Hồi 10: Đường thi tuyển tập

Tương Tây và Kinh Châu cách nhau không xa, mấy ngày sau đã đến Kinh Châu. Con đường này năm ấy chàng đã cùng sư muội theo sư phụ đi qua. Núi sông vẫn thế, con đường vẫn thế. Năm ấy trong khi đi, trên đường đầy tiếng cười của Thích Phương. Lần này, từ Ma Khê Phố đến Kinh Châu, chàng không còn nghe thấy tiếng cười. Đương nhiên có người cười nhưng chàng không nghe thấy.

Ở ngoài thành nghe ngóng, biết Lăng Thoái Tư vẫn làm tri phủ. Địch Vân mặt vẫn lấm lem bùn đất, giấu kín bộ mặt cũ, lặng lẽ vào thành.

Ý nghĩ đầu tiên là: “Mình phải tận mắt xem xem Vạn Khuê chịu khổ ra sao. Chẳng biết y đã về chưa, biết đâu còn ở Hồ Nam trị thương.”

Đến trước cửa nhà họ Vạn, xa xa thấy Thẩm Thành vội vàng từ cổng đi ra, vẻ mặt lo lắng. Địch Vân nghĩ bụng: “Thẩm Thành đã ở đây, Vạn Khuê có lẽ cũng đã về. Đến tối mình sẽ tới xem xem.” Bèn đi về phía khu vườn hoang kia.

Khu vườn hoang này cách nhà họ Vạn không xa, ngày Đinh Điển qua đời, giết Chu Kỳ, giết Cảnh Thiên Bá, giết Mã Đại Minh đều ở trong vườn này.

Lần này trở lại chốn cũ, chỉ thấy khắp nơi cỏ dại như cũ, khắp nơi gạch ngói vỡ ngổn ngang như cũ. Chàng đi đến bên gốc lão mai, vuốt ve thân cây sù sì, nghĩ bụng: “Ngày ấy Đinh đại ca qua đời dưới gốc mai già này, gốc mai vẫn như thế, không thay đổi chút nào. Mà Đinh đại ca thì xương đã thành tro.”

Chàng bèn ngồi dưới gốc mai nhắm mắt ngủ.

Ngủ đến canh hai, lấy lương khô trong túi ra ăn, rồi ra khỏi khu vườn hoang, đi về phía nhà họ Vạn, vượt tường mà vào, đến vườn hoa phía sau, bất giác trong lòng chua xót: “Ngày ấy mình bị trọng thương, nấp trong kho củi, sư muội không giúp mình, không cứu giúp mình.” Đang định bước tới bỗng thấy bên một tảng đá có ba đốm lửa leo lét.

Chàng lập tức nấp vào sau một gốc cây nhìn về phía ánh lửa. Chăm chú nhìn thì thấy ba đốm lửa ấy là ở đầu ba que hương, lư hương đặt trên một chiếc ghế nhỏ, trước ghế có hai người đang quỳ, chốc lát thì đứng dậy. Địch Vân nhìn rõ, một người là Thích Phương, còn một người nữa là một bé gái, con gái của cô, cũng tên là “Không Tâm Thái”.

Nghe thấy Thích Phương khe khẽ cầu khấn:

– Cây hương thứ nhất, cầu trời che chở cho phu quân con thoát khỏi khô nạn, giải được chất độc, đừng bị đau đớn vì độc rết. Không Tâm Thái, con nói đi, nói cầu Bồ Tát che chở cho gia gia lành bệnh.

Bé gái nói:

– Vâng, mẹ, cầu Bồ Tát che chở cho gia gia khỏi đau, không kêu la nữa.

Địch Vân đứng cách khá xa nhưng cũng nghe rõ lời mẹ con cô ta cầu khấn, biết Vạn Khuê sau khi trúng độc quả nhiên vẫn còn chịu khổ, trong lòng vừa cảm thấy một chút vui mừng, vừa giận Thích Phương đối với chồng tình nghĩa sâu nặng thế.

Lại nghe Thích Phương nói:

– Cây hương thứ hai, cầu trời che chở cho cha con được bình an, vô tai vô nạn, sớm quay về. Không Tâm Thái, con nói cầu Bồ Tát che chở cho ông ngoại sống lâu trăm tuổi.

Bé gái nói:

– Vâng, ông ngoại, ông mau mau trở về, sao ông không trở về?

Thích Phương nói:

– Cầu Bồ Tát che chở.

Bé gái nói:

– Bồ Tát che chở cho ông ngoại, che chở cả cho cha và ông nội.

Con bé chưa hề gặp Thích Trường Phát, mẹ bảo nó cầu, trong lòng nó lại chỉ nhớ ông nội và cha của mình.

Thích Phương im lặng một chút, hạ giọng nói:

– Cây hương thứ ba này, cầu trời che chở cho huynh ấy được bình an, cho huynh ấy được mọi điều như ý, cho huynh ấy sớm lấy được vợ, sớm sinh quý tử…

Nói đến đây, giọng nói bỗng nghẹn ngào, lấy tay áo lau nước mắt. Bé gái nói:

– Mẹ, mẹ lại nhớ cậu rồi.

Thích Phương nói:

– Con nói đi, cầu trời che chở cho cậu Không Tâm Thái bình an…

Khi Địch Vân nghe cô ta cầu với cây hương thứ ba đang tự lấy làm lạ: “Cô ấy đang cầu chúc cho ai?” Bỗng nghe cô nói đến bốn chữ “Cậu Không Tâm Thái”, trong tai bất giác bỗng “òa” lên một tiếng, trong lòng thầm nói: “Cô ấy đang nói về mình? Cô ấy đang nói về mình ư?”

Bé gái lại nói:

– Mẹ nhớ cậu Không Tâm Thái, cầu Bồ Tát che chở cho cậu phát tài, mua một con búp bê to cho con. Cậu là Không Tâm Thái, con cũng là Không Tâm Thái. Mẹ ơi, cậu Không Tâm Thái đi đâu thế? Sao cậu cũng không trở về?

Thích Phương nói:

– Cậu Không Tâm Thái đi đến một nơi rất xa, rất xa, cậu bỏ mẹ không hề để ý, mẹ thì lại ngày ngày nhớ cậu….

Nói đến đây, cô ôm lấy con gái, giấu mặt vào ngực con, bước nhanh vào.

Địch Vân bước đến bên lư hương, nhìn ba đốm lửa, bất giác ngẩn người.

Chàng cứ đứng ngơ ngẩn như thê, ba que hương đã cháy thành tro, chàng vẫn đứng im bất động.

* * *

Sáng sớm hôm sau, Địch Vân từ vườn sau nhà họ Vạn đi ra, đi lang thang trong thành Kinh Châu, bỗng nghe thấy tiếng “leng reng leng reng”, thì ra là một thầy thuốc rong đang đi bán thuốc. Địch Vân bỗng nảy ra một ý. Chàng muốn tận mắt nhìn thấy thảm trạng Vạn Khuê kêu la rên rỉ, thế là lấy ra mười lạng bạc, mua hết y phục, hòm thuốc của ông ta. Ông thầy thuốc lấy làm lạ, tất cả những thứ ấy đâu có quý giá gì, tối đa cũng chỉ ba bốn lạng, bèn vui vẻ bán cho chàng.

Địch Vân vào vườn hoang, thay bộ y phục thầy thuốc vào, lấy thảo dược giã ra, bôi nước thuốc lên mặt, lại bôi một đám cao lên dưới mắt trái, làm cho mặt mũi khác hẳn, rồi lắc lắc cái chuông, đi đến trước nhà họ Vạn.

Sắp đến trước cổng, chàng liền lắc cái chuông “leng reng leng reng” kêu vang lên, khi đến gần lại lên giọng ê a rao:

– Chuyên chữa các chứng nan y đê… ây, nhọt độc không tên, vết thương do trùng độc rắn độc cắn, tức khắc công hiệu đây!

Đi đi lại lại như thế ba lần, đã thấy một người vội vội vàng vàng chạy ra, vẫy tay nói:

– Ê, thầy lang, ông tới đây, tới đây.

Địch Vân nhận ra y là đệ tử Vạn môn, chính là Ngô Khảm, kẻ năm ấy đã chém đứt năm ngón tay của chàng. Nhưng Địch Vân lúc này đã cải trang, diện mạo hoàn toàn khác, Ngô Khảm tất nhiên không thể nhận ra chàng. Địch Vân sợ y nhận ra giọng nói của mình, càng làm khàn giọng đi, nói:

– Cậu chủ bảo sao? Nhưng trên người có chứng trạng gì nan y, bị ung nhọt lạ phải không?

Ngô Khảm “phì” một tiếng, nói:

– Ông nhìn tôi có vẻ bị ung nhọt gì không? Ê, tôi hỏi ông, bị rết cắn, ông có chữa được không?

Địch Vân nói:

– Thanh trúc xà, xích luyện xà, kim tước đới, thiết sản đầu… người bị những loại rắn độc trong thiên hạ cắn tại hạ đều chữa được, thuốc đến là lành ngay. Rết cắn à? Hi hi, có đáng kể gì.

Ngô Khảm nói:

– Ông chớ khoe khoang, loại rết này chẳng phải tầm thường. Các danh y trong thành Kinh Châu trông thấy đều lắc đầu, ông lại có thể chữa được à?

Địch Vân chau mày nói:

– Ghê gớm thế cơ à? Rết trong thiên hạ chẳng qua cũng chỉ có mấy chục loại như rết lông xám, rết đen trắng, rết kim tiền, rết ma đầu, rết đuôi đỏ, rết rơi xuống đất cắn, rết chân trắng…

Chàng cứ thuận miệng nói bừa, nói liền hơn hai mươi loại rết, rồi mới nói:

– Mỗi loại rết độc tính mỗi khác, mỗi loại đều có cách trị riêng, mới gọi là danh y. Nếu không có bản lĩnh thực sự thì chưa chắc hiểu được thấu đáo.

Ngô Khảm thấy thầy lang xấu xí, áo quần lam lũ, tuy kể tên nhiều loại rết nhưng lắp ba lắp bắp, giọng nói không rõ đoán là cũng chả có bản lĩnh gì, bèn nói:

– Đã thế, ông cứ vào xem xem.

Địch Vân gật gật đầu, theo y vào phủ họ Vạn.

Chàng mới bước vào cửa lập tức nhớ lại cảnh năm xưa cùng sư phụ và sư muội đến chúc thọ, lúc ấy là anh chàng nhà quê ra tỉnh, thấy cái gì cũng mới lạ, cùng với sư muội cứ ngó đông trông tây, chỉ chỉ chỏ chỏ, hôm nay trở lại, cửa nhà như cũ nhưng trong lòng chỉ cảm thấy chua xót. Chàng theo Ngô Khảm đi qua hai khu vực thiên tỉnh, đến trước lầu phía đông.

Ngô Khảm ngẩng đầu, lớn tiếng gọi:

– Tam sư tẩu, có một vị lang trung ông ấy bảo trị được rết độc, có cần ông ấy đến xem cho sư ca không?

“Két” một tiếng, cửa sổ trên lầu mở ra, Thích Phương thò đầu ra ngoài cửa sổ, nói:

– Được, đa tạ Ngô sư đệ, sư ca của đệ hôm nay đau ghê gớm, mời tiên sinh lên lầu.

Ngô Khảm nói với Địch Vân:

– Ông lên đi.

Còn mình thì không lên theo.

Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, mời đệ cũng lên đi, giúp thầy thuốc xem bệnh.

Ngô Khảm đáp:

– Vâng!

Rồi mới theo bước lên lầu.

Địch Vân lên lầu, thấy một chiếc án thư lớn đặt ở giữa phòng, trên bàn có giấy, bút, nghiên mực và khoảng mươi quyển sách, lại còn một chiếc áo trẻ con đang may dở. Thích Phương từ phòng trong bước ra đón, mặt không son phấn, dung nhan tiều tụy. Địch Vân chỉ nhìn cô một cái, sợ cô nhận ra mình nên không dám nhìn lâu, liền bước vào phòng. Thấy một người đang ngủ trên một chiếc giường lớn, không ngừng rên rỉ, chính là Vạn Khuê. Con gái của y ngồi trên một chiếc ghế nhỏ trước giường, đang nhè nhẹ đấm chân cho cha. Nó thấy vẻ mặt cổ quái bẩn thỉu của Địch Vân, sợ hãi hét lên một tiếng, vội nấp vào sau mẹ.

Ngô Khảm nói:

– Sư ca của tôi bị rết độc cắn, chất độc không tiêu.

Địch Vân nói:

– Ờ, thế à?

Khi ở bên ngoài chàng nói chuyện với Ngô Khảm một cách thoải mái tự nhiên, lúc này gặp Thích Phương, trái tim cứ đập loạn lên, cảm thấy hai má nóng ran, môi khô lưỡi đắng, không nói được gì nữa. Chàng bước đến trước giường, vỗ vỗ lên vai Vạn Khuê.

Vạn Khuê chầm chậm trở mình, mở mắt ra nhìn Địch Vân, bỗng cảm thấy hơi sờ sợ. Thích Phương nói:

– Tam ca, vị này là thầy thuốc do Ngô sư đệ mời đến. Ông ta… ông ta có lẽ… có lẽ có linh dược trị được vết thương của huynh.

Trong giọng nói của cô có vẻ không tin tưởng chút nào.

Địch Vân không nói một lời, xem đi xem lại bàn tay sưng vù của Vạn Khuê, thấy mu bàn tay đen sậm, trông rất dễ sợ, bèn lấy giọng khàn khàn nói:

– Đây là loại rết độc đốm hoa ở vùng Nguyên Lăng Tương Tây cắn đây, ở Hồ Bắc ta không có loại rết này.

Thích Phương và Ngô Khảm cùng nói:

– Phải, phải, chính là bị cắn ở Nguyên Lăng Tương Tây.

Thích Phương lại nói:

– Tiên sinh đã nhận ra lai lịch của loại rết này, chắc là có thể chữa được chứ? Giọng nói đầy hy vọng.

Địch Vân bấm đốt ngón tay tính ngày, nói:

– Đây là bị cắn vào buổi tối, đến nay… ầy, đã bảy ngày bảy đêm rồi.

Thích Phương nhìn Ngô Khảm một cái, nói:

– Tiên sinh quả là liệu việc như thần, đúng là bị cắn vào buổi tối, đến nay đã bảy ngày bảy đêm.

Địch Vân lại nói:

– Ông chủ trẻ này có phải là đã trở tay đánh chết con rết không? Nếu không như thế thì còn có thể cứu được. Nay đã đánh chết con rết trên mu bàn tay, chất độc ngấm hết cả vào tay, muốn giải cứu thì thật là… vô cùng khó.

Thích Phương nghe thấy đến cả thời gian cũng tính cực chuẩn cho rằng chắc chắn trị được mặt đã có vẻ mừng, đến khi nghe nói vậy lại lo lắng, nói:

– Tiên sinh đã hiểu rõ như thế, vô luận thế nào, cũng xin tiên sinh cứu cho tính mạng của huynh ấy.

Địch Vân chuyến này đóng vai lương y đến nhà họ Vạn vốn là muốn tận mắt nhìn thấy tình cảnh thống khổ thê thảm rên rỉ cho đến chết của Vạn Khuê, cho hả nỗi oán hận bấy lâu, còn như cái ý cứu y tất nhiên là không hề có. Nhưng chàng từ nhỏ luôn chiều ý Thích Phương, chưa từng làm cô phật lòng, nay thấy cô lo sợ khẩn cầu như thế, lòng bỗng mềm đi, đã muốn mở hòm thuốc lấy bình thuốc giải của Ngôn Đạt Bình, nhưng lại thay đổi ý nghĩ: “Thằng Vạn Khuê này hại mình đến khốn khổ, lại cướp sư muội của mình, mình không tự tay giết hắn đã là khách khí lắm rồi, sao lại còn cứu mạng hắn?” Bèn lắc đầu nói:

– Không phải là tôi không chịu cứu, thực sự là cậu chủ trúng độc quá sâu, lại đề lâu ngày, chất độc vào não, không cứu được nữa rồi.

Thích Phương rơi nước mắt, kéo tay con gái, nói:

– Không Tâm Thái, Bảo Bảo, con khấu đầu lạy vị bá bá này, xin bá bá cứu mạng cha đi.

Địch Vân vội vàng xua tay:

– Không, đừng lạy…

Nhưng con bé rất ngoan, luôn nghe lời mẹ, lại biết phụ thân bị trọng thương, trong lòng cũng rất lo lắng, liền quỳ xuống đất, rập đầu lạy chàng. Địch Vân đã mất năm ngón tay phải, cứ giấu ở trong tay áo, liền đưa tay trái ra, đỡ con bé dậy. Khi con bé đứng dậy, chàng bỗng thấy từ trên cổ nó thòng xuống một cái khóa vàng, trên mặt khóa đúc bốn chữ “Đức dung song mậu”.

Địch Vân nhìn thấy, ngẩn người, nhớ lại ngày ấy mình bị ngất đi trong kho chứa củi nhà họ Vạn, khi tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong một con thuyền nhỏ trôi trên sông Trường Giang, bên mình có một gói vàng bạc và nữ trang, trong đó có một chiếc khóa vàng của trẻ con, trên mặt cũng đúc bốn chữ này, có phải là… có phải là…

Chàng chỉ nhìn một cái, không dám nhìn thêm lần nữa, trong óc rối bời, rốt cuộc đã hiểu rõ: “Mình bị ngất đi trong kho củi nhà họ Vạn, nếu không phải là sư muội cứu, thì còn có ai vào đó nữa? Trước kia mình cứ nghi cô ấy có ý hại mình, nhưng đêm qua… đêm qua cô ấy cầu trời, thổ lộ tâm sự, cô ấy đối với mình tình sâu như thế, thì ngày ấy chắc chắn là không hại mình. Lẽ nào, lẽ nào ông trời có mắt, mình với sư muội trải qua bao phen khổ nạn lại có thể đoàn tụ?”

Chàng nghĩ đến đó, trái tim lại đập rộn lên, nghiêng đầu nhìn Thích Phương, thấy vẻ mặt cô đầy vẻ lo âu tha thiết, mắt đăm đăm nhìn vào Vạn Khuê, ánh mắt đầy thương yêu.

Địch Vân thấy ánh mắt của cô, trái tim lập tức lặng đi, sống lưng ớn lạnh. Chàng nhớ rất rõ, ngày ấy chàng đấu với tám đệ tử nhà họ Vạn, bị tám tên kia liên thủ đánh cho mặt mũi sưng vù, sư muội đã vá áo cho chàng, trong ánh mắt cũng đầy tình thương yêu như thế. Còn bây giờ sóng mắt cô đã dành cho chồng chứ không còn dành cho chàng nữa.

“Nếu như mình không cho thuốc giải thì cũng không ai trách mình được. Đợi Vạn Khuê chết rồi, một đêm nào đó mình lặng lẽ đến đưa sư muội đi, ai có thể ngăn cản được mình? Mình sẽ không nhắc đến chuyện cũ, cùng với cô ấy… lại làm vợ chồng. Còn đứa con gái, mình đưa đi luôn với cô ấy. Ôi, không được, không được! Sư muội mấy năm nay ở nhà họ Vạn làm thiếu phu nhân, thoải mái sung sướng quen rồi, làm sao lại có thể theo mình cày ruộng chăn bò? Huống nữa mình tướng mạo xấu xí, biết được vài trăm chữ, tay lại tàn phế, làm sao xứng với cô ấy? Cô ấy làm sao chịu đi theo mình?” Thế là chàng lại tự coi rẻ mình, thấy xấu hổ, cúi đầu xuống.

Thích Phương nào có biết trong lòng ông lang đang quay cuồng bao nhiêu ý nghĩ, chỉ ngơ ngác nhìn chàng, chỉ mong chàng thốt ra hai chữ “Cứu được!”

Vạn Khuê tiếng dài tiếng ngắn rên rỉ, lúc này độc rết đã vào đến khớp hố nách, cả cánh tay và bàn tay đều sưng vù lên, đau đớn không chịu nối.

Thích Phương đợi một hồi lâu, không nghe Địch Vân nói năng gì, lại cầu xin:

– Tiên sinh, xin tiên sinh thử một chút, chỉ cần… chỉ cần giảm nhẹ một chút… đau đớn, cũng không thể… không thể trách được tiên sinh.

Ý cô muốn nói dẫu không giữ được tính mạng của Vạn Khuê thì cũng xin tiên sinh cho chút thuốc giảm đau, dẫu không thoát chết cũng đỡ khổ sở đến thế!

Địch Vân “ủa” một tiếng, từ trong trầm tư chợt tỉnh, trong lòng trống rỗng, tắt ngấm mọi hy vọng, hận không thể chết ngay tức khắc. Chàng hết lòng yêu sư muội, nhưng cô đã lấy kẻ đại thù của chàng, lại còn khổ sở khẩn cầu chàng cứu kẻ thù. “Mình thà như thằng Vạn Khuê này, phải chịu đau đớn khổ sở mà được su muội thương yêu, dù chỉ được sống mấy ngày nữa cũng có hề gì.” Chàng khẽ thở dài một tiếng, mở hòm thuốc, lấy bình thuốc giải của Ngôn Đạt Bình, đổ ra một ít thuốc bột đen, rắc lên mu bàn tay Vạn Khuê.

Ngô Khảm kêu lên:

– Ái chà… chính… chính là thứ thuốc giải này, thế… thế là có thể cứu được rồi.

Địch Vân nghe thấy giọng y có vẻ khác lạ, đáng ra khi nói năm chữ “có thể cứu được rồi” y vui mừng mới phải, nhưng giọng y lại có vẻ thất vọng dị thường, lại còn có vẻ buồn phiền tức giận.

Địch Vân rất lấy làm lạ, nghiêng đầu nhìn y một cái, chỉ thấy trong mắt y lóe hung quang ác độc.

Địch Vân càng cảm thấy kỳ lạ, chỉ nghĩ rằng trong tám đệ tử Vạn môn không được một người tốt.

Vạn Chấn Sơn, Ngôn Đạt Bình đồng môn mà tàn sát lẫn nhau, giao tình giữa Vạn Khuê và Ngô Khảm cũng chắc gì đã tốt hơn, nhưng không hiểu vì sao y lại đi mời thầy thuốc đến xem bệnh cho Vạn Khuê.

Mu bàn tay của Vạn Khuê vừa được bôi thuốc, trong vết thương đã chảy ra máu đen, nỗi đau đớn giảm dần, y nói:

– Đa tạ tiên sinh, thuốc giải này tốt quá.

Thích Phương mừng rỡ, lấy một cái chậu đồng hứng máu, chỉ thấy “tách, tách, tách” từng giọt từng giọt máu chảy vào chậu. Thích Phương luôn miệng cảm tạ.

Ngô Khảm nói:

– Tam sư tẩu, tiểu đệ có công rồi nhé.

Thích Phương nói:

– Phải, phải đa tạ Ngô sư đệ mới được.

Ngô Khảm cười, nói:

– Nói suông mấy tiếng cảm ơn đâu có được!

Thích Phương không để ý đến y nữa, nói với Địch Vân:

– Xin hỏi quý tính của tiên sinh? Chúng tôi xin được hậu tạ.

Địch Vân lắc đầu nói:

– Không cần phải tạ ơn, loại rết độc này cần phải bôi thuốc mười lần mới giải trừ hết.

Trong lòng cảm thấy chua xót, chỉ cảm thấy mọi sự trên đời đều là khổ, nói:

– Tặng hết cho các vị.

Rồi giao cả bình thuốc giải.

Thích Phương không ngờ lại dễ dàng đến thế, nhất thời không dám nhận, nói:

– Chúng tôi xin mua, không biết bao nhiêu tiền!

Địch Vân lắc đầu:

– Tặng các vị, không cần tiền.

Thích Phương cả mừng, hai tay nhận lấy, cúi mình chúc lời vạn phúc, vô cùng biết ơn, nói:

– Tiên sinh trượng nghĩa như thế, thật không biết phải tạ ơn thế nào cho được. Ngô sư đệ, đệ hãy mời tiên sinh xuống lầu ngồi lại một chút.

Địch Vân nói:

– Không ngồi đâu, xin cáo từ.

Thích Phương nói:

– Không, không, đại ân cứu mạng của tiên sinh, chúng tôi không biết báo đáp bằng cách nào, một chén rượu nhạt, dù sao cũng phải kính mời tiên sinh. Tiên sinh đừng đi!

“Tiên sinh đừng đi!” Bốn tiếng ấy lọt vào tai Địch Vân, trái tim chàng lập tức mềm đi, nghĩ ngợi: “Mối thù này mình không báo được rồi. Sau khi an táng Đinh đại ca, mình sẽ không trở lại thành Kinh Châu nữa. Kiếp này, thế là không gặp lại sư muội nữa. Cô ấy muốn mời mình một chén rượu, ôi, được nhìn cô ấy thêm lần nữa cũng tốt rồi.” Bèn gật đầu.

* * *

Tiệc rượu được bày biện trong phòng khách nhỏ dưới lầu. Địch Vân ngồi giữa, Ngô Khảm bồi tiếp. Thích Phương vô cùng cảm kích ân đức của vị thầy thuốc này, thân tự tiếp thức ăn. Trong Vạn phủ, Vạn Chấn Sơn không ở nhà, mấy tên đệ tử khác cũng không đến dự tiệc.

Thích Phương cung cung kính kính mời ba chén rượu. Địch Vân nhận lấy, đều uống cạn, lòng xót xa, nước mắt ngập tròng, biết rằng không thể nào chịu đựng được nữa, nếu ngồi thêm một lúc, e sẽ lộ tung tích, bèn đứng dậy, nói:

– Rượu đủ rồi, tôi phải đi đây! Từ nay về sau không trở lại nữa!

Thích Phương nghe nói năng lộn xộn, nhưng vị lang trung này hết sức cổ quái nên cô cũng không lấy làm điều, nói:

– Tiên sinh, đại ân đại đức, chúng tôi không có cách nào báo đáp được, đây là một trăm lạng bạc để tiên sinh uống rượu.

Nói rồi hai tay bưng đến một bao bạc.

Địch Vân quay đầu, ngẩng mặt lên trời ha ha cười lớn:

– Là ta cứu sống y, là ta cứu sống y, ha ha, ha ha! Thật tức cười! Thiên hạ còn có kẻ nào ngốc như ta nữa không?

Chàng cất tiếng cười vang, trên hai má ròng ròng hai dòng nước mắt.

Thích Phương và Ngô Khảm thấy chàng như cuồng như điên, bất giác nhìn nhau ngạc nhiên.

Không Tâm Thái lại nói:

– Bá bá khóc rồi, bác ấy khóc rồi!

Địch Vân giật mình, sợ lộ, không dám nói chuyện với Thích Phương nữa, nghĩ bụng: “Từ nay về sau, huynh không còn gặp muội nữa.” Bèn thò tay vào trong lòng, rút tập thơ kẹp mẫu đế giày mà mình đã lấy trong hang đá ở Nguyên Lăng ra, kẹp trong tay áo, rồi từ trong tay áo nhè nhẹ cho “trôi” xuống chiếc ghế, không dám nhìn Thích Phương cũng không dám ngoái đầu lại, bước ra.

Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, đệ tiễn tiên sinh giùm tôi.

Ngô Khảm nói:

– Được!

Rồi bước ra theo.

Thích Phương trong tay vẫn bưng gói bạc, tim đập thình thịch: “Vị tiên sinh này rốt cuộc là người nào? Tiếng cười của ông ta sao lại giống người ấy? Ôi, mình sao thế này? Mấy ngày nay, vết thương của tam ca nặng thế, lòng mình lại cứ ngơ ngẩn nhớ tới huynh ấy… huynh ấy… huynh ấy…” Rồi thuận tay đặt gói bạc lên bàn, chống tay ngồi xuống ghế.

Cái ghế này Địch Vân vừa ngồi, Thích Phương cảm thấy mặt ghế có vật gì, vội đứng dậy, thấy có một cuốn sách cũ màu vàng vàng, ngoài bìa đề bốn chữ “Đường thi tuyển tập.”

Cô khẽ kêu lên một tiếng, đưa tay cầm lấy, tiện tay giở ra, từ trong sách rơi ra một tờ mẫu đế giày, chính là do mình cắt ở nhà cũ tại Tương Tây dạo trước. Cô há miệng ra, hai tay run bần bật, lại giở mấy trang nữa, thấy một đôi bướm giấy làm mẫu thêu. Ngày ấy cùng Địch Vân sánh vai ngồi trong hang núi, cắt đôi bướm này… cảnh thấy vụt qua trong đầu. Cô không nén được, buột miệng “a” lên một tiếng, trong lòng thầm hỏi: “Quyển… quyển sách này từ… từ đâu đến? Là… là ai đem đến? Lẽ nào lại là vị thầy lang kia?”

Bé gái thấy vẻ mặt mẹ khác lạ, kinh hoảng kêu lên:

– Mẹ, mẹ… làm sao thế?

