Hồi 30: Trăng sáng mài dao, báo oán giết nhà Đô Giám – Trời đêm lánh nạn, giả sư qua núi Ngô Công

Võ Tòng vác đao trở về Mạnh Châu, vừa đi đường vừa nghĩ quanh co, lại càng căm giận cho bọn nhà họ Trương, không thể nào mà buông tha không giết được. Khi về tới trong thành, thì vừa hay đã tối, chàng liền tìm đến một chỗ tàu ngựa ở sau vườn hoa nhà Trương Đô Giám để nấp. Được một lát nghe có tiếng cửa mạch ở góc mở cót két, chàng ngó cổ vào xem, thì thấy tên bồi hầu ngựa, cầm cái đèn lồng ở trên nhà đi xuống tàu ngựa, rồi quay mà cài cửa lại. Đoạn rồi tên bồi bỏ cỏ cho ngựa ăn, treo đèn lên một chỗ, mà trải chăn chiếu cởi áo xống lên giường nằm ngủ. Võ Tòng nghe tiếng trống vừa điểm một canh bốn khắc, chàng bèn lén gót đến trước cửa ở chỗ tàu ngựa mà khua rung làm bộ như người cậy cửa. Tên bồi ngựa nằm trong quát lên rằng:

– Lão gia vừa ngủ mà mầy toan đến ăn cắp quần áo à? Còn sớm lắm… !

Võ Tòng lặng ngắt, dựng thanh đao vào một bên, rút dao ra cẩm ở tay, rồi lại cạy cửa lạch cạch luôn một lúc.Tên bồi ngựa nằm trong nóng tiết nhảy bổ dậy, không kịp mặc áo xống, vội vớ lấy cái đòn gánh, rút then cửa toan mở ra để đánh. Dè đâu vừa mới rút được then cửa ra, thì bị Võ Tòng đẩy sấn cánh cửa bước vào mà nắm chặt lấy cánh tay. Cậu bồi ta toan cất tếng kêu lên, lại trông thấy thanh đao sáng nhoáng ở dưới bóng đèn, thì kinh hồn khiếp vía, rời rụng chân tay, mà sẽ xin kêu van để tha mạng.

Võ Tòng nói:

– Có nhận ra ta là ai không?

Tên bồi ngựa nghe thấy tiếng, mới biết Võ Tòng liền kêu rằng:

– Ca Ca ơi! Có việc gì đến tôi xin Ca Ca tha cho tôi!

Võ Tòng lại hỏi:

– Mầy phải nói thực, hiện giờ Trương Đô Giám ở đâu?

– Hôm nay Trương Đô Giám cùng Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần uống rượu suốt ngày, hiện còn ở lầu Uyên Ương đó.

– Mầy nói có thực không?

– Tôi nói dối thì lên đinh ở mồm.

Võ Tòng nói:

– Ừ, nếu vậy thì ta cũng không thể tha cho mầy được!

Nói đoạn đâm chết thằng bồi ngựa ra đó. Đoạn rồi lau đao bỏ vào bao, đến trước bóng đèn cởi khăn gói lấy hai tấm áo bông của Thi Ân đưa cho, mà thay mặc cẩn thận rồi vớ lấy cái chăn đơn của tên bồi ngựa bọc lấy tiền nong vặt vãnh treo vào một bên cửa. Bấy giờ chàng dựng cánh cửa chéo lên tường thổi tắt ngọn đèn, đi ra cửa cầm lấy thanh đao, rồi nhờ bóng trăng suông mà nhảy qua tường vào phía trong. Khi vào tới trong tường, chàng mở then cửa mạch, đi vào rồi khép luôn hai cánh cửa lại. Đoạn rồi theo ánh đèn sáng mà đi thẳng lên bếp.

Võ Tòng nấp bên cạnh bếp, nghe tiếng hai đứa thị nữ, đương đứng ở trong bếp, phàn nàn với nhau rằng:

“Hầu hạ suốt ngày hôm nay, bây giờ chưa ngủ…lại còn nước nước với nôi nôi… ! Hai anh khách ấy rõ không biết dơ, chén đã say khướt ra, thế mà còn chưa chịu xuống lầu đi ngủ, không hiểu rằng chuyện trò đến bao giờ? “

Hai ả đương oán hận với nhau ở trong bếp, thì Võ Tòng ngoài này dựng thanh đao một chỗ, rồi rút con dao còn vấy máu ở trong túi ra, đẩy cửa mở bếp mà nhảy tót vào, vớ lấy chị ả đứng ngoài đâm cho một nhát. Còn chị kia toan té cẳng chạy, thì gân cốt rủn ra mà không sao chạy được, toan há mồm để kêu thì mồm lưỡi lýu lại, mà không kêu lên, đành cứ tái người sạm mặt đứng im đấy chịu chết. Võ Tòng sấn đến đâm một nhát dao ngã lăn xuống đất rồi tắt đèn trong bếp, quay ra theo bóng trăng mà lên nhà trên.

Nguyên Võ Tòng trước đã ở đó ít lâu, nên đường ngang lối tắt đều thuộc cả, chàng liền theo lối tắt đi thẳng đến lầu Uyên Ương. Khi tới chân thang, chàng ta sẽ rón chân tay, sờ bò lần lên thang gác.

Bấy giờ bọn đầy tớ hầu hạ đã mỏi mệt, không còn anh nào đứng lảng vảng ở gần đấy, chỉ nghe tiếng ba người là Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện và Tưởng Môn Thần vẫn còn nói chuyện với nhau.

Võ Tòng lắng tai nghe thấy Tưởng Môn Thần tán tụng luôn mồm mà rằng:

– Việc này nhờ ở Tướng Công, nên mới bào thù được thế…Chúng tôi sẽ hết lòng bào đáp Tướng Công.

Trương Đô Giám nói rằng:

– Cái đó nếu tôi không nể Trương Đoàn Luyện đây, thì có khi nào làm thế được. Cũng may ông tuy tốn mất ít tiền, song được như thế là tốt lắm!…Bây giờ thằng ấy chết rồi thì phải. Tôi bảo nó đưa đến Phi Vân Phố là hạ thủ, không biết đã xong chưa? Để sáng mai bốn đứa ấy về đây sem sao?

Rồi thấy Trương Đoàn Luyện nói rằng:

– Bốn thằng giết một thằng, thì làm gì chẳng xong?

Lại đến Tưởng Môn Thần nói rằng:

– Chúng tôi cũng dặn mấy tên đồ đệ như vậy, chắc là sáng mai thế nào cũng có tin về báo.

Võ Tòng nghe ngần ấy câu chuyện, thì lửa giận trong lòng dần dật bốc lên cao mấy nghìn trượng, như xung đột tới trời, liền tay phải cầm đao, tay trái xòe năm ngón tay, rồi nhảy sấn vào trong lầu. Khi đó dăm ba ngọn nến thắp linh tinh, một vài chỗ bóng trăng soi chếch mếch. Trong lầu sáng như gương, các đồ cốc chén cốc rượu chè đều chưa thu dọn sạch. Tưởng Môn Thần ngồi ở trên ghế, chợt trông thấy Võ Tòng nhảy vào, thì giật mình hết vía, bao nhiêu đảm lượng can tâm, đều theo lên mây trời mất cả. Chàng ta hất hải vội đứng mau dậy, dè đâu thấy đến vút một cái, thì con dao Võ Tòng đã ném luôn một nhát cả người lẫn ghế đều đổ lăn ra. Võ Tòng chém xong vừa quay người lại, thì thấy Trương Đô Giám đương té cẳng toan chạy, chàng liền chém cho một nhát vào đầu, xẻ hẳn từ tai đến cổ mà ngã vật ra sàn gác. Còn Trương Đoàn Luyện nguyên là một tay quan võ sĩ xuất thân, bây giờ tuy có chếch choáng hơi men, song sức lực cũng còn hăng hái, nhân trông thấy hai người bị đâm chết, một mình khó chạy cho xong, liền vớ lấy một cái ghế múa lên để đánh Võ Tòng.

Võ Tòng hăng máu bắt lấy ghế, đẩy cho một cái thực mạnh, Trương Đoàn Luyện bị ngã lăn chiêng ra đằng sau, rồi Võ Tòng sấn vào mà cắt hẳn lấy đầu. Đằng kia Tưởng Môn Thần tuy bị một nhát thương, song vẫn còn khí lực, liền cố mà lóp ngóp bò dậy, Võ Tòng lại quay lại, phi chân trái đá lăn ngã xuống, rồi chân phải đè lên bụng mà chém đứt lấy đầu. Đoạn rồi quay lại mà cắt lấy đầu Trương Đô Giám.

Bấy giờ trên bàn còn bày rượu thịt ở đó, Võ Tòng liền rót rượu uống luôn mấy cốc, rồi xé lấy một miếng áo của bọn chết kia, mà thấm máu, viết mấy chữ to lên vách vôi: “Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh Hổ”.

Chàng giết xong quay ra chọn cốc chén ở trên bàn lấy một vài thứ quý báu giắt vào mình, còn thì vất bừa ở đó, rồi trở ra toan xuống gác. Vừa khi ấy nghe tiếng Phu nhân ở dưới nói lên rằng:

– Bọn các quan ở trên gác say rượu lắm hẳn? Bây đâu lên gác đỡ các ngài đi nghỉ đi!

Phu nhân nói chưa dứt lời thì đã có hai người ở dưới đi lên thang gác.

Võ Tòng nấp vào đầu thanh gác nom ra, thì chính là hai đứa thân hầu Trương Đô Giám, vừa mới trói mình dạo trước, chàng liền đứng nấp vào xó tối, để nhường cho hai anh đi vào gác, rồi đứng ra mà chặn đường xuống. Hai anh kia vào đến sàn gác, thấy ba cái xác chết nằm sóng sượt ở trên vũng máu, thì kinh sợ hết hồn, cứng lưỡi không thể nào kêu lên thành tiếng, vừa toan tháo chạy ra, thì Võ Tòng đã tiến vào giết phăng một anh, còn anh nữa thì quỳ xuống kêu xin tha mạng. Võ Tòng miệng nói: – Không tha được!

Tay thì nắm chặt lấy thằng kia, rồi cũng cho một nhát dao kết quả nốt.

Đoạn rồi chàng nghĩ thầm: “Đánh rắn phải đánh dập đầu, dẫu cho chết đến trăm đứa, cũng chỉ một chết mà thôi”. Liền lăm lăm vác đao đi xuống gác. Phu nhân ở dưới nhà hỏi lên rằng:

– Trên gác làm gì mà ầm ĩ gớm lên thế?

Vừa hỏi xong, thì Võ Tòng đã đi vào đến trước cửa phòng. Phu nhân thấy người to lớn bước vào trong bụng lấy làm quái lạ, cất mồm vừa hỏi một tiếng.

– Ai?

Thì Võ Tòng đã đưa dao vào chém ngay một nhát; ngã lăn xuống đất, Võ Tòng lấy chân đè lên mà cắt lấy đầu. Dè đâu cưa mãi không thấy đứt. Võ Tòng giơ dao lên hé bóng trăng soi cửa để xem, thì thấy lưỡi dao đã quăn mẻ ra, như người bằm hỏng vậy. Chàng thấy thế, vội vàng quay xuống bếp, vớ lấy thanh đao, rồi lại sồng sộc đi lên trên nhà. Khi đó dưới bóng đèn sáng trông thấy đứa bé đương cầm đèn soi xác của Phu nhân trên mặt đất mà kêu lên rằng:

– Trời ơi! Khổ!

Võ Tòng thấy vậy, vác dao vào chém chết Ngọc Lan, còn hai đứa bé con cũng cho mỗi đứa một nhát. Đoạn rồi chạy ra nhà giữa, trước hết cài kín cửa ngoài, rồi quay vào lùng quanh trong nhà, thấy có ba người đàn bà ở đó, liền chém cho mỗi người một nhát nằm chết đứ đừ ra đất. Lúc đó máu uất ở trong mình, cùng với ngọn máu giết người đã tiêu tan đi hết, Võ Tòng liền nói một mình rằng:

– Bây giờ ta mới được vừa lòng, thôi đi ngay mới được…

Nói đoạn bỏ hết bao dao, cầm một thanh đao lớn đi ra ngoài cửa mạch, đến tầu ngựa vớ lấy khăn gói, bỏ thêm mấy thứ cốc chén vào trong đó, rồi gói bọc cẩn thận, buộc kỹ vào lưng, mà quay ra vườn sau để đi.

Canh khuya gió oán tung trời,

Gươm pha máu đỏ trăng soi dạ vàng.

Trăm năm qua gác Uyên Ương

Thử xem hàng máu trên tường bao phai

Võ Tòng đi tới thành tự nghĩ:

– Nếu dùng dằng đợi khi mở cổng thành mới ra, thì tất là bị bắt bất nhược thừa lúc ban đêm mà chạy lấy thoát cho rảnh. Nghĩ đoạn liền nhảy lên mặt thành đứng nom ra ngoài thấy địa thế cũng không cao là mấy, chàng liền ném thanh đao xuống trước, rồi co cẳng mà nhảy theo xuống sau. Khi nhảy xuống bên cạnh hào thấy bóng trăng soi sáng, hào nước không sâu, chàng lại xắn quần cởi lá đáp, rồi xắn quần xắn áo lội qua hào mà sang bên kia.

Sang đến bờ hào bên kia, chàng sực nhớ đến trong gói có mấy đôi giầy của Thi Ân mang cho, liền cởi gói ra lấy một đôi để đi. Bấy giờ nghe tiếng trống trong thành đã điểm bốn canh ba khắc, chàng lại nói thầm một một mình rằng: “Trời ơi! Cái lòng phẫn uất của ta bây giờ mới được thỏa, nhưng quanh đây không còn chỗ nào khả dĩ lưu luyến được lâu, âu là ta đợi tìm nơi khác mà xa lánh thì hơn.”

Chàng nghĩ vậy, vác dao theo đường nhỏ mà đi sang bên hông. Đi được một quãng xa ước chừng gần hết trống canh năm, trời còn tối mờ mịt chưa sáng. Võ Tòng xông pha hăng hái suốt đêm, đến đó nghe trong mình mệt nhọc, các đầu roi bị đánh, lại phát lên rất là đau đớn. Chợt đâu thấy một tòa nhà cổ miếu ở trong đám rừng cây gần đó, Võ Tòng liền đi rảo bước chạy vào, đựng đao vào một chỗ, rồi cởi khăn gói làm gối, mà nằm vật xuống để ngủ.

Võ Tòng vừa toan nhắm mắt ngủ, thì bỗng có hai người đem dây móc vào móc chặt lấy cổ Võ Tòng rồi hai người nữa chạy xổ ra, mà trói chặt lại. Bốn người bàn với nhau rằng:

– Thằng này to béo lắm, ta đem mau về cho Đại ca mới được.

Nói xong cướp lấy đao và khăn gói Võ Tòng, rồi túm nhau vào kéo như kéo dê, không cho đặt chân xuống đất, mà dong thẳng đi.

Lũ kia vừa đi vừa nói với nhau rằng:

– Thằng cha này trên mình có vệt máu, không biết rằng ở đâu đến đây? Có lẽ nó đi trộm cướp ở đâu hẳn.

Võ Tòng nghe vậy, lặng ngắt không mở mồm nói một câu gì cả.

Đi được độ bốn năm dặm đường, đến một nơi nhà cỏ, liền kéo Võ Tòng mà lôi vào đó. Khi tới nơi, chúng thắp đèn lên, rồi lột xống áo Võ Tòng ra mà trói vào cột. Võ Tòng liếc mắt nom thấy trên sà nhà bên bếp treo toàn thị thịt đùi người, thì nghĩ thầm trong bụng rằng: “Mình đen quá, lại vớ phải thần chết rồi, còn sống thế nào được nữa. Nếu biết rằng cơ hội thế này, thì thà rằng ra thũ ngay ở Tri Phủ Mạnh Châu, để cho nó chém cho một nhát, lại còn để tiếng được với đời.”

Bấy giờ bốn người kia trói xong rồi, cầm lấy khăn gói của Võ Tòng mà gọi lên rằng:

– Đại ca, Đại tẩu dậy mau mau, chúng tôi đã tìm được một món hàng hóa ở đây.

Nói đoạn thì thấy có tiếng ở nhà trước ứng lên rằng:

– Ta đến đây, chúng bây chớ hạ thủ vội.

Được một lát có hai người ở nhà ngoài đi vào, Võ Tòng ngửa cổ lên nom, thấy một người đàn bà đi sau anh chàng to lớn mà sồng sộc bước vào.

Hai người nhìn kỹ Võ Tòng, rồi người đàn bà nói lên rằng:

– Chết nỗi! Có phải là Thúc thúc đó không?

Anh chàng đàn ông cũng kêu lên rằng:

– Thôi phải rồi, chính phải là anh em ta đây rồi. Hai người ấy là ai? Nguyên vợ chồng Thái viên tử Trương Thanh, kết nghĩa anh em với Võ Tòng khi trước.

Bấy giờ hai người thấy vậy, liền cởi trói cho võ Tòng; rồi mời ra nhà ngoài nói chuyện. Võ Tòng đem hết mọi chuyện, từ khi bái biệt vợ chồng Trương Thanh, cho đến khi bị bắt ở đây, kể hét cho hai người nghe.

Khi ấy bốn tên bắt Võ Tòng lúc nãy, nghe chuyện liền quỳ xuống mà nói rằng:

– Chúng tôi là người trong nhà Trương Thanh đại ca đây, nhân vì mấy hôm nay đánh bạc thua luôn phải vào rừng kiếm cách xoay xở, bất đồ thấy ngài ra dáng mệt nhọc vào miếu để nằm, nên chúng tôi mới dám hạ thủ trói bắt. Song cũng may Đại ca tôi dặn, chỉ cho bắt sống, đem về không được hại, nếu không thế, thì có lẽ hại đến tính mệnh ngài. Điều đó thực chúng tôi lầm lỡ xin ngài tha tội cho.

Vợ chồng Trương Thanh cười rằng:

– Chúng tôi cũng vì hơi ngại trong lòng, nên bấy lâu bao nhiêu hàng hóa phải để nguyên sống mang về mà không cho hạ trước, nhưng nào có ai hiểu đâu được tâm sự của mình…Nay nếu anh em ta đây mà không nhọc mệt, thì không nói gì đến bốn các người, dẫu đến bốn mươi kẻ cũng khó lòng mà tới gần được.

Bốn anh kia nghe nói chỉ cúi đầu lạy tạ Võ Tòng không thôi. Võ Tòng bảo chúng đứng dậy mà nói rằng:

– Thôi được, bây giờ các anh không có tiền đánh bạc, để đây ta thưởng cho.

Nói đoạn bắt lấy khăn gói mở ra. Lấy mười lượng bạc vụn cho bốn người chia nhau. Trương Thanh thấy vậy cũng lấy ra ba lạng bạc nữa mà thưởng thêm cho chúng. Chúng được tiền lạy tạ Võ Tòng và Trương Thanh mà đem ra chia nhau.

Trương Thanh bảo với Võ Tòng rằng:

– Nguyên hiền đệ không biết: Từ khi hiền đệ đi rồi, chỉ e hoặc có khi lỡ xẩy việc chi mà lại trở về đây, nên tôi phải phòng bị dặn chúng từ trước hoặc khi chúng gặp mà lỡ ra e cự không nổi, thì chúng tất hành hung, bởi thế lại phải cấm không cho đem dao mác gì đi theo cả. Vừa rồi tôi chợt nghe nói, đã có bụng ngờ, quả nhiên là hiền đệ…

Tôn Nhị Nương nói rằng:

– Mấy hôm trước tôi chỉ nghe tin thúc thúc say rượu đánh được Tưởng Môn Thần, ai ai cũng lấy làm kinh sợ; đến nỗi bao nhiêu đám khách thương ỏ Khoái Hoạt Lâm qua lại đây, không ai là không tán tụng luôn luôn. Ai ngờ về sau lại xẩy ra những việc kinh thiên động địa, thế mà vợ chồng tôi không biết chi cả. Bây giờ thúc thúc đương mệt nhọc xin vào trong phòng nghỉ một lúc rồi sẽ nói chuyện…

Trương Thanh bèn dẫn Võ Tòng vào buồng khách nghỉ, rồi hai vợ chồng sai làm cơm rượu để sắp sửa thết đãi Võ Tòng.

Nói về bọn người nhà Trương Đô Giám ở Mạnh Châu, có kẻ lẩn nấp trốn được mãi đến khi trời sáng mới dám thò ra, hô gọi các quân lính cùng người nhà người cửa túm vào xem xét, rồi bảo nhau sang trình quan phủ. Quan phủ nghe nói cả kinh, hỏa tốc sai người đến kiểm soát số người bị chết, và dò xem lối quân hung phạm ra sao.

Hôm sau chúng về báo Tri Phủ rằng:

– Thoạt tiên quân cướp vào tầu ngựa, trút bỏ hai tấm áo cũ ở đó. Sau vào đến bếp giết chết hai đứa thị nữ và bỏ một con dao hành hung đã quằn mẻ tại bên cửa bếp. Đoạn rồi lên lầu Uyên Ương Trương Đô Giám cùng hai tên người nhà và người khách là Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần rồi lấy máu viết mấy chữ: “Kẻ giết người chính là Võ Tòng đánh hổ” lên tường vôi. Dưới nhà gác lại giết một Phu nhân, một thị nữ tên là Ngọc Lan, hai người con bé và ba người đàn bà, cộng tất cả là giết chết mười lăm mạng, và mất một bộ sáu cái chén uống rượu bằng vàng bạc.

Tri Phủ nghe rõ đầu đuôi liền sai người canh giữ bốn mặt cổng phủ, rồi kiểm soát quân mã cùng các viễn bộ tập, các thầy Trưởng Phố đến khắp các nơi để khám bắt Võ Tòng.

Sáng hôm sau lại thấy Lý Trưởng sở tại Phi Vân Phố đến trình bốn người bị giết chết, hiện còn vệt máu tươi dưới chân cầu, và xác chết ở vũng nước. Tri Phủ tiếp được giấy trình, liền gọi Huyện Uùy lên, nhất diện sai người đến Phi Vân Phố khiêng bốn xác chết lên để khám, hai người là lính phủ còn hai người nữa, đều có người nhà đến nhận xác đem chôn, và làm giấy kêu quan bắt hung thủ đền mạng. Trong thành bắt đóng cửa luôn ba ngày để đến từng nhà khám xét.

Tri Phủ lại sức giấy cho các viên cai quản các thuộc địa hạt trong phủ, phải đến từng xã, từng thôn, từng xóm mà tìm bắt hung thủ. Lại viết tên tuổi và hình dung Võ Tòng xuất tiền ba nghìn quan treo giải thưởng cho người nào bắt được tên phạm. Đoạn rồi thảo công văn Tân Ước sức các nơi, ai biết chỗ Võ Tòng trốn tránh, đem lên trình quan được thưởng; bằng ai chứa chấp nếu bắt được, thì bị tội cùng với phạm nhân.

Cách ba hôm sau, tiếng tăm ầm ĩ khắp nơi, đám thám tử cùng đám tập bộ không đâu là không lai vãng dò xét. Trương Thanh nghe tin ấy, liền báo với Võ Tòng rằng:

– Ngày nay nếu quan quân nhân truy nã riết như vậy, thì hiền đệ ở đây rất là không tiện. Việc này không phải là tôi sợ chi, song nếu lỡ ra quan quân dò xét đến nơi, thì bây giờ làm sao cho được? Vậy nay tôi nghĩ chỉ chốn này, trước đây cũng đã nói qua cho hiền đêï biết rồi nhưng chẳng hay hiền đệ có thuận đi cho không?

– Trong mấy hôm nay, tôi đã nghĩ ở đây không sao mà yên được. Song như tôi có một người anh đã bị chị dâu bất nhân giết chết đi, đến đất này lại bị người ta hãm hại, thân thế gian truân họ hàng không còn có ai, để mà nương tựa! Nay ca ca có lòng tốt mà tìm chốn cho tiểu đệ nương thân, thì còn có điều chi mà không thuận? Ca Ca cứ nói cho tôi biết là ở đâu?

– Chính là chùa Bảo Châu trên núi Nhị Long ở Thanh Châu là nơi ca ca Lỗ Trí Thâm tôi, cùng Dương Chí đương làm bá một phương đó. Nay hiền đệ nếu muốn an thân thì tất phải đến đấy mới xong, còn có đi đâu được hơn nữa? Vả chăng ở đấy đã nhiều phen viết giấy bảo tôi nhập bọn song ý tôi còn lưu luyến chỗ này chưa có thể đi được. Vậy nay tôi xin viết thư nói rõ đầu đuôi, và tiến dẫn hiền đệ lên đó, thì chắc là họ phải vui lòng mà nhận, hiền đệ nghĩ sao?

– Đại ca nói phải lắm! Tôi cũng định bụng đã lâu, song chưa phải thời, nên chưa làm được.

Trương Thanh liền viết một phong thư kỹ lưỡng, đưa cho Võ Tòng rồi bày tiệc để tiễn.Bấy giờ Tôn Nhị Nương chợt bảo với Trương Thanh rằng:

– Làm thế không được! Nếu thúc thúc cứ thế mà đi, ngộ lỡ ra bị người ta bắt được thì sao?

Võ Tòng nói:

– Tẩu tẩu thử nói xem, làm sao mà tôi đi không được? Làm sao mà họ bắt được tôi?

Tôn Nhị Nương nói:

– Hiện nay quan tư sức giấy đi các nơi, vẽ hình vẽ ảnh, thưởng ba nghìn quan tiền để bắt; Vả chăng trên trán thúc thúc có kim ấn rõ ràng, còn ai không biết?

Như thế mà đi đường thì giấu thế nào nổi được người ta? Trương Thanh nói:

– Kim ấn trên mặt thì dán miếng thuốc cao che đi cũng được chứ sao?

Tôn Nhị Nương cười rằng:

– Thiên hạ chỉ có một mình khôn, con người ta dễ thường ngu ngốc cả. Bọn công nhân bây giờ phỏng làm như thế mà bịt mắt họ được chăng? Tôi có một cách này chỉ sợ thúc thúc không chịu nghe thôi.

Võ Tòng nói:

– Tôi đã là thằng tù lánh nạn, thì còn việc gì mà không theo được nữa?

Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:

– Tôi nói ra đây, thúc thúc đừng giận nhé.

– Xin tẩu tẩu cứ nói, thế nào tôi cũng vâng.

– Hai năm trước có một người đi qua đây, bị tôi giết chết, câu chuyện ấy thúc thúc đã nghe rồi. Hiện nay còn một cái mũ nhà sư bằng sắt, một cái áo xống tràng đen, một cái thắt lưng thưa sắc tạp, một bản hộ điệp, một chuỗi tràng hạt, bằng một trăm linh tám cái trối xương người, một đôi giầy bằng da cá nhà táng, và hai khẩu giới đao bằng xác hoa. Hai khẩu đao ấy đêm đêm thỉnh thoảng lại kêu, ngày trước thúc thúc đã xem rồi thì phải. Ngày nay đã định trốn nạn, thì trừ phi cắt tóc giả làm một người hành giả đội mũ che kim ấn đi, rồi cầm lấy tờ hộ điệp ấy để hộ thân, thì mới có thể được. Thúc thúc mặt mũi cũng giống, tuổi tác cũng vừa, thực là nhân duyên tiền kiếp, cứ nhận ngay tên họ người ấy mà đi, không còn ai hỏi đến nữa. Thế có được không?

Trương Thanh vỗ tay khen rằng:

– Được lắm, thế mà không nghĩ tới, thúc thúc định sao?

Võ Tòng nói:

– Cái đó thì tôi bằng lòng rồi, song chỉ sợ không giống được mà thôi.

Trương Thanh nói:

– Để tôi thử mặc vào cho thúc thúc xem sao.

Tôn Nhị Nương liền vào buồng đem các thứ mũ áo ra cho Võ Tòng mặc.

Võ Tòng liền mặc áo thắt lưng, bỏ xõa tóc xuống rồi đội mũ đen đeo tràng hạt không khác gì một nhà sư vậy.

Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương cả cười mà rằng:

– Thực là kiếp trước đã định, cho nên mới được như thế.

Võ Tòng liền cầm gương soi mặt cũng phải phì cười, mà không nhận được.

Trương Thanh hỏi:

– Thúc thúc cười chi như thế?

Võ Tòng nói:

– Tôi trông tôi, tôi cũng bật cười… không biết làm sao, tự nhiên lại hóa ra một nhà sư. Bây giờ đại ca đem cắt tóc cho tôi vậy.

Trương Thanh liền lấy kéo ra cắt tóc cho Võ Tòng rồi sắp sửa đồ đạc cho Võ Tòng đi. Trương Thanh lại bảo Võ Tòng để các đồ chén bạc của Trương Đô Giám lại đây, rồi bọc thêm một ít tiền nữa vào cho Võ Tòng và sai thợ khâu một cái túi gấm, đựng tờ hộ điệp để cho Võ Tòng buộc sát vào trước bụng. Chiều hôm ấy Võ Tòng cơm rượu xong rồi, thu thập các đồ hành lý, giắt hai khẩu giới đao, vào lưng, rồi từ tạ vợ chồng Trương Thanh mà đi lánh nạn.

Trương Thanh cầm tay than vãn dặn rằng:

– Hiền đệ đi đường phải nên cần để tâm cẩn thận., rượu không nên uống lắm, không nên tranh khí với ai, phàm các công việc chớ có làm liều làm bạo, thế mới giữ được thái độ kẻ tu hành, mà khỏi bị người ta dò biết. Khi nào đến Nhị Long Sơn, thì viết thư về ngay cho tôi biết, vợ chồng tôi ở đây cũng không phải là kế cửu, có lẽ nay mai sẽ xếp dọn mà theo lên đó cũng nên. Hiền đệ cần phải bảo trọng lấy thân và nói với Lỗ, Dương, hai Đầu lĩnh rằng vợ chồng tôi xin gửi lời bái chúc.

Võ Tòng vâng lời rồi từ tạ ra đi. Hai vợ chồng đứng trông theo một lúc, rồi vỗ tay mà khen rằng:

– Quả nhiên rõ là một ông hành giả, không còn ai dám ngờ nữa?

Bấy giờ đương dạo thàng mười, ngày ngắn không đầy gang tấc, Võ Tòng giã từ Thập Tự Phi đi vội vàng được một lúc thì trời đã sắp tối, được vào khoảng năm mươi dặm đường, chợt trông thấy một tòa núi cao đứng sừng sững ở trước mặt. Võ Hành Giả liền mau bước mà đi lên núi. Khi lên tới gần đỉnh núi, chàng đứng dừng lại, quay trông sang phía bên đông, đã thấy vừng trăng mới mọc sáng rọi cây cỏ trên non, rất là thích mắt.

Đương khi trông ngắm ngẩn ngơ thì chợt thấy có tiếng người cười ở khu rừng trước mặt. Võ Hành Giả liền nói một mình rằng: “Quái lạ ở đây núi non tịch mịch thế này, còn làm chi mà có tiếng người cười nói? ” Chàng nghĩ đoạn rảo bước đi sang bên rừng để xem. Chợt thấy trong rừng thông bên cạnh núi có một tòa am, ướt có mười mấy gian nhà lá, nhà mở hai cánh cửa sổ có một tiên sinh cùng mấy người con gái cùng ngồi, đương đùa rỡn xem trăng ở đó. Võ Hành Giả thấy vậy, thì ngạc nhiên nghĩ thầm rằng: ” Anh này trông ra mặt tu hành xuất gia, mà sao dám làm những việc thế kia!”

Chàng vừa nghĩ vừa rút hai khẩu giới đao sáng nhoáng, giơ ra bóng trăng để xem, rồi lại nói một mình rằng: “Mấy khẩu đao này tốt thực, vào tay ta, ta chưa thử một lần nào… ? Âu là ta đem tiên sinh khốn nạn này mà thí nghiệm một cái xem sao?

Chàng nói vậy, liền để một khẩu ở ngoài, còn một khẩu lại đút vào trong bao, xắn hai tay áo lên đến vai, rồi lượn ra lối trước am mà gõ cửa…Tiên sinh ngồi trong nghe tiếng gõ cửa liền khép hai cánh cửa sổ đằng sau lại. Võ Hành Giả lại tìm một tảng đá mà gõ ầm lên. Chợt có tiếng ken két, cánh cửa bên cạnh mở tung ra, rồi có một tên đạo đồng chạy ra quát rằng:

– Anh là người nào? Nửa đêm gà gáy dám đến đây gõ cửa làm ấm ĩ đến thế?

Võ Hành Giả trợn ngược hai con mắt ghê gớm, rồi quát lên rằng:

– Hãy đem thằng đạo đồng này mà tế đao đã.

Nói xong giơ đao lên đánh beng một cái, tên đạo đồng mất hẳn đầu ra một bên, mà ngã vật ngay xuống đất. Bấy giờ tiên sinh kia ngồi trong am mà kêu to lên rằng:

– Đứa nào dám giết thằng đạo đồng của ta?

Nói xong nhảy tót xuống múa hai thanh bảo kiếm xông ra để đánh Võ Tòng.

Võ Hành Giả cười mà rằng:

– À! Thằng này lại gãi chính vào chỗ ngứa…Được đến đây để ta thử đao.

Nói đoạn rút khẩu giới đao nữa ở trong bao ra rồi hai tay múa hai khẩu đao đón đánh tiên sinh kia. Đôi bên đấu nhau ở dưới bóng trăng thanh, kẻ đi người lại, kẻ đỡ người đâm, lên xuống quanh quẩn như bốn đạo hào quang, kết thành một đoàn lãnh khí vậy.

Hai bên cự địch đương hăng, thì bỗng dưng có tiếng đao vang động, rồi có một người ngã lăn ra đất.

Mới hay:

Mấy hàng mưa tuyết đầu người rụng,

Tiếng bóng trăng hàn tiếng kiếm reo,

Làm trai thứ nhất ba điều,

Một là thân thế riêng chiều tự do.

Hai là giết sạch quân thù,

Moi gan tàn ác đền bù núi sông.

Ba là ngang dọc vẫy vùng.

Làm cho tỏ mặt anh hùng ngàn thu.

Ví chăng sống chẳng ra trò,

Thì tu mi với liễu bồ khác chi?

Lời bàn của Thánh Thán:

Đọc hết một hồi máu chảy lầu Uyên Ương, mà than cho người thiên hạ mài dao giết người, sao thấy lạ thay! Thầy Mạnh nói: Giết cha người ta ắt người ta phải giết lại cha mình; Giết anh người ta, ắt là người ta phải giết lại anh mình, trong lúc ta mài dao, với kẻ kia mài dao, nào khác gì đâu! Thế thì chẳng phải tự sát, chẳng qua gián tiếp, đổi tay dao mã để giết cha anh…Hỡi ôi! Há chỉ thế đâu, đổi tay dao mà giết, còn lấy dao ta để giết người, để cho dao người giết lại ta, cũng đều là tự sát, như thế ta chỉ thấy dao giết người của ta, mà không thấy dao giết ta của người, đến khi họa cơ đưa lại, mới giật nảy mình, như lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, và Tưởng Môn Thần ngộ hại, còn đau mà chẳng đau lòng!!! Đương khi trao ý kiến cho công sai, mà còn khiến thêm hai đồ đệ đi theo giúp sức, há chẳng từng ân cần hỏi đến: Ngươi có mang dao không? Hai người trả lời có dao! Thì lại hỏi đến: Dao có sắc không? Hai người nói: Tốt! Thì lại hỏi đến: Dao đã mài chưa? Hai người nói: Mới mài! Thì lại hỏi đến: Dao ấy có giết nổi một Võ Tòng không? Hai người lại nói: Đến mươi lăm thằng như Võ Tòng cũng giết nổi; há một Võ Tòng?

Đương khi ấy há chẳng khoe dao tốt mà đi, cầm mà múa bay mà tới để chém cho đứt, thế rồi, đầu Võ Tòng phải rơi, máu Võ Tòng phải đổ, oan Võ Tòng phải báo, mệnh Võ Tòng phải hết…Bấy giờ thử mà xem, chém mà xách, đem về cho mọi người thấy, để ngợi khen uống rượu vui mừng?

Lũ ba người Trương Đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần, coi ở trong thiên hạ to lớn kia, với quần chúng muôn nhà, không còn ai được vui sướng cho bằng cuộc yến ẩm trên lầu Uyên Ương giết được kẻ thù! Có ngờ ngoài bến Phi Vân tay sai bị giết, trong Tàu ngựa tắt đèn? ? ? Hỡi ơi! Dao sắc đã mang đi cửa trước, nào ngờ dao sắc khác đưa đến cửa sau, lại theo họ Võ bấy giờ nghĩ lại lúc mài dao, chỉ sợ rằng đầu thử trước! Nào ngờ đêm ấy mười chín mạng người, đã đem đầu thử trước! Hởi ơi! Há nói chơi đâu! Xét ra thì lúc mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày chưa giết một ai, chẳng thà đừng mua dao nữa mà lại càng không nên đeo, dù là sẵn có, tự khi mua dao, để lại đeo dao, đeo dao lâu ngày, đêm nay giết thử một ngày, muốn giết chưa xong, lại lật lại tự mình chịu giết, mà bị đến mười chín mạng người, thế mua dao để tự sát mới mua dao; Đeo dao cũng để tự sát mới đeo dao, chả còn lạ nữa! Hới ôi! Tai vạ nấp sẵn, bí ẩn khôn hay, đến lúc đưa lại, nhanh không thể trốn, từ xưa tới nay, thường thường như thế cả, sao người đời còn say chưa tỉnh, không đọc đến đoạn văn này của Thủy Hử chăng? ? ?

Đoạn văn này rất khéo, chẳng tả Võ Tòng lòng thô tay bạo gặp người là muốn giết ngay, hãy nên coi tác giả tả từng chi tiết trong ngòi bút tả, nào ngòi bút nhọn, nào phép bút nghiệm, nào sức bút cứng, nào đường bút tới nơi…Như câu tả người bồi ngựa nghe quen tiếng, nhận biết Võ Tòng và câu Liễu hoàn mắng thầm khách nọ chưa dọn tiệc xong…Phi nhân chợt tự hỏi “Ai”. Đó là nhàn bút, mới tả ra hết đủ đầy; Khi giết bồi ngựa, thổi tắt đèn đi, mở cửa mạch lách vào, kéo cánh cửa lại, giết chết Liễu Hoàn, tắt đèn trong bếp, chạy ra trước cửa…Tả những câu đến thế, do ngòi bút sắc; Mới đầu tả người canh bốn điểm, sau rồi tả bốn canh ba điểm, trước giơ bọc lấy áo của Thi Ân và tiền sau lại lấy ra dùng giày gai, đó là bút pháp được nghiêm; Lẻn vào cửa sau. Giết kẻ bồi ngựa, rồi đánh nhoàng ra cửa sau, giở đến bọc dao, mở cánh cửa mạch, mấy lần lãnh ra lãnh vào khép cánh, sấn vào trên lầu, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người đi lên, giết chết ba tên, rồi lại xuống thang lầu, nhường cho hai người kia đi lên, rồi trở lên lầu giết nốt, rồi trở xuống lầu giết nốt Phu Nhân, trở lại dưới bếp lau dao, chạy tới trung đường, đi ra khỏi cửa, bao nhiêu lần chuyển thân hành động, đó là sức bút cáp lớn lao, một mạch tả gồm mười một chỗ tả đèn bốn chỗ tả trăng, đó là lối bút chia ra cách biệt.

Trên lầu Uyên Ương, ta xét biết ra, với nghĩa rằng, việc đắc ý và thất ý khéo đi đôi không rời khỏi nhau, như đôi chim sống mái liền nhau vậy.

Một đoạn văn Võ Tòng qua núi Ngô Công, ý tứ đối ngầm với việc Lỗ Đạt qua chùa Ngõa Quan, hai đoạn văn cũng vừa mới được giới đao, chém bọn giả tu hành, giới đao ấy vốn con dao cảnh cáo.

Hồi 31: Võ Hành Giả say rượu bị bắt – Tống Công Minh gặp nạn được tha

Nguyên khi Võ Hành Giả đấu với tiên sinh kia được mười lăm hợp, bèn lừa miếng phá đỉnh nhường cho tiên sinh sấn vào, rồi Hành Giả quay ngoắt lại đằng sau mà chém cho một nhát chết lăn xuống đó. Đoạn rồi Võ Tòng kêu lên rằng:

– Người đàn bà nào ở trong nhà ra đây cho ta hỏi. Ta không thèm giết làm chi.

Bấy giờ người đàn bà ở trong am nghe nói, liền chạy ra mà lạy rạp xuống đất.

Võ Tòng trỏ người đàn bà mà bảo rằng:

– Không cần phải thế ngươi hãy nói cho ta biết rằng: Đây là chỗ nào, mà tiên sinh ấy là người nào?

Người đàn bà khóc mà đáp rằng:

– Chúng tôi là con gái Thái Công ở dưới núi đây, cái am này là am mộ của tổ tiên tôi khi trước, còn tiên sinh kia thì không biết là người ở đâu. Duy trước đây một hôm tiên sinh ấy đến nhà tôi ngủ trọ, rồi nói với cha tôi là giỏi nghề bói toán địa lý nhân thế cha tôi lưu lại trong trang để nhờ xem giùm am mộ ở đây. Sau anh ta dỗ dành cha tôi ở luôn trong trang mấy ngày, rồi đến khi trông thấy tôi thì ở rịt đó mà không đi nữa. Khi ở được ba tháng thì giết luôn cả cha mẹ anh chị tôi rồi hiếp bách đem tôi lên đây để ở. Còn đứa đạp đồng lúc nãy cũng là anh ta bắt cướp ở đâu đem đến đây. Núi đây gọi là ngọn núi Ngô Công, anh ta thấy địa thế đẹp đẽ nên muốn chiếm giữ ở đây mà tự đặt tên là Phi Thiên Ngô Công Vương Đạo Nhân.

Võ Hành Giả hỏi:

– Ngươi còn có họ hàng gì nữa hay không?

– Chúng tôi cũng còn có mấy nhà thân thích, song toàn là đám cầy cuốc nhà quê ai dám cự nhau với nó?

– Tên ấy nó có tiền của gì không?

– Nó có thì người thu thập lấy để ta đốt bỏ am này cho rảnh.

– Sư phụ có xơi rượu thịt gì không? Có thì xin mời sư phụ vào trong am.

– Vào đó, lỡ có đứa nào ám toán ta chăng?

Người đàn bà ra dáng thực thà mà nói rằng:

– Tôi có được mấy cái đầu mà dám đánh lừa sư phụ? Xin ngài cứ vào.

Võ Tòng theo người đàn bà đi vào trong am, thấy bên cạnh cửa sổ có một cái bàn bày rượu thịt ở đó, chàng bèn vớ lấy chén lớn, rót rượu ra mà ăn uống một hồi, đến khi người đàn bà thu nhặt tiền nong xong thì cho một mồi lửa mà đốt cả am.

Bấy giờ người đàn bà đem bọc kim ngân ra dâng Võ Hành Giả. Võ Hành Giả từ chối mà rằng:

– Ta không cần tiền nong làm gì, cho ngươi đem về làm sinh nhai, đi mau đi.

Người đàn bà bái tạ rồi đi xuống núi.

Võ Hành Giả đem hai cái xác vứt vào đống lửa, rồi cất dao vào bao, mà trời đêm rảo bước, trông chừng thẳng trỏ Thanh Châu. Đường đi được mười mấy hôm trời, qua các nơi phố sá thôn, điếm, không đâu là không thấy giấy quan trên niêm yết để truy nã Võ Tòng, song may chàng đã đổi tục ra thiền, cho nên giong ruổi bầy lâu mà không ai hỏi đến. Thấm thoắt bước sang mùa đông, tiết trời đã ra chiều lãnh lẽo, Võ Hành Giả đi trên đường thỉnh thoảng lại mua rượu thịt để ăn uống, song cũng không sao mà địch nổi với ngọn sóc phong. Một hôm chàng đi đến một cái đồi con, chợt trông thấy trước mặt có tòa núi chon con đẹp đẽ, chàng liền xăm xăm tìm lối đi xem. Khi xuống dưới gò, đi được dăm ba dặm được, chợt trông thấy có một tửu điếm, đằng trước có giải khe trong, mà đằng sau toàn là núi đá.

Võ Hành Giả đứng dừng lại, nhìn vào tửu điếm thấy cảnh vật sơ sài, ra dáng một hàng rượu ở nơi thôn dã, chàng liền xăm xăm chạy vào ngồi ở trong hàng, rồi gọi nhà hàng mà bảo rằng:

– Chủ hàng lấy hai nai rượu, có cá thịt gì mang ra đây.

Chủ nhân nghe nói chạy ra trả lời rằng:

– Chẳng dấu gì sư phụ, rượu thì đây có thứ rượu Hoàng, còn cá thịt thì hết cả rồi.

Võ Hành Giả nói:

– Hãy mang rượu đây, uống cho đỡ rét đã.

Chủ nhân vâng lời dọn ra một đĩa rau chín, và đem ra hai nai rượu ra hai chun lớn để Võ Tòng uống. Võ Hành Giả uống một lúc hết cả hai rồi gọi lấy hai nai nữa mà uống luôn.

Nguyên khi đi đường, Võ Hành Giả cũng đã chếch choáng hơi men, đến đây lại uống nai rượu nữa, lại bị gió bấc đìu hiu, thổi nâng hơi rượu, bốc lên làm cho chàng không mấy chốc mà khí lực hung hăng khó chịu, liền quát to tiếng mà hỏi nhà hàng rằng:

– Nhà này không còn gì thực hay sao? Cá thịt của các ngươi vẫn ăn xoàng đâu, đem đây bán lại cho ta cũng được.

Chủ hàng nghe nói cười thầm trong bụng: “Sư nào lại có như thế. Chỉ đòi uống rượu với ăn thịt…làm gì có được bây giờ… !” Liền trả lời rằng:

– Không thể nào có được bây giờ.

Võ Tòng gắt lên rằng:

– Ta có ăn quịt của nhà ngươi đâu? Sao lại không bán cho ta.

Chủ hàng đáp:

– Tôi đã nói với sư phụ lúc nãy, chỉ có rượu thôi, còn có gì nữa mà bán.

Đương khi ấy, thì có một Đại hán dẫn ba bốn người đi vào trong điếm. Chủ hàng trông thấy liền vui cười đón vào mà rằng:

– Xin mời Nhị Lang ngồi.

Đại hán kia hỏi chủ hàng rằng:

– Việc gì tôi bảo đã sửa soạn xong chưa.

Chủ nhân đáp:

– Gà với thịt đã chín cả rồi, chỉ còn đợi Nhị Lang đây thôi. – Cái bình rượu Thanh Hoa của tôi đâu?

– Thưa ở trong kia.

Đại hán nghe đến đó, liền đi vào một chỗ bàn ghế ở trước mặt Võ Hành Giả mà ngồi lên cánh trên còn bốn người nữa ngồi vào cánh dưới. Bấy giờ chủ hàng đem lọ rượu Thanh Hoa đến mở nút ra rồi rót vào một bát chậu lớn để giữa bàn. Võ Hành Giả liếc nom thấy biết ngay là một thứ rượu tốt, lại thấy hơi rượu thơm ngon, đánh thoảng vào mũi, thì trong lòng rất lấy làm khao khát, muốn sao mà cướp lấy để uống thì mới được thỏa lòng. Một lát chủ nhân lại đem một đĩa thịt gà chín, và một đĩa thịt lợn cùng các thứ rau dưa đũa chén bày lên trên bàn ở trước mặt Đại hán. Võ Hành Giả thấy vậy, lại nom đến bàn rượu của mình, chỉ độc có đĩa rau khốn nạn, thì trong lòng tức tối khó chịu, muốn đập vỡ cả bàn đi, liền gọi chủ nhà hàng mà quát lên rằng:

– Nhà hàng sao khinh người thế?

Chủ hàng nghe nói vội quay lại nói rằng:

– Sư phụ tha lỗi cho, người muốn lấy rượu nữa, thì tôi đem thêm.

Võ Hành Giả trợn mắt lên mà mắng:

– Anh này bán hàng lạ thực? Rượu Thanh Hoa với thịt gà, sao anh không bán cho ta? Ta đây cũng mua mất tiền chứ sao?

Chủ hàng đáp rằng:

– Rượu với thịt đó, là của nhà Nhị Lang đem đến, chỉ ngồi nhờ nhà tôi ăn uống đó thôi.

Võ Hành Giả sốt tiết bất phân trái mà quát lên mắng rằng:

– Đồ láo… xấc.

Chủ hàng thấy vậy, thì nói rằng:

– Tôi chưa thấy một người xuất gia nào mạn phép như thế bao giờ?

Võ Hành Giả lại quát lên rằng:

– Thế nào là lão gia mạn phép? Lão gia có ăn không hay sao?

Chủ hàng cười nhạt mà rằng:

– Tôi chưa thấy người xuất gia nào tự xưng là lão gia bao giờ?

Võ Hành Giả đứng phắt dậy, tát cho chủ hàng một cái làm lộn nhào ra một xó. Chàng đại hán kia đương ngồi uống rượu, thấy vậy thì nổi lòng tức giận nhìn đến anh chủ hàng thì đã sưng hẳn một bên mặt mà chúi vào một xó. Không sao dậy được, chàng liền đứng dậy trỏ vào mặt Võ Tòng mà bảo rằng:

– Lão sư qủy kia, việc gì mà dám đến đây đánh nhau, tu hành đâu có thế?

Võ Tòng nói:

– Ta đánh nó, có việc gì đến anh?

Đại hán cả giận mà rằng:

– À! Lão sư này gớm thực? Ta bảo tử tế, thế mà ngươi dám xấc với ta…

Võ Hành Giả sốt tiết lên, đẩy cái bàn chạy ra mà quát lên rằng:

– Thằng này mầy nói ai?

Đại hán kia cười mà rằng:

– Lão sư này muốn đánh nhau với ta chắc… ? Được lắm! Ra đây.

Võ Hành Giả cũng cười mà rằng:

– Mầy bảo ta sợ mầy, không dám đánh mầy hay sao?

Nói rồi vừa sấn bước ra đi. Đại hán kia nhảy thót ra ngoài cửa Võ Hành Giả lại chạy ra đuổi theo. Đại hán thấy Võ Tòng to lớn, liền đứng vững lấy thế để đợi, Võ Hành Giả xông vào, đại hán kia cố sức cự lại, không thể nào địch nổi với thần lực ngàn cân, bị Võ Tòng gạt ngang bụng một cái ngã lăn ngay ra, như đứa trẻ con vậy. Ba bốn anh nhà quê kia trông thấy, kinh sợ rụng rời, không một anh nào dám bén mảng đến gần.

Võ Hành Giả đạp lên đại hán, giơ quyền đánh cho mấy chục cái, rồi cúi xuống xách lên ném lẳng ra ngoài khe nước trước cửa.

Ba bốn anh nhà quê kia kêu khổ ầm ĩ, rồi vội đổ nhau ra, nhảy xuống khe cứu đại hán kia lên, mà kéo nhau chạy về phía Nam.Bấy giờ anh chủ hàng rượu cựa quậy được, thì đã rụng rời chân tay, liền chạy vào mà nấp ở sau nhà, mà không dám thò ra nữa.

Võ Hành Giả đi vào hàng rượu nói một mình rằng:

– Được lắm! Chúng bây đi cả, lão gia đánh chén chơi.

Nói đoạn vớ chén múc rượu ở bát chậu ra để uống. Mấy đĩa thịt gà trên bàn, chưa anh nào dùng đến, Võ Tòng không cần dùng đũa, liền giơ tay xé luôn để ăn. Được một lúc hết cả rượu thịt trên bàn, trong bụng đã no say dễ chịu, liền xắn hai tay áo lên tận vai, rồi ra cửa theo rẻo bờ khe mà chạy. Khi đó gió thổi réo lên như cuốn, Võ Tòng chân đi không vững, song cũng hết sức để đi cho chóng. Vừa đi khỏi tửu điếm ước chừng bốn dặm đường, đến một nơi bên cạnh tường đất, bỗng có con chó vàng đâm xổ ra trông vào Võ Tòng mà cắn.

Võ Hành Giả đương khi say rượu, trong bụng hung hăng, những toan tính sinh sự, chợt thấy con chó cứ đuổi theo cắn riết, thì càng lấy làm khó chịu, liền rút phăng một khẩu giới đao ra, vội rảo bước đi thực nhanh.

Con chó chạy theo sủa mãi, Võ Hành Giả tức mình giơ đao chém cho một nhát rất mạnh, chàng chém một nhát không trúng vào đâu, song vì dùng sức quá mạnh đến nỗi bị chúi đầu đâm nhào ngay xuống khe mà không sao cựa dậy được. Con chó thấy vậy, lại quay ra bờ khe mà gõng gãnh sủa mãi.

Bấy giờ đương dạo mùa đông, khe nước nông chờ, chừng hai ba thước, song khí trời lạnh như cắt ruột gan, Võ Hành Giả cố dậy được, thì áo quần mình mẩy đã lướt thướt như là chuột lội. Chàng quay nom xuống nước thì thấy thanh đao rơi ở đáy khe, vẫn lóng lánh soi lên mặt nước, bèn vội vàng lại lội xuống để nhặt lấy dao, dè đâu khi lội xuống nước, thì lại ngã lăn ra, dẫy sùng sục như cá quẫy trong chum, mà không sao lại dậy được nữa. Đương khi nguy cấp, thì có một bọn ước chừng mười mấy người, đều cầm gậy ở tay, đi theo đại hán, đầu đội nón chiên, mình mặc áo vàng, tay cầm gậy đỏan, mà cùng đi đến đó. Khi chúng nghe tiếng chó cắn, liền đứng dừng lại, nom xuống khe nước trỏ bảo nhau rằng:

– Lão sư ăn cướp lúc nãy, đánh tiểu Ca Ca đây, bấy giờ tiểu ca ca đi tìm đại ca không thấy…Hiện đương dẫn hai ba mươi trang khách đến tửu điếm để truy bắt, ai ngờ hắn đã nằm ở đây rồi?

Vừa nói dứt lời, thì thấy anh chàng bị đánh lúc nãy đã thay bộ quần áo khác, tay cầm thanh đao cùng với một bọn hai ba mươi người trang khách vác gậy vác côn, thổi khẩu hiệu mà kéo nhau đi đến.

Khi tới nơi thấy vậy, thì trỏ Võ Tòng mà bảo anh chàng mặc áo vàng rằng:

– Chính thằng sư ăn cắp này đánh tôi lúc nãy đó.

Anh chàng mặc áo vàng liền quát lên rằng:

– Chúng đâu! Trói nó lại kéo cổ về trang, đánh cho nhừ tử một mẻ. Chúng nghe nói đều xô xuống trói Võ Tòng lại mà khiêng lên bờ.Võ Tòng vừa phần say rượu, vừa phần bị ngã rét, cóng cả tay chân, không thể nào cựa được, đành phải chịu chết cho bọn kia giằn vật. Bọn kia kéo Võ Tòng lên, rồi lôi về một nơi trang viện rất lớn, hai bên toàn thị tường cao trắng xóa, liễu rủ xanh rì, vườn bọc chung quanh, mấy lớp cửa nhà ở giữa, chúng đem Võ Tòng vào, lột bỏ quần áo, cướp lấy các đồ giới đao hành lý, trói vào gốc cây liễu lớn, rồi thét người đem roi ra đánh. Vừa khi đánh được dăm ba roi, bỗng thấy một người ở trong nhà chạy ra, liền hỏi rằng:

– Các anh đánh ai làm vậy?

