Hồi 06: Lâm hoạn nạn nảy sinh tình nghĩa – Cướp quân lương cứu tế dân nghèo

Chu Ỷ lạc mất mọi người trong đám loạn quân, thấy xung quanh toàn là lính Thanh. Nàng thuận tay đánh ngã mấy tên đứng gần, nhưng từ bốn phương tám hướng đều có binh lính ùa tới. Chu Ỷ bối rối vô cùng, giục ngựa chạy loạn xạ một lúc lại gặp một đội quân khác. Nàng không dám nghênh chiến, vội quay đầu lại, chỉ muốn mau mau rời khỏi đó. Trong đêm tối, không biết con ngựa vấp phải vật gì mà đột nhiên quỵ xuống. Lúc này nàng vừa mệt mỏi, vừa sợ hãi nên té nhào xuống đất, đập gáy vào một vật cứng nào đó ngất xỉu tại chỗ. May mà trời tối nên quân Thanh không phát hiện ra.

Chu Ỷ mê man không biết bao lâu, rồi đột nhiên thấy trước mắt lóe sáng. Sau đó tai nàng nghe tiếng sấm nổ, rồi trên mặt mát lạnh như bị nước dội vào. Nàng mở to đôi mắt thì thấy bầu trời tối mịt, mây đen bao phủ, mưa to đang ào xuống, bèn kêu lên một tiếng nhảy chồm dậy. Đột nhiên Chu Ỷ thấy cạnh mình cũng có một người ngồi dậy, bèn kinh hãi nhặt lấy đơn đao rơi kế bên định chém. Bất giác cả hai đều kinh ngạc la lên, thì ra người kia chính là Từ Thiên Hoằng.

Từ Thiên Hoằng hỏi lớn: “Chu cô nương! Tại sao cô cũng có đây?”

Chu Ỷ lạc trong đám loạn quân, phụ thân cũng không biết ở đâu, bây giờ lại gặp phải oan gia. Trước giờ nàng vẫn không ưa anh chàng này, hai bên cứ có dịp là khích bác lẫn nhau, nhưng dù sao cũng là người phe mình. Cô nàng Tiêu Lý Lục vốn gan dạ khí phách không kém gì nam tử hán đại trượng phu, mà lúc này cũng không nén nổi muốn rơi nước mắt. Nàng cắn chặt môi lại, ráng nhịn khóc để hỏi: “Gia gia ta đâu?”

Từ Thiên Hoằng bỗng vẫy tay bảo nàng nằm xuống, nói nhỏ: “Có lính tới.” Chu Ỷ liền phục sát xuống đất. Hai người từ từ bò đến núp sau một mô đất, thò đầu nhìn ra ngoài.

Trời đã gần sáng. Thấp thoáng mấy chục tên Thanh binh đang chôn cất bọn tử trận dưới cơn mưa lớn, vừa đào huyệt vừa luôn miệng cằn nhằn. Hồi lâu, đa số tử thi đã được mai táng sơ sài. Một tên quan lớn tiếng ra lệnh: “Trương Đắc Tiêu, Vương Thanh! Nhìn quanh xem còn cái xác nào không?”

Hai tên này vâng lệnh, trèo lên một cái gò cao nhìn tứ phía. Chúng thấy hai người nằm dưới đất liền kêu lên: “Đằng kia còn hai xác chết.”

Chu Ỷ nghe chúng gọi mình là xác chết, tức điên lên chỉ muốn nhảy tới đánh cho một trận. Từ Thiên Hoằng phải vội kéo nàng lại, bảo: “Đợi chúng tới gần đã.”

Hai tên lính đó cầm xẻng đi tới, Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng cứ nằm bất động giả chết. Khi chúng đến gần thò tay định kéo, hai người mới đột ngột vung đao đâm vào bụng. Hai gã không kịp kêu một tiếng, chết ngay tại chỗ.

Tên võ quan kia đợi mất nửa ngày vẫn không thấy hai tên lính quay về, mà mưa lại to thêm. Hắn nóng ruột tức giận thóa mạ lung tung, cưỡi ngựa chạy tới xem xét. Từ Thiên Hoằng khẽ nói: “Đừng lên tiếng, phải đoạt lấy được ngựa của hắn.”

Tên quan đến gần, thấy hai tên thuộc hạ nằm chết duới đất thì giật mình kinh hãi, há mồm toan kêu lính tới. Từ Thiên Hoằng bật dậy nhanh như chớp, chạy tới vung đao chém ngay. Hắn không cầm binh khí, đành giơ roi ngựa lên cản. Nhát đao của Từ Thiên Hoằng chém đứt cả roi lẫn cổ, đầu tên kia rơi từ trên ngựa xuống đất. Từ Thiên Hoằng túm lấy dây cương, kêu lớn: “Lên ngựa mau.” Chu Ỷ nhảy lên lưng ngựa, Từ Thiên Hoằng sải bước chạy theo.

Quân Thanh phát hiện tung tích hai người, lớn tiếng kêu vang, cả bọn cầm vũ khí đuổi theo. Từ Thiên Hoằng chạy được mấy chục bước thì chỗ vai trái trúng Phù Dung kim châm càng lúc càng đau không chịu nổi, choáng váng mặt mày ngã khuỵu xuống đất. Chu Ỷ quay đầu lại thấy Từ Thiên Hoằng té xuống, vội dừng ngựa lui lại, khom người đưa tay nhắc chàng đặt lên lưng ngựa. Nàng trở chuôi đao thúc vào lưng ngựa, nó liền chạy như bay. Quân Thanh la ó ỏm tỏi nhưng không sao đuổi kịp.

Chu Ỷ thấy đã bỏ xa bọn Thanh binh mới cất đao vào lưng. Nàng thấy Từ Thiên Hoằng hai mắt nhắm nghiền, mặt mày trắng bệch, hơi thở rất yếu thì sợ hãi không biết phải làm sao, chỉ còn cách dựng chàng ngồi thẳng trên yên ngựa, tay trái vòng ôm qua hông để chàng khỏi ngã, cố gắng chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi. Chạy được một lúc, Chu Ỷ thấy phía trước là một khu rừng rậm bèn thúc ngựa chạy vào. Nàng nhìn xung quanh thấy cây cối um tùm rậm rạp, lúc này mới tạm yên tâm.

Mưa đã tạnh, Chu Ỷ nhảy xuống dắt ngựa đi tìm một chỗ tương đối rộng rãi thoáng mát. Thấy Từ Thiên Hoằng thần trí vẫn còn mơ hồ, nàng suy nghĩ một lúc rồi ôm chàng đặt xuống một bãi cỏ, mình thì ngồi bên cạnh nghỉ ngơi, thả cho ngựa ăn cỏ. Một cô nương chưa tới hai mươi tuổi, cô đơn ngồi trong rừng hoang, trước mắt chỉ có một người chưa biết sống chết ra sao. Nàng hoàn toàn không biết phải làm gì, bất giác đau lòng ôm đầu khóc, nước mắt nhỏ xuống mặt Từ Thiên Hoằng.

Từ Thiên Hoằng nằm dưới đất một lúc, thần trí đã tỉnh táo trở lại. Chàng tưởng trời lại mưa nên khẽ mở mắt nhìn, bỗng thấy một khuôn mặt đẹp đẽ, một đôi mắt to tròn khóc đến sưng lên, nước mắt từng giọt rơi vào mặt mình. Rồi chàng lại thấy vai trái đau không chịu nổi, khẽ rên lên.

Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng tỉnh dậy cả mừng, nhìn lại thấy nước mắt mình rơi ngay khóe miệng chàng liền lấy khăn tay định lau, nhưng vừa giơ tay lên đã hổ thẹn rụt lại, lên tiếng trách: “Sao huynh lại nằm trước mặt ta, không chịu tránh đi chỗ khác?”

Từ Thiên Hoằng thở dài một tiếng, gắng gượng định ngồi dậy thật. Chu Ỷ vội nói: “Thôi được, cứ nằm đây đi. Chúng ta phải làm gì bây giờ? Huynh tự xưng là Gia Cát Lượng kia mà, gia gia vẫn khen huynh đa mưu túc trí.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Vai ta đang đau dữ dội, không suy nghĩ được chuyện gì khác. Cô nương! Nhờ cô xem vết thương giùm ta.”

Chu Ỷ bĩu môi nói: “Ta không muốn xem!” Miệng thì nói vậy, nhưng nàng vẫn cúi người xem xét, nhìn một lúc rồi nói: “Đâu có sao đâu? Hoàn toàn không chảy máu, da thịt vẫn nguyên mà.”

Từ Thiên Hoằng ráng ngồi dậy, tay phải dùng mũi đơn đao khều một chỗ rách trên vai áo, nghiêng mắt nhìn rồi nói: “Chỗ này trúng phải ba mũi kim châm.” Ba mũi châm tuy nhỏ nhưng ghim sâu vào thịt, tới sát tận xương, khiến chàng đau đớn chẳng khác gì bị chém ba đao.

Chu Ỷ hỏi: “Làm sao bây giờ? Hay chúng ta vào thị trấn tìm đại phu?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Chuyện đó không được. Trận đánh đêm qua, cả vùng không ai không biết. Chúng ta ăn mặc thế này đi tìm đại phu trị thương thì chẳng khác gì tự chui vào lưới. Ba mũi kim đó đáng lẽ phải dùng nam châm để hút ra, nhưng lúc này không sao tìm được nam châm. Phiền cô lấy dao xẻ thịt để rút chúng ra vậy.”

Chu Ỷ vừa ác chiến quá nửa đêm, giết không ít quan quân mà sắc mặt vẫn không thay đổi, nhưng bây giờ nghĩ tới chuyện cầm dao xẻ vào da thịt Từ Thiên Hoằng thì không khỏi chần chừ.

Từ Thiên Hoằng nói: “Ta chịu được mà, cô cứ ra tay đi… Khoan đã, chờ một lát.” Chàng xé một miếng vải áo mình ra, đưa cho nàng rồi hỏi: “Cô có mang theo mồi lửa không?”

Chu Ỷ sờ vào bọc rồi nói: “Có! Huynh làm gì vậy?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Phiền cô đi lượm một ít cành cây và cỏ khô đốt lên thành tro. Sau khi rút kim châm ra, lấy tro phủ lên vết thương rồi dùng mảnh vải này buộc chặt lại.”

Chu Ỷ theo lời, đốt một đống tro lớn rồi hỏi đủ chưa. Từ Thiên Hoằng mỉm cười đáp: “Chừng đó đủ để bó một trăm vết thương.”

Chu Ỷ giận dữ nói: “Ta chỉ là thứ nha đầu ngu ngốc. Huynh tự mình làm đi.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Ta lỡ lời, mong cô nương đừng giận.”

Chu Ỷ hừ một tiếng: “Người như huynh mà cũng biết mình sai hay sao?” Tay phải nàng xách đơn đao lên, tay trái ấn lên vai Từ Thiên Hoằng gần chỗ vết thương. Khi ngón tay chạm vào da thịt chàng, nàng bất giác xấu hổ rụt tay lại, mặt mũi nóng bừng.

Thấy nàng đột nhiên đỏ mặt, Từ Thiên Hoằng tuy mang ngoại hiệu Võ Gia Cát mà cũng không hiểu chuyện gì, phải hỏi: “Cô nương sợ hay sao?”

Chu Ỷ khẽ đáp: “Ta mà sợ gì? Chính huynh mới sợ đó. Quay đầu chỗ khác đi, đừng nhìn.” Từ Thiên Hoằng nghe lời quay đi. Chu Ỷ bóp chặt chỗ trúng kim châm, đưa đao chích vào thịt rồi nhẹ xoay mũi đao một chút, máu tươi lập tức trào ra. Từ Thiên Hoằng cắn chặt răng không để bật lên tiếng kêu nào, nhưng những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu đã tuôn ướt đẫm đầu. Chu Ỷ phanh vết thương ra để lộ đuôi kim châm, kéo áo Từ Thiên Hoằng lau bớt máu tươi cho dễ nhìn, rồi đưa hai ngón tay kẹp chặt, dùng sức rút ra.

Sắc mặt Từ Thiên Hoằng trắng bệch, nhưng vẫn cố mỉm cười: “Tiếc là loại kim này không có lỗ xâu chỉ, không thì có thể tặng cho cô nương thêu thùa.”

Chu Ỷ đáp: “Ta không biết thêu thùa gì cả. Mấy năm trước mẹ có bắt thử ta thêu, nhưng mới được mấy đường ta đã làm gãy kim, hỏng luôn cả khung thêu. Mẹ mắng, ta bèn nói: “Mẹ! Con thêu không được. Mẹ dạy cho con đi.” Huynh đoán xem mẹ ta nói gì?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Chắc phu nhân gọi cô nương tới để dạy.”

Chu Ỷ nói: “Sai rồi! Bà nói lúc này không rảnh. Sau này ta mới nghĩ ra, thì ra bà cũng không biết thêu thùa.” Từ Thiên Hoằng cười ha hả. Trong lúc nói chuyện, nàng lại rút một cây kim châm nữa ra.

Chu Ỷ mỉm cười nói tiếp: “Ta vốn cũng không thích học thêu, nhưng khi biết mẹ cũng không hiểu chuyện thêu thùa thì ta lại một mực đòi bà dạy ta. Bà bị quấy rầy không sao chịu nổi bèn nói: “Thôi thôi! Nếu con làm phiền ta nữa, thì ta sẽ mách cha mắng con đấy.” Bà lại nói: “Nếu con không chịu học thêu thùa thì sau này…” Nói đến đây, nàng đột nhiên dừng lại. Rõ ràng lúc đó Chu phu nhân nói là: “Sau này thử xem con có lấy được chồng hay không.”

Từ Thiên Hoằng hỏi kỹ: “Sau này thì sao?”

Chu Ỷ gắt: “Ta không muốn nói chuyện đó nữa, huynh đừng lải nhải.”

Miệng nói chuyện nhưng tay nàng vẫn không dừng, mũi kim châm thứ ba đã được rút ra. Sau đó nàng lấy tro đắp lên vết thương, rồi lấy vải buộc chặt lại.

Chu Ỷ thấy Từ Thiên Hoằng máu me đầy mình mà vẫn nói chuyện vui vẻ, không khỏi phục thầm: “Tên này tuy thấp lùn, nhưng xem ra cũng là một nhân vật anh hùng. Nếu người ta xẻo vào thịt mình, chắc mình phải la hét ầm ĩ, kêu cha gọi mẹ.” Nghĩ đến song thân, nàng không khỏi chạnh lòng. Lúc này nàng thấy tay mình đầy máu, bèn nói: “Huynh nằm đây đừng nhúc nhích, để ta đi tìm một ít nước uống.”

Chu Ỷ quan sát địa thế một lúc rồi chạy ra khỏi khu rừng, được vài trăm bước thì thấy một con suối nhỏ. Mưa to mới dứt, nước suối còn chảy rất mạnh. Nàng rửa sạch máu trên tay rồi cúi người xuống suối, đột nhiên thấy bóng mình dưới nước, đầu tóc bù xù, y phục ẩm ướt nhăn nheo, mặt đầy bùn đất, nhìn không ra con người nữa. Nàng bất giác nghĩ: “Hỏng bét! Hắn đã thấy bộ dạng tiều tụy của mình rồi.”

Chu Ỷ lập tức soi mình dưới suối để rửa mặt sạch sẽ, dùng mười ngón tay làm lược cào sơ lại mái tóc, thắt bím đàng hoàng. Sau đó nàng vốc ít nước uống, tự nhủ: “Chắc hắn cũng đang khát nước.” Nhưng không có gì để đựng, nàng chần chừ một chút rồi nghĩ ra, lấy trong bao lưng ra một cái áo, giặt giũ sạch sẽ rồi thấm ướt sũng, xách chạy về.

Lúc nãy Từ Thiên Hoằng ráng chịu đau để làm bộ tươi cười trò chuyện với Chu Ỷ, bây giờ thì không sao chống đỡ nổi nữa. Lúc nàng quay lại, chàng đang đau đến chết đi sống lại. Chu Ỷ thấy chàng như vậy mà vẫn cố giả vờ không sao, không khỏi thương xót trong lòng. Nàng kêu chàng há mồm, vắt nước trong áo vào cho, rồi hỏi: “Huynh đau lắm phải không?”

Xưa nay Từ Thiên Hoằng vẫn coi cô nương này là một đối thủ đấu trí, hoàn toàn không có tình cảm nam nữ gì. Không ngờ khi chàng bị thương, nàng lại là bằng hữu duy nhất chăm sóc cho mình, nên những nghi kỵ trước đây hoàn toàn quên hết. Lúc này Chu Ỷ lại lộ vẻ quan tâm chàng tha thiết. Cả đời chàng lăn lộn giang hồ không màng sống chết, đối mặt với biết bao âm mưu quỉ kế, chưa bao giờ được nghe những lời dịu dàng như vậy. Họ Từ không nén nổi cảm động, ngẩn ra nhìn nàng không biết nói gì.

Chu Ỷ thấy chàng ngơ ngác, tưởng thần trí chàng vẫn còn mơ hồ liền hỏi: “Sao rồi? Huynh thấy sao rồi?”

Từ Thiên Hoằng định thần đáp lại: “Đỡ hơn rồi, cảm ơn cô!”

Chu Ỷ hừ một tiếng: “Ta không cần huynh cảm ơn.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta ở đây không tiện, nhưng cũng không thể vào thành, chắc phải tìm một nông gia ở chỗ tương đối hoang vắng. Chúng ta cứ nói mình là huynh muội…”

Chu Ỷ tán đồng: “Ta sẽ gọi huynh là Từ ca ca.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Lúc nào cô cũng thấy ta lớn tuổi, vậy gọi ta là thúc thúc đi.”

Chu Ỷ cãi: “Huynh đâu có già quá, kêu huynh là ca ca được rồi. Nhưng chỉ trước mặt người khác thôi, lúc không có ai thì ta không gọi như vậy đâu.”

Từ Thiên Hoằng cười nói: “Được rồi, không gọi thì không gọi. Chúng ta nói với họ là dọc đường gặp phải đại quân, hành lý bị người ta cướp hết, lại còn bị đánh một trận nữa.”

Hai người bàn bạc xong xuôi, Chu Ỷ bèn dìu chàng dậy. Từ Thiên Hoằng bảo nàng: “Cô cưỡi ngựa đi. Chân ta không bị thương, đi lại chẳng trở ngại gì.”

Chu Ỷ quát: “Mau lên ngựa đi! Huynh quá coi thường nữ nhân rồi đó.” Từ Thiên Hoằng không còn cách nào khác, đành phải nghe lời. Hai người ra khỏi rừng, tìm một con đường nhỏ nhắm hướng mặt trời mà đi.

Tây Bắc là vùng hoang vu, không giống miền nam Trung Quốc chỗ nào cũng đông dân nhiều ruộng. Hai người đi hơn một canh giờ, vừa đói vừa mệt, khó khăn lắm mới nhìn thấy một làn khói mỏng manh, đến gần mới biết đó là một căn nhà vách đất. Từ Thiên Hoằng xuống ngựa gõ cửa, hồi lâu mới có một bà lão bước ra. Bà cụ thấy trang phục hai người lôi thôi lếch thếch, không khỏi tần ngần. Từ Thiên Hoằng đem những chuyện đã bàn tính trước nói qua, rồi hỏi xin bà cụ chút gì ăn lót dạ.

Bà lão kia than thở: “Quan quân chỉ giỏi tàn hại dân chúng. Xin hỏi khách quan họ gì?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Cháu họ Chu.” Chu Ỷ liếc chàng một cái, nhưng im lặng không nói. Từ Thiên Hoằng nhìn lại nàng, cũng không nói.

Bà lão dẫn họ vào nhà, lấy cho mấy cái bánh. Hai người đói bụng đã lâu, tuy bánh làm bằng lúa mạch vừa đen vừa xấu, rất thô kệch, nhưng vẫn cảm thấy hương vị ngọt ngào.

Bà lão nói mình họ Đường, chỉ có một đứa con trai. Một hôm con bà vào thị trấn bán củi bị chó cắn, giận dữ lấy đòn gánh phang chết con chó, không may đó là chó nhà giàu. Con trai bà bị tên nhà giàu đó kêu gia đinh đánh cho một trận, về nhà vừa đau vừa tức, chẳng bao lâu thì qua đời. Cô con dâu còn trẻ tuổi, nhất thời suy nghĩ nông cạn, giữa đêm thắt cổ chết theo chồng, để lại một mình bà lão cô đơn.

Bà lão vừa kể vừa chảy nước mắt, Chu Ỷ nghe xong nổi giận, hỏi ngay tên nhà giàu tên là gì, ở đâu. Bà lão nói: “Tên sát nhân đó cũng họ Đường. Trước mặt thì người ta gọi là Đường Lão Gia, Đường Tú Tài, còn sau lưng thì gọi là Đường Thạch Tín. Lão ở trong thị trấn, tòa nhà lớn nhất thị trấn này chính là nhà lão.”

Chu Ỷ hỏi: “Không hiểu đó là thị trấn gì, ở hướng nào?”

Bà lão trả lời: “Từ đây đi về hướng bắc khoảng năm dặm đường, qua khỏi ngọn đồi là ra đường cái, đi thêm về hướng đông hai mươi dặm nữa là tới. Thị trấn đó tên là Văn Quang trấn.”

Chu Ỷ đứng dậy, cầm đơn đao lên nói với Từ Thiên Hoằng: “Ca ca! Muội phải ra ngoài một chút. Ca ca cứ ở đây nghỉ ngơi.”

Từ Thiên Hoằng nhìn mặt là biết nàng muốn đi giết tên thạch tín bọc đường đó, vội ngăn cản: “Muội muốn ăn kẹo phải không? Để tối nay hãy ăn.” Chu Ỷ ngẩn ra một chút, hiểu ý chàng liền gật đầu ngồi xuống.

Từ Thiên Hoằng nói: “Bà bà! Cháu đang bị thương đi lại không tiện, muốn xin bà bà cho nghỉ lại một đêm.”

Bà lão chậm rãi đáp: “Ở lại thì không sao, nhưng gia đình nghèo quá chẳng có gì tiếp đãi, khách quan đừng chê cười.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Bà bà chịu cho chúng cháu nghỉ lại là cảm kích lắm rồi. Muội muội cháu ướt hết, bà bà có quần áo cũ không? Phiền bà bà cho mượn một bộ để thay.”

Bà lão đáp: “Con dâu lão còn để lại y phục, nếu cô nương không chê thì mặc thử xem sao, chắc cũng vừa.” Chu Ỷ liền đi thay quần áo, lúc trở ra đã thấy Từ Thiên Hoằng nằm ngủ trên giường của con trai bà lão rồi.

Đến xế chiều, Từ Thiên Hoằng bắt đầu nói năng lảm nhảm. Chu Ỷ sờ trán thấy chàng sốt cao, đoán là vết thương phát tác. Nàng biết tình trạng nguy hiểm mà không biết phải làm sao, không khỏi hoảng hốt. Nàng hết giận Từ Thiên Hoằng lại đến giận mình, vung đao chém loạn xạ xuống đất, một lúc thì bật khóc. Bà lão vừa thương vừa sợ, không dám khuyên can.

Chu Ỷ khóc một hồi rồi hỏi: “Trong trấn có đại phu không?”

Bà lão trả lời: “Có! Tào Tư Bằng là đại phu giỏi nhất vùng này. Nhưng ông ấy rất phách lối, xưa nay không chịu đến những nơi thôn dã như thế này để khám bệnh. Khi con lão bị thương nặng, lão đã cùng con dâu lạy ông ấy mười bảy mười tám cái, nhưng năn nỉ thế nào, van xin thế nào, ông ấy cũng không chịu đến đây…”

Chu Ỷ không đợi bà lão dứt lời, lau nước mắt mà nói: “Bây giờ cháu đi mời ông ấy. Nhờ bà bà chăm sóc giùm ca ca của cháu.”

Bà lão nói: “Cô nương cứ yên tâm mà đi. Chỉ e Tào đại phu không chịu đến đây thôi.”

Chu Ỷ mặc kệ, giấu đơn đao vào yên ngựa, phi một mạch đến trấn Văn Quang thì trời đã nhá nhem tối. Đi qua một quán cơm có bán rượu, mùi rượu bay tới khiến nàng không nén nổi cơn thèm, nhưng lại nghĩ: “Ta phải mời đại phu về trị thương cho huynh ấy trước đã. Ngày tháng còn dài, lo gì sau này không có rượu uống.” Nàng thấy phía trước có một người đi tới, liền hỏi rõ nơi ở của Tào Tư Bằng rồi đi thẳng đến đó.

Chu Ỷ tới nhà họ Tào, gõ cửa mất nửa ngày mới có một gia nhân đi ra. Hắn lớn tiếng hỏi: “Trời tối mịt rồi còn gõ cửa ầm ĩ như vậy làm gì? Báo tin người chết hay sao?”

Chu Ỷ giận dữ nhưng nghĩ mình đến đây là để cầu xin người ta, nên không tiện nổi xung ngay. Nàng nhẫn nhịn nói: “Ta đến mời Tào đại phu đi khám bệnh.”

Hắn nói luôn: “Không có nhà “, rồi không hỏi han gì nữa, quay lưng đóng cổng.

Chu Ỷ vừa giận dữ vừa lo lắng, lập tức túm lấy vai gã xách ra ngoài cửa, rút đơn đao ra hỏi: “Tào đại phu có nhà không?”

Hắn hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, run rẩy nói: “Thật mà… không có nhà thật mà.”

Chu Ỷ lại hỏi: “Đang ở đâu? Nói nhanh lên.”

Hắn đáp: “Lão gia đến chỗ Tiểu Mai Quế rồi.”

Chu Ỷ liếc đao vào mũi hắn, hét lên: “Tiểu Mai Quế là cái gì, ở đâu?”

Hắn đáp: “Tiểu Mai Quế là một người…”

Chu Ỷ quát luôn: “Nói bậy! Làm gì có ai tên là Tiểu Mai Quế?”

Hắn hoảng sợ lắp bắp: “Đại… đại vương cô nương! Tiểu Mai Quế là một cô gái lầu xanh.”

Chu Ỷ giận dữ hỏi: “Ta nghe nói lầu xanh là chỗ đê tiện. Lão gia ngươi đến đó làm gì?”

Tên gia nhân kia nghĩ thầm: “Con nhãi này hung hãn bá đạo, nhưng chẳng hiểu việc đời gì cả.” Hắn muốn cười nhưng không dám cười, chỉ còn cách im lặng.

Chu Ỷ giận dữ hỏi tiếp: “Ta hỏi ngươi, tại sao ngươi không nói?”

Hắn đành kiếm cách trả lời: “Cô ấy là tình nhân của lão gia.”

Chu Ỷ bây giờ mới hiểu, thở ra một hơi rồi ra lệnh: “Dẫn ta đi ngay, đừng có lảm nhảm nữa.”

Tên kia ấm ức nghĩ: “Ta lảm nhảm hồi nào, chuyện gì cũng do ngươi hỏi mà!” Nhưng lưỡi đao lạnh ngắt đang kề cổ, dĩ nhiên hắn không dám không nghe lời.

Hai người đi đến trước cửa một ngôi nhà nhỏ, tên gia nhân nói: “Đến nơi rồi.”

Chu Ỷ bảo: “Ngươi gõ cửa đi, kêu đại phu ra đây.”

Tên kia ngoan ngoãn làm theo. Tú bà bước ra mở cửa, hắn nói: “Có người đến tìm lão gia khám bệnh, tiểu nhân nói là lão gia không rảnh, nhưng cô ấy không tin, ép tiểu nhân dẫn đến đây tìm.” Mụ tú bà liếc xéo hắn một cái rồi đóng sầm cửa lại.

Chu Ỷ đứng sau lưng muốn chạy lên ngăn cản nhưng không kịp. Nàng đập cửa ầm ầm như đánh trống, nhưng bên trong chẳng có ai trả lời. Nàng giận dữ đá vào lưng tên kia một cước, hét lên: “Cút mau! Đừng láng cháng trước mặt làm bổn cô nương nổi nóng.” Hắn bị đá nhào sấp xuống đất như chó ăn phân, lẩm bẩm thóa mạ rồi bò lê bò càng chạy biến.

Chu Ỷ đợi hắn đi xa mới tung người nhảy vào trong sân, nhìn thấy một căn phòng có ánh đèn hắt qua khung cửa sổ giấy, liền nhẹ nhàng cúi người đi tới. Nàng nghe bên trong có tiếng hai nam nhân thì cả mừng, chỉ lo tên đại phu kia đang làm chuyện bậy bạ với ả Tiểu Mai Quế thì mình không biết phải hành động ra sao. Chu Ỷ thấm nước bọt ướt đầu ngón tay, chọc thủng giấy dán cửa sổ, ghé mắt nhìn vào.

Nàng thấy trong phòng có hai nam nhân đang ngồi trên giường nói chuyện, một tên thân hình to lớn, còn tên kia ốm yếu dài ngoằng. Một cô nàng yểu điệu đang đấm bóp cho tên ốm yếu. Chu Ỷ muốn quát gọi Tào Tư Bằng ra ngoài, nhưng bỗng thấy hán tử to cao phẩy tay một cái. Cô ả kia đứng dậy, mỉm cười nói: “Hai vị đại ca lại muốn thương lượng những chuyện hại người nữa rồi phải không? Lo mà tích đức cho con cháu đi, nếu không sau này đẻ con không có hậu môn thì khốn đấy!”

Hán tử cao to vừa cười vừa mắng: “Về mà ngửi cái hậu môn thúi của mẹ cô đi.” Cô ả cũng cười, ra ngoài đóng chặt cửa lại, đi ra nhà sau. Chu Ỷ nghĩ bụng: “Ả này chắc là Tiểu Mai Quế. Thật là đồ mặt dày, nhưng kể ra ả nói cũng có lý.”

Trong phòng, hán tử to cao lấy ra bốn thỏi bạc đặt trên bàn rồi nói: “Tào lão ca, đây là hai trăm lượng bạc. Chúng ta đã thương lượng lâu rồi, vẫn giá cũ nhé.”

Gã ốm đáp lời: “Đường lục gia! Mấy ngày nay quân binh đi qua huyện thành chúng ta, Lục gia được giao cung ứng quân lương, thế là phát tài thêm một món nữa rồi.” Chu Ỷ nghe mấy câu này vừa mừng vừa giận. Nàng mừng là cái tên thạch tín bọc đường cũng ở đây, không cần phải vất vả đi tìm nữa. Còn giận là vì đạo quân kia đã làm mình cực khổ như vậy, mà tên này còn giúp đỡ chúng hãm hại người khác.

Hán tử cao to nói: “Bọn dân đen cũng láu cá lắm. Huynh tưởng là chúng ngoan ngoãn nộp lương thảo cho đệ hay sao? Mấy ngày nay đệ chạy đông chạy tây, mệt chết cả người.”

Tên ốm nói: “Lão đệ mang hai gói thuốc này về, tha hồ mà khỏe lại. Gói giấy đỏ thì cho con nhỏ kia uống, chỉ chốc lát là bất tỉnh nhân sự. Lúc đó lão đệ muốn làm gì thì làm, không cần ta chỉ bảo nữa.” Hai gã phá lên cười khả ố.

Tên ốm lại tiếp: “Còn gói giấy đen thì cho thằng lỏi kia uống. Lão đệ nói là thuốc trị thương cho hắn, nhưng hắn uống vào thì vết thương sẽ chảy máu đến chết. Người khác nghĩ là vết thương vỡ miệng làm chết người, chứ không ai nghi ngờ là lão đệ hạ thủ. Lão đệ thấy ta tính toán thế nào?”

Gã kia lập tức tán dương: “Cao minh, cao minh!”

Tên ốm nói: “Lục gia! Lão đệ phen này được cả gái lẫn tiền mà chỉ cho ta có hai trăm lạng bạc, hình như hơi ít đấy.”

Gã kia nói: “Tào đại ca! Huynh đệ chúng ta là người tử tế, không nói lời ám muội. Con nha đầu kia thật là xinh đẹp, nó ăn mặc như đàn ông mà ta còn dằn lòng không nổi, huống chi sau này được nhìn thấy nó cởi đồ. Ha ha, thịt mỡ đưa đến miệng, không biết hưởng thụ thì người ta sẽ lôi tổ tông mười tám đời nhà họ Đường ra mà chửi không biết dạy con cháu. Còn thằng nhãi kia thì thật sự chẳng có bao nhiêu tiền bạc, chỉ vì hai đứa đi chung, đã muốn chiếm lấy con nha đầu kia thì không thể cho hắn sống.”

Gã ốm hỏi: “Không phải lão đệ nói hắn có một cây sáo đúc bằng vàng hay sao? Chỉ cây sáo đó thôi, ít ra cũng được mấy cân rồi chứ?”

Hán tử cao to đáp: “Được rồi, được rồi! Tiểu đệ chồng thêm cho huynh năm chục lạng.” Hắn nói xong, đặt thêm một thỏi bạc lên bàn.

Chu Ỷ càng nghe càng giận, phóng cước đá bật cửa phòng chạy thẳng vào trong. Hán tử to cao kêu lên một tiếng, phóng cước đá vào cổ tay cầm đao của nàng. Chu Ỷ xoay đơn đao lại, thuận tay chặt gãy chân phải hắn, rồi trở mủi đao đâm một nhát thấu tim.

Gã ốm ngồi bên hoảng sợ ngẩn người, thân mình run rẩy, hai hàm răng va vào nhau lập cập. Chu Ỷ rút đao ra khỏi xác chết, lau sạch vết máu, rồi đưa tay trái nắm lấy ngực áo gã ốm quát hỏi: “Ngươi chính là Tào Tư Bằng phải không?”

Đầu gối gã ốm kia nhũn ra, quì dưới đất nói: “Xin… Xin cô nương tha mạng… tiểu nhân không dám nữa.”

Chu Ỷ nói: “Ai thèm lấy mạng ngươi? Đứng dậy!”

Tào Tư Bằng run rẩy đứng dậy, nhưng hai chân bủn rủn đứng không nổi lại khuỵu xuống. Chu Ỷ lấy hai gói thuốc và năm thỏi bạc cất vào bọc rồi bảo: “Đi ra.”

Tào Tư Bằng không biết nàng muốn gì, nhưng cũng chỉ còn cách từ từ đi ra ngoài, mở cửa lớn. Tú bà nghe tiếng động trong phòng, hỏi Tào Tư Bằng nhưng hắn không dám lên tiếng. Chu Ỷ kèm hắn đi lấy ngựa, rồi hai người lên ngựa chạy ra khỏi thị trấn.

Chu Ỷ nắm dây cương ngựa hắn, gằn giọng: “Nếu ngươi dám kêu một tiếng, thì ta lập tức cắt cái đầu chó ngươi rớt xuống.”

Tào Tư Bằng vội đáp: “Không… không dám!”

Chu Ỷ giận dữ nói: “Ai nói ta không dám? Ta cắt cho ngươi coi.” Nói xong nàng rút đơn đao ra.

Tào Tư Bằng run rẩy nói: “Không… Không… Không phải cô nương không dám… Là… Là tiểu nhân không dám.”

Chu Ỷ bật cười, cất đao vào bọc nghĩ bụng: “Quả thực ta không dám cắt cái đầu chó của ngươi. Cắt rồi thì ai trị bệnh cho huynh ấy đây.”

Không đầy hai canh giờ, hai người đã về đến nhà bà lão. Chu Ỷ đến bên giường Từ Thiên Hoằng, thấy chàng vẫn nằm thiêm thiếp, mặt mũi đỏ bừng, người nóng hầm hập. Nàng đẩy Tào Tư Bằng tới, nói: “Vị ca ca này đã bị thương. Ngươi mau trị bệnh cho huynh ấy đi.”

Tào Tư Bằng biết đối phương muốn nhờ mình trị bệnh, bấy giờ mới yên tâm trở lại, không đến nỗi kinh tâm động phách như trước. Hắn bắt mạch cho Từ Thiên Hoằng, rồi cởi băng vải trên vai chàng ra xem. Khám xong, hắn nhìn sắc mặt chàng lắc đầu quầy quậy rồi nói: “Huyết khí vị gia gia này rất yếu, hư hỏa đã bốc lên…”

Chu Ỷ ngắt lời: “Ai cần ngươi nói mấy chuyện đó? Chỉ cần trị bệnh huynh ấy cho tốt, trị không lành thì đừng hòng rời khỏi chỗ này.”

Tào Tư Bằng nói: “Để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc, không có thuốc thì chẳng làm được gì cả.”

Bấy giờ Từ Thiên Hoằng đã tỉnh lại một chút, nằm nghe hai người cãi vã. Chu Ỷ hỏi: “Ngươi tưởng ta là con nít ba tuổi hay sao? Ngươi kê toa đi, để ta đi bốc thuốc.”

Tào Tư Bằng không làm gì được, đành chịu thua: “Vậy nhờ cô nương đi lấy bút mực để tiểu nhân kê toa.”

Nơi hoang dã nghèo nàn này kiếm đâu ra bút mực. Chu Ỷ chau mày không biết phải làm sao. Tào Tư Bằng đắc ý nói: “Bệnh tình vị gia gia này không thể chờ đợi thêm nữa. Cứ để tiểu nhân về thị trấn lấy thuốc là tốt nhất.”

Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Muội muội! Muội lấy một cây củi đốt thành than, viết lên giấy bản. Không có giấy thì viết lên ván gỗ cũng được.”

Chu Ỷ mừng rỡ: “Ca ca đúng là lắm mưu nhiều kế.” Nàng theo lời Từ Thiên Hoằng đốt một miếng than, rồi xin bà lão được một tờ giấy vàng dùng để thắp hương cúng Phật. Tào Tư Bằng đành phải kê toa.

Chu Ỷ đợi hắn viết xong, rồi tìm một sợi dây trói ngược cả tay chân hắn vào cạnh giường. Nàng để đơn đao của Từ Thiên Hoằng cạnh gối chàng, rồi dặn bà lão: “Cháu vào thị trấn bốc thuốc. Nếu tên cẩu đại phu này muốn chạy trốn thì bà gọi ca ca của cháu dậy, chặt đầu hắn trước rồi tính sau.”

Chu Ỷ cưỡi ngựa vào thị trấn, tìm được một tiệm bán thuốc. Nàng gọi cửa, hốt mười mấy thang thuốc tổng cộng là một lạng ba tiền. Lúc sờ vào túi, nàng mới biết là vội vã quên cả mang tiền, năm thỏi bạc đã để ở nhà bà lão, liền nói: “Cho ta nợ, lát nữa đem tiền tới trả.”

Người giúp việc trong tiệm lo lắng kêu lên: “Cô nương, không được đâu. Cô không phải là người vùng này, huống chi bổn tiệm vốn liếng cũng eo hẹp lắm.”

Chu Ỷ giận dữ nói: “Thế thì chỗ thuốc này coi như ta mượn, sau này ngươi bệnh ta sẽ đem trả cho ngươi.”

Người giúp việc nói: “Đây là thuốc trị thương. Tiểu nhân đâu có bị thương bao giờ?”

Chu Ỷ lại càng giận dữ: “Chẳng lẽ ngươi bị đao chém cũng bình an vô sự hay sao?” Nàng rút đơn đao nghe soạt một tiếng, hét lên: “Ta thử thí nghiệm một đao xem ngươi có bị thương hay không.” Gã kia thấy lưỡi đao sáng loáng trước mặt, hai chân bủn rủn ngồi bẹp xuống đất, rồi chui ngay vào gầm bàn.

Chu Ỷ là thiên kim tiểu thư con nhà gia thế, khác hẳn Lạc Băng. Hôm nay nàng dùng vũ lực ép người lấy thuốc là chuyện bất đắc dĩ. Đây là lần đầu tiên trong đời nàng làm thế, nên cảm thấy rất khó chịu trong lòng, im lặng lấy thuốc rồi lên ngựa. Lúc này trời đã sáng dần, dọc đường đầy bọn quan sai địa phương qua lại tuần tra. Chu Ỷ biết vụ án giết thạch tín bọc đường đã bị phát giác, bèn nép vào một góc chờ vắng người mới cho ngựa chạy thật nhanh, về tới nhà bà lão thì trời sáng hẳn. Nàng cùng với bà lão sắc thuốc, rót vào cái chén mẻ mang tới bên giường Từ Thiên Hoằng, gọi chàng dậy uống thuốc.

Từ Thiên Hoằng thấy đầu nàng vừa đen bồ hóng vừa đẫm mồ hôi, tóc vương đầy cỏ thì nghĩ thầm: “Chắc nàng chưa bao giờ phải làm những việc đun nấu thế này.” Chàng không nén nổi cảm kích, ngồi dậy đón lấy chén thuốc, nhưng chợt nảy ra một ý, liền đẩy chén thuốc đến trước mặt Tào Tư Bằng nói: “Ngươi uống hai hớp trước đi.”

Tào Tư Bằng hơi chần chừ. Chu Ỷ chưa hiểu ý Từ Thiên Hoằng, nhưng cũng hùa theo: “Đúng, đúng, bắt hắn uống trước là phải. Huynh chưa biết đâu, tên này tồi tệ lắm.”

Tào Tư Bằng chỉ còn cách mở miệng uống hai hớp thuốc. Từ Thiên Hoằng nói: “Muội muội! Muội ngồi nghỉ một chút, thuốc này lát nữa hãy uống.”

Chu Ỷ hỏi: “Tại sao vậy?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Xem thử hắn có chết hay không.”

Chu Ỷ đồng tình: “Đúng vậy. Nếu hắn chết thì thuốc này không uống được.” Nàng bèn cầm đèn dầu rọi vào Tào Tư Bằng, trừng mắt nhìn chằm chặp xem hắn có chết hay không.

Tào Tư Bằng cười khổ nói: “Đã là đại phu thì phải có tấm lòng cắt thịt chữa người, sao có thể hại người được?”

Chu Ỷ giận dữ nói: “Ngươi lén lút thương lượng với Đường Thạch Tín mưu hại cô nương nhà người ta, mưu lấy kim địch của người ta, những chuyện này ta nghe thấy hết. Bây giờ lại còn oai phong lỗ miệng ư?”

Từ Thiên Hoằng nghe thấy hai chữ “kim địch”, vội vàng hỏi rõ. Chu Ỷ kể lại mọi chuyện, cả chuyện mình giết gã thạch tín bọc đường kia. Nói đến đây, nàng sực nhớ liền chạy ra ngoài thuật lại với bà lão chuyện mình vừa trả thù cho con trai và con dâu bà. Bà lão nước mắt giọt ngắn giọt dài, vừa khóc vừa cảm ơn, miệng không ngừng niệm phật.

Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ quay vào mới hỏi Tào Tư Bằng: “Người cầm ống sáo vàng trông như thế nào? Còn nữ nhân cải nam trang kia là ai?”

Chu Ỷ rút đơn đao ra uy hiếp: “Nếu ngươi không nói rõ ràng thì lưỡi đao này kết liễu ngươi ngay.”

Tào Tư Bằng cực kỳ sợ hãi nói: “Tiểu… tiểu nhân nói thật… Hôm qua Đường lục gia đến tìm tiểu nhân, nói rằng trong nhà hắn có hai người đến tá túc, một người bị thương nặng, người kia là một thiếu niên tuấn tú đẹp trai. Hắn không muốn giữ họ lại, nhưng thấy thiếu niên kia đẹp kỳ lạ nên mới cho nghỉ nhờ một đêm. Sau này nghe thiếu niên đó ăn nói nhỏ nhẹ dịu dàng, cử chỉ thần sắc giống như con gái, lại không chịu ở cùng phòng với hán tử bị thương, nên hắn mới đoán là nữ cải nam trang.”

Chu Ỷ nói: “Vì thế mà hắn đến mua thuốc của ngươi phải không?”

Tào Tư Bằng ấp úng: “Tiểu nhân đáng chết.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Hán tử kia dáng vẻ như thế nào?”

Tào Tư Bằng đáp: “Đường lục gia có gọi tiểu nhân xem thử. Người đó khoảng hai ba hai bốn tuổi, ăn mặc kiểu văn sĩ, trên người bị đao và côn đả thương bảy tám chỗ.”

Từ Thiên Hoằng lại hỏi: “Bị thương có nặng lắm không?”

Tào Tư Bằng đáp: “Hơi nặng nhưng đều là ngoại thương cả, không có vết thương nào trí mạng.”

Từ Thiên Hoằng cảm thấy không hỏi thêm gì được, bèn đưa tay bê chén thuốc uống. Không ngờ chàng yếu quá, tay run rẩy làm thuốc sánh ra ngoài. Chu Ỷ thấy vậy liền giành lấy chén thuốc, kề lên miệng chàng. Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi nói: “Đa tạ.”

Tào Tư Bằng nghe vậy nghĩ thầm: “Hai tên này không phải là huynh muội. Làm gì có ông anh nào đa tạ vì em gái mình sắc thuốc?”

Từ Thiên Hoằng uống hết chén thuốc rồi ngủ một giấc, mồ hôi toát ra đầm đìa. Đến chiều chàng lại uống thêm một chén nữa. Nhân phẩm Tào Tư Bằng tuy tồi tệ nhưng y thuật lại khá cao minh, quả nhiên chữa được bệnh cho chàng. Sáng hôm sau Từ Thiên Hoằng đã có thể bước xuống giường.

Lại thêm một ngày nữa, Từ Thiên Hoằng nghĩ mình đã ráng cưỡi ngựa được, liền nói với Chu Ỷ: “Người cầm kim địch chính là Thập tứ đệ của ta, không biết tại sao lại lạc vào nhà tên ác bá đó. Tuy hắn đã bị cô giết chết, trước mắt không có gì đáng lo ngại, nhưng ta vẫn không yên tâm. Tối nay chúng ta đi thám thính một chút xem sao.”

Chu Ỷ hỏi: “Người đó là Thập tứ đệ của huynh hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Y đã từng tới Thiết Đảm Trang, cô cũng gặp rồi. Đó chính là người đầu tiên mà tổng đà chủ của ta phái đi thám thính tin tức.”

Chu Ỷ nói: “À ra thế! Nếu biết trước là huynh ấy thì ta đã đón đến đây dưỡng thương cùng huynh rồi. Như vậy không phải tốt hơn hay sao?”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười, một lúc bỗng trầm ngâm tự hỏi: “Nữ nhân cải nam trang đó là ai nhỉ?”

Đến xế chiều, Chu Ỷ tặng cho bà lão hai thỏi bạc, bà cảm ơn cả ngàn lần rồi mới chịu nhận lấy. Sau đó Chu Ỷ nhấc bổng Tào Tư Bằng lên, đưa đao xẻo vành tai phải của hắn rơi xuống đất, hét lớn: “Vì ngươi đã chữa trị cho ca ca ta nên ta mới tha cái mạng chó này. Nếu sau này ngươi tiếp tục làm chuyện bậy bạ thì cứ nhìn gương gã thạch tín bọc đường, một đao là mất mạng.”

Tào Tư Bằng đưa tay bịt vết thương, rên rỉ luôn mồm: “Không dám.”

Chu Ỷ nạt: “Ai nói ta không dám?”

Tào Tư Bằng xua tay lia lịa: “Không phải! Không phải cô nương không dám mà là tiểu nhân không dám.”

Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Ba tháng sau chúng ta sẽ quay lại đây, khi đó sẽ đến bái phỏng Tào đại phu.”

Tào Tư Bằng lại nói: “Không dám! Không dám! À không phải! Không phải đại gia không dám bái phỏng, mà tiểu nhân không dám, không dám không đón tiếp.”

Chu Ỷ bảo: “Huynh lấy ngựa hắn mà cưỡi, chúng ta đi thôi.”

Hai người lên ngựa đi về hướng Văn Quang trấn. Dọc đường Chu Ỷ hỏi: “Ba tháng sau chúng ta trở lại đây để làm gì?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Ta gạt tên đại phu đó để hắn khỏi làm khó dễ lão bà.”

Chu Ỷ gật đầu, đi thêm một đoạn lại hỏi: “Tại sao lúc nào huynh cũng xảo quyệt lừa gạt người khác? Ta chẳng thích như vậy chút nào.”

Từ Thiên Hoằng không đáp ngay được, hồi lâu mới nói: “Cô nương chưa biết, nhân vật giang hồ lòng dạ xảo trá khó lường. Đối với bạn bè thì đương nhiên phải lấy nhân nghĩa làm đầu, nhưng đối với tiểu nhân mà cô nương thật lòng thì chỉ tổ chuốc lấy thiệt thòi, bị lừa mất mạng cũng nên.”

Chu Ỷ nói: “Gia gia ta vẫn dạy, thà mình chịu thiệt thòi một chút chứ không được hiếp đáp người khác.”

Từ Thiên Hoằng gật gù: “Đó chính là điểm hơn người của gia gia cô nương. Vì thế mà trong giang hồ bất kể hắc đạo hay bạch đạo, bất kể quan lại hay lục lâm, không ai không coi Thiết đảm trang Chu lão gia là anh hùng hảo hán đại nhân đại nghĩa, mọi người đều muôn phần thán phục.”

Chu Ỷ hỏi: “Sao huynh không học theo gia gia ta?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Chu lão gia tử bản tính nhân hậu. Con người tính tình xảo quyệt cổ quái như ta làm sao mà học được?”

Chu Ỷ nói: “Ta ghét nhất là tính khí xảo quyệt cổ quái như huynh. Gia gia vẫn nói, chỉ cần mình đối xử tốt với người ta là đương nhiên người ta cũng đối xử tốt với mình.”

Từ Thiên Hoằng ngẫm nghĩ, nhất thời không biết nói gì. Chu Ỷ hỏi: “Sao? Huynh không vui rồi hả? Lại muốn tìm cách trêu ghẹo ta phải không?”

Từ Thiên Hoằng bắt chước giọng lưỡi Tào Tư Bằng: “Không dám! Không dám! Là tiểu nhân không dám, không phải cô nương không dám.”

Chu Ỷ phì cười: “Người tốt không chịu học, lại đi học tên cẩu đại phu kia.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Cẩu đại phu là gì? Chó có biết làm đại phu đâu?”

Chu Ỷ cười đắc ý: “Không phải chó làm đại phu, mà là đại phu trị bệnh cho chó.”

Hai người dọc đường đùa giỡn, không lúc nào rầu rĩ. Sau phen hoạn nạn này đương nhiên Từ Thiên Hoằng cảm kích Chu Ỷ vô cùng, còn Chu Ỷ sợ vì mình có ân huệ nên người ta phải cố ý nhẫn nhịn, nên lúc nào cũng ráng khiêm nhường một chút. Nàng nói: “Trước đây ta cứ nghĩ rằng tính xấu của huynh đã ăn vào đến xương tủy. Nào ngờ…”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Nào ngờ cái gì?”

Chu Ỷ tiếp: “Bây giờ ta nghĩ, trước đây huynh chỉ cố ý giả vờ xảo quyệt. Tại sao lúc nào huynh cũng một mực chống đối ta? Con người như ta ai nhìn thấy cũng phải tức, có phải vậy không?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Người tốt hay xấu, khi mới quen biết vẫn thường lầm. Lúc đầu ta đâu có biết bụng dạ cô tốt như thế này?”

Chu Ỷ hỏi lại: “Lúc đó huynh nghĩ ta là con nha đầu vừa kiêu ngạo vừa nhỏ mọn có phải không?” Từ Thiên Hoằng cười cười không đáp.

Hai người đợi trời tối hẳn mới vào Văn Quang trấn, tìm đến nhà Đường Thạch Tín, tung người nhảy qua tường vào trong thám thính. Từ Thiên Hoằng bắt một tên tuần canh hăm dọa, hỏi tung tích Dư Ngư Đồng. Hắn nói: “Đường lục gia bị đại phu Tào Tư Bằng giết chết ở nhà Tiểu Mai Quế, trong nhà rối loạn lung tung. Sáng hôm sau hai người tá túc đó đã bỏ đi rồi.”

Chu Ỷ đề nghị: “Chúng ta đuổi theo họ đi.”

* * *

Không đầy một ngày hai người đã đi qua Cao Lan. Đi thêm hai ngày nữa thì Từ Thiên Hoằng phát hiện dọc đường có ký hiệu Trần Gia Lạc để lại, cho biết mọi người đến Khai Phong, hẹn gặp nhau tại nhà Mai Lương Minh, liền nói với Chu Ỷ. Chu Ỷ nghe tin mọi người vô sự, hết sức mừng rỡ. Bây giờ nàng mới yên tâm, hết lo lắng cho gia gia bèn đi mua ba cân rượu uống một bữa thoải mái.

Lúc này vết thương trên vai Từ Thiên Hoằng đã lành hẳn, sức lực hồi phục. Hai người vừa đi đường vừa nói chuyện, Từ Thiên Hoằng kể mấy giai thoại võ lâm, rồi mang một số điều cấm kỵ trên giang hồ ra giải thích tường tận. Chu Ỷ nghe rất thích thú, cứ cằn nhằn sao họ Từ không nói những chuyện đó sớm hơn mà cứ lo chặn họng, gây sự với người ta.

Chẳng bao lâu đã đến Đồng Quan. Hai người tìm chỗ nghỉ ngơi, biết Duyệt Lai khách điếm là chỗ đàng hoàng hơn cả, nhưng đến đó hỏi mới biết chỉ còn một phòng tốt. Từ Thiên Hoằng lấy một xâu tiền nhét vào tay tiểu nhị, bảo hắn tìm cách kiếm thêm một phòng nữa. Tiểu nhị lắc đầu hỏi lại: “Những phòng khác đã có người trọ hết rồi. Chẳng hay đại gia cùng vị cô nương này xưng hô thế nào?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Đó là tiểu muội ta.”

Tiểu nhị nói: “Đã là huynh muội thì ở chung một phòng đâu có sao.”

Chu Ỷ giận dữ gắt: “Không được nói nhiều.”

Chưa nói dứt, Từ Thiên Hoằng đã khẽ giật chéo áo nàng rồi nói: “Được, một phòng thì một phòng.” Dọc đường Chu Ỷ thấy chàng hết sức giữ lễ với mình, thật sự là một nam tử hán đường hoàng. Thế mà bây giờ chàng đòi ở cùng phòng, nàng không khỏi vừa xấu hổ vừa nghi ngờ, nhưng trước mặt tiểu nhị không sao lên tiếng được.

Vừa bước vào phòng, Từ Thiên Hoằng lập tức đóng cửa. Chu Ỷ đỏ mặt, định chất vấn, Từ Thiên Hoằng liền ra hiệu cho nàng đừng lên tiếng rồi thì thầm: “Vừa rồi cô có nhìn thấy tên khốn kiếp ở Trấn Viễn tiêu cục không?”

Chu Ỷ giật mình hỏi lại: “Cái gì? Cái gã dẫn người đến bắt Văn tứ gia và hại chết em trai ta ư?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Lúc đó ta liếc qua thấy hình như là hắn, cũng không chắc lắm, vì ta sợ bại lộ hành tung nên phải nhanh chóng về phòng. Lát nữa sẽ thăm dò lại.”

Tiểu nhị đem trà vào, hỏi hai người cần ăn uống gì không. Từ Thiên Hoằng dặn dò xong xuôi bèn hỏi: “Mấy vị đại gia ở Trấn Viễn tiêu cục Bắc Kinh cũng ở đây phải không?”

Tiểu nhị nói: “Đúng thế. Mỗi lần đi ngang Đồng Quan họ đều trọ lại đây.”

Từ Thiên Hoằng đợi tiểu nhị ra ngoài mới nói: “Tên Đồng Triệu Hòa này hết sức ác ôn. Tối nay chúng ta làm thịt hắn trước để trả thù cho tiểu đệ cô và Tứ ca ta.”

Chu Ỷ nghĩ đến em mình chết thảm, nghĩ đến Thiết Đảm Trang cháy trụi, giận dữ xung thiên. Nếu Từ Thiên Hoằng không ráng sức khuyên ngăn thì nàng đã xách đao xông ra rồi. Từ Thiên Hoằng khuyên: “Cô nên nghỉ ngơi trước đã. Hãy chuẩn bị tinh thần, nửa đêm chúng ta ra tay cũng không muộn.”

Chàng nói xong gục đầu lên bàn mà nghỉ, không nhìn Chu Ỷ cái nào nữa. Chu Ỷ cũng bình tĩnh lại, lên giường ngồi điều tức. Khó khăn lắm nàng mới chờ được đến canh hai, không nhịn nổi nữa liền rút đao ra nói: “Đi thôi.”

Từ Thiên Hoằng nói nhỏ: “Bọn chúng người đông thế mạnh, e rằng không ít cao thủ. Ta nên thám thính trước, tìm cách dụ tên khốn đó ra ngoài rồi tính sổ với hắn.” Chu Ỷ gật đầu đồng ý.

Hai người ra sân quan sát, thấy căn phòng hướng đông có ánh đèn. Từ Thiên Hoằng vẫy tay ra hiệu, hai người nhẹ nhàng tới đó. Chu Ỷ tìm thấy một khe hở trên cửa sổ, liền ghé mắt nhìn vào bên trong.

Từ Thiên Hoằng nắm chặt binh khí đứng phía sau canh chừng, thấy nàng đột nhiên đứng bật dậy, phóng chân trái đá vào cánh cửa sổ. Chàng giật mình, vội lạng người ra cản trước mặt Chu Ỷ. Nàng vội co chân lại để khỏi đá trúng ngực Từ Thiên Hoằng. Đòn cước này lực đạo rất mạnh, Chu Ỷ phải cố hết sức mới thu lại được, không đứng vững phải lùi mấy bước.

Từ Thiên Hoằng nhảy tới giữ nàng lại, hỏi nhỏ: “Cái gì thế?”

Chu Ỷ giục: “Ra tay nhanh lên! Mẹ ta đang bị bọn chúng trói trong đó.”

Từ Thiên Hoằng kinh hãi nói: “Mau về phòng thương lượng.”

Về tới phòng, Chu Ỷ giận dữ hỏi: “Còn thương lượng gì nữa? Mẹ ta bị bọn khốn đó bắt rồi.”

Từ Thiên Hoằng tìm lời trấn an: “Cô nên bình tĩnh, ta đảm bảo sẽ cứu được mẹ cô. Trong phòng có bao nhiêu người?”

Chu Ỷ đáp: “Khoảng sáu bảy người.”

Từ Thiên Hoằng nghiêng đầu suy nghĩ một lúc. Chu Ỷ tức tối lên tiếng: “Việc gì phải sợ? Huynh không đi thì ta đi một mình.”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Không phải ta sợ, mà đang nghĩ cách để vừa cứu được mẹ cô vừa giết được tên gian tặc đó. Hai việc này phải chu toàn một lúc mới khỏi uổng công.”

Chu Ỷ nói: “Cứu mẫu thân là gấp, còn thằng khốn kia giết muộn một chút cũng chẳng hề gì.”

Ngay lúc đó có tiếng bước chân vọng tới, Từ Thiên Hoằng vội đưa tay ra hiệu cho nàng im lặng. Có người đi ngang cửa phòng, trong miệng lẩm bẩm oán trách: “Nửa đêm rồi, không ngủ thẳng cẳng đi còn rượu chè cho lắm vào. Con mẹ nó! Bồ tát hiển linh xin trừng phạt bọn bảo tiêu này, dọc đường gặp cường địch cướp sạch tiêu ngân.”

Từ Thiên Hoằng nghe tên tiểu nhị trù ẻo, đoán là đám tiêu sư bắt hắn kiếm rượu giữa đêm khiến hắn tức tối. Chàng suy nghĩ một chút rồi hỏi Chu Ỷ: “Tên cẩu đại phu kia có hai gói thuốc, cô có đem theo hay không? Trong đó có một gói mà hắn nói là uống vào bất tỉnh nhân sự, mau đưa cho ta.”

Chu Ỷ không hiểu ý chàng, nhưng cũng lấy ra rồi hỏi: “Huynh định làm gì vậy?” Từ Thiên Hoằng không đáp, vẫy nàng một cái rồi nhảy ra ngoài cửa sổ. Chu Ỷ vội vã chạy theo.

Từ Thiên Hoằng chạy vòng ra hành lang, nói nhỏ: “Cúi xuống, đừng nhúc nhích.” Chu Ỷ nghi ngờ trong bụng, không hiểu chàng định bày trò gì. Nàng đợi mãi không thấy gì lạ, đang muốn hỏi thì bỗng thấy ánh sáng le lói, thì ra tên tiểu nhị đang cầm nến bưng một cái khay đi tới.

Từ Thiên Hoằng lượm một hòn đá nhỏ ném tới, ngọn nến tắt phụt. Tên tiểu nhị kinh hãi la lên: “Đúng là gặp ma rồi. Chẳng có chút gió nào mà nến lại tắt.” Hắn để chiếc khay xuống đất, quay về tìm lửa.

Từ Thiên Hoằng đợi hắn đi khuất, nhảy lẹ ra, đập đá lửa chiếu sáng. Chàng thấy trong khay có hai bình rượu, liền chia gói thuốc đó làm hai phần đổ vào hai bình, rồi bảo Chu Ỷ: “Tới chỗ bọn chúng đi.”

Hai người vòng ra phía sau phòng bọn tiêu sư ngồi đợi. Từ Thiên Hoằng nhìn vào cửa sổ, quả nhiên thấy một phụ nữ trung niên bị trói hai tay đặt ngồi dưới đất. Hai người ngồi bên bàn đàm luận gì đó, một là Thiết tỳ bà thủ Hàn Văn Xung, một là Tiền Chính Luân. Ngoài ra còn có Đồng Triệu Hòa và bốn tiêu sư chàng chưa biết mặt.

Đồng Triệu Hòa đang nói đến chỗ cao hứng: “Nhắc đến Thiết Đảm Trang thì giang hồ đều coi là chỗ tường đồng vách sắt, nào ngờ lão tử chỉ dùng một ngọn đuốc mà đốt sạch sành sanh. Vậy mới gọi là Đồng Triệu Hòa đốt cháy Thiết Đảm Trang, Chu Trọng Anh khóc như mưa lụt đất.”

Chu Ỷ đứng ngoài cửa sổ, tận tai nghe rõ hắn huênh hoang. Từ Thiên Hoằng sợ nàng nổi giận, phải quay đầu lại ra hiệu đừng manh động.

Hàn Văn Xung cũng bực mình, quay lại bảo: “Lão Đồng! Ngươi đừng ngồi đó mà khoác lác. Lão Chu Trọng Anh kia ta đã từng gặp, nếu mặt đối mặt giao đấu thì bảy người chúng ta hợp sức chưa chắc là đối thủ của lão. Sẽ có lúc lão tìm đến tiêu cục, lúc đó ngươi sẽ biết thế nào là khóc như mưa lụt đất.”

Đồng Triệu Hòa nói: “Cứ chờ xem, chúng ta đang có phước tinh hộ mạng. Con mụ này tự chuốc họa vào thân. Mụ nằm trong tay chúng ta, để coi lão dám làm gì.” Nói đến đây, tiểu nhị đã bưng rượu vào phòng.

Bọn tiêu sư bày tiệc đánh chén no say. Hàn Văn Xung chẳng cao hứng gì, nhưng Đồng Triệu Hòa không ngừng mời mọc: “Hàn đại ca! Hảo hán cũng không địch nổi đông người, huynh thua bọn chúng một trận cũng đâu phải là chuyện lớn? Lần sau chúng ta hẹn ước đường hoàng, lấy một chọi một với Hồng Hoa Hội để phân cao thấp một phen.”

Một tên tiêu sư cười hỏi: “Chúng ta một đối một thì tạm được, còn lão Đồng thì đấu với ai?”

Đồng Triệu Hòa đáp: “Ta đi tìm vợ con chúng…” Hắn nói chưa dứt câu, đột nhiên lăn ra đất. Bọn kia giật mình tới dìu hắn dậy, nhưng tay chân cũng bủn rủn hết, từng tên gục xuống.

Lúc này Từ Thiên Hoằng mới lấy đơn đao đâm vào khe cửa sổ, nạy cửa ra nhảy vào trong phòng. Chu Ỷ theo sau chàng, chỉ mới gọi một tiếng “Mẫu thân!” là mắt đã có ngấn nước. Nàng cắt hết dây trói tay mẹ. Chu phu nhân nhìn thấy con gái mà tưởng đang nằm mơ, không nói được lời nào.

Từ Thiên Hoằng nhấc Đồng Triệu Hòa lên, bảo Chu Ỷ: “Chu cô nương! Hãy trả thù cho tiểu đệ cô đi!” Chu Ỷ vung đao đâm xuyên qua ngực Đồng Triệu Hòa, hắn mất mạng ngay lập tức. Tên gian ác này suốt đời làm việc thất đức, thọc gậy không biết bao nhiêu bánh xe, hại không biết bao nhiêu người, rốt cuộc đã tán mạng dưới tay Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ.

Chu Ỷ muốn giết sạch bọn tiêu sư, nhưng Từ Thiên Hoằng ngăn lại: “Bọn này tội chưa đáng chết, tha chúng một lần đi.” Chu Ỷ vâng lời thu đao lại.

Chu phu nhân biết con gái mình xưa nay ngang bướng, đã quyết định làm gì thì không ai cản nổi. Chỉ có Chu Trọng Anh còn đôi lúc khuyên được nàng, còn người khác thì đừng hòng. Bây giờ bà thấy con gái nghe lời Từ Thiên Hoằng, không khỏi thấy kỳ lạ.

Từ Thiên Hoằng lục soát trên người bọn tiêu sư, tìm được mấy lá thư. Chàng không kịp đọc, nhét hết vào bọc rồi giục: “Chúng ta mau về phòng thu dọn đồ đạc, đi ngay thôi.”

Ba người nhảy ra cửa sổ trở về phòng. Từ Thiên Hoằng thu dọn hành lý, đặt ít bạc vụn lên bàn coi như trả tiền ăn nghỉ, rồi đến chuồng ngựa dắt ba con ngựa ra. Ba người chạy về hướng đông

* * *

Chu phu nhân thấy con gái mình đi chung với Từ Thiên Hoằng, lại ngủ chung một phòng, nên càng lúc càng thấy nghi ngờ. Bà cũng là một nữ nhân tính khí nóng nảy, không nhịn được hỏi ngay: “Gia gia ngươi đâu? Gã này là ai? Sao ngươi lại đi chung với y? Không biết gia gia hay nổi nóng hay sao?”

Chu Ỷ đáp: “Mẹ mới là người nổi nóng rời bỏ gia gia. Mẹ chờ một lát rồi hỏi có được không?” Hai mẹ con đều nóng tính, mới nói hai câu đã lớn tiếng ngay. Từ Thiên Hoằng tìm lời khuyên giải, Chu Ỷ bực tức nạt luôn: “Mọi chuyện đều tại huynh cả. Huynh còn muốn nói gì nữa?” Từ Thiên Hoằng cười khổ, quất ngựa chạy trước. Hai mẹ con cũng im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng.

Đêm đó họ tá túc ở nhà một nông dân. Hai mẹ con ngủ chung một phòng, Chu Ỷ bèn kể lại tình hình. Nàng không khéo nói chuyện, lại thêm Chu phu nhân tính tình bộp chộp hỏi vặn lung tung, nên hai người lúc khóc lúc cười, người thì tức tối nghẹn lời, người thì la mắng con mình không biết lễ nghi, mất nửa đêm mới hiểu được tình hình từ lúc rời nhau.

Thì ra Chu phu nhân vì thương xót con trai mà bi phẫn bỏ nhà ra đi, đến nhà bà con họ Hứa ở Cao Lan. Mặc dù chủ nhân tiếp đón ân cần, nhưng bà đang đau khổ, ở không lại càng rầu rĩ, chẳng bao lâu đã rời khỏi đó. Hôm đó bà đến Đồng Quan, trú tại khách sạn Duyệt Lai.

Bà nhìn thấy tiêu kỳ của Trấn Viễn tiêu cục, nhớ đến đại đệ tử Mạnh Kiện Hùng từng nói người khiến con trai mình chết thê thảm là Đồng Triệu Hòa, tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục. Thế là đêm đó bà nhảy vào dò xét. Nghe bọn tiêu sư nói chuyện, biết tên Đồng Triệu Hòa cũng ở trong đó, bà không nhịn được, xông vào động thủ. Nhưng song quyền khó địch bốn tay, rút cuộc bà bị chúng bắt. Bà đã nghĩ mình chắc chắn không thoát chết, nào ngờ con gái đột nhiên xuất hiện.

Chu Ỷ kể lại chuyện báo thù và cứu mẹ hoàn toàn do Từ Thiên Hoằng sắp đặt, Chu phu nhân vô cùng cảm kích.

Ngày hôm sau, dọc đường Chu phu nhân hỏi thân thế Từ Thiên Hoằng. Họ Từ kể: “Vãn bối người Thiệu Hưng tỉnh Triết Giang. Năm mười hai tuổi cả nhà bị quan phủ hại chết, chỉ một mình vãn bối chạy thoát.”

Chu phu nhân hỏi: “Tại sao quan phủ lại hại gia đình các hạ?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Tri phủ Thiệu Hưng thấy tỉ tỉ vãn bối vừa mắt, muốn lấy tỉ tỉ làm vợ bé. Nhưng tỉ tỉ đã đính ước với người khác từ lâu rồi, đương nhiên gia gia vãn bối không đồng ý. Hắn lập tức buộc tội gia gia cấu kết với thổ phỉ, nhốt gia gia, má má và ca ca vào ngục, rồi sai người đi tìm tỉ tỉ vãn bối, nói là chỉ cần tỉ tỉ gật đầu là tha gia gia lập tức. Tỉ phu tương lai của vãn bối biết chuyện, liền đi hành thích tri phủ. Sự việc bại lộ, tỉ phu bị bọn bổ khoái đánh chết. Tỉ tỉ hay tin liền nhảy xuống sông tự tử. Thế là gia gia, má má và ca ca vãn bối không còn đường sống nữa.”

Chu Ỷ nghe đến đó, giận dữ hỏi: “Huynh đã trả thù chưa?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Khi ta lớn lên học được võ công, quay về tìm tên tri phủ đó thì hắn đã thăng quan tiến chức, điều động đến nơi khác rồi. Mấy năm nay ta tìm kiếm khắp nơi, nhưng chưa có tin tức gì.”

Chu Ỷ hỏi: “Tên cẩu quan đó tên là gì? Ta quyết không tha cho hắn.”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Chỉ biết hắn họ Phương, hình như tên là Phương Hữu Đức hay Phương Vô Đức gì đó. Má trái hắn có một cái bớt đen, nhìn thấy là nhận ra ngay.”

Chu Ỷ hừ một tiếng. Chu phu nhân lại hỏi chàng đã kết thân với ai chưa, bôn ba giang hồ nhiều năm như thế chẳng lẽ chưa gặp cô nương nào ưng ý. Chu Ỷ mỉm cười nói: “Con người huynh ấy điêu ngoa xảo trá, đâu có cô nương nào chịu thích?”

Chu phu nhân vừa cười vừa mắng nàng: “Con gái lớn rồi mà ăn nói bừa bãi, thật chẳng ra làm sao.”

Chu Ỷ cười khúc khích rồi trêu: “Mẹ muốn làm mai cho huynh ấy có phải không? Cô nương nhà nào thế? Có phải muội muội nhà họ Hứa không?”

Đêm hôm đó họ nghỉ lại khách sạn. Chu phu nhân trách con: “Con là khuê nữ mà ngủ chung phòng với nam nhân, làm sao lấy người khác được?”

Chu Ỷ cãi: “Huynh ấy bị thương, con cứu huynh ấy là sai hay sao? Huynh ấy tuy quỉ kế đa đoan nhưng đối với con hết sức đàng hoàng.”

Chu phu nhân nói: “Việc này con biết, hắn biết, mẹ tin, gia gia con tin, nhưng người khác có tin hay không? Nếu sau này con bị chồng nghi ngờ, thì muốn làm người tốt cũng không được nữa. Đó chính là nỗi khổ nhất đời của nữ nhân chúng ta.”

Chu Ỷ nói: “Thế thì suốt đời con không lấy chồng là xong.”

Hai người càng nói càng lớn tiếng, tranh chấp căng thẳng. Chu phu nhân nói: “Gã họ Từ ở ngay cạnh phòng này, để hắn nghe thấy thì không hay chút nào.”

Chu Ỷ gắt: “Nghe thì đã sao? Con có làm điều gì quấy đâu mà sợ người ta nói này nói nọ?”

Sáng hôm sau hai mẹ con thức dậy, tiểu nhị đem vào một lá thư rồi nói: “Từ gia ở phòng bên bảo tiểu nhân đem đến cho phu nhân.”

Chu Ỷ liền hỏi: “Huynh ấy đâu?”

Tiểu nhị nói: “Từ gia nói là có việc cần phải đi trước một chút, sáng sớm đã cưỡi ngựa đi rồi.”

Chu Ỷ lập tức túm lấy cổ áo hắn, quát: “Tại sao ngươi không báo cho chúng ta biết ngay?”

Tiểu nhị hoảng sợ đáp: “Từ gia nói là không cần thông báo, mọi chuyện đều viết trong thư.”

Chu Ỷ buông hắn, mở thư ra đọc: “Chu phu nhân! Chu cô nương! Tại hạ bị thương, rất may được Chu cô nương cứu mạng, đại ân không thể cảm tạ bằng lời. Bây giờ hai người đã đoàn tụ, từ đây đến Khai Phong không còn xa nữa, Thiên Hoằng đi trước một bước mong hai vị đừng trách. Việc Chu cô nương cứu giúp, tại hạ suốt đời không quên. Ơn này ghi nhớ trong lòng, nhất định không nói với ai một câu một chữ, xin hai vị yên tâm. Từ Thiên Hoằng kính bút.”

Chu Ỷ đọc xong, ngơ ngẩn một hồi rồi quăng lá thư đi, về phòng lăn lên giường nằm thẳng cẳng. Chu phu nhân gọi nàng dậy ăn cơm, nàng cũng chẳng nói năng gì, mặc kệ bà. Chu phu nhân lo lắng hỏi: “Đại tiểu thư! Bây giờ chúng ta không ở Thiết Đảm Trang, sao con cứ mang tính đỏng đảnh ra dọa người ta thế?”

Chu Ỷ vẫn mặc kệ. Chu phu nhân lại hỏi: “Con trách Từ gia bỏ đi không nói năng gì phải không?”

Chu Ỷ tức giận đáp: “Huynh ấy làm thế là vì con, sao lại trách huynh ấy được.”

Chu phu nhân hỏi: “Vậy là con đang trách mẹ phải không?” Chu Ỷ lăn người quay mặt vào trong, kéo chăn trùm kín đầu lại. Chu phu nhân lại hỏi: “Con trách mẹ chuyện gì chứ?”

Chu Ỷ ngồi bật dậy: “Những gì tối qua mẹ nói, nhất định huynh ấy nghe hết rồi. Huynh ấy sợ người ta đàm tiếu hại thanh danh con, khiến con không lấy được chồng, nên mới một mình đi trước. Chẳng phải huynh ấy viết trong thư nhất định không nói với ai một câu một chữ hay sao? Chuyện con có lấy được chồng hay không, mẹ có lo lắng thì kệ mẹ. Con nhất định không nghe, nhất định không lấy ai cả.”

Chu phu nhân thấy nàng vừa nói vừa ứa lệ, biết nàng đã có tình cảm với Từ Thiên Hoằng. Chính bản thân nàng cũng chưa hiểu, nhưng trong lúc vô tình đã để lộ hết tâm sự mình ra. Chu phu nhân bèn an ủi: “Mẹ chỉ có một đứa con gái, chẳng lẽ không thương yêu hay sao? Bây giờ chúng ta đến phủ Khai Phong gặp gia gia con, bảo ông ấy đứng ra gả con cho Từ gia. Con yên tâm đi, mọi chuyện mẹ sẽ lo liệu chu toàn.”

Chu Ỷ vội cướp lời: “Ai nói là con cần lấy huynh ấy? Có gì mà không yên tâm chứ? Lần sau đừng nói là bị thương, cho dù huynh ấy chết ngay trước mặt con, con cũng không thèm cứu.”

Đêm qua Từ Thiên Hoằng ở khách sạn, đem mấy lá thư lấy được trên người bọn tiêu sư ra xem. Chàng ngồi dưới đèn đọc tỉ mỉ, chỉ có một lá thư do tổng tiêu đầu Vương Duy Dương của Trấn Viễn tiêu cục viết cho Hàn Văn Xung, giục họ Hàn về kinh gấp để hộ tống báu vật về Giang Nam, ngoài ra không có gì quan trọng nữa. Từ Thiên Hoằng vốn cũng không để ý đến chuyện tranh cãi của hai mẹ con họ Chu ở phòng bên cạnh, nhưng mấy lần nghe nhắc đến tên mình nên phải lắng tai nghe kỹ. Chàng nghe rõ rồi áy náy không yên, tự nghĩ Chu Ỷ vì cứu mình mà mang tiếng thì có lỗi với nàng, bèn viết thư để lại rồi sáng sớm bỏ đi trước.

Chàng vào tỉnh Hà Nam, thấy dân chúng ven sông Hoàng Hà lo lắng vì thấy nước lũ dâng cao. Từ Thiên Hoằng thấy họa lũ sắp đến, âm thầm than thở: “Tuy lũ sông Hoàng Hà là thiên tai, nhưng nếu kẻ cầm quyền dốc lòng hết sức vì dân lo liệu thì chưa chắc không cứu được. Nhưng bọn làm quan đều coi việc trị thủy Hoàng Hà là chùm khế ngọt, hễ lên nhậm chức là ra sức vơ vét chia nhau ngay. Có tên nào xem thiên tai là việc cấp bách phải lo đâu?”

Chàng theo ký hiệu, đến Khai Phong tìm nhà Mai Lương Minh gặp lại quần hùng. Mọi người thấy chàng trở về bình yên đều vô cùng mừng rỡ. Mai Lương Minh thiết yến chiêu đãi. Lúc này vết thương của Chương Tấn, Vệ Xuân Hoa, Tâm Nghiễn đều đã lành hẳn. Thạch Song Anh về Hồi Cương đưa thư chưa trở lại, Thường thị song hiệp còn đang thám thính tung tích Văn Thái Lai, Tưởng Tứ Cân thì đến bờ sông Hoàng Hà xem tình hình nước lũ dâng cao.

Từ Thiên Hoằng hoàn toàn không nhắc đến Chu phu nhân và Chu Ỷ trước mặt Chu Trọng Anh, nghĩ họ cũng sắp đến đây rồi. Chàng sợ ông hỏi tỉ mỉ khó mà trả lời, chỉ nói với quần hùng là dọc đường có nghe tin tức Dư Ngư Đồng, biết chàng bị trọng thương và đi chung với một thiếu nữ cải nam trang không biết là ai. Mọi người bàn tán xôn xao, rốt cuộc cũng không ai đoán được, đều đem lòng lo lắng. Họ chỉ hy vọng Dư Ngư Đồng xưa nay tinh minh lanh lợi, chắc chắn có cách dưỡng thương và tránh địch.

Sáng hôm sau Chu Ỷ tìm đến Mai gia, gặp mọi người và phụ thân mình, ai cũng hân hoan mừng rỡ. Chào hỏi xong xuôi, Chu Ỷ lén gọi Từ Thiên Hoằng: “Huynh qua đây, muội có mấy câu muốn nói.”

Từ Thiên Hoằng hơi ngại, nghĩ rằng cô nương này nhất định sẽ trách mình bỏ đi mà không nói lời từ biệt, sẽ lớn tiếng chửi mắng mình một trận. Chàng bèn quyết định mặc kệ nàng muốn chửi sao thì chửi, mình không nói lại câu nào là xong, rồi đi từ từ đến trước mặt nàng.

Chu Ỷ khẽ nói: “Má má không chịu đến gặp gia gia. Lát nữa huynh nghĩ cách giúp muội.”

Từ Thiên Hoằng yên tâm bèn nói: “Thế thì mời gia gia muội đi gặp bà ấy.”

Chu Ỷ nói: “Má má cũng không chịu, hễ mở miệng là nói gia gia muội không có lương tâm.”

Từ Thiên Hoằng suy nghĩ một lúc rồi bảo: “Được, huynh có cách rồi.”

Chàng dặn dò mấy câu, Chu Ỷ hỏi lại: “Liệu như thế có được không?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Nhất định là được. Muội đi trước đi.”

Từ Thiên Hoằng đợi Chu Ỷ ra ngoài rồi hàn huyên với huynh đệ một hồi, hỏi Mai Lương Minh về địa phương này. Chàng cho rằng thời cơ đã đến, bèn nói riêng với Chu Trọng Anh: “Chu lão gia! Nghe nói tửu gia Tư Trúc Viên ở cạnh Thiết Tháp Tự có rượu rất ngon, nổi danh nhất tỉnh Hà Nam này. Nhất định phải đến đó uống thử một lần.”

Nghe tới rượu ngon, Chu Trọng Anh cao hứng cười nói: “Được, được! Để ta làm chủ, mời mọi người đến đó say sưa một phen.”

Từ Thiên Hoằng cản: “Thành này tai mắt bổ khoái rất nhiều, chúng ta đi đông e rằng không tiện. Bây giờ tổng đà chủ với tiểu điệt hai người đi trước với lão gia, có được hay không?”

Chu Trọng Anh tán thưởng: “Hay lắm! Lão đệ suy nghĩ thật là chu toàn.” Ông bèn hẹn với Trần Gia Lạc, ba người đến Thiết Tháp Tự.

Tư Trúc Viên quả là nơi thanh nhã, ly tách tinh khiết gọn gàng, phòng ốc sáng sủa. Từ Thiên Hoằng nhìn quanh tìm một chỗ tương đối yên tĩnh, ba người vừa uống rượu vừa than thở chuyện dân sông Hoàng Hà chết lụt.

Bàn đến những chuyện thiết đãi bạn bè, Tín Lăng Quân năm xưa nghênh đón Hầu Doanh, Trần Gia Lạc than thở: “Thành Đại Lương bây giờ vẫn đó, anh hùng liệt sĩ không biết đâu rồi. Tín Lăng Quân một kiếp anh hùng, không ngờ rút cuộc say sưa mà chết dưới tay nữ nhân. Đến nay Biện Lương chỉ còn lại một miếng đất Di Sơn mà thôi.”

Sau vài tuần rượu, chuếnh choáng hơi men, Trần Gia Lạc gõ bình rượu ngâm nga:

Rảnh lại nhớ Tín Lăng tìm đến;

Gươm gác đùi chuốc chén đầy vơi;

Này nem này rượu khuyên mời;

Bên thời Châu Hợi, bên thời Hầu Doanh;

Ba chén cạn, thân mình sá kể,

Năm núi cao, xem nhẹ lông hồng;

Mắt hoa mặt đã nóng bừng;

Khí hùng bay bổng lên từng mây xanh…

Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng không hiểu chàng hát bài gì.

Đến khi ba người đã say đến năm phần, Từ Thiên Hoằng nâng chén lên gọi Chu Trọng Anh: “Chu lão gia! Hôm nay cha con đoàn tụ, tiểu điệt xin kính lão gia một chén.”

Chu Trọng Anh cạn chén, thở dài một tiếng. Từ Thiên Hoằng bèn hỏi: “Chu lão gia không được vui, có phải đang tiếc Thiết Đảm Trang bị cháy hay không?”

Chu Trọng Anh đáp: “Tiền bạc là vật ngoại thân, một Thiết Đảm Trang có gì đáng tiếc?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Thế thì nhất định lão gia đang nghĩ đến mấy vị công tử đã qua đời.”

Chu Trọng Anh không đáp, thở dài sườn sượt. Trần Gia Lạc vội nháy mắt lia lịa, ra hiệu bảo Từ Thiên Hoằng đừng nói động chạm đến nỗi đau của ông ấy nữa. Từ Thiên Hoằng vờ như không biết, cứ đổ thêm dầu vào lửa: “Hôm đó tiểu công tử còn nhỏ không biết gì, lỡ nói ra nơi ẩn giấu Tứ ca, nên Chu lão gia mới giận dữ mà xử phạt. Về phần lão gia thì đó là giữ đạo nghĩa giang hồ, nhưng bọn vãn bối thì không sao yên lòng được.”

Trần Gia Lạc vội giục: “Thất ca! Chúng ta đi thôi. Tửu lượng của ta sắp hết rồi.”

Từ Thiên Hoằng cứ hỏi tiếp Chu Trọng Anh: “Không biết Chu phu nhân vì lý do gì mà rời khỏi gia trang?”

Chu Trọng Anh than thở: “Bà ấy trách ta về chuyện giết đứa con trai. Than ôi, không biết bây giờ bà ấy đơn thân lưu lạc nơi nào. Đứa con này bà ấy yêu quí như tính mạng, ta thật sự có lỗi với bà ấy. Thật ra ta chỉ lỡ tay trong cơn thịnh nộ, đâu phải chủ tâm giết nó? Sau khi chúng ta cứu được Tứ gia, dù phải đi đến chân trời góc bể ta cũng quyết tìm bà ấy trở về. Ta tuổi tác đã cao, người thân trên thế gian này chỉ còn hai người là bà ấy và đứa con gái mà thôi.”

Ông nói đến đây đột nhiên rèm được vén lên, Chu phu nhân và Chu Ỷ bước vào. Chu phu nhân lên tiếng: “Những lời của lão gia, thiếp ngồi bên kia nghe thấy hết rồi. Lão gia chịu nhận lỗi là xong, thiếp trở về đây, không cần đi tìm đâu nữa.” Chu Trọng Anh nhìn thấy vợ vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, nhất thời xúc động không nói nên lời.

Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc: “Trần đại ca, đây là mẫu thân của muội.” Rồi nàng quay lại nói với mẹ: “Má má, đây là Trần tổng đà chủ Hồng Hoa Hội.” Hai người nhìn nhau thi lễ.

Chu Ỷ gọi tửu bảo chuyển chén bát phòng bên cạnh qua đây, rồi nói với Chu Trọng Anh: “Gia gia, phen này thật là may mắn. Con nghe nói rượu ở đây rất ngon, nhất định phải đến thưởng thức một lần. Má má không chịu nhưng con một mực kỳ kèo bắt tới, nào ngờ lại ngồi giáp vách gia gia.” Năm người cười rộ lên, thoải mái say sưa, rồi nhắc đến những chuyện trong lúc xa nhau.

Chu Ỷ thấy cha mẹ đoàn tụ nồng nàn trở lại, vui sướng không nén nổi nên quên cả giữ lời, cao hứng nhắc đến vụ giết Đồng Triệu Hòa trả mối thù giết em trai và đốt Thiết Đảm Trang. Từ Thiên Hoằng nháy mắt liên hồi bảo nàng đừng nói tiếp, nhưng nàng không thấy nên vẫn tiếp tục: “Mưu kế của huynh ấy thật là hiệu quả. Sau khi mấy tên tiêu sư hôn mê, con phá cửa sổ nhảy vào cứu mẹ rồi túm lấy gã họ Đồng, đích thân cho tên cẩu tặc đó một đao.”

Chu Trọng Anh cùng với Trần Gia Lạc, Từ Thiên Hoằng đang mời rượu nhau. Chu Trọng Anh bèn nói: “Lão đệ đã cứu thê tử lại giúp báo thù thì lão phu thực sự cảm kích.”

Từ Thiên Hoằng khiêm nhượng mấy câu: “Lão gia quá lời rồi, đây đều là công lao của Chu cô nương cả.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Làm sao hai vị gặp nhau dọc đường vậy?”

Từ Thiên Hoằng ấp úng, Chu Ỷ âm thầm than khổ: “Chết rồi, hỏng bét! Mình lỡ kể chuyện cùng huynh ấy giết Đồng Triệu Hòa, thế thì những việc trước đây làm sao mà giấu giếm người khác nữa?” Đột nhiên nàng đỏ mặt cúi đầu, thần trí hỗn loạn, tay chân lóng ngóng. Chén đũa rơi vỡ xoang xoảng, cô nàng lại càng thêm phần bối rối.

Trần Gia Lạc thấy vậy biết ngay việc giữa hai người này không chỉ có bấy nhiêu. Lại nghe Chu Ỷ mỗi khi nhắc đến Từ Thiên Hoằng thì không gọi tên mà cứ huynh ấy thế này, huynh ấy thế kia, chàng đoán biết được sáu bảy phần. Về tới Mai phủ, chàng bèn gọi Từ Thiên Hoằng tới hỏi: “Thất ca! Huynh thấy Chu cô nương thế nào?”

Từ Thiên Hoằng vội đáp: “Tổng đà chủ! Vừa rồi lời nói của Chu cô nương trên tửu lâu, xin tổng đà chủ đừng kể với ai. Cô ấy là người trung hậu chất phác, quang minh lỗi lạc, nhưng nếu người khác nghe thấy thêm bớt mấy câu xằng bậy thì chúng ta sẽ có lỗi với Chu lão anh hùng.”

Trần Gia Lạc nói: “Đệ biết con người Chu cô nương rất tốt nên muốn làm mai cho huynh. Huynh thấy thế nào?”

Từ Thiên Hoằng giật nảy người đáp: “Tuyệt đối không được! Thuộc hạ sao có thể sánh với nàng?”

Trần Gia Lạc nói: “Thất ca không nên quá khiêm tốn. Huynh là Võ Gia Cát trí dũng song toàn, lừng danh trên giang hồ. Mỗi khi Chu lão anh hùng nhắc đến huynh đều tỏ ra thán phục.”

Từ Thiên Hoằng ngẩn ra hồi lâu không đáp. Trần Gia Lạc liền hỏi gặng: “Thế nào?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Tổng đà chủ chưa biết đâu, Chu cô nương không thích thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Làm sao mà huynh biết?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Chính miệng nàng nói vậy. Nàng ghét loại người xảo quyệt cổ quái như thuộc hạ đến tận xương tủy. Hôm trước đi chung, dọc đường nàng cứ tìm lời chặn họng thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc cười ha hả: “Thế là huynh chịu rồi chứ gì?”

Từ Thiên Hoằng ngập ngừng nói: “Tổng đà chủ đừng uổng công lo lắng làm gì. Chúng ta không nên suy nghĩ những việc vô bổ như thế.”

Đột nhiên một gia nhân của Mai phủ đi vào phòng gọi: “Trần thiếu gia! Chu lão gia ở bên ngoài, muốn nói chuyện với thiếu gia.”

Trần Gia Lạc mỉm cười với Từ Thiên Hoằng rồi ra khỏi phòng. Chàng thấy Chu Trọng Anh chắp tay sau lưng đi tới đi lui ngoài hành lang, liền bước tới nói: “Chu lão gia có việc gì dặn dò thì cứ sai người đi gọi vãn bối là được, hà tất phải đích thân đến đây.”

Chu Trọng Anh vội đáp: “Không dám!” Ông kéo tay chàng đến hoa sảnh, mời ngồi rồi nói: “Lão có một chuyện muốn hỏi ý Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc nói: “Xin lão gia nói thẳng, tiểu điệt sẽ đích thân lo liệu.”

Chu Trọng Anh nói: “Tiểu nữ năm nay đã mười chín tuổi rồi, tuy tính hơi ngang bướng nhưng cũng có thể gọi là thuần hậu. Chỉ vì lão phu có dạy nó một chút võ nghệ, nên nó không để hạng tầm thường lọt vào mắt, vì thế mới chậm trễ, đến nay vẫn chưa thành thân…” Ông nói đến đây, ngần ngừ một lúc mới tiếp: “Từ thất đương gia của quí hội được cả giang hồ ngưỡng mộ, trí dũng có thừa, nhân phẩm hơn người. Lão phu muốn nhờ Trần đương gia làm mai gả tiểu nữ cho Từ gia. Chỉ sợ tính khí tiểu nữ không được tốt, không dám trèo cao như vậy.”

Trần Gia Lạc nghe vậy cả mừng, liền vỗ ngực nói: “Việc này để tiểu điệt lo. Chu lão gia là thái sơn bắc đẩu của võ lâm, được lão gia tin yêu như thế, anh em Hồng Hoa Hội bọn tiểu điệt thấy vinh dự vô cùng. Tiểu điệt đi ngay đây!”

Trần Gia Lạc chạy thẳng đến phòng Từ Thiên Hoằng kể lại, khiến anh chàng mừng rỡ đến nỗi tim đập loạn xạ. Trần Gia Lạc nói thêm: “Thất ca! Đệ coi sắc mặt Chu lão anh hùng thì dường như ông ấy còn một chuyện không tiện nói ra. Đệ đoán thế này, nhưng không biết huynh có chịu hay không.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Có gì mà không chịu?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói: “Đệ cũng nghĩ là huynh sẽ ưng thuận. Hai người con trai lớn của Chu lão anh hùng đã mất cả rồi, còn đứa con trai út cũng chết vì Hồng Hoa Hội chúng ta. Trước mắt thì hương hỏa Chu gia đã dứt, nên đệ muốn ủy khúc Thất ca một chút, không những làm con rể Chu lão anh hùng mà còn phải làm con trai ông ấy.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng đà chủ muốn thuộc hạ ở rể nhà họ Chu phải không?”

Trần Gia Lạc nói: “Không sai! Sau này huynh sinh con trai, thì con trai cả sẽ mang họ Chu, con trai thứ mới mang họ Từ. Cổ nhân có câu: Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Chúng ta làm như thế, coi như đã báo đáp một phần ân nghĩa của Chu lão anh hùng.” Từ Thiên Hoằng nghĩ tới ân đức cứu mạng của Chu Ỷ, bèn mau lẹ đồng ý.

Hai người quay về phòng Chu Trọng Anh, mời Chu phu nhân qua nói chuyện. Chu Ỷ không hiểu chuyện gì, cũng chạy vào phòng. Chu Trọng Anh nhìn mặt hai người Trần Từ, biết việc đã thành bèn mỉm cười bảo: “Ỷ nhi! Con ra ngoài kia chơi đi.”

Chu Ỷ tức tối nói: “Lại có việc gì giấu giếm con rồi phải không? Không được! Con nhất định phải nghe.” Nói thì nói vậy, nhưng nàng vẫn quay người đi ra ngoài.

Trần Gia Lạc nói lại ý định gửi rể vừa rồi, Chu phu nhân hoan hỉ quá, ngoác miệng ra cười đến nỗi không ngậm lại được. Chu Trọng Anh cũng cả mừng: “Đâu dám như thế? Đâu dám như thế?”

Từ Thiên Hoằng quì xuống thi lễ, Chu Trọng Anh vội đỡ dậy, mỉm cười nói: “Chúng ta ra ngoài, không mang theo vật gì đáng giá. Chuyện thế này mà không có lễ kiến diện thì… Lát nữa ta sẽ dạy cho Thất gia phép đánh thiết đảm, Thất gia thấy thế nào?”

Chu phu nhân cười bảo: “Lão này già quá, lẩm cẩm mất rồi. Sao lại gọi con là Thất gia?” Chu Trọng Anh cười ha hả.

Từ Thiên Hoằng biết công phu thiết đảm là tuyệt nghệ thành danh của ông, hôm nay đúng là phúc vô đơn chí, đã được vợ đẹp lại gặp danh sư, chàng vội quỳ xuống khấu đầu bái tạ, hai người gọi nhau bằng phụ tử.

Tin vừa truyền ra, mọi người tới tấp kéo đến chúc mừng. Đêm đó Mai Lương Minh mở đại tiệc khoản đãi, Chu Ỷ trốn chui trốn lủi. Lạc Băng cố gắng thế nào cũng không kéo được nàng ra ngoài.

Giữa tiệc, Thạch Song Anh về đến, nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Thư của đà chủ đã đưa tới nơi. Đây là hồi âm của lão anh hùng Mộc Trác Luân.”

Trần Gia Lạc đón lấy, đáp lời: “Thập nhị ca bôn ba vạn dặm thật là cực khổ. Nhanh lên, qua đây uống một chén…”

Lời nói chưa dứt, Tưởng Tứ Cân bỗng chạy vào, lớn tiếng hô: “Hoàng Hà vỡ đê rồi.”

Mọi người nghe vậy đứng cả dậy, hỏi tình hình tai nạn ra sao. Tưởng Tứ Cân nói: “Từ Mạnh Tân đến Đồng Quả Thương đã bị vỡ đến bảy tám chỗ, rất nhiều địa phương không còn đường tới nữa.” Mọi người nghe xong đều nóng ruột lo âu, dân chúng đã khốn đốn gặp phải chuyện này càng khổ sở hơn. Thường thị song hiệp đến giờ vẫn chưa có hồi báo gì, không biết tình hình Văn Thái Lai thế nào.

Trần Gia Lạc lớn tiếng: “Các vị ca ca! Chúng ta đã đợi ở đây mấy ngày rồi, mà Ngũ ca, Lục ca vẫn chưa có tin tức. Chắc là tình hình đã thay đổi, lại e nước lũ cản đường làm lỡ mất đại sự. Mọi người suy nghĩ xem nên làm thế nào.”

Chương Tấn hô to: “Chúng ta đừng đợi nữa, mau mau kéo hết về Bắc Kinh. Cho dù Tứ ca bị nhốt ở thiên lao, mọi người cũng phải cướp Tứ ca về.” Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Tưởng Tứ Cân đều đồng thanh phụ họa.

Trần Gia Lạc cùng Chu Trọng Anh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn khẽ bàn bạc mấy câu rồi nói: “Việc không nên chậm trễ, chúng ta phải khởi hành ngay.” Mọi người cảm tạ Mai Lương Minh vì quấy nhiễu bấy lâu, rồi lập tức khởi hành đi về hướng đông.

Dọc đường Trần Gia Lạc đọc thư của Mộc Trác Luân. Trong thư mấy lần cảm tạ việc Hồng Hoa Hội báo tin, cho biết đã triệu tập mọi người chuẩn bị lừa ngựa binh khí, quyết chiến đến cùng với cường địch. Mặc dù địch đông ta ít, tình thế khó mà thắng được, nhưng già trẻ lớn nhỏ toàn tộc thà hi sinh cũng nhất định không khuất phục.

Lời lẽ trong thư đượm màu bi tráng, Trần Gia Lạc bất giác thay đổi sắc mặt, hỏi Thạch Song Anh: “Lão anh hùng Mộc Trác Luân còn dặn dò gì nữa không?”

Thạch Song Anh đáp: “Ông ấy hỏi đã cứu được Tứ ca hay chưa. Nghe nói không thành công, ông ấy ra vẻ lo lắng.” Trần Gia Lạc khẽ “À” một tiếng.

Thạch Song Anh lại nói: “Hồi tộc đối với chúng ta bằng tình sâu nghĩa nặng. Nghe nói thuộc hạ là sứ giả của tổng đà chủ phái đi, họ đối xử rất ân cần.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Huynh có gặp gia đình của lão anh hùng Mộc Trác Luân hay không?”

Thạch Song Anh đáp: “Gặp cả phu nhân, con trai và hai cô con gái. Con trai ông ấy thì tổng đà chủ đã gặp rồi, y hỏi thăm tổng đà chủ có được an khang không.”

Trần Gia Lạc ngừng lại một lúc, ngập ngừng hỏi: “Không ai nói gì nữa ư?”

Thạch Song Anh suy nghĩ rồi đáp: “Lúc thuộc hạ rời khỏi, Hoắc Thanh Đồng cô nương hình như muốn nói gì đó nhưng rốt cuộc không nói, chỉ hỏi han về tình hình cứu Tứ ca.”

Trần Gia Lạc im lặng, đưa tay nắm chặt thanh đoản kiếm mà Hoắc Thanh Đồng đã tặng. Lưỡi thanh kiếm này chỉ dài có tám tấc, ánh sáng chói mắt. Chuôi kiếm quấn bằng chỉ vàng đã mòn nhiều chỗ, xem ra đây là cổ vật đã mấy trăm năm. Ngày ấy Hoắc Thanh Đồng đã nói: “Xưa nay vẫn tương truyền trong kiếm có ẩn giấu một bí mật lớn, nhưng tìm hiểu tỉ mỉ đến đâu cũng không thấy điểm nào khác lạ.” Chàng quay đầu nhìn về hướng tây chỉ thấy một trời sao sáng, không như hôm gặp nhau ở vùng đại mạc, mặt trời lấp lánh rọi lên chiếc lông vũ màu xanh phỉ thúy, ánh xuống chiếc áo màu vàng nhạt.

Mọi người đi suốt đêm, sáng sớm đã gần đến đê sông Hoàng Hà, thấy nước sông đục ngầu ào ào chảy xiết. Đi thêm vài giờ nữa thì thấy một vùng bình nguyên giờ đã thành biển cả, nhà cửa, ruộng nương, những chỗ thấp trũng đều chìm trong nước lũ. Dân chúng chạy hết lên đồi núi, chịu cảnh màn trời chiếu đất. Cũng có một số kẹt lại, bám trên mái nhà hay những cành cây. Một vùng nước rộng mênh mông, hoàn toàn không có khói bếp, khắp nơi vang lên những tiếng kêu cứu bi ai. Lác đác có những thi hài bập bềnh theo dòng nước, cùng mấy cái rương hòm bằng gỗ lênh đênh trôi dạt về đông.

Dọc đường quần hùng cũng cứu mấy người bị nạn, vòng lên chỗ cao mà đi về hướng đông, đêm đó ngủ lại trên vùng núi. Hôm sau họ phải đi vòng một vòng lớn mới đến Đỗ Lương Trại, dọc đường thấy chỗ nào cũng có những cảnh bi ai thê thảm, khó mà chịu nổi.

Chu Ỷ vẫn đi chung với Lạc Băng, nhưng lúc này nhịn không nổi nữa liền đi nhanh tới chỗ Từ Thiên Hoằng, hỏi: “Ca ca quỉ kế nhiều như vậy, cố tìm cách cứu dân chúng đi chứ?”

Từ hôm đính ước, đôi vợ chồng chưa cưới này cứ tránh mặt nhau. Hai ngày nay chưa nói câu nào, không ngờ câu đầu tiên nàng mở miệng lại đặt cho chàng một vấn đề khó giải quyết như vậy. Từ Thiên Hoằng không khỏi khó xử, bèn đáp: “Muốn thì muốn vậy, nhưng nạn dân nhiều như thế, ca ca thật không có cách gì.”

Chu Ỷ nói: “Nếu muội có cách thì cần gì phải hỏi ca ca nữa?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Ngày mai ca ca sẽ xin mọi người đừng gọi mình bằng cái ngoại hiệu Võ Gia Cát nữa, để khỏi bị muội lúc nào cũng làm khó dễ.”

Chu Ỷ dỗi ngay: “Muội mà lúc nào cũng làm khó dễ ca ca ư? Lúc nào muội cũng nói không đúng, thế có được không? Muội xin lỗi là xong chứ gì?” Rồi nàng bĩu môi không nói gì nữa.

Từ Thiên Hoằng dỗ dành: “Muội muội, bây giờ chúng ta đã là người một nhà rồi, không nên gây chuyện nữa.” Chu Ỷ cứ mặc kệ.

Từ Thiên Hoằng nói: “Ca ca sai rồi. Muội muội tha cho ca ca lần này, cười một cái đi.” Chu Ỷ quay đầu lại nhưng vẫn nhăn mặt.

Từ Thiên Hoằng nói: “À, muội muội không dám cười, thì ra tân nương xấu hổ với tân lang.”

Chu Ỷ không nhịn nổi nữa, bật cười khúc khích rồi giơ roi ngựa lên nói: “Ca ca nói bậy nữa đi, xem muội có dám đánh đòn ca ca không?”

Lạc Băng chậm rãi đi sau hai người, vì xót con bạch mã vừa phải chạy xa vạn dặm từ Hồi Cương về mới hai ngày. Nàng nhìn Chu Ỷ và Từ Thiên Hoằng ngây thơ đùa giỡn, nghĩ đến chồng càng thấy nhớ nhung sầu khổ hơn.

Khoảng giờ Mùi mọi người đã đến Triệu Thảo Doanh, là một thị trấn lớn nằm ven sông Hoàng Hà. Dân chúng bị nạn lũ lụt quanh vùng chạy đến thị trấn này rất đông. Lạc Băng lấy hết vàng trong mình đem đổi lấy bạc, mua lương thực phân phát. Nạn dân chạy ào ào đến, chỉ một lúc đã hết sạch, cứu trợ chưa tới một phần mười.

Khi mọi người rời khỏi thị trấn, rất nhiều dân đói dắt díu nhau đi theo, chỉ mong được phát cho chút ít lương thực. Quần hùng không phải nhẫn tâm, nhưng làm sao cứu tế được nhiều như thế, chỉ biết cắn răng lên ngựa rời khỏi đó.

Dọc đường đầy những nạn dân đùm đề con cái, vừa đi vừa khóc lóc. Đột nhiên phía trước có một người cưỡi ngựa phi tới rất gấp. Đường núi chật hẹp mà tên kia cứ lạng ẩu lách bừa, chỉ chốc lát đã đụng vào một thiếu phụ đang ẵm con, làm đứa bé rơi xuống nước. Tên kia cứ mặc kệ, cho ngựa phóng như bay. Quần hùng giận dữ, Vệ Xuân Hoa vọt ngay tới, túm lấy chân trái lôi hắn xuống, nện cho một quyền. Hắn ọe một cái, nhổ ra một vũng máu lẫn ba chiếc răng cửa.

Thì ra đó là một tên công sai. Hắn vừa đứng dậy đã ngoác mồm ra thóa mạ: “Con mẹ nó, đám thổ phỉ lưu manh này! Lão gia đang có việc gấp, lát nữa mới quay lại tính sổ với bọn bay.”

Hắn leo lên ngựa tính đi tiếp, nhưng Chương Tấn đứng bên kia lại túm chân phải lôi hắn xuống ngựa, quát to: “Việc gì mà gấp? Ở lại đây chờ một lát đã.”

Trần Gia Lạc bảo: “Thập ca, tìm trên người hắn xem có gì không?” Chương Tấn lục soát, lấy ra một công văn giao cho Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc thấy văn thư đó có cắm lông gà, một góc cháy sém, rõ ràng là loại công văn khẩn cấp mà dịch trạm phải chạy suốt ngày đêm. Trên phong bì ghi là gửi gấp cho Định biên đại tướng quân Triệu ở cách xa sáu trăm dặm. Chàng bèn tiện tay xé niêm phong, rút công văn ra xem.

Gã công sai thấy công văn bị xé, kinh hãi kêu lên: “Đây là việc quân cơ mật, ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”

Tâm Nghiễn cười hỏi lại: “Ngươi không sợ bị chém đầu hay sao?”

Trần Gia Lạc đọc thấy công văn ký tên quan tổng binh vận lương Tôn Khắc Thông, bẩm cho Triệu Tuệ biết là lương thảo của đại quân mới vận chuyển đến Lan Phong, vì lũ sông Hoàng Hà nên kẹt lại ở đó, chậm trễ mấy ngày. Trần Gia Lạc giao công văn cho Từ Thiên Hoằng, nói: “Không liên can gì đến chúng ta, cũng chẳng liên can gì đến Tứ ca.”

Từ Thiên Hoằng xem xong, mặt mày hớn hở nói: “Tổng đà chủ! Đây là vận may lớn của chúng ta. Tương trợ Mộc lão anh hùng, cứu tế dân chúng gặp nạn lũ Hoàng Hà, mọi việc đều nhờ vào tờ công văn này.”

Họ Từ lập tức xuống ngựa, xé nát công văn trước mặt tên công sai rồi cười hỏi: “Bây giờ ngươi đến chỗ Triệu Tuệ hay về Lan Phong? Làm mất công văn là phạm vào tội chém phải không? Ta khuyên ngươi, muốn giữ mạng thì tự mình chạy trốn là hơn.”

Tên công sai vừa tức vừa sợ, im lặng suy nghĩ thì thấy câu đó không sai, mình không làm gì được. Hắn đành cởi bộ quân phục trên người quăng xuống nước, rồi lẩn vào đám dân chúng đang chạy nạn.

Trần Gia Lạc đã hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói: “Cướp lương cứu nạn thật là một công đôi việc. Có điều lương thảo của đại quân chắc chắn phải có trọng binh hộ tống, chúng ta lại ít người. Việc này thành bại thế nào, hoàn toàn trông vào diệu kế của Thất ca.”

Từ Thiên Hoằng ghé tai nói nhỏ mấy câu, Trần Gia Lạc mừng rỡ thốt lên: “Hay lắm! Cứ làm như thế!” Chàng lập tức phân phối nhân mã. Mọi người nhận lệnh, lo cải trang và tung tin đồn.

Sáng sớm hôm sau mấy vạn nạn dân rủ nhau kéo vào thành Lan Phong, hỗn loạn vô cùng. Tri huyện Vương Đạo thấy tình hình khác lạ, bèn sai bộ khoái bắt mấy nạn dân đến hỏi. Họ đều khai rằng nghe nói hôm nay quan phủ mở kho phát chẩn, nên đến đây để nhận lương thực. Vương Đạo liền hạ lệnh đóng chặt cửa thành, nhưng một đồn mười, mười đồn trăm, nạn dân kéo về đông đúc, trong thành ngoài thành đầy ắp những người. Vương Đạo vội ra thông báo là không có chuyện này, nhưng họ đâu có chịu tin?

Vương Đạo thấy nạn dân càng lúc càng đông thì vô cùng hốt hoảng, đích thân đến Thạch Phật Tự ở đông thành bái kiến tổng binh Tôn Khắc Thông đang trú ở đó, nhờ họ Tôn điều binh trấn áp dân chúng trong thành.

Tôn Khắc Thông nói: “Tiểu tướng phụng tướng lệnh của Triệu tướng quân, trong vòng mấy ngày phải đưa quân lương đến Hồi Cương, nếu có sai sót phải bị chém đầu. Không phải tiểu tướng không chịu giúp, mà thật sự là việc quân trọng đại, xin Vương đại nhân tha thứ.”

Vương Đạo cầu khẩn liên tục nhưng Tôn Khắc Thông nhất quyết không nghe, không làm gì được đành cáo biệt. Dọc đường về, hắn thấy vô số dân chúng gặp thiên tai láo nháo khắp nơi.

Trời sắp tối, đột nhiên huyện nha, nhà tù và những tiệm buôn trên mấy con đường lớn đồng thời bốc cháy, Vương Đạo liền đốc thúc nha dịch bộ khoái cứu hỏa. Trong lúc lộn xộn, một tên công sai chạy tới thở hổn hển nói: “Đại… đại lão gia! Không hay rồi! Cửa tây thành đã bị nạn dân mở ra, cả ngàn cả vạn người đang tiến vào thành.”

Vương Đạo kêu khổ, không biết phải làm gì. Hắn sai lấy ngựa, rồi dẫn bọn nha dịch đi xem xét phía tây thành. Mới được nửa đường chúng đã bị nạn dân cản lại, không tiến lùi gì được, rồi nghe thấy có người trong đám đông kêu lên: “Thạch Phật Tự tại đông thành chuẩn bị phát lương tiền. Mọi người mau mau đến Thạch Phật Tự mà nhận.”

Dân chúng chạy ào ào về hướng đông, cản đường Vương Đạo. Hắn giận dữ hét lên: “Tên nào dám tung tin đồn nhảm, mau bắt đến cho ta thẩm vấn.” Hai tên nha dịch vâng dạ, lấy xích sắt ra toan trói một người thân hình ốm yếu đang đứng hò hét nạn dân đi lãnh đồ cứu trợ.

Người này chỉ khẽ vung tay đã đoạt được sợi xích, rồi quật gãy sống lưng một tên nha dịch, lớn tiếng kêu: “Chúng ta đi xin cơm, có vi phạm vương pháp gì đâu?”

Vương Đạo thấy không êm lập tức quay đầu ngựa, vòng qua cửa nam, nhưng trước mặt lại có một đoàn nạn dân chạy tới. Hắn nghĩ phải trốn đến chỗ Tôn tổng binh may ra mới được an toàn, nhưng đến đó thì thấy binh lính tuần tra trong thành cũng đang chạy trốn láo nháo. Một đạo sĩ cụt tay cầm trường kiếm, một người mập mạp xách cây roi sắt, một người gù múa lang nha bổng, một đại hán cầm thiết trượng đang chạy tới reo hò giết chóc.

Vương Đạo chạy lẫn trong đám binh sĩ, thúc ngựa hướng về Thạch Phật Tự. Cửa chùa đã đóng chặt, nhưng binh sĩ gác cửa nhận ra tri huyện đại nhân nên cho y vào. Lúc này phía ngoài chùa nạn dân bao vây tầng tầng lớp lớp. Giữa đám đông có tiếng kêu la: “Tiền bạc và lương thực triều đình đưa xuống để cứu tế thiên tai đều bị bọn cẩu quan này ăn chặn hết rồi. Phát tiền phát lương đi! Phát tiền phát lương đi!”

Nạn dân đồng thanh hô theo, chấn động rung chuyển cả mái chùa. Vương Đạo run rẩy không ngừng, lắp bắp: “Tạo phản rồi, tạo phản rồi!”

Tôn Khắc Thông dù sao cũng là võ quan, gan dạ hơn nhiều. Hắn bảo binh sĩ bắc thang, trèo lên đầu tường lớn tiếng kêu: “Ai là lương dân an phận thủ thường thì mau mau lui ra khỏi thành, đừng nghe tin đồn nhảm. Không lùi lại thì quân lính phải bắn tên.” Lúc này hai tên du kích(7) đã dẫn bọn cung thủ lên đầu tường.

Nạn dân nhốn nháo, Tôn Khắc Thông bèn ra lệnh: “Bắn!” Một loạt tên phóng ra, mười mấy người dân ngã lăn xuống đất. Những người khác kinh hãi quay người bỏ chạy, giẫm đạp lên nhau. Người kêu mẹ, kẻ gọi con, loạn xạ cả một vùng.

Tôn Khắc Thông đứng trên đầu tường cười ha hả. Tiếng cười chưa dứt thì trong đám đông bỗng có hai mảnh đá bắn lên. Tôn Khắc Thông né được một viên, còn một viên sượt vào bên má. Hắn đau đớn vô cùng, đưa tay sờ lên thấy toàn là máu, không nén nổi giận dữ bèn hô lớn: “Bắn! Bắn chết hết cho ta!”

Bọn cung thủ bắn thêm một loạt, lại có mười mấy người bỏ mạng. Nạn dân kêu la thảm thiết. Đột nhiên có tiếng gió rít, hai người vừa cao vừa ốm nhảy vọt lên tường, tay vừa vung ra đã hất mấy tên cung thủ lộn nhào xuống đất. Nạn dân tức giận vì bị bắn tên, liền ào lên đè chúng xuống. Đàn ông thì đấm đá, đàn bà thì cào cấu cắn xé.

Thì ra quần hùng Hồng Hoa Hội đã cải trang lẫn vào đám đông người bị thiên tai đó. Từ Thiên Hoằng cố ý để bọn quan binh tác oai tác quái một hồi khiến dân chúng giận dữ đến mức không nhịn được nữa, rồi mới tấn công vào chùa. Đột nhiên quần hùng thấy Thường thị song hiệp xuất hiện, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng.

Lạc Băng múa song đao nhảy lên đầu tường, đến bên Thường Hách Chí hỏi: “Ngũ ca! Có gặp Tứ ca hay không? Huynh ấy thế nào rồi?”

Thường Hách Chí nhìn thấy Lạc Băng, kinh ngạc hỏi: “Úi chà! Tứ tẩu cũng đến đây rồi à? Đã gặp Tứ ca rồi, Tứ tẩu yên tâm đi.”

Lạc Băng nghe vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nàng hoan hỉ quá độ khiến sát khí biến đi đâu hết, ngồi thụp xuống tường, hai tay ôm đầu. Chương Tấn và Tâm Nghiễn vội vàng chạy tới hỏi: “Sao rồi? Bị thương rồi à?”

Lạc Băng cười đáp: “Ta không sao cả! Ngũ ca đã gặp Tứ ca rồi.”

Trên đầu tường Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng ác đấu với bọn quan binh. Chỉ một lúc sau cửa chùa đã được mở ra. Tưởng Tứ Cân và Mạnh Kiện Hùng từ trong chùa chạy ra, vẫy tay với đám nạn dân, kêu lớn: “Mọi người vào trong này lấy lương thực.”

Dân chúng ùa vào như kiến. Quan binh trong chùa lúc đầu còn vung binh khí chém giết loạn xạ, về sau thấy dân chúng càng lúc càng đông, lại có một nhóm người võ công cao cường, trong khi đó bọn thống binh đã bị giết mấy người, nên sợ đến loạn cả tay chân. Tuy nhiên quan binh khá đông lại có vũ khí, nên nạn dân cũng không dám tới gần.

Tôn Khắc Thông múa đại đao dẫn mấy tên Thanh binh chiến đấu trên đầu tường, vừa đánh vừa lùi. Đột nhiên bên tai hắn rít lên một cơn gió, rồi sau lưng tê liệt, lỏng tay buông đại đao rớt nghe loảng xoảng. Hai tay hắn bị bẻ ra sau lưng, một thanh âm vang lên sau gáy: “Con rùa kia! Mau mau ra lệnh cho đám rùa thuộc hạ của ngươi buông vũ khí xuống, lùi ra khỏi chùa.”

Tôn Khắc Thông chần chừ một lúc, chợt thấy gáy mình đau nhói lên. Thì ra con dao đang kề vào cổ bị người ta nhẹ nhàng kéo một đường, hớt mất một miếng da. Đến nước này thì Tôn Khắc Thông không dám không nghe lời, chỉ còn cách lớn tiếng truyền lệnh. Quan binh đều thấy thượng cấp bị một người trông như ma quỉ bắt lấy, chủ tướng đã có lệnh thì hà tất phải thí mạng nữa, nên chúng cùng buông binh khí xuống, lùi ra ngoài chùa. Dân chúng đồng thanh hoan hô vang dội.

Trần Gia Lạc tiến vào, thấy đại điện rộng khoảng năm gian nhà bình thường, chất đầy những túi lương thực và tiền bạc.

Thạch Song Anh lôi Vương Đạo vào trong điện, Trần Gia Lạc cười hỏi: “Ngươi là tri huyện đại nhân phải không?”

Vương Đạo run rẩy đáp: “Vâng… vâng… đại vương…”

Trần Gia Lạc ngắt lời: “Ngươi thấy ta có giống đại vương không?”

Vương Đạo nói: “Tiểu nhân tội đáng muôn chết. Dám hỏi công tử tôn tánh đại danh là chi?”

Trần Gia Lạc mỉm cười, không đáp mà hỏi lại: “Ngươi có phải xuất thân đầu bảng hai lần không?”

Vương Đạo vội nói: “Không dám, không dám.”

Trần Gia Lạc nói: “Có gì mà không dám? Ngươi đã là tiến sĩ thì chắc hẳn không ít chữ nghĩa. Ta ra một câu đối cho ngươi.” Chàng phẩy quạt, cười cười nói tiếp: “Nếu ngươi đối được thì ta tha mạng, còn đối không được thì ta không khách sáo nữa.”

Dân chúng gặp thiên tai vừa nghe quần hùng Hồng Hoa Hội tuyên bố lát nữa sẽ phân phát lương tiền, nên tất cả đều yên tâm trở lại. Bây giờ họ nghe nói tri huyện bị bắt, tổng đà chủ Hồng Hoa Hội thi thố tài năng với hắn, đều cảm thấy hiếu kỳ. Họ đứng thành một vòng ở ngoài, cả ngàn cặp mắt đều dồn vào mặt Vương Đạo.

Trần Gia Lạc nói: “Ngươi nghe đây! Câu đối là: Sông có đục có trong, quan có trong có đục, sông trong dễ hay quan trong dễ?”

Lúc này Vương Đạo sợ quá, mồ hôi vã ra đầy người. Bao nhiêu chữ nghĩa của hắn đều theo mồ hôi mà trôi ra biển hết, suy nghĩ cả nửa ngày rồi đành nói: “Công tử! Vế đối của công tử khó quá, tiểu nhân sức học có hạn, tiểu nhân… tiểu nhân… đối không nổi.”

Trần Gia Lạc nói: “Được, không đối cũng được. Vậy ta hỏi ngươi, nước sông Hoàng Hà dễ trong sạch hay quan lại dễ trong sạch?”

Vương Đạo đột nhiên phúc khởi tâm linh, đáp ngay: “Theo tiểu nhân nghĩ, nếu quan lại khắp thiên hạ đều trong sạch, ắt hẳn nước sông Hoàng Hà cũng trong sạch theo.”

Trần Gia Lạc cười lớn: “Nói hay lắm! Ta giữ lời, tha mạng cho ngươi. Mau triệu sai dịch đến đây, lấy tiền và lương thực phát cho dân chúng bị thiên tai. À, phiền quan tổng binh cũng giúp cho một tay.”

Tôn Khắc Thông cùng Vương Đạo nhìn nhau khó xử, mất quân lương đã mang tội chém đầu, sao còn chính tay phân phát được? Nhưng không nghe lệnh thì tán mạng ngay tức khắc, phải dập lửa cháy lông mày trước đã. Chúng trăm ngàn lần khó xử cũng chỉ còn cách đốc thúc binh lính nha dịch, lấy quân lương quân hướng phát cho dân chúng bị thiên tai.

Muôn dân hoan hô vang dậy một vùng, hết lời cảm tạ quần hùng Hồng Hoa Hội. Người nào vào lãnh tiền lãnh lương cũng cười với Tôn Khắc Thông và Vương Đạo một cái. Cái cười đó đương nhiên là cười chê cười mỉa, nhưng quan văn quan võ đành coi như không biết không hay.

Trần Gia Lạc dõng dạc lên tiếng: “Các vị phụ lão, huynh đệ, tỉ muội nghe đây! Sau này nha môn xét hỏi, thì quí vị cứ nói là quan tổng binh và tri huyện đích thân cấp phát.” Dân chúng reo hò khen phải, nhất định sẽ nói đúng như vậy.

Quần hùng giám thị đến khuya, lương tiền mới phát xong. Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Quí vị phụ lão! Quí vị hãy đem binh khí về cất trong nhà. Nếu bọn cẩu quan này biết tốt xấu thì thôi, còn nếu sau khi bọn tại hạ rời thành má chúng ép quí vị giao trả quân lương, thì mọi người hãy thí mạng với chúng một phen.”

Lúc này đúng là Hồng Hoa Hội nói sao nạn dân nghe vậy. Những thanh niên trai tráng lập tức tới lượm hết đao thương của bọn binh lính rơi vãi dưới đất. Bọn chúng thấy dân chúng đông đúc, quan tổng binh lại đang bị khống chế, dĩ nhiên không dám ho he.

Trần Gia Lạc đứng dậy nói: “Việc lớn đã xong! Các vị ca ca, chúng ta đi thôi.” Quần hùng ép Tôn Khắc Thông cùng đi, ra khỏi Thạch Phật Tự rồi lên ngựa rời thành giữa tiếng hoan hô của mấy vạn nạn dân.

Đi được mười mấy dặm, Trần Gia Lạc mới đẩy Tôn Khắc Thông xuống ngựa rồi nói: “Tổng binh đại nhân! Đa ta lương thực và ngân lượng của ngươi, chúng ta còn ngày tái ngộ. Lần sau nếu ngươi có áp tải quân lương đi đâu, nhớ báo tin cho ta biết.” Chàng vừa chắp tay chào vừa cười ha hả, dẫn quần hùng rời khỏi đó.

Chạy hơn một dặm, Trần Gia Lạc mới hỏi Thường thị song hiệp: “Hai vị có tin tức Tứ ca hay không?”

Thường Hách Chí nói: “Đã gặp dấu hiệu Thập tứ đệ để lại, Tứ ca bị đưa đi Hàng Châu.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Đưa đi Hàng Châu làm gì? Tại sai không đi Bắc Kinh? Không phải tên cẩu hoàng đế muốn đích thân thẩm vấn hay sao?”

Thường Bá Chí đáp: “Bọn thuộc hạ cũng cảm thấy kỳ lạ, nhưng Thập tứ đệ xưa nay hành sự tỉ mỉ tinh tế, tin này nhất định là xác thực.”

Trần Gia Lạc gọi mọi người xuống ngựa, ngồi quây lại thương nghị. Từ Thiên Hoằng nói: “Tứ ca đã đi Hàng Châu, thì chúng ta về Giang Nam tìm cách cứu Tứ ca. Hàng Châu là địa bàn của chúng ta, tai mắt triều đình không linh hoạt bằng ở Bắc Kinh, cứu Tứ ca sẽ dễ hơn. Nhưng vẫn phải nhờ một vị ca ca đi Bắc Kinh thám thính tin tức, phòng hờ vạn nhất.” Mọi người đều cho là phải.

Trần Gia Lạc quay sang Thạch Song Anh nói: “Lại làm phiền Thạch ca một phen cực khổ nữa rồi.”

Thạch Song Anh lắc đầu đáp: “Chẳng hề gì!”

Thương nghị xong xuôi, một mình Thạch Song Anh đi về hướng bắc, còn quần hùng khởi hành về phương nam.

Trần Gia Lạc hỏi tiếp về tình hình vết thương của Dư Ngư Đồng, Thường thị song hiệp trả lời là chưa có tin tức. Hai người vừa thấy ký hiệu là lập tức trở về báo tin, khi đi qua Lan Phong thấy dân chúng bị thiên tai tập hợp đông đúc liền đi theo đến Thạch Phật Tự để xem náo nhiệt. Lúc bọn quan binh bắn tên, hai người nhịn không nổi nhảy lên tường động thủ với chúng, không ngờ quần hùng cũng có mặt ở đó.

Tuy Văn Thái Lai chưa thoát hiểm, nhưng mọi người đã biết tin tức Văn, Dư bình an vô sự, đều cảm thấy vui mừng, nhắc lại vụ cướp lương cứu nạn vừa rồi thật là thống khoái. Chu Ỷ nói: “Đại quân mất hết lương thảo, nhất định không thắng được Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ.”

Vô Trần cười nói: “Con bé đó kiếm pháp rất khá, nhân phẩm lại phi phàm, ai cũng muốn giúp đỡ. Mong sao nó đánh một trận cho oanh liệt, để mọi người được tới chung vui.”

Trần Gia Lạc nói: “Cũng nhờ Thất ca thần cơ diệu toán. Vụ này đúng là một công đôi việc.”

Chu Ỷ nghe tổng đà chủ khen ngợi Từ Thiên Hoằng, thầm mừng rỡ liếc nhìn, ánh mắt lấp lánh như biết nói biết cười. Từ Thiên Hoằng lè lưỡi nhìn nàng, nháy nháy mắt trả lời.

Hồi 07: Đàm ngâm réo rát như phượng gáy – Kiếm khí âm trầm tựa rồng gầm

Chưa đầy một ngày quần hùng đã đến Từ Châu. Đà chủ phân đà Hồng Hoa Hội nơi đó thấy tổng đà chủ và các vị hương chủ nội hương đường ngoại hương đường đột ngột đến cả đây, lập tức cung kính đón tiếp, không khỏi bận rộn suốt ngày. Hội chúng vùng Giang Bắc này do Dương Thành Hiệp thống lĩnh, y hạ lệnh cho phân đà chủ không được bày vẽ rườm rà, cũng không cần phải thông báo cho anh em trong hội đến tham kiến tổng đà chủ.

Quần hùng chỉ nghỉ một đêm, rồi đi miết về hướng nam. Mọi bến đò vượt sông đều có đầu mục hay phân chi Hồng Hoa Hội, nhưng quần hùng muốn giữ cơ mật nên không kinh động ai cả, chỉ nhanh chóng vượt qua. Mấy ngày sau mọi người đã đến Hàng Châu, nghỉ tại nhà Mã Thiện Quân là chủ phân đà Hàng Châu. Gia trang nhà họ Mã tọa lạc dưới chân núi Cô Sơn ở Tây Hồ. Nơi này sản vật phong phú, cảnh trí tuyệt vời, lại vô cùng yên tĩnh.

Mã Thiện Quân chuyên nghề buôn bán vải vóc, làm chủ hai xưởng dệt tơ lụa khá lớn. Tính ông hiếu võ nên kết giao với Vệ Xuân Hoa, rồi được họ Vệ giới thiệu vào Hồng Hoa Hội. Mã Thiện Quân thân hình mập mạp, tuổi trạc ngũ tuần, thường mặc áo bào bằng tơ lụa in bông lớn, ngoài khoác thêm áo ngắn màu đen. Nhìn y chẳng khác gì một vị đại gia sống trong nhung lụa, nào ngờ cũng là hiệp khách phong trần.

Đêm đó đón tiếp quần hùng trong hậu sảnh, mọi người bàn đến việc cứu Văn Thái Lai. Mã Thiện Quân nói: “Để thuộc hạ lập tức cho người đi điều tra xem Tứ đương gia bị nhốt trong lao nào, rồi chúng ta theo tình hình mà hành sự.” Y bèn lệnh cho con trái Mã Đại Đình ra ngoài sắp xếp mọi chuyện.

Sáng hôm sau Mã Đại Đình về báo: “Đã cho huynh đệ đi thám thính khắp các nha môn phủ Hàng Châu, huyện Tiền Đường, huyện Nhân Hòa, kể cả doanh trại của tướng quân trú phòng, thủy lục đề đốc, nhưng không có tin tức gì của Văn tứ đương gia.”

Trần Gia Lạc triệu tập quần hùng nghị sự. Mã Thiện Quân nói: “Trong nha môn quan phủ, doanh trại tướng quân đều có huynh đệ chúng ta nằm vùng, nếu Văn tứ đương gia bị giam trong nhà lao của quan sai thì chắc chắn sẽ tìm được. Chỉ sợ Tứ đương gia gây trọng án nên chúng phải nhốt riêng, vậy thì khó mà xoay xở.”

Trần Gia Lạc nói: “Bước đầu chúng ta phải điều tra cho được Tứ ca đang ở đâu. Phiền Mã đại ca tiếp tục cử các huynh đệ đắc lực đi tìm kiếm, thám thính lại các nơi quan phủ. Đêm nay mời đạo trưởng, Ngũ ca, Lục ca đến dinh tuần phủ xem thử. Quan trọng nhất là đừng đánh cỏ động rắn, bất kể thế nào cũng không nên động võ.” Bọn Vô Trần vâng lệnh, hỏi tỉ mỉ Mã Thiện Quân về đường đi nước bước và tình hình trong ngoài dinh tuần phủ.

Giờ tí đêm đó ba người xuất phát, hai canh giờ sau về báo cáo. Dinh tuần phủ canh gác nghiêm mật khác thường, hàng ngàn binh lính đèn đuốc sáng trưng canh giữ suốt đêm, rất nhiều quan quân tuần tra thuộc hàng nhị phẩm tam phẩm đội nón đỏ. Họ không dám xông vào, nấp ngoài chờ đợi hồi lâu. Đơi mãi vẫn thấy chúng chẳng có vẻ gì lơi lỏng, ba người đành phải trở về.

Quần hùng đều kinh ngạc, không sao ngờ đến cục diện này. Mã Thiện Quân nói: “Mấy ngày nay trong thành Hàng Châu nơi nào cũng tra xét cẩn mật. Ngay cả chốn lầu xanh, thậm chí thuyền bè qua lại trên sông cũng bị quan sai xét hỏi. Rất nhiều người vô cớ bị bắt đi. Chẳng lẽ những việc đó có liên quan đến Văn tứ gia hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Chắc không phải vậy. Không chừng có khâm sai đại thần gì đó từ kinh đến đây, nên quan lại địa phương mới hao công tốn sức như thế.”

Mã Thiện Quân nói: “Nhưng lại không nghe nói có quan khâm sai nào đến Triết Giang.” Mọi người bàn luận khá lâu, cuối cùng cũng chẳng được gì.

Hôm sau Chu Ỷ nũng nịu bắt cha mẹ đi chơi hồ với nàng, Chu Trọng Anh đồng ý. Chu Ỷ nháy mắt với Từ Thiên Hoằng, muốn chàng cùng đi. Họ Từ không dám mở miệng, làm như chẳng biết gì.

Nhưng người xưa có nói, biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu tâm sự của nàng, cười bảo: “Hoằng nhi! Chúng ta chưa đến Hàng Châu bao giờ. Con đi chung với chúng ta, đừng để ông bà già cả này lạc mất đường về.”

Từ Thiên Hoằng vâng dạ. Chu Ỷ khẽ trách: “Gia gia kêu thì ca ca đi, còn muội kêu thì ca ca không chịu.” Từ Thiên Hoằng mỉm cười không nói. Chàng từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phiêu bạt điêu linh, bây giờ đột nhiên được vợ chồng Chu Trọng Anh coi mình như con ruột, lại thêm hôn thê ngây thơ khả ái, đối với chàng thân mật muôn phần, trước mặt người khác cũng không chút e dè. Không những bản thân chàng hoan hỉ, mà các huynh đệ cũng thấy vui lây.

Trần Gia Lạc cũng dẫn Tâm Nghiễn đi dạo cảnh hồ. Dạo qua Tô Đê, Bạch Đê, chàng lên cầu ngồi nhìn về ngọn núi xa xôi. Không mưa mà vẫn um tùm cây cối xanh xanh trùng điệp, không khói mà vẫn nhòa nhạt những đỉnh núi hùng vĩ thấp thoáng trong mây. Trần Gia Lạc nghĩ: “Người xưa lần đầu đến Tây Hồ đã ví mình như Tào Thực kiến diện nữ thần sông Lạc, vừa ngẩng đầu lên đã thấy ngợp mắt lạc thần, quả thật không sai.”

Trần Gia Lạc đã đến Tây Hồ mấy lần, nhưng lúc đó còn nhỏ không hiểu được cái đẹp của cảnh sắc thiên nhiên. Lần này chàng quay lại mới hiểu được thế nào là sơn dung thủy ý, hoa thái liễu tình. Chàng say mê thưởng ngoạn hơn nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa vào chùa Linh Ẩn để thăm Phi Lai Phong.

Ngọn núi này cao hơn năm mươi trượng, từ chân lên tới đỉnh toàn là đá, dưới những khe đá mọc nhiều cây cối cành lá xum xuê. Trên cao có những tảng đá lởm chởm, chông chênh như chỉ chực rơi xuống dưới. Trần Gia Lạc cao hứng, bảo Tâm Nghiễn: “Chúng ta lên đó xem thử.” Vốn không có đường lên đỉnh núi, nhưng hai người ỷ vào khinh công phi phàm, vừa nói chuyện vừa bước nhẹ như không.

Nhìn về phía Tam Thiên Trúc thấy phong cảnh thanh nhã thoát tục, Trần Gia Lạc bèn nói: “Bên kia lại càng tuyệt đẹp.” Hai người bèn chậm rãi xuống núi, tiến đến Tam Thiên Trúc.

Được mười mấy trượng thì có hai đại hán mặc trường bào màu lam đi qua mặt, nhìn hai thầy trò tỉ mỉ, sắc mặt lộ vẻ kinh ngạc. Tâm Nghiễn khẽ nói: “Thiếu gia, hai người này biết võ công.”

Trần Gia Lạc cười đáp: “Nhãn lực của ngươi không tệ.” Chưa dứt câu, trước mặt lại có hai người đi tới, phục sức giống hai người trước, ra vẻ đang thưởng ngoạn phong cảnh, khẩu âm như người Mãn Thanh. Cứ thế, rải rác dọc đường lên núi có tới ba bốn chục người biết võ công mặc trường bào màu lam. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, chúng đều lộ vẻ khác thường.

Tâm Nghiễn hoa cả mắt, Trần Gia Lạc cũng phải ngạc nhiên thầm nghĩ: “Chẳng lẽ có bang hội hay võ phái nào hội họp ở đây hay sao? Nhưng Hàng Châu là địa bàn của Hồng Hoa Hội, nếu vậy thì nhất định họ phải thông báo cho mình biết. Hơn nữa, những người này nhìn mình rất lạ, hẳn phải có lý do.”

Thầy trò đi qua một khúc quanh, sắp lên tới Quan Âm Miếu trên Tam Thiên Trúc thì đột nhiên bên trên vọng xuống tiếng đàn thánh thót ngân vang, nghe như tiếng thác nước đổ từ trên núi. Tiếng nhạc ngân nga ca ngợi Thanh triều giang sơn cẩm tú, nhờ hoàng ân mà lê dân được sống an bình, thôn xóm nào cũng có nhà dựng cờ bán rượu.

Trần Gia Lạc nghĩ: “Tiếng đàn bình hòa nhã nhặn, thế mà ca từ lại đầy vẻ nịnh bợ, thật không tương xứng. Nhưng bảy chữ An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả nhiên xuất sắc. Nếu thôn xóm nào trên thiên hạ cũng có tửu gia, thì dĩ nhiên là lê dân bá tánh được sống vui vẻ rồi.”

Nhắm hướng tiếng đàn đi tới, chàng thấy giữa tòa núi đá có một thư sinh trạc tứ tuần đang ngồi đánh đàn, bên cạnh có hai người áo lam đứng hầu, một ông lão gầy ốm và một đại hán thấp lùn. Trong lòng Trần Gia Lạc đột nhiên phát sinh cảm giác mình với người đang chơi đàn đã quen biết lâu rồi. Y có dáng vẻ thanh tú, cốt cách cao quí, chàng càng nhìn càng thấy quen thuộc nhưng mãi không sao nhớ được đã gặp ở đâu. Trong phút chốc, đầu óc chàng mơ hồ như đang nằm mộng, cảm thấy người này đối với mình hết sức thân cận mà cũng rất đỗi xa xôi.

Lúc đó, hai người áo lam kia cũng chăm chú quan sát Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn, hình như muốn bước tới nói hỏi han. Thư sinh bỗng đưa ba ngón tay chặn lên dây đàn, âm thanh vụt tắt. Trần Gia Lạc tiến lên hai bước, chắp tay nói: “Vừa rồi mạo muội trộm nghe nhân huynh tấu nhạc, ca từ mới lạ tân kỳ. Chẳng hay bài ca đó có phải của nhân huynh vừa phổ nhạc hay không.”

Người kia cười đáp: “Đúng vậy! Bài Cẩm tú càn khôn này do tại hạ phổ nhạc gần đây. Các hạ quả nhiên là bậc tri âm, xin được nghe chỉ giáo.”

Trần Gia Lạc khen: “Cao minh, cao minh. Câu An đỗ thôn thôn dương tửu kỳ quả thật tuyệt vời.”

Người kia lộ vẻ hân hoan nói: “Huynh đài mới nghe mà đã nhập tâm như vậy! Xin mời đến đây đàm đạo.”

Trần Gia Lạc nghĩ: “Nhưng mấy câu kia thì sặc mùi bợ đít triều đình, ngươi cũng chỉ vào hạng tầm thường.” Nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng không biết vì sao chàng lại có ý muốn thân cận với người này, bèn tới thi lễ rồi ngồi xuống. Người kia nhìn kỹ dung mạo Trần Gia Lạc, cũng ra vẻ ngơ ngác hồi lâu.

Trần Gia Lạc cười nói: “Dọc đường lên núi gặp rất nhiều du khách, người nào gặp tiểu đệ cũng để lộ sắc thái khác thường như vậy. Vừa rồi huynh đài cũng thế, chẳng lẽ mặt mày tiểu đệ có gì cổ quái hay sao? Mong được chỉ giáo.”

Người kia mỉm cười đáp: “Huynh đài không hiểu cũng phải. Tại hạ có một người thân thích, tướng mạo rất giống huynh đài. Những du khách đó đều là bằng hữu của tại hạ, nên họ mới ngạc nhiên như vậy.”

Trần Gia Lạc cười nói: “Thì ra là thế. Tiểu đệ cũng thấy tướng mạo nhân huynh rất quen thuộc, hình như đã gặp ở đâu nhưng tiểu đệ ngu muội không sao nhớ nổi. Không biết nhân huynh nghĩ thế nào?”

Người kia cười rộ lên: “Chúng ta thật hữu duyên. Xin hỏi cao danh quý tánh nhân huynh?”

Trần Gia Lạc danh tiếng lẫy lừng trong giang hồ, không muốn nói thật bèn đáp bừa: “Tiểu đệ họ Lục, tên Gia Thành.” Đây chỉ là ba chữ Trần Gia Lạc đọc ngược lại. Rồi chàng cũng hỏi: “Xin hỏi tôn tánh huynh đài?”

Người kia suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tại hạ họ kép là Đông Phương, tên chỉ có một chữ Nhĩ, là người Trực Lệ. Nghe khẩu âm thì hình như huynh đài là người địa phương này?”

Trần Gia Lạc đáp: “Tiểu đệ đúng là người ở đây.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Từ lâu đã nghe nói phong cảnh Giang Nam thiên hạ vô song, hôm nay đến đây quả nhiên danh bất hư truyền. Không những nơi này núi non hùng vĩ, lại còn địa linh nhân kiệt. Tại hạ gặp rất nhiều nhân vật, đa số là học sĩ tài ba.”

Trần Gia Lạc nghe y nói chuyện phong thái bất phàm, lại thấy đại hán và ông lão kia đối với y mười phần cung kính, thõng tay đứng hầu không chút trễ nãi. Chàng thật sự không biết người này là nhân vật thế nào, bèn nói: “Huynh đài đã yêu thích Giang Nam tại sao không định cư hẳn nơi đây, để tiểu đệ thường xuyên được nghe lời dạy bảo?”

Đông Phương Nhĩ cười lớn: “Tranh thủ nửa ngày nhàn hạ, đi chơi một buổi ở đây đã là quá lắm rồi. Người tục lụy như tại hạ đây, phước phận như lúc này không phải hễ muốn là được. Huynh đài hiểu được tiếng đàn của tại hạ, nhất định là bậc cao nhân. Xin huynh đài tấu thử một khúc, có được hay không?” Nói xong, y khẽ đẩy cây thất huyền cầm đến trước mặt Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc thử đưa ngón tay lướt nhẹ, thấy tiếng đàn thanh thoát tuyệt diệu. Chàng nhìn kỹ cây đàn thấy trên đầu có buộc chùm tua xen kẽ sợi vàng thắt thành hai chữ triện Lai Phượng, còn chất liệu và hoa văn thì tuyệt hảo, giống như cổ vật cả ngàn năm. Chàng âm thầm kinh hãi, biết cây đàn này là bảo vật vô giá, không biết người này có được từ đâu, bèn nói: “Tiểu đệ mạn phép tấu đàn trước mặt cao nhân, mong huynh đài đừng có chê cười.”

Trần Gia Lạc gảy một bài Bình Sa Lạc Nhạn, Đông Phương Nhĩ chăm chú ngồi nghe. Nghe xong y hỏi: “Chắc hẳn huynh đài đã từng đến vùng biên ải?”

Trần Gia Lạc nói: “Đúng là tiểu đệ vừa từ Hồi Cương trở về, không hiểu sao nhân huynh biết được?”

Đông Phương Nhĩ đáp: “Tiếng đàn của huynh đài đạm bạc mà khoáng đạt mênh mông, phong cảnh hùng vĩ nơi đại mạc thể hiện rõ ràng trong đó. Nghe tiếng đàn của huynh phải nhớ tới bài từ của Tân Gia Hiên: Say rượu khêu đèn ngắm kiếm, Nhớ về những tháng năm xưa, Biếm ra ngoài tám trăm dặm, Tai nghe đàn năm mươi dây, Tiếng đàn ngoại tộc vùng biên ải, Tưởng trống điểm binh chốn sa trường. Tại hạ đã nghe khúc Bình Sa Lạc Nhạn này mấy chục lần, nhưng chưa từng thấy khí tượng bát ngát xung thiên như tiếng đàn của huynh đài.” Trần Gia Lạc thấy y quả đáng mặt tri âm của mình, không khỏi cao hứng.

Đông Phương Nhĩ lại nói: “Tại hạ còn một việc không rõ, muốn thỉnh giáo huynh đài. Nhưng vừa mới quen nhau, giao thiệp còn nông cạn, mở lời không khỏi e ngại.”

Trần Gia Lạc nói: “Rất mong được nghe tôn ý huynh đài.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Trong tiếng đàn của huynh đài còn chất chứa can qua, như ẩn tàn mười vạn binh giáp bên trong. Nhưng nhìn dáng vẻ huynh đài lại như một công tử quí phái, văn nhã ôn hòa, chắc chắn không phải là đại tướng thống binh. Thật sự tại hạ không hiểu ra sao.”

Trần Gia Lạc cười nói: “Tiểu đệ chỉ là một kẻ thư sinh lang bạt giang hồ. Lời nói của huynh đài khiến đệ nghe mà xấu hổ.”

Dường như Đông Phương Nhĩ không tin lắm, lại hỏi tiếp: “Cũng có thể huynh đài xuất thân thế gia con nhà đại tướng. Không biết tôn đại nhân bây giờ làm đến chức quan nào, còn công danh huynh đài ra sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Tiên phụ bất hạnh đã tạ thế từ lâu. Còn tiểu đệ tài sơ trí thiển, hoàn toàn vô duyên với công danh lợi lộc.”

Đông Phương Nhĩ lại hỏi: “Chỉ nghe lời đàm luận đủ biết huynh đài tài ba lỗi lạc. Chẵng lẽ huynh đài không đặt mục đích kiến thân lập nghiệp hay sao?”

Trần Gia Lạc lắc đầu đáp: “Chuyện đó thì không phải.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Tuần Phủ Triết Giang là chổ tri giao của tại hạ. Ngày mai huynh đài thử dời gót đến gặp ông ấy, không chừng sẽ có một phen hạnh ngộ.”

Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của huynh đài đệ xin cảm tạ, nhưng thật sự đệ không có ý làm quan.”

Đông Phương Nhĩ hỏi: “Chẳng lẽ huynh đài cam chịu để tài năng mai một suốt đời như vậy sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Trước mặt bình dân bá tánh mà lộ vẻ anh hùng, chẳng khác gì hành vi bỉ ổi.” Đông Phương Nhĩ nghe xong câu này, bất giác nét mặt thay đổi. Hai người áo lam thấy vậy đều bước lên một bước.

Đông Phương Nhĩ im lặng một lát rồi nói: “Huynh đài là bậc cao nhân nhã trí, đương nhiên những kẻ phàm tục như tại hạ không sao sánh kịp.”

Hai bên quan sát lẫn nhau, đều cảm thấy đối phương là nhân vật không phải tầm thường, mà trong sự đề phòng lại không nén nổi phát sinh cảm giác thân tình. Đông phương Nhĩ lại cất tiếng: “Huynh đài đi từ Hồi Cương đến tận Giang Nam này, dọc đường chắc hẳn đã thưởng ngoạn rất nhiều cảnh đẹp.”

Trần Gia Lạc đáp: “Thần Châu vạn dặm, thắng cảnh sông núi đương nhiên không sao xem hết được. Nhưng thấy Hoàng Hà lũ lụt, dân tình khắp nơi thê thảm bi ai, tiểu đệ chẳng còn tâm trí đâu du ngoạn nữa.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Nghe nói dân chúng bị thiên tai ở Lan Phong đã cướp hết quân lương của đại quân tây chinh. Dọc đường huynh đài có nghe thấy vụ này hay không?”

Trần Gia Lạc giật mình nghĩ: “Tin tức của người này tại sao mau lẹ đến thế? Chúng ta cướp lương xong là đi thẳng Giang Nam, ngày đêm không dừng bước, mà y đã biết rồi.” Chàng bèn đáp: “Đúng là có chuyện đó, nhưng thiết nghĩ nạn dân không có cơm ăn áo mặc, thế mà quan phụ mẫu không thương xót chút nào. Họ chỉ vì muốn sống mà gây ra chuyện đó, về tình thì có thể tha thứ được.”

Đông Phương Nhĩ chậm rãi lắc đầu, từ từ nói: “Xem ra sự việc không đơn giản như vậy. Vụ này là do Hồng Hoa Hội xách động nạn dân phạm thượng làm loạn.”

Trần Gia Lạc vờ hỏi: “Hồng Hoa Hội là cái gì vậy?”

Đông Phuơng Nhĩ trả lời: “Đó là một bang hội mưu đồ tạo phản trên giang hồ. Huynh đài chưa từng nghe thấy hay sao?”

Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ đắm mình trong cầm kỳ, đối với chuyện thế gian không hiểu là mấy. Nói ra xấu hổ, một bang hội danh tiếng lẫy lừng như thế mà đến hôm nay tiểu đệ mới nghe thấy lần đầu.” Chàng dừng lại một chút rồi tiếp: “Triều đình nghe tin này, chắc chắn sẽ nghiêm phạt Hồng Hoa Hội.”

Đông Phuơng Nhĩ nói: “Đó là lẽ đương nhiên, một nhúm phản tặc đó không đủ trở thành đại họa.”

Trần Gia Lạc không phản đối, chỉ hỏi: “Huynh đài căn cứ vào đâu mà nói thế?”

Đông Phương Nhĩ đáp: “Đương kim thiên tử là bậc thánh minh, chỉ cần phái một hai nhân vật tài cán hơn người, Hồng Hoa Hội sẽ bị tiêu diệt trong chốc lát.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ không rõ về triều chính, nếu ăn nói hoang đường mong nhân huynh đừng cười là ngu muội. Tiểu đệ cho rằng trong triều chỉ có hạng giá áo túi cơm, chưa chắc làm nổi việc gì.” Câu này vừa thốt ra, Đông Phương Nhĩ và hai kẻ hầu cận áo lam đều biến sắc.

Đông Phương Nhĩ nói: “Huynh đài nói như vậy, thật không ngoài cách nghĩ của học trò. Chưa cần nhắc đến vô số danh tướng cùng hiền sĩ trong triều, chỉ riêng mấy bằng hữu của tại hạ đây cũng không phải tầm thường. Chỉ tiếc huynh đài là hạng thư sinh, không thì có thể bảo họ thi triển mấy chiêu. Nếu huynh đài biết võ công, sẽ hiểu lời nói của tại hạ không phải là vô căn cứ.”

Trần Gia Lạc nói: “ Tiểu đệ trói gà không chặt, nhưng đã từng đọc Du Hiệp Liệt Truyện của Thái Sử Công, bản thân cũng rất thán phục các bậc anh hùng hiệp sĩ. Không hiểu huynh đài là tôn chủ phái nào, các vị đây có phải là đệ tử quí phái hay không? Cảm phiền huynh đài mời họ biểu diển môt vài tuyệt kỹ cho tiểu đệ được mở rộng tầm mắt.”

Đông Phuơng Nhĩ bảo hai người áo lam: “Các ngươi thử làm trò để ra mắt Lục gia.”

Trần Gia Lạc đưa tay mời, nghĩ bụng: “Chỉ cần bọn bay xuất thủ là ta biết ở phái nào ngay.”

Gã đại hán bước lên nói: “Con sẻ trên cành cây kia ồn ào đáng ghét quá. Để tiểu nhân lôi nó xuống đây cho nhĩ căn được thanh tịnh hơn.” Hắn nói xong vẫy tay, một mũi tụ tiễn bắn về phia con chim sẻ đang đậu trên cành. Nào ngờ tụ tiễn đến gần thì đột ngột rẽ sang bên, bay lạc mất.

Đông Phương Nhĩ thấy hắn không đánh trúng thì rất bất ngờ. Đại hán kia xấu hổ đỏ mặt tía tai, lại vung tay, một mũi tụ tiễn nữa bắn lên. Lần này mọi người nhìn thấy rõ ràng, khi tụ tiễn tới gần con sẻ thì khống biết từ đâu có một viên đất bắn tới làm tụ tiễn bay lệch đi. Ông lão gầy ốm đứng bên Đông Phuơng Nhĩ thấy tay phải Tâm Nghiễn hơi rung động, biết cậu là thủ phạm bèn lên tiếng: “Không ngờ tiểu huynh đệ này công phu không tệ. Chúng ta làm quen một tý!” Lão bèn đưa năm ngón tay ra thành cương trảo, giống như móc sắt móc vào tay Tâm Nghiễn.

Trần Gia Lạc thấy ông lão này sử dụng Đại Lực Ưng Trảo Công của phái Tung Dương, xuất thủ không nhanh mà bàn tay đã có tiếng gió rít lên. Chàng thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Võ công người này có thể gọi là cao thủ đệ nhất trên giang hồ, nếu không phải là tôn chủ một phái thì cũng là tiền bối võ lâm. Sao lão lại chịu làm nô bộc cho gã Đông Phương Nhĩ này?”

Chàng nghĩ vậy, vội phẩy cây quạt xếp trong tay một cái, xòe ra cản giữa ông lão và Tâm Nghiễn. Ông lão lập tức rút tay về, nghĩ thầm: “Chủ nhân vừa đối xử với gã này như bằng hữu, nếu phá hủy đồ vật của hắn thì thật vô lễ.” Lão nhìn chằm chằm Trần Gia Lạc từ trên xuống dưới xem thử chàng có biết võ công hay không, nhưng chỉ thấy chàng đưa quạt nhẹ nhàng như không chú ý, hình như lần can thiệp vừa rồi chỉ là may mắn.

Đông Phương Nhĩ nói: “Tiểu huynh đệ này tuổi tác còn nhỏ mà võ nghệ cao cường. Huynh đài tìm đâu ra thư đồng như vậy?”

Trần Gia Lạc đáp: “Nó không biết võ đâu. Chỉ vì từ nhỏ nó thích bắt sâu bắt chim, nên ném đất cũng khá chính xác.”

Đông Phuơng Nhĩ thấy chàng đáp không thật lòng nên không hỏi vặn. Y nhìn cây quạt xếp trong tay chàng, hỏi: “Không hiểu cây quạt xếp trong tay huynh đài có bút tích của ai, có thể cho xem một lát không?” Trần Gia Lạc bèn đưa cây quạt xếp qua.

Đông Phuơng Nhĩ cầm xem, thấy trên quạt có thủ bút bài từ Kim Lũ Khúc của Nạp Lan Tính Đức là một thi nhân tiền triều, ý tứ cao siêu, bút phong tuấn nhã. Y bèn nói: “Nạp Lan là công tử nhà tướng quốc nên viết thi từ rất có khí phách, sánh được Tô Đông Pha thời xưa. Triều đình lúc ấy chỉ có một mình ông đáng nói. Thư pháp này theo kiểu Chư Hà Nam, cũng ẩn tàng đôi chút phong thái vương tôn. Chiếc quạt và bài từ này có thể gọi là song bích, rất hợp với nhau, không phải là cao nhân thì chắc chắn không có duyên sử dụng. Không hiểu huynh đài từ đâu có được?”

Trần Gia Lạc đáp: “Tiểu đệ tình cờ dùng mười lạng vàng mua được trong kho sách cũ.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Nếu đắt gấp mười, bỏ trăm lạng vàng mua được cây quạt này cũng là quá rẻ. Đa số văn vật kiểu này chỉ truyền đời trong nhà thế gia, huynh đài mua được trong kho sách cũ thì quả là kỳ ngộ hiếm thấy trên đời.” Y nói xong cười rộ, Trần Gia Lạc biết y tỏ ý không tin nhưng cứ mặc kệ, mỉm cười bỏ qua.

Đông Phương Nhĩ lại nói: “Nạp Lan công tử tài hoa tuyệt diệu, tự thị là anh kiệt trong đám thư sinh. Huynh đài xem, trong bài từ của ông ấy có mấy câu:

Mày ngài có ngày nhăn nhíu,

Từ xưa ai cũng ngại ngùng,

Cuộc thế đáng gì mà hỏi,

Chỉ nên cười nhạt mà thôi.

Con người tự cao sinh ra kiêu ngạo, không tránh khỏi đoản mạng, bài từ này đã nói quá rõ ràng.” Y nói xong, trừng mắt nhìn Trần Gia Lạc, ra ý thiếu niên cậy tài kiêu ngạo như ngươi thì chưa chắc có kết cuộc tốt đẹp gì.

Trần Gia Lạc cười cười, cũng dẫn ra một bài từ của Nạp Lan:

“Cười rộ phất ống tay áo,

Công danh phú quí đáng gì,

Ngắm danh hoa say mỹ tửu,

Chuyện đời gác bỏ ngoài tai.

Con người được như Nạp Lan công tử, dĩ nhiên không để lọt tai những gì bọn giá áo túi cơm bình phẩm.”

Đông Phương Nhĩ thấy chàng khí khái ngông cuồng, lắc đầu lia lịa. Nhưng y không nỡ rời chàng ngay, muốn thử khí độ ra sao, bèn lật quạt lại xem, thấy phía sau không có thư họa gì liền nói: “Tại hạ rất thích cây quạt này, dám xin huynh đài tặng cho, không biết có được hay không?”

Trần Gia Lạc nói: “Vật mọn đã lọt vào mắt xanh bậc cao nhân, tiểu đệ không chút ngần ngại tặng ngay.”

Đông Phương Nhĩ chỉ vào mặt quạt còn trống, nói: “Xin huynh đài viết mấy câu vào mặt này, để ngày sau có thể trông vật nhớ người. Không biết huynh đài đang ngụ ở đâu, ngày mai tiểu đệ cho người đi lấy có được hay không ?”

Trần Gia Lạc đáp: “Nếu huynh đài không chê món quà nhỏ mọn, thì tiểu đệ lập tức viết ngay.” Nói xong, chàng gọi Tâm Nghiễn mở bao lấy văn phòng tứ bảo ra, suy nghĩ một chút rồi thảo ngay một bài thất ngôn tứ cú:

Gươm đàn nửa gánh dạo sơn hà,

Biển xanh núi thẳm ấy nhà ta,

Sa mạc gió tây lay thúy vũ,

Giang Nam trăng tỏ rọi quế hoa.

Lão già giỏi Ưng Trảo Công đứng bên thấy chàng đi chơi mang theo bút mực, lại văn tài nhạy bén, nên không nghi ngờ chàng biết võ công nữa.

Đông Phương Nhĩ nhận lấy cây quạt, buông lời cảm kích: “Tại hạ cũng có vật này xin tặng huynh đài.” Y hai tay bưng chiếc cổ cầm đặt trước mặt Trần Gia Lạc, nói: “Bảo kiếm cho người cháng sĩ, cổ cầm tặng khách tri âm. Cây đàn này phải của huynh đài mới đúng.”

Trần Gia Lạc biết đây là một bảo vật hiếm có trên đời, thế mà mới gặp lần đầu người này đã đem tặng cho mình, không biết có dụng ý gì. Nhưng chàng là con nhà tể tướng, trân bảo đã gặp rất nhiều nên không coi là đặc biệt lắm, bèn chắp tay cảm tạ rồi bảo Tam Nghiễn nhận lấy.

Đông Phương Nhĩ cười hỏi: “Huynh đài từ Hồi Cương đến tận Giang Nam, chỉ vì thích hoa quế thôi sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Một người bạn có chút việc cần, nên tiểu đệ phải gấp đến đây lo liệu.”

Đông Phương Nhĩ hỏi: “Nhìn sắc mặt huynh đài thì hình như không nhàn hạ lắm, còn lo lắng rất nhiều. Phải chăng việc của quí hữu vẫn chưa xong?”

Trần Gia Lạc đáp: “Đúng vậy.”

Đông Phuơng Nhĩ nói: “Không hiểu quí hữu gặp khó khăn thế nào? Ở đây tại hạ có rất nhiều bằng hữu, có thể giúp đỡ được chút gì chăng?”

Trần Gia Lạc đáp: “ Chỉ vài ngày sau là xong rồi, đa tạ hảo ý của huynh đài.”

Hai người nói chuyện gần nửa ngày mà vẫn chưa hiểu người đối diện là nhân vật thế nào. Đông Phương Nhĩ nói: “Ngày sau nếu huynh đài có điều gì cần giúp đỡ, có thể cầm đàn này đến Bắc Kinh tìm tại hạ. Bây giờ chúng ta hạ sơn thôi.” Trần Gia Lạc gật đầu ưng thuận, rồi hai người dắt tay nhau cùng xuống núi.

Khi đến Linh Ẩn, đột nhiên phía trước có mấy người bước tới. Người đi đầu mặt đẹp như ngọc, mình khoác cẩm bào, tướng mạo rất giống Trần Gia Lạc, tuổi tác cũng không chênh lệch mấy. Y tuấn tú tiêu sái còn hơn cả Trần Gia Lạc, nhưng về chí khí anh hùng hào sảng không thể sánh bằng. Hai người đối diên, nhìn nhau ngơ ngác.

Đông Phương Nhĩ cười nói: “Lục huynh! Người này có giống huynh đài không? Y là cháu họ của tại hạ. Khang nhi! Mau qua đây bái kiến Lục thế thúc.” Người ấy bước tới thi lễ. Trần Gia Lạc không dám nhận vai trưởng bối, vội trả lễ ngay.

Đột nhiên xa xa vẳng tới một thanh âm nữ nhân rất quen thuộc. Trần Gia Lạc giật mình quay lại, thấy Chu Ỷ cùng song thân từ chùa Linh Ẩn bước ra, bên cạnh đó còn có Từ Thiên Hoằng. Chàng sợ nàng đột nhiên nhìn thấy hai Trần Gia Lạc sẽ kinh ngạc la lên, nên quay đi coi như không thấy. Từ Thiên Hoằng khẽ bảo Chu Ỷ: “Mình qua hướng khác đi.”

Đông Phương Nhĩ nói: “Lục huynh! Hai ta vừa gặp mà đã thân thiết như bằng hữu lâu năm. Hôm nay tạm biệt ở đây, mai này có ngày gặp lại.” Rồi hai người chắp tay cáo biệt, mấy chục đại hán áo lam vây quanh hộ vệ trước sau Đông Phương Nhĩ mà đi.

Trần Gia Lạc quay lại khẽ gật đầu, hất hàm một cái. Từ Thiên Hoằng hiểu ý ngay, bèn xin phép Chu Trọng Anh: “Nghĩa phụ! Tổng đà chủ sai hài nhi đi lo việc. Nghĩa phụ, nghĩa mẫu và muội muội ở đây chơi thêm một chút.” Chu Ỷ trề môi tỏ ý không vui, nhưng Từ Thiên Hoằng cứ đi theo bọn đại hán vào thành.

Xế chiều, Từ Thiên Hoằng trở về bẩm báo: “Người đó dạo chơi nửa ngày trên hồ, sau đó về dinh tuần phủ.”

Trần Gia Lạc Kể lại chuyện hồi sáng. Hai người suy nghĩ một hồi, đoán rằng Đông Phuơng Nhĩ chắc chắn là nhân vật không đơn giản, nếu không phải khâm sai đại thần bí mật từ kinh thành đến đây điều tra xét hỏi thì cũng là vương thân tôn thất. Y nhìn không giống người Mãn Thanh, chắc là khâm sai. Lão già gầy ốm có võ công cao như thế lại là thuộc hạ của y, vây y không phải quan lại bình thường.

Trần Gia Lạc nói: “Chẳng lẽ người này đến đây vì việc Từ ca hay sao? Tối nay ta muốn đích thân đi dò xét.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Đúng thế! Tốt nhất là gọi một vị ca ca cùng đi, để tiếp ứng lẫn nhau.”

Trần Gia Lạc nói: “Để ta mời Triệu tam ca đi. Tam ca là người Triết Giang, rất quen thuộc khu vực Hàng Châu này.”

Vào canh hai, Trần Gia Lạc và Triệu Bán Sơn khởi hành, thi triển khinh công chạy về hướng dinh tuần phủ. Hai người đi trên mái nhà, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Trần Gia Lạc nghĩ: “Xưa nay vẫn nghe nói võ công nội gia Thái Cực Môn ảo diệu, khinh công của Triệu tam ca quả nhiên cao siêu. Khi nào rảnh rỗi ta phải thỉnh giáo thêm ông ấy mới được.”

Triệu Bán Sơn cũng âm thầm thán phục tổng đà chủ. Lúc thí võ với Thiết Đảm Chu lão anh hùng, mọi người đã mục kích võ công chàng tinh diệu, nào ngờ khinh công chàng cũng phi phàm chẳng kém. Không hiểu sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp làm sao mà dạy được học trò giỏi giang đến thế chỉ trong mười năm ngắn ngủi.

Chỉ một lúc đã đến gần tuần phủ nha môn. Hai người đồng thời phát hiện trên mái nhà phía trước có chỗ khả nghi, lập tức khom xuống nấp. Đúng là có hai người đang tuần tra trên mái nhà. Triệu Bán Sơn đợi chúng quay lưng bèn vung tay lên, một viên thiết liên tử bắn vào một cành cây cách đó mấy trượng. Hai tên kia nghe tiếng động ở cành cây liền phi thân qua đó để xem xét. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn thừa cơ vọt nhanh lên mái nha môn, lập tức tránh vào một góc tối.

Họ chờ một hồi không thấy động tĩnh gì mới từ từ ngẩng đầu lên nhìn tứ phía, không nén nổi giật mình kinh hãi. Thì ra dưới sân đèn đuốc soi sáng tựa ban ngày, mấy trăm cung thủ sẵn sàng, tên lắp trên cung, đao tuốt khỏi vỏ, phòng thủ cảnh giới vô cùng nghiêm mật. Lại còn mấy tên võ tướng đi tới đi lui đốc thúc. Thật kỳ lạ, binh tướng ra vào đều hít thở nhẹ nhàng, bước chân rón rén, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Tuy có cả ngàn người tụ tập mà nơi đây tĩnh mịch phi thường, nghe được cả tiếng dế kêu nơi góc tường. Chỉ đôi lúc mời có vài tiếng đuốc nổ lép bép.

Trần Gia Lạc thấy không có cách nào vào được, bèn đưa tay ra hiệu cho Triệu Bán Sơn cùng lui ra ngoài, tránh bọn lính tuần tra tên mái nhà, đứng sau góc tường thương lượng kế sách. Trần Gia Lạc nói: “Chúng ta không nên vạch cỏ động rắn, bây giờ tốt nhất là quay về tìm cách khác.”

Triệu Bán Sơn gật đầu, đang định phi thân chạy đi thì đột nhiên cánh cửa dinh tuần phủ ken két hé mở, một tên võ quan đi ra, phía sau là bốn tên Thanh binh. Năm người đi dọc theo con đường chừng vài chục trượng lại quay trở lại, thì ra chúng tuần tra cả bên ngoài. Hai người thấy khí thế như vậy, không khỏi thầm kinh hãi.

Đợi năm tên đó quay trở ra, Trần Gia Lạc khẽ nói: “Đánh ngã!” Triệu Bán Sơn hiểu ý, bắn ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba tên Thanh binh lập tức ngã xuống đất. Trần Gia Lạc cũng bắn hai quân cờ vây, đánh trúng tên võ quan và tên lính còn lại. Hai người nhảy xổ đến, điểm huyệt rồi kéo năm tên vào một chỗ tối, lột quân trang của chúng mặc vào mình, rồi lôi bọn chúng vào giấu sau góc tường.

Hai người chờ bọn tuần tra trên mái nhà quay lưng lại, rồi nhảy qua tường, đàng hoàng đi vào trong sân dưới ánh đuốc sáng trưng. Trong sân có cả ngàn quan binh, làm sao biết được đã có kẻ địch trà trộn vào? Họ đi sâu vào, thấy bọn tuần tra bên trong đều là võ quan cao cấp, chỉ có điều nhân số ít hơn bên ngoài.

Hai người đi đến sát tường nội điện, tìm được chỗ sơ hở, nhún người vọt lên nấp dưới mái hiên, nép vào một cây cột lớn nín thở không động đậy. Hồi lâu, Trần Gia Lạc thấy chưa lộ hành tung, bèn dùng hai chân móc lấy xà nhà treo người xuống, bôi nước bọt làm thủng giấy cửa sổ rồi dán mắt nhìn vào. Triệu Bán Sơn canh giữ sau lưng chàng, mắt nhìn bốn bên tám hướng đề phòng kẻ địch. Hai người này võ nghệ cao cường lại to gan lớn mật. Chỗ được canh phòng nghiêm mật như thế mà dám thám thính tình hình, thật là nguy hiểm đến cực điểm.

Trần Gia Lạc thấy bên trong là một đại sảnh rộng khoảng ba gian nhà bình thường, có năm sáu người đứng, đều mặc phục sức đại quan. Có một người ngồi quay lưng ra ngoài nên không nhìn rõ mặt, chỉ thấy bọn quan lại kia đối với y thần sắc rất cung kính, mắt không dám nhìn nghiêng.

Bên ngoài có một tên quan đi vào, hướng về người ngồi mà hành lễ, dập đầu chín cái. Trần Gia Lạc kinh hãi nghĩ thầm: “Đây là nghi lễ tham kiến hoàng đế. Chẳng lẽ hoàng đế đã vi hành đến Hàng Châu hay sao?”

Chàng đang phân vân thì nghe tên quan đó nói: “Thần là Y Chương Cai, Bố chánh Triết Giang, khấu kiến Hoàng thượng.”

Trần Gia Lạc nghe rất rõ ràng bèn nghĩ: “Quả nhiên là đương kim hàng đế Càn Long, không trách chúng canh phòng đến thế.”

Hoàng đế “hừ” một tiếng, nghiêm giọng nói: “Ngươi to gan lắm!”

Y Chương Cai lột mão đặt dưới đất, dập đầu lia lịa không dám nói tiếng nào. Lát sau hoàng đế mới nói tiếp: “Ta phái binh chinh phục Hồi Cương, nghe nói ngươi không đồng ý?”

Trần Gia Lạc lại giật mình nghĩ: “Thanh âm của tên hoàng đế này nghe rất quen thuộc.”

Y Chương Cai vừa dập đầu vừa nói: “Tội thần đáng chết! Thần không dám!”

Hoàng đế nói: “Ta hạ lệnh cho Triết Giang chuyển gấp mười vạn thạch lương thực để cung ứng quân nhu, sao ngươi dám kháng chỉ?”

Y Chương Cai đáp: “Thần có chết muôn lần cũng không dám kháng chỉ. Thật sự là năm nay tỉnh Triết Giang mất mùa, bá tánh cực khổ, trong thời gian ngắn không sao tập trung cho đủ quân lương.”

Hoàng đế cười nhạt: “Bá tánh cực khổ! Hừ, ngươi đúng là quan tốt, thương dân như con.”

Y Chương Cai lại dập đầu: “Tội thần đáng chết! Tội thần đáng chết!”

Hoàng đế nói: “Theo ngươi thì phải làm sao? Quân lương không đủ, tình hình gấp như lửa cháy, chẳng lẽ bắt đại quân chết đói ở Hồi Cương hay sao?”

Y Chương Cai vẫn dập đầu: “Thần không dám nói”

Hoàng đế bảo: “Có gì mà không dám nói? Ngươi nói đi.”

Y Chương Cai nói: “Đức vạn tuế thánh minh, ơn khắp lê dân. Hồi Cương là vùng di địch, thật ra không cần phiền vương sư viễn chinh như thế. Chỉ cần phái một đại thần đến thi ân bố đức là dân chúng vùng biên cương này tự nhiên qui thuận.” Hoàng đế “hừ” một tiếng không nói gì.

Y Chương Cai lại nói: “Người xưa cũng nói: Việc binh là chuyện dữ, thánh nhân chẳng muốn dùng. Nếu thánh thượng bãi bỏ cuộc viễn chinh này, cả thiên hạ đều cảm ân cảm đức.”

Hoàng đế cười nhạt: “Ta nhất định phái binh chinh phạt, thế thì cả thiên hạ đều oán thán phải không?”

Từ nãy Y Chương Cai vẫn dập đầu liên tục, trên trán đã đầy máu tươi. Hoàng đế cười khẩy: “Đầu ngươi chưa cứng lắm, thế mà dám chống đối với trẫm hay sao?” Y quay người lại.

Lần này Trần Gia Lạc càng kinh hãi hơn. Thì ra hoàng đế chính là Dông Phương Nhĩ mà mình vừa gặp sáng nay tại Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn. Trần Gia Lạc kiến thức rộng rãi, gặp việc rất trấn tĩnh, nhưng lúc này không sao nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy người.

Hoàng đế Càn Long lại nói: “Đi ra đi! Để mão quan lại đây.” Y Chương Cai dập đấu mấy cái nữa rồi mới đứng dậy, để đầu trần lùi ra ngoài cửa.

Càn Long quay sang mấy vị đại thần kia nói: “Tên họ Y này hành sự bất lực, chắc bên trong còn uẩn khúc gì. Các khanh hãy điều tra rõ ràng vụ này rồi trình tấu, không được vì tình riêng mà bao biện, nếu không sẽ bị xử cùng một tội.” Bọn đại thần vâng dạ liên hồi.

