật cho các cháu, thế nào không được, còn ai dám nói? Nhưng bà lại sửa cả tiệc rượu nữa kia à? Muốn cho bữa tiệc vừa vui vừa nhộn, bà cũng nên bỏ ra một số tiền nữa! Nay chỉ trơ có hai mươi lạng bạc mốc meo này chi vào tiệc rượu, ý chừng bà muốn bắt các cháu phải bù nữa chăng? Nếu quả không có tiền đã đành, nhưng vàng bạc, thoi tròn, thoi dài, để phũng cả đáy hòm, chỉ tội làm phiền cho các cháu. Bà thử nghĩ xem, ai chẳng là cháu? Sau này chẳng lẽ chỉ có một mình chú Bảo rước bà lên Ngũ Đài Sơn 2 thôi à? Sao cái gì bà cũng ki cóp để dành cho chú ấy! Chúng cháu tuy không đáng được dùng của này, nhưng bà cũng không nên làm rầy chúng cháu. Món tiền này liệu có đủ sửa tiệc rượu và bày trò chơi không?

Nghe nói, cả nhả cười rộ lên. Giả mẫu cũng cười:

– Các người hãy nghe cái mồm nó kìa! Kể ra ta nói cũng khéo, nhưng bì thế nào được với con quái ấy! Mẹ chồng nó cũng còn chẳng dám nỏ mồm, nó lại cứ lem lém với ta à?

Phượng Thư cười:

– Mẹ chồng cháu cũng thương Bảo Ngọc như bà, cháu không có chỗ nào kêu oan! Bây giờ bà lại bảo cháu là nỏ mồm!

Giả mẫu nghe nói rất vui, lại phì cười một lần nữa.

Đến chiều, mọi người đều đến nhà Giả mẫu. Thăm hỏi xong, cả nhà, mẹ con, chị em chuyện trò vui vẻ. Giả mẫu hỏi Bảo Thoa thích nghe vở hát gì? Muốn ăn thức ăn gì? Bảo Thoa vốn biết Giả mẫu tuổi già, thích nghe những vở hát vui nhộn, thích ăn những đồ ăn nhừ, ngọt, liền chọn cái gì Giả mẫu thường thích, kể ra một lượt. Giả mẫu lại càng vui. Hôm sau Giả mẫu cho mang quần áo, đồ chơi đến mừng. Vương phu nhân, Phượng Thư, Đại Ngọc, kẻ nhiều người ít, đều mang đồ mừng sang.

Đến ngày hai mươi mốt, trong nhà Giả mẫu dựng một cái sân khấu xinh đẹp, chọn một ban hát mới có cả hai điệu côn và giặc 3. Tiệc rượu thân mật đặt trong buồng Giả mẫu, có Tiết phu nhân, Sử Tương Vân và Bảo Thoa là khách, còn đều là người trong nhà cả.

Hôm ấy, sáng sớm dậy, Bảo Ngọc không thấy Đại Ngọc, bèn đến buồng tìm, gặp Đại Ngọc đang nằm nghiêng trên giường. Bảo Ngọc cười nói:

– Thôi dậy ăn cơm, rồi đi xem hát! Em thích nghe vở nào, anh sẽ chấm cho.

Đại Ngọc cười nhạt:

– Anh đã nói thế, phải tìm riêng một ban hát, chọn những bài nào em thích thì hát cho em nghe, chứ đi nghe nhờ thì đừng hỏi nữa.

Bảo Ngọc cười:

– Việc ấy khó gì? Ngày mai anh gọi một ban hát đến đây, thế là họ lại phải nghe nhờ chúng ta.

Nói xong kéo Đại Ngọc dậy, dắt tay nhau đi ăn cơm.

Khi chấm vở, Giả mẫu bảo Bảo Thoa chấm. Từ chối mãi không được, Bảo Thoa đành phải chấm một hồi trong vở Tây Du Ký. Giả mẫu vui lắm, lại bảo Phượng Thự Phượng Thư biết Giả mẫu thích vui, thích cười đùa, nên chấm ngay vở “Lưu Nhị đương ỳ”. Giả mẫu lại càng vui, rồi lại bảo Đại Ngọc. Đại Ngọc xin nhường cho Vương phu nhân, Tiết phu nhân chấm trước.

Giả mẫu nói:

– Hôm nay ta cốt cùng các cháu bày cuộc vui. Chúng ta cứ biết chúng ta, đừng nghĩ đến các bà ấy. Nhất là bày ra tiệc rượu, ca hát có phải vì các bà ấy đâu! Các bà ấy được nghe hát, uống rượu, thế là tốt rồi, lại còn phải mời chấm vở nữa kia à!

Nghe nói cả nhà cười ầm lên.

Đại Ngọc chấm xong một vở, rồi đến Bảo Ngọc, Sử Tương Vân, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân và Lý Hoàn đều chấm cả. Các vở cứ lần lượt theo thế mà diễn.

Đến lúc vào tiệc rượu, Giả mẫu lại sai Bảo Thoa chấm vở. Bảo Thoa chấm vở Lỗ Trí Thâm say rượu làm nhộn ở núi Ngũ Đài.

Bảo Ngọc hỏi Bảo Thoa:

– Chị chỉ thích nghe những vở hát ấy!

– Anh nghe hát đã mấy năm nay, vẫn không biết, vở này dàn cảnh và lời văn đều hay cả.

– Tôi sợ những vở này nhộn quá.

– Vở này mà bảo là nhộn! Anh thật không biết nghe hát! Lại đây tôi nói cho mà nghe. Đây là một điệu Bắc: Điểm giáng thần. Điệu rất du dương trầm bổng. Âm luật lại càng không cần phải nói. Về lời văn có bài Ký sinh thảo rất hay, chắc anh chưa được nghe bao giờ.

Bảo Ngọc thấy nói bài ấy văn hay, liền xích lại gần:

– Xin chị đọc cho tôi nghe.

Bảo thoa liền đọc:

Anh hùng chùi nước mắt,

Xử sĩ tiếc chi nhà.

Lạy Di đà, cắt tóc dưới tòa sen Phật.

Hết duyên pháp, chớp mắt thành ly biệt,

Trần trùi trụi, đi về không vướng víu.

Tìm đâu tá, nón mưa áo khói một mình đi?

Mặc kệ ta, giày rơm bát vỡ theo duyên đến!

Bảo Ngọc nghe xong, thích quá, vỗ đùi, lắc đầu, khen mãi. Lại khen Bảo Thoa học rộng, không sách nào không biết.

Đại Ngọc bĩu môi:

– Hãy im mà nghe, chưa hát vở Sơn môn 4 anh lại đã muốn Trang phong 5 rồi.

Tương Vân ngồi đó phì cười. Mọi người nghe hát đến khuya mới tan.

Giả mẫu yêu nhất hai đứa bé đóng vai nữ và vai hề, bảo người dắt chúng lên, thấy rất đáng thương. Hỏi tuổi, đứa đóng vai nữ mới mười một, đứa đóng vai hề mới lên chín. Mọi người đều than thở. Giả mẫu sai lấy đồ ăn và hai quan tiền thưởng cho chúng. Phượng Thư cười nói:

– Thằng bé này lúc đóng vai nữ trông hệt như một người, thế mà chẳng ai biết cả.

Bảo Thoa hiểu ra ngay, chỉ gật đầu không nói gì. Bảo Ngọc cũng gật đầu không dám nói. Tương Vân mau miệng nói:

– Tôi biết rồi, trông giống cô Lâm.

Nghe vậy, Bảo Ngọc vội đưa mắt ra hiệu cho Tương Vân. Mọi người để ý nhìn kỹ, rồi cười ầm lên: “Quả là giống cô Lâm thật”. Một lúc tiệc tan.

Đêm về, Tương Vân sai Thúy Lũ xếp quần áo, đồ đạc. Thúy Lũ hỏi:

– Việc gì mà cô vội thế, lúc nào đi thu xếp cũng vừa.

– Sáng mai về sớm. Ở đây làm gì nữa? Mày không thấy nét mặt người ta có vẻ không ưa đấy à?

Bảo Ngọc nghe thấy, vội đến kéo Tương Vân lại:

– Em hiểu lầm tôi. Em Lâm là người hay chấp, ai cũng biết cả, nhưng không muốn nói ra, vì sợ em Lâm giận. Ngờ đâu em buột mồm nói ngay, em Lâm lại không giận à? Tôi sợ em làm mất lòng em Lâm, nên đưa mắt ra hiệu. Bây giờ em lại giận tôi, há chẳng phụ lòng tôi hay sao? Nếu phải như ai, dù có gây chuyện với mười người, tôi cũng mặc kệ chẳng liên quan gì đến tôi!

Tương Vân hất tay:

– Những giọng văn hoa ấy đừng nói với tôi – tôi bì thế nào được với cô Lâm nhà anh! Người ta nói đùa cô ấy thì được, tôi nói lại có lỗi ngaỵ Tôi vốn không đáng nói chuyện với cô ta, cô chủ nhà, tôi chỉ là hạng con hầu đầy tớ thôi!

Bảo Ngọc vội nói:

– Thế ra vì em lại thành ra tôi có lỗi với em. Nếu tôi xấu bụng, xin lập tức hóa ra tro, cho mọi người giầy xéo lên.

Tương Vân nói:

– Đầu giêng năm mới, đừng có mở miệng là nói những câu nhảm nhí. Anh có thề, cứ thề với cái người tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi; thề với cái người cai quản được anh ấy! Đừng để cho tôi phải bực mình với anh!

Tương Vân nói xong, hầm hầm đến ngay buồng Giả mẫu nằm xoài ra.

Bảo Ngọc chán ngán, lại đến tìm Đại Ngọc. Ngờ đâu vừa bước chân vào cửa, Đại Ngọc đã đẩy ra, đóng sập cửa lại. Bảo Ngọc không hiểu ra sao, đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: “Em ơi! em ơi!” Đại Ngọc mặc kệ không trả lời, Bảo Ngọc buồn quá, đứng rũ đầu không nói gì. Tử Quyên biết rõ đầu đuôi câu chuyện, nhưng chắc khuyên can ngay cũng chẳng được nào. Bảo Ngọc vẫn đứng ngẩn ở ngoài.

Đại Ngọc tưởng Bảo Ngọc đã về, mở cửa ra, thấy Bảo Ngọc vẫn đứng đấy, không tiện đóng lại. Bảo Ngọc theo vào hỏi:

– Việc gì cũng phải có duyên do, cứ nói ra để cho người ta khỏi áy náy. Sao tự nhiên em lại đâm ra giận dỗi?

Đại Ngọc cười nhạt:

– Tôi ấy à! Chẳng biết ra làm sao cả. Các người định đem tôi ra đùa! Đem tôi ví với con hát để làm trò cười cho các người!

– Tôi chẳng ví em, cũng chẳng cười em bao giờ, làm sao em lại giận tôi?

– Anh còn phải ví, còn phải cười! Anh không ví, không cười, nhưng so với người ví, người cười lại độc ác hơn.

Bảo Ngọc nghe nói, chẳng biết phân trần thế nào, lặng lẽ không nói nửa lời.

Đại Ngọc lại nói:

– Điều ấy còn có thể tha thứ được. Nhưng làm sao anh lại còn đưa mắt cho con Vân? Bụng dạ anh là thế nào? Có phải anh cho rằng người ta đùa với tôi là người ta tự hạ thấp con người xuống không? Người ta là tiểu thư nhà công hầu, tôi là con nhà bình dân. Người ta đùa tôi, lỡ tôi nói lại, chẳng hóa ra làm mất giá đi hay sao? Có phải anh nghĩ thế không? Có thể là bụng anh tốt nhưng người ta không nhận cái tốt ấy, cũng lại giận anh. Anh lại đem tôi ra để lấy lòng người ta, bảo là tôi “tính nết nhỏ nhen, động một tí là giận dỗi”. Anh lại sợ người ta gây chuyện với tôi để tôi giận người tạ Tôi giận người ta hoặc người ta gây chuyện với tôi thì việc gì đến anh?

Bảo Ngọc nghe thế, biết câu chuyện mình nói nhỏ với Tương Vân vừa rồi, Đại Ngọc nghe thấy cả, nghĩ bụng: “Chỉ vì mình sợ hai người giận nhau, nên ở giữa giàn xếp, không ngờ cả hai lại đều lèo nhèo trách móc mình. Đúng như kinh Nam hoa đã nói: Người khéo chỉ tổ nhọc xác, người khôn chỉ tổ lo phiền, người đần độn không cần gì cả, cứ việc ăn chơi thảnh thơi như thuyền không buộc vào cọc, lênh đênh trôi giữa dòng sông. Lại có câu: Rừng núi tự gọi kẻ cướp đến, sông ngòi tự gọi kẻ trộm đến 6. Càng nghĩ càng thấy chẳng thú vị gì; xét cho cùng, bây giờ chỉ có vài người, mà mình không thu xếp cho êm thấm, thì sau này còn làm gì nên thân?” Nghĩ đến đó, Bảo Ngọc không buồn phân trần, liền quay về buồng. Đại Ngọc thấy vậy, biết Bảo Ngọc chán nản, bực bội bỏ đi, chẳng nói câu gì, nên càng bực mình thêm, liền nói: “Từ rày, suốt đời đừng đến đây nữa cũng xong!”

Bảo Ngọc không để ý đến câu nói ấy, về nằm sõng sượt ở giường, buồn thiu. Tập Nhân biết đầu đuôi câu chuyện, nhưng không dám nói, chỉ muốn đánh lảng ra việc khác cho khuây khỏa, nhân cười hỏi:

– Hôm nay nghe hát rồi, mai kia chắc cậu lại được nghe nữa. Thế nào cô Bảo chẳng mời lại.

Bảo Ngọc cười nhạt:

– Mời lại hay không, có việc gì đến tôi!

Tập Nhân thấy câu nói khác thường, bèn cười:

– Thế là thế nào? Năm mới tốt lành, mẹ con, chị em ai cũng vui vẻ cả, sao cậu lại thế?

– Mẹ con chị em người ta vui hay không, cũng không can gì đến tôi!

– Cả nhà vui thì cậu cũng nên vui một tí có hơn không?

– Cả nhà là thế nào? Họ có người này người nọ chứ tôi thì chỉ trần trùi trụi, chả bấu víu vào đâu cả?

Nói đến đây, Bảo Ngọc tự nhiên nhỏ nước mắt. Tập Nhân thấy quang cảnh ấy, không dám hỏi nữa. Bảo Ngọc ngẫm nghĩ câu vừa rồi, khóc òa lên, đứng phắt dậy, đến bên án thư cầm bút viết một câu kệ:

Người chứng, ta chứng 7, lòng chứng, ý chứng. Đã không có chứng, mới gọi là chứng. Không có gì chứng, mới là chỗ đứng.

Viết xong, bản thân tuy đã hiểu, nhưng sợ người xem không hiểu, Bảo Ngọc lại viết thêm khúc “Ký sinh thảo” ở sau kệ, rồi đọc lại một lượt, trong bụng thấy khoan khoái, không vướng víu gì, liền lên giường ngủ.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc vừa rồi đi ra một cách quả quyết, bèn lấy cớ đến hỏi thăm Tập Nhân để xem ý tứ ra sao. Tập Nhân nói:

– Cậu ấy đi ngủ rồi.

Đại Ngọc muốn về ngaỵ Tập Nhân lại nói:

– Cô hãy đứng lại xem cái giấy này trong viết những gì?

Rồi đem tờ giấy Bảo Ngọc vừa viết đưa cho Đại Ngọc xem. Biết Bảo Ngọc vì một lúc tức giận mà làm ra bài này, đáng cười lại đáng than, Đại Ngọc liền bảo Tập Nhân:

– Cậu ấy viết đùa đấy, chẳng có gì đâu.

Nói xong cầm tờ giấy về buồng.

Đến hôm sau, Đại Ngọc đưa cho Bảo Thoa, Tương Vân cùng xem. Bảo Thoa đọc lên có những câu:

Không phải ta không phải người,

Theo ai nhưng chẳng biết là ai?

Tha hồ đi lại không vướng mắc,

Vui vẻ hão huyền thôi cũng mặc.

Thân sơ ai có kể làm chi!

Trước đây lận đận bởi duyên gì?

Bây giờ nghĩ lại thật là vô vị!

Bảo Thoa đọc xong, xem lại những câu kệ, cười nói:

– Người này đã tỉnh ngộ rồi đây. Đó là lỗi ở tôi, vì hôm nọ tôi đọc cho anh ấy nghe một bài hát, thành ra gợi chuyện này. Những lời bí ẩn trong sách đạo dễ làm người ta thay đổi tính tình. Sau này anh ấy cứ cho những câu nói gàn dở là phải, lúc nào bụng cũng nghĩ vớ vẩn, há chẳng phải là tự tôi đọc một bài hát mà sinh ra lắm chuyện hay sao? Tôi thật là đầu têu việc này!

Nói xong, Bảo Thoa xé vụn tờ giấy, bảo a hoàn đốt đi. Đại Ngọc cười nói:

– Cần gì phải xé, để tôi hỏi anh tạ Chị em cứ theo tôi. Tôi sẽ làm cho anh ta chừa những ý nghĩ ngây ngô đi.

Ba người cùng sang gặp Bảo Ngọc. Đại Ngọc cười, nói:

– Anh Bảo Ngọc, tôi hỏi anh! Qúy nhất là của “bảo”, bền nhất là “ngọc”. Anh có gì là quý, là bền?

Bảo Ngọc không trả lời được. Ba người đều cười nói:

– Ngu ngốc như thế mà muốn “tham thiền” 8.

Đại Ngọc nói:

– Anh nói trong kệ: không có gì chứng. mới là chỗ đứng, câu ấy cũng đúng, nhưng cứ ý tôi thì chưa đủ, nên nói thêm câu này:

Không có chỗ đứng, mới thực can tịnh 9.

Bảo Thoa cười nói:

– Đúng đấy, như thế mới là hiểu thấu đạo Phật. Ngày trước vị tổ thứ sáu của Nam Tông là Huệ Năng đi tìm thầy, đến Thiều Châu, nghe nói có vị tổ thứ năm là Hoẵng Nhẫn ở Hoàng Mai, liền vào xin làm “hỏa đầu tăng” 10. Tổ thứ năm muốn tìm người thừa tự đạo Phật. bảo các sư mỗi người làm một bài kệ. Sư thượng tọa là Thần Tú nói: Mình là cây bồ đề, lòng như đài gương sáng. Phải nên lau chùi luôn, đừng để cát bụi bám. Bấy giờ sư Huệ Năng đương giã gạo ở dưới bếp, nói: “Hay thì hay thực, nhưng chưa được trọn nghĩa”. Nhân đọc một bài kệ: Bồ đề nào phải cây, gương sáng nào phải đài, không có vật gì cả, đâu vướng bụi trần ai. Tổ thứ năm bèn đem áo và bát 11 truyền cho sư Huệ Năng. Câu kệ vừa rồi cũng là nghĩa ấy, nhưng mới chỉ là câu bí ẩn, chưa hoàn toàn kết thúc, không lẽ nửa chừng lại thôi hay sao?

Đại Ngọc cười nói:

– Lúc nãy không trả lời được, thế là anh ấy thua rồi; bây giờ có trả lời cũng chẳng lấy gì làm giỏi. Thôi từ nay trở đi anh không được nói chuyện đạo Phật nữa. Ngay những điều hai chúng tôi biết, anh cũng còn chưa hiểu, thế mà cũng đòi tham thiền!

Bảo Ngọc vẫn cứ cho mình là đã giác ngộ, không ngờ bị Đại Ngọc hỏi một câu không trả lời được; lại đến Bảo Thoa lôi chuyện trong Ngữ lục 12 ra, đều là những chuyện đột ngột bất ngờ. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Họ hiểu biết trước ta, cũng còn chưa giác ngộ, sao ta lại tự chuốc lấy khổ não vào mình”. Rồi cười nói:

– Ai tham thiền? Chẳng qua nói đùa một lúc đấy thôi.

Sau đó, bốn người lại vui vẻ như cũ.

Chợt có người báo: Nguyên phi sai người mang đến cái đèn có viết câu đố, bảo mọi người đoán xem. Đoán xong, mỗi người viết một câu dâng lên.

Bốn người nghe nói, vội chạy đến buồng Giả mẫu, thấy một thái giám nhỏ mang cái đèn lụa trắng, bốn góc bằng nhau, trên lụa đã viết sẵn câu đố. Mọi người tranh nhau đoán. Viên thái giám nhỏ nói:

– Các vị đoán xong đừng nói ra, cứ viết kín và niêm phong đệ lên để người xem ai đoán đúng.

Bảo Thoa đến gần thấy một bài thơ bốn câu bảy chữ, không có gì mới lạ, nhưng cũng khen ngợi, kêu là khó đoán lắm. Rồi giả cách như nghĩ ngợi, nhưng thực ra cô ta đã đoán được rồi. Bọn Bảo Ngọc, Đại Ngọc, Tương Vân, Thám Xuân đều đoán cả. Lại gọi bọn Giả Hoàn, Giả Lan đến đoán. Sau đó mỗi người lấy một vật gì làm thành câu đố, viết cẩn thận vào giấy và treo lên đèn.

Viên thái giám đi về, đến chiều, đưa dụ ra: “Bài của quý phi đố, các vị đều đoán đúng cả, chỉ có cô Hai và cậu Ba là đoán sai. Những câu đố của các vị tiểu thư, người đã đoán cả rồi, không biết có đúng hay không?” Hắn giở những câu Nguyên phi đoán ra, có câu đúng, cũng có câu sai, kể lại một lượt. Viên thái giám lại đem những đồ thưởng ra cho những người đoán đúng. Mỗi người được một cái ống đựng thơ do trong cung làm ra và một cái thìa lấy bã chè. Chỉ có Nghênh Xuân, Giả Hoàn là không được gì cả. Nghênh Xuân cho là trò chơi nhỏ nhặt không để ý đến, duy Giả Hoàn thì buồn bực. Viên thái giám lại nói:

– Câu đố của cậu Ba không thông, quý phi không đoán, bảo tôi mang đến hỏi cậu Ba là cái gì?

Mọi người nghe nói, đến xem, thấy hắn viết:

Anh Cả có những tám sừng,

Anh Hai chỉ có hai sừng mà thôi.

Trên giường anh Cả ngồi chơi.

Cửa buồng chồm chỗm anh Hai thích ngồi.

Xem xong, ai nấy cười ồ lên, Giả Hoàn nói với viên thái giám:

– Một câu là cái gối, một câu là đầu con thú.

Ghi xong, viên thái giám uống nước rồi về.

Giả mẫu thấy Nguyên Xuân có những trò chơi hứng thú, lại càng vui thêm, bèn sai làm một cái đèn lồng rất khéo và đẹp, để ở giữa nhà, bảo bọn chị em mỗi người viết một câu đố, dán ở ngoài đèn, rồi sửa soạn những đồ thưởng, như chè thơm, quả tươi cùng các đồ chơi khác.

Giả Chính đi chầu về, thấy Giả mẫu vui, vả lại, giữa ngày xuân, nên chiều hôm ấy ông ta cũng sang hầu để mẹ vui thêm.

Mâm trên Giả mẫu, Giả Chính và Bảo Ngọc; mâm dưới có Vương phu nhân, Bảo Thoa, Đại Ngọc và Tương Vân; dưới nữa là Nghênh Xuân, Thám Xuân và Tích Xuân. Các bà hầu già và bọn a hoàn đứng hầu xung quanh. Mâm gian trong thì Lý Cung Tài và Vương Hy Phượng.

Giả Chính hỏi:

– Sao không thấy Giả Lan đâu?

Bọn hầu vào hỏi Lý thị. Lý thị đứng dậy cười nói:

– Cháu nó không thấy ông gọi, nên không chịu đến.

Người hầu ra trình Giả Chính. Mọi người cười nói:

– Thằng cháu ương gàn quá!

Giả Chính liền bảo Giả Hoàn và người hầu gọi Giả Lan đến. Giả mẫu cho ngồi bên cạnh và cho ăn quả. Cả nhà chuyện trò vui vẻ.

Bảo Ngọc xưa nay vẫn hay nói ba hoa, nay có Giả Chính ngồi đấy, nên chỉ ngồi yên vâng vâng dạ dạ. Tương Vân tuy là con gái, vốn thích chuyện trò cười đùa, nhưng cũng khóa miệng nốt. Đại Ngọc thì hay làm vẻ không thích nói nhiều. Bảo Thoa thì hay giữ gìn cẩn thận, cũng ngồi yên không nói gì. Thành ra tiệc vui trong gia đình, nhưng vẫn thấy gò bó.

Giả mẫu biết là có Giả Chính ở đấy, nên uống hết ba tuần rượu, liền giục Giả Chính về nghỉ. Giả Chính biết ý Giả mẫu bảo mình về để cho các cháu được thoải mái, liền cười nói:

– Hôm nay được nghe bà đặt tiệc, đố đèn, nên con mang rượn và lễ vật đến xin vào hội, sao bà lại không chia sẻ lòng thương yêu các cháu cho con một chút nào?

Giả mẫu cười nói:

– Vì anh ở đây, chúng nó không dám vui cười, khiến ta buồn. Anh muốn đoán câu đố, ta ra cho một câu, nếu đoán không đúng thì phải phạt.

Giả Chính vội cười:

– Vâng, xin chịu phạt; nếu đoán đúng, xin bà thưởng cho.

– Cái ấy cố nhiên.