Anh mặc áo vàng, thấy người kia hỏi, bèn chấp tay lại mà đáp rằng:

– Dám bẩm sư phụ: Hôm nay anh em tôi cùng ba bốn người bạn quanh xóm đây, đi uống rượu ở tửu điếm ngoài kia, bỗng dưng bị lão sư ăn cướp này sinh sự huyên náo. Đánh em tôi một mẻ rất đâu, rồi ném em tôi xuống khe nước, sứt mẻ cả đầu óc ra. Sau may có anh em cứu về, mới thay quần áo rồi ra tìm hắn, thì thấy hắn đã chén hết cả rượu thịt của chúng tôi, mà say khướt nằm vật ở dưới khe nước. Nhân thế nên chúng tôi bắt nó đem nó đem về đây, đánh cho nó một trận…

Chúng tôi xem ra thằng này cũng không phải là người xuất gia, vì trên mặt có kim ấn bỏ xõa tóc xuống để che đi, tất nhiên một thằng bị tù tội gì, trốn tránh đến đây? Để chúng tôi hỏi rõ căn do, rồi đem nộp quan mới được.

Anh chàng bị đòn lúc trước, có ý tức giận mà rằng:

– Ta hỏi nó làm gì? Thằng ăn mầy ấy lúc nãy đánh tôi đau nhừ tử cả người, có lẽ đến mấy tháng nữa cũng không khỏi được; Vậy bất nhược cứ đem nó mà đánh cho chết, rồi đốt phắt nó đi, thì mới hả lòng tôi được.

Nói đoạn, vớ lấy roi toan quất đánh luôn.

Người kia chạy tới gần can ra mà bảo rằng:

– Hiền đệ hãy khoan tay, để tôi xem đã, anh chàng này ra dáng một tay hảo hán lắm.

Bấy giờ Võ Tòng đã hơi tỉnh táo trong người, nghe thấy họ nói vậy, thì cứ nhắm nghiền mắt lại, mà mặc thây cho nó đánh mắng, không nói năng một câu gì cả. Người kia chạy lại gần Võ Tòng nom kỹ các vết thương trên lưng rồi nói lên rằng:

– Quái lạ? Những vết thương còn rành rành thế này, có lẽ là một anh mới bị xử đoán chi đây?

Nói xong quay lại vuốt tóc ở mặt Võ Tòng lên, nhìn kỹ một lượt, rồi kêu lên rằng:

– Có lẽ Võ Nhị Lang, anh em ta chắc?

Hai anh chàng kia nghe nói thì cả kinh mà rằng:

– Sao, vị Hành Giả này lại là anh em với sư phụ hay sao?

Người kia đáp:

– Anh ta chính là Võ Tòng đánh hổ ở núi Cảnh Dương, mà tôi thường nói chuyện với anh em đấy. Không biết vì cớ sao, lại ăn mặc lối hành giả, mà lạc đến đây như thế?

Hai anh nọ nghe vậy, liền cởi trói cho Võ Tòng, lấy quần áo khô ráo đưa cho mặc, rồi mời ngay vào trong thảo đường.

Khi vào tới thảo đường, Võ Tòng vừa toan lạy tạ, thì người kia ra dáng nửa mừng nửa sợ mà bảo Võ Tòng rằng:

– Hiền đệ chưa tỉnh rượu, hay xin ngồi nghỉ một lát đã.

Nói đoạn liền bảo người đem nước nóng lên cho Võ Tòng lau rửa, và đem các thức bánh ngọt ra để cho Võ Tòng giã rượu. Võ Tòng được người kia hết dạ chu chuân, thì trong lòng thấy làm vui mừng khôn xiết, tỉnh hẳn cơn say, mà chấp tay lạy tạ.

Người kia là ai?

Chính là người họ Tống tên Giang, biểu tự là Công Minh vậy.

Bấy giờ Võ Hành Giả nói với Tống Công Minh rằng:

– Vẫn tưởng ca ca ở nhà Sài Đại quan nhân, sao lại đến đây như vậy? Chẳng hay anh em gặp nhau trong giấc chiêm bao đó sao?

Tống Giang đáp rằng:

– Từ khi cùng hiền đệ chia tay ở nhà Sài Đại quan nhân, rồi tôi ở lại đấy được hơn nửa năm nữa.Sau nhân sốt ruột vì nỗi phụ thân ở nhà, nên phải cho Tống Thanh về trước, để thăm viếng cửa nhà. Kế đó tiếp được thư nhà đưa đến, nói công việc ở nhà đã có Lôi Hoàng, Chu Đồng giúp đỡ, đều được yên ổn tất cả, duy còn có giấy truy nã bản thân, thì đã tư giấy đi các nơi để bắt, song cũng không lấy gì làm khẩm bách cho lắm. Lại nhân có Khổng Thái Công mấy phen cho người đên hỏi, sau thấy Tống Thanh về đó, mới biết là tôi đương ở nhà Sài Đại quan nhân, bởi vậy Khổng Thái Công cho người về tận đó, mà đón tôi về đây. Đây là Bạch Hổ Sơn; trang viện này gọi là Khổng Thái Công trang. Người đánh nhau với hiền đệ vừa rồi là con thứ hai của Khổng Thái Công, vì tính nóng nảy, hay sinh sự đánh nhau, nên thường gọi là Hỏa Đột Tinh Khổng Lượng: Còn người mặc áo vàng đây là con cả Khổng Thái Công, tên là Mao Đầu Tinh Khổng Minh, hai anh em đều học tập võ nghệ, tôi thường chỉ dẫn giúp cho, nên vẫn gọi tôi là sư phụ. Tôi ở đây cũng được hơn nửa năm, vài hôm nữa cũng muốn đi sang bên trại Thanh Phong một phen, xem sự thể thế nào? Khi tôi còn ở nhà Sài Đại quan nhân, nghe nói hiền đệ đánh hổ trên núi Cảnh Dương, rồi làm Đô Đầu ở huyện Dương Cốc, sau lại nghe thấy nói đánh chết Tây Môn Khánh, rồi không biết vì sao mà lại ăn mặc giả sư, đi đến đất này?

Võ Tòng liền đem chuyện mình, nào khi đánh hổ, nào khi làm Đô Đầu, khi giết Tây Môn Khánh, lúc gặp Trương Thanh cả vợ chồng và khi Thi Ân đánh Tưởng Môn Thần, lúc giết mười lăm người ở nhà Trương Đô Giám, rồi trốn về nhà Trương Thanh, ăn mặc Hành Giả, qua núi Ngô Công giết kẻ đạo nhân, cho đến ngày nay say rượu đánh nhau ở nhà tửu điếm; kể hết đầu đuôi cho Tống Giang nghe hết kỹ càng một lượt.

Bấy giờ hai anh em Khổng Minh, Khổng Lượng nghe nói thì cả kinh, đều cúi mình mà lạy rạp xuống đất. Võ Tòng vội vàng đáp lễ mà nói rằng:

– Vừa rồi tôi trót lỡ tay, xin các ngài bỏ lỗi đi cho.

Hai anh em nhà kia cũng khiêm tốn mà rằng:

– Cái đó là tội tại chúng tôi, xin ngài tha thứ cho là tốt.

– Các ngài đã có lòng chiếu cố đến tôi, thì xin trả lại cho các đồ trang phục cùng hành lý, chớ để thất lạc một chút cái gì, mà không tiện cho chúng tôi lắm.

Khổng Minh nói:

– Điều đó túc hạ không cần nghĩ, chúng tôi xin sai người cất giữ cẩn thận để nộp trả lại ngài.

Đoạn rồi Tống Giang cho mời Khổng Thái Công ra tiếp kiến Võ Tòng. Khổng Thái Công liền sai người nhà làm tiệc khỏan đãi rất là long trọng. Tối hôm ấy Tống Giang giữ Võ Tòng cùng ngủ một giường để kể chuyện hàn huyên trong nửa năm trời, không một câu gì không thú vị.

Hôm sau Khổng Thái Công lại sai giết dê mổ lợn, bày tiệc linh đình để đãi Võ Tòng. Các người thân thích trong thôn, cùng mấy người môn hạ gần đó, đều đến bái yết, Tống Giang thấy vậy, trong lòng mừng rỡ vô cùng. Khi tiệc đã tan, Tống Giang hỏi Võ Tòng rằng:

– Bây giờ Nhị đệ định đến đâu để nương thân được?

Võ Tòng đáp rằng:

– Đêm hôm qua tôi đã thưa chuyện với ca ca rằng: Trương Thanh có viết giấy cho tôi, lên chùa Bảo Châu, trên núi Nhị Long, để nhập bọn với Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm, rồi vợ chồng hắn thu xếp đến sau.

– Nếu vậy thì tốt lắm…Chẳng dấu gì Nhị đệ. Nhà tôi viết thư đến nói với tôi rằng: Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Trị trại ở trại Thanh Phong, biết chuyện tôi có giết chết Diêm Bà, nên có viết giấy bảo tôi đến trại đó ở chơi ít bữa. Tôi đã định đi chơi mấy hôm nay, song vì tiết trời còn khó chịu, nên chưa sao đi được. Nay mai thế nào cũng phải đến đấy một phen, vậy bất nhược rồi anh em ta cùng đến đó một thể, có được không?

– Ca Ca định đem tôi cùng đi, cũng là hay lắm, song ngày nay tôi đương bị tội với quan tư, dẫu gặp ân xá cũng không tha được, nên thế tôi mới quyết lòng mà lên núi Nhị Long để lạc thảo tị nạn. Vả chăng tôi ăn mặc lối sư, nếu đi với Ca Ca mà lỡ bị người ta bắt được, thì bất miễn lại thêm liên lụy đến ca ca không tiện. Đã hay rằng anh em sống chết cùng nhau,cũng không lấy gì làm ngại, song còn có Hoa Tri Trại đó thì sao? Vậy xin ca ca cứ mặc cho tiểu đệ sang núi Nhị Long rồi sau đấy, may ra trời có thương lại, mà được triều đinh xá tội chiên an, thì bấy giờ sẽ xin tìm ca ca cũng được.

– Nếu Nhị đệ có lòng quy thuận triều đình, thì có phen tất trời kia trông lại mà bảo hộ giúp cho. Vậy nay Nhị đệ hãy ở lại chơi đây mấy hôm rồi sẽ tùy lòng tự tiện, tôi không dám can gián làm chi.

Từ đó Võ Tòng cùng Tống Giang chơi ở trong trang mười hôm, rồi cùng nhau từ tạ xin đi. Khổng Thái Công hết sức lưu lại, mà không cho đi vội. Hai người lại phải ở luôn ba bốn hôm nữa, rồi nhất định cùng xin từ biệt. Khổng Thái Công lưu lại không được, liền đặt tiệc tiễn hành chè chén suốt ngày hôm đó. Sáng hôm sau Khổng Thái Công sai lấy một bộ quần áo sư mới may, cùng các khí cụ của Võ Tòng khi trước, trao trả Võ Tòng, và đưa ra năm mươi lạng bạc để tiễn chân hai người làm lộ phí. Tống Giang hết sức từ chối không lấy, sau hai bố con Khổng Thái Công nhất định bỏ vào khăn gói mà không cho trả lại. Hai người bất đắc dĩ phải nhận lấy tiền nong, rồi Võ Tòng lại ăn mặc lối Hành Giả như trước, còn Tống Giang cũng sửa soạn áo xiêm, lưng giắt dao găm, đầu đội nón chiên, cầm dao lớn, mà cùng nhau từ giã cha con họ Khổng.

Khổng Minh, Khổng Lương gọi trang khách đem hành lý cho hai người, rồi anh em cùng tiễn chân ra khỏi ngoài bảy mươi dặm, rồi mới bái biệt ra về. Bấy giờ Tống Giang đeo lấy khăn gói, cùng Võ Tòng vừa đi đường vừa nói chuyện với nhau, mãi tới lúc trời tối mới tìm vào ngủ trọ. Sáng hôm sau lại dậy sớm, cơm nước, xong rồi lại cùng đi với nhau.

Đi được bốn năm mươi dặm đường, đến chỗ ngã tư ở Thụy Long Trấn. Tống Giang liền tìm người quen ở quanh đó, mà hỏi thăm đường sang Nhị Long Sơn, và Thanh Phong Trại. Người ở đó đáp rằng:

– Đường đi Nhị Long Sơn rẽ sang bên tây, mà đi về Thanh Phong Trại, thì rẽ sang bên đông.

Tống Giang nghe rõ đường lối, rồi dắt Võ Tòng vào hàng rượu cùng uống, rồi bảo Võ Tòng rằng:

– Anh em ta nên chia ngả đây cho tiện.

Võ Tòng nói:

– Tiểu đệ xin đưa ca ca đi một quãng nữa, sẽ trở về lối này cũng được.

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Bất tất phải phiền như thế, dẫu đến đâu, rồi cũng ly biệt mà thôi.Hiền đệ phải nên cẩn thận tiền trình, tới đó nên chừa bớt rượu, cho khỏi sinh sự lôi thôi.Nếu sau này triều đình có giấy chiêu an, thì hiền đệ nên rủ Lỗ Trí Thâm cùng về quy phục, đem thân ra chốn biên cương để ra tài ngọn giáo thanh đao, lập chút công lao cùng xã tắc, mà hưởng sự vinh hoa, lưu danh sử sách như thế thì may ra mới khỏi uổng công một đời… Ta đây dẫu có chút lòng trung nghĩa, mà tài năng còn kém, chắc đâu tiến bộ về sau! Duy hiền đệ là một tay anh hùng như thế, tất nhiên làm được sự nghiệp phi thường, vậy hiền đệ nên nhớ lời ta mà tính toán sau này sao cho được gặp nhau là thỏa.

Võ Hành Giả cúi đầu vâng lời, cùng uống rượu một lát, rồi đứng dậy tính trả tiền hàng mà đi ra. Khi tới ngã ba, Võ Tòng thụp xuống đất lạy Tống Giang bốn lạy.

Tống Giang gạt nước mắt không nỡ rời tay trông Võ Tòng mà dặn rằng:

– Xin anh em chớ quên lời ta, phải bớt tính uống rượu, mà trọng lấy thân mới được.

Võ Tòng ngậm ngùi mà chia bước về Tây. Đằng này một mình Tống Giang thui thủi theo đường bên Đông, vừa đi vừa nghĩ nhớ đến Võ Tòng, không lúc nào trong dạ được yên.

Tống Giang đi được vài hôm, đến một nơi non cao rừng rậm, phong cảnh ưa nhìn, chàng vừa đi vừa nghiêng ngả ngắm xem, bất giác mặt trời gần tối mà không có chỗ nào trú chân cho tiện. Bấy giờ trong bụng kinh hoàng, e ngại mà tự nghĩ rằng: “Nếu phải đương trời mùa hạ, thì ta nghĩ trong rừng một tối cũng không hề chi, song bây giờ đương buổi mùa đông, gió sương lạnh lẽo, không những là rét mướt không yên, mà lỡ ra có hổ báo hay rắn độc tới nơi, thì làm sao mà giữ thân cho được!” Chàng nghĩ vậy, liền mải miết cố đi tìm một nơi để nghỉ tạm.

Ước chừng đi được gần một trống canh, trong bụng càng thấy nóng nảy lo sợ, bèn rảo cẳng bước chân, không kịp cúi nom xuống đất. Dè đâu đương đi bỗng vấp phải sợi giây giăng ngang trước lối, rồi thấy tiếng chuông ở trong rừng vang động ầm ĩ cả lên.Đoạn rồi có mười lăm mười sáu tên lâu la nấp ở trong rừng cây chạy xô ra;reo hò quát tháo mà bắt trói Tống Giang, cướp lấy thanh đao hành lý, rồi đánh lửa thắp đuốc giải Tống Giang lên núi.

Khi tới sơn trại, thấy xung quanh toàn thị gỗ vầy làm trại, chính giữa có một tòa thảo sảnh, trên kê ba bộ ghế tréo lót da hổ và ở phía dưới có tới trăm gian nhà lá. Bọn lâu la trói tròn Tống Giang như một cái bánh kéo cổ vào buộc ở cột cái, rồi có mấy tên lâu la ở trong sảnh nói rằng:

– Đại vương vừa mới đi nghỉ, không nên vào báo vội. Hãy đợi lát nữa Đại Vương tỉnh rượu sẽ mời ra đây, khóet ruột gan con trâu ấy làm thang giã rượu, rồi chúng ta thừa lộc miếng thịt tươi cho thú.

Tống Giang bị trói ở ngoài cột, nghe thấy nói thế, thì trong bụng nghĩ thầm rằng: “Mình thực là thiển cận quá chừng;chỉ vì giết một con đàn bà gian dâm vô lý, mà đến nỗi xẩy ra biết bao nhiêu câu chuyện nguy nan, khốn đốn; Ngày nay lại đem xương thịt mà tống táng ở đây, thì thực là uổng quá!” Bấy giờ thì tụi lâu la thắp đèn thắp đuốc sáng rực cả nhà, còn Tống Giang thì rét cứng cả người mà không sao cựa được, chỉ còn liếc mắt mà vơ vẫn nhìn quanh, rồi lại cúi đầu mà ngậm ngùi than thở!

Hồi lâu vào khoảng canh ba, chợt thấy mấy tên lâu la ở đằng sau chạy ra kêu lên rằng:

– Đại vương đã ra đó. Đoạn rồi cùng thắp thêm đèn đuốc ở trên sảnh sáng trưng như ban ngày vậy.

Tống Giang liếc mắt nom lên thấy Đại Vương ấy bước ra, đầu đội khăn điều, mình khoác áo lụa hồng, ngồi vào một cái ghế da hổ ở giữa.

Nguyên Đại Vương ấy, tổ quán ở đất Lai Châu, họ Yến tên Thuận, biệt hiệu là Cẩm Mao Hổ (Hổ lông gấm) vốn là một anh tài dê lái ngựa xuất thân, nhân vì buôn thua bán lỗ mới lưu lạc ở chốn sơn lâm mà xoay nghề cướp bóc.

Bấy giờ Yến Thuận hỏi chúng rằng:

– Các con bắt được trâu ấy ở đâu?

Tụi lâu là đáp:

– Chúng con phục sẵn ở đằng sau núi, chợt nghe thấy tiếng chuông kêu dống bên rừng, anh em vội chạy đến xem, thì con trâu này khoác khăn gói đi có một mình, vấp phải cái giây ngã lăn xuống đất, nhân vậy chúng con bắt về để hiến Đại Vương làm thang giải rượu.

Yến Thuận gật đầu khen tốt, rồi truyền đi mời hai Đại Vương nữa để ra đó cùng hưởng. Chúng lâu la đi mới được một lúc thì thấy mời hai vị Đại Vương nữa ra, cùng ngồi vào ghế ở trên sảnh với Yến Thuận. Một người bên cạnh tướng Ngũ Đỏan, đôi mắt sáng quắc, tổ quán ở đất Lưỡng Hoài. Họ Vương tên Anh, bọn giang hồ thường gọi là Nụy Cước Hổ (hổ cùn cẳng) nguyên trước làm nghề phu xe, sau phạm tội giết khách đi xe lấy của, bị bắt được, rồi vượt ngục trốn ra đến núi Thanh Phong, cùng Yến Thuận nhập vào một bọn. Còn anh chàng ngồi bên hữu, người trông mảnh dẻ thanh tú, mặt trắng râu ba chòm, đầu đội khăn hồng, nguyên quán ở Tô Châu Triết Giang, họ Trích tên Thiên Thọ, người ta thường gọi là Bạch Diện Lang Quân (Anh chàng mặt trắng) khi trước làm thợ bạc, sau nhân học được ít nhiêu võ nghệ, lưu lạc giang hồ, qua tới Thanh Phong Sơn, gặp Vương Nụy Hổ đánh nhau tới năm sáu mươi hiệp, quyết không được thua; Yến Thuận nhân thấy thủ đoạn hơi khá, bèn lưu ở trên núi, mà dự ngồi vào ghế thứ ba.

Bấy giờ ba người cùng ngồi chỉnh tề, rồi Vương Nụy Hổ bảo bọn lâu la rằng:

Nói đoạn, thì một tên lâu la cầm một cái chậu đồng lớn, đựng nước ở trước mặt Tống Giang, một tên lâu la nữa cầm thanh đao nhọn sáng nhoáng ở tay chạy đến, rồi hai tên lâu la túm vào té nước mà rửa bụng Tống Giang.

Phàm chỗ bụng người ta, toàn thị huyết nóng tụ lại, nay nếu lấy nước lạnh dội vào cho tan hết máu nóng rồi moi lấy tim gan ăn ngon vô hạn. Bọn lâu la rửa xong rồi, té nước lên rửa mặt Tống Giang.

Tống Giang thấy vậy thở dài mà than rằng:

– Tiếc cho Tống Giang chết ở đất này…

Chàng vừa than dứt, thì thấy Yến Thuận quát tiểu lâu la hãy khoan tay, mà hỏi lên rằng:

– Thằng ấy nói lẩm bẩm Tống Giang gì đó!

Tên tiểu lâu la bẩm rằng:

– Tên ấy kêu rằng: Tiếc cho Tống Giang bỗng dưng mà chết ở đây.

Yến Thuận nghe nói đứng dậy mà hỏi rằng:

– Anh chàng này có biết Tống Giang hay sao?

Tống Giang đáp:

– Chính tôi là Tống Giang đây.

Yến Thuận chạy đến gần mà hỏi luôn rằng:

– Anh là Tống Giang ở đâu?

Tống Giang đáp:

– Tôi là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành, thuộc phủ Tế Châu đây.

Yến Thuận giựt mình hỏi rằng:

– Có phải Cập Thời Vũ Tống Công Minh ở Sơn Đông, giết chết Diêm Bà Tích đó chăng?

– Sao bác lại biết, chính tôi là Tống Tam Lang Tống Giang đó.

Yến Thuận nghe nói kinh ngạc, bỗng đổi sắc mặt, giật lấy dao ở tay tiểu lâu la, cắt hết giây trói ra, rồi cởi áo đỏ đương khoác ở mình, để khoác cho Tống Giang mà kéo mời vào ghế giữa. Đoạn rồi bảo Vương Nụy Hổ cùng Trịnh Thiên Thọ cùng đứng ra ngoài mà cúi rạp xuống để lạy.

Tống Giang ngạc nhiên vội vàng đáp lễ lại, rồi hỏi lên rằng:

– Vì cớ sao ba vị tráng sĩ, không giết tôi mà lại trọng đãi như vậy?

Nói đoạn cũng cúi xuống đất để lạy, Bấy giờ ba người kia đều quỳ xuống đất, rồi Yến Thuận nói lên rằng:

– Chúng tôi thực là có mắt, mà không biết được người hay chỉ nên khoé mắt vứt đi cho rảnh…Vừa rồi nếu không hỏi kỹ căn do, thì có lẽ hại đến nghĩa sĩ chứ không chơi…Chúng tôi xưa nay mười mấy năm lưu lạc giang hồ, vẫn nghe tiếng ngài là người trọng nghĩa khinh tài, cứu nguy đỡ nạn, song cũng là duyên hèn phận mỏng, nên chưa từng được gặp tôn nhan. Ngày nay cũng là trời xanh khiến cho chúng tôi được gặp ngài đây, thực là thỏa lòng khao khát xiết bao… !

Tống Giang khiêm tốn đáp rằng:

– Tôi đây đã có tài đức gì, mà được các ngài quá yêu như thế?

Yến Thuận tiếp luôn rằng:

– Nhân huynh là một người ơn to lượng rộng, kết nạp hào kiệt bốn phương, xưa nay ai không nghe tiếng, mà kinh phục uy phong. Bọn Lương Sơn Bạc hiện nay hưng thịnh lẫy lừng, nghe nói cũng nhờ ơn huynh chu toàn cho cả, vậy chẳng hay vì cớ sao mà một mình ngài lại qua đây như thế?

Tống Giang liền kể chuyện từ khi cứu Tiều Cái giết Diêm Bà Tích cho đến khi ở nhà Khổng Thái Công, định đến tìm Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh tới đây, cho mọi người nghe một lượt. Ba người kia cả mừng, sai lấy áo xiêm ra cho Tống Giang mặc, rồi giết dê ngựa, làm tiệc khỏan đãi suốt đêm mãi đến canh năm mới mời Tống Giang đi nghỉ.

Ngày hôm sau, Tống Giang lại đem các chuyện đi đường, cùng anh hùng khí phách của Võ Tòng thuật lại cho ba người nghe.

Ba người nghe nói, đều dậm chân vỗ tay mà kêu lên rằng:

– Chúng tôi thực là vô duyên, không được gặp, nếu nay có thêm người ấy ở đây, thì không biết rằng vui vẻ đến đâu?

Đoạn rồi ba người giữ riết Tống Giang ở đấy luôn năm bảy ngày chè chén chuyện trò rất là thỏa thích.

Bấy giờ đương dạo sơ tuần tháng chạp, tục người Sơn Đông, thường hay đi viếng thăm phần mộ tổ tiên. Một hôm chợt thấy bọn lâu la ở dưới núi lên báo rằng:

– Trên đường cái có một cỗ kiệu, bảy tám người theo sau, gánh theo một đôi quang quả, đi thăm mộ qua đây.

Vương Nụy Hổ vốn là một tay hiếu sắc, nghe chúng báo vậy, chắc là ở trong kiệu có đàn bà, liền vội vàng đếm bốn năm mươi tên tiểu lâu la, mà xin phép xuống núi. Tống Giang cùng Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ cản ngăn không được, đánh để mặc cho Vương Nụy Hổ đi, rồi ba người ung dung uống rượu với nhau ở trong ttrại. Hồi lâu thấy tên tiểu lâu la đi thám thính chạy vể báo rằng:

– Bọn bảy tám người đương đi, trông thấy Vương Nụy Hổ kéo quân xuống, thì bỏ chạy trốn mất, chỉ còn bắt được người đàn bà trong kiệu, và đôi quang quả vàng hương ngoài ra không có gì nữa.

Yến Thuận nghe nói liền hỏi chúng rằng:

– Người đàn bà ấy hiện ở đâu?

Tên tiểu lâu la bẩm:

– Vương Đầu Lĩnh bắt mang vào phòng ở đằng sau núi.

Yến Thuận nghe vậy thì vỗ tay cả cười. Tống Giang nói rằng:

– Vương huynh lại có tính tham luyến nữ sắc, như thế không phải là việc của tay hảo hán.

Yến Thuận cả cười mà rằng:

– Bác ấy việc gì cũng chịu khó cả, duy có một bệnh ấy thì khó lòng mà chừa đi được.

Tống Giang nói:

– Tôi cùng hai ngài, ta nên xuống cản ngăn đi mới được.

Yến Thuận cùng Trịnh Thiên Thọ vâng lời, rồi dẫn Tống Giang đi. Khi đến phòng Vương Nụy Hổ, vừa đẩy cửa ra, đã thấy chàng ta đương giằng co với người đàn bà, để cầu hoan ở đó. Chàng thấy ba người đến, thì vội vàng đẩy người đàn bà ra, rồi mời ba người vào ngồi chơi.

Tống Giang hỏi người đàn bà kia rằng:

– Nương tử là vợ con nhà ai? Có việc chi mà qua lại nơi đây làm vậy?

Người đàn và ra dáng e thẹn cúi chào ba người mà đáp rằng:

– Chúng tôi là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong, nhân mẫu thân mới mất, đến nay là lễ Tiểu Tường, chúng tôi qua đây thăm mộ, xin các ngài rộng lòng thương mà cứu tính mạng cho.

Tống Giang nghe nói ngạc nhiên, kinh lạ nghĩ thầm trong bụng: “Nay mai ta định đến Hoa Tri Trại chơi, chẳng hay người này là vợ Hoa Tri Trại, có lẽ nào mà ta không cứu được? ” Chàng nghĩ đoạn liền hỏi rằng:

– Vậy thì phu quân nàng là Hoa Tri Trại, sao không cùng đi với nàng?

Người đàn bà đáp rằng:

– Dám thưa Đại Vương chúng tôi không phải là vợ Hoa Tri Trại.

– Vừa rồi nàng nói là vợ Tri Trại ở trại Thanh Phong đó mà…

– Thưa ngài ở trại Thanh Phong hiện nay có hai Trị Trại, một ông quan văn và một ông quan võ: Quan võ là Hoa Tri Trại, còn quan văn tức Tri Trại Lưu Cao là chồng chúng tôi.

Tống Giang nghe nói lại nghĩ thầm rằng: “Chồng hắn đã là đồng liêu với Hoa Tri Trại, nếu nay ta không cứu thì khi đến đó sao cho tiện… ? ” Nghĩ đoạn liền bảo với Vương Nụy Hổ rằng:

– Tôi có một câu này, không biết rằng quan bác có ưng ý cho chăng?

Vương Anh đáp rằng:

– Ca Ca có điều gì xin cứ cho nghe.

Tống Giang nói:

– Đại phàm những đám hảo hán, nếu phạm vào ba chữ “Lưu Cốt Tủy” tất là bị thiên hạ chê cười. Huống chi người đàn bà này lại là vợ một quan tước của triều đình, vậy xin bác nể lòng tôi, nghĩ đến hai chữ Đại Nghĩa của đám giang hồ mà tha cho người ta thì phải?

Vương anh nói:

– Dám bẩm ca ca: Vương Anh tôi lây nay chưa có một người Áp Trại Phu Nhân, để sớm khuya làm bạn cho vui, vả chăng ở đời nay, những đám mũ cao áo dài nào có ra chi, mà ca ca phải đem lòng bênh vực. Xin ca ca để mặc cho tiểu đệ thì hơn.

Tống Giang nghe nói quỳ xuống đất mà rằng:

– Nếu hiền đệ muốn cầu một người Phu Nhân Áp Trại, để sau này Tống Giang xin tìm một người xứng đáng về đây, còn người này là vợ anh em đồng liêu của bạn tôi, thế nào cũng xin hiền đệ nể lòng tôi mà tha thứ cho người ta.

Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ thấy vậy, liền chạy đến nâng Tống Giang dậy mà nói rằng:

– Xin ca ca đứng dậy cho, cái đó điều chi là khó.

Tống Giang tạ ơn mà rằng:

– Nếu các ngài có lòng nghĩ vậy, thì tôi lấy làm cảm tạ vô cùng.

Yến Thuận thấy Tống Giang cố ý muốn tha người đàn bà, nên cũng không cần hỏi Vương Anh có bằng lòng hay không; liền quát đám phu kiệu mà cho khiêng người đàn bà ấy đi.

Người đàn bà nghe nói vội quay đầu vào Tống Giang, lạy lấy, lạy để mà miệng kêu:

– Tạ ơn Đại Vương, tạ ơn Đại Vương.

Tống Giang bảo người đàn bà rằng:

– Cung nhân bất tất phải lạy tạ tôi, tôi là người khách ở Vận Thành qua đây, chứ có phải là Đại Vương nào đâu!

Người đàn bà lạy tạ xong rồi, quay ra bước lên kiệu mà giục đi xuống núi. Bấy giờ Vương Nụy Hổ vừa buồn vừa thẹn không nói năng một câu gì. Tống Giang liền dắt ra ngoài sảnh mà khuyên rằng:

– Hiền đệ không nên để bụng làm chi, sau dẫu thế nào tôi cũng xin vì hiền đệ tìm được một chỗ nhân duyên cho xứng đáng; không khi nào tôi dám sai lời.

Yến Thuận cùng Trương Thanh cùng vỗ tay cả cười. Còn Vương Nụy Hổ bị Tống Giang bó buộc lễ nghĩa như vậy, tuy trong lòng hơi hơi khó chịu, song cũng không hề dám ra miệng, đành phải gượng cười mà cùng nhau uống rượu cho vui.

Bên kia tụi quân lính ở trại Thanh Phong bị Vương Nụy Hổ cướp mất Cung Nhân, thì vội vàng chạy về báo cho Lưu Tri Trại biết.

Lưu Tri Trại nghe nói,đùng đùng nổi giận thét lấy quân trượng ra đánh phạt tụi quân lính, quân lính kêu rằng:

– Đám chúng tôi có năm bảy người, mà bọn lâu la kể có ba bốn mươi kẻ, thì làm sao mà nổi?

Lưu Tri Trại thét lên rằng:

– Chúng bây nói láo! Nếu không đi cứu được Cung nhân về đây thì ông bỏ tù cả suốt lượt bây giờ.

Tụi quân lính bị quở phạt, không biết làm thế nào, đành phải nhờ tám mươi tên lính khỏe mạnh ở trong trại mà đem khí giới đi để cứu.

Khi đi tới nửa đường, thì bỗng gặp hai tên phu kiệu, đương khiêng kiệu phu nhân mà chạy như gió thổi chạy về. Tụi quân lính liền hỏi thăm vì cớ gì mà được thoát nạn như vậy? Cung nhân ngồi trong kiệu đáp rằng:

– Chúng bắt ta lên núi, sau nghe nói ta là Lưu Tri Trại phu nhân thì chúng hoảng hốt kinh sợ, lạy tạ rồi vội vàng gọi phu kiệu đưa ta về ngay lập tức.

Đoàn quân lính kêu rằng:

– Xin Cung nhân thương hạ cho anh em chúng tôi mà nói với Tướng Công, là anh em chúng tôi đã đánh cướp cứu được Cung nhân trở về, nếu không thì chúng tôi bị đòn vọt nguy mất.

Chị chàng kia đáp rằng:

– Được, cứ về đó, rồi ta sẽ có cách nói cho.

Nói xong bọn quân lính đều cúi đầu lạy tạ, rồi cùng nhau quay gót trở về. Bấy giờ hai tên phu kiệu cứ cắm cổ chạy nhanh như biến, không còn ai đuổi theo cho kịp. Bọn quân lính thấy vậy, thì hỏi rằng:

– Hai các anh mọi khi vẫn đi chậm như vịt mà sao ngày nay lại chạy nhanh quá như thế?

Hai tên phu kiệu đáp rằng:

– Chúng tôi có muốn nhanh làm gì…. Vì đánh vun vút lên ở đằng sau, cho nên phải chạy chạy đấy thôi.

Đám người kia cười phá lên mà rằng:

– Các anh nói chuyện ma qủy hay sao; đằng sau có ai mà kêu rằng họ đánh?

Hai tên phu kiệu mới quay đầu nom lại, rồi kêu lên rằng:

– Trời ơi! Té ra chúng tôi đi vội quá, nghe tiếng chân quần quật, vẫn tưởng là có người đánh ở đằng sau…

Chúng nghe nói nhìn nhau mà cười ở vỡ bụng. Khi về tới trại, Lưu Tri Trại trông thấy Cung nhân thì cả mừng mà hỏi rằng:

– Ai cứu cho Phu nhân về ngay như thế?

Chị đàn bà đáp:

– Chúng cướp tôi lên núi, không được động hề đến chân, đã toan đem ra để giết, sau thấy nói tôi là vợ Quan Tri Trại ở trại Thanh Phong, thì anh nào cũng kinh sợ mà lạy van chí chết. Lại may có đám quân lính đến cứu về, vì thế nên tôi mới được thoát nạn chóng như vậy.

Lưu Cao nghe nói hớn hở tự đắc, bèn truyền lấy mười bình rượu và giết một con lợn để khao thưởng bọn quân lính.

Nói về Tống Giang, từ khi cứu thoát được chị đàn bà kia, lại lưu lại ở sơn trại luôn năm bảy hôm nữa, rồi mới từ giã ba người để sang chơi Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh. Bọn anh em Yến Thuận cố giữ cùng không được, bèn sai bày tiệc tiễn hành, và đưa thêm một ít kim ngân, để Tống Giang đi đường chi dụng. Sáng hôm sau khi Tống Giang ra đi, ba vị Đầu Lãnh lại sai đem rượu đi theo, ra ngoài hai ba mươi dặm, cùng Tống Giang uống chén ly bôi, rồi trân trọng dặn rằng:

– Ngày nay xin tạm biệt ca ca, rồi sau khi tới trại Thanh Phong, mong rằng ca ca sẽ lại về đây cho anh em chúng tôi được gặp, thực là hạnh phúc vô cùng.

Tống Giang đinh ninh từ tạ vâng lời, rồi khoác khăn gói, vác thanh đao, bái biệt mọi người, mà trông chừng thẳng trỏ Thanh Phong.

Quan san sương tuyết một màu.

Lòng xưa man mác đường sau gập ghềnh,

Giang hồ một lái lênh đênh,

Con chèo nghĩa hiệp tung hoàng bao phen

Sự đời ai hẹn mà nên,

Cái quay vô ảnh hoàng thiên khéo vần.

Trót gan chơi với phong trần,

Phong ba kia với phong vân chọn gì…

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này vừa tả xong chuyện của Võ Tòng, tiếp tay tả luôn chuyện của Tống Giang, liên đới cả luôn chuyện của Hoa Vinh, trung gian chuyện của ba anh hùng sơn trại Thanh Phong, cũng xuất hiện ra, với phép diễn tả dứt nối ấy, tác giả theo Bút pháp của văn chương tả ra rất khéo, vì sự tích của 108 vị anh hùng, trong 70 hồi, tả được đầy đủ, là một việc khó, nên lối diễn tả thấy như ca nhạc, lời ca vừa dứt, tiếng nhạc tiếp theo sau, trở nên tai tiếng ca với nhạc.

Hồi 32: Xem Ngao Sơn Tống Giang bị bắt – Náo Phong Trại Hoa Vinh báo thù

Thanh Phong ở ngay vào giữa quãng ngã ba đất Thanh Châu. Chỗ ấy tên là Thanh Phong trấn đường thông ba mặt, núi non giặc cướp rất nhiều, nhân thế mới đặt trại Thanh Phong để trông coi địa hạt. Quanh trại đó có tới bốn năm ngàn nhà ở, dân sự làm ăn kể cũng có điều sầm uất. Giữa trần có chợ to phố lớn, bên nam có một trại nhỏ của quan võ Hoa Vinh đóng đó.

Hôm ấy một mình Tống Giang đi tới trấn Thanh Phong, hỏi thăm đến cửa trại Hoa Vinh, nói với quân lính canh cổng để vào báo trước.

Một lát, có một vị quân quan trẻ tuổi chạy ra đón chào Tống Giang, rồi thét lính đỡ lấy khăn gói và đao, mà mời Tống Giang vào ngồi ở chính sảnh. Đoạn rồi cúi đầu lạy bốn lạy mà nói rằng:

– Từ khi bái biệt huynh trưởng tới nay thấm thoát đã năm sáu năm trời, trong lòng rất là khát vọng. Dạo trước huynh trưởng giết một đứa yên hoa, rồi bị quan quân truy tầm định bắt. Tiểu đệ nghe nói như ngồi phải chông gai, đã viết luôn mười mấy phong thư, gửi sang gia trang để mời đón mà không thấy huynh trưởng tới chơi. Nay bỗng đâu được gặp huynh trưởng ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn. Nói xong lại cúi đầu xuống lạy, Tống Giang vội vàng đỡ dậy mời ngồi nói chuyện. Hoa Vinh khiêm tốn ngồi chếch về một bên, rồi Tống Giang đem chuyện mình thuật hết đầu đuôi cho Hoa Vinh. Hoa Vinh nghe nói có ý cảm động mà rằng:

– Té ra thời vận nhân huynh chuân kiển quá chừng, ngày nay tới đây, xin nhân huynh hãy ở tạm vài năm rồi sau đây sẽ liệu đường xuất sử.

Nói đoạn mời Tống Giang vào ngồi chơi ở nhà trong, rồi gọi vợ là Thôi Thị và em gái ra lạy mừng. Nhất diện sai lấy áo xiêm khăn giầy cho Tống Giang tắm rửa thay giặt, rồi mới mời vào uống rượu.

Trong khi uống rượu Tống Giang đem chuyện cứu phu nhân của Lưu Tri Trại thuật cho Hoa Vinh nghe.

Hoa Vinh chau đôi mày mà bảo Tống Giang rằng:

– Huynh trưởng cứu người ấy làm gì” Chúng tôi đang muốn làm cho nó chừa bớt cái mồm điêu hoạt thì mới hả lòng.

Tống Giang ngạc nhiên hỏi rằng:

– Quái lạ! Tôi thấy nói là vợ quan Tri Trại ở trại Thanh Phong nên tôi nghĩ đến tình đồng liêu của hiền đệ, mà hết sức ngăn trở Vương Nụy Hổ để cứu cho thoát nạn, vậy chẳng hay là cớ sao mà hiền đệ lại nói như thế?

– Nguyên huynh trưởng không biết: Trại Thanh Phong đây nếu để cho một mình tôi coi giữ, thì cường đạo xa gần có đâu dám sinh lòng quấy nhiễu, ai ngờ mới đây có anh khốn nạn ấy đến, làm Tri Trại ở chốn này, tiếng gọi là văn quan mà một chữ không biết, chỉ chăm chăm lừa dối đám dân gian, mà pháp luật triều đình không còn chút gì là được. Tiểu đệ tuy là một chức võ quan, song vẫn bị hắn ta chọc tức luôn luôn không thể nào giết ngay đi được cho nó thỏa lòng… Huynh trưởng còn cứu làm chi cho uổng sức. Vả chăng con mụ ấy lại là một đứa bất lương chỉ phỉnh phờ ông chồng để làm càn làm bậy hãm hại lương dân mà ăn tiền đút lót. Những người khốn nạn như thế, giết đi còn chưa đáng tội lỗi hơi đâu cứu vớt thêm phiền.

Tống Giang khuyên Hoa Vinh rằng:

– Hiền đệ chớ nên nghĩ thế! Xưa nay thường nói “Không nên buộc chết cho người”, vả chi lại là đồng liêu với hiền đệ, dẫu có điều không phải cũng nên che đậy cho người; thế mới là phải đạo.

Hoa Vinh hối ngộ mà rằng:

– Huynh trưởng dạy thế rất là phải lắm. Để ngày mai tôi có vào việc quan gì đó, sẽ nói chuyện huynh trưởng cứu vợ con hắn cho hắn biết.

Tống Giang gật đầu khen rằng:

– Nếu vậy thì càng rõ cái hay của hiền đệ ra, tự nhiên là thiên hạ phải phục.

Từ đó hai vợ chồng Hoa Vinh khỏan đãi Tống Giang càng ngày càng trân trọng và dọn dẹp một gian phòng ở nhà trong, để lưu Tống Giang ở đó. Cách bốn năm hôm, Hoa Vinh sai đầy tớ riêng dắt một ít tiền, để đưa Tống Giang đi chơi xem phong cảnh trong trấn. Tống Giang đi xem, thấy chợ búa huyên hòa, phố phường rộn rịp, nào nơi quán thấp, nào chốn lầu cao, miếu mạo chùa chiền, phong cảnh sầm uất. Mỗi ngày Hoa Vinh lại cắt một người cho đem tiền đi hầu Tống Giang, song mỗi khi vào hàng quán rượu chè, thì Tống Giang lại bỏ tiền ra chi dụng, còn tiền của Hoa Vinh, thì để mặc cho người nhà được hưởng. Bởi thế Tống Giang ở đó chưa được bao lâu, mà bọn người cửa người nhà không ai là không có lòng kính mến.

Ngày tháng thoi đưa, sớm chiều lần lữa, Tống Giang ở trại Thanh Phong được hơn một tháng trời, mà chốc đã đông tàn xuân đến, phong quang khác hẳn mười phần. Bấy giờ đến Tết nguyên tiêu, các dân cư ở trấn Thanh Phong thu góp tiền nong, kết trên giăng giấy kết hoa, treo năm bẩy trăm ngọn đèn hoa rất là rực rỡ; còn ở trong miếu thổ thần, cùng các nơi phố sá đều treo đèn hết thảy, dẫu không ví được với kinh sư là nơi đô hội song cũng chẳng khác chi một thành bất dạ vậy.

Buổi sáng hôm ấy Hoa Vinh tiếp rượu Tống Giang ở trong trại, mãi đến gần trưa mới xin phép đứng dậy, kiểm điểm mấy trăm tên lính, sai đi đàn áp nơi phố sá mà canh giữ bốn bên cửa trại cho nghiêm. Vào khoảng xế chiều Hoa Vinh trở về trại, nói với Tống Giang rằng:

– Lẽ ra đêm nay tiểu đệ xin đi hầu huynh trưởng, để xem phong cảnh nguyên tiêu là phải, song ngặt vì tiểu đệ phải trông coi quân lính, không thể nào dứt ra đi được. Vậy đến tối xin cho mấy tên người nhà, dẫn hiền huynh đi du ngoạn mọi nơi, tiểu đệ xin đợi ở nhà để khi về đây, ta cùng uống rượu cho vui.

Nói xong sai dọn các thức điểm tâm lên cho hai người cùng ăn uống. Tối hôm ấy khí trời ấm áp, lờ mờ có bóng trăng xuống, Tống Giang cùng ba bốn tên người nhà Hoa Vinh dạo bước xem hội thi đèn. Khi ra tới phố, thấy nhà nào nhà ấy, đèn thắp từng hàng, hoa treo suốt lượt, nào đèn vẽ lối cổ tích, đèn lối Bách mẫu đơn hoa, đèn lối hoa sen, đèn kiểu hoa phù dung…không một kiểu gì không có. Bốn năm người đi lững thững đến trước cửa miếu Thổ Thần, xem phong cảnh Ngao Sơn một lúc, rồi lại dắt nhau quay đi. Mấy người đi về phía bên nam được chừng năm bảy trăm thước, thì thấy phía trước mặt đèn đóm tưng bừng, có một đoàn người đang đứng quanh vùng đó, một nơi tường viện lớn, mà tiếng nổi thanh la, cùng tiếng giọng họ reo ầm ĩ vang tai. Tống Giang thấy vậy, vội vàng đến để xem, ai ngờ người lùn khó xem, lại phải đứng sau tụi người đám đông, nên không sao xem rõ được, sau tụi người nhà phải đạp đám người đông, để cho Tống Giang len vào tận nơi, để xem cho rõ. Khi vào tới nơi, thấy một tụi con nhà nghề, đương nhảy múa rồi rút lên ở đó Tống Giang thấy lão nhà nghề nhảy múa uốn éo nhiều lối buồn cười, thì vỗ tay mà cười to lên mấy tiếng. Bấy giờ vợ chồng Lưu Cao đương ngồi xem ở bên trên. Người vợ thấy tiếng cười hơi quen tai, liền ngẩng cổ nom, thấy Tống Giang đứng đó, thì vội vàng trỏ mặt mà bảo chồng rằng:

– Kìa thằng lùn đen kia, chính là thằng đầu sỏ đám giặc, nó bắt thiếp ở núi Thanh Phong dạo trước đó. Lưu Tri Trại ngạc nhiên kinh sợ liền gọi sáu bảy tên đầy tớ thân mà quát lên rằng:

– Bắt thằng giặc lùn đen kia cho ta.

Tống Giang ngẩng đầu trông lên, nghe tiếng quát bắt lại, thì chợt trông thấy vợ chồng Lưu Cao ở đó, bèn vội vàng co cẳng chạy luôn. Bất đồ chạy được mươi nhà, thì bọn kia đã đuổi kịp đến sau, liền bắt Tống Giang trói lại, mà dong về trong trại. Mấy anh người nhà Hoa Vinh đi hầu Tống Giang, thấy vậy thì chạy về báo cáo cho Hoa Vinh biết.

Bấy giờ Lưu Cao về trại, thét giải Tống Giang lên mà thét mắng rằng:

– Quân kia, mày là giặc cướp ở núi Thanh Phong ai cho phép bây dám cả gan đến đây xem đèn xem hội?

Tống Giang kêu rằng:

– Chúng tôi là Trương Tam ở huyện Vận Thành, bạn thân với Hoa Tri Trại, mới đến chơi mấy hôm nay ở đây, làm gì biết núi Thanh Phong, sao mà ngài dạy thế?

Con vợ Lưu Cao ở phía sau bình phong nghe thấy vậy, liền chạy ra mà nói lên rằng:

– Đồ ăn cướp kia, lại còn cãi à? Mầy có nhớ khi ta gọi mày là Đại Vương không?

Tống Giang đáp rằng:

– Cung nhân lầm rồi, bấy giờ tôi nói với cung nhân rằng: Tôi đây cũng là khách ở Vận Thành bị bắt đến đây, nào phải Đại Vương đâu?

Lưu Tri Trại nói:

– Mầy bảo rằng mày là thằng bị cướp đến đó…sao mày nay lại ở đây xem đèn được?

Con mụ kia lại tiếp luôn rằng:

– Chính mầy ngồi ghế giữa ở sơn trại, ta kêu là Đại Vương mãi nào mày có nói gì đâu?

Tống Giang thở dài mà rằng:

– Cung nhân không nhớ gì đến công tôi cứu đỡ cho cung nhân được thoát nạn gian dâm, nay còn đổ vạ cho tôi là ăn cướp, thì còn trời đất nào nữa.

Chị chàng kia nghe nói, cả giận mà quát lên rằng:

– Quân rắn đầu rắn mặt ấy, không đánh cho nó một mẻ thì sao nó chịu nhận.

Lưu Cao khen là phải, liền thét lính lấy roi lên vật đánh Tống Giang vọt bắn máu tươi rồi khóa xích hai chân tay, đợi sáng hôm sau làm xe tù để giải lên châu.

Bên kia Hoa Vinh nghe thấy lũ người nhà về báo thì giật mình kinh ngạc, liền viết phong thư, sai người thân mật sang nói với Lưu Cao, để cứu cho Tống Giang. Khi người nhà đưa thư sang đến văn trại, Lưu Cao cho gọi vào sảnh sự, cất lấy thư bóc ra xem thấy trong thư viết đại khái như sau này:

– “Hoa Vinh bái thượng Lưu Cao tướng công. Nhân tôi có người bà con thân tên Lưu Văn mới ở Tế Châu đến đây. Hôm qua vì đi xem hội đèn, lỡ có xúc phạm tôn uy, thì xin ngài nghĩ tình tha thứ đi cho tôi sẽ xin đến cảm tạ. Mấy lời thô thiển, lượng cả xét soi”

Lưu Cao xem xong nổi giận đùng đùng, xé nát phong thư mà mắng rằng:

– Anh Hoa Vinh này vô lễ quá! Hẳn là quan tước triều đình sao dám thông đồng với giặc, mà bưng bít mắt ta? Thằng giặc này, nó đã khai là tên Trương Tam, ở Vận Thành, thế mà Hoa Vinh dám viết giấy đến đây nói là Lưu Văn ở Tế Châu… ? Hắn tưởng rằng nói họ Lưu, thì mình nghĩ tình cùng họ, mà tha cho nó chăng…Có khi nào ta đây lại khờ dại đến thế? Tả hữu đâu! Đem thằng người nhà này đuổi cổ nó ra.

Tên người nhà bị đuổi ra, vừa căm tức, vội chạy về báo cho Hoa Vinh biêt. Hoa Vinh nghe nói, càng lấy làm nóng lòng sốt ruột, liền sai người nhà đóng ngựa, rồi mặc giáp, đeo cung, cầm đao, dẫn mấy mươi tên binh lính giáo gậy, mà thẳng xông sang trại Lưu Cao.

Bấy giờ đám lính canh cổng bên trại Lưu Cao trông thấy Hoa Vinh đến, thì anh nào cũng sợ mất mật, mà chạy tán đi các ngả.

Hoa Vinh đi vào đến trong sảnh, liền xuống ngựa, cầm giáo ra tay, rồi dàn mấy tên quân ra trước cửa sảnh kêu to lên rằng:

– Mời Lưu Tri Trại ra đây nói chuyện…

Lưu Tri Trại nghe tiếng Hoa Vinh, thì sợ mất hồn mất vía, nấp chui vào một chỗ mà không dám thò ra.Hoa Vinh đứng đợi hồi lâu, không thấy Lưu Cao ra, liền hô quân lính đi ra thẳng đằng sau, để cứu người bị bắt. Ba bốn mươi tên lính, vâng lệnh đổ ùa đi tìm, đến một gian phòng ở dưới trại, thấy Tống Giang bị trói treo lên xà nhà, xích sắt xích cả chân tay, mà thịt da sứt ra từng chỗ, tụi quân lính túm lại cởi nâng Tống Giang xuống, tháo bỏ xích sắt, rồi cùng nhau vực ra ngoài cửa sảnh.

Hoa Vinh trông thấy rất là thổn thức trong lòng bèn sai lính đưa về nhà trước, rồi nhảy lên ngựa mà nói to lên rằng:

– Lưu Cao! Ngươi là một ông quan văn Tri Trại ở đây, sao nỡ đãi Hoa Vinh như thế? Nhà ai không có bà con thân thích, ngươi nỡ lòng nào mà bắt biểu huynh ta, đem về nhà mà vu rằng trộm cướp cho đành? Để nay mai ta sẽ nói chuyện với ngươi.

Nói đoạn dẫn chúng về trại, để trông nom phục thị Tống Giang.

Máu nóng đã chan lò chí khí

Gan già chi ngại lúc gian truân!

Biết chăng hỡi khách hồng quần,

Oán kia sao để đền ân cho đành?

Bấy giờ Lưu Cao thấy Hoa Vinh cứu người đem đi rồi, liền âm ọe ra công đường, điểm lấy hai trăm người sang trại Hoa Vinh để cướp lại.

Bọn hai trăm quân lính đó, có hai người làm giáo đầu, một người võ nghệ khá sắc sảo tinh nhanh, song không đọ nổi với Hoa Vinh kia được. Khi chúng được lệnh của Lưu Cao, thìtrong lòng đã có ý ngần ngại, nhưng mà lệnh trên bắt buộc, không thể từ nan, đành phải chỉnh đốn cung thương, mà kéo sang Hoa Trại.

Sáng sớm hôm ấy, chúng kéo nhau sang đến cửa trại, thấy cửa vẫn mở toang không đóng, chúng đều kinh sợ, không anh nào dám cả gan mà sấn đi vào trước.

Bấy giờ Hoa Vinh ngồi trong nhà sảnh, thấy chúng đứng đông nghịt cả ngoài cửa, bèn lấy cung tên giơ lên mà quát to bảo chúng rằng:

– Bớ quân sĩ các ngươi, oan có đầu mà nợ thì có chủ. Nay Lưu Cao sai các ngươi đến đây, toan để báo thù cho hắn, song ta e hai viên Giáo đầu mới đến, chưa biết võ nghệ của Hoa Vinh, vậy ta hãy bắn mấy mũi tên, cho các anh coi thử…Nếu không sợ thì cứ vào đây mà rửa mặt Lưu Cao. Trông…mũi tên này ta bắn vào cái quả nắm ở đầu thanh phạng của Môn thần bên tả đây.

Hoa Vinh nói dứt lời, rồi bắn đến tách một cái, chính đúng vào đầu phạng Môn thần bên tả. Hai trăm người trông thấy, đều kinh sợ thất thần. Hoa Vinh lại lấy mũi tên thứ hai, rồi quát bảo chúng rằng:

– Chúng bây xem mũi tên thứ hai này ta bắn vào cái mào đỏ mũ Môn thần bên hữu đây.

Nói đoạn, thấy đánh tạch một tiếng; mũi tên đã cắm vào giữa mào đỏ ở giữa mũ Môn thần bên hữu, không trệch đi một ly nào.

Bấy giờ hai mũi tên ấy vẫn dán ở trên cánh cửa, Hoa Vinh lại lấy ra một múi tên thứ ba, rồi quát lên rằng:

– Bây trông mũi này ta bắn vào giữa bụng tên Giáo đầu mặc áo trắng trong đám quân đó.