Càn Long lại bảo: “Các ngươi lui ra đi. Lập tức tập hợp đầy đủ mười vạn thạch quân lương, vận chuyển đi Hồi Cương gấp.” Bọn kia liên tiếp vâng dạ rồi mới khấu đầu lui ra.

Càn Long hạ lệnh: “Gọi Khang nhi vào đây.” Một tên nội thị vén màn ra ngoài, dẫn một thiếu niên vào. Trần Gia Lạc thấy đó chính là người có diện mạo giống mình. Y đứng bên Càn Long ra vẻ thân mật, không nơm nớp sợ hãi như mấy vị đại thần kia.

Càn Long lại truyền: “Gọi Lý Khả Tú”

Nội thị truyền chỉ ra ngoài, một võ tướng tiến vào khấu kiến: “Thần là Triết Giang thủy lục đề đốc Lý Khả Tú, khấu kiến thánh giá.”

Càn Long hỏi: “Tên phỉ đồ họ Văn của Hồng Hoa Hội như thế nào rồi?” Trần Gia Lạc nghe nhắc đến Văn Thái Lai lại càng chú ý lắng nghe.

Lý khả Tú nói: “Tên giặc này hung hãn chống trả, đã bị thương rất nặng. Thần đang cho đại phu chẩn trị, phải đợi thần trí hắn hồi phục lại mới thẩm vấn được.”

Càn Long bảo: “Nếu thế càng phải cẩn thận lưu ý.”

Lý Khả Tú đáp: “Thần không dám sơ xuất chút nào.”

Càn Long bảo: “Đứng dậy đi.” Lý Khả Tú khấu đầu lùi ra.

Trần Gia Lạc khẽ nói: “Chúng ta đi theo hắn.” Hai người nhẹ nhàng tuột xuống, nhưng chân vừa chạm xuống thì trong đại sảnh có người phát giác la lên: “Có thích khách!” Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn chạy ngay ra sân ngoài, trà trộn vào giữa đám binh sĩ đông đúc.

Lúc này bốn bề tiếng mõ tre vang dội. Trần Gia Lạc thấy ông lão gầy ốm vừa gặp trên Tam Thiên Trúc dẫn rất đông đại hán áo xanh tuần tra tứ phía. Ánh mắt lão này rất tinh tường, đảo nhìn khắp chốn. Trần Gia Lạc quay lưng lại, từ từ bước ra phía cổng.

Lão kia bỗng hét lên: “Ngươi là ai?”, rồi đưa tay chộp vào Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn vung song chưởng xuất chiêu Như Phong Tự Bế gạt trảo của lão ra, tung người vọt đi. Lão gấp rút đuổi theo, phóng chưởng đánh theo sau lưng. Bấy giờ Triệu Bán Sơn đã ra đến cổng, nghe sau lưng có tiếng gió liền vội cúi mình, vận sức đánh trả lại. Trần Gia Lạc đã cởi áo lính ra, xoay tay chụp vào đầu lão già đó. Lão đưa tay cản lại, hai người vừa kéo một cái, áo đã rách toạc làm hai mảnh.

Trần Gia Lạc vận kình vào nửa chiếc áo, quật veo véo lên người lão già gầy ốm đó. Chân chàng không dám dừng nửa bước, cứ chạy thẳng ra ngoài. Lão cũng không vừa, vung trảo chộp nửa cái áo đó rách bươm ra, đuổi sát theo như hình với bóng.

Giữa cổng có một tên lính xớ rớ chạy tới, Triệu Bán Sơn liền tóm lấy ném ngược lại sau. Lão già đưa tay trái chụp được, để hắn qua một bên rồi mới đuổi tiếp. Vì thế mà lão chậm một bước, thích khách đã chạy ra khỏi dinh tuần phủ. Hai ba chục tên thị vệ từ phía sau chạy tới, ào ào như ong vỡ tổ.

Lão già hét lên: “Bảo vệ hoàng thượng quan trọng hơn! Năm người các ngươi theo ta truy lùng thích khách.” Rồi lão vẫy năm tên thị vệ, thi triển khinh công rượt đuổi. Chúng còn kịp thấy hai bóng người chạy trốn trên mái nhà.

Lão cũng tung người lên mái, nhảy một hơi qua mấy chục gian nhà, khoảng cách cũng có rút ngắn lại. Lão đang muốn quát hỏi thì đột nhiên phía dưới có tiếng sáo nổi lên, hình như địch thủ đã có người tiếp ứng. Lão thấy hai người phía trước nhảy xuống đứng lại giữa đường, lập tức nhảy xuống theo, bắt tréo hai tay toan vồ lấy Trần Gia Lạc đứng trước mặt.

Trần Gia Lạc không lùi lại mà cũng không chống đỡ, cười ha hả nói: “Ta là bạn tốt của chủ nhân ngươi. Lão già này dám vô lễ hay sao?”

Dưới ánh trăng ông lão đã nhìn thấy rõ diện mạo đối phương, kinh hãi thu trảo về nói: “Quả nhiên ngươi không phải là hảo nhân! Mau theo ta đi gặp thanh thượng.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Ngươi dám làm gì ta nào?”

Lão chần chừ một lúc, năm tên thị vệ phía sau đã chạy tới nơi. Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn bỗng phi thân về phía tây.

Lão già bèn hô lớn: “Đuổi theo!” Phía Tây Hồ là nơi trú phòng của Kỳ Doanh, quân đội chính qui của Thanh triều. Lão già nghĩ bụng: “Đó là chỗ quan binh hùng hậu nhất, hắn dám chạy đến bờ hồ đó tức là tự đi vào chỗ chết”, bèn yên tâm đuổi theo.

Đến bờ hồ, hai người Trần Gia Lạc nhảy lên một chiếc thuyền, thuyền phu lập tức khua mái chèo, đưa thuyền tách bờ mấy trượng. Lão già hét theo: “Bằng hữu kia! Rốt cuộc ngươi là nhân vật thế nào, hãy để lại tên tuổi.”

Triệu Bán Sơn dõng dạc đáp: “Tại hạ là Triệu Bán Sơn ở Ôn Châu. Các hạ ở phái Tung Dương phải không?”

Lão già gầy ốm kinh ngạc: “Úi chà! Có phải Triệu lão sư, giang hồ gọi là Thiên Tí Như Lai đó không?”

Triệu Bán Sơn nói: “Không dám, đó là bằng hữu vui miệng mà gọi thế, thật hổ thẹn không dám nhận. Xin thỉnh giáo tên các hạ?”

Lão kia đáp: “Tại hạ họ Bạch, tên Chấn.” Vừa dứt lời, Triệu Bán Sơn cùng Trần Gia Lạc đều kinh hãi. Bạch Chấn có ngoại hiệu Kim Trảo Thiết Câu, là một đệ nhất cao thủ phái Tung Duơng, ba mươi năm về trước đã thành danh về môn Đại Lực Ưng Trảo Công. Lão biệt tích giang hồ đã lâu, không ai hiểu được hành tung, nào ngờ đã làm thị vệ bên mình hoang đế.

Triệu Bán Sơn chắp tay nói: “Thì ra là Kim trảo thiết câu Bạch lão tiền bối, chẳng trách công lực phi phàm như thế. Bạch lão tiền bối ép người quá đáng như vậy, không biết có điều chi chỉ giáo?”

Bạch Chấn nói: “Nghe nói Triệu lão sư là Tam đương gia của Hồng Hoa Hội, thế còn vị kia là ai?” Nói đến đây lão bỗng nghĩ ra, bèn hỏi: “Chẳng lẽ là Trần công tử, tổng đà chủ của quí hội?”

Triệu Bán Sơn không đáp mà hỏi lại: “Bạch lão tiền bối muốn gì?”

Trần Gia Lạc xòe cây quạt ra, dõng dạc nói: “Gió mát trăng trong, cảnh khuya như vẽ thế này, chẳng hay Bạch lão tiền bối có bằng lòng tới đây uống một chén với ta không?”

Bạch Chấn nói: “Các hạ giữa đêm xông vào dinh tuần phủ làm kinh động thánh giá, chuyện này đâu thể giải quyết ở đây một cách dễ dàng? Tại hạ buộc lòng phải mời các vị đi gặp chủ nhân, không thì trở về không biết đường nào phúc đáp. Bản chủ nhân rất tốt với các hạ, chắc không làm khó các hạ đâu.”

Trần Gia Lạc cười nói: “Chủ nhân của ngươi không phải hạng người phàm tục. Ngươi hãy về nói cho ông ấy biết, mặt hồ lúc này đầy mùi hương hoa quế và ánh trăng rực rỡ. Nếu ông ấy có nhã hứng thì xin mời tới đây uống mấy chén hàn huyên tâm sự, ta sẽ ở đây chờ đợi.”

Sáng nay Bạch Chấn đã tận mắt thấy hoàng thượng rất chiếu cố người này, ân sủng lạ thường. Nếu lão đắc tội với chàng, không chừng sẽ bị hoàng thượng trách mắng. Nhưng chàng giữa đêm dám kinh động thánh giá, không bắt về thì không sao kết thúc vụ này. Dù sao thì quanh đây không có thuyền bè nên lão chẳng có cách nào truy đuổi, đành quay về bẩm báo lên hoàng đế.

Càn Long suy nghĩ một lát rồi nói: “Y đã hứng thú như vậy, mà ngắm trăng trên hồ cũng không phải là tồi. Ngươi đi nói với hắn là ta sẽ đến ngay.”

Bạch Chấn khuyên can: “Bọn đó toàn là đồ liều mạng, hoàng thượng nên bảo trọng long thể. Theo ngu ý của hạ thần thì hoàng thượng nên cẩn thận, không đi là tốt nhất.”

Càn Long bảo: “Ngươi mau thi hành mệnh lệnh!”

Bạch Chấn không dám nhiều lời, liền cưỡi ngựa chạy đến bờ hồ. Lão thấy tên thuyền phu khi nãy đang ngồi đợi tin, bèn lớn tiếng nói: “Về nói với thiếu gia nhà ngươi, chủ nhân chúng ta sắp đến cùng hắn đàm luận thưởng trăng. Các ngươi chuẩn bị nghênh giá đi.”

Bạch Chấn quay về bẩm báo, mới đến giữa đường đã thấy Kiêu Kỵ Doanh, Hộ Quân Doanh, Tiền Phong Doanh của ngự lâm quân đang tiến đến bờ hồ. Chạy thêm một đoạn, thấy Kỳ Doanh và quân thủy sư trú phòng ở Hàng Châu cũng đang đến. Bạch Chấn nghĩ thầm: “Không hiểu sao hoàng thượng lại thích thằng lỏi đó, chỉ vì ngắm trăng với hắn mà phải điều động bao nhiêu binh lính đi hộ giá.” Lão vội vã chạy về để còn lo bố trí thị vệ.

Càn Long đang cao hứng cười đùa, có Lý Khả Tú thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang hầu hạ kế bên. Càn Long hỏi: “Chuẩn bị xong cả rồi sao? Đi thôi.” Càn Long thay thường phục, bọn thị vệ hộ giá cũng mặc y phục bình dân, tất cả đi ngựa đến bờ hồ.

Đến bên bờ hồ, Càn Long chậm rãi nói: “Hắn cũng biết ta là ai rồi, nhưng các ngươi cứ giữ lễ như kẻ sĩ thăm nhau.” Lúc này góc hồ nào cũng có mai phục ngự lâm quân. Còn thân binh của Kỳ Doanh, Thủy Sư và Lý Khả Tú thì bố trí vòng ngoài, vây chặt Tây Hồ mấy lớp.

Trên hồ bỗng có ánh đèn lay động, năm chiếc thuyền chèo tới. Một người đứng ở mũi thuyền đầu tiên, bộ tấn chắc chắn, khí thế bất phàm, dõng dạc hô lớn: “Tiểu nhân phụng mệnh Lục công tử, cung thỉnh Đông Phương tiên sinh ra giữa hồ ngắm trăng.” Nói xong y nhảy lên bờ, chắp tay vái chào Càn Long. Đây chính là Vệ Xuân Hoa.

Càn Long gật đầu khen: “Hay lắm!” rồi bước lên thuyền đó. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và ba bốn chục thị vệ chia nhau lên bốn chiếc thuyền còn lại. Trong đám thị vệ có mười mấy tên đặc biệt tinh thông thủy tánh, Bạch Chấn dặn dò chúng đặc biệt cẩn thận, dù mất mạng thành ma cũng phải lo bảo vệ thánh giá.

Năm chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì thấy đèn đuốc sáng trưng, rất nhiều du thuyền thắp đèn khiến Tây Hồ rực rỡ như trời sao sáng. Khi đến gần, bỗng có tiếng sáo trúc nổi lên từ mặt nước, một chiếc thuyền con lướt tới như bay, một người ở đầu mũi thuyền kêu lớn: “Đông Phương tiên sinh đã đến rồi ư? Lục công tử đợi khá lâu rồi.” Vệ Xuân Hoa đáp: “Đến rồi, đến rồi!”

Thuyền nhỏ quay đầu dẫn đường, một chiếc thuyền lớn đối diện từ từ đến gần. Bạch Chấn và bọn thị vệ thấy khí thế đối phương như thế không khỏi e dè. Tuy đã triệu tập đại đội nhân mã để phòng hờ bất trắc, nhưng chúng vẫn không tự chủ được phải thầm kinh hãi, bất giác sờ tay vào binh khí đang giấu trong người.

Bỗng nghe Trần Gia Lạc bên thuyền bên kia hô lớn: “Đông Phương tiên sinh quả nhiên cao hứng. Xin mời qua bên này.”

Hai chiếc thuyền tiến lại gần nhau, bắc ván làm cầu nối. Càn Long, Lý Khả Tú, Bạch Chấn và mấy thị vệ cao cấp đạp lên tấm ván bước qua. Thấy trong thuyền chỉ có hai người là Trần Gia Lạc và thư đồng, bọn Bạch Chấn mới yên tâm trở lại.

Chiếc thuyền hoa đó rất rộng rãi, vách có vẽ tranh, mạn thuyền được điêu khắc tinh xảo. Trên bàn đặt giữa thuyền đã bày sẵn chén bát, rượu, trái cây và các loại thức ăn. Trần Gia Lạc lên tiếng: “Nhân huynh hạ cố đến đây, tại hạ thật vinh hạnh khôn xiết.”

Càn Long đáp: “Huynh đài đã mời, lẽ nào ta không tới?” Hai người nắm tay nhau cười rộ rồi ngồi đối diện, Lý Khả Tú và Bạch Chấn đứng sau lưng Càn Long.

Trần Gia Lạc cười với Bạch Chấn một cái rồi bỗng im bặt. Chàng đột nhiên thấy sau lưng Lý Khả Tú có một thiếu niên tuấn tú, rõ ràng là đồ đệ của Lục Phi Thanh. Tại sao hắn lại ở giữa đám quan tướng triều đình này, thật là kỳ lạ! Trần Gia Lạc ngạc nhiên không nén nổi, phải nhìn thêm cái nữa. Lý Nguyên Chỉ mỉm cười, nháy mắt với chàng, tỏ ý bảo đừng nhận người quen.

Tâm Nghiễn bước lên rót rượu. Trần Gia Lạc sợ Càn Long nghi ngờ, bèn tự uống trước một chén rồi gắp thức ăn nếm trước. Càn Long chỉ lựa mấy món mà Trần Gia Lạc đã nếm, gắp mấy đũa rồi dừng lại không ăn nữa. Một chiếc thuyền kế bên có tiếng sáo vang lên, thổi bài Nghinh Gia Tân.

Càn Long cười nói: “Huynh đài thật là người tao nhã, chỉ chớp mắt đã sắp xếp mọi việc chu đáo thế này.”

Trần Gia Lạc cảm tạ rồi nói: “Đã có rượu thì không thể không có nhạc. Tại hạ nghe nói Ngọc Như Ý là đệ nhất ca nữ vùng này, nên cố ý mời đến để phục vụ huynh đài.”

Càn Long vỗ tay khen ngợi rồi quay lại hỏi Lý khả Tú: “Ngọc Như Ý là người như thế nào”

Lý Khả Tú đáp: “Đó là một danh kỹ ở Hàng Châu. Nghe nói nàng rất kiêu ngạo, nếu nàng không vừa ý thì bỏ ra mười lạng hoàng kim cũng đừng hòng thấy mặt, đừng nói đến ca hát hay mời rượu.”

Càn Long cười hỏi: “Ngươi đã gặp nàng chưa?”

Lý Khả Tú hoảng sợ đáp: “Tiểu… tiểu nhân không dám.”

Càn Long cười nói: “Thế thì hôm nay ngươi được mở rộng tầm mắt rồi.”

Trong lúc hai người nói chuyện, Vệ Xuân Hoa đã sang chiếc thuyền kia dẫn Ngọc Như Ý qua. Càn Long thấy cô gái này trắng trẻo nhỏ xinh, tướng mạo diễm lệ phi thường, cặp mắt lanh lợi chỉ nhìn thoáng một cái đã thân mật chảo hỏi hết mọi người.

Nàng uyển chuyển thân hình, cúi chào Trần Gia Lạc rồi cất giọng oanh thỏ thẻ: “Lục công tử hôm nay thật cao hứng.” Thanh âm êm dịu phi thường.

Trần Gia Lạc đưa tay về phía Càn Long, nói: “Vị này là Đông Phương lão gia” Ngọc Như Ý quay sang Càn Long chào hỏi, rồi ngồi xuống cạnh Trần Gia Lạc

Trần Gia Lạc hỏi: “Nghe nói cô nương hát rất hay, có thể cho chúng ta thưởng thức một chút hay không?”

Ngọc Như Ý cười đáp: “Nếu Lục công tử muốn, tiểu nữ có thể hát ba ngáy ba đêm cho công tử nghe. Chỉ sợ công tử phát chán mà thôi.”

Có người đưa đàn tỳ bà đến, Ngọc Như Ý đưa tay vẫy nhẹ, bắt đầu cất giọng. Bài đầu tiên là tiểu khúc Nhất Bán Nhi:

Ngoài rèm thấy gã oan gia,

Quì xin về lại nếp nhà phu thê,

Miệng ta mắng kẻ bội thề,

Lòng ta thì lại đê mê chẳng đành.

Trần Gia Lạc vỗ tay khen hay. Càn Long nghe tiếng đàn thánh thót, giọng điệu ôn nhu cũng bất giác thấy tinh thần hưng phấn.

Ngọc Như Ý nghiêng mặt nở một nụ cười, đưa tay vuốt lên chiếc đàn tỳ bà, quay lại nhìn Càn Long hát tiếp:

Lắm khi đùa muốn đánh chàng,

Suy đi nghĩ lại kỹ càng lại thôi,

Nhẹ tay chàng tưởng xua ruồi,

Nặng tay chàng tưởng gặp nòi sát phu,

Thôi thì hẹn trước một câu,

Đánh xong rồi thưởng, lỡ đau hôn đền.

Càn Long nghe vậy, quên mất mình là ai, lớn tiếng kêu lên: “Cô nương muốn đánh thì đánh ta trước đi.” Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả. Lý Nguyên Chỉ núp sau lưng cha bĩu môi ra. Lý Khả Tú, Bạch Chấn và bọn thị vệ thì cố nghiêm mặt nhịn cười. Ngọc Như Ý thấy mọi người lúng túng thì bật cười khúc khích.

Càn Long sống trong chốn thâm cung, phi tần mỹ nữ tuy nhiều nhưng ai cũng khiếp sợ hoàng đế, cười một tiếng cũng không dám. Y chưa bao giờ gặp danh kỹ Giang Nam thế này, thấy nàng đầu mày cuối mắt lúng liếng đong đưa, bộ điệu lả lướt đầy vẻ phong tình, lời ca uyển chuyển đàn gảy du dương. Thêm vào những đợt hương hoa trên hồ bay đến, y như đi vào cõi mộng trong ánh trăng lồng sóng nước, dần dần quên mất mình đang đối điện với bọn giang dương đại đạo.

Ngọc Như Ý rót rượu mời, Càn Long và Trần Gia Lạc mỗi người cạn liền ba chén. Nàng cũng uống một chén. Càn Long tháo chiếc vòng ngọc bích trên tay, thưởng cho Ngọc Như Ý rồi bảo: “Nàng hát một bài nữa đi.”

Ngọc Như Ý cúi đầu mỉm cười, trên má lộ ra hai lúm đồng tiền vừa nhu mì vừa ranh mãnh, càng lộ vẻ phong tình khiến trái tim Càn Long phải nhũn ra. Nàng nhoẻn một nụ cười rồi nói: “Tiểu nữ sợ bài hát này Đông Phương lão gia không thích, nổi giận mất vui.”

Càn Long cười ha hả nói: “Bài nào cô nương hát ta cũng thích, sao có thể nổi giận được?”

Ngọc Như Ý liếc Càn Long một cái, rồi lại đưa mấy ngón tay mềm mại gảy đàn. Lần này khúc điệu nhẹ nhàng thánh thót, âm hưởng vui tươi phong phú. Càn Long vừa nghe tiếng dạo đàn đã gật đầu khen ngợi. Rồi giọng hát nàng cất lên, kể về một anh chàng kiết xác chỉ mơ được ăn no, ăn ngon lại nghĩ đến mặc, có áo gấm lại chê nhà thấp, xây lầu cao lại đòi vợ đẹp, cưới vợ bé lại đòi ngựa cưỡi, mua ngựa lại nghĩ thiếu tùy tùng, thuê mấy chục người hầu lại trách mình là thường dân dễ bị ức hiếp, may được làm tri huyện thì oán trách chức quan nhỏ mọn, làm đến thượng thư thì ngày đêm mơ tưởng chuyện lên ngôi báu…

Càn Long vừa nghe vừa cười, cảm thấy lời ca khôi hài thú vị, nhưng đến câu cuối cùng đột nhiên biến sắc.

Ngọc Như ý hát tiếp: “Một hôm hắn quay mặt về nam làm thiên tử, chinh đông chinh tây đánh man di, tứ hải vạn quốc đều thần phục. Hắn muốn đánh cờ với thần tiên, Lã Động tân vội xuống hầu cờ, hắn lại sai bắc thang để leo lên trời. Thang bắc chưa xong, Diêm Vương đã cho quỉ lại câu hồn. May mà đại hạn lâm đầu, không thì hắn leo lên còn chê trời thấp, nếu được làm Ngọc Hoàng Đại Đế chắc còn chê thiên cung kém phần sang trọng.”

Trần Gia Lạc mỉm cười đắc ý, còn Càn Long càng nghe sắc mặt càng thay đổi.Y nghĩ: “Không chừng cô ả này đã biết thân phận của ta, cố ý hát bài này trêu ghẹo.”

Ngọc Như Ý hát xong, chậm rãi đặt đàn tỳ bà xuống cười nói: “Bài ca này chê cười những kẻ nghèo hèn mà ưa mơ tưởng. Đông Phương lão gia và Lục công tử đều là bậc đại gia phú quí, lầu cao gác tía, thê tử đề huề, đương nhiên không thích loại người này.”

Càn Long cười ha hả, sắc mặt đã bình thường trở lại. Y liếc nhìn Ngọc Như Ý thấy nàng thần sắc nhu mì, trong lòng rất ưng ý, bèn tính chuyện bảo Lý Khả Tú đưa nàng về hoàng cung. Nhưng việc này phải tuyệt đối bí mật để tránh người đời dị nghị thiên tử háo sắc, làm bại hoại thanh danh.

Đột nhiên Trần Gia Lạc lên tiếng: “Có câu Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc, Đường Huyền Tông quả là bậc thiên tử phong lưu. Phong lưu cũng không sao, nhưng để giang sơn suýt lọt vào tay rợ Hồ An Lộc Sơn thì là sai lầm rất lớn.”

Càn Long nói: “Buổi đầu Đường Huyền Tông cũng là đấng minh quân, chỉ những năm cuối đời hư hỏng như thế. Nhưng nói sao thì nói, ông ấy cũng không thể sánh kịp tổ tông là Đường Thái Tông.”

Trần Gia Lạc nói: “Đường Thái Tông tài ba quán thế. Huynh đài nhất định rất khâm phục ông ấy phải không?”

Suốt đời Càn Long tôn sùng nhất là Hán Vũ Đế và Đường Thái Tông, hai vị hoàng đế có sự nghiệp mở mang bờ cõi, danh tiếng lẫy lừng tận chốn xa xôi. Càn Long từ lúc lên ngôi đã muốn kế thừa cơ nghiệp hai vị vua này, nên mới đưa binh lính viễn chinh đến Hồi Cương. Y nghe Trần Gia Lạc hỏi đúng vào việc mình đang suy nghĩ, bèn nói: “Đường Thái Tông thần võ anh minh, di địch nghe tên là vỡ mật, văn tài võ lược đều đáng mặt kỳ nhân, thế gian ngàn năm có một.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ đọc sách đến chỗ ghi lại kim ngôn của Đuờng Thái Tông như bài Trinh Quán Chính yếu, thấy có mấy câu hữu lý.”

Càn Long cả mừng hỏi lại: “Là những câu nào?” Từ lúc y gặp Trần Gia Lạc, tuy rất thích chàng nhưng hai người nói chuyện không được tâm đầu ý hợp. Bây giờ y thấy chàng cũng tôn sùng Đường Thái Tông, vui mừng là phải.

Trần Gia Lạc đáp: “Đường Thái Tông đã nói: Dân chúng như nước chảy, nước có thể đỡ thuyền, cũng có thể đắm thuyền. Lại còn nói: Thiên tử hữu đạo thì mọi người suy tôn làm chủ, vô đạo thì mọi người cười là vô dụng.”

Càn Long chưa nói gì, Trần Gia Lạc đã tiếp: “Ví dụ thế này, chúng ta đang ngồi trên thuyền, nếu thuận theo dòng nước thì ngồi rất yên ổn. Nhưng nếu khuấy động lung tung, muốn chèo nhanh hơn thiên lý mã, hoặc chèo ngược thế nước ào ào thì không khỏi lật thuyền.”

Chàng nói mấy câu này trên mặt hồ, rõ ràng là có ý cảnh cáo. Không những chàng miệt thị hoàng đế, nói là bá tánh bất cứ lúc nào cũng có thể lật đổ y, mà ngữ điệu cũng có phần uy hiếp, như thuyền sắp bị lật xuống Tây Hồ thật sự.

Suốt đời Càn Long chỉ sợ tổ phụ Khang Hy và cha mình là Ung Chính, ngoài ra chưa bị ai uy hiếp khinh thường như thế. Y không nén nổi nộ khí xung thiên, nhưng lập tức tự kiềm chế, nghĩ thầm: “Cứ để ngươi đắc ý nói cho sướng miệng. Lát nữa gông cổ ngươi lại, xem ngươi có quì xuống xin ta tha mạng hay không. Ngự lâm quân và binh lính Kỳ Doanh đã vây kín hồ này. Thị vệ của ta đều là hảo thủ võ công tuyệt thế, tuyển lựa vạn người lấy một. Một bang hội giang hồ nhỏ xíu thì tác oai tác quái được bao lâu?” Y bèn cười nói: “Khổng tử có viết: Đế vương thọ mệnh trời đất mà thống lĩnh muôn loài. Lập luận của huynh đài không khỏi trái ngược với lời cổ nhân dạy bảo.”

Trần Gia Lạc rót ra một chén rượu rồi nói: “Ở tỉnh Triết Giang bọn tại hạ có bậc hương hiền là Hoàng Lê Châu tiên sinh. Ông ấy đã nói mấy câu rất đúng: Hoàng đế muốn lên ngôi thì phải hại mạng thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để giành lấy sản nghiệp cho mình. Lên ngôi rồi thì bóc lột thiên hạ rất nhiều, bắt nhân dân đồ thán để cung phụng cho mình, lại coi đó là việc đương nhiên. Mấy câu này không thể đúng hơn được nữa, chúng ta nên theo đó mà suy nghĩ lại. Huynh đài, xin mời!” Nói xong chàng nâng chén lên uống cạn.

Càn Long nghe xong không nhẫn nhục được nữa. Y vung tay đập cái chén xuống đất, toan nổi cơn thịnh nộ. Chén rơi chưa tới ván thuyền, Tâm Nghiễn đã nghiêng người đưa tay chụp được, rượu còn lưng chén. Tâm Nghiễn quì xuống, hai tay dâng lên: “Đông Phương lão gia! May mà chén chưa bị vỡ.”

Cậu bé làm Càn Long ngẩn người, xanh mặt “hừ” một tiếng. Lý Khả Tú nhận lấy cái chén rồi quay lại nhìn y chờ lệnh.

Càn Long cười ha hả rồi nói: “Lục nhân huynh! Tiểu quản gia của nhân huynh tay chân thật là nhanh nhạy.” Y quay đầu lại bảo một tên thị vệ: “Ngươi thử tranh tài với vị tiểu quản gia này một phen. Nhớ đừng để nó đánh gục nhé. Ha ha!”

Tên thị vệ đó tên là Phạm Trung Ân, sử một đôi phán quan bút. Hắn vừa nghe hoàng thượng ban lệnh lập tức đảo người sang một bên, chĩa đôi phán quan bút ra chia hai đường điểm vào huyệt đạo của Tâm Nghiễn. Tâm Nghiễn vội lộn người nhảy ngược ra sau nửa truợng.

Tâm Nghiễn tuổi còn nhỏ, công phu có hạn, nhưng đã học được khinh công chân truyền của Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu. Câu thấy đôi phán quan bút của Phạm Trung Ân mười phần hung dữ, biết nếu công nhiên tỉ thí thì mình không phải là đối thủ của hắn, bèn nhanh chóng né tránh.

Phạm Trung Ân múa bút như gió, tiếp tục tấn công. Tâm Nghiễn đề khí nhảy lên đứng trên mui thuyền cười nói: “Bây giờ chúng ta chơi đuổi bắt một chút. Khi nào ông bắt được thì ta thua, phải đuổi bắt lại ông.”

Phạm Trung Ân đánh hai lần không trúng đã bắt đầu tức tối, chấm chân xuống đất nhảy vọt lên mui thuyền. Tâm Nghiễn bèn sử chiêu Nhất Hạc Xung Thiên, như một con chim lớn bay qua con thuyền nhỏ neo bên trái. Phạm Trung Ân cũng đuổi theo, hai người cứ thế cứ rượt qua đuổi lại trên mười mấy chiếc thuyền.

Phạm Trung Ân không sao đến gần Tâm Nghiễn, đã lo thầm trong bụng. Chạy thêm một vòng nữa, trước mặt có ba chiếc thuyền nhỏ xếp thành hình tam giác. Tâm Nghiễn dợm chân vờ nhảy lên thuyền bên trái, nhưng vừa cười nhạo vừa nhảy lên thuyền bên phải. Nào ngờ Phạm Trung Ân đoán biết bèn tương kế tựu kế, cũng vờ nhảy về bên trái rồi lập tức nhảy qua phải. Hai người đối diện nhau, hắn múa tả bút điểm tới trước ngực Tâm Nghiễn.

Tâm Nghiễn muốn tránh nhưng không kịp nữa. Trong lúc nguy cấp, nó vội nhảy tới trước phóng chưởng đánh vào bụng Phạm Trung Ân. Phạm Trung Ân đưa tả bút chống đỡ, hữu bút điểm vèo xuống hậu tâm đối phương. Chiêu này vừa nhanh vừa chuẩn, Tâm Nghiễn nhìn thấy nhưng không sao tránh kịp.

Đột nhiên Phạm Trung Ân nghe thấy sau lưng có tiếng gió, một món binh khí rất trầm trọng đánh tới. Hắn phải lo cứu mình trước, xoay hữu bút lại gạt món binh khí đó. “Choang” một tiếng, lửa bay tứ tán. Binh khí kia chỉ hơi nghiêng đi một chút, rồi lại đập ngang eo lưng hắn. Hắn vội nhảy lên để tránh.

Tưởng Tứ Cân giải nguy cho Tâm Nghiễn xong, thấy Phạm Trung Ân tung người lên liền đưa thiết trượng khuấy mạnh xuống nước để thuyền xoay nửa vòng tròn. Khi Phạm Trung Ân rơi xuống, thuyền không còn ở vị trí cũ nữa. Hắn rơi bõm xuống nước, há mồm chưa kịp la lên đã bị nước hồ tràn vào lấp kín. Tâm Nghiễn vỗ tay reo hò: “Chúng ta chơi đuổi bắt chứ có thi bơi đâu?”

Trên thuyền Càn Long, hai tên thị vệ biết thủy tính vội vàng nhảy xuống nước. Chúng sắp sửa bơi tới chỗ Phạm Trung Ân thì Tưởng Tứ Cân thò thiết trượng xuống nước. Họ Phạm đang quơ tay quơ chân loạn xạ dưới nước thì quơ đụng cây thiết trượng, bất kể đó là cái gì cũng vội vàng níu lấy. Tưởng Tứ Cân bèn vung trượng hất hắn bay qua thuyền Càn Long, hét lớn: “Đón lấy!”

Sư thúc Phạm Trung Ân là Long Tấn cũng là ngự tiền thị vệ, vội bước ra mũi thuyền đưa tay đón lấy. Phạm Trung Ân làm hoàng thượng mất mặt, dĩ nhiên sẽ bị nghiêm trị nên vừa tức tối vừa lo lắng. Người hắn còn ướt đẫm, nhưng cứ đứng yên không dám động đậy, nước trên người nhỏ lộp bộp xuống ván thuyền.

Long Tấn đã nghe chuyện Tâm Nghiễn bắn đất cho tụ tiễn lệch đường trên Tam Thiên Trúc, làm mất mặt ngự tiền thị vệ, bây giờ lại thấy cậu trêu cợt sư điệt hắn. Đợi Tâm Nghiễn quay lại đứng sau lưng Trần Gia Lạc, hắn bèn đứng dậy trầm giọng nói: “Nghe nói vị tiểu huynh đệ này có công phu ám khí rất cao minh, tại hạ xin thỉnh giáo mấy chiêu.”

Trần Gia Lạc nói với Càn Long: “Hai ta gặp nhau vì nghĩa tri âm, đừng để thuộc hạ tranh chấp nhau làm tổn thương hòa khí. Vị này đã là danh gia ám khí, chúng ta hãy để y biểu diễn bắn bia, đề phòng thư đồng của tiểu đệ không đón được phải bị thương. Huynh đài thấy có được không?”

Càn Long nghe chàng nói rất có lý, đành phải đáp: “Được lắm, dĩ nhiên phải làm như thế. Nhưng lúc bất ngờ không kịp chuẩn bị, làm sao có bia mà bắn?”

Tâm Nghiễn tung người nhảy qua thuyền Dương Thành Hiệp nói nhỏ mấy câu. Dương Thành Hiệp gật đầu rồi vẫy tay gọi, Chương Tấn từ thuyền bên cạnh nhảy qua.

Dương Thành Hiệp bảo: “Nắm lấy đuôi thuyền kia.” Chương Tấn vâng lời nắm lấy đuôi chiếc thuyền mình vừa ngồi, còn Dương Thành Hiệp nắm vào mũi thuyền. Hai người quát một tiếng “Lên!”, con thuyền lập tức bị nhấc lên khỏi mặt nước, còn thuyền hai người đang đứng thì chìm xuống một đoạn. Mọi người thấy thần lực kinh hồn như thế, không khỏi vừa kinh ngạc vừa thán phục, đồng thanh hoan hô ầm ĩ.

Lạc Băng cao hứng cũng nhảy lên thuyền của hai người, cười nói: “Cái bia này tuyệt đẹp!” Rồi nàng chèo đến cạnh chiếc thuyền hoa.

Tâm Nghiễn hỏi: “Thiếu gia! Bia thế này có được hay không? Xin thiếu gia vẽ giúp hồng tâm.”

Trần Gia Lạc nâng chén rượu lên ngửa cổ uống cạn. Chàng vẫy tay một cái, chén rượu bay tới đáy thuyền. Nghe “phập” một tiếng, đáy chén khảm vào bằng mặt ván thuyền, cái chén còn nguyên không vỡ. Mọi người vỗ tay reo hò vang dội.

Bọn cao thủ bên Càn Long, như Bạch Chấn và Long Tấn, nhìn thấy Dương Thành Hiệp và Chương Tấn nâng thuyền lên cũng hơi e ngại, nhưng nghĩ là cái dũng của thất phu không đáng sợ lắm. Đến khi nhìn thấy Trần Gia Lạc vận nội lực gắn chén vào đáy thuyền như phóng phi tiêu, chúng mới chau mày, cảm thấy người này khó mà đối phó.

Trần Gia Lạc cười nói: “Hãy xem cái chén này là hồng tâm, mời vị huynh đài này thử thi triển ám khí.”

Long Tấn không nói tiếng nào, phóng ra liên tiếp năm chiếc độc tật lê. Nghe tiếng loảng xoảng, mảnh sành bay tứ tung, chung rượu khảm vào đáy thuyền đã bị đánh vỡ vụn ra. Tâm Nghiễn từ sau thuyền chui ra, lên tiếng hoan hô: “Quả nhiên chính xác!”

Long Tấn nổi lòng độc ác, lại bắn ra năm chiếc độc tật lê, lần này nhắm vào Tâm Nghiễn. Dưới ánh trăng mọi người nhìn thấy rõ ràng, đều la lên kinh hãi. Công phu ám khí của Long Tấn thật sự lợi hại, tay vừa đưa lên là ám khí đã tới ngay trước mặt. Năm chiếc độc tật lê nhằm vào năm chỗ yếu hại khác nhau, Tâm Nghiễn kinh hãi nhào xuống sàn thuyền. Lạc Băng ném ra hai mũi phi đao, gạt hai chiếc độc tật lê rớt xuống hồ. Tâm Nghiễn lăn người né được hai chiếc, còn một chiếc trúng vào vai trái.

Tâm Nghiễn cảm thấy vai mình hơi tê, không đau lắm nên đứng dậy ngay, cất tiếng thóa mạ. Quần hùng Hồng Hoa Hội giận dữ xung thiên, tất cả thuyền nhỏ đều chèo ào ào đến, muốn trị tội Long Tấn một phen.

Ngay cả bọn thị vệ cũng cảm thấy vụ này quá ư nham hiểm. Trước mặt hoàng đế cùng đông người như thế mà dùng thủ đoạn bỉ ổi ám toán một cậu bé, thật đáng xấu hổ, không sao tránh được miệng đời cười chê phỉ nhổ. Dù sao thì thấy quần hùng Hồng Hoa Hội phô trương thanh thế ào ào lướt tới, chúng cũng vội vàng lấy binh khí giấu trong trường bào ra chuẩn bị ứng phó. Lý Khả Tú đưa kèn hiệu lên miệng, định triệu tập binh sĩ.

Trần Gia Lạc kêu lớn: “Các vị ca ca! Đông Phương tiên sinh là khách quí, chúng ta không nên vô lễ. Mọi người lùi ra đi.” Quần hùng nghe lệnh tổng đà chủ, bèn chèo thuyền ra xa mấy trượng.

Lúc này Dương Thành Hiệp và Chương Tấn đã buông chiếc thuyền làm bia trở xuống nước. Lạc Băng xem xét vết thương Tâm Nghiễn, Từ Thiên Hoằng cũng nhảy tới hỏi han. Tâm Nghiễn nói: “Tứ phu nhân, Thất gia! Các vị yên tâm đi, vãn bối không đau lắm, chỉ thấy ngứa ngáy quá chừng.” Nói xong, cậu muốn đưa tay lên gãi.

Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng nghe mà kinh hãi, biết trên ám khí có tẩm chất độc lợi hại, liền nắm chặt tay cậu. Tâm Nghiễn kêu lớn: “Ngứa quá! Thất gia! Thất gia buông tay ra đi.” Cậu vừa kêu vừa giãy giụa.

Từ Thiên Hoằng lo lắng trong lòng, nhưng mặt không động sắc, chỉ nói: “Ngươi ráng chịu đựng một chút!” Rồi quay lại bảo Lạc Băng: “Tứ tẩu! Mau đi mời Tam gia đến đây.”

Lạc Băng gật đầu đi ngay. Nàng vừa rời khỏi thì một chiếc thuyền con bay đến như tên bắn, trên mũi thuyền là Mã Thiện Quân, tổng đầu mục Hồng Hoa Hội ở Hàng Châu. Họ Mã nhảy lên thuyền Từ Thiên Hoằng, khẽ nói: “Thất đương gia! Xung quanh hồ đầy nghẹt quân Thanh, có cả mấy doanh ngự lâm quân.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng số bao nhiêu?”

Mã Thiện Quân đáp: “Khoảng bảy tám ngàn, chưa kể quân lính Kỳ Doanh tiếp ứng vòng ngoài.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Huynh lập tức triệu tập tất cả huynh đệ trong ngoài thành Hàng Châu đến bờ hồ chờ lệnh, tuyệt đối đừng để quan phủ phát giác. Mỗi người chuẩn bị một đóa hoa đỏ.” Mã Thiện Quân gật đầu nhận lệnh.

Từ Thiên Hoằng lại hỏi: “Nếu triệu tập lập tức thì được bao nhiêu huynh đệ?”

Mã Thiện Quân nói: “Kể cả công nhân hai xưởng của thuộc hạ thì trong thành có khoảng hai ngàn anh em. Sau một canh giờ, huynh đệ ngoài thành đến kịp thì được hơn một ngàn nữa.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Huynh đệ chúng ta ít ra cũng có thể lấy một chọi năm. Ba ngàn người đối phó được một vạn rưỡi Thanh binh, nhân số thế là đủ rồi, huống chi trong lục doanh cũng có huynh đệ chúng ta. Huynh đi sắp xếp đi.” Mã Thiện Quân nhận lệnh đi ngay.

Triệu Bán Sơn chèo thuyền tới xem xét vết thương Tâm Nghiễn, chau mày một cái rồi nhẹ nhàng khều chiếc độc tật lê trên vai cậu ra, lấy trong túi ra một viên thuốc nhét vào miệng Tâm Nghiễn. Sau đó ông quay người lại, nói thầm với Từ Thiên Hoằng: “Thất đệ! Hết cứu rồi!”

Từ Thiên Hoằng giật mình hỏi: “Làm sao bây giờ?”

Triệu Bán Sơn khẽ nói: “Chất độc trên ám khí này vô cùng lợi hại, ngoài chủ nhân ám khí ra thì chẳng ai giải được.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tâm Nghiễn còn duy trì được bao lâu?”

Triệu Bán Sơn đáp: “Ít nhất cũng ba giờ.”

Từ Thiên Hoằng bèn nói: “Tam ca! Chúng ta đi bắt tên đó về, ép hắn giải cứu.”

Câu nói này đã cảnh tỉnh Triệu Bán Sơn. Ông lấy trong bọc ra một cái bao tay bằng da nai, đeo vào rồi tung người nhảy lên, chỉ nhấp nhô ba cái đã đến trước mặt Trần Gia Lạc và Càn Long rồi mở miệng hô: “Lục công tử! Thuộc hạ muốn thỉnh giáo thủ đoạn của vị danh gia ám khí này.”

Trần Gia Lạc thấy Long Tấn đả thương Tâm Nghiễn thì cực kỳ phẫn nộ, thấy Triệu Bán Sơn khiêu chiến rất hợp ý mình, bèn nói với Càn Long: “Vị bằng hữu này của tiểu đệ cũng có thể gọi là cao thủ về ám khí. Hai người tỉ thí một trận, chắc hẳn sẽ rất hào hứng.”

Dĩ nhiên là Càn Long tán thành. Tỉ thí càng nguy hiểm thì y càng thấy hứng thú, bèn quay đầu lại bảo Long Tấn: “Đi đi! Nhớ đừng làm mất mặt ta.”

Long Tấn tuân lệnh bước ra. Bạch Chấn dặn với theo: “Người đó là Thiên Tí Như Lai, Long hiền đệ nhớ cẩn thận một chút.”

Long Tấn đã nghe đại danh Thiên Tí Như Lai từ lâu, không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng hắn tự nghĩ công phu ám khí của mình xưa nay chưa gặp địch thủ, nếu hôm nay đả bại Thiên Tí Như Lai danh chấn giang hồ thì oai phong biết mấy. Vì thế, hắn hiên ngang đến trước mặt Triệu Bán Sơn, chắp tay nói: “Tại hạ là Long Tấn, xin thỉnh giáo cao chiêu của tiền bối.”

Triệu Bán Sơn hừ một tiếng rồi đáp: “Quả nhiên là ngươi! Người khác chắc chắn sẽ không sử dụng thủ đoạn đê tiện đến thế, không dùng loại ám khí tổn âm đức đến thế.”

Long Tấn cười nhạt, lên tiếng mỉa mai: “Ta chỉ có hai cánh tay. Mời người có ngàn tay xuất chiêu xem thử.”

Triệu Bán Sơn xoay người lại, nhảy ra xa rồi gọi: “Qua đây đi.”

Long Tấn nói: “Ta chỉ so tài với một mình các hạ thôi.”

Triệu Bán Sơn giận dữ nói: “Chẳng lẽ bọn ta thèm ám toán ngươi hay sao?”

Long Tấn nói: “Được lắm! Ta chỉ đợi câu nói này thôi.” Hắn thấp thoáng thân hình một cái, đã nhảy lên mui một con thuyền nhỏ. Mọi người trên thuyền đều là cao thủ bậc nhất của Hồng Hoa Hội. Tuy Triệu Bán Sơn đã nói là không ai ám toán, nhưng Long Tấn vừa dùng thủ đoạn đê tiện để đả thương một cậu thiếu niên, hắn sợ đối phương sẽ hạ độc thủ trả thù nên không dám bước xuống mũi thuyền hay khoang thuyền chỗ có người.

Triệu Bán Sơn đợi hắn đứng chân, vẫy cả hai tay phóng ra ba chiếc kim tiền tiêu, ba mũi tụ tiễn. Rồi ông cúi đầu xuống, từ sau lưng lại có một mũi tên bay ra. Long Tấn không ngờ nổi chỉ trong chớp mắt mà ông phóng ra tới bảy món ám khí. Hắn sợ đến dựng tóc gáy, không màng đến thể diện mà nhào xuống nằm rạp dưới đáy thuyền. Nghe một loạt những tiếng bục bục, bảy món ám khí ghim hết lên ván thuyền. Có tiếng người phía đuôi thuyền quát mắng: “Đồ con rùa! Nam tử hán đại trượng phu mà nằm dài như chó liếm phân, thế thì còn tỉ đấu gì nữa? Con mẹ nó!”

Long Tấn nhảy lên, nhìn rõ Triệu Bán Sơn đứng dưới ánh trăng, liền ném ra một hạt bồ đề tử. Triệu Bán Sơn nghe tiếng gió biết không phải độc tật lê, bèn nghiêng người tránh né. Ông vừa nhích qua bên phải thì ba chiếc độc tật lê đã bay đến trước mặt.

Triệu Bán Sơn ngả người theo thế Thiết Bản Kiều cho ba chiếc độc tật lê bay xẹt qua mặt, hô lớn: “Hay lắm!” Ông vừa đứng dậy, lại thấy ba chiếc nữa đánh dưới hạ bàn. Thế là trong chớp mắt Long Tấn cũng phóng ra bảy món ám khí, gọi là liên hoàn tam kích.

Triệu Bán Sơn chưa đứng thẳng dậy, tay trái đã bắn ra một viên phi hoàng thạch, tay phải bắn ra một viên thiết liên tử, đánh hai chiếc độc tật lê rơi xuống nước. Ông đợi chiếc độc tật lê ở giữa bay tới, bèn đưa tay có đeo bao bắt lấy.

Triệu Bán Sơn thấy thủ đoạn phóng ám khí của hắn quả nhiên có chỗ khác thường, thầm nghĩ: “Tên này nham hiểm độc ác, nhất định có nhiều quỉ kế. Ta không nên tỉ đấu dằng dai, dễ bị mắc lừa.” Ông bèn nhấc tay lên, ba chiếc kim tiền tiêu phóng vào huyệt Thành Đỉnh ở thượng bàn, huyệt Thiên Trì ở giữa ngực, huyệt Huyết Hải ở hạ bàn Long Tấn. Hắn vội tung người lên, nhảy qua một chiếc thuyền khác.

Triệu Bán Sơn nhắm thẳng vào chỗ hắn sắp hạ xuống, phóng một cây tụ tiễn. Long Tấn đưa tay đón bắt, thì bỗng thấy một món ám khí kỳ lạ lượn vòng vòng bay đến, bèn vội vã cúi đầu xuống tránh. Hắn chưa hết ngạc nhiên thì ám khí đó tự quay trở về tay Triệu Bán Sơn, ông bắt lấy rồi tiếp tục ném ra.

Xưa nay Long Tấn chưa hề nghe đến loại ám khí độc môn Hồi Long Bích này nên vô cùng kinh hãi, tâm thần rối loạn không đề phòng gì được nữa. Hắn lập tức bị hai viên bồ đề tử đánh trúng vào huyệt Dương Bạch ở cạnh lông mày trái và huyệt Cước Bàn ở cánh tay trái, thân hình bủn rủn rồi ngã quỵ trên mui thuyền.

Bọn thị vệ thấy hắn té nhào, đều la lên kinh hãi. Một tên thị vệ lừng danh khắp đại nội, giữ chức ngang với Long Tấn là Nhất vĩ độ giang Trừ Viên vội nhảy qua cứu viện. Hắn múa kiếm che trước mặt, tung người về phía Long Tấn, nhưng chưa kịp đáp xuống thì đã thấy một người cầm kiếm nhảy tới cản trở.

Trừ Viên xuất phát trước nên đáp xuống mui thuyền sớm hơn nửa bước. Hắn cung tay trái giữ kiếm quyết, tay phải rung kiếm thành một đóa hoa phong tỏa vùng ngực người đang xông tới, tin chắc ép được đối phương rơi xuống nước. Không ngờ người đó còn lơ lửng giữa trời mà mũi kiếm đã chĩa thẳng vào cổ tay phải Trừ Viên, đúng theo nguyên tắc lấy công làm thủ. Chiêu kiếm này vừa thần tốc vừa chính xác, chỉ trong chớp nhoáng đã lấy lại thế thượng phong.

Trừ Viên vội vã rút tay về, hướng kiếm đâm xuống chân địch thủ. Đây là chiêu Hư Thức Phân Kim trong Đạt Ma kiếm pháp. Người kia khẽ nhích chân trái, hất chân phải đá vào cổ tay cầm kiếm của Trừ Viên. Trừ Viên lại phải thu chiêu, chưa kịp biến thức lần nữa thì đối thủ đã đáp xuống đứng ở đầu thuyền. Ánh trăng soi rõ người này mặc áo bào đạo sĩ, cánh tay áo bên trái trống rỗng giắt vào thắt lưng.

Trừ Viên vốn là hòa thượng pháp danh Chí Viên, về sau phạm phải thanh qui nên bị thu hồi độ điệp, trục xuất khỏi chùa. Hắn tức giận bèn để tóc hoàn tục, đổi tên thành Trừ Viên, rồi dựa vào môn Đạt Ma kiếm pháp đã luyện đến chỗ tinh diệu mà tiến thân, làm đến chức thị vệ bên mình hoàng đế.

Hồi nhỏ hắn sống trong chùa, khi hoàn tục lại vào cấm thành nên không hiểu chuyện giang hồ lắm. Mắt thấy kiếm pháp của địch nhân mau lẹ ít thấy trên đời, mà hắn cũng không biết đó là Thất Thập Nhị Thủ Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm độc bộ thiên hạ của Vô Trần đạo nhân, phải thét hỏi: “Ngươi là ai?”

Vô Trần mỉm cười hỏi lại: “Ngươi cũng sử kiếm, sao lại không biết ta?”

Trừ Viên bèn xuất chiêu Kim Cang Phục Hổ, tiếp đến là chiêu Cửu Phẩm Liên Đài, một kiếm chém xuống một kiếm hất lên. Vô Trần mỉm cười nói: “Kiếm pháp không tệ! Sao không mau dùng chiêu Kim Châm Độ Kiếp đi.”

Ông chưa dứt lời thì Trừ Viên đã xuất chiêu Kim Châm Độ Kiếp. Hắn kinh ngạc tự hỏi: “Sao y lại biết?”

Vô Trần lại mỉm cười, vung kiếm đâm hai nhát hai bên trái phải, miệng hét lên: “Ngươi sử Phù Khưu Áp Trục, rồi Hồng Nhai Phá Kích.” Trừ Viên quả nhiên nghe theo răm rắp, sử dụng hai chiêu này. Tình hình không giống như tỉ đấu, mà giống sư phụ đang chỉ dẫn đồ đệ luyện kiếm hơn.

Trước nay Trừ Viên khá tự phụ, nhưng sử xong hai chiêu này thì hắn lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn đối phương, hai phần xấu hổ, hai phần giận dữ, còn tới sáu phần sợ hãi. Thì ra Vô Trần cũng biết Đạt Ma kiếm pháp là lợi hại, ông thấy kiếm pháp Trừ Viên không phải tầm thường nên mới sử dụng tiểu xảo, ra chiêu bắt hắn phải xuất những chiêu thức mà mình nói, đồng thời hô tên của chiêu thức đó lên trước. Đó là kế Tiên Thanh Đoạt Nhân, khiến cho Trừ Viên mất hết cả nhuệ khí.

Lạc Băng khua mái chèo, mỉm cười đưa thuyền tới gần thuyền của Trần Gia Lạc và Càn Long, để hoàng đế nhìn rõ thuộc hạ mất mặt thế nào.

Lúc này Triệu Bán Sơn đã bắt được Long Tấn, Từ Thiên Hoằng ép hắn giao thuốc giải nhưng hắn cứ nhắm mắt lặng thinh. Từ Thiên Hoằng kề đao vào cổ mà uy hiếp, hắn cũng mặc kệ, trong lòng đã có chủ ý: “Ta thà chết không chịu khuất phục, lúc về nhất định hoàng thượng sẽ trọng thưởng. Nếu ta tỏ ra khiếp sợ, làm mất mặt hoàng thượng, thì tương lai coi như bị hủy ngay lập tức. Trước mặt hoàng thượng, chắc bọn thổ phỉ này không dám giết ta.”

Vô Trần bỗng hét lên: “Ta ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ, ngươi mau dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ.”

Trừ Viên hạ quyết tâm không sử dụng chiêu thức đối phương đã nói, nào ngờ lưỡi kiếm của Vô Trần cứ đâm thẳng vào má phải hắn. Trừ Viên đã khổ luyện hai mươi mấy năm trời, tâm kiếm hợp nhất, Đạt Ma kiếm pháp đã ăn sâu vào máu thịt. Thấy kiếm của địch nhân đâm đến như vậy, thân hình hắn tự động lách sang trái, tay cầm kiếm vạch ngang một đường để gạt, mũi kiếm hướng xéo từ trên trời xuống dưới đất. Chiêu này chính là Hồi Đầu Thị Ngạn.

Vô Trần ra chiêu Tiên Nhân Chỉ Lộ ép Trừ Viên dùng chiêu Hồi Đầu Thị Ngạn mà chống đỡ, còn có ý nghĩa nếu ngươi phản tỉnh thì ta chỉ điểm cho một con đường sáng, ngươi mau chịu thua mà quay đầu trở lại.

Trừ Viên sử dứt chiêu thì thấy Vô Trần thu trường kiếm về, đưa ánh mắt như điện chiếu thẳng vào mình. Hắn không dám tấn công nữa, nhưng cũng không dám lùi về, thật mười phần khó xử.

Vô Trần lại hét lên: “Ta ra chiêu Đương Đầu Bổng Hát, ngươi mau sử chiêu Hoành Giang Phi Độ!” Ông vừa dứt lời, trường kiếm đã đưa ra trước mặt rồi chém sả từ trên đầu xuống. Trừ Viên bất giác chuyển mình nương theo thế kiếm, hoành kiếm gạt ngang, chuôi kiếm bảo vệ khuỷu tay bên trái. Nếu chiêu này không phải là Hoành Giang Phi Độ trong Đạt Ma kiếm pháp thì là gì nữa?

Càn Long chỉ biết chút ít võ nghệ nhập môn, nhưng trong đại nội có rất nhiều kỳ tài ẩn sĩ, nên kiến thức y khá uyên bác. Y thấy Vô Trần dạy sao Trừ Viên làm vậy, vừa tức giận vừa buồn cười, nhưng cũng phải kinh hãi nghĩ thầm: “Trong đám thị vệ đại nội thì Trừ Viên đã là cao thủ bậc nhất, không ngờ khi tỉ thí với bọn phỉ đồ này lại bị chúng đùa giỡn như con khỉ làm trò. Nếu thật sự giao tranh, đối phó với đám giặc này thật không phải dễ.”

Y chưa biết là kiếm pháp của Vô Trần trong võ lâm không còn địch thủ. Trừ Viên gặp phải ông, dĩ nhiên không làm gì được. Đêm nay Càn Long may mắn được mở rộng tầm mắt, chứng kiến kiếm pháp đệ nhất thiên hạ này. Y vẫn cho rằng đám giặc cỏ này không có nhân tài, bây giờ mới biết mình lầm.

Càn Long xem thêm mấy chiêu, không nhẫn nại được nữa bèn bảo Bạch Chấn: “Kêu hắn về đi.”

Bạch Chấn vội vàng hô lớn: “Trừ huynh! Chủ nhân gọi huynh về!”

Trừ Viên mong nhất là câu đó, vì quân pháp Mãn Thanh cực kỳ nghiêm ngặt, lâm trận bỏ chạy phải bị xử tử. Hắn đang bất lực, tiến thoái lưỡng nan mà nghe thánh chỉ gọi về thật chẳng khác gì nắng hạn gặp mưa rào, liền thu kiếm hộ thân muốn nhảy ra khỏi vòng chiến.

Bỗng Vô Trần hét lên: “Vừa rồi ta muốn ngươi lui mà ngươi không chịu, bây giờ ngươi muốn lui thì ta không chịu nữa.” Trường kiếm của ông chớp lên, Trừ Viên cảm thấy bốn phía đều bị kiếm khí bao trùm, không biết né đâu, đành nhắm mắt đứng yên. Rồi hắn cảm thấy một luồng hơi lạnh tràn tới, như một lưỡi dao rất bén đang cạo khắp người mình.

Bạch Chấn thấy Trừ Viên không lùi ra được, bèn tung người vào trận. Hắn đưa song trảo ra chụp vào trường kiếm của Vô Trần. Vô Trần thấy hắn hung hãn như thế, bèn xoay lưỡi kiếm lại nửa vòng, đâm xuống hạ bàn. Võ nghệ của Bạch Chấn cao hơn Trừ Viên rất nhiều, chỉ dùng hai ngón tay trái kẹp lấy lưỡi kiếm, còn tay phải phóng chưởng đánh vào vai trái đối phương.

Vô Trần chỉ có một cánh tay, không khỏi bị thiệt thòi. Mỗi khi địch tấn công vào bên trái, ông chỉ có cách tránh né chứ không đỡ gạt được. Ông đảo người sang một bên, thần tốc phóng kiếm đâm vào yết hầu của kẻ địch. Bạch Chấn cũng nhanh không kém, nghiêng người tránh kiếm rồi tay phải lại phóng ra một chưởng, tiếp tục đánh vào vai trái đối phương.

Vô Trần phải lùi một bước, cổ tay phải đã bị Bạch Chấn nắm lấy. Triệu Bán Sơn, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng đều nhìn thấy rõ ràng, không khỏi kêu khổ thầm trong bụng.

Giữa kiếm quang lấp loáng, Vô Trần đột nhiên phóng chân trái đá lên, trúng ngay vào đùi phải đối phương. Bạch Chấn nghiêng người qua trái, vẫn cố giữ cổ tay cầm kiếm. Nhưng chân trái của Vô Trần chưa chạm đất, chân phải đã đá ra. Bạch Chấn không sao ngờ nổi cước pháp của ông nhanh đến thế, có thể nói là tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả. Hắn gấp rút buông tay địch thủ, lùi về phía sau.

Chân phải của Vô Trần đá vào khoảng trống, chân trái lại phóng lên. Lần này thì Bạch Chấn không còn cách nào tránh né được nữa, mông trúng một cước nặng nề, loạng choạng suýt nhào xuống hồ. May mà hạ bàn của hắn rất vững nên giữ được thăng bằng trở lại, lảo đảo một chút rồi đứng vững trên thuyền, thò hai ngón tay ra móc vào cặp mắt của Vô Trần.

Vô Trần nghiêng đầu tránh né, liền trúng một chưởng vào vai. Ông lớn tiếng thóa mạ rồi lại dùng bộ pháp Liên Hoàn Mê Tung Thối, cước sau nhanh hơn cước trước, liên tục không dứt, chân trước chưa thu về chân sau đã phóng ra. Bạch Chấn lập tức thay đổi thế đánh, thấy đối phương phóng chân đá tới, cũng tung người lên cao. Thân pháp hai đại cao thủ lúc này như thỏ nhảy chim đậu, như quả bóng đang tung hứng, biến hóa không ngừng làm khán giả nhìn hoa cả mắt.

Lạc Băng ngồi ở đuôi thuyền, thấy Bạch Chấn nhảy lên bèn đưa mái chèo gỗ tạt nước qua. Bạch Chấn đang định đáp xuống đầu thuyền, dùng tay không đấu với trường kiếm của Vô Trần thì đột nhiên thấy những tia nước trắng xóa bắn lên, bèn vội lộn trên không trung một vòng, lui về chiếc thuyền hoa. May mà thân thủ của lão khá nhanh, nhưng nửa người phía dưới vẫn ướt đẫm, trông thật là thảm hại.

So với Bạch Chấn thì Trừ Viên còn thảm hại hơn nhiều. Hắn được đồng bọn cứu viện nên thoát khỏi lưỡi kiếm của Vô Trần, kinh hồn táng đởm nhảy về chiếc thuyền hoa. Hắn đứng sau lưng Càn Long, vừa trấn tĩnh lại thì bỗng thấy Ngọc Như Ý cười khúc khích, Càn Long chau mày, còn Trần Gia Lạc muốn nhịn cười mà không nhịn nổi. Thấy thần sắc mọi người kỳ lạ, hắn cũng hơi ngơ ngác.

Một cơn gió nhẹ thổi qua, hắn thấy hơi lạnh, nhìn xuống thân mình thì vô cùng kinh hãi. Thì ra y phục của hắn đã bị đối phương cắt nát vụn ra, tả tơi phấp phới chẳng ra gì nữa. Hắn lại thấy trên đầu hơi rát, đưa tay sờ thử mới biết bím tóc và chân mày vừa bị gọt mất, nham nhở lôi thôi. Đột nhiên quần hắn tụt xuống, thì ra dây lưng quần cũng bị cắt đứt rồi. Hắn hoảng hồn dùng cả hai tay kéo lưng quần lên nhanh như chớp, buông cả trường kiếm trong tay rơi tõm xuống hồ.

Càn Long thấy ba tên thị vệ giỏi nhất của mình đều bị đánh cho thê thảm, biết rằng tỉ thí tiếp chỉ tổ thêm bất lợi, bèn nói với Trần Gia Lạc: “Mấy vị bằng hữu của Lục huynh quả nhiên võ nghệ kinh người. Sao họ không cùng Lục huynh ra sức giúp triều đình, sau này làm rạng rỡ cho tổ tông, vinh hoa cho thê tử? Như thế mới không uổng phí một thân võ nghệ cao cường. Bây giờ lưu lạc giang hồ làm thân thảo khấu, há chẳng đáng tiếc hay sao?” Kể ra Càn Long cũng là một ông vua sáng suốt, không giận dữ mà còn có lòng ưu ái hiền tài, muốn họ dốc sức cho mình.

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Mấy vị bằng hữu đó chẳng khác gì kẻ gàn này, chỉ thích khoái hoạt ung dung, tiếu ngạo giang hồ. Hảo ý của huynh đài, chúng ta chỉ có thể cảm kích trong lòng mà thôi.”

Càn Long nòi: “Đã vậy thì ta không còn gì để nói. Đêm nay quấy rầy đã lâu, bây giờ xin cáo biệt.” Nói xong, y nhìn qua Long Tấn đang bị giữ trên thuyền của Triệu Bán Sơn.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Triệu tam ca! Mau thả tùy tùng của Đông Phương tiên sinh về đây.”

Lạc Băng kêu lên: “Không được! Tâm Nghiễn đã trúng độc tật lê của hắn, mà hắn không chịu trao thuốc giải.” Nàng nói xong, chèo thuyền đến gần hơn.

Càn Long nói nhỏ với Lý Khả Tú rồi quay lại bảo Long Tấn: “Đưa thuốc giải cho họ.”

Long Tấn sợ hãi đáp: “Thuộc hạ đáng chết, thuốc giải để ở Bắc Kinh, không mang theo người.”

Càn Long chau mày, không nói gì nữa. Trần Gia Lạc bảo: “Thôi, Triệu tam ca thả hắn đi đi.”

Triệu Bán Sơn nghĩ bụng: “Chắc tổng đà chủ chưa biết độc tật lê lợi hại ra sao. Lúc này ta không tiện công khai tra khảo, mà tên này hung hãn nham hiểm như thế, e rằng tra khảo cũng vô dụng. Giả tỉ khám trên người hắn tìm được thuốc giải, mà không hiểu cách dùng thì chỉ uổng công. Bây giờ nếu thả hắn ra, muốn bắt lại chắc chắn không phải dễ. Tính mạng Tâm Nghiễn đang như chỉ mành treo chuông, không thể chậm trễ được.” Nhưng lệnh của tổng đà chủ thì không thể không tuân, họ Triệu chỉ biết chau mày ngần ngừ đứng đó.

Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Tam ca! Đưa hai cái độc tật lê đó cho đệ.”

Triệu Bán Sơn không hiểu dụng ý của chàng nhưng vẫn lấy trong bọc ra hai chiếc độc tật lê, một chiếc rút từ vai Tâm Nghiễn ra, một chiếc chụp được trong lúc tỉ thí ám khí. Từ Thiên Hoằng nhận lấy, vung tay trái xé áo trước ngực Long Tấn, nghe soạt một tiếng, phơi ra bộ ngực đầy lông lá. Tay phải chàng đưa lên, dùng độc tật lê dùi sáu cái lỗ nhỏ vào giữa ngực hắn.

Long Tấn thét lên một tiếng, sợ toát mồ hôi lạnh đầy đầu. Từ Thiên Hoằng trả lại độc tật lê cho Triệu Bán Sơn, rồi lớn tiếng gọi Trần Gia Lạc: “Lục công tử! Phiền công tử rót rượu cho. Long gia muốn uống mấy chén kết tình bằng hữu với bọn thuộc hạ, rồi mới về sau.”

Trần Gia Lạc gật đầu, Ngọc Như Ý vội rót đầy ba chén rượu. Trần Gia Lạc gọi: “Tam ca, rượu đây!” Chàng cầm chén ném ra, cái chén bay là là từ thuyền hoa qua đó. Triệu Bán Sơn đưa tay nhẹ nhàng đón lấy, một giọt rượu cũng không rớt ra ngoài. Giữa tiếng hoan hô của mọi người, hai chén rượu kia cũng lần lượt bay tới tay Triệu Bán Sơn.

Từ Thiên Hoằng cầm một chén, nói: “Long gia! Chúng ta cạn chén.” Vết thương của Long Tấn đã thấy vừa tê vừa ngứa, hắn biết rượu vào là huyết khí đi nhanh hơn, kịch độc phát tác lập tức mất mạng. Hắn nhìn chén rượu mà như nhìn rắn rết bò cạp, kinh hãi muôn phần, vội mím miệng nghiếng răng chặt lại.

Từ Thiên Hoằng mỉm cười: “Uống đi, đừng khách sáo.” Chàng dùng ngón cái và ngón trỏ bóp chặt mũi hắn, hai ngón khác vận sức vành miệng hắn ra. Miệng Long Tấn vừa há ra, Từ Thiên Hoằng đã đổ luôn ba chén rượu vào trong.

Long Tấn vừa nuốt rượu trôi xuống bụng, lập tức cảm thấy trước ngực tê liệt, một mảng da ngực đã đổi màu xanh đen, chuyện sống chết chỉ còn gang tấc. Hắn biết độc tính của loại độc tật lê này hơn ai hết, không sao ngang bướng được nữa. Nghĩ lại thấy công danh phú quí chỉ là phù phiếm, tính mạng quan trọng hơn nhiều, hắn bèn run rẩy nói: “Giải huyệt đạo cho ta! Ta… ta… ta sẽ lấy… lấy… thuốc giải.”

Triệu Bán Sơn cười rộ, vừa xoa vừa vỗ nhẹ nhàng giải huyệt đạo cho hắn. Long Tấn nghiến răng, lấy trong bọc ra ba gói thuốc, gắng gượng nói: “Uống gói đỏ, thoa gói đen để hút chất độc, rắc gói trắng để lành vết thương.” Nói được tới đó, hắn ngất xỉu.

Triệu Bán Sơn vội lấy gói thuốc màu đỏ đổ vào chén, hòa với nước hồ cho Tâm Nghiễn uống. Ông thoa gói thuốc đen lên vết thương, chỉ một lúc máu đen đã từ vết thương chảy ra ngoài. Lạc Băng lấy vải thấm cho, máu đen tím dần rồi chuyển sang màu đỏ. Tâm Nghiễn đã thều thào được mấy tiếng kêu đau. Lúc đó Triệu Bán Sơn mới lấy gói thuốc màu trắng rắc lên vết thương, băng bó rồi mỉm cười: “Giữ được cái mạng nhỏ xíu này rồi.”

Từ Thiên Hoằng hận Long Tấn ác độc không chịu giao thuốc giải, bèn lớn tiếng nói: “Nghe nói Long gia để thuốc giải ở Bắc Kinh, bây giờ về lấy vẫn còn kịp chán.” Triệu Bán Sơn thấy thảm trạng của Long Tấn lại không nhẫn tâm, bèn lấy thuốc từ tay Từ Thiên Hoằng qua chữa thương cho hắn.

Trần Gia Lạc nói với Càn Long: “Mấy vị bằng hữu của tiểu đệ đều là những kẻ thô hào không biết lễ nghĩa, xin huynh đài đừng trách.”

Càn Long rặn ra mấy tiếng cười, đưa tay lên nói: “Hôm nay tại hạ thật sự mở rộng tầm mắt. Bây giờ xin cáo biệt.”

Trần Gia Lạc hô lớn: “Đông Phương tiên sinh muốn về, mau đưa thuyền vào bờ.”

Bọn thuyền phu dạ ran, đưa chiếc thuyền hoa từ từ áp vào bờ. Mấy trăm chiếc thuyền con hộ vệ hai bên, thuyền nào cũng thắp đèn lồng. Vầng trăng sáng trên trời soi xuống mặt nước hồ xanh thẳm như ngọc bích, trăng trời trăng nước chỉ cách nhau một mặt hồ mà vời vợi muôn trùng. Trần Gia Lạc nhìn cảnh hồ quang nguyệt sắc, nghĩ thầm: “Diện tích hồ này phải hơn ngàn mẫu. Xưa đã có kẻ hiền tài làm thơ vịnh cảnh trăng Tây Hồ: Sóng lạnh xô xô, ruộng vàng nghìn khoảnh; Khí thiêng bốc bốc, bảo ngọc một mâm.(8) Tả cảnh như thế tưởng không phải là quá đáng”.

Hồi 08: Thiên quân không dám vây hồ rộng – Thần triều hung hãn khiếp chí tôn

Một lúc sau, mọi thuyền trên hồ đã cập hết vào bờ. Lý Khả Tú nhảy lên trước, đưa hai tay dìu Càn Long lên bờ, bọn thị vệ vây quanh thành nửa vòng tròn, hộ vệ ba mặt. Trần Gia Lạc cũng lên theo.

Lý Khả Tú lấy tù và ra thổi ba tiếng tu tu, mấy trăm ngự lâm quân Kiêu Kỵ Doanh vội vàng chạy tới. Một tên thị vệ dắt bạch mã đến, quỳ chân phải xuống đỡ Càn Long lên ngựa. Quân sĩ bốn phía từ từ tiến lại, bao vây anh em Hồng Hoa Hội và Trần Gia Lạc vào giữa.

Càn Long nháy mắt ra hiệu, Lý Khả Tú liền gân cổ lên quát mắng quần hào Hồng Hoa Hội: “Bọn ngươi thật là lớn mật! Nhìn thấy hoàng thượng mà dám không thi lễ ư?”

Từ Thiên Hoằng vẫy tay, cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình lập tức lấy pháo lưu tinh ra phóng veo véo lên trời. Mấy ngôi sao băng vừa rơi trở xuống mặt Tây Hồ, bốn phương tám hướng lập tức nổi lên tiếng reo hò vang dội. Dưới tán cây, dưới mái nhà, dưới gầm cầu, người nào cũng đầu cắm hoa hồng, tay cầm binh khí.

Từ Thiên Hoằng lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Tồng đà chủ Hồng Hoa Hội đã đến đây, huynh đệ mau mau tiến lên tham kiến.” Hội chúng Hồng Hoa Hội cất tiếng hoan hô như sấm động, mỗi người bước lên một bước.

Binh sĩ Kỳ Doanh và ngự lâm quân vội lắp tên vào cung, rút đao khỏi vỏ, đề phòng mọi người xông đến. Hai bên đối địch với nhau, đều đứng yên không động đậy. Lý Khả Tú lại thổi tù và, tiếng vó ngựa rộn rã nổi lên xen lẫn tiếng người hô ngựa hí, thì ra binh sĩ Kỳ Doanh và Lục Doanh đang trú phòng ở Hàng Châu cũng đến rồi. Lý Khả Tú lên ngựa chỉ huy binh mã bao vây quần hào Hồng Hoa Hội, chỉ chờ Càn Long ra lệnh là động thủ bắt người.

Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, từ từ bước tới bên một tên lính ngự lâm quân, đưa tay đón lấy cương ngựa đang nắm trong tay hắn. Tên lính này bị oai khí của chàng nhiếp phục, không tự chủ được bất giác giao cương ngựa. Trần Gia Lạc nhảy lên ngựa, lấy trong người ra một đóa hoa hồng cài lên ngực. Đóa hoa này to bằng miệng chén, kết bằng chỉ vàng và vải nhung, lại dùng bảo thạch khảm lên, sáng lấp láng dưới ánh đuốc. Đây chính là phù hiệu tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, giá trị như soái kỳ trong quân đội vậy. Hội chúng Hồng Hoa Hội chưa từng gặp mặt đại thủ lĩnh, người nào cũng phấn chấn hẳn lên, cúi mình thi lễ, hoan hô như sấm động.

Kỳ Doanh và Lục Doanh vốn đang xếp hàng tể chỉnh, đột nhiên có một số binh lính bỏ hàng ngũ chạy ra. Đám quân này chạy đến trước mặt Trần Gia Lạc, bắt chéo tay trước ngực, khom lưng thi hành đại lễ bái kiến tổng đà chủ. Trần Gia Lạc chắp tay đáp lễ.

Đám quân phía trước thi lễ xong chạy về đội ngũ, lại có một đám khác phía sau chạy ra thi lễ. Nhóm này rút về nhóm kia lại đến, hồi lâu mới hết. Thì ra thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, nhiều binh sĩ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh cũng nhập hội rồi. Số người Hán trong Kỳ Doanh và Lục Doanh không phải là ít.

Càn Long thấy binh sĩ của mình chạy ra thi lễ với Trần Gia Lạc, không khỏi giật mình kinh hãi. Nếu đêm nay động võ, y chỉ có thể dựa vào mấy doanh ngự lâm quân hộ giá đến đây, nhưng trong đó chưa chắc không có đệ tử Hồng Hoa Hội. Dù sao thì cũng không nắm chắc phần thắng, mà bản thân mình lại đang ở trong hiểm địa, nên rút lui ổn thỏa mới là thượng sách.

Y bèn nhìn Lý Khả Tú, lạnh nhạt nói: “Ngươi dạy lính tốt quá nhỉ?”

Lý Khả Tú đang kinh hãi ngẩn ngơ, nghe Càn Long mắng bèn lật đật nhảy xuống ngựa, quì mọp dưới đất vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Thần đáng chết, thần đáng chết!”

Càn Long nói: “Bảo chúng lùi lại đi.”

Lý Khả Tú dạ dạ, rồi dứng lên lớn tiếng ra lệnh cho binh lính lùi ra hết.

Từ Thiên Hoằng thấy thân binh rút lui bèn hô lớn: “Các vị huynh đệ! Mọi người đã mệt mỏi rồi, hãy trở về đi!”

Hội chúng Hồng Hoa Hội đồng thanh đáp: “Tổng đà chủ, các vị đương gia! Xin tạm biệt!” Tiếng hô như sấm sét, đứng bên bờ hồ cũng thấy đầu người nhấp nhô tản ra khắp bốn phương tám hướng.

Càn Long từ nhỏ đã được phụ vương là Ung Chính giáo dục văn tài võ lược, có thể gọi là nhân tài số một trong hoàng tộc. Y rất hâm mộ Thái Tông Thái Tổ của mình năm xưa đông chinh tây phạt, tấn công thành trì chiếm đoạt đất đai. Hai vị tiên đế đều từng mạo hiểm thân chinh. Quân đội Mãn Châu chia làm bát kỳ, thống binh của mỗi kỳ đều là thân vương, quận vương hay bối lặc. Thống binh ra trận mà lùi bước thì bị cách chức ngay, binh mã bốn kỳ chia cho bảy kỳ còn lại. Vì thế người nào cũng cố gắng đốc thúc chỉ huy, đánh đâu thắng đó.

Từ khi Càn Long đăng quang đến nay, trong bờ ngoài cõi đều được bình yên, nên y không có đất dụng võ để tỏ chí anh hùng. Hôm nay nghe Trần Gia Lạc mời mình thưởng trăng uống rượu giữa hồ, y nghĩ năm xưa Thái Tổ Thái Tông từng múa đao xông trận giữa chốn thiên binh vạn mã, chẳng lẽ mình không dám mạo hiểm đôi chút hay sao. Nào ngờ đêm nay làm gì cũng bị người ta khắc chế.

May mà Càn Long rất hiểu đại thể, biết rằng không nhịn được viện nhỏ thì sẽ hư việc lớn. Y bèn vẫy tay nói với Trần Gia Lạc: “Cuộc du ngoạn trên hồ hôm nay quả là khoái hoạt. Tưởng đã thỏa mãn lắm rồi, đa tạ hiền chủ nhân nhiệt tình thết khách. Bây giờ xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nói xong, y quay về tuần phủ nha môn, binh tướng vây quanh bảo vệ.

* * *

Trần Gia Lạc lớn tiếng cười ha hả, trở xuống thuyền say sưa một bữa với quần hùng.

Đêm nay Hồng Hoa Hội đánh tơi tả bọn thị vệ triều đình, cuối cùng Từ Thiên Hoằng và Mã Thiện Quân bố trí lại càng toàn mỹ, hoàng đế nắm trọng binh mà vẫn không dám hạ lệnh tấn công. Tung tích Văn Thái Lai cũng rõ rồi, nên người nào cũng vui vẻ mà ăn uống.

Từ Thiên Hoằng nói với Mã Thiện Quân: “Mã đại ca! Hôm nay hoàng đế thua thiệt trở về, nhất định không chịu buông tay. Huynh nhớ dặn dò mọi huynh đệ ở Hàng Châu phải thận trọng đặc biệt, nhất là huynh đệ trong Kỳ Doanh và Lục Doanh phải đề phòng ám toán. Nếu chúng điều đại quân đến đây thì mọi người hãy lui về phòng thủ Thái Hồ.” Mã Thiện Quân gật đầu khen phải, uống cạn một chén rồi xin rút trước, dẫn con trai đi bố trí.

Trần Gia Lạc cạn chén, gõ nhịp hát mấy câu. Chàng thấy trăng tỏ rọi mặt hồ, bóng trăng lấp lánh giữa những lá sen trông như bạc vụn, đột nhiên giật mình hỏi Từ Thiên Hoằng: “Hôm nay ngày bao nhiêu rồi? Mấy hôm nay bận rộn, ngày tháng cũng quên mất.”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Hôm nay mười bảy. Chẳng phải hôm kia chúng ta đã ăn tết trung thu hay sao?”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói: “Chu lão tiền bối, đạo trưởng, các vị ca ca! Hôm nay chúng ta bận rộn suốt đêm không hề mất mặt, Văn tứ ca cũng có tin tức rồi. Bây giờ mọi người về nghỉ ngơi thôi. Này mai tại hạ có chút việc riêng, ngày mốt chúng ta sẽ bắt đầu lo cứu Tứ ca.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Tổng đà chủ có cần huynh đệ nào cùng đi không?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không cần. Chuyện này chẳng có gì nguy hiểm, ta muốn yên tĩnh một mình để suy nghĩ mấy việc.”

Mọi người đưa thuyền vào bờ rồi tạm biệt Trần Gia Lạc trở về nghỉ ngơi. Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân đã nửa tỉnh nửa say, giữa đêm bá vai nhau nghênh ngang ca hát trên phố xá Hàng Châu, tựa như nơi đây không phải là đất của triều đình vậy.

Trần Gia Lạc nhìn theo mọi người đi xa rồi nhảy lên một chiếc thuyền con. Chàng nhẹ khuấy mái chèo cho thuyền từ từ lướt trên mặt hồ sáng như gương. Ra đến giữa hồ, chàng dừng chèo rồi ngơ ngẩn nhìn trăng, bất giác tuôn đôi dòng lệ. Thì ra ngày mai đã là mười tám tháng tám, sinh nhật của Từ Thị, mẫu thân chàng.

Mười năm trước chàng rời nhà ra đi, bây giờ trở về Giang Nam thì mẹ đã mất rồi. Từ nay âm dương cách trở, nhớ đến nụ cười và vẻ mặt hiền từ của mẹ, chàng không nén nổi bi ai. Vừa rồi nghe Từ Thiên Hoằng nhắc đến ngày tháng, chàng cố nhẫn nại. Bây giờ mọi người đi hết, Trần Gia Lạc mới cho phép mình buông tiếng khóc.

Xen giữa tiếng than khóc bi ai, đột nhiên truyền đến tiếng cười khe khẽ dịu dàng. Trần Gia Lạc lập tức ngưng khóc, quay đầu nhìn lại thấy một chiếc thuyền con đang từ từ chèo tới. Dưới ánh trăng thấy rõ một người đứng ở lái thuyền, mặc trường bào xám nhạt, chắp tay thi lễ: “Trần công tử ở đây ngắm trăng một mình đấy ư?”

Trần Gia Lạc nhận ra anh chàng tuấn tú này là đồ đệ của Lục Phi Thanh, vừa rồi còn đứng sau lưng Lý Khả Tú. Chàng không biết y một mình đến đây có việc gì, liền lau nước mắt, chắp tay trả lễ: “Lý huynh tìm ta có việc gì không?”

Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng tung người lên, đáp xuống mũi thuyền Trần Gia Lạc rồi mỉm cười nói: “Có tin tức của Kim Địch Tú Tài. Huynh muốn biết không?”

Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi nói: “Mời huynh ngồi đây nói chuyện.” Lý Nguyên Chỉ mỉm cười ngồi xuống, đưa tay khuấy nhẹ mặt hồ, làm vỡ vụn bóng trăng trong.

Trần Gia Lạc hỏi: “Huynh đã gặp Dư huynh đệ của ta hay sao? Xin hỏi huynh ấy đang ở đâu?”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Dĩ nhiên là ta biết, nhưng ta lại không muốn nói với huynh.”

Trần Gia Lạc lại ngẩn ra, thầm nghĩ: “Thằng lỏi này thật là kỳ lạ, nói chuyện cứ như con gái làm điệu vậy.” Bỗng dưng trước mắt chàng lại hiện lên hình ảnh Lý Nguyên Chỉ quàng vai Hoắc Thanh Đồng mà thân thiết cười đùa. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy chán ghét người này, cảm giác khó mà diễn tả được.

Lý Nguyên Chỉ nghịch nước một lúc rồi giơ bàn tay ướt đẫm lên trời. Dưới ánh trăng nàng thấy Trần Gia Lạc khóe mắt đỏ hoe, má vương dấu lệ, bèn ngạc nhiên hỏi: “Úi chà! Huynh mới khóc hay sao? Ta vừa nghe thấy tiếng khóc, thì ra là huynh…”

Trần Gia Lạc quay mặt đi, không lý gì đến nàng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy mềm lòng, bèn dịu dàng nói: “Có phải huynh đang lo lắng cho Tứ ca và Thập Tứ đệ hay không? Huynh đừng buồn nữa, ta có thể nói với huynh là hai người đó còn sống đàng hoàng.”

Trần Gia Lạc muốn hỏi tỉ mỉ, nhưng nghe nàng nói chuyện bằng giọng khuyên dỗ trẻ nít, bèn tức giận nghĩ: “Dù ngươi không báo tin, chúng ta vẫn có thể điều tra được.” Chàng im lặng, không lên tiếng.

Lý Nguyên Chỉ lại hỏi: “Sư phụ của ta đâu? Ông ấy cũng đến Hàng Châu rồi phải không?”

Trần Gia Lạc hỏi: “Sao? Lục lão tiền bối không cùng đi với huynh hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ đáp: “Đúng thế. Sau đêm đại loạn ở bến Hoàng Hà, ta không gặp lại sư phụ nữa.”

Trần Gia Lạc nói: “Lục lão tiền bối võ công trác tuyệt, chắc chắn không gặp sơ suất gì đâu. Huynh cứ yên tâm đi.”

Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Hồng Hoa Hội của các vị thế lực lớn, tại sao không phái người đi tìm sư phụ ta?”

Trần Gia Lạc nghe nàng càng nói càng vô lễ, không khỏi bực mình. Nhưng dù sao chàng vẫn dày công phu hàm dưỡng, bèn đáp: “Lý đại ca nói phải. Ngày mai ta sẽ cử người đi thám thính.”

Hồi lâu Lý Nguyên Chỉ mới nói: “Ta nghe Dư sư ca nói võ công của huynh là vô địch, ta không tin. Huynh ấy còn nói, huynh có thể làm sư phụ của ta được. Chẳng lẽ võ công của huynh còn cao hơn cả sư phụ của ta hay sao?”

Trần Gia Lạc nghe anh chàng này nói chuyện không biết nặng nhẹ ra sao, bèn mỉm cười đáp: “Lục lão tiền bối là cao thủ trên đời. Giả tỉ ta muốn bái ông ấy làm sư phụ, lão nhân gia chưa chắc đã chịu thu nhận. Đồ đệ ông ấy nhất định phải có tư chất cực tốt.”

Lý Nguyên Chỉ cười: “Úi chà! Huynh đừng nịnh bợ trước mặt người ta như vậy nữa. Vừa rồi ta có thấy huynh ném mấy chung rượu, nội kình rất tốt. Nhưng không hiểu sao người Hồng Hoa Hội lại phục tùng huynh sát đất, cung kính hơn cả phụ thân. Điểm này thì ta có phần không phục.”

Trần Gia Lạc khẽ hừ một tiếng, nghĩ bụng: “Muốn được người khác kính phục, không chỉ dựa vào võ công mà được. Điểm này mà ngươi không hiểu, thì ta chẳng cần nói hiều với ngươi cho tốn hơi.” Chàng thấy anh chàng này vừa ấu trĩ vừa vô lễ, không biết đối phó cách nào bèn nói: “Trời sắp sáng rồi, ta phải lên bờ. Xin tạm biệt!”

Nói xong chàng đưa mái chèo lên, ra vẻ đợi nàng nhảy khỏi thuyền mình. Lý Nguyên Chỉ bất mãn nói: “Ai phục huynh thì phục, nhưng huynh không nên kiêu ngạo với ta như thế.”

Trần Gia Lạc nghe câu này, nộ khí muốn nổi lên nhưng chàng lập tức nghĩ lại, mình đang lãnh đạo quần hào, là người đứng đầu Hồng Hoa Hội, không thể tùy tiện giận dữ được. Tên họ Lý này nhỏ tuổi hơn mình, bây giờ lại không có người thứ ba ở đây làm chứng. Nếu mình nặng tay sẽ bị trách là lấy lớn hiếp nhỏ, huống chi sư phụ của y lại có tình sâu nghĩa nặng với bản hội. Chàng nể mặt Lục Phi Thanh, bèn nén giận đưa mái chèo lên chèo thuyền.

Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ quen được người ta chiều chuộng, thấy mặt Trần Gia Lạc hầm hầm với mình cũng không khỏi tức tối. Nhưng nàng vẫn ngồi yên trên mũi thuyền, nhất thời không biết phải làm gì.

Lúc thuyền đến gần Tam Đàn Ấn Nguyệt, Lý Nguyên Chỉ cười nhạt nói: “Huynh không cần ra vẻ ta đây như thế. Nếu huynh thật sự có bản lĩnh thì đâu có trốn ở trong này mà khóc?”

Trần Gia Lạc vẫn mặc kệ. Lý Nguyên Chỉ lớn tiếng nói: “Này! Ta đang nói chuyện với huynh! Chẳng lẽ huynh bị điếc rồi hay sao?”

Trần Gia Lạc thở hắt ra một hơi, đảo mắt nhìn nàng nghĩ bụng: “Thằng lõi này không biết tốt xấu gì cả. Ngay cả sư phụ ngươi cũng phải giữ lễ với ta, mà ngươi lại dám quát nạt ta như vậy hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ tiếp tục gắt gỏng: “Người ta có lòng tốt đến đây báo tin cho huynh biết, thế mà huynh lại mặc kệ người ta. Không có ta giúp đỡ, xem thử huynh có cứu được Văn tứ ca hay không?”

Trần Gia Lạc chau mày, rồi trề môi ra nói: “Chẳng lẽ huynh lại có bản lãnh đến thế?”

Lý Nguyên Chỉ nói: “Huynh xem thường người khác quá lắm. Thế thì chúng ta phải tỉ thí một phen.” Nàng nói dứt câu, lập tức xoay tay rút trường kiếm đeo sau lưng ra.

Trần Gia Lạc nể mặt Lục Phi Thanh nên mới nhẫn nhịn được tới lúc này. Bây giờ thấy đối phương đột nhiên rút kiếm, chàng lại phải thay đổi suy nghĩ. Vừa rồi chàng thấy người này đứng hầu phía sau Càn Long, ra vẻ thân mật với đề đốc thống binh. Chẳng lẽ y là địch hay sao?

Trong lòng Trần Gia Lạc bỗng phát sinh cảm giác khó chịu khôn tả. Chàng tự trách mình, tại sao bình thường khí độ ung dung mà lại tự dưng chán ghét người này như thế. Nhìn y mi thanh mục tú, dung nhan tuấn mã, nhất thời chàng không biết rốt cuộc đây là nhân vật thế nào, bèn hỏi: “Vừa rồi thấy huynh đứng hầu sau lưng hoàng đế, là giả bộ đầu hàng hay đã có quan chức trong triều?”

Lý Nguyên Chỉ đáp: “Cả hai đều không phải.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Chẳng lẽ trong bọn chó săn của triều đình lại có thân nhân của huynh?”

Lý Nguyên Chỉ mắng cha mình là chó săn, lập tức nổi giận phóng kiếm đâm ra, quát lên: “Tiểu tử kia! Tại sao ngươi cứ mở miệng là thóa mạ người ta bừa bãi?”

Trần Gia Lạc thấy đối phương động thủ thật sự, nghĩ thầm: “Quả nhiên tên này có quan hệ với Thanh triều.” Chàng không trách sáo nữa, hét lên: “Hay lắm! Vụ này ta phải đi hỏi sư phụ của ngươi.”

Trần Gia Lạc nghiêng người né kiếm, vừa thẳng người dậy thì Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm đâm thẳng vào ngực. Trần Gia Lạc không thèm tránh né, đợi mũi kiếm chạm đến ngực áo mới đột ngột ép khí thổi ra, lồng ngực thõm vào ba tấc. Chiêu kiếm của Lý Nguyên Chỉ đã hết đà, nên chỉ cách ba tấc mà mũi kiếm không sao đâm thủng ngực chàng nữa. Sợ bị trả đòn, nàng vội vã nhún chân nhảy ngược ra sau, đứng trên một bệ đá của Tam Đàn Ấn Nguyệt. Bệ đá đó cách thuyền khá xa, lại nhẵn nhụi trơn trượt mà nàng vẫn đứng được vững vàng.

Trần Gia Lạc định dùng tay không tỉ thí, nhưng thấy nàng thi triển thượng thừa khinh công của phái Võ Đang nên không dám khinh địch. Chàng từng quyết đấu với Trương Triệu Phong, biết võ công của phái Võ Đang lợi hại, bèn tung người lên bẻ một cành liễu rồi nhảy tới đứng trên một bệ đá.

Lý Nguyên Chỉ thấy thân pháp của chàng cực kỳ nhanh chóng, không khỏi âm thầm kinh hãi. Nhưng đến nước này, nàng chỉ còn cách nhắm mắt đánh liều một trận, bèn nói yếu xìu: “Xem chiêu!” Nàng đưa tả chưởng hộ thân, tung người bay tới bệ đá Trần Gia Lạc đang đứng, kiếm nghiêng một bên đâm vào tay trái của chàng.

Tam Đàn Ấn Nguyệt là ba cái bệ đá nhỏ trên mặt nước Tây Hồ. Người Hàng Châu có tập tục hễ đêm trung thu là lấy giấy ngũ sắc bịt những cái lỗ trên bệ đá lại. Bây giờ trung thu đã qua nhưng giấy dán vẫn còn. Ánh trăng rọi qua lỗ trên bệ đá chiếu xuống mặt hồ, bị đổi màu ngũ sắc tạo nên một vẻ đẹp kỳ lạ, dường như dưới hồ này lại còn hồ khác. Bây giờ lại thêm một bóng xám tro bay lượn trên mặt hồ như chim, kiếm quang nháy động cũng in bóng xuống đáy hồ đầy màu sắc.

Trần Gia Lạc đảo những tránh né, đưa cành liễu phất vào sau lưng đối thủ. Lý Nguyên Chỉ ra chiêu không trúng, chân phải đạp lên bệ đá, dùng thân pháp Phượng Đỉnh Đầu né cành liễu đang đánh tới, rồi hất kiếm đâm chéo lên. Sau đó nàng nhảy qua một cái bệ khác, sử chiêu Ngọc Đới Vi Yêu, trường kiếm xoay quanh mình liên hồi bất tận. Đây chính là một chiêu tinh diệu trong Nhu Vân kiếm pháp.

Lý Nguyên Chỉ vừa xoay kiếm vừa nhảy lên phía trước, nghĩ bụng: “Phen này chắc chắn hắn bị ta ép nhảy qua bệ đá bên trái.” Nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lùi. Đợi nàng nhảy tới, thân thể chàng đột nhiên bắn lên cao, lộn nửa vòng trên không, đầu chúc xuống dưới chân chĩa lên trời, chụp cành dương liễu xuống đầu Lý Nguyên Chỉ.

Lý Nguyên Chỉ đưa kiếm lên đỡ, nào ngờ cành dương liễu lướt theo sống kiếm mà lượn xuống, vẩy trúng mặt nàng một cái. Lý Nguyên Chỉ trúng đòn, không đau lắm nhưng hổ thẹn đỏ mặt lên. Nàng không kịp nghĩ gì, cúi đầu nhảy qua bệ đá tay trái. Khi nàng đứng vững, nhìn qua thấy Trần Gia Lạc đã đáp xuống rồi, trường bào phất phơ trong gió, đung đưa cành liễu nhẹ nhàng, dáng vẻ thật là tiêu sái.

Lý Nguyên Chỉ tức giận chuyển kiếm qua tay trái, tay phải lấy trong bọc ra một nhúm Phù Dung kim châm. Nàng vẫy tay ba cái, kim châm chia làm ba đường trên dưới bắn tới Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc đang đứng trên bệ đá nhỏ, không có chỗ tránh né. Chàng vội tung cả hai chân lăn thân mình ngã ra khoảng không, ngang bằng với mặt hồ. Tay trái cũng đưa thỏng ra, chỉ còn tay phải ấn lên đỉnh bệ đá. Ba làn kim châm bay veo véo ngang qua, rồi rơi hết xuống hồ.

Chàng lại vận sức vào tả chưởng, uốn người nhảy trở lên bệ đá, người không dính chút xíu nước hồ nào.

Lý Nguyên Chỉ đánh ba chiêu vẫn không ép được chàng rời khỏi bệ đá, tự hiểu mình không phải là đối thủ, bèn hô lớn: “Xin tạm biệt, hẹn ngày gặp lại.” Nàng toan chuồn vào ngôi đình nhỏ Tiểu Doanh Châu trên hồ.

Trần Gia Lạc kêu lên: “Ngươi cũng xem chiêu!” Lời chưa dứt người đã nhảy lên, cành liểu vẫy lên mặt nàng. Lý Nguyên Chỉ đã nếm đòn này, vội vung kiếm gạt ra trước mặt, muốn chặt đứt cành liểu của chàng. Nào ngờ cành liễu bỗng biến chiêu, quấn lấy lưỡi kiếm. Nàng cảm thấy một luồng lực đạo muốn giật kiếm đi, đồng thời tay trái của đối phương ấn tới trước ngực của mình. Lý Nguyên Chỉ nghe ngực nóng ran, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, chỉ còn cách buông chuôi kiếm, dùng tả chưỡng đỡ lấy tay trái đối phương, mượn sức nhảy qua bệ đá bên tay phải. Trường kiếm của nàng bay tuốt lên trời, khi rơi xuống, Trần Gia Lạc giơ tay đón lấy.

Lý Nguyên Chỉ hổ thẹn mắng luôn: “Đồ vô liêm sĩ, dám dùng chiêu thức hạ lưu!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra hỏi lại: “Ngươi nói bậy! Hạ lưu ở chỗ nào?”

Lý Nguyên Chỉ cũng hiểu đối phương không biết mình là nữ nhân, chiêu đó chỉ là vô tình. Nàng không nói gì nữa, lập tức đề khí tung người nhảy qua đình Tiểu Doanh Châu. Thân pháp của Trần Gia Lạc nhanh hơn nhiều, cũng tung người bay theo.

Lý Nguyên Chỉ tới nơi, nhìn thấy Trần Gia Lạc đang đứng trước mặt, hai tay cầm trường kiếm đưa qua. Nàng bĩu môi nhận lấy, tra kiếm vào vỏ rồi quay đầu đi ngay.

Trần Gia Lạc tỉ thí chiếm được thượng phong, lẽ ra phải thấy vui vẻ mới đúng. Nhưng sao đột nhiên trong lòng chàng lại nổi lên bóng dáng Hoắc Thanh Đồng.

Lúc này trời đã gần sáng. Trần Gia Lạc tháo đóa hoa trên ngực cất vào trong bọc, từ từ đi về phía đông thành. Cửa thành đã mở, người lính giữ cửa nhìn Trần Gia Lạc một cái rồi bắt chéo tay trước ngực khom mình thi lễ. Thì ra y là người của Hồng Hoa Hội.

Trần Gia Lạc gật đầu một cái, đi ra khỏi cửa thành. Người lính Thanh cất tiếng hỏi: “Tổng đà chủ ra khỏi thành, có cần ngựa hay không?”

Trần Gia Lạc đáp: “Thế thì hay quá.”

Người lính cả mừng chạy đi, chỉ chốc lát đã dẫn một con ngựa tốt đến, lại còn dẫn theo hai võ quan cấp thấp. Họ khom mình thi lễ với Trần Gia Lạc, có cơ hội phục vụ tổng đà chủ là cảm thấy muôn phần vinh dự.

Trần Gia Lạc lên ngựa chạy đi. Nhờ ngựa tốt nên ba mươi mấy dặm đường mà chàng chỉ tốn hai giờ, giờ tỵ đã đến An Túc Môn, cửa tây của thành Hải Ninh.

Mười năm chàng mới trở về mái nhà xưa, thế mà cảnh sắc không có gì thay đổi, vẫn hệt như hồi chàng còn nhỏ leo lên tường thành đùa giởn. Ngay cả những ngọn cỏ vẫn xanh như thế, cứ như những ngọn cỏ chàng đã nghịch ngợm khi xưa.

Chàng sợ gặp phải người quen, bèn quay ngựa đi ra ngoại thành phía bắc chừng năm sáu dặm đường. Chàng ghé vào một nông gia để nghĩ ngơi, ăn cơm bữa trưa, ngủ một giấc ngon lành, đợi khuya sẽ vào thành.

Vợ chồng nông gia đó thấy chàng ăn mặc như công tử mà lại nói tiếng địa phương, nên tiếp đãi rất ân cần, xế chiều còn làm thịt gà khoản đãi. Trần Gia Lạc hỏi tình hình mấy năm nay, người nông dân ấy nói: “Ba năm nay hoàng thượng đã hạ chỉ giảm thuế cho toàn huyện Hải Ninh, nói là nể mặt Trần Các Lão.”

Phụ thân Trần Gia Lạc đã tạ thế nhiều năm. Chàng nghĩ mãi không ra tại sao hoàng đế đặc biệt ân sủng quê hương như thế. Ăn cơm tối xong, chàng để lại mấy lạng bạc, cảm tạ nông gia rồi lên ngựa vào thành.

Chàng đến cửa nam, ngồi trên con đê chắn sóng nhìn ra biển cả. Nhớ lại ngày xưa nhiều lần được mẹ dẫn ra đây ngắm thủy triều, khóe mắt chàng không khỏi rưng rưng. Chàng ở Hồi Cương mười năm, ngày nào cũng thấy cát vàng vô tận, bây giờ gặp lại thủy triều và sóng biển, trong lòng sảng khoái vô cùng.

Trần Gia Lạc ngồi hứng gió nhìn ra biển cả, mọi kỷ niệm hồi còn niên thiếu dần dần hiện lại trong trí. Thấy trời đã tối dần, sóng biển trắng xóa đã mơ hồ, chàng mới cột ngựa vào một cây liễu bên đê chắn sóng, rồi rảo bước nhắm hướng tây bắc, về nhà mình.

Mới đến cửa nhà, Trần Gia Lạc đã thấy có chỗ khác lạ. Dinh thự này vốn có tên là Ngẫu Viên, bây giờ tấm biển cũ đã bị tháo ra, thay vào biển mới có viết ba chữ An Lạc Viên, bút pháp chính là ngự bút của Càn Long. Bên cạnh nhà cũ lại có nhiều tòa mới, đình đài lầu các không sao đếm xuẻ. Chàng ngạc nhiên không hiểu, bèn nhảy vào trong tường.

Chàng đi vào trong, thấy ngay một cái đình, trong đình có dựng một tấm bia đá lớn. Dưới ánh trăng, chàng thấy tấm bia này rất mới, khắc sáu bài thơ ngũ ngôn, cũng là bút pháp của Càn Long. Mấy bài thơ này ngụ ý quan tâm đến chuyện an nguy sướng khổ của bá tánh, ca tụng công danh sự nghiệp của Trần gia. Trần Gia Lạc thấy thơ tuy không hay lắm, nhưng đầy vẻ tôn trọng gia đình mình, nên không khỏi vui mừng đôi chút.

Theo một hành lang dài đi về phía tây, qua khỏi ba khoảnh sân nhỏ mới đến Hoài Bích Đường. Trần Gia Lạc thấy trong sảnh có treo một tấm biển mới, ghi ba chữ Ái Nhật Đường, cũng do Càn Long viết. Chàng nghĩ: “Hai chữ Ái Nhật thường để chỉ sự hiếu thảo với cha mẹ, nguồn gốc từ lời người xưa cảm thán ngày tháng phụng sự cha mẹ không được lâu dài, đoàn tụ thêm nmột gày là mừng rỡ một ngày, vì thế ngày nào cũng nên quyến luyến. Hai chữ này nếu do ta viết mới hợp lý, sao hoàng đế lại đích thân viết ở chỗ này? Chẳng lẽ học vấn của y lại mơ hồ đến thế?”

Ra khỏi sảnh đường này, chàng qua Cửu Khúc Kiều đi về phía bắc, vào một rừng trúc râm mát mới đến Huân Hương Quán, nơi mẫu thân cư ngụ khi xưa. Trước quán cũng có một tấm biển mới, ngự bút ghi ba chữ Xuân Huy Đường. Chàng thấy trong lòng chua xót, ngồi bên hòn non bộ thầm nghĩ: “Đây là chữ trong bài thơ Du Tử của Mạnh Giao: Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy.” Bài thơ này thật đúng tâm sự, chàng nhìn vào ba chữ lại càng thương nhớ mẫu thân, lệ lại tiếp tục rơi.

Đột nhiên chàng giật mình một cái, nhảy chồm dậy, trong lòng nghĩ: “Hai chữ Xuân Huy là điển cố chỉ đứa con lưu lạc cảm niệm mẫu ân, ngoài ra không còn ý nghĩa gì khác. Tại sao hoàng đế lại treo tấm bia này trên lầu của mẹ mình? Càn Long không thể hồ đồ bừa bãi đến thế. Chẳng lẽ y đoán rằng mình sẽ về tảo mộ, nên cố ý viết sẵn mấy tấm biển để lấy lòng hay sao?”

Trần Gia Lạc suy nghĩ hồi lâu vẫn chưa hiểu được dụng ý của Càn Long, bèn nhẹ nhàng bước lên lầu. Chàng nép vào một góc, thấy trong phòng không có ai, bố trí vẫn hệt như khi mẹ mình còn sống. Cái tủ lớn bằng gỗ đỏ, giường cham hoa văn, rương viền vàng đựng quần áo vẫn để ở chỗ mà mười mấy năm xưa chàng từng thấy. Trên bàn vẫn có một cây nến đang thắp sáng. Đột nhiên có tiếng bước chân ở phòng bên, rồi có người đi vào.

Đó là một nữ nhân lớn tuổi. Chàng thấy sau lưng, nhịn không nổi chỉ muốn gọi to. Đó là một cô nha hoàn đã theo mẹ chàng từ thời khuê nữ, tên là Thụy Phương. Bà đã nuôi nấng Trần Gia Lạc tử nhỏ cho đến mười lăm tuổi, là người thân thiết nhất trong số gia nhân.

Thụy Phương vào phòng, cầm giẻ chậm rãi lau chùi đồ vật trong phòng. Bà ngồi trên ghế ngơ ngẫn một hồi, rồi lấy dưới gối ra một cái nón trẻ con, vừa mân mê vừa thở dài thở ngắn. Đó là một cái nón đoạn thêu hoa, có đính một miếng ngọc xanh, quanh miếng ngọc là ba hạt châu rất lớn. Đây chính là cái nón mà Trần Gia Lạc đội hồi còn nhỏ. Chàng không nhẫn nại được nữa, chạy ra giữa phòng ôm lấy bà ta.

Thụy Phương kinh hãi định la lên. Trần Gia Lạc vội đưa tay bịt miệng bà, khẽ nói: “Con đây, dì đừng la.”

Thụy Phương nhìn chàng, hoảng sợ đến mức không nói được tiếng nào. Trần Gia Lạc rời nhà từ lúc mười lăm tuổi, mười năm không gặp tướng mạo đã khác nhiều. Hơn nữa, đối với nữ nhân đã ngoại ngũ tuần thì mười năm chỉ chớp mắt là đã qua.

Trần Gia Lạc lại nói: “Dì Thụy Con là Tam Quan đây, dì không nhận ra hay sao?”

Thụy Phương mơ hồ hỏi lại: “Ngươi… ngươi là Tam Quan? Công tử về rồi đấy ư?”

Trần Gia Lạc mỉm cười gật đầu. Thần trí của Thụy Phương dần dần tỉnh táo lại, hình như bà đã nhận ra trên mặt Trần Gia Lạc những nét của cậu bé Tam Quan nghịch ngợm khi xưa. Đột nhiên bà đưa hai tay ra ôm choàng lấy chàng, khóa òa lên.

Trần Gia Lạc vội nắm tay bà nói: “Dì đừng khóc nữa, đừng để người khác biết con đã về đây.”

Thụy Phương Đáp: “Không sao đâu. Họ đi qua tân viên hết rồi, ở đây không còn ai cả.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Tân viên là sao?”

Thụy Phương đáp: “Tân viên mới xây nửa năm nay, tốn không biết bao nhiêu vàng bạc. Nô tì cũng không biết xây để làm gì.”

Trần Gia Lạc biết bà không hiểu được những chuyện như vậy, bèn hỏi: “Má má con bị bệnh ra sao mà phải từ trần?”

Thụy Phương lấy khăn ra lau mắt rồi kể: “Hôm ấy không biết tại sao tiểu thư rầu rĩ vô cùng, ba ngày không ăn không uống rồi ngã bệnh, mười mấy ngày sau thì qua đời.” Nói đến đây bà khóc thút thít. Những tiểu thư nhà giàu Ở Giang Nam khi xuất giá đều đem theo mấy ả nha hoàn về nhà chồng. Mặc dù theo thời gian tiểu thư trở thành thái thái, rồi bà bà, nhưng những nha hoàn đó vẫn gọi chủ nhân của mình là tiểu thư như thời con gái.

Bà vừa khóc vừa nói: “Lúc tiểu thư qua đời vẫn nhớ đến công tử, luôn miệng hỏi: Tam Quan đâu? Tam Quan chưa về hay sao? Ta muốn gặp Tam Quan! Tiểu thư gọi hoài như vậy hai ngày trước khi chết.”

Trần Gia Lạc cũng thút thít nói: “Ta thật là bất hiếu! Mẫu thân sắp chết muốn gặp ta lần cuối mà cũng không được gặp!” Chàng lại hỏi: “Mộ phần của má má ở đâu?”

Thụy Phương đáp: “Ở phía sau tòa Hải Thần Miếu.”

Trần Gia Lạc hỏi: “Hải Thần Miếu?”

Thụy Phương đáp: “Cũng mới xây mùa xuân năm nay, là ngôi miếu rất lớn ở cạnh đê chắn sóng.”

Trần Gia Lạc nói: “Dì Thụy, con phải qua đó một chút.”

Thụy Phương vội cản: “Không… không được.” Nhưng chàng đã bay ra khỏi cửa sổ rồi.

Đường từ nhà đến đê chắn sóng là con đường mà chàng quen thuộc nhất trên đời, nhắm mắt cũng chạy tới nơi. Thấy ở phía tây có mấy tòa lầu cao ngất trời mà hồi nhỏ mình chưa từng thấy, chàng đoán chắc đó là Hải Thần Miếu, bèn rảo bước đến gần.

Đột nhiên nghe tiếng bước chân rất nhẹ, chàng vội lùi lại, núp mình sau một gốc liễu. Mỗi bên miếu có hai đại hán áo đen bước ra, bốn người gặp nhau trước cửa miếu bèn đưa tay chào nhau, nhưng chân vẫn không dừng lại, tiếp tục tuần tra quanh miếu. Trần Gia Lạc rất ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Hải Ninh chỉ là một huyện ven biển nhỏ xíu. Bốn người này võ công không tệ, không hiểu chúng đến đây âm mưu chuyện gì?”

Chàng đang muốn theo dõi thì lại nghe tiếng bước, bốn người nữa đi vòng từ sau miếu ra ngoài, phục sức giống hệt bốn người vừa rồi. Chàng càng kinh ngạc hơn, đợi bốn người này đi chéo qua nhau rồi đề khí nhảy lên, nằm trên đỉnh tường thò đầu nhìn xuống.

Khắp nơi tổng cộng có hơn bốn chục người, chia từng tốp bốn người đi vòng quanh Hải Thần Miếu tuần tra chăm chú, hoàn toàn không lên tiếng. Võ công của chúng đều không phải tầm thường, cứ như giáo phái nào đó tiến hành tế lễ, hay một nhóm hải tặc hay bang hội gì đó đang tụ tập chia chác, sợ người ta phát hiện nêm mới tuần tra nghiêm mật như thế. Nếu Trần Gia Lạc khinh công không cao, thân thủ không nhanh thì chàng đã bị chúng phát giác rồi. Lòng hiếu kỳ nổi lên, chàng nhẹ nhàng nhảy xuống nấp vào mé tường, tiến lần vào trong đại điện xem xét.

Phía đông điện thờ Việt vương Câu Tiễn, phía tây điện thờ hai vị trung thần Ngũ Tử Tư và Văn Chủng. Chàng vào trung điện, thấy khói nhang đang tỏa, đèn nến đang thắp sáng trưng, tự hỏi không biết ở đây thờ vị thần nào. Khi ngẩn đầu lên, Trần Gia Lạc bất giác giật bắn người.

Thì ra tượng thần ở giữa điện có vẻ mặt thanh tú, cằm lưa thưa râu, giống hệt phụ thân chàng Trần Các Lão lúc sinh tiền. Chàng càng nghĩ càng thấy lạ, nhưng nghe ngoài điện có tiếng bước chân nên vội ẩn mình vào phía sau một cái chuông lớn. Lát sau thì có bốn người đi vào trong điện. Chúng cũng mặc đồ đen, tay cầm binh khí, rảo một vòng trong điện rồi trở ra ngoài.

Bên trái Trần Gia Lạc có một cánh cửa đang mở. Chàng rón rén tới đó nhìn ra ngoài, thấy ngoài cửa là một con đường lát đá trắng rất dài, chạy thẳng ra xa tít trông rất hùng vĩ. Trần Gia Lạc nghĩ: “Mình mà đi trên con con đường đá trắng này chắc chắc sẽ bị phát giác.” Chàng bèn nhảy lên mái của hành lang, chạy một hơi đến đầu bên kia, nhìn qua nhìn lại thấy bên dưới không một ai, liền nhẹ nhàng nhảy xuống.

Trước mặt lại là một tòa thần điện nữa, trước cửa ghi ba chữ Thiên Hậu Cung. Cửa điện không đóng, chàng liền đi vào để chiêm ngưỡng thần tượng. Phen này chàng còn kinh hãi gấp mấy lần vừa rồi. Tượng Thiên hậu này khuôn mặt tròn trịa, mắt hơi xếch lên, giống hệt mẫu thân của mình là Từ Thị.

Trần Gia Lạc càng lúc càng mơ mịt, như người bị rơi vào giữa năm dặm sương mù. Chàng quay lưng chạy ra ngoài, định đi tìm mộ phần của mẹ mình, nhưng lại thấy phía sau Thiên Hậu Cung này có một dãy liều bằng vải vàng, nối nhau liên miên bất tận. Chàng bèn ẩn mình vào góc tường nhìn chăm chú ra ngoài, nhìn đâu cũng thấy bọn đại hán áo đen đang tuần tra quanh những căn liều màu vàng đó.

Đêm nay đúng là Trần Gia Lạc gặp toàn những chuyện không ngờ. Tuy bọn này cảnh giới nghiêm ngặt, nhưng chàng ỷ mình tài cao mật lớn, quyết tâm thám thính rõ ràng. Chàng nằm rạp xuống sát đất, trườn đến cửa lều, đợi hai tên áo đen vừa quay lưng lại là lập tức vạch lều ra chui vào trong.

Chàng cứ nằm sát đất không động đậy gì để nghe ngóng bên ngoài, biết mình chưa bị phát giác mới quay lại nhìn. Trong lều trống rỗng không có đồ vật gì mà cũng chẳng có ai, nhưng mặt đất đã được tu sửa chỉnh tề, một ngọn cỏ cũng không có. Dãy lều này liền sát vào nhau, gìống như một cái dãy hành lang dẫn thẳng về phía sau. Mỗi căn lều đều thắp hai ngọn đèn dầu lớn, soi sáng như ban ngày. Nhìn dọc theo hành lang, hai dãy đèn trông như hai con rồng lửa dài vô tận.

Trần Gia Lạc không khỏi mơ hồ, vừa kinh hãi vừa sợ sệt, nghĩ mãi cũng không hiểu chuyện gì. Chàng cứ từng bước từng bước đi sâu vào, như người mộng du vậy.

Bốn bề vắng lặng, chỉ đôi lúc có tiếng lửa đèn nổ lép bép. Chàng cố gắng hít thở nhẹ nhàng lấy lại dũng khí, đi được vài chục bước thì đột nhiên nghe thấy phía trước có tiếng áo quần loạt soạt, bèn vội nép sang một bên tránh né. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, chàng lại đi thêm mấy bước nữa. Dưới ánh đèn đã thấy phía trước có hai ngôi mộ rất lớn nằm sát nhau, lại có một người đang ngồi trước mộ.

Trước mỗi ngôi mộ có một tấm bia ghi chữ lớn màu đỏ. Một tấm bia viết: Hoàng Thanh thái tử thái phó, Vân Uyên Các đại học sĩ, Công bộ thượng thư Trần, Văn Cần Công, Thế Quan chi mộ. Tấm kia viết: Hoàng Thanh nhất phẩm phu nhân, Trần mẫu Từ phu nhân chi mộ.

Dưới ánh nến, Trần Gia Lạc nhìn thất rõ ràng, trong lòng đau xót, thì ra song thân mình yên nghỉ nơi này. Chàng bất kể xung quanh nguy hiểm trùng trùng, định chạy tới khóc lóc lạy một lần. Vừa bước lên một bước, thấy người đang ngồi trước mộ đột nhiên đứng dậy, Trần Gia Lạc liền dừng lại. Người kia đứng trước mộ phần ngần ngừ một lúc rồi bỗng quỳ xuống, lạy mấy cái rồi nằm luôn dưới đất không đứng dậy. Sau lưng y nhấp nhô, hình như đang khóc.

Thấy cảnh tượng này, Trần Gia Lạc không lo lắng đề phòng nữa. Người này đang khóc lạy trước mộ song thân mình, nếu không phải là thân thuộc thì cũng là học trò hay bạn cũ của phụ thân. Chàng thấy y khóc lóc bi thương, bèn nhẹ nhàng bước tới vỗ vai nói: “Thôi, đứng dậy đi.”

Người kia giật mình một cái rồi đứng bật dậy, nhưng không quay người lại, lớn tiếng hỏi: “Ai đó?”

Trần Gia Lạc đáp: “Ta cũng đến đây bái mộ.” Chàng không để ý đến người kia nữa, cứ quỳ xuống. Nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ lúc sanh tiền, chàng không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa, thút thít nói: “Gia gia! Má má! Tam Quan đến trễ rồi, không sao gặp gia gia má má được nữa.”

Người đứng bên “à” một tiếng, rảo bước toan chạy ra ngoài. Trần Gia Lạc vội đứng dậy, nhảy ngược ra sau hai bước, cản trước mặt y. Hai người vừa nhìn rõ nhau dưới ánh đèn, đều kinh hãi lùi lại.

Thì ra người đang khóc lạy trước mộ song thân Trần Gia Lạc lại là Càn Long, đương kim hoàng đế Mãn Thanh.

Càn Long lắp bắp hỏi: “Ngươi… tại sao giữa đêm tới đây?”

Trần Gia Lạc đáp: “Hôm nay là sinh nhật của mẹ ta, nên ta đến đây bái mộ. Còn huynh đài thì sao?”

Càn Long không đáp, lại hỏi: “Ngươi… ngươi là con trai của Trần Thế Quan ư?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không sai! Trong giang hồ rất nhiều người biết chuyện này, chắc huynh đài cũng biết.”

Càn Long lắc đầu: “Ta chưa từng nghe.” Thật vậy, gần đây Càn Long sủng ái đặc biệt Trần gia ở Hải Ninh, bọn triều thần dù biết tân thủ lĩnh của Hồng Hoa Hội là con út của Trần Các Lão, nhưng không tên nào dám nhắc đến. Chúng đều biết Càn Long hoàng đế hỉ nộ khó lường, mình mà nhiều chuyện chưa chắc đã có thưởng, lại không chừng mang họa rơi đầu.

Lúc này Trần Gia Lạc không đề phòng nữa, nhưng phần nghi hoặc tăng lên. Chàng nghĩ: “Ngoài kia cảnh giới nghiêm mật đến thế, thì ra là để bảo vệ hoàng đế đến đây tảo mộ. Tảo mộ giữa đêm, đường đến phần mộ lại được che kín bằng vải vàng, hiển nhiên y không muốn người ta biết. Tại sao hoàng đế lại lén lút đến đây cúng tế đại thần? Hoàng đế có thể vì sủng ái đại thần mà có ý tưởng niệm sau khi chết, nhưng chắc chắn không thể quỳ lạy khóc lóc trước mộ người ta như thế. Chuyện này thật là khó nghĩ.”

Chàng kinh nghi chưa dứt, Càn Long cũng tỉ mỉ nhìn chàng từ đầu đến chân, sắc mặt thay đổi mấy lần. Hồi lâu y mới lên tiếng: “Ngồi đây nói chuyện đi.” Hai người bèn sánh vai ngồi xuống, trước hai ngôi mộ.

Đây là lần thứ ba hai người gặp mặt. Lần đầu gặp ở Tam Thiên Trúc chùa Linh Ẩn, hai bên vừa nghi ngờ lẫn nhau vừa có ý làm quen. Lần thứ hai gặp nhau giữa hồ âm thần tranh đấu, thế thành địch thủ. Lần này gặp nhau ý thù địch đã hết. Tấm lòng thân cận tự nhiên nảy sinh.

Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc nói: “Ngươi thấy ta tế mộ giữa khuya thế này, nhất định có phần kỳ lạ. Lệnh tôn hồi sinh tiền đã có ơn với ta. Năm xưa vì chuyện tranh ngôi mà ta bị hoàng huynh âm mưu gia hại, may mà được lệnh tôn xả thân bảo vệ. Ngày hôm nay ta được ở ngôi đại bảo, công lao của lệnh tôn là lớn nhất. Sẵn dịp tuần tra phía nam, đêm nay ta đặc biệt đến đây bái mộ.”

Trần Gia Lạc bán tín bán nghi “à” một tiếng. Càn Long lại nói: “Việc này mà đồn đại ra ngoài thì rất bất tiện. Chắc ngươi cũng không muốn tiết lộ chứ?”

Trần Gia Lạc thấy y tôn kính song thân mình, rất cảm kích nên khẳng khái nói ngay: “Huynh đài cứ việc yên tâm. Tiểu đệ thề trước mộ phần phụ mẫu, việc xảy ra đêm nay quyết không nhắc với bất kỳ ai một câu một chữ.”

Càn Long biết chàng là một nhân vật thủ lĩnh võ lâm, rất trọng chữ tín, huống hồ lại thề trước mộ song thân. Y lập tức yên tâm, ra vẻ hoan hỉ.

Hai người nắm chặt tay nhau ngồi trước mồ, một người là đương kim hoàng đế chí tôn, một người là thủ lĩnh bang hội lớn nhất giang hồ. Hai người đều im lặng suy nghĩ, nhất thời không ai nói tiếng nào.

Hồi lâu, đột nhiên xa xa vọng về tiếng sấm ì ầm. Trần Gia Lạc nghe thấy trước, bèn nói: “Triều lên rồi, chúng ta đến đê chắn sóng xem nhé. Tiểu đệ đã hơn mười năm nay không thấy cảnh này.”

Càn Long nói: “Hay lắm!” Y vẫn nắm tay Trần Gia Lạc, cùng ra khỏi dãy lều.

Trần Gia Lạc nói: “Mười tám tháng tám hàng năm là ngày sóng triều lớn nhất. Mẫu thân tiểu đệ cũng sinh vào ngày đó, nên…” Chàng nói đến đây, bỗng dừng lại giữa câu.

Càn Long lộ vẻ quan tâm, hỏi ngay: “Lệnh đường ra sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Vì thế nên tên chữ của mẫu thân tiểu đệ là Triều Sinh.” Nói xong câu này, chàng hơi thấy hối hận trong lòng, nghĩ bụng: “Tại sao mình lại đem khuê danh của mẹ ra nói với hoàng đế?” Thực ra lúc đó chàng buột miệng nói ra rất tự nhiên.

Mặt hoàng đế hơi đổi sắc, nhẹ nhàng nói: “À, thì ra…” Hình như y nuốt lại nửa câu sau vào bụng, bàn tay đang nắm tay Trần Gia Lạc hơi run rẩy.

Nhìn thấy hoàng đế đi ra, bọn thị vệ đang tuần tra liền bước tới để bảo vệ. Chúng thấy bên cạnh hoàng đế lại có thêm một người, tên nào cũng kinh hãi nhưng không ai dám lên tiếng. Bạch Chấn, Trừ Viên là hai thị vệ lại càng sợ hãi. Có người chui vào trong lều mà mình không phát hiện, lỡ hắn đã mạo phạm đến thánh giá thì mình không sao thoát tội. Đến gần hơn, nhận ra người đứng bên hoàng đế lại là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội, nỗi kinh hãi này mới thật không sao lường nổi. Tên nào cũng thấm đẫm mồ hôi lạnh.

Khi thị vệ dẫn ngự mã tới, Càn Long bèn bảo Trần Gia Lạc: “Ngươi cưỡi con ngựa của ta đi.” Thị vệ vội dẫn thêm một con ngựa nữa tới, hai người cùng lên ngựa đi về phía cửa Xuân Hy Môn.

Tiêng ì ầm như sấm động càng lúc càng nghe dữ dội, liên miên bất tận. Đứng ở Xuân Hy Môn tai chỉ nghe tiếng sóng vỗ ầm ầm, nhưng đưa mắt nhìn ra biển khơi lại rất phẳng lặng. Khoảng bảy tám trượng gần bờ, mặt biển được ánh trăng chiếu mờ mờ như dát bạc.

Càn Long nhìn ra biển xuất thần, hồi lâu mới nói: “Ngươi và ta rất có duyên với nhau. Ngày mai ta quay lại Hàng Châu, ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh. Ngươi cùng đi với ta có được không? Tốt nhất là từ đây về sau ngươi hãy thường xuyên kề cận ta. Ta nhìn thấy ngươi, giống như được nhìn thấy lệnh tôn vậy.”

Trần Gia Lạc hoàn toàn không ngờ y có thể nói những lời thân thiết ôn hòa như vậy, nên nhất thời ngẩn ra không biết cách trả lời.

Càn Long lại nói: “Ngươi văn võ toàn tài, sau này làm đến chức vị như lệnh tôn không phải là khó, so với bôn ba trong giang hồ thì cao hơn gấp vạn lần.” Câu này của hoàng đế chính là hứa hẹn sẽ phong chàng làm Điện Các Đại Học Sĩ. Thanh triều không có tể tướng, đại học sĩ là chức vị cao nhất, chỉ dưới một người mà trên vạn người. Y ngỡ rằng chàng sẽ mừng rỡ khấu đầu lạy tạ, nào ngờ Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của huynh đài, tiểu đệ rất cảm tạ. Nhưng nếu tiểu đệ ham mê phú quý thì chắc chắn không rời nhà Các Lão để đơn thân lưu lạc giang hồ.”

Càn Long hỏi: “Ta muốn hỏi, sao ngươi không chịu làm thế gia công tử mà lại bôn tẩu giang hồ để làm gì? Chẳng lẽ lệnh tôn không dung thứ hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ làm vậy là phụng mạng mẫu thân. Phụ thân và ca ca của tiểu đệ hoàn toàn không biết, đã tốn rất nhièu công sức tìm kiếm khắp nơi. Mãi đến bây giờ ca ca của tiểu đệ vẫn còn phái người đi tìm kiếm.”

Càn Long nói: “Thì ra mẫu thân ngươi bảo ngươi rời khỏi gia đình. Lạ thật, tại sao lệnh đường lại làm như vậy?”

Càn Long nói: “Trần gia ở Hải Ninh của ngươi đời đời trâm anh, khoa danh thịnh vượng, khắp thiên hạ không có gia đình nào sánh được. Ba trăm năm nay, một nhà mà có hai trăm mấy chục tiến sĩ, ba vị ở ngôi tể phụ, lại còn mười một thượng thư, thị lang, bố chánh. Con số đó thật là kỳ lạ. Lệnh tôn Văn Cần Công làm quan thanh minh liêm chính, thường khóc lóc cầu xin cho dân trước mặt hoàng đế. Có mấy lần làm phụ vương ta bãi triều xong, lớn tiếng cười ha hả nói: Hôm nay Trần Thế Quan lại vì bá tánh mà khóc ngập cả sân chầu, ta chỉ còn cách đồng ý với hắn mà thôi.”

Trần Gia Lạc nghe Càn Long kể sự tích của phụ thân mình, vừa thương tâm vừa vui mừng nghĩ bụng: “Cũng suốt đời vì bá tánh, nhưng gia gia vì bá tánh mà khóc lóc với hoàng đế, còn ta vì bá tánh mà cướp quân lương của hoàng đế. Phương pháp khác nhau, nhưng mục đích lại là một.”

Lúc này tiếng hải triều càng vang dội, lấn át dần tiếng nói của hai người. Nhìn ra xa, thấy rõ một vạch trắng đang từ từ dịch vào dưới ánh trăng.

Trong chốc lát gió mạnh ập tới, vạch trắng ở phía trước đã đến gần bờ, tiếng ầm ầm còn vang hơn tiếng sấm. Âm thanh vang dội như trăm vạn đại quân đang xung phong giữa vô số trống đập rầm rầm hiệu lệnh, có tiến không lùi.

Tay trái Càn Long nắm tay Trần Gia Lạc cùng đứng trên con đê chắn sóng, tay phải nhẹ nhàng phẩy cây quạt xếp. Y nhìn thấy hải triều mãnh liệt xông tới, không khỏi kinh hãi đôi chút. Tay phải vừa lỏng ra, cây quạt xếp đã rơi ra ngoài đê, vướng lại trên những bậc thang. Đây là cây quạt xếp mà Trần Gia Lạc đã tặng cho y.

Càn Long “úi chà” một tiếng. Bạch Chấn lập tức nhảy tới, đầu chúc xuống đất, chân ngược lên trời, nhào xuống con đê để nhặt. Tay trái hắn ấn lên một tảng đá của con đê, tay phải đã chụp trúng cây quạt xếp.

Nhưng hải triều càng gần càng nhanh, bức tường nước vĩ đại dựng thẳng lên chạy tới sắp đập vào đê. Rõ ràng Bạch Chấn sắp bị sóng thần cuộn vào lòng biển, bọn thị vệ đồng thanh la lên kinh hãi. Bạch Chấn tập trung hết thần khí, thi triển khinh công tột mức, trèo lên thang cấp của con đê. Nhưng hắn mới đến nửa chừng, hải triều đã đập xuống đầu.

Trần Gia Lạc thấy nguy bèn cởi ngay trường bào, xẻ đôi rồi nhanh tay thắt lại cho dài hơn, ném xuống đầu Bạch Chấn. Bạch Chấn nhảy lên một cái cuối cùng, đưa tay túm được một đầu của áo bào, lúc đó nước đã ập tới chân hắn. Trần Gia Lạc vận lực giật mạnh, kéo được hắn lên bờ đá. Lúc đó Càn Long và bọn thị vệ thấy thế triều cực lớn, đã lùi vào cách bờ đê mấy trượng.

Bạch Chấn lên được mặt đê thì hải triều sắp phủ qua đê. Trần Gia Lạc từ nhỏ đã chơi ở đây, nên rất quen thuộc sức nước ở con đê chắn sóng này. Chàng vừa giật Bạch Chấn lên vừa tức tốc nhảy lùi mấy bước. Khi Bạch Chấn rơi xuống đất thì mực nước ở mặt đê đã sâu mấy thước rồi. Trần Gia Lạc hất tay phải một cái, ném cây quạt xếp về phía Trừ Viên. Sau đó chàng dùng cả hai tay ôm lấy Bạch Chấn, chạy tới một cây liễu mọc phía trong đê.

Dưới ánh trăng lấp lánh, mặt biển long lanh như dát bạc, bọt sóng tung lên trắng xóa tựa tuyết rơi, những đợt sóng nối nhau như ngàn mây cuộn. Sóng đập vào bờ đá rầm rầm như ngàn kỵ mã phi nước đại, chỉ trong chốc lát đã xéo lên Bạch Chấn. Hắn ngập chìm dưới làn sóng dữ, lại không biết thủy tính nên chỉ còn biết nín thở mà chờ.

Bạo phát bạo tàn, sóng biển dâng lên nhanh thì rút cũng nhanh, chỉ khoảnh khác nước đã rút hết ra ngoài đê chắn sóng. Từ nãy Bạch Chấn cứ ngậm miệng nín thở mà ôm gốc liễu, mười ngón tay như mười cái đinh sắt cắm chặt vào thân cây. Đợi nước triều rút đi, hắn mới buông tay rồi lùi lại phía sau.

Càn Long hoan hỉ nhận lại cây quạt xếp từ tay Trừ Viên. Thấy Bạch Chấn trung thành anh dũng, y bèn hứa khi về sẽ thưởng cho một cái áo ngắn màu vàng. Bạch Chấn còn ướt đẫm người, vội quì xuống đất khấu đầu tạ ơn.

Càn Long quay lại nói với Trần Gia Lạc: “Người xưa từng so sánh ngọn triều này với mười vạn quân, thập vạn quân thanh bán dạ triều. Cảnh sắc như thế này có thể gọi là thiên hạ kỳ quan.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiên vương từng sai ba trăm cung thủ bắn hải triều, nhưng hải triều có suy giảm chút nào đâu? Phải thuận theo đại thế tự nhiên, ráng sức cản trở thật không có lợi.”

Càn Long nghe chàng ám chỉ đến những lời đã nói ở Tây Hồ, biết chàng nhất định không chịu vào triều làm quan, bèn nói: “Mỗi người đều có chí riêng. Ta không thể cưỡng ép ngươi, nhưng muốn khuyên ngươi một câu.”

Trần Gia Lạc nói: “Xin thỉnh giáo.”

Càn Long nói: “Hồng Hoa Hội của các ngươi đã có nhiều hành vi phản nghịch. Những gì đã qua, ta có thể không truy cứu. Nhưng từ đây về sau, tuyệt đối không được làm những việc vô pháp vô thiên như thế nữa.”

Trần Gia Lạc đáp: “Những việc chúng ta đã làm và sẽ làm đều vì nước vì dân, chỉ cần tự thấy yên lòng là được.”

Càn Long thở dài: “Đáng tiếc, đáng tiếc!” Hồi lâu y mới nói tiếp: “Nhưng vì một đêm tri ngộ thế này, sau này tiêu diệt Hồng Hoa Hội ta sẽ tha chết cho ngươi một lần.”

Trần Gia Lạc nói: “Nếu thế thì khi huynh đài lọt vào tay Hồng Hoa Hội, chúng ta cũng sẽ không hại mạng huynh đài.”

Càn Long cười ha hả, lớn tiếng nói: “Trước mặt hoàng đế mà ngươi cũng không chịu thua thiệt chút nào. Hay lắm! Đại trượng phu một lời đã nói bốn ngựa khó theo. Bây giờ chúng ta vỗ tay thề thốt, sau này không được hại nhau.”

Hai người liền vỗ tay nhau ba cái. Bọn thị vệ thấy hoàng đến nghe Trần Gia Lạc ăn nói đại nghịch bất đạo mà không nổi giận, lại còn kích chưởng lập thệ với chàng, đều hết sức kinh ngạc.

Càn Long lại nói: “Thủy triều cứ tràn vào mãi thế này, nếu không nhanh chóng sửa chữa con đê cho kiện cố, ruộng nương phần mộ bá tánh nhất định có ngày bị cuốn trôi. Chắc ta phải xuất tiền công quỹ hạ lệnh xây dựng lại con đê chắn sóng này để bảo vệ sinh linh.”

Trần Gia Lạc thẳng người cung kính nói: “Đây là đại nghiệp yêu dân, bá tánh Giang Nam sẽ cảm kích vô cùng.”

Càn Long gật đầu rồi nói: “Hơn nữa lệnh tôn có công với nước, dĩ nhiên ta không nỡ thấy phần mộ của ông ấy bị nước biển phạm vào.” Y quay lại bảo Bạch Chấn: “Ngày mai truyền dụ cho tổng đốc Cao Tấn và tuần vũ Trang Cửu Cung, lập tức đến Hải Ninh toàn lực thi công.”

Biển đã lặng trở lại, mặt biển nhấp nhô những gợn sóng nhỏ như nồi canh đang sôi. Càn Long lại nắm tay Trần Gia Lạc dắt đến bờ đê. Bọn thị vệ định đi theo, nhưng Càn Long vẫy vẫy tay ra lệnh bảo chúng dừng lại.

Hai người đi dọc theo bờ đê được vài chục bước, Càn Long nói: “Lúc nào ta cũng thấy sắc diện của ngươi có ý không vui. Ngoài chuyện tưởng nhớ song thân ra, chắc hẳn trong lòng ngươi còn điều gì chưa giải quyết được. Ngươi không chịu ra làm quan thì thôi, nhưng có yêu cầu gì cứ nói cho ta biết.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Tiểu đệ chỉ muốn xin một việc, nhưng sợ huynh đài không đồng ý.”

Càn Long nói: “Chỉ cần ngươi muốn, không gì là không được.”

Trần Gia Lạc mừng rỡ hỏi: “Thật thế ư?”

Càn Long dõng dạc đáp: “Quân vô hí ngôn.”

Trần Gia Lạc nói: “Tiểu đệ muốn xinh huynh đài thả nghĩa huynh Văn Thái Lai của tiểu đệ ra.”

Càn Long khẽ giật mình. Y không ngờ Trần Gia Lạc xin việc này, nên nhất thời không trả lời ngay.

Trần Gia Lạc bèn hỏi: “Rốt cuộc thì nghĩa huynh của tiểu đệ đã đắc tội với huynh đài ở điểm nào?”

Càn Long nói: “Người này nhất định không thể thả, nhưng ta hứa với ngươi thì không thất tín. Thôi, ta không giết hắn là được rồi.”

Trần Gia Lạc nói: “Vậy thì bọn tiểu đệ chỉ còn cách động thủ để cứu nghĩa huynh. Tiểu đệ xin huynh thả, không phải sợ cứu không nổi, chỉ sợ động đao thương làm tổn thương hòa khí giữa hai người chúng ta.”

Hôm qua Càn Long đã nhìn thấy thanh thế của Hồng Hoa Hội, biết câu nói của chàng không phải là khoe khoang lỗ miệng. Y liền nói: “Hảo ý thì ta nhận. Nhưng nói thật với ngươi, ta quyết không để người này thoát khỏi tay mình. Ngươi đã quyết ý phải cứu, thì ta chỉ còn cách đem hắn ra giết.”

Trần Gia Lạc gằn giọng: “Nếu Văn tứ ca của tiểu đệ bị giết, e rằng từ nay huynh đài ngủ không yên giấc, ăn không ngon miệng được nữa.”

Càn Long lạnh lùng đáp: “Nhưng nếu không giết hắn, ta lại càng ăn không ngon, ngủ không yên.”

Trần Gia Lạc nói: “Nếu vậy thì ngôi chí tôn của huynh đài không tiêu diêu tự tại bằng con người mây ngàn hạc nội như tiểu đệ.”

Càn Long không muốn nhắc đến Văn Thái Lai nữa, bèn hỏi sang chuyện khác: “Năm nay ngươi bao nhiêu tuổi rồi?”

Trần Gia Lạc đáp: “Hai mươi lăm.”

Càn Long thở dài: “Ta không so bì với cách sống nhàn vân dã hạc của ngươi, nhưng phải so bì với cái thanh xuân tuổi trẻ của ngươi. Ôi, bất kể sự nghiệp lẫy lừng cái thế đến đâu, khi tuổi thọ đã hết thì cũng phải trở về cát bụi mà thôi.”

Hai người dạo bước một lát nữa, Càn Long bỗng hỏi: “Ngươi có mấy vị phu nhân rồi?” Không đợi chàng trả lời, y lấy trong người ra một miếng ngọc rồi nói: “Miếng bảo ngọc này có thể gọi là trân quí hiếm có trên đời, ngươi cầm về mà tặng cho phu nhân.”

Trần Gia Lạc không nhận, đáp: “Tiểu đệ chưa thành hôn.”

Càn Long cười rộ lên: “Thì ra ngươi nhìn cao quá, đến nay vẫn chưa có ý trung nhân. Thôi thì miếng bảo ngọc này để ngươi dành tặng cho ý trung nhân tương lai, coi như vật đính ước cũng được.”

Mảnh ngọc này sắc óng ánh, dưới ánh trăng phát ra ánh sáng dịu dàng. Trần Gia Lạc đa tạ rồi nhận lấy, cầm vào tay lập tức cảm thấy ấm áp. Thì ra đó là một miếng noãn ngọc trân quí lạ thường. Trên ngọc lại dùng chỉ vàng khảm bốn hàng chữ chìm rất nhỏ: “Tình sâu quá chẳng bền. Cương cường quá tất nhụt. Khiêm hòa như quân tử. Ôn nhuận như bảo ngọc.”

Càn Long thấy thần sác Trần Gia Lạc lạnh nhạt không chút tình thân mật, nhưng y vẫn nói rất dịu dàng: “Ta biết ngươi trách người Mãn Châu chúng ta chiếm cứ giang san người Hán, nên trong lòng ôm hận, luôn luôn chống đối. Nhưng ta với ngươi, tuy một Mãn một Hán mà vẫn có thể thân tình như huynh đệ. Thánh tổ hoàng đế đã có di chiếu, Mãn Hán phải là một nhà, không chia cương vực. Tiên đế đã lập trọng thệ Vĩnh bất gia phú, vĩnh viễn không tăng thuế người Hán. Ta đây đảm đương quốc sự, nhất định sẽ yêu dân như con cái. Về điểm này, ngươi có thể yên tâm.” Nói xong, y đưa tay phải ra nắm chặt lấy tay trái Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc nói: “Nếu từ nay về sau có thể Hán Mãn nhất gia thật sự, thì còn hơn cả ước mong. Hung Nô xâm phạm nhà Hán, Đột Quyết tàn sát dân Đường, mà hôm nay cũng đã thành người một nhà rồi.”

Càn Long hoan hỉ nói: “Đây là ý nguyện chung của hai ta, nhất định mãi mãi không quên.”

Trần Gia Lạc cất miếng ôn ngọc vào bọc rồi nói: “Đa tạ vì hậu lễ, xin hẹn ngày gặp lại.” Chàng chắp tay từ biệt.

Càn Long vẫy tay nói: “Ngươi nhớ bảo trọng.”

Trần Gia Lạc quay đầu đi về phía trong thành. Bạch Chấn vội chạy đến trước mặt chàng, lên tiếng: “Vừa rồi may được các hạ cứu cho tính mạng, thật cảm kích vô cùng. Chỉ sợ ân này khó mà báo đáp.”

Trần Gia Lạc đáp: “Bạch lão tiền bối nói gì vậy? Chúng ta là võ lâm đồng đạo, lâm nguy giúp nhau tí chút phỏng có chi đáng kể!”

* * *

Trần Gia Lạc chạy trở vè phủ Các Lão, nhảy vào trong tìm gặp Thụy Phương rồi nói: “Ca ca của con chắc đang ở tân viên. Y cứ bận rộn hoài, lát nữa con sẽ tìm gặp sau. Dì Thụy! Dì có tâm niệm gì thì nói với con, nhất định con sẽ làm được cho dì.”

Thụy Phương đáp: “Nô tì chỉ cầu mong công tử được bình yên, sau này cưới được vợ hiền rồi sinh mấy đứa con kháu khỉnh.”

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Chuyện này sợ không phải dễ. Hai cô Tình Họa Vũ Thi đâu, dì gọi họ đến cho con gặp một chút.” Tình Họa và Vũ Thi là hai tiểu a đầu phục vụ Trần Gia Lạc hồi nhỏ.

Thụy Phương nói: “Vũ Thi chết năm ngoái rồi. Tình Họa vẫn còn ở đây. Để nô tì đi kêu nó đến.” Bà đi chưa được bao lâu, Tình Họa đã chạy lên lầu.

Trần Gia Lạc thấy nàng đã trở thành thiếu nữ đàng hoàng, nhưng vẫn nhút nhát hay thẹn như hồi còn nhỏ. Nhìn thấy Trần Gia Lạc, nàng đỏ mặt gọi một tiếng “Tam Quan” rồi lập tức khóe mắt mọng lên.

Trần Gia Lạc nói: “Cô đã lớn đến thế rồi! Vũ Thi làm sao mà chết?”

Tình Hoa buồn bã đáp: “Nhảy xuống biển mà chết.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi: “Tại sao phải nhảy xuống biển?”

Tình Họa nhìn quanh một vòng, rồi khẽ nói: “Nhị gia muốn lấy tỷ ấy làm hầu thiếp, tỷ ấy không chịu.”

Trần Gia Lạc “à” một tiếng. Tình Họa vừa khóc vừa kể tiếp: “Chuyện tỷ muội nô tì không muốn giấu giếm công tử. Vũ Thi và gia nhân Tấn Trung trong phủ thương nhau. Hai người cố gắng dành dụm, đợi đủ tiền sẽ xin thái thái cho nàng chuộc mình để kết làm phu phụ với Tấn Trung. Nào ngờ một hôm nhị gia say rượu nhìn thấy tỷ ấy, rồi gọi tỷ ấy vào dọn phòng. Hôm sau Vũ Thi khóc lóc với nô tì, nói là có lỗi với Tấn Trung. Nô tì cũng cố khuyên giải, nói thân phận chúng ta chỉ như con sâu cái kiến, bị người chà đạp thật chẳng có cách gì. Nào ngờ tỷ ấy nghĩ không thông, nửa đêm nhảy xuống biển tự trầm. Tấn Trung vớt được thi thể, ôm khóc một hồi rồi đập đầu vào con sư tử đá trước cửa chết theo.”

Trần Gia Lạc nghe mà đau nhói tâm can, kêu lớn: “Không ngờ ca ca của ta lại là loại người như thế. Ta định gặp y một chút để thỏa tình thủ túc, nhưng bây giờ không cần gặp nữa. Mộ của Vũ Thi ở đâu, cô dẫn ta đi xem.”

Tình Họa đáp: “Ở bên cửa Tiên Đức, sáng mai nô tì sẽ dẫn Tam Quan đi.”

Trần Gia Lạc bảo: “Bây giờ đi ngay.”

Tình Họa hỏi: “Bây giờ cửa phủ chưa mở, làm sao ra ngoài được?”

Trần Gia Lạc khẽ mỉm cười, quàng tay trái ôm lưng cô gái. Tình Họa xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng chưa nói được gì thì thân thể đột nhiên như biết lướt gió cưỡi mây, qua cửa sổ bay tới mái nhà. Trần Gia Lạc cắp nàng chạy trên mái nhà, đến chỗ không còn nhà cửa gì nữa mới nhảy xuống đi bộ dưới đất, khoảnh khắc đã đến Tuyên Đức Môn.

Dừng lại lâu rồi mà Tình Họa mới định thần được, kinh hãi hỏi: “Tam Quan! Tam Quan đã học được phép tiên hay sao?”

Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp, hỏi lại: “Cô có sợ không?”

Tình Họa cũng mỉm cười không đáp, dẫn Trần Gia Lạc đến mộ của Vũ Thi. Đó chỉ là một nấm đất vàng. Trần Gia Lạc nghĩ đến tình nghĩa khi xưa mà không nén nổi thê lương, chắp tay vái lạy trước mộ ba lần.

Tình Họa bật khóc, lên tiếng: “Tam Quan! Nếu Tam Quan ở nhà, chắc nhị gia không dám làm chuyện đó.”

Trần Gia Lạc lặng lẽ gật đầu, rồi ngẩng đầu lên nhìn thấy trăng đã xế tây, sao đã nhạt dần. Chàng liền nói: “Chúng ta về đi! Ta còn có việc gấp phải quay lại Hàng Châu.”

Hai người trở về Trần phủ. Trần Gia Lạc đang định nhảy ra cửa sổ, Tình Họa bỗng nói: “Tam Quan! Nô tì xin Tam Quan một việc.”

Trần Gia Lạc bảo: “Được, cô nói đi.”

Tình Họa nói: “Nô tì muốn được chải tóc Tam Quan một lần.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một chút rồi nói: “Được.”

Chàng ngồi xuống ghế. Tình Họa vui vẻ chạy ra ngoài, chỉ một lúc đã bưng khay bạc đi vào, đặt trước mặt chàng. Trên khay có hai cái chén sứ nho nhỏ, một chén đựng canh quế hoa mộc nhĩ, còn chén kia đựng bốn miếng xôi ngọt.

Trần Gia Lạc xa nhà đã mười năm, ở miết trong sa mạc hoang vu. Hôm nay cầm thìa bạc múc canh bách hợp, thưởng thức lại mùi vị những món ăn của gia đình phú quí Giang Nam, chàng tưởng mình đã qua kiếp khác. Tình Họa tháo bím tóc của chàng ra, bôi dầu rồi cầm lược chải. Chàng lấy đũa gắp xôi ngọt, tự mình ăn một miếng, rồi gắp một miếng đút cho Tình Họa. Nàng mỉm cười nói: “Tam Quan vẫn hệt như xưa.”

Khi thắt bím xong thì chàng cũng vừa ăn hết điểm tâm. Tình Họa hỏi: “Tại sao ngay cả trường bào mà công tử cũng không chịu mặc? Lỡ bị cảm lạnh thì sao?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nghĩ bụng: “Chẳng lẽ cô tưởng ta vẫn còn là chú nhóc yếu ớt mười năm về trước hay sao?”

Tình Họa đi ra ngoài, đem vào một tấm trường bào màu xanh nhạt, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói: “Đây là áo của nhị gia, hơi rộng một chút, Tam Quan mặc tạm.” Rồi nàng giúp chàng khoác trường bào, lại cúi người xuống cài khuy cho.

Trần Gia Lạc thấy nàng nhỏ lệ tí tách trên tấm trường bào, cảm thấy động lòng. Chàng lấy hết mấy thỏi vàng trong bọc ra, đặt vào tay nàng rồi nói: “Cô đưa cái này cho gia gia, bảo ông ấy chuộc cô về, rồi lựa một gia đình đàng hoàng mà lấy chồng. Ta đi đây!” Rồi chàng nhún chân một cái, thân hình đã vọt qua cửa sổ ra ngoài.

* * *

Trần Gia Lạc cố gác lại những suy nghĩ bi ai mềm yếu, phi ngựa chạy nhanh về Hàng Châu, đến nhà Mã Thiện Quân thì thấy mọi người đang vây quanh Thạch Song Anh hỏi han.

Thạch Song Anh vội tới thi lễ rồi nói: “Thuộc hạ vào kinh thành nghe tin hoàng đến đã đến Giang Nam, vội chạy cả ngày đêm tới đây. Nào ngờ các vị ca ca không những đã gặp hoàng đế mà còn giao thủ với hán.”

Trần Gia Lạc nói: “Thập Nhị ca phen này thật là cực khổ! Huynh còn thám thính được tin gì nữa không?”

Thạch Song Anh đáp: “Thuộc hạ vừa nghe nói tên cẩu hoàng đế đi về phía nam, biết là đại sự nên không để ý gì những việc khác nữa.”

Trần Gia Lạc thấy sắc mặt y tiều tụy, biết mấy ngày nay y phải đi suốt đêm mệt mỏi, bèn nói: “Huynh đi ngủ một giấc ngon lành đi, rồi sẽ nói chuyện sau.”

Thạch Song Anh gật đầu ra ngoài, còn quay lại nói với Lạc Băng: “Tứ tẩu! Con ngựa trắng đó thật tuyệt. Tứ tẩu yên tâm, dọc đường đệ lo liệu cho nó rất đàng hoàng.”

Lạc Băng đáp: “Đa tạ Thập Nhị đệ.”

Thạch Song Anh dừng chân lại nói: “À, dọc đường đã có gặp Hàn Văn Xung, chủ cũ con ngựa này.”

Lạc Băng hỏi: “Thế nào? Hắn còn muốn tới đòi ngựa nữa ư?”

Thạch Song Anh đáp: “Hắn không thấy đệ. Ở khách sạn Dương Châu đệ nhìn thấy hắn đi với mấy tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục, nghe chúng chửi bới Hồng Hoa Hội nên tới nghe lén. Chúng mắng bọn ta dùng thủ đoạn hạ lưu, dùng thuốc mê để giết chết thằng lỏi họ Đồng kia.”

Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ nghe đến đây chen vào: “Hôm đó mấy tên này được chúng ta tha mạng không giết, thế mà còn dám chửi mắng sau lưng. Thật là đồ không biết tốt xấu.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Lần này Trấn Viễn tiêu cục làm gì vậy?”

Thạch Song Anh đáp: “Đệ rình nghe mất nửa ngày mới biết chúng đi từ Bắc Kinh tới Hải Ninh, hộ tống một số châu ngọc của hoàng đế ban tặng đến phủ Trần Các Lão. Y quay lại nói với Trần Gia Lạc: “Đó là đồ vật của gia đình tổng đà chủ, thuộc hạ đã thông báo cho các huynh đệ ở Giang Ninh biết để âm thầm bảo vệ.”

Trần Gia Lạc bật cười: “Đa tạ huynh. Thế là phen này chúng ta lại bắt tay với Trấn Viễn tiêu cục rồi.”

Thạch Song Anh nói: “Lần này tổng tiêu đầu của họ đích thân xuất mã, rõ ràng chuyến tiêu này rất quan trọng.

Trần Gia Lạc, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh nghe nói Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương cũng đến đây, không hẹn mà cùng “à” lên một tiếng. Chu Trọng Anh nói: “Vương lão tiêu đầu đã mười mấy năm không đích thân đi bảo tiêu, vụ này thật là hiếm có. Tổng đà chủ! Thể diện của gia đình lão đệ thật không phải nhỏ.”

Thạch Song Anh nói: “Thuộc hạ cũng thấy thật là kỳ. Sau này lại nghe, ngoài đồ vật của gia đình tổng đà chủ ra, chúng còn phải hộ tống một đôi ngọc bình.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi: “Ngọc bình ư?”

Thạch Song Anh đáp: “Đúng thế, đó là báu vật của người Hồi. Lần này Triệu Tuệ chinh tây, tuy người Hồi thắng thế nhưng thế của quân Thanh rất lớn, nếu đánh tiếp thì dĩ nhiên họ không chống nổi. Vì thế họ mới đưa tặng đôi ngọc bình đó để cầu hòa.”

Mọi người nghe nói người Hồi chiến thắng đều vui mừng phấn khởi, liền hỏi cho tường tận. Thạch Song Anh nói: “Nghe nói đại quân của Triệu Tuệ bị cướp hết quân lương nên phải nhịn đói mất mấy ngày, chỉ còn cách lui binh. Nhưng dọc đường lui lại trúng phải mai phục của người Hồi, tổn thương hai ba ngàn mạng.” Quần hùng nghe đến đó đều vỗ tay tán thưởng.

Chu Ỷ khẽ bảo Từ Thiên Hoằng: “Nếu Hoắc Thanh Đồng tỷ tỷ biết đây là kế sách của huynh, nhất định sẽ rất cảm kích huynh.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói nhỏ: “Đó là nhờ muội bảo ta suy nghĩ tìm biện pháp.”

Thạch Song Anh lại nói: “Bọn Triệu Tuệ đợi quân lương tới sẽ tiếp tục tấn công, trận chiến này vẫn chưa xong. Sứ giả của người Hồi đến Bắc Kinh cầu hòa, triều thần không dám quyết định nên cho người đưa đôi ngọc bình đến Giang Nam xin ý kiến của hoàng đế. Phen này lão già Vương Duy Dương thân hành xuất mã, thuộc hạ nghĩ chính là vì đôi ngọc bình này.”

Trần Gia Lạc nói: “Đừng nói là một cặp ngọc bình, dù đồ trân bảo kỳ lạ hơn nữa, chắc chắn hoàng đế cũng không chấp nhận cầu hòa.”

Thạch Song Anh nói: “Bọn tiêu sư còn nói, nếu triều đình đồng ý cầu hòa thì giữ đôi ngọc bình này lại, còn không thì phải đem trả. Vì thế chúng phải bảo vệ không được sơ sẩy chút nào.”

Trần Gia Lạc nháy mắt gọi Từ Thiên Hoằng, hai người đi sang phòng bên cạnh. Trần Gia Lạc nói: “Thất ca! Đêm qua ta có gặp hoàng đế, y nói ba ngày nữa sẽ về Bắc Kinh, trước khi về Bắc Kinh nhất định phải giết tứ ca.”

Từ Thiên Hoằng giật mình nói: “Chúng ta đã biết Tứ ca bị giam trong nội nha đề đốc Lý Khả Tú. Bây giờ tình thế khẩn cấp, phải ra tay ngay.”

Trần Gia Lạc nói: “Chắc hoàng đế chưa về tới Hàng Châu. Bọn thị vệ cao thủ đều đi theo hoàng đế, ngay lúc này chúng ta cứu người chắc dễ dàng hơn.”

Từ Thiên Hoằng hỏi: “Hoàng đế không ở Hàng Châu hay sao?” Trần Gia Lạc bèn kể những việc Càn Long ở Hải Ninh xem hải triều, quyết định tu sửa con đê chắn sóng biển, nhưng hoàn toàn không nhắc đến chuyện tế phần mộ.

Từ Thiên Hoằng xếp qua xếp lại mấy thứ nghiên mực giấy bút trên bàn, bên đông để một mớ, bên tây để một món, trầm ngâm không nói tiếng nào. Trần Gia Lạc biết chàng đang trù tính kế hoạch cứu người, nên im lặng ngồi bên để không gián đoạn suy nghĩ.

Hồi lâu, Từ Thiên Hoằng mới nói: “Tổng đà chủ! Lực của chúng ta đang mạnh, đối phương đang yếu, tấn công trực diện là hơn.” Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Hai người thương lượng xong xuôi, bèn quay lại đại sảnh triệu tập quần hùng.

Trần Gia Lạc vỗ tay ra hiệu, dõng dạc nói: “Bây giờ chúng ta lập tức đi cứu Văn tứ đương gia.” Quần hùng nghe vậy đều mừng rỡ.

Trần Gia Lạc gọi: “Thập Tam ca! Huynh thống lãnh ba trăm huynh đệ biết về thủy tánh, lo chuẩn bị thuyền bè. Khi xong việc, mọi người sẽ đi thuyền rút về Thái Hồ. Tưởng Tứ Cân lãnh lệnh đi ngay.

Trần Gia Lạc gọi: “Mã Đại Đình huynh đệ! Huynh lo thu dọn đồ đạc, cùng Tâm Nghiễn và toàn bộ gia quyến lên thuyền đi trước.” Mã Đại Đình cũng nhận lệnh đi ngay.

Trần Gia Lạc nói: “Thập Nhị ca! Huynh mệt quá rồi, cũng nên lên thuyền nghỉ ngơi. Những người còn lại sẽ cùng ta đi tấn công phủ đề đốc, cứu Văn tứ ca. Bây giờ Thất ca bố trí tấn công, mọi người hãy lắng nghe nhiệm vụ của mình!”

Từ Thiên Hoằng nói: “Tứ tẩu! Đúng giờ tỷ hãy tới phía đông phủ đề đốc, ở đó có tiệm pháo Hưng Long. Tứ tẩu đốt tiệm pháo đó, rồi mau mau chạy về cửa tây của phủ đề đốc, tập hợp với mọi người để tấn công.” Lạc Bănh nhận lệnh đi ngay.

Từ Thiên Hoằng nói: “Mã đại ca! Huynh cho người đi mời chủ tiệm và những người giúp việc ở tiệm pháo Hưng Long đến đây tạm trú, không cần phải nói rõ nguyên nhân. Sau khi xong việc sẽ đền bù cho họ gấp đôi tổn thất. Rồi huynh triệu tập tấc cả các đội chữa cháy trong toàn thành để chuẩn bị, triệu tập thêm bốn trăm huynh đệ đắc lực, ba trăm huynh đệ của Lục Dinh, đúng giờ thìn tập hợp ở đây để nhận lệnh.” Mã Thiện Quân lập tức sai người tỏa đi các nơi thi hành mệnh lệnh.

Từ Thiên Hoằng nói: “Bát đệ! Đệ dẫn hai trăm huynh đệ, một trăm người đẩy xe chất đầy cỏ rơm giả làm nông phu, một trăm người gánh than củi giả làm người bán củi. Cửu đệ! Đệ chỉ huy các đội chữa cháy, giả trang làm dân chúng bình thường thấy lửa thì đến cứu. Ỷ muội! Muội thống lãnh một trăm huynh đệ giả làm dân chạy nạn, mỗi người gánh một trăm cân dầu, đeo theo sau lưng một cái chảo lớn.”

Chu Ỷ mỉm cười hỏi: “Dùng chảo dùng dầu để chiên xào thức ăn hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nghiêm chỉnh đáp: “Ta cần những thứ đó. Thập đệ! Đệ thống lãnh một trăm huynh đệ giả trang làm thợ xây thợ mộc, mỗi người đẩy một chiếc xe chở đầy vôi bột.”

Quần hùng nghe theo Từ Thiên Hoằng phân phối nhiệm vụ đều cảm thấy tức cười, nhưng ai cũng nhận lệnh.

Từ Thiên Hoằng lại nói: “Mã đại ca! Huynh giả trang làm quân nhà Thanh, thống lãnh ba trăm huynh đệ ở Lục Doanh tuần tra bên ngoài, không để ai đi dạo tới gần, tuyệt đối không để người trong phủ đề đốc thoát ra ngoài báo tin. Nghĩa phụ dẫn Mạnh đại ca, An đại ca tấn công phía nam, tổng đà chủ, đạo trưởng và tại hạ tấn công phía tây. Tam ca, Ngũ ca, Lục ca tấn công phía bắc.”

Sau khi phân phối nhiệm vụ chàng mới giải thích tỉ mỉ, quần hùng đều khen là diệu kế. Mã Thiện Quân lập tức phái người triệu tập nhân mã, đem ngân lượng đi mua sắm những thứ cần thiết. Thế lực Hồng Hoa Hội ở Hàng Châu cực lớn, chỉ một thời gian ngắn đã chuẩn bị xong xuôi. Quần hùng ăn qua loa cho xong bữa, rồi mài kiếm thử quyền chuẩn bị chém giết một phen.Ăn cơm xong, mọi người cải trang và giấu giếm binh khí, chia nhóm đi về hướng phủ đề đốc. Trần Gia Lạc nói với Từ Thiên Hoằng: “Tôn tử binh pháp nói: Dĩ hỏa tá công giả minh, Dĩ thủy tá công giả cường. Mượn lửa tấn công là sáng suốt, mượn nước tấn công là mạnh bạo. Huynh không những dùng lửa dùng nước, lại còn dùng dầu và dùng vôi bột nữa. Để xem phen này Lý Khả Tú có chống đỡ nổi hay không?”

Đang nói chuyện, hai người bỗng nghe tiếng pháo nỗ ầm ầm bên ngoài, ánh lửa bốc lên đỏ ngầu cả một vùng trời. Tiệm pháo đã cháy rồi.

Lạc Băng phóng hỏa đốt tiệm pháo, những thứ lưu huỳnh, tiêu thạch dự trữ bốc lửa nổ vang, dận cư xung quanh vắt chân lên cổ mà chạy, một vùng lập tức hỗn loạn. Nhưng nàng tới phủ đề đốc lại không thấy động tĩnh gì. Nàng đứng bên tường chờ đợi, chỉ một lúc đã thấy mấy trăm binh sĩ xếp hàng chữ nhất trên đầu tường cao của phủ đề đốc, giương cung lắp tên canh phòng rất nghiêm ngặt. Lại còn mấy chục binh lính cầm thùng nước đứng bên tường canh giữ nhưng không chạy ra ngoài chữa cháy.

Lạc Bang nghĩ: “Tên Lý Khả Tú cũng rất có mưu lược. Hắn sợ trúng kế điệu hổ ly sơn, dù bên ngoài náo động thế nào vẫn kiên quyết ở trong chờ đợi.”

Bỗng có mấy trăm người dân gánh củi, đẩy xe rơm chạy tới. Hình như họ thấy lửa cháy thì hoảng hốt, nên quăng những gánh cỏ rơm và than củi lung tung dưới đất. Trong phủ đề đốc có một tên võ quan chạy ra lớn tiếng thóa mạ: “Đồ khốn! Củi rơm quăng ở đây nguy hiểm lắm, mau mau gánh đi chỗ khác!” Hắn vung roi ngựa quất loạn xạ, dân chạy tứ tán.

Đang loạn xạ thì tiếng la hét lại vang lên, mấy chục chiếc xe chửa lửa lục tục kéo tới. Lúc này rơm củi bên ngoài phủ đề đốc đã bắt lửa, dần dần cháy rộng ra. Một trăm nạn dân do Chu Ỷ hướng dẫn đã tới, liền bắc bếp lò dưới đất, đổ dầu vào trong chảo, chất của nấu sôi lên.

Lý Khả Tú đứng trên đầu tường quan sát đám cháy, thấy dân chúng bên ngoài có vẻ kỳ lạ, bèn sai tham tướng Tăng Đồ Nam ra ngoài xem xét. Tăng Đồ Nam đi đến bên cạnh đám nạn dân, hét lên: “Các ngươi làm gì vậy?”

Chu Ỷ mỉm cười đáp: “Chúng ta nấu thức ăn, ngươi không thấy hay sao?”

Tăng Đồ Nam quát tháo: “Đồ hổn láo! Đồ chó má! Đồ con rùa! Cút nhanh! Cút nhanh lên!”

Hắn đang thóa mạ thì Mã Thiện Quân đã hướng dẫn quân lích Lục Doanh đến vây kín phủ để đốc, đuổi những người nhàn rỗi đứng xem náo nhiệt ra xa.

Tăng Đồ Nam la lên: “Không biết vị đại nhân nào dẫn quân tới, xin mời qua đây để đuổi đám gian tặc này…” Hắn nói chưa xong câu đã bị Chu Ỷ cầm muỗng gỗ tạt cho một muỗng dầu đang nấu vào mặt. Tăng Đồ Nam đau đớn ngã lăn ra đất, đám binh lính tùy tùng kinh hãi vội dìu hắn chạy vào trong phủ.

Bọn Thanh binh đứng trên đầu tường nhìn thấy rõ ràng, liền bắn tên xối xả xuống. Huynh đệ Hồng Hoa Hội nấp sau những đống củi rơm và xe đẩy, chẳng ai trúng một mũi tên.

Bây giờ dầu đã nấu sôi, Vệ Xuân Hoa thống lãnh đội chữa cháy đổ dầu vào trong ống, thụt lên đầu tường. Quân Thanh bất ngờ không kịp né tránh, những tiếng la hét thê thảm vang lên liên tục, nhiều tên té từ trên tường xuống đất.

Lý Khả Tú biết Hồng Hoa Hội tập hợp đông người cướp ngục, bèn sai người chạy ra ngoài cầu cứu, còn mình đích thân thống lĩnh binh lính đứng trên đầu tường chống đỡ. Nào ngờ bọn đi cứu đều bị huynh đệ Lục Doanh do Mã Thiện Quân hướng dẫn chặn lại. Lý Khả Tú thấy lửa cháy càng lúc càng gần, hốt hoảng đến rối loạn tay chân.

Thật ra Từ Thiên Hoàng chỉ đốt củi rơm chứ không đốt phủ. Quan trọng là hư trương thanh thế, chứ lỡ phủ đề đốc bốc cháy mà chưa kịp cứu Văn Thái Lai ra thì thật là hỏng bét.

Tưới hết dầu sôi rồi đến nước lạnh. Chương Tấn chỉ huy mọi người xách những bao vôi sống liệng vào phủ đề đốc, còn ống chữa cháy thì bơm nước vào. Vôi sống gặp nước sôi lên sùng sục, bọn lính Thanh chạy láo nháo khắp nơi.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Xung phong!” Tất cả anh em bèn lập tức từ bốn phía ào vào trong phủ. Chỉ có một trăm người cải trang làm nạn dân là ở lại bên ngoài để tiếp tục thụt nước.

Bọn Thanh binh cầm đao thương nghênh chiến. Chương Tấn vừa huy động lang nha bổng quét ngang đáp thẳng vừa chạy tới, hai bên thì có Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa thống lĩnh hội chúng xung phong. Bọn lính Thanh vừa đánh vừa lùi, cả ngàn quân lính bị dồn vào diễn võ trường. Hội chúng Hồng Hoa Hội cố phân cách chúng thành từng đám để dễ tấn công.

Từ Thiên Hoằng dùng tiếng lóng của Hồng Hoa Hội lớn tiếng truyền lệnh, hội chúng đột nhiên tản ra tứ phía. Từ giữa đám đông đẩy ra mấy chục cỗ xe có gắn vòi rồng, phun ra nước vôi sôi sùng sục làm bọn Thanh binh chạy tứ tán, tên thì nhào lăn dưới đất kêu cha gọi mẹ, tên thì nhào vào trốn giữa đám đông.

Tử Thiên Hoằng hô lớn: “Tạm dừng phun nước!” Chàng gọi đám Thanh binh: “Ai muốn giữ mạng thì lập tức buông vũ khí, nằm sát xuống đất.” Không để chúng kịp nghĩ ngợi gì, họ Từ lại hô tiếp: “Phun nước!” Mấy chục luồng nước sôi lại bắn tới, bọn lính Thanh hoảng loạn vô chủ vội nằm rạp hết xuống đất.

Lý KHả Tú đang hoang mang lo lắng thì bỗng có một thiếu niên bên ngoài xách kiếm chạy vào, vừa nắm tay kéo hắn đi vừa kêu lớn: “Gia gia! Chạy nhanh lên!” Chính là Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang.

Trần Gia Lạc, Vô Trần cùng mọi người đã tìm kiếm hết trong ngoài phủ đề đốc một lượt. Lạc Băng không thấ ytung tích chồng mình, bèn tiện tay túm lấy một tên lính Thanh, trở sống đao gõ loạn xạ lên lưng hắn rồi thét hỏi. Tên lính Thanh đó chỉ biết năn nỉ xin tha, hình như thật sự không biết chỗ nhốt Văn Thái Lai.

Đột nhiên có một người bịt mặt từ bên trong nhảy ra, phóng kiếm đâm tới Lạc Băng. Nàng vội dùng đoản đao bên tay phải gạt ra, trường đao bên trái chém trả một đao. Người đó đưa kiếm cản trở, nói giọng khàn khàn: “Muốn gặp phu quân thì đi theo ta!”

Lạc Băng còn đang ngơ ngác, y đã quay đầu chạy ngay. Lạc Băng la lên: “Ngươi nói gì?” rồi vội đuổi theo. Chương Tấn, Chu Ỷ sợ nàng sơ suất liền đi theo sau.

Người bịt mặt chạy vòng vòng một lát rồi chạy thẳng ra sau hậu viện, Lạc Băng, Chu Ỷ, Chương Tấn vẫn theo sát. Lạc Băng không ngớt gọi hỏi: “Ngươi là ai?”

Y không đáp, cứ chạy qua mấy cánh cửa tròn rồi vào một vườn hoa. Dọc đường có rất nhiều tử thi nằm lăn lóc dưới đất, chắc bị Vô Trần giết trong lúc ông lục soát. Người bịt mặt đến gần một chậu hoa, chạy quanh cái chậu đó một vòng rồi vỗ tay ba cái la lên: “Dưới này…”

Y chưa dứt lời thì đột nhiên cha con Lý Khả Tú chạy vào trong vườn, phía sau có Thường thị song hiệp đuổi sát không rời.

Người bịt mặt bèn nhảy đến trước mặt Thường thị song hiệp vung kiếm cản trở, cha con họ Lý thừa cơ nhảy lên đầu tường. Thường Bá Chí ném phi trảo bay ra, người bịt mặt đưa kiếm đỡ phi trảo, uốn mình nhảy ngược ra sau.

Thường thị huynh đệ mỗi khi lâm trận đều tâm linh tương ứng, bốn tay bốn chân như của một người vậy. Phi trảo của Thường Bá Chí vừa rời tay, Thường Hách Chí đã biết địch thủ muốn lùi. Vì thế mà người bịt mặt vừa lùi đã bị tay trái của Thường Hách Chí đánh một chưởng trúng vai, văng ra mấy bước.

Lạc Băng vội la lên: “Ngũ ca! Lục ca! Đều là người mình cả, đừng đả thương y!”

Thường thị song hiệp đứng ngẩn ra, người kia thừa cơ nhảy ra khỏi vườn hoa rồi chạy mất. Lạc Băng đem những chuyện kỳ lạ vừa rồi kể lại vắn tắt. Song hiệp nhìn bồn hoa đó mãi, vẫn không thấy chỗ nào kỳ lạ.