Rồi giả mẫu đọc luôn:

– Con khỉ lơ lửng bám trên cành (Đố tên một thứ quả).

Giả Chính biết ngay tà quả vải, nhưng cố ý đoán sai, để chịu phạt mấy thứ rồi mới đoán đúng. GIả mẫu lại thưởng cho mấy thứ. Sau Giả Chính lại đọc một câu đố để Giả mẫu đoán:

– Mình thì vuông vắn, chất thì cứng rắn, tuy không biết nói, trả lời đúng đắn. (Đố một thứ đồ dùng).

Ông ta đọc xong, rồi khẽ bảo Bảo Ngọc. Bảo Ngọc biết ý, khẽ đến gà Giả mẫu. Giả mẫu nghĩ một lúc cho là đúng, liền nói:

– Đó là cái nghiên.

Giả Chính cười nói:

– Bà đoán một lần đúng ngay.

Rồi quay lại bảo đem đồ mừng đến. Bọn hầu vâng lời mang hết khay lớn, khay nhỏ lên. Giả mẫu xem từng cái một, đều là đồ mới đẹp, để dùng vào ngày hội hoa đăng cả, trong bụng rất vui, liền bảo:

– Rót rượu cho cha mày uống.

Bảo Ngọc rót rượu, Nghênh Xuân dâng rượu. Giả mẫu bảo Giả Chính:

– Những câu viết ở trên đèn lồng đều là của chị em nó làm cả. Anh thử đoán đi cho ta nghe.

Giả Chính vâng lời, đến gần bình phong, thấy một câu của Nguyên phi viết:

Yêu ma hồn vía còn chăng,

Mình như cuốn lụa hơi đằng sấm ran.

Ai nghe thấy cũng hết hồn,

Ngoảnh đầu nhìn lại tro tàn khói bay.

(Đố một thứ đồ chơi)

Giả Chính nói:

– Đó là cái pháo.

Bảo Ngọc đáp:

– Đúng.

Giả Chính lại xem câu của Nghênh Xuân:

Trời chuyển, người xoay, lý chẳng cùng,

Người xoay trời đứng cũng không xong,

Tại vì tính toán quanh co mãi,

Mà số âm dương vẫn chửa thông!

(Đố một thứ đồ dùng).

Giả Chính nói:

– Đó là bàn tính.

Nghênh Xuân cười nói:

– Đúng.

Giả Chính lại xem câu đố của Thám Xuân:

Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,

Thanh minh là tiết dong chơi hợp thì.

Mỏng manh một sợi du ti,

Biệt ly đừng có trách gì gió đông.

(Đố một đồ chơi)

Giả Chính nói:

– Đó là cái diều.

Thám Xuân nói:

– Đúng.

Lại xem một bài:

Kiếp trước long đong ngán phận mình,

Nghe ca không thích thích nghe kinh!

Đừng cho thân đã chìm trong bể,

Chói lọi còn nguyên chữ tính linh.

(Đố một thứ đồ dùng)

Giả Chính đoán:

– Đó là cái đèn đại hải trước cửa Phật.

Tích Xuân cười nói:

– Đúng là đèn đại hải.

Giả Chính trong lòng suy nghĩ: “Qúy phi làm bài cái pháo là một thứ nổ tan tành; Nghênh Xuân làm bài cái bàn tính là một thứ biến động lung tung; Thám Xuân đố cái diều là một thứ nhẹ bay trước gió; Tích Xuân làm cái đèn đại hải, một thứ tịch mịch cô đơn. Lúc này giữa tiết thượng nguyên, sao chúng nó lại chơi những trò quái gở ấy?” Giả Chính càng nghĩ càng buồn. Chỉ vì đứng trước Giả mẫu nên ông ta không dám lộ ra sắc mặt, đành cứ gắng gượng xem suốt lượt. Xem đến câu của Bảo Thoa là một bài thơ thất ngôn:

Áo chầu đầy khói để ai mang?

Đàn đấy, chăn đây, luống bẽ bàng,

Chú lính sớm không cần đếm thẻ,

Chị hầu đêm cũng biếng thêm hương,

Vùi đầu trải biết bao hôm sớm,

Đốt ruột không nài mấy tuyết sương,

Thấm thoát bóng xuân đà đáng tiếc,

Kể gì thay đổi cuộc tang thương.

(Đố một thứ đồ dùng)

Giả Chính xem xong, nghĩ bụng: “Vật này cũng dễ đoán thôi. Có điều người còn ít tuổi mà đã nói ra những điềm không haỵ Xem ra không phải là hạng người được hưởng phúc”. Nghĩ đến đấy, ông ta cúi đầu im lặng, có vẻ thương cảm, mất hết tính tình vui vẻ lúc đầu.

Giả mẫu thấy thế, cho là Giả Chính đã mệt, lại sợ các cháu bị gò bó, không được chơi đùa tự do, liền bảo:

– Anh không cần phải ở đây nữa, về nghỉ thôi, để ta ngồi chơi với các cháu một lúc.

Giả Chính nghe nói, vâng lời, lại cố mời Giả mẫu uống thêm một tuần rượu nữa, rồi xin phép ra về. Đến buồng, ông ta ngẫm nghĩ mãi, càng thấy buồn thiu, trằn trọc không sao ngủ được.

Giả mẫu thấy Giả Chính về rồi, bảo:

– Bây giờ các cháu vui chơi đi.

Nói chưa dứt lời thì Bảo Ngọc đã như con khỉ sổ xích, chạy đến trước cái đèn lồng, chỉ đông chỉ tây, chê bai luôn mồm, câu này không hay, câu kia không đúng. Bảo Thoa liền nói:

– Cứ ngồi một chỗ mà cười nói như trước, có phải đứng đắn hơn không?

Phượng Thư ở trong nhà chạy ra nói góp:

– Hạng người như chú, thì phải bắt ở liền bên ông, không được rời đi một bước mới được. Vừa rồi quên mất, làm sao trước mặt ông lại không bắt chú làm mấy câu đố? Sợ chú lại không toát mồ hôi!

Bảo Ngọc vội nắm lấy Phượng Thư, nũng nịu một lúc. Giả mẫu cùng với Lý Cung Tài và bọn chị em cười nói một hồi, chừng đã mệt, xem đồng hồ đã canh tư, liền sai mang các thứ đồ ăn thưởng cho người nhà, rồi đứng dậy nói:

– Thôi chúng ta đi nghỉ, mai còn là ngày tết, nên dậy sớm một tí, đến chiều lại chơi.

Tiệc tan, mọi người ra về.

1      Theo tục cổ ở Trung Quốc, con gái đến mười lăm tuổi thì cài trâm.

2      Tên một quả núi thuộc tỉnh Sơn tây Trung Quốc. Tương truyền nơi Phật hóa thân.

3      Côn sơn vả Giặc đương là hai điệu hát. Côn thuộc về nhã nhạc. Giặc thuộc về tạp hí.

4      Tích Lỗ Trí Thâm say rượu… nói ở trên.

5      Tên một khúc hát, diễn tích Uất Trì Kính Đức đời Đường giả điên. Ở đây Đại Ngọc dùng tiếng song quan để giễu Bảo Ngọc. Câu này còn có nghĩa: chưa hát “Sơn môn” anh đã giả điên.

6      Ý nói những chỗ rừng núi sông ngòi tự nhiên thành chỗ tụ tập của kẻ cướp kẻ trộm.

7      Bài kệ này viết theo giáo lý nhà Phật. Chứng là theo bằng chứng, giáo nghĩa là giáo lý. Chứng có nhiều bực, từ sắc giới đi đến không giới. Bài kệ này là theo ý bài “Ký sinh thảo” trong vở Sơn môn mà Bảo Ngọc suy rộng ra.

8      Hiểu theo đạo Phật.

9      Sạch sẽ và im lặng. Câu này theo nghĩa bài kệ trên, lên cao một bậc nữa, tức là thoát hẳn ra “không giới”.

10      Sư nấu bếp.

11      Áo là áo cà sa, bát lả bát khất thực (xin ăn). Theo tục lệ đạo Phật ngày trước, các tín đồ nuôi các sư, đến bữa vác bát đi lấy cơm, gọi là khất thực, nhà sư tùy thân chỉ có cái áo và cái bát, sư thầy truyền đạo cho người thừa tự, gọi là “truyền y bát”.

12      Sách chép những triết học, tư tưởng và ngôn luận của các danh tăng.

Chương 23: Mượn câu văn Tây Sương ký, giở giọng giỡn đùa – Nghe khúc hát Mẫu đơn đình, chạnh lòng hờn tủi

Mượn câu văn Tây Sương ký, giở giọng giỡn đùa

Nghe khúc hát Mẫu đơn đình, chạnh lòng hờn tủi

Nguyên phi sau khi từ vườn Đại quan về cung, sai Thám Xuân chép lại tất cả những bài vịnh hôm ấy, rồi tự tay xếp thứ tự hơn kém, truyền dựng bia ở trong vườn để ghi lại một cuộc chơi phong nhã hiếm có xưa naỵ Giả Chính liền sai người đi các chợ tìm thợ khéo đến vườn mài đá, khắc chữ. Giả Trân sai bọn Giả Dung, Giả Bình trông nom công việc. Giả Tường vì bận về trông nom bọn con hát và các đồ diễn tuồng, nên không được rỗi. Giả Trân lại gọi thêm bọn Giả Xương, Giả Lăng đến trông coi giúp, công cuộc bắt đầu vào việc nấu sáp, đục đá.

Nói đến mười hai sa ni và mười hai đạo cô ở miếu Ngọc Hoàng và am Đạt Ma dọn ra bên ngoài, không ở trong vườn nữa, Giả Chính muốn phân họ đi các nơi. Chu thị là mẹ Giả Cần ở phố sau, đang muốn xin với Giả Chính cho con việc làm để lấy tiền tiêu. May sao nghe có việc này, liền đi xe đến nhờ Phượng Thư.

Phượng Thư biết Chu thị xưa nay không hay cậy thần cậy thế mấy, liền nhận lời. Nghĩ ngợi một lúc, Phượng Thư sang trình Vương phu nhân:

– Không nên cho bọn ni cô và đạo cô đi ở nơi khác. Bất thần Qúi phi ra chơi, cần đến họ sẽ có ngaỵ Nếu cho họ đi, khi cần đến, phải mất nhiều thì giờ, tốn công sức. Cứ như ý con, nên cho họ Ở cả vào chùa Thiết Hạm, hàng tháng cho một người đem vài lạng bạc đến mua gạo củi cho họ là được rỗi. Khi cần, ta chỉ gọi một tiếng là có, không mất công gì cả.

Vương phu nhân đến bàn với Giả Chính. Giả Chính cười nói:

– Bây giờ nhắc đến, tôi mới nhớ, vậy cứ thế mà làm.

Rồi lập tức cho gọi Giả Liễn.

Giả Liễn đương ăn cơm với Phượng Thư, thấy gọi, liền bỏ cơm xuống, đứng dậy ngay, Phượng Thư níu lại cười nói:

– Hãy khoan đã, tôi bảo câu này! Việc khác thì tôi không cần, nhưng nếu là việc bọn ni cô và đạo cô, thì thế nào cũng phải theo tôi dặn mà nói.

Rồi dặn Giả Liễn mấy câu. Giả Liễn lắc đầu cười:

– Có giỏi mợ đi mà nói, tôi mặc kệ.

Phượng Thư ngẩng cổ lên, bỏ đũa xuống, vẻ mặt nửa cười nửa không, lườm Giả Liễn:

– Cậu nói thực hay nói đùa đấy?.

Giả Liễn cười nói:

– Con chị Năm ở phòng phía tây là Giả Vân đã xin với tôi hai ba lần. Tôi bảo nó hãy chờ, chẳng mấy khi có việc này, mợ lại định cướp mất.

Phượng Thư cười:

– Cậu cứ yên tâm, Qúi phi đã dặn trồng nhiều tùng, bách về phía đông bắc trong vườn và hoa cỏ ở trước lầu. Khi nào khởi công, tôi sẽ cho cháu Vân trông nom việc ấy.

Giả Liễn nói:

– Thôi được. Nhưng tại sao đêm hôm qua tôi muốn “đổi lối mới” mợ lại cứ vùng vằng hất chân hất tay tôi ra.

Phượng Thư nghe nói, nhoẻn cười, phì vào Giả Liễn một cái, rồi cúi đầu ăn cơm.

Giả Liễn cười rồi chạy một mạch đến hầu Giả Chính, thì quả là việc các ni cộ Giả Liễn cứ theo lời Phượng Thư dặn, nói:

– Xem ra cháu Cần đã thông thạo, có thể giao cho nó trông nom, cứ theo thường lệ, mỗi tháng chỉ việc chi và lĩnh tiền là xong.

Giả Chính xưa nay vẫn không nhìn đến những việc nhỏ nhặt, nghe Giả Liễn nói, bằng lòng ngay.

Giả Liễn về nhà bảo Phượng Thự Phượng Thư sai người bảo ngay Chu thị. Giả Cần đến, cảm ơn vợ chồng GIả Liễn. Phượng Thư lại muốn tỏ ra thân thiết, bảo hắn viết giấy nhận trước ba tháng lương. Giả Liễn đóng dấu, phát thẻ cho hắn đi lĩnh. Kho bạc cứ theo số lương phát cho ba trăm lạng bạc trắng xóa. Giả Cần đưa biếu người cân một lạng để uống nước, rồi sai đứa hầu nhỏ đem về nhà. Hắn bàn với mẹ xong, lập tức thuê mấy cỗ xe đến cửa nách phủ Vinh, gọi hai mươi bốn người ra, ngồi cả lên xe, đi một mạch đến chùa Thiết Hạm.

Nói về Nguyên phi ở trong cung đã xếp xong thứ tự những bài đề vịnh vườn Đại Quan rồi. Chợt nghĩ đến phong cảnh trong vườn, sau lần ra chơi, chắc là Giả Chính bắt đóng khóa cẩn thận, không cho ai đi lại, như thế chẳng hóa phụ cái đẹp ấy lắm sao? Vả chăng đám chị em trong nhà đều là người biết đề vịnh cả, sao ta không bảo họ sang đấy, để đến nỗi người tài buồn tẻ, hoa liễu kém tươi! Lại nghĩ đến Bảo Ngọc không như các anh em khác, từ bé đến lớn vẫn ở luôn với đám chị em; nếu không cho sang đây, sẽ làm cho cậu ta buồn, mà Giả mẫu và Vương phu nhân cũng không được vui. Vậy nên cho Bảo Ngọc ở luôn đấy mới phải.

Nguyên phi liền sai thái giám là Hạ Trung đem một đạo dụ đến phủ Vinh truyền cho bọn Bảo Thoa vào ở trong vườn, không được đóng khóa như trước, Bảo Ngọc cũng được đến ở đấy đọc sách.

Giả Chính và Vương phu nhân nhận được dụ, đến trình Giả mẫu, rồi sai người vào trong vườn dọn dẹp sắp đặt giường ghế, treo rèm màn. Bảo Ngọc nghe tin, khôn xiết vui mừng. Đương lúc vòi vĩnh Giả mẫu, đòi cái nọ, đòi cái kia, thì có a hoàn đến nói: “Ông sai gọi cậu Bảo”.

Bảo Ngọc sa sầm nét mặt, mất vui, ngồi ngẩn ra một lúc, rồi uốn éo níu chặt lấy Giả mẫu, không chịu đi.

Giả Mẫu an ủi:

– Của quí của bà này! Cháu cứ đi, đã có bà. Cha cháu không dám làm rầy rà cháu đâu. Vả cháu vừa làm được những bài thơ hay, nên chị cháu muốn cho cháu vào trong vườn ở. Cha cháu sợ cháu vào trong ấy hay quấy rầy, nên gọi đến dặn bảo mấy câu đấy thôi. Hễ cha bảo câu gì, cháu cứ vâng lời ngay là xong.

Giả mẫu nói xong, gọi hai bà già đến dặn: “Đưa cậu Bảo sang, và chớ để ông làm cho cậu ấy sợ”. Bà già vâng lời đi.

Bảo Ngọc chầm chậm bước đi, mãi mới đến nơi. Giả Chính đương ở buồng Vương phu nhân bàn tính công việc. Bọn Kim xuyến, Thái Vân, Thái Phượng, Tú Loan, Tú Phượng đương đứng ở dưới thềm, trông thấy Bảo Ngọc, đều nhoẻn miệng cười. Kim Xuyến nắm Bảo Ngọc lại khẽ bảo:

– Môi tôi vừa bôi nhiều sáp thơm và ngọt lắm, cậu có thích ăn không?

Thái Vân đẩy Kim Xuyến ra cười nói:

– Người ta đương ruột rối bời bời, mày còn trêu chọc mãi! Lúc này ông bà đang vui đấy, cậu đi vào đi.

Bảo Ngọc đẩy cửa vào. Giả Chính và Vương phu nhân ở cả trong buồng. Dì Triệu vén rèm, Bảo Ngọc vào, thấy Giả Chính và Vương phu nhân đương ngồi trên giường nói chuyện. Bọn Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Giả Hoàn đều ngồi ghế dưới. Thấy Bảo Ngọc vào, Thám Xuân, Tích Xuân và Giả Hoàn đều đứng dậy.

Giả Chính ngước mắt nhìn, thấy Bảo Ngọc dáng điệu thanh nhã, vẻ mặt tuấn tú, ngoảnh lại nhìn Giả Hoàn, thì diện mạo ươn hèn, đi đứng thô lỗ, khiến ông ta lại nhớ ngay đến Giả Châu. Nghĩ đến Vương phu nhân chỉ còn có một đứa con đẻ, yêu quí như ngọc, mà mình thì đầu đã hoa râm, bỗng lòng ghét Bảo Ngọc của ông ta đã bớt đi nhiều. Liền nói:

– Qúi phi bảo mày suốt ngày đi chơi, không chịu học hành; nay bắt mày ở trong vườn đọc sách với các chị em. Mày phải cố học, nếu còn lêu lổng thì liệu hồn đấy!

Bảo Ngọc vâng lia lịa, Vương phu nhân dắt lại cho ngồi bên cạnh. Các chị em cũng đâu ngồi đấy. Vương phu nhân sờ cổ Bảo Ngọc hỏi:

– Những viên thuốc hôm nọ uống hết chưa?

– Còn một viên ạ.

– Ngày mai lại lấy mười viên nữa. Mỗi đêm trước khi đi ngủ, bảo Tập Nhân cho uống một viên.

– Vâng. Trước khi đi ngủ, Tập Nhân vẫn cho con uống.

Giả Chính hỏi:

– Tập Nhân là ai?

Vương phu nhân đáp:

– Là một a hoàn.

– A hoàn thì gọi tên gì không được. Đứa tai quái nào đã đặt cho nó cái tên ấy?

Vương phu nhân thấy Giả Chính không thích, liền giấu hộ Bảo Ngọc, nói:

– Đó là bà đặt cho nó đấy.

Giả Chính nói:

– Bà hiểu đâu những chữ ấy. Nhất định lại thằng Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc biết không giấu nổi, đứng dậy thưa:

– Vì thường đọc thơ, con nhớ có câu: Hoa khí tập nhân tri trú noãn 1. Nó là họ Hoa, nên tiện miệng con đặt cho cái tên ấy.

Vương phu nhân vội bảo Bảo Ngọc:

– Về đổi ngay cái tên ấy đi.

Và quay sang nói với Giả Chính:

– Ông cũng không nên để tâm về việc nhỏ này.

Giả Chính nói:

– Kể ra cũng chẳng hại gì, không cần phải đổi. Nhưng xem thế đủ biết nó không chăm lo việc chính, chỉ thích những lời văn trai lơ phù phiếm thôi.

Ông ta quát to một tiếng:

– Đồ súc sinh, sao không bước đi!

Vương phu nhân vội nói:

– Thôi về đi, có lẽ bà đương chờ con đấy.

Bảo Ngọc vâng lời, thong thả đi ra, nhìn Kim Xuyến lè lưỡi cười, rồi theo bầu ngực già chạy một mạch về nhà. Lúc này Tập Nhân đang dựa cửa, thấy Bảo Ngọc về được êm thấm, cười hỏi:

– Ông gọi cậu đến làm gì?

– Chẳng có việc gì cả. Ông sợ tôi vào ở đấy quấy rối, dặn bảo mấy câu thôi.

Nói xong Bảo Ngọc chạy sang bên Giả mẫu trình hết đầu đuôi. Khi ấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc liền hỏi:

– Cô thích ở chỗ nào?

Đại Ngọc đương tính toán việc ấy, thấy Bảo Ngọc hỏi, liền cười nói:

– Tôi thích ở quán Tiêu Tương. Ở đấy có mấy khóm trúc, quanh co một dãy bao lan, tĩnh mịch hơn chỗ khác.

Bảo Ngọc vỗ tay cười nói:

– Thực đúng ý tôi! Tôi cũng muốn cô ở đấy. Tôi ở viện Di Hồng. Hai chúng ta lại được gần nhau, và đều được yên lặng.

Hai người đương bàn định, thì Giả Chính sai người đến trình Giả mẫu:

– Đến hai mươi hai tháng hai này tốt ngày, xin cho các cậu các cô dọn vào ở trong vườn.

Trong mấy ngày ấy, người nhà chia nhau vào vườn dọn dẹp. Bảo Thoa ở Hành Vu uyển, Đại Ngọc ở quán Tiêu Tương, Nghênh Xuân ở lầu Xuyết Cẩm, Thám Xuân ở Thu Sảng trai, Tích Xuân ở hiên Lục Phong, Lý Hoàn ở thôn Đạo Hương, Bảo Ngọc ở viện Di Hồng. Mỗi nơi phái thêm hai bà già, bốn a hoàn. Ngoài bà vú và các người hầu cận, còn có nhiều người chuyên giữ việc dọn dẹp quét rửa. Đến ngày hai mươi hai, đâu đấy đều dọn sạch sẽ cả. Bấy giờ trong vườn phút đã hoa chào đai gấm, liễu đón gió thơm, không còn vắng vẻ như khi trước nữa.

Bảo Ngọc từ khi vào ở trong vườn, lòng đầy vui thích, chẳng mong gì khác nữa. Ngày nào cậu ta cũng chỉ cùng chị em và bọn a hoàn họp mặt một chỗ, hoặc đọc sách, hoặc viết lách, gẩy đàn, đánh cờ, học vẽ, làm thơ, thêu loan, trổ phượng, chọi cỏ, hái hoa, ngâm thơ, hát lẩy, đố chữ, đoán múi quả, tha hồ chơi bời thỏa thích. Bảo Ngọc có bốn bài tức cảnh bốn mùa, tuy không hay lắm, nhưng cũng tả được tình cảnh chân thực:

TỨC CẢNH ĐÊM XUÂN

Trướng ráng màn mây sắp sẵn rồi,

Ngõ ngoài tiếng ếch thoáng bên tai.

Gối vương hơi lạnh mưa ngoài cửa,

Mắt ngắm màu xuân, mộng gặp người.

Cây nến khóc ai giàn gụa mãi!

Bông hoa hờn khách ủ ê hoài!

A hoàn chẳng biết lười hay nũng?

Vẫn cứ ôm chăn, vẫn nói cười.

TỨC CẢNH ĐÊM HÈ

Thêu khuya ai mới ngủ say,

Trong lồng, anh vũ gọi ngay pha chè.

Gương xạ nguyệt rọi song the,

Đào vân ngào ngạt, hương chè vua ban.

Móc sen cốc ngọc đầy tràn,

Ngả nghiêng gió liễu bên giàn pha lê.

Trên đình phe phẩy quạt hè,

Lầu son trang điểm rèm che cuốn liền.

TỨC CẢNH ĐÊM THU

Trong Giáng Vân hiên vắng tiếng người,

Màn the nhấp nhánh bóng trăng trôi.

Hạc nồng giấc điệp trên rêu đá,

Quạ đẫm sương ngô cạnh giếng khơi.

Hầu đến giải chăn, đàn phượng múa,

Người về tựa cửa, cánh hoa rơi 2

Qúa say trằn trọc đêm còn khát,

Quạt nước pha trà hãy uống chơi.

TỨC CẢNH ĐÊM ĐÔNG

Mơ màng mai trúc trống ba rồi,

Đệm ấm chăn lồng vẫn tỉnh hoài.

Sân rợp bóng thông chim hạc đứng,

Oanh im giọng hát, tuyết hoa rơi.

Ai trùm áo thúy, hồn thơ lạnh,

Đây khoác da điêu, sức rượu lười.

Cô gái hầu trà xem đã thạo,

Lấy ngay tuyết mới thử pha chơi.

Thấy mấy bài thơ này là của một công tử mười hai mười ba tuổi ở phủ Vinh làm ra, những bọn xu phụ thế lợi lúc ấy tranh nhau biên chép truyền tụng khắp nơi. Những bạn trẻ lãng mạn, thích câu trai lơ khêu gợi, cũng viết vào quạt, hoặc đề lên tường, để thỉnh thoảng ngâm ngạ Vì thế có nhiều người đến xin chữ, xin thơ, xin vẽ, xin đề, Bảo Ngọc thành ra đắc ý, ngày nào cũng bận về việc thù ứng. Không ngờ, tĩnh quá hóa động; một hôm, Bảo Ngọc thấy buồn rầu khó chịu, nhìn cái này không đẹp, cái kia không hay, ra vào lên xuống, chỉ thấy bực mình. Trong vườn, phần đông là bọn con gái đang còn tính nết ngây thơ, cười nói hồn nhiên, ăn ở đứng ngồi gặp đâu hay đấy, thì biết thế nào được tâm sự của Bảo Ngọc?