Viên Giáo đầu kia nghe tiếng thì kêu lên, rồi ngoắt mình chạy trước còn đám quân lính thì ồ nhau mà té chạy hết cả.

Bấy giờ Hoa Vinh sai đóng cửa trại lại, rồi trở vào nhà trong nói chuyện với Tống Giang, rằng:

– Việc này thực là lỗi tại tiểu đệ, vì sơ ý một chút, để đến nỗi huynh trưởng phải chịu những khổ nhục như vậy, xin huynh trưởng tha trong lỗi cho.

Tống Giang đáp rằng:

– Tôi đây có quản chi những điều ấy, duy Lưu Cao tất còn sinh sự chưa thôi, vậy anh em ta phải nghĩ cách phòng bị thế nào thì mới được.

Hoa Vinh nói:

– Có thế nữa thì tiểu đệ xin liền bỏ chức quan này mà liệu cho nó một mẻ là xong.

Tống Giang thở dài mà rằng:

– Ai ngờ con vợ nó lại nỡ lòng đem oán trả ân, xui chồng đánh bắt, làm nhục đến mình như vậy. Tôi đã toan nói rõ tên họ, lại e tiết lộ việc Diêm Bà Tích, nên phải nói dối là Trương Tam ở huyện Vận Thành. Dè đâu Lưu Cao lại đem lòng tàn nhẫn cho tôi là Hổ Trương Tam ở Vận Thành, đến làm giặc ở núi Thanh Sơn, và toan đóng xe tù để giải. Nay nếu không có hiền đệ cứu cho, thì dẫu lưỡi sắt môi đồng cũng không thể nào biện bạch phân minh ra được.

– Nguyên trước tiểu đệ tưởng anh ta là người biết chữ, thì tất nhiên thương người cùng họ. Dè đâu hắn lại xử bạc tình đến thế! Hay cho nhân tình thế cố, lắm nỗi buồn tênh, nghĩ đến bao nhiêu, lại càng thêm căm tức.

Tống Giang cười nhạt mà rằng:

– Hiền đệ còn nói chi hai chữ tình nghĩa ở đời vậy, cho thêm bận lòng, bây giờ hắn đã bị hiền đệ công nhiên đến cướp lấy người về, rồi sai đám quân lính đến đây, lại sợ kinh chạy tán, thì tất nhiên phải tư giấy đi các nơi, để sinh sự với ta, vậy ta phải liệu trước thế nào mà lánh thân mới được. Tôi định rằng chiều nay tôi phải chạy về núi Thanh Phong, còn hiền đệ ở đây với hắn dù khi có xẩy việc thì bất quá cho là đôi bên văn võ bất hòa, cũng không khi nào đến tội. Nhược bằng tôi còn vất vưởng ở đây, nhỡ ra bị nó bắt một lần nữa, thì khó lòng mà phân thuyết cho ra…Hiền đệ nghĩ sao?

Hoa Vinh nghĩ ngợi hồi lâu, rồi đáp rằng:

– Huynh trưởng là bậc cao minh, nghĩ vậy rất là phải lắm, song hiện nay còn đương đau đớn như vậy, thì đi làm sao được?

– Đành vậy, việc gấp đến nơi, dẫu thế nào không đi cũng không được.. Hiền đệ để mặc tôi đi mới xong.

Hoa Vinh nghe nói, cũng không dám cưỡng lời, liền sai mua thuốc cao cho Tống Giang dán vào các chỗ đau, và sắp sửa các đồ hành lý, để tối hôm ấy Tống Giang cất lẻn về núi Thanh Phong.

Đêm khuya một bước ngại ngùng,

Thói đời lạnh ngắt lửa lòng nóng ran!

Trông vời khói hợp mây tan,

Thân này nợ với giang san thế nào?

Lưu Cao từ khi thấy quân lính tan nát chạy về, ai nấy đều kinh sợ cái oai thế hùng dũng của Hoa Vinh, thì trong lòng lấy làm căm tức, liền nghĩ ra một kế, mà tự nói một mình rằng: “Hoa Vinh đã cướp được tên giặc ấy về, tất nhiên đêm nay cho trốn trên núi Thanh Phong, rồi sáng mai sẽ tranh biện với ta…dẫu cho đến tai quan trên, thì chẳng qua hai bên văn võ bất hòa, cũng không làm gì được hắn. Vậy đêm nay ta phải sai vài ba mươi tên phục sẵn bên ngoài năm dặm đường để đón. May ra mà vớ được thằng giặc ấy, thì ta sẽ lẳng lặng, cho người lên báo với châu phủ, để về bắt cả Hoa Vinh, mà kết quả nó đi một thể bấy giờ toàn trại Thanh Phong sẽ thuộc về ta cai trị, không còn đứa nào dám ho he láo xấc với ta!” Chàng nghĩ đoạn, liền gọi hơi hai mươi tên lính, sắp sẵn các đồ khí giới mà dặn dò cẩn thận, để đến tối đi bắt Tống Giang. Vào khoảng canh hai tối hôm ấy, quả nhiên thấy quân lính bắt trói Tống Giang đem về Lưu Cao cả mừng lấy làm đắc sách, liền sai đem Tống Giang giam vào nhà sau, giữ kín không cho ai biết, và nhất diện thảo công văn cho hai tên tâm phúc, lên báo với quan Tri Phủ Thanh Châu.

Quan Phủ Thanh Châu, họ Mộ Dung, tên là Ngạn Đạt, tức là anh nàng Quý Phi vợ vua Huy Tôn nhà Tống bấy giờ, sinh bình cậy thế em gái ngang dọc ở đất Thanh Châu, tàn hại lương dân, lừa dối liêu hữu, không một điều chi là kiêng nể không làm, hôm đó đương ngồi coi hầu, bỗng tiếp được công văn của Lưu Tri Trại đưa đến, Tri Phủ xem xong lấy làm kinh ngạc mà rằng:

– Hoa Vinh là con cháu công thần, có sao dám thông đồng với cường tặc ở núi Thanh Phong như vậy? Việc này chưa biết hư thực ra sao, song ta cắt người qua đó xem xét hư thực mới được.

Nói đoạn liền cho gọi Đô Giám bản châu đến để sai đi.Đô Giám này tên là Hoàng Tín, võ nghệ cao cường, đã từng nổi tiếng ở đất Thanh Châu. Trong địa hạt Thanh Châu có ba chốn ác sơn, một là núi Thanh Phong, hai là núi Nhị Long, ba là núi Đào Hoa, đều có giặc cướp tụ họp ở đó, Hoàng Tín thường tự phụ, có phen trừ hết giặc cướp ở ba núi mới nghe, nhân thế người ta đặt tên cho Trấn Tam Sơn Hoàng Tín.

Bấy giờ Hoàng Tín vâng lệnh Tri Phủ, liền chọn lấy năm mươi tên lính sắp sửa mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, tay cầm đôi thanh kiếm, mà kéo quân mau tới Thanh Phong. Khi tới nơi, Tri Trại là Lưu Cao đón tiếp, mới vào nhà trong, mở tiệc thiết đãi Hoàng Tín, khao thưởng các hàng quân lính, và nhất diện sai bắt Tống Giang ra cho Hoàng Tín xem.

Hoàng Tín xem xong bảo với Lưu Cao rằng:

– Thằng này bất tất phải hỏi lôi thôi làm gì,cứ đóng ngay xe tù bỏ nó vào đó, rồi viết chữ vào lá cờ là tên đầu cướp Hổ Trương Tam ở núi Thanh Phong mà giải đi cho rảnh.

Tống Giang nghe vậy, đành mặc cho họ xử trí, không cãi nói vào đâu được nữa, Hoàng Tín lại hỏi Lưu Cao rằng:

– Khi bắt được tên Trương Tam này, Hoa Vinh có biết hay không?

Lưu Cao đáp rằng:

– Tiểu quan bắt được từ đêm hôm qua, liền đem giấu ngay vào nhà trong, có lẽ Hoa Vinh vẫn tưởng là nó trốn thoát được rồi, nên không thấy động tĩnh chi cả.

– Nếu vậy thì hay lắm! Sáng mai cứ cho bày tiệc ở công đường, và sai bốn mươi người nấp quanh ở đó, rồi tôi đi đến trại Hoa Vinh nói dối là quan phủ Mộ Dung nghe thấy hai bên văn võ bất hòa, nên cho tôi về đây, mời sang Văn Trại để uống rượu, mà xếp dàn cho im chuyện. Khi sang đến đấy phải dặn quân lính trước, cứ nghe hiệu tôi đập chén thì đổ xô ra trói lại, rồi giải lên phủ một thể, như thế phỏng có được không? Lưu Cao cả mừng khen rằng:

– Kế sách của tướng công thực là thần diệu, khác gì bắt ba ba trong hũ, còn trốn đi đâu cho thoát được!

Sáng hôm sau Lưu Cao sai người làm tiệc, bày dọn ra ngoài công đường, gọi mấy chục tên lính, cho nấp kín ở chung quanh, rồi đến gần trưa thì Hoàng Tín cưỡi ngựa dẫn vài ba người hầu đi sang bên trại Hoa Vinh. Khi tới nơi, bọn quân lính báo cho Hoa Vinh biết. Hoa Vinh hỏi chúng rằng:

– Hoàng Tín đến đó, có nói là việc chi không?

Quân lính đáp rằng:

– Hoàng Đô Giám chỉ nói là đến thăm ngài, chứ không có việc gì cả.

Hoa Vinh nghe vậy, liền ra cửa đón tiếp mời vào ngồi chơi trong sảnh mà hỏi rằng:

– Dám thưa Đô Giám, chẳng hay tướng công qua đây chơi có việc gì?

Hoàng Tín đáp rằng:

– Hạ Quan nay vâng lệnh Tri Phủ, đến đây: Vì nghe nói hai ngài không được hòa thuận với nhau, quan phủ chỉ e các ngài vì nỗi tư thù, mà làm lỡ mất việc công, nên phải sai tôi đem dê rượu đến đây để cùng các ngài phân giải. Hiện giơ đã bày sẵn sàng ở bên Công Đường Văn trại, vậy xin ngài cùng lên ngựa đến đấy ngay cho.

– Hoa Vinh tôi, đâu dám khinh rẻ Lưu Cao, chẳng qua ông ta là một ông quan chính, thường hay tìm bới những sự lỗi lầm của Hoa Vinh, dè đâu đến tai quan trên như thế. Nay lại phiền cho Đô Giám đến đây, quan trên như thễ. Nay lại phiền cho Đô Giám đến đây, thực chúng tôi không biết lấy gì mà trả ơn cho được.

Hoàng Tín ra mặt thân mật, ghé vào tai Hoa Vinh sẽ nói nhỏ rằng:

– Quan Phủ vốn biết túc hạ là người tài đảm, hữu dụng trong lúc can qua, chứ như lão kia là văn quan, thì có làm gì được! Nay ngài cứ đi ngay cho. Nói xong lại thúc giục Hoa Vinh mau mau đứng dậy cùng đi. Hoa Vinh giữ lại, uống chơi vài chén rượu, Hoàng Tín gạt đi mà rằng:

– Để khi giảng giải xong rồi, ta uống rượu cho thỏa chí với nhau, ngại gì?

Hoa Vinh phải vâng lời, lập tức sai người đóng ngựa đóng cương cùng Hoàng Tín ra đi. Khi tới văn trại hai người cùng xuống ngựa Hoàng Tín dắt tay Hoa Vinh đi vào công đường, cùng Lưu Cao thi lễ, rồi ba người ngồi vào bàn dự tiệc. Bấy giờ lính tráng đã dắt ngựa của Hoa Vinh buộc ra sau trại, và cài cửa trước cửa sau rất là cẩn thận. Hoa Vinh ngồi trong tiệc rượu, tự nghĩ Hoàng Tín đối với mình cùng là hàng quan võ, thì tất nhiên thành thực với nhau, mà không nghĩ ngại điều chi, cho nên cứ phóng tâm uống rượu, Hoàng Tín nâng một chén rượu mời Lưu Cao mà rằng:

– Quan Phủ nghe nói hai ngài không được thỏa thuận với nhau, ngày nay sai Hoàng Tín qua đây, là cốt để vì các ngài mà dàn xếp cho yên, từ nay xin các ngài phải lấy quốc gia làm trọng, có công việc gì, lại bàn định với nhau mà thi hành cho thỏa thích.

Lưu Cao đáp rằng:

– Lưu Cao tôi là một kẻ bất tài, song cũng biết được đường kia lẽ nọ, có dám kêu cựa điều chi, cái đó chẳng qua là người ta thêm đặt nói càn, làm phiền đến Tri Phủ cùng tướng công đây, thực chúng tôi lấy làm cảm động vô hạn.

Hoàng Tín cười rằng:

– Nếu ngài giữ được như vậy, thì còn gì hơn nữa.

Đoạn rồi lại rót chén rượu thứ hai đưa cho Hoa Vinh mà khuyên rằng:

– Cứ theo như lời Lưu Tri Trại nói: Thì điều đó chẳng qua thêm đặt bởi người ngoài, chứ các ngài có đâu như thế? Vậy xin ngài uống chén rượu này để thỏa thuận cho vui.

Lưu Cao lại rót một chén mời Hoàng Tín mà rằng:

– Vì việc chúng tôi mà phiền đến Đô Giám tới đây,vậy một chén rượu này xin ngài cúi nhận uống cho.

Hoàng Tín cảm ơn, đỡ lấy chén rượu cầm ở tay, liếc trông ra thấy mười mấy tên lính đi vào công đường, chàng liền vứt ngay chén xuống đất để ra hiệu. Bấy giờ bốn tên công đường bỗng ồn ồn có đến bốn năm mươi tên đổ xô ra mà túm lấy Hoa Vinh, Hoàng Tín quát lên rằng:

– Trói nó lại.

Hoa Vinh thấy thế liền kinh ngạc kêu lên rằng:

– Tôi có tội gì…Tôi có tội gì?

Hoàng Tín cười nhạt, rồi quát mắng rằng:

– Lại còn chối hay sao? Người là một quan chức dám kết thông với giặc Thanh Phong để toan mưu phản triều đình như thế phỏng đáng tội gì? Ta đây còn nghĩ đến tình diện khi trước, nên không muốn bắt cả vợ con nhà ngươi đó thôi.

Hoa Vinh cãi lại rằng:

– Làm cướp phải có chứng cớ mới được chứ?

Hoàng Tín nói:

– Để ta đem chứng cớ đoan đích cho mà xem, không còn kêu ca gì nữa…Chúng đâu? Đem ra đây.

Nói đoạn thì thấy quân lính đẩy một cỗ xe tù, thấy Tống Giang nằm co ở trong xe đó. Hoa Vinh thấy vậy giật mình đờ hẳn người ra, mà không biết nói làm sao được nữa.

Hoàng Tín lại nói:

– Cái đó ta có biết đâu, hiện có người nguyên cáo là Lưu Cao đây.

Hoa Vinh cười nhạt mà rằng:

– Được lắm! Người ấy chính là người thân quyến của ta ở huyện Vận Thành đến chơi, các ngươi lại muốn vu cho là ăn cướp cũng được. Để khi giải đến Thượng Ty ta đã có cách.

Hoàng Tín cười mà rằng:

– Phải, tôi giải bác lên phủ, rồi bác lên đấy mà kêu.

Nói đoạn, quay ra bảo Lưu Cao điểm lấy một trăm lính trại để đi, và đem xe tù ra để giam Hoa Vinh mà hộ tống giải phủ.

Hoa Vinh nói với Hoàng Tín rằng:

– Đô Giám đánh lừa tôi đến đây, dù sao công việc thế nào đã có triều đình xử trị, song cũng nên nghĩ lại tôi đây là một chức võ quan mà tha cho, đừng bắt phải bỏ xiêm áo, cứ để tôi ngồi vào xe tù cũng được.

Hoàng Tín nói:

– Cái đó thì được, xin vâng.

Nói xong liền cho Hoa Vinh ngồi vào xe tù, rồi gọi Lưu Tri Trại sắp sửa để cùng đi áp giải lên phủ, mà không cho hại đến tính mạng tội nhân.

Mới hay:

Cơ trời họa phúc xưa nay,

Trong gang tấc đã đổi thay mấy lần,

Hễ ai biết mẹo hồng quân,

Chữ Tài chữ Lụy xoay vần làm sao?

Dấu thân trong cuộc ba đào?

Khoe đời xem xét thế nào cho tinh?

Lạ chi đen bạc thế tình,

Lỡ khi oan nghiệt đếm mình kêu ai?

Lời bàn của Thánh Thán:

Nhà văn có bút pháp, gọi là theo cành tiếp lá, mỗi lần diễn tả phải khác nhau ra, song le tự sự cho thanh khiết, dùng bút cho minh nhã, cũng không thể coi thường, vì như đạo chơi non núi, dạo qua một cảnh núi, lại hỏi thăm một cảnh núi, lúc bấy giờ, dạo qua lối tắt tiểu kiểu với những cảnh bờ cong bãi cát, dòng nước lượn quanh…chợt đâu núi trước chưa hồn vía vừa định, thì núi sau đã tới tai mắt lại để vào tuy rằng trong gian lắm nỗi bực mình, song chẳng phải là không thỏa ý, nay dạo chơi qua một cầu, một nước, một bãi, một bờ…quang cảnh đã thú, huống chi cả bảy mươi hồi chuyện, đều chép ra như vẽ bao nhiêu quanh cảnh khác nhau. Đây ý nói của Bình giả, xét thấy một hồi này tả ra cảnh ngộ Tống Giang lâm nạn ly kỳ ở trại Thanh Phong, vì một Lưu Cao, liên đới Hoa Vinh, cũng chỉ vì Tống Giang lánh nạn kia, lại gặp nạn này, theo bút pháp tả ra gọi là theo cành tiếp lá, thấy ở một hồ này vậy.

Tác giả tả Hoa Vinh rất là văn tú, đối với hảo hán, đối với đồng liêu thấy hơn hẳn người, sau chuyện Võ Tòng, ít có một người như thế xứng đáng Hổ thần Nho Tướng, chia ra hai phần, họp lại toàn bích vậy.

Hồi 33: Đường Thanh Châu, Trấn Tam Sơn ra sức – Núi Thanh Phong, Tịch Lịch Hỏa mắc mưu

Bấy giờ Lưu Tri Trại mình mặc áo nhung phục, tay cầm quân khí, cưỡi lên mình ngựa, cùng với Hoàng Tín, dẫn hơn một trăm quân, đao gươm sáng quắc, chiêng trống vang lừng, đi ra cổng trại mà áp tải Hoa Vinh và Tống Giang, trông chừng thẳng nẻo Thanh Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, gần đến một khu rừng kia, bỗng thấy đám lính đi trước bảo nhau rằng:

– Phía rừng trước mặt có người nom dòm, ta hãy đứng dừng lại.

Nói xong liền đứng dừng lại cả. Hoàng Tín thấy vậy, ngồi trên mình ngựa mà bảo rằng:

– Sao đương đi lại đứng dừng như thế?

Chúng bẩm rằng:

– Phía trước có người thám thính chi đó.

Hoàng Tín quát lên rằng:

– Mặc xác nó, cứ đi đi. Dần dần đi gần tới khu rừng trước mặt, thì bỗng nghe có tiếng thanh la khua gỡ vang lừng, quân chúng ai nấy đều kinh sợ hoang mang, phải cố công ra sức mà chạy.

Hoàng Tín thấy vậy, quát chúng đứng lại sắp hàng ra trước mặt, rồi bảo Lưu Cao coi áp lấy xe tù. Lưu Cao ngồi trên mình ngựa, cố hết sức mà không sao cất mồm vâng lên được, trong miệng chỉ lẩm bẩm khấn rằng:

– Nam mô cứu khổ cứu nạn thiên tôn…ối trời ơi! Mười vạn quyển kinh, ba mươi đàn tiếu, cứu vớt cho tôi…

Chàng vừa khấn, vừa run sợ sắc mặt biến hẳn, khi vàng khi xanh như người mất máu. Duy Hoàng Tín là một tay võ quan xuất thân, nên vẫn bền gan vững dạ, vỗ ngựa xông đến để xem.

Khi gần tới nơi, thấy có bốn năm trăm tiểu lâu la, người to sức khỏe mặt mũi dữ tợn, đầu bít khăn hồng mình mặc áo ngắn, lưng đeo gươm sáng, tay cầm giáo dài, chia bốn ngả vây bọc lấy bọn quân quan. Đoạn rồi có ba hảo hán ở trong rừng xông ra, một người mặc áo xanh, một người mặc áo tím, và một người mặc áo hồng, đều đầu đội khăn chữ Vạn, tay vác thanh đao, cùng trổ ra ngăn đón đường đi.

Người đi giữa là Cầm Mao Hổ Yến Thuận, người đi cạnh là Nụy Cước Hổ Vương Anh, và người đi cánh dưới là Bạch Diện Lang Quan Trịnh Thiên Thọ ba người cùng quát lên rằng:

– Ai đi qua đó, phải đứng dừng lại nộp ba nghìn quan tiền thuế đường đây, rồi mới được đi.

Hoàng Tín ngồi trên mình ngựa thét mắng rằng:

– Các anh không được vô lễ thế, Trấn Tam Sơn ở đây có biết không?

Ba anh hảo hán lại trừng mắt mà quát lên rằng:

– Anh là Trấn Vạn Sơn cũng phải để ba nghìn quan tiền lại đây, bằng không thì chúng ta không buông tha cho đi. Hoàng Tín đáp rằng:

– Ta là Đô Giám đi việc quan làm gì có tiền mà cho các ngươi?

Ba chàng kia cả cười mà rằng:

– Đô Giám thì làm gì? Đến ngay Hoàng Đế qua đây, cũng phải nộp ba nghìn quan mới được. Nếu không có thì lưu mấy người lại đây, rồi sau đem tiền đến chuộc.

Hoàng Tín nghe nói nổi giận đùng đùng mắng rằng:

– Quân cường tặc này vô lễ quá… ?

Nói xong quát tả hữu nổi trống chiêng vỗ ngựa múa gươm xông ra đánh Yến Thuận. Bên kia ba vị hảo hán đều múa đao xông vào cự địch. Hoàng Tín ngồi trên mình ngựa, hết sức đánh đỡ được hơn mười hiệp, thì nghe chừng sức kém, khó lòng mà địch nổi ba người. Đằng kia Lưu Cao vẫn run cầm cập, đứng ra nhìn lại thấy địa thế như vậy, thì chỉ chực thừa cơ mà chạy thoát thân. Sau Hoàng Tín thấy thế ba người hăng hái, sợ khi lỡ ra mình lại bị bắt thì tất nhiên giảm mất uy danh, liền ngoắt cương ngựa quay về lối sau để chạy. Ba anh hảo hán thấy vậy cùng nhau gắng sức đuổi theo. Hoàng Tín không kịp nom đến quân lính, ra roi hết sức mà chạy tháo một mình về tót ngay Trấn Thanh Phong.

Quân lính trông trước sau không thấy Hoàng Tín đâu nữa, liền reo hò ầm ĩ, bỏ cả xe tù mà kéo nhau chạy hết.

Bấy giờ còn trơ một mình Lưu Cao, thấy nguy cấp tới nơi, vội vàng quất ngựa ra roi cũng toan chạy mau cho thoát. Dè đâu mới chạy được mấy bước, thì bỗng bị đám lâu la giật giây chăng dưới mặt đất, làm cho con ngựa ngã gục xuống, mà bắn hẳn Lưu Cao ra ngoài. Bọn lâu la kéo nhau vào bắt trói Lưu Cao, rồi cướp lấy xe tù mở ra để cứu. Khi đó Hoa Vinh đã đạp phá xe tù của mình, nhẩy bổ ra ngoài giựt đứt các giây trói ở tay, rồi phá tan xe tù kia để đón Tống Giang ra. Bọn lâu la bóc lột quần áo của Lưu Cao đưa cho Tống Giang mặc rồi cướp lấy con ngựa của Lưu Cao,và ba cỗ ngựa đóng xe, mà đưa Tống Giang về trước. Đoạn rồi ba tay hảo hán cùng Hoa Vinh và mấy tên tiểu lâu la trói trần truồng Lưu Cao mà áp giải lên sơn trại.

Nguyên sau khi ba vị hảo hán ở núi Thanh Phong đã từ biệt Tống Giang thì trong lòng lấy làm áy náy không yên, bèn sai mấy tên lâu la tinh thạo, đi đến trấn Thanh Phong để dò xem tin tức.Sau khi nghe biết Hoàng Tín cùng Lưu Cao đã bắt cả Hoa Vinh cùng Tống Giang mà đóng xe tù giải lên quan phủ. Nhân thế ba tay hảo hán phải ra công gắng sức, đem tiểu lâu la chận đánh giữa đường, mà cứu hai người về trại.

Hôm đó vào khoảng canh hai, kéo nhau về đến sơn trại, vào tụ nghĩa sảnh, ba người mời Tống Giang và Hoa Vinh ngồi giữa, rồi sai dọn rượu lên cùng ngồi tiếp đãi, và cho phép đám tiểu lâu la cùng đi đánh chén với nhau. Bấy giờ Hoa Vinh cảm tạ ba tay hảo hán mà nói rằng:

– Hoa Vinh cùng ca ca tôi, nhờ được ba tay hảo hán vừa cứu cho, thực là ân sâu nghĩa nặng, chúng tôi xin khắc cốt minh tâm, để sau này báo đáp. Duy Hoa Vinh tôi có vợ và em gái ở trại Thanh Phong tất nhiên là bị Hoàng Tín bắt bớ lôi thôi, vậy nay có phương kế nào mà cứu ra cho được?

Yến Thuận đáp rằng:

– Xin Tri Trại cứ vững tâm, chắc rằng Hoàng Tín cũng không khi nào dám bắt cung nhân, mà nếu có nỡ lòng quyết bắt thì tất nhiên cũng phải đem qua lối này, chứ không đi đâu thoát được. Đến sáng mai ba anh em tôi xin xuống núi một phen để đón cung nhân và lệnh muội về đây một thể.

Nói đoạn liền gọi tiểu lâu la sai đi trước để dò thăm tin tức. Hoa Vinh nghe nói liền đứng dậy tạ ơn Yến Thuận, Tống Giang bảo với Yến Thuận rằng:

– Xin hiền đệ truyền giải Lưu Cao lên đây cho.

Yến Thuận vâng lời, sai lâu la trói Lưu Cao vào cột nhà ròi nói với Tống Giang rằng:

– Xin moi lấy ruột gan quân tàn ác ấy để mừng cho ca ca. Hoa Vinh nói:

– Để đó, tôi hạ thủ cho mới được.

Tống Giang trỏ mặt Lưu Cao mà nói rằng:

– Quân tàn ác bất nhân kia, ta với ngươi xưa nay có can thiệp thù oán gì nhau, ngươi nỡ nào nghe một đứa đàn bà vong ân bội nghĩa mà hại đến ta… ?

Hoa Vinh đứng dậy nói lên rằng:

– Ca ca hỏi làm gì những giống khốn nạn ấy cho nó bận mồm.

Nói đoạn liền mang dao ra rạch lấy ruột Lưu Cao đem vào để trước mặt Tống Giang, rồi sai lâu la vứt xác vào một xó.

Dao oan liếc đá giang hồ,

Từ nay bội bạc ngoan ngu hết hồn?

Bấy giờ Tống Giang nói với mọi người rằng:

– Ngày nay tuy đã giết được đứa thất phu đê mạt ấy, song còn con mụ đàn bà khốn nạn kia, ta cũng không thể nào mà tha cho được.

Vương Anh đáp luôn rằng:

– Sáng mai tôi xin đi bắt về đây, tất phen này về tay tôi hẳn.

Chúng nghe nói ai nấy đều ôm bụng cả cười. Đoạn rồi ăn uống vui cười mãi đến đêm khuya mới nghỉ.

Sáng hôm sau cùng nhau bàn định đi đánh trại Thanh Phong, Yến Thuận nói với mọi người rằng:

– Hôm qua bọn lâu la đều bị khó nhọc suốt ngày,hãy xin tạm cho nghỉ một hôm, rồi sáng mai sẽ đi sớm cũng được

Tống Giang cùng mọi người đều khen phải, liền cho tụi lâu la chơi nghỉ một hôm, để ngày hôm sau đi đánh trại.

Nói về Hoàng Tín, một mình chạy trốn về trại Thanh Phong, bèn kiểm điểm binh mã canh giữ bốn mặt cửa trại, rồi thảo công văn giải bầy sự nguy cấp: “Hoa Vinh liên kết với giặc núi Thanh Phong, trại Thanh Phong sớm hôm nguy cấp”, để báo với Tri Phủ Mộ dung và xin sai lương tướng mau mau trừ liễu cho xong.

Quan Tri Phủ Mộ Dung tiếp được công văn phi báo khẩn cấp về việc quân tình, lại lấy làm cả kinh liền lập tức sai gọi Thanh Châu chỉ huy Tổng quản binh mã là Tần Thống chế, để bàn định việc quân.

Người này họ Tần tên Minh, quê ở Khai Châu Sơn Hậu tính nóng nảy, tiếng to như sấm, người ta thường gọi là Tịch Lịch Hỏa Tần Minh vốn nhà dòng dõi võ quan. Khiến cây gậy lang nha (nanh con lang) sức khỏe muôn người khôn địch. Bấy giờ Tần Minh nghe lịch Tri Phủ cho mời, bèn vội vàng vào nha thương nghị. Quan Phủ Mộ Dung đưa giấy phi báo của Hoàng Tín cho Tần Thống Chế xem.

Thống Chế xem xong cả giận nói rằng:

– Thằng trẻ con đỏ đầu dám vô lễ đến thế thì thôi! Việc này ngài không cần phải lo nghĩ, tôi xin đem quân mã đi ngay, nếu không băt được giặc, xin thề không trông thấy ngài nữa.

– Nếu tướng quân chậm trễ một chút, thì e sợ khi họ đến đánh trại Thanh Phong nguy mất.

– Khi nào dám chậm trễ, đêm nay tôi xin điểm lấy binh mã; rồi sáng sớm mai phải đi ngay mới được.

Quan Phủ nghe nói cả mừng, liền truyền lịnh sắp sẵn các thức rượu thịt cùng lương khô, đem để ra ngoài thành khao thưởng quân sĩ. Khi đó Tần Minh nghe nói Hoa Vinh làm phản, thì trong bụng sôi nổi giận dữ, bèn lên ngựa về dinh Chỉ Huy, điểm lấy một trăm quân mã, một trăm quân bộ, truyền cho ra thành dàn trận thế, để sắp sửa hành binh.

Quan phủ Mộ Dung đem người nhà ra một nơi tự viện ở ngoài thành, sai chưng bánh hâm rượu để đợi quân sĩ ra thành mà khao thưởng. Khi kéo quân ra tới cửa thành trước mặt viết một là cờ đỏ bảy chữ” Binh mã Tổng Đốc Tần Thống Chế” rất to, Tần Minh mặc áo nhưng phục, ngồi trên mình ngựa, quả nhiên là một bậc dũng tướng anh hùng.

Tần Minh dẫn quân mã đến gần tự viện, thấy Tri Phủ đứng đón ở đó. Liền vội vàng xuống ngựa để nghinh tiếp. Tri Phủ nâng chén rượu mà mời khuyên Tần Minh, và dặn dò cặn kẽ, chúc cho chóng được tấu khải trở về.

Khi khao thưởng quân sĩ đã xong, bèn nổi mấy tiếng súng hiệu, rồi Tần Minh từ giã Tri Phủ mà nhảy lên mình ngựa, dàn thành đội ngũ nghiêm trang mà kéo quân đến núi Thanh Phong.

Bọn tiểu lâu la ở trên núi biêt tin tức, liền phi báo các vị hảo hán. Bấy giờ các vị hảo hán đương sửa soạn đi đánh trại Thanh Phong bỗng nghe tin báo Tần Minh kéo quân đến đánh, thì ai nấy đều nhìn nhau không biết lấy kế sách gì để mà cự địch.

Hoa Vinh bảo với mọi người rằng:

– Việc này các ngài không không cần phải lo, xin cứ cho tiểu lâu la ăn uống no say, rồi tôi sẽ có kế sách để thi hành. Trước hết ta hãy chơi nhau bằng sức, rồi sau phải dùng mẹo mới xong. Xin cứ như thế này…như thế này…có được không?

Tống Giang vỗ tay khen rằng:

– Diệu kế…diệu kế…phải làm như thế mới được.

Nói đoạn, liền cùng với Hoa Vinh cắt đặt các việc, và sai đám tiểu lâu la phải phòng bị sẵn sàng, để thi hành kế sách.

Hoa Vinh chọn lấy con ngựa tốt, một bộ áo giáp dấy, cùng các đồ gươm giáo cung tên ra để nghinh địch.

Nói về Tần Minh khi dẫn quân đến địa phận núi Thanh Phong, liền hạ trại ở ngoài mươi dặm. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, quân sĩ trở dậy thổi cơm ăn thật sớm. Aên uống xong rồi, nổi súng hiệu, kéo quân ra chỗ rộng ở sát núi Thanh Phong, mà dàn thành trận thế. Bỗng đâu nghe thấy tiếng chuông trống vang trời, Tần Minh liền kim cương ngựa, đứng dừng lại, hoành ngang cây gậy lang nha, trợn mắt lên nhìn, thì thấy Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, dẫn một toán binh ngựa phi xuống núi.

Khi xuống đến chân núi. Hoa Vinh sai bày thành trận thế, rồi cầm giáo ngồi trên mình ngựa, quay mặt cúi chào Tần Minh.

Tần Minh giận dữ quát lên rằng:

– Người là một mệnh quan của Triều đình, vốn dòng cửa tướng xưa nay, triều đình sai ngươi giữ chức Tri Trại coi giữ một phương, lộc nước ơn vua, phỏng có điều gì tệ bạc? Lẽ nào ngươi dám liên kết với giặc cướp mà bội bạc lại triều đình như vậy. Nay ta đến đây bắt người đem về nộp với triều đình, ngươi có phải là biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói cho xong, chớ để ta bận đến chân tay thêm việc.

Hoa Vinh tươi cười đáp rằng:

– Dám bẩm Tổng Quản, như Hoa Vinh này có bao giờ dám mang tâm bội bạc triều đình, cho nặng…Cái đó chẳng qua là lão Lưu Cao lấy không làm có, đem việc công để trả thù riêng, khiến cho tôi có nhà như mất, có nước như không, bởi thế nên phải tạm đến lánh mình ở đây, xin Tổng Quản xét lại mà giải cứu cho.

Tần Minh không hỏi phải trái chi nữa, quát ngay lên rằng:

– Không xuống ngựa cho ta trói lại, còn đợi đến bao giờ? Ngươi đừng nói khéo để rối loạn quân tâm nữa?

Nói xong thét tả hữu khua trống, rồi múa gậy xông vào đánh Hoa Vinh, Hoa Vinh cả cười mà rằng:

– À! Té ra Tần Minh không hiểu lòng tốt của người ta! Ta đây nghĩ đến ngươi là một chức quan trên, nên mới khiêm nhượng như vậy… ngươi đã cho ta là sợ ngươi hay sao?

Nói đoạn múa giáo xông ra đánh Tần Minh. Đôi bên cự địch với nhau, có tới bốn năm mươi hiệp, chưa quyết được thua, Hoa Vinh lừa miếng phá đĩnh, rồi quay ngựa ra lối đường nhỏ ở dưới núi mà chạy.

Tần Minh cả giận phóng ngựa đuổi theo Hoa Vinh, Hoa Vinh cắp giáo vào nách, tay tả cầm cung, tay hữu tút một mũi tên đặt lên trên cung, rồi dừng ngựa giương cung mà quay mình lại bẵn một phát trúng ngay vào mũ Tần Minh. Tần Minh giật mình kinh sợ, không dám đuổi theo Hoa Vinh liền quay ngoắt lại toan đuổi đám lâu la để giết. Dè đâu, khi quay mình trở lại, thì chúng lâu la đã chạy trốn lên núi, mà bên kia Hoa Vinh cũng kéo về sơn trại cả rồi.

Tần Minh thấy vậy trong lòng càng lấy làm tức giận, liền quát quân chúng đánh trống khua chiêng mà kéo lên núi. Bấy giờ chúng reo hò ầm ĩ, rồi đám bộ binh xông lên núi trước. Khi qua được vài ba ngọn núi thì thấy các nơi hiểm yếu ở trên, đều có đá gỗ ầm ầm ném xuống, tụi bộ binh bị ném ngã có tới bốn năm mươi người, liền kinh sợ đổ xô xuống mà không dám lên nữa. Tần Minh lại càng sôi nổi giận dữ, bèn đem đám quân mã đi quanh dưới núi, để tìm đường tiến lên. Chúng tìm quanh quẩn mãi đến quá trưa, chợt nghe thấy phía bên tây có chiêng trống vang lừng rồi có một đội quân cờ đỏ ở trong đám cây rậm đi ra.

Tần Minh dẫn quân mã cố đuổi đến nơi, thì bỗng dưng chiêng đã im mà cờ đỏ cũng không thấy nữa. Nom đến chỗ đó, không phải là con đường lớn, chỉ có một lối nho nhỏ, mà giữa lối toàn là cây chặt để ngổn ngang ra đó, mà không sao đi được. Tần Minh vừa toan sai quân dọn lối để đi, thì có một tên lính báo rằng:

– Mạn núi bên kia đông có tiếng chiêng trống, và một toán quân cờ đỏ kéo ra.

Tần Minh nghe báo liền dẫn quân mã phi sang góc bên đông để đánh.

Khi sang tới nơi, lại thấy im phăng phắc, không thấy gì nữa, chàng lấy làm căm tức, phóng ngựa đi tìm khắp bốn chung quanh, thì toàn là cây gẫy cành nghiêng, không có đường lối nào mà đi cho được.

Bỗng lại thấy người đến báo rằng:

– Góc núi bên tây lại nghe thấy tiếng chiêng trống, lại một toán quân cờ đỏ kéo ra.

Tần Minh vội vàng phi ngựa sang góc bên tây, thì lại không thấy tăm hơi chi cả.

Tần Minh vừa tức giận, đương nghiến lợi nghiến răng, quanh co uất ức một mình, thì thấy phía đông, lại thấy cở trống nổi lên, chàng lại phải đem quân sang đuổi. Dè đâu sang đếnnơi lại im lặng như không vậy. Chàng ta tức nổ ruột gan, quát quân sĩ toan tìm đường để lên núi chợt đâu lại nghe tiếng chiêng trống ấm ĩ ở phía bên tây như thúc giục tới gần, làm chàng lại phải quay sang bên đó. Khi tới nơi lại không có gì, tìm khắp cả vẫn không đường lối tới trên núi cả.

Bấy giờ trong một đám quân sĩ nói với Tần Minh rằng:

– Quanh đây không có đường lớn, ta muốn đi lên thì sang mạn núi đông nam mới tìm ra lối. Nếu cứ quanh quẩn ở đây, thì không khéo lỡ ra nguy hiểm.

Tần Minh nghe vậy, vội truyền lệnh cho quân sĩ mau mau kéo về mạn núi đông nam. Khi tới dưới núi, thì trời đã gần tối, người ngựa đều mệt nhoài không đi được, bèn bảo nhau đóng trại để làm cơm.

Chợt đâu trông lên phía núi, đã thấy đèn đuốc sáng rực chiêng trống ầm ĩ cả lên, Tần Minh cả giận, lại phải kéo bốn năm mươi quân mã, mà đi lên núi,. Khi lên được mấy bước, bị tên đạn bẵn xuống như mưa, bị trúng thương mấy anh binh sĩ. Tần Minh lại phải rút quân trở xuống mà truyền cho làm cơm. Chúng vừa mới bắt đầu làm cơm, thì lại thấy có tám chín mươi bó lửa ở trên núi đi xuống. Tần Minh vội vàng toan dẫn quân đến, thì bỗng dưng lửa lại tắt rồi.

Đêm hôm đó tuy có mặt trăng song bị mây mờ che tối, nên đường đi cũng lờ mờ khó hiểu. Tần Minh căm tức quá chừng, liền sai quân lính lấy lửa ra đốt cháy những cây quanh.

Chợt thấy trên mỏm núi có tiếng sao thổi véo von, Tần Minh vội phóng ngựa lên xem, thì thấy có tới mười mấy bó lửa soi sáng góc núi, và Hoa Vinh đương tiếp rượu với Tống Giang ở đó.

Tần Minh thấy vậy, trong lòng căm tức bội phần, bèn đứng dừng ngựa ở dưới mà quát tháo mắng nhiếc Hoa Vinh.

Hoa Vinh ngồi trên cười mà nói rằng:

– Tần Thống Chế bất tất nóng nảy hãy lui về rồi sáng mai ta sẽ quyết một trận sống chết với nhà ngươi.

Tần Minh ầm ầm giận dữ quát lên rằng:

– Đồ phản tặc mày hãy xuống đây đối địch với ta vài ba trăm hợp rồi sẽ hay…

Hoa Vinh cười đáp rằng:

– Tần Tổng Quản, hôm nay ngươi đương mệt nhọc, dẫu ta có đánh được ngươi, cũng không lấy gì làm thích…Ngươi hãy cứ về ở dưới mà chưởi mắng ầm ĩ cả lên.

Đương khi mắng nhiếc om sòm thì chợt thấy quân mã của mình xôn xao rối loạn, Tần Minh vội vàng quay ngựa trở xuống núi để xem. Khi đó ở phía núi bên kia, có đạn lửa bắn xuống, đằng sau lưng có toán lâu la nấp trong đám tối bắn ra. Quân mã thấy vậy đều kinh sợ kêu thét, mà kéo nhau xuống khe cho thoát.

Bấy giờ vào khoảng canh ba, bọn quân mã đương nấp ở trong khe thì bỗng dưng có ngọn nước ở dòng trên chảy xuống, làm cho quân mã đều hốt hoảng hãi hùng, mà tranh nhau hết sức nhảy lên bờ, lại bị đám lâu la kia quăng dây móc ra, bắt sống mà mang lên núi, còn anh nào ở dưới khe, thì bị ngập tràn mà chết chìm cả ở đó.

Lúc đó Tần Minh lại càng tím ruột thâm gan trông trước trông sau, thấy có một con đường nhỏ đi lên trên núi, chàng liền xốc ngựa mà sồng sộc đi lên. Dè đâu vừa đi được bốn năm mươi bước, thì bỗng dưng cả người lẫn ngựa đều ngã lăn xuống hố. Đoạn rồi có bốn năm mươi tên lâu la ở đâu bổ ra, lột hết quần áo và quân khí của Tần Minh, rồi bảo nhau trói lại và dắt lấy cả ngựa, mà giải lên trên núi Thanh Phong.

Nguyên trước Hoa Vinh lập kế, sai mấy bọn tiểu lâu la, hoặc ở bên đông núi, hoặc ở bên tây núi, lần lượt kéo nhau mà dẫn dụ khiêu khích, khiến cho Tần Minh mỏi mệt khốn đốn, không sao được yên. Lại sai đem túi đất lấp hai bên dòng suối, đợi đến đêm khuya cố bức bách cho quân mã phải lẩn trốn xuống đó, rồi tháo nước đầu trên, cho bọn quân đắm đuối. Bởi vậy Tần Minh mang năm trăm quân mã, đã già nửa bị chết trong khe, còn hơn một trăm người, và bảy tám mươi cỗ ngựa bị bắt sống, mà không sót một ai là thoát thân về được. Bấy giờ trời đã gần sáng Hoa Vinh Tống Giang cùng ba vị đầu lĩnh đương ngồi trên Tụ Nghĩa Sảnh, thì thấy bọn lâu la giải Tần Minh vào. Hoa Vinh trông thấy vội vàng ở trên ghế nhảy xuống dưới thềm cởi trói cho Tần Minh, kéo lên trên sảnh rồi cúi đầu xuống lạy.

Tần Minh vội đỡ dậy mà nói rằng:

– Tôi đã bị bắt đến đây, chỉ có giết chết mà thôi, can chi mà xử như vậy?

Hoa Vinh qùy xuống mà đáp rằng:

– Bọn tiểu lâu la ngu dốt không biết, lỡ phạm đến tôn nhan, xin ngài tha tội ấy cho?

Nói đoạn, sai người lấy áo xiêm gấm vóc đưa cho Tần Minh mặc.

Tần Minh hỏi Hoa Vinh rằng:

– Vị hảo hán ngồi kia là ai? Xin cho tôi biết…

Hoa Vinh nói:

– Người ấy là anh em với tôi, họTống tên Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước, còn ba người đây là Yến Thuận, Vương Anh, Trương Thanh, làm chủ trại ở đây…

Tần Minh ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ba vị này tôi đã hiểu, song Áp Ty đây có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh đó chăng?

Tống Giang cung kính đáp rằng:

– Vâng, chính chúng tôi đây.

Tần Minh nghe nói, liên thụp lạy xuống đất mà nói rằng:

– Tôi được nghe tiếng nghĩa sĩ đã lâu, nay được gặp đây, thực thỏa lòng khát vọng.

Tống Giang cũng vội vàng cung kính mà đáp lễ lại.

Tần Minh thấy hai chân Tống Giang có vẻ đau đớn ngượng ngạo liền hỏi luôn rằng:

– Chăng hay chân ngài làm sao như thế?

Tống Giang đem chuyện từ khi xa lánh Vận Thành, cho đến khi Lưu Cao bắt đánh, thuật hết cho Tần Minh nghe.

Tần Minh nghe chuyện lắc đầu kêu rằng:

– Nếu cứ lời đằng kia nói, thì cơ hồ lỡ mất việc to! Việc này để tôi về bẩm với quan Phủ Mộ Dung mới được.

Bọn Yến Thuận bèn lưu Tần Minh ở lại rồi nhất diện sai giết dê lợn để thết đãi. Các quân sĩ bắt được, đều cho vào ở một phòng mà thưởng cho cơm rượu tử tế.

Khi uống Đô Đầu vào tuần rượu, Tần Minh vội đứng nói rằng:

– Nay được các vị hảo hán có lòng tốt, mà không giết hại Tần Minh; vậy xin trả lại các đồ mũ áo ngựa gậy, để Tần Minh xin trở về bản châu cho tiện.

Yến Thuận cười mà đáp rằng:

– Tổng Quản không nên cố chấp như vậy…Tổng Quản dẫn năm trăm quân mã đến đây, không còn sót một người nào, nay nếu trở về châu phủ, tất nhiên quan Phủ khó dung; Vậy chi bằng Tổng Quản hãy tạm ở đây, chia vàng xẻ áo cùng nhau định họat tự do, như thế chả hơn là ra luồn vào cúi càng thêm nhọc mệt hay sao?

Tần Minh nghe nói, đi thẳng xuống thềm mà đáp rằng:

– Tần Minh này sống làm người nhà Tống, chết làm ma nhà Tống, triều đình đã giao cho làm chức Tổng Quản; lại kiêm chức Thống chế Sứ Quan, xưa nay có điều chi phụ bạc với Tần Minh, mà Tần Minh nỡ đem lòng bội bạc cho đành? Các vị hảo hán định giết tôi, thì cứ giết đi cho rảnh.

Hoa Vinh vội vàng chạy xuống kéo tay Tần Minh mà can rằng:

– Xin huynh trưởng hãy khoan tâm, nghe tiểu đệ nói một câu này xem đã. Tôi nay cũng con nhà tước lộc của triều đình, chỉ bị người ta bức bách, mà phải tạm lánh đến đây; Còn như Tổng Quản ngài đã không bằng lòng làm nghề lạc thảo,thì cũng xin ngồi chơi cho trọn bữa cơm hôm nay, rồi tôi sẽ nộp trả các đồ quân khí cho ngài trở lại Thanh Châu.

Tần Minh khăng khăng một mực không nghe. Hoa Vinh lại tiếp luôn rằng:

– Mấy hôm nay Tổng Quản khó nhọc, dong duổi suốt cả đêm ngày, vậy xin để cho con ngựa ăn uống nghỉ ngơi, rồi sẽ trở về được, đi đâu mà phải vội!

Tần Minh nghe nói cũng có lý, bèn trở lại vào trong sảnh cùng ngồi uống rượu. Năn vị hảo hán luân lưu rót rượu để mời. Hôm đó Tần Minh vừa phần mệt nhọc la đà, vừa phần bị các hảo hán ân cần mời mọc, dần dần cũng phóng tâm uống rượu, cho tới khi rượu đã quá say, phải vực vào trong phòng để nghỉ. Tần Minh ngủ một giấc cho đến sáng hôm sáng hôm sau bầng mặt tỉnh dậy, vội vàng súc miệng rửa mặt, rồi tháo thứ xin phép trở về. Mấy vị hảo hán cố lòng cầm bắt giữ Tần Minh ở lại ăn bữa cơm sáng, rồi mới đem các đồ mũ giáo gươm ngựa mà trả lại. Tần Minh vâng lĩnh các đồ nhung khí, đội mũ mặc giáp cầm gậy lang nha, nhảy lên mình ngựa, rồi từ tạ mọi người mà đi xuống núi, trở về núi phu Thanh Châu.

Khi đi gần tới Thanh Châu, còn cách chừng hai mươi dặm đường, Tần Minh xa trông trong đám khói bụi, không thấy một người nào qua lại ở đó trong bụng đã lấy làm nghi ngại lạ lùng. Dần dần về tới trong thành thấy mấy trăm nóc nhà ở ngoài thành khi trước, đều bị cháy hại tồi tàn, chỉ còn trơ một đống gạch vụn tro thừa vất ngang tàng trên mặt đất. Quanh đó lại có số con trai con gái bị chết cháy không biết bao nhiêu mà kể.

Tần Minh thấy vậy cả kinh, bèn đánh ngựa qua đám tro tàn, mà thẳng tới thành gọi người mở cửa. Khi vào tới nơi, đã thấy đích kiều cất cao lên, mà hai bên cổng đều cắm cờ lên hiệu, bầy dàn các đồ binh khí dụ bị đánh giặc ở đó. Tần Minh dừng ngựa đứng ngoài kêu to lên rằng:

– Có ai trong thành, bỏ đích kiều xuống cho ta vào.

Trong thành nghe tiếng Tần Minh gọi, thì bỗng dưng nổi hiệu trống chiêng, mà hò reo ầm ĩ như là giặc đến bên thành vậy.

Tần Minh đứng bên ngoài kêu lên rằng:

– Ta là Tần Tổng Quản đây, quân, mau mở cửa cho ta vào.

Nói vừa dứt lời, thì thấy Mộ Dung Tri Phủ, trèo lên vọng canh ở thành mà quát lên rằng:

– Quân phản tặc kia! Bay không biết sỉ nhục, còn vác mặt đến đây, toan lừa ta mở cửa thành cho ngươi nữa hay sao?

Tần Minh ngạc nhiên kinh lạ mà hỏi rằng:

– Tần Minh này có điều chi, mà Tông Tổ nói như vậy.

Tri Phủ lại quát lên rằng:

– Có điều chi ngươi còn phải hỏi ta sao? Đêm hôm qua ngươi đêm quân đến đánh thành không được, sao lại đốt nhà đốt cửa làm hại muôn dân, hiện nay ta đã sớ tấu triều đình, chỉ đợi nay mai bắt được ngươi là xé thây ra làm muôn đoạn, thì mới cam tâm. Triều đình có phụ bạc gì ngươi mà ngươi nỡ bất nhân như vậy?

Tần Minh cũng lẫy làm ngạc nhiên mà đáp rằng:

– Tần Minh này thua thiệt mất cả quân mã, sau lại bị chúng bắt lên núi, đến giờ mới được thoát về đây…Đêm qua hà tằng có đánh thành bao giờ?

Tri Phủ quát lên rằng:

– Ta đây lại không được biết các đồ mũ giáp gậy ngựa của ngươi hay sao… ? Quân lính trên thành đây, không ai không trông thấy chính ngươi cưỡi ngựa cầm côn xông pha, trong đám lửa mà giết hại dân gian, ngươi còn chối sao cho được? Ừ, cho rằng ngươi có thua mà bị bắt nữa, thì năm trăm tên lính mang đi, lại không có một đứa nào trốn về báo được hay sao? Bây giờ định đánh lừa ta mở cổng thành, để ngươi vào cướp lấy vợ con mang đi…Nhưng phải biết rằng vợ con ngươi ta đã giết chết cả rồi, chỉ còn mấy cái thủ cấp đây kia, có xem thì bảo quân sĩ bêu lên, cho mà nom thấy.

Nói đoạn, sai quân sĩ đem bêu đầu vợ con Tần Minh lên cho xem. Tần Minh là một người nóng tính, khi trông thấy đầu vợ con bị chém chết, thì đùng đùng phẫn uất, không biết nói làm sao cho được.Bấy giờ trên thành bắn tên đạn như mưa. Tần Minh bất đắc dĩ phải quay mình chạy lánh ra ngoài. Khi nom ra thấy trên mặt đất ở ngoài thành, còn lốm đốm một vài nơi, chưa dứt khói lửa, chàng quanh đi quẩn lại nghĩ ngợi một mình, những muốn tìm nơi mà tự tử cho xong, hồi lâu chàng liền dóng cương ngựa mà lững thững đi theo con đươnøg khi trước.

Đi được mươi dặm đường, chợt thấy ở trong đám rừng cây trước mặt, có một tụi nhân mã đi ra, và có năm vị hảo hán đều cưỡi ngựa buông cương đi trước. Năm người ấy, tức là Tống Giang, Hoa Vinh, và ba anh em Yến Thuận, dẫn một toán hai ba trăm lâu la đến đó. Bấy giờ Tống Giang trông thấy Tần Minh, liên nghiêng mình cúi chào mà hỏi rằng:

– Sao Tổng Quản không trở lại phủ Thanh Châu mà một mình, một ngựa vơ vẩn, toan đi đâu bây giờ?

Tần Minh nghe hỏi, mặt hầm hầm đầy những nộ khí mà đáp rằng:

– Không biết thằng giặc cướp trời chu đất diệt nào nó ăn mặc giả mạo như tôi rồi đem quân về đánh thành, đốt hại nhà cửa của lương dân, làm vợ con tôi bị chết lây vì nó, khiến tôi đây cũng lên trời hết lối, xuống đất không đương, không biết làm sao cho được? Bây giờ nếu vớ được thằng ấy, thì thế nào cũng đánh cho nó một mẻ, gọi là gãy hết gậy mới thôi.

Tống Giang mỉm cười đáp rằng:

– Dám thưa Tổng Quản, tôi có câu chuyện này, song ở đây không tiện nói ra, vậy xin đón ngài hãy về qua sơn trại rồi sẽ bẩm rõ với ngài.

Tần Minh đương lúc phẫn uất vô liêu, bất đắc dĩ cũng phải nghe lời, mà theo năm người cùng thẳng dong về núi Thanh Phong. Khi về tới sơn trại, bọn tiểu lâu la đã sắp sẵn các thứ rượu chè ở trên Tụ Nghĩa Sảnh, để đợi. Năm vị hảo hán mời Tần Minh ngồi ở ghễ, rồi nhất tề quỳ xuống ở trước mặt Tần Minh. Tần Minh thấy thế cũng vội vàng quỳ xuống để đáp lễ.