Mọi người đều im lặng suy nghĩ, chỉ có Chương Tấn không biết sợ làm phiền người khác, cứ kêu lên: “Tứ ca! Tứ ca đang ở đâu? Chúng ta đến cứu tứ ca đây” Ý múa lang nha bổng loạn xạ, đập vỡ luôn cái chậu này.

Thường Hách Chí thấy dưới đáy chậu hoa nát vụn hình nhu có cái gì, bèn nhảy tới thì thấy một cái vòng sắt. Y vận sức kéo lên, nghe tiếng lạch cạch, đáy chậu từ từ di chuyển để lộ ra một phiến đá lớn. Chu Ỷ biết phía dưới có cơ quan, liền chạy ra ngoài gọi Từ Thiên Hoằng, Trần Gia Lạc mọi người vào trong.

Thường thị song hiệp, Chương Tấn, Lạc Băng bốn người hợp sức mà kéo, nhưng phiến đá dó giống như đúc bằng sắt vậy, hoàn toàn không nhúc nhích. Lạc Băng kêu lớn: “Đại ca! Đại ca! Đại ca có dưới đó không?” Nhưng áp tai lên phiến đá để nghe, nhưng không có âm thanh gì cả.

Từ Thiên Hoằng nhìn kỹ phiến đá vẫn không phát hiện được gì. Chàng bèn lùi lại vài bước, đứng nhìn xung quanh chậu hoa vỡ. Dưới ánh nắng xiên xiên, đột nhiên chàng thấy ở góc phải của phiến đá có khắc mờ mờ hình bát quái, bèn nhảy lên đứng trên tảng đá, dùng đơn quải chọc nhẹ vào trung tâm của bát quái đồ. Không có động tĩnh gì, chàng vận lực ấn mạnh hơn thì bỗng cảm thấy dưới chân mình có rung động, bèn vội vàng nhảy ra.

Phiến đá đột nhiên lọt sâu xuống mặt đất. Lạc Băng mừng rỡ kêu lên, định nhảy xuống thì Thường Bá Chí la lớn; “Khoan đã!” Y kéo nàng lại, ngay lúc đó từ miệng hầm có ba mũi tên bắn lên. Lạc Băng không khỏi âm thầm kinh hãi. Phiến đá hạ xuống tới đáy, để lộ ra một cầu thang bằng đá.

Trần Gia Lạc nói: “Ngũ ca! Lục ca! Hai huynh giữ cửa hầm này, chúng ta đi xuống.” Lúc này Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh, Dương Thành Hiệp, Mạnh Kiện Hùng đã nghe tin chạy tới, tất cả đều ùa vào. Chương Tấn cầm lang nha bổng đi trước mở đường.

Xuống hết cầu thang thì tới một con đường hầm rất dài. Quần hùng chạy thẳng vào trong, tới cuối đường hầm thì thấy một cánh cửa sắt chắn ngang.

Từ Thiên Hoằng lấy mồi lửa ra đốt lên, soi vào cánh cửa sắt thì quả nhiên tìm thấy một hình bát quái nữa. Chàng cầm đơn quải chọc mấy cái lên bát quái đồ, kêu lên: “Mọi người né qua một bên!” Quần hùng vội nép sát vào hai bên đường hầm, đề phòng sau cửa sắt có ám khí bắn ra. Lần này không có ám khí, chỉ nghe những tiếng ken két rồi cánh cửa sắt này từ từ rút lên trên nóc đường hầm.

Khi cánh cửa sắt rời khỏi mặt đất một đoạn, quần hùng đều thấy nó dày khoảng hai thước, ít ra cũng nặng đến ngàn cân. Lạc Bang không đợi cửa kéo lên hết, khom người chui vào bên dưới. Từ Thiên Hoằng vội kêu: “Tứ tẩu hãy khoan!” Nhưng chàng mới mở miệng, nàng đã chui vào trong rồi. Chương Tấn, Chu Ỷ cũng vào theo.

Quần hùng lần lượt vào trong cửa, bổng Vệ Xuân Hoa từ bên ngoài chạy tới nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Tên tướng quân đó đã chuồn được rồi, anh em không chặn nổi. Chúng ta hành động nhanh lên, kẻo hắn đem cứu binh đến.

Trần Gia Lạc bảo: “Huynh đi giúp Mã đại ca chuẩn bị thêm cung tiễn, đừng để cứu binh vào trong này.” Vệ Xuân Hoa nhận lệnh đi ngay.

Trần Gia Lạc cùng Vô Trần cũng chui vào dưới cửa sắt, thấy bên trong lại là một con đường hầm khác. Lúc này ai nấy cũng lo lắng cứu người, không nghĩ gì đến cơ quan ám khí nữa. Quần hùng đều xông thẳng vào trong.

Mới chạy được mấy trượng, đã thấy vách đá cuối đường hầm. Chương Tấn la lên: “Đồ rùa đen, đồ khốn kiếp! Làm gì mà lắm cơ quan đến thế!”

Đến chỗ tận cùng, thì ra đó ở đó có một chỗ ngoặt. Quần hùng rẽ qua chỗ ngoặt, bỗng thấy một cánh cửa nhỏ trước mắt. ChươngTấn cầm bổng đập vào, cánh cửa lập tức mở ra. Trước mắt mọi người bỗng sáng bừng lên, sau cửa là một gian phòng nhỏ, trong phòng thắp mấy cây nến lớn, giữa phòng có một cái ghế, ngồi trên ghế là một người cầm kiếm.

Đúng là oan gia ngõ hẹp gặp nhau. Người ngồi trên ghế chính là Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng. Sau lưng Trương Triệu Trọng là một cái giường. Lạc Băng thấy rõ ràng người nằm trên giường chính là trượng phu mà mình ngày đêm tưởng nhớ.

Văn Thái Lai nghe tiếng bước chân, quay đầu lại nhìn thấy ái thê chạy tới, cứ tưởng mình đang mơ. Tay chân chàng đang bị xiềng chặt không cử động được, chỉ khẽ la lên một tiếng. Ba lưỡi phi đao của Lạc Băng nhắm hướng Trương Triệu Trọng bay tới. Nàng bất kể hắn ta đối phó cách nào hay tránh né ra sao, cứ chạy thẳng đến chiếc giường.

Tay trái của Trương Triệu Trọng quơ từ phải sang trái chộp hết ba lưỡi phi đao, tay trái ấn vào cơ quan trên ghế đang ngồi. Một cái lưới sắt từ trên nóc phòng rơi xuống, chụp khít quanh giường của Văn Thái Lai. Thế là anh nằm trong lưới sắt, em đứng ngoài lưới sắt, gần nhau trong gang tấc, mà chỉ biết nhìn nhau bằng mắt.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Mọi người hợp lực tấn công, kết liễu tên gian tặc này!” Hô chưa dứt lời, ngọn trủy thủ dưới cổ tay chàng đã xoay mũi ra, đâm thẳng tới trước ngực Trương Triệu Trọng. Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh đều biết võ công Trương Triệu Trọng cao cường, tình hình lại đang khẩn cấp nên không tính tới chuyện anh hùng hảo hán đơn đả độc đấu nữa, cả ba rút binh khí ra bao vây hắn vào giữa.

Hỏa Thủ Phán Quan tập trung tinh thần, sử Ngưng Bích Kiếm tiếp chiến với bốn cao thủ, không hề hoảng hốt. Được mấy chiêu thì Trần Gia Lạc cất trủy thủ đi, dùng hai tay thi triển cầm nã thủ pháp chụp thẳng vào thượng bàn Trương Triệu Trọng. Chàng biết nếu địch phản công thì có Vô Trần đỡ hộ, nên múa tít song chưởng chỉ công không thủ, tấn công liên tiếp.

Võ công Trương Triệu Trọng dù cao hơn nữa cũng không chống nổi bốn nhân vật này liên thủ tấn công, nên phải lùi hai bước. Gian phòng này rất nhỏ, bây giờ lưng hắn đã dựa sát vào tường rồi. Vô Trần cả mừng vung kiếm đánh ngay chính diện, đồng thời Chu Trọng Anh, Trần Gia Lạc và Triệu Bán Sơn cũng chia hướng tấn công.

Tay trái của Trương Triệu Trọng vịn lên tường, tay phải vẫn múa kiếm chống đỡ. Vô Trần kiếm sau nhanh hơn kiếm trước, lực đạo mãnh liệt chiêu thế tinh vi, rõ ràng sắp ghim được hắn vào tường. Nào ngờ nghe roạt một tiếng, trên tường đột nhiên xuất hiện một khuôn cửa nhỏ. Trương Triệu Trọng lách người vào nhanh như chớp, rồi cánh cửa đóng lại ngay.

Bốn người phải giật mình. Vô Trần giậm chân chửi mắng. Trần Gia Lạc tung người nhảy đến trước mặt Văn Thái Lai. Lúc này Chương Tấn, Chu Ỷ, Lạc Băng cố dùng binh khí phá tấm lưới sắt trùm quanh chiếc giường.

Đột nhiên trên, đỉnh đầu có những tiếng lách cách, một tấm sắt rơi xuống giữa phòng, ngăn Văn Thái Lai ở bên trong, Trần Gia Lạc phải tức tốc đưa hai tay kéo Lạc Băng và Chu Ỷ lùi lại phía sau, hai cô này mới không bị tấm sắt xả đôi ra. Chương Tấn lại vung lang nha bổng lên đập rầm rầm vào tấm sắt, nhưng chỉ thấy lửa bắn ra chứ sắt chẳng hề gì.

Từ Thiên Hoằng xem xét trên tường tỉ mỉ xem thử có cơ quan để mở tấm sắt đó hay không. Chàng tìm được một đồ hình bát quái, lấy sức ấn vào. Nhưng hiển nhiên Trương Triệu Trọng đã làm gì trong đó rồi, nên chàng ấn mấy cái mà vẫn không có động tĩnh gì.

Từ nãy Dương Thành Hiệp vẫn đứng sau cùng, canh giữ chỗ ngoặt của đường hầm để đề phòng kẻ địch bên ngoài. Đột nhiên y nghe thấy vọng vào tiếng cừa sắt kêu ken két, bèn lập tức kêu lên: “Không xong rồi!” vọt ra ngoài.

Quần hùng không đành lòng bỏ chạy, cứ ráng lục lọi gian phòng nhỏ xíu này để tìm cơ quan kéo tấm sắt kia lên. Lạc Băng vừa gõ vào tấm sắt vừa kêu lên tha thiết: “Đại ca! Đại ca!”

Đột nhiên có tiếng Dương Thành Hiệp la gọi liên hồi trong đường hầm, tiếng la vửa kinh hãi vừa gấp rút. Triệu Bán Sơn và Chu Trọng Anh vội chạy ra. Nháy mắt lại nghe Triệu Bán Sơn hô lớn: “Mọi người ra khỏi đây nhanh lên! Nhanh lên!”

Mọi người liền chạy ra ngoài, chỉ còn Lạc Băng lưu luyến bên tấm sắt không chịu lùi ra. Chu Ỷ đả chạy đến chỗ ngoặt, thấy Lạc Băng không chịu đi liền quay lại dùng sức kéo nàng ra theo.

Dương Thành Hiệp đang dùng hai tay đỡ lấy cánh cửa nặng cả ngàn cân đó, mồ hôi đầy đầu. Chu Trọng Anh quăng đại đao, chồm tới dùng hết sức phụ đỡ từ dưới lên. Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy ngập bèn kêu lên: “Chúng ta ra ngoài trước rồi tính tiếp.”

Quần hùng lần lượt chui qua dưới cửa. Hai người Chu, Dương đã vận toàn lực, nhưng cánh cửa sắt đó vẫn từng tấc từ từ hạ xuống. Chương Tấn khom lưng chạy tới nói: “Để đệ đỡ cho” rồi đưa cái lưng gù hứng lấy cánh cửa ngàn cân này.

Dương Thành Hiệp, Chu Trọng Anh chạy ngay ra ngoài. Dương Thành Hiệp nhặt cây cương tiên vừa quăng xuống đất, dựng đứng dưới cánh cửa sắt rồi hô lớn: “Thập đệ, ra ngay!”

Chương Tấn lăn tròn dưới đất, cánh cửa sắt rơi ầm xuống cây cương tiên. Dương Thành Hiệp nắm vai Chương Tấn kéo được ra, sau đó nghe tiếng răng rắc, cánh cửa đã đè gãy cương tiên, sau đó rớt bịch xuống đất, bụi cát bay lên mù mịt. Tình thế quả là cực kỳ hung hiểm. Dương Thành Hiệp và Chương Tấn khí lực cạn kiệt, ngồi bệt dưới đất mà thở hổn hển.

Có tiếng bước chân gấp rút, Trường Hách Chí chạy vào trong nói: “Tồng đà chủ! Ngự lâm quân đã kéo đến rồi, chúng ta có tiếp chiến không?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Đánh như vậy không lợi, chúng ta lui đi là hơn.”

Trần Gia Lạc bèn nói: “Được! Mọi người rút lui!” Triệu Bán Sơn cùng Chu Trọng Anh còn cố ấn vào cơ quan mở cửa sắt, đập rầm rầm một lúc mà vẫn không có gì động đậy. Nghe lệnh Trần Gia Lạc, họ đành bỏ đó chạy ra ngoài.

Trong vườn hoa có một thiều phụ ăn mặc đẹp đẽ nhưng đầu bù tóc rối đang hốt hoảng chạy loạn lên. Trần Gia Lạc bèn nói: “Bắt lấy!” Chu Ỷ đưa tay túm lấy mụ, kéo ra ngoài.

Mọi người đi ra sân phủ đề đốc, thấy đầu người vẫn nhấp nhô thành một khối, cả quan binh lẫn hội chúng ở chung một chỗ. Trần Gia Lạc dùng ám ngữ Hồng Hoa Hội hạ lệnh: “Lập tức rút lui!” Mọi người tập hợp ở cổng dinh, rồi đồng thanh hô một tiếng, các lộ nhân mã lùi hết về hướng bắc. Quan binh nhất thời không hiểu ra sao nên không truy đuổi.

Số người do Chu Ỷ chỉ huy còn mang theo rất nhiều chảo lớn, ngoài ra còn mấy chục hội chúng đã lo sẵn về lương thực, họp nhau nấu nướng trong rừng. Triệu Bán Sơn an ủi Lạc Băng: “Tứ muội cứ yên tâm! Nếu không cứu được Tứ đệ bình yên trở về, chúng ta thề không làm người nữa”

Mọi người đều chửi mắng tên Trương Triệu Trọng tàn độc hết chỗ nói, hai lần cứu người đều bị hắn làm hỏng chuyện. Còn người bịt mặt kia không biết là ai. Y chỉ chỗ giam cầm văn Thái Lai, rõ ràng là bằng hữu mà không chịu lộ diện, rồi lại giúp cha con Lý Khả Tú chạy trốn, thật là không sao hiểu được.

Đang đàm luậnthì đột nhiên ngoài rừng truyền vào tiếng hô vang dội “Ngã Võ Duy Dương.” Dương Thành Hiệp nói: “Trấn Viễn tiêu cục đã đến rồi.”

Lạc Băng lên tiếng mắng: “Bọn Trấn Viển tiêu cục thật là khốn kiếp. Tuy thằng chó họ Đồng đã bị Thất ca giết, nhưng ta vẫn chưa hết hận. Lần này coi như chúng may mắn một phen, vì đang bảo vệ đồ vật của gia đình tổng đà chủ. Nếu không thì chúng ta không cướp tiêu mới là chuyện lạ.”

Từ Thiên Hoằng kéo Trần Gia Lạc qua một bên, nói nhỏ: “Hôm nay chúng ta làm như vậy, không chừng hoàng đế hoảng sợ sẽ hại Tứ ca sớm hơn.”

Trần Gia Lạc chau mày: “Chuyện này thật sự không thể không đề phòng.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Trước mắt không có cách nào khác, chỉ có thể đoạt lấy ngọc bình.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi: “Ngọc bình ư?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Đúng thế! Thập Nhị đệ đã nói, người Hồi đưa đến một cặp ngọc bình để cầu hòa, do bọn Trấn Viễn tiêu cục này hộ tống. Hoàng đế đã phái đại quân chinh tậy, nhất định không chịu hòa. Nhưng không nghị hòa thì phải trả lại ngọc bình cho họ, nếu không sẽ thất tín với thiên hạ. Tên hoàng đế này thích nhất là nịnh bợ, mà cũng phải giữ thể diện, chắc chắn không coi nhẹ việc này.”

Trần Gia Lạc gật đầu nói: “Sau khi lấy được ngọc bình, chúng ta sẽ gửi thư cho hoàng đế, tứ ca rụng một sợi lông là ngọc bình nát bét.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Đúng thế! Giả tỉ không thể dùng ngọc bình để đổi lấy Tứ ca, thì ít ra cũng kéo dài được mấy ngày. Chuyện này đối với Mộc lão anh hùng của Hồi tộc cũng rất có lợi.”

Trần Gia Lạc cả mừng nói: “Hay lắm! Vậy chúng ta đấu với lão Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương này một phen xem thử.”

* * *

Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương năm nay sáu mươi chín tuổi. Lão từ lúc ba mươi đã bôn tẩu giang hồ, dùng một thanh bát quái đao, một đôi bát quái chưởng dọc đường bảo tiêu dẹp hết khắp lục lâm vùng Giang Bắc, chưa hề gặp địch thủ. Trấn Viễn tiêu cục do lão sáng lập, ba chục năm ở phương bắc đã kinh qua không ít sóng to gió lớn, nhưng vẫn đứng vững không suy. Lục lâm có câu: Thà gặp Diêm Vương đừng gặp Lão Vương, nhìn thấy tiêu kỳ của lão là bọn cướp gan lớn bằng trời cũng chỉ dám đứng xa giương mắt mà nhìn.

Lão định sang năm làm lễ mừng đại thọ thất tuần để rửa tay gác kiếm, dưỡng già để được danh hiệu phước thọ toàn quy. Không ngờ năm nay tiêu cục của lão chịu lệnh Triệu Tuệ tướng quân hộ tống kinh Coran của Hồi tộc, dọc đường xảy ra xơ xuất, không những bị cướp mất thánh vật mà còn hao tổn khá nhiều tiêu đầu đắc lực. Lần này hộ tống ngọc bình, binh bộ đã chỉ định lão phải đích thân xuất mã.

Vương Duy Dương tuổi cao mà công phu chưa giảm, biết vụ này liên quan trọng đại nên không dám khinh xuất chút nào. Lão gọi từ các phân cục về sáu tên hảo thủ, triều đình còn phái thêm bốn đại nội thị vệ, hai chục tên ngự lâm quân hộ tống, lại thêm vào sứ giả người Hồi. Cả bọn cảnh giới nghiêm mật suốt đường xuôi nam, đến đây vẫn bình yên vô sự.

Hôm đó sắp đến giờ ngọ, đoàn bảo tiêu đi đến một thị trấn lớn, cách thành Hàng Châu chưa đầy mười dặm. Cả đám ghé vào một tiệm cơm lớn, gọi thức ăn. Từ đây trở đi là vùng dân cư đông đúc, chắc chắn không gặp biến cố gì, nên bọn chúng rất vui vẻ, bàn chuyện khi đến Hàng Châu sẽ chơi bời khoái lạc kiểu nào.

Đang nói đến chỗ hứng thú, nước bọt bắn ra lả tả, thì đột nhiên ngoài cửa có tiếng ngựa hí, âm thanh rất thanh thoát. Hàn Văn Xung nghe ngựa hí mà như nghe sấm ngang tai, chạy ngay ra cửa. Y thấy con ngựa yêu quý của mình đang từ từ đi ngang qua, trên lưng chất đầy củi khô. Tuấn mã thế này mà bắt đi chở củi! Hàn Văn Xung vừa đau lòng vừa tức giận nhưng lại vui mừng, vội vả nhảy ra ngoài, đưa tay chụp lấy cương ngựa.

Phía sau có một người nhà quê đang dắt ngựa. Y quất lên mông con ngựa một roi, rồi lập tức nhảy lên lưng ngựa, ngồi trên mấy bó củi. Hàn Văn Xung chưa kịp nắm chặt dây cương, con ngựa đã nhảy một cái ra xa mấy trượng. Người nhà quê ngồi trên lưng ngựa kêu trời kêu đất, dường như ngồi không vững lắm, lảo đảo muốn té.

Hàn Văn Xung quyết không chịu bỏ con ngựa này, bèn sải bước đuổi theo. Ngựa rẽ qua một chỗ ngoặt, chạy vào trong rừng. Lúc này Hàn Văn Xung không nhớ gì tới phương châm “Gặp rừng chớ vào” của bọn bảo tiêu nữa, cứ nhắm mắt tuốt theo.

Bọn tiêu đầu thấy hắn rượt theo một người nhà quê cũng không để ý lám. Tiêu đầu Vương Hạo Thiên còn mỉm cười nói: “Hàn đại ca nhớ con bạch mã của y đến phát điên rồi, dọc đường hễ thấy con ngựa hơi trắng một chút là cố đuổi theo để xem cho rõ ràng. Mai mốt về nhà nhìn thấy Hàn đại tẩu da dẻ trắng trẻo, sợ y nhầm là con ngựa, không nhảy lên bụng lại nhảy lên lưng mà cưỡi” Cả đám khoái chí ngoác mồm ra mà cười ha hả.

Trong lúc vui đùa, bỗng nghe Kim tiểu nhị chào hỏi liền miệng: “Trương đại gia! Trương đại gia! Mời đại gia ngồi bên này, sao hôm nay rảnh mà đi chơi vậy?” Một người trông như phú thương đi vào trong, khoác trường bào và áo ngắn đi ngựa cùng màu lam. Phía sau ông có bốn gia nhân theo hầu, người bưng tẩu thuốc, kẻ bưng hộp thức ăn, khí thái vừa hào nhoáng vừa khoáng đạt.

Trương đại gia vừa ngồi xuống, Kim tiểu nhị vội tới pha trà rồi nói: “Trương đại gia! Đây là trà Long Tĩnh hái vào sáng sớm thanh minh, pha bằng nước suối hồ Bảo Tuyền mới gánh về hôm qua, đại gia nếm thử xem”

Trương đại gia “à” một tiếng, mở miệng nói thổ âm Hàng Châu: “Ngươi cho ta mấy miếng thịt, một dĩa nhộng chiên và ba cân rượu trắng Trần Thiệu.” Tiểu nhị vâng dạ lùi xuống. Lát sau mùi thơm bốc lên ngào ngạt, hắn bưng rượu thịt ra ngoài cho Trương đại gia.

Vương Duy Dương hỏi: “Không hiểu sao Hàn lão đệ đi lâu như thế mà chưa trở lại?” Tên hô khẩu hiệu Tôn Lão Tam đang định trả lời thi bên ngoài bỗng vang lên tiếng giày thình thịch, một hán tử lùn tịt đi vào, theo sau là một cô nương và một hán tử tráng niên, trông như những người lưu lạc giang hồ để kiếm sống.

Người lùn chắp tay vái lạy bốn phía rồi lên tiếng: “Người ta thường nói, ở nhà dựa dẫm cha mẹ, ra ngoài nương tựa bạn bè. Tại hạ lưu lạc giang hồ có mấy ngón nghề, muốn biễu diễn cho quí vị vui vẻ mà uống rượu. Nếu hay thì tùy quí vị thưởng bao nhiêu tùy hỉ, nếu không hay thì xin quí vị thứ lỗi cho.” Y đặt một cái tách trà lên bàn, rồi lấy cái nón nỉ cũ trên đầu xuống, đậy lên cái tách rồi hét: “Biến!” Sau đó y giở cái nón nỉ ra, cái tách trà đã biến đâu mất. Y vò vò cái nón, rõ ràng trong nón không có ly tách gì hết. Mọi người đều biết đây là xảo thuật, nhưng không sao thấy được thủ pháp của y ra sao.

Trương đại gia thấy hứng thú, liền đứng dậy đến gần xem. Người lùn mỉm cười nói: “Lão gia có thể cho tại hạ mượn cái hộp thuốc một chút hay không?” Trương đại gia cười ha hả, đưa cái hộp đựng thuốc bằng ngọc trong tay cho y. Người lùn đặt hộp thuốc lên bàn, rồi cũng lấy nón nỉ úp lại, mở ra thấy trống trơn.

Một gia nhân của Trương đại gia mỉm cười nói: “Cái hộp ngọc đó đắt tiền lắm đấy, ngươi chớ có làm sứt mẻ.”

Người lùn đáp: “Xin quản gia sờ vào túi của mình.” Gia nhân đó sờ thử, rồi lấy trong túi áo mình ra cái hộp thuốc còn nguyên vẹn.

Không những Trương đại gia và đám gia nhân kinh ngạc, mà bọn tiêu sư và ngự tiền thị vệ cũng thấy lạ mắt, nên đều đứng dậy xem làm xiếc. Trương đại gia tháo chiếc nhẫn phỉ thúy đeo ở ngón giữa ra đưa cho người lùn rồi mỉm cười nói: “Ngươi biến thử cái này xem.”

Người lùn nhận lấy, rồi cũng đặt lên bàn, lấy nón chụp lên, thổi một hơi rồi niệm chú: “Đông biến tây biến, Biến loạn xà ngầu, Không sợ Diêm Vương, Không kiêng Hà Bá. Hô biến!” Y chỉ một ngón tay một cái rồi giở cái nón ra, quả nhiên chiếc nhẩn không còn ở đó nữa.

Mọi người cùng ồ lên khen ngợi. Người lùn nói: “Lão gia sờ vào túi thử xem.”

Trương đại gia vừa thò tay vào đã lấy trong túi áo của mình ra một chiếc nhẫn, ngơ ngác nhìn rồi hoan hô vang lên: “Hay quá, hay quá!”

Lúc này có mấy chục người lục tục kéo vào tiệm, nào là thương nhân lữ khách, nào là bộ khoái công sai, có cả võ tướng thống binh. Cả đám vây quanh xem làm xiếc, càng lúc càng nhích vào gần.

Tên võ quan cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn cặn bã giang hồ này chỉ biết lừa bịp lấy tiền, có gì là lạ. Lão gia có món này, ngươi dám biến thử hay không?” Hắn lấy ra một vật, thuận tay dằn mạng xuống bàn. Mọi người đều thấy đó là một phong văn thư, trên phong bì có viết: Cấp trình binh bộ Vương đại nhân ở Bắc Kinh, bên dưới ký tên Lý thủy lục đề đốc ở Triết Giang, có đóng dấu niêm phong cẩn thận.

Người lùn nói: “Xin tướng gia đừng trách. Tiểu nhân chỉ biết làm bừa để kiếm miếng ăn, còn văn thư quan trọng của quan phủ thì dù cho tiểu nhân gan lớn bằng trời cũng không dám động đến.”

Dường như Trương đại gia nhìn thấy tên võ quan phách lối không thuận mắt, bèn nói: “Làm trò ảo thuật đùa vui một tí, có gì lớn chuyện lắm đâu? Ngươi cứ việc hóa phép cho người ta xem thử.” Ông quay lại bảo gia nhân: “Lấy năm lạng bạc ra đây!” Gia nhân mở hành lý lấy ra một thỏi bạc. Trương đại gia cầm lấy đặt lên bàn rồi nói với người lùn: “Nếu ngươi làm tốt, thỏi bạc này lập tức của ngươi.”

Người lùn thấy bạc sáng mắt, quay lại nói nhỏ với cô nương đứng sau lưng, rồi nói với tên võ quan: “Tiểu nhân cả gan làm trò cho vui, xin tướng gia tha lỗi trước.” Rồi y lấy cái nón nỉ úp lên văn thư, quát gọi nào là Ngọc Hoàng Đại Đế, nào là Thái Bạch Kim Tinh, đột nhiên chỉ vào một cái rương da ở bàn bên kia, hét lớn; “Đi vào, đi vào! Tôn Ngộ Không biến thành sợi lông, chui vào trong hộp, ai thấy ngộ không: “Rồi y giở nón nỉ ra, văn thư đó quả nhiên không thấy đâu nữa.

Tên võ quan la lên: “Còn rùa này, hay thật đấy!”

Người lùn quay lại vái tạ Trương đại gia, mỉm cười nói: “Đa tạ lão gia ban thưởng.” Y lập tức lấy thỏi bạc trên bàn, đưa cho cô nương đứng sau cất vào bọc. Mọi người vỗ tay hoan hô không ngớt.

Tên võ quan nói: “Được rồi! Bây giờ trả văn thư lại cho ta.”

Người lùn mỉm cười: “Văn thư đang ở trong cái rương da kia, xin tướng gia mở ra mà lấy.” Câu này làm bọn người tiêu cục phải hoảng sợ nhảy chồm lên. Cái rương da đó đang đựng ngọc bình, đã dán giấy niêm phong của nội phủ hoàng cung, ai dám mở ra?

Tên võ quan đi tới, thò tay sờ vào rương. Tiêu đầu Vương Hạo Thiên vội nói: “Lão gia! Đây là bảo vật của hoàng cung, không thể động đến được.”

Tên võ quan hỏi: “Ngươi nói giỡn kiẻu gì vậy?” vẫn đưa tay tới.

Ngự tiền thị vệ Mã Kiếm Hiệp gằn giọng: “Ai giỡn với ngươi? Xê ra lập tức!”

Tên võ quan thấy họ Mã mặc sắc phục thị vệ, cấp bậc còn lớn hơn mình nhiều. Hắn không dám ngang bướng, bèn khom lưng nói: “Dạ dạ, xin đại gia lấy văn thư trả lại cho hạ quan.”

Mã Kiếm Hiệp quát bảo người lùn: “Ngươi đừng đùa nữa, mau mau trả văn thư cho người ta đi.”

Người lùn khúm núm đáp: “Văn thư ở trong cái rương đó thật mà, đại nhân không tin thì mở ra nhìn là biết ngay.”

Tên võ quan giận dữ nện luôn một quyền xuống vai người lùn, hét lên: “Đừng lải nhải nữa, lấy ra nhanh lên.”

Cô nương đứng sau tức giận kêu lên: “Có gì thì nói, sao lại đánh người?”

Tên võ quan tiếp tục quát nạt: “Đồ con rùa khốn kiếp! Công văn của lão gia mà ngươi cũng dám lấy ra đùa giỡn hay sao?”

Trương đại gia nhịn không nổi bèn nói: “Lão gia, đừng động thủ bửa bãi.” Rồi ông bảo người lùn: “Ngươi mau mau biến cho văn thư trở lại, trả cho vị lão gia này đi.”

Người lùn ảo não nói: “Không dám lừa gạt lão gia, văn thư thật sự vào trong cái rương da đó rồi. Tiểu nhân biết biến vào đó chứ không biết biến trở ra.”

Trương đại gia bước tới mấy bước, hỏi Mã Kiếm Huệp: “Xin hỏi quí tính đại nhân?”

Mã Kiếm Hiệp đáp: “Ta họ Mã.”

Trương đại gia nói: “Bọn tiểu nhân hạ lưu này hành động không biết suy nghĩ. Xin Mã đại nhân giúp cho một tay, lấy văn thư trả lại cho ông ấy đi.”

Mã Kiếm hiệp nói: “Đây có dấu ngự phong của hoàng gia, nếu không có thánh chỉ của hoàng thượng thì không ai dám mở.”

Trương đại gia chau mày, cảm thấy khó xử. Tên võ quan tức giận nói: “Nếu không đem văn thư trả lại cho ta, làm chậm trễ đại sự thì phải mang tội chém đầu. Này! Các vị huynh đệ, phiền các vị giúp ta nói lý mấy câu.”

Trong tiệm cơm đang có mười mấy tên quan quân, sắc phục giống như tên võ quan này, hình như ở cùng doanh trại. Chúng đều bước lên vây quanh, hung hăng nói giúp, nhất dịnh đòi Mã Kiếm Hiệp giao trả lại văn thư.

Vương Duy Dương lão luyện giang hồ mấy chục năm, thấy chuyện này có phần cổ quái bèn nghĩ: “Mấu chốt của vụ này là ở tên lùn!” Lão bèn đưa tay chụp vào vai trái người lùn.

Người lùn co mình lại tránh, lớn tiếng kêu: “Xin tha cho tiểu nhân một lần!”

Vương Duy Dương thấy thân thủ y rất mau lẹ, lại càng nghi ngờ hơn. Lão đang đuổi theo người lùn thì mấy chục quan quân đã lên tiếng gây gổ với bọn tiêu đầu và ngự tiền thị vệ. Vương Hạo Thiên ôm chặt rương da trong lòng, hai tiêu đầu đứng bên hộ vệ. Mã Kiếm Hiệp rút đao sau lưng ra, chém lên bàn một nhát rồi quát: “Còn ai dám lải nhải nữa không? Lùi ra nhanh lên!”

Tên võ quan cũng rút đao, hô lớn: “Ngươi không chịu trả công văn thì ta cũng chết. Dù sao cũng mất mạng rồi, hôm nay ta phải liều với ngươi một phen. Các huynh đệ! Mọi người lên cả đi!” Hắn lập tức phóng lên giao đấu với Mã Kiếm Hiệp. Vương Duy Dương liền miệng quát lên cản trở, nhưng không sao cản nổi. Bọn quan quân đều lấy binh khí ra, chạy ùa tới gây một trường loạn đả.

Mã Kiếm Hiệp là hảo thủ số một của ngự tiền thị vệ, thế mà mới qua lại mấy chiêu với tên võ quan hạng bét này đã ở thế hạ phong. Hắn thấy đối phương đao pháp kỳ lạ, võ công thâm hậu, hắn không khỏi vừa kinh hãi vừa giận dữ. Thêm mấy chiêu nữa, họ Mã đã suýt trúng một đao vào vai phải.

Trong lúc hỗn loạn, bên ngoài lại có một nhóm người đi vào. Có người quát lớn: “Bọn nào phá rối ở đây vậy? Bắt hết cho ta!”

Bọn quan quân bị oai khí của người này nhiếp phục, đều dừng tay lại. Mã Kiếm Hiệp thở ra một hơi, nhìn lại thấy mấy chục quan quân đang hộ tống một đại quan còn trẻ vào trong. Hắn nhận ra đây là Phúc Khang An, người đang được hoàng thượng sủng ái nhất, hiện là đô thống bạch kỳ Mãn Châu, kiêm nhiệm thống lĩnh ngự lâm quân và cửu môn đề đốc Bắc Kinh.

Mã Kiếm Hiệp vội bước tới thỉnh an, bọn ngự tiền thị vệ còn lại đều khom mình thi lễ.

Đại quan hỏi: “Các ngươi đang ồn ào chuyện gì vậy?”

Mã Kiếm Hiệp đáp: “Bẩm thống lĩnh đại nhân, chuyện này do bọn họ đòi hỏi vô lý.” Hắn thuật lại tình hình một chập.

Đại quan hỏi: “Còn tên làm trò đó đâu rồi?”

Người lùn đang trốn kỹ, bây giờ mới chui ra khấu đầu. Đại quan nói: “Việc này thật là cổ quái. Tất cả bọn ngươi phải theo ta về Hàng Châu, để ta điều tra lại đã.”

Mã Kiếm Hiệp vội đáp: “Vâng, vâng! Thống lĩnh đại nhân quả là anh minh quyết đoán.”

Đại quan quay lưng lại bảo: “Đi thôi!” rồi nhảy ngay lên ngựa. Bọn quan quân thủ hạ của y bèn thu gom mọi người tiêu cục và bọn quan binh gây sự, ngay cả sứ giả người Hồi cũng bị dẫn về.

Lúc nãy Vương Duy Dương cảm thấy bất ổn, đã định rút cương đao ra trấn áp bọn quan quân gây sự rồi mới nói lý lẽ sau. Lão đột nhiên thấy thống lĩnh ngự lâm quân Phúc Khang An đến đây, không khỏi mừng rỡ trong lòng.

Mã Kiếm Hiệp giới thiệu với vị đại quan: “Phúc đại nhân! Đây là tổng tiêu đầu Vương Duy Dương của Trấn Viễn tiêu cục.”

Vương Duy Dương bước tới thỉnh an. Đại quan nhìn lão từ đầu đến chân một cái, hừ một tiếng rồi nói: “Đi thôi!”

Cả đoàn người tiến vào thành Hàng Châu. Vương Duy Dương theo ngự lâm quân đi tới một tòa dinh thự lớn ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ, thầm nghĩ: “Đây nhất định là nhà nghỉ của thống lĩnh đại nhân rồi. Ông ấy là người được hoàng thượng ân sủng nhất, chẳng trách có khí thế lớn như vậy.”

Mọi người vào trong đại sản, đại quan bảo Mã Kiếm Hiệp; “Các ngươi ngồi đây một lát.”

Mã Kiếm Hiệp vội nói: “Xin đại nhân cứ tùy tiện.”

Đại quan đi vào bên trong. Lát sau một tên võ quan ngự lâm quân bước ra ngoài, hạ lệnh gọi đám quan quân gây chuyện, bọn làm xiếc, Trương đại gia và gia nhân vào bên trong.

Vương Hạo Thiên bỗng lên tiếng: “Vụ rắc rối vừa rồi thật là đáng sợ, sợ nhất là đám quan quân đó làm hỏng ngọc bình. Tại hạ xem chừng bọn này có chỗ khác thường.”

Mã Kiếm Hiệp đáp: “Đúng thế! Bọn này võ công cao thâm kỳ lạ, không phải là quan quân tầm thường. May mà gặp Phúc đại nhân, nếu không thì không biết chuyện gì sẽ xảy ra.”

Vương Duy Dương nhận xét: “Phúc đại nhân nội công rất thâm hậu. Một vị công tử mà luyện được công lực như thế thật không phải dễ.”

Mã Kiếm Hiệp hỏi: “Sao? Phúc đại nhân giỏi võ công lắm ư? Làm sao tổng tiêu đầu biết được?”

Vương Duy Dương đáp: “Chỉ nhìn nhãn thần của ông ấy là biết nội công cao tới mức nào. Nhưng trong các vị vương thân quốc thích cũng có nhiều người giỏi võ, không đáng ngạc nhiên lắm.”

Đang trò chuyện thì một tên ngự lâm quân bước ra nói: “Gọi Vương Duy Dương ở Trấn Viễn tiêu cục vào trong.”

Vương Duy Dương đứng dậy, theo hắn đi vào. Qua hai cái sân, đến hậu sảnh thì thấy Phúc Khang An bệ vệ ngồi chính giữa, mặc quan phục trọng thần, bên ngoài còn khoác thêm áo ngắn màu vàng, đội nón có tua ngù càng tăng thêm phần uy thế. Trước mặt y có bày công án, hai bên có rất nhiều ngự lâm quân đứng hầu. Đám người làm xiếc và Trương đại gia đang quì bên trái.

Vương Duy Dương vừa vào đó, bọn quan quân đứng hai bên đều quát: “Quì xuống!” Đến nước này, dĩ nhiên họ Vương không dám không quì.

Phúc Khang An quát hỏi: “Ngươi chính là Vương Duy Dương phải không?”

Họ Vương đáp: “Tiểu nhân chính là Vương Duy Dương.”

Phúc Khang An gằn giọng: “Nghe nói ngươi có ngoại hiệu là Oai Trấn Hà Sóc.”

Vương Duy Dương đáp: “Đó chỉ là lời tâng bốc của bằng hữu trên giang hồ mà thôi.”

Phúc Khang An lạnh nhạt nói: “Hoàng thượng và ta đều ở Bắc Kinh, thế thì cũng bị oai danh của ngươi trấn áp chứ gì?”

Vương Duy Dương giật mình kinh hãi, lập tức dập đầu lia lịa mà năn nỉ: “Tiểu nhân không dám! Tiểu nhân lập tức bỏ cái ngoại hiệu đó đi.”

Phúc Khang An quát: “Thật là lớn mật! Bắt hắn cho ta!” Bọn quan quân ở hai bên chạy tới, khóa tay lão lại rồi dẫn ra sau. Vương Duy Dương toàn thân võ nghệ mà không dám phản kháng chút nào.

Sau đó Mã Kiếm Hiêp, Vương Hạo Thiên cùng bọn thị vệ tiêu đầu, từng người được gọi vào rồi bắt giam. Cuối cùng thì bọn tiểu tốt chạy cờ hô khẩu hiệu cũng bị bắt nốt, tất cả đều bị khóa tay giam lại. Một tên ngự lâm quân hai tay bưng cái rương da đến trước mặt Phúc Khang An, quì một gối nâng rương lên đỉnh đầu, mỉm cười nói: “Bẩm báo Phúc thống lãnh, ngọc bình đã đem đến.”

Phúc Khang An cười ha hả bước ra khỏi ghế. Trương đại gia, người lùn và bọn đang quì dưới đất đều đứng dậy, ai cũng cười rộ lên. Phúc Khang An nói với người lùn: “Thất ca! Huynh thật không thẹn với ba chữ Võ Gia Cát.”

Thì ra người lùn làm xiếc là Từ Thiên Hoằng, hai người đi theo chàng là Chu Ỷ và An Kiện Khang. Trương đại gia là Mã Thiện Quân, còn Phúc Khang An chính là Trần Gia Lạc. Đám quan quân gây chuyện là Thường Hách Chí, Mạnh Kiện Hùng và mấy anh em khác. Gia nhân của Trương đại gia và tiểu nhị là tay chân của Mã Thiện Quân cả.

Sau khi bàn kế, Từ Thiên Hoằng chợt nghĩ đến tiêu sư Hàn Văn Xung đã quen mặt người trong Hồng Hoa Hội, bèn để Triệu Bán Sơn giả làm một nông phu cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng dụ hắn vào rừng thông. Rồi Thường Bá Chí tới giúp một tay, hai người lập tức bắt hán trói lại.

Trò xiếc Từ Thiên Hoằng chỉ là chuyện đã sắp xếp sẵn. Có hai cái nón nỉ giống hệt nhau, một cái vừa úp lên tách trà và các thứ khác là đẩy đi ngay, giao cho Chu Ỷ cất giấu. Từ Thiên Hoằng lấy cái nón kia để lật qua lật lại, dĩ nhiên trong đó chẳng có thứ gì. Trương đại gia và tên gia nhân đã giấu hộp thuốc và nhẫn ngọc sẵn trong túi, đương nhiên mỗi thứ phải có hai chiếc giống nhau. Từ Thiên Hoằng đưa cho Chu Ỷ một chiếc, họ lấy trong túi ra chiếc kia, người khác không sao biết được.

Dĩ nhiên không thể giấu sẵn văn thư trong rương da, nhưng Từ Thiên Hoằng chỉ muốn làm rối loạn một hồi, để khi Trần Gia Lạc tiến vào thì bọn tiêu đầu và thị vệ đã đầu choáng mắt hoa hết rồi, không còn tỉnh táo mà khởi lòng nghi hoặc.

Từ Thiên Hoằng chỉ muốn Trần Gia Lạc giả trang làm một đại quan, nào ngờ âm phù tương trợ thế nào mà tướng mạo họ Trần lại rất giống Phúc Khang An, mấy tên thị vệ tự động chạy tới vấn an thi lễ. Thế là kế hoạch lại càng kín kẽ, giống như áo trời không có đường may.

Trần Gia Lạc xé dấu niêm phong, vừa mở cái rương da ra là lập tức hào quang chói mắt. Trong rương có một đôì ngọc bình trắng muốt, cao một thước hai tấc, sắc dịu dàng mà óng ánh vô cùng. Trên bình vẽ mỹ nhân có bím tóc dài, đội nón nhỏ, mặc trang phục kiểu người Hồi, ngang hông đeo một thanh đoản kiếm. Mỹ nhân diễm lệ tuyệt trần, sắc thái mê người, mục quang sáng long lanh, miệng tươi như muốn nói. Nàng trông như tiên nữ đang múa trên cung Quảng Hàn, không thể có trong cõi đời phàm tục này được.

Mọi người vây quanh thưởng thức ngọc bình, không ai không tán thưởng. Vệ Xuân Hoa thở dài nói: “Hồi Cương ở tận miền Tây Vực, thế mà có họa sư cao minh đến thế ư?”

Lạc Băng nói: “Lúc ta gặp Hoắc Thanh Đồng muội muội, tưởng nàng đã là thiên hạ vô song rồi. Nào ngờ mỹ nữ trên ngọc bình còn đẹp hơn nhiều.”

Chu Ỷ nói: “Đó chỉ là hình vẽ. Không lẽ các vị cho rằng có người đẹp đến thế thật sao?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta mời vị sứ giả người Hồi đến thì biết ngay thôi.”

Sứ giả người Hồi gặp Trần Gia Lạc, nghĩ là trọng thần hay quí tộc nên cung kính thi lễ. Trần Gia Lạc nói: “Quí sứ từ xa tới đây thật là cực khổ. Xin hỏi tôn tánh đại danh?”

Sứ giả biết tiếng Hán, liền đáp: “Tại hạ là Khải Biệt Hưng. Không biết phải xưng hô đại quan như thế nào?”

Từ Thiên Hoằng nói xen vào: “Vị này là Lý tướng quân, thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang.” Trần Gia Lạc và quần hùng làm ngơ, chưa biết chàng có dụng ý gì.

Trần Gia Lạc hỏi: “Mộc Trác Luân lão anh hùng có được khỏe không?”

Khải Biệt Hưng đáp: “Đa tạ đại quan hỏi thăm, tộc trưởng của bọn tại hạ rất khỏe.”

Trần Gia Lạc lại hỏi: “Xin hỏi quí sứ, mỹ nhân được vẽ trên ngọc bình là nhân vật kim cổ thế nào, hay chỉ xuất phát từ ý tưởng của họa sư?

Khải Biệt Hưng đáp: “Ngọc bình này do họa sư Tư Anh trứ danh của tệ tộc vẽ từ năm trăm năm trước, mỹ nữ trên bình là nữ anh hùng Mã Mễ Nghi trong truyền thuyết của tệ tộc. Nàng được chân chủ Ala phù hộ, đã xả thân lập đại công vì dân tộc. Tệ tộc có rất nhiều đồ ngọc, tranh vẽ, thảm treo có hình của nàng. Đôi ngọc bình này vốn thuộc về tam tiểu thư Kha Tư Lệ của Mộc lão anh hùng. Kha Tư Lệ cũng đẹp như Mã Mễ Nghi vậy.”

Chu Ỷ không nhịn nổi, hỏi xen vào: “Cô ấy là muội muội của Hoắc Thanh Đồng cô nương à?”

Khải Biệt Hưng kinh ngạc hỏi: “Vị cô nương này cũng quen với Thúy Vũ Hoàng Sam hay sao?”

Chu Ỷ đáp: “Từng có duyên gặp gỡ một lần.”

Trần Gia Lạc muốn hỏi Hoắc Thanh Đồng lúc này ra sao, mặt bỗng đỏ lên, một chút. Chàng định hỏi thì đột nhiên Mã Thiện Quân từ bên ngoài rảo bước chạy vào, ghé tai nói: “Lý Khả Tú đang thống lãnh khoảng ba ngàn quân binh tiến về hướng này, không chừng là để đối phó với chúng ta.”

Trần Gia Lạc khẽ gật đầu, rồi bảo Khải Biệt Hưng: “Xin mời quí sứ về nghỉ ngơi, chúng ta sẽ nói chuyện sau.”

Khải Biệt Hưng chắp tay, khom lưng nói: “Xin hỏi đại quan, đôi ngọc bình này sẽ xử lý như thế nào?”

Trần Gia Lạc đáp: “Ta sẽ sắp xếp sau.”

Mạnh Kiện Hùng bèn dẫn Khải Biệt Hưng ra.

Hồi 09: Hang cọp không thua, thua xích sắt – Thù sâu chẳng báo, báo ân tình

Trần Gia Lạc nói: “Các vị ca ca, bây giờ tốt nhất ta tạm lui khỏi Hàng Châu. Trước mắt chưa cứu thoát được Tứ ca được, dàn trận đánh nhau với bọn Thanh binh chẳng có ích lợi gì.”

Lạc Băng suy nghĩ một hồi rồi lên tiếng: “Lý Khả Tú dám nhốt đại ca, chúng ta đem vợ bé của hắn ra giết trước đi, Tổng đà chủ có cho phép không?”

Trần Gia Lạc không hiểu, hỏi lại: “Vợ bé nào?”

Lạc Băng đáp: “Mụ đàn bà trang điểm lòe loẹt mà chúng ta bắt được ở phủ đề đốc chính là vợ bé của Lý Khả Tú. Lúc nãy mụ ta vừa la vừa khóc, bị thuộc hạ tát cho mấy cái, bây giờ chịu nằm yên trong kia rồi.”

Quần hùng biết nàng thương nhớ phu quân da diết, trong lòng vừa buồn phiền vừa tức giận nên muốn xử lý mụ kia cho hả dạ. Mọi người bất giác mỉm cười.

Từ Thiên Hoằng nói: “Tổng đà chủ! Đà chủ viết thư cho Lý Khả Tú đi, có được không?”

Trần Gia Lạc hiểu ngay, cả mừng đáp: “Hay quá!” Chàng lập tức lấy bút viết một lá thư: “Lý tướng quân! Tại hạ sáng nay đi dạo cảnh hồ, may được làm quen với người được tướng quân sủng ái nhất. Bọn tại hạ đã mạn phép mời về tệ xá để khoản đãi tỏ chút tình ngưỡng mộ. Xin tướng quân đừng trông ngóng làm gì. Hồng Hoa Hội hội chủ, Trần Gia Lạc kính bái.”

Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Cửu ca! Phiền huynh đưa thư này cho Lý Khả Tú. Bát ca! Huynh đi theo để tiếp ứng Cửu ca.” Dương, Vệ nhận lệnh đi ngay.

Trần Gia Lạc lại nói: “Nếu thật sự Lý Khả Tú sủng ái ả tiểu thiếp này, có thể hắn sẽ không dám vọng động. Nhưng nếu hoàng đế hạ lệnh thì hắn có lo lắng đến thế nào cũng không dám tuân chỉ. Thất ca nghĩ xem thế nào?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta định cướp ngọc bình để thương lượng với hoàng đế, không ngờ đôi ngọc bình này lại tuyệt vời đến thế. Thuộc hạ nghĩ rằng hoàng đế thấy chắc cũng yêu thích không muốn rời tay, cũng có thể y sẽ đồng ý nghị hòa với Hồi tộc. Nếu vậy chúng ta lấy cặp ngọc bình này há chẳng làm hỏng đại sự của Mộc lão anh hùng? Giả tỉ vì thế mà xảy ra binh họa liên miên, sinh linh đồ thán thì không sao yên tâm được.”

Trần Gia Lạc chau mày nói: “Nói là nói vậy, nhưng chúng ta cướp ngọc bình cực khổ như thế, chẳng lẽ đưa trả cho y một cách dễ dàng hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói: “Thuộc hạ có kế hoạch này, tổng đà chủ xem thử thế nào.”

Chàng nói mưu mẹo của mình ra, Chu Ỷ lập tức kêu lớn: “Không quang minh chính đại gì cả, muội không thích đâu.”

Chu Trọng Anh mắng: “Yên lặng mà nghe Tổng đà chủ dặn dò. Con gái gì mà nhiều chuyện như thế?”

Chu Ỷ không dám lớn tiếng nữa, chỉ lẩm bẩm cằn nhằn: “Làm vậy mà không sợ thất đức hay sao?”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Không làm hỏng việc nghị hòa của Hồi tộc, lại có thể cứu được Tứ ca. Kế hoạch này của Thất ca vẹn cả hai bề, có thể dùng được. Thất ca! Huynh đi nói chuyện với sứ giả đi.” Rồi chàng quay lại, mỉm cười nói với Chu Ỷ: “Trước nay Thất ca đối đãi với bằng hữu không có chỗ nào thất đức, Chu cô nương không cần lo lắng.”

Từ Thiên Hoằng đi gặp Khải Biệt Hưng, nói: “Bây giờ tại hạ dẫn ngài đi gặp hoàng thượng.” Mạnh Hiện Hùng bưng cái rương da, trong đó chỉ còn một cái ngọc bình, giấy niêm phong được dán lại đàng hoàng, Khải Biệt Ưng không biết gì cả.

Ba người đến cổng dinh tuần phủ, Mạnh Hiện Hùng giao rương da cho sứ giả, rồi bảo: “Ngài vào đó một mình đi.” Rồi hai người quay lưng về nhà họ Mã ở Cô Sơn, dọc đường gặp Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa. Thì ra Lý Khả Tú nhận được thư vừa kinh hãi vừa giận dữ, đã thu binh trở về rồi.

Khoảng giờ Thân, gia nhân đưa vào một tấm thiệp nói rằng có một võ quan đến xin bái kiến Tổng đà chủ, trên thiệp có ghi tên Tăng Đồ Nam.

Mã Thiện Quân mỉm cười nói: “Thất đương gia! Kế sách của huynh đã thành rồi. Tên tham tướng này là người thân tín của Lý Khả Tú.”

Trần Gia Lạc bảo: “Cửu ca! Huynh ra gặp hắn đi.”

Vệ Xuân Hoa ra phòng khách, thấy một võ quan đang ngồi trên ghế. Tên này thân hình khôi vĩ nhưng trên mặt có một vết bỏng lớn, rõ ràng mới bị tạt dầu sôi ở phủ đề đốc.

Vệ Xuân Hoa hỏi: “Không hiểu Tăng tướng quân cần gặp tệ đương gia có gì chỉ giáo?”

Tăng Đồ Nam đáp: “Tại hạ phụng mệnh Lý tướng quân, muốn gặp Trần tổng đà chủ của quý hội để thương lượng một việc quan trọng.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Tệ đương gia lúc này không rảnh, Tăng tướng quân nói với tại hạ là được rồi.”

Tăng Đồ Nam nghĩ bụng: “Ta là mệnh quan triều đình, thân hành đến gặp bọn thảo khấu giang hồ này là ép mình lắm rồi, thế mà còn làm bộ không thèm gặp.” Hắn tức tối, nhưng nghĩ lại mình có việc cần, đành ráng dằn cơn giận xuống rồi nói: “Vừa rồi, Lý tướng quân có nhận được thư của Trần tổng đà chủ, cho biết Như phu nhân đang làm khách ở quý hội. Rất mong Trần tổng đà chủ để bà ấy trở về tướng phủ, dĩ nhiên tướng quân muôn phần cảm kích.”

Vệ Xuân Hoa đáp: “Việc này rất dễ, tại hạ nghĩ Trần đương gia chắc chắn không từ chối.”

Tăng Đồ Nam nói: “Còn việc thứ hai, có liên quan đến ngọc bình.”

Vệ Xuân Hoa chỉ “à” một tiếng, không nói gì. Tăng Đồ Nam tiếp: “Hồi tộc đã phái sứ giả đưa đến một cặp ngọc bình để cầu hòa. Khi hoàng thượng mở rương da ra, thấy đã mất đi một cái. Mặt rồng giận dữ, hỏi sứ giả thì biết liên can tới một tướng quân trẻ tuổi, tự xưng là Lý thủy lục đề đốc tỉnh Triết Giang. Hoàng thượng lập tức gọi Lý tướng quân ra xét hỏi, dĩ nhiên tướng quân không biết chút gì. May mà thánh thượng anh minh, biết trong vụ này phải có ẩn tình, chắc chắn người đó không phải Lý tướng quân nên không trách tội.”

Vệ Xuân Hoa nói nhẹ như không: “Vậy thì hay quá rồi.”

Tăng Đồ Nam nói: “Nhưng hoàng thượng lại bảo là việc này có liên quan đến Lý tướng quân, nên hạn định trong vòng ba ngày tướng quân phải tìm được ngọc bình về trình lên hoàng thượng. Thật là khó cho tướng quân.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Nếu tìm không được, chắc bị điều tra cách chức là cùng. Không làm quan nữa lại càng nhàn hạ, lỡ bị liên lụy vào việc lớn đến mức chém hết cả nhà còn khổ hơn nhiều.”

Tăng Đồ Nam nghe chế giễu mà phải bỏ qua, xuống giọng nói: “Trước người quân tử không nói lời giả dối. Tại hạ hôm nay đến đây là để cầu xin quý hội trả lại ngọc bình.”

Vệ Xuân Hoa không hề động thanh sắc, bình tĩnh đáp: “Ngọc bình nào, tại hạ chưa được biết. Nhưng Lý tướng quân gặp phải vấn đề nan giải, Tăng tướng quân lại đích thân đến đây nhờ cậy, bọn tại hạ cũng có thể giúp sức thử tìm xem. Không chừng sáu tháng một năm sau sẽ có chút ít manh mối.”

Tăng Đồ Nam võ nghệ không cao lắm, nhưng khá tinh minh mẫn cán. Hắn biết khi giao tiệp với bọn giang hồ hảo hán thì càng thẳng thắn càng có kết quả, bèn nói: “Lý tướng quân nói là đã ngưỡng mộ Trần tổng đà chủ của quý hội rất lâu, tiếc rằng chưa có cơ hội kết giao thân mật, hôm nay mới ngẫu nhiên có hai chuyện cần giúp đỡ. Người xưa thường nói không có công thì không dám nhận lộc, tướng quân cũng thấy trong lòng khó xử, vì thế đã dặn là nếu Trần tổng đà chủ cần gì thì đừng khách sáo, xin nói ra cho biết.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Tăng tướng quân thẳng thắn mau lẹ như thế là tốt rồi. Trần đương gia của bọn tại hạ có nói, việc thứ nhất là Hồng Hoa Hội hôm nay đã làm phiền phủ đề đốc, xin Lý tướng quân rộng lượng tha thứ, bỏ qua không truy cứu.”

Tăng Đồ Nam nói: “Chuyện này là lẽ đương nhiên. Tại hạ có thể vỗ ngực đảm bảo, từ nay về sau tướng quân không vì việc này mà làm khó dễ quý hội. Xin hỏi việc thứ hai là gì?”

Vệ Xuân Hoa nói: “Tứ đương gia Văn Thái Lai của bọn tại hạ đang bị nhốt trong phủ đề đốc, việc này chắc Tăng tướng quân cũng biết.”

Tăng Đồ Nam khẽ gật đầu, Vệ Xuân Hoa nói tiếp: “Tứ đương gia là khâm phạm, dĩ nhiên Lý tướng quân gan lớn bằng trời cũng không dám thả huynh ấy ra, việc này bọn tại hạ rất hiểu. Nhưng Trần tổng đương gia rất nhớ Văn tứ ca, tối nay muốn được gặp một lần.”

Tăng Đồ Nam suy nghĩ một lúc rồi nói: “Việc này trọng đại, tại hạ không dám làm chủ, phải trở về thỉnh thị Lý tướng quân rồi sẽ phúc đáp sau. Trần tổng đà chủ còn việc gì muốn dặn nữa hay không?”

Vệ Xuân Hoa đáp: “Hết rồi.”

Tăng Đồ Nam cáo từ trở về. Khoảng một giờ sau hắn quay lại, vẫn là Vệ Xuân Hoa ra tiếp.

Họ Tăng nói: “Tướng quân nói, án của Văn tứ gia cực kỳ trọng đại, lẽ ra tuyệt đối không để ai vào ngục thăm hỏi.”

Vệ Xuân Hoa gật đầu: “Thì đúng là như thế.”

Tăng Đồ Nam tiếp: “Nhưng Trần tổng đà chủ đã đồng ý trả lại ngọc bình, tướng quân cũng chỉ biết liều thủ cấp của mình để Trần tổng đà chủ được gặp một lần. Nhưng có hai việc mọn, xin Trần tổng đà chủ nhận lời mới được.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Xin Tăng tướng quân nói ra nghe thử.”

Tăng Đồ Nam nói: “Thứ nhất, tướng quân vì muốn kết giao bằng hữu nên mới liều mạng đồng ý việc này, nhất định không thể cho người khác biết được. Vụ này mà tiết lộ thì đúng là họa lớn bằng trời.”

Vệ Xuân Hoa hỏi: “Lý tướng quân muốn Trần tổng đà chủ hứa là việc này không tiết lộ ra ngoài một câu một chữ, có phải vậy không?”

Tăng Đồ Nam đáp: “Đúng thế!”

Vệ Xuân Hoa nói: “Chuyện này thì tại hạ có thể thay mặt Trần đương gia mà đồng ý.”

Tăng Đồ Nam nói tiếp: “Việc thứ hai, lúc vào lao thăm hỏi thì chỉ một mình Trần tổng đà chủ vào mà thôi.”

Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói: “Dĩ nhiên Lý tướng quân phải sợ bọn tại hạ thừa cơ cướp ngục. Được, tại hạ đồng ý là một mình Trần tổng đương gia vào thăm hỏi, nhưng tại hạ không hứa là không cướp ngục đâu nhé.”

Tăng Đồ Nam hoan hỉ nói: “Vệ huynh là anh hùng hảo hán, một lời đáng giá ngàn vàng. Bây giờ tại hạ lập tức trở về báo cáo, lát nữa xin mời Trần tổng đà chủ ghé thăm phủ đề đốc.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Nếu khi Trần tổng đương gia gặp Văn tứ đương gia mà có Trương Triệu Trọng ở bên, đương nhiên không thể giấu được hắn vụ này. Sẽ rất phiền cho Lý tướng quân.”

Tăng Đồ Nam nói: “Vệ huynh nói rất có lý. Vậy để Lý tướng quân tìm cách mời ông ấy rời khỏi đó.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Chúng ta ăn chén cơm trên chốn giang hồ, phải lấy tín nghĩa làm đầu. Chỉ cần Lý tướng quân tuân thủ lời hẹn ước, bọn tại hạ nhất định giao trả Như phu nhân và ngọc bình.”

Tăng Đồ Nam đứng dậy chắp tay nói: “Tại hạ xin đa tạ trước.”

Quần hùng đợi Tăng Đồ Nam rời khỏi, tụ tập trong đại sảnh đợi Trần Gia Lạc điều binh khiển tướng đi cứu Văn Thái Lai. Trần Gia Lạc nói: “Thất ca! Huynh bố trí đi.”

Từ Thiên Hoằng suy nghĩ không nói gì, hồi lâu mới lên tiếng: “Bây giờ đã điều Trương Triệu Trọng rời đi, Tổng đà chủ lại được vào trong, chúng ta thừa cơ cướp ngục dĩ nhiên dễ hơn nhiều. Nhưng chắc chắn Lý Khả Tú cũng đề phòng, nên phải suy đoán xem hắn sẽ đối phó như thế nào rồi mới đánh vào chỗ sơ hở của hắn.”

Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Dương Thành Hiệp nói: “Theo ta nghĩ thì hắn nhất định sẽ triệu tập trọng binh bao vây cửa ngục, không chừng còn mời cao thủ thị vệ trong đại nội đến yểm trợ, chỉ để một mình tổng đà chủ đi vào, cũng chỉ để một mình tổng đà chủ đi ra.”

Thường Bá Chí nói: “Chúng ta phải bố trí bên ngoài phủ đề đốc, để đề phòng bọn con rùa đó láo xược với tổng đà chủ.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Dĩ nhiên là phải bố trí tiếp ứng. Nhưng ta nghĩ Lý Khả Tú không dám làm khó tổng đà chủ, vì vợ bé của hắn và ngọc bình vẫn còn ở chỗ chúng ta.”

Mọi người bàn luận một hồi, ai cũng thấy tình hình trước mắt có lợi hơn sáng nay rất nhiều. Một là đã tìm hiểu địa hình và cơ quan trong địa lao, hai là Trần Gia Lạc vào trong lao có thể nội công ngoại kích. Tuy nhiên nhất định Lý Khả Tú sẽ phòng thủ vững chắc hơn sáng nay, nếu tấn công trực diện thì chưa chắc thắng.

Vô Trần kêu lên: “Dù sao thì hôm nay giải quyết một phen sinh tử tồn vong, ta không nén giận nổi nữa rồi.”

Trần Gia Lạc bỗng kêu lên: “Được rồi! Thất ca! Khi nào gặp Tứ ca, ta sẽ khoác áo rộng, đầu đội nón chụp xuống mặt, làm như không muốn để người ta phát hiện ra mình…”

Từ Thiên Hoằng hiểu ý ngay, ngắt lời: “Làm như vậy thì được một người lại mất một người, không phải là kế sách vẹn toàn.”

Vô Trần chưa hiểu, bèn giục: “Tổng đà chủ, đà chủ nói hết đi!”

Trần Gia Lạc tiếp: “Sau khi vào địa lao, ta sẽ thay đổi trang phục với Tứ ca để huynh ấy đi ra. Quân canh giữ sẽ tưởng là ta, lại còn các vị ca ca bên ngoài tiếp ứng, phen này nhất định cứu được Tứ ca.”

Vô Trần hỏi: “Thế còn tổng đà chủ thì sao?”

Trần Gia Lạc nói: “Hoàng đế cùng ta đặc biệt có duyên. Sau khi chúng phát hiện đã bị đổi người, nhất định sẽ thả ta ra.”

Vệ Xuân Hoa nói: “Phương pháp của tổng đà chủ đúng là diệu kế. Nhưng tổng đà chủ là chủ nhân một hội, không thể khinh suất đi vào hổ huyệt như thế. Việc này để thuộc hạ đi làm!” Lập tức quần hùng tranh nhau tự đề cử mình.

Trần Gia Lạc dõng dạc nói: “Các vị ca ca! Không phải là ta tự cho mình có bản lĩnh hay dũng cảm hơn, nhưng chỉ có ta là thích hợp nhất. Vị ca ca nào khác đi vào trong đó, tuy cứu được Tứ ca nhưng chính mình lại bị giam cầm. Huynh đệ chúng ta ai cũng như ai, ta không thấy vị ca ca nào ít thân cận hơn Tứ ca.”

Dương Thành Hiệp nói: “Các vị chưa biết, hoàng đế đã từng vỗ tay thề thốt với ta là hai người không hại lẫn nhau.” Chàng bèn thuật lại tình hình đêm trước hai người lập thệ trên đê chắn sóng như thế nào.

Từ Thiên Hoằng nói: “Tên cẩu hoàng đế này nham hiểm ác độc, chắc y không giữ lời thề đâu.”

Nhưng Trần Gia Lạc cứ nhất quyết làm như thế. Từ Thiên Hoằng bèn nói: “Đã vậy thì chúng ta phải sắp xếp kế hoạch vẹn toàn mới được.”

Lạc Băng thấy quần hùng đều muốn đem thân mình thay thế để cứu Văn Thái Lai ra ngoài, trong lòng vừa cảm kích vừa khó xử, đứng ngẩn ra không nói được câu nào.

Chu Trọng Anh thấy mọi người nghĩa khí sâu đậm, không khỏi âm thầm thán phục. Ông nghĩ bụng: “Hồng Hoa Hội lừng tiếng giang hồ, nhân vật trong hội thật có chỗ khác thường.” Thấy thần sắc Lạc Băng có vẻ bất thường, ông bèn đến gần nàng nói: “Văn tứ phu nhân cứ yên tâm, chúng ta thử nghe Thiên Hoằng nói trước đã.”

Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Kế kim thiền thoát xác của tổng đà chủ rất cao minh, chỉ hơi mạo hiểm một chút. Theo thuộc hạ thì vẫn làm như vậy, nhưng khi Tứ ca vừa thoát ra ngoài là chúng ta phải lập tức tấn công vào địa lao để tiếp ứng tổng đà chủ ra ngoài.”

Quần hùng phải đứng nhìn thủ lãnh đi vào hiểm địa, dĩ nhiên không được yên lòng. Nhưng thật sự không còn phương pháp nào tốt hơn, nên mọi người chỉ còn cách đồng ý.

Lạc Băng đến trước mặt Trần Gia Lạc thi lễ, rồi quỳ xuống nói: “Tình nghĩa này của tổng đà chủ, phu thê thuộc hạ cho dù xương tan thịt nát cũng khó mà báo đáp…” Nói đến đây, khóe mắt nàng đỏ hẳn lên.

Trần Gia Lạc chắp tay trả lễ rồi đáp: “Tứ tẩu không nên nói như vậy. Huynh đệ chúng ta tình như cốt nhục, hai chữ báo đáp nhắc đến làm gì?”

Bố trí xong xuôi, Trần Gia Lạc khoác áo choàng đen, lật cổ áo lên che gáy, kéo vành mũ sụp xuống, cùng Vệ Xuân Hoa đi đến phủ đề đốc. Lúc này đã sắp hoàng hôn, sao lác đác mọc ở chân trời.

Đến phía ngoài phủ đề đốc, có một người đi đến hỏi nhỏ: “Trần tổng đà chủ phải không?” Vệ Xuân Hoa gật đầu, người kia bèn nói: “Mời đi theo tại hạ, còn vị này xin dừng bước.”

Vệ Xuân Hoa đứng lại, nhìn Trần Gia Lạc theo người đó vào phủ đề đốc. Trời chiều nhòa nhạt, đàn nhạn bay lượn gọi nhau về tổ. Trái tim Vệ Xuân Hoa đập loạn xạ, hồi hộp không biết phen này tổng đà chủ hung cát thế nào. Chỉ một lúc sau là quần hùng Hồng Hoa Hội lần lượt cải trang đi tới, bố trí rải rác quanh phủ đề đốc để chờ cơ hội hành động.

Trần Gia Lạc đi vào trong cổng, thấy sân phủ đứng đầy binh tướng, tay cầm khí giới phòng thủ nghiêm ngặt. Qua hết ba khoảng sân, người kia mới dẫn chàng vào một căn phòng rồi nói: “Xin ngồi nghỉ chân một lát.”

Hắn đi ra ngoài, một lúc sau Lý Khả Tú tiến vào, chắp tay nói: “Hân hạnh được gặp.”

Trần Gia Lạc bỏ mũ ra để lộ khuôn mặt, mỉm cười nói: “Ngày trước từng gặp trên hồ, không ngờ hôm nay lại được trùng phùng.”

Lý Khả Tú nhìn rõ Trần Gia Lạc, bèn nói: “Bây giờ xin mời các hạ đi gặp phạm nhân.”

Hai người ra đến cửa phòng, đột nhiên một tên lính chạy ào ào tới, vừa thở hổn hển vừa nói: “Hoàng thượng giá lâm! Tướng quân mau mau ra ngoài tiếp giá.”

Lý Khả Tú giật mình kinh hãi, quay lại bảo Trần Gia Lạc: “Bây giờ chỉ còn cách mời các hạ ngồi đây chờ đợi.” Trần Gia Lạc nhìn thần sắc của hắn biết không phải đóng kịch, bèn gật đầu quay vào phòng ngồi xuống.

Lý Khả Tú vội vã chạy ra ngoài, thấy trong nha môn toàn là ngự tiền thị vệ, Càn Long đã vào trong phủ. Họ Lý liền quỳ xuống khấu kiến.

Càn Long bảo: “Ngươi chuẩn bị một gian phòng kín, ta muốn đích thân thẩm vấn Văn Thái Lai.”

Lý Khả Tú bèn đưa Càn Long vào thư phòng của mình. Bọn ngự tiền thị vệ vây chặt tất cả các phòng quanh đó, trên mái nhà cũng có thị vệ canh giữ.

Càn Long bảo Bạch Chấn: “Ta có việc cơ mật cần hỏi phạm nhân này, không ai được nghe.” Bạch Chấn vâng dạ lùi ra.

Lát sau bốn tên thị vệ khiêng vào một cái cáng, trên cáng có Văn Thái Lai hai tay hai chân đều bị xiềng khóa. Bốn tên này lập tức khom lưng lùi ra, trong thư phòng chỉ còn lại hai người là Văn Thái Lai và Càn Long.

Nhất thời không khí lặng như tờ, không có tiếng động nào. Ngoại thương của Văn Thái Lai chưa khỏi, nhưng thần trí chàng rất tỉnh táo. Chàng cứ nằm trên cáng, không cần biết mình đang ở đâu.

Càn Long lên tiếng: “Thương tích của ngươi đã lành hẳn chưa?”

Văn Thái Lai trừng mắt, giật mình nhỏm dậy. Khi chàng theo lão đương gia Vu Vạn Đình vào cung đã từng gặp Càn Long một lần, bây giờ đột nhiên gặp lại ở Hàng Châu dĩ nhiên cảm thấy bất ngờ. Chàng hừ một tiếng lạnh nhạt rồi nói: “Ta chưa chết.”

Càn Long nói: “Ta sai người mời ngươi đến Bắc Kinh, vốn là có chút việc cần thương lượng. Nào ngờ thuộc hạ để xảy chuyện hiểu lầm, ta đã trách phạt chúng rồi. Ngươi đừng để bụng chuyện đó nữa.”

Văn Thái Lai nghe y nói toàn lời hoa ngôn xảo ngữ, giận dữ hừ một tiếng nữa.

Càn Long tiếp: “Lần trước Vu thủ lĩnh đến gặp ta là để bàn luận một việc hệ trọng, không ngờ ông ấy trở về lại mắc bệnh không qua nổi. Thật là đáng tiếc, thật là đáng tiếc!”

Văn Thái Lai nói: “Nếu Vu lão đương gia không chết, chắc là hôm nay ông ấy cũng bị nhốt ở đây.”

Càn Long cười ha hả nói: “Hán tử giang hồ các ngươi thật là thẳng thắn, trong lòng có gì muốn nói là nói ra ngay. Bây giờ ta hỏi một câu, nếu ngươi trả lời thành thật thì ta lập tức thả ra.”

Văn Thái Lai cười nhạt: “Ngươi thả ta ư? Ngươi tưởng ta là thằng nhóc ba tuổi hay sao? Ta biết ngươi chưa giết ta thì ăn không ngon ngủ không yên, mãi đến hôm nay vẫn chưa hạ thủ chỉ vì muốn hỏi cung gì đó.”

Càn Long mỉm cười nói: “Vậy là ngươi quá đa nghi rồi.” Y đứng dậy bước đến hai bước hỏi: “Vu thủ lĩnh nói chuyện gì với ta, ông ấy đã kể hết với ngươi rồi chứ?”

Văn Thái Lai hỏi lại: “Chuyện gì?”

Càn Long giương to mắt nhìn chàng, Văn Thái Lai cũng đưa mắt nhìn lại, hoàn toàn không tránh né gì cả. Hồi sau Càn Long quay đi chỗ khác, hạ giọng nói: “Chuyện liên quan đến thân thế của ta.”

Văn Thái Lai nghĩ thầm: “Mình đã lọt vào tay hắn, chắc chắn phải chết chứ không sống được. Nhưng anh em Hồng Hoa Hội đã đến Hàng Châu, nếu kéo dài được chút ít thì không chừng họ có thể tìm cách cướp lao.” Chàng bèn đáp: “Ông ấy không nói. Ngươi là hoàng đế, dĩ nhiên là con của tiên hoàng và hoàng thái hậu. Thân thế của ngươi còn ai không biết, có gì đáng nói?”

Càn Long thở ra một hơi, hỏi lại: “Đêm hôm đó ông ấy vào gặp ta, ngươi biết vì việc gì không?”

Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia kể là ông ấy từng giúp ngươi một việc. Gần đây Hồng Hoa Hội kinh phí không đủ, ông ấy đến hỏi mượn ngươi ba trăm vạn lạng bạc, nào ngờ ngươi không những không cho mượn mà con bắt ta nhốt ở đây. Nếu có ngày ta thoát nạn, nhất định sẽ đem chuyện vong ân bội nghĩa này bố cáo ra ngoài cho thiên hạ biết.”

Càn Long cười ha hả, liếc mắt nhìn thấy Văn Thái Lai giận dữ vô cùng, không giống giả vờ. Nhưng y vẫn còn bán tín bán nghi: “Đã thế thì ta chỉ còn cách giết ngươi. Nếu để ngươi lọt ra ngoài thì thanh danh của ta không khỏi bị hủy hoại.”

Văn Thái Lai nói: “Ai bảo ngươi không giết ta sớm đi? Ngươi giết ta xong thì ăn ngon hơn, ngủ yên hơn, gặp hoàng thái hậu cũng không nơm nớp lo sợ.”

Càn Long đột nhiên biến sắc mặt hỏi: “Hoàng thái hậu liên quan gì đến vụ này?”

Văn Thái Lai đáp: “Việc này chính ngươi cũng tự hiểu rồi.”

Càn Long trầm giọng hỏi: “Thế thì ngươi biết hết rồi chứ gì?”

Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là ta biết hết. Vu lão đương gia nói, hoàng thái hậu biết chuyện ông ấy từng giúp ngươi, đã bảo ngươi báo đáp đàng hoàng, thế mà ngươi không nỡ bỏ ra ba trăm vạn lạng bạc. Ngươi có núi vàng núi bạc, ba trăm vạn lạng bạc chẳng qua chỉ là một sợi lông. Ngươi thật là quá sức nhỏ mọn.”

Càn Long lại thấy yên tâm, cười rộ mấy tiếng rồi khăn ra lau mồ hôi trán. Y đi qua đi lại trong phòng, đầu óc tương đối ổn định mới mỉm cười hỏi: “Trước mặt hoàng đế mà ngươi không hoảng sợ tí nào, chết cũng không sợ đáng mặt một trang thiết hán. Ngươi có việc gì chưa yên lòng thì cứ nói ra đừng ngại, sau khi ngươi chết ta sẽ sau người lo giúp.”

Văn Thái Lai nói: “Ta không sợ chết, nhưng ngươi cũng không dám giết ta đâu.”

Càn Long hỏi: “Sao ta lại không dám?”

Văn Thái Lai nói: “Ngươi muốn giết ta vì sợ bí mật của ngươi bị tiết lộ, nhưng ta chết thì bí mật của ngươi nhất định không giữ kín được nữa.”

Càn Long cười gằn, hỏi: “Chẳng lẽ người chết cũng biết nói chuyện hay sao?”

Văn Thái Lai thản nhiên đáp: “Ta vừa chết là có người đem lá thư và vật chứng công bố ra khắp thiên hạ. Lúc đó để xem ngươi giấu mặt vào đâu.”

Càn Long vội hỏi ngay: “Thư gì?”

Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia đã đem chuyện của ngươi viết ra tỉ mỉ, niêm phong chung với hai món chứng vật cực kỳ quan trọng, gửi ở nhà một vị bằng hữu, rồi hai người chúng ta mới vào cung gặp ngươi.”

Càn Long hỏi: “Các ngươi sợ gặp chuyện bất trắc sao?”

Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là thế. Làm sao tin loại người như ngươi được? Vu lão đương gia có dặn ông ấy, nếu hai người chúng ta chết đi thì mở thư ra xem, rồi làm theo lời dặn trong thư. Nếu một trong hai ta còn sống trên đời thì đừng mở. Bây giờ Vu lão đương gia đã về trời, ngươi có dám giết ta không?”

Càn Long bất giác xoa tay liên tục, nỗi lo lắng lộ rõ ra ngoài. Văn Thái Lai lại nói: “Lá thư và hai món vật chứng đó, nếu ngươi dùng ba trăm vạn lạng bạc để mua thì tính ra không đắt.”

Càn Long mỉm cười: “Ta có thể trả ba trăm vạn lạng bạc, thêm cả mạng ngươi nữa. Bây giờ ngươi viết thư cho vị bằng hữu đó, bảo hắn đem lá thư và hai món vật đến đây, ta lập tức đếm bạc cho ngươi chở về.”

Văn Thái Lai cười ha hả rồi nói: “Nếu ta nói tên của người đó cho ngươi biết, ngươi không phái thị vệ đi truy sát ông ấy mới là chuyện lạ. Nói thật cho ngươi khỏi suy nghĩ lung tung, ta thấy sống ở đây rất thoải mái, không muốn ra ngoài nữa. Ta quyết tâm ăn vạ ngươi suốt đời, ngươi phải nuôi ta đến chết. Số mạng hai người chúng ta là đồng qui ư tận, nếu ta chết trước thì ngươi cũng chẳng sống thêm được bao lâu.”

Càn Long mím môi im lặng, suy nghĩ tìm cách đối phó. Hồi lâu y mới lên tiếng: “Ngươi không chịu viết thư cũng được. Cho ngươi hai ngày, tối mốt ta sẽ hỏi lại. Nếu ngươi vẫn cứng đầu cứng cổ thì buộc ta phải giết. Ta giết ngươi không để người khác biết, bằng hữu của ngươi vẫn tưởng ngươi còn sống. Nói cho cùng, giả tỉ ta không giết ngươi thì cũng có thể tuần này móc mắt ngươi ra trước, tuần sau cắt lưỡi, tuần sau nữa chặt đứt hai tay. Ngươi chịu khó ở đây hai ngày nữa, suy nghĩ kỹ lưỡng một chút.”

Nói xong, y đẩy cửa thư phòng, sải bước ra ngoài. Bọn thị vệ kéo theo hộ tống, Lý Khả Tú ra cổng quỳ xuống tiễn chân.

Càn Long vừa đi khỏi, Văn Thái Lai đã được bọn thân binh trong phủ đề đốc cáng trở vào địa lao. Chàng được khiêng tới đâu là Trương Triệu Trọng cầm kiếm đi tới đó để hộ tống.

Về tới địa lao, một tên thân binh nói với Trương Triệu Trọng: “Lý tướng quân gửi lá thư này cho Trương đại nhân.” Trương Triệu Trọng nhận thư, vừa đọc xong là đi ngay.

Văn Thái Lai nằm trên giường suy nghĩ. Nhất định Lạc Băng và các hảo bằng hữu đang tìm cách cứu mình, nhưng thế lực triều đình quá lớn, hơn nữa hoàng đế lại đích thân đến đây, thật sự không phải trò đùa. Nếu bằng hữu vì cứu mình mà bị tổn thương, mình có thoát cũng suốt đời không sao yên lòng nổi.

Đang suy nghĩ thì đột nhiên cánh cửa mở ra, một người đi vào. Văn Thái Lai tưởng là Trương Triệu Trọng, không thèm mở mắt ra nhìn. Người đó đén trước giường của chàng, khẽ lên tiếng: “Tứ ca! Ta đến thăm huynh đây.”

Văn Thái Lai giật mình giương mắt lên nhìn, thì ra là tổng đà chủ Trần Gia Lạc. Khi Trần Gia Lạc chỉ huy mọi người ở Xích Sáo Độ sông Hoàng Hà thì chàng chưa được thấy mặt, sáng nay mới gặp lần đầu. Trong lúc hỗn loạn nằm trong lưới sắt nhìn ra, chàng thấy họ Trần nghĩa khí thâm sâu, gặp việc trấn tĩnh, trong lòng đã kính phục rồi. Bây giờ bất ngờ gặp nhau trong ngục, chàng không khỏi nửa lo nửa mừng, vội gượng ngồi dậy cúi đầu chào hỏi: “Tổng đà chủ!”

Trần Gia Lạc mỉm cười khẽ gật đầu, rồi lấy trong bọc ra hai chiếc giũa bằng thép tốt, định giũa đứt xiềng xích trên tay chân Văn Thái Lai. Chàng vận sức giũa mất cái, xiềng xích chỉ trầy trụa sơ sơ mà giũa đã hỏng rồi. Thì ra xiềng xích này rèn đúc bằng thép đặc biệt, giũa thép bình thường không làm gì được.

Chuyện này khiến Trần Gia Lạc bất ngờ. Chàng lo lắng trong lòng, vận thêm lực đạo giũa mấy cái nữa. Lắc cắc mấy tiếng, cái giũa thép gãy lìa. Chàng lấy cái giũa kia nhẹ nhàng gõ tiếp, hồi lâu mồ hôi hai người đã tuôn đầy trán mà xiềng xích vẫn chẳng hề hấn gì. Trần Gia Lạc lại lôi trong bọc ra nào khoan, nào búa, nào đục, nhưng làm gì thì làm cũng không mở nổi xiềng xích.

Văn Thái Lai bèn nói: “Tổng đà chủ! Xiềng xích này thì phải có bảo đao bảo kiếm mới chặt đứt được.”

Trần Gia Lạc nhớ lại đêm giao đấu với Trương Triệu Trọng ở sông Hoàng Hà, hắn đã dùng Ngưng Bích Kiếm để chặt gãy móc câu trên thuẫn bài của mình, cả trường kiếm của Vô Trần cũng bị chém đứt. Chàng liền hỏi: “Trương Triệu Trọng canh giữ ở đây suốt ngày phải không?”

Văn Thái Lai đáp: “Hắn vốn không rời thuộc hạ nửa bước, nhưng lúc nãy không biết có việc gì gấp mới đi ra ngoài.”

Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm! Chúng ta đợi hắn quay trở lại, đoạt lấy bảo kiếm.” Rồi chàng đem các loại cưa đục quăng hết xuống gầm giường.

Văn Thái Lai nói: “Chưa biết thuộc hạ có thoát nổi hay không. Tổng đà chủ! Hoàng đế muốn giết người diệt khẩu là vì sợ thuộc hạ tiết lộ bí mật. Bây giờ thuộc hạ đem bí mật đó nói cho đà chủ biết, thì cho dù thuộc hạ sống hay chết cũng không làm hỏng đại sự của chúng ta.”

Trần Gia Lạc đáp: “Được! Tứ ca nói đi.”

Văn Thái Lai kể: “Đêm hôm đó thuộc hạ theo Vu lão đương gia vào cung tìm gặp hoàng đế, dĩ nhiên Càn Long vô cùng kinh hãi. Vu lão đương gia nói là một vị lão thái thái ở Trần gia tỉnh Triết Giang bảo mình đến đây, rồi đưa ra một lá thư. Hoàng đế xem xong sắc mặt thay đổi hẳn, bảo thuộc hạ ra ngoài chờ đợi. Hai người nói chuyện rất nhỏ, hơn một giờ sau Vu lão đương gia mới ra ngoài. Dọc đường về, Vu lão đương gia nói cho thuộc hạ biết hoàng đế là người Hán, là ca ca của thiếu đà chủ.”

Trần Gia Lạc giật mình kinh hãi, không nói được tiếng nào, hồi lâu mới mở miệng ấp úng: “Chắc không phải đâu, ca ca của ta vẫn còn ở Hải Ninh.”

Văn Thái Lai nói: “Vu lão đương gia kể lại, năm xưa tiên vương Ung Chính sinh được một công chúa, cùng ngày đó lệnh đường hạ sinh một công tử. Trần công tử bị Ung Chính triệu vào cung thăm hỏi, lúc về lại biến thành một bé gái. Con trai của lão thái thái chính là Càn Long hoàng đế bây giờ…”

Chuyện chưa kể hết, đột nhiên trong đường hầm có tiếng bước chân vọng đến, Trần Gia Lạc liên nấp vào một góc phòng. Một tên lính đi vào, không thấy Trần Gia Lạc bèn kinh ngạc hỏi: “Trần đương gia của Hồng Hoa Hội đâu?”

Trần Gia Lạc bước ra hỏi: “Có việc gì không?”

Tên Thanh binh đáp: “Trương Triệu Trọng đại nhân đã quay về rồi. Lý tướng quân giữ ông ấy không được, nên bảo tiểu nhân mời đương gia nhanh chân ra ngoài.”

Trần Gia Lạc “À” một tiếng, tay trái đưa ra điểm trúng huyệt Thần Cốc của hắn. Tên Thanh binh không kêu được tiếng nào, ngã lăn quay dưới đất. Trần Gia Lạc liền kéo hắn vào gầm giường.

Văn Thái Lai nói tiếp: “Trương Triệu Trọng sắp quay về đây, không kịp kể cho tỉ mỉ. Đại khái Vu lão đương gia biết hoàng đế là người Hán, bèn khuyên y phản Mãn phục Hán để khôi phục giang sơn, đuổi hết người Mãn Thanh ra ngoài quan ải, y vẫn làm hoàng đế như thường. Hình như hoàng đế cũng hơi động lòng, nhưng y chưa tin chắc việc này là thật hay giả, yêu cầu Vu lão đương gia đem hai món vật chứng cho xem rồi sẽ bàn tiếp. Không ngờ hôm ấy Vu lão đương gia trở về rồi lâm bệnh không dậy được, trối lại bảo mọi người lập thiếu đà chủ làm tổng đà chủ. Vu lão đương gia có nói với thuộc hạ, đây là cơ hội để khôi phục nhà Hán. Hoàng đế là ca ca của tổng đà chủ, nếu y không chịu phản Mãn phục Hán thì mọi người sẽ ủng hộ tổng đà chủ lên làm hoàng đế.”

Mới nghe thì Trần Gia Lạc bàng hoàng không nói được gì, nhưng dần dần chàng nghĩ đến lần đầu gặp Càn Long ở Tây Hồ đã phát sinh cảm tình đặc biệt, sau này lại gặp y khóc lạy trước mộ phần song thân mình, quả là những chuyện bắt người ta phải suy nghĩ. Nếu hoàng đế cũng là con trai họ Trần, thì những tấm biển Xuân Huy, Ái Nhật do chính tay y viết mới có thể hiểu được.

Văn Thái Lai lại nói: “Về câu chuyện Ung Chính đổi con gái của mình lấy ca ca của tổng đà chủ, nghe nói lệnh đường đã viết tường tận trong một lá thư, ngoài ra còn có mấy món vật chứng quan trọng. Vu lão đương gia giao cho lệnh sư là Thiên Trì quái hiệp Viên lão tiền bối giữ gìn.”

Trần Gia Lạc “À” một tiếng rồi nói: “Mùa xuân năm nay Thường thị song hiệp đến thăm sư phụ của ta, chắc là tuân lệnh nghĩa phụ đưa những vật đó, có phải thế không?”

Văn Thái Lai đáp: “Không sai! Đó là đại sự cơ mật, ngay cả tổng đà chủ cũng chưa được biết. Viên lão tiền bối chỉ biết vụ này quan trọng khác thường, chứ cũng không hiểu rõ. Trước khi từ trần Vu lão đương gia đã có di ngôn, đợi thiếu đà chủ tiếp nhiệm ngôi cao rồi thuộc hạ sẽ mở lá thư đó, cùng mưu đồ việc lớn. Không may lúc đó thuộc hạ lỡ tay bị bắt, suýt nữa làm hỏng mất chuyện trọng đại này. Tổng đà chủ! Nếu hôm nay không cứu được thuộc hạ ra ngoài thì tổng đà chủ phải mau mau quay về Hồi Cương để gặp lệnh sư, nhất định không thể vì chuyện sinh tử an nguy của một mình thuộc hạ mà để lỡ việc lớn khôi phục giang sơn.”

Văn Thái Lai kể xong cảm thấy trong người nhẹ nhõm, vẻ an bình lộ hẳn ra ngoài mặt. Chàng còn muốn nói tiếp, nhưng nghe thấy tiếng bước chân trong đường hầm liền đưa tay ra hiệu. Trần Gia Lạc nấp dưới gầm giường, còn Văn Thái Lai nằm vắt nửa trên nửa dưới, hoàn toàn không động đậy.

Trong địa lao lúc này chỉ có một ngọn đèn nhỏ bằng hạt đậu, ánh sáng âm u mờ ảo. Trương Triệu Trọng tiến vào, thấy Văn Thái Lai nằm thõng đầu xuống đất như đã chết rồi. Hắn giật mình chạy tới, khẽ đẩy chàng một cái, nhưng Văn Thái Lai vẫn không nhúc nhích. Trương Triệu Trọng lại càng kinh hãi, liền nâng đầu chàng lên, đưa tay sờ xem hơi thở còn không.

Đột nhiên Văn Thái Lai bật người dậy, dùng cả hai ta đang bị xích quét ngang vào người hắn. Trương Triệu Trọng thật sự bất ngờ, đang muốn lùi lại thì đột nhiên thấy huyệt Khí Hải ở dưới bụng tê chồn. Hắn biết ngay dưới giường có địch thủ ám toán, giận dữ la lên một tiếng, lùi lại hai bước, bắt chéo song chưởng trước ngực để hộ vệ thân thể, ráng sức đề khí để bảo vệ kinh mạch.

Trần Gia Lạc thấy hắn bị điểm trúng huyệt mà chưa ngã xuống, không khỏi ngạc nhiên. Chàng nhảy từ dưới gầm giường ra, múa song quyền đánh nhanh như gió, chớp mắt đã đánh tới mặt hắn tám quyền.

Trương Triệu Trọng không dám đánh trả, vì nếu hắn buông lỏng hơi thở là lập tức kinh mạch bị bế tắc. Mặt hắn trúng liên tiếp tám quyền, chỉ biết không ngừng lùi lại cho nhẹ bớt. Trần Gia Lạc phóng chân phải lên đá vào hông trái của hắn, Trương Triệu Trọng vội né sang phải. Hắn bỗng thấy huyệt Thần Đình đau nhói, thì ra bị đánh trúng thêm một trọng huyệt. Họ Trương không gượng được nữa, toàn thân bủn rủn té nhào xuống đất.

Trần Gia Lạc sờ lên người hắn, nào ngờ không thấy cây Ngưng Bích Kiếm đâu. Chàng thất vọng, nhưng vẫn lục soát, lôi trong túi áo hắn ra một tờ giấy. Chàng mở ra soi vào đèn đọc, thì ra đó là thư của Lý Khả Tú, bảo hắn cầm Ngưng Bích Kiếm ra, có một vị đại quan muốn mượn xem một chút. Trần Gia Lạc biết Lý Khả Tú mượn cớ này để điều hắn ra ngoài. Chắc là hắn không yên tâm, ra ngoài một lúc lại quay về canh giữ ngay. Kiếm đang đưa người ta xem, nên không mang trở lại.

Trần Gia Lạc lục soát tiếp, đột nhiên vui mừng nhảy chồm lên. Văn Thái Lai thấy chàng tươi cười bèn hỏi: “Cái gì thế?” Trần Gia Lạc lôi ra một xâu chìa khóa, thử mở xiềng xích thì được ngay lập tức.

Văn Thái Lai co duỗi tay chân một lúc cho thoải mái. Trần Gia Lạc cởi áo mũ trên mình ra, bảo: “Tứ ca mặc vào đi!”

Văn Thái Lai hỏi: “Còn tổng đà chủ thì sao?”

Trần Gia Lạc đáp: “Ta cần ở đây một lúc, huynh mau mau ra ngoài trước.”

Văn Thái Lai hiểu ý chàng liền nói: “Tổng đà chủ! Hảo ý này thuộc hạ muôn phần cảm kích, nhưng không thể làm như vậy được.”

Trần Gia Lạc nói: “Tứ ca chưa biết, ta ở lại đây hoàn toàn không gặp nguy hiểm gì cả.”

Chàng kể lại sơ lược chuyện mình cùng Càn Long vỗ tay thề thốt, Văn Thái Lai vẫn lắc đầu: “Việc này nhất định không được.”

Trần Gia Lạc chau mày nói: “Ta là tổng đà chủ, mọi người trên dưới trong Hồng Hoa Hội đều phải nghe lệnh của ta. Có đúng thế không?”

Văn Thái Lai đáp: “Dĩ nhiên là thế.”

Trần Gia Lạc nói: “Được lắm! Văn Thái Lai nghe lệnh! Mau mau khoác áo mũ đi ra, bên ngoài đã có huynh đệ tiếp ứng.”

Văn Thái Lai đáp: “Phen này thuộc hạ đành phải kháng lệnh của tổng đà chủ, sau này sẽ chịu phạt sau.”

Trần Gia Lạc hạ giọng nói: “Tứ tẩu ngày đêm tưởng nhớ, các vị ca ca đều mong huynh sớm thoát hiểm. Bây giờ có cơ hội tốt, sao huynh lại vô tình vô nghĩa đến thế?”

Trần Gia Lạc nói gì thì nói, Văn Thái Lai cũng lắc đầu. Hai bên tranh luận một hồi, Trần Gia Lạc biết họ Văn quyết không chấp nhận. Chàng đổi ý, suy nghĩ một lát rồi nói: “Vậy thì hai người chúng ta mạo hiểm cùng ra. Huynh mặc y phục của hắn đi.” Nói xong, chàng đưa tay chỉ Trương Triệu Trọng.

Văn Thái Lai cả mừng nói: “Hay quá! Sao tổng đà chủ không nghĩ ra sớm hơn một chút?”

Hai người bèn lột quần áo của Trương Triệu Trọng, đổi cho Văn Thái Lai, sau đó lấy xiềng xích khóa chặt họ Trương lại. Trần Gia Lạc cất chìa khóa vào bọc, mỉm cười nói: “Cho dù ngươi có bản lãnh bằng trời, lần này cũng không thể làm khó dễ chúng ta nữa rồi.” Trương Triệu Trọng vừa lo lắng vừa tức giận đến phát điên, mắt vằn đỏ lên như muốn bật máu ra, nhưng khổ nỗi bị điểm huyệt không sao nói được.

Hai người nhẹ nhàng đi ra, qua cửa, qua đường hầm, rồi leo cầu thang đá đi lên. Đột nhiên trước mắt sáng rực, thì ra trong vườn đầy đèn đuốc. Mấy chục tên lính cầm trường mâu chĩa thăng vào cửa địa lao, xa xa lại có mấy trăm tên giương cung lắp sẵn tên đứng đợi, cũng nhắm thẳng vào đó. Tay phải của Lý Khả Tú đang đưa lên, mắt nhìn chăm chú. Tay hắn mà phẩy xuống là lập tức tên bắn mâu đâm, võ nghệ của Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai có cao gấp mười cũng không thể nào chạy thoát.

Trần Gia Lạc lùi lại một bước, hỏi nhỏ Văn Thái Lai: “Vết thương của huynh ra sao, có thể xông ra ngoài được không?”

Văn Thái Lai cười khổ: “Không được, chân thuộc hạ còn yếu lắm. Tổng đà chủ cứ đi trước một mình, đừng lo lắng cho thuộc hạ nữa.”

Trần Gia Lạc nói: “Vậy huynh cứ giả làm Trương Triệu Trọng thử xem.” Văn Thái Lai bèn kéo sụp nón xuống tới lông mày, hiên ngang bước ra ngoài.

Lý Khả Tú thấy Trương Triệu Trọng và Trần Gia Lạc cùng ra, trong lòng âm thầm kêu khổ. Hắn tưởng Trương Triệu Trọng đã bắt được Trần Gia Lạc, bèn quay đầu lại bảo Lý Nguyên Chỉ: “Con đem cây kiếm này trả cho Trương Triệu Trọng, tìm cách quấy rối ông ta để tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội thoát thân.”

Lý Nguyên Chỉ hai tay cầm Ngưng Bích Kiếm đi đến trước cửa địa lao. Nàng cố ý đứng giữa hai người, đưa kiếm đến trước mặt Văn Thái Lai rồi nói: “Trương sư thúc! Bảo kiếm của sư thúc đây.” Nàng dùng khuỷu tay hích nhẹ Trần Gia Lạc một cái.

Văn Thái Lai hừ nhẹ một cái, đưa tay nhận kiếm. Dưới ánh nến, Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy rõ ràng, lạc giọng la lên: “Văn Thái Lai! Ngươi muốn trốn hay sao?” Nàng giật hai tay về, tay phải nắm lấy chuôi kiếm, rút ngay ra khỏi vỏ đâm vào trước ngực Văn Thái Lai.

Văn Thái Lai xoay người, tay trái chìa ra, ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy sống kiếm, tay phải vung ra nhanh như điện chớp, đánh vào Thái Dương huyệt của nàng. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi vội lùi lại, nào ngờ thanh kiếm đã bị hai ngón tay của họ Văn kẹp lại, không sao nhúc nhích. Nàng vội buông kiếm chạy ra ngoài, cánh ta trái đã bị năm ngón tay của Văn Thái Lai phất trúng. Lý Nguyên Chỉ tê liệt nửa người, đau đớn thấu xương. Nàng khom lưng la lớn: “Mẹ ơi!”

Trần Gia Lạc nhảy lẹ tới hai bước, quay đầu lại thì thấy Văn Thái Lai đã bị bọn Thanh binh vây kín. Kiếm quang của thanh Ngưng Bích Kiếm lóe lên từng hồi, rất nhiều lưỡi mâu bị chém đứt rơi xuống đất.

Lý Khả Tú hô lớn: “Các ngươi mà không chịu dừng tay thì ta phải bắn tên.”

Văn Thái Lai vừa dùng sức một chút, vết thương cũ trên đùi lại xé miệng, máu phun ra ngoài. Chàng biết mình không đủ sức thoát khỏi vòng vây, bèn la lên: “Tổng đà chủ! Lấy kiếm, nhanh chóng chạy ra ngoài đi.” Chàng ném cây Ngưng Bích Kiếm về phía Trần Gia Lạc, đột nhiên cảm thấy trên vai đau nhói, cánh tay bủn rủn, thanh kiếm chỉ bay ar mấy thước đã rơi xuống đất. Thì ra Văn Thái Lai đã trúng một mũi tên vào vai.

Trần Gia Lạc thấy thế, bèn quát Lý Khả Tú: “Đừng bắn tên nữa!”

Lý Khả Tú vẫy ta, bọn Thanh binh lập tức ngưng bắn. Mười mấy cây trường mâu lại chia ra nhằm vào Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai.

Trần Gia Lạc nói: “Mau mời đại phu trị vết thương cho Văn tứ gia. Ta đi đây.” Rồi chàng ngang nhiên bước ra ngoài. Bọn Thanh binh đã được lệnh của Lý Khả Tú, la hét om sòm nhưng không truy đuổi chàng thật sự.

Trần Gia Lạc nhảy lên đầu tường, nhìn thấy bên ngoài có tới ba lớp linh cầm trường mâu, ba lớp lính cầm cung tên. Chàng thầm đau khổ, đối phương đã cảnh giác phòng bị như thế thì sau này chuyện của Văn Thái Lai lại khó thêm một bậc.

Vừa ra khỏi phủ đề đốc, Vệ Xuân Hoa và Lạc Băng đã bước tới. Trần Gia Lạc cười khổ, lắc đầu. Lúc này chân trời phía đông đã có những tia sáng đầu tiên của một ngày mới. Quần hùng phẫn uất vô cùng, đành kéo nhau về nhà họ Mã ở Cô Sơn để nghỉ ngơi.

* * *

Nghỉ chưa được hai giờ, người nào cũng có tâm sự nên không ngủ nổi, lại tập hợp trong đại sảnh để bàn bạc. Trần Gia Lạc bảo Vệ Xuân Hoa: “Cửu ca! Huynh đem ngọc bình và vợ bé của Lý Khả Tú đi trả cho hắn. Chúng ta không thể thất tín được.” Vệ Xuân Hoa nhận lệnh đi ngay.

Đột nhiên Mã Đại Đình vào đại sảnh báo cáo: “Tổng đà chủ! Trương Triệu Trọng gửi thư cho tổng đà chủ.”

Trần Gia Lạc nói: “Trương Triệu Trọng viết thư cho ta ư? Lạ thật, không biết hắn muốn gì đây.” Chàng mở thư xem, thấy từ đầu tới cuối toàn là những câu phẫn hận, trách chàng dùng quỷ kế để ám toán, không đáng mặt anh hùng hảo hán. Cuối cùng hắn hẹn chàng đơn đả độc đấu, quyết phân thắng bại một lần. Thời gian địa điểm hoàn toàn do chàng quyết định.

Trần Gia Lạc nói: “Thì ra hắn muốn trả thù chuyện đêm qua. Đánh nhau thì đánh, chẳng lẽ ta sợ hắn hay sao?” Chàng lập tức lấy giấy bút ra viết thư trả lời, hẹn giờ Ngọ ngày mai gặp nhau ở Cát Lãnh Sơ Dương Đài, ai đem người trợ giúp thì không phải anh hùng.

Đang sai người gửi thư thì Từ Thiên Hoằng nói: “Chúng ta phải cứu Tứ ca trong vòng hai ngày. Xin tổng đà chủ lùi cuộc hẹn với Trương Triệu Trọng lại mấy ngày, đừng vì việc đó mà làm lỡ mất đại sự.”

Trần Gia Lạc nói: “Đúng thế! Hôm nay là hai mươi, vậy thì hẹn với hắn vào giờ Ngọ ngày hai mươi ba.” Chàng viết ngay một lá thư khác, cho người đưa đến phủ đề đốc.

Triệu Bán Sơn nói: “Bảo kiếm của tên này sắc bén vô cùng, tổng đà chủ đừng tỉ thí với hắn bằng binh khí. Dùng quyền cước thì chưa chắc hắn đã thắng được.”

Vô Trần nói: “Chỉ sợ hắn đòi tỉ kiếm. Thằng giặc này…” Ông nghĩ đến mối thù chặt gãy kiếm ở bến sông Hoàng Hà, giận dữ nghiến răng không nói tiếp được.

Chu Trọng Anh lên tiếng: “Tổng đà chủ đừng trách, ta có một câu muốn nói.”

Trần Gia Lạc nói: “Chu lão tiền bối lại khách sáo với tiểu điệt rồi. Xin thỉnh giáo.”

Chu Trọng Anh nói: “Võ công của tổng đà chủ thì ta đã từng lãnh giáo, cao minh thật sự. Nhưng công lực Trương Triệu Trọng còn thâm hậu hơn một bực. Không phải là ta đề cao người khác để giảm oai phong của mình, tổng đà chủ tuy không đến nỗi thua hắn, nhưng muốn thắng hắn thì không phải dễ. Chúng ta phải có kế hoạch mới bắt hắn được.”

Trần Gia Lạc nói: “Chu lão tiền bối nói không sai. Tiểu điệt muốn không nắm chắc là thắng được hắn, nhưng hắn đã gọi đích danh thách đấu, nếu không đi chắc chắn sẽ bị thiên hạ chê cười. Tiểu điệt chỉ biết dốc toàn lực mà thôi, chuyện thắng bại không nên nghĩ tới.”

Thường Hách Chí nói: “Chúng ta phải đi ăn cắp cây báu kiếm, làm giảm oai phong của con rùa này trước.”

Chương Tấn la lớn: “Bây giờ từng người chúng ta đi tìm hắn mà đánh suốt hai ngày, dù không thắng nổi cũng bắt hắn mệt đến thở không ra hơi. Tổng đà chủ nghỉ ngơi đàng hoàng, tinh thần khí lực đầy đủ, chắc chắn sẽ thắng.” Quần hùng đều cười rộ, cảm thấy ý kiến này cũng có lý.

Đang bàn bạc thì một trang đinh của nhà họ Mã đến nói với Mã Thiện Quân: “Lão gia! Vương Duy Dương không chịu ăn cơm, hễ mở miệng là chửi mắng om sòm.”

Mã Thiện Quân hỏi: “Lão mắng cái gì?”

Trang đinh đáp: “Lão mắng ngự lâm quân làm việc vô lý. Lão đi lại giang hồ đã mấy chục năm, người người đều kính trọng. Không ngờ lần này đi bảo tiêu cho triều đình mà vô duyên vô cớ bị nhốt ở đây.”

Vô Trần mỉm cười nói: “Lão là Oai Trấn Hà Sóc chứ không phải Oai Trấn Giang Nam. Đi tới đây thì làm gì có oai phong nữa, phải nếm chút ít đau khổ cho biết với người ta.”

Từ Thiên Hoằng chợt động tâm nói: “Ta chợt nghĩ ra kế hoạch dắt hổ đánh nhau, biến hóa từ ý kiến của Thập đệ. Quý vị thử xem có dùng được hay không.”

Chàng trình bày xong kế hoạch, mọi người đều không nén nổi phải cười rộ lên. Vô Trần tán thưởng: “Diệu kế, diệu kế!” Chu Ỷ cũng cười, nhưng không ngớt lắc đầu bĩu môi với Từ Thiên Hoằng.

Trần Gia Lạc vừa cười vừa nói: “Chắc là Chu cô nương lại chê Thất ca không đủ quang minh, lỗi lạc, nhưng đối xử với tiểu nhân thì không cần giữ đạo của người quân tử. Mạnh đại ca! Huynh vào nói chuyện với lão Oai Trấn Hà Sóc kia đi.”

Vương Duy Dương tung hoành suốt vùng Tề Lỗ Yên Triệu mấy chục năm trời chưa hề bất lợi, nào ngờ vừa đến Giang Nam đã lãnh cái nạn này. Lão quát tháo om sòm, nhất định đòi gặp thống lãnh ngự lâm quân để cãi lý. Đang ầm ĩ thì cửa phòng mở ra, một hán tử trung niên mặc sắc phục ngự lâm quân tiến vào, chính là Mạnh Kiện Hùng.

Họ Mạnh tinh minh mẫn cán chẳng kém gì Vệ Xuân Hoa. Chàng đi thẳng vào phòng không thèm thi lễ, oai vệ ngồi xuống ghế rồi hỏi: “Ông là Oai Trấn Hà Sóc phải không?”

Vương Duy Dương thấy chàng ngạo mạ vô lễ, tức giậ đáp: “Không sai! Ngoại hiệu này là do bằng hữu giang hồ tặng cho ta. Nếu Phúc thống lĩnh nghe không thuận tai, thì ngày mai ta thông báo cho toàn thể võ lâm bỏ ngoại hiệu này đi là được rồi.”

Mạnh Kiện Hùng lạnh nhạt nói: “Phúc thống lãnh là vương thân quốc thích, ông ấy đâu có thèm tranh hơi với bọn giang hồ lỗ mãng như ông.”

Vương Duy Dương hỏi lại: “Vậy thì ta đang làm việc cho triều đình, hộ tống bảo vật đến Hàng Châu, dọc đường không sơ suất chút nào, sao lại bắt nhốt ở đây một cách bất minh như thế?”

Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Ông thật sự muốn biết hay sao?”

Vương Duy Dương đáp ngay: “Đương nhiên!”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Chỉ sợ ông lớn tuổi rồi, kinh hãi không chịu nổi mà thôi.”

Vương Duy Dương bực nhất là bị người ta nói mình tuổi già sức yếu. Tay lão không bị xiềng, bèn vận nội lực vỗ xuống bàn một cái. Một góc bàn nát bét, gỗ vụn bay tung tóe. Lão giận dữ nói: “Vương Duy Dương này tuổi tác tuy lớn nhưng hùng tâm chưa mất, lên núi đao vào chảo dầu mà chau mày một cái thì không phải là hảo hán. Có gì mà phải sợ?”

Mạnh Kiện Hùng vừa cười vừa nói: “Thì ra Vương lão đầu cũng có chút bản lãnh. Ha ha! Trên giang hồ có một câu, cái gì Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương, có phải vậy không?”

Vương Duy Dương đáp: “Đó cũng là lời anh em hắc đạo quá khen Vương mỗ mà thôi.”

Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Sao lại phải đặt lão Vương lên trên một Trương? Chẳng lẽ bản lãnh họ Vương cao hơn họ Trương sao?”

Vương Duy Dương lập tức tỉnh ngộ, đứng dậy bước lên một bước, lớn tiếng nói: “À! Thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan muốn ấn chứng võ công của lão phu. Lão già này hồ đồ mất rồi, không nghĩ ra chuyện đó.”

Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Trương đại nhân là thượng cấp của tại hạ, chắc ông cũng biết chứ?”

Vương Duy Dương đáp: “Ta biết Trương đại nhân trong ngự lâm quân.”

Mạnh Kiện Hùng hỏi: “Ông có quen biết Trương lão nhân gia không?”

Vương Duy Dương đáp: “Tuy cùng là người trong võ lâm, lại cùng ở Bắc Kinh, nhưng ông ấy là quan còn ta là dân. Ta ngưỡng mộ anh danh của ông ấy từ lâu, đáng tiếc không đủ phúc phận để kết giao.”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân cũng đã nghe danh tiếng của ông lâu rồi. Hiện giờ ông ấy đang ở Hàng Châu. Ông ấy nhắn là lúc ở Bắc Kinh dưới chân thiên tử, nếu chỉ vì một chút hư danh mà đánh nhau làm tổn thương hòa khí thì chẳng đẹp mắt gì. Hiện nay chúng ta đều ở ngoài kinh, Trương đại nhân có ba việc cần thương lượng với Vương lão anh hùng. Chỉ cần ông nói một lời đáng giá ngàn vàng là có thể lập tức ra ngoài.”

Vương Duy Dương nói: “Bây giờ ta đã bị ngự lâm quân các ngươi bắt nhốt, có gì thì các ngươi cứ nói, cần gì ta phải đồng ý hay không?”

Mạnh Kiện Hùng mỉm cười nói: “Ba việc này cũng dễ dàng thôi, tổng tiêu đầu hà tất phải nổi giận.”

Vương Duy Dương hỏi: “Hỏa Thủ Phán Quan muốn ta làm gì?”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Việc thứ nhất, xin lão tiêu đầu phế bỏ cái ngoại hiệu Oai Trấn Hà Sóc.”

Vương Duy Dương đáp: “Được! Việc thứ hai thì sao?”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Xin lão tiêu đầu đóng cửa Trấn Viễn tiêu cục.”

Vương Duy Dương giận dữ nói: “Trấn Viễn tiêu cục của ta đã đứng vững ba mươi năm trời, không bị hủy vào tay bạn bè hắc đạo, thế mà Trương đại nhân lại bắt ta cáo lão về hưu! Cũng được, còn việc thứ ba?”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Việc thứ ba là xin Vương lão tiêu đầu mời hết đồng đạo võ lâm đến nhà, tuyên bố câu nói Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương phải nói ngược lại. Trương đại nhân còn nói, Vương lão tiêu đầu tuổi đã cao rồi, giữ cây tử kim bát quái đao không dùng làm gì được nữa, nên đem tặng cho ngự lâm quân làm đồ kỷ niệm.”

Vương Duy Dương nghe tới đây lập tức nộ khí xung thiên, lạc giọng la lên: “Ta cùng Trương Triệu Trọng xưa nay không quen không biết, không thù không oán. Tại sao hắn lại bức hiếp người đến thế?”

Mạnh Kiện Hùng mỉm cười nói: “Ông đã nổi danh bốn chục năm trời, tới lúc phải nghỉ ngơi rồi. Một núi không thể có hai cọp dữ, chẳng lẽ đạo lý này ông cùng không biết hay sao?”

Vương Duy Dương nói: “Thì ra hắn muốn làm nhục Vương mỗ để mình được vang danh bốn biển. Nếu ta không đồng ý thì sao? Hắn quyết nhốt ta ở đây không bao giờ thả phải không? Hay lắm! Hắn mượn việc công để giải quyết việc riêng, e rằng khó tránh khỏi thiên hạ sau này đồn đãi.”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân là anh hùng hào kiệt, đâu có làm những việc như thế? Ông ấy hẹn ông giờ Ngọ hôm nay gặp nhau, tỉ quyền thí kiếm trên Sư Tử Phong. Nếu lão Vương lợi hại thì ba việc đó không cần nhắc lại nữa, bằng không thì xin gật đầu một cái.”

Vương Duy Dương nói: “Cứ thế mà làm! Danh tiếng Vương mỗ bốn chục năm trời, nếu mất vào tay Hỏa Thủ Phán Quan cũng không uổng phí.”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Trương đại nhân còn nói, nếu việc này bị hoàng thượng biết được thì không tiện lắm. Giá tỉ Vương lão tiêu đầu dám đi thì cứ việc đơn đao phó hội, còn nếu sợ sệt muốn mời bạn bè trợ quyền lược trận thì không cần tỉ thí làm gì nữa.”

Vương Duy Dương vừa nghiến răng ken két vừa nói: “Dù phải vùi xương ở chốn hoang sơn, Vương mỗ cũng quyết đơn đao song chưởng mà đi lãnh giáo.”

Mạnh Kiện Hùng nói: “Vậy thì ông viết thư đi, để tại hạ sai người hồi đáp cho Trương đại nhân.”

Nói xong, chàng gọi lấy văn phòng tứ bảo. Vương Duy Dương tức đến run tay, viết một lá thư ngắn như sau:

“Trương Triệu Trọng đại nhân minh giám. Lời nói và hành vi của ông thật sự hiếp người quá đáng. Giờ Ngọ hôm nay gặp nhau trên Sư Tử Phong, nếu ta thua dưới tay ông thì để ông xử trí thế nào cũng được. Vương Duy Dương kính bút.”

Họ Vương chỉ là một kẻ võ phu không thông văn lý, lại trong cơn thịnh nộ nên chỉ viết sơ sài. Mạnh Kiện Hùng mỉm cười, cất lá thư đi.

Vương Duy Dương lại nói: “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh của lão ca, để lát nữa lãnh giáo luôn thể.” Thì ra lão giận lây qua tới Mạnh Kiện Hùng.

Mạnh Kiện Hùng cười đáp: “Tại hạ là hàng hậu sinh vãn bối, tên tuổi không có gì đáng nói. Nếu đơn đả độc đấu thì lát nữa tại hạ không đến Sư Tử Phong, còn nếu đông người đánh nhau loạn xạ thì Trấn Viễn tiêu cục không so được với ngự lâm quân đâu. Ha ha!”

Chàng cười nhạt mấy tiếng rồi quay lưng đi ra ngoài, đóng cửa lại. Hồng Hoa Hội biết Vương Duy Dương kiêng nể quan phủ không dám chạy trốn, nên chỉ đóng cửa sơ sài. Nếu không thì võ công như lão, trên người lại không đeo xiềng xích, mấy cánh cửa gỗ này làm sao nhốt được?

* * *

Hôm đó Thiết tỳ bà thủ Hàn Văn Xung rượt theo con ngựa trắng, trúng mai phục rồi bị bắt. Sáng nay hắn bị đưa đến nhốt trong một căn nhà nhỏ, nghĩ rằng phen này mình rơi vào tay Hồng Hoa Hội chắc không sống được nữa. Hắn đang suy nghĩ lung tung thì đột nhiên nghe thấy ở phòng bên cạnh có tiếng kêu la. Lắng tai nghe kỹ thì nhận ra thanh âm của tổng tiêu đầu Vương Duy Dương, đang mắng chửi Trương Triệu Trọng hết sức dữ dội, những là “thằng lỏi Trương Triệu Trọng dưới mắt không người.”

Hàn Văn Xung ngạc nhiên, đang định lên tiếng hỏi thì cửa phòng bỗng mở, hai người đi vào nói: “Mời Hàn đại gia lên sảnh nói chuyện.”

Hắn vào sảnh thì thấy bên trái có ba người ngồi trên ghế, trên cùng là Trần Gia Lạc tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội, người tiếp theo tóc bạc bay phấp phới, người còn lại thân hình bé nhỏ, đều là những người từng gặp dọc đường Cam Lương. Hàn Văn Xung xấu hổ vô cùng, không nói tiếng nào. Hắn chắp tay vái lạy rồi ngồi vào ghế.

Trần Gia Lạc lên tiếng: “Hàn đại ca! Chúng ta vừa gặp nhau ở Cam Túc, không ngờ hôm nay lại gặp nhau ở đây nữa rồi. Ha ha! Phải nói là rất có duyên.”

Hàn Văn Xung im lặng một hồi mới nói: “Lúc đó tại hạ đã nói là sẽ phong đao quy ẩn, nhưng Vương tổng tiêu đầu nhất định bắt tại hạ bảo vệ chuyến tiêu này. Mệnh lệnh của thượng cấp không thể từ chối, hơn nữa đây là bảo vệ trân bảo của gia đình công tử, nghĩ chắc công tử không trách nên…”

Từ Thiên Hoằng giận dữ ngắt lời: “Bằng hữu giang hồ phải lấy hai chữ tín nghĩa làm đầu. Các hạ nói mà không giữ lời, thử nói xem mình đáng tội gì?”

Hàn Văn Xung suy nghĩ rồi đáp: “Tại hạ đã rơi vào tay các vị, còn gì để nói nữa? Các vị muốn giết muốn xẻo…”

Hắn chưa dứt lời, Trần Gia Lạc đã nói: “Hàn đại ca đừng nói vậy. Lần này Vương tổng tiêu đầu đang bị Trương Triệu Trọng cáo mượn oai hùm bức hiếp nặng nề. Vương lão anh hùng oai trấn vùng Hà Sóc, trước giờ chưa từng bị xúc phạm đến thế, nói sao thì nói cũng phải đánh nhau với tên Hỏa Thủ Phán Quan đó một trận. Chúng ta đều là người trong võ lâm, nghe chuyện này dĩ nhiên nảy dạ bất bình. Hơn nữa Vương tổng tiêu đầu lại đang bảo vệ đồ vật của gia đình ta, dĩ nhiên ta không thể phủi tay đứng nhìn. Không biết Hàn đại ca có giao tình như thế nào với Trương Triệu Trọng?”

Hàn Văn Xung đáp: “Có gặp mấy lần ở Bắc Kinh, nhưng sang hèn cách biệt. Ông ấy lại ỷ mình võ công cao cường không xem người khác ra gì, nên không thể nói là có giao tình.”

Trần Gia Lạc nói: “Nếu vậy thì huynh xem thử lá thư này.” Rồi chàng đưa lá thư Vương Duy Dương viết cho hắn xem.

Hàn Văn Xung cũng biết tổng tiêu đầu trước nay kiêng nể quan phủ, vốn không muốn đối đầu với Trương Triệu Trọng. Nhưng ông ấy thành danh đã lâu, tính tình lại nóng nảy, nếu bị Trương Triệu Trọng ỷ thế hiếp người thì phẫn nộ là chuyện dĩ nhiên. Hắn chính tai nghe tổng tiêu đầu thóa mạ họ Trương, chính mắt thấy bút tích của Vương Duy Dương nên không hoài nghi gì nữa, bèn nói: “Đã thế thì xin cho tại hạ gặp tổng tiêu đầu một chút, để thương lượng kế hoạch đối phó.”

Trần Gia Lạc nói: “Bây giờ còn sớm, ta muốn nhờ Hàn đại ca đưa lá thư này cho Trương Triệu Trọng trước, khi về mới gặp Vương lão anh hùng. Huynh thấy có được hay không?” Hỏi thì hỏi vậy thôi, dĩ nhiên Hàn Văn Xung không thể không đồng ý.

Trần Gia Lạc lớn tiếng gọi: “Thập nhị ca! Huynh ra đây một chút.”

Thạch Song Anh từ trong nội đường tiến ra. Trần Gia Lạc bèn giới thiệu với Hàn Văn Xung rồi nói: “Thạch huynh đệ sẽ cùng huynh đi gặp Trương Triệu Trọng. Hàn đại ca! Huynh chưa hiểu rõ Trương Triệu Trọng bức hiếp Vương lão anh hùng như thế nào, việc này nói ra rất dài dòng mà bây giờ cũng không tiện nói rõ ràng. Lúc gặp Trương Triệu Trọng, huynh cứ nói Thạch huynh đệ là tiêu sư của quý tiêu cục, rồi mọi chuyện để Thạch huynh đệ đối đáp.”

Hàn Văn Xung bỗng nảy dạ nghi ngờ, nên trù trừ không trả lời ngay. Trần Gia Lạc bèn hỏi: “Chẳng lẽ Hàn đại ca thấy có chỗ nào không đúng hay sao?”

Hàn Văn Xung vội đáp: “Không! Tại hạ cứ làm theo lời dặn của công tử là xong.”

Từ Thiên Hoằng biết hắn vẫn còn hoài nghi, sợ hắn làm hỏng việc bèn nói: “Xin chờ một chút.” Rồi chàng vào trong lấy một bình rượu và một cái chén, rót rượu đưa đến trước mặt Hàn Văn Xung mà nói: “Vừa rồi ta nói năng đụng chạm, xin Hàn đại ca tha lỗi. Mời huynh cạn chén này, coi như không trách ta nữa.”

Hàn Văn Xung vội đáp: “Không dám! Không dám!” Hắn nâng chén lên uống cạn rồi nói: “Trần công tử, tại hạ đi đây.”

Trần Gia Lạc chắp tay đáp: “Làm phiền huynh quá.”

Hàn Văn Xung nhận lấy lá thư, quay người đi ra. Nhưng Từ Thiên Hoằng đột nhiên lạc giọng la lên: “Úi chà! Không xong! Hàn đại ca! Ta lầm rồi, chén rượu vừa rồi có độc.”

Mọi người đều phải giật mình. Hàn Văn Xung đổi hẳn sắc mặt, quay người lại. Từ Thiên Hoằng nói: “Thật là có lỗi! Cái chén này có thuốc độc, vốn dùng để ngâm vũ khí. Bọn hầu hạ không biết nên lấy nhầm, vừa rồi ta ngửi thấy mùi mới biết. Hàn đại ca đã lỡ uống rồi, thật là hỏng bét! Mau đem thuốc giải ra!”

Một người trang đinh nói: “Thuốc giải để ở nhà bên đông thành rồi.”

Từ Thiên Hoằng quát luôn: “Đồ ngu, mau cưỡi ngựa đi lấy nhanh lên.”

Tên trang đinh đó lập tức vâng dạ chạy ra. Từ Thiên Hoằng quay lại nói với Hàn Văn Xung: “Tại hạ sơ suất thật đáng chết. Bây giờ xin Hàn đại ca đi đưa lá thư này trước, mọi việc cứ theo lời Thạch huynh đệ mà hành sự. Huynh quay về uống thuốc giải vẫn còn kịp chán.”

Hàn Văn Xung biết họ Từ cố ý hạ độc để ép mình, phải tuân lời Hồng Hoa Hội thì mới có thuốc giải mà uống, không thì mất mạng. Hắn nhìn Từ Thiên Hoằng đầy vẻ căm thù, không nói tiếng nào quay mình đi ngay. Thạch Song Anh cũng bước theo.

Đợi hai người đi khuất, Chu Trọng Anh mới chau mày nói: “Ta thấy tên Hàn Văn Xung này cũng không đến nỗi quá tệ hại, sao Hoằng nhi lại hạ độc hắn? Việc này thật không quang minh chút nào cả.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói: “Nghĩa phụ! Trong rượu không có độc.”

Chu Trọng Anh kinh ngạc hỏi: “Không có độc thật ư?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Đúng thế!” Chàng tiện tay rót một chén rượu, uống cạn rồi mỉm cười nói: “Con sợ hắn nói chuyện lung tung trước mặt Trương Triệu Trọng, làm hỏng việc của chúng ta, nên mới dọa hắn một chút. Khi trở về, cho hắn uống thêm một chén nữa thì coi như thái bình vô sự.”

Mọi người cười rộ lên.

* * *

Trương Triệu Trọng nhận được thư hồi âm của Trần Gia Lạc hẹn mình thí võ trên Cát Lãnh, cơn giận trong lòng lập tức nguôi bớt. Hắn đã giao đấu mấy lần với Trần Gia Lạc, biết mình chắc thắng tới chín phần mười, có thể rửa được cái nhục hôm trước.

Họ Trương đang ngồi canh Văn Thái Lai thì cửa ngục mở, một tên lính vào nói: “Trương đại nhân có khách!” Hắn còn đưa lên một tấm danh thiếp, ghi là Oai trấn Hà Sóc Vương Duy Dương.

Đúng phép lịch sự thì trên bái thiếp chẳng ai ghi ngoại hiệu cả. Trương Triệu Trọng vừa thấy đã phẫn nộ, nhưng nén giận bảo: “Ngươi ra nói là ta đang bận chuyện công, không được tiếp khách. Bảo ông ấy để lại địa chỉ, hôm khác ta sẽ tới bái phỏng sau.”

Tên lính đi ra, một hồi vào báo: “Khách không chịu đi, lại gửi một lá thư.”

Trương Triệu Trọng mở thư ra xem. Hắn nửa tức giận nửa kinh ngạc, thầm nghĩ: “Mình với lão già này chưa hề đụng chạm, sao hắn lại hẹn mình thí võ?” Hắn liền sai tên lính: “Ngươi nói với Lý tướng quân là ta cần tiếp khách, nhờ ông ấy cho người đến đây canh giữ giùm.”

Đợi bốn tên thị vệ đến canh giữ Văn Thái Lai, Trương Triệu Trọng mới khoác thêm trường bào ra khách sảnh. Hắn biết mặt Hàn Văn Xung, bèn đưa tay chào hỏi: “Vương tổng tiêu đầu không đến hay sao?”

Hàn Văn Xung nói: “Trương đại nhân! Giới thiệu với đại nhân, đây là Thạch tiêu đầu của tiêu cục bọn tại hạ. Vương tổng tiêu đầu có mấy câu muốn nói, nhờ Thạch tiêu đầu chuyển đến đại nhân.”

Trương Triệu Trọng dằn lá thư của Vương Duy Dương xuống bàn rồi nói: “Oai danh của Vương tổng tiêu đầu thì ta biết đã lâu. Ta với ông ấy trước nay chưa hề đụng chạm, sao lại nói là hiếp người quá đáng? Chắc là bên trong có sự hiểu lầm, phải nhờ hai vị chỉ giáo rồi.”

Thạch Song Anh lạnh lùng nói: “Vương tổng tiêu đầu là lãnh tụ võ lâm. Trong võ lâm mà xuất hiện kẻ bại hoại, bất kể có đụng chạm gì đến ông ấy hay không, ông ấy cũng phải nhúng tay một chút. Không thế sao gọi là Oai Trấn Hà Sóc?”

Trương Triệu Trọng đứng bật dậy hỏi: “Vương Duy Dương dám nói ta là võ lâm bại hoại ư?” Thạch Song Anh nhăn nhăn khuôn mặt đầy sẹo, không nói tiếng nào ra vẻ xác nhận.

Trương Triệu Trọng càng giận dữ hơn, hỏi: “Xin chỉ giáo, ta đã làm gì để bằng hữu võ lâm chê trách?”

Thạch Song Anh nói: “Vương tổng tiêu đầu có mấy việc cần hỏi Trương đại nhân. Việc thứ nhất, đã là người học võ thì bất cứ gia nào phái nào cũng kỵ nhất là xúc phạm tôn trưởng. Nghe nói Trương đại nhân là cao thủ phái Võ Đang mà không nhìn mặt sư huynh, lại còn muốn bắt sư huynh để thăng quan phát tài. Có đúng thế không?”

Trương Triệu Trọng tức tối đáp: “Việc giữa sư huynh đệ chúng ta, không cần người ngoài phải nhúng tay vào.”

Thạch Song Anh nói: “Việc thứ hai, đã là người lăn lộn trong giang hồ thì bất kể là bạch đạo hay hắc đạo, quan phủ hay lục lâm cũng phải trọng chữ nghĩa. Trương đại nhân cùng Hồng Hoa Hội không thù không oán, chỉ vì muốn thăng quan phát tài mà đi bắn Bôn Lôi Thủ Văn Thái Lai, lừa gạt một thằng bé ở Thiết Đảm Trang khiến nó mất mạng. Đại nhân nghĩ lại xem trong lòng có yên hay không?”

Trương Triệu Trọng giận dữ nói: “Ta ăn lộc vua thì phải trung với vua, chuyện này thì có liên quan gì đến Trấn Viễn tiêu cục nhà các ngươi?”

Thạch Song Anh nói: “Đại nhân đánh không lại Hồng Hoa Hội thì cứ chạy trốn thoát thân là xong, sao lại phải dùng kế Kim Thiền Thoát Xác bắt người của Trấn Viễn tiêu cục chết thay? Vụ đó làm không ít bằng hữu tiêu sư của chúng ta phải thương vong.”

Trương Triệu Trọng và Hàn Văn Xung nghe xong câu này đều tim đậpn thình thình, thì ra đây là chuyện làm Vương Duy Dương tức tối. Trận chiến dọc đường Cam Lương, Trấn Viễn tiêu cục tổn thất không ít. Tái Vĩnh Minh và Diêm thị huynh đệ bị giết, Tiền Chính Luân mất tay, những việc này Hàn Văn Xung đều biết. Lúc này họ Hàn nhịn không nổi, bèn lên tiếng: “Trương đại nhân! Việc này đại nhân thật là không phải, chẳng trách Vương tổng tiêu đầu nổi giận.”

Thạch Song Anh lạnh nhạt nói: “Những việc khác không cần hỏi nữa. Ba việc này phải giải quyết như thế nào, đại nhân nói đi.” Y trừng mắt lên nhìn, đầy vẻ oai phong lẫm liệt.

Trương Triệu Trọng bị hỏi như hỏi cung phạm nhân, nhịn không nổi phải bước lên một bước, hét lên: “Thằng lỏi này chán sống rồi hay sao mà dám trêu vào tay thái tuế?” Dường như hắn muốn động thủ ngay lập tức.

Thạch Song Anh lùi lại một bước rồi nói: “Sao? Oai Trấn Hà Sóc tìm ông thí võ, ông không dám nên mới động thủ với ta phải không?”

Trương Triệu Trọng quát: “Ai nói ta không dám? Về bảo lão già đó giờ Ngọc hôm nay lên Sư Tử Phong phân cao thấp, ai không đi không phải là hảo hán.”

Thạch Song Anh nói: “Nếu ông không đi thì từ nay về sau đừng ló mặt ra chốn giang hồ nữa. Vương tổng tiêu đầu nhắn, nếu ông còn chút xíu cốt khí thì đi một mình, tiêu cục chúng ta quyết không có người thứ hai ở đó. Còn nếu ông gọi tới quan phủ điều binh khiển tướng, thì bọn dân đen chúng ta không dám đến đâu.”

Trương Triệu Trọng nói: “Vương Duy Dương chỉ có danh hão mà thôi. Chẳng lẽ ta lại sợ lão già rỗng tuếch chỉ có hư danh đó, gọi người giúp để làm gì?”

Thạch Song Anh nói: “Vương tổng tiêu đầu không dẻo miệng như ông, lát nữa gặp nhau chỉ nói chuyện bằng quyền cước đao thương. Ông muốn thóa mạ người ta thì bây giờ cứ thóa mạ cho đã miệng trước đi.”

Thật ra Trương Triệu Trọng cũng không dẻo miệng lắm, càng nghe họ Thạch nói càng tức tối, không nói lại được câu nào.

Thạch Song Anh tiếp: “Được, chúng ta cứ thế. Bây giờ ông nên dành chút thời gian để ôn luyện lại võ nghệ, mà cũng nên lo lắng hậu sự một chút.”

Cặp mắt Trương Triệu Trọng tóe lửa, hắn xoay tay phóng ra một chưởng nhanh như điện chớp. Thạch Song Anh gấp rút đảo người tránh né nhưng không thể kịp, bị đánh trúng vào vai trái, loạng choạng mấy bước. Trương Triệu Trọng xuất thủ cực nhanh, hữu chưởng vừa đánh ngã Thạch Song Anh, người đã rượt tới nơi, tả quyền đánh bồi vào trước ngực.

Thạch Song Anh ra chiêu Lãm Tước Vĩ trong Thái Cực Quyền, lôi kéo quyền phong của họ Trương đánh ra ngoài cửa. Trương Triệu Trọng thấy y sử dụng công phu nội gia, bất giác ngẩn người ra một chút.

Trong chớp nhoáng đó, Thạch Song Anh lùi được vài bước, hét lên: “Hay lắm! Ông đã không dám gặp Vương tổng tiêu đầu, thì chúng ta cứ ở đây so tài cao thấp một phen.” Y bắt chéo hai chưởng trước ngực phòng thủ, cảm thấy bên vai phải đã tê chồn, rõ ràng không đỡ nổi chưởng tiếp theo.

Trương Triệu Trọng quát: “Ngươi không phải là đối thủ của ta. Về nói với Vương Duy Dương, đúng giờ Ngọ ta sẽ đến.”

Thạch Song Anh cười nhạt quay người đi ngay. Hàn Văn Xung cũng ra theo.

Trong lúc hai bên đấu khẩu, Hàn Văn Xung cứ lo nghĩ về chuyện uống rượu độc, cảm thấy từ đầu đến chân không có chỗ nào thoải mái. Hắn chỉ mong Thạch Song Anh nói chuyện cho mau để mau mau về uống thuốc giải. Khi thấy hai bên động thủ, hắn sợ đến xanh mặt mồ hôi ướt đầm, chân run lẩy bẩy, khó khăn lắm mới về tới nhà họ Mã ở Cô Sơn.

Thạch Song Anh báo cáo: “Hắn đã đồng ý đến vào giờ Ngọ.”

Hàn Văn Xung cảm thấy ruột mình đau như cắt, nhăn nhó ngồi trên ghế. Từ Thiên Hoằng bèn rót một chén rượu, lên tiếng: “Thuốc giải đây, Hàn đại ca uống đi.” Hàn Văn Xung vội vàng đưa tay đón lấy.

Bỗng dưng Chu Trọng Anh đưa tay ra đoạt lấy chén rượu, ngửa cổ uống cạn. Hàn Văn Xung ngơ ngác không hiểu, Chu Trọng Anh bèn mỉm cười nói: “Đùa như vậy là quá đủ rồi. Hàn lão đệ! Ngươi chưa uống rượu độc đâu, Từ đương gia chỉ giỡn với ngươi thôi. Hoằng nhi, mau mau qua đây xin lỗi!”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười bước tới, chắp tay vái một cái rồi nói: “Xin Hàn đại ca đừng trách.” Sau đó chàng giải thích rõ ràng. Dĩ nhiên Hàn Văn Xung chẳng vui vẻ gì, nhưng cũng không ôm hận nữa.

Mạnh Kiện Hùng lại vào trong gặp Vương Duy Dương, tay chống nạnh ra vẻ giận dữ, chỉ mặt lão mà nói: “Trương đại nhân đã đồng ý rồi, ông đi ngay đi. Còn nữa, Trương đại nhân không thích loại người lắm mồm. Bây giờ ông muốn nói gì thì nói ngay đi. Lát nữa lên Sư Tử Phong chỉ tranh cao thấp về quyền cước binh đao, ông muốn lải nhải huyên thuyên Trương đại nhân chắc chắn không nghe, muốn van xin tha mạng cũng không có kết quả. Giả tỉ ông cảm thấy hối hận hay hoảng sợ thì phải nói ngay bây giờ mới kịp.”

Vương Duy Dương đứng bật dậy, gầm lên: “Hôm nay ta quyết liễu cái mạng này để đấu với hắn một phen.” Lão sải bước ra ngoài.

Mạnh Kiện Hùng vẫy tay một cái, một tên trang đinh đem thanh tử kim bát quái đao và túi phi tiêu trả lại cho Vương Duy Dương. Lão đón lấy, tức giận đến mức cả hàm râu bạc phải dựng ngược lên.

Hàn Văn Xung đứng trước cửa nói: “Lần này Vương tổng tiêu đầu đi, xin cẩn thận một chút.”

Vương Duy Dương hỏi: “Ngươi cũng biết rồi hay sao?”

Hàn Văn Xung gật đầu rồi nói: “Thuộc hạ mới gặp Trương Triệu Trọng.”

Vương Duy Dương hỏi: “Hắn mắng ta những gì?”

Hàn Văn Xung đáp: “Lời nói của kẻ tiểu nhân, Vương tổng tiêu đầu không cần phải để vào lòng.”

Vương Duy Dương giục: “Ngươi nói đi, đừng ngại.”

Hàn Văn Xung nói: “Hắn mắng chửi ông là lão già rỗng tuếch chỉ có hư danh.”

Vương Duy Dương hừ một tiếng rồi nói: “Có phải là hư danh rỗng tuếch hay không, bây giờ chưa biết. Lỡ ta gặp bất trắc, thì… Hàn lão đệ! Mọi chuyện trong tiêu cục và gia đình ta, nhờ ngươi lo liệu giúp.” Lão dừng lại một chút rồi nói tiếp: “Phải dặn hai đứa Kiếm Anh, Kiếm Kiệt đừng vội trả thù. Anh em nó học võ chưa xong, bây giờ động thủ chỉ tổ uổng mạng.” Vương Kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt là hai đứa con trai của Vương Duy Dương, đều học võ nghệ gia truyền Bát Quái Môn.

Hàn Văn Xung nói: “Võ công của tổng tiêu đầu hết mực tinh thâm, thuộc hạ nghĩ rằng tên Trương Triệu Trọng kia chưa chắc là địch thủ. Xin ở đây để chờ đợi tin lành.”

Vương Duy Dương bèn đi theo tên trang đinh dẫn đường, lên đỉnh Sư Tử Phong đơn đao phó hội.

* * *

Sư Tử Phong là nơi sản xuất trà có tiếng, trà Sư Tử Long Tĩnh là tuyệt phẩm trong thiên hạ. Ngọn núi này vừa cao vừa dốc, hiếm khi có du khách trèo lên tới đỉnh.

Vương Duy Dương cài đao sau lưng, bước lên Sư Tử Phong. Trên đỉnh núi có một bãi trống bằng phẳng, xung quanh đều là đất trồng trà. Phía trước có một người bước tới, mặc áo ngắn, chân quấn chặt, thân hình khôi vĩ. Hắn nhìn chằm chằm Vương Duy Dương một lúc rồi hỏi: “Ông là Vương Duy Dương phải không?”

Vương Duy Dương nghe hắn gọi thẳng tên mình, lửa trong lòng lập tức bốc lên. Nhưng lão đã gần bảy mươi rồi, huyết khí của thời thanh niên đã giảm hơn một nửa. Dù sao thì Trương Triệu Trọng cũng là võ quan trong triều đình, nên ít nhiều lão cũng có phần kính nể, bèn nói: “Không sai, chính là tại hạ. Ông là Hỏa Thủ Phán Quan Trương đại nhân phải không?”

Người kia chính là Trương Triệu Trọng, hỏi ngay: “Chúng ta tỉ thí quyền cước hay binh khí?” Hắn hành sự rất tỉ mỉ, lên đỉnh núi từ sớm để điều tra xung quanh trước. Thấy đối phương hoàn toàn không đặt mai phục, hắn nghĩ: “LãoVương Duy Dương này tuy ngông cuồng ngạo mạn, nhưng cũng chỉ là một tiêu đầu, chẳng lẽ dám bày trận ám toán người của triều đình hay sao?” Thế là hắn yên tâm ứng chiến.

Vương Duy Dương thì nghĩ: “Ta cùng hắn không có thâm thù oan trái gì, hà tất phải dùng binh đao làm tổn thương nhau. Giả tỉ lỡ tay giết mất mệnh quan triều đình thì sau này hậu hoạn vô cùng. Tốt nhất là dùng Bát Quái Chưởng dạy cho hắn bớt kiêu ngạo, cho hắn biết lão tử không phải là hư danh rỗng tuếch, như vậy cũng được rồi.” Lão suy nghĩ xong liền nói: “Ta xin lãnh giáo Vô Cực Huyền Công Quyền vang danh thiên hạ của Trương đại nhân.”

Trương Triệu Trọng đáp: “Hay lắm!” Hắn bèn đưa tả quyền hữu chưởng lên chạm nhau, vái chào một cái. Tuy tên này tự cao ngạo mạn, nhưng sở học đúng là quyền pháp nội gia của phái Võ Đang, nên vẫn dùng thế Dĩ dật đãi lao, lấy nhàn rỗi đánh mệt mỏi, lấy tĩnh chế động, ngưng thần tụ khí chờ địch tấn công.

Vương Duy Dương biết hắn chắc chắn không ra chiêu trước, bèn hô lớn: “Ta xuất chiêu đây!” Lời còn chưa dứt, tả chưởng đã đưa ra ngoài, hữu chưởng xuất chiêu Du Không Thámg Trảo chặt vào vai phải, đồng thời tả chưởng lật lên theo chiêu Mãnh Hổ Phục Trang đập vào tay phải đối phương. Tiếp theo hữu chưởng lại biến thành quyền đánh vào trước ngực, chớp nhoáng đã xuất ba chiêu liên hoàn. Trương Triệu Trọng phải lùi ba bước, dùng Vô Cực Huyền Công Quyền hóa giải.

Hai người đứng sát nhau rồi lại tách ra, lượn vòng quanh người đối phương, đều âm thầm thán phục nhau. Trương Triệu Trọng nghĩ: “Ba chiêu này vừa nhanh vừa mạnh, lão già này đúng là kình địch.”

Vương Duy Dương thì nghĩ: “Hắn dễ dàng hóa giải ba chiêu trong nhu có cương của ta, Hỏa Thủ Phán Quan đúng là danh bất hư truyền.”

Hai người đều không dám khinh địch. Lượn quanh một vòng, Trương Triệu Trọng bước lên một bước dùng chân trái quét ngang. Vương Duy Dương nhảy lên tránh né, đưa song chưởng vỗ xuống mặt đối thủ. Khi Trương Triệu Trọng phóng chân trái đá ra đã âm thầm sử dụng hai chiêu Không Kích Thương Ưng và Thụ Tiếu Cầm Hầu. Hai chưởng của Vương Duy Dương đánh xuống đã hóa giải hai chiêu này mất tích.

Đúng là kỳ phùng địch thủ, mỗi người đều triển khai tuyệt học, chớp nhoáng đã qua lại hai ba chục chiêu. Lúc này trời đang đứng bóng, hai bóng đen múa máy dưới đất, lúc hợp lúc chia.

Vương Duy Dương thấy đánh mãi chưa thắng, thầm nghĩ: “Mình đã già rồi, khí lực không bằng đối phương ở tuổi tráng niên, đánh lâu dĩ nhiên kém thế.” Lão đột nhiên thay đổi chiêu thức, chưởng không rời chỏ, chỏ không rời ngực, một chưởng hộ thân, một chưởng ứng chiến. Hữu chưởng hướng hơi lệch lệch về phía vai trái, hai chân đạp theo bát quái chạy vù vù xung quanh Trương Triệu Trọng. Đó chính là tuyệt kỹ Du Thân Bát Quái Chưởng thành danh của lão.

Khi thi triển chưởng pháp này thì dưới chân không dừng lại bước nào, luôn luôn chạy quanh người kẻ địch, lúc chạy sang trái lúc chạy sang phải, gấp rút xoay chuyển để tìm chỗ sơ hở phát chiêu. Đối phương thấy mình trước mắt, vừa phát chưởng cản trở thì mình đã xoay ra đến sau lưng rồi. Đối phương quay lại, thì mình đã lại chạy ra sau lưng nữa. Cứ thế quay mấy chục vòng, dù đối phương có võ nghệ cao cường cũng phải luống cuống, đầu váng mắt hoa. Còn nếu đối phương không chịu quay theo, chỉ cần dừng lại một chútt hì sau lưng sẽ trúng quyền chưởng vào chỗ yếu hại.

Vương Duy Dương mới chạy được hai vòng, Trương Triệu Trọng đã biết ngay đấu pháp này lợi hại. Chưa đợi lão chạy đến sau lưng, lão đã bước ngang một bước, xoãi chân quét chặn về hướng lão đang chạy tới, rồi phóng chưởng đánh đón vào mặt. Nhưng Vương Duy Dương đã quay sang hướng khác rồi.

Trương Triệu Trọng thấy chân lão đan theo hình cửu cung bát quái, biết lão đang ở cung Khảm phải tới cung Ly, b`n múa tít song chưởng cố giành lấy cung Càn. Hai người xoay bảy tám vòng như thế, chưởng vừa phóng ra đã thu về, không để giao nhau.

Lộ chưởng pháp này Vương Duy Dương đã luyện tập thành thuộc mấy chục năm trời, bộ pháp càng ngày càng nhanh, chưởng vừa thu lại đã phát ra ngay, tới mức độ hoàn toàn không cần suy nghĩ.

Trương Triệu Trọng chỉ biết thấy chiêu đỡ chiêu, lúc đầu còn giữ được thế quân bình, nhưng kéo dài thì không thể nhanh kịp đối phương. Hắn thầm nghĩ: “Nếu cứ xoay chuyển như thế, chắc chắn mình sẽ rơi vào thế hạ phong.”

Họ Trương liền vận khí theo yếu quyết dĩ nhu khắc cương của Vô Cực Huyền Công Quyền mà ngưng lại không nhúc nhích, bảo nguyên quy nhất để đợi địch đánh tới. Hắn vừa dừng chân lại, Vương Duy Dương đã quành ra phía sau, xuất chiêu Kim Long Trảo Trảo phóng chưởng đánh vào hậu tâm.

Trương Triệu Trọng đợi chưởng đánh tới nơi, xoay tay trái toan chụp lấy tay địch thủ. Vương Duy Dương vội rút tay về, chân đã chuyển sang bộ vị khác. Lão âm thầm thán phục: “Tên này quả nhiên rất khá, có thể nhắm mắt thay đổi chưởng pháp.”

Thì ra Trương Triệu Trọng biết, nếu quay mãi theo đối phương như thế thì địch là chủ mình là khách, chắc chắn mình không tự nhiên nhuần nhuyễn được như đối phương. Hắn thấy họ Vương râu tóc bạc phơ, nếu kéo dài thời gian sẽ không thể bằng mình được, bèn sử dụng công phu Bế Mục Hoán Chưởng để tiếp Du Thân Bát Quái Chưởng của lão.

Khi luyện loại võ công này phải dùng khăn đen bịt mắt mình lại, chỉ dựa vào tai nghe và cảm giác của da để biết phương hướng kẻ địch tấn công, hoàn toàn giữ thế thủ để tiếp đón. Chưởng đưa ra thụt vào chỉ trong vòng một thước, bởi thế mà chiêu nào cũng cực nhanh. Địch chỉ thu quyền hơi chậm là lập tức bị túm lấy cổ tay, bẻ trật khớp xương.

Bế Mục Hoán Chưởng thường dùng ban đêm, hoặc ở chỗ thiếu ánh sáng khi gặp cường địch, ngay cả khi đưa tay không nhìn thấy năm ngón cũng có thể dùng để hộ thân. Chưởng pháp này biến hóa cực kỳ tinh diệu, tuy không thể công kích thân thể của đối phương, nhưng có thể đoạt được binh khí, bẻ gãy tay chân.

Lúc này một người xoay chuyển cực nhanh, một người khom lưng đứng yên một chỗ. Mỗi khi sát vào nhau là biến chiêu chớp nhoáng, rồi lập tức rời ra. Trong chốc lát hai người lại đánh thêm mấy chục chiêu, Vương Duy Dương dần dần lo lắng trong lòng, thầm nghĩ: “Nếu cứ hao tổn sức lực thế này thì kết quả sẽ ra sao?”

Lão đột nhiên phóng tơi sau lưng địch thủ, tay phải đánh vờ một chưởng, chân phải đá vờ một cước. Trương Triệu Trọng xoay tay hai cái đều không túm được. Tay trái của Vương Duy Dương lại phát hai hư chiêu đánh tới sau lưng, rồi tay phải vỗ mạnh xuống vai địch thủ.

Dù sao thì sau lưng cũng không có mắt. Trương Triệu Trọng vừa tập trung hết tinh thần đối phó bốn hư chiêu liên tục, đột nhiên cảm thấy chưởng lực đánh mạnh xuống vai. Hắn kinh hãi trong lòng, muốn tránh né hay chống đỡ cũng không kịp nữa, bèn đưa vai ra hứng chưởng, rồi xoay tay phải toan bắt lấy cổ tay trái kẻ địch, khóa lấy cánh tay đang đà đi xuống, dùng tả quyền đánh mạnh vào khuỷu tay trái địch thủ. Nếu bàn tay của đối phương đã bị khóa lại, thì cánh tay không thể không gãy vì chiêu Tiên Kiếm Trảm Long này. Trương Triệu Trọng nghĩ trên vai không phải là chỗ trí mạng, mình ỷ vào thân thể cường tráng mà chịu một chưởng cùng chưa sao, còn tay phải của đối phương chắc chắn phải tàn phế.

Vương Duy Dương đánh trúng đầu vai địch thủ, đang mừng rỡ thì đột nhiên bàn tay trái của mình bị khóa chặt không rút về được. Lão thấy tả quyền của đối phương sắp đánh xuống khuỷu tay trái của mình, biết rằng phen này lỗ vốn. May mà lão lâm nguy không loạn, lập tức xoay chuyển thân hình sang hướng khác, mượn sức đánh vào vai đối phương, để giật tay về. Thế là khi tả quyền của Trương Triệu Trọng đánh xuống thì khuỷu tay của Vương Duy Dương đã dời qua nơi khác.

Vai của Trương Triệu Trọng trúng một chưởng, nhưng hắn nương theo đà chưởng mà hơi co lại nên không trọng thương. Dù sao thì huyệt Khúc Trì của hắn cũng tê chồn. Hai người vừa biến chiêu đã nhảy rời ra. Họ Trương trúng đòn, coi như thua mất một chiêu quyền pháp.

Trương Triệu Trọng quát lên: “Quả nhiên chưởng pháp cao minh! Chúng ta tỉ thí binh khí xem sao.” Soạt một tiếng, Ngưng Bích Kiếm đã nắm trong tay. Vương Duy Dương cũng rút thanh Tử Kim Bát Quái Đao sau lưng ra.

Lúc này hai người đứng gần, nhìn nhau rất rõ ràng. Vương Duy Dương thấy mặt mũi Trương Triệu Trọng sưng húp, trên mắt phải có quầng thâm đen, bất giác kinh ngạc nghĩ thầm: “Tên này võ nghệ đầy mình mà còn bị đánh thê thảm như thế, không biết gặp phải cao nhân nào.” Thật ra đêm qua Trương Triệu Trọng bị Trần Gia Lạc nện cho mấy quyền, đầu mặt bị thương không nhẹ. Hôm nay hắn thua một chiêu chưởng pháp, một phần là do vết thương này ảnh hưởng.

Trương Triệu Trọng quyết gỡ lại thể diện, Ngưng Bích Kiếm vừa tuốt ra tay là kiếm thế liên miên bất tận, toàn là những chiêu thức tấn công mãnh liệt và lợi hại vô cùng. Vương Duy Dương thấy kiếm quang của hắn trong sáng như nước hồ thu, biết đó là bảo kiếm, nếu để binh khí chạm nhau thì chắc mình bị thiệt thòi. Do đó lão không dám dùng thanh Bát Quái Đao mà công nhiên đón đỡ.

Đao kiếm đấu nhau hồi lâu, tình thế của Trương Triệu Trọng càng lúc càng sáng sủa. Tuy nhiên đối phương phòng thủ khá nghiêm ngặt nên nhất thời hắn không tấn công vào được. Bỗng nhiên hắn thấy họ Vương xuất chiêu Thiết Ngưu Canh Địa chém ngang qua, bèn đợi đà đao sắp hết rồi lập tức ra chiêu Thiên Thân Đảo Huyền, hớt lưỡi kiếm vào sống thanh Bát Quái Đao.

Vương Duy Dương thu đao về không kịp, đành chĩa ngón giữa và ngón trỏ bên tay trái đâm vào mặt hắn, nhưng Trương Triệu Trọng nghiêng đầu tránh được. Nghe tiếng loảng xoảng, cây Bát Quái Đao đã bị chém đứt mất một khúc.

Vương Duy Dương cất tiếng khen ngợi: “Bảo kiếm!” Lão nhảy ra một bước, lại nói: “Chúng ta mỗi người thắng một trận. Trương đại nhân muốn tỉ thí tiếp hay không?” Lão muốn nhân cơ hội này để dừng tay, hai người đều không mất thể diện, nào ngờ lỡ lời một câu “bảo kiếm.”

Trương Triệu Trọng nghĩ thầm: “Thì ra ngươi chê cười ta chỉ nhờ bảo kiếm mà chiếm thượng phong, thắng trận cũng không đẹp đẽ gì!” Hắn bèn quát: “Hôm nay chưa phân thắng bại quyết chẳng chịu thôi!” Kiếm lại vung lên, đâm thẳng ra phía trước.

Hai người lăn xả vào nhau đấu thêm bảy tám chục chiêu nữa, trên đầu Vương Duy Dương đã ướt đẫm mồ hôi. Lão tự biết đánh càng lâu mình càng bất lợi, bèn âm thầm lấy kim tiêu ra, chuyển đao sang tay trái rồi hét lớn: “Xem tiêu đây!” Đao pháp đột nhiên thay đổi, dùng tay trái ngược hẳn với đao pháp bình thường, lại có ba mũi kim tiêu thuận theo thế đao mà phóng ra.

Đây là một tuyệt kỹ của họ Vương. Đối phương chống đỡ với đao pháp ngược tay đã khó hơn, lại còn kim tiêu phối hợp. Tránh tiêu thì khó tránh đao, tránh đao thì khó tránh tiêu, quả là lợi hại phi thường.

Thấy đao lẫn phi tiêu công tới, Trương Triệu Trọng liền đảo người sang phải né đao, rồi đưa tay đón bắt phi tiêu. Kim đao của Vương Duy Dương lại chém tới, Trương Triệu Trọng bèn cúi đầu tránh né. Hắn thấy đối phương phóng tới một tiêu tới hạ bàn mình, liền phóng mũi tiêu trong tay mình ra, nhắm vào tiêu của đối phương. Hai mũi kim tiêu chạm nhau tóe lửa, rồi cùng rơi xuống cắm dưới đất.

Vương Duy Dương đao sau nhanh hơn đao trước, tiêu sau gấp hơn tiêu trước, phóng sắp hết hai mươi bốn mũi tiêu mà vẫn chưa làm gì được đối phương. Lúc này trong tay lão chỉ còn lại ba mũi tiêu, bèn bước chân trái sang phải một bước, thân hình hơi cúi, tay trái vung đao chém xuống, rồi tay phải giương lên.

Kim tiêu càng phóng càng nhanh, Trương Triệu Trọng vừa đỡ đao vừa né tiêu đến bối rối tay chân, không có lúc nào rảnh mà lấy Phù Dung kim châm ra đánh trả. Hắn đã thấy Vương Duy Dương phóng tới hai mươi mốt cây kim tiêu, biết rằng sau nhát đao này nhất định sẽ có một tiêu đi theo, bèn lập tức xoay người lại nhìn chằm chằm vào tay phải họ Vương. Nào ngờ đây lại là hư chiêu, Trương Triệu Trọng đợi mãi mà không thấy tiêu phóng tới.

Lúc đó Vương Duy Dương đạp vào cung Chấn, xuất chiêu Lực Phách Hoa Sơn chặt đến trước mặt. Trương Triệu Trọng thấy thế đao rất nặng, không dám chống đỡ phải lùi lại một bước. Ngưng Bích Kiếm thi triển chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét ngang vào lưng địch thủ. Vương Duy Dương liền phóng một lúc ba mũi tiêu còn lại.

Trương Triệu Trọng la lên một tiếng “úi chà,” buông Ngưng Bích Kiếm rơi xuống đất, ngã ngửa ra sau.

Thì ra Vương Duy Dương cố y dụ hắn xoay người để hắn bị lưỡi đao phản chiếu ánh nắng mặt trời làm chói mắt nhìn không rõ, đồng thời mạo hiểm cho hắn chặt đứt đao của mình. Lão thừa lúc hắn đắc ý mà phóng ba mũi phi tiêu, quả nhiên đắc thủ.

Vương Duy Dương lên tiếng: “Trương đại nhân! Xin đắc tội! Ta có thuốc kim thương đây.” Lão đợi một hồi không thấy hắn trả lời, bất giác kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng lẽ phi tiêu trúng vào chỗ yếu hại, giết hắn ròi hay sao? Hắn là mệnh quan của triều đình, còn mình lại có gia đình sản nghiệp, đánh chết hắn thật chẳng tốt lành gì.”

Lão bèn tới chỗ Trương Triệu Trọng cúi xuống xem xét, vừa khom lưng xuống đã nghe họ Trương thét lên một tiếng, rồi trước mắt có một vừng đen nhòa nhòa bay tới. Vương Duy Dương la lên: “Hỏng rồi!” lập tức dùng thân pháp Thiết Bản Kiều đổ người ra sau, nhưng đã trễ mất một phút. Trên ngực và bên vai trái lão đau nhức kịch liệt, hiển nhiên đã trúng ám khí.

Vương Duy Dương giận dữ hét lên một tiếng, tung người lên muốn thí mạng với họ Trương để chết chung một chỗ, nhưng vừa vận sức là trước ngực và trên vai đau thấu tới xương, lập tức té lăn xuống đất. Trương Triệu Trọng cười ha hả, nhổ cây kiam tiêu ở cổ tay bên phải ra, xé vạt áo buộc lại vết thương, rồi đứng dậy.

Vương Duy Dương lên tiếng thóa mạ: “Thằng khốn Trương Triệu Trọng kia! Nếu ta không có lòng tốt đến xem xét vết thương cho ngươi, thì làm sao ngươi đả thương ta được? Ngươi sử dụng thủ đoạn đê tiện bỉ ổi như thế, làm sao dám xưng là anh hùng hào kiệt? Để xem ngươi còn mặt mũi nào để gặp hảo hán giang hồ nữa hay không.”

Trương Triệu Trọng cười rộ lên: “Ở đây chỉ có hai người chúng ta, còn ai biết nữa? Ngươi sống đến tuổi này rồi, quy thiên không phải là sớm. Ngày này năm sau chính là giỗ đầu của ngươi đấy.”

Vương Duy Dương nghe vậy, biết hắn muốn giết người diệt khẩu liền mở miệng mắng chửi om sòm. Trương Triệu Trọng bước tới, đưa tay vỗ vào Á huyệt dưới nách, họ Vương lập tức không nói ra tiếng được nữa. Mắt lão bốc lửa, da thịt trên mặt co rút lại, tức tối đến nỗi lồng ngực muốn vỡ tung ra.

Trương Triệu Trọng nhặt nửa cây đao dưới đất đào một cái hố lớn, xách Oai Trấn Hà Sóc lên quăng xuống hố, cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Ngươi tự xưng là Oai Trấn Hà Sóc, xem thử bây giờ còn trấn được con mẹ gì nữa không.” Hắn dùng chân hất đất xuống hố, muốn chôn sống họ Vương.

Mới đá được mấy cục đất, đột nhiên xa xa phía sau vang tới giọng cười lạnh nhạt. Trương Triệu Trọng giật bắn người, quay lại thì thấy một người cầm binh khí kỳ lạ đứng trên một lùm cây dưới ánh nắng chói chang, chính là Thiết Tỳ Bà Thủ Hàn Văn Xung.

Trương Triệu Trọng giận dữ hét lên: “Hay lắm! Đã hẹn đơn đả độc đấu mà Trấn Viễn tiêu cục cũng có người mai phục xung quanh, thật không đếm xỉa gì đến danh dự cả.”

Hàn Văn Xung đáp: “Nếu ngươi còn chút danh dự thì đã không dùng thủ đoạn đê tiện như thế.”

Trương Triệu Trọng nói: “Được! Hôm nay ta phải lãnh giáo Thiết Tỳ Bà Thủ của ngươi.” Hắn thi triển khinh công Bát Bộ Cản Thiền, chỉ nhấp nhô ba cái đã tới nơi, vung kiếm đâm thẳng. Hàn Văn Xung lùi lại hai bước, nhưng từ giữa lùm cây bỗng có một ngọn đao thép bay ra, quét ngang trước mặt Trương Triệu Trọng.

Trương Triệu Trọng dựng bảo kiếm lên đón đỡ. Người kia xuất đao nhanh mà thu đao còn nhanh hơn, không đợi đao kiếm chạm nhau đã thu trở lại. Trương Triệu Trọng nhận ra người này chính là Thạch tiêu sư ăn nói vô lễ hồi sáng, bèn giận dữ quát: “Hai ngươi xông vào cả đi, Hỏa Thủ Phán Quan này quyết chẳng coi vào đâu.”

Hắn đang đứng đợi thì bỗng nghe thấy sau lưng có tiếng động, trong lòng lập tức bất an. Trương Triệu Trọng lập tức nhảy lùi ra, quay đầu nhìn lại thì thấy tám chín người đang lên núi, đi đầu là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ Hồng Hoa Hội.

Trương Triệu Trọng nhớ đến vố đau đêm qua, cơn giận lập tức nổi lên. Nhưng hắn thấy đối phương đông người, xem ra toàn không phải tay vừa, nên không khỏi run rẩy một chút. Vừa kinh hãi vừa giận dữ, hắn quay đầu tứ phía để tìm đường chạy.

Trần Gia Lạc bảo Hàn Văn Xung: “Hàn đại ca! Huynh đi cứu Vương tổng tiêu đầu trước đi.”

Hàn Văn Xung chạy đến miệng hố, ôm Vương Duy Dương lên. Trương Triệu Trọng đứng yên không cản trở. Trần Gia Lạc đưa tay xoa mấy cái, giải khai Á huyệt cho lão. Tội nghiệp cho Vương Duy Dương tới tuổi xế chiều mới bị một trận thế này, vừa đau vừa tức, nhất thời không nói được tiếng nào.

Trương Triệu Trọng hô lớn: “Lão già Vương Duy Dương này đòi thí võ với ta, đã nói rõ là đơn đả độc đấu, không rủ người trơ. giúp. Bây giờ thắng bại đã phân rồi. Xin cáo biệt Trần đương gia, ba ngày sau lại gặp nhau ở Cát Lãnh.” Hắn vừa chắp tay vái chào vừa quay người lại, muốn xuống núi ngay.

Trần Gia Lạc nói: “Tại hạ cùng các vị huynh đệ đến đây là để thưởng thức phong cảnh, ngẫu nhiên được xem hai vị tỉ đấu quyền cước, binh khí và ám khí. Quả nhiên võ nghệ kinh người, chúng ta đều được mở rộng tầm mắt. Trương đại nhân thắng thì có thắng, nhưng không được quang minh lỗi lạc lắm.”

Trương Triệu Trọng nói: “Từ xưa đến nay, xuất binh là phải dùng mưu kế. Chúng ta đấu lực, đấu trí, ai giỏi hơn thì thắng, có gì mà không phải?”

Trần Gia Lạc mỉm cười rồi nói: “Kiến thức của Trương đại nhân quả nhiên cao minh khác người. Cổ nhân có nói, hẹn ngày không bằng chạm mặt. Trương đại nhân hẹn tại hạ tỉ thí, bây giờ may mắn gặp nhau, lẽ ra hôm nay nên lãnh giáo ngay, không cần hẹn ngày khác làm gì. Nhưng cổ tay phải của Trương đại nhân đã bị thương, tại hạ không muốn nhân cơ hội để ép người. Vết thương của đại nhân không phải một sớm một chiều mà lành được, cuộc hẹn của chúng ta dời lại ba tháng có được không?”

Trương Triệu Trọng mừng thầm trong bụng: “Ngươi đã bày trò rộng lượng, thì trước mắt ta không phải thiệt thòi nữa rồi.” Hắn vội đáp: “Hay lắm! Thế thì ngày này ba tháng sau, chúng ta sẽ gặp nhau trên Sơ Dương Đài ở Cát Lãnh.”

Trần Gia Lạc bước tới gần, từ từ nói: “Khoan đã! Chúng ta cần cứu Bôn Lôi Thủ Văn tứ đương gia, việc này đại nhân cũng biết rồi.”

Trương Triệu Trọng hỏi: “Thế thì sao?”

Trần Gia Lạc nói: “Xiềng xích trên người huynh ấy đều đúc bằng thép tinh luyện, giũa đục bình thường không làm gì được, chỉ còn cách mượn bảo kiếm của đại nhân dùng thử. Chúng ta đều là người trong võ lâm, dĩ nhiên coi trọng nghĩa khí. Chắc Trương đại nhân vui vẻ mà cho mượn.”

Trương Triệu Trọng hừ một tiếng. Tuy hắn thấy đối phương đông người, hôm nay mình khó thoát thân, nhưng cũng nói: “Muốn mượn kiếm của ta thì phải có bản lãnh mới được.” Nói chưa xong, hắn đã vọt ra ngoài mấy trượng, rồi quay lưng lại chạy như bay xuống núi.

Họ Trương vừa hít một hơi, đột nhiên thấy trước mặt có hai cái phi trảo phóng tới, một nhắm trên đầu, một nhắm dưới chân. Trên dưới đến cùng một lúc, thế trảo vừa nhanh chóng vừa mãnh liệt. Hắn múa kiếm vẫy ra trước mặt thành một đóa kiếm hoa, cản được phi trảo phía trên, rồi nhảy vọt lên phóng cước đá phi trảo bên dưới bật ra, tiếp tục chạy ào ào xuống núi.

Phi trảo của Thường Bá Chí lại đánh tới, Trương Triệu Trọng cúi xuống, lạng người tránh sang bên phải. Thường Hách Chí nhảy đến gần, vù một tiếng xuất chiêu Lang Bạt Giang Tiều trong Hắc Sa Chưởng đánh vào giữa mặt. Trương Triệu Trọng đã từng kịch đấu với Thường thị song hiệp trên Ô Tiêu Lãnh, biết hai người này rất lợi hại, trong vòng vài chục chiêu khó mà thắng được. Hắn bèn nhảy lùi lại, rồi chạy về hướng nam. Thường thị huynh đệ lo giữ mặt bắc, nên không đuổi theo.

Lúc này thái dương đã ngả về nam. Trương Triệu Trọng nhắm thẳng hướng mặt trời, né nhóm người Trần Gia Lạc mà chạy. Hắn vừa đến đầu con đường dẫn xuống núi thì nghe hai tiếng veo véo, hai mũi phi yến ngân thoa phóng tới. Hắn đã từng bị loại thoa này đánh trúng, vội vã nhào xuống đất lăn đi hai vòng. Nghe hai tiếng lách cách, những mũi thoa nhỏ xíu chứa trong ngân thoa bắn xẹt ra nhanh như điện chớp.

Trương Triệu Trọng vung Ngưng Bích Kiếm che đỡ trên đầu, rồi thuận thế bật người dậy, không dám đi về hướng nam nữa. Hắn ra chiêu Phượng Hoàng Triển Xí, bảo kiếm xoay một vòng quanh người rồi lập tức co giò chạy về hướng đông. Nghe tiếng ám khí phía sau rít lên liên miên không dứt, chỉ quay đầu lại hươi kiếm gạt được ba cây tụ tiễn, hai hạt bồ đề tử.

Quần hùng thấy hắn vừa đỡ ám khí sau lưng vừa chạy như bay, ai cũng thán phục trong lòng.

Trương Triệu Trọng biết nhất định phía đông cũng có mai phục, tuy chân chạy cực nhanh nhưng mắt vẫn dáo dác nhìn quanh tứ phía. Hắn chạy được mấy bước, quả nhiên bên đường có một người nhảy ra, tay cầm đại đao cản trở. Người này tóc bạc bay phấp phới, oai phong lẫm liệt, chính là lão anh hùng Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang. Trương Triệu Trọng giất mình không dám nghênh chiến, lại quay lưng chạy sang hướng tây.

Hắn đổi liền ba hướng vẫn chưa thoát khỏi đỉnh núi, bèn thầm nghĩ: “Số người này mà hợp lại tấn công thì hôm nay ta mất mạng. Bây giờ chạy qua đường phía tây, bất kể là ai canh giữ, ta phải lập tức hạ sát thủ để thoát khỏi vòng vây.” Tay trái hắn bèn âm thầm lấy ra một nắm Phù Dung Kim Châm, tay phải múa kiếm chạy về hướng tây.

Người đón phía trước là một đạo sĩ cụt tay, nếu không phải là Truy Hồn Đoạt Mạng Vô Trần đạo nhân thì còn ai nữa? Trương Triệu Trọng từng giao đấu với ông ấy, biết trong Hồng Hoa Hội thì người này võ công cao nhất, cao hơn mình rất nhiều. Hắn âm thầm kêu khổ, nhưng cũng cố xông thẳng tới, xuất liền hai chiêu Bạch Hồng Quán Nhật, Ngân Hà Hoành Không. Họ Trương ỷ mình có bảo kiếm sắt bén, đối phương không dám chống đỡ mà phải tránh né, chạy đuợc về phía tây của Vô Trần.

Vô Tràn vừa đảo người tránh né, trường kiếm bên tay phải đã xuất ngay hai chiêu Vô Thường Đẩu Sách, Sát Thân Đương Đạo. Hai chiêu này đều cực kỳ lợi hại, sử liên tiếp nhau giống như một chiêu. Trương Triệu Trọng đã tới đường xuống núi mà vẫn chưa thoát được thân, phải vũ lộng thanh trường kiếm hóa giải hai chiêu này. Hắn hét lên một tiếng, tay trái bắn ra hai nhúm Phù Dung Kim Châm về hai phía trái phải của Vô Trần.

Trương Triệu Trọng nghĩ: “Đạo nhân cụt tay này võ công tinh diệu, kim châm không thể đả thương được y, nhưng nếu y không múa kiếm chống đỡ thì cũng phải nhảy lùi tránh né. Chỉ cần y chậm đi một chút là mình có thể chạy thoát khỏi tầm kiếm rồi xông thẳng xuống núi. Dưới đó chắc chắn không có ai cản trở được mình nữa.”

Vô Trần cũng đoán được dụng ý của hắn, bèn xuất ngay một chiêu hiểm hóc. Ông giữ người song song mặt đất mà phóng tới, vừa tránh được kim châm vừa đưa kiếm đâm thẳng vào chân phải đối phương. Chiêu này có thên là Oan Hồn Triền Túc, rất hiếm khi sử dụng, chuyên để tấn công hạ bàn. Trương Triệu Trọng kinh hãi, vội dùng bảo kiếm ra chiêu Lưu Tinh Đọa Địa đâm thẳng xuống dưới.