Bảo Ngọc khó chịu, không thích ở trong vườn, chỉ muốn ra ngoài phóng túng cho rộng cẳng, nhưng lại ngớ ngẩn, không nói ra được cái sở thích của mình. Dính Yên thấy thế, muốn bày trò vui, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cái gì Bảo Ngọc cũng chơi chán rồi, khó có trò vui, chỉ còn một thứ là chưa trông thấy. Nó liền đi đến các hàng sách, tìm tòi những truyện như: Phi Yến, Hợp Đức, Võ Tắc Thiên, Dương Qúy Phi và các truyện thần kỳ khác, mua mấy bộ đem về biếu Bảo Ngọc.

Bảo Ngọc chưa được xem sách này bao giờ, quả nhiên thích lắm, như là bắt được của báu. Dính Yên lại dặn:

– Cậu không nên đem vào trong vườn, nếu để cho người ta trông thấy, thì tôi sẽ bị ăn đòn!

Nhưng Bảo Ngọc khi nào lại chịu nghẻ Cứ tính quanh tính quẩn hai ba lần, rồi chọn những bộ nào lời văn hơi thanh nhã, để ở trên giường, chờ khi vắng người mới đem ra xem; còn những bộ tục quá thì giấu ở buồng sách bên ngoài.

Một hôm, vào trung tuần tháng bạ Cơm sáng xong, Bảo Ngọc đến ngồi trên hòn đá dưới cây đào, cạnh cầu Thấm Phương, giở cuốn Hội Chân ký 3 ra xem. Khi đến chương “Lạc hồng thành trận” 4 chợt cơn gió lướt qua, hoa đào trên cây rụng xuống hàng đấu đầy cả người, cả sách, cả trên mặt đất. Bảo Ngọc muốn rũ đi, nhưng lại sợ chân giẫm phải, đành hứng lấy hoa, đem thả xuống ao. Những cánh hoa ấy cứ lênh đênh nổi trên mặt nước, rồi qua đập Thấm Phương trôi đi.

Bảo Ngọc quay lại, thấy trên mặt đất vẫn còn nhiều cánh hoa. Đương lúc dùng dằng, chợt nghe đằng sau có người hỏi: “Anh ở đây làm gì thế?” Bảo Ngọc quay lại, thấy Đại Ngọc vai vác cái cuốc, đeo cái túi the, tay cầm cái chổi quét hoa. Bảo Ngọc cười nói:

– Tốt lắm. Bây giờ cô hãy đi quét hết những cánh hoa còn lại kia đem thả xuống nước. Tôi vừa thả xuống đấy nhiều lắm.

Đại Ngọc nói:

– Thả xuống nước không được đâu. Anh tưởng nước ở đây sạch à? Khi chảy đến những chỗ gần nhà người ta ở, thì nước chứa đủ hôi thối, vẫn làm hoa dơ bẩn. Ở gò đằng kia tôi đã đào một cái mả để chôn hoa. Nay ta quét hết, bỏ vào cái túi này, đem đến đấy chôn. Hoa lâu ngày hóa ra đất, như thế chẳng sạch hay sao?

Bảo Ngọc nghe vậy mừng lắm, cười:

– Để tôi bỏ sách xuống, cùng đi nhặt với cô.

Đại Ngọc hỏi:

– Sách gì đấy?

Bảo Ngọc vội giấu đi rồi nói:

– Chẳng qua những sách “Đại học, Trung dung” thôi.

– Anh còn giở trò ma quỉ giấu tôi à? Muốn tốt, anh đưa ngay cho tôi xem.

– Cho cô xem, tôi chẳng sợ gì. Nhưng xem xong, cô đừng kể lại cho ai biết. Truyện này văn viết hay lắm, nếu cô xem nó, thì quên cả ăn.

Nói xong đưa sách cho Đại Ngọc.

Đại Ngọc bỏ các đồ nhặt hoa xuống, cầm lấy sách, càng xem càng thích, chừng chưa ăn xong bữa cơm, đã xem hết cả mười sáu hồi. Thấy lời văn rung động, trong miệng nhường có mùi thơm, Đại Ngọc chăm chú đọc xong đứng ngẩn người ra, cố nhẩm cho nhớ.

Bảo Ngọc cười:

– Cô xem có hay không.

Đại Ngọc gật đầu cười:

– Xem thú thật!

Bảo Ngọc cười nói:

– Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành. 5

Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải là trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc:

– Anh nói bậy muốn chết đấy! Dám đem những lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy.

Nói đến hai chữ “khinh nhờn”, mặt Đại Ngọc đỏ ngầu lên, nguây nguẩy chạy đi ngay.

Bảo Ngọc vội đứng ngăn lại, nói:

– Xin cô hãy tha cho tôi lần này, nếu tôi có bụng khinh nhờn cô, sau này tôi ngã xuống ao, bị giải ăn thịt, hóa ra con rùa. Khi nào cô làm bà nhất phẩm phu nhân, già ốm về chầu Phật, tôi sẽ đến mộ đội bia cho cô suốt đời.

Câu ấy làm cho Đại Ngọc phì cười, dụi mắt nói:

– Hơi một tý đã sợ run lên. Thế mà anh hay nói bậy! Thôi chẳng qua Tốt mã mà đoảng, bề ngoài giáp bạc, cốt trong sáp vàng! 6

Bảo Ngọc nghe vậy, cười nói:

– Cô nói gì đấy? Cô nói chuyện Tây sương đấy à? Tôi cũng đi mách đấy.

Đại Ngọc cười:

– Anh bảo anh liếc mắt qua cũng thuộc, có lẽ tôi không nhìn một cái được mười dòng ư?

Bảo Ngọc vừa cất sách đi, vừa cười nói:

– Thôi, đừng nói đến chuyện ấy nữa, chúng ta đi chôn hoa đi.

Rồi hai người cùng đi nhặt và chôn hoa. Vừa xong thì Tập Nhân chạy đến nói:

– Tôi tìm cậu khắp nơi, chẳng thấy đâu cả. Cậu mò đến đây làm gì thế? Ông Cả ở bên kia khó ở, các cô sang thăm cả rồi, cụ bảo tôi đi tìm cậu sang thăm. Cậu về thay quần áo ngay đi.

Bảo Ngọc liền cầm lấy sách, từ biệt Đại Ngọc, cùng Tập Nhân quay về.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc đi rồi, các chị em lại không có ai ở đây, một mình thui thủi về buồng. Vừa đi đến góc tường viện Lê Hương, thì nghe ở trong nhà có tiếng sáo, tiếng hát trầm bổng dịu dàng. Đại Ngọc biết ngay là bọn mười hai con hát nhỏ đương tập diễn tuồng. Đại Ngọc không để ý nghe, nhưng cũng có hai câu lọt vào tai, rõ ràng không sót chữ nào:

Trước sao hồng tía đua chen,

Giờ sao giếng lấp tường nghiêng thế này!

Nghe xong, Đại Ngọc rất là thương cảm, đứng dừng lắng tai nghe, lại thấy hát:

Ngày xuân cảnh đẹp đã qua,

Niềm vui rộn rã ở nhà nào đây?

Đại Ngọc gật đầu khen ngợi, nghĩ bụng: “Thế ra trong vở hát cũng có nhiều câu văn hay, tiếc rằng người đời chỉ biết nghe, chưa chắc đã thưởng thức được những cái hay trong đó”, chợt lại hối không nên nghĩ nhảm, bỏ nhỡ những khúc hát, Đại Ngọc lại lắng tai nghe nữa, thấy hát câu:

Chỉ vì nàng người đẹp như hoa,

Tuổi trôi như nước… 7

Nghe cây này, tâm thần Đại Ngọc choáng váng; sau lại thấy những câu: Thương mình ở chốn thâm khuê… lại càng như say như dại, không đứng vững được, Đại Ngọc ngồi trên hòn đá ngẫm nghĩ ý vị tám chữ: Người đẹp như hoa, tuổi trôi như nước. Chợt nhớ đến cổ nhân có câu: Nước chảy hoa tàn khéo hững hờ, mà trong từ khúc này lại có câu: Nước chảy hoa trôi xuân đã hết, trên đời cõi tục… Vả lại trong Tây Sương ký lại có câu:

Hoa rơi dòng nước đỏ ngòm,

Muôn sầu vơ vẩn héo hon lòng này.

Bao nhiêu ý nghĩ dồn lại, làm Đại Ngọc đắn đo suy nghĩ, bất giác tâm thần ngơ ngẩn, nước mắt tràn quanh. Đương lúc phiền não, chưa tìm được cách khuây khỏa, bỗng có người đập một cái vào sau lưng:

Thật là:

Sớm phấn đêm thêu nào nghĩ đến;

Nhìn trăng hứng gió lại buồn thêm.

1      Mùi thơm của hoa ngát xung quanh người, biết là ban ngày trời ấm.

2      Nguyên văn câu này: Khi người tựa cửa quay về thì hoa tuyết rơi đầy.

3      Tức truyện Tây sương, Nguyên Chẩn đời Đường làm ra.

4      Hoa đỏ rụng thành từng trận.

5      Chữ trong Tây sương ký.

6      Câu này trích trong vở Mẫu đơn đình, Thang Hiển Tổ đời Minh soạn ra.

7      Cũng chữ trong Tây sương ký.

Chương 24: Kim Cương say rượu, tính hào hiệp tiền bạc coi – Cô gái si tình, rơi khăn lụa mơ màng nhớ bạn khinh

Kim Cương say rượu, tính hào hiệp tiền bạc coi khinh

Cô gái si tình, rơi khăn lụa mơ màng nhớ bạn

Đại Ngọc đương lúc tình tứ triền miên, nghĩ ngợi vơ vẩn, chợt có người vỗ vào lưng nói:

– Cô ngồi đây một mình làm gì?

Đại Ngọc giật mình ngoảnh lại, nhìn thấy Hương Lăng. Đại Ngọc nói:

– Con quái này làm người ta giật mình! Mày ở đâu đến đây?

Hương Lăng cười hì hì nói:

– Tôi đi tìm cô tôi, chẳng thấy đâu cả. Chị Tử Quyên cũng đương tìm cô, và nói là mợ Liễn cho người đưa biếu chè. Chúng ta về thôi.

Hương Lăng nói xong dắt Đại Ngọc về quán Tiêu Tương, thấy có hai bình chè của Phượng Thư đưa sang. Đại Ngọc và Hương Lăng ngồi xuống nói chuyện, chẳng qua: Người này thêu đẹp người kia thêu khéo, cùng nhau đánh cờ, xem sách một lúc, rồi Hương Lăng ra về.

Uyên Ương đang ngồi ghé trên giường xem đường kim thêu của Tập Nhân. Thấy Bảo Ngọc về, Uyên Ương hỏi:

– Cậu đi đâu về thế? Cụ đương chờ, bảo cậu sang thăm ông Cả. Cậu về thay quần áo ngay đi!

Tập Nhân vào buồng lấy quần áo ra.

Bảo Ngọc ngồi ở mép giường, bỏ giày ra, đang chờ mang ủng đến, ngoảnh thấy Uyên Ương mặc áo lụa đỏ, vai khoác đoạn xanh, cổ quàng khăn nhiễu tía, dưới đi đôi bít tất màu da ngà, đôi giày thêu đỏ, đương cúi xuống xem bức thêu. Bảo Ngọc ghé mặt gần vào cổ Uyên Ương, ngửi thấy mùi thơm, liền giơ tay xoa, thấy da trắng mịn, chẳng kém gì Tập Nhân, liền chồm lại gần, có vẻ thèm thuồng cười nói:

– Cho tôi nếm một ít sáp ở môi chị!

Nói xong, Bảo Ngọc bám chặt vào người Uyên ương. Uyên Ương kêu ầm lên:

– Chị Tập Nhân ra đây mà xem! Chị Ở liền với cậu ấy bao nhiêu lâu, chẳng biết khuyên ngăn, cứ để mãi thế này à?

Tập Nhân mang quần áo ra, nhìn Bảo Ngọc nói:

– Nay khuyên mai khuyên, tật nào vẫn chứng ấy. Cậu làm cái trò gì vậy? Cứ thế mãi tôi cũng khó lòng mà ở yên được.

Tập Nhân giục Bảo Ngọc thay quần áo, rồi cùng Uyên Ương ra đi. Sau khi chào Giả mẫu xong, Bảo Ngọc ra ngoài, người và ngựa đã sắp đủ cả. Bảo Ngọc đang lên ngựa, gặp Giả Liễn đi thăm bệnh trở về. Trông thấy, Bảo Ngọc xuống ngựa chạy lại. Hai người nói chuyện được mấy câu. Chợt có người đi đến bên nói: “Xin chào chú Bảo”.

Bảo Ngọc thấy người ấy nét mặt dễ coi, người dong dỏng cao, chừng mười tám, mười chín tuổi, rất nho nhã lịch sự. Bảo Ngọc nhìn mặt quen quen, nhưng không biết con cái nhà ai, tên là gì. Giả Liễn cười nói:

– Sao chú đứng ngẩn ra thế? Không nhận được nó à? Nó là cháu Vân, con chị Năm ở bên cạnh đấy.

Bảo Ngọc cười nói:

– Phải rồi. Thế mà tôi quên mất.

Rồi hỏi:

– Mẹ cháu có được mạnh không? Nay cháu làm việc gì?

Giả Vân trỏ vào Giả Liễn nói:

– Cháu đi tìm chú Hai nói câu chuyện.

Bảo Ngọc cười:

– Bây giờ cháu đã hơn trước nhiều, trông giống như con của chú!

Giả Liễn cười nói:

– Khéo nói, không biết ngượng! Người ta hơn mình đến năm sáu tuổi, mà lại muốn nhận làm con?

Bảo Ngọc cười hỏi:

– Cháu bao nhiêu tuổi rồi?

Giả Vân nói:

– Cháu mười tám tuổi.

Giả Vân là người nhanh nhẹn láu lỉnh, nghe thấy Bảo Ngọc nói thế, liền cười nói:

– Tục ngữ nói đúng lắm, “ông còn ngồi lỏn trong nôi, cháu đã lụ khụ chống gậy”. Cháu tuy nhiều tuổi, nhưng “núi cao không che nổi mặt trời”. Từ khi cha cháu mất đi, cháu không có người trông nom. Nếu chú Bảo không cho cháu là hạng người ngu xuẩn, nhận cho làm con, thì thực phúc cho cháu lắm.

Giả Liễn cười nói:

– Chú nghe chưa? Nếu nhận nó là con thì không thể bỏ liều nó được đâu.

Nói xong, cười rồi bỏ đi.

Bảo Ngọc cười nói:

– Ngày mai rỗi, cháu đến thăm chú, đừng có thậm thậm thụt thụt với bọn họ. Bây giờ chú bận. Ngày mai cháu cứ đến thư phòng, chúng ta sẽ nói chuyện nhiều. Rồi chú sẽ đưa cháu đi chơi vườn.

Nói xong, lên ngựa sang nhà Giả Xá. Thấy Giả Xá chỉ cảm xoàng thôi, Bảo Ngọc nói lại lời hỏi thăm của Giả mẫu, sau mới đến lượt mình. Giả Xá đứng dậy cảm tạ lời Giả mẫu, rồi sai người: “đưa cháu Bảo vào ngồi chơi trong buồng bà”.

Bảo Ngọc đi về phía sau, vào buồng trên. Hình phu nhân trông thấy, đứng dậy hỏi thăm sức khỏe Giả mẫu, Bảo Ngọc chào hỏi xong. Hình phu nhân dắt lên bục ngồi, hỏi han mọi người, rồi sai pha nước. Đương uống nước, Giả Tôn chạy đến chào Bảo Ngọc. Hình phu nhân nói:

– Thằng khỉ kia chạy nhông đâu về thế! Vú bõ của mày chết cả rồi à! Sao không ai trông nom, để cho mày mặt mũi nhem nhuốc thế kia, xem có còn ra dáng con nhà gia thế thư hương nữa không?

Vừa lúc ấy hai chú cháu Giả Hoàn, Giả lan đến thăm. Hình phu nhân bảo hai người ngồi vào ghế. Giả Hoàn trông thấy Bảo Ngọc cùng ngồi trên nệm với Hình phu nhân, lại được Hình phu nhân vồn vã vỗ về đủ cách, trong bụng lấy làm khó chịu, ngồi một lúc, đưa mắt cho Giả Lan bảo về. Giả Lan phải nghe theo, cũng đứng dậy xin về.

Bảo Ngọc thấy chúng về, cũng muốn về một thể. Hình phu nhân nói:

– Cháu hãy ngồi lại đây, bác còn muốn nói chuyện với cháu.

Bảo Ngọc đành phải ngồi nán lại. Hình phu nhân ngoảnh lại bảo Giả Hoàn, Giả Lan:

– Các cháu về nói với mẹ các cháu rằng ta có lời hỏi thăm. Các cô các chị Ở cả bên này, nhộn lắm, làm ta nhức cả đầu! Hôm nay ta không thể giữ các cháu ở lại ăn cơm được.

Bọn Giả Hoàn chào rồi đi ra.

Bảo Ngọc cười:

– Thế ra các chị em ở cả bên này? Sao cháu không thấy?

Hình phu nhân nói:

– Lúc nãy họ ngồi ở đây, vừa mới ra cả phía sau, không biết chừng họ đã vào nhà nào rồi.

– Lúc nãy bác bảo cần nói câu chuyện, vậy thì chuyện gì ạ?

– Có chuyện gì đâu, chỉ muốn bảo cháu ở lại ăn cơm với các chị em đấy thôi. Rồi bác sẽ cho cháu cái này mang về mà chơi.

Đương nói chuyện, đã đến bữa cơm chiều. Bọn chị em đều đến đấy cả. Bàn ghế, bát đĩa được bày ra. Mọi người cùng ngồi ăn. Ăn xong, Bảo Ngọc cáo từ Giả Xá, cùng bọn chị em về trình Giả mẫu và Vương phu nhân, rồi đâu về đấy.

Giả Vân, hôm ấy đến thăm Giả Liễn, nhân tiện hỏi xem đã có việc gì làm chưa? Giả Liễn nói:

– Hôm nọ có một việc, nhưng thím cháu cố xin cho cháu Cần. Thím cháu có hứa với ta: nay mai trong vườn có mấy chỗ cần trồng cây, trồng hoa. Khi nào khởi công, nhất định để cháu làm.

Giả Vân nghĩ một lúc, nói:

– Nếu thế, cháu đành chờ vậy. Nhưng xin chú đừng nói với thím là hôm nay cháu đến đây hỏi dò, khi nào việc tới nơi, cháu nói cũng chưa muộn.

Giả Liễn nói:

– Chú nói làm gì! Thì giờ đâu nói những chuyện hão ấy? Sáng sớm mai chú phải đi sang ấp Hưng, nội nhật sẽ về. Tối mai cháu hãy lại, chứ đến sớm chú không rỗi đâu.

Nói xong, hắn vào nhà trong mặc quần áo rồi đi.

Giả Vân ở phủ Vinh về, đi đường nảy ra một ý nghĩ, liền đến ngay nhà cậu là Bốc Thế Nhân. Bốc Thế Nhân có một cửa hiệu bán hương liệu 1. Khi ở hiệu về, Bốc trông thấy Giả Vân, liền hỏi:

– Cháu đến đây làm gì?

– Cháu có việc muốn đến nhờ cậu giúp chọ Xin cậu bán chịu cho cháu ít băng phiến, xạ hương, mỗi thứ bốn lạng, đến tháng tám cháu sẽ trả đủ số tiền.

Bốc Thế Nhân cười nhạt:

– Thôi cháu đừng nói chuyện mua chịu nữa! Độ trước có một anh buôn chung với ta, mua hàng cho bà con, chịu mấy lạng bạc đến nay vẫn chưa trả. Vì thế mọi người phải chia nhau mà bù, rồi giao ước với nhau: không ai được bán chịu cho bạn bè, nếu phạm điều này phải phạt hai mươi lạng. Vả chăng những thứ hàng này đang hiếm, cháu đem tiền mặt đi mua cũng khó mà tìm được, chỉ vác tiền đi vác tiền về thêm tốn công thôi. Đó là một việc. Hai là cháu chẳng có việc gì đáng cần đến, chẳng qua mua chịu về rồi làm phí phạm đi. Cháu cứ phàn nàn rằng: gặp cậu lúc nào là bị mắng lúc ấy, vì cháu còn trẻ tuổi, chưa biết điều hay lẽ phải. Cháu cũng nên nghĩ cách lập thân, kiếm tiền mà ăn mà mặc, thì cậu trông thấy mới vui lòng.

Giả Vân cười nói:

– Cậu nói đúng. Khi cha cháu chết, cháu hãy còn bé, chả hiểu gì cả; chỉ nghe mẹ cháu nói lại, là việc chôn cất cha cháu, đều nhờ cậu đứng ra lo liệu cả. Cậu cũng biết đấy, cháu chỉ còn có một mẫu ruộng và hai gian nhà, có phải tự tay cháu phung phá hết đâu? “Đàn bà dù giỏi dang đến đâu, nếu không có gạo cũng khó lòng thổi ra được cơm”. Thế thì bây giờ cậu bảo cháu làm thế nào? Ấy là cháu đấy, chứ những đứa mặt dày mày dạn, cứ vài ba ngày lại đến vòi vĩnh cậu, nay ba thưng gạo, mai vài thưng đậu, thì cậu cũng đành chịu chứ biết làm sao.

Bốc Thế Nhân nói:

– Cháu ơi! Nếu cậu giàu có, thì còn nói gì? Cậu thường nói với mợ cháu, chỉ buồn là cháu không biết lo tính. Giá cháu biết nghĩ cách lập thân, cứ đến các nhà lớn trong họ, dầu không gặp được các ông trên, thì chịu khó nhũn nhặn niềm nở với những người quản gia, cũng dễ tìm được công việc. Hôm nọ cậu ra phố, gặp anh Tư ở phòng thứ ba, ngồi chễm chệ trên một cái xe sang trọng, đằng sau có bốn năm cỗ xe chở một bận bốn năm mươi ni cô, đạo cô ra ngoài miếu. Nếu anh ta không giỏi dang, làm gì lại được trông nom việc ấy.

Giả Vân thấy cậu nói lôi thôi khó chịu, liền đứng dậy xin về. Bốc Thế Nhân nói:

– Làm gì mà vội thế? Cháu ở lại ăn cơm đã.

Bà vợ Ở trong nhà nghe vậy nói:

– Ông mới lẩm cẩm chứ! Vừa kêu hết gạo, đã phải mua cho nửa cân mì mà ăn, ông lại còn giả cách phong lưu! Ông giữ cháu ở lại để nhịn đói à?

Bốc Thế Nhân nói:

– Mua thêm nửa cân nữa cũng được.

Bà ta liền gọi con gái:

– Con Ngân đâu! Mày sang bên nhà bà Vương trước cửa hỏi xem có tiền thì vay mấy chục đồng, sáng mai sẽ trả.

Giả Vân vội gạt ngay: “Xin đừng làm phiền nữa”. Rồi chạy đi mất hút!

Giả Vân ở nhà cậu ra, trong lòng buồn bực, vừa nghĩ vừa cắm đầu chạy, không ngờ chạm ngay phải một người say rượu. Người kia mắng: “Con mẹ mày! Mù à, dám đâm cả vào tao!”

Giả Vân sợ giật nảy người, định lánh đi, nhưng bị người kia nắm được, nhìn kỹ, té ra Nghê Nhị, ở liền ngay bên xóm.

Nghê Nhị là một kẻ vô lại, làm nghề cho vay lãi, cho tiền đầu ở trong sòng bạc, thích uống rượu và đánh nhau. Bấy giờ hắn đi đòi nợ về, đã say khướt rồi, không ngờ Giả Vân chạy đâm sầm vào. Hắn giơ tay chực đánh, Giả Vân kêu lên:

– Ông Hai ơi! Hãy dừng tay! Tôi trót lỡ chạm phải ông!

Nghê Nhị nghe tiếng quen quen, trừng mắt nhìn, biết là Giả Vân, vội buông tay ra. Hắn đi lảo đảo, cười nói:

– Thế ra cậu hai Giả đấy à? Cậu ở đâu về đấy?

– Không thể nói hết được, vừa rồi tự nhiên tôi vấp phải một việc rất khó chịu!

– Không cần! Có việc gì bất bình cậu cứ nói lên, tôi sẽ trả thù chọ Ở đây ba làng bảy xóm, bất chấp thằng nào, cứ chạm đến người hàng xóm láng giềng của “tay thần rượu” này thì phải biết, thân tan nhà nát ngay!

– Xin ông đừng vội nóng, để tôi nói đầu đuôi cho ông nghe.

Rồi hắn kể lại việc Bốc Thế Nhân. Nghê Nhị nghe xong, giận nói:

– Nếu không phải bà con của cậu, đây sẽ mắng cho một trận. Việc này làm người ta tức chết được! Nhưng thôi, cậu đừng buồn. Có mấy lạng bạc đây, nếu cần, cậu mang về mà tiêu. Có một điều, tôi với cậu là chỗ hàng xóm láng giềng với nhau, đã bao lâu nay, tôi có tiếng là người cho vay nợ lãi ở ngoài, mà cậu chưa hề hé mồm hỏi tôi lần nào; có lẽ cậu sợ mất danh giá, hay sợ lãi nặng không dám chơi với tôi chăng? Nếu sợ lãi nặng, thì tiền đây, tôi không cần một đồng lãi và cũng không bắt cậu viết văn tự nữa. Nếu cậu sợ mất danh giá thì thôi, tôi không cho vay nữa. Cậu đi đằng cậu, tôi đi đằng tôi.