Thích Phương ngẩn ra một lúc, cầm lấy cuốn sách nhét vào trong áo, chạy như bay xuống, lao thẳng ra ngoài cửa. Từ khi cô làm dâu nhà họ Vạn đến nay luôn giữ gìn ý tứ, chưa từng có chuyện chạy xồng xộc như thế này. Đám đầy tớ nhà họ Vạn bỗng thấy mợ chủ triển khai khinh công lao ra, thảy đều kinh ngạc.

Thích Phương chạy đến tiền sảnh, gặp Ngô Khảm từ ngoài cửa đi vào, vội hỏi:

– Vị lang trung kia đâu rồi?

Ngô Khảm nói:

– Người này thật là cổ quái, không nói một lời nào mà đi. Tam sư tẩu, sư tẩu tìm ông ta làm gì? vết thương của sư ca lại tấy lên à?

Thích Phương nói:

– Không, không!

Vội bước ra cổng, trông bốn phía, đã không thấy tung tích vị thầy thuốc đâu nữa.

Cô đứng ngẩn ngơ trước công một lúc, thò tay lấy cuốn sách cũ ra, giở giở, mỗi khi nhìn thấy tờ mẫu giày, tờ mẫu thêu, những hình ảnh hoan lạc thời niên thiếu lại xao động như sóng trong lòng, nước mắt trào ra.

Cô bỗng nghĩ lại: “Sao mình ngốc thế, công công[1] và tam sư ca gần đây đến Tương Tây gặp Ngôn sư thúc, biết đâu chẳng tình cờ vào trong hang núi, tiện tay nhặt lấy quyển sách này về. Vị lang trung kia thì có quan hệ gì với cuốn sách này?” Nhưng rồi lại nghĩ: “Không, không! Làm gì có chuyện tình cờ như thế, cái hang núi ấy cực kỳ kín đáo, đến gia gia cũng không biết, trên đời này ngoài mình ra, thì chỉ có sư ca… sư ca biết nữa mà thôi, công công và tam ca làm sao mà tìm được? Họ đi tìm Ngôn sư thúc, vào trong hang núi làm gì? Mới rồi, mình bày tiệc rượu, rõ ràng là đã lau cái ghế, đâu có quyển sách nào? Quyển sách này nếu không do vị lang trung kia đem đến thì từ đâu ra?”

Lòng đầy nghi hoặc, cô chầm chậm bước vào phòng, thấy Vạn Khuê sau khi bôi thuốc, tinh thần đã khá hơn nhiều. Cô cầm quyển sách trong tay, định hỏi chồng nhưng lại đổi ý: “Hãy khoan lỗ mãng, nếu vị lang trung kia… vị lang trung kia…”

Vạn Khuê nói:

– Phương muội, vị lang trung ấy thật là ân nhân cứu mạng của huynh, phải hậu tạ ông ấy mới được.

Thích Phương nói:

– Vâng ạ, muội biếu ông ta một trăm lạng bạc, ông ta lại không chịu nhận, thật là một dị nhân giang hồ. Bình thuốc ấy… ôi, bình thuốc đâu rồi? Huynh cất đi rồi à?

Sau khi vị lang trung đưa bình thuốc giải cho cô, cô đã để trên chiếc bàn trước giường Vạn Khuê, bây giờ lại không thấy.

Vạn Khuê nói:

– Không, không có ở trên ghế à?

Thích Phương tìm khắp nơi – trên bàn, bên giường, bàn trang điểm, ghế, tủ, gầm giường, gầm bàn… vẫn chẳng thấy bình thuốc giải đâu. Cô hết sức lo lắng: “Lẽ nào mình vừa rồi thần trí bất định, khi chạy ra đã để rơi mất rồi? Không, mình nhớ rõ ràng là đã đặt bên cạnh bát thuốc trên bàn mà.” Vạn Khuê cũng rất lo lắng nói:

– Muội mau tìm lại xem, sao lại không thấy? Huynh vừa chợp mắt, khi sắp ngủ, nhớ là còn thấy cái bình sứ trên bàn.

Y nói vậy, Thích Phương càng thêm lo lắng, quay ra ngoài phòng, kéo con gái lại hỏi:

– Vừa rồi khi mẹ đi ra, có ai vào đây không?

Con bé nói:

– Ngô thúc thúc có lên, chú ấy thấy cha đang ngủ bèn xuống ngay.

Thích Phương buông một tiếng thở dài, biết sự tình rắc rối rồi đây, nhưng tam ca đang đau, không nên để huynh ấy lo thêm, bèn nói:

– Không Tâm Thái, con ở đây với cha, nói là mẹ đi tìm vị lang trung mua một bình thuốc để chữa vết thương cho cha.

Con bé gật gật đầu, nói:

– Mẹ, mẹ về mau lên nhé.

Thích Phương định thần, rút ngăn kéo bàn, lấy ra một thanh chủy thủ, giấu vào bên mình, thong thả bước xuống lầu, ngẫm nghĩ: “Cái thằng Ngô Khảm gặp mình ở chỗ vắng người cứ có ý đồ bậy bạ gì đó. Vị lang trung kia là do y mời đến, biết đâu y với vị lang trung kia cấu kết với nhau, sắp đặt âm mưu quỷ kế gì? Nếu không sao lang trung kia không cần tiền, thuốc giải lại không thấy nữa?”

Cô vừa nghĩ vừa bước ra vườn rau, chỉ thấy Ngô Khảm đang đứng tựa lan can đang ngắm cá vàng. Thích Phương nói:

– Ngô sư đệ, chú đứng đây một mình à?

Ngô Khảm quay đầu lại, vẻ mặt tươi cười, nói:

– Đệ tưởng là ai, hóa ra là tam sư tẩu. Sao không ở trên lầu chăm sóc tam sư ca, mà ngẫu hứng xuống đây?

Thích Phương thở dài nói:

– Ầ y, tôi buồn quá. Suốt ngày chăm sóc bệnh nhân, sư ca của đệ đau quá, tính khí càng khó chịu, không ra xả hơi một chút, tìm người nói chuyện cho khuây thì buồn chết đi được.

Ngô Khảm nghe nói vậy, thật là mừng quá mức mong đợi, cười nói:

– Tam sư ca quả là không biết thế nào mới đủ, có mỹ nhân như hoa tựa ngọc bầu bạn còn tức giận nỗi gì?

Thích Phương bước đến bên cạnh hắn, cũng tựa lan can, ngắm cá vàng trong ao, cười nói:

– Sư tẩu thành bà già rồi, còn nói “như hoa tựa ngọc” gì nữa, không sợ người ta cười méo miệng đi à?

Ngô Khảm vội nói:

– Đâu có? Đâu có? Sư tẩu khi còn khuê nữ có vẻ xinh tươi của khuê nữ, khi làm mợ chủ lại có vẻ mặn mà của mợ chủ. Mọi người đều nói:

“Trong thành Kinh Châu một đóa hoa,

Trăm xinh ngàn đẹp ở Vạn gia.”

Thích Phương “hừ” một tiếng, đưa tay ra, nói:

– Đưa đây!

Ngô Khảm cười hỏi:

– Đưa cái gì?

– Thuốc giải!

Ngô Khảm lắc đầu:

– Thuốc giải nào? Để chữa cho Vạn sư ca ấy à?

Thích Phương nói:

– Đúng thế. Rõ ràng là đệ lấy.

Ngô Khảm mỉm cười giảo hoạt:

– Lang trung là do đệ mời đến, thuốc giải là do đệ tìm ra, Vạn sư ca đã bôi một lần, ít nhất cũng bớt đau đớn được mấy ngày.

Thích Phương nói:

– Lang trung tiên sinh nói cần phải bôi mười lần.

Ngô Khảm lắc đầu, nói:

– Đệ hối hận quá đi, hối hận quá đi.

Thích Phương hỏi:

– Hối hận cái gì?

Ngô Khảm nói:

– Đệ thấy tay thầy thuốc ấy bẩn thỉu, đầu bù tóc rối như đứa ăn mày, tưởng là chẳng được tích sự gì, mới dẫn hắn lên lầu, chẳng qua là kiếm cớ đề gặp sư tẩu một lần, đâu có ngờ cái thằng chó chết ấy lại làm hỏng việc, có thuốc giải hiệu nghiệm, thế là làm hỏng cả ý định của đệ.

Lửa giận trong lòng Thích Phương bốc lên, nhưng thuốc giải lại đang ở trong tay hắn, phải lừa hắn lấy được thuốc giải đã, rồi mới tính chuyện trị hắn, bèn cố nén giận, cười nói:

– Theo ý đệ, sư ca phải cảm tạ đệ như thế nào thì đệ mới giao lại thuốc giải?

Ngô Khảm thở dài:

– Tam sư ca đã hưởng diễm phúc bao nhiêu năm nay, chết cũng được rồi.

Thích Phương biến sắc, cắn môi không nói.

Ngô Khảm tiếp tục:

– Năm ấy, chị mới đến Kinh Châu, tám sư huynh đệ bọn này, có đứa nào không thần hồn điên đảo vì chị? Cái thằng tiểu tử ngốc Địch Vân kia cứ suốt ngày ở bên chị, bọn này nhìn mà cứ tức lộn ruột, cả bọn cùng bày mưu, trước hết phải đánh y sứt đầu mẻ trán cái đã…

Thích Phương nói:

– Thì ra các người đánh sư ca của ta lại là vì ta.

Ngô Khảm cười nói:

– Mọi người phải mượn cớ khác chứ, bảo là y ngạo mạn nhảy ra đánh lui đại đạo Lữ Thông, làm mất mặt đệ tử Vạn môn. Kỳ thực trong lòng mỗi người đều là vì sư tẩu cả đấy! Sư tẩu vá áo cho y, ân cần tha thiết, bọn này nhìn mà tức nổ con ngươi. Tám sư huynh đệ bọn này kẻ nào là không ghen tức, nghiến muốn gãy cả ba mươi sáu cái răng.

Thích Phương thầm kinh hãi: “Lẽ nào vì mình mà sinh tai họa? Tam ca, tam ca, sao xưa nay huynh không hề nói với muội?” Nhưng cô vẫn làm như không biết gì, cười nói:

– Ngô sư đệ, đệ cứ nói đùa, lúc ấy tôi là một cô bé nhà quê, dáng vẻ ngờ nghệch, có gì là đẹp?

Ngô Khảm nói:

– Không, không! Thực sự mỹ nhân thì cần gì trang điểm, nếu chị không khiến cho người ta thất điên bát đảo thì…

Nói đến đó, y bỗng im bặt.

Thích Phương hỏi:

– Thì… thế nào?

Ngô Khảm nói:

– Để giữ được chị ở lại nhà họ Vạn, họ Ngô này cũng góp sức nhiều đấy. Nhưng, sư tẩu, sư tẩu gặp đệ chưa bao giờ thèm cười một tiếng, như thế chẳng khiến người ta tức giận lắm sao?

Thích Phương “hứ” một tiếng, nói:

– Tôi ở lại nhà họ Vạn, lấy Vạn sư ca của đệ là do tôi cam lòng như thế, đệ góp sức gì vào đó? Có lúc nào đệ khuyên tôi một lời đâu, thật là nói cuội nói nhăng!

Ngô Khảm lắc đầu cười, nói:

– Đệ… đệ sao lại không góp sức? Tẩu chẳng biết gì cả.

Thích Phương càng kinh hãi, dịu giọng nói:

– Ngô sư đệ, chú nói cho tôi biết, chú đã góp sức gì nào, sư tẩu quyết không quên ý tốt của chú.

Ngô Khảm lắc đầu:

– Chuyện xưa tích cũ, còn nhắc đến làm gì? Chị biết cũng chẳng ích gì, chúng ta chỉ nên nói chuyện mới thôi.

Thích Phương nói:

– Được, chú không chịu nói thì thôi. Mau đưa thuốc giải đây, nếu không, có người thấy hai chúng ta ở đây thì thật không ổn.

Ngô Khảm lại cười:

– Ban ngày thì có người thấy, còn ban đêm thì ở đây chả có ai đâu.

Thích Phương bước lui một bước, mặt lạnh như băng, nghiêm giọng nói:

– Chú nói gì?

Ngô Khảm cười:

– Chị muốn chữa vết thương cho Vạn sư ca cũng không khó. Canh ba đêm nay, đệ chờ chị ở trong kho chứa củi, nếu chị chiều ý đệ, đệ sẽ cho chị một liều thuốc để bôi cho sư ca một lần nữa.

Thích Phương nghiến răng mắng:

– Đồ chó má, ngươi dám nói chuyện ấy à, to gan thật!

Ngô Khảm trầm giọng nói:

– Đệ đã sớm quên mất cái mạng này rồi, như thế gọi là “dám cưỡi cổ hoàng đế”. Tiểu tử Vạn Khuê có cái gì hơn họ Ngô này nào? Chẳng qua y là con đẻ của sư phụ, khéo chọn được chỗ đầu thai. Mọi người đều góp sức, vì sao lại để cho tên tiểu tử thối tha ấy một mình hưởng diễm phúc?

Thích Phương nghe y liên tiếp mấy lần nói đến hai chừ “góp sức”, trong bụng sinh nghi, chỉ vì lời lẽ của y bẩn thỉu, thật khó nghe nên không tiện nhắc lại, bèn nói:

– Đợi công công về, tôi cứ bẩm lại sự thực, xem ông ấy có lột da chú ra không?

Ngô Khảm nói:

– Tôi cứ đợi ở đây. Sư phụ về gọi tôi một tiếng, tôi sẽ ném bình thuốc giải này xuống ao sen nuôi cá vàng. Chị hỏi ông lang trung kia, ông ta nói thuốc giải chỉ có một bình này, nếu cần bào chế phải mất sáu tháng nửa năm cũng chưa chắc đã được.

Y vừa nói vừa rút bình thuốc giải trong áo ra, mở nắp, đưa ra trên mặt ao, chỉ cần bàn tay hơi nghiêng một chút, thuốc giải sẽ rơi hết vào trong ao, mạng Vạn Khuê sẽ đi tong.

Thích Phương vội nói:

– Ê, ê, giữ lấy thuốc giải, chúng ta hãy từ từ thương lượng cũng không muộn mà.

Ngô Khảm cười nói:

– Còn gì phải thương lượng nữa, chị muốn cứu mạng chồng thì phải nghe lời đệ.

Thích Phương nói:

– Nếu trước kia đệ thực có lòng với tôi, đã từng góp sức, vậy thì… cứ nói thực ra, tôi mới…

Ngô Khảm cả mừng, đậy nắp bình lại, nói:

– Sư tẩu, nếu như đệ nói thực, đêm nay tẩu sẽ đến… với đệ, phải không?

Thích Phương nói:

– Để xem đệ nói có thật không đã, lừa người ta thì được ích gì?

Ngô Khảm nói:

– Vạn phần chuẩn xác, sao lại có chút giả nào? Đó là mưu kế của sư đệ Thẩm Thành. Chu sư ca và Bốc sư ca thì giả đóng vai thái hoa tặc để dẫn dụ thằng tiểu tử ngốc Địch Vân đến phòng của Đào Hồng cứu người. Còn những đồ vàng bạc dưới gầm giường thằng ngốc đó thì do Ngô Khảm này tự tay đặt vào. Sư tẩu, nếu cánh tôi không thực thi xảo kế ấy thì sao có thể giữ được sư tẩu ở lại Vạn phủ?

Thích Phương cảm thấy đầu óc quay cuồng hoảng loạn, trước mắt tối sầm, lời của Ngô Khảm như từng lưỡi đao đâm vào tim cô, cô bất giác khẽ kêu lên:

– Muội… muội đã trách nhầm huynh, nghi oan cho huynh!

Thân hình cô lảo đảo chực ngã, giơ tay bíu chặt lấy lan can, nói:

– Tôi không tin, sao lại có chuyện đó được? Chú bịa ra đề lừa tôi.

Giọng nói của cô thật là khổ não.

Ngô Khảm vội nói:

– Chị không tin à? Được, người khác thì không thể hỏi, chị cứ đi hỏi Đào Hồng là xong, mụ ấy ở trong cái từ đường hư nát sau kia. Sau khi hỏi, chị đừng nói lại với ai. Mấy sư huynh đệ chúng tôi đã thề độc không được tiết lộ bí mật này. Nếu không vì canh ba đêm nay, vì sư tẩu, Ngô Khảm tôi cũng không nói ra đâu!

Thích Phương kêu lên một tiếng kinh hoàng, chạy ào ra, xô cửa sau vườn hoa, vội lao ra ngoài.

* * *

Lòng dạ rối bời, cô chạy ra ngoài cửa sau, qua vườn rau, định thần, tìm đến cái từ đường đổ nát ở góc tây bắc, thấy cửa khép hờ, liền xô cửa chạy vào.

Thấy dưới đất đầy tro bụi, bàn ghế đều mục nát, cô nghĩ bụng: “Thị thiếp Đào Hồng của công công, sao lại ở một nơi như thế này? Hay là thằng giặc Ngô Khảm đánh lừa. Phải chăng hắn lừa mình đến đây với ý đồ xấu? Hay là mình mau quay về.”

Bỗng nghe thấy bước chân thậm thịch từ từ đi lại, một người đàn bà từ sau nội đường đi ra. Đó là một mụ ăn mày trạc tuổi trung niên, cúi đầu khom lưng, đầu bù tóc rối, áo quần bẩn thỉu rách nát.

Mụ ăn mày thấy có người, giật mình, lập tức quay người. Mụ sắp bước vào nội đường lại ngoái đầu nhìn một cái, lần này nhìn rõ mặt Thích Phương, bất giác kinh hoảng “a” lên một tiếng. Mụ bước lùi hai bước, đột nhiên quỳ xuống nói:

– Mợ chủ, mợ… mợ đừng nói… đừng nói tôi ở đây.

Thích Phương lấy làm lạ, hỏi:

– Ngươi là ai? ở đây làm gì?

Mụ ăn mày nói:

– Không… không… làm gì! Tôi… tôi… Nói rồi lập tức đứng dậy đi vào.

Nghe tiếng bước chân gấp gáp, mụ ăn mày kia từ cửa sau vội vã chạy ra. Thích Phương nghĩ:

– Mụ đàn bà này không hiểu vì sao thấy mình lại sợ hãi như thế… ái dà, nhớ ra rồi, mụ ta… mụ ta chính là Đào Hồng!

Vừa mới nhớ ra, Thích Phương ba chân bốn cẳng chạy ra, giẫm bừa lên gạch ngói, chạy ra phía cửa sau, thò tay rút thanh chủy thủ bên hông ra, quát:

– Đào Hồng, ngươi làm trò ma quỷ gì thế, làm gì ở đây?

Mụ ăn mày chính là Đào Hồng, nghe Thích Phương gọi tên mình đã hoảng hốt, đến khi thấy thanh chủy thủ lấp loáng trong tay cô, càng sợ hãi, hai đầu gối run lẩy bẩy, quỳ xuống, run run nói:

– Thiếu phu nhân… mợ chủ… mợ tha cho tôi.

Ở trong nhà họ Vạn, Thích Phương chỉ nhìn thấy Đào Hồng có mấy lần, không bao lâu sau thì không thấy mụ ta nữa, mỗi khi nghĩ đến việc Địch Vân định rủ người đàn bà này trốn đi lòng lại như đao cắt cho nên mụ ta đi đâu cô không hề hỏi. Dù có ai nhắc đến cô cũng không thèm nghe, bởi đó là vết thương đau đớn nhất trong lòng cô. Nào ngờ mụ ta lại trốn ở đây. Từ đường này cách nhà họ Vạn không xa, nhưng từ khi làm thiếu phu nhân Thích Phương việc gì cũng cẩn thận, hoàn toàn khác với thời thiếu nữ ở Tương Tây. Cô không đi lung tung ra ngoài bao giờ, tuy nhiều lần nhìn thấy cửa ngôi từ đường hư nát này nhưng chưa hề đặt chân tới.

Đào Hồng lúc này đầu bù mặt bẩn, nét mặt tiều tụy phờ phạc, mấy năm không gặp mà giống như đã già đi hai chục tuổi. Ngô Khảm bảo Thích Phương đến từ đường này tìm Đào Hồng mà hỏi sự thật. Tuy cô đã thấy rõ mặt nhưng nếu Đào Hồng cứ từ từ bước ra như không có việc gì thì chắc là cô cũng không thê nhận ra.

Cô giơ cây chủy thủ trong tay lên, dọa:

– Ngươi nấp ở đây làm gì? Mau nói ra.

Đào Hồng nói:

– Tôi, tôi chẳng làm gì cả. Mợ chủ, lão gia đuổi tôi ra. Ông ấy bảo nếu thấy tôi ở Kinh Châu thì sẽ giết tôi. Nhưng… nhưng… tôi lại không biết đi đâu, đành trốn ở đây ăn mày. Mợ chủ, ngoài thành Kinh Châu ra, tôi không biết chỗ nào cả, bảo tôi đi đâu được? Mợ… mợ làm ơn, xin đừng nói với lão gia.

Thích Phương nghe mụ ta nói đáng thương, hạ cây chủy thủ xuống, nói:

– Vì sao lão gia lại đuổi ngươi đi? Sao ta không biết điều ấy?

Đào Hồng rơi nước mắt nói:

– Tôi cũng không biết vì sao lão gia bỗng không thích tôi nữa. Cái thằng Hồ Nam kia… việc cái thằng họ Địch kia… không phải là tôi sai. Ái dà… tôi, tôi… tôi không nên nói chuyện này.

Thích Phương gằn giọng:

– Được, ngươi không nói, thì ngươi theo ta đi gặp lão gia.

Cô đưa tay trái ra, túm chặt lấy cổ áo mụ. Thích Phương vốn thích sạch sẽ, áo Đào Hồng bẩn thỉu, mới nắm lấy, lòng bàn tay cảm thấy nhầy nhụa rất khó chịu. Nhưng cô đang nôn nóng muốn tra rõ sự thật oan uổng của Địch Vân nên dù có bẩn hơn thế nữa cô cũng chẳng để ý.

Đào Hồng run bần bật, vội nói:

– Tôi nói, tôi nói, mợ chủ, mợ cần tôi nói cái gì?

Thích Phương nói:

– Địch… Địch… Việc của người họ Địch ấy, rốt cuộc là thế nào? Vì sao mụ lại muốn trốn theo người ấy?

Đào Hồng kinh hoảng, giương mắt lên, nhất thời không nói được.

Thích Phương chăm chú nhìn mụ, trong lòng lại cảm thấy sợ, có lẽ còn sợ hơn cả Đào Hồng. Cô quả thực không dám nghe chính miệng Đào Hồng nói chuyện ấy ra. Nếu như mụ ta nói: quả thực lúc ấy Địch Vân có rủ mụ ta trốn đi, quả thực làm nhục mụ ta… Thế thì sao đây? Đào Hồng nhất thời không nói nên lời, mặt Thích Phương trắng bệch, trái tim cơ hồ ngừng đập.

Cuối cùng, Đào Hồng đã nói được:

– Việc ấy… việc ấy, không thể trách tôi được, cậu chủ ép tôi làm, bảo tôi phải ôm chặt lấy cái thằng nhà quê Hồ Nam họ Địch kia, vu oan cho hắn là đến để cưỡng hiếp tôi, định dẫn tôi trốn đi. Tôi đã nói điều này với lão gia, lão gia không phải là không tin, chỉ dặn tôi không được nói ra, còn cho tôi áo quần và tiền bạc. Nhưng… nhưng… tôi không nói mà lão gia vẫn đuổi tôi.

Thích Phương vừa cảm kích vừa đau lòng, vừa cảm thấy uất ức, vừa thương xót, trong lòng thầm kêu lên: “Sư ca, là muội hiểu nhầm huynh rồi, đáng ra muội phải biết huynh dành cho muội một tấm chân tình, thật là khổ cho huynh, thật là khổ cho huynh!” Lúc ấy cô hoàn toàn không căm giận Đào Hồng, ngược lại còn cảm ơn mụ ta, may mà mụ ta đã giải cho cô mối nghi ngờ uất kết trong lòng. Thậm chí đối với Ngô Khảm cũng có chút cảm kích vì chính hắn đã nói ra sự thật, chính hắn đã chỉ cho cô đến cái từ đường này tìm hỏi Đào Hồng.

Trong đau lòng và buồn thảm, cô bỗng cảm thấy một vị ngọt ngào. Tuy đã lấy Vạn Khuê nhưng trong sâu thẳm lòng cô, người mà cô tha thiết thương yêu vẫn chỉ là Địch sư ca, dù huynh ấy có thay lòng đổi dạ lúc lâm nguy, dù huynh ấy vô sỉ, dù huynh ấy ngàn điều sai lầm, vạn lần bạc bẽo, nhưng chỉ có huynh ấy, vẫn chỉ là huynh ấy, mới là người Thích Phương luôn tưởng nhớ mỗi lúc thở than hay ngậm ngùi rơi lệ.

Bỗng, bao nhiêu nỗi buồn khổ và căm giận đều biến thành nỗi ân hận day dứt: “Nếu mình sớm biết thì dù có phải chịu muôn đao ngàn kiếm mình cũng đến nhà lao cứu huynh ấy ra. Huynh đã phải chịu bao nhiêu đau khổ. Trong lòng huynh… trong lòng huynh nghĩ sao?”

Đào Hồng nhìn trộm nét mặt Thích Phương, run giọng nói:

– Mợ chủ, cảm ơn mợ, xin mợ thả cho tôi đi, tôi sẽ đi khỏi thành Kinh Châu, vĩnh viễn không trở lại.

Thích Phương thở dài nói:

– Lão gia vì sao lại đuổi ngươi đi? Hay là sợ ngươi biết chuyện ấy? Ôi, mãi đến hôm nay ta mới hỏi rõ được.

Nói rồi, cô buông áo mụ ta ra, muốn cho mụ ta một ít bạc nhưng vì vội vàng chạy ra nên không mang theo.

Đào Hồng thấy Thích Phương buông mình ra, sợ cô đổi ý, vội vàng bỏ đi, lẩm bẩm nói:

– Lão gia cứ tối đến lại gặp ma, cần phải xây tường, sao lại trách tôi? Lại… lại không phải là tôi nói quàng.

Thích Phương đuổi theo hỏi:

– Thế nào là gặp ma? Xây tường?

Đào Hồng biết đã lỡ mồm, vội nói:

– Không có gì, không có gì. À, lão gia ban đêm thường gặp ma, nửa đêm lại dậy xây tường.

Thích Phương thấy mụ ta nói điên điên khùng khùng nghĩ mụ ta bị công công đuổi, sống quá khổ sở, đầu óc mụ mẫm đi. Công công sao lại nửa đêm dậy xây tường? Trong nhà xưa nay chưa hề thấy công công xây tường.

Đào Hồng sợ cô không tin, lại nói:

– Là giả xây tường thôi. Lão gia… lão gia, giờ tí canh ba thích làm thợ nề. Tôi nói với ông ấy mấy câu, lão gia liền đùng đùng nổi giận, đánh tôi chết đi sống lại, lại đuổi tôi, nói là nếu gặp tôi nữa thì sẽ đánh chết tôi…

Mụ cứ làm ràm không ngớt, khòm lưng bước đi.

Thích Phương nhìn theo bóng mụ, nghĩ: “Mụ ta nhiều lắm cũng chỉ hơn mình mười tuổi thế mà ra nông nỗi ấy. Công công không biết vì sao lại đuổi mụ ta ra khỏi cửa? Sao lại gặp ma, xây tường, e mụ này chỉ nói điên điên khùng khùng. Ôi, vì một mụ đàn bà ngu ngốc như thế mà sư ca phải khổ suốt một đời.”

Nghĩ đến đó không ngăn được nước mắt rơi, rồi cất tiếng khóc vang.

* * *

Cô tựa vào cây ngô đồng, khóc một hồi, lòng nhẹ đi một chút, chầm chậm bước về nhà, cô tránh cửa sau, đi vòng ra cửa phía đông mà vào, lại lên lầu.

Vạn Khuê nghe thấy tiếng chân cô bước lên lầu liền vội hỏi:

– Phương muội, có tìm được thuốc giải không?

Thích Phương bước vào phòng, thấy Vạn Khuê đã ngồi dậy, vẻ rất sốt ruột, cánh tay bị thương gác bên giường, máu đen vẫn ứa ra, một lúc sau mới kêu “tách” một tiếng, rơi vào chậu đồng. Con bé phục bên chân cha, ngủ say.

Thích Phương nghe lời Ngô Khảm và Đào Hồng, vốn hết sức tức giận Vạn Khuê, hận y dùng thủ đoạn ti bỉ hãm hại Địch Vân. Lúc này thấy khuôn mặt tiều tụy mà thanh tú của y, ân ái mấy năm qua lại khiến cô mềm lòng: “Rốt cuộc, tam ca vì yêu mình nên mới hãm hại sư ca, thủ đoạn của y cố nhiên là âm hiểm độc ác, khiến sư ca phải chịu bao đau khổ, nhưng rốt cuộc lại là vì yêu mình.”