Lúc đó mới nghe tiếng xuỵt xuỵt của kim châm cắm xuống đất sau lưng Vô Trần. Ông không đợi chiêu kiếm của mình hết đà, chĩa mũi kiếm cắm xuống đất để mượn thế tung người lên không, từ trên đầu Trương Triệu Trọng xuất chiêu Dung Y Hạ Dược chém từ trên xuống dưới.

Trương Triệu Trọng phải nhảy tới tránh né, ra chiêu Thái Hồng Kinh Thiên đánh ngược lên trên. Vô Trần thu kiếm lại đáp xuống đất, rồi tấn công veo véo liền hai chiêu Phán Quan Phản Bộ, Điếu Khách Lâm Môn cùng một lúc. Thế là Vô Trần lại chiếm được hướng tây, ép Trương Triệu Trọng vào lại vòng vây.

Lúc này Trương Triệu Trọng chỉ lo đón đỡ những chiêu kiếm tinh diệu của địch thủ, không có thời gian nghĩ đến chuyện thoát thân. Hắn thấy chiêu nào đỡ chiêu đó, chỉ đợi cơ hội chặt đứt trường kiếm của đối phương. Chớp nhoáng hai người đã qua lại ba bốn chục chiêu. Vô Trần thấy hắn đã bị thương mà vẫn có thể đón tiếp mấy chục chiêu kiếm của mình, trong lòng cũng hơi lo lắng, liên tiếp xuất ra những chiêu bí hiểm. Trương Triệu Trọng dần dần cảm thấy mình khó mà chống đỡ.

Thêm mấy chiêu nữa, Vô Trần vừa xuất chiêu Diêm Vương Đoạt Bút vừa quát lên: “Buông kiếm!” Ông cười ha hả, điểm trúng mũi kiếm vào cổ tay phải của Trương Triệu Trọng, thanh Ngưng Bích Kiếm rơi xuống đất nghe xoảng một tiếng. Họ Trương còn đang ngơ ngác đã bị Vô Trần đá một cước trúng hông trái, lập tức té nhào xuống đất. Vô Trần tung người nhảy tới, toan bắt lấy hắn.

Trương Triệu Trọng từ dưới đất bật dậy, đánh thẳng một quyền ra trước mặt. Vô Trần múa kiếm toan gạt đi, đột nhiên nghĩ bụng: “Chiêu kiếm này chặt đứt một cánh tay của hắn, thì hắn không tỉ võ được với tổng đà chủ nữa. Đối thủ như thế này cực kỳ khó tìm, không khỏi làm tổng đà chủ mất hứng.” Bạn đọc nên biết đã là cao thủ thì rất khó gặp đối thủ xứng tay. Vô Trần có tật hiếu võ, nghĩ Trần Gia Lạc cũng như mình, nên trường kiếm đang chém xuống bỗng nhiên dừng lại.

Lúc đó Trương Triệu Trọng chỉ liều mạng đánh bừa. Nhân lúc Vô Trần chần chừ một lúc, hắn đưa tả chưởng đánh vào khuỷu tay bên phải của ông, đồng thời hữu quyền đánh vào hông trái.

Vô Trần chỉ có một cánh tay, bên trái không phòng thủ kín được, mà quyền pháp cũng yếu hơn địch thủ. Ông thấy thoi quyền đánh tới, lập tức đảo người tránh né mà không kịp, nên trúng một quyền vào hông, đau đớn phải lui máy bước. Trương Triệu Trọng không thèm quay đầu lại, vắt chân lên cổ mà chạy như bay. Vô Trần giận dữ đuổi theo, nhưng hắn đã chạy đến con đường xuống núi rồi.

Kiếm pháp Vô Trần tinh anh tuyệt thế, trước nay không dùng ám khí. Ông thấy hắn sắp chạy đi mất, bèn nghĩ bụng: “Hôm nay mà để tên này chạy thoát thì oai danh Hồng Hoa Hội giảm sút rất nhiều.” Thế là Vô Trần mặc kệ Trương Triệu Trọng sống chết ra sao, giương thẳng kiếm lên, toan sử dụng tuyệt chiêu Ngũ Quỷ Đầu Xoa dùng kiếm làm ám khí.

Trường kiếm sắp rời khỏi tay, đột nhiên từ lưng chừng núi có một người bay ra nhanh như gió, ôm ghì lấy chân Trương Triệu Trọng. Hai người cùng té nhào xuống đất, nhập thành một khối.

Vô Trần vội thu kiếm về, nhìn rõ người ôm lấy Trương Triệu Trọng là Thập đệ Chương Tấn. Hai người đang lăn qua lộn lại đấm đá nhau thì Dương Thành Hiệp và Tưởng Tứ Cân chạy tới nơi, ba người hợp sức đè nghiến họ Trương xuống đất.

Lạc Băng lấy dây trói chặt hai tay hắn vào trước ngực. Nàng nghĩ đến lúc hắn dẫn nhiều người tới Thiết Đảm Trang bắt chồng mình, điên tiết nện ngay một quyền lên sống mũi. May mà Trần Gia Lạc vội kêu lên: “Tứ tẩu! Hãy khoan!” Lạc Băng mới không đánh tiếp quyền thứ hai.

Trần Gia Lạc bước tới gần, Trương Triệu Trọng bèn gầm lên: “Các ngươi chỉ cậy đông người. Hôm nay Trương đại gia sa cơ thất thế, bọn trộm cướp các ngươi muốn giết thì cứ giết. Ta mà chau mày một cái thì không phải là hảo hán.”

Vương Duy Dương chạy tới mắng luôn: “Ta với ngươi xưa nay không oán cũng không thù, thế mà ngươi dám đem lão tử chôn sống chỉ vì sợ thủ đoạn đê tiện của mình bị lộ ra ngoài. Hỏa Thủ Phán Quan ngươi thật là lòng lang dạ sói.”

Thạch Song Anh lạnh lùng cất tiếng: “Cái hố này chính tay hắn đào để chôn sống người ta, cứ chiều ý hắn là được rồi.” Quần hùng đồng thanh khen phải. Trương Triệu Trọng mặc dù ngạo khí đầy mình, nhưng nghĩ đến nỗi khổ bị chôn sống, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ra ướt cả đầu.

Trần Gia Lạc hỏi: “Bây giờ ngươi đã chịu phục hay chưa? Ngươi hãy thề không chống đối Hồng Hoa Hội nữa, chúng ta nể mặt Lục sư ca của ngươi mà tha mạng một lần.”

Trương Triệu Trọng vẫn cứng đầu, gân cổ lên nói: “Muốn giết thì giết, cần gì phải nói nhiều? Các ngươi dùng quỷ kế, làm sao bắt người khác tâm phục khẩu phục được?”

Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm! Ngươi quả là một trang thiết hán. Để ta tặng ngươi một đao để mau lẹ lìa đời, khỏi phải bị chôn sống.” Chàng rút đoản kiếm, đi đến trước mặt hắn, lại hỏi: “Ngươi thật sự không sợ chết hay sao?”

Trương Triệu Trọng cười đau khổ, nói: “Ngươi cứ đâm cho thoải mái đi.” Hắn nhắm mắt lại chờ chết.

Trần Gia Lạc vung tay một cái, đưa đoản kiếm đâm tới trước ngực. Đột nhiên chàng cười ha hả, xoay cổ tay lại cắt đứt dây trói cho hắn. Chẳng những Triệu Trọng Trương cảm thấy bất ngờ, mà quần hùng đều phải ngạc nhiên.

Trần Gia Lạc nói: “Lần này bắt ngươi, chúng ta đúng là đã dùng mưu kế. Tội ngươi đáng chết, nhưng hôm nay mà giết ngươi thì chắc ngươi làm ma cũng không tâm phục khẩu phục. Được rồi, ngươi đi đi! Nếu ngươi cố gắng sửa chữa lỗi lầm, sau này vẫn có thể gặp nhau. Nếu ngươi vẫn giữ thói ác ôn thì… Hừ, Hồng Hoa Hội đâu có sợ Trương Triệu Trọng. Ngươi mà lọt vào tay chúng ta lần nữa, thì chết đừng oán hận.

Chương Tấn, Lạc Băng, Dương Thành Hiệp, Thường thị huynh đệ đều la lớn: “Tổng đà chủ! Đừng tha cho hắn.”

Trần Gia Lạc xua tay rồi nó[i: “Sư huynh của hắn là Lục lão tiền bối có ơn với chúng ta, chúng ta chưa có gì báo đáp. Hồng Hoa Hội ân oán phân minh, hôm nay thả sư đệ của Lục lão tiền bối ra, coi như tỏ chút tình hữu nghị.”

Quần hùng nghe tổng đà chủ nói năng dứt khoát, nên không xôn xao gì nữa. Mọi người đều trừng mắt giận dữ nhìn Trương Triệu Trọng.

Trương Triệu Trọng chắp tay nhìn Trần Gia Lạc nói: “Trần đương gia! Tạm biệt!” Hắn quay người đi ngay.

Từ Thiên Hoằng gọi lớn: “Họ Trương kia, khoan đi đã!” Trương Triệu Trọng dừng chân, quay đầu nhìn lại. Từ Thiên Hoằng hỏi: “Chẳng lẽ ông cứ thế mà đi hay sao?”

Trương Triệu Trọng lập tức hiểu ra, chắp tay chào quần hùng rồi nói: “Trần đương gia đại nhân đại nghĩa, Trương mỗ không phải là loại người không biết tốt xấu. Hôm nay tại hạ không phải là đối thủ của quý vị, phải quay về luyện lại. Trận thí võ này coi như ta thua, xin hẹn ba tháng sau tái đấu.” Câu nói này của hắn vừa mềm dẻo vừa cứng rắn, hàm ý chỉ thua đối phương đông người, sau này quyết chẳng chịu thôi. Quần hùng đều hiểu ý, càng thấy khó chịu hơn.

Chu Ỷ bỗng hô lớn: “Tổng đà chủ Hồng Hoa Hội thả cho ngươi đi, vì ông ấy đại nhân đại lượng. Nhưng ta phải hỏi ngươi! Ngươi đến Thiết Đảm Trang, nếu có bản lãnh bắt người thì chẳng nói làm gì, sao phải dụ dỗ đứa em còn nhỏ tuổi chưa biết gì của ta? Ta không phải là người trong Hồng Hoa Hội, cũng chưa nhận ân huệ gì của sư huynh ngươi. Hôm nay ta phải trả thù cho đệ đệ!” Nàng lập tức xách đơn đao phóng tới, quyết tâm liều mạng.

Trương Triệu Trọng thật là khó xử. Tiểu cô nương này thì đương nhiên hắn chẳng sợ gì, nhưng trước mắt lại có rất nhiều cao thủ. Nếu cô nương này bị thua, làm sao họ chịu đứng nhìn? Giả tỉ tiếp tục tranh chấp thì không biết kết cuộc ra sao. Hắn vội nhảy lùi hai bước, tránh né hai đao của Chu Ỷ.

Tới đao thứ ba, Chu Ỷ sử chiêu Đạt Ma Diện Bích từ trên đầu chém mạnh xuống, thế đao vừa mãnh liệt vừa gấp rút. Trương Triệu Trọng không tránh nữa, xuất chiêu Xuân Phong Phất Liễu quạt ngang mặt nàng, đợi nàng thu chiêu phòng thủ là đưa tay trái đoạt lấy thanh đao. Hắn nghĩ, đoạt đao xong sẽ nói mấy câu tử tế rồi trả lại, chắc đối thủ không chém tiếp.

Không ngờ Chu Ỷ không thu đơn đao về, mà cứ liều chém tới. Trương Triệu Trọng bèn đưa hai ngón giữa và trỏ từ dưới lên, điểm trúng huyện Khúc Trì trên cổ tay nàng. Cánh tay Chu Ỷ lập tức tê chồn, thanh đao bay lên trời.

Từ Thiên Hoằng vội vàng chạy tới che đỡ trước mặt người yêu, đơn quải ra chiêu Thiết Tỏa Hoành Giang đánh vào mặt Trương Triệu Trọng, tay kia cầm đơn đao đưa cho Chu Ỷ.

Chu Trọng Anh xách đại đao bước ra cản trở đường lui của Trương Triệu Trọng, An Kiện Khang cũng cầm đao bước tới, bốn người đã hình thành thế bao vây.

Rõ ràng sắp sửa hỗn chiến trở lại, đột nhiên từ lưng chừng núi có tiếng người hô lớn: “Dừng tay! Dừng tay!” Mọi người quay lại nhìn, thấy trên con đường phía nam có hai người gấp rút chạy lên. Một người mặc áo màu tro, một người mặc áo màu đen, khinh công đều rất giỏi. Ai cũng thấy kinh ngạc.

Chỉ chớp mắt hai người đã chạy lên đỉnh núi, mọi người nhận ra người mặc áo bào đen là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh, bèn lập tức bước lên hoan hô nghênh đón. Người mặc áo màu tro là một lão đạo sĩ lưng đeo trường kiếm, sắc mặt hiền từ, quần hùng chưa ai quen biết.

Lục Phi Thanh đang muốn giới thiệu, Trương Triệu Trọng đột nhiên chạy tới trước mặt lão đạo này, chắp tay hô lớn: “Đại sư ca! Nhiều năm không gặp, sư ca khỏe chứ?” Quần hùng nghe vậy mới biết đây là Mã Chân, chưởng môn phái Võ Đang, cũng là sư phụ của Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng. Tất cả đều bước lên thi lễ.

Lục Phi Thanh nói: “Mã sư huynh và ta vừa đến Cô Sơn, gặp Mã Thiện Quân đại gia. Ông ấy biết chúng ta không phải là người ngoài, nên nói cho biết cuộc tỉ võ trên Sư Tử Phong này. Chúng ta liền chạy tới, thấy chưa có ai chết hay bị thương mới được yên lòng.”

Trước đây Mã Chân và Vương Duy Dương đã từng gặp nhau, tuy kết giao không đậm đà lắm nhưng đều thán phục võ công của đối phương. Còn quần hùng Hồng Hoa Hội đã nghe Dư Ngư Đồng giới thiệu sư phụ nhiều lần, nên đều rất vui mừng, tranh nhau nói lời ngưỡng mộ, để Trương Triệu Trọng đứng trơ trọi một bên.

Lúc này Trương Triệu Trọng đứng lại không được mà chạy cũng không xong, thật là bối rối. Mã Chân từng nghe những chuyện quái ác của tên sư đệ này, đầy lòng phẫn hận. Ông định hễ gặp mặt là dùng ngay môn quy bản phái để trừng phạt nặng nề, nhưng bây giờ nhìn thấy tiểu sư đệ áo vấy đầy máu tươi, sắc mặt vàng khè, mặt mũi sưng vù bầm tím, bỗng động lòng.

Mã Chân không nén nổi, thở ra một hơi rồi hỏi: “Trương sư đệ! Sao bộ dạng ngươi lại thảm hại thế này?”

Trương Triệu Trọng ủ rũ đáp: “Tiểu đệ chỉ có một mình mà họ đông người như thế, đương nhiên phải có bộ dạng này.”

Quần hùng nghe vậy, không ai là không giận dữ. Chu Ỷ là người đầu tiên nhịn không nổi, lập tức hét lên: “Ngươi lại điêu ngoa xảo quyệt không chịu nhận lỗi ư? Mã bá bá, Lục bá bá! Hai vị hãy phân xử xem sao.”

Nàng xách đơn đao, lại toan xông tới chém. Chu Trọng Anh vội nắm tay kéo lại rồi nói: “Bây giờ hai vị bá bá đã đến đây rồi. Phái Võ Đang xưa nay môn quy nghiêm ngặt, chúng ta hãy nghe hai vị nói một lời trước đã.” Câu nói này rõ ràng là ép Mã Chân.

Mã Chân nhìn Lục Phi Thanh, lại nhìn Trương Triệu Trọng, đột nhiên quỳ hai gối xuống trước mặt Chu Trọng Anh và Trần Gia Lạc. Quần hùng kinh hãi vội nói: “Mã lão tiền bối có gì dạy bảo xin cứ nói ra, đừng làm thế!” Mọi người liền dìu ông đứng dậy.

Mã Chân cực kỳ khích động, nghẹn ngào nói: “Các vị huynh đệ! Trương sư đệ của ta thật chẳng ra gì, những chuyện hắn làm đúng là trời đất không thể dung tha. Ta hổ thẹn là chưởng môn phái Võ Đang mà không kịp thời thanh lý môn hộ, thật chẳng còn mặt mũi nào gặp bằng hữu võ lâm thiên hạ. Ta… ta…” Cổ họng ông như bị vật gì nhét chặt lại, nói không ra lời nữa. Hồi lâu ông mới bảo Lục Phi Thanh: “Lục sư đệ! Sư đệ nói giùmý của ta đi.”

Lục Phi Thanh lên tiếng: “Sư huynh của ta biết được phẩm hạnh của vị Trương đại nhân này, giận dữ đến mức ăn không ngon ngủ không yên, nhưng… nhưng… vẫn phải vì vong linh sư phụ m à cả gan cầu xin quý vị.”

Quần hùng đều đưa mắt nhìn Trần Gia Lạc và Chu Trọng Anh, đợi ý kiến hai người.

Trần Gia Lạc nghĩ: “Ta không thể hào hiệp một mình để Chu lão anh hùng gánh lấy tiếng ác. Bây giờ hãy xem ông ấy nói thế nào, ta sẽ làm như vậy.” Chàng không nói gì, chỉ nhìn sang Chu Trọng Anh.

Chu Trọng Anh dõng dạc lên tiếng: “Mối thù đốt rụi gia trang, hại chết con trai, Chu mỗ chỉ còn một hơi thở cũng không bỏ qua.” Ông dừng lại một chút, lại tiếp: “Nhưng Mã huynh đã nói vậy, thì ta xin kết giao các vị làm bằng hữu, tất cả những gì đã qua hoàn toàn bỏ hết.”

Chu Ỷ không phục, kêu lên: “Gia gia!”

Chu Trọng Anh xoa đầu con gái rồi nói: “Con ơi, thôi đi.”

Trần Gia Lạc nói: “Chu lão anh hùng đã khoan hồng đại lượng như thế, thì trước mặt Mã Lục hai vị tiền bối, Hồng Hoa Hội chúng tôi tuyên bố hoàn toàn không truy cứu những việc trước đây nữa.”

Mã Chân cùng Lục Phi Thanh chắp tay hướng về mọi người nói: “Thật là cảm kích, không sao nói cho hết được.”

Vô Trần lạnh nhạt nói: “Mã đạo huynh! Lần này có thể bỏ qua, nhưng nếu hắn tiếp tục làm bừa thì Mã đạo huynh tính sao đây?”

Mã Chân nghiêm giọng nói: “Từ nay về sau, bần đạo dứt khoát quản thúc hắn một cách nghiêm ngặt, bắt hắn sửa chữa lỗi lầm. Nếu hắn tiếp tục làm ác thì phải giết bần đạo trước, nếu không, bần đạo là người đầu tiên không tha cho hắn.

Quần hùng nghe Mã Chân nói như chém đinh chặt sắt, nên không có ý kiến gì nữa.

Mã Chân lại nói: “Bây giờ bần đạo dẫn hắn về núi Võ Đang để hắn bế môn tứ quá, đóng cửa suy nghĩ lỗi lầm. Lục sư để ở lại đây giúp một tay để cứu Văn tứ đương gia, còn bần đạo gác kiếm đã lâu, không giúp gì được, xin quý vị niệm tình tha thứ. Khi nào Văn tứ đương gia thoát hiểm, Lục sư đệ nhất định phải báo cho bần đạo biết ngay để sớm yên lòng. Còn tiểu đồ Ngư Đồng của bần đạo sao không có ở đây?”

Trần Gia Lạc đáp: “Thập tứ đệ mất liên lạc với bọn tại hạ từ lúc ở sông Hoàng Hà. Sau này nghe nói y bị thương, rồi được một cô nương cứu đi, nhưng đến nay vẫn chưa biết tung tích ở đâu. Đợi cứu Tư ca xong, bọn tại hạ sẽ lập tức đi dò hỏi, xin đạo trưởng yên tâm.”

Mã Chân nói: “Tiểu đồ tuy có thông minh, nhưng vì tuổi trẻ ngông cuồng phóng túng nên thiếu trầm tĩnh, phải nhờ Trần đương gia chiếu cố chỉ bảo nhiều hơn.”

Trần Gia Lạc nói: “Huynh đệ bọn tại hạ gặp nạn thì tương trợ, có lỗi thì khuyên bảo, xem nhau như anh em ruột thịt. Thập tứ đệ tinh minh mẫn cán, mọi người đều cực kỳ nể trọng.”

Mã Chân nói: “Chuyện hôm nay, bần đạo thật sự cảm kích vô cùng. Trần đương gia, Chu lão anh hùng, Vô Trần đạo huynh và các vị hiền đệ! Sau này nếu có việc đi ngang Hồ Bắc, nhất định phải ghé núi Võ Đang ở chơi mấy ngày.” Mọi người đều vâng dạ đồng ý.

Mã Chân bèn bảo Trương Triệu Trọng: “Đi thôi!”

Trương Triệu Trọng nhìn lại thanh Ngưng Bích Kiếm đang cắm sau lưng Lạc Băng. Tuy hắn tiếc cây bảo kiếm thần kỳ, nhưng nếu mở miệng đòi thì chỉ chuốc nhục vào thân, đành nghiến chặt răng quay đầu đi ngay.

Hai người Mã Triệu xuống núi xong, quần hùng vội hỏi tình hình Lục Phi Thanh từ ngày xa cách. Thì ra ông mất liên lạc với quần hùng ở bến Hoàng Hà, tìm Lý Nguyên Chỉ cũng không thấy đâu, nhưng nghĩ bụng: “Lý Nguyên Chỉ là con gái nhà quan, lại lanh lợi cảnh giác, chắc không gặp nguy hiểm gì. Vấn đề trước mắt là Trương Triệu Trọng, tên này thật là nỗi nhục của bổn môn.” Ông bèn đi về hướng nam, tới Hồ Bắc mời đại sư huynh Mã Chân xuống núi, gấp rút cùng đến Bắc Kinh. Đến Bắc Kinh, hỏi thăm mới biết Trương Triệu Trọng đã đến Hàng Châu, bèn trở lại phương nam. xuôi ngược mấy lần như vậy nên hai người mới đến sau quần hùng Hồng Hoa Hội.

Mọi người vừa đi vừa nói chuyện, chốc lát đã xuống tới chân núi. Trần Gia Lạc nói với Vương Duy Dương và Hàn Văn Xung: “Hai vị xin tùy tiện, hẹn ngày tái ngộ.”

Vương Duy Dương nói: “Suốt đời lão phu không dám quên ân đức của Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc cười ha hả, lên tiếng: “Còn có hai việc phải xin Vương lão anh hùng tha thứ, bây giờ tại hạ xin tạ lỗi trước.” Chàng hành lễ xong, bèn kể lại chuyện giả trang quan quân đoạt lấy ngọc bình, đâm thọc cho ông ta và Trương Triệu Trọng thí võ, nói ra thẳng thắn không hề giấu giếm.

Trước nay Vương Duy Dương vẫn là người hào kiệt khoáng đạt, lần này từ chỗ chết trở về lại càng coi rẻ thêm những chuyện vinh danh lợi lộc. Lão mỉm cười nói: “Vừa rồi nghe lão đệ nói chuyện với Trương Triệu Trọng, ta mới biết lão đệ là thống lĩnh giả mạo. Ha ha! Thật là anh hùng xuất thiếu niên, Vương mỗ gần chết mới học được chiêu này. Chúng ta không đánh nhau không quen biết, tuy rằng cuộc thí võ của ta và họ Trương là do các vị gợi ra, nhưng cái mạng già này cũng nhờ các vị cứu về.”

Trần Gia Lạc nói: “Đợi khi việc lớn hoàn thành, mọi người phải uống say một bữa cho thống khoái.”

Mọi người vừa đi vừa vui cười nói chuyện, chốc lác đã đến bên hồ, rồi đi thuyền về nhà họ Mã. Lục Phi Thanh dùng đá nam châm hút hết kim trên người Vương Duy Dương ra, rồi bó thuốc lên.

Quanh quẩn mất nửa ngày trời, mặt trời đã chếch về tây. Mã Thiện Quân đến báo, công việc đã thực hiện hơn một nửa, khoảng ba giờ nữa sẽ hoàn thành.

Trần Gia Lạc gật đầu nói: “Hay lắm! Mã đại ca thật là cực khổ. Bây giờ xin nhờ Thập tam ca tiếp tục giám sát công việc.” Tưởng Tứ Cân vâng dạ đi ngay.

Trần Gia Lạc quay sang nói với Vương Duy Dương và Hàn Văn Xung: “Các vị tiêu đầu và gia nhân ở quý tiêu cục, chúng ta đều tiếp đãi đàng hoàng không dám sơ suất. Sao hai vị không dẫn họ đến Tây Hồ vui chơi thêm mấy bữa? Hai ngày nữa tại hạ sẽ đặc biệt khoản đãi quý vị để đền tội.”

Vương Hàn hai người đều nói lời không dám, nhưng Vương Duy Dương là bậc lão thành rất hiểu chuyện đời, thấy Hồng Hoa Hội đông người tới lui bận rộn, đoán chắc là họ đang sắp xếp việc cứu Văn Thái Lai. Lão thầm nghĩ: “Bây giờ mà mình đi khỏi đây thì rất bất tiện. Mưu đồ của họ mà thành công thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu sơ sẩy thì không chừng họ sẽ nghi ngờ mình đã mật báo với quan phủ.”

Vương Duy Dương bèn nói: “Tuổi ta đã lớn, bị mấy vết thương kim châm này đau không chịu nổi. Xin được quấy rầy quý xứ, nghỉ lại đây một vài ngày.”

Trần Gia Lạc đáp: “Vương lão anh hùng cứ tùy tiện theo tôn ý. Xin tha lỗi cho tại hạ không thể bồi tiếp lão gia.”

Hai người Vương Hàn đi theo Mã Đại Đình vào trong, gặp bọn tiêu đầu Uông Hạo Thiên. Vương Duy Dương dặn dò mọi người trong tiêu cục không được rời khỏi cửa nhà họ Mã. Lão run rẩy trong lòng, chỉ sợ Hồng Hoa Hội thất bại, quan phủ đến đây bắt người, phát hiện mình và bọn phỉ này cùng ở một nơi, thật là dốc hết nước Tây Hồ cũng không rửa sạch nỗi oan.

Hồi 10: Dập ngòi nổ hào kiệt nát mình – Ngửi thức ăn chí tôn méo mặt

Quần hùng ăn uống no nên rồi về phòng nghỉ ngơi. Đến giờ Dậu, một gã đầu mục tới báo: “Địa đạo đào vào tới phủ đề đốc thì gặp đá lớn chặn đường phía trước. Hiện giờ đã đào vòng xuống dưới, qua khỏi tảng đá rồi đào tiếp vào trong.”

Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng phân phối nhân mã, ai đánh bên trái ai đánh bên phải, ai tiếp ứng ai đoạn hậu, tất cả đều sắp xếp đàng hoàng. Đến giờ Dậu ba khắc, đầu mục lại đến báo: “Đã đào tới tấm thiết bản, sợ bị người bên trong phát giác nên tạm thời dừng lại.”

Trần Gia Lạc nói: “Đợi một giờ nữa cho khuya hẳn, chúng ta sẽ ra tay.”

Một giờ dài như thế kỷ, mọi người chờ đợi ngứa ngáy tay chân.

Lạc Băng ngồi đứng không yên.

Chương Tấn đi tới đi lui trong sảnh lẩm bẩm chửi mắng.

Thường thị huynh đệ lấy một bộ bài ra chơi bài cẩu với Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa. Hai người Dương, Vệ chẳng để ý gì tới ván bài nên bị anh em họ Thường ăn hết ván này tới ván khác.

Chu Ỷ lấy Ngưng Bích Kiếm ra xem tỉ mỉ, rồi tìm mấy thanh đao kiếm cũ ra thử. Hễ chém xuống là đao thép kiếm thép gãy đôi, quả nhiên sắc bén vô cùng. Từ Thiên Hoằng ngồi cạnh nàng ngắm nghía, chốc chốc lại mỉm cười.

Mã Thiện Quân không ngớt lôi trong túi ra một cái đồng hồ bằng kim loại để xem giờ.

Triệu Bán Sơn cùng Lục Phi Thanh ngồi trong một góc, hàn huyên tình hình những năm xa cách.

Vô Trần cùng Chu Trọng Anh chơi cờ tướng. Vô Trần đã thiếu bình tĩnh mà kỳ nghệ cũng thấp hơn, nên thua hết ván này tới ván khác.

Trần Gia Lạc cầm tập thơ của Lục Phóng Ông ngâm nga.

Thạch Song Anh giương mắt nhìn trời, hoàn toàn không động đậy chút nào.

Hết một giờ, Mã Thiện Quân lên tiếng: “Đến giờ rồi.” Quần hùng lập tức đứng bật dậy, chia thành từng nhóm đi ra ngoài cửa. Mọi người đã cải trang và giấu binh khí từ lâu, bây giờ tập hợp trong một nhà dân ở gần phủ đề đốc. Người trong nhà này đã dọn đi lâu rồi.

Tưởng Tứ Cân thấy quần hùng đã đến đủ, bèn khẽ nói: “Quanh đây lính Thanh tuần tra rất khẩn trương, con mẹ nó, phải thật nhẹ nhàng mới được.” Y cầm thiết trượng canh giữ cửa ra vào con đường hầm mới đào. Quần hùng nối đuôi nhau chui vào. Đào rất sâu, Hàng Châu lại ẩm thấp nên nước trong đường hầm xâm xấp mắt cá, khi chui dưới tảng đá lớn thì bùn ngâm gần đến ngực. Đi được mấy trượng thì đến cuối đường hầm.

Bảy tám đầu mục đang chờ đợi dưới đó, người cầm đuốc, người cầm xẻng. Thấy tổng đà chủ đến, họ khẽ nói: “Trước mặt là tấm thiết bản.”

Trần Gia Lạc bảo: “Động thủ đi.”

Các đầu mục phấn chấn tinh thần hẳn lên, hợp sức dùng xẻng nạy tấm thiết bản. Đầu tiên thì đá vụn xung quanh rơi lả tả, đào thêm chút nữa thì cả tấm sắt lớn đã bị nạy lên, phía trước chính là con đường hầm trong phủ đề đốc. Vệ Xuân Hoa lập tức chạy vào, quần hùng kéo ùa theo.

Một tiểu đầu mục cầm đuốc đứng lại soi đường, quần hùng theo đường hầm chạy thẳng vào trong. Cuối đường hầm này là tấm cửa sắt chắn ngang, Vệ Xuân Hoa ẩn ngay vào giữa hình bát quái. Không ngờ cánh cửa hoàn toàn không động đậy, hình như cái nút đó đã mất tác dụng.

Từ Thiên Hoằng suy nghĩ một chút rồi nói: “Bát đệ, Cửu đệ! Mau mau ra canh giữ cửa vào đường hầm, đề phòng bọn giặc đó bày quỷ kế gì.” Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa gật đầu đi ngay. Mấy tên tiểu đầu mục bắt tay vào nạy những tảng đá ở bên cửa sắt, rồi mọi người hợp lực bẩy cánh cửa sắt qua chỗ khác.

Trên cánh cửa có nhiều xích sắt neo vào những tảng đá lớn, Lạc Băng dùng Ngưng Bích Kiếm chặt đứt dây xích rồi lập tức chạy vào. Trong ngục đá trống rỗng.

Lạc Băng khổ sở kêu lên một tiếng, không thấy bóng dáng Văn Thái Lai đâu. Nàng đã ba bốn lần thất vọng, phen này không nhịn nổi nữa, ngồi phịch xuống đất rồi khóc rống lên. Chu Ỷ định tới an ủi, nhưng Chu Trọng Anh khẽ nói: “Để cô ấy khóc một chút cũng tốt.”

Trần Gia Lạc thấy trong phòng không còn đường nào khác, bèn cầm lấy thanh Ngưng Bích Kiếm đâm vào cánh cửa nhỏ mà lần trước Trương Triệu Trọng thoát ra. Cánh cửa này đúc bằng thép, mới chặt được mấy khe hở đã thấy phía sau có mấy tảng đá rất lớn chẹn mất đường.

Từ Thiên Hoằng nói: “Nhất định là tên Lý Khả Tú sợ chúng ta cướp ngục, đã đưa Tứ ca giam vào chỗ khác rồi.”

Trần Gia Lạc bảo: “Bây giờ chúng ta đánh thẳng vào phủ đề đốc. Bất cứ giá nào, hôm nay cũng phải cứu được Tứ ca ra.”

Mọi người chạy ra cửa đại lao, thấy Dương Thành Hiệp đang múa thiết tiên cố giữ không cho Thanh binh ập vào. Vệ Xuân Hoa thì không thấy đâu, chắc đã xông vào giữa vòng vây quân địch.

Vô Trần quát lớn một tiếng, nhảy ra khỏi địa lao, trường kiếm đưa tới đâu là quân Thanh ngã xuống tới đó. Quần hùng chạy theo ra ngoài, lúc này mới nhìn thấy sáu bảy tên tướng Thanh đang bao vây Vệ Xuân Hoa ác chiến. Lục Phi Thanh thầm nghĩ: “Ta với Lý Khả Tú dù sao cũng từng là chủ tớ, không tiện lộ diện.” Ông bèn xé mảnh trường bào bịt mặt lại, chỉ để lộ cặp mắt.

Quần hùng dần dần đẩy bọn lính Thanh dạt ra ngoài, Vệ Xuân Hoa hò hét đuổi theo. Từ Thiên Hoằng nhảy lên đầu tường đứng quan sát, thấy trong phủ đề đốc chỗ nào cũng có quan binh bảo vệ. Đột nhiên tiếng mõ báo động vang lên dồn dập, dĩ nhiên bọn tướng lĩnh nhà Thanh đang điều động binh mã chống cự. Từ Thiên Hoằng nhìn kỹ thấy phía nam có một tòa nhà hai tầng, mỗi tầng đều có năm sáu trăm quan binh canh giữ. Căn lầu trông không có gì đặc biệt mà quân phòng thủ lại đông như thế, chắc là Văn Thái Lai ở trong đó.

Từ Thiên Hoằng cầm đơn đao thiết quải nhảy xuống tường, vừa vẫy gọi vừa hô lớn: “Các vị huynh đệ, theo ta!” Chàng dẫn mọi người xung phong về hướng nam.

Quả nhiên càng gần tòa lầu đó, quân Thanh ứng chiến càng nhiều. Trong lúc hỗn chién, Mã Thiện Quân và Triệu Bán Sơn đã dẫn mấy chục tiểu đầu võ công kha khá vượt tường nhảy vào trong phủ. Quan binh nhà Thanh tuy đông, nhưng không sao cản trở được quần hùng Hồng Hoa Hội võ công tinh diệu. Chỉ chốc lát, quần hùng đã tiến sát tòa nhà đó.

Chương Tấn múa lang nha bổng ra chiêu Ô Long Tảo Địa, khom người xuống rồi vọt lên trên, giành vào nhà trước tiên. Nhưng giữa cửa có một người sử dụng trường thương quét ngang chọc thẳng, Chương Tấn nhất thời không sao xông vào được. Lúc này mấy người Vệ Xuân Hoa, Lạc Băng, Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh vài người cũng đang cận chiến với binh lính nhà Thanh. Dưới ánh đuốc sáng như ban ngày, trận đánh thật là kịch liệt. Võ nghệ của bọn quan quân phòng thủ tòa lầu này không phải là yếu.

Vô Trần bảo Triệu Bán Sơn: “Tam đệ! Chúng ta lên đó xem thử!” Triệu Bán Sơn gật đầu, Vô Trần nhảy liền hai bước tới trước cửa, bỗng có một thanh đao chém tới. Vô Trần không tránh né mà cũng không chống đỡ, cứ ra chiêu Mã Diện Khiêu Tâm. Trường kiếm ra sau mà đến trước, người sử đao gào lên một tiếng thảm khốc, cương đao rơi xuống đất. Trong chớp nhoáng, Triệu Bán Sơn cũng dùng ám khí đánh ngã hai tên võ quan, rồi hai người lập tức xông vào trong nội đường. Chu Trọng Anh, Lạc Băng theo sát sau lưng.

Lục Phi Thanh thấy đối thủ của Chương Tấn võ công khá cao, mà Chương Tấn lấy ngắn đánh dài không chiếm được lợi thế, lập tức chạy đến chi viện. Ông dùng trường kiếm xuất chiêu Thiên Ngoại Lai Vân đâm vào tay trái hắn. Hắn trở ngược cán thương lại, dùng sức đập mạnh xuống. Binh khí dài một tấc là mạnh một tấc, rõ ràng chiêu này có thể đập văng kiếm của đối thủ đi. Nhưng Lục Phi Thanh đã vận khí vào trường kiếm nên nghe “bình” một tiếng, cây thương văng ra mấy trượng. Cổ tay của người cầm thương cũng bị trật khớp. Hắn sợ đến bay cả hồn vía, nhảy ra ngoài xa mà vẫn chưa đứng vững được, té nhào xuống đất.

Chương Tấn xoay người lại, nghênh đón một trong hai tên đang đấu với Vệ Xuân Hoa. Vệ Xuân Hoa bớt một đối thủ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Chàng dùng song câu xuất chiêu Ngọc Đới Vi Yêu tấn công vào hai bên trái phải địch thủ cùng một lúc. Tên kia dùng một cặp song đao, dĩ nhiên dùng chiêu Thoát Bào Nhượng Vị để chống đỡ, hai đao dựng đứng chia ra đỡ ở hai bên. Nhưng đột nhiên Vệ Xuân Hoa biến sang hiểm chiêu, rút song câu về đặt ngay trước ngực, rồi phóng người thẳng tới. Chiêu này vừa nhanh vừa ác, song câu vừa bảo vệ trước mặt vừa cắm lút vào giữa ngực đối thủ. Hắn la lên một tiếng cuối cùng, không sao sống được nữa.

Ác đấu một hồi, dưới lầu kẻ địch mỗi lúc một ít đi. Đột nhiên Vô Trần đứng trên lầu dùng ám ngữ lớn tiếng la lên: “Tứ đệ ở đây, chúng ta thành công rồi.” Quần hùng nghe thấy đều hoan hô vang dội.

Chu Ỷ không hiểu tiếng lóng Hồng Hoa Hội, bèn quay lại hỏi Từ Thiên Hoằng: “Đạo trưởng nói cái gì vậy?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Trên đó đã cứu được Tứ ca rồi.”

Chu Ỷ mừng rỡ nói: “Thế thì hay quá! Chúng ta lên, xem thử Tứ gia như thế nào?”

Từ Thiên Hoằng bảo: “Muội lên đi, ta phòng thủ ỏ đây.”

Chu Ỷ chạy vào trong nhà, bọn lính bảo vệ xung quanh đã bị Vô Trần và các huynh đệ dọn dẹp gần hết. Nàng tức tốc chạy lên lầu, thấy mọi người vây quanh một chiếc lồng lớn, Trần Gia Lạc đang dùng Ngưng Bích Kiếm cố chặt đứt những thanh sắt xung quanh lồng.

Chu Ỷ chạy đến gần, bất giác giận dữ la lên. Thì ra bên trong lồng sắt này lại còn một cái chuồng sắt nhỏ. Văn Thái Lai ngồi trong chuồng nhỏ, tay chân đều bị xiềng xích, giống như một con thú dữ bị nhốt vậy.

Lúc này Trần Gia Lạc đã chặt đứt hai thanh sắt của lồng sắt ngoài. Chương Tấn vận sức bẻ cong cho khoảng trống rộng ra. Lạc Băng thân hình nhỏ nhắn bèn chui vào trong đó, nhận lấy bảo kiếm rồi chặt tiếp then khóa và xiềng xích của chuồng sắt nhỏ. Quần hùng đều mỉm cười, thầm nghĩ: “Giả tỉ hôm nay Thanh triều phái thiên quân vạn mã đến đây, chúng ta cũng phải tử thủ trên lầu, cứu Văn Thái Lai ra rồi mới tính tiếp.”

Thường thị huynh đệ và Từ Thiên Hoằng đang chỉ huy đám đầu mục của Hồng Hoa Hội canh giữ dưới lầu, đột nhiên nghe có tiếng hiệu lệnh nổi lên, quan binh nhà Thanh lùi ra mười mấy trượng. Bọn chúng lùi lại rất thứ tự, ngay hàng thẳng lối, hình thành thế trận. Thường Hách Chí kêu lên: “Chắc là bọn con rùa đó chuẩn bị bắn tên, anh em lùi vào hết đi.”

Mọi người theo lời lùi vào nấp trong lầu, Thường thị huynh đệ đoạn hậu. Nào ngờ quân Thanh không bắn tên, chỉ nghe có người hô lớn: “Trần đương gia của Hồng Hoa Hội ở đâu? Hãy nghe ta nói chuyện!”

Trên lầu Trần Gia Lạc cũng nghe thấy. Chàng tiến đến gần cửa sổ, thấy Lý Khả Tú đang đứng trên một tảng đá mà kêu gọi: “Ta cần nói chuyện với Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc lên tiếng: “Ta đây! Lý tướng quân có gì chỉ giáo?”

Lý Khả Tú nói: “Các ngươi phải mau mau lùi hết xuống lầu, không thì chết sạch.”

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Nếu sợ chết thì đã không đến. Xin lỗi nhé, hôm nay chúng ta nhất định phải dẫn Văn tứ gia đi khỏi đây.”

Lý Khả Tú kêu lên: “Người đừng cố chấp giả vờ không hiểu. Phóng hỏa!” Hiệu lệnh vừa ban, Tăng Đồ Nam lập tức dẫn binh lính đẩy từ phía sau đến một đống củi rơm rất lớn. Củi rơm đã tẩm dầu, đuốc vừa châm vào là quanh căn lều đã xuất hiện một vòng lửa bao vây quần hùng ở bên trong.

Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy hiểm, trong lòng cũng thấy kinh hãi. Nhưng mặt chàng hoàn toàn không đổi sắc, im lặng một lúc rồi quay đầu lại nói: “Mọi người cùng động thủ đi, cố phá cái lồng sắt này cho lẹ.” Chàng lại quay ra nói với Lý Khả Tú: “Trận hỏa côn ngày của tướng quân cũng chẳng cao minh gì lắm.”

Phía sau Lý Khả Tú bỗng có một người bước ra, đưa tay chỉ trỏ, lớn tiếng thóa mạ: “Chết đến đít rồi còn không chịu quỳ xuống xin tha! Ngươi biết dưới tòa làu này có chôn cái gì không?” Dưới ánh lửa, nhìn thấy rõ ràng tên này là ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân, bên cạnh còn có mấy tên bọn Trừ Viên. Chắc là hoàng đế đã hay tin, phái bọn này tới đấy yểm trợ.

Trần Gia Lạc ngần ngừ một chút, bỗng nghe Từ Thiên Hoằng dùng ám ngữ la lớn: “Hỏng bét! Ở đây toàn là thuốc nổ.”

Trần Gia Lạc nhớ khi xông vào tòa lầu này đã thấy dưới lầu là một nhà kho chất đầy thùng gỗ, chẳng lẽ đó là thuốc nổ hay sao? Chàng đảo mắt n hìn quanh, thấy cũng toàn là thùng gỗ, liền chạy tới khẽ đánh một chưởng. Một thùng gỗ vỡ ra, bột đen bay ra mù mịt, đầy mùi lưu huỳnh tiêu thạch, nếu không phải thuốc nổ thì là gì nữa?

Trần Gia Lạc run rẩy trong lòng, âm thầm than thở: “Chẳng lẽ hôm nay toàn thể Hồng Hoa Hội phải nát thịt tan xương ở đây hay sao?” Chàng quay lại nhìn, thấy cái chuồng nhỏ đã mở được rồi, Lạc Băng dìu Văn Thái Lai bước ra ngoài.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Tứ tẩu, Tam ca! Hai người bảo vệ Tứ ca, còn mọi người xung phong theo ta.” Chàng hô dứt câu, lập tức chạy xuống lầu. Chương Tấn khom lưng cõng Văn Thái Lai, có Lạc Băng, Triệu Bán Sơn, Lục Phi Thanh, Chu Trọng Anh bảo vệ trước sau, cùng kéo hết xuống lầu. Tên từ bên ngoài bắn vãi vào trong cửa như bầy châu chấu. Vệ Xuân Hoa và Thường thị huynh đệ thử xông ra ngoài mấy lần, nhưng đều phải rút vào.

Lý Khả Tú la lên: “Dưới chân các ngươi cũng có chôn thuốc nổ. Dây ngòi đang ở trong tay ta.” Hắn giơ cao ngọn đuốc, la tiếp: “Ta mà đốt sợi dây này thì tất cả các ngươi đều biến thành tro bụi. Mau mau bỏ Văn Thái Lai xuống!”

Trần Gia Lạc đã thấy thuốc nổ trong nhà, biết hắn không phải đe dọa suông, chỉ vì Văn Thái Lai là khâm phạm nên hắn còn kiêng nể chưa dám đốt dây ngòi ngay, không thì đã giết sạch huynh đệ mình rồi. Chàng lập tức quyết định, hô lớn: “Để tứ ca xuống, chúng ta chạy ra ngoài.” Rồi chàng cùng với Vệ Xuân Hoa, Thường thị huynh đệ xung phong ra trước.

Chương Tấn cúi đầu đứng yên, không tuân lời Trần Gia Lạc. Triệu Bán Sơn vội bảo: “Thả Tứ đệ xuống nhanh lên! Tình thế nguy hiểm vô cùng, chúng ta phải đi nhanh. Thập đệ làm như thế tức là hại chết Tứ đệ.”

Chương Tấn bèn đặt Văn Thái Lai trước cửa rồi chạy theo mọi người. Triệu Bán Sơn thấy Lạc Băng vẫn còn ngần ngừ đứng đó, liền nắm tay lôi nàng đi, múa kiếm xông ra ngoài. Dưới ánh lửa Lý Khả Tú nhìn rõ Văn Thái Lai đang nằm dưới đất, lập tức vẫy tay ra lệnh ngừng bắn, chỉ sợ làm tổn thương đến chàng.

Quần hùng lùi khỏi tòa lầu đó, tập hợp ở một góc tường. Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Ngũ ca, Lục ca, Bát ca, Cửu ca, Thập ca! Các vị ca ca xung phong lên trước, đuổi bọn giặc kia ra xa tòa lầu. Thất ca! Ca ca tìm cách làm đứt dây dẫn. Đạo trưởng, Tam ca! Chúng ta đợi họ đắc thủ là lập tức xông vào cứu Tứ ca ra.” Thường thị huynh đệ cùng Từ Thiên Hoằng nhận lệnh đi ngay.

Lý Khả Tú đang sai người đi canh giữ Văn Thái Lai, bỗng thấy Thường thị huynh đệ lại xông vào chém giết, liền chia binh mã kháng cự. Bọn ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân, Chu Tổ Ấm, Trừ Viên, Thoại Đại Lâm cũng bước lên ngăn cản.

Lục Phi Thanh nhìn rõ phương hướng tiến thoái, khom người vọt đi như một mũi tên bắn tới chỗ Lý Khả Tú. Bọn Thanh binh la hét om sòm lập tức vung đao cản trở, nhưng Lục Phi Thanh không đánh trả. Ông tránh quá trái, đảo qua phải, lúc thì bay như chim, lúc thì lặn như cá, chốc lát đã vượt qua bảy tám tên lính, tới trước mặt Lý Khả Tú.

Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang đứng cạnh phụ thân, đột nhiên nhìn thấy một quái khách bịt mặt xông đến, liền quát hỏi: “Muốn gì đây?” Nàng xuất chiêu Xuân Vân Trá Triển đâm từ trước ngực ra.

Lục Phi Thanh lại càng không muốn lên tiếng, hạ thấp người chui qua dưới lưỡi kiếm. Lý Khả Tú cũng phóng cước, xuất chiêu Khôi Tinh Khích Đẩu đá thẳng vào mặt quái khách bịt mặt. Lục Phi Thanh lạng đi một cái, đã luồn ra phía sau Lý Khả Tú. Ông đặt bàn tay lên lưng hắn, vừa nhả một chút kình lực đã hất thân thể mập mạp đó văng tuốt ra xa. Lý Nguyên Chỉ giật mình kinh hãi, hồi kiếm đâm ngược ra sau. Lục Phi Thanh né tránh, chiêu kiếm đó đâm vào khoảng không.

Thấy Lý Khả Tú ngã lăn dưới đất, bên này thì Tăng Đồ Nam chạy tới cứu, bên kia thì Dương Thành Hiệp chạy tới bắt. Hai người chạy ngược chiều nhau, càng lúc càng gần. Tăng Đồ Nam cử thiết thương xuất chiêu Ngọc Long Xuất Động đâm thẳng vào Dương Thành Hiệp, muốn ép họ Dương dạt ra để cứu thượng cấp. Dương Thành Hiệp nghiêng người né mũi thương, nhưng chân không dừng lại, thân hình to lớn vẫn lao tới gấp. “Bình” một tiếng, nguyên một tòa thiết tháp tông vào người Tăng Đồ Nam, hất hắn ngã ngửa ra sau.

Lúc này Lý Khả Tú đã bật dậy được, nhưng Lục Phi Thanh còn nhanh hơn nhiều, lướt tới trước mặt hắn như một cơn gió. Lý Nguyên Chỉ nghĩ tình cốt nhục, vội vã lao tới, trường kiếm ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm thẳng tới lưng quái khách. Lục Phi Thanh nghe tiếng réo lên, lại càng không dám chậm chân. Ông nắm chặt tay trái của Lý Khả Tú, kéo hắn chạy thẳng vào trong vòng lửa.

Bọn quan binh nhà Thanh thấy chủ soái lọt vào hiểm địa, quên cả đánh nhau với Hồng Hoa Hội, ai cũng lo lắng đứng nhìn năm người trong vòng lửa. Sợi dây ngòi vốn do Tăng Đồ Nam cùng với một tên tổng binh canh giữ. Hai tên này đứng cạnh sợi dây, nhìn thấy chủ soái bị kiềm chế mà kinh hãi trong lòng. Đột nhiên có một người chạy tới, đoạt lấy ngọn đuốc châm vào sợi dây ngòi.

Tăng Đồ Nam giật mình nhìn lại, thì ra đó là ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân. Hôm trước hắn bị đánh lọt xuống Tây Hồ trước mặt hoàng đế, xấu hổ nhục nhã vô cùng, mối hận trong lòng càng nghĩ càng sâu. Bây giờ mắt thấy Văn Thái Lai sắp được cứu thoát, hắn mặc kệ Lý Khả Tú sống chết ra sao, cứ việc đốt dây giết bớt kể thù.

Sợi dây ngòi cháy lem lém dưới đất, ngọn lửa tiến vào nhanh chóng lạ thường. Rõ ràng họa lớn sắp xảy ra, không phải chỉ năm người Văn, Lý, Lục, Trương, Tưởng biến thành tro bụi. Trong lầu chất quá nhiều thuốc nổ, sẽ có rất nhiều người xung quanh phải chết lây. Vì thế bọn quan quân nhà Thanh lập tức đại loạn, chen nhau lùi lại phía sau.

Trong lúc lộn xộn, đột nhiên có một người chạy nhanh về phía vòng lửa. Người này khoác trường bào màu lam, mặt cũng bịt bằng vải màu lam chỉ để lộ hai mắt, tay cầm một cây roi ngắn. Y dùng đơn tiên đập loạn xạ lên sợi dây đang bốc cháy, nhưng ngọn lửa vẫn nhanh chóng liếm về phía trước. Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng thấy tình hình nguy hiểm, đều bất chấp tính mạng tung người tới toan cắt sợi dây đó, nhưng không tới kịp.

Mọi việc chỉ xảy ra trong chốc lát, chỉ lâu bằng một cái búng móng tay. Người bịt mặt thấy sợi dây đó không chịu tắt, đột nhiên phóng người đè lên chỗ đang cháy. Thân thể y lập tức bốc lửa, y phục cháy bùng bùng, nhưng dây ngòi đã bị dập tắt, không cháy tiếp về phía trong nữa.

Chậm hơn một chút, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân dìu Văn Thái Lai chạy ra khỏi vòng lửa, quần áo ba người đều đã bắt cháy. Thường thị huynh đệ chạy lên tiếp ứng, vội kêu: “Lăn xuống! Lăn xuống đất đi!”

Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân đặt Văn Thái Lai xuống, rồi lăn chàng dưới đất mấy vòng, lửa trên y phục Văn Thái Lai liền được dập tắt. Lạc Băng vội chạy tới chăm sóc phu quân rồi Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân cũng tự lăn mình để dập lửa.

Thường Thị Song Hiệp chạy vào trong vòng lửa, khiêng người bịt mặt đang ngất xỉu dưới dất ra ngoài. Lúc chạy được ra ngoài thì quần áo cả ba người đều cháy sém. Khi dập tắt được lửa, nhìn lại thì mình mẩy tay chân của người bịt mặt không nơi nào là không bị bỏng.

Lục Phi Thanh thấy Văn Thái Lai đã thoát hiểm, liền vác Lý Khả Tú trên vai, hít một hơi thật sâu thi triển khinh công Yến Tử Tam Sao Thủy, như một con chim lớn tung bay ra ngoài vòng lửa. Tuy ông phải cõng một người, nhưng nhờ khinh công tuyệt diệu nên ít bị cháy sém nhất.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Thành công rồi! Rút nhanh, rút nhanh lên!” Trường kiếm của Vô Trần múa tít mở đường, Thường thị huynh đệ khiêng người bịt mặt, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân khiêng Văn Thái Lai, Lục Phi Thanh cõng Lý Khả Tú, theo sau tổng đà chủ mà chạy ra ngoài. Lý Nguyên Chỉ thấy cha bị bắt, lo lắng cầm kiếm đuổi theo, nhưng bị song câu của Vệ Xuân Hoa chặn lại không sao thoát được. Nàng vội vã quá thành ra sơ suất, suýt nữa trúng câu.

Bọn quan binh nhà Thanh hò hét đuổi theo, nhưng chúng đã nếm mùi lợi hại của Hồng Hoa Hội nên không dám đuổi quá gần. Chỉ có tám tên thị tiền ngự vệ phụng chỉ canh giữ Văn Thái Lai là không thể không lo lắng, để khâm phạm chạy thoát là bị tội chém đầu. Phạm Trung Ân xách đôi phán quan bút, liều mạng xông tới đầu tiên.

Trần Gia Lạc vừa thấy hắn hắn đốt cháy dây ngòi thầm nghĩ: “Con người này bụng dạ cực kỳ ác độc không thể dung tha được.” Chàng bèn giao Ngưng Bích Kiếm cho Triệu Bán Sơn rồi nói: “Tam ca! Huynh đoạn hậu giúp mọi người, để tiểu đệ thu dọn gã này.” Rồi chàng thò tay vào bọc lấy châu sách.

Mã Đại Đình đưa kiếm thuẫn ra, Trần Gia Lạc lên tiếng khen ngợi: “Hảo huynh đệ! Mã huynh thật là chu đáo.” Kiếm thuẫn và châu sách đáng lẽ là do Tâm Nghiễn mang theo, nhưng Tâm Nghiễn đang bị thương nên Mã Đại Đình giúp cho việc đó.

Tay phải của Trần Gia Lạc vừa vẫy ra, năm sợi dây châu sách đã bay vèo tới mặt Phạm Trung Ân. Họ Phạm chuyên nghề sử dụng phán quan bút, dĩ nhiên giỏi về điểm huyệt. Hắn nhìn thấy đầu mỗi sợi châu sách đều có gắn thêm một quả cầu thép, năm sợi chia ra điểm vào năm huyệt đạo của mình, bất giác kinh hãi trong lòng.

Chu Tổ Ấm kêu lớn: “Phạm đại ca! Mấy sợi dây của thằng lỏi đó lợi hại lắm, phải cẩn thận đấy!” Mã Đại Đình nghe hắn nhục mạ tổng đà chủ, giận dữ vung thiết côn đập cho một phát lên đầu. Chu Tổ Ấm nghiêng người né tránh, trả lại một đao.

Bên này Phạm Trung Ân loạn cả tay chân mới chiết giải được mấy chiêu với Trần Gia Lạc, liên tiếp gặp nguy hiểm. Hắn vừa đánh vừa âm thầm kêu khổ, chỉ muốn lùi lại thoát thân, nhưng toàn thân đã bị châu sách vây bủa, không sao chạy thoát được.

Trần Gia Lạc không muốn phí thời gian bèn quét tay phải ngang qua, châu sách biến thành chiêu Thiên Đẩu Vạn Trừ, điểm loạn xạ từ trên xuống. Phạm Trung Ân không biết chàng muốn đánh vào chỗ nào, bèn nhập hai bút làm một, phóng vào trước ngực Trần Gia Lạc. Người học võ thường nói ngắn một tấc là hiểm một tấc, phán quan bút là loại binh khí ngắn thường dùng hiểm chiêu để thủ thắng.

Phạm Trung Ân nghĩ chắc phen này đối phương phải tránh né, mình có thể thừa cơ chạy thoát. Nhưng hắn đột nhiên nhìn thấy thuẫn bài đón ngay trước mặt, trên thuẫn lại còn chín cái móc câu sáng loáng. Phạm Trung Ân giật mình kinh hãi, thu thế không kịp, phải dùng đôi bút điểm vào kiếm thuẫn để mượn sức ngửa người nhảy ngược ra sau.

Trần Gia Lạc nghiêng kiếm thuẫn qua một bên tránh né song bút, châu sách quăng tới buộc chặt hai chân đối thủ rồi dùng sức hất ra ngoài. Phạm Trung Ân không sao tự chủ được nữa, bay thẳng vào trong vòng lửa.

Trần Gia Lạc không chịu dừng tay, vẫy châu sách quét ngang, một quả cầu thép đánh trúng và lưng Chu Tổ Ấm. Tên này vừa kêu lên một tiếng, lại trúng thêm một thiết côn của Mã Đại Đình nện trúng mông. Mã Đại Đình đang bực tên này hỗn láo, nên đòn côn này đã dùng hết sức, đánh vỡ cả xương chậu lẫn hai cái xương đùi.

Lúc này phần lớn quần hùng đã vượt ra ngoài tường, Triệu Bán Son đoạn hậu đang chặn đánh ba tên thị vệ. Trần Gia Lạc vẫy tay gọi lớn: “Lùi thôi!”

Vệ Xuân Hoa cầm song câu tấn công Lý Nguyên Chỉ ba chiêu liên tiếp, cô nàng đỡ không nổi phảI lùi hai bước. Vệ Xuân Hoa quay sang phải, đánh một quyền khiến một tên Thanh binh mặt mày sưng húp;, rồi vung tay đoạt lấy ngọn đuốc của hắn, chạy đến chỗ sợi dây ngòi vừa bị người bịt mặt dập tắ[t, lại châm lửa đốt lên. Quan quân nhà Thanh còn đang kinh hoàng kêu cha gọi mẹ thì quần hùng Hồng Hoa Hội đã lùi hết ra xa.

Thoại Đại Lâm, Trừ Viên và bọn thị vệ đang đốc thúc quân lính rượt theo, đột nhiên thấy khói đen bay mù trời, ánh lửa nhấp nháy, rồi nghe một tiếng nổ điếc tai. Khói bay khét lẹt, đá văng lung tung, bọn quan binh và thị vệ nằm hết xuống đất. Tòa lầu này dự trữ quá nhiều thuốc nổ, tiếng này chưa dứt lại tiếp sang tiếng khác.

Quan quân đứng cách ngôi lầu đó khá xa, nhưng đất đá và gỗ vụn từ trên không rơi xuống rào rào nên không có ai dám đứng dậy. Tuy thế cũng có mấy chục tên bị đá gỗ rớt trúng bể đầu. Trong vòng lửa chỉ có một mình Phạm Trung Ân, vụ nổ này làm hắn không còn miếng da nào để an táng.

Đến lúc hết nổ, bọn binh tướng thị vệ mới dám bò dậy. Lúc đó quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy khuất, không còn tung tích để truy đuổi nữa.

Bọn chúng vội vàng lên ngựa, chia làm bốn hướng lùng soát.

* * *

Quần hùng Hồng Hoa Hội đưa Văn Thái Lai chạy ra khỏi thành, thấy không có ai đuổi theo nên rất yên tâm. Đi thêm một đoạn nữa, đến bên một dòng sông, mười mấy chiếc thuyền chèo bằng chân đã xếp hàng chờ đợi. Mã Thiện Quân bước lên nghênh tiếp chúc mừng, quần hùng đều vui vẻ lên thuyền.

Lục Phi Thanh khẽ nói với Trần Gia Lạc: “Lý Khả Tú với ta vốn là chỗ quen biết cũ. Văn tứ gia đã cứu được rồi, chúng ta thả hắn về đi.”

Trần Gia Lạc đáp: “Cứ theo ý tiền bối.” Chàng bèn sai tiểu đầu mục cởi trói cho Lý Khả Tú, quẳng lên bờ.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Khởi hành! Chúng ta đến Gia Khánh trước đã.”

Sông ngòi ở tỉnh Triết Giang đã nhiều nhánh lại quanh co. Đoàn thuyền đi chừng một dặm, vòng vèo qua năm sáu chỗ ngoặt, Trần Gia Lạc mới nói: “Chúng ta đi về phía tây, hộ tống Tứ ca lên Thiên Mục Sơn dưỡng thương đã. Cứ để cho Lý Khả Tú mặc sức mà đuổi đến Gia Khánh.” Quần hùng đồng thanh cười rộ, mấy tháng trời uất hận đến giờ này mới gọi là xong.

Lúc này trời đã hơi sáng. Lạc Băng đã lau sạch người cho Văn Thái Lai, xiềng xích cũng đã dùng Ngưng Bích Kiếm chém gãy tháo ra. Thấy Văn Thái Lai ngủ say sưa, mọi người cũng không tới quấy rầy.

Từ Thiên Hoằng lên tiếng hỏi: “Tổng đà chủ! Thương thế của người bịt mặt vừa cứu Tứ gia rất nặng. Chúng ta có thể tháo khăn che mặt của y xem thử hay không?”

Quần hùng đều hiếu kỳ, muốn biết người này là ai. Nhưng Chu Trọng Anh nói: “Người đó dùng vải bịt mặt, chắc chắn không muốn để người khác nhìn thấy diện mạo của mình. Chúng ta nên tôn trọng y thì hơn.”

Vết thương của Tâm Nghiễn đã đỡ nhiều, cậu đang giúp mọi người thoa thuốc lên những vết bỏng của người bịt mặt. Người này cháy bỏng toàn thân, hôn mê mà vẫn đau đớn không năm yên được, miệng không ngớt rên rỉ. Tâm Nghiễn thấy mà kinh hãi, sợ y chết bèn chạy tới bẩm báo.

Trần Gia Lạc nhảy qua thuyền đó, thấy vết thương của y rất nặng, không khỏi lo lắng trong lòng. Người bịt mặt thần trí hôn mê, hai tay quơ loạn xạ, đột nhiên túm trúng miếng vải bịt mặt giật ra. Mọi người đồng thanh kêu lớn: “Thập tứ đệ!”

Thì ra người đó là Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng. Trên mặt chàng, chỗ nào sưng thì màu đỏ, chỗ nào cháy thì màu đen, còn những vết bỏng thì vô số. Khuôn mặt trước kia tuấn tú bây giờ cháy không giống mặt người, quần hùng nhìn mà nửa kinh hãi, nửa xót xa.

Lạc Băng đem tới một tấm khăn ướt, nhẹ nhàng lau những vết đất cát và thuốc nổ bám trên mặt chàng, rồi lấy một cọng lông gà thấm dầu me thoa lên chỗ bỏng. Trong lòng nàng rất khó chịu, biết họ Dư yêu mình say đắm, phen này liều mạng cứu Văn Thái Lai cũng không phải không liên can tới mối tình si đó. Nhưng tấm thân nàng đã thuộc về người khác, đối với chàng chỉ có tình bằng hữu kết nghĩa, hoàn toàn không còn gì nữa. Mỗi khi nàng nghĩ đến đêm Dư Ngư Đồng vô lễ với mình gần Thiết Đảm Trang đều thấy giận dữ, nhưng phen này chàng xả thân cứu phu quân mình, thì tình cảm trong lòng chàng dĩ nhiên không phải là tình dục đê tiện.

Khuôn mặt của Dư Ngư Đồng đã bị hủy hoại, tính mạng cũng đang nguy hiểm. Giả tỉ không chết thì chàng thanh niên tuấn tú này cùng phải mang bộ mặt ma chê quỷ hờn tới chết. Lạc Băng biết mình vĩnh viễn không thể đền đáp được mối tình si đó, bất giác ngơ ngẩn xuất thần.

Thuyền đi đến Như Hàng, Mã Thiện Quân liền cho người đi mời đại phu đến xem vết thương của Văn Thái Lai. Đại phu nói: “Vị gia gia này chỉ bị ngoại thương. Ông ấy gân cốt khỏe mạnh, thân thể tráng kiện, trị liệu vài tháng là không trở ngại gì nữa.” Y khám Dư Ngư Đồng, lại nói: “Vị gia gia này bị bỏng khá sâu, phải đề phòng hỏa độc chạy vào tim. Để tại hạ kê toa giải độc, uống thử hai thang xem sao.” Nghe giọng y nói, rõ ràng hông chắc mình trị khỏi.

Đại phu từ biệt lên bờ. Lát sau thì Văn Thái Lai mở mắt ra nhìn mọi người, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao mọi người đều ở đây?”

Lạc Băng mừng rỡ nửa khóc nửa cười, kêu lên: “Đại ca! Huynh thoát ra rồi đó.” Văn Thái Lai gật đầu một cái, lại nhắm mắt thiếp đi.

Quần hùng đã biết chàng không việc gì, chuyển sang lo lắng cho Dư Ngư Đồng. Chương Tấn nói: “Thập tứ đệ thật là tinh quái, đột nhập được vào tận trong phủ đề đốc.”

Thường Bá Chí nói: “Lần trước y chỉ con đường đến địa lao, anh em ta không biết y là ai, còn đánh y một trận nữa.”

Thường Hách Chí nói: “Nhưng y lại cứu Lý Khả Tú, không biết tại sao.” Mọi người bàn cãi một hồi, khó mà lý giải nổi.

* * *

Thì ra trong đêm đại chiến ở bến Hoàng Hà, Lỵ Nguyên Chỉ lạc mất mọi người giữa đám loạn quân. Trong lúc hoang mang, nàng nhìn thấy một cỗ xe lớn bèn nhảy lên xe, quất ngựa chạy đị. Bọn Thanh binh muốn đến cản trở nên bị vung kiếm đánh lui. Nàng cứ thế mà liều, bất kể đông tây nam bắc, đến hôm sau đã xa đại quân mới xuống xe nghỉ ngơi. Lúc kéo rèm xe ra, nàng mới thấy trong thùng xe có một người đang nằm, chính là sư huynh Dư Ngư Đồng từng gặp hai lần dọc đường, đang nằm mê man như người bệnh nặng. Nàng khẽ kéo một góc chăn ra xem, thấy chàng băng bó đầy người, rõ ràng bị thương không nhẹ. Lý Nguyên Chỉ hồi hộp, suy nghĩ hồi lâu rồi cho xe đi tiếp, dọc theo đường cái về đến Vân Quang trấn.

Cô nàng vốn là tiểu thư con gái nhà quan, xưa nay sang trọng đã quen nên tìm tới gian nhà lớn nhất thị trấn, gõ cửa xin tá túc một đêm. Đó chính là nhà tên ác bá Đường lục gia, có ngoại hiệu là Thạch Tín Bọc Đường. Đường Thạch Tín thấy hai người có vẻ khác thường, bèn giữ lại chiêu đãi ân cầm. Về sau hắn phát hiện nàng là nữ cải nam trang, liền bàn kế với đại phu Tào Tư Bằng để ám toán. May là ông trời có mắt, Đường lục gia bị Chu Ỷ đâm chết trong phòng cô kỹ nữ Tiểu Mai Quế.

Sau đó thần trí Dư Ngư Đồng hồi phục, nghe nói chủ nhà bị tiết, nghĩ rằng nhất định quan phủ sẽ đến điều tra, mình không khỏi liên lụy. Chàng lập tức cùng Lý Nguyên Chỉ nhân lúc lộn xộn bỏ đi. Lý Nguyên Chỉ muốn về Hàng Châu đoàn tụ với song thân. Dư Ngư Đồng biết Văn Thái Lai bị giam ở Hàng Châu, nên cũng đi theo.

Chàng đang bị thương, dọc đường được Lý Nguyên Chỉ lo lắng cho tỉ mỉ. Cô nương này tính khí nghịch ngợm điêu ngoa, nhưng đối với Dư sư huynh lại rất đỗi quan tâm. Thấy thần sắc chàng phiền não lo âu, lại biết thân thể chàng thọ thương yếu đuối, nên nàng thường xuyên nói lời dịu dàng an ủi.

Đến Hàng Châu gặp lại gia đình, Lý Nguyên Chỉ kể là Dư Ngư Đồng vì cứu mình mà bị bọn cướp đánh bị thương. Vợ chồng Lý Khả Tú muôn phần cảm kích, giữ chàng lại phủ đề đốc, mời danh y điều trị. Lý Khả Tú thấy anh chàng này tuấn tú trang nhã, văn võ song toàn, lại có ơn cứu mạng cho con gái, nên có ý đợi vết thương chàng lành hẳn rồi nhận làm nữ tế. Hắn hoàn toàn không ngờ đây là một nhân vật lừng danh trong Hồng Hoa Hội.

Mấy tháng nay Lý Nguyên Chỉ lúc vui lúc buồn, suy nghĩ xoay chuyển lung tung. Nàng biết chắc vị lang quân này là đối thủ của cha mình, nhưng lại không nỡ chia ly, tình cảm ngày càng thâm trọng, cứ như đã gửi trọn quả tim mình cho người trong mộng từ lâu. Hôm ấy, dọc đường Cam Lương hoang vu đầy cát, vị sư ca tuấn tú này thổi sáo mỉm cười cản đường kẻ địch dưới cơn mưa, dáng vẻ tiêu sái đó đã làm rung động lòng người thiếu nữ. Mỗi khi nhớ tới hình ảnh đó, Lý Nguyên Chỉ lại bất giác đỏ mặt bồi hồi, rồi chỉ một lúc sau lại buồn rầu than thở.

Khi vết thương Dư Ngư Đồng vừa lành, quần hùng Hồng Hoa Hội lại liên tiếp tấn công phủ đề đốc. Hôm đó Dư Ngư Đồng cứu Lý Khả Tú, Lý Nguyên Chỉ mừng rỡ vô cùng, tưởng chàng đã đứng về phía phụ thân. Nào ngờ bây giờ chàng lại liều mình cứu mạng Văn Thái Lai, rồi đi theo Hồng Hoa Hội.

Toàn thân Dư Ngư Đồng phỏng rộp lên, đau đớn vô cùng. Trong lúc mơ hồ, chàng nghe một thanh âm nữ nhân la lớn: “Huynh càng lúc càng chẳng ra gì! Sao lại rủ tổng đà vào kỹ viện?” Dường như đó là giọng nói của Chu đại tiểu thư Thiết Đảm Trang. Lát sau chàng lại nghe Vô Trần hô lớn: “Mọi người quay về Hàng Châu đi. Vào kỹ viện thì vào kỹ viện, có gì phải sợ?” Dư Ngư Đồng hết sức ngạc nhiên, đạo trưởng là người xuất gia mà sao lại chui vào ổ nhện? Nhưng chàng đang trọng thương nên không suy nghĩ nhiều được, rồi lại ngất đi.

* * *

Càn Long thấy bọn ngự tiền thị vệ Trừ Viên thở hổn hển chạy về nhận tội, báo tin Hồng Hoa Hội cướp ngục cứu thoát Văn Thái Lai, dĩ nhiên vừa kinh hãi vừa giận dữ. Nhưng y nghĩ rằng yếu phạm trốn cũng đã trốn rồi, trách phạt bọn thị vệ này cũng vô ích, lại thấy tên nào cũng đầu tro mặt bụi, thương tích đầy mình, không cần hỏi cũng biết đã ráng hết sức rồi. Vì thế Càn Long chỉ nói nhẹ nhàng: “Thôi được, việc này ta không trách các ngươi.”

Bọn Trừ Viên tưởng phen này sẽ bị trách phạt nặng nề, nào ngờ hoàng thượng khoan dung tha thứ, tên nào cũng cảm kích đến rơi lệ. Chẳng bao lâu Lý Khả Tú cũng chạy tới. Càn Long thấy hắn cũng bị thương, bèn hạ thánh chỉ cách chức nhưng cho lưu nhiệm, để có cơ hội lập công chuộc tội. Lý Khả Tú cả mừng, dập đầu tạ ơn lia lịa.

Sau khi Lý Khả Tú lùi ra, Càn Long mới tập trung suy nghĩ: “Văn Thái Lai chạy thoát, thân thế mình không biết đã bị tiết lộ hay chưa? Họ Văn nói là không biết đại sự cơ mật này, nhưng nhìn thần sắc thì dường như còn giấu giếm nhiều điều. Hắn còn nhắc tới h ai món vật chứng quan trọng được gởi bên ngoài, chắc không phải bịa đặt, không biết là vật gì. Mình là người Hán thì chắc chắn rồi, nhưng nếu việc này bị tiết lộ ra ngoài thì phải làm sao?”

Càn Long đi qua đi lại trong phòng, nghĩ mãi chẳng ra kế sách gì. Y lo âu phiền não muôn phần, nghĩ mình là vạn thặng chí tốn mà không thắng nổi nhóm thảo khấu lỗ mãng, còn gì là thể diện? Việc này lại có liên quan đến thân thế mình, giả tỉ đối phương biết được thì chẳng lẽ suốt đời mình bị người ta kiềm chế hay sao? Y càng nghĩ càng tức giận, bỗng vớ lấy một cái bình hoa trên bàn, dùng hết sức đập mạnh xuống đất. “Choảng” một tiếng, cái bình thành mấy chục mảnh.

Bọn thị vệ và nội thị thái giám ở ngoài phòng nghe thấy rất rõ, biết hoàng thượng đang nổi cơn giận dữ, nhưng không được gọi thì chẳng ai dám đi vào trong đó. Tên nào cũng run rẩy đứng ngoài, thở cũng không dám thở mạnh. Mấy tên ngự tiền thị vệ lại càng sợ đến tái mặt, chỉ e hoàng thượng xét lại tội mình.

Tâm của Càn Long loạn mất nửa ngày, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng sáo trúc du dương, từ xa đến gần, đi ngang cửa tuần phủ nha môn rồi lại xa dần, hồi lâu lại có một đợt sáo trúc khác tiến đến. Y là hoàng đế thời bình, trước nay rất thích ca nhạc nữ sắc, nghe thấy tiếng nhạc triền miên uyển chuyển không khỏi động lòng, bèn kêu lên: “Người đâu?”

Một tên thị độc học sĩ vội vã tiến vào. Đây là một gã sủng thần tên gọi Hòa THân, rất giỏi đoán ý người khác, thường được Càn Long ban thưởng. Bọn thị vệ nghe hoàng đế kêu gọi liền đẩy hắn vào trước.

Càn Long hỏi: “Tiếng sáo trúc bên ngoài là gì thế? Ngươi đi hỏi thử xem.”

Hòa Thân vâng dạ lùi ra, hồi lâu trở về bẩm báo: “Nô tài vừa ra ngoài hỏi, nghe nói đêm nay bọn danh kỹ trong thành Hàng Châu tụ tập ở Tây Hồ, để thi xem ai là hoa quốc trạng nguyên, lại còn bảng nhãn, thám hoa gì đó.”

Càn Long vừa cười vừa mắng: “Chúng dám đem chuyện thi tuyển nhân tài của quốc gia ra để làm trò đùa hay sao? Thật là vô lý!”

Hòa Thân thấy mặt hoàng thượng đã nở nụ cười, bèn bước tới gần khẽ nói: “Nghe nói Tiền Đường Tứ Diễm đều đến đấy cả.”

Càn Long hỏi: “Tiền Đường Tứ Diễm là gì?”

Hòa Thân đáp: “Nô tài có hỏi, dân bản xứ nói rằng đó là bốn ca kỹ nổi danh nhất Hàng Châu. Dọc đường ai cũng bàn tán, đoán xem năm nay cô nào sẽ là hoa quốc trạng nguyên.”

Càn Long mỉm cười nói: “Trạng nguyên của quốc gia thì do ta chấm, còn trạng nguyên của hoa quốc thì do ai chấm? Chẳng lẽ có một vị hoa quốc hoàng đến hay sao?”

Hòa Thân nói: “Nghe nói mỗi ca kỹ sẽ ngồi trên một chiếc thuyên hoa, trên thuyền đó bày hết tất cả đồ kim ngân châu báu của khách tặng cho, xem thử thuyền hoa của ai nhiều đồ quý trọng nhất là cô đó được thưởng nhiều nhất. Sau đó các vị phongl ưu danh sĩ đất Hàng Châu sẽ quyết định thứ bậc.”

Càn Long động lòng hỏi: “Lúc nào họ mới chơi cái trò này?”

Hòa Thân đáp: “Sắp rồi. Trời tối thêm một chút thì thuyền hoa sẽ đèn đuốc sáng trưng, khi đó sẽ tuyển hoa khôi. Nếu hoàng thượng có nhã hứng thì tới đó xem thử một chút.”

Càn Long mỉm cười nói: “Chỉ sợn người ta dị nghị. Giả tỉ thái hậu biết là ta đi chấm hoa quốc trạng nguyên gì gì đo, chắc chắn sẽ la rầy. Ha ha!”

Hòa Thân nói: “Hoàng thượng cứ cải trang thành bá tánh bình thường mà đi xem náo nhiệt, chắc không ai biết đâu.”

Càn Long khen: “Hay lắm! Ngươi bảo mọi người đừng có khoa trương khoác lác, chúng ta im lặng xem một chút rồi về ngay.”

Hòa Thân lập tức phục thị Càn Long thay đổi trường bào hồ thủy, khoác thêm áo ngắn bên ngoài, hóa trang thành một thân hào văn sĩ. Còn chính hắn thì vận sắc phục nhân sĩ bình thường, dẫn theo bọn Bạch Chấn mấy chục tên thị vệ đều thay y phục bình thường, đi về hướng Tây Hồ.

Đoàn người kéo tới bờ hồ, đã có thị vệ đợi ở đó mang du thuyền đến đón. Lúc này khắp mặt hồ vang tiếng ca nhạc, đèn lồng thắp sáng trưng, cảnh phù hoa không bút nào tả xiết. Trên mặt nước có khoảng hai chục chiếc hoa thuyền bơi qua lượn lại, thuyền nào cũng treo đầy màn sa và lồng đèn. Càn Long ra lệnh chèo tới gần để nhìn cho rõ, thấy đèn lồng đều có thêu truyện cổ tích, nào là Trương Sanh Kinh Diễm, nào là Lệ Nương Du Viên. Mấy chiếc hoa thuyền còn dùng vải vóc kết thành cỏ cây hoa lá, ở giữa thắp đèn dầu, hơi nóng bốc lên làm lồng đèn chuyển động từ từ, thiết kế thật là tinh xảo. Càn Long âm thầm khen ngợi dân phương nam biết sống phong lưu, phương bắc không thể nào bì được.

Cả trăm chiếc du thuyền qua lại như thoi đưa, trên đó nào là hào khách tầm hương, nào là văn nhân hiếu sự. Mọi người thi nhau chỉ trỏ, bàn luận, bình phẩm cách trang trí thuyền hoa tinh tế, thô thiển thế nào.

Đột nhiên kèn trống vang lên, tiếng hát ca đàn sáo trên hoa thuyền đều dừng bặt. Một loạt pháo bông được bắn lên, soi sáng bầu trời rồi từ từ rụng xuống mặt hồ. Bắn đầu tiên là mấy cái pháo bông ca tụng vĩnh khánh thanh bình, quốc thái dân an, thiên tử vạn niên, toàn những ý chúc tụng cát tường, Càn Long nhìn mà hoan hỉ trong lòng. Sau đó là những màn pháo bông tương đối phong lưu hơn, nào là quần phương tranh diễm, nào là tộc tộc oanh hoa.

Bắn hết pháo bông rồi đàn sáo lại vang lên. Dứt bài Hỷ Thuyên Oanh thì những chiếc thuyền hoa không hẹn mà đồng thời kéo rèm lên, trong mỗi thuyền đều có một cô nương trang điểm cực kỳ diễm lệ. Lập tức trên hồ nổi lên những tiếng vỗ tay hoan hô vang dội.

Bọn nội thị đem rượu quả thức ăn ra, phục vụ hoàng thượng uống rượu thưởng hoa. Du thuyền từ từ trôi trên mặt hồ, lướt giữa những chiếc thuyền hoa, chẳng khác gì dạo chốn thiên đường, hoa sắc chung quanh không sao nhìn xuể. Hậu cung của Càn Long có ba ngàn cung nữ, y từng gần không biết bao nhiêu người đẹp, nhưng lúc này dưới ánh đèn, trên mặt nước, trong tiếng mái chèo, trong hương son phấn lại có một sắc thái khác hẳn, bất giác trong lòng cảm thấy lâng lâng như say rượu.

Du thuyền chèo đến gần thuyền của Tiền Đường Tứ Diễm. Bốn chiếc thuyền hoa này lại càng đặc biệt. Chiếc đầu tiên trang hoàng như một chiếc thuyền đi hái sen trên hồ, xung quanh kết toàn lồng đèn dạng hoa sen, bông đỏ ngó trắng lá xanh, thì ra cô ca kỹ trên chiếc thuyền hoa này tên là Biện Văn Liên.

Chiếc thuyền hoa thứ hai lại kết hình hai cái đình, khí thế sang trọng hào hoa. Quanh đình là những chuỗi hạt châu, giữa đình viết bốn chữ lớn “ngọc lập đình đình”. Danh kỹ trên chiếc thuyền này tên là Lý Song Đình.

Chiếc thứ ba trang hoàng như kiểu cung Quảng Hàn, quanh thuyền dùng giấy và vải kết đủ phụ tùng trên cung trăng như thiềm thừ, ngọc thố, hoa quế, ngô cương. Ca kỹ trên thuyền hoa này tên là Ngô Thuyền Quyên, mặc trang phục thời cổ, tay phe phẩy quạt, trang điểm như Hằng Nga trên cung Quảng.

Càn Long nhìn kỹ từng cô, tán thưởng một hồi rồi mới cho du thuyền đến bên chiếc thuyền hoa thứ tư. Trên thuyền này toàn là hoa thật cây thật, cành lá xum xuê, hoa lá bài trí rất tự nhiên, trông như một bức tranh thủy mặc của danh họa vẽ nên. Người ngồi trên thuyền mặc toàn màu trắng, dáng vẻ phiêu diêu xuất thế, trông như nữ thần sông Lạc dạo chơi sóng nước. Càn Long mới thấy sau lưng đã không nén nổi hứng thú. Y ngâm nga một đoạn thơ trong Tây Sương Ký, kết thúc bằng câu: “Ôi, sao nàng không quay mặt lại?”

Kỹ nữ đó nghe tiếng ngâm thơ bèn quay đầu lại, nhoẻn nụ cười. Càn Long bất giác rung động trong lòng, thì ra cô nương này chính là Ngọc Như Ý mà mình đã gặp đêm trước, cũng trên mặt hồ này.

Đột nhiên nghe thấy tiếng oanh thỏ thẻ, trên chiếc thuyền hái sen Biện Văn Liên đã cất tiếng hát. Nàng hát dứt lời, thiên hạ vỗ tay hoan hô rồi tặng thưởng, những nén bạc to có nhỏ có chất đầy mặt bàn trên chiếc thuyền.

Sau đó Lý Song Bình ôm tỳ bà đàn bài Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ, rồi Ngô Thuyền Quyên thổi sáo. Càn Long ngeh nàng thổi xong bài Thừa Long Giai Khách, hạ lệnh cho Hòa Thân lấy mười lượng vàng ra thưởng.

Cuối cùng, bao nhiêu du thuyền trên hồ đều quay mũi về phía chiếc thuyền hoa của Ngọc Như Ý. Nàng hé môi để lộ hàm răng ngà ngọc, cất lên một bài ca tả cảnh Giang Nam, nào là thiếu phụ vén màn nhìn cửa thành xa xa xanh mù dương liễu, nào là chiều xuân đôi én song song bay lượn dưới mái nhà ai.

Bây giờ là cuối thu, gió hồ đã hơi lạnh. Thế mà tiếng hát của Ngọc Như Ý triền miên uyển chuyển, lời bài ca lại nồng ấm hoa hương, khiến cho người nghe chưa uống đã say. Càn Long thở dài rồi nói: “Thật là ngòi bút của tài tử, bao nhiêu phong vật Giang Nam đều nằm hết trong khúc ca này.”

Y cũng biết đây là bài Phỏng Thúy trong vở Đào Hoa Tiễn do Khổng Tượng Nhâm sáng tác thời Khang Hy, tả lại câu chuyện Hầu Phương Vực gặp gỡ Lý Hương Xuân. Ngọc Như Ý vừa hát vừa đong đưa khóe mắt, không ngớt liếc nhìn Càn Long. Càn Long hoan hỉ vô cùng, biết cô nàng tự coi mình là danh kỹ Lý Hương Quân, ví mình với danh sĩ Hầu Phương Vực.

Bản tính Càn Long thích khoe khoang tài học của mình. Lần này đi về phía nam, đến chỗ nào y cũng viết thơ đề chữ, gặp thắng cảnh nào cũng tả một bài. Bọn cận thần đi cùng cứ mở miệng khen dồi, câu nào cũng là cẩm tú, chữ nào cũng đáng khuyên son, thơ hơn Lý Đỗ, bút vượt Chung Vương. Nhưng bản thân y cũng biết nịnh bợ là chuyện bình thường, nên những lời khen đó mất đi phần nào giá trị.

Lúc này y mặc thường phục vi hành mà được danh kỹ để ý, rõ ràng không phải nhờ vào thân phận đế vương mà hoàn toàn dựa vào thực học chân tài của bản thân mình. Càn Long càng nghĩ càng tin chắc là mỹ nhân thấy mình tình tứ như Tống Ngọc, dáng vẻ sánh Phan An, tài hoa gần bằng Tử Kiến. Năm xưa từng có chuyện cùng tuệ nhãn Hồng Phất Nữ nhìn ra Lý Tĩnh, chốn phong trần Lương Hồng Ngọc hậu đãi Hàn Thê Chung, có thể thấy danh kỹ nào cũng rất có nhãn lực. Nếu không báo đáp đặng ân tình, làm sao xứng với mắt xanh của người tri kỷ? Y lập tức hạ lệnh cho Hòa Thân tưởng thưởng năm chục lạng hoàng kim, rồi chau mày xoa bụng một hồi rặn ra được hai câu thơ vắt dòng: “Hàng Châu có ả Ngọc Như Ý nghìn mỹ nữ kinh sư chẳng bằng.”

Xưa nay Hàng Châu vẫn là một thành phố phồn vinh, có lệ mỗi năm một lần mở hội tuyển chọn hoa khôi. Những người hiếu sự ở đây đều dốc sức tham dự, ngay cả nhân sĩ vùng xa như Tô, Tùng, Thái, Thường, Gia, Hồ ngày này cũng tụ tập đến Hàng Châu, hoặc để khoe khoang ta đây hào phóng, hoặc để tỏ mình phong lưu nho nhã. Vì thế mà tiền thưởng được quăng lên thuyền rất nhiều. Thuyền hoa của các danh kỹ đều chất quà cao như núi, đương nhiên Tiền Đường Tứ Diễm được nhiều hơn cả.

Lúc này đã gần giờ Tý, ban tổ chức cuộc thi này bắt đầu đếm quà tặng, giống như chấm thi kiểm phiếu vậy. Không những các cô lo lắng, mà du khách trên hồ cùng chăm chú quan tâm.

Càn Long nói nhỏ mấy câu, Hòa Thân gật đầu một cái rồi lên một chiếc thuyền nhỏ, gấp rút chèo về dinh tuần phủ. Lát sau hắn xách một gói đồ quay lại.

Tiền thưởng đã đếm xong, mọi du thuyền đều dồn đến xung quanh con thuyền của ban tổ chức để nghe tuyên bố thứ tự bảng vàng. Trưởng ban cất giọng hô lớn: “Lúc này quà thưởng của Lý Song Đình cô nương nhiều nhất.” Câu này vừa nói ra, mặt hồ ầm ĩ cả lên. Người thì vỗ tay hoan hô khen phải, cũng có người âm thầm chửi mắng.

Một người la lên: “Khoan đã! Ta tặng thêm Biện Văn Liên cô nương một trăm lạng vàng.” Lập tức có người bưng mâm vàng tới.

Lại có một hào khách cất tiếng: “Ta tặng cho Thuyền Quyên cô nương một đôi vòng phỉ thúy, nạm thêm mười hạt minh châu.” Dưới ánh đèn rực rỡ, mọi người đều thấy đôi vòng óng ánh sắc ngọc xanh, minh châu vừa lớn vừa tròn, giá trị vượt xa trăm lạng hoàng kim. Ai cũng thở ra một hơi, xem chừng ngôi trạng nguyên năm nay khó mà lọt khỏi tay vị Hằng Nga trên cung Quảng.

Trưởng ban đợi thêm một lúc, thấy không ai tặng thêm gì nữa. Y định tuyên bố Thuyền Quyên là trạng nguyên năm nay, thì đột nhiên Hòa Thân hô lớn: “Lão gia của chúng ta có một gói quà tặng cho Ngọc Như Ý cô nương.” Hắn đưa cái gói đó ra trước mặt.

Người trưởng ban trạc tuổi tứ tuần, diện mạo thanh tú, râu thưa mắt sáng, sai gia nhân cầm gói quà tới trước mặt mình. Y mở ra xem thì thấy ba cuộn thư họa, bèn nghiêng đầu nói với một lão già ngồi bên tay trái: “Phạm tiên sinh! Vị này cũng là người phong nhã, không biết tặng những loại tinh phẩm gì.” Rồi y mở thư họa ra xem.

Càn Long khẽ bảo Hòa Thân: “Ngươi đi hỏi thử xem ban giám khảo này có những ai.”

Hòa Thân đi một lúc, trở về bẩm báo: “Trưởng ban là Hàng Châu tài tử Viên Mai tú tài, còn những người khác đều là danh sĩ ở Giang Nam.”

Càn Long mỉm cười nói: “Từ lâu ta đã nghe nói Viên Mai tinh nghịch lắm trò, quả nhiên không sai.”

Vừa mở cuộn thứ nhất ra, Viên Mai và mọi người đều giật mình kinh hãi. Đó là bài thơ Vô Đề của Lý Nghĩa Sơn do Trúc Doãn Minh viết.

Người mà Viên Mai gọi là Phạm tiên sinh tên là Lợi Ngạc, cũng người Hàng Châu, văn thơ rất giỏi, đặc biệt là từ. Những bài từ của ông âm luật nghiêm cẩn, ý tứ tuyệt diệu, có thể nói là số một đương thời. Phạm Lợi Ngạc vừa thấy thư pháp của Trúc Doãn Minh đã la lên: “Thật là báu vật!”

Thi nhân Triệu Dực người Hàng Châu vội vàng mở cuộn thứ hai ra, thấy đó là bức tranh thiếu nữ ngắm hoa do Đường Dần vẽ, trên đó có đóng ấn son Càn Long ngự lãm chi bảo. Viên Mai kinh ngạc trong lòng, liền hỏi hai người ngồi cạnh: “Thẩm nhân huynh, Tưởng đại ca! Các vị đoán xem người tặng thư họa này lai lịch như thế nào?”

“Thẩm nhân huynh” chính là Thẩm Đức Tiềm, hiệu Qui Ngu, là một đại thi nhân giữa đời Càn Long, cùng đậu tiến sĩ với Viên Mai vào năm Càn Long thứ tư, nhưng một người đậu hồi trẻ, một người đậu lúc già. Năm đó Viên Mai mới hai mươi bón tuổi, còn Thẩm Đức Tiềm đã hơn sáu mươi rồi, nên người ta gọi họ Thẩm là Giang Nam Lão Danh Sĩ. Có người họ Tưởng tên là Sĩ Toàn, hiệu Tâm Như, là một người rất giỏi ca từ. Y cùng với Viên Mai, Triệu Dực được gọi chung là Giang Tả Tam Đại Gia. Hai người này xem xong đều trầm ngâm, không nói tiếng nào.

Thẩm Đức Tiềm là bậc lão thành trì trọng, bèn lên tiếng: “Chúng ta qua đó gặp họ xem thử?”

Thuyền bên phải đang có hai người ngồi, cũng là danh sĩ do Viên Mai mời đến, một là Kỷ Hiểu Lam khôi hài tuyệt đỉnh, một là Trịnh Bản Kiều thi họa tam tuyệt. Kỷ Hiểu Lam mỉm cười nói: “Chúng ta mà qua đó, chỉ sợ thiên hạ đánh giá giám khảo thiếu công bằng. Hai quyển thư họa này quý như thế, đương nhiên là Ngọc Như Ý trúng giải trạng nguyên rồi.”

Trịnh Bản Kiều nói: “Thế còn cuốn thứ ba là bảo vật gì, sao chúng ta không mở ra xem thử?”

Mọi người mở ra xem, thấy đó là một bức thư pháp viết thơ của Âu Dương Tu, bút pháp khá đẹp. Bên dưới không có lạc khoản và dấu ấn, chỉ có năm chữ nhỏ: Lâm triệu mãnh phù thư. Trịnh Bản Kiều nhận xét: “Cũng có tú khí, nhưng bút lực không đủ.”

Thẩm Đức Tiềm khẽ nói: “Ngự bút của đức kim thượng đấy.” Mọi người hoảng sợ muốn nhảy dựng lên, không ai dám phê phán tiếng nào nữa.

Viên tú tài dõng dạc tuyên bố: “Kiểm điểm quà tặng tiền thưởng đã xong. Trạng nguyên là Ngọc Như Ý, bảng nhãn là Ngô Thuyền Quyên, thám hoa là Biện Văn Liên.” Chung quanh lập tức nổi tiếng hoan hô vang dội.

Thấy ba quyển họa thư này, bọn Viên Mai đều biết người tặng nếu không phải tôn thất quý tộc, thì cũng là đại quan trong triều. Nhưng nhìn chiếc thuyền đó lại không thấy gì khác thường, trời tối nên khách trong thuyền cũng khó mà nhìn rõ diện mạo được. Ai cũng sợ cuộc thi hoa quốc này sẽ bị quan ngự sử bẩm cáo lên trên, đáng lẽ phải làm thơ từ câu đối gì đó để tả lại cảnh quang rực rỡ, nhưng bây giờ không dám nữa mà lén lút lên bờ giải tán.

* * *

Càn Long đang chuẩn bị quay về thì đột nhiên nghe thấy Ngọc Như Ý cất giọng hát trên thuyền bên kia. Nghe thanh âm dịu dàng mềm mại, y bất giác ngứa ngáy cả mình, bèn bảo Hòa Thân: “Ngươi gọi con bé kia qua đây.”

Hòa Thân vâng dạ định đi, Càn Long lại dặn thêm: “Nhớ đừng có nói cho cô ả biết ta là ai.”

Hòa Thân đáp: “Vâng, nô tài biết rồi.”

Du thuyền của Càn Long chèo tới gần cỗ thuyền hoa của Ngọc Như Ý. Hòa Thân bước qua thuyền kia, chốc lát đã cầm về một tờ giấy, dâng lên Càn Long rồi nói: “Cô ấy viết thư, bảo nô tài đưa cho lão gia.”

Càn Long cầm giấy, soi vào dưới ánh đèn đọc thấy bài thơ:

Hương thơm ngào ngạt trước lầu,

Lục Triều cảnh trí sánh nào bình khương,

Chơi xuân về mãi vấn vương,

Ngày mai chàng đến, đầy giường phủ hoa.

Chữ viết rất xấu, nhưng giấy thì hương thơm ngào ngạt, Càn Long vừa hít một hơi đã đê mê chỉ muốn lăn ra. Y mỉm cười nói: “Hôm nay đã đến thì đến luôn, sao lại phải ngày mai mới đến?”

Ngẩng đầu lên thì thuyền hoa của Ngọc Như Ý đã chèo khỏi đó. Càn Long là bậc đế vương, phi tần ở hậu cung muốn gặp y một lần đều phải tìm thiên phương bách kế, dĩ nhiên y chưa bao giờ biết mùi vị nữ nhân khước từ. Nhưng có câu theo tình tình trốn, trốn tình tình theo, Càn Long cảm thấy mùi vị này mới mẻ, nghĩ khi đạt được sẽ khoái lạc hơn nhiều, bèn truyền thánh chỉ bắt chèo nhanh hơn, cố đuổi kịp chiếc hoa thuyền kia.

Hoàng đế đang sốt ruột, kẻ thần tử không nhân cơ hội này tận trung báo quốc thì còn đợi đến chừng nào? Bọn thị vệ lập tức khua mái chèo ào ào, cố gắng hết sức. Chúng đều giỏi ngoại công mà nội lực cũng thâm hậu, bây giờ vì chữ Trung ra sức đáp tạ hoàng ân, mục tiêu phấn đấu rõ ràng, nên bao nhiêu kình lực đều dốc hết vào cánh tay, chèo thuyền lướt như tên bắn. Chỉ trong chốc lát, trước mắt đã hiện ra chiếc thuyền hoa của Ngọc Như Ý.

Càn Long đứng trước mũi thuyền, chỉ mong mau mau đuổi kịp con thuyền phía trước. Đèn đuốc trên hồ đã tắt dần, tiếng đàn sáo hát ca thì chưa dứt hẳn. Từ thuyền hoa phía trước vọng lại tiếng nói tiếng cười dịu dàng uyển chuyển, như có như không. Càn Long nghe thấy lại càng mê mẩn tâm thần, đột nhiên nhớ hai câu thơ: “Nữ tỳ nâng đỡ thân rũ liệt, Buổi đầu người đẹp thẩm ơn vua.”

Hai thuyền đã sát nhau. Cửa sổ của chiếc thuyền hoa chợt mở ra, một vật gì đó bay thẳng về phía Càn Long. Bạch Chấn giật mình, thầm la: “Hỏng bét!” Hắn lập tức tay trái xuất chiêu Hàng Long Phục Hổ, tay phải xuất chiêu Cầm Sư Tác Tượng. Đây là tuyệt kỹ thành danh Kim Câu Thiết Chưởng Đại Cầm Nã Thủ, xông trận có thể đoạt lấy đao thương, nửa đêm có thể đón bắt ám khí, trước nay chưa hề thất thủ. Phen này hắn đứng ở mũi thuyền bảo vệ cho hoàng đế, xuống tấn chắc như núi Thái Sơn, xuất chiêu nhanh như chớp giật, quả là phong độ của bậc đại gia tiền bối võ lâm. Bọn thị vệ nhìn thấy, không tên nào là không cất tiếng hoan hô.

Không ngờ khi Bạch Chấn bắt được vật đó vào tay lại thấy mềm mại dịu dàng, thì ra không phải là ám khí. Hắn bèn dâng lên hoàng đế. Càn Long đón lấy, mở ra xem thì đó là một cái khăn tay màu hồng, bốn góc đều thắt gút, bên trong có gói một miếng mứt ngó sen và một hợp mứt bách hợp.

Ngó sen tượng trưng cho giai ngẫu, bách hợp ý nói bách niên hảo hợp, đầu bạc răng long. Càn Long tự xưng tài cao lục đẩu, thi thần bát bộ, tuy ít hơn Tào Tử Kiến hai đẩu văn chương, làm thơ phải bước nhiều hơn một bước, nhưng cũng đủ hiểu ý tứ phong lưu. Chiếc khăn đó vừa mềm mại vừa thơm tho, hoàng đế cầm trong tay mà thần hồn điên đảo.

Lát sau, chiếc thuyền hoa cặp sát vào bờ. Dưới ánh đuốc ai cũng thấy Ngọc Như Ý bước lên một cỗ xe ngựa, nàng còn quay lại mỉm cười với Càn Long rồi mới từ từ buông rèm xe xuống. Cạnh cỗ xe có hai người cầm đuốc, nhưng họ bất ngờ ném ngọn đuốc đi, tất cả chìm lẫn trong bóng tối.

Hòa Thân vội vã kêu lớn: “Này, chờ một chút, khoan đi đã!” Nhưng cỗ xe ngựa đó mặc kệ, tiếng vó ngựa lộp cộp chạy chầm chập về hướng nam.

Hòa Thân ra lệnh: “Nhanh chóng đi tìm xe!” Nhưng đêm đã khuya, ở nơi hoang vắng này biết tìm xe ngựa đâu ra?

Bạch Chấn dặn nhỏ mấy câu, Thoại Đại Lâm lập tức thi triển khinh công, chỉ hai thế Thất Bọ Truy Hồn và Bát Bộ Cản Thiềm đã qua mặt cỗ xe ngựa, ra lệnh cho phu xe chậm lại. Chẳng bao lâu Trừ Viên đã tìm được một cỗ xe, đương nhiên là cướp của người ta.

Càn Long lên xe, Trừ Viên đích thân đánh xe, bọn thị vệ và nội thị rảo bước chạy theo. Cỗ xe phía trước từ từ mà chạy, Trừ Viên để hết tinh thần điều khiển ngự xa đi sát theo sau, oai phong xem ra chẳng kém gì Cảo Phụ đánh xe bát tuấn chở Chu Mục Vương đi tuần du khắp thiên hạ.

Bạch Chấn thấy hai cỗ xe ngựa đã tiến vào nơi thị tứ phồn hoa, tin chắc không có gì xảy ra nữa mới yên tâm. Rồi hắn nghĩ đêm nay hoàng thượng ngủ lại nhà cô ca kỹ này, mà hôm trước đã thấy cô ả cùng đi với bọn Hồng Hoa Hội, e có âm mưu quỷ kế không thể không đề phòng. Bạch Chấn liền hạ lệnh cho Thoại Đại Lâm điều thêm nhân mã tới đây, để hộ giá cho cẩn thận.

Chiếc xe của Ngọc Như Ý đi dọc mấy con đường lớn rồi rẽ vào một ngõ hẻm sâu, dừng trước một cánh cửa quét sơn đen, một hán tử xuống xe gõ cửa. Càn Long cũng xuống xe đứng nhìn.

Nghe mấy tiếng ken két, cánh cửa sơn đen mở ra, một bà lão bước ra vén rèm xe chào hỏi: “Tiểu thư đã về đấy ạ!”

Ngọc Như Ý bước xuống xe, liếc thấy Càn Long đứng ở một bên bèn mỉm cười lên tiếng: “Trời ơi, Đông Phương lão gia đến rồi ư? Ngàn lần đa tạ một phen lão gia hậu thưởng! Xin mời vào trong, uống một chung trà với thiếp.” Càn Long mỉm cười theo vào.

Trừ Viên đi sát theo sau, mắt nhìn sáu phương, tai nghe tám hướng, tay siết chặt chuôi kiếm, vừa đề phòng thích khách hành hung phạm giá, vừa đề phòng khách làng chơi say rượu giành gái. Nếu có tên nào ghen ẩu, dĩ nhiên hắn sẽ lập tức thi triển Đạt Ma Kiếm Pháp mà chém giết cho tả tơi hoa lá, manh giáp không còn. Lần này Trừ Viên cẩn thận cột quần bằng một sợi xích sắt, không sợ Vô Trần dùng trường kiếm cắt đứt dây lưng nữa.

Trong cổng là một khu vườn, vừa bước vào là thấy ngay hương hoa bay vào mũi, bóng cây đu đưa dưới đất. Trong vườn có hai cây quế, hoa quế đang nở rộ. Càn Long theo Ngọc Như Ý vào một căn phòng nhỏ, trong nhà có đèn cầy thắp sáng, bài trí cũng khá thanh nhã.

Bạch Chấn tra xét khắp chỗ trong phòng, xem xét tỉ mỉ dưới gầm giường, không có kẻ gian ẩn nấp, xoay ta gõ bốn vách để biết không có vách kép cửa lùa, rồi mới yên tâm lùa ra.

Một đứa a hoàn bưng thức ăn và rượu lên. Càn Long thấy tám đĩa đựng thịt ướp, gà nấu rượu, trứng bách thảo, dưa ngâm dấm, đều là những món ăn nhẹ buổi tối, so với thịt cá trong cung thì phong vị thanh nhã hơn nhiều. Lúc này bọn Bạch Chấn tuần tra bên ngoài, trong phòng chỉ còn một mình Hòa Thân phục vụ. Càn Long phẩy ta một cái, đuổi hắn ra ngoài nốt.

A hoàn rót hai chén rượu. Đây là Nữ Trinh cất lâu năm, chỉ một giọt là bay mùi thơm ngát. Ngọc Như Ý cạn trước một chén, mỉm cười nói: “Đông Phương lão gia! Hôm nay thiếp phải tạ ơn lão gia như thế nào đây?”

Càn Long cũng nâng chén uống cạn, cười đáp: “Nàng hát một bài trước đã, còn tạ ơn cách nào thì lát nữa chúng ta sẽ từ từ mà tính.”

Ngọc Như Ý lấy đờn tỳ bà xuống, nhẹ nhàng vuốt khẽ dây đàn. Tiếng đàn dìu dặt vang lên, rồi mỹ nhân cất tiếng: “Gió lạnh cắt da; Đường trơn như mỡ…” Đó là bài Thiếu Niên Du của Chu Mỹ Thành, Càn Long mới nghe hai câu đã mặt mày rạng rỡ.

Năm xưa hoàng đế Tống Huy Tông ban đêm ra khỏi hoàng cung, lẻ tới nhà danh kỹ Lý Sư Sư, đem cho mỹ nhân mấy trái cam quý. Lý Sư Sư muốn giữ hoàng đế ở lại qua đêm, bèn dịu dàng nói: “Gió lạnh cắt da; Đường trơn như mỡ; Sương khuya xuống như mưa đổ; Người ơi người ở đừng về.” Chẳng ngờ mấy câu này lọt vào tai thi sĩ Chu Mỹ Thành nằm ở phòng bên, rồi được phổ thành một bài ca nổi tiếng. Về sau Tống Huy Tông bị quân Kim bắt đi rồi bỏ xác xứ người, nhưng câu chuyện phong lưu này vẫn lưu truyền đến ngày nay.

Tống Huy Tông cũng là một hoàng đế có văn tài. Càn Long nghĩ bụng, mình với người xưa không chênh lệch bao nhiêu, diễm phúc đêm nay lại càng giống hệt. Y liền gân cổ hát theo: “Sương khuya xuống như mưa đổ; Người ơi người đuổi không về.”

Trong phòng thì hoàng đế khoan khoái uống rượu nghe hát, còn bên ngoài thì bọn Bạch Chấn bận bịu rối rắm như ngày hội. Thủy lục đề Lý Khả Tú vừa bị cách chức lưu nhiệm, đang cố công chuộc tội bằng cách thống lĩnh binh lính vây chặt từ đầu hẻm đến cuối hẻm. Toàn bộ tổng binh, phó tướng, tham tướng, du kích dưới tay hắn chia nhau lục soát hết mọi hộ gia đình trong con hẻm này, chỉ trừ lại căn nhà của Ngọc Như Ý là không xét. Bạch Chấn thì dẫn thị vệ tuần tra trên mái nhà. Bốn phía xung quanh đều bố trí cung tên và quân thiết giáp, bao vây nhiều tầng nhiều lớp.

Xưa nay khách vào lầu xanh phải tới hàng ngàn hàng vạn, nhưng dứt khoát lần chơi kỹ viện này của Càn Long là quy mô nhất, chẳng những người trước không bằng mà mãi mãi về sau cũng không ai hơn được. Người đời sau có thơ diễn tả tình hình lúc đó:

Vây chặt tầng tầng thiết giáp

Sáng lòe lớp lớp đao thương

Dốc lòng trung báo đáp quân vương

Quyết phò chúa bình an hưởng lạc

Trên hồ mày đưa mắt biếc

Về phòng trăng gió lả lơi

Cứ thỏa tình phỉ chí ai ơi

Nóc nhà có Kim Câu Thiết Chưởng.

Quan quân và thị vệ bận rộn từ nửa đêm mãi đến sáng sớm, may mà được bình yên vô sự, ngay cả gà chó cũng không dám làm ồn.

Mặt trời lên cao, Hòa Thân mới khẽ khàng đến cửa phòng Ngọc Như Ý, ghé mắt vào khe cửa sổ nhìn vào. Hắn thấy dưới chân giường có đôi giày của Càn Long và một đôi hài nhỏ xíu thêu hoa, màn vẫn còn buông rủ, hoàn toàn không có tiếng người, bèn lè lưỡi lùi ra phòng khách.

Nào ngờ hắn đợi từ giờ Mão qua giờ Thìn, đến giờ Tỵ mà vẫn chưa thấy hoàng thượng dậy, không khỏi lo lắng trong lòng, bèn đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: “Lão gia! Lão gia! Đến giờ ăn sáng rồi!” Gọi liền mấy tiếng mà bên trong vẫn không có tiếng trả lời.

Hòa Thân kinh hãi bước tới định đẩy cửa phòng, nhưng bên trong cài chốt nênm không đẩy được. Hắn gọi lớn thêm hai tiếng: “Lão gia! Lão gia!” mà trong phòng vẫn không thấy trả lời.

Hòa Thân lo lắng vô cùng, nhưng không dám đập cửa hay phá cửa vào, bèn ra ngoài bàn bạc với Lý Khả Tú và Bạch Chấn. Lý Khả Tú nói: “Chúng ta nhờ bà lão gọi cửa rồi đưa đồ điểm tâm vào, chắc hoàng thượng không trách.”

Bạch Chấn khen: “Lý tướng quân thật có nhiều diệu kế.” Ba người rủ nhau đi tìm bà lão, không ngờ cả cái ổ nhện này không có người nào.

Bọn chúng kinh hãi, biết hỏng việc rồi, liền đến gõ cửa phòng Ngọc Như Ý, càng gõ càng mạnh tay, nhưng bên trong vẫn không có tiếng động. Lý Khả Tú bảo: “Phá cửa!” Bạch Chấn vận sức lên song chưởng, ấn khẽ một cái là chốt cửa gãy nghe răng rắc.

Hòa Thân bước vào, nhẹn nhàng vén rèm ra nhìn, rồi ngất xỉu tại chỗ. Trên giường chăn đện lộn xộn, Càn Long và Ngọc Như Ý đã biến đâu rồi.

Bạch Chấn bèn gọi thị vệ vào lục soát trong nhà ngoài vườn, không có ngăn kéo nào là không xem xét tỉ mỉ, nhưng một chút xíu manh mối cũng không thấy. Cả bọn vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên, suốt đêm phòng thủ nghiêm mật, một con chim bay vào bay ra cũng không lọt khỏi mắt, làm sao mà hoàng thượng mất tích được?”

Bạch Chấn lại kiểm tra một lượt các bức tường, xem có vách kéo cửa lùa hay cơ quan gì khác không, nhưng gõ mất nửa ngày vẫn không thấy chỗ nào đáng nghi.

Chẳng bao lâu, Phúc Khang An thống lĩnh ngự lâm quân và tuần phủ Triết Giang cũng được mật báo đến đây. Mọi người tập hợp trong lầu xanh, tay chân bối rối, hồn phách chơi xa, mặt tái như gà chết, ngơ ngác chẳng khác gì một bầy gà bằng gỗ.

Đúng là: “Hoàng thượng bất tri hà xứ khứ; Thử địa không dư tượng nha sàng.”

Vua Thanh ai bắt đi đâu;

Mà đây ổ nhện thanh lầu còn trơ;

Vua Thanh đi mất từ khuya;

Tổng binh thị vệ bây giờ còn đây;

Càn Long thân thể phơi bày;

Bãi xa Như Ý xanh đầy cỏ non;

Hoàng cung khuất bóng hoàng hôn;

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.(9)

Đêm đó Càn Long nghe Ngọc Như Ý hát một bài, uống cạn mấy chén rượu, tình cảm nổi dậy tràn trề, dằn không nổi nữa. Ngọc Như Ý cười đầy khêu gợi rồi thỏ thẻ nói: “Bây giờ tiện thiếp phục thị lão gia đi nghỉ nhé.” Càn Long mỉm cười gật đầu.

Ngọc Như Ý trút bỏ y phục giày dép cho Càn Long, dìu hắn năm trên giường, kéo mền đắp kín, rồi mỉm cười nói: “Tiện thiếp ra ngoài sửa soạn một chút, rồi trở lại ngay.”

Càn Long hít thở mùi hương u nhã của chăn gối, lim dim tưởng tượng đến những gì sắp xảy ra. Trong lúc mơ hồ, hắn nghe thấy trước giường có tiếng động, bèn mỉm cười nói: “Cô bé nghịch ngợm tai quái kia, còn không lên đây cho lẹ?”

Màn được vén ra, một cái đầu thò vào trong. Dưới ánh nến thấy rõ khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt, cặp mắt ốc nhồi trợn lên tròn xoe, dưới cằm thì râu ria rậm rạp hệt như con nhím. Thấy bộ mặt này thì cá cũng chìm, chim cũng rớt, nhưng hoàn toàn không giống vẻ trầm ngư lạc nhạn của Ngọc Như Ý. Càn Long tưởng mình bị hoa mắt, vừa đưa tay lên xoa xoa một chút, người kia đã móc ra một ngọn trủy thủ sáng loáng kề ngay vào cổ, nói rất khẽ: “Con mẹ nó! Tên hoàng đế chó má kia, ngươi mà lên tiếng là lão gia cho ăn dao lập tức.”

Nỗi bàng hoàng của Càn Long thật là không sao tả nổi. Lửa dục của hắn tắt ngấm trong nháy mắt, giống như bị xối một thùng nước lạnh từ đỉnh đầu tới chân. Người kia không nói năng gì nữa, lôi ra một chiếc khăn tọng ngay vào miệng Càn Long, rồi lấy chăn quấn hắn từ đầu đến chân như một đòn bánh, xách ra khỏi giường.

Càn Long không dám kêu là mà cũng không dám động đậy, mở to ra nhìn mà chỉ thấy trước mặt hoàn toàn đen tối. Hắn cảm thấy bị xách đi thấp dần xuống dưới, mũi ngửi thấy mùi đất ẩm thấp mốc meo, hồi lâu lại cảm thấy lên cao. Bây giờ hắn mới hiểu, thì ra bọn này đào đường hầm dưới đất chui lên vào trong phòng, nên không bị quan quân thị vệ cản trở.

Càn Long hiểu ra, bủn rủn cả tay chân. Sau đó hắn bị quẳng lên xe ngựa, rồi nghe tiếng bánh xe lăn lọc cọc. Hắn không biết bọn nào cả gan đại nghịch mưu phản, cùng không biết mình bị đem đi về đâu.

Xe đi một lúc thì đến đoạn đường gồ ghề, dằn xóc dữ dội, hình như đã ra ngoại thành. Khoảng nửa ngày thì xe ngựa đột nhiên dừng lại. Càn Long cảm thấy bị người ta khiêng đi càng lúc càng cao, lên mãi không dừng. Trong lòng hắn muôn phần sợ hãi, run bần bật cả tấm chăn, cơ hồ muốn khóc.

Lên mãi lên mãi, như đang trèo lên một ngọn núi rất cao, rồi đột nhiên hắn bị quẳng xuống đất đánh rầm một tiếng. Càn Long không dám nói năng gì, mà có dám thì cũng không nói được, chỉ biết im lặng mà chờ đợi. Rất lâu vẫn không thấy ai đến xỉa tới mình, Càn Long mới kéo mép chăn hở một chút, hé mắt nhìn ra ngoài.

Xung quanh tối thui chẳng thấy gì, chỉ nghe tiếng sóng xa xa vọng đến. Chú ý hơn thì tiếng chuông đồng thánh thót. Gió ngày càng lớn, thổi vào đến tận chỗ nằm. Hắn thấy mặt dưới lưng nhè nhẹ lắc lư, lại càng sợ hãi, bèn đẩy chăn ra toan đứng dậy xem thử đây là chỗ nào.

Hắn vừa động đậy hơi mạnh, trong bóng tối bỗng có một giọng trầm cất lên: “Muốn toàn mạng thì đừng nhúc nhích.” Dĩ nhiên ở đó đã có người canh gác từ lâu. Càn Long sợ quá, không dám động đậy nữa.

Cứ thế mà nằm suy nghĩ miên man, hồi lâu gió khuya nhẹ bớt, bầu trời sáng dần. Càn Long nhận ra mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ. Nhưng rõ ràng hôm qua mình bị đưa lên rất cao, chẳng lẽ là một căn nhà trên núi hay sao? Đột nhiên hắn nghe thấy tiếng húp soàn soạt, quay lại nhìn thì thấy hai người canh gác đang ăn mì, há miệng to gắp từng đũa lớn. Càn Long bị dày vò suốt đêm, bây giờ đã thấy hơi đói. Nghe hương thơm của mì truyền đến từng cơn, bất giác nước bọt hắn ứa ra.

Lát sau, hai người kia ăn mình xong, một người bước tới đặt một tô mình trước mặt hắn, cách khoảng năm thước, trong tô cắm sẵn một đôi đũa. Càn Long nghĩ chắc đây là món ăn của mình, nhưng không nghe hai người đó nói năng gì, nên tuy đói mà cũng không tiện mở miệng hỏi xin.

Người kia lên tiếng: “Cho ngươi tô mì này, không có thuốc độc đâu.”

Càn Long cả mừng, ngồi dậy muốn lấy ăn, nhưng đột nhiên thấy da mình mát rượi, lập tức chui trở vào chăn. Thì ra đêm qua lúc Ngọc Như Ý phục thị hắn đi ngủ, nàng đã lột sách sẽ quần áo trên dưới trong ngoài của hắn. Bây giờ trên người hắn không có tới một sợi chỉ, làm sao dám chui ra khỏi chăn để ăn mì trước mặt mấy người này?

Người kia la lên: “Con mẹ nó! Thì ra ngươi sợ bị đánh thuốc độc. Để ta ăn cho ngươi xem!” Y lập tức bưng tô mì đó lên, húp sạch cả nước lẫn cái.

Người này mặt mày đầy sẹo, thần sắc rất nghiêm. Càn Long hơi run giọng nói: “Trên người trẫm không có y phục, nhờ ngươi mang đến một bộ đồ.” Tuy trong câu nói có một chữ “nhờ”, nhưng vẫn giữ được khẩu khí của hoàng đế.

Người kia hừ một tiếng rồi nói: “Lão gia không rảnh.” Đây chính là Quỷ Kiến Sầu Thập Nhị Lang Thạch Song Anh. Thần sắc y quỷ nhìn còn sợ, đừng nói con người.

Càn Long lập tức muốn nổi giận, nhưng nghĩ lại tính mạng mình đang nằm trong tay ngườikhác, oai nghi vương giả tạm thời gác lại thì hơn. Hắn đợi một lúc rồi nói: “Các ngươi là nhân vật Hồng Hoa Hội phải không? Ta muốn gặp Trần thủ lãnh của các ngươi.”

Thạch Song Anh lạnh lùng nói: “Văn tứ ca của bọn ta đã bị ngươi hành hạ cho thương tích đầy mình. Tổng đà chủ đang mời đại phu trị bịnh cho huynh ấy, không rảnh để gặp ngươi. Đợi Văn tứ ca khỏe mạnh hoàn toàn rồi hãy nói chuyện.” Càn Long nghĩ bụng, không biết phải đợi đến ngày nào tháng nào vết thương của họ Văn mới lành hẳn, không nén nỗi âm thầm lo lắng.

Một giọng khác vừa thô hào vừa oai nghiêm cất lên: “Nếu Tứ gia trị không khỏi mà phải quy tiên, lúc đó chúng ta chỉ còn cách bắt ngươi đền mạng.” Người này là Thiết tháp Dương Thành Hiệp. Đây không phải là lời hù họa, thật sự xuất phát tự đáy lòng. Càn Long không biết đường trả lời, đành giả vờ như không nghe thấy.

Hai người Dương Thạch không nói gì với Càn Long nữa, chuyển qua chửi mắng bọn rợ Mãn Châu chiếm đóng giang sơn người Hán, bọn quan lại thổ hào bức hiếp lương dân. Câu nào cũng trách mắng nặng nền, Càn Long càng nghe càng kinh tâm động phách.

Đến giờ Ngọ, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Khang đến thay phiên canh gác. Hai người vừa ăn cơm vừa kể chuyện bọn quan phủ tra khảo lương dân, dụng hình ác độ lấy tăm tre cắm vào móng tay, lấy sắt nung áp vào mông cho cháy khét thịt da, dùng kẹp mà kẹp rớt từng lóng tay một, diễn tả lâm ly sâu sắc như xảy ra trước mắt. Cuối cùng Mạnh Kiện Hùng kết luận một câu: “Sau này chúng ta quyết bắt cho hết bọn tham quan ô lại, cho chúng nếm thử mùi vị như thế.”

An Kiện Khang hưởng ứng: “Cần nhất là bắt tên đầu sỏ của bọn tham quan, cắm tăm vào mười đầu ngón tay, rồi đốt cháy mông đít của hắn.”

Hôm đó đúng là ngày dài nhất trong đời Càn Long, hắn cố gắng lắm mới chịu đựng nổi đến xế chiều. Người thay phiên gác là Thường thị song hiệp. Hai anh em khi mới bước vào thì chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi nốc rượu tì tì. Lát sau hơi men bốc lên, họ đem những câu chuyện báo thù ghê gớm trên chốn giang hồ ra kể.

Trại chủ Hắc Hổ Can năm xưa sa cơ bị bắt, sau khi vượt ngục lập tức móc lấy cặp mắt của Triệu tri phủ, người đã bắt ông ta. Bạch Mã Tôn Thất ở Sơn Tây vì trả thù cho ca ca mà chôn sống cả nhà của kẻ thù. Trịnh Đại Khoa Tử là sư đệ Trương Đức Phủ mà dám tằng tịu với tình nhân của sư huynh, họ Trương bèn chém sư đệ của mình chín đao ngang, chín đao dọc, chia thành tám mươi mốt miếng. Lúc này Càn Long vừa đói vừa sợ, bịt tai lại cố không nghe, nhưng những chuyện đó vẫn ghi vào đầu không sót câu nào.

Anh em họ Thường càng nói càng cao hứng, ngồi lảm nhảm đến tận sáng hôm sau, suốt đêm thóa mạ không biết mấy ngàn câu đồ con rùa, thằng chết giẫm. May mà họ biết Càn Long là anh ruột của tổng đà chủ, nên mới không dám động chạm đến ông bà cha mẹ của hắn.

Thường thị song hiệp ngoại hình dễ sợ, dưới ánh đèn lù mù trông như một cặp ma sống, khiến người ta không lạnh mà phải dựng hết tóc gáy lên. Càn Long suốt đêm không sao chợp mắt.

Sáng hôm sau, Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa đến đổi phiên. Càn Long thấy một người hiền hòa, một người tuấn tú, không giống như đám hung thần ác sát hôm qua, lại đã từng gặp ở Tây Hồ nên đỡ sợ một chút. Hắn đã đói đến mức không chịu nổi, liền bảo Triệu Bán Sơn: “Ta muốn gặp Trần thủ lãnh của các ngươi, làm phiền thông báo giùm một tiếng.”

Triệu Bán Sơn đáp: “Tổng đà chủ hôm nay không rảnh, vài ngày nữa mới gặp được.”

Càn Long thầm nghĩ: “Mới có một ngày đã thế, thêm vài ngày nữa, biết ta còn sống để gặp hay không?” Hắn bèn nói: “Vậy phiền ngươi lấy cho trẫm thứ gì ăn cho đỡ đói đã.”

Triệu Bán Sơn gật đầu, rồi lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia muốn dùng ngự thiện, mau mau bày tiệc lên đây.” Vệ Xuân Hoa dạ một tiếng rồi đi ra ngoài.

Càn Long cả mừng, lại bảo: “Lại phiền ngươi tìm cho trẫm một bộ quần áo.”

Triệu Bán Sơn lại lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia muốn thay đổi y phục, mau lấy long bào.”

Càn Long hoan hỉ nói: “Ngươi đúng là hảo nhân. Mau cho biết tên, sau này nhất định trẫm sẽ ban thưởng.” Triệu Bán Sơn mỉm cười không đáp. Càn Long đột nhiên nhớ ra, bèn nói: “À, trẫm nhớ ra rồi. Công phu ám khí của ngươi khá lắm.”

Mạnh Kiện Hùng đem một bộ y phục vào, đặt trên chăn. Càn Long ngồi dậy, nhìn thấy rõ ràng đây là sắc phục người Hán kiểu đời Minh, không khỏi ngần ngừ một chút. Triệu Bán Sơn nói: “Bọn ta chỉ có loại quần áo này, ông mặc hay không thì tùy.”

Càn Long nghĩ: “Ta là hoàng đế Mãn Thanh, sao có thể mặc sắc phục triều Minh?” Nhưng hắn không thể không mặc, vì không mặc quần áo thì không dám ngồi dậy mà ăn uống. Nhịn một ngày hai đêm, đói rã ruột rồi, Càn Long đành bất chấp mọi sự, khoác y phục vào người. Hắn không quen mặc quần áo người Hán, nhưng mặc vào trông vẫn rất tiêu sái.

Càn Long đứng dậy đi mấy bước, nhìn qua cửa sổ bất giác hoảng sợ nhảy chồm lên. Xa tít phía dưới có những cánh buồm nhỏ xíu lững lờ trên mặt sông, cây cối rậm rạp đều thấp hơn tầm mắt, ruộng vườn giống như bàn cờ trải tới chân trời, thì ra mình đang ở trên đỉnh một tòa tháp cao. Tòa tháp này cao ngất, lại ở bên bờ một con sông lớn, nhất định là tòa Lục Hòa Tháp nổi danh nhất Hàng Châu.

Đợi thêm hai giờ nữa mới có người tới báo: “Tiệc rượu đã bày xong, xin mời dùng bữa.” Càn Long theo Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa đi xuống tầng dưới, thấy giữa phòng bày một cái bàn tròn, trên bàn đã sắp chén đũa đàng hoàng sạch sẽ, bên bàn đã có mấy người ngồi, chừa lại ba chỗ trống. Mọi người thấy hắn xuống đều đứng dậy chắp tay đón tiếp. Càn Long thấy bọn này đột nhiên cung kính lễ phép, trong lòng âm thầm mừng rỡ.

Vô Trần đạo nhân lên tiếng: “Tổng đà chủ nói rằng vừa gặp hoàng thượng đã thấy như bạn cũ, đúng là có duyên, nên mới mời hoàng thượng đến tòa tháp này ở chơi mấy ngày, để tiện hàn huyên đàm đạo suốt đêm. Nào ngờ tổng đà chủ đột nhiên có việc quan trọng phải lam, không thể phân thân nên bảo bần đạo chuyển lời xin lỗi. Xin hoàng thượng bỏ qua.” Càn Long ừ hử một tiếng, không hiểu có chịu bỏ qua hay không.

Vô Trầnmời ngồi, Càn Long ngồi ngay vào vị trí thủ tọa. Đợi gia nhân mang rượu lên, Vô Trần cầm bình rượu trên tay mà nói: “Huynh đệ bọn ta đều là người thô lỗ, không biết phải phục thị hoàng thượng thế nào cho đúng cách, xin hoàng thượng đừng trách tội.” Ông vừa nói vừa rót rượu.

Rót vừa đầy chén, Vô Trần đột nhiên đổi sắc mặt, lớn tiếng quát: “Hoàng thượng phải uống loại rượu thượng đẳng, ngươi đem thứ rượu nhạt thế này đến đây làm gì?” Rồi ông hất luôn chén rượu vào mặt tên gia nhân.

Tên này sợ hãi đáp: “Ở đây chỉ có loại rượu này thôi. Để tiểu nhân vào thành mua rượu ngon hơn.”

Vô Trần giục: “Đi nhanh lên, đi nhanh lên! Rượu thế này thì bọn người thô lỗ như chúng ta còn uống tạm một hai chén, hoàng thượng thì làm sao nuốt cho trôi được?” Từ Thiên Hoằng đón lấy bình rượu, vừa không ngớt xin lỗi Càn Long vừa rót rượu cho mọi người, chỉ chừa lại cái chén trước mặt Càn Long là để trống.

Lúc sau một tên gia nhân khác bưng lên bốn món ăn nóng hổi, nào là tôm xào, sườn non xào, cá chua ngọt, canh chua lươn, hương thơm sực nức bay ập vào mũi. Vô Trần hít hít mấy cái rồi chau mày hỏi: “Thức ăn này do ai nấu?”

Đầu bếp bước tới hai bước đáp: “Là tiểu nhân nấu.”

Vô Trần giận dữ nói: “Ngươi là cái thá gì mà dám nấu cho hoàng thượng ăn? Sao không mời ngự trù Trương An Quang tới đây để nấu mấy món Tô Châu? Những thứ thô thiển ở Hàng Châu này, hoàng thượng làm sao mà ăn được?”

Càn Long sợ quá, vội nói: “Mấy món này đủ cả màu sắc hương vị, không thể gọi là thô thiển được.” Nói xong, hắn đưa đũa ra gắp ngay.

Lục Phi Thanh ngồi cạnh, đưa đũa ra cản rồi nói: “Những thứ thô thiển này hoàng thượng không nên ăn, dễ bị đau bụng lắm.” Ông dùng đũa gặp vào đôi đũa của Càn Long, nhìn rất nhẹ nhàng nhưng đũa của Càn Long đã gãy mất một khúc.

Quần hùng thấy Lục Phi Thanh vận công mà không để lộ ra ngoài mặt, ai cũng thán phục trong lòng. Vô Trần nghĩ: “Võ công sư đệ Trương Triệu Trọng của ông ấy có thể gọi là cao, nhưng nói về nội công thì chắc chắn không bằng sư huynh được. Miên Lý Châm quả nhiên danh bất hư truyền.”

Đôi đũa của Càn Long bị Lục Phi Thanh kẹp gãy, đưa ra không tiện mà rút vào cũng khó coi. Hắn lập tức đỏ mặt tía tai, ném hai khúc đũa gãy trên bàn nghe cạch một tiếng. Mọi người giả vờ không thấy, mời mọc nhau một hồi rồi bắt đầu ăn uống.

Từ Thiên Hoằng bảo tên đầu bếp: “Mau mau đi mời Trương An Quang đến đây nấu mấy món ngự thiện. Giờ này đã quá bữa hoàng thượng rồi, ngươi có biết không?” Đầu bếp vâng dạ mấy tiếng rồi lùi ra.

Càn Long đã biết họ cố ý trêu ghẹo mình. Hắn bụng đói như cào mà phải ngồi nhìn mọi người ăn uống vừa khen ngon, trong lòng tức hận nhưng không dám phát tác. Thức ăn bưng lên hết món này đến món khác, nhà bếp đặt ngay trong tháp nên món nào cũng vừa nóng hổi vừa thơm phức. Càn Long ngồi nuốt nước bốt mà đợi mọi người ăn xong bữa tiệc, thật không dễ dàng.

Cuối cùng, gia nhân bưng trà Long Tĩnh lên. Từ Thiên Hoằng nói: “Trà này không đến nỗi tồi, hoàng thượng có thể uống tạm mấy chung.” Càn Long đón lấy uống hai hớp. Bụng trống mà uống trà đặc vào, bao tử cồn cào lại càng cảm thấy đói thêm một mức.

Tưởng Tứ Cân đứng dậy, vừa xoa xoa bụng mình vừa lớn tiếng than: “No quá!”

Triệu Bán Sơn nói: “Bọn gia nhân đang gấp rút lo ngự thiện, xin hoàng thượng đợi một chốc nữa.”

Vô Trần đứng bên cứ giậm chân cằn nhằn là đón tiếp khách quý không được chu đáo, tổng đà chủ trở về nhất định sẽ không vui. Chu Trọng Anh thì vừa lắc hai quả thiết đảm leng keng vừa hỏi: “Hoàng thượng đã đói bụng chưa?”

Càn Long hừ mũi một tiếng, không nói gì. Tưởng Tứ Cân hỏi: “Ủa, có người đói hả? Ta đang no quá đây.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Vậy mới nói là người no không biết cái khổ của người đói. Bá tánh khắp thiên hạ bị đói không biết mấy ngàn mấy vạn, những người lo việc triều chính có bao giờ nghĩ đếncái khổ của họ không? Hôm nay hoàng thượng nhịn đói chút ít, để sau này hiểu được bá tánh bị đói là khổ sở thế nào.”

Thường Bá Chí nói: “Người ta thì đói hết tháng này qua tháng khác, từ năm này qua năm khác, suốt đời không được một bữa no. Hắn chỉ một ngày hai ngày chưa ăn, cơn đói có chi đáng kể.”

Thường Hách Chí nói: “Anh em ta hồi nhỏ đã có lần phải ăn rễ cỏ lá cây liền hai tháng. Con rùa kia, có muốn thử một lần không?”

Đa số quần hùng Hồng Hoa Hội đều xuất thân con nhà nghèo khổ. Nhắc đến chuyện đói bụng, ai cũng nhớ lại những chuyện quá khứ, tất cả đều bốc lửa giận lên. Nghe người này một câu, người kia một câu, sắc mặt Càn Long từ đỏ biến thành xanh rồi từ xanh trở lại đỏ. Hắn nghe họ kể đầy vẻ chân thật, cũng không khỏi động lòng thương xót, nghĩ thầm: “Quả thật trên đời có những việc thê thảm như thế hay sao? Sinh ra làm con nhà nghèo, thật là muôn phần không may.”

Hắn càng nghe càng thấy khó chịu, bèn đứng dậy đi lên tầng trên. Quần hùng không ai cản trở, Từ Thiên Hoằng nói với theo: “Lát nữa ngự thiện chuẩn bị xong, lại xin tiếp giá.” Càn Long mặc kệ không nghe.

Nhịn thêm hai giờ nữa, Càn Long đột nhiên ngửi thấy mùi thơm của thịt dê xào tỏi ớt, rõ ràng là món ruột của ngự trù Trương An Quang. Hắn vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, chẳng lẽ bọn này mời ngự trù đến thật hay sao? Đang suy nghĩ thì Trương An Quang đã trèo lên, nằm rạp xuống đất dập đầu rồi nói: “Mời hoàng thượng dùng bữa.”

Càn Long ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi lại đến đây?”

Trương An Quang đáp: “Hôm qua nô tài định đi nghe hát, vừa ra ngoài cửa đã bị bắt cóc ngay. Hôm nay nghe chúng nói hoàng thượng đang ở đây, cần nô tài phục thị, nô tài vui mừng khôn xiết.”

Càn Long gật đầu bước xuống tầng dưới, thấy trên bàn đã đặt sẵn một chén đậu hũ hầm với yến sào, một chén thịt dê xào tỏi ớt, một chén mì gà nấu măng, một chén thịt gà nấu cháo trắng, đều là những món thường ngày hắn thích ăn nhất. Ngoài ra còn có mười mấy món phụ nữa, vừa nhìn thấy nước bọt đã tuôn cuồn cuộn như nước Hoàng Hà.

Trương An Quang xới cơm, mọi người bọn Vô Trần đồng thanh nói: “Mời hoàng thượng dùng cơm.”

Càn Long nghĩ bụng: “Xem ra lần này họ mời ta ăn thật rồi.” Hắn đưa đũa lên, đột nhiên một cô nương khoảng mười tám mười chín tuổi ẵm một con mèo từ bên ngoài chạy vào, nói với Chu Trọng Anh: “Gia gia! Con mèo này đói quá rồi!”

Cô nương này chính là Chu Ỷ. Con mèo giãy giụa mấy cái, Chu Ỷ buông lỏng tay cho nó nhảy lên bàn. Nó ngoạm ngay hai miếng thức ăn, mọi người la hét om sòm cố đuổi đi. Đột nhiên con mèo duỗi thẳng bốn chân nằm cứng ngắc trên bàn, miệng ứa máu đen mà chết.

Càn Long lập tức biến sắc mặt. Trương An Quang sợ đến run rẩy, vội quỳ xuống nói: “Hoàng thượng… hoàng thượng… Thức ăn đã bị hạ độc rồi… ăn không được nữa.”

Càn Long cười ha hả rồi nói: “Các ngươi phạm thượng làm loạn, đại nghịch vô đạo, cả gan thí quân. Muốn giết thì cứ giết, cần gì hạ độc?” Hắn xô ghế ra, đứng phắt dậy.

Vô Trần hỏi: “Hoàng thượng thực sự không dám ăn bữa cơm này phải không?”

Càn Long giận dữ mắng: “Đồ loạn thần tặc tử! Ta phải xem các ngươi có kết cuộc thế nào?” Hắn nhìn thấy con mèo trúng độc, nghĩ rằng hôm nay mình chắc chết, nên mở miệng chửi mắng không kiêng nể gì nữa.

Vô Trần vỗ bàn một cái rồi nói: “Đại trượng phu sống chết có số, ngươi không dám ăn thì ta ăn. Ai có gan thì ăn chung với ta.” Nói xong, ông cầm đũa gắp vào đĩa con mèo vừa ăn, đưa lên miệng nhai nuốt ngon lành.

Quần hùng ngồi quanh đều kêu lên: “Chết thì cùng chết, có gì quan trọng đâu?” Mọi người cùng hăng say ăn uống. Càn Long thấy bọn này dám liều mạng ăn đồ có độc, ngạc nhiên không biết họ có dụng ý gì.

Chỉ chốc lát, quần hùng đã ăn sạch sẽ cơm và thức ăn trên bàn tiệc như bầy hổ đói, không ai bị làm sao cả. Thì ra họ đã hạ độc con mèo từ trước, còn trong thức ăn hoàn toàn không có độc. Thế là Càn Long thấy bàn tiệc ngon lành sắp tới miệng mình, nhưng không ăn được miếng nào mà còn bị chế nhạo một phen nữa.

Hôm ấy quần hùng thương nghị trên thuyền, tuy Văn Thái Lai đã cứu ra, nhưng Càn Long chắc chắn không chịu thôi, tìm cách để khỏi lo lắng về sau không phải là chuyện dễ. Vô Trần có ý kiến: “Không làm thì thôi làm thì phải làm đến nơi đến chốn. Chúng ta phải bắt cóc Càn Long, ép cho hắn không dám làm khó dễ Hồng Hoa Hội nữa.”

Lúc đó quần hùng đang cao hứng, ai cũng nổi hùng tâm tráng khí, lập tức quay lại Hàng Châu. May mà gặp lúc Tây Hồ sắp mở cuộc vui tuyển hoa trạng nguyên, họ bèn dùng kế dụ Càn Long lên giường của Ngọc Như Ý, rồi bắt cóc hắn tới đây.

Sau khi Văn Thái Lai bị bắt còn bị dao đâm cây đánh, thương tích đầy mình, quần hùng đều hận Càn Long. Hơn nữa Lạc Băng bị thương, Chu Trọng Anh mất con, Dư Ngư Đồng trọng bệnh, mọi việc đều từ đó mà ra cả. Ý kiến của Thường Thị Song Hiệp và Tưởng Tứ Cân là phải một đao lấy mạng Càn Long, không thì cũng phải đập một trận cho hả dạ. Nhưng Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng lấy đại cuộc làm trọng, cuối cùng đã khuyên mọi người chỉ nên hành hạ hắn một phen, một mặt là trả thù, hai là để hắn biết oai Hồng Hoa Hội. Sau này Trần Gia Lạc thương nghị đại sự, hắn sẽ dễ dàng chấp thuận hơn.

* * *

Hai ngày Càn Long bị bỏ đói, thành Hàng Châu bị lộn xộn cứ như trời đất đảo ngược. Tin tức hoàng thượng mất tích thì không ai dám tiết lộ ra ngoài, nhưng cả thành bị lùng xét triệt để. Mọi đường thủy lục rời khỏi Hàng Châu đều có binh lính canh giữ, không để một ai ra ngoài. Hai ngày này trong ngoài thành bắt được tới mấy ngàn kẻ tình nghi, mọi nhà ngục đều nhét chật người.

Dĩ nhiên các quan phụ mẫu địa phương có để ý lưu tâm bắt không ít thương gia có máu mặt nhốt vào tù để tống tiền. Đây là vì đại sự trung thân ái quốc, chắc chắn sau này không ai truy cứu.

Phúc Khang An, Lý Khả Tú, Bạch Chấn cùng đám đại thần hộ giá đều giống như kiến bò chảo nóng, thấy hoàng đế mất tích kỳ lạ mà không biết làm gì cho phải. Chúng tin chắc là Hồng Hoa Hội phạm giá, nên lập tức lùng xét khắp nơi. Nào ngờ hội chúng Hồng Hoa Hội trong thành và trong quân ngũ đều đã ẩn náu hoặc trốn đi lánh nạn, không bắt được người nào.

Đến sáng ngày thứ ba, Phúc An Khang lại triệu tập cả bọn vào dinh tuần phủ. Tên nào cũng rầu rĩ, hoàn toàn không có kế sách gì. Ngay cả việc có nên cấp báo cho hoàng thái hậu hay không, chúng cũng chưa quyết định được. Chuyện này quá lớn, chắc chắn không thể giấu giếm, nhưng bây giờ mà báo cáo thì hậu quả sẽ ra sao, không tên nào dám tưởng tượng.

Đang lúc trù trừ chưa quyết, đột nhiên ngự tiền thị vệ Thoại Đại Lâm mặt trắng như tờ giấy vội vã chạy tới, kề tai Bạch Chấn thì thầm rất nhỏ. Bạch Chấn lập tức đổi sắc mặt, đứng bật dậy hỏi: “Thật ư?”

Phúc An Khang hỏi rõ, Thoại Đại Lâm mới kể là sáu tên thị vệ canh giữ bên ngoài phòng ngủ của hoàng thượng đột nhiên bị giết. Phúc An Khang không những không kinh hãi mà còn ra vẻ hoan hỉ, lên tiếng: “Chúng ta đi xem thử. Việc này chắc chắn có liên quan đến vụ mất tích của hoàng thượng, không chừng có thể tìm được chút ít manh mối.

Cả bọn kéo nhau vào phòng ngủ của Càn Long trong dinh tuần phủ. Thoại Đại Lâm vừa đẩy cửa ra, mùi máu tươi lập tức xông vào mũi. Dưới đất có sáu cái thi thể nằm lăn lóc, cái thì lòi mắt ra ngoài, cái thì thủng lỗ trước ngực, trông vừa thê thảm vừa đáng sợ.

Mỗi khi Càn Long ngủ trong này, bao giờ cũng có sáu thị vệ canh giữ bên ngoài. Tuy hoàng đế mất tích nhưng bọn thị vệ vẫn đổi phiên gác như bình thường, nào ngờ phiên canh này bị giết sạch trong đêm.

Bạch Chấn hỏi: “Sáu anh em này cũng không phải tay vừa, sao lại bị giết hết mà không kịp lên tiếng báo động?” Cả đám chỉ biết giương mắt há mồm, không ai đoán được gì.

Bạch Chấn quan sátn kỹ thi thể, thấy có người bị chưởng lực đánh chết, có người bị kiếm vạt mất nửa cái đầu. Binh khí cả sáu còn nguyên trong bọc, chưa kịp rút ra. Rõ ràng thân thủ của thích khách cực kỳ nhanh chóng, bọn thị vệ không kịp hô hoán hay chống đỡ gì thì đã mất mạng rồi.

Bạch Chấn cau mày nói: “Phòng này không đủ chỗ cho nhiều người loạn đấu. Bọn thích khách tối đa chỉ có hai ba tên, vừa đột nhập đã giết xong sáu huynh đệ. Chúng xuất thủ vừa nhanh vừa độc, xem ra võ công cực cao.”

Lý Khả Tú nói: “Hoàng thượng đã bị mời đi, hà tất phải giết thêm sáu tên thị vệ. Hình như thích khách đêm qua và bọn bắt cóc hoàng thượng không phải cùng phe.”

Phúc An Khang gật đầu nói: “Không sai! Bọn thích khách này cũng tính chuyện đại nghịch mưu phản, nhưng chúng không biết hoàng thượng không có ở đây.”

Bạch Chấn nói: “Hai vị nghĩ rất đúng. Nếu người giết bọn thị vệ này là Hồng Hoa Hội thì chắc chắn hoàng thượng rơi vào tay người khác, nhưng ngoài Hồng Hoa Hội thì còn ai đủ gan làm chuyện đại nghịch bất đạo này? Còn nếu Hồng Hoa Hội bắt cóc hoàng thượng, thì còn ai võ công cao cường như thế nữa?” Hắn nghĩ, chỉ một mình Hồng Hoa Hội đã khó mà đối phó, bây giờ lại đột nhiên xuất hiện thêm cường địch, bất giác run rẩy toàn thân.

Bạch Chấn cúi người xem xét tỉ mỉ, bỗng phát hiện trước ngực một thi thể có dấu vuốt chó cào rách, và răng chó cắn thủng. Hắn động tâm suy nghĩ chút xíu, rồi nhờ Lý Khả Tú sai người đi tìm chó săn.

Khoảng một giờ sau, sai dịch mang đến ba người thợ săn và sáu con chó. Lý Khả Tú triệu tập hai ngàn binh lính, chuẩn bị xuất phát. Bạch Chấn hạ lệnh cho thợ săn dẫn chó hít ngửi sáu cái thi thể một chút, rồi ra ngoài tìm kiếm.

Chó săn dẫn mọi người đi thẳng đến bờ hồ, rồi hướng xuống lòng hồ sủa loạn một hồi. Bạch Chấn lẩm nhẩm gật đầu, đoán biết thích khách có mang theo chó, giết thị vệ rồi sai chó dẫn đường truy tìm hoàng đế.

Mấy con chó săn sủa một hồi rồi chạy loạn xạ quanh hồ. Chúng tìm được dấu vết ở một chỗ đất ẩm ướt, đúng là nơi mà hoàng thượng đã lên bờ tìm xe ngựa quay trở về thành. Chỗ này cũng có sẵn dấu chân của người và chó rồi.

Trong thành đông người, mùi vị phức tạp, nên chó săn đi chậm lại. Chúng vừa chạy vừa đánh hơi, chạy thẳng đến nhà Ngọc Như Ý. Tòa lầu xanh này đêm trước đông nghẹt quan binh canh giữ, nhưng bây giờ không thấy ai nữa.

Cả bọn đẩy cổng vào, thấy trong vườn có hai thị vệ và mười mấy quan binh bị giết. Thích khách ra tay rất độc, không để lại người nào sống sót. Có mấy tên lính chết vì bị chó cắn đứt yết hầu. Bạch Chấn xem kỹ bộ vị thương tích trên thân thể, nghĩ bụng: “Con chó này rất cao lớn, nhiều phần là giống chó săn lai sói ở vùng quan ngoại. Chẳng lẽ thích khách từ quan ngoại hay vùng biên cương tây bắc vào đây?”

Sáu con chó săn chạy quanh mấy vòng trong phòng ngủ của Ngọc Như Ý, rồi đua nhau cào loạn xạ xuống sàn. Bạch Chấn nhìn tỉ mỉ nền nhà vẫn không thấy chỗ nào khác lạ, nhưng thấy đám chó vẫn không ngừng vừa cào vừa sủa, liền hạ lệnh cho binh lính dùng vũ khí nạy nền nhà lên. Phía dưới lộ ra một phiến đá.

Bạch Chấn vội bảo: “Cậy nhanh lên!” Binh lính cạy phiến đá lên, xuất hiện một cái hang lớn, đám chó săn lập tức chui xuống. Lý Khả Tú và Bạch Chấn nhìn thấy con đường hầm, bấy giờ mới đột nhiên tỉnh ngộ. Cả ngàn binh lính canh giữ xung quanh và trênmái lầu xanh, thế mà hoàng đế vẫn mất tích một cách quỷ không hay thần không biết, thì ra thích khách từ dưới đất chui lên. Hai tên này hổ thẹn ra mặt, chỉ huy binh lính tiếp tục truy lùng.

Hồi 11: Bảo tháp ngất trời thề cửu đinh – Khoái chiêu như điện tiếp song ưng

Càn Long vừa đói vừa sợ vừa giận hai ngày hai đêm trên đỉnh tháp Lục Hòa, cả sức khỏe lẫn tinh thần đều bị dày vò dằn vặt, thật là khốn đốn vô cùng.

Sáng sớm ngày thứ ba, một gã thư đồng vào tháp, đến gần hắn và nói:

– “Thiếu gia mời Đông Phương lão gia sang đàm đạo.”

Càn Long nhận ra thư đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc, mừng rỡ theo nó đi xuống lầu dưới. Hắn vừa tới cửa, Trần Gia Lạc đã tươi cười ra đón, chắp tay chào hỏi. Càn Long chắp tay trả lễ rồi vào trong. Tâm Nghiễn dâng trà lên, Trần Gia Lạc bảo nó mau dọn điểm tâm. Tâm Nghiễn bưng vào một cái khay, trong khay có một liễn bánh bao, một đĩa xíu mại thịt cua, một đĩa chả chiên giòn, một đĩa chạo tôm, một tô canh ngón sen gà xé. Khay chưa bưng tới, mùi thơm đã sực vào mũi.

Tâm Nghiễn sắp hai bộ chén đũa, rồi rót rượu.

Trần Gia Lạc nói:

– “Tiểu đệ phải đi thăm hương tích của một vị bằng hữu, nên đón tiếp có phần trễ nãi.

Xin ca ca thứ tội.”

Càn Long đáp:

– “Không cần nói vậy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Mời ca ca dùng mấy món điểm tâm thô lậu này trước, rồi tiểu đệ xin thỉnh giáo mấy điều.”

Càn Long trước nay thân thể khỏe mạnh, ăn uống như hùm. Hắn đã hai ngày hai đêm không có gì bỏ bụng, da bụng đã dán sát vào xương sống, làm sao mà nhẫn nại thêm nữa? Hắn đợi Trần Gia Lạc cầm đũa gắp trước một miếng bánh bao, rồi lập tức múa đũa như bay, nhanh gấp mười lần múa bút làm thơ, chỉ trong chốc lát đã ăn sạch sẽ bốn món điểm tâm, ngay cả bát canh cũng húp cạn đến trơ đáy chén.

Trần Gia Lạc chi gắp mỗi đĩa tí xíu, múc một muỗng canh rồi buông đũa, ngồi mỉm cười nhìn Càn Long ăn như rồng càn qua mâm. Càn Long ăn xong, thấy người dễ chịu khôn tả, bưng chén trà Long Tĩnh màu xanh bích lên uống từ từ chậm rãi. Chẳng những miệng lưỡi hắn ngọt ngào, mà ngay cả hơi ợ lên từ bao tử cũng thấy thơm tho.

Trần Gia Lạc đứng lên mở cửa rộng ra rồi nói:

– “Họ xuống dưới canh giữ cả rồi. Chúng ta nói chuyện ở đây là thích hợp nhất, chắc chắn không có người thứ ba nghe thấy.”

Càn Long nhăn hẳn mặt lại, trầm giọng hỏi thẳng:

– “Ngươi bắt cóc ta đến đây là muốn gì vậy?”

Trần Gia Lạc bước tới hai bước, nhìn thẳng vào mặt hắn. Càn Long cảm thấy ánh mắt của Trần Gia Lạc như tia điện, tựa hồ rọi thấu tận đáy lòng mình, không chịu nổi phải từ từ quay đi.

Hồi lâu, Trần Gia Lạc mới lên tiếng:

– “Ca ca! Chẳng lẽ đến bây giờ mà ca ca vẫn chưa chịu nhìn nhận đứa em này hay sao?”

Câu nói này âm điệu rất ôn hòa khẩn thiết, nhưng lọt vào tai Càn Long chẳng khác gì sấm động giữa trời quang. Hắn nhảy chồm lên, run giọng hỏi:

– “Ngươi… ngươi… ngươi nói gì?”

Sắc mặt Trần Gia Lạc đầy vẻ thành khẩn. Chàng từ từ đưa tay ra nắm chặt tay Càn Long, rồi nói:

– “Chúng ta là anh em ruột thịt. Ca ca không cần giấu giếm nữa, tiểu đệ biết cả rồi.”

Từ khi Văn Thái Lai trốn thoát, Càn Long đã biết là bí mật này không thể giữ được nữa. Nhưng khi nghe Trần Gia Lạc đột nhiên kêu mình là “ca ca”, hắn cũng không nén nổi run rẩy muôn phần, thân thể như không có sức, ngã ngồi phịch xuống ghế.

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Ca ca đến Hải Ninh tảo mộ, sai ngươi xây dựng công trình to tát để ngăn sóng biển, lại phong tặng song thân. Tiểu đệ biết ca ca không quên gốc rễ. Ca ca hãy tới đây, thử nhìn vào tấm gương này.”

Chàng kéo sợi dây ở cạnh một bức tranh treo trên tường. Bức tranh được cuộn lên, lộ ra một tấm gương lớn. Càn Long đứng dậy nhìn, thấy mình trong gương đang mặc y phục người Hán, thật sự không có dấu vết nào của dòng máu Mãn Châu. Hắn lại nhìn Trần Gia Lạc đứng bên, tuổi tác hai người tuy khác nhưng diện mạo có chỗ tương đồng. Càn Long thở ra một hơi, ngồi lại xuống ghế.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca! Huynh đệ chúng ta chưa biết gì nên mới động đao thương, gây chuyện cốt nhục tương tàn. Linh hồn của gia má trên trời nhất định đau lòng. May mà chưa gây ra những chuyện không thể vãn hồi, cũng chưa ai bị thương tích.”

Càn Long cảm thấy khô môi ráo họng, tim đập thình thình, hồi lâu mới nói được:

– “Ta đã kêu hiền đệ vào kinh làm việc, mà đệ không chịu đi.”

Trần Gia Lạc quay lại nhìn xuống dòng sông bên dưới, không đáp.

Càn Long lại tiếp:

– “Ta đã sai điều tra, biết hiền đệ từng đỗ thi Hương, vị thứ rất cao. Dựa vào tài học của đệ, thi Hội thi Đình chắc chẳng khó gì, rồi sau này những chức Tuần Vũ, Thượng Thư, Đại học sĩ cũng không lý gì không tới được. Như thế thì đối với gia đình, đối với quốc gia, đối với đệ, đối với ta đều có ích cả, cần gì phải khổ sở làm những chuyện bất trung bất hiếu, đại nghịch vô đạo thế này?”

Đột nhiên Trần Gia Lạc quay lại, lên tiếng:

– “Ca ca! Tiểu đệ không nói ca ca bất trung bất hiếu đại nghịch vô đạo thì thôi, sao ca ca lại nói tiểu đệ như thế?”

Càn Long hỏi lại:

– “Thần đối với quân thì phải tận trung, phản quân tức là đại nghịch. Ta đã là quân vương, làm sao gọi là bất trung được?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Rõ ràng ca ca là người Hán, nhưng lại phục vụ cho bọn man di, như vậy có phải là trung hay không? Hồi song thân còn sống trên đời, ca ca không phụng thị đàng hoàng, hơn nữa ngày nào phụ thân vào triều cũng phải quỳ lạy ca ca. Trong lòng của ca ca có yên hay không? Như vậy có phải là hiếu hay không?”

Càn Long mồ hôi trán từng giọt từng giọt thấm ướt cả mặt, xuống giọng đáp:

– “Trước kia ta không biết. Mùa xuân năm nay cố thủ lĩnh Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội các ngươi vào cung, ta mới nghe nói. Bây giờ ta vẫn bán tín bán nghi, nhưng phận làm con thì thà tin là có chứ không dám nghi là không. Nếu tin lầm chẳng qua là mình ngu muội, còn nếu nghi lầm là bất hiếu. Vì thế ta mới đến Hải Ninh bái mộ.”

* * *

Thật ra vào mùa xuân năm nay, khi Vu Vạn Đình cùng Văn Thái Lai vào cung đã đem theo một lá thư của Trần phu nhân giao cho Càn Long. Trong thư kể tường tận chuyện đó xảy ra như thế nào, lại nhắc đến nốt son ở mông bên trái của hắn. Cái nốt đó là bằng chứng không sao cãi nổi, Càn Long vừa đọc thư đã tin hết chín phần rồi. Khi Vu Vạn Đình rời khỏi, hắn bí mật gọi nhũ mẫu Liêu thị năm xưa cho mình bú mớm lên hỏi, càng biết rõ tình hình hơn.

Vào ngày mười ba tháng tám năm Khang Hy thứ năm mươi, Tứ hoàng tử Nhậm Trinh và phúc tấn là Trác phi Nẫu Cô Lục Thị sinh hạ một đứa con gái. Ngay sau đó, Nhậm Trinh nghe nói phu nhân của đại thần Trần Thế Quang cũng sinh cùng ngày đó, bèn hạ lệnh mang con của Trần Thế Quang vào trong phủ để thăm hỏi. Nào ngờ khi ẵm vào là con trai, khi ẵm ra lại là con gái. Trần Thế Quang biết Tứ hoàng tử tráo con, không khỏi kinh hãi, nhưng không dám tiết lộ ra ngoài một câu nửa chữ.

Lúc đó đám con của Khang Hy đang tranh đoạt ngai vàng, hoặc công khai giành giật, hoặc âm thầm cấu xé, ai cũng dốc hết thủ đoạn. Tuy Khang Hy đã lập Nhị hoàng tử Nhậm Như làm thái tử, nhưng từ lâu đã muốn phế đi. Nhậm Trinh biết lúc này tâm ý phụ vương chưa quyết, vì đám anh em Nhậm Đề, Nhậm Tử, Nhậm Chỉ… tài cán so với mình đều làng nhàng như nhau, không ai vượt trội.

Lập tự là kế sách lâu dài. Khi chọn người thừa kế, hoàng thượng không những chỉ tính tới hoàng tử, mà phải nghĩ đến con trai của hoàng tử nữa. Lỡ khi thái tử chết sớm, thì hoàng tôn chính là hoàng đế tương lai. Lúc này Nhậm Trinh đã có hai đứa con trai. Đứa đầu là Hoàng Thời thì ngũ quan không ngay ngắn nên không được ông nội thương mến, mà lại chưa bị đậu mùa. Thời đó bệnh đậu mùa rất phổ biến, trẻ con mắc phải đậu mùa thì mười đứa chết năm, khỏi bệnh đậu mùa mới tin là nuôi được. Con của Nhậm Trinh chưa bị đậu mùa, coi như chưa có con trai, nên hắn ngày đêm mong mỏi có thể quý tử.

Nào ngờ đứa con trai là Hoàng Huy mới sinh ra đã chết ngay. Sau đó, Trác phi của Nhậm Trinh là Nẫu Cô Lục Thị có mang lần nữa. Hai vợ chồng cầu thần bái lạy, chỉ mong một đứa con trai, nào ngờ sinh ra con gái. Tình cờ lúc đó Trần Thế Quang được một đứa con trai, mặt sáng môi hồng, sắc thái thanh tú. Nhậm Trinh mặc kệ tất cả, vì thèm muốn ngôi hoàng đế nên dùng thủ đoạn đổi lấy đứa bé. Trong đám hoàng tử thì Nhậm Trinh nổi tiếng là thủ đoạn độc ác nhất. Trần Thế Quang làm sao dám lên tiếng? Đứa bé này được đặt tên là Hoàng Lịch.

Khi Khang Hy còn sống nó đã được phong làm Bảo Thân Vương, chính là Càn Long sau này. Càn Long từ nhỏ đã thông minh vũ dũng, mới sáu tuổi đã học thuộc lòng bài Ái Liên Thuyết. Lúc chín tuổi, xảy ra một việc khiến Khang Hy càng thương yêu hắn hơn nữa. Năm đó Hoàng Lịch theo ông nội đến Nhiệt Hà săn bắn. Quân cận vệ dồn từ trong núi ra một con gấu đen rất lớn, đuổi đến trước mặt hoàng đế. Khang Hy nâng cây súng hỏa thương lên, bắn trúng đầu con gấu đen, nó ngã lăn ra đất. Lúc Khang Hy bắn súng, Hoàng Lịch đang cưỡi một con ngựa nhỏ đứng bên ông nội. Cậu bé nhìn con gấu đen khủng khiếp như vậy mà không sợ hãi chút nào, cũng nâng cây súng của mình lên muốn thử sức.

Khang Hy thấy thế lấy làm thú vị, bèn bảo:

– “Cháu tới bắn nó một phát thử xem.”

Vì thương cháu nên Khang Hy mới bảo nó bắn, coi như nó giết chết con gấu đen, để về sau có thể khoe khoang trước mặt quần thần là hồi mình chín tuổi đã săn được gấu.

Hoàng Lịch xuống ngựa, chạy tới chỗ con gấu đen, kêu lớn:

– “Bắn chết mi! Bắn chết mi!”

Rồi nó nhắm vào bụng gấu bắn một phát. Bọn thị vệ lập tức hoan hô, Khang Hy cũng vuốt râu mỉm cười. Hoàng Lịch quay lưng lại, trèo lên ngựa trở về. Nào ngờ con gấu đen vẫn còn sống, đột nhiên chồm dậy, phóng tới trước ngựa của Khang Hy trông rất hung tợn. Bọn thị vệ kinh hãi, bắn tới tấp giết nó chết hẳn.

Khang Hy vừa sợ vừa mừng, bảo bọn thị vệ:

– “Đứa bé này phúc phận không nhỏ. Giả tỉ lúc nó đứng trước mặt mà con gấu đen này chồm dậy, thì làm sao còn mạng nữa?”

Từ đó về sau, Khang Hy cho rằng Hoàng Lịch đã văn võ toàn tài lại có phước lớn, nên cưng chiều nó nhất trong đám cháu. Sau này Nhậm Trinh lên ngôi (tức là Ung Chính), thật sự có phần dựa vào đứa con mà mình tráo được.

Vì thế suốt đời Ung Chính, nhà họ Trần ở Hải Ninh được sủng ái vô cùng.

Một là Ung Chính muốn báo đáp, hai là muốn mua chuộc để họ khỏi oán hận mà tiết lộ ra bí mật lớn bằng trời này. Còn đứa con gái được họ Trần nuôi nấng, sau này gả cho Tưởng Phổ ở Thường Phục. Cha của Tưởng Phổ là Tưởng Điền Tích, mới năm đầu thời Ung Chính đã được phong chức Hộ bộ thị lang, lúc đó Trần Thế Quang làm Tuần phủ Sơn Đông. Hai người Trần, Tưởng cùng trị thủy có công, nên đều được gọi vào triều, lần lượt lên chức Hộ bộ thượng thư, Lễ bộ thượng thư, Lại bộ thượng thư, rồi đến Đại học sĩ.

Suốt đời Ung Chính, nhà họ Tưởng được sủng ái chẳng kém ai. Ở vùng Thường Phục đến nay vẫn còn tòa nhà của Trần phu nhân trong Tưởng phủ, dân trong vùng đều gọi là Công chúa lâu.

Lúc Càn Long được ẵm vào phủ của Ung thân vương Nhậm Trinh, hắn khóc mãi không dứt, không chịu bú sữa. Trác phi Nẫu Cô Lục của Nhậm Trinh đành phải gọi nhũ mẫu Liêu thị của nhà họ Trần vào phủ, Càn Long mới chịu ngừng khóc mà bú. Chuyện đã lâu lắm rồi, bây giờ đột nhiên Càn Long hỏi tới. Đáng lẽ Liêu thị không muốn nói, nhưng nghe Càn Long nói chuyện thì hiểu hắn đã biết hết rồi, không giấu giếm được nữa. Bấy giờ Liêu thị đã ngoại lục tuần, thế mà ngay đêm đó bị Càn Long cho người thắt cổ chết để đề phòng bà làm lộ chuyện bí mật này. Càn Long nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của Liêu thị, nên khi hạ lệnh trong lòng cũng áy náy đôi chút.

* * *

Trần Gia Lạc lên tiếng hỏi:

– “Ca ca thấy mình có chỗ nào giống người Mãn không? Còn gì phải nghi ngờ nữa?”

Càn Long trầm ngâm chưa đáp, Trần Gia Lạc nói tiếp:

– “Ca ca là người Hán. Giang sơn cẩm tú của người Hán lại rơi vào tay bọn man di, thế mà ca ca lại làm thủ lĩnh bọn hồ lỗ, thống lãnh chúng để áp bức con cháu Viêm Hoàng người Hán chúng ta. Như vậy không phải bất trung, bất hiếu, đại nghịch vô đạo hay sao?”

Càn Long không còn gì để nói, đành giở giọng liều:

– “Dù sao thì hôm nay ta đã lọt vào tay các ngươi. Ngươi muốn giết thì giết, cần gì phải nhiều lời?”

Trần Gia Lạc vẫn nhỏ nhẹ:

– “Bên bờ biển, chúng ta đã hẹn ước sau này không ai hại ai. Câu nói đó vẫn còn văng vẳng bên tai, tiểu đệ làm sao phản bội lời thề được? Huống chi bây giờ đã biết ca ca là anh ruột, gặp nhau thân thiết sợ còn chưa đủ, lẽ nào lại hại nhau?”

Nói tới đây chàng không nén nổi, nước mắt lăn xuống má.

Càn Long hỏi:

– “Vậy bây giờ ngươi đối xử với ta thế nào? Ép ta bỏ ngôi thoái vị phải không?”

Trần Gia Lạc lau mắt rồi đáp:

– “Không! Ca ca vẫn làm hoàng đế, chỉ có điều không phải là một hoàng đế bất trung bất hiếu, mà là một vị vua khai quốc nhân hiếu anh minh.”

Càn Long ngạc nhiên hỏi:

– “Vua khai quốc ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Đúng thế! Ca ca làm hoàng đế của người Hán, chứ không phải của bọn Mãn Thanh.”

Càn Long nghe tới đây mới hiểu ý chàng, bèn hỏi:

– “Ngươi muốn ta đuổi họ ra ngoài quan ải hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Không sai! Ca ca vẫn được làm hoàng đế, mà khỏi phải nhận giặc làm cha để bị người đời sau đàm tiếu, thì sao không cố gắng hiển lộ bản lĩnh xây dựng cơ nghiệp nghìn đời?”

Càn Long vốn là người thích khoa trương, nghe mấy câu này không khỏi động lòng.

Trần Gia Lạc nhìn mặt hắn, biết mình thuyết phục có hiệu quả liền nói tiếp:

– “Bây giờ ca ca làm hoàng đế chỉ là thừa hưởng ân đức của bọn Mãn Thanh, có chi là kỳ lạ? Ca ca nhìn mấy người kia thử xem?”

Càn Long tới gần cửa sổ, nhìn theo tay Trần Gia Lạc thì nhìn thấy bên dưới có mấy nông phu đang cày xới trên thửa ruộng xa xa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu người này sống trong phủ Ung Thân Vương còn ca ca sống trong một nông gia, thì bây giờ y làm hoàng đế còn ca ca đang cầm cuốc mà cuốc ruộng.”

Trước nay Càn Long vẫn cho rằng mình có phúc phần, người bình thường không so sánh được, nhưng bây giờ ngẫm kỹ lời nói của Trần Gia Lạc, hắn không khỏi hơi thấy hụt hẫng trong lòng.

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Đại trượng phu sống trên thế gian chỉ được trăm năm là cùng, chớp nhoáng đã qua, nếu không xây dựng cơ nghiệp thì chỉ thối nát cùng cây cỏ. Những bậc đế vương như Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ mới là hào kiệt anh hùng thật sự. Đời Nguyên có Thành Cát Tư Hãn, đời Thanh có Thái Tổ là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Thái Tông là Hoàng Thái Cực, có thể gọi là đáng mặt đế vương. Còn như bọn Hán Hiến Đế, Tống Huy Tông, Minh Sùng Trinh, dù không phải loại vua vong quốc thì cũng lôi thôi lếch thếch, không đáng gọi đến tên.”

Trần Gia Lạc nói câu nào cũng động đến đáy lòng hoàng đế. Sau khi Càn Long biết mình là người Hán, hắn đã mấy lần toan hạ lệnh cho quan quân thay đổi sắc phục như người Hán, nhưng đều bị Thái hậu bọn đại thần Mãn Châu ngăn cản.

Bây giờ hắn nghĩ, nếu làm theo lời Trần Gia Lạc mà lật đổ nhà Thanh, thay đổi triều đại về cho người Hán, chính mình là vị vua khai quốc của vương triều họ Trần, thì chắc chắn công nghiệp có thể so với Lưu Bang, Lý Thế Dân.

* * *

Càn Long đang định lên tiếng, đột nhiên xa xa vọng đến tiếng chó sủa. Trần Gia Lạc hơi chau mày, quay nhìn ra ngoài thì thấy bốn con chó săn lớn chạy nhanh về phía tòa Lục Hòa Tháp này, phía sau còn có hai người. Trong nháy mắt hai người bốn chó đã chạy tới chân tháp, rồi dưới tháp có người lớn tiếng quát hỏi.

Tháp Lục Hòa cao mười ba tầng. Lúc này Càn Long và Trần Gia Lạc đang ở tầng thứ mười hai, khoảng cách rất xa nên không nghe thấy phía dưới nói chuyện gì, chỉ thấy người và chó đều chạy vào trong tháp. Đột nhiên lại thấy bốn con chó chạy ngược trở ra, Mạnh Kiện Hùng xách cung đuổi theo, bắn vãi một loại đạn vào bốn con chó săn này khiến chúng sủa vang lên. Trần Gia Lạc đang ngạc nhiên không hiểu hai người bốn chó kia thuộc phe nào, bỗng thấy trong tháp có một người chạy ra, thân pháp hết sức nhanh. Người đó vung tay đoạt lấy cây cung trên tay Mạnh Kiện Hùng, đồng thời dùng tả chưởng đánh vào đầu y.

Họ Mạnh không né được phải đưa tay đỡ gạt, liền bị người kia cầm cây cung điểm trúng huyệt đạo ngang hông, ngã quay ra đất. Người kia không thèm ngoảnh lại, cứ chạy thẳng vào trong. Y vừa vào khuất, lấp tức có một người văng từ trong tháp ra, nằm yên dưới đất ngửa mặt lên trời, hoàn toàn không động đậy. Đó chính là An Kiện Cương. Sau đó cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình ở trong tháp thổi sáo lên, báo cho mọi người phải đề phòng.

Càn Long thấy có cứu viện, trong lòng rất mừng. Trần Gia Lạc nhìn quanh bốn phía, thấy các nơi hoàn toàn không có động tĩnh gì, biết quân tấn công chỉ có hai người mà thôi. Đến bây giờ cha con họ Mã mới phát tín hiệu cảnh cáo, đủ thấy thân thủ của địch rất nhanh, vừa bị phát hiện đã vào trong tháp rồi. Hai người này võ công cao đến thế, nếu là cao thủ thị vệ trong đại nội thì so với Kim Câu Thiết Chưởng Bạch Chấn còn cao hơn một bậc.

Bốn con chó săn cùng chạy vào trong tháp. Sau đó nghe tiếng nữ nhân quát tháo, tiếng một thiếu niên kêu la, hòa chung với tiếng chó sủa ầm ĩ. Đó là Chu Ỷ và Tâm Nghiễn giữ ở tầng thứ hai đang đối phó với bọn chó săn. Đột nhiên có tiếng kêu kinh hãi, từ cửa sổ tầng thứ hai có hai món binh khi văng ra, một là đơn đao, một là nhuyễn tiên.

Trần Gia Lạc nhận ra vũ khí của Chu Ỷ và Tâm Nghiễn, nghĩ bụng:

– “Chắc chắn hai người đã bị địch nhân đoạt mất binh khí, không biết có nguy hiểm gì không?”

Trong lòng chàng thật lo lắng. Thấy thần sắc Trần Gia Lạc vốn điềm nhiên tự tại mà bây giờ tỏ vẻ lo âu, Càn Long biết thủ hạ mình đã chiếm thượng phong, âm thầm mừng rỡ. Đột nhiên hắn thấy họ Trần quay mặt lại mỉm cười, liền nhìn xuống dưới. Một đại hán đã múa thiết trượng đánh văng bốn con chó săn ra khỏi tháp. Tâm Nghiễn và Chu Ỷ chạy ra ngoài, dìu Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương vào.