Vừa nói hắn vừa mở gói bạc ở trong túi ra.

Giả Vân nghĩ bụng: “Nghê Nhị xưa nay tuy là đứa vô lại, nhưng biết giúp người nghèo khổ, cũng có chút lòng nghĩa hiệp. Nếu ta không nhận, lỡ hắn nóng lên, lại xảy chuyện không hay; chi bằng ta cứ nhận, rồi sẽ trả gấp đôi là được”. Liền cười nói:

– Thưa ông! Ông thực là bực hào hiệp. Tôi vẫn định đến hỏi vay ông. Nhưng thấy ông chơi bời toàn là với những người có tai tiếng, còn hạng chúng tôi bất tài bất lực, chắc ông chả đếm xỉa gì. Dù có hỏi, ông cũng chả cho vay nào. Nay ông đã có bụng tốt, tôi không dám từ chối; về nhà, tôi sẽ làm văn tự đem đến nộp ông.

Nghê Nhị cười khanh khách:

– Cậu nói khéo thật, tôi chưa nghe thấy bao giờ. Đã là bạn thân với nhau, thì cho vay lấy lãi làm gì. Đã cho vay lấy lãi, thì còn gì là bạn thân nữa? Thôi đừng nên dài lời. Cậu đã có lòng nghĩ đến, thì đây, món tiền mười lăm lạng ba đồng cân, cậu cầm lấy mà tiêu. Nếu làm văn tự, thì xin trả lại tiền, đây cho người có tai tiếng vay vậy.

Giả Vân cầm tiền, nói:

– Sao ông vội nóng thế? Tôi xin nghe theo lời ông là được rồi.

– Thế mới phải chứ! Bây giờ trời tối rồi, tôi không mời cậu đi uống rượu nữa. Cậu về thôi. Tôi còn phải đi có chút việc. Nhân tiện nhờ cậu bảo người nhà tôi cứ đóng cửa đi ngủ. Đêm nay tôi không về. Nếu có việc gì, bảo con cháu gái sáng mai đến nhà lái ngựa Vương thọt chân tìm tôi.

Hắn vừa nói, vừa lảo đảo đi.

Giả Vân may gặp được việc này, sung sướng lắm, không ngờ Nghê Nhị đối với mình lại tốt đến thế. Nhưng sau lại nghĩ: “Nghê Nhị lúc say thì hào phóng. nhưng mai tỉnh rượu, nó lại sang bắt ta giả gấp đôi thì làm thế nào?” Rồi lại nghĩ: “Không cần, đợi việc kia xong, ta cũng có thể giả gấp đôi được”. Hắn liền chạy đến hàng bạc cân lại, đúng mười lăm lạng ba tiền bốn phân hai ly, không sai một tý nào, trong bụng càng mừng.

Về đến nơi, Giả Vân sang báo tin ngay cho vợ Nghê Nhị biết, rồi mới vào nhà. Bà mẹ đương ngồi trên bục xe chỉ, hỏi: “Mày đi đâu suốt ngày thế?”

Giả Vân sợ mẹ giận, không dám kể lại chuyện Bốc Thế Nhân, chỉ nói:

– Con phải ở lại chờ chú Liễn bên phủ tây. Mẹ đã ăn cơm chưa?

Bà mẹ trả lời:

– Ăn rồi, có để phần con đấy.

Rồi bảo thằng bé con lấy cơm ra cho Giả Vân ăn. Bấy giờ trời mới tối thật, đã lên đèn.

Giả Vân ăn cơm xong, xếp dọn đi ngủ. Hôm sau hắn dậy rửa mặt, rồi ra cửa phía nam vào hàng hương mua băng phiến và xạ hương đem đến phủ Vinh. Dò biết Giả Liễn đi vắng, hắn lẻn vào cửa sau, đến trước nhà Giả Liễn, thấy mấy đứa hầu nhỏ đang quét sân. Chợt nghe tiếng vợ Chu Thụy ở trong nhà ra bảo: “Đừng quét vội, mợ sắp ra đấy”.

Giả Vân vội đến cười hỏi:

– Mợ sắp đi đâu thế?

Vợ Chu Thụy nói:

– Cụ gọi, chắc hỏi việc may quần áo gì đó.

Họ đương nói chuyện thì một đám người đưa Phượng Thư ra. Giả Vân biết Phượng Thư ưa nịnh, liền khép nép kính cẩn chạy đến chào. Phượng Thư cứ việc đi, mắt không thèm nhìn, chỉ hỏi:

– Mẹ cháu có được khỏe không, sao không thấy sang chơi?

– Mẹ cháu nhớ thím luôn. Chỉ vì người không được khỏe, nên không sang được.

– Sao khéo nói dối thế. Nếu thím không nhắc, thì cháu cũng chẳng nhớ gì đến thím.

– Cháu không sợ trời đánh hay sao, mà đứng trước bề trên, dám bày chuyện nói dối? Ngay chiều hôm qua, mẹ cháu còn nhắc đến: thím người yếu lại nhiều việc, được cái là sáng suốt, sắp xếp công việc đâu vào đấy. Nếu không, chỉ sai một ly, chưa biết sẽ xảy ra bao nhiêu chuyện lôi thôi.

Phượng Thư nghe đến câu ấy, mặt vui hẳn lên, đứng dừng lại hỏi:

– Làm sao tự nhiên vắng thím mà mẹ con cháu lại giở chuyện ấy ra nói?

Giả Vân cười nói:

– Vì cháu có người bạn thân mở một cửa hàng bán hương liệu. Sau nó quyên chức thông phán, được bổ đi một nơi trong tỉnh Vân Nam. Nó mang cả gia quyến đi. Hiệu ấy đóng cửa, nó xếp dọn hết hàng hóa, cái gì đáng bán rẻ thì bán, cái gì đáng cho thì cho, thứ gì quý giá thì đem tặng bạn thân, nên cháu mới được một ít băng phiến và xạ hương. Cháu về bàn với mẹ cháu, nếu đem bán đi, không những không đủ vốn, cũng chả ai có tiền muạ Ngay nhà có tiền, cũng chỉ bỏ ra vài đồng là đã rụt tay rồi. Nhược bằng đưa cho ai, cũng chẳng ai đáng dùng, lại đành bán rẻ bán rúng, của mười được một thôi. Sực nhớ năm ngoái thím phải mang một bọc bạc tướng đi mua những thứ này; chưa nói năm nay trong cung Qúi phi cần dùng đã đành mà đến tiết Đoan dương, nhất định phải đắt gấp mười, gấp trăm, vì thế cháu nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có đem biếu thím là đúng hơn hết.

Hắn vừa nói vừa đưa cái hộp gấm ra.

Phượng Thư đương sắm đồ tết, cần dùng các thứ hương, thấy vậy, vừa đắc ý, vừa mừng, liền bảo Phong Nhi: “Cháu Vân đã cho thì nhận lấy đem về đưa cho Bình Nhi”. Rồi lại nói:

– Xem cháu cũng biết điều đấy, không trách chú cháu thường bảo cháu là người tốt, nói chuyện thẳng thắn, biết lời ăn lẽ ở.

Giả Vân thấy mình nói đã được đắt lời, lại rán hỏi thêm nữa:

– Thế ra chú cháu thường nhắc đến cháu?

Phượng Thư thấy hỏi, muốn hứa cho hắn làm một việc, sau lại nghĩ: “Nó mới đưa các thứ hương đến, ta đã hứa cho việc làm ngay, sợ nó coi thường mình”.

Vì vậy Phượng Thư chưa nhắc đến việc trồng cây trồng hoa vội, chỉ nói một vài câu chuyện suông, rồi sang bên Giả mẫu.

Giả Vân tất nhiên không tiện nhắc đến việc ấy, đành phải đi về. Nhân hôm trước Bảo Ngọc dặn đến đợi ở thư phòng, nên ăn cơm xong, hắn lại sang đấy ngaỵ Đến trước thư phòng Ỷ Tán Trai gặp Bồi Dính cùng Sừ Dược đánh cờ, đang cãi nhau vì tranh nhau con xe. Lại có bọn Dẫn Tuyền, Tảo Hoa, Khiêu Vân, Bạn Hạc, bốn năm a hoàn đương bắt chim sẻ trên nóc nhà. Giả Vân đứng đằng sau, giẫm chân một cái, nói:

– Thằng khỉ con, lại nghịch gì đấy. Tao đến đây.

Bọn a hoàn trông thấy Giả Vân, liền tản ra, mỗi người đi mỗi ngả.

Giả Vân vào ngồi trên một cái ghế trong thư phòng, hỏi:

– Chú Bảo có xuống đây không?

Bồi Dính nói:

– Hôm nay chưa xuống, cậu có việc gì, để tôi đi dò hộ xem.

Nói xong đi ra.

Giả Vân ở đấy xem tranh và đồ cổ, Một lúc lâu, không thấy Bồi Dính về, muốn tìm người hầu khác để hỏi, nhưng chúng đều đi chơi cả. Đương lúc ngồi buồn, nghe ngoài cửa sổ có tiếng thỏ thẻ: “Anh ơi!”. Giả Vân nhìn ra, thấy một a hoàn độ mười lăm, mười sáu tuổi, vẻ người xinh xắn. Trông thấy Giả Vân, a hoàn ấy quay mình chực tránh. Vừa lúc Bồi Dính về, thấy nó đứng ở cửa, liền nói:

– May quá, đương tìm không được người nào vào trình.

Giả Vân thấy Bồi Dính, chạy ngay lại hỏi: “Thế nào?” Bồi Dính nói:

– Chờ lâu lắm cũng chẳng gặp người nào. May gặp cô này là người trong nhà cậu Bảo. – Nhân nói: – Nhờ cô vào báo, có cậu Hai bên kia sang chơi.

A hoàn nghe nói, biết là người trong họ, không lẩn tránh như trước nữa, cứ dán hai mắt nhìn chòng chọc vào mặt Giả Vân.

Giả Vân cười nói:

– Thôi đừng nói bên kia bên này nữa, cứ nói có Giả Vân là được rồi.

Một chốc a hoàn ra dáng đon đả nói:

– Cứ ý tôi, mời cậu hãy về, ngày mai sẽ đến. Tối hôm nay rỗi, tôi sẽ nói giúp.

Bồi Dính hỏi:

– Thế là thế nào?

A hoàn nói:

– Hôm nay cậu Bảo không nghỉ trưa, chắc bữa cơm chiều ăn sớm, rồi đi nghỉ ngay, không xuống thư phòng nữa đâu. Bảo cậu Hai chờ ở đây để nhịn đói à? Chi bằng cứ về, ngày mai cậu hãy đến là hơn. Ngay bây giờ có đưa tin vào, cậu ấy cũng chỉ ừ hử cho xong chuyện, không ăn thua đâu.

Giả Vân thấy a hoàn ấy nói năng rành rọt, dịu dàng, muốn biết tên, nhưng vì là người trong phòng Bảo Ngọc nên không tiện hỏi, chỉ nói:

– Cô ấy nói phải đấy, ngày mai tôi sẽ lại.

Nói xong đi ra.

Bồi Dính nói:

– Để tôi pha trà cậu xơi đã.

Giả Vân vừa đi vừa ngoảnh lại nói:

– Thôi không cần, tôi còn vội đi có việc.

Mồm nói, mắt hắn vẫn liếc nhìn a hoàn.

Hôm sau, Giả Vân lại đến, vừa gặp lúc Phượng Thư đi rạMới lên xe, Phượng Thư trông thấy Giả Vân liền bảo người gọi lại, và ở trong cửa xe nói ra:

– Cháu Vân, cháu lại cả gan giở trò ma mãnh trước mặt ta! Té ra cháu muốn xin việc, mới đem các thứ tới biếu tạ Hôm nọ chú cháu vừa mới mách ta, cháu muốn xin chú ấy một việc.

Giả Vân nói:

– Xin thím đừng nhắc đến việc cháu nhờ chú nữa. Cháu đương hối hận đây. Nếu biết thế này, lúc đầu cháu nhờ ngay thím, thì việc xong từ bao giờ rồi. Ai ngờ chú lại chẳng giúp cháu được việc gì.

Phượng Thư cười nói:

– Đằng ấy chẳng giúp được việc, nên hôm qua mới tìm đến ta chứ gì?

Giả Vân nói:

– Thím chẳng xét cho lòng thành của cháu. Cháu không bao giờ có ý ấy. Nếu có ý ấy thì hôm qua cháu đã chả đến cầu xin với thím. Nay thím biết rồi, cháu xin thôi không nhờ chú nữa. Cháu trông nhờ vào thím, xin thím thương cho!

Phượng Thư cười nhạt:

– Các cháu chỉ chọn công xa mà đi thôi. Nếu nói với ta sớm, dù việc to lớn thế nào, cũng chẳng để nhỡ nhàng đến tận bây giờ! Trong vườn này cần trồng cây trồng hoa, ta đương tìm người. Nói sớm thì việc cháu xong rồi.

Giả Vân cười:

– Nếu thế, sáng mai thím cho cháu đi làm ngay.

Một lúc sau Phượng Thư nói:

– Ta xem việc này không ăn thua gì đâu. Chờ đến tháng giêng sang năm, ta sẽ cho cháu thầu món dầu đèn, chẳng tốt hơn ư?

Giả Vân nói:

– Xin thím cứ cho cháu nhận việc này. Nếu làm được, thím lại giao cho cháu việc kia.

Phượng Thư cười nói:

– Cháu lại định “thả dây câu dài để bắt con cá lớn” 2 chứ gì? Nếu chú không nói hộ thì thím cũng thây kệ. Cơm xong, thím sẽ về ngaỵ Vào khoảng quá trưa, cháu đến lĩnh tiền. Ngày mai thì bắt đầu trồng hoa.

Nói xong lên xe đi.

Giả Vân mừng cuống lên, lại đến Ỷ Tán Trai tìm Bảo Ngọc. Nhưng từ sớm, Bảo Ngọc đã đi sang phủ Bắc Tĩnh vương rồi. Giả Vân ngồi chờ đến trưa. Khi nghe Phượng Thư về, hắn vội đến để viết giấy lĩnh đối bài. Đến nhà ngoài, nhờ người vào trình. Thái Minh ra mang phiếu lĩnh vào, ghi số tiền và ngày tháng, rồi mang cả phiếu và đối bài ra trao cho Giả Vân. Giả Vân cầm lấy xem, thấy được lĩnh hai trăm lạng bạc, mừng quá, chạy vụt ngay đến kho lĩnh, rồi về nhà nói với mẹ, mẹ con đều mừng rỡ hớn hở. Sáng hôm sau, canh năm Giả Vân đã đem tiền đến giả Nghê Nhị, rồi mang năm mươi lạng ra cửa Tây, đến nhà Phương Thung là thợ trồng hoa mua các thứ cây.

Hôm trước, Bảo Ngọc có hẹn Giả Vân đến chơi. Câu nói ấy chẳng qua là câu khách sáo của bọn con nhà phú quí, nói rồi quên ngay, khi nào còn để ý đến.

Chiều hôm ấy Bảo Ngọc ở phủ Bắc Tĩnh vương về, vào thăm Giả mẫu, Vương phu nhân, rồi về thay quần áo, định đi tắm. Lúc này Tập Nhân đang bận xe dây ở nhà Bảo Thoa; Thu Văn, Bích Ngân thì đi quảy nước; Đàn Vân thì về nhà mừng ngày sinh nhật mẹ; Xạ Nguyệt thì ốm nằm trong nhà, chỉ còn vài a hoàn ở đó sai vặt. Chúng chắc là không ai gọi đến, nên ra chơi đùa với nhau. Bấy giờ chỉ có một mình Bảo Ngọc ở nhà, muốn uống nước, gọi hai ba lần, mới thấy hai bà già đến. Bảo Ngọc trông thấy liền xua tay:

– Thôi, thôi, không cần nữa.

Bọn bà già đều phải lui ra.

Bảo Ngọc đi tìm lấy chén để rót nước. Chợt đằng sau có người nói: “Thưa cậu, không khéo bỏng tay, để tôi rót”. Vừa nói nó vừa chạy đến cầm lấy chén. Bảo Ngọc giật mình hỏi:

– Cô ở đâu đến? Làm ta giật mình.

A hoàn ấy vừa cười vừa nói:

– Tôi ở nhà phía sau. Vừa mới ở cửa sau lên, cậu không nghe thấy tiếng chân đi à?

Bảo Ngọc vừa uống nước vừa ngắm nghía, thấy a hoàn ấy mặc bộ quần áo dung dúc, mái tóc vén lên đen nhánh, gương mặt thon thon, thân hình óng ả, trông rất xinh xắn tươi tỉnh. Liền cười hỏi:

– Cô cũng là người trong nhà này à?

– Vâng.

– Người trong nhà sao ta lại không biết?

– Còn nhiều người cậu không biết, nào phải có một mình tôi! Xưa nay tôi không pha nước, không mang thứ nọ thứ kia, không làm một việc gì ở trước mặt cậu, thì cậu làm sao biết được?

– Tại sao cô lại không làm việc gì trước mặt ta?

– Chuyện ấy tôi cũng khó nói. Nay chỉ thưa cậu một việc: Hôm qua có cậu nào tên là cậu Vân đến thăm. Tôi đoán cậu bận, nên nhờ Bồi Dính bảo cậu ấy hôm nay đến, không ngờ cậu lại sang bên phủ Bắc chơi.

Đương nói thì Thu Văn và Bích Ngân cười khanh khách chạy đến. Hai người khiêng một thùng nước, tay vén quần áo, loạng choạng bước thấp bước cao. A hoàn này vội ra đỡ lấy. Thu Văn và Bích Ngân đang gắt nhau, người này kêu “mày làm ướt quần áo tao”, người kia kêu “mày giẫm lên giày tao”. Chợt trông thấy một người đến đỡ lấy nước, nhìn kỹ thì chính là Tiểu Hồng.

Hai người lấy làm lạ, bỏ thùng nước xuống, vội chạy vào trong nhà xem có ai nữa không, chỉ thấy có một mình Bảo Ngọc. Hai người đều khó chịu, nhưng còn phải sắp sửa đồ tắm. Chờ Bảo Ngọc cới quần áo xong, hai người khép cửa lại rồi chạy sang buồng bên cạnh tìm Tiểu Hồng, hỏi: “Mày vừa ở trong nhà làm gì?”

Tiểu Hồng nói:

– Tôi có ở trong nhà đâu? Tôi đương đi tìm cái khăn lụa của tôi ở phía sau, không ngờ cậu Hai muốn uống nước, gọi các chị, chẳng có ai ở nhà. Tôi vừa mới lên rót nước thì các chị về.

Thu Văn vênh mặt nhổ toẹt một cái mắng:

– Đồ mặt dày! Lẽ ra mày phải đi khiêng nước, mày kêu bận, chúng tao phải đi thay, mày vớ lấy dịp may chực một bước nhảy tót lên cao hay sao? Mày cho chúng tao không bằng mày à? Lấy gương mà soi xem, cái mặt ấy đã đáng rót nước chưa?

Bích Ngân nói:

– Thôi ngày mai ta bảo nhau, bao nhiêu việc lấy chè, lấy nước, cùng các thứ, đừng ai động đến, cứ để cho một mình nó làm tất.

Thu Văn nói:

– Chi bằng chúng ta đi hết cả, cứ để cho một mình nó ở nhà này xem sao?

Hai người đương lời qua tiếng lại, thì có một bà già đến truyền lời của Phượng Thư:

– Ngày mai có người đem thợ đến trồng cây, trồng hoa, các cô phải cẩn thận, không được phơi quần áo bừa bãi. Chỗ núi đất đều che màn kín xung quanh, không ai được chạy lung tung.

Thu Văn liền hỏi:

– Không biết ngày mai ai đến trông nom đám thợ?

Bà già nói:

– Hình như là cậu Vân ở nhà phía sau.

Thu Văn và Bích Ngân không biết là ai, cứ hỏi lẫn nhau. Duy Tiểu Hồng biết rõ là người đã gặp ở thư phòng hôm trước.

Nguyên Tiểu Hồng họ Lâm, tên là Hồng Ngọc. Vì chữ “Ngọc” trùng với tên Bảo Ngọc và Đại Ngọc, nên đổi là Tiểu Hồng. Nhà ấy mấy đời làm đầy tớ trong phủ Vinh. Cha Hồng Ngọc hiện giữ việc thu quản ruộng đất nhà cửa các nơi. Hồng Ngọc năm nay mới mười sáu tuổi. Khi chia người đến vườn Đại Quan, Hồng Ngọc được đến ở viện Di Hồng, chỗ này rất thanh nhã và tĩnh mịch. Sau ngày các chị em vào ở trong vườn, thì viện Di Hồng lại là nhà ở của Bảo Ngọc.

Hồng Ngọc tuy là a hoàn chưa hiểu mấy việc đời, nhưng vì có đôi phần nhan sắc, nên cũng mơ tưởng được vươn mình lên cao, lúc nào cũng muốn khoe khoang trước mặt Bảo Ngọc. Nhưng bên cạnh Bảo Ngọc biết bao nhiêu người lanh lợi sắc sảo, nên khó có chỗ mà lọt vào được. Ngờ đâu hôm nay nó mới có dịp này, thì lại bị bọn Thu Văn mắng cho một trận nên thân, trong lòng nguội đi quá nửa. Đang lúc bực mình, chợt nghe bà già nói đến Giả Vân, tự nhiên lòng thấy nao nao, nó lủi thủi về buồng, âm thầm nghĩ ngợi, một mình trằn trọc bâng khuâng như mất vật gì, ngủ đi lúc nào không biết. Bỗng nghe tiếng gọi khe khẽ ngoài cửa sổ: “Hồng Ngọc! Khăn lụa của em ta nhặt được đây này”. Hồng Ngọc vội chạy ra xem, thì chính là Giả Vân. Mặt liền đỏ bừng lên, có dáng bẽn lẽn, hỏi:

– Cậu Hai nhặt được khăn ấy ở đâu?

Giả Vân cười nói:

– Em lại đây, anh sẽ bảo.

Vừa nói vừa kéo lấy áo, Hồng Ngọc đỏ mặt quay mình chạy, vướng phải bực cửa, ngã lăn ra.

1      Các chất thơm như bạch đàn, băng phiến, xạ hương, v.v..

2      Ý nói tham muốn ăn to.

Chương 25: Mắc phải thuật năm con quỷ, chị em hóa điên rồ – Nhờ được phép hai vị tiên, ngọc thiêng hết mờ ám

Mắc phải thuật năm con quỷ, chị em hóa điên rồ

Nhờ được phép hai vị tiên, ngọc thiêng hết mờ ám

Hồng Ngọc đương lúc tâm thần hoảng hốt, tình tứ triền miên, ngủ đi lúc nào không biết, chợt thấy Giả Vân nắm lấy, vội quay người chạy, vướng phải bực cửa, giật mình thức dậy, biết mình chiêm bao. Vì thế nghĩ quanh nghĩ quẩn, cả đêm không ngủ. Sáng hôm sau nó trở dậy, có mấy a hoàn đến rủ đi quét nhà cửa, múc nước rửa mặt. Hồng Ngọc không trang điểm gì, chỉ soi gương vén mái tóc qua loa, rửa tay xong thắt lưng rồi đi quét nhà.

Hôm trước Bảo Ngọc trông thấy Hồng Ngọc, đã để ý tới, muốn gọi thẳng đến để sai bảo, nhưng một là sợ bọn Tập Nhân hay ngờ vực, hai là chưa biết tính nết Hồng Ngọc thế nào, khá ra thì chớ, lỡ có làm sao phải trả về cũng khó coi, nên trong lòng hơi buồn. Sáng ngày trở dậy, Bảo Ngọc chẳng rửa ráy gì, cứ ngồi nghĩ vơ vẩn. Một chốc mở cửa sổ, ở trong màn the trông ra ngoài rõ mồn một, thấy bọn a hoàn đương quét sân, ai cũng đánh phấn tô son, cài trâm giắt hoa lịch sự lắm, chỉ thiếu có một cô hôm trước. Bảo Ngọc liền xỏ giày, ra ngoài, ra dáng đi ngắm hoa, ngửa mặt lên nhìn ngược nhìn xuôi, khắp một lượt.

Bỗng thấy ở góc hàng hiên phía nam có một người đương đứng tựa lan can, nhưng lại bị cành hải đường che khuất, trông không được rõ. Lại gần nhìn kỹ, thì chính là a hoàn hôm trước đương ngẩn người đứng đấy. Bảo Ngọc muốn đến tận nơi, lại sợ không tiện. Chợt thấy Bích Ngân lại mời đi rửa mặt, đành phải quay về.

Hồng Ngọc đương lúc đứng thẫn thơ, thấy Tập Nhân vẫy tay gọi, cũng phải chạy lên. Tập Nhân cười nói:

– Ống nhổ của nhà chưa nhặt nhạnh được, em đến chỗ cô Lâm mượn một cái.