Tống Giang bắt đầu nói lên rằng:

– Dám xin Tổng Quản tha lỗi cho. Hôm nay Tổng Quản không có lòng hạ cố, nhất định không chịu lưu lại sơn trại ở đây, bởi vậy Tống Giang định ra một kế, cho tên lâu la hơi giống tướng dạng, ăn mặc các đồ mũ giáp, cùng cưỡi ngựa cầm quân khí của ngài, mà dẫn quân về đánh phủ Thanh Châu, lại cho Yến Thuận, Nụy Hổ đem năm mươi người đi giúp sức, giả làm Tổng Quản định vào đánh thành để cướp lấy vợ con, rồi lại đốt nhà giết người, để dứt hẳn lối về của Tổng Quản. Cái đó đều là tội của chúng tôi, vậy nay chúng tôi mời ngài đến đây để xin tha thứ cho.

Tần Minh nghe nói như xé đứt ruột gan, toan đứng tên đánh nhau với bọn Tống Giang cho hả dạ, song một là vì cùng một tinh tú giáng sinh tính tình rất hợp, hai là bị bọn họ lấy lễ phép bó buộc, không sao trở mặt cho đành, ba là có ra oai cũng khó lòng địch nổi bọn đó. Bởi vậy Tần Minh đành phải nên lòng tức giận mà nói lên rằng:

– Anh em các ông làm thế, vẫn biết có lòng tốt muốn lưu Tần Minh ở lại chốn này, song chỉ thiệt riêng cho Tần Minh, là vợ con chết cả, không còn lấy chi làm thú đời, như thế phỏng có độc địa hay không?

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu không làm như thế, khi nào huynh trưởng nỡ dứt lòng mà đến đây cho được? Hiện nay Hoa Vinh có một người em gái, tư chất cũng hiền tuệ hơn người vậy huynh trưởng có ưng thuận, thì xin cho sắm sửa tư trang mà làm lễ tục huyền ngay lập tức huynh trưởng nghĩ sao?

Tần Minh thấy bọn kia hết lòng kính ái như vậy, thì cũng nguôi tấm lòng, mà không còn nói năng chi nữa. Bấy giờ Hoa Vinh đứng dậy mời Tống Giang vào ghế giữa rồi Tần Minh, Hoa Vinh, ba vị hảo hán y theo thứ tự mà ngồi, đoạn rồi kéo cờ nổi hiệu, chè chén vui mừng và cung nhau thương nghị để đánh trại Thanh Phong.

Tần Minh nói mọi người rằng;

– Việc đó rất là dung dị, các ông không cần phải quan tâm. Nguyên Hoàng Tín là người thuộc hạ của tôi, khi trước tôi có dạy bảo các môn võ nghệ, cùng tôi rất là thân mật, vậy ngày mai tôi đến đó thuyết cho anh ta nhập bọn, rồi sẽ đem bảo quyến của Hoa Vinh sang đây, và bắt vợ con Lưu Cao, để báo thù cho huynh huynh trưởng, như thế thì phỏng được chăng?

Tống Giang cả mừng mà rằng:

– Nếu được Tổng Quản giúp sức cho như thế thì còn gì hơn nữa.

Nói đoạn lại cùng nhau, chè chén, cho đến chiều mới tan. Nói ề Hoàng Tín từ khi báo quan Phủ Thanh Châu rồi, sai bắt dân phu cùng lính trại, hết sức canh phòng cẩn mật, và sai đị dò la tin tức các nơi. Chàng đợi luôn mấy hôm không thấy phủ Thanh Châu đem binh đến cứu, trong lòng lấy làm lo sợ nghi ngại, không biết xử trí ra sao? Chợt một hôm thấy quân sĩ vào bào rằng:

– Có quan Tổng Quản Tần Minh, một mình một ngựa đến gọi mở cửa ở ngoài trại.

Hoàng Tín nghe báo, vội vàng lên ngựa ra xem, quả nhiên chỉ có Tần Minh một mình một ngựa đứng đợi ở ngoài, không có một ai theo hầu hết thẩy. Chàng liền truyền quân sĩ mở trại, bỏ đích kiều xuống để đón Tần Minh vào. Khi đến Công Sảnh ở đại trại, Hoàng Tín mời Tần Minh ngồi, rồi hỏi rằng:

– Chẳng hay Tổng Quản cớ sao mà lại một mình tới đây như vậy?

Tần Minh liền đem chuyện bị thua hôm trước, thuật lại cho Hoàng Tín nghe, và nói rằng:

– Cập Thời Vũ Tống Công Minh là một người trọng nghĩa khinh tài, thiên hạ ai cũng biết, hiện nay nay tôi đã vào đảng ở trại Thanh Phong vậy muốn đến đây nói với Hoàng Quân để cùng đến đó nhập bọn cho vui, can chi lưu luyến chốn này để chịu người ta đè nên?

Hoàng Tín nghe nói liền đáp rằng:

– Hoàng Tín tôi vợ con chưa có cũng không hệ lụy điều chi, vả chăng đã có ân quan ở đó, thì lẽ nào tôi lại không theo? Nhưng trước đây không thấy nói Tống Công Minh ở đó, mà sao bỗng dưng lại đến ngay đấy được?

Tần Minh cười nói:

– Ấy chính là anh Hổ Trương Tam ở Vận Thành mà bác toan giải hôm trước đó. Bấy giờ ông ta sợ nói thực tên ra thì vỡ chuyện, nên phải nói dối là Trương Tam.

Hoàng Tín nghe nói đập chân xuống đất mà than rằng:

– Chết nỗi! Nếu bấy giờ tôi biết ông ta là Tống Công Minh, thì đã tha ngay rồi, còn đâu sinh ra lắm sự lôi thôi! Cái đó chẳng qua là nể mặt Lưu Cao, suýt nữa nguy mất một người nghĩa sĩ.

Đương khi hai người bàn định với nhau, để sắp sửa ra đi, thì bỗng thấy có tin báo hai đường quân mã ở đâu đến đánh trại. Hai người nghe báo, vội vàng cùng nhau lên ngựa, để ra cửa trại nghinh địch.

Mới hay:

Lòng người ai bán mà mua

Xưa nay mấy kẻ lọc lừa nên thân?

Ở đời có oán có ân,

Biết đời phải lựa đồng cân cho đều

Hay chi những thói ngoan điêu

Gây nên thảm họa trăm chiều tại ai?

Một phen khói lửa tung trời

Thành xương vũng máu hỏi đời biết chăng!

Lời bàn của Thánh Thán:

Ta thấy người nhà Nguyên diễn kịch, mỗi một tấn trò, chia làm bốn đoạn (màn); mỗi đoạn chỉ dùng một người ra hát, còn mọi người trong đám bạch trình ra, thừa tiếp mà tiếp mà khiêu động, điều đó không lạ vì người xưa ở trong lòng tự có một thiên văn tự tuyệt diệu rồi, đã được thành văn, có ý tứ, có khởi ra kết lại, có gọi đến thưa ngay, có mở ra lại đóng lại đóng vào, nếu không chỗ dựa thì bỗng dưng không thể thể tả ra?

Cho nên nhà văn phải mượn vào chuyện xưa sống chết hợp tan, theo đề làm văn, ý muốn cho đời sau biết đến văn chương của mình mà thôi! Xưa kia chẳng đem việc cũ tả ra văn cho ta biết đến, từ khi phép kịch mất đi, mà việc một hồi, có tới hơn bốn mươi đoạn, lời của một đoạn lại bao nhiêu kẻ cùng xướng lên, nghe như ếch kêu ra rả, chẳng ra trò gì nữa.

Xét việc đời xưa truyền lại đời sau, mà không dùng văn chương sao được, để cho ông già kể lại, măng sữa trẻ con truyền lẫn nhau, rồi bút mực chép ra, không đúng. Cho nên Sử quan học phép viết Sử tử xưa, đối với một bộ sách phải có ít là dăm hồi, mỗi hồi lại ít nhiều sự nữa, song nếu một người lập truyện một người, mười người lập truyện mười người theo phép viết Sử, một sự có liên can nhiều người văn nhân phải có tài liên quán, nên một sự có mỗ Giáp mỗ Ất, thực sự của mỗ Giáp mỗ Ất không dự, song phải tả ra lại khi Giáp, ắt không cùng một việc, song tả mỗ Giáp mà liền tới mỗ Ất ít nhiều, và tác giả yêu đến mỗ Ất mà phải cần tả ra dính líu tới mỗ Giáp.

Cho nên nhà văn cầm bút, thấy quyền rất nặng, chép chuyện mỗ Giáp lại luôn mỗ Ất dính vào, như trong chuyện Tống Giang, lại tả Võ Tòng, theo lệ liên quán vậy; Chép chuyện mỗ Giáp, mỗ Ất không dự đến như chép Hoa Vinh chẳng tả Tống Giang, đó là theo lệ vậy. Hỡi ơi! Một người có việc của một người, một truyện có văn của một truyện, một thiên một đoạn, có chỉ định của đầu đề, nếu người ta không xét thấy, cũng cầm bút quệt mà viết ra, đua nhau theo lối Sử quan, thì sao xứng con người cầm bút.

Cổ Bản truyện Thủy Hử, tả Hoa Vinh, bèn tả đến Tống Giang, vì Hoa Vinh mà tả tới, mà tục bản truyện Thủy Hử chỉ tả thoàng qua vài lời, sao mà thấp kém đến thế, chẳng hay kẻ nào thay đổi, cũng chả tưởng hỏi làm chi, nên ở đây theo lệ viết văn mà thuật lại.

Hồi 34: Nơi lữ điếm, Thạch Dũng đưa thư – Vũng Lương Sơn, Hoa Vinh bắn nhạn

Bấy giờ Tần Minh cùng Hoàng Tín đi ra cổng trại, trông thấy hai đường quân mã rất đông, một đường là Tống Giang với Hoa Vinh, đường là Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, đều dẫn hơn một trăm người kéo đến. Khi tới nơi, Hoàng Tín vội mở cổng trại, bỏ đích kiều xuống, để đón hai đường binh mã cùng vào trong trại. Tống Giang truyền lệnh cho bọn lâu la, không được giết hại một người dân và một người lính nào trong trại đó. Lại truyền cho vào trại bên Nam, bắt hết cả nhà Lưu Cao để giết. Vương Nụy Hổ được lệnh ấy, vội vàng đến đó cướp lấy vợ Lưu Cao, cùng các thứ kim ngân tài vật, lừa ngựa trâu dê thì giao cho đám lâu la thu nhặt để tải về. Hoa Vinh trở về nhà thu dọn các đồ đạc. Công việc thu xếp đâu đấy yên ổn rồi, mấy vị hảo hán cùng nhau dóng ngựa áp tải các đồ vật mà trở về sơn trại.

Khi về tới sơn trại, Vương Nụy Hổ vội đem vợ Lưu Cao dấu vào trong tư phòng, Yến Thuận thấy vậy liền hỏi rằng:

– Con đàn bà đê tiện ấy đem đi dấu làm gì?

Vương Nụy Hổ đáp rằng:

– Phen này đã bắt được về tới đây, xin để cho tôi làm phu nhân áp trại.

Yến Thuận nói:

– Đành rằng để cho bác làm phu nhân áp trại, song hãy đem ra đây cho tôi hỏi đã.

Tống Giang bảo với mọi người rằng:

– Chính tôi cũng đương muốn hỏi chuyện nó, xin hãy đem ra đây…

Vương Nụy Hổ vâng lời, cho gọi chị chàng ra trước cửa sảnh.

Chị chàng kia khóc lóc kêu van, xin tha tính mạng.

Tống Giang quát lên rằng:

– Giống gian dâm này, còn nỉ non về nỗi gì nữa? Ta nghĩ mầy là một người vợ con nhà quan, nên mới cứu cho thoát nạn, ai ngờ mầy đem lòng tàn ác, mà toan hại ta. Đồ vong ân bội nghĩa, thì trời đất nào dung thứ được!

Yến Thuận đứng phắt dậy nói rằng:

– Giống dâm phụ ấy, còn hỏi làm gì nữa?

Nói đoạn rút dao lưng ra, chém cho một nhát ngã gục xuống đó.

Gươm vàng pha vị tanh hôi,

Máu hồng nhuộm máu con người bạc đen.

Thế gian nhắn bạn thuyền quyên,

Ở đời liệu thói đảo điên nên chừa…

Vương Nụy Hổ thấy vậy, trong lòng lấy làm tức giận vô cùng, liền vớ một thanh dao, toan đánh nhau với Yến Thuận.

Bọn Tống Giang đứng dậy vội vàng giữ lại, khuyên bảo Vương Nụy Hổ rằng:

– Yến Thuận giết đứa dâm phụ ấy là phải lắm. Bác phải biết rằng tôi hết sức cứu nó, cho vợ chồng lại được đoàn tụ với nhau, thế mà nó còn trở mặt xui chồng toan hãm hại tôi, con người như thế nếu để về sau, tất là nguy hiểm…Vậy sau đây tôi xin tìm cho bác một người rất là xứng ý, đừng nên nghĩ đến con người ấy làm chi!

Yến Thuận cũng bảo Vương Nụy Hổ rằng:

– Nếu anh còn muốn để con đàn bà ấy về sau, tất nhiên có phen nó lại hại chứ không chơi.

Vương Nụy Hổ bị can như vậy, thì nín lặng không biết nói làm sao được. Yến Thuận gọi lâu la khiêng bỏ xác, rửa sạch huyết tính rồi, lại sai dọn tiệc ăn mừng.

Ngày hôm sau, Hoa Vinh mời Tống Giang, Hoàng Tín làm chủ hôn, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, và Trương Thanh làm nhà mối, để làm lễ thành hôn cho em gái lấy Tần Minh. Bao nhiêu lễ vật đều tự Hoa Vinh xuất tiền mãi biện. Đoạn rồi cùng nhau ăn uống vui chơi ba bốn ngày rất là thỏa thích.

Cách năm bảy hôm thấy lâu la đi thám sự về báo rằng:

– Quan Phủ Mộ Dung hiện đã đệ công văn lên phủ Trung Thư, tâu rõ về việc Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín làm phản, và xin đại đội binh mã nay mai đánh dẹp núi Thanh Phong.

Các vị hảo hán nghe cả kinh, liền cùng nhau bàn định mưu kế để cự địch quân quan, Tống Giang nói với chúng rằng:

– Ở đây là một nơi sơn trại, tầm thường, lỡ ra quan quân kéo đến, thì cũng khó lòng cự địch. Vậy tôi có một kế này, chẳng hay các ngài có ưng thuận thế chăng?

Mọi người đều nói rằng:

– Huynh trưởng có kế gì xin cứ nói cho nghe..

Tống Giang nói:

– Gần đây có một nơi là Lương Sơn Bạc, bên trong có thành Uyển Tử, có vụng Liêu Nhi, dài rộng tám trăm dặm. Hiện có Tiều Thiên Vương tụ rất đông quân ở đó, quan quân không hề dám xâm phạm đến nơi. Vậy chúng ta đến đấy nhập bọn thì có lẽ tốt hơn.

Tần Minh nói:

– Nếu được những chốn như thế, thì còn gì hơn nữa! Nhưng bây giờ không có ai quen biết, mà tiến dẫn ta lên, thì có khi nào họ chịu nhận.

Tống Giang cả cười liền đem chuyện Tiều Thiên Vương cướp lễ sinh nhật, cho đến khi đưa vàng tạ ơn, rồi đến nỗi xảy ra chuyện giết hại Diêm Bà Tích, lênh đênh lưu lạc giang hồ, thuật lại cho mọi người nghe. Tần Minh nghe nói cả mừng đáp rằng:

– Nếu vậy huynh trưởng là Đại Ân Nhân của bọn họ, thì còn ngại chi đến chuyện kia khác, ta nên mau mau thu xếp đi ngay, kẻo chậm trễ tất nhiên lỡ việc.

Nói đoạn, chúng lập tức sắp mười mấy cỗ xe, và cộng có hai ba cỗ ngựa tốt đều để tải đi. Còn đám lâu la kẻ nào không muốn theo, thì cho tiền nong đi tìm chủ khác, kẻ nào muốn theo thì biên vào sổ quân. Bấy giờ tính cả quân lính của Tần Minh đem đến, cộng được hơn bốn năm trăm người chia làm ba đội, đều giả dạng quan quân đi đánh Lương Sơn Bạc.

Khi thu xếp xong đâu vào đấy, các hảo hán đều đốt bỏ sơn trại, chia làm ba đội, Tống Giang cùng Hoa Vinh dẫn bốn năm mươi tên lâu la, và bốn mươi tên kỵ mã, hộ tống năm bảy cỗ xe đi trước. Tần Minh Hoàng Tín dẫn tám chín mươi quân ngựa, cùng mấy cỗ xe đi đội thứ nhì, Yến Thuận, Vương Nụy Hổ cùng Trương Thanh, dẫn bốn năm mươi cỗ ngựa, và hơn hai trăm lâu la đi đội thứ ba, trông chừng thẳng trỏ Lương Sơn Bạc.

Trong khi đi đường, các cờ hiệu, đều rõ là quan quân đi đánh giặc, vì thế mà không ai dám ngăn trở đường đi.

Đường đi được năm bảy ngày, một hôm Tống Giang cùng Hoa Vinh cưỡi ngựa đi trước, bọn quân mã áp tải người nhà đisau, cách ước hai mươi dặm đường.Khi đến một nơi gọi là Đối Aûnh sơn, có hai tòa núi ở hai bên, khoảng giữa là một khu đất rộng phẳng, chợt nghe trong núi có tiếng thanh la đánh ầm cả lên. Hoa Vinh thấy vậy bảo với Tống Giang rằng:

– Chỗ này chắc có cướp bóc ra ngăn đường, ta phải phòng bị chống cự mới được.

Nói đoạn liền cắp gươm vào nách, lấy cung tên ra, sắp sửa cẩn thận, rồi nhất diện sai quân kị thôi thúc hai toán xe ngựa đằng sau, kéo lên đóng vào một nơi. Đoạn rồi Hoa Vinh cùng Tống Giang dẫn hơn hai mươi tên quân kị đi thám thính đường lối.

Đi được già nửa dặm đường, chợt thấy phía trước mặt có một tóan quân mã ước hơn trăm người, mặc toàn áo đỏ giáp đỏ, có một người tráng sĩ mặc áo đỏ, hoành tay kích ngồi trên mình ngựa quát to lên rằng:

– Hôm nay ta quyết cùng người một trận, xem ai được ai thua?

Đoạn rồi thấy đằng sau núi, trông thấy ước một trăm nhân mã, đều mặc áo trắng giáp trắng, cầm thiên phương họa kích cưỡi ngựa đi trước. Đôi bên cờ trắng đỏ phất phới, chiêng trống vang lừng hai bên tráng sĩ cũng đương kích, xông ngựa lẳng lặng ra giữa khoảng đất rộng, đánh nhau tới hơn ba mươi hiệp, chưa ngã được thua.

Hoa Vinh cùng Tống Giang ngồi trên mình ngựa nom ra, liền lắc đầu khen ngợi luôn mồm. Sau Hoa Vinh đánh ngựa đi gần đến chỗ đánh nhau, thấy hai tráng sĩ đương hăng hái ra sức, hai cây kích loàng nhoáng như hai cành phan bị gió thổi, rồi bỗng dưng hai cái ngù ở trên đầu kích, quấn chặt lấy nhau, không sao mà gỡ ra cho được.

Hoa Vinh ngồi trên mình ngựa thấy vậy, thì liền cầm cương ngựa lại, tay tả vớ lấy cây cung trong túi Phi ngư, tay hữu vớ lấy một mũi tên trong Tẩu thú, rồi đặt tên lên cung, giang tay thẳng cánh, nhằm giữa mối hai cái xoắn vào với nhau mà bắn ra một phát đứt hẳn làm đôi, tung đôi kích ra mỗi đằng một ngả.Tụi hơn hai trăm người trông thấy, thì vỗ tay reo ầm cả lên.Hai tráng sĩ cũng dừng tay kích, quay ngựa xông đến trước mặt Hoa Vinh, đều cúi chào mà xin hỏi tên người bắn giỏi.

Hoa Vinh trỏ vào Tống Giang mà nói rằng:

– Người nghĩa huynh tôi đây là Cập Thời Vũ Tống Công Minh là Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước. Còn tôi đây là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh làm Tri Trại ở trấn Thanh Phong.

Hai tráng sĩ nghe nói, vội vàng nhảy xuống ngựa, bỏ tay kính ra, rồi lạy lấy lạy để mà nói rằng:

– Chúng tôi được nghe tiếng đã lâu.

Tống Giang cùng Hoa Vinh xuống ngựa, đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:

– Xin hỏi cao tính đại danh của hai vị tráng sĩ?

Người mặc áo hồng đáp:

– Chúng tôi họ Lã tên Phươn, người ở Đàm Châu, bình sinh chỉ thích theo đòi như Lã Bố, nhân tập đánh cây Thiên phương họa kích, rồi ai cũng gọi tên là Tiểu Oân Hầu Lã Phương. Sau nhân đi bán thuốc tới đất Sơn Đông, bị thua lỗ mất cả tiền nong, không thể nào trở về cố hương được, đành phải tạm trú ở đây, để kiếm ăn về nghề ăn cướp bóc. Dè đâu có một tráng sĩ này ở đâu mới dẫn đến, muốn cướp lấy sơn trại của Lã Phương, Lã Phương muốn dàn xếp cho mỗi người một núi, mà tráng sĩ nhất định không nghe, bởi thế hai bên đánh nhau kể đã mấy hôm nay, chưa ai chịu nhường nhịn ai cả.

Tống Giang lại hỏi tên họ người mặc quần áo trắng.

Người kia nói rằng:

– Chúng tôi họ Quách tên Thịnh, người ở Gia Lăng thuộc Tứ Xuyên, trước đây có học võ nghệ của Trương Đề Hạt đất Gia Lăng, luyện được cây kích tinh thạo, người ta thường gọi là Kiển Nhân Quý Quách Thịnh. Nhân trước đi buôn thủy ngân đắm thuyền hết vốn, sau nghe nói ở Đối Aûnh Sơn đây có người đánh kích rất giỏi, mới đến chiếm sơn lâm để cướp bóc kiếm ăn, bởi vậy muốn qua đây thử ngón xem sao? Dè đâu, cùng nhau đối địch luôn mấy ngày cũng chưa phân được thua…Nay cũng là sự bất thình lình gặp được hai ngài ở đây, thực là hạnh phúc.

Tống Giang nghe nói, lấy làm vui mừng, liền đem chuyện mình nói cho hai người biết và lại bảo rằng:

– Cũng là dịp may, mà tôi được gặp hai vị ở đây, vậy tôi muốn khuyên cho đôi bên hòa giải, chẳng hay các ngài có bằng lòng không?

Hai người đều cả mừng mà vâng lời…

Bấy giờ mấy đội nhân mã ở đằng sau, cũng vừa tới đó, Tống Giang cùng Hoa Vinh dẫn hai người, để tiếp kiến mấy vị hảo hán kia, đoạn rồi Lã Phương mời lên núi để tiếp đãi. Ngày hôm sau Quách Thịnh cũng mời sang núi để làm rượu khao mừng.

Tống Giang liền bàn vói hai người, để cùng lên Lương Sơn Bạc ở với Tiều Cái Thiên Vương. Hai người đều vui lòng theo nhận, rồi lập tức thu thập người ngựa, sửa soạn vật liệu để cùng nhau khởi trình. Đương khi sắp sửa đi, thì bỗng Tống Giang bảo chúng rằng:

– Hãy thong thả, không thể đi được! Nay mình đem tới bốn năm trăm nhân mã tới Lương Sơn Bạc, bọn họ thế nào cũng có người dò thăm tin tức, thảng hoặc họ cho là mình đánh lấy Lương Sơn thực, thì bấy giờ không phải chuyện chơi.Vậy để tôi cùng Yến Thuận xin đi trước bảo cho họ biết rồi các vị sẽ chia làm ba đội lục tục đi sau.

Tần Minh, Hoa Vinh cùng mọi người đều khâm phục là phải, liền lui quân chia toán đi sau. Tống Giang cùng Yến Thuận mỗi người cưỡi một con ngựa,dẫn mười lăm tên tùy hành đi trước. Đi được hai ngày đường bỗng một buổi trưa hôm kia, đến một tửu điếm ở bên cạnh đường cái quan, Tống Giang cùng Yến Thuận bèn vào nghỉ để ăn uống. Khi vào tới trong điếm thấy có một chỗ ngồi ăn hơi rộng, còn mấy nơi khác đều là chật hẹp cả. Trong một chỗ rộng đã có anh chàng, mình dài tám thước, sắc mặt hơi vàn, hai con mắt lờ mờ, có một hàng ria thưa thớt, đầu đội khăn mỏ lớn, mình mặc áo trừu đen, lưng thắt dây bao trắng, dưới chân lá đáp đi đôi giày gai, dựng thanh gậy một bên, và để cả một bọc hành lý vào đầu bàn mà ngồi ở đó. Bấy giờ Tống Giang cùng Yến Thuận gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:

– Ta đi đây có đông người theo hầu, vậy hai chúng ta vào ngồi trong kia, rồi ngươi nói với người khách kia nhường chỗ rộng ấy cho bọn người nhà họ ngồi uống rượu.

Nói đoạn Tống Giang cùng Yến Thuận vào ngồi ở trong, dặn tửu bảo lấy rượu thịt cho bọn hầu ăn trước. Tên tửu bảo thấy bọn theo hầu đứng đông chật cả nhà, liền đến bên cạnh người nhồi một mình kia, mà nói rằng:

– Phiền bác làm ơn nhường chỗ rộng này cho bọn người nhà hai vị quan nhân trong kia ngồi một chút…

Chàng kia nghe gọi mình là bác, thì cau mặt mà đáp rằng:

– Đến trước ngồi trước, đến sau ngồi sau…Người nhà quan nhân nào, mà bảo nhường chỗ? Lão gia không nhường cho ai cả.

Yến Thuận nghe thấy vậy, liền bảo với Tống Giang rằng:

– Thằng cha này vô lễ quá.

Tống Giang gạt đi rằng:

– Mặc xác hắn, mình chấp làm gì?

Bấy giờ anh chàng kia quay vào nhìn Yến Thuận cùng Tống Giang mà tủm tỉm cười nhạt. Tên tửu bảo lại nói với chúng ta rằng:

– Bác xét cho chỗ hàng quán buôn bán, đổi giúp sang chỗ khác một tý đã hại gì?

Anh chàng kia cả giận, vỗ tay lên bàn quát rằng:

– Thằng ranh con xấc thực, khinh lão gia có một mình, bắt phải đổi chỗ ngồi hay sao? Mày phải biết, có vua đi đến đây, lão gia cũng không đổi…nói to là đánh luôn bấy giờ…

– Nào tôi đã nói gì?

– Mầy dám nói gì mà nói…

Yến Thuận thấy vậy, trong lòng không sao nhịn được, liền nói lên rằng:

– Anh chàng này nói đáo để chứ! Không đổi thì thôi, làm gì mà rối lên thế?

Anh chàng kia đứng phắt dậy, vớ lấy thanh đao mà nói rằng:

– Ta nói nó, không việc gì đến nhà anh. Lão gia đây khắp trong thiên hạ, chỉ nể có hai người, còn ngoài ra đạp chân lên mà giẫm xuống đống bùn cả.

Yến Thuận tức mình vớ lấy cái ghế ngồi, cũng đứng phắt dậy toan đánh. Tống Giang nghe khẩu khí anh chàng kia, cũng không phải tay vừa liền đứng chắn ngang, khuyên giải cả đôi bên, rồi nói lên rằng:

– Xin các ông đừng lôi thôi nữa…Tôi xin hỏi ông này, vừa rồi ông nói rằng: Trong thiên hạ ngày nay có hai người là ông trỏ vào ai đó?

Anh chàng kia nói:

– Tôi nói ra đây, chắc các bác cũng phải kinh sợ, chứ không chơi.

– Vâng, ông cứ cho tôi được biết tên hai người đó.

– Nghe, một người là con cháu Sài Tiến Tôn ở quận Hoành Hải tên là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến, Sài Đại Quan Nhân.

Tống Giang nghe nói sẽ gật đầu là hỏi luôn rằng:

– Còn một người nữa là ai?

– Một người nữa lại to lắm nữa, người này là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh, làm Áp Ty ở huyện Vận Thành khi trước…

Tống Giang nghe đến đó, thì trông Yến Thuận mà tủm tỉm sẽ cười. Yến Thuận cũng bỏ cái ghế xuống mà tươi hẳn nét mặt lại.

Anh chàng kia lại tiếp luôn rằng:

– Lão gia chỉ trừ có hai người ấy, còn ngoại giả cho đến Tống Đại Hoàng Đế cũng không cần.

Tống Giang nói:

– Khoan, tôi nói câu này. Hai người ấy tôi đây cũng có biết cả, ông cứ ngồi đây, rồi sẽ gặp hai người ấy.

Anh chàng kia nói rằng:

– Nếu ông đã biết thì tôi cũng không giấu làm chi. Cách ba năm trước đây tôi có ở nhà Sài Đại Quan Nhân hơn bốn tháng trời, duy chưa được gặp Tống Công Minh mà thôi.

– Vậy ông muốn gặp Hắc Tam Lang hay sao?

– Hiện nay tôi đương đi tìm ông ta đây.

– Ai bảo ông đi tìm?

– Người anh em ông ta là Thiết Phiến Tử Tống Thanh, có đưa gia thư cho tôi để tìm đến ông ta.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền vội chạy đến, ôm lấy chàng kia mà nói lên rằng:

– Thế mới biết “Hữu duyên nghìn dặm cũng gần, vô duyên giáp mặt khó phần gặp nhau”, chẳng giấu gì, chính tôi là Hắc Tam Lang Tống Giang đây.

Anh chàng ngây người, nhìn kỹ Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống lạy mà nói rằng:

– Nếu vậy thì may quá! Trời xanh xui khiến được gặp Ca Ca, bằng không thì tiểu đệ lại phải đến Khổng Thái Công một phen chung quy vô ích.

Tống Giang kéo chàng kia vào trong mà hỏi rằng:

– Ở nhà tôi lâu nay có việc gì không?

Chàng kia ung dung đáp rằng:

– Dám bẩm Ca Ca, tôi họ Thạch tên Dũng, người phủ Đại Danh, bình sinh thích đánh bạc nên họ thường gọi là Thạch Tướng Quân. Sau nhân trong đám bạc mà đánh chết người, phải trốn sang Sài Đại Quan Nhân để ở. Xưa nay thường nghe tiếng Ca Ca, bèn đến huyện Vận Thành để tìm, dè đâu Ca Ca bận việc đi vắng, duy có Tứ Lang ở nhà, Tứ Lang thấy đệ thăm hỏi ân cầm, liền mách cho chỗ Ca Ca ở tại nhà Khổng Thái Công bên núi Bạch Hổ và có gửi bức thư cho đệ mang đến đây.

Tống Giang nghe nói, trong bụng hơi ngờ ngợ, hỏi Thạch Dũng rằng:

– Khi bác quan nhà tôi, ở đấy mấy ngày? Có gặp phụ thân tôi không?

– Tôi chỉ ở đó một tối rồi đi ngay, không thấy Thái Công đâu cả.

Tống Giang lại nói chuyện nhập đảng ở Lương Sơn cho Thạch Dũng nghe. Thạch Dũng nói rằng:

– Tôi vẫn biết tiếng Ca Ca là người trọng nghĩa khinh tài, vậy phen này Ca Ca lên ở Lương Sơn, tất nhiên cũng cho tiểu đệ đi theo.

– Cái đó có khó gì, hãy ngồi đây chơi nói chuyện một lúc đã.

Nói đoạn liền trỏ Yến Thuận cho Thạch Dũng biết, rồi gọi tửu bảo đem rượu lên. Thạch Dũng đứng dậy mở gói hành lý, đưa bức gia thư cho Tống Giang.

Tống Giang tiếp lấy bức thư, nom ngoài phong bì không thấy có hai chữ Bình an, trong lòng càng lấy làm ngờ vực, vội mở ngay phong thư ra để đọc.Chàng lược xem bức thư, thấy viết mấy chữ: “Thân phụ bị bệnh, tạ thế đầu tháng giêng năm nay, hiện còn đình cữu trong nhà, chỉ đợi Ca Ca về, sẽ làm lễ an táng. Vậy Ca Ca sớm liệu trở về, chớ để em mong, lỡ việc…Em khấp huyết bái thư!”

Tống Giang đọc xong ngã ngất người ra, rồi ôm bụng mà kêu lên rằng:

– Thằng con bất hiếu này, làm nên những tội ác dở dang, để đến nỗi cha già bị chết, không được trọn đạo làm con, như thế có khác gì giống súc sinh kia nữa?”

Nói đoạn đập đầu vào vách mà khóc to lên. Yến Thuận, Thạch Dũng vội vàng chạy đến ôm lấy Tống Giang, Tống Giang khóc lóc hôn mê hồi lâu mới tỉnh, liền bảo Yến Thuận, Thạch Dũng rằng:

– Tôi đây không phải có bạc tình các anh em, song trước đây tấc lòng chỉ vương vất có cha già ở đó.

Tới nay cha già đã mất thì thế nào cũng phải trở về ngay, để các ông cứ việc vào Lương Sơn Bạc mới được.

Yến Thuận khuyên rằng:

– Nay chẳng may Thái Công đã mất rồi nếu Ca Ca có trở lại nhà, cũng khó lòng được trông thấy mặt, thiên hạ có bố mẹ nào mà sống mãi được với con. Vậy xin Ca Ca hãy thư thả khoan tâm dẫn anh em chúng tôi lên núi, rồi anh em chúng tôi cùng đến sơn trang, thế chẳng hóa ra ổn tiện lắm không? Rắn không đầu làm sao đi được? Vậy nếu Nhân huynh trở về, thì đến đó ai chịu thu nhận chúng tôi?

Tống Giang gạt đi rằng:

– Nếu chúng tôi đưa các ông lên núi, rồi mới trở về, thì mất nhiều ngày quá, không thể nào làm như thế được. Nay tôi xin viết một phong thư nói rõ tình hình mọi lẽ, để các ông đem cả Thạch Dũng tới đó vào bọn Lương Sơn Bạc, còn tôi phải về ngay mới được. Nếu không biết đến thì thôi, nay đã biết đến, thì một ngày đằng đẵng coi tựa mấy thu, không cần ngựa nghẽo, không cần người theo, chỉ một mình tôi phải về ngay lập tức mới yên.

Hai người cố tình lưu giữ không được, Tống Giang lập tức gọi tửu bảo đem mượn bút mực, vừa sụt sùi vừa viết phong thư, ân cần dặn dò ở trong, rồi không kịp dán phong bì mà đưa ngay cho Yến Thuận. Đoạn rồi cởi lấy lá đáp cùng giày gai của Thạch Dũng quấn vào chân, lấy một ít tiền bạc, giắt con dao lưng, và cầm lấy thanh gậy của Thạch Dũng, toan lập tức đi không ăn uống chút gì vào miệng.

Yến Thuận dìu lại mà rằng:

– Ca Ca đợi Tần Tổng Quản, cùng Hoa Tri Trại đến đây, rồi đi cũng được, làm chi mà phải tháo thứ thế?

Tống Giang nói:

– Tôi không thể nào đợi chờ được nữa. Bức thư của tôi đấy rồi không ngại điều chi, hiền đệ Thạch Dũng khá nói chuyện đầu đuôi cho mọi người biết, và từ tạ anh em giúp tôi. Tôi bây giờ làm thế nào mà một bước nhảy về ngay được tới nhà, thì mới thỏa lòng được.

Nói xong cắm đầu cắm cổ mà ngần ngừ thẳng bước ra đi.

Tha hương bước một ngại ngần,

Giang hồ tình nặng tử thần nghĩa sâu!

Cương thường chót vót ngàn thâu,

Lấy ai khóc nỗi bể dâu cho đời?

Bấy giờ Tống Giang ra đi, rồi Yến Thuận, Thạch Dũng cùng nhau ăn uống một lúc trả tiền hàng mà kéo nhau ra đi, Thạch Dũng cưỡi ngựa của Tống Giang, cùng Yến Thuận dẫn lũ theo hầu, đi được năm bảy dặm đường, tìm vào một hàng cơm để nghỉ. Vào khoảng buổi trưa hôm sáu, ba bộ quân mã cũng đều tiếp đến. Yến Thuận, Thạch Dũng tiếp mấy vị hảo hán, rồi đem chuyện Tống Giang cho mọi người nghe, các vị hảo hán nghe nói đều trách Yến Thuận không biết lưu Tống Giang ở lại.

Thạch Dũng bảo với mọi người rằng:

– Tống Ca Ca nghe nói phụ thân mất, thì vội vàng vật vã khóc lóc, rồi sục sạo ra đi, không thể nào mà lưu lại được, hiện có viết một bức thư để lại đây, dặn chúng ta cứ mau mau lên núi, không ngại điều chi hết thảy.

Hoa Vinh cùng Tần Minh xem thư xong, bàn với mọi người rằng:

– Bây giờ vơ vẩn giữa đường, tiến thoái đều khó, trở về không được, mà cùng nhau chia rẽ ở đây, tất là không tiện, vậy bất nhược ta cứ đến đấy xem sao?

Nói đoạn liền kể chín vị hảo hán cùng đi, làm một toán bốn trăm quân mã kéo đến Lương Sơn? Khi tới gần Lương Sơn, tới một khu rừng bên cạnh bờ lau, chợt thấy trên mặt nước có tiếng chiêng trống vang trời, cờ bay phất phới, rồi thảy trong đám vũng nước có hai chiếc khoái thuyền đi ra. Một chiếc thuyền đi trước có bốn năm mươi tiểu lâu la, và một vị Đầu Lĩnh. Báo Tử Đầu Lâm Xung ngồi trước mũi thuyền; thuyền sau cũng ba bốn mươi tên lâu la, một vị Đầu Lĩnh ngồi ở trên mũi thuyên, là Phát Xích Quỹ Lưu Đường.

Bấy giờ Lâm Xung trông thấy bọn kia đi đến, liền quát lên hỏi rằng:

– Các người quân quan ở đâu, dám đến đây thu bắt bọn ta. Các ngươi phải biết, bọn hảo hán ở Lương Sơn Bạc đây, nếu trêu vào thì không một thằng nào sống được…

Bọn Hoa Vinh, Tần Minh nghe nói vội vàng xuống ngựa, đứng trên bờ mà nói rằng:

– Chúng tôi không phải là quan quân ở đâu, hiện có thư của Tống Công Minh Ca Ca đưa đến, xin vào nương tựa ở Đại trại ở đây.

Lâm Xung nghe vậy, liền nói rằng:

– Nếu có thư của Tống Công Minh, thì xin mời các ngài đến tửu điếm đằng kia sẽ tiếp kiến.

Nói đoạn, rồi đứng trên thuyền vẫy lá cờ xanh, có một con thuyền ở giữa đám bụi lau đi ra. Trong thuyền có ba người ngư phủ, một người ngồi lại coi thuyền còn hai người lên bờ nói với bọn Hoa Vinh rằng:

– Xin mời các vị tướng quân đi theo tôi đến đằng này.

Đoạn rồi hai chiếc thuyền đều thổi còi lên hiệu, phất ngọn cờ trắng, nổi tiếng thanh la mà vụt đi mất. Mọi người trông thấy kinh ngạc bảo nhau rằng:

– Nay mới thấy Lương Sơn Bạc danh bất hư truyền, trách nào quan quân không dám chạm đến đây. Sơn trai chúng ta bao giơ cho theo kịp được?

Bấy giờ bọn Hoa Vinh đi theo người ngư phủ đi quanh trên con đường phẳng lặng rộng, một lát thì tới tửu điếm Chu Qúy, Chu Quý thấy chúng đến, thì vui mừng đón tiếp, sai mổ hai con bò làm rượu mời bọn họ. Bọn Hoa Vinh đưa thư của Tống Giang cho Chu Quý xem.

Chu Quý xem xong, bèn đến chốn Thủy Đình bắn một phát tên vào đám lau để ra hiệu. Phút chốc có tiểu lâu la chở một chiếc khoái thuyên ở trong đám lau đi ra. Chu Quý đưa thư cho tiểu lâu la, và dặn dò đầu đuôi để lên báo trước sơn trại. Ngày hôm sau quân sư Ngô Học Cứu dẫn hai ba mươi chiếc thuyền lớn, ra tửu điếm Chu Quý để đón tiếp mọi người. Ngô Học Cứu cùng Chu Quý mời chín vị hảo hán đem các đồ hành lý, vợ con cùng nhân mã xuống thuyền, cùng đi vào bến Kim Sa.

Khi tới bến, đã thấy Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh Lương Sơn, đều ăn mặc nhung phục, dẫn phường nhạc ra đón tiếp, Tiều Cái cùng chín người bọn Hoa Vinh thi lễ, rồi cùng lên ngựa, đưa về Tụ Nghĩa Sảnh.

Hồi đó Bạch Nhật Thử Nhật Thắng đã nhờ được mưu kế của quân sư Ngô Học Cứu, mới vượt được ngục Tế Châu mà cùng về ở đó. Bọn Tiều Cái, ndu, Công Tôn Thắng; Lâm Xung; Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhi, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Đỗ Thiên, Tống Vạn, Chu Quý, Bạch Thắng, đón bọn Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín, Yến Thuận, Vương Anh, Trương Thanh, Lã Phương, Quách Thịnh, và Thạch Dũng vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi tự ngồi sang phía ghế bên tả, chín vị hảo hán kia ngồi vào phía ghế bên hữu. Hai bên phân tọa chỉnh tề, ở giữa đốt lò hương lớn, rồi các vị hảo hán cùng thề ước với nhau. Bọn Tiều Cái sai giết trâu ngựa mở tiệc khao mừng, và sai dọn phòng ốc ở sau núi, để gia quyến các vị hảo hán ở,lại cho bọn thân nhân theo hầu các vị hảo hán mới đến, đều dự tiệc cùng đám tiều đầu mực ở sơn trại. Trong khi dự tiệc Hoa Vinh cùng Tần Minh, từng xưng tán đức tốt của Tống Giang, và đem chuyện báo ơn báo oán ở núi Thanh Sơn, thuật lại cho các vị Đầu Lĩnh nghe. Bọn Tiều Cái nghe vậy, ai cũng có vẻ vui mừng. Sau khi nói chuyện Lã Phương, Quách Thịnh đánh nhau, Hoa Vinh bắn một mũi tên đứt đôi cái ngù buộc kích, thì Tiều Cái có ý không tin, liền ấm ư đáp lại rằng:

– Nếu có được tài bắn như vậy, thì hôm nào thử thí nghiệm xem sao?

Ngày hôm ấy, đôi bên đều mở lòng uống rượu, khi chén đã hơi say, các vị Đầu Lĩnh liền mời bọn Hoa Vinh đi quanh nom phong cảnh rồi lát nữa lại vào dự tiệc. Các vị hảo hán cùng các vị Đầu Lĩnh đều dắt tay nhau dạo xem phong cảnh trước núi, rồi cùng nhau ra đến đệ Tam Quan.

Đương khi xem ngắm, chợt thấy tiếng chim hồng kêu kí két ở đằng xa bay lại, Hoa Vinh nghĩ thầm trong bụng rằng:

– “Tiều Cái nghe ta nói bắn đứt cái ngù buộc kích, thì ra dáng không tin, vậy bất nhược tiện đây ta bắn thử một phát, cho họ biết tay mới được!”

Hoa Vinh nghĩ đoạn, liền mắt nom thấy trong bọn theo hầu đi đó, có người sẵn cung tên, chàng liền mượn lấy cung tên để bắn. Khi cầm lấy xem, thấy cây cung Nô Kim Thước Hoạch óng ả dễ coi chính là hợp ý cho Hoa Vinh, chàng liền giơ cung cầm tên bảo với Tiều Cái rằng:

– Vừa rồi các vị Đầu Lĩnh thấy nói Hoa Vinh này bắn đứt dây ngù buộc kích, nghe chừng có ý không tin, vậy nhân có hàng nhạn bay qua, tôi xin bắn một con để các ngài coi thử. Tôi định bắn con nhạn thứ ba, bay ở trên kia, nếu không trúng, thì xin các ngài đừng chê cười…

Nói đoạn giương cung nhắm thẳng lên trên, bắn đến tách một cái, thì quả nhiên con nhạn thứ ba rơi xuống núi, Tiều Cái sai quân nhặt về để xem, thấy mũi tên đúng giữa đầu con nhạn. Ai lấy đều lấy làm kinh ngạc bái phục là mũi tên thần.Ngô Học Cứu xưng tán Hoa Vinh rằng:

– Cứ như tay thần của tướng quân, thì không những ví với Tiểu Lý Quảng, dẫu đến ngay Dưỡng Do Cơ cũng khó lòng mà đọ được! Thực là may mắn cho sơn trại, mà có ngài đến ở đây.

Từ đó, các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm kính phục Hoa Vinh, rồi cùng nhau trở về yến hội. Ngày hôm sau, trong trại lại đặt tiệc ăn mừng, và bàn định ngôi thứ các vị hảo hán mới tới. Tần Minh đáng lẽ ngồi trên đám đó, song có Hoa Vinh ngồi ghế thứ năm, vai dưới Lâm Xung, mà để Tần Minh ngồi ghế thứ sáu, Lưu Đường thứ bảy Hoàng Tín thứ tám, dưới ba anh em họ Nguyễn, song đến Yến Thuận, Vương Nụy Hổ, Lã Phương, Tống Vạn, Chu Quý và Bạch Thắng, cộng tất cả hai mươi mốt vị Đầu Lĩnh cùng ngồi dự tiệc với nhau. Sau khi yến tiệc vui mừng, trong sơn trại lại chế thêm thuyền bè, nhà cửa xe pháo giáo gươm cùng các đồ cung tên cờ giáp để phòng khi cự địch quân quan.

Giang sơn riêng một góc trời,

Cơ mưu trí dũng trên đời kém chi?

Sẵn sàng võ bị binh suy,

Cư an phải có tư nguy mới là.

Bên kia Tống Giang từ khi chia tay cùng Yến Thuận. Thạch Dũng, liền vội vội vàng vàng đi gấp đường để trở về cố lý. Chiều hôm đó đi đến một tửu điếm của Trương Xã Trưởng, vốn là một người tử tế với Tống Giang từ xưa nay, nay thấy Tống Giang đi ca mới về, mà nét mặt buốn bã như chiều thần nuốt hạt châu, liền có ý băn khoăn mà hỏi rằng:

– Áp Ty đi vắng hơn một năm nay, bây giờ mới về chơi nhà, mà sao nét mặt buồn bã làm vậy? Chẳng hay trong bụng có gì không vui chăng? Bấy giờ gặp việc Quan Tư đã tới kỳ ân xá, chắc là Áp Ty cũng được giảm tội đi rồi thì phải?

Tống Giang đáp rằng:

– Lão thúc dạy phải lắm, tôi bây giờ việc quan tư cũng chẳng ngại gì, duy phụ thân sinh ra tôi mới mất, thì lẽ nào mà không đau khổ trong lòng.

Trương Xã Trưởng nghe nói cả cười mà rằng:

– Áp Ty điên hay sao? Lại nói chuyện buồn cười như thế? Thái Công nhà ngài vừa mới ngồi uống rượu ở đây, vừa mới về được một lúc rồi, sao lại nói lạ thế?

Tống Giang ngạc nhiên nói rằng:

– Thúc thúc xem…Đây là bức thư của Tống Thanh viết rõ ràng là cha tôi mất dạo tháng giêng, chỉ đợi tôi về làm lễ thiên táng đó mà…

Xã Trưởng cầm lấy thư xem, rồi vỗ tay mà kêu lên rằng:

– Quái lạ! Sao lại có thể được? Chính lúc trưa cụ với Vương Thái Công ở đông thôn, vừa mới uống rượu ở hàng tôi xong, khi nào tôi lại nói sai?

Tống Giang nghe nói, lấy làm quái lạ không hiểu ra sao…  Đành ngồi đó đến tối rồi mới từ giã Xã Trưởng mà lẻn về nhà. Khi tới cửa trang thấy cửa nhà vẫn êm cả, không có việc chi động tĩnh khác. Bọn trang khách thấy Tống Giang về thì ai nấy vui mừng mà chạy ra đón.

Tống Giang lại hỏi ngay rằng:

– Phụ thân ta cùng Tứ Lang có nhà không?

Tụi trang khách nói:

– Thái Công ngày nào cũng mong mỏi Áp Ty đã mòn cả mắt, ngày nay trông thấy Áp Ty về, chắc là vui mừng không biết đâu mà kể…Thái Công đi uống rượu cùng Vương Thái Công ở nhà Trương Xã Trưởng mới về vừa xong, hiện đương nằm ngủ trong phòng đó.

Tống Giang nghe nói càng lấy làm lạ, vội vất thanh gậy xuống, rồi đi thẳng vào thảo đường. Bấy giờ Tống Thanh thấy anh về, vội vàng chạy ra đón lạy chào rất là ân cần. Tống Giang thấy Tống Thanh quả nhiên không mặc đồ hiếu phục, thì trong bụng đùng đùng nổi giận trỏ mặt Tống Thanh mà mắng rằng:

– Thằng súc sinh này vô lý quá bố còn sống trờ trờ kia, sao mày dám viết giấy nói liều, để cho ta chực tự tử ở giữa đường…không còn thiết đến cửa nhà chi nữa.Mày là đồ bất hiếu như thế…

Tống Giang vừa nói đến đó, Tống Thanh chưa kịp trả lời, thì đã thấy Tống Thái Công ở trong bình phong đi ra, gọi Tống Giang mà bảo rằng:

– Con không nên gắt mắng em nữa, cái đó không can thiệp gì đến nó. Vì ta mong mãi không thấy con về, nên mới sai em con viết thư như vậy, cho con phải về ngay. Vả ta nghe nói Bạch Hổ Sơn có nhiều trộm cướp, sợ khi con bị họ bắt bớ, rồi bức bách làm nghề lạc thảo, gây nên những tội bất hiếu bất trung, nên nhân thấy Thạch Dũng qua đấy, phải gửi thư cho con về lập tức, cái đó đều mệnh lệnh của ta, con không nên mắng em con nữa.

Tống Giang nghe nói, vội đổi nét mặt làm vui cười, lạy rạp xuống đất mà thăm hỏi hàn huyên, rồi mới kể đến việc quan ở huyện.

Thái Công bảo với Tống Giang rằng:

– Khi hai anh em con đi rồi, may nhờ có Chu Đồng và Lôi Hoành chu toàn che chở giúp cho, nên công việc cũng hơi được ổn thỏa, chỉ tư giấy đi truy bắt các nơi, mà trong nhà không còn lôi thôi gì nữa. Gần đây nghe nói triều đình sách lập Hoàng Thái Tử lên ngôi vua, có giáng một đạo xá thứ, phàm kẻ nào có tội nặng đều được giảm bớt cả cho. Bởi thế ta lại cũng mong con về đây…Bây giờ dẫu có bắt được, cũng đến đi đày đi ải mà thôi, không có gì là nặng lắm. Hãy để đó xem sao?

Tống Giang nhân hỏi đến chuyện Chu Đồng và Lôi Hoành, Thái Công đáp rằng:

– Mấy bữa trước thấy nói hai người cùng đi việc quan vắng cả, Chu Đồng thì sai đi Đông Kinh, còn Lôi Hoành thì không biết rằng sai phái đi đâu? Hiện nay trong huyện có hai người quyền mới đều là người họ Triệu cả.

Cha con ngồi chuyện một lúc, rồi Thái Công bảo Tống Giang đi ngủ sớm cho đỡ mệt. Khi mặt trời mới mọc, vào khoảng hết trống canh một, mọi người trong nhà đâu đấy đã ngủ yên phăng phắc, thì chợt thấy đuốc sáng rực cả lên, cửa trước cửa sau ồn áo kêu thét, rồi có tiếng quát lên rằng:

– Bắt lấy Tống Giang, đừng để chạy mất.

Cả nhà nghe thấy kinh sợ hãi hùng, không biết đầu đuôi xử trí ra sao?

Hay là:

Trăng trong soi bóng tử thần,

Hỏi rằng có thấu gian truân nỗi đời?

Bấy lâu góc bể bên trời

Nào khi trốn tránh nào nơi lọc lừa

Nhân tình trải mấy nắng mưa

Giang hồ còn chút thân thừa là đây.

Hiếu trung chất một lòng đầy,

Ví không non nước thân này kém ai?

Ai lên nhắn nhủ thử trời

Còn thân chắc cũng còn nơi vẫy vùng.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này rất nhiều chi tiết, một tiết Trại Thanh Phong khởi hành; Một tiết gặp Lã Phương, Quách Thịnh ở núi Đối Aûnh; Một tiết gặp Thạch Dũng ở tửu điếm; Một tiết Tống Giang nhận được gia thư; Một tiết Lương Sơn Bạc canh phòng cẩn mật; Một tiết Hoa Vinh bắn nhạn trổ tài; Sau một tiết Tống Giang trở lại nhà.

Đọc đến trại Thanh Phong khởi hành, với số xe ngựa, tướng binh, kể qua một lượt phân phối một lượt, rõ ràng một đoạn sử ký.

Đọc đến một tiết đấu kích ở Đồi Ảnh Sơn, thấy tác giả diễn ra một áng văn bỗng đâu rất thú, đó tả một tướng quân trẻ tuổi, phải được như thế! Đọc đến một tiết tả Thạch Dũng, cần xem tả được Thạch Dũng tướng quân như hổ dữ ngăn đường, thực là đáng khiếp, chỉ chịu phục hai vị hào kiệt, con người hào kiệt mới chịu phục nhau, thì con người hào kiệt đối với thiên hạ như thế nào?

Đọc đến một tiết Tống Giang được thư nhà, cần xem chỗ Thạch Dũng chả đưa thư ra ngay, lại không rõ sự thể trong thư nói gì, chỉ coi thông thường, làm cho Tống Giang mừng quýnh; Sau khi uống rượu nói chuyện, mới dỡ thư xem, chưa kịp xem thư, thấy không đề hai chữ Bình An ngoài phong bì, khiến Tống Giang ngờ, đều dùng ngọn bút kỳ do.

Đọc đến tiết Tống Giang, chạy về chịu tang, cần xem tác giả vẽ sống lạ con người bôn tang, nào đổi dày bỏ gậy, bỏ tiết Thủy Bạc, cần xem xả bài trí hùng lệ, hiệu lệnh nghiêm trang, cần xem chỗ giữ cẩn theo phép, cần xem chỗ lo sâu nghĩ xa, cần xem chỗ hỏi han, cặn kẽ, cần xem chỗ không vội tin lời nói, cần xem chỗ không hờ hững khách xa, đều dùng bút rất hết ý.

Đọc đến tiết Hoa Vinh trổ tài bắn nhạn, cần xem chỗ bắn giữa đám anh tài, xin định bắn con nào, còn khiêm tốn sợ không đúng…thấy Hoa Vinh văn nhã hơn người.

Đọc đến tiết Tống Giang về nhà, cần xem chỗ chợt vào nhà Trương Xã Trưởng nói chuyện, lại e không tin, sau tả thêm một Vương Xã Trưởng cùng uống rượu nữa, đó hình thể lối hành văn.

Hồi 35: Vũng Lương Sơn, Ngô Dụng cử Đới Tung – Núi Yết Dương, Tống Giang gặp Lý Tuấn

Bấy giờ Tống Thái Công nghe tiếng ồn ào, vội vàng trở dậy bắc thang trèo lên tường xem, thấy ngoài tường đóm thuốc sáng choang, hai viên Đô Đầu dẫn hơn trăm người đến vây ở đó.