Bốn con chó săn này hung dữ khác thường, tựa như bốn con báo vậy. Đùi sau của một con đã bị thiết trượng đánh gãy, nhưng nó vẫn không chịu chạy trốn, cứ phóng tới mà cắn loạn xạ. Tưởng Tứ Cân bị bốn con chó này bao vây vào giữa, trượng pháp hơi loạn. Tâm Nghiễn lại từ trong tháp chạy ra, vẫy hai tay liên tiếp.

Lũ chó bị mười mấy miếng gạch ném trúng, sủa ỏm tỏi lên. Tưởng Tứ Cân đánh cho què hết, thì đột nhiên ở cửa sổ tầng thứ sáu có người thò đầu ra, cho ngón tay vào miệng huýt lên, âm thanh rất lạ tai. Bốn con chó săn vừa nghe thấy là cúp đuôi chạy trốn ra xa. Chu Ỷ và Tâm Nghiễn lập tức lượm binh khí lên, đứng canh giữ phía dưới tháp, sợ có địch tấn công tới nữa.

Trần Gia Lạc thấy địch thủ chỉ huy lũ chó từ tầng thứ sáu, nghĩ bụng:

– “Thế thì Thập nhị ca ở tầng thứ sáu cũng không cản được họ.”

Nghĩ đến đây, chàng thầm la lên:

– “Hỏng rồi! Võ nghệ kẻ địch cao cường, lại còn hai người hợp sức. Bên mình mỗi tầng chỉ có một người, chắc chắn không thể nào cản nổi.”

Chàng đang định ra lệnh tập hợp bốn người vào tầng thứ chín, đột nhiên thấy ở cửa sổ tần thứ bảy có một người nhảy ra ngoài, chính là Từ Thiên Hoằng. Họ Từ vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, phía sau có một người thò tay với theo, tóm được chân trái của chàng. Trần Gia Lạc giật mình, móc lấy ba con cờ vây định phóng ra giải cứu, đột nhiên nghe Từ Thiên Hoằng hét lên:

– “Đỡ này!”

Tay phải chàng vẫy ra một cái, địch nhân vội rụt đầu tránh né, nhưng thật ra không có ám khí gì cả. Từ Thiên Hoằng thừa cơ giãy tuột được chiếc giày bên trái, chui ra ngoài đứng trên góc mái của bảo tháp. Lúc này khoảng cách đã gần, nhìn rõ địch nhân thấp hơn cả Từ Thiên Hoằng, mặc y phục toàn màu xám, đầu tóc bạc phơ, là một bà lão rất già. Sau lưng bà đeo kiếm, kiến còn nguyên trong vỏ. Bà lại nhảy ra ngoài, người còn lơ lửng trên không đã đưa tay ra vồ tới. Tay phải Từ Thiên Hoằng không có đao, chắc đã bị đánh văng mất rồi.

Chàng dùng thiết quải bên tay trái ra chiêu Nhất Phu Đương Quan cản trở trước ngực, hét lên:

– “Đỡ này!”

Lão bà kia cất tiếng thóa mạ:

– “Thằng khỉ kia, đừng hòng lừa gạt bà nội ngươi nữa.”

Mụ vẫn vọt tới, xoay tay chụp lấy cây quải. Nào ngờ lần này không phải giả vờ, Từ Thiên Hoằng đã gỡ một miếng ngói trên tháp ném tới. Bà lão tránh né không kịp phải phóng chưởng cản trở, đánh cho miếng ngói vỡ nát ra bay tứ tán. Thường Thị Song Hiệp giữ tầng thứ tám, hình như đang phải đối phó với người khác nên nãy giờ không ra ngoài trợ giúp cho ai cả. Võ công của Từ Thiên Hoằng không sao bì được bà lão kia, mới giao đỡ mấy chiêu đã liên tiếp gặp nguy hiểm. Chàng cố tìm cách giương đông kích tây, lại đỡ thêm được mấy chiêu.

Chu Ỷ ngẩng lên nhìn Từ Thiên Hoằng ác đấu với lão bà ấy trên góc mái, thấy chàng không địch nổi bèn lo lắng kêu lên:

– “Gia gia, gia gia! Mau mau ra tay đi.”

Chu Trọng Anh giữ tầng thứ mười, thấy hai đồ đệ bị đánh ngã từ lâu, bây giờ nghĩa tử lại gặp nguy hiểm.

Ông vươn mình ra ngoài cửa sổ, hô lớn:

– “Kẻ nào dám đến đây phá rối?”

Rồi ông ném hai trái thiết đảm, một trước một sau hướng tới bà lão. Thiết đảm chưa đến, bà lão đột nhiên tung người bay xuống dưới, ấn bàn tay lên mái ngói, lộn người một cái đứng trên tầng thứ sáu. Sau đó nghe thấy một loạt những tiếng tinh tang, nào là tụ tiễn, thiết liên tử, cương tiêu, đủ loại ám khí phóng vào mái ngói của tầng tháp thứ sáu.

Đó là Triệu Bán Sơn từ tầng thứ chín phóng ra để giúp Từ Thiên Hoằng.

Thiết đảm của Chu Trọng Anh trượt đích, đánh gãy một cây xà trên góc tháp nghe rắc một tiếng. Từ Thiên Hoằng khom người chụp được một trái. Còn trái kia lăn vào máng nước ở góc tháp. Chu Trọng Anh buông người nhảy xuống toan nhặt lấy, nhưng chưa tới nơi đã bị một luồng chưởng phong đánh vào giữa ngực. Chu Trọng Anh đang ở lưng trời, không có cách gì tránh né.

Ông thấy chưởng phong rất lợi hại, không thể ra tay đón đỡ vì trong không trung không có chỗ tựa, chắc chắn mình sẽ bị hất ra ngoài, rớt xuống chân tháp mà tan xương nát thịt. Nguy cấp thế này, ông chỉ còn cách dựng thanh Kim bối đại đao trước mặt, cả đao lẫn người phóng tới, gắng chịu một chưởng rồi sẽ lưỡng bại câu thương. Địch nhân thấy Chu Trọng Anh phóng tới, vội nghiêng người né tránh, xoay tay trái toan nắm lấy cổ tay ông. Chu Trọng Anh thấy thủ pháp của y vừa nhanh vừa ác, bất giác la lên một tiếng, kinh hãi nghĩ thầm:

– “Người này là ai thế?”

Ông né được chiêu trảo, nhảy qua một bên đứng xem Thường Thị Song Hiệp vọt ra cửa sổ tiếp chiến. Người kia khôi vĩ lạ thường. Thường Thị Song Hiệp đã ốm nhách lại cao nghều, thế mà lão còn cao hơn cả Song Hiệp. Lão già này mũi khoằm như mỏ chim ưng, mặt đỏ như châu sa, đầu thì trọc lóc không còn một sợi tóc nào.

Chu Trọng Anh thấy lão oai phong lẫm liệt, võ công lại cao kỳ lạ, bất giác thầm nghĩ:

– “Nhân vật thế này mà cũng làm chó săn cho Thanh triều được sao?”

Lão trọc kia múa tít song chưởng nhanh như gió, một mình đánh cho anh em họ Thường nhảy qua nhảy lại. Chu Trọng Anh thấy Thường Thị Song Hiệp tuy chưa thắng nổi nhưng cũng chưa đến nỗi thua, không cần trợ giúp. Ông nhìn xuống dưới, lại một phen kinh hãi. Trên tầng thứ sáu, bà lão tóc bạc đang ép Chu Ỷ liên tiếp lùi lại.

Từ Thiên Hoằng la lớn:

– “Ỷ muội! Lùi ra, lùi ngay!”

Chu Ỷ nghe lời Từ Thiên Hoằng, quay người chạy đi. Bà lão tóc bạc không đuổi theo, hình như muốn nhảy lên tầng trên.

Chu Ỷ lại dừng chân, la gọi:

– “Bà già kia, có dám đuổi theo ta không? Ta ở đây, có mai phục đây này.”

Bà lão nhún chân một cái, bay vọt tới nhanh như tên bắn.

Chu Ỷ hoảng sợ vô cùng, vội quay lưng chạy trốn. Chu Trọng Anh liền quăng thiết đảm đánh tới sau lưng mụ. Bà lão vừa đuổi kịp Chu Ỷ, đang thò tay nắm lấy lưng nàng thì đột nhiên nghe sau lưng có tiếng ám khí. Mụ không dám đưa tay đón bắt, lập tức thi triển khinh công Hàn Giang Độc Điếu, ngả hẳn thân hình ra ngoài khoảng không, chỉ dùng chân trái móc lại một góc mái tháp.

“Keng” một tiếng, thiết đảm đánh trúng mái tháp xẹt lửa, ngói bay tứ tán. Bà lão tránh xong thiết đảm, lại tiếp tục đuổi theo Chu Ỷ. Chu Trọng Anh nhảy xuống tầng thứ sáu, hoành đại đao cản đường. Lúc này Chu Ỷ đã chạy khuất ra sau, người chạy người đuổi vòng quanh bảo tháp. Từ khi đính hôn với Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ thường nghĩ, chồng mình thông minh xuất chúng, nếu mình cứ hành sự lỗ mãng thì dễ bị coi thường, nên không hành động bừa bãi như lúc trước nữa.

Phen này nghe Từ Thiên Hoằng kêu mình lùi lại, nàng cứ vừa đánh vừa lùi để kéo dài thời gian. Chu Trọng Anh đứng yên, nhìn thấy con gái từ phía sau tháp chạy ra trước mặt, bà lão kia vẫn hai bàn tay không đuổi theo. Phía sau còn có một người đuổi theo, hươi song câu đâm lia lịa vào lưng mụ, nhưng đâm thế nào cũng lệch đi mấy tấc.

Đây chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa, rõ ràng y đang liều mạng cứu trợ Chu Ỷ. Lúc này, Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh cũng đã từ trên lao xuống tầng dưới để giúp. Chu Trọng Anh bước qua mặt Chu Ỷ, vung Kim đao lộng gió vù vù, liên tiếp chém xuống hai đao. Bà lão kia thấy đao lợi hại không dám khinh địch, liền lùi ba bước xoay tay rút kiếm.

Đột nhiên lão trọc ở phía trên la lên:

– “Ta đánh từ trên đỉnh tháp xuống, bà đánh từ phía dưới lên.”

Thanh âm của lão vang dội như chuông đồng, đứng dưới đất cũng nghe rất rõ. Bà lão nghe vậy, không loạn đấu với mọi người nữa, mà tung người lên, tay trái ấn vào nóc tầng thứ bảy, mượn lực vọt lên tầng thứ tám. Tầng này không còn ai cản trở nữa, nên mụ cứ thế mà vọt người lên tầng thứ chín. Từ dưới đánh lên, mụ đã biết càng lên trên thì võ công của người canh giữ càng lợi hại. Tuy mụ tránh được một quả thiết đảm, hai chiêu đại đao của Chu Trọng Anh, nhưng biết ông là cao thủ Thiếu Lâm, nếu tỉ đấu ở chỗ đất bằng thì chẳng kém gì mình.

Mụ sợ bên trên lại còn địch thủ lợi hại hơn, nên tập trung tinh thần, người chưa lên mà kiếm đã lên trước rồi, múa tít bảo vệ đỉnh đầu. Đột nhiên mụ thấy cổ tay bị chấn động, trường kiếm bị binh khí của địch nhân hút chặt lấy, suýt nữa đã tuột khỏi tay. Mụ biết gặp phải kình địch, vội sử trường kiếm thuận thế đâm mạnh tới để hóa giải sức lôi kéo của đối phương. Mụ không dám xông thẳng tới, đảo sang trái ba bước rồi mới đột ngột xoay người lạng về bên phải, cố nhảy lên tầng thứ mười, kiếm đâm thẳng ra trước mặt. Mụ lấy công làm thủ, soạt soạt ba chiêu đều nhằm vào chỗ yếu hại của đối phương.

Địch thủ dùng ba chiêu thức Vân Huy Tam Muội trong Thái Cực Kiếm để giải vây. Bà lão thấy đối phương dùng kiếm pháp nội gia hóa giải rất nhẹ nhàng, không đợi đối phương đánh trả đã nhảy ra ngoài hai bước, dừng chân nhìn lại. Thì ra địch thủ của mụ là một hán tử trung niên hơi mập, trên mặt đầy râu, tóc đã muối tiêu, tay trái nắm kiếm quyết, tập trung tinh thần quan sát chứ chưa vội truy đuổi.

Mụ bèn quát luôn:

– “Ngươi công phu khá như thế này… Đáng tiếc, thật là đáng tiếc!”

Người đó chính là Thiên thủ như lai Triệu Bán Sơn. Ông thấy bà lão tóc đã bạc phơ mà thân thủ cực kỳ nhanh nhạy, không khỏi vừa kinh hãi vừa thán phục.

Hai người vung kiếm lại tiếp tục tỉ đấu. Càn Long thấy hai bên đánh nhau, trong lòng âm thầm mừng rỡ. Nhưng hắn lại thấy Trần Gia Lạc ra vẻ nhàn nhã như không có gì quan trọng, còn kéo một chiếc ghế tới ngồi quan sát trận chiến.

Hắn bèn nghĩ:

– “Đến cứu ta chỉ có hai người, e rằng cuối cùng không địch nổi số đông của Hồng Hoa Hội.”

Tâm thần hắn đang hồi hộp bất an, lại nghe thấy xa xa vọng tới tiếng chó sủa, rồi có tiếng quát tháo, tiếng vó ngựa chạy tới. Có tiếng bước gấp lên cầu thang.

Tâm Nghiễn chạy lên lầu, dùng ám ngữ để bẩm báo Trần Gia Lạc:

– “Quân canh báo là có khoảng hai ngàn Thanh binh đang chạy tới, nhằm thẳng Lục Hòa Tháp.”

Trần Gia Lạc gật đầu, Tâm Nghiễn chạy trở xuống. Càn Long không hiểu Tâm Nghiễn nói gì, nhưng thấy thần sắc Trần Gia Lạc khẩn trương hơn, đoán là chàng vừa nghe tin bất lợi, bèn chăm chú dõi nhìn ra xa. Mùa này lá phong đỏ rực như lửa, giữa rừng nhìn rất rõ những lá cờ trắng lay động, trên cờ có chữ “Lý” rất lớn. Càn Long cả mừng, biết Lý Khả Tú đã mang quân đến đây cứu giá.

Trần Gia Lạc nhoài người ra ngoài cửa sổ, hô lớn:

– “Mã đại ca lùi vào trong tháp, chuẩn bị cung tên.”

Mã Thiện Quân từ dưới tháp dạ lớn một tiếng. Trần Gia Lạc hô vừa dứt tiếng, đột nhiên thấy ông lão đầu trọc mặt đỏ bay vù qua mặt mình từ dưới thẳng lên trên, Thường Thị Song Hiệp và Chu Trọng Anh đuổi theo sau. Thì ra lão trọc cứ chạy xung quanh tháp, mỗi khi có người phía sau đuổi gần đến thì quay lại đón tiếp mấy chiêu, cứ tìm được sơ hở lại nhảy lên một tầng.

Trong lúc Triệu Bán Sơn đang tỉ đấu với bà lão tới lúc khẩn trương, lão đã nhảy đến tầng thứ mười hai. Thường Hách Chí thấy lão tiến công mãnh liệt, mà tầng mười hai đã là nơi nhốt Càn Long rồi, nên không dám khinh suất. Y lấy phi trảo đeo ở bên hông ra, múa lên phong tỏa cửa sổ.

Thường Bá Chí thì hướng song chưởng xéo lên phía trên, đứng trước mặt anh hai bước. Hai người bày thế trận, dùng phi trảo đánh ngoài xa, dùng chưởng đánh nơi gần, song song cản trở trước cửa sổ.

Ông lão kia cũng biết Thường Thị Song Hiệp lợi hại, nên không xông vào cửa sổ mà nhảy thẳng lên trên đỉnh tháp. Chu Trọng Anh rượt theo không kịp, bèn nhảy qua cửa sổ vào trong. Càn Long thấy họ Chu cầm đao nhảy vào không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng Chu Trọng Anh chỉ đứng chỗ cầu thang, hoành đao chuẩn bị ngăn đón địch thủ. Triệu Bán Sơn với bà lão kia bản lĩnh tương tự như nhau, chớp nhoáng đã qua lại hơn trăm chiêu. Kiếm pháp của mụ nhanh chóng vô cùng.

Triệu Bán Sơn triển khai Thái Cực Khoái Kiếm dùng nhanh đánh nhanh, âm thầm kinh ngạc:

– “Bà già này tóc bạc hết rồi, lại là nữ nhân, mà sao ta thắng không nổi?”

Trong lòng ông lo lắng, định lấy ám khí ra mà thủ thắng. Nào ngờ bà lão kia thừa cơ hội tấn công gấp rút, quét một kiếm rách tay áo bên trái của ông. Tuy họ Triệu chưa tổn thương đến da thịt, nhưng không khỏi hoảng sợ một phen.

Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Thạch Song Anh và Chu Ỷ đều cầm binh khí đứng bên, xem Triệu Bán Sơn kịch đấu với bà lão kia. Nhìn kiếm quang của hai người nháy động như chớp giật, ai nấy cũng lo lắng, rồi bỗng giật mình khi tay áo Triệu Bán Sơn bị trúng một kiếm. Vệ Xuân Hoa giơ song câu ra, toan chạy lên ứng cứu, nhưng Triệu Bán Sơn đã xuất chiêu Lý Quảng Xạ Thạch ép mụ lùi lại một bước.

Chính ông cũng nhảy lùi lại, lên tiếng:

– “Lão thái thái quả nhiên thân thủ bất phàm. Xin mời lên trên.”

Vệ Xuân Hoa ngạc nhiên dừng lại.

Triệu Bán Sơn chỉ trúng kiếm vào tay áo, nhưng ông không đánh nữa vì thầm nghĩ:

– “Đại ca Lục Phi Thanh đang giữ tầng thứ mười một. Xa nhau mười mấy năm trời, chắc võ công huynh ấy tiến bộ rất nhiều, dư sức kiềm chế bà lão này. Anh em chỉ mới thán phục Lục huynh nghĩa khí cao ngất trời xanh, chứ chưa được thấy kiếm thuật siêu quần của huynh ấy.”

Vì thế ông mới cho bà lão lên trên đó, để Lục Phi Thanh được ra mặt giương danh. Không thì ông chỉ bị quẹt rách tay áo, vẫn có thể đánh tiếp như thường, chưa chắc đã thua.

Bà lão kia thấy họ Triệu khiêm nhường, bèn đưa kiếm lên thi lễ rồi nói:

– “Kiếm pháp các hạ cũng hay lắm.”

Rồi mụ tung người chạy thẳng lên trên.

Chu Ỷ la lên:

– “Triệu tam thúc! Ông đâu có thua, sao lại khách sáo như thế?”

Triệu Bán Sơn mỉm cười rồi nói:

– “Kiếm thuật của bà ta cực giỏi. Bây giờ chúng ta lên đó mà xem công phu phái Võ Đang của Lục đại gia. Mà này Chu cô nương, sao cô lại kêu ta là Tam thúc? Thất đệ kêu ta là Tam ca mà.”

Chu Ỷ đỏ mặt lên nói:

– “Ta gọi theo gia gia.”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Thế thì cô cũng gọi huynh ấy là Thất thúc hả?”

Y vừa nói vừa chỉ Từ Thiên Hoằng.

Chu Ỷ gật bừa:

– “Cũng được, nhưng không biết Thất thúc có chịu hay không?”

Mọi người đều biết phe ta đông đảo, dù địch thủ võ công tinh thâm nhưng chỉ có hai người chắc chắn không làm gì được, vì thế cứ cười đùa mà lên tháp.

Tầng chín, tầng mười hoàn toàn không có người nào. Ai cũng nghĩ Lục Phi Thanh đang đấu kiếm với bà lão kia ở tầng thứ mười một, nhưng khi lên tới thì thấy trong phòng trống rỗng. Quần hùng kinh hãi một phen, liền lên tiếp một tầng nữa, lúc này mới nghe tiếng đao kiếm va chạm leng keng vang dội.

Vào cửa thì thấy Chu Trọng Anh múa cây Kim bối đại đao gió lộng vù vù, kịch chiến với bà lão tóc bạc. Người sử đao thì kình trầm, lực mạnh, người sử kiếm thì lui tới nhẹ nhàng, nhất thời không sao phân được cao thấp. Trần Gia Lạc kéo Càn Long qua một góc, ngồi bệt dưới đất mà xem tỉ đấu.

Từ Thiên Hoằng vẫy gọi Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh tới giữ cửa sổ, rồi lớn tiếng hô lên:

– “Mau bỏ binh khí xuống, sẽ tha cho khỏi chết.”

Bà lão thấy bị bao vây mà không sợ hãi, vẫn tiếp tục vũ lộng thanh trường kiếm.

Chu Ỷ khẽ hỏi:

– “Kiếm thuật của mụ này rất giống ai đó. Ca ca xem có phải không?”

Từ Thiên Hoằng gật đầu:

– “Không sai! Ca ca cũng thấy kỳ lạ.”

Bà lão đánh rát mấy chiêu ép Chu Trọng Anh lùi lại, đột nhiên kéo cái bàn tới cản trước mặt, đứng sát vào tường. Chu Trọng Anh múa đao chém tới, suýt nữa thì chém trúng cái bàn, vội thu đao lại.

Bà lão quay lại hỏi Càn Long:

– “Hoàng đế đây phải không?”

Càn Long đáp ngay:

– “Hoàng đế đây, ta là hoàng đế đây. Cứu binh đến cả rồi chứ?”

Bà lão nhảy phắt lên bàn, đưa kiếm lên trưóc ngực, rồi đột ngột bay thẳng về phía Càn Long như một con chim. Chiêu Bằng Bạt Vạn Lý này nhằm ngay vào ngực Càn Long, vừa mau lẹ vừa hung hãn.

Quần hùng đều tưởng mụ là thuộc hạ của Càn Long đến đây cứu ứng, nào ngờ mụ đột nhiên hành thích. Mọi người thật sự bất ngờ, ai cũng ngạc nhiên, thất sắc, không biết phải làm gì. Tuy Trần Gia Lạc đang đứng cạnh Càn Long, nhưng thế kiếm này quá nhanh, chàng không kịp chống đỡ. Chàng đành chĩa hai ngón tay trái ra nhằm điểm vào huyệt đạo dưới nách của bà lão, bắt địch thủ phải quay về tự cứu.

Bà lão sắp đâm thủng ngực Càn Long thì đột nhiên thấy ngón tay của Trần Gia Lạc đâm tới, tay trái liền xuất chiêu Kim Long Thám Trảo, bàn tay xoay ngược lại từ dưới chộp lên trên. Đây là một chiêu lợi hại trong ba mươi sáu đường Đại Cầm Nã Thủ, nhằm đúng vào huyệt đạo, nếu Trần Gia Lạc bị nắm trúng cổ tay là lập tức bủn rủn toàn thân. Nhờ diễn biến này mà trường kiếm bên tay phải mụ chậm đi một chút. Tay phải của Trần Gia Lạc đã kịp rút thanh đoản kiếm, đưa ra cản trở. “Keng” một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau tóe lửa.

Tay trái chàng đổi hướng đánh lên mặt địch thủ, tiếp theo phía dưới đá thêm một cước, đây là thế Thượng Hạ Giao Chinh. Quyền thuật của bà lão cũng không phải tầm thường, vừa thấy tay trái của chàng đánh tới là đưa tả chưởng ra chống đỡ, hạ bàn cũng đảo sang bên phải để né cước, trường kiếm trong tay thì đâm vào yết hầu của đối phương. Không ngờ chiêu số Bách Hoa Tá Quyền của Trần Gia Lạc cũng từ bên phải đá vào.

May mà mụ đã phóng trường kiếm đâm ra, nên đòn cước của Trần Gia Lạc chưa trúng đích đã vội thu về. Tình thế nguy cấp đã giải tỏa xong, hai người nghi ngờ lùi lại mấy bước. Trần Gia Lạc kéo Càn Long ra núp sau lưng mình, đứng chán trước mặt bà lão rồi chắp tay hỏi:

– “Xin thỉnh quý danh của lão thái thái.”

Lúc này bà lão cũng đang quát hỏi gì đó, âm thanh hỗn tạp nên cả hai đều không nghe rõ đối phương nói gì. Trần Gia Lạc ngậm miệng lại trước.

Bà lão nhắc lại câu hỏi vừa rồi:

– “Cây đoản kiếm của ngươi từ đâu mà có?”

Trần Gia Lạc nghe mụ vừa mở miệng đã hỏi về cây đoản kiếm, không khỏi kinh ngạc. Chàng đáp:

– “Đó là quà tặng của bằng hữu.”

Bà lão hỏi:

– “Bằng hữu cái gì? Ngươi là thị vệ của hoàng đế, làm sao nó tặng cho ngươi được? Thiên Trì Quái Hiệp là gì của ngươi?”

Câu hỏi cuối cùng được Trần Gia Lạc trả lời trước:

– “Thiên Trì Quái Hiệp là ân sư của vãn bối.”

Chàng nghĩ, bà lão này phóng kiếm đâm Càn Long thì nhất định cũng là đồng chí. Thấy tuổi tác của bà đã lớn, võ công lại cao, chàng bèn tự xưng là vãn bối.

Bà lão “à” một tiếng rồi nói:

– “Vậy là đúng rồi. Sư phụ của ngươi tuy có phần cổ quái nhưng cũng là chánh nhân quân tử. Sao ngươi lại làm bẽ mặt sư phụ, làm chó săn cho Thanh triều?”

Dương Thành Hiệp nhịn không nổi, hét lên:

– “Đây là Trần tổng đà chủ của bọn ta. Bà không được ăn nói bừa bãi.”

Bà lão kia lộ vẻ kỳ lạ, hỏi lại:

– “Các ngươi là Hồng Hoa Hội ư?”

Dương Thành Hiệp đáp:

– “Không sai.”

Bà lão quay sang Trần Gia Lạc, lớn tiếng hỏi:

– “Các ngươi đã đầu hàng triều đình rồi sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Hồng Hoa Hội hành hiệp trượng nghĩa, làm gì có chuyện quỳ gối trước Mãn Thanh? Mời lão thái thái ngồi, chúng ta từ từ nói chuyện.”

Bà lão không chịu ngồi, nhưng sắc mặt đã ôn hòa hơn. Mụ lại hỏi:

– “Thanh đoản kiếm của ngươi từ đâu mà có?”

Trần Gia Lạc đã thấy gia số võ công của mụ, lại nghe mụ hỏi về thanh đoản kiếm tới hai lần. Chàng đoán được mấy phần, bèn đáp:

– “Một bằng hữu người Hồi đã tặng cho vãn bối.”

Thời đó, nam nữ tặng quà cho nhau là chuyện không phải tầm thường. Tuy Trần Gia Lạc hào kiệt khoáng đạt, nhưng trước mặt đông người cũng có chỗ khó nói.

Bà lão kia lại hỏi:

– “Ngươi có quen Thúy Vũ Hoàng Sam ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu.

Chu Ỷ thấy chàng ấp úng, nhịn không nổi bèn nói xen vào:

– “Đúng là quà tặng của Hoắc Thanh Đồng tỷ tỷ. Bà cũng quen tỷ ấy hay sao? Vậy thì chúng ta là người một nhà rồi.”

Bà lão kia đáp:

– “Nó là đồ đệ của ta.”

Trần Gia Lạc lập tức thi lễ, lên tiếng:

– “Thì ra hai vị tiền bối Thiên Sơn Song Ưng đến đây. Vãn bối không biết, đã mạo phạm rất nhiều.”

Bà lão hơi nghiêng mình không chịu nhận lễ, nghiêm giọng chất vấn:

– “Nếu là người một nhà thì sao các ngươi lại giúp tên cẩu hoàng thượng này, không để ta giết hắn?”

Dương Thành Hiệp và mọi người thấy Trần Gia Lạc hết sức cung kính, còn mụ này lại tỏ ra vẻ ngạo mạn, nên ai cũng giận dữ. Lúc này Thường Thị Song Hiệp đã từ bên ngoài cửa sổ nhảy vào trong phòng. Thường Bá Chí nói:

– “Hoàng đế là do chúng ta bắt đến đây, muốn giết cũng chưa đến phiên bà.”

Bà lão “ủa” một tiếng rồi hỏi:

– “Các ngươi bắt hắn đến đây thật à?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Tiền bối chưa biết, hoàng đế đúng là do bọn vãn bối mời đến. Vì tưởng lầm hai vị là thị vệ Thanh triều đến đây cứu giá, nên bọn vãn bối mới ra sức cản trở dọc đường. Võ công của hai vị thật cao minh, huynh đệ vãn bối không phải là đối thủ, vì không cản nổi nên mới để xảy chuyện hiểu lầm.”

Thật sự thì quần hùng Hồng Hoa Hội dư sức cản trở hai người này, ai cũng biết Trần Gia Lạc nói vậy là khiêm tốn mà thôi.

Bà lão đột nhiên quay nhìn ra cửa sổ, lớn tiếng gọi:

– “Lão kia! Xuống đây đi.”

Hồi lâu vẫn không thấy trả lời. Đột nhiên nghe véo một tiếng, một mũi tên bắn vào cửa sổ. Bà lão đưa tay trái ra chụp lấy, quay người lại ném mũi tên cắm lên mặt bàn, đuôi tên rung động không ngớt.

Mụ giận dữ quát:

– “Bọn tiểu bối bất tín, còn phóng ám khí nữa ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Xin tiền bối đừng giận dữ. Các huynh đệ dưới tháp chưa biết nên đắc tội, lát nữa vãn bối sẽ bảo họ lên đây xin lỗi.”

Rồi chàng ra cửa sổ, nhìn xuống hô lớn:

– “Người mình cả, đừng bắn tên nữa.”

Lời nói chưa dứt, lại có một mũi tên bắn lên. Lần này Trần Gia Lạc nhìn thấy rõ ràng, dưới đất có hơn ngàn Thanh binh đã vây chặt Lục Hòa Tháp. Chúng đều giương cung lắp tên, hễ thấy có người xuất hiện ngoài cửa sổ là bắn ngay.

Trần Gia Lạc bảo Triệu Bán Sơn:

– “Tam ca! Huynh cho người giữ chặt cửa tháp, đừng ra ngoài chém giết làm chi.”

Triệu Bán Sơn nhận lệnh đi xuống.

Chu Trọng Anh hỏi:

– “Chắc hẳn vị này là Tuyết Điêu Quan lão sư phụ? Tại hạ đã nghe tiếng từ lâu.”

Bà lão này chính là Tuyết Điêu Quan Minh Mai, là vợ của ông lão đầu trọc Trần Chính Đức. Hai người này một cao một lùn, một đầu trọc một tóc bạc, trên giang hồ được gọi là Thốc Cưu và Tuyết Điêu, gọi chung là Thiên Sơn Song Ưng. Quan Minh Mai nhìn Chu Trọng Anh gật đầu một cái.

Trần Gia Lạc nói:

– “Vị này là Thiết đảm trang Chu lão anh hùng.”

Bà lão nói:

– “Ta cũng từng nghe đại danh của ông.”

Nói đến đây, bỗng mụ hét lên:

– “Lão già kia! Mau mau xuống đây, ở trên đó làm gì lâu thế?”

Mụ đang nói chuyện đàng hoàng lại đột nhiên quát tháo, ai nghe cũng phải giật mình.

Chu Trọng Anh nói:

– “Trần lão sư đang đấu kiếm với Vô Trần đạo trưởng. Chúng ta mau mau lên đó để nói rõ sự tình.”

Trần Gia Lạc nháy mắt ra hiệu, Thường Thị Song Hiệp hiểu ý bèn đến cạnh Càn Long canh giữ. Trần Gia Lạc và Quan Minh Mai lập tức chạy tới cầu thang, lên tầng thứ mười ba. Không nghe tiếng đao kiếm gì cả, quần hùng có phần lo lắng.

Nhiều người nghĩ:

– “Võ công hai người đều tuyệt đỉnh, lưỡng hổ tương tranh khó tránh khỏi có người bị thương. Bất luận là ai lỡ tay hay sơ suất, đều thành chuyện phải ân hận suốt đời.”

Chỉ có Quan Minh Mai là thản nhiên, biết chồng mình suốt đời hiếm khi gặp đối thủ, chắc chắn không sao. Mọi người đến cửa thì thấy ánh sáng lóe mắt, kiếm quang dày đặc, hai bóng người chạy mù trời mù đất trong căn phòng nhỏ. Tuy chỉ có hai thanh kiếm mà bóng kiếm trùng trung, giống như mấy chục người đang loạn đấu vậy.

Quần hùng chưa kịp dừng chân, Vô Trần và Trần Chính Đức đã qua lại thêm mười mấy chiêu. Hai người tỉ đấu đang lúc cao hứng, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, vừa điểm tới đã lập tức thu về, hai thanh kiếm trước sau vẫn không chạm vào nhau.

Quan Minh Mai vốn tự cho mình giỏi, nhưng đứng xem mấy chục chiêu mà chồng mình vẫn chưa chiếm được thượng phong, mụ không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

– “Giang Nam cũng có nhân vật tài giỏi như thế ư?”

Hai người càng chiến đấu càng khẩn trương, không sao phân được cao thấp.

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Đạo trưởng, là người mình cả. Xin dừng tay!”

Vô Trần chĩa mũi kiếm lên cao, lùi lại một bước. Trần Chính Đức đang hứng không chịu thôi, múa kiếm truy kích như bóng với hình. Vô Trần mới lùi một bước, lão đã xuất chiêu Thần Đà Tuấn Túc đâm thẳng tới. Vô Trần né sang phải, liền đánh trả một kiếm, hai người lại tiếp tục giao đấu.

Được mấy chiêu nữa, Quan Minh Mai la lên:

– “Lão kia! Họ là Hồng Hoa Hội đó.”

Trần Chính Đức ngẩn ra một chút, hỏi lại:

– “Có đúng thế không?”

Vì thế mà kiếm chiêu của lão hơi chậm lại một chút. Cao thủ tỉ kiếm, chỉ sơ hở chừng sợi tóc là có biến cố ngay. Nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên phải của lão đã bị trường kiếm của Vô Trần xuyên thủng. May mà Vô Trần đã nghe Trần Gia Lạc kêu gọi nên mới hạ thủ lưu tình, chỉ đâm thủng tay áo.

Trần Chính Đức giận dữ hét lên:

– “Lão mũi trâu thối tha kia!” rồi đánh veo véo luôn ba kiếm.

Vô Trần không nhượng bộ chút nào, trả lại bốn chiêu, hai người lại tiếp tục tỉ đấu. Trần Chính Đức sử dụng những chiêu kỳ tuyệt trong Tam Phân Kiếm Thuật, hư hư thực thực, biến hóa khôn lường. Vô Trần thì dùng bảy mươi hai đường Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp, chiêu nào cũng có thể lấy mạng đối phương. Trần Chính Đức xuất chiêu Băng Hà Khai Đông đâm vào sườn phải Vô Trần. Vô Trần né sang bên phải, trường kiếm của Trần Chính Đức lại hớt ngược lên trên, chiêu Dạ Bán Phong Yên cực nhanh chém vào khuỷu tay trái đối phương. Nào ngờ Vô Trần không còn tay trái nên lúc này lại chiếm thượng phong.

Ông vừa hét lên:

– “Hảo kiếm pháp!” vừa xuất chiêu Mạnh Bà Oán Thán đâm thẳng vào yết hầu địch thủ.

Chiêu kiếm của Trần Chính Đức chém vào chỗ trống.

Lão lập tức kinh hãi trong lòng:

– “Ta hồ đồ mất rồi! Hắn cụt tay trái, ta dùng chiêu này làm chi chứ?”

Trong lòng lão vừa khởi lên ý niệm thì trường kiếm của Vô Trần đã đâm tới yết hầu nhanh như điện chớp. Trần Chính Đức hết đường tránh né, đành nghiến răng vung kiếm quét ngang để chết cùng địch thủ. Mọi người thấy tình thế lưỡng bại câu thương khó mà tránh được, ai cũng kinh hãi la hét. Vô Trần đột nhiên ngã về bên phải, không đâm chết Trần Chính Đức mà thu kiếm lại đón chiêu. Nghe “keng” một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau rung động không ngớt.

Tiếng kiếm ngân như rồng gầm, u u rất lâu không dứt. Vô Trần khuỵu gối phải xuống đất, hai người đều không nhúc nhích, thành thế tỉ đấu nội lực. Hai thanh trường kiếm bằng thép ròng dần dần nứt ra ở chỗ chạm nhau, từ từ cắt vào lưỡi kiếm của đối phương.

Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy cấp, chụp lấy cây cương tiên trong tay Dương Thành Hiệp chạy lên phía trước, định tách hai người ra.

Chàng mới bước lên nửa bước thì nghe trên đỉnh đầu có tiếng cười ha hả, rồi tiếng khen ngợi:

– “Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp!”

Tiếng chưa dứt, người đã nhảy xuống. “Keng” một tiếng, trường kiếm của Vô Trần và Trần Chính Đức đều gãy lìa, mỗi người phải loạng choạng mấy bước mới thu thế về được. Hai người cầm kiếm gãy quay lại nhìn, thấy một người cầm trường kiếm đứng giữa, kiếm quang trong trẻo như mặt nước hồ thu.

Vô Trần nhận ra người vừa nhảy trên xà ngang xuống là Lục Phi Thanh, mỉm cười rồi khen lại:

– “Hảo kiếm pháp!”

Trần Chính Đức đỏ mặt lên, muốn xông lên tỉ đấu với người chặt gãy kiếm mình.

Lục Phi Thanh mỉm cười hỏi:

– “Thốc huynh không nhận tiểu đệ hay sao?”

Trần Chính Đức ngẩn ra một lát, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng la lên:

– “A! Lão đệ Miên Lý Châm đó phải không?”

Lục Phi Thanh cướp lời:

– “Đúng là tiểu đệ.”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Sao lão đệ lại ở đây?”

Lục Phi Thanh không đáp, tra kiếm vào vỏ rồi quay lại chắp tay vái chào Quan Minh Mai:

– “Đại tẩu! Nhiều năm không gặp, công phu của đại tẩu lại cao thêm một mức.”

Quan Minh Mai mỉm cười đáp:

– “Lục đại ca!”

Thì ra Lục Phi Thanh đang canh phòng ở tầng thứ mười một thì thấy Thiên Sơn Song Ưng tấn công lên. Hai người này kỳ hình dị tướng, tuy ông nhiều năm không gặp mà nhìn thấy vẫn nhận ra ngay.

Lục Phi Thanh và vợ chồng này trước đây có quen biết. Ông nghĩ hai bậc cao nhân nghĩa hiệp này chắc chắn không phải là tay sai của Thanh triều. Bây giờ họ ra sức tấn công vào chỗ nhốt Càn Long, chắc chắn là có nguyên nhân gì khác. Ông quyết định tránh mặt để xem thử tình hình, nên Quan Minh Mai lên tầng thứ mười một không bị ai cản trở. Lục Phi Thanh thấy Quan Minh Mai phóng kiếm đâm Càn Long, rồi đối đáp với Trần Gia Lạc. Ông chạy lên tầng thứ mười ba trước mọi người một bước, núp trên xà nhà. Khinh công họ Lục tuyệt vời, mà lúc đó Trần Chính Đức và Vô Trần tỉ đấu kịch liệt nên không ai phát hiện. Lục Phi Thanh thấy hai người hết sức đấu với nhau, lâu dài chắc chắn sẽ có tổn thất. Vì thế ông tập trung tinh thần quan sát, gặp thời cơ là nhảy xuống giải vây ngay.

Trần Chính Đức nói:

– “Lục lão đệ! Thanh kiếm của đệ đúng là bảo vật.”

Lục Phi Thanh biết lão già này tính khí nóng nảy, bèn mỉm cười đáp:

– “Đây là vật của người khác, đệ chỉ giữ tạm thôi.”

Đó là thanh Ngưng Bích Kiếm của Trương Triệu Trọng, Lạc Băng lấy được ở Sư Tử Phong rồi giao cho tổng đà chủ. Trần Gia Lạc biết đây là danh kiếm truyền đời của phái Võ Đang, bèn chuyển cho Lục Phi Thanh.

Lục Phi Thanh lại nói:

– “Không đánh không quen. Trần đại ca, để đệ giới thiệu cho huynh được biết.”

Ông bắt đầu từ Trần Gia Lạc, giới thiệu từng người một. Cuối cùng ông nói:

– “Đệ cứ tưởng hai vị ở mãi trên Thiên Sơn để hưởng phúc thanh nhàn, nào ngờ lại đến Giang Nam để giết hoàng đế.”

Quan Minh Mai nói:

– “Các vị đã gặp tiểu đồ của ta là Hoắc Thanh Đồng rồi, việc này từ nó mà ra. Hoàng đế xuất binh đi đánh tộc Hồi. Phụ thân của Thanh Đồng là Mộc Trác Luân dẫn quân đi kháng cự, không sao địch nổi số đông nên liên tiếp thua mấy trận. Về sau lương thảo của quân Thanh bị cướp ở cạnh sông Hoàng Hà…”

Lục Phi Thanh xen vào:

– “Đó chính là hành động của các vị anh hùng Hồng Hoa Hội, vì tương trợ Mộc Trác Luân lão anh hùng mà cướp số lương thảo đó.”

Quan Minh Mai gật đầu:

– “Lúc ở chỗ tộc Hồi, ta cũng có nghe nói.”

Mụ nhìn Trần Gia Lạc một cái, nói tiếp:

– “Chẳng trách con bé đó tặng cho ngươi thanh đoản kiếm này.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chuyện đó là do trước đây Mộc lão anh hùng dẫn mọi người đi đoạt lại kinh sách, bọn vãn bối tình cờ giữa đường gặp phải.”

Quan Minh Mai nói:

– “Chuyện ông ấy đoạt lại kinh sách, các vị cũng có giúp đỡ. Người Hồi nhắc lại vụ đó đều kêu các vị bằng đại anh hùng.”

Thanh âm của mụ rõ ràng có vẻ chế giễu. Rồi mụ kể tiếp:

– “Thanh binh bị thiếu lương thảo, thua to một trận. Mộc Trác Luân tỏ ý nghị hòa, hai bên đình chiến thương lượng. Nào ngờ đang bàn bạc thì chúng nhận được lương thảo, lại tiếp tục tấn công.”

Lục Phi Thanh thở dài:

– “Quan binh của triều đình vốn không biết giữ chữ tín.”

Quan Minh Mai nói:

– “Dân chúng Hồi tộc bị Thanh binh chém giết thê thảm. Lão anh hùng Mộc Trác Luân chống đỡ không nổi, bèn mời chúng ta tới thương lượng. Phu phụ chúng ta vốn không muốn nhúng tay vào những chuyện thế này…”

Trần Chính Đức xen vào:

– “Cũng là do bà, bây giờ còn đến đây thanh minh thanh nga gì nữa?”

Quan Minh Mai vặc lại:

– “Cái gì mà do ta? Thanh binh giết người phóng hỏa, tàn hại bá tánh tộc Hồi, lão có yên lòng được không?”

Trần Chính Đức “hừ” một tiếng, toan cãi tiếp.

Lục Phi Thanh vội mỉm cười nói:

– “Hai vị đã già mà tính nóng như lửa, hễ nói chuyện là cãi nhau, không sợ bọn trẻ chê cười hay sao? Đại tẩu! Đại tẩu mặc kệ ông ấy, nói tiếp đi.”

Quan Minh Mai liếc xéo chồng một cái, rồi nói tiếp:

– “Chúng ta định đi giết thống binh của chúng là Triệu Tuệ. Sau này nghĩ lại, giết cái thằng chó Định Biên Đại Tướng Quân đó thì hoàng đế lại phái thằng khác đến, giết lui giết tới mất công, chi bằng giết quách hoàng đế một lần cho gọn. Chúng ta bèn đến Bắc Kinh, nhưng dọc đường lại được tinh hoàng đế đã đến Giang Nam. Chúng ta nhờ mấy con chó này lục soát ở Hàng Châu gần hết một đêm. Lúc đó chúng ta đều phải ngạc nhiên, sao hoàng đế lại nổi hứng chui vào đường hầm làm chi. Thì ra các vị theo đường hầm mà bắt cóc hoàng đế, báo hại chúng ta cũng phải chui qua đường hầm mà đuổi…”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Cái gì? Hoàng đế là do các vị bắt đến đây ư?”

Trần Gia Lạc bèn kể lại sơ lược vụ bắt cóc này. Trần Chính Đức nghe xong bèn nói:

– “Việc này cũng không tệ lắm, nhưng thiếu phần sảng khoái. Bắt hắn nhịn đói làm gì? Cho một đao kết liễu ngay, không phải đẹp đẽ gọn ghẽ hơn hay sao?”

Vô Trần lạnh lùng nói:

– “Chuyện quốc gia đại sự đâu thể chỉ dùng một đao một kiếm mà lo liệu?”

Trần Chính Đức giận dữ nói:

– “Kiếm thuật của đạo trưởng cao minh lắm, nhưng chúng ta vẫn chưa phân cao thấp. Nếu có hứng thì chơi tiếp một phen, có được hay không?”

Vô Trần cười nhạt:

– “Tuổi tác ông lớn như thế, mà kiến thức không bằng đồ đệ là con bé Hoắc Thanh Đồng. Chúng ta là người một nhà cả, hà tất phải đánh nhau?”

Quan Minh Mai mỉm cười nói:

– “Lão già kia! Trước kia ta vẫn nói lão hồ đồ mà lão không chịu phục. Bây giờ người ngoài cũng chê bai lão rồi, lão đã thấy chưa?”

Đôi vợ chồng già này đúng là hễ mở miệng là gây gỗ. Trần Chính Đức nói:

– “Cứ coi như ta thiếu kiến thức đi.”

Rồi lão quay lại nói với Vô Trần:

– “Chúng ta đâu có liều mạng làm chi, tỉ thí kiếm pháp một lát có gì quan trọng? Kiếm pháp của ông thật sự không tồi, tên gọi là gì, ta nhất định phải thỉnh giáo.”

Lục Phi Thanh sợ hai người nói qua nói lại rồi động thủ tổn thương hòa khí, liền xen vào:

– “Tam Phân Kiếm Thuật của Thốc huynh cùng Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm của đạo trưởng đều là tuyệt kỹ, cổ kim ít ai bì được.”

Trần Chính Đức cười khẩy:

– “Kiếm pháp đó chưa chắc đã truy hồn đoạt mệnh được người ta.”

Vô Trần đã nể mặt Lục Phi Thanh mà nhường một bước, nào ngờ lão trọc này cực kỳ hiếu thắng, không biết tình lý là gì. Ông nghe câu này không khỏi nổi giận, bèn nói:

– “Được! Vậy chúng ta lại tỉ thí một phen, nếu ta thua thì suốt đời không dùng kiếm nữa.”

Quần hùng nghe vậy đều vội vã khuyên ngăn. Nhưng Trần Chính Đức nói:

– “Lúc vợ chồng ta rời khỏi tộc Hồi, đã hứa là không giết được hoàng đế thì chắc chắn không về. Các vị đã không cho ta giết hắn, thì cùng phải biểu lộ chút ít bản lãnh để người khác tâm phục khẩu phục mới được. Đạo trưởng chịu chỉ giáo là hay lắm rồi. Nếu ta thua sẽ quay lưng đi ngay, từ nay về sau không đến hành thích nữa.”

Lão vừa nói xong đã lấy trường kiếm trong tay Quan Minh Mai.

Trần Gia Lạc bước lên một bước, vái dài sát đất mà nói:

– “Kiếm pháp của Vô Trần đạo trưởng tuy tinh diệu, nhưng hỏa hầu vẫn còn kém lão tiền bối một chút. Ai cũng thấy thế rồi, đâu cần tỉ thí nữa làm chi.”

Trần Chính Đức ngạo mạn nói:

– “Trần tổng đà chủ hà tất phải khách sáo như thế. Sư phụ của ngươi không chịu động thủ với loại phàm phu tục tử như chúng ta vì lão là thế ngoại cao nhân, nhưng ngươi thì không phải. Để ta nhờ đạo trưởng chỉ dạy mấy chiêu trước đã, rồi sẽ lãnh giáo tới ngươi, có được hay không?”

Mọi người đều thấy lão già này thật là vô tình vô lý, không biết trong lão vẫn canh cánh nỗi uất Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu, bây giờ trút giận qua Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc vẫn nhẫn nại được, bình tĩnh đáp:

– “Vãn bối lại càng không phải là đối thủ của lão tiền bối. Ân sư vẫn thường nhắc đến Thiên Sơn Song Ưng cho vãn bối nghe, lần nào cũng tỏ vẻ ngưỡng mộ.”

Trần Chính Đức chỉ Quan Minh Mai, giận dữ nói:

– “Sư phụ ngươi ngưỡng mộ bà ấy chứ không phải ngưỡng mộ ta.”

Quan Minh Mai quát lên:

– “Trước mặt nhiều bằng hữu thế này, lão còn giở thói ghen tuông ra được ư?”

Quần hùng liếc nhìn nhau, ai cũng ngạc nhiên. Lục Phi Thanh mỉm cười nói:

– “Thốc huynh! Hiền phu phụ đều ngoại lục tuần cả rồi, chuyện này tranh chấp mấy chục năm mà vẫn chưa xong hay sao?”

Trần Chính Đức lại càng nổi nóng, mày râu dựng đứng cả lên. Đột nhiên lão phóng ra ngoài cửa sổ như một mũi tên, hét lớn:

– “Đạo sĩ mũi trâu kia! Không dám ra đây thì không phải là hảo hán.”

Quần hùng Hồng Hoa Hội đều cảm thấy Trần Chính Đức hiếp người quá đáng. Dương Thành Hiệp bực dọc nói:

– “Tiếc là Tứ ca không có ở đây, không thì có thể đánh cho lão một trận.”

Câu này lọt vào tai Vô Trần lại hóa thành câu nói khích. Ông không nhẫn nhịn được nữa, hô lớn:

– “Tam đệ! Đưa kiếm cho ta!”

Lúc này Triệu Bán Sơn đã từ dưới tháp đi lên, vừa trao kiếm vừa nói nhỏ:

– “Nhị ca! Cố gắng giữ tình nghĩa giữa chúng ta với Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng.”

Vô Trần gật đầu một cái, cầm kiếm nhảy ra ngoài cửa sổ. Bọn lính Thanh đứng dưới đất, thấy trên tháp có người liền bắn rào rào như cào cào.

Vô Trần nói:

– “Chúng ta xuống thấp một chút, tỉ thí một phen giữa trận mưa tên, có được hay không?”

Trần Chính Đức dĩ nhiên không nhịn, đáp ngay:

– “Thế thì tuyệt diệu.”

Rồi lão nhún hai chân một cái, đầu dưới chân trên mà phóng thẳng từ tầng mười ba xuống tầng thứ sáu, ấn khẽ tay trái lên mái tầng thứ năm đã lộn người đứng trên góc mái. Ngoại hiệu của lão là Thốc Cưu, khinh công dĩ nhiên cực cao, phát nhảy vừa rồi giống hệt một con chim cưu thực lớn. Quần hùng trong tháp hoan hô vang dội. Dưới tháp Thanh binh bắn tên dày đặc. Trần Chính Đức không thèm quay đầu lại, vừa xoay kiếm gạt tên vừa ngẩng lên đợi Vô Trần. Vô Trần đứng khép hai chân, tay ép vào đùi như một khúc gỗ, rớt thẳng từ trên xuống. Bọn lính Thanh đứng dưới chân tháp vừa la hét vừa lùi ra, sợ ông rớt trúng đầu.

Vô Trần rơi đến tầng thứ năm vẫn chưa hề chậm lại, xuống sắp hết tầng thứ năm, mới đưa tay phải gạt ngang ra, vận kình vào lưỡi kiếm, ép bằng bặng lên mái tháp. Thanh kiếm bằng thép ròng của Triệu Bán Sơn khá mềm dẻo, bắn ngược trở lên. Vô Trần mượn sức nhún đó mà đứng vững trên mái tầng thứ năm. Trần Chính Đức thấy ông biểu diễn khinh công, nội lực, kiếm pháp đều tuyệt diệu, môn nào cũng hiếm thấy trên đời, không dám khinh suất chút nào nữa.

Lão đợi ông đứng vững lại mới nói:

– “Xuất chiêu đi.”

Rồi lão đưa kiếm ra đâm xéo tới. Bọn quân Thanh thấy hai người đánh nhau, nghĩ rằng có một ở phe mình mà không biết là ai. Chúng sợ nhầm lẫn nên dừng lại không bắn tên nữa.

Vô Trần nói:

– “Mỗi người chúng ta phóng một mũi tên để dụ chúng bắn tiếp.”

Trần Chính Đức hưởng ứng:

– “Hay lắm!”

Rồi hai người lượm tên trên mái tháp, dùng tay ném xuống đả thương hai tên lính. Bọn Thanh binh la hét om sòm rồi tiếp tục bắn tên. Lúc này cách mặt đất khá gần, mũi tên nào cũng có thể lấy mạng. Hai người vừa tấn công lẫn nhau vừa phải né đỡ loạn tiễn từ tầng dưới bắn lên, cách tỉ võ này có thể nói xưa nay chưa ai thấy. Quần hùng đều xuống tầng thứ sáu để xem.

Quan Minh Mai âm thầm lo lắng, nghĩ bụng:

– “Kiếm pháp đạo nhân này ghê quá. Chồng mình tuổi tác đã cao, tai mắt không nhanh như trước nữa. Nếu đấu kiếm dưới mặt đất thì chắc là không ai chết, nhưng bây giờ đang đứng trên cao mà quân lính lại bắn như mưa, thật là nguy hiểm.” Mụ bèn nắm sẵn ba viên Thiết liên tử, đứng trước cửa sổ sẵn sàng bảo vệ.

Hai người kịch đấu giữa trận mưa tên, ngay cả Thường Thị Song Hiệp đang canh giữ Càn Long ở tầng thứ mười hai cũng không nhịn thổi, phải thò đầu ra ngoài cửa sổ để xem. Mỗi người nắm lấy một tay của Càn Long, đề phòng hắn trốn. Hai cổ tay mềm mại của Càn Long bị đôi Hắc sa trưởng của Thường Thị Song Hiệp nắm chặt lấy. Tiếc là anh em họ Thường không vận chút kình lực nào, không thì cổ tay Càn Long chắc chắn nát xương, từ đó về sau không thể làm thơ viết chữ nữa. Nếu thế thì những tinh phẩm thư họa và danh lam thắng cảnh khắp thiên hạ khỏi bị hắn bôi bẩn lên, đỡ bớt một phen kiếp nạn. Lúc này Càn Long biết đã có cứu binh đến, nhưng bản thân mình đang nằm trong tay Hồng Hoa Hội, nếu họ thua thì không chừng sẽ tặng một đao cho hả giận.

Hắn thầm nghĩ:

– “Hồng Hoa Hội thắng thì tốt hơn. Nghe giọng điệu của Trần Gia Lạc, chắc bọn chúng sẽ thả mình ra thật.”

Hai kiếm thủ vẫn đánh nhau dữ dội giữa cơn loạn tiễn, thắng bại chưa quyết định được. Trần Gia Lạc lớn tiếng hô:

– “Kiếm pháp hai vị đều thần diệu, không cần tỉ thí nữa.”

Hai người giao đấu tới lúc khẩn trương, không ai chịu dừng tay. Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Kiếm pháp của đạo nhân này quả nhiên cao minh, xem ra ta không đánh bại nổi.”

Nhưng lão vẫn còn hiếu thắng, từ từ xê dịch cho mặt hướng về phía đông, quay lưng lại bọn lính Thanh dưới tháp. Vị trí này cực kỳ bất lợi, vừa bị mặt trời chói mắt vừa phải hứng tên nhiều hơn.

Lão nghì bụng:

– “Bây giờ ta chỉ cần thủ hòa là thắng thế đối phương một chút.”

Vô Trần thấy lão tự đặt mình vào vị trí bất lợi, hiểu ngay dụng ý, thầm nghĩ:

– “Đó là ngươi tự chuốc khổ vào thân, đừng trách ta nhé.”

Ông lập tức xử mấy chiêu liên hoàn trong Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm đâm vào mặt, cổ, yết hầu địch thủ. Trần Chính Đức bị lưỡi kiếm phản chiếu ánh sáng mặt trời làm hoa cả mắt, cuống cuồng chống đỡ ba chiêu, thầm la:

– “Hỏng bét!”

Đột nhiên lão nghe có tiếng la hét rồi sáu bảy mũi tên bắn lên.

Trần Chính Đức cúi người xuống tránh, đồng thời ra chiêu Bình Sa Lạc Nhạn đâm vào cánh tay phải địch thủ. Mấy mũi tên đó lướt qua lão, bay thẳng về phía Vô Trần. Vô Trần múa kiếm gạt tên, nhún chân nhảy lên đá vào huyệt Thái Dương của Trần Chính Đức. Họ Trần không biết cước pháp của ông tuyệt diệu như thế, giật mình lùi lại hai bước. Ngay lúc đó, một mũi tên gấp rút bắn tới sau lưng lão.

Mũi tên này là của bọn cao thủ thị vệ bắn ra, vừa nhanh vừa mạnh, lão lại đang quay lưng, đúng là hết đường tránh né. Quan Minh Mai la lên “Trời ơi”, ném Thiết liên tử ra ứng cứu nhưng không kịp.

Quần hùng đồng thời hô hoán kinh hãi. Vô Trần đột nhiên xuất chiêu Mã Diện Trật Xoa, ném thanh trường kiếm trong tay trúng vào mũi tên đó, cả kiếm lẫn tên cùng rơi xuống dưới tháp.

Quần hùng đều thở ra một hơi nhẹ nhõm, đang định reo hò thì dưới đất lại bắn lên một loạt tên. Vô Trần tay không, hết cách chống đỡ đành phải nhảy nhót tránh né. Quan Minh Mai ném Thiết liên tử ra đánh rơi ba mũi tên. Trần Chính Đức cũng quay lại gạt giúp. Hai người đang đánh nhau chí mạng, bây giờ lại cứu trợ lẫn nhau.

Bọn quan binh dưới tháp đều ngẩn ngơ không hiểu. Bạch Chấn thấy trong tay Vô Trần không có binh khí, nghĩ đến mối hận bị ông đả bại ở Tây Hồ, bèn hạ lệnh tập trung nhằm vào Vô Trần mà bắn. Lập tức loạn tiễn bay tới như mưa. Vô Trần tránh đông né tây, bối rối cả tay chân.

Trần Chính Đức thét lên:

– “Đừng sợ, để ta cản giúp!”

Lão vừa đưa kiếm lên toan gạt tên, đột nhiên từ cửa sổ tầng thứ sáu có một người bay vọt ra cản trước mặt. Người này chưa đứng vững đã chụp được mười mấy mũi tên, rồi ném ra đánh rơi hết những mũi bay sau. Thủ pháp của y thập phần kỳ diệu, tựa như có mấy chục cánh tay vậy. Bọn lính Thanh dưới tháp thấy vậy đều ngơ ngác, quên cả nhiệm vụ.

Dương Thành Hiệp cúi xuống quát to:

– “Hôm nay cho bọn ngươi coi thủ pháp của Thiên Tí Như Lai.”

Bọn võ quan thị vệ đều hết sức thán phục, hoan hô như sấm sét. Triệu Bán Sơn chắp tay, khom người cảm tạ. Quân lính thấy phong độ của ông như thế lại càng không nén nổi, vỗ tay vang dội một vùng. Ba người nhảy trở vào trong tháp, quần hùng đều bước tới chúc mừng. Lúc này vợ chồng Trần Chính Đức vừa phục võ công vừa phục tấm lòng hiệp nghĩa xả thân của Vô Trần và Triệu Bán Sơn, ai cũng khiêm nhường ca ngợi đối phương. Bọn lính Thanh dưới chân tháp lại bắt đầu la hét.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Để thuộc hạ lên nhờ hoàng đế chút việc.”

Chàng nói xong, liền đi lên lầu.

Lát sau, mọi người thấy Càn Long thò đầu ra cửa sổ tầng thứ bảy, kêu lớn:

– “Ta đây!”

Bạch Chấn la lên:

– “Hoàng thượng ở trên tháp!”

Rồi hắn chỉ huy cả đám nằm rạp xuống đất tung hô vạn tuế.

Càn Long tiếp:

– “Ta ở đây có việc, các người đừng ồn ào nữa.”

Lát sau, hắn lại nói tiếp:

– “Các ngươi lùi ra sau ba chục bước.”

Lý Khả Tú lập tức phụng chỉ, hô quân lùi lại.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Thất ca chỉ huy hoàng đế, hoàng đế chỉ huy quan binh, so với chém giết còn tốt hơn nhiều. Hoàng đế là báu trong thiên hạ, giết đi không bằng để đó mà dùng.”

Chàng trích dẫn lời Khổng Tử nghe rất hoạt kê, quần hùng đều cười rộ. Quân Thanh đều lùi lại, mọi người mới thấy trong trận có mấy người thợ săn dẫn chó theo.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Ta nghĩ không ra tại sao chúng lại tìm được đến đây. Thì ra chúng mang theo chó.”

Rồi họ Vệ lấy cung tên từ tay thuộc hạ, giương cung lắp tên từ trên cao bắn xuống. Veo véo hai tiếng, hai con chó tru một hồi dài rồi lăn ra chết. Bọn Thanh binh la lên một tiếng, lại càng rút lui nhanh hơn.

Trần Gia Lạc nói với Lục Phi Thanh:

– “Lục tiền bối! Chu tiền bối! Phiền hai vị tiếp chuyện với Trần lão tiền bối, Quan lão tiền bối. Tại hạ lên đó tiếp tục thương lượng với hoàng đế.”

Mọi người đều nói:

– “Xin tổng đà chủ cứ tùy tiện.”

Lúc Trần Gia Lạc trở bước lên lầu, quần hùng Hồng Hoa Hội đều đứng dậy tiễn chân. Hai vị Lục, Chu cũng đứng dậy hơi cúi người thi lễ, chỉ có Trần Chính Đức và Quan Minh Mai ngồi yên không động đậy. Thấy Trần Gia Lạc trẻ tuổi tuấn tú, phong thái nhã nhặn như công tử con quan mà được quần hùng cung kính đến vậy, Song Ưng không khỏi kinh ngạc.

Trần Gia Lạc lên tới tầng thứ bảy, Thường Thị Song Hiệp và Từ Thiên Hoằng thi lễ rồi lui ra. Càn Long không biết phải làm gì, cứ ủ rũ ngồi trên ghế.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Ca ca đã định được chủ ý chưa?”

Càn Long đáp:

– “Ta đã rơi vào tay các ngươi, muốn giết thì cứ giết, cần gì phải nói nhiều.”

Trần Gia Lạc than thở:

– “Đáng tiếc, đáng tiếc!”

Càn Long hỏi:

– “Đáng tiếc cái gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Trước nay tiểu đệ tưởng ca ca là con người hùng tài đại lược. Tiểu đệ vui sướng vì song thân có một người con tốt, mình có một người anh tốt. Nào ngờ…”

Càn Long hỏi ngay:

– “Nào ngờ cái gì?”

Trần Gia Lạc im lặng một hồi rồi mới đáp:

– “Nào ngờ ca ca chỉ hùng dũng bề ngoài, còn trong ruột thì hèn nhát.”

Càn Long giận dữ hỏi:

– “Ta nhát gan ở chỗ nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Không sợ chết thì dễ lắm, chỉ cần có cái dũng của kẻ thất phu là được. Nhưng nếu muốn mưu đồ đại sự thì người không đại dũng không sao làm được. Ca ca cũng không làm được.”

Càn Long đứng phắt dậy, hỏi:

– “Những chuyện kiến công lập nghiệp trên thiên hạ, đâu thể thành công vì bị người ta uy hiếp?”

Trần Gia Lạc biện luận:

– “Ngày xưa Đường Cao Tổ khởi nghĩa ở Thái Nguyên, ban đầu do dự không quyết. Con của Đường Cao Tổ là Lý Thế Dân đã bố trí nhiều mặt, ép phụ thân vào tình thế không thể không liều. Còn nếu không có vụ binh biến Trần Kiều, làm sao Tống Thái Tổ được khoác long bào? Hai vị vua khai quốc này ban đầu bị con trai cùng bộ hạ uy hiếp, bắt buộc phải mạo hiểm một phen. Cuối cùng hoàn thành đại sự, hậu thế có ai là không ngưỡng mộ?”

Càn Long suy nghĩ một hồi không đáp, hình như đã động lòng rồi.

Trần Gia Lạc lại nói tiếp:

– “Huống hồ ca ca tài vượt Lý Uyên, chí hơn Triệu Khuông Dẫn. Chỉ cần ca ca quyết tâm khôi phục thiên hạ cho người Hán hì đám thảo dân lỗ mãng bọn tiểu đệ sẽ lập tức chịu lệnh ca ca. Tiểu đệ vỗ ngực bảo đảm, từ nay về sau họ không dám bất kính với ca ca chút nào. Tất cả sẽ tận trung, giữ đạo thần tử.”

Càn Long gật gật đầu, nhưng trong lòng còn khúc mắc chưa tiện mở miệng.

Trần Gia Lạc hiểu ý, liền nói:

– “Chỉ cần được thấy ca ca đuổi hết bọn man di ra ngoài quan ải là tiểu đệ mãn nguyện rồi. Lúc đó, tiểu đệ nhất định phải xin ca ca cho phép qui ẩn hồi hương, cùng đám thủ hạ anh em ngắm hoa uống rượu hưởng thú an nhàn, sống nốt những năm còn lại.”

Càn Long cả mừng đáp:

– “Hiền đệ nói gì vậy? Nếu đại nghiệp hoàn thành, mọi việc lớn trong thiên hạ ta đều phải nhờ hiền đệ giúp một tay.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta phải hẹn nhau trước, hễ đại sự thành công là ca ca phải chấp thuận cho bọn tiểu đệ về hưu. Chắc ca ca cũng biết, đám anh em của tiểu đệ không hiểu lễ pháp, chắc chắn sẽ xảy ra những việc không hợp ý ca ca. Như vậy chỉ tổ làm sứt mẻ lễ quân thần, nghĩa huynh đệ.”

Càn Long nghe chàng nói bằng một giọng chém đinh chặt sắt, yên tâm vỗ bàn mà nói:

– “Hay lắm, chúng ta cứ thế!”

Trần Gia Lạc vui mừng hỏi lại:

– “Ca ca không còn gì khuất tất trong lòng nữa chứ?”

Càn Long nghĩ bụng:

– “Nếu hôm nay ta không đồng ý thì khó mà thoát thân được.”

Hắn bèn đáp:

– “Hết rồi. À, chỉ còn một việc phải nhờ hiền đệ. Cố tổng đà chủ Vu Vạn Đình có mấy món đồ gửi ở Hồi tộc, nói đó là chứng cớ về xuất thân của ta. Phiền đệ đem tới cho ta xem thử. Sau khi ta xem xong, nếu không nghi ngờ gì về gốc Hán của mình nữa, chắc chắn sẽ cùng hiền đệ mưu đồ đại sự.”

Trần Gia Lạc thấy chuyện này hợp tình hợp lý, bèn nói:

– “Được! Văn tứ ca nói là những vật đó rất quan trọng. Ngày mai tiểu đệ lập tức khởi hành, đích thân đem về cho ca ca xem.”

Càn Long dặn:

– “Khi trở về, hiền đệ hãy đến xin vào ngự lâm quân. Ta sẽ phong đệ làm tổng quản ngự lâm quân, thống lãnh ba doanh Hộ Quân, Kiêu Kỵ, Tiền Phong. Qua một thời gian, đệ sẽ kiêm nhiệm chức Kinh sư cửu môn đề đốc. Binh quyền các tỉnh trong thiên hạ sẽ dần dần lọt vào tay người thân tín của chúng ta. Cuối cùng ta sẽ cho hiền đệ làm Binh Bộ Thượng Thư, rồi xé lẻ tinh binh Bát Kỳ phân tán khắp nơi. Lúc đó chúng ta có thể khởi sự.”

Trần Gia Lạc mừng rỡ nói:

– “Hôm nay mọi người phải cùng nhau lập thệ, không ai được nuốt lời.”

Càn Long gật đầu. Trần Gia Lạc vỗ tay gọi Tâm Nghiễn, bảo đem y phục Càn Long tới, rồi giúp hắn thay quần áo. Cuối cùng chàng hô lớn:

– “Mời mọi người vào đây tham kiến hoàng thượng.”

Quần hùng lục tục kéo vào. Trần Gia Lạc nói rõ Càn Long đã ưng thuận phản Thanh phục Hán, rồi dõng dạc nói:

– “Từ nay về sau chúng ta phải phù tá hoàng thượng, cùng mưu đồ đại sự. Nếu ai thay lòng đổi dạ tiết lộ việc này, xin trời tru đất diệt.”

Trần Gia Lạc trích máu lập thệ. Càn Long cùng mọi người đều uống một hớp rượu thề, chỉ có Trần Chính Đức và Quan Minh Mai vẫn đứng bên cười nhạt.

Lục Phi Thanh gọi:

– “Đại ca, đại tẩu! Hai vị cũng đến uống rượu thề đi!”

Trần Chính Đức đáp:

– “Bọn quan phủ nói sao thì nói ta cũng không tin, huống chi đây lại là đầu não của bọn quan phủ. Trần tổng đà chủ! Ngươi quá tin hoàng đế, chỉ sợ đây là cách nghĩ của bọn thư sinh.”

Quan Minh Mai lên tiếng:

– “Khôi phục giang sơn người Hán là việc của con cháu Viêm Hoàng, dù chết cũng không thể chối từ. Giả tỉ hoàng đế thật sự có lòng, chỗ nào càn vợ chồng chúng ta trợ giúp, Trần tổng đà chủ chỉ cần nhắn tin là được. Hai bộ xương già này dù phải nhúng vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng tiếc gì. Còn ly rượu này, chúng ta không thể uống.”

Trần Chính Đức đưa tay nhẹ nhàng móc trong tường ra một viên gạch, giận dữ nói:

– “Nếu có ai lòng lang dạ sói, phụ nghĩa bội thề, bán đứng bằng hữu, làm hỏng đại sự, thì hãy nhớ tấm gương này.”

Lão khẽ vận kình vào ngón tay, gạch đá nát vụn ra thành bụi, rơi vãi xuống đất. Càn Long nhìn vết ngón tay trên tường mà kinh hãi trong lòng. Trần Gia Lạc nói:

– “Tuy hai vị lão tiền bối không cùng thề thốt, nhưng đã đồng lòng với mọi người rồi. Ở đây ai cũng là người tín nghĩa, tại hạ không cần phải nói nhiều. Chỉ mong hoàng thượng đừng tam tâm lưỡng ý, quên mất lời thề hôm nay.”

Càn Long đáp:

– “Mọi người cứ yên tâm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì hay lắm. Bây giờ chúng ta tiễn hoàng thượng ra ngoài.”

Vệ Xuân Hoa liền chạy ra ngoài tháp, lớn tiếng gọi:

– “Các ngươi mau mau tới đây nghênh giá.”

Lý Khả Tú và Bạch Chấn nghe mà bán tín bán nghi, sợ Hồng Hoa Hội lại dùng quỷ kế nên thống lãnh binh lính từ từ mà tới. Khi thấy Càn Long từ trong tháp bước ra, chúng mới phục sát xuống đất để đón tiếp.

Bạch Chấn dắt ngựa lại, Càn Long lên ngựa rồi nói:

– “Ta ở đây uống rượu làm thơ với họ, muốn được mấy ngày thanh tịnh. Không ngờ các ngươi sợ hãi thế này, làm hỏng mất nhã hứng của ta.”

Bạch Chấn vội vã dập đầu:

– “Tội thần đáng chết, tội thần đáng chết!”

Sau đó cả đoàn quân tiền hô hậu ủng, cờ bay phất phới, uy phong lẫm liệt, ca khúc khải hoàn trở về Hàng Châu. Tiếc rằng trong tiếng trống chiêng có lạc mấy tiếng chó sủa gâu gâu, nếu không thì thật là toàn mỹ.

* * *

Quần hùng Hồng Hoa Hội trở về Lục Hòa Tháp.

Trần Chính Đức nói:

– “Phen này vợ chồng chúng ta được gặp gỡ quần hùng ở Giang Nam, được kiến diện Chu lão anh hùng xưa nay ngưỡng mộ, được trùng phùng với Lục lão đệ không gặp nhiều năm, đều là chuyện đáng mừng. Ta được giao đấu hai phen với Vô Trần đạo trưởng đúng là đại khoái trong đời. Bây giờ ta và bà lão còn mấy chuyện vặt phải làm, xin cáo biệt.”

Trần Gia Lạc vội nói:

– “Hai vị tiền bối hiếm khi đến Giang Nam, phải ở lại mấy ngày để dạy dỗ bọn hậu bối nhiều hơn.”

Trần Chính Đức trợn mắt lên nói:

– “Bản lãnh sư phụ ngươi còn hơn ta nhiều, ngươi cần gì ta dạy dỗ? Vô Trần đạo trưởng! Sau này chúng ta phải tỉ đấu một phen nữa, xem tửu lượng ai lợi hại hơn.”

Vô Trần mỉm cười đáp:

– “Chuyện này bần đạo nhất định phải chịu hạ phong.”

Quan Minh Mai kéo Trần Gia Lạc qua một bên, hỏi nhỏ:

– “Ngươi đã có thê tử chưa?”

Trần Gia Lạc đỏ mặt lên đáp:

– “Chưa.”

Quan Minh Mai lại hỏi:

– “Đã đính hôn chưa?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Cũng chưa.”

Quan Minh Mai mỉm cười, gật đầu đầy vẻ ôn hòa. Đột nhiên mụ giận dữ nói:

– “Nếu ngươi vô tình vô nghĩa, phụ lòng người tặng kiếm, bà lão này quyết không tha cho ngươi.”

Trần Gia Lạc giật mình kinh hãi, nhất thời không biết nói gì. Trần Chính Đức la gọi:

– “Này! Bà già rụng hết răng mà còn thích nói to nói nhỏ với thanh niêm mới lớn ư? Đi thôi.”

Lông mày Quan Minh Mai nhăn tít lại. Mụ quay người đi ngay, đột nhiên chúm môi huýt sáo. Bốn con chó săn trong rừng chạy ra, có một con bước thấp bước cao vì bị đánh gãy chân. Hai vợ chồng thi lễ với quần hùng, rồi dẫn bốn con chó săn rời khỏi đó.

Lục Phi Thanh gọi với theo:

– “Đại ca, đại tẩu! Hai vị đi đâu thế?”

Hai người không trả lời, chốc lát bóng người đã mất hút trong rừng, rồi tiếng chó sủa cũng xa dần. Thường Thị Song Hiệp vẫn còn bất bình. Thường Hách Chí nói:

– “Đúng là loại người ỷ mình lớn tuổi.”

Thường Bá Chí bồi thêm:

– “Những bậc thế ngoại cao nhân, đại để đều như vậy cả. Chúng ta vào tháp nói chuyện tiếp đi.”

Mọi người quay vào trong Lục Hòa Tháp. Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Ta đã hứa với hoàng thượng là tới chỗ sư phụ lấy hai vật quan trọng. Bây giờ chúng ta lên Thiên Mục Sơn để thăm hỏi Tứ ca và Thập tứ đệ trước, sau đó sẽ điều động nhân mã có được hay không?”

Mọi người đều hô vang đồng ý. Ra khỏi tháp, hai cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình quay về Hàng Châu. Quần hùng cưỡi ngựa đi về hướng tây, hôm sau đã đến Thuận An, thêm một ngày nữa là đến Vu Tiện, rồi kéo nhau lên núi thăm Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng.

Hồi 12: Từ gia cát phỉ tình hương lửa – Dư tú tài vì nghĩa lâm nguy

Trên núi là rừng cây rậm rạp. Lúc này đã là cuối thu, chỉ trừ những bụi trúc vẫn xanh biếc, còn khắp núi đều phủ sắc đỏ vàng của lá. Người gác trên núi đã về thông báo cho Chương Tấn xuống núi đón tiếp.

Trần Gia Lạc không thấy Lạc Băng đâu, trong lòng bỗng kinh hãi, sợ xảy ra chuyện ngoài ý muốn, liền hỏi:

– “Tứ tẩu đâu? Tứ ca cùng Thập tứ đệ có khoẻ không?”

Chương Tấn đáp:

– “Thập tứ đệ không sao cả. Tứ tẩu nói là đi tìm một vật cho Tứ ca, đã đi hai ngày rồi. Dọc đường các huynh đệ không gặp hay sao?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đi tìm vật gì?”

Chương Tấn mỉm cười đáp:

– “Thuộc hạ cũng không biết. Hai ngày nay vết thương của Tứ ca đã đỡ nhiều, phải nằm suốt ngày nên chán ngán phát sinh buồn bã, Tứ tẩu nảy ra ý kiến đi tìm cái gì để chơi. Phen này không biết nhà ai xúi quẩy.”

Triệu Bán Sơn cười nói:

– “Tứ đệ và Tứ muội đã lớn thế này mà còn thích đùa giỡn như trẻ con vậy. Sau này có con cái, chắc hẳn tính nghịch ngợm của tổ tông còn di truyền tiếp tục.”

Mọi người đều cười rộ lên.

Quần hùng vừa cười vừa lên núi, vào một trang viện lớn, đến thăm Văn Thái Lai trước. Văn Thái Lai đang rầu rĩ nằm trên chiếc giường bằng mây, vừa thấy mọi người là mừng rỡ nhổm dậy đón tiếp ngay. Quần hùng kể lại những chuyện vừa qua, rồi sang phòng đối diện thăm Dư Ngư Đồng.

Mọi người bước rón rén, khẽ đẩy cửa vào, chợt nghe tiếng nức nở. Trần Gia Lạc bước tới vén màn lên, thấy Dư Ngư Đồng nằm quay mặt vào tường, lưng lên xuống phập phồng, khóc lóc trông rất thảm thiết. Chuyện này làm ai cũng bất ngờ. Quần hùng đều là người khẳng khái mau lẹ, ngay cả đám nữ nhân như Lạc Băng, Chu Ỷ cũng ít khi khóc lóc.

Quần hùng nhìn chàng khóc, nửa thấy kinh ngạc, nửa thấy buồn rầu. Trần Gia Lạc khẽ gọi:

– “Thập tứ đệ! Mọi người đến thăm đệ đây. Đệ thấy như thế nào? Vết thương đau lắm phải không?”

Dư Ngư Đồng dừng tiếng khóc, nhưng vẫn không quay lại, đáp:

– “Tổng đà chủ, Chu lão gia tử, sư thúc, các vị ca ca! Đa tạ các vị đến thăm. Xin thứ lỗi cho tiểu đệ không ngồi dậy thi lễ được. Mấy hôm nay vết thương đã khá nhiều rồi, nhưng mặt của đệ bị cháy trông như quái thú, không sao gặp người ta được nữa.”

Chu Ỷ mỉm cười nói:

– “Thập tứ ca! Nam tử hán bị hỏng khuôn mặt có chi là quan trọng? Chẳng lẽ huynh sợ ế vợ hay sao?”

Nghe nàng nói chuyện không kiêng nể gì, có người mỉm cười, cũng có người không sao cười nổi.

Lục Phi Thanh lên tiếng:

– “Dư sư điệt! Ngươi bị cháy hỏng khuôn mặt là để cứu Tứ gia và cứu ta. Hào kiệt thiên hạ mà biết chuyện này thì không ai không nghiêng mình kính nể, không ai không khen ngươi là anh hùng hảo hán, đại nhân đại nghĩa. Mặt ngươi càng xấu xí thì người ta càng kính trọng, không cần lo lắng trong lòng.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Sư thúc dạy bảo rất đúng, nhưng…”

Chàng lại nhịn không nổi, khóc rống lên.

Thì ra sau khi đến Thiên Mục Sơn, Dư Ngư Đồng sáng nào chiều nào cũng được Lạc Băng chăm sóc vết thương, ngày nào Văn Thái Lai cũng qua nói chuyện giải sầu. Chàng biết mối si tình của mình đối với Lạc Băng là hoàn toàn không phải, nhưng dù sao cũng không quên được. Đêm nào chàng cũng thao thức trên giường, vừa khổ sở vừa hối hận.

Thấy mỗi khi Lạc Băng, Văn Thái Lai, Chương Tấn nhìn mình lộ vẻ kinh hãi và thương xót, Dư Ngư Đồng biết rằng khuôn mặt của mình đã bị thiêu cháy đến bất thành nhân dạng. Mấy lần chàng muốn lấy gương soi thử, nhưng rốt cuộc vẫn chưa đủ dũng khí.

Phen này Dư Ngư Đồng quyết liều mạng để cứu Văn Thái Lai, báo đáp cho Lạc Băng, giải quyết mối oan nghiệt trong lòng, nào ngờ lại không được chết. Chàng nghĩ đến lúc mình dưỡng thương ở nhà họ Lý tại Hàng Châu, Lý Nguyên Chỉ đã tặng cho mối tình sâu nặng mà mình không có cách gì báo đáp, thế là vừa phụ lòng người vừa phụ ơn cứu mạng, khó chịu muôn phần. Ngày đêm suy nghĩ, vị Kim Địch Tú Tài phong lưu tiêu sái xưa kia bây giờ chỉ còn da bọc xương, tiều tụy không sao tả nổi.

Mọi người từ biệt Dư Ngư Đồng, quay về đại sảnh ngồi góp chuyện. Văn Thái Lai rầu rĩ lên tiếng:

– “Vì cứu ta mà mặt mày Thập tứ đệ bị hủy hoại đến thế. Y vốn là một thiếu niên tuấn tú, mà bây giờ… ôi!”

Vô Trần đạo trưởng nói:

– “Nam tử hán đại trượng phu hành hiệp giang hồ chỉ cần nghĩa khí là một, bản lãnh là hai. Còn dung mạo đẹp hay xấu thì chỉ có bọn không ra gì mới xem trọng. Tay trái ta bị cụt, lưng Chương thập đệ bị tật, dáng vẻ Thường gia huynh đệ hết sức cổ quái nhưng trên giang hồ có ai chê cười đâu? Thập tứ đệ đúng là có chỗ không thông suốt.”

Triệu Bán Sơn nói:

– “Y vẫn còn tính trẻ, lại đang cơn bệnh, sau này mọi người khuyên giải một chút là xong. Hôm nay chúng ta phải uống say một bữa để chúc mừng Tứ đệ.”

Mọi người reo hò vui vẻ, bảo thủ hạ đi chuẩn bị tiệc rượu. Chu Ỷ nói:

– “Tiếc là Băng tỷ không có ở đây, không biết hôm nay về kịp hay không? Tỷ tỷ vẫn cưỡi con ngựa trắng đấy chứ?”

Chương Tấn lắc đầu đáp:

– “Không, Tứ tẩu nói là con ngựa trắng đẹp quá dễ gây chú ý. Vết thương của Tứ ca và Thập tứ đệ chưa lành hẳn, không nên để bọn quỷ tìm đến.”

Dương Thành Hiệp mỉm cười:

– “Lúc này chúng ta ở đây cả rồi. Bọn quỷ tìm đến lại là chuyện tốt.”

Tưởng Tứ Cân nghe đến chữ “quỷ”, liền mỉm cười nhìn Thạch Song Anh một cái. Thạch Song Anh có ngoại hiệu là Quỷ Kiến Sầu, nhưng không ai nhắc đến cái ngoại hiệu này trước mặt Thường Thị Song Hiệp. Ngoại hiệu của Song Hiệp là Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường. Vô Thường cũng là quỷ, chẳng lẽ ca ca lại sợ tiểu đệ hay sao?

Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng thấp giọng bàn bạc một lúc, rồi vỗ tay một cái, mọi người đứng cả dậy. Trần Gia Lạc vội nói:

– “Mời hai vị Lục, Chu tiền bối ngồi xuống. Lần sau xin đừng khách sáo như thế.”

Lục Phi Thanh và Chu Trọng Anh cùng nói:

– “Xin phép,” rồi ngồi xuống.

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Phen này công chuyện của chúng ta trôi chảy vô cùng, chỉ e sau này gặp phải những việc khó khăn. Chúng ta phải sắp xếp một chút. Cửu ca và Thập nhị ca đi Bắc Kinh thăm dò tin tức, xem hoàng đế có ý bội thề hay không, có âm mưu quỷ kế gì không. Việc này quan trọng hàng đầu, khó mà điều tra cho rõ được. Hai vị phải thận trọng.”

Vệ, Thạch hai người gật đầu đồng ý.

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Nhờ hai vị Thường ca ca đến Vân Quế, Tứ Xuyên liên lạc với hào kiệt vùng Tây Nam. Bát ca đến vùng An Huy, Hồ Bắc. Vô Trần đạo trưởng đến vùng Lưỡng Hồ. Thập tam ca đến vùng Lưỡng Quãng. Tam ca cùng cha con họ Mã liên lạc hào kiệt ba tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến và Giang Tây. Vùng Sơn Đông và Hà Nam nhờ Lục lão tiền bối chủ trì. Các tỉnh Tây Bắc nhờ Chu lão tiền bối cùng Mạnh đại ca, An đại ca, Thất ca và Chu cô nương chủ trì. Tứ ca, Thập tứ đệ dưỡng thương ở đây. vẫn nhờ Tứ tẩu và Chương thập ca lo liệu giùm, phải tuyệt đối bí mật, đừng để bọn quan phủ biết. Tâm Nghiễn cùng ta đi đến Hồi tộc. Các vị thấy thế nào?”

Mọi người đồng thanh nói:

– “Xin tuân lệnh tổng đà chủ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Phen này các vị chia nhau đến các tỉnh, không phải là lo việc cử sự, chỉ là liên hệ và kết giao với anh hùng hào kiệt các nơi để làm gốc rễ cho đại sự sau này. Việc của chúng ta cơ mật khác thường, dù là thân cận như thê tử, tôn trọng như song thân cùng sư trưởng cũng không được tiết lộ.”

Mọi người đồng thanh nói:

– “Bọn thuộc hạ hiểu rồi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta hẹn nhau một năm. Ngày này sang năm mọi người tập hợp ở kinh sư. Lúc đó thương thế của Tứ ca và Thập tứ đệ đã lành, chúng ta sẽ làm chuyện lớn.”

Nói xong chàng vỗ bàn đứng dậy. Mọi người theo chàng đến trung đình, ai cũng phấn khởi vô cùng. Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai, Thường Thị Song Hiệp vẫn cảm thấy lời nói của hoàng đế khó mà tin được, nhưng Trần Gia Lạc đang cao hứng nên không tiện dội nước lạnh ngay.

Chương Tấn nghe tổng đà chủ lại bắt mình hưởng nhàn trên Thiên Mục Sơn, mặt mày rầu rĩ. Văn Thái Lai biết ý, liền nói với Trần Gia Lạc:

– “Tổng đà chủ! Vết thương của thuộc hạ đã đỡ nhiều rồi. Thập tứ đệ tuy bị bỏng nặng nhưng cũng dễ trị thôi. Nếu bọn thuộc hạ phải nằm buồn trên núi một năm, thật sự rất khó chịu. Bốn người bọn thuộc hạ muốn theo tổng đà chủ đến chỗ Hồi tộc, cũng là để Thập tứ đệ được khoan khoái trong lòng hơn.”

Chương Tấn cả mừng nói:

– “Đúng thế! Đúng thế!”

Văn Thái Lai nói:

– “Dọc đường du sơn ngoạn thủy, vết thương nhất định sẽ mau lành.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Thế cũng được. Nhưng không biết Thập tứ đệ có chịu nổi hay không?”

Văn Thái Lai nói:

– “Cứ để y ngồi xe mấy ngày nữa. Nhiều lắm cũng chỉ mười ngày nửa tháng là cưỡi ngựa như thường.”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Hay lắm! Chúng ta cứ thế mà làm.”

Chương Tấn mừng rỡ chạy vào trong cho Dư Ngư Đồng biết, rồi lập tức chạy ra nói:

– “Thập tứ đệ cũng nói như vậy là hay nhất.”

Chu Trọng Anh kéo Trần Gia Lạc qua một bên, khẽ nói:

– “Tổng đà chủ! Bây giờ Tứ gia đã được cứu ra, lão đệ và hoàng thượng lại cốt nhục tương phùng, thật là hoan hỉ trùng trùng. Ta muốn thêm vào một việc vui mừng nữa, lão đệ thấy sao?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Lão gia muốn tổ chức hôn lễ cho Thất ca và Chu đại cô nương chứ gì?”

Chu Trọng Anh mỉm cười đáp:

– “Đúng vậy.”

Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Thế thì tuyệt diệu! Bây giờ mọi người đều ở đây, chúng ta cạn chén rượu mừng rồi hãy chia tay. Tiếc là hơi cập rập một chút, không thể mời hết bằng hữu các nơi đến chung vui với Chu đại cô nương.”

Chu Trọng Anh nói:

– “Bao nhiêu anh hùng hảo hán ở đây còn chưa đủ hay sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Thế thì xin lão gia chọn một ngày lành.”

Chu Trọng Anh nói:

– “Người như chúng ta thì cần gì tính đến ngày lành hay ngày không lành? Ta muốn tổ chức ngay hôm nay.”

Trần Gia Lạc biết ông ta không muốn vì con gái mình mà làm chậm trễ mọi người, bèn đáp:

– “Lão gia đã lo nghĩ vẹn toàn như thế, tại hạ thật là muôn phần cảm kích.”

Chu Trọng Anh mỉm cười nói:

– “Lão đệ còn khách sáo với ta làm chi nữa?”

Trần Gia Lạc cười cười đi tới trước mặt Chu Ỷ, chắp tay lại nói:

– “Đại cô nương! Ta có lời chúc mừng cô.”

Chu Ỷ lập tức đỏ mặt lên hỏi lại:

– “Huynh nói gì vậy?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “À, ta phải gọi cô là Thất tẩu mới đúng. Thất tẩu! Ta có lời chúc mừng cô.”

Chu Ỷ bĩu môi ra nói:

– “Hứ! Làm tới tổng đà chủ mà cũng hay đùa đến thế à?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Cô không tin ta phải không?”

Chàng vỗ tay ra hiệu, mọi người lập tức im lặng trở lại.

Trần Gia Lạc dõng dạc nói:

– “Chu lão gia vừa nói:

– hôm nay sẽ làm lễ thành hôn cho Thất ca và Chu đại cô nương. Chúng ta sắp có rượu uống rồi.”

Quần hùng nổi tiếng hoan hô như sấm, tới tấp kéo đến chúc mừng Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng. Bây giờ Chu Ỷ mới biết đây là chuyện thật, vội trốn vào nhà trong. Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Thập đệ mau mau giữ cô ấy lại, đừng để cô dâu chạy trốn.”

Chương Tấn giả vờ đưa tay kéo lại, Chu Ỷ liền vung tay đánh ngay một chưởng. Chương Tấn né qua một bên, cười rộ lên hô lớn:

– “Úi chà, cứu mạng! Cô dâu hung dữ đánh chết người rồi!”

Chu Ỷ cười khúc khích, chạy tuốt vào trong. Mọi người đang vui đùa thì ngoài cửa bỗng vang lên tiếng chuông thánh thót. Lạc Băng ôm một cái hộp, chạy vào trong la lên:

– “Hay quá! Mọi người đều đến cả rồi. Có gì mà vui vẻ thế?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Cô hỏi Thất ca thử xem.”

Lạc Băng hỏi:

– “Thất ca! Có việc gì vậy?”

Từ Thiên Hoằng ấp úng không nói được tiếng nào. Lạc Băng kinh ngạc nói:

– “Lạ thật, lạ thật! Tại sao hôm nay Võ Gia Cát lại ngớ ngẩn như vậy?”

Tưởng Tứ Cân đứng sau lưng Từ Thiên Hoằng đưa ngón tay ra hiệu phu thê giao bái, rồi nói:

– “Hôm nay Gia Cát chiêu thân, làm chú rể ngốc.”

Lạc Băng hoan hỉ, vừa cười vừa la lên:

– “Hỏng bét, hỏng bét.”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Tứ tẩu vui đến nỗi hồ đồ rồi sao? Thất ca thành hôn chứ có phải Tứ ca đâu mà Tứ tẩu lại nói là hỏng bét?”

Quần hùng lại cười ồ lên. Lạc Băng nói:

– “Nếu biết trước hôm nay Thất ca và Ỷ muội kết hôn, ta sẽ thuận tay dắt bò tìm thêm ít đồ quí trọng. Lúc này chẳng có gì để làm quà, há chẳng phải là hỏng bét hay sao?”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Tứ tẩu mang về cho Tứ ca món gì vậy? Cho mọi người xem một chút có được không?”

Lạc Băng mỉm cười mở cái hộp ra, lập tức hào quang xông lên chói mắt. Thì ra đó chính là đôi bạch ngọc bình của người Hồi gửi đến để cầu hòa với hoàng đế. Quần hùng đều ngơ ngác, vội vàng hỏi kỹ.

Lạc Băng đáp:

– “Lúc nói chuyện với Tứ ca, ta có kể là cặp ngọc bình này rất đẹp, mỹ nhân vẽ trên bình vô cùng diễm lệ. Y không chịu tin…”

Từ Thiên Hoằng chặn đầu:

– “Chắc Tứ ca không tin là có người đẹp hơn Tứ tẩu, có đúng thế không?”

Lạc Băng cười cười không đáp, rõ ràng Văn Thái Lai đã nói đúng như thế. Từ Thiên Hoằng lại hỏi:

– “Vậy là Tứ tẩu đã đến chỗ hoàng đế để ăn cắp vật này?”

Lạc Băng gật đầu, ra vẻ rất đắc ý:

– “Ta đến Hàng Châu lấy ngọc bình về cho Tứ ca xem, sau đó xử lý thế nào thì tùy tổng đà chủ. Tặng lại cho Hoắc Thanh Đồng muội muội cũng được, mà chúng ta giữ lại cũng được.”

Văn Thái Lai thấy mỹ nhân Hồi tộc vẽ trên bình thật sự đẹp đẽ vô cùng, bất giác quay lại ngắm nghía vợ mình. Lạc Băng mỉm cười hỏi:

– “Muội nói không sai đấy chứ?”

Văn Thái Lai vừa cười vừa lắc đầu, Lạc Băng ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, chắc phu quân muốn nói:

– “Cho dù mỹ nhân trên bình đó có đẹp lên gấp mười cũng không thể sánh kịp Băng muội.”

Nàng nhìn lại chồng, không nén nổi hai má đỏ bừng lên.

Vô Trần đạo trưởng lên tiếng:

– “Tứ đệ, Tứ muội! Bên cạnh hoàng đế cao thủ rất nhiều. Đôi ngọc bình này lại quí trọng như thế, nhất định là được canh gác rất nghiêm ngặt. Làm sao Tứ muội lấy trộm được? Đảm lược như Tứ muội, thật sự là kẻ nam tử như ta không thể nào sánh kịp. Đạo sĩ già này phục Tứ muội thật rồi.”

Lạc Băng mỉm cười từ từ kể lại, nàng lẻn vào dinh tuần phủ, bắt một tên thái giám để hỏi cung, dùng bánh bao tẩm thuốc độc để giết lũ chó canh, giả tiếng mèo kêu để lừa đám thị vệ, rồi mò mẫm trong bóng tối tìm được cặp ngọc bình này như thế nào. Quần hùng ngẩn ra nghe đến xuất thần, ai cũng tán thưởng tài ăn cắp thần kỳ của Lạc Băng.

Lục Phi Thanh bỗng lên tiếng:

– “Tứ phu nhân! Ta và phụ thân của cô là Lạc lão đệ đã kết giao sinh tử nên mới ỷ mình già mà nói mấy câu. Cô đừng trách ta nhé.”

Lạc Băng vội đáp:

– “Xin Lục lão bá dạy cho.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Cô vừa gan dạ vừa tỉ mỉ, đơn thương độc mã làm được việc này, thật khiến cho người ta thán phục. Nhưng việc thì có nặng có nhẹ, có lúc gấp rút mà cũng có thể chần chừ. Nếu đôi ngọc bình này liên quan đến đại sự chúng ta đang mưu tính thì mạo hiểm vì điều hiệp nghĩa là chuyện nên làm. Nhưng chỉ vì một lời nói giỡn với Tứ gia mà cô một mình xông vào hiểm địa, lỡ gặp chuyện không may, thì chưa nói đến bạn bè lo lắng, riêng Tứ gia phải suy nghĩ thế nào?”

Nghe xong câu này, Lạc Băng toát mồ hôi đầy mình, vội đáp:

– “Đúng thế!”

Lục Phi Thanh lại tiếp:

– “May mà đêm đó hoàng đế bị chúng ta mời đi Lục Hòa Tháp, bọn thị vệ bối rối không biết làm gì chỉ lo tìm hoàng đế, nên dinh tuần phủ không có cao thủ cảnh giác. Nếu có bọn Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn ở đó, thì mối nguy hiểm thật là không nhỏ.”

Lạc Băng vâng dạ liên hồi, quay lại thè lưỡi với Văn Thái Lai một cái.

Trần Gia Lạc bèn lên tiếng giải vây cho Lạc Băng:

– “Chắc là sau khi cứu được Tứ ca ra ngoài, Tứ tẩu vui mừng đến nỗi hồ đồ. Sau này đừng làm như thế nữa.”

Lạc Băng vội nói:

– “Không làm nữa, không làm nữa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được rồi, bây giờ chúng ta lo chuẩn bị đại lễ cho Thất ca. Này, Thất ca! Việc trước mắt gấp như cứu hỏa, trên núi chuẩn bị vật dụng không tiện chút nào. Huynh vốn thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, hãy mau mau nghĩ ra kế hoạc vẹn toàn.”

Mọi người trong sảnh đường đều cười rộ. Từ Thiên Hoằng nghĩ đến chuyện sắp được kết hôn với người trong mộng, hồn phách bay đâu mất hết, thật sự hồ đồ. Chàng nghe mọi người đùa giỡn mà chỉ biết bối rối mỉm cười, không nói được lời nào.

Trần Gia Lạc cười nói:

– “Võ Gia Cát của chúng ta đã trở thành chú rể ngốc thật rồi. Vậy thì ta phải có ý kiến. Nhà gái thì do Chu lão gia làm chủ hôn, chuyện đó thì rõ rồi. Nhà trai xin mời Tam ca làm chủ hôn, Lục lão gia làm ông mai. Cửu ca! Phiền huynh cưỡi con bạch mã của Tứ tẩu vào thành Vu Tiền, mua gấp những thứ phải dùng trong lễ cưới. Mạnh đại ca! Phiền huynh xuống dưới núi chuẩn bị tiệc rượu. Quà cưới thì tạm thời nợ lại, sau này Thất tẩu có con thì mỗi người tặng gấp đôi. Các vị thấy như vậy có được hay không?”

Vệ Xuân Hoa và Mạnh Kiện Hùng nhận lệnh đi ngay. Triệu Bán Sơn thì nói:

– “Bên họ nhà trai, dĩ nhiên tổng đà chủ phải đứng chủ hôn. Lát nữa thuộc hạ lo việc xướng lễ là được rồi.”

Trần Gia Lạc vẫn khiêm nhường đưa đẩy, nhưng ai cũng nói thủ lĩnh phải làm chủ hôn, nên cuối cùng chàng đồng ý.

Đến xế chiều, Mạnh Kiện Hùng về báo tiệc rượu đã chuẩn bị xong, chỉ có phần hơi thô thiển. Mọi người đều nói là không hề gì. Nửa giờ nữa Vệ Xuân Hoa cũng trở về, vật dụng đã mua sắm đủ. Mão phụng, áo cưới của cô dâu đều có, mua từ tiệm bán lễ phục.

Lạc Băng cầm y phục cô dâu, định vào trang điểm cho Chu Ỷ. Thấy ngay cả phấn son cũng mua đầy đủ, nàng mỉm cười nói:

– “Cửu ca! Huynh thật là chu đáo. Không biết sau này vị cô nương nào có phước được làm thê tử của huynh?”

Vệ Xuân Hoa cười nói:

– “Tứ tẩu đừng nói giỡn nữa. Tối nay chúng ta nghĩ trò gì chọc phá cô dâu chú rể thử xem.”

Lạc Băng vỗ tay cười lớn:

– “Hay lắm! Huynh có ý kiến gì không?”

Tưởng Tứ Cân và mọi người nghe bàn tán tới chuyện trêu ghẹo cô dâu đều quây cả lại, nhao nhao đề ra ý kiến. Vệ Xuân Hoa nói:

– “Tứ tẩu! Tứ tẩu lấy trộm được ngọc bình của hoàng đế, ai cũng thán phục. Nhưng hồi nãy Lục lão tiền bối đã nói, nếu có mặt bọn cao thủ trong đại nội thì e rằng không dễ dàng như thế.”

Lạc Băng mỉm cười đáp:

– “Ăn trộm là đấu trí chứ không phải đấu lực. Tuy ta đánh không lại bọn chúng, nhưng chưa chắc đã không đánh cắp được.”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Chuyện đó phải xem lại. Thất ca là người lanh lợi thông minh nhất hội. Nếu tối nay Tứ tẩu ăn cắp được của y, thì chúng ta đều phục Tứ tẩu”

Lạc Băng mỉm cười hỏi:

– “Huynh muốn ta lấy cắp thứ gì của Thất ca?”

Vệ Xuân Hoa cười nói:

– “Đợi cô dâu chú rể đi nghỉ, Tứ tẩu ăn cắp hết quần áo để sáng mai họ không dậy được.”

Chương Tấn và cả đám đều rộ lên khen hay. Triệu Bán Sơn tới hỏi:

– “Có gì mà vui thế?”

Tưởng Tứ Cân đẩy ông ra chỗ khác, nói:

– “Chuyện này không liên quan đến Tam ca.”

Mọi người nghĩ Triệu Bán Sơn lão thành bảo thủ, nên sợ ông lén nói cho Từ Thiên Hoằng biết.

Chờ Triệu Bán Sơn rời khỏi, Dương Thành Hiệp mới tiếp:

– “Khi đối phó với hoàng đế, chúng ta cũng dùng cách này. Quả nhiên hắn không mặc quần áo thì không dám ngồi dậy. Tứ tẩu! Việc này khó lắm, xem chừng Tứ tẩu không làm nổi đâu.”

Lạc Băng chau mày không đáp, thầm nghĩ:

– “Việc này thật sự không dễ. Hơn nữa trò đùa này hơi quá đáng, e rằng Ỷ muội sẽ trách.”

Nhưng nàng nghe Dương Thành Hiệp khích bác bèn nổi lòng hiếu thắng, hỏi lại:

– “Nếu ta lấy cắp được thì sao?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Ở đây có Bát ca, Thập đệ, Thập nhị đệ, Thập tam đệ và ta. Năm người chúng ta sẽ làm cho con bạch mã của cô một bộ yên cương bằng vàng ròng, kiểu dáng thời trang, chất lượng cao, bảo đảm cô vừa ý.”

Lạc Băng gật đầu:

– “Hay lắm, chúng ta cứ thế. Còn nếu lấy cắp không được, ta sẽ thêu tặng mỗi vị một cái túi hoa.”

Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa đồng thanh nói:

– “Hay lắm! Nói một lời thôi đấy nhé.”

Tưởng Tứ Cân dặn kỹ:

– “Cái túi hoa đó Tứ tẩu phải thêu cho đẹp, không được làm ẩu tả đâu.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Úi chà! Tứ tẩu đã ăn gian với đệ bao giờ đâu? Nhưng các vị không được nói với Thất ca, Thất tẩu.”

Dương Thành Hiệp và mọi người đều đồng thanh nói:

– “Việc đó đương nhiên. Chúng ta còn thích thua Tứ tẩu để có chuyện náo nhiệt mà xem.”

Sáu người thương lượng xong xuôi rồi chia tay nhau để chuẩn bị cho hôn lễ.

Lạc Băng đã nhận lời thách đố, nhưng nhất thời chưa biết phải thực hiện thế nào. Đối phó với Chu Ỷ thì dễ, còn Từ Thiên Hoằng là người đa mưu túc trí. Dùng kế thì nàng biết mình không phải là địch thủ của họ Từ, chỉ còn cách tùy cơ ứng biến, đi nước nào tính nước đó mà thôi.

Lát sau đèn lồng trong đại sảnh đã thắp sáng trưng. Từ Thiên Hoằng mặc trường bào, khoác thêm áo ngắn đứng phía bên trái. Lạc Băng dìu Chu Ỷ ra, Triệu Bán Sơn lớn tiếng xướng lễ. Hai vợ chồng bái thiên địa trước, rồi bái tới thần vị Hồng Hoa lão tổ. Sau đó, hai người hành lễ trước mặt vợ chồng Chu Trọng Anh, rồi Trần Gia Lạc. Chu Trọng Anh và Chu phu nhân trả lại nửa lễ, còn Trần Gia Lạc không dám nhận đại lễ nên quì xuống trả lễ. Chu Trọng Anh đứng bên liên tiếp nói lời khiêm tốn. Đôi vợ chồng mới lại cảm tạ ông mai Lục Phi Thanh.

Phu thê giao bái xong, theo thứ tự mà thi lễ với Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường Thị Song Hiệp. Tâm Nghiễn dìu Dư Ngư Đồng ra đại sảnh ngồi trên ghế. Chàng che mặt bằng tấm khăn xanh chỉ để lộ đôi mắt, cũng tới thi lễ với tân lang tân nương.

Không khí trong đại sảnh rất vui vẻ. Dư Ngư Đồng lấy kim địch ra thổi bài Phượng Cầu Hoàng. Mọi người thấy tinh thần chàng đã khá, lại thêm phần hoang hỉ.

Sau đó mọi người ngồi vào tiệc rượu. Vô Trần đạo trưởng cầm lấy bình rượu, hô lớn:

– “Hôm nay ai chưa say thì không được đi ngủ…”

Nói chưa xong, ông bỗng vung tay lên, ném cái bình vào cây quế trong vườn.

Bình rượu vừa ném ra, Vệ Xuân Hoa và Chương Tấn cũng tung người vọt theo. Hai người uống rượu không mang theo binh khí, tay không mà tung người đến cây quế. Cái bình chẳng đánh trúng ai, sắp rơi xuống đất thì Vệ Xuân Hoa đưa tay chụp được.

Chương Tấn nhảy lên đầu tường nhìn quanh tứ phía, vẫn không phát hiện người nào. Y quay lại báo cho Trần Gia Lạc biết, rồi hỏi có cần ra ngoaì lục soát hay không, Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Hôm nay là ngày vui của Thất ca, đừng để bọn chuột nhắt làm hỏng mất hứng thú của mình. Chúng ta cứ uống rượu đi.”

Chàng khẽ dặn Tâm Nghiễn đem mấy thủ hạ tuần tra bốn phía, đừng để kẻ gian vào đây phóng hỏa. Tâm Nghiễn tuân lệnh ra ngoài.

Mọi người thấy Trần Gia Lạc mặc kệ, lại tiếp tục vui vẻ mời nhau. Trần Gia Lạc nói nhỏ với Vô Trần đạo trưởng:

– “Đạo trưởng! Tại hạ cũng thấy bóng người nhảy lên cành cây. Nhìn thân thủ cũng biết hắn không cao minh gì lắm.”

Vô Trần đạo trưởng đáp:

– “Đúng thế! Cho hắn đi thôi.”

Trần Gia Lạc đứng dậy, dõng dạc nói:

– “Trên Lục Hòa Tháp đạo trưởng đại triển thần oai, khiến Thiên Sơn Song Ưng không dám coi thường chúng ta. Chúng ta kính đạo trưởng một ly.”

Mọi người đều đứng dậy, nâng ly chúc tụng. Vô Trần đạo trưởng mỉm cười nói:

– “Thiên Sơn Song Ưng quả nhiên danh bất hư truyền. Giả tỷ Trần Đức Chính trẻ lại hai mươi tuổi, bần đạo chắc chắn không phải là đối thủ của lão.”

Triệu Bán Sơn cười nói:

– “Nếu thế thì tay chân của lão có nhanh nhẹn hơn thật, nhưng công phu lại không được thuần thục đến thế.”

Bên một bàn khác, Chương Tấn đang hò hét đổ quyền với Thạch Song Anh. Tiếng reo hò càng lúc càng lớn. Dương Thành Hiệp, Tưởng Tứ Cân hai người một phe đấu rượu với Thường Thị Song Hiệp, mỗi người đã uống bảy tám chén lớn.

Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng vẫn còn mang thương tích, không dám uống rượu nhưng cũng ngồi tại bàn, uống trà chung vui với mọi người. Mọi người không ngớt đùa giỡn với Dư Ngư Đồng cho chàng đỡ buồn rầu.

Ăn xong mấy món, đôi vợ chồng mới ra mời rượu từng bàn một. Vợ chồng Chu Trọng Anh hoan hỉ vô cùng, ngoác miệng ra cười đến nỗi không ngậm lại được. Chu Ỷ trước nay rất mê uống rượu, nhưng hôm nay Chu phu nhân dặn nàng không được uống một hớp nào. Nàng đi mời rượu, mọi người không ngớt mời lại. Cô dâu cũng rất muốn uống say một bữa nhưng nghĩ đến lời mẹ dặn nàng đành phải chối từ, trong lòng không khỏi rầu rĩ. Vẻ không vui lộ rõ ra ngoài mặt.

Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Ái chà! Cô dâu đang giận chú rể kia kìa. Thất ca mau mau xin lỗi, quì xuống nhanh lên.”

Tưởng Tứ Cân cũng nói:

– “Thất ca! Huynh chịu nhịn một tí đi, quì xuống chút xíu. Nếu chú rể chịu quì thì con đầu lòng là con trai đó.”

Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, cười khúc khích rồi nói:

– “Ca ca chưa có con, làm sao mà biết được? Chỉ nói bậy thôi.”

Mọi người thấy cô dâu mới ngây thơ, không ai là không cao hứng. Chu phu nhân lắc đầu, than thở liên hồi:

– “Nói thế mà cũng nói được, chẳng giống cô dâu chút nào.”

Lạc Băng khẽ bảo Vệ Xuân Hoa:

– “Các huynh ép Thất ca uống đi, giúp ta một chút.”

Vệ Xuân Hoa đảo mắt liếc Tưởng Tứ Cân một cái, hai người bèn đứng dậy cụng ly với chú rể. Từ Thiên Hoằng cũng thấy hai người lén lút, biết là có vấn đề. Nhưng hôm nay chú rể không thể từ chối rượu mời, nên chàng cứ sảng khoái cạn hết chén này đến chén khác. Uống được mười mấy chén, đột nhiên chàng cảm thấy lắc lư con tàu đi, ngồi phịch xuống, gục lên bàn.

Chu phu nhân rất yêu mến con rể, vội kêu lên:

– “Nó say rồi!”

Bà gọi An Kiện Cương dìu họ Từ vào phòng để nghỉ ngơi.

Dương Thành Hiệp thấy chú rể đã say, liền nói với Lạc Băng:

– “Lần này chắc là Tứ tẩu thắng rồi.”

Lạc Băng mỉm cười, tìm một bình trà. nàng đổ hết trà ra, rót rượu vào, rồi tới phòng cô dâu chú rể tìm Chu Ỷ. Thấy nàng vào, cô dâu mừng rỡ nói:

– “Băng tỷ mau mau vào đây! Muội đang buồn lắm.”

Lạc Băng hỏi:

– “Ỷ muội có khát nước không? Ta đem trà đến cho muội đây.”

Chu Ỷ đáp:

– “Muội không muốn uống trà đâu.”

Lạc Băng kê bình trà vào mũi cô bé, nói:

– “Trà này thơm lắm.”

Chu Ỷ ngửi thấy mùi rượu cả mừng, lập tức đón lấy tu một hơi. Hết nửa bình, nàng mới dừng lại để nói:

– “Băng tỷ! Tỷ thật là tốt với muội.”

Thấy Chu Ỷ ngây thơ hoàn toàn không phòng bị, Lạc Băng đã không nỡ trêu ghẹo. Nhưng nàng nghĩ lại, chọc phá cô dâu cũng chỉ là chuyện lấy hên, đùa giỡn quá đáng một chút cũng chẳng hề gì, liền nói:

– “Ỷ muội! Ta muốn nói với muội một việc. Lẽ ra việc này không thể nói, nhưng tỷ muội mình đã thân nhau như thế, thì giả sử nói năng quá đáng một chút, muội cũng không trách tỷ phải không?”

Chu Ỷ đáp:

– “Đương nhiên là thế. Tỷ tỷ nói nhanh lên.”

Lạc Băng bèn hỏi:

– “Mẫu thân của muội đã dạy cho muội chưa? Lát nữa trút bỏ y phục…”

Chu Ỷ mới nghe đến đó mặt đã đỏ chói lên, hỏi lại:

– “Cái gì vậy? Mẫu thân muội chưa nói gì cả.”

Lạc Băng nghiêm hẳn mặt, trịnh trọng nói tiếp:

– “Vậy thì chắc Chu phu nhân cũng không biết. Thế này, sau khi nam nữ kết hôn, nếu gió đông không ép gió tây thì gió tây cũng ép gió đông, bao giờ cũng có một người bắt nạt người kia.”

Chu Ỷ “à”

một tiếng rồi nói:

– “Muội không muốn bắt nạt huynh ấy, nhưng huynh ấy cũng đừng hòng ăn hiếp muội.”

Lạc Băng nói:

– “Đành là thế, nhưng nam nhân nào cũng có lúc cường hung bá đạo, khi đó họ chẳng biết tốt xấu gì nữa, thật sự là nữ nhân chúng ta không có cách nào đối phó. Hơn nữa Thất ca lại là người tinh minh lanh lợi, còn Ỷ muội thật thà trung hậu, lại càng nên để ý đề phòng.”

Câu này đã động tới những suy nghĩ tận đáy lòng Chu Ỷ. Tuy nàng đối với Từ Thiên Hoằng có tình ý rất sâu, nhưng mỗi khi nghĩ đến ông chồng điêu ngoa cổ quái, quỷ kế đa đoan là phải đau đầu. Trong lòng nàng cũng có phần sợ hãi, nhưng trước mặt Lạc Băng không chịu tỏ ra yếu đuối, bèn nói:

– “Giả tỉ huynh ấy hung dữ với muội, muội cũng không sợ. Cùng lắm thì hai người rút đao tính toán với nhau.”

Lạc Băng mỉm cười bảo:

– “Ỷ muội! Vợ chồng thì phải ôn hòa mới đúng, sao có thể động đao thương? Không sợ người ta chê cười hay sao? Hơn nữa Thất ca tình cảm với muội như thế, làm sao muội đủ can đảm thọc đao vào người huynh ấy?”

Chu Ỷ ngẩn mặt ra, không biết nói sao. Lạc Băng tiếp:

– “Công phu của Văn tứ ca giỏi hơn ta rất nhiều, nếu đánh nhau thì mười Lạc Băng này cũng không phải là đối thủ của huynh ấy. Nhưng xưa nay chúng ta chưa hề cãi nhau, chứ đừng nói tới đánh nhau. Huynh ấy rất nghe lời ta.”

Chu Ỷ gật đầu:

– “Đúng thế! Tỷ tỷ thật là…”

Nói đến đây, nàng đột nhiên dừng lại.

Lạc Băng nói:

– “Ỷ muội muốn hỏi tỷ dùng cách nào phải không?”

Chu Ỷ đỏ mặt, dứt khoát gật đầu.

Lạc Băng nghiêm trang nói:

– “Đáng lẽ chuyện này không thể nói ra, nhưng muội đã nhất định muốn biết thì ta nói cho muội biết. Nhưng muội không được nói với Thất ca, nếu tiết lộ bí mật này thì muội đừng có trách.”

Chu Ỷ suy nghĩ một chút rồi gật đầu. Lạc Băng nói:

– “Lát nữa hai người ngủ chung, muội khoan hãy cởi y phục. Phải đợi Thất ca cởi y phục trước, rồi muội mới thổi tắt đèn, đặt y phục của cả hai người lên cái bàn này.”

Nàng chỉ cái bàn ở bên cửa sổ, nói tiếp:

– “Muội phải đặt y phục của huynh ấy ở dưới, rồi lấy y phục của muội đè lên. Thế thì từ nay về sau, suốt đời huynh ấy sẽ nghe lời muội, không dám ăn hiếp muội nữa.”

Chu Ỷ bán tín bán nghi hỏi lại:

– “Có thật như vậy không?”

Lạc Băng nói:

– “Sao lại không thật? Có phải mẫu thân của muội rất sợ phụ thân không? Nhất định bà ấy không biết phương pháp này, không thì đã dạy cho muội rồi,.”

Chu Ỷ nghĩ thầm:

– “Quả nhiên mẫu thân sợ gia gia.”

Nàng bèn gật đầu một cái.

Lạc Băng nói tiếp:

– “Lúc đặt y phục lên bàn, muội đừng để huynh ấy nghi ngờ. Nếu huynh ấy phát hiện thì chắc chắn nửa đêm sẽ thức dậy đảo ngược y phục từ trên xuống dưới. Thế là hỏng bét.”

Chu Ỷ càng tưởng tượng càng thấy mắc cỡ, nhưng nghĩ đến chuyện phúc họa suốt đời nên quyết định làm theo. Nàng nghĩ bụng:

– “Chỉ cần chàng không ăn hiếp mình là được rồi, còn mình thì nhất định sẽ tử tế với chàng. Chàng mất cả song thân từ bé, lẽ nào mình lại ăn hiếp hay ngược đãi chàng?”

Lạc Băng muốn cô bé ngây thơ này tin chắc chắn hơn, lại dạy cho nàng rất nhiều bí quyết làm vợ. Đây là những lời khuyên thật sự, Chu Ỷ đỏ ửng mặt lên, vừa nghe vừa cảm kích Lạc Băng chỉ dạy.

Đang nói chuyện vui vẻ thì đột nhiên bên ngoài có bóng người lay động, sau đó nghe tiếng Từ Thiên Hoằng hô hoán. Chu Ỷ đứng dậy trước, vọt ra cửa, nhìn thấy họ Từ khoác trường bào, tay cầm đủ cả đơn đao thiết quải, từ trên tường nhảy xuống. Chu Ỷ liền hỏi:

– “Cái gì thế? Có ăn trộm hay sao?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Ta thấy trên tường có người lén nhìn vào, nhảy ra định đuổi bắt thì hắn đã chạy mất tích rồi.”

Chu Ỷ mở rương quần áo, lôi đơn đao dưới đáy rương ra. Thì ra Chu phu nhân bắt con gái đem hết hung khí ra khỏi phòng cưới, nhưng Chu Ỷ cố chấp không nghe, giấu đao vào cái rương này. Nàng cầm đao kêu gọi:

– “Mau mau ra ngoài lùng xét.”

Lạc Băng cười nói:

– “Thôi đi, bình tĩnh một chút. Vô số bá thúc huynh đệ ở đây, chẳng lẽ cô còn sợ bọn trộm vặt đến ăn cắp của hồi môn hay sao?”

Chu Ỷ nhoẻn cười, quay trở về phong. Lạc Băng chỉ mặt Từ Thiên Hoằng nói:

– “Hay lắm, thì ra huynh giả bộ say. Để ta đi bắt trộm trước rồi quay lại đây xem phải xử phạt ra sao. Huynh coi chừng cô dâu dùm ta, đừng để cô ấy động đao động thương nữa.”

Nàng vừa nói vừa giành lấy binh khí trong tay họ Từ.

Từ Thiên Hoằng mỉm cười trở về phòng, nghe trên mái nhà có nhiều người chạy, quần hùng đều ra ngoài lục soát. Chàng thầm nghĩ:

– “Chúng ta mới thề thốt với hoàng đế xong, chắc không phải triều đình sai người đến đây thăm dò. Chẳng lẽ hoàng đế mới về đã bội ước ngay hay sao? Nhìn thân thủ của người chạy trên tường cũng biết công phu của hắn chẳng giỏi gì, chắc là bạn bè hắc đạo đi ngang thấy có tiệc mừng nên ghé vào kiếm chác mà thôi.”

Đang suy nghĩ thì Lạc Băng, Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân kéo vào, tay ai cũng cầm bình rượu, hò hét loạn xạ:

– “Chú rể giả say để gạt mọi người, phải phạt thế nào đây?”

Từ Thiên Hoằng không còn gì để nói, đành uống với mỗi người ba chén. Mọi người đều muốn xem màn kịch tiếp theo, quyết chẳng chịu tha. Từ Thiên Hoằng cười khổ nói:

– “Tên giặc kia vẫn chưa bắt được. Mọi người uống bớt vài chén, đừng để đêm nay bị trộm mất đồ.”

Dương Thành Hiệp cười ha hả:

– “Huynh cứ việc uống tiếp. Tối nay hết thảy anh em sẽ thay phiên canh gác cho Thất ca cùng Thất tẩu.”

Đang láo nháo thì Chu Trọng Anh đi vào phòng. Ông thấy con rể say không đứng vững nữa, líu lưỡi nói không ra tiếng, liền tới nói đỡ mấy câu, cạn chén với mọi người. Quần hùng thấy Từ Thiên Hoằng đã say thật rồi, bèn đùa mấy câu với Chu Ỷ rồi lui ra hết.

Mọi người giải tán, Chu Ỷ thấy trong phòng chỉ còn lại mình với chồng, bất giác trái tim đập thình thịch. Nàng liếc nhìn Từ Thiên Hoằng, thấy chàng để nguyên quần áo nằm vật ra giường ngáy khò khò, bèn nhẹ nhàng đứng dậy chốt cửa phòng lại. Dưới ánh nến, trông mặt chàng càng đỏ. Chu Ỷ khẽ gọi:

– “Này huynh ngủ rồi sao?”

Từ Thiên Hoằng không đáp. Chu Ỷ biết chàng đã ngủ say, nhìn quanh thấy chẳng có ai, cố gắng lắng nghe nhưng tiếng ồn cũng hết từ lâu, bèn nghĩ:

– “Chắc tên trộm kia chạy trốn mất rồi.”

Nàng cởi áo ngoài ra, đến giường đẩy chồng lăn vào trong. Chu Ỷ cởi giày và trường bào cho chàng, định cởi cả áo lót nhưng đột nhiên hổ thẹn nghĩ thầm:

– “Cởi trường bào chắc cũng đủ rồi, mà mình cũng không muốn bức hiếp huynh ấy.”

Chu Ỷ làm theo lời Lạc Băng, để trường bào của chồng lên bàn cạnh cửa sổ rồi cởi y phục của mình đặt lên trên. Sau đó nàng quay lại giường lấy chăn đắp lên người Từ Thiên Hoằng, còn bản thân mình thì trùm một cái chăn khác, nằm co rút mé ngoài, không dám động đậy chút nào.

Hồi lâu Từ Thiên Hoằng bỗng trở mình. Chu Ỷ giật bắn người, lại càng cố gắng nằm dịch ra cạnh giường. Đúng lúc đó ngọn nến bỗng nổ lách tách. Chu Ỷ sợ chồng tỉnh dậy nhìn thấy cách sắp xếp quần áo, nên định đứng dậy thổi tắt nến đi. Nào ngờ cảm giác cởi áo ngoài nằm cạnh nam nhân lại khiến nàng sợ hãi, cố gắng mấy cũng không dám ngồi dậy. Nàng thầm tự trách mình vô dụng, lo lắng đến mức vã mồ hôi đầy mình. Đột nhiên nàng nảy ra sáng kiến, xé áo lót mình lấy hai mảnh nhỏ, cho vào mồm nhấm ướt, rồi vo thành hai viên tròn, thi triển thủ pháp phóng Thiết liên tử. Nghe hai tiếng phụt phụt, đôi nến lập tức tắt ngấm.

Từ Thiên Hoằng đang ngủ cực say. Tửu lượng của chàng vốn chẳng khá gì, lần này bị ép uống đến mười hai phần mười, có thể nói là bất tỉnh nhân sự. Chàng trở mình cái nữa, Chu Ỷ lại kinh hãi rúc sâu vào chăn. Không biết sau bao lâu, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng chít chít nổi lên, rồi lát sau có tiếng mèo kêu. Nghe tiếng con mèo nhảy vào trong phòng, quanh quẩn một chút rồi chui vào gầm giường, ngủ dưới chân Chu Ỷ.

Chu Ỷ không nghe thấy gì nữa, trong phòng có thêm một con mèo lại cảm thấy yên tâm hơn, nên mơ hồ chợp mắt được một chút. Khoảng canh ba, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng lách cách. Chu Ỷ chú ý lắng nghe, hình như có tiếng hô hấp, bèn nghĩ:

– “Hay là các vị huynh đệ bày trò náo nhiệt, nấp xem chuyện lạ trong phòng?”

Nàng muốn lên tiếng hỏi nhưng không dám, bất giác thấy mặt nóng ran nên ngậm chặt miệng lại. Đột nhiên có giọng Tâm Nghiễn bên ngoài quát lên:

– “Ai? Không được động đậy!”

Sau đó là tiếng đao kiếm chạm nhau, rồi nghe giọng Thường Thị Song Hiệp:

– “Con rùa nào mà to gan thế?”

Một thanh âm lạ tai “Úi chà” một tiếng, chắc vừa bị trúng đòn.

Chu Ỷ bước xuống đất, mò tìm đơn đao, rồi đến bàn để lấy y phục. Bất giác nàng kêu khổ, y phục không biết đâu hết rồi. Nàng bất kể xấu hổ hay không, vừa kéo Từ Thiên Hoằng dậy vừa gọi khẽ:

– “Tỉnh dậy mau lên! Mau mau ra ngoài bắt ăn trộm! Bọn trộm đã… đã… đã lấy cắp y phục của chúng ta rồi.”

Từ Thiên Hoằng giật mình thức giấc, cảm thấy một bàn tay vừa mềm vừa ấm nắm lấy tay mình. Trong bóng tối chàng ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, cứ tưởng mình vẫn còn say, nghĩ lại mới biết đây là đêm động phòng hoa chúc của mình. Chàng bất giác động lòng, nhưng trước mắt có địch nên lập tức trấn tĩnh lại, kéo vợ ra giấu sau lưng, mình che chắn trước mặt nàng, rồi tiện tay vớ lấy một cái ghế đề phòng có địch. Nhưng nghe thấy trên mái nhà và xung quanh đều có tiếng vỗ tay nho nhỏ, chàng liền khẽ nói:

– “Huynh đệ chúng ta đã canh giữ hết xung quanh rồi, bọn trộm đó đừng hòng trốn thoát.”

Chu Ỷ hỏi:

– “Làm sao huynh biết?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Những tiếng vỗ tay này là ám hiệu để thông tin trong hội. Bốn phương tám hướng đều canh giữ cả rồi, chúng ta không cần ra ngoài nữa!”

Chàng để cái ghế xuống, quay lại ôm lấy Chu Ỷ, dịu dàng nói:

– “Ỷ muội! Ca ca uống rượu nhiều quá, ngủ say không biết tới ai, thật là tệ hại…”

Nghe một tiếng “choảng,” đơn đao trên tay Chu Ỷ đã rơi xuống đất. Hai người ôm nhau ngồi trên giường, Chu Ỷ rúc đầu vào ngực của chồng, không ai nói tiếng nào.

Lát sau nghe tiếng Vô Trần đạo trưởng la lên:

– “Thằng giặc cỏ này cũng lanh lẹ lắm, không biết trốn đâu mất rồi.”

Bên ngoài ánh lửa chói mắt, chắc mọi người đốt đuốc lên để kiểm tra mọi chỗ. Từ Thiên Hoằng bảo:

– “Muội ngủ đi, để ca ca ra ngoài xem thử.”

Chu Ỷ nũng nịu nói:

– “Muội cũng đi.”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Cũng được. Mặc quần áo đi.”

Chu Ỷ bèn mở rương, lấy hai bộ y phục khác ra để mặc.

Từ Thiên Hoằng vừa rút chốt cửa đã thấy trường bào của mình và quần áo của Chu Ỷ xếp gọn gàng để ngay trước cửa, lập tức ngẩn ra. Chu Ỷ cũng kêu lên:

– “Tên giặc này thật là cổ quái! Sao hắn lại trả quần áo lại đây?”

Từ Thiên Hoằng nhất thời không hiểu nổi vụ này, bèn hỏi:

– “Y phục của chúng ta vốn để ở chỗ nào?”

Chu Ỷ ấp úng trả lời:

– “Hình như ở cạnh giường, muội cũng không nhớ chắc.”

Lúc này, Lạc Băng và mọi người xách đuốc tới gần. Vệ Xuân Hoa mỉm cười hỏi:

– “Têm trộm kia đánh thức được cả cô dâu chú rể hay sao?”

Lạc Băng giả vờ kinh hãi nói:

– “Ủa, sao ở đây lại có một đống quần áo?”

Vệ Xuân Hoa cười phì ra. Từ Thiên Hoằng nhìn là biết ngay hai người quậy phá. Nhưng chàng không nói ra làm chi, chỉ mỉm cười:

– “Ta uống nhiều rượu quá, ngay cả quần áo cũng bị bọn chuột nhắt tha đi mất.”

Lạc Băng cười nói:

– “Không biết Thất ca say rượu hay say cái gì nữa?”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười không đáp.

Thì ra đợi đến nửa đêm, đoán Chu Ỷ đã ngủ say, Lạc Băng mới khẽ cạy cửa sổ phòng cô dâu chú rể. Nàng biết phải phát ra tiếng động, nên vừa cạy cửa vừa giả tiếng chuột kêu. Mở xong cửa sổ, ném vào một con mèo, vơ lấy đống quần áo trên bàn rồi khép cửa sổ lại.

Bọn Dương Thành Hiệp đang ngồi trong phòng chờ đợi, thấy nàng đem quần áo đến đều rất thán phục, nhao nhao lên hỏi nàng đã thi triển diệu thuật gì, nhưng Lạc Băng chỉ cười cười không đáp. Mọi người đùa giỡn một lúc, đang định đi ngủ thì nghe Tâm Nghiễn la lên:

– “Phát hiện kẻ địch rồi.”

Lạc Băng nghĩ:

– “Quần áo ăn cắp được rồi, nhân cơ hội này trả lại là hay nhất, để sáng mai Ỷ muội không phải xấu hổ.”

Nàng lại chạy tới cửa sổ phòng cô dâu, nghe trong phòng có tiếng nói chuyện, biết hai người đã tỉnh, bèn để quần áo trước cửa rồi chạy trốn.

Bấy giờ Trần Gia Lạc và mọi người đã tới đây, có cả Chu Trọng Anh. Trần Gia Lạc nói:

– “Quanh khu nhà đã vây chặt, không sợ hắn trốn ra ngoài. Chúng ta lục soát từng phòng một đi.”

Mọi người vào từng phòng tìm kiếm, tìm mãi vẫn không thấy bóng dáng tên trộm đâu. Vô Trần đạo trưởng nổi giận, bắt đầu quát tháo.

Từ Thiên Hoằng đột nhiên kinh hãi la lên:

– “Đi xem Thập tứ đệ thế nào.”

Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Tổng đà chủ đã nhờ Lục lão tiền bối bảo vệ Thập tứ đệ, nhờ Triệu tam ca bảo vệ Văn tứ ca, sợ hai người đang thụ thương dễ bị ám toán. Nếu không có ai trông nom Tứ ca thì Tứ tẩu làm gì còn tâm trí để đùa giỡn với anh em nữa.”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Đúng vậy, nhưng chúng ta cũng nên xem qua một chút. Thằng giặc này mà không phải đến tìm Tứ ca thì cũng đến tìm Thập tứ đệ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thất ca nói rất có lý.”

Mọi người tới phòng Văn Thái Lai trước. Trong phòng thắp đèn sáng trưng, Văn Thái Lai đang đánh cờ với Triệu Bán Sơn, tiếng ồn ào bên ngoài cũng không nghe thấy.

Mọi người lại tới phòng Dư Ngư Đồng. Lục Phi Thanh đang ngồi trên thềm cửa ngẩng mặt nhìn trời, thấy mọi người đến liền nói:

– “Ở đây cũng không có động tĩnh gì.”

Đám anh hùng hảo hán này bắt cóc được cả hoàng đế, mà hôm nay lại không bắt được một tên trộm vặt, ai cũng vừa tức giận vừa thấy ngạc nhiên. Từ Thiên Hoằng ghé tai vào cửa sổ, nghe tiếng lửa nổ lách tách, rồi đèn tắt phụt, rõ ràng là có người trong phòng thổi tắt ngọn đèn. Chàng nảy dạ nghi ngờ, bèn nói:

– “Chúng ta vào xem Thập tứ đệ ra sao.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Y ngủ say rồi, nên ta mới ngồi ngoài canh phòng.”

Lạc Băng nói:

– “Chúng ta đi nơi khác đi.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Không, chúng ta phải nhìn qua Thập tứ đệ một chút.”

Nói xong chàng đưa tay cầm lấy ngọn đuốc, tay trái đẩy cửa. Cánh cửa lập tức mở ra, thì ra chỉ khép hờ. Người nằm trên giường động đậy một cái, hình như trở mình.

Từ Thiên Hoằng kê ngọn đuốc vào định thắp đèn nến nhưng lại không thắp được. Thì ra tim nến đã bị lún sâu vào trong cây nến, rõ ràng vừa bị ám khí dập tắt. Từ Thiên Hoằng giật mình, sợ Dư Ngư Đồng đã gặp nguy, lập tức tới trước giường gọi lớn:

– “Thập tứ đệ! Đệ không sao đấy chứ?”

Dư Ngư Đồng từ từ xoay người lại, hình như vừa tỉnh cơn mê, trên mặt vẫn che khăn. Chàng định thần một chút mới đáp:

– “Thất ca đấy à? Hôm nay là đêm tân hôn của huynh, sao đến thăm tiểu đệ làm gì?”

Từ Thiên Hoằng thấy họ Dư vô sự, bấy giờ mới yên tâm cầm đưốc đi nhìn chỗ khác. Chàng phát hiện một mũi tên ngắn ghim trên cửa sổ, đầu tên còn dính đèn sáp. Biết mũi đoản tiễn này là từ kim địch của Dư Ngư Đồng phóng ra, chàng lại càng không sao hiểu nổi. Tại sao mọi người đến đây mà họ Dư phải tắt nến ngay, vội vã tới mức không kịp đứng dậy thổi tắt, mà phải dùng ám khí?

Lúc này cả đám Trần Gia Lạc cũng đã vào phòng. Dư Ngư Đồng kêu lên:

– “Úi cha, các vị ca ca đều đến cả đây. Tiểu đệ không sao cả, xin cứ yên tâm.”

Từ Thiên Hoằng đưa tay định rút mũi đoản tiễn trên cửa sổ, nhưng Trần Gia Lạc khẽ đẩy vào lưng chàng một cái. Từ Thiên Hoằng hiểu ý, rút tay về ngay. Lúc này mọi người đều nhìn thấy tấm chăn trên giường Dư Ngư Đồng hơi lồi lên, rõ ràng bên trong có một người nữa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Thôi, Thập tứ đệ cứ nghỉ ngơi cho khoẻ.”

Rồi chàng dẫn mọi người ra khỏi phòng, nói với Lục Phi Thanh:

– “Lục tiền bối! Làm phiền tiền bối rồi. Xin tiếp tục chiếu cố cho Dư huynh đệ, bọn tại hạ đi lục soát chỗ khác.”

Lục Phi Thanh gật đầu, đợi mọi người rời khỏi lại ngồi xuống bậc thềm.

Mọi người kéo nhau vào phòng của Trần Gia Lạc. Họ Trần bảo:

– “Gọi những người canh gác về được rồi.”

Tâm Nghiễn ra ngoài truyền lệnh, gọi Thường Thị Song Hiệp, Chương Tấn, Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân đang canh giữ bên ngoài vào hết trong phòng.

Trần Gia Lạc ngồi trên giường, mọi người đứng quanh, ai cũng thấy chuyện này khó xử, nhưng không ai muốn mở lời. Cuối cùng Vô Trần đạo trưởng không nhịn nổi nữa, lên tiếng hỏi:

– “Rõ ràng tên giặc đó trốn trong chăn của Thập tứ đệ. Rốt cuộc thì hắn là ai? Sao Thập tứ đệ lại bảo vệ hắn?”

Mọi người lập tức bàn tán ồn ào. Người thì nói:

– “Hành vi của Thập tứ đệ gần đây rất là kỳ lạ, không sao hiểu nổi.”

Có người lại hỏi:

– “Tại sao y lại trốn trong phủ của Lý Khả Tú lâu đến thế?”

Thường Thị Song Hiệp cũng nhắc đến chuyện chàng ra tay cứu Lý Khả Tú.

Nói qua nói lại một hồi, Chương Tấn hô lớn:

– “Đi! Mọi người đi hỏi cho rõ ràng! Không phải ta nghi ngờ Thập tứ đệ có gì lỗi lầm, y đáng mặt nam tử hán. Nhưng chúng ta là anh em khác họ, kết giao sinh tử, có gì mà không nói thẳng được với nhau? Tại sao y cứ phải giấu giếm chúng ta?”

Mọi người đều đồng thanh khen phải. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Không chừng Thập tứ đệ có chuyện khó xử, hỏi trước mặt thì chắc y không chịu nói đâu. Bây giờ để Tâm Nghiễn đưa đồ điểm tâm vào trong, xem xét tình hình ra sao trước đã.”

Tưởng Tứ Cân nói:

– “Ý kiến của Thất ca không tệ.”

Chu Trọng Anh mấp máy môi, định lên tiếng. Nhưng ông nén lại, nhìn Trần Gia Lạc xem chàng chủ trương thế nào.

Trần Gia Lạc nói:

– “Có người chạy vào phòng và trốn trên giường của Thập tứ đệ, mọi người đều thấy rồi. Thập tứ đệ đã đồng sinh đồng tử với mọi anh em, vừa rồi lại liều mạng cứu Tứ ca, dứt khoát chúng ta không nghi ngờ gì y. Y làm như vậy, chắc chắn là có đạo lý bên trong. Vừa rồi ta nhờ Lục tiền bối tiếp tục ở ngoài phòng canh gác, chỉ vì sợ người đó bất ngờ ám hại. Chỉ cần y vô sự là đủ, ta nghĩ việc gì cũng không cần truy cứu. Chúng ta không nên làm tổn thương tình nghĩa anh em.”

Chu Trọng Anh kêu lên:

– “Trần tổng đà chủ nói rất đúng.”

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Giả tỉ sau này y muốn nói thì y nói, không thì mọi người không cần nhắc lại chuyện này. Người trẻ tuổi thường thích khoe tài hiếu thắng, cũng có thể có chuyện phong lưu riêng tư gì đấy, chỉ cần y không phạm nội quy là dĩ nhiên Thập nhị ca không tìm y tính sổ. Mọi người cứ yên tâm đi ngủ, ngày mai chúng ta còn phải lên đường.”

Mấy câu này khiến cho mọi người tâm phục khẩu phục. Từ Thiên Hoằng thầm hổ thẹn, nghĩ bụng:

– “Nói về khí phách rộng rãi, lòng dạ khoáng đạt thì tổng đà chủ hơn ta rất nhiều.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Đêm xuân một khắc đáng giá ngàn vàng. Thất ca Thất tẩu còn ngồi đây làm gì nữa?”

Mọi người cười ồ lên, trong nhà lại tràn đầy không khí vui vẻ.

* * *

Dư Ngư Đồng đợi mọi người đi khỏi rồi bước xuống giường. Khi không còn nghe tiếng bước chân, chàng mới thắp lại nến, rồi khẽ hỏi:

– “Cô đến đây làm chi vậy?”

Người đang nằm trên giường liền chui ra khỏi chăn, ngồi cúi đầu không nói tiếng nào, đôi vai run rẩy, nước mắt tràn đầy. Đây chính là con gái yêu của Lý Khả Tú, đồ đệ quí của Lục Phi Thanh. Nàng mặc y phục màu đen bó sát người, càng khiến tay chân nhìn trắng hơn cả tuyết. Đôi tay như bạch ngọc đặt trên đầu gối, nước mắt rơi xuống lưng bàn tay từng giọt, từng giọt.

Sau trận đại chiến ở phủ đề đốc hôm trước, quần hùng Hồng Hoa Hội đem Dư Ngư Đồng theo. Lý Nguyên Chỉ khóc lóc cả ngày, cưỡi ngựa chạy lòng vòng khắp trong ngoài thành Hàng Châu. Lý Khả Tú hiểu tâm sự con gái nên không quản thúc, cứ để nàng tự tìm cách khuây khỏa.

Sáng hôm qua, nàng đang cưỡi ngựa phía tây thành thì gặp Lạc Băng vừa ăn cắp ngọc bình trong dinh tuần phủ trở về. Nàng đã gặp mấy lần, biết Lạc Băng là nhân vật trong Hồng Hoa Hội nên xa xa theo dõi đến tận Thiên Mục Sơn.

Lý Nguyên Chỉ không ngờ được người trong mộng của mình lại si mê thiếu phụ xinh đẹp này. Nàng rất cẩn thận, còn Lạc Băng trong lúc cao hứng không đề phòng gì cả, nên không phát giác phía sau có người âm thầm theo dõi.

Đêm hôm đó, Lý Nguyên Chỉ mấy lần bị phát hiện nhưng đều tránh được. Nàng muốn tìm gặp Dư Ngư Đồng để bày tỏ tâm sư, khi đến gần tân phòng của Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ thì bị Tâm Nghiễn phát giác la lên, mọi người kéo tới. Tay trái của Lý Nguyên Chỉ bị trúng một chưởng của Thường Bá Chí. Nàng cố nhịn đau, liệng mấy cục đá dương đông kích tây trong bóng tối, rồi chạy tới phía sau hậu viện.

Trong vườn nàng gặp phải Lục Phi Thanh, bị ôm túm lấy. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi kêu lên:

– “Sư phụ”

Lục Phi Thanh giận dữ hỏi:

– “Ngươi đến đây làm gì?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Con tìm Dư sư ca, có lời phải nói.”

Lục Phi Thanh thở dài lắc đầu, trong lòng bất nhẫn đưa tay chỉ một căn phòng ở phía trái. Lý Nguyên Chỉ tới gõ cửa, gọi luôn mấy tiếng:

– “Dư sư ca!”

Lúc mọi người tuần tra bốn phía, Dư Ngư Đồng đã tỉnh dậy, cầm kim địch ngồi ở cạnh giường, đề phòng kẻ địch tấn công tới. Chàng đột nhiên nghe giọng Lý Nguyên Chỉ, giật mình ra mở chốt cừa để nàng vào. Trong lòng thầm nghĩ:

– “Đêm tối mà cô nam quả nữ ở chung một phòng thật là không ổn,” bèn thắp nến lên, đang định hỏi han thì mọi người kéo đến tra xét.

Lúc này tình ngay lý gian, chàng thấy khó xử, đành phải giấu giếm trước rồi nói chuyện sau, để về sau nàng khỏi khó gặp mọi người. Chàng đang bị thương, đi đứng không tiện nên mới phóng đoản tiễn trong kim địch làm tắt lửa. Hai người nín thở một hồi, khi Từ Thiên Hoằng gõ cửa Lý Nguyên Chỉ mới khẽ nói:

– “Dư sư ca cứu muội!”

Dư Ngư Đồng vô kế khả thi, đành giấu nàng vào chăn của mình. May mà Trần Gia Lạc che chở cho chứ nếu mọi người mở tấm chăn này ra thì tình hình không sao tưởng tượng nổi. Bấy giờ thấy mỹ nhân nước mắt đầm đìa, tình sâu ý nặng, lòng dạ Dư Ngư Đồng đột nhiên mềm nhũn. Chàng thở ra một hơi rồi nói:

– “Cô đối với ta một lòng chân thật, ta không phải là trâu sắt mà cũng không phải là ngựa gỗ, sao lại không biết? Nhưng cô là tiểu thư nhà quan, còn ta là thành phần liều mạng trong chốn giang hồ, làm sao ta dám hại đời cô được?”

Lý Nguyên Chỉ vừa thút thít vừa nói:

– “Huynh đột ngột bỏ đi như vậy, coi như mọi chuyện xong xuôi hay sao?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Ta cũng biết mình có lỗi với cô. Nhưng số mạng ta vốn khổ, bây giờ lại càng giống một đám tro tàn. Cô… cô về đi là hơn.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Huynh vì cứu bằng hữu mà chống đối với gia gia của muội, muội không trách. Huynh là như vậy cũng vì nghĩa khí.”

Nàng suy nghĩ một lúc, nói tiếp:

– “Người văn võ song toàn như huynh, sao lại không đi làm những chuyện đàng hoàng để tìm công danh phú quí, mà phải bôn tẩu giang hồ để làm chi? Chỉ cần huynh quay trở lại, gia gia của muội…”

Dư Ngư Đồng giận dữ ngắt lời:

– “Hồng Hoa Hội chúng ta hành hiệp trượng nghĩa, người nào cũng là hán tử cứng cỏi như sắt đá, sao lại cam chịu làm chó săn cho triều đình?”

Lý Nguyên Chỉ biết mình lỡ lời, đỏ hẳn mặt lên. Hồi lâu nàng mới dịu dàng nói:

– “Huynh nặng lời với gia gia của muội quá. Nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, muội không dám miễn cưỡng. Chuyện gì huynh thì thì muội cũng chấp nhận. Muội chịu nghe lời ca ca, sau này không giúp gia gia nữa. Chắc su phụ của muội cũng thích như thế.”

Hai câu cuối nàng nói rất rõ ràng, chắc chắn Lục Phi Thanh ngoài cửa cũng nghe. Dư Ngư Đồng cứ ngồi kế cái bàn, không nói gì. Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng nói tiếp:

– “Ca ca chê muội là tiểu thư nhà quan thì muội không làm tiểu thư nhà quan nữa. Ca ca nói Hồng Hoa Hội tốt, thì muội cũng… cũng đi theo ca ca để… để làm giang hồ liều mạng.”

Mấy câu này nàng phải lấy hết sức lực mới thốt được ra khỏi miệng. Về cuối nàng vừa xấu hổ vừa lo lắng, nửa nói nửa khóc.

Dư Ngư Đồng dịu dàng đáp:

– “Thoạt đầu ta bị trọng thương, nếu không nhờ cô cứu từ ngàn dặm xa xôi đưa về Hàng Châu dưỡng thương trong phủ, thì cái mạng này đã mất lâu rồi. Ta dù tan xương nát thịt cũng không sao đền đáp được, nhưng… Thôi, ân đức này kiếp sau ta sẽ tìm cách báo đền.”

Lý Nguyên Chỉ đứng bật dậy hỏi:

– “Chắc trong lòng huynh đã có một mỹ nhân hiền thục khác, nên mới xem muội không đáng đồng xu phải không?”

Dư Ngư Đồng không sao chối được. Dù sao chàng vẫn không quên mối tình đối với Lạc Băng. Tướng mạo Lý Nguyên Chỉ không kém gì Lạc Băng cả, nhưng đã là mối chân tình thì không sao giải thích. Nghe nàng hỏi vậy, chàng thật sự không biết phải đáp sao.

Lý Nguyên Chỉ lại hỏi:

– “Huynh đã một lòng với cô ấy, dĩ nhiên cô ấy phải hơn muội gấp mười. Huynh dẫn muội đi gặp cô ấy được không?”

Dư Ngư Đồng bị ép đến nỗi không còn cách nào khác. Chàng đột ngột giật tấm khăn che mặt xuống, lạnh giọng nói:

– “Ta đã trở thành một con quỷ xấu xí như thế này, cô nhìn cho kỹ đi.”

Khuôn mặt lồi lõm của chàng đầy những vết cháy bỏng vàng khè, dưới ánh nến lay lắt trông càng đáng sợ. Lý Nguyên Chỉ bất giác nhảy chồm lên, lùi lại hai bước, khẽ la một tiếng.

Dư Ngư Đồng thản nhiên nói tiếp:

– “Cuộc đời ta thật là xúi quẩy. Tâm địa của ta cũng không tốt lắm, từng làm những việc bại hoại có lỗi với người khác. Ta không muốn làm khổ đời cô nữa. Bây giờ cô đi được rồi chứ?”

Lý Nguyên Chỉ đột nhiên nhìn thấy dáng vẻ chàng như vậy, trong lòng kinh hãi, tim đập thình thình không biết phải làm gì.

Dư Ngư Đồng cười ha hả, tiếp:

– “Bộ điệu xấu xí như thế này, cô mới nhìn một cái đã không chịu nổi. Lý tiểu thư! Cô có hối hận vì đêm nay đã đến đây hay không? Ha ha… ha ha…”

Chàng vừa nói vừa cười, giống như phát cuồng vậy. Lý Nguyên Chỉ lại càng sợ hãi, thét lên một tiếng, ôm mặt chạy ra khỏi phòng. Dư Ngư Đồng cười như điên dại, than thân trách phận một hồi, rồi gục xuống bàn khóc rống lên.

Lục Phi Thanh ngồi ngoài thềm, tuy không hiểu tường tận lắm, nhưng cũng đoán được bảy tám phần. Ông biết bây giờ có an ủi Dư Ngư Đồng thế nào cũng vô ích, lại nghĩ:

– “Nguy rồi! Nguyên Chỉ giữa đêm đến đây, tuy việc này liên quan đến danh tiết của nữ nhân, nhưng nếu ta không nói cho rõ mà tạ tội thì có lỗi với các vị đương gia trong Hồng Hoa Hội.”

Ông bèn đến phòng Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc vừa ngả lưng, Tâm Nghiễn nghe thấy tiếng Lục Phi Thanh gõ cửa liền chạy ra mở cửa phòng. Trần Gia Lạc ngồi dậy mặc áo đón tiếp.

Lục Phi Thanh lên tiếng:

– “Tổng đà chủ! Ta đến đây để nhận tội.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:

– “Sao? Thập tứ đệ làm sao rồi?”

Chàng tưởng là Dư Ngư Đồng đã gặp nguy hiểm.

Lục Phi Thanh lắc đầu:

– “Không phải, nó không sao. Tổng đà chủ đoán xem người tối nay đến phá rối là ai?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tại hạ không biết.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Đó là tiểu đồ của ta. Ta giáo huấn không nghiêm, dung túng nó quen tùy hứng làm bừa. Hôm nay là ngày đại hỉ của Thất gia mà nó bất kính quấy nhiễu, làm kinh hãi mọi người. Ta thật vô cùng ân hận.”

Trần Gia Lạc im lặng không nói gì. Lục Phi Thanh tiếp:

– “Tiểu đồ đã rời khỏi đây rồi. Sau này ta nhất định đi tìm, bắt nó xin lỗi nhị vị. Bây giờ ta xin tạ tội trước.”

Nói xong ông đứng dậy vái lạy, Trần Gia Lạc vội vàng đứng lên trả lễ. Hồi lâu, Trần Gia Lạc bỗng nói:

– “Lệnh đồ đã được tiền bối chân truyền, hèn gì thân thủ phi phàm.”

Lục Phi Thanh tưởng Trần Gia Lạc nói về chuyện hôm nay Lý Nguyên Chỉ đột nhập, không biết hai người đã từng giao đấu trên mặt Tây Hồ. Ông đáp:

– “Nó còn trẻ nít, không biết lớn nhỏ gì cả, đi tới đâu gây họa tới đó, đắc tội với nhiều bằng hữu. Nhiều lúc ta phải hối hận vị nhận đứa đồ đệ chẳng ra gì.”

Trần Gia Lạc vội nói:

– “Tiền bối quá khách khí rồi. Lệnh đồ đã từng đến vùng Hồi tộc phải không?”

Lục Phi Thanh đáp:

– “Từ nhỏ nó đã sống ở vùng tây bắc.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đúng rồi! Tại hạ cũng thấy y có quan hệ rất tốt với cô nương người Hồi kia.”

Lúc tạm biệt với Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng đã nói một câu:

– “Y là người như thế nào, huynh có thể đi hỏi Lục lão tiền bối.”

Trần Gia Lạc mấy lần muốn hỏi Lục Phi Thanh nhưng thấy lộ liễu quá nên nén lại. Nhân lúc Lục Phi Thanh nhắc đến, chàng mới hỏi vu vơ mấy câu, tựa như mình không quan tâm lắm. Thật ra thì tim Trần Gia Lạc đang đập rầm rầm, ngay cả lòng bàn tay cũng thấm đẫm mồ hôi.

Lục Phi Thanh nói:

– “Cũng nhờ vụ đoạt lại thánh kinh nên mới quen biết nhau. Lúc đầu cũng có chút ít hiểu lầm, Hoắc cô nương hai lần giao đấu với tiểu đồ. Sau này, ta nhắc đến mối giao tình với Thiên Sơn Song Ưng, hai người mới kết thành bằng hữu. Bọn trẻ mới gặp mà thân thiết như quen biết đã lâu.”

Ông nói xong vuốt râu mỉm cười, nhưng Trần Gia Lạc càng nghe càng khó chịu.

Lục Phi Thanh tưởng chàng đã biết Lý Nguyên Chỉ là nữ nhân, nên mãi đến bây giờ vẫn không nhắc đến chuyện nàng cải nam trang. Nỗi buồn trong lòng Trần Gia Lạc không lộ ra mắt, nhưng giọng nói thì không khỏi có phần lãnh đạm. Lục Phi Thanh tưởng chàng cảm thấy mất mặt vì giận Lý Nguyên Chỉ vô lễ đột nhập, Hồng Hoa Hội rất nhiều nhân vật anh hùng mà không bắt được một thiếu nữ mới bước vào chốn giang hồ. Ông không ngờ Trần Gia Lạc còn có tâm sự khác, nên áy náy vô cùng, nói thêm mấy câu khách sáo, đang muốn cáo từ thì ngoài cửa Tâm Nghiễn bỗng hô lên:

– “Thiếu gia! Thập tứ gia đến đây.”

Rèm cửa vén lên, một trang đinh dìu Dư Ngư Đồng vào. Chàng thấy Lục Phi Thanh cũng ở đó, bất giác ngẩn ra một chút. Trang đinh lùi ra, Trần Gia Lạc bèn nói:

– “Đệ có việc muốn nói thì gọi ta qua đó là được. Đệ đang bị thương, không nên đi lại cử động nhiều.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Tổng đà chủ! Lúc nãy có một người trốn trong phòng thuộc hạ, chắc tổng đà chủ đã nhìn thấy. Lúc đó tổng đà chủ làm như không biết, giữ thể diện cho thuộc hạ. Thuộc hạ cảm kích tấm lòng của tổng đà chủ vô cùng, tuy tổng đà chủ không hỏi nhưng thuộc hạ không thể không nói.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tình nghĩa chúng ta giống như anh em cốt nhục, có gì đáng nói đâu?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Người đó đến đây để tìm một mình thuộc hạ, hoàn toàn không liên quan đến ai khác. Nhưng nếu nói ra việc này thì lại ảnh hưởng đến danh tiết của…”

Trần Gia Lạc vội ngắt lời:

– “Đã thế thì không cần phải nói nữa. Được rồi, từ nay về sau chúng ta không nhắc đến việc này là xong, đệ về nghỉ ngơi đi. Tâm Nghiễn dìu Thập tứ gia về.”

Dư Ngư Đồng tưởng Lục Phi Thanh đã kể hết chuyện vừa rồi, Trần Gia Lạc sợ mình khó chịu nên không muốn nhắc lại, bèn cảm tạ rồi trở về phòng. Lục Phi Thanh cũng rời khỏi đó.

* * *

Sáng sớm hôm sau, quần hùng cùng xuống núi. Mọi người cáo biệt nhau, rồi tách ra từng nhóm tiến hành công việc.

Trần Gia Lạc và Chu Trọng Anh cùng đi về hướng tây bắc. Dọc đường Chu Trọng Anh hỏi:

– “Năm xưa, lúc ta học võ nghệ ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, từng nghe sư phụ và sư thúc bá nhắc đến Thiếu Lâm Hạ Viện ở Phổ Điền phương Nam, võ công hoàn toàn giống Tung Sơn Thiếu Lâm, truyền từ một gốc. Nhưng mấy trăm năm nay Phổ Điền Thiếu Lâm xuất hiện nhiều nhân vật kiệt xuất, phát dương thêm được võ công của phái Thiếu Lâm. Nhân tiện phen này đi về hướng nam, ta muốn đến đó thăm viếng, hy vọng gặp cơ duyên nghiên cứu và xin chỉ giáo.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đệ tử Thiếu Lâm nam phái đầy khắp Giang Nam, thanh thế cực lớn. Trong thời gian nghiên cứu võ công, hy vọng tiền bối sẽ kết giao với các vị ấy nhiều hơn. Sau này, nếu chúng ta cử sự mà được Thiếu Lâm tự giúp cho một tay, thì thật là phúc cho bá tánh trong thiên hạ.”

Chu Trọng Anh đáp:

– “Xin phụng mạng!”

Ông bèn dẫn vợ và hai đồ đệ Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương đi về hướng Nam.

Lúc từ biệt, Chu phu nhân cứ liền miệng dặn dò Chu Ỷ:

– “Bây giờ ngươi đã làm dâu nhà người ta rồi, không được nhõng nhẽo, ngang bướng, gặp đâu sinh sự đó nữa.”

Chu Ỷ dẩu môi ra nói:

– “Nhưng nếu huynh ấy bức hiếp con thì sao?”

Nàng vừa nói vừa liếc xéo sau lưng Từ Thiên Hoằng.

Chu phu nhân hỏi:

– “Nếu không có việc gì thì người ta bức hiếp ngươi làm chi?”

Đêm qua động phòng hoa chúc bị Lý Nguyên Chỉ đến quấy rối một phen, Lạc Băng đem quần áo hai vợ chồng bỏ sang chỗ khác. Chu Ỷ không biết diệu thuật của mình còn linh nghiệm hay không, trong lòng lo lắng nhưng chưa có dịp hỏi lại Lạc Băng. Bây giờ thấy sắp phải xa cha mẹ, nàng không kìm được nước mắt.

Chu Trọng Anh dặn dò con gái mấy câu, rồi bảo Từ Thiên Hoằng:

– “Vợ của con tính tình bộc trực, không hiểu chuyện nào lớn chuyện nào nhỏ. Con phải độ lượng bỏ qua cho nó, nếu lỡ có đụng chạm gì thì đừng chấp con bé thiếu hiểu biết này, để từ từ ta sẽ phạt sau.”

Chu Ỷ hờn dỗi nói:

– “Gia gia cũng bênh huynh ấy! Chẳng lẽ chuyện gì con cũng không tốt hay sao?”

Chu Trọng Anh mỉm cười rồi lên ngựa, chắp tay tạm biệt Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai, đi về hướng Nam.

Tám người Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ, Chương Tấn, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn đi về hướng bắc, qua Hiếu Phong, An Cát, Túc Dương là đến Giang Ninh. Qua khỏi sông Trường Giang, vết thương của Văn Thái Lai đã lành hẳn, Dư Ngư Đồng cũng khỏe hơn nhiều.

Càng đi về phương bắc tiết trời càng lạnh, bắt đầu có sương tuyết vì đã chớm đông rồi. Tới Khai Phong thì vết thương của Dư Ngư Đồng đã lành hẳn, mọi người liền bỏ xe đi ngựa.

Hôm đó ra khỏi cửa tây thành Khai Phong, tám con ngựa sải vó chạy theo đường cái, gió lộng vù vù, cát bụi bắn tung lên mặt. Con bạch mã của Văn Thái Lai chạy nhanh kỳ lạ, một người một ngựa vượt hẳn lên phía trước. Chàng chạy môt hơi năm chục dặm đến một thị trấn, vào phạn điếm bảo giết gà nấu nướng, lo cơm nước để mọi người đến là có thể ăn ngay.

Chàng đang ngồi trong tiệm uống trà, lấy khăn lau mặt thì đột nhiên ở phòng phía đông có bóng người nháy động. Một người thò đầu ra nhìn, vừa nhìn thấy chàng đã vột rụt vào. Văn Thái Lai để ý nghi ngờ, cứ quay lại uống trà.

Nửa giờ sau, mọi người Trần Gia Lạc đến nơi. Văn Thái Lai khẽ kể lại. Từ Thiên Hoằng nhìn vào căn phòng phía đông, thấy giấy dán cửa đã bị thấm ướt, một con mắt đen nhánh đang nhìn họ. Khi mắt Từ Thiên Hoằng nhìn tới, ánh mắt kia lập tức tránh ra. Từ Thiên Hoằng khẽ cười, nói nhỏ:

– “Đúng là một đứa trẻ mới vào giang hồ, chút xíu quy luật cũng không biết, để ý là lộ tẩy ngay.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Người như thế mà cũng vào chốn giang hồ để kiếm ăn hay sao? Lại dám nhằm vào chúng ta nữa!”

Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn:

– “Ngươi qua xem thử, nếu hắn thiếu thốn tiền bạc thì tiếp tế cho hắn chút ít.”

Tâm Nghiễn vâng lời đứng dậy, tới trước cửa phòng đó dõng dạc hô lớn:

– “Trăm sông ngàn suối về biển cả. Hồng hoa lục diệp cũng một nhà.”

Đây là tín hiệu của Hồng Hoa Hội để chào hỏi đồng đạo võ lâm.

Các bang hội giang hồ đều có cách thức riêng để tương trợ lẫn nhau. Nếu ai không phải hội hữu của Hồng Hoa Hội mà lễ phép nói một câu:

– “Tiểu đệ là thuộc hạ của Mỗ Mỗ đà chủ, Mỗ Mỗ bang, mong các đại huynh Hồng Hoa Hội tương trợ…” thì ít ra cũng được biếu cho mấy lạng bạc.

Nghe trong phòng không có tiếng đáp, Tâm Nghiễn nhắc lại một lần nữa thì đột nhiên cửa phòng mở ra. Một người mặc áo đen xuất hiện, đội nón lớn che khuất hẳn nửa khuôn mặt, đưa ra một mảnh giấy rồi nói:

– “Chuyển cho Thập tứ gia của các vị.”

Tâm Nghiễn định hỏi thêm, thì người đó vọt chạy ra khỏi cửa, lên ngựa đi ngay. Tâm Nghiễn bèn chuyển mảnh giấy cho Dư Ngư Đồng rồi nói:

– “Người đó kêu tiểu nhân đem đến cho Thập tứ gia.”

Dư Ngư Đồng nhận giấy mở ra xem, thấy mười sáu chữ rất nhỏ:

– “Tình tận đáy lòng. Xấu đẹp đáng chi. Ngàn núi vạn sông. Vẫn theo chàng đi.”

Nhìn nét chữ tú lệ, Dư Ngư Đồng nhận ngay ra Lý Nguyên Chỉ. Chàng không ngờ nàng theo mình suốt dọc đường, bèn chau mày một cái rồi trao thư cho Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc liếc qua một cái, biết đây là chuyện tình cảm nam nữ nên không hỏi nhiều, trả lại cho Dư Ngư Đồng.

Dư Ngư Đồng nói:

– “Người này quấy rầy thuộc hạ mãi không chịu buông tha, nhất định vẫn đang đợi phía trước. Thuộc hạ muốn không đi đường bộ nữa mà đi đường sông để tránh né y. Đến Đồng Quan sẽ gặp lại mọi người.”

Chương Tấn giận dữ nói:

– “Ở đây chúng ta đông người, làm gì phải sợ? Mà nếu hắn có bản lãnh bằng trời thì chúng ta cũng phải giao đấu một phen.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Không phải tiểu đệ sợ y mà là không muốn gặp.”

Chương Tấn nói:

– “Thế thì chúng ta phải dạy dỗ một phen, để hắn không dám đi theo chúng ta nữa. Đó là hạng người nào mà không biết phải trái?”

Dư Ngư Đồng khó trả lời, bèn im lặng. Trần Gia Lạc biết chàng khó xử, bèn lên tiếng:

– “Thập tứ đệ muốn đi bằng thuyền cũng tốt. Trên thuyền được nghỉ ngơi nhiều hơn, không mệt mỏi như cưỡi ngựa. Tâm Nghiễn! Ngươi đi theo để phục vụ Thập tứ gia.”

Tâm Nghiễn lập tức vâng dạ. Nó còn trẻ nít thích náo nhiệt, dĩ nhiên không thích đi thuyền, tuy không thể cãi lệnh chủ nhân nhưng không khỏi hơi rầu rĩ.

Dư Ngư Đồng hiểu ý, bèn nói là vết thương của mình đã lành hẳn, không cần Tâm Nghiễn đi cùng. Khi mọi người đến bờ sông Hồng Hà, chàng thuê một chiếc thuyền đi thẳng tới Đồng Quan. Trần Gia Lạc tiễn Dư Ngư Đồng xuống thuyền, chính mắt nhìn con thuyền đó giương buồm tách bến rồi mới cưỡi ngựa đi tiếp.

Chương Tấn không thích thái độ ấp úng của Dư Ngư Đồng, mở miệng cằn nhằn:

– “Không biết anh tú tài kiết đó còn tính chuyện gì nữa đây?”

Lạc Băng nói:

– “Thập tứ đệ bị thiêu hỏng khuôn mặt, trong lòng buồn bã đến cực điểm, không tránh khỏi hành sự có chỗ khác thường. Chúng ta cứ chiều theo y một tí thử xem.”

Chu Ỷ nói:

– “Lần truớc, bọn muội ở Vân Quang trấn cũng nghe nói huynh ấy ở chung với một cô nương. Sau này không biết đi đến Hàng Châu rồi như thế nào?”

Chương Tấn nói:

– “Y lén lút như vậy, chắc là làm hại con gái nhà lành rồi! Không thì sao lại sợ người khác tìm mình?”

Văn Thái Lai hét lên:

– “Thập đệ đừng nói bừa nữa.”

* * *

Dư Ngư Đồng di thuyền được mấy ngày, không thấy Lý Nguyên Chỉ theo sau mới yên tâm. Hôm ấy gặp cơn gió nghịch, bầu trời đã tối, thị trấn còn xa, dòng nước lại chảy rất xiết. Thuyền không dám đi đêm nên đậu lại ở một vùng hoang dã. Dư Ngư Đồng uống mấy chén rượu rồi lên giường ngủ.

Nửa đêm chàng tỉnh dậy thấy vầng trăng trên trời rất sáng ánh xuống dòng sông, xúc cảnh sanh tình nơi rơi lệ liên hồi. Sóng Hoàng Hà dạt dào, khí thế hùng vĩ khiến chàng nổi hứng, rút kim địch ra thổi du dương. Chàng rất cảm khái về thân thế của mình, đầy lòng tâm sự đều trút hết vào tiếng sáo, lúc thì kịch liệt, lúc thì thê lương.

Dư Ngư Đồng đang tập trung thổi sáo, đột nhiên phía sau có tiếng khen ngợi:

– “Tiếng sáo hay quá!”

Chàng ngừng thổi, từ từ quay đầu lại. Dưới ánh trăng có ba người men theo bờ sông bước tới. Ba người đến gần, một người lên tiếng:

– “Bọn tại hạ đi vội lỡ đường, đang tìm chỗ nghì. Nghe thấy tiếng sáo thánh thót, tại hạ không nén nổi nên thất thố buông lời, xin đừng trách.”

Dư Ngư Đồng nghe người ấy nói chuyện rất khách sáo, bèn đứng dậy đáp:

– “Tiểu đệ chỉ thổi bừa bãi nơi hoang dã, không ngờ làm mất sự yên tĩnh của quí vị. Thật là có lỗi.”

Người ấy nghe Dư Ngư Đồng nói chuyện nho nhã như người có học, bèn từ từ tiến đến gần. Dư Ngư Đồng lại nói:

– “Nếu không phiền thì xin mời xuống thuyền uống mấy chén rượu được chăng?”

Người ấy đáp:

– “Thế thì hay lắm!”

Rồi ba người đi đến bên bờ, tung người nhảy lên, nhẹ nhàng đáp xuống đầu thuyền. Đi đầu là một đại hán khôi vĩ xách theo binh khí rất nặng, lúc bước xuống thuyền làm mũi thuyền chìm hẳn xuống. Dư Ngư Đồng giật mình thầm nghĩ:

– “Võ công ba người này không tệ, không biết là nhân vật thế nào? Mình cẩn thận là hơn.”

Chàng bèn ra vẻ thư sinh yếu đuối nhát gan, hai tay nắm chặt lấy cạnh thuyền, như sợ thuyền nghiêng mà rơi xuống nước.

Người to lớn đi đầu mặc cẩm bào bằng lụa tơ tằm, trông như một thương nhân. Người thứ hai râu ria mọc đen đầy mặt. Người thứ ba lại ăn mặc theo kiểu Mông Cổ, khoác áo bằng da cừu lộn trái ra ngoài, từ cử chỉ đến dáng dấp đều ra vẻ ngang tàng. Ba người đều mang theo bao đựng binh khí.

Dư Ngư Đồng biết cây kim địch của mình rất bắt mắt, nên trước khi ba người lên thuyền đã cất kỹ rồi. Chàng kêu thuyền phu dậy, nhờ hâm rượu làm thức ăn để đãi khách. Thuyền phu nhìn thấy đêm khuya mà đột nhiên có ba người xa lạ đến đây, không khỏi hoảng sợ. Nhưng dọc đường Dư Ngư Đồng chi tiền rất hào phóng, nên chàng dặn sao thì y cứ thế mà làm.

Người to lớn nói:

– “Đêm khuya quấy nhiễu thế này, thật là mạo muội.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Bốn biển đều là huynh đệ, nói đến hai chữ mạo muội làm gì?”

Người kia nghe Dư Ngư Đồng nói chuyện rất văn vẻ, bèn nói:

– “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh các hạ.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Tiểu đệ họ Vu tên Thông, là nhân sĩ vùng Kim Linh. Tên là Thông, nhưng học vấn lại nhiều chỗ không thông, phen này đi thi bị hỏng. Nghĩ tới về quê hổ thẹn với phụ lão, tiểu đệ xấu hổ vô cùng.”

Người kia nói:

– “Thì ra là một vị tú tài. Thật là thất kính, thất kính.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Tiểu đệ trượt kỳ thi Hương lại còn họa vô đơn chí, nhà cửa bị lửa thiêu sạch. Nhà thì không còn mảnh ngói nào lành, mặt mũi cũng bị hủy hoại, khó mà gặp người khác. Bây giờ tiểu đệ không biết làm gì, nên định đến Cam Túc tìm bà con để kiếm một nơi dạy học, ăn nhờ ở đậu. Ôi! Thời đã như thế, mạng đã như thế, còn gì để nói.”

Mấy câu văn vẻ này làm hai người kia nghe xong nhìn nhau không hiểu. Còn người ra dáng thương nhân thì có đọc qua sách vở, bèn đáp:

– “Các hạ không cần nản lòng.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Xin thỉnh giáo tôn tánh ba vị.”

Người kia đáp:

– “Tiểu đệ họ Tất.”

Rồi y chỉ người râu ria rậm rạp nói:

– “Vị này họ Cố.”

Tiếp đến lại chỉ người mặc đồ Mông Cổ, nói:

– “Vị này họ Kha, là người Mông Cổ.”

Dư Ngư Đồng chắp tay rồi nói:

– “Cửu ngưỡng, cửu ngưỡng. Bình thủy tương phùng, tam sanh cửu hạnh.”

Họ Tất thấy chàng câu nào cũng xổ nho, thầm cười trong bụng. Dư Ngư Đồng thì nghe y nói giọng Liêu Đông, trong lòng nghĩ:

– “Ba người này không biết là thù hay bạn? Nếu là giang hồ hảo hán thì mình nên kết giao, sau này khởi sự có thể giúp một tay.”

Chàng liền nói:

– “Ba vị đi đường ban đêm như thế rất là nguy hiểm.”

Họ Tất hỏi:

– “Không biết có nguy hiểm gì?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Nơi xa xôi hẻo lánh thế này, vương pháp không sao phủ tới.”

Người họ Cố kéo tay áo của họ Tất, hỏi:

– “Y nói gì thế?”

Họ Tất khẽ đáp:

– “Y nói dọc con đường này rất nhiều trộm cướp.”

Người họ Cố và họ Kha vừa nghe thấy đã cười ha hả.