Vạn Khuê lại hỏi:

– Có mua được thuốc giải không?

Thích Phương nhất thời không biết có nên kể lại với chồng những lời vô sỉ của Ngô Khảm không, thuận miệng nói:

– Tìm được lang trung, giao bạc cho ông ta, nhờ ông ta mua dược liệu bào chế thuốc ngay.

Vạn Khuê thở phào, trong lòng cảm thấy nhẹ đi, mỉm cười nói:

– Phương muội, tính mạng của huynh là nhờ muội cứu.

Thích Phương gượng cười, cảm thấy mùi máu độc trong chậu rất nồng nặc, bèn bưng một cái chậu sứ đến hứng máu, bê cái chậu đồng đi, chỉ mới đi được hai bước, mùi máu độc xông lên, đầu óc choáng váng, nhủ thầm: “Loại rết độc này thật là ghê gớm.” Bèn bước nhanh ra khỏi phòng, đặt cái chậu xuống bên chân ghế, quay mình rút khăn tay ra định che kín mũi rồi mới đi đổ chậu máu.

Tay cô chạm phải cuốn Đường thi, ngẩn người ra, tim đập thình thịch, rút cuốn sách cũ ra, ngồi xuống bên bàn, mở từng trang ra. Cô nhớ rõ, ngày ấy mở rương ra tìm áo cũ đã thấy cuốn sách cũ này dưới đáy rương, cha thì chữ to như quả bí cũng biết chưa đầy một gánh, không biết nhặt cuốn sách này từ đâu về. Vừa khéo cô mới cắt xong hai tấm mẫu thêu, thuận tay bèn kẹp vào trong trang sách. Một buổi chiều cô cùng Địch sư ca đến hang núi, bèn đem cuốn sách này theo, về sau cứ để ở đó. Tại sao bây giờ nó lại đến đây? Là Địch sư ca bảo ông lang trung kia đưa tới ư?

“Vị lang trung ấy… phải chăng là… huynh ấy… năm ngón tay của huynh ấy đều bị Ngô Khảm chặt đứt rồi. Vị lang… lang trung ấy… Vì sao? Vì sao tay phải… tay phải của người ấy không hề đưa ra?” Đột nhiên, cô nhớ ra điều này. Cô chăm chú nhớ lại vị lang trung kia đỡ con gái, hồi tưởng lại ông ta mở hòm thuốc, lấy bình thuốc, mở nắp bình… đổ thuốc ra, hồi tưởng lại khi ông ta nhận cốc rượu mà mình mời, đưa cốc rượu lên môi uống cạn… tất cả bao nhiêu việc ấy hình như toàn dùng tay trái, nhưng lúc bấy giờ cô không để ý, bây giờ nhớ lại rõ mồn một.

“Lẽ nào, lẽ nào người ấy chính là sư ca? Tại sao tướng mạo lại không giống một chút nào?” Đầu óc cô quay cuồng rối loạn, không nén được nỗi đau buồn, nước mắt từng giọt từng giọt roi xuống cuốn sách cầm trên tay.

Nước mắt rơi lên trang sách, rơi lên hai con bướm được cắt bằng giấy hoa, đó là “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài”, họ phải chết rồi mới được đoàn viên…

Vạn Khuê ở phòng trong nói với ra:

– Phương muội, huynh buồn quá thể, muốn dậy đi lại một chút.

Nhưng Thích Phương đang đắm chìm trong hồi ức, không nghe thấy. Cô nghĩ: “Ngày nọ, huynh ấy đánh chết một con bướm, chia lìa đôi bạn tình. Phải chăng vì thế mà ông trời trừng phạt huynh ấy phải chịu khổ chịu nạn…?”

Bỗng, sau lưng có một thanh âm giật giọng kêu lên:

– Đây… đây là… “Liên… liên thành kiếm phổ”!

Thích Phương giật mình, ngoái đầu lại, thấy Vạn Khuê vẻ mặt mừng rỡ, sung sướng nói:

– Phương muội, Phương muội, muội được cuốn sách này từ đâu vậy? Muội xem, a thì ra là thế này, phải rồi, là thế này đây!

Hai tay Vạn Khuê đè lên cuốn “Đường thi tuyển tập”, thấy bên cạnh bài thơ có mục là “Thánh quả tự” hiện lên ba chữ màu vàng nhạt “ba mươi ba”, trên mấy hàng chữ này thấm đầy nước mắt của Thích Phương.

Vạn Khuê vui sướng vạn phần, quên cả kiềm chế, kêu lên:

– Bí mật ở đây rồi, thì ra cần phải làm ướt đi, dấu chữ mới hiện ra! Hay quá, diệu cực! Nhất định là quyến sách này. Không Tâm Thái! Không Tâm Thái!

Hắn lớn tiếng kêu gọi, đánh thức con gái, nói:

– Không Tâm Thái, mau đi mời ông nội lên đây, nói là việc khẩn.

Con gái nhỏ vâng lời đi.

Vạn Khuê giữ chặt tập thơ, quên cả đau đớn trên tay, nhắc đi nhắc lại:

– Nhất định đúng rồi, không sai, cha bảo là kiếm phổ này ở trong “Đường thi tuyển tập”, chẳng phải đây sao? Họ đã không tìm ra bí mật này. Thì ra cần phải làm ướt trang sách, bí mật mới hiện ra.

Hắn vừa mừng vừa kêu toáng lên, Thích Phương cũng đã rõ quá nửa, nghĩ bụng: “Đây là bộ “Liên thành kiếm phổ” gì đó mà cha và công công tranh nhau à? Nói đúng ra, chính gia gia đã có được, mình lại chẳng biết hay dở gì cả, lấy để kẹp mẫu giày mẫu thêu. Gia gia không thấy quyển sách này, sao không tìm? Ồi, có lẽ cha cũng có tìm, tìm đi tìm lại tìm không được, lại cho là sư bá lấy trộm, sao cha không hỏi mình? Thật kỳ lạ!”

Nếu là Địch Vân thì lúc này chàng sẽ chẳng hề lấy làm lạ chút nào. Chàng đã biết chỉ vì Thích Trường Phát là con người lắm mưu nhiều kế, dù là trước con gái cũng chẳng hề để lộ một chút bí mật. Không thấy sách, lão gắng sức tìm, tìm không thấy liền giả vờ như không có chuyện gì, âm thầm theo dõi, dùng đủ mọi cách điều tra thám thính, xem có phải là thằng tiểu tử Địch Vân lấy trộm không? Có phải là con gái lấy trộm không? Chỉ vì Thích Phương không phải là “kẻ trộm”, không có sự hốt hoảng của “kẻ trộm” nên Thích Trường Phát không thể nào điều tra ra.

Vạn Chấn Sơn từ ngoài phố trở về, đang ngồi ăn điểm tâm ở trước sảnh, nghe thấy cháu gái kêu gọi, cho là vết thương của con trai nguy cấp, đang ăn dở vội buông đũa, ôm lấy cháu gái, đi nhanh lên lầu của con trai, vừa mới đến cầu thang đã nghe thấy giọng nói vui mừng của Vạn Khuê:

– Trong thiên hạ sao lại có chuyện tình cờ đến thế? Phương muội, sao muội lại làm ướt trang sách này? Thật là ý trời, ý trời!

Vạn Chấn Sơn nghe thấy giọng của con trai, liền yên tâm, đạp cửa bước vào phòng.

Vạn Khuê cầm cuốn “Đường thi tuyển tập”, vui mừng nói:

– Cha, cha, cha xem, đây là cái gì?

Vạn Chấn Sơn vừa nhìn thấy cuốn sách màu vàng mỏng mảnh lòng đã chấn động, vội đặt cháu xuống, cầm lấy cuốn sách từ trong tay con trai, tim đập rộn ràng, bộ “Liên thành kiếm phổ” mười mấy năm nay tốn bao tâm huyết kiếm tìm, cuối cùng lại xuất hiện ngay trước mắt.

Không sai, chính là cuốn sách ấy! Lão và Ngôn Đạt Bình, Thích Trường Phát liên thủ hợp lực, mưu hại sư phụ mà cướp được, chính là cuốn sách này đây. Ba người ở trong khách sạn, giở đi giở lại cùng xem bộ kiếm phổ này. Nhưng chỉ là một bộ Đường thi bình thường chẳng có gì lạ, hoàn toàn giống những bộ “Đường thi tuyển tập” bày bán trong các hiệu sách. Sư phụ của họ dạy họ một bộ “Đường thi kiếm pháp”, lấy những câu thơ trong thơ Đường đặt tên cho những chiêu kiếm, những câu thơ ấy đều có trong cuốn sách này. Nhưng nào có liên quan gì với “Liên thành kiếm phổ” trong truyền thuyết đâu?

Ba người sư huynh sư đệ từng đem cuốn sách này ra soi từng trang dưới ánh mặt trời muốn phát hiện ra điều ẩn bí giấu trong sách, họ cũng đã từng đọc đi đọc lại mấy chục bài thơ, đọc xuôi, đọc ngược, đọc ngang, đọc chéo, đọc từng chữ, đọc từng hai chữ một… muốn phát hiện điều ẩn bí giấu giữa các hàng chữ, nhưng tất cả tâm huyết đều uổng phí. Ba người nghi ngờ lẫn nhau, đều sợ người khác phát hiện ra điều bí mật mà mình không biết. Ba người đêm ngủ lại đem quyển sách đặt vào trong một chiếc hộp sắt khóa lại, lại dùng ba sợi dây sắt chằng cái hộp lại, ba đầu dây buộc vào cổ tay ba người. Nhưng một sớm mai thức dậy, cuốn sách đã không cánh mà bay, từ đó không còn tung tích.

Thế là mười mấy năm qua tranh giành dò xét không ngừng không nghỉ. Đột nhiên, cuốn sách ấy xuất hiện ngay trước mắt.

Vạn Chấn Sơn giở đến trang bốn, không sai, góc trên bên trái của cuốn sách bị xé đi một góc nhỏ, đó là năm ấy lão ngầm đánh dấu, sợ sư đệ Ngôn Đạt Bình hoặc Thích Trường Phát đánh tráo bằng một cuốn “Đường thi tuyển tập” khác.

Vạn Chấn Sơn lại giở đến trang mười sáu, không sai, cái dấu móng tay mà mình vạch vào để đánh dấu từ năm ấy vẫn còn đây. Đây là chân bản! Lão gật gật đầu, cố nén niềm vui trong lòng, nói với con trai:

– Chính là cuốn sách này, con được nó từ đâu vậy?

Ánh mắt Vạn Khuê chuyển sang Thích Phương, hắn hỏi:

– Phương muội, cuốn sách này từ đâu đến?

Thích Phương từ khi thấy thần thái của Vạn Khuê, lòng chỉ nghĩ đến cha: “Không biết bây giờ cha đang ở đâu? Mình là đứa con bất hiếu, đem quyển sách của cha vào trong hang núi, chắc là cha phải tìm kiếm khổ sở lắm. Trong lòng cha chắc chắn cuốn sách này là vô cùng quý giá. Không biết cuốn sách cũ này thì có tác dụng gì? Thế nhưng đây là cuốn sách mà mình lấy của cha, là cuốn sách của cha, quyết không thể để cho công công chiếm.”

Nếu như ngày hôm qua, còn chưa biết sự thực về việc Địch Vân bị hãm hại thê thảm, lòng còn đầy tình thương yêu đối với chồng thì trong lòng cô chồng chưa chắc đã không bằng cha, huống nữa không biết bây giờ cha đang ở đâu, không biết cha có trở về không. Nhưng bây giờ thì đã khác rồi. “Quyết không để cuốn sách này của cha rơi vào tay họ. Địch sư ca đã lấy cuốn sách này trao vào tay mình để mình bảo quản cho cha, đương nhiên không thể để cho họ cướp mất. Không những là vì gia gia mà còn vì Địch sư ca!”

Khi Vạn Khuê hỏi cô “cuốn sách này ở đâu đến”, cô chỉ nghĩ: “Làm thế nào để đoạt lại cuốn sách.” Sách đang ở trong tay bố chồng (công công). Vạn Chấn Sơn võ công trác tuyệt, huống nữa chồng lại đang ở bên cạnh, ra tay cướp đoạt thì không được. Những ý nghĩ loáng lướt qua trong đầu cô, tròng mắt chuyền động.

Cô nhìn thây cái chậu đồng ở bên bàn, nửa chậu là máu đen bầm, đó là nước Vạn Khuê đã rửa mặt, trong đó có rất nhiều máu độc chảy ra từ vết thương rết cắn, nước trong chậu một màu bầm đen… nếu như lén bỏ cuốn sách vào trong chậu máu này, họ sẽ không thể tìm ra được. Nhưng, chỉ sợ cuốn sách sẽ bị nước làm hư nát. Nhưng nếu không nhân lúc này mà ra tay thì không còn thời cơ nào nữa, thà hủy cuốn sách đi chứ không thể để cho họ thỏa lòng như ý…

Cha con họ Vạn chăm chú nhìn Thích Phương. Vạn Khuê lại hỏi:

– Phương muội, cuốn sách này từ đâu đến?

Thích Phương lặng người, nói:

– Muội cũng không biết, muội vừa mới từ trong phòng ra thì thấy cuốn sách này ở trên bàn. Đây không phải là của huynh à?

Vạn Khuê nhất thời nghĩ không ra, tạm thời không truy cứu nữa, chỉ một lòng đem điều mới phát hiện được nói cho phụ thân biết:

– Cha, cha xem, trang sách này bị thấm nước, liền có chữ hiện lên.

Hắn đưa ngón tay trỏ ra, chỉ vào ba chữ “ba mươi ba” màu vàng nhạt bên cạnh bài thơ “Thánh quả tự”.

(Nếu như hắn biết đây là nước mắt của vợ, những giọt nước mắt trào ra vì thương nhớ Địch Vân, lòng hắn sẽ nghĩ sao?)

Vạn Chấn Sơn đưa ngón tay chỉ vào bài thơ ấy, đếm từng chữ từng chữ một:

“Lộ tự trung phong thượng,

Bàn hồi sơn bích la.

Đáo giang Ngô địa tận,

Cách ngạn Việt sơn đa.

Cổ mộc tùng thanh ái,

Dao thiên tẩm bạch ba.

Hạ phương thành…”

chữ thứ ba mươi ba, đó là chữ thành!

Vạn Chấn Sơn vỗ đùi đánh đét, la lên:

– Đúng rồi, chính là cách này! Thì ra bí mật là đây. Khuê nhi, con thật thông minh, con đã nghĩ ra được cách này! Phải dùng nước, không sai, chúng ta năm ấy không nghĩ đến việc phải dùng nước!

(Nếu như lão biết đây là nước mắt của con dâu, là những giọt nước mắt trào ra vì một người đàn ông khác, không hiểu lòng lão sẽ nghĩ sao?)

Thích Phương thấy cha con họ vui sướng như điên, chụm đầu vào tìm hiểu bí mật trong sách, bèn kéo tay con gái vào phòng trong, ôm nó vào lòng, khẽ nói:

– Không Tâm Thái, cái chậu kia, con thấy không?

Con bé gật gật:

– Con thấy rồi.

Thích Phương nói:

– Lát nữa ông nội, cha và mẹ cùng chạy ra ngoài, mẹ đem quyển sách trong tay ông nội đặt vào ngạch cửa, con đến cầm quyển sách lén thả vào trong chậu cho nước ngấm vào, đừng cho ông nội và cha nhìn thấy, để họ tìm không ra.

Con bé cả mừng, cho rằng mẹ lại bày một trò chơi thật vui, nó vỗ tay cười nói:

– Hay, hay!

Thích Phương lại dặn:

– Nhưng đừng để cho ông nội và cha biết, cũng đừng nói với họ!

Con bé nói:

– Không Tâm Thái không nói, Không Tâm Thái không nói!

Thích Phương bước ra phòng ngoài, nói:

– Công công, con thấy cuốn sách này có chút cổ quái.

Vạn Chấn Sơn quay lại hỏi:

– Có gì lạ?

Trong lòng lão đã sớm mơ hồ cảm thấy cuốn sách này đột nhiên xuất hiện, có được một cách quá dễ dàng, e không phải là điềm lành, con dâu nói vậy càng khiến lão thêm nghi ngờ. Thích Phương nói:

– Ở đây!

Nói rồi đưa tay ra.

Vạn Chấn Sơn trao cuốn sách cho cô.

Thích Phương giở trang sách, lấy hai con bướm bằng giấy ra, nói:

– Công công, trong cuốn sách này vốn có hai con bướm này không?

Vạn Chấn Sơn cầm lấy hai con bướm, xem xét kỹ lưỡng, nói:

– Không có!

Thích Phương nói:

– Thế là ý nghĩa gì? Trong võ lâm có người nào ngoại hiệu là “Hoa hồ điệp” gì đó không? Trên giang hồ có “Hồ điệp bang” không? Họ để hai com bướm giấy này vào trong sách, chắc là không có ý tốt.

Nhân vật giang hồ để lại ký hiệu để cảnh cáo kẻ thù vốn là việc rất bình thường, Vạn Chấn Sơn bình sinh làm nhiều việc xấu, kẻ thù rất nhiều, nghe Thích Phương nói, lại thấy hai con bướm giấy được cắt rất tinh xảo, không khỏi cảm thấy sờ sợ, trầm ngâm suy nghĩ: “Mình có kẻ thù nào ngoại hiệu là “Hoa hồ điệp” không nhỉ? Có “Hồ điệp bang” không nhỉ?”

Lão đang trầm ngâm bỗng nghe Thích Phương quát:

– Ai đấy, ma ma quỷ quỷ, lén lén lút lút làm gì vậy?

Rồi đưa tay chỉ lên nóc nhà ngoài cửa sổ. Cha con họ Vạn cùng nhìn ra ngoài cửa sổ. Thích Phương xoay người gỡ hai thanh trường kiếm treo trên tường xuống, ném một thanh cho Vạn Chấn Sơn, một thanh cho Vạn Khuê, kêu lên:

– Trên nóc nhà có người!

Cha con họ Vạn cầm chắc binh khí, Thích Phương kéo cái ngạch cửa, nhét cuốn Đường thi vào đó, nói khẽ:

– Chớ để kẻ địch cướp mất!

Cha con họ Vạn gật gật đầu. Ba người vọt qua cửa sổ, nhảy lên mái ngói, nhìn khắp bốn xung quanh không thấy một bóng người. Vạn Chấn Sơn nói:

– Ra đằng sau xem xem!

Ba người chạy thẳng ra phía sân sau, chỉ thấy ở góc tường thoáng một bóng người, Vạn Chấn Sơn quát:

– Ai?

Rồi nhảy vọt tới, thấy người kia là đệ tử thứ sáu Ngô Khảm, lão hỏi:

– Có thấy kẻ địch không?

Ngô Khảm thấy sư phụ, tam sư huynh, tam sư tẩu đều cầm kiếm chạy tới, cho rằng đã xảy ra sự cố, sợ tái mặt, đến khi nghe sư phụ hỏi, mới nhẹ người, vội nói:

– Có người bên này chạy qua, đệ tử đuổi theo tra hỏi xem.

Y vốn là che giấu cho mình, vừa khéo lại hợp với lời Thích Phương bịa đặt.

Bốn người đuổi ra ngoài cửa sau, Ngô Khảm hò hét luôn mồm, gọi bọn Lỗ Khôn, Bốc Viên chạy ra, nhưng đều chẳng tìm thấy tung tích “địch nhân” đâu cả.

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê nhớ đến “Liên thành kiếm phổ”, ra lệnh cho bọn Lỗ Khôn tiếp tục tìm tung tích địch nhân, gọi Thích Phương, trở lại lầu. Vạn Chấn Sơn kéo cái ngạch cửa ra, thò tay vào lấy…

Trong cái ngạch cửa đâu có quyển sách nào?

Cha con họ Vạn giật mình, kinh hãi vô cùng, tìm kiếm khắp nơi trong thư phòng, cũng làm sao tìm thấy. Hỏi con gái:

– Có người vào đây không?

Con bé đáp:

– Không có đâu ạ.

Nó quay đầu về phía mẹ nháy nháy mắt, hết sức đắc ý.

Cha con họ Vạn thấy rõ ràng Thích Phương đã đặt vào trong ngạch cửa, khi đuổi theo kẻ địch, không hề rời xa cô ta, đương nhiên là không phải là cô ta ra tay lấy mất. Nhất định là kẻ địch đã dùng kế “điệu hổ ly sơn”, lấy trộm mất kiếm phổ!

Cha con họ Vạn nhìn nhau vô cùng buồn bã.

Mẹ con Thích Phương nhấm nháy với nhau rất đỗi vui mừng.

————————————–

[1] Công công: con dâu gọi bố chồng là công công

Hồi 11: Xây tường

Đệ tử Vạn môn táo tác một trận, đâu có truy tìm được địch nhân nào?

Vạn Chấn Sơn dặn Thích Phương, muôn vạn lần không được đem chuyện kiếm phổ được rồi lại mất nói với các sư huynh đệ. Thích Phương vâng dạ ngay. Mấy năm nay cô càng ngày càng nhận ra giữa sư phụ và đồ đệ, giữa sư huynh đệ của Vạn môn, mỗi người đều có tính toán riêng, đề phòng lẫn nhau. Vạn Chấn Sơn vừa kinh hãi vừa tức giận, về đến phòng mình cứ nghĩ mãi về cái ký hiệu “hoa hồ điệp”. Kẻ thù là ai? Vì sao lại đưa kiếm phổ tới? Rồi sao lại cướp đi? Hay là cái người đã cứu Ngôn Đạt Bình?

Vạn Khuê khi truy đuổi địch nhân, chạy nhảy một hồi, máu chảy nhanh, vết thương trên mu bàn tay lại đau đớn, nằm trên giường nghỉ, một lúc sau thì thiêm thiếp ngủ.

Thích Phương trầm ngâm suy nghĩ: “Cuốn sách này là có ích đối với cha, bị ngâm trong nước lâu rồi, e bị hư nát mất!” Bèn vào phòng trong kêu hai tiếng:

– Tam ca.

Thấy Vạn Khuê đang ngủ say, liền quay ra bưng cái chậu đồng, xuống lầu đổ nước máu đi, quyển sách lộ ra. Cô nghĩ “Không Tâm Thái thật ngoan!” Mặt thoáng nét cười.

Cuốn sách ướt đẫm nước máu, tanh hôi quá thể, Thích Phương không muốn dùng tay cầm, nghĩ:“Giấu nó vào chỗ nào đây?” Nghĩ đến cái nhà ở vườn sau để đầy những thứ cuốc, cối đá, quạt gió… lúc này chắc không có người qua lại, bèn hái mấy cái lá hoa cúc trong sân, che kín quyển sách, rồi làm như bê một chậu lá hoa cúc, đi ra phía vườn sau. Cô đi về cái nhà nhỏ ở phía tây, lấy quyển sách đặt vào trong bụng cái quạt quạt thóc, thầm nghĩ: “Cái quạt thóc này đến khi thu tô mới dùng đến, giấu ở đây chẳng ai tìm thấy được.”

Cô bưng cái chậu, miệng khe khẽ hát, giả vờ như không có chuyện gì, khi đi qua hành lang bỗng có một người nhảy ra, hạ giọng nói khẽ:

– Canh ba hôm nay, đệ ở kho chứa củi đợi sư tẩu, đừng quên nhé!

Chính là Ngô Khảm.

Thích Phương trong lòng đang lo sợ, đột nhiên nghe hắn nói mấy câu đó, trái tim càng đập dữ dội, thảng thốt nói:

– Đồ chết giẫm, con chó này thật to gan, không tiếc mạng à?

Ngô Khảm nhăn nhở nói:

– Đệ vì tẩu mà chết, thật là mãn nguyện, sư tẩu có cần thuốc giải không?

Thích Phương cắn răng, tay trái thò vào trong áo, nắm chắc cán chủy thủ, định xuất kỳ bất ý rút chủy thủ ra cho hắn một nhát, đoạt lấy thuốc giải.

Ngô Khảm cười hi hi, nói nhỏ:

– Nếu sư tẩu dùng một chiêu “Sơn tòng nhân diện khởi”, rút đao đâm tới, đệ sẽ dùng chiêu “Vân bạng mã đầu sinh” tránh ngay, rồi tiện tay giơ lên đổ bình thuốc giải này vào trong ang nước.

Nói rồi hắn chìa tay ra, trong lòng bàn tay là bình thuốc giải. Hắn sợ Thích Phương đoạt mất, bèn lùi lại hai bước.

Thích Phương biết là dùng sức không thể đoạt được bèn nghiêng người đi qua một bên hắn.

Ngô Khảm khẽ nói:

– Đệ chỉ đợi sư tẩu đến canh ba, sang canh bốn đệ sẽ mang thuốc giải bỏ đi, cao bay xa chạy, không trở về Kinh Châu nữa. Họ Ngô này có chết, cũng không thể chết dưới tay cha con họ Vạn.

* * *

Thích Phương về đến phòng, thấy Vạn Khuê không ngừng rên rỉ, chắc là độc rết lại phát tác. Cô ngồi bên giường, trầm ngâm suy nghĩ: “Y hãm hại Địch sư ca, thủ đoạn cực kỳ ti bỉ, nhưng ván đã đóng thuyền, còn có cách nào đây? Đó là sư ca số khổ, mình cũng số khổ. Mấy năm nay y đối với mình rất tốt, mình thì đành “lấy gà theo gà lấy chó theo chó”[1], một đời này đành phải theo y làm vợ chồng. Cái thằng chó chết Ngô Khảm thật là đáng ghét, làm sao đoạt được thuốc giải đây?”

Thấy vẻ mặt Vạn Khuê tiều tụy, hai mắt hõm vào, cô lại nghĩ: “Tam ca bị thương rất nặng, nếu nói với huynh ấy, huynh ấy lại nổi giận liều mình với Ngô Khảm thì hỏng việc.”

Trời dần tối, Thích Phương ăn đại mấy miếng cơm tối, ru con ngủ yên, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có cách đi nói với công công, lão là người tính toán sâu xa, tất có cách hay. Việc này không thể để cho chồng biết được, phải đợi cho huynh ấy ngủ thật say rồi mới đến báo với công công. Thích Phương để nguyên quần áo, nằm xuống bên chân Vạn Khuê. Mấy ngày hôm nay chăm sóc chồng, cô không hề chợp mắt. Mãi đến khi Vạn Khuê ngủ thật say, cô mới lặng lẽ ngồi dậy, xuống lầu, đi đến ngoài nhà Vạn Chấn Sơn.

Trong nhà đèn đã tắt, nhưng lại vọng ra những thanh âm kỳ lạ “Phì, phì, phì” tựa hồ như có người đang gắng hết sức làm việc gì đó. Thích Phương rất lấy làm lạ, vốn đã định đến bên cửa gọi “công công” nhưng lại ngừng, nhìn qua khe cửa sổ vào trong phòng. Lúc ấy mặt trăng chiếu nghiêng, lọt qua cửa sổ, chiếu vào trong phòng. Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn nằm ngửa trên giường, hai tay chầm chậm đẩy mạnh lên khoảng không, hai mắt vẫn nhắm nghiền.

Thích Phương nghĩ bụng: “Thì ra công công đang luyện nội công cao thâm. Khi luyện nội công kỵ nhất là bị ngoại giới quấy nhiễu, như thế rất dễ bị tẩu hỏa nhập ma. Lúc này không thể gọi ông ấy, để ông ấy luyện xong rồi hãy nói.”

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn đẩy hai tay lên không một hồi, rồi từ từ ngồi dậy, bỏ chân xuống giường, đi mấy bước, khom người xuống, nhấc một vật gì đó lên. Thích Phương nghĩ bụng: “Chắc công công đang luyện cầm nã thủ pháp”, lại xem một lúc nữa, chỉ thấy thế tay của Vạn Chấn Sơn mỗi lúc một kỳ lạ, hai tay không ngừng chụp lấy vật gì đó trong không trung, rồi lại xếp đặt rất chỉnh tề, giống như là đang xếp rất nhiều viên gạch lại, nhưng dưới ánh trăng thấy thật rõ – trên mặt đất không hề có vật gì cả.

Chỉ thấy lão chụp chụp trong không trung một hồi, hai tay đo đo, tựa hồ như nhận thấy đã đủ lớn rồi. Thế là hai tay lại làm như đang nâng một vật gì rất lớn, nhét về phía trước. Thích Phương nhìn ngơ ngác, thấy hai mắt Vạn Chấn Sơn nhắm nghiền, nhất cử nhất động đều không giống luyện công mà giống như đang diễn kịch câm.

Bỗng cô nhớ tới câu nói của Đào Hồng ở ngôi từ đường đố nát: “Lão gia nửa đêm giờ tí lại dậy xây tường!”

