Hồi 16: Hai lão nhân thương tình không nỡ – Ba thiếu niên dụng kế thoát thân

Quan Minh Mai ôm Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống gốc cây, bảo nàng uống thuốc ngay đi. Hoắc Thanh Đồng vừa nuốt viên Tuyết sâm hoàn đã thấy một luồng hơi nóng từ đan điền bốc lên, dễ chịu vô cùng. Quan Minh Mai nói:

– “Con thật là may mắn mới được uống linh đơn diệu dược, lành bệnh ngay thôi.”

Trần Chính Đức lạnh nhạt nói:

– “Nó không uống viên thuốc này thì cũng chẳng chết.”

Quan Minh Mai hỏi:

– “Chẳng lẽ ông muốn Thanh nhi khổ sở hay sao?”

Trần Chính Đức nói:

– “Thuốc của y, thì ta thà chết cũng không chịu uống, còn bà dù không có bệnh cũng muốn uống như thường.”

Quan Minh Mai nổi giận, định tìm một câu trả đũa. Nhưng bà nhìn thấy Hoắc Thanh Đồng rớm lệ, ốm yếu đầy vẻ đáng thương, bèn nhẫn nhịn không cãi nữa, cõng Hoắc Thanh Đồng lên lưng chạy về phía bắc. Trần Chính Đức chạy theo phía sau, dọc đường cứ lải nhải cằn nhằn không dứt.

Về tới chỗ ở của Song Ưng tại Ngọc Vương Côn, Hoắc Thanh Đồng uống nốt viên thuốc còn lại rồi ngủ say một giấc, tinh thần đã sảng khoái hơn rất nhiều. Quan Minh Mai ngồi bên giường nàng, hỏi:

– “Tại sao con đang bệnh mà phải ra ngoài một mình?”

Hoắc Thanh Đồng kể lại chuyện diệt sạch quân Thanh, chuyện gặp tam ma dọc đường, nhưng không nói đến lý do khiến mình rời khỏi doanh trại. Nhưng Quan Minh Mai tính tình nóng nảy, chất vấn tới cùng.

Hoắc Thanh Đồng vô cùng kính yêu sư phụ nên không giấu nữa, vừa khóc vừa kể:

– “Huynh ấy… Huynh ấy tốt với muội muội của con. Vì thế lúc con điều động binh lính… gia gia và mọi người đều nảy dạ nghi ngờ.”

Quan Minh Mai nhảy dựng lên, kêu lớn:

– “Chính là gã Trần tổng đà chủ gì gì đó mà con đã tặng cây đoản kiếm phải không?”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu. Quan Minh Mai giận dữ nói tiếp:

– “Trai thì có mới nới cũ, gái thì không có tình tỉ muội, hai đứa đều đáng giết.”

Hoắc Thanh Đồng vội vã lắp bắp:

– “Không… không…”

Quan Minh Mai cứ nói:

– “Để ta đi đòi nợ giùm con.”

Bà lập tức chạy ra khỏi phòng. Trần Chính Đức nghe vợ la lối om sòm, liền chạy đến xem có chuyện gì. Hai người suýt va vào nhau trước cửa. Quan Minh Mai hô:

– “Đi theo ta! Đi giết hai kẻ vô nghĩa bạc tình.”

Trần Chính Đức nói:

– “Được!”

Đôi vợ chồng già lập tức chạy ra ngoài. Hoắc Thanh Đồng nhảy chồm dậy, muốn đuổi theo nói cho rõ mọi chuyện trước sau, nhưng trên người chỉ mặc áo lót nên không dám chạy ra. Nàng lo lắng đến ngất xỉu ngay tại chỗ, khi tỉnh lại thì sư phụ và sư công đã đi từ lâu rồi.

Tính tình hai vị lão nhân gia nóng nảy khác thường, võ công lại tuyệt cao, một mình Trần Gia Lạc không sao địch nổi. Nếu hai vị giết mất chàng và muội muội thì phải làm sao? Bất chấp cơ thể còn bạc nhược, nàng tức tốc lên ngựa đuổi theo.

Dọc đường Quan Minh Mai nói:

– “Bọn nam nhân bạc nghĩa vô tình trên thiên hạ đều đáng chết cả. Thanh nhi đã đem thanh cổ kiếm là báu vật hiếm có trên đời tặng cho hắn, đủ biết coi trọng hắn như thế nào. Thế mà hắn mặc kệ, quẳng Thanh nhi ra sau, đi vui vẻ với muội muội của Thanh nhi. Thật là đáng chém ngàn đao, xẻo ngàn miếng thịt.”

Song Ưng cực kỳ yêu quý Hoắc Thanh Đồng. Trần Chính Đức cũng nói:

– “Không hiểu sao muội muội của Thanh nhi lại vô sỉ đến thế, tranh đoạt người yêu của chị ruột mình? Thanh nhi tức giận đến sinh bệnh là phải.”

Họ phi ngựa đến sáng sớm ngày thứ ba thì thấy ở phía trước có bụi cát bốc lên, hai con ngựa từ phía nam chạy nhanh tới. Quan Minh Mai bỗng “à” lên một tiếng, Trần Chính Đức vội hỏi chuyện gì, nhưng cũng nhìn ra ngay. Trong hai kỵ sĩ đang chạy tới thì một chính là Trần Gia Lạc.

Trần Chính Đức lập tức đưa tay rút kiếm. Quan Minh Mai cản:

– “Khoan đã! Ông xem, ngựa của chúng chạy nhanh quá. Nếu chúng giục ngựa chạy trốn thì không sao đuổi kịp. Chúng ta cứ vờ như không biết, từ từ ra tay cũng không muộn.”

Trần Chính Đức khẽ gật đầu, rồi hai người từ từ tiến lên phía trước. Trần Gia Lạc cũng nhìn thấy họ, liền thúc ngựa tới, nhảy xuống thi lễ rồi nói:

– “Lại hân hạnh diện kiến hai vị tiền bối. Hai vị tiền bối có gặp Hoắc Thanh Đồng cô nương hay không?”

Quan Minh Mai ôm hậm hực trong lòng:

– “Ngươi còn giả vờ tưởng nhớ đến nó hay sao?”

Bà đáp:

– “Ta không thấy. Có việc gì hay sao?”

Đột nhiên trước mắt bà sáng rực lên, một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ giục ngựa chạy tới. Trần Gia Lạc bảo:

– “Đây là sư phụ của Thanh Đồng. Muội mau thi lễ đi.”

Hương Hương công chúa lập tức xuống ngựa, thi lễ rồi mìm cười nói:

– “Con vẫn thường nghe tỉ tỉ nhắc tới hai vị. Hai vị có thấy tỉ tỉ của con đâu không?”

Trần Chính Đức thầm nghĩ:

– “Con bé này đẹp hơn Thanh nhi nhiều, chẳng trách thằng lỏi kia thay lòng đổi dạ.”

Quan Minh Mai thì nghĩ:

– “Mới ranh con mà đã xảo trá đến thế!”

Bà không để lộ vẻ gì, cứ vờ hỏi về Thanh Đồng.

Trần Gia Lạc kể xong, Quan Minh Mai nói:

– “Được! Chúng ta cùng đi tìm.”

Thế là bốn con ngựa cùng tiến về phía bắc. Quan Minh Mai thấy cả hai người đều sắc mặt lo âu, thầm nghĩ:

– “Đã làm những việc như thế, trong lòng bất an là phải. Nhưng không biết chúng tìm Thanh nhi có việc gì. Hai đứa cùng đi, chắc là muốn chọc tức cho Thanh nhi mau chết.”

Bà càng nghĩ càng hận, càng nghĩ càng tức, lùi lại phía sau khẽ nói với chồng:

– “Lát nữa ông giết thằng lỏi kia, để tôi giết đứa con gái.”

Trần Chính Đức gật đầu.

Đến xế chiều, bốn người dựng lều nghỉ lại bên một đồi cát. Sau khi ăn cơm xong, họ quây quần nói chuyện. Hương Hương công chúa lấy trong túi của mình ra một cây nến bằng mỡ bò, thắp lên. Dưới ánh nến Song Ưng thấy một người hiên ngang như ngọc thụ, một người kiều diễm như mai quế, hết sức xứng đôi. Họ thầm than thở:

– “Người như thế này, sao lại có tấm lòng tồi tệ?”

Hương Hương công chúa hỏi Trần Gia Lạc:

– “Huynh nói là tỉ tỉ không gặp nguy hiểm hay sao?”

Thật sự thì Trần Gia Lạc lo lắng vô cùng, nhưng muốn an ủi nàng bèn nói:

– “Võ công của Thanh Đồng rất giỏi, lại thông minh hơn người, chỉ một trận đã giết sạch mấy vạn Thanh binh. Nhất định không xảy ra chuyện gì đâu.”

Hương Hương công chúa tin tưởng chàng tuyệt đối, nghe chàng bảo tỉ tỉ của mình vô sự liền không nghi ngờ gì nữa, chỉ nói:

– “Nhưng tỉ tỉ đang mắc bệnh. Sau khi tìm được, nhất định phải khuyên tỉ tỉ về doanh trại nghỉ ngơi.”

Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Quan Minh Mai tin chắc là hai người này đang tung hứng diễn kịch. Bà tức giận đến nỗi mặt mày trắng bệch.

Chưa thấy ai buồn ngủ, Hương Hương công chúa bỗng gọi Trần Chính Đức:

– “Lão gia! Chúng ta chơi một trò được không?”

Trần Chính Đức đảo mắt nhìn vợ. Quan Minh Mai từ từ gật đầu, tỏ ý đừng để đối phương nghi hoặc. Trần Chính Đức bèn nói:

– “Được! Chơi trò gì đây?”

Hương Hương công chúa mỉm cười với Quan Minh Mai và Trần Gia Lạc, cất tiếng hỏi:

– “Hai vị cùng chơi nhé?”

Hai người gật đầu đồng ý.

Hương Hương công chúa tháo yên ngựa xuống, đặt giữa bốn người. Nàng vốc cát đắp cao lên yên ngựa, dùng tay ép chặt lại, trên đống cát đó đặt một cây nến nhỏ. Nàng thắp cây nến lên rồi nói:

– “Mỗi người chúng ta dùng con dao nhỏ này để gạt một mảnh cát trong đống cát xuống. Người nào gạt cuối cùng làm ngã cây nến thì phạt người đó ca hát, kể chuyện, hay múa cũng được. Trần lão gia làm trước đi.”

Rồi nàng đưa con dao nhỏ cho Trần Chính Đức. Mấy chục năm trời Trần Chính Đức chưa từng chơi lại trò chơi trẻ nít này, tay cầm con dao nhỏ mà mặt ngẩn ngơ không biết nghĩ gì. Quan Minh Mai đưa khuỷu tay thúc chồng một cái, bảo:

– “Cắt đi!”

Trần Chính Đức khẽ cười một tiếng, gạt một mảng cát xuống rồi đưa con dao cho vợ. Quan Minh Mai cũng gạt một miếng. Cứ thế luân phiên, sau ba vòng thì đống cát đã biến thành một cây trụ cát, chẳng to hơn cây nến bao nhiêu nữa. Chỉ cần đụng khẽ một cái, cây nến có thể rơi xuống bất cứ lúc nào.

Trần Gia Lạc cầm cây dao nhỏ, khều một lỗ hổng giữa cái trụ cát này. Hương Hương công chúa cười nói:

– “Huynh khôn quá!”

Rồi nàng nhận lấy con dao, khều một lỗ hổng ở chỗ khác. Bây giờ cái trụ cát bắt đầu lung lay. Lúc Trần Chính Đức nhận lấy con dao, tay ông run thấy rõ. Quan Minh Mai mỉm cười, mắng:

– “Thật chẳng ra gì cả!”

Hương Hương công chúa lên tiếng động viên:

– “Lão gia cứ khều thật nhẹ, khều một hạt cát thôi cũng được.”

Trần Chính Đức theo lời khều một tí, nhưng ông hơi mạnh tay, cái trụ cát đổ sụp. Cây nến rơi xuống tắt ngấm. Trần Chính Đức la lên một tiếng:

– “Trời ơi!”

Hương Hương công chúa vỗ tay cười lớn, Quan Minh Mai và Trần Gia Lạc đều cảm thấy thú vị.

Hương Hương công chúa vừa cười vừa nói:

– “Trần lão gia! Bây giờ lão gia muốn hát hay là muốn múa?”

Khuôn mặt già nua của Trần Chính Đức vốn đã đỏ rồi, bây giờ mắc cỡ đến nỗi đỏ gấp đôi. Ông ra sức thoái thác. Đôi vợ chồng này đã thành thân đã lâu, nhưng những lúc không cãi nhau thì luyện võ nghiêm chỉnh hoặc phải cùng nhau đối phó với kẻ thù, chưa bao giờ chơi đùa vui vẻ thế này.

Thấy chồng xấu hổ, Quan Minh Mai cảm thấy vui vẻ trong lòng, mỉm cười nói:

– “Ông lớn tuổi rồi, ăn hiếp trẻ nít như vậy là không được đâu.”

Trần Chính Đức không trốn được, đành nói:

– “Thôi được, để ta hát một đoạn Côn Nô Bản Mã Ký.”

Rồi ông cất giọng hát lên. Hát tới câu:

– “Vợ chồng trẻ đùa chơi như con trẻ; chàng trêu già nàng ngồi đó khóc nhè…”, ông không ngớt đưa mắt liếc qua bà vợ.

Trong lòng Quan Minh Mai đột nhiên ấm áp, nhớ lại những ngày tháng ngọt ngào hồi mới cưới nhau. Nếu Viên Sĩ Tiêu không đột nhiên trở lại, chắc chắn họ sẽ vui vẻ hạnh phúc suốt đời. Bà nghĩ lại mấy năm nay mình đối xử với chồng không được đàng hoàng, lắm khi trách mắng giận dữ vô lý, nhưng chồng đối với mình vẫn thâm tình như cũ. Có lúc ông ấy nổi ghen cãi cọ, nhưng chuyện đó cũng vì yêu mình mà ra.

Đột nhiên bà cảm thấy mình bất công với chồng mấy chục năm trời, trong lòng áy náy, bèn đưa tay ra nắm chặt lấy tay chồng. Trần Chính Đức được vợ tỏ tình mà giật mình kinh hãi, cảm thấy cảnh tượng trước mặt hơi nhòe, thì ra khóe mắt đã ràn rụa. Quan Minh Mai thấy mình mới biểu lộ chút xíu tình cảm mà chồng đã cảm kích muôn phần, đủ thấy trước nay mình quá lạnh lùng. Bà lại mỉm cười với chồng lần nữa.

Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa đều cảm nhận được tình cảm nồng nhiệt của đôi vợ chồng già, bèn khẽ liếc nhau cười một cái. Bốn người lại tiếp tục chơi trò gạt cát. Lần này Trần Gia Lạc bị thua, chàng bèn kể chuyện Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.

Dĩ nhiên Thiên Sơn Song Ưng cũng biết câu chuyện này. Hai người không hẹn mà cùng nghĩ như nhau, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài có tình mà không thành duyên phận, chẳng bằng vợ chồng mình được sống bên nhau đến răng long đầu bạc. Mấy chục năm qua nhiều khi cãi cọ, nhưng đến già nghĩ lại thấy tình cảm vẫn là thân thiết, cả hai bất giác trìu mến nhau.

Đây là lần đầu tiên Hương Hương công chúa nghe kể chuyện này. Nàng cười khúc khích mà nói:

– “Lương Sơn Bá không biết Chúc Anh Đài là nữ cải nam trang, thật là ngốc nghếch.”

Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Ta có ngốc nghếch không? Chẳng lẽ ta thật sự nhìn không ra Lý Nguyên Chỉ là nữ cải nam trang hay sao?”

Tuy nàng giả trang rất giống, nhưng diện mạo vẫn kiều diễm, nhìn kỹ là biết ngay. Chỉ vì lúc đó chàng vừa nhận chức tổng đà chủ, chỉ sợ gánh vác không nổi, lại gặp chuyện Văn Thái Lai bị bắt, không biết phải làm gì để cứu ra. Chàng chẳng còn tâm trí để dây vào chuyện tình nam nữ.

Những nữ nhân Trần Gia Lạc quen biết chỉ là Tình Họa, Vũ Thi, mấy cô tiểu nha đầu dịu dàng tuân phục, bảo sao làm vậy. Còn Hoắc Thanh Đồng thì anh hùng lẫm liệt, đẹp thì có đẹp nhưng khó mà thân cận, ai gặp cũng chỉ muốn nhìn từ xa, không dám tới gần. Hình như chính chàng cố ý tìm lý do để lùi xa một bên.

Khi thấy diện mạo Lý Nguyên Chỉ tuấn tú, nặng mùi son phấn, Trần Gia Lạc chỉ tường đó là một tên công tử chuyên đi lừa gạt tình cảm của đàn bà con gái, thế mà mình lại chịu hạ phong. Chàng thầm so sánh mình với người khác, bất giác tức giận rồi lại ganh tị, nên không khỏi cố ý xem thường người ta, không chịu xét kỹ người ta nên không nhận ra chân tướng.

Trong đêm động phòng của Từ Thiên Hoằng ở Thiên Mục Sơn, Lý Nguyên Chỉ tới phá rối, cũng có lúc Trần Gia Lạc nghĩ rằng đó là nữ đệ tử của Lục Phi Thanh. Nhưng trong vô thức chàng lại không muốn tin vào chuyện đó, vì sợ rút ngắn bớt khoảng cách giữa mình với Hoắc Thanh Đồng. Về sau chàng đem lòng yêu thương Hương Hương công chúa, nghĩ lại đúng là phụ bạc tình ý của Hoắc Thanh Đồng, không khỏi nảy lòng hổ thẹn.

Trần Chính Đức lại thua một lần nữa. Lão không còn bài nào để hát, Quan Minh Mai bèn nói:

– “Để ta kể chuyện thay cho ông.”

Hương Hương công chúa vỗ tay đồng tình. Quan Minh Mai liền kể câu chuyện Vương Khôi phụ bạc Quế Anh.

Đêm đã rất khuya, Hương Hương công chúa thấy hơi lạnh, dần dần tựa vào người Quan Minh Mai. Bà thấy nàng yếu đuối bèn khẽ ôm vào lòng, rồi dịu dàng lấy tay vuốt lại mái tóc bị gió thổi rối cho nàng. Khi kể câu chuyện này, Quan Minh Mai định dạy cho hai người một bài học trước khi giết, để họ biết tội mà chết không oán trách. Khi kể được một nửa bà bỗng cảm thấy một mùi hương lạ, cứ như mình đang ở trong một đám kỳ hoa dị thảo, bèn ngừng kể cúi đầu nhìn Hương Hương công chúa. Thì ra nàng đã ngủ thiếp đi trong lòng bà rồi.

Thiên Sơn Song Ưng không có con cái. Đôi vợ chồng già sống cô độc trong vùng đại mạc, lắm lúc thấy tịch mịch không sao chịu nổi. Hoắc Thanh Đồng thì không yếu đuối chút nào, tính khí của nàng cương trực mạnh mẽ, thường chỉ nói chuyện với Song Ưng về đề tài võ công hay trận mạc. Quan Minh Mai đột nhiên nghĩ:

– “Giả tỉ chúng ta có một đứa con gái xinh đẹp đáng yêu như thế này thì tốt biết dường nào.”

Lúc này ngọn lửa đã bị gió thổi tắt, nhưng ánh sao mờ ảo vẫn đủ thấy Hương Hương công chúa mỉm cười trong giấc mộng, tay phải quàng ôm lấy Quan Minh Mai như một đứa con gái nhỏ ôm lấy mẹ hiền vậy.

Trần Chính Đức lên tiếng:

– “Mọi người đi nghỉ đi.”

Quan Minh Mai nói nhỏ:

– “Đừng ồn ào, kẻo nó thức giấc.”

Rồi bà nhẹ nhàng đứng dậy, bế nàng vào trong lều, lấy một tấm thảm đắp lên. Nàng mơ hồ nói mê trong giấc ngủ:

– “Tỉ tỉ! Lấy ít sữa dê cho con nai con của muội đi, đừng để nó bị đói.”

Quan Minh Mai hơi kinh ngạc, khẽ bảo:

– “Ừ, con ngủ đi!”

Bà nhẹ chân lùi ra, nghĩ bụng:

– “Nó rõ ràng là một đứa bé ngây thơ vô tội, tâm địa rất lương thiện. Tại sao nó lại làm những chuyện như thế?”

Bà lại thấy Trần Gia Lạc dựng một cái lều khác, cách rất xa cái lều của Hương Hương công chúa, bèn đứng đó lẩm nhẩm gật đầu. Trần Chính Đức bước tới nói nhỏ:

– “Chúng không ở chung lều.”

Quan Minh Mai gật đầu. Trần Chính Đức vừa sờ sờ thanh kiếm vừa nói:

– “Hắn vẫn chưa ngủ. Chúng ta đợi hắn ngủ rồi mới ra tay, hay bây giờ tới đó nói rõ tội trạng để hắn được chết một cách rõ ràng?”

Quan Minh Mai trù trừ hỏi lại:

– “Ông tính sao?”

Trong lòng của Trần Chính Đức đang tràn đầy những suy nghĩ ngọt ngào, hoàn toàn không có ý niệm giết người, bèn nói:

– “Chúng ta ngồi đây một lát. Đợi hắn ngủ rồi mới giết, để hắn làm con quỉ hồ đồ cũng được.”

Trần Chính Đức nắm tay vợ, hai người ngồi tựa vào nhau trên bãi cát không nói một lời. Chẳng bao lâu Trần Gia Lạc cũng vào lều mà ngủ. Nửa giờ sau, Trần Chính Đức nói:

– “Để ta qua đó xem thử hắn ngủ chưa.”

Quan Minh Mai gật đầu, nhưng Trần Chính Đức lại không đứng dậy, ư ử trong miệng không biết đang hát bài gì. Quan Minh Mai hỏi:

– “Ra tay được rồi chứ?”

Trần Chính Đức đáp:

– “Ừ, ra tay được rồi.”

Nhưng hai người không ai nhúc nhích, hiển nhiên đều không quyết tâm hạ thủ.

Cả đời Thiên Sơn Song Ưng giết người không chớp mắt, nhân vật giang hồ mất mạng dưới tay họ không sao đếm xuể. Thế mà bây giờ họ không thể nào ra tay hạ sát hai người trẻ tuổi đang say giấc điệp.

Sao trời từ từ di chuyển, không khí mỗi lúc một lạnh lẽo hơn. Hai vợ chồng già ôm lấy nhau, Quan Minh Mai vùi mặt vào trong lòng chồng, Trần Chính Đức nhẹ nhàng đưa tay vuốt ve lưng vợ. Chẳng bao lâu hai người cũng ngủ say.

Sáng hôm sau Trần Gia Lạc cùng Hương Hương công chúa thức dậy, thấy hai vị lão tiền bối đã bỏ đi không khỏi ngạc nhiên. Hương Hương công chúa bỗng hỏi:

– “Huynh xem, đó là cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc quay lại nhìn, thấy dưới mặt cát bằng phẳng có viết tám chữ lớn:

– “Ngươi không sửa đổi thì ta lấy mạng.”

Chữ nào cũng vuông vắn cỡ năm thước, chắc chắn vẽ bằng mũi kiếm. Trần Gia Lạc chau mày ngẫm nghĩ:

– “Mình ngoan cố chuyện gì mà họ đòi lấy mạng của mình?”

Hương Hương công chúa không biết chữ Hán, lại hỏi:

– “Họ vẽ cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc không muốn nàng lo lắng nên đáp:

– “Họ nói là có việc cần đi trước.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hai vị sư phụ của tỉ tỉ thật là tốt bụng…”

Chưa nói dứt câu, đột nhiên nàng giật mình, kinh hãi nói:

– “Huynh nghe…”

Trần Gia Lạc cũng nghe thấy xa xa vọng đến những tiếng kêu rùng rợn, vội bảo:

– “Bầy sói đến rồi, chạy nhanh lên!”

Hai người lập tức thu dọn lều trại, nước uống, rồi lên ngựa chạy điên cuồng, chỉ sợ mình chậm một chút là bầy sói kéo tới nơi. May mà ngựa của hai người đều là thiên lý mã, chốc lát đã bỏ xa bầy sói. Bầy sói đã nhịn đói từ lâu, hễ thấy người ngựa là truy đuổi tới cùng. Tuy khoảng cách đã xa, khuất khỏi tầm mắt từ lâu, nhưng chúng vẫn theo dấu vết trên mặt cát mà đuổi miết không tha.

Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa đã chạy nửa ngày, tưởng mình đã thoát hiểm. Nhưng vừa xuống ngựa để uống nước, định nổi lửa nấu ăn thì họ lại nghe tiếng sói tru càng lúc càng gần. Hai người lại nhảy lên ngựa phi đến tối, đoán mình đã cách xa bầy sói hơn trăm dặm, mới dám dựng lều để nghỉ ngơi.

Đến giữa khuya, con ngựa trắng bỗng cất tiếng hí vang, gọi Trần Gia Lạc tỉnh dậy. Nghe tiếng bầy sói đang kéo đến, hai người không kịp thu dọn lều trại nữa, chỉ xách lương khô và túi nước lên ngựa, cứ thế khi chạy khi dừng. Họ chạy một vòng lớn trong sa mạc, rốt cuộc vẫn không thoát được bầy sói truy đuổi, mà mình và ngựa đã mệt mỏi đến kiệt sức.

Cuối cùng con ngựa hồng không chịu nổi nữa, ngã lăn ra chết. Hai người cưỡi chung con ngựa trắng mà chạy trốn. Con ngựa trắng phải chở nặng hơn, nên bước đi chậm lại. Đến sáng ngày thứ ba thì nó không sao bỏ xa bầy sói được nữa.

Trần Gia Lạc biết, nếu con ngựa trắng không phải là thần mã thì đã chết vì mệt mỏi rồi. Nó đã cố chạy hai ngày hai đêm liên tiếp, chỉ nửa ngày nữa chắc chắn sẽ ngã gục. Chàng cố đi thêm nửa giờ, thấy bên đường có một lùm cây nhỏ bèn xuống ngựa nói:

– “Chúng ta tạm dừng ở đây, cho ngựa nghỉ chân một lát.”

Chàng cùng Hương Hương công chúa lấy cát đắp thành một cái lũy thấp, kiếm một ít cành khô chất lên xung quanh, sau đó nhóm lửa lên. Lũy cát biến thành một bức tường lửa, vây bọc hai người một ngựa ở trong.

Bố trí xong xuôi thì bầy sói chạy tới nơi. Chúng sợ lửa nên cứ đứng xung quanh mà tru, không dám tới sát. Trần Gia Lạc nói:

– “Đợi con ngựa phục hồi sức lực, chúng ta sẽ xông ra ngoài.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Huynh nghĩ là có thể xông ra hay không?”

Trần Gia Lạc không nắm chắc, nhưng muốn an ủi Hương Hương công chúa bèn nói:

– “Dĩ nhiên là có thể.”

Hương Hương công chúa thấy bầy sói gầy đến da bọc xương, không biết đã phải nhịn bao nhiêu ngày, bèn nói:

– “Lũ sói này thật đáng thương.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Cô bé này từ bi đến mức không sao hiểu nổi. Mình sắp biến thành thức ăn cho chúng, mà vẫn thấy chúng đáng thương. Không hiểu mình có đáng thương hay không?”

Bầy sói vừa tru vừa sủa, chỉ đợi vòng lửa có chỗ trống là lập tức xông vào. Trần Gia Lạc nhìn đôi má trắng hồng của nàng, lại nhìn những hàm răng vừa trắng nhởn vừa nhọn hoắt của bầy sói đang há hốc bên ngoài vòng lửa, bất giác trong lòng chua xót, để rơi mấy giọt nước mắt trên mặt cát.

Hương Hương công chúa thấy chàng buồn như vậy, biết hy vọng sống sót của hai người quá nhỏ nhoi, liền lại gần chàng mà nói:

– “Chỉ cần được ở bên huynh là muội không sợ gì cả. Có chết thì hai chúng ta vẫn sung sướng ở trên Thiên Quốc, mãi mãi không rời nhau.”

Trần Gia Lạc ôm nàng vào lòng, nghĩ bụng:

– “Mình lại không tin là có Thiên Quốc. Nếu có, chắc chắn nàng sẽ lên thiên đường, còn mình thì xuống địa ngục.”

Chàng nhìn dáng dấp tiên nữ của nàng trong bộ y phục trắng, bỗng hình dung thấy cảnh nàng tựa vào lan can mà nghĩ đến mình, từng giọt nước mắt rơi từ trên trời xuống đất. Dĩ nhiên nước mắt của nàng phải rất thơm tho; nhỏ trúng đóa hoa nào thì đóa hoa ấy sẽ tươi đẹp và thơm ngát hơn hẳn bình thường.

Thấy trên khóe miệng chàng có nụ cười nhưng thần sắc lại bi thương, Hương Hương công chúa bất giác thở dài. Đột nhiên nàng thấy một cành khô vừa cháy hết, ngọn lửa hạ dần xuống, vội la lên một tiếng rồi chạy tới đó bỏ thêm củi.

Lúc đó ba con sói đói đã nhảy vào, Trần Gia Lạc vội nắm tay nàng kéo lùi lại. Con ngựa trắng phóng chân đá văng một con sói ra ngoài. Trần Gia Lạc đảo người túm lấy cổ một con sói lớn, quật nó vào mặt con sói xám hung dữ nhất. Con sói xám nhảy lùi tránh né, rồi lại phóng lên. Hai con sói khác lại nhảy qua chỗ khuyết vào trong vòng lửa, Trần Gia Lạc dùng sức quăng con sói trong tay mình ra đó. Ba con lăn lóc thành một khối, vừa cắn nhau loạn xạ vừa chạy ra ngoài.

Chàng nhặt lấy một cành cây đang cháy, quay lại con sói xám. Nó há hốc mồm, chồm cả thân mình đứng dậy toan táp vào yết hầu đối thủ. Trần Gia Lạc đưa tay tới, nhét trọn cành cây đang cháy phừng phừng vào miệng con sói, sâu tới hai thước. Con sói bị phỏng từ gan ruột phỏng ra, lập tức phóng ra ngoài mà lăn lộn giữa bầy.

Trần Gia Lạc bỏ thêm củi vào chỗ khuyết. Chàng thấy cành cây khô cháy rất mau tàn, nhất định phải ra ngoài tìm thêm. May mà phía sau có một lùm cây, chỉ cách chừng mười mấy trượng. Tay trái cầm kiếm thuẫn, tay phải cầm châu sách, chàng bảo Hương Hương công chúa:

– “Huynh đi nhặt củi. Muội ở đây, trông cho lửa cháy đều.”

Hương Hương công chúa vâng dạ rồi thêm củi vào đống lửa. Nàng biết ngọn lửa này bảo vệ cho cuộc sống của hai người. Lửa mà tắt đi, hai cuộc đời lập tức tắt theo. Trần Gia Lạc dùng kiếm thuẫn hộ thân, châu sách mở đường, thi triển khinh công chạy về phía lùm cây. Thấy trong vòng lửa có người nhảy ra, bầy sói liền phóng tới. Hai con đi đầu bị châu sách đánh ngã ngay.

Chàng chỉ nhấp nhô ba bước đã đến nơi. Lùm cây này nhỏ quá, không thể trèo lên để tránh sói được. Chàng dùng tay trái huy động kiếm thuẫn đỡ gạt, tay phải vội vã bẻ cành cây. Mấy chục con sói đói vây quanh, hễ thấy sơ hở là phóng tới, nhưng cứ đến gần lại bị chín mũi kiếm có móc sáng lòa trên thuẫn đẩy lùi.

Trần Gia Lạc hái được một mớ củi khô, dùng chân hất cho gọn lại, rồi lấy châu sách mà buộc. Ngay lúc đó, một con sói lớn hung ác thừa cơ phóng tới. Kiếm thuẫn kịp thời vung lên, con sói lập tức mất mạng. Nhưng mũi kiếm có móc, nên dính vào người nó không rút lại được ngay.

Lũ sói thấy vậy, vừa hú vang vừa nhảy vào. Chàng vội dùng hết sức giật mạnh một cái, hất xác con sói văng ra ngoài. Bầy sói lập tức nhảy chồm lên xác đồng loại, giành giật cắn xé mà nhai ngấu nghiến. Trần Gia Lạc thừa cơ nhặt lấy bó củi khô, nhảy trở vào trong vòng lửa.

Thấy chàng bình yên trở về, Hương Hương công chúa hoan hỉ chạy tới gieo người vào trong lòng chàng. Trần Gia Lạc cũng tươi cười ôm lấy nàng, bỏ ôm củi xuống đất. Vừa ngẩng đầu lên, chàng bất giác giật bắn mình. Thì ra trong vòng lửa đã có thêm một người nữa.

Người này thân hình khôi vĩ, y phục trên người đã bị sói đói xé rách tơi tả, tay cầm trường kiếm, toàn thân vấy máu, nhưng sắc mặt vô cùng trấn tĩnh, lạnh nhạt nhìn chàng. Đó chính là Hỏa thủ phán quan Trương Triệu Trọng.

Hai kẻ tử thù đối đầu gương mắt nhìn nhau, chần chừ chưa nói gì. Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Ông ấy từ giữa bầy sói thoát ra, thấy ở đây có lửa nên chạy tới trú ẩn. Huynh xem, ông ấy mệt mỏi đến như thế rồi.”

Nàng lấy túi nước rót ra một chén đưa qua, Trương Triệu Trọng cầm uống một hơi hết sạch, đưa tay áo lau qua mặt, gạt bớt mồ hôi và máu.

Hương Hương công chúa kinh hãi la lên một tiếng, bây giờ mới nhận ra đây chính là tên võ quan từng đánh nhau với Trần Gia Lạc trong doanh trại của Triệu Tuệ, sau này lại ác chiến với Văn Thái Lai trong hố cát.

Trần Gia Lạc che kiếm thuẫn trước ngực, vừa vung châu sách vừa thóa mạ:

– “Quân khốn kiếp!”

Ánh mắt Trương Triệu Trọng đột nhiên dại hẳn đi, rồi hắn ngã ngửa ra sau. Thì ra sau khi hắn cứu Hòa Nhĩ Đại, cả hai rủ nhau đi truy bắt Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa, rồi giữa đường gặp phải bầy sói. Hòa Nhĩ Đại đã bị xé xác, còn Trương Triệu Trọng nhờ võ công tuyệt cao mà giết được mấy chục con sói dữ, tạm thời thoát thân. Hắn phi liền một ngày một đêm trong vùng đại mạc rồi con ngựa lăn ra chết. Hắn đành nhịn đói nhịn khát chạy bộ hơn một ngày nữa, từ xa nhìn thấy ánh lửa bèn vận hết sức tàn chạy tới.

Trương Triệu Trọng chỉ dựa vào nội tức mà chống cự, vừa buông lỏng người là không vận khí được nữa, nên mới ngất xỉu ngay tại đó. Hương Hương công chúa định tới cứu chữa, nhưng Trần Gia Lạc kéo tay nàng lại nói:

– “Tên này nham hiểm vô cùng, đừng để hắn lừa.”

Hồi lâu thấy hắn không động đậy gì, hai người mới dám đến gần quan sát. Hương Hương công chúa lấy một ít nước lạnh xối vào trán hắn, lại đổ cho một ít sữa dê vào miệng. Trương Triệu Trọng hơi tỉnh, uống được nửa chén sữa dê rồi lại ngủ thiếp đi.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ma xui quỉ khiến thế nào mà tên gian tặc này lọt vào tay ta. Bây giờ mà giết hắn thì dễ như phủi bụi, nhưng thừa cơ hội thì không phải hành vi của bậc đại trượng phu. Hơn nữa Kha Tư Lệ có tấm lòng nhân hậu, thấy ta giết một người không còn sức chống cự thì chắc chắn không được vui lòng. Nhưng nếu ta tha cho hắn, khi hắn khôi phục được khí lực thì mình lại không phải là đối thủ.”

Chàng chưa quyết định được chủ ý, bèn quay lại nhìn thì thấy Hương Hương công chúa đang nhìn Trương Triệu Trọng bằng ánh mắt xót thương. Trần Gia Lạc thấy thái độ của nàng như thế, quyết định tha cho tên gian tặc này một lần nữa. Thứ nhất là dù gian nan nguy hiểm đến thế nào, chàng quyết không làm việc gì buồn lòng Kha Tư Lệ. Thứ hai là ba người đang cùng hoàn cảnh khó khăn, mà họ Trương võ công tuyệt diệu, đợi hắn phục hồi thì hai người hợp sức có thể cứu được Hương Hương công chúa ra; còn chỉ dựa vào sức một mình chàng thì tuyệt đối không thể. Vì thế chàng uống một hớp sữa dê rồi nhắm mắt lại dưỡng thần.

Lát sau Trương Triệu Trọng tỉnh dậy. Hương Hương công chúa đưa cho hắn một miếng thịt dê khô, lấy vải buộc lại chỗ vết thương bị sói cắn. Trương Triệu Trọng thấy hai người này lấy đức báo oán, không khỏi xấu hổ, cúi đầu im lặng.

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Trương huynh! Bây giờ chúng ta cùng cảnh nguy nan. Mọi ân oán trước kia hãy tạm gác sang bên, lúc này phải giúp đỡ nhau mới được.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Không sai! Nếu bây giờ ba người chúng ta giao đấu với nhau, nhất định sẽ trở thành miếng mồi ngon cho lũ sói đói này.”

Hắn được nghỉ ngơi hơn một giờ, tinh thần và khí lực đã khôi phục, âm thầm tính kế thoát thân. Hắn thầm nghĩ:

– “Hoàng thiên phù hộ, hai đứa này đã lọt vào tay ta. Nếu cả ba đều bị sói ăn thịt thì không có gì phải tính nữa. Nếu thoát được nguy, ta phải bất ngờ ra tay trước, chế ngự tên công tử họ Trần rồi sẽ bắt cô gái này đi. Vậy là nắm chắc được công danh phú quí mấy chục năm sau.”

Trần Gia Lạc lại nghĩ:

– “Tình hình cứ căng thẳng mãi thế này, làm sao giải quyết được đây?”

Chàng thấy bên ngoài vòng lửa có rất nhiều phân sói, nhớ lại Hoắc Thanh Đồng đã đốt lang yên để truyền tin, bèn dùng châu sách gom lấy một mớ phân sói xung quanh, dồn đống rồi đốt lên. Một luồng khói đặc xông thẳng lên trời.

Trương Triệu Trọng lắc đầu nói:

– “Cho dù có người nhìn thấy, họ cũng không dám đến cưới đâu. Trừ khi đại quân kéo tới thì mới đuổi được cả ngàn cả vạn con sói dữ này.”

Trần Gia Lạc cũng biết biện pháp này chưa chắc đã có ích, chỉ hy vọng một phần vạn mà thôi.

Trời tối dần. Ba người ở trong vòng lửa thay phiên nhau, kẻ nghỉ ngơi, người lo châm thêm củi. Trần Gia Lạc khẽ bảo Hương Hương công chúa:

– “Người này tệ hại vô cùng. Khi huynh ngủ, nhất định muội phải lưu ý đề phòng.”

Hương Hương công chúa gật đầu vâng dạ. Trần Gia Lạc dồn một mớ cành cây đặt giữa mình và Trương Triệu Trọng, đề phòng hắn ám toán khi chàng ngủ; lúc đó Hương Hương công chúa sẽ không thể nào chống cự.

Đến nửa đêm đột nhiên lũ sói tru vang lên, nghe điếc cả tai. Ba người kinh hãi bật dậy, thấy mấy ngàn con sói cùng ngồi dưới đất ngẩng lên nhìn trăng ở đỉnh đầu, đồng thanh tru lên nghe dựng cả tóc gáy. Tru được mấy hồi, lũ sói đột nhiên ngừng lại. Đây là tập tính truyền đời cả vạn năm của giống sài lang. Mãi đến sau này được thuần dưỡng thành chó nuôi trong nhà, chúng vẫn thường sủa trăng vào ban đêm như vậy.

Sáng hôm sau, ba người thấy bầy sói vẫn luẩn quẩn quanh vòng lửa, chẳng có vẻ gì muốn bỏ đi. Trần Gia Lạc nói:

– “Chỉ biết hy vọng có lạc đà hay loài thú hoang gì đi ngang qua. Có thế thì bầy ác quỉ này mới chịu rời khỏi đây.”

Bỗng nghe tiếng sói tru ở xa xa, rồi càng lúc càng gần. Trương Triệu Trọng chau mày nói:

– “Lũ quỉ lại đông thêm rồi!”

Giữa gió thổi cát bay mù mịt, bỗng thấy ba kỵ sĩ đang gấp rút phi tới gần, mấy trăm con sói đuổi sát theo sau. Một lát sau, mấy người cưỡi ngựa phát hiện bầy sói đói ở đây còn đông hơn nhiều, muốn vòng đi tránh né. Nhưng bầy sói ở đây đã kéo sang, thành thế bao vây ba con ngựa vào giữa. Ba kỵ sĩ phải huy động vũ khí, cố hết sức chống đỡ.

Hương Hương công chúa kêu lên:

– “Mau mau đón họ vào đây đi!”

Trần Gia Lạc bảo Trương Triệu Trọng:

– “Chúng ta đi cứu người!”

Hai người lập tức cầm binh khí chạy thẳng về phía ba con ngựa kia. Chỉ chốc lát là họ mở được một con đường máu, dẫn ba con ngựa vào trong vòng lửa. Trên lưng ngựa còn có một người bị trói giật cánh khuỷu nằm yên, thân thể mềm oặt, không biết còn sống hay đã chết, mặc y phục kiểu thiếu nữ người Hồi.

Ba kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, đỡ cô nương người Hồi đó xuống. Hương Hương công chúa lập tức kinh hãi kêu lên:

– “Tỉ tỉ”, rồi vội vã chạy tới ôm lấy cô gái ấy.

Trần Gia Lạc cũng phải giật mình. Hương Hương công chúa đỡ cô gái ấy dậy, nhìn rõ dung nhan ảm đạm, hai mắt nhắm nghiền, đúng là Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng.

Thì ra Hoắc Thanh Đồng mang bệnh mà đuổi theo sư phụ sư công, chẳng bao lâu gặp phải Quan Đông tam ma. Nàng không còn sức để chống trả, đành rút kiếm toan tự tử. Nhưng Cố Kim Tiêu nhanh tay giật được trường kiếm, rồi bắt sống nàng.

Quan Đông tam ma bắt được kẻ thù, vô cùng mừng rỡ. Kha Hợp Đài thì muốn lập tức giết chết để trả thù cho ba huynh đệ kết nghĩa. Cố Kim Tiêu còn độc địa hơn, muốn đem tới mộ ba người kia mà tế sống. Bậc huynh trưởng đã tỏ ý như vậy, Kha Hợp Đài không có cách nào cãi được.

Thế là chúng cùng giục ngựa đi về hướng đông. Được ba ngày thì Hoắc Thanh Đồng cố ý dẫn đi lạc đường, rồi mất phương hướng giữa sa mạc. Hôm đó chúng thấy xa xa có một luồng khói đen bay lên, nghĩ là có nhà cửa nên lập tức chạy tới. Nào ngờ đó là lang yên mà Trần Gia Lạc đốt để cầu cứu.

Cố Kim Tiêu thấy Trần Gia Lạc nhảy tới chỗ con ngựa, lập tức vung Điệp hổ xoa lên loảng xoảng, quát lên:

– “Ngươi định làm gì?”

Hoắc Thanh Đồng bệnh chưa khỏi, thân thể còn rất yếu. Khi thấy bầy sói rượt theo, nàng ngất xỉu trên lưng ngựa. Bây giờ từ từ tỉnh dậy, đột nhiên nhìn thấy Trần Gia Lạc cùng muội muội ở một nơi, trong lòng nàng bỗng dậy lên cảm giác khó tả, không biết là thương tâm hay vui mừng.

Hương Hương công chúa vừa khóc vừa gọi Trần Gia Lạc:

– “Huynh bảo họ thả tỉ tỉ ra đi.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Muội cứ yên tâm.”

Rồi chàng quay lại hỏi Cố Kim Tiêu:

– “Các vị là cao nhân phương nào, sao lại làm khó bằng hữu của ta?”

Tất Nhất Lôi bước lên hai bước cản trước mặt Cố Kim Tiêu, lạnh lùng nhìn ba người đối diện mà nói:

– “Trước tiên xin cảm tạ hai vị ra tay cứu viện. Xin thỉnh giáo cao danh quý tánh.”

Trần Gia Lạc chưa kịp trả lời, Trương Triệu Trọng đã nói:

– “Người này là Trần tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội.”

Tam ma đều kinh hãi một phen. Tất Nhất Lôi lại hỏi:

– “Xin thỉnh giáo cao danh các hạ?”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Ta họ Trương, thảo tự là Triệu Trọng.”

Tất Nhất Lôi “úi chà”

một tiếng rồi nói:

– “Thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan. Thảo nào võ công của hai vị cao cường đến thế.”

Hắn cũng tự giới thiệu họ tên ba người bên mình.

Trần Gia Lạc buồn rầu nghĩ bụng:

– “Bị sói bao vây còn chưa biết thoát được hay không, lại gặp thêm bốn đối thủ khó chơi này. Bây giờ phải tìm cách bắt chúng thả Thanh Đồng trước, rồi sẽ tính tiếp.”

Chàng bèn nói:

– “Ân cừu của chúng ta tạm thời gác lại, khoan hãy nói. Bầy sói đói đang vây quanh đây, các vị có cách nào thoát hiểm hay không?”

Câu hỏi này làm tam ma nhìn nhau ngơ ngác, không sao trả lời được. Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Xin thỉnh giáo Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta hợp sức chống chọi với bầy sói thì còn một tia hy vọng. Nếu tàn sát lẫn nhau, chỉ trong chớp nhoáng là tất cả mọi người chui vào bụng sói.”

Hai người Tất và Kha khẽ gật đầu, chỉ có Cố Kim Tiêu trợn mắt ra vẻ dữ dằn không đáp. Trần Gia Lạc nói:

– “Vậy thì xin Cố lão huynh lập tức thả bằng hữu của ta ra, rồi mọi người cùng bàn kế hoạch đẩy lùi bọn sói.”

Cố Kim Tiêu gằn giọng:

– “Ta không thả. Ngươi làm gì được nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu thế thì trong bảy người chúng ta, người đầu tiên bị sói ăn thịt chính là các hạ.”

Cố Kim Tiêu rung cây hổ xoa, hét lên:

– “Ta lại muốn bắt ngươi cho sói ăn trước.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Bằng hữu của ta, các hạ không thể không thả. Giả tỉ chúng ta không động thủ thì mọi người cũng chưa chắc đã sống sót. Nhưng nếu các hạ xuất thủ, bất kể ai thắng ai bại thì kết cuộc vẫn là mọi người cùng chết. Xin Cố bằng hữu suy nghĩ cho kỹ.”

Tất Nhất Lôi nhẹ nhàng lên tiếng:

– “Lão Nhị thả cô ấy ra đi.”

Cố Kim Tiêu bắt được Hoắc Thanh Đồng chẳng dễ dàng gì. Mỹ nữ như hoa như ngọc đã lọt vào tay, nếu phải thả ra thì còn đau hơn mất mạng. Hắn cứ lắc đầu quầy quậy.

Tất Nhất Lôi thầm tính toán:

– “Ba người bên ta đấu với ba người bọn chúng, thế thì nhân số tương đồng. Nhưng nghe nói kiếm thuật quyền thuật của Hỏa Thủ Phán Quan cực kỳ lợi hại, là nhân vật số một số hai trong võ lâm. Vừa rồi xem hai người này giết sói, thân thủ thật sự tuyệt vời. Cô gái xinh đẹp kia cùng đi với họ, chưa chắc võ công đã yếu. Bây giờ mà thật sự giao đấu, e rằng chúng ta không phải là đối thủ.”

Hắn nghĩ vậy không khỏi nản lòng, bèn nói nhỏ nhẹ:

– “Lão Nhị, ngươi thả hay không thì tự mình quyết định. Nếu xảy ra chuyện thì ta không có cách giúp ngươi đâu.”

Cố Kim Tiêu thèm khát Hoắc Thanh Đồng tới mức chấp mê không chịu ngộ, nhưng đã từng nghe danh của Trương Triệu Trọng nên quyết định khiêu chiến với Trần Gia Lạc trông có vẻ văn nhã thư sinh. Hắn bèn hùng hổ nói:

– “Nếu người thắng được cây hổ xoa này, ta sẽ giao cô gái lại cho ngươi. Nếu đúng là anh hùng hảo hán thì hai người chúng ta đơn đả độc đấu, quyết một phen thắng bại.”

Thật sự Trần Gia Lạc không muốn tàn sát lẫn nhau giữa bầy sói này, suy nghĩ chưa trả lời ngay. Trương Triệu Trọng bỗng lên tiếng:

– “Các hạ cứ yên tâm. Ta không giúp bên nào là xong.”

Câu này tựa như nói với Trần Gia Lạc, nhưng thật ra là nói cho Cố Kim Tiêu biết không cần phải lo lắng, cứ việc khiêu chiến đi.

Cố Kim Tiêu cả mừng, lại hô lên:

– “Nếu ngươi nhát gan sợ chết thì đừng nhúng tay vào chuyện của người khác nữa. Nếu có gan thì thử sức với ta một phen, quyền cước hay binh khí gì cũng được. Ba người huynh đệ kết nghĩa của ta đã chết dưới tay Hồng Hoa Hội, chẳng lẽ thù này không báo?”

Câu cuối cùng là nói cho hai người Tất và Kha nghe, hàm ý:

– “Ta đánh nhau vì việc chung chứ không phải vì ham muốn riêng tư. Các ngươi không thể khoanh tay đứng nhìn được.”

Trần Gia Lạc nhìn hai cô gái. Thấy Hoắc Thanh Đồng ra vẻ oán hận giận dữ, còn Hương Hương công chúa thì lo lắng vô cùng, chàng nghiến răng tự nhủ:

– “Cả hai cô này đều có tình nghĩa với ta. Hôm nay ta phải vì họ mà chết để báo đáp ân tình, cũng là để khỏi làm tổn thương tình tỉ muội giữa họ.”

Chàng bèn khẳng khái lên tiếng:

– “Cô nương này là hảo bằng hữu của ta. Chết thì chết, ta cũng phải bắt ngươi thả cô ấy ra.”

Mặt của Hoắc Thanh Đồng đỏ hẳn lên, trong lòng nghĩ:

– “Huynh ấy không phải hoàn toàn vô tình vô nghĩa với mình đâu.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Ta cũng thế! Chết thì chết, quyết không chịu thả.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười nói:

– “Hay lắm! Thế thì hai vị quyết đấu một trận sinh tử cho ta xem.”

Nghe giọng điệu này, tam ma đều biết hắn muốn Trần Gia Lạc gặp phải tai họa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hai chúng ta giao đấu, dù ngươi giết ta hay ta giết ngươi đều chẳng có ích gì. Bây giờ, hai chúng ta cùng xông ra ngoài để giết sói, ai giết được nhiều hơn là thắng.”

Theo ý chàng thì ít ra cũng giảm bớt phần nào sự nguy hiểm của bầy sói, không đến nỗi tiêu hao lực lượng một cách vô ích. Kha Hợp Đài lập tức tán thành, vỗ tay khen ngợi. Trương Triệu Trọng nói:

– “Vậy nếu Trần đương gia thắng, Cố lão huynh phải giao trả cô nương này. Nếu Cố lão huynh giết sói nhiều hơn, dĩ nhiên Trần đương gia không được dị nghị gì thêm.”

Trần Gia Lạc và Cố Kim Tiêu trợn mắt giận dữ nhìn nhau, đều không nói gì. Vụ giết sói này chẳng ai nắm chắc phần thắng, nhưng cũng chẳng ai chịu để Hoắc Thanh Đồng lọt vào tay của đối phương. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Tên này sử dụng cây Điệp hổ xoa nhất định giỏi nghề săn bắn, thủ đoạn giết sói chắc phải cao cường.”

Cố Kim Tiêu lại nghĩ:

– “Thằng lỏi đưa ra chuyện thi giết chó sói, nhất định là nắm chắc phần thắng. Ta không thể bị hắn lừa gạt.”

Hắn bèn nói:

– “Ta chỉ muốn quyết đấu sinh tử với ngươi, một sống hai chết. Còn những trò đùa nhẹ nhàng kiểu đàn bà con gái thì ta không hứng.”

Đột nhiên Trương Triệu Trọng nói:

– “Ta mới được gặp ba vị lần đầu, nhưng trước nay vẫn rất ngưỡng mộ. Còn ta với Trần đương gia thì quá khứ có điều xích mích, nhưng bây giờ cũng chẳng nhắc lại làm chi. Vì thế ta không giúp đỡ bên nào. Bây giờ ta có một ý, có thể phân được thắng bại mà hai bên không tổn thương hòa khí. Các vị xem thử có được hay không?”

Tất Nhất Lôi nghe hắn nói đã từng xích mích với Trần Gia Lạc, trong lòng hoan hỉ bèn nói:

– “Trương đại nhân mau nói đi! Hỏa Thủ Phán Quan oai chấn võ lâm, ý kiến chắc phải cao minh tuyệt đỉnh.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười đáp:

– “Không dám! Chúng ta đang bị bao vây giữa bầy sói đói, tàn sát lẫn nhau là chuyện không nên. Trần đương gia thấy có phải không?”

Trần Gia Lạc gật đầu. Trương Triệu Trọng tiếp:

– “Nếu thi giết sói thì Cố lão huynh lại cảm thấy quá nhẹ nhàng, không đáng mặt anh hùng hảo hán. Bây giờ ta có cách này. Hai vị tay không nhảy vào bầy sói, người nào nhát gan chạy về trước là thua.”

Mọi người nghe thấy đều rùng mình thầm nghĩ:

– “Tên này thật vô cùng hiểm độc. Tay không đi vào trong bầy sói, làm gì có ai sống sót trở về?”

Trương Triệu Trọng lại tiếp:

– “Nếu một vị không may bị sói ăn thịt, người nào sống sót trở vào trong vòng lửa dĩ nhiên được coi là thắng.”

Trần Gia Lạc chau mày hỏi:

– “Nếu cả hai người chúng ta đều chết thì sao?”

Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Ta kính trọng huynh là hảo hán, chuyện đó ta sẽ lo liệu giùm huynh. Thả cô nương này ra là xong chứ gì?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta rất tin tưởng lời nói của Kha huynh. Nhưng các vị cũng không được hà hiếp cô nương này.”

Chàng đưa tay chỉ Hương Hương công chúa. Kha Hợp Đài nói:

– “Có hoàng thiên chứng giám, ta hứa làm theo lời của Trần đương gia. Nếu làm trái với lương tâm thì ta là người đầu tiên bị chó sói ăn thịt.”

Trần Gia Lạc chắp tay nói:

– “Hay lắm! Xin đa tạ trước.”

Chàng đã tính toán xong, đừng nói là có bầy sói bao vây, dù không có con sói nào mà mình phải đơn thương độc mã đấu với bốn kẻ cường địch này, chắc chắn phải chết chứ không sao sống được. Vì thế chàng đã quyết tâm hy sinh tính mạng, bất luận thế nào cũng phải quay vào vòng lửa chậm hơn Cố Kim Tiêu, cứu được tỉ muội Hoắc Thanh Đồng là đủ toại nguyện rồi. Còn đại nghiệp quang phục nhà Hán, đành phải nhờ các huynh đệ trong Hồng Hoa Hội mà thôi.

Trần Gia Lạc liền ném kiếm thuẫn và châu sách của mình xuống đất, vẫy tay gọi Cố Kim Tiêu:

– “Cố bằng hữu, đi thôi!”

Cố Kim Tiêu vẫn nắm cây Điệp hổ xoa, trù trừ chưa quyết. Tuy hắn vốn hung hãn liều mạng, nhưng tay không xông vào bầy sói thì thật sự không dám. Trương Triệu Trọng chỉ sợ vụ thách đố này không thành, bèn khích bác:

– “Sao rồi? Cố bằng hữu sợ rồi phải không? Chuyện này quả là nguy hiểm.”

Cố Kim Tiêu vẫn im lặng suy nghĩ. Hương Hương công chúa không hiểu họ nói gì, nhưng cũng thấy thần sắc mọi người lo lắng khẩn trương. Còn Hoắc Thanh Đồng nghe Trần Gia Lạc cam tâm liều chết vì mình, trong lòng vô cùng cảm kích. Nàng kêu lên:

– “Huynh đừng đi! Muội thà chết còn hơn bắt huynh phải chịu tổn thương.”

Nàng ít khi để lộ chân tình, nhưng lúc này trước cảnh sinh ly tử biệt lại không nén nổi. Bỗng nghe “choảng” một tiếng, cây Điệp hổ xoa đã bị quăng xuống đất.

Thì ra Cố Kim Tiêu thấy nàng đa tình với Trần Gia Lạc, lập tức lửa ghen ghét bốc lên. Tính khí ngông cuồng tàn bạo của hắn mà đã nổi dậy thì trời đất gì cũng không sợ. Hắn ném vũ khí, quát lên:

– “Ta thà bị chó sói cắn đứt mất nửa cái đầu chứ nhất định không về trước thẳng lỏi này. Đi thôi!”

Trần Gia Lạc quay lại Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa mỉm cười một cái, sánh vai với Cố Kim Tiêu mà đi. Hoắc Thanh Đồng hoảng sợ muốn ngất đi, la lớn:

– “Đừng! Đừng đi!”

Hương Hương công chúa mở to đôi mắt vừa đen vừa sáng, hoang mang không hiểu chuyện gì.

Hai người đang định nhảy ra ngoài vòng lửa, Tất Nhất Lôi đột nhiên hô lên:

– “Khoan đã!”

Hai người dừng chân quay lại nhìn, Tất Nhất Lôi bèn nói:

– “Trần đương gia! Trên người huynh còn đeo một thanh đoản kiếm.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Xin lỗi! Ta quên mất.”

Chàng lập tức tháo đoản kiếm ra, đặt trước mặc Hoắc Thanh Đồng rồi nói:

– “Muội đừng đau lòng, nhìn thấy cây kiếm này cũng như nhìn thấy huynh.”

Hoắc Thanh Đồng nước mắt đầm đìa, cổ họng nghẹn ngào không nói được gì. Đúng lúc đó, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu nàng nhanh như tia chớp. Nàng khẽ bảo:

– “Huynh cúi xuống đây.”

Trần Gia Lạc cúi xuống lắng nghe. Hoắc Thanh Đồng thì thào rất nhỏ:

– “Nhớ đem mồi lửa!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi hiểu ngay, quay lại bảo Trương Triệu Trọng:

– “Trương huynh! Vừa rồi ta quên mất cởi bỏ thanh đoản kiếm. Nhờ Trương huynh xem thử chúng ta còn quên gì nữa không.”

Trương Triệu Trọng lục soát hai người một hồi rồi nói:

– “Cố lão huynh! Phiền huynh để lại ám khí trong này.”

Cố Kim Tiêu giận dữ lấy trong người ra mười mấy ngọn tiểu xoa, ném mạnh xuống đất. Hắn lấy bím tóc quấn quanh đầu một vòng, thần sắc thay đổi hẳn, mắt đỏ như máu sắp phun ra. Đột nhiên hắn chạy đến trước mặt Hoắc Thanh Đồng, vòng tay ôm lấy nàng, cúi xuống định hôn vào mặt, nhưng bỗng bị túm lấy lưng rồi nhấc bổng lên quật xuống đất.

Cố Kim Tiêu vẫn thường luyện võ với mấy huynh đệ kết nghĩa, biết ngay chiêu này là của Kha Hợp Đài chứ không còn ai khác. Quả nhiên đã nghe họ Kha hét lên:

– “Lão Nhị! Ngươi có biết xấu hổ hay không?”

Cố Kim Tiêu bị quật cho một cú, đầu óc đã tỉnh táo hơn. Hắn quát lên một tiếng rồi nhảy vào giữa bầy sói. Trần Gia Lạc nhún chân xuống đất thi triền khinh công, nhảy ra ngoài cùng một lúc. Bầy sói đang chạy vòng vòng bên ngoài bức thành lửa mà gào thét, thấy người chạy ra ngoài liền phóng tới ngay.

Cố Kim Tiêu biết mình chưa từng nguy hiểm đến thế này, kéo dài được phút nào là may phút ấy. Thấy hai con sói dữ từ hai bên trái phải đồng thời phóng tới, hắn đảo người né một con, tay trái vung ra nắm lấy cổ con kia, tay phải túm được đuôi nó xách bổng lên.

Trong võ học có một công phu gọi là đăng thoái, dùng ghế dài làm võ khí. Nghe nói xưa kia có một vị tiền bối võ lâm đang nằm nghỉ dưới giàn hoa trong một đêm hè, thì bị địch thủ bất ngờ tấn công. Lúc đó bốn phương tám hướng đều là cường địch tay cầm vũ khí, còn ông chỉ hai bàn tay trắng, bèn tiện tay nắm lấy cái ghế dài chống đỡ, đánh cho địch thủ cúp đuôi mà chạy. Từ đó công phu đăng thoái truyền mãi về sau, trong võ lâm cũng nhiều người luyện để phòng thân, lỡ khi tay không gặp địch. Ghế dài thì chỗ nào cũng có, học được môn này thì bất cứ nơi đâu cũng có sẵn binh khí cho mình.

Cố Kim Tiêu túm lấy con sói, nảy ra sáng kiến coi nó như một cái ghế dài, thi triển những chiêu thức đăng thoái mà quét ngang, quật thẳng. Thân thể con sói dài khoảng bằng cái ghế, cũng có bốn chân. Hắn vũ lộng phát sinh tiếng gió vù vù, nhất thời bầy sói không sao tiến sát vào người được.

Trần Gia Lạc thì sử dụng thân pháp Bát Quái Du Thân Chưởng mà chạy loạn xạ không dừng giữa bầy sói, vừa rẽ sang đông lại ngoặt sang tây. Đây vốn là tuyệt kỹ của Oai chấn Hà Sóc Vương Duy Dương, trên Sư Tử Phong ở Hàng Châu đã từng đánh cho Trương Triệu Trọng hết đường chống đỡ. Khi thí võ với Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang, Trần Gia Lạc đã từng thi triển công phu này.

Về pho chưởng pháp này thì dĩ nhiên Trần Gia Lạc không thể sánh kịp Vương Duy Dương, nhưng bước chân của chàng cũng rất nhẹ, thân pháp cũng biến ảo vô cùng. Lúc đầu bầy sói không thể đuổi kịp chàng, nhưng bọn sói đói dần dần ào tới, chen đặc bốn phía đến mức nước cũng không chảy qua nổi, làm sao mà có khoảng trống cho chàng chạy qua chạy lại nữa?

Trần Gia Lạc biết Bát Quái Du Thân Chưởng không dùng được, bèn thò tay vào bọc lấy mồi lửa ra. Chàng phất ngược hướng gió một cái cho mồi lửa cháy sáng lên, rồi cầm xoay những vòng tròn. Ánh lửa rất yếu ớt, nhưng bầy sói cũng lập tức hoảng sợ lùi lại. Chúng vẫn nhe nanh múa vuốt để chờ cơ hội, nhưng chẳng con nào dám phóng lên, chỉ vây quanh gào thét, trong cổ họng phát ra những tiếng u u.

Thấy Trần Gia Lạc đột nhiên xông vào bầy sói, Hương Hương công chúa không hiểu gì cả. Nàng chạy đến hỏi Hoắc Thanh Đồng:

– “Tỉ tỉ! Huynh ấy làm gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng vừa khóc vừa đáp:

– “Huynh ấy liều chết để cứu tỉ muội chúng ta.”

Hương Hương công chúa khẽ rùng mình một cái, nhưng lập tức bình thản cười nói:

– “Huynh ấy chết thì muội không sống nữa đâu.”

Nàng nói hết sức tự nhiên, giống như đây là một chuyện thiên kinh địa nghĩa, không ra vẻ kích động mà cũng không cần suy nghĩ. Đủ thấy tình cảm của nàng dành cho Trần Gia Lạc sâu nặng đến thế nào, có thế nói là đã hòa vào máu thịt, là một phần của tâm linh.

Nhìn thấy hai người Trần và Cố trong chốc lát đã bị bầy sói bao vây, Trương Triệu Trọng âm thầm mừng rỡ. Khi thấy Trần Gia Lạc lấy mồi lửa ra, bầy sói hoảng sợ lùi lại phía sau, hắn bất giác ngẩn ra, nhưng lại nghĩ:

– “Mồi lửa thì cháy được bao lâu, chẳng qua kéo dài thời gian một chút mà thôi.”

Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài lo lắng nhìn Cố Kim Tiêu. Thấy hắn thi triển võ công cương mãnh, múa tít con sói đến nỗi gió mưa không thể tạt vào, cả hai đều hoan hỉ.

Lúc này họ Cố xuất chiêu Lãng Hán Thuyên Môn, hai tay cầm con sói lớn đó hất mạnh ra ngoài, cản đường một con sói khác đang phóng tới trước mặt. Cả hai con sói đều lo cho tính mạng của mình, há miệng đớp ngay. Một con bị cắn đến vỡ xương gò má, con kia thì một vòi máu phun ra từ cổ họng. Bầy sói ngửi thấy mùi máu lại càng chạy ào ào tới, phóng lên mà đớp. Con này một miếng, con kia một miếng, con sói to lớn trong tay Cố Kim Tiêu bị xé nhỏ dần.

Cuối cùng, tay trái của hắn chỉ còn nắm một cái đầu sói, tay phải cầm cái đuôi dính một bên mông sói, tình thế trở nên vô cùng nguy hiểm. Hắn quẳng hết đi, toan bắt một con sói khác làm võ khí, nhưng nó quay lại đớp thật nhanh. Cố Kim Tiêu nếu không mau lẹ rút tay về thì tay trái đã bị cắn gãy rồi. Ngay lúc đó, bên phải lại có hai con sói nữa phóng tới.

Kha Hợp Đài tháo sợi nhuyễn tiên quấn quanh hông ra, la lên:

– “Lão Đại! Để ta đi cứu y.”

Tất Nhất Lôi chưa kịp trả lời, Hoắc Thanh Đồng đã lạnh nhạt hỏi:

– “Hào kiệt ở Quan Đông có thể diện hay không?”

Kha Hợp Đài lập tức ngẩn ra, lại nhìn hai người trong bầy sói. Tình hình bây giờ đã khác hẳn. Trần Gia Lạc thấy mồi lửa của mình sắp sửa cháy hết, vừa co giò chạy về phía lùm cây vừa xé vạt áo trước ra mà đốt. Vì thế chàng chậm đi một chút, hai con sói dữ đã phóng đến trước mặt. Chàng chạy vào giữa hai con, bẻ được một cành cây, vận kình xoay tay đánh ngược lại. Con sói chạy trước trúng đòn, vỡ sọ mà chết. Bầy sói lập tức xô vào để chia nhau cái xác đồng loại.

Trần Gia Lạc rảnh tay được một chút, liền dùng chân hất một mớ lá khô lại, châm lửa vào, rồi nhặt một cành cây khô mà đốt lên, cầm đuổi bầy sói dạt ra. Vừa có khoảng trống, chàng liền bẻ tiếp mấy cành cây nữa dồn vào cho ngọn lửa lớn hơn, trong chốc lát đã tạo được một vòng lửa nhỏ quanh mình, giữ chân bầy sói đói ở ngoài.

Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa thấy chàng thoát hiểm đều hoan hỉ vô cùng. Còn bên kia, Cố Kim Tiêu khó mà chống nổi nữa. Hắn muốn bắt chước biện pháp của Trần Gia Lạc nhưng trong mình lại không có mồi lửa, đành múa quyền đánh nhau với vuốt bén răng nhọn của bầy sói đói. Tay chân hắn dần dần chậm đi, liên tiếp bị lũ sói cắn trúng.

Kha Hợp Đài kinh hãi nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Coi như Trần đương gia đã thắng là xong.”

Y rút đoản kiếm cắt đứt sợi dây đang trói tay chân nàng, lại nói:

– “Bây giờ ta đi cứu người được rồi chứ?”

Y múa nhuyễn tiên nhảy xổ ra ngoài, nhưng chạy chưa được mấy bước thì bầy sói đã ào ào phóng tới, cắn luôn hai miếng vào chân. Tuy y đánh chết được mấy con sói, nhưng không có cách nào tiến lên nữa. Tất Nhất Lôi gọi lớn:

– “Lão Tứ, quay về đi!”

Kha Hợp Đài nhảy trở vào, lấy một nhánh cây khô đang đốt cháy, định chạy tiếp ra ngoài. Nhưng y thấy khoảng cách khá xa mà Cố Kim Tiêu sắp bị bầy sói nhai xương rồi, bèn lớn tiếng gọi Trần Gia Lạc:

– “Trần đương gia! Huynh thắng rồi, chúng ta đã thả bằng hữu huynh ra. Xin huynh đại nhân đại nghĩa, cứu Cố lão nhị một phen.”

Trần Gia Lạc đứng xa mà nhìn, quả nhiên thấy Hoắc Thanh Đồng đã được cởi trói đang đứng trong vòng lửa. Chàng nghĩ:

– “Cần đối phó với bầy ác thú, có thêm người nào là hay người ấy”, bèn nhặt một cành cây đang cháy ném cho Cố Kim Tiêu, hô lớn:

– “Đón lấy!”

Cố Kim Tiêu tay chân bê bết máu tươi, nhìn thấy cành cây ném tới bèn tung người nhảy lên đón lấy, vẫy một vòng tròn. Sợ lửa là tập tính truyền đời mấy ngàn mấy vạn năm của giống sài lang, chúng thấy trên tay người có lửa là lập tức lùi ra.

Cố Kim Tiêu vung cành cây quanh người, tiến dần đến chỗ Trần Gia Lạc. Chàng lại ném thêm cho hắn một cành nữa. Hai tay Cố Kim Tiêu cầm hai ngọn đuốc, chỉ trong chốc lát đã đi tới lùm cây.

Trần Gia Lạc bảo:

– “Mau mau lượm củi!”

Hai người bèn lấy dây buộc cành khô thành bó mà vác lên vai, tay cầm cây củi cháy bừng bừng, vung lên mở đường tiến về vòng lửa lớn. Bầy sói không ngừng gào thét giận dữ, nhưng vẫn phải nhường ra một lối.

Hai người về gần đến nơi, Trần Gia Lạc đang đi trước. Hương Hương công chúa dang rộng hai cánh tay chào đón chàng trở về. Trần Gia Lạc đang định nhảy vào thì Hoắc Thanh Đồng kêu lớn:

– “Khoan đã! Để hắn vào trước.”

Trần Gia Lạc lập tức tỉnh ngộ, ném bó củi vào rồi lùi một bước, đợi Cố Kim Tiêu vào trong vòng lửa trước. Chàng nghĩ:

– “Hai bên đã giao hẹn ai về vòng lửa trước là thua. Tuy mình vừa cứu mạng hắn, nhưng không thể tin được loại tiểu nhân vô liêm sỉ này.”

Cố Kim Tiêu hai mắt đỏ ngầu, ném đống củi trên lưng xuống rồi vung ngọn đuốc lên mặt Trần Gia Lạc. Nhân lúc chàng phải nghiêng mình tránh né, hắn đưa tả chưởng xô vào lưng chàng, muốn đẩy chàng vào trong vòng lửa. Trần Gia Lạc lại đảo người, phát chưởng đó trượt trên vai áo. Cố Kim Tiêu lại vung tay phải, ném cành cây đang cháy vào mặt đối phương. Trần Gia Lạc cúi xuống né tránh.

Cành cây đó vừa bay vào đống lửa, Cố Kim Tiêu lại tung ra một quyền. Tám mươi mốt chiêu trường quyền của hắn kình lực đầy đủ, xuất thủ linh hoạt, quyền này vừa đến quyền thứ hai đã nối theo.

Trần Gia Lạc thấy hắn trở mặt lấy oán báo đức, trong lòng vô cùng giận dữ. Chàng đưa tay phải ra toan nắm lấy mạch môn của hắn, tay trái xuất chiêu Kim Châm Độ Kiếp đâm thẳng vào trước mặt. Đây là một chiêu lấy ngón tay làm kiếm của Bách Hoa Tá Quyền. Cố Kim Tiêu trước nay chưa từng gặp phải loại quyền pháp kỳ lạ này, phải bối rối lùi lại. Chân hắn đạp trúng đầu một con sói đói, làm nó đau đớn gào lên, há miệng táp ngay.

Trần Gia Lạc mới phản kích một chiêu đã chiếm thượng phong, quyết không để hắn có cơ hội đánh trả. Chàng dùng chưởng làm đao, dùng chỉ làm kiếm, sử toàn những chiêu lợi hại trong Bách Hoa Tá Quyền. Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài đứng trong vòng lửa quan sát, nhìn thấy quyền pháp của chàng mà không khỏi kinh tâm động phách.

Trần Gia Lạc đưa hai ngón tay trái ra điểm vào huyệt Thái Dương của đối phương. Cố Kim Tiêu vung tay ra gạt, trả lại một quyền, tin chắc Trần Gia Lạc phải lùi lại. Nào ngờ Trần Gia Lạc không lùi mà lại bước chân trái ra lót sau lưng Cố Kim Tiêu, rồi nhanh như chớp túm chặt cổ tay phải của hắn. Chàng kéo mạnh, đợi địch thủ vừa cố giãy ra là đột ngột đổi chiều kình lực từ kéo thành đẩy.

Cố Kim Tiêu đã mất đà lại phải chịu hai đạo kình lực, không sao đứng vững được nữa. Hắn lập tức té nhào. Ở giữa bầy sói mà ngã xuống đất, đám sói xung quanh sẽ lập tức ùa lên đè chặt, nhất định không còn xác để chôn. Mọi người trong vòng lửa đều kinh hãi la lên.

Trong lúc nguy cấp Cố Kim Tiêu vội sử chiêu Lý Ngư Đả Đỉnh bật người dậy, tay trái đánh ra trúng đầu một con sói đói đang phóng tới, mượn thế lộn nửa vòng trên không trung, rồi đầu trên chân dưới hạ cánh an toàn. Trần Gia Lạc điểm hờ chân trái xuống đất bay vọt tới, tay phải vẫy ra điểm trúng hai huyệt đạo ở đầu gối trái và mông phải của hắn.

Hai chân của Cố Kim Tiêu vừa chạm đất bỗng nhũn ra không cử động được, nện mông thẳng xuống đất. Hắn la thầm:

– “Hỏng bét!”, chống hai tay cố ngồi dậy, nhưng bầy sói đã từ bốn phương tám hướng ào tới.

Bầy sói đã nhanh mà Trần Gia Lạc còn nhanh hơn, đưa tay phải ra túm lấy lưng hắn nhấc lên. Cố Kim Tiêu hung hãn vô cùng, tuy nửa người dưới không động đậy được mà vẫn hét lên một tiếng, dùng toàn lực đấm cả song quyền vào ngực Trần Gia Lạc, muốn liều mạng để hai người cùng chết.

Trần Gia Lạc quát mắng:

– “Tên khốn kiếp!”

Chàng đưa tay trái điểm nhanh như gió vào hai huyệt Trung Thủ, Huyền Cơ của địch thủ. Song quyền của Cố Kim Tiêu vừa đánh đến giữa đường, hai cánh tay đột nhiên rũ liệt buông xuống. Trần Gia Lạc xách hắn vung một vòng tròn, ép lũ sói lùi lại, rồi định quăng hắn vào giữa bầy sói.

Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Đừng giết hắn!”

Trần Gia Lạc lập tức nghĩ lại:

– “Giết tên này thì vẫn địch đông ta ít, lại kết thành mối tử thù với hai người Tất, Kha. Chi bằng bây giờ tạm tha mạng cho hắn, không chừng khi mình tranh chấp với Trương Triệu Trọng thì tam ma sẽ không giúp bên nào.”

Chàng bèn xoay chuyển phương vị, ném hắn vào bên trong vòng lửa cho Kha Hợp Đài đón lấy, rồi tung người nhảy vào. Thế là cuộc thách đố sinh tử này Trần Gia Lạc đã thắng. Chàng định tới nói chuyện với Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa, thì Hoắc Thanh Đồng đột nhiên la lên:

– “Cẩn thận phía sau!”

Trần Gia Lạc cảm thấy sau gáy có một cơn gió ào tới, lập tức cúi đầu rùn người xuống. Hai con sói đói vọt qua đỉnh đầu chàng. Thì ra chúng thấy hai miếng mồi ngon đã nhảy vào trong vòng lửa, thèm không chịu được bèn lấy hết dũng khí nhảy vào theo. Một con phóng về phía Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc vội nắm đuôi kéo lại. Nó đau đớn quay người lại, cắn như điên dại.

Một con sói nữa phóng tới. Trần Gia Lạc xoay chưởng chém trở lại, nó nghiêng đầu tránh né nên phát chưởng đánh trúng vào cổ. Con sói lăn dưới đất một vòng, lại phóng lên cắn tiếp. Hoắc Thanh Đồng trở ngược thanh đoản kiếm, cầm lấy mũi nhọn mà ném cho Trần Gia Lạc, kêu lên:

– “Đón lấy!”

Trần Gia Lạc đưa tay chụp được chuôi kiếm, bèn vung kiếm sang bên trái đâm vào con sói lớn. Con sói này thân hình đồ sộ nhưng nhanh nhẹn phi thường. Trần Gia Lạc liên tiếp đâm hai nhát đều bị nó tránh được.

Lúc này bên ngoài vòng lửa lại có ba con sói khác nhảy vào. Một con bị Kha Hợp Đài dùng thủ pháp đô vật nắm lấy cổ quăng ra ngoài, một con bị Trương Triệu Trọng vung kiếm chém thành hai khúc, con thứ ba bị Tất Nhất Lôi chặn đánh. Kha Hợp Đài vội lấy bó củi Cố Kim Tiêu vừa mang về châm thêm vào đống lửa. Ngọn lửa bốc cao lên, lũ sói không dám nhảy vào thêm nữa.

Bên này Trần Gia Lạc cầm đoản kiếm đâm qua bên trái. Dĩ nhiên con sói to không biết đó là hư chiêu, bèn né sang bên phải. Đoản kiếm vòng lại rất nhanh, đâm xuống như điện chớp. Con sói không tránh né được nữa, nhưng đột nhiên há hốc miệng ra, cắn chặt lấy lưỡi kiếm.

Trần Gia Lạc vận sức đâm thêm tới trước. Tuy lưỡi của con sói đã bị cắt một đường, nhưng nó biết đây là lúc sống chết nên cố chịu đau mà cắn chặt. Trần Gia Lạc bèn cố gắng giật kiếm về. Con sói này đúng là trời gầm không nhả, mặc dù thân thể bị giật hẳn lên không trung mà hai hàm răng vẫn nghiến chặt, giống như đã bắt rễ vào lưỡi kiếm vậy.

Lúc này con sói vừa bị chàng túm đuôi quẳng ra lại từ phía sau xông tới. Trần Gia Lạc không khỏi lo lắng, hơi nghiêng sang một bên rồi phóng chân đá vào mông nó. Con sói vừa tru lên mấy tiếng vừa văng tuốt ra ngoài vòng lửa.

Trần Gia Lạc quyết thu kiếm về, bèn dùng tay trái phóng chưởng đánh vào giữa cặp mắt con sói, hất đầu nó ngật ra sau. Tay chàng thấy lỏng lại, từ từ rút đoản kiếm về. Mọi người bỗng thấy hàn quang nháy động, đột nhiên lưỡi đoản kiếm phát ra ánh sáng màu tím chói lòa, hoa cả mắt.

Nhìn lại thì con sói đã bị đánh vỡ xương đầu mà chết, nhưng miệng nó vẫn còn nghiến chặt lưỡi kiếm giữa hai hàm răng. Mọi người đều phải ngạc nhiên. Thanh đoản kiếm trong tay Trần Gia Lạc còn nguyên chưa gãy, thế thì đoạn kiếm trong miệng sói từ đâu mà có?

Trần Gia Lạc bước lên, định dùng ba ngón tay trái cầm lưỡi kiếm trong miệng sói định rút ra. Nào ngờ con sói đã chết mà hàm răng vẫn cắn chặt như một cái kềm vậy. Chàng dùng thanh đoản kiếm trên tay vạch một đường quanh hàm nó, bỗng thấy gân cốt trên mặt con sói bị cắt đứt dễ dàng như đậu hủ vậy. Chàng ngạc nhiên cầm thanh đoản kiếm lên nhìn, bất giác cảm thấy hàn khí quạt ràn rạt vào mặt mình, dựng cả tóc gáy lên.

Lưỡi kiếm phát ra tử quang óng ánh, không phải là lưỡi kiếm của Hoắc Thanh Đồng đã tặng, nhưng chuôi kiếm lại hoàn toàn không thay đổi gì cả. Chàng lại càng không hiểu, bèn cúi xuống nhặt lưỡi kiếm trong hàm răng sói ra. Lúc này mới biết lưỡi kiếm này rỗng ở giữa, như một cái vỏ kiếm vậy. Cắm thử thanh đoản kiếm này vào cái vỏ đó thì hoàn toàn khớp với nhau.

Thì ra thanh đoản kiếm này có tới hai lần vỏ kiếm. Lớp vỏ thứ hai cũng có lưỡi bén mũi nhọn, mọi người đều tưởng đó là lưỡi kiếm, nào ngờ bên trong lại có một lưỡi bảo kiếm khác có thể cắt vàng gọt ngọc, lợi hại vô cùng. Khi tặng kiếm cho chàng, Hoắc Thanh Đồng từng nói:

– “Nghe nói bên trong có ẩn chứa một bí mật cực lớn, mấy trăm năm nay truyền đời đồn đại, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có ai tìm ra được.”

Hôm nay gặp đúng cơ duyên, con sói kia cắn chặt đến chết không buông, hai bên dùng hết sức mà kéo mới rút được cái vỏ kiếm thứ hai ra. Nếu không thì ai mà ngờ được trong đoản kiếm lại chứa một thanh bảo kiếm vô cùng sắc bén, đúng là kiếm trung hữu kiếm.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã đánh chết con sói cuối cùng nhảy vào trong vòng lửa. Hắn giải huyệt cho Cố Kim Tiêu, rồi rút trủy thủ ra cắt lấy bốn cái đùi sói, nướng trên ngọn lửa. Hoắc Thanh Đồng vội la lên:

– “Mau mau lấy ra! Ngươi không muốn sống nữa hay sao?”

Tất Nhất Lôi kinh ngạc hỏi:

– “Cô nói gì?”

Hoắc Thanh Đồng hỏi lại:

– “Giả tỉ lũ sói đói này ngửi thấy mùi thơm của thịt nướng, chúng có chịu đứng ngoài chờ đợi nữa hay không?”

Tất Nhất Lôi thấy đúng, vội vàng lấy mấy cái đùi sói ra khỏi ngọn lửa. Cố Kim Tiêu ngồi bên thở hổn hển một lúc rồi lấy vải ra băng bó sáu bảy chỗ bị sói cắn sâu, còn những vết thương lặt vặt thì không sao lo xiết được. Hắn đói bụng lắm rồi, bèn nhặt một cái đùi sói còn chảy máu đầm đìa mà nhai nuốt.

Hương Hương công chúa cầm xem thanh đoản kiếm, khen ngợi mãi người thợ thông minh, chạm khắc lần vỏ thứ hai rất tinh xảo, không để lộ chút xíu sơ hở nào. Nàng nhìn vào trong vỏ kiếm thấy một hạt màu trắng, lúc lắc được nhưng không đổ ra được, bèn tìm một cái que nhỏ khều vào. Một viên tròn nhỏ xíu, màu trắng lăn ra.

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng đều thấy lạ, nhìn kỹ thì ra đó là một hoàn sáp. Trần Gia Lạc hỏi:

– “Mở xem có được hay không?”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu, chàng bèn dùng ngón tay bóp khẽ. Hoàn sáp nứt ra, bên trong có một tờ giấy vo tròn. Mở ra xem thì đó là một tờ giấy mỏng như cánh ve, có viết rất nhiều chữ, loại chữ Hồi thời xưa.

Trương Triệu Trọng thấy họ tìm ra tờ giấy, bèn giả vờ bỏ thêm củi vào lửa để đi qua đi lại lén nhìn. Hắn thấy trong giấy toàn là chữ Hồi, không biết chữ nào nên cảm thấy thất vọng.

Trần Gia Lạc có biết chút ít tiếng Hồi nhưng không giỏi lắm. Trong tờ giấy này lại dùng văn tự cổ nên chàng không hiểu gì, bèn đặt tờ giấy trước mặt Hoắc Thanh Đồng. Hoắc Thanh Đồng vừa xem vừa ngẫm nghĩ mất nửa ngày mới cất tờ giấy vào trong túi. Trần Gia Lạc liền hỏi:

– “Trong đó viết gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng không trả lời, cứ im lặng suy nghĩ. Hương Hương công chúa hiểu tính chị mình, bèn mỉm cười nói:

– “Tỉ tỉ đang suy nghĩ một vấn đề khó giải quyết, không nên quấy rầy.”

Hoắc Thanh Đồng dùng ngón tay vẽ lăng nhăng trên cát, vẽ xong vòng tròn này lại xóa đi vẽ vòng khác. Lát sau nàng lại ngồi bó gối, suy nghĩ trông rất khổ sở. Trần Gia Lạc khuyên:

– “Muội còn yếu, đừng suy nghĩ nhiều. Những chuyện khó hiểu trong tờ giấy, sau này sẽ suy nghĩ tiếp. Bây giờ vấn đề quan trọng nhất là tìm cách thoát thân.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Thì muội cũng đang nghĩ cách tránh khỏi bầy sói ác, lại còn phải tránh lũ sói người nữa.”

Nói xong, nàng bĩu môi về phía bọn kia. Hương Hương công chúa nghe tỉ tỉ gọi chúng là “sói người”, danh từ đầy vẻ khinh bỉ, bèn vỗ tay cười thành tiếng.

Hoắc Thanh Đồng suy nghĩ một lúc nữa, rồi bảo Trần Gia Lạc:

– “Nhờ huynh đứng trên lưng ngựa nhìn về phía Tây, xem có đỉnh núi màu trắng nào không.”

Trần Gia Lạc gật đầu, dẫn con ngựa trắng tới, rồi nhảy lên lưng ngựa chăm chú nhìn về phía Tây. Tuy chung quanh có nhiều ngọn núi cao dựng đứng lên, nhưng không có đỉnh nào màu trắng cả. Chàng đứng xem kỹ một hồi vẫn không thấy gì, bèn nhìn Hoắc Thanh Đồng lắc đầu một cái.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Theo văn tự trên tờ giấy thì cổ thành cách đây không xa, lẽ ra phải thấy ngọn núi đó mới phải.”

Trần Gia Lạc đã nhảy xuống ngựa, hỏi ngay:

– “Cổ thành nào?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Hồi nhỏ muội đã nghe kể, xưa kia có một tòa thành phồn thịnh, nhưng đột nhiên bị một trận bão cát rất lớn thổi qua vùi lấp. Trong cổ thành có mấy vạn ngươời, không ai thoát ra được.”

Nàng quay sang bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội muội! Những chuyện này thì muội biết rõ nhất, kể cho huynh ấy nghe đi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Có rất nhiều truyền thuyết về tòa cổ thành ấy, nhưng chưa có ai chính mắt nhìn thấy. Nhiều người tìm đến đó, nhưng ít người sống sót trở về. Nghe nói trong đó có vô số kim ngân châu báu. Có người đi lạc giữa sa mạc, tình cờ lạc vào cổ thành. Y nhìn thấy kim ngân châu báu mà hoa cả mắt, dĩ nhiên hoan hỉ vô cùng, bèn chất đầy lên lưng lạc đà định mang về. Nhưng y cứ đi vòng vòng mãi trong cổ thành, làm cách nào cũng không rời khỏi được.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Tại sao lại thế?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Nghe nói dân trong cổ thành phải chết bất đắc kỳ tử, đều biến thành quỉ hết. Họ rất thích tòa thành đó, nên sau khi chết vẫn không chịu rời khỏi. Bọn quỉ không muốn tài sản của mình bị lấy đi, nên đã mê hoặc người ta không cho rời khỏi đó. Ai chịu bỏ lại hết kim ngân châu báu, không lấy món nào thì sẽ thoát ra một cách dễ dàng.”

Trần Gia Lạc nhận xét:

– “Nếu thế thì chẳng có ai rời khỏi được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đúng vậy! Nhìn thấy nhiều kim ngân châu báu như thế, ai mà không lấy? Người ta còn nói, nếu khách không lấy kim ngân châu báu mà còn bỏ lại mấy lạng bạc trong cổ thành, thì trong giếng sẽ chảy ra nước mát cho họ uống. Để tiền lại càng nhiều, nước chảy ra càng lắm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì bọn quỉ trong cổ thành tham lam quá.”

Hương Hương công chúa lại kể:

– “Trong Hồi tộc bọn muội, chỉ những người mắc nợ không trả nổi mới tìm đến đó, nhưng đã đi thì vĩnh viễn không trở lại. Có lần một đoàn thương nhân trong sa mạc cứu được một người bán sống bán chết. Người đó kể là đã vào được cổ thành, nhưng cứ đi qua đi lại mãi cùng một chỗ. Y nhìn trên mặt cát thấy có một đường dấu chân, tưởng có người đã đi qua, nên cố gắng hết sức bám theo dấu vết đó, hy vọng sẽ rời khỏi được vùng sa mạc. Nào ngờ dấu chân đó lại chính là dấu chân của y, nên y cứ thế mà đi những vòng tròn lớn, cuối cùng thì kiệt sức ngã quỵ. Đoàn thương nhân nhờ y dẫn vào cổ thành, nhưng y thà chết cũng không chịu. Y còn nói, dù cho y toàn bộ tài sản trong cổ thành, y cũng không muốn bước vào tòa thành quỉ quái đó một bước nào nữa.”

Trần Gia Lạc trầm ngâm nói:

– “Đi theo vết chân của mình thành vòng tròn trên sa mạc! Chuyện này nghĩ lại thật là dễ sợ.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Có chuyện còn đáng sợ hơn. Một người đang đi một mình trên sa mạc thì đột nhiên nghe tiếng người gọi tên mình. Y đi theo tiếng gọi nhưng không thấy gì cả, thế là bị lạc đường.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Con người nhìn thấy quá nhiều tài sản, thần trí nhất định trở nên bất thường. Trên sa mạc khó nhận ra phương hướng nên càng dễ lạc. Chỉ cần con người hạ quyết tâm, không để châu báu mê hoặc thì sẽ tìm thấy đường đi. Chưa chắc là cổ thành có quỉ hại người.”

Hoắc Thanh Đồng im lặng lắng nghe, lát sau mới lên tiếng:

– “Tờ giấy trong vỏ kiếm có nói rõ phương hướng và đường đi tới cổ thành.”

Trần Gia Lạc “À” lên một tiếng.

Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Chúng ta không muốn lấy kim ngân châu báu, mà lấy được thì bọn quỉ cũng không thả cho đi, biết đường tới đó cũng vô dụng. Chỉ may ở chỗ tìm được thanh bảo kiếm sắc bén phi thường này. Khi giao đấu chỉ cần đụng nhẹ một cái là có thể chém gãy vũ khí của đối phương.”

Nàng nhổ ba sợi tóc, đặt gần lưỡi kiếm rồi tiếp:

– “Gia gia từng nói, nếu đúng là bảo kiếm thì thổi tóc qua là đứt ngay. Không biết thanh kiếm này có được như thế hay không?”

Nàng thổi nhẹ tóc vào lưỡi đoản kiếm, ba sợi tóc lập tức đứt thành sáu đoạn. Hương Hương công chúa hoan hỉ vỗ tay. Hoắc Thanh Đồng cũng lấy một cái khăn tơ ném lên trời, khi nó từ từ rơi xuống bèn cầm thanh đoản kiếm khẽ đưa một nhát. Cái khăn lập tức bị cắt làm ba khúc.

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma cùng ồ lên thán phục. Đã là người học võ mà nhìn thấy vũ khí lợi hại như thế, chúng không khỏi thèm thuồng đến đỏ mắt, người nóng ran lên.

Trần Gia Lạc thở dài nói:

– “Kiếm tuy sắc bén, nhưng không thể giết nhiều sói như vậy. Thật là uổng phí cho thanh bảo kiếm này.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Trong giấy đã nói rõ, tòa thành cổ này được kiến trúc tựa vào một đỉnh núi cao, trắng như ngọc. Tính ra thì đỉnh núi đó cách đây không xa, lẽ ra có thể nhìn thấy. Thế mà nhìn mãi không thấy, thật là không sao hiểu nổi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Tỉ tỉ không cần suy nghĩ những chuyện rườm rà đó. Dù tìm thấy ngọn núi đó thì có ích gì?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nếu tìm được, chúng ta có thể trốn vào cổ thành. Trong cổ thành nhất định phải có nhà cửa. Có nhà cửa thì có chỗ để tránh bầy sói, chắc chắn tốt hơn ở đây rất nhiều.”

Trần Gia Lạc kêu lớn:

– “Đúng thế!”

Chàng lập tức nhảy trở lên lưng ngựa, đứng chăm chú nhìn về phía Tây, nhưng chỉ thấy cả bầu trời trắng xóa, chẳng có bóng dáng ngọn núi nào.

Trương Triệu Trọng thấy ba người nói chuyện mãi không thôi, lắng tai mà không nghe được chữ nào. Hắn thấy Trần Gia Lạc hai lần trèo lên lưng ngựa mà đứng, lại càng không hiểu chàng làm trò quỉ quái gì. Bốn người bọn chúng cũng đang bàn cách thoát khỏi vòng vây của bầy sói, nhưng không có kết quả.

Hương Hương công chúa lấy lương khô ra, chia cho mọi người cùng ăn. Lúc này nàng mới nghĩ đến con nai nhỏ mà mình bắt về nuôi, không biết có ai cho nó ăn no hay không. Nàng ngẩng đầu lên nhìn về phía chân trời, đột nhiên kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ xem kìa!”

Hoắc Thanh Đồng nhìn theo tay nàng chỉ, thấy một chấm đen hoàn toàn không động đậy, bèn hỏi:

– “Cái gì vậy?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Một con chim ưng. Muội thấy nó bay từ hướng này tới chỗ đó, không hiểu sao lại đột nhiên dừng lại giữa lưng chừng trời, không động đậy chút nào.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Hay là muội muội hoa mắt rồi?”

Hương Hương công chúa quả quyết lắc đầu:

– “Không phải đâu! Muội nhìn thấy rõ ràng con chim ưng bay tới chỗ đó.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu không phải chim ưng thì chấm đen đó là gì? Còn nếu là chim ưng, thì sao nó không động đậy? Thật là chuyện lạ.”

Ba người nhìn một lúc, chấm đen đó đột nhiên chuyển động, càng đến gần càng thấy lớn hơn, đúng là một con chim ưng. Chỉ chốc lát là nó bay ngang đầu họ. Hương Hương công chúa đưa tay vuốt lại mái tóc vừa bị gió thổi tung lên.

Trần Gia Lạc nhìn bàn tay trắng muốt của nàng lướt qua bộ y phục màu trắng, không hiểu tay trắng hơn hay áo trắng hơn. Chàng đột nhiên tỉnh ngộ, nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Muội nhìn tay cô ấy mà xem.”

Hoắc Thanh Đồng nhìn, không hiểu gì nhưng cũng nói:

– “Kha Tư Lệ! Tay của muội thật là đẹp.”

Hương Hương công chúa mỉm cười. Trần Gia Lạc cười thành tiếng:

– “Tay của Kha Tư Lệ đương nhiên là đẹp rồi. Nhưng muội có để ý không, vì tay của cô ấy rất trắng nên khi để trước áo trắng thì hoàn toàn không thể phân biệt được chỗ nào là tay, chỗ nào là áo.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ “À” một tiếng, mặt vẫn ngơ ngác. Hương Hương công chúa nghe hai người tán dương bàn tay của mình, không khỏi mắc cỡ bèn cúi mặt xuống mà lắng nghe.

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Con chim ưng đó đã đậu trên đỉnh của một ngọn núi màu trắng.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ la lên:

– “Không sai! Bầu trời ở hướng đó trắng như sữa dê vậy. Nhất định đỉnh núi cũng có màu như thế, nhìn từ xa không thể nào phân biệt được.”

Trần Gia Lạc cười:

– “Đúng vậy. Còn con chim ưng màu đen, nên chúng ta mới nhìn thấy nó dễ dàng.”

Hương Hương công chúa bây giờ mới hiểu là hai người đang thảo luận về ngôi cổ thành, bèn hỏi:

– “Làm sao chúng ta đi tới đó được?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Phải suy nghĩ đã.”

Nàng lại lấy tờ giấy ra xem một lúc, ngẫm nghĩ rồi nói:

– “Đợi mặt trời ngả về hướng Tây, nếu thật sự ở đó có một ngọn núi cao thì chắc chắn phải có bóng nghiêng dưới đất. Khi ấy sẽ tính được ngôi thành cổ đó cách đây bao xa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đừng để lộ chút manh mối nào, kẻo bọn khốn này đoán được ý đồ của chúng ta.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không sai! Chúng ta giả vờ bàn luận về con sói chết này đi.”

Trần Gia Lạc lôi tới một cái xác sói lớn. Ba người quây quanh nói chuyện, không ngớt chỉ trỏ con sói chết. Họ nhổ một cọng lông sói lên để quan sát tỉ mỉ, rồi cạy miệng sói ra để xem hàm răng của nó.

Mặt trời từ từ nghiêng xuống. Ở phía Tây của sa mạc quả nhiên đã xuất hiện một bóng đen. Bóng đen này càng lúc càng dài ra, giống như một người khổng lồ đang nằm trên mặt cát vậy. Ba người nhìn thấy đều mừng rỡ vô cùng. Hoắc Thanh Đồng vẽ dưới đất một loạt hình tròn, hình vuông, hình tam giác để tính toán, rồi kết luận:

– “Từ đây tới chân núi đó khoảng hai mươi hai mốt dặm.”

Nàng vừa nói vừa lật ngửa con sói chết ra. Trần Gia Lạc cầm một cái chân sói lên, sờ vào móng vuốt bén nhọn của nó rồi nói:

– “Nếu ba người chúng ta có một con ngựa nữa, cộng thêm con ngựa trắng này thì có thể chạy gấp một hơi hai mươi mấy dặm.”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Huynh cố nghĩ cách để chúng tự ý thả chúng ta ra ngoài.”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Được! Để ta thử xem.”

Sau đó chàng tiện tay dùng thanh đoản kiếm mổ bụng con sói chết ra.

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma thấy họ cứ lật qua lật lại xem xét tỉ mỉ cái xác sói, lại không ngừng nói chuyện bằng tiếng Hồi ra vẻ buồn rầu. Trương Triệu Trọng sinh nghi, bước tới hỏi:

– “Con sói này có gì lạ đâu? Trần đương gia! Các vị đang bàn bạc nghi lễ an táng nó đấy ư?”

Trần Gia Lạc lập tức nảy ra một ý, bèn đáp:

– “Chúng ta đang bàn bạc cách thoát hiểm. Huynh xem, trong bụng con sói này chẳng còn thứ gì cả.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Dĩ nhiên là nó đói quá rồi, nên quyết ăn thịt chúng ta.”

Quan Đông tam ma nghe vậy cũng phải suy nghĩ. Kha Hợp Đài nói:

– “Lần trước gặp bầy sói, chúng ta leo lên cây mà trốn. Bầy sói chỉ quẩn quanh gốc cây mấy vòng rồi bỏ đi ngay. Lần này chúng kiên nhẫn hơn nhiều, bao vây chúng ta mãi không chịu buông tha.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Lần trước may mà có con lạc đà dụ lũ sói đi. Bây giờ thì chắc bầy sói đã ăn sạch sẽ dã thú trong vòng vài trăm dặm rồi, chỉ còn mấy người chúng ta mà thôi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Bụng sói đã trống rỗng đến như thế này, phát hiện ra thứ gì nhét vào bụng được thì nhất định chúng không chịu bỏ qua.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Huynh nghiên cứu con sói chết cả nửa ngày, chỉ phát hiện ra lý thuyết đó thôi sao?”

Trần Gia Lạc cười:

– “Muốn rời khỏi nơi nguy hiểm này, phải dựa vào lý thuyết đó.”

Quan Đông tam ma lập tức bật dậy, tới gần để nghe. Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Trần đương gia có biện pháp gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chúng ta đang bị vây ở đây, hễ đốt hết củi là phải đi lấy thêm. Nhưng rốt cuộc cũng có lúc không còn củi để lấy. Lúc đó bảy người chúng ta cùng lúc bỏ mạng phải không?”

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma đều gật đầu.

Trần Gia Lạc lại tiếp:

– “Người học võ chúng ta hễ mở miệng là tự khoe hành hiệp trượng nghĩa, liều mạng cứu người. Lúc này bảy người lâm nguy ở đây, chỉ cần một người chịu liều mạng vì bằng hữu là được. Bầy sói thấy lửa không dám nhảy vào, nhưng khi thấy có người cưỡi ngựa chạy ra, nhất định sẽ đuổi theo. Người đó dụ bầy sói đi càng xa càng tốt, sáu người còn lại sẽ thoát thân.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Thế thì người đó sẽ ra sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu người đó may mắn gặp được quân Thanh hay quân Hồi thì có thể thoát nạn. Nếu không thoát thì coi như chết vì cứu người, đỡ uổng phí hơn chết chung với mọi người ở đây.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Biện pháp này rất tốt. Nhưng bây giờ ai sẽ dụ bầy sói rời khỏi đây? Người đó chết chắc, không thể nào sống được.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Các vị có cao kiến gì không?”

Tất Nhất Lôi im lặng. Kha Hợp Đài nói:

– “Tốt nhất là bốc thăm, trúng ai thì người đó đi.”

Trương Triệu Trọng cũng nghĩ là ngoài cách này ra không còn cách nào khác. Nghe Kha Hợp Đài đề nghị bốc thăm, hắn chợt nghĩ ra cách ăn gian, liền nói:

– “Được! Chúng ta bốc thăm đi.”

Trần Gia Lạc đã định tình nguyện xông ra cùng tỉ muội Hoắc Thanh Đồng. Nhưng nghe chúng đề nghị bốc thăm, nếu mình tình nguyện sẽ bị nghi ngờ, bèn nói:

– “Thế thì năm người chúng ta bốc thăm đi, miễn cho hai vị cô nương.”

Cố Kim Tiêu hỏi:

– “Nam nữ gì cũng là người, sao lại miễn cho hai người đó?”

Kha Hợp Đài dõng dạc nói:

– “Nam tử hán đại trượng phu không bảo vệ được hai vị cô nương là xấu hổ muôn phần rồi, còn muốn họ hy sinh cứu mình khỏi thảm cảnh hay sao? Ta thà chết trong miệng sói đói còn hơn. Nếu không, có giữ được mạng thì suốt đời cũng bị bằng hữu giang hồ khinh miệt.”