Lúc này thuyền phu đã mang thức ăn và rượu ra. Mấy người kia không khách sáo với Dư Ngư Đồng, ăn uống thoải mái. Họ Tất nói:

– “Các hạ thổi sáo rất hay, thổi thêm một bài nữa được không?”

Dư Ngư Đồng sợ lấy kim địch ra sẽ tiết lộ hành tung, bèn chối từ:

– “Tiểu đệ rất hay hổ thẹn, hễ có người khác là tay chân lóng ngóng không biết làm gì. Kỳ thi vừa rồi cũng bị hỏng vì tật đó.”

Họ Kha bèn nói:

– “Để tại hạ thổi một khúc.”

Y lấy trong túi áo ra một chiếc sừng dê có khảm bạc, rồi đứng thẳng dậy thổi những tiếng u u. Dư Ngư Đồng nghe âm điệu bị tráng, lộ rõ khí phách của vùng sa mạc, trong lòng rất thán phục, thầm ghi nhớ lấy điệu nhạc đó.

Uống rượu xong, ba người đứng dậy cảm tạ cáo từ. Dư Ngư Đồng muốn kết giao bèn nói:

– “Nếu ba vị không chê, xin ở lại một đêm trên chiếc thuyền này, sáng mai hãy đi tiếp có được hay không?”

Họ Tất đáp:

– “Vậy thì hay quá, chỉ sợ quấy rầy.”

Dư Ngư Đồng ngủ ở phía nam, còn ba người kia không cởi áo mà nằm ngay ở đầu thuyền. Một lúc sau, họ Dư giả bộ ngáy khò khò để nghe họ nói chuyện. Họ Kha nói:

– “Tên tú tài này nghèo đến phát ghét, nhưng không đến nỗi nhỏ mọn.”

Họ Cố nói:

– “Coi như nó gặp may.”

Họ Kha hỏi:

– “Ngày mai đến kịp Lạc Dương hay không?”

Họ Tất nói:

– “Sau khi qua sông, tìm ba con ngựa mà phi thì có thể kịp.”

Họ Kha tiếp:

– “Ta chỉ lo Hàn đại ca không có ở nhà, chúng ta đi một chuyến vô ích.”

Họ Cố nói:

– “Nếu không gặp y thì chúng ta cứ tìm đến sào huyệt của Hồng Hoa Hội ở Thái Hồ, cho chúng một trận đảo ngược cả trời đất lên.”

Họ Tất khẽ quát:

– “Nói nhỏ lại.”

Dư Ngư Đồng kinh hãi một phen, nghĩ bụng:

– “Thì ra ba người này là kẻ thù của Hồng Hoa Hội. Họ đến Lạc Dương để tìm người họ Hàn, chắc là Hàn Văn Xung rồi.”

Họ Tất nói tiếp:

– “Trong Hồng Hoa Hội cao thủ rất đông. Lão đương gia của họ tuy đã chết, nhưng nghe nói tổng đà chủ tân nhiệm cũng là tay lợi hại. Ở đây không phải Quan Đông, hai ngươi chớ có làm bừa.”

Họ Cố nói:

– “Quan Đông Lục Ma chúng ta hoành hành nơi quan ngoại, giang hồ hảo hán trong võ lâm nhắc đến danh tiếng của chúng ta đều phải kính nể mấy phần. Nào ngờ lão Tam, lão Ngũ và lão Lục lại bị Hồng Hoa Hội giết chết một cách không minh bạch. Thù này mà không trả thì chúng ta không nên làm người nữa.”

Giọng nói cực kỳ giận dữ.

Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Thì ra là bọn Quan Đông Lục Ma. Tam ma Tiêu Văn Kỳ do Lục sư thúc giết chết, còn Ngũ ma Diêm Thế Khôi và Lục ma Diêm Thế Trương chết dưới tay người Hồi. Sao chúng lại trút hết món nợ này lên đầu Hồng Hoa Hội?”

Thì ra đại ma Tất Nhất Lôi là một phú hào ở Liêu Đông, gia sản không sao tính hết, có không ít sâm trường và khoáng sản. Nhị ma Cố Kim Tiêu là một mã tặc trứ danh. Tứ ma Kha Hợp Đài vốn là một người chăn nuôi ở Mông Cổ lưu lạc đến Liêu Đông rồi làm trộm cướp. Ở Liêu Đông chúng nghe nói Tiêu Văn Kỳ được thuê tìm kiếm một công tử đã bị Hồng Hoa Hội bắt cóc, rồi đột nhiên mất tích, mấy năm nay tuyệt vô âm tín. Gần đây sư đệ của Tiêu Văn Kỳ là Hàn Văn Xung gửi thư đến, cho biết họ Tiêu đã bị hại ở Thiểm Tây.

Ba người giận dữ không sao nhịn được, lập tức đi về phía nam tìm Hồng Hoa Hội để trả thù. Khi đến Bắc Kinh lại nghe anh em họ Diêm bị giết, việc này cũng có liên ca đến Hồng Hoa Hội. Chúng vừa kinh hãi vừa giận dữ hơn, định đến Lạc Dương tìm Hàn Văn Xung hỏi rõ ràng, nhưng tình cờ gặp Dư Ngư Đồng trên sông Hoàng Hà.

Ba người nói chuyện một lúc rồi ngủ. Dư Ngư Đồng trằn trọc mãi đến gần sáng mới thiếp đi một lúc. Đột nhiên nghe thấy tiếng người rất ồn ào, hò hét vang dội, chàng mới giật mình tỉnh dậy, nhảy chồm lên rút kim địch ra tay, ngồi trong khoang thuyền nhìn ra ngoài. Mấy trăm chiếc thuyền đang kéo nhau dọc sông tiến đến. Thuyền đầu tiên có dựng một lá cờ lớn, ghi “Định biên đại tướng quân lương vận.”

Thì ra đây là đoàn thuyền tiếp tế quân lương cho Triệu Tuệ. Thuyền lớn qua hết, phía sau còn có mấy chục chiếc thuyền nhỏ, đều là thuyền của quan binh chở những món đồ cướp bóc được ở ven sông.

Thuyền phu thấy tình hình không êm, đang muốn tránh né thì bảy tám tên lính Thanh đã cầm đao thương nhảy qua rồi. Chúng không hỏi han gì cả, tát cho thuyền phu một phát, ra lệnh cho y lái thuyền đi theo. Dư Ngư Đồng biết bọn quan binh này thói quen chèn ép bá tánh, khó mà lý giải được, nên cứ thuận theo. Kha Hợp Đài vô cùng giận dữ, muốn ra ngoài đấu với bọn lính Thanh một phen, nhưng bị Tất Nhất Lôi kéo lại.

Bọn lính Thanh ra sau khoang thuyền, thấy Dư Ngư Đồng ăn mặc kiểu tú tài nên thái độ có hòa nhã hơn, nhưng vẫn quát hỏi bọn Tất Nhất Lôi đang đi đâu. Tất Nhất Lôi đáp:

– “Chúng ta đến Lạc Dương thăm bà con.”

Một tên lính Thanh khác lại quát:

– “Dồn hết lên khoang trước, để khoang sau này cho chúng ta.”

Kha Hợp Đài trừng mắt, giận dữ muốn động thủ ngay. Tất Nhất Lôi la lên:

– “Lão tứ, ngươi làm gì vậy?”

Kha Hợp Đài đành dằn lại. Dư Ngư Đồng ngoan ngoãn đi ra khoang trước nhỏ nhẹ nói:

– “Tú tài mà gặp quân lính thì có lý cũng không cãi nổi. Ta thà không nói là hơn, xem thử quan binh làm gì được.”

Mấy tên lính Thanh nhảy qua một con thuyền khác, đón mấy người qua đây. Một tên nói:

– “Ngôn lão gia, thuyền này sạch sẽ hơn nhiều, lão gia qua xem thử có vừa ý hay không?”

Ngôn lão gia từ đuôi thuyền kia bước qua thuyền này, lên tiếng:

– “Ở đây cũng được.”

Rồi hắn oai vệ ngồi xuống.

Dư Ngư Đồng liếc nhìn Ngôn lão gia một cái, tim đột nhiên đập lên thình thịch. Thì ra đây chính là Ngôn Bá Càn, từng đến Thiết Đảm trang để bắt Văn Thái Lai, rồi bị đoản tiễn của Dư Ngư Đồng bắn mù một mắt. Hắn dưỡng thương xong lại dẫn theo một tên sư đệ, nhập vào đội quân của Triệu Tuệ để ra sức lập công.

Tuy Ngôn Bá Càn chỉ còn một mắt, nhưng nhãn quang vẫn rất lợi hại. Hắn vừa thấy thân hình của Dư Ngư Đồng đã lập tức nghi ngờ, thấy mặt chàng che vải lại càng nghi hơn. Hắn giả bộ đến khoang thuyền nói chuyện mấy câu với Tất Nhất Lôi rồi đột nhiên loạng choạng một tí, như đứng trên thuyền không vững. Tay phải hắn quơ loạn xạ một hồi, rồi túm lấy cái khăn che mặt của Dư Ngư Đồng kéo xuống.

Cố Kim Tiêu thấy hắn sắp ngã lên người mình, bèn đưa tay trái lên đỡ lấy rồi nhẹ nhàng nắm lấy đầu vai hắn. Ngôn Bá Càn đột nhiên co người lại không để y nắm được. Cả hai đều biết võ công đối phương không tệ, nhìn nhau một cái.

Ngôn Bá Càn chăm chú nhìn vào mặt Dư Ngư Đồng, thấy đầy thẹo rất khó coi, khác hẳn tiểu tử tuấn tú từng bắn mù mắt mình, bèn nói:

– “Thuyền lắc lư quá, ta không đứng vững. Xin lỗi nhé.”

Rồi trả lại khăn che mặt cho chàng.

Dư Ngư Đồng đón lấy, che lại trên mặt rồi nói:

– “Phen này tại hạ bị cháy nhà, bỏng hết khuôn mặt, dáng vẻ này thật không dám gặp ai. Đại gia không khó chịu đấy chứ?”

Ngôn Bá Càn nghe khẩu âm của chàng quen quen, trong lòng lại nhói lên một cái, nhưng nhìn lại diện mạo thì hết nghi ngờ. Hắn quay lại nói với Cố Kim Tiêu:

– “Thì ra lão huynh là đồng đạo trên chốn giang hồ. Xin mời vào trong này ngồi.”

Bọn Tất Nhất Lôi ba người không khách sáo nữa, bèn hỏi danh tánh của Ngôn Bá Càn. Nghe hắn xưng là chưởng môn Ngôn gia quyền ở Thần Châu, trên giang hồ cũng hơi có tiếng tăm, chúng bèn không giấu giếm nữa, nói rõ danh tánh của mình. Sư đệ của Ngôn Bá Càn tên là Bành Tam Xuân, là người Hiệu Dương tỉnh Hồ Nam. Hai bên kể cho nhau nghe những giai thoại võ lâm ở quan ngoại và Tam Tương, nói chuyện rất tâm đắc.

Đúng là phản khách vi chủ, Dư Ngư Đồng bị họ lạnh nhạt bỏ mặc một bên. Chàng thấy mình đơn thương độc mã mà gặp cả hai phe thù địch, thật sự nguy hiểm vô cùng. Trong lòng chàng đang chán nản nhưng gặp cường địch trước mắt lại phát hùng tâm, phấn chấn hẳn lên. Chàng ngồi một mình phía trước thuyền, ngâm nga những bài văn bát cổ trước kia học thi tú tài, hết “Tiên vương chi đạo, thánh vương chi tâm” lại đến “Hình bất thượng đại phu, hạ bất thượng thứ phu,” càng đọc âm thành càng vang dội, ra vẻ đắc ý vô cùng. Tai chàng thì lại cố gắng nghe lén xem chúng nói chuyện gì.

Ngôn Bá Càn nghe tiếng chàng đồ kiết học bài mà phát ghét, không còn nghi ngờ gì nữa. Đến giờ cơm tối, Dư Ngư Đồng lấy rượu ra khoản đãi đám khách trên thuyền, Ngôn Bá Càn lịch sự nói chuyện mấy câu. Dư Ngư Đồng xổ một loạt “chi hồ giả dã,” bốn người kia càng nghe càng chán tai, bèn mặc kệ chàng mà tiếp tục nói chuyện.

Ngôn Bá Càn hỏi thăm tam ma vào quan ải có việc gì. Tất Nhất Lôi chỉ nói là đến Lạc Dương thăm bạn. Về sau nói đến những bang hội võ lâm ở phương nam, Kha Hợp Đài đột nhiên nhắc đến Hồng Hoa Hội. Ngôn Bá Càn hơi đổi sắc mặt, liền hỏi họ quen biết với ai trong Hồng Hoa Hội. Tất Nhất Lôi thản nhiên đáp là không quen biết, cũng không nhắc gì đến chuyện trả thù. Hai bên vòng vo thăm dò qua lại, ai cũng sợ đối phương có dây mơ rễ má gì với Hồng Hoa Hội. Từ lúc chúng có phần đố kỵ phòng hờ nhau, câu chuyện không được thoải mái như trước nữa.

Hôm nay gió nghịch vẫn khá mạnh, suốt ngày thuyền chỉ chạy được hơn hai mươi dặm. Chưa đến Mạnh Tân, đoàn thuyền đã dừng lại ăn cơm tối. Bọn Tất Nhất Lôi ngủ chung với Dư Ngư Đồng ở phía trước thuyền. Dư Ngư Đồng chui vào trong chăn, không dám cởi áo, giấu kim địch ở trong người.

Khoảng canh hai, đột nhiên từ thuyền kế bên truyền đến những tiếng kêu la thảm khốc. Trong đêm vắng lặng, ai nghe thấy cũng phải dựng tóc gáy lên. Tiếp theo là một giọng nữ nhân la lên:

– “Cứu mạng, cứu mạng!”

Dư Ngư Đồng đoán là bọn quan lính bên thuyền đó đang làm chuyện thương thiên bại lý. Đáng lẽ chàng phải qua cứng cứu, nhưng lúc này thế lực quan binh rất lớn, hơn nữa kế bên đã có hai nhóm cường địch, chỉ cần thân phận mình bị lộ là lập tức mang họa sát thân. Chàng đành kéo chăn trùm kín đầu, bịt tai lại cố không nghe. Nữ nhân kia kêu gào càng thảm khốc hơn:

– “Đại gia, làm phước giùm đi. Tha cho tiểu nhân…”

Rồi lại nghe tiếng một đứa bé kêu lên:

– “Má má! Má má!”

Dư Ngư Đồng nhịn không nổi nữa, ngồi bật dậy. Lại có tiếng khóc của một nữ nhân khác, rồi một tên lính Thanh la lên:

– “Người không chịu thì lão gia phải giết con của ngươi trước! “Nữ nhân đó van xin thê thảm thêm mấy câu, rồi có tiếng cười điên cuồng của bọn lính. Sau đó hai nữ nhân chỉ khóc mà không kêu nữa, rồi tiếng khóc cũng im bặt, chỉ còn những tiếng ú ớ. Chắc chắn là miệng của họ đã bị nhét chặt.

Dư Ngư Đồng giận dữ vô cùng, mặc kệ chuyện an nguy sinh tử của bản thân mình, đi đến đầu thuyền. Chàng nghe Kha Hợp Đài nói:

– “Chúng ta qua đó xem thử.”

Tất Nhất Lôi cản:

– “Lão tứ, ngươi đừng nhúng tay vào việc của người khác. Sư huynh đệ họ Ngôn kia cũng có mấy chiêu, nếu họ cùng phe với Hồng Hoa Hội thì chúng ta lộ tẩy đấy.”

Dư Ngư Đồng chưa nghe hết câu đã vận kình vào chân, nhảy qua thuyền kế bên. Quan Đông tam ma thấy vị tú tài này khinh công cao diệu, lập tức kinh hãi ra hiệu với nhau rồi nhảy hết sang. Lúc này Ngôn Bá Càn và Bành Tam Xuân cũng đã tỉnh dậy. Chúng thấy Dư Ngư Đồng cùng ba người nhảy qua thuyền kia liền cầm binh khí, đứng trên đầu thuyền xem xét.

Dư Ngư Đồng thấy đằng lái thuyền không có ai, bèn cúi người nhìn vào trong. Những ngọn nến trong khoang nhấp nháy lúc sáng lúc tối. Bảy tám tên lính Thanh đang túm lấy hai nữ nhân, định giở trò cưỡng đạo. Một nữ nhân quì dưới đất không ngừng khóc lóc van xin, còn nữ nhân kia ôm con nhỏ, hai người run rẩy vì hoảng sợ. Trên ván thuyền còn có thi hài của mấy nam nhân. Mấy cái rương bị bật nắp ra, quần áo và ngân lượng vương vãi. Xem tình hình này thì biết bọn lính Thanh vừa vận chuyển lương thực vừa thừa cơ cướp bóc dân chúng ven sông, giữa đêm giết hại thương khách để cướp của hiếp dâm.

Dư Ngư Đồng nổi giận, định nhảy vào trong khoang thì nghe Kha Hợp Đài nói sau lưng:

– “Lão đại! Chuyện này ta không thể không nhúng tay vào.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Không được.”

Ngay lúc đó, một tên lính Thanh giật lấy đứa bé trong tay nữ nhân, quẳng mạnh xuống ván thuyền làm đầu nó vỡ phọt cả óc ra. Mẹ nó giật bắn lên, rồi ngất xỉu tại chỗ. Hai tên lính cười ha hả, đè cô ta xuống mà xé quần áo.

Dư Ngư Đồng thầm khấn Hồng Hoa lão tổ trên trời:

– “Đệ tử Dư Ngư Đồng hôm nay xả mạng cứu người, xin lão tổ bảo hộ.”

Chàng không rút kim địch, hét lớn một tiếng, tay không nhảy vào khoang thuyền. Chân trái chàng phóng cước, tay phải xuất chưởng đánh ngã ngay hai tên lính Thanh đang quấn chặt nữ nhân đó. Sau đó chàng vặn sái cổ một tên lính Thanh khác, hắn đau đến nỗi kêu cha gọi mẹ. Chàng tiện tay giật lấy thanh đao, chém gãy chân phải một tên nữa.

Bọn lính Thanh còn lại rút binh khí ra chống đỡ. Dư Ngư Đồng tuy sử đao không quen lắm nhưng chỉ mấy hiệp lại chém ngã hai tên lính. Đám còn lại đều chạy về phía đầu thuyền. Nghe mấy tiếng “tủm, tủm,” chúng đã bị Kha Hợp Đài đá lọt xuống sông.

Dư Ngư Đồng kéo hai nữ nhân kia dậy, khẽ bảo:

– “Mau mau lên bờ chạy trốn đi.”

Họ hoảng sợ cứ đứng ngẩn ra. Đám lính Thanh ở thuyền kế bên nghe tiếng la hét đấm đá, đã có tên thắp đuốc lên, đứng trên đầu thuyền mà hô hoán. Kha Hợp Đài chạy vào trong khoang cất tiếng khen:

– “Tú tài giỏi quá! Thán phục, thán phục!”

Dư Ngư Đồng kẹp một nữ nhân nhảy lên bờ, Kha Hợp Đài kẹp người còn lại nhảy theo. Cố Kim Tiêu rút cây điệp hồ xoa cán ngắn sau lưng ra, đứng bên bờ để chặn bọn đuổi theo. Hai chân Tất Nhất Lôi vừa chạm đất, hai tay liền nắm lấy cạnh thuyền quát lên một tiếng, vận hết sức hất chiếc thuyền lộn ngược, đáy thuyền hướng lên trời. Tất cả đồ vật, kể cả tử thi đều rơi hết xuống nước. Dư Ngư Đồng âm thầm kinh hãi:

– “Người này khí lực mạnh quá.”

Bốn người thừa lúc quan binh hỗn loạn xúm quanh chiếc thuyền lật ngược, trong bóng tối dẫn hai nữ nhân chạy thoát. Dư Ngư Đồng chạy đến chỗ cây cối rậm rạp, thấy bọn lính Thanh không đuổi theo mới dừng lại hỏi:

– “Nam nhân trong nhà đều bị bọn quan binh kia giết hết rồi phải không?”

Nữ nhân đó chưa trấn tĩnh lại được, cứ quí dưới đất không ngớt khấu đầu, không nói được tiếng nào. Dư Ngư Đồng lại bảo:

– “Trước mắt cô đã thoát hiểm rồi, trốn ở đây đừng động đậy. Đợi ngày mai đoàn thuyền kia rời khỏi rồi hãy ra ngoài.”

Chàng cao giọng nói với ba người ở phía sau:

– “Đa tạ ba vị đại ca tương trợ. Tiểu đệ xin cáo từ.”

Chàng không đợi họ trả lời, quay người đi ngay. Nhưng vừa bước được ba bước, đã nghe thấy phía trước có một giọng âm hiểm cất lên:

– “Dư thập tứ gia, xin nán lại chốc lát.”

Dư Ngư Đồng lui lại một bước. Người kia từ trong bóng tối bước ra, chính là kình địch Ngôn Bá Càn. Phía sau hắn còn có tên sư đệ Bành Tam Xuân, hai tay nắm cây tam tiết côn đứng để giám thị, đề phòng Dư Ngư Đồng chạy thoát.

Lúc này bọn ba người Tất Nhất Lôi dẫn nữ nhân kia chạy tới, thấy Ngôn Bá Càn đột nhiên xuất hiện đều rất kinh ngạc. Dư Ngư Đồng chắp tay lại nói:

– “Hậu hội hữu kỳ!” rồi chạy vào giữa Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu.

Bành Tam Xuân khuỵu gối phải xuống một chút, hét lên một tiếng rồi vung cây tam tiết côn đánh vào hạ bàn Dư Ngư Đồng. Họ Dư vội sử chiêu Lý Dược Long Môn nhảy qua cây côn, chân trái vừa chấm đất đã vọt ra mấy trượng. Bành Tam Xuân một chiêu không trúng, cây tam tiết côn đang quét tới đôi chân của Cố Kim Tiêu đã nhanh chóng biến thế hất mạnh ra trước, nhằm thẳng vào sau lưng Dư Ngư Đồng.

Dư Ngư Đồng phóng về phía trước, khom mình cho côn lướt ngang qua đầu, vẫn không đánh trả mà nhân lúc sơ hở chạy trốn. Đột nhiên có kình phong xô tới. Trong màn đêm chỉ thấy bạch quang lấp loáng, hai cây đơn đao chém tới trước mặt. Thì ra hai tên đồ đệ Tống Thiên Bảo, Đàm Thiên Thừa của Ngôn Bá Càn đã tới.

Dư Ngư Đồng ba mặt đều bị bao vây không sao tránh né được, bèn đưa tay phải rút kim địch giấu trong tay áo bên trái ra, keng keng hai tiếng đã gạt được hai đao. Bành Tam Xuân đang muốn xông lên hợp công, Kha Hợp Đài đứng bên nhìn bỗng giận dữ nói:

– “Ba đánh một có gì là hảo hán?”

Bành Tam Xuân ngẩn ra một chút, Kha Hợp Đài đã nắm lấy đầu côn giật ra. Họ Bành quyết kéo trở về, hai người đều không buông tay. Bành Tam Xuân tiến lên nửa bước, dùng tay trái vỗ mạnh vào tam tiết côn. Cây côn đang nắm ở tay phải đột nhiên rời khỏi tay, bay ngược lại đánh vào tay trái của Kha Hợp Đài. Đây là một chiêu cứu mạng của tam tiết côn, gọi là Độc Xà Bái Vỹ.

Kha Hợp Đài không ngờ được, trong bóng tối nghe tiếng côn đánh tới mới vội tránh sang phải, bị đuôi côn quét trúng vào vai nghe “binh” một tiếng rất đau. Họ Kha giận dữ, buông lỏng tay bỏ côn ra, chỉ dùng một tay nắm chặt eo lưng của Bành Tam Xuân, quát lớn rồi nhấc bổng thân hình mập mạp của hắn lên đầu, quật xuống đất. Kha Hợp Đài rất sành môn đô vật của người Mông Cổ. Đòn quật này khiến Bành Tam Xuân choáng váng, trước mắt thấy ba mươi sáu ngôi sao nhấp nháy loạn xạ.

Tất Nhất Lôi thấy Kha Hợp Đài đã thắng, bèn hô lớn:

– “Đừng gây họa, rời khỏi đây nhanh lên.”

Ngôn Bá Càn lên tiếng:

– “Hay lắm! Thì ra Quan Đông Lục Ma đã đầu hàng Hồng Hoa Hội.”

Cố Kim Tiêu quay lại, giận dữ nói:

– “Ngươi nói gì mà thối thế?”

Ngôn Bá Càn hỏi lại:

– “Nếu các ngươi không đầu hàng Hồng Hoa Hội thì sao lại giúp cho tên đầu mục này?”

Tất Nhất Lôi ngạc nhiên bèn hỏi:

– “Y là người của Hồng Hoa Hội hay sao?”

Ngụy Bất Túc thấy hai đứa đồ đệ của mình bị Dư Ngư Đồng ép đến nỗi tay chân loạn xạ, tình thế rất nguy cấp. Hắn không rảnh để trả lời, lấy dưới áo choàng ra một đôi Cương hoàn khua lên loảng xoảng, đánh vào sau lưng Dư Ngư Đồng. Họ Dư xoay kim địch lại, điểm vào kỳ môn huyệt của hắn. Hai người vừa giao thủ đã qua lại mấy chiêu.

Tất Nhất Lôi kêu gọi dừng tay, Ngôn Bá Càn vẫn không nghe, cứ nghĩ đến mối hận làm mù mắt, huy động song hoàn như cuồng phong bạo vũ công tới kẻ thù. Tất Nhất Lôi bèn lấy độc cước đồng nhân sau lưng ra, tung người nhảy tới, đập từ trên xuống. Nghe một tiếng choảng rất lớn, hai món binh khí bị chấn động rời ra. Cánh tay của Dư Ngư Đồng và Ngôn Bá Càn tê liệt một lúc, cả hai đều âm thầm kinh hãi. Đồng nhânh của Tất Nhất Lôi bên ngoài bọc vàng ruột đúc bằng thép rất nặng, lợi hại vô cùng.

Tất Nhất Lôi quay lại hỏi Dư Ngư Đồng:

– “Các hạ là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Hôm nay tẩu vi thượng sách.”

Chàng không đáp, nhảy về phía đêm tối. Tống Thiên Bảo đứng gần nhất vội đuổi theo. Dư Ngư Đồng quay người lại, thổi kim địch một cái. Một tiếng “rít,” đoản tiễn đã cắm trên má Tống Thiên Bảo, hắn đau đớn kêu la oai oái. Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn cũng đuổi theo sau, nhưng đêm tối nhìn không rõ, lại sợ Dư Ngư Đồng thổi đoản tiễn nên không dám đến quá gần.

Dư Ngư Đồng chạy một đoạn xa rồi từ từ đi về phía bờ sông, trong lòng nghĩ:

– “Mình trốn lên thuyền vận chuyển lương thực của bọn lính Thanh là yên ổn nhất. Ngày mai khởi hành không gặp trở ngại gì nữa.”

Chàng nấp trong lùm cây lắng nghe tiếng binh lính đuổi theo, rồi nằm rạp xuống đất, chầm chậm bò lên. Đột nhiên nghe tiếng la kinh hãi của nữ nhân xen kẽ với tiếng thóa mạ của bọn lính Thanh. Thì ra hai nữ nhân vừa được cứu ra lại bị bọn lính tìm thấy.

Lúc này chàng cảm thấy thân mình khó giữ, không sao lo liệu cho người khác được nữa, bèn rút người lại. Nhưng nghe tiếng kêu càng lúc càng thảm thiết, chàng không nhịn nổi nữa, thò đầu ra ngoài mà nhìn. Một tên lính Thanh, hai tay mỗi tay kéo một nữ nhân đi đến bờ sông. Hai nữ nhân không chịu đi, lớn tiếng khóc lóc, bị bọn lính kéo lê lết dưới đất. Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Tham sinh úy tử không phải là đại trượng phu!”

Chàng bèn dùng kim địch thổi ra, đoản tiễn bay đi cắm ngay vào gáy tên lính. Hắn điên cuồng gào lên một tiếng, lập tức mất mạng.

Dư Ngư Đồng thổi tên xong, vội vã chạy ra xa bờ. Mũi tên này khiến chàng bị lộ hành tung. Mới chạy được vài trượng, cây điệp hổ xoa của Cố Kim Tiêu đã cản trở phía trước. Dư Ngư Đồng phải triển khai Nhu Vân kiếm thuật, toan đánh ngã hắn để chạy trốn, nào ngờ qua lại mấy chiêu vẫn chưa chiếm được thượng phong. Cố Kim Tiêu thân pháp nhanh nhạy, quả là kình địch. Hắn vừa đánh vừa huýt sáo liên hồi.

Dư Ngư Đồng nhìn thấy xa xa có những bóng đen chạy tới, không dám ứng chiến, bèn quyết tấn công để tìm đường chạy. Cả người chàng phóng lên phía trước, hai ngón tay bên trái điểm thẳng vào yếu huyệt trước ngực địch thủ. Cố Kim Tiêu đưa hổ xoa đỡ ngang trước ngực. Dư Ngư Đồng lùi lại để nhảy ra nhưng tam tiết côn của Bành Tam Xuân đã đánh tới, đồng thời ba người Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn, Đàm Thiên Thừa cũng đã chạy tới bao vây cả bốn mặt.

Tất Nhất Lôi la lên:

– “Bỏ binh khí xuống!”

Dư Ngư Đồng mặc kệ, vẫn múa kim địch như gió, trong lúc hỗn chiến phóng cước đá ngã Đàm Thiên Thừa. Tất Nhất Lôi vẫy đồng nhân vù một tiếng, đập từ trên đầu xuống. Dư Ngư Đồng biết hắn sức lực dị thường, không dám cản trở, vội chuyển người tránh sang một bên.

Binh khí của Tất Nhất Lôi rất nặng, nhưng hắn khí lực hơn người nên sử dụng vừa nhanh vừa linh hoạt. Chiêu đầu đánh xuống không trúng, hắn lập tức thu thế, biến thành chiêu Hoành Tảo Thiên Quân đánh ngang lưng Dư Ngư Đồng. Dư Ngư Đồng cúi xuống cho đồng nhân bay qua đỉnh đầu, rồi chồm dậy xông đến chỗ Tất Nhất Lôi, đưa kim địch điểm vào huyệt Khí Lưu của hắn. Đồng nhân của Tất Nhất Lôi vừa đưa lên định hất văng kim địch của Dư Ngư Đồng, họ Dư đã tung người lên, nhảy qua đầu Tống Thiên Bảo. Lúc rơi xuống chàng thừa thế huých đầu gối vào sau lưng hắn. Tống Thiên Bảo đứng không vững, loạng choạng ngã vào đồng nhân của Tất Nhất Lôi.

Ngôn Bá Càn vội vã lôi họ Tống lại, la toáng lên:

– “Muốn chết hay sao?”

Tất Nhất Lôi cất tiếng khen ngợi Dư Ngư Đồng:

– “Thân thủ tuyệt lắm!”

Bên này, Bành Tam Xuân và Cố Kim Tiêu đã chặn đường lui của họ Dư. Kha Hợp Đài đứng bên theo dõi mọi người hỗn chiến, thấy Dư Ngư Đồng sắp trúng chiêu, trong lòng kính nể chàng có lòng hiệp nghĩa, nên đột ngột xông vào vùng hỗn chiến hô lên:

– “Lão đại, lão nhị lùi ra.”

Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu liền nhảy ra ngoài. Dư Ngư Đồng dốc sức chống chọi đông người, mồ hôi ướt cả người, múa kim địch không ra chiêu pháp gì nữa. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu vừa nhảy ra, cương hoàn bên phải của Ngôn Bá Càn đã tròng vào đầu kim địch, cương hoàn bên trái vận sức đánh vào thân kim địch. “Keng” một tiếng, kim địch đã rời tay chủ bay ra. Cương hoàn lại thừa tế tấn công vào huyện Thái Dương của Dư Ngư Đồng.

Kha Hợp Đài kéo Dư Ngư Đồng lùi ra sau, né được chiêu này. Đồng thời y dùng phép đô vật của Mông Cổ đưa chân phải ra quét ngang, tay trái ấn xuống đầu vai họ Dư. Dư Ngư Đồng đứng không vững nữa, té nhào xuống rồi bị Kha Hợp Đài đè chặt dưới đất. Kim địch từ trên không trung rơi xuống, Cố Kim Tiêu đưa tay đón lấy rồi cắm vào bên hông mình. Tống Thiên Bảo và Đàm Thiên Thừa đã ăn mấy đòn của Dư Ngư Đồng, bèn chạy tới đòi đánh. Kha Hợp Đài bảo:

– “Khoan đã!”

Y xé trường bào của Dư Ngư Đồng buộc chéo tay chàng lại, kéo cho đứng dậy rồi nói:

– “Bằng hữu, ta biết người là hảo hán, có gì cứ nói đàng hoàng. Chúng ta không làm khó dễ ngươi đâu.”

Dư Ngư Đồng “hừ” một tiếng, không nói tiếng nào.

Tất Nhất Lôi hỏi:

– “Bằng hữu là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Ta họ Dư, tên Ngư Đồng, người trên giang hồ thường gọi là Kim Địch Tú Tài. Trong Hồng Hoa Hội, ta ngồi ghế thứ mười bốn.”

Tất Nhất Lôi gật đầu nói:

– “Vậy là đúng rồi. Ta đã từng nghe danh tiếng của ngươi. Ta muốn hỏi ngươi về mấy người.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Ngươi muốn hỏi về tung tích của Tiêu Viễn Kỳ và Diêm thị huynh đệ chứ gì? Nói thật với ngươi, không phải Hồng Hoa Hội chúng ta giết họ.”

Ngôn Bá Càn đứng bên lạnh nhạt nói:

– “Dĩ nhiên là bây giờ ngươi phải chối.”

Dư Ngư Đồng mắng:

– “Thằng giặc chột kia, ta đâu có nói chuyện với ngươi? Mắt của ngươi là do ta bắn đấy, rồi sao nào? Lão gia mà sợ ngươi thì không phải là hảo hán.”

Tống Thiên Bảo giận dữ vung đao chém tới. Kha Hợp Đài thấy vậy bèn buông lỏng chân đang đè họ Dư. Hai chân Dư Ngư Đồng được tự do, chàng nghiêng sang trái né chiêu đao, rồi phóng chân phải đá ra trúng ngay huyệt Phục Cố của Tống Thiên Bảo. Hắn buông đơn đao rớt khỏi tay, rồi bủn rủn nằm xuống đất. Đàm Thừa Thiên vội chạy tới đỡ dậy. Bành Tam Xuân thấy sư điệ của mình bị mất mặt, bèn vung quyền đánh tới. Kha Hợp Đài nói:

– “Muốn đánh nhau thì để ta thả y ra, lấy một đấu một cho tử tế.”

Bành Tam Xuân giận dữ nói:

– “Vậy để ta đấu với ngươi cũng được.”

Rồi hắn vung côn ra loảng choảng. Kha Hợp Đài cười hỏi:

– “Ngươi muốn bị quật té một lần nữa hay sao?”

Ngôn Bá Càn liền kéo Bành Tam Xuân lùi ra để xem Tất Nhất Lôi xử trí thế nào. Tất Nhất Lôi hỏi Dư Ngư Đồng:

– “Giang hồ đều nói ba huynh đệ của chúng ta bị Hồng Hoa Hội hại chết. Oan có đầu, nợ có chủ, chỉ cần ngươi nói thật một câu là việc này do ai gây ra, đương nhiên chúng ta sẽ tìm người đó mà tính nợ. Ngươi không cần giấu giếm hay hoảng sợ gì cả. Chẳng lẽ chúng ta vô cớ giết người của Hồng Hoa Hội hay sao?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Hôm nay ta lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, hà tất phải nói nhiều. Ngươi tưởng Hồng Hoa Hội sợ mấy mạng các ngươi hay sao? Thật là chuyện nằm mơ.”

Kha Hợp Đài nói:

– “Huynh đúng là hảo hán, ta rất kính phục. Ta chỉ muốn hỏi, ba vị huynh đệ của chúng ta bị ai hại chết?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Nói thật, ai giết hết ba người này ta biết rất rõ ràng, chắc chắn không phải là Hồng Hoa Hội.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Thế thì nói ra đi, chúng ta lập tức thả ngươi ra ngay.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Dư mỗ này tuy vô danh tiểu tốt, nhưng đã là người của Hồng Hoa Hội thì không thể để người khác uy hiếp được. Giết chết ba người đó là ai, ta nói cho ngươi biết cũng chẳng hề gì, mà người đó cũng không sợ các ngươi đi trả thù đâu. Nhưng các ngươi ép bức ta phải nói thì ta lại không thèm nói.”

Cố Kim Tiêu vẫy cây điệp hồ xoa cho ba vòng sắc trên cây xoa vang lên những tiếng tinh tang, rồi hét lên:

– “Ngươi nói hay không?”

Dư Ngư Đồng ngẩng đầu lên quát trả:

– “Không nói thì sao? Nếu ngươi có gan thì cứ đâm xoa vào ngực ta đi. Khi trả thù cho ta, huynh đệ Hồng Hoa Hội chắc chắn không gà mờ như ngươi đâu, đến nay mà kẻ thù là ai cũng không biết.”

Cố Kim Tiêu tức đến nỗi cây xoa rung lên bần bật, la mắng liên hồi. Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Nếu huynh cho rằng người như ta có thể kết giao được, thì hãy nói cho ta biết.”

Dư Ngư Đồng thấy trong đám người này chỉ có Kha Hợp Đài là tử tế hơn cả, bèn nói:

– “Tại sao các ngươi không đi hỏi Hàn Văn Xung? Hiện nay hắn không ở Lạc Dương, mà ở chung với Oai chấn hà sóc Vương Duy Dương tại Hàng Châu.”

Tất Nhất Lôi gặn hỏi:

– “Thật không?”

Dư Ngư Đồng hét lên:

– “Ta không thèm lừa dối các ngươi đâu!”

Kha Hợp Đài thấy chàng tuy bị bắt nhưng càng lúc càng ngoan cường hơn, thật khiến cho người ta kính nể, bèn kéo Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu qua một bên mà khuyên:

– “Ép nữa cũng vô dụng, thả y cho xong.”

Cố Kim Tiêu hỏi:

– “Thả hắn ra à? Giang hồ chắc chắn sẽ nói Quan Đông Lục Ma chúng ta không dám động đến Hồng Hoa Hội. Theo ý ta thì giết hắn đi cho rồi.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Giết cũng vô ích. Bây giờ chúng ta nên đến Hàng Châu để tìm Hàn Văn Xung. Mang hắn theo, dọc đường từ từ vặn hỏi tiếp, chắc chắn sẽ hỏi được rõ ràng. Lúc đó giết cũng chưa muộn.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Được lắm! Hãy làm như thế.”

Tất Nhất Lôi quay lại nói với Dư Ngư Đồng:

– “Chúng ta đem ngươi đến Hàng Châu để đối chất với Hàn đại ca. Nếu ngươi nói không sai, chúng ta sẽ thả ngươi ra.”

Dư Ngư Đồng thầm nghĩ:

– “Thế thì rất tốt. Dọc đường nếu không gặp ai cứu viện thì ta cũng tìm kế thoát thân.”

Vì thế chàng gật đầu đồng ý. Tất Nhất Lôi vẫy tay, nói với Ngôn Bá Càn một câu “Hậu hội hữu kỳ,” rồi quay mình đi ngay.

Ngôn Bá Càn vọt lên một bước nói:

– “Khoan đã, khoan đã! Người này do chúng ta bắt được chẳng lẽ để các ngươi mang đi một cách dễ dàng hay sao?”

Kha Hợp Đài nói:

– “Vậy ngươi muốn thế nào?”

Ngôn Bá Càn nghĩ:

– “Bên ta tuy có bốn người, nhưng ba người bọn chúng võ công lại cao hơn. Ta có thể đối phó nhưng sư đệ và đồ đệ thì không, động thủ không lợi.”

Hắn bèn nói:

– “Hắn đã bắn mù một mắt của ta, nên ta muốn lấy cặp mắt của hắn để xóa nợ. Sau đó các ngươi muốn mang hắn đi đâu thì mang.”

Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu nghĩ:

– “Bắt được Dư Ngư Đồng phen này, hắn cũng có công lao. Vả lại hắn cũng là quan quân, chẳng nên đắc tội với hắn. Mà nếu Dư Ngư Đồng bị mù, lại càng khỏi sợ bỏ trốn dọc đường.”

Nghĩ vậy nên chúng không cản trở gì cả. Ngôn Bá Càn bèn đưa ngón trỏ và ngón giữa tay phải ra, xuất chiêu Song Long Thương Châu đâm ngay vào cặp mắt Dư Ngư Đồng. Dư Ngư Đồng lùi lại một bước để tránh nhưng Cố Kim Tiêu lại túm lấy lưng chàng đẩy lên một bước, khiến chàng không sao động đậy được.

* * *

Nhóm người Trần Gia Lạc men theo sông Hoàng Hà đi về phía tây, thấy cả một vùng sình lầy cát đá ngổn ngang, vết tích để lại sau trận lũ. Thỉnh thoảng còn thấy xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng. Nghĩ đến thảm cảnh lũ lụt từ trời rơi xuống khiến bá tánh phải chạy nạn, giãy giụa tìm con đường sống, nhiều người đuối sức phải vùi mình trong nước thật không khỏi run rẩy cả người.

Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Hồng Hoa Hội chúng ta bây giờ chỉ biết cầm kiếm giết giặc, không hiểu ngày nào mới được cầm kiếm chỉ huy muôn dân trị thủy. Đó mới đúng là tâm nguyện của ta.”

Chưa đầy một ngày đã đến Đồng Quan. Từ Thiên Hoằng và Chương Tấn chia nhau xem xét các góc tường nơi đầu đường, tìm dấu hiệu của Dư Ngư Đồng mà không thấy. Biết chàng chưa đến, họ bèn trọ lại mà đợi.

Đã ba ngày vẫn chưa thấy Dư Ngư Đồng đến, Từ Thiên Hoằng và Chương Tấn bèn tìm đến các bến thuyền dò hỏi, nhưng mọi người đều nói chưa thấy một vị thư sinh tú tài như thế. Đến ngày thứ tư mọi người bàn bạc một lúc, đều nhận thấy bất thường, e rằng dọc đường có chuyện.

Ở Đồng Quan này, bang hội chiếm lĩnh vùng sông nước là Long Môn bang. Hồng Hoa Hội xưa nay chưa hề kết giao với bang này, sợ rằng Dư Ngư Đồng đã bị họ bắt giữ. Vì vậy Từ Thiên Hoằng cầm danh thiếp đến bái phỏng Long đầu ca Thượng Quan Nghị Sơn của Long Môn bang. Thượng Quan Nghị Sơn nghe có người đến thăm, báo danh là Thất đương gia của Hồng Hoa Hội. Võ Gia Cát từ lâu đã nổi tiếng trên giang hồ, y bèn đích thân ra đón tiếp.

Từ Thiên Hoằng nói rõ ý của mình, Thượng Quan Nghị Sơn bèn đáp:

– “Ta từ lâu đã ngưỡng mộ quí hội nhân nghĩa ngất trời, chỉ vì quí hội khai nghiệp ở mãi Giang Nam nên chưa có duyên hội ngộ. Nếu ta biết Thập tứ đương gia của quí hội đang đi thuyền dọc sông Hoàng Hà này, nhất định sẽ tiếp đãi chu đáo. Bâu giờ ta sẽ lập tức cho tìm kiếm.”

Ngay trước mặt Từ Thiên Hoằng, y bèn phái bốn huynh đệ ra ngoài dò hỏi, dặn chúng đi dọc sông Hoàng Hà, nếu thấy Thập tứ đương gia Dư Ngư Đồng thì đón về Đồng Quan. Từ Thiên Hoằng thấy y làm việc đắc lực, có tình có nghĩa nên không ngừng cảm tạ. Thượng Quan Nghị Sơn giữ chàng lại gia trang, nhưng chàng nhất định không chịu. Đến chiều Thượng Quan Nghị Sơn tới hồi bái, nhưng Trần Gia Lạc tránh mặt không gặp, chỉ để Từ Thiên Hoằng đón tiếp.

Đêm đó Thượng Quan Nghị Sơn bày tiệc tiếp đãi Từ Thiên Hoằng, mời hết các vị võ lâm anh hùng trong vùng tới dự. Rất nhiều nhân sĩ võ lâm vùng này đã nghe danh Chu Trọng Anh. Nghe nói Từ Thiên Hoằng là con rể của Thiết Đảm Chu Trọng Anh vang tiếng vùng Tây Bắc, ai cũng muốn kết giao. Có người âm thầm nghị luận, Võ Gia Cát vang tiếng giang hồ mà vóc dáng lại thấp lùn như thế thật không thể xem tướng mà đoán người được. Mọi người thấy chàng nói năng phóng khoáng hào hùng, đầy tình hữu nghị, ai cũng có lòng kính ngưỡng.

Sáng sớm hôm sau Thượng Quan Nghị Sơn lại đến nhà trọ bái phỏng, nói rằng thuộc hạ của mình vẫn chưa tìm ra tung tích Dư Ngư Đồng, nhưng có được một chút manh mối. Anh em trên bến nói rằng, mấy ngày nay có một đạo quân đang vận chuyển quân lương trên sông Hoàng Hà, nên phong tỏa không cho xuôi ngược. Có thể Dư thập tứ gia đã bị đội thuyền cản trở. Từ Thiên Hoằng yên tâm một chút, vội cảm tạ anh em Long Môn bang.

Xế chiều, Thượng Quan Nghị Sơn lại cấp tốc đến thông báo, có huynh đệ cho biết:

– “Mười ngày trước đây có một tú tài xấu xí phi thường đánh nhau ở Túy Tiên lâu trong thành Mạnh Tân, làm náo loạn cả tửu lầu.”

Nghe xong Từ Thiên Hoằng cả kinh nói:

– “Đúng là Dư thập tứ đệ rồi. Sau đó thì sao?”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Vị huynh đệ đó được phái đi dò la nhưng chưa trở về. Đây chỉ là tin tức chuyển về, tình hình thực tế ra sao chưa rõ.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Thượng Quan đại ca tận tâm như thế, tiểu đệ cảm kích muôn phần. Để tiểu đệ giới thiệu mấy vị bằng hữu.”

Họ Từ bèn qua phòng bên mời Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Lạc Băng, Chương Tấn, Chu Ỷ qua để giới thiệu làm quen. Thượng Quan Nghị Sơn vô cùng mừng rỡ. Hai bên nói vô số những lời khách sáo ngưỡng mộ.

Trần Gia Lạc nói:

– “Thập tứ đệ là người tỉ mỉ tinh tế, chắc chắn không vô cớ gây chuyện ở tửu lâu đâu. Y đánh nhau với người khác, nhất định đã gặp phải kẻ thù. Chúng ta phải mau mau đến Mạnh Tân.”

Văn Thái Lai nói:

– “Đúng thế!”

Mọi người toan đi ngay. Thượng Quan Nghị Sơn bèn nói:

– “Các vị đã đến Đồng Quan này thì tại hạ phải có phần trách nhiệm. Để tại hạ phái thêm người cùng đi với các vị.”

Trần Gia Lạc thấy Thượng Quan Nghị Sơn nặng tình nặng nghĩa, bèn không từ chối. Thượng Quan Nghị Sơn dẫn theo mấy người, cả đoàn gấp rút đi về hướng Mạnh Tân. Văn Thái Lai cưỡi con ngựa trắng chạy vượt đi trước. Đoàn người còn cách Mạnh Tân sáu chục dặm, Văn Thái Lai đã quay lại đón, nói rằng:

– “Ta đã dò hỏi ở Túy Tiên lâu. Bọn tửu bảo nói là có xảy ra chuyện đó. Người đánh nhau với Thập tứ đệ là một hào sĩ địa phương tên là Tôn Đại Thiện Nhân gì đấy, lại còn mấy tên bộ khoái của nha môn.”

Thượng Quan Nghị Sơn kinh ngạc nói:

– “Tôn Đại Thiện Nhân năm nay đã ngoại lục tuần, không biết võ công, xưa nay đối xử với người khác rất lịch thiệp, sao lại đánh nhau được?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Sau đó thì sao?”

Văn Thái Lai nói:

– “Chuyện sau đó thì bọn tửu bảo nói năng ấp úng, dường như không biết rõ ràng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được rồi. Chúng ta mau mau đi tới đó.”

Mọi người bèn thúc ngựa đi nhanh về phía trước. Vừa đến Mạnh Tân, Thượng Quan Nghị Sơn lập tức đi tìm ông chủ Túy Tiên lâu. Chủ quán thấy Long đầu đại ca của Long Môn bang liền thiết tiệc chiêu đãi, hoàn toàn không dám che giấu điều gì. Những chuyện y kể không khác gì Văn Thái Lai nghe được. Y còn chỉ cho thấy những vết đâm chém để lại trên lan can và vách tường, nói rằng do vụ đánh nhau hôm đó gây ra.

* * *

Nhắc lại hôm đó Ngôn Bá Càn định đâm mù cặp mắt của Dư Ngư Đồng. Ngón tay của hắn chưa thọc tới nơi, Kha Hợp Đài đã đưa tay túm lấy lưng hắn kéo ngược ra sau mấy thước. Ngôn Bá Càn vô cùng giận dữ, xoay tả chưởng đánh ra sau, trúng vào cổ tay phải Kha Hợp Đài nghe “chát” một tiếng. Kha Hợp Đài bị đau liền buông tay ra. Hai người đều nhảy lùi một bước, chuẩn bị giao đấu.

Tất Nhất Lôi vội vã chạy vào giữa, đưa đồng nhân ra cản trở mà nói:

– “Chúng ta làm bằng hữu đừng làm tổn thương hòa khí.”

Kha Hợp Đài bảo Ngôn Bá Càn:

– “Ngươi muốn trả thù thì đợi chuyện của chúng ta xong đã. Sau đó ngươi cứ đi tìm y, chúng ta không giúp bên nào. Bây giờ ngươi muốn làm bừa thì không được.”

Tất Nhất Lôi biết Kha Hợp Đài tánh tình cương trực thẳng thắn, đã nói ra điều gì thì không dễ thay đổi. Tuy hắn cũng thấy không ổn, nhưng trước mặt người khác mà huynh đệ tranh luận thì dễ bị chê cười, nên không lên tiếng gì nữa. Ngôn Bá Càn biết không thể dùng võ lực thủ thắng, bèn giận dữ thu song hoàn về, gằn giọng nói:

– “Rồi cũng có ngày ta lấy cặp mắt của hắn cho ngươi xem.”

Kha Hợp Đài nói:

– “Hay lắm! Tạm biệt nhé!”

Quan Đông Tam Ma bèn áp giải Dư Ngư Đồng đi. Ngôn Bá Càn giải khai huyệt đạo cho đệ tử, trong lòng không phục nên cứ đi theo sau.

Đến khoảng giờ tỵ, bọn Tất Nhất Lôi đến Mạnh Tân, lên tửu lâu ăn cơm. Tửu lâu này chính là Túy Tiên lâu. Tất Nhất Lôi kêu rượu và thức ăn, ngồi ăn chung với Dư Ngư Đồng. Uống được mấy chén thì có tiếng bước chân, từ dưới lầu đi lên bảy tám người bộ khoái và một ông lão ăn mặc rất sang trọng. Ông lão gọi không ít rượu và thức ăn để mời đám bộ khoái ăn uống. Bộ khoái và bọn tửu bảo đều gọi lão là “Tôn lão gia,” điệu bộ rất cung kính. Xem ra đây là một phú hào rất có thể diện ở địa phương này.

Lát sau lại có bốn người đi lên. Kha Hợp Đài đột nhiên thay đổi sắc mặt, thì ra thầy trò Ngôn Bá Càn cũng theo đến đây. Dư Ngư Đồng vờ như không thấy, thần thái vẫn rất tự nhiên, tiếp tục uống rượu.

Tất Nhất Lôi bảo Kha Hợp Đài:

– “Lão tứ, chúng ta đến đây là để trả thù cho lão tam, sao ngươi cứ bảo vệ cho kẻ thù hoài? Lão tam và các huynh đệ dưới cửu tuyền chắc chắn sẽ trách ngươi đấy.”

Kha Hợp Đài đáp:

– “Đệ có bảo vệ kẻ thù đâu. Chẳng qua đệ thấy y là hảo hán, không nỡ để người khác hành hạ y bừa bãi. Nếu điều tra ra y là kẻ thù chắc chắn đệ sẽ lấy mạng y ngay.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Từ đây tới Hàng Châu còn xa xôi lắm. Chúng…”

Hắn bĩu môi, liếc qua Ngôn Bá Càn một cái rồi tiếp:

– “… cứ lẳng nhẳng bám theo như âm hồn bất tán. Cho chúng moi cặp mắt của tên này là xong ngay, không thì dọc đường dễ gặp chuyện phiền.”

Kha Hợp Đài vẫn không chịu, ba người bắt đầu tranh luận. Họ Kha thế cô, mà xưa nay vẫn thường nghe lời lão đại Tất Nhất Lôi, nên cãi không lại. Y giận dữ đứng dậy nói:

– “Lão đại, lão nhị! Đệ đi trước một bước, chờ hai huynh ở Hàng Châu. Việc của người này đệ không lo nữa.”

Y bỏ dở bữa ăn, đi thẳng xuống lầu. Cố Kim Tiêu kéo lại nhưng bị y hất ra, suýt nữa té nhào. Kha Hợp Đài từ nhỏ đã quen đấu vật, chỉ vẫy tay bừa một cái mà kình lực cũng rất lợi hại.

Tất Nhất Lôi nói:

– “Lão nhị, mặc kệ nó đi. Tính tình nó bướng như trâu vậy. Ngươi phải xem chừng tên này.”

Cố Kim Tiêu rút trủy thủ ra để lên mặt bàn, khẽ nói với Dư Ngư Đồng:

– “Ngươi định chạy trốn thì ta phải đâm thủng ngươi mấy lỗ trước.”

Dư Ngư Đồng mặc kệ không đáp. Tất Nhất Lôi đứng dậy, tới bàn Ngôn Bá Càn chào hỏi. Thấy Kha Hợp Đài bỏ đi, Dư Ngư Đồng đã biết là tai họa sắp đến. Chàng thấy Ngôn Bá Càn lộ vẻ vui mừng, dĩ nhiên Tất Nhất Lôi vừa mời hắn qua móc mắt mình, lo lắng vô cùng mà không làm gì được. Đúng lúc đó, tửu bảo bưng ra một tô canh cá chép nóng hổi. Cố Kim Tiêu húp một miếng, gọi lớn:

– “Lão đại! Canh cá này ngon lắm, lại đây mà ăn.”

Dư Ngư Đồng cũng lấy thìa ra, múc một muỗng canh. Đột nhiên chàng chụp lấy cái tô, hất cả tô canh nóng hổi lên mặt Cố Kim Tiêu. Họ Cố đang khoan khoái thưởng thức mùi vị canh cá, hoàn toàn bị bất ngờ. Cả một tô canh nóng bỏng bay thẳng vào mặt, mặt mũi bỏng rát, hắn đau đớn kêu toáng lên.

Dư Ngư Đồng không để hắn định thần, hất cả cái bàn lên. Tất cả chén bát, thức ăn trút hết lên người Cố Kim Tiêu. Hắn mở mắt còn chưa được, dĩ nhiên không thể tránh né. Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn vội chạy qua cứu viện.

Dư Ngư Đồng hất đổ thêm một bàn khác để cản đường kẻ địch:

– “Tuy bây giờ ta có thể chạy thoát, nhưng chắc chắn chạy không bao xa sẽ bị bắt lại. Bây giờ chỉ còn cách tìm chỗ tránh né để đợi cứu viện. Trong thành đông đúc thế này, nơi trốn tránh ổn thỏa nhất, an toàn nhất chính là nhà giam của quan phủ.”

Tửu lâu hỗn loạn, khách uống rượu tới tấp chạy xuống lầu. Dư Ngư Đồng tung người đến trước mặt Tôn lão gia, vỗ bàn một cái, tát cho lão một phát vào mặt. Tôn lão gia thấy trước mắt sao mọc đầy trời, ngồi phệt xuống đất. Dư Ngư Đồng túm lấy râu xách bổng lão lên, kẹp chặt vào nách. Bọn bộ khoái kinh hãi vội vàng xông tới bao vây. Dư Ngư Đồng cứ ôm lấy Tôn lão gia không chịu thả, vẫy tay gọi bọn Tất Nhất Lôi:

– “Lão đại, lão nhị! Mau mau tới đây! Ta bắt được con mồi rồi, hai vị đuổi bọn ưng trảo này đi là xong.”

Đám bộ khoái nghe nói bọn thổ phỉ định bắt cóc Tôn Đại Thiện Nhân, lập tức rút đơn đao và xích sắt ra, quát lớn:

– “Bọn nào cả gan như thế?”

Rồi chúng chạy đến chỗ Tất Nhất Lôi. Dĩ nhiên mấy tên bộ khoái này chẳng đáng cho Tất Nhất Lôi quan tâm nhưng Mạnh Tân là một địa phương lớn, nếu xô xát với nha dịch thì quan binh nhất định sẽ đến ngay. Tất Nhất Lôi thầm thóa mạ Dư Ngư Đồng xảo quyệt, đành đá ngã một tên bộ khoái rồi kéo Cố Kim Tiêu phi thân xuống lầu.

Ngụy Bất Túc la lên:

– “Chúng ta là quan binh, đến đây để bắt cường đạo.”

Nhưng trong lúc hỗn loạn, không một ai nghe cho rõ được. Bành Tam Xuân lại đánh ngã một tên bộ khoái, bọn còn lại liền huýt sáo triệu tập đồng bọn. Xa xa lập tức có tiếng trống chiêng vang lên, xem ra viện binh sẽ đến ngay. Ngôn Bá Càn hét lên:

– “Bành sư đệ, mau mau chạy đi!”

Cả bốn thầy trò vội vã chạy xuống lầu. Đám bộ khoái không sao cản trở được, đành trói chặt một mình Dư Ngư Đồng. Bọn Ngôn Bá Càn chạy khỏi Mạnh Tân, tìm chỗ hoang vắng để nghỉ ngơi. Bành Tam Xuân lớn tiếng nguyền rủa Dư Ngư Đồng quỷ kế đa đoan. Ngôn Bá Càn âm trầm nói:

– “Cái nha môn Mạnh Tân nhỏ xíu không che nổi hắn đâu. Đêm nay chúng ta đi cướp ngục, bắt tên ác tặc ra đây hành hạ cho thỏa chí.”

Bành Tam Xuân sợ quan phủ, nghe nói chuyện cướp ngục không khỏi trù trừ, nhưng không dám cãi lệnh sư huynh. Đến canh ba, hai huynh đệ bịt mặt chạy về hướng nha môn Mạnh Tân. Bành Tam Xuân xịu mặt chạy sau, Ngôn Bá Càn cũng biết hắn miễn cưỡng nhưng không nói gì.

Đến gần nha môn đột nhiên có bóng người nhoáng lên, một người chạy ngang qua. Ngôn Bá Càn thấy thân thủ của y rất nhanh, bèn dặn dò sư đệ cẩn thận. Đột nhiên phía sau lại có người khẽ hỏi:

– “Ngôn huynh đó phải không?”

Ngôn Bá Càn quay lại, thấy đó là Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu bèn dừng lại bàn bạc. Tất Nhất Lôi nói:

– “Mọi người hợp sức làm việc này thì tốt hơn.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Chúng ta quyết không để thằng giặc thúi đó bị đao chém chết mau lẹ, phải bắt hắn đau khổ thêm một chút mới được.”

Mặt hắn đã bị tô canh nóng bỏng làm phồng rộp lên vô số bọt nước, nên hận Dư Ngư Đồng đến thấu xương. Sáu người vượt tường nhảy vào trong nhà ngục.

* * *

Trần Gia Lạc và Thượng Quan Nghị Sơn hỏi han tỉ mỉ ông chủ Túy Tiên lâu nhưng không thêm được gì, chỉ biết tú tài đó đã bị bộ khoái xích lại mang đi. Trần Gia Lạc nghe nói Dư Ngư Đồng bị bắt thì yên tâm hơn, dù phạm vào tử tội thì công văn của quan phủ cũng phải qua lại rất lâu mới xử được. Chàng cùng Thượng Quan Nghị Sơn đi bái phỏng Tôn Đại Thiện Nhân.

Tôn Đại Thiện Nhân là phú hào số một ở địa phương này, nhà cửa và tiệm cầm đồ của lão nhiều không đếm xuể. Lão thấy Thượng Quan Nghị Sơn và một công tử tự xưng họ Lục đến bái phỏng, trong lòng hoảng sợ, nghĩ bụng nếu Long Môn bang vòi vĩnh thì mình phải bỏ tiền tránh nạn. Nào ngờ Thượng Quan Nghị Sơn chỉ nói mấy câu khách sáo rồi chuyển qua hỏi việc người tú tài gây chuyện trên tửu lâu hôm ấy.

Tôn Đại Thiện Nhân càng kinh hãi hơn, liền nói:

– “Tại hạ đã lớn tuổi thế này, xưa nay không dám đắc tội với ai. Hễ gặp bằng hữu giang hồ bị thiếu hụt tiền bạc là tại hạ cố gắng giúp đỡ, tuyệt đối không dám nhỏ mọn.”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Vị tú tài kia có quen biết với tiểu đệ. Không biết vì lý do gì mà y xung đột với Tôn lão gia?”

Tôn Đại Thiện Nhân đáp:

– “Tại hạ cũng không biết. Dường như họ muốn bắt cóc tại hạ.”

Lão bèn kể lại tình hình lúc đó một lượt.

Trần Gia Lạc thầm nghĩ:

– “Tại sao Thập tứ đệ lại hẹn người bắt cóc lão này? Bên trong chắc chắn có ẩn tình. Mấy tên bộ khoái Mạnh Tân thì làm sao bắt được Thập tứ đệ đi? Chẳng lẽ ở đây lại có cao thủ hay sao?”

Chàng bèn nói với Thượng Quan Nghị Sơn:

– “Thế thì nhờ Tôn lão gia dẫn chúng ta vào ngục xem thử.”

Tôn Đại Thiện Nhân nói:

– “Ngay đêm hôm đó, tú tài đã bị cướp ra khỏi ngục rồi. Chẳng lẽ các vị chưa biết?”

Trần Gia Lạc kinh ngạc, liếc mắt ra dấu với Thượng Quan Nghị Sơn rồi cáo từ ra về. Chàng thấy rất nhiều quan sai, bộ khoái cải trang đang bảo vệ trước sau nhà của Tôn Đại Thiện Nhân.

Thượng Quan Nghị Sơn và Trần Gia Lạc tới gặp đầu mục Long Môn bang tại Mạnh Tân, rồi sai người tới nha môn dò hỏi. Quả nhiên, tú tài đã bị cướp ra khỏi ngục ngay đêm hôm đó, mấy tên cai ngục bị đả thương. Cặp lông mày của Trần Gia Lạc chau lại, cùng Từ Thiên Hoằng suy nghĩ hơn nửa ngày mà vẫn tìm không ra đầu mối nào cả.

Sau giờ cơm tối, mọi người đi quanh nhà lao xem xét. Lạc Băng đột nhiên chỉ vào dưới chân tường nói:

– “Xem đây.”

Mọi người đều mừng rỡ, chỉ có Thượng Quan Nghị Sơn không hiểu. Từ Thiên Hoằng giải thích:

– “Đây là ký hiệu của Thập tứ đệ để lại. Y nói là bị kẻ thù truy đuổi, chạy về phía tây.”

Chương Tấn nói:

– “Kẻ thù nào? Lại là tên thiếu niên đang quấy rầy y hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Võ công người đó không bằng Thập tứ đệ, cục diện không thể khẩn trương đến thế. Chắc chắn là chuyện khác.”

Văn Thái Lai nói:

– “Chúng ta mau mau đi về hướng tây.”

Mọi người chạy đến ngoại thành, thấy dưới một gốc cây lớn có ký hiệu vẽ loạn xạ, rõ ràng hoàn cảnh của Thập tứ đệ vô cùng nguy hiểm. Quần hùng càng nhanh chân hơn, đến một con đường lên núi lại nhìn thấy một ký hiệu khác.

Văn Thái Lai và Chương Tấn lập tức chạy lên núi. Ký hiệu vẽ dọc đường càng lúc càng khó nhìn, có lúc chỉ là thuận tay vẽ bừa một móc, một gạch. Qua mấy khúc quanh, Chương Tấn đột nhiên “hừ” một tiếng, tung người lên một cành cây nhỏ, rút một mũi tên tre ra.

Văn Thái Lai và Từ Thiên Hoằng đồng thời la lên. Hai người này rất nhiều kinh nghiệm giang hồ, kiến thức rộng rãi, đã nhận ra đây là ám khí độc môn của Ngôn gia quyền ở Thần Châu tỉnh Hồ Nam. Văn Thái Lai giận dữ nói:

– “Thì ra người truy bắt Thập tứ đệ là tên gian tặc Ngôn Bá Càn.”

Lúc này Lạc Băng lại tìm thấy mấy mũi tên tre trong một lùm cây. Chu Ỷ đột nhiên hô một tiếng nhảy tới trước. Mọi người cùng thấy vết máu vương vãi dưới đất, theo đó mà vạch một lùm cây ra, quả nhiên nhìn thấy một sơn động tối om. Sơn động này rất cạn, chỉ núp được một hai người. Ngoài động có cả một đống tên tre, cương tiêu, phi trùy, kim thoa. Rõ ràng Dư Ngư Đồng đã bị bao vây ở đây, có đánh nhau kịch liệt. Mọi người đều rất lo lắng, không biết tính mạng chàng đã ra sao.

Từ Thiên Hoằng và Văn Thái Lai nhặt ám khí lên nhìn tỉ mỉ. Cương tiêu và phi trùy là ám khí thường dùng trong võ lâm, không thể nhận ra thân phận người sử dụng. Người phóng kim thoa thì ít hơn nhưng cũng không biết là nhân vật nào. Xem ám khí thì biết tối thiểu cũng có bốn năm người tấn công Dư Ngư Đồng.

* * *

Hôm đó cả bọn sáu người Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn vượt tường vào ngục, muốn tìm ngục tốt để hỏi chỗ nhốt Dư Ngư Đồng. Tống Thiên Bảo đột nhiên vướng chân suýt té, cúi xuống nhìn thì thấy một người nằm dưới đất. Hắn liền xách người đó dậy, lấy lửa thắp lên. Thì ra đó là một tên ngục tốt, trong miệng bị nhét cái gì đó, cặp mắt cứ đảo lung tung mà không nói được lời nào. Ngôn Bá Càn bóp vào cổ hắn rồi moi vật đang nhét trong miệng ra, thì ra là hai cái khăn tay thêu hoa.

Ngôn Bá Càn khẽ hỏi:

– “Tú tài bị bắt hôm nay đang nhốt ở đâu? Nói nhanh lên! Ngươi mà la lên thì ta đâm chết ngay.”

Ngục tốt hoảng sợ run rẩy không ngớt, lắp bắp:

– “Ở nhà lao… ở nhà lao… số ba.”

Ngôn Bá Càn không thèm nhét miệng hắn lại, vận thêm kình lực vào tay bóp cho ngộp thở mà chết. Tất Nhất Lôi nói:

– “Mau mau tới đi. E rằng có người đến đây cướp ngục trước rồi.”

Cả bọn đi đến nhà lao, quả nhiên nghe thấy tiếng dũa xích. Cố Kim Tiêu đánh lửa nhìn thấy một người áo đen đang cúi xuống bên Dư Ngư Đồng, hiển nhiên là bạn bè của chàng đến cứu. Dư Ngư Đồng nhìn thấy ánh lửa, vội kêu lên:

– “Có người đến”

Người áo đen kia mặc kệ, càng dũa gấp rút hơn. Tất Nhất Lôi hỏi nhỏ:

– “Ai thế?”

Người áo đen đột nhiên nhảy chồm lên, quay người lại chĩa kiếm ra. Chiêu kiếm này vừa nhanh vừa chính xác, hàn quang vừa nhấp nháy là mũi kiếm đã đến trước mặt. Tất Nhất Lôi tuy thân thể mập mạp nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhạy, tay phải liền đưa đồng nhân lên đỡ kiếm.

Người áo đen bị chấn động, cổ tay đau đớn, biết đối phương sức mạnh vô cùng nên không dám ứng chiến, xoay kiếm lại đâm tới Đàm Thừa Thiên. Họ Đàm vội vã né qua, người áo đen bèn nhảy ra khỏi lao.

Cố Kim Tiêu la lên:

– “Đừng đuổi nữa, cướp người quan trọng hơn.”

Trong lúc giao đấu, bọn cai ngục đã tỉnh dậy, biết có người cướp ngục, lập tức đại loạn. Tất Nhất Lôi chặn cửa nhà lao, hét lên:

– “Anh em nhanh chóng dũa đi, ta cản ở đây.”

Ngôn Bá Càn và Cố Kim Tiêu đều lấy dũa ra, chỉ vận sức chốc lát đã dũa đựt sợi dây xích đang khóa tay chân Dư Ngư Đồng.

Ngôn Bá Càn nắm lấy mạch môn của Dư Ngư Đồng, cùng Bành Tam Xuân khiêng chàng rời khỏi nhà lao. Bọn binh sĩ, nha dịch chạy đến cản trở đều bị Tất Nhất Lôi múa đồng nhân đánh cho bị thương. Mọi người thấy hắn hung dữ không dám đến gần, chỉ đứng xa xa hò hét.

Cố Kim Tiêu đi trước mở đường. Tống Thiên Bảo, Đàm Thừa Thiên đi sau đoạn hậu, ôm lấy Dư Ngư Đồng vượt tường nhảy ra. Lúc này phía ngoài nhà lao đã có một đại đội quân sĩ canh giữ, đao thương đưa lên tua tủa bao vây cả nhóm. Cố Kim Tiêu, Ngôn Bá Càn, Bành Tam Xuân chia nhau giao chiến, lập tức đả thương mấy người. Quan binh cậy đông người, hò hét tiến lên.

Đang hỗn chiến, đột nhiên trên đầu tường có một bóng đen bay tới kế bên Dư Ngư Đồng. Đàm Thiên Thừa tiến ra ngăn cản. Người kia vung tay một cái, Đàm Thiên Thừa lập tức cảm thấy trước ngực đau nhói, hình như đã trúng ám khí gì đó. Hắn không kêu la gì được, khom người quỵ xuống, Tống Thiên Bảo ngẩn ra một chút, người kia đã kéo Dư Ngư Đồng đi.

Tống Thiên Bảo la lên:

– “Sư phụ! Hắn… hắn chạy rồi!”

Dư Ngư Đồng không vội chạy mà cúi xuống đất, gấp rút vẽ ký hiệu gì đó. Ngôn Bá Càn phóng tới, nhưng bên cạnh có một kiếm đâm tới, hắn phải đưa cương hoàn toan khóa lấy thanh kiếm đó. Kiếm pháp của người kia cực nhanh, lập tức biến chiêu.

Chưa tới hai chiêu, Dư Ngư Đồng đã lôi được một tên võ quan xuống đất rồi phi thân lên ngựa, quát lớn một tiếng xông tới trước mặt Ngôn Bá Càn. Hắn vừa né sang một bên, Dư Ngư Đồng đã kéo tay của người sử kiếm nhấc bổng y lên. Hai người cưỡi chung một ngựa chạy về hướng tây.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã vội vã chạy ra ngoài. Thấy Dư Ngư Đồng trốn thoát, hắn vừa chửi mắng thầy trò Ngôn Bá Càn vô dụng vừa la lớn:

– “Đuổi theo.”

Bành Tam Xuân và Tống Thiên Bảo cùng xốc nách Đàm Thiên Thừa chạy theo con ngựa của Dư Ngư Đồng. Bọn này đi rất nhanh, được vài dặm đã bỏ xa quan binh lại sau lưng. Đám quan quân sai dịch thấy không sao đuổi kịp nữa, bèn kéo nhau trở về.

Đuổi nhau một hồi, công phu đã phân cao thấp. Tất Nhất Lôi chạy đầu, Cố Kim Tiêu cách hắn không xa lắm, còn Ngôn Bá Càn lùi lại phía sau, Bành Tam Xuân càng bị bỏ xa hơn nữa. Thì ra Tất Nhất Lôi tuy sống sung sướng ở Liêu Đông mà công phu vẫn không giảm, khinh công rất khá.

Đường núi ngựa đi không tiện, một ngựa chở hai người mà cũng không phải là ngựa tốt, nên Tất Nhất Lôi càng đuổi càng gần. Trong bóng tối, con ngựa bỗng bước vào một cái hố dọc đường. Chân trái nó khuỵu xuống, hất Dư Ngư Đồng ra trước.

Dư Ngư Đồng lộn một vòng, nhẹ nhàng đáp xuống. Người kia vội vã kéo dây cương, con ngựa hí lên một tiếng nhưng không đứng dậy được, xương chân của nó đã bị gãy rồi. Người kia thấy Tất Nhất Lôi đến gần bèn phi thân xuống ngựa, dắt Dư Ngư Đồng chạy đi. Được mấy bước thì thấy một hang động, hai người bèn chui vào đó. Dư Ngư Đồng cất tiếng than:

– “Lý sư muội! Muội lại cứu ta nữa rồi.”

Người mặc áo đen đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Nàng bám theo đoàn người Hồng Hoa Hội nhưng không thấy Dư Ngư Đồng, suy nghĩ một lúc đoán được chàng đi đường thủy, nên men theo bờ sông Hoàng Hà mà hỏi thăm đến đây. Tới Mạnh Tân, nghe thấy trà quán tửu lâu nào cũng bàn tán chuyện một tú tài xấu xí bắt cóc Tôn Đại Thiện Nhân, nên giữa đêm tới đây cướp ngục. Tên ngục tốt bị bịt miệng là kiệt tác của nàng.

Lý Nguyên Chỉ cứu được Dư Ngư Đồng ra, trong lòng mừng rỡ, bèn bảo Dư Ngư Đồng nằm xuống nghỉ ngơi, còn mình canh gác nơi cửa động. Dư Ngư Đồng ngồi xuống, nhìn tấm lưng thon mà cảm khái vô cùng. Một cơn gió lạnh thổi qua, chàng thấy mỹ nhân run rẩy bèn cởi trường bào ra khoác lên người nàng. Từ khi quen biết vị đại ca này, đây là lần đầu tiên Lý Nguyên Chỉ được chàng trìu mến. Nàng không nén nổi, quay lại mỉm cười với chàng một cái, từ đầu đến chân đều cảm thấy ấm áp lạ thường.

Nàng toan mở miệng thì đột nhiên có tiếng gió rít lên. Dư Ngư Đồng thấy nàng không phát giác bèn đưa tay đón bắt ám khí. Chàng chụp được mũi tên tre, vội kêu lên:

– “Cẩn thận ám khí.”

Lời còn chưa dứt, bên ngoài lại bay vào một viên phi hoàng thạch. Dư Ngư Đồng nghiêng người né tránh rồi nghe phía ngoài có người lớn tiếng:

– “Gian tặc! Mau ra đây để lão gia khỏi phải động thủ.”

Mấy bóng đen đang tiến tới cửa động. Dư Ngư Đồng cầm đuốc tên phóng trở ra. Một người la lên đau đớn rồi nhảy lùi, thì ra Bành Tam Xuân vừa trúng phải tên.

Bọn Tất Nhất Lôi biết địch tối ta sáng nên không dám tới gần, chỉ dùng đủ loại ám khí tới tấp phóng vào động. Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ ép sang một bên, nhặt lấy phí tiêu rơi vãi dưới đất, để địch đến gần thì phóng trả.

Lý Nguyên Chỉ tựa sát người vào Dư Ngư Đồng. Tuy tình thế nguy cấp nhưng nàng lại cảm thấy đây là một cảnh giới rất đẹp mà mình chưa bao giờ gặp. Trong động thì lạnh lẽo âm u, tăm tối dơ bẩn, ngoài động thì cường địch bao vây tấn công, nhưng nàng lại cảm thấy ấm áp yên bình hơn cả buồng khuê trong đề đốc phủ.

Dư Ngư Đồng khẽ nói:

– “Làm sao chúng ta ra ngoài đây?”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp:

– “Cần gì phải ra ngoài? Dù sao thì chúng cũng không tấn công vào đây được.”

Dư Ngư Đồng lo lắng hỏi:

– “Khi trời sáng thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ nghe giọng chàng có vẻ lo lắng, bèn đáp:

– “Được, để muội nghĩ cách… Hừ, ám khí lại đến rồi.”

Dư Ngư Đồng vội lùi ra sau, một cây tiểu cương xoa ghim ngay dưới đất, kế bên chân chàng. Cố Kim Tiêu phóng thêm hai cây tiểu cương xoa nữa rồi múa điệp hồ xoa bảo vệ trước mặt, xông đến cửa động.

Lý Nguyên Chỉ đưa tay lên, phóng ba mũi phù dung kim châm. Loại ám khí này nhỏ xíu, trong bóng tối rất khó tránh né. Thủ pháp phát châm của nàng cũng chưa đến mức cao siêu, nên Cố Kim Tiêu phát hiện kịp thời, rụt đầu lại một cái, chỉ bị một mũi ghim vào tóc, làm trầy da đầu một chút. Đầu hắn nhói lên một cái, nghĩ rằng loại ám khí nhỏ bé này chắc phải có độc, bèn kinh hãi nhảy ra, rút kim xuống soi thử. Hắn thấy máu dính trên kim châm không phải màu đen, biết không có độc nên mới yên tâm trở lại.

Tất Nhất Lôi đón lấy kim châm, ngó qua rồi kêu lên:

– “Trên đầu của lão tam cũng chính là loại kim châm này. Thì ra hung thủ giết lão tam chính là tên tú tài gian tặc đó.”

Năm xưa Tiêu Văn Kỳ bị Lục Phi Thanh dùng kim châm đâm mù hai mắt, mấy năm sau người ta mới phát hiện thi thể hắn trong sơn cốc. Lúc đó da thịt đã tan rữa hết rồi, chỉ nhận ra nhờ binh khí và y phục. Da thịt trên mặt hắn tiêu hết, lộ ra mấy mũi kim châm dính trên xương đầu. Hôm đó Lục Phi Thanh phóng một nắm kim châm vào mặt Tiêu Văn Kỳ, đã lấy lại phần lớn nhưng những mũi đâm lút vào xương thì không sao nhổ ra được. Hàn Văn Xung viết thư đã tường thuật lại hình dạng kim châm. Nào ngờ người giết Tiêu Văn Kỳ ngày trước không phải là Dư Ngư Đồng, mà người phóng kim châm đả thương Cố Kim Tiêu ngày nay cũng không phải là Kim Địch Tú Tài nốt.

Họ Tất và họ Cố giận dữ vô cùng, nhưng lại sợ kim châm lợi hại nên không dám đến gần cửa động. Lý Nguyên Chỉ đưa mắt nhìn ra ngoài động, vừa đề phòng kẻ địch vừa nói với Dư Ngư Đồng:

– “Huynh… huynh tránh né muội hay sao? Chẳng lẽ huynh ghét muội ư?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Lý sư muội! Muội nói vậy để làm chi? Chúng ta thoát khỏi đây rồi hãy nói.”

Lý Nguyên Chỉ im lặng hồi lâu, lại hỏi:

– “Tại sao lúc đó huynh tránh né muội?”

Dư Ngư Đồng nghe trong giọng nói có phần khổ sở nên cũng hơi động lòng, cảm thấy áy náy khó chịu. Đột nhiên nghe “vèo” một tiếng, một ngọn đuốc văng vào trước cửa động. Dư Ngư Đồng ngơ ngác, trong ánh đuốc nhìn thấy vẻ mặt của Lý Nguyên Chỉ đang oán trách mình, nước mắt giàn giụa. Khuôn mặt trái xoan hồng hào dưới ánh đuốc lại càng kiều diễm.

Lý Nguyên Chỉ la lên:

– “Chúng muốn xông khói vào đây.”

Nàng định dập tắt ngọn đuốc nhưng ám khí phóng tới rào rào, đành phải lui lại. Không ngờ nàng đoán đúng. Bọn Ngôn Bá Càn và Tống Thiên Bảo đã đem không ít cỏ tới trước cửa động, quăng vào ngọn đuốc đó. Khói nồng nặc lập tức bay lên, theo chiều gió ùa vào trong động, khiến hai người không ngừng ho hắng. Không bao lâu thì lửa tắt, nhưng khói lại càng dày đặc hơn.

Lý Nguyên Chỉ biết không thể trốn trong sơn động này được nữa, bèn bảo:

– “Huynh giữ cửa động một lát.”

Nàng đưa cho Dư Ngư Đồng thanh kiếm, rồi lùi ra sau lưng chàng

Dư Ngư Đồng nghe sau lưng mình có tiếng quần áo sột soạt, nhưng không rõ nàng đang làm gì. Chàng vừa quay đầu lại nhìn một cái, Lý Nguyên Chỉ đã la lên:

– “Huynh quay ra ngay, không được nhìn.”

Trong màn khói bay mù mịt, Dư Ngư Đồng đã kịp thấy nàng đang cởi áo ngoài, không khỏi ngạc nhiên. Bây giờ đôi mắt chàng đã bị khói xông mờ hẳn, chảy nước mắt không ngừng nhưng vẫn cố giương lên.

Lý Nguyên Chỉ bước ra lấy lại trường kiếm, ném một chiếc áo lên người chàng rồi bảo:

– “Mặc vào nhanh lên!”

Dư Ngư Đồng muốn hỏi, nhưng Lý Nguyên Chỉ hối thúc:

– “Mặc nhanh lên đi, mặc nhanh lên đi!”

Thấy Dư Ngư Đồng đã mặc xong, nàng liền giao thanh kiếm cho chàng. Khói đã bớt hẳn, rồi lại có một ngọn đuốc quăng tới. Lần này ngọn đuốc cháy mạnh, soi sáng cả một vùng sơn động. Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta chia nhau rời khỏi đây. Huynh nhất định không được đi theo muội.”

Không đợi Dư Ngư Đồng trả lời, nàng đã ra tay xông thẳng ra ngoài. Dư Ngư Đồng kinh hãi, đưa tay muốn kéo lại nhưng không kịp.

Hồi 13: Bôn Lôi Thủ ra tay sấm sét – Tuyết liên hoa sa mạc tỏa hương

Đoàn người Trần Gia Lạc xem xét quanh sơn động, thấy dầu lửa cháy, nhưng tính mạng của Dư Ngư Đồng ra sao và chàng đi về hướng nào thì hoàn toàn không có manh mối nào cả. Văn Thái Lai ruột nóng như lửa đốt, bẻ gãy vụn mấy mũi tên đang nắm trong tay.

Lạc Băng nói:

– “Thập tứ đệ cảnh giác vô cùng, nếu đánh không lại thì nhất định tìm cách chạy trốn. Chúng ta nhờ Thượng Quan đại ca phái anh em tìm kiếm xung quanh, chắc sẽ có manh mối.”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Văn tứ phu nhân nói đúng lắm. Chúng ta lập tức trở về đi.”

Mọi người lập tức trở về Mạnh Tân. Thượng Quan Nghị Sơn phái hầu hết huynh đệ đắc lực của Lương Môn bang ra ngoài, dặn nếu phát hiện ai lạ mặt khả nghi lập tức trở về báo cáo.

Đến canh một, mọi người đều khuyên Văn Thái Lai nghỉ ngơi. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tứ ca! Huynh không ăn không ngủ, nếu cần đi cứu Thập tứ đệ thì làm sao có đủ tinh thần đối phó với kẻ địch?”

Văn Thái Lai chau mày nói:

– “Làm sao ta ngủ được.”

Lát sau, Thượng Quan Nghị Sơn vào phòng lắc đầu nói:

– “Không có tin tức gì.”

Từ Thiên Hoằng hỏi:

– “Mấy hôm nay trong thành này có chuyện gì đặc biệt không?”

Thượng Quan Nghị Sơn suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Chỉ nghe nói Bảo Tướng tự ở tây thành có người tới quấy rối ồn ào, còn dọa phóng hỏa thiêu đốt chùa chiền. Ta nghĩ chuyện này không liên quan gì đến Thập tứ gia đâu.”

Mọi người đều nghĩ hòa thượng gây gổ với lưu manh là chuyện tầm thường, đúng là không liên quan đến Dư Ngư Đồng. Họ lại bàn chuyện hôm sau chia nhau tìm kiếm.

Văn Thái Lai nằm trằn trọc trên giường, nghĩ đến Dư Ngư Đồng mấy phen nghĩa khí xả thân cứu mạng mình, máu nóng nổi lên không sao ngủ được. Thấy Lạc Băng nằm bên đã ngủ rất say, chàng bèn lẻn ngồi dậy, mở cửa sổ nhảy ra ngoài phòng, nghĩ bụng:

– “Nằm trong phòng mà ngủ không được, chỉ tổ nóng ruột. Ta thử xem xét một vòng còn tốt hơn.”

Chàng thi triển khinh công chạy ngoài đường phố, chưa đến nửa giờ đã dạo hết một vòng đông tây nam bắc thị trấn Mạnh Tân, thần trí đã có phần thư thái. Đột nhiên chàng thấy bóng đen nháy động, một người chạy về hướng tây. Văn Thái Lai trấn tĩnh tinh thần, lập tức đề khí đuổi theo.

Người kia chạy một lúc, rồi khẽ vỗ tay một cái. Xa xa có mấy người vỗ tay trả lời. Văn Thái Lai thấy đối phương đông người, cứ âm thầm theo dõi phía sau. Người kia vẫn chạy về hướng tây, chỉ một lát là ra ngoại thành, địa thế bốn bề trống trải. Văn Thái Lai sợ bị phát giác nên giữ khoảng cách xa hơn.

Đi được bảy tám dặm, người kia chạy lên một ngọn đồi. Văn Thái Lai cũng theo lên. Chàng thấy trên đỉnh đồi có một tòa nhà, đoán rằng người kia nhất định đi đến đó, nên không đuổi theo nữa mà rút mình vào nấp trong lùm cây. Khi ngẩng đầu lên nhìn, chàng không nén nổi thất vọng. Thì ra căn nhà đó là một ngôi miếu cổ. Dưới mái ngói có một tấm biển ghi ba chữ rất lớn, trời sáng mờ mờ vẫn có thể đọc được:

– “Bảo Tướng tự.”

Văn Thái Lai kêu thầm:

– “Xúi quẩy thật! Theo dõi mất nửa ngày trời, thì ra bọn lưu manh làm khó dễ đám hòa thượng trong chùa này.”

Chàng lại nghĩ:

– “Mình đã đến đây rồi thì cứ vào xem thử ai phải ai trái. Nếu có bên nào cậy sức ăn hiếp kẻ yếu, ta sẽ ra tay xử lý một phen để trút bớt bực dọc mấy hôm nay.”

Chàng bèn đi đến ngôi chùa, vượt tường nhảy vào bên trong. Từ cửa sổ phía đông nhìn vào đại điện, thấy một hòa thượng đang quì trên bồ đoàn lạy phật. Lát sau, hòa thượng đó từ từ đứng dậy, quay đầu lại. Văn Thái Lai vừa nhìn thấy mặt, bất giác vừa kinh hãi vừa mừng rỡ.

* * *

Nhắc lại hôm đó bọn Tất Nhất Lôi thấy một người che mặt khoác trường bào từ trong ánh lửa bước ra, liền chạy đến ngăn cản. Người ấy hét lên:

– “Kim Địch Tú Tài đây, các ngươi dám đuổi theo không?”

Cả ba người họ Tất, họ Cố, họ Ngôn đều muốn bắt được chàng mới cam lòng, nên bỏ mặc người áo đen còn trong động mà gấp rút đuổi theo. Bộ pháp của Tất Nhất Lôi nhanh nhất, chớp nhoáng đã phóng đến sau lưng người bịt mặt, vung độc cước đồng nhân xuất chiêu Độc Long Xuất Động đánh tới. Người kia nhảy tới một bước, quay đầu lại, đưa tay lên. Tất Nhất Lôi vội vã lùi ra, sợ kim châm lợi hại.

Thật ra đó là Lý Nguyên Chỉ. Nàng mặc trường bào của Dư Ngư Đồng, cố ý dụ địch rời khỏi để họ Dư thoát hiểm. Trong tay nàng nắm sẵn kim châm, đợi địch thủ đến gần liền phát châm cản trở. Họ Tất và họ Cố đã biết Tiêu Văn Kỳ võ công không tệ mà cũng bỏ mạng dưới loại kim châm này, nên trong đêm không dám áp tới gần, chỉ xa xa mà đuổi.

Đuổi nhau về thị trấn Mạnh Tân thì trời đã hơi sáng. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy một khách điếm đang mở cửa, liền chạy vào trong. Tiểu nhị giật mình hoảng sợ, vừa mở miệng muốn hỏi thì Lý Nguyên Chỉ nhét ngay một thỏi bạc vào tay, bảo:

– “Tìm cho ta một căn phòng.”

Tiểu nhị thấy thỏi bạc trong tay mình phải tới ba bốn lạng nên không hỏi nhiều nữa, dẫn nàng vào một căn phòng trống ở phía đông. Lý Nguyên Chỉ lại nói:

– “Ngoài kia có mấy tên chủ nợ đang đuổi theo ta đòi nợ, ngươi đừng nói ta ở đây. Ta chỉ trú một đêm, chỗ tiền thừa tặng hết cho ngươi.”

Tiểu nhị cả mừng đáp:

– “Đại gia cứ yên tâm, tiểu nhân là chuyên gia về môn đuổi chủ nợ đi.”

Hắn dẫn nàng vào phòng rồi lại chạy ra cửa.

Bọn Tất Nhất Lôi xông vào khách điếm mà hỏi:

– “Người tú tài vừa vào đây đi đâu rồi? Bọn ta tìm hắn có việc.”

Tiểu nhị hỏi:

– “Tú tài nào?”

Ngôn Bá Càn nói:

– “Người mới vào trong này đó.”

Tiểu nhị cười đáp:

– “Mới sáng sớm làm gì có ai vào đây? Hay là lão gia hoa mắt rồi? Vương gia tể tướng thì ở đây có mấy người, còn tú tài thì không có.”

Cố Kim Tiêu giận dữ đưa tay muốn đánh. Tất Nhất Lôi kéo hắn lại, khẽ bảo:

– “Đêm qua chúng ta vừa cướp ngục, bây giờ nhất định đang bị truy lùng, đừng gây chuyện nữa.”

Ngôn Bá Càn gằn giọng quát tên tiểu nhị:

– “Được. Chúng ta đi lục từng căn phòng một, nếu tìm ra thì ngươi sẽ biết tay.”

Tiểu nhị nói:

– “Úi chà! Lão gia hung hăng thế này, chẳng lẽ là vương thân quốc thích hay sao?”

Lúc này chưởng quỹ cũng tới hỏi han. Tất Nhất Lôi mặc kệ hắn, gạt tên tiểu nhị qua một bên rồi chạy lên dãy phòng phía bắc. “Binh” một tiếng, hắn đá một cánh cửa tung ra. Trong phòng có một gã mập giật mình kinh hãi, trần truồng từ trong chăn nhảy ra. Gã mập kia buông ra một tràng những câu thô lỗ tục tĩu, cả mười tám đời tổ tông của Tất Nhất Lôi đều bị thóa mạ thậm tệ.

Khách điếm đang đại loạn, đột nhiên một cửa phòng ở phía đông xịch mở, một nữ nhân đẹp đẽ bước ra ngoài. Ngôn Bá Càn quay lại nhìn một cái, thấy cô gái này xinh đẹp phi thường nhưng không phải người mình muốn tìm, lại tiếp tục tìm từng phòng một.

Lý Nguyên Chỉ đã đổi lại y phục nữ nhân, mỉm cười ung dung ra khỏi khách điếm. Nàng vừa ra ngoài đường đã thấy một đoàn bộ khoái, quan nha ào ào chạy tới. Thì ra chưởng quỹ của khách điếm đã đi báo cho công sai đến đây bắt người.

* * *

Dư Ngư Đồng thấy kình địch đã bị dụ đi, bèn cầm kiếm đi ra khỏi động. Ba tên Bành Tam Xuân, Tống Thiên Bảo, Đàm Thiên Thừa xông tới hợp công, nhưng Dư Ngư Đồng thi triển Nhu Vân kiếm thuật. Chỉ ba bốn chiêu đã đâm trúng cánh tay trái của Đàm Thiên Thừa vốn đã bị thương, rồi nhân chỗ trống chạy ào ra ngoài.

Tam tiết côn của Bành Tam Xuân quét sát dưới đất. Dư Ngư Đồng tung người lên cho côn lướt qua dưới chân. Đột nhiên chàng “úi chà” một tiếng, ngã nhào ra trước. Bành Tam Xuân và Tống Thiên Bảo cả mừng phóng tới, tin rằng đã bắt được địch thủ. Không ngờ họ Dư đột nhiên quay người lại, tay trái vung lên, ném một nắm tro vào mặt chúng.

Hai tên Tống, Bành lập tức dính đầy mặt cát bụi và tro than, chính là tro do chúng vừa đốt cỏ. Bành Tam Xuân lăn dưới đất mấy vòng. Tống Thiên Bảo đứng yên đó, quơ hai tay loạn xạ lên mặt. Dư Ngư Đồng phóng kiếm đâm vào chân trái của hắn một nhát, rồi quay người chạy đi ngay.

Bành Tam Xuân chùi hết đất trong mắt, chỉ còn thấy hai tên sư điệt đau đớn nhào lăn dưới đất, đứa gọi ông bà đứa kêu cha mẹ, còn địch thủ thì không biết đã biến đâu rồi. Họ Bành vừa tức giận vừa hổ thẹn, băng bó lại vết thương cho chúng, bảo chúng tạm thời nghỉ ngơi trong sơn động, còn mình thì đi truy tìm tiếp.

Bành Tam Xuân theo đường núi đi được bảy tám dặm thì gặp Ngôn Bá Càn, Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài (đã cùng đi), lại còn một người không quen biết. Người này khoảng bốn mươi tuổi, sau lưng cài một cây Thiết tỳ bà, bước chân rất nhanh nhẹn, xem ra võ công không thấp.

Ngôn Bá Càn thấy sư đệ nhìn ngang liếc dọc thần sắc bối rối, liền tới hỏi chuyện. Bành Tam Xuân hổ thẹn kể lại. May mà bọn Tất Nhất Lôi cũng không được tích sự gì, nên hai bên hòa nhau, quả là nửa cân tám lạng.

Trở về sơn động, Ngôn Bá Càn giới thiệu với Bành Tam Xuân người đeo thiết tỳ bà chính là Hàn Văn Xung. Ở Hàn Châu hắn bị Hồng Hoa Hội trêu ghẹo đến mức khóc cười đều không được, mất hết ý chí. Vương Như Dương gọi hắn trở về Trấn Viễn tiêu cục làm việc, nhưng nói sao thì nói hắn cũng không chịu, lại khuyên tổng tiêu đầu về hưu cho sớm.

Vương Như Dương tỉ đấu với Trương Triệu Trọng trên Sư Tử phong, đúng là từ cõi chết trở về. Từ giờ trở đi, lão giúp cho Hồng Hoa Hội thì không dám, mà chống đối Hồng Hoa Hội cũng không được, tiến thoái lưỡng nan. Nghe Hàn Văn Xung khuyên bảo, lão bèn khen “Đúng thế, đúng thế!” rồi đi về phương bắc, thu dọn đóng cửa tiêu cục.

Hàn Văn Xung trở về Lạc Dương, tưởng là rút khỏi giang hồ, phong đao quy ẩn, nào ngờ dọc đường lại gặp Kha Hợp Đài đang trên đường đến Hàng Châu tìm hắn. Hắn không muốn gặp bằng hữu võ lâm nữa, bèn cúi đầu giả lơ không thấy. Nhưng cây thiết tỳ bà trên lưng hắn lại đập vào mắt người ta nên không thể tránh né được, bị Kha Hợp Đài nhận ra.

Hai người tìm chỗ trò chuyện. Hàn Văn Xung kể tỉ mỉ về Tiêu Văn Kỳ và Diêm thị song ma. Kha Hợp Đài mới biết Kim Địch Tú Tài và Hồng Hoa Hội không phải là kẻ thù. Kha Hợp Đài có thiện cảm với Dư Ngư Đồng, bèn rủ Hàn Văn Xung đi cứu chàng. Họ Hàn không muốn quay lại vòng luẩn quẩn thị phi của giang hồ nữa, nhưng Kha Hợp Đài nói là hắn phải đi giải thích thì hai người họ Tất và Cố mới thôi làm khó dễ Dư Ngư Đồng. Lỡ họ Dư mất mạng thì Hồng Hoa Hội sẽ truy cứu trả thì, khi ấy Hàn Văn Xung cũng khó lòng tránh khỏi trách nhiệm.

Hàn Văn Xung thấy chuyện đó có lý, nên hai người cùng đến Mạnh Tân, rồi gặp bọn Tất Nhất Lôi đang chạy trốn sau khi đánh đuổi quan sai ra khỏi nhà trọ. Năm người hợp lại, quay về tìm người áo đen còn trong sơn động.

* * *

Sau khi Dư Ngư Đồng thoát hiểm, chàng cứ nghĩ ba địch thủ võ công khá nhất đều đuổi theo Lý Nguyên Chỉ, nàng là phận nữ nhi thì làm sao chống đỡ nổi, vô cùng lo lắng. Dọc đường chàng không ngừng tìm kiếm, nhưng không thấy bóng dáng Lý Nguyên Chỉ ở đâu. Đến ngoài thành Mạnh Tân, chàng cũng biết rất nhiều người trong nha môn có thể nhận ra mình, bèn đợi đến nửa đêm mới tìm một khách điếm nhỏ tá túc.

Đêm đó chàng không ngủ được, trong lòng mãi tự trách mình vô tình. Lý Nguyên Chỉ đã hai lần cứu mình, thế mà cả trước mắt lẫn trong lòng mình hoàn toàn chỉ có hình bóng, thanh âm, nụ cười của Lạc Băng. Từ xa vang đến tiếng mõ lóc cóc đổi canh, thì ra đã đến canh hai rồi.

Đang định trùm mền nhắm mắt mà ngủ, đột nhiên nghe thấy tiếng “tinh tang,” phòng bên có người khẽ gãy tỳ bà. Dư Ngư Đồng cũng hiểu âm luật, bèn lắng tai nghe. Tiếng đàn tỳ bà dịu dàng uyển chuyển làm động lòng người, rồi sau đó lại có giọng nữ nhân nhẹ nhàng ca hát:

– “Đa tình chỉ tổ đa sầu, đa tình chỉ tổ đa ưu, ưu sầu cam tâm nhận lấy, ai bảo mình phong lưu.”

Chàng nghe câu “đa tình thì tổ đa ưu” mà động lòng, không khỏi ngẩn ngơ một lúc. Lát sau tiếng ca ở phòng bên nhỏ lại nghe không rõ nữa, chỉ loáng thoáng nghe được mấy chữ:

– “Mỹ nhân như hoa như ngọc, một mai cát bụi mà thôi.”

Dư Ngư Đồng bất giác rơi nước mắt, rồi đột nhiên la lớn một tiếng, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Chàng chạy như điên như cuồng trong vùng hoang dã, rồi bước chân từ từ chậm lại. Câu hát “Mỹ nhân như hoa như ngọc, một mai cát bụi mà thôi.” vẫn còn văng vẳng bên taikhông chịu tan đi. Chàng nghĩ đến Lạc Băng, Lý Nguyên Chỉ, bây giờ vẫn lá ánh mắt trong veo lay động lòng người, răng trắng như ngọc kiều mỵ vô song, nhưng trăm năm sau chẳng lẽ không trở thành một đống xương? Bây giờ mình vì hai nữ nhân ấy mà lo âu thương cảm, một trăm năm sau nghĩ lại có tức cười không?

Nghĩ đến đó, chàng không khỏi mơ hồ, cúi đầu mà đi bừa bãi. Nhìn thấy dưới chân núi có một gốc cây lớn, tán cây rất rộng, chàng liền tới ngồi nghĩ dưới gốc cây. Mấy ngày trời bôn ba khắp chốn, vừa mệt mỏi vừa kinh hãi, bây giờ chàng kiệt lực rồi, bèn dựa vào thân cây, chốc lát đã ngủ thiếp đi.

Trong cơn mơ, Dư Ngư Đồng bỗng nghe thấy tiếng chuông “binh boong,” lập tức giật mình thức dậy. Chàng đưa tay định rút cây kim địch bên mình mà không được, nhớ lại đã bị Cố Kim Tiêu cướp mất lâu rồi, bất giác ngẩn ngơ một lúc. Bây giờ trời đã sáng, tiếng chuông thánh thót ngân dài từ xa vọng đến. Chàng nghĩ được khá lâu, tinh thần đã hồi phục, thầm nghĩ:

– “Tiếng chuông triệu mộ thật sự khiến cho người ta sảng khoái,” bèn cất bước đi về hướng phát ra tiếng chuông. Thì ra đó là một ngôi chùa trên đỉnh đồi.

Chàng cứ theo đường mòn trèo lên đồi, thấy ngôi chùa này cũ kỹ xiêu vẹo, trên biển viết ba chữ rất lớn:

– “Bảo Tướng tự.”

Vào trong đại điện, thấy trên điện có một pho tượng phật cúi đầu, hình như đang thương xót cho nỗi sầu bi khổ não vô tận của loài người. Trong lòng chàng vô cùng cảm khái, lại xem những bức họa treo đầy bốn bức tường. Đang xem thì một lão hòa thượng bước ra, chấp tay vấn an rồi hỏi:

– “Cư sĩ đến tiểu tự này có việc gì không?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Tại hạ du ngoạn khắp nơi, thấy bảo tháp này thanh nhã nên muốn ở tạm mấy ngày, xin gởi chút tiền nhang khói. Không biết có quấy rầy hay không?”

Lão tăng nói:

– “Tiểu tự vốn do thập phương bố thí mà dựng lên, thập phương cần ở thì cứ ở. Xin mời cư sĩ vào.”

Rồi lão lệnh cho tri khách tăng dẫn Dư Ngư Đồng vào phòng khách, dọn bát mì chay. Dư Ngư Đồng ăn mì rồi ngủ thêm hai giờ nữa, khi tỉnh dậy thì nằng chói chang khung cửa sổ, đã là giờ ngọ. Trong điện phật vọng đến tiếng gõ mõ. Chàng ra khỏi phòng, định xuống núi đi tìm Lý Nguyên Chỉ. Đi ngang chánh điện, chàng nhìn thấy bích họa bèn dừng lại để xem. Trong tranh có vẽ sự tích xuất gia của tám vị cao tăng. Một bức có đề từ, kể rằng một vị đại giác đại ngộ nhờ nghe một câu ca trên tửu lầu. Dư Ngư Đồng không nhìn tiếp nữa, nhắm mắt lại suy nghĩ:

– “Đó là câu ca nào? Sao lại có sức lực đến thế?”

Chàng mở mắt ra xem tiếp, thấy trong tranh ghi bảy chữ:

– “Nhĩ ký vô tâm ngã tiện hưu,” người đã vô tâm ta phải thôi. Bảy chữ này như một cái búa gõ trúng đỉnh đầu, trong tai chàng vang lên tiếng “ù ù,” lập tức ngẩn ra đứng đó.

Chàng cứ ngẩn ngơ mà bước vào phòng, trong miệng nhẩm đi nhẩm lại:

– “Nhĩ ký vô tâm ngã tiện hưu”

Đầu óc lúc như ngộ đạo, lúc lại mơ hồ mù mịt, cả ngày hôm đó điên khùng không ăn không uống. Tri khách tăng đến thăm mấy lần, nghĩ rằng chàng bị bệnh nên khuyên đi nghỉ sớm.

Dư Ngư Đồng nằm trên giường nghe tiếng gió vi vu như tiếng sóng trong rừng thông, trong lòng cũng như có tiếng sóng nổi dậy không ngừng. Quá khứ hai mươi ba năm trời hiện lại trong lòng từng màn một. Thi đậu tú tài, hành thích kẻ thù, bôn tẩu giang hồ, hành hiệp trượng nghĩa, trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm mà lúc nào cũng vô tư lự, tiêu diêu tự tạo. Nào ngờ một hôm ở tổng đà bên Thái Hồ gặp phải oan gia kiếp trước, từ đó không sao buông bỏ được, khổ não vô cùng. Lạc Băng đối với mình đã có chút xíu tình ý gì đâu? Người đã vô tâm thì ta phải thôi, nhưng làm sao mà thôi, làm sao mà bỏ được? Trong lòng cực kỳ phiền não, chàng ngồi dậy thắp đèn, thấy trên bàn có một cuốn kinh sách. Đó là Tứ Thập Nhị Chương Kinh, quyển kinh đầu tiên từ Thiên Trúc truyền sang Trung Quốc.

Dư Ngư Đồng thuận tay lật ra, đọc một câu chuyện trong kinh. Câu chuyện này kể lại thiên thần phụng hiển một ngọc nữ diễm lệ vô cùng cho đức phật. Đức phật nói:

– “Chỉ là một đám máu thịt ô uế bọc trong túi da”

Đọc đến đây, chàng như bị trúng một quyền rất nặng, mất cả thần trí, hồi lâu mới tỉnh tái lại. Chàng nghĩ:

– “Tại sao ta có thể chấp trước mê muội đến thế?”

Chàng không suy tính gì nữa, lập tức chạy ra ngoài đánh thức lão hòa thượng, cầu xin tế độ cho mình. Lão tăng khuyên ngăn nhiều lần, nhưng tâm ý của Dư Ngư Đồng đã quyết, không sao thuyết phục được. Sáng sớm hôm sau, lão bèn tập hợp hết tăng chúng đến trước tượng phật, xuống tóc cho chàng, dạy về giới luật, đặt pháp danh là Không Sắc.

Dư Ngư Đồng cứ lễ phật tụng kinh, sống được vài ngày thanh tịnh. Một hôm chàng đang quì trước tượng phật làm công phu khuya, mặc niệm “Ngã phật từ bi, phổ độ chúng sanh,” trong lòng thanh thoát sáng suốt như không nhiễm hạt bụi trần nào, thì đột nhiên nghe thấy sau lưng có người nói tiếng lóng kiểu giang hồ:

– “Quanh vùng Mạnh Tân ta đã tìm nát rồi, không còn chỗ nào trốn được. Không hiểu thằng lỏi đó chui vào xó nào?”

Dư Ngư Đồng kinh hãi vì thanh âm này rất quen thuộc. Lại nghe một người khác âm trầm nói:

– “Dù phải lật ngược cả thị trấn Mạnh Tân, ta cũng phải tìm được tên tiểu tặc đó.”

Dư Ngư Đồng nghiến chặt răng, thầm nghĩ:

– “Hay lắm! Các ngươi rốt cuộc cũng tìm đến đây rồi.”

Thì ra bọn Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn đang đứng sau lưng chàng.

Chàng hoàn toàn không động đậy, cố gắng lắng nghe Kha Hợp Đài và Tất Nhất Lôi đứng sau lưng mình cãi nhau kịch liệt. Kha Hợp Đài thì muốn lập tức khởi hành đi đến Hồi Cương tìm Hoắc Thanh Đồng để trả thù. Tất Nhất Lôi không chịu, đòi tìm cho ra Dư Ngư Đồng trước đã.

Lát sau Ngôn Bá Càn hỏi trụ trì:

– “Có tú tài xấu xí nào đến chùa này hay không?”

Trụ trì ngơ ngác ứ à không rõ. Ngôn Bá Càn nổi dạ nghi ngờ, liền vào hậu viện xem xét từng căn phòng một. Hắn tìm thấy cái áo đen của Lý Nguyên Chỉ, lập tức thay đổi sắc mặt quay lại chất vấn.

Trụ trì nói:

– “Vị tú tài đó từ lâu không còn ở đây. Các vị vĩnh viễn không thể gặp y nữa.”

Dư Ngư Đồng đứng dậy, vừa gõ mõ vừa từ từ đi vào hậu viện. Ngôn Bá Càn nghi ngờ, hất đầu với Tống Thiên Bảo một cái. Tống Thiên Bảo hiểu ý, bèn đi theo sau mà gọi:

– “Này! Hòa thượng kia, ta có chuyện muốn hỏi.”

Dư Ngư Đồng mặc kệ, chân bước càng nhanh hơn. Tống Thiên Bảo đuổi theo, đưa tay túm lấy vai chàng. Dư Ngư Đồng nghiêng người một chút, hất tay áo bên trái lên che hết mặt mình. Tống Thiên Bảo vội vã lùi ra, nhưng bỗng cảm thấy dưới nách đau đớn không chịu nổi, thì ra đã bị cây dùi gõ mõ đánh trúng một đòn rất nặng. Hắn la lên:

– “Úi chà! Đau quá!” rồi ngồi phệt xuống đất.

Dư Ngư Đồng vẫn tiếp tục niệm phật:

– “A di đà phật! Đau tức thị không đau, không đau tức thị đau.”

Chàng tiếp tục vừa gõ mõ vừa đi vào hậu viện.

Bọn Ngôn Bá Càn nghe tiếng mõ “cóc cóc” xa dần, lại không thấy Tống Thiên Bảo trở về, liền bỏ sư trụ trì lại đó, chạy ra sau điện. Thấy họ Tống ngồi dưới đất, vẻ mặt sầu bi khổ não ôm lấy nách mình, Bành Tam Xuân hét lên:

– “Ngồi đó làm gì? Hòa thượng kia đâu?”

Tống Thiên Bảo không nói được tiếng nào, mồ hôi đầy đầu, chỉ tay một cái. Bành Tam Xuân và Cố Kim Tiêu chạy về phía sau, nhưng chỉ thấy một người đầu bếp chứ hoàn toàn không có ai khác.

Ngôn Bá Càn kéo Tống Thiên Bảo dậy, nhìn vết thương dưới nách hắn chỉ thấy một mảng thâm đen, thật sự không nhẹ. Họ Ngôn liền hỏi:

– “Hòa thượng kia đả thương ngươi phải không?”

Tống Thiên Bảo gật đầu. Ngôn Bá Càn lại hỏi:

– “Hòa thượng đó mặt mũi thế nào?”

Tống Thiên Bảo ấp úng không nói được gì vì hắn chưa nhìn được mặt đối phương.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã kéo sư trụ trì vào trong, thấy tay chân lão mềm yếu rõ ràng không hiểu võ công. Hắn quát hỏi:

– “Hòa thượng vừa rồi từ đâu mà đến?”

Nhà sư đáp:

– “Ông ấy là một hòa thượng từ nơi khác đến đây ngoạn cảnh, bần tăng không hiểu lai lịch.”

Tất Nhất Lôi tuy nghi ngờ, nhưng tra hỏi nửa ngày vẫn không được gì nên đành phải thôi. Ngôn Bá Càn dọa phóng hỏa đốt chùa, nhưng sư trụ trì rất có chí khí, hoàn toàn không sợ hãi.

Tất Nhất Lôi nháy mắt một cái, cả đám bỏ ra khỏi chùa. Hắn nói:

– “Ngôi chùa này có chỗ kỳ lạ, đêm nay chúng ta đến dò xét tiếp.”

Chúng đến vùng quê quanh chùa để mua thức ăn, đợi đến đêm vượt tường vào chùa khám xét. Lục soát hơn một giờ mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Ngày hôm sau Hàn Văn Xung cố hết sức khuyên mọi người đừng gây thù oán với Hồng Hoa Hội. Kha Hợp Đài cũng la lên:

– “Phải đến Hồi Cương để tìm Hoắc Thanh Đồng.”

Cố Kim Tiêu thì nhớ đến mối hận bị tạt tô canh sôi vào mặt, nên lại vào chùa cãi nhau với trụ trì một hồi, rồi nói với Kha Hợp Đài:

– “Nếu đêm nay không tìm được tên hòa thượng ác ôn kia, sáng mai ta sẽ đi theo ngươi.”

Mấy bóng đen mà Văn Thái Lai nhìn thấy đêm đó chính là bọn Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn.

* * *

Hòa thượng kia quay đầu lại, Văn Thái Lai thấy mặt đầy vết bỏng, đúng là Thập tứ đệ Dư Ngư Đồng. Chàng vừa ngạc nhiên vừa vui vẻ muôn phần, trong lòng tự hỏi:

– “Sao Thập tứ đệ lại trốn ở đây? Sao đã là hòa thượng?”

Chàng tạm thời không chào hỏi, né sang một bên xem động tĩnh thế nào. Đúng lúc đó, cửa chánh điện bị xô ngã “rầm” một tiếng, bảy tám người xông vào trong. Trong đó Văn Thái Lai chỉ biết một người là Ngôn Bá Càn, tên này đã từng bắt mình ở Thiết Đảm trang. Về sau ở Dương Châu lại hành hạ sỉ nhục mình vô kể. Chàng gặp kẻ thù, cơn giận nổi lên, thầm nghĩ:

– “Bồ tát hiển linh! Thế là hôm nay tên àc tặc này lọt vào tay ta.”

Bọn Tất Nhất Lôi chạy vào đại điện, cảm đám cầm binh khí vây quanh Dư Ngư Đồng. Không ngờ chàng cứ quì trước tượng phật, không đếm xỉa gì đến chúng, vẫn chắp tay mà khấn:

– “Đệ tử tội nghiệt nặng nề, dẫn dụ tà ma ngoại đạo đến quấy rầy phật địa thanh tịnh. Ngã phật từ bi!”

Mọi người thấy chàng như thế, ai cũng vô cùng kinh ngạc. Ngôn Bá Càn nắm lấy cánh tay phải của chàng, quát:

– “Làm trò khỉ gì thế? Đi theo chúng ta nhanh lên.”

Sư trụ trì và chúng tăng trong chùa đã nghe tiếng chạy tới. Họ thấy bọn này tay cầm binh khí sáng loáng trông như hung thần ác sát, đều trốn sau điện không dám bước ra. Dư Ngư Đồng hoàn toàn không chống cự, đi theo Ngôn Bá Càn. Đàm Thiên Thừa chen lên phía trước, đẩy cửa điện ra.

Không ngờ có một người im lặng đứng ngay trước cửa. Cả bọn bất ngờ, đều lùi một bước. Người kia mặc y phục toàn màu xám, lưng thắt dây vải, trợn tròn cặp mắt, oai phong như hổ.

Ngôn Bá Càn nhận ra Văn Thái Lai lại càng đặc biệt kinh hãi. Hắn chưa biết chuyện chàng vượt ngục, bèn hét lên:

– “Ngươi… ngươi là…”

Nói còn chưa xong, Văn Thái Lai đã đánh vào cổ tay của Ngôn Bá Càn. Chiêu này nhanh vô tưởng, họ Ngôn không kịp chống đỡ, vội vàng co tay nhảy lùi ra, nhưng cổ tay đã bị điểm trúng. Dư Ngư Đồng cũng bị kéo lùi về phía sau. Ngôn Bá Càn lùi hai bước mới cảm thấy cổ tay đau đớn kịch liệt, dường như xương đã gãy thành mấy khúc.

Bọn người Tất Nhất Lôi chưa từng gặp Văn Thái Lai, nhưng thấy thủ pháp chàng nhanh đến kỳ lạ đều không nén nổi kinh tâm động phách. Tất Nhất Lôi nắm lấy đồng nhân đứng ngay trước cửa, thầm nghĩ:

– “Chúng ta có tới tám người, năm là hảo thủ bậc nhất giang hồ. Đối phương lợi hại tới đâu cũng không địch nổi số đông.”

Hắn đứng chặn cửa, đề phòng địch nhân chạy thoát.

Văn Thái Lai kéo tay Dư Ngư Đồng, hai người cùng nhảy sang bên trái của chánh điện. Dư Ngư Đồng la lên:

– “Tứ ca, huynh…”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Đệ có việc gì hay sao?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Không có.”

Dương Thành Hiệp nói:

– “Thế thì hay lắm. Hôm nay huynh đệ chúng ta phải đánh một trận cho thỏa thích.”

Dư Ngư Đồng chưa kịp trả lời, Tống Thiên Bảo và Đàm Thiên Thừa đã cầm binh khí phóng tới. Văn Thái Lai nhìn thấy thân pháp, biết hai tên này là người ở Ngôn gia quyền phủ Thần Châu.

Văn Thái Lai vốn coi kẻ ác như kẻ thù, mấy tháng nay lại gặp lắm chuyện uất ức cả đời chưa thấy, nên bây giờ hạ thủ không dung tình nữa. Chàng vừa nhún người một cái đã ra đến sau lưng hai tên Tống, Đàm. Binh khí chúng chưa đánh xuống, địch thủ đột nhiên biến mất. Chúng chưa kịp thu chiêu xoay lại, sau gáy đã bị túm chặt.

Bành Tam Xuân đứng gần đó nhất, vung tam tiết côn ra chiêu Độc Xà Xuất Động đánh vào sau lưng Văn Thái Lai. Họ Văn hai tay nắm hai người, đột nhiên quay lại xách cổ chúng lên quay một vòng, quát lên một tiếng như sấm nổ lúc trời quang. Bành Tam Xuân giật mình, buông tam tiết côn rơi loảng xoảng xuống đất. Trong tiếng quát, Văn Thái Lai vận sực vào hai tay đập lại. Đầu của họ Đàm và họ Tống đụng vào nhau nghe “ầm” một tiếng, máu me lẫn lộn, óc não văng hết ra ngoài.

Văn Thái Lai không chịu dừng tay, quăng hai cái thi thể đó về phía địch. Bọn Cố Kim Tiêu nhảy ra tránh né, còn Ngôn Bá Càn xót tình thầy trò đưa tay đón lấy Đàm Thiên Thừa, vẫn chưa kịp nghĩ ra đó là một cái xác. Sự việc xảy ra chỉ trong chớp nhoáng.

Bành Tam Xuân hoảng sợ đến nỗi không biết phải làm gì, tay chân lóng ngóng, không nhặt côn lên mà cũng không chạy trốn. Văn Thái Lai bước lên một bước, vung tay trái tống ra một quyền. Bành Tam Xuân đưa tay lên đỡ, “rắc” một tiếng xuơng tay đã gãy ngay. Văn Thái Lai thừa thế sấn lên, túm lấy ngực áo của hắn. Bành Tam Xuân bí thế chỉ còn cách liều mạng, bay lên đá Uyên Ương Liên Hoàn Cước vào ngực chàng.

Văn Thái Lai vung tay ra túm được chân trái của hắn, tay phải kéo xuống, tay trái đưa lên làm hắn xoay ngược hẳn người lại. Cố Kim Tiêu và Ngôn Bá Càn xông đến cứu, nhưng Văn Thái Lai lại quát một tiếng, hai tay dùng sức đập Bành Tam Xuân xuống đất, giống như cầm dùi đánh trống. Họ Bành va đầu vào tảng đá xanh lót nền chánh điện, chân vẫn chưa dùng. Bành Tam Xuân chuyên dùng Liên Hoàn Cước, hễ chân trái đá ra là chân phải đá theo. Lần này đầu hắn vỡ toang rồi chân phải mới đá ra.

Bôn Lôi Thủ đại triển thần oai, chỉ trong khoảnh khắc đã đánh chết ba kẻ địch. Chàng thấy Cố Kim Tiêu và Ngôn Bá Càn từ hai bên phải trái tấn công tới, biết hai tên này là kình địch, ba tên vừa rồi không thể sánh được, bèn đột ngột nhảy ngược ra sau, thuận tay nắm lấy lư hương trên bàn thờ ném đến Cố Kim Tiêu. Cái lư hương này nặng tới bảy tám chục cân, rít gió bay vù vù, Cố Kim Tiêu không dám đón lấy, phải nghiêng người tránh né. Họ Tất vốn bị Cố Kim Tiêu cản trở tầm nhìn, vừa thấy là cái lư đã đến trước mặt. Kha Hợp Đài vội vã la lên:

– “Lão đại, coi chừng!”

Tất Nhất Lôi không kịp tránh né, liền vận hết sức đưa độc cước đồng nhân ra đỡ. Một tiếng “binh” vang lên, cái lư hương bằng đá vỡ nát ra, đá vụn và tro bụi bay tứ tán.

Lúc này Ngôn Bá Càn và Văn Thái Lai đã giao đấu. Dư Ngư Đồng cầm cây dùi trống, đứng sau lưng Văn Thái Lai hộ vệ. Hai người Tất và Cố bị đá vụn văng trúng mặt, chảy máu mấy chỗ. Cố Kim Tiêu giận dữ xách cương xoa tiến lên, định xông vào hỗn chiến.

Văn Thái Lai chuyển thân nhanh như gió, đánh dứ một chưởng vào mặt Ngôn Bá Càn rồi xông vào Kha Hợp Đài. Thì ra chàng nhận định tình thế, tuy đã giết chết ba người nhưng địch vẫn đông hơn, mà số còn lại không phải tầm thường, phải bất ngờ đả thương thêm mấy tên nữa mới chắc thắng được. Chàng nhìn thấy Kha Hợp Đài và Hàn Văn Xung đứng riêng ra, nên đột nhiên xông tới phát chưởng đánh vào sau lưng Kha Hợp Đài.

Kha Hợp Đài cúi người né phát chưởng đó, xoay ngược tay móc lấy cổ tay địch thủ. Văn Thái Lai thấy y thủ pháp rất nhanh, “ủa” một tiếng rồi phóng tả chưởng quét qua trước mặt, đánh vào cổ đối phương. Kha Hợp Đài lại cúi đầu né tránh, đưa tay ra túm lấy cổ tay Văn Thái Lai. Văn Thái Lai thấy y sử dụng Cầm nã thủ nhưng thủ pháp rất quái lạ, cũng hơi kinh hãi.

Kha Hợp Đài đã xuất hai chiêu mà chưa túm được cổ tay Văn Thái Lai. Đây vốn là tuyệt kỹ bách phát bách trúng, nên y không khỏi sợ hãi trong lòng, rồi nghe “bình” một tiếng, sau lưng đá trúng một chưởng. Văn Thái Lai phóng chưởng mà không đánh ngã được y lại càng kinh ngạc hơn. Chàng không biết Kha Hợp Đài tuy ở Trung Nguyên đã lâu nhưng vẫn theo tập tục Mông Cổ mà mặc áo lót ngắn tay bằng da trâu. Phát chưởng đó đánh trúng vào áo giáp, nhưng Văn Thái Lai lại tưởng đối phương có công phu kỳ dị.

Tuy thế Kha Hợp Đài cũng đau điếng trước ngực, đột nhiên ngồi thụp xuống đất đưa tay ra nắm lấy lưng Văn Thái Lai. Họ Văn đưa hữu chưởng cản trở, xuất chiêu Điện Mẫu Chiếu Kinh đánh vào mặt đối phương. Kha Hợp Đài nghiêng đầu lại, nắm được cổ tay họ Văn, vận sực nhấc bổng chàng lên. Y đang định quẳng Văn Thái Lai xuống đất thì đột nhiên cổ tay tê liệt, nửa người bủn rủn.

Dư Ngư Đồng thấy Văn Thái Lai gặp nguy, kinh hãi xông tới cứu. Nhưng chàng vừa tiến một bước đã thấy Văn Thái Lai đáp xuống đất, kẹp Kha Hợp Đài dưới nách của mình. Thì ra Văn Thái Lai đã thuận tay điểm trúng huyệt đạo, phản đòn khống chế đối phương rồi vung hai tay ra, hất họ Kha bay vù đi. Dư Ngư Đồng vội vã la lên:

– “Tứ ca! Y là bằng hữu!”

Kha Hợp Đài đầu đi trước, chân đi sau, đang bay vèo tới một cái chuông lớn. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu đứng tận ngoài cửa, muốn chạy tới cứu cũng không sao kịp được. Văn Thái Lai vừa nghe Dư Ngư Đồng la gọi, lập tức bay người phóng tới như một mũi tên, nhanh hơn cả Kha Hợp Đài bị ném. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, chàng kịp đưa tay ra nắm lấy chân phải Kha Hợp Đài, vận sức kéo giật y trở lại. Chàng vỗ lên huyệt Kiên Tĩnh của y, đỡ y đứng dậy rồi nói:

– “Bằng hữu, xin lỗi nhé!”

Kha Hợp Đài đột nhiên thoát chết, nghệch mặt ra đứng yên ở đó. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu thấy Văn Thái Lai cứu huynh đệ của mình, đang định xông tới liều mạng bỗng đột nhiên dừng hẳn lại. Tất Nhất Lôi dìu Kha Hợp Đài qua một bên.

Dư Ngư Đồng la lên:

– “Cẩn thận phía sau.”

Văn Thái Lai cũng cảm thấy sau gáy có một cơn gió, liền xoay người lại xuất chiêu Tảo Đường Thối, không thèm tránh né mà đá vào kẻ địch trước. Ngôn Bá Càn cầm cặp cương hoàn vội tung người nhảy lên. Vòng bên tay phải hộ thân, vòng bên tay trái vung ra quét lên người Văn Thái Lai. Họ Văn quát lên một tiếng, đưa tay toan đoạt lấy chiếc vòng.

Phen này kẻ thù gặp lại, chưa sống chết quyết chẳng chịu ngừng tay. Trong phật điện đèn đuốc mờ mờ, đức phật như lai vẫn cúi đầu nhìn xuống, quan sát hai người ác đấu trước mặt. Dư Ngư Đồng ngồi bên tượng phật. Bọn Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài, Hàn Văn Xung bốn người đứng ở gần cửa, xoay mặt nhìn vào trong chánh điện. Dưới nền điện ngổn ngang ba cái thi thể nát đầu vỡ óc, máu thịt lẫn lộn.

Ngôn Bá Càn thấy bọn Tất Nhất Lôi không tiến lên trợ giúp, trong lòng giận dữ vô cùng, huy động song hoàn phát ra tiếng gió vù vù. Chẳng những quyền pháp của hắn có chỗ độc đáo, mà đôi hoàn này cũng có mấy chục năm công phu. Văn Thái Lai qua lại mười mấy chiêu, thấy thế công thủ của hắn đều rất cẩn mật, vừa linh hoạt vừa có lực. Chàng bèn quát lên một tiếng dữ dội, múa tít song chưởng, quyền pháp đã thay đổi. Mỗi chiêu quyền chưởng đều kèm theo một tiếng thét, khi thì thét trước rồi chưởng mới đến, khi thì quyền đấm trước rồi thét say mà không phát quyền. Tiếng thét và quyền chưởng hợp thành một thể, thân pháp càng nhanh thì tiếng thét càng vang dội, thần oai khủng khiếp ép người. Ngôn Bá Càn dần dần không sao chống đỡ được nữa.

Pho Bích Lịch Chưởng này của Văn Thái Lai chưởng phong phải nhờ tiếng thét trợ oai, tỷ như cuồng phong lại thêm sấm sét. Ngôn Bá Càn gắng gượng đến lúc này thì cả người đã đẫm mồ hôi, hai vai đã tê liệt, bèn gác chéo song hoàn lùi lại một bước. Hắn biết Văn Thái Lai nhất định sẽ công đến ngay. Quả nhiên đối phương không chịu thả lỏng chút nào, lập tức bước tới phát chưởng. Song hoàn của Ngôn Bá Càn đang ra chiêu Bạch Yến Tiến Vỹ, hữu hoàn ở bên trái, tả hoàn ở bên phải, bây giờ đột nhiên biến thế dạt ra hai bên, rõ ràng cánh tay địch thủ sắp sửa bị đôi vòng này chém gãy.

Nào ngờ Văn Thái Lai tương kế tựu kế, cứ đưa thẳng tay ấn tới trước ngực đối phương. Ngôn Bá Càn biết rằng trúng chưởng này thì không chết cũng trọng thương, chỉ còn cách xoay tả hoàn lại thủ trước ngực, còn hữu hoàn đánh vào vai địch thủ. Văn Thái Lai lại quát lớn một tiếng, năm ngón tay cong lại vồ trúng tả hoàn, rồi lập tức chuyển người ra phía sau lưng kẻ địch.

Ngôn Bá Càn vừa giật mình một cái, hữu hoàn cũng bị Văn Thái Lai nắm chặt nốt. Họ Văn vận sức xoay đi một cái, hai bàn tay của Ngôn Bá Càn bị cong ngược lại. Hắn mà ngoan cố thì hai bàn tay lập tức bị gãy, đành phải buông lỏng mười ngón tay cho đôi cương hoàn lọt vào tay địch thủ. Họ Ngôn phải tung người về phía trước ba bước mới quay lại được.

Văn Thái Lai hét lên:

– “Trả cho ngươi!”

rồi ném song hoàn về phía hắn. Chiêu này kình lực vô cùng, Ngôn Bá Càn tuy mắt thấy binh khí của mình bay trở về nhưng tai nghe tiếng gió rít lên khủng khiếp. Nếu đưa tay đón lấy thì mười ngón tay phải gãy hết, hắn liền né sang bên phải. “Keng keng” hai tiếng, cặp hoàn lún sâu vào trong chiếc chuông đồng lớn. Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu và đồng bọn không nén nổi, bất giác hoan hô vang dội.

Đột nhiên cặp mắt Ngôn Bá Càn trợn ngược lên, đưa hai tay ngang vai, thân hình cứng nhắc, từng bước nhảy tới, trông hệt như một bộ cương thi. Đây là môn võ công kỳ lạ nhất trong Ngôn gia quyền, đã phối hợp với Nhiếp Tâm thuật của Túc Du Hoa ở Thừa Châu. Mắt hắn trợn trừng thu nhiếp hồn phách của địch, hai tay lên xuống đánh ra loạn xạ, đầu gối hoàn toàn không co duỗi nhưng nhảy cực kỳ nhanh nhạy.

Văn Thái Lai vừa chạm mắt với hắn là lập tức rùng mình một cái, trong lòng run rẩy, vội vã thi triển Bích Lích Chưởng tiếp chiến môn Cương Thi Quyền hiếm thấy trên giang hồ. Qua lại được mười mấy chiêu, chàng bỗng thét lớn một tiếng, tung mình nhảy ra. Thân hình Ngôn Bá Càn không ngừng lay động, đôi mắt đờ đẫn như người say rượu, rồi đột nhiên ứa máu ra. Mọi người đang kinh ngạc thì hắn bỗng hộc lên một tiếng, một vũng máu tươi phun từ trong miệng ra. Thân hình hắn cứng đờ đứng ngay tại chỗ, hoàn toàn không động đậy nữa.

Mọi người thấy tên này âm độc đáng sợ, đều cảm thấy một luồng hơi lạnh ép người. Văn Thái Lai thấy hắn chảy máu mắt, phun máu miệng, nên không tiếp tục tấn công nữa. Dư Ngư Đồng lên tiếng:

– “Phước họa chỉ do tự mình chuốc lấy mà thôi. Ngươi đi đi!”

Cặp mắt Ngôn Bá Càn cứ nhìn thẳng, thân hình hoàn toàn không động đậy.

Hàn Văn Xung cũng gọi:

– “Ngôn huynh, chúng ta đi thôi.”

Y thấy họ Ngôn cứ đứng yên, bèn kéo hắn một cái. Không ngờ Ngôn Bá Càn ngã phịch xuống, thì ra đã tắt thở từ lâu rồi. Trước ngực và sau lưng hắn liên tiếp bị trúng hai chưởng của Văn Thái Lai, bị chấn động mà chết.

Hàn Văn Xung thở ra một hơi, chắp tay hỏi Văn Thái Lai:

– “Chắc vị này là Văn tứ gia phải không?”

Văn Thái Lai gật đầu một cái. Họ Hàn lại nói:

– “Tại hạ là Hàn Văn Xung.”

Văn Thái Lai biết y là người của Trấn Viễn tiêu cục, lại gật đầu một cái nữa. Trước đây Đồng Triệu Hòa của Trấn Viễn tiêu cục đã dẫn quan binh đến Thiết Đảm trang bắt chàng, nhưng lần tỷ đấu với Trương Triệu Trọng trên Sư Tử phong ở Hàng Châu thì tiêu cục đó lại liên thủ với Hồng Hoa Hội. Có thể nói mối quan hệ này nửa là đồng minh nửa là địch thủ.

Hàn Văn Xung chỉ ba người Tất Nhất Lôi, giới thiệu danh tánh rồi nói:

– “Trước đây họ có chút hiểu lầm với Hồng Hoa Hội, bây giờ tại hạ đã nói rõ ràng rồi.”

Ba người gật đầu một cái, không nói gì cả. Hàn Văn Xung thấy Văn Thái Lai mặt mày lạnh nhạt, biết trong lòng chàng vẫn còn tức giận Trấn Viễn tiêu cục, bèn nói:

– “Xin cáo từ.”

Rồi chắp tay thi lễ, quay người đi ra khỏi chùa. Quan Đông tam ma cũng theo y ra khỏi chánh điện. Lúc Cố Kim Tiêu quay người lại, Văn Thái Lai thấy sau lưng hắn có cắm cây kim địch của Dư Ngư Đồng, bèn bước tới hai bước la lên:

– “Cố huynh, để binh khí của huynh đệ ta lại đây.”

Cố Kim Tiêu quay đầu lại, giận dữ nói:

– “Được thôi, nếu hắn có bản lãnh thì cứ đến mà lấy.”

Võ công của Cố Kim Tiêu tuy chẳng cao gì, nhưng mười mấy năm trời tung hoành ở Liêu Đông giết người cướp của hiếm khi gặp địch thủ, chỉ biết kiêng nể lão đại Tất Nhất Lôi chứ không coi ai ra gì cả. Hễ nhớ đến mối hận Dư Ngư Đồng tạt canh sôi vào mặt là hắn nghiến răng kèn kẹt. Vừa rồi thấy thần oai của Văn Thái Lai, hắn biết mình không phải là địch thủ nên không dám sanh sự. Nhưng bây giờ họ Văn đã hỏi đến mình, hắn không thể tỏ ra yếu kém mà nộp trả cây kim địch, bèn đưa cây điệp hổ xoa lên chuẩn bị giao đấu.

Văn Thái Lai đưa tay ra muốn đoạt lấy cây xoa của hắn. Hai người đang muốn đánh nhau, Dư Ngư Đồng bỗng tiến lên nói:

– “Tứ ca, tiểu đệ đã xuất gia rồi. Cây sáo này không cần dùng nữa, cứ để Cố huynh mang đi.”

Văn Thái Lai nghe chàng nói vậy, không tiện ra mặt đòi vật nên chỉ “hừ” một tiếng, lùi ra hai bước. Cố Kim Tiêu thu cây điệp hổ xoa về, nhảy ra khỏi chánh điện.

Tất Nhất Lôi thầm nghĩ:

– “Họ Văn này thật là ngang ngược. Võ công của hắn tuy khá nhưng chẳng lẽ chúng ta sợ hắn hay sao? Tốt nhất là hiển thị chút ít bản lãnh cho hắn biết chúng ta lợi hại.”

Ba người đã ra ngoài điện, nhìn thấy tượng hộ pháp nắm cây Hàng Ma chữ đứng ở chính giữa, còn Tứ Đại Kim Cang ngồi ở hai bên. Tất Nhất Lôi nhảy lên vận nội công lắc mỗi pho tượng một cái rồi hét lên:

– “Đi thôi.”

Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng nghe thấy ngoài điện vang lên những tiếng lách cách, vội chạy ra xem. Đột nhiên năm pho thần tượng giống như sống lại, từng pho một nghiên đi ngã xuống. Bây giờ muốn quay lại cũng không kịp nữa, Văn Thái Lai thầm kêu:

– “Hỏng bét!” rồi nắm cánh tay trái của Dư Ngư Đồng, sử dụng khinh công Đà Túc Thiên Lý nhảy ra khỏi cổng chùa. Chân còn chưa chấm đất, tai đã nghe tiếng ầm ầm trong chánh điện. Khói bụi bay mù mịt, thần tượng vỡ nát tứ tung. Tứ Đại Kim Cang vừa lớn vừa nặng, khi ngã xuống thanh thế cực kỳ ác liệt.

Văn Thái Lai giận dữ, định cất bước đuổi theo. Dư Ngư Đồng bèn nói:

– “Hôm nay Tứ ca đã giết bốn người, đủ rồi.”

Văn Thái Lai ngẩn ra, quay lại hỏi:

– “Tại sao đệ làm hòa thượng?”

* * *

Tất Nhất Lôi xô ngã thần tượng nhưng lại sợ Văn Thái Lai chạy theo gây sự, nên cùng cả bọn co giò chạy nhanh xuống núi. Cố Kim Tiêu đột nhiên cảm thấy sau lưng có ai động vào một cái, đưa tay sờ thử thì kim địch không còn ở đó nữa. Hắn kinh hãi “úi chà” một tiếng. Bọn Tất Nhất Lôi vội dừng lại hỏi. Cố Kim Tiêu vừa giận vừa sợ, cất tiếng thóa mạ:

– “Con mẹ mười tám đời tổ tông nhà nó. Tên họ Văn này như ma quỉ vậy, lại ăn cắp cây kim địch đi rồi.”

Bốn người đều thấy lúc Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng từ trong điện chạy ra, khoảng cách rất xa. Thế mà trong chớp nhoáng chàng có thể tới đây đoạt lại kim địch, thân pháp nhanh như vậy khiến cho người ta không lạnh mà run. Kha Hợp Đài nói:

– “Lão nhị đừng chửi nữa. Nếu y không lấy lại kim địch, mà tặng cho một chưởng vào lưng thì huynh còn mạng hay không?”

Cố Kim Tiêu nghĩ đúng là Văn Thái Lai đã hạ thủ lưu tình, bèn không nói gì nữa. Bốn người bàn chuyện đến chỗ Hồi tộc để tìm Hoắc Thanh Đồng, trả thù cho bọn Diêm Thế Khôi. Hàn Văn Xung nhất định không chịu đi cùng. Nghĩ không ép được nên đến Mạnh Tân thì họ chia tay. Từ đó Hàn Văn Xung quay về Lạc Dương ẩn cư, đóng cửa hưởng nhàn, lấy đàn tỳ bà ra gảy những bài Bình sa lạc nhạn, Chiêu quân xuất tái, vui vẻ không gì sánh được. Từ đó y không bước vào giang hồ nữa, yên ổn sống tới già.

* * *

Nghe Văn Thái Lai hỏi sao mình lại xuất gia, Dư Ngư Đồng thở ra một hơi rồi nói:

– “Tứ ca, huynh có chịu tha lỗi cho đệ không?”

Văn Thái Lai nói:

– “Chúng ta là hảo huynh đệ. Đừng nói là đệ không có lỗi gì với ta, mà nếu có thì chắc chắn cũng do vô ý, ta để bụng làm chi?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Không phải do vô ý mà đệ cố ý vong ơn phụ nghĩa.”

Văn Thái Lai mỉm cười nói:

– “Đệ xả thân cứu ta không chỉ một lần, nếu nói đệ bất nghĩa với ta thì ai mà tin được?”

Dưới ánh trăng sáng, chàng nhìn thấy họ Dư khoác áo cà sa, diện mạo hủy hoại khác hẳn người thiếu niên tuấn tú trước kia, bất giác chua xót trong lòng, khẽ vỗ lên vai Dư Ngư Đồng rồi nói:

– “Thập tứ đệ! Chúng ta tình như cốt nhục. Đệ là thiếu niên, chuyện hồ đồ trong lúc nhất thời Tứ ca này quyết không để lòng. Hà tất đệ phải nản lòng thối chí đến thế.”

Từ khi song thân bị hại, Dư Ngư Đồng đã lưu lạc giang hồ. Chàng gia nhập Hồng Hoa Hội, tình cảm huynh đệ trong hội rất tốt, nhưng chưa có ai nói chuyện với chàng như huynh trưởng ruột thịt thế này. Chàng không khỏi động lòng, nhưng nghĩ lại:

– “Mình đã xuất gia thì bao nhiêu tư tình, duyên nghiệp đều phải chặt đứt cả.”

Dư Ngư Đồng bèn cố giữ lòng dạ cứng rắn, lạnh nhạt nói:

– “Tứ ca hãy trở về đi, sau này chưa chắc chúng ta có dịp gặp lại nhau. Tiểu đệ là Không Sắc, Tứ ca đừng gọi đệ là Thập tứ đệ nữa.”

Nói xong, chàng quay lưng đi trở vào chùa. Văn Thái Lai ngơ ngác một hồi, nhìn dáng vẻ họ Dư biết có khuyên ngăn nữa cũng vô dụng. Tuy chàng đã phóng chưởng đánh chết kình địch, báo được mối thù, nhưng thấy Dư Ngư Đồng như thế trong lòng không khỏi phiền muộn. Bất giác chàng thở dài một tiếng, quay về Mạnh Tân.

Dư Ngư Đồng vào chùa, thấy trong chánh điện đầy mảnh vụn của tượng phật, lại còn bốn cái xác nằm ngổn ngang dưới đất. Chàng quỳ giữa đống đổ nát, trước tượng phật mà chân thành sám hối. Đột nhiên chàng nghe những tiếng “tinh tang”

nhè nhẹ rồi thấy cây kim địch lấp loáng ở ngay trước mặt. Chàng hơi giật mình, quay đầu lại thì thấyLý Nguyên Chỉ đứng sau lưng. Lúc này nàng đã mặc y phục nữ nhân, dưới ánh nến lại càng diễm lệ nhưng mặt đầy vẻ u uất, oán hận.

Dư Ngư Đồng chắp tay, cúi mình một cái, hoàn toàn không lên tiếng. Lý Nguyên Chỉ thấy chàng nhẫn tâm như thế, không nói được gì mà cũng nhịn không nổi, bèn ngồi phịch xuống đất, đưa tay che mặt khóc òa.

* * *

Lúc Văn Thái Lai quay về nhà trọ, Lạc Băng đã mặc xong quần áo, xách binh khí chuẩn bị ra ngoài tìm chồng. Thấy chàng trở về, trong lòng nàng vô cùng mừng rỡ nhưng cũng trách mắng:

– “Sao lén lút ra ngoài mà không kêu người ta một tiếng?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Ai bảo muội ngủ ngon đến thế? Giả tỉ bị người ta bắt cóc đi chắc muội vẫn ngủ chẳng biết tí gì.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Như vậy cũng tốt, cho ca ca nếm thủ mùi vị lo lắng một lần.”

Nàng thấy thần sắc trượng phu ủ rũ, liền hỏi:

– “Sao thế?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Ta đã gặp Thập tứ đệ. Y làm hòa thượng rồi.”

Lạc Băng ngẩn ra, Văn Thái Lai tiếp:

– “Chúng ta đi gặp tổng đà chủ đi.”

Chàng gọi mọi người dậy, kể rõ những chuyện đã qua. Chương Tấn là người đầu tiên không nhịn nổi, nhảy chồm lên. Mọi người lập tức đến Bảo Tướng tự. Vào trong chùa chỉ thấy trống rỗng không một bóng người, ai cũng nghĩ:

– “Tăng chúng trong chùa thấy đánh nhau ác liệt, hoảng sợ chạy trốn không dám trở về.”

Lạc Băng thấy trên bàn thờ phật có một tờ giấy bèn cầm lên đọc. Mọi người quây lại xem, thấy thư viết:

– “Tổng đà chủ cùng các vị ca ca! Tiểu đệ tội nghiệp nặng nề, xuất gia sám hối, quyết dứt nợ trần. Mọng các vị nỗ lực hoàn thành đại sự, dựng nên công nghiệp. Tiểu đệ sẽ ngày đêm khẩn cầu trước tượng phật vì sự nghiệp này. Bây giờ tiểu đệ phải ra ngoài quyên góp để trùng tu kim thân phật tổ, mấy tháng nữa mới có thể trở về đây. Hiện nay Quan Đông tam ma đã đi đến Hồi Cương tìm kiếm Thúy Vũ Hoàng Sam, phải tìm cách cản trở. Tiểu đệ Ngư Đồng bái tạ.”

Mọi người đọc xong đề có phần thương cảm, trong lòng Lạc Băng lại càng bứt rứt khó chịu. Chương Tấn giận dữ nói:

– “Xuất gia cái con mẹ gì? Chúng ta phóng hỏa đốt quách cái chùa nát này đi, xem cái thằng tú tài kiết đó còn làm thầy chùa được hay không?”

Nói xong, y lập tức cầm lấy cây nến, muốn đi phóng hỏa. Lạc Băng vội quát lên ngăn cản. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Ta thấy Thập tứ đệ trần tâm chưa dứt, không làm hòa thượng suốt đời đâu.”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Sao đệ biết?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Thứ nhất, y vẫn còn lo đến đại sự của chúng ta. Thứ hai, y muốn đi quyên giáo để trùng tu tượng phật. Xưa nay y tâm khí cao ngạo, không biết cầu xin người khác, làm sao đi xin tiền được?Xem chừng y phải theo đường cũ, cướp bóc những nhà giàu bất nhân bất nghĩa.”

Mọi người đều bật cười. Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì tu làm chi nữa?”

Từ Thiên Hoằng tiếp:

– “Ngay cả Thúy Vũ Hoàng Sam mà y vẫn còn lo tới, vậy thì làm hòa thượng không phải dễ. Cuối thư y lại ký tên tục, không viết pháp danh, rõ ràng không coi trọng thân phận hòa thượng của mình lắm.”

Mọi người nghe chàng giải thích có lý, đều vui vẻ hơn. Văn Thái Lai lên tiếng:

– “Quan Đông tam ma võ công cao cường, không biết Thúy Vũ Hoàng Sam có địch nổi hay không?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta đã từng xem cô nương Hoắc Thanh Đồng đấu với Lục ma Diêm Thế Chương. Hoắc cô nương thua hắn một bậc, nếu không nhờ tổng đà chủ ra tay giải cứu thì chắc cô ấy đã trúng độc thủ của Lục ma rồi.”

Văn Thái Lai nói:

– “Hỏng rồi. Đại ma Tất Nhất Lôi sức lực hơn người, võ công cũng giỏi.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Vậy chúng ta phải nhanh chóng khởi hành tới vùng Hồi tộc, cản trở tam ma dọc đường. Khi lo xong việc rồi mới trở về khuyên Thập tứ đệ.”

Mọi người đều khen phải. Về đến Mạnh Tân thì trời đã sáng, cả hội ghé vào tửu lầu ăn mỳ, uống rượu. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tam ma đã khởi hành rồi, tốt nhất là chúng ta phải cử người cưỡi con ngựa trắng qua mặt chúng trước. Quân tình ở Hồi Cương đang khẩn trương, lão anh hùng Mộc Trác Luân phải bận rộn đối phó. Không thể để Thúy Vũ Hoàng Sam bị bất ngờ, bị tam ma đánh cho trở tay không kịp.”

Trần Gia Lạc thầm nghĩ:

– “Đúng là như vậy,” nhưng vẫn chau mày không nói gì. Chương Tấn lên tiếng:

– “Vậy để ta đi trước. Các huynh đệ theo sau ngay nhé.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Lúc nào đệ cũng vội vã, dọc đường rất dễ gây chuyện làm hỏng đại sự.”

Chương Tấn nói:

– “Đệ không sanh sự là được rồi.”

Lạc Băng hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói:

– “Đệ không biết tiếng Hồi, dọc đường chắc có điều bất tiện. Bây giờ nơi nào cũng có chiến sự, đừng để người Hồi sinh chuyện hiểu lầm.”

Trong mọi người ở đây, chỉ có Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn đã sống gần mười năm ở Hồi Cương là biết tiếng Hồi. Rõ ràng Lạc Băng muốn hai người này đi, nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lên tiếng. Tâm Nghiễn nói:

– “Thiếu gia, vậy để tiểu nhân đi trước một bước.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ thấy tổng đà chủ đi trước ổn thỏa hơn. Tổng đà chủ biết tiếng Hồi, công phu lại giỏi. Quan Đông tam ma chưa biết mặt tổng đà chủ, lỡ gặp phải dọc đường thì động thủ hay không động thủ cũng không sao. Sau khi đến nơi, nếu bọn tam ma vẫn không chịu dừng tay, tổng đà chủ có thể tỏ ý để giúp người Hồi.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Được rồi.”

Ăn mỳ xong, chàng cảm tạ Thượng Quan Nghị Sơn, từ biệt mọi người rồi cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng đi về phía tây.

* * *

Biết tin Quan Đông tam ma đi tìm Hoắc Thanh Đồng để trả thù, Trần Gia Lạc hết sức quan tâm. Hình ảnh Thúy Vũ Hoàng Sam mất hút dần trong đại mạc vẫn còn chiếm trọn tấm lòng chàng. Nhưng mỗi khi nghĩ đến, chàng lại nhớ người thiếu niên họ Lý và nàng thân mật khác thường. Thiếu niên đó trông như nữ cải nam trang, dung mạo mỹ miều giống như kép hát. Trong lòng Trần Gia Lạc lúc nào cũng xem thường y, thế mà Hoắc Thanh Đồng lại coi trọng y mà không để mắt đến tổng đà chủ Hồng Hoa Hội như mình vào mắt. Tuy nàng đã từng tặng chàng đoản kiếm, trong lòng chàng cũng nổi lên ý ghen tỵ, nên cảm thấy khó mà thân cận. Mỗi lần nghĩ đến nàng, chàng chỉ muốn coi đó là một bằng hữu anh hùng hiệp nghĩa, cố dứt tình nhi nữ.

Con ngựa trắng này quả rất phi thường, cưỡi nó chỉ cảm thấy gió thổi ào ào qua bên tai, đồi núi, cây cối ở hai bên đường lùi về sau lưng như biết bay vậy. Đến giờ ngọ chàng đã chạy hơn hai trăm dặm, chắc đã bỏ Quan Đông tam ma lại phía sau từ lâu rồi. Nghỉ ăn cơm xong, chàng lên ngựa chạy tiếp, biết mình chạy thêm một ngày nữa là Quan Đông tam ma đừng hòng đuổi kịp, có thể yên tâm nghĩ đêm trong khách điếm.

Chưa đầy một ngày nữa, Trần Gia Lạc đã tới Tiêu Châu. Lên đỉnh Gia Cốc quan, đứng tựa vào tháp canh, chàng đảo mắt nhìn quanh thấy trường thành uyển chuyển như sợi chỉ vòng vo ôm lấy giang san, khống chế một vùng hoang mạc rộng lớn. Ra ngoài quan ải, chàng cũng theo lệ mà ném một cục đá vào trường thành ở quan ngoại. Hành trình ở vùng gió cát lắm chuyện gian nan, người ta đồn rằng nếu ra ngoài quan mà lấy đá ném vào trường thành thì có thể sống sót trở về quan nội.

Đi tiếp mấy dặm nữa chỉ còn thấy khói bụi cuồn cuộn, mặt trời đã ngả hoàng hôn. Nghe văng vẳng tiếng hát của mấy người cưỡi lạc đà:

– “Mỗi lần qua ải Gia Cốc, hai mắt không sao ráo lệ. Ông bà gươm giáo giết nhau, con cháu chỉ còn bãi cát hoang vu.”

Tiếng ca thê lương truyền đi cả một vùng hoang vắng. Dọc đường ngày đi đêm nghỉ, qua khỏi Ngọc Môn rồi tới Tây An, sa mạc từ màu vàng nhạt trở thành vàng đậm, rồi từ màu vàng đậm trở thành màu xám tro, sắp đến Qua Bích rồi. Ở vùng này thì không có nhà cửa bếp núc gì nữa. Sa mạc mênh mông, mắt nhìn không vướng, đúng là nơi dụng võ của con ngựa trắng. Tinh thần nó phấn chấn hẳn lên, phi càng nhanh chóng, chẳng bao lâu phía trước đã thấy một dãy núi xuất hiện mờ mờ.

Vách đá càng lúc càng gần, dựng thành hình chữ nhất vươn hẳn ra ngoài. Phía sau núi đá, mây mù bao phủ dày đặc, cứ như trong đó có một khu đất trời khác hẳn. Đi đến gần, người ta mới đột nhiên thấy giữa vách đá có một khe nứt. Con ngựa trắng theo hẻm núi đó mà chạy thẳng vào trong. Đó chính là Tinh Tinh Hiệp, đường giao thông quan trọng nối giữa Cam Túc và Hồi Cương.

Hai bên hẻm núi này vách đá dựng thẳng đứng lên trời, giống như dao gọt mà thành. Ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy bầu trời xanh xám, giống như nhìn từ dưới đáy biển vậy. Nếu ban đêm thì nhìn lên chỉ thấy toàn sao có lẽ vì thế mà hẻm núi này có tên là Tinh Tinh Hiệp.Trong hẻm núi, nham thạch toàn một màu đen tuyền, bóng loáng đến mức phát ra ánh sáng. Con đường quanh qua quẹo lại, khúc chiết lạ thường.

Lúc này đã mùa đông, trong hẻm núi bắt đầu có tuyết. Tuyết trắng đá đen phản chiếu vào nhau, thật là kỳ quan khó tả. Trần Gia Lạc thầm nghĩ, khe núi này địa thế hiểm trở, dùng binh tấn công qua đây thật là không dễ. Năm xưa, khi chàng còn nhỏ vừa đến Hồi Cương đã thấy cảnh này nhưng lúc đó không lưu ý lắm.

Qua khỏi Tinh Tinh Hiệp, chàng nghĩ lại một đêm trong căn nhà nhỏ, hôm sau lại khởi hành đi tiếp. Hai bên đều là những ngọn núi đá đen nhánh liên miên bất tận. Chạy mấy giờ nữa thì đến đại mạc Qua Bích. Qua Bích bằng phẳng như một mặt gương rất lớn, hoàn toàn không có đồi cát như sa mạc thông thường. Trần Gia Lạc đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời đất nối tiếp nhau, cả một vùng thiên địa mênh mông không có một tiếng động, dường như vũ trụ chỉ còn một người một ngựa. Tuy võ công của chàng cao cường nhưng thấy cảnh tượng này cũng bất giác sợ hãi, cảm thấy thế giới bao la không bờ bến, còn bản thân mình thì chỉ là hạt bụi vô nghĩa.

Đến trước thành Ha Mật, chàng nghĩ là quân tình đang khẩn cấp, lữ khách từ quan ngoại đến đây chắc sẽ bị tra xét nghiêm mật. Vì thế chàng vòng sang Nhị Bảo, chỉ cần đi tiếp về phía tây là có thể hỏi thăm chỗ ở của Hoắc Thanh Đồng rồi. Nhưng chàng nghĩ:

– “Mình là người Hán, chỉ sợ bị người Hồi nghĩ là gian tế, làm sao họ tin mình được? Chắc phải tốn một phen giải thích. Nếu thay đổi trang phục của người Hồi thì hơn.”

Chàng bèn ghé vào Nhị Bảo mua một cái nón thêu hoa, một đôi ủng bằng da, mấy bộ y phục có hoa văn mà người Hồi thường mặc. Sau đó chàng tìm chỗ hoang vắng thay đổi y phục, chôn quần áo cũ của mình vào cát. Lúc đi ngang một khe nước, chàng soi vào thấy mình trông chẳng khác một thiếu niên Hồi tộc, bất giác mỉm cười lòng cảm thấy vui vui.

Nhưng chàng đi mãi mà không gặp người Hồi nào cả. Nhà cửa, làng mạc của người Hồi đều đã bị san thành bình địa, dĩ nhiên đó là tác phẩm của đại quân triều đình. Nhất định người Hồi đã chạy trốn vào giữa sa mạc hết rồi.

Trần Gia Lạc không khỏi lo lắng. Trong vùng sa mạc mênh mông này, phải đi đâu mới tìm được Hoắc Thanh Đồng? Chàng nghĩ nếu mình tiếp tục đi theo đường cái thì chưa chắc sẽ gặp người nào, bèn rẽ theo một con đường nhỏ chạy về hướng nam, cố gắng đi vào vùng núi hoang vắng.

Hồi Cương vốn hoang vu, không đi dọc con đường cái thì rất khó gặp nhà cửa. Chàng đi về hướng nam được ba ngày thì ăn hết cả lương khô, may mà bắt được một con dê lạc. Đi thêm hai ngày nữa, dọc đường chàng gặp được mấy người chăn nuôi. Hỏi ra thì họ đều là người Kha Tát Khắc. Họ chỉ biết sau khi đại quân Mãn Thanh đến đây, dân chúng Hồi tộc đều về phía tây, nhưng không biết lùi đến chỗ nào.

Trần Gia Lạc không tính toán gì được cả, chỉ biết giục ngựa chạy về phía tây, mặc cho ngựa đi đâu thì đi, không thèm điều khiển nữa. Mỗi ngày chạy được ba bốn trăm dặm, được bốn ngày thì trước mắt chỉ nhìn thấy mênh mông cát, màu trời xám xịt, không biết đâu mới là chỗ tận cùng.

Một hôm, khí trời đột ngột nóng lên. Thời tiết trên sa mạc trở nên khắc nghiệt, trong vòng một ngày mà biến đổi nóng lạnh mấy lần. Nước đựng trong túi da hết đóng thành băng lại nóng như sôi. Lúc mặt trời tới đỉnh đầu, cả ngựa lẫn người đều ướt đẫm mồ hôi.

Trần Gia Lạc muốn tìm chỗ có bóng râm, nhưng nhìn quanh tứ phía đều mênh mông bãi cát. Chàng phải chạy về phía một đồi cát khá lớn, che khuất nắng một chút, rồi mở túi da đựng nước ra uống ba hớp. Tuy chưa đã khát nhưng chàng không dám uống nhiều. Giả tỉ uống cạn mà chưa tìm được nguồn nước, thật chỉ còn con đường chết.

Nghỉ ngơi khoảng một giờ, chàng lại nhảy lên lưng ngựa. Đi không có mục đích, cả người lẫn ngựa đều chậm chạp mệt mỏi. Đột nhiên con ngựa trắng ngẩng đầu lên ngửi ngửi mấy cái, hí vang một tiếng rồi quay đầu chạy sang hướng khác. Trần Gia Lạc biết con ngựa này rất có linh tính, nên mặc kệ nó đưa mình đi đâu thì đi. Chạy không bao lâu, trên mặt cát đột nhiên xuất hiện những bãi cỏ thưa thớt, rồi cỏ mọc càng lúc càng nhiều hơn.

Trần Gia Lạc biết ở phía trước chắc chắn có nguồn nước, trong lòng rất mừng rỡ. Con ngựa trắng lúc này cũng phấn chấn hẳn lên, tung bốn vó phi như bay, chỉ chốc lát đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, phía trước xuất hiện một khe nước nhỏ. Con ngựa trắng chạy đến bên khe nước, Trần Gia Lạc nhảy xuống ngựa. Nước trong khe này trong veo nhìn thấy đáy. Chàng vỗ vỗ vào lưng ngựa, mỉm cười nói:

– “May mà ngươi tìm được con suối này. Chúng ta cùng uống đi.”

Chàng cúi xuống khe, vốc mộc hớp nước, uống vào cảm thấy mát mẻ thấu tới tim gan. Nước đã ngọt ngào lại có hương thơm thoang thoảng, chắc chắn phải từ một nguồn suối tuyệt vời chảy ra. Trong khe nước lại có vô số mảnh băng vụn chạm vào nhau phát ra những tiếng lanh canh thánh thót, nghe như tiếng nhạc. Con ngựa trắng uống mấy hơi dài rồi hí lên một tiếng, nhảy quẩn quanh mấy cái, rõ ràng nó cũng hết sức vui mừng mà không nói được.

Trần Gia Lạc uống đã nước suối, tinh thần khoáng đạt sảng khoái hẳn lên. Chàng nhìn xuống thấy thân thể mình đầy cát bụi, bèn xắn ống quần lên bước xuống nước, rửa đầu mình chân tay sạch sẽ. Sau đó chàng dẫn ngựa tới, tắm rửa cho nó một phen, cuối cùng mới lấy hai cái túi da ra múc đầy nước.

Đột nhiên chàng thấy giữa những miếng băng óng ánh có mấy cánh hoa. Khe nước này có mùi thơm chắc chắn trên thượng nguồn có hoa mọc. Chàng nghĩ đi dọc theo khe suối này không chừng sẽ gặp được ai đó, hy vọng hỏi được hành tung của Hoắc Thanh Đồng, bèn tung người lên ngựa mà đi dần lên thượng nguồn con suối.

Càng đi thì dòng khe càng rộng ra. Trên vùng sa mạc, bất cứ dòng suối nào trên thượng nguồn cũng nhiều nước hơn, đến hạ lưu thì nước dần dần bị sa mạc hút cạn, rồi cuối cùng mất hút. Chàng đã ở Hồi Cương rất lâu nên không thấy thế là lạ, cứ phi ngựa chạy nhanh.

Địa thế cao dần, đi vào một vùng núi. Khe nước cứ vòng vo quanh qua quanh lại, dẫn chàng đến một vùng đất cao hơn. Đột nhiên trước mắt chàng hiện ra một cái thác bạc, xối xuống ầm ầm không dứt. Nước từ ngọn núi đổ xuống, bụi nước bay tứ tán khắp xung quanh, thật là một kỳ quan.

Trong vùng sa mạc hoang vu mà nhìn thấy cảnh đẹp thế này, bất cứ là ai cũng phải sảng khoái. Lòng hiếu kỳ của Trần Gia Lạc nổi lên, muốn xem phía trên cái thác này còn những phong cảnh gì nữa. Chàng bèn dẫn ngựa đi vòng từ phía tây lên. Qua mấy khúc quanh, băng qua một rừng thông rất cao, chàng bất giác phải giật mình.

Trước mặt xuất hiện một cái hồ lớn, ở bên kia hồ là một thác nước khá hùng vĩ. Bụi nước bắn ra tứ phía, ánh mắt trời chiếu vào làm xuất hiện một cái cầu vồng. Quanh hồ cây cỏ hoa lá xum xê, hoa trắng, hoa đỏ cùng ánh vào màu xanh bích của mặt hồ, trông kỳ ảo vô cùng. Xa xa là một bình nguyên đầy cỏ xanh trải ra mênh mông như nối liền với chân trời. Trên bãi cỏ có mấy trăm con dê trắng vừa tung tăng đùa giỡn vừa gặm cỏ. Phía tây của thảo nguyên có một ngọn núi cao chọc thẳng lên trời, xuyên qua những đám mây. Trên đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, giữa lưng chừng núi trở xuống thì cây cối xanh tươi.

Lúc đó Trần Gia Lạc đứng ngẩn ra giương mắt mà nhìn tâm thần không biết phiêu diêu tới chỗ nào. Lại còn tiếng chim hót trên cành cây, tiếng những tảng băng khua vào nhau trên mặt hồ, hòa cùng tiếng thác đổ thành một bản nhạc tiên.

Chàng nhìn xuống mặt hồ, đột nhiên thấy có vòng sóng lan ra. Một cánh tay trắng như ngọc từ dưới hồ đưa lên, rồi đến một cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Người đó vừa quay đầu lại bỗng nhìn thấy chàng liền la lên kinh hãi rồi lại lặn xuống dưới nước.

Trong chớp nhoáng Trần Gia Lạc đã nhìn thấy rõ ràng đó là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Chàng kinh hãi nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ có sơn tinh, thủy quái thật hay sao?” bèn cho tay vào bọc lấy ra ba con cờ vây hờm sẵn.

Trên mặt hồ bỗng xuất hiện gợn nước dẫn về hướng đông, rồi sột soạt mấy tiếng, đầu của thiếu nữ ấy từ giữa rừng hoa chui ra. Giữa đám cỏ cây xanh tươi lộ ra một chút da thịt trắng tuyết, mớ tóc dài đen nhánh vẫn xõa trên mặt hồ, đôi mắt trong sáng như sao trời thì nhìng sang bên này lộ vẻ ngần ngừ. Trần Gia Lạc không thể coi đó là yêu tinh được nữa. Chàng nghĩ:

– “Người phàm làm sao đẹp như thế được? Nếu đây không phải là thủy thần thì cũng là thiên tiên xuống tắm.”

Một thanh âm thánh thót cất lên:

– “Huynh là ai? Đến đây làm gì?”

Nàng nói tiếng Hồi, tuy Trần Gia Lạc nghe hiểu mà lại như không hiểu, cứ ngơ ngẩn hồi lâu không đáp, hồn phách tiêu điêu giống như đang nằm mơ hay say rượu vậy. Giọng nói đó lại vang lên:

– “Huynh đi đi, để ta mặc quần áo.”

Mặt của Trần Gia Lạc đỏ bừng lên, lập tức quay người đi vào trong rừng. Chàng ngồi xuống đất, tim đập thình thịch, thầm nghĩ:

– “Chẳng lẽ đây chỉ là một cô gái người Hồi bình thường hay sao? Nàng khỏa thân tắm rửa trong hồ, thế mà ta còn không biết tránh ra cho nàng sửa sang y phục, thật là không nên không phải.”

Thật sự chàng không biết phải làm gì, muốn lập tức chạy trốn đi, nhưng lại nghĩ:

– “Đâu có dễ gì gặp được một người, sao ta không hỏi cô ấy về tin tức của Hoắc Thanh Đồng?”

Chàng đang phân vân không quyết, đột nhiên từ bên kia hồ vang lên tiếng hát dịu dàng thánh thót:

– “Người đại ca đi qua đường, huynh trở lại đây!Sao huynh không mở miệng, chạy trốn quá nhanh? Ta đang tắm, huynh lén lút nhìn. Ta hỏi huynh rằng:

– có nên như thế hay không?”

Giọng nàng nhẹ nhàng hoạt bát, chỉ nghe cũng tưởng tượng được trên môi hát đang nở một nụ cười rất tươi.

Trần Gia Lạc nghe trong lời ca phần đùa giỡn nhiều hơn là trách móc, bèn từ từ quay về phía hồ, lại từ từ ngẩng đầu lên. Chàng thấy ở bờ hồ đối diện, dưới tán hoa đỏ có một thiếu nữ mặc y phục toàn một màu trắng như tuyết, tóc dài xõa ngang vai, đang dùng lược chải hết sức chậm rãi. Nàng còn để chân trần, trên khuôn mặt và mái tóc còn vương những giọt nước.

Nhìn thấy cô gái trong sáng như hạt minh châu, Trần Gia Lạc tim đập rộn lên, thầm nghĩ:

– “Trên đời lại có người đẹp đến thế hay sao?”

Nàng ngồi bên hồ, thư thái tự tại, thanh nhã, trong sáng tuyệt vời, không thể tin là người phàm. Màu áo trắng ánh lên mặt nước, từng cánh hoa rơi xuống tóc nàng, áo nàng, bóng nàng. Bình thường Trần Gia Lạc vẫn tiêu sái tự nhiên, nhưng lúc này không nói được một lời nào cả.

Thiếu nữ kia đưa mắt nhìn chàng, mỉm cười rồi vẫy tay gọi đến gần. Bấy giờ Trần Gia Lạc mới dùng tiếng Hồi nói một câu:

– “Tại hạ đi qua vùng này, trời nóng, cổ rất khát. Đột nhiên trông thấy khe suối trong mát nên tìm đến đây, không ngờ vô ý gặp phải cô nương. Thật là tội lỗi, xin cô nương tha thứ.”

Nói xong, chàng khom người thi lễ. Thiếu nữ nghe chàng nói chuyện phong nhã, lại mỉm cười rồi hát một bài nữa:

– “Người đại ca qua đường, huynh đến từ đâu? Huynh đi qua bao nhiêu sa mạc, bao nhiêu ngọn đồi? Huynh ở trên thảo nguyên này chăn dê hay chăn bò? Hay huynh đang đưa lạc đà, đưa ngựa đi mua bán?”

Trần Gia Lạc biết người Hồi rất thích ca hát, khi nói chuyện họ vẫn thường ứng khẩu mà hát, hễ mở miệng là có âm điệu, nghe rất tự nhiên. Tuy chàng sống ở đại mạc nhiều năm, nhưng chỉ siêng năng rèn luyện võ công mà không học được bản lãnh này. Chàng không biết lai lịch thiếu nữ ra sao, chưa muốn nói cho nàng rõ, bèn đáp:

– “Ta đến từ phía đông, vốn ở vùng quan ngoại buôn bán lạc đà. Hiện ta đang cần tìm một người, muốn hỏi thăm cô nương.”

Thiếu nữ thấy chàng không biết hát, mỉm cười chế giễu rồi hỏi:

– “Huynh tên gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta tên là A Mật Đạt.”

Đó là tên nam nhân thông dụng nhất của người Hồi,

Thiếu nữ cười nói:

– “Cũng được! Nếu thế thì muội tên là Ái Tây Hạn.”

Đây cũng là tên nữ nhân mà người Hồi thường dùng nhất, giống như Vân, Phượng, Trinh, Thục gì gì đó của người Hán vậy.

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh cần tìm ai?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta muốn tìm lão anh hùng Mộc Trác Luân.”

Thiếu nữ mỉm cười, ngạc nhiên hỏi:

– “Huynh quen biết ông ấy hay sao? Huynh cần tìm ông ấy có việc gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta có quen ông ấy. Ta cũng quen biết con trai ông ấy là Hoắc A Y, con gái ông ấy là Hoắc Thanh Đồng.”

Thiếu nữ hỏi:

– “Huynh đã gặp họ ở đâu?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Khi họ đến Trung Nguyên để đoạt lại thánh kinh, ta đã hân hạnh được gặp.”

Thiếu nữ gật đầu:

– “Vậy thì đúng rồi. Huynh ngồi xuống đây để muội đi lấy chút ít thức ăn trước đã!”

Nàng cứ chân đất chạy vào lùm cây, lát sau lấy ra một trái dưa màu xanh ngọc, một chén lớn sữa ngựa hòa với rượu đưa cho chàng. Trần Gia Lạc cảm tạ, uống trước một hớp sữa ngựa, cảm thấy thơm ngon khó tả. Thiếu nữ lại đưa chàng một con dao nhỏ bằng bạc để xẻ dưa ra. Ruột dưa vàng như vải đoạn, cắn vào một miếng thơm ngát cả mồm, ngọt ngào hơn cả mật ong.

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh tìm Mộc Trác Luân lão gia có chuyện gì không?”

Trần Gia Lạc nghe nàng ra vẻ rất tôn kính Mộc Trác Luân, liền hỏi:

– “Lão anh hùng Mộc Trác Luân là người cùng tộc với cô hay sao?”

Thiếu nữ gật đầu. Trần Gia Lạc tiếp:

– “Lúc cái vị đoạt lại thánh kinh đã giết mấy người tiêu sư. Bây giờ bọn chúng định tới tìm Hoắc Thanh Đồng cô nương để trả thù. Ta biết tin này nên đến báo tin, để cô ấy biết đường phòng bị.”

Từ nãy thiếu nữ vẫn mỉm cười, bây giờ mới lộ vẻ lo lắng, bèn hỏi:

– “Người đến trả thù có đông không? Nguy hiểm lắm không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Người thì không nhiều nhưng võ nghệ rất cao. Nếu mình có chuẩn bị trước thì không đáng sợ lắm.”

Thiếu nữ nói:

– “Vậy thì muội lập tức dẫn huynh đi, phải mấy ngày mới tới.”

Nàng vừa chải đầu, thắt bím vừa nói tiếp:

– “Đại quân Mãn Thanh vô duyên vô cớ đánh bộ tộc bọn muội. Nam nhân đều đi đánh trận hết cả rồi. Muội và các tỉ tỉ ở đây chăm sóc gia súc. Thời tiết nóng bức nên muội xuống hồ để tắm, không ngờ ở đây lại có nam nhân.”

Trần Gia Lạc nghe cô gái này nói chuyện thật ngây thơ, hoàn toàn không giấu giếm gì, hơn nữa sắc đẹp lại tuyệt trần. Chàng có nằm mơ cũng không nghĩ được mình sẽ gặp tình cảnh này, giống như không phải chốn nhân gian vậy, chỉ chốc lát đã ngơ ngác si mê.

Thiếu nữ chải xong tóc rồi cầm lấy chiếc sừng trâu, thổi mấy tiếng u u. Lát sau có mấy cô gái Hồi tộc cưỡi ngựa đến. Thiếu nữ bước lên đón họ, nói mấy câu gì đó. Dường như nàng nói là phải dẫn khách đến chỗ Mộc Trác Luân, nhờ họ giúp trông nom gia súc ở đây. Mấy cô gái kia không ngớt liếc nhìn Trần Gia Lạc, có vẻ rất hiếu kỳ.