Nhưng cử động của Vạn Chấn Sơn quyết không phải là xây tường, nếu như có liên quan gì với tường thì đây có lẽ là động tác khoét tường, đục tường.

Thích Phương cảm thấy khủng khiếp: “Phải rồi! Công công bị bệnh mộng du. Nghe nói bị bệnh này, trong lúc ngủ có thể dậy đi lại, làm việc. Có người không mặc quần áo, đi trên nóc nhà, có người thậm chí còn giết người đốt nhà, sau khi tỉnh lại hoàn toàn chẳng biết gì hết.”

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn sau khi nâng một vật nặng hoàn toàn không có, nhét vào một cái hốc tường hoàn toàn không có, thì gắng sức đẩy vào khoảng không mấy cái, sau đó lại nhặt những viên gạch hoàn toàn không có trên mặt đất xây áp vào “bức tường” hoàn toàn không có.

Đúng rồi, ông ấy quả thực là đang xây tường! Miệng mỉm cười, xây tường một cách dương dương đắc ý!

Thích Phương khi mới thấy vẻ âm sâm của lão, bao nhiêu tóc trên đầu dựng hết cả lên, đến khi thấy lão rõ ràng đang làm động tác xây tường, thì có vẻ như đã đoán được bèn không sợ nữa, nghĩ bụng: “Theo lời Đào Hồng thì công công mắc bệnh mộng du này đã lâu rồi. Người mắc bệnh này đều không muốn để cho người khác biết. Đào Hồng ở chung một phòng với ông ấy, biết được điều này, công công tất nhiên không vui.” Thế là cô đã giải được điều nghi vấn trong lòng, biết rõ vì sao mà Đào Hồng bị đuổi. Lại nghĩ: “Không biết ông ấy còn xây tường bao lâu nữa, nếu quá canh ba, Ngô Khảm hủy giải dược rồi bỏ trốn thì hỏng bét.”

Lại thấy Vạn Chấn Sơn đem tất cả những “viên gạch” nhét vào “hốc tường” rồi tô “vữa” lên, mãi đến khi “công việc” đâu vào đấy rồi khuôn mặt mới mỉm cười, lên giường ngủ yên.

Thích Phương nghĩ bụng: “Công công vất vả hồi lâu, tinh thần còn chưa thoải mái, hãy để ông ấy nghỉ một lúc đã mình hãy gọi.”

Chính vào lúc ấy, lại nghe thấy có người khe khẽ gõ cửa phòng mấy cái, tiếp đó có người khe khẽ gọi:

– Gia gia, gia gia!

Chính là giọng của Vạn Khuê.

Thích Phương hơi sợ: “Sao tam ca cũng đến? Huynh ấy đến làm gì?”

Vạn Chấn Sơn lập tức ngồi dậy, định thần, hỏi:

– Khuê nhi đấy à?

Vạn Khuê nói:

– Là con đây!

Vạn Chấn Sơn nhảy phắt xuống giường, rút then mở cửa cho Vạn Khuê vào, hỏi ngay:

– Có tin được kiếm phổ rồi à?

Vạn Khuê kêu lên một tiếng:

– Cha!

Rồi đưa tay trái ra bíu chặt lấy mặt bàn. Ánh trăng từ song cửa chiếu vào phòng, chập chờn chiếu lên thân hình y đang lảo đảo.

Thích Phương sợ bóng mình ngả vào phòng, co mình lại dưới cửa số, nghiêng tai nghe ngóng, không dám nhìn động tĩnh của hai người nữa.

Vạn Khuê kêu lên một tiếng “cha” nữa, rồi nói:

– Con dâu của cha… con dâu của cha… hóa ra không phải là người tốt.

Thích Phương giật mình: “Sao huynh ấy lại nói thế?”

Chỉ nghe thấy Vạn Chấn Sơn cũng hỏi:

– Sao rồi? Vợ chồng trẻ cãi nhau hả?

Vạn Khuê nói:

– Kiếm phổ tìm được rồi, là do con dâu của cha lấy đi.

Vạn Chấn Sơn vui mừng nói:

– Tìm được rồi thì tốt! Đâu rồi?

Thích Phương hết sức lấy làm lạ: “Sao y lại biết? Ôi, chắc là con bé Không Tâm Thái không giữ miệng, nói ra rồi.” Nhưng Vạn Khuê nói tiếp khiến cô biết là mình đã đoán sai. Vạn Khuê nói với cha: y thấy Thích Phương và con gái nhấm nháy với nhau, thần tình có vẻ lạ, cho rằng chắc có điều cổ quái, bèn giả vò ngủ, nhưng nhìn qua khe cửa quan sát động tĩnh của Thích Phương, thấy cô ta bưng cái chậu đồng đi về phía vườn sau, y bèn lặng lẽ bám theo, thấy cô ta đem kiếm phổ giấu vào trong cái quạt thóc ở ngôi nhà phía tây vườn sau.

Thích Phương trong lòng than thở: “Cha thật là số khổ, cuốn sách ấy cuối cùng lại bị công công và tam ca lấy mất. Muốn lấy lại thật là muôn vạn lần khó khăn. Được, mình nhận thua, tam ca vốn lợi hại hơn mình nhiều.”

Chỉ nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Thế thì tốt lắm, chúng ta đi lấy nó về, con cứ giả vờ không biết gì hết, để xem nó ra sao. Nếu như nó không nhắc đến, con cũng bất tất phải nói ra, cha vẫn nghi, cuốn sách này rốt cuộc là từ đâu đến. Chỉ sợ… chỉ sợ… chỉ sợ…

Lão nói liên tiếp ba lần “chỉ sợ” nhưng lại không nói ra.

Vạn Khuê nói:

– Cha!

Giọng rất đau khổ.

Vạn Chấn Sơn la:

– Sao?

Vạn Khuê nói:

– Con dâu của cha… Con dâu của cha lấy trộm bộ kiếm phổ ấy của chúng ta, hóa ra là vì…

Nói đến đó, giọng bỗng run lên. Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Vì ai?

Vạn Khuê nói:

– Hóa ra là… là vì tên cẩu tặc Ngô Khảm!

Trái tim Thích Phương bị chấn động mãnh liệt, cơ hồ không tin vào tai mình nữa, thầm kêu lên:“Mình vì gia gia, sao lại nói vì Ngô Khảm? Sao lại vì tên cẩu tặc Ngô Khảm?”

Trong giọng nói của Vạn Chấn Sơn cũng đầy vẻ ngạc nhiên:

– Vì Ngô Khảm à?

Vạn Khuê nói:

– Vâng! Con thấy ở vườn sau, con tiện nhân ấy giấu xong kiếm phổ, bèn theo từ xa xa, nào ngờ nó… nó đi đến hành lang lại thậm thậm thụt thụt với Ngô Khảm, con dâm phụ này… thật là mặt dày!

Vạn Chấn Sơn trầm ngâm nói:

– Cha thấy nó thường ngày vẫn đàng hoàng đoan chính, không phải là hạng người như thế. Con có nhìn nhầm không? Hai đứa nó nói gì?

Vạn Khuê nói:

– Con sợ chúng biết, không dám đến gần, trong hành lang lại không có nơi ấn nấp, phải nấp ở sau góc tường. Đôi trai gái chó má ấy nói rất nhỏ, không nghe hết được, nhưng… cũng nghe được quá nửa.

Vạn Chấn Sơn “ừ” một tiếng, nói:

– Con trai, con đừng tức giận. Đại trượng phu lo gì không có vợ? Chúng ta lấy được kiếm phổ, lại tra rõ bí mật trong đó thì chớp mắt một cái là giàu nhất thiên hạ, con muốn mua một trăm vợ lẽ nàng hầu, cũng thật dễ dàng, con ngồi xuống, từ từ nói đi!

Nghe thấy giường kêu cót két, Vạn Khuê đã ngồi xuống, hằm hằm nói:

– Con dâm phụ đó giấu sách xong rồi, rất là đắc ý, miệng còn hát nữa. Thằng gian phu kia thấy nó, mặt hân hoan nói: “Canh ba đêm nay, đệ ở trong kho chứa củi đợi, đừng quên đấy!” Đích xác là là mấy câu đó, con nghe rất rõ.

Vạn Chấn Sơn tức giận nói:

– Con tiểu dâm phụ thì nói sao?

Vạn Khuê nói:

– Nó… nó nói: “Đồ chết giẫm, to gan nhỉ, đến cả cái mạng cũng không cần!”

Thích Phương ở ngoài cửa sổ nghe mà lòng dạ rối bời: “Hai… hai người họ cứ mồm năm miệng mười mắng mình là dâm phụ, sao… sao lại đổ oan cho người ta như thế! Tam ca, muội chỉ một lòng vì huynh, muốn đoạt lại bình thuốc giải, trị vết thương cho huynh. Huynh lại nhục mạ muội, có còn lương tâm nữa không?”

Nghe Vạn Khuê lại tiếp tục nói:

– Con… con nghe chúng nói vậy, lòng bừng bừng lửa giận, hận không thể tuốt kiếm cho hai đứa hai nhát. Chỉ vì con không mang theo kiếm, vả lại sau khi bị thương người yếu, không thể đàng hoàng đấu với chúng nó, bèn về phòng ngay kẻo con dâm phụ kia về phòng không thấy lại sinh nghi. Gian phu dâm phụ về sau còn nói gì nữa, con không nghe được.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Hừ, có cha ấy tất có con ấy, quả nhiên cả nhà đều là lũ vô sỉ. Chúng ta trước hết phải đi lấy kiếm phổ, rồi đứng chờ ở ngoài cửa kho củi. Bắt gian phải bắt cả đôi, để cho đôi trai gái chó má ấy chết mà không oán.

Vạn Khuê nói:

– Con dâm phụ ấy mê trai phát cuồng, chưa đến canh ba đã đi, lúc này… lúc này…

Vừa nói hắn vừa nghiến răng ken két.

Vạn Chân Sơn nói:

– Thế thì chúng ta đi ngay. Con cầm lấy kiếm, trước hết con đừng ra tay, để cha chém hết chân tay của cả hai đứa rồi con hãy tự tay lấy tính mạng của đôi trai gái chó má ấy.

Cửa phòng mở ra, Vạn Chấn Sơn tay trái dìu dưới nách Vạn Khuê, hai người xông ra vườn sau.

Thích Phương tựa vào tường, nước mắt ướt đầm vạt áo. Cô chỉ mong chữa lành vết thương cho chồng, y lại nghi ngờ tệ hại đến thế. Phụ thân đi mãi không về, Địch sư ca thì phải chịu oan uổng, bây giờ… bây giờ chồng lại đối đãi với mình như thế, làm sao sống nổi? Lòng cô tan nát, không muốn sống nữa, không muốn tìm chồng biện bạch, cũng không nghĩ tới việc gọi Ngô Khảm đến đối chất, toàn thân rã rời, cô tựa vào bức tường.

Một lúc sau, nghe thấy tiếng bước chân, cha con họ Vạn quay về sảnh, đứng lại hạ giọng bàn bạc.

Vạn Khuê nói:

– Cha, sao không vào kho củi giết Ngô Khảm?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Trong kho chứa củi chỉ có một mình gian phu. Con dâm phụ kia chắc là nghe được phong thanh đã bỏ chạy mất rồi. Đã không bắt được cả đôi, chúng ta là thế gia ở Kinh Châu sao lại có thể khinh suất giết người? Sau khi được kiếm phổ này rồi chúng ta còn bao nhiêu việc phải làm ở Kinh Châu này. Việc nhỏ không nhịn thì hỏng việc lớn, chớ nên nôn nóng!

Vạn Khuê nói:

– Lẽ nào lại cho qua? Nỗi tức giận này của con làm sao cho hả?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Muốn hả giận thì dễ ợt, chúng ta dùng cách cũ!

– Cách cũ?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Cái cách đã dùng để đối phó với Thích Trường Phát!

Vạn Chấn Sơn ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Con hãy về phòng đi, cha cho người gọi hết đệ tử đến, con cũng đi với chúng đến phòng cha. Đừng để cho người ta nghi ngờ.

Thích Phương trong lòng đã rối như tơ vò, không có một chút chủ ý nào, chỉ nghĩ: “Đã tới nước này rồi, mình không muốn sống nữa. Nhưng còn Không Tâm Thái thì biết làm sao? Ai chăm sóc nó?” Bỗng nghe Vạn Chấn Sơn nói phải dùng “cách đã dùng để đối phó với Thích Trường Phát” để đối phó với Ngô Khảm, trên đầu bỗng như có ai đặt lên một tảng băng, lập tức tỉnh ra: “Họ đã đối phó với cha như thế nào? Phải điều tra ra chân tướng của vụ này. Công công gọi bọn đệ tử đến ngoài phòng, không thể nấn ná ở đây được nữa, nhưng nấp ở đâu để nghe trộm đây?”

Vạn Khuê vâng lời trở về phòng, Vạn Chấn Sơn bước ra ngoài sảnh lớn tiếng gọi đầy tớ thắp đèn. Chốc lát trước sảnh sau sảnh đều rậm rịch tiếng người, đám đệ tử và đầy tớ đều kéo đến. Thích Phương biết chỉ còn chốc lát nữa sẽ có người đi qua cửa sổ, hơi do dự một chút rồi lách người bước vào phòng Vạn Chấn Sơn, vén tấm rèm che giường, rồi chui xuống gầm giường. Tấm rèm dài tận đất, nếu không có người cố ý vén lên thì quyết không có ai phát hiện được tung tích cô.

Cô nằm ngang dưới gầm giường, lát sau có ánh sáng lọt qua tấm rèm, có người thắp đèn đem vào đặt trong phòng. Cô thấy đôi chân của Vạn Chấn Sơn bước vào, đôi chân ấy đến bên cái ghế, ghế kêu lên nhè nhẹ, là Chấn Sơn đã ngồi xuống, lại nghe lão gọi người đầy tớ đóng cửa phòng.

Nghe tiếng đại sư huynh Lỗ Khôn nói từ ngoài phòng:

– Sư phụ, chúng con đều đã đến rồi, chờ sư phụ sai khiến.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Tốt lắm, con hãy vào đây trước!

Thích Phương thấy cửa phòng mở ra, đôi chân của Lỗ Khôn bước vào, cửa phòng lại đóng vào.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Có kẻ địch đến tìm chúng ta, con biết không?

Lỗ Khôn nói:

– Là ai vậy? Đệ tử không biết.

– Người này đóng vai một thầy lang bán thuốc, hôm nay đến nhà ta.

Thích Phương nghĩ bụng: “Lẽ nào ông ấy biết vị lang trung ấy là ai, người ấy rốt cuộc là ai?”

Lỗ Khôn nói:

– Đệ tử có nghe Ngô sư đệ nói. Sư phụ, kẻ địch ấy là ai?

– Người này cải trang, ta không tận mắt nhìn thấy, chưa đoán ra. Sớm mai con đến vùng phía bắc thành dò la cho kỹ. Bây giờ con ra trước đi, đợi ta còn có việc sai bảo.

Lỗ Khôn vâng lệnh đi ra.

Vạn Chấn Sơn lại gọi đệ tử thứ tư Tôn Quân, đệ tử thứ năm Bốc Viên vào, nói chuyện cũng giống như thế, bảo Tôn Quân đến phía nam thành điều tra, Bốc Viên đến phía đông thám thính. Khi dặn Bốc Viên lại thuận miệng thêm một câu:

– Để Ngô Khảm đi thám thính phía tây thành, Phùng Thản và Thẩm Thành tiếp ứng báo tin. Vạn sư ca của con vết thương chưa lành, không thể đi được.

Bốc Viên nói:

– Vâng, Vạn sư ca còn phải nghỉ ngơi nhiều.

Rồi Bốc Viên, Tôn Quân mở cửa bước ra.

Thích Phương biết rằng tất cả những lời ấy đều là cố ý nói cho Ngô Khảm nghe khiến hắn khỏi sinh nghi. Lại nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Ngô Khảm vào đây!

Giọng nói giống như khi gọi bọn Lỗ Khôn, không nghiêm khắc hơn, cũng không đặc biệt dịu dàng.

Thích Phương thấy cửa phòng lại mở, khi chân phải của Ngô Khảm bước tới thềm có chút ngần ngừ nhưng cuối cùng cũng bước vào. Đôi chân bước tới trước Vạn Chấn Sơn mấy bước rồi dừng lại, Thích Phương thấy trường bào của hắn rung rung biết hắn sợ hãi đang run rẩy.

Nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Có kẻ địch tìm đến chúng ta, con đã biết chưa?

Ngô Khảm nói:

– Đệ tử ở ngoài cửa nghe sư phụ nói là tên thầy lang bán thuốc. Người này là do đệ tử gọi đến khám bệnh cho Vạn sư ca, thật không ngờ lại là kẻ địch, xin sư phụ tha thứ.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Người ấy cải trang, con không nhận ra, cũng không trách con được. Sớm mai, con đến phía tây thành thám thính, nếu thấy hắn thì chú ý quan sát động tĩnh của hắn.

Ngô Khảm thưa:

– Vâng!

Đột nhiên hai chân Vạn Chấn Sơn động đậy, lão đứng phắt dậy. Thích Phương không kìm được, thò tay vén một góc rèm, nhìn ra ngoài. Mới nhìn một cái, cô sợ hãi thất sắc, suýt kêu thét lên.

Hai tay Vạn Chấn Sơn đã bóp chặt yết hầu Ngô Khảm, Ngô Khảm sử kình cố bóp chặt hai tay Vạn Chấn Sơn nhưng hoàn toàn vô hiệu. Đôi mắt Ngô Khảm lồi ra như mắt cá vàng, mỗi lúc một to.

Hai mu bàn tay của Vạn Chấn Sơn bị móng tay của Ngô Khảm cào xước thành mấy vệt máu, nhưng lão vẫn bóp chặt cổ họng Ngô Khảm, mỗi lúc một chặt. Ngô Khảm không kêu được một tiếng, thân hình hắn giãy giãy, lát sau hai tay từ từ buông xuống. Thích Phương thấy lưỡi hắn thè ra trông rất dễ sợ, cô cực kỳ kinh hãi. Ngô Khảm không hề nhúc nhích, Vạn Chấn Sơn buông tay, đặt hắn xuống ghế, cầm lấy hai miếng bông đã tẩm nước sẵn, đặt lên mũi và miệng y. Làm như thế hắn không thể thở được nữa cũng không cách gì tỉnh lại được.

Trái tim Thích Phương đập loạn lên, cô thầm nghĩ: “Công công đã nói nhà này là thế gia ở Kinh Châu, không thể tùy tiện giết người, phụ thân của Ngô Khảm nghe nói là thân sĩ ở xứ này, quyết không thể bỏ qua, thế này thì to chuyện rồi đây.”

Chính vào lúc ấy bỗng nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng quát:

– Việc ngươi làm, mau tự thú nhận đi, lẽ nào còn để ta phải ra tay?

Thích Phương giật thót người: “Thì ra công công nhìn thấy mình rồi.” Nhưng trong lòng lại không cảm thấy sợ mà lại cảm thấy nhẹ đi: “Chết dưới tay lão cũng được, mình đang không muốn sống nữa!”

Đang định chui ra, bỗng nghe thấy Ngô Khảm nói:

– Sư phụ, sư phụ… bảo đệ tử thú nhận cái gì?

Thủy Sinh lại giật bắn mình, sao Ngô Khảm lại nói được? Lẽ nào hắn sống lại? Nhưng rõ ràng là không phải, hắn tựa nghiêng người trên ghế, không hề nhúc nhích. Từ dưới gầm giường nhìn lên thấy miệng Vạn Chấn Sơn đang mấp máy.

“Sao? Là công công nói, không phải là Ngô Khảm nói. Sao lại rõ ràng là giọng của Ngô Khảm?”

Lại nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng quát:

– Thú nhận cái gì à? Hừ, Ngô Khảm, ngươi to gan thật, trong ứng ngoài hợp, cấu kết với phỉ đồ, muốn gây nên một vụ án lớn ở thành Kinh Châu này à?

– Sư phụ, đệ tử gây… gây án gì?

Lần này thì Thích Phương thấy rõ ràng, đúng là Vạn Chấn Sơn đang bắt chước giọng nói của Ngô Khảm, khó là ở chỗ lão bắt chước rất giống. “Công công có bản lĩnh bắt chước giọng của người khác tài thật, trước nay mình không biết, ông ấy học chước giọng Ngô Khảm nói lớn như thế với dụng ý gì?” Cô mơ hồ nghĩ đến một việc nhưng ý nghĩ còn mông lung chưa rõ, có điều trong lòng có một nỗi sợ hãi kỳ lạ.

Lại nghe Vạn Chấn Sơn nói:

– Hừ, ngươi tưởng là ta không biết phải không? Ngươi dẫn tên thầy lang bán thuốc đến thành Kinh Châu, người này kỳ thực là tên cướp biển, Ngô Khảm, ngươi và hắn cấu kết, muốn xông vào…

– Sư phụ,… xông vào đâu?

– Định xông vào công quán của Lăng tri phủ, trộm một số công văn bí mật, phải không? Ngô Khảm, ngươi… ngươi còn định chống chế?

– Sư phụ… sư phụ làm sao mà biết được? Sư phụ, xin sư phụ niệm tình đệ tử luôn hiếu thuận, tha cho con một lần, đệ tử không dám nữa!

– Một chuyện lớn như vậy, đâu có thể tùy tiện?

Thích Phương phát hiện ra, Vạn Chấn Sơn học chước giọng nói của Ngô Khảm thực ra không giống lắm, chỉ là đè cổ họng xuống, nói ra rất lúm úm, câu nào cũng gọi “sư phụ” đồng thời không ngừng tự xưng “đệ tử”, người ngoài nghe thấy tất sẽ cho là Ngô Khảm đang nói. Huống nữa mọi người đều thấy Ngô Khảm vào phòng, nghe thấy hắn và Vạn Chấn Sơn nói chuyện đến khi tiếp tục nói, giọng tuy không giống lắm nhưng ngoài Ngô Khảm ra thì còn ai vào đó nữa? Lại thêm trong lời của Vạn Chấn Sơn cứ liên tiếp gọi tên “Ngô Khảm”.

Chỉ thấy Vạn Chấn Sơn nhẹ nhàng nhấc thi thể Ngô Khảm lên, chầm chậm gập lưng hắn lại, tay trái vén tấm rèm ra. Thích Phương sợ đến nỗi trái tim cơ hồ ngừng đập: “Công công chắc chắn là đã phát hiện ra mình rồi, lần này ông ta sẽ bóp chết mình!” Dưới ánh đèn chập chờn chỉ thấy một cái đầu chui vào gầm giường, mắt trợn ngược thật giống đầu cá vàng chết. Thích Phương liền nép mình vào nhường chỗ, nhưng thi thể Ngô Khảm không ngừng tiến sâu vào, đụng đến chân cô, lại đụng đến hông cô.

Lại nghe thấy tiếng Vạn Chấn Sơn ngồi lên ghế, nghiêm giọng quát:

– Ngô Khảm, ngươi còn không quỳ xuống? Ta trói ngươi dẫn đến gặp Lăng tri phủ. Tha hay không là việc của ông ấy, ta không thề quyết định được.

– Sư phụ, sư phụ thật không thể tha cho đệ tử ư?

– Dạy một tên đệ tử như ngươi, họ Vạn ta đã bị ngươi làm mất mặt rồi, ta… ta còn có thể tha ngươi được sao?

Thích Phương nhìn qua khe hở tấm rèm, thấy Vạn Chấn Sơn rút từ bên hông ra một thanh chủy thủ, nhè nhẹ cắm vào ngực mình. Ngực lão rõ ràng là có che một tấm gỗ mềm, bùn nhão, bánh mì hay gì đó sau áo, chủy thủ đâm vào thì cắm phập vào trong những thứ đó.

Thích Phương mới hơi hiểu ra thì lại nghe Vạn Chấn Sơn lớn tiếng:

– Ngô Khảm, sao ngươi còn chưa quỳ xuống?

Rồi lại nén hơi trong họng bắt chước giọng Ngô Khảm, nói:

– Sư phụ, đây là sư phụ ép con, không thể trách đệ tử được!

Vạn Chấn Sơn kêu to một tiếng:

– Ái, ối!

Phóng một cước, đá bật cửa sổ, kêu lên:

– Tiểu tặc, ngươi… ngươi dám hành hung!

Chỉ nghe “bình” một tiếng, có người đạp toang cửa phòng, Vạn Khuê xông vào trước hết. (Y biết lúc nào thì phải phá cửa xông vào). Mấy người Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên cũng vào theo. Vạn Chấn Sơn đè chặt ngực, máu chảy ròng ròng qua kẽ ngón tay. (Chắc trong tay lão cầm một bình nước đỏ). Lão lảo đảo, chỉ ra cửa sổ, kêu:

– Ngô Khảm… cái thằng giặc này đâm ta một đao, đào tẩu rồi! Mau… mau đuổi! Nói xong, thân người loạng choạng, ngã xuống giường.

Vạn Khuê kinh hãi kêu lên:

– Gia gia, gia gia, cha bị thương ra sao?

Năm người Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên, Phùng Thản, Thẩm Thành kẻ trước người sau nhảy qua cửa sổ, kêu réo inh ỏi, đuổi theo…

Trước phủ sau phủ đều có rất nhiều kêu gào ầm ĩ cả lên.

Thích Phương phục dưới gầm giường, cảm thấy thi thể Ngô Khảm mỗi lúc một lạnh. Cô cực kỳ kinh hãi nhưng không dám nhúc nhích – công công nằm trên giường, chồng đứng trước giường.

Nghe Vạn Chấn Sơn hỏi khẽ:

– Có ai nghi ngờ gì không?

Vạn Khuê đáp:

– Không, cha, cha giả vờ thật giống. Y như dạo giết Thích Trường Phát, không một chút sơ hở.

“Y như dạo giết Thích Trường Phát, không một chút sơ hở!” Câu nói ấy như một nhát chủy thủ đâm thẳng vào trái tim Thích Phương. Cô vốn đã mơ hồ nghĩ đến cái việc cực kỳ đáng sợ ấy, nhưng cô quyết không tin. “Công công luôn đối xử với mình rất hiền từ tử tế, chồng từ trước đến nay ân cần dịu dàng, sao lại giết cha mình?” Nhưng lần này cô tận mắt nhìn thấy, họ bố trí một cái bẫy thật xảo diệu để giết Ngô Khảm. Ngày ấy, cô đứng ngoài thư phòng nghe “phụ thân và Vạn Chấn Sơn tranh cãi”, thấy “Vạn Chấn Sơn bị phụ thân đâm một đao”, thấy “phụ thân vượt cửa sổ đào tẩu”, rõ ràng đó cũng là cái bẫy do Vạn Chấn Sơn bố trí, một kiểu một loại. Lúc ấy, phụ thân đã bị lão hại chết rồi, lão… lão bắt chước giọng của phụ thân, thảo nào tiếng nói của phụ thân lúc ấy cứ lúng búng, rất khác với lúc thường, nếu… không có lúc này ma quỷ đưa đây thê nào mà cô phải nấp dưới gầm giường tận mắt thấy tấn thảm kịch này thì làm sao có thê đoán ra được?

Lại nghe Vạn Khuê nói:

– Còn con tiện nhân ấy thì sao? Chúng ta làm sao có thể tha cho nó được?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Từ từ rồi mổ nó cũng được. Việc ấy cần phải làm sao cho người không biết quỷ không hay đề khỏi làm bại hoại môn phong nhà họ Vạn, bẩn mất thanh danh của cha con ta.

Vạn Khuê nói:

– Vâng, cha nghĩ thật là chu đáo. Ái dà…

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Thế nào?

Vạn Khuê nói:

– Vết thương trên mu bàn tay con lại đau rồi.

Vạn Chấn Sơn “ầy” một tiếng. Lão tuy mưu kế đa đoan nhưng với việc này thì cũng đành bó tay.

Thích Phương chầm chậm thò tay mò vào trong túi Ngô Khảm, chiếc bình sứ nhỏ lạnh toát đang ở trong túi áo hắn. Cô lấy ra đặt vào túi mình, trong lòng đau khổ: “Tam ca, tam ca, huynh chỉ nghe được nửa câu chuyện mà hiểu nhầm muội với thằng giặc này có điều ám muội. Huynh không muốn nghe cho rõ vì thế cũng không nghe được rằng cái bình thuốc giải này ở trong tay hắn. Phụ thân của huynh đã giết hắn, chẳng cần khó khăn gì cũng lấy được bình thuốc giải, nhưng rốt cuộc là các người không biết được.