Tất Nhất Lôi lại nói:

– “Tuy nam nữ có khác, nhưng nam nhân cũng là một mạng, nữ nhân cũng là một mạng. Không bốc thăm thì thôi, nếu bốc thăm thì mọi người đều phải bốc.”

Hắn nghĩ:

– “Có thêm hai người bốc thăm, thì phần rủi ro rơi trúng mình sẽ giảm đi rất nhiều.”

Cố Kim Tiêu đối với Hoắc Thanh Đồng vừa thèm vừa hận, nghĩ bụng:

– “Người đẹp như thế này mà đại gia không ôm được vào tay, thà để sói ăn thịt còn hơn để người khác ôm.”

Thế là mọi người nhìn Trương Triệu Trọng để nghe ý kiến. Trương Triệu Trọng đã tính được kế, biết chắc không trúng phải mình, bèn nghĩ:

– “Hai mỹ nhân này nên giữ lại. Một cô thì hoàng thượng cần, còn cô kia chẳng lẽ mình không đoạt được hay sao?”

Hắn bèn nói rất ngang tàng:

– “Đại trượng phu thà mất mạng chứ không chịu mất danh. Ta là nam tử hán lừng danh thiên hạ, lẽ nào chịu để nữ nhân liều mạng cứu mình?”

Hai người Tất, Cố nghe hắn nói lời khẳng khái, bèn không tranh cãi nữa. Cố Kim Tiêu nói:

– “Được! Thế thì coi như hai cô này may mắn.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Để ta làm que để bốc thăm.”

Hắn cúi xuống định bẻ mấy cành cây. Trương Triệu Trọng nói:

– “Dùng cành cây thì dễ làm dấu, dùng tiền đồng tốt hơn.”

Hắn lấy trong bọc ra mười mấy đồng tiền, chọn năm đồng lớn nhỏ bằng nhau, những đồng khác cất lại vào bọc, rồi nói:

– “Đây có bốn đồng Ung Chính thông bảo, một đồng Thuận Trị thông bảo. Các vị hãy xem, tất cả đều to nhỏ như nhau cả.”

Tất Nhất Lôi kiểm tra từng đồng một, thấy không có gì đáng nghi ngờ. Hắn bèn nói:

– “Vậy ai bốc trúng đồng Thuận Trị thông bảo thì người đó phải đi ra ngoài dụ bầy sói.”

Trương Triệu Trọng gật đầu:

– “Đúng là như vậy. Tất đại ca! Huynh giấu tiền đi.”

Tất Nhất Lôi liền bỏ năm đồng tiền đó vào túi của mình.

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Ai muốn bốc trước?”

Hắn đưa mắt nhìn Cố Kim Tiêu, thấy tay hắn run bần bật, bèn mỉm cười nói:

– “Cố huynh đừng sợ. Sống chết có mạng, phú quí do trời. Để ta bốc trước cho.”

Hắn thò tay vào túi Tất Nhất Lôi, ngón tay vừa sờ là biết ngay dày mỏng, lấy ra một đồng Ung Chính thông bảo, mỉm cười nói:

– “Tiếc là ta không có cơ hội để làm anh hùng.”

Rồi hắn xòe tay ra cho bốn người xem.

Thì ra bốn đồng Ung Chính tuy kích cỡ to nhỏ giống hệt tiền Thuận Trị, nhưng đúc vào năm cuối đời Ung Chính, sau đời Thuận Trị tới sáu bảy chục năm. Tiền Thuận Trị lưu hành trong dân gian lâu ngày, bị mòn nhiều hơn, dĩ nhiên mỏng hơn một chút. Chênh lệch chút đỉnh người thường khó mà phát hiện, nhưng khi Trương Triệu Trọng luyện Phù Dung Kim Châm trên núi Võ Đang, hắn đã luyện qua Kim tiền tiêu. Để vận kình chính xác khi phóng Kim tiền tiêu thì phải biết rất rõ độ nặng nhẹ lớn nhỏ của đồng tiền. Vì thế tay hắn sờ đồng tiền đã quen lắm rồi, chỉ cần chạm đầu ngón tay vào là phân biệt được ngay.

Sau đó Trần Gia Lạc bốc thăm. Chàng chỉ muốn bốc được đồng Thuận Trị để dẫn hai cô gái thoát thân, nhưng không nghĩ đến đồng tiền dày mỏng khác nhau nên bốc bừa trúng một đồng Ung Chính thông bảo.

Trương Triệu Trọng gọi:

– “Cố huynh bốc đi.”

Cố Kim Tiêu xách cây hổ xoa lên khua loảng xoảng, lớn tiếng nói:

– “Vậy thì một trong ba huynh đệ chúng ta phải bốc trúng Thuận Trị thông bảo rồi. Chắc chắn là có chuyện gian dối.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Mọi người đều trông vào số phận, làm gì có chuyện ăn gian?”

Cố Kim Tiêu quát:

– “Tiền là tiền của ngươi, người bốc thăm đầu tiên cũng là người. Ai mà tin được ngươi chưa đánh dấu mấy đồng tiền đó?”

Trương Triệu Trọng tái mặt lại nói:

– “Vậy thì lấy tiền của ngươi ra đi, mọi người bốc thăm lần nữa.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Mỗi người lấy ra một đồng, vậy thì không ai oán trách được ai.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Được! Chết thì chết! Làm gì có loại nam tử hán đại trượng phu nhát gan sợ chết?”

Tất Nhất Lôi lấy ba đồng tiền còn lại ra trả cho Trương Triệu Trọng, rồi cho tay vào túi lấy thêm một đồng Ung Chính thông bảo. Hai người Cố và Kha lấy tiền ra, toàn là tiền Ung Chính. Lúc này cách đời Ung Chính không xa lắm, tiền Ung Chính phổ biến hơn tiền Thuận Trị rất nhiều.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta không mang theo tiền đồng, dùng tiền của Trương huynh cũng được.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Quả nhiên Trần đương gia khí khái khác người. Thế là có đủ bốn đồng tiền Ung Chính thông bảo rồi, Thuận Trị thông bảo thì dùng đồng này đi. Cố lão huynh thấy có được không?”

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Không dùng Thuận Trị thông bảo. Trên đồng tiền có chữ Thuận Trị, Ung Chính khác nhau, sờ vào là biết.”

Thật ra chỉ dùng đầu ngón tay sờ trong khoảnh khắc mà phân biệt mấy chữ nhỏ xíu trên đồng tiền không phải là dễ. Cố Kim Tiêu biết vậy nhưng vẫn nghi ngờ, bèn đề nghị:

– “Trong tay Trương huynh có một đồng Ung Chính đúc bằng đồng trắng, còn bốn đồng kia bằng đồng vàng. Vậy ai bắt được đồng tiền trắng sẽ đi dụ sói.”

Trương Triệu Trọng ngẩn ra một chút, rồi mỉm cười nói:

– “Cứ theo ý kiến của huynh. Chỉ sợ vẫn là huynh phải đi nuôi sói.”

Họ Trương khẽ vận kình vào ngón tay, uốn đồng tiền màu trắng hơi cong một chút, rồi trộn chung vào bốn đồng màu vàng.

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Nếu hai chúng ta đều không trúng thăm, chắc sẽ phải đánh nhau một trận.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Đương nhiên ta sẽ đón tiếp huynh.”

Hắn bỏ năm đồng tiền đó vào túi của Kha Hợp Đài, lại nói:

– “Ba người các vị lấy trước đi, sau đó đến ta, rồi cuối cùng là Trần đương gia. Vậy thì không sợ gian dối nữa chứ?”

Hắn nghĩ thầm:

– “Dù phải chọn một trong hai đồng tiền, ta vẫn chắc chắn bốc được đồng vàng. Thằng lỏi họ Trần tính khí kiêu ngạo, nhất định không giành bốc trước mình.”

Họ Trương đề nghị như thế, dĩ nhiên Quan Đông tam ma không phản bác gì nữa. Tất Nhất Lôi bảo:

– “Lão Tứ! Ngươi bốc trước đi.”

Kha Hợp Đài cũng nói:

– “Lão Đại! Huynh bốc trước đi.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười nói:

– “Bốc trước bốc sau cũng vậy thôi, hoàn toàn không có gì khác biệt.”

Thấy trong thời điểm sống chết mà Trương Triệu Trọng vẫn vô cùng trấn tĩnh, cười nói tự nhiên, Quan Đông tam ma không khỏi thán phục dũng khí của hắn.

Kha Hợp Đài thò tay vào túi. Hoắc Thanh Đồng đột nhiên dùng tiếng Mông Cổ kêu lên:

– “Đừng lấy cái bị cong.”

Kha Hợp Đài ngẩn ra một chút, sờ tới đồng đầu tiên thì đúng là hơi cong, bèn chọn một đồng khác. Khi y lấy ra xem thì đúng là một đồng tiền màu vàng.

Thì ra trong lúc năm người bàn bạc bốc thăm, Hoắc Thanh Đồng đứng bên bình tĩnh xem xét, đã thấy Trương Triệu Trọng vận nội lực bẻ cong đồng tiền. Nàng thấy trong Quan Đông tam ma thì Kha Hợp Đài là người đàng hoàng nhất. Trước đây Cố Kim Tiêu bắt được nàng toan cưỡng hiếp, Kha Hợp Đài đã từng ra sức cản trở. Phen này cũng chính y cắt đứt dây trói cho nàng. Vì thế nàng dùng tiếng Mông Cổ báo cho Kha Hợp Đài biết để trả ơn.

Người thứ hai bốc thăm là Cố Kim Tiêu. Kha Hợp Đài dùng tiếng lóng của hắc đạo ở Quan Đông mà nói:

– “Đừng có xoay vòng!”

Câu này có nghĩa là “Đừng lấy cái cong!”

Cố Kim Tiêu và Tất Nhất Lôi giận dữ liếc nhìn Trương Triệu Trọng, thầm nghĩ:

– “Quả nhiên tên này đã giở trò!”

Hai người đã biết bí mật bên trong, đương nhiên đều chọn được đồng vàng. Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng nghe Hoắc Thanh Đồng nói tiếng Mông Cổ, rồi lại nghe Kha Hợp Đài nói tiếng lóng, đều chẳng hiểu gì. Trên mặt cả hai đều lộ vẻ nghi hoặc. Trần Gia Lạc nhìn Hoắc Thanh Đồng ra ý hỏi, Hương Hương công chúa bèn nói:

– “Đừng lấy cái bị cong.”

Hoắc Thanh Đồng cũng dùng tiếng Hồi mà nói:

– “Đồng tiền màu trắng đã bị tên này uốn cong rồi.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chúng ta đang tìm kế để rời khỏi đây. Bây giờ đến phiên tên gian tặc này bốc thăm, nhất định hắn sẽ chọn đồng màu vàng không bị bẻ cong, để lại đồng trắng cho ta. Ta không chối được, phải ra ngoài dụ bầy sói, hai tỉ muội đòi đi theo. Vậy là chúng ta bị ép phải đi, chúng nhất định không nghi ngờ.”

Trương Triệu Trọng thì nghĩ:

– “Phen này ngươi phải làm thức ăn cho bầy sói rồi. Chết đừng trách ta nhé!”

Hắn thò tay vào túi Kha Hợp Đài. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy Cố Kim Tiêu giương mắt lên nhìn Hoắc Thanh Đồng đầy vẻ thèm thuồng. Chàng chợt nghĩ:

– “Nhất định chúng sẽ dùng vũ lực giữ lại, không để hai cô này đi theo ta. Thế thì hỏng bét!”

Tay của Trương Triệu Trọng đã thò vào trong túi, Trần Gia Lạc không còn thời gian để suy nghĩ nữa, vội kêu lên:

– “Trương huynh lấy đồng cong đi! Đồng không cong để lại cho ta.”

Trương Triệu Trọng giật mình rụt tay về, hỏi:

– “Cái quái gì mà cong với không cong?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Trong túi còn hai đồng tiền, một đồng đã bị huynh bẻ cong. Ta muốn lấy đồng không cong.”

Chàng vừa nói vừa đưa tay vào túi của Kha Hợp Đài lấy đồng vàng ra, mỉm cười nói:

– “Huynh tự làm tự chịu, giữ lại đồng tiền màu trắng đó cho mình đi.”

Sắc mặt của Trương Triệu Trọng thay đổi hẳn, lập tức tuốt trường kiếm ra khỏi vỏ, hét lên:

– “Vừa rồi đã nói là ta bốc thăm trước, sao ngươi lại tranh giành?”

Hắn ra chiêu Xuân Phong Phất Liễu đâm vào cổ Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc cúi xuống tránh, đưa hai ngón tay ra điểm vào huyệt Thiên Đỉnh trên cổ hắn. Trương Triệu Trọng không thèm lùi tránh, trở kiếm lại lướt một đường, ra chiêu Tà Dương Nhất Mạt chém vào ngón tay Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc cũng không tránh né mà xoay ngược cổ tay lại, ngón út và ngón cái đã âm thầm kẹp lấy thanh đoản kiếm đưa ra. “Keng” một tiếng, trường kiếm của Trương Triệu Trọng gãy làm đôi, đoản kiếm tiện đà lướt về phía trước.

Trương Triệu Trọng thấy ánh tử quang nhoáng lên, hàn khí nặng nề ép tới mặt mình. Hắn gặp nguy, nhưng đánh liều trong chỗ nguy mà tìm thắng, vung năm ngón tay ra chụp tới cặp mắt Trần Gia Lạc. Chiêu này lợi hại vô cùng, Trần Gia Lạc vội đưa cánh tay trái ra đỡ, đoản kiếm chậm lại một chút. Thế là Trương Triệu Trọng thoát thân, vội tung người nhảy lùi ra sau ba bước.

Quan Đông tam ma và Hoắc Thanh Đồng thấy hai người này xuất thủ nhanh như điện chớp, chiêu nào cũng suýt trúng không thể chen thêm sợi tóc, không khỏi vừa thán phục vừa kinh hãi.

Trần Gia Lạc thừa thắng xông lên, nhảy xổ tới. Trương Triệu Trọng tay không binh khí, đột nhiên ném nửa cây trường kiếm về phía Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc sợ nàng đang bệnh không có sức tránh né, bèn bay tới như tên cản trước mặt nàng, đưa tay vỗ vào chuôi kiếm một cái. Nửa cây trường kiếm lập tức rơi xuống đất.

Nào ngờ đây là kế dương đông kích tây. Dụ được Trần Gia Lạc nhảy đến chỗ Hoắc Thanh Đồng, Trương Triệu Trọng lập tức tung người đến bên Hương Hương công chúa, túm lấy hai tay nàng rồi quay mặt lại hét lên:

– “Ra ngay!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra, dừng chân lại. Trương Triệu Trọng lại quát:

– “Ngươi mà không đi thì ta phải quăng cô gái này ra nuôi bầy sói.”

Hắn xách Hương Hương công chúa lên quơ một vòng trên không trung, chỉ cần buông tay là nàng lập tức bay ra khỏi vòng lửa.

Biến diễn quá bất ngờ, Trần Gia Lạc cảm thấy một luồng máu nóng từ giữa ngực trồi lên, tâm trí rối loạn, mất hết chủ ý. Trương Triệu Trọng lại la lên:

– “Ngươi mau mau cưỡi ngựa ra ngoài, dụ bầy sói rời khỏi đây.”

Trần Gia Lạc biết tên gian tặc này độc ác vô cùng, dám nói dám làm. Tình thế đã vậy, chàng chỉ còn cách tháo dây cương buộc con ngựa trắng ra, từ từ trèo lên yên.

Trương Triệu Trọng đưa Hương Hương công chúa lên cao xoay một vòng nữa, hô lớn:

– “Ta đếm đến ba, nếu ngươi chưa ra khỏi vòng lửa thì ta sẽ quẳng nó ra trước. Một… hai… ba…”

Chữ “ba” của hắn vừa ra khỏi miệng, đã thấy hai con ngựa đồng thời phóng ra ngoài vòng lửa.

Thì ra nhân lúc tam ma lo nhìn Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng, Hoắc Thanh Đồng lén cắt đứt dây cương một con ngựa khác, trèo lên yên, cầm lấy một cành cây đang cháy rồi giục ngựa vọt ra ngoài. Nàng thầm nghĩ:

– “Huynh ấy vừa liều mạng vì mình, tay không đi vào bầy sói. Bây giờ mình liều mình vì huynh ấy. Không cần đi tới cổ thành làm chi, cứ để bầy sói đói trong sa mạc cắn mình ra thành từng mảnh cho xong chuyện. Mong rằng huynh ấy và Kha Tư Lệ có thể thoát hiểm để tìm được hạnh phúc chung thân.”

Ngay lúc đó, Trần Gia Lạc cũng tung ngựa nhảy ra ngoài vòng lửa. Quan Đông tam ma đồng thanh la lớn. Trần Gia Lạc túm lấy hai con sói đói đang phóng tới trước mặt, xách cổ quẳng vào trong. Đùi phải chàng ép sát lên cổ con ngựa trắng, đùi trái nhấn mạnh vào bụng nó. Con ngựa này thật là linh mẫn, bèn quay người lại. Trần Gia Lạc đưa mũi bàn chân khẽ nhấn lên cổ ngựa, con ngựa trắng liền hí một tiếng dài, co bốn chân lên cao nhảy vào trong thành lửa.

Trong tiếng hét của Trần Gia Lạc, hai con sói đói phóng vào Trương Triệu Trọng. Họ Trương nhìn thấy hai hàm răng nhọn há hốc trước mặt mình, chỉ còn cách để Hương Hương công chúa xuống, đảo người tránh né. Trần Gia Lạc phóng ngay một loạt quân cờ, cúi xuống vươn tay ra ôm lấy hông Hương Hương công chúa. Chàng kẹp hai đùi một cái, con ngựa trắng liền bay trở ra ngoài vòng lửa.

Trương Triệu Trọng dùng cạnh bàn tay chém xuống, đánh gục một con sói rồi nhảy xổ theo Trần Gia Lạc. Trong lúc gấp rút, mấy con cờ vây phát xạ chẳng chính xác gì, đều bị hắn tránh né hết.

Trương Triệu Trọng duỗi dài người bay tới, vừa tránh ám khí vừa tấn công địch thủ. Tay trái hắn chụp được cái đuôi con ngựa trắng, dùng sức định kéo nó lùi trở lại. Nhưng thân thể hắn đang lơ lửng trên không, không có chỗ tựa để vận kình. Còn con ngựa trắng lại khỏe vô cùng, cứ phi tới trước, kéo theo hắn ra khỏi vòng lửa.

Đôi chân Trương Triệu Trọng đang ở trên cao, vẫn có thể xoay trở được. Hắn định nhảy lên lưng ngựa rồi sẽ ra tay đoạt lấy Hương Hương công chúa, nhưng đột nhiên cảm thấy một luồng gió thổi tới sau lưng. Biết là có chuyện, hắn lập tức thay đổi tư thế, lộn thêm một vòng. Trần Gia Lạc cầm đoản kiếm đâm vào lưng hắn, tưởng là chắc chắn thành công, nào ngờ võ công tên này trên cả tuyệt vời, đang ở trên không mà trong chớp nhoáng vẫn quay người lại được. Sau đó chàng thấy hắn đạp nhẹ lên đầu một con sói, nhảy trở lại vào trong vòng lửa.

Hoắc Thanh Đồng tay vung ngọn đuốc đã chạy vào giữa bầy sói từ lâu, Trần Gia Lạc vội giục ngựa đuổi theo. Nhiều con sói phóng tới cản đường, nhưng không bị đoản kiếm đâm trúng yết hầu thì cũng bị xẻo mất phần mõm. Thanh bảo kiếm đó cắt xương ngọt như cắt rau, bén không thể tả.

Hai con ngựa chỉ trong chốc lát đã chạy ra khỏi vòng vây, nhanh chóng phi về hướng Tây. Bầy sói không chịu buông tha, kéo nhau rượt theo sau. Ngựa chạy nhanh hơn sói rất nhiều, chớp nhoáng đã bỏ bầy sói lại sau mấy dặm. Muốn chạy khỏi vòng vây của bầy sói không phải là chuyện khó, mà khó là ở chỗ không thoát khỏi sự truy đuổi ngày đêm không ngừng nghỉ của chúng.

Ba người tạm thời thoát hiểm, xuống ngựa nghỉ ngơi một chút. Hoan hỉ không nén nổi, cả ba bất giác ôm chầm lấy nhau. Mặt Hoắc Thanh Đồng chợt đỏ lên, nàng khẽ đẩy cánh tay Trần Gia Lạc ra rồi lên ngựa chạy tiếp về hướng Tây.

Hai ngựa ba người đi không bao lâu thì mặt cát dần dần có nhiều tảng đá, đường đi khúc khuỷu hơn. Ngẩng mặt nhìn lên thấy ngọn núi đó không xa lắm, nhưng đi trên mặt đất thì cứ vòng vèo, mãi đến trời tối vẫn còn thấy đỉnh núi màu trắng dựng đứng trước mặt. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Mật thư viết là cổ thành được kiến trúc xung quanh ngọn núi ngọc. Từ đây đến đó chắc không tới mười dặm.”

Ba người xuống ngựa nghỉ ngơi, lấy nước cho ngựa uống. Trần Gia Lạc không ngớt vuốt ve bờm con ngựa trắng, thầm nghĩ:

– “Nếu không nhờ thần lực của con tuấn mã này, dù mình chạy được ra ngoài thì Hương Hương công chúa vẫn còn trong tay bọn gian tặc. Thế thì mình nhất định phải quay trở về vòng lửa.”

Hoắc Thanh Đồng lại nghĩ tới lúc ôm Trần Gia Lạc vừa rồi, mặt đỏ ửng lên. Bây giờ tình thế khả quan hơn, dĩ nhiên nàng không tính tới chuyện liều chết báo ơn như vừa rồi nữa.

Nghỉ ngơi chốc lát, sức ngựa hồi phục, xa xa đã nghe tiếng sói tru. Trần Gia Lạc nói:

– “Đi thôi!” rồi nhảy lên lưng con ngựa kia. Hoắc Thanh Đồng nhìn chàng một cái là hiểu ý ngay, bèn cưỡi chung con ngựa trắng với muội muội, tiếp tục đi về hướng Tây.

Đêm lạnh, trăng trong như nước, ngọn núi trắng nhìn như một thỏi ngọc không chút tì vết. Hương Hương công chúa ngẩng lên nhìn, nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Muội đoán là trên đỉnh núi này phải có thần tiên. Tỉ tỉ có nghĩ như vậy hay không?”

Hoắc Thanh Đồng tay phải cầm dây cương, tay trái ôm muội muội, mỉm cười nói:

– “Chúng ta cứ đi xem thử. Không biết là tiên nam hay tiên nữ đây?”

Cười đùa một lúc, bóng núi đã đổ trên người họ. Ba người ngẩng nhìn đỉnh núi, đột nhiên nảy sinh lòng tôn kính thiên nhiên. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Người xưa có câu Cao sơn ngưỡng chỉ. Ba người chúng ta vừa gặp đại nạn mà không chết, lúc này nhìn núi non hùng vĩ còn thấy đẹp hơn nhiều.”

Nhìn thì tưởng chỉ đưa tay ra là sờ được đỉnh núi, nhưng mấy dặm đường cuối cùng lại gồ ghề rất khó đi. Địa thế ở đây khác hẳn những nơi khác trong vùng sa mạc, giữa bãi cát vàng có lẫn những tảng đá nhô lên. Nhiều chỗ đá nhọn lởm chởm, ngựa cũng khó bước.

Đi mấy dặm nữa thì con đường bỗng rẽ về bên trái, nhưng chia thành năm ngã, không biết rẽ ngã nào mới là đường đúng. Trần Gia Lạc nói:

– “Phức tạp thế này, chẳng trách người ta phải lạc đường.”

Hoắc Thanh Đồng lấy tờ giấy ra soi dưới ánh trăng, xem một lúc rồi nói:

– “Trong mật thư có viết, muốn đến cổ thành thì phải theo đường Tả tam hữu nhị.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi:

– “Thế nào là Tả tam hữu nhị? Trái ba phải hai nghĩa là gì?”

Hoắc Thanh Đồng lắc đầu:

– “Trong giấy không nói rõ.”

Đột nhiên nghe tiếng cả ngàn cả vạn con sói cùng tru thê thảm. Tiếng tru kéo dài mãi không dứt, nghe bi ai cực độ. Ba người đều dựng tóc gáy lên.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Chúng kêu gào thảm thiết như thế, không biết là vì lý do gì?”

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp:

– “Chắc chúng đang đói bụng, mà không có ai cho ăn.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đã gần giờ Tý rồi, bầy sói dừng lại để hú trăng. Lát nữa chúng ngừng kêu, nhất định lại điên cuồng đuổi tiếp. Chúng ta phải nhanh chóng tìm đường đi vào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Năm con đường ở đây đều rẽ về bên trái. Mật thư viết là Tả tam hữu nhị, vậy chúng ta thử đi đường thứ ba.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Giả tỉ phía trước là đường cụt thì lùi lại không kịp nữa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì ba người chúng ta chết chung một chỗ.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hay quá! Tỉ tỉ, chúng ta đi thôi.”

Hoắc Thanh Đồng nghe “ba người chết chung một chỗ”, trước ngực cảm thấy ấm áp, nhưng khóe mắt bỗng hơi ướt. Nàng kéo cương ngựa, quay đầu đi vào con đường thứ ba.

Con đường này càng đi vào sâu lại càng dốc lên, hai bên là vách đá dựng đứng, hiển nhiên do nhân công đẽo núi mà thành. Một lúc sau, bên phải lại xuất hiện ba ngã rẽ. Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Thoát rồi!”

Tinh thần ba người phấn chấn hẳn lên, thúc ngựa đi vào con đường thứ hai. Nhất định rất nhiều năm không ai qua lại đường này, có chỗ cỏ mọc lút đầu người, có chỗ hoàn toàn bị cát che khuất. Ba người phải xuống ngựa để kéo hai con ngựa vượt qua những đống cát cao. Trần Gia Lạc tiện tay khuân mấy tảng đá để trên đống cát, cho bầy sói khó theo một chút.

Sau một dặm, bên trái phía trước lại có năm ngã rẽ. Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi kêu lên:

– “Có một đống xương kìa!”

Trần Gia Lạc xuống ngựa quan sát, thấy rõ là hài cốt của một người và một con lạc đà. Chàng thở dài nói:

– “Người này nhất định là bị lạc đường, không tìm được lối ra nên bỏ xác lại đây.”

Ba người lại theo con đường thứ ba đi vào. Đường càng dốc hơn nữa, như một tia sáng soi từ trên trời xuống. Không khí nơi đây âm u lạnh lẽo. Bên đường lại có một đống xương trắng, giữa mớ xương có ánh sáng lấp lánh, thì ra là rất nhiều châu ngọc. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Người này đã lấy được châu báu rồi, nhưng không thể thoát ra ngoài.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta đi đúng đường mà vẫn gặp nhiều hài cốt như thế, không biết những con đường khác còn ghê rợn đến thế nào.”

Hương Hương công chúa rùng mình nói:

– “Khi ra ngoài, chúng ta đừng mang theo châu báu được không?”

Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi lại:

– “Muội sợ bọn quỉ không cho chúng ta đi ra phải không?”

Hương Hương công chúa năn nỉ:

– “Ca ca hứa với muội đi.”

Trần Gia Lạc nghe âm điệu đầy vẻ dịu dàng, liền đáp:

– “Nhất định ta không mang theo châu báu đâu. Muội cứ yên tâm.”

Chàng nghĩ, đã có hai mỹ nhân ở bên mình thì tất cả trân châu báu vật trên thế gian dồn lại cũng không bằng được. Đột nhiên chàng cảm thấy hổ thẹn, tự trách:

– “Sao mình lại nghĩ đến cả hai tỉ muội?”

Ba người hết lên cao lại xuống thấp, rẽ trái rẽ phải gần trọn một đêm, sắp sáng thì người ngựa đều mệt mỏi. Hoắc Thanh Đồng lên tiếng đề nghị:

– “Nghỉ một lát đi!”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta cố tìm được nhà cửa rồi yên tâm mà ngủ cho ngon.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu đồng ý.

Đi chẳng bao lâu nữa, đột nhiên thấy phía trước có khoảng trống. Mặt trời của một ngày mới bắt đầu ló dạng, cảnh tượng đẹp đẽ không sao tả được. Đỉnh núi bằng bạch ngọc đâm thẳng lên trời, trước đỉnh núi là một dãy cả ngàn gian nhà. Tất cả đều đổ nát cũ kỹ, không còn gian nào hoàn chỉnh, nhưng vẫn thấy được quy mô kiến trúc hùng vĩ, tưởng tượng được thành phố năm xưa rất phồn vinh.

Nhà cửa san sát như bát úp, nhưng lắng tai nghe lại không có chút âm thanh nào, thậm chí tiếng chim hót tiếng dế kêu cũng không có. Chưa từng gặp phải quang cảnh kỳ lạ và đáng sợ thế này, ba người đều bị không khí tịch mịch làm cho khiếp đảm, thở cũng không dám thở mạnh. Một lát sau Trần Gia Lạc mới giục ngựa đi trước vào thành.

Nơi này cực kỳ khô cằn, hoàn toàn không có cây cỏ. Ba ngườ tiến vào một gian nhà gần nhất. Không biết đã trải qua bao nhiêu năm tháng rồi, nhưng phần lớn đồ đạc trong nhà trông vẫn nguyên vẹn. Hương Hương công chúa thấy dưới nền có một đôi giày hoa của nữ nhân, màu sắc tươi tắn. Nàng khẽ kêu lên một tiếng, định cầm lên để xem. Nào ngờ vừa đụng tay vào, đôi giày lập tức nhũn ra thành bụi, nàng hoảng sợ nhảy vội ra xa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Đây là một thung lũng, bốn bề đều có núi cao vây bọc, nên gió mưa không xâm nhập vào được. Đồ đạc ở đây tuy đã ngàn năm mà vẫn nguyên vẹn như vậy, thật là hiếm thấy.”

Ba người đi dọc đường thấy rất nhiều xương trắng. Đao thương, kiếm kích, ám khí vương vãi lung tung. Trần Gia Lạc nói:

– “Truyền thuyết thì nói cổ thành bị một trận bão cát chôn vùi, nhưng xem ra không phải thế.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu:

– “Đúng vậy! Đâu có dấu tích của bão cát? Trông như đã trải qua một trận ác chiến, toàn bộ dân cư trong thành đều bị quân thù giết sạch.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Ngoài thành có cả trăm cả ngàn ngã rẽ, nếu không biết bí quyết để vào thì ai cũng phải lạc đường. Thế thì làm sao quân địch vào đây được?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nhất định là có gian tế dẫn vào.”

Nàng lại vào trong nhà, lấy tờ giấy ra trải lên bàn định xem lại tỉ mỉ. Nào ngờ cái bàn đó đã mục, nhìn thì vẫn nguyên vẹn, nhưng vừa để tay nặng một chút là đổ sập xuống ngay.

Hoắc Thanh Đồng nhặt tờ giấy lên xem một lúc rồi nói:

– “Nhà cửa ở đây chắc đã hư hỏng hết, không chống đỡ được bầy sói ấy đâu.”

Trên mặt thư ngoài chữ ra còn có một bản đồ nhỏ. Nàng chỉ vào một điểm trên bản đồ rồi nói:

– “Ở trung tâm thành phố ký hiệu chi chít như vậy, chắc là nơi quan trọng như cung điện hay thành trì gì đó. Nơi đó kiên cố hơn, chúng ta tới đó để tránh bầy sói.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Hay lắm!”

Ba người theo đường vẽ trong bản đồ chỉ dẫn mà tiếp tục đi về phía trước. Đường sá quanh qua quẹo lại như một mê cung, khiến người ta hoa cả mắt. Nếu không có bản đồ chỉ dẫn thì không sao tìm đến đó được. Đi khoảng nửa giờ thì đến trung tâm, ba người không khỏi vô cùng thất vọng. Thì ra đó là chân của đỉnh núi ngọc, chẳng có cung điện hay thành trì gì cả.

Ngọc phong nhìn càng gần càng đẹp, trắng như tuyết lại còn sáng lấp lánh, toàn khối thuần khiết tuyệt không tì vết. Thợ ngọc chỉ tìm được một thỏi ngọc nhỏ là đủ sống sung sướng suốt đời, thế mà ở đây có nguyên một ngọn núi bằng bạch ngọc thế này. Ba người ngẩng đầu nhìn lên, đều thấy lòng thanh thản nhẹ nhõm, mọi lo âu biến hết. Họ đều thầm phục sự kỳ lạ của tạo hóa.

Trong không khí vắng lặng, xa xa bỗng truyền đến tiếng hú của bầy sói. Hương Hương công chúa kinh hãi kêu lên:

– “Bầy sói đến rồi! Chẳng lẽ chúng cũng có mật thư chỉ đường hay sao?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Mũi sói chính là mật thư chỉ đường cho chúng. Chúng ta đi dọc đường đã để lại mùi, bầy sói đánh hơi mà đuổi thì không bao giờ trật.”

Hoắc Thanh Đồng cũng cười:

– “Muội thơm tho như thế, đừng nói là sói mà con người cũng có thể tìm theo…”

Nàng nói chưa dứt câu bỗng chỉ tay vào bản đồ, hỏi Trần Gia Lạc:

– “Huynh xem, đây rõ ràng là ngọn núi, sao trong bản đồ lại vẽ nhiều đường như vậy?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chẳng lẽ bên trong ngọn núi này trống rỗng, có thể đi vào?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ngoài lý do đó thì không còn nguyên nhân nào khác. Nhưng làm sao mà vào trong ấy được?”

Nhìn lại thì thấy có mấy chữ giải thích, nàng bèn dịch ra tiếng Hán:

– “Muốn vào trong cung thì trèo lên đỉnh cây to, hướng về phía núi thần mà gọi lớn ba lần:

– “Ai long a ba sinh.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Ai long a ba sinh? Nghĩa là gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Chắc là ám hiệu. Nhưng ở đây đâu có cây lớn nào?”

Nàng lại nghe tiếng bầy sói tru vang, liền bảo:

– “Chúng ta trốn vào trong nhà đi.”

Ba người quay lưng, định tới gian nhà gần nhất. Trần Gia Lạc vừa bước được hai bước thì thấy dưới đất lồi lên một vật gì đó, hình dạng rất kỳ lạ. Cúi xuống nhìn kỹ, thì ra có nhiều rễ cây chồng chéo lên nhau, rõ ràng là một gốc cây rất lớn. Chàng bèn gọi to:

– “Chắc là cái cây lớn ở đây.”

Hai chị em bước đến nhìn, Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Cái cây lớn khi xưa, bây giờ chỉ còn lại mớ rễ này. Trèo lên ngọn cây mà hô lớn thì cửa cung sẽ mở; vậy cung điện nằm trong ngọn núi. Chẳng lẽ đây là một câu phù chú? Hay là có phép thần tiên?”

Trước nay Hương Hương công chúa vẫn rất tin vào thần tiên, bèn nói:

– “Dĩ nhiên là có phép tiên.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Nếu trong núi có người nghe ám hiệu mà khởi động cơ quan, dĩ nhiên cửa động sẽ mở.”

Chàng kêu lớn ba lân:

– “Ai long a ba sinh” ,dĩ nhiên là không có động tĩnh gì. Mọi người không khỏi bật cười.

Hương Hương công chúa nói:

– “Đã bao nhiêu năm rồi, chắc người trong núi đã chết hết.”

Nàng lại ngẩng đầu nhìn lên ngọn núi rồi nói:

– “Không chừng cửa động ở ngay trên này. Tỉ tỉ và ca ca thử nhìn xem, tảng đá trên kia không giống như bàn đạp hay sao?”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng nhận ra trên đó có vết tích do người đẽo gọt, đều rất vui mừng. Trần Gia Lạc nói:

– “Để ta nhảy lên xem thử.”

Chàng cầm cây đoản kiếm, đề khí nhảy lên vách núi. Lên cao được một trượng, chàng lấy kiếm đâm vào vách núi, mượn sức nhảy lên thêm một trượng nữa là đến nơi có thể dừng chân. Hương Hương công chúa và Hoắc Thanh Đồng cùng lên tiếng hoan hô.

Trần Gia Lạc vẫy tay chào hai chị em rồi quay vào quan sát vách núi. Dấu vết của cửa động nhìn rất rõ ràng, nhưng bao nhiêu tang thương biến đổi, cửa động đã bị đất cát nhét chặt lại. Trần Gia Lạc dùng tay trái nắm chặt một tảng ngọc lồi ra trên vách núi, tay phải dùng đoản kiếm khều dần từng mảnh đất đá ở cửa động ra, hất xuống dưới. Chẳng bao lâu, cửa động đã mở ra. Chàng thò đầu vào nhìn, rồi chui vào trong động, ngồi lấy châu sách trong túi ra, tháo những sợi dây nối lại cho dài, thòng xuống phía dưới.

Hoắc Thanh Đồng cột dây vào lưng muội muội, Trần Gia Lạc từ từ kéo lên. Gần đến cửa động, Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi thét to. Trần Gia Lạc kéo mạnh một cái nhấc nàng lên cạnh mình; tay phải đưa ra quàng ngang hông nàng mà an ủi:

– “Đừng sợ, đến nơi rồi.”

Hương Hương công chúa vẫn sợ đến tái mặt, la lên:

– “Sói! Sói!”

Trần Gia Lạc nhìn xuống, bỗng thấy bảy tám con sói dữ đã chạy đến vách núi. Hoắc Thanh Đồng đang huy động thanh trường kiếm cố sức chống cự. Con ngựa trắng hí dài lên, chạy khuất vào những gian nhà của cổ thành.

Trần Gia Lạc gỡ mấy cục đá ở bên cửa động, từ trên cao ném mạnh vào mấy con sói ở gần Hoắc Thanh Đồng khiến chúng chạy loạn lên. Chàng lập tức thòng châu sách xuống. Hoắc Thanh Đồng sợ mình mới khỏi bệnh còn yếu, không đủ sức nắm chặt sợi dây, bèn đưa kiếm sang tay trái múa lên chống cự lũ sói, còn tay phải lấy châu sách buộc vào lưng mình. Buộc xong nàng kêu lên:

– “Được rồi!”

Trần Gia Lạc vận sức giật Hoắc Thanh Đồng bay vọt lên. Hai con sói đói cũng nhảy theo, Hoắc Thanh Đồng vung kiếm chặt đứt đầu một con. Con kia cắn trúng chiếc giày của nàng không chịu nhả, Hương Hương công chúa sợ hãi kêu thét lên. Hoắc Thanh Đồng lơ lửng trên không, co chân để kéo con sói lại gần, múa kiếm chặt đứt đôi con sói. Nửa dưới con sói rớt xuống, nửa trên vẫn cắn chặt chiếc giày, rồi được kéo lên cùng với nàng.

Trần Gia Lạc đỡ nàng ngồi yên, định gỡ nửa con sói ra, nhưng không gỡ được. Chàng liền hỏi:

– “Muội đã bị cắn trúng chưa?”

Hoắc Thanh Đồng chau mày nói:

– “May mà chưa trúng.”

Nàng cầm lấy thanh đoản kiếm trong tay chàng, chặt đứt mõm sói. Thì ra hai hàm răng sói không chỉ cắn ngập vào chiếc giày, có một ít máu chảy ra. Hương Hương công chúa kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Chân của tỉ tỉ bị thương rồi.”

Nàng tháo giày cho chị, xé một mảnh vạt áo để bó lại vết thương. Trần Gia Lạc quay đi, không dám nhìn bàn chân để trần trắng muốt của Hoắc Thanh Đồng. Băng bó vết thương xong, Hương Hương công chúa chỉ mấy ngàn con sói đang chạy loạn xạ ở dưới mà mắng:

– “Bọn hư hỏng này đã cắn đau chân của tỉ tỉ ta. Ta sẽ không thương xót bọn mi nữa!”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng không khỏi mỉm cười. Họ quay đầu nhìn vào trong sơn động, nhưng tối thui không thấy gì cả. Hoắc Thanh Đồng lấy mồi lửa ra vẫy cho cháy lên, nhưng vừa soi vào động thì tắt ngay. Thì ra nền động thấp hơn bên ngoài rất nhiều, sâu tới mười bảy mười tám trượng. Trần Gia Lạc nói:

– “Động này đã rất lâu không thông gió, chưa xuống được đâu.”

Qua một hồi, nghĩ rằng chướng khí bên trong đã bay ra phần lớn rồi, Trần Gia Lạc mới nói:

– “Để ta xuống trước xem thử.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Xuống dưới đó rồi, muốn trở lên không phải chuyện dễ.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Không lên được thì ở luôn dưới đấy.”

Hoắc Thanh Đồng đỏ mặt quay ngoắt đi, không dám nhìn vào mắt chàng. Trần Gia Lạc cột chắc châu sách vào một mô đá lồi ra, rồi theo sợi dây mà tuột xuống. Đến cuối sợi dây thì còn cách mặt đất chừng mười trượng. Chàng men theo vách đá lại tuột xuống mấy trượng nữa, rồi nhẹ nhàng buông người xuống nền đất chắc chắn.

Chàng thò tay vào bọc tìm mồi lửa, chợt nhớ hôm qua mình liều mạng với Cố Kim Tiêu giữa bầy sói đã dùng hết rồi, bèn ngẩng lên gọi lớn:

– “Có mồi lửa đó không?”

Hoắc Thanh Đồng ném xuống, chàng đón lấy rồi thắp sáng lên. Bốn mặt hang này đều là bạch ngọc, óng ánh lên dưới ánh lửa. Dưới đất có mấy cái bàn ghế, ấn thử thì vẫn còn chắc chắn. Thì ra sơn động này kín mít, không thông gió nên đồ vật trong động không bị mục nát. Trần Gia Lạc bẻ một cái chân bàn, đốt lên như một ngọn đuốc.

Chị em Hoắc Thanh Đồng nhìn xuống dưới thấy đột nhiên sáng hơn, rồi nghe Trần Gia Lạc gọi:

– “Xuống đây đi!”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Muội muội! Muội xuống trước đi.”

Hương Hương công chúa nắm sợi dây từ từ tuột xuống. Thấy Trần Gia Lạc dang rộng hai tay đứng dưới, nàng nhắm mắt buông người, lập tức cảm thấy hai cánh tay rắn chắc ôm lấy thân thể mình rồi nhẹ nhàng đặt xuống. Tiếp đến Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống. Khi Trần Gia Lạc ôm lấy, nàng hổ thẹn đến đỏ mặt tía tai.

Lúc này tiếng hú của bầy sói ở ngoài vẫn có thể nghe thấy, nhưng không rõ nữa. Trần Gia Lạc nhìn thấy trên vách núi bạch ngọc có ba bóng người. Hai bên mình là hai tuyệt thế giai nhân, phản chiếu lên ánh ngọc lại càng diễm lệ khác thường. Ba người đang ở trong lòng sơn động, họa phúc ra sao thì chưa biết được, nhưng trong đời gặp chuyện kỳ ngộ thế này là hứng thú lắm rồi.

Hương Hương công chúa thấy sơn động này đẹp đẽ, hoan hỉ đốt thêm một cái chân ghế nữa, cầm đi về phía trước. Trần Gia Lạc lại bẻ thêm bảy cái chân ghế, chia cho ba người cầm trên tay. Đi qua một con đường hầm rất dài thì phía trước có vách núi cản đường, dường như đã đến chỗ tận cùng rồi.

Trần Gia Lạc kinh hãi thầm nghĩ:

– “Chẳng lẽ hết đường đi rồi hay sao? Tiến cũng không được, lùi cũng không xong, như vậy ta phải làm gì?”

Chàng thấy ở cuối đường hầm có chỗ nhấp nháy phát ra ánh hoàng kim. Đến gần thì ra đó là một bộ áo giáp bằng vàng, che chở cho một bộ xương khô. Bộ áo giáp này được chế tạo rất tinh tế, Hương Hương công chúa nói:

– “Hồi còn sống, người này nhất định là quí tộc hay đại quan gì đấy.”

Hoắc Thanh Đồng thấy trước ngực áo giáp có khắc một con lạc đà có cánh, bèn nói:

– “Không chừng ông ấy còn là quốc vương hay hoàng tử nữa. Nghe nói, thời xưa phải là quốc vương mới được dùng lạc đà có cánh làm huy hiệu.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì cũng giống như con rồng ở Trung Thổ.”

Chàng đón lấy ngọn đuốc từ tay Hương Hương công chúa, xem thử trên vách đá có rãnh cửa hay dấu vết cơ quan gì không. Vừa đưa ngọn đuốc lên là lập tức nhìn thấy một cây búa bằng vàng cán dài, ở cách bộ áo giáp vàng khoảng sáu thước. Cán búa đang cắm vào một cái vòng để làm chốt cửa. Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Cửa đây rồi!”

Trần Gia Lạc đưa ngọn đuốc cho nàng, rút cây búa vàng ra. Nhưng vòng cửa bằng sắt, gỉ sắt đã bám chặt vào cán búa không sao rút ra được. Chàng phải dùng thanh đoản kiếm để cạo bớt gỉ sắt, rồi dùng cả hai tay rút cán búa ra. Cầm trên tay thấy rất nặng, chàng mỉm cười nói:

– “Nếu vị quốc vương kia dùng cây búa này làm binh khí, thì quả là thần lực kinh người.”

Bên phải cánh cửa đá còn có bốn cái vòng cửa nữa, được chốt lại bằng những cái gióng sắt rất to, dài tới hai thước. Chàng cạo bớt gỉ sắt rồi cạy chốt ra, nắm vòng cửa thử kéo vào bên trong thì hoàn toàn không thấy nhúc nhích. Thử vận sức đẩy ra phía ngoài, thì cánh cửa lớn bằng ngọc thạch kêu kèn kẹt mấy tiếng rồi hé mở. Cửa dày tới một trượng, giống như một tảng đá lớn chặn đường hơn là một cánh cửa.

Ba người nhìn nhau, đều lộ vẻ mừng rỡ. Tay phải Trần Gia Lạc đưa cao ngọn đuốc, tay trái cầm đoản kiếm đi vào cửa trước. Mới bước được một bước đã nghe sột soạt dưới chân, thì ra mình vừa đạp vụn một đống xương khô. Chàng đưa cao ngọn đuốc soi xung quanh, thấy đây là một con đường hầm vừa dài vừa hẹp, chỉ lọt một người đi qua. Đao kiếm vứt lung tung, xương khô đầy đất.

Hoắc Thanh Đồng chỉ vào mặt sau cánh cửa mà nói:

– “Huynh xem kìa.”

Dưới ánh đuốc, thấy rõ mặt sau cánh cửa lồi lõm nham nhở, có rất nhiều vết dao gọt đẽo. Trần Gia Lạc kinh hãi nói:

– “Những người bên này đã bị ông vua kia khóa cửa nhốt lại. Họ cố gắng phá cửa, nhưng cửa quá dày, ngọc thạch quá cứng nên đành chịu chết.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Cho dù họ có mấy chục cây đoản kiếm lợi hại cũng không thể nào phá cánh cửa ngọc đồ sộ như một ngọn núi nhỏ này.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định họ đã ngồi đây tính đủ mọi cách, nhưng rốt cuộc thì mọi người tuyệt vọng mà chết…”

Hương Hương công chúa vội kêu lên:

– “Thôi! Đừng nói nữa, đừng nói nữa…”

Tình cảnh đó quá đỗi thê thảm, nàng không đủ sức nghe tiếp. Trần Gia Lạc gượng cười, im lặng không nói nữa.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Tại sao ông vua kia không đi ra ngoài mà lại đứng giữ cánh cửa, chịu chết chung với những người này? Thật là không sao hiểu được.”

Nàng lại mở bản đồ ra xem, mừng rỡ nói:

– “Đi hết con đường này sẽ tới một gian đại sảnh.”

Ba người chầm chậm tiến lên, bước qua những đống xương trắng. Qua hai khúc quanh thì phía trước quả nhiên xuất hiện một tòa điện lớn. Đi tới cửa điện, họ thấy trong đại điện chỗ nào cũng có hài cốt, đao kiếm rớt lung tung, nhất định năm xưa đã có một phen ác chiến. Hương Hương công chúa thở dài nói:

– “Không hiểu tại sao họ phải ác đấu như thế? Mọi người bình yên vui vẻ sống qua ngày không phải tốt hơn hay sao?”

Ba người đi vào đại điện, Trần Gia Lạc đột nhiên cảm thấy một luồng đại lực kéo mạnh thanh đoản kiếm trên tay, rồi “keng” một tiếng, đoản kiếm rời khỏi tay cắm xuống đất. Đồng thời cây trưởng kiếm trên người Hoắc Thanh Đồng cũng đứt mất dây đeo, rơi xuống nền điện. Ba người hoảng sợ nhảy lùi lại. Hoắc Thanh Đồng cúi xuống định nhặt thanh kiếm, nhưng vừa khom xuống thì đột nhiên mấy chục hạt Thíêt liên tử trong bọc bay vọt ra ngoài, rơi leng keng xuống đất.

Tình hình này thật là đáng sợ. Trần Gia Lạc vội đưa tay trái kéo Hương Hương công chúa, tay phải kéo Hoắc Thanh Đồng nhảy lùi mấy bước. Chàng đứng chặn phía trước hai cô gái, bắt chéo song chưởng trước ngực, tập trung đón đỡ, nhưng đợi mãi mà không thấy động tĩnh gì nữa.

Trần Gia Lạc dùng tiếng Hồi hô lớn:

– “Ba người bọn vãn bối đến đây để tránh né bầy sói, hoàn toàn không có ý định gì khác. Nếu có chỗ nào mạo phạm, xin tha lỗi.”

Hồi lâu vẫn không có tiếng trả lời. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chủ nhân nơi đây không biết dùng loại công phu gì mà cách không đoạt hết binh khí của chúng ta, hút được cả Thiết liên tử trong bọc áo. Công phu cao thâm như thế, không những ta chưa từng thấy mà cũng chưa nghe ai nói đến.”

Chàng lại lớn tiếng hô:

– “Xin quí chủ nhân hiện thân, để bọn vãn bối tham kiến.”

Chỉ nghe thấy từ hậu điện vọng lại tiếng vang, ngoài ra không còn tiếng động gì khác. Hoắc Thanh Đồng bớt sợ, lại bước đến nhặt kiếm. Nào ngờ cây kiếm đó giống như bị dán xuống nền, tốn rất nhiều sức mới cầm lên được, nhưng lỏng tay là lại bị hút rơi xuống đất.

Trần Gia Lạc chợt hiểu ra, lớn tiếng la lên:

– “Dưới nền có từ thạch.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Từ thạch là cái gì?”

Trần Gia Lạc giải thích:

– “Những người đi biển có nói, ở vùng cực bắc có một quả núi gọi là Đại Từ Sơn có thể hút tất cả các loại sắt trong thiên hạ. Những kim sắt treo lơ lửng đều bị nó hút, nên mới chỉ về hướng nam bắc. Họ vượt qua đại dương rộng lớn mà không bị lạc, hoàn toàn dựa vào chuyện này mà chế ra la bàn.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Vậy là dưới đất có từ thạch, nên ám khí binh khí của chúng ta mới bị hút hay sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhiều phần là như vậy. Hãy thử lại xem.”

Chàng nhặt cây đoản kiếm lên, cầm chung với một cái chân ghế. Tay vừa thả lỏng là cây đoản kiếm lập tức bắn xuống đất, cắm nghiêng vào mặt đá, còn chân ghế bằng gỗ thì hoàn toàn không động đậy. Trần Gia Lạc nói:

– “Muội xem, sức hút của từ thạch thật là không nhỏ.”

Chàng lại nhặt đoản kiếm lên, nắm thật chặt rồi nói:

– “Xưa kia Hoàng Đế đã chế tạo ra Chỉ Nam Xa, đi đúng hướng trong sương mù dày đặc để đại phá Xi Vưu, cũng vì hiểu được nguyên lý từ thạch hút sắt. Tài trí của người xưa thật đáng cho chúng ta ngưỡng mộ.”

Chị em Hoắc Thanh Đồng không biết Hoàng Đế là ai, Trần Gia Lạc bèn kể lại sơ lược. Hoắc Thanh Đồng bước được mấy bước, lại kêu lên:

– “Mau qua đây mà xem!”

Trần Gia Lạc vội vã bước qua, thấy nàng chỉ vào một bộ hài cốt đứng thẳng, còn dính một ít y phục chưa mục nát hết. Bộ xương này rất hoàn chỉnh, tay phải nắm một cây kiếm màu trắng cắm vào lồng ngực một bộ hài cốt khác đứng đối diện. Nhất định năm xưa y đã dùng cây kiếm trắng này giết chết người kia.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đây là một thanh ngọc kiếm.”

Trần Gia Lạc khẽ rút thanh kiếm ngọc đó ra. Hai bộ hài cốt mất thăng bằng, lập tức rơi lịch bịch xuống thành một đống xương. Lưỡi thanh ngọc kiếm được mài rất sắc, không khác gì kiếm thép. Chỉ vì chất ngọc tuy cứng nhưng giòn, đụng chạm với bình khí kim loại dễ bị chặt gãy, nên không thực dụng lắm.

Sau đó họ lại thấy dưới nền điện có rất nhiều vũ khí lớn nhỏ được làm bằng ngọc. Đao thương kiếm kích thứ gì cũng có, nhưng hình dạng có phần cổ quái, khác hẳn những loại thường thấy ở Trung Thổ. Trần Gia Lạc đang thấy lạ, Hoắc Thanh Đồng bỗng nói:

– “Muội hiểu rồi!”

Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– “Chủ nhân tòa động này đã lo liệu tỉ mỉ, bố trí nghiêm ngặt.”

Trần Gia Lạc chưa hiểu, bèn hỏi:

– “Thế nào?”

Hoắc Thanh Đồng giải thích:

– “Ông ấy nhờ sức từ thạch để hút hết binh khí của địch, chuẩn bị sẵn cho bộ hạ các loại binh khí làm bằng ngọc.”

Hương Hương công chúa chỉ một bộ hài cốt có bọc giáp sắt, kêu lớn lên:

– “Úi chà! Những người tấn công vào đây lại còn mặc giáp sắt. Chắc họ bị từ thạch hút cứng xuống nền, không sao bò dậy được.”

Nàng thấy tỉ tỉ vẫn ra vẻ suy nghĩ, bèn hỏi:

– “Tình hình rõ ràng lắm rồi, tỉ tỉ còn suy nghĩ gì nữa?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Những người cầm ngọc kiếm có thể dễ dàng giết địch, mà sao họ cũng chết như bên đối thủ? Ta chưa hiểu được.”

Nhất thời Trần Gia Lạc không thể nghĩ ra. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Chúng ta ra phía sau xem thử.”

Hương Hương công chúa run giọng gọi:

– “Tỉ tỉ đừng đi!”

Hoắc Thanh Đồng ngạc nhiên nhìn lại, thấy sắc mặt em gái có phần sợ hãi, bèn đưa tay ôm lấy vai mà dỗ:

– “Muội đừng sợ! Không chừng bên đó không có người chết thì sao?”

Phía sau đại điện là một gian điện nhỏ hơn. Cảnh tượng trong điện này lại càng dễ sợ. Mấy chục bộ hài cốt từng cặp một bám vào nhau, phần lớn vẫn đứng thẳng như lúc sống. Một nửa thì tay cầm vũ khí, một nửa tay không. Trần Gia Lạc nói:

– “Họ chết như thế, chắc phải có nguyên do kỳ lạ.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ở đây toàn là người này chém một đao, người kia đánh lại một quyền, chết cùng một lúc.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Cao thủ võ lâm quyết đấu, nếu công lực ngang nhau thì cũng có khi đồng quy ư tận. Nhưng nhiều cặp cùng chết như vậy một lúc, thật khó mà giải thích.”

Ba người đi tiếp vào bên trong, qua một khúc quanh rồi đẩy một cánh cửa nhỏ ra, phía trước đột nhiên sáng hẳn lên. Một luồng ánh sáng từ vách núi trên cao mấy chục trượng soi xuống. Nơi này được ánh dương quang soi tới sáng lòa, nhìn rõ là một gian phòng ngọc. Nhất định kiến trúc sư năm xưa đã cố ý lấy ánh sáng thiên nhiên, chọn đúng vị trí dưới khe núi mà bố trí gian ngọc thất.

Ánh nắng đột nhiên xuất hiện, dù chỉ một tia nhỏ cũng đủ làm con người phấn chấn. Trong ngọc thất còn có giường ngọc, bàn ngọc, ghế ngọc, tất cả đều điêu khắc tinh tế. Trên giường có một bộ hài cốt, trong góc phòng có hai bộ, một lớn, một nhỏ.

Trần Gia Lạc tắt đuốc rồi nói:

– “Chúng ta nghỉ ngơi ở đây.”

Mọi người lấy lương khô và nước ra, ăn uống chút ít. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không biết bầy sói sẽ chờ đợi ở ngoài kia đến lúc nào. Chúng ta thi gan với chúng, lương thực và nước uống phải tiết kiệm một chút.”

Mấy ngày nay ba người chưa được thả lỏng một khoảnh khắc nào, bây giờ được vào gian phòng ngọc yên tĩnh này họ mới thấy mệt mỏi không chịu nổi. Chỉ chốc lát, cả ba đều tựa vào những chiếc ghế bằng ngọc mà ngủ thật say.

Hồi 17: Vì dân trừ hại xứng danh hiệp – Nhơ thân diệt bạo vẫn trinh

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma giương mắt lên nhìn toàn bộ bầy sói chạy ào ào đuổi theo Trần Gia Lạc và hai cô gái. Chúng thấy hai người đẹp như hoa bị chôn vào bụng sói dĩ nhiên phải tiếc, nhưng bản thân thoát khỏi đại nạn là mừng lắm rồi, đều tự cho mình may mắn. Bốn người ngồi xuống nghỉ ngơi, nướng thịt sói lên vòng lửa mà ăn.

Cố Kim Tiêu thấy củi sắp hết nhưng lười đi kiếm thêm, bèn dồn mấy đống phân sói vào để ngọn lửa hừng hơn mà nướng thịt. Không bao lâu một trụ khói đen dựng đứng lên trời, tuy có gió nhẹ mà vẫn không tản ra.

Đang ăn ngấu nghiến thịt sói nướng, đột nhiên phía đông lại có bụi bặm nổi lên. Bốn người nghĩ bầy sói lại kéo tới, vội đi lấy ngựa. Lúc này chỉ còn hai con ngựa, đều của Quan Đông tam ma cả. Trương Triệu Trọng dắt ngay dây cương một con. Kha Hợp Đài phóng người tới giật lấy dây cương, quát hỏi:

– “Ngươi muốn gì?”

Trương Triệu Trọng vung chưởng gạt họ Kha ra, rồi thấy Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu xách binh khí chạy tới. Trường kiếm của hắn đã bị Trần Gia Lạc chặt đứt nên không còn vũ khí. Trong lúc nguy cấp, hắn nảy ra một gian kế, giả vờ kêu lên:

– “Gấp gì? Có phải sói đâu?”

Quan Đông tam ma đều quay lại nhìn, Trương Triệu Trọng nhân cơ hội tung người nhảy lên lưng ngựa. Hắn nhìn thấy giữa đám bụi cát cuồn cuộn là một bầy lớn lạc đà và dê, hoàn toàn không có con sói nào, vừa rồi nói dối giải nguy không ngờ lại đúng. Hắn định lấy ngựa để chạy trốn, bây giờ không cần trốn nhưng không biết nói sao để xuống ngựa, bèn quay đầu lại phi về phía đám bụi, hô lớn:

– “Ta tới đó xem thử!”

Chạy không đến một dặm, đã thấy trước mặt có một kỵ sĩ phi nhanh tới. Đến trước mặt hắn, người đó giật cương một cái, con ngựa lập tức dừng lại, không chạy thêm bước nào. Trương Triệu Trọng thầm khen:

– “Kỵ thuật hay quá!”

Người cưỡi ngựa là một ông lão mặc áo xám tro. Thấy Trương Triệu Trọng ăn mặc theo kiểu quan quân nhà Thanh, lão bèn dùng tiếng Hán để hỏi:

– “Bầy sói đâu?”

Trương Triệu Trọng chỉ về phía tây.

Lúc này bầy lạc đà và dê đã chạy tới nơi. Phía sau chúng lại có một ông lão đầu trọc mặt đỏ và một bà lão gầy ốm tóc bạc đang cưỡi ngựa áp giải, tiếng dê kêu ngựa hí loạn xạ cả lên. Trương Triệu Trọng đang muốn hỏi thì Quan Đông tam ma đã dẫn ngựa chạy tới. Chúng vừa thấy ông lão áo xám bèn vội vàng thi lễ, lên tiếng vấn an:

– “Lại gặp lão nhân gia rồi! Lão nhân gia có khỏe không?”

Ông lão kia “hừ”

một tiếng rồi nói:

– “Có gì mà không khỏe?”

Thì ra ông lão này chính là Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu.

Sáng sớm hôm đó, Thiên Sơn Song Ưng bỏ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa lại, âm thầm ra đi. Họ nghĩ đến Hoắc Thanh Đồng đang bệnh chưa khỏi, định đi tìm nàng, nhưng đi được hai ngày thì thấy Viên Sĩ Tiêu dắt một bầy lạc đà và dê đến. Trần Chính Đức muốn lấy lòng vợ yêu, bèn tới chào hỏi tử tế. Viên Sĩ Tiêu thấy họ Trần đột nhiên thay đổi tính tình, không khỏi ngạc nhiên.

Trần Chính Đức hỏi:

– “Viên huynh đuổi bầy lạc đà và dê này đi đâu vậy?”

Viên Sĩ Tiêu trợn mắt lên đáp:

– “Ngươi đã làm ta bị khuynh gia bại sản rồi.”

Trần Chính Đức kinh ngạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Lần trước ta dốc vốn mua được một bầy ngựa và dê, muốn dụ bầy sói chui vào trong bẫy. Nào ngờ…”

Trần Chính Đức mỉm cười nói:

– “Nào ngờ bị ông lão đui mắt này quấy rối làm hỏng đại sự chứ gì?”

Viên Sĩ Tiêu hỏi lại:

– “Còn không phải hay sao? Ta đành phải đi mượn tiền mua lại bầy lạc đà và dê này.”

Trần Chính Đức cười nói:

– “Viên đại ca đã tốn hết bao nhiêu tiền, đệ sẽ bồi hoàn đầy đủ.”

Từ lúc được vợ mình dịu dàng quan tâm, những ý nghĩ đố kỵ của họ Trần đã hoàn toàn biến mất. Ông muốn làm đẹp lòng ái thê nên hết sức lịch sự với Viên Sĩ Tiêu, đón ý chiều chuộng vô cùng, thật sự trước nay chưa từng có.

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Ai cần ngươi đền?”

Trần Chính Đức nói:

– “Thế thì hai ta sẽ góp sức mọn để giúp huynh một tay, nghe lệnh huynh cùng đi tìm bầy sói, có được hay không?”

Viên Sĩ Tiêu nhìn Quan Minh Mai, thấy người đẹp mỉm cười gật đầu, bèn đáp:

– “Thế cũng được.”

Vì thế ba người cùng lùa đàn lạc đà và dê này đi theo dấu vết bầy sói, tìm dần đến đây. Hôm nay họ thấy lang yên bốc lên mà phân sói cũng càng lúc càng nhiều, tưởng bầy sói đang ở phía này và có người đang cầu cứu, liền nhắm hướng đi tới, gặp Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma.

Trương Triệu Trọng không biết ông lão này là nhân vật thế nào, nhưng thấy Quan Đông tam ma cung kính thi lễ bèn nghĩ:

– “Chắc người này không phải tầm thường.”

Viên Sĩ Tiêu quan sát bốn hướng một lúc, rồi nói với bốn người:

– “Chúng ta đang đi bắt sói, các ngươi phải đi theo.”

Bốn người đều kinh hãi ngẩn ra một lúc, nghĩ bụng:

– “Ông lão này chắc bị điên rồi. Chạy trốn bầy sói còn không kịp, thế mà nói chuyện đi bắt sói.”

Quan Đông tam ma từng được Trần Chính Đức cứu, biết võ công của ông rất cao cường, nên không nói gì mà chỉ im lặng. Trương Triệu Trọng thì hừ mũi một tiếng, lên giọng đáp:

– “Xin lỗi nhé! Ta còn muốn ăn cơm thêm vài năm nữa, không thể đi cùng.”

Nói xong hắn quay người đi ngay. Trần Chính Đức giận dữ đưa tay túm lấy hông hắn, quát hỏi:

– “Ngươi không nghe lời Viên đại hiệp, muốn chết hay sao?”

Trương Triệu Trọng vận kình vào hữu chưởng xuất chiêu Cung Vân Thác Nguyệt, bàn tay ngửa ra, khuỷu tay ở dưới xoay một vòng nhỏ, đánh lên cánh tay Trần Chính Đức. Dưới ánh dương quang, họ Trương chợt thấy năm ngón tay của đối phương trông như bộ vuốt chim ưng chụp xuống tay mình, kinh hãi thu chiêu biến trảo thành quyền, đánh vào cổ tay của lão.

Trần Chính Đức xuất trảo không trúng đích, cũng biến chiêu đấm xuống. Hai quyền chạm nhau, hai người cùng bị chấn động, công lực không phân cao thấp. Mỗi bên lui lại ba bước, trong lòng đều kinh ngạc, không ngờ giữa sa mạc này lại gặp đối thủ cao cường như thế.

Trương Triệu Trọng hét:

– “Bằng hữu! Để tên tuổi lại đây!”

Trần Chính Đức mắng luôn:

– “Bản lãnh như ngươi mà xứng đáng làm bằng hữu của ta sao? Cuối cùng thì ngươi có chịu nghe lời Viên đại hiệp hay không?”

Giao thủ một chiêu, Trương Triệu Trọng đã biết võ công ông lão này ngang ngửa với mình. Thế mà lão hễ mở miệng là gọi ông lão áo tro kia bằng Viên đại hiệp, xem ra lão họ Viên còn có võ công cao hơn. Cao thủ nào họ Viên? Nhất thời hắn không nhớ ra được, bèn nghĩ bụng:

– “Trong võ lâm có rất nhiều kẻ hư danh, ta không nên mắc lừa. Nhưng bây giờ mà quật cường thì sáu người bọn chúng cùng lúc ra tay, bản thân mình lại đơn thương độc mã, khó mà chống đỡ.”

Hắn bèn nói một câu vô thưởng vô phạt:

– “Tại hạ đang muốn thỉnh giáo cao tánh đại danh của Viên đại hiệp. Nếu là cao nhân tiền bối, sẽ lập tức tuân mệnh ngay.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hà hà! Thì ra ngươi muốn thử thách ông lão này hay sao? Suốt đời lão phu chỉ thử thách người khác, chưa từng bị hỏi han như vậy. Ta hỏi ngươi, vừa rồi ngươi ra chiêu Cung Vân Thác Nguyệt, sau đó biến thành Tuyết Ủng Lam Quan. Nếu ta công vào bên trái bằng chiêu Hạ Sơn Trảm Hổ, tay trái điểm vào huyệt đạo, chân trái đá vào dưới đầu gối ngươi ba tấc, thì ngươi làm sao đối phó?”

Trương Triệu Trọng giật mình đáp:

– “Hạ bàn sử dụng Bàng Cung Xạ Điêu, hai tay dùng cầm nã thủ bắt ngược lại cổ tay đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Trong thủ có công, đúng là đệ tử của cao thủ Võ Đang rồi.”

Trương Triệu Trọng lại giật mình cái nữa, nghĩ thầm:

– “Ta chỉ đánh một chiêu với lão trọc kia, nói một câu với lão này, thế mà lão đã biết mình ở phái nào rồi.”

Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Năm xưa ta có qua Hồ Bắc, từng ấn chứng võ công với Mã Chân đạo trưởng.”

Lồng ngực Trương Triệu Trọng bỗng rung động một cái, sắc mặt thay đổi xám như tro tàn. Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Tay phải ta dùng Miên chưởng để hóa giải cầm nã thủ của ngươi, khuỷu tay bên trái đánh thẳng vào giữa ngực…”

Trương Triệu Trọng cướp lời:

– “Đó là Thốn Chùy của Đại Hồng Quyền.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu:

– “Không sai! Nhưng Thốn Chùy chỉ là hư chiêu. Đợi ngươi hóp ngực vào lùi ra sau, tả chưởng của ta liền phát ra đánh vào mặt ngươi. Năm xưa Mã Chân đạo trưởng không tránh được chiêu này, về sau ta mới nói cho ông ấy nghe cách hóa giải. Để xem ngươi nghĩ ra hay không.”

Trương Triệu Trọng tập trung suy nghĩ, hồi lâu mới nói:

– “Nếu đại hiệp biến chiêu nhanh, dĩ nhiên tại hạ không kịp tránh né. Tại hạ phải sử dụng Uyên Ương Thối để tấn công sườn trái, buộc đại hiệp phải thu chiêu lui về.”

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Chiêu này không tệ. Phái Võ Đang hiện nay, có thể coi ngươi là số một.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Lúc đó tại hạ lập tức điểm vào huyệt Huyền Cơ ở trước ngực đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Hay, hay lắm! Thế công uyển chuyển như phi hồ, đáng gọi là cao thủ. Ta đạp vào cung Quy Muội ở tây bắc, tấn công vào hạ bàn của ngươi.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Tại hạ lùi về Tốn, tiến tới Vô Vọng, điểm vào Thiên Tuyệt.”

Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài nghe hai người nói chuyện đầy những chữ lạ tai, mù tịt chẳng hiểu gì cả. Kha Hợp Đài kéo áo Tất Nhất Lôi, khẽ hỏi:

– “Họ nói loại ám ngữ gì vậy?”

Tất Nhất Lôi đáp:

– “Không phải ám ngữ đâu. Đó là phương vị sáu mươi bốn quẻ của Phục Hy lẫn lộn với tên các huyệt đạo.”

Hai người Cố, Kha bây giờ mới hiểu, thì ra hai bên đang tỉ võ bằng miệng. Xưa nay chỉ nghe có người luận binh trên giấy, còn đánh nhau bằng miệng thì chưa thấy bao giờ.

Lại nghe Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Bên phải tiến về Minh Di, bắt lấy Kỳ Môn.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Lui về Trung Phù, dùng Phụng Nhân Thủ hóa giải.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Tiến tới Ký Tế, điểm Hoàn Khiêu, tả chưởng ấn vào Khúc Hoành.”

Thần sắc Trương Triệu Trọng lo lắng rõ ràng, dừng lại một chút mới nói:

– “Lùi về Chấn, lùi tiếp về Phục, sau đó lại lùi về Vị Tế.”

Kha Hợp Đài khẽ hỏi:

– “Sao hắn cứ lùi mãi vậy?”

Tất Nhất Lôi vội ra hiệu đừng nói. Hai đối thủ càng nói càng nhanh. Viên Sĩ Tiêu thì vui vẻ mỉm cười, còn mặt Trương Triệu Trọng thì mỗi lúc một đỏ. Mỗi chiêu hắn phải suy nghĩ rất lâu rồi mới miễn cưỡng đưa ra cách hóa giải. Quan Đông tam ma đều nghĩ:

– “Nếu thật sự giao đấu thì ngươi làm gì có thời gian để suy nghĩ? Chậm một chút xíu là bị người ta đánh ngã rồi.”

Hai người trao đổi mấy chiêu nữa. Trương Triệu Trọng nói:

– “Dùng Tiểu Suất thủ ở Trung Văn.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Chiêu này không khá. Ngươi thua rồi.”

Trương Triệu Trọng chưa hiểu, bèn hỏi:

– “Xin thỉnh giáo?”

Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Ta tiến tới chiếm vị trí Phấn, chân đạp vào Âm Thị, rồi điểm vào Thần Phong. Ngươi không thể giải nguy được nữa.”

Trương Triệu Trọng cãi:

– “Nói là nói vậy, nhưng đại hiệp đang ở vị trí Phấn, khuỷu tay không thể thúc tới huyệt Thần Phong của tại hạ.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Không phải dùng khuỷu tay. Ngươi không tin thì ta phải thử xem. Cẩn thận!”

Ông xoay lưng lại, đạp ngược chân phải ra sau, thúc gót vào huyệt Âm Thị ở cách đầu gối đối thủ ba tấc. Trương Triệu Trọng tung người nhảy lùi ra, hô lớn:

– “Làm sao mà…”

Nói chưa dứt câu, tay phải Viên Sĩ Tiêu đã vung ngược qua vai, đầu ngón tay điểm trúng huyệt Thần Phong ở trước ngực đối thủ. Trương Triệu Trọng đau đớn kịch liệt, nổi cơn ho không ngớt. Hắn phải đưa tay xoa lên ngực để thôi cung quá huyệt, tiếng ho mới ngừng lại.

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười hỏi:

– “Thế nào?”

Mọi người thấy ông chỉ hơi nhúc nhích người một chút, đầu ngón tay trong chớp nhoáng đã vươn tới điểm trúng huyệt đạo đối phương, võ công thật sự cao siêu không thể lường được. Ai cũng phải kinh hãi.

Trương Triệu Trọng ra vẻ ủ rũ, không dám khoe mình tài giỏi nữa. Hắn lên tiếng:

– “Tại hạ xin nghe lời dặn của Viên đại hiệp.”

Trần Chính Đức nói:

– “Võ công của ngươi cũng có thể gọi là tuyệt đỉnh võ lâm rồi. Xin cho biết tên tuổi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Không dám, tại hạ họ Trương, tên Triệu Trọng. Xin thỉnh giáo ba vị.”

Trần Chính Đức nói:

– “À thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan. Viên đại ca, hắn chính là sư đệ của Mã Chân đạo trưởng.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu nói:

– “Sư huynh của hắn không bằng hắn đâu. Chúng ta đi thôi.”

Ông bèn giục ngựa đi trước, dẫn cả đoàn theo sau. Trong bầy lạc đà và dê có không ít ngựa. Trương Triệu Trọng và Kha Hợp Đài bèn chọn hai con mà cưỡi. Sáu người dẫn đoàn gia súc đi theo Viên Sĩ Tiêu.

Chạy được một hồi, Trương Triệu Trọng hỏi Trần Chính Đức:

– “Lão gia! Sói nhiều lắm, bây giờ làm sao mà bắt?”

Quan Đông tam ma cũng đang lo lắng đến chuyện này, không sao yên lòng nổi. Trần Chính Đức đáp:

– “Các ngươi cứ nhìn theo tay của Viên đại hiệp mà làm. Mấy con chó sói cỏn con này có gì đáng sợ đâu? Thật là vô dụng.”

Trương Triệu Trọng không hỏi nữa, thầm nghĩ:

– “Lão đã nắm chắc như thế rồi, chẳng lẽ mình lại tỏ ra yếu kém hay sao?”

Thật ra Trần Chính Đức cũng không biết Viên Sĩ Tiêu bắt sói kiểu nào. Ông cao tuổi hơn nên ỷ già nói bừa vậy thôi, chứ nghĩ đến bầy sói hung dữ cũng không khỏi run rẩy trong lòng. Biết chồng mình hư trương thanh thế, Quan Minh Mai cười thầm trong bụng.

Chạy được một hồi, Viên Sĩ Tiêu quay ngựa lại nói với mọi người:

– “Phân sói ở chỗ này rất tươi, bầy sói chắc mới qua đây không lâu. Có lẽ đi về phía tây hai chục dặm nữa là gặp bầy ác quỷ này. Đi mười dặm nữa, các vị hãy đổi lấy ngựa khỏe mà cưỡi.”

Mọi người gật đầu đồng ý. Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Đuổi tới bầy sói, ta sẽ dẫn đường trước. Các vị chia ra ba người bên trái, ba người bên phải để dồn lạc đà, dê, ngựa chạy ở chính giữa. Không để chúng chạy loạn xạ, kẻo bầy sói sẽ phân tán ra.”

Tất Nhất Lôi muốn hỏi kỹ hơn, nhưng Viên Sĩ Tiêu đã quay ngựa chạy trước rồi.

Mọi người chạy thêm khoảng mười tám mười chín đặm, thấy phân sói càng lúc càng ẩm ướt. Quan Minh Mai nói:

– “Bầy sói ở ngay trước mặt rồi. Nhưng sao chúng nghe tiếng lạc đà kêu ngựa hí mà không đuổi ra đây?”

Trần Chính Đức nói:

– “Chuyện này cũng thật kỳ lạ.”

Thêm mấy dặm nữa, địa thế càng lúc càng dốc hơn. Một quả núi hiện ra trước mặt, chính giữa có một đỉnh cao trắng xóa chọc thẳng lên trời. Thiên Sơn Song Ưng đã ở vùng sa mạc rất lâu, từng nghe truyền thuyết thần kỳ về Ngọc Phong, nào ngờ hôm nay có duyên nhìn thấy. Ánh dương quang chiếu xiên xiên lên đỉnh ngọc, nhuộm cho nó đủ loại màu sắc kỳ ảo đẹp đẽ vô cùng.

Viên Sĩ Tiêu kêu lên:

– “Bầy sói đã vào mê cung rồi. Các vị lấy roi quất lạc đà và ngựa đi.”

Mọi người bèn vung roi ngựa lên mà quất, chỉ trong chốc lát tiếng ngựa hí lạc đà kêu đã vang động khắp vùng. Lát sau, một con sói lớn từ sau một tảng đá thò đầu ra.

Viên Sĩ Tiêu vẫy cây roi dài phát ra những tiếng lách cách, giục ngựa chạy về phía nam. Thiên Sơn Song Ưng, Trương Triệu Trọng, Quan Đông tam ma áp giải nguyên bầy lạc đà và ngựa lập tức chạy theo.

Chạy được mấy dặm, tiếng sói hú vang ở sau lưng nghe vang rền như sấm. Trần Chính Đức quay lại nhìn, thấy trời đất toàn một màu xám. Trời xám do bụi mù, đất xám do màu lông sói, không biết có tới mấy ngàn mấy vạn con sói đói đang nhe nanh múa vuốt đuổi theo.

Ông vội giục ngựa chạy theo Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma. Bốn tên này cố trấn tĩnh, nhưng sắc mặt đều xám như tro. Kha Hợp Đài trợn mắt muốn rách khóe nhỏ máu ra, điên cuồng quát tháo, thúc bầy lạc đà và ngựa. Y xuất thân là dân chăn nuôi du mục, rất hiểu cách lùa gia súc. Có mấy con muốn tách bầy chạy trốn, đều bị y dùng miệng la hét hay dùng roi quất đuổi về.

Cả bầy gia súc cứ thế mà chạy bên nhau, hoàn toàn không có con nào chạy tản ra ngoài. Vì thế mà bầy sói không bị phân tán. Quan Minh Mai lên tiếng khen ngợi:

– “Kha lão đệ! Bản lãnh ngươi giỏi quá.”

Bầy sói ngoan cường hung hãn, chạy đường dài thì bền bỉ nhưng cự ly ngắn thì không nhanh lắm, sau mười dặm đã không nhìn thấy chúng nữa. Chạy thêm mười dặm nữa, Viên Sĩ Tiêu hô lên:

– “Nghỉ ngơi một lúc, mọi người xuống ngựa tranh thủ ăn uống.”

Kha Hợp Đài đi dồn bọn lạc đà, ngựa, dê về một chỗ. Viên Sĩ Tiêu thấy nghề chăn gia súc của y đúng là tuyệt kỹ, bèn mỉm cười nói:

– “Công của lão đệ thật là lớn.”

Khi bầy sói đuổi gần tới thì đội lạc đà và ngựa đã nghỉ ngơi được một lúc rồi. Cả đoàn cứ thế hết chạy trốn lại ngừng nghỉ, chạy về phía nam khoảng tám chục dặm thì thấy phía trước có bụi bốc lên. Hai người Hồi giục ngựa chạy tới, kêu to lên hỏi:

– “Viên lão gia! Thành công chưa?”

Viên Sĩ Tiêu đáp lớn:

– “Đến rồi, đến rồi! Mau về bảo mọi người chuẩn bị.”

Hai người Hồi bèn quay ngựa chạy trước. Mọi người thấy phía trước có quân tiếp ứng, ai cũng yên tâm hơn nhiều.

Chạy không bao lâu nữa, trên mặt sa mạc bỗng xuất hiện một tòa thành cát hình tròn cực lớn. Đến gần thì thấy tường thành cao khoảng bốn trượng, chỉ có một cửa rất hẹp. Viên Sĩ Tiêu chạy đầu, giục ngựa qua cửa vào thành. Thiên Sơn Song Ưng và Kha Hợp Đài đuổi trọn bầy lạc đà và ngựa chạy vào theo.

Lạc đà và ngựa vào hết, thì bầy sói đã chạy tới nơi. Trương Triệu Trọng tới cửa bỗng hơi ngần ngừ, rồi lập tức kéo dây cương ngựa đi dọc bờ thành mà vòng qua chỗ khác. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu thấy vậy, cũng bắt chước giật ngựa chạy tránh.

Hàng ngàn hàng vạn con sói đói ùa vào trong thành cát, nhảy xổ lên bọn lạc đà và ngựa mà cắn xé. Lúc bầy sói đã vào hết trong thành, tiếng tù và nổi vang lên. Từ hai bên chạy ra mấy trăm người Hồi, mỗi người đều mang theo sau lưng một bao cát. Họ chạy đến chỗ cửa thành quăng bao cát xuống, chỉ chốc lát đã lấp kín cái cửa duy nhất của vòng thành này.

Thấy họ vỗ tay hoan hô, Trương Triệu Trọng nghĩ:

– “Không biết lão già đó ra sao rồi?”

Hắn thấy mấy chục người Hồi đứng trên đầu tường cát, cũng nhảy xuống ngựa men theo thang cấp mà chạy lên đỉnh tường. Thì ra những người Hồi đó đang dùng dây dài để kéo Viên Sĩ Tiêu và ba người kia lên.

Trương Triệu Trọng nhìn xuống dưới, bất giác giật bắn cả mình. Vòng thành cát này đường kính hơn trăm trượng, vách bên trong rất dốc, dường như xếp bằng gạch rồi đổ cát lên cho trơn tru, không có chỗ nào bước chân lên được. Mấy trăm con lạc đà và ngựa đã bị nhốt trong này cùng gần một vạn con sói đói. Tiếng cắn xé tru gào nghe kinh hồn động phách, chỉ chốc lát là máu chảy kín cả mặt cát trong thành.

Viên Sĩ Tiêu và Thiên Sơn Song Ưng đứng trên đầu tường cười ha hả, đắc ý vô cùng. Trần Chính Đức nói:

– “Bầy sói này làm hại dân chúng ở vùng Nam Bắc Thiên Sơn, giết người vô số, mấy trăm năm nay không sao trừ khử được. Viên đại ca phen này diệt sạch chúng, tạo công đức ngàn đời, trừ hại cho dân. Đúng là xứng danh đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Chúng ta ở đây ăn chén cơm của các bằng hữu người Hồi mấy chục năm rồi, hôm nay coi như báo đáp chút ít.”

Lão ngừng một chút rồi lại nói:

– “Nhưng nếu không có mọi người đồng tâm hiệp lực thì một mình ta làm được cái gì? Chỉ riêng tòa thành cát này thôi, phải hơn ba ngàn người làm mất nửa năm mới xong. Hôm nay lại được nhiều cao thủ ra tay giúp đỡ.”

Quan Minh Mai nói:

– “Muốn bầy sói này chết đói, chắc phải chờ một thời gian khá lâu.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu:

– “Dĩ nhiên là thế. Trong này có nhiều lạc đà và ngựa như vậy, cứ để bọn súc sinh kia ăn no một bữa rồi mới chết.”

Mọi người Hồi đều lên tiếng ca hát hoan hô, vẻ mừng rỡ lộ ra ngoài mặt. Họ chen nhau kéo tới trước mặt Viên Sĩ Tiêu tỏ lời cảm tạ, lấy thịt dê và rượu sữa ngựa ra chiêu đãi. Thủ lãnh người Hồi nói:

– “Bên bờ sông Hắc Thủy, Thúy Vũ Hoàng Sam đang bao vây giết sạch bọn Thanh binh, còn chúng ta ở đây bao vây bầy sói. Sói đã bị thu phục rồi, bây giờ mọi người đi giúp Thúy Vũ Hoàng Sam đi…”

Nói còn chưa dứt, đột nhiên y nhìn thấy Trương Triệu Trọng đứng xa xa, trên người mặc trang phục quan binh nhà Thanh. Y nảy dạ nghi ngờ, nhưng nghĩ rằng người này cùng đến với Viên đại hiệp, đã góp sức diệt bầy sói nên không hỏi nhiều.

Trần Chính Đức lên tiếng:

– “Viên đại ca! Ta có một việc không thể không nói, huynh đừng trách.”

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười:

– “Ha ha! Tới lúc già rồi huynh mới lo khách sáo.”

Trần Chính Đức nghiêm trang nói:

– “Đồ đệ của huynh tính tình hư hỏng, huynh phải dạy dỗ đàng hoàng mới được.”

Viên Sĩ Tiêu ngẩn ra hỏi:

– “Đồ đệ của ta? Gia Lạc à?”

Trần Chính Đức gật đầu:

– “Không sai!”

Rồi ông kéo họ Viên qua một bên, kể lại chuyện Trần Gia Lạc dụ dỗ tình cảm của Hoắc Thanh Đồng, rồi ruồng bỏ nàng để chạy theo cô muội muội.

Viên Sĩ Tiêu bán tín bán nghi, bèn nói:

– “Trần Gia Lạc là người rất trọng tín nghĩa, chắc chắn không có chuyện này đâu.”

Quan Minh Mai nói:

– “Chuyện đó là chúng ta đích thân nhìn thấy.”

Bà kể lại chuyện gặp gỡ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa.

Viên Sĩ Tiêu ngẩn ngơ một lúc, không thể không tin. Lão bỗng nổi giận quát lên:

– “Nghĩa phụ của nó nhờ ta nuôi nấng, dạy dỗ cho nó. Nào ngờ nhân phẩm của nó lại đê tiện như thế, sau này ta còn mặt mũi nào gặp Vu đại ca dưới cửu tuyền?”

Quan Minh Mai thấy hai mắt lão đã rơm rớm, đương nhiên là do vừa giận vừa buồn. Bà đang muốn tìm lời an ủi, Viên Sĩ Tiêu bỗng kêu lên:

– “Chúng ta đi tìm chúng để đối chất cho rõ ba mặt một lời. Nhất định ta không thể dung tha loại người vô tình bạc nghĩa, táng tận lương tâm như thế.”

Quan Minh Mai khẽ nói:

– “Nếu ai cũng nói rõ ràng trước mặt, thật không còn gì hay hơn nữa. Đừng đè nén trong lòng. Đè nén mấy chục năm trời vẫn không giải quyết xong, chẳng những làm hại người khác mà còn làm hại chính mình.”

Viên Sĩ Tiêu nghe câu này, dĩ nhiên cũng biết có ẩn ý. Mấy chục năm trời lão ngày đêm hối hận, thời trẻ vì nóng giận mà làm cho đôi uyên ương không thành quyến thuộc. Trước mặt là Quan Minh Mai tóc đã pha sương, nhưng lão lại nhìn thấy một cô nương đôi mắt trong veo, tính ưa hờn dỗi hồi mười tám mười chín tuổi. Lão quay mặt nhìn ra xa thẳm, thờ dài rồi nói:

– “Hôm nay được gặp mặt trò chuyện với nhau, ta cảm thấy hài lòng lắm rồi. Dù sao thì cuộc đời này không đến nỗi uổng phí.”

Quan Minh Mai nhìn mặt trời dần dần lặn xuống sa mạc, chầm chậm nói:

– “Cái gì cũng do một chữ duyên. Trước đây muội thường cảm thấy khổ sở, nhưng gần đây thấy dễ chịu hơn.”

Thấy một cái cúc trên áo ngắn khoác ngoài của Trần Chính Đức bị bung ra, bà vừa đưa tay cài lại vừa nói:

– “Nhiều người ngày nào cũng hưởng phúc mà không biết đó là hạnh phúc, cứ mong muốn những gì ở tận đâu đâu trên trời mà mình không thể có, nào ngờ bảo bối quí giá nhất lại đang ở trong tay mình. Bây giờ muội đã hiểu rồi.”

Trần Chính Đức sắc mặt hồng hào đầy vẻ sảng khoái, hạnh phúc nhìn ngắm vợ mình.

Quan Minh Mai đi đến bên Viên Sĩ Tiêu, nói dịu dàng:

– “Con người vẫn thích tự dày vò chính mình. Giày vò mấy chục năm thì tội lỗi gì cũng phải sạch hết rồi, huống chi là không có tội lỗi. Muội sống vui vẻ, huynh đừng tiếp tục giày vò bản thân mình nữa.”

Viên Sĩ Tiêu không dám quay đầu lại, lập tức phi thân lên ngựa mà nói:

– “Chúng ta đi tìm chúng đi.”

Thiên Sơn Song Ưng lên ngựa chạy theo.

Trương Triệu Trọng thấy cường địch đã rời khỏi, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Hoàng đế phái hắn đến đây để tìm Hương Hương công chúa và Trần Gia Lạc. Hai người này không biết đã chôn vào miệng sói hay chưa, phải đi điều tra cho rõ để về triều còn biết đường trình tấu. Hắn thầm nghĩ:

– “Nếu thẳng lỏi họ Trần và hai mỹ nhân kia đã bị bầy sói ăn thịt hết rồi thì không còn gì để nói, nhưng nếu chúng còn sống sót thì sao? Võ công thằng lỏi đó chỉ thua ta một chút, nếu Hoắc Thanh Đồng ra tay tương trợ thì ta nhất định phải thua. Bây giờ mà kéo được tam ma cùng đi là hay nhất.”

Trương Triệu Trọng bèn khẽ kéo tay áo Cố Kim Tiêu, hai người đi ra mấy bước. Họ Trương thì thầm hỏi:

– “Cố lão huynh! Huynh còn khoái con nhỏ xinh đẹp ấy không?”

Cố Kim Tiêu tưởng đang bị trêu ghẹo, giận dữ hỏi:

– “Ngươi muốn gì?”

Trương Triệu Trọng bình thản nói:

– “Ta có đại thù với thẳng lỏi họ Trần kia, phải đi giết nó. Nếu huynh cùng đi thì con bé đó thuộc về huynh.”

Cố Kim Tiêu ngần ngừ rồi nói:

– “Chỉ sợ cả ba người bọn chúng đã bị sói ăn cả rồi. Không biết lão đại có chịu đi hay không.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Nếu chúng bị sói ăn rồi, thì coi như huynh không có phúc hưởng thụ. Còn lão đại thì để ta nói chuyện.”

Cố Kim Tiêu khẽ gật đầu, trong lòng nghĩ:

– “Lão đại không hiếu sắc, chưa chắc đã chịu cùng đi.”

Trương Triệu Trọng đến chỗ Tất Nhất Lôi, nói nhỏ:

– “Tất lão huynh! Ta phải đi kiếm thẳng lỏi họ Trần kia để thanh toán một món nợ. Nếu lão huynh chịu giúp một tay, thì thanh đoản kiếm kia thuộc về lão huynh.”

Bảo vật như thế, chẳng ai học võ mà không thèm muốn. Tất Nhất Lôi nghĩ:

– “Giả tỉ bầy sói đã nuốt Trần Gia Lạc vào trong bụng, thì chúng cũng không sao nuốt thanh đoản kiếm được.”

Hắn bèn lập tức đồng ý. Trương Triệu Trọng cả mừng, lại nghe Tất Nhất Lôi gọi lớn:

– “Lão tứ! Chúng ta đi thôi.”

Kha Hợp Đài đang trên đầu tường thành cát, cùng đám người Hồi vui vẻ bàn luận về bầy sói. Nghe đại ca kêu, y quay lại hỏi:

– “Đi đâu?”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Đi tìm Trần đương gia của Hồng Hoa Hội. Nếu thi hài của họ còn sót chút nào thì chúng ta sẽ mai táng hộ, coi như tình nghĩa một phen quen biết.”

Từ khi gặp Dư Ngư Đồng và Trần Gia Lạc, Kha Hợp Đài đã đem lòng thán phục những nhân vật Hồng Hoa Hội. Nghe Tất Nhất Lôi rủ đi an táng Trần Gia Lạc, y tán đồng ngay. Tức thì bốn người xin chút ít lương khô và nước uống của người Hồi, lập tức lên ngựa chạy ngược về hướng Bắc.

Đến nửa đêm Tất Nhất Lôi muốn nghỉ ngơi một chút, nhưng Trương Triệu Trọng và Cố Kim Tiêu nhất quyết đòi đi suốt đêm cho kịp. Mặt trăng vằng vặc giữa trời, phủ ánh sáng trong trẻo xuống vùng sa mạc rõ như ban ngày vậy. Được một đoạn nữa, đột nhiên chúng thấy bên đường có bóng người thấp thoáng, rồi chui vào một cái mộ rất lớn được xây bằng đá.

Bốn người nảy dạ nghi ngờ, bèn giục ngựa đi đến trước mộ. Trương Triệu Trọng quát hỏi:

– “Ai thế?”

Hồi lâu, một người Hồi đội nón hoa thò đầu từ một cái lỗ tròn trên phần mộ ra, mỉm cười rồi đáp bằng tiếng Hán:

– “Ta là người chết ở trong mộ này.”

Bốn người không khỏi hoảng sợ, bèn hỏi:

– “Người chết thì chạy ra ngoài này làm gì?”

Y đáp:

– “Ra ngoài để tinh thần thoải mái hơn một chút.”

Tất Nhất Lôi giận dữ hỏi:

– “Người chết rồi còn đòi thoải mái nữa ư?”

Người kia bèn nói:

– “Vâng, vâng! Các vị nói rất đúng, coi như ta đã sai rồi. Xin lỗi nhé! Xin lỗi nhé!”

Rồi y rút đầu vào trong mộ.

Kha Hợp Đài cười lên ha hả. Tất Nhất Lôi giận dữ xuống ngựa, thò tay vào trong mộ muốn lôi người đó ra, nào ngờ sờ tới sờ lui cũng không chạm được vào y.

Trương Triệu Trọng nói:

– “Mặc kệ hắn! Lão huynh, chúng ta đi thôi.”

Bốn người quay đầu ngựa định đi, đột nhiên thấy một con lừa vừa nhỏ vừa gầy đang gặm cỏ bên ngôi mộ. Tất Nhất Lôi cả mừng nói:

– “Lương khô ăn ngán quá rồi, có thịt lừa mà nướng thì tuyệt. Người ta vẫn nói:

– Thiên thượng long nhục, địa hạ lư nhục. Trên trời thì ăn thịt rồng, dưới đất thì ăn thịt lừa.”

Họ Tất lập tức giục ngựa chạy tới nắm lấy dây cương đang buộc con lừa đó. Thấy mông lừa trơ trụi không có đuôi, hắn mỉm cười nói:

– “Không biết ai đã xẻo mất đuôi lừa ăn trước rồi…”

Chưa nói dứt câu, bỗng nghe soạt một tiếng, trên lưng lừa có thêm một người. Dưới ánh trăng nhìn rất rõ ràng, người này không phải ai xa lạ, chính là người vừa chui vào phần mộ. Thân pháp của y cực kỳ nhanh chóng, chỉ nháy mắt là chui ra khỏi mộ phần rồi phi thân lên lưng lừa.

Bốn người không dám khinh địch, vội cho ngựa lùi ra. Người kia cười ha hả rồi lấy trong áo ra một cái đuôi lừa, vừa phe phẩy vừa nói:

– “Cái đuôi lừa này dính nhiều đất cát quá, chẳng đẹp đẽ gì. Ta đã cắt nó ra rồi.”

Trương Triệu Trọng thấy người này râu ria đầy mặt, nói chuyện như kẻ điên khùng, không hiểu từ đâu tới mà thân pháp nhanh đến thế. Hắn bèn kéo dây cương, lén cho ngựa chạy tới bên con lừa, tay phải phóng chưởng đánh vào vai người ấy. Người kia né qua, tay trái Trương Triệu Trọng lập tức đoạt được cái đuôi lừa.

Hắn thấy đuôi lừa quả thật dính đầy bùn đất, đột nhiên cảm thấy trên đầu mát mẻ, đưa tay sờ lên thì cái nón đã biến đâu mất rồi. Quay lại nhìn thì thấy người kia đang cầm cái nón của mình, mỉm cười nói:

– “Thì ra ngươi là quan quân nhà Thanh đến đây đánh người Hồi giáo chúng ta. Cái nón này đẹp thật, đã có lông chim lại còn một hòn bi thủy tinh nữa.”

Trương Triệu Trọng vừa sợ sệt vừa giận dữ, tiện tay quăng cái đuôi lừa trả lại, người kia đưa tay chụp lấy ngay. Trương Triệu Trọng bắt chéo song chưởng, nhảy xuống ngựa hô lớn:

– “Ngươi là loại người gì? Đến đây thử một tí xem sao?”

Người đó lấy cái mũ quan của Trương Triệu Trọng chụp lên trên đầu con lừa, vỗ tay cười rộ rồi la lên:

– “Lừa ngốc đội mũ quan, lừa ngốc đội mũ quan!”

Hai chân y kẹp lại, con lừa liền chạy về phía trước. Trương Triệu Trọng chạy theo, đột nhiên nghe “vù” một tiếng, gió rít lên rất gấp. Hắn biết có ám khí vội đưa tay đón lấy, thì ra là một cục tròn tròn mát lạnh, sáng lóng lánh, đúng là hạt lam bảo thạch trên mũ quan của mình. Họ Trương lại càng giận dữ không sao nhịn nổi.

Nhưng hắn chậm lại một chút nên con lừa đã đi xa rồi, bèn nhặt một hòn đá nhắm ngay hậu tâm của người kia ném tới. Người kia hoàn toàn không tránh né, Trương Triệu Trọng cả mừng nghĩ bụng:

– “Phen này thì ngươi khổ rồi!”

Nhưng bỗng nghe một tiếng “keng”, hòn đá đó trúng vào một vật bằng sắt. Tiếng ngân vang lên không dứt, giống như tiếng thanh la não bạt gì vậy. Người kia kêu lên:

– “Trời ơi! Đánh chết cái chảo sắt của ta rồi!”

Bốn người còn ngạc nhiên nhìn nhau, người kia đã đi xa. Trương Triệu Trọng kinh hãi thóa mạ:

– “Con mẹ nó! Không biết là người hay ma đây?”

Tam ma đều lắc đầu không nói gì. Trương Triệu Trọng bèn nói:

– “Đi thôi! Xứ này thật là quỷ quái tà môn, loại quái vật gì cũng có.”

Bốn người tiếp tục cho ngựa đi gấp, giữa đường chỉ nghỉ hai giờ. Sáng sớm hôm sau chúng đã đi đến ngoài khu mê thành. Tuy đường rẽ nhiều đến kỳ lạ, nhưng phân của bầy sói rải rác dọc đường là ký hiệu tuyệt vời. Chúng cứ theo dấu phân sói mà đến trước bạch ngọc phong, ngẩng đầu lên là thấy cửa sơn động mà Trần Gia Lạc đã phá ra.

* * *

Trần Gia Lạc ngủ đến nửa đêm, tinh thần sức lực đã hồi phục. Một luồng nhỏ ánh trăng từ giữa khe núi soi xuống, cho thấy Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa đang tựa vào ghế bạch ngọc mà ngủ say sưa. Ban đêm tĩnh mịch nghe rõ cả hơi thở hai người, trong thạch thất ngập tràn mùi hương thanh thoát. Hương hoa không thể thanh nhã thế này, xạ hương lại càng không phải. Đó chính là loại hương kỳ lạ phát ra từ Hương Hương công chúa.

Trần Gia Lạc cứ nghĩ mãi:

– “Không biết ngoài kia còn bầy sói không? Ba người chúng ta có thoát hiểm được không? Hoàng đế ca ca đã thề với mình sẽ dốc sức đuổi bọn rợ Mãn Châu ra ngoài quan ải. Sau khi mình thoát hiểm, không biết ca ca có giữ lời thề hay không?”

Tiếng thở nhẹ nhàng của Hương Hương công chúa đầy vẻ an tâm khoan khoái. Trần Gia Lạc lại nghĩ:

– “Tại sao ở nơi hiểm địa thế này mà nàng an tâm như vậy? Dĩ nhiên vì nàng tin tưởng mình có thể dẫn nàng ra khỏi nơi nguy hiểm. Vậy mình càng phải thương yêu bảo vệ nàng hơn nữa.”

“Tự đáy lòng thì mình thật sự yêu ai?” Câu hỏi này mấy ngày nay không giây phút nào không quanh quẩn trong lòng Trần Gia Lạc. Chàng lại nghĩ:

– “Thế thì ai mới là người thật sự yêu mình? Nếu mình chết, nhất định Kha Tư Lệ không sống được nữa, còn Hoắc Thanh Đồng thì có thể. Nhưng chuyện đó không chứng tỏ Kha Tư Lệ yêu mình hơn…”

“Lúc mình tỉ võ với bốn huynh đệ Cốt Luân, Hoắc Thanh Đồng cố gắng khuyên ngăn, lo lắng rầu rĩ vì mình. Còn muội muội của nàng vẫn thản nhiên, vì tin chắc rằng mình sẽ thắng. Hôm gặp Trương Triệu Trọng, Kha Tư Lệ cũng mỉm cười bảo mình đánh ngã hắn trước rồi sẽ cùng đi. Nàng tưởng mình là người có bản lãnh tuyệt vời nhất trong thiên hạ… Nếu ta thân mật với Hoắc Thanh Đồng, chắc chắn Kha Tư Lệ phải đau lòng mà chết. Tấm lòng của nàng lương thiện chất phác như thế, chẳng lẽ mình có thể không thương mến hay sao?”

Chàng không nén nổi chua xót, lại nghĩ:

– “Mình với Kha Tư Lệ đã từng nói rõ ràng: nàng yêu mình, mình yêu nàng. Còn Hoắc Thanh Đồng thì sao mình chưa từng nói đến chuyện đó? Hoắc Thanh Đồng tài giỏi như thế, mình kính trọng nàng, thậm chí có phần kiêng nể. Bất luận nàng bảo mình làm việc gì, chắc chắn mình sẽ đi làm. Còn Kha Tư Lệ thì sao? Nếu nàng bắt mình chết, chẳng lẽ mình không hoan hỉ mà chết vì nàng? Thế thì mình có yêu Hoắc Thanh Đồng hay không? Ôi, thật sự chính mình cũng không hiểu được bản thân. Hoắc Thanh Đồng là một cô gái thông minh tài giỏi, đối với mình lại tình sâu nghĩa nặng. Nàng thổ huyết sinh bệnh suýt nữa mất mạng, có phải vì mình hay không? Một cô vừa khả kính vừa đa tình, còn một cô vừa khả ái vừa thân thiết. Thật khó mà so sánh được.”