Hai viên Đô Đầu này, nguyên là hai anh em họ Triệu, một người tên là Năng, một người tên là Đắc, cùng mới đến huyện Vận Thành làm Đô Đầu cả. Khi đó hai viên Đô Đầu bảo với Tống Thái Công rằng:

– Thái Công có phải là người biết điều, thì đem Tống Giang ra đây, để chúng tôi bắt hắn đem về nộp quan; bằng không thì chúng tôi bắt Thái Công để mang thay hắn.

Tống Thái Công đáp rằng:

– Tống Giang có ở nhà này đâu?

Triệu Năng nói:

– Thái Công đừng che mắt nữa? Chính Tống Giang ở nhà Trương Xã Trưởng ra về vào lúc tối nay, hiện có người theo dõi đến đây, còn chối từ sao được?

Bấy giờ Tống Giang đứng ở bên thang nghe vậy thì bảo với Thái Công rằng:

– Phụ thân nói với họ làm gì? Việc con đã gặp một kỳ ân xá, chắc là cũng giảm được ít nhiều. Vậy xin để mặc con ra thú trước cửa quan cũng chẳng chết nào mà sợ? Bọn này là bọn vô kiến thức, không quen biết với họ bao giờ, phụ thân nói làm chi cho mệt.

Thái Công nghe Tống Giang nói, thì ra dáng xót thương mà rằng:

– Nếu vậy thì cha đây làm khổ cho con hay sao?

Tống Giang nói:

– Phụ thân không nên phiền não làm chi? Con ra thú với quan tư thế là may lắm. Bằng cứ như mọi khí mà bôn tẩu giang hồ, gặp rặt những tay giết người đốt nhà, rồi lỡ ra bức bách phải đi tùng đảng, thì còn bao giờ được gặp phụ thân. Ngày nay dẫu có lỡ đi đày ải xa khơi xong cũng có kỳ hạn, sau này sẽ trở về đây, bấy giờ cha con đoàn tụ với nhau há chẳng vui lắm sao?

Tống Giang nói xong liền nhảy lên thang bảo với bọn người kia rằng:

– Tôi là Tống Giang đây, xin mời Đô Đầu hãy cho vào trong trang xơi nước, rồi sáng mai tôi sẽ đi đến quan. Tôi không phải đến nỗi chết gì mà ngại?

Triệu Năng nói:

– Thôi anh đừng mưu mẹo lừa cho hai anh em chúng tôi vào đây nữa.

Tống Giang cười mà đáp rằng:

– Có khi nào tôi dùng mưu mẹo để liên lụy đến anh em? Mời hai Đô Đầu cứ vào đây?

Nói đoạn xuống thang quay ra mở cổng, mời hai Đô Đầu vào trong trang, rồi nhất diện sai giết gà vịt làm cơm thiết đãi, và cho đám quân sĩ ăn uống. Khi ăn uống xong Tống Giang lại lấy ba mươi lạng bạc, đưa lại hai Đô Đầu mà giữ lại nghỉ ở đó một tối.

Sáng hôm sau, Triệu Năng, Triệu Đắc, áp giải Tống Giang về đến huyện Vận Thành. Quan Huyện Thời Văn Bân trông thấy cả mừng, truyền đem Tống Giang ra lấy khẩu cung. Bấy giờ Tống Giang cầm bút cung nhận các lẽ đại khái sau đây.

“Vào khoảng mùa thu năm ngoái, có mua Diêm Bà Tích về làm tỳ thiếp, sau vì một việc không may, hai bên cãi cọ lẫn nhau, nhân khi say rượu, lỡ tay đánh chết, rồi phải trốn tránh phương xa. Nay bị quan trên bắt được, xin thú mọi điều, không dám chút gì man trá.”

Tri Huyện xem nhận tờ cung, rồi truyền cho đem giam xuống nhà giam lao. Khi đó khắp huyện nghe tiếng Tống Giang bị bắt thì ai nấy đều có lòng thương xót, mà cùng nhay đến nói Tri Huyện, để rút bớt tội cho. Quan Huyện vốn có lòng tử tế với Tống Giang, nên cũng cho thả lỏng trong lao, mà không bắt gông cùm trói buộc, và lại đem tờ cung mà phê chuẩn ngay cho. Tống Giang lại đem tiền đút lót các nơi, cho đâu đấy đều hết lòng vị nể, không ai bới móc lôi thôi. Diêm Bà khi đó cũng đã chết rồi, không còn ai làm khổ chủ. Trương Tam thì người dưng nước lã, Bà Tích không còn, nên cũng lặng im cho xong chuyện.

Bấy giờ, quan Huyện làm thành văn án, đợi hết hạn sáu mươi ngày, giải lên trên Tế Châu để kết đoán. Quan Phủ Tế Châu xem đến hết căn do, và truy theo với ngày ân xá, liền giảm tội cho Tống Giang, phạt đánh hai mươi trượng, và phát vãng sang phủ Giang Châu. Các quan lại ở châu thành nhiều người quen biết Tống Giang, vả lại có tiền nong nói lót từ trước, nên đến khi phạt đánh, cũng không lấy gì làm đau đớn, như mọi kẻ tội nhân.

Khi phạt đánh xong rồi, quan Phủ cho thảo công văn, sai hai tên công sai cùng tụi Thương Thiên Lý Vạn gông cổ Tống Giang, mà sai sang Giang Châu. Giải ra cổng phủ thì Tống Thái Công và Tống Thanh đến đón ở đó, mời hai người công sai vào hàng thiết rượu, và đưa tiền ra để tiễn tặng.

Đoạn rồi Thái Công đưa quần áo cho Tống Giang thay, và gọi ra ngoài chỗ vắng mà dặn rằng:

– Ta biết Giang Châu là một nơi phong phú dễ chịu, nên phải chịu tốn tiền, xoay sở cho con đến chỗ đó. Vậy con nên cẩn thận giữ gìn, rồi ta sẽ sai Tứ Lang đến thăm hỏi, và tiền nong ta sẽ thường thường đưa cho, phen này con đi tất qua Lương Sơn, lỡ khi họ có xuống núi bắt ép lên nhập bọn, thì thế nào con cũng chớ theo, mà chớ để cho thiên hạ cười là bất nghĩa bất trung mới được. Những điều cha dặn con chớ quên sau này may có ngày đoàn tựu với nhau thế là hạnh phúc.

Tống Giang vâng lời, rồi bái biệt phụ thân, mà cùng hai tên công sai ra đi. Tống Khánh đưa chân Tống Giang một quãng đường xa. Khi sắp từ biệt nói với Tống Thanh rằng:

– Ta đi phen này, ở nhà bất tất phải lo nghĩ làm chi, duy phụ thân nay tuổi cao sức yếu, anh thì muôn dặm xa xôi, vậy em ở nhà phải nên trông nom phụng dưỡng, chớ bỏ đó mà sang Giang Châu mới được. Ta đi đến đâu, anh em quen biết cũng nhiều, nếu có thiến thốn tiền nong, khắc đã có người giúp đỡ, rồi sau này nhờ trời tất cũng phải có phen đoàn tụ với nhau. Nói đoạn hai anh em cũng ngậm ngùi lai láng mà cùng nhau gạt lệ chia tay.

Cố hương xa cách từ đây,

Nước non còn hẹn đến ngày trùng lai.

Đen thân đọ với đất trời,

Hỏi rằng cung kiếm chìu người hay chăng?

Sau khi từ biết Tống Thanh, Tống Giang cùng hai tên công sai lẽo đẽo lên đường. Hai tên công sai này đã được tiền của Tống Giang tiễn tặng, và cũng biết Tống Giang là người hảo hán xưa nay, nên cũng hết lòng chiêu đãi, mà không hoạnh hoẹ điều chi.

Tối hôm ấy đi đến một tửu điếm, Tống Giang cùng hai tên công sai vào nghỉ trọ. Tống Giang mua rượu thịt đãi hai tên công sai cùng uống, và bàn với hai người rằng:

– Chả dấu gì hai bác, các hảo hán trên Lương Sơn quen biết tôi rất nhiều, nay cứ theo đường thẳng đi qua lối này, thì tất nhiên họ cướp lấy tôi, mà hai bác cũng phần kinh sợ, vậy sáng mai dậy sớm mà tìm lối tắt nào để đi, cho tránh khỏi chỗ ấy là hơn.

Hai tên công sai vâng lời mà rằng:

– Nếu vậy chúng tôi cũng biết lối tắt, ta phải theo lối tắt mà đi, thì họ còn biết đâu mà bắt được?

Đêm hôm ấy ba người cùng định kế với nhau, rồi sáng hôm sau trở dậy ăn cơm sớm, rồi cung theo lối tắt mà đi. Khi đi được hơn mươi dặm đường, chợt trông thấy ở sường núi trước mặt có toán quân đi ra. Tống Giang nom lên thì thấy Xích Phát Quỹ Lưu Đường dẫn một toán quân hai ba mươi tên lâu la sồng sộc chạy ra chỗ Tống Giang mà toan đánh chết hai tên công sai. Trương Thiên, Vạn Lý thấy vậy đều sợ hết vía, mà quỳ ngay xuống dưới đất. 

Hoa Vinh hỏi lên rằng:

– Sao không tháo gông ra cho huynh trưởng?

Tiều Cái đáp lên rằng:

– Tôi biết ý huynh trưởng rồi…Cái đó có khó gì? Chỉ có một điều là không lưu luyến huynh trưởng ở sơn trại thì thôi…Nhưng Tiều Đầu Lĩnh lâu nay không được gặp nhân huynh, phen này muốn cùng nhân huynh tỏ lộ mấy lời tâm phúc, vậy xin người hãy quá bộ vào chơi sơn trại rồi sẽ đi…Có vội gì?

Tống Giang nghe nói đáp ngay rằng:

– Chỉ có tiên sinh là biết được ý tôi…

Nói đoạn lại nâng hai người công sai dậy ma tiếp luôn rằng:

– Phải để cho hai người này được tử tế…thà rằng giết tôi, chứ không thể hại họ được!

Đoạn Ngô Học Cứu liền đón bọn Tống Giang, cùng vào trong núi. Khi đến bên núi, có kiệu ra đón bên đinh đoạn kim. Đoạn rồi truyền lệnh cho các vị Đầu Lĩnh cùng về tụ họp và đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh.

Khi vào tới tụ Nghĩa Sảnh, Tiều Cái ra ý ân cần cảm tạ mà rằng:

– Từ khi ở đất Vạn Thành, nhờ ngài cứu thoát cho khỏi nguy nan, anh em thường vẫn nhắc đến ơn lớn của ngà, mới đây lại tiến dẫn các vị hào kiệt lên núi, thực là làm cho vẻ vang sơn trại vô cùng, ơn ấy biết bao giờ mà lũ chúng tôi biết báo đền cho xứng đáng.

Tống Giang đáp rằng:

– Chúng tôi sau khi từ biệt các ngài rồi giết đứa dâm phụ, phải đem thân đi đào tẩu giang hồ, hơn một năm trời dòng dã, dạo trước đã toan lên núi để thăm hỏi các ngài, song giữa đường tiếp được gia thư nói rằng phụ thân tạ thế, nên phải vội vàng về ngay. Ai ngờ đó là thân phụ mong mỏi, sợ khi nhập bọn với ai, nên mới viết thư nói dối gọi về, và cũng bởi đó nên quan trên bắt được. Nhưng cũng may được nhiều người che chở trông nom, nên cũng không có điều chi khổ sở; mà đi đầy đến đất Giang Châu, cũng là một nơi dễ chịu. Nay các ngài đã có lòng cho gọi, tôi không đến bái yết thì không tiện, song ngặt vì kỳ hạn đến nơi, không thể nào ở lâu đây được, nay anh em đã được gặp nhau, thế cũng là đủ, vậy xin các ngài tha lỗi cho tôi đi.

Tiều Cái nói:

– Có điều chi mà phải vội vàng thế, xin huynh trưởng ngồi chơi thư thả rồi sẽ hay.

Nói đoạn mời Tống Giang cùng ngồi vào ghế giữa. Tống Giang cho gọi hai tên công sai ngồi sát ở hai bên, mà không hề rời xa một bước. Tiều Cái bảo các đầu lĩnh chào Tống Giang, rồi cho ngồi dàn ra hai bên, và sai tiểu đồng rót rượu. Trước hết Tiều Cái chào Tống Giang, rồi từ Quân sư Ngô Học Cứu cho đến Bạch Thắng, đều cất chén mời khắp lượt. Rượu được vài tuần, Tống Giang lại đứng dậy mà rằng:

– Thế này thì biết đủ tấm lòng thân ái của các ngài đối với Tống Giang, song Tống Giang hiện đương là người có tội, không thể nào mà ở lâu được, vậy xin từ tạ để đi.

Tiều Cái cười rằng:

– Nhân huynh cần gì phải như vậy? Nếu nhân huynh không muốn giết hại hai tên công sai, thì cứ cho họ ít tiền rồi tống họ về, sau có lý thế nào cũng chỉ nói là bọn Lương Sơn Bạc cướp mất huynh trưởng rồi, không có kẻ nào trị tội họ mà sợ.

Tống Giang đáp rằng:

– Xin huynh trưởng chớ nói những lời như thế? Nếu thế không phải là cứu vớt Tống Giang, mà chính là làm khổ Tống Giang đó, Tống Giang này trên có cha già chưa từng được một ngày phụng dưỡng, có lẽ nào dám trái lời nghiêm huấn làm cho liên lụy đến cha? Trước đây cũng vì một lúc cao hứng, toan đến đây ở cùng các ngài, nhưng may sao trời kia xui khiến lại gặp được Thạch Dũng, mà được trở về nhà, cho đến cố hương, rồi sau phụ thân nói hết đầu đuôi; bắt phải ra thú quan tư mà chịu tội cho im các chuyện. Khi bước chân ra đi đày ở đất Giang Châu, phụ thân lại ân cần dặn dò, không được đua theo sự khoái lạc của mình, mà làm lụy đến cả cha em nhà cửa. Nay nếu Tống Giang tôi không nghe lời đó, thì là trên trái lẽ trời, dưới trái lời cha, trọn đời làm kẻ bất hiếu bất trung, dẫu có sống nữa cũng là vô ích. Nếu các ngài không có lòng tha cho Tống Giang được đi, thì Tống Giang này xin chết ngay trong tay các ngài này cho rảnh chuyện. Nói đoạn lai láng hai hàng nước mắt, rồi đứng dậy mà quỳ cúi rạp suống đất.

Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng đều đỡ Tống Giang dậy mà rằng:

– Nếu Ca Ca quyết định đi sang Giang Châu, thì xin hãy thư thả một hôm, rồi sáng mai sẽ xin đưa ngài xuống núi.

Mấy người cùng nhau gìn giữ năm lần bảy lượt. Bấy giờ Tống Giang mới nhận lời mà lại ở đó. Song Tống Giang cũng nhất định không cho tháo bỏ gông ra, và cứ bắt hai người công sai ngồi sát luôn bên cạnh, không để cho rời một bước nào.

Sáng sớm hôm sau, Tống Giang lại nằng nặc quyết ý đòi đi, Ngô Dụng liền sai bày tiệc tống hành và báo với Tống Giang rằng:

– Dám thưa Ca Ca, Ngô Dụng tôi có một người anh em chí thân, hiện đang làm Tiết Cấp, coi nhà lao ở Giang Châu, họ Đới tên Tung, người đó thường gọi là Đới Viện Trưởng, anh ta giỏi việc thần hành, một ngày có thể đi được tám dặm đường, nên người ta thường gọi là Thần Hành Thái Bảo. Người ấy chuyên là một người trọng nghĩa khinh tài, nhân vậy đêm qua tiểu đệ có viết một phong thư, để huynh trưởng sang đó nên kết thân với người ấy, rồi sau đây lỡ có việc gì, thì người ấy sẽ thông tin cho anh em cùng biết.

Nói đoạn đưa thư cho Tống Giang, rồi mời vào dự tiệc. Khi ăn tiệc xong, các vị Đầu Lĩnh hết sức giữ Tống Giang không được, liền đem ra một mâm vàng bạc gói tặng Tống Giang, và lại đưa hai mươi lạng bạc cho hai tên công sai, rồi sai người gánh hành lý mà đưa chân xuống núi. Ngô Học Cứu cùng Hoa Vinh đưa đến đường cái, đi ra ngoài hai mươi dặm, rồi mới bái biệt trở về.

Bấy giờ hai tên công sai, thấy Tống Giang đi đến đại trại nhân mã, các vị Đầu Lĩnh đều phải lại phục, lại được thêm kim ngân tiễn tặng như vậy, thì trong lòng lấy làm nửa mừng nửa sợ, mà từ đó hết sức hầu hạ Tống Giang, không hề chút gì sơ xuất.

Ba người cùng đi được hơn nửa tháng trời, đến một nơi có một tòa núi cao, hai tên công sai nói với Tống Giang rằng:

– Ở đây là núi Yết Dương, đi qua núi Yết Dương tức là con sông Tầm Dương, từ dó sang Giang Châu toàn là thủy bộ, cũng không còn xa mấy nữa.

Tống Giang đáp rằng:

– Nếu vậy bây giờ trời còn đương sớm, ta nên đi mau qua núi, rồi sẽ tìm chỗ nghỉ mới được.

Nói đoạn ba người cùng rảo bước đi mau lên núi, đã trông thấy ở dưới chân núi có một hàng rượu quay lưng vào núi, mà trước mặt toàn cây cổ quái um tùm. Tống Giang thấy vậy với hai người kia rằng:

– Chúng ta đương đói khát, hãy vào hàng kiếm thức gì ăn uống rồi sẽ đi.

Đoạn rồi ba người cùng đi vào hàng rượu. Hai tên công sai để các đồ hành lý lên bàn, dựng gậy vào một bên vách, rồi Tống Giang mời hai người ngồi lên ghế trên, mà tự mình ngồi xuống phía dưới.

Ba người ngồi đợi, mãi đến nửa tiếng đồng hồ không thấy ai ra bán hàng.

Tống Giang liền kêu lên rằng:

– Chủ nhà ở đâu, sao không ra bán hàng?

Nói vừa dứt lời, thì thấy tiếng trả lời rằng:

– Tôi ra đây, tôi ra đây.

Bấy giờ thấy một anh chàng to lớn râu quăn sắc đỏ, mặt hổ kéo tia, đầu đội khăn mích, mình mặc áo trấn thủ, để hở hai cánh tay, phía dưới buộc một cái khăn rất lớn, ở trong nhà chạy ra cúi chào ba người mà hỏi:

– Các ngài xơi bao nhiêu rượu?

Tống Giang nói rằng:

– Chúng tôi đương đói bụng, ở đây có thịt thà gì không?

– Thưa ngài, ở đây chỉ có thịt trâu chín với rượu trắng thôi.

– Được lắm, thái cho ba cân thịt,và rót một nai rượu đem đây.

Anh chàng kia nói rằng:

– Thưa ngài, xin ngài tha lỗi cho, ở hàng tôi đây phải trả tiền trước, rồi mới bán rượu thịt sau.

Tống Giang cười rằng:

– Ta trả tiền trước, cũng được chứ sao?

Nói đoạn liền mở khăn gói lấy mấy lạng bạc vụn đưa ra. Anh chàng kia đứng bên cạnh, liếc nom thấy khăn gói của Tống Giang hơi nặng, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, liền cầm tiền mà vội quay vào thái thịt rót rượu, rồi lấy ba cái chén, đôi đũa, đem ra rót rượu cho ba người uống.

Ba người vừa uống rượu vừa nói chuyện với nhau. Bọn giang hồ bây giờ thường nói là có nhiều người hay bỏ thuốc mê vào rượu cho thiên hạ uống, rồi cướp lấy tài vật kim ngân, lại giết người lấy thịt đem ra làm bánh, nhưng thiết tưởng chả có lẽ nào lại thế được!

Anh hàng rượu đứng cạnh nghe thấy vậy, thì cười mà nói rằng:

– Ba các ông đã nói thế, thì chớ nên uống rượu vào. Rượu thịt của tôi toàn là thuốc mê ở trong đó.

Tống Giang cũng cười mà rằng:

– Thôi bác đừng nói dỡn nữa. Thấy người ta bảo là thuốc mê thì cũng nói là có thuốc mê…

Hai tên công sai bảo Tống Giang rằng:

– Đại Ca xem thứ rượu này uống nóng thì tốt hơn.

Anh chàng kia tiếp luôn rằng:

– Các ông muốn xơi rượu nóng để chúng tôi đi hâm.

Nói đoạn rồi đem hâm nóng, rồi rót luôn cho ba người uống. Ba người vừa mới uống được một lượt rượu, thì hai tên công sai bỗng đờ mắt sè bọt mép ra, rồi ngã lăn xuống.

Tống Giang thấy vậy, vội đứng lên kêu rằng:

– Sao các bác mới uống một chút rượu mà đã say như thế?

Nói đoạn quay vào toan đỡ hai người kia dậy. Dè đâu chưa kịp đỡ hai người kia, thì tự mình đã thấy hoa mắt choáng đầu, rồi cũng nằm vật ra đó.

Bấy giờ anh chủ hàng nói một mình rằng: Trời ơi! Mấy ngày không có gì buôn bán, hôm nay trời lại đem cho ba món hàng này thực là qúy hóa quá.

Nói xong liền vác Tống Giang đem vào nhà mổ người, ở trong sườn núi, đặt lên trên ghế mổ, rồi lại trở ra vác luôn hai người công sai vào. Đoạn đi trở ra đem các đồ hành lý vào nhà trong mở ra xem thấy rặt những vàng bạc rủng rỉnh, thì tự nói lẩm bẩm rằng: “Ta mở hàng mấy năm nay, chưa bao giờ gặp thằng tù nào nhiều của như thế này? Quái lạ! Một thằng bị tù sao lại lắm vàng như thế? Chẳng hay là trời đem đến, để đãi riêng ta hẳn?”

Xem trong cái bọc, rồi lại cẩn thận, mà chạy ra cửa đứng ngóng. Được một lát người ở dưới núi đi lên, đi thẳng vào tửu điếm.

Anh chủ hàng trông thấy vội vàng đón tiếp mà hỏi luôn rằng:

– Đại ca đi đâu thế?

Bọn kia có một anh to lớn đáp rằng:

– Chúng tôi định lên đây đón một người này, chắc hẳn bây giờ họ đến đây thì phải? Chúng tôi ngày nào cũng đứng đón ở chân núi, mà sao mãi không gặp, hay là họ còn lươn khươn ở đâu?

Anh chủ hàng hỏi rằng:

– Đại Ca định đón ai?

– Tôi đón một người nam tử thực ra tuồng ở đây.

– Nam tử ra tuồng là ai thế?

– Bác muốn nghe tên ông ta hay sao? Ông ta là Tống Giang làm Áp Ty ở huyện Vận Thành chứ ai?

– Có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh chăng?

– Phải, chính ông ta.

– Ông ta đi qua đây làm gì?

– Nào tôi có biết đâu. Nguyên mấy ngày hôm nọ, có mấy anh em ở Tế Châu, trở về nói chuyện rằng: Ông ta không biết bị việc gì, mà phải giải tới Tế Châu, rồi kết án đày sang đất Giang Châu, thế nào cũng phải đi qua lối này, chứ không còn đi lối nào được. Trước đây ông ta ở Vận Thành, tôi cũng cố ý muốn tìm cho được gặp, huống chi ngày nay qua ở đất này, thì có lẽ nào mà không đón cho kỳ được? Nhân thế phải đón ở quãng núi này, đến bốn năm hôm nay, không gặp một người tù nào đi qua hết thảy. Hôm nay đợi mãi sốt ruột, định đến đây thăm bác, và kiếm thức gì chén một thể…Thế nào họ hàng dạo này có khá không?

Chủ hàng đáp:

– Chả dấu gì đại ca, mấy tháng nay không có một chút gì cả. May sao trời lại run rủi dắt cho ba cái hàng hóa đến đây, nhờ trời cũng kha khá.

Anh chàng mới đến vội vàng hỏi rằng:

– Ba người ấy thế nào?

– Một người tù với hai người công sai.

Anh chàng kia nghe nói giật mình hỏi rằng:

– Người tù đi đấy có phải là thấp béo đen đen không?

Chủ hàng đáp:

– Phải, người cũng không lấy gì làm to lớn, mà nét mặt đỏ tía như quả bồ quân vậy.

– Chưa động thủ đến chứ?

– Chưa, tôi vừa khiêng vào phòng, đợi bọn người nhà chưa thấy đứa nào về, nào đã hạ thủ được đâu?

Anh chàng kia ra dáng hoảng hốt mà rằng:

– Nếu vậy để tôi vào xem qua xem sao?

Nói đoạn bốn người cùng vào phòng mổ. Khi vào tới nơi thấy Tống Giang cùng hai tên công sai, nằm ngổn ngang ở trên ghế mổ.

Anh chàng kia tuy nom thấy Tống Giang, song vẫn là không biết mặt xưa nay, lại nom đến chỗ kim ấn, thì không được rõ ràng, nhân thế trong bụng nghi hoặc, không biết có phải là đích xác hay không? Chợt nghĩ ra một kế, liền bảo lấy gói hành lý của đám công sai để giở ra xem. Khi xem đến công văn, anh chàng kia ra dáng hớn hở mà rằng:

– Trời ơi! Nếu tôi đến chậm một chút, thì Ca Ca không còn gì là tính mệnh… ? Anh lập tức lấy thuốc cho Ca Ca mau tỉnh dậy thì mới được.

Chủ hàng lật đật đi pha thuốc, rồi cùng anh chàng kia vào phòng tháo gông cho Tống Giang, mà đổ thuốc cứu cho tỉnh dậy. Đoạn rồi bốn người cùng túm vào dìu Tống Giang mà đặt ở khách vị nhà ngoài.

Được một lát, Tống Giang mở bừng mắt dậy, thấy bốn người kia đứng ở chung quanh thì lấy làm kinh lạ, không hiểu ra sao.

Anh chàng kia vội vàng ra trước mặt mà cúi lạy Tống Giang. Tống Giang lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Ông là ai? Hay là gặp tôi trong giấc mộng?

Nói đoạn thì cũng thấy anh chủ hàng quay ra sụp lạy dưới đất.

Tống Giang lại hỏi:

– Ở đây là chỗ nào? Hai ông là ai, xin cho tôi được biết?

Anh chàng kia đáp rằng:

– Tiểu đệ họ Lý tên Tuấn, người ở Lư Châu, làm nghề chở thuyền ở sông Dương Tử, vì có tài lặn lội dưới nước nên người ta thường gọi là Hỗn Giang Long Lý Tuấn. Người anh em bán hàng rượu ở đây, là người ở núi Yết Dương, xưa nay chỉ nhờ nghề cướp bóc kiếm ăn, nên người ta thường gọi Thôi Mạnh Phán Quan Lý Lập. Còn hai người này là hai anh em ruột, cũng chuyên nghề bóc lột kiếm ăn, có tài lội nước bơi thuyền, mới đến ở với Lý Tuấn tôi, một người là Động Dao Đồng Uy, và một người là Phiến Giang Thần Đồng Mãnh.

Bấy giờ bốn anh cùng lạy Tống Giang bốn lạy, rồi Tống Giang hỏi rằng:

– Vừa rồi đã đánh thuốc độc cho Tống Giang mê chết, vậy sao lại biết Tống Giang mà cứu dậy?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Tiểu đệ có một người anh em buôn bán ở Tế Châu về, kể chuyện nhân huynh bị quan tư bắt bớ đày sang đất Giang Châu, nhân thế tiểu đệ liền đến đây để đón bốn hôm nay. May cũng là sự bất thình lình vào hàng định uống chơi dăm chén rượu, dè đâu thấy Lý Lập nói chuyện, liền có bụng ngờ mà lần vào trong phòng để xem. Bấy giờ tiểu đệ cũng không biết mặt nhân huynh, sau phải đem công văn ra mới biết.  Tiểu đệ nghe nhân huynh đã lâu, nhiều phen đã định đến hầu mà không sao đi được. Nay được gặp gỡ ở đây, thực là hạnh phúc vô cùng. Vậy chẳng hay nhân huynh vì lẽ chi, mà phải đày sang Giang Châu như thế?

Tống Giang liền đem chuyện mình giết Bà Tích, cho tới khi bị quan tư bắt được, kể hết cho mọi người nghe.

Bốn người đều khen ngợi thở than, rồi Lý Lập bảo với Tống Giang rằng:

– Chẳng hay Ca Ca ở lại chốn này, can chi phải đến lao thành ở đất Giang Châu mà chịu khổ?

Tống Giang đáp rằng:

– Bọn Lương Sơn Bạc đã hết lòng giữ tôi ở đó, mà tôi không thể nào lưu lại, để liên lụy đến phụ thân tôi huống chi ở đây… ?

Lý Tuấn nghe nói, liền quay lại bảo Lý Lập rằng:

– Ca Ca là bậc nghĩa sĩ, hẳn không khi nào liều, vậy bác nên cứu cho hai người công sai kia dậy.

Lý Lập vội vàng gọi đám người nhà mới về đó, vào khiêng hai người công sai ra ngoài hàng, rồi đem thuốc giải cứu tỉnh dậy.

Khi hai tên công sai tỉnh dậy đều nhìn nhau mà cùng nói rằng:

– Chúng tôi có lẽ đi đường khó nhọc, ngủ say lúc nào không biết.

Mọi người nghe nói đều cười phá lên.

Chiều hôm ấy Lý Lập làm rượu thiết đãi mọi người, rồi giữ ở đó một tối. Sáng hôm sau lại thiết đãi cơm rượu tử tế, và đưa gói hành lý trả lại hai người công sai, bấy giờ bọn Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, mời bọn Tống Giang mà từ giã Lý Lập rồi cùng về nhà Lý Tuấn.

Khi tới nơi Lý Tuấn cũng thiết đãi ân cần, và bái Tống Giang kêt làm huynh đệ rồi lưu lại ở đó mấy hôm. Cách vài ba hôm, Tống Giang từ tạ xin đi, Lý Tuấn liền mở tiệc tiễn hành và trả các đồ hành lý cho ba người, rồi đưa chân khỏi núi Yết Dương mới ngậm ngùi bái biệt.

Nước bèo gặp gỡ tự nhiên,

Hay đâu hoạn nạn là duyên giang hồ.

Bọn Tống Giang hôm đó từ gĩa Lý Tuấn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, rồi ba người cùng nhau thẳng lối trông chừng Giang Châu. Vào khoảng trưa hôm ấy, đi đến một nơi cửa nhà đông đúc, phố xá chen vui, thì chợt thấy có một toán người, đương túm đen túm đỏ, mà đứng châu vào một chỗ.

Tống Giang thấy vậy rẽ đám đông đi vào xem, thì thấy có một anh chàng đánh gậy bán thuốc cao, đương múa may quay cuồng ở giữa.

Anh chàng kia đi một bài gậy, rồi lại vất gậy ra đi một bài quyền. Tống Giang lấy làm thích chí khen ngợi luôn mồm.

Đoạn rồi anh chàng kia bưng cái mâm đi đến trước mặt mọi người mà nói rằng:

– Chúng tôi ở phương xa đến đây, tuy võ nghệ không có gì, song được các ngài có lòng hạ cố ban khen, vậy nếu các ngài có cần các thứ thuốc cao thì xin cho tiền để mua, bằng không thì cũng xin các ngài rộng lòng cứu giúp một chút tiền ăn, để khỏi phụ công con nhà khó nhọc.

Anh chàng nói hết một lượt không ai cho một đồng nào. Chàng ta lại quay lại lượt nữa, mà nói rằng:

– Xin các ngài rộng tay sớt bớt ra cho…

Chàng nói đã mỏi mồm song bọn người đứng xem chỉ trắng dã mắt để nhìn mà không ai cho một đồng nào gọi là có.

Tống Giang thấy vậy, liền lấy năm lạng bạc đưa ra mà bảo người kia rằng:

– Giáo đầu ơi! Tôi là một kẻ phạm tội, không có gì để giúp đỡ, vậy có năm lạng trắng đây, gọi là tỏ chút lòng thành để ngài cầm xơi nước.

Người kia cầm lấy năm lạng bạc rồi cảm ơn mà rằng:

– Trấn Yết Dương là một nơi có danh tiếng, thế mà không có ai biết đến võ nghệ là gì… ! May sao lại gặp được vị ân quan này, cũng là bị tù tội qua đây, mà lại cho được năm lạng bạc như thế, thực là:

Uổng công cười Trịnh Nguyên Hòa,

Lầu xanh mua chuộc câu ca tiếng cười.

Cứ gì hào phú mới chơi,

Áo lành vị tất là người phong lưu.

Nói xong lại tiếp luôn rằng:

– Năm lạng bạc này bằng năm mươi lạng khác, tôi xin cúi đầu bái tạ xin hỏi cao tính đại danh là gì, để tôi biểu dương cho thiên hạ cùng biết…

Tống Giang mỉm cười đáp rằng:

– Giáo sư ơi! Món tiền nhỏ mọn con con thế có kể làm gì? Đương khi nói vậy thì có một đại hán rẽ đám đông đi vào mà quát lên rằng:

– Thằng này là thằng nào? Đồ tù tội ở đâu? Dám đến đâu làm mãi tiếng đất Yết Dương của chúng ta như vậy?

Nói đoạn giơ tay quyền lên để đánh Tống Giang.

Mới hay:

Lận tài là của hiếm hoi,

Xưa nay nghĩa hiệp trên đời được bao?

Đỉnh chung đã chắc ai nào,

Vàng chôn ngọc lấp, tiếng hào vắng tanh?

Trăm năm thế thái nhân tình

Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân

Biết ai là kẻ xuất trần

Biết ai là Mạnh Thường Quân ở đời?

Ai đi nhắn nhủ đôi lời

Anh chàng họ Tống là người sao đây?

Lời bàn của Thánh Thán:

Trong một bộ sách, tả một trăm linh bảy người rất dễ, tả Tống Giang rất khó, nên đọc bộ sách này, cũng được chuyện 107 người rất dễ, mà đọc chuyện một Tống Giang rất khó hiểu. Vì tả chuyện 107 người, đều đúng ngọn bút viết ra, tốt thì thực tốt, xấu thì thật xấu, còn tả Tống Giang lại không thế, vội đọc qua thì thấy rất tốt, đọc lần nữa thì thấy tốt xấu đủ hai phần, lại đọc kỹ một lần nữa, thấy tốt không bằng xấu, sau cùng đọc xét ra, thấy đều là xấu không còn gì tốt!

Hỡi ơi! Đọc Thủy Hử mà đến hai ba lần, sau đến cuối chót, mà thực cho là xấu cả không tốt, há chẳng phải là người đọc sách giỏi ư? Song ta lại nghĩ rằng: Do chỗ toàn tốt của Tống Giang, mà đọc đến chỗ toàn xấu thì còn thấy dễ; Do chỗ toàn xấu của Tống Giang mà tả nên toàn tốt mới thực khó làm! Nay đọc đến chuyện, xem từ lời nói việc làm, tìm từng chút một, há chẳng cho rằng một bậc quân tử trung tín đốc kinh, đi đâu cũng có kẻ yêu, dù là trộm cướp, thấy rằng từng chữ, từng câu, từng tiết, từng hồi, không chút chê trách, tuy thế, há phải Tống Giang thực là người nhân con hiếu vậy? Sử ký không chép như thế ư? Chép vua Võ Triều Hán, chưa từng có một chữ chê đến Võ Triều Hán, thế mà độc giả sau này, chẳng mấy một, không tỉnh ra cho Hán Võ là không phải thế, như vậy chê khen vốn ở ngoài vòng bút mực, thì ra than ôi! Tỳ Quan chép ngoại sử đã cùng một phép với chính sử. Há dễ viết thay! Há dễ viết thay!

Hồi 36: Bến Tầm Dương canh khuya mắc nạn – Nơi Giang Phủ đất khách rời chân

Bấy giờ đại hán kia mắng Tống Giang, rồi giơ tay toan đánh, Tống Giang liền đáp lại rằng:

– Tôi có tiền thì tôi cho người ta, việc gì đến anh mà…

Đại hán kia nghe nói tức giận, vội nắm lấy tay Tống Giang mà quát lên rằng:

– Thằng ăn cướp bị tù này còn dám đối lại với ta a?

Tống Giang ung dung đáp rằng:

– Can chi mà không dám nói lại?

Đại hán kia hăng máu, liền giơ quyền đánh vào mặt Tống Giang. Tống Giang né mình tránh về một bên. Đại hán kia lại xông vào, Tống Giang thấy vậy lại toan dùng sức để chống cự, chợt đâu thấy anh chàng bán thuốc cao đã đẩy rẽ đám người đứng đông mà sấn vào đằng sau, một tay nắm lấy khăn đại hán kia, và một tay nắm giữa thắt lưng, đẩy một cái thực mạnh đại hán ta ngã quay lơ xuống đất. Đại hán bị ngã, cố lóp ngóp bò dậy, lại bị anh chàng bán thuốc cao đá luôn cho cái nữa, lại ngã lăn xuống đó. Hai tên công sai thấy vậy thì túm lại giữ can anh chàng kia không cho đánh quá. Khi đó đại hán kia trở dậy được, bèn quay nhìn Tống Giang và anh chàng bán thuốc cao mà nói rằng:

– Được lắm! Giỏi lắm! Rồi chúng bay sẽ biết tay ta…

Nói xong cúi cổ chạy thẳng về phía Nam…Bấy giờ Tống Giang hỏi người bán thuốc cao rằng:

– Chẳng hay quý tánh cao danh là gì, ngài quý quân ở đâu?

Người kia đáp:

– Tôi người ở huyện Lạc Dương, tỉnh Hà Nam. Tên là Tiết Vĩnh, ông tôi ngày trước làm thuộc viên cho quan Kinh Lược Trung, sau vì ác cảm với một số đông liêu nên không được thăng dụng nữa. Đến đời tôi chỉ nhờ nghề đánh gậy bán thuốc cao để kiếm ăn, đám giang hồ thường gọi tên là Bệnh Đại Trung (con cọp ốm) Tiết Vĩnh. Vậy chẳng hay quý tinh danh là gì?

– Tôi đây họ Tống tên Giang, người ở huyện Vận Thành…

Tiết Vĩnh hỏi luôn rằng:

– Có phải ngài lá Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh không?

– Vâng, chính là tôi đó.

Tiết Vĩnh nghe dứt lời, thì cúi ngay xuống mà chào Tống Giang.

Tống Giang vội đỡ dậy mà bảo rằng:

– Ta tìm chỗ nào uống vài chén rượu nói chuyện cho vui, ngài nghĩ sao?

Tiết Vĩnh đáp:

– Xin vâng. Chúng tôi đương muốn được gặp tôn nhan, thực là trời xui khiến vậy.

Nói đoạn lập tức thu thậïp các đồ hàng hóa rồi cùng Tống Giang đi vào hàng rượu ở gần đó. Khi vào tới nơi chủ hàng bảo hai người rằng:

– Nhà tôi có rượu có thịt, song không bán cho các ông được.

Tống Giang hỏi:

– Làm sao lại không bán cho chúng tôi?

Chủ hàng đáp:

– Vừa rồi các bác đánh nhau với một ông đại hán là một ông trùm ở đất Yết Dương đấy, ông ta đã dặn nếu bán hàng cho bọn bác là ông ta phá hàng ngay…thế thì còn ai dám bán nữa.

Tống Giang nói:

– Nếu vậy thì ta đi ngay cho rảnh, nếu không thì hắn tất đến đây lôi thôi lại thêm khó chịu.

Tiết Vĩnh nói:

– Tôi xin về tính trả tiền trọ rồi một vài hôm cũng đến Giang Châu, vậy xin bác cứ đi trước cho.

Tống Giang liền lấy mười lạng bạc đưa cho Tiết Vĩnh rồi từ giã ra đi.

Khi Tiết Vĩnh đi rồi Tống Giang cùng hại tên công sai lại tìm đến mấy hàng rượu khác, đều bị chủ hàng từ chối như trước, không hề bán cho chút gì để ăn uống cả. Ba người tức giận đi mãi đến một tiệm hàng con con ở chỗ chợ, định vào đây để trọ, bất đồ cũng bị chủ hàng từ chối mà không nhận chứa.

Tống Giang biết thế không ăn thua, đành phải bảo nhau kéo đi cho rảnh. Vừa đi ra được một lúc thì bóng khuất non tây trời đã gần tối. Tống Giang cùng hai tên công sai trông trước trông sau không có hàng nước nào ở gần đó, trong bụng lấy làm lo ngại cùng bàn với nhau không biết vào đâu mà trọ được.

Chợt đâu trông thấy ở quãng rừng xa xa có bóng đèn lấp ló. Tống Giang liền bảo với hai tên công sai rằng:

– Chỗ kia có ánh đèn sáng tất là có người ở đó, vậy ta đến đấy nói khó với người ta ở trọ một đêm rồi sáng mai sẽ cùng đi sớm.

Hai tên công sai đáp rằng:

– Chỗ đèn sáng hình như không thẳng đường cái đi đến thì làm thế nào cho tiện?

Tống Giang nói:

– Bây giờ lỡ bước phải chịu khó một tí, sáng mai đi rồi ra vài dặm đường cũng được chứ sao?

Nói đoạn ba người cùng rẽ xuống con đường nhỏ đi được hai ba dặm đường thì đến nơi một trang viện lớn ở đằng sau một đám rừng cây.

Tống Giang cùng hai tên công sai lần vào cổng trang, gõ cửa mấy tiếng thì có người chạy ra mở cửa mà hỏi rằng:

– Các bác là người ở đau mà đêm hôm đến gọi cửa làm vậy?

Tống Giang cung kính đáp rằng:

– Chúng tôi là người phạm tội, đẩy sang ở Giang Châu, qua đây lỡ mất độ đường, xin vào quý trang trọ nhờ một tối rồi sáng mai nộp trả tiền phòng.

Người kia đáp rằng:

– Các ông hãy đợi đây để tôi vào hỏi chủ nhân đã…

Nói đoạn quay trở vào một lát, rồi lại trở ra bảo với ba người rằng:

– Thái Công mời các ông cứ vào.

Tống Giang cùng hai tên công sai đi vào đến trước thảo đường, vái chào trang chủ và nói chuyện lỡ đường xin nghỉ trọ một đêm. Thái Công nghe nói, liền gọi trang khách dọn phòng cho ba người nghỉ và lấy cơm nước cho ba người ăn uống. Trang khách vâng lời, dẫn ba người xuống một gian phòng, đốt cây đèn lên cho ba người ngồi nghỉ rồi dọn cơm nước lên mời ăn uống. Khi ba người ăn uống xong, trang khách lại thu dọn tất cả đem đi.

Bấy giờ hai tên công sai bảo với Tống Giang rằng:

– Bây giờ đêm hôm vắng vẻ, tôi hãy tháo gông cho Áp Ty dể ngủ, để sáng mai cho kịp dậy sớm.

Nói đoạn liền tháo gông cho Tống Giang, rồi cùng nhau ra ngoài phòng đi rửa, khi ra tới ngoài, ngửa trông lên thấy trời im sao sáng, cảnh vật như tờ, lại trông ra đằng mạn sau nhà, trong chỉ còn một ngõ hẹp con con, đi ngang qua đó. Ba người cùng đi rửa xong, rồi trở vào đóng cửa phòng đi ngủ. Tống Giang nói với hai tên công sai rằng:

– Quý hóa quá! Nay nếu không có cụ trang chủ tử tế, mà cho chúng mình trọ ở đây, thì thực là nguy hiểm không chơi…

Đương khi nói chuyện, thì bỗng thấy phía ngoài có tiếng người qua lại, rồi thấy đóm đuốc sáng rực cả lên.

Tống Giang dòm ra khe cửa nom thấy Thái Công dẫn hai người trang khách cầm đuốc đi soi khắp nơi. Liền quay vào bảo với hai tên công sai rằng:

– Trang chủ ở đây; cũng không khác gì phụ thân tôi, bao nhiêu công việc, đều phải tự mình soi xét lấy, chiều tối ban sáng, không hề bỏ chút việc nào thực là quý hóa.

Vừa nói đến đó thì lại thấy tiếng người gọi cửa ồn ào, có một tên trang khách ra mở cổng, rồi thấy một bọn năm bảy người đi vào. Trong đó có một người cầm thanh đao lớn đi trước, còn mấy người vác gậy đi theo.

Tống Giang nom kỹ, té ra anh chàng cầm đao, chính là người định đánh nhau với mình ở trấn Yết Dương lúc sớm.

Bấy giờ nghe thấy Thái Công hỏi người kia rằng:

– Tiểu Lang đi đâu về đấy? Đánh nhau với ai mà bây giờ còn vác dao váv gậy như thế?

Anh chàng kia đáp rằng:

– Việc này Gia Gia không biết, Ca Ca tôi có nhà không?

Trang chủ đáp rằng:

– Ca Ca uống rượu say, nằm ở hiên sau kia.

Anh chàng lại nói:

– Vậy tôi phải gọi Ca Ca dậy, để bắt đám này mới được!

Thái Công hỏi:

– Ngươi lại cãi nhau với ai mà gọi Ca Ca dậy. Nó dậy thì lôi thôi sinh sự chứ không chơi. Người hãy nói cho ta biết vì duyên cớ gì đã.

– Dám thưa Gia Gia: Ngày hôm nay có một anh bán thuốc cao, đến ở trấn Yết Dương, mà không vào chào anh em tôi, nên thế chúng tôi ngăn bảo các người trên trấn không ai được cho nó một đồng tiền nào. Dè đâu có một thằng tù tội ở phương nào mới đến, làm bộ ra mặt hảo hán, đưa cho anh kia năm lạng bạc, làm mất cả giá trị đất Yết Dương. Tôi tức mình toan đánh, lại bị anh hàng cao đá luôn mấy cái, đến giờ vẫn còn đau, căm tức không biết đâu mà kể. Tôi đã cho các người đi dặn các hàng rượu không được cho chúng nó ăn ngủ hôm nay, và đã cho người đi lùng bắt được anh bán thuốc, đánh cho một trận nên thân, hiện còn để tạm ở nhà Đô Đầu, rồi sáng mai sẽ trói nó lại mà lăn xuống sông cho nó mất tích. Còn hai thằng công sai với một thằng tù kia, không biết rằng nó đâu, tôi đương gọi Ca Ca lại để tìm bắt nó… Thái Công gạt đi mà rằng:

– Con ơi! Chớ nên làm những việc tội ác như thế? Người ta có tiền thì người ta cho, việc gì đến mình mà lôi thôi sinh sự? Vả chăng nó đánh mình cũng chửa đau nào… ? Con đừng nên nói với Ca Ca, rồi nó biết con bị đánh, nó lại lôi thôi giết hại người ta chứ không chơi. Con nghe lời ta đi vào buồng ngủ, đừng nên tìm Ca Ca nữa. Con cũng nên để lại một chút âm công mới được.

Anh chàng kia nghe nói mặc kệ, cứ phăm phăm vác đao đi vào hiên sau. Đoạn rồi Thái Công kia theo vào. Tống Giang nghe rõ ràng như vậy, bèn bàn với tên công sai rằng: – Nguy lắm rồi làm thế nào được đây? Ta vào đây chính là nhà nó rồi, phải tháo chạy cho mau, không thì chêùt cả bây giờ. Dẫu cho ông lão ấy không nói ra, song đám người nhà đứa nào dám giấu…

Hai anh công sai cũng hoảng hốt mà rằng:

– Nếu vậy ta phải mau đi mới được.

Tống Giang nói:

– Ta không nên đi lối cửa trước, phải khoét một lối vách mà đi lối sau mới xong.

Nói đoạn hai tên công sai đều vác hành lý, Tống Giang cầm lấy gông, rồi khóet một quãng vách mà ra lối sau.

Ba người dắt nhau, liền theo dưới bóng sáng mà đi vào con đường nhỏ trong đám rừng cây, không còn biết đến đất trời đâu hết thảy?

Đi đến một trống canh, đã đến bến sông Tầm Dương hai bên toàn là lau lách đìu hiu, ở giữa một giải trường giang trắng xóa, đằng sau lại nghe tiếng người kêu đuổi đến nơi, đèn đóm đi theo chẳng khác gì bọn người đi đánh cướp: Tống Giang thấy vậy, thì trong bụng nửa cảm thương lo sợ, kêu xin trời phật cứu cho rồi cùng nhau nấp vào lau lách. Được một lát thấy đóm đuốc đi theo đã gần tới đằng sau, bước người càng lấy làm hãi hùng kinh sợ, trông ra nước cuốn sông ngăn, đất hết trời cùng không còn lối nào mà chạy thoát được.

Tống Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

– Nếu biết cơ hội này, thà rằng ở Lương Sơn cho rảnh chuyện. Ai ngờ tính mạng mà chôn lấp ở chốn này, thực là uổng quá…

Ngậm ngùi thay bến Tầm Dương,

Đìu hiu gió lạnh, mênh mang sóng cồn.

Ai về nhắn bạn Lương Sơn,

Tầm Dương nào phải đất chôn anh hùng.

Đương khi nguy cấp kinh hoàng, thì bỗng đâu trong đám ngàn lau bụi lách, có tiếng kẽo kẹt quai chèo rồi có một con thuyền ở đâu chở đến. Tống Giang thấy vậy, vội gọi người lái đò, mà nói lên rằng:

– Bác lái ơi! Bác làm phúc đức cứu ba chúng tôi, tôi sẽ trả bác nhiều tiền.

Người lái đứng trên thuyền nói rằng:

– Ba các bác là ai đi đâu bây giờ?

Tống Giang nói:

– Đằng sau có giặc đuổi, chúng tôi lạc bước đến đây, bác làm phúc cứu giúp, chúng tôi xin trả nhiều tiền lên.

Lái đò nghe nói, liền ghé thuyền vào, cho ba người bước lên, một anh công sai khăn gói bỏ vào trong khoang, còn một anh lấy gậy mà đẩy thuyền ra. Tên lái đò vừa bắt chèo lên để chèo, vừa lắng nghe thấy đồ hành lý để trong khoang thuyền có tiếng xủng xoẳng, thì trong bụng hớn hở mừng thầm, mà hết sức cho thuyền ra giữa dòng sông.

Bấy giờ bọn người đuổi theo đã đi gần tới bên cạnh bến sòng, có hai đại hán tay cầm thanh đao đi trước, và hơn mươi người cầm gậy giáo theo sau, đốt mười mấy bó đuốc Sở rực góc trời, kéo ùa đến đó. Khi bọn ấy đi tới bờ sông, liền gọi lái đò bảo cho thuyền vào bến.

Tống Giang cùng hai người công sai nấp vào một xó ở trong khoang, bảo với bác lái đò rằng:

– Bác đừng chở vào bến, rồi chúng tôi xin đãi tiền bác.

Anh lái đò gật đầu, rồi lẳng lặng mà kẽo kẹt chèo thuyền đi thẳng; mặc cho bọn trên bờ kêu gọi luôn mồm.

Đám ở trên bờ thấy vậy quát lên rằng:

– Bớ lái đò kia không chở thuyền vào đây, ông cho là chết cả bây giờ.

Anh lái đò cười nhạt mấy tiếng, rồi cứ im lặng không trả lời sao cả.

Trên bờ lại quát lên rằng:

– Bớ lái đò! Anh là người ở đâu, dám to gan không chở vào đây… ?

Lái đò cười nhạt đáp rằng:

– Lão gia là anh lái đò họ Trương đây, anh đừng lòe lão gia nữa.

Bấy giờ một đại hán ở trên bờ nói luôn lên rằng:

– Có phải Trương Đại Ca đấy à? Anh có trông thấy anh em tôi đây không?

Lái đò đáp:

– Ta có mù chột gì mà không nom thấy.

Đại hán lại nói:

– Nếu vậy anh hãy chở thuyền vào đây, tôi nói câu này đã.

– Có chuyện gì anh hãy để mai, thuyền bây giờ còn phải đi có việc vội.

– Anh em tôi chỉ muốn bắt ba người ở trong thuyền đó thôi.

– Ba người trong thuyền đều là cha mẹ nuôi nấng thân quyến nhà tôi, tôi mời đi xơi miếng dao phay đây.

– Anh hãy cứ chở vào đây chúng tôi nói câu này đã.

– Chịu thôi, cơm áo của tôi, bây giờ lại đem cho bác sung sướng hay sao?

Đại hán kia nghe vậy, thì nóng nảy mà rằng:

– Trương Đại Ca ơi! Chúng tôi không cần gì chuyện ấy đâu, bác cứ chở vào đây, cho tôi bắt mấy thằng tù kia thôi…

Lái đò cứ mần thinh, vừa chèo thuyền đi, vừa nói rằng:

– Ngày hôm nay mới tiếp được một việc, chả lẽ mang vào đấy cho anh phỗng mất hay sao? Thôi, hai anh tha lỗi cho, để hôm sau sẽ nói chuyện…

Tống Giang nghe thấy lái đò đối đáp như vậy, cũng không hiểu thâm ý sao, chỉ tắc lưỡi bàn với hai tên công sai mà khen rằng:

– Bác lái đò phúc đức quá, thực hết lòng cứu giúp chúng ta…Chúng ta không nên quên ơn những người như thế…Thực là trời đưa chiếc thuyền để cứu ta đó…

Bấy giờ thuyền đi đã xa, bọn trên bờ kia vẫn chịu phép cầm đuốc đứng vơ vẫn trên đám bờ lau, mà không làm gì được. Tống Giang thấy vậy liền lẩm bẩm bảo hai người kia rằng:

– Hú vía! Phen này thực là xa kẻ ác, gặp được người hay, không còn sợ hoạn nạn chi nữa!

Chàng đương nói chuyện, thì thấy anh lái ngoài kia vừa kẽo kẹt tay chèo, vừa cất tiếng véo von hát lên rằng:

“Lão đây sinh trưởng ở ven sông,

Chẳng thích giao du chỉ thích đồng.

Có phải đêm qua trời báo mộng,

Hôm nay được của rõ như không”.

Tống Giang cùng hai tên công sai nghe thấy câu hát như vậy, thì kinh ngạc không hiểu ra sao? Tống Giang suy tưởng trong bụng:

– Chẳng hay họ hát chơi như vậy? Cũng không lấy gì làm quan hệ!

Ba người đương nửa sợ nửa mừng, chưa hiểu ra sao, thì ngoài kia chú lái đò đã gác chèo lên mà nói rằng:

– Thằng tù với hai thằng công sai kia binh nhật mày quen làm hại những kẻ ăn sương, ngày nay gặp tay lão gia đây, chúng bây thích ăn miếng đao phay, hay là muốn ăn bánh hỗn độn chăng.

Tống Giang nghe nói đáp lên rằng:

– Quan bác đừng nói bông làm gì thế. Thế nào là miếng dao phay, thế nào là bánh hỗn độn?

Anh lái đò trợn mắt ghê gớm lên mà nói rằng:

– Lão gia đùa gì với bây! Bây muốn ăn miếng dao phay, thì lão gia có một con dao sắc như nước, ở dưới gầm thuyền kia, không cần phải bốn nhát năm nhát gì cả, chỉ mỗi người một nhát rồi vứt xuống nước là xong. Bằng thích đánh hỗn độn, thì cởi mau quần áo trần truồng, mà nhảy xuống sông mà tự tử.

Tống Giang nghe nói níu lấy hai người công sai mà kêu rằng:

– Khổ lắm trời ơi! Thực là phúc bất trùng lai, họa cô đơn chí!

Lái đò lại quát lên rằng:

– Ba đứa bàn định mau mau, thế nào nói đi.