Hồng Ngọc chạy ngay đến quán Tiêu Tương. Đi đến cầu Thúy Yên, ngẩng nhìn lên, thấy trên sườn núi đều che màn, biết ngày hôm nay có thợ đến trồng cây. Đằng xa, có một đám người đào đất. Giả Vân cũng đương ngồi trên hòn đá. Hồng Ngọc muốn đi qua đấy, nhưng lại sợ, đành len lén đến quán Tiêu Tương mượn ống nhổ, rồi lủi thủi về buồng nằm. Mọi người cho là cô ta mệt, chẳng ai để ý đến.

Hôm sau, ngày sinh nhật bà Vương Tử Đằng, có sai người đến mời Giả mẫu và Vương phu nhân sang dự tiệc. Thấy Giả mẫu không đi, Vương phu nhân cũng không đi. Tiết phu nhân, Phượng Thư, ba chị em Nghênh Xuân, Bảo Thoa và Bảo Ngọc đều sang cả, đến chiều mới về.

Vương phu nhân sang ngồi chơi nhà Tiết phu nhân, thấy Giả Hoàn đi học về, liền sai nó sao bản kinh Kim Cương chú 1. Giả Hoàn leo ngay lên giường Vương phu nhân, sai người thắp đèn, ngồi chễm chệ viết, trông ra dáng lắm. Nó lúc sai Thái Hà pha nước, lúc sai Ngọc Xuyến cắt hoa đèn, lúc sai Kim Xuyến che đèn cho khỏi chói. Bọn a hoàn xưa nay vẫn ghét nó, chẳng ai thèm bắt lời. Cbỉ có Thái Hà là chiều chuộng, đi pha nước cho nó uống. Nhân thấy Vương phu nhân đang nói chuyện, Thái Hà khẽ bảo nó: “Sao không biết thân biết phận, cứ làm cho người ta chán ghét”.

Giả Hoàn nói:

– Cô đừng lòe tôi. Cô chỉ thích Bảo Ngọc thôi, không thèm nhìn đến tôi, tôi biết cả rồi.

Thái Hà nghiến răng lại, lấy ngón tay dí vào đầu Giả Hoàn một cái nói:

– Không còn tí lương tâm nào! Chó cắn cả Lã Động Tân 2, chẳng biết phân biệt hay dở gì cả.

Hai người đương nói thì Phượng Thư về trình Vương phu nhân. Vương phu nhân hỏi lẩn mẩn: Hôm nay có mấy vị khách đàn bà? Vở hát có hay không? Tiệc rượu bày biện thế nào? Một lúc Bảo Ngọc cũng đến; trông thấy Vương phu nhân, lễ phép nói mấy câu, rồi sai người bỏ khăn che đầu, cởi áo, tháo giày, lăn nhào vào lòng Vương phu nhân. Vương phu nhân lấy tay vỗ về. Bảo Ngọc giơ tay víu lấy cổ Vương phu nhân nũng nịu mấy câu. Vương phu nhân nói:

– Con tôi uống nhiều rượu rồi, mặt đỏ chín lên mà vẫn còn cứ nghịch. Lát nữa hơi rượu sẽ bốc lên đấy! Thôi con hãy đi nằm một lúc đi.

Nói xong sai người lấy gối đến.

Bảo Ngọc nằm sau Vương phu nhân, bảo Thái Hà vỗ lưng. Bảo Ngọc cười cợt, nhưng Thái Hà lờ đi, không để ý đến, cứ hai mắt nhìn chòng chọc vào Giả Hoàn. Bảo Ngọc liền kéo tay Thái Hà nói:

– Chị Ơi! Chị để ý đến tôi một tí.

Thái Hà giật tay lại và nói:

– Hễ đùa nữa tôi kêu ầm lên đấy!

Những câu hai người cãi nhau, Giả Hoàn đều nghe rõ cả. Xưa nay hắn vẫn ghét Bảo Ngọc, nay thấy Bảo Ngọc trêu cợt Thái Hà, trong bụng tức quá không thể nhịn được. Tuy không nói ra nhưng hắn vẫn ngấm ngầm tìm kế hãm hại. Nhân tiện ngồi gần đó, hắn làm ra bộ nhỡ tay, hắt cả đĩa dầu đương cháy vào mặt Bảo Ngọc, Bảo Ngọc kêu lên một tiếng, cả nhà trong nhà ngoài giật mình đổ xô lại, cầm ba bốn cây đến đến soi, thấy mặt Bảo Ngọc đầy dầu. Vương phu nhân vừa giận vừa nóng, vội sai người lau mặt cho Bảo Ngọc, rồi mắng Giả Hoàn. Phượng Thư lật đật lên bục, chạy chữa cho Bảo Ngọc rồi nói:

– Thằng Ba là đồ cục súc. Tao đã bảo mày không đáng là bậc cao quý! Dì Triệu ngày thường cũng phải dạy bảo nó chứ!

Câu nói ấy nhắc cho Vương phu nhân nhớ ra, liền gọi dì Triệu đến mắng: “Đẻ ra những giống khốn nạn ấy mà không biết dạy! Đã mấy phen tao không thèm chấp, chúng bay đắc ý càng làm già!”

Dì Triệu ngày thường vẫn đem lòng ghen ghét, bực bội với Phượng Thư và Bảo Ngọc, nhưng không dám nói. Nay thấy Giả Hoàn gây chuyện, bị mắng một trận, đành nín thin thít, chạy lại thu xếp cho Bảo Ngọc. Bấy giờ thấy má bên trái Bảo Ngọc có một nết bỏng, may không vào mắt.

Vương phu nhân thấy thế đau ruột lắm, lại sợ Giả mẫu hỏi thì không biết nói ra sao. Cáu quá, Vương phu nhân lại mắng dì Triệu một trận nữa. Rồi yên ủi và lấy thuốc bôi lên má cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

– Đau chút ít thôi, không việc gì đâu. Ngày mai bà hỏi, cứ nói là con vô ý làm bỏng, thế là được.

Phượng Thư nói:

– Dầu nói là tự mình làm bỏng, bà cũng mắng người nhà không trông nom cẩn thận. Muốn gì thì gì, bà cũng nổi bực cho mà xem.

Vương phu nhân sai người đưa Bảo Ngọc về phòng. Bọn Tập Nhân thấy thế rối rít cả lên.

Đại Ngọc thấy Bảo Ngọc hôm ấy đi vắng cả ngày, trong bụng buồn buồn. Chiều đến, cho người sang hỏi hai ba lần, mới biết là Bảo Ngọc bị bỏng, liền sang tận nơi hỏi thăm. Thấy Bảo Ngọc đương soi gương, má bên trái lem luốc những thuốc, Đại Ngọc tưởng vết bỏng nguy hiểm, liền đứng nhích lại nhìn. Bảo Ngọc che má lại rồi xua tay bảo Đại Ngọc đi ra ngoài, vì biết Đại Ngọc xưa nay ưa sạch sẽ, nên không dám cho xem. Đại Ngọc cũng biết mình có tính ấy, Bảo Ngọc sợ bẩn không cho xem, liền cười nói:

– Tôi xem bỏng chỗ nào, làm gì mà phải giấu!

Rồi nghển cổ lên nhìn và hỏi Bảo Ngọc đau thế nào. Bảo Ngọc nói:

– Không đau lắm, chỉ chữa vài ngày là khỏi thôi.

Đại Ngọc ngồi một lúc, buồn rầu ra về.

Hôm sau Bảo Ngọc sang thăm Giả mẫu. Tuy đã nhận là tự mình vô ý làm bỏng, nhưng Giả mẫu vẫn cứ mắng những người hầu.

Ngày sau nữa, có Mã đạo bà là mẹ nuôi bán khoán của Bảo Ngọc đến chơi, trông thấy Bảo Ngọc bỏng, bà ta giật mình hỏi đầu đuôi, gật đầu thở dài rồi lấy tay vạch mấy vạch vào má Bảo Ngọc, mồm lẩm bẩm đọc mấy câu chú và nói: “Đó là tai bay vạ gió đấy thôi, thế nào cũng khỏi”. Lại hỏi Giả mẫu:

– Lạy cụ, lạy đức Phật sống, người có biết đâu trong kinh Phật nói rất ghê gớm? Bao nhiêu con cháu nhà vương công, khanh tướng, khi mới đẻ ra, lũ ma xó đã lẩn quất bên mình, cứ sểnh ra là nó tìm cách trêu quấy. Có lúc vặn người, véo thịt, hoặc đương ăn làm cho rơi bát, đương đi đổ xô cho ngã. Vì thế nhiều người khó nuôi đến lớn được.

– Thế có phép nào cứu chữa được không?

– Cái ấy dễ thôi, chỉ làm nhiều điều từ thiện là được. Trong kinh Phật lại nói: phương tây có vị bồ tát Đại Quang Minh Phổ Chiếu, chuyên giữ việc soi xét ma quỷ lẩn quất, nếu thiện nam tín nữ thành tâm thờ cúng người, thì con cháu được bình yên lâu dài, không còn có tai vạ tà ma ám ảnh nữa.

– Không biết thờ cúng vị ấy bằng gì?

– Chẳng tốn kém gì mấy; ngoài việc đèn hương ra, mỗi ngày thêm độ mấy cân dầu thắp đèn đại hải. Đèn này tức là hiện thân của đức Phật ngày đêm không bao giờ tắt.

– Một ngày một đêm thắp hết độ bao nhiêu dầu? Ta sẽ cúng.

– Không cần nhiều, tùy chủ thành tâm cúng thế nào thì cúng. Nhà tôi cũng có mấy bà vương phi mệnh phụ cúng lễ, như bà Nam An quận vương cúng một ngày bốn mươi tám cân dầu, một cân bấc đèn, để thắp một đèn đại hải to gần như cái vại; bà Cẩm Điền hầu cúng một ngày hai mươi bốn cân; còn mấy nhà nữa mỗi nhà hoặc năm cân, ba cân, một cân. Nhà nghèo dù tám lạng nửa cân tôi cũng vẫn thắp cho cả.

Giả mẫu gật đầu nghĩ ngợi. Mã đạo bà nói:

– Còn một việc nữa, nếu là cúng cho bố mẹ và bề trên, nhiều cũng chẳng sao; nhưng cụ cúng cho cậu Bảo, nhiều quá sợ cậu ấy gánh không nổi, lại hóa tổn phúc, không nên. Vì vậy chỉ cúng độ năm bảy cân là đủ.

– Nếu thế thì mỗi ngày ta cúng năm cân, hàng tháng đưa cả một lần.

– A dì đà Phật, từ bi đại bồ tát!

Giả mẫu lại dặn các người hầu:

– Từ giờ cậu Bảo Ngọc đi chơi đâu, sẽ đưa mấy quan tiền giao cho bọn theo hầu, hễ gặp những người tăng đạo nghèo khổ thì bố thí cho người ta.

Sau đấy Mã đạo bà đi thăm hỏi các phòng. Một chốc đến phòng dì Triệu. Chào nhau xong, dì Triệu sai a hoàn pha nước mời uống. Bấy giờ dì Triệu đương khâu giày. Mã đạo bà thấy trên giường có những mảnh lụa lặt vặt, liền nói:

– Tôi hiện không có gì làm mũi giày, bà dì cho mấy mảnh, màu gì cũng được.

Dì Triệu thở dài:

– Bà xem ở đây còn có mảnh nào ra hồn nữa. Nếu là của tốt, khi nào lại đến nơi tôi? Bà xem mảnh nào dùng được, chọn lấy vài mảnh mà dùng.

Mã đạo bà chọn lấy mấy mảnh đút vào tay áo.

Dì Triệu lại hỏi:

– Hôm nọ tôi có cho mang năm trăm đồng tiền đến cúng đức Dược Vương, bà đã cúng hộ chưa?

– Cúng rồi.

– A di đà Phật! Nếu tôi được rộng lưng một chút, thì đến cúng luôn, khốn nỗi lòng nhiều mà của ít.

– Bà cứ yên tâm, sau này cậu Hoàn lớn lên, được đi làm quan, lúc bấy giờ tha hồ mà cúng.

– Thôi, thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy nữa. Nay việc đã rõ rành rành: Mẹ con tôi thì bằng ai trong nhà này? Bảo Ngọc là đứa bé con, được cái mặt mũi sáng sủa, bộ dạng dễ thương, người trên yêu quý nó, thôi cũng đành vậy; tôi chỉ tức con mẹ chủ non nhà này!

Vừa nói dì Triệu vừa giơ hai ngón taỵ Mã đạo bà biết ý, liền hỏi:

– Có phải mợ hai Liễn không?

Dì Triệu giật mình xua tay ngay, đứng dậy vén rèm ra xem thấy không có ai, mới quay vào bảo đạo bà:

– Hễ nói đến con chủ non ấy là tôi không thể chịu được! Một phần gia tư nhà này, nó không chuyển về nhà cha mẹ nó, thì tôi không phải giống người!

Mã đạo bà nghe thấy thế, liền dò ý:

– Dễ tôi phải đợi bà nói mới rõ à? Chả lẽ cả nhà lại không ai biết hay sao? Thôi bà cứ mặc kệ người ta, đừng để ý đến, như thế lại xong.

Dì Triệu nói;

– Mẹ Ơi! Chẳng mặc kệ thì làm gì được nó?

– Tôi nói câu này không phải là gây tai gây ác gì đâu: Chỉ tại các người không có gan, còn trách gì ai. Nếu công khai không làm hại nổi, thì tìm cách hại ngầm, lẽ nào lại chịu để đến bây giờ?

Dì Triệu nghe câu ấy có ngụ ý riêng, trong bụng mừng thầm, liền hỏi:

– Cách hại ngầm làm thế nào? Tôi vẫn định bụng thế, nhưng chưa tìm ra được người giỏi giang giúp cho đấy thôi. Xin bà bảo ban cho, xong việc tôi sẽ hậu tạ.

Mã đạo bà thấy đã ăn ý, lại tìm cách nói lảng:

– A di đà Phật, bà đừng hỏi tôi, tôi biết thế nào được việc ấy. Nói ra phải tội!

Dì Triệu nói:

– Bà cứ khéo đắn đo! Xưa nay bà là người hay cứu giúp kẻ khốn khó, có lẽ nào người ta đang tìm cách làm hại mẹ con tôi mà bà lại cứ giương mắt ngồi nhìn? Hay là bà bảo tôi không tạ được bà?

Đạo bà cười nói:

– Bà lầm rồi! Bảo tôi không nỡ ngồi nhìn mẹ con bà bị người ta ức hiếp thì được! Chứ tạ hay không thì tôi không nghĩ đến chuyện ấy đâu. Bà còn có cái gì đáng tạ nữa?

Dì Triệu nghe vậy, lòng đã nhẹ nhàng đôi chút, liền nói:

– Bà là người hiểu việc, sao lại còn nói lẩn thẩn thế? Nếu phép của bà mầu nhiệm, làm được cho hai đứa ấy chết đi, tài sản nhà này không về tay mẹ con tôi hay sao? Bấy giờ bà muốn gì mà chẳng được?

Mã đạo bà cúi đầu một lúc, rồi nói:

– Đến khi ấy công việc xong xuôi cả, không có bằng cớ gì, bà còn nghĩ gì đến tôi!

– Điều ấy có khó gì? Bây giờ tôi hãy đưa cho bà mấy lạng bạc, một ít quần áo và đồ trang sức, bà cầm lấy trước; tôi lại viết thêm một bức văn tự nợ, đến bấy giờ tôi sẽ theo đủ số tiền trả cho bà.

– Có thật thế không?

– Khi nào tôi nói dối.

Dì Triệu gọi bà già tin cẩn đến, ghé vào tai thì thầm mấy câu. Bà kia đi một lúc trở về, đem theo bức văn tự vay năm trăm lạng bạc. Dì Triệu điểm chỉ, rồi vào mở hòm lấy những đồ trang sức, tiền bạc riêng của mình đưa cho Mã đạo bà và nói:

– Bà hãy cầm trước cái món này về mua hương nến cúng dâng có được không?

Mã đạo bà thấy đống bạc trắng phau, lại có văn tự nợ, liền bất cần đen trắng, nhận lời ngaỵ Mụ quờ tay cầm lấy món tiền, rồi đến văn tự. Sau đó mụ rút trong người ra mười con quỷ cắt bằng giấy, mặt xanh nanh vàng, cùng hai hình nhân đưa cho dì Triệu, khẽ dặn:

– Viết tên tuổi hai người ấy vào hai hình nhân này và đặt năm con quỷ này ở đầu giường mỗi người là được. Tôi trở về làm phép sẽ có hiệu nghiệm. Bà phải hết sức cẩn thận, đừng sợ gì hết.

Chợt có a hoàn bên Vương phu nhân đến tìm: “Mã đạo bà có đấy không? Bà Hai đang đợi đấy”. Hai người liền từ biệt nhau.

Từ khi Bảo Ngọc bị bỏng, không đi chơi đâu, Đại Ngọc cũng chỉ ở nhà chuyện trò với chị em. Một hôm ăn cơm xong, Đại Ngọc ngồi xem sách, thấy buồn thiu, liền đi thêu thùa với bọn Tử Quyên, cũng vẫn không thấy khoan khoái. Đại Ngọc tựa cửa nhìn ra ngoài, một lúc đủng đỉnh ra sân xem mấy cái măng mới mọc. Ra khỏi cửa, nhìn vào vườn, chẳng thấy một ai, chỉ trơ hoa nở đầu cành, chim kêu bên suối, liền rảo bước sang viện Di Hồng, thấy mấy a hoàn xách nước, đương đứng ở hiên xem chim họa mi tắm. Nghe thấy trong buồng có tiếng cười, Đại Ngọc bước vào, thì ra Lý Hoàn, Phượng Thư và Bảo Thoa đang ở đấy. Trông thấy Đại Ngọc vào, họ cười nói:

– Kìa! Chẳng lại thêm một người nữa đến kia!

Đại Ngọc cười hỏi:

– Hôm nay ai mời mà các người đến đông thế này?

Phượng Thư nói:

– Hôm nọ tôi cho mang hai bao chè sang biếu, cô đi đâu không có nhà?

Đại Ngọc nói:

– Thế mà tôi quên mất đấy, xin cảm ơn chị.

Phượng Thư nói:

– Uống có ngon không?

Bảo Ngọc đỡ lời ngay:

– Chẳng biết người khác uống thế nào, chứ tôi thì không thấy ngon gì.

Bảo Thoa nói:

– Chè ấy sắc không đẹp, nhưng vị cũng ngon đấy.

Phượng Thư nói:

– Đó là chè của nước Xiêm La đem cống, tôi uống cũng chẳng thấy ngon, không bằng chè của chúng ta thường dùng.

Đại Ngọc nói:

– Chẳng biết tì vị các người ra sao, còn tôi uống thì thấy ngon.

Bảo Ngọc nói:

– Cô cho là ngon thì mang cả chè ở bên tôi về mà uống.

Phượng Thư nói:

– Bên tôi cũng hãy còn nhiều.

Đại Ngọc nói:

– Có còn thật không, để tôi cho người sang lấy.

Phượng Thư nói:

– Không cần. Ngày mai tôi muốn nhờ cô một việc, tôi sẽ cho người mang sang một thể?

Đại Ngọc cười nói:

– Chị em nghe đấy, mới được một ít chè, mà chị ấy đã lại định sai phái rồi.

Phượng Thư cười nói:

– Mới nói nhờ một tý, cô đã giở chuyện chè với nước ra. Đã uống nước chè của nhà người ta, mà lại không chịu làm con dâu nhà người ta à?

Mọi người cười rộ lên. Đại Ngọc đỏ mặt quay đầu đi chỗ khác, không nói một câu. Lý Hoàn cười nói với Bảo Thoa:

– Câu khôi hài của thím Hai hay đấy.

Đại Ngọc nói:

– Khôi hài gì! Chẳng qua là những giọng lưỡi bần tiện làm cho người ta chối cả tai.

Nói xong nhổ toẹt một cái.

Phượng Thư cười nói:

– Khéo mơ hồ! Cô làm dâu nhà này không đáng hay sao?

Rồi trỏ vào Bảo Ngọc nói:

– Cô thử xem, con người không xứng đáng sao? Dòng họ không xứng đáng sao? Nề nếp và gia tư không xứng đáng sao? Có cái gì làm cô đáng xấu hổ nào?

Đại Ngọc đứng dậy chạy ra. Bảo Thoa gọi lại:

– Cô Tần đâm cuống rồi! Không trở lại à! Bỏ đi thì còn ra làm sao nữa.

Nói xong đứng dậy kéo Đại Ngọc lại.

Hai người vừa trở về đến cửa, gặp dì Triệu và dì Chu đến thăm Bảo Ngọc. Bảo Ngọc và mọi người đều đứng dậy mời ngồi, duy Thượng Thư vẫn cười đùa với Đại Ngọc không để ý đến.

Bảo Thoa đương muốn nói thêm, thì có a hoàn bên Vương phu nhân đến nói:

– Bà mợ sang chơi đấy, mời các mợ các cô về chào.

Lý Hoàn vội gọi Phượng Thư đi ra. Dì Triệu và dì Chu cũng ra. Bảo Ngọc nói:

– Tôi không thể đi được, xin chị em đừng để mợ sang đây. Cô Lâm hãy ngồi lại một tí, tôi có câu chuyện muốn nói.

Phượng Thư quay lại bảo Đại Ngọc:

– Có người đang muốn nói chuyện với cô đấy, hãy trở lại đã.

Rồi đẩy Đại Ngọc một cái và cùng Lý Hoàn cười đi ra.

Bảo Ngọc kéo tay áo Đại Ngọc lại, nhưng chỉ cười khì khì, muốn nói không nói ra được. Đại Ngọc đỏ bừng mặt lên, giật ra định chạy. Bỗng Bảo Ngọc kêu: “Trời ơi, nhức đầu lắm!”

Đại Ngọc nói:

– A di đà Phật! Đáng lắm!

Bảo Ngọc kêu to một tiếng: “Tôi chết mất”. Rồi nhảy vọt lên cách mặt đất độ ba bốn thước, mồm nói lảm nhảm. Đại Ngọc và bọn a hoàn sợ quá, vội đi báo Vương phu nhân và Giả mẫu. Bấy giờ bà Vương Tử Đằng đương ở đấy, cũng chạy sang xem, Bảo Ngọc cầm dao, múa gậy, liều sống liều chết làm dậy trời dậy đất. Giả mẫu, Vương phu nhân thấy thế, run sợ cầm cập, cứ gọi: “Con tôi ơi”, “máu mủ của tôi”, “cháu ơi”, và khóc ầm lên, làm kinh động cả mọi người. Giả Xá, Hình phu nhân, Giả Trân, Giả Chính, Giả Liễn, Giả Hoàn, Giả Dung, Giả Vân, Giả Bình, Tiết phu nhân, Tiết Bàn, vợ Chu Thụy cùng bọn vú bõ a hoàn từ trên chí dưới, cả nội lẫn ngoại, lũ lượt chạy vào vườn xem, bấy giờ tình hình thật là rối beng.

Đương lúc chưa ai biết định liệu ra sao, thì Phượng Thư lại tay cầm một con dao sáng loáng, xăm xăm chạy vào vườn, gặp gà chém gà, gặp chó chém chó, gặp người cũng trợn mặt lên chực chém, ai nấy đều sợ hết vía. Vợ Chu Thụy dẫn mấy người đàn bà lực lưỡng, can đảm, đến ôm chặt, giật lấy dao và đỡ về buồng. Bọn Bình Nhi, Phong Nhi kêu trời đất, khóc lóc ầm ĩ.

Giả Chính càng thêm bối rối, nhìn được phía này, bỏ mất phía kia. Mọi người càng hoang mang tợn. Duy có Tiết Bàn là bận rộn hơn cả: sợ mẹ bị người ta chen ngã, sợ Bảo Thoa bị người ta nhìn thấy, sợ Hương Lăng bị người ta trêu chòng. Vì hắn biết bọn Giả Trân vốn hay lẩn vào đám đàn bà con gái. Chợt liếc nhìn thấy Đại Ngọc phong nhã, dịu dàng, hắn đã say mê say mệt. Bấy giờ người nói nên tiễn ma, người nói nên phụ đồng, người nói nên mời Trương đạo sĩ đến trừ tà, mỗi người một phách, nhốn nháo suốt ngày, cầu cúng chạy chữa đủ vẻ cũng chẳng ăn thua gì. Trời dần xế chiều, bà Vương Tử Đằng cáo từ đi về.

Hôm sau, Vương Tử Đằng đến hỏi thăm. Tiếp đó bà con Tiểu Sử Hầu và anh em Hình phu nhân cùng họ hàng nội ngoại đều lại hỏi thăm; người đưa nước thải đến, người bảo đi mời tăng đạo, người mách thầy mách thuốc. Phượng Thư và Bảo Ngọc càng ngày càng mê mẩn, nằm vật vã trên giường, người nóng như lửa, nói lảm nhảm chẳng biết tý gì. Đêm đến bọn vú bõ, a hoàn không ai dám lại gần, phải cáng lên nằm ở buồng trên của Vương phu nhân, rồi sai bọn Giả Vân cắt lượt nhau trông nom.

Giả mẫu, Vương phu nhân, Hình phu nhân và Tiết phu nhân không rời bước nào, cứ ngồi quanh đấy mà khóc.

Giả Chính, Giả Xá sợ Giả mẫu khóc lóc sinh ốm, vừa tốn công lại mất của. Cả nhà nhốn nháo không biết làm thế nào. Giả Xá đi các nơi tìm thầy chạy chữa. Thấy chẳng ăn thua gì, Giả Chính càng thêm buồn rầu, ngăn lại nói:

– Số chúng nó như thế cũng là mệnh trời, sức người không thể cưỡng được. Hai cháu mắc bệnh bất ngờ, tìm hết cách chữa rồi mà vẫn chưa khỏi, tưởng cũng là lòng trời như thế, nên để mặc chúng nó.