Bọn mấy người Lỗ Khôn đuổi bắt Ngô Khảm không được, lục tục quay về, đến trước giường Vạn Chấn Sơn thăm hỏi. Vạn Chấn Sơn để lộ ngực, những băng vải từ cổ vòng qua trước ngực, vòng ra sau lưng, lại vòng lên cổ. Lần này sư phụ “bị thương” không “nặng” như lần trước, võ công của Ngô Khảm không bằng sư thúc Thích Trường Phát. Nhát đao này đâm không sâu, không có gì đáng ngại. Các đệ tử đều yên tâm, người nào cũng chửi Ngô Khảm vong ân phụ nghĩa, đều nói ngày mai phải đến nhà phụ thân hắn thanh toán, xin sư phụ bảo trọng, rồi mọi người lui ra. Vạn Khuê ngồi trước giường chăm sóc cha.

Thích Phương chỉ muốn tìm cơ hội đào tẩu, cô phải ở bên xác chết của Ngô Khảm, chán ghét vô kể, lại sợ cha con họ Vạn phát hiện, có điều nghĩ không ra cách đào tẩu.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Chúng ta trước hết phải xử lý cái xác chết, đừng để lộ.

Vạn Khuê nói:

– Hay là lại làm như cách làm đối với Thích Trường Phát?

Vạn Chấn Sơn mỉm cười trầm ngâm, nói:

– Vẫn là cách cũ.

Thích Phương rơi nước mắt: “Họ đã đối phó với phụ thân mình như thế nào?”

Vạn Khuê nói:

– Lại xây vào trong tường à? Cha ngủ ở đây, e không tốt lắm.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Cha tạm chuyển đến ở với con. Chỉ sợ còn có chuyện phiền toái. Người ta sao lại dễ dàng đem kiếm phổ trao vào tay chúng ta? Hai cha con ta cần phải hợp lực đối phó. Tương lai phát đại tài, còn lo gì không có chỗ ở?

Thích Phương nghe đến chữ “xây” chợt như có một tia chớp lóe qua đầu, lập tức hiểu rõ: “Họ… họ đã đem thi thể cha xây vào trong tường, giấu xác chết xóa tung tích, thảo nào cha ra đi không bao giờ trở lại, không có tin tức gì cả. Thảo nào công công… không, không phải công công, thảo nào cái lão gian tặc Vạn Chấn Sơn cứ nửa đêm giờ tí lại dậy xây tường. Lão làm việc xấu xa, trong lòng bất an, bị bệnh mộng du trong giấc ngủ cũng dậy xây tường. Lão gian tặc này… lão gian tặc này mà cũng bất an trong lòng à? Điều này cũng lạ. Không, không phải là lòng lão cảm thấy bất an, lão hết sức đắc ý với cái việc xây tường ấy, ngay cả trong lúc ngủ cũng cứ phải lần này lượt khác… vừa nãy lão xây tường trong mộng chẳng phải là cứ luôn mỉm cười đó sao?”

* * *

Chỉ nghe thấy Vạn Khuê nói:

– Cha, rốt cuộc là kiếm phổ này có chỗ nào hay? Cha cứ bảo là chúng ta sắp phát đại tài, sắp giàu to, có thể giàu nhất thiên hạ à? Lẽ nào… lẽ nào đây không phải là bí quyết võ công, mà là vàng bạc của cải?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đương nhiên không phải là bí quyết võ công, những điều viết trong kiếm phổ là chỉ nơi giấu một kho báu. Cái lão Mai Niệm Sinh ấy, mỡ heo bọc mất trái tim, định đem kiếm phổ này truyền cho người ngoài, hi hi, cái lão đáng chết. Khuê nhi, mau, mau lấy kiếm phổ ra.

Vạn Khuê hơi tần ngần, rút cuốn sách từ trong người ra. Thì ra sau khi Thích Phương giấu quyển sách vào trong bụng cái quạt thóc, Vạn Khuê đã lén theo lấy đi.

Vạn Chấn Sơn nhìn con trai một cái, cầm lấy cuốn sách, giở từng trang ra. Bộ Đường thi này những trang gần bìa đều bị ngấm nước máu chưa khô, còn những trang giữa thì chưa bị ướt.

Vạn Chấn Sơn hạ giọng nói:

– Cha con ta có giữ được kiếm phổ này không, thật khó nói. Trước hết chúng ta phải tra cho rõ những điều áo bí trong sách, lỡ có bị người ta cướp mất, cũng không sao. Con cầm cây bút tới đây, ghi lại cẩn thận. Chiêu thứ nhất của “Liên thành kiếm pháp” là ở trong bài thơ “Xuân quy” của Đỗ Phủ.

Lão thấm nước miếng vào ngón tay, làm ướt một bên bài thơ “Xuân quy” của Đỗ Phủ, khẽ kêu lên một tiếng vui mừng:

– Là chữ thứ tư! Đúng, “Đài kinh lâm giang trúc”, chữ thứ tư là chữ “giang”, con ghi đi. Chiêu thứ hai, vẫn là thơ Đỗ Phủ, ở bài “Trùng kinh Chiêu lăng”.

Lão lại thấm nước miếng vào ngón tay, làm ướt một bên trang sách:

– Ôi, là chữ thứ “năm mươi mốt”!

Lão cứ đếm từng chữ từng chữ:

– Năm, mười, mười lăm, hai mươi… “Lăng tẩm bàn không khúc, Hùng bi thủ thúy vi.” Chữ thứ năm mươi mốt là chữ “lăng”. “Giang lăng”, “Giang Lăng”, diệu cực, hay quá, thì ra quả nhiên là ở Kinh Châu.

Vạn Khuê nói:

– Cha, cha nói nhỏ một chút!

Vạn Chấn Sơn tủm tỉm cười, nói:

– Đúng rồi! Không thế đắc ý vong hình. Khuê nhi, tâm huyết một đời của cha, thế là không phí hoài, bí mật lớn này rốt cuộc đã được chúng ta khám phá ra!

Đột nhiên, lão gấp sách lại, vỗ đùi đánh đét, hạ giọng nói:

– Vì sao kẻ địch lại đưa kiếm phổ này vào tay cha, cha hiểu rõ rồi!

– Là vì duyên cớ gì? Con nghĩ mãi không ra.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Kẻ địch được kiếm phổ, không tìm ra được bí mật trong đó, thì có tác dụng cái rắm gì? “Liên thành kiếm pháp” của chúng ta, tên gọi mỗi chiêu đều là một câu thơ Đường, người của môn phái khác, dù võ công có như trời đi nữa thì cũng không thể nào biết được. Trên thế giới này chỉ có cha và Ngôn Đạt Bình mới biết chiêu thứ nhất là câu thơ nào, chiêu thứ hai lại là câu thơ nào. Vậy mới biết chữ thứ nhất phải tìm trong bài thơ “Xuân quy”, chữ thứ hai phải tìm trong bài thơ “Trùng kinh Chiêu lăng”.

Vạn Khuê nói:

– Tên gọi các chiêu của “Liên thành kiếm pháp” này chẳng phải là cha đã dạy chúng con rồi sao?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Tên thì đúng, nhưng thứ tự thì rối loạn cả.

Vạn Khuê buồn bã:

– Cha, đến con mà cha cũng không dạy kiếm pháp thật.

Vạn Chấn Sơn có vẻ bối rối, nói:

– Cha có tám đệ tử, mọi người hôm sớm đều ở chung, nếu chỉ dạy một mình con, họ nhất định cũng sẽ biết, như thế thì thật không hay.

Vạn Khuê “ầy” một tiếng, nói:

– Âm mưu của kẻ địch nhất định là thế này. Hắn biết dùng nước làm ướt trang giấy thì sẽ có dấu chữ hiện ra, vì thế cố ý đưa kiếm phổ vào tay chúng ta, lại cố ý thấm ướt khiến chúng ta tra ra bí mật nằm trong kiếm phổ, đế chúng ta đi tìm kho báu, hắn sẽ dùng cách “cường đạo gặp kẻ cướp” để cướp của chúng ta.

Vạn Chấn Sơn gật gù:

– Đúng thế! Chúng ta mỗi bước đều phải đề phòng, chớ để cho bao nhiêu công khó nhọc của chúng ta đổ ra mà không lấy được kho báu, đến cả tính mạng cũng mất nốt.

Lão lại thấm ướt ngón tay tìm chữ thứ ba, nói:

– Chiêu thứ ba là ở bài thơ “Thánh Quả tự” của Xử Mặc, ba mươi ba, chữ thứ ba mươi ba, “Hạ phương thành quách cận, Chung khánh tạp sinh ca.” A, là chữ “thành” trong bài thơ này, “Giang Lăng thành”, đúng rồi, đúng rồi! Còn nghi ngờ gì nữa? Ái chà, sao ngứa dữ thế này?

Lão đưa tay phải gãi gãi lên mu bàn tay trái, cảm thấy tay phải cũng ngứa, lại đưa tay trái lên gãi gãi tay phải, rồi lại xem kiếm phổ, nói:

– Chiêu thứ tư này, là chữ thứ hai mươi tám, ầy, năm, mười, mười lăm… chữ thứ hai mươi tám là chữ “nam”. “Giang Lăng thành nam”, ha ha, ối! Ngứa quá!

Lão cúi xuống nhìn bàn tay trái, thấy trên mu bàn tay có ba ngấn mực, cảm thấy sờ sợ: “Hôm nay mình không viết chữ, sao trên mu bàn tay lại có vết mực đen?” Rồi cảm thấy hai mu bàn tay mỗi lúc một ngứa, nhìn bàn tay phải cũng có mấy ngấn mực ngang ngang dọc dọc.

Vạn Khuê “a” lên một tiếng, nói:

– Cha, ở… ở đâu ra vậy? vết này giống như vết rết độc của Ngôn Đạt Bình cắn.

Vạn Chấn Sơn được lời Vạn Khuê nhắc, cảm thấy hai tay càng ngứa râm ran, nhịn không nối đưa cả hai tay ra gãi cuống cuồng.

Vạn Khuê kêu lên:

– Đừng gãi, là… là móng tay của cha bị dính chất độc đấy.

Vạn Chấn Sơn kêu tướng:

– Ái chà! Quả là thế thật!

Lão lập tức tỉnh ngộ:

– Con dâm phụ kia đem kiếm phổ ngâm vào trong nước máu, trong máu của con có độc rết… Cái thằng giặc Ngô Khảm kia không chịu chết cho yên lại còn cào trên tay ta bao nhiêu là vết xước chảy máu. Mẹ cha nó, độc rết ngấm vào vết xước, may mà không nhiều, xem ra cũng không ngại lắm. Á, sao mỗi lúc một đau, ái chà, ái chà.

Lão không nhịn được rên rỉ.

Vạn Khuê nói:

– Cha, cha trúng độc không nhiều, con đi lấy nước mưa cho cha rửa.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Phải rồi!

Rồi lão lớn tiếng gọi:

– Đào Hồng, Đào Hồng! Đem nước tới đây!

Vạn Khuê lông mày nhăn tít, nghĩ: “Cha sợ đến nỗi hoảng cả lên, Đào Hồng đã bị cha đuổi rồi, bây giờ còn gọi mụ ta.” Hắn cầm một cái chậu đồng rửa mặt, lấy một chậu nước mưa từ trong cái vại hứng ngoài thềm, bưng vào đặt lên bàn. Vạn Chấn Sơn vội đưa hai tay vào trong chậu nước lạnh, mát mẻ, bớt ngứa ngay.

Nào ngờ độc rết trên tay Vạn Khuê gặp phải thuốc giải, máu đen chảy ra cũng là một chất kịch độc, độc tính còn ghê gớm hơn cả nọc độc của con rết kia. Mu bàn tay của Vạn Chấn Sơn bị Ngô Khảm cào thấu thịt gặp phải chất kịch độc nên trúng độc còn sâu hơn cả Vạn Khuê.

Hai tay lão ngâm vào trong chậu nước trong một lúc, một chậu nước đã biến thành đen như mực.

Cha con họ Vạn nhìn nhau thất sắc. Vạn Chấn Sơn đưa hai bàn tay lên, không kìm được “a” lên một tiếng kêu thất thanh, thấy hai bàn tay sưng tấy lên như hai quả cầu. Vạn Khuê nói:

– Ái dà, e rằng không được ngâm nước!

Vạn Chấn Sơn đau đớn điên cuồng, mắng:

– Ngươi đã biết là không được ngâm nước sao còn múc nước đến, chẳng phải là có ý hại ta sao?

Vạn Khuê cũng đau nhảy dựng lên:

– Con vốn cũng không biết, chứ sao lại có ý hại cha?

Thích Phương ở dưới gầm giường nghe hai cha con cãi nhau, trong lòng cũng không biết là buồn bã hay vui mừng vì có cơ hội trả thù.

Nghe Vạn Chấn Sơn kêu:

– Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Vạn Khuê nói:

– Trên lầu con có một ít thuốc giảm đau, tuy không thề giải độc nhưng cũng có thể bớt đau đớn một lúc, cha có cần bôi một chút không?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Được, được, được! Mau đem lại đây!

Vạn Khuê nói:

– Có hiệu quả hay không con cũng không biết, e rằng càng bôi càng khó lành, rồi cha lại đá con.

Vạn Chấn Sơn chửi:

– Đồ khốn kiếp! Còn chưa chịu đi à? Cha mày đẻ ra mày, có đá mày một đá thì đã làm sao? Đi mau, mau đi lấy lại đây!

– Vâng!

Vạn Khuê quay mình bước đi.

Hai tay Vạn Chấn Sơn sưng vù lên, hai mu bàn tay đen sì, nhẵn bóng không có một nếp nhăn nào, như một cái bong bóng lợn thối căng, mỗi lúc một căng phồng, như sắp nổ ra, lão gào lên:

– Tao đi với mày! Không… không thể chậm trễ được.

Lão nhét kiếm phổ vào trong áo, lao ra khỏi phòng, vượt lên trước Vạn Khuê.

* * *

Thích Phương nghe tiếng hai người đã đi xa vội từ dưới gầm giường bò ra, tần ngần: “Đi đâu được bây giờ?” Ngơ ngẩn như người mất hồn không biết làm sao, chỉ cảm thấy trời đất mênh mang chống chếnh mà mình không một chỗ an thân: “Họ đã hại chết cha mình, thù này há không báo? Nhưng mối thù sâu tựa bể này biết báo cách nào đây? Nói về võ công, cơ trí mình kém công công và tam ca quá xa, huống nữa họ cho rằng mình có tư tình với Ngô Khảm, thấy mình là giết ngay, mình làm sao mà chống đỡ? Trước mắt chỉ có đi… đi tìm Địch sư ca, rồi sẽ tính. Nhưng lại không biết huynh ấy bây giờ đang ở đâu? Còn Không Tâm Thái? Mình làm sao bỏ rơi con được?” Vừa nghĩ đến con gái, cô lập tức co chân chạy về phía lầu, quyết bồng con gái chạy trốn, rồi sẽ nghĩ cách báo thù sau.

Trong lòng cô còn không hoàn toàn dám xác định cha con họ Vạn đã thật sự hại chết phụ thân cô. Vạn Chấn Sơn là kẻ lòng lang dạ sói, đó là điều chắc chắn. Nhưng còn Vạn Khuê? Tình yêu đối với chồng thật khó mà quyết tuyệt.

Cô chạy đến dưới lầu nghe thấy tiếng Vạn Chấn Sơn quát tháo, nghĩ bụng: “Kêu kiểu ấy thì Không Tâm Thái thức giấc mất.” Nghĩ đến con phải kinh hãi, cô không còn quan tâm đến nguy hiểm của bản thân mình nữa, rón rén bước lên lầu, cẩn thận không để cầu thang phát ra tiếng động. Phòng ngủ nhỏ của Không Tâm Thái ở ngay sau phòng của vợ chồng cô, chỉ cách một lớp ván mỏng.

Thích Phương rón rén đi vào phòng nhỏ, ánh sáng bên phòng kia chiếu qua, cô thấy con gái mở mắt tròn xoe, đã tỉnh dậy từ lâu, mặt đầy vẻ sợ hãi. Vừa trông thấy mẹ, cái miệng nhỏ méo xệch rồi khóc vang lên. Thích Phương vội vàng nhảy tới, ôm nó vào lòng ra hiệu bảo nó không được lên tiếng. Không Tâm Thái vừa rất thông minh vừa biết nghe lời lập tức im thin thít, hai mẹ con ôm nhau nằm trên giường.

Nghe Vạn Chấn Sơn kêu toáng lên:

– Không xong, không xong, thuốc giảm đau này càng bôi càng đau, cần phải tìm được thằng cha lang băm kia dùng thuốc giải của hắn mới được.

Vạn Khuê nói:

– Vâng ạ, chỉ có thuốc giải ấy mới trị được độc này. Đợi trời sáng bảo Lỗ đại ca và các anh em cùng đi tìm lang trung ấy, vết thương trên tay con cũng đau lăm.

Vạn Chấn Sơn tức giận:

– Làm sao mà chờ được đến sáng? Ái dà, ái dà! Chịu không nổi nữa, chịu không nổi nữa!

Bỗng chân lão bủn rủn, ngã phịch xuống, lăn lộn kêu gào:

– Mau, mau! cầm lấy kiếm, chặt đứt đôi tay cho ta! Mau chặt tay ta!

Nghe trong phòng tiếng đổ vỡ loảng xoảng đồ đạc bị đập phá tanh bành.

Không Tâm Thái sợ quá ôm chặt lấy mẹ mặt tái mét. Thích Phương đưa tay nhè nhẹ vuốt ve an ủi nhưng không dám lên tiếng.

Vạn Khuê cũng hết sức kinh hoảng, nói:

– Cha… cha, nhẫn nại một chút, tay của cha làm sao mà chém đi được? Chúng ta mau tìm thuốc giải mới phải.

Vạn Chấn Sơn đau đớn không chịu nổi, quát:

– Ngươi sao không chém đứt hai tay ta? A, biết rồi, ngươi… ngươi muốn ta chóng chết đế một mình nuốt chửng kiếm phổ, muốn một mình đi tìm kho báu…

Vạn Khuê nổi giận:

– Cha, cha đau đến mất trí rồi, mau lên giường ngủ một lát. Con không biết thứ tự các chiêu kiếm thì được kiếm phổ cũng có tác dụng gì?

Vạn Chấn Sơn không ngừng lăn lộn, nói:

– Ngươi bảo ta mất trí, ngươi cũng có lòng dạ bất lương. Ta đau muốn chết… muốn chết… xé quách đi, không ai được hết.

Bỗng, mắt lão đỏ nọc lên, rút kiếm phổ từ trong người ra, đưa tay xé nát từng trang, mười ngón tay của lão ngón nào cũng sưng phồng lên to như củ cà rốt, động tác không linh hoạt được nhưng vẫn xé được mấy trang.

Vạn Khuê cả sợ, kêu lên:

– Đừng xé, đừng xé!

Rồi giơ tay đoạt lấy. Hắn chụp được nửa quyển kiếm phổ, Vạn Chấn Sơn thì giữ chặt nửa kia, nắm chắc không buông. Kiếm phổ này đã bị ngâm trong nước máu chưa khô, mềm nhũn, hai người giành giật một lúc đã toạc làm đôi. Vạn Khuê ngẩn người ra, Vạn Chấn Sơn vẫn xé. Vạn Khuê không cam lòng để cho kho báu đã tới tay bỗng hóa thành mây khói, vội đưa tay ra đẩy phụ thân. Hai người lăn lộn trên nền nhà tranh cướp, lăn lăn lộn lộn khiến kiếm phổ càng rách tả tơi.

Bỗng nghe thấy tiếng Vạn Khuê rú dài:

– Ôi giời ơi… hỏng rồi… độc lại thấm vào vết thương của con, ái ái, đau quá!

Hai người lôi lôi kéo kéo, chất độc thấm vào vết thương trên tay Vạn Khuê. Khoảnh khắc mu bàn tay Vạn Khuê lại sưng vù lên đau đến tận tim. Hắn bị thương đã lâu, sức chịu đựng rất yếu, chất độc vừa thấm vào vết thương, theo máu đi lên, phát tác rất nhanh. Hai cha con lăn đi lăn lại quay cuồng trên sàn lầu, gào rú thê thảm.

Thích Phương nghe hồi lâu, rốt cuộc vợ chồng tình sâu, không thể không quan tâm, bèn đứng dậy, bước đến cửa, lạnh lùng nói:

– Sao thế? Hai người làm gì vậy?

Cha con họ Vạn thấy Thích Phương, trong cơn đau đớn không còn lòng dạ nào mà tức giận nữa.

Vạn Khuê kêu:

– Phương muội, mau đi tìm vị lang trung kia, nhờ ông ta chế thuốc giải, ái, ối giời, ối giời ơi… thật là… thật là đau chết mất, xin muội…

Thích Phương thấy hắn đau vã mồ hôi, lòng lại mềm đi, rút cái bình sứ ra, nói:

– Đây là thuốc giải!

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê thấy cái bình sứ, cùng giãy giụa bò tới, cùng nói:

– Hay quá! Mau, mau bôi cho ta.

Thích Phương thấy ánh mắt Vạn Chấn Sơn hung dữ tham lam như dã thú, nghĩ nếu không nhân lúc ngặt nghèo này đế tra thì làm sao biết rõ được chân tướng, bèn nói:

– Khoan đã, ai động đậy một chút, tôi sẽ ném giải dược qua cửa sổ, rơi vào ao nước, mọi người đều chết!

Nói rồi đẩy cánh cửa sổ mở ra, lại mở nắp bình, treo bình thuốc ra ngoài cửa sổ, chỉ cần buông tay một cái, chiếc bình sứ sẽ rơi vào nước, không còn tác dụng nữa.

Cha con họ Vạn lập tức nằm im, nhìn nhau kinh sợ. Vạn Chấn Sơn bỗng nói:

– Con dâu hiền, con đưa thuốc giải cho ta, ta sẽ cho con đi theo Ngô Khảm, xa chạy cao bay, quyết không ngăn cản, ngoài ra còn cho con một ngàn lạng bạc, để hai người sống lâu dài… úi giời ơi, đau quá… Con đã có lòng dạ khác, Khuê nhi cũng không giữ con được nữa… con… con yên tâm mà đi.

Thích Phương nghĩ bụng: “Người này thật là ti bỉ vô sỉ, Ngô Khảm rõ ràng là đã bị lão tự tay bóp chết, lại còn lừa người.”

Vạn Khuê cũng nói:

– Phương muội, huynh tuy không thể bỏ được muội, nhưng chẳng còn cách nào, huynh hứa là không làm khó Ngô Khảm.

Thích Phương cười nhạt một tiếng nói:

– Hai người tệ hại quá thể, lại còn có ý nghĩ ti bỉ như vậy. Tôi chỉ hỏi một câu, các người trả lời cho thật, tôi lập tức cho thuốc giải.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Được, được, hỏi mau đi, ối ối, úi giời!

Một cơn gió từ ngoài cửa sổ thổi vào, khiến những mảnh giấy vụn bay lên như bươm bướm. Giấy vụn từ kiếm phổ bị xé, từng mảnh từng mảnh bay ra ngoài cửa sổ. Bỗng, một đôi bướm màu bay lên, chính là đôi bướm bằng giấy cô cắt năm nào, kẹp trong tập thơ. Hai con bướm giấy chao lượn trong phòng, rồi cũng bay qua cửa sổ. Thích Phương chua xót trong lòng nhớ lại cảnh cùng vui vẻ bện giày với Địch Vân trong hang núi. Thế giới lúc bấy giờ tốt đẹp biết bao, trong trời đất không hề có chuyện thương tâm.

Vạn Khuê giục giã:

– Mau hỏi đi! Việc gì? Huynh không có gì là không nói.

Thích Phương lặng người, hỏi:

– Cha tôi đâu? Các người đã làm gì cha tôi?

Vạn Chấn Sơn gượng cười:

– Con hỏi việc cha con, ta… ta cũng không biết. Ái giời ơi… Ta rất nhớ vị lão sư đệ… Ái, ái! Sư huynh đệ lại thành sui gia, ái giời ơi, thật là hay.

Thích Phương sa sầm mặt, nói:

– Lúc này mà còn nói những lời giả dối ấy thì được ích gì? Cha ta bị ngươi hại chết, phải không? Ngươi đã giết cha ta như giết Ngô Khảm, phải không? Ngươi đã đem thi thể cha ta xây vào tường, phải không?

Thích Phương hỏi liền ba tiếng “phải không”, cha con họ Vạn sợ hãi cùng cực, không ngờ cô không những biết phụ thân của mình bị hại, đến cả việc Ngô Khảm bị giết cũng biết rồi. Vạn Khuê lắp bắp hỏi:

– Sao… sao muội biết?

Hắn nói “sao muội biết”, tức là trực tiếp thừa nhận việc ấy. Thích Phương trong lòng đau đớn, lửa giận bốc lên, muốn buông tay cho thuốc giải rơi vào bảy cái chum nước dưới cửa sổ. Vạn Khuê thấy tình thế nguy cấp, lấy thế muốn vọt lên chụp lấy. Vạn Chấn Sơn quát:

– Khuê nhi, không được hấp tấp!

Lão biết trong tình thế này cướp đoạt thì hỏng việc.

Bỗng, cọt kẹt mấy tiếng, Không Tâm Thái chân trần từ phòng nhỏ chạy ra, kêu lên:

– Mẹ, mẹ!

Muốn nhào vào lòng Thích Phương.

Vạn Khuê nảy linh cơ, chìa tay trái ra, ngang giữa chừng ôm lấy con gái, tay phải móc cây chủy thủ ra, chĩa vào thiên linh cái (thóp) con bé, quát lên:

– Được, một nhà ta, lớn bé hôm nay đều chết cả, ta giết Không Tâm Thái trước rồi hãy nói chuyện sau!

Thích Phương hốt hoảng, vội kêu:

– Mau buông nó ra, liên can gì đến con?

Vạn Khuê nghiêm giọng nói:

– Cả nhà không thể sống được, ta phải giết Không Tâm Thái trước.

Mũi chủy thủ dứ dứ trên đầu Không Tâm Thái.

Thích Phương nói:

– Không, không!

Cô nhào tới cứu, chụp lấy cổ tay Vạn Khuê.

Vạn Chấn Sơn tuy đang đau thấu xương, nhưng rốt cuộc lão vẫn là người từng trải, thấy Thích Phương lao qua bèn lấy cùi chỏ huých lên, đánh mạnh vào hông cô, nhanh tay đoạt lấy cái bình sứ trong tay cô, vội vàng đố thuốc lên mu bàn tay. Vạn Khuê cũng đưa tay ra lấy thuốc giải. Thích Phương giành lại được con gái, ôm chặt vào lòng.

Vạn Chấn Sơn phóng chân đá cô ngã nhào, tiện tay cởi luôn dây lưng, trói chặt hai tay cô ra sau lưng, lại trói chặt cả hai chân. Không Tâm Thái gào lên:

– Mẹ, mẹ, mẹ!

Vạn Chấn Sơn trở tay tát cho nó một cái, con bé ngất xỉu, nhưng cái tát ấy làm tay lão bị động mạnh lại kêu toáng lên: “Ái dà!”

Thuốc giải thật linh nghiệm, hai người bôi thuốc, chỉ chốc lát nước máu đã chảy ra, đau đớn giảm dần, biến thành tê ngứa, lát sau tê ngứa cũng giảm. Hai cha con yên tâm, biết là đã lượm lại được cái mạng, thấy những mảnh giấy vẫn lất phất bay qua cửa sổ, hai người cùng kêu lên:

– Hỏng bét!

Nhào tới ngăn lại.

Nhưng những mảnh giấy rách đã bết lại, quá nửa đã rơi vào những chum nước bên dưới cửa sổ, một ít nữa thì đang bay lả tả ngoài cửa sổ. Vạn Chấn Sơn kêu:

– Mau, mau, mau chụp lấy!

Hai người lao xuống lầu, gắng hết sức chụp lấy những mảnh giấy vụn đang bay lả tả. Nhưng hàng ngàn mảnh giấy vụn mảnh thì phất phới bay ra ngoài tường bao, mảnh thì bị gió cuốn lên cao. Hai cha con lao đông nhào tây như điên như cuồng, nhưng làm sao có thể nhặt nhạnh được những mảnh vụn, làm sao có thể chắp được vô số mảnh vụn thành kiếm phổ?

Vạn Chấn Sơn tuy bớt đau nhưng nỗi đau trong lòng lại càng ghê gớm, khí giận hừng hực, lớn tiếng mắng nhiếc con trai:

– Toàn vì thằng tiểu tặc nhà mi, tranh đoạt với ta làm chi? Nếu mày không lôi kéo, kiếm phổ đâu có bị rách nát thế này?

Vạn Khuê thở dài, không lao đi nhặt giấy vụn nữa, ngao ngán nói:

– Nếu con không ngăn lại, cha còn xé kiếm phổ nát bét hơn kia.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Đánh rắm!

Lão biết con trai nói đúng nhưng vẫn cứ hò hét:

– Đánh rắm, đánh rắm, đánh rắm!