Lúc này luồng sáng soi đúng vào khuôn mặt Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc thấy dung nhan nàng tiều tụy, dưới ánh trăng càng lộ vẻ xanh xao, thầm nghĩ:

– “Tuy chúng ta lâu nay chưa từng thổ lộ tình cảm, nhưng mình đã xiêu lòng vì cô ấy rồi. Chỉ vì Lý Nguyên Chỉ cải nam trang phá rối mà tình cảm của mình có phần thay đổi. Mình bôn ba vạn dặm chạy đến đây để báo tin, không phải vì yêu nàng hay sao? Nàng tặng đoản kiếm cho mình, chẳng lẽ chỉ vì báo đáp cái ơn đoạt lại thánh kinh? Chúng ta chưa nói chữ nào, nhưng chẳng khác gì từng nói thiên ngôn vạn ngữ.”

“Ngày sau khởi sự quang phục nhà Hán, không biết sẽ có bao nhiêu chuyện gian nan phức tạp đổ lên vai mình. Mưu lược của Hoắc Thanh Đồng hơn hẳn Thất ca, nếu được nàng giúp một tay, chắc chắn sẽ ích lợi rất nhiều, nhưng… Ôi, chẳng lẽ tận đáy lòng mình không thích vì nàng quá tài giỏi hay sao? Đúng vậy! Mình trọng nàng nhiều hơn là yêu nàng, thậm chí có phần sợ hãi nàng.”

Nghĩ đến đây, chàng đột nhiên kinh hãi la thầm:

– “Trần Gia Lạc ơi là Trần Gia Lạc! Chẳng lẽ bụng dạ ngươi lại hẹp hòi đến thế?”

Hơn nửa giờ sau, ánh trăng từ từ di chuyển đến người Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc tự nhủ:

– “Ở bên Kha Tư Lệ, mình chỉ biết vui vẻ, vui vẻ, vui vẻ… Ngày động thủ với Lý Nguyên Chỉ ở Tam Đàm Ấn Nguyệt trên Tây Hồ, rõ ràng mình đã biết cô ấy là nữ nhân. Nhưng sau này mình lại say mê Kha Tư Lệ, say mê đến nỗi chưa hề tự kiềm chế tình cảm của mình, chưa hề nghĩ đến việc có lỗi với Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc ơi là Trần Gia Lạc! Đúng là ngươi bạc nghĩa vô tình, có mới nới cũ. Đừng tự bênh vực cho mình nữa.”

Chàng cứ giương to mắt mà nhìn ánh trăng trên đỉnh đầu rọi xuống. Rất lâu sau, ánh trăng từ từ nhạt dần, rồi nắng mai bắt đầu chiếu xiên vào thạch thất, gian phòng sáng dần lên. Hương Hương công chúa ngáp một cái rồi tỉnh dậy, đôi mắt còn nửa nhắm nửa mở đã nhìn chàng nhoẻn một nụ cười, khuôn mặt trông như một đóa hoa tươi mới nở.

Nàng từ từ ngồi dậy, đột nhiên kinh hãi nói:

– “Huynh nghe xem!”

Từ bên ngoài đường hầm bỗng vọng vào tiếng bước chân nhẹ nhàng của mấy người. Nơi này là cố cung, cả ngàn năm không ai qua lại, chẳng lẽ có ma thật hay sao?

Tiếng bước chân càng lúc càng gần. Tuy khoảng cách khá xa, nhưng không gian cực kỳ vắng lặng nên mỗi bước đều nghe rất rõ ràng. Hai người không khỏi dựng tóc gáy lên. Trần Gia Lạc lay khẽ Hoắc Thanh Đồng, nàng choàng tỉnh khỏi cơn mơ rồi cả ba liền chạy ra ngoài.

Ra tới đại điện, Trần Gia Lạc nhặt lấy ba thanh kiếm ngọc, đưa mỗi cô một thanh rồi nói nhỏ:

– “Đồ ngọc có thể tránh tà.”

Lúc này, tiếng bước chân đã tới ngoài điện. Ba người tìm chỗ nấp kín, không dám động đậy. Ánh lửa nhấp nháy, rồi có bốn người đi vào. Hai người cầm đuốc đi đầu là Trương Triệu Trọng và Cố Kim Tiêu.

Đột nhiên nghe những tiếng keng keng, binh khí bốn người bọn Trương Triệu Trọng đều vuột khỏi tay, rơi xuống đất. Độc cước đồng nhân của Tất Nhất Lôi có lõi bằng thép nên cũng rơi đánh ầm một tiếng, mười hai mũi phi tiêu trong túi đựng ám khí của hắn bay hết ra ngoài.

Trần Gia Lạc biết cơ hội này không thể bỏ qua. Nhân lúc chúng ngơ ngác kinh hoàng không biết làm gì, chàng hét lên một tiếng, tay cầm ngọc kiếm từ chỗ nấp nhảy xổ ra ngoài, xuất liền hai chiêu đánh rơi hai ngọn đuốc trên tay của Trương và Cố. Trong đại điện lập tức tối om.

Trương Triệu Trọng vội bắt chéo song chưởng trước ngực để hộ thân, xoay người lại chạy ra ngoài. Quan Đông tam ma cũng chạy theo. Nghe một tiếng “bịch”, rồi một tiếng “úi chà”, không hiểu tên nào đã va đầu rất mạnh vào đá.

Tiếng chân bốn người chạy xa dần. Hoắc Thanh Đồng bỗng la lên một tiếng, vội nói:

– “Hỏng rồi! Đuổi theo nhanh lên.”

Trần Gia Lạc hiểu ngay, đưa tay dò dẫm tìm đường để đuổi. Nhưng chàng chưa đi hết con đường hầm thì đã nghe thấy tiếng ken két vọng đến, sau đó là một tiếng “ầm”, cánh cửa đá đã bị đóng rồi. Trần Gia Lạc bay người phóng tới, nhưng đã trễ mất một bước.

Phía sau cánh cửa này phẳng lì, hoàn toàn không có chỗ đặt tay để kéo. Thế là không mở được nữa.

Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa cũng đã chạy tới. Trần Gia Lạc quay lại nhặt một khúc gỗ đốt lên chiếu sáng, thấy trên cửa đá đầy vết tích đao búa. Nhìn đống hài cốt dưới đất thì biết họ đã cố gắng phá cửa một cách vô vọng cho đến phút cuối cùng. Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Thế là hết!”

Hương Hương công chúa nắm tay chị dỗ dành:

– “Tỉ tỉ đừng sợ.”

Trần Gia Lạc gượng cười rồi nói:

– “Bất quá thì ba người chúng ta cùng chết ở đây là xong.”

Không biết tại sao, trong lòng chàng đột nhiên nhẹ nhõm, hình như một vấn đề khó khăn vừa được giải tỏa, một gánh nặng vừa được cất đi Chàng nhặt một cái đầu lâu ở dưới đất lên, nói đùa:

– “Lão huynh! Thế là huynh có thêm ba người bạn mới.”

Hương Hương công chúa cười khúc khích. Hoắc Thanh Đồng nhìn hai người một lúc, hồi lâu mới nói:

– “Chúng ta về ngọc thất đi, bình tĩnh suy nghĩ một chút.”

Ba người trở về ngọc thất. Hoắc Thanh Đồng nằm rạp xuống đất để cầu nguyện, rồi lại lấy bức mật thư ra xem xét tỉ mỉ bản đồ, chăm chú suy nghĩ.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ở nơi tuyệt địa thế này, muốn thoát thì phải có cứu binh từ bên ngoài đến, hoặc bọn Trương Triệu Trọng đổi ý mà quay lại bắt mình. Ngoại viện thì không thể tìm đến chỗ bí ẩn này, còn bọn Trương Triệu Trọng thì vừa hoảng sợ tới cực độ, mười phần chắc chín là chúng không dám mạo hiểm vào trong nữa.”

Hương Hương công chúa đột nhiên thấy mệt, bèn ngồi tựa vào một cái ghế ngọc mà ca hát dịu dàng. Hoắc Thanh Đồng như hoàn toàn không nghe tiếng hát, hai tay cứ ôm chặt lấy đầu mà nhăn mặt chau mày.

Một lúc sau, Hương Hương công chúa dừng lại không hát nữa, cất tiếng gọi:

– “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ nghỉ một chút đi.”

Nàng đứng dậy đi đến chỗ chiếc giường bằng ngọc, nói với đống xương khô đang nằm trên giường:

– “Xin lỗi nhé! Cảm phiền nằm nhích qua một chút, để tỉ tỉ ta có chỗ nghỉ ngơi.”

Nàng nhẹ nhàng đẩy đống xương khô đó dồn qua một bên góc giường. Đột nhiên nàng ủa một tiếng, nhặt một vật lên rồi hỏi:

– “Đây là cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng đến gần xem, thấy đó là một quyển sổ da cừu, cũ kỹ đến mức đen kịt lại, quanh viền hơi bị mốc. Dưới ánh sáng nàng nhìn rõ quyển sổ này viết đầy chữ, đều là chữ Hồi thời xưa.

Thời gian làm da dê sẫm màu đi, nhưng chữ viết lại càng sẫm hơn nên vẫn có thể đọc được. Hoắc Thanh Đồng lật vài trang xem thử, rồi chỉ vào đống hài cốt trên giường mà nói:

– “Cuốn sổ này là do cô ấy viết bằng máu trước khi chết. Cô ấy tên là Mã Mễ Nhi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Mã Mễ Nhi ư?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Mã Mễ Nhi có nghĩa là tuyệt sắc. Mỹ nhân được vẽ trên ngọc bình chính là cô ấy. Người Hồi bọn muội thường vẽ hình cô ấy trên bích họa, thêu trên thảm. Ai cũng nói muội có phần giống cô ấy. Mã Mễ Nhi là nữ anh hùng vĩ đại nhất của Hồi tộc.”

Hoắc Thanh Đồng bỏ quyển sổ da cừu xuống, lại xem xét tấm bản đồ tỉ mỉ. Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chẳng lẽ trên bản đồ có vẽ đường đi ra ngoài hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Hình như có một con đường bí mật nào đó, nhưng muội nghĩ không ra.”

Trần Gia Lạc thở ra một hơi, rồi bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội đọc lá thư tuyệt mệnh của cô nương này cho huynh nghe được không?”

Hương Hương công chúa khe khẽ gật đầu, cầm sách lên đọc:

– “Trong thành này hàng vạn người đã chết cả rồi. Bạo chúa cùng bọn vệ binh ở Thần Phong đã chết hết, những dũng sĩ Islam cũng đã chết hết. A Lý của ta đã đến chỗ chân thánh A-la, Mã Mễ Nhi của chàng cũng sắp theo chàng. Ta chép câu chuyện này vào đây, để con cháu sau này của chân thánh A-la được biết, bất kể thắng hay bại thì những dũng sĩ Islam cũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, không bao giờ khuất phục.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thì ra vị cô nương này không những xinh đẹp mà còn dũng cảm.”

Hương Hương công chúa đọc tiếp:

– “Bạo chúa Long A đã áp bức chúng ta bốn chục năm trời. Trong bốn chục năm, hắn đã trưng dụng hàng ngàn hàng vạn dân chúng để xây tòa mê cung này, đục đẽo một cung điện nguy nga giữa ngọn thần phong. Số dân chúng này đều bị hắn giết sạch. Sau khi hắn chết, con trai của hắn là Sang La Ba còn hung ác hơn rất nhiều. Giáo đồ Islam nuôi mười con cừu thì phải cống nạp bốn, nuôi năm con lạc đà thì mỗi năm bị hắn cướp hai con. Chúng ta cứ năm sau nghèo hơn năm trước. Con gái nhà ai đẹp đẽ đều bị hắn bắt vào Mê Thành. Đã vào Mê Thành rồi thì không có cô nào sống sót trở ra.”

“Chúng ta là con cháu anh hùng của thánh giáo Muslim, có để yên cho bọn dị giáo áp bức hay không? Đương nhiên là không. Trong vòng hai mươi năm, quân ta đã năm lần tấn công vào Mê Thành, nhưng vì không biết đường đi nước bước nên không thể thoát ra. Có hai lần họ tấn công vào tới Thần Phong, nhưng không biết bị bạo chúa Sang La Ba sử dụng yêu thuật gì mà đoạt hết đao kiếm, rồi cuối cùng bị vệ sĩ của hắn giết không sót người nào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đó chính là do sức của từ thạch ở dưới đại điện.”

Hương Hương công chúa gật đầu, tiếp tục đọc:

– “Năm đó ta vừa tròn mười tám tuổi. Phụ thân cùng thân mẫu ta đã bị thủ hạ của Sang La Ba giết chết. Ca ca của ta là tộc trưởng của giáo đồ Islam. Mùa xuân năm đó ta quen A Lý. Chàng là đệ nhất anh hùng trong bộ tộc, từng giết ba con cọp trắng. Bầy sói nhìn thấy chàng là bỏ chạy tán loạn, lũ chim ưng trên đỉnh Thiên Sơn hoảng sợ khôngdám đến gần chàng. Sức lực của chàng sánh ngang với mười trang hảo hán, không, phải sánh ngang với cả trăm người. Mắt của chàng dịu dàng như mắt nai, thân thể của chàng tráng kiện đẹp đẽ như đóa hoa tươi, oai vũ của chàng ghê gớm như những cơn bão trong sa mạc…”

Trần Gia Lạc cười nói:

– “Vị cô nương này đúng là thích khoe khoang, diễn tả người trong mộng bằng những lời hay ho như thế.”

Hương Hương công chúa liếc chàng một cái rồi nói rất nghiêm trang:

– “Sao lại nói cô ấy khoe khoang? Chẳng lẽ không có người nào như thế hay sao?”

Rồi nàng lại đọc tiếp:

– “A Lý đến lều của ta, cùng ca ca bàn cách tấn công vào Mê Thành. Chàng đã tìm được một quyển sách bằng thẻ tre của người Hán, đọc kỹ một năm trời, nghiền ngẫm ra đạo lý của võ công, dù tay không đao kiếm vẫn có thể đánh chết bọn võ sĩ của Sang La Ba. Chàng triệu tập năm trăm dũng sĩ, đem đạo lý đó dạy cho họ. Họ đã luyện tập được một năm rồi. Lúc này ta đã thuộc về A Lý. Lần đầu tiên nhìn thấy chàng, ta đã thuộc về chàng ngay. Chàng là trái tìm của ta, là máu của ta, là dung mạo của ta. Chàng nói với ta, vừa gặp ta là chàng biết ngay phen này có thể đánh thắng.”

“Họ đã luyện xong võ công, nhưng không biết đường đi vào Mê Thành, lại càng không biết những bí mật trong lòng Thần Phong. A Lý và ca ca đã bàn bạc mười ngày mười đêm vẫn không tìm ra biện pháp. Người bên ngoài vừa vào Mê Thành là bị giết ngay, không ai sống sót trở ra. Mọi người cùng bàn bạc mười ngày mười đêm nữa vẫn không có cách. Bản lãnh hơn nữa, dũng cảm hơn nữa cũng không vào được Mê Thành. Mọi người chỉ biết nói suông thôi.”

“Lúc đó ta nói:

– “Ca ca, để muội đi.”

Họ đều biết ta muốn làm gì. A Lý là dũng sĩ vĩ đại nhất, nhưng chàng cũng chảy nước mắt. Ta bèn dắt một trăm con cừu đến chăn thả ngoài Mê Thành. Đến sáng sớm ngày thứ tư, thủ hạ của Sang La Ba bắt ta vào trong thành, đem dâng cho hắn. Ta khóc ba ngày ba đêm rồi mới chịu thuần phục. Hắn rất thích ta, ta muốn cái gì là cho ngay cái đó.”

Nghe đến đây, Trần Gia Lạc không khỏi đem lòng kính nể vị cô nương thời xưa này. Chàng nghĩ:

– “Một cô nương mười tám tuổi mà có thể hy sinh bản thân mình, đã là cao quý lắm rồi. Cô ấy lại còn có thể hy sinh tình yêu cao đẹp của mình, đúng là không ai bì được.”

Hương Hương công chúa lại tiếp tục đọc:

– “Lúc đầu Sang La Ba không cho ta rời khỏi phòng nửa bước, càng ngày hắn càng thích ta hơn. Ngày nào ta cũng nhớ đến những người cùng bộ tộc, nghĩ đến những bài hát khi chăn dê chăn cừu ở thảo nguyên rộng lớn trong những tháng ngày hạnh phúc. Ta nhớ nhất là A Lý của mình. Sang La Ba thấy ta càng ngày càng tiều tụy, hỏi ta muốn gì. Ta nói muốn ra ngoài vui chơi một chút, hắn nổi giận tát vào mặt ta. Sau đó ta không nói chuyện với hắn bảy ngày bảy đêm, không cười với hắn bảy ngày bảy đêm. Đến sáng ngày thứ tám, hắn phải dẫn ta ra ngoài. Rồi cứ ba ngày hắn lại dẫn ta ra ngoài một lần. Ban đầu còn đi dạo ở các nơi trong Mê Thành, cuối cùng đã dẫn ta đến tận cửa ra vào Mê Thành. Ta ghi nhớ rõ ràng, hiểu ra đường đi trong Mê Thành bố trí theo quy tắc Tả tam hữu nhị. Cuối cùng thì ta nhắm mắt vẫn có thể đi lại trong Mê Thành, không sợ lạc đường nữa. Nửa năm sau đó ta cứ nghĩ đến ca ca và A Lý, nhất định họ chờ đợi đến sốt ruột mà không sao biết được bí mật của Thần Phong.”

Về sau trong bụng ta đã có một đứa bé, đó là nghiệt chủng của Sang La Ba. Hắn rất vui mừng, còn ta thì uất hận khóc lóc mỗi ngày. Hắn hỏi tại sao, ta nói:

– “Ta đã có con cho ông, nhưng ông chẳng yêu ta chút nào.”

Hắn hỏi:

– “Sao lại nói ta không yêu cô? Cô muốn cái gì mà ta không cho được? Cô thích san hô đỏ dưới bể, hay lam bảo thạch ở phương nam, ta cũng cho cô hết.”

Ta nói:

– “Ông có một cái hồ phỉ thúy, người đẹp được tắm trong hồ này thì đẹp thêm, người xấu tắm xong sẽ xấu hơn, thế mà không cho ta đến.”

Mặt hắn trắng bệch như tờ giấy, run giọng hỏi ta:

– “Ai nói vậy?”

Ta gạt hắn, nói là ta nằm mơ thấy thần tiên nói cho mình biết.”

“Thật ra ta cũng không biết hắn có hồ phỉ thúy hay không, nhưng những nữ nhân trong cung đều lén kể như vậy. Xưa nay Sang La Ba không cho phép ai nhìn thấy cái hồ đó, nhắc tới cũng không được. Hắn nói:

– “Muốn tắm thì cũng được, nhưng bất luận là ai đã thấy cái hồ này đều phải bị cắt đầu lưỡi để khỏi tiết lộ bí mật này ra. Đó là quy luật tổ tông truyền lại.”

Hắn năn nỉ ta đừng đi, nhưng ta nhất định đòi đi. Ta nói:

– “Nhất định là ông thấy ta xấu xí. Ông sợ ta tắm vào hồ phỉ thúy sẽ càng xấu hơn, có phải vậy không?”

Từ đó ta không nói chuyện với hắn nữa, không cười với hắn nữa, cuối cùng hắn phải dẫn ta đi.”

“Đi tới hồ phỉ thúy phải băng qua cung điện trong Thần Phong. Ta giấu trong người một con dao nhỏ, định tới hồ phỉ thúy sẽ giết hắn. Trong cung này, bất cứ chỗ nào cũng có vệ sĩ hung dữ canh gác, chỉ ở bên hồ phỉ thúy là không có người nào. Nhưng con dao nhỏ này đã bị từ thạch ở dưới nền đại điện hút mất. Sau khi tắm xong, không biết ta có xinh đẹp hơn thật không, nhưng hắn lại yêu ta thêm nữa. Tuy thế hắn vẫn cắt đi một khúc đầu lưỡi của ta, sợ ta đem bí mật này kể ra ngoài. Ta không chết, ít lâu sau thì vết thương lành hẳn.”

“Thế là ta đã biết tất cả, nhưng không có cách nào để nói cho ca ca và A Lý nghe. Ngày đêm ta cầu xin chân thánh, cuối cùng thì chân thánh cũng nghe thấy lời cầu nguyện của người con gái đáng thương mà ban cho trí tuệ. Sang La Ba có một thanh đoản kiếm quý báu, đeo bên mình không lúc nào rời. Đoản kiếm này có hai lần vỏ, lớp vỏ bên trong trông như một lưỡi kiếm vậy. Ta xin hắn, hắn cho ta. Ta ghi lại đường đi vào mê cung, lại vẽ bản đồ Mê Thành, vẽ tỉ mỉ tất cả đường đi lối lại lên một tờ giấy. Rồi ta vò tờ giấy đó trong một viên hoàn bằng sáp, giấu vào trong lớp vỏ kiếm thứ hai. Sau khi sinh con được ba tháng, hắn dẫn ta ra ngoài săn bắn. Thừa lúc không ai nhìn thấy, ta ném thanh đoản kiếm ở bên hồ Đằng Bạc, ngoài Mê Thành. Sau khi trở về, ta thả rất nhiều chim ưng ra ngoài. Trên chân mỗi con chim ưng đều viết ba chữ Đằng Bạc Hồ.”

Hoắc Thanh Đồng đã để mật thư xuống tự lúc nào, chăm chú nghe muội muội đọc quyển sổ cũ đó.

“Có mấy con chim ưng đã bị tay chân của Sang La Ba bắn rơi. Chúng nhìn thấy ba chữ Đằng Bạc Hồ, nhưng nghĩ hồ Đằng Bạc rất nổi tiếng, đứa trẻ nào ở sa mạc cũng biết, nên không nghi ngờ gì cả. Trong số rất nhiều chim ưng đó, nhất định sẽ có con bị người Hồi tộc chúng ta bắt được. Ca ca và A Lý nhất định sẽ đến vùng hồ Đằng Bạc tìm kiếm tỉ mỉ, lúc đó sẽ biết đường vào Mê Thành.”

“Than ôi! Tuy họ đã tìm được thanh đoản kiếm, nhưng lại không tìm ra bí mất giấu trong kiếm, vì không biết thanh kiếm đó có hai lần vỏ. Ca ca và A Lý tưởng ta gửi thanh kiếm là có ý bảo họ mau giết bạo chúa Sang La Ba, nên họ liền tấn công vào. Đa số dũng sĩ đều bị lạc đường, vòng qua vòng lại, vĩnh viễn không ra ngoài được nữa. Ca ca của ta, ca ca có sức mạnh bằng hai con lạc đà, đã bị lạc như thế. A Lý và những dũng sĩ khác đã bắt được một bộ hạ của Sang La Ba, buộc hắn dẫn đường, tấn công vào trong lòng Thần Phong. Tới đại điện thì đao kiếm của các dũng sĩ đều bị từ thạch hút mất hết. Còn võ sĩ của Sang La Ba thì dùng đao kiếm bằng ngọc mà chém giết họ. May mà các dũng sĩ đã được A Lý dạy cho bản lãnh, tay không nhưng vẫn có thể bắt quân thù chết theo mình. Đám võ sĩ và dũng sĩ đều chết sạch. Sang La Ba bị A Lý truy đuổi rất gắt, bèn chạy vào thạch thất, Hắn muốn dẫn ta tới hồ phỉ thúy để trốn ra ngoài…”

Hoắc Thanh Đồng bỗng nhảy chồm lên, la lớn:

– “Ái chà! Họ có thể từ hồ phỉ thúy mà thoát ra ngoài.”

Hương Hương công chúa đọc tiếp:

– “A Lý đuổi theo đến đây. Ta và chàng nhìn thấy nhau đều không kiềm chế nổi, xông tới ôm chặt lấy nhau. Chàng gọi ta bằng những cái tên êm ái dễ nghe. Lưỡi của ta đã mất đi một khúc, không thể nói thành tiếng được, nhưng chàng vẫn hiểu được tiếng nói từ đáy lòng ta. Đột nhiên tên Sang La Ba đê tiện, tên Sang La Ba ác ôn, còn ác ôn hơn ngàn con ma quỉ, vạn con ma quỉ, từ phía sau dùng búa…”

Hương Hương công chúa đọc đến đây bất giác thét lên một tiếng, buông quyển sổ da cừu rơi xuống giường, mặt đầy vẻ kinh hoàng. Hoắc Thanh Đồng xoa nhẹ vai nàng, rồi nhặt quyển sách cổ đó lên đọc tiếp giúp nàng:

–  “… từ phía sau dùng búa chém đầu A Lý của ta thành hai mảnh, máu của chàng xối tràn lên người ta. Sang La Ba bế đứa con trên giường đặt vào tay ta, gọi:

– “Đi thôi!”

Ta nhấc đứa nghiệt chủng đó lên, dùng sức ném xuống đất, nó chết ngay trên vũng máu tươi của A Lý. Sang La Ba thấy ta ném chết con của chính mình, kinh hãi đứng sững ở đó. Rồi hắn vung cây búa vàng lên, ta vươn dài cổ ra cho hắn chém. Nhưng hắn chỉ thở dài rồi chạy ra ngoài.”

“A Lý đã được tới bên mình chân thánh, ta cũng đi theo chàng. Dũng sĩ của chúng ta chết rất nhiều, nhưng võ sĩ của Sang La Ba đã bị giết sạch cả rồi. Nhất định hắn không thể sống được nữa. Hắn vĩnh viễn không thể áp bức giáo đồ Islam chúng ta được nữa. Con trai của hắn bị ta ném chết rồi, thế là dòng dõi của hắn không thể bức hiếp chúng ta được nữa, vì hắn không còn dòng dõi. Từ nay về sau, người Hồi chúng ta có thể sống trên thảo nguyên bình yên hạnh phúc. Những cô nương trẻ tuổi có thể nằm trong lòng người yêu mà ca hát. Ca ca của ta, A Lý của ta, cả ta đều phải chết, nhưng chúng ta đã đánh bại tên bạo chúa này. Dù cho thành trì của bạo chúa có chắc chắn gấp mười, chúng ta vẫn có thể tấn công tiêu diệt. Mong rằng chân thánh A-la sẽ phù hộ người Hồi tộc chúng ta.”

Đọc đến chữ cuối cùng, Hoắc Thanh Đồng từ từ xếp quyển sách cổ này lại. Ba người đều bị lòng dũng cảm và trinh liệt của Mã Mễ Nhi làm chấn động, rất lâu không ai nói được gì. Hương Hương công chúa tuôn nước mắt, buông lời than thở:

– “Vì không chịu để mọi người bị bạo chúa hà hiếp, nàng đã chịu vĩnh biệt người yêu, chịu cắt đứt đầu lưỡi, lại còn chính tay ném chết con mình.”

Trần Gia Lạc bất giác toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm:

– “Nghĩ tới vị cô nương thời cổ này, ta thật sự hổ thẹn vô cùng. Ta phải gánh vác đại nghiệp quang phục giang sơn người Hán, thế mà trong lòng chỉ nghĩ đến chuyện tình cảm của bản thân. Ta không lo dốc sức đuổi bọn man rợ ra ngoài quan ải để lấy lại giang sơn, lại ở đây lo suy nghĩ yêu tỉ tỉ hay yêu muội muội… Vì dũng khí bồng bột nhất thời mà ta đích thân đưa Kha Tư Lệ vào doanh trại quân Thanh, không nghĩ đến nếu mình gặp chuyện không may thì hỏng mất đại sự quang phục nhà Hán. Hôm nay bị giam vào lòng núi, ta chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng làm sao xứng với ngàn vạn huynh đệ Hồng Hoa Hội, làm sao xứng với vô số phụ lão, huynh đệ, tỉ muội đang chịu cực khổ dưới gót sắt của quân thù?”

Chàng càng hối hận càng khó chịu, mồ hôi lạnh từ trên trán từng giọt rơi xuống. Hương Hương công chúa thấy thần sắc của chàng khác lạ, vội lấy khăn tay ra lau giúp mồ hôi. Trần Gia Lạc bất giác gạt tay nàng, đẩy cái khăn ra.

Thấy người yêu đột nhiên ra vẻ chán ghét mình, Hương Hương công chúa ngơ ngác chẳng hiểu gì. Trần Gia Lạc định thần lại, nhận lấy chiếc khăn của nàng mà lau mồ hôi, trong lòng đã có chủ ý:

– “Trước khi hoàn thành sự nghiệp quang phục nhà Hán, ta quyết không nghĩ đến chuyện tình duyên nữa. Hai cô gái này từ nay về sau đều là hảo bằng hữu của ta, là hảo muội muội của ta.”

Chàng rút thanh đoản kiếm ra cắm lên cái bàn tròn trước mặt, lập tức cảm thấy sảng khoái, bao nhiêu phiền não mấy ngày nay hoàn toàn sạch hẳn. Thấy thần sắc chàng lại vui vẻ, Hương Hương công chúa yên tâm hơn một chút.

Tất cả những chuyện đó, hình như Hoắc Thanh Đồng không nghe thấy, không nhìn thấy. Nàng vẫn chăm chú đọc những dòng chữ nhỏ xíu và bản đồ trên tờ giấy, vừa nghiền ngẫm hồi lâu vừa lẩm bẩm ngắt quãng:

– “Rõ ràng gian ngọc thất này đã là chỗ tận cùng, không có đường đi nữa… Thế mà di thư lại nói, Sang La Ba đến ngọc thất này bảo cô ta chạy ra hồ phỉ thúy… Về sau Sang La Ba không chạy trốn, mà vòng ra ngoài đánh trở về. Nhất định là hắn vừa dũng cảm vừa thần lực hơn người, đám dũng sĩ Islam không cản nổi nên bị hắn hất vào sau cửa đá, nhốt trong đó cho đến chết… Bản đồ có vẽ một con đường hầm đi đến bên hồ…”

Trần Gia Lạc không bị tình yêu và dục vọng chi phối nữa, đầu óc lập tức sáng suốt hẳn ra. Chàng kêu lên:

– “Nếu có đường thông đạo, nhất định phải ở trong gian ngọc thất này.”

Chàng nhớ tới vụ cứu Văn Thái Lai ra khỏi phủ đề đốc tại Hàng Châu, Trương Triệu Trọng từng trốn qua một cái cửa bí mật ở trên tường. Ba người bèn đốt lửa lên tìm kiếm tỉ mỉ ở trên vách ngọc thất, xem thử có khe hở nào không. Soi khắp bốn phía cả trên lẫn dưới vẫn không phát hiện được gì. Hoắc Thanh Đồng kiểm tra tỉ mỉ chiếc giường bằng ngọc cũng không thấy gì khác lạ.

Trần Gia Lạc nghĩ đến vụ Văn Thái Lai bị bắt trong Thiết Đảm Trang, lại kêu lên:

– “Chẳng lẽ dưới cái bàn này có đường hầm hay sao?”

Chàng vận nội lực toan nhấc cái bàn đá lên, nhưng không thấy động đậy bèn mừng rỡ nói:

– “Nhất định cái bàn này có chỗ kỳ quái.”

Với nội lực của chàng mà hết sức nhấc lên, dù cái bàn này nặng tới ngàn cân cũng phải nhúc nhích mới đúng. Nhưng dù đẩy ngang kéo thẳng thế nào, cái bàn đá này cũng lì ra đó, cứ như chân bàn đã dính chặt xuống nền phòng.

Hoắc Thanh Đồng cả mừng cầm đuốc soi xuống chân bàn để kiểm tra, rồi lập tức thất vọng. Thì ra đúng là chân bàn dính chặt xuống nền phòng. Cái bàn tròn này được chạm trổ từ nguyên khối ngọc thạch liền với nền đá, dĩ nhiên không di chuyển được.

Ba người vất vả nửa ngày hoàn toàn vô ích, bụng đã đói meo. Hương Hương công chúa lấy thịt dê ướp và lương khô ra, mọi người ăn một chút rồi ngồi tựa vào ghế mà nghỉ sức dưỡng thần.

Nửa giờ sau, luồng ánh sáng mặt trời rọi đúng vào mặt bàn. Hương Hương công chúa bỗng nói:

– “Úi chà! Trên cái bàn này có chạm trổ hoa văn.”

Nàng tới gần xem kỹ, thì ra mặt bàn có khắc một bầy lạc đà có cánh. Hoa văn cực nhuyễn, nếu ánh nắng không rọi thẳng vào thì không thể nhìn thấy được. Hình chạm trổ rất công phu nhưng có vẻ lệch lạc, đầu con lạc đà nào cũng cách thân mình tới hơn một thước. Nàng nhìn thấy không hài lòng, bèn nắm lấy cạnh bàn định xoay từ bên phải sang bên trái cho khớp vào nhau, không ngờ xoay được. Thì ra viền ngoài cái bàn tròn không dính liền vào phần giữa.

Hương Hương công chúa xoay chừng một tấc thì không thấy nhúc nhích nữa. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng phải hợp sức mới từ từ xoay được cho hoa văn điêu khắc ở viền ngoài và trung tâm trùng khít vào nhau. Khi đầu và mình đám lạc đà vừa nhập lại thành một, bỗng nghe tiếng lách cách. Trên cái giường ngọc xuất hiện một lỗ lớn, bên dưới là những bậc đá dẫn xuống.

Ba người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cùng lên tiếng hoan hô. Trần Gia Lạc cầm đuốc bước xuống, hai cô gái theo sau. Qua bốn năm khúc quanh, đi thêm mười mấy trượng nữa đột nhiên thấy trước mặt sáng bừng, tới một vùng đất bằng phẳng rộng lớn, chung quanh núi non vây bọc như một cái chảo. Chính giữa lòng chảo có một hồ nước êm ả, xanh như phỉ thúy. Cái hồ hình tròn này đã ngàn năm mà không khô cạn, có lẽ dưới đáy hồ phải có nguồn nước chảy vào.

Nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ đẹp đẽ này, ba người đều hoan hỉ. Hoắc Thanh Đồng mỉm cười nói:

– “Kha Tư Lệ! Di thư có nói, mỹ nhân mà tắm trong hồ này sẽ càng diễm lệ hơn. Muội muội xuống tắm một chút đi.”

Hương Hương công chúa đỏ mặt lên đáp:

– “Tỉ tỉ lớn tuổi hơn thì tắm trước đi.”

Hoắc Thanh Đồng cười:

– “Ái chà! Tỉ tỉ xấu xí thế này, tắm chỉ tổ xấu thêm.”

Hương Hương công chúa quay lại gọi Trần Gia Lạc:

– “Huynh mau mau xử lý công bằng! Tỉ tỉ nói là mình không đẹp, nhất định là có ý trêu ghẹo muội.”

Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Kha Tư Lệ! Rốt cuộc thì muội có tắm hay không?”

Hương Hương công chúa lắc đầu.

Hoắc Thanh Đồng đi đến bên hồ, chưa chạm vào nước đã thấy mát tới tận xương. Nàng vốc một chút nước lên, thấy trong sạch vô cùng, không có chút rong rêu hay đất cát gì cả. Thì ra bốn phía bờ hồ đều là ngọc phỉ thúy, nên nước trong hồ ánh màu xanh biếc, uống vào một hớp là ngọt ngào mát lạnh từ miệng xuống tận tâm can.

Ba người uống đến no, rồi ngồi nhìn ngọc phong trắng muốt ánh xuống nước hồ xanh bích. Trong trắng có xanh, trong xanh hiện trắng, màu sắc thanh nhã phi thường. Hương Hương công chúa cứ đưa tay nghịch nước, không muốn rời khỏi.

Hoắc Thanh Đồng lên tiếng:

– “Bây giờ phải nghĩ cách tránh xa bốn con quỉ kia.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Trước tiên chúng ta hãy đem hài cốt của Mã Mễ Nhi an táng ở cạnh hồ này, có được không?”

Hương Hương công chúa vỗ tay khen hay, lại nói:

– “Tốt nhất là đem hài cốt của A Lý chôn cùng cô ấy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Chắc chắn bộ hài cốt trong góc ngọc thất là của A Lý.”

Ba người trở về ngọc thất thu dọn hài cốt, bỗng thấy bên hài cốt A Lý có một bó thẻ tre. Trần Gia Lạc cầm lên xem thử. Sợi dây da để xâu bó thẻ tre này đã mục nát rồi, nên vừa xách lên là bó thẻ rơi xuống lả tả. Những cái thẻ này được sơn đen, vẫn còn nguyên vẹn, trên thẻ viết đầy những chữ Hán bằng son màu đỏ.

Trần Gia Lạc cả mừng, đọc thử một thẻ thì thấy:

– “Bắc minh hữu ngư kỳ danh vi côn”, lật tiếp mấy thẻ nữa cũng là văn chương trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Ban đầu chàng tưởng đó là kỳ thư bảo điển gì, nên không khỏi thất vọng vì sách Trang Tử từ nhỏ đã thuộc lòng.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Đó là sách gì vậy?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đó là một quyển sách cổ của người Hán chúng ta. Mớ thẻ tre này tuy là cổ vật nhưng không có ích gì lắm, chỉ những người ham mê đồ cổ mới thích.”

Chàng thả bừa xuống đất, khi mớ thẻ tản ra bỗng thấy trong đó có những mảnh khác hẳn, có chú thích bằng chữ Hồi cổ. Trần Gia Lạc nhặt lên xem, thấy thẻ đó chép mấy câu trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu, thiên Dưỡng Sinh Chủ của sách Trang Tử. Chàng chỉ vào chỗ chữ Hồi, hỏi Hương Hương công chúa:

– “Những chữ này viết gì vậy?”

Hương Hương công chúa đọc lên:

– “Bí quyết phá địch đều ở chỗ này.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi:

– “Thế là thế nào?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Trong di thư của Mã Mễ Nhi có nói, A Lý được đọc một quyển sách của người Hán, từ đó mà nghĩ ra cách dùng tay không đối địch. Chẳng lẽ là bó thẻ tre này?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Trang Tử dạy cho người ta sống lạc quan, thuận theo trời đất. Hoàn toàn không liên quan gì đến võ công.”

Chàng lại bỏ mớ thẻ tre xuống, thu nhặt hài cốt đi ra ngoài. Ba người đặt hai bộ hài cốt vào cùng một huyệt, chôn ở dưới núi bên hồ phỉ thúy, cùng nhau khấn vái và cầu nguyện.

Sau đó Trần Gia Lạc bảo:

– “Bây giờ chúng ta đi thôi. Không hiểu con ngựa trắng có thoát khỏi bầy sói đói hay không?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Nhờ nó mà chúng ta còn mạng. Nó đã thông minh lại chạy rất nhanh…”

Trần Gia Lạc tưởng tượng ra cảnh bầy sói hung hãn xé xác con bạch mã, không khỏi nổi lòng trắc ẩn. Hoắc Thanh Đồng bỗng hỏi:

– “Đoạn sách đó nói về cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nói về bản lãnh mổ bò tuyệt diệu của một người đồ tể. Ông ấy tay khẽ co duỗi, chân khẽ tiến lùi, xuống dao không cần dùng sức, động tác vô cùng xảo diệu, cử chỉ giống như nhảy múa.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Uyển chuyển như vậy, nhảy múa nhất định rất là đẹp.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nếu có thể uyển chuyển quật ngã đối phương thì càng tuyệt diệu hơn.”

Trần Gia Lạc nghe vậy, lập tức ngẩn ra. Bộ Trang Tử này chàng đã thuộc từ lâu, nhuần nhuyễn trong lòng, tưởng là không còn gì mới mẻ. Bây giờ nghe một người chưa đọc nhận xét một câu, bất giác chàng lại thấy một khía cạnh khác, bèn thầm nhắc lại từng chữ trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu:

– “Sau ba năm, đồ tể Bao Đinh không thấy nguyên cả con bò nữa, chỉ thấy những khoảng trống rất nhỏ giữa những khớp xương và gân cốt, gọi là hữu gian. Con dao mổ bò không cần cắt qua gân cốt và cơ bắp, chỉ cần nhẹ nhàng lướt qua những chỗ hữu gian đó, thì cả con bò lớn không tốn khí lực mà đã phân ra thành từng mảnh một.”

Chàng lại nghĩ:

– “Trương Triệu Trọng dù giỏi đến đâu, trong võ công của hắn chắc chắn cũng phải có chỗ sơ xuất. Đó chính là hữu gian của hắn. Ta chỉ cần phát hiện, nhẹ nhàng di chuyển để chọn phương vị tiến vào hữu gian, là có thể giết được tên gian tặc đó ngay…”

Đột nhiên thấy chàng ngơ ngẩn xuất thần, chị em Hoắc Thanh Đồng liếc nhìn nhau, không hiểu chàng đang nghĩ gì.

Trần Gia Lạc bỗng lên tiếng:

– “Hai cô đợi ta một chút!” rồi lập tức phóng vào trong đại điện. Hai chị em chờ đợi hồi lâu không thấy chàng ra, không yên tâm cũng vào trong đó. Thì ra Trần Gia Lạc đang phấn khởi cười tươi rói, đứng múa tay múa chân bên một bộ hài cốt trong đại điện.

Hương Hương công chúa lo lắng, tưởng thần trí của chàng bị hồ đồ, vội cất tiếng gọi:

– “Huynh đang làm gì vậy?”

Trần Gia Lạc không biết có người gọi mình, cứ tiếp tục múa máy, rồi lát sau lại đứng ngẩn ra nhìn một bộ hài cốt khác. Hương Hương công chúa la lên:

– “Huynh đừng làm muội sợ, tới đây đi!”

Trần Gia Lạc bỗng cử động tay chân cho giống hệt tư thế của bộ xương, miệng hô lên:

– “Hữu gian!”, rồi theo chiều hướng xương cánh tay của bộ hài cốt đó mà chụp vào một kẻ địch tưởng tượng.

Hoắc Thanh Đồng thấy trong lúc chàng vung tay múa chân có tiếng kình phong rít lên, bỗng hiểu là chàng đang nghiên cứu võ công. Nàng bèn kéo tay muội muội mà nói:

– “Đừng sợ, chàng không sao đâu. Chúng ta ra ngoài đợi chàng đi.”

Hai người quay lại bờ hồ phỉ thúy. Hương Hương công chúa hỏi:

– “Tỉ tỉ! Chàng làm gì trong đó vậy?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Chắc là sau khi xem mấy cái thẻ tre, chàng ngộ được mấy chiêu võ công kỳ lạ, bây gìờ nghiên cứu theo tư thế những bộ hài cốt đó. Chúng ta đừng vào trong quấy nhiễu.”

Hương Hương công chúa gật đầu, lát sau lại hỏi:

– “Tỉ tỉ! Sao tỉ tỉ không vào đó mà luyện tập?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Văn chương chữ Hán trên thẻ tre đó rất kỳ lạ, tỉ tỉ không hiểu nên không luyện theo được. Võ công huynh ấy cao thâm hơn tỉ tỉ nhiều.”

Hương Hương công chúa thở ra một hơi rồi nói:

– “Bây giờ muội hiểu rồi. Trên đại điện có nhiều hài cốt như vậy, thì ra lúc còn sống họ đã luyện được võ công. Binh khí của họ bị từ thạch hút đi hết, phải dùng tay không đánh nhau với võ sĩ của Sang La Ba.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu:

– “Đúng vậy! Nhưng võ công họ không cao lắm, dường như chỉ học được mấy chiêu sát thủ lợi hại nhất. Trong lúc khẩn cấp họ phải đánh vào chỗ yếu hại của địch thủ để đồng quy ư tận.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Những người đó dũng cảm thật… Trời ơi! Vậy chàng học thứ đó để làm gì? Chẳng lẽ tính chuyện cùng chết với địch thủ hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Không! Người có võ công tuyệt đỉnh không bao giờ đồng quy ư tận. Chàng chỉ nghiên cứu những chiêu số kỳ lạ đó mà thôi.”

Hương Hương công chúa mỉm cười rồi nói:

– “Thế thì muội yên tâm rồi.”

Nàng nhìn vào mặt hồ xanh bích, đột nhiên nói:

– “Tỉ tỉ! Chúng ta cùng xuống đó tắm, có được không?”

Hoắc Thanh Đồng cười đáp:

– “Đừng nói bậy! Lỡ chàng đột ngột ra đây thì sao?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Muội muốn xuống tắm quá.”

Nàng nhìn mặt nước trong xanh mát rượi mà ngơ ngẩn, hồi lâu lại nói:

– “Nếu ba người chúng ta được vĩnh viễn sống ở chỗ này thì tốt biết dường nào.”

Trái tim của Hoắc Thanh Đồng đập rộn ràng, hai má đỏ bừng. Nàng vội quay đi, nhìn sang ngọn núi bạch ngọc.

Đợi rất lâu mà Trần Gia Lạc vẫn chưa ra. Hương Hương công chúa cởi giày, ngâm chân xuống nước, gối đầu lên đùi tỉ tỉ mà ngắm nhìn những cụm mây trắng bay tự do tự tại trên trời. Lát sau nàng ngủ thiếp đi.

—————————————

Trong nguyên bản chữ Hán, Kim Dung phiên âm Muslim là Mộc Sĩ Lâm, Islam là Y Tư Lan, kinh Koran là Khả Lan Kinh. Nếu cao nhân độc giả nào dị ứng với chuyện thấy “chữ tây chữ u” xuất hiện giữa đao quang kiếm ảnh, xin cứ đọc theo phiên âm Hán-Việt (chú thích của ND).

Hồi 18: Quái hiệp gỡ tơ lòng nhi nữ – Gian tặc lầm mưu hận mỹ nhân

Nhắc lại chuyện Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ đi tìm Hoắc Thanh Đồng. Dĩ nhiên họ đều hiểu Thất ca sắp xếp hai người đi chung là có dụng ý.

Lý Nguyên Chỉ tình nghĩa sâu nặng, đã mấy lần cứu mạng Dư Ngư Đồng, trong lòng họ Dư đương nhiên có phần cảm kích. Nhưng nàng càng si tình thì chàng lại càng muốn tránh, tại sao thì chính chàng cũng không tự biết. Dọc đường Lý Nguyên Chỉ cười nói huyên thuyên, còn chàng cứ nghiêm mặt làm thinh.

Lý Nguyên Chỉ không khỏi bực mình. Một hôm nàng lén trốn vào sau một đồi cát, xem thử chàng có lo lắng hay không. Nào ngờ khi thấy nàng biến mất, anh chàng chỉ kêu gọi mấy tiếng cho có lệ, không nghe ai trả lời liền một mình đi tiếp. Lý Nguyên Chỉ tức tối vô cùng, núp sau đồi cát đó mà khóc một trận cho hả dạ, rồi mới trấn tĩnh tinh thần để đuổi theo. Khi đuổi kịp, Dư Ngư Đồng chỉ nói một câu nhạt nhẽo:

– “Thì ra cô đi sau. Ta lại tưởng cô đi trước rồi.”

Lý Nguyên Chỉ có muôn ngàn trò nghịch ngợm đùa cợt, nhưng đối với trái tim sắt đá này thì nàng phải bó tay. Nàng đã thầm quyết định, nếu tên oan gia này ép mình đến mức không còn đường để đi, thì mình sẽ rút kiếm ra tự cứa ngang cổ một nhát, thế là xong chuyện.

Một buổi trưa, đột nhiên từ phía trước có một con lừa vừa nhỏ vừa ốm, từng bước cà nhắc trên mặt cát đi đến trước mặt hai người. Dường như nó cũng đang ngủ gà ngủ gật như ông chủ cưỡi trên lưng. Khi đến gần, nhìn rõ người đó mặc y phục kiểu người Hồi, trên lưng đeo một cái chảo sắt to, tay cầm một cái đuôi lừa, còn mông của con lừa lại trụi lủi không đuôi. Trên đầu lừa có đội mũ kiểu võ quan Kiêu Kỵ Doanh nhà Thanh, nhưng hạt lam bảo thạch trên đỉnh nón bị đổi thành một hòn sỏi nhỏ. Người này tuổi khoảng bốn mươi, dưới cằm để một hàm râu rất lớn. Khi thấy hai người ông cười rạng rỡ, dáng vẻ hiền hòa thân thiện.

Dư Ngư Đồng nghĩ bụng:

– “Hoắc Thanh Đồng rất nổi danh trong vùng sa mạc, người Hồi không ai không biết.”

Chàng bèn dừng ngựa hỏi thăm:

– “Xin cho hỏi, đại thúc có thấy Thúy Vũ Hoàng Sam đâu không?”

Chàng đang lo người này không biết tiếng Hán, nào ngờ ông cười khì một tiếng rồi hỏi lại cũng bằng tiếng Hán:

– “Hai vị tìm cô ấy để làm gì?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Có ba kẻ xấu muốn hại cô ấy, bọn vãn bối đến để báo tin. Nếu đại thúc biết cô ấy ở đâu, có thể chỉ cho bọn vãn bối không?”

Người kia đáp:

– “Được chứ, nhưng bọn xấu đó như thế nào?”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Một người to lớn xách độc cước đồng nhân, một người cầm Điệp hổ xoa, người thứ ba ăn mặc kiểu Mông Cổ.”

Người kia gật đầu rồi nói:

– “À, ba tên này đúng là xấu thật. Chúng muốn ăn thịt con lừa của ta, nhưng lại bị ta giật mất một cái mũ.”

Dư Ngư Đồng và Lý Nguyên Chỉ bất giác nhìn nhau. Dư Ngư Đồng hỏi:

– “Chúng còn có đồng bọn hay sao?”

Người kia nói:

– “Chính là tên có cái mũ quan này. Hai vị là ai vậy?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Bọn vãn bối là bạn của lão anh hùng Mộc Trác Luân. Mấy kẻ xấu đó đang ở đâu? Không được để chúng gặp Thúy Vũ Hoàng Sam.”

Người kia nói:

– “Nghe nói con nhỏ Hoắc Thanh Đồng đó không xấu. Bốn tên khốn đó không ăn thịt được con lừa của ta, không chừng đói bụng sẽ nướng cô nương đó lên mà chén. Vậy thì hỏng bét.”

Lý Nguyên Chỉ nghĩ thầm:

– “Quan Đông tam ma hữu dũng vô mưu, chỉ thêm một tên quan quân nhà Thanh thì không đáng ngại. Tốt nhất là ta tìm cách giết chúng, để cái tên Dư sư ca thích coi thường người khác này phải thán phục bản lãnh của mình.”

Nàng bèn hỏi:

– “Chúng đang ở đâu vậy? Đại thúc có thể dẫn bọn vãn bối đi hay không? Vãn bối xin tặng đại thúc thỏi bạc này.”

Người kia đáp:

– “Bạc thì không cần, nhưng phải hỏi xem con lừa này chịu đi hay không đã.”

Ông kề miệng vào tai của con lừa, nói tràng giang đại hải một hồi xí xô xí xào gì gì đó. Rồi ông lại kề tai vào mõm của con lừa, ra vẻ cố gắng lắng nghe, sau đó gật đầu lia lịa.

Hai người thấy ông giả bộ điên khùng, không khỏi tức cười. Người kia nghe được một lúc, bỗng chau mày rồi nói:

– “Từ lúc được đội mũ quan, con lừa này cứ tưởng là mình cao siêu lắm. Nó xem thường hai con ngựa của các vị, không muốn đi cùng vì sợ mất thể diện.”

Dư Ngư Đồng giật mình nghĩ:

– “Người này hành sự kỳ dị khác thường. Ông không nói ra miệng câu khen chê nào, nhưng ý tại ngôn ngoại lại thóa mạ bọn tiểu nhân bạo phát cậy thế hiếp người. Chẳng lẽ đây là một bậc dị nhân ở chốn phong trần hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ thì nghĩ con lừa đã ốm yếu lại thọt chân, người dính đầy sình mà còn làm bộ. Nàng không nén nổi, bỗng cười khúc khích.

Người kia liếc nàng một cái, hỏi:

– “Cô không tin hay sao? Thế thì để con lừa của ta chạy thi với ngựa của hai vị thử xem.”

Hai người đang cưỡi những con tuấn mã của Mộc Trác Luân tặng, so với con lừa thọt này dĩ nhiên khác xa một trời một vực. Lý Nguyên Chỉ đáp ngay:

– “Được lắm! Nếu bọn vãn bối thắng, thì đại thúc phải dẫn đi tìm ba tên xấu xa đó.”

Người kia nói:

– “Bốn tên xấu xa chứ không phải ba. Còn nếu hai vị thua thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Thì đại thúc cứ nói đi!”

Người kia nói:

– “Ta muốn hai vị tắm rửa con lừa này sạch sẽ, cho nó oai phong một tí.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Được rồi, cứ thế! Chạy thi như thế nào đây?”

Người kia nói:

– “Thì cô cứ nói đi!”

Thấy ông nói chuyện chắc ăn, tuyệt không nghi ngờ mình sẽ thua, Lý Nguyên Chỉ không khỏi lo âu. Nàng bỗng hoài nghi, chẳng lẽ con lừa què này chạy nhanh đến thế? Nàng ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi:

– “Đại thúc đang cầm cái gì vậy?”

Người kia đưa cái đuôi lừa ra, vẫy vẫy mấy cái rồi nói:

– “Cái đuôi của con lừa này. Từ lúc được đội mũ quan, nó chê cái đuôi của mình dính bùn không đẹp, nên không thèm đeo nữa.”

Nghe ông nói chuyện châm biếm, hàm ý sâu xa, Lý Nguyên Chỉ lại càng không dám khinh suất. Nàng liếc nhìn Dư Ngư Đồng một cái, tỏ ý bảo chàng cẩn thận, rồi lên tiếng:

– “Đại thúc cho vãn bối mượn xem thử!”

Người kia ném cái duôi lừa qua. Lý Nguyên Chỉ đưa tay đón lấy, cầm xem một tí rồi chỉ vào một đồi cát nhỏ xa xa, nói:

– “Chúng ta chạy từ đây tới đồi cát đó. Nếu lừa của đại thúc tới trước thì đại thúc thắng. Nếu ngựa của vãn bối tới trước thì vãn bối thắng.”

Người ấy nói:

– “Được! Lừa ta đến trước thì ta thắng, ngựa cô đến trước thì cô thắng.”

Lý Nguyên Chỉ bảo Dư Ngư Đồng:

– “Huynh làm trọng tài, qua đó trước đi.”

Dư Ngư Đồng gật đầu đồng ý, giục ngực chạy trước.

Lý Nguyên Chỉ chờ một chút rồi hô lớn:

– “Đi thôi!”

Tiếng hô vừa dứt, nàng lấy roi vút vào mông ngựa, con ngựa tung vó chạy ngay. Được mấy chục trượng, nàng quay lại nhìn vẫn thấy con lừa đi cà nhắc từng bước một, rơi lại phía sau rất xa. Nàng cười ha hả, lỏng cương chạy chậm lại một chút.

Đột nhiên một bóng đen lướt qua mặt, nàng định thần nhìn lại thì ra người kia đã vác con lừa lên vai, co giò chạy như bay về phía trước. Nàng kinh hãi vô cùng, suýt nữa không ngồi vững trên yên ngựa mà té nhào xuống đất.

Lý Nguyên Chỉ thúc ngựa chạy gấp đuổi theo, nhưng người kia phóng nhanh như tia chớp, càng lúc càng bỏ xa ngựa của nàng. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã chạy đến đồi cát đó. Rốt cuộc, lừa cưỡi người lại nhanh hơn người cưỡi ngựa, tới đỉnh đồi cát sớm hơn mấy trượng.

Lý Nguyên Chỉ liệng cái đuôi lừa còn nắm trong tay ra sau lưng, giục ngựa chạy lên đồi cát rồi la lớn:

– “Ngựa của vãn bối tới trước rồi!”

Người kia và Dư Ngư Đồng ngạc nhiên nhìn nhau, rõ ràng lừa tới trước mà sao nàng nói ngựa đến trước? Người kia nói:

– “Này cô nương! Chúng ta đã hẹn hễ lừa đến trước là ta thắng, ngựa đến trước là cô thắng, có phải vậy không?”

Lý Nguyên Chỉ vừa đưa tay sửa lại mái tóc đang bay rối trong gió vừa đáp:

– “Không sai!”

Người kia nói:

– “Chúng ta không hẹn là nhất định người phải cưỡi lừa, có phải vậy không?”

Lý Nguyên Chỉ lại đáp:

– “Không sai!”

Người kia nói:

– “Người cưỡi lừa cũng được, mà lừa cưỡi người cũng không sao, miễn là lừa tới trước. Cô cũng thấy con lừa này đang đội mũ quan. Lừa ngốc mà được làm quan thì có thể ngồi trên đầu người ta nữa đấy.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta đã giao hẹn đàng hoàng, lừa đến trước thì đại thúc thắng, ngựa đến trước thì vãn bối thắng, có phải vậy không?”

Người kia đáp:

– “Đúng vậy!”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta không hẹn là một phần lừa đến trước thì đại thúc thắng, có phải vậy không?”

Người kia nhìn trời vuốt râu, ra vẻ mơ màng rồi nói:

– “Chuyện này thì ta hồ đồ không hiểu. Thế nào thì gọi là một phần lừa đến đích?”

Lý Nguyên Chỉ trỏ cái đuôi bị nàng ném ra xa, cười nói:

– “Toàn bộ con ngựa của vãn bối đã đến đây, còn con lừa của đại thúc mới đến có một phần. Cái đuôi của nó chưa đến đích.”

Người ấy ngẩn ra một chút, cười ha hả rồi nói:

– “Đúng vậy, đúng vậy, cô thắng rồi. Bây giờ ta dẫn hai vị đi tìm bốn tên khốn đó.”

Ông đi nhặt cái đuôi, rồi bảo con lừa:

– “Lừa ơi là lừa, ngốc ơi là ngốc! Ngươi đừng tưởng hễ đội mũ quan là có thể vứt đi cái đuôi dính sình. Ngươi nghĩ là không sao, nhưng người ta không chịu quên đâu!”

Ông nhảy lên lưng lừa, lại nói:

– “Lừa ngốc ơi, ngươi cưỡi trên đầu người ta chưa được bao lâu, bây giờ bị cưỡi lại rồi.”

Con lừa đó tuy nhỏ bé nhưng cũng nặng tới mấy chục cân, thế mà người này vác lên vai chạy nhanh hơn ngựa, đủ thấy võ công thâm hậu tới mức nào. Dư Ngư Đồng liền bước lên thi lễ rồi nói:

– “Sư muội của vãn bối tính tình nghịch ngợm. Coi như cô ấy nhờ lão tiền bối chỉ điểm đường đi, để bọn vãn bối đi tìm là được rồi. Không dám làm phiền đại giá lão tiền bối.”

Người kia mỉm cười đáp:

– “Ta thua rồi, làm sao mà chối được?”

Ông bèn quay lừa lại, giục đi luôn.

Thấy ông chịu đi cùng, Dư Ngư Đồng mừng rỡ trong lòng. Chàng biết Quan Đông tam ma võ công ghê gớm, lại có mối thâm thù với mình, lỡ chạm trán nhau trong vùng đại mạc này thì đúng là tai họa. May mà có ông râu người Hồi võ công cao cường như thế giúp đỡ mình, không còn gì đáng sợ nữa.

Ba người hai ngựa một lừa, chậm rãi song song tiến bước. Dư Ngư Đồng thử hỏi họ tên, nhưng người kia mỉm cười không đáp. Ông không ngớt đùa giỡn chọc cười, nhưng nói ra câu nào cũng tuyệt diệu vô cùng, nửa trang nghiêm nửa hài hước, nửa ngạo đời nửa chế giễu. Ngay cả Lý Nguyên Chỉ cũng phải âm thầm thán phục.

Con lừa thọt chân đi rất chậm, hơn nửa ngày mới được ba chục dặm đường. Bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chuông vang lên, Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ đã cưỡi ngựa chạy tới. Dư Ngư Đồng giới thiệu:

– “Vị đại hiệp này đang dẫn bọn đệ đi tìm Quan Đông tam ma.”

Từ Thiên Hoằng nghe chàng xưng hô cung kính, bèn xuống ngựa thi lễ. Người Hồi kia không đáp lễ, chỉ mỉm cười nói:

– “Phu nhân của lão đệ nên nghỉ ngơi cho khỏe, cực khổ tới đây làm gì?”

Từ Thiên Hoằng ngạc nhiên không hiểu, còn Chu Ỷ đỏ ửng mặt, ra roi thúc ngựa chạy vượt lên trước.

Người kia rất rành đường trên sa mạc, tới xế chiều đã dẫn mọi người đến một thị trấn nhỏ. Tới nơi thấy gà chó chạy lung tung, bụi bặm bay mù, thì ra một toán nhỏ quân Thanh vừa càn qua đó. Dân chúng Hồi tộc loạn cả lên, lo dẫn con cái đi trốn.

Từ Thiên Hoằng kinh ngạc nói:

– “Phần lớn quân Thanh đã bị giết, còn sót một ít tàn quân cũng đang bị bao vây. Tại sao ở đây lại có quân Thanh?”

Đang nói chuyện, bỗng phía trước có hơn hai chục người Hồi chạy tới, mười mấy tên lính Thanh hò hét xách đao đuổi theo. Đám dân Hồi này vừa thấy ông râu cưỡi lừa đã mừng rỡ vô cùng, vội kêu lớn:

– “Nạp Tư Nhĩ Linh A Phàm Đề!(10) Mau cứu chúng tôi với!”

Từ Thiên Hoằng không hiểu họ nói gì, nhưng nghe mấy chữ “Nạp Tư Nhĩ Linh A Phàm Đề” lặp đi lặp lại, đoán đó là tên của ông ta.

A Phàm Đề la lên:

– “Mọi người chạy trốn đi!”

Rồi ông kéo dây cương cho con lừa chạy vào sa mạc, đám người Hồi và quân Thanh cũng chạy theo sau.

Chạy khỏi thị trấn một quãng xa, mấy nữ nhân Hồi tộc chậm chân đã bị bọn lính Thanh bắt được. Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, liền rút đao thúc ngựa xông tới chém giết. Mới hai đao, nàng đã vạt mất nửa cái đầu của một gã lính Thanh. Bọn còn lại giận dữ vô cùng, kéo tới bao vây nàng. Từ Thiên Hoằng, Dư Ngư Đồng, Lý Nguyên Chỉ đồng thời xông tới.

Đột nhiên Chu Ỷ cảm thấy khó chịu muốn nôn, trước mắt nhấp nháy đầy sao. Nàng phải thu đao về đưa tay ôm ngực. Một tên lính Thanh thấy vậy, liền phóng tới định bắt. Chu Ỷ ọe một tiếng rồi nôn vọt ra, xối từ trên đầu xuống mặt của hắn. Tên lính Thanh không thấy đường phải vội vàng đưa tay chùi mặt, Chu Ỷ tiện tay đưa một đao chém chết.

Tay chân nàng bủn rủn hẳn đi, thân mình lắc lư ngồi không vững. Từ Thiên Hoằng vội chạy tới dìu vợ, kinh hãi hỏi:

– “Sao vậy?”

Lúc này Dư Ngư Đồng và Lý Nguyên Chỉ mỗi người đã giết hai ba tên lính. Số còn lại la lên một tiếng, quay lưng bỏ chạy tứ tán. A Phàm Đề liền tháo cái chảo sắt trên lưng xuống cầm trong tay, vừa đưa ra đã chụp trúng đầu một tên lính thanh, la lên:

– “Trong chảo có một quả bí thối.”

Lý Nguyên Chỉ phóng kiếm đâm tới. Tên lính kia bị che mắt, không sao tránh né được, lập tức mất mạng. A Phàm Đề xách cái chảo sắt chụp xuống một tên khác, Lý Nguyên Chỉ lại chạy theo tặng cho một kiếm. Không biết ông dùng thủ pháp gì mà chụp chảo xuống phát nào trúng phát đó, đám lính không sao tránh được.

Một người dùng chảo, một người dùng kiếm, trong chốc lát đã giết xong mười mấy tên lính. Lý Nguyên Chỉ cả mừng la lên:

– “Đại thúc râu! Cái chảo của đại thúc nấu bí thật là tốt.”

A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Con dao xắt bí của cô cũng bén lắm.”

Dư Ngư Đồng thấy Lý Nguyên Chỉ giết nhiều Thanh binh, bất giác nghĩ thầm:

– “Gia gia của nàng là đề đốc Mãn Thanh, thế mà nàng lại giết bọn này chẳng kiêng kị gì. Thế thì nàng đã quyết định theo ta thật rồi.”

Chàng vừa vui mừng vừa rầu rĩ, không khỏi buông tiếng thở dài.

Tên lính Thanh cuối cùng đã bị Từ Thiên Hoằng bắt sống, vặn hỏi đội quân này từ đâu đến đây. Hắn quì xuống xin tha mạng, ấp úng hồi lâu mới nói được rõ ràng. Thì ra chúng là viện quân từ phía đông kéo đến, nghe nói đại quân của Triệu Tuệ bị thảm bại nên chia thành từng nhóm gấp rút đến giải vây.

Từ Thiên Hoằng chọn trong đám người Hồi ra hai hán tử khỏe mạnh, nhờ họ lập tức đến thành Diệp Nhĩ Khương báo cho Mộc Trác Luân biết, để lão anh hùng tiện bề đối phó. Hai người này vâng lệnh đi ngay.

Từ Thiên Hoằng phóng chân đá cho tên lính một cước vào mông, hét lên:

– “Cút con bà mày đi!”

Hắn lập tức quàng chân lên cổ mà chạy trốn.

Họ Từ quay lại nhìn ái thê, thấy thần sắc nàng đã trở lại bình thường. Chàng không biết tại sao nàng đột nhiên chóng mặt, liền hỏi:

– “Muội không được khỏe ư?”

Mặt Chu Ỷ đỏ lên một chút, quay đi không đáp. A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Trâu mẹ sắp sinh nghé con rồi. Trâu đực ăn cỏ thì vui mừng mà chạy xung quanh trâu cái. Còn trâu đực ăn cơm chỉ biết đứng đó hỏi lung tung.”

Từ Thiên Hoằng cả mừng, mỉm cười hỏi:

– “Sao tiền bối lại biết?”

A Phàm Đề đáp:

– “Chuyện này mới là cổ quái! Trâu cái sắp đẻ nghé con, lừa già đã biết rồi mà trâu đực lại chưa biết.”

Mọi người đều cười ha hả. Dư Ngư Đồng chạy tới chúc mừng.

Cả đoàn người đông đúc lên ngựa, đi vòng qua thị trấn. Đến xế chiều, mọi người mới dựng lều trại để nghỉ ngơi. Từ Thiên Hoằng lén hỏi vợ mình:

– “Mấy tháng rồi? Sao ta không biết?”

Chu Ỷ cười đáp:

– “Trâu đực ngốc thì làm sao biết được?”

Hồi lâu nàng mới nói tiếp:

– “Nếu chúng ta có một đứa con trai thì nó sẽ mang họ Chu, gia gia cùng má má nhất định sẽ rất vui. Tốt nhất là nó đừng cổ quái điêu ngoa giống ca ca.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Sau này muội phải cẩn thận hơn, đừng động đao thương nữa.”

Chu Ỷ gật đầu rồi nói:

– “Lúc nãy mới giết một tên mà mùi máu xông lên tanh không chịu nổi, chỉ muốn nôn mửa. Thật là khổ sở.”

Sáng hôm sau, A Phàm Đề nói với Từ Thiên Hoằng:

– “Đi thêm ba chục dặm nữa là đến nhà của ta. Ta có một bà vợ rất đẹp đang sống ở đó…”

Lý Nguyên Chỉ nói xen vào:

– “Thật ư? Thế thì vãn bối nhất định phải đi gặp bà ấy, hỏi sao bà ấy lại thích hàm râu rậm rạp này?”

A Phàm Đề cười phá lên rồi đáp:

– “Ha ha! Đó là một bí mật cực lớn.”

Ông lại bảo Từ Thiên Hoằng:

– “Vợ của lão đệ cưỡi ngựa chạy tới chạy lui, vung tay múa chân, không tốt cho nghé con trong bụng. Hay là nghỉ lại ở nhà ta, đợi chúng ta tìm được mấy tên khốn kia, xử lý chúng rồi sẽ quay lại đón.”

Từ Thiên Hoằng lập tức đa tạ. Chu Ỷ không muốn vậy, nhưng nghĩ đến hai người huynh trưởng và một đứa em trai đã chết, đứa con trong bụng phải nối nghiệp nhà họ Chu, nên cuối cùng cũng đồng ý.

* * *

Qua khỏi một thị trấn, A Phàm Đề dẫn mọi người về nhà mình. Ông xách cái chảo lên khua lẻng kẻng một tràng, trong nhà lập tức có một nữ nhân khoảng ba mươi tuổi bước ra. Quả nhiên bà ta rất xinh đẹp, da dẻ trơn tru trắng trẻo. Nhìn thấy A Phàm Đề, bà vui mừng như bắt được của, nhưng miệng lại không ngớt mắng nhiếc:

– “Lão râu kia! Biến đi đâu, đến tận bây giờ mới về? Có nhớ ta ở nhà hay không?”

A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Thôi, đừng la nữa. Chẳng phải ta đã về rồi hay sao? Lấy gì ra ăn đi, hàm râu của bà đã đói đến cong queo rồi đây này.”

Vợ của A Phàm Đề vừa cười vừa nói:

– “Ông nhìn khuôn mặt đẹp đẽ của ta còn chưa đủ no hay sao?”

A Phàm Đề nói:

– “Bà nói đúng lắm. Khuôn mặt trái xoan diễm lệ của bà chính là món ăn. Chỉ cần có thêm một ít mì hay bánh gì đó để ăn với món ăn này, thế là tuyệt lắm rồi.”

Bà ta đưa tay kéo tai A Phàm Đề một cái rồi nói:

– “Ta không cho ông đi ra ngoài nữa.”

Bà quay vào trong, lát sau bưng ra rất nhiều thức ăn, nào là mì, bánh, dưa, mật ong, thịt dê để đãi khách. Lý Nguyên Chỉ không hiểu hai người Hồi đó nói những gì, nhưng chỉ nhìn họ đùa giỡn cũng thấy được tình cảm thâm sâu. Trong lòng nàng nổi lên một cơn khổ sở.

Đang ăn uống thì bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào, một đám đông kéo vào nhà. Người này một câu người kia một câu tố cáo nhau, khiếu nại với A Phàm Đề, rồi kéo ông ta ra chợ để làm trọng tài. Từ Thiên Hoằng cùng với mọi người bèn đi theo để xem náo nhiệt.

A Phàm Đề vừa giỡn vừa cười, giải quyết cho họ rất nhiều tranh chấp, không ngừng trích dẫn kinh Koran để làm bằng chứng, ai cũng hài lòng. Dư Ngư Đồng thấy ông này bụng đầy kinh sách, mở miệng là trích dẫn thao thao bất tuyệt, không sao nén nổi thán phục.

Cuối cùng, A Phàm Đề kết luận:

– “Chỉ cần theo đúng lời dạy của chân thánh A-la và tiên tri Muslim, chắc chắn giải quyết chuyện gì cũng không bị sai lầm.”

Đột nhiên phía sau có người gọi lớn:

– “Lão râu kia! Ngươi lại làm chuyện gì ngu ngốc nữa đây?”

A Phàm Đề quay đầu lại nhìn thấy Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu, mừng rỡ vô cùng. Hai người này một Hồi một Hán, một ở Bắc một ở Nam Thiên Sơn, làm toàn những việc cứu khổn phò nguy, hành hiệp trượng nghĩa, vì thế mà xưa nay có giao tình rất tốt.

A Phàm Đề nắm chặt cánh tay Viên Sĩ Tiêu mà nói:

– “Hà hà! Lão đã đến rồi thì mau mau đến nhà ta, vừa nhìn vợ ta vừa ăn cơm.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Vợ của ngươi có gì đẹp đâu?”

Nói chưa dứt câu, Từ Thiên Hoằng và Dư Ngư Đồng đã chạy tới bái kiến. Viên Sĩ Tiêu gạt đi:

– “Thôi, thôi! Ta không phải sư phụ của các ngươi, đa lễ làm gì? Gia Lạc đâu?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Tổng đà chủ đã đi trước một bước… À, thì ra hai vị lão gia cũng đã đến rồi.”

Chàng quay lại thi lễ với Thiên Sơn Song Ưng đứng sau lưng Viên Sĩ Tiêu. Thấy Quan Minh Mai đang dẫn con ngựa trắng mà Trần Gia Lạc cưỡi, họ Từ kinh hãi hỏi ngay:

– “Lão tiền bối gặp con ngựa này ở đâu vậy?”

Quan Minh Mai nói:

– “Ta từng nhìn thấy tổng đà chủ của các ngươi cưỡi con ngựa này, thấy là nhận ra ngay. Vừa rồi gặp nó chạy lung tung trong sa mạc, ba người chúng ta khó khăn lắm mới bắt được.”

Từ Thiên Hoằng lo lắng hỏi:

– “Chẳng lẽ tổng đà chủ đã gặp nguy hiểm hay sao? Chúng ta phải mau mau đi cứu.”

Mọi người lại trở về nhà A Phàm Đề, ăn no một bụng rồi tạm biệt Chu Ỷ mà đi. Vợ chồng Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ từ khi thành thân đến nay mới phải xa nhau, bịn rịn là chuyện dĩ nhiên. Vợ của A Phàm Đề cũng thế, thấy chồng mình vừa về nhà chút xíu đã lại đi ngay, bèn túm lấy bộ râu của ông mà la khóc om sòm.

A Phàm Đề vừa cười vừa an ủi:

– “Ta đã tìm một vị thái thái đến ở chung với bà. Cô ấy cũng đẹp đẽ như bà vậy, lại còn đang mang một đứa bé trong người, thế thì có đến hai người làm bạn với bà rồi. Cả hai người đó đều không có râu, dĩ nhiên ăn đứt lão già râu ria đầy mặt này.”

Bà vợ vẫn khóc không chịu nín, la lên:

– “Nhưng ta yêu hàm râu của ông! Ta quyết giữ bộ râu này lại!”

A Phàm Đề mỉm cười hỏi:

– “Bà quyết giữ bộ râu này lại phải không? Được!”

Ông đưa tay vặt một nắm mười mấy sợi râu, nhét vào trong tay bà vợ, rồi chạy thẳng ra ngoài cửa. Con lừa của A Phàm Đề chỉ cao bằng một con chó lớn. Ông cưỡi nó mà hai chân gần chạm đất, đứng xa mà nhìn thì giống như con lừa đó có sáu chân vậy. Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Lão râu kia! Ngươi đang cưỡi giống gì vậy? Chuột hay mèo?”

A Phàm Đề hỏi lại:

– “Chuột thì làm sao có thể lớn như thế được?”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Vậy thì chắc là một con chuột đầu to rồi.”

Lý Nguyên Chỉ cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng đi đầu. Nàng buông lỏng dây cương, để nó tự tìm đường đến chỗ Trần Gia Lạc.

Con lừa của A Phàm Đề đi quá chậm, mọi người cứ đi một đoạn lại phải đứng lại chờ. Nửa ngày mà chỉ đi được ba chục dặm đường, ai cũng thấy nóng ruột. Từ Thiên Hoằng bèn nói với A Phàm Đề:

– “E rằng tổng đà chủ của bọn vãn bối đang gặp nguy hiểm. Bọn vãn bối muốn đi trước một bước.”

A Phàm Đề nói:

– “Được thôi, được thôi! Tới thị trấn phía trước, ta sẽ mua một con lừa khác giỏi hơn con lừa này. Con lừa này ngốc thật, mà lại tưởng rằng mình giỏi.”

Ông bèn thúc con lừa tiến lên một chút, đi cạnh Lý Nguyên Chỉ. Con ngựa trắng cao gấp đôi con lừa, A Phàm Đề phải ngửa cổ lên mà nói chuyện:

– “Lý cô nương! Sao lúc nào cô cũng không vui vậy?”

Lý Nguyên Chỉ thầm nghĩ:

– “Vị quái hiệp này giả bộ khờ dại, nhưng thật sự thông minh tuyệt đỉnh. Người Hồi thỉnh giáo việc khó khăn nào, ông ấy cũng lập tức giải quyết được ngay.”

Nàng bèn hỏi:

– “Đại thúc râu này, đối với loại người không biết tốt xấu, đại thúc có cách nào đối phó không?”

A Phàm Đề nói:

– “Thì ta dùng cái chảo này chụp vào đầu hắn, cô tặng thêm một kiếm.”

Lý Nguyên Chỉ lắc đầu:

– “Không được! Giả tỉ như chàng… Chàng là người… là người mà mình rất thương mến, nhưng mình đối đãi với người ta càng tốt, người ta lại càng bướng bỉnh như lừa.”

A Phàm Đề vuốt râu một cái, hình như đã hiểu. Ông mỉm cười nói:

– “Ngày nào ta cũng cưỡi lừa. Đối với tính khí của bọn lừa ngốc, ta hiểu rất rõ. Nhưng phương pháp này không thể tùy tiện dạy cho cô được.”

Lý Nguyên Chỉ xuống giọng năn nỉ:

– “Đại thúc râu! Vậy phải thế nào đại thúc mới chịu dạy?”

A Phàm Đề nói:

– “Chúng ta phải đánh cược. Nếu cô thắng, ta sẽ dạy cho cô.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Được! Chúng ta chạy đua nữa đi.”

A Phàm Đề lắc đầu:

– “Thôi, hãy đánh cược chuyện khác. Chạy đua thì cô thua chắc rồi.”

Ông lấy cái đuôi lừa ra, vừa cầm phe phẩy vừa nói:

– “Phen này ta không để cô gạt nữa đâu.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Nếu đại thúc chắc ăn thì cứ thử xem.”

A Phàm Đề nói:

– “Được! Để xem cô còn quỉ kế gì nữa không.”

Ông chỉ vào thị trấn nhỏ trước mặt, nói:

– “Ai đến được căn nhà đầu tiên là người đó thắng.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Được! Đại thúc râu lại thua nữa rồi.”

Nàng kẹp hai đùi lại, giật cương một cái, con ngựa trắng lập tức phóng vèo như một mũi tên.

A Phàm Đề vác con lừa lên, co giò chạy theo. Nhưng con ngựa trắng này là thần mã có một không hai trên đời, chạy nhanh như điện chớp, ông không sao đuổi kịp. Con lừa chưa tới nửa đường, con ngựa trắng đã đến thị trấn rồi.

A Phàm Đề liền bỏ con lừa xuống, cười rộ lên ha hả:

– “Lại bị con bé này gạt rồi! Ta đã biết con ngựa đó chạy nhanh, nhưng không ngờ nó chạy nhanh đến thế.”

Thấy võ công của ông râu này tuyệt cao, mọi người đều kinh hãi. Vác con lừa mấy chục cân trên vai không phải là chuyện lạ, mà lạ ở chỗ khinh công của ông ta. Chỉ vì con ngựa này là thần mã, chứ loại ngựa bình thường thì chắc chắn đã bị ông đuổi kịp rồi.

Qua khỏi thị trấn chưa được bao lâu, đột nhiên con ngựa trắng hí dài một tiếng rồi nhảy dựng lên, sải vó chạy như điên. Lý Nguyên Chỉ vội ghìm cương lại, nhưng không sao quản thúc được nó. Mọi người kinh hãi tản ra, rồi vội đuổi theo.

Họ thấy con ngựa trắng chạy thẳng vào sa mạc, tới chỗ một nhóm người đột nhiên dừng lại, Lý Nguyên Chỉ xuống ngựa nói chuyện. Khoảng cách rất xa, nhóm người đó là ai thì nhìn không rõ được. Lát sau lại thấy con ngựa trắng quay đầu chạy về. Nó chạy đến giữa đường, Từ Thiên Hoằng và Dư Ngư Đồng mới nhận ra người cưỡi trên lưng ngựa là Lạc Băng, đều mừng rỡ chạy lên tiếp đón.

Phía sau Lạc Băng là Vệ Xuân Hoa, Văn Thái Lai, Chương Tấn, Tâm Nghiễn. Sau cùng là một ông lão đầu tóc bạc phơ, lưng đeo trường kiếm, nắm tay Lý Nguyên Chỉ hỏi han không ngớt, chính là lão tiền bối Miên lý châm Lục Phi Thanh. Thì ra con ngựa trắng quyến luyến chủ cũ, trong lòng đã có linh tính, từ xa ngửi thấy Lạc Băng liền chạy tới ngay.

Dư Ngư Đồng chạy tới trước mặt Lục Phi Thanh quì xuống, vừa khóc lóc thảm thiết vừa gọi:

– “Sư thúc…”

Lục Phi Thanh vội đưa tay đỡ chàng dậy. Ông cũng không kìm nổi nước mắt, nghẹn ngào nói:

– “Ta biết chuyện sư phụ của ngươi rồi… Vừa nhận được tin là ta không kể ngày đêm tìm đến đây… Giữa đường gặp nhóm Văn tứ gia, họ cũng đang truy lùng tên gian tặc đó. Ngươi yên tâm đi, chúng ta nhất định sẽ trả thù cho sư phụ của ngươi.”

Hai bên gặp nhau chào hỏi. Văn Thái Lai cùng với mọi người nghe chuyện, đều lo lắng cho Trần Gia Lạc.

Mọi người ghé vào thị trấn để ăn cơm. A Phàm Đề đi mua một con lừa khác, Lý Nguyên Chỉ lén lút đi theo. A Phàm Đề mặc kệ nàng, cứ đi chọn một con lừa to lớn, cao gấp đôi con lừa cụt đuôi. Ông để rẻ con lừa cụt đuôi cho người bán lừa, rồi mỉm cười nói:

– “Cái mũ quan này làm hư hỏng con lừa ngốc, ta không cho con vật nào đội nữa.”

Ông bèn liệng cái mũ quan đó xuống đất, đạp cho nát bét. Đợi ông thanh toán tiền xong, Lý Nguyên Chỉ bước tới dẫn hộ con lừa. Nàng mỉm cười, im lặng đi song song bên ông một đoạn.

A Phàm Đề lên tiếng:

– “Trước kia ta có nuôi một con lừa tính khí kỳ cục. Hễ ta kêu nó đi thì nó đứng, hễ ta muốn nó đứng thì nó lại đi. Có lần ta bắt nó vào nhà để kéo cối xay, nó chỉ đi mấy chục bước là dừng lại, nói sao thì nói cũng không chịu kéo tiếp. Càng lôi nó tới, nó càng lùi lại. Dụ dỗ thế nào, nó cũng không chịu. Đánh đòn, nó cũng không chịu. Kêu nó bằng gia gia bằng phu nhân gì gì, nó cũng không chịu. Cô biết rồi sao nữa không?”

Lý Nguyên Chỉ biết ông ta đang kể ngụ ngôn để dạy dỗ mình, chú ý lắng nghe, không dám mỉm cười. Nghe hỏi vậy, nàng đáp:

– “Lão nhân gia…”

A Phàm Đề phá lên cười, cắt lời ngay:

– “Hay lắm! Cô nương này muốn có chú rể quá rồi, cái gì cũng nhường nhịn mấy phần. Lúc nãy cô kêu ta là Đại thúc râu, bây giờ lại kêu là Lão nhân gia.”

Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt lên cãi bướng:

– “Vãn bối đâu có gọi đại thúc là lão nhân gia, vãn bối đang kêu đại thúc gọi con lừa bằng lão nhân gia đấy chứ!”

A Phàm Đề nói:

– “Được rồi, thế thì thôi vậy. Sau này ta suy nghĩ một chút là xong. Ta thắng con lừa ngốc đó ngược đầu lại, cối quay về hướng đông thì ta để lửa quay mặt về hướng tây. Sau đó ta giả vờ đuổi nó đi, để nó cứ lùi từng bước. Nó bước lùi mấy trăm vòng là ta xong việc.”

Lý Nguyên Chỉ lẩm bẩm:

– “Bắt nó đi về hướng đông thì nó lại bướng bỉnh đi về hướng tây… Thế thì ta giả vờ bắt nó đi về hướng tây…”

A Phàm Đề giơ ngón tay cái lên nói:

– “Hay lắm, đúng là như thế! Sau đó ta còn nghĩ ra một cách nữa. Ta dùng ngọn roi treo một cái củ cải ở trước mõm con lừa ngốc đó. Nó rất thích ăn củ cải, nên không ngừng đi về phía trước. Đi được mấy chục dặm đường, đến nơi mình cần, ta mới cho nó ăn củ cải thật sự.”

Lý Nguyên Chỉ lập tức tỉnh ngộ, bèn nói:

– “Đa tạ lão nhân gia chỉ dạy.”

A Phàm Đề bảo:

– “Bây giờ cô đi tìm củ cải đi.”

Lý Nguyên Chỉ suy nghĩ:

– “Dư sư ca mong muốn nhất là cái gì? Lúc nãy chàng vừa gặp sư phụ đã khóc lóc thảm thương. Thế thì đối với chàng, quan trọng nhất là giết Trương Triệu Trọng để trả thù cho Mã sư bá. Ta phải tìm cách đi giết Trương Triệu Trọng mới được. Nhưng tên họ Trương võ công cao cường như thế, mình làm sao giết nổi? Dù giết được hắn thì chàng cũng chỉ đa tạ mình là xong, không như con lừa chạy theo củ cải, đuổi không thể kịp mà cứ đuổi không ngừng.”

Nàng lại nghĩ:

– “Hồi nhỏ thấy con cái bọn gia nhân chơi búp bê bằng đất, ta cứ khóc lóc đòi, chúng càng không chịu thì ta càng đòi dữ. Đại thúc râu nói đúng thật. Mình càng đối xử tốt với chàng, chàng lại càng tránh né mình. Từ nay về sau ta cứ lãnh đạm với chàng, đợi chàng thấy cần rồi mình sẽ cho chàng nếm thử mùi vị cầu xin người khác. Để bài trừ hết tính khí bướng bỉnh của con lừa ngốc, thì biện pháp của đại thúc râu là hay nhất.”

Đã định chủ ý như vậy, bắt đầu từ lúc đó Lý Nguyên Chỉ không đếm xỉa gì đến Dư Ngư Đồng nữa. Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng thấy vậy đều kinh ngạc không hiểu, chỉ có A Phàm Đề là vuốt bộ râu ria rậm rạp mà cười mỉm.

Con lừa mới của A Phàm Đề đi nhanh gấp mấy lần con lừa cụt đuôi. Đoàn người cứ theo con ngựa trắng mà vượt qua bãi cát vàng, đến trước ngọn Bạch Ngọc Phong. Dường như con ngựa trắng vẫn còn sợ hãi bầy sói, nên khi đến đường rẽ vào cổ thành là nó dừng lại không chịu đi nữa. Lạc Băng vỗ về thế nào, nó cũng không chịu tiến thêm.

Viên Sĩ Tiêu nhìn quanh rồi nói:

– “Rất nhiều sói đã tụ lại ở đây. Chúng ta cứ theo đường có phân sói mà tìm vào trong.”

Mọi người thấy phân sói rất nhiều, nghĩ đến chuyện an nguy của Trần Gia Lạc đều ruột nóng như lửa đốt. Lạc Băng để ngựa trắng ở ngoài, cưỡi chung ngựa với Văn Thái Lai.

Đi quanh co hơn nửa ngày, đột nhiên nghe tiếng bước chân, từ một con đường rẽ có bốn người tiến ra, người đi đầu chính là Trương Triệu Trọng. Từ Thiên Hoằng huýt một tiếng sáo, lập tức cùng Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tâm Nghiễn chạy vòng ra phía sau lưng bốn người đó.

Trương Triệu Trọng chạm mặt quần hùng đã không khỏi kinh hãi, khi nhìn thấy sư huynh của mình là Lục Phi Thanh thì lập tức sắc mặt tái mét, mồ hôi trán chảy đầm đìa. Dư Ngư Đồng vung cây kim địch toan phóng lên để liều mạng. Nhưng Viên Sĩ Tiêu nắm lấy cánh tay chàng kéo nhẹ, Dư Ngư Đồng không tự chủ được phải lùi ra.

Viên Sĩ Tiêu chỉ vào mặt Trương Triệu Trọng mà thóa mạ:

– “Mấy hôm trước gặp ngươi, ta coi ngươi là cao thủ của phái Võ Đang. Nào ngờ ngươi là một tên giặc không có điều gì ác mà không làm, dám giết cả sư huynh. Mau mau bước ra đây, tự kết liễu cho xong đi.”

Trương Triệu Trọng thấy bên đối phương ít nhất có năm người bản lãnh ngang mình, lại có người hơn hẳn mình, nếu dùng võ lực thì chắc chắn không thể thắng. Hắn bèn nói:

– “Bên ta chỉ có bốn người. Các ngươi ỷ nhiều để thắng, Trương mỗ dù chết cũng không phục.”

Viên Sĩ Tiêu nổi giận đã toan một mình xông lên, nhưng nghĩ lại:

– “Ba tên kia chống chọi được với bầy sói, có thể gọi là cao thủ rồi. Nếu bốn người bọn chúng liên thủ, một mình ta không đối phó được. Phải gọi lão râu giúp một tay mới xong.”

Ông bèn “hừ” một tiếng rồi nói:

– “Ta muốn giết loại ác đồ như ngươi thì không cần ỷ nhiều để thắng. Bọn ngươi xông lên cả đi, ta và lão râu này tiếp chiêu. Giả tỉ bốn người bọn ngươi không bại dưới tay hai người chúng ta, ta sẽ thả cho bọn ngươi đi.”

Trương Triệu Trọng chăm chú nhìn A Phàm Đề, thấy ông này đen thui, râu ria mọc lấp hết khuôn mặt, khi mỉm cười thì cặp mắt chỉ còn hai sợi chỉ, trông chẳng giống cao nhân mình đầy tuyệt kỹ chút nào. Hắn nghĩ:

– “Võ công của lão họ Viên thì đúng là kinh người, nhưng chẳng lẽ tên Hồi râu ria này cũng lợi hại hay sao? Chỉ cần Quan Đông tam ma cử một người giúp ta, ta đã có thể đánh ngang tay với lão họ Viên rồi. Còn hai người cầm cự với tên râu đó, chắc là cũng được. Hoàn cảnh thế này, ta không nên để bọn chúng dị nghị thêm người.”

Họ Trương bèn nói:

– “Thế thì chúng ta cứ thử một phen. Xin Viên đại hiệp hạ thủ lưu tình.”

Viên Sĩ Tiêu giận dữ quát lên:

– “Ta không lưu tình đâu!”

Ông quay lại bảo A Phàm Đề đang ngồi trên lưng lừa:

– “Lão râu! Trước mặt nhiều bằng hữu mới quen thế này, hai huynh đệ ta đừng để xấu mặt nhé.”

A Phàm Đề gật đầu đáp:

– “Đúng là như thế, nhưng ta vốn quê mùa, mỗi khi gặp phải đại quan là có phần khiếp sợ. Không hiểu có đánh được không.”

Nhoáng lên một cái, không ai thấy chân ông nhúc nhích, nhưng ông đã đứng dưới đất rồi. Trương Triệu Trọng thấy thân pháp này, đoán ra đây chính là người đã giật lấy mũ của hắn ở bên phần mộ. Bất giác hắn kinh tâm động phách.

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Các ngươi xông lên đi! Chú tâm mà đánh, đừng có tính chuyện chạy trốn. Ta không cho phép các ngươi chạy đâu.”

Kha Hợp Đài bước lên một bước, nói với Viên Sĩ Tiêu:

– “Viên đại hiệp có đại ân cứu mạng, ba huynh đệ tại hạ nhất định không dám tiếp cao chiêu. Hơn nữa, bọn tại hạ cùng người họ Trương này mới lần đầu gặp nhau, hoàn toàn chưa có giao tình, không nhất định phải giúp ông ấy.”

Thấy hành vi của Trương Triệu Trọng vô cùng đê tiện, từ lâu Kha Hợp Đài đã có ý coi thường hắn. Nhưng lúc này đối phương quá đông người, nếu y nói huỵch toẹt ra thì không khỏi mang tiếng khiếp nhược trốn tránh, nên chỉ nói đến đấy rồi dừng. Tam ma đứng thành một dãy phía sau, rõ ràng muốn đứng ngoài chuyện này.

Viên Sĩ Tiêu chau mày rồi nói:

– “Họ không chịu ra tay, còn một mình ngươi thì phải làm sao đây? Hồi ba mươi tuổi, ta từng thề nặng trước mặt tổ sư là không đánh tay đôi với một người nào nữa.”

Nói xong, ông liếc nhìn Thiên Sơn Song Ưng một cái. Thì ra năm đó ông sợ lửa ghen nổi lên, trong lúc điên cuồng lỡ tay giết chết Trần Chính Đức, nên lập lời trọng thệ đó để tự kiềm chế bản thân mình.

Ông bèn quay lại bảo:

– “Lão râu kia! Bây giờ chỉ còn việc của ngươi thôi.”

A Phàm Đề cởi cái chảo trên lưng xuống, mỉm cười nói:

– “Được rồi, được rồi, được rồi!”

Bỗng “vù” một tiếng, cái chảo đã chụp lên đầu Trương Triệu Trọng. Họ Trương vội tránh qua bên trái, tập trung tinh thần để xem địch thủ sử dụng loại binh khí gì. Hắn thấy đó là một miếng sắt đen thui, tròn vo, mặt lồi mặt lõm, mặt lồi thì dính đầy muội than, y như một cái chảo sắt.

A Phàm Đề cười nói:

– “Chắc chắn ngươi đang thắc mắc đây là thứ gì mà giống cái chảo quá. Nói cho ngươi biết, nó đúng là một cái chảo. Bọn quân Thanh các ngươi vô duyên vô cớ đến Hồi Cương, đập bể biết bao nhiêu là chảo, khiến cho người Hồi chúng ta không nấu được cơm ăn. Bây giờ ta phải cho cái chảo này báo thủ quân Thanh.”

Ông vừa nói vừa tung chảo ra chụp lên đầu Trương Triệu Trọng. Họ Trương dùng chiêu Tiên Hạc Lượng Xí cúi xuống đất, né sang một bên, trở ngược tay lại xuất chưởng phản công. A Phàm Đề hơi nghiêng người để tránh, đưa tay trái xoa vào đáy chảo cho dính đầy muội than.

Từ khi đặt chân vào chốn giang hồ cho đến bây giờ, Trương Triệu Trọng đã trải qua hơn trăm trận chiến, nhưng chưa bao giờ gặp đối thủ quái lạ như thế. Lão râu một tay cầm chảo, tay kia bôi đầy muội khói, bước chân xiên vẹo không thành chương pháp gì cả, nhưng mỗi khi xuất chiêu tấn công lại hung hãn vô cùng. Những chiêu thức họ Trương tấn công đều bị ông tránh né dễ dàng, nên hắn không dám sơ ý chút nào, lập tức thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền, bảo nguyên quy nhất hộ vệ toàn thân, không hề để lộ sơ hở.

Đoạn đường này đã chật hẹp lại còn đá mọc lởm chởm. Hai đại cao thủ tỉ đấu ở nơi hiểm trở, mỗi chiêu tấn công phòng thủ đều kịch liệt phi thường.

Viên Sĩ Tiêu lên tiếng than thở:

– “Gian tặc ơi là gian tặc! Công phu của ngươi không phải dễ dàng mà có được. Nếu không biết tâm địa ngươi gian trá ác độc như thế, chắc lão già này không nhịn nổi mà phải thương xót ngươi.”

Dư Ngư Đồng vội la lên:

– “Không được! Lão gia, tuyệt đối không được!”

Tâm Nghiễn hỏi Vệ Xuân Hoa:

– “Cửu ca! Ông râu này sử dụng võ công gì thế?”

Vệ Xuân Hoa lắc đầu. Thiên Sơn Song Ưng, Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai và quần hùng đều không biết gia số võ công của A Phàm Đề, chỉ ngẩn ra mà nhìn.

Đột nhiên A Phàm Đề phóng chân trái đá tới, cái chảo quạt ngang ra. Trương Triệu Trọng không còn chỗ nào tránh né, phải vội vàng ngồi thụp xuống. Nào ngờ A Phàm Đề đã đưa tả chưởng ra đợi ngay dưới chảo, họ Trương giật mình không kịp tránh né liền đưa tả quyền ra chiêu Xung Thiên Pháo đánh từ dưới đáy chảo lên.

A Phàm Đề la lên:

– “Cái này để nấu cơm, ngươi không được đánh vỡ.”

Ông nhấc cái chảo cao lên, tiện tay vuốt lên mặt Trương Triệu Trọng một cái. Trên mặt của Hỏa Thủ Phán Quan lâp tức có năm đường muội than.

Hai đối thủ đều nhảy ra một bước. A Phàm Đề la lên:

– “Đến đây! Thắng bại chưa quyết, ta đấu thêm một trận nữa.”

Trương Triệu Trọng không nói gì, trợn mắt lên nhìn cái chảo trong tay địch thủ.

A Phàm Đề nói:

– “À, ngươi không mang binh khí, chắc thua cũng không chịu phục.”

Ông quay lại bảo Lý Nguyên Chỉ:

– “Đại cô nương! Cô cho cái củ cải này mượn con dao xắt bí một lát đi.”

Trong lúc hai người đánh nhau, Lý Nguyên Chỉ đứng gần nhất, chỉ đợi Trương Triệu Trọng bị cái chảo chụp xuống đầu là nhảy vào tặng thêm một kiếm. Đột nhiên nàng bị vị quái hiệp này nói ra tâm sự, bất giác đỏ mặt lên.

Trước nay A Phàm Đề vẫn nói chuyện rất hoạt kê. Mọi người đứng bên nghe ông gọi Trương Triệu Trọng là “cái củ cải”, không ai thấy ý nghĩa gì, nào ngờ trong đó lại có cả một thiên tình sử.

Thấy Lý Nguyên Chỉ không nhúc nhích, A Phàm Đề hạ giọng bảo nàng:

– “Cô đưa con dao xắt bí cho hắn đi, ta vẫn bắt được hắn thôi.”

Lý Nguyên Chỉ gật đầu, vừa ném thanh trường kiếm ra vừa hô lớn:

– “Kiếm đây, đón lấy!”

Trương Triệu Trọng đưa tay phải lên bắt lấy chuôi kiếm. Đột nhiên hắn xoay người lại, tay trái vung ra, một nhúm Phù Dung Kim Châm bay về phía nhóm Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa đang đứng cản đường. Từ Thiên Hoằng và mọi người biết mùi lợi hại vội nhào người rạp xuống, nghe tiếng gió rít qua đỉnh đầu.

Trương Triệu Trọng thừa cơ lướt qua người họ, xông đến chỗ Kha Hợp Đài, đưa tay trái ra nắm lấy cổ tay phải của họ Kha, la lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Kha Hợp Đài nhất thời không tự chủ được, bị hắn kéo chạy vào trong Mê Thành. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu không kịp suy nghĩ gì, lập tức chạy theo.

Biến diễn xảy ra quá đột ngột. Khi Từ Thiên Hoằng và mọi người đứng dậy thì bốn người bọn chúng đã khuất sau một khúc quanh đồi. Viên Sĩ Tiêu và A Phàm Đề rất giận dữ, cùng tung người lên như hai con chim khổng lồ bay vọt qua đầu bọn Từ Thiên Hoằng.

Thân pháp của Thiên Trì Quái Hiệp cực nhanh, người chưa chạm đất đã túm được gáy Tất Nhất Lôi, nhấc bổng thân thể mập mạp của hắn lên. Tất Nhất Lôi không biết người bắt mình là ai, chỉ cảm thấy mình lơ lửng trên không. Hắn không có chỗ tựa để vận kinh, đành vẫy độc cước đồng nhân đánh bừa ra sau. Đột nhiên hắn cảm thấy mình bị một luồng lực đạo rất mạnh quẳng đi, rồi đập đầu vào vách núi nghe “bốp” một tiếng, óc não văng ra mà chết.

Viên Sĩ Tiêu ném chết Tất Nhất Lôi mà chân vẫn không dừng. Ông chạy qua một khúc quanh, thấy phía trước là ba con đường rẽ, không biết Trương Triệu Trọng đã chạy theo đường nào. Ông chỉ đường bên phải, la lên:

– “Lão râu! Ngươi đuổi bên này.”

Ông lại chỉ đường bên trái, bảo Thiên Sơn Song Ưng:

– “Hai vị đuổi bên này.”

Bản thân ông thì theo đường ở giữa mà truy đuổi tiếp.

Chỉ trong khoảnh khắc, bốn người đều quay về tay không. Họ nói là phía trước lại xuất hiện rất nhiều đường rẽ, không biết đâu mà đuổi nữa. Từ Thiên Hoằng xem xét mặt đường tỉ mỉ rồi nói:

– “Bãi phân sói này mới bị người ta đạp trúng. Nhất định là chúng theo con đường có phân mà chạy vào trong.”

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Không sai! Mau mau đuổi theo!”

Mọi người theo dấu phân sói vào trong, đuổi mãi đến Bạch Ngọc Phong vẫn chưa thấy bóng dáng của bọn Trương Triệu Trọng. Quần hùng chia nhau tìm kiếm trong những gian nhà, chẳng bao lâu thì Vệ Xuân Hoa phát hiện cửa động trên vách núi.

Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức tung người nhảy lên trước, tiếp đến là Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai và Quan Minh Mai. Còn những người khác khinh công kém hơn thì Lục Phi Thanh và Văn Thái Lai thòng dây xuống kéo lên. Cuối cùng còn lại Tâm Nghiễn, A Phàm Đề bỗng mỉm cười nói:

– “Tiểu huynh đệ! Để ta xem thử gan của ngươi có to hay không.”

Ông dùng một tay nắm chặt lấy lưng cậu bé, vừa hét lên “Đón lấy!” vừa ném cậu lên cửa động. Văn Thái Lai đưa tay ra chụp được, A Phàm Đề nhảy lên sau. Lúc đó Viên Sĩ Tiêu đã đẩy cánh cửa đá mở ra.

Cánh cửa đó mở về phía trong. Nếu bên ngoài bị người khác móc lại, thì bên trong dù có thiên quân vạn mã cũng không thể xông ra được; nhưng từ ngoài muốn vào trong lại rất dễ dàng. Năm xưa, khi tên bạo chúa xây dựng tòa ngọc cung trong lòng núi, có lẽ hắn đã tính rằng đường vào Mê Thành rắc rối, ngàn ngã rẽ vạn khúc quanh, ngoại địch khó mà xâm nhập, đáng lo nhất là nội bộ có người làm phản. Vì thế hắn mới thiết kế cánh cửa đá này như thế để nhốt quân phản loạn hết đường trốn thoát.

Viên Sĩ Tiêu vội vàng tiến vào đường hầm, quần hùng nối đuôi theo sau. Từ Thiên Hoằng bẻ gãy nhiều chân ghế chân bàn, đốt lên làm đuốc chia cho mọi người cầm. Lúc vào đại điện, binh khí của mọi người đều bị từ thạch hút mất, không khỏi kinh hãi một phen. May mà A Phàm Đề tay chân nhanh nhẹn, kịp chụp lại cái chảo nên nó mới không rơi vỡ. Mọi người thấy lúc này quan trọng nhất là tìm ra địch thủ, nên không kịp nghiên cứu tỉ mỉ nguyên nhân, chỉ lập tức nhặt lại binh khí, nắm thật chặt mà đi thẳng vào trong ngọc thất.

Khi thấy giữa mặt giường lại có đường hầm, quần hùng lại càng kinh ngạc. Ở trong lòng núi như thế này, không ai dám lên tiếng, chỉ theo Viên Sĩ Tiêu mà đi thật nhanh. Đột nhiên trước mặt sáng bừng lên, rồi họ thấy sáu người đứng bên một cái hồ nước màu xanh bích.