Giả Xá không nghe, vẫn cứ cuống lên.

Đến ngày thứ ba, Phượng Thư, Bảo Ngọc nằm trên giường, hơi thở yếu dần. Cả nhà lo rối lên, không còn tí hy vọng gì, vội vàng sắm sửa đồ làm mạ Giả mẫu, Vương phu nhân, Giả Liễn, Bình Nhi, Tập Nhân đều khóc lóc rũ rượi, chết đi đống lại. Chỉ có dì Triệu ngoài mặt giả cách lo buồn, nhưng trong bụng rất là thỏa thích.

Đến sáng ngày thứ tư, bọn Giả mẫu đang ngồi khóc lóc, bỗng thấy Bảo Ngọc trợn mắt lên nói:

– Từ giờ trở đi, ta không ở nhà này nữa. Thôi thu xếp mau để cho ta đi.

Giả mẫu nghe câu nói ấy, ruột đau như cắt. Dì Triệu ở bên cạnh khuyên:

– Xin cụ không nên thương xót quá, bệnh anh ấy không thể chữa được nữa rồi, chi bằng mặc quần áo tử tế cho anh ấy, để anh ấy được chóng giải thoát, đỡ phải chịu đau đớn; nếu cứ thương tiếc mãi, anh ấy đi không dứt, sống thoi sống thóp lúc nào, lại càng khổ lúc ấy.

Dì Triệu nói chưa dứt câu, Giả mẫu đã nhổ toẹt vào mặt mắng:

– Đốt mồm đốt miệng con gái già nói nhảm kia! Ai xui mày mở mồm mở miệng vậy? Thế nào là càng sống lúc nào càng khổ lúc ấy? Mày đã biết không chữa được à? Nó chết thì mày được cái gì? Mày đừng có chiêm bao! Nó mà chết thì tao phải bắt chúng mày đền mạng! Cũng chỉ vì ngày thường chúng bay xúi bẩy, ton hót, bắt nó học cho nhiều, viết cho lắm vào, làm nó sợ vỡ mật, hễ trông thấy cha nó là nó len lét như chuột thấy mèo. Thế không phải là vì lũ đàn bà ranh con chúng mày xúi bẩy hay sao? Bây giờ nó chết đi, chắc chúng bay hả lòng hả dạ lắm! Coi chừng đấy! Tao chẳng tha một đứa nào đâu!

Vừa khóc Giả mẫu vừa mắng luôn miệng.

Giả Chính ở bên cạnh, nghe thấy những câu ấy, càng thêm bối rối, liền đuổi dì Triệu đi, rồi liệu lời khuyên giải Giả mẫu. Chợt có người vào trình: “Đâ làm xong hai cỗ áo quan, mời ông ra xem”. Giả mẫu nghe thấy, như dao cắt ruột, lại khóc lại mắng, rồi hỏi:

– Ai bảo chúng bay làm? Lôi ngay thằng làm áo quan ra đánh chết đi!

Đang lúc nhốn nháo, bỗng từ xa văng vẳng có tiếng mõ đưa lại, rồi nghe thấy đọc mấy câu:

– Nam mô giải oan giải kết bồ tát! Có ai đau ốm, cửa nhà không yên, bị ma ám, gặp điềm dữ, ta sẽ chữa cho.

Giả mẫu và Vương phu nhân nghe thấy, liền cho người ra phố tìm. Giả Chính không dám trái lời, nghĩ bụng: “Nhà mình cổng kín tường cao thế này, làm sao lại nghe được rõ những lời như vậy”. Trong lòng lấy làm lạ, liền cho người mời vào. Khi tới nơi, mọi người nhìn thấy một nhà sư chốc đầu, một đạo sĩ khiễng chân. Hình dáng hòa thượng như sau:

Một cặp mày dài sống mũi cao,

Mắt trông như ngọc, sáng như sao.

Lang thang áo rách giày đan cỏ,

Người bẩn còn thêm nỗi chốc đầu.

Hình dáng đạo nhân như sau:

Một chân thấp lại một chân cao,

Nước bẩn bùn nhơ vướng cả vào,

Ướm hỏi nhà người đâu đấy nhỉ,

Non Bồng nước Nhược biết nơi nào?

Giả Chính liền sai người mời vào hỏi:

– Hai vị tu ở núi nào?

Nhà sư cười nói:

– Trưởng quan không cần hỏi nhiều, vì thấy trong quý phủ có người đau ốm, nên chúng tôi đến đây để chữa.

Giả Chính nói:

– Có hai cháu bị ma quấy, không biết người có phương thuốc tiên nào chữa khỏi được không?

Vị đạo nhân cười nói:

– Hiện nhà người có thứ hiếm lạ, còn cần gì thuốc tiên của chúng tôi!

Giả Chính nghe nói có ngụ ý, liền nhớ ra, nói:

– Con tôi khi mới đẻ, có ngậm một viên ngọc, trên mặt có khắc chữ “trừ được ma quỷ” nhưng xưa nay chưa thấy hiệu nghiệm gì cả.

Nhà sư nói:

– Trưởng quan không biết đấy thôi. Viên ngọc ấy rất thiêng, nhưng vì bị tiếng hát, sắc đẹp và tiền của làm mê muội đi, nên không thiêng nữa. Xin đem viên ngọc ấy ra đây, để tôi tụng niệm, tự nhiên nó lại linh thiêng như cũ.

Giả Chính liền lấy viên ngọc ở trong cổ Bảo Ngọc ra, đưa cho hai người. Vị hòa thượng cầm lấy viên ngọc, đặt trên bàn tay, thở dài:

– Từ khi ở núi Thanh Ngạnh đến nav, thấm thoắt đã mười ba năm rồi! Đời người như bóng hồ qua cửa, đầy rẫy trần duyên, rồi cũng trong nháy mắt! Khá khen chỗ đáng quý của ngươi lúc bấy giờ:

Dọc đất ngang trời vẫn đứng đây,

Buồn vui nào bận chút lòng này.

Chỉ vì tôi luyện thành linh vật,

Đem đến cho đời chuyện dở hay!

Và đáng tiếc cuộc lăn lộn của người như ngày nay:

Ngọc sáng đem giây vết phấn son,

Buồn khuya mài miệt chuyện vuông tròn.

Thôi thôi tỉnh dây đừng mê nữa.

Nợ trả xong rồi cuộc cũng tan!

Đọc xong, nhà sư xoa viên ngọc một lúc, lại nói mấy câu điên rồ, rồi trả lại cho Giả Chính, nói:

– Viên ngọc này lại thiêng rồi, không nên coi thường nó, phải treo nó ở trên xà nhà, ngay chỗ giường nằm. Trừ người thân ra, đừng cho đàn bà con gái đến gần. Sau ba mươi ngày, bệnh cậu ấy thế nào cũng khỏi.

Giả Chính sai người pha nước mời và định tạ lễ, nhưng họ đã đi mất hút. Giả mẫu cho người chạy theo cũng không tìm thấy; đành cứ theo đúng lời dặn, đặt hai người vào buồng Vương phu nhân, rồi treo hòn ngọc lên xà nhà, Vương phu nhân ngồi canh, không cho ai qua lại. Đến tối, quả nhiên Phượng Thư và Bảo Ngọc dần dần tỉnh dậy và đã biết đói. Giả mẫu, Vương phu nhân như bắt được của báu, đi nấu cháo cho hai người ăn. Dần dần hai người tỉnh hẳn ra, ma quỷ biến đâu hết, cả nhà mới yên lòng. Đám chị em Lý Hoàn, Bảo thoa, Đại Ngọc, Bình Nhi, Tập Nhân ở ngoài lắng nghe rõ tin tức, thấy họ đã ăn được cháo, người đã tỉnh hẳn. Đại Ngọc liền niệm Phật ngay, Bảo Thoa ngoảnh lại nhìn lúc lâu, rồi phì cười. Mọi người không ai để ý. Tích Xuân hỏi:

– Chị Bảo cười gì thế?

Bảo Thoa nói:

– Tôi cười đức Phật Như Lai bận hơn người trần nhiều, nào là giảng kinh, nào là siêu độ chúng sinh; khi anh Bảo, chị Phượng ốm, đốt hương cầu khấn, lại phải trị bệnh trừ tà, đến nay mới khỏi. Rồi lại phải trông nom cả việc hôn nhân cho cô Lâm nữa. Chị bảo thế có bận không? Có đáng buồn cười không?

Đại Ngọc đỏ mặt lên, nói:

– Các chị đều không phải là người tốt, không chịu học những người tử tế, chỉ theo cái giọng lưỡi của kẻ bần tiện nào ấy! Chẳng biết lúc chết rồi sẽ ra sao.

Nói xong đẩy rèm đi ra.

1      Những bài chú trong kinh Kim Cương của đạo Phật.

2      Lã Động Tân, người đời Đường, tu ớ núi Chung Nam, tương truyền là một vi tiên trong Bát tiên. Câu này ý nói không phân biệt người hay người dở.

_

Chương 26: Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín – Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng

Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín

Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng

Sau ba mươi ngày tĩnh dưỡng, Bảo Ngọc không những người đã khỏe, mà vết thương trên mặt cũng khỏi hẳn, lại về ở vườn Đại Quan.

Gần đây, khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đem người nhà đến trông nom, ngày đêm ở luôn đấy. Hồng Ngọc cùng bọn a hoàn cũng đến ở đấy trông nom Bảo Ngọc. Hai bên ngày ngày trông thấy nhau, lâu dần thành quen. Hồng Ngọc thấy Giả Vân tay cầm cái khăn lụa giống hệt khăn của mình đánh mất ngày trước, muốn hỏi nhưng sợ không tiện. Từ ngày hòa thượng và đạo sĩ đến, không cần nhiều đàn ông hầu nữ, Giả Vân lại đi trồng cây. Việc này Hồng Ngọc muốn bỏ khuây đi, nhưng không sao bỏ nổi, muốn hỏi lại sợ người ngờ vực. Đương lúc dùng dằng suy nghĩ, tâm trí bàng hoàng, bỗng nghe ngoài cửa sổ có người hỏi: “Chị Hồng có ở nhà không?”

Hồng Ngọc nghe hỏi, đứng trong cửa sổ trông ra, té ra Giai Huệ, một a hoàn nhỏ cùng ở trong nhà này, liền trả lời: “Có nhà, em vào đây”.

Giai Huệ chạy vào, ngồi ngay lên giường, cười nói:

– Thực may quá! Em đang ở trong nhà rửa đồ đạc, thì cậu Bảo sai đưa chè sang cho cô Lâm, chị Hoa giao cho em mang đi. May gặp lúc cụ cũng sai người đưa tiền sang cho cô Lâm, và đang chia cho các chị bên ấy. Thấy em đến, cô Lâm bốc hai nắm cho em, không biết bao nhiêu, chị giữ hộ em.

Nó giở khăn lụa, đổ tiền ra. Hồng Ngọc đếm rành rọt số tiền, rồi cất đi.

Giai Huệ hỏi:

– Mấy hôm nay trong bụng chị thế nào? Cứ như ý em, chị nên về nhà ở vài ngày, mời thầy lang đến xem, uống vài thang thuốc thì khỏi đấy.

Hồng Ngọc nói:

– Em nói gì thế? Chị vẫn khỏe, về nhà làm gì?

– Em nghĩ ra rồi, cô Lâm thường ốm yếu, hay uống thuốc, chị nên xin thuốc của cô ấy mà uống cũng được.

– Em nói nhảm! Thuốc có phải là của uống bừa được đâu?

– Chị nghĩ như vậy không phải là cách lâu dài, cứ lười uống thuốc sau này sẽ nguy đấy!

– Sợ gì? Thà chết sớm đi cho rảnh.

– Đang yên lành sao lại nói những câu ấy?

– Em biết đâu tâm sự của chị!

Giai Huệ gật đầu nghĩ một lúc rồi nói:

– Chẳng trách được, chỗ này khó ở lắm. Hôm nọ cụ bảo, mấy ngày cậu Bảo ốm, người hầu đều vất vả cả. Bây giờ cậu ấy đã khỏi, đi lễ tạ các nơi rồi, nên thưởng tiền cho các người phục dịch. Như em còn bé, không được thưởng, cũng chẳng oán trách gì. Còn chị sao lại không được liệt vào hạng thưởng? Em chẳng phục tí nào. Như chị Tập Nhân dù được thưởng cả mười phần cũng đáng, chẳng nên tức bực làm gì. Nói thẳng ra, ai bì được với chị ấy? Chưa nói ngày thường chị ấy hết lòng phục dịch cậu Bảo, mà nếu chẳng phục dịch, cũng không bỏ được chị ấy. Đáng tức là bọn Tình Văn, Ỷ Hà lại được liệt vào hạng thưởng phần thứ nhất, chỉ vì chúng nó có vai có vế, nên mọi người đều tâng bốc chúng nó lên. Chị tính thế có đáng tức không?

– Việc gì mà phải tức. Tục ngữ nói “Rạp dù làm dài đến nghìn dặm, cũng không có tiệc nào là tiệc không tàn”. Có ai ăn đời ở đời với nhau mãi đâu? Chẳng qua độ dăm ba năm, mỗi người đi mỗi ngả, còn ai nhìn ngó đến ai nữa?

Mấy câu này làm cho Giai Huệ lòng rất cảm động, mắt đỏ ngầu lên, nhưng vô cớ mà khóc cũng không tiện, nó đành phải gượng cười nói:

– Chị nói rất phải. Thế mả hôm nọ cậu Bảo còn bảo: nào là thu xếp buồng ở, nào là may quần áo mới, như là câu chuyện còn đầm ấm lâu dài hàng mấy trăm năm nữa!

Hồng Ngọc nghe xong cười nhạt, đương muốn nói nữa, thì một a hoàn chưa để tóc 1 chạy lại, tay cầm các mẩu hoa và hai tờ giấy, nói:

– Chị vẽ kiểu hoa này vào giấy giúp em.

Nói xong nó vứt cho Hồng Ngọc, rồi quay người chạy đi ngaỵ Hồng Ngọc gọi với, hỏi:

– Ai bảo mày mang đến đây? Chưa nói đã chạy! Ai nướng bánh chờ mày, mà mày vội vàng thế! Mày sợ bánh nguội đi chăng?

A hoàn nhỏ ở ngoài cửa sổ nói với một câu:

– Chị Ỷ Hà bảo mang đến cho chị đấy.

Nó lúng búng nói những gì rồi rảo cẳng chạy đi ngay.

Hồng Ngọc bực mình, ném mẩu hoa vào một chỗ, rồi mở ngăn kéo tìm bút. Tìm mãi, chỉ thấy toàn những bút cùn, liền nói:

– Có cái bút mới hôm trước vứt đâu mất rồi? Sao nghĩ mãi không rả – Vừa nói, Hồng Ngọc vừa để ý ngẫm nghĩ, rồi cười nói: – Phải rồi, chiều hôm nọ Oanh Nhi mang về.

Rồi bảo Giai Huệ:

– Em đi lấy hộ chị nhé.

– Chị Hoa còn đương chờ em đi lấy cái hòm cho chị ấy, thôi chị đi mà lấy vậy.

– Chị ấy chờ em mà từ lúc nãy đến giờ em vẫn còn ngồi nói chuyện lau láu đấy à? Nếu chị không bảo em đi, làm gì có chuyện chị Hoa chờ em? Con ranh này hư lắm!

Nói xong, Hồng Ngọc đi ngay ra viện Di Hồng, đến thẳng phòng Bảo Thoa. Vừa đến cạnh đình Thấm Phương, thấy vú Lý của Bảo Ngọc đi đến. Hồng Ngọc đứng lại cười nói:

– Vú Lý! Vú ở đâu đến đây? Sao lại đến chỗ này?

Vú Lý đứng lại vỗ tay nói:

– Này xem, bỗng dưng vô cớ lại vẩn vơ nghĩ đến cậu Vân, cậu “Vũ” nào đó, bắt tao phải đi tìm ngaỵ Ngày mai mà trên nhà biết, thì còn ra gì nữa?

Hồng Ngọc cười nói:

– Vậy vú cũng theo lời cậu ấy mà đi gọi người ta sao?

– Không theo lời thì làm thế nào?

– Nếu người ấy biết điều đừng đến là phải.

– Nó không phải là đứa ngốc, việc gì nó chẳng đến?

– Nếu người ấy đến thật, thì vú đừng nên cùng đi với người ta; để mặc một mình hắn ta lại đây xem sao!

– Tao đến bảo hắn thôi, chứ hơi đâu cùng đi với hắn! Tao về sai một đứa a hoàn nhỏ hay một bà già nào đưa hắn đến là đủ rồi.

Nói xong, chống gậy đi ngay.

Hồng Ngọc nghe nói đứng ngẩn ra một lúc, chạy vội đi lấy bút.

Một chốc, một a hoàn nhỏ chạy đến, trông thấy Hồng Ngọc đứng đấy, liền hỏi:

– Chị Lâm đứng đây làm gì thế?

Hồng Ngọc ngẩng lên, thấy a hoàn nhỏ tên là Trụy Nhi, liền hỏi:

– Mày đi đâu đấy?

– Tôi đưa cậu Vân đến đây.

Nói xong, nó chạy đi ngay.

Hồng Ngọc vừa mới đi đến trước cầu Phong Yêu, thấy Trụy Nhi dẫn Giả Vân đến. Giả Vân vừa đi vừa đưa mắt nhìn Hồng Ngọc. Hồng Ngọc giả làm bộ nói chuyện với Trụy Nhi, nhưng mắt vẫn liếc nhìn Giả Vân. Bốn mắt thình lình gặp nhau, Hồng Ngọc đỏ mặt lên, né mình vào một chỗ, rồi đi đến Hành Vu uyển.

Bấy giờ Giả Vân theo Trụy Nhi đi quanh co đến viện Di Hồng. Trụy Nhi vào trình trước, rồi mới dẫn Giả Vân vào. Giả Vân nhìn lên, thấy trong sân lơ thơ có mấy ngọn núi đá, trên trồng chuối, có hai con hạc đứng rỉa cánh ở dưới gốc cây thông. Trên thềm treo mấy cái lồng đẹp, trong có nhiều thứ chim lạ, xung quanh có năm gian nhà nhỏ, cánh cửa chạm các thứ hoa mới đẹp, trên treo một cái biển có bốn chữ lớn: “Di hồng khoái lục”. Hắn nghĩ bụng: “Vì có bốn chữ này, thảo nào mới gọi là “viện Di Hồng”. Đương nghĩ thì phía trong bức lụa che cửa sổ có tiếng cười nói: “Mời vào. Hai ba tháng nay ta quên bẵng cháu!” Giả Vân nghe đúng là tiếng Bảo Ngọc, vội vàng chạy vào, ngẩng đầu nhìn thấy vàng ngọc, tranh ảnh chói lọi rực rỡ, nhưng không thấy Bảo Ngọc ở đâu. Ngoảnh lại thấy bên trái có một cái giá gương, một đôi a hoàn độ mười lăm, mười sáu tuổi ở đằng sau gương đi ra nói: “Mời cậu Hai vào ngồi chơi nhà trong”.

Giả Vân vội vã đáp lời, mắt không dám nhìn thẳng, đến gần một cái tủ che bằng lụa biếc, có cái giường nhỏ vẽ sơn, trên giăng cái màn màu đỏ thêu hoa vàng. Bảo Ngọc mặc quần áo thường, chân đi giày, ngồi tựa trên giường xem sách. Thấy Giả Vân vào, Bảo Ngọc bỏ sách xuống cười đứng dậy. Giả Vân vội chạy lại hỏi thăm sức khỏe. Bảo Ngọc mời ngồi trên ghế, cười hỏi:

– Tháng trước gặp cháu, ta hẹn đến thư phòng chơi, nhưng bận việc luôn, thành ra quên mất.

Giả Vân cười nói:

– Thật là không may cho cháu, lại gặp lúc chú khó ở, bây giờ chú đã khỏe hẳn chưa?

– Khỏe lắm rồi. Chú nghe nói mấy hôm đó cháu cũng vất vả lắm!

– Phận sự cháu đáng phải vất vả, nay chú được khỏe, thực phúc cho cả nhà ta.

Một a hoàn bưng nước trà lại mời uống. Giả Vân mồm nói chuyện với Bảo Ngọc, mắt cứ lấm lét nhìn trộm a hoàn. Người này dáng dong dỏng cao, mặt trái xoan, mặc cái áo màu hồng nhạt, vai khoác khăn lụa xanh, quần nhiễu trắng. Chẳng phải ai xa lạ, mà chính là Tập Nhân. Khi Bảo Ngọc ốm, Giả Vân đến ở đây phục dịch luôn mấy ngày, nên đã nhớ được một nửa tên những người ở trong nhà. Hắn cũng biết Tập Nhân được coi thân hơn so với tất cả những người hầu trong buồng Bảo Ngọc. Nay thấy chị ta pha trà đưa lên mời, lại có Bảo Ngọc ngồi bên cạnh, hắn liền đứng dậy cười nói:

– Sao chị lại pha nước cho tôi uống? Tôi đến nhà chú không phải là khách, để tôi rót lấy cũng được.

Bảo Ngọc nói:

– Cháu cứ ngồi yên đấy. Bọn a hoàn ở đây chỉ cốt có việc ấy thôi.

Giả Vân cười nói:

– Tuy chú nói thế, nhưng đối với các chị Ở trong nhà chú đây, khi nào cháu dám vô lễ?

Nói xong hắn ngồi xuống uống nước.

Bảo Ngọc cùng Giả Vân nói mấy câu chuyện phiếm, nào con hát nhà ai hát hay, vườn hoa nhà ai đẹp, a hoàn nhà ai lịch sự, tiệc tùng nhà ai linh đình, nhà ai có của báu, nhà ai có vật lạ. Giả Vân chỉ lựa lời nói xuôi chiều mà thôi. Nói chuyện một lúc, thấy Bảo Ngọc có vẻ uể oải, hắn liền xin về. Bảo Ngọc giữ lại qua loa một tí rồi nói:

– Hôm nào rỗi cháu cứ đến chơi.

Rồi lại sai a hoàn là Trụy Nhì đưa ra.

Giả Vân đi ra khỏi viện Di Hồng, thấy xung quanh không có ai, liền đi thong thả, tiếng nhỏ tiếng to, hỏi chuyện Trụy Nhi:

– Em bao nhiêu tuổi? Tên họ là gì? Cha mẹ em làm gì? Em ở nhà chú Bảo được mấy năm rồi? Một tháng được bao nhiêu tiền lương? Trong nhà chú Bảo có tất cả bao nhiêu a hoàn?

Trụy Nhi cứ theo từng câu hỏi một trả lời. Giả Vân lại hỏi:

– Người vừa nói chuyện với em có phải là Tiểu Hồng không?

– Đúng tên chị ấy là Tiểu Hồng đấy. Cậu hỏi làm gì?

– Vừa rồi nghe chị ấy hỏi em chiếc khăn lụa nào đó. Ta có nhặt được một chiếc.

– Mấy lần chị ấy hỏi em có trông thấy chiếc khăn lụa không. Em không có hơi đâu mà nghĩ đến chuyện ấy. Hôm nay chị ấy lại hỏi, lại bảo em cố tìm được, chị ấy sẽ tạ Ơn. Vừa rồi, chị ấy nói ở trước cửa Hành Vu Uyển, cậu cũng nghe thấy đấy. Không phải em nói dối cậu đâu. Cậu ơi, cậu đã nhặt được thì cho lại em, để xem chị ấy tạ Ơn em thế nào.

Nguyên tháng trước Giả Vân đến đây trồng cây, có nhặt được chiếc khăn lụa, biết là người trong vườn này đánh rơi, nhưng không rõ của ai. Nay nghe Hồng Ngọc hỏi Trụy Nhi, Giả Vân biết là khăn của cô ta, trong lòng xiết bao mừng rỡ. Bây giờ lại thấy Trụy Nhi hỏi xin, Giả Vân nghĩ ngay một kế, liền rút cái khăn ở trong tay áo ra đưa cho Trụy Nhi và bảo:

– Tôi cho em, nếu em được tạ Ơn thì không nên giấu tôi.

Trụy Nhi vâng lời, cầm lấy khăn, đưa Giả Vân ra, rối về tìm Hồng Ngọc.

Sau khi tiễn Giả Vân về, Bảo Ngọc có vẻ mỏi mệt, lơ mơ nằm nghiêng trên giường. Tập Nhân chạy lại, ngồi bên cạnh giường, lay Bảo Ngọc nói:

– Lại chực ngủ đấy à? Nếu buồn, cậu đi ra ngoài chơi có hơn không?

Bảo Ngọc cầm lấy tay Tập Nhân cười nói:

– Tôi muốn đi chơi, nhưng không thể xa em được.

– Dậy đi thôi.

Tập Nhân vừa nói vừa kéo tay Bảo Ngọc. Bảo Ngọc nói:

– Đi chơi chỗ nào bây giờ? Buồn lắm!

– Cậu cứ đi ra ngoài chơi tự khắc vui, chứ cứ nghĩ những chuyện vụn vặt càng thêm buồn thôi.