Vạn Khuê nói:

– May mà chúng ta đã biết chỗ ấy là ở phía nam thành Giang Lăng, thử tra lại trong bản kiếm phổ rách nát, chỉ cần dò ra một chút đầu mối nữa, thì cũng có thê tìm ra.

Vạn Chấn Sơn bỗng hung phấn lên, nói:

– Không sai, nơi ấy là ở “Giang Lăng thành nam”…

Bỗng nghe ở bên ngoài tường có tiếng người khe khẽ nhắc lại:

– “Giang Lăng thành nam”!

Cha con họ Vạn giật nảy mình, cùng nhảy ra đứng trên mặt tường, nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bóng lưng hai người thấp thoáng chạy vào con hẻm nhỏ.

Vạn Khuê quát:

– Bốc Viên, Thẩm Thành, đứng lại!

Nhưng hai người không quay đầu cũng không đứng lại, chạy như bay. Vạn Chấn Sơn muốn nhảy xuống đuổi theo. Vạn Khuê nói:

– Cha, trên lầu còn có… còn có… con dâm phụ kia.

Vạn Chấn Sơn nghĩ lại, gật gật đầu.

* * *

Hai cha con lại lên lầu, thấy bé Không Tâm Thái đã tỉnh lại, ôm lấy mẹ khóc ròng. Thích Phương chân tay đã bị trói đang an ủi con gái. Không Tâm Thái thấy ông nội và cha quay lại, “òa” lên một tiếng, khóc vang.

Vạn Chấn Sơn đá vào mông con bé, mắng:

– Lại khóc, một nhát đao mổ bụng con ranh này.

Không Tâm Thái sợ tái mét mặt, im thin thít. Vạn Khuê hạ giọng nói:

– Cha, con dâm phụ này biết hết mọi chuyện rồi, không thể để nó sống được, xử trí nó thế nào đây?

Vạn Chấn Sơn hơi trầm ngâm, rồi nói:

– Hai đứa ngoài tường vừa nãy, con nhìn rõ là Bốc Viên và Thẩm Thành à?

Vạn Khuê nói:

– Đúng là hai đứa ấy, không sai được! Chỉ sợ bí mật đã bị tiết lộ, chúng biết là ở phía nam thành Giang Lăng.

Vạn Chấn Sơn nói:

– Không nên chậm trễ, cần phải ra tay ngay. Con dâm phụ này, phải xử trí như cha nó.

Thích Phương đã sớm không quan tâm đến sự sống chết, chỉ còn không yên lòng về con gái. Cô nói:

– Tam… tam ca, muội và huynh đã là vợ chồng, huynh giết muội cũng không sao, sau khi muội chết, huynh hãy đối xử tốt với Không Tâm Thái!

Vạn Khuê nói:

– Được!

Vạn Chấn Sơn hầm hầm:

– Nhổ cỏ phải nhổ tận rễ, há để lại họa thai? Con bé này ranh mãnh tinh quái, việc hôm nay nó đều nhìn thấy hết, lấy gì đảm bảo nó không nói ra?

Vạn Khuê chầm chậm gật gật đầu. Hắn rất yêu con gái, nhưng lời của phụ thân cũng rất đúng, nếu lưu lại họa thai, cái mầm tai họa này tương lai sẽ gây hậu họa cực lớn.

Thích Phương nước mắt ròng ròng, nghẹn ngào nói:

– Các… các người lòng lang dạ sói, đến… đến đứa con bé bỏng cũng không buông tha sao?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Chặn họng nó lại, đừng để nó kêu gào, làm cho cả thiên hạ đều biết!

Thích Phương nghĩ đến con gái khó toàn mạng, bỗng cất tiếng gào to:

– Cứu với, cứu tôi với!

Trong đêm tĩnh mịch hai tiếng kêu “cứu mạng” xé rách màn đêm vọng đi thật xa.

Vạn Khuê nhảy phóc đến, đưa tay bịt miệng cô, Thích Phương vẫn gào to:

– Cứu mạng, cứu mạng!

Nhưng miệng đã bị bịt, tiếng kêu tắc lại.

Vạn Chấn Sơn xé một mảnh trên vạt trường bào của con trai đưa cho Vạn Khuê, Vạn Khuê liền nhét búi giẻ vào miệng Thích Phương. Vạn Chấn Sơn nói:

– Đem nó chôn vào một chỗ với Thích Trường Phát, cha con cùng huyệt, tuyệt lắm.

Vạn Khuê gật đầu, ôm Thích Phương lên, mạnh chân chạy xuống lầu. Vạn Chấn Sơn ôm Không Tâm Thái. Bốn người đến thư phòng.

Thích Phương nhìn bức tường trắng ở phía tây thư phòng, nghĩ: “Cha mình bị lão tặc chôn vào trong bức tường kia à?”

Vạn Chấn Sơn nói:

– Ta tới đục tường, con đi kéo Ngô Khảm lại đây! Cẩn thận, đừng để người ta nhìn thấy.

Vạn Khuê đáp:

– Vâng!

Rồi chạy vào phòng Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn rút ngăn kéo, trong đó đầy những kích, dùi, lưỡi xẻng… các thứ dụng cụ đều đầy đủ. Lão lấy ra đặt bên chân tường, nhìn bức tường trắng, hai tay đo đo, quay đầu nhìn Thích Phương một cái, mặt lộ vẻ đắc ý. Thích Phương lạnh buốt. Vạn Chấn Sơn cầm cái đột sắt và cái choòng, ngắm kỹ vị trí trên bức tường, nhằm vào kẽ giữa hai hàng gạch, xỉa cái choòng vào. Lão nạy một viên gạch, đưa tay lắc lắc mấy cái rồi rút ra, động tác rất là thuần thục… Sau khi lấy viên gạch ra, lão đưa lên mũi ngửi ngửi.

Thích Phương thấy động tác đục tường của lão, nhớ lại các động tác đục tường, đẩy thi thể, xây tường trong cơn mộng du của lão lúc nãy mà rợn tóc gáy, đến khi thấy lão ngửi ngửi mùi xác chết của phụ thân trong hốc tường thì vừa sợ, vừa đau lòng vừa phẫn nộ, cất tiếng mắng nhiếc:

– Đồ gian tặc nhà ngươi, lão gian tặc vô sỉ!

Nhưng miệng bị nhét đầy giẻ chỉ phát ra được những tiếng ú ớ.

Vạn Chấn Sơn lại đào khối gạch thứ hai, bỗng có tiếng bước chân gấp gáp, Vạn Khuê hộc tốc chạy đến, hổn hển nói:

– Cha, cha! Không xong rồi, Ngô Khảm… Ngô Khảm…

Hắn đụng phải cái bàn, tiếng loảng xoảng vang lên, cái đèn dầu rơi xuống đất, trong phòng tối đen chỉ thấy ánh trăng rọi qua lớp giấy bồi cửa sổ mờ mờ.

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Ngô Khảm thế nào? Nhặng xị cả lên, không nén được tức giận à?

Vạn Khuê nói:

– Không thấy Ngô Khảm nữa!

Vạn Chấn Sơn chửi:

– Nói như rắm! Sao không thấy?

Nhưng giọng lão hơi run, rõ ràng lòng đầy sợ hãi, “bốp” một tiếng, viên gạch đang cầm trong tay rơi xuống đất.

Vạn Khuê nói:

– Con thò tay xuống dưới gầm giường của cha để kéo thi thể ra, nhưng mò không được, thắp đèn lên soi dưới gầm giường, cái xác đã không còn nữa. Con tìm khắp sau rèm, sau tủ, chỗ nào cũng tìm nhưng không thấy gì cả.

Vạn Chấn Sơn trầm ngâm, lát sau mới nói:

– Thật là… thật là quái gở. Ta đoán là bọn Bốc Viên, Thẩm Thành lại giở trò ma.

Vạn Khuê nói:

– Cha, phải chăng… hay là… cái thằng Ngô Khảm đó chưa chết, nín thở một lúc, lại sống lại?

Vạn Chấn Sơn nổi giận:

– Nói như rắm, bố mày ngoại hiệu là “Ngũ vân thủ”, công phu lợi hại lẽ nào bóp một thằng đồ đệ nhãi nhép mà bóp không chết?

Vạn Khuê nói:

– Vâng, lẽ ra Ngô Khảm phải bị gia gia bóp chết rồi, nhưng không biết sao lại không thấy thi thể nữa? Lẽ nào… lẽ nào…

– Lẽ nào làm sao?

– Lẽ nào thật có việc xác chết biết đi? Oan hồn của hắn…

Vạn Chấn Sơn thét:

– Đừng nói bậy! Chúng ta mau xử trí con dâm phụ và con quỷ con này, rồi hãy tìm xác Ngô Khảm. Khéo rồi chuyện vỡ lở, cha con ta không còn chỗ dung thân ở đất Kinh Châu này.

Nói rồi lão càng khẩn trương đục hết viên gạch này đến viên gạch khác. Lão đào gạch xây tường trong mộng đã quen, ra tay rất thành thạo, lúc này tuy không có đèn đuốc gì mà đào đục vẫn rất nhanh.

Vạn Khuê nghe lời cha, đáp:

– Vâng!

Rồi, đao trên tay, hắn đi đến trước Thích Phương, giọng run run:

– Phương muội, là muội có lỗi với huynh. Muội chết rồi, đừng oán huynh!

Thích Phương không cách gì nói được, né mình, dùng đầu vai huých mạnh vào y. “Cha con họ Vạn muốn giết mình thì đã đành, nhưng đến Không Tâm Thái họ cũng không tha, thật là lòng lang dạ sói trên đời hiếm có!” Vạn Khuê bị huých một cú, thân hình hơi loạng choạng lùi lại hai bước, vung đao, chửi:

– Con dâm phụ này, chết đến nơi còn ngông cuồng.

Đúng vào lúc ấy bỗng nghe mấy tiếng “cách cách cách” vang lên, cửa thư phòng từ từ mở ra. Vạn Khuê giật nảy mình, quay đầu lại, dưới ánh trăng thảm đạm chỉ thấy cửa phòng bị đẩy ra mà không thấy người.

Vạn Chấn Sơn quát hỏi:

– Ai?

Cửa phòng lại “cách cách, cách cách” mấy tiếng, vẫn không có người trả lời.

Dưới ánh sáng mờ mờ bỗng thấy từ trong cửa một người nhảy ra, người này cứ ngật ngưỡng đi tới, đầu gối không co duỗi. Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê đều kinh hãi lùi lại hai bước.

Chỉ thấy người kia hai mắt trợn ngược, lưỡi lè ra, mũi miệng đầy máu, chính là Ngô Khảm vừa bị Vạn Chấn Sơn bóp chết. Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê cùng rú lên “a… a…”

Thích Phương thấy cảnh tượng đáng sợ, trái tim như ngừng đập.

Ngô Khảm không nhúc nhích, hai tay từ từ giơ lên, chìa về phía Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn quát:

– Tiểu tặc Ngô Khảm, bố mày sợ… sợ… cái xác biết đi… này… này sao?

Lão rút đao ra, nhằm đầu Ngô Khảm bổ xuống, bỗng cảm thấy cổ tay tê dại, đơn đao cầm không vững, “keng” một tiếng rớt xuống đất. Rồi bên hông cũng tê dại, toàn thân không nhúc nhích được.

Vạn Khuê sợ chết cứng, thấy xác của Ngô Khảm sau khi “trêu” phụ thân lại chìa thẳng hai tay từ từ chụp về phía mình, chỉ muốn kêu lên “Ngô sư đệ, Ngô sư đệ! Tha cho huynh!” Nhưng tiếng nói nghẹt cứng trong họng, không thốt ra được. Hắn lùi hai bước, chân bủn rủn, ngã phịch xuống đất. Chỉ thấy tay phải Ngô Khảm thõng xuống, sờ lên mặt y, ngón tay lạnh buốt. Vạn Khuê sợ đến hồn xiêu phách lạc, suýt ngất đi.

Bỗng thân hình Ngô Khảm ngã sấp xuống, đè lên người Vạn Khuê, không hề động đậy.

Đằng sau Ngô Khảm, sừng sững một người.

Người này bước đến bên cạnh Thích Phương, rút búi giẻ trong miệng cô ra, hai tay vuốt xuống mấy cái, dây trói Thích Phương đứt hết, rồi người ấy xoay mình, đá mạnh một cú vào bên hông Vạn Khuê, toàn thân y lập tức mềm nhũn.

Thích Phương trước hết ôm lấy Không Tâm Thái, run giọng hỏi:

– Ân công là ai mà cứu mạng tôi?

Hai tay người ấy chìa ra, dưới ánh trăng, thấy trong mỗi tay người ấy có một con bướm được cắt bằng giấy hoa, chính là hai con bướm giấy kẹp trong cuốn “Đường thi tuyển tập”, khi chúng bị gió thổi bay xuống lầu người ấy đã lượm được. Thích Phương dụi mắt, thấy bàn tay phải của người ấy năm ngón đều không có, kêu lên thất thanh:

– Địch sư ca!

Người ấy chính là Địch Vân, nghe tiếng gọi “Địch sư ca” trong ngực bỗng cảm thấy ấm áp, không cầm được nước mắt trào ra. Chàng kêu lên:

– Phương muội, trời thương đến, muội… muội và huynh hôm nay lại được gặp nhau!

Thích Phương lúc này như một lá thuyền bé nhỏ lênh đênh trên biển mênh mang trước gió to sóng dữ bỗng gặp một bờ vịnh sóng yên gió lặng, nhào vào lòng Địch Vân, thổn thức:

– Sư ca, đây… đây… đây không phải giấc mộng chứ?

Địch Vân nói:

– Không phải là mộng, Phương muội, hai đêm nay huynh đều ở đây quan sát. Những việc làm thương thiên hại lý của hai cha con họ Vạn huynh đều thấy hết. Thi thể của Ngô Khảm, hừm, là do huynh cầm đến để dọa chúng một mẻ!

Thích Phương kêu lên:

– Gia gia, gia gia!

Cô đặt Không Tâm Thái xuống, lao đến trước hốc tường, thò tay vào mò trong hốc tường, nhưng cảm thấy trống không. “A” lên một tiếng, cô run giọng nói:

– Không… không có.

Địch Vân thắp cây bùi nhùi soi vào trong hốc tường, chỉ thấy đầy gạch đá vôi vữa chứ nào có thi thể của Thích Trường Phát. Chàng nói:

– Ở đây không có, không có gì cả.

Thích Phương lấy một cây nến đầu giường Vạn Chấn Sơn, châm lửa, đưa vào trong góc tường soi rõ nhìn kỹ, đâu có thi thể của phụ thân, thi thể của ai cũng không có. Cô vừa sợ vừa mừng, trong lòng còn một tia hy vọng: “Hay là gia gia không bị họ hại chết?” Cô quay lại hỏi Vạn Khuê:

– Tam… tam ca, cha tôi rốt cuộc thế nào?

Vạn Khuê và Vạn Chấn Sơn lại không biết cô không phát hiện được thi thể trong hốc tường, chỉ cho rằng cô thấy thi thể của phụ thân rồi sẽ ra tay báo thù. Vạn Chấn Sơn ngang nhiên nói:

– Đại trượng phu dám làm dám chịu, Thích Trường Phát là do ta giết, ngươi xông tới mà báo thù đi.

Thích Phương nói:

– Cha ta thật bị ngươi giết à? Thế thì… thi thể của cha ta đâu?

Vạn Chấn Sơn hỏi:

– Sao? Người chết trong hốc tường ấy lẽ nào lại không phải là hắn?

Thích Phương nói:

– Ở đây có người chết nào đâu?

Vạn Chấn Sơn và Vạn Khuê nhìn nhau, mặt mày tái mét, có vẻ không tin. Địch Vân kéo Vạn Chấn Sơn dậy cho lão thò đầu vào hốc tường mà nhìn.

Vạn Chấn Sơn run giọng:

– Trên đời quả… quả có xác chết biết đi à? Ta… rõ ràng… rõ ràng…

Bỗng lão đổi giọng:

– Con dâu ngoan… ta… ta lừa con đó, huynh đệ ta tuy bất hòa nhưng cũng không đến nỗi hạ độc thủ. Sao con lại tin là ta giết cha con thật? Ha ha, ha ha.

Bản lĩnh nói láo của lão vốn rất cao, nhưng lúc này lão đang hốt hoảng, miệng ngọng lưỡi cứng, lời nói láo thốt ra cứ lúng búng không ai tin được. Nếu như lão quật cường cứng cỏi thì Thích Phương và Địch Vân còn một chút hy vọng, chứ lão nói như thế hai người càng tin chắc lão đã hại chết Thích Trường Phát.

Địch Vân vỗ mạnh một chưởng vào vai lão, nói:

– Vạn sư bá, bác hại tôi rõ khổ, tất cả những việc ấy bất tất phải nhắc lại. Tôi chỉ hỏi sư bá: rốt cuộc có phải bác đã hại chết sư phụ tôi không?

Nói rồi chàng vận nội công “Thần chiếu kinh”, Vạn Chấn Sơn cảm thấy như toàn thân rơi vào một lò lửa, tựa hồ như máu cũng sôi lên, không chịu đựng nổi. Nghĩ đến thi thể Thích Trường Phát không biết đi đâu lão hoảng hốt, lòng dạ rối bời, không còn có ý kháng cự nữa, lão nói:

– Không… không sai. Thích Trường Phát là do ta giết.

Địch Vân lại hỏi:

– Thi thể của sư phụ tôi đâu? Bác đã đặt ở chỗ nào?

Vạn Chấn Sơn nói:

– Rõ ràng là ta đã đem y xây vào hốc tường này, là xác biến… biến mất sao?

Địch Vân hằm hằm nhìn lão, nhớ lại mấy năm qua, mình đã phải trải qua vô cùng vô tận khổ nạn, toàn là do sự hãm hại của hai cha con nhà này, lúc này Vạn Chấn Sơn lại tự thú nhận đã giết chết sư phụ, chàng sao cho khỏi lửa giận bốc lên ngùn ngụt? Nếu không phải là đã được gặp lại Thích Phương trong lòng niềm vui lớn hơn nỗi buồn thì chàng đã một chưởng lấy mạng lão. Chàng nghiến răng, nhấc Vạn Chấn Sơn lên, “bình” một tiếng, ném lão vào trong chỗ hổng bức tường. Thân thể Vạn Chấn Sơn to lớn, làm rơi mấy viên gạch mới lọt vào trong.

Thích Phương “a” lên một tiếng, kêu khẽ. Địch Vân lại nhấc thân thể Vạn Khuê lên, lại ném vào trong hốc tường Vạn Chấn Sơn mới đục thêm, nói:

– Một trả một, cha con lão hãm hại sư phụ, chúng ta cũng đối phó với họ như vậy.

Chàng nhặt những viên gạch dưới đất, xây kín hốc tường, trong khoảnh khắc, đã xây xong.

Thích Phương giọng run run:

– Sư ca… sư ca, huynh đã báo mối đại thù cho cha. Nếu không có huynh đến… Sư ca, thi thể của người này phải làm sao?

Cô chỉ vào xác Ngô Khảm.

– Chúng ta đi thôi! Những chuyện ở đây đừng quan tâm nữa.

Thích Phương nói:

– Hai người đã xây vào trong tường, còn chưa chết, nếu có người đến cứu…

Địch Vân nói:

– Người ta làm sao biết được trong tường có người? Chúng ta dời xác Ngô Khảm đi, người ngoài càng không đến đây điều tra. Hai người này chẳng sống được bao lâu nữa.

Chàng nhấc thi thể Ngô Khảm đi đến thư phòng, vẫy tay gọi Thích Phương:

– Đi thôi!

Hai người nhảy qua tường nhà họ Vạn, Địch Vân ném xác Ngô Khảm, hỏi:

– Sư muội, chúng ta đi đâu bây giờ?

Thích Phương hỏi:

– Huynh nghĩ gia gia có thật là đã bị họ hại chết không?

Địch Vân nói:

– Chỉ mong sư phụ vẫn khỏe mạnh. Có điều nghe Vạn Chấn Sơn nói, thì e rằng… thì e rằng sư phụ đã gặp nạn, chúng ta phải điều tra cho rõ ràng.

Thích Phương nói:

– Muội phải về lấy một ít đồ đạc, huynh đợi muội ở cái từ đường đổ nát bên kia.

Địch Vân nói:

– Để huynh đi với muội tốt hơn.

– Không, không nên! Nếu bị người ta nhìn thấy thì thật bất tiện.

– Huynh đi với muội tốt hơn, họ Vạn còn có những đệ tử khác, chẳng có ai là người tốt cả.

Thích Phương nói:

– Không sao. Huynh bồng Không Tâm Thái, đợi muội ở bên kia.

Không Tâm Thái trải qua một phen khủng khiếp, không chịu nổi, đã ngủ vùi trong lòng mẹ.

* * *

Địch Vân từ trước đến nay luôn nghe lời Thích Phương, thấy cô có vẻ kiên quyết, không dám trái ý, đành bồng con bé, thấy Thích Phương đã nhảy tường vào nhà họ Vạn, liền đi về phía từ đường, đẩy cửa bước vào.

Qua thời gian khoảng nấu xong bữa cơm, vẫn không thấy Thích Phương quay lại, Địch Vân lo lắng, muốn vào nhà họ Vạn đón cô nhưng sợ cô không vui, bồng Không Tâm Thái đi đi lại lại trước từ đường. Nghĩ đến việc cuối cùng lại được gặp sư muội, nỗi vui mừng không sao tả xiết, nhưng từ trong đáy lòng lại mơ hồ sợ hãi, không biết sư muội có chịu để cho mình bầu bạn với cô ấy mãi mãi không. Chàng cứ khấn thầm: “Ông trời hãy che chở, tôi đã nếm trải bao nhiêu đau khổ, hãy cho tôi từ nay về sau được ở bên cô ấy, che chở, chăm sóc cho cô ấy. Tôi không dám mong được làm chồng cô ấy, chỉ cần ngày ngày ngày được nhìn thấy cô ấy, cô ấy ngày ngày gọi tôi hai tiếng “Sư ca”. Ông trời ơi, tôi suốt đời suốt kiếp không cầu xin ông điều gì nữa.”

Bỗng chàng nghe thấy từ trong từ đường có tiếng lách cách, hình như là có người. Địch Vân nghiêng người, đứng im dưới cửa sổ. Lát sau, có tiếng đấy cửa, có người bước ra.

Trong bóng tối, thấp thoáng thấy một mụ ăn mày đầu bù tóc rối, Địch Vân không đề ý, chỉ nghĩ:“Sao Phương muội còn chưa trở lại?”

Không Tâm Thái trong mơ bỗng “òa” lên một tiếng, sợ hãi khóc to, kêu:

– Mẹ, mẹ!

Mụ ăn mày giật mình, co rúm lại trong góc hành lang, ôm chặt lấy đầu. Địch Vân khẽ vỗ vỗ Không Tâm Thái, dịu dàng nói với con bé:

– Đừng khóc, đừng khóc! Mẹ sắp đến rồi, mẹ sắp đến rồi!

Mụ ăn mày nghe thấy tiếng trẻ con, Địch Vân lại không có ý làm hại mụ, đánh bạo đứng lên, từ từ bước đến gần giúp chàng ru Không Tâm Thái:

– Bảo Bảo ngoan, đừng khóc, mẹ sắp đến rồi!

Mụ hạ giọng thì thầm nói với Địch Vân:

– Một người khi ngủ lại thấy ma, có người nửa đêm dậy xây tường, không… không… đừng hỏi tôi…

Địch Vân hỏi:

– Mụ nói gỉ?

Mụ ăn mày nói:

– Không… không có gì. Lão gia đuổi tôi. Ông ấy không cần tôi nữa, trước đây, khi tôi còn trẻ, ông ấy rất thích tôi. Người ta nói: một ngày chồng vợ trăm ngày ái ân, trăm ngày chồng vợ nghĩa tình thâm… Sẽ có ngày lão gia gọi tôi trở lại, sê có ngày lão gia gọi tôi trở lại.

Địch Vân trong lòng chấn động: “Sư muội đối với chồng cô ấy, lẽ nào không nhớ tình xưa?” Bỗng cảm thấy ngực tắc nghẹn, đầu choáng váng, bồng Không Tâm Thái chạy ra khởi từ đường.

Chàng quyết không đoán ra, mụ ăn mày bẩn thỉu này chính là Đào Hồng, kẻ năm ấy đã hãm hại chàng.

———————-

[1]       Thành ngữ, ý nói: lấy chồng thì phải theo chồng, dù không ra gì cũng không bỏ được

Hồi 12: Kho báu

Địch Vân vượt tường vào, đến thư phòng của Vạn Chấn Sơn. Trời đã tờ mờ sáng, trong ánh sáng tờ mờ thấy một người nằm dưới đất, lại chính là Thích Phương. Địch Vân cả sợ, vội đánh lửa, thắp cây nến trên bàn, dưới ánh nến, thấy thân hình Thích Phương đầm đìa máu tươi, một cây chủy thủ cắm trên bụng.

Bên cạnh cô là cả một đống gạch ngổn ngang, tường đã bị thủng một lỗ hổng lớn, cha con họ Vạn đã không còn ở đó nữa.

Địch Vân cúi mình quỳ xuống bên cạnh Thích Phương, gọi:

– Sư muội, sư muội!

Chàng sợ hãi toàn thân run rẩy, giọng không thốt ra nổi, đưa tay sờ lên mặt Thích Phương, cảm thấy còn hơi ấm, mũi còn thở nhẹ. Chàng hơi định thần, lại gọi:

– Sư muội!

Thích Phương từ từ mở mắt, mặt thoáng một nét cười khổ, thều thào nói:

– Sư ca… muội… muội có lỗi với huynh.

Địch Vân khẽ nói:

– Muội đừng nói. Huynh… huynh đến cứu muội.

Chàng nhẹ nhẹ đặt Không Tâm Thái xuống một bên, tay phải ôm lấy thân thể Thích Phương, tay trái cầm lấy cây đoản đao muốn rút ra. Nhưng thấy lưỡi đao cắm sâu vào bụng cô, rút cây đao ra thì cô sẽ chết ngay lập tức, nên không dám rút, lo lắng không biết làm sao.

– Làm sao đây? Làm sao đây? Ai… ai đã hại muội?

Thích Phương cười khổ:

– Sư ca, người ta nói: một ngày chồng vợ… ôi, đừng nói nữa, muội… huynh đừng trách muội. Muội không nỡ nhẫn tâm, đến cứu chồng muội ra… y… y…

Địch Vân nghiến răng nói:

– Hắn… hắn… hắn lại đâm muội một đao, có phải không?

Thích Phương cười khổ, khẽ gật gật đầu.

Địch Vân lòng đau như dao cắt, mắt thấy Thích Phương tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, nhát đao của Vạn Khuê đâm cô ghê gớm đến thế, dẫu thế nào cũng không thể cứu được nữa. Trong lòng chàng lại có một con rắn độc của nỗi ghen tuông đang cắn rứt: “Muội… muội rốt cuộc vẫn yêu chồng, thà mình chết cũng phải cứu hắn.”

Thích Phương thều thào:

– Sư ca, huynh nhận lời với muội chăm sóc cho Không Tâm Thái, coi nó là… là con gái của huynh.

Địch Vân ngậm ngùi, không nói, gật gật đầu, nghiến chặt răng:

– Thằng giặc ấy… đi đâu rồi?

Ánh mắt Thích Phương dại đi, giọng nói mơ hồ như vọng về từ cõi xa xăm:

– Trong hang núi ấy… hai con bướm hoa bay vào, Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài… Sư ca, huynh nhìn, huynh nhìn kìa! Một con là huynh, một con là muội. Hai đứa mình… bay đi bay lại như thế, mãi mãi không phân ly, huynh bảo có tốt không?

Giọng cô nhỏ dần, hơi thở yếu dần.

Địch Vân một tay ôm Không Tâm Thái, một tay ôm Thích Phương nhảy qua bức tường nhà họ Vạn ra ngoài. Chàng vốn muốn cho một mồi lửa đốt rụi nhà họ Vạn, nhưng rồi lại nghĩ: “Nhà này mà bị cháy thì cha con họ Vạn không trở về nữa, muốn báo thù cho sư muội thì phải để ngôi nhà này lại.”

Địch Vân chạy đến mảnh vườn hoang nơi Đinh Điển qua đời, đào một cái huyệt dưới gốc mai chôn thi thể Thích Phương, cây đoản đao thì giữ bên mình. Chàng quyết tâm dùng cây đao này lấy mạng cha con họ Vạn.

Chàng đau lòng đến nỗi không khóc được, chỉ tự trách mình: “Sao không đánh chết hai tên ác tặc trước khi nhét chúng vào hốc tường? Vì sao lại sơ suất đến thế để sư muội bị chúng hại chết?”

Không Tâm Thái khóc hoài không nín, cứ kêu gào:

– Mẹ, mẹ!