Xa xa vẫn có thể nhận ra, ở bên kia hồ là Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa. Còn bên này là Trương Triệu Trọng, Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài. Mọi người đều mừng rỡ, Tâm Nghiễn la gọi:

– “Thiếu gia, thiếu gia! Bọn thuộc hạ đến đây cả rồi!”

Văn Thái Lai cùng với quần hùng vội vàng chạy tới gặp mặt. Quan Minh Mai vừa chạy vừa hỏi lớn:

– “Đồ nhi! Ngươi… ngươi làm sao rồi?”

Hoắc Thanh Đồng kêu lên trả lời:

– “Sư phụ, sư công! Đồ nhi vẫn khỏe. Sư phụ, sư công mau mau giết tên gian tặc này đi.”

Nói xong, nàng chỉ mặt Cố Kim Tiêu.

Lần trước Trần Chính Đức dùng tay không đánh nhau với tam ma, suýt bị lỗ vốn. Phen này ông không dám coi thường nữa, rút trường kiếm ra đâm tới Cố Kim Tiêu. Họ Cố đã vào đây hai lần, lúc qua đại điện đã nhặt lại binh khí, lập tức vung cây Hổ xoa lên tiếp chiêu. Bên này thì Quan Minh Mai giao đấu với Kha Hợp Đài.

Quần hùng đều cầm binh khí từ từ tiến lại bao vây, canh chừng Trương Triệu Trọng. Họ Trương đang cầm thanh kiếm của Lý Nguyên Chỉ cho mượn. Lục Phi Thanh thấy đồ đệ tay không, bèn đưa nàng thanh Ngưng Bích Kiếm đoạt từ tay Trương Triệu Trọng trên Sư Tử Phong ở Hàng Châu.

Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài đã rơi vào chỗ cùng đường, phải liên tiếp liều mạng mới gắng gượng chịu nổi mười mấy chiêu. Tam Phân kiếm thuật của Song Ưng càng lúc càng vây bủa chặt hơn, nhị ma chỉ biết chống đỡ mà thôi. Trong màn kiếm quang trắng xóa bỗng nghe Trần Chính Đức quát lên một tiếng, ngực áo Cố Kim Tiêu nhuộm đỏ màu máu. Họ Trần lại bồi thêm một kiếm đâm vào hạ bàn, Cố Kim Tiêu gượng nhảy sang bên tránh né. Trần Chính Đức bèn phóng chân ra đá. “Ùm” một tiếng, Cố Kim Tiêu lọt xuống hồ phỉ thúy làm nước bắn tứ tung, máu tươi loang khắp mặt hồ.

Bên kia Kha Hợp Đài cũng bị kiếm quang của Quan Minh Mai vây bọc. Dư Ngư Đồng chợt nghĩ đến mấy lần Kha Hợp Đài cứu mạng mình. Chàng biết sư thúc và Song Ưng có giao tình nồng hậu, bèn lên tiếng:

– “Sư thúc! Người này không đến nỗi đồi bại. Sư thúc cứu y một lần đi.”

Lục Phi Thanh gật đầu.

Quan Minh Mai đâm một kiếm ở trên, một kiếm ở dưới, bên trái một chiêu, bên phải một chiêu. Kha Hợp Đài mồ hôi đầy đầu, mặt tái nhợt, không ngừng lùi bước. Lục Phi Thanh tung người nhảy ra, đưa thanh Bạch Long Kiếm đỡ trường kiếm của Quan Minh Mai nghe “keng” một tiếng. Ông la lên:

– “Trần đại tẩu! Con người này chưa phải là hư hỏng lắm, tha cho hắn đi.”

Nghe Lục Phi Thanh lên tiếng, Quan Minh Mai nể mặt ông lập tức thu kiếm lại.

Lục Phi Thanh quay lại nhìn, thấy Kha Hợp Đài đứng thở hổn hển, vì dùng sức quá độ nên thân mình run rẩy không ngớt. Ông bèn quát lên:

– “Mau tạ ơn tha mạng của Quan đại hiệp đi!”

Kha Hợp Đài thầm nghĩ:

– “Đại trượng phu mà phải tạ ơn người ta tha mạng thì còn sống làm chi nữa?”

Y quát trả:

– “Ta cần gì bà tha mạng?”, rồi lại phóng lên chém giết.

Đột nhiên nghe tiếng nước róc rách, Cố Kim Tiêu từ dưới mặt hồ ngoi lên, từ từ bơi đến bờ hồ. Kha Hợp Đài vội quẳng đao xuống đất, tay không chạy tới để kéo hắn lên. Cố Kim Tiêu bị thương rất nặng, lại uống thêm một bụng nước, khốn đốn vô cùng. Kha Hợp Đài không ngừng xoa xoa trước ngực hắn, mặc kệ mọi người đang đứng kế bên.

Hoắc Thanh Đồng chạy tới, la lên một tiếng:

– “Đồ gian tặc!”

Nàng đưa kiếm chém xuống ngực Cố Kim Tiêu.

Trong lúc cấp bách, Kha Hợp Đài liều đưa cánh tay ra cản trở. Kiếm của Hoắc Thanh Đồng vẫn chém xuống, rõ ràng sắp chặt đứt cánh tay của y. May mà Viên Sĩ Tiêu nghĩ đến y có công dụ bầy sói vào bẫy, bèn nhặt một viên sỏi nhỏ ném tới. “Keng” một tiếng, cánh tay Hoắc Thanh Đồng tê rần, buông trường kiếm rơi xuống đất. Nàng ngẩn ra một chút, rồi nghe Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Để lo liệu tên gian tặc họ Trương kia trước đã. Hai tên này không trốn được đâu.”

Trương Triệu Trọng bị quần hùng vây chặt, đứng yên mà nhìn nhị ma ác chiến rồi bị bắt ngay tại trận. Hắn bị Văn Thái Lai, A Phàm Đề, Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh giám thị cẩn mật xung quanh, tuyệt không còn cơ hội thoát thân, chỉ biết lắc đầu thở dài.

Hắn đang định buông kiếm để chịu tội cho xong, đột nhiên sau lưng Lục Phi Thanh có một người nhảy ra, chính là Lý Nguyên Chỉ. Nàng xách trường kiếm xông tới quát tháo:

– “Đồ gian tặc!”

Mọi người còn đang ngơ ngác, nàng đã nhảy tới trước mặt Trương Triệu Trọng, nói rất nhỏ:

– “Ta cứu ông!” rồi phóng kiếm đâm veo véo mấy chiêu. Trương Triệu Trọng không hiểu nàng có dụng ý gì, phải đảo người tránh né. Đột nhiên Lý Nguyên Chỉ vờ bị mất đà ngã về phía trước, thì thầm:

– “Bắt ta đi!”

Trương Triệu Trọng hiểu ngay, vừa đưa kiếm gạt thanh kiếm của nàng ra, vừa vung tay trái túm chặt cổ tay nàng. “Keng” một tiếng, hắn thấy trường kiếm của mình bị gãy, chưa kịp ngạc nhiên thì đã thấy cô gái này đang cầm thanh Ngưng Bích Kiếm của mình. Họ Trương lập tức hoan hỉ vô cùng.

Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng, Vệ Xuân Hoa, Trần Chính Đức đồng thời chạy lên để cứu người. Trương Triệu Trọng giật lấy Ngưng Bích Kiếm khua một vòng tròn, kim địch và song câu vừa chạm tới đã bị chặt đứt ngay. Văn Thái Lai và Trần Chính Đức phải vội vã thu chiêu, binh khí mới còn nguyên vẹn.

Trương Triệu Trọng kề bảo kiếm vào hậu tâm của Lý Nguyên Chỉ, hét lên:

– “Tránh ra!”

Biến diễn thật sự bất ngờ. Ai cũng thấy tên gian tặc sắp sửa bị trói, nào ngờ Lý Nguyên Chỉ nhỏ tuổi chẳng hiểu biết gì, vì tham công mà bị hắn bắt làm bùa hộ mạng.

Lý Nguyên Chỉ giả vờ nhũn người ra, tựa vào vai Trương Triệu Trọng, ra vẻ bị điểm huyệt không động đậy được. Thấy mọi người đứng ngẩn ra không dám tấn công, họ Trương bèn nghĩ cách chạy trốn. Lý Nguyên Chỉ khẽ nói vào tai hắn:

– “Trở vào lòng núi!”

Hắn suy nghĩ một chút, thấy có lý liền cất bước đi về hướng đường hầm.

Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức giận dữ vô cùng. Một người nhặt một viên đá, một người lấy ra ba hạt Thiết bồ đề ném tới lưng Trương Triệu Trọng. Hắn cúi rạp người xuống tránh ám khí, nhưng chân không dừng bước, cứ chạy vào trong đường hầm. Bỗng nghe Lý Nguyên Chỉ la lên một tiếng:

– “Úi chà!”

Lục Phi Thanh kinh hãi hô lớn:

– “Mọi người đừng nhắm mắt làm bừa. Chúng ta phải tìm cách khác.”

Ông sợ Trương Triệu Trọng bí quá hóa liều, dùng đồ đệ của mình làm lá chắn. Mọi người bèn đuổi theo Trương Triệu Trọng, vào trong đường hầm.

Chỉ có Hoắc Thanh Đồng tay cầm trường kiếm giận dữ đứng nhìn Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài lo buộc vết thương trước ngực cho người anh kết nghĩa, hai người này hình như không nghe không thấy những chuyện vừa xảy ra. Trần Gia Lạc sợ Hoắc Thanh Đồng một mình ở lại có gì sơ suất, khi đến cửa đường hầm bèn dừng chân bảo Hương Hương công chúa:

– “Chúng ta ở đây với Thanh Đồng đi.”

Trương Triệu Trọng kéo Lý Nguyên Chỉ gấp rút chạy về phía trước. Mọi người không dám đuổi sát quá, mà đường hầm này lại rất nhiều chỗ ngoắt ngoéo, không thể phóng ám khí được. Sắp hết con đường hầm, thấy Trương Triệu Trọng đang băng qua cánh cửa đá, Viên Sĩ Tiêu tức quá bèn nhún người một cái, xông lên toan tấn công hắn. Trong bóng tối ông bỗng nghe tiếng vi vu, vội nép mình vào vách đá mà gọi:

– “Lão râu! Chảo đâu?”

A Phàm Đề bước lên hai bước, xoay chảo ra đỡ. Nghe một loạt những tiếng “keng keng” nho nhỏ, trong chảo đã có thêm mấy chục mũi Phù Dung Kim Châm. A Phàm Đề bèn la lên:

– “Mấy cái kim này đâu có xào ăn được?”

Thế là chậm mất một bước. Trương Triệu Trọng và Lý Nguyên Chỉ đã chạy qua khỏi cửa đá, hai người hợp sức kéo cánh cửa đóng lại. Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức xông tới định mở cửa, nhưng bên trong cánh cửa đá hoàn toàn không có chỗ nào bám được. Hai người cùng nổi nóng, chỉ biết ngoác mồm ra mà thóa mạ.

Trương Triệu Trọng lấy cây búa vàng cắm lại vào khoen sắt, thở ra một hơi dài rồi nói với Lý Nguyên Chỉ:

– “Đa tạ Lý tiểu thư cứu mạng.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Phụ thân của tiểu điệt và Trương sư thúc đều là mệnh quan của triều đình, dĩ nhiên tiểu điệt phải cứu sư thúc.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Lý tướng quân gần đây có khỏe không? Thái phu nhân vẫn bình an đấy chứ?”

Hắn chắp tay để thỉnh an, dùng lễ nghi kiểu quan trường.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Tiểu điệt không dám nhận lễ của sư thúc. Chúng ta mau mau tìm cách trốn đi. Nhất định sư phụ đã nhìn ra tiểu điệt cứu sư thúc, nếu để ông ấy đuổi kịp thì chúng ta mất mạng.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Tặc đảng đông người, ta phải mau mau quay về nội địa, gọi thêm người giúp rồi trở lại mà bắt chúng.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Nhất định họ sẽ trở về cái hồ đó, tìm đường khác thoát ra mà đuổi. Trương sư thúc, chúng ta nên tìm cách khác. Trên sa mạc trơ trụi này, không dễ dàng chạy thoát đâu.”

Trương Triệu Trọng võ công tuyệt cao, tâm địa gian xảo, nhưng mưu trí chỉ vào hạng bình thường. Hắn chau mày ngẫm nghĩ, nhất thời không nghĩ ra được cách nào. Lý Nguyên Chỉ ra vẻ lo lắng khác thường, nằm phục trên một tảng đá mà khóc lóc.

Trương Triệu Trọng vội tới an ủi:

– “Lý tiểu thư đừng sợ, chúng ta nhất định sẽ chạy thoát.”

Lý Nguyên Chỉ vẫn khóc:

– “Dù chạy được khỏi Mê Thành, nhưng chỉ một hai ngày cũng bị đuổi kịp thôi. Má má ơi… hu hu… má má ơi…”

Trương Triệu Trọng bị tiếng khóc làm loạn cả tâm trí, đứng xoa tay mãi chẳng suy nghĩ gì được. Lý Nguyên Chỉ đột nhiên ngưng khóc, hỏi hắn:

– “Hồi nhỏ sư thúc có chơi trò cút bắt không?”

Trương Triệu Trọng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mới năm tuổi đã được sư phụ nhận về nuôi dưỡng và dạy cho võ nghệ. Mã Chân và Lục Phi Thanh đều lớn tuổi hơn hắn nhiều, nên những trò chơi trẻ nít hắn chưa từng chơi bao giờ. Mặt hắn lộ vẻ mơ hồ, lắc đầu một cái.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Bây giờ chúng ta cứ trốn trong Mê Thành. Nhất định họ không tìm được, tưởng chúng ta đã chạy ra ngoài nên cố gắng đuổi theo. Chúng ta đợi ba bốn ngày rồi sẽ từ từ mà ra.”

Trương Triệu Trọng giơ ngón tay cái lên nói:

– “Lý tiểu thư thông minh thật. Nhưng chúng ta không mang theo lương thực, ba bốn ngày thì…”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Trên yên ngựa ngoài kia có cả lương khô lẫn nước uống.”

Trương Triệu Trọng mừng rỡ nói:

– “Hay lắm! Bây giờ chúng ta phải trốn kỹ trước đã.”

Rồi hai người theo sợi dây dài mà trèo lên cửa động ở lưng chừng vách núi. Sợi dây dài này là lần trước Trương Triệu Trọng và tam ma vào núi đã để lại. Kha Hợp Đài xuất thân du mục, lúc nào cũng mang theo dây thừng trong người.

Ra khỏi động, hai người men theo vách núi tuột xuống. Mỗi người cưỡi một con ngựa, chạy ra phía ngoài. Tới một chỗ rẽ, Lý Nguyên Chỉ xuống ngựa rồi nói:

– “Sư thúc xem phân sói dưới đất thì biết, đường bên trái là đường dẫn ra ngoài. Bây giờ chúng ta đi về bên phải…”

Nói đến đây, nàng thấy con ngựa mình đang dắt bỗng cong đuôi lên, hình như muốn đi đại tiện. Nàng liền lấy lương thực và túi nước trên lưng nó xuống, xoay đầu hai con ngựa hướng về phía tay trái, dùng sức quất cho một roi. Hai con ngựa bị đau, lập tức tung vó chạy thẳng tới trước.

Trương Triệu Trọng ngạc nhiên không hiểu, bèn hỏi:

– “Tiểu thư làm gì vậy?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Khi tìm đến đây, thấy dấu chân ngựa và phân ngựa còn mới ở bên tay trái, dĩ nhiên họ sẽ đuổi về phía đó.”

Trương Triệu Trọng mừng rỡ, lại khen:

– “Diệu kế, diệu kế!”

Hai người đi vào ngã rẽ bên tay phải. Mỗi khi đến chỗ rẽ, Lý Nguyên Chỉ lại lấy ba tảng đá nhỏ sắp thành ký hiệu ở chỗ khuất. Trương Triệu Trọng nói:

– “Ở đây có hàng ngàn con đường rẽ. Nếu không có ký hiệu này, chắc chắn hai người chúng ta không có cách nào tìm được đường ra.”

Hai người đi được nửa ngày, không biết đã qua bao nhiêu chỗ rẽ. Lý Nguyên Chỉ thấy trời tối dần bèn nói:

– “Chúng ta nghỉ ngơi ở đây đi.”

Hai người ăn một ít lương khô, uống một ít nước. Trương Triệu Trọng nói:

– “Lương thực và túi nước trên con ngựa kia không kịp lấy xuống, thật là đáng tiếc.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta phải tiết kiệm một chút.”

Trương Triệu Trọng gật đầu:

– “Đúng vậy!”

Lý Nguyên Chỉ để túi lương thực và túi nước ở cạnh người Trương Triệu Trọng, bảo:

– “Sư thúc trông chừng cẩn thận, đây là mạng sống của chúng ta đấy.”

Trương Triệu Trọng lại gật đầu đồng ý. Lý Nguyên Chỉ đi ngược lại mười mấy thước, tìm chỗ sạch sẽ mà nằm nghỉ.

Ngủ đến nửa đêm, Trương Triệu Trọng chợt nghe Lý Nguyên Chỉ kinh hãi la lên, liền thức dậy chạy tới. Hắn thấy nàng chỉ vào con đường dẫn đến đây mà kêu lớn:

– “Một con sói lớn! Nhanh lên!”

Trương Triệu Trọng rút soạt Ngưng Bích Kiếm, tung người đuổi theo. Hắn rẽ qua hai chỗ ngoặt mà vẫn không thấy bóng dáng con sói đâu, sợ lạc đường nên không dám đuổi nữa. Khi quay lại thì không thấy bóng dáng Lý Nguyên Chỉ đâu, hắn kinh hãi gọi lớn:

– “Lý tiểu thư!”

Bỗng thấy mặt đất ẩm ướt, cái túi nước nằm lăn lóc, hắn vội chạy đến nhặt lên thì trong túi chỉ còn một hai giọt nước. Đang ủ rũ thì Lý Nguyên Chỉ từ một ngã rẽ khác quay ra, lên tiếng:

– “Bên kia có một con sói chạy tới đây. Chắc nó định cướp nước uống.”

Trương Triệu Trọng giơ cao túi nước lên mà nói:

– “Không ngờ bọn sói dữ đó vẫn chưa chết sạch. Tiểu thư xem này!”

Lý Nguyên Chỉ ngồi dưới đất, hai vai rung lên bần bật, khóc ngay. Trương Triệu Trọng nói:

– “Không có nước thì không thể ở lại lâu hơn. Ngày mai chúng ta phải ra khỏi đây.”

Lý Nguyên Chỉ đứng dậy nói:

– “Để tiểu điệt ra ngoài xem thử. Sư thúc ở đây đợi nhé.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Sao chúng ta không cùng đi?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Nếu gặp phải họ, sư thúc có toàn mạng không? Tiểu điệt dù sao cũng đỡ hơn.”

Trương Triệu Trọng suy nghĩ một chút, thấy có lý bèn nói:

– “Lý tiểu thư phải hết sức cẩn thận!”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Vâng! Sư thúc cho tiểu điệt mượn kiếm đi.”

Trương Triệu Trọng liền đưa Ngưng Bích Kiếm qua. Lý Nguyên Chỉ cầm kiếm quay lại, theo đường có ký hiệu mà đi ra ngoài. Mỗi khi đến chỗ đường rẽ, nàng cũng đặt ba viên sỏi nhỏ giống hệt ký hiệu thật sự, nhưng rải thêm một chút cát bên cạnh. Nếu Trương Triệu Trọng tự tìm ra ngoài, chắc chắn hắn không thể phân biệt ký hiệu thật hay giả, chạy đông chạy tây cũng không làm gì được, trước sau gì cũng phải quay lại chỗ cũ.

Nàng vừa đi vừa bố trí như vậy, buồn cười nghĩ bụng:

– “Con sói làm đổ túi nước là chuyện bịa đặt mà Trương Triệu Trọng vẫn tin đến sái cổ. Thế là hắn không sao thoát khỏi tay mình nữa.”

Lúc trời gần sáng, Lý Nguyên Chỉ đang đi trên con đường chính thì nghe sau một khúc quanh có người lớn tiếng thóa mạ:

– “Ta phải rút gân lột da tên gian tặc đó.”

Lại nghe một người khác mỉm cười nói:

– “Muốn rút gân lột da thì trước tiên phải tìm cho ra hắn đã chứ?”

Lý Nguyên Chỉ la lên một tiếng “Trời ơi”, rồi ngã xuống đất, giả vờ ngất xỉu tại chỗ.

Hai người đang nói chuyện chính là Viên Sĩ Tiêu và A Phàm Đề. Họ kéo cửa đá không được, đành quay lại bờ hồ. Hoắc Thanh Đồng nghiên cứu bản đồ tìm được con đường bí mật, dẫn quần hùng từ phía sau núi xông ra tới đây. Không biết Trương Triệu Trọng và Lý Nguyên Chỉ đã biến tới đâu rồi, Viên Sĩ Tiêu đang nổi giận thì nghe thấy tiếng la, lập tức chạy tới thấy Lý Nguyên Chỉ nằm dưới đất. Ông nửa giận nửa mừng, nhìn qua thấy nàng không có vết thương nào, bèn yên tâm lay gọi nàng dậy. Lý Nguyên Chỉ vẫn nằm yên không chịu tỉnh.

Viên Sĩ Tiêu ra vẻ khẩn trương, còn A Phàm Đề vừa cười vừa mắng:

– “Con bé nghịch ngợm này! Giả tỉ ngươi là con gái của ta, ta không đập cho một trận mới là chuyện lạ.”

Thấy nàng vẫn nằm không nhúch nhích, ông lại nói:

– “Nếu bất tỉnh thật sự thì ta đánh tới mười roi cũng chưa động đậy.”

Ông làm thật sự, vung cái roi lừa lên quất vào vai nàng nghe “soạt” một tiếng. Viên Sĩ Tiêu định lên tiếng trách ông ta lỗ mãng, nhưng Lý Nguyên Chỉ sợ bị đánh tiếp nên đã mở mắt, rên lên một tiếng.

A Phàm Đề đắc ý vô cùng, mỉm cười nói:

– “Cây roi của ta còn tuyệt diệu hơn cả phép Thôi Cung Quá Huyệt của ông. Chỉ một roi là cô nàng tỉnh dậy ngay.”

Viên Sĩ Tiêu thầm nghĩ:

– “Quả nhiên lão râu này cũng có chút bản lãnh.”

Ông cúi xuống hỏi:

– “Có bị sao không? Gian tặc đâu rồi?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Vãn bối bị bắt, sợ quá ngất đi. Đêm hôm qua hắn ngủ nửa mê nửa tỉnh, vãn bối thừa cơ lén chạy ra ngoài.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Hắn đang ở đâu? Mau dẫn chúng ta đi.”

Lý Nguyên Chỉ gật đầu rồi đứng dậy, vờ lảo đảo mấy cái. Viên Sĩ Tiêu vội đưa tay ra đỡ. A Phàm Đề nói:

– “Hai người đi đi, để ta đợi ở đây.”

Viên Sĩ Tiêu trợn mắt lên nói:

– “Lão râu nổi cơn lười biếng rồi sao? Được! Dù không có ngươi, ta vẫn có thể đối phó với hắn.”

Lý Nguyên Chỉ dẫn Viên Sĩ Tiêu đi chưa được bao lâu, Lục Phi Thanh, Trần Chính Đức, Trần Gia Lạc và mọi người kéo tới tập hợp, sau khi lùng sục các nơi khác không có kết quả. A Phàm Đề không kể những chuyện mới xảy ra, chỉ ngồi cười cười nghe họ bàn tán với nhau. Chương Tấn cùng Tâm Nghiễn đã khống chế Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài, bắt chúng ngồi yên dưới đất.

Lát sau Viên Sĩ Tiêu và Lý Nguyên Chỉ quay lại, Lục Phi Thanh và Lạc Băng liền chạy tới hỏi han. Viên Sĩ Tiêu nói với A Phàm Đề:

– “Lão râu khôn thật, đỡ phải đi một buổi phí công. Cô bé này không nhớ nổi đường, cứ dẫn tới dẫn lui. Suýt nữa là chúng ta không quay về được.”

Mọi người thương lượng một lúc, đều nói là chưa bắt được Trương Triệu Trọng thì nhất định chưa chịu quay về. Nhưng đường xá trong Mê Thành biến ảo như thế, làm sao mà tìm được hắn?

Từ Thiên Hoằng và Hoắc Thanh Đồng tuy lắm mưu nhiều kế, nhưng vẫn không nghĩ ra được biện pháp nào. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Nếu có một vài con chó thì hay biết mấy!”

Trần Chính Đức nói:

– “Ở nhà ta có mấy con chó lai sói rất lớn, nhưng tiếc là nước xa không cứu được lửa gần.”

Trong lúc nói chuyện, Từ Thiên Hoằng thấy trên miệng của A Phàm Đề luôn có nụ cười, đoán trong lòng vị quái hiệp này đã có cao kiến, bèn tới gần mà hỏi:

– “Bọn vãn bối thật sự không biết phải làm gì. Xin tiền bối chỉ cho một con đường sáng.”

A Phàm Đề chỉ Dư Ngư Đồng rồi đáp:

– “Con đường sáng chính là vị tú tài này. Sao không tới hỏi y?”

Dư Ngư Đồng kinh ngạc hỏi lại:

– “Vãn bối à?”

A Phàm Đề gật đầu một cái, ngửa mặt lên trời cười rộ, rồi trèo lên lưng lừa mà tà tà đi dạo. Lúc đầu Từ Thiên Hoằng vẫn tưởng ông ta đùa giỡn, nhưng nghĩ lại tỉ mỉ thì thấy lời nói và cử chỉ của Lý Nguyên Chỉ có nhiều chỗ kỳ cục. Chàng nghĩ:

– “Việc này thì phải tìm cách hỏi cô ấy mới rõ được.”

Chàng bèn tới nói thầm với Lạc Băng.

Lạc Băng nghĩ thấy cũng có lý, bèn rót một ly nước, cầm một miếng thịt dê nướng đem tới cho Lý Nguyên Chỉ, rồi hỏi:

– “Lý muội muội này, muội thật là bản lãnh. Làm sao muội thoát khỏi bàn tay ác độc của tên tồi tệ đó?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Lúc đó muội hoảng sợ đến nỗi mất cả hồn vía, nên chỉ liều mạng chạy bừa. Lại sợ tên ác tặc đó đuổi kịp nên muội cứ rẽ trái rẽ phải loạn xạ, không nhận ra đường lối gì nữa. May mà hoàng thiên phù hộ, nhắm mắt vẫn chạy được ra đây.”

Nàng biết Lạc Băng nhất định sẽ vặn hỏi đường đi của mình, nên nói mấy câu này cho Lạc Băng hết hỏi.

Lạc Băng vốn bán tín bán nghi, không biết Lý Nguyên Chỉ có thật sự không biết chỗ Trương Triệu Trọng trốn hay không. Nhưng khi nghe cô nàng chối sạch tới mức vô lý thì trong lòng Lạc Băng bỗng sáng hẳn lên, mỉm cười thầm nghĩ:

– “Cô bé này xảo trá quá.”

Rồi Lạc Băng nói:

– “Muội muội! Muội cố suy nghĩ cho kỹ xem, chắc chắn sẽ nhận ra được đường đi tới đó.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Nếu muội bình tĩnh một chút, không đến nỗi mất hết hồn phách, thì có lẽ không hồ đồ đến mức như vậy. Bây giờ hoàn toàn quên sạch, không nhớ được một tí gì.”

Lạc Băng nghĩ “Được rồi, được rồi!”, rồi nói rất dịu dàng:

– “Tâm sự của muội muội ra sao, tỉ tỉ hiểu cả rồi. Chỉ cần muội giúp chúng ta việc này, mọi người sẽ giúp muội hoàn thành tâm nguyện.”

Mặt Lý Nguyên Chỉ lập tức đỏ lên, đỏ tới tận khóe mắt, đau khổ nói:

– “Muội là người không ai thương nổi, đúng ra không nên chạy trốn ra đây. Chi bằng để tên gian tặc họ Trương kia chém một nhát cho xong việc.”

Lạc Băng thấy cô nàng chuyển sang giọng điệu ăn vạ nhõng nhẽo, biết mình không khuyên bảo được. Nàng bèn nói:

– “Thôi, chắc muội mệt mỏi rồi. Uống một ít nước rồi nghỉ ngơi đi.”

Lý Nguyên Chỉ khẽ gật đầu.

Lạc Băng kéo Dư Ngư Đồng qua một bên, thì thầm nói chuyện một lúc rất lâu. Thần sắc Dư Ngư Đồng lúc đầu ra vẻ khó xử, nhưng cuối cùng thì nghiến răng lại, hạ quyết tâm, vỗ đùi một cái rồi tuyên bố:

– “Được! Để trả thù cho ân sư, chuyện gì tiểu đệ cũng làm!”

Lý Nguyên Chỉ nhắm mắt dưỡng thần, hoàn toàn không đếm xỉa tới ai. Bỗng nàng nghe tiếng chân người đi đến chỗ mình, thì ra là Dư Ngư Đồng.

Chàng lên tiếng:

– “Sư muội! Sư muội đã mấy lần cứu mạng của ta. Không phải ta không biết thẹn, nhưng bây giờ phải mặt dày nhờ sư muội giúp cho một lần nữa.”

Nói xong, chàng thi lễ rất sâu.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Trời ơi! Tại sao Dư sư ca thi lễ như vậy? Chúng ta là sư huynh đệ đồng môn, sư ca muốn sai bảo sư muội chuyện gì thì chỉ cần nói thẳng là xong, không phải thế hay sao?”

Nghe nàng nói chuyện theo kiểu người dưng, Dư Ngư Đồng khó chịu trong lòng. Nhưng đang có việc cầu xin, nên chàng gắng gượng nói:

– “Tên gian tặc Trương Triệu Trọng đã hại chết ân sư của ta. Nếu ai có thể giúp ta trả được mối thù này, dù người đó bắt ta suốt đời phải làm trâu ngựa, ta vẫn cảm tạ ơn đức như thường.”

Lý Nguyên Chỉ nghe vậy nổi giận ngay lập tức, nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ ngươi coi việc cưới ta giống như cả đời phải làm trâu ngựa?”

Nàng quay lại nhìn thẳng, mặt lạnh như băng giá, nghiến răng mà nói:

– “Tại đây có rất nhiều đại anh hùng đại hiệp khách, có cả các loại đà chủ lớn bé của huynh. Sao huynh không đi cầu xin họ đi? Suốt dọc đường huynh cứ tránh né ta, cứ như hễ gặp ta là sẽ bị lây bệnh cùi hủi, xúi quẩy suốt đời vậy. Ta làm gì có bản lãnh giúp đỡ huynh? Huynh biến đi cho ta nhờ, không thì ta phải dùng những câu thô lỗ để nói nặng huynh đấy.”

Mọi người đang bàn luận tìm cách truy bắt Trương Triệu Trọng, không để ý đến ba người Lạc Băng, Lý Nguyên Chỉ, Dư Ngư Đồng. Đột nhiên họ thấy Lý Nguyên Chỉ quát mắng lớn tiếng, giận dữ đỏ mặt tía tai, lại thấy Dư Ngư Đồng ủ rũ cúi đầu rời khỏi đó, ai cũng cảm thấy ngạc nhiên.

Từ Thiên Hoằng và Lạc Băng thấy Dư Ngư Đồng bị mắng một trận như vậy, chỉ biết nhìn nhau cười đau khổ. Hai người bèn kéo Trần Gia Lạc qua một bên, thì thầm bàn tán. Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta nhờ Lục lão tiền bối nói chuyện, cô ấy không thể không nghe sư phụ…”

Nói chưa dứt câu, đột nhiên nghe tiếng của Tâm Nghiễn và Chương Tấn, một người kinh hãi la lên, một người giận dữ quát tháo. Quay lại nhìn thì thấy Cố Kim Tiêu đang chạy như điên về hướng Hoắc Thanh Đồng.

Trần Gia Lạc giật mình lập tức xông tới, nhưng khoảng cách khá xa, khó mà can thiệp kịp. Vệ Xuân Hoa lạng người ra cản trở, bị Cố Kim Tiêu húc ngã, văng ra hai bước. Họ Cố tiếp tục phóng về phía Hoắc Thanh Đồng, la lên:

– “Nàng giết ta đi!”

Hoắc Thanh Đồng vừa kinh hãi vừa giận dữ, đưa kiếm đâm ngay vào ngực hắn. Hắn hoàn toàn không tránh né đỡ gạt gì, lại còn ưỡn ngực lên phía trước. Nghe một tiếng “sột”, trường kiếm đã đâm xuyên qua lồng ngực. Khi Hoắc Thanh Đồng rút kiếm về, một luồng máu tươi từ ngực hắn bắn vọt ra, nhuộm đỏ hết cái áo vàng của nàng.

Khi mọi người ùa tới thì Cố Kim Tiêu đã ngã xuống đất. Kha Hợp Đài quì bên người hắn, rối rít toan cầm máu, nhưng máu phun ra như suối không sao ngăn lại được. Cố Kim Tiêu vừa ngáp ngáp vừa nói:

– “Oan nghiệt… oan nghiệt!”

Kha Hợp Đài hỏi:

– “Lão nhị! Lão nhị còn việc gì chưa thỏa mãn hay không?”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Ta muốn hôn vào tay nàng… chết cũng nhắm mắt…”

Hắn cố gượng hơi thở cuối cùng, nhìn thẳng Hoắc Thanh Đồng.

Kha Hợp Đài lên tiếng năn nỉ:

– “Cô nương! Y sắp chết rồi. Cô thương xót… thương xót…”

Hoắc Thanh Đồng không nói tiếng nào, quay lưng bỏ đi, giận dữ đến nỗi mặt trắng bệch lại. Cố Kim Tiêu thở hắt ra, ngoẹo đầu sang một bên mà chết. Kha Hợp Đài không nén nổi nước mắt tuôn ra ướt mặt. Y nhảy chồm lên, chỉ vào lưng Hoắc Thanh Đồng mà thóa mạ:

– “Con mụ này thật quá nhẫn tâm! Ngươi giết huynh ấy, ta không trách ngươi, đó là do y không tốt. Nhưng người đưa bàn tay cho huynh ấy hôn một cái để yên tâm mà chết, thì đã hại gì đến ngươi?”

Chương Tấn quát tháo:

– “Đừng nói bậy bạ, ngậm cái miệng thối của ngươi lại đi!”

Kha Hợp Đài không lý gì đến y, vẫn tức tối buông lời thóa mạ. Chương Tấn bước lên muốn đánh, nhưng bị Dư Ngư Đồng cản lại.

Lục Phi Thanh dõng dạc lên tiếng:

– “Tiêu Văn Kỳ tam gia của các ngươi là do ta giết chết, hoàn toàn không liên can đến người khác. Rất nhiều xích mích sau này cũng từ đó mà ra. Sáu người huynh đệ ở Quan Đông bây giờ chỉ còn một mình ngươi. Chúng ta đều biết ngươi có lòng nghĩa hiệp, nên không nhẫn tâm giết hại. Bây giờ ngươi đi đi, sau này muốn trả thù thì tìm một mình ta là xong.”

Kha Hợp Đài không đáp, xốc thi thể Cố Kim Tiêu lên, định rời khỏi đó.

Dư Ngư Đồng vội vàng lấy một túi nước, một túi lương khô buộc lên yên ngựa, rồi dẫn ngựa đuổi theo mà gọi:

– “Kha huynh! Ta ngưỡng mộ huynh là một người đáng mặt nam tử hán đại trượng phu. Xin huynh hãy mang con ngựa này theo.”

Kha Hợp Đài khẽ gật đầu, đặt thi thể Cố Kim Tiêu lên lưng ngựa. Dư Ngư Đồng mở túi nước rót ra một chén, tự mình uống một nửa rồi đưa cho Kha Hợp Đài, bảo:

– “Lấy nước thay rượu, từ nay cáo biệt!”

Kha Hợp Đài ngửa cổ uống cạn.

Dư Ngư Đồng rút kim địch ra. Cây sáo này đã bị Trương Triệu Trọng chặt ngắn một đầu, đoản tiễn trong đó đã rơi hết cả, nhưng vẫn có thể thổi lên. Chàng bèn lựa điệu cung thương mà tấu lên một khúc.

Kha Hợp Đài nhận ra khúc điệu đó là âm nhạc vùng thảo nguyên Mông Cổ. Y đợi họ Dư thổi một lúc, rồi lấy trong túi ra một cái sừng dê, thổi lên hòa tấu. Thì ra trên sông Hoàng Hà ở bến Mạnh Tân ngày ấy, Kha Hợp Đài dùng sừng dê thổi khúc điệu này, Dư Ngư Đồng đã ghi nhớ vào lòng. Bây giờ hai người cáo biệt, chàng bèn thổi lên để tiễn đưa.

Hai người hợp tấu đầy vẻ khẳng khái, quần hùng đều chăm chú mà nghe. Dứt khúc rồi, Dư Ngư Đồng dang rộng hai tay ôm lấy vai Kha Hợp Đài. Họ Kha cất sừng dê vào túi, lên ngựa đi ngay, không quay lại nhìn lần nào nữa.

Lạc Băng chỉ vào lưng của Kha Hợp Đài và Dư Ngư Đồng, nói với Lý Nguyên Chỉ:

– “Hai người này đều là hảo hán tử.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Đúng là như thế.”

Lạc Băng hỏi:

– “Thế thì sao muội không chịu giúp đỡ huynh ấy?”

Lý Nguyên Chỉ thở dài đáp:

– “Nếu muội có thể giúp đỡ huynh ấy thì hay quá.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Muội muội! Trước mặt chân nhân không nên nói dối. Muội không chịu nói, lát nữa Lục lão bá cũng bắt muội nói. Khi đó thì chẳng hay gì.”

Lý Nguyên Chỉ lắc đầu:

– “Đừng nói là muội không nhận ra đường, cho dù có nhận ra mà muội không thích dẫn đi thì sư phụ cũng chẳng làm gì được. Người xưa chỉ dạy nữ nhân phải tam tòng tứ đức. Trong tam tòng thì không có cái khoản tòng sư.”

Lạc Băng cười nói:

– “Gia gia của ta chỉ dạy cho ta cách múa đao, cách ăn trộm, chứ chưa dạy câu nào của Khổng Phu Tử cả. Muội muội ngoan, nói cho ta nghe thử xem cái gì là tam tòng tứ đức.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Tứ đức là Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Nữ nhân thì quan trọng nhất là đạo đức, dung mạo, lời nói, và những chuyện nội trợ trong gia đình.”

Lạc Băng lại mỉm cười:

– “Những cái khác thì tạm thời chấp nhận được, nhưng dung mạo là do trời sinh. Lỡ phụ mẫu sinh mình xấu xí, thì mình làm sao thay đổi được? Thế còn tam tòng thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ dịu dàng đáp:

– “Tỉ tỉ chỉ giả vờ. Muội không thích nói nữa.”

Nàng quay đầu sang hướng khác, không lý gì đến Lạc Băng nữa.

Lạc Băng mỉm cười rời khỏi đó, chạy qua hỏi Lục Phi Thanh. Họ Lục suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Tam tòng là lễ nghĩa đời xưa, gồm tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Đó là chuyện dành cho con nhà đi học làm quan, còn người trong giang hồ như chúng ta thì từ xưa đến giờ không coi trọng những lý thuyết đó lắm.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Đúng là như vậy! Khi chưa xuất giá, thì tòng phụ là việc nên làm. Tòng phu hoặc không tòng phu thì phải xem thử phu quân của mình có lý hay không rồi tính. Phu tử tòng tử lại càng tức cười hơn nữa. Giả tỉ khi chồng chết mà con trai mới hai ba tuổi, mình nói nó không nghe lời thì không được đánh đòn hay sao?”

Lục Phi Thanh lắc đầu nói:

– “Con bé đồ đệ của ta thật là cổ quái. Theo Tứ phu nhân thì tại sao nó không chịu dẫn đường?”

Lạc Băng nói:

– “Theo vãn bối thì cô ấy nhắc đến chuyện tam tòng là có lý do. Cô ấy chưa lấy chồng thì phải tòng phụ, nếu phụ thân bắt nói thì phải nói. Nhưng Lý Khả Tú đang ở tận Hàng Châu, mà nếu bắt về đây thì cũng chưa chắc hắn chịu giúp chúng ta. Vậy phải xem đến khoản thứ hai.”

Lục Phi Thanh ra vẻ ngần ngại:

– “Khoản thứ hai ư? Nó chưa có chồng.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Vậy thì chúng ta lập tức kiếm chồng cho cô ấy. Nếu vị phu quân đó bắt cô ấy dẫn đường, thì cô ấy phải tòng phu rồi.”

Lục Phi Thanh nghe câu này, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Tâm sự của đồ đệ thì ông đã biết từ lâu, sư điệt Dư Ngư Đồng cũng rất xứng đáng. Ông đã định sau khi hoàn thành đại sự sẽ tìm cách tác hợp hai người, nhưng xem ra chuyện này phải gấp rút hơn mới được.

Lục Phi Thanh bèn mỉm cười nói:

– “Nó vòng vo tam tòng tứ đức, thật ra chỉ vì vấn đề này. Đúng là kiến bò miệng chén, quanh quẩn mãi cũng một chỗ mà thôi.”

Hai người bèn thương lượng với Trần Gia Lạc, gọi Dư Ngư Đồng tới hỏi ý. Sau đó họ lập tức mời Viên Sĩ Tiêu làm mai cho bên nhà trai, mời Thiên Sơn Song Ưng làm mai cho bên nhà gái.

Lúc đó Viên Sĩ Tiêu và Song Ưng đang đứng trên vách núi cao, quan sát tứ phía để tìm tung tích của Trương Triệu Trọng. Nhưng có tới hàng ngàn hàng vạn ngọn đồi, thật là không sao tìm được. Lục Phi Thanh bèn mời họ xuống đây, nói cho biết mấu chốt đơn giản của vụ này.

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Lục lão huynh! Chắc lão huynh cũng khổ sở vì có một đứa đồ đệ nhõng nhẽo như thế. Cả bọn ta đều thua dưới tay con bé này rồi.”

Mọi người vừa cười vừa kéo nhau tới trước mặt Lý Nguyên Chỉ. Lục Phi Thanh nói:

– “Nguyên nhi! Ta với con đã nhiều năm tình cảm thầy trò, gần như phụ tử vậy. Con là nữ nhi mà đơn thương độc mã phiêu bạt bên ngoài, ta làm sư phụ không thể yên tâm. Lệnh tôn không có ở đây, ta tạm thời gánh vác trách nhiệm của người cha để lo cho con yên bề gia thất.”

Lý Nguyên Chỉ cúi đầu không nói tiếng nào. Lục Phi Thanh lại tiếp:

– “Mã sư bá của con đã bị hại, dĩ nhiên Dư sư ca của con cũng do ta chiếu cố. Bây giờ ta tác hợp con với nó, sau khi kết thành phu phụ thì hai đứa sẽ quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thế là ta nhẹ gánh.”

Những lời này đều có sẵn trong dự liệu của Lý Nguyên Chỉ, nhưng bây giờ được nói ra trước mặt mọi người cũng làm nàng đỏ ửng mặt lên, khe khẽ đáp:

– “Việc này phải để gia gia làm chủ, làm sao con biết?”

Chương Tấn vốn nhanh mồm nhanh miệng, đốp ngay:

– “Còn cái gì mà cô không biết nữa? Đêm ở Thiên Mục Sơn, cả đám đi khắp nơi tìm cô không gặp, thì ra cô đang chui vào trong chăn…”

Nghe tới đây, Vệ Xuân Hoa vội vàng xoay tay bịt ngay miệng Chương Tấn.

Lục Phi Thanh nói:

– “Lệnh tôn từng giữ Dư sư điệt trong nhà lâu như thế, rõ ràng đã có ý chọn nó làm chàng rể đông sàng. Bây giờ ở đây chúng ta cứ làm lễ đính hôn trước, rồi bẩm báo với ông ấy sau. Lệnh tôn nhất định sẽ rất vui mừng.”

Lý Nguyên Chỉ cúi đầu không nói. Lạc Băng la lên:

– “Được rồi, được rồi! Thế là Lý muội muội đồng ý rồi. Thập tứ đệ! Đệ lấy gì để đính ước đây?”

Dư Ngư Đồng lục lọi trong người một lát, ngoài tiền bạc ra thì không có thứ gì. Chàng đang khó xử thì tay bỗng chạm vào một vật gì đó mát lạnh. Thì ra đó là một đoạn kim địch của chàng bị bảo kiếm của Trương Triệu Trọng chém rời ra, chàng nhặt lấy để sau này tìm thợ kim hoàn hàn lại.

Dư Ngư Đồng bèn lấy khúc kim địch đó ra, cất tiếng:

– “Sư thúc! Trên người tiểu điệt chẳng có gì quí trọng cả, chỉ có đoạn sáo này bằng vàng.”

Lục Phi Thanh mỉm cười nói:

– “Vậy là tuyệt diệu! Đợi đến ngày đại hỉ, chúng ta sẽ hàn hai đoạn kim địch này liền thành một.”

Quần hùng vỗ tay chúc mừng. Lý Nguyên Chỉ vờ không chịu nhận, Lạc Băng ráng nhét đoạn kim địch đó vào tay nàng, mỉm cười hỏi:

– “Còn muội muội lấy gì để đính ước với Thập tứ đệ?”

Lúc này Lý Nguyên Chỉ đã hết hổ thẹn, mặt mày rạng rỡ hẳn lên, cười nói:

– “Muội chẳng có thứ gì cả.”

Lục Phi Thanh hỏi:

– “Nguyên nhi, ám khí của con không phải bằng vàng hay sao?”

Lạc Băng la lên:

– “Không sai!”

Nàng giật lấy cái túi ám khí của Lý Nguyên Chỉ, lựa ra mười mũi Phù Dung Kim Châm giao cho Dư Ngư Đồng cất giữ.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Như vậy có thể gọi là Châm Địch Kỳ Duyên rồi.”

Thấy mọi người vui vẻ, Hương Hương công chúa bèn hỏi Trần Gia Lạc:

– “Họ đang làm gì vậy?”

Trần Gia Lạc giải thích xong, Hương Hương công chúa hoan hỉ vô cùng. Nàng một tay vịn vào vai chàng, một tay nắm lấy cánh tay tỉ tỉ bước lên phía trước, tháo chiếc nhẫn bạch ngọc trên tay mình đeo vào ngón tay của Lý Nguyên Chỉ, lên tiếng:

– “Ba người chúng ta tặng cô nương cái này. Chúc mừng cô nương!”

Đột nhiên Hoắc Thanh Đồng cảm thấy thương tâm, nghĩ bụng:

– “Nếu ngươi không cải nam trang phá rối thì bây giờ…”

Trần Gia Lạc mỉm cười:

– “Chúng ta có thể vào ngọc cung lấy ra mấy cây đao ngọc kiếm ngọc, để dành làm quà mừng cưới hai người.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu, nhoẻn một nụ cười.

Viên Sĩ Tiêu và Thiên Sơn Song Ưng đã hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ba người trốn bầy sói rồi vào ngọc cung, lại thấy ba người rất thân mật với nhau. Xem ra Trần Gia Lạc không phải loại người có mới nới cũ, vong ân bội nghĩa. Hai chị em vẫn rất hòa thuận, Hoắc Thanh Đồng chẳng có vẻ gì là oán hận trách móc chàng và muội muội của mình. Vì thế ba vị lão nhân đều cảm thấy hoan hỉ.

Thiên Sơn Song Ưng đột nhiên nghĩ lại:

– “May mà đêm đó chúng ta không lỗ mãng giết chết hai người. Nếu không, chẳng những Viên đại ca không chịu bỏ qua, mà còn Thanh nhi sẽ ra sao? Đúng là khó mà tưởng tượng.”

Sau lễ đính hôn, mọi người chúc mừng xong xuôi rồi lần lượt kiếm cớ đi chỗ khác. Dư Ngư Đồng thấy xung quanh không còn ai nữa, liền hỏi:

– “Sư muội! Tên gian tặc Trương Triệu Trọng ở đâu vậy?”

Thấy chàng chẳng thân mật nồng nhiệt gì, mở miệng là hỏi ngay về Trương Triệu Trọng, Lý Nguyên Chỉ bất giác thất vọng, giận dữ hỏi lại:

– “Làm sao muội biết được?”

Sắc mặt của Dư Ngư Đồng trắng bệch hẳn đi. Chàng đột nhiên quì xuống lạy nàng ba lạy, dập đầu xuống đất phát ra những tiếng binh binh, vừa khóc vừa nói:

– “Năm xưa gia đình ta bị giết sạch, ta tưởng không sống được nữa, may mà được ân sư thương xót nuôi dưỡng, truyền thụ võ công. Ta chưa báo đáp được chút ân tình nào, thì ân sư đã bị Trương Triệu Trọng giết chết thảm thương. Sư muội! Cầu xin sư muội chỉ cho ta đường đi tìm tên gian tặc đó.”

Lúc này Lý Nguyên Chỉ thật sự bất ngờ. Thấy chàng tiếp tục dập đầu xuống đất, nàng bối rối đưa tay ra kéo chàng dậy, lấy khăn tay đưa cho chàng rồi dịu dàng nói:

– “Mau lau nước mắt đi, rồi muội dẫn huynh tới đó.”

Bỗng nghe “soạt” một tiếng, Lạc Băng từ sau núi nhảy ra, vừa vỗ tay vừa hát:

– “Tiểu tú tài, không sợ xấu, chỉ sợ vợ, phải dập đầu!”

Lý Nguyên Chỉ xấu hổ đỏ bừng mặt, nhảy chồm dậy rồi chạy đi. Dư Ngư Đồng còn ngơ ngác, Lạc Băng vội vẫy tay la lên:

– “Đuổi theo nhanh lên!”

Dư Ngư Đồng hiểu ra, lập tức vắt chân lên cổ mà chạy. Lạc Băng lớn tiếng kêu gọi, quần hùng đuổi theo sau.

* * *

Trương Triệu Trọng chờ đợi mỏi mòn vẫn chưa thấy Lý Nguyên Chỉ trở về. Hắn ăn một chút lương khô, rồi suy nghĩ lung tung, hết tính chuyện sau khi thoát hiểm sẽ triệu tập cao thủ đến triệt phá Hồng Hoa Hội, lại nghĩ:

– “Lý Nguyên Chỉ là con gái đại quan đề đốc, lại xinh đẹp khác thường. Ta đã lớn tuổi mà chưa thành gia thất, nếu cưới được nàng làm vợ thì tương lai công danh phơi phới. Nhưng hình như cô ả được cưng chiều quá mức, nếu dùng phương pháp mạnh bạo sẽ hỏng mất đại sự. May mà đường từ Hồi Cương trở về Hàng Châu xa xôi vạn dặm, dọc đường ta có thể dùng mưu kế để chiếm đoạt nàng trước đã, rồi sẽ nói chuyện sau.”

Vừa xây xong mộng đẹp, trước mắt hắn bỗng có bóng người thấp thoáng, chính là Lý Nguyên Chỉ tươi cười bước tới. Trương Triệu Trọng mừng rỡ đứng dậy đón tiếp, đột nhiên sau lưng Lý Nguyên Chỉ có một người nhảy xổ ra.

Trương Triệu Trọng kinh hãi lùi lại hai bước, tay trái xuất chiêu Bạch Vân Kiến Nhật đánh tạt ngang. Người kia luồn qua dưới chưởng Trương Triệu Trọng, tay phải cầm ống sáo gãy đâm thẳng tới, hai ngón tay trái chĩa ra đâm thẳng vào trước ngực hắn.

Lúc này Trương Triệu Trọng đã thấy rõ địch thủ chính là Dư Ngư Đồng, đồ đệ của Mã Chân. Hắn rất hiểu võ công của chàng, tay phải liền ra chiêu Bạch Lộ Thành Giang, tay trái hờm sẵn. Dư Ngư Đồng vừa đảo người né tránh, tay trái họ Trương đã túm được lưng chàng, vừa quát lên một tiếng vừa quẳng vào vách núi bên cạnh.

Lý Nguyên Chỉ giật nảy người, phóng lên ôm lấy họ Dư. Nhưng lực đạo của Trương Triệu Trọng cực lớn, nên cả nàng cũng bay vọt đi. Nàng sắp đập lưng vào vách núi thì đột nhiên cảm thấy sau lưng có hai bàn tay đỡ lại, đẩy nàng và Dư Ngư Đồng cùng té nhào xuống đất, tuy ngã khá đau nhưng không đến nỗi bị thương.

Hai người tung mình đứng dậy, nhìn lại mới biết người vừa xuất chưởng cứu mạng là Lục Phi Thanh. Dư Ngư Đồng nói:

– “Sư muội! Đa tạ sư muội cứu ta một lần nữa.”

Lý Nguyên Chỉ liếc chàng một cái, khẽ nói:

– “Huynh còn nói với muội chữ đa tạ đó ư?”

Trương Triệu Trọng thấy cường địch đến đông, đã tính bài chạy trốn. Nhưng hắn bỗng nghe hai tiếng vù vù, hai người chạy băng qua bên cạnh, cản đường phía trước. Đó là Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức. Còn sau lưng hắn thì Lục Phi Thanh hét lên:

– “Họ Trương kia! Ngươi còn muốn gì nữa? Mau mau đi theo chúng ta cho xong.”

Trương Triệu Trọng không tính toán gì được nữa, hừ một tiếng rồi thõng tay bước ra. Thế là Lục Phi Thanh, Trần Gia Lạc, Vệ Xuân Hoa, Hoắc Thanh Đồng đứng trước, còn Viên Sĩ Tiêu, Trần Chính Đức, Quan Minh Mai đứng sau, kẹp Trương Triệu Trọng vào giữa mà đi ra ngoài.

Trương Triệu Trọng tưởng Lý Nguyên Chỉ không cẩn thận để địch nhân phát hiện, quần hùng âm thầm theo dõi mà kéo vào đây, nên chỉ tự trách mình xúi quẩy. Nhưng đi được một đoạn, hắn thấy Lý Nguyên Chỉ thì thào nói chuyện với Lạc Băng ở ngay trước mặt, miệng cười rạng rỡ, niềm vui tràn từ trong lòng ra tận bên ngoài. Hắn tức tối đến nỗi muốn vỡ lồng ngực ra, nghiến chặt răng âm thầm thóa mạ:

– “Được lắm! Thì ra con nha đầu này đã bán đứng ta.”

Mọi người đã bắt được tên ác ôn đầu sỏ, không ai là không vui mừng tột đỉnh. Khi mặt trời sắp lặn xuống núi, quần hùng đã ra khỏi mê thành. Trần Gia Lạc lấy châu sách ra, bảo Chương Tấn và Tâm Nghiễn:

– “Trói chặt hắn lại đi!”

Chương Tấn nhận lấy châu sách.

Trương Triệu Trọng đột nhiên quát lên một tiếng dữ dội, tung người vọt lên phía trước, tay trái đưa ra túm lấy cổ tay Lý Nguyên Chỉ mà đoạt lấy Ngưng Bích Kiếm, tay phải xuất chiêu Bạch Hồng Quán Nhật sử dụng toàn lực đánh vào hậu tâm của nàng. Lý Nguyên Chỉ vội vã nghiêng mình, nhưng không sao tránh kịp, trúng chưởng vào vai trái. Nghe “rắc” một tiếng, vai nàng trật khớp ngay. Phát chưởng thứ hai của Trương Triệu Trọng lập tức đánh bồi tới.

Lúc hắn ra tay đoạt kiếm, Lục Phi Thanh đã biết là có chuyện, nhưng không kịp cản trở phát chưởng thứ nhất. Bây giờ ông đã chạy tới nơi, phóng chưởng nhắm vào huyệt Thái Dương của Trương Triệu Trọng. Họ Trương phải thu chưởng về cản trở.

“Bùng” một tiếng, hai chưởng chạm nhau, mỗi người phải lùi bảy bước. Từ khi luyện võ một thầy, hơn hai mươi năm rồi hai người chưa từng giao thủ với nhau. Bây giờ cả hai đều cảm thấy công lực đối phương thâm hậu, khác hẳn khi còn chung một sư môn.

Lý Nguyên Chỉ bị trọng thương té nhào xuống đất. Lạc Băng đỡ dậy, thấy nàng đã đau đớn mà ngất xỉu ngay tại chỗ. Viên Sĩ Tiêu vội lấy một viên thuốc, nhét vào miệng nàng.

Quần hùng thấy Trương Triệu Trọng đến nước này mà vẫn còn ra tay tàn độc, không ai là không giận dữ, kéo đến bao vây rất chặt.

Trương Triệu Trọng nghĩ bụng:

– “Ai cũng phải chết một lần. Hòa Thủ Phán Quan mỗ nhất định chết một cách anh hùng.”

Hắn bèn hoành kiếm ngang ngực, ngang nhiên lên tiếng:

– “Các ngươi cùng xông lên, hay từng người một? Ta thấy cả đám xông lên thì hay hơn.”

Trần Chính Đức giận dữ nói:

– “Ngươi bản lãnh bao nhiêu mà ăn nói phách lối như vậy? Để ta đấu với ngươi trước!”

Văn Thái Lai nói:

– “Trần lão gia! Tên gian tặc này đã sỉ nhục vãn bối tới mức không tưởng tượng nổi. Nhường cho vãn bối trước đi.”

Dư Ngư Đồng la lên:

– “Hắn đã hại chết ân sư của đệ. Bản lãnh của đệ không bằng hắn, nhưng phải là người đầu tiên xông vào. Tứ ca hãy đợi, khi nào đệ không địch nổi thì ca ca mới tiếp ứng.”

Mọi người đều phẫn hận đến cực điểm, nhao nhao giành đánh trước. Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Bây giờ chúng ta bốc thăm đi.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hắn không phải đối thủ của ta. Ta không đánh đâu.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta lại không phải là đấu thủ của hắn. Ta và Tứ tẩu, Cửu đệ, Thập đệ, Thập tứ đệ, Thập ngũ đệ một phe. Sáu người chúng ta hợp sức đấu với hắn.”

Trương Triệu Trọng bỗng lên tiếng:

– “Trần đương gia! Khi ở Hàng Châu chúng ta có hẹn tỉ thí với nhau. Cuộc hẹn đó còn hiệu lực không?”

Trần Gia Lạc biết Trương Triệu Trọng chọn mình để ra tay, bèn nói:

– “Không sai! Lần đó ở Sư Tử Phong, ngươi bị thương ở tay. Chúng ta đã thỏa thuận dời cuộc hẹn đó lại ba tháng. Đây đúng là lúc ta hoàn thành tâm nguyện cho ngươi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Vậy để ta đấu với Trần đương gia một trận trước đã, rồi mới đến người khác. Có được hay không?”

Trương Triệu Trọng đã giao đấu với Trần Gia Lạc mấy phen, biết võ công của chàng còn kém mình một bậc. Nếu bắt được chàng thì có thể uy hiếp mọi người, tìm cách thoát thân. Nếu bắt không được thì cũng có thể đánh chết thủ lãnh của Hồng Hoa Hội, một mạng đổi một mạng coi như đủ vốn.

Từ Thiên Hoằng đoán được suy nghĩ của hắn, vội la lên:

– “Tên gian tặc này đã chui vào rọ, nếu tổng đà chủ phải đích thân ra tay thì té ra huynh đệ Hồng Hoa Hội chúng ta vô dụng hay sao? Cửu đệ, Thập đệ, Thập tứ đệ! Chúng ta cùng lên đi.”

Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn cùng bước lên hai bước.

Trương Triệu Trọng cười lên ha hả, lớn tiếng nói rằng:

– “Ta tưởng Hồng Hoa Hội phạm thượng gây loạn nhưng vẫn hiểu đạo nghĩa giang hồ, nào ngờ chỉ là đồ bắt gà trộm chó không biết giữ chữ tín.”

Trần Gia Lạc vẫy tay rồi nói:

– “Thất ca, chưa chắc hắn thắng ta đâu. Nếu ta không ra tay để phân thắng bại thì hắn chết cũng không cam lòng. Họ Trương kia! Bất luận ngươi sử dụng gian kế thế nào, hôm nay cũng đừng hòng trốn thoát. Ngươi muốn thoát thân thì chỉ là ảo tưởng mà thôi. Lên đi!”

Trương Triệu Trọng chĩa thanh Ngưng Bích Kiếm ra trước mặt mà nói:

– “Thì ra ngươi cũng khẳng khái lắm. Lấy binh khí ra đi!”

Trần Gia Lạc nói:

– “Dùng binh khí thắng ngươi, chưa thể gọi là anh hùng. Ta dùng tay không mà đấu với ngươi.”

Chàng đã ngộ được võ công thượng thừa trong ngọc cung, tự tin mình có thể thắng được Trương Triệu Trọng.

Trương Triệu Trọng cả mừng. Dĩ nhiên hắn không bỏ qua cơ hội, liền nói:

– “Nếu ta dùng kiếm mà không thắng được ngươi, ta sẽ lập tức tự sát, không cần ai giết. Còn nếu ta thắng được ngươi thì sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thì các vị tiền bối cùng huynh đệ ta sẽ giết ngươi. Chắc ngươi hy vọng hễ thắng ta thì được thả cho đi chứ gì? Đừng hòng! Mãi đến hôm nay mà ngươi còn chưa biết thân mình đầy tội lỗi hay sao?”

Trương Triệu Trọng vung trường kiếm lên hét lớn:

– “Trên đời chẳng ai là không chết. Chuyện sống chết Trương mỗ đã để ngoài tai rồi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Dưới địa đạo trong đề đốc phủ ở Hàng Châu, Văn tứ gia và ta đã bắt được ngươi, nhưng tha không giết. Dưới chân Sư Tử Phong, ngoài đại doanh Triệu Tuệ, ta lại tha mạng ngươi hai lần nữa. Mới hôm trước, trong vòng vây bầy sói ta lại cứu ngươi một lần. Thế là Hồng Hoa Hội đối với ngươi đã hết lòng hết dạ, nhân nghĩa tận cùng rồi, không ngờ ngươi đến chết vẫn chưa chịu hiểu. Hôm nay bất luận thế nào, chúng ta cũng không tha ngươi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Ngươi lên đi! Ta nhường ngươi trước bốn chiêu.”

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Được!”

Chàng lập tức phóng đến, tấn công liền hai chiêu. Trương Triệu Trọng đảo người né tránh, quả nhiên không đánh trả. Chân trái Trần Gia Lạc đá quét ngang qua, hắn tung người nhảy lên tránh. Đột nhiên Trần Gia Lạc thi triển Uyên Ương Liên Hoàn Thối, chân phải lại đá ra.

Theo quyền thuật thông thường, khi đối thủ đã nhảy khỏi mặt đất thì dĩ nhiên mình phải lập tức tấn công, vì đối thủ đang lơ lửng trên không thì khó tránh né hơn.

Thế mà phát đá thứ hai Trần Gia Lạc lại nhằm vào khoảng trống dưới chân hắn, nhưng bộ vị rất chính xác, kẻ địch rơi xuống đúng vào đòn cước của mình. Đây chính là yếu quyết tuyệt diệu của Bách Hoa Tá Quyền, khiến cho đối thủ bị bất ngờ khó đề phòng.

Viên Sĩ Tiêu thấy đồ đệ yêu quí sử dụng môn quyền thuật của mình sáng tác hết sức xảo diệu. Ông đắc ý, quay đầu lại hỏi Quan Minh Mai:

– “Thế nào?”

Trần Chính Đức giơ ngón tay cái lên nói:

– “Quả nhiên bất phàm!”

Trương Triệu Trọng mắt thấy Trần Gia Lạc sử dụng quái chiêu mà hết đường tránh né, chỉ còn cách lấy công làm thủ, vung kiếm ra chiêu Đẩu Bính Nam Chỉ đâm vào trước ngực chàng. Trần Gia Lạc phải thu cước về né tránh.

Chương Tấn la lên:

– “Đồ gian tặc vô sỉ! Ngươi nói là nhường bốn chiêu, sao mới sau ba chiêu đã đánh trả rồi?”

Trương Triệu Trọng gầm mặt xuống, không cãi được tiếng nào. Hắn vũ lộng thanh Ngưng Bích Kiếm, hàn quang chớp nhoáng đầy trời, kình phong rít lên veo véo, đâm chém tới tấp vào Trần Gia Lạc.

Lục Phi Thanh kinh hãi nghĩ thầm:

– “Võ công của tên gian tặc quả nhiên tiến bộ phi thường. Kiếm pháp của sư phụ năm xưa cũng không thần tốc đến thế.”

Ông cầm kiếm trong tay, chăm chú nhìn Trần Gia Lạc, hễ chàng thất thế một chút là xông vào cứu viện.

Hai người càng đánh càng nhanh, thân ảnh Trần Gia Lạc xuyên qua xuyên lại trong màn kiếm quang. Nhu Vân Kiếm Pháp của Trương Triệu Trọng tuy tinh xảo, nhưng nhất thời chưa làm gì chàng được.

Lý Nguyên Chỉ đang được Dư Ngư Đồng và Lạc Băng săn sóc. Lúc này nàng đã hồi tỉnh, cảm thấy trên vai trước ngực đau nhói từng cơn. Cố mở mắt ra nhìn, thấy Dư Ngư Đồng đang dìu đỡ mình, nàng cảm thấy có phần an ủi.

Dư Ngư Đồng hỏi:

– “Muội có đau lắm không? Đợi một lát, Lục sư thúc sẽ nắn xương lại cho muội. Muội cố chịu đựng một chút.”

Lý Nguyên Chỉ gượng cười, rồi lại nhắm mắt. Hương Hương công chúa nắm chặt tay tỉ tỉ mà hỏi:

– “Tại sao huynh ấy không dùng binh khí? Có thắng được hay không?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– ”Chúng ta đông người như thế, muội đừng lo lắng.”

Tâm Nghiễn cũng nôn nóng vô cùng, chỉ muốn xông ngay vào tương trợ. Cậu nghe Hoắc Thanh Đồng nói vậy, bèn hỏi:

– “Cô nương thấy công tử không nguy hiểm hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng nhớ lại chuyện cũ, liếc nó một cái rồi quay đi không thèm đáp. Tâm Nghiễn cũng muốn phân bua tạ lỗi, nhưng khổ nỗi lúc này cậu không dám rời mắt khỏi Trần Gia Lạc.

Văn Thái Lai trợn mắt tròn xoe, nhìn chòng chọc vào thanh Ngưng Bích Kiếm. Song câu của Vệ Xuân Hoa đã bị chém đứt mũi nhọn, nhưng y vẫn nắm chặt trong tay, thân thể căng cứng như một cây cung bị giương hết mức. Lạc Băng thủ sẵn ba lưỡi phi đao trong tay áo, ánh mắt không rời hậu tâm của Trương Triệu Trọng.

Lý Nguyên Chỉ lại mở mắt ra, nhìn về phía Đông rồi đột nhiên khẽ kêu lên. Dư Ngư Đồng quay lại nhìn, thấy phía trước xuất hiện một cảnh sắc kỳ ảo. Xa xa là một cái hồ rất lớn, sóng nước lăn tăn xanh biếc. Bên hồ có một ngọn tháp trắng rất cao, nhà cửa trùng điệp, đúng là một thành phố lớn. Dư Ngư Đồng kinh hãi suýt nhảy dựng lên, nhưng lập tức hiểu ra. Đây chỉ là hiện tượng hải thị thần lâu, thường nhìn thấy trong sa mạc. Những người còn lại để hết tâm thần vào trận chiến, nên không nhìn thấy.

Lý Nguyên Chỉ thều thào hỏi:

– “Cái gì vậy? Chúng ta về Hàng Châu rồi ư?”

Dư Ngư Đồng nói nhỏ nhẹ:

– “Đó chỉ là ảo ảnh, do ánh dương quang phản chiếu trên mặt cát nóng. Muội nhắm mắt lại, dưỡng thần một lát đi.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Không, bảo tháp đó là Lôi Phong Tháp ở Hàng Châu. Muội đã từng cùng gia gia đi đến đó chơi. Gia gia đâu? Muội muốn gặp gia gia.”

Dư Ngư Đồng đồng ý kết hôn với nàng chỉ là miễn cưỡng, vì muốn trả thù cho ân sư nên bất chấp mọi chuyện trên đời. Bây giờ thấy nàng bị thương nặng đến mức thần trí mơ hồ, chàng bất giác xót thương, tình cảm trìu mến nảy sinh. Chàng nhẹ nhàng vỗ vào lưng bàn tay nàng mà nói:

– “Bây giờ chúng ta lập tức quay về. Ta cũng rất muốn gặp gia gia của muội.”

Khóe miệng Lý Nguyên Chỉ lộ ra một nụ cười, hỏi:

– “Huynh là ai vậy?”

Thấy ánh mắt nàng mờ đục lạc thần, Dư Ngư Đồng kinh hoảng trả lời:

– “Ta là Dư sư ca của muội đây. Hai ta đã đính hôn rồi, từ đây ta nhất định sẽ đối xử tốt với muội.”

Lý Nguyên Chỉ rưng rưng nước mắt, kêu lên:

– “Trong lòng ca ca không thích muội, muội biết. Ca ca mau mau đi tìm gia gia giùm muội đi, muội sắp chết rồi.”

Nàng lại đưa mắt nhìn cảnh tượng huyền ảo kia, nói:

– “Đó là Tây Hồ. Gia gia của muội đang làm đề đốc ở cạnh Tây Hồ. Ông ấy… Ông ấy… Ca ca có biết ông ấy không?”

Dư Ngư Đồng bỗng thấy đau đớn trong lòng. Nàng đã cứu mình nhiều lần, mình nợ cả ân đức lẫn tình cảm, thế mà mình lại hoàn toàn không đếm xỉa gì đến nàng. Cũng vì mình mà nàng trọng thương sắp chết, bây giờ phải làm sao? Chàng bất giác đưa tay ra ôm chặt lấy nàng vào lòng, nói rất dịu dàng:

– “Ta thật sự thương yêu muội. Muội không chết đâu.”

Lý Nguyên Chỉ thở hắt ra một hơi.

Dư Ngư Đồng vội giục:

– “Muội nói đi, nói là muội không chết!”

Lý Nguyên Chỉ “hự” một tiếng, trước ngực nổi cơn đau nhói kịch liệt, lại ngất đi. Lúc nãy Trương Triệu Trọng giận dữ điên cuồng, vận hết sức bình sinh mà phóng chưởng. Chẳng những nàng bị trật một bên vai, mà trước ngực cũng bị chấn thương.

Hồi 19: Canh khuya oai vượt năm tòa điện – Hoàng hôn buồn hẹn vạn đời sau

Trương Triệu Trọng và Trần Gia Lạc xoắn vào nhau ác đấu, đã qua lại hơn trăm chiêu. Lúc đầu Trần Gia Lạc ỷ vào sự biến ảo của Bách Hoa Tá Quyền mà tấn công liên tục. Trương Triệu Trọng thì bị cường địch bao vây, không khỏi mất tinh thần, tuy trong tay có binh khí nhưng cũng không dám liều mạng tấn công. Hắn vừa phải chiết giải những chiêu thức phức tạp không thành chương pháp của đối phương, vừa cố tìm sơ hở để ra một đòn là khống chế ngay được Trần Gia Lạc. Hắn lại thấy Lạc Băng, Lục Phi Thanh và Hoắc Thanh Đồng đang thủ ám khí trên tay, lại phải nghiêm mật phòng thủ không dám để lộ ra chút sơ suất nào, đề phòng người đứng bên ám toán.

Vì Trương Triệu Trọng bị phân tâm như vậy, Trần Gia Lạc mới giữ được thế quân bình. Lát sau họ Trương bỗng nghĩ:

– “Cứ tiếp tục thế này thì ta không kết liễu được hắn. Mà cho dù ta thắng được, thì chúng lại tiếp tục xa luân chiến, không đánh chết ta thì cũng bắt ta mệt mỏi mà chết.”

Lúc này Trương Triệu Trọng đã hơi nắm được yếu quyết của Bách Hoa Tá Quyền, đỡ bị bất ngờ vì những quái chiêu của đối phương. Hắn tự tin hơn, kiếm pháp đột nhiên thay đổi, thi triển Nhu Vân Kiếm Pháp toàn những chiêu thức tấn công. Xuất tới chiêu Cánh Cánh Ngân Hà, thanh Ngưng Bích kiếm lướt ngang một cái rồi điểm tới trước mặt Trần Gia Lạc, chỉ một mũi kiếm mà như điểm pháp mọi nơi mọi chỗ, giống như những ngôi sao dày đặc trong giải ngân hà.

Trần Gia Lạc nhảy ra khỏi vòng chiến, định tránh khỏi mấy chiêu tấn công liên tiếp của hắn rồi sẽ đánh trả sau. Chiêu Cánh Cánh Ngân Hà chưa sử đến hết đà nên Trương Triệu Trọng không ngừng tay, cứ vung đến cùng. Soạt soạt hai tiếng, Chương Tấn và Vệ Xuân Hoa đứng gần đó đã bị hắn đả thương. Văn Thái Lai quát lên một tiếng, vung đao phóng tới, nhưng chợt thấy Trần Gia Lạc lướt qua mặt mình bèn dừng lại.

Trong mắt Trần Gia Lạc lúc này thì toàn thân Trương Triệu Trọng chỗ nào cũng có sơ hở. Chàng vỗ nhẹ hai chưởng vào mặt hắn. Hai phát chưởng này không mạnh mà cũng không nhanh lắm, nhưng bộ vị ảo diệu vô cùng, bất luận hắn cúi đầu tránh né thế nào cũng không kịp. Nghe “bốp bốp” hai tiếng, Trương Triệu Trọng liên tiếp trúng hai cái tát. Hắn vừa kinh hãi vừa giận giữ, vội lùi lại hai bước, trợn to mắt dữ tợn nhìn Trần Gia Lạc.

May mà Trương Tấn và Vệ Xuân Hoa bị thương không nặng lắm, Lạc Băng và Tâm Nghiễn lập tức chạy tới băng bó vết thương. Mọi người vây chặt tứ phía, quyết không để địch thủ có cơ hội thoát thân.

Trần Gia Lạc gác tréo song chưởng, lên tiếng gọi:

– “Lại xông vào đi!”

Chàng xoay người nửa vòng,chân phải đá một hư chiêu, sau lưng để lộ sơ hở rất lớn. Trương Triệu Trọng thấy cơ hội tốt bèn hạ thủ không chút lưu tình, chĩa ngay bảo kiếm đâm vèo tới.

Trong lúc mọi người la hoảng, Trần Gia Lạc quay lại dùng tay trái túm lấy bím tóc Trương Triệu Trọng, kéo vào Ngưng Bích Kiếm. Cái bím dài đen nhánh của hắn lập tức bị tiện đứt. Tay phải Trần Gia Lạc vỗ ra một cái, vai Trương Triệu Trọng lại trúng một chưởng.

Họ Trương liên tiếp bị đánh trúng ba chiêu, may mà không nặng lắm nên hắn chưa bị thương. Nhưng với bản lãnh của hắn mà không tránh né được, hơn nữa cũng không kịp thấy đối phương dùng thủ pháp gì, bị cắt đứt cả bím tóc, thật là sỉ nhục vô cùng. Dù sao thì hắn vẫn là cao thủ nội gia, lâm nguy không loạn, bèn lùi lại mấy bước, trấn tĩnh tinh thần để tiếp chiến.

Trần Gia Lạc cứ từ từ chậm rãi, chợt lui chợt tiến, bộ pháp và động tác tiêu sái vô cùng, Hoắc Thanh Đồng cả mừng, nói với Hương Hương công chúa:

– “Muội xem kìa! Đây chính là võ công mà chàng học được trong sơn động.”

Hương Hương công chúa vỗ tay, tươi cười rạng rỡ lại càng diễm lệ phi thường.

Trần Gia Lạc cứ chầm chậm phóng chưởng, hễ Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở là lại thu tay về đánh tới chỗ khác. Bây giờ họ Trương chỉ còn đường phòng thủ cho nghiêm mật. Khi đối phương ép tới gần, hắn chỉ đánh trả mấy chiêu rồi lại thu kiếm về giữ chặt môn hộ.

Trần Chính Đức nói với Viên Sĩ Tiêu:

– “Viên đại ca! Hôm nay ta phục huynh sát đất. Đồ nhi của huynh bản lãnh đến thế này, đủ biết huynh tài giỏi đến mức nào.”

Viên Sĩ Tiêu im lặng không đáp, trong lòng cũng thấy bất ngờ về công phu của Trần Gia Lạc, chẳng những không phải do mình truyền dạy, mà mình cũng chưa từng thấy. Kiến thức của ông rất rộng, thế mà không biết quyền pháp Trần Gia Lạc đang sử dụng là của môn phái nào. Hồi lâu, ông mới nói:

– “Không phải ta dạy! Ta không biết loại võ công này.”

Thiên Sơn Song Ưng biết suốt đời Thiên Trì Quái Hiệp không nói dối không thêm bớt, câu này không phải khiêm cung khách sáo. Trong lòng họ lại càng âm thầm kinh ngạc.

Quyền pháp của Trần Gia Lạc lúc đầu vụng về không nhuyễn, nhưng càng lâu thì chàng càng ngộ ra được nhiều điều. Bộ vị xuất chiêu của những thi hài dũng sĩ Islam trong ngọc cung đều hiện rõ mồn một trong lòng. “Dĩ vô hậu, nhập hữu gian”, chàng nhìn ra những chỗ sơ hở trong chiêu thức của Trương Triệu Trọng dễ như nhìn vào bàn tay. Khi đã thấy chỗ sơ hở, thì công kích lần nào cũng gây khó khăn cho địch thủ.

Được khoảng trăm chiêu nữa, Trương Triệu Trọng đã tuôn mồ hôi đầy mình, áo quần ướt đẫm, rồi đột nhiên hắn thét lên một tiếng. Cổ tay của hắn đã bị Trần Gia Lạc điểm trúng, bảo kiếm buông rơi xuống đất. Trần Gia Lạc lại dùng cả hai tay đánh trúng hậu tâm của hắn, rồi thõng tay buông tiếng cười dài. Đòn này chàng vận đầy đủ kình lực, lợi hại vô cùng.

Trương Triệu Trọng loạng choạng bước đi mấy bước, giống hệt một tên say rượu. Chương Tấn vừa chửi mắng vừa định xông lên đánh thêm mấy cái, nhưng y bị Lạc Băng kéo lại. Họ Trương bước thêm hai bước nữa thì đứng không vững, ngã lăn xuống đất. Quần hùng mừng rỡ, Từ Thiên Hoàng và Tâm Nghiễn xông tới đè hắn xuống, trói nghiến lại. Sắc mặt Trương Triệu Trọng xanh nhợt như tàu lá chuối, hoàn toàn không kháng cự.

Dư Ngư Đồng quay lại nhìn Lý Nguyên Chỉ thấy nàng vẫn chưa tỉnh, lộ vẻ lo lắng.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sư phụ! Lục lão tiền bối! Bắt được tên ác tặc rồi, bây giờ chúng ta làm gì?”

Dư Ngư Đồng nghiến răng nói:

– “Đem đi nuôi sói! Hắn đã hạ độc thủ hại chết sư phụ, bây giờ phải… phải…”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hay lắm! Bắt hắn đi nuôi sói. Ta cũng muốn tới xem thử bầy sói đói ra sao rồi.”

Mọi người đều biết tên gian tặc này đã làm nhiều điều tàn ác, xử tử là đúng tội. Lục Phi Thanh đã nắn lại chỗ trật khớp vai của Lý Nguyên Chỉ, dùng dây bó chặt lại. Viên Sĩ Tiêu lấy thêm một viên Tuyết Sâm Hoàn cho nàng uống, cầm tay xem mạch rồi bảo Dư Ngư Đồng:

– “Ngươi yên tâm đi! Vợ ngươi không chết đâu.”

Lạc Băng mỉm cười, khẽ bảo:

– “Đệ ôm cô ấy càng chặt thì cô ấy càng mau khỏi.”

Mọi người cùng đi về hướng tòa thành cát đang nhốt bầy sói, không ai là không vui mừng hớn hở. Dọc đường Viên Sĩ Tiêu hỏi về lai lịch bộ quyền pháp Trần Gia Lạc vừa sử dụng, chàng liền kể rõ cho mọi người biết, Viên Sĩ Tiêu cả mừng nói:

– “Đây thật sự là một kỳ duyên, chỉ có thể tình cờ mà gặp chứ không thể cưỡng cầu.”

* * *

Mấy hôm sau, mọi người đã đến thành cát. Trèo lên tường thanh đứng nhìn vào bên trong, họ thấy bầy sói đã ăn sạch lạc đà, ngựa và cừu, bây giờ đang giành giật những cái xác của đồng loại chết trước. Bầy sói điên cuồng cấu xé lẫn nhau, cảnh tượng thảm khốc phi thường. Quần hùng không ai là không kinh hãi, Hương Hương công chúa lại càng không sao nhìn nổi. Nàng rời khỏi tường thành, xuống nói chuyện với những người Hồi đang canh gác.

Dư Ngư Đồng kéo Trương Triệu Trọng lên đầu tường thành, âm thầm khấn vái:

– “Ân sư ở trên trời có hiển linh xin về chứng giám. Hôm nay đồ nhi và bằng hữu đã báo cừu tuyết hận cho ân sư rồi!”

Chàng nhận lấy đơn đao từ trên tay Từ Thiên Hoằng, cắt đứt dây trói tay chân Trương Triệu Trọng, rồi phóng chân quét ngang qua, đá hắn lọt vào trong thành. Họ Trương tay chân bủn rủn, hoàn toàn không kháng cự. Bầy sói không đợi hắn rơi tới đất, thi nhau nhảy lên không trung mà giành giật.

Trương Triệu Trọng bị Trần Gia Lạc đánh trúng hai chưởng, vết thương không nhẹ, nhưng nhờ nội lực thâm hậu nên dưỡng sức mấy ngày đã khỏe hơn nhiều. Hắn suy nghĩ nát óc vẫn không hiểu nổi tại sao võ công của Trần Gia Lạc lại tiến bộ vượt bậc như thế.

Hắn bị đá lọt vào thành sói, không dám hy vọng được sống nữa, nhưng trước khi chết cũng phải hết sức giãy giụa một phen. Chân hắn sắp chạm tới đất, bảy tám con sói đói đã phóng lên tới nơi. Hắn trợn trừng cặp mắt đỏ ngầu, vung hai tay ra, mỗi tay nắm lấy cổ một con sói đói, quét một vòng xung quanh, lập tức ép được đám sói đói đó rơi trở xuống đất. Hắn từ từ lùi lại, dựa lưng vào tường thành, đứng yên một góc mà ác đấu với bầy sói. Hai tay nắm hai con sói, hắn thi triển võ công Song Chùy của phái Võ Đang phát ra tiếng gió vù vù, nhất thời không cho bầy sói tiến sát vào mình.

Quần hùng đều biết là hắn chắc chắn phải chết. Tuy rất hận hắn gian xảo ác độc, nhưng không nỡ nhìn thấy cảnh tượng đó, bèn kéo nhau xuống khỏi tường thành. Trần Gia Lạc và Lạc Băng có tấm lòng mềm yếu nhất, xuống đầu tiên.

Lục Phi Thanh cặp mắt đầy lệ, vừa thương xót vừa phẫn hận, đứng lại một mình nhìn Trương Triệu Trọng sử dụng hai mươi bốn chiêu Phá Kim Chùy. Một con sói đói bỗng lăn xả tới cắn vào đùi, họ Trương vội rút chân lại, nhưng răng sói đã xé rách một mảnh vải dài trên quần của hắn. Trong đầu Lục Phi Thanh đột nhiên tái hiện một chuyện cũ, bốn mươi mấy năm trước. Hôm đó ông và Trương Triệu Trọng trốn sư phụ, lén xuống thị trấn mua ít quà bánh. Họ Trương té ngã, quần bị đá nhọn cào rách một đường. Hắn vừa tiếc cái quần vừa sợ sư phụ trách mắng, bèn òa lên khóc. Lục Phi Thanh suốt dọc đường phải an ủi, khi trở về núi lập tức lấy kim chỉ ra vá lại quần cho sư đệ.

Ông lại nghĩ, bộ Phá Kim Chùy này là do mình đích thân chỉ điểm cho sư đệ. Năm xưa Trương Triệu Trọng vừa khôi ngô vừa thông minh lạ thường, luyện võ rất siêng năng. Tình cảm giữa hai sư huynh đệ chẳng khác nào anh em ruột. Không ngờ sau này hắn lại tham lam phú quí, càng lúc càng lún sâu hơn vào vũng lầy công danh.

Thấy thảm trạng của sư đệ trước mắt, Lục Phi Thanh không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa. Ông nghĩ:

– “Tuy tội nghiệt của hắn rất sâu, nhưng mình vẫn nên cho hắn một con đường sửa lỗi, giúp hắn trở lại thành người tốt.”

Ông bèn hô lớn:

– “Sư đệ! Ta đến cứu ngươi đây.”

Rồi ông tung người nhảy vào trong thành sói. Mọi người đứng bên đều kinh hãi la lên.

Lục Phi Thanh chân chưa chạm đất, thanh Bạch Long Kiếm đã múa thành một vùng kiếm hoa, đẩy bạt bầy sói ra ngoài. Ông đứng cạnh Trương Triệu Trọng mà nói:

– “Sư đệ đừng sợ!”

Trương Triệu Trọng biết tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, thần trí rối loạn, trong đầu toàn những tư tưởng oán hận và độc ác. Lúc này hắn mất hết tính người, hệt như một con sói hung dữ vậy. Đột nhiên hắn quăng hai con sói đi, chồm tới ghì chặt lấy Lục Phi Thanh, la lên:

– “Ngươi phải chết chung với ta! Mọi người đừng hòng sống sót!”

Lục Phi Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, để rơi thanh Bạch Long kiếm xuống đất. Hai cánh tay ông đã bị hắn ôm chặt sát vào thân, giống như bị một cái vòng thép khóa chặt lại vậy. Ông vận công cố giãy giụa, nhưng thú tính của Trương Triệu Trọng đã nổi lên, quyết tâm chết cùng với ông một lúc, làm sao mà ông giẫy thoát ra nổi?

Bầy sói thấy hai người lăn lôn dưới đất, lập tức phóng vào cắn xé. Hai người đều vận nội lực cố lật đối phương lên trên, để đối phương bị bầy sói ăn thịt trước.

Trần Gia Lạc và quần hùng đang ở dưới chân tường thành, đột nhiên nghe trong thành có tiếng hô hoán, lập tức kinh hãi phóng lên đầu tường. Lúc này Lục Phi Thanh thấy mình vì lòng tốt mà bị thảm báo như vậy, cơn giận nổi lên, tay chân đột nhiên bủn rủn. Lập tức ông bị Trương Triệu Trọng dùng cầm nã thủ bắt lấy cổ tay, không phản kháng được nữa.

Trương Triệu Trọng đưa tay trái giật một cái, tay phải hất lên, lật Lục Phi Thanh nằm che trên người mình. Đột nhiên hắn tỉnh ngộ, nhận ra sư huynh bèn kêu lên:

– “Sư ca! Sư ca đấy ư? Lúc nào sư ca cũng đối xử với tiểu đệ rất tốt, hệt như anh ruột vậy…”

Hắn vội vã lật người lên nằm trên Lục Phi Thanh, che chắn ông khỏi móng vuốt sắc bén của bầy sói dữ. Hai con sói đã cắn ngập vào lưng hắn, mọi người đều la lên kinh hãi.

Văn Thái Lai lập tức nhảy xuống, múa tít đơn đao, liên tiếp chém chết mấy con sói, bầy sói lại lùi ra mấy trượng. Dư Ngư Đồng giật lấy đơn đao trong tay Từ Thiên Hoằng nhảy theo. Vì tường thành quá cao, chàng loạng choạng một cái mới đứng vững được, tình cờ mũi đao lại ghim ngay vào vai Trương Triệu Trọng. Họ Trương gào lên một tiếng cuối cùng, cánh tay đang ôm Lục Phi Thanh lập tức lỏng ra.

Lúc này quần hùng đã thòng sợi dây dài xuống, kéo Lục Phi Thanh và Dư Ngư Đồng lên trước, rồi kéo Văn Thái Lai lên. Sau đó họ nhìn xuống, thấy bầy sói đã nhai xương Trương Triệu Trọng nghe rau ráu. Tim mọi người đều đập thình thịch, nhất thời không ai nói được tiếng nào. Nghĩ đến chuyện nguy hiểm vừa rồi, trong lòng mọi người đều cảm thấy có phần may mắn.

Hồi lâu Lạc Băng mới lên tiếng:

– “Lục bá bá! Thanh Bạch Long Kiếm của bá bá không lấy lên được, thật là đáng tiếc.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Một hai tháng nữa bầy sói đói này chết sạch, có thể lấy lại dễ dàng.”

Lục Phi Thanh im lặng rơi nước mắt.

* * *

Đến xế chiều, sau khi dựng trại, Trần Gia Lạc kể sư phụ nghe tình hình mấy lần gặp Càn Long. Viên Sĩ Tiêu nghe hết đầu đuôi, không dấu vẻ khinh miệt. Ông lấy trong bọc ra một cái túi bằng vải vàng, đưa Trần Gia Lạc rồi nói:

– “Mùa xuân năm nay, nghĩa phụ của ngươi đã sai Thường thị huynh đệ đến nhờ ta giữ giùm cái túi vải này, nói là trong đó có hai vật rất quan trọng. Họ không nói là vật gì, mà ta cũng chưa từng mở ra xem. Không chừng đó là những vật chứng mà hoàng đế cần lấy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định là thế rồi! Nghĩa phụ đã có di mạng, bây giờ đồ nhi mở ra xem thử.”

Chàng mở cái túi vải ra, thấy bên trong còn bọc ba lớp giấy dầu rất chắc chắn. Trong cùng là hai lá thư, vì đã trải qua bao năm tháng nên màu giấy đã vàng khè. Trên bì thư không có chữ.

Trần Gia Lạc rút lá thư đầu tiên ra, thấy trên giấy có hai dòng chữ:

– “Thế Quan tiên sinh túc hạ. Ông sai người mang thằng con mới sinh vào cho ta xem.”

Bên dưới có ký hai chữ “Ung Để”. Chữ viết rất tháu, nhưng nét bút tròn trịa. Ngoài ra còn có một dấu son rất nhỏ, ghi bốn chữ “Tứ thời ưu du”.

Viên Sĩ Tiêu đọc không hiểu gì cả, bèn hỏi:

– “Lá thư này có ý nghĩa gì mà nghĩa phụ của ngươi lại xem nó quan trọng như thế?”

Trần Gia Lạc đáp :

– “Đây là thư của hoàng đế Ung Chính viết.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Sao ngươi biết?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Trong nhà đồ nhi có rất nhiều thủ bút của các hoàng đế nhà Thanh ban thưởng, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long đều có cả. Đồ nhi thấy bút tích của họ là nhận ra ngay.”

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười nói:

– “Chữ của Ung Chính không tồi, nhưng tại sao văn chương lại thô lậu đến thế?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đồ nhi từng thấy hắn phê vào tấu chương của tiên phụ gỏn lọn mấy chữ: Hiểu rồi, Khâm thử.”

Khi nhắc đến những người mà hắn không thích, thì lại viết:

– “Thằng này láu cá, phải cẩn thận. Khâm thử.”

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Chính hắn cũng là một thằng láu cá, quả nhiên phải cẩn thận đề phòng.”

Lát sau ông lại nói:

– “Lá thư này do Ung Chính viết thì cũng đâu có gì quan trọng?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Lúc viết lá thư này, hắn chưa làm hoàng đế.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Sao ngươi biết?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Hắn ký hai chữ “Ung Để”, đó chính là tên phủ đệ khi hắn còn là bối lặc. Hơn nữa, khi đã là hoàng đế rồi thì hắn sẽ không gọi tiên phụ là tiên sinh nữa. Bốn chữ trên con dấu lại ra vẻ hắn không muốn làm hoàng đế, chỉ cầu được nhàn du trong những ngày sắp tới. Chứ “Tứ” còn hàm ý hắn là Tứ A Ca.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu. Trần Gia Lạc đếm ngón tay để tính nhẩm ngày tháng, suy nghĩ một lúc rồi lẩm bẩm:

– “Ung Chính chưa làm hoàng đế, lúc đó mình chưa sinh ra, nhị ca cũng chưa ra đời, con mới sinh phải là tỷ tỷ. Nhưng trong thư lại nói:

– Thằng con mới sinh…”

Nghĩ đến truyện Văn Thái Lai đã kể trong địa đạo, chàng bỗng la lên:

– “Đây đúng là chứng cớ tuyệt vời.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Cái gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ung Chính đưa đại ca của đồ nhi vào trong cung, khi trả về lại là một bé gái. Cô gái đó chính là đại tỉ của đồ nhi, thật ra lại là công chúa con Ung Chính. Còn đại ca thật sự của đồ nhi thì đang làm hoàng đế.”

Văn Sĩ Tiêu hỏi:

– “Càn Long ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu, rồi rút lá thư thứ hai ra. Chàng vừa nhìn thấy bút tích đã không nén nổi chua xót trong lòng, ứa nước mắt ra. Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Gì thế?”

Trần Gia Lạc nghẹn ngào đáp:

– “Đây là bút tích của tiên mẫu.”

Chàng lau nước mắt, mở lá thư ra đọc:

– “Đình ca! Chúng ta có duyên mà không có phận, muội thật không biết phải nói gì, chỉ ngày đêm mong nhớ canh cánh chẳng lúc nào nguôi. Tiếc là anh hùng đỉnh thiên lập địa như ca ca mà vừa bị muội phụ nghĩa, vừa không được ở lại sư môn. Muội sinh được ba con, Đại Quan ở chốn thâm cung, Tam Quan ở vùng sa mạc. Chỉ có Nhị Quan kề cận, nhưng nó khờ dại ham chơi, bản tính ngoan cố, nhân phẩm rất xấu, khiến muội vừa lo lắng vừa đau lòng. Tam Quan thông minh lanh lợi, đã phó thác cho minh sư, muội tuy thương nhớ nhưng không phải lo lắng chút nào. Đại Quan thì không biết thân thế của mình, nghiễm nhiên làm hoàng đế cho ngoại tộc.

Đình ca! Ca ca hãy vì muội mà nói cho nó biết thân thế của mình. Bên mông trái của nó có một cái bớt son, lấy đó làm bằng chứng thì chắc chắn nó sẽ tin. Tinh lực muội ngày một yếu đi, ngày đêm chỉ thấy những hình ảnh vui cùng ca ca trong thời niên thiếu. Mong hoàng thiên thương xót, từ kiếp sau trở đi, đời đời kiếp kiếp đôi ta được thành quyến thuộc. Muội muội Triều Sinh thủ bút.”

Đọc thư xong Trần Gia Lạc kinh hãi, run bần bật mà hỏi:

– “Sư phụ! Đình ca trong lá thư này, chẳng lẽ chính là nghĩa phụ của đồ nhi?”

Viên Sĩ Tiêu ủ rũ đáp:

– “Chứ còn gì nữa! Hồi niên thiếu ông ấy đã có tình ý với mẫu thân ngươi. Sau này hoàng thiên chẳng biết chiều người, tách đôi uyên ương này mỗi người một ngả. Vì thế mà suốt đời ông ấy không thành gia thất.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao mẫu thân lại giao đồ nhi cho nghĩa phụ dẫn đi, lại bảo coi nghĩa phụ như cha ruột?”

Viên Sĩ Tiêu không đáp, lại nói:

– “Tuy ta cùng nghĩa phụ của ngươi là tri kỷ, nhưng ta chỉ biết vì ông ấy vi phạm môn quy của phái Thiếu Lâm mà bị trục xuất ra khỏi sư môn. Những chuyện đáng thẹn như vậy, chính ông ấy không nhắc tới thì người khác không tiện hỏi han. Nhưng ta tin rằng ông ấy là hảo hán tử quang minh lỗi lạc, chắc chắn không làm những việc trái với lương tâm.”

Ông tức giận vỗ đùi một cái rồi nói tiếp:

– “Năm xưa, khi ông ấy bị trục xuất khỏi chùa Thiếu Lâm Phúc Kiến, ta đoán chắc là ông ấy bị oan ức gì không rõ. Ta bèn triệu tập võ lâm đồng đạo, kéo lên chùa Thiếu Lâm tìm phương trượng chưởng môn mà cãi lý, suýt nữa đã làm võ lâm nổi sóng. Sau đó nghĩa phụ của ngươi đứng ra bênh vực, cứ nói tới nói lui là mình không tốt, trị tội không oan, ta mới chịu thôi. Nhưng mãi đến nay ta vẫn không tin là ông ấy lầm lỗi, gây hại gì cho người khác. Trừ phi bọn hòa thượng trong chùa Thiếu Lâm có quy luật gì cổ quái, thì chuyện đó ta không biết được.”

Nói tới đây, ông lại càng giận dữ hơn.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sư phụ! Việc của nghĩa phụ đồ nhi, sư phụ biết chừng đó thôi sao?”

Văn Sĩ Tiêu nói:

– “Sau khi bị trục xuất khỏi sư môn, ông ấy ẩn cư vài năm rồi sáng lập Hồng Hoa Hội, cuối cùng cũng dựng nên đại nghiệp oanh oanh liệt liệt.”

Trần Gia Lạc muốn hỏi về thân thế của mình, nhưng Viên Sĩ Tiêu lại kể đến những chuyện năm xưa về nghĩa phụ Vu Vạn Đình. Rõ ràng đến bây giờ họ Viên vẫn còn bất bình về vụ đó.

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Tại sao nghĩa phụ và mẫu thân của đồ nhi lại bắt đồ nhi rời khỏi gia đình, sư phụ có hiểu không?”

Viên Sĩ Tiêu cứ giận dữ nói tiếp:

– “Sư phụ triệu tập nhân mã để đứng ra đòi lại công bằng cho nghĩa phụ của ngươi, nhưng đột nhiên ông ấy lại đứng ra nhận hết lỗi lầm về bản thân mình, hệt như dội một thau nước lạnh lên đầu của mọi người. Lúc ấy ta thật không biết giấu mặt vào đâu nữa. Vì thế ta không muốn quan tâm đến những chuyện đã qua của ông ấy. Ông ấy gửi ngươi đến đây, thì ta chỉ biết tận tâm nuôi dưỡng truyền dạy võ nghệ cho ngươi, cuối cùng cũng tự thấy mình xứng đáng với chuyện người ta giao phó.”

Trần Gia Lạc biết hỏi nữa cũng chẳng được gì. Chàng nghĩ bụng:

– “Mưu đồ quang phục nhà Hán là chuyện rất lớn, mà mấu chốt chính là thân thế của đại ca. Nếu bên trong có sơ xuất chút nào, thì những công trình trước đây coi như uổng phí. Việc này cần nhất là phải thành công, còn sớm muộn mấy năm thì không phải là vấn đề. Nhất định ta phải đến chùa Thiếu Lâm ở Phúc Kiến để dò hỏi rõ ràng, khi đó Ung Chính tráo con như thế nào. Đại ca của mình là người Hán, sao Ung Chính lại dám cho kế ngôi hoàng đế? Đến đó, nhất định mình có thể hỏi ra manh mối.”

Chàng hỏi ý sư phụ, Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Không sai! Đi hỏi được tỉ mỉ thì tốt, chỉ sợ lão hòa thượng cổ quái đó không chịu nói.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu thế thì đành phải thừa cơ mà hành sự.”

Hai sư đồ đàm luận một hồi nữa, Trần Gia Lạc nhắc đến võ công học được trong ngọc phong. Điểm cốt yếu là chiêu thức của mình phải giống như Bao Đinh Giải Ngưu, nhìn thấy những chỗ sơ hở trống trải rất nhỏ của đối phương mà tấn công vào. Cầm con dao mổ bò mà lách vào khoảng trống không gân không xương, có thể mổ trăm ngàn con bò mà dao không sứt mẻ.

Ấn chứng với sư phụ, Trần Gia Lạc ngộ thêm không ít những chỗ tinh diệu. Hai người ra khỏi lều vừa nói chuyện vừa luyện tập thật là hứng thú. Chợt nhận ra trời đã sáng hẳn, họ mới về lều nghỉ ngơi.

Văn Sĩ Tiêu lại hỏi:

– “Hai cô nương người Hồi đều rất tốt. Rốt cuộc ngươi thích cô nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đời Hán, Hoắc Khứ Bênh đã nói: Hung Nô chưa diệt, gia thất chưa thành. Đệ tử cũng có ý này.”

Viên Sĩ Tiêu khen:

– “Rất có chí khí! Ta phải kể lại với Thiên Sơn Song Ưng, để họ khỏi trách ta dạy ra một tên đồ đệ hư hỏng.”

Thanh âm của ông đầy vẻ đắc ý. Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Vợ chồng Trần lão tiền bối chê đệ tử không tốt ở điểm nào?”

Viên Sĩ Tiêu cười nói:

– “Họ trách ngươi có mới nới cũ, gặp em quên chị. Ha ha… Thật ra ba ngươi cùng tốt với nhau, có gì là không được?”

Trần Gia Lạc nhớ lại đêm đó Song Ưng bỏ đi không từ biệt, để lại tám chữ lớn trên mặt cát, thì ra là vì chuyện đó. Chàng không nén nổi kinh hãi trong lòng.

Hôm sau Trần Gia Lạc nói cho quần hùng biết mình phải đi Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến một phen, rồi tạm biệt Viên Sĩ Tiêu, Thiên Sơn Song Ưng và chị em Hoắc Thanh Đồng. Hương Hương công chúa bịn rịn không nỡ chia tay. Trong lòng Trần Gia Lạc cũng thấy bứt rứt. Phen này từ biệt, không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Nếu hoàng thiên phù hộ cho hoàn thành đại sự, sau này chắc chắn có lúc trùng phùng. Nếu không, hết thảy anh em vùi mình trong Trung thổ, không thể trở về Hồi Cương được nữa.

Hai cô gái tiễn chân một đoạn đường dài. Đương nhiên trong lòng Hoắc Thanh Đồng cũng ngổn ngang trăm mối, nhưng nàng ra vẻ cứng rắn để hối thúc muội muội quay về. Hương Hương công chúa mãi không chịu nghe lời.

Trần Gia Lạc lấy hết dũng khí để nói:

– “Muội muội về cùng tỉ tỉ đi.”

Hương Hương công chúa gạt nước mắt rồi dặn:

– “Nhất định huynh phải trở lại đây.”

Trần Gia Lạc gật đầu. Hương Hương công chúa lại nói:

– “Huynh mười năm không trở lại, muội sẽ đợi huynh mười năm. Huynh một đời không trở lại, muội sẽ đợi huynh một đời.”

Trần Gia Lạc muốn tặng nàng một kỷ vật để nàng đỡ nhớ nhung khi mình không có ở đây. Chàng thò tay vào túi tìm kiếm, bỗng chạm vào một vật ấm áp, đó là miếng ôn ngọc mà Càn Long đã tặng ở bên đê chắn sóng. Chàng lấy miếng ôn ngọc ra đặt vào tay Hương Hương công chúa, dịu dàng khẽ nói:

– “Muội nhìn thấy miếng ngọc này cũng như nhìn thấy ca ca.”