Bảo Ngọc buồn rầu, đành phải nghe lời Tập Nhân, ra khỏi cửa phòng, đứng trên hành lang ngắm chim một lúc, rồi ra ngoài sân. Đến khe Thấm Phương, xem đàn cá vàng. Lại thấy sườn núi bên kia có hai con hươu nhỏ chạy rất nhanh, Bảo Ngọc không thể hiểu ra sao. Đương lúc thơ thẩn, thấy Giả Lan ở đằng sau, tay cầm cái cung nhỏ chạy đến. Trông thấy Bảo Ngọc, Giả Lan đứng lại, cười nói:

– Thế ra chú ở nhà, cháu cứ tưởng chú đi chơi rồi.

– Mày lại nghịch dại rồi. Tự nhiên vô cớ bắn nó làm gì?

– Hôm nay cháu không học, ngồi rỗi biết làm gì? Vì thế cháu tập bắn cung.

– Coi chừng đấy, có ngã gãy răng, đến lúc ấy mới kinh.

Bảo Ngọc nói xong, luôn chân đi đến trước cửa một ngôi nhà, thấy đuôi phượng ve vẩy, sáo rồng vi vu 2. Ngước mắt nhìn lên, đó là quán Tiêu Tương. Tiện bước chạy vào, trông thấy rèm tương rủ xuống, tiếng người vắng tanh. Đến trước cửa sổ, thấy ở trong màn the thoảng ra một mùi hương êm dịu. Bảo Ngọc ghé mắt sát vào cửa sổ nhìn, nghe tiếng thở dài khe khẽ và hát câu: Suốt ngày mê mẩn bồi hồi, tình riêng chán ngắt… 3. Bảo Ngọc nghe xong, tự nhiên trong lòng rạo rực, nhìn kỹ thì Đại Ngọc đương nằm ngả lưng trên giường. Bảo Ngọc ở ngoài cửa sổ cười nói:

– Sao lại hát câu ấy?

Rồi vén rèm đi vào.

Đại Ngọc biết mình vô ý, tự nhiên mặt đỏ bừng lên, liền lấy tay áo che, rồi quay vào phía trong giả cách ngủ. Bảo Ngọc đến định lay gọi Đại Ngọc, thấy bà vú và hai bà già chạy đến nói:

– Cô tôi đương ngủ, chốc nữa tỉnh dậy cậu hãy đến.

Vừa nói xong thì Đại Ngọc quay mình lại ngồi dậy cười nói:

– Nào ai ngủ?

Bọn bà già thấy Đại Ngọc dậy, cười nói:

– Thế mà chúng tôi tưởng cô đã ngủ rồi.

Và gọi Tử Quyên:

– Cô dậy rồi, đi lên hầu.

Đại Ngọc ngồi trên giường, giơ tay sửa lại tóc, rồi cười hỏi Bảo Ngọc:

– Người ta đương ngủ, anh đến đây làm gì?

Bảo Ngọc thấy Đại Ngọc mắt hơi lim dim, mặt hơi đỏ, tâm thần tự nhiên xiêu xiêu, ngồi ngả trên cái ghế tựa cười nói:

– Vừa rồi cô nói gì thế?

– Tôi có nói gì đâu?

– Tôi lại cho cô một cái “búng” 4 bây giờ! Tôi nghe hết cả rồi.

Hai người đương nói chuyện thì Tử Quyên đến, Bảo Ngọc cười nói:

– Mang thứ trà ngon của nhà chị ra đây pha cho tôi uống.

Tử Quyên nói:

– Nhà chúng tôi đây làm gì có trà ngon, muốn uống trà ngon thì chờ chị Tập Nhân đến.

Đại Ngọc nói:

– Mặc kệ anh ấy, em hãy đi múc nước cho tôi đã.

Tử Quyên nói:

– Cậu ấy là khách, nên pha nước cho cậu ấy uống trước đã rồi hãy đi múc nước.

Nói xong đi pha nước, Bảo Ngọc cười nói:

– Chị a hoàn này tốt đây! “Nếu tôi được cùng tiểu thư đa tình sum vầy phượng loan, quyết chẳng để chị trải nện quạt màn” 5.

Đại Ngọc nổi ngay cơn giận lên, cúi gằm mặt xuống hỏi:

– Anh Hai, anh nói gì thế?

– Tôi có nói gì đâu!

Đại Ngọc liền khóc nói:

– Bây giờ anh lại giở trò, đi ra ngoài học những câu đầu đường xó chợ, rồi đem về lặp lại cho tôi nghe. Anh xem những tiểu thuyết nhảm nhí, rồi đem tôi ra làm trò cười. Tôi là một cái đồ chơi giải buồn cho các người à!

Vừa khóc vừa nhảy xuống giường, chực chạy ra ngoài.

Bảo Ngọc sợ quá, vội cản lại nói:

– Em ơi, anh lỡ lời đáng chết, xin em đừng mách ai. Nếu anh còn dám nói câu ấy nữa, mồm sẽ lên đinh râu và sẽ thối lưỡi.

Giữa lúc ấy, Tập Nhân chạy đến nói:

– Ông gọi cậu đấy, về mặc quần áo ngay đi.

Bảo Ngọc nghe nói, như sét đánh bên tai, không nghĩ gì đến việc khác nữa, cắm đầu cắm cổ chạy về thay quần áo.

Ra khỏi vườn, thấy Bồi Dính chực ở cửa ngoài, Bảo Ngọc hỏi:

– Ông gọi tao có việc gì, mày có biết không?

Bồi Dính nói:

– Cậu đi mau lên, đến đó sẽ biết.

Vừa nói vừa giục Bảo Ngọc.

Đi qua buồng khách, trong bụng Bảo Ngọc vẫn nghi ngờ, bỗng nghe thấy bên góc tường có tiếng cười khanh khách, ngoảnh lại thấy Tiết Bàn vỗ tay nhảy xổ lại cười nói:

– Nếu không nói là dượng gọi thì khi nào anh lại chịu ra ngay.

Bồi Dính cũng cười, rồi quì xuống. Bảo Ngọc đứng ngẩn người một lúc, mới biết là Tiết Bàn đánh lừa mình. Tiết Bàn vội vái chào nhận lỗi và nói:

– Xin đừng quở phạt thằng bé này. Việc này là do tôi nhờ nó đi đấy.

Bảo Ngọc đành chịu, không biết làm thế nào, chỉ cười hỏi:

– Anh đánh lừa tôi cũng được, nhưng việc gì phải mượn tiếng cha tôi? Tôi sẽ đến mách dì, để người xử cho việc này, liệu có nên không?

Tiết Bàn vội nói:

– Vì tôi muốn anh đến mau, nên quên hẳn những câu kiêng kỵ, sau này anh muốn đánh lừa tôi, cũng lại mượn tiếng cha tôi, thế là xong chuyện.

– Ối chà, nói câu ấy lại càng đáng chết nữa!

Rồi Bảo Ngọc quay sang Bồi Dính bảo:

– Giống phản chủ này còn quì mãi làm gì đây?

Bồi Dính vội đứng dậy lạy tạ.

Tiết Bàn nói;

– Nếu không phải việc cần, tôi không dám làm phiền anh như thế. Chỉ vì ngày mai, mồng ba tháng năm, là ngày sinh của tôi, không biết lão Trình Nhật Hưng ở hàng bán đồ cổ tìm đâu được những ngó sen tươi vừa to vừa dài, lại trắng muốt; những quả dưa hấu rất to; một con cá tươi rất dài và con lợn Xiêm đã được xông hương cây bách là của nước Xiêm La đem đến cống 6. Anh xem, bốn thứ này đã dễ tìm đâu cho rả Cá và lợn tuy là món quí, chỉ khó tìm thôi, còn ngó sen và dưa hấu, không biết họ làm thế nào mà có được! Trước hết tôi đem dâng mẹ tôi, rồi cho đem biếu bà và dì, bác. Còn để lại một ít, nếu tôi ăn một mình sợ tổn phúc. Nghĩ đi nghĩ lại, ngoài tôi ra chỉ có anh là đáng ăn thôi. Vì thế, tôi đặc biệt đến mời anh. May sao lại có một phường hát mới đến, chúng ta cùng chơi vui một hôm, anh nghĩ thế nào?

Hai người vừa nói vừa đi vào thư phòng, thấy bọn Thiềm Quang, Trình Nhật Hưng, Hồ Tư Lai, Đan Sính Nhân và phường hát đều đã ở đấy rồi. Thấy Bảo Ngọc vào, mọi người đứng dậy chào hỏi một lượt. Uống nước trà xong, Tiết Bàn sai bày tiệc rượu. Bọn hầu trai vội vàng đi bày tiệc rồi mọi người vào ngồi.

Bảo Ngọc trông thấy dưa hấu và ngó sen đều là của lạ, cười nói với Tiết Bàn:

– Tôi chưa có gì mừng anh mà lại đến quấy thế à?

– Thế ngày mai anh định mang thứ gì đến mừng?

– Tôi chẳng mang cái gì cả. Nói đến tiền bạc hay đồ ăn đồ mặc, thì toàn không phải là của tôi. Chỉ có một tờ giấy viết chữ hay là một bức vẽ mới đúng là của tôi đáng đem đến mừng.

– Anh nói đến bức vẽ, tôi lại nhớ tới hôm nọ Ở một nhà kia, có bức vẽ xuân cung rất đẹp, trên có viết nhiều chữ, nhưng tôi không xem kỹ, chỉ thấy chỗ lạc khoản hình như chữ canh hoàng gì ấy, trông đẹp quá chừng.

Bảo Ngọc nghe xong, trong bụng ngờ ngợ, liền nói:

– Những bức vẽ xưa nay tôi đều đã được xem qua, chẳng có nhà danh họa nào tên là Canh Hoàng cả.

Nghĩ một lúc, phì cười lên, sai người lấy bút viết hai chữ vào lòng bàn tay rồi hỏi Tiết Bàn:

– Anh chắc hai chữ ấy là canh hoàng đấy chứ?

– Sao lại không chắc?

Bảo Ngọc xòe bàn tay ra cho hắn xem và nói:

– Có phải hai chữ này không? Thực ra hai chữ này không khác chữ canh hoàng là mấy.

Mọi người xem thì ra hai chữ Đường Dần 7, đều cười nói:

– Chắc là hai chữ này rồi, lúc đó cậu Tiết có lẽ mắt hoa nên không thấy rõ, cũng chưa biết chừng.

Tiết Bàn nghĩ thấy cụt hứng, cười nói:

– Nào ai biết nó là “đường” hay là “kẹo”.

Đương nói chuyện thì đứa hầu nhỏ vào trình: “Cậu Phùng lại chơi”. Bảo Ngọc biết ngay là Phùng Tử Anh, con quan Thần Vũ tướng quân Phùng Đường. Bọn Tiết Bàn bảo mời vào. Nói chưa dứt lời, đã thấy Phùng Tử Anh tươi cười bước vào. Mọi người vội đứng dậy mời ngồi. Phùng Tử Anh nói:

– Tốt lắm! Chả cần phải đi đâu nữa, cứ ở nhà vui thú với nhau là được.

Bảo Ngọc, Tiết Bàn đều cười, nói:

– Lâu lắm không gặp được anh. Bác nhà có được mạnh khỏe không?

Tử Anh đáp:

– Cha tôi vẫn khỏe mạnh, chỉ có mẹ tôi gần đây bị phong hàn, có nhọc vài hôm.

Tiết Bàn thấy trên mặt Tử Anh có vết thương hơi tím, cười hỏi:

– Lại đánh nhau với ai mà có vết thương trên mặt?

Phùng Tử Anh cười nói:

– Từ khi đánh con ông đô úy họ Cừu bị thương, tôi đã hối hận và nhớ mãi việc ấy, không dám nóng nẩy, thì còn đánh nhau với ai? Vết thương ở trên mặt là tại hôm nọ tôi đi săn ở núi Thiết Võng, bị con chim ưng đập cánh trúng đấy.

Bảo Ngọc hỏi:

– Bao giờ thế?

– Đi từ hôm hai mươi tám tháng ba đến hôm qua mới về.

– Thảo nào hôm mồng ba mồng tư vừa rồi tôi đến dự tiệc nhà anh Thẩm không thấy anh. Tôi định hỏi, nhưng lại quên mất. Anh đi một mình hay cả bác cũng đi?

– Vì cha tôi đi, tôi không thể từ chối được, nên phải cùng đi Chứ tôi có phải hóa rồ đâu. Ở nhà mấy anh em cùng nhau uống rượu nghe hát, chẳng vui hơn sao, tội gì mà lại chuốc lấy sự bực tức vất vả vào người. Chuyến đi này trong sự không may lại gặp sự rất may.

Bọn Tiết Bàn thấy hắn uống nước rồi, đều nói: “Xin mời vào tiệc, có chuyện gì sẽ nói sau”. Tử Anh nghe xong đứng dậy nói:

– Cứ lẽ ra, tôi phải ở lại hầu rượu các anh là đúng, nhưng hiện giờ có việc rất cần, tôi phải đi, xong đó quay về trình cha tôi ngay, thực không thể ở lại được.

Tiết Bàn, Bảo Ngọc khi nào chịu nghe, cố sống cố chết giữ lại không cho đi. Tử Anh cười nói:

– Lạ quá, chúng ta sống với nhau trong bấy nhiêu năm, khi nào lại có cái đối xử với nhau như thế? Thực tôi không thể theo lời được. Nếu nhất định giữ tôi, xin mang cốc lớn ra đây tôi uống hết hai cốc là được.

Mọi người nghe nói, đành thôi không nài nữa. Tiết Bàn cầm chai, Bảo Ngọc cầm cốc, rót đầy hai cốc tọ Tử Anh đứng dậy uống một hơi hết. Bảo Ngọc nói:

– Anh hãy nói hết cái chuyện “không may lại gặp may” cho chúng tôi nghe đã, rồi mới được đi.

Tử Anh cười nói:

– Bây giờ không thể nào nói hết được. Cũng vì việc ấy, tôi muốn sửa một bữa tiệc, mời các anh đến chơi nói chuyện và còn có việc nhờ đến các anh nữa.

Nói xong, chắp tay chào rồi đi.

Tiết Bàn nói:

– Càng nói càng làm cho người ta sốt ruột lên, không thể nhịn được! Bao giờ anh mới nói rõ cho người ta đỡ mong.

Tử Anh nói:

– Lâu thì mười ngày, chóng thì tám ngày nữa.

Vừa nói vừa chạy ra ngoài cửa, cưỡi ngựa đi.

Mọi người trở về, theo thứ tự ngồi lại uống rượn, một lúc mới tan tiệc.

Bảo Ngọc về trong vườn, Tập Nhân ở nhà đương băn khoăn không biết Bảo Ngọc sang hầu Giả Chính, lành dữ ra sao. Bỗng thấy Bảo Ngọc về, say lướt khướt, hỏi duyên cớ, Bảo Ngọc kể hết đầu đuôi. Tập Nhân nói:

– Người ta đương sốt lòng sốt ruột chờ đợi. Cậu cứ mải vui, chẳng nghĩ gì cả. Cậu cũng nên sai người về báo tin mới phải!

Bảo Ngọc nói:

– Tôi vẫn định cho người về báo tin, nhưng gặp anh Phùng Tử Anh đến, nên trót quên mất.

Nói xong thấy Bảo Thoa chạy đến cười nói:

– Anh ăn trước những thứ gì ngon lạ Ở bên nhà tôi đấy?

Bảo Ngọc cười nới:

– Nhà chị có thứ gì ngon lạ, tất nhiên là để dành cho chúng tôi trước.

Bảo Thoa lắc đầu cười nói:

– Hôm qua anh tôi mời riêng tôi, tôi không ăn, bảo để dành lại biếu người khác. Tôi tự nghĩ mình kém phúc, không đáng ăn những thứ ấy.

Nói xong a hoàn pha nước uống, rồi nói chuyện phiếm.

Đại Ngọc nghe nói Giả Chính gọi Bảo Ngọc, suốt ngày không thấy về, trong bụng cũng áy náy lo thay cho cậu tạ Sau bữa cơm chiều, nghe nói Bảo Ngọc đã về, Đại Ngọc định đến hỏi xem có xảy việc gì không? Đang lững thững đi, thấy Bảo Thoa cũng đi vào vườn. Đại Ngọc liền chạy theo sau. Vừa đến cầu Thấm Phương, thấy các giống thủy cầm 8 đương tắm trong ao, không nhận ra được giống gì, toàn những màu sắc lóng lánh, trông đẹp lạ thường. Đại Ngọc đứng dừng lại xem một lúc rồi đi đến viện Di Hồng, thì cửa đã đóng, Đại Ngọc liền gõ cửa.

Không ngờ Tình Văn và Bích Ngân đương cãi nhau. Thấy Bảo Thoa đến, Tình Văn liền giận lây cả cô ta, lủng bủng nói ở trong nhà: “Lúc bận cũng như lúc rỗi, cứ đến ngồi lì ra đấy, làm cho người ta mãi nửa đêm gà gáy cũng chưa được đi ngủ”. Chợt lại nghe có tiếng người gõ cửa, Tình Văn lại càng cáu lên, chẳng hỏi là ai, nói ngay:

– Ngủ cả rồi, ngày mai hãy đến.

Đại Ngọc xưa nay vẫn biết thói quen của đám a hoàn hay mải chơi, có lẽ chúng nó không nhận được tiếng của mình, cho là đứa a hoàn nào gọi, nên không mở cửa. Vì thế lại gọi to:

– Tôi đây! Sao không mở cửa ngay?

Tình Văn vẫn không nghe rõ, lại gắt lên:

– Chị là ai cũng mặc kệ, cậu Bảo đã dặn tôi nhất thiết không để người nào vào!

Đại Ngọc nghe nói, đứng ở ngoài cửa tức lắm, định quát to nhưng lại nén giận, tự nghĩ: “Tuy nhà cậu cũng như nhà mình, nhưng mình vẫn là khách. Bây giờ bố mẹ chết rồi, không có chỗ nương tựa, mình phải đến ở nhờ đây, có giận cũng vô ích”. Đại Ngọc nghĩ vậy, nước mắt chảy xuống ròng ròng, về không tiện, đứng cũng không tiện. Đương lúc phân vân, nghe ở trong nhà có tiếng cười nói, lắng tai mãi thì ra tiếng Bảo Ngọc và Bảo Thoa. Đại Ngọc càng giận, nghĩ quanh nghĩ quẩn, sực nhớ tới việc sáng hôm nay: “Có lẽ vì anh ấy giận ta, cho là ta đi mách anh ấy. Nhưng khi nào ta lại mách! Anh ấy không chịu nghe ngóng kỹ, lại giận ta đến nỗi này à! Hôm nay không cho ta vào, liệu ngày mai không gặp mặt được sao?” Càng nghĩ càng đau xót, thôi thì mặc kệ rêu xanh sương lạnh, đường hoa gió lùa, một mình thơ thẩn, đứng dưới bóng cây bên góc tường, rầu rầu thổn thức, nức nở nghẹn ngào!

Đại Ngọc vẫn sẵn dáng điệu tuyệt vời, nhan sắc hiếm có. Ngờ đâu trận khóc này làm chim chóc đương đậu trên cành liễu, khóm hoa gần đấy, cũng xào xạc bay xa, không nỡ nghe những tiếng khóc than ai oán. Thực là:

Hoa choáng hồn lên buồn tẻ bấy;

Chim bừng mắt dậy ngẩn ngơ đâu!

Vậy có bài ca rằng:

Cô Tần tài sắc tuyệt vời,

Một mình hiu quạnh ra ngoài buồng thêu.

Giọng than chưa ngớt nghẹn ngào,

Hoa tơi bời rụng, chim xào xạc bay.

Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt nghe thấy kẹt một tiếng, cánh cửa mở, có một người đi ra.

1      Đời Thanh con gái còn nhỏ thì cạo quanh đầu, chỉ để chỏm giữa. Đến 

khi lớn mới để tóc.

2      Đuôi phượng là hình dung lá trúc, sáo rồng là hình dung tiếng gió thổi qua lá trúc.

3      Câu ớ Tây Sương Ký.

4      Ngày xưa người Trung Quốc trai gái đùa nhau, thường lấy ngón tay cái và ngón tay giữa nhíp lại, xát nhau cho bựt ra thành tiếng.

5      Mượn lời trong truyện Tây Sương, Trương Sinh nói với Tiểu Hồng là đầy tớ của Thôi Oanh Oanh.

6      Sự thực chỗ này chưa rõ, xin dịch đúng nguyên văn, đợi nghiên cứu sau.

7      Tên một nhà danh họa đời Minh, cũng hơi gíống như chữ “canh hoàng”. Tiết Bàn vì dốt nên đọc sai.

8      Thủy cầm: như các giống vịt, ngỗng, le, cốc v.v… thích ở dưới nước.

_________________

Chương 27: Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng – ộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn

Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng

Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn

Đại Ngọc đương lúc than khóc, chợt cửa mở, Bảo Thoa ở trong bước ra, bọn Bảo Ngọc, Tập Nhân đều tiễn ra cửa. Đại Ngọc muốn chạy đến hỏi Bảo Ngọc, nhưng lại sợ người ta biết, làm cho Bảo Ngọc xấu hổ, vì thế Đại Ngọc đứng né ra một bên để cho Bảo Thoa đi. Đợi Bảo Ngọc đóng cửa rồi, Đại Ngọc mới trở lại nhìn vào cửa gạt nước mắt, cảm thấy không còn thú vị gì, liền lủi thủi quay về cởi đồ trang sức ra.

Ngày thường, bọn Tử Quyên, Tuyết Nhạn vẫn biết tính nết Đại Ngọc; lúc rỗi ngồi buồn, không cau mày cũng thở dài, nhiều khi bỗng đang yên lành, không biết vì sao cũng rơm rớm nước mắt. Trước còn có người khuyên ngăn, hoặc cho là cô ta nhớ bố mẹ, nhớ quê hương hay bị Oan ức điều gì, nên họ tìm lời an ủi. Nhưng sau hàng năm hàng tháng lúc nào cũng thế, mọi người lâu dần cũng quen đi, chẳng ai để ý đến nữa, vì thế họ mặc kệ cho cô ta ngồi buồn một mình, cứ lẻn ra ngoài chơi.

Đại Ngọc tựa vào bao lan giường, hai tay ôm lấy đầu gối, nước mắt giàn giụa, ngồi ngây như một pho tượng, mãi đến canh hai mới đi nằm.

Hôm sau là ngày hai mươi sáu tháng tư, đến giờ mùi, là sang tiết Mang chủng. Theo tục cổ, đến ngày này, các nơi bày lễ vật cúng tiễn hoa thần. Vì rằng sau đó sang mùa hạ, các thứ hoa đều tàn, thần hoa lui về, nên phải làm lễ tiễn, nhất là trong khuê các lại càng náo nức hơn. Vì thế các người ở trong vườn Đại Quan ai nấy đều dậy sớm. Bọn con gái nhỏ hoặc lấy bông hoa cành liễu bện thành kiệu, ngựa, hoặc dùng gấm vóc, the lụa xếp thành cờ quạt tàn lọng, cái nào cũng buộc bằng chỉ ngũ sắc, treo trên từng ngọn cây, từng cành hoa. Trong vườn giải thêu phất phới, cành hoa chờn vờn. Các chị em đều tô son điểm phấn, làm cho đào thẹn hạnh nhường, yến ghen oanh tủi, vẻ tươi đẹp không thể tả hết được. Bấy giờ chị em bọn Bảo Thoa, Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân, Lý Hoàn, Phượng Thư và cháu Đại Thư, Hương Lăng cùng bọn a hoàn đều đến chơi đùa cả ở trong vườn, riêng Đại Ngọc không thấy đâu cả. Nghênh Xuân hỏi:

– Sao không thấy em Lâm? Cô bé này lười quá! Bây giờ hãy còn ngủ à?

Bảo Thoa nói:

– Chị em hãy ngời chờ đây, để tôi đi bắt cô ấy đến.

Nói xong rẽ mọi người ra, đi thẳng đến quán Tiêu Tương.

Trong khi đi, gặp bọn Văn Quan tất cả mười hai cô bé cùng đi đến, bèn đứng lại chào hỏi, nói mấy câu chuyện rồi đi. Bảo Thoa quay lại bảo:

– Họ đang ở trong kia kìa, đến đấy mà tìm. Ta đi tìm cô Lâm rồi về ngay.

Nói xong đi quanh đến quán Tiêu Tương. Ngẩng đầu nhìn, thấy Bảo Ngọc đi tới. Bảo Thoa đứng lại cúi đầu ngẫm nghĩ: “Bảo Ngọc và Đại Ngọc từ bé cùng ở một nơi, anh em họ nhiều lúc không biết tránh sự hiềm nghi, cười đùa không giữ ý, vui giận bất thường; vả chăng Đại Ngọc tính nết nhỏ nhen, lại hay ghen ghét, bây giờ mình đến đấy, một là không tiện cho Bảo Ngọc, hai là Đại Ngọc sinh ngờ, chi bằng ta trở về là hơn”. Nghĩ xong, Bảo Thoa định quay đi tìm chị em khác, thì trước mặt có một đôi bướm trắng to bằng cái quạt, con xuống con lên, theo gió bay lượn, rất là đẹp mắt. Bảo Thoa muốn bắt để chơi, liền lấy cái quạt ở trong tay áo ra, định đập xuống đất. Không ngờ đôi bướm cứ lên lên xuống xuống, lượn lượn bay bay, rồi chúng luồn qua khe hoa, khóm liễu, chờn vờn định bay qua sông, làm cho Bảo Thoa cứ rón rén đuổi theo mãi đến đình Trích Thúy ở bên ao. Bấy giờ mồ hôi đầm đìa, hơi thở hổn hển, Bảo Thoa đành thôi không đuổi nữa. Quay về, nghe trong đình có tiếng người nói rì rầm. Nguyên cái đình này xây ở trong hồ, bốn mặt đều có lan can chạm trổ, chung quanh dán giấy kín. Bảo Thoa đứng lại, lắng tai nghe, thấy nói:

– Chị xem cái khăn lụa này nếu quả là của chị đánh rơi, thì chị giữ lấy; nếu không phải, tôi sẽ đem trả lại cậu Vân.