Thiếu nữ quay về căn lều trong rừng, lấy một ít lương khô và vật dụng, rồi dẫn con ngựa đỏ bước ra. Con ngựa này từ trên xuống dưới một màu nâu đỏ, không lẫn một sợi lông màu khác. Bốn chân của nó rắn chắc vô cùng, hiển nhiên là giống lương câu.

Trần Gia Lạc cũng dẫn con ngựa trắng tới. Thiếu nữ khen:

– “Con ngựa đẹp quá! Chúng ta đi thôi!”

Nàng nhảy lên ngựa, dáng vẻ vô cùng nhẹ nhõm, đi trước dẫn đường, men theo khe suối mà đi về hướng nam.

Lát sau thiếu nữ bỗng hỏi:

– “Khi huynh đi đến chỗ người Hán, người Hán đối xử với huynh có tốt không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Có người tốt, có người xấu, nhưng người tốt thì nhiều hơn.”

Chàng rất muốn nói rõ mình là người Hán, nhưng lúc này cô gái hoàn toàn không chút nghi ngờ, nên chàng không sao nói ra được. Thiếu nữ lại hỏi về phong thổ, tập tục của người Hán, Trần Gia Lạc chọn mấy chuyện vui vui mà kể, nàng hứng thú nghe đến ngơ ngẩn xuất thần.

Một buổi hoàng hôn, hai người đi tới một ngọn núi lớn. Thiếu nữ chợt nghiêng đầu, kinh ngạc la lên. Trần Gia Lạc nhìn theo, thấy trên một vách đá dựng đứng có hai đóa hoa kỳ lạ, lớn bằng cái bát, cánh hoa màu xanh bích. Bốn bề đầy tuyết, giữa tuyết trắng ánh lên màu xanh bích của hoa, lại thêm màu vàng của ánh chiều tà soi vào, diễm lệ sang trọng phi thường, muôn phần kỳ lạ.

Thiếu nữ nói:

– “Đây là loại tuyết liên rất khó gặp. Huynh ngửi mùi hương thử xem.”

Quả nhiên Trần Gia Lạc đã ngửi thấy hương thơm ngọt dịu từ trên vách đá tỏa xuống. Đóa hoa đang cách mặt đất hơn hai mươi trượng mà đã tỏa ngát mùi hương, đủ biết hoa thơm đến mức nào.

Thiếu nữ nhìn mãi hai đóa hoa, dường như quyến luyến không muốn rời khỏi đó. Trần Gia Lạc biết nàng rất thích, bèn nói:

– “Cô nương muốn hái phải không?”

Thiếu nữ thở ra một hơi rồi nói:

– “Đi thôi! Hôm nay chúng ta gặp được tuyết liên, được ngửi mùi hương của nó cũng là có phước lắm rồi.”

Trần Gia Lạc khẽ mỉm cười, đột nhiên tung người rời khỏi yên ngựa, chạy về phía vách núi. Thiếu nữ kinh hãi la lên:

– “Này! Huynh làm gì thế?”

Trần Gia Lạc đã tập trung hết tinh thần vào hai đóa hoa đó, dồn nội lực xuống đan điền, hoàn toàn không nghe nàng gọi. Chàng thật sự không tin chắc khinh công của mình lên được vách đá dựng đứng thế này, nhưng lúc này không tính toán gì đến vấn đề sinh tử cả. Chàng sử dụng cả hai chân hai tay từ từ trèo lên một lúc đã được mười mấy trượng. Trên vách núi này tuyết đã kết thành băng, trơn trượt vô cùng. Chàng đã mấy lần sẩy chân, phải dùng khinh công tuyệt đỉnh chuyển hướng sang bên mới không rơi xuống.

Còn cách hai đóa hoa hơn một trượng, vách núi đột nhiên nghiêng đổ ra ngoài. Phía dưới nhìn không rõ, đến đây mới thấy không thể trườn lên đó được. Trần Gia Lạc nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ đã tới đây rồi mà phải bỏ cuộc hay sao?”

Chàng ngẫm nghĩ giây lát, nảy ra một kế, lấy châu sách trong người ra, nhắm kỹ một tảng đá gồ lên cạnh hai đóa hoa đó, quăng dây buộc lại. Kiếm thuẫn cầm bên tay trái, tay phải dùng sức giật mạnh châu sách, chàng nhảy ra giữa lưng chừng trời, rồi đặt chân chính xác vào kế bên hai đóa tuyết liên, kiếm thuẫn bên tái trái đâm dính vào một tảng băng giữ người lại. Lúc này chàng mới thở ra một hơi, cảm giác hương hoa rất dễ say người. Chàng nhẹ nhàng hái luôn hai đóa hoa, cầm bên tay trái, che trong kiếm thuẫn.

Người bình thường thì xuống núi còn khó khăn nguy hiểm hơn cả lúc trèo lên, nhưng người có võ công thì lại thấy dễ dàng. Chàng cứ men theo vách đá mà tuột xuống, khi tuột quá nhanh thì dùng kiếm thuẫn ấn vào vách đá. Những móc nhọn trên kiếm thuẫn cắm sâu vào những tảng băng cứng, làm đà rơi chậm hẳn lại.

Đến lúc cách mặt đất khoảng ba bốn trượng, chàng chống hai chân vào vách núi rồi phi thân xuống như một con chim lớn, nhẹ nhàng chạm đất ngay trước con ngựa của thiếu nữ. Chàng bỏ kiếm thuẫn và châu sách xuống, mỉm cười rồi hai tay đưa hai đóa tuyết liên ra trước mặt nàng.

Thiếu nữ đưa đôi tay trắng trẻo ra đón lấy. Trần Gia Lạc thấy rõ tay nàng hơi run rẩy, ngẩng lên nhìn thì thấy hai dòng nước mắt như trân châu rơi xuống. Mấy giọt đã rơi lên cánh hoa, nhẹ nhàng lay động óng ánh như những hạt sương mai. Trần Gia Lạc không hiểu vì sao mỹ nhân rơi lệ, nhưng không dám hỏi.

Hai người vẫn im lặng không nói gì, lên ngựa đi một hồi. Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Hôm nay mình giống như điên khùng, thật không hiểu vì sao. Chỉ vì cô gái này thích hoa mà mình bất kể tính mạng đi hái cho nàng.”

Chàng quay đầu lại nhìn vách núi đá thấy nguy nga dựng đứng, khí tượng thâm nghiêm, không sao nén nổi kinh hãi, rồi đột nhiên cảm thấy thân thể lạnh cóng. Thì ra lúc nãy trèo lên vách núi, mồ hôi tuôn ra đầm đìa ướt đẫm quần áo, bây giờ mồ hôi đã đóng thành băng. Tay chân chàng cũng mệt mỏi rã rời.

Trong vẻ đẹp của thiếu nữ này hình như ẩn giấu một sức mạnh thần kỳ, có thể bắt người ta tan xương nát thịt, chết không hối hận vì nàng.

Trời tối, hai người nghĩ lại trên một tảng đá lớn bên sông. Thiếu nữ nổi lửa lên, nướng thịt dê khô mang theo, cắt ra cùng ăn với Trần Gia Lạc. Nàng vẫn không nói chuyện gì, Trần Gia Lạc cũng không dám mở miệng. Chàng sợ lời nói sẽ làm ô uế mất tình cảnh thanh khiết này.

Thiếu nữ im lặng nhìn chàng ta một lúc, rồi đột nhiên chạy xa mấy chục bước, nằm rạp xuống thành khẩn cầu xin gì đấy. Ánh lửa nhảy múa trên tấm lưng thon thả, bốn bề vắng lặng, chỉ có hương thơm của tuyết liên âm thầm bay tới.

Thiếu nữ đứng dậy, mặt cười rạng rỡ. Nàng quay lại rồi hỏi:

– “Huynh không sợ ngã chết hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Lúc đó ta không sợ ngã chết, chỉ sợ không hái được đóa hoa mà cô nương thích.”

Thiếu nữ mỉm cười, trao một đóa tuyết liên cho chàng rồi bảo:

– “Đóa này của huynh.”

Trần Gia Lạc định từ chối, nhưng mỗi câu nói dịu dàng uyển chuyển của cô gái này lại như một mệnh lệnh nghiêm khắc, khiến cho người ta không thể nào kháng cự được. Chàng đón lấy đóa hoa, thầm nghĩ:

– “Nếu huynh đệ Hồng Hoa Hội thấy tổng đà chủ ngoan ngoãn vâng lời đàn bà con gái, không biết họ sẽ nghĩ sao?”

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh đã học võ công phải không? Sao huynh lại có thể trèo lên vách núi cao như thế?”

Trần Gia Lạc nghe cách hỏi thì biết nàng hoàn toàn không hiểu võ công, không nhìn ra khinh công thượng thừa của mình. Chàng bèn đáp:

– “Thật ra cũng không khó, chỉ cần có can đảm là hái được.”

Thiếu nữ không biết đây là lời khiêm nhường, ngẫm nghĩ một lát rồi khen:

– “Huynh thật là dũng cảm.”

Nàng kể cho chàng biết, từ nhỏ mình đã chăn dê trên thảo nguyên này, rất yêu hoa cỏ. Nàng còn nói:

– “Trên thảo nguyên có rất nhiều loại hoa đẹp. Mỗi khi nhìn chúng, muội lại tưởng những đóa hoa đó từ trên trời rơi xuống. Muội có thể nhịn ăn thịt dê nhưng không thể nhịn ăn hoa.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Hoa cũng ăn được hay sao?”

Thiếu nữ đáp:

– “Đương nhiên là được, từ nhỏ muội đã ăn rồi. Gia gia và ca ca vốn không cho phép nhưng khi muội đi ra ngoài chăn dê một mình thì họ không quản thúc được. Sau này thấy muội ăn hoa không có hại gì, họ không lo nữa.”

Trần Gia Lạc định nói:

– “Có lẽ vì thế mà cô xinh đẹp như một đóa hoa vậy.”

Nhưng câu nói này vừa đến cửa miệng đã bị nuốt vào, không nói ra nữa. Ngồi bên thiếu nữ, chàng cảm thấy từng đợt hương thơm thanh khiết phát xuất từ thân thể nàng. Đó không phải là hương của tuyết liên, cũng không phải là hương của bất cứ loài hoa nào trên thế gian này. Mùi hương đó thanh nhã vô cùng, ngọt ngào khó nói. Trong lòng chàng nghĩ:

– “Không biết nàng dùng loại phấn son gì mà thơm đến thế? Trên thế gian này có loại phấn son nào mà hương thơm thanh nhã, dịu dàng như vậy hay không?”

Trong lúc thần hồn điên đảo, đột nhiên chàng nghĩ đến lễ giáo, bất giác ngồi dịch ra xa một chút.

Thiếu nữ cũng biết chàng đang thưởng thức mùi thơm, bèn mỉm cười mà nói:

– “Chắc huynh nghĩ rằng vì muội thích ăn hoa nên từ nhỏ đã có mùi hương như vậy. Huynh có thích không?”

Trần Gia Lạc bị câu hỏi này làm đỏ mặt tía tai, không biết nói gì. Hồi lâu chàng nhìn thẳng nàng mà đáp:

– “Ta rất thích.”

Thiếu nữ ra vẻ cao hứng, nụ cười càng vui vẻ. Trần Gia Lạc cũng ngẩng lên cười, nghĩ bụng:

– “Cô nương này ngây thơ vô cùng, tấm lòng thẳng thắn. Nếu mình đối xử với cô bằng kiểu thế tục bình thường thì thật sự không quang minh lỗi lạc chút nào.”

Chàng hết hẳn khách sáo, nói chuyện với nàng một cách tự nhiên.

Thiếu nữ huyên thuyên không dứt về những câu chuyện chăn cừu chăn dê trên thảo nguyên, hái hoa, đếm sao, tìm cỏ, nhưng trò chơi với bạn gái. Từ khi rời khỏi nhà Trần Gia Lạc chỉ lấy đao thương quyền cước làm bạn, đối với những chuyện trẻ con đã quên sạch cả rồi. Bây giờ nghe nàng nhắc đến, thật sự chàng không biết giữa hai người thì ai mới không phải là người của thế gian này.

Thiếu nữ kia nói một hồi, rồi ngẩng đầu nhìn lên trời. Con sông bạc dài vô tận đang bắc ngang bầu trời, hai ngôi sao Ngưu Lang, Chức Nữ đối diện nhau ở hai bên dải ngân hà.

Trần Gia Lạc chỉ ngôi sao Chức Nữ mà nói:

– “Đây là một vị cô nương.”

Chàng lại chỉ vào sao Ngưu Lang:

– “Còn đây là ý trung nhân của cô ấy.”

Thiếu nữ cảm thấy thú vị, bèn giục:

– “Huynh kể câu chuyện đó cho muội nghe đi.”

Trần Gia Lạc bèn kể câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ cho nàng nghe. Thiếu nữ nghe xong, ngẩng mặt nhìn lên sông ngân hà, thấy hai ngôi sao cách một dòng sông không thể gặp nhau, bèn mơ màng nói:

– “Trước đây mỗi lần muội nhìn chim ô thước chỉ thấy đen thui chẳng đẹp đẽ gì, không thích chút nào. Nào ngờ loại quạ đó lại tốt như thế, biết bắc cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Sau này muội sẽ cho bọn ô thước ăn nhiều thứ hơn.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Hai vị tiên đó trên trời tuy rằng một năm chỉ gặp nhau một lần, nhưng hàng ngàn hàng vạn năm sau vẫn còn có thể gặp nhau. Đối với người phàm chỉ mấy chục năm đã phải chết đi, họ còn khoái lạc hơn nhiềi.”

Thiếu nữ gật đầu một cái. Trần Gia Lạc lại nói tiếp:

– “Có một thi nhân người Hán đã làm một bài ca nói đến chuyện này.”

Chàng bèn dịch bài ca “Tước kiều tiên” thành tiếng Hồi, đọc cho nàng nghe.

Nghe xong bài thơ, trong mắt người thiếu nữ óng ánh mấy giọt lệ, im lặng không nói lời nào, mãi nhìn vào ánh lửa. Hồi lâu nàng mới khẽ nói:

– “Người Hán thật là thông minh, có thể viết nên những ca từ đẹp đẽ đến thế.”

Ở vùng đại mạc này, hễ đêm đến là khí hậu lạnh một cách kỳ lạ. Trần Gia Lạc tìm mấy cánh cây khô đốt cho ngọn lửa bừng lên, rồi mỗi người tự chui vào chăn mà ngủ. Họ nằm cách nhau rất xa, nhưng trong mơ Trần Gia Lạc vẫn phảng phất ngửi thấy hương thơm dịu ngọt trên người thiếu nữ kia.

Sáng hôm sau, họ lại đi tiếp. Họ đi về phía tây bốn ngày trời, đã đến sông Thác Lý Mộc. Chiều hôm đó, đột nhiên từ phía nam xuất hiện hai người Hồi cưỡi ngựa cầm đao. Thiếu nữ chạy lên đón họ, nói chuyện mấy câu. Hai người Hồi thi lễ lui ra, thiếu nữ chạy về nói với Trần Gia Lạc:

– “Bọn lính Mãn Thanh đã chiếm A Khắc Tô và Ô Thập. Lão anh hùng Mộc Trác Luân đã lùi về Diệp Nhĩ Khương. Từ đây về đó phải mất mười ngày đường nữa.”

Trần Gia Lạc nghe quân Thanh thắng trận, ra vẻ lo âu. Thiếu nữ bèn nói:

– “Hai vị đại ca đó vừa nói Thanh binh đông người, chúng ta phải lùi về phía tây để chúng tiếp tế lương thảo không tiện. Trong vùng đại mạc Qua Bích này, hễ bị đói là không còn sức đánh nhau nữa.”

Trần Gia Lạc vốn mãi lo lắng chuyện an nguy của Hoắc Thanh Đồng, nghe vậy bèn nghĩ:

– “Người Hồi lùi về phía tây, chắc chắn quân Thanh nhất thời không làm gì được. Khi sắc lệnh đình chiến của Càn Long truyền đến, Triệu Tuệ nhất định phải lui binh. Bây giờ Hoắc Thanh Đồng đã xa trung thổ hàng vạn dặm, lại ở trong vòng bảo vệ của quân binh, chắc chắn không sợ ba người bọn Tất Nhất Lôi đến trả thù.”

Chàng lập tức cảm thấy yên lòng.

Hai người cứ ngày đi đêm nghỉ, cười nói không dừng, càng ngày càng thân mật hơn. Dường như Trần Gia Lạc nảy ra mong muốn, tốt nhất là con đường này vĩnh viễn không có tận cùng, cứ đi như thế hết cả kiếp người. Nhưng chàng không dám suy nghĩ tiếp vì khi trong lòng vừa xuất hiện ý niệm đó, chàng liếc nhìn qua cô gái trong trắng ngây thơ kia, lập tức có cảm giác hổ thẹn vì mình chỉ là phàm phu tục tử. Được đi chung với thần tiên vài ngày cũng là có phước lắm rồi, sao còn dám mong cầu gì khác?

Xế chiều hôm ấy, khi mặt trời sắp sửa khuất, sau thảo nguyên nơi cuối trời, đột nhiên nghe “soạt” một tiếng, một con nai nhỏ từ giữa rừng cây nhảy ra. Thiếu nữ hoảng sợ giật mình một cái, rồi vỗ tay mỉm cười la lên:

– “Nai nhỏ, nai nhỏ ơi!”

Con nai vừa mới lọt lòng chưa được bao lâu còn rất yếu đuối, chỉ kêu hai tiếng “be be”

rồi chạy vào một lùm cây. Thiếu nữ đưa mắt nhìn theo rồi đột nhiên lui lại, khẽ nói:

– “Bên đó có người.”

Trần Gia Lạc nhìn về hướng lùm cây, thấy mấy tên lính Thanh đang xúm lại làm thịt một con nai lớn. Con nai nhỏ chạy qua chạy lại xung quanh, không ngừng kêu lên thảm thiết. Chắc con nai lớn đang bị làm thịt là mẹ của nó.

Một tên lính la lên:

– “Con mẹ nó! Lão gia phải ăn thịt cả ngươi.”

Hắn đứng dậy, giương cung lắp tên nhắm con nai nhỏ toan bắn. Con nai nhỏ không biết chạy trốn, lại còn chạy đến gần hơn. Thiếu nữ kinh hãi la lên một tiếng, từ trong lùm cây chạy ra cản trước mặt con nai nhỏ, kêu to:

– “Đừng bắn, đừng bắn!”

Tên lính Thanh giật mình, rồi khi nhìn rõ thiếu nữ đó diễm lệ phi thường, hắn không tự chủ được phải lùi một bước. Bốn tên lính Thanh còn lại cũng đứng dậy hết. Lúc này Trần Gia Lạc cũng đã nhảy ra đứng bên thiếu nữ để bảo vệ.

Thiếu nữ ẵm con nai nhỏ lên, vuốt ve bộ lông mềm mại của nó, dịu dàng nói:

– “Mẹ của ngươi bị người ta bắn chết rồi, đáng thương quá.”

Nàng nghiêng đầu hôn vào con nai nhỏ, nhìn bọn lính Thanh một cách giận dữ rồi quay đi khỏi lùm cây. Năm tên lính Thanh trao đổi mấy câu rồi đột nhiên hô vang lên, xách đao đuổi theo. Thiếu nữ rảo bước đến chỗ ngựa. Một tên ra hiệu lệnh, cả năm lập tức chia ra bao vây.

Trần Gia Lạc bèn kéo tay thiếu nữ mà nói:

– “Đừng sợ! Để ta đánh chết bọn xấu xa này trả thù cho mẹ của con nai.”

Lúc này thiếu nữ đã hoàn toàn tin tưởng nơi chàng. Nghĩ rằng một người đối phó với năm người chắc không phải dễ nhưng nghe nói như vậy nàng không hoài nghi gì nữa, ôm lấy con nai nhỏ mà đứng tựa vào chàng. Trần Gia Lạc cũng đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve con nai.

Năm tên lính Thanh đã đuổi tới, bao vây bốn phía. Tên chỉ huy dùng tiếng Hồi lơ lớ mà quát hỏi:

– “Làm gì vậy? Qua đây!”

Thiếu nữ ngẩng đầu nhìn Trần Gia Lạc, Trần Gia Lạc cũng mỉm cười với nàng. Nàng cũng mỉm cười đáp lại, lập tức khoan khoái cả lòng, thầm nghĩ:

– “Chàng mỉm cười, vậy thì bọn Thanh binh đó chắc chắn không đáng sợ.”

Tên chỉ huy kêu lên:

– “Bắt lấy hắn!”

Bốn tên lính Thanh liền giương binh khí lên, phóng tới. Đám lính này bình thường rất thích bức hiếp phụ nữ, nhưng thấy dung mạo và ánh mắt thần tiên của thiếu nữ này lại không dám xúc phạm, cả bốn đều nhào tới Trần Gia Lạc. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên, nhưng kêu chưa dứt đã nghe “bịch bịch” mấy tiếng, bốn tên lính Thanh bay ngược ra sau. Chúng té lăn ra đất, ú ớ không bò dậy nổi thì ra đã bị điểm huyệt.

Tên chỉ huy thấy tình hình không ổn, quay người định chạy. Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Quay lại đây!”

Chàng quăng châu sách ra, quấn cổ hắn giật lại. Tên chỉ huy lộn đi hai vòng, lăn về trước mặt chàng. Thiếu nữ vỗ tay mỉm cười, ánh mắt lộ vẻ kính phục vô cùng.

Trần Gia Lạc dắt tay nàng đến ngồi trên tảng đá, dùng tiếng Hồi mà hỏi:

– “Sao các ngươi đến đây?”

Tên chỉ huy cố lắm mới bò dậy được, nhìn thấy bốn tên thuộc hạ đều nằm dưới đất không cục cụa. Hắn biết hôm nay đã gặp phải sát tinh, không dám cứng đầu bèn nói:

– “Bọn tại hạ là tiểu tốt của Triệu Tuệ tướng quân. Thượng cấp bảo đi đâu là phải đi tới đó.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chuyện này không sai.”

Chàng hỏi tiếp:

– “Bọn ngươi đang đi đâu? Ngươi không nói thật thì ta không thả ngươi, cũng không cứu chữa, để bọn ngươi đói khát mà chết trong sa mạc.”

Tên chỉ huy nghe vậy run rẩy cả người, vội đáp:

– “Tiểu nhân không dám giấu. Cấp trên sai đi Tinh Tinh Hiệp đón người.”

Hắn nói tiếng Hồi ấp úng không thành câu cú, nghe không rõ ràng gì cả. Trần Gia Lạc bèn dùng tiếng hán để hỏi:

– “Đi đón ai?”

Hắn cũng dùng tiếng Hán trả lời:

– “Đi đón một vị tướng lĩnh của Kiêu Kỵ Doang.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Hắn tên gì? Ngươi đưa cho ta xem.”

Tên chỉ huy chần chừ một lúc, rồi lấy trong người ra một tờ công văn. Trần Gia Lạc vừa liếc qua đã giật mình. Ngoài bì công văn có ghi:

– “Gửi Trương Triệu Trọng đại nhân.”

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Sau trận chiến trên Sư Tử phong ở Hàng Châu, Trương Triệu Trọng đã bị sư huynh bắt về quản thúc, sao lại đến Hồi Cương này được?”

Chàng bèn tiện tay xé bì thư ra. Tên chỉ huy muốn cản trở, nhưng Trần Gia Lạc mặc kệ, vẫn rút công văn ra xem.

Công văn viết:

– “Đã biết Trương đại nhân phụng chỉ đi đến Hồi Cương, thật là an ủi vô cùng, vội phái người đi đón tiếp.”

Bên dưới ký tên Triệu Tuệ.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Trương Triệu Trọng phụng mệnh đến đây, tức là có mang theo sắc lệnh triệu tập binh lính. Nếu vậy ta không nên cản trở.”

Chàng bèn trả lại công văn, giải huyệt cho bốn tên lính, không nói gì nữa, cùng thiếu nữ lên ngựa đi ngay.

Thiếu nữ mỉm cười nói:

– “Huynh giỏi quá. Người như huynh ở trong Hồi tộc phải rất nổi danh. Tại sao trước nay muội chưa từng nghe nói?”

Trần Gia Lạc mỉm cười, nói sang chuyện khác:

– “Con nai nhỏ nhất định đã đói rồi, cô nương phải cho nó ăn gì chứ?”

Thiếu nữ nói:

– “Không sai, không sai!”

Nàng tháo túi da, đổ một ít sữa ngựa vào trong lòng bàn tay cho con nai liếm. Lòng bàn tay nàng trắng trẻo, ửng hồng, trông như một cái chén bạch ngọc đựng sữa ngựa.

Con nai nhỏ uống mấy miếng, rồi lại kêu “be be.”

Thiếu nữ nói:

– “Chắc là nó đang gọi mẹ.”

Hồi 14: Vũ hội trao duyên quàng dây gấm – Hồ cát tận tình nghĩa đệ huynh

Hai người lại đi thêm sáu ngày. Đến sáng sớm ngày thứ bảy, đi chưa bao lâu đã thấy xa xa đã thấy sương mù dầy đặc bốc lên tới lưng chừng trời.

Trần Gia Lạc nói:

– “Cuồng phong sắp đến rồi.”

Thiếu nữ nhìn kỹ một lúc rồi nói:

– “Đó không phải là mây đen, mà là cát bụi dưới đất.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao lại nhiều cát bụi đến thế?”

Thiếu nữ nói:

– “Muội cũng không biết. Chúng ta đến đó thử xem.”

Hai người giục ngựa phóng nhanh về phía đó. Đi được một lúc cát bụi càng mù mịt hơn, lại nghe thấy tiếng trống chiêng văng vẳng truyền tới. Trần Gia Lạc giật mình, vội vã thắng ngựa lại nói:

– “Đó là quân binh. Cô nương nghe kỹ xem.”

Trong chốc lát đã nghe thấy tiếng truyền hiệu lệnh, trống chiêng vang như sấm sét. Trần Gia Lạc lớn tiếng hô:

– “Hai bên sắp sửa đại chiến rồi. Chúng ta mau mau tránh khỏi đây đi.”

Hai người giục ngựa chạy nhanh, nhưng chẳng bao lâu phía trước cũng có một đám bụi bay lên. Một đội kỵ mã chạy thẳng tới, nghe có tiếng thiết giáp khua lẻng kẻng. Trong đám bụi xuất hiện một lá cờ lớn, viết một chữ Triệu rất lớn.

Trần Gia Lạc ở bắc Hoàng Hà đã từng giao đấu với đội quân thiết giáp của Triệu Tuệ, biết mùi lợi hại nên đưa tay ra hiệu, cho ngựa chạy về hướng nam. May mà cả hai con ngựa đều chạy rất nhanh lên chỉ mấy chốc lát đã cách xa đội quân này.

Thiếu nữ ra vẻ lo âu hỏi:

– “Không biết quân của chúng ta có địch nổi hay không?”

Trần Gia Lạc đang muốn nói vài lời an ủi, thì đột nhiên phía trước quân hiệu cũng vang lên. Từng dãy bộ binh hàng ngũ chỉnh tề đang bước tới. Rồi phía trái cũng có tiếng chiêng trống rộn ràng. Mặt đất rung lên dưới mấy chục ngàn vó ngựa gõ đều. Kỵ binh tràn ngập cả một vùng hoang dã. Trần Gia Lạc đưa tay trái đỡ thiếu nữ qua ngồi chung ngựa với mình. Lấy kiếm thuẫn ra che trước ngực, lên tiếng:

– “Cô nương đừng sợ!”

Thiếu nữ quay đầu lại, gật đầu mỉm cười nói:

– “Huynh bảo không sợ thì muội không sợ đâu.”

Hơi thở của nàng thơm dịu như hoa lan, Trần Gia Lạc ngồi sát nàng, không khỏi say đắm vì mùi hương đó. Tuy chàng đang ở giữa vòng vây trùng điệp, nhưng trong lòng vẫn sinh tình ý triền miên.

Chàng thấy ở ba mặt đông, bắc, nam đều có quân lính, liên cho ngựa chạy về hướng tây. Thiếu nữ vẫn ôm lấy con nai nhỏ, con ngựa hồng chạy theo sau. Chạy được một lúc, đột nhiên lại thấy một đám lính Thanh bày thành đội ngũ đi qua đi lại như đang dàn trận, cả bốn phía đều không còn đường để đi nữa.

Trần Gia Lạc thầm kinh hãi, phi ngựa lên đồi cao, muốn nhìn rõ tình hình chiến sự rồi mới tìm chỗ sơ hở mà chạy ra ngoài. Chàng càng nhìn càng ngơ ngác. Phía tây thì xếp đầy bộ binh Mãn Thanh, hai cánh lại là kỵ binh. Xa xa phía đối diện là người Hồi tộc mặc quân phục có hoa văn đan dọc. Trường thương dựng như khu rừng, đơn đao nhiều như cây cỏ, thanh thế thật là dữ dội. Hai bên đã bày trận xong xuôi, có lẽ chỉ trong chốc lát là khởi sự giao tranh.

Thì ra Trần Gia Lạc và thiếu nữ đã lọt vào giữa trận địa quân Thanh. Trong trận có mấy tên tướng tá cưỡi trên lưng ngựa, chạy qua chạy lại chỉ huy. Hàng ngàn quân sĩ đều im lặng, không có một tiếng động nào. Lúc này quân Thanh đã phát hiện hai người lạ, có mấy tên phụng mệnh chạy đến điều tra.

Trần Gia Lạc nghĩ thầm:

– “Hôm nay ma xui quỉ khiến thế nào mà ta lại lọt vào giữa trận của bọn nhà Thanh. Cái mạng này mất ở đây hay sao?”

Nghĩ đến chuyện sắp được chết cùng cô nương đang ngồi trong vòng tay của mình, trên miệng chàng bỗng nở một nụ cười. Tay phải cầm châu sách, tay trái nắm lấy dây cương, đột nhiên chàng la lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Hai chân Trần Gia Lạc kẹp chập vào bụng ngựa, thúc ngựa phi nhanh như tên thẳng về phía trước. Đám lính Thanh chưa kịp quát hỏi thì con ngựa trắng đã chạy qua mặt chúng rồi.

Con ngựa này chạy nhanh như chớp chốc lát đã vượt qua ba đội quân Thanh. Trần Gia Lạc chưa kịp mừng, nó bỗng dừng vó lại. Trước mặt là đội quân thiết giáp xếp chặt, không sao chạy xuyên qua được.

Trần Gia Lạc nín thở, quay đầu ngựa chạy vòng qua đội quân thiết giáp, bỗng thấy bọn cung tiễn thì đang giương cung lắp tên, lại còn vô số trường mâu đang chĩa lên trời. Quân lính xếp sát ken đặc, không rõ đông tới bao nhiêu. Chỉ cần tướng quân ra lệnh, hàng ngàn trường mâu và hàng ngàn mũi tên sẽ nhằm Trần Gia Lạc và thiếu nữ bắn tới, dù bản lĩnh bằng trời cũng không thoát được.

Trần Gia Lạc bèn dứt khoát hãm ngựa lại, từ từ đi tới. Chàng ngồi thẳng lưng, không thèm nhìn bọn lính nhà Thanh nữa, bỏ chuyện sinh tử ra ngoài suy nghĩ của mình.

Lúc đó mặt trời vừa ló lên. Hai người đi chậm rãi về phía mặt trời mọc. Trên tóc thiếu nữ, trên mặt, trên tay, trên áo đều óng ánh nắng mai. Mấy vạn cặp mắt của quan binh nhà Thanh đều chăm chú nhìn nàng đến xuất thần, mấy vạn con tim đập loạn trong lồng ngực. Bất kể là võ quan hay binh sĩ đều ngẩn ra trước vẻ đẹp của nàng. Mấy vạn nhân mã cung đã lắp tên đều thúc thủ, không ai ban hiệu lệnh, dường như tất cả đã bị trúng tà, người nào cũng ngơ ngác đứng yên.

Nghe xoảng một tiếng, một cây trường mâu rơi xuống đất. Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng liên hồi, trường mâu hạ xuống hàng loạt. Bọn cung tiễn thủ cũng buông lỏng dây cung, nhìn theo hai người từ từ đi xa dần.

Tướng quân Triệu Tuệ đứng đầu đội quân Thanh cũng ngơ ngác nhìn theo người thiếu nữ vừa đi khuất. Hình như trước mắt hắn vẫn còn bóng dánh của nàng, trong lòng bỗng thấy hòa bình yên tĩnh, không muốn chém giết nữa. Quay đầu nhìn lại, hắn thấy hết thảy đô thống, phó đô thống, tham tướng, đội trưởng, quân sĩ của mình người nào thần sắc cũng hiền hòa, tra đao vào vỏ để đợi chủ soái hạ lệnh thu binh.

Triệu Tuệ không tự chủ được, hô lớn:

– “Thu binh hạ trại!”

Lệnh vừa ban xuống, mấy vạn bộ binh, kỵ binh đã cuồn cuộn lùi ra chừng vài chục dặm, dừng lại lập doang trại bên sông Hắc Thủy. Trần Gia Lạc thoát được phen này, mồ hôi lạnh ướt đẫm cả người, hai tay run rẩy. Còn thiếu nữ thần sắc vẫn tự nhiên, không biết mình vừa trải qua nguy hiểm chín phần chết một phần sống (thập tử nhất sinh). Nàng giao lại con nai nhỏ trong lòng cho Trần Gia Lạc, tung người nhảy lên lưng con ngựa hồng, mỉm cười nói:

– “Phía trước là đội ngũ của chúng ta rồi.”

Trần Gia Lạc cất kiếm thuẫn, hai người đi về phía trận địa người Hồi. Một nhóm kỵ binh Hồi tộc vừa chạy ra đón vừa hoan hô vang dội. Sắp tới nơi, mọi người đều nhảy xuống ngựa, thi lễ với thiếu nữ. Nàng nói mấy câu, đội trưởng đội kỵ binh liền đến trước mặt Trần Gia Lạc thi lễ rồi nói:

– “Huynh đài vất vả quá. Cầu nguyện thánh A-la phù hộ cho huynh đài.”

Trần Gia Lạc vội vàng đáp lễ. Thiếu nữ đưa tay tạm biệt chàng, rồi giục ngựa chạy vào trong trận. Hình như nàng có địa vị rất cao trong Hồi tộc, con ngựa hồng đi đến đâu thì tiếng hoan hô nổi lên đến đó. Đội trương kỵ binh mời Trần Gia Lạc vào doanh trại, nghỉ ngơi rồi ăn cơm. Trần Gia Lạc xin gặp Mộc Trác Luân, y bèn nói:

– “Tộc trưởng đã ra ngoài xem xét tình hình quân địch rồi. Khi ông ấy trở về, bọn tại hạ sẽ báo cho huynh đài biết ngay.”

Trần Gia Lạc đi đường mệt mỏi, lại trải qua một phen nguy hiểm khác thường, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Chàng lập tức ngủ thiếp đi trong doanh trại. Hết giờ ngọ, đội trưởng kỵ binh vào nói Mộc Trác Luân phải chiều tối mới trở về. Trần Gia Lạc hỏi thiếu nữ mặc áo trắng là ai, đội trưởng kỵ binh chỉ cười nói:

– “Ngoài cô ấy ra thì còn ai diễm lệ như thế được? Tối nay có đại hội Ô Lang, mời huynh đến.”

Một hồi kèn lại vang lên, ba đội chiến sĩ đi thành hàng ngũ ra ngoài. Người nào cũng tay trái dẫn ngựa, tay phải nắm trường đao. Hoắc A Y ngồi trên chiến mã dẫn đầu, hô lớn:

– “Mong thánh A-la phù hộ cho đêm nay các bạn được đoàn tụ với vị cô nương mà mình yêu.”

Bọn chiến sĩ thanh niên đồng thanh hô lớn:

– “Thánh A-la phù hộ! Đa tạ các huynh đài đã mệt mỏi chống đỡ với cường địch.”

Hoắc A Y vung trường đao một cái, dẫn ba đội chiến sĩ ra ngoài canh gác. Trần Gia Lạc thấy người Hồi điều động rất có phương pháp, bố trí trận mạc rất nghiêm, nên thầm khen ngợi và cảm thấy yên tâm. Chàng đã ở Hồi Cương lâu năm, biết chuyện hôn nhân của người Hồi phần lớn do cha mẹ quyết định, và cũng do tài sản, địa vị chi phối, nhưng so với lễ giáo của người Hán thì thoáng hơn rất nhiều. Đại hội Ôi Lang của người Hồi đã có từ xưa. Trong đại hội này, thanh niên nam nữ chưa thành thân có thể gặp gỡ và tự mình đính hôn.

Hai chữ Ôi Lang có nghĩa là người thiếu nữ đi tới chỗ người tình, khoác cho một sợi dây gấm lên cổ, dắt tay ra cùng nhảy múa để xác định việc chung thân. Việc này do bên nữ chủ động, đúng là “Hoàng cầu phụng” chứ không phải là “Phụng cầu hoàng” nữa.

Không bao lâu, tiếng nhạc đột nhiên thay đổi, khúc nhạc chuyển từ rộn rã thành êm dịu hơn. Cửa một chiếc lều được mở ra, một nhóm thiếu nữ người Hồi tộc chạy ra, áo quần xinh tươi đẹp đẽ, đội nón nhỏ dệt sợi vàng sợi bạc phát ra ánh sáng. Họ vừa ca hát, vừa nhảy múa, chạy đến bên đống lửa.

Trần Gia Lạc đột nhiên rùng mình một cái, thấy hai thiếu nữ sánh vai nhau đi tới chỗ Mộc Trác Luân. Một cô áo vàng, một cô áo trắng, tay nắm chặt tay đầy vẻ thân thiện. Người áo trắng chính là thiếu nữ đã cùng quay về Hồi tộc với chàng. Còn người áo vàng thì trên nón có cắm một cọng lông vũ, chính là Hoắc Thanh Đồng. Dưới ánh trăng, cả hai trông đều yểu diệu, kiêu sa. Hai người đến ngồi hai bên trái phải Trác Mộc Luân.

Trần Gia Lạc bỗng nghĩ:

– “Chẳng lẽ cô nương áo trắng này chính là tiểu muội của Hoắc Thanh Đồng hay sao?”

Chàng đỏ mặt, lòng bàn tay ướt đẫm, tim cũng đập loạn xạ. Từ lúc chàng gặp gỡ Hoắc Thanh Đồng, tình ý đã chớm nở rồi, nhưng thấy nàng thân mật với đồ đệ của Lục Phi Thanh lên cho rằng nàng đã có người yêu. Hơn nữa, người thiếu niên kia tuấn tú hơn nhiều, mình không sánh kịp. Chàng nửa tự kiêu nửa tự ti, cố gắng không nghĩ tới nàng nữa.

Mấy hôm nay chàng lại được kề cận với một thiếu nữ tuyệt sắc, thì ra tình ý đã lay động và chuyển sang thiếu nữ áo trắng này rồi. Lúc này đồng thời nhìn thấy cả hai chị em, chàng không nén nổi vừa mơ màng vừa hoảng hốt.

Tiếng nhạc dừng lại, Mộc Trác Luân nói chậm rãi:

– “Thánh Muslim đã ban kinh Koran để dạy dỗ chúng ta. Tiết 120 chương 2 có nói:

– Các ngươi phải chủ động chống trả người tiến công các ngươi. Tiết 29 chương 32 cũng nói:

– Người bị tấn công thì phải chống trả. Vì họ bị thiệt thòi, thánh A-la sẽ giúp đỡ họ. Chúng ta đã bih ức hiếp, nhất định thánh A-la sẽ phù hộ chúng ta.”

Toàn bộ người Hồi hoan hô hưởng ứng. Mộc Trác Luân cười rồi nói lớn:

– “Các vị huynh đệ tỉ muội, hãy vui vẻ cho thỏa sức đi.”

Tiếng đàn tiếng hát vang lên rộn rã khắp một vùng. Những người lo việc bếp núc đã đem cơm nắm, thịt nướng, dưa lê, nho khô và rượu sữa ngựa ra phân phát. Mỗi người đều cầm một cái chén nhỏ tạc bằng đá lửa đựng rượu sữa ngựa, lấy thịt nướng chấm vào trong chén mà ăn.

Khi trăng lưỡi liềm đã lên cao, không khí lại càng náo nhiệt. Các thiếu nữ ra nhảy múa xung quanh đống lửa; sau đó nhảy đến bên người mà mình ưa thích, tháo sợi dây gấm trên lưng mình choàng qua cổ chàng rồi dẫn chàng ra. Càng lúc càng có thêm nhiều đôi nam nữ bước ra ca hát xung quanh đống lửa này.

Trần Gia Lạc xuất thâm trong một gia đính nghiêm thủ lễ giáo, trước nay chưa từng gặp cảnh tượng nào phóng khoáng như thế này. Tiếng ca hát đầy tai, nỗi phấn khích say lòng. Chàng uống cạn chén rượu sữa ngựa mặt đã hơi đỏ, thật sự vui vẻ vô cùng.

Đột nhiên tiếng nhạc dừng lại, sau đó lại vang lên, nhưng lần này tiết tấu gấp rút hơn. Những đôi nam nữ đang hát múa đều nắm tay nhau, tản ra khắp nơi. Mặt họ lộ vẻ kỳ lạ, đều nhìn về phía Mộc Trác Luân. Trần Gia Lạc cũng nhìn theo ánh mắt của họ, thấy thiếu nữ áo trắng đang tiến ra, nhẹ nhàng đi về phía đống lửa.

Tất cả người Hồi đều vô cùng hưng phấn, xì xào bàn tán. Trần Gia Lạc nghe người đội trưởng kỵ binh đứng bên khẽ nói:

– “Hương Hương công chúa của chúng ta cũng có người yêu rồi. Không biết ai xứng đáng với nàng đây?”

Mộc Trác Luân thấy cô con gái yêu cũng đứng dậy, ông vừa bất ngờ vừa vui sướng, cảm động giương mắt lên nhìn. Hoắc Thanh Đồng cũng chưa biết em gái mình đã có người yêu, nên vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Em gái nàng là Hoắc Kha Tu Lệ, chỉ mới mười tám tuổi mà vẻ diễm lệ đã nổi danh khắp nam bắc Thiên Sơn. Thân thể nàng lại tỏa ra mùi hương thiên nhiên thanh khiết nhẹ nhàng, nên mọi người đều gọi nàng là Hương Hương công chúa. Thanh niên Hồi tộc mỗi khi nhìn thấy dung nhan tuyệt trần đó đều không dám nhìn lâu, chưa ai mơ tưởng mình sẽ trở thành tình lang của nàng. Bây giờ họ đột nhiên thấy nàng rời khỏi chỗ ngồi, tham gia ca múa, đúng là sự kiện rất lớn trong Hồi tộc.

Hương Hương công chúa nhẹ nhàng xoay chuyển mấy vòng, rồi từ từ rời khỏi đống lửa, vủa múa vừa đi. Nàng cầm một sợi dây gấm óng ánh sang trọng, miệng khe khẽ hát:

– “Ai đã giúp muội hái đóa tuyết liên, huynh nhanh chóng ra đi! Ai đã cứu con nai nhỏ cho muội, muội đang tìm huynh đấy.”

Trần Gia Lạc nghe mà ù cả tai, ngẩn ngơ ngồi đó. Đột nhiên một cánh tay trắng muốt nhỏ xinh khoát qua vai chàng, sợi dây gấm đã quành qua cổ chàng, nhẹ nhàng kéo chàng dậy. Trần Gia Lạc mơ hồ đứng dậy bước theo. Tất cả người Hồ đều hoan hô nhiệt liệt, cất cao tiếng hát. Tất cả các đôi nam nữ khác đều ùa tới chúc mừng.

Dưới ánh trăng mông lung, Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng chưa nhìn rõ diện mạo Trần Gia Lạc, tuởng đó chỉ là một người Hồi bình thường thôi. Hai cha con đang định chen vào đám đông để gặp họ thì đột nhiên xa xa vọng đến ba hồi kèn sừng trâu. Đó chính là tín hiệu báo hiệu quân tình khẩn cấp.

Mọi người vừa nghe thấy lập tức tản ra, Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng trở về chỗ ngồi. Hương Hương công chúa nắm tay Trần Gia Lạc ngồi sau đám đông. Trần Gia Lạc cảm thấy tấm thân mềm mại đang tựa vào lòng, mùi u hương thoang thoảng truyền vào mũi, đúng là thần hồn phách tán, không biết mình đang mơ hay đã bay lên trời nữa.

Biết Hương Hương công chúa quàng sợi dây gấm qua cổ mình chính là biểu lộ tình yêu, Trần Gia Lạc mừng rỡ như sắp nổ tung ra vậy. Nhưng đột nhiên chàng tỉnh táo đôi chút, bắt đầu suy nghĩ:

– “Cô em gái yêu mình đương nhiên mình thích. Còn cô chị thì sao? Nàng đã tặng mình đoản kiếm, không phải là tỏ rõ tình ý với mình rồi sao? Mình đã nhận đoản kiếm của nàng, có nghĩa là đã nhận tấm chân tình đó. Nam tử hán đại trượng phu sao có thể lật lọng, nói một đằng làm một nẻo, không giữ tín nghĩa? Ta có nên nói rõ với cô nương Kha Tư Lệ hay không? Ta có thể làm một kẻ tiểu nhân phụ nghĩa hay không?”

Mọi người đều tập trung nhìn về phía có tiếng kèn lệnh, đám thanh niên nắm lấy binh khí, chuẩn bị nghênh chiến. Hai con ngựa phi đến gần, hai người Hồi nhảy xuống ngựa quỳ xuống báo tin:

– “Tướng quân nhà Thanh phái sứ giả cầu kiến.”

Mộc Trác Luân đáp:

– “Được! Dẫn hắn vào đây.”

Hai người phi ngựa ra ngoài, chỉ chốc lát có năm con ngựa chạy về phía đám đông. Còn cách năm trượng chúng mới xuống ngựa bước tới. Sứ giả Mãn Thanh mặt mũi khôi ngô, bước đi nhẹ nhàng. Bốn người tùy tùng đi phía sau mới làm cho người ta giật mình hoảng sợ. Cả bốn đều cao hơn bảy thước, so với người bình thường thì cao hơn đến hai cái đầu, thân hình rắn chắc, đúng là khổng lồ chưa từng thấy.

Sứ giả đi đến chỗ Mộc Trác Luân, gật đầu một cái rồi nói:

– “Ngươi là tộc trưởng phải không?”

Thần thái của hắn vô cùng ngạo mạn. Quân Thanh vô cớ phóng hỏa giết chóc, người Hồi tộc đã hận đến tận xuơng tủy từ lâu. Bây giờ thấy sư giả ngạo mạn đến thế, bọn thiếu niên không nhịn nổi nữa. Có tiếng xì xào bàn tán, mấy thanh đao đã rút ra khỏi vỏ.

Sứ giả không thèm để ý, vẫn dõng dạc nói:

– “Ta phụng mệnh đại tướng quân Triệu Tuệ, đến đây hạ chiến thư. Nếu các người biết thời cuộc hãy đầu hàng. Đại tướng quân nói, nếu vậy sẽ tha mạng cho các ngươi. Còn nếu không sáng sớm ngày mốt hai bên quyết chiến. Khi ấy chúng ta sẽ giết sạch bọn Hồi các ngươi, đừng hối hận.”

Hắn nói tiếng Hồi, mọi người vừa nghe xong đã nhốn nháo hẳn lên. Mộc Trác Luân thấy dân chúng nổi giận, liền vẫy tay ra lệnh cho mọi người ngồi xuống. Sau đó ông dõng dạc nói với sứ giả:

– “Các ngươi vô cớ đến giết hại chúng ta, cướp bóc chúng ta. Thánh A-la trên trời nhất định sẽ trừng phạt hành vi bất nghĩa của các ngươi. Muốn đánh thì đánh! Bọn ta còn một người cũng quyết không đầu hàng.”

Người hồi đều đưa đao lên, hô lớn:

– “Muốn đánh thì đánh! Bọn ta còn một người cũng quyết không đầu hàng.”

Dưới ánh trăng đao quang như tuyết, thần thái ai cũng bi tráng hào hùng. Mọi người đều biết khí thế quân Thanh hùng mạnh, quyết chiến thì thắng ít thua nhiều; nhưng dân Hồi từ đời này sang đời khác đều tin vào tôn giáo, yêu chuộng tự do, quyết không làm nô lệ cho ngoại tộc.

Sứ giả thấy tính hình như vậy, bĩu môi mà nói:

– “Được! Ngày mốt bọn ta sẽ dạy cho các ngươi một bài học. Các ngươi sẽ chết sạch không còn một mống.”

Nói xong hắn giận dữ phun nước bọt xuống đất. Đây là chuyện sỉ nhục thậm tệ, nên có ba thiếu niên Hồi tộc nhảy ra khỏi đâm đông quát lên:

– “Hôm nay các ngươi là sứ giả, chúng ta tôn trọng lễ nghi mới để các ngươi lành lặn ra về. Ngày mốt gặp nhau trên chiến trường, chúng ta không khách sáo với ngươi nữa.”

Sứ giả lại bĩu môi một cái. Bốn người tùy tùng khổng lồ kia lập tức bước lên, xô bắn ba thiếu niên Hồi tộc trở về, rồi đứng vây quanh sứ giả. Sứ giả lại nói:

– “Hừ! Hôm nay ta cho các ngươi xem chút ít thủ đoạn của người Mãn Châu chúng ta.”

Hắn vẫy tay một cái rồi hô lớn:

– “Đằng kia!”

Một người khổng lồ nhìn theo thấy một con lạc đà bị cột dưới gốc bạch dương. Hắn liền cất bước đi tới, hai tay ôm lấy cây bạch dương, vận sức lắc mạnh mấy cái rồi quát lên một tiếng:

– “Ngã xuống!”

Cây bạch dương liền lập tức bị nhổ bật rễ lên, rồi quăng xuống đất. Mọi người thấy thần lực của hắn như vậy, ai cũng hoảng sợ. Hắn lại giật một cái, bứt đứt sợi dây cương của con lạc đà rồi đá vào mông nó một phát. Con lạc đà bị đau phóng thẳng tới phía trước. Bình thường thì lạc đà đi chậm rãi, nhưng khi cần nó còn chạy nhanh hơn ngựa nữa.

Đợi con lạc đà chạy khoảng mười trượng, người khổng lồ thứ hai mới xông lên. Thân thể hắn to lớn nhưng bước chân lại cực kỳ nhanh chóng, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp con lạc đà, túm lấy bốn chân rồi xốc ngược lên. Con lạc đà nặng mấy trăm cân mà hắn vác trên vai, sải bước quay về, rồi ngạo mạn đặt kế bên đống lửa.

Người khổng lồ thứ ba “hừ” một tiếng, đưa bàn tay vĩ đại ra đánh một quyền vào giữa đầu con lạc đà. Nó đứng không vững, lắc lư mấy cái rồi ngã lăn ra đất. Người khổng lồ thứ tư nắm lấy một chân con lạc đà nhấc bổng qua đầu, quay trên không hai ba vòng, hô vang một tiếng rồi quẳng nó ra xa sáu bảy trượng.

Bốn người khổng lồ này là anh em sinh tư, tên là Cốt Luân Đại Hổ, Cốt Luân Nhị Hổ, Cốt Luân Tam Hổ, Cốt Luân Tứ Hổ là người Ninh Cổ Tháp ở Liêu Đông. Khi mẫu thân chúng hạ sinh bốn đứa con khổng lồ này, bà cực nhọc quá độ, gắng gượng chống chọi đến khi sinh đứa thứ tư là Cốt Luân Tứ Hổ mới chết vì mất máu quá nhiều.

Phụ thân chúng là một người thợ săn nghèo khó, khi vợ chết thì không biết lấy đâu ra sữa để nuôi bốn đứa con. Ông đang phiền não thì nghe thấy trong rừng có tiếng hổ gầm, thì ra một con hổ cái đã mắc vào bẫy thú. Ông và bạn bè ra bắt con hổ cái, thấy bên cạnh còn có ba con hổ nhỏ mới sinh ra, bèn nảy ra ý định giết hổ con, nuôi hổ mẹ, mỗi ngày săn mấy con thú để lấy sữa hổ nuôi bốn đứa con của mình.

Vì thế bốn huynh đệ này từ nhỏ đã có sức lực như hùm; khi lớn lên thì có thân hình to lớn, thần lực kinh người, chỉ có điều hơi đần độn. Khi đi săn chúng không cần dùng khí giới, hễ nhìn thấy dã thú là túm lấy cổ đập vào núi đá, thú nào cũng chết ngay. Bốn người này ăn không biết no, săn bắn bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái bụng được.

Một hôm Triệu Tuệ đi săn ở núi Trường Bạch thấy bốn người tướng mạo khác thường bèn nhận về làm thân binh, ngày nào cũng cho ăn uống thoả thích. Lần này hắn bảo họ đến đây, cốt ý là biểu diễn oai phong cho người Hồi khiếp sợ.

Người Hồi nhìn thấy thần lực bốn người này như thế, đều âm thầm kinh hãi. Nhưng trước mặt kẻ địch họ không lộ vẻ lo sợ, cứ nhao nhao la hét:

– “Con lạc đà như thế mà các ngươi nỡ giết chết! Các ngươi có phải là con người không?”

Tên sứ giả lên tiếng đối đáp, người Hồi càng giận dữ hơn. Tranh chấp càng lúc càng quyết liệt, dường như sắp biến thành ẩu đả. Sứ giả bèn lớn tiếng hỏi:

– “Các ngươi muốn ỷ nhiều thắng ít, bức hiếp sứ giả phải không?”

Hắn biết kinh Koran có dạy người Hồi phải khoản đãi tân khách, nên không sợ hãi chút nào. Mộc Trác Luân bèn quát mọi người im lặng rồi nói:

– “Ngươi là sứ giả, nhưng hạ lệnh cho tùy tùng giết chết lạc đà của chúng ta thì thật là vô lễ. Nếu ngươi không phải là tân khách thì chúng ta chắc chắn không tha cho ngươi. Ngươi trở về đi!”

Sứ giả ngang nhiên nói:

– “Chúng ta đường đường là người Mãn Châu, chẳng lẽ lại sợ lũ người vô dụng các ngươi hay sao? Ngươi mau viết trả lời giao cho ta mang về. Xem ra bọn ngươi không có tên nào dám đi gặp Triệu Tuệ tướng quân của ta đâu.”

Câu này vừa buông ra, mọi người lập tức la ó om sòm đòi chém giết. Hoắc Thanh Đồng bỗng đứng dạy nói lớn:

– “Ngươi nói chúng ta không dám đi gặp Triệu Tuệ hay sao? Hừ! Người nào ở đây cũng dám đi. Đừng nói là nam nhân, nữ nhân cũng dám đi.”

Tên sứ giả liền ngửa mặt lên trời, cười hô hố:

– “Nữ nhân ư? Nữ nhân nhìn thấy đại quân của chúng ta mà không hoảng sợ đến chết mới là chuyện lạ.”

Hoắc Thanh Đồng giận dữ nói:

– “Ngươi đừng xem thường người khác, chúng ta lập tức phái người cùng đi với ngươi. Ngươi cứ việc chọn. Ngươi chọn người nào, người đó sẽ đi với ngươi. Cho ngươi thấy khí phách của người Hồi giáo chúng ta.”

Tất cả người Hồi cả nam lẫn nữ đều hô lớn:

– “Ngươi cứ việc chọn. Ngươi chọn người nào thì người đó sẽ đi với ngươi.”

Sứ giả cười gằn:

– “Được!”

Hắn muốn tìm một cô gái yếu đuối vô dụng nhất, bắt cô ấy hoảng sợ phát khóc ngay tại chỗ, để người Hồi ê mặt tức thì. Hắn đảo mắt nhìn vào đám đông, đột nhiên mắt sáng lên, bước đến trước mặt Hương Hương công chúa, chỉ vào mặt nàng nói:

– “Vậy thì để cô gái này đi.”

Hương Hương công chúa nhìn thẳng hắn, từ từ đứng dậy nói dõng dạc:

– “Vì các bậc trưởng lão, các huynh đệ, tỉ muội trong toàn tộc, ta đi đến nơi nào cũng chẳng sợ. Thánh A-la nhất định sẽ phù hộ cho ta.”

Sứ giả thấy nàng khí phách anh hùng, hoàn toàn khác hẳn với dáng vẻ yếu đuối bên ngoài. Càng nhìn càng thấy nàng đẹp đẽ tuyệt trần, hắn bất giác cúi đầu xuống, cảm thấy thiếu nữ này thật sự không thể sỉ nhục được.

Mộc Trác Luân, Hoắc Thanh Đồng và mọi người Hồi thấy sứ giả chỉ định Hương Hương công chúa mà nàng không hề nhu nhược, tuy thán phục dũng khí của nàng, nhưng cũng không khỏi âm thầm lo lắng. Hoắc Thanh Đồng cảm thấy hối hận. Tình cảm giữa đôi tỉ muội này rất nồng nàn. Nàng không nỡ để cô em yếu đuối không biết võ nghệ này đi vào hang hùm ổ sói nguy hiểm không sao kể hết, bèn lên tiếng:

– “Cô ấy là muội muội của ta, để ta đi thay thế là được rồi.”

Sứ giả cười khảy:

– “Ta biết lời nói của nữ nhân hoàn toàn không đáng tin. Các ngươi không dám thì hà tất phải đi, đánh hay hàng cứ nói để ta về thông báo là đủ.”

Hoắc Thanh Đồng giận dữ nói:

– “Ngươi thật là vô lễ! Lần sau gặp nhau trên chiến trường ngươi đừng chạy trốn, để ta cho ngươi thấy nữ nhân chúng ta có vô dụng hay không?”

Sứ giả mỉm cười nói:

– “Người đẹp như cô, tất nhiên ta muốn bắt chứ không muốn giết.”

Người Hồi nghe hắn buông lời khinh bạc, ai cũng nghiến răng ngiến lợi. Hương Hương công chúa nói với HoắcThanh Đồng:

– “Tỉ tỉ, để muội đi cũng được. Muội không sợ đâu.”

Nàng cúi xuống, dắt tay Trần Gia Lạc đứng dậy, lại nói:

– “Huynh ấy sẽ cùng đi với muội.”

Dưới ánh lửa, Hoắc Thanh Đồng đột nhiên nhìn thấy khuôn mặt của Trần Gia Lạc. Nàng lập tức run rẩy toàn thân, không nói được lời nào. Trần Gia Lạc khẽ vẫy tay với Hoắc Thanh Đồng, tỏ ý khoan hãy chào hỏi, rồi quay lại nói với sứ giả:

– “Nam hay nữ nhân của chúng ta đều hễ nói là làm. Một mình ta cũng dám theo cô ấy đến chỗ các ngươi gặp Triệu Tuệ tướng quân, không như ngươi phải đem theo bốn người hộ vệ. Thật ra bốn tên to xác này thì làm được gì?”

Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Lạc đà có thể vác ngàn cân, người chỉ có thể vác trăm cân. Người cưỡi lạc đà hay lạc đà cưỡi người?”

Mọi người nghe câu ví này đều cười ồ lên. Cốt Luân Đại Hổ liền quay sang hỏi tên sứ giả :

– “Họ cười gì vậy?”

Sứ giả đáp:

– “Họ cười các ngươi tuy thân hình to lớn, sức lực tuy mạnh bạo, nhưng lại là đồ vô dụng.”

Cốt Luân Đại Hổ giận dữ đấm bình bịch vào ngực gầm lên:

– “Ai dám tới đây tỉ võ với ta?”

Sứ giả nói với Trần Gia Lạc:

– “Còn ngươi thì làm được cái gì? Ốm yếu như ngươi thì mười người cộng lại cũng chưa bằng được hắn.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Hôm nay phải làm nhụt tính ngạo mạn của tên sứ giả này, để bọn Mãn Châu không dám xem thường người Hồi nữa.”

Chàng lập tức tiến lên ba bước, dõng dạc nói:

– “Ta là người vô dụng nhất trong số người Hồi, nhưng so với bọn Mãn Châu các ngươi thì hữu dụng hơn chút ít. Bảo bốn thằng to xác đến đây đi!”

Lúc này Mộc Trác Luân cũng đã nhìn rõ diện mạo Trần Gia Lạc. Ông vừa kinh hãi vừa mừng rỡ kêu lên:

– “Thanh nhi! Con xem huynh ấy là ai!”

Hoắc Thanh Đồng không đáp. Mộc Trác Luân nghiêng đầu nhìn lại, thấy mắt con gái mình rưng rưng, khóe môi rung động. Ông hiểu ngay, trong lòng khó chịu:

– “Hai đứa con gái đều là bảo bối của mình, sao lại cùng yêu một người? Không biết tại sao Trần công tử lại quen đứa con gái út của mình?”

Nhất thời có rất nhiều việc không giải thích cuồn cuộn trong đầu. Thấy chàng sắp tỉ võ với bốn người kia, ông vừa kinh hãi vừa lo lắng.

Người Hồi thấy Trần Gia Lạc thư sinh ốm yếu, mặt mày tuấn nhã, đứng cạnh tên sứ giả còn thấp hơn nửa cái đầu, so với bốn người khổng lồ kia thì đúng là trẻ nít đứng bên người lớn. Họ biết chàng là ý trung nhân của Hương Hương công chúa, vì Hương Hương công chúa bị sứ giả đối phương chỉ định đi tới doanh trại quân Thanh, nên chàng không thể không ra ứng chiến để khỏi làm mất oai phong của bổn tộc. Ý chí can trường như thế đương nhiên là đáng khâm phục, nhưng mạnh yếu chênh lệch quá xa, làm sao chàng địch nổi bọn khổng lồ này?

Cả tộc Hồi cùng chung một mối thù, trong tộc đã có mấy người lực sĩ trứ danh đứng dậy, muốn thay chàng quyết đấu. Trần Gia Lạc đưa tay đa tạ rồi nói:

– “Các vị ca ca! Mấy tên Mãn Châu này chỉ là đồ bị thịt, chưa phải phiền để các vị ra tay. Để tiểu đệ là người vô dụng nhất ra thử, xem bản lãnh bọn chúng ra sao.”

Câu nói này vô cùng khinh miệt. Sứ giả vừa dịch lại là bốn gã khổng lồ kia lập tức nổi giận, cùng lúc xông lên toan túm Trần Gia Lạc. Chàng đứng yên không động đậy, chỉ mỉm cười. Sứ giả đưa tay cản trở bốn người, rồi nói với Mộc Trác Luân:

– “Tên này muốn tỷ võ với tùy tùng của ta, dù kết quả thế nào cũng không thể trách ta được. Hơn nữa phải một đấu một, người đứng bên ngoài không được tương trợ.”

Hắn nghĩ, tuy thần lực của tứ hổ kinh người, nhưng hảo hán không địch nổi số đông. Nếu đánh chết Trần Gia Lạc xong, cả bộ tộc ùa vào tấn không thì không sao chống nổi. Mộc Trác Luân chỉ “hừ” một tiếng. Trần Gia Lạc bỗng lên tiếng:

– “Lấy một đánh một thì chẳng thú vị gì. Ngươi bảo bốn gã khổng lồ kia đồng thời xông lên đi.”

Sứ giả hỏi:

– “Thế thì bên ngươi có mấy người?”

Trần Gia Lạc mỉm cười bảo:

– “Cần gì phải mấy người? Chỉ một mình ta là đủ.”

Mọi người vừa nghe thấy liền náo động lên, ai cũng cảm thấy chàng có phần quá đáng.

Tên sứ giả cười nhạt:

– “Hừ, chẳng lẽ người Hồi các ngươi lợi hại thế hay sao. Đại Hổ ngươi lên trước đi.”

Cốt Luân Đại Hổ dạ một tiếng rồi bước lên ngay. Sứ giả lại hỏi Trần Gia Lạc:

– “Ngươi thích văn thí hay là thích võ thí?”

Trần Gia Lạc Gia Lạc hỏi:

– “Văn thí thì như thế nào? Võ thì thì phải làm sao?”

Sứ giả nói:

– “Văn thí là hắn đánh ngươi một quyền, ngươi đánh lại hắn một quyền, không ai được chống đỡ hay né tránh, người nào té xuống trước là thua. Còn võ thí là đánh nhau thỏa thích.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Một người thì không đủ cho ta đánh, muốn đánh thì bốn gã kia phải lên cùng lúc.”

Sứ giả nghĩ bụng:

– “Nhìn tên này không giống với kẻ điên khùng, chắc là có quỷ kế gì đây.”

Hắn liền nói:

– “Giả tỉ ngươi đánh bại người này, cả bốn sẽ lên cùng lúc cho ngươi thỏa chí. Hà tất phải gấp rút như thế.”

Trần Gia Lạc cười nhạt nói:

– “Được! Văn thí, võ thí gì cũng được thôi.”

Sứ giả nói:

– “Bây giờ chúng ta chỉ so khí lực, thử công phu. Võ thí thì tổn thương hòa khí, hay là văn thí đi.”

Hắn thấy thân hình Trần Gia Lạc nhỏ bé, biết chàng nhanh nhẹn hơn, nếu nhảy nhót thì Cốt Luân Đại Hổ không đánh trúng được, nên mới đòi văn thí cho hết đường tránh né. Cốt Luân Đại Hổ gầm lên một tiếng, cởi bỏ áo để ngực trần. Mọi người đều thấy cơ bắp trên người hắn đường nét rất rõ ràng, trông như đám rễ của một cây to vậy. Mỗi nắm đấm to bằng một cái tô đựng canh, ngay cả con lạc đà lớn cũng không chịu nổi một quyền, huống chi một thanh niên văn nhã tuấn tú như thế này.

Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng đã rời khỏi chỗ ngồi, bước lại gần. Hoắc Thanh Đồng liếc qua em gái một cái, thấy nàng cứ đắm đuối nhìn Trần Gia Lạc, ánh mắt lộ vẻ ngàn lần ngưỡng mộ, không lo lắng sợ hãi chút nào. Hoắc Thanh Đồng bất giác thở ra một hơi, quay lại nhìn Trần Gia Lạc thấy chàng thần sắc ổn định, khí khái nhàn hạ, dáng vẻ tự nhiên vô cùng. Ánh mắt hai người chạm nhau, Trần Gia Lạc mỉm cười khẽ gật đầu. Hoắc Thanh Đồng hơi đỏ mặt lên, quay đi ngay.

Sứ giả lên tiếng:

– “ Chúng ta bắt thăm xem ai đánh trước.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Các ngươi là khách, cứ để hắn đánh trước đi.”

Hoắc Thanh Đồng cướp lời:

– “Không cần khách sáo với bọn này. Chúng ta bắt thăm là hơn.”

Nàng biết võ công Trần Gia Lạc thuộc loại tinh thâm, nếu tỷ thí về quyền thuật hay binh khí, dù không thắng nổi thì cũng không thua tên khổng lồ này. Còn nếu người này một quyền, người kia một quyền nhắm mắt mà đánh, đối thủ không được tránh né đỡ gạt, thì dù sao thân thể chàng cũng là máu thịt, bản lãnh có cao hơn cũng không sao chịu nổi nắm đấm như búa sắt. Nếu để chàng đánh trước, không chừng có thể ra đòn kỳ ảo mà dành được phần thắng.

Trần Gia Lạc mỉm cười với Hoắc Thanh Đồng một cái tỏ ý cảm kích, rồi bước lên hai bước về phía Cốt Luân Đại Hổ, ưỡn ngực ra nói:

– “Ngươi đánh đi.”

Sứ giả nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Mời cô qua đây, hai chúng ta đứng đây xem xét. Nếu ai nhích chân đi, hoặc dùng tay chống đỡ, hoặc đảo người né mình đều coi là thua cả.”

Hoắc Thanh Đồng đi đến bên Trần Gia Lạc thì thầm:

– “Đừng đánh nữa! Chúng ta tìm cách khác để thắng hắn đi.”

Trần Gia Lạc khẽ đáp:

– “Cô nương cứ yên tâm.”

Hoắc Thanh Đồng không làm gì được, đành đứng cạnh tên sứ giả để làm chứng. Trần Gia Lạc cùng Cốt Luân Đại Hổ đứng đối diện nhau, khoảng cách chưa đầy một cánh tay. Mọi người đều tập trung ánh mắt nhìn chăm chú, mấy ngàn người mà không có tiếng động nào phát ra.

Sứ giả dõng dạc lên tiếng:

– “Hảo hán Mãn Châu đánh quyền thứ nhất, hảo hán Hồi tộc đánh quyền thứ hai. Nếu mọi người vô sự thì hảo hán Mãn Châu đánh quyền thứ ba, hảo hán Hồi tộc đánh quyền thứ tư.”

Hoắc Thanh Đồng phản đối ngay:

– “Hiệp đầu các ngươi đã đánh trước, thì hiệp hai phải do chúng ta đánh trước. Đến hiệp ba mới cho các ngươi đánh lại. Thay phiên nhau như vậy mới là công bằng.”

Sứ giả chưa kịp trả lời, Trần Gia Lạc đã nói:

– “Chúng là khách, chúng ta nên nhường một chút.”

Sứ giả mỉm cười đáp:

– “Ngươi thật là khẳng khái.”

Rồi hắn cao giọng hô lên:

– “Được rồi, hảo hán Mãn Châu đánh quyền đầu tiên.”

Cả một vùng lại càng vắng lặng, chỉ nghe tiếng thở “phù phù” và tiếng vặn xương răng rắc của Cốt Luân Đại Hổ. Gã khổng lồ đang đề khí vận kình, ngực bên phải lồi lên, cánh tay bên phải nở ra to gấp bội. Trần Gia Lạc đứng tấn không ra chữ đinh mà cũng không ra chữ bát, thân thể hơi nghiêng về phía trước, mỉm cười nói:

– “Đấm đi!”

Đám thanh niên Hồi tộc nhìn thấy oai thế của Cốt Luân Đại Hổ, đều sợ Trần Gia Lạc trúng quyền văng tuốt ra xa, không chừng sẽ té nhào xuống đất vỡ sọ nát xương, liền đứng về phía sau Trần Gia Lạc thủ thế, chuẩn bị chụp lấy chàng. Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng âm thầm cầu nguyện chân thánh A-la phù hộ. Chỉ có Hương Hương công chúa bình tĩnh đứng yên, thầm nghĩ:

– “Lang quân của mình đã nói là không sợ, thì chắc chắn không đáng sợ.”

Cốt Luân Đại Hổ hơi khuỵu chân, dồn kình lực vào tay phải, “hừ” một tiếng. Ngọn thiết quyền rít gió vù vù tống vào giữa ngực Trần Gia Lạc. Đột nhiên hắn thấy thân hình đối phương mỏng lại, lồng ngực thuận theo thế quyền mà lõm vào. Ngực Trần Gia Lạc hóp vào nhanh chậm là hoàn toàn phù hợp với thế quyền đấm tới, một ly cũng không sai lệch. Người đứng bên chỉ thấy nắm đấm này đánh lún vào ngực chàng, nhưng phải kinh ngạc vì hoàn toàn không có tiếng động phát ra.

Cốt Luân Đại Hổ phóng ra quyền này đã hết đà. Hắn biết đưa tới nửa tấc nữa là chắc chắn đánh trúng vào ngực đối phương, nhưng không sao thêm nửa tấc được, đầu quyền chỉ chạm nhẹ vào ngực áo. Hắn ngơ ngác đến mức quên cả rút nắm đấm về .

Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi :

– “Đánh xong chưa?”

Mặt Cốt Luân Đại Hổ đỏ ửng lên, bấy giờ mới thu quyền lại. Mọi người đều thấy rõ ràng thoi quyền này trúng đích, nhưng lại giống như là đánh vào khoảng không chẳng ai là không kinh ngạc. Chỉ có Trác Mộc Luân và Hoắc Thanh Đồng biết nội công của Trần Gia Lạc vô cùng thâm hậu, nên chàng vận kình rút người vào để triệt tiêu thế đánh của đối phương. Hai cha con vừa thán phục, vừa hoan hỉ, Hoắc Thanh Đồng nhoẻn cười tươi tắn như hoa. Tên sứ giả cũng hiểu võ công, nhìn thấy vậy vô cùng kinh ngạc.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Bây giờ đến lượt ta đánh.”

Cốt Luân Đại Hổ quát như sấm nổ:

– “Đánh đi!”

Hắn nín hơi ưỡn ngực ra, những chòm lông đen trên ngực dựng đứng hẳn lên. Trần Gia Lạc không cần co tay lấy thế. Hình như chàng chỉ tùy tiện đưa tay, nhẹ nhàng đấm vào ngực Cốt Luân Đại Hổ, nhưng đã sử dụng một thủ pháp rất nặng trong Đại Lực Kim Cang Chưởng, Cốt Luân Đại Hổ cảm thấy ngực mình không đau lắm, nhưng có một luồng lực đạo vô cùng lớn đẩy mình ngã ra sau. Hắn biết nếu chân mình nhúc nhích một tí là thua, liền vận hết công lực toàn thân hướng về phía trước để chống đỡ sức đẩy của đối phương.

Biến diễn chỉ xảy ra trong một sát na. Trần Gia Lạc phát quyền đã nhanh mà thu quyền càng nhanh hơn, kình lực chưa tới nơi đã đột ngột thu hồi lại. Cốt Luân Đại Hổ vận sức ngàn cân mà đỡ, đột nhiên cảm thấy phía trước mất đi đối trọng, muốn thu lực lại cũng không kịp nữa. Mọi người chỉ thấy thân hình Gia Lạc nghiêng qua một chút, rồi nghe “rầm” một tiếng, bụi cát bay mù. Thân thể to lớn của Cốt Luân Đại Hổ đã đổ ập xuống đất.

Ai cũng ngơ ngác, một lúc sau mới vỗ tay cười rộ. Trần Gia Lạc đánh ngã người khổng lồ này cũng kỳ lạ lắm rồi, nhưng kỳ lạ hơn nữa là hắn không té ngửa ra sau mà té sấp ra trước. Tên sứ giả đưa tay đỡ hắn dậy, mới thấy miệng hắn đầy máu tươi, khạc một tiếng nhổ ra hai cái răng cửa.

Ba huynh đệ nhà Cốt Luân thấy đại ca bị thương liền thét lên be be, đồng thời phóng về phía Trần Gia Lạc. Cốt Luân Đại Hổ định thần lại, gầm lên một tiếng rồi xông tới đánh. Mọi người Hồi thấy vậy cũng vội bước lên cứu viện.

Đang hỗn loạn thì thấy hai bóng người lướt ngang qua đỉnh đầu mọi người. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng biến khỏi đám đông. Bốn huynh đệ Cốt Luân đột nhiên không thấy địch thủ đâu nữa, ngơ ngác đứng đó.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Mọi người lùi lại!”

Mọi người Hồi đều theo lệnh nàng mà lùi ra. Trần Gia Lạc chậm rãi bước lên phía trước, mỉm cười nói:

– “Từ lâu ta đã bảo bốn người các ngươi cùng lúc xông vào rồi. Muốn đánh thì đánh đi.”

Đại Hổ giận dữ vô cùng, múa quyền đấm ngay vào đầu. Trần Gia Lạc đảo người ra sau Tam Hổ, hai tay đẩy vào lưng hắn. Tam Hổ loạng choạng, suýt nữa té nhào lên người Nhị Hổ.

Tứ Hổ đưa khuỷu tay trái thọc xuống đầu Trần Gia Lạc. Chàng luồn qua dưới nách hắn, tiện tay cù cho một phát. Tứ Hổ ngứa ngáy khó chịu, thân thể co rút thành một khối, run rẩy loạn xạ rồi cười lên ha hả.

Một gã đại hán cường tráng khổng lồ mà lại sợ nhột như một thiếu nữ, cảnh tượng thật khó coi. Mọi người đều cười rộ lên. Hương Hương công chúa kêu lớn:

– “Này! Huynh cù hắn nữa đi.”

Trần Gia Lạc chiều ý nàng, lại tiến đến chọc vào sườn hắn một cái. Tứ Hổ cười sằng sặc đến nỗi ngồi phẹt xuống đất, song quyền quơ múa lung tung, làm sao mà đánh trúng ai.

Hoắc Thanh Đồng đột nhiên kêu lớn:

– “Cẩn thận phía sau!”

Trần Gia Lạc cũng cảm thấy sau lưng có quyền phong đánh tới, bèn từ dưới đất tung người nhảy lên khoảng một trượng, né khỏi thoi quyền của Nhị Hổ. Tứ Hổ vẫn cười chưa dứt, xoay người lại, tay phải đấm mạnh ra, trúng ngay vào nắm tay của Nhị Hổ, cả hai đều loạng choạng một chút. Bốn tên đều lùi ra ba bước, hét lên giận dữ, chỉ muốn bắt lấy Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc luồn qua luồn lại giữa bốn người này như một con bướm bay giữa rừng hoa, nảy ý trêu ghẹo bọn chúng nên không ra tay đánh trả. Tám nắm đấm to đùng cứ lên lên xuống xuống liên tục, tìm người chàng để đấm, nhưng ngày cả y phục của chàng cũng không sao chạm trúng.

Lúc đầu mọi người thấy Trần Gia Lạc phải luôn tránh né chỉ cách chừng sợi tóc, ai cũng lo lắng cho chàng, nhưng lát sau họ đều nhận ra bốn tên khổng lồ này không làm gì được. Trong những tiếng gầm thét của bốn gã khổng lồ đột nhiên nghe “phựt”một tiếng, cái áo của Nhị Hổ bị xé rách một mảng lớn. Người Hồi lại cười rộ lên. Tên sứ giả nhìn ra Trần Gia Lạc là cao thủ võ lâm, tứ hổ không phải là địch thủ của chàng, bèn liên miệng kêu la:

– “Dừng tay! Đừng đánh nữa!”

Bốn anh em nhà Cốt Luân đang tức phát điên đâu có chịu thôi. Đại Hổ huýt sáo một tiếng đột nhiên nhảy lên, như một con chim khổng lồ phóng tới Trần Gia Lạc. Đồng thời Nhị Hổ, Tam Hổ, Tứ Hổ đứng sau lưng Trần Gia Lạc, đưa sáu cánh tay ra để chặn đường lùi. Đây là phương pháp để săn thú của bốn anh em nhà họ, dù là hung dữ như hổ báo, nhanh nhẹn như khỉ vượn cũng khó mà trốn thoát. Người Hồi nhìn thấy đều kinh hãi, nhiều thiếu nữ hét lên.

Thấy Đại Hổ phóng tới, Trần Gia Lạc định lùi, nhưng nhờ ánh lửa mà chàng nhìn thấy dưới mặt đất có ba cái bóng khổng lồ đang giang tay bao vây sẵn sàng nuốt chửng mình. Chàng cúi xuống ngay không né nữa. Đợi Đại Hổ phóng tới, đột nhiên chàng vươn dài cánh tay như tia chớp, túm lấy nách hắn dùng sức đẩy ra. Đại Hổ lập tức quay nửa vòng trong không trung mặt hướng ra sau.

Lúc này tay trái Trần Gia Lạc đã nắm được chân trái Đại Hổ, liền xô về trước, nửa thì dùng kình lực của mình, nửa thì dùng sức của đối phương. Thân hình to lớn của Đại Hổ lập tức bay thẳng về phía trước, rồi nghe “bình” một tiếng đầu dưới chân trên trồng chuối vào một cái hố. Đây chính là cái hố mà hắn vừa nhổ cây bạch dương, cây càng to thì hố càng sâu. Đại Hổ ngập đến ngang hông, hai chân đá loạn xạ lên trời, giãy giụa thế nào cũng không thoát ra khỏi cái hố cát.

Tứ Hổ gầm thét điên cuồng đuổi theo. Trần Gia Lạc chạy với hắn được nửa vòng tròn, chọn đúng bộ vị rồi đột nhiên dừng lại. Tứ Hổ phóng chân phải đá vào ngực chàng. Trần Gia Lạc đảo người sang phía bên phải hắn, tay phải nắm lấy quần hắn, tay trái nắm lấy lưng hắn, thuận thế hắn đá tới mà vận sức quẳng ra ngoài.

Tứ Hổ bay ra như đằng vân giá vũ, tay chân quơ loạn trên không, miệng không ngớt gào lên, chỉ sợ phen này phải nhào xuống đất e rằng gãy hết một nửa số xương. Không ngờ khi hắn rơi xuống lại trúng một chỗ rất mềm mại, bèn trở người ngồi dậy. Thì ra hắn ngã đè vào đúng con lạc đà đã chết vừa rồi.

Lúc nãy Trần Gia Lạc thấy hắn dùng tay để quẳng con lạc đà, bây giờ chàng dùng phương pháp đó để trị hắn. Kình lực của chàng thực chất không bằng Cốt Luân Tứ Hổ, nhưng chỉ mượn thế đẩy thêm, phần lớn là sử dụng lực đạo trong phát cước của hắn. Tứ Hổ đang bay trên trời, Nhị Hổ, Tam Hổ đã từ hai bên chạy tới. Nhị Hổ khom lưng cúi cổ phóng tới ào ào, định dùng đầu húc ngã đối phương. Tam Hổ thì đưa cao tay toan đánh xuống đầu Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc vẫn đứng yên không động đậy. Khi hai con hổ điên còn cách mình chưa tới bốn thước, đột nhiên chàng mới vận kình giậm mạnh, thân thể bắn đi như một mũi tên, nghe “vù” một tiếng giạt hẳn ra ngoài. Chàng đợi đến giây phút cuối cùng mới tránh né, là muốn hai tên khổng lồ này không thu thế được. Quả nhiên đầu của nhị Hổ húc vào bụng của Tam Hổ, còn song quyền của Tam Hổ đánh trúng lưng của Nhị Hổ. Nghe mấy tiếng “bình bình” hai gã đại hán như hai tòa bảo tháp đổ sập xuống.

Trần Gia Lạc không đợi chúng định thần. Chàng vội tung người tới, nhân lúc chúng đang hoa mắt chóng mặt mà nắm lấy hai cái bím tóc thắt thành một cái gút. Bấy giờ chàng mới bật cười, bước tới bên Hương Hương công chúa. Hương Hương công chúa mặt mày rạng rỡ, vỗ tay hoan hô vang dội. Mọi người Hồi đều lớn tiếng reo hò.

Tứ Hổ đứng dậy, tới nắm lấy chân đại ca nhổ lên khỏi hố. Nhị Hổ và Tam Hổ thì không biết bím tóc của mình đã bị thắt vào nhau, cứ cố giãy giụa lăn thành một khối. Sứ giả vội chạy tới để gỡ, nhưng chúng vừa dùng hết sức để kéo lên cái gút đó thắt càng chặt hơn. Tên sứ giả phải gỡ mất nửa ngày mới tháo ra được.

Bốn huynh đệ Cốt Luân đứng ngơ ngác nhìn Trần Gia Lạc, không hằn thù mà sinh lòng kính ngưỡng. Đại Hổ bước tới, giơ ngón tay cái lên mà nói:

– “Huynh đài giỏi quá! Đại Hổ phục rồi.”

Nói xong hắn quì xuống vái lạy mấy cái, ba tên kia cũng tới vái theo. Trần Gia Lạc cũng quì xuống đáp lễ. Chàng thấy bốn người này thiên tính ngây thơ chất phác, vừa rồi mình chọc ghẹo họ quá đáng cũng có phần hối hận. Cả năm đồng thời đứng dậy. Trần Gia Lạc không ngừng xin lỗi, lại khen bốn người sức mạnh phi thường. Tứ hổ đều rất vui mừng.

Đột nhiên Tứ Hổ chạy thẳng ra ngoài, xách con lạc đà đã chết trở vào. Tam Hổ dắt bốn con ngựa đến trước mặt Mộc Trác Luân, lên tiếng:

– “Ta đánh chết con lạc đà của các vị, thật là có lỗi. Bây giờ chúng ta đến bốn con ngựa này cho các vị.”

Nhưng Mộc Trác Luân không chịu nhận. Tên sứ giả thấy tình hình xoay chuyển như thế, khó chịu nhưng không biết làm gì, bèn thét bảo anh em nhà Cốt Luân:

– “Chúng ta đi thôi.”

Hắn nhảy lên lưng ngựa, trong lòng vẫn ấm ức không phục bèn quay lại hỏi Hương Hương công chúa:

– “Cô nương thật sự dám đi phải không?”

Hương Hương công chúa đáp ngay:

– “Có gì mà không dám?”

Nàng tới trước mặt Mộc Trác Luân, cất tiếng:

– “Gia gia! Gia gia viết thư để con mang đi.”

Mộc Trác Luân trù trừ chưa quyết. Sứ giả Mãn Châu khích bác, con gái mình không thể không đi, nếu không đi thì mất thể diện của toàn tộc. Nhưng để con gái đi thì lại không yên tâm chút nào. Ông liền vẫy tay gọi Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc bước tới, Mộc Trác Luân đứng dậy đón, dắt chàng đi vào lều của mình. Chị em Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa cũng theo vào lầu.

Vừa vào trong lều, Mộc Trác Luân liền ôm lấy Trần Gia Lạc mà hỏi:

– “Trần tổng đà chủ! Ngọn gió tốt lành nào thổi tổng đà chủ đến đây vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tại hạ có việc cần đến Thiên Sơn, dọc đường nhận được tin tức nên vội vã đến đây để gặp lão gia. Không ngờ dọc đường được gặp nhị tiểu thư.”

Hương Hương công chúa nghe phụ thân gọi chàng là Trần tổng đà chủ, không khỏi ngơ ngác một lúc. Trần Gia Lạc nói chuyện với Mộc Trác Luân nhưng vẫn để ý thần sắc của hai chị em. Chàng thấy Hương Hương công chúa lộ vẻ bàng hoàng, vội vàng quay lại nói:

– “Thật là có lỗi với cô nương. Ta chưa kịp nói rõ mình là người Hán.”

Mộc Trác Luân lên tiếng:

– “Trần tổng đà chủ là ân nhân của cả bộ tộc chúng ta, giúp đoạt lại thánh kính, cứu mạng tỉ tỉ con, gần đây lại cướp hết quân lương của Triệu Tuệ khiến quân Thanh không thể nhanh chóng tiến công, nhờ vậy chúng ta mới kịp điều động nhân mã để chống đỡ. Trần tổng đà chủ đã giúp chúng ta rất nhiều, nói thế nào cũng không hết được.”

Trần Gia Lạc liên tiếp ngỏ lời khiêm tốn. Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Huynh không muốn nói mình là người Hán, thì ra không muốn nhắc đến ân huệ của mình đối với bọn muội. Dĩ nhiên muội không trách huynh đâu.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Sứ giả Mãn Châu ngông cuồng ngạo mạn, thật là vô lễ. May mà tổng đà chủ xuất hiện làm giảm ngạo khí của hắn. Hắn khích bác Kha Tư Lệ đi làm sứ giả, tổng đà chủ xem có lên đi hay không?”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đại sự trong bộ tộc của họ, người ngoài không nên quyết định chủ ý. Mình chỉ có thể đứng bên tận tình giúp đỡ mà thôi.”

Chàng liền nói:

– “Tại hạ từ nội địa xa xôi đến đây, hoàn toàn không hiểu tình hình. Nếu Mộc lão anh hùnh nói là nên đi, đương nhiên tại hạ sẽ ra sức hộ tống. Nếu lão gia thấy không đi là hay hơn, chúng ta sẽ tìm cách cự tuyệt tên sứ giả.”

Hương Hương công chúa nói rất dứt khoát:

– “Gia gia! Gia gia cùng tỉ tỉ ngày nào cũng phải lo lắng về việc trong bộ tộc, cũng phải liều mạng ở chiến trường. Con chỉ ân hận mình vô dụng, không có chút sức nhỏ mọn nào để góp vào. Phen này con đi làm sứ giả không phải là việc lớn lao gì, nếu không đi thì chắc chắn bọn Mãn Châu sẽ xem thường chúng ta.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Muội muội! Tỉ chỉ sợ bọn Mãn Châu kia làm khó dễ cho muội.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Mỗi lần tỉ tỉ ra trận đều nguy hiểm đến tính mạng, muội mạo hiểm lần này cũng là việc nên làm. Hơn nữa bản lãnh huynh ấy cao cường như thế, đi cùng với muội thì không có gì đáng sợ nữa. Tỉ tỉ, muội thật sự không sợ gì hết.”

Hoắc Thanh Đồng thấy em gái bày tỏ mối tình thâm hậu với Trần Gia Lạc, trong lòng bỗng nảy sinh một cảm giác khó mà diễn tả được. Nàng bèn bảo Mộc Trác Luân:

– “Gia gia, hãy để muội muội đi.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Được! Trần tổng đà chủ, vậy ta phải nhờ tổng đà chủ chăm sóc cho đứa con gái này.”

Trần Gia Lạc đỏ mặt lên một chút. Ánh mắt trong vắt như nước hồ thu của Hương Hương công chúa đang từ từ liếc qua mặt chàng, trên môi nhoẻn một nụ cười. Hoắc Thanh Đồng quay vội sang phía khác.

Mộc Trác Luân viết thư trả lời, chỉ có mấy chứ lớn:

– “Chống quân tàn bạo, thần ắt giúp ta.”

Thấy khẩu khí bi tráng, Trần Gia Lạc gật đầu tấm tắc khen hay. Mộc Trác Luân trao thư cho Hương Hương công chúa, rồi hôn lên má nàng chúc phúc. Hoắc Thanh Đồng cũng nói:

– “Muội muội, chân thánh sẽ phù hộ cho muội. Nguyện cho muội được bình an.”

Hương Hương công chúa ôm lấy tỉ tỉ cảm ơn. Bốn người ra khỏi lều. Mộc Trác Luân hạ lệnh thiết yến để khoản đãi thầy trò sứ giả. Trên bàn tiệc sứ giả mới chịu báo tên là Hòa Nhĩ Đại.

Ăn uống xong, người Hồi liền nổi trống chiêng ca hát tiễn khách. Hòa Nhĩ Đại đưa tay chào, tung người lên ngựa đi trước. Hương Hương công chúa cùng mọi người cưỡi ngựa đi theo.

Hoắc Thanh Đồng nhìn theo bảy người khuất dần vào bóng đêm, trong lòng cảm thấy hoàn toàn trống rỗng. Hình như trái tim nàng đã theo tiếng vó của bẩy con ngựa ấy mà mất hút trong vùng hoang mạc.

Mộc Trác Luân lên tiếng:

– “Thanh nhi! Muội muội của con thật là dũng cảm.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ gật đầu, rồi đưa tay ôm mặt chạy vào trong lều. Lúc đó hình như có một quả đại thiết trùy khổng lồ không ngớt gõ vào lồng ngực, nàng đau đớn chua xót vô cùng, chỉ hận không thể lập tức chết đi.

Hương Hương công chúa và Trần Gia Lạc đi theo sứ giả mất hơn nửa đêm, gần sáng mới tới doanh trại quân Thanh. Hoà Nhĩ Đại mời họ nghỉ trong một cái lều, còn mình đi gặp Triệu Tuệ trước.

Thi lễ với Triệu Tuệ xong, hắn thấy ngồi bên họ Triệu có một võ quan lạ mặt, mặc sắc phục tá lãnh của Kiêu Kỵ Doanh, thân binh của hoàng đế. Hoà Nhĩ Đại gật đầu chào y một cái, rồi nói với Triệu Tuệ:

– “Bẩm đại tướng quân, tiểu tướng đã đưa chiến thư qua đó. Bọn người Hồi thật là ngang ngược, còn dám phái người đưa chiến thư đến đây.”

Triệu Tuệ hừ lên một tiếng nói:

– “Thật là đến chết vẫn không chừa.”

Hắn bảo bon Thanh binh hầu cận:

– “Truyền lệnh thăng trướng.”

Lệnh vừa truyền xuống, kèn lệnh lập tức nổi lên. Bọn chánh phó đô thống, tham lãnh, tá lãnh các doanh đều tập hợp vào lều lớn để đợi. Triệu Tuệ đi vào lều, bọn võ quan lớn nhỏ đều khom lưng thi lễ.

Triệu Tuệ ra lệnh đặt thêm một chỗ ngồi vào cạnh ghế mình, dành cho tên võ quan Kiêu Kỵ Doanh phụng lệnh hoàng đế đến đây. Hắn lại cho gọi ba trăm quân thiết giáp xếp thành hai dãy cho thêm phần oai vệ, rồi mới truyền gọi sứ giả người Hồi vào gặp.

Hương Hương công chúa đi trước, Trần Gia Lạc theo sau. Trên mặt Hương Hương công chúa luôn là nụ cười, không có chút gì là hoảng sợ. Nhìn thấy sứ giả người Hồi là đôi thanh niên nam nữ đã gặp ở trong trận, bọn người Thanh phải kinh ngạc. Triệu Tuệ định ra oai đánh phủ đầu, nào ngờ người đi vào giữa rừng đao thương lại là một thiếu nữ diễm lệ như thế.

Hương Hương công chúa thi lễ với Triệu Tuệ, rồi lấy thư trình lên. Một tên thân binh của Triệu Tuệ bước tới nhận thư. Đến trước mặt nàng hắn đột nhiên ngửi thấy một mùi hương ngọt dịu, vội cúi mặt xuống không dám nhìn lên. Lúc đưa tay nhận lấy thư, đột nhiên trước mắt hắn sáng bừng lên, ánh sáng phát ra từ một bàn tay ngọc ngà thon thả trắng trẻo tuyệt không một tì vết ngay trước mặt mình. Trong lòng hắn mơ mơ hồ hồ, nhất thời không biết mình phải làm gì.

Triệu Tuệ quát lên:

– “Nhận thư đi.”

Tên thân binh giật bắn lên, loạng choạng suýt nữa té nhào. Hương Hương công chúa đặt thư vào tay hắn, thần sắc vẫn ôn hòa, miệng vẫn mỉm cười. Hắn lấy hết can đảm ngẩng mặt lên nhìn nàng một cái. Hương Hương công chúa chỉ về phía Triệu Tuệ rồi khẽ đẩy hắn một cái, bấy giờ hắn mới lấy lá thư đặt lên bàn tay Triệu Tuệ.

Triệu Tuệ thấy hắn thần hồn điên đảo, lập tức giân dữ thét lên:

– “Lôi ra ngoài chém đi!”

Mấy tên binh lính chạy tới, kéo tên thân binh đó ra khỏi lều. Chỉ trong nháy mắt chúng đã đặt cái thủ cấp máu thịt bầy nhầy lên mâm, bưng vào trong trướng dâng lên Triệu Tuệ.

Triệu Tuệ hạ lệnh:

– “Bêu đầu thị chúng!”

Bọn đao phủ liền bưng mâm ra. Hương Hương công chúa thấy hắn tàn bạo như thế, nghĩ đến người thân binh này vì mình mà chết, không khỏi thương tâm. Nàng đưa tay giữ cái mâm lại nhìn cái đầu mà nhỏ lệ.

Hết thảy quan quân trong trướng nhìn thấy nàng đều phải say sưa, chỉ mong muốn tan xương nát thịt vì nàng. Ai cũng nghĩ, giả tỉ thủ cấp của mình được nàng rớt cho mấy giọt lệ như vậy thì đứt đầu cũng không ân hận gì nữa.

Triệu Tuệ thấy bọn tướng tá của mình thần sắc đảo điên, liền lớn tiếng chửi mắng. Quan quân cúi đầu xuống hết, không dám lên tiếng. Trong đại trướng chỉ còn nghe thấy tiếng nấc của Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc thấy Hương Hương công chúa nhìn mãi thủ cấp của tên thân binh đó, sắc thái thương đau cứ như một người mẹ vừa mất đứa con vậy. Khóc mãi như thế thật chẳng giống sứ giả chút nào, chàng bèn khẽ đưa tay an ủi nàng.

Triệu tuệ xưa nay ác ôn tàn bạo, thế mà cũng bị tiếng khóc của nàng làm lay động. Hắn hạ lệnh:

– “Chôn cất người này tử tế.”

Rồi hắn mở thư, sai một người biết tiếng Hồi dịch ra, “hừ” một tiếng rồi nói:

– “Được, ngày mốt quyết chiến, các ngươi trở về đi.”

Tên võ quan ngồi cạnh hắn bỗng lên tiếng:

– “Đại tướng quân! Thiếu nữ này chính là người hoàng thượng cần.”

Trần Gia Lạc vốn dồn hết tâm ý vào Hương Hương công chúa, nãy giờ chưa nhìn gì đến quân tướng trong lều. Nghe thấy câu này chàng mới ngẩng lên nhìn, nhận ra ngay người ngồi cạnh Triệu Tuệ là kẻ tử thù Trương Triệu Trọng. Lúc này Trương Triệu Trọng cũng nhận ra Trần Gia Lạc, thấy chàng mặc y phục kiểu người Hồi, không khỏi giật mình. Hai người giương bốn mắt nhìn nhau, đều bất ngờ vì đối phương xuất hiện ở đây.

Trần Gia Lạc dắt tay Hương Hương công chúa quay lưng đi ra. Trương Triệu Trọng bỗng đứng bật dậy, người chưa bước tới mà chưởng phong đã phóng tới lưng Trần Gia Lạc rồi. Trần Gia Lạc đưa tay trái quàng ngang hông Hương Hương công chúa tay phải phóng ngược lại một chưởng, mượn sức chưởng của Trương Triệu Trọng vọt nhanh ra ngoài. Trương Triệu Trọng lập tức đuổi theo thân pháp nhanh kỳ lạ.

Bọn tướng Thanh đều có cảm tình với Hương Hương công chúa, ai cũng nghĩ:

– “Đại tướng quân đã để họ trở về, sao tên võ quan Kiêu Kỵ Doanh này lại nhúng tay vào.”

Họ đều bất mãn, nên không ai giúp họ Trương cản hai người lại. Trần Gia Lạc ôm lấy Hương Hương công chúa chạy như bay về phía con ngựa của mình. Nhưng mới được mấy bước thì Trương Triệu Trọng đã đứng cản cản trước mặt, cười nhạt:

– “Trần tổng đà chủ! Hạnh ngộ, hạnh ngộ.”

Trần Gia Lạc thầm kinh hãi, ném ngay sáu quân cờ vậy chia làm ba đường trên dưới đánh tới đối phương, khẽ bảo Hương Hương công chúa:

– “Ta phải cản trở tên này. Muội mau lên ngựa chạy trốn đi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Không! Huynh đánh ngã hắn trước đi, rồi chúng ta cùng về.”

Lúc này, Trần Gia Lạc không còn đủ thời gian để giải thích với nàng là võ công của đối thủ cao hơn mình. Chàng biết sáu con cờ không thể đánh trúng hắn, chỉ nhân lúc hắn né tránh mà ôm lấy Hương Hương công chúa đặt lên yên ngựa.

Trương Triệu Trọng hai tay bắt lấy hai quân cờ ở giữa, vừa khom lưng vừa lao người phóng tới Trần Gia Lạc, né được bốn quân cờ còn lại. Phát nhảy này vừa né ám khí vừa đuổi quân địch, nửa thủ nửa công, không cho đối thủ rảnh tay chút nào. Trần Gia Lạc không dám ham chiến, cúi người xuống luồn qua bụng con ngựa trắng. Trương Triệu Trọng nhảy tới nơi, đưa tay ấn nhẹ xuống mông con ngựa, người chưa chạm đất đã phóng cước đá về phía Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc đang ở dưới bụng ngựa, xoay trở không tiện mà phát cước của địch thủ lại nhanh như tia chớp. Lúc khẩn cấp chàng nảy ra sáng kiến, đột nhiên đưa tay từ dưới bụng ngựa vỗ lên. Con ngựa trắng giật mình chồm lên, hai chân sau đá ngược ra. Trương Triệu Trọng vội vận kình nhảy ra xa một trượng.

Trần Gia Lạc xoay mình lên ngựa, hô lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Hương Hương công chúa lập tức giật cương cho ngựa chạy đi. Trương Triệu Trọng lại phi thân nhảy xổ tới. Trần Gia Lạc kinh hãi, hai đùi ép chặt vào bụng ngựa, hai chân đạp lên bàn đạp. Chàng biết công lực của mình không bằng đối phương, nếu thẳng thắn đón đỡ thì chắc chắn thua thiệt, lên tay phải đã rút trủy thủ đâm ra. Trương Triệu Trọng xoay ngược cổ tay, móc lấy cổ tay cầm kiếm của chàng, hai người cùng rơi xuống đất. Tay phải Trương Triệu Trọng lập tức phát chưởng. Trần Gia Lạc thi triển tuyệt kỹ cầm nã của sư môn, tay trái vừa đưa ra đã gạt được hữu chưởng của Trương Triệu Trọng. Hai người lăn lộn dưới đất mà đánh cận chiến.

Binh tướng nhà Thanh đã chạy ào ào ra khỏi lều để xem. Bốn huynh đệ Cốt Luân đều nghĩ:

– “Khi chúng ta đến chỗ người Hồi để đưa thư, họ đối xử với mình rất lịch sự. Tại sao họ đưa thư đến, chúng ta lại vô lý thế này?”

Lần trước tỉ thí, họ đã có lòng kính trọng Trần Gia Lạc. Phen này thấy chàng gặp nguy cả bốn đều nghĩ như nhau, đồng thời xông tới. Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng đang tận lực chọi nhau; lúc đầu còn tương đối quân bình, về sau thì dần dần không chống nổi. Chàng thấy bốn người khổng lồ chạy tới liền nghĩ:

– “Thôi rồi, phen này hỏng bét!”

Nào ngờ bốn huynh đệ Cốt Luân lại đưa tay ra đè Trương Triệu Trọng xuống, cùng hô lớn:

– “Huynh đài chạy đi!”

Hương Hương công chúa giục con ngựa trắng chạy đến bên chờ đợi. Võ công Trương Triệu Trọng tuy cao, nhưng đang giao đấu với Trần Gia Lạc thì bất ngờ bị bốn người đè xuống. Hắn không có đủ sức chống đỡ mà cũng không có đường lùi, bị sức mạnh ngàn cân của tứ hổ ép xuống không động đậy được. Hắn vừa lỏng tay, Trần Gia Lạc đã nhảy bật lên rồi nói:

– “Bây giờ mà giết người thì không phải hành vi của đại trượng phu. Ta tha mạng cho ngươi một lần nữa.”

Nói xong, chàng thu kiếm rồi lên ngựa. Trên lưng Trương Triệu Trọng bị bốn ngọn núi nhỏ đè xuống, võ nghệ đầy mình mà không thi triển được, chỉ biết giương to cặp mắt nhìn hai người hai ngựa chạy đi. Hai người giục ngựa chạy cực nhanh, thoáng mắt đã vượt ra khỏi doanh trại của quân Thanh. Khi Triệu Tuệ tập trung binh lính đuổi theo thì họ đã chạy đi khá xa rồi.Trần Gia Lạc vừa phải kịch đấu, tuy thời gian ngắn ngủi nhưng cực kì hung hiểm, đến lúc này khí lực đã kiệt quệ, chạy được một hồi thì dần dần không chịu nổi nữa. Hương Hương công chúa thấy chàng mệt mỏi, lại thấy cổ tay chàng bị bóp cho hằn tím một vùng, nổi lòng thương sót liền nói:

– “Chúng đuổi không kịp nữa rồi. Chúng ta xuống ngựa nghỉ ngơi một chút đi.”

Trần Gia Lạc lảo đảo trèo xuống ngựa, nằm ngửa ra đất thở dốc một hồi. Hương Hương công chúa đổ trong túi da ra một ít sữa dê, thoa lên tay Trần Gia Lạc. Chàng điều hòa hơi thở một lúc, vừa đỡ mệt đã nghe tiếng vó ngựa đuổi theo gấp rút, tiếng hô hoán vang dội, mấy chục kỹ mã đang phi tới. Hai người không kịp thu dọn túi da, vội nhảy lên lưng ngựa phi về phía trước. Đột nhiên thấy phía trước cũng có bụi đất bay mù, lại có một đội kỵ mã chạy tới. Trần Gia Lạc thầm kêu khổ, hai đùi kẹp lại con ngựa trắng bay tới như tên. Khi vượt qua ngựa Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Chạy theo ta!”

Chàng phi như bay thẳng tới trước, con ngựa hồng của Hương Hương công chúa chạy theo cách một quãng. Thấy rõ phía trước chỉ có bảy tám con ngựa, chàng thầm mừng trong bụng, cho ngựa chạy chậm lại để đợi Hương Hương công chúa tới nơi.

Đám ngựa trước mặt chạy tới gần, Trần Gia Lạc lấy châu sách ra chuẩn bị nghênh chiến. Chàng bỗng thấy cổ tay mình tê buốt, trước mắt sao múa lung tung, vội cố sức định thần. Bỗng thấy kỵ sĩ đi đầu bỗng tung người xuống ngựa, kêu lớn:

– “Tổng đà chủ! Phải tổng đà chủ đó không?”

Giữa đám bụi cuồn cuộn bốc lên, Trần Gia Lạc thấy lấp loáng những cái răng nhọn trên cây lang nha bổng, rồi thấy người đó thân thể hơi gù. Chàng cả mừng la lên:

– “Thập ca mau qua đây!”

Lời còn chưa dứt, đám lính Thanh đuổi sau lưng đã bắn tên tới veo véo. Chương Tấn nhảy trở lên lưng ngựa. Trần Gia Lạc lại hô:

– “Có địch đuổi theo, mau cản trở giúp ta.”

Chương Tấn la lớn:

– “Hay quá!” rồi vỗ ngựa chạy nhanh tới trước. Y vừa tới chỗ Trần Gia Lạc, lại có một người nữa giục ngựa như bay chạy tới, chớp mắt đã qua mặt Chương Tấn, xông thẳng vào giữa trận quân Thanh. Người này dũng mãnh như rồng như cọp, không gì chống đỡ nổi, không phải Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa thì còn ai nữa?

Trần Gia Lạc chưa kịp ngạc nhiên, lại thấy Văn Thái Lai, Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ bốn người phi ngựa tới. Mỗi người qua mặt chàng đều hô lên một tiếng:

– “Tham kiến tổng đà chủ!” rồi xông vào đám lính Thanh.

Sau đó Tâm Nghiễn cũng chạy tới, xuống ngựa khấu đầu với Trần Gia Lạc. Cậu đứng dậy hoan hỉ nói:

– “Thiếu gia! Bọn tiểu nhân đến đây cả rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao Cửu gia lại đến đây?”

Tâm Nghiễn chưa kịp đáp, thì lại có một người lướt qua bên cạnh, chạy về phía địch. Trần Gia Lạc thấy y mặc tăng bào màu xám tro, bịt mặt, đầu trọc, tay cầm kim địch. Chàng ngạc nhiên kêu lên:

– “Thập tứ đệ phải không?”

Dư Ngư Đồng từ xa gọi với lại:

– “Tham kiến tổng đà chủ!”

Lúc Dư Ngư Đồng chạy tới, nhóm Văn Thái Lai đã bắt đầu chém giết đội quân Thanh tiên phong. Nhưng họ đều nhìn thấy phía sau có bụi bốc lên, đại quân đang kéo tới. Mọi người bèn rút về chỗ Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai hỏi:

– “Bây giờ chúng ta lùi về hướng nào?”

Trần Gia Lạc thấy thanh thế truy binh cực kỳ hùng hậu, nghĩ bụng:

– “Người Hồi đang ở phía tây. Nếu chúng ta lùi về phía tây, quân Thanh đuổi theo mà họ phòng bị không kịp, e rằng tổn thất rất nhiều.”

Chàng bèn ra lệnh:

– “Hướng về phía nam.”

Tay chàng vẫy một cái, mười con ngựa tung vó chạy về hướng nam. Mọi người bất ngờ gặp nhau đều cao hứng, mà ai cũng cưỡi ngựa rất tốt, nên khoảng cách với quân Thanh càng lúc càng xa. Tuy nhiên vùng sa mạc này tựa như không bờ bến, không có chỗ nào ẩn nấp, khoảng cách dù xa nhưng không thể ra khỏi tầm mắt được.

Trần Gia Lạc thấy Triệu Tuệ cho đại quân rượt theo mình, không khỏi thầm chê:

– “Thật là quá đáng, chuyện nhỏ như vậy mà phải xuất đại quân. Thế thì sao làm đại tướng được?”

Đột nhiên chàng nhớ lại Trương Triệu Trọng đã khẽ nói với Triệu Tuệ:

– “Thiếu nữ này chính là cô gái mà hoàng thượng cần.”

Trần Gia Lạc nhớ lại câu nói này, không khỏi ngẫm nghĩ. Đột nhiên chàng lại nhìn thấy một đội quân từ phía nam đang tiến vòng lên tạo thế bao vây. Mọi người kinh hãi, đều dừng ngựa lại. Từ Thiên Hoẳng nói:

– “Chúng ta phải nhanh tay làm công sự để phòng thủ, đợi đến đêm mới chạy tiếp.”

Trần Gia Lạc gật đầu nói:

– “Không sai! Ở vùng sa mạc này, ban ngày chạy không thoát được đâu.”

Mọi người đều xuống ngựa. Người dùng vũ khí, người dùng hai bàn tay trắng đào trên cát một cái hố lớn. Trần Gia Lạc bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội muội! Muội trốn vào trong đó trước đi.”

Hương Hương công chúa không hiểu tiếng Hán, mỉm cười đứng yên, Quân Thanh đã đuổi tới gần, Lạc Băng ôm lấy Hương Hương công chúa nhảy ngay xuống hố, mọi người đều nhảy theo.

Phen này, Văn Thái Lai, Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn bốn người đi đến Hồi Cương có mang theo cung tên, bèn giương cung lắp tên, lập tức bắn ngã mười mấy quan binh. Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn ba người bắn phát nào cũng trúng, chỉ có Chương Tấn là không biết bắn cung, bảy tám mũi mà không trúng mũi nào. Y nổi giận quăng cung xuống đất, xách Lang nha bổng toan xông lên chém giết.

Chu Ỷ vội nắm lấy tay y kéo lại, la lên:

– “Đi nạp mạng cho chúng phải không?”

Quần hùng đều thấy cô này biết đường tiến thoái, không đánh bừa đánh ẩu, đương nhiên là do công dạy dỗ của Từ Thiên Hoằng. Lạc Băng không nén nổi, cười khì một tiếng. Chu Ỷ liếc xéo nàng một cái hỏi:

– “Muội nói không đúng phải không?”

Lạc Băng cười đáp:

– “Đúng lắm, đúng lắm!”

Vệ Xuân Hoa nhặt lấy cây cung của Chương Tấn vừa ném, bắn ra một loạt tên liên hoàn đốn ngã sáu tên lính Thanh. Tâm Nghiễn vỗ tay khen ngợi:

– “Bắn hay quá!”

Trong tiếng hoan hô, một đội lính Thanh đã chạy tới gần cái hố. Văn Thái Lai bắn ra một phát, tên chỉ huy đội lính đó lập tức bị tên xuyên thủng ngực. Mũi tên mang theo một vòi máu, bay xa thêm mấy trượng mới rới xuống đất. Bọn lính thấy sức bắn mạnh như thế, hồn phiêu phách tán hoảng sợ chạy ngay.

Tuy chúng phải thối lui, nhưng cả bốn phương tám hương đều có nhân mã trùng trùng điệp điệp bao vây. May mà quân Thanh không bắn tên, nếu không thì dù có hố cát cũng không ai tránh nổi hàng vạn mũi tên bay tới như bầy châu chấu.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Hố cát này đủ sâu rồi. Nhanh tay đào rộng ra đi.”

Khoảng sa mạc này là cát nổi, chỉ đào mấy thước là tới nền đất cứng. Trần Gia Lạc, Lạc Băng, Chu Ỷ, Hương Hương công chúa đều ra tay đào bới lấy đất cát lắp lên miệng hầm thành một cái lũy thấp, tạm thời ngăn được tên bắn tới. Lúc đó mọi người mới thở ra một hơi.

Chương Tấn bảo Tâm Nghiễn:

– “Để ta bảo vệ, ngươi lên đó lượm cung tên.”

Y múa tít cây Lang nha bổng nhảy lên miệng hố cát, Tâm Nghiễn lập tức nhảy theo. Cậu tới chỗ bọn lính Thanh bị bắn chết, nhặt lấy bảy tám cây cung và ôm một đống tên trở về.

Lúc này Trần Gia Lạc mới giới thiệu Hương Hương công chúa với mọi người. Mọi người nghe nàng là muội muội của Hoắc Thanh Đồng, lại thấy nàng dung nhan tuyệt thế, hiền dịu thanh nhã, ai cũng có ý thân cận, chỉ vì ngôn ngữ bất đồng lên không nói chuyện với nhau được.

Lạc Băng nói:

– “Cô ấy nhìn hơi giống cô nương vẽ trong ngọc bình, nhưng đẹp hơn nhiều.”

Chu Ỷ gật đầu khen phải.

Trần Gia Lạc nghỉ ngơi đã lâu, khí lực đã hồi phục. Chàng nghĩ bụng:

– “Trương Triệu Trọng quả là tài giỏi. Ta chỉ đấu với hắn một lát mà bây giờ hai vai còn đau nhức, không sao kéo cung nổi.”

Chàng lên tiếng hỏi:

– “Cửu ca! Sao cửu ca lại đến đây? Còn Thập nhị ca đâu?”

Vệ Xuân Hoa từ bên hố cát nhảy xuống nói:

– “Tổng đà chủ khỏe rồi phải không? Thuộc hạ bẩm báo được chưa?”

Trần Gia Lạc gật đầu, rồi dõng dạc nói:

– “Tứ ca, Thập ca, Thập tứ đệ, Tâm Nghiễn! Các vị ở trên đó theo dõi động tĩnh quân địch. Chúng ta đợi đến nửa đêm mới đột kích ra khỏi vòng vây.”

Văn Thái Lai ngồi trên lớn tiếng vâng dạ.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Thuộc hạ cùng Thập nhị đệ phụng lệnh tổng đà chủ trở về Bắc Kinh thám thính tin tức ở triều đình, nhất thời chưa điều tra được gì. Nhưng một hôm đột nhiên nhìn thấy tên gian tặc Trương Triệu Trọng và sư huynh của hắn là Mã Chân đạo trưởng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta đã giao Trương Triệu Trọng cho Mã Chân đạo trưởng đem về núi Võ Đang quản thúc. Ta đang ngạc nhiên tại sao hắn lại xuất hiện ở đây. Thì ra hắn đã đến Bắc Kinh.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ vừa gặp hắn ư?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta giao vừa đấu với hắn, thật là nguy hiểm.”

Chàng kể lại chuyện vừa rồi, mọi người vừa kinh hãi vừa giận dữ.

Vệ Xuân Hoa kể:

– “Bọn thuộc hạ thấy hai sư huynh đệ này dọc đường nói chuyện rất vui vẻ, chẳng lẽ Mã Chân đạo trưởng lại thông đồng với sư đệ lừa gạt chúng ta, bèn lén lút theo dõi thì thấy họ đi vào một căn nhà trong hẻm, đến tối vẫn chưa ra ngoài chắc là ngủ tại đấy. Thuộc hạ bèn thương lượng với Thập nhị đệ phải đi dò xét cho rõ ràng, chờ đến canh hai thì vượt tường nhảy vào. Đó là hai cao thủ tuyệt đỉnh, thuộc hạ liên thủ với Thập nhị đệ vẫn chưa phải đối thủ của Trương Triệu Trọng, huống chi còn có sư huynh của hắn. Vì thế thuộc hạ không dám thở mạnh, nằm rạp trong vườn không nhúc nhích. Đợi hơn nửa đêm mới nghe trong nhà có tiếng người, bọn thuộc hạ lén lút đến xem. Nhìn qua khe cửa sổ thấy Mã Chân đạo trưởng đang nằm trên giường, còn tên gian tặc kia đi qua đi lại không dừng, hai người tranh luận lớn tiếng. Bọn thuộc hạ không dám nhìn lâu, nằm xuống lắng nghe. Thì ra Trương Triệu trọng nói là phải đến Bắc Kinh để lo liệu tài sản và mấy việc riêng rồi mới về Hồ Bắc được, nên sư huynh của hắn mới cùng đến Bắc Kinh. Được mấy hôm thì hoàng đế cũng về cung.”

Trần Gia Lạc nghe Càn Long đã trở về kinh liền gật đầu một cái. Vệ Xuân Hoa kể tiếp:

– “Trương Triệu Trọng nói là hoàng đế hạ chỉ bảo hắn đến Hồi tộc để lo một việc lớn.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Việc lớn gì thế?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Hắn không nói rõ là việc gì, hình như là đến đây tìm một người nào đó.”

Trần Gia Lạc chau mày một cái, linh cảm thấy có chuyện không hay.

Vệ Xuân Hoa tiếp:

– “Mã Chân đạo trưởng nói rất nghiêm, bắt hắn lập tức từ quan ngay. Trương Triệu Trọng lại lấy hoàng đế ra để dọa sư huynh, nói là thánh chỉ không thể kháng, nếu vi chỉ thì e rằng núi Võ Đang sẽ bị đại quân đạp cho bằng phẳng.”

Mã Chân đạo trưởng nói:

– “Giang sơn của chúng ta đã bị bọn man di đó chiếm hết rồi, hủy thêm một núi Võ Đang thì có gì đáng tiếc?”

Hai người càng tranh luận càng quyết liệt. Mã Chân đạo trưởng giận dữ nhảy xuống giường quát hỏi:

– “Trước mặt bằng hữu Hồng Hoa Hội, ta đã nói những gì?”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Đó chỉ là bọn nghịch tặc tạo phản, sư huynh hà tất phải giữ lời với chúng.”

Nghe xoảng một tiếng, hình như Mã Chân đạo trưởng đã rút kiếm ra. Thuộc hạ ghé mắt nhìn vào khe cửa sổ, thấy trường kiếm đã nằm trong tay đạo trưởng rồi. Mặt ông ấy xanh mét, la lên:

– “Ngươi còn nhớ lời di huấn của sư phụ hay không? Ngươi là đồ khốn nạn vong ân phụ nghĩa, một lòng muốn làm chó săn cho nhà Thanh, cực kỳ vô sỉ. Hôm nay ta phải lấy mạng ngươi.”

Thập nhị đệ giơ ngón tay cái lên, thầm khen Mã Chân đạo trưởng thiện ác phân minh, nghĩa khí lẫm liệt. Trương Triệu Trọng lập tức nhũn ra, thở dài rồi nói:

– “Sư huynh đã nói vậy, thôi thì ngày mai đệ theo sư huynh về Hồ Bắc là xong.”

Bấy giờ Mã Chân đạo trưởng mới tra kiếm vào vỏ, an ủi hắn mấy câu rồi lên giường ngủ tiếp. Trương Triệu Trọng ngồi trên ghế, mặt đầy sát khí. Hình như hắn trù trừ không quyết định được, thân thể không ngừng run rẩy. Thuộc hạ cùng Thập nhị đệ chỉ sợ hắn phát giác, đợi hắn ngủ rồi mới rút lui, nhưng đợi hơn nửa giờ mà Trương Triệu Trọng vẫn không chịu đi ngủ. Hắn đứng lên ngồi xuống mấy lần, cuối cùng nhíu mày nghiến răng, khẽ gọi:

– “Đại sư huynh!”

Mã Chân đạo trưởng vẫn ngáy đều, rõ ràng là ngủ rất say. Trương Triệu Trọng đi đến bên giường.

Vệ Xuân Hoa kể đến đây, Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi kêu lên một tiếng. Tuy nàng không hiểu Vệ Xuân Hoa nói gì, nhưng cảm thấy trong lời nói chứa đầy sát khí nên bất giác run rẩy, nắm chặt lấy tay Trần Gia Lạc, khẽ tựa đầu vào vai chàng. Chu Ỷ giận dữ liếc nàng một cái, mấp máy môi, hình như muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

Vệ Xuân Hoa kể tiếp:

– “Trương Triệu Trọng đến bên giường, phóng lên một cái rồi lập tức lùi ra. Sau đó nghe Mã Chân đạo trưởng la lên một tiếng thảm khốc, nhảy bật lên, mặt chảy máu đầm đìa. Cặp mắt của ông ấy đã bị tên gian tặc lòng lang dạ sói kia móc ra rồi.”

Trần Gia Lạc nổi giận nhảy chồm lên, vỗ mạnh vào thành hố cát làm đất đá bay lên tứ tung. Chàng nghiến chặt răng mà nói:

– “Không giết tên gian tặc này, ta thề không làm người nữa. Lẽ ra vừa rồi ta không nên tha mạng cho hắn.”

Hương Hương công chúa chưa bao giờ thấy chàng giận dữ đến thế, sợ hãi nắm chặt tay chàng. Bọn Từ Thiên Hoằng đã nghe Vệ Xuân Hoa kể trước rồi, nhưng lúc này cũng giận dữ vô cùng.

Người Vệ Xuân Hoa run bần bật là song câu khua thành tiếng, giọng nói cũng run rẩy. Chàng kể tiếp:

– “Mã Chân đạo trưởng không nói tiếng nào, đi từng bước từng bước về phía Trương Triệu Trọng, vẻ mặt kinh người. Đột nhiên ông tung chân đá ra một cước, Trương Triệu Trọng lùi ra tránh né. Đạo trưởng nhìn không thấy gì lại đá vào giường nghe “ầm”một tiếng, cái giường vỡ một mảng lớn, trong nhà bụi bay mù mịt. Trương Triệu Trọng hình như có phần sợ hãi, muốn trốn ra cửa. Nhưng Mã Chân đạo trưởng đã đứng giữa cửa chặn đường, lắng tai nghe ngóng.

Trương Triệu Trọng không ra ngoài được, đột nhiên cười lên ha hả. Mã Chân đạo trưởng nhắm hướng tiếng cười phóng tới, chân trái đá ngang qua. Không ngờ Trương Triệu trọng cố ý dụ địch, dựng sẵn trường kiếm trước người mình. Mã Chân đạo trưởng phóng cước đá trúng cây kiếm, chân trái lập tức bị tiện đứt lìa.

Chu Ỷ nghiến chặt răng, cầm đơn đao không ngớt băm vằm mặt đất. Vệ Xuân Hoa lại kể:

– “Lúc ấy thuộc hạ và Thập nhị đệ không chịu nổi nữa, bất kể mình đang ở nơi hiểm địa, cũng bất kể mình không phải là địch thủ của hắn, hai người không hẹn mà cùng phá cửa sổ nhảy vào, phóng tới tên gian tặc mà chém giết. Chắc là hắn vừa làm chuyện đại ác nên trong lòng bất an, lại sợ bọn thuộc hạ còn đông người theo sau nên chỉ chống đỡ mấy hiệp rồi chạy trốn. Bọn thuộc hạ đuổi theo, tên gian tặc phóng kim châm rồi chạy thoát. Thuộc hạ dìu Thập nhị đệ vào trong nhà, định cầm máu cho Mã Chân đạo trưởng trước. Nhưng ông ấy chỉ nói một câu rồi đập đầu vào tường mà chết.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ông ấy nói gì?”

Đột nhiên một cơn gió lạnh thổi qua, ai cũng rùng mình một cái.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Mã Chân đạo trưởng dặn:

– “Nhờ Lục sư đệ cùng Ngư Đồng trả thù cho ta!”

Lúc đó bên ngoài nghe tiếng đánh nhau, đã có người thức dậy đến xem. Thuộc hạ phải dìu Thập nhị đệ trở về chỗ trọ hôm sau trở lại xem xét thì họ đã thu liệm, chôn cất Mã đạo trưởng rồi. Thập nhị đệ bị trúng kim châm, thuộc hạ đã lấy ra. Bây giờ Thập nhị đệ đang dưỡng thương ở hẻm Song Liễu Tử thành Bắc Kinh.

Trương Triệu Trọng nói là hoàng đế bảo hắn đến Hồi Cương tìm người, thuộc hạ đoán là tìm sư phụ của tổng đà chủ. Nghe nói Viên lão tiền bối đang giữ hai món đồ liên quan trọng đại tới hoàng đế. Viên lão tiền bối võ công thâm hậu dĩ nhiên không sợ hắn, nhưng tên gian tặc ấy ác độc đến thế, mọi người tưởng hắn đã sửa đổi không chừng sẽ trúng vào gian kế, nên thuộc hạ phải đi suốt ngày đêm để báo tin. Ở Hà Nam gặp người của Long Môn Bang, nghe nói tổng đà chủ đã gặp Thượng Quan đại ca bang chủ của họ, thuộc hạ liền đến gặp ông ấy. Đến đó lại gặp Tứ ca, rồi cùng đi tìm Thập tứ đệ. Nghe tin sư phụ bị hại, Thập tứ đệ thương tâm không sao tả xiết. Mọi người gấp rút chạy đến đây, rồi bất ngờ gặp tổng đà chủ.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Vết thương của Thập nhị ca ra sao?”

Vệ Xuân Hoa đáp:

– “Thương tích không nhẹ, nhưng cũng may là không trúng chỗ yếu hại.”

Bây giờ, gió lạnh càng thổi mạnh, trên trời mây đen dày đặc như sắp sửa đè xuống đầu người. Hương Hương công chúa nói:

– “Sắp có tuyết rồi.”

Nàng cảm thấy giá lạnh khó có thể chịu, bèn nép sát thêm vào Trần Gia Lạc. Trong lòng Chu Ỷ đang ấm ức, đến bây giờ nhịn không nổi phải buột miệng nói ra:

– “Cô ấy nói gì vậy?”

Trần Gia Lạc nghe giọng nàng gây gổ, hơi ngạc nhiên nhưng cũng đáp:

– “Cô ấy nói là sắp có tuyết.”

Chu Ỷ giận dữ nói:

– “Hừ! Cô ấy mà biết cái gì.”

Lát sau nàng lại nhăn mặt nói:

– “Tổng đà chủ! Rốt cuộc là tổng đà chủ yêu Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ, hay là yêu cô gái này?”

Trần Gia Lạc đỏ mặt không đáp. Từ Thiên Hoằng kéo vạt áo, bảo nàng đừng quấy rầy nữa. Chu Ỷ nói một hơi:

– “Huynh kéo muội làm gì? Hoắc tỉ tỉ rất tốt, không thể để người khác hiếp đáp cô ấy.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ta có bức hiếp cô ấy đâu?”

Chàng biết Chu Ỷ là người thẳng thắn, chưa minh bạch thì chẳng chịu thôi, bèn nói:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương là người rất tốt. Mọi người ở đây ai cũng thán phục cô ấy…”

Chu Ỷ cướp lời:

– “Thế thì tại sao vừa thấy muội muội của cô ấy đẹp hơn là huynh lập tức thay lòng đổi dạ?”

Trần Gia Lạc nghe hỏi mà đỏ mặt tía tai. Lạc Băng vội lên tiếng giảng hòa:

– “Tổng đà chủ cũng như mọi người chúng ta, chỉ gặp cô ấy vài lần, nói được mấy câu. Chỉ là bằng hữu bình thường thôi, có gì mà gọi là thay lòng đổi dạ?”

Chu Ỷ càng nói mạnh hơn:

– “Băng tỉ tỉ, sao tỉ lại bênh huynh ấy? Khi Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ tặng thanh đoản kiếm, ánh mắt của tổng đà chủ nhìn cô ấy tràn đầy tình ý. Muội tuy ngốc nghếch, nhưng cũng biết đó là tiếng sét ái tình, vừa gặp đã phải lòng nhau…”

Lạc Băng mỉm cười ngắt lời:

– “Ai dám nói muội muội ngốc nghếch? Muội muội nói chuyện thật là văn vẻ, nào là tràn đầy tình ý, nào là tiếng sét ái tình gì gì đó.”

Chu Ỷ giận dữ nói:

– “Tỉ tỉ đừng đánh trống lảng nữa có được hay không? Băng tỉ tỉ! Chúng ta đã từng nói với nhau, hai người họ thật là xứng đôi. Sao đột nhiên tỉ lại nói khác đi? Tuy huynh ấy là tổng đà chủ nhưng, nhưng muội cũng phải hỏi lại cho rõ ràng.”

Hương Hương công chúa nghe hai người nói chuyện có vẻ khẩn trương, cứ mở to đôi mắt mà nhìn, cảm thấy ngạc nhiên. Trần Gia Lạc không biết làm sao, đành phải nói:

– “Trước khi gặp ta, Hoắc Thanh Đồng cô nương đã có ý trung nhân rồi. Dù ta có nghĩ tốt về cô ấy, nhưng chỉ là tự chuốc lấy phiền não mà thôi.”

Chàng cũng biết mình nói vậy là không phải thật lòng, chỉ là lời nói để không khí hòa dịu lại, trong lòng không khỏi áy náy, mặt hơi lộ vẻ hổ thẹn.

Chu Ỷ ngơ ngác hỏi:

– “Có thật như thế không?”

Trần Gia Lạc hỏi lại:

– “Sao ta phải lừa gạt cô?”

Chu Ỷ lập tức thấy thoải mái, bèn nói:

– “Vậy là được rồi. Huynh đúng là người tốt, muội trách lầm huynh. Thế mà muội lại giận dữ mất nửa ngày. Xin lỗi tổng đà chủ, tổng đà chủ đừng trách nhé.”

Mọi người thấy nàng ngây thơ chất phác, mới đó đã nhận lỗi ngay, ai cũng cười rộ lên.

Chu Ỷ vừa gầm gừ Hương Hương công chúa, bây giờ bước tới nắm lấy tay nàng đầy vẻ thân mật. Đột nhiên trên mặt cảm thấy mát mẻ, ngẩng đầu lên thì thấy những đóa hoa tuyết trắng như lông ngỗng từ từ bay xuống. Chu Ỷ hoan hỉ nói:

– “Muội muội nói rất đúng, quả nhiên có tuyết rơi rồi.”

Trần Gia Lạc nhảy chồm lên, cất tiếng:

– “Chúng ta cố gắng xông ra khỏi vòng vây!”

Mọi người đều đứng dậy, kéo ngựa ra khỏi hố cát. Thanh binh thấy vậy bèn reo hò xung phong tới. Mọi người nhảy lên ngựa, cố sức phi càng xa càng tốt. Mới được mấy trượng, đột nhiên Vệ Xuân Hoa “úi chà” một tiếng, cả người lẫn ngựa té lăn ra đất. Văn Thái Lai kinh hãi vỗ ngựa chạy lên, nhưng chưa tới thì con ngựa mình cưỡi trúng tên ngã xuống.

Văn Thái Lai nhảy bật dậy, lại chạy đến thì Vệ Xuân Hoa đã đứng dậy nói:

– “Ngựa của đệ bị bắn chết rồi, còn đệ thì vô sự…”

Nói chưa dứt câu, Chương Tấn và Lạc Băng đã giục ngựa chạy tới. Hai người cúi xuống đưa tay, mỗi người nắm một người, kéo Vệ Xuân Hoa và Văn Thái Lai lên lưng ngựa. Lúc đó ngựa của Tâm Nghiễn và Chương Tấn lại trúng tên ngã xuống. Trần Gia Lạc phải ra lệnh:

– “Quay về! Quay về gấp!”

Mọi người quay đầu, lại chạy về hố cát. Bọn lính Thanh thừa thế đuổi theo, nhưng Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng, Vệ Xuân Hoa bắn một loạt tên bắt chúng quay trở lại. Phen này không chạy thoát khỏi vòng vây, lại bị bắn chết bốn con ngựa. Không hiểu bọn Thanh binh có cố ý hay không, mà chúng chỉ nhắm bắn ngựa chứ không bắn người. Trong vùng sa mạc, không có ngựa thì không thể xông đột trùng vây được. Mọi người đều không có kế hoạch gì, ai cũng rầu rĩ, mặt mày ủ rũ.

Lạc Băng nói:

– “Nếu không có cứu binh, chúng ta chỉ còn đường chết.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Lão anh hùng Mộc Trác Luân thấy con gái đi đã lâu mà chưa trở về, nhất định sẽ phái binh ra đón tiếp.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định họ đã xuất binh từ lâu rồi, nhưng chúng ta chạy về hướng nam xa xôi như thế này, sợ họ khó mà tìm đến đây được.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Vậy thì phải cử người đi cầu cứu.”

Tâm Nghiễn lên tiếng:

– “Để tiểu nhân đi, tiểu nhân biết nói tiếng Hồi.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một hồi rồi nói:

– “Được!”

Tâm Nghiễn mở bao lấy ra văn phòng tứ bảo, Hương Hương công chúa viết thư cầu cứu. Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn:

– “Ngươi lấy con ngựa trắng của Tứ phu nhân mà cưỡi. Chúng ta giả vờ xông ra phía đông, còn ngươi chạy ra phía tây.”

Chàng lại dặn cậu bé phương hướng tìm đến doanh trại người Hồi. Sau đó mọi người đồng thanh hô vang, cất bước chạy về hướng đông, chỉ có Chu Ỷ và Hương Hương công chúa ngồi lại hố cát.

Tâm Nghiễn lén dẫn con ngựa trắng lên, nằm sát dưới bụng ngựa, hai tay ôm lấy cổ ngựa, hai chân móc lên lưng ngựa, khẽ thúc vào sườn ngựa một cái. Con ngựa trắng lập tức sải vó chạy về hướng tây. Bọn lính Thanh bắn theo mấy mũi tên thưa thớt, tên bay vừa yếu ớt vừa không chính xác, cách con ngựa tới vài trượng.

Thấy Tâm Nghiễn đã đi xa, mọi người lùi trở về hố, tập trung tinh thần canh giữ bốn mặt. Họ thấy con ngựa trắng phi như bay trong gió tuyết, nhanh chóng thoát khỏi vòng vây, đều cất tiếng hoan hô.

Mấy năm nay Trần Gia Lạc coi Tâm Nghiễn như anh em ruột. Chàng thấy cậu bé còn nhỏ tuổi mà cũng phải mạo hiểm đi cầu cứu, không biết tính mạng sẽ ra sao, trong lòng cũng thấy bứt rứt. Lát sau, chàng lệnh cho Từ Thiên Hoằng và Vệ Xuân Hoa lên trên canh gác, thay cho Văn Thái Lai xuống nghỉ ngơi. Văn Thái Lai ở nơi nguy hiểm mà chẳng lo lắng gì, vừa nhảy xuống đã lập tức cất tiếng hát những bài ca ngợi mảnh đất Giang Nam. Lạc Băng cũng hòa nhịp theo:

– “Lên núi hái củi ta cứ hát ca; Ta không sợ báo, ta không sợ hổ; cuộc sống người nghèo khiến ta cứng cỏi; Tiền tài tuy ít nhưng nhân nghĩa nhiều.”

Hương Hương công chúa nói với Trần Gia Lạc:

– “Người Hán các huynh ca hát cũng hay lắm. Hai người ấy đang hát về cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc bèn dịch lời ca cho nàng nghe. Hương Hương công chúa khe khẽ hát theo, bắt trước điệu hát của Văn Thái Lai. Nàng hát được một lúc rồi ngủ thiếp đi.

Lúc này tuyết rơi càng lớn, nhìn ra ngoài chỉ thấy một màu trắng xóa. Trời gần sáng mà Hương Hương công chúa vẫn chưa ngủ dậy, trên tóc và trên vai đều bám đầy tuyết. Những đóa hoa tuyết bám trên mặt nàng bị chảy tan thành những giọt nước rung động theo hơi thở.

Lạc Băng khẽ cười:

– “Cô bé này chẳng biết lo lắng gì cả.”

Hồi lâu, đôi mày của Từ Thiên Hoằng chau lại, nói chậm rãi:

– “Sao lâu đến thế này mà chưa thấy cứu binh?”

Văn Thái Lai nói:

– “Không biết dọc đường Tâm Nghiễn có gặp chuyện gì không?”

Từ Thiên Hoằng lại nói:

– “Đệ lại lo lắng về chuyện khác.”

Chu Ỷ hỏi:

– “Việc gì thế? Sao lại ấp úng như vậy, không nói thẳng ra đi.”

Khi đoạt thánh kinh ở vùng Cam Lương, Từ Thiên Hoằng đã thấy Hoắc Thanh Đồng ra hiệu lệnh, tất cả người Hồi răm rắp tuân theo. Chàng bèn hỏi Trần Gia Lạc:

– “Doanh trại người Hồi do ai chỉ huy? Lão anh hùng Mộc Trác Luân hay cô nương Hoắc Thanh Đồng?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Cả hai cùng chỉ huy. Việc gì lão anh hùng cũng thương lượng với con gái.”

Từ Thiên Hoằng thở dài nói:

– “Nếu cô nương Hoắc Thanh Đồng không chịu xuất binh thì… thì khó rồi.”

Mọi người đều hiểu ý chàng nên im lặng không nói gì. Chỉ có Chu Ỷ nhảy chồm lên, nói một hơi:

– “Huynh… sao huynh lại nghĩ Hoắc tỉ tỉ là con người như thế? Không phải cô ấy đã có ý trung nhân khác rồi sao? Hơn nữa, dù có ganh tị với muội muội đi nữa, chẳng lẽ cô ấy không lo cứu người mình yêu thích hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Khi ghen, nữ nhân có thể làm bất cứ việc gì.”

Chu Ỷ lại càng giận dữ, la hét lung tung. Hương Hương công chúa tỉnh dậy, mở to mắt nhìn nàng mỉm cười. Mọi người mới chỉ gặp Hoắc Thanh Đồng một lần, tuy cảm thấy nàng rất tốt, nhưng nàng là người như thế nào thì không biết rõ lắm, nghe Từ Thiên Hoằng nói vậy không phải là vô lý. Chỉ có Chu Ỷ là tuyệt đối không chịu tin.

Ai cũng thấy Hương Hương công chúa diễm lệ khả ái, dù Trần Gia Lạc không muốn thay lòng đổi dạ cũng khó mà tự chủ, đó là chuyện bình thường của con người. Hơn nữa thấy chàng ăn nói ấp úng, hình như trong lòng cũng có phần hối hận, mọi người lại càng không khỏi lo âu.

Ra khỏi vòng vây, Tâm Nghiễn theo con đường Trần Gia Lạc đã chỉ, tìm tới doanh trại người Hồi đưa lá thư lên. Mộc Trác Luân đang phái người tìm kiếm khắp nơi, nhưng sa mạc mênh mông tìm kiếm hai người thật không phải dễ, lại không thể đến gần doanh trại quân Thanh thám thính. Ông đang muôn phần lo lắng thì được thư con gái, lập tức cả mừng hạ lệnh:

– “Triệu tập quân sĩ ngay!”

Hoắc Thanh Đồng hỏi Tâm Nghiễn:

– “Có khoảng bao nhiêu quân Thanh bao vây các ngươi?”

Tâm Nghiễn đáp:

– “Phải tới ba bốn ngàn người.”

Hoắc Thanh Đồng cắn chặt môi, im lặng đi qua đi lại không nói gì cả.

Lát sau bên ngoài nghe tiếng hiệu lệnh nổi lên, người thì chạy tới chạy lui, ngựa thì hí vang giậm vó, đao kiếm đã tuốt trần, đội ngũ đã tập hợp. Mộc Trác Luân đang định ra ngoài lều để dẫn người đi cứu, Hoắc Thanh Đồng bỗng nghiến răng lại nói:

– “Gia gia! Đừng đi cứu.”

Mộc Trác Luân giật mình quay đầu lại, nửa kinh ngạc nửa nghi ngờ, cứ tưởng mình nghe lầm. Hồi lâu ông mới hỏi:

– “Con… con nói gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Con nói là không thể đi cứu.”

Mộc Trác Luân tái mặt, suýt nữa thì nổi giận, nhưng lập tức nghĩ lại:

– “Con gái ta trước nay vẫn tinh tế đa mưu, không chừng có lý do gì khác.”

Ông bèn hỏi:

– “Tại sao thế?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Triệu Tuệ rất biết dụng binh, chắc chắn không chỉ vì muốn bắt hai sứ giả mà phái bốn năm ngàn người đuổi theo vây chặt. Nhất định là có quỉ kế bên trong.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Cứ cho là có quỉ kế, chẳng lẽ chúng ta nhẫn tâm đứng nhìn quân Thanh giết hại muội muội của con và những bằng hữu Hồng Hoa Hội hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng cúi đầu không đáp, hồi lâu mới nói:

– “Con chỉ sợ dẫn binh đi mà cứu người không được, lại còn tổn thương thêm mấy ngàn người nữa.”

Mộc Trác Luân đập tay vào đùi, la lớn:

– “Khoan hãy nói muội muội của con là cốt nhục thân tình. Các bằng hữu Hồng Hoa Hội như Trần tổng đà chủ đối với chúng ta đã nhân nghĩa tận cùng như thế, cho dù chúng ta vì họ mà chết thì có sao đâu? Con… con…”

Ông thấy con gái mình đột nhiên không hiểu đạo nghĩa, trong lòng vừa giận dữ, vừa tội nghiệp.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia nghe lời con đi! Không những chúng ta sẽ cứu họ ra, mà chúng ta còn có thể thắng một trận to.”

Mộc Trác Luân cả mừng noi:

– “Con gái ngoan, sao con không nói sớm một tí? Phải làm sao đây? Gia gia sẽ nghe lời con.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Gia gia nghe lời con thật phải không?”

Mộc Trác Luân mỉm cười nói:

– “Vừa rồi ta lo lắng đến nỗi hồ đồ, con đừng để bụng làm gì. Phải làm như thế nào, nói mau đi.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Thế thì gia gia hãy giao lệnh tiễn cho con đi, trận này để con chỉ huy.”

Mộc Trác Luân ngần ngừ một chút, nhưng ông biết con gái mưu trí hơn mình rất nhiều, bèn nói:

– “Được! Ta giao cho con.”

Ông lấy toàn bộ lệnh kỳ, lệnh tiễn ra, hai tay trao cho Hoắc Thanh Đồng. Hoắc Thanh Đồng quì xuống nhận lấy, khẩn cầu chân thánh A-la rồi mới đứng dậy. Nàng nói:

– “Vậy thì gia gia và ca ca cũng phải nghe lệnh của con.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Chỉ cần con có thể cứu người, đánh bại quân Thanh thì muốn gia gia làm gì cũng được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Được! Chúng ta cứ thế!”

Rồi nàng cùng phụ thân ra khỏi lều. Các đội trưởng đã xếp thành hai dãy chờ đợi.

Mộc Trác Luân nói với binh lính:

– “Hôm nay chúng ta quyết một trận sinh tử với bọn lính Mãn Châu. Trận chiến này do Hoắc Thanh Đồng cô nương ra hiệu lệnh.”

Chiến sĩ đều đưa trường đao lên, lớn tiếng hô:

– “Cầu xin chân thánh A-la hãy phù hộ Thúy Vũ Hoàng Sam. Cầu xin chân thánh A-la sẽ phù hộ cho chúng ta thắng lợi.”

Hoắc Thanh Đồng phất lệnh kỳ một cái rồi nói:

– “Hay lắm! Bây giờ giải tán, mọi người về doanh nghỉ ngơi cho khỏe.”

Các đội trưởng hướng dẫn mọi người giải tán. Mộc Trác Luân ngẩn ra không nói được tiếng nào.

Trở về lều, Tâm Nghiễn quì rạp xuống đất, không ngớt khấu đầu với Hoắc Thanh Đồng. Cậu vừa khóc vừa nói:

– “Nếu cô nương không phát binh đi cứu, công tử của tiểu nhân chắc chắn không sống được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ngươi đứng dậy đi. Ta chưa nói là không đi cứu.”

Tâm Nghiễn lại tiếp:

– “Ở đó chỉ có chín người, trong đó có muội muội của cô nương không biết võ công. Quân địch lại đông tới mấy ngàn. Nếu cứu binh tới trễ một bước, công tử sẽ… sẽ…”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Đội quân thiết giáp của bọn Thanh binh có xung phong hay không?”

Tâm Nghiễn đáp:

– “Chưa, nhưng sợ lúc này chúng đã xung phong rồi. Chúng mặc áo giáp, tên bắn không thủng thì làm sao chúng ta cản trở…”

Cậu càng nghĩ càng sợ, khóc càng lớn hơn. Hoắc Thanh Đồng chau mày không nói gì.

Mộc Trác Luân thấy Tâm Nghiễn khóc rất thảm thiết, trong lòng nghĩ:

– “Tuổi tác của nó còn nhỏ mà đối với chủ nhân đã trung thành nghĩa khí như vậy. Nếu chúng ta không đi cứu thì làm sao không có lỗi với họ.”

Ông đi qua đi lại trong lều, bàng hoàng không biết làm sao.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia đã thấy cái bẫy để bắt sói chưa? Trên móc sắt có móc một miếng thịt dê, con sói mà cắn vào miếng thịt một cái là khởi động cơ quan, bị kẹp dính ngay. Triệu Tuệ muốn chúng ta làm con sói, muội muội chính là miếng thịt dê. Trong sa mạc không có chỗ nào thủ được. Hồng Hoa Hội anh hùng tới đâu cũng chỉ có tám người, chắc chắn không chống đỡ được bốn năm ngàn nhân mã. Nhất định là Triệu Tuệ cố ý không chịu tấn công.”

Mộc Trác Luân gật đầu, Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Cậu bé này nói quân thiết giáp của bọn Thanh cũng chưa xung phong, vậy chúng ta tới đó làm chi?”

Nàng cúi xuống đất, dùng cán của lệnh kỳ vẽ một vòng tròn rồi nói:

– “Đây là miếng thịt dê.”

Nàng lại vạch hai đường ở hai bên vòng tròn rồi nói:

– “Đây là quân thiết giáp, chính là cái bẫy. Nếu chúng ta từ đây đi cứu, quân thiết giáp từ hai bên đánh kẹp vào, chúng ta còn mạng hay không?”

Mộc Trác Luân quay lại nhìn Tâm Nghiễn, không nói được tiếng nào.

Hoắc Thanh Đồng lại tiếp:

– “Bọn lính Thanh đã cố ý thả cậu bé này tới đây cầu cứu. Nếu không một người một ngựa làm sao trốn khỏi vòng vây bốn năm ngàn kỵ binh được?”

Mộc Trác Luân nói:

– “Con nói là Triệu Tuệ muốn dụ chúng ta phải không? Thế thì chúng ta từ hai bên đội ngũ của hắn mà tấn công vào, đánh cho chúng hết đường chống đỡ.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Chúng có bốn vạn quân, ta chỉ có một vạn rưỡi. Nếu đánh nhau chính diện thì chắc chắn phải thua.”

Mộc Trác Luân la lên:

– “Cứ theo con nói thì muội muội của con và các bằng hữu phải chết chắc rồi sao? Ta không nỡ bỏ muội muội của con, cũng không nỡ nhìn các bằng hữu Hồng Hoa Hội gặp nạn. Ta chỉ dẫn năm trăm người đi, nếu cứu được thì do chân thánh A-la phù hộ, nếu không cứu được thì chết chung với họ.”

Hoắc Thanh Đồng im lặng không đáp.

Tâm Nghiễn thấy Hoắc Thanh Đồng nhất định không chịu xuất quân, lại quì xuống khóc lóc, vừa dập đầu vừa nói:

– “Nếu công tử có lỗi gì với cô nương, xin cô nương khoan dung tha lỗi mà đi cứu. Tiểu nhân nhất định sẽ cầu xin công tử đền tội cho cô nương. Cô nương mà chịu cứu mạng cho công tử thì bọn tiểu nhân không ai không cảm kích ân đức. Xin cô nương cứu mạng!”

Hoắc Thanh Đồng nghe mấy câu này, biết Tâm Nghiễn đã có ý nghi ngờ mình, đôi mày bèn cau lại giận dữ nói:

– “Ngươi đừng nói lăng nhăng nữa!”

Tâm Nghiễn nhảy chồm lên nói:

– “Cô nương đã nhẫn tâm như thế, thì tiểu nhân phải trở về chết với công tử.”

Cậu vừa khóc rống lên vừa cưỡi con ngựa trắng phóng đi như bay.

Mộc Trác Luân lớn tiếng nói:

– “Chúng ta mà không xuất binh thì còn thua cả đứa bé này. Dù lên núi đao hay xuống chảo dầu thì ta cũng quyết liều một phen. Thánh A-la đã dạy, chết vì nghĩa thì hồn được lên thiên quốc.”

Ông càng nói càng kịch liệt hơn.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Người Hán có một quyển sách là Tam quốc diễn nghĩa. Sư phụ của con đã kể không ít chuyện dùng mưu thắng trận cho con nghe, thật là kỳ diệu. Quyển sách đó có nói:

– Tướng giỏi ở mưu chứ không ở dũng. Chúng ta ít quân, phải dùng kỳ mưu mới mới thắng được đối phương. Triệu Tuệ đã có độc kế, chúng ta phải tương kế tựu kế đánh cho một trận.”

Mộc Trác Luân bán tín bán nghi hỏi lại:

– “Thật ư?”

Hoắc Thanh Đồng run giọng nói:

– “Gia gia! Chẳng lẽ gia gia cũng nghi ngờ con?”

Mộc Trác Luân thấy đôi mắt nàng đầy lệ, sắc mặt nửa trắng nửa xanh. Trong lòng ông không nỡ bèn nói:

– “Được thôi, tùy ý con. Vậy thì con lập tức xuất binh đi cứu người đi.”

Hoắc Thanh Đồng suy nghĩ một lúc rồi bảo bọn thân binh:

– “Nổi trống thăng trướng!”

Tiếng trống vang vang, đội trưởng các đội đều kéo vào lều. Hoắc Thanh Đồng ngồi giữa, Mộc Trác Luân và Hoắc A Nhỹ ngồi hai bên. Lúc này ngoài lều tuyết rơi rất lớn, dưới đất đã phủ dày mấy tấc. Mộc Trác Luân nghĩ đến đứa con gái nhỏ bị vây trong sa mạc lại gặp phải trận tuyết này, không chết đói thì cũng chết rét. Trong lòng ông không khỏi lo lắng, bàng hoàng.

Hoắc Thanh Đồng cầm lệnh tiễn mà nói:

– “Đội trưởng đội một Thanh Kỳ! Huynh đem nhân mã bản đội tới vùng sình lầy phía tây Qua Bích, làm như thế này… Đội hai, ba, tư, năm, sáu Thanh Kỳ! Các huynh thống lãnh nhân mã, triệu tập mục dân và nông dân ở cùng đầm lầy, làm như thế này…”

Sáu đội trưởng Thanh Kỳ nhận lệnh, mỗi người dẫn một ngàn binh lính đi ngay. Mộc Trác Luân thấy con gái đưa hết quân tinh nhuệ đi làm những chuyện xây dựng công sự mà không đi cứu người, bắt đầu cảm thấy bất mãn.

Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội một, hai, ba Bạch Kỳ! Các vị tới thành Diệp Nhĩ Khương và hai bên bờ sông Hắc Thủy làm như thế này… Đội trưởng đội một Hắc Kỳ, đội trưởng Kha Tất Khắc! Hai vị đem quân lên ngọn núi bên sông Hắc Thủy làm như thế… Đội trưởng đội Mông Cổ! Đội các vị đến đợi trên đỉnh núi Kỳ Bàn, làm những việc như sau…”

Đội trưởng của các đội đều nhận lệnh dẫn quân đi. Phen này quân Thanh xâm lược hướng tây, không những người Hồi bị giết hại rất nhiều mà các bộ lạc như Kha Tất Khắc, Mông Cổ trong vùng núi Thiên Sơn cũng bị họa lây. Vì thế mà không ít bộ tộc đã liên hiệp với Hồi tộc để chống trả quân Thanh.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia chỉ huy các đội Thanh Kỳ ở mặt đông. Ca ca! Huynh chỉ huy các đội nhân mã ở mặt tây, gồm Bạch Kỳ, Kha Tất Khắc, Mông Cổ. Còn con thống lĩnh đội hai Hắc Kỳ, ở giữa điều động và tiếp ứng. Trận chiến này phải như thế.”

Nàng giải thích tường tận xong, Mộc Trác Luân đứng bật dậy quát hỏi:

– “Vậy thì ai đi cứu người?”

Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội trưởng đội ba Hắc Kỳ dẫn đội từ phía đông, đội trưởng đội bốn Hắc Kỳ dẫn đội từ phía tây xông vào cứu người, nếu gặp quân Thanh phải làm như vậy… hai đội này phải đổi ngựa với đội Thanh Kỳ để lấy những con ngựa tốt nhất, không được cưỡi con nào chạy chậm.”

Hai đội trưởng Hắc Kỳ cũng nhận lệnh mà ra điểm quân. Mộc Trác Luân la lên:

– “Con đem một vạn ba trăm ngàn tinh binh đi làm những công việc không gấp rút, còn cứu người phái hai ngàn binh lính già yếu trẻ con, cũng không phải đi đánh trận mà đi chạy trốn. Như vậy là có dụng ý gì?”

Thì ra trong Hồi tộc thì Thanh kỳ và Bạch Kỳ là hai đội quân tinh nhuệ nhất, Hắc Kỳ không thể bì được. Đội ba, đội tư Hắc kỳ chỉ gồm những người già yếu và thiếu niên chưa trưởng thành. Đó là hai đội yếu kém nhất, thường chỉ làm những chuyện canh gác và vận tải, rất ít khi ra trận. Hoắc A Y trước nay vẫn kính phục em gái, bây giờ trên mặt cũng đầy vẻ hoài nghi.

Hoắc Thanh Đồng lại tiếp:

– “Kế sách của con là…”

Mộc Trác Luân lửa giận đã bốc tới đầu, gầm lên:

– “Ta không tin lời ngươi nữa. Ngươi… ngươi thích Trần Gia Lạc công tử, mà y lại thích muội muội của ngươi, nên ngươi muốn hai người này phải chết. Ngươi… ngươi thật là nhẫn tâm.”

Nghe vậy Hoắc Thanh Đồng tay chân lập tức lạnh như băng, suýt ngất xỉu tại chỗ. Mộc Trác Luân giận đến mất khôn, nói xong mới cảm thấy mình quá nặng lời. Ông ngơ ngác một chút rồi tung người lên ngựa hô lớn:

– “Ta đi chết chung với Kha Tư Lệ.”

Mộc Trác Luân vung trường đao một cái, ra lệnh:

– “Đội ba, đội bốn Hắc Kỳ đi theo ta!”

Đổi ngựa tốt xong, hai đội chiến sĩ già yếu và trẻ con liền chạy theo tộc trưởng vào sa mạc trong cơn gió tuyết. Hoắc A Y thấy muội muội mặt mũi bơ phờ, bất giác nảy lòng thương xót. Y lên tiếng dỗ dành:

– “Muội muội! Trong lòng gia gia rối loạn, chính ông ấy cũng không biết mình đang nói gì nữa. Muội muội đừng để tâm.”

Hoắc Thanh Đồng đưa tay đè lên ngực, trán đẫm mồ hôi lạnh, hồi lâu mới nói:

– “Muội đi tiếp ứng gia gia.”

Hoắc A Y nói:

– “Cứ nhìn cũng biết muội muội mệt mỏi quá rồi. Muội muội đi nghỉ một lúc, để huynh đi tiếp ứng cho gia gia trước.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không được! Ca ca phải lo chỉ huy các đội Thanh Kỳ ở hướng đông. Để muội đi.”

Nàng lập tức nhảy lên chiến mã, dẫn đội hai Hắc Kỳ ra đi.

Lúc này doanh trại người Hồi chỉ còn lại hai ba trăm thương bệnh binh. Một vạn năm trăm ngàn chiến sĩ đã rời khỏi doanh trại đi bày trận. Tâm Nghiễn tức tối vô cùng, cưỡi con ngựa trắng vừa khóc vừa chạy về chỗ Trần Gia Lạc đang bị bao vây. Lúc này, về đến gần quân Thanh cũng chẳng cản trở gì, chỉ bắn qua loa mười mấy mũi tên, mũi nào cũng trật xa hơn trượng.

Lúc cậu chạy đến gần hố cát, Chương Tấn la lớn:

– “Tâm Nghiễn đã trở về rồi.”

Tâm Nghiễn không nói gì, nhảy xuống ngựa dẫn con ngựa trắng vào hố cát rồi ngồi bệt xuống đất, cất tiếng khóc ròng. Chu Ỷ vội dỗ:

– “Đừng khóc, đừng khóc. Ra sao rồi?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Có gì mà phải hỏi? Hoắc Thanh Đồng không chịu xuất binh.”

Tâm Nghiễn thút thít nói:

– “Tiểu nhân quì xuống dập đầu, cầu xin khổ sở… Thế mà cô ấy quát mắng tiểu nhân.”

Nói xong, cậu lại khóc. Mọi người đều im lặng không nói lời nào. Hương Hương công chúa hỏi Trần Gia Lạc:

– “Tại sao chú bé này khóc vậy?”

Trần Gia Lạc không muốn nàng khó chịu, bèn nói:

– “Nó đi cầu cứu, mất nửa ngày mà vẫn không thoát ra được.”

Hương Hương công chúa lấy khăn tay đưa cho cậu. Tâm Nghiễn đón lấy đang định chùi nước mắt nước mũi bỗng cảm thấy trên khăn có một mùi hương thanh khiết, bèn không dám dùng. Cậu lấy tay áo lau mặt, trả lại khăn tay.

Từ Thiên Hoằng hỏi:

– “Bây giờ chúng ta có nên xung phong xông ra ngoài hay không? Tứ ca! Huynh thấy chúng ta phải làm sao?”

Văn Thái Lai nghe Từ Thiên Hoằng hỏi mình chứ không hỏi Trần Gia Lạc, suy nghĩ một chút liền hiểu được dụng ý của họ Từ. Chàng lên tiếng:

– “Tổng đà chủ! Tổng đà chủ cùng vị cô nương này cưỡi con ngựa trắng xông ra.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Chỉ hai người thôi ư?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Đúng vậy. Chúng ta cùng xông ra thì chắc chắn không thoát được. Trên vai tổng đà chủ còn gánh vác trách nhiệm rất nặng, không những mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội cần sự chỉ huy, mà cả giang sơn người Hán phải được khôi phục nữa.”

Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng, Chu Ỷ đồng thanh nói:

– “Nếu tổng đà chủ thoát được ra ngoài, bọn thuộc hạ chết cũng nhắm mắt.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Các vị chết đi, chẳng lẽ ta sống một mình?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ, tình hình cấp bách lắm rồi. Nếu tổng đà chủ không chịu đi ngay, bọn thuộc hạ phải có biện pháp.”

Trần Gia Lạc ngập ngừng một chút rồi nói:

– “Được.”

Chàng dẫn con ngựa trắng ra khỏi hố cát, chắp tay thi lễ với mọi người, dìu Hương Hương công chúa lên ngựa rồi phóng đi. Bọn Văn Thái Lai biết phen này sinh ly tử biệt, ai cũng buồn bã vô cùng, Lạc Băng mắt đẫm lệ. Trần Gia Lạc thì chẳng tỏ thái độ gì, cùng Hương Hương công chúa đi ngay. Mọi người đều trầm uất, lại thêm lo lắng cho Trần Gia Lạc có thoát được ra khỏi vòng vây hay không. Xưa nay Văn Thái Lai vẫn hào sảng nhất, lên tiếng đầu tiên:

– “Ở đây, kể cả tổng đà chủ và cô nương người Hồi chỉ có mười người. Bây giờ chúng ta giết được bảy tám chục quân địch rồi. Các vị huynh đệ, chúng ta phải giết bao nhiêu rồi mới chết đây?”

Lạc Băng đáp:

– “Tối thiểu phải giết thêm một trăm tên.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Bọn quân Thanh này tệ hại vô cùng, chúng ta phải giết đủ số ba trăm.”

Chương tấn nói:

– “Bét ra cũng được năm trăm thằng.”

Vệ Xuân Hoa đang canh gác ở trên, quay xuống nói:

– “Chúng ta đây còn lại tám người. Anh hùng hảo hán của Hồng Hoa Hội phải lấy một chọi trăm. Xem đây!”

Lúc đó có ba tên lính Thanh từ từ trườn tới trên mặt tuyết. Vệ Xuân Hoa giương cung liên tiếp bắn ra, không mũi nào không trúng. Tâm Nghiễn đếm:

– “Một, hai, ba. Hay quá! Cửu gia, hay tuyệt!”

Dư Ngư Đồng cũng cao hứng kêu lên:

– “Cứ như vậy mà làm. Bắt chúng ta chết cũng không phải dễ, nộp trước cho đủ tám trăm mạng cái đã.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói:

– “Việc này càng lúc càng không dễ. Nếu không giết đủ số, thì đúng là chúng ta chết không nhắm mắt.”

Lạc Băng cũng cười nói:

– “Vậy phải dặn Ngũ ca, Lục ca từ từ mà tới.”

Mọi người cười ồ lên. Thương Hách Chí, Thường Bá Chi có biệt hiệu là Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường. Quỉ vô thường tới bắt hồn thì người ta mới chết. Quần hùng đã quyết tâm chấp nhận cái chết, ai cũng thoải mái trong lòng. Tâm Nghiễn vốn đang hoảng sợ, thấy mọi người như vậy cũng can đảm hẳn lên. Cậu nghĩ:

– “Công tử là anh hùng hào kiệt, ta không nên làm công tử phải xấu hổ.”

Chương Tấn cười ha hả, cao hứng la lên:

– “Hôm nay lão gia phải giết cho đủ tám trăm thằng chó rồi sẽ về trời.”

Đột nhiên nghe tiếng Vệ Xuân Hoa quát hỏi:

– “Ai đó?”

Rồi có tiếng Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Sao chúng ta không giết cho đủ số một ngàn?”

Vệ Xuân Hoa la lên:

– “Tổng đà chủ! Sao lại trở về đây?”

Trần Gia Lạc tung người nhảy xuống hố cát, mỉm cười nói:

– “Đưa cô ấy đi rồi, đương nhiên ta phải về đây. Năm xưa Lưu Quan Trương từng thề, không được sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng phải chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Nghĩa khí của họ lưu truyền vạn kiếp, nhưng rốt cuộc cũng không thực hiện được lời thề. Thế mà hôm nay, chín huynh đệ tỉ muội chúng ta lại làm được như vậy.”

Mọi người thấy chàng nói vậy, biết là không thể khuyên can được nữa, nên đồng thanh hô lớn:

– “Hay lắm! Chúng ta sẽ chết cùng ngày cùng tháng cùng năm.”

Trần Gia lạc nói:

– “Tâm Nghiễn hảo huynh đệ! Ngươi đừng gọi ta là thiếu gia nữa, làm Thập ngũ đệ của chúng ta đi.”

Mọi người đều nói:

– “Không sai! Không sai!”

Tâm Nghiễn cảm động khóc rống lên.

Lúc này tuyết rơi vào hố cát đã dầy mấy tấc. Mọi người vừa hốt tuyết bỏ đi vừa nói chuyện huyên thuyên. Từ Thiên Hoằng cười nói:

– “Bây giờ mà có một hũ rượu lâu năm thì tuyệt diệu.”

Chu Ỷ liếc xéo chàng:

– “Lại trêu muội nữa rồi.”

Mọi người lại bật cười.

Dư Ngư Đồng ngẩn ngơ một lúc rồi bồng lên tiếng:

– “Tứ ca! Đệ có một chuyện rất không phải với huynh, không muốn mang nó trong lòng mà chết.”

Văn Thái Lai kinh ngạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Dư Ngư Đồng liền kể lại mình đã si tình với Lạc Băng như thế nào, đã xúc phạm nàng bên ngoài Thiết Đảm Trang ra sao. Cuối cùng chàng nói:

– “Đệ tâm trí điên rồ, đáng chết từ lâu nhưng không chết được. Trong lòng đệ mãi không yên mới đi làm hòa thượng. Tứ ca! Huynh có thể tha lỗi cho đệ hay không?”

Văn Thái Lai cười rộ lên đáp:

– “Thập tứ đệ! Đệ tưởng ta chưa biết hay sao? Nhưng ta đối xử với đệ có khác gì đâu? Tứ tẩu của đệ trước nay không nhắc đến chuyện đó, nhưng ta vẫn nhìn thấy. Ta biết đệ còn trẻ tuổi, hồ đồ trong lúc nhất thời nên không để chuyện đó vào lòng, đã tha lỗi cho đệ từ lâu rồi. Hôm nay đệ không cần phải cầu xin ta làm chi nữa.”

Dư Ngư Đồng vừa áy náy lại vừa cảm kích.

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Thập tứ đệ! Chuyện này đã qua lâu rồi, không cần nhắc tới nữa. Nhưng có một việc mà thật sự Tứ tẩu không được hài lòng.”

Dư Ngư Đồng ấp úng hỏi:

– “Chuyện… chuyện gì?”

Lạc Băng nói:

– “Đệ là hòa thượng, sau khi quy thiên thì được Như Lai tiếp nhận về Tây Phương cực lạc. Còn tám người chúng ta lại bị Ngũ ca, Lục ca dẫn xuống âm tào địa phủ, chắc chắn không tránh khỏi lên núi đao, xuống chảo dầu. Như vậy há chẳng phản lại lời thề có phước cùng hưởng có họa cùng chịu trước đây.”

Mọi người càng nghe càng thấy tức cười. Dư Ngư Đồng lập tức xé bỏ tăng bào đang khoác trên người cười rộ lên nói:

– “Dù sao thì hôm nay đệ cũng đã đại khai sát giới. Ngã phật từ bi, hôm nay đệ tử quyết định hoàn tục. Đệ thà đi với các vị ca ca tỉ tỉ xuống địa ngục, còn hơn một mình về nơi cực lạc.”

Mọi người cùng vỗ tay tán thưởng.

Đang cười đùa lớn tiếng, thì Vệ Xuân Hoa và Tâm Nghiễn đang canh gác phía trên bỗng la lên. Mọi người cùng nhảy lên bờ hố cát chuẩn bị đón địch. Dưới ánh trăng lạnh lẽo mờ nhạt, giữa những đóa tuyết hoa đang bay múa, một người mặc áo trắng dẫn con ngựa trắng từ từ bước tới. Lúc này cả trời đất trắng xóa một màu thanh khiết, nhưng người áo trắng còn thanh khiết hơn cả tuyết, trông như tiên nữ hạ phàm. Đó chính là Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc giật mình, nhảy ra khỏi hố cát chạy tới đón nàng.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Sao huynh bỏ muội lại một mình?”

Trần Gia Lạc giậm chân nói:

– “Ta đã bảo muội chạy về bộ tộc đi. Ở đây chỉ có chết chứ không sao sống được.”

Hương Hương công chúa ứa lệ mà nói:

– “Huynh chết mà muội sống được hay sao? Chẳng lẽ huynh… huynh chưa hiểu lòng muội hay sao?”

Trần Gia Lạc ngẩn ngơ một chút rồi nói:

– “Được! Vậy chúng ta cùng ở lại đây.”

Chàng bèn dắt tay nàng trở vào hố cát.

Chu Ỷ thở dài nói:

– “Tổng đà chủ! Lúc nãy muội còn trách tổng đà chủ là tâm trí không kiên định, thật ra muội đã sai rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Chu Ỷ đáp:

– “Không ngờ tiểu cô nương này lại tình sâu nghĩa trọng như thế. Đừng nói là cô ấy trông như tiên nữ, mà dù cô ấy xấu xí như Mẫu Dạ Xoa thì chỉ cần tấm lòng như thế cũng đáng yêu rồi.”

Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp, nghĩ thầm:

– “Hôm nay bằng hữu và người yêu đều ở cả đây, nếu ta phải chết cũng không có gì phải hối hận. Nếu thật sự Hoắc Thanh Đồng hận mình vô tình bạc nghĩa mà không chịu cho quân đến cứu, thì ta cũng nên xem mình là con người thay lòng đổi dạ, đáng bị trừng phạt.”

Nghĩ như vậy, chàng thấy trong lòng thoải mái, những gì tự trách đã giảm bớt nhiều. Chàng lại nghĩ:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam anh hùng lẫm liệt, chưa chắc đã hay hờn oán như những cô gái tầm thường nhỏ mọn. Ôi! Rốt cuộc cũng là mình có lỗi với nàng, không chừng trong lúc này nàng còn đau lòng khổ sở hơn mình nhiều.”

Lạc Băng nói với Chu Ỷ:

– “Ỷ muội yêu thất ca như thế, chẳng lẽ tấm lòng của huynh ấy lại tốt hay sao?”

Chu Ỷ cãi:

– “Còn không phải ư? Tuy huynh ấy tinh ranh quỷ quyệt, nhưng bụng dạ lại tốt vô cùng.”

Từ Thiên Hoằng được ái thê khen ngợi trước đám đông, trong lòng cực kỳ vui sướng.

Hương Hương công chúa nói với Trần Gia Lạc:

– “Để muội hát một câu chuyện cho mọi người nghe.”

Trần Gia Lạc vỗ tay khen hay. Nàng dịu dàng cất tiếng hát:

– “Bên bờ sông Khổng Tước có Thiết Mãn Quan, dương liễu soi bóng trên mặt nước. Trên đỉnh núi cao có một ngôi mộ, trong đó có đôi lứa Tháp Y Nhĩ và Du Hoạ Na.”

Nàng cứ hát một đoạn, Trần Gia Lạc lại khẽ dịch ra cho mọi người hiểu. Bài ca nàng đang hát là môt truyền thuyết của người Hồi.

Ngày xửa ngày xưa có một nước tên là Cổ Nhiên Kỳ quốc. Công chúa là Du Hoạ Na và con trai của tể tướng là Tháp Y Nhĩ thân thiết với nhau từ nhỏ. Sau này, vì can gián nhà vua quá thẳng, tể tướng bị quốc vương xử tử. Quốc vương không cho phép con gái giao du với Tháp A Nhĩ nữa, muốn gả cho Hoắc Anh Hùng là con trai của gian thần. Ông nhốt Tháp A Nhĩ vào một cái rương, thả xuống dòng sông Khổng Tước để chàng trôi ra khỏi biên giới. May mà công chúa Phủ Sa quốc đang dạo chơi trên sông, cứu được Tháp A Nhĩ về. Quốc vương Phủ Sa quốc thấy chàng tuấn tú tài ba, muốn chọn làm phò mã và cho thừa kế ngôi vua. Nhưng Tháp A Nhĩ lại nói:

– “Tài sản và vương miện của bệ hạ, cộng thêm nàng công chúa mỹ miều nhất trên đời, cũng không thể làm cho tại hạ phụ mối thâm tình của Du Họa Na.”

Chàng kiên quyết không nhận hảo ý của quốc vương Phủ Sa quốc, về sau này lén trở về Cổ Nhiên Kỳ quốc. Lúc này, Du Họa Na vì tưởng nhớ người tình mà phải bệnh, quốc vương cho ngụy tạo lá thư của Tháp A Nhĩ để an ủi nàng. Đến khi nàng lành bệnh, quốc vương lại ép gả cho Hoắc Anh Hùng. Nàng vừa rơi lệ vừa mở chiếc rương là quà cưới của dân chúng gửi đến chúc mừng, không ngờ Tháp y Nhĩ từ trong rương nhảy ra.

Ngay lúc đó Hoắc Anh Hùng xông vào, đánh nhau với Tháp A Nhĩ và bị chàng giết chết. Quốc vương hạ lệnh xử tử Tháp A Nhĩ, công chúa khóc lóc cầu xin, rồi cũng bị phụ vuơng thắt cổ đến chết. Dân chúng vừa hát điếu ca vừa khiêng thi hài của đôi tình nhân này lên đỉnh núi cao mà an táng.

Khi nàng hát đến những đoạn thê lương bi thảm, Lạc Băng và Chu Ỷ tuy không hiểu ngay ý nghĩa của lời ca mà cũng không nén nổi nước mắt đầm đìa. Mọi người im lặng hồi lâu, ngẫm nghĩ đến vận mệnh bất hạnh của đôi tình nhân ở thời đại cổ xưa.

Đột nhiên Vệ Xuân Hoa ở trên cười ha hả kêu lên:

– “Mau lên đây mà xem!”