Hương Hương công chúa nói trong nước mắt:

– “Nhất định muội phải gặp huynh. Dù phải chết đi nữa, muội cũng gặp huynh rồi mới chết.”

Trần Gia Lạc cố cười:

– “Sao muội phải thương tâm như thế? Đợi khi đại sự thành công, chúng ta sẽ cùng lên Vạn Lý Trường Thành ở ngoại thành Bắc Kinh mà thưởng ngoạn.”

Hương Hương công chúa ngẩn ngơ một lúc, miệng hơi lộ ra một nụ cười, nói:

– “Huynh nói gì thì đừng quên nhé!”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đã bao giờ ca ca gạt muội chưa?”

Bấy giờ Hương Hương công chúa mới thôi không đi theo nữa. Thỉnh thoảng Trần Gia Lạc quay lại nhìn, thấy hình bóng hai tỉ muội dần dần mờ nhạt, rồi mất hút trong sa mạc. Quần hùng cho ngựa từ từ tiến bước.

Phen này giết được Trương Triệu Trọng, Dư Ngư Đồng đã báo đại thù, trong lòng an ủi. Chàng lại nảy ra tình cảm với Lý Nguyên Chỉ, dọc đường không tránh né gì nữa, trìu mến chăm sóc vết thương cho nàng.

Đi được vài ngày thì quần hùng về đến nhà A Phàm Đề, không may là vị quái hiệp cưỡi lừa đeo chảo lại đang đi vắng. Chu Ỷ nghe nói Trương Triệu Trọng đã chết, thù em đã báo, hết sức vui mừng. Trần Gia Lạc muốn để Từ Thiên Hoằng ở lại với nàng tại Hồi Cương, đợi sinh nở song, thân thể khỏe mạnh rồi mới trở về Trung Nguyên. Nhưng Chu Ỷ sợ vùng này buồn chán, lại nghe mọi người định đến Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến, phen này có thể gặp được gia gia nên nhất định đòi theo. Mọi người không sao cản được, đành phải dẫn nàng đi cùng. Từ Thiên Hoằng thuê một chiếc xe lớn, để vợ và Lý Nguyên Chỉ ngồi cho đỡ mệt.

Vào trong Gia Cốc Quan thì khí trời dần dần ấm áp, đã cảm thấy hơi hám mùa xuân. Càng tiến về phía nam, trời càng oi bức. Việc đi đứng của Chu Ý cũng càng lúc càng khó khăn hơn.

Vết thương của Lý Nguyên Chỉ đã đỡ nhiều. Nàng không đi xe nữa mà chuyển sang cưỡi ngựa, dọc đường cứ liền miệng nói chuyện với Lạc Băng. Quần hùng đều phải ngạc nhiên, không hiểu tại sao hai người có nhiều chuyện để nói đến thế, nói hoài không dứt.

* * *

Một hôm mọi người đến địa giới tỉnh Phúc Kiến, thấy núi đầy hoa cỏ, bướm chim bay múa khắp nơi. Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Nếu Kha Tư Lệ có ở đây, nhìn thấy vô số hoa tươi như vậy, không biết nàng sẽ vui mừng đến thế nào.”

Vài ngày nữa thì đến thành Đức Hóa, đoàn người định tìm một tửu lầu để uống rượu ăn cơm. Lúc đi ngang nha môn, họ thấy dọc đường cái có khoảng ba chục nam nhân đeo gông, tay chân đều bị xiềng xích, xếp thành một dãy ở chân tường. Người nào cũng cúi đầu ủ rũ, thần sắc rất tiều tuỵ. Nắng đang cháy bỏng mà họ bị phơi trần mình ra, có người thở thoi thóp, rõ ràng sắp ngã xuống chết ngay tại chỗ.

Mười mấy tên sai dịch cầm roi da đứng cạnh, liên tục quát mắng:

– “Bọn bay mau mau giao nộp quần lương, chúng ta sẽ thả ra lập tức.”

Chu Ỷ nhịn không nổi bèn hỏi:

– “Này, họ phạm vào vương pháp gì vậy? Đã bị gông xiềng còn phải phơi nắng, thật là tội nghiệp.”

Một tên hình như là chỉ huy của bọn sai dịch đáp:

– “Các ngươi là dân xứ khác thì mau mau rời khỏi đây đi, đừng nhúng tay vào việc của người khác.”

Chu Ý cãi:

– “Việc của thiên hạ thì người thiên hạ phải lo. Sao gọi là nhúng tay vào việc của người khác?”

Tên chỉ huy bèn lấy roi da chỉ vào một bản văn đang dán trên tường, quát hỏi:

– “Ngươi có biết chữ hay không? Đại quan Phương phiên đài trên tỉnh đã đích thân tới thành Đức Hóa này để thôi thúc quân lương. Hoàng thượng muốn ra quân bình định Hồi Cương, chuyện lương thảo đâu có đùa giỡn được? Người đi đường mà đến đây lải nhải, bổn quan phải bắt nhốt để đóng gông thị chúng.”

Tiếng Phúc Kiến không phải dễ nghe, Chu Ý mặc kệ hắn nói gì thì nói không thèm để ý. Trần Gia Lạc cùng mọi người nhìn vào bản văn, quả nhiên là phiên đài của tỉnh Phúc Kiến đến đây đôn đốc việc trưng lương. Cáo thị cũng nói, quân lương gấp như cứu hỏa, tên ngu dân nào kháng cự không chịu nạp thì nghiêm trị không tha.

Một người đang bị xiềng bỗng la lên:

– “Làm ơn làm phúc đi! Bọn tiểu nhân không phải là không chịu nộp, nhưng ngay một lúc phải nộp mầy chục lượng bạc, thì chém đứt đầu tiểu nhân cũng không lấy đâu ra được.”

Tên sai dịch liền quất cho người đó một roi, quát mắng:

– “Ngươi còn dám kêu la nữa, thì ta phải chém đứt đầu ngươi trước.”

Hắn vung roi lên định quất nữa, nhưng Chu Ý đã bước tới nắm chặt lấy ngọn roi. Từ Thiên Hoằng bỗng kêu lên:

– “Ỷ muội, khoan đã!”

Chu Ý buông chiếc roi da ra, hỏi lại:

– “Gì thế?”

Từ Thiên Hoằng chỉ vào bản văn mà nói:

– “Phương phiên đài này họ Phương, tên Hữu Đức.”

Chàng hạ giọng nói tiếp:

– “Không biết có phải cái thằng Phương Hữu Đức con mẹ nó hay không?”

Mọi người bước vào một tửu lâu. Sau khi tửu bảo rót rượu, Từ Thiên Hoằng nói với Trần Gia Lạc:

– “Tổng đà chủ! Xin cho phép thuộc hạ báo thù rửa hân. Không chừng tên Phương Hữu Đức này chính là đại cừu nhân của gia đình thuộc hạ. Trước đây hắn từng làm tri phủ Thiệu Hưng ở tỉnh Triết Giang, hại chết cả nhà thuộc hạ. Thuộc hạ chưa báo được thù vì tìm hắn mãi mà không thấy, không ngờ gặp hắn ở đây. Nhưng không biết có đúng là hắn không, phải điều tra cho rõ ràng trước đã…”

Chu Ỷ tức giận ngắt lời:

– “Không cần điều tra nữa! Loại cẩu quan này có giết dư một hai tên cũng không phải giết nhầm.”

Trần Gia Lạc chậm rãi nói:

– “Nếu là tên đó, thì mối thù cả giết gia đình Thất ca sẽ được rửa. Phương Hữu Đức tuổi tác khoảng bao nhiêu rồi?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Hình như đã ngoại lục tuần.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hôm nay buông tha cho hắn, thì mấy năm nữa hắn cũng lâm trọng bệnh mà mất mạng.”

Chu Ỷ lớn tiếng:

– “Vậy thì mối thù của Thất huynh sẽ vĩnh viễn không trả được.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Chúng ta đang có đại sự bên mình. Thất ca, chúng ta phải cân nhắc một chút. Nên giết chết Phương Hữu Đức để trả thù, nhưng đừng để dính líu tới Hồng Hoa Hội.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta còn phải lo cướp lương tiền trả lại cho dân chúng Phúc Kiến, để bọn chúng không thể triển khai đại quân đi đánh Hồi tộc.”

Lục Phi Thanh cũng nói:

– “Trên thiên hạ có nhiều người cùng họ cùng tên. Từ hiền điệt! Hai chúng ta phải đến nha môn điều tra cho rõ, xem thử tên Phương Hữu Đức này có phải kẻ thù hiền điệt hay không?”

Tứ Thiên Hoằng đáp:

– “Tiền bối chỉ dạy rất phải, xin đa tạ trước.”

Mọi người nhanh chóng ăn xong bữa cơm, rồi đi tìm khách điếm nghỉ lại, chỉ có Từ Thiên Hoằng theo Lục Phi Thanh ra ngoài xem xét. Chu Ỷ lo lắng chuyện trả thù của Từ Thiên Hoằng nên đứng ngồi không yên, đi qua đi lại trước cửa khách điếm không ngừng.

Đến tận xế chiều Từ Thiên Hoằng mới rảo bước chạy về, đưa tay ra hiệu chém giết trước mặt Chu Ỷ, khẽ nói:

– “Chính là tên gian tặc đó!”

Chu Ỷ nhảy chồm lên mà nói:

– “Hay quá!”

Từ Thiên Hoằng vội bảo:

– “Muội đừng nhảy, coi chừng cái bụng!”

Rồi chàng vào phòng Trần Gia Lạc để bẩm báo:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ đã cùng Lục lão tiền bối nhìn thấy rõ ràng. Tên Phương phiên đài này ở má trái có một cái bớt đen rất lớn, đúng là gian tặc đã hại chết cả nhà tiểu đệ. Lục lão tiền bối hành sự rất tỉ mỉ, còn bảo Thập tứ đệ đi. Thập tứ đệ biết nói tiếng Phúc Kiến, đã vào nha môn tìm được một ông lão mời đi uống rượu, tặng hai chục lượng bạc để hỏi cho kỹ lưỡng. Ông lão ấy nói, Phương phiên đài vốn là tri huyện ở Triết Giang, về sau lập công được thăng làm liên đạo, mấy năm trước đây mới bổ về Phúc Kiến để làm chức phiên đài.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì không sai được nữa. Tối nay chúng ta sẽ ra tay! Thất ca! Huynh đi mời Lục lão tiền bối đến đây, để mọi người tính kế làm sao cho gọn.”

Tứ Thiên Hoằng cả mừng, chạy ra ngoài mời Lục Phi Thanh.

Dư Ngư Đồng bước vào phòng rồi nói:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ còn thám thính được một tin tức rất lạ. Có năm người võ quan thị vệ gì đó trong kinh thành, lãnh thánh chỉ đi khẩn cấp từ Bắc Kinh đến Phúc Châu để tìm Phương phiên đài. Khi biết Phương phiên đài đang tới thành Đức Hóa này công cán, chúng liền theo đến Đức Hóa. Nhưng bọn sai dịch trong nha môn chức vụ thấp hèn, không thể biết thánh chỉ sai chúng làm gì.”

Lục Phi Thanh cũng nói:

– “Dường như bọn đến từ Bắc Kinh có chức vụ không nhỏ.”

Trần Gia Lạc nghe nói có thánh chỉ đặc biệt khẩn cấp, lập tức nghĩ bụng:

– “Không chừng vụ này có liên quan đến đại sự quang phục của hoàng đế ca ca.”

Chàng trầm ngâm suy nghĩ, không trả lời ngay. Dư Ngư Đồng bỗng vỗ tay cười nói:

– “Còn một chuyện may mắn nữa. Khi đến nha môn, thuộc hạ có lén nhìn một cái. Trong năm tên võ quan này có tới hai người quen cũ, một là thị vệ Thoại Đại Lâm, một là tổng binh Thành Hoàng. Hai tên này đã từng đến Thiết Đảm trang để bắt Tứ ca. Để tiểu đệ đi nói với Tứ ca một tiếng, không chừng huynh ấy sẽ mừng rỡ mà nhảy cẫng lên. Thế là hai mối đại thù của chúng ta được trả cùng một lúc, thật là tuyệt diệu.”

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Thập tứ đệ! Đệ cùng Cửu ca đến ngoài nha môn xem xét tình hình, đừng để bọn gian tặc này trốn thoát. Tuy nhiên, có thể bọn võ quan này truyền thánh chỉ gì đó về chuyện điều động binh mã, tạm thời chúng ta không nên đả thảo kinh xà.”

Từ Thiên Hoằng gật đầu nói:

– “Tư thù là việc nhỏ, dĩ nhiên chúng ta phải lấy đại cục làm trọng. Nếu hoàng đế thật sự giữ lời thề, thì dĩ nhiên phải truyền thánh chỉ đi các tỉnh để điều binh khiển tướng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chỉ mong là như thế. Quả là Thất ca rất hiểu đại nghĩa. Bây giờ chúng ta đi bắt năm tên võ quan đó về đây hỏi rõ, rất có lợi cho đại cuộc.”

Trần Gia Lạc lập tức ra lệnh, mọi người kéo đến bên ngoài nha môn của huyện Đức Hóa. Dư Ngư Đồng đang định vào trong dò hỏi tin tức, thì đột nhiên nghe tiếng vó ngựa vang lên, mười mấy con ngựa từ trong nha môn chạy ra ngoài. Mấy tên dẫn đầu đội nón có dây tua màu đỏ màu lam, đều là quan lớn trong triều. Văn Thái Lai nhận ra một trong số đó chính là Thành Hoàng, bất giác trợn mắt lên, chỉ muốn bước tới chém ngay.

Thấy đoàn người khá đông, quần hùng liền lên ngựa chạy theo, ra khỏi cửa Đông thành Đức Hóa. Chạy được khoảng ba bốn chục dặm, họ dừng lại ăn cơm, khi hỏi đám tiểu nhị trong phạn điếm thì biết bọn chúng mới rời khỏi đây chẳng bao lâu.

Văn Thái Lai nói:

– “Ngựa của ta chạy nhanh hơn. Để ta chạy lên trước, chặn năm thằng cẩu tặc này lại đã.”

Lạc Băng vội cản:

– “Chúng có tới năm người, không thể chạy thoát được đâu.”

Văn Thái Lai biết, từ khi mình gặp nạn thì ái thê lại càng quan tâm chu đáo tới mình. Chàng không nỡ để Lạc Băng lo lắng, nên đi cùng với mọi người. Đêm đó quần hùng ăn tối ở Tiên Du, trưa hôm sau đã đến Giao Vỹ. Nghe mấy nông dân nói là năm người võ quan đã chuyển sang hướng bắc, Trần Gia Lạc mỉm cười rồi nói:

– “Bọn này thật biết chọn đường chạy chốn! Từ đây đi về phía bắc là tới Thiếu Lâm Tự ở Phổ Điền. Chúng ta vừa truy đuổi chúng, vừa không phải đi xa oan uổng.”

Chạy được mấy chục dặm nữa thì trời sắp tối, đã gần tới Thiếu Lâm Tự. Quần hùng ghé vào Vạn Hải trấn, tìm một gian khách điếm để nghỉ ngơi. Năm người Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai, Vệ Xuân Hoa, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn chia nhau ra ngoài thăm dò tung tích bọn thị vệ.

* * *

Văn Thái Lai tìm mãi không thấy tung tích của bọn Thành Hoàng đâu. Lúc này trời đã tối, tiếng ve kêu ran ran, khí nóng mùa hè oi bức. Chàng phanh ngực áo ra, cầm một cây quạt bằng lá phe phẩy cho mát. Bỗng nhiên phía trước có ngọn gió thổi lại, đưa theo mùi rượu thơm phức.

Trước mặt là một quán rượu nhỏ, cửa còn mở. Nóng bức thế này, tốt nhất là uống mấy chén để giải khát. Chàng vừa vào quán đã ngẩn người ra, đúng là đi mòn gót sắt tìm không thấy, thấy ra lại chẳng chút công phu. Thành Hoàng, Thoại Đại Lâm và ba tên thị vệ kia đang ngồi trong quán, uống rượu cười nói huyên thuyên.

Thấy Văn Thái Lai đi vào trong quán, năm tên lập tức kinh hãi thất sắc, há hốc mồm không thốt nên lời. Văn Thái Lai làm như không thấy chúng, cứ gọi lớn:

– “Chủ quán, lấy rượu!”

Tiểu nhị lấy bình rượu, chén đũa đặt trước mặt chàng. Văn Thái Lai quát lên:

– “Chén nhỏ xíu này mà uống cái gì? Đem bát lớn tới đây.”

Chàng dằn một thoi bạc xuống bàn nghe “cộp”một tiếng. Thấy khí thế chàng dũng mãnh, tiểu nhị không dám nói nhiều. Hắn lập tức đem ra một cái bát lớn, rót đầy. Văn Thái Lai đưa bát lên một hơi cạn sạch, khen:

– “Rượu ngon!”

Tiểu nhị nói:

– “Đây là rượu Tam Bạch, nổi tiếng ở vùng này.”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Giết một con heo nên uống mấy bát rượu?”

Tiểu nhị không hiểu ý chàng nhưng không dám hỏi, bèn đáp bừa:

– “Ba bát.”

Văn Thái Lai nói:

– “Hay lắm! Đem mười lăm cái bát lớn ra đây, rót đầy vào cho ta.”

Chàng rút soạt đơn đao ra đặt trên bàn. Tiểu nhị hoảng sợ nhảy dựng lên, nhưng cũng phải nghe lời đi lấy mười lăm cái bát lớn, dàn ra chật cả mặt bàn rồi rót đầy rượu vào. Bọn Thành Hoàng nhìn nhau kinh hãi vô cùng, chỉ vì Văn Thái Lai ngồi cản ngay giữa cửa nên chúng không dám bước ra.

Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm thấy tình hình chẳng tốt lành gì, bèn đứng dậy muốn chuồn ra cửa sau. Văn Thái Lai đứng dậy quát lên một tiếng như sấm nổ lưng trời, rồi hỏi:

– “Lão gia chưa uống xong, bọn ngươi vội gì thế?”

Thành, Thoại lập tức đứng yên, không dám động đậy. Văn Thái Lai đạp một chân lên ghế dài, chỉ hai hớp đã uống cạn một bát rượu, lại khen:

– “Rượu ngon.”

Chàng bưng bát thứ hai lên.

Tiểu nhị biết điều, tự động xắt hai cân thịt bò đặt lên mâm rồi bưng lên. Văn Thái Lai vừa ăn vừa uống, chỉ chốc lát là mười năm bát rượu và hai cân thịt bò đã sạch sành sanh. Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm nhìn nhau kinh hoảng. Ba tên thị vệ kia nháy mắt với nhau, cầm binh khí rồi cả bọn cùng phóng lên.

Văn Thái Lai hơi rượu đã bốc tới đầu, đầy người mồ hôi như tắm. Đợi ba người phóng tới, chàng phóng chân hất mạnh, cái bàn bay ra ngoài. Dĩ nhiên toàn bộ chén bát, cả thanh đơn đao trên bàn đều rơi loảng xoảng xuống đất. Chàng không thèm nhặt đao, xách cái ghế dài quét qua ba tên thị vệ.

Ba tên này, một cầm lê hoa thương, một dùng đao, một thì sử đôi Nga Mi Thích. Chúng vừa né cái ghế dài vừa tiến sát đến. Văn Thái Lai dựng ghế thẳng lên đón đỡ, lấy một địch ba. Trong lúc hỗn chiến, tên dùng đao bỗng chém dính vào cái ghế, nhất thời không kịp rút đao về. Văn Thái Lai xoay tả chưởng tát ngược lại trúng ngay sống mũi của hắn, lập tức ngũ quan máu thịt hồ đồ, xương gò má cũng vỡ nát.

Lúc này đôi Nga Mi Thích đang nhằm đâm tới nách phải Văn Thái Lai. Chàng dùng tay trái giật thanh đao đính trên ghế ra, chém thẳng xuống. Tên sử song thích đâm chưa tới nơi đã nghe trên đỉnh đầu có tiếng gió rít lên khủng khiếp, vội vã nhào ngược ra sau, lăn người tránh né.

Tên cầm thương liền vung ra một đóa thương hoa rất lớn, xuất chiêu Độc Long Xuất Động đâm vào bụng dưới Văn Thái Lai. Tay trái họ Văn vứt bỏ đơn đao, chụp lấy cán thương. Tên kia vận hết sức lực bình sinh để giật thương về, nhưng không sao địch nổi thần lực của Văn Thái Lai, bị chàng kéo cho loạng choạng, té nhào tới trước. Tay phải Văn Thái Lai xách cái ghế dài đập ngay vào giữa ngực hắn, hất hắn bay thẳng vào vách tường. Dư lực vẫn còn, bức tường sập xuống, gạch đá rơi thành một đống đè lên người hắn.

Trong quán rượu bụi đất bay mù, ngói trên mái nhà lả tả rơi xuống. Văn Thái Lai quay người lại định đánh tiếp. Chàng thấy tên thị vệ mập mạp sử dụng song thích nằm co rút lại thành một khối không động đậy, bèn xách hắn lên định hỏi cung, bỗng thấy mặt hắn trắng bệch như tờ giấy, tắt hơi từ lâu rồi. Thì ra hắn sợ quá mà chết.

Văn Thái Lai đã định để lại một tên sống sót để tiện hỏi thông tin, thế mà không được. Chàng quay lại tìm Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm thì không thấy đâu nữa, nhất định hai tên này đã nhân lúc lộn xộn mà chuồn mất.

Ra khỏi quán rượu, Văn Thái Lai cảm thấy có một ngọn gió mát thổi lên đầu, ngẩng lên nhìn thấy sao lác đác, bây giờ đã là canh một. Chàng trở vào trong quán nhặt lấy đơn đao, rồi chạy ra tìm kiếm khắp nơi, phi thân nhảy lên nóc căn nhà cao nhất mà nhìn tứ phía. Thấy hai cái bóng đang chạy như ma đuổi về phía bắc, chàng cả mừng nhảy xuống đất, xách đao đuổi gấp.

Chạy được mấy dặm, phía trước có một đám ruộng trồng mía. Mía mọc khá cao, hai bóng người vừa chui vào ruộng mía đã mất tích không thấy đâu nữa. Văn Thái Lai phải chui vào theo, vừa quát tháo vừa đuổi. Đi hết ruộng mía, phía trước lại là một khu rừng vừa rậm rạp vừa tối đen.

Chàng tìm trong rừng một hồi không thấy, bỗng tự trách mình ngu ngốc rồi nhảy lên túm lấy một cành cây, trèo lên ngọn cây nhìn quanh quất. Chàng thấy xa xa hình như có một thôn nhỏ, nhưng nhà cửa xây rất lớn. Hai cái bóng người đã gần tới mấy gian nhà đó, nếu không nhờ thân hình động đậy thì trong đêm tối thật khó mà nhìn thấy.

Văn Thái Lai thầm hổ thẹn:

– “Ta mò mẫm trong rừng mất cả nửa ngày, suýt nữa là để chúng thoát thân!”

Chàng lập tức nhảy xuống đất, chạy về phía thôn nhỏ ấy, thi triển khinh công đến tột độ, bên tai lộng gió vù vù. Trong chốc lát đã thấy hai người đó nhảy vượt qua tường, trốn vào trong nhà. Văn Thái Lai thét lên:

– “Trốn đi đâu?”

Rồi chạy ngay tới bức tường đó. Dưới ánh sao thưa mờ nhạt, chàng thấy những gian nhà này đều mái xanh, tường vàng, thì ra là một tòa tự viện. Chàng vòng ra cổng trước ngẩng lên nhìn, chính giữa có bảng ghi bốn chữ bằng vàng:

– Thiếu Lâm Cổ Sát.

Văn Thái Lai ngẫm nghĩ:

– “Thì ra đã đến Thiếu Lâm Tự rồi. Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến tuy chỉ là hạ viện, nhưng trước nay vẫn nghe nói võ công của tăng nhân trong chùa này cũng rất cao cường, chẳng kém gì chùa gốc ở Tung Sơn. Đây lại là nơi xuất thân của cố tổng đà chủ, đúng ra mình không nên lỗ mãng. Nhưng hai tên Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm hiếp người quá đáng, không thể buông tay tha chúng được.”

Cửa chùa đã đóng chặt, chàng liền cầm đao nhảy lên đầu tường, thấy bên trong là một khu vườn khá rộng nhưng trống rỗng. Lắng tai nghe thì hoàn toàn không có âm thanh gì, không biết Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đã chạy về hướng nào nên chàng cứ cúi người xuống mà đưa mắt quan sát chung quanh.

Đột nhiên chánh điện mở cửa nghe “ầm” một tiếng, một hòa thượng to mập bước ra ngoài, kéo theo sau một cây phương tiện sạn cán dài tới bảy thước. Y quát hỏi:

– “To gan! Dám trèo tường vào cửa Phật ư?”

Văn Thái Lai chắp tay nói:

– “Tại hạ đang truy đuổi hai tên chó săn của triều đình, vô ý làm kinh động đại sư. Xin thứ lỗi!”

Hòa thượng nói:

– “Ngươi là người học võ, phải biết Thiếu Lâm Tự là chỗ như thế nào chứ? Sao dám vô lễ xách đao xông vào chùa?”

Văn Thái Lai đã hơi tức giận, nhưng chàng nghĩ lại thì đêm tối mà mình cầm đao chạy loạn vào chùa là không nên không phải, bèn chắp tay thi lễ mà nói:

– “Tại hạ xin lỗi!”

Chàng nhảy ra ngoài tường, vẫn để ngực trần ngồi tựa vào một gốc cây, nghĩ bụng:

– “Nhất định hai tên gian tặc đó cũng phải bị đuổi ra ngoài. Ta ngồi đây mà đợi cũng được.”

Chàng ngồi xuống, bỗng thấy hòa thượng mập kia nhảy lên tường quát tháo:

– “Tên kia! Muốn gì mà chưa chịu rời khỏi đây? Muốn thừa cơ trộm cắp phải không?”

Văn Thái Lai giận dữ hỏi lại:

– “Ta ngồi ở ngoài chùa, có liên quan gì đến đại sư?”

Hòa thượng mập nói:

– “Chắc ngươi đã được ăn gan hổ gan báo gì đó rồi, dám đến chùa Thiếu Lâm mà quấy rối. Đi nhanh lên! Đi nhanh lên!”

Văn Thái Lai nhịn không nổi nữa, quát lên:

– “Ta không đi! Ngươi làm gì ta?”

Hòa thượng mập không nói tiếng nào, vung cây phương tiện sạn vù vù rồi nhảy từ trên đầu tường xuống. Những cái vòng ở cán sạn khua lên lẻng kẻng, lưỡi sạn dài chừng một thước đẩy thẳng tới ngực chàng.

Văn Thái Lai định vung đao đánh trả, nhưng bỗng nghĩ lại:

– “Tổng đà chủ xa xôi ngàn dặm tới đây, đang có việc muốn nhờ cái chùa Thiếu Lâm này. Ta không nên lỗ mãng nhất thời mà làm hỏng đại sự.”

Chàng bèn nghiêng người tránh lưỡi sạn, buông thõng đơn đao quay người đi ngay. Chàng mới đi được mấy bước, trước mặt lại có đao quang lóe lên. Một hòa thượng khác sử một cặp giới đao chém thẳng tới. Văn Thái Lai không muốn đánh nhau, rẽ sang một bên bỏ chạy. Hai hòa thượng cùng la lên:

– “Để binh khí lại đây, chúng ta sẽ thả ngươi đi.”

Văn Thái Lai sắp chạy được vào rừng thì bỗng nghe tiếng gió trên đỉnh đầu, vội dạt qua bên trái để tránh né. “Rầm” một tiếng, một cây thiền trượng đập xuống mặt đất làm bụi cát văng lên, thế đập cực kỳ hung hãn. Một hòa thượng vừa thấp vừa lùn vừa bé nhỏ đứng cản đường phía trước.

Văn Thái Lai nói:

– “Tại hạ đến đây hoàn toàn không có ác ý, xin ba vị đại sư cho đi. Sáng mai tại hạ sẽ quay lại tạ tội.”

Hòa thượng thấp bé nói:

– “Giữa đêm mà ngươi dám xông vào chùa Thiếu Lâm, chắc chắn võ nghệ kinh người. Hiển lộ chút bản lãnh đi, rồi mới được rời khỏi đây.”

Y không đợi chàng trả lời, liền quét ngang thiền trượng vào ngực Văn Thái Lai. Chàng vội luồn qua dưới cây thiền trượng.  Người sử giới đao cất tiếng khen ngợi:

– “Thân pháp rất hay!”, rồi vung đao chém tới. Người cầm phương tiện sạn cũng nhảy tới giáp công.

Văn Thái Lai đã nhường ba chiêu, binh khí đối phương đều quét sát sạt bên mình, khoảng cách không thể chèn thêm sợi tóc. Chàng biết ba người này đều là cao thủ trong chùa Thiếu Lâm, nếu mình tiếp tục nhường nhịn thì đêm tối rất dễ bất cẩn, không chết cũng bị thương. Cho dù ba tăng nhân này không có ý giết mình, nhưng oai danh một đời của mình không khỏi trôi theo dòng nước.

Thế là Văn Thái Lai chém liền ba đao veo véo, xuyên qua xuyên lại giữa ba món binh khí mà đánh trả, thân pháp vừa linh hoạt vừa lợi hại. Ba hòa thượng đột nhiên lùi ra, đồng thời niệm Phật hiệu “A Di Đà Phật.”

Người cầm thiền trượng nói:

– “Chúng ta đều là thượng tọa ở Đạt Ma Viện trong chùa.”

Y chỉ hòa thượng sử giới đao, nói:

– “Vị này pháp danh là Nguyên Vi.”

Chỉ qua người cầm phương tiện sạn, nói:

– “Vị này pháp danh là Nguyên Thống, còn ta là Nguyên Thương. Xin hỏi cao danh quí tánh của cư sĩ?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Tại hạ họ Văn, tên là Thái Lai.”

Nguyên Thống nói:

– “À, thì ra là Bôn lôi chủ Văn tứ gia, chẳng trách bản lãnh cao cường như vậy. Văn tứ gia xông vào tệ tự, có phải là theo di mạng của Vu Vạn Đình lão đương gia của quí hội không?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Vu lão đương gia không có di mạng gì cả. Tại hạ đang truy đuổi hai tên ưng trảo, lầm lỡ xông vào quí tự. Xin được thứ lỗi.”

Ba hòa thượng khẽ thương lượng mấy câu, rồi Nguyên Thống nói:

– “Oai danh của Văn tứ gia lừng lẫy trong thiên hạ. Hôm nay may được gặp, tiểu tăng xin được thỉnh giáo mấy cao chiêu.”

Văn Thái Lai nói:

– “Thiếu Lâm Tự là thánh địa của võ học, tại hạ sao dám làm bừa? Xin cáo từ!”

Chàng lập tức cho đao vào vỏ, chắp tay thi lễ rồi quay người bỏ đi. Ba tăng nhân thấy địch thủ khiêm nhường lùi bước, lại biết người này quyết không nhát gan sợ sệt, chắc chắn là có ẩn tình gì đây. Họ nghĩ:

– “Cố tổng đà chủ Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội là đệ tử bị trục xuất của Thiếu Lâm. Không chừng người này đến đây tính chuyện rửa hận cho thủ lĩnh.”

Ba người nhìn nhau một cái, Nguyên Thống huy động cây phương tiện sạn cho những cái vòng vàng trên cán khua loảng xoảng, đâm thẳng ra trước. Văn Thái Lai là anh hùng đương thế, quyết không chịu bó tay khuất phục, chỉ còn cách múa đao chống đỡ.

Nguyên Thống múa tít cây sạn đến nỗi mặt sạn phát ra ánh sáng, hàn khí ép người. Nhưng bây giờ Văn Thái Lai đã hết cơn say, tinh lực dồi dào, xuất chiêu đao nào cũng tuyệt diệu tinh kỳ, Nguyên Thống dần dần không chống đỡ nổi. Nguyên Thương bèn cầm thiền trượng bước vào vòng chiến. Đánh đến lúc hăng say, đôi giới đao của Nguyên Vi cũng tham gia.

Văn Thái Lai lấy một địch ba, nhưng vẫn công nhiều thủ ít. Đột nhiên dưới ánh trăng chàng thấy dưới đất có mấy chục bóng người, thì ra tăng chúng trong chùa đã kéo tới rất đông. Bất giác chàng rùng mình một cái. Chỉ phân tâm một chút, chàng để cây thiền trượng của Nguyên Thương quét trúng sống đao của mình. Tia lửa bắn ra tứ tung, thanh đao văng tuốt ra xa, mất hút trong rừng.

Bôn Lôi Thủ thật sự nhanh như sấm sét. Văn Thái Lai hơi cúi xuống một chút, tay phải đã chụp được cán cây phương tiện sạn của Nguyên Thống đang xắn xuống, dùng sức vặn ngược lại. Nguyên Thống phải buông sạn ra, Văn Thái Lai lại phóng chân phải ra đá trúng đầu gối của y. Thân hình mập mạp của Nguyên Thống lập tức bị hất văng ra ngoài.

Lúc này thiền trượng của Nguyên Thương và giới đao của Nguyên Vi đồng thời công tới. Văn Thái Lai nắm chắc cây sạn, gạt mạnh vào thiền trượng. “Choảng” một tiếng điếc tai, hai món binh khí nặng nề bằng thép ròng va chạm, tiếng động âm vang cả một vùng sơn cốc, ngân rền hồi lâu chưa dứt. Hổ khẩu của Nguyên Thương bị chấn động toạc ra, máu tươi nhỏ giọt xuống đất, buông rơi thiền trượng.

Văn Thái Lai nghiêng mình tránh né cặp giới đao, đâm thẳng lưỡi sạn vào mặt Nguyên Vi. Nguyên Vi đang hoảng sợ đến độ mất tinh thần, trước mặt sơ hở vô cùng, ai cũng thấy lưỡi sạn sắp xắn đứt nửa cái đầu của y. Văn Thái Lai không muốn đả thương, đang định thu sạn về thì bỗng nghe có tiếng ám khí phóng tới.

Chàng định tránh né thì nghe “keng” một tiếng, tay mình chấn động, cây sạn bị hất ra ngoài một thước. Sau đó lại nghe hai tiếng bịch bịch, từ trên cành cây có hai người rớt xuống. Văn Thái Lai vội nhảy tới nhặt cây phương tiện sạn, khi quay đầu lại thì thấy Trần Gia Lạc cùng mọi người đã tới. Chàng đang mừng rỡ, lại thấy trong đám tăng nhân đối diện có một ông lão đầu tóc bạc phơ bước ra lên tiếng:

– “Văn tứ gia! Ta phải ra tay ngăn cản, thật tình xin lỗi.”

Ông lão đang chắp tay thi lễ thì Chu Ý hô lớn:

– “Gia gia!”

Thì ra đây chính là Thiết đảm Chu Trọng Anh.

Văn Thái Lai nhìn thấy lưỡi sạn trong tay bị đánh móp một mảng lớn, khuyết mất một chỗ, trong lòng vô cùng thán phục Chu Thiết Đảm danh bất hư truyền. Chàng nhìn xuống hai người vừa rơi xuống đất, lại càng cảm thấy kỳ lạ. Một người là Thành Hoàng, người kia chính là Thoại Đại Lâm.

Thì ra lúc chạy trốn vào chùa, hai tên này đã bị đại sư giám tự là Đại Khổ đuổi ra ngoài, rồi lén trốn trên cây. Khi thấy Văn Thái Lai sắp thắng ba hòa thượng kia, Thoại Đại Lâm trên cành cây ngầm phóng tụ tiễn. May mà Đại Si là thủ tọa Tàng Kinh Các dùng Thiết bồ đề đánh rơi ám khí, rồi lại đánh hai tên kia rơi xuống.

Chu Trọng Anh giới thiệu quần hùng Hồng Hoa Hội và quần tăng Thiếu Lâm Tự với nhau.

Ngày đó Chu Trọng Anh, Mạnh Kiện Hùng, An Kiên Cương và Chu đại phu nhân rời khỏi Thiên Mục sơn, đi về phía nam tới Phúc Kiến, đến chùa Thiếu Lâm gặp phương trượng là Thiên Hồng đại sư. Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu Lâm vốn cùng một nhà, gia số võ công không khác biệt gì lắm. Chu Trọng Anh danh tiếng lừng lẫy võ lâm, quần tăng ở Nam Thiếu Lâm trước nay đã từng ngưỡng mộ. Hai bên ấn chứng trao đổi võ công tâm đầu ý hợp, Thiên Hồng đại sư thiết tha giữ khách, nên Chu Trọng Anh ở lại chùa suốt mấy tháng nay.

Đêm nay nghe tiếng báo động liên hồi, nói là có một cao thủ xông vào tự viện giao đấu với ba vị thượng tọa Đạt Ma Viện, ông ra xem thì không ngờ là Văn Thái Lai. Trong lúc nguy cấp ông ra tay cản trở, sợ Văn Thái Lai trách liền bước tới để tạ lỗi. Dĩ nhiên Văn Thái Lai không bắt bẻ gì. Chàng chắp tay tạ lỗi với giám tự là Đại Khổ về việc quấy rầy Thiếu Lâm Tự, rồi xin đem Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đi. Đại Khổ nói:

– “Hai vị thí chủ này vì tránh nạn mà đến bổn tự. Cửa Phật rộng lớn lấy từ bi làm gốc, xin Văn thí chủ nể mặt tiểu tăng mà tha cho họ.”

Văn Thái Lai không làm gì được, đành phải theo lời. Lục Phi Thanh bèn dẫn hai tên đó qua một bên, lịch sự hỏi chúng đi từ Bắc Kinh đến Phúc Kiến để truyền mật chỉ gì.

Thành Hoàng đáp:

– “Hoàng thượng đã phái Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn dẫn mười mấy cao thủ thị vệ tới Phúc Kiến, ra lệnh cho tổng binh Phúc Kiến triệu tập ba ngàn lính Mãn Thanh và quân Hán, đợi lệnh ở thành Đức Hóa. Hoàng thượng có gửi mật chỉ cho Phương phiên đài, bảo ông ấy cùng Bạch Chấn và tổng binh theo lệnh hành sự. Còn số binh mã sử dụng vào đâu, thì khi mở mật chỉ ra mới biết được.”

Lục Phi Thanh nghĩ:

– “Dụng binh đương nhiên phải như vậy, không nên tiết lộ bí mật sớm. Hoàng đế sai tới Bạch Chấn, đủ biết chuyện này không phải là nhỏ, nhất định hai tên này không thể biết được.”

Trước mặt tăng chúng chùa Thiếu Lâm mà gia hình lấy khẩu cung thì không tiện, ông bèn giải khai huyệt đạo thả chúng đi, rồi thầm kể cho Trần Gia Lạc biết.

Đại Khổ đại sư mời quần hùng vào trong chùa. Thiên Hồng đại sư dẫn thủ tọa Đạt Ma Viện là Thiên Kính đại sư, thủ tọa Giới Trì Viện là Đại Điên đại sư ra cửa chùa đón tiếp. Thông báo danh tánh xong, Thiên Hồng đại sư nói với Lục Phi Thanh:

– “Từ lâu đã nghe danh Miên Lý Châm ở phái Võ Đang. Hôm nay may được gặp, thật là vinh hạnh cho tệ tự.”

Lục Phi Thanh đa tạ. Thiên Hồng mời quần hùng đến tịnh thất dùng trà, rồi hỏi nguyên nhân đến Thiếu Lâm Tự.

Trần Gia Lạc thấy trong phòng đều là những vị cao tăng giữ trọng trách trong chùa, không có loại người tạp nhạp. Chàng đột nhiên bước tới, quì xuống trước mặt Thiên Hồng đại sư. Thiên Hồng vội đưa tay đỡ dậy rồi hỏi:

– “Trần tổng đà chủ có gì xin cứ nói, sao lại thi đại lễ?”

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Tại hạ có một việc không hợp tình hợp lý, theo quy củ võ lâm thì không nên mở miệng, nhưng vì hàng vạn hàng ức sinh linh mà cả gan cầu xin đại sư.”

Thiên Hồng bảo:

– “Xin cứ nói ra, đừng ngại.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vu Vạn Đình lão gia là nghĩa phụ của…”

Vừa nghe thấy tên Vu Vạn Đình, sắc mặt Thiên Hồng thay đổi hẳn, đôi mày bạc trắng hơi dựng lên. Trần Gia Lạc kể lại ngắn gọn những chuyện liên quan giữa mình với Càn Long, rồi nhắc đến kế hoạch đuổi Mãn phục hưng nhà Hán. Chàng xin Thiên Hồng đại sư cho biết nguyên nhân nghĩa phụ mình bị trục xuất ra khỏi môn phái, vì rất có thể chuyện này liên quan đến thân thế thật sự của Càn Long. Cuối cùng chàng nói:

– “Mong đại sư nghĩ đến bá tánh trong thiên hạ mà…”

Thiên Hồng im lặng không nói gì, đôi mày dài ủ xuống, hai mắt nhắm nghiền, tập trung suy nghĩ. Mọi người đều không dám quấy rầy.

Chừng cạn tuần trà, Thiên Hồng mới hé mắt ra mà nói:

– “Trần tổng đà chủ đến bổn tự để hỏi về những chuyện ngoài thế tục của Vu Vạn Đình là đệ tử đã bị trục xuất khỏi sư môn. Việc này nếu theo quy củ của bản tự thì không thể được, nhưng lại có liên quan đến sinh linh khắp thiên hạ, dĩ nhiên bần tăng phải phá lệ một phen. Mời Trần tổng đà chủ phái người vào Giới Trì Viện trong tệ tự, lấy án quyển mà xem.”

Trần Gia Lạc vội khom người cảm ơn, rồi tri khách tăng dẫn quần hùng vào nhà khách để nghỉ ngơi. Quần hùng đang hoan hỉ, bỗng thấy Chu Trọng Anh nhăn tít mặt mày, sắc mặt lo âu mà nói:

– “Phương trượng nói là Trần tổng đà chủ cứ phái người vào Giới Trì Viện. Muốn tới Giới Trì Viện phải vượt qua năm tòa điện, mỗi điện đều có một đại sư võ công cực cao phòng thủ. Vượt qua năm điện này, than ôi, cực kỳ khó khăn, cực kỳ khó khăn…”

Nghe vậy, mọi người mới biết còn phải trải qua ác chiến. Văn Thái Lai nói:

– “Chu lão gia thì nhất định không giúp bên nào rồi. Để bọn vãn bối thử cố gắng một phen.”

Chu Trọng Anh lắc đầu nói:

– “Khó ở chỗ một người phải liên tiếp vượt qua năm tòa điện. Nếu có người tương trợ thì Thiếu Lâm Tự cũng sẽ cử người tới giúp, gây ra hỗn chiến thì không ổn chút nào. Các đại sư thủ điện thì vị sau mạnh hơn vị trước. Dù qua được mấy điện ở phía trước thì cũng hao tổn sức lực, một hai điện cuối cùng thật khó qua.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Phải liên tiếp vượt qua năm tòa điện, e rằng khó mà làm nổi. Chỉ cầu mong ngã Phật từ bi sẽ giúp vãn bối đi qua.”

Chàng lập tức cởi áo dài, mang theo một túi quân cờ vây, cài thanh đoản kiếm vào hông, rồi nhờ Chu Trọng Anh dẫn đến Diệu Pháp Điện.

Tới cửa điện, Chu Trọng Anh khẽ nói:

– “Trần lão đệ! Nếu qua không nổi hãy quay về ngay, chúng ta sẽ tìm cách khác. Đừng gắng gượng quá sức để tránh tổn thương.”

Trần Gia Lạc vâng dạ. Chu Trọng Anh chúc chàng vạn sự như ý, rồi đứng qua một bên.

Trần Gia Lạc đẩy cửa bước vào, thấy trong điện đèn đuốc sáng trưng, chính giữa có một tăng nhân ngồi trên bồ đoàn, chính là giám tự Đại Khổ đại sư. Ông đứng dậy mỉm cười nói:

– “À, thì ra Trần tổng đà chủ đích thân thỉnh giáo, thật là tuyệt diệu. Bần tăng xin thỉnh giáo mấy chiêu quyền pháp.”

Trần Gia Lạc đứng ở mé dưới, chắp tay nói:

– “Xin mời!”

Đại Khổ tay trái nắm thành quyền, vung ra thành một vòng lớn, sau đó đưa hữu chưởng lên. Trần Gia Lạc biết chiêu này là Nan Thủ Kích Thiên, thì ra Đại Khổ dùng Túy Quyền để đấu với mình. Tuy chàng đã từng học loại quyền này, nhưng nhớ lại hồi tỉ võ với Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang, mình dùng Thiếu Lâm quyền để đấu với Thiếu Lâm quyền của Chu lão gia suýt nữa bị thua, nên bây giờ không dám khinh suất.

Chàng lập tức vỗ hai chưởng vào nhau một cái, nhảy ra một bước rồi xoay tay đánh lại, lập tức xuất một tuyệt chiêu của Bách Hoa Tá quyền. Đại Khổ bị bất ngờ, suýt trúng chưởng phải nhào ngửa ra mới tránh kịp. Ông bèn thuận thế ra chiêu Quái Liễu Tảo Vân, ngẩng mặt lên trời chống tay dưới đất, hai chân vung lên phản kích. Sau đó ông nhảy bật lên, rồi bước chân nghiêng ngả, tay vung loạn xạ, dương đông kích tây, chỉ trước đánh sau, ngã bên này té bên kia giống hệt một người say rượu.

Trần Gia Lạc đã biết loại quyền này, liền chăm chú tinh thần mà chiết giải. Pho Túy Quyền của Đại Khổ có mười sáu đường, hạ bàn giống như hư ảo mà rất ổn định, quyền chiêu như phủ bụi mà lại nặng nề, bộ pháp cứ suýt té rồi lại phóng tới, biến hóa vô cùng sinh động.

Tỉ đấu đến lúc hăng say, Đại Khổ phóng tới một bước, vọt cả người lên không. Khi chạm đất ông đưa chân quét thành vòng như một đóa hoa, ra chiêu Thiết Ngưu Canh Địa, hữu quyền đánh vào hạ bàn đối thủ. Trần Gia Lạc đảo người lùi lại, biết chắc ông xuất quyền không trúng đích sẽ nhảy lên biến chiêu thành Diêu Tử Phiên Thân. Chàng nhằm bộ vị chính xác, đợi chân trái đối thủ chạm đất liền đưa chân phải quét ra, tay nhẹ nhàng ấn vào lưng.

Đại Khổ không xoay người lại được, liền té sấp xuống. May mà Trần Gia Lạc dùng tay đỡ nhẹ vào vai, Đại Khổ mượn thế nhảy lên nên mới không vập mặt xuống đất. Mặt ông đỏ ửng lên, chỉ tay vào trong mà nói:

– “Xin mời!”

Trần Gia Lạc chắp tay thi lễ rồi đáp:

– “May được đại sư nhân nhượng.”

Đi vào trong, lại là một đại điện. Thủ tọa Đại Điên của Giới Trì Viện ngồi chính giữa. Thấy chàng đi vào, ông lập tức đứng dậy, cầm cây thiền trượng vĩ đại dựng bên dộng xuống đất một cái, làm chấn động cả vách tường, bụi bặm trên mái nhà rơi xuống ào ào. Trần Gia Lạc âm thầm kinh hãi:

– “Người này quả là thần lực!”

Đại Điên tay trái cầm trượng, tay phải phóng hai chưởng hai bên trái phải. Sau đó trượng bên tay trái quét ngang, tay phải ngửa lên đón lấy đầu trượng, bước lên hai bước. Đây chính là những chiêu khởi đầu của Phong Ma trượng pháp.

Thấy địch thủ vung trượng phát ra tiếng gió, bộ pháp vững chắc phi thường, Trần Gia Lạc không dám khinh địch. Chàng liền rút thanh đoản kiếm ra, tháo bỏ lớp vỏ, một làn hào quang màu tím từ lưỡi kiếm lập tức chiếu ra. Đại Điên nhìn thấy kiếm khí ép người không khỏi chấn động tinh thần, bèn xuất chiêu Hổ Vĩ Tiên quét trượng ngang qua, tốc độ đã nhanh mà bộ vị cũng chính xác. Trần Gia Lạc cúi người luồn dưới trượng, xông vào đánh trả một kiếm. Binh khí một người cực dài, một người cực ngắn, khai diễn một trường ác đấu trong tòa đại điện.

Trần Gia Lạc từng thấy trượng pháp của Tưởng Tứ Cân, biết yếu quyết của Phong Ma Trượng là điên khùng như ma nhập. Trượng pháp này bắt nguồn từ một trăm lẻ tám đường côn pháp của Cẩn Na La vương ở Thiên Trúc, khi truyền vào Trung Nguyên lại được bổ sung những tinh hoa của Dọa Xa Côn và Thủ Kinh Côn, lợi hại vô cùng.

Những người chuyên về trượng pháp đều phải tay dài vai rộng, sức lực hơn người. Đại Điên đại sư có thần lực trời sinh, xuất luôn mấy chiêu Phiên Thân Bích Sơn, Dạ Xoa Thám Hải, Lôi Trâm Oanh Mộc, chiêu nào cũng mãnh liệt, đầy vẻ liều mạng như một kẻ điên đang bị ma nhập, vũ lộng cây thiết trượng nặng mấy chục cân công kích chẳng nể nang gì.

Trần Gia Lạc thầm khen:

– “Phải sử dụng được thế này thì mới xứng với hai chữ Phong Ma.”

Chàng không dám mạo hiểm tấn công mà cứ mãi tránh né, nghĩ rằng cương mãnh thì khó duy trì, đợi khi nhuệ khí đối phương giảm bớt rồi mình sẽ phản kích. Nào ngờ nội công Đại Điên cũng rất thâm hậu, tấn công ác liệt một hồi lâu mà trượng pháp vẫn không lộ ra chút sơ suất nào, ngược lại càng đánh càng nhanh, lát sau đã ép Trần Gia Lạc lùi tới góc tường.

Đại Điên thấy chàng không còn chỗ nào tránh né nữa, dùng hai tay liên tiếp xoay thiền trượng thành những vòng tròn, rồi xuất chiêu Hồi Long Trượng đập từ trên xuống vô cùng mãnh liệt.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Bên trong này hãy còn ba cao thủ nữa, ta không nên kéo dài dễ hao sức lực.”

Thấy chiêu trượng này dữ dội, chàng quyết chí mạo hiểm để cầu thắng, bèn không tránh né. Đại Điên biết Trần Gia Lạc là bạn chứ không phải địch, nên khi thiền trượng còn cách đỉnh đầu chàng chừng hai thước thì đột nhiên ông giật trượng về, biến chiêu từ đập xuống thành quét ngang. Ông tưởng có thể quét ngã chàng, ít ra cũng khiến chàng biết khó mà lùi, bỏ ý định tiến vào trong.

Trần Gia Lạc thì đang đợi thiền trượng xuống gần rồi đột ngột phóng tới đánh vào ngực đối phương, nhập nội lấy ngắn đánh gần. Đột nhiên chàng thấy địch thủ nửa chừng biến chiêu, kình lực suy giảm rất nhiều, bèn lập tức tùy cơ ứng biến. Tay trái chàng chụp lấy đầu trượng, tay phải vận kình vào thanh đoản kiếm quét ra. Thiền trượng bị gãy đôi, mỗi người nắm lấy một đầu.

Đại Điên đại sư lập tức nổi giận, phóng lên tái đấu. Trần Gia Lạc nhảy ra một trượng, khom lưng lên tiếng:

– “Đại sư hạ thủ lưu tình, tại hạ vô cùng cảm kích.”

Đại Điên mặc kệ, cứ cầm nửa cây thiền trượng đánh thẳng tới trước mặt. Nhưng chẳng được mấy chiêu, nửa cây trượng lại bị đoản kiếm chém gẫy đôi.

Trần Gia Lạc cũng thấy áy náy. Chàng sợ ông đòi đánh tay không, bèn chạy thẳng vào phía sau tòa điện. Đại Điên nghĩ mình vì lòng nhân ái mà thua, tức giận đuổi theo. Ông đuổi mấy bước thấy không kịp, dừng chân thét một tiếng vang trời dậy đất, quẳng mạnh một phần tư cây thiết trượng xuống đất, lửa bắn ra tứ phía.

Trần Gia Lạc vào tòa điện thứ ba, bỗng thấy trước mặt sáng bừng lên. Hai bên tòa điện này thắp chi chít nến và nhang, phải đến mấy trăm cây. Đại Si thủ tọa Tàng Kinh Các mỉm cười đầy vẻ hiền hòa thân mật rồi nói:

– “Trần đương gia! Chúng ta tỉ thí một phen về ám khí đi.”

Trần Gia Lạc khom lưng nói:

– “Xin đại sư chỉ giáo!”

Đại Si thiền sư mỉm cười nói:

– “Chúng ta mỗi người phòng thủ một bên. Mỗi bên đều có chín cây nến, tám mươi mốt cây nhang. Người nào dập tắt hết nhang đèn của đối phương trước thì người ấy thắng. Cách tỉ thí này không tổn thương hòa khí.”

Ông đưa tay chỉ cái bàn bày cúng phẩm ở dưới điện, nói tiếp:

– “Tụ tiễn, Thiết liên tử, Bồ đề tử, Phi tiêu… loại ám khí nào trên bàn cũng có. Sau khi dùng hết có thể lấy tiếp.”

Trần Gia Lạc lấy trong bọc ra một nắm quân cờ vây, nghĩ bụng:

– “Vị đại sư này chắc chắn có công phu độc đáo về ám khí. Nếu bình thời ta chịu khó thỉnh giáo Triệu tam ca, thì bây giờ nắm chắc hơn nhiều.”

Chàng bèn nói:

– “Xin mời!”

Đại Si thiền sư mỉm cười nói:

– “Tiên khách hậu chủ.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ:

– “Ta phải ra chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ để đánh phủ đầu, cướp tinh thần đối thủ.”

Chàng bèn ném ra năm quân cờ một lúc. Ở chân tường bên kia, năm cây nhan đồng thời tắt ngóm.

Đại Si thiền sư khen ngợi:

– “Hảo công phu!”

Ông tháo xâu chuỗi trên ngực xuống, giật đứt sợi chỉ xâu, lấy năm hạt niệm châu quăng ra dập tắt năm cây nhang. Tiếng gió rít lên, Trần Gia Lạc lại dập tắt năm cây nhang nữa. Đại Si đáp lại bằng hai cái vẫy tay, chín cây nến tắt hết. Nến vừa tắt, trong bóng tối những bóng lửa ở đầu nhang nhìn rất rõ ràng, dễ đánh trúng hơn nhiều.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đúng là phải như vậy. Sao mình không nghĩ tới?”

Chàng lập tức búng ra chín quân cờ, chia làm ba đường bắn thẳng vào ba ngọn nến, nhưng chỉ nghe thấy những tiếng lốp đốp, lửa nến vẫn y nguyên. Thì ra chín quân cờ vây đó đều bị Đại Si dùng niệm châu đánh rớt giữa đường.

Trần Gia Lạc chưa hết ngơ ngác, Đại Si đã thừa cơ đánh tắt thêm bốn cây nhang. Ông lại ném tới năm hạt niệm châu nữa, Trần Gia Lạc bèn ném quân cờ ra đón lấy niệm châu. Nhưng vì nến bên mình đã tắt hết, đầu nhang chỉ có một chút ánh sáng, không thể nhìn rõ được những hạt niệm châu nhỏ xíu của đối phương. Năm hạt niệm châu đó chàng chỉ đỡ được hai hạt, còn ba hạt thì đánh tắt ba cây nhang nữa.

Tới lúc này Đại Si đại sư tạm thời dẫn trước chín ngọn nến và hai cây nhang. Ông dùng niệm châu vừa cố gắng bảo vệ chín ngọn nến, vừa tranh thủ tấn công đối phương, thêm vài hiệp lại dập tắt mười bốn cây nhang nữa. Trần Gia Lạc dốc hết toàn lực cũng chỉ đánh tắt được hai ngọn nến, ruột nóng như lửa đốt.

Đại Si thừa thắng tấn công, đánh một hơi tắt luôn mười chín cây nhang. Trần Gia Lạc thấy bên đối phương đèn đuốc huy hoàng, còn mình chỉ còn hơn hai chục cây nhang, nghĩ bụng:

– “Chẳng lẽ ta không qua được tòa điện thứ ba này?”

Trong lúc nguy cấp chàng đột nhiên nghĩ đến Phi Yến ngân châm của Triệu Bán Sơn, bèn chọn đúng phương vị, rồi ném ba quân cờ vây thẳng vào tường.

Đại Si thấy chàng ném trật rất xa, mỉm cười thầm nghĩ:

– “Dù sao thì y vẫn còn trẻ không biết trấn tĩnh, mới thua đã nổi nóng.”

Nào ngờ ba quân cờ đó chạm vào tường liền bắn ngược trở lại, chỉ có một quân không trúng, còn hai quân đánh tắt được hai ngọn nến. Đại Si không khỏi giật mình, bất giác lên tiếng khen ngợi.

Trần Gia Lạc biết, nếu mình liên tiếp dùng biện pháp này thì Đại Si không có cách nào giữ được số nến còn lại. Nhưng Đại Si thấy đã hơn hẳn mấy chục cây nhang, bây giờ không cần phòng thủ nữa, cứ vẫy lia lịa hai tay để dập tắt nhang của đối phương. Đột nhiên trong điện tối hẳn đi, Trần Gia Lạc đã đánh tắt hết những ngọn nến. Bên chàng chỉ còn lại bảy cây nhang, còn đối diện thì đốm lửa chi chít, ít ra cũng tới ba mươi cây.

Chàng đang nản lòng, thì đột nhiên Đại Si gọi lớn:

– “Trần đương gia! Ám khí của ta hết rồi. Chúng ta tạm ngưng, tới chỗ bàn bày đồ cúng tế để lấy thêm, rồi sẽ đấu tiếp.”

Trần Gia Lạc sờ vào bọc, thấy chỉ còn khoảng năm sáu quân cờ vây. Lại nghe Đại Si bảo:

– “Trần đương gia đi lấy trước đi.”

Chàng đi đến cái bàn, trong lòng bỗng hạ quyết tâm:

– “Đây là việc liên quan đến đại sự, ta đành phải giở trò vô lại.”

Chàng giũ rộng tay áo bên trái ra, tay phải quét lên mặt bàn một cái, lùa sạch sẽ mọi thứ ám khí trên mặt bàn vào tay áo. Sau đó chàng nhảy trở về vị trí, vừa cười vừa nói:

– “Một, hai, ba! Tại hạ phát ám khí đây!”

Đại Si nhảy đến chỗ cái bàn, đưa tay sờ thì trên mặt bàn không còn món nào. Trần Gia Lạc liên tiếp phát xạ nào là Thiết liên tử, nào là Bồ đề tử, chỉ trong nháy mắt là ba mươi mấy cây nhang của đối phương tắt sạch.

Trong tay Đại Si không còn ám khí, chỉ biết trợn mắt mà nhìn chứ không làm gì được. Ông cười ha hả rồi nói:

– “Trần đương gia thật nhiều thủ đoạn, đúng là quân tử đấu trí không đấu sức. Thí chủ thắng rồi, xin mời vào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thật là xấu hổ! Tại hạ nhất định phải thua, nhưng vì sự việc liên quan trọng đại nên không thể không dùng hạ sách này. Cúi xin đại sư tha lỗi!”

Đại Si tính tình rất hiền hòa, không giận mà lại mỉm cười nói:

– “Hai tòa điện phía sau do hai vị sư thúc của ta canh giữ. Hai vị này võ công hết sức thâm hậu, thí chủ phải cẩn thận.”

Trần Gia Lạc cảm kích đáp:

– “Đa tạ đại sư chỉ điểm!”

Chàng bước ra sau điện.

Tòa điện thứ tư cũng đèn đuốc sáng trưng, nhưng chu vi nhỏ hơn ba tòa điện phía trước rất nhiều. Giữa điện có hai cái bồ đoàn. Thủ tòa Thiên Kính đại sư của Đạt Ma Viện đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn bên trái, khi thấy Trần Gia Lạc tiến vào liền đứng dậy đón rồi nói:

– “Mời ngồi!”

Trần Gia Lạc không biết ông muốn tỉ thí kiểu nào, cứ vâng lời mà ngồi vào bồ đoàn bên phải. Chàng nghĩ:

– “Võ công của Đại Điên, Đại Si đã cao đến thế rồi. Thiên Kính là sư thúc, lại là thủ tòa của Đạt Ma Viện, dĩ nhiên thâm hậu hơn nhiều, khỏi nói cũng biết mình không phải là địch thủ. Đành phải tùy cơ ứng biến mà thôi.”

Thiên Kính đại sư thân hình cao nghệu, ngồi trên bồ đoàn mà so với người đứng chẳng khác bao nhiêu. Hai má ông hóp rất sâu, cả người hầu như không có thịt, nét mặt không tức giận mà vẫn oai nghiêm.

Thiên Kính nói:

– “Thí chủ liên tiếp vượt qua ba điện, đúng là bậc cao minh. Tuy nghĩa phụ của thí chủ không còn là môn hạ của Thiếu Lâm, nhưng dù sao thí chủ cũng là vãn bối, ta không thể đối chiêu bình thường với thí chủ. Thôi thì thế này, nếu sau mười chiêu mà thí chủ chưa thua, ta sẽ để thí chủ đi qua.”

Trần Gia Lạc đứng dậy thi lễ rồi nói:

– “Xin đại sư rủ lòng từ bi.”

Thiên Kính “hừ” một tiếng rồi bảo:

– “Ngồi xuống tiếp chiêu đi.”

Trần Gia Lạc vừa ngồi xuống bồ đoàn đã cảm thấy một đạo kình phong ập tới trước ngực. Chàng đưa song chưởng lên chống đỡ, nhưng vừa chạm vào tay của đối thủ là lập tức cảm thấy mình không đỡ nổi, nếu đương nhiên chống chọi thì có thể bị hất văng khỏi tấm bồ đoàn, liền dùng Vân Thủ định dẫn kình lực của đối phương sang hướng khác. Nào ngờ kình lực của Thiên Kính mãnh liệt khủng khiếp, Vân Thủ không làm bàn tay ông nhúc nhích chút nào. Trần Gia Lạc chỉ còn cách dùng hết sức lực toàn thân mà thẳng thắn tiếp chiêu.

Tuy Trần Gia Lạc đỡ được phát chưởng này, nhưng đã bị chấn động, vai trái đau như sắp gãy. Thiên Kính thiền sư hô lớn:

– “Chiêu thứ hai!”

Trần Gia Lạc không dám đỡ thẳng nữa, đợi chưởng tới rồi hơi nghiêng mình qua một bên, xoay ngược tay đánh một quyền vào cánh tay đối thủ. Đây là một chiêu kỳ dị trong Bách Hoa Tá quyền, buộc địch thủ phải thu hồi kình lực để tránh né. Không ngờ tay phải của Thiên Kính lại ra chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, khuỷu tay gập lại, nhằm chính xác đầu quyền của chàng mà thúc ngang.

Chiêu này quá nhanh, quyền lực của Trần Gia Lạc chưa phát ra đã bị khuỷu tay đối phương cản lại. Chàng vội vận kình xuống chân, bật thẳng người lên để tránh cú thúc này, khi rơi xuống vẫn ngồi vững trên tấm bồ đoàn. Thấy chàng biến chiêu nhanh chóng, đang ngồi xếp bằng mà nhảy lên ngay được, Thiên Kính gật đầu khen ngợi, rồi lại vung trảo ra chụp.

Trần Gia Lạc thấy đối phương ra chiêu sau lợi hại hơn chiêu trước, thầm nghĩ:

– “Mười chiêu này, chắc ta không đón đỡ hết được.”

Đột nhiên nghe tiếng boong boong, thì ra trời đã gần sáng, trong chùa vừa nổi đại hồng chung. Trong lòng chàng bỗng nảy ra ý niệm, tả chưởng nhẹ nhàng vỗ ra theo dạng tiếng chuông lan tỏa khắp nơi, cả kình lực phương vị đều hoàn toàn thuận theo tự nhiên, tuyệt không miễn cưỡng chút nào.

Thiên Kính “ủa” một tiếng, phải thu tay về cản trở. Trần Gia Lạc tiếp tục sử dụng pho chưởng pháp đã ngộ được ở Ngọc Phong, chuyển vận như ý, thuận theo tiếng chuông mà phát ra từng chưởng, từng chưởng một. Thiên Kính phải tập trung tinh thần phòng thủ, không sao xuất chưởng phản kích được.

Đến khi hồi chuông dứt hẳn, Trần Gia Lạc thu chưởng lại rồi khiêm nhường nói:

– “Nếu cứ tiếp tục thì vãn bối không thể chống đỡ thêm nữa.”

Thiên Kính nói:

– “Hay lắm! Hay lắm! Chúng ta đã chiết giải hơn bốn mươi chiêu rồi. Quả nhiên chưởng pháp cực kỳ linh diệu. Xin mời!”

Trần Gia Lạc đứng dậy định đi, đột nhiên lảo đảo đứng không vững, phải tựa vào vách một lúc, thấy trước mắt đầy sao nhấp nháy. Thiên Kính vội đỡ chàng ngồi xuống, bảo:

– “Khi công nhiên đón đỡ phát chưởng đầu tiên, chắc nguyên khí thí chủ đã bị tổn thương. Ngồi xuống đây mà điều hòa hơi thở một chút, không có gì đáng ngại đâu.”

Trần Gia Lạc theo lời mà nhắm mắt, ngồi trên bồ đoàn vận khí. Hồi lâu nội tức chàng mới thông suốt trở lại nhưng đôi vai và hai bàn tay vẫn hơi đau nhức, không khỏi nghĩ thầm:

– “Vị lão tăng này quả nhiên lợi hại!”

Thiên Kính bỗng hỏi:

– “Lộ chưởng pháp này thí chủ học được ở đâu vậy?”

Trần Gia Lạc kể xong, Thiên kính lại nói:

– “Thì ra ở Tây Vực có chưởng pháp tinh diệu như thế, hoàn toàn thuận với tự nhiên. Ta thật sự được mở rộng tầm mắt. Nếu thí chủ mới vào đã dùng chưởng pháp này ngay, thì chắc chắn không bị tổn thương.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vãn bối đã bị thương, tòa điện cuối cùng chắc khó mà qua được. Xin đại sư chỉ điểm cho một con đường sáng.”

Thiên Kính thiền sư nói:

– “Nếu không qua được, thì không qua nữa là xong.”

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Đệ tử nhà phật thì lúc nào cũng muốn người khác quay đầu. Nhưng bọn hào kiệt chúng ta thì câu cửa miệng lại là cố gắng xông lên, chết không hối hận.”

Chàng bèn thi lễ, cố gắng đề cao dũng khí bước vào hậu điện. Vừa vào trong cửa Trần Gia Lạc đã giật mình một cái. Thì ra trong này là một căn thiền phòng nhỏ xíu, phương trượng Thiên Hồng đại sư ngồi ngay ngắn giữa phòng. Chàng nghĩ:

– “Thiên Kính đã lợi hại đến thế, Thiên Hồng lại là số một trong chùa, mình làm sao địch nổi? Tịnh thất này lại chật hẹp, không thể tỉ thí về quyền cước hay ám khí, nhất định là ông ấy bắt ta tỉ thí nội công, chẳng có cách nào dùng kỹ xảo mà thủ thắng.”

Chàng đang kinh hãi trù trừ, Thiên Hồng đã đứng dậy, chắp tay cúi người nói:

– “Mời ngồi!”

Trần Gia Lạc ngồi một bên thiền phòng. Giữa hai người có mấy cái ghế nhỏ, trên ghế có đặt lư nhang, trong lư nhang có khói trầm hương bốc lên thoang thoảng. Trên vách tường đối diện có treo bức tranh vẽ Hàn Sơn Thập Đắc, chỉ mấy nét bút đơn sơ mà lột tả được thần thái cao điệu của hai vị cao tăng.

Thiên Hồng ngẫm nghĩ một lúc rồi lên tiếng:

– “Ngày xưa có một người chăn dê rất giỏi, nhờ thế mà giàu lên thành một phú hào, nhưng bản tính tiết kiệm, không chịu xài phí tiền bạc…”

Trần Gia Lạc đột nhiên thấy ông kể chuyện, không khỏi ngạc nhiên, vội tập trung tinh thần để lắng nghe. Thiên Hồng tiếp tục kể:

– “Có một người rất xảo trá, biết người chăn dê ngu muội lỗ mãng mà đang muốn cưới vợ, bèn đến lừa gạt:

– “Ta biết một cô gái rất xinh đẹp, để ta giúp ông cưới cô đó làm vợ.”

Người chăn dê hoan hỉ, đưa cho y rất nhiều tiền bạc. Một năm sau, y đến nói:

– “Vợ của ông đã sinh cho ông được một đứa con trai rồi.”

Người chăn dê trước nay chưa từng gặp vợ, thế mà bây giờ nghe nói vợ đẻ con lại rất vui mừng, đưa cho y nhiều tiền hơn nữa.

Sau đó, y lại tới nói:

– “Chẳng may con của ông đã chết rồi.”

Người chăn dê bèn đau khổ khóc mãi không ngừng.”

Trần Gia Lạc sở học tạp nhạp, nhưng nghe đến đây cũng biết Thiên Hồng kể một câu chuyện trong kinh Bách Dụ của Phật giáo đại thừa. Lại nghe ông nói:

– “Thật ra mọi chuyện trên thế gian đều giống như thế cả. Nào ngôi cao hoàng đế, nào phú quý bốn biển, hết thảy đều hư ảo như vợ con của người chăn dê vậy. Đã là hư ảo thì hà tất phải khổ tâm phí sức để mong đạt được? Thế mà khi đoạt được lại hoan hỉ vui mừng, khi mất đi lại rầu rĩ bi thương.”

Trần Gia Lạc bèn nói:

– “Ngày xưa, một cặp vợ chồng có ba cái bánh. Mỗi người ăn một cái, còn một cái thì hai người hẹn nhau, ai mở miệng nói chuyện trước thì người đó không có bánh ăn.”

Thiên Hồng thiền sư biết chàng cũng kể một câu chuyện trong kinh Bách Dụ, bèn gật đầu một cái. Trần Gia Lạc kể tiếp:

– “Thế là hai người im lặng không nói chuyện nữa. Không bao lâu, có một tên trộm vào lấy hết tiền tài đồ vật trong nhà của họ. Hai vợ chồng đã thách nhau không nói chuyện nên cứ giương mắt mà nhìn, không nói tiếng nào. Tên trộm thấy vậy lại càng to gan hơn, toan cưỡng hiếp bà vợ ngay trước mặt ông chồng. Người chồng vẫn mặc kệ không nói, nhưng người vợ không nhịn nổi phải la lên.

Tên trộm liền ôm tiền tài và đồ vật mà chạy trốn. Lúc đó người chồng mới vỗ tay cười rộ:

– “Thế là bà thua rồi nhé! Cái bánh này ta được ăn.”

Thiên Hồng đã biết câu chuyện này, nhưng nghe đến đây cũng không khỏi mỉm cười. Trần Gia Lạc nói:

– “Vì một chút an nhàn hưởng lạc mà quên mất những nỗi khổ lớn sau này! Vì một miếng khoái khẩu nhỏ xíu mà để mặc cho kẻ trộm lấy hết tài sản, xâm phạm người thân! Ngay cả người trong cửa Phật cũng lo phổ độ chúng sinh, không thể nhẫn tâm chỉ lo cho riêng mình thành đạo.”

Thiên Hồng thiền sư thở dài nói:

– “Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã. Con người thường xuyên chấp nhặt, thấy không mà tưởng là có. Nếu tâm mình hiểu được mọi thứ vốn là không, thì những loại dục vọng, suy nghĩ sẽ tự nhiên mất hết.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng sinh có vạn điều khổ não. Cao tăng Chi Đạo Lâm từng nói: Kiệt Trụ tính ưa tàn sát, đâu thể để chúng tự do sống theo bản tính của mình?”

Thiên Hồng biết chàng đầy lòng nhiệt huyết, đã quyết chí giải trừ nỗi khổ cho muôn dân. Ông nảy lòng kính trọng, bèn nói:

– “Tấm lòng của Trần đương gia thật khiến cho người ta phải kính nể. Lão nạp xin hỏi thêm một việc nữa, sau đó thì thí chủ cứ tuỳ tiện.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vãn bối ngu muội, xin đại sư chỉ điểm.”

Thiên Hồng thiền sư kể:

– “Ngày xưa có một bà lão đang nằm dưới gốc cây, đột nhiên có một con gấu lớn tới đòi ăn thịt. Bà lão chạy quanh cái cây đó, con gấu quờ hai bàn tay ra sau cây định bắt. Bà lão liền nắm hai bàn tay gấu, đè vào thân cây. Con gấu cứ đứng ôm cây không động đậy được, nhưng bà lão cũng không dám buông tay mà chạy. Về sau có một người đi ngang qua, bà lão nhờ giúp đỡ để cùng chia thịt gấu. Người đó tin lời, đến giữ hộ hai bàn tay gấu. Thế là bà lão thoát thân chạy trốn. Người kia phải đứng đó mà chờ.”

Trần Gia Lạc biết ngụ ý câu chuyện của Thiên Hồng kể, bèn đáp:

– “Vì cứu nguy cho người, có thể không lo cho mình. Đức Phật lúc sinh tiền đã từng xả thân nuôi chim ưng, nuôi hổ dữ.”

Hai bên đều kể những câu chuyện trong kinh Bốn Sanh. Nghĩa phụ Vu Vạn Đình của Trần Gia Lạc là tục gia đệ tử của phái Thiếu Lâm, bên mình thường mang theo mấy quyển kinh Phật nhập môn. Khi theo ông đến Hồi Cương, Trần Gia Lạc thường coi đó như tiểu thuyết mà đọc tới đọc lui.

Thiên Hồng thiền sư đưa phất trần phẩy một cái rồi nói:

– “Xin mời vào!”

Trần Gia Lạc lập tức cúi rạp xuống sàn phòng, thi lễ rồi nói:

– “Vãn bối phải vào nơi trọng địa, xin phương trượng tha tội.”

Thiên Hồng thiền sư khẽ gật đầu. Trần Gia Lạc quay người đi vào trong, còn nghe thấy sau lưng có tiếng thở dài.

Qua khỏi một hành lang dài, chàng tới một gian phòng lớn. Trong phòng có thắp hai cây nến rất lớn, ngọn lửa lay động không ngừng. Bốn vách tường kê đầy tủ gỗ, trên tủ đều dán giấy màu vàng. Trần Gia Lạc cầm nến bước tới, theo thứ tự dần dần tìm kiếm. Khi tìm đến tủ gỗ có dán chữ Khiêm, chàng mở cửa tủ ra thấy bên trong có ba túi vải màu vàng, trên túi vải bên tay trái có ghi ba chữ Vu Vạn Đình bằng mực đỏ.

Trần Gia Lạc không nén nổi, tay chân run rẩy làm ngọn nến chao hẳn đi. Chàng cố định thần lại, nhẹ nhàng cầm lấy túi vải đó, âm thầm khấn vài rồi mới mở túi ra xem.

Trong túi là một cái áo ngắn không tay của nam nhân có thêu hoa, một cái áo lót mình của nữ nhân màu trắng đã bị xé rách, trên áo có nhiều vết loang lổ, hình như là vết máu do lâu năm mà đen lại. Ngoài ra còn có một xấp giấy vàng. Trần Gia Lạc mở xấp giấy đó ra, trong lòng bỗng nhói lên một cái. Bút tích trên giấy đúng là của nghĩa phụ chàng.

Trần Gia Lạc đọc từ trang đầu:

– “Môn hạ đời thứ hai mươi mốt của Phúc Kiến Thiếu Lâm Tự, tục gia đệ tử Vu Vạn Đình là kẻ có tội xin kính bạch.

Đệ tử xuất thân làm ruộng nghèo khổ, từ nhỏ đã quen với cô gái họ Từ tên Triều Sinh ở nhà bên trái. Khi lớn lên, hai người thương yêu nhau…”

Đọc đến đây, trái tim Trần Gia Lạc đột nhiên đập lên thình thịch, trong lòng nghĩ:

– “Chẳng lẽ chuyện phạm môn quy của nghĩa phụ lại có liên quan đến mẫu thân của mình?”

Rồi chàng đọc tiếp:

– “Về sau, hai người đã lén thề ước chung thân, hẹn nhau: không phải Từ thị thì đệ tử không cưới làm vợ, không phải đệ tử thì Từ thị không lấy làm chồng. Sau khi tiên phụ qua đời, thiên tai hạn hán liên miên, ruộng đất mấy năm không thu hoạch được gì. Đệ tử phải bỏ quê kiếm sống, được ân sư từ bi thu làm môn hạ. Bây giờ nộp lên cái áo ngắn thêu hoa, chính là quà tặng của Từ thị lúc đệ tử rời khỏi quê hương.”

Trần Gia Lạc càng xem càng kinh ngạc, tiếp tục đọc:

– “Vì lo lắng và thương nhớ ân tình của Từ thị, đệ tử học võ công bản phái chưa tới nơi tới chốn đã tự tiện xuống núi, duyên trần không sao cắt nổi. Khi trở về quê hương, bỗng nghe cha của Từ thị đã đem con gái gả cho Trần Ngôn, một phú hào ở địa phương. Đệ tử trong lúc đau thương cực điểm, dựa vào võ nghệ của sư môn đã truyền thụ mà ban đêm vượt tường vào Trần phủ. Vì chuyện tư tình của bản thân mà xâm nhập nhà người khác, đây là một điều đệ tử phạm vào giới luật.

Sau này Từ thị theo chồng rời đến kinh thành, nhưng đệ tử vẫn có lòng luyến ái không bỏ được, ba năm sau lại đến thăm lần nữa. Ngẫu nhiên mà đêm đó Từ thị hạ sinh một đứa con trai. Trong lúc gia đình bận rộn, đệ tử chỉ đứng ngoài cửa sổ nhìn một chút, bốn ngày sau mới trở lại. Từ thị thần sắc bàng hoàng tuyệt vọng, kể với đệ tử là đứa con trai mình sinh ra đã bị Tứ hoàng tử Nhậm Trinh bắt mất, trả lại một đứa con gái. Lại nói là Nhậm Trinh đang âm mưu để được truyền ngôi, hai đứa con trai của hắn thì một chết sớm, một xấu xí không được ông nội yêu thích, nên hắn phải gấp rút tìm con.

Nói chuyện chưa xong thì từ ngoài lầu đột nhiên có bốn tên sát thủ của phủ Ung Để xông vào, đều là cao thủ. Hiển nhiên Nhậm Trinh phái chúng tới để giám sát, hạ lệnh nếu trong Trần phủ có ai tiết lộ bí mật này thì lập tức giết chết. Đệ tử kinh hãi chạy trốn, nhưng bị chúng đuổi kịp. Quyết đấu một trận, đệ tử trúng đao vào trán, nhưng gắng gượng liều mạng giết hết bọn sát thủ, quay về lầu rồi mới ngất xỉu. Từ thị lấy áo mình bó lại vết thương cho đệ tử. Bây giờ xin trình cái áo đó lên. Đệ tử vô ý mà nghe biết bí mật của hoàng thất, hiển lộ võ công phái Thiếu Lâm, gây họa cho sư môn. Đó là chuyện lớn thứ hai mà đệ tử phạm vào giới luật bổn môn.”

Đọc đến đây, Trần Gia Lạc cầm cái áo cũ của mẫu thân mà không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa. Hồi lâu chàng mới đọc tiếp:

– “Từ đó mãi tới mười mấy năm sau, tuy đệ tử ở Bắc Kinh nhưng vẫn tuân thủ nghiêm ngặt giới luật của sư môn, không dám gặp mặt Từ thị lần nào. Đến khi Ung Chính băng hà, Càn Long nối ngôi, đệ tử tính thời gian thì biết Càn Long chính là con trai của Từ thị. Sợ con người Ung Chính nham hiểm ác độc, nhất định sẽ sai thích khách giết Từ thị diệt khẩu, nên đêm đó đệ tử lại vào Trần phủ, nấp trong phòng Từ thị. Quả nhiên có hai tên sát thủ tìm tới, nhưng đều bị đệ tử giết chết. Đệ tử lục soát bọn chúng, lấy được mật chỉ của Ung Chính, bây giờ cũng xin trình lên.”

Trần Gia Lạc giở đến trang cuối cùng, quả nhiên thấy một mảnh giấy nhỏ xíu dán vào cuối xấp giấy đó. Trên giấy có ghi:

– “Nếu lúc trẫm băng hà mà Trần Thế Quan và vợ là Từ thị chưa chết, phải giết hết già trẻ cả nhà, không để sót người nào.”

Bút tích đúng là của Ung Chính, lại có đóng một dấu son rất nhỏ, khắc hai chữ Vũ Oai viết theo thể triện.

Trần Gia Lạc từng nghe nghĩa phụ kể là Ung Chính có nuôi một nhóm sát thủ gọi là Thiết Chức Tử, chuyên đi ám sát theo lệnh hoàng thượng. Mỗi khi Ung Chính ban mật lệnh cho Thiết Chức Tử giết người, thì dùng dấu ấn son Vũ Oai làm ký hiệu. Chàng nghĩ:

– “Lúc đó võ công nghĩa phụ đã cực cao, hai tên Thiết Chức Tử đó dĩ nhiên không phải là địch thủ. Thế là nghĩa phụ không chỉ cứu mẫu thân của mình mà cứu cả phụ thân, cứu cả nhà mình. Ung Chính biết hắn còn tại thế thì song thân mình nhất định không dám tiết lộ bí mật này, nên hắn mới ra mật chỉ như vậy.”

Chàng lại đọc tiếp xấp giấy đó:

– “Càn Long không biết việc này nên không sai thích khách đến nữa. Nhưng đệ tử khó nỗi yên lòng, bèn cải trang vào làm nô bộc trong Trần phủ, lo việc chẻ củi gánh nước. Năm năm sau, tin chắc không còn hậu hoạn nữa, đệ tử mới rời khỏi đó. Đệ tử xuất thân từ danh môn mà cả gan làm như vậy, nếu người ngoài biết được thì không khỏi buông lời chế nhạo, làm bại hoại danh dự phái Thiếu Lâm. Đây là lỗi lớn thứ ba mà đệ tử phạm vào giới luật.”

Trần Gia Lạc đọc đến đây, bùi ngùi ngẫm nghĩ. Những việc không giải thích được trong quá khứ, tại sao mẫu thân lại bảo mình theo nghĩa phụ trốn ra ngoài, tại sao khi mẫu thân qua đời nghĩa phụ thương tâm mà chết… chàng đều đã hiểu. Trong lòng chàng nổi lên cảm giác khó chịu không thể diễn tả, nhưng lại nghĩ:

– “Nghĩa phụ vì bảo vệ mẫu thân mình mà cam chịu làm nô bộc năm năm, thật là tình sâu nghĩa nặng. Lúc đó mình còn nhỏ tuổi chẳng hiểu gì, không biết trong mấy chục gia nhân lại có một vị đại hiệp đương thời.”

Chàng ngồi ngẩn ngơ một lúc, rồi lau khô nước mắt để đọc tiếp:

– “Đệ tử đã phạm phải ba điều đại giới, trong lòng bàng hoàng sợ hãi. Nghiêm túc đem hết mọi việc trước sau trình lên sư phụ, cúi xin khai ân xử lý.”

Lời cung của Vu Vạn Đình tới đó là hết. Bên dưới còn mấy dòng bút phê bằng chu sa, chắc chắn là bút tích sư phụ của ông:

– “Vu Vạn Đình đã phạm phải ba giới luật, may mà lỗi không quá ác. Nếu chịu hối cải, vào chùa quy y tam bảo thì như Ngã Phật đã nói, tội thập ác cũng có thể tha, huống chi là những lỗi này. Nếu còn luyến ái duyên trần, không đủ Đại trí huệ, không đủ sức cắt đứt tơ tình, thì lập tức trục xuất ra khỏi sư môn. Mong Vu Vạn Đình tự mình lo liệu, theo yếu chỉ Phật môn mà cẩn thận hành sự.”

Xấp giấy không còn chữ nào khác nữa.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Vậy là cuối cùng nghĩa phụ không quên được mẫu thân mình, nên không thể xuất gia làm hòa thượng, chấp nhận bị trục xuất khỏi phái Thiếu Lâm. Ông tự biết mình có lỗi, nên khi sư phụ mình triệu tập anh hùng hảo hán đến giúp cãi lý, ông đã nhất quyết chối từ.”

Lúc này những nghi hoặc trong lòng chàng đã giải quyết được hết. Ngẩng đầu lên, thấy phía chân trời ánh sao đã nhạt, những tia sáng đầu tiên đã xuất hiện ở phương Đông. Chàng thổi tắt mấy ngọn nến, gói lại mấy vật vào trong tấm vải vàng, đóng cửa tủ, cầm lấy gói vải đi ra khỏi phòng. Thấy trước mặt có một pho tượng Di Lặc đang cười rất thân ái, cúi nhìn những ai qua lại, chàng bỗng nghĩ:

– “Năm xưa nghĩa phụ bị trục xuất khỏi sư môn, lúc ông từ Giới Trì Viện đi ra nhìn thấy pho tượng Phật này, không biết trong lòng đã nghĩ những gì?”

Dọc đường đi ra, chàng thấy năm tòa điện hoàn toàn không có người nào. Ra khỏi tòa điện cuối cùng, Chu Trọng Anh, Lục Phi Thanh và quần hùng Hồng Hoa Hội cùng bước lên đón tiếp. Mọi người lo âu chờ đợi suốt đêm, bây giờ thấy chàng bình an vô sự đi ra, trong tay còn cầm gói vải, ai cũng mừng rỡ. Khi đến gần, thấy chàng thần thái có vẻ mệt mỏi, cặp mắt đỏ ngầu sưng húp, họ không khỏi kinh ngạc.

Trần Gia Lạc kể lại qua loa về tình nghĩa của nghĩa phụ đối với mẫu thân mình, còn những chuyện ảnh hưởng đến danh tiết của hai người thì hoàn toàn không nhắc đến. Chàng nói sang chuyện Lục Phi Thanh tra hỏi được, về việc hoàng đế phái Bạch Chấn tới triệu tập binh lính đợi mật chỉ, e rằng vụ này có liên quan đến đại sự khởi nghĩa, rồi khuyên Văn Thái Lai và Từ Thiên Hoằng tạm thời gác lại tư thù. Hai người Văn, Từ đồng ý, mọi người đều tán dương họ biết lấy đại cuộc làm trọng.

Chu Trọng Anh theo Trần Gia Lạc vào trong, xin gặp hai vị đại sư Thiên Hồng, Thiên Kính để từ biệt, rồi thu dọn hành trang để khởi hành. Vừa ra khỏi cửa chùa, đột nhiên sắc mặt Chu Ỷ tái nhợt, ra vẻ sắp ngất, Chu Trọng Anh phải đỡ nàng vào lại trong chùa để nghỉ ngơi. Ông biết con gái đang mang thai, không chừng đường sá xa xôi mệt nhọc làm động thai, bèn nhờ một tăng nhân tinh thông y lý trong chùa Thiếu Lâm bắt mạch. Vị tăng đó nói nàng không thể đi tiếp một đoạn đường dài như vậy nữa, phải ở lại mà tĩnh dưỡng chờ ngày chuyển dạ. Lúc này Chu Ỷ chỉ còn cách gật đầu đồng ý.

Mọi người bàn bạc, quyết định để vợ chồng Chu Trọng Anh cùng hai đệ tử và Từ Thiên Hoằng ở lại. Năm người sẽ lo liệu cho nàng, đợi sinh xong phục hồi sức lực, rồi sẽ lên kinh thành tụ tập. Chu Trọng Anh liền tìm thuê mấy gian nhà quanh đó, còn Lục Phi Thanh, Trần Gia Lạc và mọi người lên đường đi về hướng Bắc.

* * *

Một hôm đi tới Thái An tỉnh Sơn Đông thì đệ tử trong phân đà vào báo là Hương chủ Hình đường Thạch Song Anh từ Bắc Kinh đến. Quần hùng nghe thấy, lập tức cả mừng chạy ra đón tiếp. Thạch Song Anh thi lễ với Trần Gia Lạc và mọi người rồi đi vào nội đường.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Thập nhị ca! Vết thương của huynh lành hẳn rồi chứ?”

Thạch Song Anh đáp:

– “Đa tạ tổng đà chủ quan tâm, đã lành hẳn rồi. Lục lão tiền bối, các vị ca ca, chắc dọc đường mệt mỏi lắm!”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Trong kinh có tin tức gì không?”

Thần sắc Thạch Song Anh đột nhiên ủ rũ, đáp:

– “Trong kinh không có việc gì. Nhưng thuộc hạ gấp rút đến đây là để bẩm báo, toàn quân của Mộc Trác Luân đã bị tiêu diệt.”

Trần Gia Lạc giật mình đứng bật dậy, định thần một lát mới hỏi được:

– “Cái gì?”

Quần hùng không ai là không kinh hãi. Lạc Băng nói:

– “Khi chúng ta rời khỏi Hồi Cương, tàn binh bại tướng của Triệu Tuệ vẫn còn bị vây khốn ở Hắc Thủy Doanh, không lọt ra được một tên nào. Tại sao quân Thanh lại thắng?”

Thạch Song Anh thở ra một hơi rồi nói:

– “Quân Thanh đột nhiên có tăng viện. Chúng chuyển từ phía Nam Tân Cương đến một đội viện quân lớn, cùng bọn tàn quân Triệu Tuệ nội ngoại giáp công. Những người Hồi chạy thoát kể lại, lúc đó cô nương Hoắc Thanh Đồng đang bệnh không thể chỉ huy, lão anh hùng Mộc Trác Luân và con trai chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Còn cô nương Hoắc Thanh Đồng thì không rõ tung tích ở đâu.”

Trần Gia Lạc đau buồn, buông mình ngồi phịch xuống ghế. Lục Phi Thanh nói:

– “Cô nương Hoắc Thanh Đồng võ nghệ đầy mình, bọn lính Thanh làm sao đả thương cô ấy được?”

Trần Gia Lạc và mọi người đều biết ông ta đang cố tự an ủi. Trong đám loạn quân, một cô gái đang bị bệnh làm sao tự vệ nổi?

Lạc Băng lại hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng có một cô em gái, người Hồi gọi là Hương Hương công chúa. Huynh có nghe thấy tin tức cô ấy hay không?”

Nói xong, nàng nháy mắt một cái. Thạch Song Anh hiểu ý, nhưng không có chứng cớ để ngụy tạo tin lành, đành chỉ nói:

– “Chuyện này thì không nghe thấy. Cô ấy là một nhân vật nổi danh, nếu không may thiệt mạng thì chắc trong kinh thành sẽ có người đồn đãi. Đệ hoàn toàn không nghe thấy gì, chắc là không có chuyện đó.”

Trần Gia Lạc dĩ nhiên biết mọi người đang tìm cách an ủi mình, bèn nói:

– “Ta vào trong nghỉ ngơi một lát.”

Mọi người đều nói:

– “Xin tổng đà chủ tùy tiện!”

Đợi chàng đi khuất, Lạc Băng vội bảo Tâm Nghiễn:

– “Tiểu đệ mau mau vào trong đó chăm sóc tổng đà chủ.”

Tâm Nghiễn liền vội vã đi vào.

Mọi người đều nghĩ đến cái chết của Mộc Trác Luân và Hoắc A Y. Tuy họ vì bảo vệ quê hương mà hy sinh cuộc sống, bỏ mạng sa trường không uổng một đời hào kiệt, nhưng cũng khiến người ta có phần thương cảm. Còn chị em Hoắc Thanh Đồng sống chết chưa rõ, xem ra lành ít dữ nhiều. Vì thế mọi người ủ rũ, ai cũng im lặng không nói năng gì, không khí hết sức nặng nề.

Chẳng bao lâu, Trần Gia Lạc vén màn bước ra, lên tiếng:

– “Chúng ta ăn cơm đi! Sáng sớm mai còn phải về Bắc Kinh.”

Quần hùng thấy chàng đột nhiên trấn tĩnh lại được, đều cảm thấy ngạc nhiên. Lục Phi Thanh khẽ bảo Văn Thái Lai:

– “Trước đây ta thấy tổng đà chủ của các vị lúc nào cũng coi trọng chuyện tình cảm nữ nhi, mất đi một ít khí khái anh hùng. Phen này y có thể bỏ ra ngoài tâm trí, đáng là hào kiệt lãnh đạo quần hùng. Ta thật sự thán phục.”

Văn Thái Lai chĩa ngón tay cái lên trời, im lặng ăn cơm.

Dọc đường quần hùng đều thấy Trần Gia Lạc cố gắng nói cười, nhưng thần sắc ngày càng tiều tụy. Ai cũng lo lắng cho chàng, nhưng không sao tìm được những lời an ủi khuyên can. Không đầy một ngày đoàn người đã đến Bắc Kinh.

Thạch Song Anh đã mua một căn nhà lớn trong con hẻm Hồ đồng song liễu tử. Năm người Vô Trần, Thường thị song hiệp, Triệu Bán Sơn, Dương Thành Hiệp ở đó chờ đợi từ lâu. Mọi người kể sơ lại những chuyện trong lúc phân ly, rồi Trần Gia Lạc nói:

– “Triệu tam ca! Nhờ huynh cùng Tâm Nghiễn đi gặp tổng quản thị vệ. Huynh đem theo cây đàn Lai Phụng của ta và ngọc bình của Tứ tẩu đã lấy cắp, tới bảo tổng quản trình lên hoàng thượng. Nhất định hoàng đế sẽ biết chúng ta đã đến đây.”

Triệu Bán Sơn cùng Tâm Nghiễn nhận lệnh mà đi. Sau nửa ngày, họ trở về bẩm báo. Tâm Nghiễn nói:

– “Thuộc hạ cùng Triệu đương gia…”

Triệu Bán Sơn mỉm cười ngắt lời:

– “Sao lại gọi ta là đương gia?”

Tâm Nghiễn nói:

– “Vâng! Thuộc hạ cùng Triệu tam… Triệu tam ca đi gặp tổng quản của hoàng thượng. Người tổng quản này tên là Vương Thanh. Y nói mình vốn là phó tổng quản, còn tổng quản Bạch Chấn đã phụng chỉ xuất kinh lo việc. Bạch tổng quản có dặn y phải đối xử nhiệt tình với tổng đà chủ và mọi huynh đệ trong Hồng Hoa Hội. Sau đó y kéo bọn thuộc hạ ra khỏi cửa, uống một bữa rượu rồi mới chịu cho về, thái độ rất thân mật.”

Trần Gia Lạc gật đầu, nghĩ bụng:

– “Chắc là Bạch Chấn nhớ ơn mình cứu mạng khỏi sóng Tiền Đường, nên mới dặn dò thuộc hạ đối đãi với Hồng Hoa Hội một cách đàng hoàng.”

Sáng sớm hôm sau Vương Thanh đến đây hồi bái, trò chuyện một lúc với Triệu Bán Sơn rồi cầu kiến Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc thấy gã Vương Thanh này tuổi trạc ngũ tuần, ra vẻ tinh minh lanh lợi, võ công không kém, thần thái nghiêm cẩn. Y khẽ nói:

– “Hoàng thượng lệnh cho tại hạ dẫn Trần công tử vào cung.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Xin Vương tổng quản chờ đợi trong chốc lát.”

Chàng vào trong thương nghị với Lục Phi Thanh và mọi người, ai cũng nói:

– “Nên cảnh giác nghiêm mật, đề phòng bất trắc.”

Trần Gia Lạc cùng sáu người Lục Phi Thanh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Thường thị song hiệp và Vệ Xuân Hoa vào cung. Văn Thái Lai chỉ huy mọi người còn lại tiếp ứng bên ngoài.

Bảy người được Vương Thanh dẫn vào, nên bọn thị vệ gác ở cửa cung đều cung kính thi lễ. Mọi người thấy hoàng cung khí thế hùng vĩ, tường dày chắc chắn, phòng thủ nghiêm ngặt, ai cũng bất giác đề phòng. Đi được một hồi, hai tên thái giám vội vã chạy tới nói với Vương Thanh:

– “Vương tổng quản! Hoàng thượng đang ở Bảo Nguyệt Lâu, bảo tổng quản dẫn Trần công tử đến.”

Vương Thanh vâng dạ, rồi quay lại nói với Trần Gia Lạc:

– “Từ đây trở đi đã là cấm cung, xin công tử bảo mọi người để binh khí lại.”

Mọi người tuy thấy chuyện này nguy hiểm, nhưng chỉ còn cách tuân lời mà tháo đao kiếm ra đặt lên bàn. Vương Thanh dẫn mọi người đi qua nhiều cung điện, nhiều vườn tược, đến trước một tòa lầu. Tòa lầu đó cao đến năm tầng, huy hoàng sáng sủa, được chạm trổ đầy vách đầy cột sang trọng vô cùng.

Hai tên thái giám từ trên lầu bước xuống, gọi:

– “Truyền Trần Gia Lạc!”

Trần Gia Lạc chỉnh lại y phục mũ nón, theo chúng lên lầu. Còn sáu người bọn Vô Trần thì bị giữ lại ngoài lầu.

Trần Gia Lạc theo thái giám đến tầng thứ năm, vào phòng thì thấy Càn Long đang mỉm cười ngồi đó. Chàng vội quì xuống, cung kính thi lễ quân thần. Càn Long cười nói:

– “Ngươi đến đây rồi, hay lắm! Ngồi xuống đi.”

Hắn vẫy tay một cái, bọn thái giám kéo ra ngoài hết. Trần Gia Lạc vẫn khoanh tay đứng yên, Càn Long lại bảo:

– “Ngồi xuống mà nói chuyện.”

Trần Gia Lạc đa tạ rồi mới dám ngồi. Càn Long hỏi:

– “Ngươi thấy tòa lầu này có đẹp không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu không phải nơi hoàng cung nội viện, chỗ khác không thể có tòa lầu cao nào vừa sang trọng vừa tinh tế đến thế.”

Càn Long mỉm cười nói:

– “Ta bảo chúng xây dựng gấp, tổng cộng chưa tới hai tháng. Nếu thời gian rộng rãi thì có thể kiến trúc hoa mỹ sang trọng hơn rất nhiều, thế này chỉ là tạm được.”

Trần Gia Lạc “Vâng” một tiếng, nghĩ bụng:

– “Xây dựng tòa Bảo Nguyệt Lâu này không biết đã tốn kém bao nhiêu sức dân, tiền của. Lại còn xây dựng gấp rút, không chừng đã giết chết rất nhiều nhân công.”

Càn Long đứng dậy rồi nói:

– “Ngươi vừa tới Hồi Cương, đến đây xem thử có giống cảnh sắc vùng đại mạc hay không.”

Trần Gia Lạc theo hắn đến bên cửa sổ, đứng trên nhìn xuống không khỏi giật mình một cái.

Đây là ngự hoa viên muôn hồng nghìn tía, vừa rồi chàng đi từ hướng đông đến chỉ thấy những cảnh sang trọng hào hoa, phú quý vô cùng. Thế mà đứng trên lầu cao nhìn về hướng tây, cảnh tượng hoàn toàn khác hẳn. Mặt đất trong vòng một dặm đã phủ kín cát vàng, còn đắp thành mấy đồi cát nhỏ. Nhìn kỹ vẫn còn thấy dấu vết đình đài lầu các vừa dời đi, ao hồ vừa lấp cạn, cây cối hoa cỏ vừa đào bỏ. Dĩ nhiên nơi đây không thể có khí thế hùng vĩ của vùng đại mạc nhìn không biết đâu là chỗ tận cùng, nhưng cũng có đôi chút dáng vẻ của sa mạc.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Hoàng thượng thích cảnh sắc vùng sa mạc hay sao?”

Càn Long cười cười không đáp, hỏi lại:

– “Thế nào?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định là đã cố gắng hết sức người.”

Trên bãi cát vàng đang sắp dựng lên mười mấy căn lều loại người Hồi thường dùng, bên lều còn có ba con lạc đà. Chàng nghĩ đến tỉ muội Hoắc Thanh Đồng, không nén nổi chua xót trong lòng. Phía trước còn mấy trăm nhân công đang tháo dỡ nhà, chắc hoàng đế chê bãi cát này chưa đủ lớn, cần phải mở rộng thêm.

Trần Gia Lạc không khỏi ngạc nhiên nghĩ:

– “Mặt cát khô cằn như vậy có gì là đẹp? Tại sao trong Ngự Hoa Viên phồn hoa cẩm tú này lại dựng mấy cái lều của người Hồi cho nghịch mắt? Tâm tư của hoàng đế thật khiến cho người ta khó hiểu.”

Càn Long từ cửa sổ quay vào, chỉ cây cổ cầm Lai Phụng đang đặt trên bàn mà nói:

– “Hãy đàn cho ta nghe một bản, có được không?”

Trần Gia Lạc thấy hắn mãi không nhắc đến việc chính, nhưng không tiện nói trước. Chàng bèn ngồi ngay ngắn, tấu lên một khúc Triều Thiên Tử. Càn Long hoan hỉ mà nghe.

Trần Gia Lạc nghiêng đầu đánh đàn, đột nhiên thấy trên một cái bàn có đặt cặp ngọc bình của sứ giả Hồi tộc đưa đến cầu hòa. Trên bình có vẽ mỹ nhân Mã Mễ Nhi trông như đang mỉm cười khích lệ bản thân mình, bím tóc dài, mũ chỏm nhỏ, đôi mắt thoạt nhìn giống hệt Hương Hương công chúa. Đột nhiên “tưng” một tiếng, một dây đàn đứt ngay.

Càn Long mỉm cười hỏi:

– “Sao thế? Vào cấm cung có phần sợ hãi phải không?”

Trần Gia Lạc đứng dậy cung kính nói:

– “Có thiên oai ở đây, vi thần mất hết tự tin.”

Càn Long cười ha hả, đắc ý thầm nghĩ:

– “Cuối cùng thì ngươi cũng sợ ta rồi.”

Trần Gia Lạc cúi đầu xuống, đột nhiên thấy bên tay trái Càn Long có buộc một miếng vải trắng, hình như đã bị thương. Càn Long hơi đỏ mặt, vội giấu bàn tay ra sau lưng rồi hỏi:

– “Những thứ ta cần, mang đến cả rồi chứ?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Bằng hữu của vi thần đang giữ ở dưới lầu.”

Càn Long cả mừng, cầm cái búa nhỏ trên bàn gõ nhẹ lên tấm ván hai cái, một tên tiểu thái giám lập tức chạy vào. Càn Long bảo:

– “Gọi tùy tùng của Trần công tử lên đây.”

Tiểu thái giám vâng dạ rồi đi xuống.

Lục Phi Thanh cùng mọi người chờ đợi ở dưới lầu, không biết Trần Gia Lạc đàm luận với hoàng đế ra sao. Lát sau nghe thấy trên lầu vọng xuống tiếng đàn, họ mới yên tâm. Khi tiểu thái giám xuống gọi, cả sáu đều theo hắn lên lầu.