– Sao lại không phải của tôi! Đưa đây cho tôi xin.

– Thế thì chị thưởng cho tôi cái gì nào? Lẽ nào tôi lại đưa không cho chị?

– Tôi đã hứa với em, không khi nào tôi lại đánh lừa em.

– Tôi đưa giả chị, chị tạ Ơn tôi đã đành rồi, còn người bắt được, chị không tạ người ta à?

– Em đừng nói nhảm, người ta là chủ nhà, bắt được cái gì của chúng ta thì phải trả lại, còn đòi tạ Ơn à?

– Nếu chị không tạ, thì tôi trả lời người ta thế nào? Vả chăng, cậu ấy dặn tôi ba bốn lần, nếu chị không tạ Ơn thì không được lấy khăn lại.

– Thôi được, cầm cái này về cho người ta, tức là tôi tạ Ơn đấy. Nhưng phải thề đi, em có nói chuyện này với ai không?

– Tôi mà nói với ai thì mồm sẽ lên đinh, ngày sau sẽ chết điêu chết đứng.

Lại nghe có người nói:

– Chúng ta cứ mải nói chuyện, khéo không ở ngoài có người nghe trộm đấy. Chi bằng mở toang cửa sổ ra, có ai trông thấy chúng ta ở trong này, họ sẽ cho là chúng ta nói chuyện tếu với nhau thôi. Khi họ đến gần đây, chúng ta trông thấy sẽ thôi không nói nữa.

Bảo Thoa đứng ngoài nghe vậy, giật mình nghĩ bụng: “Xưa nay những đứa gian dâm trộm cướp, bụng dạ đều ra trò cả! Nếu mở cửa, thấy ta ở đây, lẽ nào chúng nó không hổ thẹn? Vả lại nghe tiếng hệt như tiếng con Hồng ở phòng Bảo Ngọc, nó xưa nay vẫn to gan, không coi ai ra gì. Nó là đứa a hoàn điêu ngoa, quỉ quái bực nhất. “Người cùng làm phản, chó cùng nhảy qua tường”. Nay ta biết được sự xấu xa của nó, nếu không cẩn thận, không những thêm chuyện, mà ta cũng chẳng hay ho gì. Bây giờ lánh đi một nơi thì không kịp, chi bằng dùng lối “kim thiền thoát xác” 1 mới được”. Bỗng nghe kẹt một tiếng, Bảo Thoa liền cố ý đi nặng bước, cười hỏi:

– Chị Tần, tôi xem chị trốn đi đâu nào?

Vừa nói vừa cố ý đi rảo bước.

Hồng Ngọc và Trụy Nhi ở trong đình, vừa mở cửa sổ ra, đã thấy Bảo Thoa nói thế, rồi rảo bước đi lên, hai người đều sợ hãi. Bảo Thoa ngoảnh lại cười hỏi:

– Các chị giấu cô Lâm ở đâu?

Trụy Nhi nói:

– Tôi có thấy cô Lâm đâu.

Bảo Thoa nói:

– Tôi vừa mới ở bên kia hồ, trông thấy cô Lâm ngồi đấy quấy nước chơi, tôi muốn lẳng lặng đến để cô ấy giật mình, nhưng chưa tới nới, cô ấy đã trông thấy, liền đi rẽ sang phía đông rồi mất hút. Có lẽ cô ấy nấp ở trong này?

Bảo Thoa cố ý vào tìm, lại quay ra, miệng lẩm bẩm:

– Nhất định cô ta nấp ở trong hang núi này. Nếu gặp phải rắn nó cắn cho một cái thì xong đời.

Vừa nói vừa đi, trong bụng cười thầm: “Thế là ta nói quanh che giấu đã trôi, chẳng biết chúng nó nghĩ thế nào”.

Hồng Ngọc nghe vậy, tin là thực, đợi Bảo Thoa đi xa, liền kéo tay Trụy Nhi lại bảo:

– Thôi hỏng rồi! Cô Lâm núp ở trong này, nhất định nghe thấy những câu chuyện của chúng ta.

Trụy Nhi nghe nói ngồi thừ ra một lúc, Hồng Ngọc lại hỏi:

– Thế thì bây giờ làm thế nảo?

– Nghe thấy thì nghe, chứ có động chạm gì đến ai! Người nào lo việc người ấy là xong.

– Cô Bảo nghe thấy chẳng sao, chứ cô Lâm miệng hay xoi bói, bụng hay khe khắt, nghe thấy mà đi nói tung ra thì làm thế nào?

Đương nói chuyện, thấy bọn Văn Quan, Hương Lăng, Tư Kỳ, Thị Thư đi đến. Hai người nói lảng ra chuyện khác rồi cười đùa với bọn này.

Phượng Thư ở bên kia sườn núi vẫy tay gọi. Hồng Ngọc vội vàng bỏ mọi người chạy đến, cười hỏi:

– Mợ gọi cháu có việc gì?

Phượng Thư ngắm nghía một lúc, thấy Hồng Ngọc sạch sẽ nhanh nhẹn, ăn nói có duyên, liền cười hỏi:

– Hôm nay bọn a hoàn của ta không đi theo hầu. Ta nhớ ra một việc, muốn sai mày đi, không biết mày có làm nổi không? Nói năng có được rành mạch không?

– Mợ có việc gì xin cứ bảo, nếu cháu nói không rành mạch, làm hỏng việc, mợ cứ trách phạt.

– Mày ở nhà cô nào? Để khi ta sai đi, có ai đến tìm, ta sẽ nói hộ.

– Cháu ở nhà cậu Bảo.

– Thế ra mày ở nhà cậu Bảo đấy à? Thảo nào! Thôi được, nếu cậu ấy đến hỏi thì ta nói hộ. Mày về nhà ta bảo chị Bình: dưới cái giá mâm sứ Nhữ Châu để trên cái bàn ở nhà ngoài, có một gói bạc một trăm hai mươi lạng, là để trả tiền công thợ thêu. Khi nào vợ Trương Tài đến thì cân ngay trước mặt, đưa cho chị ta mang đi. Lại còn việc nữa: lấy cái túi nhỏ ở đầu giường mang đến đây cho ta.

Hồng Ngọc nghe xong, vâng lời đi ngaỵ Một lúc trở lại, không gặp Phượng Thư ở trên sườn núi nữa. Thấy Tư Kỳ ở trong hang núi ra, đương đứng thắt lưng, Hồng Ngọc chạy lại hỏi:

– Chị có biết mợ Hai ở đâu không?

– Tao không biết.

Hồng Ngọc quanh đi tìm các nơi, gặp Thám Xuân, Bảo Thoa đang ngồi xem cá ở bên hồ. Hồng Ngọc lại gần cười nói:

– Thưa hai cô, có biết mợ Hai đi đâu không?

Thám Xuân nói:

– Đến nhà mợ Cả mà tìm.

Hồng Ngọc đến thôn Đạo Hương, thấy bọn Tình Văn, Ỷ Hà, Bích Ngân, Tử Tiêu, Xạ Nguyệt, Thị Thư, Nhập Họa, Oanh Nhi cùng đi lại. Tình Văn trông thấy Hồng Ngọc nói ngay:

– Con này động điên sao? Không tưới hoa ngoài sân, không cho chim ăn, không pha trà, chỉ chạy nhông thôi.

Hồng Ngọc nói:

– Hôm qua cậu Hai bảo: sáng nay không cần tưới hoa nữa, cứ cách một ngày tưới một lần. Chim thì tôi cho ăn lúc chị còn đương ngủ kia.

Bích Ngân nói:

– Còn nước trà thì sao?

Hồng Ngọc nói:

– Hôm nay không phải phiên của tôi, có trà hay không, đừng hỏi đến tôi.

Ỷ Hà nói:

– Chị nghe miệng nó nói đấy! Thôi các chị đừng hỏi nữa, mặc kệ cho nó đi chơi.

Hồng Ngọc nói:

– Các chị thử hỏi xem, tôi có đi chơi không? Mợ Hai vừa bảo tôi đi lấy cái này đây.

Nói xong, nó đưa cái túi cho mọi người xem, ai nấy nín lặng, không nói gì nữa, rồi bỏ đi cả.

Tình Văn cười nhạt:

– Thảo nào! Thế ra nó đã trèo lên được cành cao, nên mới coi thường chúng tạ Không biết nó đã ăn đã nói được những câu gì? Đã ai biết tên biết tuổi nó là gì, mà nó vênh mặt lên như thế? Lần này không hề gì, chứ lần sau thì liệu đấy! Thôi từ nay trở đi nó có giỏi thì ra khỏi cái vườn này, cứ ngồi được mãi ở trên cành cao ấy,mới cho là tài.

Tình Văn vừa nói vừa đi.

Hồng Ngọc nghe nói, không tiện cãi lại, chỉ cố nén giận đi tìm Phượng Thự Đến buồng họ Lý, quả gặp Phượng Thư đương ngồi nói chuyện ở đấy. Hồng Ngọc vào trình:

– Chị Bình nói: khi mợ đi, chị ấy đã cất gói bạc rồi. Vợ Trương Tài đến lấy, chị ấy đã cân trước mặt và giao cho mang đi rồi.

Hồng Ngọc lại đưa cái túi ra, thưa:

– Chị Bình bảo tôi đến trình mợ: Vừa rồi Lai Vượng đến hỏi xem mợ có truyền bảo gì, để nó còn phải sang bên kia; chị Bình đã theo ý mợ bảo nó đi rồi.

Phượng Thư cười nói:

– Nó theo ý ta như thế nào mà bảo Lai Vượng đi?

– Chị Bình bảo: mợ tôi nhắn lời hỏi thăm mợ bên ấy. Cậu Hai không có ở nhà. Dù có chậm vài hôm, xin mợ cứ yên lòng. Khi nào mợ Năm khỏe, mợ tôi sẽ cùng mợ Năm sang thăm. Hôm trước mợ Năm sai người đến nói: bà mợ có nhắn tin hỏi thăm sức khỏe của mợ, lại muốn nhờ cô bên ấy tìm hộ mấy viên thuốc “duyên niên thần nghiệm vạn toàn đan”. Nếu có thì mợ sai người mang đến đưa cho mợ tôi. Sau có người đi, sẽ tiện đường đem sang cho bà mợ.

Hồng Ngọc nói chưa dứt lời, Lý Hoàn cười nói:

– Ô chà! Tao không hiểu mày nói gì, cứ “mợ, mợ, “cậu, cậu” lôi ra một tràng.

Phượng Thư cười nói:

– Chả trách chị không hiểu là phải. Đó là câu chuyện bốn năm gia đình khác nhau.

Rồi quay lại Hồng Ngọc cười nói:

– Con bé này khá đấy, mày nói cũng rành mạch, chứ không như những đứa khác cứ ấp a ấp úng, nói lý nhí như muỗi kêu ấy. Chị không biết, bây giờ trừ mấy a hoàn và bà già hầu tôi ra, tôi không muốn nói với ai cả: Một câu nói của mình, họ kéo dài ra làm hai ba đoạn, đứt quãng từng chữ từng câu, lai nhai ấp úng, chỉ tổ làm cho mình nóng tiết lên, chứ họ có biết gì đâu. Bình Nhi nhà tôi trước cũng thế đấy. Tôi thường bảo nó có phải nói như tiếng muỗi mới gọi là mỹ nhân đâu? Tôi dạy nó nhiều lần, nên bây giờ nó mới khá đấy.

Lý Hoàn cười nói:

– Có phải ai cũng láu lỉnh như thím đâu!

Phượng Thư nói:

– Con bé này cũng khá đấy. Vừa rồi hai lần nói chuyện, tuy không nhiều mấy, nhưng lời nói cũng gãy gọn.

Nói xong quay lại Hồng Ngọc cười bảo:

– Ngày mai mày sang hầu tao, tao sẽ nhận làm con nuôi, tao trông nom cho, sau này mày sẽ nên người.

Hồng Ngọc nghe nói bật cười. Phượng Thư nói:

– Mày cười gì? Mày cho tao còn trẻ, hơn mày mấy tuổi, lại chực làm mẹ mày à? Mày mơ ngủ hay sao! Mày xem có những người lớn hơn mày nhiều, cứ chực gọi tao là mẹ, tao cũng chẳng thèm nhìn. Thế này là tao cất nhắc mày đấy!

Hồng Ngọc cười nói:

– Không phải cháu cười thế đâu. Cháu cười là cười mợ nhận nhầm thứ bậc đấy thôi. Mẹ cháu đã là con nuôi mợ rồi, bây giờ mợ lại nhận cháu làm con nuôi.

Phượng Thư nói:

– Mẹ mày là ai?

Lý Hoàn cười nói:

– Thím không nhận được nó à? Nó là con gái Lâm Chi Hiếu đấy.

Phượng Thư nghe xong rất lấy làm lạ, nói:

– Thế ra con gái nó đấy à? – Lại cười nói: – Hai vợ chồng Lâm Chi Hiếu đần độn thế, suốt ngày không ai cạy mồm nó nói một câu. Ngày thường tôi vẫn bảo: hai người này lấy nhau thực là tốt đôi, một người điếc, một người câm. Ai ngờ lại đẻ ra được đứa con sắc sảo nhanh nhẹn thế này! Mày mười mấy tuổi?

– Cháu mười bảy tuổi.

– Tên là gì?

– Nguyên trước là Hồng Ngọc, vì trùng tên với cậu Bảo, nên đổi là Tiểu Hồng.

Phượng Thư nghe nói, cau mày lại, ngoảy đầu một cái rồi bảo:

– Rõ chán thật! Được ngọc có lẽ sướng lắm hay sao, người này cũng “ngọc”, người kia cũng “ngọc”.

Rồi quay sang nói với Lý Hoàn:

– Chị không biết, tôi đã bảo mẹ nó: vợ Lại Đại bây giờ lắm việc, chẳng còn biết ai với ai trong phủ này nữa. Tôi nhờ mụ ấy tìm hộ hai a hoàn, mụ ấy chỉ nhận lời cho xong, rồi không những không đi tìm, lại còn đưa con đi hầu chỗ khác. Hay là con nó đến hầu tôi không được tử tế chăng?

Lý Hoàn cười nói:

– Thím đa nghi lắm. Con người ta đi hầu đã lâu rồi, đến giờ thím mới bảo, thì còn trách gì mẹ nó?

Phượng Thư cười nói:

– Đã thế thì ngày mai tôi sẽ nói với chú Bảo tìm người khác thay cho con bé này đến ở với tôi. Nhưng liệu mày có bằng lòng không?

Hồng Ngọc cười nói:

– Bằng lòng hay không, cháu không dám nói. Nhưng nếu được hầu mợ thì cháu học được cách ăn ở lui tới, học được việc lớn việc nhỏ, sẽ khôn biết ra nhiều.

Bỗng có a hoàn của Vương phu nhân lại mời, Phượng Thư cáo từ Lý Hoàn ra về. Hồng Ngọc cũng về viện Di Hồng.

Đêm qua về, Đại Ngọc ngủ không được, sáng nay dậy muộn, nghe nói chị em ở trong vườn đương mở hội tiễn hoa. Sợ người ta cười là lười, Đại Ngọc rửa mặt chải đầu xong, vội vàng đi ngaỵ Mới ra ngoài sân, thấy Bảo Ngọc đi vào cười nói:

– Hôm qua em có mách gì việc anh không? Anh áy náy cả đêm.

Đại Ngọc liền quay đầu lại bảo Tử Quyên:

– Dọn nhà đi, buông cửa sổ xuống, xem con chim yến đã về chưa, bỏ rèm xuống, chận cái đôn đá sư tử lại, đốt lò hương rồi đậy nắp lại.

Nói xong đi ra.

Bảo Ngọc thấy quang cảnh ấy, chỉ cho là vì việc trưa hôm qua, có biết đâu lại còn cả cái tội buổi tối nữa? Bảo Ngọc cứ đứng chắp tay vái chào. Đại Ngọc vẫn không thèm nhìn, bỏ đi ra, tìm các chị em.

Bảo Ngọc buồn bực, nghĩ bụng:

– Cứ xem bộ dạng này, thì không phải là vì việc buổi trưa hôm quạ Nhưng buổi chiều ta về nhà đã muộn, không gặp cô ta, còn va chạm với cô ấy vào lúc nào?

Vừa nghĩ vừa đi theo sau.

Thấy Bảo Thoa và Thám Xuân ngồi xem hạc múa, Đại Ngọc cũng đến đó. Ba người cùng đứng nói chuyện. Sau thấy Bảo Ngọc đến, Thám Xuân cười nói:

– Anh Bảo có khỏe không? Suốt ba hôm nay em không được gặp.

Bảo Ngọc cười hỏi:

– Em có được mạnh không? Hôm nọ anh gặp chị Cả, có hỏi thăm em.

Thám Xuân nói:

– Anh lại đây, em hỏi chuyện.

Bảo Ngọc nghe nói, từ giã Bảo Thoa và Đại Ngọc đến ngồi ở dưới cây thạch lựu. Thám Xuân hỏi:

– Mấy hôm nay cha có gọi anh không?

– Không gọi.

– Hôm nọ em thoáng nghe như cha gọi anh.

– Chắc người ta nghe nhầm đấy, cha có gọi anh đâu.

– Mấy tháng nay em có dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.

– Thỉnh thoảng anh cũng có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ, xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.

– Ai cần gì đến những thứ ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc, cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.

– Nếu em thích những cái ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ mua được hàng xe.

– Bọn người nhà biết gì? Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em. Em sẽ thêu cho anh một đôi giày như lần trước mà còn tỉ mỉ kỹ càng hơn, anh nghĩ có được không?

Bảo Ngọc cười nôi:

– Em nói đến đôi giày, anh lại nhớ câu chuyện trước. Có lần anh đi đôi giày ấy, gặp cha, người lấy làm khó chịu, hỏi giày này ai thêu chọ Anh không dám nói là em thêu, chỉ nói mợ cho trong dịp sinh nhật anh. Cha thấy thế, không nói gì, một lúc mới phàn nàn: “Tội gì mả hao tốn sức người, phí phạm nhiễu lụa, để thêu cái thứ ấy!” Sau về anh nói chuyện với Tập Nhân, Tập Nhân nói: “Như thế đã đành, dì Triệu lại còn oán là khác. Dì ấy bảo, anh em ruột giày rách đằng giày, tất rách đằng tất, chẳng ai thèm nhìn đến, lại đi thêu những thứ ấy!”

Thám Xuân nghe nói, sa sầm nét mặt xuống, nói:

– Anh xem, câu nói hồ đồ biết chừng nào! Em có phải lả hạng người chỉ để thêu giày đâu. Em Hoàn không có phần riêng của nó sao? Áo quần có phần áo quần, giày tất có phần giày tất, gái hầu, bà già cũng đầy cả nhà, sao lại thở ra những câu oán trách ấy? Định nói cho ai nghe đấy! Chẳng qua lúc rỗi em muốn thêu một đôi chơi, trong đám anh em, thích ai thì cho; đó là tùy bụng em, chứ ai bắt buộc? Thực là dì ấy ghen quàng!

Bảo Ngọc gật đầu cười nói:

– Em không biết, bụng người ta lại nghĩ khác kia.

Thám Xuân nghe nói, càng cáu lên, ngoảy đầu nói:

– Anh cũng hồ đồ nốt. Dì ấy nghĩ thế đấy, nhưng chẳng qua là ý nghĩ của hạng người hèn mọn mà thôi. Mặc dì ấy, muốn nghĩ thế nào thì nghĩ, chứ em chỉ biết bà và cha thôi, ngoài ra em không cần ai hết. Ngay trong đám anh chị em, ai tốt với em, thì em tốt giả, bất cứ là con nàng hầu, vợ lẽ. Đáng ra em không nên nói dì ấy, nhưng vì dì ấy u mê quá chừng! Lại có một chuyện đáng buồn cười nữa: lần trước em đưa tiền nhờ anh mua đồ chơi hộ em, vài hôm sau gặp em, dì ấy kêu túng kêu thiếu. Em mặc kệ, chẳng để ý đến. Sau khi bọn a hoàn ra rồi, dì ấy quay lại trách móc em, bảo em để dành tiền chỉ đưa cho anh thôi, không đưa cho thằng Hoàn. Nghe dì ấy nói thế, vừa buồn cười vừa bực mình, em chạy ngay đến chỗ mẹ.

Đương nói thì Bảo Thoa ở đằng kia cười nói:

– Chuyện xong chưa, lại đây. Thế mới rõ ra là anh em với nhau bỏ hết cả mọi người, đem nhau đi nói chuyện riêng, chúng tôi nghe không được hay sao?

Thám Xuân, Bảo Ngọc đều cười chạy lại.

Không thấy Đại Ngọc ở đấy, Bảo Ngọc biết ngay là cô ta tránh đi chỗ khác. Rồi nghĩ: “Hãy để chậm vài hôm, chờ cô ta bớt giận, mình sẽ đến”. Nhân cúi đầu nhìn thấy nhiều thứ hoa phượng tiên, thạch lựu, như nền gấm giải rụng từng chùm xuống đất, Bảo Ngọc than thở:

– Hẳn là cô ta trong bụng còn tức giận, nên không nhặt những hoa rụng này. Để ta nhặt đi, ngày mai sẽ lại hỏi cô ấy.

Bảo Thoa rủ cả bọn đi về phía sau chơi. Bảo Ngọc nói:

– Tôi sẽ đến sau.

Chờ cho hai người đi xa, Bảo Ngọc mới nhặt những hoa rụng, rồi trèo non lội nước, qua cây luồn hoa, đi đến chỗ cùng Đại Ngọc chôn hoa đào hôm trước. Gần đến nơi, còn ở bên kia dốc núi, đã nghe tiếng nghẹn ngào, khóc than kể lể, ai nghe cũng phải đau lòng. Bảo Ngọc nghĩ bụng: “Không biết a hoàn nhà ai có điều gì oan ức, lại chạy đến đây mà khóc thế?” Vừa nghĩ vừa dừng bước lại, nghe thấy những lời than khóc như sau:

Hoa bay hoa rụng ngập trời,

Hồng phai hương lạt ai người thương hoa?

Đài xuân tơ rủ la đà,

Rèm thêu bông khẽ đập qua bên ngoài.

Kìa trong khuê các có người,

Tiếc xuân lòng những ngậm ngùi vẩn vơ.

Vác mai rảo bước bước ra,

Lòng nào nỡ giẫm lên hoa thế này?

Vỏ du tơ liễu đẹp thay,

Mặc cho đào rụng, lý bay đó mà.

Sang năm đào lý trổ hoa,

Sang năm buồng gấm biết là còn ai?

Tháng ba tổ đã xây rồi,

Trên xà hỏi én quen người hay không?

Sang năm hoa lại đâm bông,

Biết đâu người vắng, lầu hồng còn trơ?

Ba năm sáu chục thoi đưa,

Gươm sương dao gió những chờ đâu đây.

Tốt tươi xuân được mấy ngày,

Chốc đà phiêu dạt, bèo mây thêm sầu.

Nở rồi lại rụng đi đâu,

Người chôn hoa nhĩmg rầu rầu đòi cơn.

Cầm mai lệ lại ngầm tuôn,

Dây trên cành trụi hãy còn máu rơi.

Chiều hôm quyên lặng tiếng rồi,

Vác mai về đóng cửa ngoài buồn tênh!

Ngả người trước ngọn đèn xanh,

Ngoài song mưa tạt, bên mình chăn đơn.

Mình sao vơ vẩn từng cơn?

Thương xuân chi nữa lại hờn xuân chi?

Thương khi đến, hờn khi đi,

Đến lừ đừ đến, đi lỳ lỳ đi.

Ngoài sân tiếng khóc rầm rì,

Chẳng hồn hoa đấy, cũng thì hồn chim.

Hồn kia lảng vảng khôn tìm,

Chim càng lặng lẽ, hoa thêm sượng sùng.

Thân này muốn vẫy vùng đôi cánh,

Nơi chân trời liệng cảnh hoa chơi!

Nào đâu là chỗ chân trời,

Nào đâu là chỗ có đồi chôn hoa?

Sẵn túi gấm đành ta nhặt lấy,

Chọn nơi cao che đậy hương tàn.

Thân kia trong sạch muôn vàn,

Đừng cho rơi xuống ngập tràn bùn nhơ.

Giờ hoa rụng có ta chôn cất,

Chôn thân ta chưa biết bao giờ.

Chôn hoa người bảo ngẩn ngơ,

Sau này ta chết, ai là người chôn?

Ngẫm khi xuân muộn hoa tàn,

Cũng là khi khách hồng nhan về già.

Hồng nhan thấm thoắt xuân qua,

Hoa tàn người vắng ai mà biết ai!

Bảo Ngọc nghe xong, bất giác đứng ngẩn người ra, ngã vật xuống đất.

1      Con ve lột xác, nghĩa là biến đổi thân hình mình để người khác không trông thấy.

_________________