Tống Giang nói rằng:

– Bác lái ơi! Xin bác xét cho. Chúng tôi có gì đâu. Chúng tôi là kẻ phạm tội, đày sang đất Giang Châu, bình sinh khổ sở, xin bác thương mà tha thứ cho.

Lái đò gắt lên rằng:

– Bây nói gì thế? Tha cho ba chúng bây à? Ta, gọi là nửa đứa cũng không tha, ông đây tên là Câu Kiển Trương Gia Gia (ông cụ Trương mặt chó) đây, bố cũng không cần, mẹ cũng không cần, bây câm mồm đi, nhảy xuống nước đi thôi.

Tống Giang vật nài kêu rằng:

– Chúng tôi xin đưa hết các đồ kim ngân cùng áo xống trong gói để dâng ông, xin ông làm phúc tha mạng cho chúng tôi.

Lái đò lặng ngắt, đi vào dưới khoang thuyền, lấy con dao sáng nhoáng lên, rồi quát bảo với ba người rằng:

– Ba chúng bây muốn làm thế nào?

Tống Giang thấy vậy, thì ngửa mặt lên trời thở dài và bảo hai tên công sai rằng:

– Chỉ vì tôi không kính trời đất, bất hiếu với cha mạ, làm nên tội ác thế này, để liên lụy đến hai bác, thực là đau xót quá chừng!

Hai tên công sai cũng níu lấy gươm mà nói rằng:

– Áp Ty ơi! Thôi còn nói làm chi nữa! Ba chúng tôi cùng chết với nhau một chỗ này thôi!

Anh lái đò sốt ruột quát lên rằng:

– Ba anh cởi áo mau mau nhảy xuống sông, nếu không thì lão gia cho mỗi anh một nhát.

Tống Giang cùng hai tên công sai, nghe nói thì ôm nhau mà quay ra trông xuống dòng sông để nhảy. Chợt đâu trên sông có tiếng kẽo ca kẽo kẹt, rồi có một chiếc thuyền vun vút đi đến. Trên thuyền có ba người một đại hán cầm cây gậy móc, đứng ở mũi thuyền, và hai người lái chèo ở đằng sau. Khi thuyền gần đến nơi, thì đại hán cầm gậy móc kia mà quát lên rằng:

– Thuyền nào dám hành sự ở đây? Hàng hóa trong thuyền đã có chủ, sao các ngươi được làm liều như thế?

Anh lái đò nghe nói, liền ngẩng lên mà nói rằng:

– Tưởng là ai, té ra Lý Đại Ca đó. Đại Ca đi buôn bán gì, mà không cho chúng tôi đi với?

– Bác Trương ơi! Bác vùng vẫy ở đây một mình… Trong thuyền có hàng hóa gì đấy? Khá không?

– Tôi nói chuyện cho bác buồn cười nhé: Tôi mấy ngày hôm nay nhẵn nhụi, không sờ vào đâu được, rồi lại đánh bạc thua không còn một đồng một chữ nào; Đương ngồi buồn ở trên thuyền, bỗng có một đám người đuổi ba món hàng hóa xuống, té ra là hai anh lính, với một thằng tù đen đen lùn thấp, không biết rằng ở đâu đến? Tôi thấy nó nói là đi đày sang đất Giang Châu, nhưng mà không thấy đeo gông xích gì cả. Còn bọn đuổi ở trên bờ, thì chính là hai anh em họ Mục, họ định đòi bắt đám này, nhưng tôi không chịu trả lại…

Đại hán kia nghe đến đó, thì ra đáng kinh ngạc mà rằng:

– Chết rồi! Chẳng hay là Tống Công Minh Ca Ca của ta đó?

Tống Giang ngồi bên này nghe tiếng người kia hơi quen quen liền kêu lên rằng:

– Hảo hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.

– Đại hán nào bên ấy? Nhờ cứu cho Tống Giang tôi với.

Đại hán kia cả kinh nói rằng:

– Té ra Tống Ca Ca của ta thực đó à?

Tống Giang nghe nói vội nhẩy ra ngoài khoang, nhờ ánh sao soi sáng. Trông sang bên kia, thấy người đứng mũi thuyền chính là Hồn Giang Long Lý Tuấn và hai người chèo ở đằng sau chính là Đông Uy, Đồng Mãnh.

Bấy giờ Lý Tuấn nhẩy sang bên thuyền này kêu lên rằng: – Khổ hại cho Ca Ca tôi, nếu tiểu đệ chậm đến đây thì còn gì là tính mạng! Hôm nay cũng là trời kia xui khiến, tiểu đệ ngồi nhà sốt ruột không yên, nên mới chèo thuyền qua đây để kiếm mồi buôn bán, dè đâu lại gặp Ca Ca bị nạn kinh nguy như thế.

Anh lái đò nghe vậy thì ngây người lạnh ngắt, hồi lâu mới cất tiếng hỏi lên rằng:

– Lý Đại Ca ơi! Té ra người lùn đen đó, chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh phải chăng?

Lý Tuấn nói rằng:

– Chính phải rồi, bây gờ anh mới biết khổ chưa? Chàng lái đò nghe nói vội cúi rạp xuống để lạy mà nói rằng:

– Chết nỗi! Làm sao nhân huynh không nói tên ngay từ trước, để tôi khỏi làm càn làm bậy như thế?

Tống Giang hỏi Lý Tuấn rằng:

– Hảo hán này là ai, xin bác cho tường tên họ?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Dám thưa Ca Ca, người này nguyên anh em kết nghĩa với tôi, họ Trương tên Hoành, người Tiểu Cổ Sơn, biệt hiệu là Thuyền Hỏa Nhi, vẫn chuyên nghề lẩn lút ở bến Tầm Dương xưa nay đó.

Nói đoạn liền bơi thuyền vào đến bến rồi buộc thuyền vào bến, mà mời Tống Giang cùng hai tên công sai lên bờ.

Lý Tuấn lại bảo với Trương Hoành rằng:

– Xưa nay tôi thường nói chuyện với anh: Nghĩa sĩ trong thiên hạ bây giờ, chỉ có một mình Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Áp Ty ở huyện Vận Thành ngày nay anh đã biết chưa?

Trương Hoành bèn lấy đá lửa bật lên soi mặt Tống Giang một lượt, rồi thụp xuống bến lạy lấy lạy để mà nói rằng:

– Xin Ca Ca tha tội cho chúng tôi…Dám hỏi Ca Ca cớ gì mà đi đày sang Giang Châu như vậy?

Lý Tuấn liền đỡ lời cho Tống Giang mà kể chuyện cho Trương Hoành nghe. Trương Hoành nghe nói có vẻ vui mừng mà rằng:

– Xin nói để Ca Ca biết: Tôi có hai anh em ruột, tôi đây là lớn, còn thằng em nữa, người trắng như ngà, mà nghề chơi cũng thạo, nó có thể bơi lặn dưới nước được. Nó vừa trắng vừa giỏi, nên người ta thường gọi cho một tên lạ, là Lăng Lý Bạch Điều Trương Thuận.Trước đây hai anh em tôi thường ở Dương Tử Giang kiếm ăn với nhau, thực là lắm chuyện buồn cười…

Tống Giang nói:

– Thế nào cho tôi nghe nốt?

Trương Hoành tiếp luôn rằng:

– Hồi đó hễ khi nào anh em tôi thua bạc, thì tôi lại đánh một con thuyền ra một quãng nào xa vắng để chở khách sang ngang. Chờ khi khách bộ hành xuống đã đông, rồi em tôi ăn mặc giả làm khách đáp mà xuống ngồi ở dưới thuyền. Tôi chèo thuyền ra đến giữa sông, rồi gác chèo lên, bỏ neo xuống, tay cầm một con dao bầu đi hỏi tiền đò. Cứ lý ra mỗi người phải trả có năm trăm đồng, song tôi nhất định cứ mỗi người phải trả ba quan mới được. Trước hết tôi hãy hỏi em tôi là Trương Thuận, Trương Thuận giả vờ làm mặt không có tiền, tôi liền một tay nắm đầu, một tay xách khố mà quăng xuống sông, rồi quay ra đòi tiền hành khách. Hành khách trông vậy, thì anh nào anh ấy khiếp vía kính sợ bảo nhau góp tiền trả đủ ba quan không dám thiếu nửa đồng nào. Khi thu đủ tiền, tôi liền cho bọn kia vào bờ, rồi bấy giờ em tôi ở dưới đáy sông bò lên, chia tiền mà đi đánh bạc với nhau. Ấy, cách sinh nhai như thế, nhân huynh tưởng có nhiêu khê không?

Nói đoạn lại tiếp luôn rằng:

– Hiện nay thì đã cải nghiệp cả rồi, tôi thì ở lại bến Tầm Dương này để kiếm chác quanh co, còn em tôi là Trương Thuận thì bây giờ lại sang đánh cá ở đất Giang Châu, nay mai Ca Ca sang đó, tôi xin gửi bức gia thư nhân thể. Nhưng mà tôi không biết chữ, thì viết thế nào được?

Lý Tuấn nói:

– Chúng ta đi vào trong xóm, nhờ thầy đồ biết chữ viết cho.

Nói xong liền để Đồng Uy, Đồng Mãnh lại coi thuyền rồi Trương Hoành cùng Lý Tuấn, cầm đèn dẫn Tống Giang cùng hai người công sai đi vào trong thôn.

Đi được nửa dặm đường, thì thấy phía trước mặt có bọn người đim và có đèn đuốc sáng trưng.

Trương Hoành liền hỏi to lên rằng:

– Anh em bác chưa về hay sao?

Lý Tuấn thấy vậy hỏi Trương Hoành rằng:

– Anh em nhà nào thế?

Trương Hoành đáp:

– Đó là hai anh em nhà họ Mục đấy.

Tống Giang vội gạt đi mà rằng:

– Không được! Không được! Hai anh em ấy họ đương định bắt tôi đấy.

Lý Tuấn nói:

– Không ngại chi, họ cũng như chúng tôi, chỉ vì họ chưa biết Ca Ca đấy thôi.

Nói đoạn giơ tay lên vẫy, và thổi một tiếng còi để gọi bọn kia. Hai anh em nhà kia nghe tiếng còi gọi, bèn dẫn người nhà đi tới nơi, thấy Lý Tuấn và Trương Hoành đương cung kính chuyện trò với anh tù, mà chính mình đương đi lùng bắt, thì lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Sao hai Đại Ca lại quen mấy người này?

Lý Tuấn cả cười mà hỏi lại rằng:

– Các bác bảo người này là ai?

Hai anh em nhà kia đáp rằng:

– Nào chúng tôi có biết là ai. Sáng hôm nay ông ta đem tiền cho thằng bán thuốc cao, làm mất cả danh giá đất Yết Dương, tôi đương tìm bắt đây.

Lý Tuấn cười rằng:

– Đây chính là Sơn Đông Cập Thời Vũ Tống Công Minh làm Áp Ty ở Vận Thành, chúng ta vẫn nói chuyện đến luôn đấy. Các anh lạy chào đi thôi.

Hai anh em nhà kia vội vàng vất đao ra, rồi cúi lạy Tống Giang mà nói rằng:

– Chúng tôi nghe tiếng đã lâu, mà không được thừa tiếp bao giờ? Nay chẳng may xúc phạm tôn nhan, xin Ca Ca tha tội cho.

Tống Giang đỡ hai người dậy mà hỏi rằng:

– Xin hai ngài biết quý tính danh là gì?

Lý Tuấn đáp rằng:

– Hai người này đều là con nhà hộ, anh là một Già Lạn, Mục Hoằng, em là Tiểu Già Lạn, Mục Xuân, là một tay bá ở đất Yết Dương tôi đấy: Nguyên đất Yết Dương tôi có ba tay làm Bá miền núi Yết Dương: Hai là hai anh em nhà bác này làm Bá ở trấn Tầm Dương; Còn thứ ba là anh em Trương Hoành ở bến Tầm Dương, thế gọi là Tam Bá.

Tống Giang nói rằng:

– Nếu vậy thì các Bá tụ tập ở đây, thực là hạnh phúc cho Tống Giang lắm, vậy xin các Bá nghĩ tình phận anh em mà tha Tiết Vĩnh ra cho.

Mục Hoằng cười rằng:

– Có phải anh hàng thuốc cao đấy không? Nhân huynh cứ phóng tâm, tôi bảo Mục Xuân đem về nộp trả Ca Ca. Bây giờ hãy xin đón Ca Ca về tệ trang nghỉ chân một lúc đã.

Lý khen phải, liền bảo tên người nhà ra coi thuyền cho Đồng Uy, Đồng Mãnh, và nhất diện sai người về trang báo trước ở nhà để giết dê lợn làm cơm thiết đãi, rồi cùng nhau kéo thẳng về trang. Vừa đến canh năm, đi tới gia trang, Mục Thái Công ra đón vào thảo đường, mời Tống Giang cùng ngồi đối tọa, còn các người kia theo thứ tự mà ngồi.

Khi tới gần sáng, đã thấy Mục Xuân dẫn Đại Bệnh Trùng Tiết Vĩnh về đó, Mục Hoằng liền giục đem tửu tịch lên đãi Tống Giang cùng các người rồi lưu lại một đêm ở đấy.

Sáng hôm sau, Tống Giang định sắp sửa ra đi, Mục Hoằng nhất định không nghe, cố lưu lại mà đưa Tống Giang đi xem xét khắp trong thị trấn Yết Dương. Tống Giang ở luôn ba ngày, sau sợ trễ quá kỳ hẹn, bèn quyết ý từ tạ xin đi. Anh em Mục Hoằng cố lưu không được bèn bày tiệc tiễn hành để sáng hôm sau tiễn chân Tống Giang. Sáng hôm sau Tống Giang từ tạ Mục Thái Công cùng các tay hảo hán mà dặn Tiết Vĩnh hãy ở lại đó ít lâu, rồi sau sẽ tương hội ở đất Giang Châu.

Mục Hoằng cũng ân cần lưu giữ Tiết Vĩnh ở đó, rồi đưa một ít kim ngân để tiễn Tống Giang. Bấy giờ Trương Hoành đã nhờ người viết được phong thư nhờ gửi Tống Giang đưa đến Giang Châu trao cho Trương Hoành. Tống Giang gói vào hành lý cẩn thận, rồi tất cả mọi người đưa chân ra bến Tầm Dương.

Mục Hoằng sai một chiếc thuyền, xếp các đồ hành lý xuống trước, rồi đem rượu xuống thuyền để tiễn hành. Khi rượu tiễn đã tan, bọn Lý Tuấn, Trương Hoành, Mục Hoằng, Mục Xuân, Đồng Uy, cùng Đồng Mãnh đều sụt sùi bái biệt trở về. Còn Tống Giang cùng hai tên công sai, thì giong thuyền thẳng nẻo Giang Châu.

Con buồm gió thổi phất phơ,

Tầm Dương trước lại bây giờ Tầm Dương.

Cùng trong một ngọn trường giang,

Mà nay nước cuộn sóng cuồng đi đâu!

Khi tới bến Giang Châu, hai tên công sai lại đeo gông vào cho Tống Giang, rồi thu lấy các đồ lý, và đem công văn giải vào trong phủ.

Quan Phủ Giang Châu họ Xài tên Đắc Chương, con thứ chín của Thái Sư Xài Kinh ở đương triều, nhân thế những người ở Giang Châu thường gọi là Xài Cưu Tư Phủ. Người này vốn tính tham lam kiêu sa, vả chăng Giang Châu là nơi đất rộng tiền nhiều, nên Xài Thái Sư cho ra Tri Phủ ở đó,, để tiện đường phung phí ăn chơi.

Bấy giờ hai tên công sai giải Tống Giang vào trước nha. Tri Phủ trông thấy Tống Giang có vẻ lỗi lạc phi thường, liền hỏi ngay rằng:

– Làm sao trên đầu gông lại không có dấu niêm phong của châu phủ như thế?

Hai tên công sai kêu rằng:

– Chúng con đi đường bị mưa xuân thấm ướt, nát mất lúc nào không hay.

Tri Phủ nghe nói, liền truyền hai tên lính giải sang nhà lao.

Khi ra khỏi cổng phủ, Tống Giang liền mời tất cả mọi người vào một tửu điếm để thiết rượu, và lấy ra năm lạng bạc đưa cho hai tên lính ở Giang Châu. Khi ăn uống xong tên lính Giang Châu đưa Tống Giang đến lao phòng, ra đến nơi nói lót với quản doanh, Sai Bát, rồi giao Tống Giang vào đó, mà trở về trong phủ đường. Đoạn rồi hai tên công sai trước, cũng giao các đồ hành lý cho Tống Giang và hết lòng cảm tạ mà trở vào trong phủ lĩnh giấy tờ để trở về Tế Châu.

Khi đó Tống Giang nhờ người mời Sai Bát đến, đưa tặng mười lạng bạc, và nhờ đưa lên Quản Doanh mười lạng, còn các người theo hầu trong doanh và lính tráng, đều có tặng tiền trà nước hẳn hoi. Nhân thế mọi người đều có lòng vì nể Tống Giang.

Hồi lâu, chúng dẫn Tống Giang lên phong điểm danh, rồi tháo bỏ gông trói vào chào Quản Doanh. Quản Doanh vè đã được tiền đút lót nên khi thấy Tống Giang lên, liền hỏi ngay rằng:

– Tên tù phạm mới đến là Tống Giang kia, ngươi đã biết theo như luật lệ của đức Thái Tổ Võ Đức Hoàng Đế tiên triều, phàm các người mới phạm tội, phải chịu một trăm roi ra oai, vậy tả hữu đâu kéo tên phạm ra đây.

Tống Giang kêu rằng:

– Chúng tôi đi đường chẳng may bị cảm chưa khỏi, vậy xin ngài cho khất ít lâu.

Quản Doanh đáp rằng:

– Ta trông mặt anh này có lẽ còn ốm thực; Nếu vậy hãy cho gửi đó ít lâu. Anh này trước đã làm Huyện lại xuất thân, thì tất là thạo việc, nay ta cho xuống bàn giấy ở bản doanh để sao viết giấy má.

Nói rồi liền thảo giấy cho Tống Giang xuống làm ở phòng giấy. Tống Giang tạ ơn, rồi xuống lao phòng, thu xếp hành lý để sang bên phòng giấy. Các bọn tù đồ thấy Tống Giang được biệt đãi như vậy, thì bảo nhau mua rượu thịt đến mừng.

Ngày hôm sau Tống Giang lại làm rượu thiết lại bọn tù đồ, và thỉnh thoảng lại mời Sai Bát đến uống rượu, còn về chỗ Quản Doanh thì đưa đồ biếu tặng luôn luôn.

Tống Giang nhờ được sẵn tiền trong túi, hết lòng cố kết bạn với bọn Giang Châu, nên mới đến đó được nửa tháng trời, mà khắp trong dinh trại không ai là không vui thích yêu chiều.

Nhân tâm theo với hơi đồng

Thói đời nóng lạnh thôi không lạ gì?

Một hôm, Tống Giang đương ngồi uống rượu với Sai Bát ở trong phòng giấy. Sai Bát bảo với Tống Giang rằng:

– Hôm trước tôi đã nói chuyện với nhân huynh, nên đưa chút lễ vạt gì cho Tiếp Cấp coi ngục ở đây, đên nay ngó nửa tháng trời, sao hiền huynh chưa đưa cho ông ta. Nay mai ông ta đến đây, tất là lôi thôi khó chịu.

Tống Giang đáp rằng:

– Cái đó không cần…Sai Bát có tiêu tiền, thì cứ hỏi Tống Giang này mà lấy, còn như Tiết Cấp thì một chữ cũng không cho. Để xuống đây khắc tôi có cách nói.

Sai Bát lại nói rằng:

– Chết nỗi! Áp Ty ơi! Tiết Cấp này không phải là vừa đâu, ông ta ngón gì cũng giỏi, nếu lỡ có điều gì xúc phạm thì nguy chứ không chơi, Áp Ty phải liệu mới được.

– Được, xin huynh trưởng cứ phóng tâm, mặc kệ ông ta muốn thế nào, tôi cũng có cách. Dễ thường ông ta còn có việc cần đến tôi cũng chưa biết chừng…

Vừa nói xong, thì thấy có một tên bài đầu đến báo rằng:

– Tiết Cấp đã đến, hiện đương quát lác ở trên sảnh, kêu rằng tên tù mới, sao không thấy đưa tiền lệ tiền ngạch gì cả…

Sai Bát liền bảo Tống Giang rằng:

– Đấy, tôi nói có sai đâu, bây giờ ông ta đến đây, không khéo lại liên lụy cả đến chúng tôi cũng nên.

Tống Giang đứng dậy cười mà rằng:

– Xin Sai Bát tha lỗi cho. Để hôm khác tôi xin hầu rượu, bây giờ đệ nói với ông ta xem sao đã.

Sai Bát cũng đứng dậy nói rằng:

– Xin hiền huynh đi một mình vậy, chúng tôi đến đấy không tiện.

Nói xong từ biệt mà đi.

Đoạn rồi một mình Tống Giang đi đến phòng điểm danh để chào Tiết Cấp.

Hay là:

Giang Châu chiếc nhạn ly quần

Cái khuôn con Tạo xoay vần từ đây

Mấy phen hồ hải tỉnh say

Con thuyền chìm nổi đến nay chưa cùng

Gió dồn giấc mộng Thanh Phong

Lương Sơn xa cách vẫy vùng riêng ai

Hãy liều nhắm mắt thử chơi

Xem rằng thế cục xoay đến đâu?

Lời bàn của Thánh Thán:

Sách này tả 108 người, đều có tâm địa ngang tắt, thế nhưng chưa từng có ai Tống Giang con người giả dối không định đó vậy. Đối với hảo hán thiên hạ mà kết giao, mới đầu không để lồng lộng như thanh thiên, trong trắng như hao nguyệt, êm ái tựa mưa xuân, nóng thẳng như sấm hè…Chỉ có một điều tung tiền ra mà thôi. Xét ra lấy đồng tiền là gốc mua chuộc, thế mà tự nói rằng hiếu với cha mẹ, thế mà vẫn bảo rằng hiếu với cha mẹ, chẳng sợ thiên hạ không tin là hiếu với cha mẹ; Lại tự bảo rằng kính với trời đất, chẳng sợ thiên hạ không tin là kính trời đất; lại tự bảo rằng tôn triều đình, chẳng sợ thiên hạ không cho tin tôn triều đình; Lại tự bảo rằng mến bạn bè, không tin thiên hạ chăng cho là mến bạn bè…Hỡi ôi! Con người thiên hạ chỉ biết đồng tiền làm quý, mà chẳng biết tới căn để sự tung tiền, đều làm cho Tống Giang dòm biết, vì đó tính chuyện, đều làm cho Tống Giang thao túng đổi ngầm thay rõ mọi sự, đó vốn là sự xấu xa của người trong thiên hạ. Cho nên Tống Giang vốn là anh lại sảo, chỉ đem đồng tiền mua chuộc thiên hạ, mà vẫn tự xưng là Hiếu Nghĩa Hắc Tam, để tính ngầm ngôi của Tiều Cái về sau, đấy là việc xấu, sao nỡ như thế vậy vay! Tác giả vốn ghét thế gian có những con người như thế, mới mượn một Tống Giang, để lập chuyện ra, mà từng chỗ chép ra sự phóng tài hóa thu tâm, đều là lấy ngòi bút công giết chết lòng tà gian vậy.

Thiên hạ bấy giờ, không ai chả thân với Tống Giang, thế mà rất thân như Hoa Vinh kia thấy rõ lắm. Hoa Vinh đón mời, Tống Giang không khi nào chẳng tới; Hoa Vinh lưu giữ, Tống Giang không khi nào chả ở; Hoa Vinh cần tháo gông, Tống Giang không khi nào chẳng tháo…Đương lúc trên vin cớ triều đình, dưới nghe lời cha dạy, dù có một trăm Hoa Vinh chẳng từng khuyên nổi Tống Giang tạm mở gông ra làm cho đám người sơn bạc tưởng thực rằng cái gông của Tống Giang phải đến lao thành Giang Châu, thì mới dám cởi, tác giả ghét lăm, mới tả ở chỗ núi Yết Dương rằng hãy tạm mở gông, đến sau từ biệt ly, lại chép rằng; Hãy đeo gông lại. Ở trong phòng Mục Thái Công chép rằng: Trong này không ai người ngoài, hãy tạm tháo gông, mà chép rằng: Tống Giang nói rất phải hãy tạm tháo gông đến khi chạy trốn, lại chép rằng Tống Giang cầm lấy gông. Khi trong miệng Trương Hoành nói chép rằng: Bấy giờ chẳng đeo gông; Với lúc Mục Hoằng thuyền quay lại, cũng chép rằng; Mọi người ở giang biên sửa soạn đeo gông. Đến khi lên bờ Giang Châu, chép rằng: Tống Giang liền đeo gông vào; Khi tới Quan Phủ hỏi: Sao trên gông không có chữ của châu quận đi qua…Tất cả những chỗ tả đến đeo gông như thế, để so với đoạn văn trên, Hoa Vinh cần bảo bỏ gông, mà còn không được. Hỡi ôi! Than như Hoa Vinh, mà còn chả tỏ chân tâm, thì con người như gươm, còn ở với ai bền mãi!.

Hồi này từng tiết ly kỳ, từng lần nguy hiểm, kỳ không dứt không thôi hiểm còn vương còn diễn, khiến độc giả hồi này, lửa lòng muốn tắt ánh mắt đâm mờ, chỉ lo đến chết, không mong còn sống, như vào trọ tửu điếm đã chả được, đó một lần; Tìm trú thôn trang, lại vào ngay trong nhà oan gia, đó hai lần; Khoét vách trốn đi, gặp sông ngăn nước trở, đó ba lần; Tìm được thuyền, giặc còn theo sá, đó bốn lần; Trong thuyền lại gặp Sảo Công định giết, đó năm lần; Sảo Công bức bách cầm đao đe dọa, đó sáu lần…Một hồi thấy thoát một miệng hùm, lại sa ngã một miệng hùm, khiến người một đầu đọc một đầu khiếp, chẳng những đọc không xiết mà khiếp cũng không xiết được.

Hồi này tả Tống Giang vốn tuân lời cha, chẳng chịu theo ở đám Lương Sơn, chợt đâu nảy ra tả một câu bất mãn với lời cha, một câu hối hận là chẳng ở lại Lương Sơn Bạc, đều do tác giả dùng bút ghê gớm, ngụ ý rất nghiêm cho lộ bản tướng con người giả dối.

Hồi 37: Tống Giang cười nói gợi tức Đới Tung – Lý Quỳ hung hăng đánh với Trương Thuận

Bấy giờ Tiết Cấp đương ngồi vắt vẻo trên sảnh, thấy Tống Giang đi đến, liền quát hỏi rằng:

– Đứa nào là thằng tù mới vào ở đây?

Tụi bài đầu trỏ vào Tống Giang mà đáp rằng:

– Bẩm chính là người này đây.

Tiết Cấp lại quát luôn rằng:

– Thằng lùn đen kia, mầy cậy thế ai, mà đến đây không đưa nộp tiên lệ cho ta?

Tống Giang điềm nhiên mà đáp rằng:

– Phàm sự nhân tình là đó người ta tình nguyện, có lẽ nào lại bức bách người ta được. Gớm nhà bác giỏi thực.

Những người đứng xem hai bên, nhìn thấy vậy, thì toát mồ hôi mà sợ thay cho Tống Giang.

Tiết Cấp lại quát lên rằng:

– À! Thằng giặc tù này vô lễ thực, dám gọi ta là nhà bác này… Chúng bay đâu lôi cổ đánh đủ trăm roi cho ta xem. Chúng nghe nói, đều có lòng thương nể Tống Giang, liền lẳng lặng mà trốn đi, bỏ một mình Tiết Cấp và Tống Giang ở đó, Tiết Cấp liền lấy làm giận, liền vác roi đến toan đánh TốngGiang.

Tống Giang ung dung hỏi rằng:

– Tiết Cấp ơi! Ông định đánh tôi, vậy tôi có tội gì?

Tiết Cấp thét to lên rằng:

– Thằng giặc tù này, mầy tức là hàng hóa ở trong tay tao, ho một tiếng cũng là tội rồi.

Tống Giang nói:

– Phải ông muốn nói thế nào thì nói, nhưng tôi tội cũng không đến nỗi chết nào?

– Tội mầy không đến nỗi chết, nhưng ta định đánh chết mầy, thì cũng như đánh chết con ruồi vậy.

Tống Giang nghe nói, cười nhạt mà rằng:

– Tôi đây chỉ vì không đưa tiền đút lót, mà đến nỗi đánh chết, vậy thì những kẻ giao thông với Ngô Học Cứu ở Lương Sơn Bạc sẽ xử ra sao?

Tiết Cấp nghe nói đến câu ấy thì vội vất roi xuống đất mà hỏi luôn rằng:

– Nhà ngươi nói gì thế?

– Tôi nói cái người giao thông với Quân Sư Ngô Học Cứu, việc gì mà hỏi tôi?

Tiết Cấp cuống người lên, nắm lấy Tống Giang mà hỏi luôn rằng:

– Bác là ai? Sao lại nói câu ấy?

Tống Giang nói rằng:

– Thưa ngài, tôi là Tống Giang ở Vận Thành đây.

Người kia cả kinh, vội vàng lạy rạp xuống mà rằng:

– Té ra huynh trưởng chính là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, tôi không được biết.

Nói đoạn liền bảo Tống Giang rằng:

– Ở đây không tiện nói chuyện, xin mời huynh trưởng vào trong thành, ta sẽ đàm đạo với nhau.

Tống Giang đáp rằng:

– Vâng, xin Tiết Cấp hãy đợi cho một lát, để Tống Giang về xếp dẹp bên phòng rồi sẽ đi theo.

Nói đoạn, vội vàng về phòng lấy bức thư của Ngô Dụng thu vào trong bọc, rồi lấy một ít tiền, rồi đóng cửa giao cho bài đầu coi giữ, mà quay ra theo Tiết Cấp vào trong thành Giang Châu. Khi vào trong thành, tìm vào ngồi ở một tửu lâu rất kín, rồi Tiết Cấp hỏi Tống Giang rằêng:

– Huynh trưởng gặp Ngô Học Cứu ở đâu?

Tống Giang lấy bức thư trong bọc đưa ra cho Tiết Cấp. Tiết Cấp bóc xem hết lượt, rồi cất thư vào túi, mà cúi xuống lạy Tống Giang.

Tống Giang vội đáp lễ lại mà rằng:

– Vừa rồi chúng tôi nói năng có điều không phải, xin ngài tha lỗi cho.

Tiết Cấp nói:

– Mấy hôm trước tiểu đệ chỉ nghe nói, có một người họ Tống đến đây, mọi khi thì vẫn thường lệ mỗi người tù đi đến, phải nộp tiền năm lạng, mà ngày nay đến ngót nửa tháng trời, vẫn chưa thấy nộp nên đệ muốn đến hỏi xem sao? Ai ngờ lại chính là nhân huynh ở đó. Dám xin nhân huynh tha tội ấy cho…

– Sai Bát cũng thường nói đến đại danh luôn luôn, Tống Giang này vẫn định đến chào, song không biết túc hạ trọ ở đâu, và cũng không có việc gì dám đi vào trong thành, nên đành phải đợi khi túc hạ ra đây, rồi sẽ bái kiến. Không phải là năm lạng bạc không thể đưa đi được, song cũng chắc rằng, thể nào nhân huynh cũng có phen qua đến ở đây, cho nên mới chậm trễ như vậy. Nay được gặp ngài ở đây, thực là thỏa lòng vô hạn.

Tiết Cấp này tức là Viện Trưởng Đới Tung, làm Tiết Cấp coi ngục ở hai viện Giang Châu, mà Ngô Dụng đã nói với Tống Giang khi ở Lương Sơn vậy. Nguyên thuộc về đời nhà Tống, các người làm Tiết Cấp ở mạn Kim Lăng đều gọi là Gia Trưởng, còn mạn Hồ Nam đều gọi là Viện Trưởng. Vì thế người ta gọi Đới Tung là Viện Trưởng Giang Châu. Đới Tung có thuật rất kỳ lạ, mỗi khi có văn thư cần cấp, thì buộc hai cái giáp mã vào trái chân làm phép thân hành, thì có thể đi một ngày được năm trăm dặm, nếu buộc bốn cái vào hai chân, thì có thể đi một ngày tới tám trăm dặm, nhân thế người ta gọi là Thần hành Thái Bảo Đới Tung.

Bấy giờ Đới Tung cùng Tống Giang chuyện trò với nhau, hai người đều lấy làm thỏa tình thích ý, rồi gọi các thứ rượu nhắm lên cùng uống rượu làm vui.

Trong khi uống rượu Tống Giang kể hết mọi chuyện đi đường cho Đới Tung nghe, Đới Tung cũng kể chuyện nhân tình, cùng Ngô Học Cứu cho Tống Giang nghe, rất là mật thiết.

Khi uống được vài tuần rượu, chợt nghe dưới gác có tiếng người huyên náo ầm ầm, rồi thấy tên tửu bảo lật đật lên nói với Đới Tung rằng:

– Người này chỉ có Viện Trưởng ngăn bảo thì mới được, vậy xin nhờ Viện Trưởng xuống bảo giúp cho.

Đới Tung hỏi:

– Ai ở dưới ấy?

– Bẩm ngài chính là Thiết Ngưu (con trâu sắt) Lý Đại Ca vẫn theo Viện Trưởng mọi khi, hiện đương tìm chủ hàng để vay tiền ở dưới ấy.

Đới Tung cười rằng:

– Lại thằng cha ấy lăng nhăng ở đây rồi, ta tưởng là ai…? Xin huynh trưởng ngồi đây, để tôi xuống bảo anh này mấy câu, rồi sẽ đi lên ngay.

Nói xong đứng dậy đi xuống gác một lúc, rồi dẫn một anh chàng to lớn đen chũi cùng đi lên gác.

Tống Giang thấy vậy lấy làm kinh ngạc, hỏi Đới Tung rằng:

– Dám thưa Viện Trưởng Đại Ca này là ai?

Đới Tung đáp:

– Người này là một người coi ngục ở trong lao tiểu đệ; họ Lý tên Quỳ, người huyện Nghị Thủy đất Nghi Châu, thuộc Bách Thượng. Anh ta có một tên lạ là Hắc Toàn Phong (Gió lốc đen) Lý Quỳ, và người làng anh ta thường gọi là Thiết Ngưu Lý Quỳ, sau có tội đánh chết người, phải trốn đi nơi khác; Nay dẫu được ân xá, song vẫn lưu lạc giang hồ, mà vẫn chưa về được cố hương. Anh ta tính hay chè rượu, thường dùng hai cái búa để đánh nhau, các ngón côn quyền cũng giỏi, hiện đương theo việc ở đây.

Bấy giờ Lý Quỳ trông thấy Tống Giang bèn hỏi Đới Tung rằng:

– Ca Ca ơi! Anh chàng đen sì đó là ai?

Đới Tung nghe hỏi thì cười bảo Tống Giang rằng:

– Áp Ty coi đấy, hắn lỗ mãng đến thế thì thôi, không còn biết một tý gì gọi là lễ phép.

Lý Quỳ lại hỏi Đới Tung rằng:

– Tôi hãy hỏi Ca Ca thế nào là lỗ mãng?

– Chính phép ra có hỏi đến ai, phải nói rằng: Vị quan nhân này là ai? Thì mới phải, nay ngươi đường đột hỏi ngay rằng: “Anh chàng đen sì đó là ai?” Như thế có phải là lỗ mãng không? Ta bảo cho mà biết: Vị nhân huynh chính là người nghĩa sĩ, mà mọi khi ngươi vẫn ước ao định đến bái kiến đó.

– Có phải là Sơn Đông Cập Thời Vũ Hắc Tống Giang không?

Đới Tung quát lên rằng:

– Đồ quái này, không biết gì cả, sao dám gọi sỗ sàng thế? Không cúi xuống mà lạy đi, còn đợi đến bao giờ?

Lý Quỳ nói:

– Có quả là Tống Công Minh, thì tôi sẽ lạy, còn người khác thị làm gì? Tiết Cấp đừng đánh lừa tôi, cho tôi lạy xằng lạy bậy rồi lại cười tôi.

Tống Giang liền đáp lên rằng:

– Tôi chính là Sơn Đông Hắc Tống Giang đây.

Lý Quỳ nghe nói vỗ tay kêu rằng:

– Trời ơi! Bố tôi sao không nói trước cho Thiết Ngưu mừng?

Nói đoạn liền phủ phục xuống để lạy Tống Giang. Tống Giang vội vàng đáp lễ mà nói rằng:

– Xin mời tráng sĩ ngồi đây một thể.

Đới Tung cũng bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh đến ngồi bên cạnh tôi đây mà hầu rằng:

Lý Quỳ ngồi xuống bên cạnh Đới Tung, rồi nói rằng:

– Uống rượu bằng chén nhỏ phiền lắm, không chịu được, xin lấy chén lớn ra đây.

Tống Giang hỏi Lý Quỳ rằng:

– Vừa rồi làm sao mà Đại Ca giận dữ ở dưới nhà như thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi có một đĩnh bạc lớn đem đổi lấy mười đĩnh bạc con, tiền hết mất cả rồi, nay định đến mượn chủ hàng mười lạng bạc con để chuộc bạc lớn về cho hắn, và chỉ dùng một ít, ai ngờ anh ta lại nhất định không cho mượn! Tôi tức mình đương định đánh cho một mẻ tan nát cửa nhà mới thôi… Cũng may lại bị Ca Ca tôi gọi lên đây, chứ không thì…

– Đại Ca chỉ cần mười lạng bạc, hay là phải tiền lãi nữa?

– Tiền lãi tôi đã có rồi, bây giờ chỉ cần mười lạng bạc để đi chuộc ngay thôi.

Tống Giang nghe nói, liền móc túi lấy ra mười lạng bạc đưa cho Lý Quỳ, mà nói rằng:

– Đại ca cầm tiền mà đi chuộc về.

Đới Tung thấy vậy, toan ngăn lại thì Tống Giang đã trao tay cho Lý Quỳ mất rồi.Lý Quỳ tiếp được món tiền, liền đứng dậy nói rằng:

– Tốt lắm, hai vị Ca Ca hãy đợi tôi một lát, tôi chuộc bạc đem về trả ngay, rồi xin theo Tống Ca Ca ra ngoài thành đánh chén.

Tống Giang nói:

– Hãy ngồi một lát rồi sẽ đi.

Lý Quỳ nói:

– Tôi chỉ đi một lúc rồi lại đến đây ngay.

Nói xong đẩy rèm đi thẳng xuống lầu.

Bấy giờ Đới Tung bảo với Tống Giang rằng:

– Huynh trưởng đưa tiền cho hắn làm gì? Vừa rồi tôi toan giữ, thì huynh trưởng đã đưa ra mất rồi.

Tống Giang nói:

– Tại sao lại thế?

– Hắn ta dẫu là người trung trực nhưng tính ham uống rượu, thích đánh bạc, còn có bao giờ có được một đĩnh bạc mà đổi ra, cái đó hắn nói dối đấy. Bây giờ đi vội đi vàng thế, tức là đi đánh bạc.. Nếu được ra tất đem tiền đến trả, huynh trưởng, mà nhược bằng bị thua mất, thì còn đào đâu ra mười lạng bạc mà trả lại, thế có phải thêm bất tiện cho Đới Tung này lắm không?

Tống Giang cười rằng:

– Huynh trưởng hà tất nghĩ như thế, mấy lạng bạc ấy có làm gì, để mặc cho anh ta đánh bạc, thua hết thì thôi. Tôi xem người ấy là một người trung trực lắm…

– Hắn ta võ nghệ cũng khá, chỉ có một điều là tính thô mật lớn, không cần gì ai, ở đất Giang Châu này, mỗi đám tù tội, thì lại đánh đập tất cả đám coi ngục, làm cho tôi nhiều phen cũng liên lụy đến hắn… Giữa đường thấy sự bất bình là thế nào cũng đánh cho những bọn cường ngạnh, vì thế khắp trong thành Giang Châu ai ai cũng sợ. Nói đoạn Tống Giang bảo với Đới Tung rằng:

– Chúng ta uống mấy chén rượu nữa, rồi đi chơi ngoài thành một lúc cho vui.

Đới Tung nói:

– Tiểu đệ quên đi mất, để rồi xin dẫn nhân huynh đi xem Giang Cảnh mới được.

– Tôi đến đây cũng muốn đi xem phong cảnh bên sông một lượt, nhưng chưa có dịp nao được đi, vậy xin uống rồi ta đi một thể. Nói đoạn hai người cùng ngồi nói chuyện với nhau.

Khi đó Lý Quỳ vớ được món tiền của Tống Giang ra đi, nghỉ khẩm lẩm trong bụng rằng:

– Tống Giang Ca Ca thực là quý hóa, xưa nay chưa từng chơi thân với mình, mà bỗng dưng cho mượn ngay mười lạng bạc, thế mới biết trọng nghĩa khinh tài, tiếng đồn đáng lắm. Chỉ hiềm vì mình mấy hôm nay đánh bạc thua mãi, không có một đồng nào để làm hảo hán mà mời ông ta đi đánh chén được! Bây giờ ta có mười lạng bạc này, nếu đánh được bạc, thì sẽ để mấy quan tiền mời ông ta đi chén vậy.

Chàng nghĩ vậy, liền vội vội vàng vàng đi ra ngoài thành, vào nhà Tiểu Trương Ất để đánh bạc. Khi vào đến sòng bạc, chàng ta vất mười lạng bạc xuống đất mà gọi lên rằng:

– Chờ tôi với.

Tiểu Trương Ất can:

– Đại Ca hãy khoan, để tiếng sau sẽ đánh.

Lý Quỳ nói:

– Không, tôi cần đánh tiếng bạc này mới được.

– Đại Ca hãy đứng ngoài, mà nghe nước bạc xem sao?

– Tôi không cần nghe ngóng gì cả, đánh là đánh luôn, này năm lạng bạc một tiếng này đây.

Nói xong cướp giựt lấy tiền mọi ở tay người khác, rồi hỏi lên rằng:

– Tôi cóp với ai đây?

Tiểu Trương Ất nói rằng?

– Đại Ca đánh năm lạng, thì cóp với tôi.

Lý Quỳ vỗ tay reo:

– Được lắm… được lắm…

Vừa reo dứt lời, thì nhà cái mở bạc.

Lý Quỳ bị thua, Tiểu Trương Ất liền vớ lấy bạc của Lý Quỳ. Lý Quỳ vội kêu rằng:

– Chỗ ấy của tôi mười lạng bạc đấy.

Tiểu Trương Ất đáp rằng:

– Nếu vậy còn năm lạng đánh tiếng nữa, được thì tôi trả lại cả.

Lý Quỳ lại kéo lấy tiền mọi, rồi reo lên rằng:

– Được… Vừa reo xong thì lại thua tiếng nữa.

Tiểu Trương Ất cười rằng:

– Tôi đã bảo rằng: Cướp tiền mọi làm gì, hãy nghỉ thì không. Không nghe tôi, thành ra thua luôn hai tiếng rồi.

Lý Quỳ bảo với Tiểu Trương Ất rằng:

– Tiền ấy của người khác đấy.

Tiểu Trương Ất nói rằng:

– Của ai thì mặc, đã đánh thua rồi, còn nói gì nữa?

– Thôi anh hãy cho tôi mượn, rồi sáng mai trả vậy.

– Nói bông làm gì thế? Trong đám bạc đến cha con cũng mặc kệ, nữa là… Bác đánh thua rồi, còn…

Lý Quỳ nghe đến đó, xắn áo lên rồi quát hỏi rằng:

– Có trả hay là không?

Tiểu Trương Ất thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:

– Lý Đại Ca mọi khi đánh bạc sòng phẳng lắm, sao hôm nay lại giở giọng như thế? Lý Quỳ lặng ngắt xông vào vồ lấy đĩnh bạc của mình, rồi lại cướp thêm mươi lạng bạc nữa của kẻ khác, mà đùm vào vạt áo, trợn mắt bảo chúng rằng:

– Lão gia mọi khi rất sòng phẳng, nhưng hôm nay hãy tạm không sòng phẳng một hôm…

Tiểu Trương Ất vừa toan chạy đến cướp lại, thì bị Lý Quỳ đá hất ra ngoài. Bọn mười ba mười bốn con bạc khác lại túm đến toan để cướp, cũng bị Lý Quỳ đá bên tả đánh bên hữu, làm cho các cậu phải trốn dạt cả, mà không dám thò ra nữa. Lý Quỳ đi ra ngoài cửa, người coi cửa hỏi rằng:

– Đại Lang đi đâu bây giờ đó?

Lý Quỳ lặng ngắt không trả lời, giơ cẳng đạp anh kia một cái rồi tung cửa đi ra. Bọn kia kéo ra theo lẽo đẽo ở đằng sau mà kêu lên rằng:

– Lý Đại Ca vô lý quá, lại cướp cả tiền của chúng tôi như thế?

Lý Quỳ cứ lẳng lặng rảo cẳng đi mau, không một anh nào dám đi gần đến gót. Đương khi lật đật vội vàng, thì thấy người ở đằng sau Lý Quỳ, nắm cánh tay mà quát lên rằng:

– Sao ngươi được cướp tiền của người ta?

Lý Quỳ miệng đáp lên rằng:

– Việc gì đến anh mà rối?

Vừa nói vừa quay cổ nom lại, thì thấy Đới Tung cùng Tống Giang ở đó, Lý Quỳ vội vàng sợ hãi ra mặt mà nói lên rằng:

– Xin Ca Ca tha lỗi cho, mọi khi Thiết Ngưu này vẫn sòng phẳng lắm, nhưng hôm nay lỡ đánh bạc thua mất tiền của Ca Ca, lại không có tiền mời Ca Ca đi đánh chén, nên phải liều mà giở ngón không sòng phẳng một hôm nay vậy.

Tống Giang nghe nói cả cười mà rằng:

– Hiền đệ có cần tiền, cứ hỏi tôi mà lấy. Bây giờ đánh thua, phải trả người ta mới được.

Lý Quỳ bất đắc dĩ lại phải bỏ vạt áo lấy tiền ra hết, đưa cho Tống Giang. Tống Giang cầm lấy tiền, gọi Tiểu Trương Ất lại để giao trả.

Trương Ất chạy lại nhận tiền mà nói rằng:

– Thưa hai ngài, chúng tôi chỉ xin số tiền của chúng tôi, còn mười lạng bạc của Lý Ca đánh thua, thì tôi xin tình nguyện trả lại cho đỡ lôi thôi.

Tống Giang nói:

– Người cứ cầm lấy không hề chi.

Trương Ất nhất định không dám nhận, Tống Giang liền hỏi rằng:

– Các người có ai bị đánh đau không?

– Bẩm có anh làm hồ lỳ, anh ra tiền mọi, và hai anh canh cửa, bị đánh ngã nằm ở trong kia.

– Nếu vậy thì cầm tiền này chia đều cho họ, còn Lý Ca thì khắc ta ngăn giữ, hắn không đến nữa đâu…

Trương Ất nhận tiền rồi lạy tạ ra về. Tống Giang quay ra bảo với Đới Tung rằng:

– Chúng ta đi uống rượu với Lý Ca một lúc đã.

Đới Tung vâng lời mà rằng:

– Ở bên bờ sông phía trước mặt kia, có Tỳ Bà Đình tửu điếm, là một nơi cổ tích của Bạch Lạc Thiên về đời Đường ngày trước, chúng ta đến đây uống rượu xem phong cảnh cho vui.

Tống Giang nói:

– Ta nên mua các thức nhắm ở trong thành đem ra đó.

Đới Tung nói:

– Hiện bây giờ có người bọn hàng rượu rồi, cần gì phải mua nữa.

Nói đoạn ba người cùng dắt nhau ra Tỳ Bà Đinh. Khi tới nơi thấy khu đình ở cạnh bến Tầm Dương, một bên là nhà của chủ nhân, trên Đình Tỳ Bà có tới mười bàn ăn, rất là rộng rãi. Đới Tung vào chọn một bàn sạch sẽ, nhường Tống Giang ngồi cánh trên, tự mình mình ngồi giữa, để Lý Quỳ ngồi dưới, rồi gọi tửu bảo sai dọn rượu lên.

Tên tửu bảo mang lên mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu, là một thứ rượu có tiếng nhất ở đất Giang Châu.

Lý Quỳ bảo với tửu bảo rằng:

– Lấy chén lớn rót lên đây, uống chén con lách tách khó chịu.

Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh nhà quê lắm, thôi, lặng im mà uống rượu đi thôi.

Tống Giang lại bảo tửu bảo rằng:

– Hai chúng ta đây để chén con cũng được, còn Đại Ca kia thì phải lấy chén lớn ra.

Tửu bảo vâng lời, lấy chén lớn ra để lên trước mặt Lý Quỳ, rồi rót rượu mà đem các thức nhắm lên.

Lý Quỳ cười mà nói rằng:

– Thực là Tống Giang Ca Ca quý hóa quá? Người ta nói không sai một chút nào… Chưa chi đã biết ngay tính của tiểu đệ… Kết bái được một vị Ca Ca như thế, thực cũng đáng đời.

Tống Giang nhân có Lý Quỳ trong bụng vui thích, uống luôn mấy chén rượu, rồi hỏi Đới Tung rằng:

– Ở đây có cá tươi hay không?

Đới Tung đáp:

– Huynh trưởng không trông đầy sông toàn là thuyền đánh cá đó sao? ở đây chính là một nơi cá gạo sẵn sàng, làm chi không có.

– Giá được một thứ thang cá nấu cay, mà ăn cho giã rượu thì hay lắm.

Đới Tung liền gọi tửu bảo sai làm ba bát thang cả đem lên; Để một lát tên tửu bảo bưng ba bát thang lên. Tống Giang nom thấy bát đĩa sang trọng khác hắn hàng quán mọi nơi, thì trong lòng lấy làm dễ chịu, liền cầm đũa mời Đới Tung và Lý Quỳ cùng ăn.

Lý Quỳ không dùng đến đũa, thò ngay tay vào bát, vớ lấy khúc cá giơ lên mồm mà cắn nhai rau ráu, Tống Giang nhịn cười không được, gắp vài ba miếng cá, và húp vài ba húp thang, rồi đặt xuống mà không ăn nữa.

Đới Tung thấy vậy, liền hỏi Tống Giang rằng:

– Thứ cá này chắc hẳn hơi có mùi, nhân huynh không xơi được hẳn?

– Vâng, tôi uống rượu chỉ ưa thích thứ cá rất tươi, thứ cá này không được tốt.

– Có lẽ thế, tiều đệ ăn cũng không được.

Lý Quỳ ăn hết bát thang của mình, rồi nói với hai người rằng:

– Hai vị Ca Ca không ăn, để tôi xin ăn hộ.

Nói đoạn giơ tay vớ lấy bát thang của Tống Giang, vớt cá ăn một lúc rồi lại vớ lấy bát thang của Đới Tung mà vớt cá ăn hết, nước nhỏ tòng tõng xuống bàn.

Tống Giang thấy Lý Quỳ ăn luôn ba bát cá như vậy, liền gọi tửu bảo đến mà rằng:

– Đại Ca đây đương đói, ngươi thái hai cân thịt lên để đây, rồi lát nữa ta trả tiền luôn một thể.

Tửu bảo đáp rằng:

– Hàng tôi chỉ có thịt dê, không có thịt bò, ngài muốn xơi thịt dê, thì tôi mang lên.

Lý Quỳ nghe nói liền cầm bát thang ném vài mặt tên tửu bảo ướt be bét cả người.

Đới Tung thấy vậy quát lên rằng:

– Ngươi lại làm gì thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Thằng này vô lễ quá, nó cho là ta chỉ biết ăn thịt bò, mà không bán thịt dê cho ta.

Tửu bảo nói:

– Chúng tôi chỉ hỏi một câu như vậy, nào có dám nói gì đâu.

Tống Giang bảo tửu bảo rằng:

– Ngươi cứ đi thái thịt đem đây, rồi ta trả tiền.

Tên tửu bảo bấm lòng chịu nhịn, quay ra thái ba cân thịt rồi đem bầy lên bàn. Lý Quỳ thấy thái thịt lên, không kịp chào mời đến ai. Vội giơ năm ngón tay bốc ăn luôn một lúc hết cả ba cân thịt.

Tống Giang thấy vậy khen rằng:

– Tốt thực, thực là hảo hán đó.

Lý Quỳ nói rằng:

– Tống Ca Ca biết ý của tiểu đệ chăng? Đệ ăn thịt không thích bằng ăn cá.

Đới Tung gọi tửu bảo đến mà bảo rằng:

– Vừa rồi mấy bát thang hơi xấu mùi, không ăn được, có thứ nào tươi tốt, làm bát khác lên đây, để quan nhàn này xơi cho giã rượu?

Tửu bảo cười rằng:

– Không giấu gì Viện Trưởng, cá này thực là để từ tối hôm qua, còn công cá tươi hôm nay, thì vẫn còn sống ở trong thuyền: Chưa thấy chủ hàng cá đến bán, cho nên chưa mua được cá tốt.

Lý Quỳ đứng phắt lên nói rằng:

– Để tôi ra tảo vài con về cho Ca Ca đánh chén.

Đới Tung nói:

– Thôi đừng đi nữa, để cho tửu bảo đi mua lại vài con cũng được.

Lý Quỳ nói:

– Những anh đánh cá trên thuyền lẽ nào không cho mình được? Để tôi xin đi lấy về đây.

Nói xong ngoắt đi thẳng, không ai ngăn cản được. Đới Tung nói với Tống Giang rằng:

– Xin huynh trưởng tha lỗi cho, tiểu đệ dẫn những con người ấy đến đây, không còn biết chút gì… Thực là xấu hổ quá.

Tống Giang nói:

– Tính anh ta như thế, bắt đổi làm sao được! Tôi thấy những người thế, trong bụng lại càng kính trọng lắm.

Nói đoạn hai người cùng ngồi trò chuyện vui cười với nhau.

Bên kia Lý Quỳ chạy ra bờ sông, thấy một dẫy thuyền có tới bảy tám mươi chiếc, đều buộc túm ở dưới gốc cây liễu, còn các người trên thuyền, kẻ thì nằm gối đầu bên mạn thuyền để ngủ, kẻ thì ngồi trên mũi thuyền và lưới, kẻ thì lội tắm bì bõm ở dưới nước với nhau. Bấy giờ đương giữa tháng năm, mặt trời đã gần xế về tây, mà không thấy chủ nhân về để bán cá.

Lý Quỳ đi đến nơi quát lên rằng:

– Thuyền chúng bây có cá tươi không, bắt cho ta vài con. Tụi phường chài đáp rằng:

– Chúng tôi đợi mãi, mà chưa thấy chủ nhân về đấy, không dám mở khoang thuyền ra bây giờ. Ông coi, bao nhiêu phường buôn vẫn ngồi đợi trên bờ đó.

Lý Quỳ nói:

– Đợi chủ nhân cốc nào, hãy bắt lên đây cho ta hai con.

Đám phường chài lại đáp rằng:

– Chúng tôi chưa đốt vàng chưa dám mở khoang thuyền, bắt thế nào được cá đưa cho ông?