Đi tới cầu thang tầng thứ hai, đột nhiên sau lưng có tiếng bước chân gấp rút, hai người bước lẹ tới. Vô Trần và Vệ Xuân Hoa đi ở sau cùng, nép sát ra hai bên để nhường đường. Hai người kia bước qua, thấy Thường thị song hiệp không chịu né ra bèn khẽ quát:

– “Nhường đường!”

Rồi cả hai đưa tay ra đẩy vào hông của song hiệp, toan xô ra hai bên.

Thường thị song hiệp đều nghĩ:

– “Con rùa nào vô lễ đến thế?”, lập tức vận kình đẩy ngược lại, hất hai người đó ra. Chúng thấy song hiệp không động đậy mà lại có lực đạo rất lớn phản kích, đều kinh hãi một phen. Sau đó Thường thị song hiệp mới né sang hai bên, nhường ra một lối đi.

Hai tên này ăn mặc theo kiểu thái giám, một tên tay không, một tên đang bưng một cái hộp lớn. Vừa rồi chúng ra tay đã chứng tỏ nội công thâm hậu. Trong nội điện mà có người giỏi võ công như thế, không khỏi khiến quần hùng phải bất ngờ.

Tới sau lưng Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn, hai tên nhìn nhau một cái, đồng thời đưa tay nắm lấy vai của hai người Lục, Triệu, hét lên:

– “Nhường đường!”

Cảm thấy có người đánh lén, Lục Phi Thanh liền ra chiêu Chiêm Y Thập Bát Trật, còn Triệu Bán Sơn thì dùng nửa chiêu Đơn Tiên lập tức hóa giải được thế công. Hai tên thái giám đã nắm không trúng lại bị nội kình phản kích, vội co giò chạy lên lầu, rồi quay lại giận dữ nhìn hai người Lục, Triệu. Một tên hỏi Vương Thanh:

– “Vương lão tam! Hoàng thượng lại tuyển thị vệ phải không?”

Vương Thanh mỉm cười nói:

– “Mấy vị này đều là cao nhân võ học, đâu có tầm thường như bọn tại hạ?”

Hai tên thái giám “hừ” một tiếng, tiếp tục lên lầu.

Lục Phi Thanh cùng mọi người thấy hai tên thái giám này mình đầy tuyệt kỹ mà chịu làm sai dịch ở đây, đối với Vương Thanh lại chẳng lịch sự chút nào, nên đều sinh lòng hoài nghi:

– “Không biết hai người này lai lịch ra sao?”

Chốc lát đã lên tới tầng lầu thứ năm. Vương Thanh đứng ngoài bẩm báo:

– “Sáu vị tùy tùng của Trần công tử đã đến rồi.”

Một tên tiểu thái giám vén rèm bước ra nói:

– “Xin đợi một lát.”

Lát sau hai tên thái giám biết võ đi ra tay không, nhìn qua sáu người một cái rồi bước xuống lầu. Tiểu thái giám bước ra gọi:

– “Vào đi!”

Sáu người theo Vương Thanh vào trong, thấy Càn Long ngồi chính giữa, Trần Gia Lạc ngồi bên cạnh. Trần Gia Lạc đảo mắt một cái rồi đứng dậy. Lục Phi Thanh cùng mọi người không làm gì được, đành phải quì xuống dập đầu với Càn Long. Vô Trần âm thầm thóa mạ:

– “Con mẹ nó! Hôm ở trên Lục Hòa Tháp, tên hoàng đế thối tha này hoảng sợ đến hồn lìa khỏi xác, hôm nay lại bày đặt làm phách chó ở đây. Lão gia mà không nể mặt tổng đà chủ, thì phải cầm kiếm chọc xuyên qua thân thể nhà ngươi ba lỗ.”

Trần Gia Lạc nhận từ tay Triệu Bán Sơn một cái hộp gỗ niêm phong cẩn thận, đặt trên bàn rồi nói:

– “Ở đây cả rồi.”

Càn Long nói:

– “Được! Ngươi về trước đi, sau khi ta xem xong sẽ cho người gọi đến.”

Trần Gia Lạc khấu đầu xin cáo biệt. Càn Long bảo:

– “Cây đàn này ngươi cũng mang về đi.”

Trần Gia Lạc vâng dạ, nhận lấy cây đàn giao cho Vệ Xuân Hoa rồi nói:

– “Hoàng thượng đã bình được Hồi Cương rồi, cầu xin thánh ân hạ chỉ đừng chém giết nhiều nữa.”

Càn Long gật đầu một cái, vẫy tay bảo mọi người ra ngoài. Trần Gia Lạc không làm gì được, đành dẫn quần hùng theo Vương Thanh ra khỏi phòng. Xuống dưới lầu, hai tên thái giám biết võ bước tới chặn đường, cất tiếng hỏi:

– “Vương lão tam! Bằng hữu nào vậy? Cho chúng ta làm quen đi.”

Hình như Vương Thanh có phần sợ hãi hai tên thái giám này, bèn quay lại nói với Trần Gia Lạc:

– “Để tại hạ giới thiệu cho các vị gặp hai cao thủ trong cung. Vị này là Trì Huyền công công, vị này là Võ Minh Phu công công.”

Trần Gia Lạc đang mưu đồ đại sự, không muốn đắc tội với mọi người trong cung, bèn chắp tay mỉm cười nói:

– “Hân hạnh, hân hạnh!”

Vương Thanh nói với hai người Trì, Võ:

– “Trong lúc hoàng thượng đi chơi ở Giang Nam đã gặp vị Trần công tử này, rồi đem lòng sủng ái. Lần này triệu kiến, chẳng bao lâu sẽ trọng dụng.”

Trì Huyền cười khẩy rồi nói:

– “Một công tử trẻ tuổi đẹp trai như thế, nếu muốn làm Đại Học Sĩ e rằng hơi sớm một chút.”

Trần Gia Lạc nghe giọng điệu của hắn đầy vẻ khinh thường, nhưng nhẫn nại không nói gì. Thường thị huynh đệ trợn to cặp mắt giận dữ mà nhìn, suýt nữa buột miệng thóa mạ “đồ con rùa.”

Sau đó Vương Thanh tiếp tục giới thiệu tới Lục Phi Thanh và Vô Trần.

Phụ thân của hai tên Trì, Võ đều là sát thủ dưới tay Ung Chính. Ung Chính từng sai đi ám sát vương công đại thần, rồi sợ tiết lộ bí mật nên hãm hại hai người đó. Sau đó hắn đưa con trai của họ vào cung, tịnh thân cho làm thái giám. Hai tên Trì, Võ này từ nhỏ đã vào cung, được đông đảo bằng hữu của phụ thân chỉ điểm nên võ nghệ đầy mình, nhưng đối với những nhân vật giang hồ thì hoàn toàn không biết gì. Ngay cả cái tên lừng lẫy như Vô Trần mà chúng cũng không biết.

Võ Minh Phu mỉm cười nói:

– “Chúng ta thân cận một chút.”

Rồi hai tên đưa tay ra nắm lấy tay của Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn. Khi chúng lên lầu, muốn túm lấy vai của Lục và Triệu mà không trúng, trong lòng không phục nên bây giờ muốn thử lại.

Trì Huyền học Lục Hợp Quyền, còn Võ Minh Phu tinh thông về Phách Quyền. Chúng vừa nắm tay đã vận kình bóp lại, muốn bắt Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn phải kêu đau. Nào ngờ khi Trì Huyền dùng sức bóp vào thì thấy tay của Triệu Bán Sơn trơn tru như cá, tuột khỏi lòng bàn tay hắn.

Còn Lục Phi Thanh có biệt hiệu là Miên Lý Châm, ngoài mềm trong cứng. Võ Minh Phu vừa vận kình đã có cảm giác như nắm phải một khối bông gòn, trong lòng biết là không hay bèn lập tức rút tay lại. Lòng bàn tay hắn đã trúng phải âm kình, may là rút tay khá sớm nên chưa bị thương, cố gượng cười mà nói:

– “Nội công của Lục lão gia thật là tinh tuyệt.”

Trì Huyền nhìn Thường thị huynh đệ mà nói:

– “Hai vị này có dị tướng, võ công nhất định kinh người. Chúng ta thân cận một chút.”

Thường thị huynh đệ cứ để Trì và Võ nắm chặt tay mình, đều nghĩ:

– “Hai con rùa này đã mất trứng rồi mà còn cố ngang tàng. Phải dạy dỗ chúng chút xíu cho biết đường lợi hại.”

Họ bèn sử dụng công phu Hắc Sa Chưởng. Sắc mặt của hai tên Trì, Võ lập tức tái đi, trên trán từng giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn xuống mặt.

Hai tên Trì, Võ này là tâm phúc của thái hậu, được mụ sủng ái nên cực kỳ điêu ngoa ngang ngược, bình thường bọn thị vệ trong cung đối với chúng bằng mặt mà chẳng bằng lòng. Lúc này Vương Thanh thấy chúng nếm mùi đau khổ, giả vờ không nhìn thấy nhưng trong lòng lại âm thầm hoan hỉ.

Thường thị huynh đệ mỉm cười buông tay. Hai tên Trì, Võ đau thấu tâm can, cúi xuống nhìn những dấu ngón tay thâm đen trên bàn tay mình, giương mắt giận dữ nhìn song hiệp rồi quay đầu đi ngay. Vệ Xuân Hoa nghĩ bụng:

– “Võ công như Trương Triệu Trọng mà khi ở Ô Sào Lãnh vừa bị Thường ngũ ca nắm một cái đã trọng thương, nói gì đến hai tên này.”

Vương Thanh dẫn quần hùng ra ngoài cửa cung, thấy mọi người Văn Thái Lai, Dương Thành Hiệp, Chương Tấn vẫn đứng đợi.

* * *

Càn Long đợi Trần Gia Lạc rời khỏi liền bảo bọn thái giám lùi ra. Hắn mở cái hộp gỗ, nhìn thấy mật chỉ của Ung Chính và lá thư do mẫu thân mình viết. Cái bớt đỏ son trên mông trái, nếu không phải mẹ ruột thì ai biết được? Chuyện đã rõ ràng, hắn không nghi ngờ gì nữa.

Nghĩ đến công ơn sinh thành của song thân, hắn không khỏi trầm ngâm một lúc khá lâu. Sau đó hắn bảo tên tiểu thái giám đem bếp lửa vào, đem từng vật chứng bỏ vào lửa. Thấy ngọn lửa cháy hừng hực, đột nhiên trong lòng hắn cảm thấy thoải mái hơn, suy nghĩ một chút rồi bỏ nốt cái hộp gỗ đó vào lửa. Ngọn lửa bốc cao, gian phòng ấm áp hẳn lên.

Càn Long ngẩn ra nhìn đôi ngọc bình trên bàn một lúc, rồi bảo tiểu thái giám:

– “Gọi người đó lên đây.”

Tiểu thái giám xuống lầu, lát sau trở về quì xuống bẩm báo:

– “Nô tài đáng chết! Nương nương không chịu lên.”

Càn Long mỉm cười rồi lại thở ra, chỉ đôi ngọc bình rồi đứng dậy đi xuống lầu. Hai tên tiểu thái giám liền ôm lấy ngọc bình đi theo.

Xuống tới tầng dưới, hai cung nữ đang đứng trước cửa lập tức vén rèm lên, Càn Long đi vào. Trong phòng đầy ngập hoa tươi. Hai cung nữ đón lấy ngọc bình từ tay tiểu thái giám, nhẹ nhàng đặt lên bàn.

Trong phòng có một thiếu nữ mặc áo trắng, vốn ngồi hướng mặt ra cửa, khi nghe thấy tiếng chân liền quay lại nhìn vào vách. Càn Long vẫy tay, bọn cung nữ lùi hết ra ngoài. Hắn đang định lên tiếng thì rèm cửa lại vén ra, Trì Huyền và Võ Minh Phu bước tới, khoanh tay đứng ngay giữa cửa.

Càn Long giận dữ hỏi:

– “Các ngươi đến đây làm gì? Ra ngoài mau lên!”

Trì Huyền đáp:

– “Nô tài phụng ý chỉ của thái hậu, đến đây để bảo vệ hoàng thượng.”

Càn Long hỏi:

– “Ta có gì mà phải bảo vệ?”

Trì Huyền đáp:

– “Thái hậu biết cô ấy… biết nương nương tính khí… tính khí cang cường, sợ sẽ tiếp tục làm tổn thương tấm thân vạn thặng của hoàng thượng.”

Càn Long nhìn xuống bàn tay trái đang bị thương, quát lên:

– “Ta không cần! Ra ngoài nhanh lên!”

Trì, Võ đều gật đầu vâng dạ, nhưng lại không lui.

Càn Long biết chúng đã phụng mệnh thái hậu, bất luận thế nào cũng không chịu ra ngoài. Hắn bèn mặc kệ, quay lại nói với thiếu nữ mặc áo trắng:

– “Cô quay lại đây, ta có chuyện nói với cô.”

Hắn nói bằng tiếng Hồi.

Thiếu nữ cũng mặc kệ hoàng đế, tay phải vẫn nắm chặt chuôi một thanh đoản kiếm. Càn Long thở ra một hơi rồi nói:

– “Cô xem thử trên bàn là cái gì?”

Thiếu nữ vốn không muốn đếm xỉa gì đến hắn, nhưng rốt cuộc cũng nổi tính hiếu kỳ, lát sau nghiêng đầu liếc nhìn một cái, thấy đôi bạch ngọc bình màu sắc như mỡ dê đặt trên bàn. Nàng vừa khẽ nghiêng đầu, Càn Long và hai tên Trì, Võ đều cảm thấy trước mắt sáng bừng. Thì ra thiếu nữ này chính là Hương Hương công chúa.

Sau khi Mộc Trác Luân thua trận, Hương Hương công chúa bị bộ hạ của Triệu Tuệ bắt được. Triệu Tuệ từng nghe Trương Triệu Trọng nói hoàng thượng cần cô gái này, bèn đặc phái thân binh dùng hương xa bảo mã long trọng đưa nàng về hoàng cung ở Bắc Kinh.

Khi Càn Long mới nhìn thấy mỹ nhân Hồi tộc vẽ trên ngọc bình, hắn tưởng rằng đó là do họa sĩ thời xưa tưởng tượng vẽ ra. Sau đó nghe sứ giả người Hồi nói là hiện nay còn có người đẹp hơn cả hình vẽ trên ngọc bình, hắn không khỏi thần hồn điên đảo, bèn sai Trương Triệu Trọng đi đến Hồi Cương, truyền lệnh:

– “Phải tìm cho được cô gái sắc nước hương trời của Hồi tộc, đưa về kinh cho trẫm.”

Vừa sai Trương Triệu Trọng đi, hắn đã ngày đêm trông ngóng. Đột nhiên nghĩ, người đẹp đến đây mà nói chuyện không thông, há chẳng giảm đi tình thú? Hắn quả là thành ý, bèn tuyển thầy giáo đến để học tiếng Hồi.

Càn Long vốn rất thông minh, lại chuyên tâm nên chỉ mấy tháng đã tương đối nói được, làm cả một bài thơ. Dưới bài thơ hắn còn tự chú thích, nói là:

– “Tiếng Hồi và tiếng Mông Cổ ta đã thông thạo, không cần thông ngôn để phiên dịch nữa.”

Hắn hết sức tự hào về chuyện mình học được tiếng Hồi.

Nhưng Hương Hương công chúa thì tơ tình đã buộc chặt với Trần Gia Lạc, mà Càn Long lại là kẻ thù giết cha, làm sao nàng chịu phục tùng? Nàng mấy lần bị ép bức quá, đã có ý định tự vẫn, nhưng nghĩ đến Trần Gia Lạc từng hứa là sẽ dẫn mình lên du ngoạn ở Trường Thành.

Từ khi quen biết Trần Gia Lạc, nàng từng thấy chàng hái tuyết liên, bắt quân Thanh, cứu con nai nhỏ, thoát khỏi vòng vây của bầy lang sói, xông vào doanh trại địch, tìm vào núi Ngọc Phong, vượt qua vô số nguy nan, hoàn thành rất nhiều việc khó. Chàng đã nói ra, là nàng hoàn toàn không nghi ngờ nữa. Chàng nói là dẫn nàng lên du ngoạn Trường Thành, thì nhất định sẽ đi.

Vì thế bất luận Càn Long dụ dỗ ép bức thế nào, nàng vẫn giữ được lòng tin, kiên định mà kháng cự, trong lòng nghĩ:

– “Giống như mình đang bị bầy sói vây khốn vậy. Con sói dữ này muốn hại mình, nhưng chắc chắn lang quân của mình sẽ đến cứu mình thoát ra ngoài.”

Càn Long thấy nàng ngày càng tiều tụy, sợ nàng u uất buồn phiền mà chết, nên không dám ép bức quá đáng. Hắn lại triệu tập thợ giỏi ở kinh thành kiến trúc tòa Bảo Nguyệt Lâu này để nàng trú ngụ. Dựng xong tòa lầu này, hắn vô cùng đắc ý, tự soạn một bài Bảo Nguyệt Lâu ký so sánh Bảo Nguyệt Lâu với Quảng Hàn Cung trên mặt trăng, là nơi Hằng Nga cư ngụ. Hắn còn soạn thêm một bài Bảo Nguyệt Lâu thi ca tụng Hương Hương công chúa, gọi nàng là tiên nữ chốn Dao Trì.

Nhưng Hương Hương công chúa không thèm để mắt đến. Đối với toàn bộ những bảo vật hào nhoáng trong Bảo Nguyệt Lâu nàng nhìn mà không thấy, chỉ ngồi ngắm bốn bức họa cảnh sắc Hồi Cương do Lang Thế Linh vẽ mà ngơ ngẩn xuất thần, hồi tưởng lại những ngày tháng tươi đẹp đắm say khi được ở bên Trần Gia Lạc.

Càn Long có lúc lén nhìn, mỗi khi thấy nàng mơ mộng lộ ra nụ cười trên miệng là bất giác thần hồn điên đảo. Có ngày hắn nhịn không nổi nữa, đưa tay ra toan nắm lấy tay nàng. Đột nhiên hàn quang nhấp nhoáng, một lưỡi đoản kiếm đâm thẳng tới. May mà Hương Hương công chúa không biết võ công, nên Càn Long mới khỏi mất mạng, nhưng bàn tay trái cũng bị đâm thủng, máu tươi đầm đìa. Hắn hoảng sợ đến nỗi mặt xanh xao, môi trắng bệch, toàn thân đầy mồ hôi lạnh. Từ đó hắn không dám mạo phạm đến nàng chút nào.

Sau đó thái hậu biết được vụ này, hạ lệnh cho thái giám đi tước thanh đoản kiếm của nàng. Hương Hương công chúa bèn kề mũi kiếm vào trước ngực, hễ ai đến gần là tự sát ngay. Càn Long chỉ còn cách hạ lệnh cho mọi người lùi ra, không được quấy nhiễu.

Hương Hương công chúa lại sợ chúng bỏ thuốc mê vào đồ ăn thức uống, nên trừ những trái cây tươi do chính mình xẻ ra, nàng hoàn toàn không ăn uống một thứ gì khác. Càn Long có xây sẵn một hồ tắm theo kiểu người Hồi để nàng tắm rửa, nhưng nàng lại may chặt hết y phục của mình lại. Nàng có dị tướng, nhiều ngày không tắm mà hương thơm trên người lại càng lúc càng nồng.

Một thiếu nữ vốn không hiểu chuyện đời, ngây thơ vui vẻ, bỗng dưng phải một mình kháng cự với quân tà ác đến mấy chục ngày. Bây giờ nàng đã kiên cường sáng suốt hơn nhiều, biết được lòng người gian hiểm. Lúc này vừa thấy ngọc bình, lòng nàng không khỏi hơi rung động, nhưng lại sợ Càn Long có quỷ kế gì liền quay mặt lại vào vách, nắm chặt chuôi kiếm.

Càn Long thở dài rồi nói:

– “Trước đây nhìn thấy hình vẽ trên đôi ngọc bình này, ta nghĩ đó chỉ là họa sĩ ngày xưa tưởng tượng, chứ trên thế gian không thể có người xinh đẹp đến thế. Khi gặp cô rồi ta mới biết, bất cứ họa sĩ nào trên thiên hạ cũng không thể vẽ được một phần vạn vẻ diễm lệ của cô.”

Hương Hương công chúa vẫn không lý gì đến hắn. Càn Long lại nói:

– “Suốt ngày cô cứ phiền não mãi. Đừng buồn chán quá, dễ sinh bệnh. Cô có nhớ quê hương hay không? Ra ngoài cửa sổ thử xem.”

Rồi hắn bảo thái giám dùng búa sắt nhổ hết đinh đóng trên cửa sổ, mở cửa sổ ra. Thì ra Càn Long sợ nàng thương tâm phẫn uất nhảy lầu tự tử, nên tất cả cửa sổ của tầng lầu này đều được đóng đinh chắc chắn.

Thấy Càn Long và hai tên thái giám đứng bên cửa sổ, Hương Hương công chúa “hừ” rồi bĩu môi một cái. Càn Long hiểu ý, đứng dậy đi về phía đông, rồi bảo hai tên Trì, Võ rời khỏi đó. Hương Hương công chúa thấy chúng đứng xa cửa sổ mới từ từ tới gần, nhìn ra ngoài thấy một bãi cát rất bằng phẳng, có dựng mấy cái lều của người Hồi, xa xa lại có một ngôi giáo đường Hồi giáo.

Trong lòng nàng vừa đau đớn vừa chua xót, hai giọt lệ từ từ lăn ra khỏi khóe mắt. Nghĩ đến phụ thân, ca ca và vô số người cùng tộc đã bị binh tướng của Càn Long sai đến giết hại, một cơn phẫn nộ từ dưới đáy lòng nàng nổi lên. Nàng quay đầu lại, cầm lấy một cái ngọc bình trên bàn ném vào đầu Càn Long.

Võ Minh Phu lướt ra như một mũi tên, đưa tay trái ra chụp lấy. Nào ngờ men sứ của ngọc bình nhẵn nhụi khác thường, tuy đón được nhưng vẫn tuột tay rơi xuống đất, nát vụn. Ngọc bình đầu tiên vừa vỡ, ngọc bình thứ hai lại bay tới. Trì Huyền dùng cả hai tay đón bắt, nhưng ngọc bình vẫn lọt qua khe hở giữa hai tay hắn mà rơi xuống. Một tiếng kêu thánh thót vang lên, thế là một vật trân quý hiếm có trên đời đã từ nay hủy diệt.

Võ Minh Phu thấy nàng dám ra tay vô lễ với hoàng đế, liền chạy tới định bắt. Hương Hương công chúa liền đưa đoản kiếm lên, quay mũi kiếm chỉ vào yết hầu mình. Càn Long vội la lên:

– “Dừng tay!”

Võ Minh Phu giậm chân một cái, rút tay về. Hương Hương công chúa vội vã lùi lại mấy bước, bỗng “keng” một tiếng, một vật gì đó trong người nàng rơi xuống. Võ Minh Phu sợ là ám khí, bèn cúi nhặt, thấy đó là một miếng ngọc bội bèn quay lại trao cho hoàng đế.

Càn Long vừa cầm trên tay, bất giác thay đổi sắc mặt. Đây chính là miếng ôn ngọc mà hắn đã tặng Trần Gia Lạc trên đê chắn sóng ở huyện Hải Ninh. Trên ngọc bội có dùng chỉ vàng khắc bốn câu văn:

– “Tình sâu quá chẳng bền, Cương cường quá tất nhụt, Khiêm hòa như quân tử, Ôn nhuận như bảo ngọc.”

Lúc tặng cho Trần Gia Lạc, hắn đã bảo chàng sau này đem tặng cho người yêu, coi như vật hẹn ước. Chẳng lẽ giữa hai người này có liên hệ hay sao?

Càn Long liền hỏi:

– “Cô quen biết hắn ư?”

Rồi lại hỏi tiếp:

– “Miếng ngọc này từ đâu cô có?”

Hương Hương công chúa chìa tay ra nói:

– “Trả cho ta!”

Càn Long nổi ghen, gắt:

– “Cô nói đi, ai đã cho cô. Ta sẽ trả cho cô.”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Chồng của ta cho ta.”

Càn Long hết sức bất ngờ, hỏi lại:

– “Cô có chồng rồi ư?”

Hương Hương công chúa ngạo mạn nói:

– “Tuy huynh ấy chưa có thân thể của ta, nhưng đã có trái tim của ta từ lâu rồi. Huynh ấy là người dũng cảm nhất, nhân từ nhất trên thế gian. Ngươi bắt được ta, nhất định huynh ấy sẽ cứu ta ra ngoài. Tuy rằng ngươi là hoàng đế, nhưng huynh ấy không sợ ngươi, ta cũng không sợ ngươi.”

Càn Long càng nghe càng khó chịu, giận dữ nói:

– “Ta biết hắn là ai rồi, chính là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. Đó chỉ là một tên giang hồ cầm đầu một đám phỉ, có gì ghê gớm đâu?”

Nghe nhắc đến tên Trần Gia Lạc, trong lòng Hương Hương công chúa đột nhiên hớn hở. Nàng có vẻ sinh động hẳn lên, vội nói:

– “Vậy sao? Ngươi cũng biết huynh ấy, thế thì mau thả ta ra đi.”

Càn Long ngẩng lên, bỗng nhìn thấy mặt mình trong tấm gương lớn ở phía trên bàn trang điểm. Hắn bỗng nghĩ đến Trần Gia Lạc trẻ tuổi tuấn tú, văn võ toàn tài, mình chẳng có điểm nào hơn được, không khỏi vừa đố kỵ vừa tức giận. Hắn dùng hết sức ném ra, miếng ôn ngọc đập vỡ vụn bóng mình trong gương, thủy tinh rải đầy dưới đất.

Hương Hương công chúa vội chạy tới nhặt ngay miếng ngọc bội, dùng tay áo phủi đi phủi lại ra vẻ xót xa. Càn Long lại càng giận dữ, giậm chân một cái rồi quay người đi xuống lầu.

Càn Long trở về gian tĩnh thất thường dùng để đọc sách làm thơ, thấy trên bàn vẫn còn một bài thơ làm dở, thuộc mớ thơ phú ca tụng Bảo Nguyệt Lâu, trong đó có hai câu:

– “Lâu danh Bảo Nguyệt hữu Thường Nga, thiên tử tức thời mộng kiến chí”, bằng trắc sai luật, vần điệu khiếm khuyết. Hắn định từ từ suy nghĩ làm tiếp, nghĩ mình là thánh thiên tử hồng phúc tề thiên, không chừng sẽ được bách thần phù hộ cho ngòi bút tuôn ra mấy câu tuyệt diệu. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, hắn tiện tay xé vụn bài thơ đó thành những mảnh giấy.

Ngồi hơn nửa ngày, cơn giận dữ mới từ từ lắng xuống. Hắn suy nghĩ:

– “Ta là thiên tử hùng cứ tứ phương, thế mà đứa con gái dị tộc này lại quật cường đến thế, không chịu thuận theo ý mình. Thì ra là có Trần Gia Lạc xen vào giữa tác oai tác quái… Hắn khuyên ta đuổi hết người Mãn Châu ra ngoài quan ải để khôi phục thiên hạ cho người Hán… Hừ… Ý kiến cũng hay lắm.”

Nghĩ đến việc này, trong lòng hắn lại phân vân không dứt:

– “Bây giờ ta muốn làm gì thì làm, thật là khoái lạc tiêu diêu. Cho dù đại sự thành công thì không khỏi chỗ nào cũng bị người ta áp chế, bản thân mình chẳng trở thành một con rối hay sao? Hà tất ta phải vứt bỏ những cái lợi trước mắt để tìm một chút hư danh?”

“Giả tỉ sau này đại sự thành công, đương nhiên sử sách có tên ta, công nghiệp sánh ngang Tần Hoàng, Hán Vũ, Đường Tông, Tống Tổ, từ nay không còn bị thái hậu áp chế nữa, đúng là chân mạng thiên tử. Nhưng trước mắt nguy nan trùng trùng, nếu sai một nước cờ thì không tránh khỏi thân bại danh liệt. Việc đó chắc được bao nhiêu phần?”

“Còn nếu ta tiêu diệt Hồng Hoa Hội, diệt cỏ phải diệt tận gốc, không khỏi phải giết em trai ruột của mình. Hừ! Năm xưa Lý Thế Dân mưu đồ đại sự, chẳng phải đã giết Kiến Thành, Nguyên Cát hay sao? Cô gái Hồi tộc này dành trọn trái tim cho Trần Gia Lạc. Được! Ta phải dồn hai việc làm một, tính sổ một lần cho gọn.”

Lòng ganh tị nổi lên, tình nghĩa huynh đệ thủ túc gì gì bị vứt hết ra sau. Tâm ý Càn Long đã quyết, bèn ra lệnh cho thái giám triệu Vương Thanh vào.

Chỉ một lát sau, Vương Thanh vào trình tấu:

– “Đại nội tổng quản Bạch Chấn đã từ Phúc Kiến về kinh, nói là những việc hoàng thượng dặn dò đã làm xong hết.”

Càn Long cả mừng, hạ lệnh:

– “Trên tòa Bảo Nguyệt Lâu này, bố trí mỗi tầng lầu bốn tên nhất đẳng thị vệ. Ngoài lầu phái thêm hai chục tên thị vệ nữa, không được để lộ chút dấu vết nào.”

Vương Thanh vâng dạ. Càn Long lại dặn:

– “Gọi Trần Gia Lạc đến đây, ta có việc quan trọng cần nói. Bảo hắn đừng mang theo tùy tùng.”

Vương Thanh tuân chỉ lui ra, bố trí thị vệ trước rồi mới đi mời Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc nghe mình được tuyên triệu vào cung, liền vào trong thương lượng với mọi người. Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai đều lo lắng nói:

– “Sao lại không cho mang theo tùy tùng? Hơn nữa bây giờ đã tối, e rằng bên trong có âm mưu.”

Trần Gia Lạc đáp lời:

– “Những vật chứng đem từ Hồi Cương và Thiếu Lâm Tự về, ta đã trình lên hoàng thượng cả rồi. Vừa rồi hoàng thượng mới gặp ta, bây giờ lập tức lại gọi ta vào, nhất định là để thương lượng việc này. Đối với đại sự khôi phục nhà Hán, dù lên núi đao xuống chảo dầu, ta cũng phải đi một phen.”

Chàng lại bảo Vô Trần:

– “Đạo trưởng! Nếu ta không trở về, thì nhờ đạo trưởng thống lãnh Hồng Hoa Hội để trả thù.”

Vô Trần khẳng khái đáp:

– “Tổng đà chủ yên tâm! Thù thì nhất định phải trả, còn Hồng Hoa Hội do ai thống lãnh cũng chẳng sao.”

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Lần này các vị không nên đi tiếp ứng. Nếu hoàng thượng đã có lòng hãm hại ta, thì từ ngoài cung muốn tiếp ứng cũng không kịp, lại còn tổn thất nặng nề hơn.”

Quần hùng thấy tình thế đã như vậy, chỉ còn cách đồng ý.

Trần Gia Lạc cùng Vương Thanh vào tới Tử Cấm Thành thì đã sang canh một. Hai tên thái giám xách lồng đèn đi trước, mặt đất loang lổ bóng của cây do ánh trăng soi xuống.Trần Gia Lạc theo thái giám đến Bảo Nguyệt Lâu, lần này thì lên đến tầng thứ tư. Thái giám vừa thông báo, Càn Long đã lập tức gọi vào căn phòng nhỏ ở một bên lầu. Càn Long ngồi trên một tấm phản ngơ ngẩn xuất thần. Sau khi Trần Gia Lạc quì lạy thi lễ, Càn Long bảo chàng ngồi xuống, rất lâu không lên tiếng.

Trần Gia Lạc nhìn thấy trên vách đối diện có treo bức tranh Hán Cung Xuân Hiểu Đồ do Thù Thập Châu vẽ cảnh đình viên. Bố cục và nhân vật trên tranh rất sống động, nét bút tuyệt vời. Bên cạnh lại là một đôi liễn của Càn Long viết, hàm ý so sánh mình với Hán vương.

Càn Long thấy Trần Gia Lạc đang nhìn chữ mình viết, bèn mỉm cười hỏi:

– “Thế nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chí khí của hoàng thượng ngất trời, đúng là một bậc thiên tử thần dũng anh minh. Sau này hoàn thành đại nghiệp khôi phục thiên hạ cho người Hán, thì cho dù Hán Vương thu phục nhà Tần tàn bạo, cho dù Minh Đế trục xuất bọn Nguyên man rợ, cũng không sánh nổi công đức vạn đại như trời như đất của hoàng thượng.”

Nghe Trần Gia Lạc ca tụng mình, Càn Long không khỏi dương dương tự đắc. Hắn vuốt râu mỉm cười, thích chí một lúc rồi nói:

– “Ta với ngươi tuy nghĩa quân thần nhưng lại là tình huynh đệ. Sau này tiểu đệ phải phụ tá đàng hoàng cho ta mới được.”

Trần Gia Lạc nghe câu này, biết sau khi hắn nhìn thấy thư từ và vật chứng đã thừa nhận quan hệ huynh đệ với mình, cũng không phản bội lời thề mà tỏ ý cùng nhau mưu đồ đại sự. Chàng không nén nổi mừng rỡ, bao nhiêu nghi ngờ lo âu mất sạch, quì xuống vái lạy rồi nói:

– “Hoàng thượng anh minh thần võ, thật là phúc của muôn dân.”

Càn Long đợi Trần Gia Lạc đứng dậy rồi mới than thở:

– “Ta tuy có ngôi báu thiên tử, nhưng phúc khí không bằng tiểu đệ.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên không hiểu. Càn Long tiếp:

– “Tháng tám năm ngoái, ở bên đê chắn sóng huyện Hải Ninh, ta đã cho ngươi một mảnh ngọc bội. Miếng ngọc đó ngươi có mang theo trên người hay không?”

Trần Gia Lạc ngẩn người nói:

– “Hoàng thượng lệnh cho thần đem tặng người khác, bây giờ thần đã tặng rồi.”

Càn Long tiếp:

– “Nếu người đó đã hợp ý ngươi, thì chắc chắn phải là tuyệt thế giai nhân.”

Khóe mắt Trần Gia Lạc đỏ hẳn lên, nhẹ giọng:

– “Tiếc rằng bây giờ cô ấy sống chết ra sao chưa biết, không hiểu lưu lạc nơi nào. Đợi khi đại sự của hoàng thượng thành công, thần phải đi khắp chân trời góc bể mà tìm cô ấy.”

Càn Long lại hỏi:

– “Vậy nhất định ngươi thương yêu cô nương đó lắm?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy!”

Càn Long nói:

– “Thái hậu là người Mãn Châu, chuyện này ngươi biết chứ?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Vâng!”

Càn Long tiếp:

– “Thái hậu có ơn nuôi nấng ta từ bé, cũng là người hiền đức. Nếu ta cùng ngươi mưu đồ đại sự, nhất định bà ấy dù chết cũng phải chống lại. Lúc đó ngươi nghĩ ta phải làm sao?”

Câu hỏi này thì Trần Gia Lạc không thể trả lời. Chàng đành nói:

– “Hoàng thượng thánh minh! Vi thần ngu muội lỗ mãng, không dám đoán bừa.”

Càn Long nói:

– “Việc nước, tình riêng không thể lưỡng toàn. Muốn hoàn thành đại sự thì phải hy sinh tính mạng của thái hậu. Trước mắt, ta có một tâm sự nhưng tiếc là không ai có thể lo lắng hộ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hoàng thượng có lệnh, thần dù chết cũng không từ.”

Càn Long than thở:

– “Quân tử không nên đoạt lấy vật người khác yêu thích, nhưng đó là oan nghiệt, số phận đã an bài. Ôi, đã là chữ Tình thì làm gì được? Ngươi qua đó thử xem.”

Nói xong, hắn chỉ vào cánh cửa ở phía tây, rồi đứng dậy bỏ lên lầu.

Nghe xong mấy câu cổ quái đó, Trần Gia Lạc không hiểu gì cả. Chàng liền vén tầm rèm dày cộp để đi vào. Bên trong là gian phòng ngủ cực kì sang trọng, cửa sổ rèm che kín mít. Trong phòng đang thắp một cây nến đỏ. Một thiếu nữ áo trắng ngồi nhìn ngọn nến. Giữa chốn thâm cung mà đột nhiên gặp Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc lập tức ngơ ngác, thân hình lảo đảo, không nói được tiếng nào.

Hương Hương công chúa thoạt nghe tiếng bước chân là siết chặt thanh đoản kiếm trong tay, khi ngẩng lên nhìn, thì ra người đối diện chính là tình lang ngày đêm mơ tưởng. Vẻ mặt giận dữ của nàng lập tức chuyển thành vui sướng. Nàng kêu lên một tiếng, vội vã chạy tới, nhảy vào lòng Trần Gia Lạc thì thầm:

– “Muội biết, ca ca nhất định sẽ đến đây cứu muội. Muội cứ nhẫn nại chờ đợi ở đây, rốt cuộc ca ca đã đến.”

Trần Gia Lạc ôm chặt lấy thân thể mềm mại của nàng, khẽ hỏi:

– “Kha Tư Lệ! Có phải chúng ta đang nằm mơ không?”

Hương Hương công chúa ngước lên lắc đầu một cái, hai giọt nước mắt đã chảy xuống. Trần Gia Lạc cảm kích vô cùng, thầm nghĩ:

– “Hoàng đế đúng là một vị ca ca rất tốt. Ca ca biết nàng là người yêu của mình, vạn dặm xa xôi đón nàng từ Hồi Cương về cho mình gặp mặt tại đây, để mình vừa bất ngờ vừa vui sướng.”

Trần Gia Lạc ôm lấy Hương Hương công chúa, không sao nén nổi tình cảm, cúi xuống đặt lên môi nàng một nụ hôn. Hai người đắm đuối trong nụ hôn dài vô tận, gạt bỏ hết thiên địa ra ngoài.

Hồi lâu, rất lâu, Trần Gia Lạc mới từ từ buông nàng ra, ngắm nghía khuôn mặt ửng hồng. Đột nhiên chàng thấy phía sau nàng có một tấm gương vỡ nát. Bóng hai người ôm nhau phản chiếu trên từng mảnh gương vụn, hiện thành vô số hóa thân. Trần Gia Lạc khẽ nói:

– “Muội xem kìa! Nếu trên thế gian có một ngàn ca ca thì một ngàn ca ca cũng chỉ ôm lấy muội.”

Hương Hương công chúa khẽ nhìn tấm gương vỡ, lấy trong bọc ra mảnh ngọc bội rồi nói:

– “Hắn đã dùng miếng ngọc này để ném vỡ vụn tấm gương đó, may mà không làm hỏng ngọc.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:

– “Ai?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Tên hoàng đế xấu xa đó.”

Trần Gia Lạc lại càng kinh hãi hơn, hỏi:

– “Sao?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Hắn cứ ép bức muội. Muội nói không sợ, ca ca nhất định sẽ đến cứu muội ra. Hắn giận dữ muốn hiếp đáp muội, nhưng muội đã có thanh kiếm này.”

Đầu óc của Trần Gia Lạc choáng váng, ngẩn ngơ lẩm nhẩm lại câu nói của nàng. Hương Hương công chúa nói:

– “Lúc gia gia của muội bị chúng giết, muội ở bên cạnh. Gia gia cho muội thanh kiếm này, dặn muội khi bị quân địch xâm phạm thì dùng kiếm để chống cự, giết địch chứ không được giết mình. Kinh Koran đã dạy, ai mà tự tử thì chân thánh A-la nhất định sẽ trách phạt, sau khi chết sẽ rơi vào hỏa ngục.”

Trần Gia Lạc cúi xuống, nhìn thấy nàng đã dùng chỉ để may kín hết y phục, quấn chặt vào mình. Chàng thầm nghĩ:

– “Cô gái mềm yếu ngây thơ thế này mà phải kháng cự với bạo lực, không hiểu đã bao nhiêu lần suýt chết rồi?”

Trong lòng chàng dấy lên nỗi thương xót lẫn đau lòng, lại siết chặt nàng vào lòng. Hồi lâu chàng mới định thần lại, nghĩ kỹ về tình hình trước mắt.

Việc đầu tiên chàng nghĩ ra, là hoàng đế đón Kha Tư Lệ vào cung là vì hắn thèm muốn nàng. Trong Ngự Hoa Viên mà hắn lập sa mạc, dựng lều kiểu người Hồi, xây thánh đường Hồi giáo, đương nhiên vì muốn lấy lòng nàng. Nhưng Kha Tư Lệ thà chết cũng không khuất phục. Nhất định hắn đã dùng oai vũ mà ép bức, dùng mềm dẻo mà dụ dỗ, không biết bao nhiêu thủ đoạn rồi, nhưng kết quả vẫn là không. Chàng thở dài, nghĩ:

– “Phúc khí không bằng ta được, chính là nhắc đến chuyện này.”

Hương Hương công chúa được Trần Gia Lạc ôm vào lòng, bỗng mơ hồ nhắm mắt. Dĩ nhiên là nàng trải qua những ngày tháng đơn độc kháng cự với bạo tàn, tâm lực đều mệt mỏi quá rồi. Lúc này nhìn thấy người thương, buông lỏng ý chí nên nàng không gượng được nữa, bất giác ngủ say trong lòng Trần Gia Lạc.

Chàng lại nghĩ đến Càn Long:

– “Hắn để ta gặp nàng, có dụng ý gì đây? Hắn nhắc đến thái hậu, nói rằng nếu mưu đồ đại sự thì phải hy sinh tính mạng của thái hậu, việc nước và tình riêng không thể lưỡng toàn. Đúng rồi! Ý hắn là…”

Nghĩ đến đây, mồ hôi chàng toát ra lạnh ngắt, thân mình run rẩy, bỗng cảm giác Hương Hương công chúa trong lòng mình cũng run lên một cái. Lại thấy nàng nhẹ nhàng thở ra một hơi đầy vẻ an tâm, trên mặt lộ ra một nụ cười giống như đóa hoa nở rộ.

“Ta nên vì Kha Tư Lệ mà chống lại hoàng đế, hay nên vì đại sự mà khuyên nàng khuất phục?”

Suy nghĩ này bỗng hiện lên trong lòng chàng. Quyết định này quá đau lòng, chàng không muốn nghĩ tới, nhưng không thể nào không nghĩ. “Nàng đối với mình tình sâu nghĩa nặng, vì mình mà dám lấy cái chết để bảo vệ tấm thân trong trắng, hết lòng tin tưởng rằng mình có thể cứu nàng ra. Chẳng lẽ mình nhẫn tâm bỏ rơi nàng, phản bội nàng sao? Nhưng nếu chỉ nghĩ đến hai người là Kha Tư Lệ và mình, sẽ phải chống đối với ca ca. Để trôi tuột mất cơ hội phục quốc trăm năm khó gặp, hai người chúng ta há chẳng trở thành thiên cổ tội nhân.”

Đầu óc chàng cực kì hỗn loạn, thật không biết giải quyết như thế nào. Hương Hương công chúa bỗng mở to mắt ra nói:

– “Chúng ta đi thôi! Muội sợ phải gặp lại tên hoàng đế xấu xa đó.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Chúng ta đi!”

Chàng cầm lấy thanh đoản kiếm của nàng, nghiến răng nghĩ bụng:

– “Thiên cổ tội nhân cũng mặc kệ! Nếu không xông ra được thì cả hai ta cùng chết ở đây. Nếu may mắn mà thoát, mình sẽ cùng nàng tìm nơi rừng sâu núi thẳm ẩn cư suốt kiếp, còn tốt hơn để nàng bị kẻ kia hà hiếp.”

Trần Gia Lạc đi tới cửa sổ phóng mắt nhìn ra tứ phía, xem thử có thị vệ thái giám nào cản trở không. Quanh đó không có tiếng động gì, nhưng xa xa thì đèn đuốc sáng trưng. Chàng để ý nhìn ra xa hơn, thấy dưới ánh đèn đầy nghẹt nhân công đang làm việc. Họ đang tháo dỡ rất nhiều nhà cửa của dân chúng để tạo nên một vùng sa mạc giả. Nhất định Càn Long đã hạ chỉ nên hàng ngàn hàng vạn người mới phải làm việc thâu đêm.

Thấy vậy, lửa giận trong lòng Trần Gia Lạc bốc cao lên, thầm nghĩ:

– “Vậy thì không biết bao nhiêu bá tánh bị mất nhà ở. Tên hoàng đế này tham công hiếu thắng, không biết thương dân lành khốn khó. Nếu để hắn tiếp tục làm thủ lĩnh của bọn man di mà bức hiếp người Hán, thì hàng ngàn hàng vạn dân chúng khắp thiên hạ không biết phải cực khổ bao lâu nữa.”

Chàng buồn bã nghĩ:

– “Ông trời đã bắt người ta phải khổ, không thể nào thay đổi được. Thà đem nỗi khổ đó để hai người là mình và Kha Tư Lệ gánh chịu còn hơn. Mình gánh chịu là chuyện đương nhiên, nhưng sao ông trời lại bắt Kha Tư Lệ phải chịu nỗi đau này?”

Thật sự ruột chàng đứt thành trăm khúc, thương tâm không sao tả xiết. Nhưng chàng cố định thần lại, bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội đợi ở đây! Ca ca ra ngoài một chút, sẽ trở về ngay.”

Hương Hương công chúa gật đầu, nhận lại thanh đoản kiếm từ tay chàng, mỉm cười đưa mắt tiễn chàng ra khỏi phòng. Trần Gia Lạc lên tầng lầu thứ năm, thấy Càn Long mặt mày nhợt nhạt đang ngồi trên phản. Chàng lên tiếng:

– “Việc nước là trọng, tình riêng là khinh. Thần có thể khuyên cô ấy phục tùng hoàng thượng.”

Càn Long vui mừng thấy rõ, nhảy xuống phản kêu lên:

– “Thật ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng thế! Nhưng hoàng thượng phải thề trước đã.”

Chàng vừa nói vừa nhìn hắn trừng trừng. Càn Long tránh né ánh mắt của chàng, hỏi lại:

– “Thề chuyện gì?”

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Nếu hoàng thượng không chịu ra sức đuổi bọn Mãn Châu ra ngoài quan ải, lúc đó thì sao?”

Càn Long suy nghĩ một lát rồi đáp:

– “Nếu như thế, thì có thể lúc sinh tiền ta vinh hoa phú quí không ai bì được, nhưng sau khi chết thì lăng mộ của ta sẽ bị đào lên, hài cốt của ta sẽ bị đập nát.”

Đế vương bao giờ cũng ước mong cơ nghiệp mình ngàn đời không lay chuyển. Nếu lăng tẩm không giữ được, thì tức là vương triều bị lật đổ rồi. Lời thề này đúng là rất nặng.

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Vậy thần sẽ khuyên cô ấy. Nhưng thần phải dẫn cô ấy ra khỏi hoàng cung.”

Càn Long kinh hãi hỏi:

– “Ra khỏi hoàng cung ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Bây giờ cô ấy đang hận hoàng thượng đến tận xương tủy. Ở trong hoàng cung, nàng ấy không thể yên tâm nghe thần nói chuyện. Thần phải dẫn cô ấy lên Trường Thành mới khuyên giải được.”

Càn Long nảy dạ nghi ngờ:

– “Sao phải xuất cung đi xa đến thế?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Thần đã từng hứa dẫn cô ấy lên Trường Thành du ngoạn. Hoàn thành tâm nguyện này rồi, từ đây thần vĩnh viễn không gặp cô ấy nữa.”

Càn Long gặng hỏi:

– “Nhất định ngươi sẽ dẫn nàng trở về đây chứ?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đã là nhân vật giang hồ thì hai chữ tín nghĩa còn nặng hơn tính mạng. Quân tử chỉ nói một lời, ngựa tốt chỉ quất một roi. Hơn nữa, trục xuất Mãn Thanh khôi phục nhà Hán lại là đại sự to lớn nhất. Thần quyết không vì một người thiếu nữ mà làm thiên cổ tội nhân.”

Càn Long thầm nghĩ:

– “Giả tỉ Trần Gia Lạc dẫn cô gái này cao chạy xa bay, thì ta biết đi đâu mà tìm hắn?.”

Đắn đo một hồi, cuối cùng hắn nghĩ:

– “Nhưng phải liều để hắn tìm cách thuyết phục nàng, không thì nàng nhất quyết không chịu phục tùng. Hắn đã quyết tâm mưu đồ đại sự, chắc không vì một cô gái mà phản bội ta.”

Suy nghĩ xong, Càn Long vỗ bàn hô lớn:

– “Được, được! Nhưng ta cần sắp xếp một chút, hai ngươi đợi đến trời sáng rồi hãy đi!”

Trần Gia Lạc gật đầu, lập tức xuống lầu.

Càn Long ngồi lại lo lắng không thôi, chỉ sợ Trần Gia Lạc thần thông quảng đại, dẫn mỹ nhân cao chạy xa bay, không bắt lại được. Hắn biết bản lãnh của phó tổng quản Vương Thanh không bằng Bạch Chấn, bèn hạ lệnh gọi Bạch Chấn vào gặp.

Bạch Chấn vào trong, dập đầu thi lễ rồi nói:

– “Những chuyện hoàng thượng dặn dò, hạ thần đã hợp sức cùng quan phiên đài ở Phúc Kiến là Phương Hữu Đức lo liệu ổn thỏa.”

Càn Long gật đầu nói:

– “Gọi Phương Hữu Đức vào đây.”

Bạch Chấn vội vã đi gọi. Phương Hữu Đức dập đầu xong, bẩm báo:

– “Thần đã cùng Bạch tổng quản đi xử lý chùa Thiếu Lâm. Lúc đó, bọn thủ lãnh Hồng Hoa Hội đều có mặt ở đó, hạ thần sợ đả thảo kinh xà nên đợi chúng đi ba ngày rồi mới ra tay lúc nửa đêm. Đầu tiên là quan binh mai phục phía sau chùa phóng hỏa, đốt Giới Trì Viện và Tàng Kinh Các thành bãi đất bằng. Sau đó, đại điện phía trước và khắp nơi trong chùa đều nổi lửa, mọi vật trong chùa đều cháy sạch. Bọn ác tăng trong chùa liều mạng kháng cự, nhưng Bạch tổng quản đã chỉ huy cao thủ đại nội và mấy ngàn quan binh giết chết không ít. Phương trượng cũng mất mạng, lũ trọc còn lại chạy tán loạn. Không ngờ ở cạnh chùa còn có dư đảng Hồng Hoa Hội mai phục. Chúng cũng điên cuồng kháng lệnh, tương trợ cho bọn ác tăng chùa Thiếu Lâm. Bạch tổng quản đánh cho chúng cúp đuôi mà chạy, còn cướp được một đứa bé sơ sinh. Đó là con của họ Từ, một đại đầu lĩnh của Hồng Hoa Hội, hiện đã đem vào kinh thành.”

Bạch Chấn lên tiếng:

– “Đứa bé này rất có ích. Nếu sau này hoàng thượng có muốn tiêu diệt Hồng Hoa Hội, có thể dùng nó để uy hiếp bọn phỉ.”

Càn Long gật đầu không ngớt, cuối cùng nói:

– “Việc này trẫm sẽ trọng thưởng sau. Đứa bé đó giao cho Bạch Chấn cai quản. Hai ngươi tạm thời ở lại trong cung để chờ lệnh.”

Phương Hữu Đức và Bạch Chấn quì lạy tạ ơn.

Càn Long tiếp:

– “Trần Gia Lạc đã phụng chỉ dẫn cô gái Hồi tộc đi, nói là để khuyên nhủ cô ta. Bạch Chấn! Ngươi chọn người đắc lực đi theo giám sát, phải hộ tống hai người về cung. Nhất là cô gái Hồi tộc, tuyệt đối không cho trốn thoát.”

Bạch Chấn nhận chỉ xuống lầu.

Càn Long yên tâm thầm nghĩ:

– “Thiếu Lâm Tự đã bị thiêu rụi thành bình địa, vậy thì không còn chứng cớ gì nữa. Còn Bạch Chấn tinh minh lanh lợi, binh mã trong cung rất nhiều. Trần Gia Lạc dù muốn trốn cũng không thoát khỏi tay mình.”

Trần Gia Lạc trở xuống lầu thứ tư, nắm lấy tay Hương Hương công chúa mà nói:

– “Đợi trời sáng, chúng ta sẽ đi ngay!.”

Hương Hương công chúa hoan hỉ vô cùng.

Trời mờ sáng, hai người cùng đi xuống lầu. Thị vệ đã tiếp được ý chỉ nên dọc đường ra khỏi cung không thấy ai cản trở. Hương Hương công chúa đang vui sướng, trước nay vẫn hoàn toàn tin tưởng tình lang không việc gì là không làm được, thấy mình thoát khỏi hoàng cung một cách dễ dàng như vậy mà chẳng ngạc nhiên gì.

Ra khỏi cung thì trời đã sáng hẳn. Tâm Nghiễn đang dắt con ngựa trắng đứng ngoài nhìn tới nhìn lui, khi thấy Trần Gia Lạc liền vội vã chạy tới, thấy Hương Hương công chúa đứng bên chàng lập tức vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Trần Gia Lạc đón lấy dây cương ngựa, bảo:

– “Ta phải ra ngoài thành một ngày, đến tối mới trở về. Nói mọi người yên tâm là được.”

Hai người cưỡi chung ngựa, tiến về phía bắc. Lát sau vó ngựa vang lên, mấy chục thị vệ giục ngựa đuổi theo. Tâm Nghiễn thấy người đi đầu thân thể khô cằn, nhận ra Bạch Chấn. Cậu giật mình kinh hãi, vội trở về báo tin.

Ra khỏi thành, con ngựa trắng càng chạy càng nhanh. Hương Hương công chúa tựa sát vào người Trần Gia Lạc, nhìn cây cối hai bên đường vùn vụt chạy lùi, những nỗi ưu sầu mấy tháng nay như đã tiêu tan hết. Chưa đến nửa ngày, con ngựa trắng đã vượt qua Thanh Hà, Sa Hà, Xương Bình, rồi đến Nam Khẩu.

Trần Gia Lạc bỗng nói:

– “Chúng ta đi viếng lăng mộ của hoàng đế triều Minh đi.”

Chàng giục ngựa chạy về phía Thiên Thọ Sơn, đi qua cầu ngọc thạch thì thấy một tấm bia ghi chín chữ lớn:

– “Đại Minh Trường Lăng Thần Công Thánh Đức Bi.”

Bên phải bia đá có khắc mấy hàng chữ của Càn Long, ý nói:

– “Triều Minh mất nước, không phải mất vì có ngoại xâm, mà mất vì thời Thiên Khải Thành Tông ngu xuẩn, thái giám lộng hành, đại thần chỉ mong tiền tài tước vị, bá quan chỉ chuyên a dua nịnh hót. Khi Tư Tông lên ngôi, tuy bọn thái giám bị diệt, nhưng tình thế thiên hạ lúc này đã như con đê vỡ, không thể chữa lại. Hơn nữa chính sách hà khắc quá đáng, dân chúng bất mãn. Dân chúng khổ sở mà không có chỗ nào để kiện cáo đòi hỏi công bằng, nên tụ tập làm giặc cướp. Thiên hạ chỗ nào cũng có giặc cướp thừa cơ nổi lên, nên xã tắc nhà Minh sụp đổ. Than ôi! Người cai trị thiên hạ không thể không biết để mà cảnh giác.”

Trần Gia Lạc đọc mấy dòng chữ này, nghĩ bụng:

– “Hắn cũng biết dân chúng khổ sở mà không có nơi nào để kiện cáo cho công bằng, nên mới tụ tập lại làm giặc. Thì ra hắn không phải là không có kiến thức.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Huynh đang đọc cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đó là bút tích của hoàng đế Càn Long.”

Hương Hương công chúa tức giận, nói:

– “Tên này xấu xa đến chết đi được, đừng thèm nhìn chữ của hắn.”

Rồi kéo tay Trần Gia Lạc đi vào bên trong.

Hai bên lăng tẩm có bày cả đàn sư tử, voi, lạc đà, kỳ lân, cùng tượng của văn võ bá quan. Hương Hương công chúa nhìn những con lạc đà bằng đá, chợt nhớ đến quê hương, lệ tràn ra khóe mắt.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Thời gian gần gũi chỉ còn ngày hôm nay, phải làm sao cho nàng được vui vẻ mới đúng. Hết ngày hôm nay, trọn đời hai người chúng ta không còn lúc nào vui vẻ thế này nữa.”

Chàng cố gắng tập trung tinh thần, mỉm cười hỏi:

– “Muội muốn cưỡi lạc đà phải không?”

Rồi chàng ôm lấy nàng, nhún chân nhảy lên. Hai người cùng ngồi lên lưng một con lạc đà bằng đá, miệng hò hét loạn xạ. Hương Hương công chúa cười gập cả lưng xuống, lát sau bỗng thở dài nói:

– “Nếu con lạc đà này biết chạy, đưa chúng ta về chân núi Thiên Sơn thì tốt biết mấy.”

Trần Gia Lạc bèn hỏi:

– “Lúc đó muội sẽ làm gì?”

Hương Hương công chúa dõi mắt nhìn thẫn thờ ra xa, rồi nói:

– “Lúc đó thì muội bận rộn lắm. Phải hái hoa dạy huynh ăn, phải xén lông cho bọn cừu, phải đút sữa dê cho con nai nhỏ, phải chăm sóc phần mộ của gia gia, má má và ca ca, lại còn phải cố tìm ra tỉ tỉ…”

Trần Gia Lạc run lên một cái, liền hỏi:

– “Tỉ tỉ thế nào rồi?”

Hương Hương công chúa buồn bã đáp:

– “Đêm đó, đột nhiên bọn lính Thanh từ bốn phương tám hướng tràn tới. Tỉ tỉ đang mắc bệnh mà phải cố gắng xung phong vào đám loạn quân, rồi thất lạc. Từ đó trở đi, muội không nghe được tin tức gì về tỉ tỉ nữa. Chúng ta phải tìm ra tỉ tỉ, dù phải đi ngàn vạn dặm cũng phải tìm cho được tỉ tỉ, có đúng không?”

Trần Gia Lạc ảm đạm gật đầu, lòng đau như cắt, mãi không nói được lời nào.

Hai người lại lên ngựa đi tiếp, nhắm thẳng con đường lên núi, chẳng bao lâu đã tới Cư Dung Quan. Thấy hai bên là tầng tầng lớp lớp vách núi dựng đứng tới trời, còn Trường Thành liên miên bất tận như một con rắn dài uốn khúc từ núi này sang núi nọ, Hương Hương công chúa hỏi:

– “Tại sao người ta phải bỏ rất nhiều công sức ra xây bức tường dài như thế?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Để đề phòng quân địch từ phương Bắc đánh vào. Ở hai phía nam bắc dãy Trường Thành này, đã có không biết bao nhiêu người vì nó mà mất mạng.”

Hương Hương công chúa lại nói:

– “Nam nhân thật là kỳ lạ. Nếu mọi người cứ vui vẻ cùng nhảy múa, ca hát với nhau thì hay biết mấy. Thế mà họ lại thích đánh nhau, khiến cho bao nhiêu người phải cực khổ hay mất mạng, hoàn toàn chẳng có ích lợi gì.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Nếu hoàng đế chịu nghe lời muội, muội có đồng ý bảo y đừng đi đánh những người đáng thương ở chốn biên cương nữa hay không?”

Hương Hương công chúa thấy chàng nói ra vẻ trịnh trọng, bèn đáp:

– “Muội vĩnh viễn không muốn gặp tên hoàng đế xấu xa đó nữa.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Nếu muội có thể bắt y nghe lời muội, thì muội phải khuyên y đừng làm việc xấu nữa, hãy làm điều tốt cho bá tánh. Muội có đồng ý với ca ca không?”

Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Ca ca nói gì mà kỳ vậy? Ca ca muốn muội làm việc gì, chẳng lẽ muội không làm theo ư?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Kha Tư Lệ, đa tạ muội!”

Hương Hương công chúa mỉm cười. Hai người tựa vào nhau đi một đoạn trên Trường Thành, nàng bỗng nói:

– “Đột nhiên muội nghĩ đến một việc.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Việc gì thế?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hôm nay muội đi chơi rất vui, có phải vì phong cảnh ở đây đẹp đẽ hay không? Chắc không phải vậy, mà vì có ca ca ở đây. Chỉ cần có ca ca ở bên, dù là nơi xấu xí nhất muội cũng thích.”

Càng thấy nàng vui vẻ, Trần Gia Lạc càng đau khổ trong lòng. Chàng bèn hỏi:

– “Muội có việc gì muốn ca ca làm hay không?”

Hương Hương công chúa ngẩn ra một chút rồi nói:

– “Ca ca đối xử với muội rất tốt, việc gì cũng làm cho muội. Những thứ mà muội thích, muội khỏi cần nói mà ca ca cũng đi lấy cho muội rồi.”

Nói xong, nàng lấy trong lòng ra đóa Tuyết Trung Liên, tuy đã khô héo nhưng hương thơm vẫn nồng nàn. Nàng mỉm cười nói:

– “Chỉ có một việc ca ca không chịu làm. Muội muốn nghe ca ca hát, mà ca ca cứ nói là không biết.”

Trần Gia Lac cười nói:

– “Thật sự ca ca chưa từng hát bao giờ cả.”

Hương Hương công chúa giả vờ nhăn nhó:

– “Hay lắm! Thế là từ nay về sau, muội cũng không hát cho ca ca nghe nữa.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đời này kiếp này, hai người chúng ta chỉ còn gặp nhau ngày hôm nay là hết. Mình hát cho nàng nghe, để nàng tươi cười một chút cũng là việc tốt.”

Chàng liền đáp:

– “Hồi nhỏ, ca ca từng nghe má má hát mấy bài, còn nhớ loáng thoáng. Bây giờ, ca ca hát cho muội nghe, nhưng muội không được cười đâu.”

Hương Hương công chúa vỗ tay nói:

– “Được! ca Ca hát nhanh lên đi!”

Trần Gia Lạc ngẫm nghĩ một lúc, rồi cất giọng hát:

– “Dưới cơn mưa phùn nho nhỏ, trong tiếng gió thổi nhẹ nhàng, dưới một ngôi lầu có chàng trai đang hát những bài hát cổ xưa. Cô gái tưởng là tình lang, mở miệng mắng thầm. Nhìn kỹ thì không phải chàng trai tuấn tú của mình, trong lòng cô hoảng sợ.”

Chàng hát xong, dùng tiếng Hồi giải thích một lần. Hương Hương công chúa nghe xong cười nói:

– “Thì ra mắt của vị cô nương này không tốt lắm”

Nàng đang vui cười, đột nhiên thấy khóe mắt của Trần Gia Lạc đỏ lên và lệ đã chảy xuống mặt, kinh hãi nói:

– “Tại sao huynh lại thương tâm? À, nhất định là ca ca đang nhớ đến mẫu thân, nhớ đến lúc được nghe bài hát đó. Chúng ta đừng hát nữa.”

Hai người nhìn khắp trong ngoài tường thành. Bên ngoài tường thành là vách cao ngất, bên trong lại có bậc thang bằng đá, chính giữa có đường đi rộng rãi, cứ ba chục trượng lại có một phong hỏa đài. Trần Gia Lạc nhìn thấy những cái bệ để đốt lửa này, chợt nghĩ đến Hoắc Thanh Đồng từng đốt lang yên ở Hồi Cương mà đại phá quân Thanh, không hiểu bây giờ nàng sống chết thế nào. Chàng càng rầu rĩ hơn, tuy cố gắng mỉm cười với Hương Hương công chúa nhưng không khỏi lộ ra vẻ mặt sầu bi.

Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Muội biết ca ca đang nghĩ gì rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Muội nói xem có đúng không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Ca ca đang nhớ tỉ tỉ của muội.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Tại sao muội biết?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Trước đây ba người chúng ta cùng ở trong cổ thành, tuy rằng nguy hiểm nhưng muội thấy ca ca vui vẻ biết bao. Ôi! Ca ca cứ yên tâm đi!”

Trần Gia Lạc nắm chặt lấy tay nàng mà hỏi:

– “Muội nói gì thế?”

Hương Hương công chúa thở dài rồi nói:

– “Trước đây muội chỉ là một đứa bé, cái gì cũng không hiểu. Nhưng mấy tháng nay ở trong hoàng cung, ngày nào muội cũng nghĩ lại những lúc được ở bên cạnh ca ca, hiểu ra rất nhiều chuyện trước kia không biết. Nhất định tỉ tỉ của muội rất thích ca ca, và ca ca cũng rất thích tỉ tỉ, có phải vậy không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Chuyện này ca ca không nên giấu muội.”

Hương Hương công chúa nói tiếp:

– “Nhưng muội biết ca ca cũng thật sự thích muội. Muội không có ca ca thì không thể nào sống nổi. Chúng ta mau mau đi tìm tỉ tỉ, dù phải đến chân trời góc bể cũng quyết tìm ra. Sau khi tìm được tỉ tỉ, ba người chúng ta sẽ vĩnh viễn sống chung vui vẻ. Ca ca nghĩ xem, như vậy thì tốt biết mấy.”

Nói đến đây, ánh mắt nàng đột nhiên sáng rực, sắc mặt tươi tỉnh, chứng tỏ trong lòng hoan hỉ đến cực độ. Trần Gia Lạc nắm chặt bàn tay mềm mại của Hương Hương công chúa, dịu dàng nói:

– “Kha Tư Lệ, muội thật là tốt! Muội cùng tỉ tỉ đều là những người tốt nhất, đẹp nhất trên thế gian này.”

Hương Hương công chúa ngồi trên một cái bệ để đốt lửa, nhìn ra xa xa. Đột nhiên nàng thấy ở phía tây có mặt nước óng ánh dưới mặt trời, chăm chú lắng nghe lại có tiếng nước róc rách, bèn vui vẻ hỏi:

– “Ca ca có nghe âm điệu đó không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Rất giống tiếng đàn.”

Hương Hương công chúa bảo:

– “Chúng ta qua đó xem thử!”

Hai người đi vòng qua những tảng đá núi lộn xộn, đến gần thì thấy một nguồn nước suối từ giữa núi đá chảy vọt ra. Tiếng nước rơi xuống đá vang ra những tiếng lúc bổng lúc trầm, đúng là giống như tiếng nhạc.

Hương Hương công chúa đến gần nguồn suối, mỉm cười hỏi:

– “Muội rửa chân ở đây có được không?”

Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Thì muội cứ rửa đi.”

Nàng cởi giầy, cởi tất, vừa nhúng chân vào nước đã cảm thấy mát rượi cả người. Nguồn suối trong xanh chảy qua bàn chân trắng như bọc một lớp mỡ dê. Trần Gia Lạc đột nhiên nhìn thấy bóng mình ánh trên mặt nước, thì ra mặt trời đã nghiêng về phía tây rồi. Chàng lấy trong bọc ra một ít lương khô để hai người cùng ăn.

Hương Hương công chúa tựa vào người chàng, vừa ăn bánh vừa dùng khăn tay để lau chân. Trần Gia Lạc nghiến chặt răng lại, nói:

– “Kha Tư Lệ! Ca ca có một việc cần nói với muội.”

Nàng quay mặt lại, vòng hai tay ôm lấy chàng, rồi vùi đầu vào ngực chàng mà dịu dàng nói:

– “Muội biết ca ca rất yêu muội. Ca ca không nói muội cũng hiểu, không cần nói nữa”

Trần Gia Lạc đau nhói trong lòng, không sao nói ra nổi câu mình muốn nói. Hồi lâu chàng mới lên tiếng:

– “Khi ở Ngọc Phong, chúng ta đã đọc di thư của Mã Mễ Nhi. Muội còn nhớ hay không?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Bây giờ cô ấy đã cùng ở với A Lý của mình trên trời rồi, thật là sung sướng.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đạo Islam của muội tin rằng những người tốt sau khi chết sẽ vĩnh viễn được hưởng phúc trên thiên đường. Có phải vậy không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Đương nhiên là vậy”

Trần Gia lạc nói:

– “Gần đây ngày nào ca ca cũng đọc kinh Koran, nhưng có rất nhiều chỗ không hiểu. Sau khi trở về Bắc Kinh, ca ca sẽ đi tìm một vị giáo sĩ của đạo Islam, nhờ ngài dạy dỗ cho ca ca trở thành một giáo đồ Islam ngoan đạo.”

Hương Hương công chúa cả mừng, không ngờ chàng tự động qui theo Hồi Giáo. Nàng ngẩng đầu lên hỏi:

– “Ca ca! Ca ca làm như thế thật ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ca ca nhất định sẽ làm như thế.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Vì yêu muội, ngay cả việc này ca ca cũng chịu làm. Đó vốn là một điều muội không dám tưởng tượng.”

Trần Gia Lạc từ từ nói:

– “Ca ca muốn sau khi chết ngày nào cũng được ở bên muội, vì suốt đời này chúng ta không được ở cùng một chỗ nữa.”

Nghe xong câu này, Hương Hương công chúa như bị sét đánh, ngơ ngác hồi lâu, run giọng nói:

– “Ca ca… Ca ca nói gì vậy? Suốt đời này chúng ta không được ở cùng một chỗ nữa ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Hết ngày hôm nay, chúng ta sẽ không thể gặp nhau được nữa.”

Hương Hương công chúa kinh hãi hỏi:

– “Tại sao lại thế?”

Thân thể của nàng run lên bần bật, hai giọt lệ đã nhỏ lên vạt áo Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc dịu dàng ôm chặt lấy nàng, khẽ nói:

– “Kha Tư Lệ! Chỉ cần được ở bên muội, dù không có cơm ăn áo mặc, ngày nào cũng bị đánh mắng sỉ nhục, ca ca cũng cam lòng. Nhưng muội có nhớ Mã Mễ Nhi hay không? Cô nương ấy xinh đẹp dũng cảm, vì không muốn để người Hồi tộc tiếp tục bị bọn bạo chúa bức hiếp, nàng chấp nhận chia tay tình lang A Lý, chấp nhận cho tên bạo chúa kia sỉ nhục…”

Hương Hương công chúa bủn rủn cả người, tuột xuống gối trên đùi chàng, hỏi nhỏ:

– “Ca ca muốn muội đi theo tên hoàng đế đó để đâm chết hắn, có phải không?”

Trần Gia Lạc lắc đầu:

– “Không phải vậy! Y là anh ruột của ca ca.”

Sau đó, chàng kể tường tận cho nàng biết mối quan hệ giữa mình với Càn Long, mưu đồ của Hồng Hoa Hội, lời thề trên Lục Hòa Tháp, và lời yêu cầu của Càn Long đêm qua.

Hương Hương công chúa nghe xong, biết hạnh phúc ngày đêm trông đợi tưởng như đã đến tay mà trong chốc lát bỗng tuột mất rồi. Nàng chấn động tâm thần, không gượng nổi nữa, ngất xỉu ngay trên đùi Trần Gia Lạc.

Khi nàng tỉnh dậy thì thấy Trần Gia Lạc đang ôm lấy mình, áo mình ướt sũng một khoảng lớn, dĩ nhiên là do nước mắt của hai người làm ướt. Nàng đột nhiên đứng dậy, nói:

– “Ca ca chờ muội một chút!”

Nàng quay lưng, từ từ bước tới một tảng đá lớn xa xa, quì rạp xuống, hướng về phía Tây mà cầu nguyện chân thành. Nàng cầu xin chân thánh A-la chỉ điểm, hướng dẫn mình phải làm gì. Ánh chiều nhợt nhạt trên áo nàng, trên tấm lưng đẹp như tranh, rất đỗi dịu dàng, nhưng lại lộ ra nỗi đau khổ vô bờ bến.

Lát sau nàng quay lại nói:

– “Ca ca muốn muội làm gì, muội sẽ nghe theo.”

Trần Gia Lạc tung người nhảy đên, hai người ôm chặt lấy nhau, không nói thêm được câu nào. Rất lâu, nàng mới khẽ lên tiếng:

– “Nếu biết trước chỉ có một ngày hôm nay, muội sẽ không đến chỗ này. Muội sẽ đòi ca ca ôm chặt muội suốt ngày, không thả muội ra.”

Trần Gia Lạc không đáp, chỉ trìu mến ôm chặt lấy nàng. Rất lâu nữa, nàng bỗng nói:

– “Từ lúc rời khỏi quê hương, muội chưa tắm lần nào. Bây giờ muội muốn tắm rửa.”

Nàng lấy thanh đoản kiếm ra, cắt đứt hết những sợi chỉ đã may chặt y phục, từ từ cởi bỏ. Trần Gia Lạc đứng dậy nói:

– “Ca ca qua bên kia chờ muội.”

Hương Hương công chúa vội nói:

– “Không, không! Muội muốn huynh nhìn muội. Lần đầu tiên ca ca gặp muội, muội cũng đang tắm… Hôm nay là lần cuối cùng, muội muốn huynh nhìn thấy muội tắm để vĩnh viễn đừng quên muội.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Kha Tư Lệ! Muội nghĩ rằng ca ca sẽ quên muội hay sao?”

Nàng vẫn nài nỉ:

– “Muội nói sai rồi, nhưng ca ca đừng rời khỏi đây!”

Trần Gia Lạc chỉ còn cách ngồi lại, nhìn nàng trút bỏ y phục. Trong tiếng nước chảy róc rách, ánh nắng màu vàng xuyên vào giữa hai ngọn núi mà chiếu lên thân thể xinh đẹp tuyệt trần. Trần Gia Lạc bỗng thấy ngây ngất choáng váng, không dám nhìn thẳng. Nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt ngây thơ của nàng, đột nhiên chàng cảm thấy nàng như một đứa bé ba bốn tuổi, cũng khả ái và trong sáng như thế.

Đột nhiên chàng nghĩ:

– “Đấng tạo hóa của nàng đã tạo ra được một tạo vật đẹp đẽ như thế, nhất định phải là một vị thần toàn trí toàn năng.”

Trong lòng chàng nảy ra ý nghĩ cảm tạ, tình cảm tôn kính, bất giác quì xuống đất nhìn về phía tây, để hai tay lên trán rồi lạy phục xuống. Từ thời niên thiếu chàng đã ở Hồi Cương, thường xuyên nhìn thấy nghi lễ của người Hồi cầu nguyện thánh A-la.

Hương Hương công chúa đợi chàng cầu nguyện xong mới đứng dậy, lau khô những giọt nước trên mình, chậm rãi mặc y phục vào. Nàng vừa luyến tiếc vừa thương cảm, thầm nghĩ:

– “Thế là tấm thân này không bao giờ được cho người yêu nhìn thấy nữa.”

Nàng lau khô tóc, rồi lại ngồi vào trong lòng Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca đã từng kể muội nghe chuyện Ngưu Lang Chức Nữ, muội còn nhớ hay không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Nhớ chứ! Ca ca còn đọc cho muội nghe một bài thơ, nói rằng mỗi năm gặp một lần, nhưng muôn triệu năm còn gặp, hơn hẳn đời người gặp nhau chỉ được trăm năm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Tuy rằng chúng ta không được cùng ở một nơi nữa, nhưng nhất định chân thánh A-la sẽ cho chúng ta gặp nhau trên trời. Trên sa mạc và ở đây, chúng ta đã rất hạnh phúc. Thời gian ngắn ngủi, nhưng so với nhiều đôi vợ chồng sống bên nhau mấy chục năm trời, hai người chúng ta còn vui vẻ hơn rất nhiều.”

Hương Hương công chúa nghe chàng dịu dàng an ủi, nhìn mặt trời từ từ lặn xuống phía sau dãy núi. Tấm lòng nàng hình như cũng theo mặt trời mà lặn xuống vậy. Nàng đột nhiên nhảy chồm lên, dậm chân khóc lóc:

– “Đại ca, đại ca! Mặt trời xuống núi rồi.”

Trần Gia Lạc nghe thấy câu này mà trái tim vỡ vụn, nắm tay nàng nói:

– “Kha Tư Lệ! Sao ca ca lại bắt muội phải khổ sở thế này?”

Hương Hương công chúa nhìn vào chỗ mặt trời sắp khuất, khẽ nói:

– “Ước gì mặt trời có thể mọc trở lên, dù chỉ một phút một giây ngắn ngủi…”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca vì đồng bào của mình mà chịu khổ là việc nên làm. Nhưng những người đó, muội muội chưa bao giờ gặp, cũng chưa từng thương yêu họ…”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Muội yêu ca ca, vậy họ không phải đồng bào của muội hay sao? Tất cả huynh đệ người Hồi của muội, không phải ca ca cũng yêu họ hay sao?”

Nhìn thấy trời tối dần, mặt trời đã khuất hẳn, trong lòng nàng giá lạnh hẳn đi. Nàng bảo:

– “Chúng ta trở về đi! Hôm nay muội rất hạnh phúc. Kiếp này, đối với muội như thế là đủ rồi.”

Trần Gia Lạc buồn rầu không đáp. Hai người lên ngựa, theo đường cũ trở về. Hương Hương công chúa không nói gì nữa, cũng không ngoảnh lại nhìn những cảnh đẹp vừa được cùng nhau hưởng thụ.

Đi chưa tới nửa giờ, đột nhiên nghe tiếng vó ngựa rộn lên, mấy chục kỵ sĩ từ phía trước chạy tới. Người đi đầu chính là Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn, vừa thấy Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa là rạng rỡ hẳn lên, vẫy tay ra sau một cái, rồi nhảy xuống ngựa đứng ở bên đường. Bốn mươi mấy tên thị vệ đi sau y đều xuống ngựa hết.

Thì ra Bạch Chấn phụng chỉ giám thị hai người, nào ngờ con ngựa trắng mà Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa cưỡi chạy nhanh như gió, những con ngựa bình thường không sao đuổi kịp. Dọc đường y hỏi thăm liền miệng, đổi ngựa mấy lần, không dám ăn uống nghỉ ngơi gì hết, cứ đuổi theo mãi đến xế chiều. Hắn đang lo lắng thì đột nhiên gặp hai người dọc đường, thật giống như bắt được báu vật từ trên trời rơi xuống.

Trần Gia Lạc không lý gì đến chúng, cứ thúc ngựa chạy về phía trước. Đột nhiên phía Nam cũng có tiếng vó ngựa vang lên. Vệ Xuân Hoa cưỡi con ngựa đầu tiên, vừa chạy tới vừa la lớn:

– “Tổng đà chủ! Bọn thuộc hạ đã đến đây rồi!”

Tiếp theo là Lục Phi Thanh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường thị song hiệp nối nhau chạy tới.

Hồi 20: Xương thịt mất còn đây bích huyết – Mộ phần không chẳng lạc hương hồn

Từ mờ sáng Trần Gia Lạc dẫn Hương Hương công chúa rời khỏi hoàng cung, trong lòng Càn Long cứ thấp thỏm không yên. Dần dần trời sáng hẳn, mặt trời leo từ phía đông lên đến đỉnh đầu. Bọn thái giám bày ngự thiện, tuy là sơn trân hải vị, nhưng Càn Long không nuốt được miếng nào.

Hôm đó Càn Long không triệu tập bá quan văn võ, cả ngày hết ngồi lại nằm, vừa nằm xuống đã ngồi lên. Hắn phái một đám thị vệ đi thăm dò tin tức, nhưng mãi đến khi trời tối hẳn, mặt trăng đã nhô khỏi tường thành hoàng cung mà vẫn không có tên nào trở về bẩm báo.

Càn Long ngồi trên Bảo Nguyệt Lâu lo lắng bần thần, rồi cố bắt mình nghĩ sang chuyện khác. Hắn nhìn bức Hán Cung Xuân Hiểu Đồ treo trên vách, đột nhiên nghĩ bụng:

– “Con bé này thích Trần Gia Lạc, nhất định thích nhìn y phục người Hán. Lát nữa chúng về cung, chắc Trần Gia Lạc đã khuyên được nó phục tùng mình. Tại sao ta không mặc y phục kiểu Hán, để nó ngạc nhiên mừng rỡ một phen?”

Hắn bèn hạ lệnh cho thái giám lấy y phục kiểu nhà Minh. Nhưng trong chốn thâm cung làm sao tìm ra của đó? May mà trong đám thái giám có một tên thông minh đột xuất, chạy tới đoàn hát tuồng trong hoàng cung, đem về một bộ quần áo phường tuồng, rồi giúp hoàng thượng mặc vào.

Càn Long cả mừng soi bóng vào gương, tự thấy mình phong lưu tiêu sái hẳn lên. Hắn thấy bên thái dương có mấy sợi tóc bạc, liền vội vàng bảo tên tiểu thái giám lấy nhíp nhổ ngay.

Hắn đang cúi đầu cho tiểu thái giám nhổ tóc bạc, thì nghe sau lưng có tiếng bước chân đi tới. Một tên thái giám khẽ hô:

– “Thái hậu giá lâm!”

Càn Long giật mình ngẩng đầu lên, quả nhiên trong gương đã xuất hiện thái hậu. Thấy mặt mụ tái xanh tái xám, thái độ nghiêm nghị, vẻ mặt giận dữ, Càn Long vội vã quay lại vấn an:

– “Giờ này thái hậu còn chưa đi nghỉ hay sao?”

Rồi hắn dìu mẫu thân đến ngồi trên giường. Thái hậu vẫy tay một cái, bọn thái giám lui ra ngoài hết. Hồi lâu, mụ mới lên tiếng trách móc:

– “Bọn nô tái nói hôm nay ngươi không khỏe, không thiết triều, cũng không ăn cơm. Bây giờ ta đến đây xem thử ngươi thế nào.”

Càn Long đáp:

– “Bây giờ hài nhi khỏe rồi. Chỉ vì ăn phải thức ăn nhiều dầu mỡ nên hơi đầy bụng. Không có chuyện gì lớn, nên không dám kinh động đến thái hậu.”

Thái hậu “hừ” một tiếng rồi nói:

– “Chắc là ngươi ăn phải dầu mỡ của người Hồi hay người Hán rồi!”

Càn Long kinh hãi một phen, đáp bừa:

– “Chắc tại hôm qua hài nhi ăn món thịt dê nướng.”

Thái hậu nói:

– “Đó là món ăn của người Mãn Châu chúng ta. À, hay là ngươi chán làm người Mãn Châu rồi?”

Càn Long không dám trả lời. Thái hậu lại hỏi tiếp:

– “Con bé người Hồi kia đi đâu rồi?”

Càn Long đáp:

– “Tính khí của cô ấy không được tốt, hài nhi đã cho người dẫn đi giáo huấn.”

Thái hậu nói:

– “Nó mang kiếm trong mình, dù chết cũng không chịu phục tùng ngươi. Ngươi cho người giáo huấn thì có tác dụng gì? Bảo ai đi giáo huấn nó vậy?”

Càn Long càng nghe hỏi càng lo lắng, đành nói dối:

– “Một tên thị vệ lớn tuổi họ Bạch.”

Thái hậu ngẩng đầu lên, rất lâu không nói gì. Mụ bỗng cười khẩy một cái, âm hiểm nói:

– “Năm nay ngươi đã bốn mươi mấy tuổi rồi, chẳng cần má má nữa làm chi!”

Càn Long kinh hãi nói:

– “Thái hậu đừng giận! Hài nhi có lỗi, xin thái hậu dạy dỗ.”

Thái hậu nói:

– “Ngươi là hoàng đế có cả thiên hạ, muốn gì được nấy, muốn nói dối cũng nói dối được ngay.”

Càn Long biết tai mắt của thái hậu rất nhiều, việc này chắc chắn không giấu được mụ nữa. Hắn hạ giọng nói:

– “Còn một nho sinh giúp giáo huấn cô gái đó. Con đã gặp người này ở Giang Nam, học vấn rất cao…”

Thái hậu gằn giọng:

– “Hắn họ Trần, ở Hải Ninh, có đúng không?”

Càn Long cúi gầm xuống, không dám lên tiếng nữa. Thái hậu lại bảo:

– “Chẳng trách ngươi đã mặc quần áo của người Hán rồi. Trước sau gì ngươi cũng giết ta.”

Khi nói câu này, cả sắc mặc lẫn âm thanh mụ đều vô cùng giận dữ. Càn Long kinh hãi, vội quỳ cả hai gối xuống đất, vừa đập đẩu lia lịa vừa nói:

– “Nếu hải nhi có lòng bất hiếu, xin trời tru đất diệt.”

Thái hậu phẩy tay áo một cái, bước xuống lầu. Càn Long vội chạy theo. Nhưng chạy được mấy bước, hắn nhìn lại thấy mình đang mặc quan phục, đội quan mạo kiểu nhà Minh, nếu bị người khác bắt gặp thì còn ra thể thống gì nữa, nên vội vã vào thay bộ đồ khác. Hắn ra hỏi thái giám, biết thái hậu đang ở cạnh Võ Anh Điện, bèn ba chân bốn cẳng chạy tới mà nói:

– “Xin thái hậu bớt giận! Hài nhi có chỗ nào không phải, xin thái hậu cứ dạy bảo.”

Thái hậu lạnh nhạt hỏi:

– “Mấy ngày nay ngươi triệu tên họ Trần đó vào cung làm chi? Khi ngươi ở Hải Ninh đã làm những chuyện gì?”

Càn Long cúi đầu không đáp. Thái hậu tức giận nói tiếp:

– “Ngươi thật sự muốn khôi phục kiểu ăn mặc của người Hán, muốn đuổi hết người Mãn Châu chúng ta ra ngoài quan ải, có phải vậy không?”

Càn Long run rẩy nói:

– “Thái hậu đừng nghe những lời bọn tiểu nhân sàm tấu. Hài nhi làm gì có ý này?”

Thái hậu hỏi:

– “Còn tên họ Trần kia, ngươi sẽ đối xử với hắn như thế nào?”

Càn Long đáp:

– “Bè đảng của hắn rất đông, dưới tay hắn có không ít những kẻ liều mạng, võ công cao cường. Hài nhi để hắn thân cận vì muốn tìm cơ hội tốt để giết tận tuyệt hết cả bọn, tránh nhổ cỏ mà không nhổ rễ di họa về sau.”

Thái hậu nghe vậy, sắc thái hơi hòa hoãn lại, gặng hỏi:

– “Ngươi nói thật đấy chứ?”

Càn Long thấy cách hỏi của thái hậu, biết bí mật của mình đã bị tiết lộ, không sao chối được nữa. Hắn bèn nghiến răng hạ quyết tâm tru diệt quần hùng Hồng Hoa Hội, lên tiếng trả lời:

– “Trong vòng ba ngày, tên họ Trần đó sẽ đầu một nơi thân một nẻo.”

Sắc mặt âm trầm của thái hậu đột nhiên tươi lên, mỉm cười nói:

– “Hay lắm! Như vậy mới không sai lời di huấn của tổ tông.”

Mụ dừng lại một lúc rồi nói tiếp:

– “Ngươi đi theo ta!” rồi đứng dậy đi vào chánh điện. Càn Long chỉ còn cách theo vào Võ Anh Điện.

Thái hậu vừa tới cửa điện, thái giám hô vang một tiếng, cửa điện mở ra. Trong điện đèn đuốc sáng trưng, bài trí huy hoàng, thái giám chấp sự xếp thành hai dãy, tám người vương công quì xuống tiếp giá. Thái hậu và Càn Long lên trên điện, ngồi vào hai chiếc ghế đặt ở giữa.

Càn Long nhìn xuống, thấy tám người vương công đó đều là quý tộc trong hoàng thất. Người quì đầu tiên là Trang thân vương Doãn Lộc, ngoài ra còn có Lý thân vương, Di thân vương, Quả thân vương, Thành thân vương, Hòa thân vương, Nhu quận vương và Thận quận vương, đều là đại thần, bà con rất gần với mình.

Càn Long đang tâm trí bất định, không biết thái hậu có chủ ý gì, thì nghe mụ chậm rãi nói:

– “Theo lệ cũ thì Thượng Tam Kỳ trong Bát Kỳ của chúng ta do hoàng thượng đích thân chỉ huy. Nhưng do hoàng thượng tuổi tác còn nhỏ, nên khi tiên đế băng hà đã di mệnh ba kỳ này do ba người trong hoàng thất chia nhau thống lãnh. Thời kỳ đó biên cương loạn lạc, phải liên tục xuất quân, di mệnh của tiên đế mãi chưa được thực hiện. Hiện nay nhờ hồng phúc tổ tông mà Hồi Cương đã được dẹp yên. Bắt đầu từ hôm nay, Bát Kỳ sẽ do tám người các ngươi thống lãnh. Các ngươi nhất định phải dụng tâm làm cho tốt, để báo ân hoàng thượng.”

Tám người liền khấu đầu tạ ơn. Càn Long thầm nghĩ:

– “Thì ra bà ta vẫn chưa yên tâm, muốn chia cắt binh quyền của mình.”

Thái hậu bảo:

– “Hoàng thượng hãy phân phối đi.”

Càn Long biết mình đã ở thế hạ phong. Dù hắn không muốn chia cắt binh quyền, nhưng rõ ràng thái hậu đã bố trí nghiêm mật, nếu hắn không đồng ý thì mụ sẽ có cách đối phó ngay. Vì thế, hắn ngoan ngoãn đem chia Bát Kỳ gồm cờ vàng, cờ trắng, cờ đỏ, cờ lam, cờ viền vàng, cờ viền trắng, cờ viền đỏ, cờ viền lam chia cho tám người tôn thất này thống lãnh.

Tám bậc vương công đều cảm thấy chuyện này kỳ lạ, âm thầm nghĩ:

– “Theo quy củ từ hồi khai quốc cho đến nay, ba kỳ là cờ vàng, cờ viền vàng, cờ trắng đều do đích thân hoàng đế thống lãnh, gọi là Thượng Tam Kỳ. Năm kỳ còn lại gọi là Hạ Ngũ Kỳ mới do các đô thống người Mãn Châu thống lãnh. Bây giờ, thái hậu đem chia cho Bát Vương thống lãnh là trái quy luật xưa nay của tổ tông, rõ ràng là muốn giảm hẳn quyền lực của hoàng đế.”

Họ thấy ý chỉ của thái hậu rất nghiêm, không ai dám chối từ, lập tức quì xuống khấu đầu tạ ơn. Có người thầm nghĩ:

– “Ngày mai ta phải làm bản tấu xin trả lại binh quyền, tránh phải gánh lấy họa sát thân.”

Thái hậu vẫy tay một cái, Trì Huyền bưng tới một cái khay, quì gối dâng lên. Trong khay đó, có một tấm vải màu vàng, trên có đặt một hộp sắt. Thái hậu cầm lấy, mở nắp hộp lấy ra một cuộn giấy nhỏ. Càn Long nghiêng đầu xem thử, thấy ngoài cuộn giấy có ghi hai chữ Di Chiếu, do chính tay Ung Chính viết. Bên cạnh còn ghi chú một hàng chữ nhỏ:

– “Khi quốc gia có biến, các thân vương thống lãnh Bát Kỳ cùng mở ra xem.”

Càn Long lập tức biến sắc nghĩ thầm:

– “Thì ra phụ vương cũng sợ bí mật về thân thế mình bị tiết lộ, đã phòng hờ từ trước. Nếu mình cả gan thay đổi quy củ của tổ tông, khởi sự phản Mãn phục Hán, chắc chắn bọn thân vương thống lãnh Bát Kỳ sẽ theo di chiếu mà phế bỏ mình, lập một hoàng đế mới.”

Hắn cố trấn tĩnh lại rồi nói:

– “Tiên đế đã lo rất xa, sáng suốt tính được chuyện trăm năm về sau. Nếu hài nhi giống tiên đế được phần nào, nhất định thái hậu đỡ phải lo lắng cho hài nhi rất nhiều.”

Thái hậu đích thân khóa hộp sắt lại rồi giao cho Trang Thân Vương, bảo:

– “Ngươi hộ tống di chiếu của tiên vương đến Tuy Thành Điện ở Ung Hòa Cung, cất vào phía sau tấm biển chính, phái một trăm thân binh canh giữ.”

Mụ dừng lại một chút rồi tiếp:

– “Dù có ngự chỉ của đương kim hoàng đế, cũng không được rời xa một bước.”

Trang Thân Vương nhận chỉ, đưa hộp di chiếu đến Ung Hòa Cung. Cung này ở cửa An Định, phía Tây Bắc thành Bắc Kinh, vốn là phủ bối lặc khi Ung Chính chưa lên ngôi hoàng đế. Sau khi Ung Chính chết, Càn Long tưởng nhớ phụ vương nên đã xây dựng tòa cung này thành một ngôi chùa Lạt Ma.

Thái hậu bố trí xong xuôi rồi mới yên tâm, thở ra một hơi mà nói:

– “Cơ nghiệp này là vạn thế, phải trông nom nghiêm cẩn mới được!”

* * *

Càn Long tiễn thái hậu ra khỏi điện, lập tức gọi thị vệ đến hỏi tin. Bạch Chấn bẩm:

– “Trần công tử đã đưa nương nương về cung. Nương nương đang ở trên Bảo Nguyệt Lâu đợi tiếp giá.”

Càn Long cả mừng, gấp rút rời khỏi điện. Về đến cửa Bảo Nguyệt Lâu, hắn mới quay lại hỏi Bạch Chấn:

– “Dọc đường có gặp chuyện gì không?”

Bạch Chấn đáp:

– “Bọn nô tài đã gặp rất nhiều thủ lĩnh của Hồng Hoa Hội. May mà Trần công tử ngăn cản hai bên nên không xảy ra việc gì cả.”

Càn Long lên lầu, quả nhiên thấy Hương Hương công chúa đang ngồi nhìn vào vách. Hắn vui vẻ hỏi:

– “Đi du ngoạn ở Trường Thành có vui không?”

Hương Hương công chúa không đáp. Càn Long nghĩ bụng:

– “Đợi ta sắp xếp đại sự xong rồi sẽ hỏi đến cô nương.”

Hắn về phòng bên cạnh, hạ lệnh gọi Phúc Khang An vào cung.

Không bao lâu Phúc Khang An chạy tới. Càn Long hạ lệnh cho hắn thống lĩnh binh sĩ của Kiêu Kỵ Doanh đến mai phục ở Ung Hòa Cung, rồi dặn thêm mấy việc nữa. Phúc Khang An tiếp chỉ đi ra.

Càn Long lại hạ lệnh bảo Bạch Chấn thống lĩnh thị vệ mai phục trong ngoài Ung Hòa Cung. Sau đó hắn dặn:

– “Tối mai, ta thiết yến ở đại điện của Ung Hòa Cung. Ngươi đi gọi Trần công tử cùng tất cả thủ lĩnh và bằng hữu trong Hồng Hoa Hội đến đó dự yến.”

Bạch Chấn nghe vậy, biết hoàng thượng muốn một phen giết sạch quần hùng Hồng Hoa Hội. Hắn nghĩ bụng:

– “Nhất định sẽ có một trận ác chiến rất lớn!”

Bạch Chấn vâng dạ xong, đang muốn rời khỏi thì đột nhiên Càn Long gọi:

– “Khoan đã!”

Bạch Chấn quay lại, Càn Long dặn tiếp:

– “Gọi đại lạt ma Hô Âm Khắc ở Ung Hòa Cung đến đây.”

Khi Hô Âm Khắc vào khấu kiến, Càn Long hỏi:

– “Ngươi đến kinh thành đã mấy năm rồi?”

Hô Âm Khắc đáp:

– “Thần phục thị hoàng thượng đã hai mươi mốt năm rồi.”

Càn Long hỏi:

– “Ngươi muốn trở về Tây Tạng không?”

Hô Âm Khắc dập đầu không đáp. Càn Long lại hỏi:

– “Ở Tây Tạng chỉ có hai Phật sống là Đạt Lai và Ban Thiền, còn Thanh Hải thì không phải. Tại sao không có Phật sống thứ ba?”

Hô Âm Khắc đáp:

– “Tâu hoàng thượng, đó là qui luật xưa nay. Từ khi Quốc sư…”

Càn Long ngắt lời hắn, nói tiếp:

– “Nếu ta phong cho ngươi làm Phật sống thứ ba, đi cai quản ở một địa phương, thì có ai dám kháng chỉ không?”

Hô Âm Khắc mừng như lượm được vật báu trên trời rơi xuống, vừa dập đầu lia lịa vừa nói:

– “Vạn tuế Thánh ân! Thần dù tan xương nát thịt cũng khó mà báo đáp.”

Càn Long bảo:

– “Bây giờ ta nhờ ngươi lo giúp một việc. Ngươi về triệu tập bọn lạt ma thân tín, chuẩn bị lưu huỳnh, tiêu thạch, dầu đốt, củi lửa và mọi đồ dẫn hỏa. Khi người này truyền tin cho ngươi…”

Nói đến đây, hắn trỏ Bạch Chấn rồi tiếp:

– “… ngươi lập tức phóng hỏa, bắt đầu đốt từ đại điện của Ung Hòa Cung, đốt đến Tuy Thành Điện.”

Hô Âm Khắc giật bắn người, vội dập đầu nói:

– “Đây là phủ đệ của tiên vương. Di vật của tiên vương ở đó rất nhiều, thần không dám…”

Càn Long giận dữ quát:

– “Ngươi dám kháng chỉ ư?”

Hô Âm Khắc hoảng sợ đến nỗi đầy người mồ hôi lạnh ngắt, run giọng đáp:

– “Thần… thần… thần xin tuân chỉ lo liệu.”

Càn Long nói:

– “Vụ này chỉ cần tiết lộ ra ngoài một tiếng, ta sẽ giết sạch cả ngươi, cả tám trăm lạt ma trong Ung Hòa Cung, không sót một tên.”

Ngừng một lúc, hắn dịu giọng nói:

– “Ở Tuy Thành Điện có kỳ binh canh giữ, phải cẩn thận. Ngươi có thể nhốt bọn lính này vào trong để thiêu luôn. Việc thành rồi, ngươi sẽ là Phật sống thứ ba. Đi đi!”

Hắn vẫy tay một cái, Hô Âm Khắc vừa kinh hãi vừa mừng rỡ vội tạ ơn, rồi cùng Bạch Chấn lui ra. Càn Long bố trí xong xuôi, âm thầm nghĩ:

– “Phen này nhất tiễn hạ song điêu, ta đồng thời diệt được thế lực của Hồng Hoa Hội và của thái hậu, có thể làm một vị hoàng đế thái bình, yên ổn lâu dài.”

Trong lòng hắn đang sảng khoái, thấy trên bàn có cây đàn liền bước tới gảy bài Sử Minh Ngũ Lộng. Đàn chưa được bao lâu, những tiếng đàn tình tang chợt tràn đầy sát khí, nghe như tiếng gươm giáo chạm nhau. Được nửa bài bỗng “tưng” một tiếng, sợi dây thứ bảy đứt phựt. Càn Long ngẩn ra một chút, sau đó lại cười ha hả, gạt cây đàn sang một bên, đứng dậy đi vào nội thất.

Hương Hương công chúa đang tựa vào bên cửa sổ để ngắm mặt trăng, bỗng nghe tiếng chân bước tới. Hàn quang nhấp nháy, nàng rút thanh đoản kiếm ra ngay. Càn Long chau mày một cái, ngồi xuống xa xa rồi nói:

– “Trần công tử dẫn cô đến Trường Thành, có bảo cô ám sát ta hay không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Chàng bảo ta phục tùng ngươi.”

Càn Long hỏi:

– “Cô không nghe lời hắn hay sao?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Bao giờ ta cũng vâng lời chàng.”

Càn Long vừa mừng rỡ lại vừa ghen tị, hỏi:

– “Thế thì sao cô vẫn mang kiếm? Trao kiếm cho ta đi.”

Hương Hương công chúa lắc đầu:

– “Không! Đợi ngươi làm hoàng đế tốt rồi, ta mới trao.”

Càn Long nghĩ bụng:

– “Thì ra bọn ngươi vẫn muốn uy hiếp ta.”

Ngay lập tức, phẫn hận, đố kỵ, khát dục, mọi thứ cùng nổi lên pha trộn vào nhau. Lát sau hắn gượng cười rồi nói:

– “Bây giờ ta đã là hoàng đế tốt rồi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hừ! Vừa rồi ta có nghe ngươi đánh đàn. Ngươi muốn giết người, ngươi muốn giết rất nhiều người. Ngươi… ngươi cực kỳ ác độc.”

Càn Long giật mình nghĩ bụng:

– “Thì ra tiếng đàn đã tiết lộ tâm sự của mình!”

Hắn tính toán một lúc rồi nói:

– “Không sai! Ta muốn giết người. Trần công tử của cô đã bị ta bắt rồi. Nếu cô phục tùng ta, không chừng ta sẽ vì cô mà tha cho hắn. Nếu không phục tùng thì, hừ! Cô biết đấy, ta sẽ giết rất nhiều người.”

Hương Hương công chúa cả sợ, run rẩy hỏi:

– “Ngươi muốn giết chết cả em ruột của mình ư?”

Càn Long sầm mặt xuống hỏi:

– “Chuyện gì hắn cũng nói cho cô biết hết hay sao?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Ta không tin ngươi bắt được chàng. Chàng tài giỏi hơn ngươi rất nhiều.”

Càn Long cười khẩy:

– “Tài giỏi ư? À, giả tỉ hôm nay ta chưa bắt được, nhưng ngày mai thì sao?”

Hương Hương công chúa không đáp, im lặng suy nghĩ. Càn Long lại nói:

– “Ta khuyên cô dập tắt tấm lòng tưởng nhớ hắn đi. Ta là hoàng đế tốt cũng được, là hoàng đế ác độc cũng được, dù sao thì cô cũng vĩnh viễn không gặp lại hắn nữa.”

Hương Hương công chúa phân vân hỏi:

– “Ngươi đã hứa với chàng là sẽ làm một hoàng đế tốt. Sao ngươi lại nuốt lời?”

Càn Long tức giận quát to:

– “Ta muốn làm gì thì làm cái đó, ai mà quản thúc được ta?”

Vừa rồi hắn bị thái hậu khống chế, đầy lòng phẫn hận mà cố nén lại, bây giờ bất thần phát tác. Hương Hương công chúa nghe tiếng quát đó mà như bị đánh một quyền rất mạnh vào giữa ngực, nghĩ ngay:

– “Thì ra hoàng đế đã lừa gạt chàng. Nếu biết vậy, mình đã không trở về đây.”

Nàng hối hận đến cực điểm, suýt ngất xỉu đi. Thấy mặt nàng đột nhiên xanh mét, không chút huyết sắc, Càn Long cũng hơi hối hận vì thái độ thô bạo vừa rồi, bèn nói:

– “Chỉ cần cô phục thị ta cho đàng hoàng, đương nhiên ta không làm khó dễ hắn. Ta còn có thể cho hắn làm quan lớn, để hắn được hưởng vinh hoa phú quí suốt đời.”