Mọi người trèo lên bờ hố, thấy sáu bảy tên Thanh binh nằm yên rên rỉ, không động đậy được. Thì ra chúng định bò đến đánh lén. Vệ Xuân Hoa phát hiện từ lâu, định để chúng tới gần mới bắn tên. Nào ngờ chúng nghe giọng hát của Hương Hương công chúa mà mê mẩn tâm thần, nằm yên trên mặt tuyết để lắng nghe. Trời lạnh thế này, chỉ chốc lát là tuyết bám trên người đã kết thành băng. Khi bài ca chấm dứt, chúng muốn tiếp tục bò tới nhưng băng đã bám chặt lên người, giãy giụa thế nào cũng không thoát ra được.

Tuyết vẫn không ngừng rơi xuống, xuống tới đất là đóng băng ngay. Chỉ trong chốc lát, mấy tên lính Thanh này đã bị chôn vùi trong băng tuyết. Quần hùng cũng lạnh đến mức khó mà chịu nổi. Tâm Nghiễn nhặt về một đống tên và cành cây, nhóm lửa trong hố cát để sưởi cho ấm.

Sáng sớm ngày thứ ba, tuyết vẫn rơi rất lớn. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta phải đề phòng, e rằng hôm nay quân Thanh sẽ bất ngờ tấn công.”

Ngoài Hương Hương công chúa ra, mọi người đều chuẩn bị cung tên, canh gác bên bờ hố cát.

Trời đã sáng hẳn mà bọn lính Thanh cũng chỉ bắn tên thưa thớt, không hề tập hợp đội ngũ tán công. Từ Thiên Hoằng không sao hiểu nổi, nhưng đột nhiên nghĩ tới một chuyện, liền hỏi Tâm Nghiễn:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương đã hỏi tiểu đệ những gì?”

Tâm Nghiễn nói:

– “Cô ấy hỏi tiểu đệ có bao nhiêu quân Thanh bao vây chúng ta, lại hỏi quân thiết giáp có xung phong hay không.”

Từ Thiên Hoằng mừng rỡ la lên:

– “Chúng ta được cứu rồi!”

Mọi người đều ngẩn ra, giương mắt lên nhìn chàng. Từ Thiên Hoằng tiếp:

– “Ta hồ đồ nghi ngờ Hoắc Thanh Đồng cô nương, đúng là lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Cô ấy thông minh hơn ta rất nhiều.”

Chu Ỷ ngạc nhiên hỏi:

– “Cái gì?”

Từ Thiên Hoằng hỏi lại:

– “Giả tỉ đội quân thiết giáp của bọn Thanh xung phong tới đây, chúng ta giữ được mạng hay không?”

Chu Ỷ nói:

– “À, chuyện đó cũng lạ.”

Từ Thiên Hoằng lại nói:

– “Dù chúng không dùng quân thiết giáp, nhưng nếu mấy ngàn người xung phong cùng lúc, chúng ta tám chín người làm sao mà chống đỡ? Mấy ngàn nhân mã không cần đâm chém, chỉ cần xếp hàng bước tới là đạp chúng ta nát bét như tương. Hơn nữa, chúng không bắn tên thật sự về phía chúng ta, chỉ làm bộ mà thôi.”

Mọi người nghe nói, nghĩ lại thấy đúng là như vậy. Tại sao phen này quân Thanh lại khách sáo, hạ thủ lưu tình như thế?

Trần Gia Lạc hiểu ra, hét toáng lên:

– “Đúng rồi, đúng rồi! Chúng cố ý không xung phong là muốn dụ cứu binh của người Hồi đến, nhưng Hoắc Thanh Đồng cô nương không bị chúng lừa.”

Chương Tấn nói:

– “Cô ấy không bị lừa, có nghĩa là chúng ta hỏng bét.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Không hỏng đâu! Nhất định cô ấy sẽ có cách.”

Chu Ỷ cười nói:

– “Đã đúng chưa? Muội chẳng bao giờ tin cô ấy là con người tệ bạc.”

Mọi người lập tức phấn chấn tinh thần, chỉ để lại Dư Ngư Đồng và Tâm Nghiễn canh giữ phía trên, còn tất cả nhảy xuống hố cát nghỉ ngơi.

Hồi 15: Triệu Tuệ ngốc toàn quân tan vỡ – Nguyên Chỉ buồn trêu ghẹo tam ma

Nhắc lại, nhờ bốn anh em Cốt Luân xông tới đè Trương Triệu Trọng mà Trần Gia Lạc mới thoát thân được. Mãi đến khi Triệu Tuệ bước ra quát tháo, họ mới chịu buông tay.

Trương Triệu Trọng giận dữ tột độ, từ dưới đất nhảy bật lên, xoay tay đánh một chưởng vừa nhanh vừa nặng. Phải đến nửa hàm răng của Cốt Luân Nhị Hổ rơi lốp cốp xuống đất, tên này đau quá suýt ngất ngay tại chỗ. Ba tên kia nổi giận, đồng thời nhảy tới đấm đá loạn xạ. Triệu Tuệ phải la mắng liên hồi, bốn huynh đệ này mới chịu hậm hực lùi ra.

Trương Triệu Trọng bực bội nói:

– “Đại tướng quân! Phen này hoàng thượng phái ty chức đến Hồi Cương có hai nhiệm vụ, mà một là bắt cô gái đó vào kinh.”

Triệu Tuệ hỏi:

– “Trương huynh chưa từng đến đây làm sao mà biết cô gái ấy?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Người Hồi đã dâng tặng hoàng thượng một đôi ngọc bình để cầu hòa. Trên ngọc bình có vẽ hình một mỹ nữ thời xưa của Hồi tộc, kiều diễm vô cùng. Hoàng thượng khen ngợi không thôi, còn nói là thời nay không thể có người đẹp như thế. Sứ giả nói, hiện nay trong Hồi tộc có người còn đẹp hơn cô gái vẽ trên ngọc bình. Hoàng thượng không tin, muốn tận mắt nhìn thấy mỹ nhân đó, bèn sai ty chức đến đây lo liệu. Cô gái vừa rồi đẹp đẽ vô song, bình sinh ty chức chưa từng thấy, chắc chắn là người đó rồi.”

Triệu Tuệ “úi chà” một tiếng. Trương Triệu Trọng lại tiếp:

– “Hán tử vừa rồi không phải người Hồi, mà là đại thủ lĩnh Hồng Hoa Hội, tên Trần Gia Lạc.”

Triệu Tuệ kinh ngạc hỏi:

– “Có phải vậy không? Sao hắn lại tới đây?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Hoàng thượng nhờ hắn đến đây lấy mấy món đồ, hạ lệnh cho ty chức là đợi hắn lấy được rồi chặn đường cướp lấy. E rằng những món mà hoàng thượng cần hiện đang ở trong người hắn. Hai người này tự dẫn xác đến đây, đúng là hồng phúc của hoàng thượng. Thế mà chúng ta lại bỏ qua cơ hội, để chúng dễ dàng thoát thân. Thật là đáng tiếc!”

Nói xong, hắn không ngớt vỗ đùi than thở. Triệu Tuệ mỉm cười nói:

– “Trương huynh không cần phải than thở luyến tiếc như thế. Ta đã điều binh khiển tướng, bố trí xong xuôi, định dùng bọn sứ giả này làm mồi để câu một con cá lớn. Hoàng thượng muốn bắt hai người này, thì đúng là nhất cử lưỡng tiện.”

Hắn quay lại bảo một tên thân binh đứng cạnh:

– “Đi dặn Đức Ngạn đô thống không được hại mạng hai người đó.”

Tên thân binh nhận lệnh đi ngay. Triệu Tuệ nói:

– “Hai tên sứ giả không phải tầm thường, bọn Hồi nhất định sẽ phái trọng binh đến cứu. Đợi chúng đến, quân thiết giáp của chúng ta từ hai bên kẹp lại.”

Hắn vừa nói vừa giang hai cánh tay ra, rồi ép hai tay vào nhau, mỉm cười nói:

– “Như vậy là xong.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Đại tướng quân thần cơ diệu toán, không ai sánh kịp. Hoàng thượng thánh minh nên mới giao việc chinh phục Hồi tộc này cho đại tướng quân.”

Triệu Tuệ vô cùng đắc ý, cười lên ha hả. Trương Triệu Trọng nói:

– “Trận này đại tướng quân thắng chắc rồi. Nhưng giả tỉ hai người đó bị giết lầm hay mất tích trong đám loạn quân, hoàng thượng nhất định sẽ trách mắng.”

Triệu Tuệ hỏi:

– “Theo Trương huynh thì phải làm thế nào?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Ty chức muốn xin lệnh đi bắt hai người này trước. Sau đó quân ta cứ tiếp tục vây chặt để dụ chủ lực quân Hồi đến.”

Triệu Tuệ suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Bây giờ đi ngay thì không chừng bọn Hồi sẽ đoán ra kế hoạch của chúng ta. Trương huynh hãy đợi vài ngày nữa.”

Mãi đến sáng sớm ngày thứ ba, Triệu Tuệ mới phát lệnh tiễn. Trương Triệu Trọng dẫn một trăm quân thiết giáp đi ngay. Vừa đến gần, trong hố cát đã có mười mấy mũi tên bắn ra. Ba tên quân thiết giáp trúng tên vào mặt ngã nhào xuống ngựa, thế tấn công liền chậm lại. Trương Triệu Trọng dẫn đầu quát tháo xung phong chúng lại tiếp tục xông đến.

Từ Thiên Hoằng kinh hãi nói:

– “Quân thiết giáp đã đến đây rồi. Chẳng lẽ ta đoán sai hay sao?”

Vệ Xuân Hoa la lên:

– “Tên gian tặc Trương Triệu Trọng kìa!”

Dư Ngư Đồng nghĩ ngay đến cái chết thê thảm của ân sư. Chàng nổi giận điên cuồng, mắt nảy lửa như muốn nổ tung, cầm kim địch tung người ra khỏi hố cát, chạy thẳng về phía Trương Triệu Trọng, đánh liều mạng không cần chiêu thức.

Trương Triệu Trọng đột nhiên thấy một hòa thượng xấu xí dùng võ thuật bản môn xông vào tấn công tới tấp. Hắn chưa kịp kinh ngạc, thì lại thấy Vệ Xuân Hoa cầm song câu phóng tới, phải vội vàng đưa kiếm cản trở. Võ công của hắn so với hai người này thì cao hơn nhiều, nhưng Vệ Xuân Hoa xưa nay hễ đánh nhau là liều mạng, Dư Ngư Đồng lại càng chán sống, chỉ muốn chết chung với kẻ thù của mình. Người xưa từng nói:

– “Một người liều mạng, vạn người khó địch,” huống chi bây giờ có tới hai người liều mạng. Ba người quây quần nhau mà loạn đả bên hố cát.

Lúc này đã có mấy chục tên quân thiết giáp chạy tới gần. Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Chương Tấn, Lạc Băng, Tâm Nghiễn đều nhảy lên trên. Chương Tấn vung cây lang nha bổng đập loạn lên, phát ra những tiếng leng keng. Bọn này mũ áo đều rèn bằng sắt dày nên y không đả thương được chúng, lại suýt bị trường mâu đâm trúng mấy lần.

Lạc Băng, Tâm Nghiễn, Từ Thiên Hoằng chỉ biết cố gắng chống đỡ, không thể nào làm tổn thương kẻ địch. Đơn đao cùa Văn Thái Lai chém vào giáp sắt cũng dội ngược về. Họ Văn bèn quát lên một tiếng, vứt bỏ đơn đao, tay không nhảy xổ vào một tên lính thiết giáp. Hắn vội đưa mâu lên đâm, Văn Thái Lai liền túm lấy đầu mâu, giật mạnh một cái.

Tên lính đó “úi chà” một tiếng, trường mâu đã tuột khỏi tay. Văn Thái Lai không cần xoay mâu lại, sử dụng cán mâu mà đâm vào mặt hắn, xuyên thủng cả sọ. Chàng chưa kịp rút mâu về, bỗng nghe tiếng Lạc Băng kêu lên:

– “Cẩn thận phía sau.”

Văn Thái Lai cảm thấy sau lưng có kình phong thốc tới, lập tức quờ tay trái lại, kẹp được một cây trường mâu khác dưới nách. Chàng vận kình đoạt lấy cây mâu đánh lén sau lưng. Tay phải Văn Thái Lai đưa lên, rút lấy cây mâu đang cắm trong đầu của tên lính Thanh trước mặt, đâm ngược lại trúng vào sống mũi của tên đánh lén sau lưng, mũi mâu xuyên lộ ra sau gáy.

Đội quân thiết giáp này được lệnh bắt sống Trần Gia Lạc và Hương Hương côn chúa, khác hẳn bọn lính bao vây cầm chừng mấy hôm nay. Chúng liều mạng chiến đấu, chém giết thật sự, tuy thấy Văn Thái Lai thần dũng vô song mà vẫn không lùi.

Văn Thái Lai hai tay cầm trường mâu xông vào trận địch, mâu này xuống mâu kia lên, dũng mãnh không ai chống nổi. Chỉ trong chốc lát chín tên lính thiết giáp đã bị trường mâu của chàng đâm vào mặt mà chết.

Trần Gia Lạc không cầm binh khí, cất tiếng gọi:

– “Tâm Nghiễn, Thập ca! Đi theo ta!”

Thấy một tên lính thiết giáp cầm trường mâu đâm tới ngực mình, Trần Gia Lạc hơi nghiêng người một chút cho mâu đâm trượt qua. Chàng vung roi ngựa quấn vào một chân của hắn, rồi giật mạnh cây roi cho hắn nhào từ trên ngựa xuống đất.

Trần Gia Lạc la lên:

– “Tâm Nghiễn! Cởi nón sắt của hắn ra.”

Bọn này mặc giáp sắt rất nặng nề, hễ té xuống thì rất lâu mới đứng dậy được. Tâm Nghiễn lập tức tháo nón sắt của hắn ra, Chương Tấn tiện tay đánh tới một bổng, hắn nát óc chết ngay.

Ba người cứ thế mà lôi xuống ngựa, tháo mũ sắt đập đầu, chỉ trong chốc lát đã đánh chết tám chín tên thiết giáp, bọn còn lại sợ đến vỡ mật. Lại thấy Văn Thái Lai cầm mâu chạy tới, chúng la lên một tiếng rồi lùi lại hết.

Lúc này, Vệ Xuân Hoa và Dư Ngư Đồng đã dần dần không chống nổi Nhu Vân kiếm thuật của Trương Triệu Trọng. Từ Thiên Hoằng bèn xông lên trợ chiến. Trương Triệu Trọng thấy chỉ còn lại một mình, liền đâm veo véo mấy kiếm ép ba người lùi lại hai bước, rồi quay lưng bỏ chạy. Văn Thái Lai xách trường mâu muốn đuổi theo nhưng bọn lính Thanh đã bắn tên rào rào tới.

Lạc Băng bỗng la lên:

– “Các huynh mau mau tới đây!”

Nàng nhảy vào hố cát, mọi người đều nhảy theo. Trong hố cát, Chu Ỷ đầu tóc rối bù, mặt đầy vết máu, cầm đơn đao tả xung hữu đột, tử chiến với bốn tên lính thiết giáp cầm trường đao. May mà trong hố chật hẹp, trường mâu khó mà xoay trở nên nàng mới cầm cự được.

Quần hùng giận dữ, đồng phóng tới. Bốn tên lính thì một bị song đao của Lạc Băng chém chết, một bị song câu của Vệ Xuân Hoa móc ngay vào miệng. Hai tên còn lại thì Văn Thái Lai tay trái nắm lưng một tên, tay phải nắm đầu một tên, tréo lại bẻ gãy xương cổ.

Từ Thiên Hoằng vội chạy tới dìu Chu Ỷ dậy, thấy trên vai và cánh tay của nàng đã bị đao chém phải. Hương Hương công chúa bèn xé vạt áo mình băng bó cho nàng.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Triệu Tuệ chỉ muốn bao vây chúng ta để dụ người Hồi tới, rồi xuất binh mai phục đánh kẹp vào. Nhất định là tên gian tặc Trương Triệu Trọng nhìn thấy tổng đà chủ nên không nhẫn nại được nữa, chỉ muốn lập công.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định hắn chẳng chịu thôi, sẽ dẫn binh đánh tiếp.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Thế thì chúng ta phải mau mau đào bẫy để bắt tên gian tặc đó.”

Mọi người vô cùng phấn chấn, theo chỉ dẫn của Từ Thiên Hoằng mà khoét vách hố cát thành một cái hầm nằm dưới mặt tuyết đã kết thành băng. Ở phía trên băng tuyết khá dày, đông cứng dày hơn một thước, hoàn toàn không thấy gì khác lạ.

Đào bẫy xong chưa được bao lâu, quả nhiên Trương Triệu Trọng lại dẫn quân thiết giáp tấn công đến. Hắn đã trót khoe trước mặt Triệu Tuệ, muốn giữ thể diện nên không thèm xin thêm viện binh, chỉ dẫn theo vài chục quân thiết giáp còn lại. Lần này mỗi tên lính cầm thêm một cái thuẫn bài để cản tên của quần hùng.

Trong chốc lát chúng đã xung phong tới chỗ hố cát. Trần Gia Lạc nhảy ra khỏi hố, hét lên:

– “Qua đây đánh một trận, phân biệt thắng thua.”

Trương Triệu Trọng thấy chàng không cầm khí giới liền quăng trường kiếm xuống đất mà nói:

– “Hay lắm! Hôm nay chưa phân thắng bại quyết chẳng chịu thôi.”

Thế là một người thi triển Bách Hoa Tả Quyền, một người thi triển Vô Cực Huyền Không Quyền giao đấu bên hố cát. Sáu người Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Chương Tấn, Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn cũng nhảy ra khỏi hố mà lược trận.

Trần Gia Lạc vừa đánh vừa di chuyển bước chân, từ từ tiến vào chỗ hố bẫy. Trương Triệu Trọng chỉ bước thêm hai bước nữa là sập bẫy, không ngờ một tên quân thiết giáp lớ ngớ chạy tới. Hắn vừa đạp chân vào cái bẫy đã kinh hoàng kêu lên, té nhào ngay xuống đó. Sau đó nghe một tiếng kêu thê thảm, hắn đã bị Lạc Băng canh giữ phía dưới dùng dao đâm chết.

Trương Triệu Trọng giật bắn người, thầm la lên:

– “May quá!”

Tay chân hắn bất giác hơi chậm lại. Trần Gia Lạc thấy cạm bẫy đã lộ, bén phóng người tới ôm lấy Trương Triệu Trọng, định đẩy hắn rơi xuống. Hắn đứng vững hai chan trên mặt băng rắn chắc, cố vận sức để đẩy ngược lại, thế là hai người giằng co bên hố cát. Một người muốn giãy ra thoát đi mà không được, một người muốn đẩy đối phương xuống cũng không xong, không ai chịu buông tay.

Hai tên lính thiết giáp lại chạy đến, phóng mâu đâm Trần Gia Lạc. Từ Thiên Hoằng đứng bên liền cúi xuống dùng hai tay đẩy mạnh một cái, xô cả Trần lẫn Trương ngã vào hố cát. Hai cây trường mâu đâm vào mặt tuyết.

Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng đồng thời buông tay đứng dậy. Lạc Băng dùng đoản đao bên tay phải chém tới Trương Triệu Trọng, nhưng bị hắn sử dụng công phu Không Thủ Đoạt Bạch Nhân xoay tay bắt được tay mình, rồi giật một cái đoạt lấy đoản đao.

Trần Gia Lạc tung người đá tới sau lưng, Trương Triệu Trọng không kịp tấn công Lạc Băng nữa, quay người lại vung đao lên đỡ. Trần Gia Lạc nghiêng người tránh né, đưa hai ngón tay ra điểm vào huyệt Âm Thị trên chân Trương Triệu Trọng. Chân phải Trương Triệu Trọng vừa rút lại, Lạc Băng tức khắc phóng ra ba mũi phi đao. Trong hố cát không đủ chỗ để xoay, thế mà Trương Triệu Trọng vẫn tránh được hết ba mũi phi đao này chỉ cách chừng sợi tóc.

Lạc Băng vội la tên:

– “Tổng đà chủ! Nhận đao.”, rồi ném cây trường đao tới. Trần Gia Lạc chụp lấy cây đao, sử ngay Kim Cương phục hổ đao đánh nhau dữ dội với cây đoản đao trên tay Trương Triệu Trọng.

Võ công của Trần Gia Lạc thiên về tạp nham, binh khí nào cũng sử dụng được, khác với Trương Triệu Trọng chỉ tinh thông kiếm thuật, nên chàng lập tức chiếm ưu thế về binh khí. Mới đánh được mười mấy chiêu mà Trương Triệu Trọng đã liên tiếp gặp nguy hiểm, tay trái phải dùng thêm quyền thuật mới hóa giải được.

Lạc Băng vốn yêu quý đôi uyên ương đao như nhau, nhưng bây giờ nàng lại mong cây trường đao thắng, cây đoản đao bại. Chu Ỷ cầm đao bảo vệ trước mặt Hương Hương công chúa, tai nghe trường đao và đoản đao va chạm liên tục phát ra những tiếng leng keng.

Trương Triệu Trọng đột nhiên quẳng thanh đoản đao ra khỏi hố cát, hô lớn:

– “Ta dùng tay không đón tiếp binh khí của ngươi.”

Hắn tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng đánh ào ào tới lưỡi đao sáng lòe của Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc bèn gọi Lạc Băng:

– “Đón đao!”

Chàng ném trả thanh trường đao cho nàng, chĩa ngón tay trỏ tay trái về phía huyệt Khúc Trì của địch. Hố cát chỉ rộng chừng một trượng, xoay trở cũng không tiện chứ đừng nói là tránh né. Hai người sử dụng hết tuyệt kỹ bình sinh mà đánh nhau liều chết, sau mấy chục chiêu đã dần dần phân cao thấp. Bách Hoa Tả Quyền của Trần Gia Lạc tuy tinh diệu, nhưng hỏa hầu và nội lực của chàng không sao bì kịp Trương Triệu Trọng, càng về sau lại càng công ít thủ nhiều. Lạc Băng đứng bên lo lắng. Thấy hai người giao đấu tới lúc khẩn trương, nàng muốn trợ giúp mà không sao xen vào được.

Trần Gia Lạc càng đánh càng bị hạ phong. Trương Triệu Trọng phóng chân đã tới, Trần Gia Lạc vừa né sang bên trái thì Trương Triệu Trọng lại vung tả chưởng đánh như cuồng phong bạo vũ. Đột nhiên trên hố cát có một người quát lớn:

– “Đỡ thiết đảm!”

Tả chưởng của Trương Triệu Trọng lập tức thu lại, bảo vệ đỉnh đầu. Quả nhiên có một trái thiết đảm đen sì quẳng từ trên xuống. Trương Triệu Trọng rùng mình nghĩ:

– “Lão già này đã đến đây rồi sao?”

Thiết đảm từ trên cao đánh xuống, lực đạo càng khủng khiếp hơn. Trương Triệu Trọng không dám đón bắt mà cụng không dám tránh né, vội giật lùi lại ba thước, va mạnh vào vách của hố cát. Sau đó nghe “bịch” một tiếng, trái thiết đảm đã đánh vào giữa lòng hố cát, rồi Từ Thiên Hoằng nhân cơ hội tung người nhảy xuống.

Thì ra ngày trước Chu Trọng Anh nhận chàng là nghĩa tử, đã dạy cho chàng công phu Tử Mẫu Thiết Đảm. Sau đó Từ Thiên Hoằng bôn ba khắp chốn, nhưng ngày nào cũng cố gắng dành ít thì giờ để tập luyện tuyệt kỹ xưng bá võ lâm này. Hôm nay lần đầu dùng thử, chàng dựa vào oai phong của nhạc phụ, tuy ra tay chưa trúng nhưng đã bắt Trương Triệu Trọng hoảng sợ rút lui.

Trương Triệu Trọng điểm chân xuống đất vận sức tung lên, toan nhảy ra khỏi hố. Đột nhiên có một chưởng đánh xuống đầu hắn, kình lực dũng mãnh cả đời chưa từng gặp. Hắn vội xoay tay phải ra hóa giải phát chưởng đó, vì thế mà không nhảy ra khỏi hố cát. Hắn vừa rơi xuống vừa thầm kinh hãi:

– “Người này là ai vậy? Công phu của hắn thật sự không dưới ta!”

Chân hắn vừa chấm đất, một người đã xuống theo, thét vang như sấm sét:

– “Gian tặc! Có nhận ra ta không?”

Người này thân hình khôi vĩ, ngực to vai rộng, oai phong lẫm liệt, chính là Bôn Lôi thủ Văn Thái Lai. Vệ Xuân Hoa và mọi người đã đánh lui bọn quân thiết giáp, đứng vây quanh mà xem Văn Thái Lai tỉ đấu Trương Triệu Trọng.

Họ Văn nhớ đến cái nhục bị bắt ở Thiết Đảm trang, rồi bị hành hạ dọc đường, lông mày bèn dựng ngược lên, hai mắt lóe sáng, thét lên một tiếng rồi xuất ngay tuyệt kỹ Bích Lịch chưởng của mình. Chưởng phong của chàng phóng ra nghe tiếng vù vù, nhanh như điện chớp, thế như sấm sét.

So với lúc Trần, Trương ác chiến vừa rồi, trận này còn kịch liệt hơn. Hương Hương công chúa thấy Văn Thái Lai vừa quát như sấm nổ vừa phóng chưởng như sét đánh vào Trương Triệu Trọng, không khỏi hoảng sợ. Trần Gia Lạc thấy mặt nàng lộ vẻ kinh hãi, liền kéo nàng tựa vào vách hố, đứng bên cầm lấy tay nàng rồi mỉm cười trấn an.

Hương Hương công chúa nhìn lên mặt chàng, ra vẻ dò hỏi. Trần Gia Lạc biết nàng muốn hỏi là trận đấu vừa rồi mình mệt hay không, bèn chầm chậm lắc đầu. Hương Hương công chúa vén tay áo lên, lau chùi mồ hôi và đất cát trên mặt cho chàng. Trần Gia Lạc lấy ra ba quân cờ vây, phòng khi Văn Thái Lai gặp nguy thì có thể ra tay ứng cứu. Chàng nắm quân cờ, trong lòng chợt nảy ra ý nghĩ:

– “Trận chiến này thật sự giống như một bàn cờ, chém giết đã hung hiểm mà tình thế càng phức tạp. Ở giữa thì Văn tứ ca và Trương Triệu Trọng dốc toàn lực đánh nhau thí mạng. Chúng ta bao vây bên ngoài hai người đó. Bên ngoài chúng ta lại có vòng vây của lính Thanh. Hoắc Thanh Đồng cô nương lại đang ở bên ngoài vòng vây đó, tìm cách ứng cứu. Bên ngoài của Hoắc Thanh Đồng cô nương còn có đại quân Thanh đang kéo đến bao vây hay không? Cục diện như thế nào, chỉ đi sai một nước cờ là thua ngay lập tức.”

Quần hùng biết Văn Thái Lai đầy lòng oán giận, phen này nhất định phải đích thân ra tay để trả thù, nên họ chỉ đứng bên mà xem, đề phòng Trương Triệu Trọng chạy thoát chứ không ra tay trợ giúp. Ai cũng biết võ công Văn Thái Lai tinh thâm tuyệt diệu, dù không thắng thì cũng chắc chắn không thua.

Một người tấn công mãnh liệt, một người phòng thử vững vàng, giống như những đợt sóng biển vỗ vào tảng đá. Sóng đập hết cơn này tới cơn khác, nhưng tảng đá vẫn đứng vững không rung chuyển. Sau mỗi đợt sóng rút về, tảng đá lại lộ ra mặt nước.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Người khác ra tay, Tứ ca chắc sẽ không vui. Nhưng nếu Tứ tẩu giúp một tay thì huynh ấy không trách đâu.”

Chàng liền nháy mắt với Lạc Băng một cái. Lạc Băng hiểu ý, muốn phóng phi đao tương trợ. Nhưng hai đối thủ đứng gần nhau quá, nàng sợ lỡ tay đả thương chồng mình, bèn cất tiếng gọi:

– “Tổng đà chủ ra tay nhanh lên, thuộc hạ không xong rồi.”

Trần Gia Lạc đang đợi nàng nói câu này. Nghe tiếng “soạt, soạt”, ba quân cờ phóng ngay tới yếu huyệt của Trương Triệu Trọng. Họ Trương phải dừng tay tránh né. Văn Thái Lai thừa thế tấn công. Rõ ràng chàng sắp đắc thủ thì bỗng nghe thấy bên trên có tiếng la hét ầm trời, tiếng vó ngựa phi tới, tiếng đao thương va chạm liên tục. Một người chạy đến gần hố kêu lớn:

– “Trần công tử, Kha Tư Lệ! Hai người đang ở đâu?”

Hương Hương công chúa vội la lên:

– “Gia gia! Chúng con ở đây.”

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Cứu binh đến rồi! Mọi người cùng xông lên giết tên gian tặc này trước đã.”

Mọi người đồng thời cầm binh khí xông vào. Trương Triệu Trọng bỗng múa song chưởng nhanh như gió, bất ngờ đánh tới Hương Hương công chúa. Quần hùng kinh hãi, không hẹn mà cùng nhảy tới cứu viện.

Không ngờ chiêu này của Trương Triệu Trọng chỉ là dương đông kích tây. Hắn vội nép vào thành hố, vốc một nắm cát quăng ra. Nhân lúc trong hố cát bụi mùi mịt, ai cũng nhìn không rõ, hắn nhảy được lên khỏi hố cát. Trương Triệu Trọng “hự” lên một tiếng, mông đã trúng một viên thiết đảm của Từ Thiên Hoằng, nhưng rốt cuộc cũng chạy thoát. Quần hùng đều nhảy lên truy kích.

Mộc Trác Luân múa tít trường đao, cưỡi ngựa xung phong đi đầu, quân Hồi bám sát theo sau. Quân Thanh la hét cản trở, Trương Triệu Trọng lùi vào đám đông, lạng người mấy cái rồi không thấy bóng dáng đâu nữa. Văn Thái Lai đoạt lấy một cây trường đao, nhảy lên con ngựa trắng toan xông vào giữa trận địch mà đuổi nhưng bị Lạc Băng đưa tay kéo lại.

Đội Hắc Kỳ của Mộc Trác Luân chỉ toàn những người già yếu, nhưng ai cũng hăm hở hăng hái, giương thuẫn bài tiến theo chủ soái. Hương Hương công chúa thấy phụ thân đang chạy tới, mặt mũi râu tóc vấy đầy máu tươi, lập tức nhảy vào lòng ông mà gọi:

– “Gia gia!”

Mộc Trác Luân ôm lấy nàng, vỗ vỗ vào lưng dỗ dành:

– “Con ngoan, đừng sợ! Gia gia đến cứu con đây.”

Từ Thiên Hoằng nhảy lên lưng ngựa đứng quan sát tình hình, thấy ở hướng Đông có bụi nổi lên. Mặt đất đầy băng tuyết thế này mà nổi bụi lên, chắc chắn là đội quân thiết giáp đang kéo tới. Chàng vội kêu lên:

– “Mộc lão anh hùng! Chúng ta mau mau chạy về vùng đất cao ở phía tây.”

Từ lúc đoạt lại thánh kinh, Mộc Trác Luân đã biết họ Từ lắm mưu nhiều trí, bèn lập tức ra lệnh chạy về hương tây. Quân Thanh đuổi theo được một hồi, ở phía tây lại có một đội Thanh binh xung phong tới. Thế là đội quân của người Hồi bị kẹp vào chính giữa. Mộc Trác Luân và Văn Thái Lai hai ngựa song song, định xông đột trủng vây, nhưng bị một trận mưa tên của quân Thanh bắn tới nên phải thối lui.

Mộc Trác Luân thầm nghĩ:

– “Thanh nhi quả nhiên nói đúng! Ta vừa trách lầm nó, nhất định nó đang rất thương tâm. Ôi! Phen này dữ nhiều lành ít.”

Ông chỉ còn cách thống lĩnh mọi người chạy lên một đồi cát lớn, đợi cơ hội để thoát khỏi vòng vây. Người Hồi đứng trên cao đánh xuống, bọn lính Thanh nhất thời không có cách nào xung phong lên được.

* * *

Hoắc Thanh Đồng dẫn đội quân của mình tới hạ trại ở cách trận địch chừng mười dặm. Khoảng giữa trưa hôm ấy, đội trưởng các đội cùng phi ngựa về báo là đã bố trí xong xuôi theo lệnh.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Hay lắm! Thật đã làm phiền các vị.”

Sau đó nàng lại lấy lệnh tiễn ra, hạ lệnh:

– “Đội trưởng đội hai Thanh Kỳ! Huynh thống lĩnh hai trăm huynh đệ, cố thủ ở bờ nam sông Hắc Thủy, không được để Thanh binh qua sông. Không cần liều mạng đánh nhau, nhưng với chúng, chỉ cần cố thủ một thời gian ngắn, nhưng nếu để một tên Thanh binh vượt qua sông thì huynh đừng về gặp ta nữa.”

Người đội trưởng đó liền nhận lệnh đi bố trí. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội trưởng đội một Bạch Kỳ! Huynh thống lĩnh nhân mã đội hình, dụ cho Thanh binh đuổi theo về hướng Tây. Dọc đường có thể ứng chiến nhưng chỉ được thua không thắng, cố chạy vào đại mạc càng xa càng tốt.”

Đội trưởng đó từ trước nay vốn can trường hiếu thắng, bèn nói:

– “Người Hồi chúng ta chỉ biết cách đánh thắng, không biết cách đánh thua.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đây là mệnh lệnh. Người còn phải mang theo bốn ngàn bò dê, thả ra dọc đường để dụ chúng đuổi bắt.”

Hắn lại cãi:

– “Sao phải đem thú vật mình nuôi tặng cho người khác? Việc này ta không biết làm.”

Hoắc Thanh Đồng mím miệng thật chặt, lát sau mới hỏi:

– “Người có nghe lệnh hay không?”

Hắn đưa đao lên quát lớn:

– “Cô ra lệnh cho chúng ta đánh thắng thì ta nghe. Còn cô ra lệnh cho chúng ta đánh thua thì dù chết ta cũng không phục.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ta đang chỉ huy các ngươi đánh thắng. Phải giả thua trước rồi sẽ phản công.”

Hắn tức tối đỏ mặt la lên:

– “Ngay cả gia gia của cô cũng không tin chuyện quỷ đó, thì làm sao cô gạt được ta? Cô tưởng mọi người không biết cô đang nghĩ gì hay sao? Cô bảo chúng ta thua chạy tán loạ, buông bỏ vật nuôi, chính vì không muốn cứu Hương Hương công chúa.”

Hoắc Thanh Đồng hét lên:

– “Bắt hắn lại.”

Bốn tên thân binh chạy đến, nắm chặt hai cánh tay của người đội trưởng kỵ binh. Hắn không chống đỡ gì, đứng yên cười nhạt. Hoắc Thanh Đồng lớn tiếng hô:

– “Quân Mãn Châu đang hiếp đáp chúng ta, toàn quân phải một lòng mới thắng nổi chúng. Cuối cùng thì ngươi có nghe lệnh ta hay không?”

Hắn quát trả:

– “Không nghe! Cô dám làm gì với ta nào?”

Hoắc Thanh Đồng nghiêm giọng nói:

– “Lôi hắn ra chém đầu.”

Người đội trưởng đó tự phụ mình là thiện chiến, vẫn tưởng Hoắc Thanh Đồng không dám làm gì. Khi nghe thấy câu này hắn mới đổi thái độ, sắc mặt xám như tro tàn. Đám thân binh kéo hắn ra ngoài, chém một đao đứt cổ. Hoắc Thanh Đồng hạ lệnh bêu đầu thị chúng, toàn quân không ai không toát mồ hôi.

Hoắc Thanh Đồng hạ lệnh cho đội phó đội một Bạch Kỳ lên làm đội trưởng, dẫn quân chạy về hướng sa mạc, khi thấy phía đông có khói phân chó sói bay lên mới vòng ngược trở về. Y lập tức nhận lệnh đi bố trí. Hoắc Thanh Đồng lại hạ lệnh cho tất cả các đội còn lại tập trung về khu đầm lầy ở phía đông.

Phát lệnh xong xuôi, một mình nàng phi ngựa về hướng tây, quì xuống đất nước mắt đầm đìa, khe khẽ cầu nguyện:

– “Chân thánh A-la vạn năng! Cầu mong thánh đạo của người đắc thắng, đánh bại quân địch đang xâm lược chúng ta. Bây giờ gia gia không tin con, ca ca không tin con, ngay cả bộ hạ của con cũng không tin con. Vì muốn họ nghe lệnh mà con buộc phải giết người. Thánh A-la vạn năng! Cầu xin người phù hộ cho chúng con được thắng để gia gia và muội muội bình yên trở về. Nếu họ phải chết, cầu xin người để con chết thay cho họ. Cầu xin người cho Trần công tử và muội muội vĩnh viễn yêu thương nhau, vĩnh viễn hạnh phúc bên nhau. Nhất định người yêu thương muội muội đặc biệt hơn người khác, nên mới tạo ra muội muội xinh đẹp như thế. Mong người hãy yêu thương muội muội cho đến cùng.”

Sau khi cầu nguyện, nàng lên ngựa quay về, tuốt kiếm hô lên:

– “Đội một, đội hai Hắc Kỳ đi theo ta. Các đội còn lại chia nhau phòng thủ khắp nơi.”

* * *

Nhắc lại Mộc Trác Luân và Trần Gia Lạc cố thủ trên đồi cát, quân Thanh đã xung phong hai lần đều bị người Hồi anh dũng đẩy lùi. Xung quanh đồi cát thi thể đã dồn thành đống, hai bên đều tổn thất nặng nề.

Hết giờ ngọ, đột nhiên Thanh binh nhốn nháo, một đội kỵ quân đang tấn công tới. Dưới lá cờ có hình trăng lưỡi liềm là một cô gái mặc áo vàng, tay cầm trường kiếm, trên đầu có một cọng lông vũ màu xanh bích hơi rung động. Đó chính là Hoắc Thanh Đồng.

Mộc Trác Luân hô lớn:

– “Xung phong.”

Ông dẫn đầu quân Hồi chạy ào xuống dưới, hai mặt giáp công. Bọn lính Thanh cản không nổi, ba đội Hắc Kỳ hợp lại thành một. Hương Hương công chúa chạy vội tới, ôm chầm lấy tỷ tỷ. Hoắc Thanh Đồng vừa nắm tay muội muội vừa hạ lệnh:

– “Đội trưởng đội ba Hắc Kỳ! Huynh dẫn đội mình chạy về hướng tây, hợp với đội một Bạch Kỳ rồi nghe lệnh của đội trưởng đội một Bạch Kỳ.”

Đội trưởng nhận lệnh, dẫn quân đi ngay. Đội này cưỡi toàn ngựa đuợc tuyển chọn kỹ lưỡng. Xa xa nhìn thấy cờ đỏ phấp phới, thì ra quân tinh nhuệ cờ đỏ của Thanh binh đã đuổi theo họ.

Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Tuyệt diệu! Đội trưởng đội một Hắc Kỳ, huynh lui vào trong thành Diệp Nhĩ Khương, nghe lệnh ca ca ta. Đội trưởng đội hai Hắc Kỳ, huynh lùi về bờ nam sông Hắc Thủy gặp đội trưởng đội hai Thanh Kỳ rồi nghe lệnh của huynh ấy.”

Hai đội Hắc Kỳ lại xông ra khỏi vòng vây. Đội cờ trắng và đội cờ viền vàng của quân Thanh liền chia hai đường đuổi theo. Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Mọi người chạy về hướng đông.”

Ba trăm thân binh cầm trường đao hộ vệ chủ soái lập tức mở đường. Mộc Trác Luân, Hương Hương công chúa cùng với mọi người Trần Gia Lạc chạy về hướng đông, theo sau là nhân mã của đội bốn Hắc Kỳ.

Triệu Tuệ đích thân dẫn đội quân thiết giáp bao vây từ hai phía. Hai cánh quân tả hữu đều là tinh binh cờ lam của Mãn Châu, ai cũng cầm thương dài kích lớn dũng mãnh đuổi theo. Bên Hồi chỉ có mấy trăm người đoạn hậu, vừa đánh vừa lùi. Chỉ chớp nhoáng là mấy trăm quân này bị Thanh binh vây chặt rồi giết sạch.

Triệu Tuệ vô cùng mừng rỡ, chỉ lá cờ trăng lưỡi liềm ở cạnh Hoắc Thanh Đồng mà nói:

– “Ai đoạt được lá đại kỳ đó, ta thưởng ngay một trăm lạng.”

Đội thiết giáp liền tranh nhau mà truy đuổi điên cuồng trong vùng đại mạc. Nhưng ngựa của đội bốn Hắc Kỳ đều được tuyển chọn đặc biệt, còn đội quân thiết giáp nặng nề, ngựa đi chậm rãi không sao đuổi kịp ngay.

Chạy được ba bốn chục dặm thì số ngựa bên quân Hồi bị đuối sức lùi lại phía sau. Mấy chục chiến sĩ cố gắng chống trả đến cùng, nhưng chỉ nháy mắt là bị quân Thanh giết chết.

Triệu Tuệ thấy quân Hồi bị giết toàn là người già con nít, cả mừng nói:

– “Thì ra bọn chúng không còn tinh binh nữa.”

Thanh binh lại càng cố gắng đuổi theo. Đuổi được bảy tám dặm thì đội ngũ người Hồi càng lúc càng tán loạn, nhưng vẫn thấy lá đại kỳ hình trăng lưỡi liềm bay phấp phới trên một đồi cát lớn. Triệu Tuệ cưỡi ngựa tốt, cầm đại đao hướng dẫn toàn quân xông tới, có bọn thân binh hộ vệ trước sau. Hoắc Thanh Đồng thấy đại quân Thanh đã đuổi tới nơi, liền ruổi ngựa chạy xuống đồi cát này.

Triệu Tuệ đứng trên đồi cát nhìn xuống dưới, lập tức kinh hoảng đến độ hồn phi phách tán, như vừa rơi vào một cái hố băng. Hắn nhìn thấy ở phía nam vô số chiến sĩ người Hồi đã dàn trận chỉnh tề, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Nhìn xa xa chỉ thấy những lá cờ màu xanh mọc như rừng rậm, những chiếc thuẫn hình tròn vây quanh như những đám mây.

Hai tay Triệu Tuệ chợt bủn rủn, đại đao rơi xuống đất. Hắn rùng mình một cái, thầm nghĩ:

– “Bọn Hồi thật là gian xảo! Thì ra đại đội nhân mã của chúng đã tập trung ở đây.”

Nhìn về hướng bắc, thấy một đám cờ trắng đang tung bay phấp phới, lại một số rất đông quân Hồi đang từ từ ép tới. Hắn không còn thời gian suy nghĩ nữa, vội vã hô lên:

– “Quay lại! Hậu đội đổi thành tiền đội, lùi nhanh lên.”

Nghe thanh âm của chủ tướng đầy vẻ hoảng hốt, quân Thanh lập tức đại loạn. Tên của quân Hồi bắt đầu bắn tới như châu chấu. Quân Thanh vốn đông gấp mấy quân Hồi, nhưng chia thành nhiều nhóm nhỏ đuổi theo, đến đây chỉ còn khoảng một vạn quân thiết giáp. Còn chủ lực của quân Hồi đều tập trung ở đây, mạnh yếu chênh lệch rất rõ.

Phía tây lại có hai đội người Hồi xung phong tới. Triệu Tuệ thấy phía tây, phía nam và phía bắc đều có quân địch, chỉ còn hở phía đông, bèn truyền lệnh:

– “Toàn quân chạy về phía đông!”

Hắn đích thân chỉ huy thân binh đoạn hậu. Quân Hồi từ ba phía dần dần ép đến gần. Đại quân Thanh đang hỗn loạn chạy về phía đông, đột nhiên đội quân thiết giáp đi đầu la hét om sòm. Một tên kỵ binh chạy vội đến trước mặt Triệu Tuệ mà bẩm báo:

– “Tướng quân, không xong rồi! Phía trước là một bãi lầy.”

Triệu Tuệ thấy cả ngàn kỵ mã thiết giáp của mình lăn lộn trong sình lầy, từ từ lún xuống mặt đất nhão nhoẹt. Thì ra trong sa mạc có những dòng sông không thể tìm ra biển cả, tụ lại mà hình thành những cái hố, rồi dần dần khô cạn đi trở thành sình lầy. Khu đầm lầy lớn này chu vi khoảng mười mấy dặm, bùn sình sâu hơn mười trượng, chỉ có loài bò sát sinh sống chứ người và dã thú không đến được. Bây giờ tuyết đã rơi lấp lên, trên mặt đầm lầy hoàn toàn không có dấu vết gì. Không phải là người sống ở nơi này thì không thể biết dưới mặt tuyết là cạm bẫy chết người. Hoắc Thanh Đồng cho quân mai phục sẵn, Triệu Tuệ vì ham thắng mà nhắm mắt đuổi theo, tự mình dẫn quân vào nơi tuyệt địa.

Trần Gia Lạc cùng mọi người đứng trên đồi cát quan sát trận chiến, thấy quân Thanh rơi vào bãi lầy mỗi lúc một nhiều. Quân mã phía sau cũng muốn chạy ra phía ngoài, nhưng người Hồi đã đào trước những con hào sâu, ngựa khó mà vượt qua được.

Quân thiết giáp bị ép từ ba phía, giẫm đạp lên nhau. Chúng không tự chủ được, từng tên một bị đẩy lọt xuống vũng lầy, giáp sắt nặng nề nên lún xuống càng nhanh chóng. Đất bùn từ dưới chân dâng dần lên đầu gối, rồi tới eo lưng. Vô số quân Thanh ngập nửa người trong bãi lầy, kêu la như điên như dại, đến khi đất bùn ập vào miệng thì tiếng thét mới dừng. Sau đó chỉ còn trông thấy hai cánh tay quơ quào một lúc, rồi hoàn toàn biến mất dưới bãi lầy.

Hơn một vạn chiến sĩ người Hồi tay trái cầm thuẫn tay phải cầm đao, đao quang lẫn trong màu tuyết trắng, hoàn toàn không lên tiếng, tập trung chốt chặn bên ngoài hào. Còn hai đội tinh binh thì không ngừng tấn công mãnh liệt vào đội quân thiết giáp.

Quân Thanh càng lúc càng ít. Không đầy nửa giờ, hơn một vạn tinh binh thiết giáp cờ lam đã bị ép hết xuống đầm lầy. Triệu Tuệ chỉ còn hơn trăm thân binh liều chết bảo vệ, mở một con đường máu chạy thoát ra ngoài. Nhìn thấy vô số người ngựa không sao đếm xuể đang giãy giụa giữa vùng lầy, Hương Hương công chúa đột nhiên mặt bật khóc. Nàng cố tự kiềm chế, rồi quay mặt đi không dám nhìn nữa.

Mộc Trác Luân mừng rỡ hóa cuồng, lớn tiếng cười vang. Nhưng ông chợt im bặt, rồi nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Thanh nhi! Vừa rồi ta đã lỡ lời, con đừng trách. Gia gia tính tình nóng nảy, thật là có lỗi.”

Hoắc Thanh Đồng mím chặt môi, không đáp. Tâm Nghiễn cũng quì dưới đất, dập đầu mấy cái rồi nói:

– “Tiểu nhân đáng chết, không biết cô nương thần cơ diệu toán nên buông lời mạo phạm. Cô nương là bậc đại nhân, chắc sẽ tha thứ cho tiểu nhân…”

Nói chưa xong, Hoắc Thanh Đồng đã giật cương cho ngựa chạy xuống đồi cát, bỏ mặc Tâm Nghiễn quì bất động ở đó. Chương Tấn mỉm cười nói:

– “Thôi đi! Lát nữa tổng đà chủ xin lỗi là được rồi.”

Y vung tay múa chân cười ha hả rồi nói:

– “Ta nghĩ mãi vẫn chưa hiểu, tại sao cô ấy lại không dụ hết toàn bộ quân Thanh vào vũng sình lầy đó?”

Từ Thiên Hoằng cười đáp:

– “Tại đây quân Hồi nhiều hơn quân Thanh, nên mới ép chúng vào được đầm lầy. Nếu dồn hết toàn bộ quân lính Thanh, bọn chúng xung phong ngược lại thì làm sao mà cản nổi?”

Chương Tấn gật đầu nói:

– “Không sai! Vừa rồi mọi người đều trách lầm cô ấy cả.”

Lúc này phần lớn quân Thanh đã biến trong sình lầy không còn vết tích, chỉ còn một số nhân mã mới lún đến nửa người, vẫn còn vẫy tay kêu la được. Không gian đầy những tiếng gào thê thảm, rồi một lát sau từ từ im lặng trở lại.

Mấy vạn quân thiết giáp đã bị vũng lầy này nuốt sạch. Người ngựa, đao thương, giáp sắt không thấy đâu nữa, chỉ còn mấy trăm lá cờ nổi trên mặt đất sình.

Hoắc Thanh Đồng lớn tiếng truyền lệnh:

– “Toàn quân hướng về phía tây, tập hợp ở bờ nam sông Hắc Thủy.”

Các đội quân Hồi tộc đều tuân lệnh chạy về phía tây.

Dọc đường Trần Gia Lạc kể lại những chuyện đã qua, trong lòng Mộc Trác Luân không sao yên được. Ông thương yêu nhất là hai cô con gái, bây giờ cả hai cùng yêu thanh niên người Hán này. Theo luật của người Hồi thì một nam nhân có thể cưới bốn vợ, nhưng Trần Gia Lạc lại không phải là giáo đồ Hồi giáo. Nghe nói người Hán chỉ được cưới một vợ, nữ nhân từ thứ hai trở đi không thể gọi là chính thức.

Việc này thật không biết phải tính sao. Ông đành tạm thời gác lại, đợi đến khi đánh bại quân Thanh rồi suy nghĩ tiếp. Thanh Đồng thông minh lanh lợi, Kha Tư Lệ dịu dàng chất phác, hai chị em lại rất thương nhau, chắc chắn sẽ có cách giải quyết.

Đến xế chiều, mọi người mới tới bờ nam sông Hắc Thủy. Một kỵ binh thở hổn hển chạy đến báo cáo:

– “Quân Thanh tấn công mãnh liệt. Đội trưởng đội hai Thanh Kỳ đã tử vong, đội trưởng đội hai Hắc Kỳ bị trọng thương. Huynh đệ hai đội thương vong rất nặng.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Bảo đội phó đội hai Thanh Kỳ đốc chiến, không được lùi một bước.”

Người kỵ binh đó nhận lệnh đi ngay. Mộc Trác Luân nói:

– “Chúng ta xông lên tiếp ứng đi.”

Hoắc Thanh Đồng đáp gọn:

– “Không!”

Nàng quay lại bảo đám thân binh:

– “Toàn bộ quân sĩ ngồi nghỉ ngay tại chỗ. Không được đốt lửa, không được lên tiếng, lấy lương khô ra ăn.”

Mấy vạn người im lặng nghỉ ngơi trong bóng tối. Xa xa vọng tới tiếng dòng Hắc Thủy chảy ào ào, và tiếng con người chém giết lẫn nhau. Một tên kỵ binh gấp rút chạy tới báo cáo:

– “Đội phó đội hai Thanh Kỳ đã trận vong. Phe ta không chống nổi nữa.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đội trưởng đội ba Thanh Kỳ! Huynh dẫn đội mình đi tăng viện. Các huynh đệ ở đó giao cho huynh chỉ huy.”

Đội trưởng đó giơ trường đao lên, lớn tiếng nhận lệnh rồi lập tức dẫn đội mình đi cứu viện. Chương Tấn la lớn:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương! Ta cũng xông lên chém giết, có được không?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Vừa rồi các vị mệt mỏi lắm rồi, nghỉ ngơi một lát đã.”

Chương Tấn thấy nàng chỉ huy đại quân oai phong lẫm liệt, không dám nói nữa. Đội ba Thanh Kỳ xuất phát chưa được bao lâu đã nghe những tiếng la hét dữ dội, đương nhiên là hai bên đã giáp chiến ác liệt. Một lát sau, Hoắc Thanh Đồng thấy tinh thần chiến sĩ đã phục hồi bèn lên tiếng:

– “Các đội Thanh Kỳ mai phục sau dải đất cao này. Đội Bạch Kỳ, đội Kha Tác Khắc, đội Mông Cổ đi về phía tây mai phục.”

Nàng vẫy trường kiếm mà nói:

– “Mọi người còn lại theo ta!”

Thân binh đi đầu, mọi người xung phong lên phía trước. Càng tiến tới gần, tiếng reo hò chém giết càng dữ dội. Chạy gần tới nơi, nghe cả tiếng vũ khí chạm nhau chan chát. Quân Hồi đang liều mạng canh giữ, cây cầu gỗ bắc qua dòng sông Hắc Thủy, bọn Thanh binh cờ viền vàng đang liều mạng xông lên chiếm lấy cây cầu.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Lùi lại!”

Quân Hồi giữ cầu lập tức lùi ra, cả ngàn lính thiếp giáp xung phong tới. Đợi quân Thanh qua cầu được một nửa, Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Kéo gãy cầu.”

Người Hồi đã giấu sẵn mấy trăm con ngựa hai bên dòng sông, những cây trụ cầu đã được tháo lỏng từ trước rồi dùng dây thừng buộc vào ngựa. Nghe tiếng hạ lệnh, họ vừa giật cương vừa dùng roi quất, mấy trăm con ngựa lập tức cất vó tiến về phía trước.

Nghe răng rắc mấy tiếng, những cây trụ cầu bị kéo rời ra, cầu gỗ gãy lìa. Mấy trăm quân thiết giáp trên cầu bị rơi xuống dòng sông. Quân Thanh bị chia làm hai đoạn đứng cách con sông, nhìn thấy nhau mà không thể cứu viện cho nhau được.

Lệnh kỳ của Hoắc Thanh Đồng vẫy xuống, quân mai phục ở hai bên đều xông lên chém giết. Bọn lính Thanh được huấn luyện kỹ lưỡng, trong lúc hỗn loạn mà chúng vẫn nghe lệnh của chỉ huy, tập hợp vào một chỗ sắp thành trận thế.

Quân Hồi chạy đến cách trận của quân Thanh vài trăm bước, đội nhiên dừng lại. Hoắc Thanh Đồng lại vẫy lệnh kỳ một cái, lập tức nghe tiếng “rầm rầm” liên hồi không dứt, nổ điếc cả tai, khói đen bay mù mịt. Thì ra dưới chân quân Thanh đã chôn sẵn thuốc nổ. Thuốc nổ vừa đốt lên, máu thịt bắn vãi ra loạn xạ. Đội ngũ quân Thanh rối loạn hẳn lên, đối diện lại có loạn tiễn bắn tới, không còn chỗ nào mà chạy trốn.

Mấy trăm tên hoảng quá, nhảy bừa xuống sông. Nhưng chúng mặc giáp sắt nặng nề, xuống nước là lập tức chìm xuống đáy. Số còn lại hoảng loạn không còn đội ngũ gì nữa, chỉ chốc lát là bị đại quân Hồi diệt sạch. Trên dòng sông vốn chỉ trắng xóa những tảng băng, bây giờ nổi lều bều những lá cờ. Một nửa quân Thanh còn lại ở bờ đối diện cũng sợ đến vỡ gan vỡ mật, chạy ngay về phía thành Diệp Nhĩ Khương.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Vượt sông truy kích!”

Quân Hồi lập tức bắc cây cầu gỗ đã chuẩn bị sẵn, đại quân đuổi tới thành Diệp Nhĩ Khương. Dân cư trong thành Diệp Nhĩ Khương đã được sơ tán, để lại tòa thành trống rỗng. Khi thấy đội quân Thanh cờ trắng tấn công tới, Hoắc A Y đã theo lời dặn của muội muội mà chống đỡ qua loa, sau đó dẫn quân rút lui.

Đội quân Thanh cờ vàng từ sông Hắc Thủy lùi về, hội quân trong thành để nghỉ ngơi chốc lát. Lúc này chủ soái Triệu Tuệ cũng đã dẫn hơn trăm tàn binh chạy về tới đây. Hắn thấy đội tinh binh cờ vàng cũng đại bại, vừa kinh hãi vừa giận dữ vô cùng.

Đột nhiên có bộ hạ đến bẩm báo:

– “Mấy trăm quan binh uống nước giếng trong thành này đã bị trúng độc mà chết.”

Triệu Tuệ bèn phái binh lính ra ngoài thành lấy nước. Chỉ trong chốc lát lại thấy bầu trời đỏ rực, trong thành chỗ nào cũng có ánh lửa. Thân binh liên tiếp chạy tới cấp báo:

– “Cả tòa thành đã bốc cháy!”

Thì ra trong vùng Hồi Cương có không ít giếng dầu rất dễ đào. Khi dân chúng rời khỏi thành, Hoắc Thanh Đồng đã hạ lệnh tồn trữ dầu tại đó. Bây giờ quân mai phục phóng hỏa, nơi đây trở thành một lò lửa cháy hừng hực.

Triệu Tuệ được thân binh bảo vệ, cố gắng xông ra khỏi chảo lửa mà giữ mạng. Trong thành quân Thanh chà đạp lẫn nhau, múa đao chém nhau để cướp một con đường máu chạy về phía cửa tây. Không ngờ quân thiết giáp từ phía đội diện chạy tới, nói là cửa thành đã bị người Hồi chặn lại, không thể xông ra ngoài được.

Lúc này thế lửa càng mãnh liệt hơn. Giáp sắt nóng bỏng, sát vào người không sao chịu nổi, bọn lính Thanh dần dần trút hết áo giáo, chạy lung tung. Hàng vạn nhân mã trong thành Diệp Nhĩ Khương vừa đạp lên nhau vừa la hét ầm trời.

Trong lúc hỗn loạn, bỗng có một đội kỵ binh chạy tới hô lớn:

– “Đại tướng quân ở đâu?”

Thân binh của Triệu Tuệ vội la lên:

– “Ở đây!”

Một người phi tới nhanh như gió, chính là tên sứ giả Hòa Nhĩ Đại. Hắn vội gọi Triệu Tuệ:

– “Phía cửa đông ít địch, chúng ta mau mau chạy tới đó.”

Triệu Tuệ lâm nguy nhưng vẫn trấn tĩnh được, thống lĩnh số tướng sĩ còn lại đột kích về phía cửa đông. Người Hồi bắn tới hàng ngàn hàng vạn mũi tên, quân Thanh đã cởi bỏ áo giáp nên chết mất khá nhiều, mấy lần xung phong ra ngoài nhưng không được.

Thế lửa trong thành càng lúc càng mãnh liệt, đã có mấy ngàn quân Thanh bị thiêu sống. Trong bụi khói bây giờ có thêm mùi thịt nướng nghe mà lợm giọng. Toàn thành đầy những tiếng la khóc ỏm tỏi. Trong lúc nguy cấp, Trương Triệu Trọng từ đâu cầm trường kiếm chạy tới, dẫn một đội thân binh liều mạng đánh ra, cứu được Triệu Tuệ ra ngoài.

Hoắc Thanh Đồng đứng trên gò cao cũng nhìn thấy hắn. Mộc Trác Luân kêu lên:

– “Đáng tiếc! Đáng tiếc!”

Hoắc Thanh Đồng gọi:

– “Đội trưởng đội bốn Thanh Kỳ! Huynh thống lĩnh bản đội đi tăng viện, bao vây cửa đông.”

Người đội trưởng bèn dẫn quân đi ngay.

Triệu Tuệ đã thoát ra ngoài, quân Thanh bên trong không còn ai chỉ huy nữa, mà bốn cửa thành đều bị trọng binh người Hồi giữ chặt. Chúng chạy đông chạy tây một hồi, rốt cuộc cũng bị thiêu chết trong biển lửa.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Đốt lang yên!”

Thân binh liền đốt một đống phân sói đã đã chuẩn bị sẵn, khói đen bay thẳng lên trời như một cây cột đen khổng lồ. Phân của loài sói có khói đậm đặc nhất, xa mấy chục dặm vẫn có thể nhìn thấy.

Chu Ỷ hỏi Từ Thiên Hoằng:

– “Đốt thứ này để làm chi vậy?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Để liên lạc với người ở xa.”

Quả nhiên không bao lâu, cách hai mươi dặm về phía tây có một luồng khói đen tương tự bay lên. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Người ở phía tây nhìn thấy làn khói này, lập tức đốt phân sói lên, cứ thế mà truyền đi, trong chốc lát có thể truyền tín hiệu ra xa mấy trăm dặm.”

Chu Ỷ gật đầu nói:

– “Phương pháp này hay quá.”

Người Hồi thắng liền ba trận, tiêu diệt ba vạn tinh binh của nhà Thanh. Hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ ôm nhau vui vẻ, ca múa ngoài thành Diệp Nhĩ Khương. Hoắc Thanh Đồng tập hợp các đội trưởng, hạ lệnh:

– “Nhân mã các đội đến địa điểm đã định mà dựng trại. Tối nay mỗi người lính phải đốt mười đống lửa, càng cách xa nhau càng tốt.”

* * *

Lúc đó đô thống Đức Ngạn đang chỉ huy đội tinh binh cờ đỏ đông tới vạn người rượt theo đội ba Hắc Kỳ của quân Hồi. Ngựa của đội Hắc Kỳ đề là tuấn mã được đặc biệt tuyển chọn, tung vó chạy thẳng vào giữa sa mạc. Đức Ngạn được lệnh của Triệu Tuệ đuổi theo binh mã quân Hồi để tiêu diệt sạch nên cứ thế mà đuổi sát sau lưng.

Hai đội kỵ binh đuổi nhau trong vùng sa mạc làm bụi bặm tốc cuồn cuộn lên trời, tiếng vó ngựa rền như sấm sét. Chạy được mấy chục dặm, đột nhiên phía trước có hàng ngàn bò dê chạy lộn xộn. Bọn lính Thanh mừng rỡ, kéo nhau ra bắt để dành ăn, nên truy đuổi chậm hẳn lại.

Không bao lâu đội ba Hắc Kỳ đã hội quân với đội một Bạch Kỳ, tiếp tục tháo chạy, quyết không dàn trận đánh nhau với quân Thanh. Mãi đến xế chiều, nhìn thấy cột khói đen nổi lên ở hướng đông, đội trưởng đội một Bạch Kỳ mới la lên:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam thắng trận rồi! Chúng ta lập tức quay về hướng đông.”

Chiến sĩ Hồi tộc tinh thần phấn chấn hẳn lên, liền cho ngựa quay đầu lại. Quân Thanh hết sức kinh ngạc, định xung phong lên chém giết. Nào ngờ quân Hồi không nghênh chiến mà chạy vòng ra xa để quay về.

Ðức Ngạn hô lớn:

– “Giả tỉ bọn chúng chạy đến chân trời, chúng ta cũng phải đuổi đến chân trời mới chịu thôi.”

Thế là hai đội quân lại đuổi nhau suốt một đêm về hướng đông. Ðô thống Ðức Ngạn quyết chí lập công, dẫn thiết giáp quân cờ đỏ của nhà Thanh truy đuổi không ngừng. Dọc đường rất nhiều con ngựa kiệt sức té ngã, hắn hạ lệnh cho tên lính nào không có ngựa phải chạy bộ theo sau.

Chạy đến nửa đêm, mấy tên kỵ binh phi nhanh tới báo:

– “Ðại tướng quân đang ở bên phải phía trước.”

Ðức Ngạn liền chạy tới đón, thấy Triệu Tuệ cùng hơn ba ngàn quân bại trận, bối rối vô cùng. Triệu Tuệ thấy đội tinh binh cờ đỏ đã đến, tinh thần phấn chấn hẳn lên, thầm nghĩ:

– “Quân địch vừa đại thắng, chắc chắn đêm nay sẽ không phòng bị. Quân ta bất ngờ đánh úp, có thể chuyển bại thành thắng.”

Hắn bèn ra lệnh tiến quân về phía sông Hắc Thủy. Ði được khoảng ba chục dặm, tiền quân về báo cáo:

– “Quân đội bọn Hồi lập doanh trại ở ngay phía trước.”

Triệu Tuệ, Ðức Ngạn, Trương Triệu Trọng và Hòa Nhĩ Ðại kéo nhau lên một đồi cao để quan sát, bất giác không lạnh mà run. Cả một sườn núi và vùng hoang dã đầy những đám lửa, ra xa đến vô cùng vô tận, văng vẳng nghe tiếng quân reo ngựa hí, không biết có tới bao nhiêu quân Hồi đang hạ trại.

Triệu Tuệ yên lặng không nói gì. Hòa Nhĩ Ðại lên tiếng:

– “Thì ra bọn Hồi có tới mười vạn quân ẩn nấp ở đây. Chúng ta ít người không địch nổi số đông, nên mới bị…mới bị…thua thiệt chút ít.”

Chúng không biết đây là kế hư trương thanh thế của Hoắc Thanh Ðồng. Nàng đã ra lệnh cho mỗi người lính Hồi phải đốt mười đống lửa, từ xa nhìn tới dĩ nhiên oai thế kinh người.

Triệu Tuệ vội hạ lệnh cho quân sĩ nhanh chóng lên ngựa lùi về hướng Nam, không được phát ra tiếng động. Mệnh lệnh truyền đi, binh lính chưa kịp ăn cơm đã vội chạy trốn. Hòa Nhĩ Ðại bẩm báo:

– “Hướng đạo đã nói là từ đây đi về hướng nam phải vượt qua dãy núi Kỳ Bàn. Khi có tuyết rơi, đường núi rất khó đi.”

Triệu Tuệ nói:

– “Thanh thế của địch lớn quá, ngươi xem, chỗ nào cũng đầy rẫy quân của chúng. Tướng quân Phó Ðức đang dẫn quân từ phía đông, vượt Qua Bích đến đây. Chúng ta chỉ còn cách đi về hướng nam hội quân với ông ấy.”

Hòa Nhĩ Ðại tán luôn:

– “Ðại tướng quân dùng quân thật là kỳ diệu.”

Triệu Tuệ chỉ “hừ” một tiếng. Vừa đại bại mà phải nghe những lời xiểm nịnh thế này, da mặt dày tới đâu cũng không thể thản nhiên mà vênh váo được.

Ðại quân tiến về phía nam, đường đi càng lúc càng hiểm trở. Bên trái là dòng sông Hắc Thủy, phía bên phải là núi Kỳ Bàn. Trời tối đen không có trăng sao gì cả, chỉ có tuyết trắng trên đỉnh núi hắt sáng xuống mờ mờ. Triệu Tuệ hạ lệnh, ai để phát ra chút xíu âm thanh là lập tức bị chém đầu.

Ðại đa số kỵ binh này đến từ vùng đất Liêu Ðông lạnh lẽo, biết trên núi có một lớp tuyết dày, lỡ gây âm thanh chấn động cho lớp tuyết đó lở xuống là đại họa. Ai cũng cẩn thận, xuống ngựa rón rén mà đi.

Ðược hơn mười dặm, đường càng dốc hơn, may mà sắc trời đã dần dần sáng. Quân Thanh phải nhịn đói vừa đánh vừa chạy suốt một ngày một đêm, mặt tên nào cũng xanh hẳn đi.

Ðột nhiên phía trước có tiếng la hét, báo hiệu có quân Hồi tấn công. Ðức Ngạn đích thân dẫn tinh binh chạy lên đón đánh. Hắn thấy mấy trăm người Hồi đang từ trên núi phi ngựa xuống. Khi đến gần họ đội nhiên xuống ngựa, rút trủy thủ ra chích vào mông ngựa.

Ðàn ngựa bị đau, phóng như điên về phía quân Thanh. Ðường đi vốn đã rất hẹp, mấy trăm con ngựa chạy ào ào tới khiến binh lính dồn thành một khối, rất nhiều người ngựa rơi tõm xuống sông. Còn phía trên thì người Hồi đã bẩy xuống vô số tảng đá lớn, phong tỏa mất đường tiến. Ðức Ngạn gấp rút hạ lệnh cho đại quân rút lui lại, nhưng nghe thấy phía sau cũng có tiếng la ỏm tỏi. Thì ra đường lui cũng bị chặn mất rồi.

Ðức Ngạn liều mạng vượt qua mưa tên và mưa đá, xung phong lên phía trước. Trên đỉnh núi Kỳ Bàn có một lá cờ trăng lưỡi liềm đang bay phấp phới, dưới lá cờ có hơn mười người đang đứng chỉ huy. Triệu Tuệ hạ lệnh nhanh chóng xông lên, bất kể sống chết.

Một đội quân thiết giáp lập tức tiến lên. Nhóm thì cầm thuẫn bài đỡ tên bắn tới, nhóm thì lo dọn đường khiêng những tảng lớn, xác ngựa và xác người quăng xuống lòng sông. Bọn chúng liều mạng xung phong chỉ mong vượt ra khỏi đoạn đường chật hẹp.

Mỗi đội quân Hồi chặn giữa đường cản trở. Ðường đi chật hẹp, tuy quân Thanh rất nhiều nhưng không thể cùng lúc xung phong lên được. Phía sau dồn lên phía trước, chỉ chốc lát là dọc con đường núi này đầy nghẹt nhân mã.

Có tiếng ra lệnh, nhóm quân Hồi cản đường đột nhiên tản ra, sau lưng lộ ra mấy chục khẩu pháo. Bọn lính Thanh hoảng sợ đến hồn phi phách tán, gào lên thê thảm, lập tức quay lưng chạy trốn. Nhưng pháo đã phát hỏa, vô số mảnh sắt vụn và đinh sắt bắn thẳng vào giữa đội quân Thanh.

Loại pháo này mỗi lần chỉ bắn được một phát, sau đó phải nhét thuốc pháo, sắt vụn, đinh sắt vào, mất nửa ngày mới bắn tiếp được. Do đó quân Hồi chỉ bắn một loạt rồi lùi, nhưng mấy chục phát pháo này đã bắn chết hơn hai trăm quân Thanh. Xác thịt chúng kín đường đi.

Triệu Tuệ vừa lo lắng vừa giận dữ, đột nhiên lại nghe thấy những tiếng sột soạt. Sau gáy hắn chợt buốt lên, một miếng băng nhỏ đã rơi vào cổ áo. Hắn ngẩng đầu lên thì thấy trên đỉnh núi, những tảng băng đang từ từ rơi xuống.

Hòa Nhĩ Ðại la lên:

– “Ðại tướng quân, hỏng rồi! Chúng ta mau mau lùi lại đi.”

Triệu Tuệ lập tức quay đầu, chuồn hết tốc lực. Lúc này quân Thanh đánh chém nhau loạn xạ, đẩy nhau lọt xuống vực sâu để kiếm đường thoát thân. Nhưng tiếng ầm ầm mỗi lúc một lớn hơn nghe điếc cả tai, vô số tảng băng lăn xuống kèm theo đất đá, quang cảnh hệt như trời sập.

Hòa Nhĩ Ðại và Trương Triệu Trọng kèm sát hai bên trái phải, bảo vệ Triệu Tuệ chạy xa mười dặm mới dám quay lại nhìn. Chúng thấy con đường núi đã bị lấp dưới lớp tuyết dày mười mấy trượng. Mấy ngàn tinh binh đã bị vùi dưới tuyết, ngay cả đô thống Ðức Ngạn cũng không thoát được.

Bây giờ con đường phía trước đầy tuyết phủ, không thể đi lại được nữa, Triệu Tuệ lâm vào tuyệt cảnh. Hắn nghĩ đến bốn vạn tinh binh chỉ trong một đêm hoàn toàn mất trắng, không sao nén nổi bi ai, cất tiếng khóc ròng.

Trương Triệu Trọng lên tiếng:

– “Ðại tướng quân! Chúng ta trèo lên núi đi.”

Hắn đưa tay trái kéo Triệu Tuệ, đề khí trèo lên. Hòa Nhĩ Ðại cũng thi triển khinh công, cầm đao bảo vệ phía sau. Hoắc Thanh Ðồng đứng rất xa cũng nhìn thấy, bèn kêu lên:

– “Có người chạy trốn, mau mau chặn lại.”

Một đội trưởng Mông Cổ lập tức dẫn mấy chục quân chạy tới. Ðến gần, nhìn thấy ba người đang trèo lên đều mặc sắc phục đại quan, họ xoa tay cả mừng chỉ đợi bắt sống. Triệu Tuệ âm thầm kêu khổ, nghĩ bụng:

– “Hôm nay ta đã bại trận thế này, chẳng lẽ còn phải chịu cái nhục bị bắt sống hay sao?”

Trương Triệu Trọng không nói tiếng nào, cứ vận kình mà chạy lên núi. Hắn phải đưa tay dìu Triệu Tuệ, sườn núi lại đóng băng rất trơn, nhưng vẫn sải bước như bay. Hòa Nhĩ Ðại đi một mình, nhưng cố gắng thế nào cũng không đuổi kịp được.

Trương Triệu Trọng vừa dùng sức nhấc bổng Triệu Tuệ lên đỉnh núi, mấy người lính Mông Cổ lập tức xông tới. Hắn kẹp Triệu Tuệ tướng quân vào dưới nách, sử dụng thân pháp Nhất Hạc Xung Thiên nhảy vọt lên, ra khỏi vòng vây. Ðám lính Mông Cổ xô vào nhau đến sưng mày sưng mặt, khi quay lại toan đuổi theo thì hai người đã chạy xuống núi mất dạng.

Hòa Nhĩ Ðại lên sau bị một người Mông Cổ phóng tới ôm chặt lấy. Hai người lăn lộn dưới đất rồi mấy người Mông Cổ khác tới giúp sức bắt sống được hắn. Các đội trưởng quân Hồi đều tới gặp Hoắc Thanh Ðồng báo tin thắng trận. Chiến dịch này tinh binh của Ðại Thanh coi như mất trắng. Ngoài Triệu Tuệ và Trương Triệu Trọng ra, chỉ thêm mấy chục người vừa mau lẹ vừa may mắn là trốn thoát.

Hoắc Thanh Ðồng cùng mọi người trở về doanh trại. Quân Hồi lấy được vô số lương thảo, binh khí, giải bọn lính Thanh bị bắt sống tới trình diện. Trong đám tù binh có cả bốn huynh đệ Cốt Luân. Quân sĩ báo cáo là khi tấn công vào đại doanh thì thấy bốn anh em họ bị trói trong một chiếc lều.

Trần Gia Lạc hỏi nguyên do, Cốt Luân Ðại Hổ đáp:

– “Triệu Tuệ đại tướng quân trách mắng chúng ta giúp đỡ huynh đài, khép vào tội chém đầu, nhưng giam lại đợi thắng trận rồi mới giết.”

Trần Gia Lạc bèn bảo Hoắc Thanh Ðồng thả họ về. Từ đó bốn người trở về Liêu Ðông, tiếp tục làm thợ săn. Lính canh bỗng vào cấp báo, trong Qua Bích có bốn năm ngàn Thanh binh từ phía đông kéo đến. Hoắc Thanh Ðồng nhảy chồm lên, dẫn mười đội quân Hồi ra đón địch. Ði được vài chục dặm, quả nhiên thấy trước mặt có bụi bặm nổi lên. Lệnh kỳ của Hoắc Thanh Ðồng vừa vẫy, hai đội Thanh kỳ ào ào xông tới.

Thì ra đây là phó tướng Phú Ðức của Triệu Tuệ mang viện binh tới. Dọc đường hắn gặp Triệu Tuệ và Trương Triệu Trọng, biết tin đại quân Mãn Thanh hoàn toàn tan vỡ, liền thu gom tàn binh chạy về phía đông, nhưng lại bị Hoắc Thanh Ðồng chặn đánh. Viện binh quân Thanh vừa tới nơi, người ngựa mệt mỏi mà số lượng cũng không nhiều, không thể cản trở được đại quân Hồi đang hừng hực khí thế, thừa thắng xông lên.

Triệu Tuệ không dám đánh nữa, hạ lệnh cho tất cả nhân mã dàn trận thành vòng tròn, dùng cung tên cố thủ. Quân Hồi xung phong mấy lần mà không sao xông vào được.

Hoắc Thanh Ðồng nói:

– “Chúng đã quyết tâm tử thủ, nếu chúng ta tấn công trực diện thì tổn thất nặng nề. Bây giờ ta đông chúng ít, chúng ta cứ từ từ mà đợi cơ hội.”

Mộc Trác Luân gật đầu:

– “Ðúng là như thế.”

Hoắc Thanh Ðồng hạ lệnh đào hào. Cả vạn lính Hồi ra sức đào một con hào sâu ở ngoài tầm tên, bao vây quân Thanh vào giữa sa mạc cho đói khát mà chết. Ðến xế chiều, Hoắc A Y dẫn tới thêm mấy ngàn quân Hồi nữa, đắp thêm lũy đất ở sau con hào sâu này.

Thế là bên sông Hắc Thủy, dưới núi Kỳ Bàn, người Hồi đại phá quân Thanh rồi lại tiếp tục bao vây hơn bốn tháng. Sử có chép lại trận chiến này, gọi đó là “trận bao vây Hắc Thủy doanh.”

* * *

Văn Thái Lai đứng ở chỗ khá cao, từ xa nhìn thấy kế bên Triệu Tuệ có một người đưa tay chỉ trỏ, chính là Trương Triệu Trọng. Chàng giận dữ trong lòng, lấy từ trong tay quân Hồi một cây cung. Từ Thiên Hoàng cũng tức giận nói:

– “Thì ra tên gian tặc này đang ở đây. Tiếc là quá xa, không bắn tới được.”

Văn Thái Lai thi triển thần lực, nghe “rắc” một tiếng, cây cung cứng như sắt bị gãy lìa. Chàng bèn lấy hai cây cung chập lại làm một, lắp tên vào. Hai cây thiết cung đều kéo căng hết mức, vừa buông tay là mũi tên bay ra như sao xẹt, nhằm thẳng vào mặt Trương Triệu Trọng. Tên bay gần tới nơi, nghe tiếng gió réo lên, Trương Triệu Trọng né người tránh khỏi. Mũi tên đó ghim vào ngực một tên thân binh đang đứng cạnh.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Tứ ca! Chúng ta xông vào trong đó để bắt tên gian tặc.”

Từ Thiên Hoàng cản:

– “Không được! Ðừng có mạo phạm tướng lệnh của Hoắc Thanh Ðồng cô nương.”

Văn Thái Lai, Vệ Xuân Hoa đều gật đầu khen phải. Mọi người đành nhìn Trương Triệu Trọng mà nghiến răng thóa mạ:

– “Sẽ có một ngày chúng ta bắt tên gian tặc này mà chém thành ba khúc.”

Trong trại người Hồi tấu lên những bản nhạc bi ai. Người Hồi đào hố sâu chung quanh để an táng tướng sĩ trận vong, sắp cho mặt hướng về phía tây rồi mới chôn cất. Trần Gia Lạc và quần hùng thấy lạ bèn hỏi một chiến sĩ đứng bên. Y nói:

– “Chúng ta là giáo đồ Hồi giáo, sau khi chết hồn sẽ về Thiên Trúc, nên mới đặt xác nằm thẳng, mặt hướng về thánh địa Ba Tư ở phía tây.”

Mai táng xong xuôi, Mộc Trác Luân chỉ huy quân Hồi làm lễ cầu nguyện, cảm tạ chân thánh A-la phù hộ đánh thắng trận này. Dứt lễ cầu nguyện, toàn quân nổi tiếng hoan hô như sấm động. Ðội trưởng các đội diễu qua trước mặt Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Ðồng, nâng trường đao lên để chào.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Trận này khiến cho bọn lính Thanh phải vỡ gan vỡ mật, còn chúng ta thì một phen hả dạ.”

Từ Thiên Hoàng suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Rõ ràng hoàng đế đã thề thốt với chúng ta, sao lại không chịu lui quân? Chẳng lẽ hắn chủ tâm làm vậy để tiêu hao tinh binh của Mãn Thanh, muốn chúng bị tiêu diệt trong sa mạc hay sao?”

Văn Thái Lai nói:

– “Ta không tin tên cẩu hoàng đế đó. Làm sao hắn ngờ được Hoắc Thanh Ðồng cô nương đánh thắng trận này? Hoàng đế đã phái Trương Triệu Trọng đến đây, cứ xem đó là biết.”

Văn Thái Lai và mọi người đều hoài nghi lời thề kết nghĩa của Càn Long là không thành thật, chắc chắn bên trong có gian kế khác. Nhưng vì nể mặt Trần Gia Lạc mà họ không tiện nói rõ, trước mặt những người như Chương Tấn chỉ biết lắc đầu.

Văn Thái Lai lén bàn với Từ Thiên Hoàng là phải nhắc nhở tổng đà chủ, đây là cơ hội rất tốt để phục hưng cho nhà Hán, đuổi bọn Mãn Thanh, sau này e rằng không có cơ hội nào tốt hơn nữa. Nhưng mọi người đều nói cần phải cẩn thận, không khéo lại đắc tội với tổng đà chủ.

Quần hùng lại bàn tới tài dụng binh của Hoắc Thanh Ðồng. Dư Ngư Ðồng nói:

– “Tôn Tử đã nói, ta tập trung một chỗ, địch chia ra mười nơi, thế thì ta nhiều địch ít, ta phải thắng địch phải thua. Không ngờ một cô nương trẻ tuổi người Hồi mà dụng binh rất hợp với Tôn Tử binh pháp.”

Chu Ỷ trợn to mắt lên nói:

– “Huynh chỉ nói bừa bãi. Cô ấy đánh trận tài tình như thế, mà huynh còn nói là cô ấy dùng binh pháp con cháu gì gì. Phải nói là Gia Gia binh pháp, là Tổ Tông binh pháp.”

Mọi người cười rộ lên không dứt.

Ðang bàn tán thì thấy Trần Gia Lạc chăm chú nhìn về phía Hoắc Thanh Ðồng, tỏ vẻ quan tâm lo lắng. Mọi người nhìn theo ánh mắt của chàng, thấy Hoắc Thanh Ðồng sắc mặt xanh xao, cứ ngẩn ngơ nhìn vào đống lửa đến xuất thần.

Lạc Băng bước tới định nói chuyện với nàng, Hoắc Thanh Ðồng liền đứng dậy đón tiếp. Nhưng đột nhiên nàng lảo đảo đứng không vững, thổ ra một ngụm máu tươi. Lạc Băng giật mình, lập tức chạy đến nâng đỡ, vội hỏi:

– “Thanh muội! Muội làm sao rồi?”

Hoắc Thanh Ðồng không nói, cố gắng điều hòa hơi thở, nhưng lại thổ ra thêm một ngụm máu nữa. Hương Hương công chúa. Mộc Trác Luân, Hoắc A Y, Trần Gia Lạc, Chu Ỷ cùng chạy tới hỏi han.

Hương Hương công chúa lạc giọng kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Ðừng thổ huyết ra nữa.”

Nàng dìu tỉ tỉ vào lều, trải thảm cho Hoắc Thanh Ðồng nằm nghỉ. Mộc Trác Luân hết sức đau lòng, biết con gái mình đã kiệt sức sau khi chỉ huy trận chiến này. Nàng không chỉ đích thân xông pha trận mạc, lại còn bị người thân và bộ tướng hoài nghi, dĩ nhiên phẫn uất. Chuyện khiến nàng khó chịu nhất, có thể là chính việc Trần Gia Lạc thân mật với Kha Tư Lệ. Nhất thời Mộc Trác Luân không nghĩ ra cách nào để an ủi con gái. Ông thở dài sườn sượt đi ra khỏi lều.

Mộc Trác Luân đi tuần tra mấy chỗ, nghe quân lính ở đâu cũng khen ngợi Hoắc Thanh Ðồng thần cơ diệu toán. Bỗng ông thấy mấy trăm chiến sĩ đang vây quanh một vị giáo sĩ để nghe kể chuyện. Vị giáo sĩ nói:

– “Năm thứ hai sau khi thánh Muslim di cư đến Mecca, quân tà đạo đến tấn công. Ðịch có chín trăm năm chục chiến sĩ võ trang đầy đủ, một trăm con chiến mã, bảy trăm con lạc đà. Dưới trướng thánh Muslim chỉ có ba trăm mười ba chiến sĩ, hai chục chiến mã, bảy tám chục con lạc đà, áo giáp chỉ có sáu bộ. Ðịch mạnh gấp ba lần, nhưng cuối cùng thánh Muslim vẫn đánh bại kẻ địch.”

Một chiến sĩ trẻ la lên:

– “Phen này chúng ta cũng lấy ít thắng nhiều.”

Giáo sĩ nói tiếp:

– “Không sai! Hoắc Thanh Ðồng cô nương tuân theo di huấn của thánh Muslim mà lãnh đạo chúng ta đánh thắng trận này. Cầu nguyện chân thánh A-la phù hộ cô ấy. Chương thứ ba kinh Koran đã nói:

– Nếu hai đội quân đang giao chiến, một đội vì thánh A-la mà chiến đấu, đội kia là quân tà đạo, dù cho quân tà đạo đông gấp đôi thì nhất định thánh A-la cũng phù hộ cho đội quân bảo vệ đức tin chiến thắng.”

Hết thảy mọi người hoan hô như sấm sét, ai cũng hô vang:

– “Cầu cho chân thánh A-la phù hộ Thúy Vũ Hoàng Sam để cô ấy tiếp tục chỉ huy chúng ta đánh thắng.”

Mộc Trác Luân lo âu cho con gái nên trằn trọc suốt đêm. Trời chưa sáng ông đã đến lều của Hoắc Thanh Ðồng để thăm nom. Mở cửa lều ra thì thấy trong lều không có ai, ông giật mình vội hỏi bọn vệ sĩ ở trước lều. Vệ sĩ nói:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương đã ra ngoài được một giờ rồi.”

Mộc Trác Luân hỏi:

– “Đi đâu vậy?”

Vệ sĩ đáp:

– “Tiểu nhân không biết. Cô ấy bảo tiểu nhân trình lá thư này lên tộc trưởng.”

Mộc Trác Luân nhận thư, mở ra xem. Bên trong chỉ có mấy chữ:

– “Gia gia! Việc lớn đã xong, chỉ cần vây chặt mấy ngày nữa là diệt sạch quân Thanh. Thanh nhi bái bút.”

Mộc Trác Luân ngẩn ngơ một lúc rồi hỏi:

– “Cô ấy đi về hướng nào?”

Vệ sĩ chỉ hướng đông, ông bèn lên ngựa đuổi theo đến nửa ngày.

Trên vùng sa mạc mênh mông này có thể nhìn xa vài chục dặm, thế mà ông không thấy bóng người nào, trên mặt cát cũng không thấy vết vó ngựa, đành phải trở về. Về đến giữa đường thì Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc, Từ Thiên Hoằng được tin kéo nhau ra đón. Mọi người rất lo âu, biết bệnh tình của Hoắc Thanh Đồng không nhẹ, nàng ra ngoài một mình thật là nguy hiểm.

Trở về doanh trại, Mộc Trác Luân liền phái bốn tiểu đội đi tìm theo bốn hướng đông tây nam bắc. Đến xế chiều, ba tiểu đội trở về tay không, chỉ có tiểu đội đi theo hướng đông là dẫn về một thiếu niên người Hán mặc đồ đen.

Dư Ngư Đồng giật mình kinh ngạc, thì ra đó là Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang. Chàng bước tới hỏi:

– “Sao cô nương lại đến đây?”

Lý Nguyên Chỉ nửa mừng nửa giận, đáp:

– “Muội đến tìm huynh chứ sao nữa. May mà gặp họ.”

Nàng chỉ tiểu đội lính Hồi, nói tiếp:

– “Họ dẫn muội tới đây. Sao huynh không mặc áo cà sa nữa?”

Dư Ngư Đồng mỉm cười nói:

– “Ta hết làm hòa thượng rồi.”

Lý Nguyên Chỉ mừng rỡ vô cùng, khóe mắt đỏ lên, suýt nữa rơi nước mắt. Hương Hương công chúa thấy không tìm được tỉ tỉ, lo lắng nói với Trần Gia Lạc:

– “Tại sao tỉ tỉ lại bỏ đi? Bây giờ chúng ta phải làm gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Bây giờ ta sẽ đi tìm cô ấy, bất cứ giá nào cũng khuyên cô ấy trở về.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Để muội cùng đi với huynh.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Muội vào nói với gia gia đi.”

Hương Hương công chúa liền đi tìm Mộc Trác Luân xin phép cùng đi với Trần Gia Lạc để tìm tỉ tỉ. Mộc Trác Luân lại càng bối rối, biết rằng Hoắc Thanh Đồng bỏ đi chính là vì họ. Hai người này cùng đi tìm chỉ khiến cho nàng thêm phiền não mà thôi. Nhưng ông không biết phải nói như thế nào, đành giận dữ bảo:

– “Các ngươi muốn làm gì thì cứ làm, ta không lo liệu được nữa.”

Hương Hương công chúa mở to mắt ra nhìn, thấy trong mắt phụ thân đầy vằn đỏ. Nàng biết phụ thân đang lo lắng, bèn nhẹ nhàng nắm lấy tay ông. Lý Nguyên Chỉ thì hoàn toàn không lý gì đến người khác, không ngớt hỏi han Dư Ngư Đồng.

Trần Gia Lạc nói với Hương Hương công chúa:

– “Nguời yêu của Thanh Đồng tới đây rồi. Nhất định y có thể khuyên cô ấy trở về.”

Hương Hương công chúa mừng rỡ nói:

– “Thật thế ư? Tại sao từ trước đến giờ tỉ tỉ không nói với muội? Tỉ tỉ thật là tệ quá.”

Nàng liền tới trước mặt Lý Nguyên Chỉ quan sát tỉ mỉ. Mộc Trác Luân nghe vậy cũng chạy tới xem. Lý Nguyên Chỉ từng gặp Mộc Trác Luân, bèn chắp tay thi lễ. Nàng thấy Hương Hương công chúa diễm lệ tuyệt trần, bất giác ngẩn ngơ không nói được lời nào. Hương Hương công chúa bảo Trần Gia Lạc:

– “Huynh nói với vị đại ca này đi, rủ huynh ấy cùng đi tìm tỉ tỉ.”

Bấy giờ Trần Gia Lạc mới thi lễ với Lý Nguyên Chỉ, rồi hỏi:

– “Sao Lý đại ca cũng đến đây rồi? Gần đây có được bình an không?”

Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt lên cười khúc khích. Nàng nhìn Dư Ngư Đồng nháy mắt một cái, tỏ ý bảo chàng nói rõ. Dư Ngư Đồng nói:

– “Tổng đà chủ! Đây là đồ đệ của Lục sư thúc của thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta biết rồi! Chúng ta đã gặp nhau mấy lần.”

Dư Ngư Đồng lại nói:

– “Cô ấy là sư muội của thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Cái gì?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Khi có việc ra ngoài, cô ấy thường cải nam trang.”

Trần Gia Lạc bèn nhìn Lý Nguyên Chỉ tỉ mỉ, thấy nàng mày thưa miệng nhỏ, kiều diễm vô cùng, chẳng giống nam nhân chút nào. Chàng đã gặp cô ta mấy lần, chỉ vì trong lòng luôn nghĩ đến chuyện của cô ấy với Hoắc Thanh Đồng, cảm thấy người này tuấn tú hơn mình, thầm hổ thẹn mình không bằng người ta, do đó mà không muốn nhìn đối phương nữa. Trong lòng chàng lại cố ý xem thường, coi người đó là loại thiếu niên công tử bột, hoàn toàn không có khí khái anh hùng, không đáng đếm xỉa tới.

Nhất thời chàng ngẩn ra đứng đó, đầu óc suy nghĩ rối ren. “Thì ra đây là một cô nương, thế thì mình đã suy nghĩ bừa bãi, hiểu lầm Hoắc Thanh Đồng rồi. Nàng đã từng bảo mình hỏi Lục lão tiền bối, nhưng mình lại cảm thấy khó chịu nên không mở miệng hỏi kỹ. Phen này nàng rời khỏi đây, há chẳng phải vì mình? Muội muội của nàng lại đối với mình tình nghĩa sâu đậm như thế, bây giờ mình phải làm như thế nào mới đúng?”

Mọi người thấy chàng đột nhiên mất hồn mất vía, đứng đó xuất thần, đều cảm thấy kỳ lạ. Khi biết Lý Nguyên Chỉ là một cô nương, Lạc Băng liền bước tới nắm tay ra chiều thân mật. Thấy nàng nhìn Dư Ngư Đồng say đắm, Lạc Băng lại nhớ tới những chuyện ở Thiên Mục Sơn và Mạnh Tân. Hôm nay nàng tìm tới tận bãi cát xa vạn dặm này, tình ý của nàng đối với Dư Ngư Đồng không nói ra thì ai cũng biết. Lạc Băng nghĩ, Dư Ngư Đồng vốn si mê mình, bây giờ được một cô nương xinh đẹp thế này thật tình thương mến, chắc sẽ hóa giải được những gì khổ não trong quá khứ. Nhưng Dư Ngư Đồng lại ra vẻ ngơ ngác, không có tí gì là hoan hỉ hay thân mật, đúng là chưa ổn. Lạc Băng bèn quyết định sẽ cố gắng tác hợp mối nhân duyên này.

Lý Nguyên Chỉ bỗng hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ đâu? Muội có chuyện rất quan trọng muốn nói với cô ấy.”

Lạc Băng đáp:

– “Thanh muội không biết đi đâu rồi. Chúng ta cũng đang đi tìm cô ấy.”

Lý Nguyên Chỉ hỏi:

– “Cô ấy đi một mình ư?”

Lạc Băng đáp:

– “Đúng vậy! Mà cô ấy lại đang mắc bệnh.”

Lý Nguyên Chỉ lộ vẻ khẩn trương hỏi:

– “Cô ấy đi về hướng nào?”

Lạc Băng đáp:

– “Ban đầu theo hướng đông bắc nhưng sau đó có rẽ sang hướng khác hay không thì không biết được.”

Lý Nguyên Chỉ giậm chân la lên:

– “Hỏng rồi! Hỏng rồi!”

Mọi người thấy nàng lo lắng liền hỏi nguyên do. Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Quan Đông tam ma đang tìm Thúy Vũ Hoàng Sam để trả thù. Các vị chưa biết , ba tên này dọc đường đã bị muội trêu cho khốn đốn, đang đuổi theo sau lưng muội. Bây giờ Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ đi về hướng đông bắc thì chắc chắn sẽ gặp phải chúng.”

* * *

Khi thấy Dư Ngư Đồng xuất gia làm hòa thượng trong Bảo Tướng tự vùng Mạnh Tân, Lý Nguyên Chỉ sầu khổ vô cùng, ôm mặt mà khóc. Dư Ngư Đồng lòng như gỗ đá, chỉ viết thư để lại cho Trần Gia Lạc và huynh đệ rồi rời khỏi chùa, không đếm xỉa gì đến mỹ nhân. Lý Nguyên Chỉ khóc cả đêm khi nín khóc đuổi theo thì không biết Dư Ngư Đồng đã đi về hướng nào. Nàng về thành Mạnh Tân, tìm hết các nơi chùa chiền khách điếm, nào ngờ người trong mộng đâu không thấy, lại gặp ba người Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài.

Ba tên này vừa chạy khỏi Bảo Tướng Tự, nghỉ lại một khách điếm rất vắng người. Lý Nguyên Chỉ nghe lén chúng nói chuyện, biết chúng định tìm đến Hồi Cương để trả thù Thúy Vũ Hoàng Sam. Nàng đang tức tối bọn này bức hiếp Dư Ngư Đồng, bèn ra ngoài mua một bao lớn bả đậu, về khách sạn sắc thành một chén nước rất đặc đựng trong bình rượu. Nàng vào khách điếm mà bọn Tất Nhất Lôi đang ở, đợi chúng ra ngoài đường bèn đổ nước ba đậu vào cái bính trà lớn đặt trên bàn.

Quan Đông tam ma về khách sạn, khát nước liền rót trà mà uống. Tuy chúng cảm thấy có vị lạ, nhưng chỉ nghĩ rằng trà ở đây thô thiển, không để ý lắm. Đến giữa đêm, cả ba cùng đau bụng, tranh nhau đi nhà xí, người này vừa ra người kia lại vào.

Ba người ra vào không dứt, bị Tào Tháo đuổi suốt một đêm, đến sáng hôm sau vẫn chưa dứt cơn thổ tả. Bọn chúng mệt mỏi hết sức, khốn đốn vô cùng, lẽ ra phải lên đường nhưng không thể nào đi nổi nữa. Tất Nhất Lôi đi tìm ông chủ khách điếm mắng cho một trận, nói rằng thức ăn trong tiệm này không sạch sẽ, ăn vào đau bụng.

Ông chủ thấy ba quái khách này hung hăng lợi hại, đành liền miệng tạ lỗi rồi mời đại phu đến chẩn mạch. Đại phu không ngờ chúng bị ám toán, tưởng là trúng gió đau bụng, bèn kê một đơn thuốc khu phong cho ấm bụng. Ông chủ bèn bỏ tiền ra hốt thuốc, kêu tiểu nhị sắc cho chúng uống.

Lý Nguyên Chỉ từ cửa sau khách điếm chạy vào nhìn lén, thấy tam ma thay nhau ra vào nhà xí như đèn kéo quân, trong lòng khoái chí vô cùng. Nàng lại thấy tiểu nhị trong khách điếm sắc thuốc, bèn nhân lúc hắn đi khỏi mà mở vung siêu thuốc ra, bỏ thêm vào một nắm bả đậu. Bọn Tất Nhất Lôi tưởng là uống thuốc vào sẽ đỡ hơn, nào ngờ tiêu chảy càng khủng khiếp.

Đến thế mà Lý Nguyên Chỉ vẫn chưa chịu thôi. Nàng nửa đêm đột nhập vào tiệm thuốc bắc, mở mấy chục ngăn thuốc, cứ mỗi vị bốc lấy một nắm. Bất kể là Sinh Địa hay Đại Hoàng, Phụ Tử hay Bối Mẫu, Mao Lan hay Lan Độc, Hồng Hoa hay Hoàng Kỳ, mỗi thứ một nắm gói chung lại với nhau. Đến ngày hôm sau, khi tiểu nhị tiếp tục nổi lửa sắc thuốc, nàng lén bỏ gói thuốc này vào siêu.

Ba chén thuốc cực đậm được bưng lên, Quan Đông tam ma nhắm mắt nốc cạn. Mấy chục vị thuốc đánh nhau loạn cào cào trong bụng, dù là thần tiên cũng không chịu nổi. Thế là ba gã đại hán lợi hại như rồng như cọp bị hành hạ đến nỗi trông chẳng ra người nữa. May mà võ công của chúng khá tinh thâm, thân thể cường tráng, nên mới giữ lại được một nửa sinh mạng còn một nửa trút xuống nhà xí.

Trong lúc Trần Gia Lạc cưỡi con ngựa trắng tung vó về phía tây, Quan Đông tam ma vẫn đang giành nhau gian nhà xí trong thành Mạnh Tân. Tất Nhất Lôi biết trong chuyện này có âm mưu, nhưng tưởng là mình vào lầm hắc điếm, chủ khách điếm muốn đoạt tài hại mệnh. Hắn bèn dặn hai người huynh đệ đừng uống thuốc nữa, quả nhiên hôm sau đã đỡ hơn. Cố Kim Tiêu xách cương xoa đi ra ngoài, toan giết sạch cả chưởng quỷ lẫn tiểu nhị.

Tất Nhất Lôi vội kép lại nói:

– “Lão nhị, khoan đã! Dưỡng sức thêm một ngày, đợi khí lực đầy đủ rồi làm gì thì làm. Không chừng trong khách điếm này cũng có tay khá, bây giờ mà gây chuyện dễ bị thiệt thòi.”

Cố Kim Tiêu nghe vậy, đành dằn lửa giận xuống mà chịu đựng. Đến xế chiều, tiểu nhị trong khách điếm đưa vào một lá thư. Trên bì thư đề gửi cho Quan Đông tam ma.

Tất Nhất Lôi giật mình hỏi:

– “Ai gửi đến?”

Tiểu nhị nói:

– “Một thằng bé chưa biết mặc quần mang đến, nói là gửi cho ba vị gia gia đang bị tiêu chảy trong khách điếm này.”

Tất Nhất Lôi mở ra xem, lập tức giận dữ nhảy chồm chồm như con sóc. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài tranh nhau mà đọc, thì ra trong thư viết rằng:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ta là nữ trung hào kiệt, đâu có sợ ngươi? Tạm thời cảnh cáo ba kẻ bất tài, cho ăn no bả đậu. Nếu không lập tức trở về, ta sẽ không tha.”

Chữ viết rất đẹp, rõ ràng là thủ bút của nữ nhân. Cố Kim Tiêu xé vụn bức thư, hằn học nói:

– “Chúng ta đang muốn tìm con tiện nhân đó, không ngờ nó đang ở đây. Thật là may mắn.”

Ba người không dám trú ở khách điếm này nữa, lập tức dọn qua chỗ khác. Chúng nghỉ ngơi thêm hai ngày mới phục hồi sức khỏe, rồi tìm kiếm khắp nơi trong thành Mạnh Tân, nhưng không thấy bóng dáng Thúy Vũ Hoàng Sam đâu cả.

Lúc này Lý Nguyên Chỉ nhờ những bang hội ở sông Hoàng Hà điều tra, biết quần hùng Hồng Hoa Hội đang đi về hướng Hồi Cương, có cả Dư Ngư Đồng. Người trong mộng đã rời khỏi đây, nàng không đếm xỉa đến bọn tam ma nữa mà lập tức đi về phía tây.

Tam ma không tìm được Hoắc Thanh Đồng, đoán chắc nàng đã trở về Hồi tộc, nên cũng đuổi về hướng tây. Đến tỉnh Cam Túc, chúng gặp lại Lý Nguyên Chỉ. Tất Nhất Lôi thấy người này hình như quen quen, hơi ngạc nhiên một chút. Hắn định nhìn lại cho kỹ, nhưng nàng đã lẩn đi mất rồi.

Sáng hôm sau, Quan Đông tam ma vừa điểm tâm xong, đang định lên đường thì đột nhiên bên ngoài có mười mấy người kéo vào. Người thì gánh, người thì khiêng, nói là những thứ Tất gia cần mua đều đã đem đến.

Tất Nhất Lôi thấy họ đưa đến đồ tam sinh để cúng, nào là gà, vịt, trứng, có cả một con trâu và một con heo. Hắn quát hỏi:

– “Những thứ này để làm gì?”

Người khiêng heo nói:

– “Có một vị khách quan họ Tất sai tiểu nhân đưa đến đây.”

Tiểu nhị nói:

– “Đây chính là Tất đại gia.”

Người đó liền bỏ con heo xuống, đưa tay đòi tiền. Tất Nhất Lôi giận dữ hỏi:

– “Ai bảo chúng bay đem những thứ này tới?”

Trong lúc cãi cọ, đột nhiên bên ngoài lại có một trận ồn ào. Một đám phu đòn khiêng vào ba cỗ quan tài, lại thêm một người chuyên việc tẩm liệm mang theo giấy thấm, đá vôi và đồ nghề liệm xác. Họ hỏi:

– “Người quá cố đang nằm ở đâu?”

Chưởng quỹ bước ra chửi mắng:

– “Bọn ngươi làm trò gì thế? Khiêng quan tài đến đây làm chi?”

Người chuyên tẩm liệm bèn hỏi:

– “Không phải trong tiệm này vừa có người chết hay sao?”

Chưởng quỹ vung tay tát cho y một phát. Y rụt đầu tránh né, lại hỏi:

– “Rõ ràng ở đây có ba người mới chết mà? Một người họ Tất, một người họ Cố, lại còn một người Mông Cổ họ Kha.”

Tất Nhất Lôi nổi giận xung thiên, phóng tới đánh ra một chưởng. Người chuyên tẩm liệm lập tức té nhào, miệng đầy máu tươi, rụng mất ba cái răng cửa. Đột nhiên nghe thấy tiếng nhạc đưa ma, một thằng bé bưng một đôi liễn tiến vào. Tất Nhất Lôi tuy đang giận như điên, nhưng cũng biết đây là kẻ thù quấy rối. Hắn mở tấm liễn ra xem, thấy viết:

– “Kính thỉnh ba vị huynh đệ Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài giá lâm để cùng xum họp.”

Hạ khoản ghi là:

– “Nghĩa đệ Tiêu Văn Kỳ, Điềm Thế Khôi, Diêm Thế Chương nóng lòng chờ đợi.”

Còn tấm biển ngang thì viết bốn chữ lớn:

– “Hề thủ cửu tuyền.”

Nét chữ đúng là của thiếu nữ đã gửi thư hôm trước. Kha Hợp Đài xé vụn tấm liễn, túm lấy ngực áo thằng bé quát hỏi:

– “Ai bảo ngươi đưa đến đây?”

Nó run rẩy đáp:

– “Một vị công tử đã cho tiểu nhân một trăm quan tiền, nói rằng có ba người bạn vừa chết ở đây, đưa liễn đến phúng điếu.”

Kha Hợp Đài biết nó chỉ nhận tiền mà làm, nên không đánh mà chỉ đẩy mạnh một cái. Tuy thế thằng bé cũng ngã nhào về phía trước, nằm ngửa mặt lên trời mà khóc rống lên. Tất Nhất Lôi lại hỏi những người đưa đồ cúng, khiêng quan tài và tấu nhạc đám ma, ai cũng nói là một vị công tử đã trả tiền thuê họ tới đây.

Tất Nhất Lôi xách đồng nhân lên hô:

– “Lập tức đuổi theo.”

Ba người liền chạy ra khỏi khách điếm mà lùng sục, nhưng chẳng thấy công tử nào hết. Tất Nhất Lôi lại nói:

– “Phải đuổi gấp, bắt con nha đầu kia mà băm viên nướng chả.”

Chúng tưởng là Hoắc Thanh Đồng quấy rối, giận dữ không sao tả xiết, cố gắng đuổi nhanh. Một hôm nghỉ lại khách điếm ở Lương Châu, đến nửa đêm thì đột nhiên nhà sau có ánh lửa, ba người lập tức nhảy ra xem xét. Tất Nhất Lôi thấy đám cháy chỉ là một đống cỏ khô, ngẩn ra một chút rồi tỉnh ngộ nói:

– “Lão Nhị, lão Tứ! Nhanh chóng về phòng!”

Khi trở về phòng, quả nhiên ba túi đồ của mình không thấy đâu nữa. Trên giường lại có ba xâu tiền giấy vẫn dùng để đốt cho người chết. Cố Kim Tiêu nhảy lên mái nhà nhưng không thấy bóng người. Tất Nhất Lôi đập bàn thóa mạ:

– “Muốn đánh nhau thì đánh cho quang minh chính đại, quyết một trận thắng thua. Thủ đoạn kiểp cướp gà trộm chó thế này, con mẹ nó, mà dám xưng là hào kiệt?”

Kha Hợp Đài nói:

– “Phen này thì ngày mai không có tiền mà trả tiền phòng tiền cơm nữa.”

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Phải mau mau tìm cách trừ khử con tiện nhân này. Không thì nó cứ quấy rầy mãi.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Không sai! Lão Nhị, lão Tứ! Hai ngươi suy nghĩ thử xem chúng ta phải làm sao?”

Võ nghệ ba tên này tuy khá, nhưng đầu óc lại kém phần linh hoạt. Chúng suy nghĩ mất nửa ngày chỉ được một phương pháp là buổi tối đi ngủ không cởi quần áo, thay phiên canh gác, hễ thấy tung tích địch thủ là lập tức nhảy ra chém giết. Tất Nhất Lôi cũng biết biện pháp này không cao minh gì lắm, nhưng không phải lúc nào ba thợ thuộc da cũng thành một Gia Cát Lượng, nên đành phải chấp nhận.

Kha Hợp Đài băn khoăn nói:

– “Thế thì tiền phòng, tiền cơm làm sao mà trả? Hoặc là chúng ta phải ra ngoài kiếm chút ít, hoặc là sáng sớm mai lén trốn khỏi đây.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Có trốn thì trưa mai cũng phải ăn cơm. Để ta ra ngoài kiếm chác chút đỉnh.”

Hắn bèn phi thân lên mái nhà nhìn quanh tứ phía, chọn dãy nhà lầu cao nhất trong vùng mà chạy tới, nghĩ bụng:

– “Bất kể là cướp hay trộm, miễn có mấy trăm lạng bạc làm lộ phí là yên tâm rồi.”

Thấy một gian phòng vẫn còn ánh sáng, hắn nép qua một bên quan sát. Đột nhiên sau lưng nghe tiếng rôm rốp, một mảnh ngói rơi xuống đất vỡ tan. Rồi có người la lên:

– “Bắt lấy kẻ trộm! Bắt lấy kẻ trộm!”

Tiếng kêu nghe rất thanh tao, rõ ràng là tiếng nữ nhân. Cố Kim Tiêu giật bắn người, nhưng tự cho là mình võ nghệ cao cường nên cứ mặc kệ mà nhảy vào phòng. Thì ra mấy đứa gia nhân đang đánh bạc, trên bàn chỉ có mấy trăm đồng tiền. Thấy hắn xông vào, bọn chúng cùng hoảng sợ la lên.

Cố Kim Tiêu thầm kêu:

– “Xúi quẩy rồi!”

Hắn định lùi ra, nhưng bên ngoài đã có tiếng chân rầm rập, đuốc thắp sáng trưng, mười mấy người xách đao xách côn xông tới. Cố Kim Tiêu vội hốt mấy đồng lẻ trên bàn bỏ vào bọc, phá cửa sổ nhảy lên mái nhà. Nghe tiếng gió rít lên sau gáy, hắn vội quay người đón bắt, thì ra ám khí chỉ là một miếng đá vụn.

Hắn bèn tung người chạy tới chỗ người vừa ném đá. Người đó lập tức đâm ra một kiếm. Dưới ánh sáng lờ mờ chỉ thấy người đó mặc y phục màu đen, tay chân rất nhanh nhẹn. Cố Kim Tiêu mấy ngày nay uất hận mà không biết kẻ địch ở đâu, bây giờ đã thấy dĩ nhiên không chịu bỏ qua. Hắn đâm veo véo ba xoa, toàn nhằm vào chỗ yếu hại.

Người đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Thấy Cố Kim Tiêu múa xoa rất nhanh, nàng chỉ đánh vài chiêu rồi vung kiếm ra một hư chiêu để cản đường, lập tức quay lưng bỏ chạy. Cố Kim Tiêu xách xoa đuổi theo, thấy đối thủ vẫy tay ngược lại, rồi có tiếng ám khí nhỏ xíu rít lên bay tới. Ngoài thành Mạnh Tân hắn đã từng trúng loại kim châm này, biết mùi lợi hại nên vội vã lộn người tránh né, nhảy xuống khỏi mái nhà.

Dưới đất mọi người hò hét xông tới. Cố Kim Tiêu huy động cương xoa đánh cho đao côn của họ tuột hết khỏi tay, rồi nhảy lên mái nhà tiếp tục đuổi theo. Nhưng lúc đó địch thủ đã chạy đâu mất dạng rồi. Cố Kim Tiêu trở về nhà trọ, bực bội kể lại chuyện vừa xảy ra. Kha Hợp Đài thở dài sườn sượt mà nói:

– “Biết thế thì đệ đã đi chung với huynh rồi. Có hai người thì chắc chắn bắt được tên khốn đó.”

Cố Kim Tiêu quát luôn:

– “Nói làm gì nữa? Bây giờ đi thôi. Đợi đến mai không trả được tiền phòng tiền cơm thì còn gì là mặt mũi?”

Vừa chuẩn bị xong, đột nhiên có người gõ cửa. Ba người nhìn nhau một cái, rút binh khí cầm tay, rồi Kha Hợp Đài ra mở cửa. Thì ra đó là chưởng quỹ trong khách điếm này. Y cầm một cây nến nhỏ, run run nói:

– “Bọn tiểu nhân tiệm nhỏ yếu vốn, xin các vị khách quan thanh toán tiền phòng rồi hãy đi.”

Thì ra y đang ngủ bỗng có người đánh thức, nói cho biết là ba người này không có tiền trả, đang chuẩn bị chuồn. Y thức dậy khoác áo, thì người đó không biết đã đi đâu, liền đến đây gõ cửa, quả nhiên thấy bọn Tất Nhất Lôi đang chuẩn bị bỏ trốn.

Cố Kim Tiêu bí quá hóa liều:

– “Lão gia hết tiền xài rồi, bây giờ phải mượn tạm ngươi một trăm lượng bạc.”

Hắn vung cương xoa loảng xoảng, ép chưởng quỹ đi lấy bạc. Chưởng quỹ nhăn nhó nhưng cũng đành phải quay đi. Đột nhiên bên ngoài có tiếng hô hoán, rất đông người la lớn:

– “Đừng để bọn cướp này chạy thoát.”

Tam ma đứng trong cửa nhìn ra, thấy ngoài tiệm đèn đuốc sáng trưng, ít ra cũng có tới hơn trăm người. Nhóm đi đầu đã tới nơi, vừa chạy vừa hô:

– “Bắt cướp! Bắt cướp!”

Tất Nhất Lôi múa đồng nhân gạt họ ra, kêu lên:

– “Nhảy lên mái nhà!”

Cố Kim Tiêu còn cố chặt gãy ổ khóa trên quầy vốc một nắm bạc vụn nhét vào trong bọc. Sau đó ba tên nhảy lên mái nhà chạy trốn. Nửa đêm chưởng quỹ tới đòi tiền, lại có đông người đến bắt, dĩ nhiên Quan Đông tam ma phải biết là do Hoắc Thanh Đồng sắp xếp. Cố Kim Tiêu đã từng giao đấu với Lý Nguyên Chỉ, thấy địch thủ là một thiếu niên người Hán chứ không phải là thiếu nữ người Hồi, nghĩ rằng bên địch đông người lại càng không dám sơ suất. Vì thế đêm nào bọn chúng cũng thay phiên canh gác, văng ra tổng số không biết bao nhiêu câu thóa mạ thô tục.

Lúc qua Gia Cốc quan, Tất Nhất Lôi nói:

– “Từ đây trở đi là địa giới của địch, chúng ta phải cẩn thận đề phòng hơn nữa.”

Đêm đó đến phiên Kha Hợp Đài canh gác. Y đang gà gật nửa thức nửa ngủ, đột nhiên nghe phía sau nhà có hai hòn đá rơi xuống đất. Y biết vị khách không mời này ném đá dò đường để thăm dò động tĩnh, liền nhẹ nhàng đẩy cửa sổ ra, khom lưng đi rón rén ra sau, quyết bắt sống kẻ địch.

Đợi hồi lâu, không thấy có ai nhảy xuống, rồi đột nhiên nghe Cố Kim Tiêu la lên trong nhà. Kha Hợp Đài kinh hãi, biết là hỏng bét, trúng kế điệu hổ ly sơn. Y lập tức chạy về, thấy Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu đang cầm nến chạy ra ngoài phòng, vẻ mặt đầy vẻ kinh hoàng.

Kha Hợp Đài cầm nến soi vào cửa sổ, bất giác giật mình. Thì ra trong phòng đầy rắn rít cóc nhái, vừa bò vừa nhảy lung tung dưới đất, trên giường, trên bàn. Trước cửa sổ còn hai cái giỏ tre, hiển nhiên là của địch thủ đựng độc vật đem tới. Tất Nhất Lôi quát mắng:

– “Con nha đầu này thật là thối tha, dám bắt vô số bà con dòng họ nhà nó đến đây.”

Dĩ nhiên chúng không biết nỗi phẫn uất trong lòng Lý Nguyên Chỉ là do Dư Ngư Đồng vô tình với nàng mà có. Chuyện này nàng cưỡng bức cũng không làm được, năn nỉ cũng vô dụng, nên lòng đầy nỗi ấm ức không nơi phát tiết. Dọc đường nàng cứ nghĩ ra những trò nghịch ngợm, quái ác để làm khó dễ ba người này. Đám rắn rít cóc nhái này là do nàng bỏ tiền ra thuê bọn trẻ bắt về.

Tuy chỉ là trò đùa con nít, nhưng cũng khiến tam ma phải nhức đầu. Chúng có nằm mơ cũng không thấy mình phải gặp nhiều rắc rối đến thế, mà nguyên do lại là tên tú tài xấu xí không chịu yêu tiểu thư con nhà đề đốc.

Bị quấy rầy ba lần bốn lượt, Quan Đông tam ma không dám nghỉ trong khách điếm nữa, dọc đường cứ tìm nông gia hay cổ miếu mà ngủ. Lý Nguyên Chỉ biết võ công mình so với chúng chênh lệch rất xa nên không dám công khai gây chuyện, chỉ nghịch ngợm đùa giỡn quái ác, hết trò này lại chế ra trò khác không chịu dừng tay.

Dù sao thì nàng cũng chỉ là một cô nương yếu đuối, đi trên con đường vạn dặm toàn những cát và cát, trong lòng thì chịu nổi khổ tương tư vò xé. May mà nàng trút được những cơn tức tưởi lên đầu bọn tam ma để giải sầu, không thì chắc chắn phải ngã bệnh dọc đường. Cứ thế mà bốn người kéo đến Hồi Cương.

Lý Nguyên Chỉ vừa kể vừa cười khúc khích, nhưng quần hùng chỉ buồn cười được nửa phần, vì phải lo lắng cho Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc nói:

– “Chuyện không thể chậm trễ được nữa rồi. Ta lập tức đi tìm cô ấy.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Quan Đông tam ma không phải thứ thường, chớ nên khinh địch. Tổng đà chủ, hai vị đi trước đi. Lý cô nương và Thập tứ đệ đi thành đợt thứ hai. Vợ chồng thuộc hạ tiếp ứng đợt thứ ba. Tứ ca, Tứ tẩu và mọi người ở đây bao vây Trương Triệu Trọng.”

Trần Gia Lạc khen phải. Lạc Băng dẫn con ngựa trắng ra cho Trần Gia Lạc cưỡi. Hương Hương công chúa lập tức dắt con ngựa hồng đến, rồi gọi:

– “Đi thôi!”

Hai người cùng phi ngựa đi ngay. Không bao lâu Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ, Từ Thiên Hoằng cùng Chu Ỷ, hai nhóm này cũng rời khỏi doanh trại đi về hướng đông bắc. Giờ ngọ hôm ấy, những người còn lại đang nói chuyện với Mộc Trác Luân trong lều, bỗng một tên quân Hồi chạy đến báo:

– “Hòa Nhĩ Đại đã được cứu thoát, bốn chiến sĩ canh gác hắn đã bị giết!”

Mộc Trác Luân kinh hãi, cùng Văn Thái Lai đi xem xét, thấy ba người lính Hồi chết vì trúng kiếm, người thứ tư thì trước ngực còn cắm một thanh trủy thủ. Trên chuôi trủy thủ có quấn một tờ giấy, ghi mười hai chữ:

– “Trương Triệu Trọng bái tặng các vị anh hùng Hồng Hoa Hội.”

Văn Thái Lai đọc xong phẫn nộ, bất giác siết chặt tờ giấy đó trong lòng bàn tay. Vệ Xuân Hoa muốn lấy xem, Văn Thái Lai xòa tay ra thì tờ giấy đó đã nát thành bụi, bay như đàn bướm ra khỏi lều. Mộc Trác Luân cực kỳ thán phục. Lần trước giao đấu với Vô Trần đạo trưởng, ông tưởng anh hùng thiên hạ chỉ thế là cùng, nào ngờ võ công vị Văn tứ gia này còn cao cường hơn nữa.

Văn Thái Lai nói với Mộc Trác Luân:

– “Tộc trưởng ở đây bao vây quân Thanh, còn bọn tại hạ đi đuổi bắt tên gian tặc Trương Triệu Trọng.”

Mộc Trác Luân gật đầu đồng ý. Văn Thái Lai lập tức cùng Vệ Xuân Hoa, Lạc Băng, Chu Trọng Anh, Tâm Nghiễn, năm người theo dấu chân ngựa in rõ trên sa mạc mà truy đuổi suốt đêm.

* * *

Sau khi đại thắng quân Thanh, Hoắc Thanh Đồng cảm thấy trong lòng hiu quạnh, nỗi cô đơn không sao tả được. Đêm hôm đó nàng nằm trong lều suy nghĩ mông lung, nghe phía ngoài lều có người vừa kéo đàn vừa hát tình ca miên man bất tận, lại càng thêm phần thê lương. Phụ thân nghi ngờ mình, ý trung nhân lại yêu muội muội, mà muội muội là người mình yêu thương nhất, dĩ nhiên mình không tìm cách tranh đoạt người tình của nó.

Trong lúc nghĩ quẫn, nàng âm thầm thức dậy, viết thư để lại cho phụ thân, dẫn theo hai con chim ưng của sư phụ tặng, cầm đao lên ngựa đi về hướng đông bắc. Nàng định đi tìm sư phụ, cùng hai vị lão nhân phiêu bạt khắp nơi trong vùng sa mạc. Nếu không tìm thấy thì cứ vùi thân xác này trong bãi cát mênh mông cũng chẳng sao.

Bệnh tình không nhẹ, nhưng nàng đã luyện võ từ nhỏ, căn cơ rất chắc, có thể chịu đựng được. Muốn đến nơi ở của Thiên Sơn Song Ưng phải mất bốn năm ngày đường nữa. Hoắc Thanh Đồng mệt mỏi vô cùng, đêm đó tìm một cái đời cát có ít cỏ khô mà nghĩ lại. Nàng cho ngựa gặm cỏ khô, còn mình thì căng một tấm lều nhỏ để trú qua đêm.

Ngủ đến nửa đêm, nàng đột nhiên nghe thấy từ xa có tiếng vó ngựa. Ba con ngựa từ phía đông tới, đến đồi cát này cũng dừng lại gặm cỏ khô, không chịu đi nữa. Ba kỵ sĩ liền xuống ngựa nghỉ ngơi, cách một sườn đồi nên họ không thấy lều của Hoắc Thanh Đồng.

Ba người ngồi xuống nói chuyện bằng tiếng Hán. Hoắc Thanh Đồng trong lúc mơ hồ cũng không để ý lắm, nhưng đột nhiên có người cất tiếng thóa mạ:

– “Con nha đầu Thúy Vũ Hoàng Sam thật là khốn kiếp, bắt chúng ta khổ sở quá chừng.”

Hoắc Thanh Đồng giật mình liền chú ý lắng tai, nghe một người khác giận dữ nói:

– “Nếu lão gia không bắt được con giặc cái đó để rút gân lột da thì tổ tông mười tám đời của lão gia không phải họ Cố.”

Thì ra ba người này chính là Quan Đông tam ma. Chúng đuổi vào sa mạc, nghe nói quân Hồi đang giao tranh với quân Thanh ở phía tây, nên không dám tìm người Hồi để hỏi đường. Chúng đi lòng vòng trong sa mạc, nên đến đây sau Lý Nguyên Chỉ tới mười ngày. Đêm nay thật là trùng hợp, vì ngựa phải ăn cỏ nên hai bên đều nghỉ ngơi tại đó, chỉ cách nhau một sườn đồi cát mà thôi.

Hôm đó Trần Gia Lạc cấp tốc chạy tới để báo tin, nhưng mấy ngày liền quân tình khẩn cấp không có lúc nào rảnh rỗi. Hoắc Thanh Đồng lại cố ý tránh mặt nên chàng chưa nhắc tới việc Quan Đông tam ma tìm đến trả thù. Trần Gia Lạc thấy nàng ở giữa đại quân, chỉ trơ trọi có tam ma thì không đáng sợ, nên chàng thấy không cần phải nói ngay.

Hoắc Thanh Đồng nghe ba người này thóa mạ mình, ban đầu tưởng là tàn binh bại tướng của Triệu Tuệ, nhưng nghe tiếp thì hình như không phải.

Lát sau một người nói:

– “Diêm lục đệ võ công cao như thế, ta không tin một nữ nhân mà giết được y. Con mụ đó nhất định đã sử dụng quỷ kế gì đây.”

Một người khác nói:

– “Dĩ nhiên là thế, nên ta mới nhắc lão Nhị lão Tứ lần này tuyệt đối không được lỗ mãng. Người Hồi ở đây có cả ngàn cả vạn, chúng ta chỉ có thể ám toán chứ nhất định không thể công khai thách đấu với con quỷ cái đó.”

Hoắc Thanh Đồng bây giờ mới hiểu, thì ra bọn Quan Đông lục ma đã đến đây. Trong vùng sa mạc có thể nhìn xa mấy chục dặm, mà mình lại mang bệnh trong người, bất luận thế nào cũng không thể tránh né, chỉ còn cách thừa cơ mà hành sự, tìm kế để thoát thân.

Lại nghe một người nói:

– “Nước trong túi da đã vơi hẳn rồi. Không biết đi bao lâu nữa mới tìm được nguồn nước. Bắt đầu ngày mai chúng ta phải uống ít lại.”

Một lúc sau chúng đã ngáy khò khò. Hoắc Thanh Đồng quyết định:

– “Mình phải chủ động gặp chúng trước, rồi sẽ tìm cách dẫn chúng đến gặp sư phụ.”

Sáng sớm hôm sau Quan Đông tam ma thức dậy, nhìn thấy cái lều nhỏ của Hoắc Thanh Đồng đều rất kinh ngạc. Hoắc Thanh Đồng không mặc áo vàng, cái lông chim xanh trên nón đã cất đi, trường kiếm giấu trong bọc quần áo, tay không đi ra khỏi lều.

Tất Nhất Lôi thấy chỉ có một cô gái, bèn hỏi:

– “Cô nương! Cô có nước không? Chia cho chúng ta một ít đi.”

Nói xong, hắn lấy ra một thỏi bạc. Hoắc Thanh Đồng lắc đầu, tỏ ý không hiểu tiếng Hán. Kha Hợp Đài bèn dùng tiếng Mông Cổ nói một lần nữa. Ở phía bắc Thiên Sơn, người Mông Cổ và người Hồi sống lẫn lộn, trong số bộ hạ của Hoắc Thanh Đồng có người Mông Cổ. Nàng cũng biết tiếng Mông Cổ ít nhiều, bèn trả lời:

– “Nước của ta không đủ để chia. Thúy Vũ Hoàng Sam phái ta đưa một lá thư quan trọng, hôm nay ta phải trở về cấp báo. Nếu ngựa thiếu nước uống, bị khát sẽ chạy không nhanh.”

Nàng vừa nói vừa thu dọn lều trại chuẩn bị lên ngựa. Kha Hợp Đài bước tới nắm lấy dây cương ngựa của nàng, hỏi:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ở đâu?”

Hoắc Thanh Đồng hỏi lại:

– “Các ông hỏi cô ấy làm gì?”

Kha Hợp Đài đáp:

– “Chúng ta là bằng hữu của cô ấy, có việc quan trọng cần tìm.”

Hoắc Thanh Đồng bĩu môi một cái, nghĩ bụng:

– “Trước mặt ta mà dám nói dối!”

Nàng đáp:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ở Ngọc Vương Côn. Các ông đi về phía tây nam mà nói là tìm cô ấy, đừng lừa gạt người ta nữa.”

Nói xong, nàng giật cương định đi. Kha Hợp Đài kéo nàng lại hỏi:

– “Chúng ta không biết đường. Cô dẫn chúng ta đi có được không?”

Y nói với Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu:

– “Cô gái này đang tới chỗ con giặc cái kia.”

Quan Đông tam ma thấy mặt nàng như người bệnh, yếu đuối bạc nhược, vừa nói chuyện vừa không ngừng thở hổn hển. Chúng thấy nàng bất cứ lúc nào cũng có thể té xỉu, hoàn toàn không biết võ công, nên không hoài nghi chút nào. Tưởng nàng không biết tiếng Hán nên dọc đường chúng thoải mái bàn bạc, quyết định khi đến Ngọc Vương Côn sẽ giết cô gái này, sau đó mới đi tìm Thúy Vũ Hoàng Sam.

Cố Kim Tiêu thấy nàng tiều tụy nhưng vẫn có phần diễm lệ, đã nổi máu dâm. Hoắc Thanh Đồng thấy hắn cặp mắt ti hí ra vẻ bất hảo liếc mình không ngớt, bèn nghĩ:

– “Tuy chúng không nhận ra mình, nhưng tới Ngọc Vương Côn còn tới bốn năm ngày đường. Mấy ngày cùng đi với ba tên ma đầu thật là nguy hiểm!”

Nàng bèn xé một miếng vải hoa trên áo buột vào chân một con chim ưng, lấy một miếng thịt dê cho nó ăn rồi thả bay lên không trung. Con chim ưng đó vỗ cánh bay đi ngay. Tất Nhất Lôi nảy dạ nghi ngờ, bèn hỏi:

– “Cô làm gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng lắc đầu. Kha Hợp Đài dùng tiếng Mông Cổ hỏi lại, nàng mới đáp:

– “Từ đây đi tiếp bảy tám ngày nữa mới gặp nguồn nước. Các ông mang theo ít nước, làm sao đủ uống? Ta thả chim ưng để nó tự bay đi tìm nước.”

Nói xong, nàng thả nốt con chim ưng kia. Kha Hợp Đài hỏi:

– “Hai con chim ưng này thì uống được bao nhiêu nước?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Khi sắp chết khát thì một giọt nước cũng có thể cứu mạng. Mấy ngày nữa các ông sẽ biết.”

Nàng sợ chúng hạ độc thủ, bèn cố ý nói đường xa hơn. Kha Hợp Đài lẩm bẩm trong miệng:

– “Ở Mông Cổ chúng ta, dù ở giữa sa mạc cũng không có con đường nào bảy tám ngày liền không tìm được nước. Đây thật là một địa phương quỷ quái.”

Đến tối, cả bốn người đốt lửa ngủ lại trên sa mạc. Dưới ánh lửa bập bùng Hoắc Thanh Đồng thấy cặp mắt Cố Kim Tiêu không ngớt liếc mình, không khỏi kinh hãi. Nàng vào lều của mình, rút kiếm cầm sẵn trên tay, cột chặt cửa lều, tuyệt không dám ngủ. Đến canh hai, quả nhiên nghe tiếng chân rón rén. Tim nàng đập mạnh, mồ hôi lạnh ướt lưng, nghĩ bụng:

– “Ta vừa tiêu diệt mấy vạn Thanh binh, chỉ mong đừng bị báo ứng bởi tay ba con ma này.”

Đột nhiên nàng nghe ớn lạnh, một cơn gió rét từ bên ngoài thổi vào. Thì ra Cố Kim Tiêu đã cắt đứt sợi dây vải cột lều, chui vào bên trong. Hắn sợ Hoắc Thanh Đồng kêu cứu, lão Đại lão Tứ nghe thấy thì chẳng hay gì, nên vừa chui vào là đưa tay định bịt miệng nàng ngay. Nào ngờ hắn bịt vào khoảng trống, trong chăn không có người nằm. Một bên cổ hắn tự nhiên lạnh buốt, cảm giác một thứ binh khí cực kỳ sắc bén đã kề sát vào. Hoắc Thanh Đồng dùng tiếng Hán nói rất nhỏ:

– “Ngươi động đậy một chút là ta phải đâm ngay.”

Cố Kim Tiêu tuy võ nghệ đầy mình, nhưng lúc này chỗ yếu hại đã bị kiềm chế, không dám phản kháng chút nào. Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Nằm sát xuống đất!”

Cố Kim Tiêu vâng lời nằm rạp xuống. Hoắc Thanh Đồng ngồi dưới đất, kề mũi kiếm vào hậu tâm hắn. Hai người cứ giữ tư thế đó không động đậy. Hoắc Thanh Đồng nghĩ:

– “Nếu mình giết thằng khốn này hoặc chặt cụt tay chân của hắn, chắc chắn hai tên kia sẽ không tha mình. Phải đợi sư phụ đến cứu rồi sẽ tính kế sau.”

Một canh sau, Tất Nhất Lôi giữa đêm chợt tỉnh, phát hiện Cố Kim Tiêu không có trong lều. Hắn nhảy chồm dậy, gọi lớn:

– “Lão Nhị! Lão Nhị!”

Hoắc Thanh Đồng khẽ bảo:

– “Trả lời đi, nói là ở đây!”

Cố Kim Tiêu không làm gì được, đành phải kêu lên:

– “Lão Đại! Ta ở đây này.”

Tất Nhất Lôi vừa cười vừa mắng:

– “Cái thằng giặc này, phong lưu đến chết cũng không chừa. Ngươi biết hưởng phước lắm!”

Sáng hôm sau, Hoắc Thanh Đồng đợi đến khi Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài đứng ngoài hối thúc không ngừng mới chịu thả Cố Kim Tiêu ra. Kha Hợp Đài trách móc:

– “Lão Nhị! Chúng ta đến đây là để trả thù chứ không phải làm chuyện bậy bạ đâu nhé.”

Cố Kim Tiêu hận đến ngứa ngáy cả tay chân, khổ sở mà không dám nói ra. Chuyện xúi quẩy này mà bị người ta biết thì thật là nhục nhã suốt đời. Hắn quyết chí đêm nay phải thoả lòng mong ước, đạt được mục đích rồi sẽ đâm cho cô ả một dao. Đợi đến nửa đêm, Cố Kim Tiêu tay phải cầm cây điệp hổ xoa, tay trái cầm mồi lửa đi vào trong lều, nghĩ bụng:

– “Cho dù con bé này biết võ, chẳng lẽ ba chiêu hai thức mà ta không bắt được nó?”

Dưới ánh lửa hắn thấy nàng nằm rúc trong một góc lều, lập tức khoái chí phóng qua, nhưng đột nhiên thấy vướng dưới chân. Hắn thầm kêu:

– “Hỏng bét!”, muốn nhảy ra ngoài lều nhưng hai chân đã bị thòng lọng dưới đất thít lại. Hắn khom lưng xuống muốn tìm lấy sợi dây, nhưng đã bị Hoắc Thanh Đồng dùng sức giật mạnh, đứng không vững té nhào xuống đất, ngửa mặt lên trời. Sau đó hắn nghe mỹ nhân quát khẽ:

– “Không được động đậy.”, mũi trường kiếm nhọn hoắt đã kề vào bụng dưới.

Hoắc Thanh Đồng nghĩ:

– “Nếu phải thức trắng như đêm qua thì mình không chịu nổi nữa. Nhưng không thể giết một mình hắn, mà phải đồng thời giết cả ba tên.”

Nàng bèn hạ lệnh:

– “Gọi lão Đại của người qua đây!”

Cố Kim Tiêu là tay lão luyện giang hồ, biết dụng ý của nàng nên không lên tiếng. Hoắc Thanh Đồng nhấn tay một chút, mũi kiếm xuyên thủng qua áo, rạch đứt một vệt da. Cố Kim Tiêu biết bị đâm vào bụng là đau khổ nhất, muốn lành thì không lành được, muốn chết lại không thể chết ngay. Vì thế hắn không dám chống cự, chỉ khẽ nói:

– “Y không chịu qua đâu.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Được! Vậy ta phải đâm chết ngươi rồi sẽ tính sau.”

Nàng lại nhấn tay thêm chút nữa. Cố Kim Tiêu đành phải la lên:

– “Lão Đại! Huynh qua đây! Mau mau qua đây!”

Hoắc Thanh Đồng khẽ bảo:

– “Ngươi cười lên!”

Cố Kim Tiêu nhăn nhó khổ sở, rặn ra hai tiếng cười khan. Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Ráng cười vui vẻ hơn.”

Cố Kim Tiêu mắng thầm:

– “Con mẹ nó! Lúc này mà vui vẻ cái nỗi gì?”

Nhưng mũi kiếm nhọn đã bắt đầu xuyên thủng thịt, hắn chỉ còn cách gắng gượng cười lên ha hả, nửa đêm nghe giống hệt tiếng cú kêu. Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài bị tiếng cười đánh thức. Tất Nhất Lôi quát tháo:

– “Lão Nhị, đừng vui vẻ nữa. Nghỉ ngơi dưỡng sức đi!”

Hoắc Thanh Đồng thấy hắn không chịu qua, lại khẽ bảo:

– “Gọi lão Tứ tới!”

Cố Kim Tiêu lại kêu gọi mấy tiếng. Kha Hợp Đài tuy sống bằng nghề cướp bóc, nhưng không bức hiếp người già phụ nữ. Y hết sức bất mãn hành vi của Cố Kim Tiêu, nhưng là chỗ huynh đệ kết nghĩa nên không thể nói gì, lúc này chỉ biết giả bộ không nghe.

Hoắc Thanh Đồng nghiến chặt răng, nghĩ thầm:

– “Khi ta thoát nạn, không giết chết ba tên gian tặc này thì không sao giải được mối nhục hôm nay.”

Tay phảu nàng vẫn giữ kiếm uy hiếp, tay trái dùng dây trói gô Cố Kim Tiêu lại, buộc nút thật chặt. Bấy giờ nàng mới yên tâm ngồi tựa vách lều mà ngủ, không dám nằm xuống. Cứ thế đến sáng hôm sau, Cố Kim Tiêu đang nhắm mắt thiếp đi thì Hoắc Thanh Đồng vung roi ngựa quất loạn xạ, mũi kiếm vẫn kề ngay tim hắn, dọa hễ rên một tiếng là giết chết ngay. Cố Kim Tiêu mặt mày bê bết máu, nhưng vẫn phải nghiến răng nghiến lợi chịu đau.

Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng:

– “Việc này bị lộ rồi, nhưng nếu giết hắn thì lập tức gặp họa ngay, đành phải cho hắn sống thêm mấy bữa. Tính ra thì chiều nay sư phụ chắc chắn sẽ đến đây.”

Nàng còn chém thêm một kiếm vào tay trái hắn rồi mới cởi trói, xô hắn ra khỏi lều. Tất Nhất Lôi thấy người hắn vấy đầy máu, sinh nghi bèn hỏi:

– “Lão Nhị! Con bé đó là người của phe nào vậy? Coi chừng trúng kế.”

Cố Kim Tiêu nghĩ:

– “Con quỷ cái đó đang bệnh mà cũng đủ sức kéo ngã mình. Nó mang theo kiếm, lại biết nói tiếng Hán, chắc chắn không phải là một con bé người Hồi tầm thường.”

Hắn bèn nháy mắt với Tất Nhất Lôi một cái, khẽ bảo:

– “Chúng ta đi bắt nó đi.”

Hai người từ từ đến gần lều. Hoắc Thanh Đồng thấy thái độ bọn chúng khác thường, bèn đột ngột chạy tới chỗ con ngựa của mình. Nàng rút trường kiếm ra đâm thủng ngay túi da đựng nước đang treo trên ngựa của Kha Hợp Đài và Cố Kim Tiêu, sau đó cắt rơi cái túi nước to nhất đang treo trên lưng ngựa của Tất Nhất Lôi, chụp lấy rồi nhảy lên lưng ngựa.

Tam ma ngẩn ra mà nhìn hai túi nước chảy tuôn xuống đất, bị cát vàng hút sạch trong nháy mắt. Trong sa mạc này, hai túi nước đó còn quí trọng hơn hai túi châu báu. Bọn chúng vừa lo lắng vừa tức giận, xách binh khí xông tới định chém giết.

Hoắc Thanh Đồng nằm rạp xuống cổ ngựa, vừa không ngừng ho hắng vừa kêu lên:

– “Các ông mà bước tới thì ta lại đâm thêm một kiếm.”

Mũi kiếm đang chỉ vào túi nước cuối cùng, quả nhiên Quan Đông tam ma phải dừng lại, không động đậy.

Hoắc Thanh Đồng ho một chập rồi nói:

– “Ta có hảo ý dẫn các ông đi gặp Thúy Vũ Hoàng Sam, thế mà các ông lại định bức hiếp ta. Từ đây tới chỗ có nguồn nước còn sáu ngày đường nữa. Nếu các ông không chịu tha ta, ta sẽ đâm thủng cái túi nước này cho mọi người cùng chết khô trong sa mạc.”

Quan Đông tam ma nhìn nhau không biết nói gì, chỉ thầm thóa mạ con bé này ác độc. Tất Nhất Lôi nghĩ:

– “Tạm thời phải đồng ý với nó, đợi qua khỏi sa mạc rồi sẽ xử trí sau.”

Hắn bèn nói:

– “Chúng ta không làm khó dễ cô nữa. Mọi người đi thôi.”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Các ông đi trước đi.”

Thế là ba nam nhân đi trước, một thiếu nữ đi sau, bốn người tiếp tục cuộc hành trình trong vùng đại mạc. Tới giờ ngọ ánh nắng chói chang, bốn người đều môi cháy lưỡi khô.Hoắc Thanh Đồng thấy trước mặt đầy sao nhấp nháy ,trong đầu buốt nhói từng cơn chỉ muốn té xuống ngất đi, bụng đã nghĩ:

– “Chẳng lẽ hôm nay ta phải mất mạng ở đây hay sao?”

Bỗng nàng nghe Kha Hợp Đài gọi:

– “Này, cho ta chút nước uống.”

Y đang quay lại, tay cầm một cái bát sành. Hoắc Thanh Đồng cố trấn tĩnh tinh thần để nói:

– “Đặt bát dưới đất!”

Kha Hợp Đài tuân lời, để cái bát trên mặt cát. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Các ông lùi xa một trăm bước.”

Cố Kim Tiêu có vẻ ngần ngừ, Hoắc Thanh Đồng gắt ngay:

– “Không lùi ra thì không cho nước.”

Cố Kim Tiêu lầm bầm thóa mạ, nhưng cuối cùng ba người cũng phải lùi lại. Hoắc Thanh Đồng cho ngựa bước lên, rút nút túi da, rót ra nửa bát nước rồi thúc ngựa lùi lại. Ba người chạy tới, mỗi người nửa hớp là cái bát không còn một giọt.

Bốn người đi tiếp chừng hai giờ nữa, bên đường bỗng nhiên xuất hiện một bụi cỏ xanh. Mắt của Tất Nhất Lôi sáng rực lên, lớn tiếng reo:

– “Phía trước nhất định có nước.”

Hoắc Thanh Đồng âm thầm kinh hãi, cố gắng tìm biện pháp nhưng không sao suy nghĩ được. Nàng đang lo lắng thì đột nhiên nghe thấy tiếng chim ưng rít trên trời. Bóng đen vừa nhấp nháy, một con chim ưng lớn đã phóng xuống. Hoắc Thanh Đồng cả mừng đưa cánh tay trái ra cho nó đậu lên. Nàng thấy trên đùi chim ưng có cột một mảnh vải đen, biết sư phụ sẽ tới ngay, mừng quá bất giác hoa mắt, trước mặt tối đen.

Tất Nhất Lôi biết là có chuyện, bèn vẫy tay phóng một mũi tụ tiễn tới tay phải nàng, hy vọng đánh rơi trường kiếm rồi sẽ xông tới đoạt lấy túi nước. Hoắc Thanh Đồng múa kiếm gạt được tụ tiễn, tay trái giật cương tung ngựa vọt đi. Quan Đông tam ma lớn tiếng hò hét, lập tức đuổi theo. Chạy được bảy tám dặm thì Hoắc Thanh Đồng bủn rủn cả người, không gượng được nữa. Con ngựa chồm lên một cái, nàng ngã ngay xuống đất.

Tam ma mừng rỡ, giục ngựa chạy tới. Hoắc Thanh Đồng giãy giụa, muốn leo lên lưng ngựa, nhưng tay chân không còn chút sức nào. Nàng bỗng nảy ra một ý, liền lấy sợi dây cột vào túi nước quàng vào cổ con chim ưng, thả nó bay lên, miệng huýt sáo ra lệnh.

Những con chim ưng này đã được Thiên Sơn Song Ưng huấn luyện từ nhỏ, dùng để truyền tin hoặc đi săn. Cũng vì thích nuôi chim ưng mà vợ chồng họ có ngoại hiệu như thế. Con chim ưng của Hoắc Thanh Đồng vừa nghe tiếng huýt sáo là lập tức bay về phía Thiên Sơn Song Ưng, mang theo túi nước.

Thấy túi nước duy nhất bay lên trời, Tất Nhất Lôi lo lắng vô cùng. Hắn quay đầu ngựa lại rượt theo con chim ưng. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài cũng nghĩ, dù sao thì con nha đầu này cũng không chạy thoát được, đuổi theo chim ưng lấy lại túi nước mới là quan trọng. Vì thế chúng cũng giục ngựa đuổi theo.

Cố Kim Tiêu lấy ra một cây xoa nhỏ, toan phóng lên con chim ưng. Bỗng hắn nghe tiếng roi da quát vào một phát, cổ tay đau nhói lên, ngọn tiểu xoa rơi xuống đất. Thì ra Kha Hợp Đài vừa dùng roi ngựa đánh hắn. Cố Kim Tiêu giận dữ hỏi:

– “Ngươi làm gì vậy?”

Kha Hợp Đài hỏi lại:

– “Nếu phóng xoa trúng vào túi nước, thì chúng ta còn mạng hay không?”

Cố Kim Tiêu nghĩ lại thấy đúng, bèn cúi rạp xuống yên ngựa mà phi gấp rút. Hắn xuất thân là ăn cắp ngựa ở Liêu Đông, cưỡi ngựa rất giỏi, chốc lát đã qua mặt Tất Nhất Lôi. Trong túi còn phân nửa nước, không phải là nhẹ. Vì thế mà chim ưng bay không được nhanh, nhưng ba con ngựa cũng không thể đuổi kịp, khoảng cách chẳng rút ngắn được bao nhiêu.

Ba người đuổi gấp được mười mấy dặm thì ngựa đã đuối sức, rõ ràng không sao đuổi kịp được nữa. Đột nhiên con chim ưng đang bay trên trời bỗng sà thẳng xuống như một tảng đá. Phía trước có bụi bốc lên, hai kỵ sĩ đang phi nhanh tới. Con chim ưng lượn hai vòng trên trời, rồi đậu lên vai một người.

Quan Đông tam ma thúc ngựa chạy lên, nhìn thấy hai người thì một là ông lão đầu trọc mặt đỏ, một là lão bà đầu tóc bạc phơ. Ông giận dữ quát hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng đâu?”

Tam ma ngơ ngác không trả lời. Ông lão bèn tháo túi nước trên cổ con chim ưng ra, thả nó bay lên không trung. Ông huýt sáo một tiếng, con chim ưng cũng rít lên một tiếng rồi bay ngược lại hướng vừa rồi.

Hai lão nhân không đếm xỉa gì đến tam ma nữa, cứ giục ngựa chạy theo con chim ưng. Tất Nhất Lôi biết họ đi cứu cô gái Hồi tộc đó, nhưng hắn ỷ mình võ nghệ cao cường nên không để ông bà già này vào mắt, hơn nữa túi nước đã bị họ mang đi, không thể không đoạt lại. Vì thế hắn giơ tay lên, cả ba cùng đuổi theo sau.

Hai lão nhân này chính là Thiên Sơn Song Ưng. Trong chốc lát họ đã vượt qua mười mấy dặm đường, rồi con chim ưng từ trên trời phóng xuống chỗ Hoắc Thanh Đồng đang nằm dưới đất. Quan Minh Mai lập tức phi thân xuống đất, chạy tới. Hoắc Thanh Đồng tựa vào lòng bà, bật khóc ngay.

Thấy đồ đệ cưng trông thê thảm thế này, Quan Minh Mai kinh hãi hỏi:

– “Ai bức hiếp con?”

Lúc này Quan Đông tam ma đã đuổi gần tới nơi. Hoắc Thanh Đồng chỉ về phía bọn chúng rồi ngất xỉu tại chỗ. Quang Minh Mai dữ dội hét lên:

– “Lão già kia! Còn chưa ra tay ư?”

Tay trái bà ôm lấy Hoắc Thanh Đồng, tay phải mở nút túi nước, từ từ rót nước vào miệng của nàng. Trần Chính Đức nghe vợ mình kêu réo, biết ba tên đó là địch. Ông lập tức quay đầu ngựa lại chạy về hướng tam ma, lúc chạy đến gần vươn dài cánh tay toan nắm lấy cương ngựa của Kha Hợp Đài. Kha Hợp Đài dùng thủ thức của đô vật để chống đỡ, đập trúng cổ tay ông một cái.

Cổ tay của Trần Chính Đức tê đi một chút, trong lòng không khỏi kinh ngạc, thì ra tên này xuất thủ đã nhanh mà kình lực cũng không nhỏ. Ông không đợi địch thủ quay đầu ngựa lại, lập tức nhảy lên không trung, bay qua đầu y ra phía sau lưng. Kha Hợp Đài vội đưa tay trái ra đỡ, tay phải xoay ngược lại toan nắm lấy ngực đối phương. Trần Chính Đức quát lên một tiếng, vỗ một chưởng xuống trúng ngay vào vai y.

Kha Hợp Đài rung chuyển cả người, ngồi trên yên không vững nữa, té nhào xuống ngựa. Tất Nhất Lôi cùng Cố Kim Tiêu kinh hãi, đồng thời xông tới cứu. Nhưng Kha Hợp Đài vừa rớt xuống ngựa đã lộn đi một vòng đứng vững dưới đất, trong tay đã xuất hiện một lưỡi trủy thủ, lại phóng lên phía trước.

Trần Chính Đức dùng tay trái xuất hư chiêu về phía mặt Cố Kim Tiêu, tay phải chụp lấy cây cương xoa trong tay hắn toan giật lấy. Cố Kim Tiêu thấy cổ tay tê chồn, lập tức phóng hai cây tiểu xoa bên tay trái ra. Tay trái hắn đã bị thương nên tiểu xoa phóng ra không có sức, nhưng Trần Chính Đức cũng phải cúi người xuống tránh, cây điệp hổ xoa bị họ Cố đoạt trở về.

Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Không hiểu ở đâu chui ra ba thằng tạp chủng này, võ công không tệ chút nào. Hèn chi đồ đệ mình bị thua thiệt về tay bọn chúng.”

Sau gáy ông bỗng nghe tiếng vù vù, độc cước đồng nhân đang quét tới. Trần Chính Đức xoay người lại, khom xuống dùng song chưởng đánh vào hạ bàn của Tất Nhất Lôi. Họ Tất thu đồng nhân lại, đâm tới huyệt Ngọc Chẩm của ông già. Trần Chính Đức kinh hãi “úi chà” một tiếng, nhảy lùi lại hai bước rồi hỏi:

– “Ngươi điểm huyệt ta đấy ư?”

Tất Nhất Lôi đáp gọn:

– “Không sai!”

Hắn lại xoay đồng nhân điểm vào huyệt Vân Môn trên vai đối thủ. Đồng nhân chỉ có một chân, nhưng có đủ hai tay. Khi hai tay đưa lên đỉnh đầu thì nhập vào nhau, nếu điểm trúng huyệt thì cực kỳ lợi hại. Cây đồng nhân này rất nặng, ngoài điểm huyệt ra, còn có thể quét ngang đánh thẳng so với búa sắt hoặc cương tiên còn hung hãn hơn nhiều.

Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Những loại võ khí dùng để điểm huyệt trong võ lâm, bất kể là phán quan bút, bế huyệt quyết, hay điểm huyệt cương hoàn, thứ nào cũng phải nhẹ nhàng để biến thế cho linh hoạt, nhận huyệt cho chính xác. Tên này lại sử dụng một thứ vũ khí nặng nề như thế để điểm huyệt, đương nhiên phải là kình địch.”

Ông bèn tập trung hết tinh thần, hai bàn tay không nào điểm, nào vỗ, nào chụp, khi quyền khi chưởng ác đấu với ba đối thủ. Quang Minh Mai thấy Hoắc Thanh Đồng từ từ tỉnh lại, lòng đã hơi yên, quay lại nhìn thấy chồng mình ở thế hạ phong. Trường kiếm của Trần Chính Đức cài trên lưng ngựa chưa kịp lấy ra. Lúc ông ta nhảy tới, con ngựa đã giật mình chạy ra xa mười trượng. Ông lại ngạo mạn, hiếu thắng không chịu chạy đi lấy kiếm, cứ dùng tay không đấu với ba hảo thủ nên dần dần không chống nổi.

Quang Minh Mai bèn rút trường kiếm ra nhảy vào vòng chiến, xuất chiêu Sắc Phong Cuồng Tiêu đâm tới sau lưng Tất Nhất Lôi. Họ Tất vội quay đồng nhân lại đỡ. Quang Minh Mai không sử hết chiêu đã biến thế ngay, đâm soạt soạt liền ba nhát nhanh như điện chớp.

Tất Nhất Lôi chưa đến vùng tây bắc, chưa nghe nói đến Tam Phân Kiếm Thuật bao giờ, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, thầm nghĩ:

– “Tại sao kiếm pháp của bà già ốm yếu này lại lợi hại đến thế?”

Hắn chỉ còn cách bảo vệ chặt phía trước để đợi xem có thay đổi gì nữa hay không. Quan Minh Mai đâm liền ba kiếm, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, đây là tuyệt chiêu Mục Vân Bá Tuấn Âm Dao Trì của Tam Phân Kiếm Thuật. Bà thấy Tất Nhất Lôi tuy tay chân bối rối nhưng vẫn cố gắng ngăn đỡ được, bất giác âm thầm khen giỏi.

Trần Chính Đức bớt được một kình địch, lập tức chiếm thế thượng phong. Ông múa tít song chưởng, chiêu nào cũng nhằm vào chỗ yếu hại của địch thủ, rồi đột nhiên cúi xuống nhặt lấy hai cây tiểu xoa của Cố Kim Tiêu vừa bắn rơi xuống đất. Ông có binh khí trong tay giống như hổ thêm cánh, thi triển ngay những chiêu thức của Nga Mi thích mà tấn công, đánh luôn bảy tám chiêu nhanh như điện chớp về phía Kha Hợp Đài. Nghe “soẹt” một tiếng, tay trái của Kha Hợp Đài trúng xoa, trên vai bị vạch đứt một đường dài.

Cố Kim Tiêu thấy tình hình bất lợi, đột nhiên bỏ chạy về phía Hoắc Thanh Đồng. Trần Chính Đức kinh hãi, lập tức bỏ mặc Kha Hợp Đài, chạy tới để cản trở. Ngươi còn chưa tới, tiểu xoa đã rời khỏi tay, bay thẳng về phía hậu tâm của Cố Kim Tiêu.

Cố Kim Tiêu đưa tay trái ra muốn đón lấy tiểu xoa, nào ngờ cây tiểu xoa này lực đạo rất mạnh. Tuy hắn đã vớ được đuôi xoa, nhưng không đủ sức nắm chặt, phải khuỵu gối xuống cho ngọn tiểu xoa bay vèo qua đỉnh đầu.

Khi hắn đứng dậy thì Trần Chính Đức đã chạy tới nơi. Kha Hợp Đài vội chạy theo tương trợ, lấy hai chọi một mà vẫn không sao chống nổi. Bên này Tất Nhất Lôi tự thân lo còn chưa xong, nói gì đến chuyện cứu viện nhau. Hoắc Thanh Đồng ngồi phệt xuống đất, thấy sư phụ và sư công chắc thắng nên rất hoan hỉ. Năm người đều dùng binh khí, càng đánh càng quyết liệt.

Đột nhiên xa xa vọng đến những tiếng hú dài của dã thú. Thanh âm thê thảm khốc liệt, đầy vẻ sợ hãi đói khát, lại có phần tàn nhẫn hung ác, giống như hàng trăm con thú cùng hú vang rất lâu không dứt. Hoắc Thanh Đồng vội vã đứng dậy, kinh hãi la lên:

– “Sư phụ! Sư phụ nghe…”

Thiên Sơn Song Ưng đang đánh tới lúc cao hứng, nhưng vừa nghe thấy tiếng tru đó là đồng thời bước lui mấy bước, nghiêng đầu nghe ngóng. Quan Đông tam ma đang bị ép đến bối rối tay chân, mấy lần gặp nguy hiểm. Đội nhiên thấy địch thủ buông tay, chúng chỉ lo điều hòa hơi thở, không dám tiến lên đuổi đánh.

Tiếng tru càng lúc càng vang dội, rồi xa xa đã thấy một đám đen sì chạy ào tới như một đám mây, tiếng ồn như sấm từ đó phát ra. Thiên Sơn Song Ưng biến hẳn sắc mặt. Trần Chính Đức chạy đi dắt hai con ngựa tới, Quang Minh Mai bế Hoắc Thanh Đồng dậy đặt lên lưng ngựa.

Trần Chính Đức tung người nhảy lên đứng trên yên con ngựa kia, gọi lớn:

– “Bà lên đây xem thử, tìm chỗ tạm thời tránh né!”

Quang Minh Mai để Hoắc Thanh Đồng ngồi vững xong, lập tức nhảy qua lưng ngựa của Trần Chính Đức. Họ Trần chắp hai tay đưa lên khỏi đỉnh đầu, đứng thẳng dậy. Quang Minh Mai nhảy lên đứng trên vai phu quân, rồi lộn người đứng lên trên hai bàn tay đang giơ cao của ông ấy.

Quan Đông tam ma thấy địch thủ đang thắng thế rõ ràng mà đột nhiên dừng tay ngừng đánh, lại biểu diễn thân pháp Điệp La Hán trên lưng ngựa. Chúng bất giác ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu gì cả. Cố Kim Tiêu la lên:

– “Chắc hai lão già này sử dụng yêu pháp gì đây.”

Tất Nhất Lôi thấy hai lão nhân kinh hãi thật sự không phải giả vờ, biết là có chuyện gì kỳ lạ sắp xảy ra. Nhưng hắn không sao đoán được là chuyện gì, chỉ còn cách hết sức đề phòng.

Quang Minh Mai giương mắt nhìn quanh rồi hô lớn:

– “Ở phía bắc hình như có hai cây to.”

Trần Chính Đức vội nói:

– “Bất luận là đúng hay không, chúng ta phải chạy gấp tới đó.”

Quang Minh Mai nhảy qua ngồi chung ngựa với Hoắc Thanh Đồng, hai lão nhân lập tức giật cương chạy về hướng bắc, không đếm xỉa gì đến tam ma nữa. Kha Hợp Đài thấy họ vội vã chạy đi không mang theo túi nước, bèn cúi người nhặt lên. Bây giờ tiếng gào thét lại càng vang dội, nghe mà kinh tâm động phách. Cố Kim Tiêu bỗng hét lên:

– “Bầy sói…”

Hắn mới nói được hai chữ, sắc mặt đã xám xịt như người chết. Tam ma lập tức nhảy lên ngựa phi theo Song Ưng. Chúng chạy một lúc, đã phân biệt rõ sau lưng có tiếng cọp gầm, tiếng sói tru, còn tiếng chân chạy rầm rập thì vô cùng khủng khiếp. Quay lại nhìn giữa đám bụi mù dày đặc thấy vô số hổ báo, lạc đà, dê cừu, ngựa hoang thi nhau mà chạy bán mạng. Phía sau chúng là cả một mảng lớn màu xám tro, không hiểu là mấy ngàn hay mấy vạn con sói đói đang rượt theo.

Phía trước bầy thú lại có một người đang cưỡi ngựa chạy nhanh. Con ngựa đó rất tốt, chạy trước bầy hổ báo mấy chục trượng, cứ như đang dẫn đường cho chúng vậy. Trong nháy mắt con ngựa đó đã chạy tới nơi. Tam ma thấy kỵ sĩ mặc y phục màu xám, nhưng bụi cát bay mù nên áo xám đã biến thành màu vàng, mặt mũi không sao nhìn rõ được, hình như cũng là một ông lão.

Lão quay đầu lại, la lớn:

– “Muốn chết hay sao? Chạy nhanh lên đi!”

Con ngựa của Tất Nhất Lôi nhìn thấy vô số thú dữ chạy tới, hoảng sợ đến nỗi bốn vó nhũn ra, ngã khuỵu ngay tại chỗ, hất chủ nhân văng ra đất. Mười mấy con hổ báo nhảy ào ào qua mình hắn. Đám hổ báo này cũng chạy trối chết, không nghĩ gì đến chuyện bắt người nữa.

Tất Nhất Lôi thấy rõ tính mạng mình chỉ còn trong khoảnh khắc, vội mở miệng ra gào thét điên cuồng. Hai người Cố, Kha nghe thấy tiếng kêu liền quay ngựa lại cứu, nhưng bầy sói đói đã ào tới nơi như sóng thủy triều. Tất Nhất Lôi đưa cây đồng nhân ra hộ thân, cũng biết là vô dụng, nhưng dù sao thì trước khi chết cũng phải giãy giụa chút ít. Hắn đã nhìn rõ một con sói lớn há rộng hàm răng trắng nhởn nhảy sổ vào mình, thì bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên bên cạnh.

Ông lão áo xám đã phi ngựa tới, đưa tay túm được cổ áo rồi xách bổng thân thể mập mạp của hắn lên, ném về phía ngựa của Kha Hợp Đài. Tất Nhất Lôi thi triển khinh công, lộn người trên không một cái đã ngồi vững sau lưng họ Kha. Ba người lại quay đầu ngựa mà chạy như điên.

Ở phía trước, Thiên Sơn Song Ưng cùng Hoắc Thanh Đồng cũng quất ngựa mà phi như bay. Họ sống ở vùng sa mạc này rất lâu, biết không có gì hung ác hơn bầy sói này. Bất kể là loài mãnh thú lợi hại như thế nào, hễ gặp bầy sói là không sao sống sót. Chạy thêm một hồi, quả nhiên trước mặt có hai gốc cây to. Thiên Sơn Song Ưng thầm la lên:

– “May thật! Lần này chúng ta chưa đến nỗi làm thức ăn cho sói đói…”

Chạy đến gần, Trần Chính Đức nhảy lên cây, Quang Minh Mai đưa Hoắc Thanh Đồng lên. Trần Chính Đức đón lấy, đỡ nàng ngồi lên một cành trên cao. Chỉ chốc lát mà bầy sói đã đến gần hơn, Quang Minh Mai vội cầm roi quất mạnh hai con ngựa, kêu lớn:

– “Tự mình chạy trốn đi! Ta không lo nổi cho bọn mi nữa.”

Hai con ngựa bèn cuốn vó chạy ngay. Ba người vừa yên ổn trên cây, bầy sói đã chạy gần tới nơi. Nhìn thấy ông lão áo xám dẫn đầu, Quang Minh Mai kinh hãi đến thất sắc, kêu lên:

– “Đúng là huynh ấy.”

Trần Chính Đức cũng hét:

– “Ừ! Đúng là y.”

Ông liếc qua thấy vợ mình đầy vẻ lo âu, bất giác tức giận nói:

– “Nếu ta gặp nguy hiểm như vậy, chưa chắc bà đã lo lắng đến thế.”

Quang Minh Mai giận dữ nói:

– “Bây giờ mà còn ghen tuông gì nữa? Mau mau cứu người đi.”

Bà dùng tay phải bám lấy cành cây, thòng người xuống. Trần Chính Đức “hứ” một tiếng, nhưng cũng đưa tay phải nắm lấy tay trái của bà, hai người đu đưa trên cành cây lấy đà. Lúc ông lão áo xám chạy ngang, Trần Chính Đức phóng mạnh ra, ôm lấy hông mà xách lão lên cành cây.

Ông lão kia chưa kịp phản đối thì thân thể đã lơ lửng trên không, con ngựa của mình đã chạy thẳng về phía trước, dưới chân toàn là hổ báo dê cừu. Lão lộn người một cái đã ngồi trên cành cây, liếc xéo Thiên Sơn Song Ưng một cái.

Trần Chính Đức ngạc nhiên hỏi:

– “Cái gì? Viên huynh cũng sợ sói đói hay sao?”

Ông lão kia giận dữ quát:

– “Ai bảo huynh nhiều chuyện?”

Quang Minh Mai nói:

– “Này! Phu quân của ta vừa cứu huynh, thế mà huynh còn nói lung tung được ư?”

Nghe vợ bênh mình, Trần Chính Đức hết sức đắc ý. Ông lão kia lạnh nhạt nói:

– “Cứu ta ư? Các vị làm hỏng đại sự của ta thì có.”

Trần Chính Đức bật cười:

– “Huynh bị bầy sói làm cho hoảng sợ đến nỗi hồ đồ rồi phải không? Nghỉ ngơi một lát đi.”

Ông lão kia nổi giận quát lên:

– “Viên mỗ mà sợ cái lũ súc sinh đó hay sao?”

Ông lão áo xám này chính là Thiên Trì Quái Hiệp Viên Sĩ Tiêu, sư phụ của Trần Gia Lạc. Thuở bé lão chơi rất thân với Quang Minh Mai. Hai người có tình thanh mai trúc mã, cùng nhau lớn lên, từ nhỏ đã có tình ý. Nhưng tính tình họ Viên có phần cổ quái nên hai người rất thường cãi nhau.

Nghe một câu không thuận tai, Viên Sĩ Tiêu bỏ vào sa mạc, mười mấy năm trời không quay về, tuyệt vô âm tín. Quang Minh Mai cho rằng ông vĩnh viễn không trở lại, bèn nhận lời lấy Trần Chính Đức. Không ngờ bà lấy chồng chưa được bao lâu, Viên Sĩ Tiêu đột nhiên trở về quê. Hai người gặp nhau vô cùng ủ rũ, nhưng chỉ là chuyện đã rồi.

Trần Chính Đức hết sức bất mãn, đi tìm Viên Sĩ Tiêu để nói chuyện phải trái, nhưng võ công không bằng người ta. Nếu Viên Sĩ Tiêu không nể mặt Quang Minh Mai mà hạ thủ lưu tình, thì họ Trần đã mất mạng mấy lần rồi. Vì thế Trần Chính Đức giận dữ dẫn vợ đi tới Hồi Cương.

Nào ngờ Viên Sĩ Tiêu khó quên được mối tình xưa, cũng dời tới Thiên Sơn mà sống. Tuy hai bên chẳng bao giờ qua lại, nhưng cảm thấy ý trung nhân ở không xa lắm thì trong lòng cũng an ủi ít nhiều, quả là tình ý tràn đầy.

Thấy họ Viên đi theo, Trần Chính Đức đương nhiên bực bội. May mà Quang Minh Mai vì tránh hiềm nghi mà cố gắng không gặp mặt người tình cũ. Tuy nhiên Trần Chính Đức không khỏi đa tâm suy nghĩ, còn Quang Minh Mai thường xuyên sầu muộn, tính khí càng ngày càng thay đổi. Mấy chục năm trời đôi phu thê này không ngừng cãi cọ. Bây giờ họ đều sắp xuống lỗ rồi, nhưng cả ba người không ngày nào là không nghĩ đến “chuyện ba người” phiền phức không minh bạch này.

Phen này cứu được Viên Sĩ Tiêu, Trần Chính Đức đắc ý nghĩ bụng:

– “Xưa nay lúc nào ngươi cũng chiếm thế thượng phong, nhưng từ nay về sau ngươi có phải nhớ ơn ta hay không?”

Quang Minh Mai nghe Viên Sĩ Tiêu nói là mình làm hỏng mất đại sự, không hiểu bèn hỏi:

– “Chúng ta làm hỏng đại sự gì của ông?”

Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Bầy súc sinh này càng ngày càng sinh sôi nảy nở, thật là một đại họa trong sa mạc. Có mấy bộ lạc người Hồi đã bị chúng ăn sạch cả gia súc lẫn người. Ta đang bố trí một cái bẫy để dụ bầy sói này đi vào con đường chết, nào ngờ các vị lại nhiều chuyện nhúng tay vào.”

Trần Chính Đức biết họ Viên nói thật, không khỏi cảm thấy áy náy. Viên Sĩ Tiêu thấy thần sắc Quang Minh Mai ra vẻ hối lỗi, bèn an ủi:

– “Dù sao Trần huynh và Quan muội cũng vì hảo ý mà làm thế. Thôi, bây giờ ta đa tạ hai vị là xong.”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Huynh bố trí cạm bẫy như thế nào?”

Viên Sĩ Tiêu đột nhiên la lên:

– “Cứu người là gấp!”

Lão nhảy xuống đất, xông vào giữa bầy sói. Lúc này Quan Đông tam ma đã bị đuổi kịp, ba người tựa lưng vào nhau ra sức chống chọi. Hai con ngựa đã bị bầy sói ăn hết sạch từ lâu rồi. Ba người đã dùng binh khí đánh chết mười mấy con sói, nhưng bầy sói vẫn không ngừng phóng tới. Thân thể mỗi người đã bị bảy tám vết thương, khó mà cầm cự được nữa. Viên Sĩ Tiêu vừa nhảy xuống vừa vung song chưởng đánh ra, hai con sói lập tức vỡ sọ mà chết. Lão túm lấy Kha Hợp Đài ném lên cây, hô lớn:

– “Đón lấy!”

Trần Chính Đức đưa tay chụp được họ Kha. Viên Sĩ Tiêu cứ thế mà ném Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu lên cành cây. Sau đó lão lại xuất hai chưởng đánh chết hai con sói nữa, nắm lấy cổ chúng múa tít xung quanh để mở đường, chạy đến gốc cây rồi tung người nhảy lên.

Quan Đông tam ma thoát chết, thấy ông lão này giết sói dễ như bắt thỏ, thân thủ cực nhanh, kình lực cực mạnh, đúng là suốt đời mình chưa từng thấy. Khi lão nhảy lên cây, chúng không ngớt lời lên tiếng cảm ơn.

Mấy trăm con sói đói bao vây dưới gốc cây, vừa cào cấu vừa ngẩng đầu lên tru tréo. Đằng xa, mấy chục con hổ báo đã bị bầy sói đuổi kịp vây quanh, tiếng cắn xé vang lên thảm khốc. Chỉ chớp nhoáng là đám hổ báo đã bị bầy sói này xé nát ra, nhai nuốt sạch sẽ. Bảy người trên cây đều là hào khách giang hồ, nhưng đây là lần đầu tiên họ nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ như thế này. Không ai là không kinh tâm động phách.

Lúc nãy Trần Chính Đức đón lấy tam ma ném bừa lên cành cao, bây giờ trợn to mắt lên mà nhìn chúng. Hoắc Thanh Đồng lên tiếng:

– “Sư công! Ba tên này không phải là người tốt.”

Trần Chính Đức nói:

– “Được! Để ta bắt bọn này cho sói ăn.”

Ông xoa tay muốn nhảy lên, nhưng nhìn thấy tình hình thảm khốc bầy sói đang xé xác lũ hổ báo dê cừu dưới gốc cây nên có phần không nỡ. Trong lúc ông ngần ngừ, Tất Nhất Lôi vội la lên:

– “Qua đây.” rồi nhảy qua cái cây bên cạnh. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài cũng nhảy theo. Quang Minh Mai hỏi Hoắc Thanh Đồng:

– “Thanh nhi! Làm sao đây?”

Bà muốn hỏi ý kiến của Hoắc Thanh Đồng xem có cần giết chúng cho tận tuyệt không. Hoắc Thanh Đồng cũng mềm lòng trở lại, bèn nói:

– “Thôi!”

Nàng nghĩ đến những nỗi khổ vừa qua bất giác thở dài, nước mắt ứa ra. Nhưng nàng lập tức định thần trở lại, dõng dạc nói với tam ma:

– “Ta chính là Thúy Vũ Hoàng Sam Hoắc Thanh Đồng. Các ngươi muốn tìm ta trả thù, sao bây giờ không xông vào đi?”

Bọn Tất Nhất Lôi nghe nói nàng chính là Hoắc Thanh Đồng, vừa sợ vừa giận vừa tiếc, nhưng nói gì thì nói cũng không dám nhảy qua. Bầy sói đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chúng chạy quanh gốc cây mấy vòng, tru lên mấy tiếng rồi đi tìm dã thú khác mà đuổi. Quan Minh Mai bảo Hoắc Thanh Đồng tham kiến Thiên Trì Quái Hiệp. Viên Sĩ Tiêu thấy sắc mặt nàng ốm yếu võ vàng, bèn lấy trong bọc ra hai viên thuốc màu đỏ sậm mà nói:

– “Cho con! Đây là Tuyết sâm hoàn.”

Thiên Sơn Song Ưng từ lâu đã biết Tuyết sâm hoàn là do nhiều dược vật trân quý phối chế mà thành, công dụng cải tử hoàn sinh. Quang Minh Mai vội bảo:

– “Mau đa tạ đi con.”

Hoắc Thanh Đồng đang thi lễ, Viên Sĩ Tiêu đã nhảy từ trên cây xuống. Lão bỏ đi rất nhanh, trông như một lằn chỉ màu tro. Chỉ chốc lát sau, giữa bãi cát vàng chỉ còn thấy một dấu chấm đen.