Lý Quỳ thấy vậy, vội nhảy xuống thuyền, đám chài không ai dám ngăn giữ lại, chàng không hiểu đầu đuôi ra sao, hăm hở cúi xuống khoang thuyền, cầm cái phên trúc toan nhắc lên để bắt. Tụi phường chài vội kêu lên. Lý Quỳ cũng không thôi. Chàng ta nhắc phên lên, rồi thò tay xuống bắt, không thấy hơi một con cá nào, chàng tức mình rồi nhảy sang thuyền khác rồi cứ làm như thế.

Nguyên bọn chài lưới dưới sông lớn, đều để lỗ trống to ở sau thuyền cho nước sông ra vào được sống cá, rồi lấy cái phên trúc chắn ngang cho cá khỏi ra, Lý Quỳ không biết đầu đuôi ra thế nào, cứ phăm phăm rút cái phên trúc kia lên; làm cho cá ở trong đề thoát ra cả sông, mà không còn một con nào nữa. Khi đó Lý Quỳ nhảy sang thuyền khác, lại toan rút phên trúc lên, thì bọn tám chín mươi đứa phường chài, đều đổ xô vào xuống thuyền, vớ lấy sào để đánh Lý Quỳ.

Lý Quỳ thấy vậy, nóng tiết lên, liền cởi phăng áo ngoài, trong buộc độc cái khăn tay nòng nọc, rồi giơ hai tay khoa bắt từng năm sáu cái sào một, mà bẻ gãy răng rắc cả ra. Bọn phường chài thấy thế cả kinh, vội cởi dây thuyền mà đẩy ra cả một lượt. Lý Quỳ không biết làm thế nào được liền vớ năm sào gậy, nhảy tót lên bờ, nhè đám lái buôn mà đánh rối tít cả lên.

Đương khi đánh đuổi ầm ầm, thì bỗng có một người ở một con đường nhỏ đằng kia đi đến. Chúng trông thấy kêu lên rằng:

– Kìa, chủ nhân đã đến kia, anh chàng đen lớn này đương cướp cá, đuổi hết các thuyền ở đây.

Người kia lật đật hỏi rằng:

– Anh đen lớn nào mà vô lễ thế?

Chúng trỏ vào Lý Quỳ mà nói rằng:

– Kìa, hắn đương đuổi đánh ầm ầm ở trên bờ kia.

Người kia chạy đến chỗ Lý Quỳ mà quát lên rằng:

– Thằng cha nào gan hùm mật báo hay sao, dám thiện tiện đến quấy rối nghề nghiệp của lão gia đó.

Lý Quỳ nghe nói, quay cổ lại nhìn, thấy anh chàng mình cao hơn sáu thước tuổi ngoại ba mươi, ba chòm râu đen quanh miệng, đầu đội khăn sa xanh, lóng lánh miếng xuyên tâm đỏ, mặc áo trắng, thắt lá đáp, chân đi đôi giày gai, tay cầm cái cân đưa cho mọi người phường buôn, rồi sấn vào quát hỏi Lý Quỳ rằng:

– Thằng này mầy đánh ai?

Lý Quỳ chẳng nói chẳng rằng, múa luôn sào trúc, rồi quay sang đánh nghiến anh kia. Anh kia sấn vào cướp lấy sào trúc. Lý Quỳ liền túm lấy tóc anh kia. Anh kia cúi rạp xuống dưới, toan làm ngã Lý Quỳ song không thể nào làm núng được cái sức khỏe như trâu ấy, liền giơ quyền mà đánh luôn mấy cái, nhưng Lý Quỳ cũng không coi vào đâu.

Người kia lại giơ chân lên đá, bị Lý Quỳ dìm đầu xuống, rồi giơ những quả thủ cứng như sắt mà đánh vào lưng huỳnh huỵch, anh chàng kia không sao cựa dậy được.

Lý Quỳ đương đánh đấm hăng hái, thì bỗng có người đến ôm giữ sau lưng, và một người giằng tay ra rồi bảo rằng: – Không làm thế được…

Lý Quỳ ngẩng trông lên, chính là Tống Giang cùng Đới Tung đến đó, chàng bèn chịu phép buông ra, mà không dám đánh nữa. Người kia được thoát thân, vội vàng chạy thẳng, không kịp trông lại làm chi.

Bây giờ Đới Tung trách mắng Lý Quỳ rằng:

– Ta đã bảo đừng đi lấy cá, quả nhiên lại đánh nhau ở đây rồi. Ngộ nhỡ ra đánh chết người ta, thì có phải ở tù đền mạng không?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Bác sợ tôi làm liên lụy đến bác chăng? Dẫu tôi có đánh chết một đứa, thì tôi nhận tội cả chứ sao?

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Thôi anh em đừng cãi nhau nữa, lấy áo vải, rồi đi uống rượu với nhau thôi.

Lý Qùy chạy ra gốc liễu, nhặt lấy cái áo vải, rồi thắt lưng vào quay ra theo Tống Giang, Đới Tung.

Vừa đi được vài bước, chợt nghe sau lưng có tiếng gọi:

– Thằng cha đen chũi kia, phen này ta quyết được thua với mày?

Lý Quỳ nghe nói quay lại xem, thấy người kia cởi trần trùng trục thắt một cái khố nhà chài, mình trắng phau phau như tuyết, đầu không đội khăn, bỏ lộ miếng yểm đỏ ra ngoài, mà quát lên rằng:

– Đồ béo đen chết vằm chết mổ kia, lão gia có sợ mày, thì không phải là hảo hán, mà thằng nào chạy, cũng không phải là tay hảo hán.

Lý Quỳ nghe vậy cả giận, thét lên một tiếng rất to, quăng ngay áo xuống đất, rồi chạy thốc trở lại bờ phía sông. Anh chàng kia chở thuyền gần tới bờ, tay cầm sào giữ lấy thuyền, rồi miệng thì quát mắng ầm ĩ cả lên, Lý Qùy cũng quát lên rằng:

– Có phải hảo hán, thì lên bờ đây.

Anh chàng đứng dưới thuyền kia, vác sào trúc nhè vào chân Lý Quỳ mà đánh. Lý Quỳ nóng tiết, liền nhảy thốc sang thuyền cự lại. Anh chàng kia thấy Lý Quỳnhảy xuống thuyền, liền chống gậy lên bờ đẩy mạnh một cái, thuyền trôi vèo ra ngoài giữa sông.

Lý Quy tuy có biết lội, song không lấy gì làm thạo cho lắm, liền luống cuống chân tay, không biết làm sao cho được. Bấy giờ anh chàng kia không chưởi mắng chi nữa, liền quay lại bảo Lý Quỳ rằng:

– Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống nước một dạo đã, phen này quyết được thua với mày xem sao?

Đoạn rồi xông vào nắm lấy thắt lưng Lý Quy ømà mắng rằng:

– Ta không cần đánh làm chi, hãy cho uống một dạo nước đã.

Nói xong núng nính hai chân đánh trành thuyền cho lộn nhào đi, rồi hai người cùng lăn cả xuống nước.

Tống Giang cùng Đới Tung vội vàng chạy theo bờ sông thì đã thấy chiếc thuyền đánh ụp ở giữa giòng sông, hai người đứng trên bờ kêu khổ, mà không biết làm sao cứu được.

Bấy giờ có tới ba bốn trăm người kéo đến, đều đứng vây dưới gốc cây liễu ở bờ sông để xem. Anh chàng kia vật lộn Lý Quỳ ở dưới nước, lúc thì xách Lý Quỳ lên mặt nước, lúc lại dìu nghỉm Lý Quỳ xuống dòng sông một anh trắng phau như tuyết, một anh đen thui thủi như than, cùng nhau chìm nổi xuống lên, sôi hẳn khúc sông lên ở đó.

Bọn trên bờ thấy vậy, liền vỗ tay reo hò mà bảo nhau rằng:

– Anh chàng đen đen chui chũi, hôm nay có sống sót được, thì cũng đầy bụng nước, chứ chẳng chơi.

Tống Giang cùng Đới Tung thấy thế lực Lý Quỳ đã núng, đã bị anh kia xách lên dìm xuống tái nhợt cả mặt, thì đều lấy làm ái ngại, liền toan nhờ người để cứu hộ.

Đới Tung hỏi đám người đứng đó rằng:

– Người đàn ông trắng trẻo đó là ai?

Trong đám ấy có người đáp rằng:

– Vị hảo hán ấy là Trương Thuận, làm chủ phường cá ở sông này.

Tống Giang nghe nói chợt nhớ ra mà hỏi lại rằng:

– Có phải anh ta biệt hiệu là Lãng Lý Bạch Điều đó không?

Chúng đáp rằng:

– Chính phải đấy.

Tống Giang liền bảo với Đới Tung rằng:

– Nếu quả thị là hắn ta, thì tôi có bức thư của anh hắn ta, là Trương Hoành gửi đến đây.

Đới Tung nghe nói, vội đứng trên bờ kêu lên rằng:

– Trương Nhị Ca hãy khoan tay, có gia thư của bác Trương Hoành gửi đến đây. Người đen lớn ấy là anh em tôi đó, tha cho hắn ta, rồi lên bờ tôi sẽ nói chuyện.

Đương khi ấy Trương Thuận nghe tiếng Đới Tung gọi, thì trong bụng nhận hiểu liền, buông tha Lý Quỳ ra, rồi lội thẳng lên bờ chào Đới Tung mà rằng:

– Xin Viện Trưởng tha lỗi cho tiện nhân đây.

Đới Tung nói:

– Túc hạ hãy nể tôi, cứu cho người kia lên bờ, rồi sẽ dẫn cho gặp người khác nữa.

Trương Thuận vâng lời, rồi nhảy tòm xuống sông lội ra để cứu. Bấy giờ Lý Quỳ ngoi ngóc cổ cố nhoài để lên. Trương Thuận liền rẽ nước lội ra nắm lấy một tay Lý Quỳ kéo thẳng vào bờ, chẳng khác gì đi trên mặt đất vậy. Các người đứng bên sông thấy vậy, đều khen réo ầm ĩ cả lên, Lý Quỳ cũng chỉ ngây người đứng nhìn, mà không nói được câu gì cả.

Trương Thuận xách Lý Quỳ lên bờ, Lý Quỳ chỉ dúm người lại miệng thở hồng hộc mà nôn nước ra ầm ầm.

Đới Tung bảo rằng:

– Bây giờ hãy đến tất cả Tỳ Bà Đinh rồi sẽ nói chuyện.

Trương Thuận, Lý Quỳ nghe nói, liền tìm áo mặc vào, rồi cùng Tống Giang, Đới Tung đi lên Tỳ Bà Đinh.

Khi tới nơi, Đới Tung bảo Trương Thuận rằng:

– Nhị Ca có biết tôi chăng?

Trương Thuận đáp:

– Tiện nhân có được biết Viện Trưởng, song không được bái kiến bao giờ.

Đới Tung lại trỏ Lý Quỳ mà hỏi Trương Thuận rằng:

– Mọi ngày túc hạ có biết người này không? Hôm nay sao lại xung đột như thế vậy?

Trương Thuận đáp:

– Chúng tôi lạ gì mà không biết Lý Đại Ca, có điều chưa đối thủ với nhau lần nào cả.

Lý Quỳ nói:

– Hôm nay anh dìm tôi giỏi thực…

Trương Thuận nói:

– Thế thì bác đánh tôi chẳng kém gì.

Đới Tung cười rằng:

– Vậy từ nay hai người phải kết làm anh em mới được. Người ta thường nói: Không đánh hau, sao bỗng biết nhau, là thế đó.

Lý Quỳ bảo Trương Thuận rằng:

– Anh đừng gặp tôi ở trên bộ thôi.

Trương Thuận nói:

– Tôi chỉ đợi bác ở dưới nước là được rồi.

Đới Tung trỏ vào Tống Giang mà bảo Trương Thuận rằng:

– Tôi không biết là ai, mà không thấy ở đây bao giờ.

Lý Quỳ vội nhảy lên mà rằng:

– Ca Ca đây là Hắc Tống Giang đó.

Trương Thuận nói:

– Có phải Sơn Đông Cập Thời Vũ, Vận Thành Tống Áp Ty không?

Đới Tung nói:

– Chính phải là Công Minh Ca Ca đó.

Trương Thuận nghe vậy, liền cúi đầu xuống lạy mà nói rằng:

– Chúng tôi được nghe danh đã lâu… Bọn giang hồ ai cũng xưng tụng đức tính của nhân huynh, ngài là một người sơ tài trọng nghĩa xưa nay.

Tống Giang khiêm tốn đáp rằng:

– Túc hạ hay quá lời, tôi đây có đức tính gì mà đáng nói? Bữa trước tôi qua núi Yết Dương, ở nhà Hỗn Long Giang Lý Tuấn mấy ngày, sau qua bến Tầm Dương, tương hội với anh em Mục Hoằng lại được gặp lệnh huynh là Trương Hoành ở đó. Lệnh huynh có viết bức gia thư gửi sang túc hạ, song tôi còn để ở trong dinh, không mang đến đây, hôm nay nhân cùng Đới Viện Trưởng cùng Lý Đại Ca ra đây uống rượu ngắm cảnh bên sông, tôi uống mấy chén rượu, chợt nghĩ ăn cá tươi, Lý Ca hăm hở đi lấy, không ai ngăn cản được. Dè đâu Lý Ca lại sinh sự lôi thôi, khiến cho tôi lại gặp được túc hạ ở đây, thực là một sự không ngờ, như vậy. Hôm nay trời cho tôi được gặp ba vị hào kiệt, không biết rằng hạnh phúc đến đâu, vậy xin cùng nhau uống mấy chén rượu cho vui một thể.

Nói xong lại gọi tửu bảo dọn thứ khác lên.

Trương Thuận nói rằng:

– Ca Ca thích xơi cá tươi, để tôi xin đi lấy vài con về đây. Lý Quỳ nói:

– Để tôi cùng đi với bác.

Đới Tung quát lên rằng:

– Ngươi lại thế rồi, uống nước chưa thích hay sao?

Trương Thuận dắt tay Lý Quỳ, rồi cười mà bảo rằng:

– Tôi với bác cùng ra lấy cá phen này, xem họ nói ra sao? Nói đoạn, hai người cùng ra bến sông, Trương Thuận huýt một tiếng còi thì bao nhiêu thuyền chài ở trên sông, đều chở vào bờ cả. Trương Thuận hỏi rằng:

– Thuyền nào có cá chép tốt không đấy?

Lũ thuyền chài nhao nhao lên trả lời rằng có, rồi cùng nhau bắt đến mươi con đem lên cho Trương Thuận.

Trương Thuận chọn lấy bốn con sâu vào cành liễu, đưa cho Lý Quỳ đem về trước, rồi tự mình kiểm điểm bạn buôn, và cho hàng chài cân cá lên bán, rồi đi vào sau.

Khi vào tới Tỳ Bà Đinh, Tống Giang tạ ơn, mà rằng:

– Túc hạ cho nhiều quá: Chỉ dùng một con cũng đủ.

Trương Thuận đáp:

– Có làm gì những cái vặt; Huynh trưởng xơi không hết, thì đem về làm cơm xơi cũng được chứ sao?

Nói đoạn hai người chia thứ tự cùng ngồi, Lý Quỳ nhận hơn tuổi ngồi thứ ba, để Trương Thuận ngồi thứ tư, đoạn gọi tửu bảo mở hai chai Ngọc Hồ Xuân Tửu nữa, và đem các thứ hoa quả sơn hào hải vị lên. Trương Thuận sai tửu bảo đem một con cá chép để nấu thang, và lấy con cá để hấp với rượu, rồi bốn người ngồi uống rượu để cùng nói chuyện với nhau.

Đương khi chuyện trò vui vẻ, thì có một người con gái, vào vòng đôi tám thanh xuân, mình mặc áo sa mỏng, đi vào trước bàn ăn, chào bốn người cất tiếng lên hát.

Bấy giờ Lý Quỳ đương thích khoe khoang những ngón hào kiệt của mình, bỗng bị con hát cất tiếng hát lên, lam cho ba người kia bỏ câu chuyện mà lắng tai nghe vào đó, thì lấy làm tức bực vô cùng liền đứng phắt dậy giơ hai ngón tay mà tát vào mặt người con gái. Người con gái kêu lên một tiếng, rồi ngã lăn xuống đất.

Mọi người vội vàng chạy túm đến, thì thấy người con gái đã xám hẳn mặt lại, mà nằm lặng ra đó, như người sắp chết, chủ nhân thấy vật, liền ngăn giữ bốn người lại, rồi định đi trình quan.

Mới hay:

Ai không nhiệt huyết ở đời,

Xưa nay đã dễ mấy người có tâm?

Muốn tìm cho gặp tri âm,

Dẫu rằng thủy tích sơn thâm cũng liều.

Cạnh tranh đời đã xoay chiều,

Phải đem tâm huyết mà liều mới ngoan.

Nặng nề thay gánh giang san,

Ở đời nhu nhược phổng toàn được chăng?

Lời bàn của Thánh Thán:

Tả Tống Giang lấy đồng tiền ra để giao du, bỗng đâu tiếp tả ra một Thiết Ngưu Đại Ca, khéo thay dùng bút! Đã khiến cho Tống Giang thẹn với trước ngọc vàng châu báu, tệ hơn là mắng, đau hơn là đánh, nguy hơn là chết vậy. Thấy kẻ kia cần tiền đánh bạc, thì cho tiền đến sòng; thấy kẻ kia ăn cá, cũng thích nói ra, khiến cố đi tìm… Nếu hết thảy vật trong thiên hạ, thả cho thiên hạ chung nhau và dùng, thì sao khỏi những kẻ biển lận ở đời, vì sao lại không tin nổi đời có những tay khẳng khái không thèm!!! Nào phải không cho tiền mà chịu oán, hãy cho tiền thì mới mang ơn, như thế thì quyền thuật của Tống Giang, gặp con người ấy chẳng còn giá trị?

Tống Giang chỉ tung tiền, kẻ kia cũng cho là chỉ mua chuộc phường võ phu ăn tục làm liều, lưới chài sòng bạc… Chả hơn gì họ; Nếu họ gặp thời, chẳng vì tiền nong cá thịt, những kẻ kia cũng chẳng qua là bọn khiến người ta cảm vậy, Tống Giang không tung tiền ra, cũng sợ người ta oán vậy. Nay kẻ kia cũng không ơn với oán gì, không gặp Tống Giang như vậy, thì có hàng rượu hay không hàng rượu cũng thế, có sòng bạc hay không sòng bạc cũng vậy, con người của trong ngoài thành Giang Châu cũng vậy mà thôi, há phải đợi Tống Giang mua chuộc hảo hán, thì Lý Quỳ mới được tiền sử dụng, thế thì trước khi Tống Giang chưa đến Giang Châu, kẻ kia chẳng được uống rượu, chẳng được ăn thịt vậy ư? Sòng bạc của Trương Tiểu Ất cũng không mở nổi ra ư? Suốt thiên này tả ra con người Lý Quỳ như thế để nảy rõ ra một Tống Giang, thực là tuyệt thế diệu bút.

Từng chỗ tả Đới Tung khác hẳn Tống Giang, làm cho Tống Giang càng khẳng khái, và càng giả dối, đều do ngọn bút Thợ Lòng.

Tả Lý Quỳ thô mãng, không khó bằng tả từng chỗ nói liều của con người thô mãng, vì những kẻ nói liều của thiên hạ, hay giả cách thô mãng, như con người Tống Giang đối với sự đó, chẳng thẹn mình đến chết vậy thay!

Hồi 38: Gác Tầm Dương đề thơ tâm huyết – Chốn Lương Sơn nghe nỗi kinh hoàng

Bấy giờ Tống Giang cùng Đới Tung thấy chủ hàng toan đi trình quan thì lấy lời xếp dẹp im đi, rồi nhất diện dùng các phép để cứu người con gái tỉnh dậy.

Sau bố mẹ người con gái đến đó, nghe nói đến tên Hắc Toàn Phong thì lặng người kinh sợ, mà không dám phàn nàn nói một câu gì.

Tống Giang hỏi mụ già rằng:

– Nhà mụ tên họ chi? Người ở đâu?

Mụ già đáp rằng:

– Chúng tôi là người họ Tống, quê ở Kinh Sư, hai vợ chồng già; chỉ có một người con gái này, phải cho đi hát xướng kiếm ăn. Nhân vì tính nó cấp bách, không hiểu các ngài đương nói chuyện, nên mới đường đột vô lễ, để đến Ca Ca đánh đập như vậy, thực đau đớn cho mẹ con tôi quá nỗi!

Tống Giang nghe nói liền bảo rằng:

– Ngươi cho người theo đến nhà ta, ta sẽ cho hai mươi lạng bạc để làm vốn kiếm ăn, rồi kiếm người tử tế, gả bán cho nó nương tựa, khỏi phải đi hát xướng khó nhọc như thế nữa.

Hai vợ chồng mụ già cảm tạ mà nói rằng:

– Chúng tôi đâu dám xin ngài nhiều thế.

Tống Giang nói:

– Được, ta đã hứa, là ta cho đủ, không ngại điều chi. Bảo con ngươi cứ theo ta mà lấy.

Hai người vâng lời cảm tạ vô cùng, Đới Tung trách giận Lý Quỳ mà rằng:

– Hắn đi đến đâu, chỉ chực sinh sự đánh nhau, để Ca Ca phí tổn biết bao nhiêu tiền bạc… !

Lý Quỳ nói rằng:

– Tôi chỉ sẽ để tay vào một tí, mà nó đã ngã ngay, xưa nay chưa thấy đứa nào yếu đuối thế bao giờ? Bây giờ cho bác đánh tôi trăm cái tát vào mặt tôi, xem tôi có cần gì không?

Tống Giang cùng mọi người nghe nói, đều cười ồ cả lên, Trương Thuận gọi tửu bảo lên bắt tính tiền hàng để nhận trả.

Tống Giang nhất định không nghe mà rằng:

– Tôi mời bác đến đây uống rượu, có lẽ nào lại để bác trả tiền cho tiện.

Trương Thuận cũng nhất quyết trả tiền, mà rằng:

– Mấy khi tôi gặp được Ca Ca…khi ngài còn ở Sơn Đông, hai anh em tôi đã bao phen toan may trời xui nhân huynh đến đây, cho chúng tôi được gặp, xin nhân huynh cứ cho thế mới được.

Đới Tung cũng khuyên Tống Giang rằng:

– Trương Nhị Ca đã có lòng kính đãi như thế, xin nhân huynh cũng nể lòng mà nhận lời cho là hơn.

Tống Giang vâng lời mà đáp rằng:

– Nếu vậy thì lần sau tôi xin đáp lễ lại.

Trương Thuận cả mừng, liền xâu hai con cá, rồi cùng Đới Tung, Lý Quỳ, và lão già họ Tống kia, mà cùng đưa chân Tống Giang về dinh. Khi về đến phòng giấy trong dinh, Tống Giang lấy ra hai mươi lạng bạc, đưa cho lão già họ Tống về trước, rồi cùng ngồi nói chuyện với nhau.

Một lát trời gần tối, Tống Giang liền lấy bức thư của Trương Hoành, đưa cho Trương Thuận, rồi Trương Thuận để hai con cá lại cho Tống Giang, và từ biệt ra về. Tống Giang lại lấy một đĩnh năm mươi lạng bạc đưa cho Lý Quỳ mà bảo rằng:

– Anh em hãy cầm lấy để mà tiêu dùng.

Lý Quỳ nhận lấy, rồi cùng Đới Tung từ biệt Tống Giang mà trở về trong thành. Bấy giờ Tống Giang đem một con cá đưa biếu Quản Doanh, còn một con để nấu canh ăn. Tống Giang ăn cá tươi ngon miệng, ham ăn cá nhiều đến nỗi canh tư đêm ấy sinh ra chứng đau bụng đi rửa. Từ đấy đến sáng, chàng đi tả có tới hai mươi lần, mê mệt nằm ở trong phòng không sao dậy được. Các người trong doanh vẫn yêu thích Tống Giang là người tử tế xưa nay, liền đem cơm cháo mà chữa chạy đỡ vực Tống Giang.

Ngày hôm sau, Trương Thuận thấy lính Tống Giang thích ăn cá tươi, lại xách vào hai con nữa để biếu, và tạ ơn bức thư Trương Hoành một thể. Khi vào tới nơi, thấy Tống Giang đương bị bệnh nằm ở bên giường, các tù đồ hầu hạ trông nom ở trong phòng, liền nói với Tống Giang để mời thầy về chữa.

Tống Giang bảo Trương Thuận rằng:

– Tôi chỉ vì ăn nhiều cá, sinh ra thương thực mà đau bụng, vậy bất tất phải uống thuốc, chỉ uống một thang hòa hợp, cũng có thể khỏi được ngay.

Nói đoạn, bảo Trương Thuận đem hai con cá, một con đưa cho Vương Quản Doanh, một con đưa cho Triệu Sai Bát, Trương Thuận vâng lời đem biếu hai người: Rồi quay ra cân một thang thuốc hào hợp đem đến, bảo tù đồ sắc thuốc cho Tống Giang rồi mới trở về.

Ngày hôm sau, Đới Tung mua sắm rượu chè, dắt Lý Quỳ đem đến phòng giấy, định để thiết đãi cảm vừa khỏi, nên không dám thiết, bèn cùng nhau ngồi ở ngoài phòng để ăn uống, đến chiều ai nấy về nhà.

Tống Giang tĩnh dưỡng được dăm bảy ngày, thấy trong mình đã hơi khoe khỏe, thì có ý mong Đới Tung đến chơi, mà không thấy đến, Ngày hôm sau Tống Giang lại đi vào thành để tìm Đới Tung. Khi tới trong thành hỏi thăm nhà Đới Viện Trưởng, thì phố sá đều nói rằng:

– Ông ta không có vợ con nhà cửa, chỉ trú tạm ở am Quan Âm bên cạnh vách miếu Thành Hoành gần đó.

Tống Giang vội vàng tìm tới nơi, thì đã thấy khóa cửa đi vắng. Chàng liền quay ra tìm hỏi nhà Hắc Toàn Phong, thì thấy nói rằng anh ta không có nhà cửa, cũng không trọ ở đâu, vẫn cứ quanh quẩn ở trong nhà lao, khi rồi thì lại ở chỗ này vài hôm, ở chỗ khác vài hôm, không biết đâu mà tìm được.

Tống Giang nghe nói, thì lại hỏi thăm nhà Trương Thuận, thì có người nói, hắn vẫn ở làng xóm ngoài thành, chỉ trừ khi có thu nhặt tiền nong mới vào thành mà thôi. Tống Giang lại vội vàng quay ra nẻo bờ sông để tìm Trương Thuận.

Chàng đương một mình vơ vẩn, xem ngắm cảnh vật bên sông, chợt thấy một tòa tửu lâu ở trước mặt, bên cửa treo một lá cờ viết mấy chữ “Hiệu Chính sông Tầm Dương” giữa lúc hiên chạm treo một biển để ba chữ “Lầu Tầm Dương” chữ của ông Tô Đông Pha viết rất lớn.

Nghĩ đoạn liền bước tới nơi, thấy hai bên cửa đỏ bên lầu đều có biển trắng, mỗi bên viết năm chữ: “Lầu lớn trong thiên hạ: Rượu ngon nhất thế gian!”

Tống Giang lên trên gác, chọn một chỗ ngồi, gần phía ngoài sông, rồi tựa hàng lan can, nom ra phong cảnh khen ngợi vô cùng. Một lát tên tửu bảo chạy lên bảo rằng:

– Quan nhân định đợi ai, hay tiêu khiển một mình?

Tống Giang nói:

– Ta còn đương đợi hai ông khách nữa, mà chưa thấy đến. Ngươi hãy lấy một be rượu và một ít thức nhắm lên đây, đừng lấy cá mới được.

Tửu bảo vâng lời đi xuống gác; một lát mang lên một be rượu Lam Kiều Phong Nguyệt, và lấy các thức rau quả, thịt gà dê bày lên bàn. Tống Giang nom thấy bàn đỏ đũa đỏ thức ăn sạch sẽ ngon lành, thì trong bụng vui mừng mà rằng: “Thế này mới thực là phong cảnh Giang Châu! Ta tuy bị tội đến đây, song ngắm những sơn thủy thế này, dẫu đến danh sơn cổ tích xứ mình, cũng không sao mà ví được? “

Chàng nghĩ vậy liền rót rượu vui uống một mình, mà bất giác say sưa quá độ. Bấy giờ trong bụng nghĩ rằng: Ta sinh ở đất Sơn Đông lớn lên ở đất Vận Thành, làm Lại xuất thân, kết thúc kể biết bao giang hồ hảo hán. Trong bấy nhiêu lâu tuy chưa lưu được một cười hư danh, song hiện nay công nghiệp cũng chẳng ăn thua, lại còn bị tội đày ải đến đây, khiến cho ta bao giờ về được cố hương mà trông thấy phụ huynh tôn tộc!

Nghĩ đến đó thì lấn lòng cố quân tha hương, xúc cảnh hứng hoài, bất giác trông ngắm giang hồ mà tầm tã đôi hàng lụy nhỏ. Chàng liền nghĩ một bài tức cảnh “Tây giang nguyệt” rồi gọi tửu bảo mượn bút nghiên để viết.

Chợt đâu đứng lên nom hai bên vách phấn, thấy có nhiều văn thơ của người xưa đề vịnh, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: “Tiện đây bất nhược ta viết ngay lên vách phấn, để làm di tích ở đất Giang Châu, sau này dù có hiển vinh qua đến đất này, trông thấy mấy câu ở trên vách phấn kia, cũng đủ nhắc lại cho ta biết cái cảnh huống ấy bây giờ, thế này thực là cùng cực.”

Chàng nghĩ đoạn, liền nhân lúc tửu hứng, mài mực đặc, lấy bút đẵm, rồi viết lên vách phấn mấy câu:

Thủa nhỏ theo đòi kinh sử,

Lớn lên thông thạo quyền mưu,

Khác nào hổ mạnh nấp hang sâu,

Kín nanh dấu vuốt ai biết đâu?

Chẳng may thời vận cơ cầu.

Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu,

Một mai may báo được oan cừu,

Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau.

Tống Giang viết xong, xem ngắm một mình lấy làm vui mừng thích chí, lại ngồi uống luôn mấy chén rượu nữa, rồi múa chân múa tay cười nói một mình, xuống dưới bài Tây giang tử.

Tâm ở Giang Đông thân ở Ngô,

Mấy phen than thở mấy giang hồ,

Ngày sau như thỏa lòng non nước,

Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.

Viết cạn lại thêm mấy chữ “Vận Thành Tống Giang đề” ở dưới, rồi vất bút xuống bàn, một mình ngồi ngâm đọc hồi lâu. Lại uống thêm mấy chén rượu đầy, nghe chừng rượu đã quá say liền gọi tửu bảo lên tính trả tiền hàng, còn thừa lại thưởng thêm cho tửu bảo, rồi đứng dậy giũ áo mà đi xuống lầu. Bấy giờ chang tử vội vội vàng vàng đi về phong giấy, mở cửa vào phòng nằm vật xuống ngủ thẳng một giấc đến canh năm mới tỉnh dậy, không còn nhớ chi đến sự đề thơ ở gác Tầm Dương.

Năm canh say tỉnh mơ màng,

Sơn Đông chí ấy, Tầm Dương thân rày.

Giang hồ trải mấy đắng cay,

Biết rằng non nước vơi đầy ra sao?

Đối ngạn với đất Giang Châu có một thành nhỏ, là thành Vô Vị Quân, có ông Thông Phán tại gia là Hoàng Văn Bính ở đó. Hoàng Văn Bính tuy có học hành kinh sử, song tính người siểm nịnh, tâm địa hẹp hòi, xưa nay thường hay ghen ghét tài năng; hại kẻ hơn mình, mà xoay kẻ kém mình, chỉ quanh năm quấy nhiễu chốn hương thôn, không ai là không khinh ghét. Nhân chàng ta biết Xài Cứu Phủ là con quan Xái Thái Sư đương triều nên thường thường đi lại mà tán hót phỉnh phờ, để kiếm đường kiếm lối ra làm quan.

Một hôm, Hoàng Văn Bình đương ngồi buồn bã ở nhà, không có cách gì tiêu khiển, chàng liền dẫn hai đứa đầy tớ theo hầu đi mua một lễ vật để qua sông vào hầu Tri Phủ. Bất đồ hôm đó, trong phủ có mở tiệc công yến, chàng ta sợ tai tiếng, không dám đem vào, liền thầy trò cùng quay ra thuyền để trở về.

Khi đến trước lầu Tầm Dương, Hoàng Văn Bính thấy khí trời hơi có phần nóng bức, bèn lững thững quay vào trong lầu chơi ngắm, mà chưa quyết ra về. Chàng ta lên gác dạo mát hồi lâu, chợt nom lên vạch phấn ở gần phía lan can, thấy có nhiều thơ đề vịnh, xem ra cũng có bài nghe được, cũng có bài lôi thôi lốn thốn, đọc chẳng thành câu. Chàng vừa cười nhạt vừa xem đọc một mình, chợt xem đến bài “Tây giang từ” và bốn câu thơ của Tống Giang, thì bỗng cả kinh mà nói một mình rằng:

– Quái lạ! Có lẽ là thơ phản trắc? Ai viết ở đây như thế?

Chàng nói xong liền xem xuống dưới có năm chữ ” Vận Thành Tống Giang đề” thì lại ngâm một lượt mà rằng: ” Thủa nhỏ theo dõi kinh sư. Lớn lên thông thạo quyền mưu ” Đọc đến đó, chàng bèn cười nhạt mà rằng:

– Anh này cũng tự phụ lắm đây…

Lại đọc tiếp rằng: “Khác nào hổ mạnh nấp rừng sâu. Kín nanh, dấu vuốt ai biết đâu?”. Đọc đến đó, thì ngảnh cổ lên mà rằng:

– Anh này ra dáng không theo bổn phận của mình…

Lại đọc tiếp luôn: “Chẳng may thời vận cơ cầu. Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu”.

Chàng lại cười mà rằng:

– Tưởng cao thượng quái gì? Té ra thằng tù xung quân ở đây.

Lại đọc: (Một mai may báo được oan cừu. Máu nhuộm Tầm Dương sẽ biết nhau…)

Chàng lắc đầu nói rằng:

– Thằng này định bào thù ai mà lại chực sinh sự ở đây? Ôi cha! Một thằng tù xung quân, thì phỏng làm gì được?

Nói đoạn lại đọc bốn câu thơ: (Tâm ở Sơn Đông, thân ở Ngô. Mấy phen than thở với giang hồ.)

– Phải, hai câu này có thể tha thứ được.

Lại đọc luôn rằng: “Ngày sau như thỏa lòng non nước. Mới biết Hoàng Sào cũng trượng phu.”

Đọc đến đó thì lắc đầu lè lưỡi mà rằng:

– Thằng cha này xấc thực, nó định làm hơn họ Hoàng Sào, chắc là định mưu phản nghịch chứ không sai.

Nói xong lại đọc đến năm chữ “Vận Thành Tống Giang đề” thì lại nghĩ thầm trong bụng: Tên anh này nghe cũng quen quen…chừng như có chỉ là một anh tiêu lại thì phải… ? 

Nghĩ đoạn lại gọi tên tửu bảo lên mà hỏi rằng:

– Hai bài thơ này ai đề vào đây ngươi có biết đích xác không?

Tửu bảo đáp rằng:

– Hôm qua có người khách vào uống rượu một mình rồi viết lên đó.

– Người như thế nào?

– Người ấy béo đen thâm thấp, trên mặt có thích kim ấn, có lẽ ở trong lao thành đi ra thì phải.

Hoàng Văn Bính nghe nói, gật đầu đắc ý, nhờ tửu bảo cho mượn bút nghiên, chép mấy câu thơ bỏ vào túi áo, rồi dặn tửu bảo phải giữ gìn cẩn thận mà không được xóa đi. Đoạn rồi xuống lầu trở về thuyền nghỉ.

Sáng hôm sau, thầy trò lại dậy sớm, khệ nệ mang lễ vật vào biếu Tri Phủ. Bấy giờ Tri Phủ đương ngồi ở nhà trong, nghe nói là có Hoàng Văn Bính đến, liền cho lính mời vào tiếp chuyện. Hoàng Văn Bính đưa tặng lễ vật, rồi hai người cùng ngồi nói chuyện rất là mật thiết.

Hoàng Văn Bính nói với Tri Phủ rằng:

– Hôm qua chúng tôi đã định vào chầu Tướng Công, song nghe nói trong phủ đương có yến tịch, nên lại phải hoãn đến ngày hôm nay mới dám vào hầu…

Xài Tri Phủ nói:

– Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc với nhau, ngài cứ vào chơi có gì mà ngại. Từ nay xin ngài chớ nệ làm chi, phải lấy tình thân mới được.

Hoàng Văn Bính vâng lời rồi lại hỏi rằng:

– Dám thưa Tướng Công, lâu nay trên Thái Sư Ân Tướng có sai người qua đây chăng?

– Hôm trước mới có thư đến đây.

Tri Phủ nói xong, thì tả hữu pha trà lên, hai người cùng uống, Hoàng Văn Bính lại hỏi luôn rằng:

– Chẳng hay lâu nay trong kinh sư có tin tức gì lạ không? Tri Phủ nói rằng:

– Tôi vừa mới nhận được thư của tôn gia nói rằng:

Mới đây Tôn Thái Tử Viện Tư Thiên Giám có tâu rằng: Nhân thế Gia Tôn tôi có dặn phái giữ gìn trong hạt, cho khỏi sự mang tiếng mang tai…

Hoàng Văn Bính nghe đến đó, thì nghĩ thầm một lúc, rồi cười mà nói với Tri Phủ rằng:

– Dám thưa Âm Tướng, nếu vậy thì việc này cũng không phải ngẫu nhiên mà thôi…

Nói đoạn liền móc túi lấy mảnh thơ biên lúc nãy, đưa trình Tri Phủ mà rằng:

– Không ngờ việc đó lại chính ở đây rồi…

Xài Cửu xem thơ xong liền nói rằng:

– Cái này là thơ mưu phản đây mà…Thông Phán bắt được ở đâu thế?

Hoàng Văn Bính liền đem chuyện đến chơi lầu Tầm Dương, bắt được hai thơ trên vách, nói cho Tri Phủ nghe. Xài Cửu Tri lại hỏi rằng:

– Vậy thì người nào viết bài này?

– Bẩm Tướng Công, họ đã viết rõ ràng là Vận Thành Tống Giang đề ở đó.

– Vậy Tống Giang là người nào?

– Bẩm trong thơ nói là: “Bỗng dưng chạm mặt đầy Giang Châu”? Thì có lẽ hiện là tù tội trong đám lao thành thì phải?

Tri phủ gạt đi mà rằng:

– Một thằng tù thì làm được gì mà sợ!

Hoàng Văn Bính so vai rụt cổ kêu rằng:

– Chết nỗi! Tướng Công đừng coi là thường mới được! Vừa rồi Tướng Công nghe đọc bốn câu ca dao, của trẻ con, chính là ứng vào hắn đó.

– Thế nào mà bảo rằng ứng vào hắn được?

– Bẩm Âm Tướng: Hao nước vì Gia Mộc, là nói tốn tiền của nước nhà vì chữ Gia bên trên chữ Mộc, tức là chữ Tống đó. Câu thứ hai Binh đao bởi Thủy Công, là nói người này gây việc binh đao, tức là người chữ Thủy bên chữ Công, chính là chữ Giang vậy. Nay người này họ Tống tên Giang, mà lại làm thơ mưu phản như thế, thì quả nhiên lạc vào thiên số chứ chẳng sai…

Tri Phủ nghe nói đến đó, thì lại hỏi luôn rằng:

– Vậy còn hai cầu Ngang dọc ba mươi sáu. Khắp loạn đất Sơn Đông, là nghĩa làm sao!

– Cái đó hoặc là đến năm sáu sáu, hay là số vận sáu sáu cũng nên. Còn câu Khắp loạn đất Sơn Đông, thì Vận Thành chính thuộc về Sơn Đông đó. Bốn câu ấy quả nhiên ứng vào người ấy chứ không sai.

– Nhưng không chắc ở đây có người ấy hay không?

– Chiều hôm qua tôi đã hỏi tên tửu bảo, nói rằng hắn mới viết hôm kia xong.. Cái đó xin ân tướng sai đem sổ lao thành lên tra một lượt, xem có hay không là biết ngay lập tức…

Tri Phủ khen là phải, liền gọi người nhà vào kho lấy sổ lao thành, đem ra để tra. Tra mãi đến cuối sổ qủa nhiên thấy tên Tống Giang ở huyện Vận Thành, mới đến đây ở Giang Châu vào độ tháng năm vừa rồi.

Hoàng Văn Bính thấy vậy, liền bảo với Tri Phủ rằng.

– Người này đích xác là ứng vào câu ca dao ấy, không phải chuyện chơi, xin Tướng Công hãy cho người bắt giam riết, rồi sau sẽ liệu, nếu để chậm trễ lỡ ra lộ chuyện mất chăng?

Tri Phủ cho lời nói của Hoàng Văn Bính là phải, liền ra sảnh đường cho đòi Tướng Công hai viện là Đới Tung lên, mà truyền lệnh rằng:

– Người lập tức phải đem lính xuống lao thành, bắt tên đề thơ phản loạn trên lầu Tầm Dương, là Tống Giang ở huyện Vận Thành đến đây cho ta…

Đới Tung vâng lời quay ra, thì trong bụng lấy làm sợ hãi kinh ngạc, vội vàng điểm lấy mấy người coi lao dặn về lấy binh khí và nhất tề đến miếu Thành Hoành, để đi làm việc. Khi chúng vâng lời đi rồi, Đới Tung bèn làm phép thân hành, đi thẳng ra lao thành, đến chỗ phòng giấy để thăm Tống Giang. Bấy giờ Tống Giang đang nằm một mình ở trong phòng, chợt thấy Đới Tung đến, liền vội vàng đón vào mà hỏi rằng:

– Hôm trước tôi vào trong thành tìm mãi không gặp Viện Trưởng, sau nhân buồn quá, một mình lững thững trên lầu Tầm Dương uống mấy chén rượu, thành ra mệt nhọc say sưa mãi đến ngày nay vẫn còn chưa tỉnh.

Đới Tung hỏi:

– Hôm ấy Ca Ca viết những câu gì trên gác thế?

– Bấy giờ say rượu viết liền, tôi có nhớ được đâu?

– Vừa rồi Tri Phủ bắt tôi phải sai đem lính đến bắt tên phản tặc đề thơ ở lấu Tầm Dương, là Tống Giang, tôi lấy làm kinh ngạc quá chừng, không biết vì lẽ gì mà đến thế? Hiện tôi đã bảo lính đón đợi ở miếu Thanh Hoàng, rồi tôi cất lẻn đến đây báo cho Ca Ca biết…Làm cách nào mà giải thoát được đây?

Tống Giang nghe nói, gãi đầu gãi tai mà kêu lên rằng:

– Nếu vậy thì phen này ta nguy với họ mất.

Đới Tung nói rằng:

– Tôi có một kế nay, thì may ra mới thoát được. Bây giờ thể nào tôi cũng phải dẫn người đến bắt, không sao mà trốn được, vậy huynh trưởng nên bỏ xõa tóc rồi phóng uế vung vãi ra phòng, để giả làm người điên, hễ tôi đến thì cứ nói càn nói dở, nói láo nói lếu, cho họ yên chí là chứng điên, thì bấy giờ nói với Tri Phủ may ra mới có thể thoát được.

Nói xong thì Đới Tung từ biệt, rồi vội vàng trở về miếu Thanh Hoàng để đem lính đến bắt.

Khi đem lính vào đến lao thành, Đới Tung làm bộ quát to lên rằng:

– Tên nào là Tống Giang mới đến ở đất này?

Tụi bài đầu thấy đới Trung hỏi vậy, liền dẫn vào phòng giấy của Tống Giang. Bấy giờ thấy Tống Giang rũ rợi đầu tóc, phóng uế khắp cả nhà nằm ngồi be bét cả lên.

Khi Tống Giang trông thấy Đới Tung cùng bọn lính Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:

– Lũ chúng bay là người nào?

Đới Tung lại giả vờ quát lên rằng:

– Bắt lấy thằng này cho ta.

Tống Giang trợn mắt lên, đánh khắp cả mọi người, rồi lảm nhảm nói rằng:

– Ta đây là con rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, bố vợ ta sai đem mười vạn thiên binh, đến giết hết mọi người ở Giang Châu, hiện có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo Tướng Quân làm hợp trận, cho ta một tay kim ấn nặng tám trăm cân, giết hết chúng bay đây.

Tụi lính nghe thấy vậy bảo với Đới Tung rằng:

– Anh này điên mà, chúng tôi bắt làm gì?

Đới Tung làm ra bộ nghĩ ngợi, rồi bảo với chúng rằng:

– Nếu vậy, ta về bẩm với Tri Phủ xem sao? Nếu ngài có định bắt thì ta lại đến đây cũng được.

Nói đoạn dẫn lính về trong thành báo với Tri Phủ rằng:

– Tên Tống Giang hiện bị chứng điên, nói càn nói bậy mình mẩy nhơ bẩn thối tha, chúng tôi không dám bắt lên để nộp.

Tri Phủ nghe nói, chưa kịp hỏi rõ ra sao, thì đã thấy Hoàng Văn Bính đứng nấp ở đằng sau binh phong chạy ra mà nói rằng:

– Tướng Công chớ nên tin thơ như thế, chữ như thế, không phải là một thằng điên viết rồi. Cái này tất nhiên là có giả dối chi đây, xin ngài cứ hạ lệnh cho bắt, nếu không đi được, thì khiêng hắn về đây.

Xài Tri Phủ lấy làm phải, truyền lệnh cho Đới Tung:

– Bắt vấn như thế nào, phải bắt về cho kỳ được.

Đới Tung vâng lệnh lui ra, trong bụng lấy làm băn khoăn đau đớn, liền đem lính đến lao thành mà bảo với Tống Giang rằng:

– Công việc nguy lắm rồi, huynh trưởng cứ đến đấy xem sao.

Nói đoạn sai lấy cái bồ lớn, bỏ Tống Giang vào đấy, rồi khiêng giải vào phủ. Khi vào tới phủ, Tống Giang đứng ở dưới thềm, trợn mắt nhìn Xài Tri Phủ mà quát hỏi rằng:

– Bây là người nào, dám bắt hỏi ta? Ta là rể Ngọc Hoàng Thượng Đế, cho ta đem năm vạn thiên binh, đến giết thành Giang Châu, có Diêm La Đại Vương làm tiên phong, Ngũ Đạo Tường Quân làm hợp hậu, sắc cho ta một tay kim ấn, nặng tám trăm cân để giết các ngươi. Ta truyền cho ngươi chỉ một lát nữa gọi là chết hết.

Xài Cửu nghe vậy, không biết xử trí làm sao?

Hoàng Văn Bính lại tán với Tri Phủ rằng:

– Xin tướng công cho đòi Sai Bát và Bài Đầu ở bản doanh đến, để hỏi xem tên này mới có chứng điên, hay là từ khi mới đến đây đã thế? Nếu vẫn có chứng điên từ khi mới đến đây thì sẽ tha cho, bằng không thì tất là giả dối…

Tri Phủ nghe nói lấy làm phải, liền cho đòi Quản Doanh, Sai Bát đến mà hỏi. Hai anh em kia không dám man trá Tri Phủ, liền bẩm rằng:

– Tên ấy nguyên trước đến đây, không có chứng điên, chứng đó chứng mới phát ra mấy hôm nay.

Tri Phủ thấy nói vậy, bèn đùng đùng nổi giận, thét lính đem Tống Giang ra tra đánh. Đới Tung thấy thế, chỉ cắn răng kêu khổ, mà không biết làm cách gì để cứu ra cho được. Tống Giang trước còn hàm hồ nói bậy nói xằng, sau bị đánh tấn dữ dội, bắn máu xé thịt, không sao mà giấu cho nổi, đành phải thú thực là say rượu viết càn, thực không có chủ ý mưu mô chi cả. Tri Phủ liền lấy lời cung, rồi sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, mà cho giam xuống đại lao. Bấy giờ Tống Giang đau đớn ê chề, không sao mà nhắc chân đi được, Đới Tung liền hết sức trông coi, dặn bảo các lính canh ngục, đều phải trông nom tử tế, và hằng ngày sắp sẵn cơm nước để cung đãi Tống Giang.

Dây đâu ai buộc vào thân,

Anh hùng là kiếp nợ nần với ai?

Bắc thang lên hỏi ông trời?

Văn chương là giống hại người đó ru?

Khi đó Xài Tri Phủ lưu Hoàng Văn Bính ở chơi, mà tạ ơn rằng:

– Nếu không có Thông Phán là người cao kiền viễn thức, thì có lẽ hạ quan cũng mắc lừa dối của họ chứ không chơi.

Hoàng Văn Bính hót luôn rằng:

– Việc này không thể chậm được! Ngài nên lập tức sai người về kinh sẻ báo cho Ân Tướng, để tỏ ra rằng ngài đây là người mẫn cán, đã làm được những việc to ích nước lợi nhà như vậy, và nên bẩm xem ý kiến Ân Tướng, muốn bắt sống tên phản tặc thì ta đóng cũi mang đi, bằng không thì sẽ xử quyết ngay đây, để khỏi điều rắc rối về sau mới được.

Xài Tri Phủ lại gật gù khen phải mà bảo Hoàng Văn Bính rằng:

– Tôi xin viết một phong thư gửi về, kể rõ công lao của Thông Phán, để gia nghiêm tâu với Thánh Thượng, phong cho ngài làm nơi phủ huyện nào đó, để hưởng sự vinh hoa.

Hoàng Văn Bính khúm núm tạ ơn mà rằng:

– Chúng tôi là môn hạ ở đây, thế nào cũng xin kết cỏ ngậm vành để báo đáp.

Nói xong liền giục Tri Phủ viết gia thư, đóng ấn tín vào, rồi lại hỏi rằng:

Tướng Công định sai ai là người tâm phúc để cho đi mới được?

Tri Phủ nói:

– Ở đây có một người Lưỡng Viện Tiếp Cấp tên là Đới Tung, anh ta có phép thần hành, một ngày có thể đi tới tám trăm dặm đường, nếu sai anh ta chỉ trong mười hôm, là có thể trở về ngay được.

– Nếu được người đi nhanh như thế, thì còn gì hơn nữa.

Đoạn rồi Hoàng Văn Bính ở đó, đến ngày hôm sau mới từ giã Tri Phủ mà trở về Vô Vị Quân. Khi Hoàng Văn Bính trở về, Xài Tri Phủ liền sắp lấy hai hòm kim ngân châu báu, niêm phong cẩn thận, rồi sáng sớm hôm sau gọi Đới Tung lên mà bảo rằng:

– Ta có một phong gia thư và một ít lễ vật, để đưa mừng sinh nhật phụ thân ta ở kinh sư, ngày rằm tháng sáu, song nay ngày tháng đã gần bách tới nơi, vậy chỉ có ngươi là người nhanh nhẹn, ngươi nên hết sức giúp ta, rồi ta trọng thưởng cho. Ta chắc rằng ngươi có phép thần hành như vậy, thì cũng chẳng bao lâu mà được tới nơi, vậy ngươi chớ nên trì trệ mà lỡ công việc của ta mới được.

Đới Tung nghe nói, bất đắc dĩ phải vâng lời, liền nhận thư tín và hòm đồ trở về chỗ trọ. Đoạn rồi chàng lẻn đến nhà lao bảo với Tống Giang rằng:

– Việc này huynh trưởng cứ phòng tâm, hiện nay Tri Phủ sai tôi vào kinh sư, chỉ mươi hôm là về đây, vậy khi đến cứu Ca Ca, may ra có phần thoát được. Ở nhà Ca Ca nên giữ gìn cẩn thận, còn cơm nước ăn uống, thì tôi đã giao cho Lý Quỳ trông coi khuya sớm, không có điều gì là trở ngại, Ca Ca cứ vững tâm đợi mấy hôm tiểu đệ về sẽ biết. Nói đoạn gọi Lý Quỳ đến mà dặn rằng:

– Tống Ca Ca vì viết câu thơ phản nghịch, bị phải Quan Tư giam cầm, còn trước đây lại bị sai phái vào kinh, vậy ngươi phải ở nhà sớm khuya cơm nước hầu hạ Ca Ca, chớ nên trễ nãi nghe chưa?

Lý Quỳ gật gù mà rằng:

– Viết mấy câu thơ đã làm gì nên tội? Những thằng đại giạ, đại ác, đại phản, vô vạn, đây kia cũng làm quan to tướng thì sao? Việc này bác cứ đi vào Đông Kinh, để mặc tôi trông nom cho Ca Ca, không cần nghĩ đến làm gì? Tử tế thì cùng tử tế, bằng không thì hai cái búa lớn kia, chém cho nó chết hết là xong.

Đới Tung lại dặn rằng:

– Anh em phải rất cẩn thận, chớ nên uống rượu lắm mà để lỡ mất việc làm ăn của Tống Ca Ca.

Lý Quỳ đáp rằng:

– Ca Ca cứ phóng tâm mà đi, bất tất phải nghi ngại dặn dò cho lắm, từ nay trở đi, tôi xin nhịn rượu, để sớm khuya hầu hạ Tống Ca Ca, rồi khi nào Ca Ca về đây, sẽ uống rượu cũng được chứ sao?

Đới Tung cả mừng mà rằng:

– Nếu quả nhiên anh em giữ được như vậy, thì tôi còn lo ngại điều chi?

Nói xong từ biệt ra đi, rồi từ đó Lý Quỳ chừa rượu, mà sớm khuya hầu hạ Tống Giang, không hề lúc nào sao nhãng.

Nước non trói nặng lời nguyền,

Lẽ nào nguy hiểm mà quên tâm thần?

Ai về nhắn bảo thế nhân,

Những người chướng trực là thần lương tâm.

Bấy giờ Đới Tung từ biệt Tống Giang cùng Lý Quỳ, một mình kíp vội ra về, thay giầy gai, quấn lá đáp, mặc áo vàng. Đổi khăn mới, giắt tuyên bài vào lưng, bỏ thư vào túi, rồi quảy hai cái hòm đi ra ngoài thành. Khi ra đến ngoài thành, chàng liền lấy bốn mảnh giáp mã, buộc vào hai bên chân mỗi bên hai miếng, rồi trong miệng lẩm nhẩm đọc mấy câu thần chú mà vùn vụt đi khỏi Giang Châu.

Chiều hôm ấy, Đới Tung vào nghỉ trong hàng, rồi cởi giáp mã ra, mà lấy giấy tiền, đốt khấn cẩn thận, sáng hôm sau cơm nước vừa xong, chàng lại buộc giáp mã quảy hòm ra đi thực sớm. Trong khi đi chỉ nghe tiếng gió thổi vù vù bên tai, sức chạy thực nhanh, không hề dính chân xuống đất.

Đi luôn hai ngày trời, đến ngày thứ ba, khí trời càng nóng bức khó chịu, chàng vừa đi vừa khát nước. Chừng tới ba bốn trăm dặm đường, mà không có hàng quán nào để nghỉ ngơi ăn uống. Chàng đi mãi đến gần trưa, trong bụng đương đói khát lạ chừng, chợt trông thấy có một hàng rượu ở bên hồ rộng, gần khoảng rừng trước mặt, chàng vội đi vào đó để nghỉ.

Khi tới nơi, thấy một ngôi hàng rộng rãi sạch sẽ, trong có mươi bộ bàn ghế sơn dầu, kê theo một dãy cửa sổ chạy dài; chàng bèn quảy hòm vào chọn một chỗ mát mẻ, rồi cởi áo và thắt lưng mà treo lên trên chấn song cửa sổ.