Hương Hương công chúa chưa từng bị ai lừa gạt trắng trợn như thế. Nàng mới chỉ thấy người ta tàn ác hung hãn, bây giờ mới biết người xấu còn có thể gian hiểm đến vậy. Nàng nghĩ:

– “Tên hoàng đế này đã ác độc như thế, nhất định sẽ tìm cách hại chàng. Tuy bản lãnh của chàng giỏi hơn hoàng đế rất nhiều, nhưng làm sao chàng biết được người anh ruột đang muốn hại mình? Mình phải cho chàng biết rõ ràng, để chàng không bị hoàng đế lừa. Nhưng bây giờ làm sao báo cho chàng biết đây?”

Càn Long thấy nàng chau mày suy nghĩ, trên khuôn mặt còn nét ngây thơ bỗng có thêm sắc thái trầm tư lo lắng, trong vẻ kiều diễm tuyệt thế lại pha thêm sự già dặn chín chắn. Hắn ngẩn cả người ra mà nhìn ngắm.

Hương Hương công chúa nghĩ:

– “Trong cung toàn là thủ hạ của hoàng đế, ai có thể đưa tin giúp mình? Việc lại khẩn trương, ta chỉ còn cách này thôi.”

Nàng lên tiếng hỏi:

– “Vậy là ngươi đồng ý không hại chàng phải không?”

Càn Long mừng rỡ gật đầu lia lịa:

– “Không hại hắn, không hại hắn!”

Thấy trong giọng nói của hắn chẳng có chút thành ý nào, Hương Hương công chúa tức giận vô cùng. Nhưng ở trong hoàng cung lâu ngày như vậy, người thiếu nữ chất phác này đã học được cách đối phó với kẻ địch rồi. Nàng hoàn toàn không đổi sắc mặt, nói:

– “Sáng mai ta muốn tới Thanh Chân Tự để lễ bái, cầu nguyện với chân thánh A-la. Cầu nguyện xong, ta mới có thể phục tùng ngươi.”

Càn Long mỉm cười nói:

– “Được! Ngày mai cô đừng cãi chối nữa nhé! Trong cung cũng sắp có giáo đường Hồi giáo, ta đã cố ý xây dựng cho cô. Mấy ngày nữa là tất cả xong xuôi, sau này cô sẽ không cần ra khỏi cung để lễ bái cầu nguyện nữa.”

* * *

Hương Hương công chúa nhìn theo Càn Long tươi cười rạng rỡ xuống lầu, rồi tự tìm giấy bút, dùng chữ Hồi viết một lá thư cho Trần Gia Lạc, cảnh báo là hoàng đế đang định ám hại chàng, mưu đồ phản Mãn phục Hán chỉ là ảo ảnh, bảo chàng lập tức tìm cách cứu mình để cùng rời khỏi hoàng cung. Viết xong, nàng lấy một tờ giấy trắng bọc thư lại, bên ngoài cũng viết bằng chữ Hồi:

– “Xin chuyển gấp cho đại thủ lãnh Trần Gia Lạc của Hồng Hoa Hội.”

Nàng biết người Hồi nào cũng vô cùng tôn kính gia gia và tỉ tỉ mình, mà họ đối với bản thân mình cũng có lòng ngưỡng mộ. Khi vào giáo đường Hồi giáo, chỉ cần trao thư cho bất cứ người Hồi nào thì người đó nhất định sẽ tìm cách đưa thư tới chỗ Trần Gia Lạc.

Nàng viết xong thư, tinh thần khoan khoái hẳn lên, nghĩ bụng:

– “Hoàng đế phản bội lời thế, tiếp tục làm điều ác độc, thế mà hắn lại cho mình cơ hội gặp lại tình lang. Trần Gia Lạc không việc gì không làm nổi, nhất định thừa sức cứu mình ra khỏi hoàng cung.”

Nghĩ đến đó, trong lòng nàng ngọt ngào khôn tả. Hương Hương công chúa đi du ngoạn Trường Thành một ngày mệt nhọc, tựa vào bàn ngủ thiếp đi. Mơ hồ nghe thấy tiếng chuông, nàng mở mắt ra thấy trời đã gần sáng, liền thức dậy rửa mặt chải chuốt sạch sẽ. Bọn cung nữ phục thị đã biết nàng không cho bất cứ ai đến gần, nên chỉ biết đứng cạnh mà nhìn. Nhưng chúng thấy thần sắc nàng vui vẻ hẳn lên, đứa nào cũng vui lây.

Hương Hương công chúa lén giấu lá thư vào trong tay áo, bước xuống lầu. Bọn thái giám đã đợi sẵn bên dưới, tiền hô hậu ủng đưa nàng đến Thanh Chân Tự ở một con đại lộ phía tây Trường An.

Hương Hương công chúa vừa xuống kiệu đã nhìn thấy vòm mái tròn của ngôi giáo đường Hồi giáo, trong lòng nửa vui nửa buồn. Nàng cúi đầu đi vào giáo đường, liếc thấy hai bên trái phải mình đều có người đi cạnh. Ngẩng lên nhìn thấy hai người này mặc y phục kiểu Hồi tộc, nàng mừng rỡ định đưa lá thư giấu trong tay áo cho họ. Nhưng vừa chạm phải ánh mắt của người bên tay phải, nàng bất giác chần chừ rồi nổi dạ nghi ngờ, lập tức rút tay về. Tuy người đó mặc y phục người Hồi, nhưng mặt mũi sắc thái hoàn toàn khác hẳn người Hồi.

Nàng nhìn qua người bên trái cũng cảm thấy khác lạ, bèn khẽ hỏi:

– “Có phải hoàng để phái các ngươi tới canh giữ ta hay không?”

Nàng nói bằng tiếng Hồi, hai người kia chẳng hiểu gì nhưng cũng gật đầu một cái. Hương Hương công chúa thất vọng, quay lại thì thấy sau lưng mình còn có tám người mặc y phục Hồi tộc nữa, chắc đều là thị vệ trong cung. Những người Hồi thật sự đã bị chúng đuổi đi rất xa.

Nàng bèn vội vã bước đến gần vị giáo trưởng của giáo đường này, nói nhỏ:

– “Bất luận thế nào cũng nhờ ngài chuyển hộ lá thư này.”

Giáo trưởng chưa kịp ngạc nhiên, Hương Hương công chúa đã nhét lá thư vào tay ông ta. Đột nhiên một tên thị vệ bước lên, giật lấy lá thư trong tay giáo trưởng rồi đẩy mạnh vào ngực ông một cái. Giáo trưởng loạng choạng lùi lại, suýt té ngã. Mọi người đều nhìn nhau ngạc nhiên, không biết đã xảy ra chuyện gì.

Giáo trưởng giận dữ hỏi:

– “Các ngươi làm gì vậy?”

Tên thị vệ đó kề vào tai ông nói nhỏ:

– “Đừng nhiều chuyện! Bọn ta từ hoàng cung đến đây.”

Giáo trưởng kinh hãi không dám nói nhiều nữa, lập tức hướng dẫn mọi người quì xuống dập đầu lễ bái.

Hương Hương công chúa cũng quì xuống, nước mắt trào ra như suối, trong lòng bi phẫn, khổ sở muôn phần. Lúc này trong lòng nàng chỉ còn một suy nghĩ:

– “Làm sao báo được cho chàng biết để đề phòng? Dù mình phải chết, cũng phải báo cho chàng biết.”

“Dù mình phải chết”, suy nghĩ ấy nhoáng lên trong đầu nàng như điện chớp. “Nếu mình chết ở đây, tin tức chắc chắn sẽ truyền ra ngoài, chàng sẽ biết. Đúng rồi, không còn cách nào khác nữa.”

Nhưng lập tức nàng lại nghĩ, chương thứ tư kinh Koran đã nói:

– Các ngươi không được tự sát. Các ngươi phải tin là thánh A-la thực sự thương xót các ngươi. Ai vì thiếu lòng tin mà phạm phải điều nghiêm cấm này, ta sẽ cho người đó vào hỏa ngục. Lời nói của đấng tiên tri vang lên trong tai nàng như sấm sét:

– Người tự sát vĩnh viễn bị đày xuống hỏa ngục, không thể thoát được.

Nàng không sợ chết, vì tin rằng sau khi chết có thể lên thiên đường, vĩnh viễn ở bên người mà mình yêu. Kinh Koran đã nói:

– Hai người phối ngẫu vô tội sẽ được vĩnh viễn cùng hưởng thụ lạc cảnh chốn thiên đường. Nhưng nếu nàng tự sát thì sẽ phải chịu đau khổ vô cùng vô tận, không bao giờ thoát khỏi căn hẩm lửa. Nghĩ đến đó nàng không nén nổi rùng mình dựng tóc gáy, ớn lạnh cả người.

Mọi người rì rầm đọc kinh xung quanh. Giáo trưởng lớn tiếng thuyết giảng về những điều hạnh phúc vĩnh hằng ở thiên đường, những điều bi thảm vĩnh hằng ở hỏa ngục. Đối với người có lòng tin vào tôn giáo, không có gì đáng sợ hơn việc linh hồn mình vĩnh viễn sa vào hỏa ngục. Nhưng nàng không sợ nữa, vì Tình Yêu chiến thắng tất cả những nỗi sợ trên đời.

Nàng nhỏ nhẹ cầu nguyện, cũng là nhỏ nhẹ tự nói với mình:

– “Thánh A-la chí thành chí thắng! Con cầu xin người, không phải con không tin người không thương xót con. Nhưng ngoài cách tự đổ máu mình, con không còn cách nào khác để cho chàng biết mà tránh cảnh nguy nan sắp tới.”

Hương Hương công chúa lấy thanh đoản kiếm trong tay áo ra, khắc nhanh mấy chữ lên sàn gạch, ngay dưới thân mình:

– “Đừng tin hoàng đế”

Nàng khẽ kêu hai tiếng:

– “Đại ca! Đại ca!” rồi đâm thanh đoản kiếm vào bộ ngực diễm lệ nhất, trong trắng nhất thế gian.

* * *

Quần hùng Hồng Hoa Hội đang nghị sự trong đại sảnh. Tưởng Tứ Cân mới từ Quảng Đông trở về, đang kể với mọi người về tình hình các anh hùng hào kiệt ở phương Nam. Đột nhiên Bạch Chấn đến, xin Trần Gia Lạc cho gặp riêng.

Bạch Chấn truyền lại ý chỉ của hoàng thượng, nói là đêm nay thiết yến ở Ung Hòa Cung, hạ lệnh cho tất cả hương chủ của Hồng Hoa Hội đến cùng dự yến, hoàng thượng sẽ đích thân tham dự. Vì sợ thái hậu và bọn đại thần người Mãn Châu nghi ngờ, nên mới hẹn gặp nhau ở ngoài cung.

Trần Gia Lạc lãnh chỉ tạ ơn, thầm nghĩ:

– “Nhất định Kha Tư Lệ đã nghe lời mình, không làm khó dễ hoàng đế nữa.”

Chàng thấy đại nghiệp phục hưng nhà Hán sắp thành, nhiệt tâm càng nóng bỏng, nỗi vui và tráng khí trong lòng khó mà tả được. Tiễn chân Bạch Chấn xong, chàng vào kể lại với quần hùng.

Mọi người nghe nói hoàng đế giữ lời thề, biết mình sắp sửa dựng nên công nghiệp thần kỳ, không đời nào sánh nổi. Ai cũng hưng phấn vô cùng. Ngay cả Vô Trần, Lục Phi Thanh, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường thị song hiệp đã từng chịu không biết bao nhiêu khổ ải do bọn quan lại Mãn Thanh, đối với Càn Long vốn nghi nhiều tin ít, bây giờ thấy công việc trôi chảy cũng vui mừng nói:

– “Dù sao thì hoàng đế cũng là người Hán, lại là anh em ruột với tổng đà chủ, quả nhiên có khác!”

Nhưng nghĩ tới việc Trần Gia Lạc vì sự nghiệp phục hưng nhà Hán mà nỡ lòng cắt đứt mối tình thâm hậu với Hương Hương công chúa, mọi người đều đem lòng thương xót cho chàng. Trần Gia Lạc sợ nỗi thương đau của mình làm mất hào khí mọi người, bèn lập tức trấn tĩnh tinh thần, sôi nổi bàn quốc sự với quần hùng, rồi nhắc đến võ công.

Vô Trần nói với Trần Gia Lạc:

– “Phen này tổng đà chủ đến Hồi Cương học được võ công tinh diệu, hiển lộ mấy chiêu cho mọi người xem thử được chăng?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Hay lắm! Ta e rằng còn nhiều chỗ tinh túy vi diệu chưa ngộ ra được, cũng đang muốn thỉnh giáo các vị đây.”

Chàng bỗng bảo Dư Ngư Đồng:

– “Nếu có thêm âm nhạc làm tiết tấu, chắc chắn loại võ công đó càng phiêu dật hơn nhiều. Thập tứ đệ, đệ thổi sáo đi!”

Dư Ngư Đồng khen:

– “Thế thì tuyệt diệu!”

Lý Nguyên Chỉ chạy vào nhà trong lấy cây kim địch ra. Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Thế là của quí của anh chàng này bị cất giữ rồi.”

Mặt Dư Ngư Đồng đỏ ửng lên, không nói được tiếng nào.

Từ ngày Lý Nguyên Chỉ bị Trương Triệu Trọng đánh gãy vai trái, suốt dọc đường Dư Ngư Đồng hết sức quan tâm chăm sóc nàng. Từ thương xót phát sinh tình cảm nồng nàn, từ đó về sau hai người dành với nhau tình yêu chân thật. Thế là mối thâm tình trong quá khứ của Lý Nguyên Chỉ đã có một kết cuộc mỹ mãn, dĩ nhiên nàng vô cùng hạnh phúc.

Một hôm, hai người nhắc đến buổi đầu gặp gỡ trong một khách điếm vùng Cam Lương. Nghe Lý Nguyên Chỉ hâm mộ vì mình dùng kim địch đánh bọn khâm sai, lại oán trách sư phụ không dạy công phu điểm huyệt, Dư Ngư Đồng mỉm cười nói:

– “Tuy Lục sư thúc đã lớn tuổi, nhưng cũng không tiện chỉ trỏ vào người muội, cũng không thể để muội đụng chạm vào người sư thúc. Nhận huyệt đã không chính xác, làm sao mà dạy điểm huyệt được? Sau này khi chúng ta đã thành phu phụ, ta sẽ dạy cho muội.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Thế thì muội đã trách lầm sư phụ rồi.”

Dư Ngư Đồng làm bộ trịnh trọng nói:

– “Nếu muội muốn ta dạy công phu điểm huyệt ngay bây giờ cũng được, nhưng phải dập đầu làm lễ bái sư.”

Lý Nguyên Chỉ cười rộ lên:

– “Ái chà! Huynh đừng hòng!”

Nhưng bắt đầu từ hôm đó, Dư Ngư Đồng đã dùng ống sáo để dạy nàng những công phu nhập môn về điểm huyệt. Lý Nguyên Chỉ sai người đem hai khúc kim địch bị gãy đến tiệm kim hoàn hàn lại, dùng để luyện tập.

Trần Gia Lạc theo tiếng sáo mà biểu diễn chưởng pháp, quần hùng đứng xem đều tán thưởng. Vô Trần lên tiếng:

– “Tổng đà chủ đã dùng chưởng pháp này để đánh ngã Trương Triệu Trọng. Ta thử dùng kiếm chiết giải với tổng đà chủ, xem thử thế nào.”

Ông nói xong liền cầm kiếm bước ra đứng đối diện Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc bảo:

– “Hay lắm! Tiến lên đi!”

Rồi chàng phóng chưởng đánh vào vai của Vô Trần.

Vô Trần né tránh, đưa xiên xiên thanh kiếm tấn công vào hông của đối phương. Trần Gia Lạc nghiêng mình chạy vòng qua, theo nhịp tiếng sáo mà tấn công vào hậu tâm của Vô Trần. Vô Trần không quay đầu lại, xoay kiếm đâm ngược lại phía sau, cả tốc độ lẫn bộ vị đều rất chính xác. Đó chính là chiêu Vọng Hương Hồi Cố trong Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm.

Trần Gia Lạc đảo người né tránh, xoay tay toan nắm lấy cổ tay đối thủ. Vô Trần cũng biết chiêu kiếm của mình không đả thương được đối phương, nhưng không ngờ chàng có thể phản kích nhanh chóng đến thế. Ông phải điểm chân xuống đất lướt về phía trước ba bước, rồi rung cổ tay một cái, trường kiếm tiếp tục đâm ra.

Quần hùng đứng bên đều hoan hô vang dội. Hai người chỉ ấn chứng võ công, nhưng không nhường nhịn chút nào. Trường kiếm chém ngang phạt thẳng, song chưởng vũ lộng bốn phương, cuộc tỉ đấu hết sức khẩn trương.

Hai đối thủ đang cao hứng thì ngoài hẻm bỗng truyền vào tiếng hát nghe rất thê thảm, như đang kêu khóc. Ban đầu quần hùng không để ý lắm, nhưng tiếng hát càng lúc càng tới gần, nghe như cả ngàn người cùng hát vô cùng bi thiết, ai cũng muốn rơi lệ.

Tâm Nghiễn đã ở sa mạc rất lâu, biết đây là ca điếu của người Hồi. Cậu nổi tính hiếu kỳ, chạy ra ngoài nghe ngóng. Chỉ chốc lát là cậu từ ngoài cửa chạy vào, sắc mặt xanh xao, bước chân loạng choạng, đến bên Trần Gia Lạc run giọng gọi:

– “Thiếu gia!”

Vô Trần thu kiếm về, nhảy ra. Trần Gia Lạc quay lại hỏi:

– “Gì thế?”

Tâm Nghiễn vừa khóc vừa nói:

– “Hương… Hương… Hương Hương công chúa chết rồi…”

Quần hùng lập tức thay đổi sắc mặt. Trần Gia Lạc cảm thấy trước mắt tối đen, cúi đầu ngồi phịch xuống, hình như sắp lăn ra ngất. Vô Trần vội vàng quăng kiếm xuống đất, đưa tay đỡ lấy vai chàng.

Lạc Băng hỏi:

– “Tại sao lại chết?”

Tâm Nghiễn đáp:

– “Đệ có hỏi một đại ca người Hồi. Ông ấy nói, Hương Hương công chúa đang làm lễ ở giáo đường Thanh Chân Tự thì dùng kiếm tự sát.”

Lạc Băng lại hỏi:

– “Những người Hồi đang hát gì vậy?”

Tâm Nghiễn nói:

– “Họ hát là Thái hậu không cho đem di thể của cô ấy vào cung, giao cho Thanh Chân Tự chôn cất. Họ đã an táng cô ấy xong, vừa trở về vừa hát những bài ca điếu để tưởng nhớ đến cô ấy. Mọi người đều thóa mạ hoàng đế tàn nhẫn vô đạo, bức đến chết một thiếu nữ trong trắng, lương thiện như thế.”

Lạc Băng vô cùng chua xót, nước mắt tuôn ra. Trần Gia Lạc vẫn chưa nói tiếng nào. Mọi người sợ chàng thương tâm quá độ, đang định tới khuyên can an ủi, thì Trần Gia Lạc đột nhiên lên tiếng:

– “Đạo trưởng! Chưởng pháp của ta vẫn chưa dùng hết. Chúng ta đấu tiếp!”

Rồi chàng từ từ đi ra giữa đại sảnh. Mọi người thấy vậy đều không khỏi ngạc nhiên. Vô Trần nghĩ:

– “Để tổng đà chủ phân tâm một tí, tránh khỏi quá bi ai, cũng là chuyện nên làm.”

Ông bèn nhặt thanh kiếm lên, hai người tiếp tục tỉ đấu.

Bộ pháp Trần Gia Lạc vẫn phiêu dật, chưởng pháp vẫn tinh kỳ, hình như chẳng động tâm gì bởi tin tức vừa rồi. Quần hùng âm thầm bàn tán, Lý Nguyên Chỉ khẽ nói vào tai Dư Ngư Đồng:

– “Bọn nam nhân các người đều không có lương tâm, chỉ biết tới quốc gia đại sự. Người yêu vừa chết mà hoàn toàn không đếm xỉa!”

Dư Ngư Đồng đang bận thổi sáo, thầm nghĩ:

– “Tổng đà chủ nhẫn nhịn thật giỏi. Nếu là mình, chắc chắn sẽ phát điên lập tức.”

Sợ tâm thần Trần Gia Lạc không thể trấn tĩnh vì biến cố lớn lao này, Vô Trần không dám sử dụng hiểm chiêu nữa. Vừa rồi hai bên tỉ đầu ngang bằng, đáng là kỳ phùng địch thủ, thì ông chẳng phải kiêng nể gì. Bây giờ ông hơi chùn tay một chút, xuất thủ chậm lại một chút, lập tức rơi vào thế hạ phong.

Vô Trần nhìn thấy bóng chưởng lẫn vào kiếm quang của mình, bất giác lùi lại, không dám liều dùng tuyệt chiêu phản kích. Ông chỉ chần chừ trong nháy mắt, đã bị ba ngón tay trái của Trần Gia Lạc bắt lấy mệnh môn mình.

Hai người vừa chạm tay nhau, cùng nhảy lùi ra. Vô Trần hô lên:

– “Hay quá, hay quá! Chiêu thức tuyệt diệu!”

Trần Gia Lạc nhã nhặn nói:

– “May mà đạo trưởng nhường nhịn!”

Đột nhiên chàng hé miệng phun ra hai ngụm máu tươi. Quần hùng đều xanh mặt, thi nhau chạy tới dìu đỡ. Nhưng chàng vẫn thản nhiên cười nói:

– “Không sao!” rồi tựa lên vai Tâm Nghiễn đi vào nhà trong.

* * *

Trần Gia Lạc về phòng nằm khoảng một giờ, nghĩ đến tối nay phải gặp hoàng đế, có rất nhiều việc phải làm, không thể không tự bảo trọng. Nhưng chàng nghĩ đến cái chết thê thảm của Hương Hương công chúa mà không nén nổi lòng đau như cắt. “Rõ ràng Kha Tư Lệ đã đồng ý phục tùng hắn, sao lại đột nhiên tự tử? Chẳng lẽ nàng suy đi nghĩ lại, rốt cuộc không bỏ được mối ân tình đối với mình? Không phải! Nàng biết chuyện này không nhỏ, nếu không có biến cố gì thì chắc chắn không tự sát. Bên trong nhất định là có ẩn tình.”

Chàng phân vân do dự một lúc, cuối cùng đi tới quyết định, tìm đống quần áo mang từ Hồi Cương về, lục ra một bộ y phục kiểu người Hồi, mặc vào. Đây chính là bộ y phục mà lần đầu gặp Hương Hương công chúa ở cạnh hồ băng chàng đã mặc. Sau đó Trần Gia Lạc lại pha mực nhạt, bôi mặt mình cho hơi đen lại, rồi bảo Tâm Nghiễn:

– “Ta cần ra ngoài, một lát sẽ về ngay!”

Tâm Nghiễn biết mình cản trở cũng chỉ vô ích, nhưng không thể yên tâm được, bèn lén đi theo. Trần Gia Lạc biết cậu rất trung thành với mình, nên cứ để mặc Tâm Nghiễn theo dõi.

Dọc những đại lộ rất nhiều người đi lại, ngựa xe ồn ào xuôi ngược, nhưng trong mắt Trần Gia Lạc hoàn toàn không thấy ai cả. Chàng đi thẳng tới giáo đường Thanh Chân Tự ở phía tây Trường An, vào trong nằm rạp xuống đất, âm thầm cầu nguyện:

– “Kha Tư Lệ! Muội ở trên trời hãy đợi ca ca. Ca ca đã hứa với muội là quy theo thánh giáo Islam, không để muội chờ đợi uổng công đâu.”

Khi ngẩng đầu lên, đột nhiên chàng thấy trên một miếng gạch xanh phía trước hình như có dấu vết. Nhìn kỹ, thì ra là dấu mũi kiếm khắc mấy chữ Hồi:

– “Đừng tin hoàng đế”

Những nét chữ đó có màu hơi đỏ. Trần Gia Lạc giật mình, cúi đầu nhìn tỉ mỉ, thấy quanh viên gạch này có một khoảng màu sắc hơi đậm hơn, bỗng nghĩ:

– “Chẳng lẽ đó là máu của Kha Tư Lệ?”

Chàng cúi xuống ngửi thử, quả nhiên có mùi máu tươi.

Trần Gia Lạc không gượng nổi nữa, người run bần bật, nước mắt tuôn trào, nằm tại chỗ khóc òa lên. Khóc được một lúc, đột nhiên có người vỗ nhẹ lên vai chàng. Chàng giật mình, lập tức nhảy chồm dậy, tay trái đưa lên chuẩn bị ra chiêu phản kích.

Nhìn lại, Trần Gia Lạc vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nhưng lại chảy thêm nước mắt ra. Người kia mặc trang phục người Hồi, mặt mày thanh tú, đôi mày chau lại, mục quang rất sáng, chính là Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng.

Thì ra hôm nay nàng theo Thiên Sơn Song Ưng đến Bắc Kinh để tìm cách cứu muội muội. Nào ngờ gặp người Hồi tộc, nghe nói em gái mình đã chết, nàng mới chạy đến Thanh Chân Tự để lễ bái cầu nguyện. Nàng thấy một người Hồi đang nằm dưới đất kêu khóc Kha Tư Lệ, bèn vỗ vai để hỏi han, không ngờ lại là Trần Gia Lạc.

Hai người chưa kịp kể về những chuyện sau lúc chia tay, Trần Gia Lạc bỗng thấy hai tên thị vệ trong Thanh cung bước vào giáo đường. Chàng vội kéo tay áo Hoắc Thanh Đồng, hai người nằm rạp xuống đất. Nhưng hai tên thị vệ lại đi đến chỗ Trần Gia Lạc, quát to:

– “Đứng dậy!”

Hai người đành đứng dậy ra ngoài. Qua cửa sổ nghe tiếng loảng xoảng, hai tên thị vệ dùng đục sắt đào lấy miếng gạch có khắc chữ, cầm ra khỏi giáo đường rồi lên ngựa chạy đi ngay.

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Đó là cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc rơi lệ mà nói:

– “Nếu ta tới chậm một chút thì Kha Tư Lệ hy sinh thật uổng, không ai được thấy lời cảnh báo mà nàng dùng máu tươi để viết nữa.”

Hoắc Thanh Đồng lại hỏi:

– “Cảnh báo gì thế?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ở đây tai mắt rất nhiều. Chúng ta lại nằm xuống giả vờ cầu nguyện, ta sẽ kể với muội.”

Hai người lại vào giáo đường nằm rạp xuống, Trần Gia Lạc thì thầm kể cho nàng nghe vắn tắt những chuyện đã qua. Hoắc Thanh Đồng vừa thương tâm vừa phẫn hận, giận dữ hỏi:

– “Sao huynh hồ đồ như thế? Sao lại tin tên hoàng đế thối tha đó?”

Trần Gia Lạc hổ thẹn đáp:

– “Ta nghĩ hắn là người Hán, lại là anh ruột của mình.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Người Hán thì sao? Chẳng lẽ trong vô số người Hán không có ai làm những chuyện tàn ác? Anh ruột thì sao? Đã làm hoàng đế thì không có tình nghĩa huynh đệ gì nữa đâu.”

Trần Gia Lạc nghẹn ngào nói:

– “Ta đã hại chết Kha Tư Lệ rồi. Ta hận mình… Ta phải đi theo nàng…”

Hoắc Thanh Đồng bỗng cảm thấy mình quá nặng lời, chàng vốn đã thương tâm quá độ. Nàng bèn dịu dàng an ủi:

– “Chỉ vì huynh muốn cứu muôn dân trong thiên hạ, chuyện này khó mà trách được.”

Rồi nàng hỏi Trần Gia Lạc:

– “Buổi yến tiệc đêm nay, huynh có đi không?”

Trần Gia Lạc nghiến răng lại nói:

– “Hoàng đế cũng dự buổi yến này. Ta phải đi để đâm chết hắn, trả thù cho Kha Tư Lệ.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đúng thế! Muội cũng phải trả thù cho gia gia, cho ca ca và vô số đồng bào của muội.”

Trần Gia Lạc bỗng hỏi:

– “Trong cái đêm quân Thanh bất ngờ tập kích, làm sao muội thoát ra ngoài được?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Muội đang lâm trọng bệnh thì đột nhiên quân Thanh tấn công. May mà một toán quân của muội liều mạng ác chiến, cứu được muội ra rồi đưa đến chỗ sư phụ sư công.”

Trần Gia Lạc thở dài nói:

– “Kha Tư Lệ từng hẹn với ta, dù phải đi đến cùng trời cuối đất cũng quyết tìm cho được muội.”

Hoắc Thanh Đồng nhịn không nổi nữa, lệ chảy như mưa. Hai người ra khỏi giáo đường. Tâm Nghiễn bước tới nhìn thấy Hoắc Thanh Đồng lập tức cả mừng, cất tiếng hỏi:

– “Cô nương! Tiểu đệ vẫn nhớ cô nương. Cô nương có khỏe không?”

Nửa năm nay Hoắc Thanh Đồng đã gặp quá nhiều biến cố. Nàng mất bốn người thân là gia má huynh muội, chút xíu hiềm khích trước đây đối với Tâm Nghiễn không còn trong lòng nữa, bèn dịu dàng đáp:

– “Tiểu đệ cũng khỏe chứ? Tiểu đệ cao hơn nhiều rồi.”

Tâm Nghiễn thấy nàng không trách mình nữa, lại càng hoan hỉ. Ba người về tới con hẻm Hồ đồng song liễu tử, thì thấy Thiên Sơn Song Ưng và quần hùng đang lớn tiếng bàn luận. Trần Gia Lạc vẫn đầm đìa nước mắt, kể lại những dòng chữ viết bằng máu mà mình đã thấy trong Thanh Chân Tự.

Trần Chính Đức lập tức đập bàn, giận dữ quát lên:

– “Ta nói có sai đâu? Tên hoàng đế chó má đó trước sau gì cũng ám hại chúng ta. Nhất định cô gái đó đã nắm được tin tức xác thực trong cung, nên mới liều mạng để báo cho Trần công tử biết.”

Mọi người đều khen phải. Quan Minh Mai vừa rơi lệ vừa nói:

– “Hai lão già này không con không cái, định nhận hai chị em nó làm con nuôi. Nào ngờ…”

Trần Chính Đức thở dài, xuống giọng:

– “Tuy cô gái này không biết võ công, nhưng rất có khí phách, đầy lòng nghĩa hiệp. Rất khó có người như thế.”

Quần hùng không ai là không thương cảm. Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Lát nữa đi dự yến ở Ung Hòa Cung, binh khí dài chắc chắn không mang vào được. Bây giờ các vị lo chuẩn bị binh khí ngắn và ám khí đi. Trong rượu thịt chắc chắn sẽ có thuốc độc hay thuốc mê gì đó, nhất định không được chạm môi vào bất cứ thứ gì.”

Quần hùng đều khen phải. Trần Gia Lạc nói:

– “Tối nay mà không giết được hoàng đế thì không thể bớt được mối hận trong lòng. Nhưng chúng ta phải tính toán đường lui trước đã.”

Trần Chính Đức lên tiếng:

– “Không thể ở Trung Nguyên được nữa, các vị hãy tới Hồi Cương.”

Quần hùng đã ở Giang Nam rất lâu, nghĩ tới chuyện phải rời bỏ quê hương thật sự có phần không nỡ. Nhưng tên hoàng đế này quá gian giảo, tàn ác, ai cũng hận đến nghiến răng cắn lưỡi, quyết tâm giết hắn rồi chạy trốn ra xứ người cũng đành. Vì thế họ không bàn tính gì đến chuyện đi hay ở nữa.

Trần Gia Lạc hạ lệnh cho Văn Thái Lai cùng Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân phải mai phục ở cửa thành, khi cần thì giết bọn binh lính giữ cửa thành để tiếp ứng mọi người ra khỏi thành chạy về phía tây. Tâm Nghiễn phải hướng dẫn các đầu mục Hồng Hoa Hội chuẩn bị đủ ngựa, mang theo cung tên, vũ khí, tiếp ứng ở bên ngoài Ung Hòa Cung. Dư Ngư Đồng phải lập tức thông báo cho các đầu mục Hồng Hoa Hội đang ở kinh thành, chuyển lời cho mọi huynh đệ Hồng Hoa Hội ở các tỉnh là Tổng đà sẽ dời về Hồi Cương, hội chúng ở mọi nơi phải lo ẩn tánh mai danh, đề phòng bọn quan binh lùng bắt.

Trần Gia Lạc phân phối xong xuôi, quay lại hỏi Thiên Sơn Song Ưng và Lục Phi Thanh:

– “Bây giờ làm sao mà giết được tên đầu sỏ hung ác này? Xin ba vị lão tiền bối chỉ bảo.”

Trần Chính Đức nói:

– “Chuyện đó có gì là khó? Ta bước tới, nắm lấy cổ hắn mà vặn một cái, xem thử hắn còn thở được hay không.”

Lục Phi Thanh mỉm cười nói:

– “Hắn âm mưu hại chúng ta, nhất định bên cạnh có nhiều thị vệ, phòng thủ chu đáo. Nếu Chính Đức huynh nắm được cổ hắn thì đương nhiên hắn hết đời, chỉ sợ không nắm được mà thôi.”

Vô Trần nói:

– “Hay là để Tam đệ dùng ám khí?”

Trên Lục Hòa Tháp, Thiên Sơn Song Ưng đã được thấy thần kỹ của Triệu Bán Sơn về ám khí. Hai lão nhân vô cùng khâm phục, lập tức tán đồng ngay. Triệu Bán Sơn lấy trong túi ám khí ra ba chiếc Độc tật lê mà ngày trước Long Tấn đã phóng ra, mỉm cười nói:

– “Chỉ cần đánh trúng một chiếc là hắn không chịu nổi.”

Tâm Nghiễn nhìn thấy Độc tật lê đúng là kinh cung chi điểu, bất giác rùng mình một cái. Trần Gia Lạc nói:

– “Ta sợ tên họ Long đó còn ở trong cung, có thuốc giải để chữa trị.”

Triệu Bán Sơn nói:

– “Không sao! Chúng ta ngâm thêm Hạc đính hồng và Khổng tước đảm. Thuốc giải nào giải được loại này thì không giải được loại kia.”

Lục Phi Thanh bảo Lạc Băng:

– “Phi đao của Tứ phu nhân và kim châm của ta đều nên tẩm thêm thuốc độc vào.”

Lạc Băng gật đầu nói:

– “Chúng ta cùng lúc phóng ra mấy chục loại ám khí, bất luận hắn có bao nhiêu thị vệ thì ít ra cũng phải trúng mấy mũi.”

Trần Gia Lạc thấy quần hùng ngâm tẩm thuốc độc rồi hơ khô ám khí trên lò lửa, nghĩ đến hoàng đế với mình là cùng một mẹ sinh ra, cảm thấy không nỡ. Nhưng chàng lại nghĩ đến những chuyện âm hiểm tàn ác của hắn, cơn phẫn hận bốc lên, cũng rút thanh đoản kiếm ra mà ngâm vào thuốc độc một hồi.

* * *

Đến giờ thân ba khắc, mọi người chuẩn bị xong xuôi, đi dự tiệc mà phải ăn uống no nê trước. Bốn người Quan Minh Mai, Lạc Băng, Hoắc Thanh Đồng, Lý Nguyên Chỉ đều cải trang thành nam nhân. Chẳng bao lâu Bạch Chấn đã dẫn bốn tên thị vệ đến mời. Quần hùng đều mặc cẩm bào, cưỡi ngựa đi theo. Bạch Chấn thấy mọi người không mang theo khí giới, âm thầm than thở, muốn cảnh báo Trần Gia Lạc mấy câu. Nhưng y nghĩ tới nghĩ lui, rốt cuộc không dám nói gì.

Đến cửa cung, mọi người xuống ngựa vào cung. Phía trước Tuy Thành Điện đã bày ba bàn tiệc, Bạch Chấn mời quần hùng chia nhau ngồi vào. Trần Gia Lạc ngồi thủ tọa bàn giữa, Trần Chính Đức ở bàn bên trái, Lục Phi Thanh ở bàn bên phải. Phía dưới tượng Phật còn một bàn nữa, chỉ bày một chiếc ghế rất lớn, phủ một tấm đoạn màu vàng, hiển nhiên là ngự tọa của hoàng đế rồi. Lục Phi Thanh, Triệu Bán Sơn và mọi người đều nhìn kỹ vị trí, tính xem lát nữa ra tay sẽ phóng ám khí đến chỗ đó như thế nào.

Những món chay lần lượt được dọn lên bàn tiệc. Mọi người im lặng đợi hoàng đế đến.

Hồi lâu có tiếng bước chân vang lên, ngoài điện có hai tên thái giám đi vào. Trần Gia Lạc cùng quần hùng đều nhận ra đó là Trì Huyền và Võ Minh Phu. Lại còn một đại quan đội mũ đỏ đi sau. Người này trước đây là Triết Giang thủy lục đề đốc Lý Khả Tú, không biết đã điều vào kinh thành từ lúc nào. Lý Nguyên Chỉ nắm chặt lấy bàn tay của Dư Ngư Đồng đang đứng sau lưng mình, suýt buột miệng la lên.

Trì Huyền hô lớn:

– “Thánh chỉ tới!”

Lý Khả Tú, Bạch Chấn lập tức quì xuống. Trần Gia Lạc cùng với quần hùng đành phải quì theo. Trì Huyền mở thánh chỉ ra tuyên đọc:

Phụng thiên thừa vận. Hoàng đế chiếu rằng:

Muốn mở mang quốc gia phải nhờ hiền tài cùng thần dân ra sức góp công. Thấy Trần Gia Lạc cùng bằng hữu đều trung quân ái quốc, xứng đáng ban thưởng và trọng dụng. Tạm thời ban cho Trần Gia Lạc tước Tiến sĩ cập đệ. Những người còn lại giao cho Lễ Bộ và Binh Bộ ưu đãi mà dùng. Hôm nay ban yến ở Ung Hòa Cung, đề đốc Lý Khả Tú thay mặt trẫm cùng dự tiệc. Khâm thử.”

Đọc xong, Trì Huyền lại hô lớn:

– “Tạ ơn!”

Quần hùng nghe xong, trong lòng đều nhói lên một cái. Thì ra hoàng đế gian xảo vô cùng, đến phút chót bèn quyết định không đến đây.

Lý Khả Tú bước tới gần Trần Gia Lạc, vái chào rồi nói:

– “Cung hỉ, cung hỉ! Trần huynh được hoàng thượng ân sủng như thế, thật là hiếm có.”

Trần Gia Lạc cũng khiêm nhượng mấy câu. Lúc đó Lý Nguyên Chỉ cùng Dư Ngư Đồng bước tới. Lý Nguyên Chỉ khẽ gọi:

– “Gia gia!”

Lý Khả Tú giật mình quay đầu lại, thì ra là đứa con gái đã mất tích lâu ngày mà mình ngày đêm mong nhớ, bây giờ vẫn mặc nam trang. Hắn vui mừng như nhặt được của báu trên trời rơi xuống, vội nắm chặt lấy tay nàng, khóe mắt ướt đẫm, run rẩy hỏi:

– “Nguyên nhi, Nguyên nhi! Con có khỏe không?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Gia gia…”

Nàng nghẹn ngào, không sao nói tiếp được nữa. Lý Khả Tú bảo:

– “Qua đây! Con ngồi chung với gia gia.”

Rồi hắn kéo nàng đến một bàn tiệc bên cạnh. Lý Nguyên Chỉ và Dư Ngư Đồng đều biết hắn muốn bảo vệ con gái, đề phòng nàng bị tổn thương. Hai người bèn liếc nhau một cái, chia ra ngồi ở hai nơi.

Trì Huyền và Võ Minh Phu đến bàn tiệc chính giữa, nói với Trần Gia Lạc:

– “Tiểu ca! Sau này tiểu ca được làm quan lớn, đừng quên hai người huynh đệ này nhé.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Tại hạ còn phải nhờ hai vị công công chiếu cố nhiều.”

Trì Huyền vẫy tay gọi lớn:

– “Đến đây!”

Hai tên tiểu thái giám bưng một cái khay tới, trên khay có một bình rượu và mấy cái chén. Trì Huyền cầm bình rượu lên rót đầy hai chén, tự mình uống một chén rồi nói:

– “Ta mời tiểu ca một chén.”

Hắn để cái chén cạn xuống, hai tay bưng một chén khác đưa Trần Gia Lạc. Quần hùng chăm chú nhìn, đều nghĩ:

– “Hoàng đế không đến, nếu bây giờ mình ra tay trước thì đả thảo kinh xà, sau đó giết hắn không dễ nữa. Tuy hai chén này được rút từ cùng một bình rượu, nhưng không biết chúng có mưu ma chước quỉ gì. Để xem tổng đà chủ có uống hay không?”

Trần Gia Lạc cũng hết sức chủ ý, đã nhận ra trên tay cầm của bình rượu có hai cái lỗ nhỏ. Khi Trì Huyền rót chén rượu đầu tiên, hắn ấn ngón tay cái vào lỗ nhỏ bên trái. Khi rót chén thứ hai, hắn lướt ngón cái đi một chút để ấn vào cái lỗ nhỏ bên phải. Trần Gia Lạc hiểu ngay, bên trong bình rượu này chia thành hai ngăn. Khi ấn vào lỗ bên trái, thì rượu ở ngăn bên trái không chảy ra được, rượu rót ra là rượu đựng trong ngăn bên phải. Khi ấn vào lỗ bên phải thì ngược lại.

Chén rượu Trì Huyền đang mời được rót ra từ ngăn bên phải, dĩ nhiên là rượu độc. Chàng nghĩ:

– “Ca ca ác độc quá, nếu kháng cự thì giết chết không tha.”

Trần Gia Lạc vẫy tay một cái. Thường thị song hiệp tung người đến sau lưng hai tên Trì, Võ, mỗi người đưa tay ra nắm chặt cổ một tên. Hai tên này hoàn toàn bị bất ngờ, tuy võ công rất cao nhưng lúc này toàn thân tê liệt, muốn phản kháng nhưng không động đậy được nữa.

Trần Gia Lạc lại rót thêm một chén rượu độc, cười nói:

– “Đây mới đúng là rượu mời không uống, đòi uống rượu phạt.”

Lạc Băng và Chương Tấn mỗi người cầm một chén rượu, đổ vào miệng của Trì Huyền và Võ Minh Phu. Bọn thị vệ và ngự lâm quân thấy hai tên Trì, Võ bị khống chế, chỉ la lối om sòm chứ không dám tiến tới gần.

Quần hùng Hồng Hoa Hội tới tấp lấy binh khí giấu trong áo ra. Trong người Vô Trần chỉ giấu được một thanh đoản kiếm, dùng không quen tay. Ông nhảy xổ vào giữa đám thị vệ, kẹp hai ngón tay đoạt lấy một cây kiếm, lập tức ra chiêu giết chết ba tên. Sau đó Vô Trần chạy vào hậu điện, quần hùng cũng chạy theo.

Lý Khả Tú nắm tay con gái la lên:

– “Ở cạnh gia gia!”

Y vừa phải cùng Bạch Chấn thống lãnh thị vệ để ngăn cản quần hùng, vừa phải lôi kéo con gái đề phòng nàng bị thương trong lúc hỗn loạn. Dư Ngư Đồng thấy vậy, thở dài nghĩ bụng:

– “Mình với gia gia cô ấy như lửa với nước. Dù sao cô ấy vẫn chưa phải là thê tử của mình.”

Chàng bất giác đau lòng, liền cầm kim địch xông thẳng vào trong. Lý Nguyên Chỉ vận kình vào tay phải, giãy mạnh một cái. Lý Khả Tủ không sao nắm chặt được nữa, bị nàng giật tay ra. Lý Nguyên Chỉ kêu lớn:

– “Gia gia bảo trọng! Con đi đây!”

Rồi nàng xoay lưng lại, chạy vào giữa đám người. Lý Khả Tú bị bất ngờ, vội vã gọi theo:

– “Nguyên nhi, Nguyên nhi! Quay lại đây!”

Nhưng nàng đã chạy vào trong hậu điện rồi. Thấy Dư Ngư Đồng đang vũ lộng cây kim địch, ác chiến với năm sáu tên thị vệ, thần sắc hệt như đang liều mạng, Lý Nguyên Chỉ vội kêu lên:

– “Sư huynh! Muội đến đây!”

Dư Ngư Đồng nghe thấy cả mừng, tinh thần phấn chấn hẳn lên, tấn công veo véo luôn mấy chiêu. Lý Nguyên Chỉ cầm kiếm nhảy vào trợ chiến. Hai người đẩy lùi một đám thị vệ, nắm tay nhau chạy theo Lạc Băng.

Lúc này lửa cháy rực trời, tiếng người la hét ầm ĩ. Trần Gia Lạc và quần hùng đã chạy ra ngoài Tuy Thành Điện đảo mắt nhìn quanh, thấy mấy chục lạt ma đang ác chiến với một đội quân Thanh. Thoạt tiên thì bên lạt ma không sao chống nổi, nhưng Bạch Chấn lại thống lĩnh thị vệ giúp đỡ bọn lạt ma, dồn đội quân Thanh vào trong tòa điện đang bốc cháy dữ dội. Dĩ nhiên Trần Gia Lạc không biết những chuyện hiềm khích, âm thầm đấu đá giữa Càn Long và thái hậu. Chàng không khỏi kinh ngạc, nhưng cơ hội tốt không nên để mất, lập tức hạ lệnh cho quần hùng vượt tường tiến vào cung.

Lý Khả Tú và Bạch Chấn đã nhận mật chỉ của Càn Long là đồng thời diệt sạch hội chúng Hồng Hoa Hội và kỳ binh trong Tuy Thành Điện. Nhưng hai tên này, một thì nghĩ đến con gái, một thì nghĩ đến Trần Gia Lạc có ơn cứu mạng, nên đều buông lỏng quần hùng Hồng Hoa Hội, chỉ ra sức giúp bọn lạt ma đối phó với đám kỳ binh canh giữ điện. Chẳng bao lâu kỳ binh đã bị giết sạch, hoặc bị lửa thiêu chết. Tuy Thành Điện bốc lửa ngất trời, di chiếu của Ung Chính đã thành tro bụi.

Quần hùng nhảy lên bức tường bao quanh cung điện, hít được một hơi khí trời mát lạnh, tỉnh hẳn ra. Họ thấy ngoài Ung Hòa Cung có vô số quan binh, tất cả đã giương cung lắp tên, đao ra khỏi vỏ. Hàng ngàn ngọn đuốc giơ cao, trên trời lại thêm mấy trăm ngọn Khổng minh đăng lắc lư rọi xuống, sáng rực một góc trời.

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Hắn bố trí nghiêm ngặt thật, sợ bình rượu độc đó không giết được chúng ta.”

Chỉ trong nháy mắt, Vô Trần và Trần Chính Đức đã nhảy vào giữa trận của bọn ngự lâm quân mà chém giết. Tên từ bốn phương bắn tới như một bầy châu chấu. Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Mọi người xung phong!”

Quần hùng chạy sát vào nhau, theo Vô Trần và Trần Chính Đức xông tới chém giết. Nhưng Thanh binh càng giết càng nhiều, cứ thoát ra một lớp lại thấy bên ngoài có thêm hai lớp bao vây.

Vô Trần múa kiếm như chớp giật, tên nào cản trở đều mất mạng ngay, chốc lát đã giết được mười mấy tên ngự lâm quân, cuối cùng cũng xông ra khỏi trùng vi. Đợi một lúc không thấy ai ra theo, ông lo lắng trong lòng, bèn quay lại đánh trở vào trong vòng vây, thấy bảy tám tên thị vệ đang vây chặt Chương Tấn mà ác chiến. Thân thể Chương Tấn vấy đầy máu, thần sắc như người điên.

Vô Trần la lên:

– “Thập đệ đừng sợ! Ta đến đây!”

Soạt soạt ba chiêu, ba tên thị vệ trúng kiếm vào yết hầu, số còn lại la lên một tiếng rồi lùi lại hết. Vô Trần lại hỏi:

– “Thập đệ không sao chứ?”

Đột nhiên “vù” một tiếng, Chương Tấn múa cây bổng đập tới ông. Vô Trần giật mình nghiêng người né tránh, bỗng nghe Chương Tấn điên cuồng gào lên:

– “Các vị ca ca đều bị ngươi hại rồi! Ta không muốn sống nữa!”

Cây lang nha bổng là là mặt đất mà quét tới. Vô Trần vội kêu lên:

– “Thập đệ, Thập đệ! Ta đây!”

Chương Tấn giương mắt lên nhìn, đột nhiên buông lang nha bổng xuống rồi la lên:

– “Nhị ca! Đệ không đứng vững được nữa.”

Dưới ánh lửa, Vô Trần thấy y bị thương chảy máu khắp nơi, trước ngực, bả vai, cánh tay, chỗ nào cũng có. Ông chỉ có một cánh tay, không dìu đỡ được, đành nghiến răng lại nói:

– “Đệ nằm trên lưng, ôm lấy cổ ta đi!”

Ông khom người xuống, Chương Tấn theo lời mà gục vào lưng ông. Vô Trần cảm thấy máu nóng của người huynh đệ chảy vào trong áo mình, lập tức phấn chấn thần oai, vung kiếm xông vào đám đông chém giết, lưỡi kiếm đến đâu thì bọn lính Thanh lùi ra tới đó.

Đột nhiên Vô Trần thấy bọn quan binh phía trước liên tiếp văng lên trời, hình như bị túm lấy quẳng ra vậy. Ông nghĩ:

– “Ngoài Tứ đệ ra thì không ai có công lực như thế. Chẳng lẽ ngoài cửa thành đã có biến cố?”

Ông vung kiếm mở đường tới đó. Quả nhiên thấy bốn người Văn Thái Lai, Lạc Băng, Dư Ngư Đồng, Lý Nguyên Chỉ đang ác chiến với bọn thị vệ. Vô Trần la gọi:

– “Tổng đà chủ và các huynh đệ đâu?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Chưa thấy! Chúng ta qua đó tìm thử.”

Vô Trần yên tâm một chút. Ông biết Chương Tấn bị thương rất nặng, nhưng cũng cố hy vọng mọi người toàn mạng trở về. Văn Thái Lai múa đao mở được một con đường máu, thế là sáu người hợp thành một khối.

Vô Trần vừa chạy về phía Văn Thái Lai vừa hỏi:

– “Trước cửa thành ra sao rồi?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Ở đó không sao. Nhưng đệ không yên tâm, nên tới đây xem thử.”

Vô Trần nói:

– “Tứ đệ đến vừa đúng lúc.”

Tuy ông đang cõng Chương Tấn, nhưng cứ đưa một kiếm là giết một người, tên lính Thanh nào cũng lo trốn tránh thanh kiếm này. Đột nhiên Lý Nguyên Chỉ kêu lên:

– “Tổng đà chủ!”

Trần Gia Lạc đang chạy đông chạy tây dưới ánh lửa bập bùng, hình như đang tìm ai đó. Lục Phi Thanh từ phía tây xông ra, kêu lớn:

– “Mọi người lùi tới chân tường!”

Xa xa bỗng thấy một cái lông chim màu xanh lắc lư trên đầu đám đông. Lục Phi Thanh nói:

– “Tổng đà chủ dẫn mọi người lùi tới chân tường, để ta ra đón cô ấy về đây.”

Nói xong, ông vừa dùng trường kiếm vừa dùng quyền cước mà tiến về phía Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai lập tức mở đường lùi về phía bức tường thành.

Vô Trần kêu lên:

– “Thập đệ xuống đi!”

Chương Tấn không nhúc nhích. Lạc Băng tới đỡ thì thấy người y đã cứng đờ, tắt thở từ lâu. Nàng ôm lấy thi hài mà khóc lóc.

Văn Thái Lai đang giết bớt bọn thị vệ vây quanh Triệu Bán Sơn và Thường thị song hiệp, giúp ba người chạy tới đây. Chàng nghe tiếng khóc của Lạc Băng, không nén nổi cũng rơi vài giọt lệ, nộ khí xung thiên, múa đao chém chết ngay ba tên địch.

Thế là quần hùng đã dần dần tụ tập lại. Lúc này Lục Phi Thanh và Hoắc Thanh Đồng đã gặp nhau rồi. Trên đầu đám đông vẫn thấy ngọn thúy vũ đó từ từ di chuyển đến gần, nhưng khi khoảng cách còn vài chục bước thì không đến gần thêm được nữa. Thường thị song hiệp liền xông ra đoạt lấy hai cây trường thương, chạy đến đón hai người tới. Sắc mặt Hoắc Thanh Đồng xanh mét, máu tươi vấy đầy trên bộ áo vàng. Tuy nàng mặc nam trang, nhưng trên mũ vẫn cài một ngọn thúy vũ xanh biếc.

Trần Gia Lạc hô lên:

– “Lần này đừng để lạc nhau nữa. Chúng ta lại xung phong!”

Hô vừa dứt câu, từ trong Ung Hòa Cung bỗng vang lên tiếng tên bắn ra vèo vèo. Thì ra đám thủ hạ của Lý Khả Tú và Bạch Chấn đã giết sạch bọn kỳ binh bên trong Tuy Thành Điện, bây giờ mới kéo ra đây. Lúc này Hồng Hoa Hội trước sau đều bị bao vậy, hoàn cảnh vô cùng hiểm ác.

Trong lúc nguy cấp, đám ngự lâm quân phía trước đột nhiên lùi lại. Mấy chục tăng nhân mặc áo vàng xông vào trong ánh lửa, người đầu tiên râu bạc phất phơ, cầm kim đao đâm thẳng kém ngang, oai phong không ai chống nổi, đúng là Thiết đảm Chu Trọng Anh.

Quần hùng chưa kịp mừng rỡ, đã nghe Chu Trọng Anh la lên:

– “Các vị mau mau theo ta!”

Văn Thái Lai ôm lấy thi hài Chương Tấn, mọi người cùng chạy tới, thấy Thiên Kính thiền sư dẫn theo các vị tăng Thiếu Lâm như Đại Khổ, Đại Điên, Đại Si, Nguyên Thống, Nguyên Thương, Nguyên Vi quyết chiến với đội ngự lâm quân.

Hoắc Thanh Đồng thấy mọi người đã giết khá nhiều quân địch, nhưng bất luận mình đi về hướng nào, chúng cũng kéo tới bao vây được ngay. Nàng nghi ngờ ngẩng mặt nhìn lên, quả nhiên thấy trên một vọng lâu có mười mấy tên địch. Trong đó có bốn tên đứng ở bốn góc, tay cầm lồng đèn đỏ. Quần hùng đi đến phía tây, thì tên ở phía tây đưa cao ngọn đèn, quân lính bên dưới liền chạy về phía tây. Khi phe mình xung sát qua phía đông, thì ngọn đèn đỏ ở phía đông lại giơ lên. Nàng bèn bảo Trần Gia Lạc:

– “Dập tắt mấy ngọn đèn đỏ đi, sẽ dễ dàng hơn!”

Triệu Bán Sơn nghe thấy, cúi xuống đất nhặt lấy một cây cung và mấy mũi tên. Ông bật dây cung, tên bay ra veo véo, bốn ngọn đèn tắt ngấm. Quần hùng đều lên tiếng hoan hô.

Thanh binh không thấy đèn hiệu nữa, lập tức rối loạn hẳn lên. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Chắc chắn chủ tướng của chúng ở trên vọng lâu đó. Chúng ta đánh rắn phải đánh dập đầu trước.”

Mọi người đều biết nàng đã sắp đặt kế hoạch diệt sạch bốn vạn quân của Triệu Tuệ ở Hồi Cương, thật là hào kiệt Tôn Ngô trong nữ giới, ý kiến nhất định đáng tin. Vô Trần lập tức la lên:

– “Tứ đệ, Ngũ đệ, Lục đệ! Chúng ta đi thôi!”

Văn Thái Lai và Thường thị song hiệp đều vâng dạ. Bốn người như bốn con hổ dữ xông thẳng về hướng đó, bọn ngự lâm quân không sao cản nổi.

Mọi người Trần Gia Lạc cùng Thiên Kính thiền sư tiếp tục chém giết, cố thoát ra ngoài. Họ sắp ra khỏi vòng vây thì đột nhiên nghe tiếng quát tháo, nhìn lại thì thấy Lý Khả Tú và Bạch Chấn đã thống lãnh thân binh thị vệ kéo tới bao vây quần hùng vào giữa, trận hỗn chiến lại tiếp tục. Chẳng bao lâu, Lý Nguyên Chỉ, Lạc Băng và bảy tám tăng nhân Thiếu Lâm đã bị thương.

Vô Trần cùng với mọi người chạy tới tường thành, vừa nhảy lên vọng lâu đã có bảy người xông đến cản trở. Bọn này đều là cao thủ, võ công tinh diệu. Thường thị song hiệp liên thủ chống chọi với ba tên, nhất thời không sao thủ thắng. Vô Trần và Văn Thái Lai đều lấy một địch hai, kịch đấu lúc tiến lúc lùi. Vô Trần lo lắng thầm nghĩ:

– “Sao ở đây lại có nhiều tên giỏi võ như thế?”

Trên vọng lâu còn có một đám đông, ở giữa có một tên võ quan đầu đội nón đỏ, tay cầm trường đao, tay phất lệnh kỳ chỉ huy trận chiến. Vô Trần la lên:

– “Bọn ưng trảo này giao hết cho ta!”

Ông vung kiếm ra chiêu Tâm Thương Huyết Ô Trì đâm thẳng vào ngực tên địch bên trái, lại lập tức ra chiêu Đảm Liệt Nại Hà Kiệt chém vào đôi chân tên địch bên phải. Hai tên này một rụt người lại, một nhảy bật lên. Trường kiếm của Vô Trần lại nhằm vào hai tên thị vệ đang bao vây Văn Thái Lai, ra chiêu Thiên Nhẫn Đao Sơn đâm vào mông trái, ra chiêu Vạn Đẩu Du Cao chém ngang hông phải. Chiêu nào cũng vừa cực nhanh vừa hung hãn.

Nhờ thế mà Văn Thái Lai bứt ra được, lập tức xông tới tên võ quan đội nón đỏ. Đám vệ sĩ hai bên đều thấy chàng chạy tới, bốn tên lập tức giương đao cản trở. Dưới ánh lửa sáng rực, Văn Thái Lai vừa thấy tên võ quan đó quay đầu lại đã giật mình một cái, suýt nữa buột miệng la gọi:

– “Tổng đà chủ!”

Diện mạo tên võ quan này giống hệt Trần Gia Lạc, nếu không nhờ y phục khác nhau thì khó mà tin đó là hai người chứ không phải một.

Văn Thái Lai đột nhiên nhớ lại chuyện vợ mình từng kể. Khi Từ Thiên Hoằng bày kế đoạt Ngọc Bình, bắt Vương Duy Dương, tổng đà chủ cải trang làm võ quan đã bị đối phương nhận lầm là Cửu môn đề đốc Phúc Khang An, thống lãnh Kiêu Kỵ Doanh. Vậy tên này nhất định là Phúc Khang An rồi. Chàng thấy quần hùng đang ở nơi hiểm địa, không bắt được tên này thì khó mà thoát được. Lập tức chàng co người lại, luồn qua hai lưỡi đại đao, nhập nội vào sát người Phúc Khang An.

Tên võ quan đang thống lãnh Ngự Lâm Quân để tiêu diệt Hồng Hoa Hội chính là Phúc Khang An, người thân tín nhất của Càn Long. Việc hỏa thiêu Ung Hòa Cung cực kỳ bí mật, nên Càn Long mới hạ lệnh cho Phúc Khang An chỉ huy vụ này, nhưng sợ hắn gặp nguy hiểm nên mới tuyển ra mười sáu tên nhất đẳng thị vệ chỉ lo bảo vệ hắn.

Trong đám thị vệ lại có hai tên xông ra cản trở. Số còn lại lo hộ tống Phúc Khang An tránh sang một tòa nhà khác. Vô Trần liên tiếp ra những tuyệt chiêu đả thương hai người, rồi đột nhiên chạy lạng qua đảo lại, đánh võng giữa đám đông thị vệ, bên này đâm một kiếm, bên kia đá một cước, trong nháy mắt xuất luôn bảy tám độc chiêu. Văn Thái Lai cũng nhảy xổ theo, vận kình xuống chân tung người vọt lên không trung, từ trên đầu Phúc Khang An chụp xuống.

Lúc này đám quan binh Kiêu Kỵ Doanh và thị vệ dưới đất đã thấy chủ soái của mình gặp nguy hiểm. Tuy bên cạnh hắn có mười mấy cao thủ hộ vệ, nhưng không thể nào cản được hai bậc võ lâm quái kiệt liều chết xông vào. Lại có bảy tám tên nhảy lên mái nhà tương trợ, còn hết thảy quan binh tạm thời không vây rát Hồng Hoa Hội nữa, đều quay lên xem trận ác chiến trên mái nhà. Đột nhiên chúng thấy Phúc Khang An nhô lên cao, bất giác cùng thét lên kinh hãi.

Phúc Khang An chỉ biết chút đỉnh võ công, trong lúc nguy cấp đành vung đao chém bừa tới. Nhưng hai bên hắn còn có hai ngọn trường thương, hai lưỡi đại đao đồng thời chĩa lên đón Văn Thái Lai. Văn Thái Lai nghĩ:

– “Chiêu này mà ta bắt không được hắn, thì bọn cao thủ kia lại bu đến ngay, khi đó không còn cơ hội nữa.”

Chàng vận hết kình lực toàn thân, tay trái gạt văng hai cây trường thương đang đâm tới mình, chân đạp trúng ngực một tên, tay phải vung quyền đấm trúng mặt một tên, quát lên một tiếng rung trời chuyển đất. Vì tiếng quát này mà hai tên thị vệ vừa nhảy lên mái nhà giật mình hoảng sợ, rơi lại xuống dưới. Còn Phúc Khang An thì hai chân nhủn ra quị xuống, liền bị Văn Thái Lai túm lấy ngực giở hổng lên trời. Đây là lúc bọn Thanh binh ở tứ phía kinh hãi kêu lên.

Thường thị song hiệp đã kịp đánh ngã ba tên thị vệ, nhảy tới đứng cạnh Văn Thái Lai. Họ lấy phi trảo ra, múa thành một vòng bạch quang sáng chói đường kính chừng hai trượng, bọn Thanh binh không dám xông vào nữa. Bỗng thấy Phúc Khang An đưa lệnh kỳ lên, run giọng hô lớn:

– “Mọi người dừng tay! Quan binh các doanh và thị vệ trở về bản đội!”

Quan binh Kiêu Kỵ Doanh và bọn thị vệ thấy chủ soái bị bắt đều giật mình thất sắc. Có ba tên thị vệ phụng chỉ bảo vệ Phúc Khang An, mặc kệ phi trảo lợi hại cứ cố tiến lên. Vô Trần kêu lên:

– “Ngũ đệ, Lục đệ! Để ba tên chó săn đó tới đây.”

Song hiệp thu phi trảo nhảy ra, tưởng Vô Trần muốn đích thân lấy mạng chúng. Nào ngờ Vô Trần lại chỉ trường kiếm vào yết hầu Phúc Khang An, mỉm cười gọi:

– “Tới đây, tới đây nào!”

Ba tên thị vệ đang chần chừ nhìn nhau, Văn Thái Lai bỗng dùng sức bóp mạnh một chút. Phúc Khang An đau đớn thấu xương, vội vàng la lớn:

– “Lùi ra lập tức!”

Quân Thanh không dám tấn công nữa, lui về tập hợp theo từng đội. Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Chúng ta lên đó cả đi!”

Quần hùng chạy tới bên tường, lần lượt nhảy lên. Triệu Bán Sơn kiểm tra nhân số, thấy ngoài Chương Tấn trọng thương mất mạng còn bảy tám người bị thương, may mà không ai bị nặng. Trong ánh lửa bỗng thấy Mạnh Kiện Hùng và Từ Thiên Hoằng đỡ Chu Ỷ nhảy lên mái nhà. Đầu tóc nàng rối tung, sắc mặt trắng như tờ giấy. Chu Trọng Anh quát mắng:

– “Tại sao ngươi cũng tới đây? Không nghĩ đến thân thể mình ư?”

Chu Ỷ la lên:

– “Con đến tìm đứa con trai. Con ơi…! Trả lại con cho ta!”

Trần Gia Lạc thấy nàng thần sắc không tỉnh táo, nhưng rối loạn thế này không sao hỏi han được. Trong lúc bi phẫn, chàng dùng ám ngữ của Hồng Hoa Hội mà hạ lệnh:

– “Chúng ta tấn công vào cung, giết hoàng đế trả thù cho Thập ca!”

Quần hùng đều khen phải. Lạc Băng dịch câu này cho mọi người Lục Phi Thanh, Thiên Kính đại sư, Thiên Sơn Song Ưng, Hoắc Thanh Đồng nghe. Mọi người đều vung đao lên hưởng ứng. Thiên Kính nói:

– “Thiếu Lâm Tự đã bị hắn hủy diệt rồi. Hôm nay lão nạp phải đại khai sát giới!”

Trần Gia Lạc giật mình hỏi:

– “Sao? Thiếu Lâm Tự bị hủy rồi ư?”

Thiên Kính đáp:

– “Không sai! Chùa bị đốt thành một bãi đất bằng, Thiên Hồng sư huynh vì hộ pháp mà viên tịch.”

Trần Gia Lạc nghe vậy đau lòng, càng thêm phẫn hận.

Mọi người khống chế Phúc Khang An, đi qua giữa vô số đao thương kiếm kích của ngự lâm quân, cứ hết vòng vây này lại tới vòng vây khác. Số quan binh bao vây Ung Hòa Cung không dưới một vạn người. Quần hùng dù to gan đến đâu cũng phải kinh hãi nghĩ thầm:

– “May mà nắm được đầu bọn chúng, không thì khó mà ra khỏi vòng vây trùng trùng điệp điệp này.”

Khi ra khỏi vòng vây cuối cùng của quân Thanh, quần hùng thấy Tâm Nghiễn đã dẫn các đầu mục Hồng Hoa Hội đến, dắt theo mấy chục con ngựa đứng đợi xa xa. Mọi người lên ngựa, con thì một người cưỡi, con thì hai người cưỡi, vừa hò hét vừa phi như gió về phía hoàng cung.

Từ Thiên Hoằng giục ngựa tới bên Trần Gia Lạc, lên tiếng hỏi:

– “Tổng đà chủ đã chuẩn bị đường lui chưa?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Cửu ca và các huynh đệ sẽ tiếp ứng ở cửa thành. Sao Thất ca cũng đến đây?”

Từ Thiên Hoằng giận dữ lắp bắp:

– “Tên gian tặc Phương Hữu Đức… tên gian tặc… hắn…”

Trần Gia Lạc vội hỏi:

– “Hắn làm gì?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Hắn và Bạch Chấn nhận mật chỉ của hoàng đế, dẫn bọn thị vệ và quan binh nửa đêm đánh lén chùa Thiếu Lâm. Thiên Hồng đại sư không chịu chạy, chết cháy theo chùa.”

Thì ra Càn Long biết Vu Vạn Đình xuất thân từ Nam Thiếu Lâm, sợ trong chùa còn tàng trữ chứng cớ về thân thế mình, nên mới bí mật điều động Phương Hữu Đức là người tinh minh mẫn cán, đang giữ chức phiên đài tỉnh Phúc Kiến, điều quân hỏa thiêu Nam Thiếu Lâm Tự.

Từ Thiên Hoằng lại phẫn hận nói:

– “Chúng còn bắt con trai của thuộc hạ đi.”

Trần Gia Lạc nghe họ Từ đã có con trai, suýt nữa buột miệng chúc mừng, may mà nuốt lại kịp.

Từ Thiên Hoằng tiếp:

– “Thiên Kính đại sư thống lãnh các tăng nhân sống sót, đuổi theo bọn gian tặc đó đến tận Bắc Kinh. Mọi người đến hẻm Hồ đồng song liễu tử tìm Tổng đà chủ, mới biết các huynh đệ đang ở Ung Hòa Cung.”

Lúc này quần hùng đã gần tới cấm thành, ngự lâm quân đuổi theo rất sát. Từ Thiên Hoằng quay lại bảo Thiên Sơn Song Ưng:

– “Giả tỉ hoàng đế biết tin mà đi trốn, thì trong thâm cung mình biết chỗ nào mà tìm? Nhờ hai vị tiền bối tới trước thăm dò thử.”

Chàng nghĩ:

– “Hai lão nhân gia này đã lớn tuổi nhưng còn hiếu thắng. Vừa rồi Vô Trần và Văn Thái Lai bắt được Phúc Khang An, oai phong lẫm liệt. Vợ chồng họ chưa có dịp dùng tuyệt kỹ để lập công.”

Quả nhiên Thiên Sơn Song Ưng đồng ý ngay:

– “Được! Chúng ta đi trước.”

Quan Minh Mai tiện tay vứt bỏ áo mũ nam trang. Từ Thiên Hoằng lấy trong tay áo ra bốn chiếc pháo lưu tinh, đưa Trần Chính Đức rồi nói:

– “Khi hai vị tìm ra hoàng đế, nếu giết được thì lập tức giết chết. Còn nếu hắn có đông người hộ vệ, xin lão tiền bối dùng pháo lưu tinh làm hiệu.”

Quan Minh Mai đáp:

– “Hay lắm!”

Vừa dứt lời, hai vị lập tức nhảy qua tường xông vào nội viện, thân thủ cực kỳ nhanh nhẹn, giống hệt một cặp chim ưng.

Thiên Sơn Song Ưng bay nhảy trên mái nhà, thấy cung điện trùng trùng điệp điệp, nơi nào cũng là đình viện, không sao biết được hoàng đế đang trốn ở đâu. Quan Minh Mai nói:

– “Phải bắt một tên thái giám mà hỏi.”

Trần Chính Đức khen phải. Hai người nhảy xuống đất, tìm chỗ ẩn mình, lắng tai nghe ngóng, tìm chỗ có người để bắt. Đột nhiên có tiếng chân hai người bước lẹ tới. Trần Chính Đức nói nhỏ:

– “Hai tên này có võ công.”

Quan Minh Mai khẽ đáp:

– “Không sai! Đi theo xem thử!”

Song Ưng không lên tiếng nữa, đợi hai tên đó đi qua rồi âm thầm theo sau chúng. Tên đi trước thân hình ốm yếu nhưng võ công khá cao. Tên đi sau thân hình mập mạp, bước chân nặng nề hơn rất nhiều.

Tên đi trước chốc chốc phải dừng lại để đợi tên mập, lên tiếng hối thúc:

– “Nhanh lên, nhanh lên đi! Chúng ta phải là người đầu tiên báo tin cho hoàng thượng.”

Song Ưng vừa nghe thấy đã mừng rỡ. Hai tên này tới chỗ hoàng đế, đúng là hướng dẫn viên rất tốt. Song Ưng âm thầm cảm tạ tên mập đi sau, nhờ tiếng chân của hắn nặng nề mà vợ chồng mình không bị tên cao thủ đi trước phát hiện.

Bốn người đi qua rất nhiều lầu các đình viện, cuối cùng đến Bảo Nguyệt Lâu. Tên ốm đi trước nói:

– “Ngươi ở dưới này đợi ta một chút.”

Tên mập ừ một tiếng rồi dừng bước, tên ốm chạy lẹ lên lầu.

Song Ưng đưa tay gọi nhau, vòng sang một bên rồi trèo lên tận mái ngói. Họ móc chân vào xà ngang, treo ngược người xuống, nhìn thấy một hành lang chạm trổ rất đẹp, bên trong có một dãy dài cửa sổ. Mùi sơn mới vẫn còn rất rõ, hòa quyện vào hương hoa ở xung quanh. Có ánh nến nhợt nhạt rọi qua cửa sổ bằng giấy.

Hai người khẽ nhảy xuống hành lang chạm khắc đẹp đẽ đó, nhìn thấy một bóng người hiện trên cửa sổ giấy. Quan Minh Mai dùng ngón tay thấm ướt nước bọt, nhẹ nhàng chọc thủng giấy dán cửa, kề mắt vào nhìn. Quả nhiên bà thấy Càn Long đang ngồi trên ghế, tay cầm cây quạt phe phẩy. Tên ốm đang quì dưới đất để bẩm báo, thì ra chính là Bạch Chấn.

Bạch Chấn khải tấu:

– “Tuy Thành Điện đã bị thiêu rụi cùng số quan binh canh giữ, không người nào trốn được ra ngoài.”

Càn Long cả mừng nói:

– “Hay lắm!”

Bạch Chấn bỗng dập đầu rồi nói tiếp:

– “Nô tài đáng chết! Bọn phản đồ Hồng Hoa Hội chưa bắt được tên nào.”

Càn Long kinh hãi hỏi:

– “Sao thế?”

Bạch Chấn nói:

– “Hai người thân cận của thái hậu là Trì Huyền và Võ Minh Phu đòi mời rượu độc gì đó, bị lộ cơ quan trong bình rượu. Sau đó hai bên lập tức trở mặt đánh nhau. Nô tài đang phải lo vụ Tuy Thành Điện, nên hai người Trì và Võ để sổng chúng ra ngoài”.

Càn Long “hừ” một tiếng, cúi đầu ngẫm nghĩ.

Trần Chính Đức chỉ Bạch Chấn, rồi chỉ Càn Long, tỏ ý bảo vợ mình:

– “Ta đấu với Bạch Chấn, bà lo giết hoàng đế.”

Quan Minh Mai gật đầu một cái, hai người định phá cửa sổ nhảy vào. Đột tiên Bạch Chấn vỗ tay một tiếng, Quan Minh Mai vội nắm cánh tay chồng kéo lại, xua tay một cái tỏ ý:

– “Chắc bên trong có gì kỳ lạ, theo dõi một chút rồi hãy tính.”

Quả nhiên từ gầm giường, trong tủ, sau bình phong, có mười hai tên thị vệ đột nhiên xuất hiện, trong tay đều cầm binh khí. Thế mà trước đó không có chút âm thành nào.

Thiên Sơn Song Ưng đều nghĩ:

– “Bọn bảo vệ hoàng đế chắc chắn phải là đệ nhất cao thủ. Nếu hai người chúng ta xông bừa vào, chẳng những không giết được hoàng đế, lại còn để hắn trốn vào một chỗ không thể tìm ra được. Tốt nhất là đợi mọi người đến đây.”

Bạch Chấn khẽ bảo một tên thị vệ mấy câu. Tên thị vệ xuống lầu, rồi dắt tên mập lên.

Tên mập đó mặc y phục toàn màu vàng. Khi hắn bái kiến hoàng đế xong, ngẩng đầu lên, Song Ưng hết sức bất ngờ. Thì ra đó là một tên lạt ma.

Càn Long nói:

– “Hô Âm Khắc! Việc này ngươi lo liệu rất hoàn chỉnh, không để lộ ra chút vết tích nào phải không?

Hô Âm Khắc nói:

– “Mọi vệc đều theo ý chỉ của hoàng thượng. Người và vật trong Tuy Thành Điện đều cháy sạch, không còn lại tí gì.”

Càn Long khen liền miệng:

– “Hay, hay lắm! Bạch Chấn! Ta đã hứa cho hắn làm Phật sống. Ngươi đi lo vụ này đi.”

Bạch Chấn vâng dạ, còn Hô Âm Khắc mừng rỡ dập đầu tạ ơn. Hai người đi xuống dưới lầu, bỗng Bạch Chấn bảo:

– “Hô Âm Khắc, ngươi khấu đầu tạ ơn thánh thượng đi.”

Hô Âm Khắc ngẩn ra một chút, nghĩ bụng:

– “Ta tạ ơn rồi mà?”

Nhưng tổng quản thị vệ của hoàng đế bảo sao thì hắn làm vậy, liền hướng về Bảo Nguyệt Lâu mà cúi lạy. Đột nhiên hắn cảm thấy sau gáy mình lạnh buốt, hai tên thị vệ đã cầm đao kề lên cổ. Hô Âm Khắc kinh hãi, run giọng hỏi:

– “Cái… cái gì vậy?”

Bạch Chấn cười nhạt:

– “Hoàng thượng đã hứa cho ngươi làm Phật sống. Bây giờ ta đưa ngươi về Tây Thiên để làm Phật sống trên đó.”

Hắn vẫy tay một cái, hai lưỡi đao cùng chặt xuống. Lập tức có hai tên thái giám cầm thảm chạy đến, cuốn lấy thi thể Hô Âm Khắc đem đi. Xa xa bỗng có tiếng huyên náo, mấy chục người xách lồng đèn chạy tới như một bầy ong. Bạch Chấn vội chạy lên lầu bẩm báo:

– “Có phản tặc! Xin hoàng thượng lùi vào hậu cung.”

Khi ở Hàng Châu, Càn Long đã từng nhìn thấy thân thủ của quần hùng Hồng Hoa Hội. Hắn biết đám thị vệ quyết không phải là đối thủ của họ, nên không hỏi nhiều mà lập tức đứng dậy. Trần Chính Đức ném ra một quả pháo lưu tinh. Xẹt một tiếng, một vệt sáng trắng từ trên mái lầu bay thẳng lên, lướt ngang qua bầu trời đêm. Ông lớn tiếng hô:

– “Chúng ta đã chờ ở đây lâu rồi. Ngươi còn muốn chạy đi đâu?”

Hai vợ chồng biết quần hùng không đến được ngay, bây giờ mình phải cố giữ chân hoàng thượng lại đây. Họ lập tức phá cửa sổ, nhảy vào trong lầu. Bọn thị vệ không biết địch thủ đã đến bao nhiêu, cùng giật mình kinh hãi. Thấy ngoài cửa có một ông lão mặt đỏ, một bà lão tóc bạc, hai tên lập tức vọt ra chặn đánh. Bạch Chấn vội cõng Càn Long lên lưng, có bốn tên thị vệ cầm đao bảo vệ trước sau, nhảy tới cầu thang, toan chạy xuống tầng lầu thứ ba.

Quan Minh Mai vung tay phóng luôn ba hạt thiết liên tử, Bạch Chấn vội vàng tránh né. Quan Minh Mai cũng tung người nhảy ra đứng trên cầu thang giữa tầng ba và tầng bốn, phóng kiếm đâm thẳng vào cánh tay trái Càn Long. Bạch Chấn hoảng sợ lùi lên hai bước, hai tên thị vệ đứng trước lập tức múa đao cản trở.

Trần Chính Đức giao đấu với ba người thị vệ được mấy hiệp, biết ngay là cao thủ nội kình rất mạnh. Ông phải thi triển công phu khinh công mà chạy tứ tung trong căn lầu, không thể công nhiên đón đỡ. Bạch Chấn huýt một tiếng sáo, bốn tên thị vệ liền từ bốn góc nhảy vào, hợp với ba tên có sẵn bên trong, bảy người vây chặt lấy Trần Chính Đức.

Trần Chính Đức gắng gượng chống đỡ được mười mấy chiêu, rồi phải đưa kiếm ra gạt một cây đoản thương và một cây thiết liên chùy bên trái, chấp nhận để một ngọn roi từ bên phải quật trúng tay phải của mình. Mười mấy năm nay ông chưa để địch thủ chạm đến mình, phen này vừa đau đớn vừa tức giận.

Ông bèn chuyển kiếm qua tay trái, xuất chiêu Cuồng Phong Quyển Hoàng Sa ép cả bọn lùi lại một bước, rồi khom người đâm thẳng một kiếm, giết chết ngay tên thị vệ đã dùng roi đả thương mình. Quan Minh Mai thấy chồng bị thương, lập tức chạy đến tiếp ứng, hai người lùi dần xuống tầng lầu thứ hai.

Trần Chính Đức thấy quần hùng chưa đến, sợ vợ chồng mình không giữ chân nổi mười mấy tên cao thủ thị vệ này, để chúng chạy mất xuống lâu. Ông liền tìm cơ hội chạy ra phía ngoài, ném thêm một quả pháo lưu tinh. Khi chạy vào trong lầu, thấy vợ mình đang cố giữ cầu thang, qua lại mấy chiêu mới chịu lùi xuống một bậc. Lúc này đúng là tranh giành từng tấc đất.

May mà cầu thang này không rộng lắm, chỉ đủ chỗ cho ba bốn địch thủ tấn công cùng một lúc. Nhưng phải ngẩng mặt từ dưới đánh lên như vậy, mất sức rất nhiều. Trần Chính Đức bỗng nghĩ:

– “Sao ta không lấy công làm thủ?”

Ông bèn vung kiếm nhảy về phía Càn Long, bọn thị vệ vội chạy tới chống đỡ. Nhưng khi đó Trần Chính Đức đã lùi ra, tấn công vào sau lưng bọn thị vệ đang đấu với Quan Minh Mai. Khi bọn chúng xông đến, ông lại quay sang tấn công Càn Long. Bọn thị vệ phải chạy tới chạy lui, vừa lo hộ giá vừa lo đẩy địch xuống cầu thang. Thế là Trần Chính Đức phản khách vi chủ, chiếm được thượng phong. Bọn thị vệ rối loạn cả lên, bị ông đả thương hai tên. Đồng thời Quan Minh Mai cũng tiến lên được bốn bậc thang cấp.

Bạch Chấn thấy tình hình bất lợi, liền bảo một tên thị vệ:

– “Mã huynh đệ! Ngươi cõng hoàng thượng cho ta.”

Tên này chính là Mã Kiếm Hiệp, từng bị Hồng Hoa Hội bắt ở Hàng Châu. Hắn lập tức khom lưng xuống, cõng hoàng thượng lên.

Bạch Chấn rảnh tay, hú lên một tiếng dài rồi vung hai tay chộp vào mặt Trần Chính Đức. Hai bên qua lại mấy chiêu, Trần Chính Đức không thoát ra được nữa, âm thầm kêu khổ. Tay phải ông đã bị thương, càng lúc càng thấy đau hơn, giao đấu với một mình Bạch Chấn đã là miễn cưỡng, huống chi xung quanh còn tới bốn năm thị vệ nữa.

Bạch Chấn đảo người liên tục, song chưởng trở qua lật lại, chiêu nào cũng nhằm vào chỗ yếu hại của đối phương. Trần Chính Đức phải tập trung tinh thần chống đỡ, không đề phòng được sau lưng. Một tên thị vệ cầm kiếm đánh lén, đâm trúng vào lưng ông.

Tên thị vệ này đang mừng rỡ, bỗng bị Trần Chính Đức giật khuỷu tay thúc ngược lại, lập tức vỡ xương đầu mà chết. Nhưng họ Trần đã bị nhát kiếm đó đâm trúng chỗ yếu hại, biết chắc hôm nay mình mất mạng ở đây. Ông liều mạng vung kiếm xông lên, quát to một tiếng. Bạch Chấn giật mình lùi lại, Trần Chính Đức bèn ném thanh kiếm về phía Càn Long.

Mã Kiếm Hiệp thấy trường kiếm bay tới, muốn né tránh cũng không kịp nữa. Hắn sợ hoàng đế bị thương, đành vận hết công lực lên bàn tay mà vung ra gạt. Nhưng nhát kiếm này là đòn tối hậu, Trần Chính Đức dùng hết sức ném ra bằng tất cả nỗi phẫn uất cùng nghĩa khí dồn nén trong lòng, kình lực không gì sánh nổi. Dĩ nhiên bàn tay bằng da bằng thịt của Mã Kiếm Hiệp không sao chống đỡ được. Nghe xoẹt một tiếng, bàn tay hắn bị xẻo đứt một nửa, trường kiếm đâm thẳng vào trước ngực, ló ra phía sau lưng.

Trần Chính Đức cả mừng nghĩ bụng:

– “Nhất định nhát kiếm này đã xuyên thủng Càn Long một lỗ. Mạng ta đổi lấy mạng hoàng đế, chết thật là không uổng.”

Bạch Chấn và bọn thị vệ thì thấy trường kiếm xuyên qua ngực Mã Kiếm Hiệp, Quan Minh Mai thì thấy chồng mình trúng thương ném kiếm khỏi tay, hai bên đều kinh hãi thất sắc. Mọi người không lo đánh nhau nữa, ai cũng lo chạy tới đỡ người bên mình.

Bạch Chấn ôm Càn Long dậy, vội hỏi:

– “Hoàng thượng sao rồi?”

Càn Long hoảng sợ đến nỗi mặt tái xanh tái mét. Lát sau hắn cố gắng tự trấn tĩnh, mỉm cười nói:

– “May mà ta có đề phòng trước.”

Bạch Chấn thấy mũi kiếm lòi ra sau lưng Mã Kiếm Hiệp tới hơn nửa thước, mấy lớp áo của Càn Long đã bị xuyên thủng, thế mà hoàng đế lại không bị thương chút nào. Hắn vừa sợ hãi vừa kinh ngạc, mừng rỡ nói:

– “Hoàng thượng hồng phúc tề thiên, đúng là chân mạng thiên tử có bách thần phù hộ.”

Hắn không biết, Càn Long từ lúc phản bội lời thề lúc nào cũng sợ Hồng Hoa Hội đến trả thù. Hai mươi năm trước, hoàng đế Ung Chính giữa đêm bị thích khách đâm chết, thảm trạng đó bây giờ Càn Long nhớ lại vẫn còn run rẩy. Vì thế mà mấy ngày nay, lúc nào hắn cũng mặc thêm kim ty nhuyễn giáp bên trong mấy lớp y phục.

Bạch Chấn xốc Càn Long lên lưng, thấy cầu thang không còn ai cản trở nữa, bèn huýt sáo một tiếng. Đám thị vệ tiền hô hậu ủng, cả bọn chạy thẳng xuống lầu. Sắp tới cửa Bảo Nguyệt Lâu, Càn Long bỗng la lên hoảng sợ, nhảy vội xuống đất.

Thì ra có người đứng trước cửa tòa lầu này, chính là Trần Gia Lạc. Sau lưng chàng còn có mấy chục vị anh hùng hào kiệt, ánh lửa chiếu lên binh khí sáng lòa một góc. Càn Long chạy ngược lên lầu, bọn thị vệ chen nhau chạy theo. Hai tên chậm chân nhất đã bị Thường thị song hiệp cản lại. Giao đấu mới mấy hiệp, ba tăng nhân Thiếu Lâm đã nhảy tới giáp công, lập tức lấy mạng hai tên đó.

Khi nhìn thấy tín hiệu pháo lưu tinh, Trần Gia Lạc cùng với quần hùng gấp rút chạy tới Bảo Nguyệt Lâu, nhưng dọc đường có rất nhiều thị vệ liều chết cản đường. Họ vừa đánh vừa tiến, chậm trễ rất nhiều, may mà hoàng đế đã bị Thiên Sơn Song Ưng giữ chân tại Bảo Nguyệt Lâu, chưa chạy thoát được.

Quần hùng cả mừng, chạy gấp lên lầu. Văn Thái Lai quát lên một tiếng như hổ rống:

– “Ha ha! Thì ra ngươi ở đây!”

Lúc này Càn Long ngồi trên giường, đứng ngay trước giường là Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm tay cầm binh khí. Trần Gia Lạc vừa lên lầu, lập tức phái mọi người canh giữ hết đường đi lối lại. Vô Trần cầm kiếm đứng chặn cầu thang lên tầng thứ ba. Thường thị song hiệp giữ cầu thang xuống tầng một. Triệu Bán Sơn, Đại Khổ, Đại Điên, Đại Si canh giữ bốn mặt cửa sổ đông, tây, nam, bắc.

Thấy sư phụ đang ôm lấy sư công mà tuôn lệ không ngừng, Hoắc Thanh Đồng vội vàng chạy tới. Nàng thấy sau lưng Trần Chính Đức có một lỗ sâu, máu phun ra như suối, lập tức nước mắt cũng trào ra. Lục Phi Thanh cũng chạy tới, lấy ngay kim thương dược ra băng bó.

Trần Chính Đức đau khổ gượng cưởi, lắc đầu ra vẻ vô ích, rồi nói Quan Minh Mai:

– “Ta có lỗi với bà… Hại bà mấy chục năm nay sống không vui vẻ… Bà trở về Hồi Cương, kết làm phu phụ với Viên đại ca… Ta ở dưới cửu tuyền cũng được yên tâm… Lục huynh đệ… lo giúp ta…”

Quan Minh Mai nhăn tít mày lại, quát mắng:

– “Mấy tháng nay chẳng lẽ ông vẫn chưa hiểu ta hay sao?”

Lục Phi Thanh nghĩ bụng:

– “Ông ấy sắp chết rồi, thế mà cái cặp oan gia này vẫn còn cãi cọ. Ngoài miệng nói theo mấy câu thì đã sao đâu?”

Ông đang định lên tiếng khuyên giải, bỗng nghe Quan Minh Mai kêu lên:

– “Thế này thì ông yên tâm rồi chứ?”

Bà xoay lưỡi kiếm lướt qua cổ họng của mình, tắt thở lập tức. Hoắc Thanh Đồng và Lục Phi Thanh tuy ở sát bên, nhưng không ngờ bà cương liệt như thế, nên hoàn toàn không kịp trở tay. Trần Chính Đức buông tiếng khóc rống, rồi cũng đưa kiếm tự cắt cổ mình. Lục Phi Thanh cúi đầu, nhìn Thốc Cưu ôm lấy Tuyết Điêu mà chết trong vũng máu. Hoắc Thanh Đồng nằm rạp trên người Song Ưng, gào khóc không dứt được.

Trần Gia Lạc cầm thanh đoản kiếm chỉ vào mặt Càn Long mà nói:

– “Khoan hãy nói đến những lời chúng ta đã thề trong Lục Hòa Tháp. Trên đê chắn sóng ở huyện Hải Ninh, chúng ta đã từng vỗ tay mà thề tuyệt đối không hại lẫn nhau. Tại sao ngươi dùng rượu độc để ám toán ta? Hôm nay ngươi còn gì để nói nữa không?”

Chàng bước lên hai bước, chĩa mũi kiếm lấp loáng ánh tử quang thẳng vào tim hắn, lạnh lùng nói tiếp:

– “Ngươi nhận giặc làm cha, tàn hại bá tánh, là công địch của dân chúng và nghĩa sĩ trên khắp thiên hạ. Tình nghĩa huynh đệ thủ túc của chúng ta là chuyện nhỏ hơn, không cần nhắc đến. Hôm nay ta phải lấy máu của ngươi, trả thù cho những ai đã chết dưới tay ngươi!”

Càn Long sợ đến trắng bệch cả mặt, toàn thân run rẩy. Thiên Kính đại sư bước lên một bước, quát lên:

– “Chúng ta chỉ lo việc thanh tu ở chùa Thiếu Lâm, không tranh đoạt gì đến thế sự. Tại sao ngươi phái người thân tín tới thiêu rụi Phật môn thánh địa, không chừa lại viên ngói nào? Hôm nay lão nạp phải đại khai sát giới!”

Thành Hoàng đột nhiên nhảy vọt ra, vung cây tề mi côn đập từ trên xuống dưới. Thiên Kính không thèm né tránh, tay phải nắm lấy đầu côn giật mạnh, Thành Hoàng không gượng nổi, té nhào tới trước. Thiên Kính xoay tay ấn tới nghe “phụp” một tiếng. Nửa cái đầu của Thành Hoàng lún ngập vào trong cổ, mất mạng lập tức. Thiên Kính lại rung tay một cái, cây tề mi côn bằng gỗ gãy làm ba khúc.

Bọn thị vệ thấy lão hòa thượng thần oai như thế, không tên nào dám bước ra nữa. Đến nước này thì Bạch Chấn không còn cách nào khác, đành phải bước lên một bước mà nói:

– “Để ta tiếp lão thiền sư mấy chiêu!”

Thiên Kính “hừ” một tiếng, đang đợi đối thủ xuất chiêu thì nghe Trần Gia Lạc nói:

– “Đại sư! Nhường cho vãn bối!”

Thiên Kính gật đầu, Trần Gia Lạc liền nói:

– “Bạch lão tiền bối, mời!”

Chàng vừa nói xong, vung chưởng đánh ra veo véo. Bạch Chấn đưa tay định đỡ, không ngờ phát chưởng của Trần Gia Lạc đột ngột xoay chuyển phương vị, đánh trúng vào vai hắn.

Bạch Chấn kinh hãi nghĩ thầm:

– “Lúc tỉ đấu ở Hàng Châu, hai bên bản lãnh chỉ ngang nhau. Tại sao chỉ mới một năm mà võ công của hắn tiến bộ nhanh đến thế?”

Nghĩ còn chưa dứt, Trần Gia Lạc đã đánh tới thêm hai chưởng. Bạch Chấn né được một chưởng, trúng một chưởng. Hắn biết mình không chịu nổi, bèn lùi lại một bước hô lên:

– “Ta không phải là đối thủ của Trần tổng đà chủ. Giết ta đi!”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta kính trọng các hạ đáng mặt nam tử hán. Các hạ đừng bán mạng cho hoàng đế nữa, cứ việc đi đi.”

Triệu Bán Sơn đang giữ ở cửa sổ phía đông, liền né sang một bên. Bạch Chấn cười thê thảm rồi nói:

– “Đa tạ hảo ý của hai vị. Ta chẳng còn mặt mũi nào trên giang hồ nữa.”

Hắn tung mình nhảy ra khỏi cửa sổ, rồi đi đâu không biết. Trần Gia Lạc đỡ Hoắc Thanh Đồng dậy, đưa nàng thanh đoản kiếm rồi bảo:

– “Gia gia, ca ca, muội muội, hai vị sư phụ, vô số phụ lão huynh đệ tỉ muội của muội đã chết dưới tay tên này. Muội tự tay giết hắn đi!”

Hoắc Thanh Đồng đón lấy thanh đoản kiếm, chầm chậm bước về phía Càn Long. Thoại Đại Lâm cầm thanh đao có răng cưa bước ra cản đường. Văn Thái Lai đứng bên lập tức nhảy ra, đưa tay trái túm lấy lưng hắn xách ngược lên, tay phải nắm lại đánh vào ngực hắn tám chín quyền như đánh trống. Khi chàng buông tay, Thoại Đại Lâm nhũn ra rơi xuống đất như một đống thịt, xương sống xương sườn đều gãy vụn. Trước kia hắn cùng bảy tên thị vệ đi bắt Văn Thái Lai, dùng số đông đánh lén khiến chàng trọng thương, bây giờ mối thù đã rửa. Văn Thái Lai nhìn Hoắc Thanh Đồng cầm kiếm bước tới, bên Càn Long chỉ còn năm sáu tên thị vệ. Chàng cười rộ lên ha hả, đứng bên giám thị.

Hoắc Thanh Đồng bước được mấy bước, đột nhiên nghe thấy dưới lầu có tiếng người rất huyên náo. Triệu Bán Sơn quay đầu nhìn ra, thấy ngoài Bảo Nguyệt Lâu đèn đuốc sáng trưng. Nào ngự lâm quân, nào thị vệ, nào thái giám, tổng cộng không dưới ba bốn ngàn người dồn đến đây cứu giá. Văn Thái Lai tới bên cửa sổ quát lớn:

– “Hoàng đế đang ở đây! Tên nào dám lên, lão gia phải làm thịt hoàng đế trước.”

Chàng oai phong lẫm liệt, tiếng quát nghe như sấm nổ. Mấy ngàn quân im thin thít, không tên nào la lối gì nữa. Từ Thiên Hoằng và Tâm Nghiễn lại xách thi thể của Thoại Đại Lâm, Mã Kiếm Hiệp và Thành Hoàng quăng xuống dưới. Bọn thị vệ thấy đám cao thủ này đã chết hết, lại càng không dám động đậy, sợ làm tổn thương hoàng đế.

Trên Bảo Nguyệt Lâu, quần hùng cũng im lặng không dám lên tiếng. Ai cũng chăm chú nhìn thanh bảo kiếm lấp loáng tử quang trên tay Hoắc Thanh Đồng, đang nhích dần tới Càn Long.

Đột nhiên sau giường của Càn Long có bóng người thoáng động, một người xông ra đứng chắn trước mặt hắn. Hoắc Thanh Đồng giật mình dừng lại, thấy đây là một lão già tóc đã bạc phơ, trên má trái có một bớt đen rất lớn, trong tay lại ôm một đứa bé sơ sinh. Tay phải lão giữ lấy đứa trẻ, miệng cười lạnh lẽo, tay trái thì đưa cả năm ngón tay bóp hờ lên họng chú bé. Đứa bé sơ sinh này vừa trắng trẻo vừa mập mạp, cứ mê say mút ngón tay cái nghe chùn chụt, dễ thương không tả nổi.

Chu Ỷ lập tức bước ra, lớn tiếng kêu lên:

– “Trả con cho ta!”

Nàng nhảy xổ tới, toan đoạt lại đứa bé. Lão già kia cười khẩy rồi nói:

– “Ngươi tới đây! Nếu ngươi muốn lấy xác con thì cứ tới đây.”

Chu Ỷ mất hồn mất vía, ngơ ngẩn đứng yên tại chỗ.

Lão già này chính là Phương Hữu Đức, quan phiên đài ở tỉnh Phúc Kiến. Hắn đã lãnh mật chỉ của hoàng đế gửi thám mã mang đến, cùng Bạch Chấn và các cao thủ trong đại nội thống lãnh binh mã nửa đêm đánh úp Thiếu Lâm Tự, thiêu sống Thiên Hồng đại sư, tiện tay cướp lấy con trai của Chu Ỷ. Càn Long bảo hắn tạm đợi trong cung, đêm nay sẽ triệu kiến để hỏi cho tỉ mỉ, trong chùa Thiếu Lâm còn chút dấu tích nào liên quan tới thân thế của mình hay không.

Nhưng hỏi han chưa xong, Thiên Sơn Song Ưng đã đến. Phương Hữu Đức núp vào sau màn, không dám ló đầu ra. Bây giờ thấy tình hình khẩn cấp, lão tuy không biết võ nghệ nhưng đã nham hiểm lại quyết đoán, lập tức ôm chú bé bước ra.

Hai bên đứng giương mắt nhìn nhau một hồi, rồi Phương Hữu Đức lên tiếng:

– “Các ngươi lui ra ngoài cung đi, ta sẽ trả lại đứa bé này.”

Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Loại ma quỉ này mà lừa gạt được ai?”

Trong lúc bị kích động, nàng mở miệng nói tiếng Hồi, Phương Hữu Đức chẳng hiểu gì.

Quần hùng đều thấy Càn Long đã nằm trong lòng bàn tay, dù quân mã cả nước dồn hết tới đây cứu giá thì cũng phải giết hoàng đế trước rồi tính tiếp. Nào ngờ ở đâu chạy ra một lão già tay không tấc sắt, lại không hiểu võ nghệ, chỉ ôm một đứa bé mà kiềm chế được mọi người đứng yên không nhúc nhích. Quần hùng đều nhìn Trần Gia Lạc, đợi chàng ra lệnh.

Trần Gia Lạc nhìn Hoắc Thanh Đồng, nghĩ đến Hương Hương công chúa bị Càn Long ép chết, mối huyết hải thâm thù của gia đình Hoắc Thanh Đồng chẳng thể nào không báo. Chàng nhìn tới thi hài của Thiên Sơn Song Ưng và Chương Tấn, lại càng phẫn hận. Nhưng khi quay mặt lại, chàng thấy sắc mặt Từ Thiên Hoằng vừa kinh hoàng vừa lo lắng, bất giác phải nhìn sang đứa bé trên tay Phương Hữu Đức.

Chú bé này chỉ chừng một tháng tuổi, hoàn toàn chẳng hiểu biết gì, cứ toét miệng ra cười, đưa bàn tay nhỏ xíu ra sờ vào bàn tay gân guốc khô cằn đang ấn hờ lên cổ mình. Trong lòng chàng run rẩy, quay lại nhìn mọi người. Trong ánh mắt của Thiên Kính đại sư chiếu ra những tia sáng từ bi. Lục Phi Thanh khẽ thở dài. Hàm râu bạc trắng của Chu Trọng Anh không gió mà phất phơ, vì toàn thân đang run rẩy. Chu Ỷ thì há hốc miệng, hồn phách bay đi đâu hết.

Trần Gia Lạc nghĩ thầm:

– “Chu lão gia đã vì Hồng Hoa Hội mà tuyệt đường hương hỏa. Đứa bé này chính là sinh mạng của ông, nối tiếp dòng dõi cho ông… Nhưng hôm nay mà không giết hoàng đế, nhất định sau này hắn sẽ phòng bị cẩn thận hơn, không còn dịp để trả đại thù. Ta phải làm sao?”

Chàng đang suy tính, bỗng nghe Chu Ỷ la lên một tiếng. Nàng bị Lạc Băng và Lý Nguyên Chỉ kéo lại, nhưng cố giãy giụa định phóng lên phía trước. Ngay cả Vô Trần, Văn Thái Lai, Thường thị song hiệp là những hào kiệt trước nay giết người không chớp mắt, lúc này trên mặt cũng lộ vẻ bất nhẫn.

Triệu Bán Sơn đã âm thầm nắm ám khí trong tay, nhất định có thể lấy mạng Phương Hữu Đức bất cứ lúc nào. Nhưng đứa bé này quá non nớt, nếu khi giãy chết mà Phương Hữu Đức hơi đè nặng ngón tay một chút thôi, thì cái cổ họng mềm xèo kia sẽ ra sao? Bàn tay của Triệu Bán Sơn khẽ run lên. Ông có mấy chục loại ám khí, mà bây giờ không dám vọng động phóng ra một mũi nào.

Hoắc Thanh Đồng quay lại, giao trả thanh đoản kiếm cho Trần Gia Lạc, khẽ nói:

– “Dù sao người cũng đã chết rồi, hồn đã về Thiên quốc. Chỉ cần dạy dỗ đứa bé này, khi nó lớn lên phải nhớ mối thâm thù.”

Trần Gia Lạc gật đầu, rồi dõng dạc nói với Phương Hữu Đức:

– “Được! Chúng ta không hại mạng hoàng thượng. Trả lại đứa bé cho ta.”

Nói xong, chàng tra kiếm vào vỏ, đưa hai tay ra định đón lấy đứa bé. Phương Hữu Đức vẫn âm trầm nói:

– “Hừ! Ai tin được ngươi? Sau khi các ngươi lui hết ra khỏi cung, ta mới giao trả đứa bé.”

Trần Gia Lạc giận dữ hét lên:

– “Hồng Hoa Hội chúng ta đã nói là làm, chẳng lẽ lại đi lừa gạt một con chó già như ngươi?”

Phương Hữu Đức nói:

– “Nói sao thì nói, ta không tin ngươi.”

Trần Gia Lạc bảo:

– “Được! Vậy ngươi theo chúng ta ra khỏi cung.”

Phương Hữu Đức chần chừ không đáp. Càn Long nghe Trần Gia Lạc nói tha mạng cho mình, trong lòng mừng rỡ vô cùng, không đếm xỉa gì đến tính mạng của Phương Hữu Đức nữa. Hắn lên tiếng:

– “Theo chúng ra khỏi cung đi! Hôm nay ngươi đã lập đại công, dĩ nhiên ta biết.”

Phương Hữu Đức trong lòng lạnh buốt. Rõ ràng hoàng đế bảo hắn đi mà chết, sau này sẽ truy tặng một tước hiệu gì đó. Nhưng hắn đành phải nói:

– “Tạ ơn hoàng thượng!”