Nó kêu đến nỗi Địch Vân tâm thần hoảng loạn. Thế là chàng tìm một nhà nông ở ngoài thành Giang Lăng, gửi mười lạng bạc nhờ một bà nông dân chăm sóc con bé.

Chàng ngày ngày đêm đêm rình quanh nhà họ Vạn, nửa tháng trôi qua, không hề thấy tung tích cha con họ Vạn. Điều quái lạ là mấy người bọn Lỗ Khôn, Tôn Quân, Bốc Viên, Phùng Thản, Thẩm Thành cũng “bốc hơi” đâu hết không hề đến nhà họ Vạn. Bọn đầy tớ thì hoảng loạn cuống cuồng như đám nhặng xanh, có đứa bắt đầu ăn trộm đồ đạc trốn đi, có đứa thì cãi lộn đánh mắng nhau.

Trong thành Giang Lăng lại có rất nhiều nhân vật võ lâm từ bốn phương tám hướng tụ về.

Một buổi tối, Địch Vân nghe cuộc trò chuyện của mấy nhân vật giang hồ hào khách:

– Bộ Liên thành kiếm quyết kia thì ra là giấu trong một bộ “Đường thi tuyển tập”, bốn chữ đầu là “Giang Lăng thành nam”.

– Đúng đấy, mấy ngày nay nhiều người nghe phong thanh mà tìm đến. Nhưng không biết sau bốn chữ kia còn những chữ gì.

– Cần gì biết những chữ sau nữa? Chúng ta chỉ cần phục ở phía nam thành Giang Lăng. Có người đào kho báu, cho họ lấy rồi mình chặn đường cướp.

– Không sai. Dù không cướp được thì ít nhất cũng được chia một phần. Người thấy là có phần, anh em ta không được chút gì sao?

– Hi hi! Các hiệu sách trong thành Giang Lăng mấy hôm nay người mua “Đường thi tuyển tập” rõ nhiều. Hôm nay tớ đến một hiệu sách, còn chưa mở miệng, người bán sách đã hỏi: “Đại gia ngài muốn mua “Đường thi tuyển tập” phải không? Bộ sách này chúng tôi mua từ Hán Khẩu về, muốn mua xin đến sớm, đến muộn e rằng bán hết rồi.” Tớ rất lấy làm lạ, bèn hỏi: “Sao ông biết tôi muốn mua “Đường thi tuyển tập”?” Đằng ấy đoán xem y nói sao?

– Chả biết! Y nói sao?

– Mẹ nó chứ. Y nói: Không giấu gì lão nhân gia, mấy hôm nay rất nhiều người ngực nở bụng lớn mang đao mang kiếm đến hiệu sách, mười người thì mười một người muốn mua “Đường thi tuyên tập”, năm lạng bạc một quyển, ngài chịu không?

– Tổ cha nó, đâu có sách nào đắt thế?

– Đằng ấy biết giá sách à? Đằng ấy đã mua chưa?

– Ha ha, bố già này cả đời có đến cửa hiệu sách bao giờ. Sách mấy chả vở, bố già này một đời chỉ thích đánh bạc, ăn là được, mua sách xưa nay chưa từng. Hi hi, hi hi!

Địch Vân nghĩ thầm: “Bí mật trong “Liên thành kiếm quyết” đã truyền ra rồi, ai truyền ra nhỉ? Phải rồi, lời của cha con họ Vạn đã bị đám Lỗ Khôn nghe lỏm được. Vạn Chấn Sơn muốn truy cho ra, mấy đứa đồ đệ đào tẩu hết. Thế là người biết càng ngày càng đông.”

Nhớ lại những ngày cùng ở trong tù với Đinh Điển, cũng có nhiều giang hồ hào sĩ nghe phong thanh mà tìm đến nhưng đều bị Đinh Điền đánh chết hết. “Ôi, đại sự của Đinh đại ca còn chưa làm. Việc của Đinh đại ca còn quan trọng hơn việc báo thù của mình.”

* * *

Thân phụ của Lăng tiểu thư là tri phủ phủ Giang Lăng. Địch Vân đến hiệu quan tài, hiệu bán bia mộ lớn nhất thành Giang Lăng để nghe ngóng, biết được phần mộ của Lăng tiểu thư táng ở trên một ngọn đồi nhỏ cách cửa đông thành Giang Lăng mười hai dặm.

Chàng mua cái cuốc chim, một cái xẻng, đi ra cửa đông, tìm đến phần mộ. Trên bia mộ đề: “Ái nữ Lăng Sương Hoa chi mộ”. Trước mộ không có hoa cũng không có cây. Lăng cô nương lúc sống rất yêu hoa tươi, phụ thân của nàng lại chẳng trồng cho nàng lấy một cây.

“Ái nữ, ái nữ, hi hi, ngươi thực yêu con gái ư?” Chàng cười nhạt, nghĩ đến Đinh Điển và Thích Phương, không cầm được nước mắt.

Vạt áo chàng đẫm ướt vì nước mắt nhớ thương Thích Phương, trước mộ Lăng Sương Hoa lại thấm thêm nước mắt.

Quanh quả đồi không có nhà cửa, lại ở rất xa đường lớn nên chẳng có người qua lại. Nhưng ban ngày cũng không thể đào mộ. Đợi mãi đến khi trời tối chàng mới bắt đầu đào, lại đào cả những phiến đá bao quanh, quan tài hiện ra.

Trải qua mấy năm gian nan khốn khổ, Địch Vân đã không còn dễ xúc động, không dễ dàng rơi lệ, nhưng dưới ánh trăng thê lương ảm đạm, thấy cỗ quan tài nhớ đến Đinh đại ca vì cỗ quan tài này mà chết lại không thể không đau lòng đau lòng rơi lệ. Lăng Thoái Tư đã bôi chất kịch độc “Kim ba tuần hoa” lên cỗ quan tài này, tuy ngày tháng đã lâu rồi, hơn nữa khi đem cỗ quan tài này đi chôn chắc cũng đã lau chất độc đi rồi nhưng chàng không dám đụng tay vào nắp quan tài. Chàng rút cây huyết đao, lách mũi đao vào kẽ hở nắp quan tài khẽ nạy lên. Cây huyết đao này chém sắt chặt đá như không, gặp gỗ chỉ như thái đậu phụ, chàng không cần dùng sức đã có thể nhanh chóng bóc được nắp quan tài.

Bỗng thấy trong quan tài hai cánh tay đã rữa nát vẫn còn giơ lên, nắp quan tài vừa bay ra, hai cánh tay liền rơi xuống như là đang cử động. Địch Vân giật mình, thầm nghĩ: “Tại sao khi nhập quan hai cánh tay Lăng tiểu thư lại giơ lên như thế? Thật lạ lùng.” Chỉ thấy trong quan tài không có áo liệm cũng không có chăn và vải liệm. Lăng tiểu thư chỉ mặc một bộ áo quần mỏng.

Địch Vân lầm rầm khấn:

– Đinh đại ca, Lăng tiểu thư, hai người khi sống không được thành vợ chồng, sau khi chết ý nguyện được chôn chung một mồ cuối cùng đã được đền bù. Huynh tẩu có thiêng cũng có thể ngậm cười nơi chín suối.

Chàng mở cái bao mang trên lưng, mở ra, dốc tro thi hài Đinh Điển lên thi thể Lăng Tiểu thư. Chàng quỳ dưới đất cung cung kính kính lạy bốn lạy, rồi đứng dậy, lấy cái túi đựng tro bao tay lại rồi nhắc cái nắp lên, định đậy quan tài lại.

Dưới ánh trăng nghiêng soi, thấy phía trong nắp quan tài có nét chữ mờ mờ. Địch Vân ghé lại gần xem, thấy mấy chữ ấy xiên xiên xẹo xẹo, viết rằng: “Đinh lang, Đinh lang, kiếp sau nguyện làm chồng vợ”.

Trong lòng Địch Vân lạnh buốt, ngồi ngay xuống đất, mấy chữ này rõ ràng là khắc bằng móng tay. Chàng trầm ngâm suy nghĩ một lúc bỗng hiểu ra: “Lăng tiểu thư bị phụ thân của nàng chôn sống. Khi bị bỏ vào quan tài nàng vẫn chưa chết. Mấy chữ này là do nàng dùng móng tay khắc lúc sắp chết. Vì thế mà đến khi chết hai tay nàng vẫn giơ lên. Thiên hạ lại có người cha lòng lang dạ sói như thế! Đinh đại ca thủy chung bất khuất, Lăng cô nương thủy chung không phụ Đinh đại ca.

Phụ thân nàng càng chờ càng hận, cuối cùng đã hạ độc thủ thế này đây.” Lại nghĩ: “Lăng tri phủ phát hiện Đinh đại ca vượt ngục, biết nhất định sẽ tìm đến thăm Lăng cô nương, nên đã bôi chất kịch độc “Kim ba tuần hoa” lên ngoài quan tài làm một cái bẫy. Lòng dạ của kẻ này còn độc gấp trăm lần chất độc Kim ba tuần hoa.”

Chàng ghé đến gần cái nắp áo quan, xem lại hai hàng chữ kia một lần nữa. Chỉ thấy dưới hai hàng chữ kia lại có ba hàng chữ, đều là những số: “Năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám…”, Địch Vân hít vào một hơi, nghĩ thầm: “Đúng rồi, Lăng cô nương cho đến khi lâm chung vẫn nhớ tâm nguyện hợp táng với Đinh đại ca. Nàng đã đáp ứng lời Đinh đại ca, nếu có ai hợp táng nàng với Đinh đại ca thì sẽ báo với người đó bí mật của “Liên thành kiếm quyết”. Trong mảnh vườn hoang kia Đinh đại ca đã nói với mình một ít, nhưng chưa nói xong thì chất độc phát mà chết, bí mật trên bản kiếm phổ kia của sư phụ bị nước mắt của sư muội làm ướt mới hiện ra được mấy chữ thì lại bị cha con họ Vạn xé nát. Mình đã nghĩ rằng bí mật kia từ đó tan thành mây khói, nào ngờ Lăng cô nương lại viết ở đây.”

Chàng ngậm ngùi khấn: “Lăng cô nương, cô nương thật là người giữ chữ tín, đa tạ lòng tốt của cô nương, nhưng lòng tôi đã thành tro nguội, hận không thể đào một cái huyệt tự chôn mình, ở bên cạnh cô nương và Đinh đại ca. Chỉ vì đại thù chưa báo, còn phải giết cha con họ Vạn và phụ thân của cô nương. Vàng bạc châu báu trong mắt tôi chỉ như bùn đất.” Nói rồi chàng nhấc cái nắp quan tài, đang sắp đậy lại, chợt một ý nghĩ lóe lên: “A, đúng rồi! Cha con họ Vạn lúc này không biết đang trốn ở đâu, kiếp này chỉ sợ không tìm được chúng, nhưng nếu đem bí mật của kho báu viết lên một chỗ nào dễ thấy, cha con họ Vạn tất nhiên sẽ nghe tin mà đến xem. Không sai, bí mật này là miếng mồi lớn. Cha con họ Vạn dù có nghi ngờ, mười phần cẩn thận cũng không thể không đến xem bí mật này.”

Chàng đặt cái nắp quan tài xuống, xem rõ ràng các chữ số, dùng mũi huyết đao khắc từng chữ từng chữ lên lưỡi xẻng, sau khi khắc xong lại đối chiếu cho khỏi sai rồi mới đậy nắp quan tài, đặt các phiến đá vào xung quanh, cuối cùng đắp mộ lại tử tế.

“Tâm nguyện lớn này đã hoàn thành! Sau khi báo thù xong, phải trồng ở đây mấy trăm cây hoa cúc. Đinh đại ca và Lăng cô nương yêu hoa cúc nhất. Tốt nhất là tìm được loại lục cúc nổi tiếng xuân thủy bích ba.”

* * *

Sáng sớm hôm sau, trên bức tường bên cạnh cửa nam thành Giang Lăng xuất hiện rõ mồn một ba hàng chữ số viết bằng vôi. Mỗi chữ vuông lớn một thước, từ xa đã có thể nhìn thấy: “Bốn, năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám…” Kỳ lạ nhất là mấy hàng chữ này cách mặt đất hơn hai trượng, trong thành Giang Lăng này e rằng không có cái thang nào dài đến thế để có thể trèo lên đến đó mà viết, trừ phi là dùng dây buộc vào mình, từ trên mặt thành thòng xuống treo mình lơ lửng mà viết.

Ở bên chân thành cách mấy hàng chữ kia hơn mười trượng, Địch Vân đóng giả làm ăn mày, cởi chiếc áo bông rách ngồi dưới ánh mặt trời bắt rận.

Người người đổ đến cửa nam, chỉ mấy canh giờ, trên đường phố, trong quán trà… khắp thành Giang Lăng đâu đâu cũng có người bàn tán, cũng có nhiều người đến cửa nam để nhìn tận mắt. Nhưng những chữ số này, ngoài vị trí viết đặc biệt ra thì chẳng có gì là đẹp, những người vô công rỗi nghề xem một lúc, đoán già đoán non một hồi rồi lại bỏ đi, chỉ có mấy kẻ giang hồ hào khách là ở lại.

Trong tay những người này đều cầm một bản “Đường thi tuyển tập”, sao những chữ số trên tường thành lại, nhăn mày nhăn mặt suy nghĩ.

Địch Vân thấy Tôn Quân đến, Thẩm Thành đến. Một lúc sau Lỗ Khôn cũng đến.

Nhưng bọn họ không biết thứ tự các chiêu trong “Liên thành kiếm pháp”, tuy trong tay mỗi người đều có một bản “Đường thi tuyển tập”, tuy những chữ số viết thật to trên tường thành, lại biết rằng những chữ số này nhất định là bí mật trong kiếm phổ, tuy có nghe lỏm được từ sư phụ và con trai lão cách tra tìm bí mật nhưng không biết mỗi chữ số là ở trong bài thơ nào để tra.

Trên đời này chỉ có ba người Vạn Chấn Sơn, Ngôn Đạt Bình, Thích Trường Phát là biết được.

Ba người bọn Lỗ Khôn xì xào bàn bạc. Cách quá xa, Địch Vân không nghe được lời của họ. Chỉ thấy ba người nói chuyện một lúc rồi bỏ đi.

Một lúc sau ba người đều hóa trang quay trở lại. Một người giả làm người bán trái cây gánh một gánh quýt, một người đóng vai bán rau, còn một người giả làm nông phu vác cuốc. Ba người ngồi dưới chân tường thành, chăm chú nhìn người qua lại.

Địch Vân đoán được tâm tư của chúng – chúng đang đợi Vạn Chấn Sơn tới. Chúng không giải được bí mật này, nhưng chỉ cần đi theo Vạn Chấn Sơn thì có thể tìm được kho báu, dù không đoạt được thì cũng hy vọng được chia một phần. Gặp lại sư phụ đương nhiên là nguy hiếm muôn phần, nhưng muốn phát đại tài thì sá gì nguy hiểm.

Bốn chữ số đầu của “Liên thành kiếm phổ” sớm đã được truyền ra – “bốn, năm mươi mốt, ba mươi ba, hai mươi tám”, đó là “Giang Lăng thành nam”. Sau bốn chữ số đó là một dãy chữ số nữa, dẫu có là người ngu xuẩn thì cũng nghĩ đó là những bí mật trong kiếm phổ.

Người đến ngồi dưới chân tường thành mỗi lúc một đông, có người hóa trang, có người thì xuất hiện với bản lai diện mục, Địch Vân đếm cả thảy bảy mươi tám người. Lại một lúc sau, Bốc Viên và Phùng Thản cũng đến, hai đứa không hiểu vì tranh chấp việc gì mà đỏ mặt tía tai, suýt đánh nhau, nhưng rồi cũng bình tĩnh lại, ngồi xuống bên hộ thành hà.

Đợi đến chiều, cha con họ Vạn vẫn không xuất hiện. Đợi đến gần tối, cha con họ Vạn vẫn không xuất hiện. Nhiều người đã mở miệng chửi. Tổ tông nhà họ Vạn bỗng danh tiếng vang lừng, đặc biệt là bà già của Vạn Chấn Sơn.

Trời sắp tối, một người dáng vẻ thầy đồ cầm tờ giấy, một hộp mực, một cây bút, nghiêng nghiêng ngó ngó sao lại mấy hàng chữ trên tường. Một đại hán đang bực bội mà không có chỗ xả hơi, túm lấy người kia, hỏi:

– Ngươi sao những chữ này làm gì?

Thầy đồ nói:

– Lão phu tự có chỗ dùng, tha nhân hà tất vấn dã.

Đại hán kia sừng sộ:

– Ngươi có nói không? Không nói, bố mày tẩn cho bây giờ.

Rồi y vung nắm đấm to như cái tô dứ dứ trên mũi “thầy đồ” nọ.

Thầy đồ run bắn, nói:

– Là người… người ta bảo tôi tới sao.

Đại hán lại quát hỏi:

– Ai bảo ngươi sao?

Thầy đồ đáp:

– Một vị lão tiên sinh. Không… không giấu gì ông, chính là lão tiên sinh Vạn Chấn Sơn đại danh lừng lẫy ở bản thành. Ngài… ngài có dám đắc tội với lão nhân gia không?

Ba tiếng “Vạn Chấn Sơn” vừa buột khỏi mồm y, mọi người vui mừng “ồ” lên. Địch Vân càng vui mừng, trong nỗi vui mừng ấy pha lẫn bao nỗi cừu hận và xót xa.

* * *

Thầy đồ run rẩy đi trước, bước thấp bước cao, chấm chấm phết phết đi về hướng đông, hơn trăm người đi theo từ xa xa. Vạn Chấn Sơn đã không đến thì đi tìm Vạn Chấn Sơn. Chỉ có lão mới am hiểu bí mật. Điều này đã quá rõ. Họ người đông thế mạnh quyết bức Vạn Chấn Sơn phải đi tìm kho báu. Nhiều người khen đại hán kia:

– May nhờ có ông anh thông minh, tại sao chúng ta lại không nghĩ đến việc Vạn Chấn Sơn sẽ phái người đến sao các chữ số nhỉ? Nếu không có ông anh tụi này cứ đợi bên chân tường thành ba ngày ba đêm, Vạn Chấn Sơn đã bệ mất kho báu rồi.

Đại hán kia rất đắc ý:

– Lão tú tài kiết xác này cứ ma ma quỷ quỷ, tôi đoán việc lão làm chẳng tốt lành gì.

Y nói cứ như việc y làm là tốt lành vậy.

Địch Vân trà trộn trong đám người, thoáng cảm thấy: “Vạn Chấn Sơn là tay cáo già quyết không thể để cho người ta tìm thấy được. Trong việc này chắc chắn có quỷ kế gì đây.”

Lúc đoàn người đã rời cửa nam mấy dặm, Địch Vân ngoảnh đầu lại nhìn về phía tường thành, thoáng thấy một bóng người từ phía tường thành chạy qua nhanh như bay, lao về hướng tây.

Địch Vân nghĩ: “Đám người này bám theo thầy đồ kia, không sợ y chạy mất. Nếu họ tìm được Vạn Chấn Sơn sớm cũng quyết không rời lão. Trong cái thành Giang Lăng to lớn này, muốn tìm cha con họ Vạn thì rất khó khăn nhưng muốn tìm một đám đông huyên náo thì dễ như trở bàn tay, mình hà tất phải đi cùng đám người này.”

Chàng lập tức vụt tới nấp sau một gốc cây, quay mình triển khai khinh công lao về cửa nam, rồi chạy về hướng tây. Địch Vân lao nhanh theo bóng người kia, uống chưa xong chén trà thì đã đuổi kịp. Người kia khinh công rất giỏi nhưng so với Địch Vân thì còn kém xa. Người ấy cũng không hề biết có người bám theo, vẫn cứ vùn vụt lao đi.

Địch Vân thấy người ấy chạy đến trước một căn nhà nhỏ, đẩy cửa bước vào. Địch Vân giữ ở ngoài cửa, đợi người ấy ra. Lát sau, lại thấy ánh đèn hắt ra từ cửa sổ ngôi nhà nhỏ.

Chàng phóng đến bên cửa sổ, qua khe cửa nhìn vào trong nhà, thấy một ông già đang ngồi xoay lưng ra phía cửa sổ, nhìn không thấy mặt.

Ông già kia mở ra một cuốn sách trên bàn, Địch Vân thấy liền biết ngay là “Đường thi tuyển tập”.

Cuốn sách này những ngày gần đây lưu hành rộng rãi trong thành Giang Lăng, ông già này có một bản cũng là chuyện dễ hiểu. Chỉ thấy ông ta lấy ra một cây bút cùn, viết ra trên giấy bốn chữ “Giang Lăng thành nam”, rồi ông ta lẩm nhẩm đếm:

– Năm, mười, mười lăm, mười sáu, chữ thứ mười sáu. Rồi viết lên giấy một chữ “thiên” (chếch về).

Địch Vân giật mình: “Người này có thể tra được chữ trong “Đường thi tuyển tập”, lẽ nào ông ta cũng biết “Liên thành kiếm pháp”?” Nhìn sau lưng thì biết ông ta không phải là Vạn Chấn Sơn. Ông già mặc một bộ áo màu tro cũ kỹ, nhìn không ra thân thế.

Chỉ thấy ông ta tra sách một hồi, bấm đốt ngón tay đếm rồi lại viết ra một chữ, cả thảy hai mươi sáu chữ, với cả bốn chữ đã biết kia nữa là ba mươi chữ:

Giang Lăng thành nam thiên tây

Thiên Ninh tự đại điện Phật tượng

Hướng chi kiền thành mô bái

Thông linh chúc cáo

Như Lai tứ phúc

Vãng sinh cực lạc.”

(Chếch về phía tây nam thành Giang Lăng

Tượng Phật ở đại điện chùa Thiên Ninh,

Thành kính vái lạy tượng Phật,

Cầu khấn thông linh

Như Lai ban phúc

(cho) Vãng sinh cực lạc)

* * *

Lão già nổi giận, nện cán bút xuống bàn, nói:

– “Thành kính vái lạy tượng Phật, cầu khấn thông linh” cái đếch gì, lại “Như Lai ban phúc vãng sinh cực lạc” cái đếch gì! Con mẹ nó chứ, “vãng sinh cực lạc”, thế chẳng phải là bảo người ta đi gặp Diêm Vương sao?

Địch Vân nghe giọng nói của người này quen quen, đang còn suy nghĩ, thì lão già bỗng nghiêng đầu quay mặt lại. Địch Vân vội rùn người nấp xuống dưới cửa sổ, thầm nói: “Là nhị sư bá, thảo nào ông ta biết kiếm chiêu. Đây mà là bí mật gì? Thì ra là đùa cợt người ta.” Nhịn không được tức cười: “Bao nhiêu người phí bao nhiêu tâm huyết, không tiếc tay giết thầy, hại đồng môn, hóa ra chỉ là một lời đùa bỡn người ta.”

Chàng chưa cười ra tiếng, nhưng trong nhà, Ngôn Đạt Bình lại cười lớn:

– Ha ha, bảo ta thành kính vái lạy Phật Như Lai, cầu khấn thông linh, cái lão Bồ Tát thối tha bằng đất sét này lại ban phúc cho ta, ha ha, con mẹ nó chứ, bảo bố mày “vãng sinh cực lạc”. Chúng ta hợp lực giết sư phụ, ba huynh đệ lại tranh đoạt nhau, hóa ra là mọi người tranh nhau “vãng sinh cực lạc”. Mấy trăm anh hùng hảo hán, lưu manh trộm cướp trong thành Giang Lăng tranh đi đoạt lại, đều chỉ vì muốn “vãng sinh cực lạc”, ha ha, ha ha!

Trong tiếng cười lại đầy vẻ thê lương. Lão vừa cười vừa xé tan nát quyến sách giấy vàng.

Bỗng lão đứng im, hai mắt ngơ ngác nhìn ra ngoài cửa sổ.

Địch Vân nghĩ: Sở dĩ mình gặp đại nạn, Thích Phương sở dĩ chết thảm, nguyên nhân đều tại bí mật “Liên thành kiếm quyết” này, không nhịn được cũng muốn cất tiếng cười dài.

Chính lúc ấy, chỉ thấy Ngôn Đạt Bình nhìn ra cửa sổ, tựa hồ như thấy cái gì. Lão lẩm bẩm:

– Đã đến nước này rồi, đi đến chùa Thiên Ninh xem xem, cũng chẳng hại gì. Ở phía nam thành Giang Lăng chếch về tây đúng là có một ngôi chùa cổ.

Lão vẫy tay một cái tắt ngọn đèn dầu, đẩy cửa bước ra, triển khai khinh công chạy về hướng tây.

Địch Vân hơi do dự: “Mình đi tìm Vạn Chấn Sơn chứ? Hay là đi theo Ngôn sư bá? Ầ y, một đám người đông thế kia thì tìm dễ ợt, hay là hãy đi theo Ngôn sư bá xem sao cái đã.” Bèn bám sát theo bóng Ngôn Đạt Bình.

Chưa tới nửa canh giờ, Ngôn Đạt Bình đã đến phía ngoài chùa Thiên Ninh. Trước hết lão ở ngoài chùa nghe ngóng một lúc, lại đi quanh chùa một vòng, nghe thấy trong chùa ngoài chùa đều im ắng, không một bóng người, lão mới đẩy cửa bước vào.

Chùa Thiên Ninh này ở nơi vắng vẻ, lâu năm không được tu sửa, trong chùa cũng không có hòa thượng. Ngôn Đạt Bình đến đại điện, đánh lửa định thắp cây nến trên bệ thờ, dưới ánh lửa thấy lệ nến hình như mới nhỏ ra, hơi giật mình, đưa tay miết miết, quả nhiên lệ nến còn mềm, hẳn là có người mới thắp nến. Lão sinh nghi, thổi tắt mồi lửa, đang định bước ra ngoài xem xét, bỗng cảm thấy sau lưng đau nhói, một lưỡi đao sắc đã cắm vào thân, lão rú lên một tiếng, mất mạng tức thì.

Địch Vân nấp ở sau lớp cửa thứ hai, chỉ thấy ánh lửa tắt, Ngôn Đạt Bình rú lên, biết là lão đã bị ám toán, sự việc xảy ra quá đột ngột, chàng không kịp cứu. Chàng lặng yên bất động, muốn nhìn xem người đã ám sát Ngôn Đạt Bình là ai. Trong tối tăm chỉ nghe thấy một người cười lạnh lẽo “Hi hi hi”. Âm thanh đập vào tai, Địch Vân nổi gai xương sống, tiếng cười thật âm sâm rùng rợn mà lại vô cùng quen thuộc.

Bỗng ánh sáng lóe lên, có người thắp nến, ánh nến chiếu lên thân hình người kia. Người kia chầm chậm quay mặt lại.

Địch Vân suýt buột mồm kêu lên: “Sư phụ!”

Người ấy chính là Thích Trường Phát.

Lão đá vào thi thể Ngôn Đạt Bình một cú, rút thanh trường kiếm sau lưng, lại đâm mấy nhát vào lưng.

Địch Vân thấy sư phụ giết sư huynh đồng môn, thủ đoạn lang độc tàn nhẫn đến thế, hai tiếng “sư phụ” mới đến cửa miệng đã nghẹn cứng lại.

Thích Trường Phát hi hi cười lạnh lẽo:

– Nhị sư ca, sư ca cũng đã tra được bí mật trong “Liên thành kiếm phổ” rồi, phải không? Hi hi! “Giang lăng thành nam thiên tây, Thiên Ninh tự đại điện Phật tượng, hướng chi kiền thành mô bái, thông linh chúc cáo”, ha ha, nhị sư ca, trong kiếm phổ nói “Như Lai tứ phúc vãng sinh cực lạc”, sư ca bây giờ chẳng phải là đã “vãng sinh cực lạc” rồi ư?

Lão quay đầu lại, nhìn pho tượng Phật Như Lai gương mặt hiền từ. Mặt Thích Trường Phát trông gớm ghiếc, hăm hăm nhìn pho tượng một lúc rồi cất tiếng:

– Con mẹ mày chứ, lão phật thối tha kia, giễu cợt bố mày suốt một đời, làm hại ta thật là đến khổ!

Lão vọt lên bệ thờ, vung trường kiếm, “choang choang choang choang” ba tiếng chém mạnh ba nhát vào bụng pho tượng Phật.

Tượng Phật bằng đất sét, nhưng ba nhát kiếm chém vào lại phát ra tiếng choang choang của kim thuộc. Thích Trường Phát ngớ người, lại chém hai nhát, cảm thấy chỗ kiếm chém vào cực kỳ cứng rắn. Lão cầm chiếc nến ghé đến gần xem thử, thấy vết kiếm hằn sâu, lóe ra ánh sáng vàng chói lọi, Thích Trường Phát ngẩn ra, đưa ngón tay lột đất sét ở nơi hai vết chém, thấy lấp lánh phát sáng, bên trong là vàng. Lão không nhịn được reo lên:

– Phật vàng, đều là vàng, đều là vàng!