Đoạn rồi có tên tửu bảo chạy đến mà hỏi rằng:

– Ngài lấy bao nhiêu rượu, ngài xơi thịt dê, thịt bò, hay thịt lợn?

Đới Tung nói rằng:

– Rượu đây không uống mấy, có cơm nước gì thì đem lên đây.

– Bẩm, hàng tôi có rượu có cơm, có cả bánh bao, bánh bún, ngài muốn xơi gì?

– Ta không ăn các thức cá thịt được, vậy có thứ canh gì để ăn không?

– Bẩm canh đậu có được không?

– Tốt lắm, lấy ra đây.

Tửu bảo vâng lời, quay vào nhà trong một lúc, rồi đem một bát canh đậu phụ, lau đôi đũa và rót lên ba chén rượu lớn. Đới Tung đương khi đói khát, vớ được rượu, canh liền ăn uống một lúc, rồi toan gọi lấy cơm để ăn một thể. Dè đâu vừa húp xong bát canh, thì thấy trời xoay đất chuyển, đầu choáng váng, rồi ngã lăn ra một bên ghế.

Giữa lúc ấy có một người là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý chạy ra, quát bảo chúng rằng:

– Hãy đem hai cái hòm vào trong kia, rồi sờ xem nó có gì thì lột lấy.

Nói đoạn thì có hai tên người nhà chạy đến móc túi lấy ra một gói giấy bọc một phong thư, đưa cho Chu Quý. Chu Quý cất lấy xem thấy có một bức gia thư, ngoài đề mấy chữ: “Bình an gia tín…Con là Xài Đức Chương, trăm lạy kính dâng phụ thân soi xét”.  Chu Quý xem xong lại bóc thư ra đọc, trong thư nói đến chuyện Tống Giang đề thơ phản loạn ứng với lời ca dao, hiện đã bắt giam trong ngục, để đợi lệnh thi hành, liền lấy làm ngạc nhiên kinh sợ, mà chạy vào trong phòng để xem.

Bấy giờ hai tên người nhà, đã vác Đới Tung vào nhà mổ, đặt nằm vật lên trên bàn mổ, rồi tháo cởi xống áo ra để mổ. Cởi đến xuống lưng, thì thấy có một cái tuyên bài dắt ở đó. Chu Quý cầm lấy xem, thấy mặt trên sơn son thiếp bạc, khắc mấy chữ: Giang Châu Lưỡng Viện Tiếp Cấp Đới Tung.

Chàng thấy vậy bụng hơi ngờ ngợ, bèn bảo với chúng rằng, “Hãy khoan tay, không nên hạ thủ vội.. Ta nghe quân sư thường nói, ở đất Giang Châu có một người tên là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, là một người bạn rất thân của quân sư xưa nay, vậy chẳng hay là người này chăng? Nếu vậy thì sao lại đưa thư để mưu hại Tống Giang… ? Việc này may vào tay ta, ta hãy hỏi rõ xem sao? ” Nói đoạn sai chúng lấy thuốc giải độc, đổ cho Đới Tung uống, mà cứu tỉnh dậy.

Được một lúc Đới Tung bừng mắt tỉnh dậy, trông thấy Chu Quý đương cầm bức thư của Xài Tri Phủ ở trong tay, thì quát lên rằng:

– Anh này là anh nào? Sao dám to gan đánh thuốc mê cho ta, rồi lại bóc thư tín của phủ Thái Sư như thế? Phổng đáng tội gì?

Chu Quý cười mà rằng:

– Bức thư khốn nạn này đã thấm vào đâu? Chúng tôi đây chính muốn đối đầu với Đại Tống Hoàng Đế, chứ xé một bức thư của Thái Sư thì có cần gì?

Đới Tung nghe nói cả kinh, liền hỏi rằng:

– Hảo hán đại danh là gì? Xin ngài cho tôi được biết?

– Tôi là Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, là tụi hảo hán Lương Sơn Bạc đây.

– Nếu có phải ngài ở Lương Sơn Bạc, thì tất nhiên có biết Ngô Học Cứu tiên sinh…

– Ngô Học Cứu là quân sư coi giữ binh quyền trong đại trại tôi, sao túc hạ lại không biết ông ấy?

– Ông ấy với tôi là một người quen biết đã lâu.

– Nêú vậy huynh trưởng có phải là Thần Hành Thái Bảo Đới Viện Trưởng ở Giang Châu, mà quân sư tôi thường nói chuyện đó chăng?

– Vâng, chính là tôi đây.

Chu Quý lại hỏi:

– Hồi trước Tống Công Minh đi đày sang đất Giang Châu, quân sư có gửi giấy sang nói chuyện cùng túc hạ, vậy ngày nay chẳng hay vì cớ gì mà toan hại túc mệnh Tống Công Minh đi như thế?

Đới Tung nói rằng:

– Tống Giang với tôi là chỗ anh en rất thân, vì ông ta viết mấy câu thơ phản nghịch, tôi hết sức cứu gỡ chưa được, cho nên nay phải vào kinh để lo liệu cho ông ta, có khi nào lại nỡ làm hại?

– Vậy ông thử nom trong thư của Sài Tri Phủ xem sao?

Đới Tung cầm thư xem, thì giật mình kinh sợ, liền đem đầu đuôi câu chuyện, kể từ khi gặp Tống Giang, đến khi xẩy ra việc đề thơ ở lầu Tầm Dương thuật cho Chu Quý nghe.

Chu Quý bảo với Đới Tung rằng:

– Nếu vậy xin Viện Trưởng hãy lên chơi sơn trại, để bàn với các đơn vị Đầu Lĩnh xem sao? Nói đoạn liền sai dọn tiệc rượu tiếp phong, rồi vào Thủy Đình bắn mũi tên ra hiệu. Được một lát, có tên tiểu lâu la chở thuyền ra đón Chu Quý bèn mời Đới Tung mang các hòm kim ngân xuống thuyền, rồi cùng nhau vào bến Kim Sa.

Khi Ngô Dụng được tin báo, vội vàng đi xuống cửa quan để nghinh tiếp Đới Tung, đôi bên hớn hở vui mừng, rồi dẫn vào đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh, Chu Quý đem các chuyện của Đới Tung đã nói, mà thuật lại cho mọi vị Đầu Lĩnh nghe.

Tiều Cái nghe nói lấy làm kinh hoàng tức bực, mời Đới Tung ngồi vào khách vị mà hỏi thăm các việc Chu Quý, Đới Tung lại thuật một lượt kỹ càng cho Tiều Cái nghe.

Tiều Cái cả kinh, bàn với các vị Đầu Lĩnh, định lấy quân đi đánh lấy Giang Châu, để cứu Tống Giang ngay lập tức. Quân sư Ngô Dụng can rằng:

– Ca Ca không nên tháo thức làm chi, đây đến Giang Châu đường xa dặm thẳng, nếu nay cả giấy binh mã thì e khi rút dây lại động đến rừng, mà lỡ ra thêm hại cho Tống Công Minh. Vậy việc này chỉ nên dùng kế, không nên dùng bằng sức mạnh, thì mới có thể được. Tôi đây dẫu bất tài, song xin hiến một kế này, chỉ trông vào Đới Viện Trưởng là có thể cứu Tống Ca ra được.

Tiều Cái nói:

– Quân sư có kế sách gì?

Ngô Dụng nói:

– Hiện nay Sài Tri Phủ giao cho Đới Viện Trưởng đem thư vào kinh, để chờ tin Thái Sư phúc đáp. Vậy nhân bức thư này ta phải đem kế trả kế, mà viết một phong thư khác cho Viện Trưởng mang về; Trong thư bảo Sài Tri Phủ phải bắt sống Tống Giang đem giải cẩn thận, cho tới kinh sư để tra hỏi đầu đuôi sẽ xử rồi quyết. Đoạn rồi đợi khi chúng giải qua đây, ta sẽ cho người xuống cướp, như thế có lẽ tiện hơn.

Tiều Cái nói:

– Nếu không giải qua lối này, thì có lỡ mất việc không?

Công Tôn Thắng ứng lên rằng:

– Cái đó khó chi, ta cứ cho người đi thám thính trước, họ đi lối nào, ta đón cướp lối ấy cũng được, chỉ sợ họ không giải đi mà thôi.

Tiều Cái nói:

– Như thế thì hay lắm, song lấy ai là người viết được giống Sài Thái Sư bây giờ?

Ngô Dụng nói:

– Việc ấy tôi đã nghĩ rồi. Hiện nay thiên hạ đương thích viết chữ Tứ thể, là bốn lối chữ của bốn nhà, Tô Đông Pha, Hoàng Lỗ Trực Mễ Nguyên Chương, và Sài Kính ở đương triều, cho nên thường gọi là Tô, Hoàng, Mễ, Xài, là tứ tuyệt ở Tống Triều. Khi còn nhỏ tôi có quen một người học trò ở thành Tế Châu là Tiêu Nhượng, viết lối các chữ rất giỏi người ta thường gọi là Thánh Thủ Thư Sinh (học trò tay thánh). Anh ta võ nghệ cũng khá, mà viết chữ lối của Sài Kính lại càng hệt lắm, vậy muốn phiền Viện Trưởng qua đó, nói dối anh ta, để mời sang viết văn bia, ở nhạc miếu Thái An Châu, rồi đưa trước năm mươi lạng bạc, rủ cho anh ta đi ra rồi sau sẽ bắt cả vợ con đến đây, mà rủ cùng nhập đảng, như thể phổng có gọn không?

Tiều Cái nói:

– Người viết chữ đã đành có, nhưng còn ấn tín thì sao?

– Phải lắm, cái đó đệ cũng nghĩ cả rồi. Tiểu đệ có quen một người Kim tên là Đại Kiện, hiện nay mở hàng làm ấn tín ở phủ Tế Châu khắc ngọc chạm đá rất khéo, mà võ nghệ cũng không kém ai, người ta thường gọi là Ngọc Tỷ Tượng (thợ thay ngọc) xưa nay. Vậy ta nên lừa cả anh ấy lên đây, rồi lưu luôn ở sơn trại, sau này tất nhiên cũng có dụng cho mình…

Tiều Cái khen rằng:

– Nếu thế thì diệu lắm, ta phải làm mau mau mới được.

Nói xong liền sai dọn rượu thiết đãi Đới Tung, và lưu lại nghỉ ở sơn trại một đêm. Sáng hôm sau Ngô Dụng nhờ Đới Tung ăn mặc ra dáng Thái Bảo, dắt lấy hơn trăm lạng bạc để tìm hai người. Đới Tung vâng lời, rồi buộc giáp mã vào chân, rồi xuống núi mà đi mau sang đất Tế Châu. Phút chốc Đới Tung tới thành Tế Châu, hỏi thăm vào nhà Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng, ở trước cửa văn miếu về bên đông phủ Tế Châu. Khi đi đến cửa, Đới Tung gặng lên một tiếng rồi hỏi rằng:

– Tiêu Tiên sinh có nhà không?

Bấy giờ thấy một thầy đồ trong nhà chạy ra, nhìn Đới Tung bằng một cách ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Thái Bảo ở đâu tới, việc gì cần đến chúng tôi?

Đới Tung nghe nói liền vái chào rồi nói rằng:

– Chúng tôi là nhà sãi ở nhạc miếu Thái An châu, nhân miếu chúng tôi sửa lại nhà lầu Ngũ Nhạc, các cụ chúng tôi định khắc tấm bia công đức, vậy cho chúng tôi đưa năm mươi lạng bạc, để đến nói với tiên sinh, lập tức đến miếu giúp việc cho, nhật kỳ chúng tôi đã chọn, sợ chậm trễ thì lỡ việc.

Tiêu Nhượng nói rằng:

– Chúng tôi đây chỉ biết viết, còn sự khắc chạm thì tất phải tìm người thợ tốt mới được.

Đới Tung đáp rằng:

– Tôi có đem năm mươi lạng bạc để mời Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đây, nhật kỳ hiện nay đã ngặt lắm, xin ngài làm ơn chỉ dẫn giúp tôi.

Tiêu Nhượng nhận lấy năm mươi lạng bạc, liền dẫn Đới Tung đi tìm nhà Kim Đại Kiện. Vừa ra khỏi cửa Văn Miếu, thì thấy Tiêu Nhượng trỏ tay bảo Đới Tung rằng:

– Ngọc Tú Tượng Kim Đại Kiện đương đi kia.Nói đoạn liền gọi Đại Kiện đến chào Đới Tung nói chuyện cho nghe.

Kim Đại Kiện nói có năm mươi lạng bạc đưa đó, thì vui mừng hớn hở liền bảo với Tiêu Nhượng cùng với Đới Tung đến tửu điếm đãi rượu.

Bấy giờ Đới Tung đưa năm mươi lạng bạc cho Kim Đại Kiện rồi nói rằng:

– Hiện nay đã chọn ngày tháng, không thể chậm trễ được, vậy xin hai ngài đi giúp ngay cho.

Tiêu Nhượng nói:

– Hôm nay khí trời nóng bức có đi cũng không đến nơi ngay được, không may lỡ độ đường, thì không tiện vậy xin để đến mai sẽ đi sớm thì hơn.

Kim Đại Kiện cũng lấy làm phải, mà bàn với Đới Tung hoãn để đến mai đi sớm. Tối hôm ấy Tiêu Nhượng lưu Đới Tung nghỉ ở nhà một đêm, sáng hôm sau Kim Đại Kiện sắm sửa đồ đạc đến sớm để cùng đi.

Khi ra ngoài thành được mươi dặm đường. Đới Tung bảo với hai người kia rằng:

– Các ông cứ lững thững đi thong thả, để tôi đi trước nói với các cụ tôi cho người đến đón mới được. Nói xong liền rảo cẳng đi trước mà bỏ mặc hai người đi sau.

Hai người kia lững thững đi tới giờ Mùi, ước được bảy tám mươi dặm đường, bỗng thấy phía trước mặt có tiếng còi thổi, rồi có một bọn hảo hán chừng bốn năm mươi người, ở trong sườn núi xông ra.

Bọn hảo hán đó là Vương Nụy Hổ đứng đầu, chạy ra quát lên rằng:

– Hai anh này đi đâu qua đây! Các con! Bắt nó đem về moi ruột cho ta uống rượu…

Tiêu Nhượng đáp rằng:

– Hai anh em tôi đi lên Thái An Châu để làm bia, không có tiền nong chi cả, hiện đây chỉ có mấy cái quần áo mà thôi.

Vương Nụy Hổ thét lên rằng:

– Ta đây không cần gì tiền của xống áo, chỉ cần được hai bộ gan ruột thông minh của các ngươi đều nhắm rượu thôi?

Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện cả giận, liền dỡ tài võ nghệ, vác gậy lên mà xông đánh Vương Nụy Hổ, Vương Nụy Hổ cũng giơ đao lên đỡ, đánh nhau tới năm bảy mươi hiệp, rồi vác đao chạy thẳng qua núi.

Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện vừa toan vác gậy đuổi theo thì bỗng thấy trống chiêng ầm ĩ, rồi có hai bọn người ở hai sườn núi đổ ra. Hai bọn này bên tả có Vạn Lý Kim Cương Tống Vạn, bên hữu có Mô Trước Thiên Đỗ Thiên, dẫn Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ, mỗi ngươi đem tới ba mươi tên lâu la đổ ùa ra, bắt hai người kia mà đem vào rừng.

Khi vào tới trong rừng, bốn vị hảo hán bảo với hai người kia rằng:

– Chúng tôi đây là phụng tướng lệnh của Tiều Thiên Vương, mời các ông lên núi nhập đảng, không có việc chi mà các ông sợ.

Tiểu Nhượng nghe nói thì cười mà hỏi rằng:

– Chúng tôi sức không trói nổi con gà, chỉ biết ăn nói ngủ kỹ còn biết việc gì, mà sơn trại dùng đến chúng tôi?

Đỗ Thiên nói:

– Cái đó quân sư Ngô Dụng vốn quen biết các ông, và biết tài võ nghệ của các ông, cho nên mới sai Đới Tung đi đón về đây.Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện nghe nói đến đó, thì ngơ ngác nhìn nhau, mà không biết nói sao cho được.

Khi đi tới hàng rượu của Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý, Chu Quý liền đãi rượu tiếp phong, rồi bắn tên gọi thuyền ra, để đưa vào đại trại. Bấy giờ Tiều Cái, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh đều vui mừng đón tiếp, đặt tiệc khỏan đãi, và đêm chuyện muốn viết thư giả mạo để nói cho hai người nghe.

Hai người nghe nói, vội túm vào trách Ngô Dụng rằng:

– Chúng tôi ở đây với các ngài, cũng không ngại gì, song còn cách xử trí…Nói đoạn, cùng nhau chè chén đến đêm mới nghỉ.

Sáng hôm sau, thấy tụi lâu la báo…Ngô Dụng liền bảo Tiêu Nhượng và Kim Đại Kiện rằng:

– Xin hai vị hiền đệ ra tiếp lấy bảo quyên vào đây. Hai người nghe nói bụng còn bán tín vàn nghi, mà cùng nhau ra đón xem sao? Khi đến lưng chừng núi, quả nhiên thấy có mấy cỗ kiệu đưa vợ con đến đó. Hai người lấy làm ngạc nhiên, liền hỏi xem đầu đuôi thế nào?

Vợ con đều đáp rằng:

– Khi hai người đi rồi, thì thấy có người đem kiệu đến mà nói rằng: “Gia Trưởng đi đường bị trúng thử mà chết, phải báo vợ con đến để cứu”. Rồi khi ra đến ngoài thành, thì kiệu phu cứ vùn vụt đến đây, không sao mà bắt trở lại được.

Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện nghe nói đến tắc lưỡi ngây người, đành phải bấm bụng dẫn vợ con vào ở trong sơn trại.

Bấy giờ Ngô Dụng mời hai người ra đi để bàn việc viết thư khắc ấn, giả làm thư tín của phủ Thái Sư gửi trả lời cho Sài Cửu Tri Phủ, để Tống Công Minh, Tiêu Nhượng cùng Kim Đại Kiện đều vâng lời, rồi một người đem ra viết, và một người khắc con dấu tên húy của Sài Kính để đóng.

Khi các việc đã xong, liền đặt tiệc tiễn tặng Đới Tung và dặn dò cặn kẽ để đem về trình Sài Tri Phủ. Đới Tung vâng lĩnh các lễ, nhận lấy phong thư rồi từ biệt các vị Đầu Lĩnh xuống thuyền mà ra tửu điếm.

Khi ra tới nơi, Đới Tung liền buộc mỗi bên hai miếng giáp mã, mà đi gấp đường trở về Giang Châu.

Bấy giờ Ngô Dụng cùng các vị Đầu Lĩnh đưa chân Đới Tung ra đến bến rồi trở vào cùng ngồi uống rượu với nhau. Đương khi uống rượu, bỗng dưng Ngô Dụng kêu lên rằng:

– Nguy mất rồi…Nguy mất rồi…

Các vị Đầu Lĩnh đều lấy làm ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Việc chi mà quân sư kêu như vậy?

Ngô Dụng đáp rằng:

– Cái phong thư vừa rồi, tất là nguy đến tính mệnh cho Đới Tung mất… !

Chúng cả kinh hỏi luôn rằng:

– Có điều gì lầm lỗi hay sao?

– Tôi vội qúa không kịp nghĩ trước trông sau, trong thư có một chỗ hớ to, chắc là nguy mất… !

Tiêu Nhượng nói:

– Tôi viết chữ rất hệt chữ Thái Sư, vả chăng lời lẽ cũng không sai điều gì, vậy có chi là hớ, xin quân sư chỉ giáo cho.

Kim Đại Kiện cũng nói rằng:

– Tôi cũng khắc dấu hệt lắm, không nào sai một tí bao giờ!

Ngô Dụng có ý nghĩ ngợi mà rằng:

– Có một chỗ hớ to, rất là nguy hiểm, các ông không biết tới, để tôi xin nói cho các ông nghe.

Mới hay:

Việc đời lầm lỡ một ly;

Cái cơ nguy hiểm có khi muôn vàn,

Phải điều vụng chẳng hay toan,

Để cho thịt nát xương tàn nữa sao?

Phải làm cho biết mưu cao,

Thử xem trời giết anh hào được chăng!

Lời bàn của Thánh Thán:

Hỡi này chỉ do một đoạn văn tả Hoàng Văn Bính đọc đến phản thư, rồi tán ra ý nghĩa, để đưa đến Tống Giang phạm tội, rất là thác lạc phù sơ, còn ngoài ra chỉ tự sự theo, thấy cũng rõ ràng nhanh ứng vậy.

Sau khi uống rượu ở lầu Tầm Dương, chợt tả ra Tống Giang đi tả, đấy dụng bút của tác giả làm ra thảm đạm, để về sau nửa uống rượu một mình lầu bến Tầm Dương thổ lộ can trường (đáy lòng)! Cho nên lần sau tả Tống Giang đi tìm ba người để đi uống rượu mà không được gặp, kể cũng tả nhiều lời, nhưng phải làm cho rõ cái buồn của Tống Giang, để xảy ra đề thơ cảm khái.

Tả ra Tống Giang hồi từng chỗ trọ của ba người, thấy rõ bọn hảo hán bốn bể không nhà, rất khéo thay ngọn bút, để rồi vào lầu bến nước, uống rượu ngâm thơ; như kiểu Tào Tháo phú yến Trường Giang, khiến độc giả xem đến càng thêm khẳng khái.

Đến hồi tả chuyện con hát, chỉ làm cho rõ con người Lý Quỳ và Tống Giang xử sự mà thôi, không có gì chiếu ứng về sau nữa.

Hồi 39: Cướp nghĩa đảng – Anh hùng mến anh hùng

Bấy giờ, Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh đều ngơ ngác vội vàng, cùng túm nhau để hỏi xem lầm lỡ vì đâu? Quân sư Ngô Dụng liền bảo mọi người rằng:

– Trong bức thư lúc nãy, vì chúng tôi vội vàng không kịp nghĩ cho đóng dấu khắc có bốn chữ “Hàn Lâm Sài Kính” như thế, quả nhiên Đới Tung bị nguy với Quan Tư, chứ không khi nào tránh khỏi.

Đại Kiện nói rằng:

– Cái đó chính là lối con dấu của Sài Thái Sư, vẫn dùng để đóng vào các văn trát xưa nay, không lẽ nào mà hỏng được.

Ngô Học Cứu nói:

– Cái đó các ông không biết. Xưa nay cha viết thư cho con không khi nào phải đóng dấu tên huý của mình, bởi vậy tôi chắc khi Đới Tung tới nơi, tất bị họ tra hỏi mà vỡ chuyện ra mất.

Tiểu cái lo sợ mà rằng:

– Nếu vậy ta nên cho hai người theo gọi về đây, để viết lại mới được.

Ngô Dụng cười rằng:

– Bây giờ theo thế nào được? Ông ta làm phép thần hành đi từ bấy đến, giờ có tới năm sáu trăm dặm rồi, còn ai theo kịp. Việc này tất phải kiếm cách cứu mau, không có thì nguy cả đến nơi.

Tiều Cái hỏi:

– Vậy quân sư định có cách gì để cứu?

Ngô Dụng ghé vào tai Tiều Cái mà hỏi rằng:

– Bây giờ phải thế này…thế này…chủ tướng nên ám truyền hiệu lệnh cho các tướng đi mau mới được.

Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền truyền lệnh cho các tướng, lập tức sắm sửa chu tất rồi cùng nhau xuống thuyền mà kéo sang Giang Châu.

Bên kia Đới Tung đi ước chừng đúng hạn thì về đến đất Giang Châu liền đem thư vào trình với Sài Cửu Tri Phủ.

Tri Phủ thấy Đới Tung về, trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, bèn thưởng cho ba cốc rượu rồi nói rằng:

– Ngươi vào đó có gặp Thái Sư không?

Đới Tung bẩm rằng:

– Chúng tôi vào đó có một tối, rồi vội về ngay, nên không kịp gặp Ân Tướng.

Tri Phủ nghe nói liền bóc thư ra xem, thấy trên nói đã thu nhận đủ các đồ lễ vật, rồi đoạn nữa nói chuyện Tống Giang, phải sai người lập tức đóng xe tù về kinh sư, giải về cho cẩn thận, còn đoạn cuối cùng nói đến Hoàng Văn Bính, nay mai sẽ tâu Thiên Tử, tất nhiên cũng có hồng ân. Tri Phủ xem xong cả mừng, lấy ra một đĩnh hai mươi nhăm lạng bạc thưởng cho Đới Tung rồi nhất diện sai đóng xe tù và bàn định chọn người để áp giải Tống Giang.

Đới Tung từ tạ Tri Phủ rồi trở ra mau mua các thức rượu thịt đem vào ngục thiết đãi Tống Giang, và nói hết mọi chuyện cho Tống Giang biết. Cách hai hôm sau, Sài Tri Phủ đã thôi thúc đóng xe tù, vừa toan sai người khởi trình áp giải Tống Giang, thì bỗng thấy nói có quan Thông Phán Hoàng Văn Bính vào hầu. Tri Phủ nghe nói, liền cho mời vào trong để nói chuyện.

Hoàng Văn Bính đưa tặng các đồ lễ vật, nịnh hót mấy câu, đoạn rồi cùng ngồi nói chuyện.

Tri Phủ bảo với Hoàng Văn Bính rằng:

– Tôi mừng cho ngài, nay mai, tất có việc vinh thăng tới nơi.

Hoàng Văn Bính hớn hở hỏi rằng:

– Sao Tướng Công lại biết trước?

– Hôm qua có người đem thư về, nói rằng tên Tống Giang thì cho giải vào kinh sư, còn Thông Phán thì thế nào cũng có thăng thưởng đến nơi, hiện có gia thư đó, Thông Phán xem qua thì biết đoan đích.

– Nếu thế, thì toàn là ân đức của Tướng Công, chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được. Nhưng nếu phải là gia thư, thì khi nào tôi dám mạn phép mà xem như vậy?

– Được, Thông Phán với tôi là chỗ tâm phúc. Thông Phán cứ xem cho biết rõ…có hề chi?

Nói đoạn liền lấy thư đưa cho Hoàng Văn Bính xem. Hoàng Văn Bính cầm lấy thư xem hết đầu chí đuôi, rồi xem đến ngoài phong bì thấy có dấu đóng ở đó vẫn còn mới mẻ sáng sủa, thì lắc đầu mà bảo Thông Phán rằng:

– Phong thư này có lẽ không được đích thực…

Tri Phủ nói:

– Mọi khi không có đóng dấu bao giờ, nhưng hôm nay có lẽ là tiện có con dấu cho nên đóng vào đó hẳn?

Hoàng Văn Bính lại tán rằng:

– Tôi nói câu này, xin Tướng Công bỏ ngoài tai cho. Bức thư này tức là người man trá Tướng Công đây. Hiện nay thiên hạ thịnh hành bốn lối chữ, Tô, Hoàng, Mễ, Sài, vậy thì lối chữ của ân tướng Thái Sư, ai mà không viết giống. Còn như con dấu Hàn lâm này, là khi còn làm chức Hàn Lâm, hay dùng để đóng vào giấy má, cho nên thiên hạ ai mà không biết. Đến như hiện nay ngài làm chức Thái Sư Thừa Tướng, thì có khi nào lại còn dùng con dấu ấy nữa. Huống chi Tướng Công là chỗ con cháu trong nhà thì có cần chi phải cần đến con dấu có tên huý của ngài vào đây. Thái Sư là thực cao kiến viễn thức nhất trong thiên hạ, không lẽ ngài lại lầm đến thế? Xin Tướng Công cho đòi người đưa thư đến đây, mà hỏi kỹ càng xem có gặp người nào ở trong Phủ Thái Sư không? Bằng lúng túng không trả lời được, thì quả nhiên là giả mạo không sai…Cái đó Tướng Công nên cẩn thận…

Sài Tri Phủ nghe nói liền đáp rằng:

– Nếu vậy cũng không khó gì, anh ta từ nhỏ đến nay, chưa qua Đông Kinh một lượt nào, để ta hỏi qua mấy câu là biết được ngay.

Nói đoạn liền lưu Hoàng Văn Bính ngồi chơi ở đằng sau bình phong, rồi cho gọi Đới Tung lên đến công đường. Sài Tri Phủ liền hỏi ngay rằng:

– Hôm nọ ngươi đi khó nhọc ta chưa kịp hỏi hết đầu đuôi trong phủ Thái Sư, vậy khi tới đó ngươi đi vào cửa nào?

Đới Tung bẩm rằng:

– Khi chúng tôi vào tới nơi, thì trời đã nhá nhem tối, cũng không trông rõ đó là cửa gì?

– Ở trong phủ có ai ra tiếp?

– Rồi sau nghỉ ở đâu?

– Bẩm, hôm đó chúng tôi đến trước phủ, tìm một người canh gác đưa thư vào, sau người canh gác trở ra nhận các lễ vật rồi bảo chúng tôi đi hàng trọ để nghỉ. Sáng hôm sau đầu trống canh năm, chúng tôi lại vào chực ở cửa phủ, thì thấy tên người nhà đưa bức hồi thư ấy ra, chúng tôi sợ lỡ kỳ hẹn lập tức về ngay, không kịp hỏi han chi cả.

– Tên người nhà canh gác đó thế nào? Trắng hay đen, gầy hay béo, to lớn hay thấp lùn, có râu hay không?

– Bẩm, bấy giờ đường mờ tối, chúng tôi trông không được rõ lắm…Chỉ trông thoáng thấy anh ta tầm thước không lớn không bé, đã hơi có tuổi, loáng nhoáng vài cái râu…

Tri Phủ nghe đến đó quát lên rằng:

– Lính đâu! Trói cổ thằng này lại cho ta.

Vừa nói dứt lời thì lính tráng dạ vâng, đổ ra trói Đới Tung lại. Đới Tung lấy làm ngạc nhiên mà kêu lên rằng:

– Chúng tôi có tội gì?

Tri Phủ quát lên rằng:

– Tội mầy đáng chết…nhà tao có lão họ Vương, thì đã chết rồi, hiện nay có tên tiểu vương canh gác hãy còn trẻ tuổi, sao ngươi lại nói là đã nhiều tuổi và có râu. Vả chăng tên tiểu vương cũng không khi nào được vào phủ bao giờ, xưa nay phàm có thư tín ở các nơi đưa đến, thì tất do qua tay Trương Cán Biện, đến tay Lý Đô Quản, rồi mới vào đến trong phủ, vậy có nhanh ra cũng phải ba ngày mới lấy được hồi thư mang về. Huống chi ta đưa mấy hòm lễ vật như vậy, lẽ đâu lại không có ai là người ở trong nhà, ra hỏi cặn kẽ đầu đuôi, mà lại nhận liều lĩnh thế được? Cái đó tất là ngươi man trá chi đây, muốn sống phải nói thực cho ta biết.

Đới Tung kêu lên rằng:

– Chúng tôi vì vội vàng, mong cho chóng việc, nên không kịp xét hỏi đầu đuôi, chứ thực có điều chi dám man trá.

Tri Phủ thét tả hữu mà rằng:

– Quân này gan tướng cướp đây, không tra tấn sao có chịu thú…Chúng đâu đem tra đánh xem sao?

Lính tráng nghe nói, biết chừng không thể nào nể được Đới Tung, liền vâng lời đem ra tra tấn. Đới Tung bị đòn vọt đau đớn, từ chối không xong, bất đắc dĩ phải tiêu xưng ra bức thư giả mạo.

Tri Phủ quát hỏi rằng:

– Bức thư ấy ở đâu mà đến đây được?

Đới Tung nói rằng:

– Khi chúng tôi đi qua đất Lương Sơn, bị bọ cướp bắt lên núi, sau chúng lần được bức thư, liền cướp lấy cả hai hòm châu báu, rồi tha cho về. Chúng tôi biết thế trở về không được, đã toan liều tử tử ngay, song họ nhất định giữ gìn cẩn thận, rồi viết phong thư ấy, mà bắt phải đem về…Nhân chúng tôi cũng sợ quở phạt đến thân, cho nên phải mạn phép Ân Tướng mà nói liều như vậy, xin Ân Tướng xét cho.

Tri Phủ nói:

– Việc đó chắc là man trá không sai, vậy tất nhiên còn có tính gì khác, ngươi phải nói cho rõ. Ta quyết rằng ngươi thông đồng với bọn Lương Sơn để cướp hai hòm châu báu của ta, muốn sống phải thú mau mới được. Chúng đâu đánh nữa cho ta xem.

Đới Tung bị tra khảo lần nữa, song chàng nhất định đau, mà không dám đem chân tình ra thổ lộ. Tri Phủ tra hỏi hồi lâu, thấy lời lẽ trước sau như một, liền bất đắc dĩ sai đóng gông Đới Tung, mà cho giam xuống ngục.

Khi tra hỏi xong rồi. Tri Phủ liền vào nhà trong cảm tạ Hoàng Văn Bính mà rằng:

– Việc này nếu không có Thông Phán chỉ giáo cho, thì tất là nguy hiểm chứ không chơi.

Hoàng Văn Bính lại nói với Tri Phủ rằng:

– Người ấy chắc là thông đồng với bọn Lương Sơn Bạc để mưu việc phản nghịch, vậy nếu không sớm liệu trừ đi, thì tất là sinh sự về sau…

Tri Phủ nói:

– Bây giờ chỉ đem hai thằng ấy kết án mà xử tử ngay đi, rồi sẽ biểu tấu triều đình mới được.

– Tướng Công nghĩ thế thực phải lắm, làm như vậy một là triều đình cũng biết được tài mẫn cán của Tướng Công, hai là bọn Lương Sơn khỏi đến đây để cướp ngục, thì tất nhiên khỏi sinh nhiễu loạn về sau.

– Vâng, việc đó tôi phải biểu tấu triều đình, rồi xin để bảo cử cho Thông Phán một thể.

Hoàng Văn Bính nghe nói cả mừng, so vai rụt cổ nịnh hót một hồi lâu mới đứng lên từ tạ ra về.

Gớm quân khốn nạn đê hèn,

Tài thua sức kém còn ghen ghét người.

Rồi đây lay đất chuyển trời.

Tiền nhân phổng thoát với đời được chăng?

Mấy hôm sau, Tri Phủ gọi người Khổng Mục là người làm văn án lên, truyền lập án Tống Giang cùng Đới Tung, để đến ngày sau nữa đem ra chém.

Người Khổng Mục này là một người họ Hoàng, vốn thân mật với Đới Tung xưa nay, song cũng không có cách gì cứu gỡ cho được, liền bẩm với Tri Phủ rằng:

– Ngày mai là ngày kỵ nhật của quốc gia, ngày kia là ngày tết Trung Nguyên rằm tháng Bảy, đều không nên hành hình cả, đến ngày thứ ba cũng là ngày cảnh mệnh của nhà nước, vậy thì để năm hôm nữa thì mới có thể thi hành được. Tri Phủ nghe nói cũng cho là phải, liền theo lời Khổng Mục mà để đến sáu hôm sau.

Sáng sớm hôm thứ sáu, Tri Phủ sai quét dọn pháp trường, ở sau con đường chữ thập, rồi kiểm điểm bộ binh cùng các tay đao trượng, ước hơn năm trăm người, đều tề tựu ở trước nơi nhà ngục.

Vào khoảng giờ Tỵ hôm ấy, ngục quan vào bẩm với Tri Phủ để ra giám trảm. Hoàng Khổng Mục đem bản án lên trình quan Phủ, rồi viết hai chữ “Trảm” rất to, mà niêm yết ra ngoài pháp trường. Bấy giờ các Tiết Gấp và cùng Lao Tử ở đất Giang Châu, ai cũng lấy làm phàn nàn thương tiếc cho Đới Tung, mà không còn kế chi cứu được. Khi các công việc sửa soạn xong, lệnh quan trên bắt Tống Giang, Đới Tung đem búi ngược tóc lên, cắm bông hoa giấy đỏ lên đầu, dắt đến trước mặt thân án, cho mỗi người ngồi ăn bát cơm từ giã với đời, rồi sáu bảy mươi tên ngục tốt cùng dong ra ngoài pháp trường.

Bấy giờ nhân dân ở đất Giang Châu, kéo đàn kéo lũ đi xem, không biết mấy ngàn người mà kể. Chúng dong phạm nhân ra đến pháp trường, rồi đặt Tống Giang ngồi quay mặt sang Nam, Đới Tung ngồi quay mặt sang Bắc, để đợi đến giờ Ngọ là quan giám trảm.

Bọn nhân dân kéo đi xem, ngửa trông thấy trên bản án viết có mấy câu rằng:

– “Phủ Giang Châu xử hai tên phạm; Một tên là Tống Giang ngâm thơ phản nghịch, kết bọn Lương sơn để gây một đường rối loạn, tội nên xử trảm. Một tên là Đới Tung, thông với Tống Giang, đưa thư cho bọn Lương Sơn Bạc để mưu phản lại triều đình, tội nên xử tử. Giám trảm quan là Sài mỗ, Tri Phủ Giang Châu”.

Được một lát Tri Phủ cỡi ngựa ra đứng ở pháp trường, để đợi báo đúng giờ là truyền cho hạ thủ. Chợt đâu thấy bên đông pháp trường có bọn ăn mày chen vào xem chém, tụi thổ binh ngăn cản không xong, đôi bên liền ầm ĩ cả lên.

Đương khi ấy, thì phía bên tây lại có bọn bán thuốc cao len vào. Bọn thổ binh thấy vậy quát lên rằng:

– Chúng bây người ở đâu? Có biết gì không? Ai cho phép len vào đây để xem?

Lũ đánh gậy bán thuốc cao đáp lên rằng:

– Chúng tôi đây đến phủ huyện nào, mà không vào xem được. Dẫu cho Thiên Tử chém người, cũng còn cho người dân vào xem, huống chi một chỗ đất cỏn con này, mà lại không vào xem được hay sao?

Giám Trẩm Quan nghe thấy vội quát lên rằng:

– Đuổi chúng nó ra, không cho chen vào đấy.

Chưa dứt lời, thì đã thấy phía bên Nam pháp trường có một tụi phu gánh cũng sấn sỉ mà cùng nhau chen vào.

Lũ thổ binh quát hỏi rằng:

– Chúng bây người ở đâu? Mà dám chen vào đây?

Bọn phu gánh đáp rằng:

– Chúng tôi gánh các đồ vật, để đưa cho Tri Phủ Tướng Công đây.

Bọn thổ binh ngăn lại mà rằng:

– Có phải là người nhà quan Phủ, thì bây giờ cũng không đi qua đây được.

Bọn phu gánh thấy vậy, liền hạ gánh xuống, rồi đứng len lỏi vào trong đám đông người để xem. Chợt đâu thấy phía Bắc, có một đám buôn, kéo hai xe gỗ đến, đẩy xô mọi người mà toan vào pháp trường. Tụi thổ binh thét mắng đuổi ra mà rằng:

– Các anh đi đâu thế này.

Lũ lái buôn đáp rằng:

– Chúng tôi phải đi có việc cần, xin các ông cho phép chúng tôi đi qua đây…

Lũ thổ binh lại quát mắng rằng:

– Các anh nói lạ, ai cho các anh đi lối này? Có vội kiếm lối khác mà đi.

Bọn lái buôn cười rằng:

– Các bác nói dễ nghe chưa? Chúng tôi ở Kinh Sư đến đây, còn biết lối cóc nào nữa? Chỉ có một con đường lớn này phải cho đi mới được.

Nói xong toan chen lấn đi vào, song bọn thổ binh nhất định không nghe, mà cố dồn để đuổi ra. Đám lái buôn bất đắc dĩ phải dừng xe lại, rồi trèo lên xe để xem. Được một lát, trong pháp trường có người báo lên rằng:

– Bây giờ đúng giờ Ngọ ba khắc rồi.

Giám Trảm Quan nghe báo, liền truyền lệnh rằng:

– Cho phép chém.

Bọn lính coi tù vâng lệnh tháo gông cho tội nhân, rồi hai người hành hình cầm đao ra để chém.

Bấy giờ bọn lái buôn đứng trên xe kia, nghe thấy ba tiếng “Cho phép chém”,một người thì lấy thanh la ở trong bọc ra mà đánh lên mấy tiếng rất to, rồi bỗng dưng tứ phía đều nhao nhao lên như vỡ chợ vậy. Đoạn rồi ở trên gác hàng nước, bên cạnh con đường Thập Tự, có một anh chàng cởi trần trùng trục, mình đen chùi chũi, tay cầm hai cây búa, thét lên một tiếng như sấm động vang trời, mà nhảy ngay xuống pháp trường, vung cái búa lên chém luôn hai người hành hình, rồi quay ra đuổi chém Giám Trảm Quan. Bọn thổ binh thấy vậy, vội vàng xô nhau để ngăn cản, song không sao mà chống cự cho nổi, chúng liền hớt hơ hớt hãi túm đến cứu Giám Trảm Quản, là Sài Tri Phủ để chạy trốn cho mau.

Khi đó lũ ăn mày ở phía Đông, đều tuốt dao nhọn ở trong mình ra, để đánh giết thổ binh. Phía bên Tây, tụi đánh gậy bán thuốc cao, đám phu gánh bên Nam cũng múa đòn gánh lên, gặp ai thì phang cho người ấy, làm cho bọn lính ngục, và thổ binh ngã chết không biết bao nhiêu mà kể. Còn bọn lái buôn ở phía Bắc, thì nhảy xuống xe, quay xe ngăn lấy lối đi, rồi hai anh xông vào cướp lấy Tống Giang cùng Đới Tung, còn bọn người thì hoặc bắn cung, hoặc ném đá, hoặc đánh gươm giáo, mà giết hại thổ binh chết như canh hẹ.

Nguyên bọn lái buôn này là Tiều Cái, Hoa Vinh, Hoàng Tín, Lã Qương, Quách Thịnh. Bọn phu đánh gậy bán thuốc cao là Yên Thuận, Lưu Đường, Đỗ Thiên, Tống Vạn. Bọn phu gánh là Chu Quý, Vương Nụy Hổ, Trịnh Thiên Thọ, Thạch Dũng. Và bọn ăn mày kia là Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất cùng Bạch Thắng, cộng tất cả là mười bảy vị Lương Sơn Bạc, hơn một trăm lâu la giả dạng làm các hạng người, mà đánh cướp pháp trường ở đó.

Khi ấy Tiều Cái trông thấy anh chàng đen lớn; vác hai cây búa xông pha tả hữu, đánh giết ầm ầm, thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ, không biết là ai. Sau lại nhớ ra khi trước Đới Tung thường nhắc đến tên anh Hắc Toàn Phong Lý Quỳ, đi lại với Tống Giang rất là thân ái, liền hỏi to lên rằng:

– Hảo hán kia có phải là Hắc Toàn Phong đó chăng?

Anh chàng kia không trả lời, cứ lẳng lặng vác hai cây búa mà chém giết loang loáng như sét đánh ngang trời. Tiều Cái biểu hai người cõng Tống Giang cùng Đới Tung phải theo sau anh chàng to lớn ấy mà chạy.

Đương lúc bấy giờ, trên con đường chữ Thập kia, vô luận là quân dân lính tráng, hoặc người bị thương, hoặc người bị giết, nằm vật ngổn ngang không biết tới đâu mà kể. Còn bọn đàn anh và tụi lâu la kia, đều theo anh chàng đen lớn mà chạy ra ngoài thành, và để cho bọn Hoa Vinh, Hoàng Tín, Quách Thịnh, bốn người cầm bốn tay cung đi sau, mà bắn chặn lấy đường; khiến cho quân dân ở đất Giang Châu không có ai dám gan theo đuổi.

Khi đó chàng đen lớn kia, vừa đi vừa chém, máu me đầm đìa khắp cả chân tay, mà vẫn còn hăng hái chém giết.

Tiều Cái liền cầm đao thét lên rằng:

– Đại Hán kia, không can thiệp gì đến nhân dân, không được chém người ta nữa.

Anh chàng kia im lặng không thèm nghe đến, cứ phăm phăm múa đôi đại phủ mà chém rẽ người ta để đi. Ước chừng đi được bảy tám dặm đường, thì có một giải trường giang chắn ngang trước mặt, Tiều Cái lấy làm lo sợ, không còn biết lối nào mà chạy trốn cho thoát.

Bấy giờ anh chàng đen lớn kia nói lên rằng:

– Không ngại gì hãy đem Ca Ca vào trong miểu kia đã. Chúng nghe nói, liền kéo nhau để xem, thấy bên sông có một tòa cổ miếu, hai bên cửa vẫn đóng chặt. Chàng đen lớn kia vác đôi phủ, đến chém phá tung cửa ra cho mọi người vào.

Khi vào tới nơi, thấy thông xanh liễu tốt cây cỏ um tùm, trước cửa có cái biển thiếp vàng bốn chữ “Bạch Long Thần Miếu” rất to, bọn tiểu lâu la cõng Tống Giang cùng Đới Tung đặt nghỉ ở đó.

Lúc ấy Tống Giang mới mở mắt ra, trông thấy Tiều Cái cùng mọi người thì gạt hai hàng lệ mà nói rằng:

– Chẳng hay là gặp nhau trong giấc chiêm bao?

Tiều Cái an ủi Tống Giang mà rằng:

– Đó chẳng qua nhân huynh không chịu ở sơn trại, cho nên mới xảy ra như vậy…Song không biết rằng anh chàng đen lớn ra sức cứu giúp kia là ai?

Tống Giang đáp rằng:

– Ấy chính là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đấy, anh ta đã mấy lần xui tôi vượt ngục mà ra, song tôi sợ không sao mà chạy thoát được, nên không dám nghe lời.

Tiều Cái kính phục mà khen rằng:

– Được một người cố công ra sức, không ngại búa rìu can đảm như thế, thực là hiếm có.

Hoa Vinh liền bảo chúng lấy quần áo đưa cho Tống Giang và Đới Tung mặc, rồi cùng ngồi bàn định với nhau.

Đương khi ấy trông thấy Lý Quỳ tay cầm đôi phủ, ở dưới hành lang chạy lên, Tống Giang liền gọi mà hỏi rằng:

– Anh em đi đâu thế?

Lý Quỳ đáp rằng:

– Tôi đi tìm thằng coi miếu để giết nó đi một thể, nó làm cái gì mà ban ngày ban mặt cũng cứ đóng cửa, không biết rằng nó trốn đi đâu mà tìm mãi không thấy… ?

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Ngươi hãy đến đây để chào các Ca Ca Đầu Lĩnh đã.

Lý Quỳ nghe nói, liền vứt đôi phủ xuống mà quay mặt vào Tiều Cái rồi quỳ vội mà rằng:

– Xin Ca Ca chớ cười Thiết Ngưu này lỗ mãng.

Nói đoạn lại quay ra chào hỏi mọi người, và nhận được Chu Quý là người đồng hương, thì đôi bên lấy làm hoan hỷ vô cùng.

Bấy giờ Hoa Vinh nói với mọi người rằng:

– Vừa rồi Ca Ca truyền lệnh cho anh em cứ theo Lý Ca mà chạy, vậy bây giờ đến đây trước mặt có con sông ngăn trở, mà thuyền bè không có, thì đi làm sao được?

Lý Quỳ ứng lên rằng:

– Cái đó không cần, tôi với các bác, ta hãy kéo cả vào thành, tìm thằng Sài Tri Phủ, mà giết phăng nó đi rồi sẽ liệu.

Đới Tung vội ngăn rằng:

– Làm như thế không được, trong thành có tới bảy tám trăm quân, nếu mình sấn vào, thì lỡ ra nguy mất.

Nguyễn Tiểu Ngũ nói lên rằng:

– Ở bến sông xa kia có mấy chiếc thuyền để anh em tôi lội sang cướp đem về đây, mà chở người vào thành, thì có lẽ tiện hơn.

Tiều Cái khen phải mà rằng:

– Nếu thế thì còn gì hơn nữa. Nói đoạn thì ba anh em họ Nguyễn cởi trần cầm đao, nhảy xuống sông mà bơi cướp lấy thuyền.

Ba người lội dưới sông, thì thấy mấy chiếc thuyền kia thổi còi lên hiệu mà kẽo kẹt chèo thuyền, thấy mỗi thuyền, mỗi người cầm một thứ binh khí trong tay hết thẩy.

Chúng thấy thế, đều kinh ngạc mà nhao nhao cả lên. Tống Giang nghe thấy chúng kinh hãi, thì cũng than thân gặp bước cùng đường, bèn chạy ra trước cửa miếu bên sông, nom thấy một đại hán đứng ở trên thuyền, tay cầm binh khí mặc giáp có kính đỏ, yểm tâm, coi rất hùng dũng, thổi sáo mà tới.

Tống Giang nom xem nhận ra là Trương Thuận, bèn vẫy tay gọi.

– Anh em đến cứu tôi với!

Trương Thuận biết là Tống Giang gọi đến, liền chèo thuyền nhanh tới bờ. Ba anh em họ Nguyễn lui bước lại, rồi lũ Trương Thuận lên tới miếu. Tống Giang đón tiếp. Trương Thuận dẫn đến mươi người khỏe mạnh ở dưới thuyền lên. Lại thấy cả Trương Hoành, dẫn Mục Hoằng, Mục Xuân, và Tiết Vĩnh, và một số trang khách ở dưới thuyền lên. Đến chiếc thuyền thứ ba, thấy Lý Tuấn, dẫn Lý Lập, Đồng Uy, Đồng Mãnh, và mươi người trang khách khỏe mạnh, đều cầm thương gậy lên bờ.

Trương Thuận gặp được Tống Giang lấy làm mừng rỡ, khóc mà sụp lạy nói rằng:

– Từ khi nghe tin Ca Ca bị bắt, khiến tôi ngồi đứng không yên, mà không còn cách nào cứu được. Lại nghe cả Đới Viện Trưởng cũng bị giam giữ, mà tôi tìm Lý Đại Ca cũng chả thấy đâu. Sau chúng tôi đến nhà Mục Thái Công, rủ những anh em quen biết, đem số trang khách, để phá ngục Giang Châu cứu lấy Ca Ca và Đới Viện Trưởng.

– Nào ngờ nhân huynh đã được các vị hào kiệt cứu ra, còn họp ở chốn này, vậy dám hỏi các vị hảo hán đây có phải là những nghĩa sĩ của Tiểu Thiên Vương ở Lương Sơn Bạc chăng?

Tống Giang bèn trỏ vào Tiều Cái mà giới thiệu rằng:

– Đây là Tiều Thiên Vương Ca Ca, cùng các vị nghĩa sĩ, vậy xin các anh em hãy vào trong miếu, để cùng nhau gặp mặt.

Bấy giờ lũ Trương Thuận chín người, lũ Tiều Cái mười bảy người, và Tống Giang, Đới Tung, cùng Lý Quỳ, cộng tất cả hai mươi chín người, đều hội họp ở Bạch Long miếu. Sau khi hai mươi chín vị làm lễ ra mắt nhau; thì tiểu lâu la vào miếu báo rằng:

– Nay thành Giang Châu, khua chiêng dóng trống, cờ xí rợp trời, sửa soạn binh mã đuổi theo để đánh, gần tới miếu Bạch Long, việc nguy cấp lắm.

Lý Quỳ nghe nói, thét lên một tiếng, cầm hai đại phủ mà đi, ra khỏi cửa.

Tiều Cái gọi lại nói rằng:

– Nếu muốn rửa hận giết đám tham tàn, thì Tiều Cái xin cùng các vị hảo hán, cùng nhau ra sức giết lũ quan quân, mới trở về Lương Sơn Bạc.

Chúng anh hùng đều nói lên:

– Theo lệnh.

Lúc ấy một trăm năm mươi người đón đánh quan quân thành Giang Châu, khiến cho máu chảy đầy sông, xương phơi khắp chốn.

Thực là:

Anh hùng mới thực anh hùng,

Đất bằng nổi sóng đùng đùng bởi đâu?

Quyền môn muốn những đè đầu,

Ngán lời cẩu trệ vuốt râu báo hùm!

Lời bàn của Thánh Thán:

Theo phép nhà văn tả việc gấp, không thể dài lời nhiều bút, vì dùng nhiều bút, thì việc thấy hoãn đi không còn gấp nữa. Thế mà sách này không thế, tả việc gấp, vẫn dùng nhiều bút mực với nhiều lời, vì rằng dùng ít bút mực, thì việc gấp giải đi. Đây tả việc gấp vẫn nhiều lời, toàn là những lời của việc gấp, như con người mưu nghịch Tống Giang, Đới Tung quyết không đợi mãi, dẫu được Hoàng Khổng mục kéo dài ra năm ngày, cho đến ngày cuối cùng, đã thành mây cùng nước tận, bấy giờ chỉ đợi đến giờ Ngọ ba khắc, thì phải khai đao, thì phải kết thúc.

Thế mà đoạn văn ấy tả ra, nào là buổi sáng ăn cơm sớm, rồi sửa soạn pháp trường, nào là thổ binh mang khí giới chỉnh tề, đến giờ Tỵ ngục quan bẩm trình quan Giám Trảm, Khổng Mục cũng trình mọi công việc tới kỵ Nào là tả Tống Giang, Đới Tung xõa tóc cắm bông koa giấy, trước khi xử trảm cho uống rượu, ăn cơm bữa cuối cùng từ giã cõi đời. Nào là số sáu bảy mươi kẻ ngục tốt, đều đổ cả ra. Rồi lại tả trên đường Thập Tự giáo mác chung quanh, một kẻ quay mặt về Nam, một kẻ quay mặt về Bắc, để đợi Giám Trảm Quan đi tới. Nào tả số người ra vào chen xem, chưa thấy quan Giám Trảm tới. Trước khi đó tuyên án xử trảm hai người, tên mỗ vì phạm tội này, theo luật phải xử trảm… Tên mỗ vì phạm tội này, theo luật phải xử trảm… Một lát sau Quan Phủ tới, dừng ngựa lại đợi đến giờ Ngọ ba khắc thì xử trảm. Quan Giám Trảm đã tới, chỉ đợi đến giờ, khiến độc giả xem tới ba chữ “Ngày thứ sáu” phải đến khiếp lên, đọc một câu thấy khiếp một câu, đọc một chữ mà kinh một chữ… Đoạn văn có tả kỹ càng như thế, làm sống lại cảnh kinh người, mới thấy đoạn văn sau biến ra kỳ tuyệt. Hồi này rất khéo, ở chỗ tới ngày mai xử quyết như sấm nhanh không kịp bịt tai. Thế mà bây giờ đã có người báo cho Sơn Bạc, há phải tới nơi không phép Rút Đường. Nào ai biết hai người có tình phận với Lương Sơn Bạc, nay ở hồi trước Ngô Dụng đã dự đoán việc sai lầm, vội vàng trao kế cho đám hảo hán hạ sơn, khi đi đường vài ngày, thì vừa gặp Khổng mục xin hoãn được năm ngày, khiến mấy đám tới nơi, đến thời vừa việc, đã nên khéo léo! Lại tả sau khi việc Đới Tung lộ ra, không nói đến hai tay Lý Quỳ, Trương Thuận, chả những không thấy, còn chép thêm mọi người (đám ngục tù và người quen thuộc) thương xót, cho thấy khác đi, khiến độc giả cũng thêm buồn, tới khi đọc đến chàng đại hán đen chũi to lớn, chẳng ngờ khiếp vía sởn gai. Và sau Trương Thuận chèo thuyền đi đến, laị làm cho người ta không mơ tưởng tới, mới thấy rõ kỳ văn.