Pho tượng Phật cao hơn ba trượng, to lớn béo mập, vượt xa những pho tượng bình thường, nếu toàn thân đều toàn bằng vàng đúc thành thì ít ra cũng đến năm sáu vạn cân, chẳng phải kho báu thì còn là gì nữa?

Lão vui sướng phát cuồng, nghĩ ngợi một chút rồi đi vòng ra sau lưng pho tượng, đưa kiếm lên nậy, bóc, thấy ngang eo lưng pho tượng hình như có một cánh cửa chìm nho nhỏ, lão tiếp tục bóc, đất sét rơi lả tả, trường kiếm bóc mấy chục lỗ mới bóc hết đất sét quanh cánh cửa chìm.

Cánh cửa chìm cũng đúc bằng vàng. Thích Trường Phát lách mũi kiếm vào khe hở cạy mấy nhát, mừng không kể xiết, tâm thần hoảng loạn cả lên, “phách” một tiếng, trường kiếm gãy lìa.

Lão đưa nửa thanh kiếm gãy, lại cạy ở phía khác cánh cửa chìm. Cạy mấy nhát nữa thì cánh cửa chìm từ từ rời ra. Thích Trường Phát vứt đoạn kiếm gãy, thò ngón tay nhẹ nhàng gỡ cánh cửa chìm ra, giơ cây nến rọi vào, chỉ thấy trong bụng pho tượng lấp lánh ánh sáng ngọc ngà châu báu xán lạn, không biết trong khoang bụng to lớn này cất giấu bao nhiêu trân châu bảo bối.

Thích Trường Phát nuốt nước miếng, đang muốn thò tay vào trong bụng Phật lôi châu báu ra xem, chợt cảm thấy bệ thờ hơi rung rinh, lão biết có chuyện khác lạ, nhảy phắt xuống, chân trái vừa chạm đất thì bụng dưới đau nhói, đã bị điểm huyệt, “bịch” một tiếng, lão ngã phịch xuống đất.

Dưới bệ thờ chui ra một người, ngoẹo đầu cười nhạt nói:

– Thích sư đệ, đệ tìm được đến đây, lão nhị tìm được đến đây, sao không nghĩ rằng đại sư ca cũng tìm được đến đây!

Người nói chính là Vạn Chấn Sơn.

Thích Trường Phát phát hiện ra kho báu là nhờ lão tinh tế hơn người, nhưng thấy bao nhiêu là châu báu rốt cuộc lão cũng không khỏi mừng rơn mà sơ suất. Lão hậm hực nhìn Vạn Chấn Sơn, hằn học nói:

– Lần thứ nhất ngươi giết ta không chết không ngờ cuối cùng ta lại chết dưới tay ngươi.

Vạn Chấn Sơn cực kỳ đắc ý:

– Ta đang lấy làm lạ, Thích sư đệ, ta bóp chết ngươi, chôn ngươi vào trong hốc tường, làm sao ngươi lại sống lại được?

Thích Trường Phát nhắm mắt không đáp.

Vạn Chấn Sơn nói tiếp:

– Ngươi không trả lời, lẽ nào ta không đoán ra. Lúc ấy ngươi địch không nổi ta bèn nín thở giả chết, sau khi bị chôn vào hốc tường, ngươi lại thoát ra. Giỏi lắm! Bản lĩnh thật cao cường! Lúc ấy ta thấy có một viên gạch nhô ra cảm thấy hơi lạ, nhưng không thể nào nghĩ ra rằng, nó bị ngươi trong khi vùng vẫy đã đạp lồi ra.

Vạn Chấn Sơn ngày ấy, sau khi chôn Thích Trường Phát vào trong hốc tường, hôm sau thấy có một viên gạch nhô ra, việc ấy khiến lão không yên tâm nên mới mắc bệnh mộng du, cứ trong mơ lại dậy xây tường. Lão luôn sợ xác chết của Thích Trường Phát từ trong hốc tường chui ra, vì thế trong lúc ngủ mơ cứ hết lần này đến lượt khác dậy xây cho thật kín bức tường. Lão lại cười nhạt nói:

– Hi hi, ngươi thật là lợi hại, giương mắt nhìn con gái làm con dâu của ta mà vẫn không xuất hiện. Ta hỏi ngươi, vì sao lại thế? Vì sao lại thế?

Thích Trường Phát nhổ một bãi đờm vào Vạn Chấn Sơn.

Vạn Chấn Sơn né người tránh, lại cười:

– Lão tam, đệ muốn chết một cách gọn ghẽ, hay thích huynh băm vằm ra?

Nét mặt Thích Trường Phát đầy vẻ sợ hãi. Lão nói:

– Được, ta nói cho ngươi biết. Con gái ta lấy trộm kiếm phổ của ta, giấu vào trong hang núi, ngươi bảo nó có phải là người tốt không? Ta vẫn ngầm theo dõi. Họ Vạn kia, ngươi cứ thoải mái giết ta đi!

Vạn Chấn Sơn cười nanh ác:

– Được, cho đệ được thoải mái. Theo lý mà nói, không cho đệ được hưởng cái thú phân thây vạn mảnh là vì sư ca của đệ không có thời gian; huynh còn phải mau mau lấy đất sét tô lại pho tượng. Hảo sư đệ, đệ ngoan ngoãn lên đường nhé!

Nói rồi lão vung trường kiếm, nhằm ngực Thích Trường Phát đâm tới.

Bỗng, một đạo hồng quang lóe sáng, cánh tay phải của Vạn Chấn Sơn bị tiện ngang cùi chỏ cùng với thanh kiếm rơi xuống đất, rồi thân hình lão bị đá một cú văng ra. Chính là Địch Vân đã dùng huyết đao cứu tính mạng Thích Trường Phát.

Chàng cúi mình giải khai huyệt đạo cho Thích Trường Phát, nói:

– Sư phụ, sư phụ bị kinh hãi rồi!

Biến cố quá nhanh, Thích Trường Phát ngớ người ra một lúc, rồi mới nhận ra:

– Vân… Vân nhi, là con đấy à?

Địch Vân và sư phụ xa nhau đã lâu, nay mới lại được nghe hai tiếng “Vân nhi”, không nén nổi xúc động buồn thương, chàng khẽ nói:

– Dạ, sư phụ, chính là Vân nhi đây.

Thích Trường Phát nói:

– Tất cả những việc này, con đều nhìn thấy hết rồi.

Địch Vân khẽ gật đầu, chàng nói:

– Sư muội, sư muội… muội… muội…

Vạn Chấn Sơn đứt một cánh tay, giãy giụa bò dậy, lao ra ngoài chùa. Thích Trường Phát chạy vọt tới, đâm một nhát kiếm từ sau lưng tới, thâu xuyên qua ngực. Vạn Chấn Sơn rú lên thảm thiết, chết ngay tại chỗ.

Thích Trường Phát nhìn thi thể hai vị sư huynh, chậm rãi nói:

– Vân nhi, may nhờ con đến kịp cứu tính mạng sư phụ. Ê, có ai đang tới kìa? Là Phương nhi à? Nói rồi lão đưa tay chỉ về phía góc điện thờ.

Địch Vân nghe hai tiếng “Phương nhi”, trái tim rúng động, quay đầu nhìn nhưng chẳng thấy ai, đang kinh ngạc bỗng cảm thấy lưng đau nhói. Chàng trở tay chụp lấy cổ tay của kẻ đánh lén, ngoảnh đầu lại, chỉ thấy tay người ấy cầm một cây chủy thủ sáng loáng, chính là sư phụ Thích Trường Phát. Địch Vân hoang mang ngỡ ngàng, lắp bắp:

– Sư… sư phụ… đệ tử phạm tội gì? Sư phụ muốn giết con à?

Lúc này chàng mới nghĩ ra, vừa rồi sư phụ đã đâm một nhát dao găm (chủy thủ) vào lưng mình, nhờ mình có áo tằm đen hộ thân mới thoát chết.

Thích Trường Phát bị chàng nắm chặt cổ tay, nửa người tê dại, không còn một chút khí lực, lão sợ hãi và giận dữ, gằn giọng:

– Được, ngươi học được một thân võ công cao minh không coi sư phụ ra gì. Ngươi giết ta đi, mau giết đi, giết mau đi, sao không giết?

Địch Vân nới lỏng tay nhưng vẫn không buông, chàng nói:

– Con làm sao dám giết hại sư phụ?

Thích Trường Phát la lên:

– Ngươi vờ vịt cái gì? Đây là một pho tượng đại phật đúc bằng vàng ròng, ngươi lẽ nào không muốn một mình nuốt chửng? Ta không giết ngươi thì ngươi giết ta, có gì là lạ? Đây là Phật vàng, trong bụng Phật đều là trân bảo giá trị liên thành[1], vì sao ngươi không giết ta? Vì sao ngươi không giết ta?

Lão lớn tiếng gào thét, trong tiếng kêu tràn đầy lòng tham lam, giận dữ, tiếc nuối… Tiếng ấy không phải là tiếng của con người mà như là tiếng gào rú của một con thú dữ bị thương tru lên nơi đồng hoang rừng thẳm.

Địch Vân lắc đầu, lùi lại mấy bước, nghĩ bụng: “Sư phụ muốn giết mình hóa ra là vì pho tượng Phật bằng vàng này ư?” Trong khoảnh khắc, chàng đã hiểu rõ tất cả: Thích Trường Phát vì tiền tài châu báu mà có thể giết sư phụ, sư huynh của mình, nghi ngờ cả con gái ruột thì vì sao lại không thể giết đồ đệ?” Trong lòng chàng lại vang lên lời Đinh Điển: “Ngoại hiệu của lão là “Thiết tỏa hoành giang”, việc gì mà chẳng dám làm?”

Chàng lại lùi thêm một bước, nói:

– Sư phụ, con không cần chia Phật vàng của sư phụ đâu. Sư phụ cứ một mình phát tài đi.

Chàng không sao hiểu nổi: một người mà không cần người thân, không cần sư phụ, sư huynh, đồ đệ, đến con gái ruột của mình cũng không quan tâm thì có cả một kho báu giá trị liên thành cũng có gì là sung sướng?

Thích Trường Phát không tin ở tai mình. Lão nghĩ bụng: “Trên đời sao lại có người thấy bao nhiêu vàng ngọc châu báu mà không động lòng tham? Cái thằng tiểu tử Địch Vân này nhất định là có quỷ kế gì khác.” Lão không dằn được tức giận, lớn tiếng:

– Ngươi làm trò ma gì thế? Đây là một pho tượng đại Phật bằng vàng ròng, trong bụng tượng toàn là châu báu, sao ngươi lại không cần? Ngươi muốn thực hiện quỷ kế gì?

Địch Vân lắc đầu, đang muốn đi ra khỏi chùa, bỗng nghe tiếng bước chân rầm rập, rất nhiều người kéo đến như ong. Chàng tung mình nhảy lên nóc nhà nhìn ra ngoài, hơn trăm người tay cầm đuốc, kêu gào ầm ĩ đi nhanh đến, chính là đám giang hồ hào khách kia. Nghe thấy có người quát:

– Vạn Khuê, mẹ nó chứ, đi mau, đi mau!

Địch Vân vốn đang định bỏ đi, nghe thấy hai tiếng Vạn Khuê liền dừng bước. Chàng còn chưa báo thù cho Thích Phương.

Đám người này ai cũng chạy vội vào chùa, chỉ sợ mình đến sau kẻ khác. Địch Vân nhìn thật rõ, Vạn Khuê bị mấy đại hán lôi đi, mắt tím mũi sưng, đã bị cho ăn no đòn, trên mình vẫn còn mặc bộ áo tú tài nghèo khổ. Thì ra hắn cải trang thành một thầy đồ, cố ý dẫn đám giang hồ hào sĩ dưới chân tường thành đi, để Vạn Chấn Sơn đến chùa Thiên Ninh tìm kho báu. Nhưng bị đám người kia tra khảo, cuối cùng đã lộ tẩy. Họ đe dọa tính mạng hắn, bức hắn phải dẫn đến chùa Thiên Ninh.

Thích Trường Phát nghe tiếng người, vội vàng nhảy lên bệ thờ muốn che giấu vàng lộ ra ở những vết chém tượng Phật. Nhưng đã chậm một bước, mọi người dã thấy lão đứng trên bệ thờ, hai tay cố đậy cái bụng to tướng của pho tượng Phật. Lúc này, dưới ánh sáng của mấy chục bó đuốc, trong chùa sáng như ban ngày. Mọi người thấy ánh vàng lấp lánh đều kêu gào, nhào tới tranh cướp. Họ ba chân bốn cẳng chạy đến, ra sức chém, bóc, lột đất sét bọc ngoài pho tượng. Họ đao chém kiếm lột, chẳng bao lâu, toàn thân tượng Phật tỏa ánh vàng chói lọi.

Tiếp đó, có người phát hiện ra cánh cửa chìm sau lưng tượng Phật, thò tay vào, quào ra cơ man là châu báu, người ở phía sau bèn ra sức chen bật y ra. Châu báu bị lôi ra từng vốc từng vốc. Hào sĩ có sức mạnh thì cướp đoạt từ trong tay người khác.

Đột nhiên từ bên ngoài có tiếng tù và thổi lên u u, cửa chùa mở rộng, mấy chục tên lính xông vào, cao giọng:

– Tri phủ đại nhân đến, tất cả đứng im.

Theo sau là một người mặc quan phục, ngạo nghễ bước vào, chính là tri phủ Lăng Thoái Tư. Tai mắt của lão ở trong thành ngoài thành rất nhiều, trong đám giang hồ hào khách kia cũng có nhiều thuộc hạ của lão trà trộn, hay tin lão lập tức dẫn quân lính hộc tốc chạy đến.

Nhưng đám giang hồ hào khách thấy bao nhiêu là châu báu, đâu thèm sợ gì quan phủ? Người nào cũng liều mạng cướp đoạt châu báu. Trân châu, đá quý, đồ bằng vàng, bạch ngọc, phỉ thúy, san hô, ngọc tổ mẫu, ngọc mắt mèo… lăn lóc đầy mặt đất.

Thuộc hạ của Lăng Thoái Tư chẳng lẽ lại không cướp? Bọn lính cúi nhặt trước, rồi tri phủ cũng xông vào cướp. Ai cũng không chịu “lạc hậu”. Thích Trường Phát cướp, Vạn Khuê cướp, đến đường đường tri phủ đại nhân Lăng Thoái Tư không nhịn được cũng bốc từng nắm châu báu nhét vào người.

Đã có tranh cướp khó tránh khỏi ẩu đả. Thế là có người thắng, có người đổ máu, có người chết.

Bọn người kia càng đấu càng ác liệt ghê gớm, có người vọt lên trên Phật vàng, ôm lấy tượng Phật mà cắn như điên, có người thì lấy đầu húc mạnh…

Địch Vân rất lấy làm lạ: “Vì sao lại thế? Dầu của cải có làm mờ mắt mờ tim, thì cũng không đến nỗi phải phát điên lên như thế.”

Không sai. Mọi người đều đã phát điên, mắt đỏ nọc điên cuồng cào cấu bấu xé. Địch Vân thấy Uông Khiếu Phong của đôi “Linh kiếm song hiệp” trong đám, thấy Hoa Thiết Cán thuộc bộ tứ “Lạc Hoa Lưu Thủy” cũng trong đám ấy. Họ đều đã biến thành dã thú, cắn xé loạn xị, tranh cướp loạn xị, bốc châu báu nhét đầy mồm.

Địch Vân chợt hiểu ra: “Trên châu báu này đều có chất độc ghê gớm. Năm xưa vị hoàng đế cất giấu kho tàng bảo vật, vì sợ quân nước Ngụy cướp đoạt nên đã tẩm chất kịch độc lên châu báu.”

Chàng muốn đến cứu sư phụ nhưng đã không kịp nữa rồi.

* * *

Địch Vân trồng mấy trăm cây hoa cúc dưới phần mộ của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa. Chàng không thuê người mà toàn tự mình trồng. Chàng là nông dân, cuốc đất, trồng cây là việc quen làm. Nhưng trước đây chàng rất ít trồng hoa, những thứ chàng trồng là ớt, cà, bí đỏ, bí đao, rau muống, rau cải…

Chàng rời thành Kinh Châu, bồng Không Tâm Thái, một ngựa ruổi đường trường. Chàng không muốn sống trên giang hồ. Chàng muốn tìm một nơi hoang vắng không có dấu chân người, nuôi dưỡng Không Tâm Thái lớn lên.

Chàng về đến tuyết cốc ở Tạng Biên. Những bông tuyết như lông ngỗng lại bắt đầu rơi lả tả dưới hang núi ngày xưa.

Bỗng, xa xa chàng nhìn thấy có một người thiếu nữ đứng trước cửa hang núi.

Chính là Thủy Sinh!

Gương mặt cô rạng rỡ nét cười, lao như bay về phía chàng, reo lên:

– Muội đợi huynh đã lâu rồi! Muội biết là huynh thế nào cũng trở về.

HẾT

——————————————-

[1]       Giá trị liên thành: điển cố. Thời Chiến Quốc (475-221 TCN) vua nước Triệu có viên ngọc “Hòa thị bích” rất quý. Vua Tần xin đem 15 thành liền nhau đổi lấy viên ngọc ấy không được. Sau, Tần diệt sáu nước, thống nhất Trung Quốc. Tần Thủy Hoàng dùng viên ngọc ấy khắc thành ấn ngọc (ngọc tỉ) truyền quốc. “Giá trị liên thành” chỉ giá trị cực lớn. Tên sách “Liên thành quyết” do ý này mà ra.

Hậu ký

Kim Dung

Thời thơ ấu, trong nhà cũ của tôi ở Hải Ninh, Chiết Giang có một người ở tên là Hòa Sinh.

Ông là một người tàn tật, bị gù, nhưng chỉ gù nửa người bên phải, hình dáng rất cổ quái.

Tuy gọi là người ở nhưng không làm công việc nặng nhọc nào, chỉ quét nhà, lau bụi và đưa đón bọn trẻ chúng tôi đi học. Các bạn học của anh tôi thấy ông thì vỗ tay hát:

Hòa Sinh Hòa Sinh thanh tre cong

Gọi ông ba tiếng ông nổi giận

Gọi ông ba tiếng ông xoay mòng

Xoay mòng trông như cái rá rách.”

Lúc bấy giờ tôi thường kéo tay Hòa Sinh, bảo những người bạn học lớn hơn không nên hát như vậy, có lần còn vì thế mà khóc òa lên, cho nên Hòa Sinh luôn đối với tôi rất tốt. Những ngày mưa rơi, tuyết xuống, ông thường bồng tôi đi học, bởi vì ông bị gù một bên lưng không cõng được. Lúc ấy ông cũng đã rất già rồi, cha mẹ tôi bảo ông không nên bồng nữa kẻo cả hai đều ngã nhưng ông nhất định phải bồng.

Có một lần ông bị ốm nặng, tôi đến thăm ông ở căn phòng nhỏ, đưa thức điểm tâm đến cho ông.

Ông kể cho tôi nghe về cuộc đời của ông.

Ông là người huyện Đan Dương tỉnh Giang Tô, nhà mở một cửa hàng đậu phụ nhỏ, cha mẹ đã dạm hỏi cho một cô gái xinh đẹp con nhà láng giềng. Trong nhà dành dụm mấy năm để cưới vợ cho Hòa Sinh. Tháng chạp một năm nọ, một nhà tài chủ gọi ông đến xay bột gạo để làm bánh tết. Nhà tài chủ ấy là một nhà hàng lớn, trong nhà có một vườn hoa rộng. Xay đậu phụ và xay bột gạo công việc cũng không khác nhau mấy. Nhà tài chủ ăn tết cần xay mấy thạch gạo nếp, việc xay bột được làm ở nhà sau. Việc xay bột tôi cũng đã thấy nhiều lần, chỉ xay được mấy hôm thì quanh cối xay đầy những dấu chân do người đấy cối xay giẫm lên. Phong tục các nơi ở vùng Giang Nam cũng gần giống nhau, cho nên ông mới nói là tôi hiểu ngay.

Bởi vì sắp đến tết cho nên việc xay bột phải làm đến mười, mười một giờ đêm. Hôm ấy Hòa Sinh làm việc xong, đã rất muộn rồi, đang định ra về, bỗng trong nhà tài chủ có nhiều người hô hoán lên: “Có trộm!” Có người kêu ông đến vườn hoa để giúp bắt trộm. Ông mới chạy đến vườn hoa thì bị đánh mấy gậy ngã quay ra, bảo ông là tên trùm kẻ trộm. Mấy người dùng gậy đánh ông bị thương khắp mình mấy, gãy mất mấy cái xương sườn, người ông bị gù một bên là vì vậy. Đầu ông bị mấy gậy ngất đi. Khi tỉnh lại, bên mình có rất nhiều vàng bạc và đồ trang sức, người ta nói là lôi từ trong người ông ra, lại có người soát thấy trong thúng mủng của ông có vàng bạc và tiền đồng, thế là họ giải ông đến nha môn tri huyện. Ông bị vu cho tội danh kẻ trộm bị bắt quả tang với đầy đủ tang vật, ông không thể biện bạch được, bị đánh mấy chục trượng, bị giam tù.

Dù thật là kẻ trộm đi nữa thì cũng không phải là tội nặng đến thế, nhưng Hòa Sinh bị giam đến hơn hai mươi năm mới được thả ra. Trong thời kỳ ấy, cha mẹ của Hòa Sinh đều vì tức giận đau buồn mà ốm chết, người vợ chưa cưới cũng bị con trai nhà tài chủ kia lấy làm vợ kế.

Ra tù, ông mới biết tất cả đều là do con trai nhà tài chủ kia hãm hại. Có một hôm ông gặp hắn trên đường phố, ông rút cây đao nhọn vẫn luôn mang theo bên mình ra đâm mấy nhát vào con trai lão tài chủ. Ông không chạy trốn, đề cho sai dịch bắt. Con trai của nhà tài chủ kia chỉ bị thương nặng chứ không chết. Nhưng nhà tài chủ kia không ngừng hối lộ quan huyện, sư gia và ngục tốt, muốn hại chết ông ở trong tù, đế tránh việc ông ra tù lại tìm đến báo thù.

Ông nói:

– Thật là bồ tát phù hộ, chưa đến một năm, lão gia đến làm tri huyện Đan Dương, cụ đã cứu mạng tôi.

* * *

Lão gia mà Hòa Sinh nói là ông nội tôi.

Ông nội tôi tên là Tra Văn Thanh, tự là Thương San, các cụ phụ lão ở quê nhà gọi ông là “Thương San tiên sinh” (Ông vốn ở thế hệ có chữ “mỹ” nhưng khi đi học và đi thi đều dùng tên là “Văn Thanh”). Ông đỗ cử nhân năm Ấ t Dậu thời Quang Tự, năm Bính Tuất đỗ tiến sĩ liền được bổ nhiệm làm tri huyện huyện Đan Dương, sau vì có thành tích được thêm hàm Đồng tri. Không bao lâu sau thì xảy ra “vụ án giáo đường ở Đan Dương”.

Trong quyển 5 sách “Trung Hoa nhị thiên niên sử” (Lịch sử hai ngàn năm Trung Hoa” của Đặng Chi Thành có đề cập đến sự kiện này:

“Điều ước Thiên Tân cho phép người nước ngoài đến truyền giáo, thế là dấu chân của giáo đồ in khắp Trung Quốc. Dữu dân (= dậu dân: dân xấu) theo thiên chúa giáo, cậy thế người nước ngoài không chịu sự cai quản của quan lại. Nhân dân vừa căm ghét sự kiêu ngạo ngang ngược của giáo sĩ, vừa lạ với những hành động quỷ bí của họ, cứ đồn thổi nhiều chuyện, chống “dị đoan”. Giáo dân có người bị tử thương, giáo sĩ bèn mượn cớ đòi bồi thường, thậm chí quy tội cho quan lại, ép triều đình nhà Thanh trị tội nặng. Nội chính đã bị người can thiệp, nước đã không ra hồn nước. Giáo sĩ dùng trăm mưu ngàn kế để làm to chuyện… “Vụ án giáo đường ở Đan Dương” xảy ra vào tháng tám năm thứ mười bảy niên hiệu Quang Tự… Năm ấy, giáo đường (nhà thờ thiên chúa giáo) ở các huyện Đan Dương, Kim Quỹ, Vô Tích, Dương Hồ, Giang Âm, Như Cao thuộc tỉnh Giang Tô nối tiếp nhau bị thiêu hủy, phái viên đến điều tra, cho rằng khởi sự là Đan Dương, cần phải cách chức tri huyện Tra Văn Thanh…”

(Quang Tự – Đông Hoa lục quyển 105)

Ông nội tôi trước khi bị cách chức cũng có biết việc này. cấp trên ra lệnh cho ông chém đầu hai người khởi xướng việc đốt giáo đường để cấp trên dễ điều đình với giáo sĩ ngoại quốc. Nhưng ông nội tôi đồng tình với nhân dân, báo cho hai người cầm đầu chạy trốn, rồi báo lại với cấp trên rằng: việc này là do giáo sĩ ngoại quốc khinh rẻ áp bức lương dân khiến họ công phẫn, mấy trăm người cùng xông vào đốt nhà thờ chứ không có người cầm đầu. Tiếp đó, ông từ quan, triều đình xử tội: cách chức.

Từ đó về sau ông nội tôi về sống ở quê nhà, đọc sách làm thơ, đồng thời còn làm nhiều việc công ích. Ông đã biên soạn một bộ: “Hải Ninh Tra thị thi sao” (Tập thơ của họ Tra ở Hải Ninh), có đến mấy trăm quyển nhưng khắc bản (để in) chưa hoàn thành thì ông qua đời (những bản khắc này chất đầy hai gian nhà, về sau đều trở thành đồ chơi của anh em chúng tôi – đàn cháu nội của ông). Khi đưa ông đi an táng, huyện Đan Dương đã cử mười mấy vị thân sĩ đến phúng điếu. Hai người thủ lĩnh vụ đốt giáo đường khóc lạy suốt đường đi. Theo lời các bác và cha tôi, hai người này cứ đi một dặm đường lại rập đầu lạy, từ Đan Dương (ở tỉnh Giang Tô) đến quê tôi (huyện Hải Ninh, tỉnh Chiết Giang – cách Đan Dương mấy trăm dặm). Hai người này rất cảm kích ân nghĩa của ông tôi.

Cách đây ít lâu tôi đến Đài Loan, gặp biểu ca (anh họ bên ngoại) của tôi là Tưởng Phục Thông. Anh là viện trưởng viện bảo tàng Cố Cung, trước đây là bạn học cùng lớp với bác hai tôi ở Đại học Bắc Kinh. Anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện về ông nội tôi với những lời ca ngợi. Những điều này tôi vốn chưa hề biết.

* * *

Hòa Sinh nói, ông tội nôi sau khi đến làm tri huyện Đan Dương đã thẩm xét lại từng vụ án, biết được nỗi oan uổng của Hòa Sinh. Nhưng việc ông ấy hành hung người là có thật cho nên không thể tự tiện thả ngay được. Khi ông nội tôi từ quan trở về, bèn lặng lẽ đưa Hòa Sinh đi theo, và nuôi ở trong nhà tôi.

Hòa Sinh mãi đến thời kháng chiến (chống Nhật: 1937-1945) mới bị bệnh mất.

Câu chuyện của Hòa Sinh, cha mẹ tôi xưa nay không hề nói với ai. Hòa Sinh kể với tôi khi ông bị ốm nặng, nghĩ rằng mình không thể qua khỏi, ông cũng không hề dặn tôi không được kể lại.

Câu chuyện này tôi giấu mãi trong lòng. “Liên thành quyết” là phát triển từ câu chuyện có thật trên, viết ra đế kỷ niệm về một ông già rất thân thiết với tôi thời thơ ấu.

Hòa Sinh họ là gì tôi không hề biết, Hòa Sinh cũng không phải là tên thật của ông. Ông đương nhiên là không biết võ công. Tôi chỉ nhớ là ông thường vài ngày không nói một câu. Cha mẹ tôi đối với ông rất tử tế, không hề sai ông làm việc gì.

Bộ tiểu thuyết này viết vào năm 1963. Hồi ấy, “Minh báo” và “Nam Dương thương báo” ở Singapore ra chung một tờ phụ san “Đông Nam Á chu san”, bộ tiểu thuyết này là viết cho tờ phụ san đó, sách vốn mang tên là “Tố tâm kiếm”[1].

Tháng 4 năm 1977

———————————–

[1]       “Hòa Sinh” không phải là tên thật của ông già. Hẳn là Kim Dung muốn thể hiện ý: chỉ có tấm lòng trong trắng (tố tâm) mới thực sự là “Hòa thị bích”, viên ngọc có giá trị liên thành.