Rồi Phương Hữu Đức quay lại hỏi Trần Gia Lạc:

– “Nếu ta theo các ngươi ra ngoài, cái mạng già này có giữ được không?”

Hắn muốn Trần Gia Lạc hứa tha không giết. Trần Gia Lạc hiểu ý, bèn giận dữ nói:

– “Ngươi là đồ quỉ dữ, nên xuống địa ngục cho sớm.”

Càn Long sợ đêm dài lắm mộng, xảy chuyện bất ngờ, đối phương đổi ý. Hắn vội hối thúc:

– “Ngươi mau mau theo chúng ra ngoài đi.”

Phương Hữu Đức nói:

– “Nếu thần chịu ra ngoài, chỉ sợ chúng để lại mấy tên ám hại hoàng thượng.”

Trần Gia Lạc giận dữ hỏi:

– “Theo ngươi thì phải làm sao?”

Phương Hữu Đức nói:

– “Mời thánh giá hoàng thượng xuống lầu trước đã, rồi ta sẽ theo các ngươi ra khỏi cung.”

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Đã đến nước này, đành phải thả người thôi.”

Chàng liền bảo Càn Long:

– “Được! Biến đi!”

Đến giờ phút này, Càn Long không đếm xỉa gì đến chuyện thiên tử phải tôn nghiêm nữa, vắt chân lên cổ mà chạy ngay xuống lầu. Nhưng Trần Gia Lạc đột nhiên vung tay phải ra túm hắn kéo lại, tay trái vung lên tát trái tát phải giòn giã, giáng cho Càn Long bốn cái tát tai đích đáng. Hai má Càn Long lập tức sưng vù. Quần hùng cũng bị bất ngờ, một lúc sau tiếng hoan hô mới nổi lên. Trần Gia Lạc mắng nhiếc:

– “Ngươi có nhớ lời thề độc của chính mình hay không?”

Càn Long không dám trả lời. Trần Gia Lạc vừa buông tay, hắn lập tức loạng choạng chạy xuống lầu. Trần Gia Lạc hét lên:

– “Đưa đứa bé đây!”

Triệu Bán Sơn đã nắm sẵn độc tật lê trong tay, nhìn ra ngoài cửa sổ. Ông đợi Trần Gia Lạc đón được đứa bé, Càn Long xuất hiện dưới lầu, lập tức sẽ thi triển tuyệt kỹ, ghim mấy chục loại ám khí đã tẩm thuốc độc vào cho long thể biết thế nào là… bất an.

Phương Hữu Đức nhìn quanh, tìm kế thoát thân. Hắn nói:

– “Phải chính mắt nhìn thấy hoàng thượng bình yên vô sự, ta mới giao trả đứa bé.”

Nói xong, hắn từ từ đi đến cửa sổ. Thường Bá Chí cất tiếng thóa mạ:

– “Con rùa này chết chắc!” rồi đi theo sau lưng hắn như quỉ vô thường đòi mạng, chỉ đợi hắn giao đứa bé ra là lập tức phóng chưởng đập chết tươi.

Càn Long đã ra khỏi cửa lầu, bọn thị vệ ùa tới hộ giá, che kín xung quanh hoàng đế. Triệu Bán Sơn lầm bầm chửi mắng:

– “Gian tặc! Gian tặc!”

Phương Hữu Đức thấy mấy chục thị vệ chen nhau đứng đặc dưới lầu, bèn nghĩ:

– “Chờ chết trên lầu không bằng mạo hiểm nhảy xuống, có thể bọn thị vệ sẽ đón được.”

Hắn vẫn ôm đứa bé, đột nhiên nhảy vọt ra ngoài cửa sổ.

Quần hùng bị bất ngờ, đều kinh hãi la lên. Thường Bá Chí ném phi trảo ra quấn được chân trái của Phương Hữu Đức, dùng sức giật mạnh. Thân hình Phương Hữu Đức bay trở lên, nhưng hắn đã để tuột mất đứa bé khỏi tay, rơi thẳng xuống.

Triệu Bán Sơn nhún chân nhảy xổ ra như mũi tên rời khỏi dây cung, đầu dưới chân trên, tay trái vươn dài ra chụp được một cái chân nhỏ xíu. Đồng thời tay phải ông phóng ngược lên ba chiếc độc tật lê, ghim hết vào mặt và ngực Phương Hữu Đức.

Lúc này quần hùng trên lầu, thị vệ dưới lầu, không ai là không la hét lớn tiếng. Triệu Bán Sơn tập trung khí lực, vòng tay trái lên ôm được đứa bé vào lòng, lộn người ổn định, hai chân nhẹ đáp xuống đất. Ông lập tức xuất chiêu Vân Thủ trong Thái Cực Quyền, đẩy được hai tên thị vệ trước mặt lùi ra.

Bọn còn lại xô vào tấn công, nhưng Từ Thiên Hoằng, Thường thị song hiệp, Chu Trọng Anh, Văn Thái Lai đã nhảy trên lầu xuống bảo vệ xung quanh. Triệu Bán Sơn cúi xuống nhìn đứa bé đó, thấy nó múa loạn tay chân, mỉm cười với mình. Hình như chú bé này rất hứng thú với cú nhảy thập tử nhất sinh vừa rồi, chỉ muốn nhảy lại lần nữa.

Trần Gia Lạc đẩy Phúc Khang An tới cửa sổ, lớn tiếng la lên:

– “Các ngươi có cần cái mạng này không?”

Càn Long được thị vệ hộ giá trùng trùng điệp điệp, không sợ hãi nữa. Nhưng dưới ánh đuốc hắn thấy Phúc Khang An bị bắt, lại thất sắc kêu lên:

– “Dừng tay! Dừng tay!”

Bọn thị vệ liền lùi lại, mấy người Chu Trọng Anh cũng không truy kích.

Đại thần Phổ Hằng trong triều là em trai hoàng hậu của Càn Long. Vợ của Phổ Hằng rất xinh đẹp, có lần vào cung thỉnh an hoàng hậu bị Càn Long nhìn thấy. Hắn giữ mụ lại để thông gian, đẻ ra Phúc Khang An.

Phổ Hằng có cả thảy bốn đứa con trai, ba đứa đã cưới công chúa làm vợ. Hắn ngốc nghếch chẳng biết gì, mấy lần xin cho Phúc Khang An làm phò mã. Càn Long chỉ mỉm cười, không đồng ý cũng không giải thích. Càn Long không gần gũi con cái lắm, chỉ đặc biệt chiều chuộng thương yêu đứa con tư sinh này. Phúc Khang An nhìn rất giống Trần Gia Lạc, vì hai người là chú cháu ruột, huyết thống rất gần.

Trần Gia Lạc không hiểu câu chuyện thâm cung quái sử này. Nhưng chàng thấy hoàng đế lo lắng, nên cứ áp giải Phúc Khang An, cùng mọi người đi xuống dưới lầu. Chu Ỷ chạy đến bên Triệu Bán Sơn nhận lại con trai, mừng rỡ như điên như cuồng.

Phía trước Bảo Nguyệt Lâu đã tháo dỡ thành một khu đất trống, bây giờ có hai đội quân dàn trận lại càng giống như sa mạc. Một bên là quần hùng Hồng Hoa Hội và các tăng nhân Thiếu Lâm, bên kia là thị vệ và ngự lâm quân của Thanh cung. Tiếc là một bên quá ít, một bên quá đông, chênh lệch rất rõ ràng.

Lý Khả Tú hiểu ý hoàng đế, bèn lên tiếng:

– “Trần tổng đà chủ! Thả Phúc thống lãnh ra đi, các vị sẽ được bình an ra khỏi chỗ này.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Ý kiến hoàng đế ra sao?”

Càn Long vừa ăn bốn tát tai, mặt sưng húp như một quả đào chín nẫu, đau đớn nói không rõ tiếng. Nhưng thấy đứa con riêng lọt vào tay của đối phương, hắn phải vung tay lên gượng nói:

– “Thả chúng đi!”

Trần Gia Lạc cười khẩy, hỏi:

– “Phúc thống lãnh tiễn bọn tại hạ ra khỏi thành chứ?”

Rồi chàng nhìn thẳng Càn Long quát lớn:

– “Bá tánh trong thiên hạ đều hận vì không được ăn thịt ngươi, lột da ngươi. Dù ngươi sống thêm một trăm năm nữa, ngươi cũng lo lắng không yên suốt một trăm năm. Ngày nào, đêm nào cũng vậy, ngươi đừng hòng được ăn ngon ngủ yên.”

Chàng quay lại hô lớn:

– “Đi thôi!”

Mọi người lôi kéo Phúc Khang An, ôm lấy thi thể của Thiên Sơn Song Ưng và Chương Tấn đi ra ngoài cung. Bọn thị vệ và ngự lâm quân chỉ trố mắt nhìn, không dám đuổi. Rời khỏi cung chưa bao xa, bỗng có hai con ngựa phi như bay chạy theo quần hùng. Trên lưng ngựa, Lý Khả Tú lớn tiếng kêu gọi:

– “Trần tổng đà chủ! Lý Khả Tú có chuyện muốn thương lượng.”

Quần hùng liền dừng ngựa lại chờ, Lý Khả Tú cùng Tăng Đồ Nam thúc ngựa tới gần. Lý Khả Tú nói:

– “Hoàng thượng có chỉ, nếu để Phúc thống lãnh bình an trở về thì Trần tổng đà chủ muốn gì cũng được.”

Trần Gia Lạc chau mày nói:

– “Lúc này ai mà tin được lời nói của tên hoàng đế thối tha đó nữa?”

Lý Khả Tú nói:

– “Dù sao cũng xin Trần tổng đà chủ nói ra, để tiểu tướng trở về bẩm báo.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Thứ nhất, hoàng đế phải xuất ngân khố ra xây dựng lại Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến. Kim thân tượng Phật phải hoành tráng hơn, to lớn hơn lúc trước. Quan quân triều đình vĩnh viễn không được quấy rầy Thiếu Lâm Tự nữa.”

Lý Khả Tú đáp:

– “Việc này rất dễ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thứ hai, hoàng đế không được tăng thuế đối với dân chúng Hồi tộc. Phải thả hết tù binh người Hồi ra.”

Lý Khả Tú đáp:

– “Việc này cũng không khó.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thứ ba, hoàng đế không được bắt bớ trả thù hội chúng của Hồng Hoa Hội trên khắp thiên hạ.”

Lý Khả Tú im lặng không đáp. Trần Gia Lạc cười gằn:

– “Hừ! Nếu hắn muốn bắt, chẳng lẽ chúng ta lại sợ hay sao? Bôn lôi thủ Văn tứ gia đây đã từng quấy rầy quí phủ khá lâu.”

Lý Khả Tú bèn nói:

– “Được! Việc này tiểu tướng cũng cả gan thay mặt hoàng thượng mà đồng ý.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ngày này sang năm, nếu chúng ta thấy ba việc này đều được thực hiện đàng hoàng, sẽ thả Phúc thống lãnh trở về vô sự.”

Lý Khả Tú đáp:

– “Được! Chúng ta cứ thế mà làm.”

Hắn quay sang nói với Phúc Khang An:

– “Phúc thống lãnh! Trần tổng đà chủ một lời đáng giá ngàn vàng, xin ngài hãy yên tâm. Hoàng thượng nhất định sẽ hạ chỉ lo liệu ba việc này. Tiểu tướng giờ nào phút nào cũng lo lắng đến ngày Phúc thống lãnh bình yên trở về, dĩ nhiên sẽ dồn hết tâm lực mà hoàn thành những việc đó càng nhanh càng tốt. Không chừng Trần tổng đà chủ sẽ để Phúc thống lãnh trở về sớm hơn.”

Phúc Khang An im lặng không nói gì. Trần Gia Lạc nhớ đến việc Bạch Chấn và Lý Khả Tú tấn công Tuy Thành Điện. Tuy chàng không hiểu, nhưng nghĩ là trong chuyện này phải ẩn tàng nguyên do trọng đại có thể đe dọa hoàng đế, bèn nói:

– “Lý tướng quân về nhớ nói với hoàng đế, những chuyện ở Tuy Thành Điện chúng ta đều biết cả rồi. Nếu hắn vẫn muốn dùng gian kế thì không có lợi đâu.”

Lý Khả Tú giật mình kinh hãi, gật đầu lia lịa. Trần Gia Lạc chắp tay lại nói:

– “Lý tướng quân, chúng ta tạm biệt ở đây! Tướng quân thăng quan phát tài, đừng làm hại bá tánh nữa nhé.”

Lý Khả Tú cũng chắp tay lại đáp:

– “Không dám!”

Lý Nguyên Chỉ và Dư Ngư Đồng cùng xuống ngựa, chạy tới trước mặt Lý Khả Tú quì xuống. Lý Khả Tú trong lòng chua xót, biết rằng từ nay khó mà gặp lại, bèn chậm rãi nói:

– “Con hãy bảo trọng!”

Hắn đưa tay vuốt tóc con một cái, rồi quay ngựa trở lại hoàng cung. Lý Nguyên Chỉ cứ quì ở đó mà khóc lóc, Dư Ngư Đồng phải đỡ nàng lên ngựa. Quần hùng chạy tới cửa thành thì gặp Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa và một số huynh đệ Hồng Hoa Hội. Phúc Khang An ra lệnh mở cửa.

* * *

Tiếng đại hồng chung từ một gác chuông vang rền khắp thành Bắc Kinh. Lúc này đúng vào canh bốn. Mọi người ra khỏi thành, đi tới một vùng ao hồ, bốn bề toàn là cỏ tranh mọc loạn, rập rờn dưới ánh trăng tàn. Đi thêm một đoạn nữa thì tới một bãi tha ma.

Đột nhiên nghe tiếng một nhóm người vừa khóc vừa hát những khúc điếu ca của người Hồi. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng đều kinh hãi, giục ngựa chạy lên trước, lên tiếng hỏi:

– “Các vị khóc ai vậy?”

Một người Hồi lớn tuổi ngẩng bộ mặt ràn rụa nước mắt lên, đáp:

– “Hương Hương công chúa!”

Trần Gia Lạc giật mình hỏi:

– “Hương Hương công chúa chôn ở đây ư?”

Ông ta chỉ vào một ngôi mộ mới đắp đất vàng chưa ráo, đáp:

– “Ở đây!”

Hoắc Thanh Đồng lệ rơi lã chã, nức nở nói:

– “Chúng ta không thể để muội muội ở đây.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đúng thế! Nàng thích nhất là hồ phỉ thúy trong ngọn thần phong. Nàng đã từng nói, nếu được vĩnh viễn ở đó thì thật là vui sướng. Chúng ta hãy đưa thi hài của nàng đến hồ phỉ thúy.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ gật đầu. Người Hồi lớn tuổi bèn hỏi:

– “Hai vị là ai?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Ta là tỉ tỉ của cô ấy.”

Một người Hồi khác kêu lên:

– “Thì ra là Thúy Vũ Hoàng Sam!”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Chúng ta đưa cô ấy lên đi!”

Nàng lập tức cùng Trần Gia Lạc, mấy người Hồi, Tâm Nghiễn, Tưởng Tứ Cân cùng quần hùng Hồng Hoa Hội ra tay đào mộ. Mấy tăng nhân Thiếu Lâm cầm phương tiện sạn lại càng đắc dụng, chỉ trong chốc lát đã bẩy lên được mấy phiến đá. Mọi người đều ngửi thấy hương thơm, rồi kinh hãi vì phần mộ trống rỗng. Trần Gia Lạc vội cầm đuốc soi vào huyệt, chỉ thấy một vũng máu, bên vũng máu là miếng ôn ngọc của mình đã tặng nàng. Mấy người Hồi đều ngạc nhiên nói:

– “Bọn tại hạ đã đích thân đưa thi hài Hương Hương công chúa tới đây, đích thân chôn cất, cả ngày chưa rời khỏi. Tại sao thi hài của nàng lại biến mất?”

Lạc Băng nói:

– “Vị muội muội này diễm lệ đến mức thần kỳ, dĩ nhiên là một vị tiên nữ hạ trần, bây giờ đã trở lên trời rồi. Tổng đà chủ và Hoắc Thanh Đồng muội muội không cần phải đau lòng nữa.”

Trần Gia Lạc đau đớn không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa, thầm nghĩ:

– “Kha Tư Lệ đẹp đẽ thanh cao, nhất định là tiên nữ rồi.”

Đột nhiên một cơn gió thoảng qua, hương thơm càng đậm. Mọi người cảm thán một hồi rồi đắp đất, dựng lại mộ phần đàng hoàng. Một con bướm trắng như ngọc cứ vờn mãi quanh ngôi mộ, rất lâu không chịu bay đi.

Trần Gia Lạc bảo vị trưởng lão người Hồi:

– “Ta viết mấy chữ, nhờ lão gia tìm thợ giỏi khắc bia để dựng nơi đây.”

Ông ta gật đầu đồng ý. Tâm Nghiễn lấy ra một trăm lượng bạc làm chi phí dựng bia, rồi mở túi vải lấy văn phòng tứ bảo, trải một tờ giấy lớn trên ngôi mộ. Trần Gia Lạc cầm bút chấm mực, viết hai chữ lớn:Hương Trủng. Chàng ngẫm nghĩ một hồi, viết thêm một bài minh:

“Mênh mang sầu, thăm thẳm kiếp

Khúc ca dứt, vầng trăng khuyết

Uất ức kết thành khối bích huyết

Bích ngọc có lúc tan, uất huyết có lúc hết

Một mảnh hương hồn không đoạn tuyệt!

Đúng chăng? Sai chăng? Hóa thành hồ điệp.”

Quần hùng đứng trước ngôi mộ rất lâu, mãi đến khi chân trời hướng Đông sáng hẳn mới lên ngựa đi về phía tây.

Hồi 21 (kết thúc) – Hồn đến chốn nào

Vùng đại mạc ở Hồi Cương, trên trời trăng non lưỡi liềm mới mọc, rọi ánh sáng đơn lẻ mờ mờ lên mặt cát vàng bao la. Một căn lều lớn, chính giữa đặt một cái yên lạc đà để làm bàn, trên bàn phủ một tấm thảm lông cừu. Trên thảm có một thanh trường kiếm bén nhọn, vết máu đã khô bám đầy một nửa lưỡi kiếm xanh rờn.

A Phàm Đề đưa tay vuốt râu, nói rất oai nghiêm:

– “Trần lão đệ! Đây là thanh kiếm mà Thốc cưu Trần Chính Đức lão gia dùng để tự tử. Còn một thanh kiếm nữa, Tuyết điêu Trần phu nhân đã dùng để tự cứa cổ mình. Thúy Vũ Hoàng Sam đã gửi ta đưa thanh kiếm này cho lão đệ, dặn dò: Nếu lão đệ muốn tự tử lần nữa thì đừng treo cổ, hãy dùng thanh kiếm của Trần lão gia. Khi nhận được tin lão đệ tự tử, Thúy Vũ Hoàng Sam sẽ dùng thanh kiếm của sư phụ là Trần phu nhân mà cứa cổ ngay. Tín đồ Islam nói một là một, nói hai là hai, xưa nay không bao giờ nói lời rồi lại nuốt lời.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:

– “Xin hỏi lão gia, Thúy Vũ Hoàng Sam đang ở chỗ nào? Nhờ lão gia chỉ dẫn vãn bối gặp nàng một chút.”

A Phàm Đề mỉm cười:

– “Có gì mà cần gặp? Nếu lão đệ không chết, trong vòng mấy chục năm nữa không chừng sẽ gặp cô ấy. Còn nếu lão đệ tự tử nữa, hai người sẽ gặp nhau trong chảo lửa dưới địa ngục.”

Trần Gia Lạc chán nản nói:

– “Kha Tư Lệ đã tự tử để báo tin cho bọn vãn bối, cứu được mấy chục mạng Hồng Hoa Hội, vì thế mà rơi vào hỏa ngục. Chắc nàng đang cô đơn khổ sở vô cùng, vãn bối nhất định phải xuống hỏa ngục để cùng nàng chia sẻ.”

A Phàm Đề cười lên ha hả, cười đến gập lưng lại, không thẳng người lên được. Trần Gia Lạc khom lưng thi lễ rồi nói:

– “Không hiểu vãn bối đã nói sai điều gì, xin lão gia chỉ giáo!”

A Phàm Đề nói:

– “Lão đệ từng hứa với Kha Tư Lệ là sẽ quy theo thánh giáo Muslim, thế mà không làm được. Đúng là trong kinh Koran của chúng ta có nói, những người tự tử phải bị phạt rơi vào hỏa ngục, đời đời chịu khổ.

Nhưng đoạn 55, chương 39 kinh Koran có nói: Những người phụng sự thánh A-la, dù đã phạm tội khinh thường linh hồn của mình, cũng đừng thất vọng. Thánh A-la đại từ đại bi sẽ tha lỗi cho các ngươi.

Còn đoạn 64, chương 7 nói: Tất cả những sứ đồ tôn phụng thánh A-la sẽ được ở cùng các vị tiên tri và thánh nhân. Những người đã hy sinh vì thánh A-la, thánh A-la sẽ khen thưởng họ. Lại nói: Những người hào hiệp trượng nghĩa, chết trận vì thánh A-la, hy sinh tính mạng kiếp này, bất kể đánh trận thua hay thắng thì thánh A-la cũng thưởng cho hậu hĩ.

Lão đệ biết thưởng gì không? Sau khi họ chết sẽ được lên thiên đường, ở một vườn hoa có suối mát chảy không bao giờ ngừng, kề cận thánh A-la. Lão đệ chưa được các giáo sĩ của chúng ta dạy dỗ đàng hoàng, chỉ hiểu biết chút đỉnh chứ chưa tường tận. Kha Tư Lệ đã vì các huynh đệ bằng hữu của Muslim mà chết, thì cũng như vì thánh A-la mà chết. Thánh A-la đã phái thiên sứ đón cô ấy lên thiên đường từ lâu rồi…”

Trần Gia Lạc bán tín bán nghi, lẩm nhẩm:

– “Chẳng trách trong mộ nàng không có thi thể. Nàng đã lên thiên đường thật rồi ư?”

A Phàm Đề nói:

– “Chuyện đó thì ta không biết chắc. Nếu lão đệ là tín đồ Muslim, nếu chết vì thánh A-la, nhất định sẽ nhận được từ ân của thánh A-la. Không chừng lão đệ sẽ được lên thiên đường ở cùng cô ấy.”

Trần Gia Lạc phấn chấn hẳn lên, lên tiếng cầu xin:

– “Nhờ lão gia dẫn vãn bối đi gặp một vị giáo sĩ, để vãn bối cầu xin người dạy dỗ. Cả đời vãn bối đọc toàn sách vở thánh hiền của Khổng Tử, thì ra chẳng đúng gì cả. Ôi! Kẻ thư sinh vô dụng này đã học lầm rồi, cứ nói chuyện Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa gì gì đó, hại chết bao nhiêu là hảo huynh đệ.”

Một ông lão tóc bạc phơ ngồi trong góc lều, đột nhiên bước lên một bước mà nói:

– “Trần tổng đà chủ! Theo ta thì không phải thế. Đạo Khổng Mạnh chẳng sai lầm gì cả.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Lục lão tiền bối! Dù da mặt vãn bối có dày lên gấp mười, cũng không thể làm thủ lãnh Hồng Hoa Hội được nữa. Vãn bối ngu xuẩn vô cùng, nhắm mắt tin lời hoàng đế, tưởng hắn thật sự có tình nghĩa huynh đệ, sau khi biết rõ thân thế sẽ tuân thủ lời thề, xua đuổi bọn Mãn Thanh, khôi phục lại giang sơn nhà Hán chúng ta. Nào ngờ vì bất trí mà kẻ mọt sách này hại chết Thiên Sơn Song Ưng hai vị tiền bối, hại chết Chương thập ca, hại chết không ít huynh đệ Hồng Hoa Hội, hại chết rất nhiều cao tăng của Thiếu Lâm. Vì thế vãn bối không thể không tự vẫn. Thứ nhất là không còn mặt mũi sống trên đời nữa, phải tạ tội với các vị đã uổng mạng. Thứ hai là muốn xuống hỏa ngục để làm bạn với người hồng nhan tri kỷ đã chết vì mình. Còn một lý do quan trọng nữa, là vãn bối có thể nhường ngôi vị, xin một vị hiền tài khác thống lãnh mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội rải rác khắp thiên hạ.”

Ông lão đó chính là Lục Phi Thanh, tiền bối phái Võ Đang. Họ Lục văn võ toàn tài, lúc ẩn náu làm gia sư trong phủ tổng binh Lý Khả Tú lại càng có thời gian đọc nhiều sách vở.

Lục Phi Thanh nói:

– “Khổng Tử đã dạy: Ta không khen những kẻ dũng phu chết không biết sợ, mà khen những kẻ biết sợ khi cần suy nghĩ.

Trần Gia Lạc gật đầu nói:

– “Hành động của vãn bối ở Bắc Kinh gần đây thật là lỗ mãng hết sức, lỗ mãng chết người. Gặp sự việc trọng đại không chịu suy nghĩ tường tận, cũng không chịu thỉnh giáo các vị tiền bối để tìm kế hoạch thỏa đáng nhất mà hành động.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Trần tổng đà chủ! Lão đệ treo cổ tự sát, chính là hành động thiếu suy nghĩ nhất, lỗ mãng nhất. Đọc thấy di thư của lão đệ cử Vô Trần đạo trưởng và Triệu Bán Sơn làm thủ lãnh Hồng Hoa Hội, mọi huynh đệ đều la hét bể trời bể đất, người nào cũng vừa giận vừa buồn. Vô Trần đạo trưởng đã nói, may mà cứu được, chứ nếu không cứu được thì mọi người phải cùng lão đệ xuống địa ngục, dựng lại Hồng Hoa Hội nơi âm phủ. Thất bại lần này ở Bắc Kinh là của mọi người, đâu phải là chủ ý của một mình lão đệ? Nghĩ cho kỹ, chính nghĩa phụ của lão đệ mới là người đưa ra ý kiến đầu tiên. Lão đệ chẳng qua chỉ theo lời nghĩa phụ mà hành sự thôi.”

Trần Gia Lạc im lặng không đáp. Lục Phi Thanh chậm rãi lắc đầu, thở dài rồi tiếp:

– “Vì phẫn hận trong chốc lát mà bỏ mặc thân mình, bỏ mặc mọi người thân, có phải là u mê lắm hay không? Mọi huynh đệ trong Hồng Hoa Hội hôm nay đều là người thân của lão đệ. Lão đệ chịu buông tay, chịu thua cuộc đời mà tự vẫn, chẳng qua chỉ là phẫn hận trong chốc lát mà quên sạch anh em.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Không phải vãn bối phẫn hận trong chốc lát, mà đã suy nghĩ kỹ lưỡng rồi. Thật sự là vãn bối vô đức vô năng, bất trí bất dũng, ngu dại tin lời gian tặc, có thể nói là tội không thể tha được, dù tự vẫn cũng chưa đủ tạ tội cùng thiên hạ.”

Chàng không nén nổi nước mắt trào ra, giọng nói nghẹn ngào. Lục Phi Thanh khẽ vỗ vai chàng mà nói:

– “Luận Ngữ có câu: Lỗi lầm của người quân tử giống như nhật thực nguyệt thực trên trời, khi có lỗi thì mọi người đều thấy, khi sửa lỗi thì mọi người đều ngưỡng mộ.

Trần Gia Lạc nói:

– “Tiền bối dạy dỗ rất phải, nhưng chúng ta đã thất bại đến mức độ này rồi, không còn cách nào để sửa chữa sai lầm được nữa.”

Lục Phi Thanh hiên ngang nói:

– “Chúng ta hành đại đạo, nếu thành thì bá tánh được nhờ, còn nếu không thành thì phải giữ cho suốt đời mình xứng đáng là đại trượng phu phú quí không lay chuyển, nghèo hèn không nhụt chí, oai vũ không khuất phục. Huynh đệ Hồng Hoa Hội người nào cũng liều mạng vì nước vì dân, hành đại đạo cho thiên hạ, đâu phải một mình lão đệ? Tuy rằng trước mắt có nhiều gian khó, nhưng không phải không có việc đáng làm. Đại trượng phu đã biết có việc đáng làm thì không thể không làm, không thể co đầu rút cổ…”

Nói đến đây Lục Phi Thanh đưa tay vỗ ngực, dõng dạc hỏi:

– “Tổng đà chủ! Chúng ta có phải là anh hùng hảo hán không? Lão đệ sợ cái gì?”

Trần Gia Lạc cũng đọc nhiều sách cổ, biết những gì họ Lục nói đều là lời thánh hiền ngày xưa dạy bảo, trích từ sách Luận Ngữ, Mạnh Tử, Công Dương Xuân Thu. Những lời cương trực, ý nghĩa sâu xa này đã khích động hào khí trong lòng chàng nổi dậy.

Bất giác Trần Gia Lạc hú dài một tiếng, vái lạy sát đất rồi nói:

– “Lão tiền bối dạy dỗ rất phải! Vãn bối biết lỗi rồi.”

Sau đó chàng vọt ra khỏi lều, thi triển khinh công mà chạy. Chàng cứ chạy về phía trước như điên như cuồng, chân cuốn bụi lên mù mịt. Dưới ánh trăng có thể thấy một con rồng bằng cát rất dài, cứ cuồn cuộn lướt đi trong sa mạc mênh mông.

Mấy chục dặm sau chàng thấy mình đã chạy đến bên một cái hồ, hai chân mỏi mệt bủn rủn, lưỡi cháy miệng khô. Trần Gia Lạc bèn nằm sấp bên bờ hồ, vục mặt xuống uống nước ừng ực. Rồi chàng ngâm cả hai vai xuống nước, nằm mà thở hổn hển.

Trong lúc mơ hồ nửa tỉnh nửa mê, đột nhiên chàng cảm thấy có người lấy khăn ướt phủ lên trán mình, lau lên mặt mình. Trần Gia Lạc giật mình ngồi dậy, nửa người ngập dưới mặt hồ. Chàng thấy một cô gái ngồi cạnh mình, đầu cắm một cây thúy vũ, người khoác áo vàng, đúng là Hoắc Thanh Đồng.

Tay phải của nàng đang cầm một cái khăn tay ướt sũng, mỉm cười lên tiếng:

– “Lão gia A Phàm Đề không yên tâm, bảo muội đến xem chừng huynh. Trong lòng huynh đã thông suốt chưa?”

Trần Gia Lạc mơ hồ hỏi:

– “Kha Tư Lệ đâu rồi? Kha Tư Lệ! Kha Tư Lệ!”

Đột nhiên chàng nằm mọp xuống đất mà khóc rống lên.

Hoắc Thanh Đồng đã cùng chàng đi từ Bắc Kinh về tận Hồi Cương, suốt dọc đường thấy chàng chỉ im lặng không nói năng gì, thỉnh thoảng mới âm thầm chảy nước mắt, chưa khóc trận nào cho thỏa. Rõ ràng chàng cố nén bi ai vào lòng nên mới phẫn chí tự tận, may mà mọi người cứu kịp. Bây giờ chàng bật được tiếng khóc ra, có thể trút bớt những nỗi đau khổ đè nén trong lòng.

Vì thế nàng chẳng khuyên can an ủi làm gì, chỉ kéo tay chàng đứng dậy, tìm chỗ khô ráo mà ngồi. Chính nàng ngồi cạnh cũng nghĩ đến muội muội đã mất, từ nay không sao gặp nữa, không nén nổi mà bật khóc. Hai người sánh vai nhau khóc một hồi lâu, đột nhiên Trần Gia Lạc vung tay tát thật mạnh vào má phải mình, la lớn:

– “Chỉ vì ta không tốt mà hại chết Kha Tư Lệ! Tội ta cực lớn.”

Rồi chàng lại xoay tay tát sang má trái. Trần Gia Lạc liên tiếp tát vào mặt mình, hai má sưng vù lên, khóe miệng đã rỉ máu. Nhưng Hoắc Thanh Đồng vẫn không cản trở, thầm nghĩ:

– “Cứ để chàng tự hành hạ cho dễ chịu, nhất định sẽ không muốn tự tử nữa.”

Trần Gia Lạc bỗng hỏi:

– “Kha Tư Lệ bây giờ ở đâu? Một thiếu nữ dịu dàng yếu đuối như nàng, ai sẽ chăm sóc, ai sẽ bảo vệ?”

Hoắc Thanh Đồng đứng dậy nhẹ nhàng đáp:

– “Thánh A-la sẽ lo lắng cho muội muội, bảo vệ cho muội muội. Chuyện này huynh không cần lo lắng.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “A Phàm Đề đã nói nàng đang ở trong vườn hoa chốn thiên đường, có thật như thế không?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Khi huynh trở thành tín đồ Muslim, tự nhiên huynh sẽ tin như vậy.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Trên trời có thánh A-la thật hay không? Tất cả những sự việc trong cõi nhân gian, dù tốt dù xấu, có phải đều do thánh A-la ban bố, sắp xếp, quyết định cho chúng ta hay không?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Mọi tín đồ Muslim ngoan đạo đều biết đó là sự thật.”

Trần Gia Lạc ngẩng lên dõi mắt nhìn trời. Hình như chàng thấy gì đó, đột nhiên lớn tiếng kêu gọi:

– “Kha Tư Lệ, Kha Tư Lệ! Ta ở đây, tỉ tỉ của muội cũng ở đây!”

Chàng cứ tiếp tục la lên “Kha Tư Lệ, Kha Tư Lệ!” vừa la vừa chạy nhanh về phía trước.

Hoắc Thanh Đồng khẽ lắc đầu. Nàng sợ chàng bi thương quá độ, thần trí không tỉnh táo dễ xảy ra những chuyện bất ngờ, nên cũng chạy theo sau. Trần Gia Lạc chạy được một hồi bỗng dừng chân, giơ cả hai tay lên trời, lẩm bẩm gọi:

– “Kha Tư Lệ! Muội xuống đây đi! Ta đang ở đây này.”

Hoắc Thanh Đồng nhìn theo ánh mắt của chàng hướng lên trời, chỉ thấy một vầng trăng lưỡi liềm tỏa sáng dịu dàng, và một đám mây trắng đang từ từ kéo qua che khuất vầng trăng đó, ngoài ra không còn gì khác. Nàng khẽ gọi:

– “Gia Lạc! Kha Tư Lệ không có ở đó đâu.”

Trần Gia Lạc cãi:

– “Nàng đang ở đó, ngồi trên đám mây trắng, muội không thấy hay sao? Kha Tư Lệ, Kha Tư Lệ! Muội nhảy xuống đây đi! Ta sẽ đón muội, đừng sợ.”

Chàng dang rộng đôi tay, lại chạy về phía trước. Nhưng đám mây trắng ở mãi trên trời, chạy thế nào thì chạy cũng không tới được. Trần Gia Lạc bèn nói:

– “Kha Tư Lệ! Thì ra thánh A-la đã chăm sóc muội, muội không rơi xuống hỏa ngục. Thật là chuyện đáng mừng. Kha Tư Lệ, muội đừng khóc nữa. Ta rất khỏe, tỉ tỉ của muội cũng rất khỏe.”

Hoắc Thanh Đồng chạy đến sau lưng, thấy thân thể chàng lảo đảo ra vẻ yếu đuối. Nàng sợ chàng té ngã, liền đưa tay đỡ vào lưng, dìu chàng đứng cho vững. Trần Gia Lạc lại khẽ nói:

– “Kha Tư Lệ! Muội hỏi thánh A-la thử xem, chúng ta chống đối hoàng đế, đánh người Mãn Châu, chuyện đó có sai không?”

Chàng nghiêng đầu lắng tai, như đang nghe thanh âm gì đó vọng từ trên trời xuống. Dường như chàng nghe rất rõ giọng nói thanh tao của Hương Hương công chúa:

– “Thánh A-la đã dặn rõ ràng, mọi con người trên khắp thiên hạ đều do thánh A-la tạo nên, đều là huynh đệ tỉ muội của nhau. Vì thế mọi người phải biết cư xử ôn hòa, thương yêu lẫn nhau. Mọi người không được chém giết, làm hại, hà hiếp lẫn nhau.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Thế thì người Mãn Châu kéo đến đánh chúng ta, chúng ta có nên chống trả hay không?”

Chàng nghe giọng nói của Hương Hương công chúa từ đám mây vọng xuống:

– “Chúng ta đang sống bình yên, tuân thủ luật lệ của thánh A-la, không xúc phạm đến ai. Thế mà người Mãn Châu đến đánh chúng ta, giết chúng ta, cướp giật tài sản và nữ nhân của chúng ta. Thánh A-la đã bảo chúng ta phải chống trả. Người nào có nghĩa khí, dũng cảm chống trả kẻ địch, thánh A-la sẽ phù hộ cho người đó.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Người Mãn Châu tự dưng đến xâm phạm chúng ta. Họ là người xấu, không nghe lời dạy bảo của thánh A-la. Họ cũng do thánh A-la tạo nên hay sao?”

Nghe Hương Hương công chúa nói:

– “Người Mãn Châu cũng do thánh A-la tạo nên. Hết thảy nam nhân, nữ nhân đều do thánh A-la tạo nên. Có nhiều người không tin thánh A-la, không tuân thủ luật lệ của thánh A-la. Đến cuối cùng thánh A-la sẽ trừng phạt họ, bắt họ thất bại. Thánh A-la đã dạy, trên thế gian có người tốt mà cũng có người xấu. Trong vô số người Hán có người tốt, có người xấu. Người Mãn Châu cũng có người tốt, có người xấu. Người Hồi Duy Ngô Nhĩ cũng có người tốt, có người xấu. Những ai chịu giúp đỡ huynh đệ tỉ muội đều là người tốt, còn những ai đàn áp, hiếp đáp huynh đệ tỉ muội đều là người xấu.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Người Hán chúng ta không biết về thánh A-la, chỉ biết tôn kính hoàng thiên. Hoàng thiên phù hộ người thiện, trừng phạt kẻ ác. Như vậy cũng giống như tin vào thánh A-la, có phải vậy không?”

Nghe Hương Hương công chúa nói:

– “Hoàng thiên của các vị là gì, muội không biết. Muội chỉ biết là thánh A-la muốn mọi người tin theo thánh A-la, bảo vệ chính nghĩa, làm việc thiện, không làm việc ác.”

Trần Gia Lạc lớn tiếng kêu lên:

– “Hoàng thiên cũng thưởng thiện phạt ác, từ nhỏ ta đã tin như vậy rồi. Thế thì đâu có khác gì tin vào thánh A-la?”

Chàng ngẩng đầu lên, thấy Hương Hương công chúa mặc y phục toàn màu trắng như lẩn vào đám mây trắng đó, đứng trên mây như bay mà không phải là bay. Chàng bỗng kinh ngạc, sợ điều mình nhìn thấy chỉ là ảo ảnh trong lòng, liền hỏi:

– “Kha Tư Lệ! Có thật là muội đấy không?”

Chàng thấy Hương Hương công chúa mỉm cười, nhẹ nhàng nói:

– “Dĩ nhiên là muội rồi. Thánh A-la đã bảo đấng tiên tri Muslim viết ra kinh Koran, đoạn 30 chương 3 đã dạy chúng ta:  Ai giết dù chỉ một người, nếu không vì trừng phạt kẻ giết người hoặc thi hành án phạt tử hình, thì cũng như đã giết tất cả mọi người. Ai đã từng cứu mạng một người, cũng như đã cứu tất cả mọi người. Còn những ai kích động chiến tranh, giết hại đồng bào, gây náo loạn một vùng, thì phải xử tử hoặc đuổi ra khỏi vùng đó. Trên thế gian chúng bị sỉ nhục, sau khi chết chúng phải chịu hình phạt nặng nề.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Muội đã dùng sinh mạng của mình để cứu sinh mạng của mấy chục huynh đệ Hồng Hoa Hội và ta. Thánh A-la khen ngợi điều đó, nên đã cử thiên sứ đón muội lên trời, có phải vậy không?”

Nghe Hương Hương công chúa nói:

– “Điều đó chưa đáng được khen. Nhưng thánh A-la có lòng từ ái, tha thứ mọi tội lỗi của muội.”

Trần Gia Lạc đột nhiên nổi lòng cảm kích, quì ngay xuống đất, đưa tay lên trời hô lớn:

– “Xin cảm tạ lòng từ bi quảng đại của thánh A-la.”

Chàng lại nghe Hương Hương công chúa nói:

– “Đại ca! huynh đã biết cảm tạ thánh A-la, đó là điều rất tốt. Thánh A-la đã dặn:

– Mọi người phải đối xử tốt đẹp với mọi người xung quanh; phải giúp đỡ cô nhi quả phụ, cho họ cái ăn cái mặc; phải giúp đỡ những kẻ tha hương; phải đối xử công bình với người khác, đúng theo những điều quy định trong kinh Koran; không được nghe lời kẻ xấu khiêu khích, không được gây chuyện với những người xung quanh. Thánh A-la bảo tất cả mọi người đều là huynh đệ tỉ muội, phải yêu mến bảo vệ giúp đỡ người khác, tuyệt đối không được xâm phạm hay giết hại kẻ khác.”

Trần Gia Lạc thấy thân thể nàng như có như không, càng lúc càng nhạt, hình như sắp mất hút vào trong đám mây trắng. Chàng lo lắng, vội vã hét lên:

– “Kha Tư Lệ! Kha Tư Lệ! Muội đừng đi.”

Hương Hương công chúa cúi xuống, vẻ mặt đầy tình thương xót, nói dịu dàng:

– “Đại ca! Muội sẽ thường xuyên nhìn thấy huynh. Người Hồi bọn muội, người Hán các huynh, người Mãn Châu bọn họ, mọi người đều như nhau cả, chẳng qua ngôn ngữ khác nhau mà thôi. Mọi người phải vĩnh viễn sống hòa bình yêu thương lẫn nhau, đối đãi bình đẳng với nhau. Mọi người không thể đối địch lẫn nhau, tất cả mọi người đều là huynh đệ tốt. Huynh đã giúp đỡ bọn muội, thánh A-la rất vui mừng, đã khen huynh là người nghĩa hiệp. Có thể sau này huynh và tỉ tỉ sẽ vĩnh viễn được ở bên muội. Đại ca! Bây giờ muội phải rời huynh, đúng là không phải với huynh, nhưng huynh đừng thương tâm, đừng khó chịu. Muội ở trên trời, còn huynh và tỉ tỉ ở dưới đất, nhưng trái tim của muội lúc nào cũng ở bên huynh và tỉ tỉ. Muội không khóc đâu, huynh cũng đừng khóc. Đại ca! Huynh đừng khóc nhé…”

Trần Gia Lạc dang rộng hai tay, nhanh chóng chạy theo. Đóa mây trắng vẫn tiếp tục trôi đi, càng trôi càng xa, không thể đuổi kịp được nữa. Trời bỗng dưng mưa, những giọt mưa li ti rơi vào mặt Trần Gia Lạc. Chàng hô lớn:

– “Muội nói muội không khóc, sao lại khóc rồi? Ta không khóc! Ta không khóc nữa…”

Chàng chạy thêm được mấy bước rồi hai chân bủn rủn, té nhào xuống đất.

Hoắc Thanh Đồng thấy Trần Gia Lạc đưa tay về phía đóa mây trắng mà nói một mình, như đang nói với em gái của mình vậy. Nhưng đám mây đó chỉ có một màu trắng nhạt, hoàn toàn không giống bóng người, rõ ràng Trần Gia Lạc tưởng nhớ đến em gái mình mà sinh ra ảo giác. Nhưng những lời nói của chàng thì rất hợp tình hợp lý, không có chỗ nào trái với giáo nghĩa mà mình tin tưởng, từ nay về sau cứ theo suy nghĩ đó cũng là chuyện tốt.

Nàng vội vã chạy tới đỡ chàng dậy, nghe chàng vẫn tiếp tục lẩm bẩm:

– “Ta không khóc đâu. Kha Tư Lệ, muội đừng khóc nữa! Thanh Đồng, muội cũng đừng khóc nữa!…”

Mưa càng lúc càng lớn, những giọt mưa rơi xuống hai người…

HẾT

Việt nữ kiếm (truyện ngắn)

– Xin mời!

– Xin mời!

Hai kiếm sĩ quay ngược lưỡi kiếm, tay phải cầm cán kiếm, tay trái úp lên tay phải, cúi mình hành lễ.

Hai người đứng chưa yên vị, đột nhiên một làn ánh sáng trắng nhấp nháy, tiếp theo một tiếng “coong”, lưỡi kiếm chạm nhau, hai bên cùng lùi lại một bước. Những người chung quanh ai nấy đều “ồ” lên một tiếng.

Kiếm sĩ áo xanh liên tiếp tung ra ba chiêu, kiếm sĩ áo gấm đều gạt ra được. Người áo xanh rú lên một tiếng dài, trường kiếm từ góc bên trái chém xuống, thế mạnh và nhanh. Kiếm sĩ áo gấm thân thủ nhanh nhẹn, nhảy vọt về phía sau, tránh được nhát kiếm. Chân trái y vừa chấm đất, thân hình đã vọt lên, liên tiếp đâm luôn hai kiếm, công kích đối thủ. Kiếm sĩ áo xanh không chuyển động, nhếch mép cười gằn, vung kiếm gạt ra.

Kiếm sĩ áo gấm đột nhiên tung mình chạy quanh đối thủ, mỗi lúc một nhanh. Người áo xanh chăm chú theo dõi mũi kiếm địch, mỗi khi địch động thủ lập tức vung kiếm gạt ra. Người áo gấm bất thần lúc chuyển qua trái, lúc chuyển qua phải, thân pháp biến huyễn bất định. Kiếm sĩ áo xanh chăm chú theo một lúc đã thấy mắt hoa, quát lên:

– Ngươi muốn tỉ kiếm hay muốn bỏ chạy?

Y lách cách đâm ra hai kiếm thẳng vào địch thủ. Thế nhưng người áo gấm chạy rất nhanh, khi kiếm tới nơi thì y đã ra nơi khác, chung qui mũi kiếm vẫn cách y khoảng một thước.

Kiếm sĩ áo xanh thu kiếm về che bên hông, chân phải hơi rùn xuống. Người áo gấm thấy ngay chỗ hở, vung kiếm đâm vào vai trái kẻ địch. Nào ngờ đó chỉ là dụ chiêu của người áo xanh, nên chỉ thấy kiếm vung lên một vòng, mũi kiếm nhanh nhẹn tuyệt luân đã đâm thẳng vào yết hầu. Kiếm sĩ áo gấm sợ hãi khôn tả, trường kiếm vuột khỏi tay phóng thẳng vào tâm oa địch thủ. Đó chẳng qua là kế sách chẳng đặng đừng hai bên cùng chết, nếu như địch vẫn tiến tới, ngực ắt trúng kiếm. Trong tình thế đó, đối phương ắt chỉ còn cách thu kiếm về đỡ, và y mới có đường thoát được cảnh ngộ khó khăn.

Nào ngờ kiếm sĩ áo xanh không không né tránh, cổ tay chỉ hơi động, xoẹt một tiếng mũi kiếm đã đâm thẳng vào cổ họng địch thủ. Lại nghe keng một tiếng, trường kiếm người kia ném ra đâm vào ngực y đã rơi xuống đất.

Kiếm sĩ áo xanh cười hắc hắc mấy tiếng, thu kiếm về. Nguyên lai ngực y có mang một tấm hộ tâm kính nên mũi kiếm tuy có trúng nhưng không hề bị thương. Yết hầu người áo gấm máu vọt ra có vòi, thân thể dãy dụa không ngừng. Trong đám đồng bọn lập tức có kẻ chạy ra khiêng thi thể đi và lau chùi vết máu.

Kiếm sĩ áo xanh cho kiếm vào bao, tiến lên hai bước, cúi mình hành lễ với một vị vương gia ngồi trên một chiếc ghế bọc gấm ở hướng bắc. Vị vương gia đó mặc áo bào màu tía, hình dạng quái dị, cổ rất dài, mỏ nhọn như chim, mỉm cười, tiếng như ngựa hí:

– Tráng sĩ kiếm pháp tinh diệu, ban cho mười cân vàng.

Người áo xanh quì chân phải xuống, cúi mình tạ lễ:

– Tạ thưởng!

Vị vương gia đó vung tay một cái, từ bên phải y một vị quan cao gầy, trạc ngoài bốn mươi, hô lớn:

– Kiếm sĩ hai nước Ngô Việt, tỉ thí lần thứ hai!

Từ phía đông trong phe người áo gấm, một hán tử thân hình to cao, tay cầm một thanh đại kiếm bước ra. Thanh kiếm dài đến hơn năm thước, thân kiếm rất dày, hiển nhiên nặng nề khác thường. Phía tây cũng bước ra một kiếm sĩ áo xanh, người tầm thước, trên mặt đầy những vết sẹo ngang dọc tính ra phải đến mười hai mười ba nhát chém, chỉ mới nhìn cũng biết hẳn là tay đã từng trải qua không biết bao nhiêu trận đấu. Hai người hướng về vị vương gia quì xuống hành lễ, rồi chuyển mình đứng đối diện nhau, cúi mình chào.

Người áo xanh đứng thẳng người, nhếch mép cười một cách ác độc. Mặt y vốn dĩ đã mười phần xấu xí, nay điểm thêm nụ cười, trông lại càng khó coi. Kiếm sĩ áo gấm thấy hình dáng y như ma quỉ, không khỏi lạnh người, thở hắt ra một tiếng, từ từ đưa tay trái ra nắm lấy chuôi kiếm.

Kiếm sĩ áo xanh đột nhiên rú lên một tiếng dài, nghe như tiếng cho sói tru, vung kiếm nhắm địch thủ đâm tới. Người áo gấm cũng hú lên một tiếng, vung thanh đại kiếm nhắm kiếm của địch gạt ra. Kiếm sĩ áo xanh nghiêng người né tránh, trường kiếm đảo từ trái sang phải một vòng. Người áo gấm hai tay cầm kiếm múa lên khiến có tiếng kêu vù vù. Thanh đại kiếm đó ít ra cũng phải nặng đến năm mươi cân, nhưng chiêu số của y hết sức nhanh nhẹn.

Hai người ra sức chiến đấu thoắt đã trên ba mươi chiêu, kiếm sĩ áo xanh bị thanh đại kiếm trầm trọng áp đảo phải liên tục lùi bước. Hơn năm mươi người áo gấm đứng ở phía tây lộ vẻ mừng ra mặt, xem ra trận đấu này bên họ ắt sẽ thắng.

Chỉ nghe thấy kiếm sĩ áo gấm quát lên một tiếng như sấm sét, vung thanh đại kiếm chém ngang. Kiếm sĩ áo xanh không cách nào tránh né, đánh vung trường kiếm hết sức gạt ra. Chỉ nghe keng một tiếng, hai thanh kiếm đụng vào nhau, nửa thanh đại kiếm gãy văng ra ngoài. Nguyên lai thanh kiếm của gã áo xanh sắc bén vô tỉ, đã chặt đứt kiếm đối phương thành hai đoạn. Thanh kiếm tiếp tục đi thêm một vòng chém xuống vạch một đường dài đến hai thước cắt từ yết hầu cho tới tận bụng dưới người áo gấm. Kiếm sĩ áo gấm rống lên từng hồi, lăn quay ra đất. Người áo xanh cúi nhìn thân hình to lớn của nạn nhân một hồi rồi tra kiếm vào vỏ, quì xuống hướng về vị vương gia hành lễ, trên mặt không dấu được vẻ đắc ý.

Viên quan kế bên vị vương gia nói:

– Tráng sĩ kiếm đã sắc bén mà nghệ thuật lại tinh tường, đại vương ban cho mười cân vàng.

Kiếm sĩ áo xanh tạ ơn lui về.

Bên cánh phía tây đứng một hàng tám người kiếm sĩ áo xanh, đối phó với hơn năm chục người kiếm sĩ áo gấm, hai bên nhân số chênh lệch thấy rõ.

Viên quan đó lại chậm rãi nói:

Kiếm sĩ hai nước Ngô Việt, tỉ đấu lần thứ ba!

Trong hai đội kiếm sĩ, mỗi bên lại có một người bước ra, hướng vào vị vương gia cúi đầu hành lễ xong đứng đối diện nhau. Đột nhiên một ánh sáng xanh chói mắt, ai nấy đều cảm thấy một hơi lạnh phả vào người. Trong tay kiếm sĩ áo xanh đã thấy một thanh kiếm dài chừng ba thước, rung động không ngừng, trông chẳng khác gì một giải lụa xanh lấp lánh. Viên quan khen ngợi:

– Kiếm tốt lắm!

Kiêm sĩ áo xanh hơi khom mình tạ ơn khen ngợi. Viên quan lại nói tiếp:

– Một người đánh một đã xem qua hai trận, lần này đánh đôi!

Trong đội áo gấm một người nữa bước ra, rút kiếm ra khỏi vỏ. Thanh kiếm đó sáng loáng như nước mùa thu, mới trông cũng biết là sắc bén. Trong đội áo xanh cũng bước ra thêm một người. Bốn người sau khi hướng về phía vị vương gia hành lễ, quay lại chào nhau. Chỉ thấy kiếm quang lấp lánh, trận đấu đã bắt đầu.

Trận đấu đôi này, kiếm sĩ cùng bên có thể phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Chỉ mới vài hiệp, nghe keng một tiếng, một thanh kiếm của phe áo gấm đã bị địch thủ chém gãy. Thế nhưng người đó vẫn rất hùng hổ, vung nửa thanh kiếm còn lại nhảy xổ vào địch thủ. Trường kiếm của gã kiếm sĩ áo xanh lại lấp lánh, chỉ nghe xoẹt một tiếng, cánh tay bên phải của y bị chém đứt đến tận vai, tiếp theo thêm một kiếm đâm ngập vào giữa tâm oa.

Hai người bên kia vẫn đấu liên tục không ngừng, không để ý đến kiếm sĩ áo xanh đắc thắng đứng rình bên cạnh. Bỗng dưng trường kiếm của y vung ra, xoẹt một tiếng chém đứt làm đôi thanh kiếm trong tay người áo gấm. Thanh kiếm đó lại đâm thẳng tới ngập thẳng vào ngực, xuyên qua tới tận sau lưng.

Vị vương gia cười ha hả, vỗ tay:

– Kiếm đã sắc mà kiếm pháp cũng rất hay! Mau thưởng rượu, thưởng vàng! Để bốn người đấu bốn người xem thế nào!

Hai bên mỗi đội lại bước ra bốn người, hành lễ xong rút kiếm đấu. Bên phe áo gấm thua liền ba trận, chết mất bốn người nên kỳ này bốn người ra đấu hết sức liều mạng, nhất quyết phải thắng một lần. Chỉ thấy hai người áo xanh phân hai bên tả hữu giáp công một người áo gấm, còn lại ba người áo gấm xông vào tấn công khiến hai người áo xanh phải liên tiếp đỡ gạt. Hai người áo xanh chỉ toàn thế thủ, chiêu số nghiêm mật nhưng không đánh trả chiêu nào khiến cho ba người áo gấm không cách gì giúp đỡ lẫn nhau. Còn lại hai người áo xanh đánh một, chỉ trong mươi chiêu đã giết được đối thủ, rồi lại tiếp tục tấn công một người áo gấm khác. Hai người áo xanh kia vẫn theo kiểu cũ, chỉ thủ mà không công, cầm chân hai người áo gấm, để cho đồng bọn hai người đánh một giết chết kẻ địch.

Những người áo gấm đứng xem thấy bên mình chỉ còn có hai người, ai thắng ai thua đã thấy rõ, nên thảy đều cất tiếng la ó, rút kiếm định xông vào chém chết cả tám người áo xanh.

Viên quan vội lớn tiếng:

– Những người học kiếm phải biết tuân theo kiếm đạo!

Thần khí và âm thanh của y có một uy lực khiến cho phe áo gấm lập tức phải lắng ngay xuống. Bấy giờ mọi người ai nấy đền thấy rõ, bốn người kiếm sĩ áo xanh, kiếm pháp không đồng, hai người thủ thế hết sức nghiêm nhặt, còn hai người công thế lại hết sức độc địa, chia hai bên tấn công vào. Kẻ thủ chỉ cốt cầm chân đối phương, giữ được một người đều cho người giữ thế công lấy nhiều thắng ít, theo lối tằm ăn dâu. Cứ theo cách thức ấy thì dù đối phương võ công có cao bao nhiêu, phe áo xanh cũng khó mà thắng được. Không nói gì bốn người đánh bốn người, mà lấy bốn đánh sáu, đánh tám họ cũng có thể thắng. Hai người giữ thế thủ thi triển kiếm chiêu trông như một mạng lưới, dù phải đối phó với năm, sáu người cũng vẫn không sao.

Lúc đó trên đấu trường, hai người kiếm sĩ áo xanh đang dùng thế thủ để cầm chân một người áo gấm, còn bên kia hai người áo xanh khác nhanh nhẹn công kích giết thêm một người áo gấm thứ ba, lập tức quay lại giáp công người còn lại. Hai người vốn thủ thế lập tức lui ra đứng một bên quan sát. Người áo gấm còn lại tuy thấy chắc chắn sẽ thua, nhưng không buông kiếm đầu hàng mà lại hết sức chiến đấu. Đột nhiên bốn người kiếm sĩ áo xanh cùng hét lên một tiếng, bốn thanh kiếm cùng đâm ra, phân ra trên dưới, trái phải, cùng trúng vào kiếm sĩ áo gấm.

Người áo gấm bị đâm bốn nhát lập tức chết ngay, nhưng mắt vẫn mở trừng trừng, mồm há hốc. Bốn người áo xanh cùng rút kiếm ra, giơ chân trái lên chùi kiếm vào giày cho sạch vết máu, nghe cách một tiếng đã tra kiếm vào vỏ. Những động tác đó xem ra rất nhanh nhẹn, nhưng phải nói cái khó là làm sao họ làm thật đều, cùng giơ chân trái lên, cùng chùi vết máu, cùng tra vào bao, tất cả đều chỉ nghe một tiếng mà thôi.

Vị vương gia cười ha hả, vỗ tay:

– Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp! Kiếm sĩ của thượng quốc nổi danh thiên hạ, hôm nay quả thực cho chúng ta được mở mắt. Ban cho bốn vị kiếm sĩ, mỗi người mười cân vàng.

Bốn người kiếm sĩ áo xanh đồng loạt cúi mình tạ ơn. Cả bốn khom lưng, bốn cái đầu thành một đường thẳng, không người nào cao, người nào thấp, không biết họ phải mất bao nhiêu công phu mới luyện được đều như thế.

Một người áo xanh tiến lên, bưng một chiếc hộp dài thếp vàng, nói:

– Vua bên tệ quốc đa tạ hậu lễ của đại vương, sai thần dâng lên một thanh bảo kiếm để đáp lại. Kiếm này tệ quốc mới đúc, mong đại vương thưởng ngoạn.

Vị vương gia nọ cười đáp:

– Xin đa tạ. Phạm đại phu, nhận lấy đưa ta xem nào!

Vị vương gia đó là Việt vương Câu Tiễn. Viên quan đó là Việt quốc đại phu Phạm Lãi. Những kiếm sĩ áo gấm là vệ sĩ trong cung của Việt vương, còn tám người kiếm sĩ áo xanh là sứ giả của Ngô vương Phù Sai đưa lễ vật sang. Trước đây Việt vương bị Phù Sai đánh bại, nằm gai nếm mật, rắp tâm báo cừu, tuy ngoài mặt đối với Ngô vương mười phần cung thuận, nhưng ngày đêm không ngừng huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội đánh nước Ngô. Để thám thính quân lực Ngô quốc, y liên tiếp sai cao thủ trong đám vệ sĩ ra đấu kiếm với kiếm sĩ nước Ngô, không ngờ mới có mấy trận đã chết mất tám tay hảo thủ. Câu Tiễn vừa sợ, vừa tức, tuy mặt không động thanh sắc, vẫn phải lộ vẻ tán thưởng tài ba kiếm khách nước Ngô.

Phạm Lãi tiến lên mấy bước, đón lấy cái hộp vàng, chỉ thấy nhẹ bổng, giống như hộp không, lập tức mở ra xem. Những người chung quanh không ai thấy được trong hộp có gì, chỉ thấy mặt Phạm Lãi thoáng một ánh màu xanh mờ mờ phủ, đều kêu “a” lên một tiếng, lộ vẻ kinh dị. Hiển nhiên là kiếm khí chiếu lên mặt khiến cho râu tóc, chân mày đều mang sắc biếc.

Phạm Lãi bưng hộp đến trước Việt vương, cúi mình tâu:

– Xin mời đại vương xem!

Câu Tiễn thấy hộp trong lót gấm, đặt một thanh kiếm dài chừng ba thước, thân kiếm thật mỏng, mũi kiếm lóng lánh, biến huyễn vô chừng, buột miệng khen:

– Kiếm tốt thực!

Việt vương cầm lên xem, chỉ thấy mũi kiếm liên tiếp rung động, tưởng chừng như chỉ lắc nhẹ một cái, kiếm sẽ gẫy ngay, bụng nghĩ thầm:

– Kiếm này mỏng manh như thế, chắc chỉ cầm chơi, không dùng được vào việc gì!

Người đứng đầu toán kiếm sĩ áo xanh rút trong bọc ra một mảnh lụa mỏng, tung thẳng lên trời rồi nói:

– Xin đại vương giơ ngang kiếm ra, lưỡi kiếm hướng lên. Đợi cho lụa rơi trên kiếm, sẽ thấy kiếm này không phải như kiếm thường!

Chỉ thấy mảnh lụa mỏng từ lưng chừng không vật vờ bay, Việt vương giơ tay ra, lụa rơi ngay trên thanh kiếm. Nào ngờ miếng lụa không ngưng lại mà tiếp tục rơi, nhẹ nhàng đậu trên mặt đất. Hóa ra vuông lụa đã bị cắt thành hai, kiếm sắc như thế không ai có thể ngờ được. Điện trên điện dưới tiếng hoan hô vang động.

Kiếm sĩ áo xanh nói tiếp:

– Kiếm này tuy mỏng mảnh thật, nhưng đụng với kiếm nặng nề khác không bị gãy đâu!

Câu Tiễn nói:

– Phạm đại phu, đem ra thử xem nào!

Phạm Lãi đáp:

– Vâng!

Hai tay nâng hộp kiếm lên để cho Câu Tiễn đặt vào, lùi lại mấy bước, quay lại đi đến trước mặt một kiếm sĩ áo gấm, cầm kiếm ra, nó:

– Rút kiếm ra thử coi!

Kiếm sĩ cúi mình hành lễ, rút kiếm đeo trên mình ra, giơ lên trên cao không dám hạ thủ. Phạm Lãi hét to:

– Chém xuống!

Kiếm sĩ áo gấm thưa:

– Vâng!

Gã vung thanh kiếm ra trước mặt. Phạm Lãi giơ kiếm ra gạt, chỉ nghe keng một tiếng nhỏ, trường kiếm của kiếm sĩ áo gấm đã đứt làm đôi. Nửa thanh kiếm rơi xuống tưởng như văng vào Phạm Lãi. Phạm Lãi nhẹ nhàng nhảy qua tránh được. Mọi người ai nấy đều ồ lên một tiếng, không hiểu tán thưởng thanh kiếm sắc bén hay khen ngợi thân thủ nhanh nhẹn của Phạm đại phu.

Phạm Lãi đặt lại kiếm vào hộp, cúi mình đặt xuống bên chân Việt vương. Câu Tiễn nói:

– Xin mời kiếm sĩ thượng quốc ra ngoài ăn yến lãnh thưởng!

Tám người kiếm sĩ áo xanh hành lễ xuống điện. Câu Tiễn vung tay một cái, các kiếm sĩ áo gấm cùng tất cả thị vệ lập tức lui ra, chỉ còn lại một mình Phạm Lãi.

Câu Tiễn nhìn thanh kiếm dưới chân, lại nhìn máu tươi còn loang đầy mặt đất, xuất thần hồi lâu mới hỏi:

– Nghĩ sao?

Phạm Lãi nói:

– Kiếm thuật võ sĩ nước Ngô không phải ai cũng tinh thông như tám gã này. Binh khí võ sĩ nước Ngô, không chắc ai ai cũng đã sắc bén như vậy. Tuy nhiên cứ xem đây cũng đủ. Cái đáng lo nhất là thuật chiến đấu đông người của bọn họ, biết áp dụng Tôn tử binh pháp một cách khéo léo, thần xem hiện nay quả là vô địch thiên hạ.

Câu Tiễn trầm ngâm rồi nói:

– Phù Sai sai tám người này sang dâng bảo kiếm, đại phu thử nghĩ y có ý định gì?

Phạm Lãi tâu:

– Y muốn cho mình thấy khó khăn mà nản lòng, không để tâm xâm phạm nước Ngô báo cừu.

Câu Tiễn giận dữ, cúi mình lấy thanh bảo kiếm trong hộp ra, vung tay một cái, chỉ nghe một tiếng soạt đã chém đứt một bên ghế ngồi, lớn tiếng nói:

– Dù có muôn vàn khó khăn thì Câu Tiễn này cũng không vì sợ khó mà lùi bước. Rồi sẽ có ngày ta bắt được Phù Sai, dùng ngay thanh kiếm này chém đầu nó!

Nói xong lại vung kiếm lên chặt làm đôi một cái ghế bằng gỗ đàn khác.

Phạm Lãi khom lưng nói:

– Xin chúc mừng đại vương, chúc mừng đại vương!

Câu Tiễn ngạc nhiên:

– Trước mắt thấy đám võ sĩ nước Ngô tài nghệ như thế, có gì mà mừng mà vui?

Phạm Lãi nói:

– Đại vương nói là dù có muôn vàn khó khăn cũng không lùi bước. Nếu như đại vương quả có quyết tâm như thế, đại sự sẽ thành. Việc khó khăn trước mắt ngày hôm nay, nên mời thêm Văn đại phu đến cùng nhau thương nghị.

Câu Tiễn nói:

– Hay lắm, ngươi ra truyền lệnh mời ngay Văn đại phu đi.

Phạm Lãi đi ra khỏi điện, truyền lệnh cho thái giám đi mời đại phu Văn Chủng, tự mình đứng ngay bên cửa để chờ. Chẳng mấy chốc, Văn Chủng đã phi ngựa đến cùng sánh vai với Phạm Lãi vào cung.

Phạm Lãi vốn người đất Uyển nước Sở, tâm tính phóng khoáng không nệ tiểu tiết, làm gì cũng không ai đoán nổi ý tứ, người xứ đó ai cũng gọi y là “gã Phạm khùng”. Khi Văn Chủng làm huyện lệnh đất Uyển, nghe tên Phạm Lãi, nên sai bộ thuộc đến thăm. Gã bộ thuộc gặp Phạm Lãi rồi về trình:

– Tên này là tên khùng nổi tiếng ở vùng này, ăn nói lung tung chẳng đâu vào đâu.

Văn Chủng cười:

– Người nào hành sử không giống người khác, ắt bị người đời chê cười là phá rối, có ý kiến cao minh hơn người thì bị chê là hồ đồ. Các ngươi làm thế nào mà hiểu nổi Phạm tiên sinh được.

Rồi tự mình đến thăm Phạm Lãi. Phạm Lãi tránh mặt không gặp nhưng liệu rằng Văn Chủng sẽ quay lại lần nữa nên mượn áo khăn của anh, ăn mặc chỉnh tề ngồi đợi. Quả nhiên chẳng bao lâu Văn Chủng lại đến. Hai người gặp nhau, đàm luận hồi lâu về đạo vương bá, tâm đầu ý hợp, cứ tiếc là gặp nhau quá trễ.

Hai người biết rằng đất trung nguyên tình hình ngày càng thêm căng thẳng, nước Sở tuy lớn nhưng loạn, trước mắt thấy làm nên nghiệp bá ắt tại đông nam. Thành thử Văn Chủng từ quan, cùng Phạm Lãi đến nước Ngô. Lúc ấy Ngô vương đang trọng dụng Ngũ Tử Tư, nói gì nghe nấy, thế nước đang thời hưng vượng.

Phạm Lãi và Văn Chủng lưu lại kinh thành Cô Tô mấy tháng, thấy các chính sách của Ngũ Tử Tư đưa ra trị quốc hết sức trác tuyệt, xét ra mình không dễ gì hơn được y. Hai người thương nghị với nhau, nhận rằng nước Việt ở ngay cạnh nước Ngô, phong tục tương tự, đất đai tuy nhỏ hơn, nhưng cũng có thể đủ chỗ thi thố tài năng, nên rủ nhau đến đó. Câu Tiễn gặp hai người, sau khi đàm luận tỏ ra kính phục, nên đều phong họ làm đại phu.

Nhưng Câu Tiễn không nghe lời Văn Chủng, Phạm Lãi khuyên nhủ đem quân đánh Ngô, dùng Thạch Mãi làm tướng, bị đại bại trên bờ sông Tiền Đường. Câu Tiễn bị vây ở Cối Kê toan tự vận. Trong khi nguy cấp, Văn Chủng, Phạm Lãi hiến kế đem tiền mua được Thái Tể nước Ngô là Bá Hi để thay Việt vương trần tình. Ngô vương Phù Sai không nghe lời Ngũ Tử Tư, thuận cho Việt vương cầu hòa, chỉ bắt Câu Tiễn về nước Ngô nhưng sau cũng thả. Từ đó Việt vương nằm gai nếm mật, quyết chí phục hận, thi hành chín chính sách do Văn Chủng thảo ra để diệt Ngô.

Chín chính sách đó là

  • Thứ nhất là tôn trời đất, kính quỉ thần để Câu Tiễn nung nấu cái tâm tất thắng.
  • Thứ hai là đem tiền bạc, của cải đem cống tặng vua Ngô để cho vua Ngô quen thói xa xỉ mà quên việc đề phòng nước Việt.
  • Thứ ba là qua nước Ngô vay lương, sau lấy thóc đã nấu chín đem trả. Ngô vương thấy thóc tốt nên phát cho dân làm giống, gieo không nảy mầm khiếm dân Ngô bị đói.
  • Thứ tư là đem hai mỹ nữ, Tây Thi và Trịnh Đán dâng lên Phù Sai, để cho vua nước Ngô mê luyến nữ sắc, không lo gì đến chính sự.
  • Thứ năm là cống những thợ khéo để khiến cho Ngô vương hao tài tốn của trong việc xây cất cung thất, điện đài.
  • Thứ sáu là đút lót cho bọn gian thần, tay chân Ngô vương để họ làm bại hoại triều chính.
  • Thứ bảy là tìm cách ly gián Phù Sai với các trung thần, để đến nỗi sau này Ngô vương ép Ngũ Tử Tư tự sát.
  • Thứ tám là tích súc lương thảo, làm cho dân giàu nước mạnh.
  • Thứ chín là rèn đúc võ khí, huấn luyện sĩ tốt, chờ cơ hội đánh nước Ngô.

Tám thuật trên đều thành công, riêng có việc thứ chín nay gặp khó khăn. Trước mắt thấy Ngô vương sai tám kiếm sĩ sang, binh khí đã sắc bén, kiếm thuật lại tinh tường, kiếm sĩ nước Việt khó mà thủ thắng.

Phạm Lãi đem cuộc tỉ kiếm vừa qua kể lại cho Văn Chủng. Văn Chủng nhíu mày nghĩ ngợi:

– Này Phạm hiền đệ, kiếm sĩ nước Ngô, kiếm sắc thuật tinh, đã khó đối phó nhưng nếu họ lại còn biết đem binh pháp Tôn Tử áp dụng vào quần đấu, cái đó mới thực là khó khăn.

Phạm Lãi đáp:

– Chính thế, thời trước Tôn Võ Tử phò tá Ngô Vương, cầm quân phá Sở, đánh vào Dĩnh Đô, dùng binh như thần, thiên hạ không ai bì kịp. Nước Tề, nước Tấn tuy lớn mà cũng không nước nào dám chống lại Ngô. Binh pháp Tôn Tử có viết: ‘Ngã chuyên vi nhất, địch phân vi thập, thị dĩ thập công kỳ nhất dã, tắc ngã chúng nhi địch quả. Năng dĩ chúng địch quả giả, tắc ngô chi sở dữ chiến giả, ước hĩ” (Nếu như ta tập trung làm một mà địch chia ra thành mười, ta lấy mười chống một, tức là ta đông mà địch ít. Ta dùng nhiều chống ít, người nào đánh với ta ắt phải ở thế nguy). Bốn người bên Ngô đánh với bốn người bên mình, họ lấy hai chống một, tức là lấy đông đánh ít, làm gì mà không thắng.

Hai người còn đang bàn luận thì đã đến trước mặt Việt Vương. Chỉ thấy Câu Tiễn tay vẫn còn cầm thanh kiếm mỏng như lá lúa, bần thần như người mất hồn.

Một hồi lâu, Câu Tiễn mới ngửng lên hỏi:

– Này Văn đại phu, trước đây nước Ngô có vợ chồng Can Tương, Mạc Tà, giỏi nghề đúc kiếm. Nước Việt ta cũng có Âu Trị Tử là thợ giỏi, tài cũng chẳng kém gì. Thế nhưng ngày nay, cả ba người Can Tương, Mạc Tà, Âu Trị Tử chẳng ai còn sống. Nước Ngô có cao thủ đúc kiếm tài giỏi như thế, chẳng lẽ nước Việt ta từ khi Âu Trị Tử chết đi, không còn ai nữa à?

Văn Chủng đáp:

– Thần nghe Âu Trị Tử có hai người đồ đệ, một người là Phong Hồ Tử, một người là Tiết Chúc. Phong Hồ Tử nay ở nước Sở, Tiết Chúc vẫn còn ở nước Việt ta.

Câu Tiễn mừng quá, nói:

– Đại phu mau mau mời Tiết Chúc đến đây, lại phái người sang nước Sở mang tiền bạc đón Phong Hồ Tử trở về nước Việt.

Văn Chủng tuân lệnh lui về.

Sáng sớm hôm sau, Văn Chủng vào triều báo tin đã sai người sang Sở, Tiết Chúc cũng đã được lệnh vào chầu. Câu Tiễn vừa gặp Tiết Chúc, liền hỏi:

– Sư phụ người là Âu Trị Tử từng phụng mệnh tiên vương đúc ra năm thanh kiếm. Năm thanh kiếm đó, tốt xấu thế nào nói ta nghe thử xem nào?

Tiết Chúc khấu đầu:

– Tiểu nhân từng nghe tiên sư nói là trước đây phụng mệnh tiên vương đúc năm thanh kiếm, gồm có ba thanh kiếm lớn, hai thanh kiếm nhỏ. Thanh thứ nhất tên là Trạm Lư, thanh thứ hai là Thuần Quân, thanh thứ ba là Thắng Tà, thanh thứ tư là Ngư Trường, thanh thứ năm là Cự Khuyết. Hiện nay Trạm Lư đang ở nước Sở, Thắng Tà, Ngư Trường ở nước Ngô, Thuần Quân, Cự Khuyết đang ở trong cung của đại vương.

Câu Tiễn gật đầu:

– Chính thế!

Nguyên lai trước đây khi nghe tin Việt vương Doãn Thường đúc được năm thanh kiếm, Ngô vương hay tin sai người sang đòi. Doãn Thường thấy nước Ngô mạnh, đành phải đem ba thanh Trạm Lư, Thắng Tà, Ngư Trường đem cống. Về sau Ngô Vương Hạp Lư đem thanh Ngư Trường đưa cho Chuyên Chư hành thích Vương Liêu. Thanh kiếm Trạm Lư bị rơi xuống nước, sau Sở vương tìm được. Vua nước Tần nghe tin đòi không được nên đem quân đánh Sở nhưng Sở vương nhất định không giao.

Tiết Chúc bẩm:

– Tiên sư từng nói là trong năm thanh kiếm thì thanh Thắng Tà là hạng nhất, Thuần Quân, Trạm Lư là thứ hai, rồi đến Ngư Trường. Cự Khuyết đứng hạng chót. Khi đúc thanh Cự Khuyết, vàng và đồng không hợp được với nhau nên Cự Khuyết chỉ sắc bén chứ không phải là bảo kiếm.

Câu Tiễn nói:

– Thế ra hai thanh Thuần Quân, Cự Khuyết của ta không địch được với Thắng Tà, Ngư Trường của vua Ngô ư?

Tiết Chúc sợ hãi:

– Tiểu nhân nói thẳng, đáng chết, xin đại vương thứ tội.

Câu Tiễn trầm ngâm không nói, nhưng cứ như lời Tiết Chúc thì hai thanh kiếm nước Việt không thể so được với hai thanh kiếm nước Ngô.

Phạm Lãi chen vào:

– Tiên sinh học được nghệ thuật của tôn sư, vậy thử xây lò đúc kiếm, đúc vài thanh bảo kiếm, lẽ gì không sánh được với kiếm nước Ngô.

Tiết Chúc nói:

– Xin thưa với đại phu, tiểu nhân không đúc kiếm được.

Phạm Lãi hỏi:

– Chẳng hay vì cớ gì?

Tiết Chúc đưa hai bàn tay ra, chỉ thấy cả hai bên ngón tay cái và ngón tay trỏ đều cụt lủn, hai bàn tay chỉ có sáu ngón tay. Tiết Chúc điềm nhiên nói:

– Muốn có kình lực đúc kiếm phải có sức của hai ngón cái, ngón trỏ. Tiểu nhân là kẻ tàn phế không thể làm được.

Câu Tiễn ngạc nhiên hỏi:

– Bốn ngón tay ngươi phải chăng bị kẻ thù chặt đứt?

Tiết Chúc đáp:

– Không phải kẻ thù, mà chính là sư huynh của tiểu nhân chặt đấy.

Câu Tiễn lại càng lạ lùng:

– Sư huynh của ngươi là Phong Hồ Tử phải không? Tại sao y lại chặt đứt tay ngươi? A, chắc là thuật đúc kiếm của ngươi trội hơn y, nên y mang lòng đố kỵ, chặt ngón tay ngươi để ngươi không thể đúc kiếm được nữa.

Tiết Chúc không muốn nói về chuyện của sư huynh, chỉ im lặng không đả động gì đến lời suy nghiệm của Câu Tiễn. Câu Tiễn nói tiếp:

– Quả nhân bản tâm muốn sai người sang Sở đón Phong Hồ Tử về. E rằng y sợ ngươi báo thù nên chắc không chịu về.

Tiết Chúc thưa:

– Xin đại vương lượng xét, Phong sư huynh hiện nay đang ở nước Ngô chứ không phải ở nước Sở.

Câu Tiễn giật mình, hỏi:

– Y … y ở nước Ngô ư? Tại Ngô làm gì thế?

Tiết Chúc thưa:

– Ba năm trước đây, Phong sư huynh có đến nhà của tiểu nhân, đưa cho coi một thanh bảo kiếm. Tiểu nhân vừa nhìn thấy liền giật mình, hóa ra đó là một thanh kiếm báu mà tiên sư Âu Trị Tử trước đây đúc tại nước Sở, tên là Công Bố, trên thân kiếm có văn như dòng nước chảy, từ cán đến tận mũi, chỉ một đường không đứt đoạn. Tiểu nhân đã từng nghe tiên sư nói qua nên thoạt trông đã biết ngay. Hồi đó tiên sư phụng mệnh Sở vương đúc ba thanh kiếm, một là Long Uyên, hai là Thái A, ba là Công Bố. Sở vương thích lắm, không hiểu vì sao lại lọt vào tay sư ca.

Câu Tiễn nói:

– Chắc là Sở vương ban cho sư huynh ngươi đó!

Tiết Chúc thưa:

– Nói là Sở vương ban cho thì cũng không sai, nhưng đã qua tay hai người rồi. Theo lời Phong sư huynh, sau khi tướng nước Ngô đem quân phá Sở rồi, Ngũ Tử Tư đào mả Sở Bình vương lên lấy roi đánh vào tử thi, mới thấy trong mộ có thanh kiếm này. Khi về lại nước Ngô, nghe đến danh Phong sư huynh, nên y mới đem kiếm này tặng cho, nói là vốn của tiên sư đúc nên nay đưa cho Phong sư huynh gìn giữ.

Câu Tiễn giật mình:

– Ngũ Tử Tư dám đem kiếm báu cho người khác, quả thực khí độ anh hùng, quả thực anh hùng!

Bỗng dưng cười ha hả:

– May là Phù Sai trúng kế của ta, ép được y tự sát, ha ha, ha ha!

Câu Tiễn cười không ai dám lên tiếng. Một hồi lâu sau, y mới hỏi:

– Ngũ Tử Tư đem thanh Công Bố tặng cho sư huynh ngươi để sai y làm gì?

Tiết Chúc thưa:

– Theo lời Phong sư huynh thì khi đó Ngũ Tử Tư chỉ nói là vì ngưỡng mộ tiên sư, chứ không đòi gì cả. Phong sư huynh được thanh bảo kiếm, trong lòng cảm kích, nghĩ là Ngũ tướng quân dám đem một vật báu hi hữu thế gian đem tặng cho mình, không thể không tự mình đến gặp mặt tạ ơn. Cho nên y mới sang nước Ngô, đến nhà Ngũ Tử Tư, được Ngũ tướng quân dùng lễ thượng tân đãi đằng, lưu lại trong dinh, hết sức nồng hậu.

Câu Tiễn nói:

– Ngũ Tử Tư khiến cho người khác phải đem tính mạng ra hi sinh cho mình, đều dùng thủ đoạn đó. Trước đây y sai Chuyên Chư hành thích Vương Liêu, ắt cũng như thế.

Tiết Chúc nói:

– Đại vương liệu sự như thần. Thế nhưng Phong sư huynh nào biết được âm mưu của Ngũ Tử Tư, sau khi thụ ân hậu hĩ như vậy, trong lòng hết sức cảm kích, mới hỏi xem mình có thể làm được việc gì. Ngũ Tử Tư trước sau chỉ nói: “Các hạ nhọc lòng đến nước Ngô, là khách quí của nước Ngô, không dám nhờ nhõi gì cả”.

Câu Tiễn chửi:

– Tên già gian xảo, y lấy thoái làm tiến đấy mà.

Tiết Chúc thưa:

– Đại vương quả sáng suốt có thể nhìn xa vạn dặm. Phong sư huynh sau cùng thưa thật với Ngũ Tử Tư là y không có tài cán gì ngoài tài đúc kiếm, nay được đãi đằng hậu như thế xin đúc vài thanh bảo kiếm dâng tặng.

Câu Tiễn vỗ đùi nói:

– Có thế chứ!

Tiết Chúc nói tiếp:

– Ngũ Tử Tư lại nói là nước Ngô bảo kiếm cũng đã nhiều, chẳng cần đúc thêm làm gì nữa. Đúc kiếm cực kỳ hao tổn tâm lực, ngày xưa Can Tương, Mạc Tà đúc kiếm không thành, Mạc Tà phải nhảy vào trong lò đúc, bảo kiếm mới đúc xong. Cái thảm sự đó nhất định không để cho lại xảy ra nữa.

Câu Tiễn lạ lùng:

– Y quả thực không mong Phong Hồ Tử đúc kiếm cho y ư? Thế thì lạ thật.

Tiết Chúc thưa:

– Lúc đó Phong sư huynh cũng lấy làm lạ. Một hôm, Ngũ Tử Tư lại đến tân quán cùng Phong sư huynh nhàn đàm, mới nói tới chuyện nước Ngô cùng các nước ở phương Bắc như nước Tề, nước Tấn tranh bá đồ vương, tuy chiến sĩ nước Ngô dũng khí có thừa, ngặt là dùng xe chiến đấu lại có chỗ chẳng kịp, nếu như xảy ra bộ chiến, kiếm kích đang dùng cũng chẳng sắc bén bằng. Lúc đó Phong sư huynh mới cùng y đàm luận về thuật đúc kiếm. Hóa ra cái việc mà Ngũ Tử Tư muốn đúc, chẳng phải chỉ là một hai thanh bảo kiếm mà là hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm sắc.

Câu Tiễn lúc đó mới tỉnh ngộ, không nhịn nổi phải kêu lên “Oái chà” một tiếng đồng thời liếc mắt nhìn Văn Chủng, Phạm Lãi. Văn Chủng lúc ấy mặt đầy nét lo, còn Phạm Lãi thì ngơ ngẩn như người mất hồn, bèn hỏi:

– Phạm đại phu, ý ngươi thế nào?

Phạm Lãi đáp:

– Ngũ Tử Tư tuy diệu kế đa đoan, không nói y đã chết rồi mà nếu như có còn tại thế, cũng không thoát khỏi bàn tay đại vương.

Câu Tiễn cười:

– Hắc hắc, chỉ e quả nhân không phải đối thủ của Ngũ Tử Tư đâu.

Phạm Lãi nói:

– Ngũ Tử Tư đã bị đại vương dùng xảo kế trừ đi rôi, không lẽ y còn làm hại nước Việt được sao?

Câu Tiễn ha hả cười:

– Điều đó cũng chẳng sai. Tiết Chúc, sư huynh ngươi nghe lời Ngũ Tử Tư, giúp y đúc kiếm chăng?

Tiết Chúc thưa:

– Chính thế. Thế rồi Phong sư ca đi theo Ngũ Tử Tư đến xưởng đúc kiếm ở Mạc Can sơn, thấy hơn một ngàn thợ đương rèn kiếm, nhưng phép tắc chưa thật là hay, nên đứng ra chỉ điểm, thành ra từ đó kiếm nước Ngô sắc bén không nước nào bì kịp.

Câu Tiễn gật đầu:

– Hóa ra là như thế!

Tiết Chúc nói tiếp:

Đúc kiếm được một năm, Phong sư ca làm việc quá độ nên tinh lực hao mòn, mới đem tên của tiểu nhân nói cho Ngũ Tử Tư hay. Ngũ Tử Tư liền sửa soạn lễ vật, sai Phong sư ca đến mời tiểu nhân qua nước Ngô, giúp Phong sư ca đúc kiếm. Tiểu nhân mới nghĩ rằng thế hai nước Việt Ngô vốn dĩ thù nhau lâu đời, nước Ngô đúc được kiếm sắc, chẳng cứ gì giết người Tề, người Tấn, mà còn giết luôn cả người Việt mình nữa, nên mới khuyên Phong sư ca đừng trở lại nước Ngô nữa.

Câu Tiễn nói:

– Chính thế, ngươi quả là người hiểu biết.

Tiết Chúc rập đầu:

– Đa tạ đại vương khen ngợi. Thế nhưng Phong sư ca không nghe lời khuyên, hôm đó ngủ lại, nửa đêm đột nhiên dí kiếm sắc vào cổ tiểu nhân, rồi chặt đứt bốn ngón tay khiến cho thành phế nhân.

Câu Tiễn giận quá, lớn tiếng:

– Nếu sau này bắt được Phong Hồ Tử, ta sẽ băm vằm y thành mắm.

Văn Chủng nói:

– Tiết tiên sinh, bản thân ông không đúc kiếm được, nhưng chỉ bảo cho thợ rèn, mình vẫn có thể đúc được hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm sắc.

Tiết Chúc nói:

– Bẩm đại phu, sắt để đúc kiếm thì hai nước Việt Ngô đều có cả, nhưng đồng tốt thì Việt có, mà thiếc tốt thì lại ở tại Ngô.

Phạm Lãi nói:

– Ngũ Tử Tư vốn đã sai người canh gác Tích sơn, không cho dân chúng đào thiếc, phải thế không?

Tiết Chúc mặt lộ vẻ kinh ngạc, nói:

– Phạm đại phu, nguyên lai ngài đã biết chuyện đó rồi.

Phạm Lãi mỉm cười:

– Ta chỉ đoán thế mà thôi. Nay Ngũ Tử Tư đã chết rồi, lệnh y ban ra chắc gì người Ngô còn theo. Nếu đem giá cao mà mua nghĩ rằng thiếc tốt kiếm cũng không khó.

Câu Tiễn nói:

– Thế nhưng nước xa không chữa được lửa gần, kiếm được đồng, mua được thiếc, xây lò, đúc kiếm, đúc không được kiếm tốt lại phải khởi từ đầu, ít ra cũng mất độ hai ba năm. Nếu như Phù Sai không sống được tới lúc đó chẳng hóa ra là cái hận để đời sao?

Văn Chủng, Phạm Lãi cùng khom lưng thưa:

– Chính thế, chúng thần xin chờ nghe kế sách của đại vương.

Phạm Lãi rời cung rồi, trong lòng suy nghĩ:

– Đại vương đợi chẳng nổi hai ba năm, còn ta thì thêm một ngày, một đêm, cũng đã…

Nghĩ tới đó, ngực thấy đau nhói, trong đầu hiện ra ngay một bóng hình diễm tuyệt. Đó là hình bóng người con gái giặt lụa bên bờ suối Tây Thi. Người con gái đó tên là Di Quang, chính mình đã tìm khắp thiên hạ để có được, người đã do linh khí núi sông nước Việt tạo thành, rồi lại chính mình đưa lên đường sang cống vào cung nước Ngô.

Đường từ Cối Kê sang Cô Tô rất ngắn, chỉ mất vài ngày đường thủy, thế nhưng chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, hai người đã yêu nhau thắm thiết, không thể nào chia lìa. Trên khuôn mặt trắng ngần của Tây Thi, hai giọt lệ chẳng khác nào hai hạt trân châu, tiếng nàng êm đềm như suối chảy:

– Thiếu Bá, chàng hãy hứa, nhất định sẽ sang đón thiếp về, càng sớm càng hay, thiếp ngày đêm trông đợi. Chàng hãy nói một lần nữa, nói là sẽ không bao giờ quên thiếp cả.

Thù nước Việt không thể không báo, nên đành phải thế. Thế nhưng Di Quang còn phải nằm trong vòng tay Phù Sai, thì lòng hờn ghen, khổ não lúc nào cũng dằn vặt trong tim. Phải đúc kiếm thật nhanh, kiếm phải sắc bén hơn kiếm của nước Ngô…

Chàng chậm rãi đi trên đường, theo sau là mười tám vệ sĩ lẽo đẽo ở xa.

Bỗng dưng từ con đường phía tây vọng đến tiếng một đoàn người hát bằng tiếng Ngô:

– Kiếm ta sắc hề, địch mất mật. Kiếm ta vung lên hề, địch rơi đầu…

Tám người mặc áo xanh, tay choàng tay, cất tiếng hát rống lên, cùng nhau tiến tới như chỗ không người. Người đi đường ai nấy tránh giạt ra một bên. Đó chính là bọn kiếm sĩ nước Ngô toàn thắng hôm trước trong cung nước Việt, hẳn là uống rượu vào, hoành hành nhiễu loạn trên đường phố.

Phạm Lãi nhíu mày, nỗi tức giận dâng lên đầy ngực.

Tám tên kiếm sĩ nước Ngô đi đến trước mặt Phạm Lãi. Tên đi đầu mắt lờ đờ say, nhìn chàng trừng trừng, rồi nói:

– Ngươi là Phạm đại phu… ha ha, ha ha, ha ha!

Hai tên vệ sĩ vội sấn lên trước, chặn trước mặt Phạm Lãi, hét lớn:

– Không được vô lễ, mau tránh ra!

Tám tên kiếm sĩ cùng cất tiếng cười hô hố, nhái giọng Việt:

– Không được vô lễ, mau tránh ra!

Hai tên vệ sĩ rút phắt trường kiếm, thét to:

– Đại vương đã ra lệnh, ai dám động đến đại phu sẽ bị chém đầu!

Tên đi đầu trong bọn nước Ngô, chân nam đá chân siêu, hỏi lại:

– Chém đầu ngươi, hay chém đầu ta?

Phạm Lãi nghĩ thầm:

– Bọn này là sứ thần nước Ngô, tuy vô lễ, nhưng không nên cùng chúng động thủ.

Vừa định nói: “Tránh cho họ đi” thì đột nhiên ánh sáng lấp lánh, hai tên vệ sĩ kêu la thảm khốc, tiếp theo hai tiếng leng keng, hai bàn tay phải cầm kiếm của họ đã rơi xuống đất. Tên đi đầu trong bọn nước Ngô chậm rãi cho kiếm vào vỏ, mặt đầy vẻ ngạo nghễ.

Mười sáu người còn lại trong bọn vệ sĩ nhất tề rút kiếm, chạy lên bao vây bọn kiếm sĩ nước Ngô. Tên đi đầu ngửa mặt lên trời cười ha hả, nói:

– Bọn ta từ Cô Tô đến Cối Kê, vốn đã không mong sống sót mà về, thử xem nước Việt chúng bay đem bao nhiêu nhân mã tới giết được tám người chúng ta nào?

Tiếng “nào” vừa dứt, lập tức tám người cùng rút kiếm ra, đâu lưng với nhau thành một khối.

Phạm Lãi nghĩ thầm: “Việc nhỏ không nhịn ắt hư chuyện lớn, hiện nay nước ta chưa chuẩn bị xong, không nên giết tám tên này làm gì, để cho Phù Sai mất mặt”. Bèn thét:

– Tám người này là sứ thần thượng quốc, dẫu sao cũng không nên vô lễ với họ, lui ra đi!

Nói xong đứng tránh sang một bên đường. Bọn vệ sĩ ai nấy tức khi bừng bừng, mắt như muốn đổ lửa, nhưng vì đại phu ra lệnh nên đành phải lui vào. Tám tên Ngô sĩ lớn tiếng cười ha hả, cùng gân cổ lên hát:

– Kiếm ta sắc hề, địch mất mật. Kiếm ta vung lên hề, địch rơi đầu…

Bỗng nhiên có tiếng kêu be be, một thiếu nữ mặc áo mỏng màu xanh lục dẫn độ mươi con dê, từ con đường phía đông đi tới. Đàn dê tới ngang bọn kiếm sĩ nước Ngô liền tránh đi vòng qua một bên.

Một tên Ngô sĩ hứng chưa dứt, vung kiếm một cái, chém một con dê từ đầu tới đuôi cắt thành hai mảnh, tưởng như lấy chỉ mà căng, cả cái mũi cũng đứt làm đôi. Kiếm thuật tinh xảo như thế, chưa nghe ai làm được bao giờ. Bảy tên Ngô sĩ cùng lớn tiếng hoan hô. Phạm Lãi không nhịn được phải bật lên: “Kiếm giỏi thực!”.

Thiếu nữ lật đật vung cây gậy trúc trong tay, lùa đàn dê về phía sau mình, hỏi:

– Tại sao ông lại giết dê của tôi?

Thanh âm vừa nhỏ nhẹ, vừa trong trẻo nhưng chứa vài phần phẫn nộ.

Tên Ngô sĩ giết con dê kia vung thanh kiếm dính đầy máu lên hoa hoa dọa nạt, cười nói:

– Này cô gái, ta muốn chặt cô thành hai khúc nữa.

Phạm Lãi vội gọi:

– Này cô kia, mau lại đây, bọn họ say rượu đấy.

Cô gái đáp:

– Uống rượu thì uống rượu chứ đâu phải muốn dọa ai thì dọa.

Tên kiếm sĩ nước Ngô vung kiếm chém nhứ mấy lượt trên đầu cô gái, cười nói:

– Ta đang định chặt cái đầu cô, nhưng thấy cô xinh đẹp, bỏ qua uổng quá.

Bảy tên còn lại cùng cười hô hố.

Phạm Lãi thấy cô gái mặt trái xoan, lông mi dài, mắt to, da trắng trẻo, dung mạo tú lệ, thân hình nhỏ nhắn, ẻo lả, lòng không nỡ để yên, gọi lớn:

– Cô nương, mau lại đây!

Cô gái quay lại đáp:

– Vâng ạ!

Tên kiếm sĩ nước Ngô vung kiếm ra toan cắt dây lưng cô gái, cười nói: “Để ta…”. Chỉ mới nói được hai tiếng thì cây gậy trúc trong tay cô gái đã vụt đâm lên, trúng ngay vào cổ tay y. Gã kiếm sĩ cổ tay đau nhói, kêu lên một tiếng, kiếm rơi xuống đất. Cây gậy trúc lại vung lên một lần nữa, chỉ thấy vụt một lằn xanh, đã đâm trúng ngay mắt trái đối thủ. Gã kiếm sĩ nước Ngô rống lên một tiếng, hai tay ôm mắt, kêu gào luôn mồm.

Hai lần cô gái vung gậy lên, nhẹ nhàng khéo léo, đâm vào cổ tay, vào mắt, trông như không có gì cả, mà không hiểu sao gã kiếm sĩ nước Ngô không tránh được. Bảy tên kiếm sĩ còn lại kinh sợ kêu lên, một tên cao lớn múa kiếm nhắm mắt cô gái đâm tới. Tiếng kiếm đâm ra kêu vù vù, đủ biết kình lực mười phần mạnh mẽ.

Thế nhưng cô gái không né tránh, chỉ đâm gậy trúc ra, đánh sau mà tới trước, á một tiếng đã đâm trúng vai phải gã Ngô sĩ. Kình lực đâm của gã lập tức nhũn xuống. Gậy cô gái lại vung ra, đâm ngay vào mắt phải. Gã kiếm sĩ nước Ngô kêu rống như heo bị chọc tiết, hai tay vung loạn cả lên, máu từ trong mắt chảy ra ròng ròng, hết sức ghê rợn.

Chỉ bốn chiêu mà cô gái đãm đâm mù mắt hai tên nước Ngô. Ai nấy thấy cô thuận tay vung lên, đối thủ lập tức bị thương, đều phải giật mình. Sáu tên kiếm sĩ nước Ngô vừa tức, vừa sợ, cùng rút trường kiếm, vây cô gái lại.

Phạm Lãi khá giỏi kiếm thuật, trông cô gái chỉ chừng mười sáu, mười bảy, dùng một cây gậy trúc mà đâm mù mắt hai tay cao thủ nước Ngô. Thủ pháp tuy nhìn không rõ, nhưng thực là kiếm pháp thượng thừa. Phạm Lãi vừa sợ vừa vui, thấy sáu tên kiếm sĩ cùng rút binh khí vây cô gái, thầm nghĩ tuy cô gái kiếm thuật tinh tường, nhưng khó lòng địch lại sáu cao thủ, nên lớn tiếng nói:

– Các vị kiếm sĩ, không sợ làm bại hoại thanh danh nước Ngô sao? Cậy số đông, ha ha!

Nói rồi vỗ tay một cái, mười sáu vệ sĩ nước Việt lập tức rút kiếm giàn ra vây bọn sáu người nước Ngô lại.

Cô gái lạnh lùng cười nhạt:

– Sáu người đánh một chắc gì đã thắng nào!

Tay trái khẽ giơ lên, gậy trúc trong tay phải đâm vào mắt một tên Ngô sĩ. Tên này giơ kiếm lên đỡ, nhưng cô gái đã chuyển đầu gậy đâm vào ngực một tên khác. Ngay lúc đó, ba thanh kiếm của ba tên Ngô sĩ cùng hướng vào cô gái đâm tới. Thế nhưng thân pháp cô gái hết sức nhanh nhẹn, chỉ lách nhẹ đã tránh khỏi cả ba mũi kiếm, nghe cách một tiếng, gậy trúc đã đâm trúng cổ tay tên phía bên trái. Tên này năm ngón tay nhũn ra, trường kiếm rơi ngay xuống đất.

Mười sáu người vệ sĩ nước Việt vốn muốn từ ngoài đánh vào, nhưng lúc đó trường kiếm của bọn kiếm sĩ nước Ngô đang vung tít, thành một một mạng lưới kiếm xanh lấp lánh, nên đám vệ sĩ không tài nào tới gần được.

Chỉ thấy cô gái phiêu hốt qua lại trong mạng lưới kiếm đó, tà áo màu xanh nhạt cùng giây lưng phất phới bay, trông hết sức ngoạn mục. Nghe tiếng “ối chà” cùng tiếng “loảng xoảng” liên hồi, trường kiếm bọn kiếm sĩ nước Ngô lần lượt rơi xuống đất, kẻ thì nhảy ra ngoài, kẻ thì lầy tay bưng mặt, kẻ thì lăn ra đường, kẻ nào cũng bị đâm mù một bên, không mắt phải thì mắt trái.

Cô gái thu gậy về đứng nhìn, cất giọng nhí nhảnh:

– Bọn ngươi giết chết con dê của ta, có chịu đền không nào?

Tám tên kiếm sĩ nước Ngô vừa kinh hãi, vừa phẫn nộ, kẻ lớn tiếng gầm gừ, kẻ run lẩy bẩy. Bọn này vốn dĩ là những võ sĩ hết sức dũng mãnh, giá có bị chặt cụt hai chân, hai tay cũng không khiếp sợ. Thế nhưng nay bỗng dưng họ bị một cô gái chăn dê đánh bại, mà lại không hiểu vì sao nên trong kinh hãi đầu óc có phần hoang mang..

Cô gái nói tiếp:

– Các ngươi không đền con dê cho ta, ta đâm mù nốt mắt kia bây giờ.

Tám tên kiếm sĩ nghe vậy, không hẹn mà cùng nhảy lùi một bước. Phạm Lãi kêu lớn:

– Này cô gái, để ta đền cho cô một trăm con dê, cô thả cho bọn họ đi.

Cô gái nhìn Phạm Lãi mỉm cười, nói:

– Ông tốt bụng quá, nhưng tôi không cần đền một trăm con, chỉ một con là đủ rồi.

Phạm Lãi quay lại bọn vệ sĩ:

– Các ngươi hộ tống sứ giả thượng quốc về nhà khách nghỉ ngơi, mời thầy thuốc lại chữa mắt cho họ.

Bọn vệ sĩ tuân lệnh, cử ra tám người, rút kiếm áp tống. Tám tên Ngô sĩ tay không binh khí, chẳng khác gì gà thua độ, cúi đầu, xịu mặt lủi thủi đi về. Phạm Lãi tiến lên mấy bước, hỏi:

– Tôn tính cô nương là gì?

Cô gái hỏi lại:

– Ông hỏi cái gì thế?

Phạm Lãi nói:

– Tên cô là gì?

Cô gái đáp:

– Tên tôi là A Thanh, còn tên ông gọi là gì?

Phạm Lãi mỉm cười, nghĩ thầm:

– Con gái nhà quê, không biết lễ phép, không hiểu sao lại học được kiếm thuật xuất thần nhập hóa như thế. Chỉ cần hỏi xem thầy của cô ta là ai, mời lại dạy cho võ sĩ nước Việt, thì việc phá quân Ngô không khó khăn gì.

Nghĩ tới việc cùng Tây Thi hội ngộ gần kề, bỗng thấy trong lòng hớn hở, trả lời:

– Tên ta là Phạm Lãi. Này cô, mời cô đến nhà ta ăn cơm được không?

A Thanh nói:

– Tôi không đi đâu. Tôi còn phải lùa dê đi ăn cỏ.

Phạm Lãi nói:

– Nhà ta có vườn cỏ tốt lắm, cô cho dê đến ăn, tôi còn đền cho cô thêm mười con dê béo nữa.

A Thanh vỗ tay cười:

– Nhà ông có vườn cỏ rộng ư? Thế thì tốt quá. Nhưng tôi không bắt đền ông, vì có phải ông giết dê của tôi đâu.

Nói xong cô gái ngồi sụp xuống đất, vỗ về con dê bị cắt thành hai mảnh, giọng bùi ngùi:

– Lão Bạch ơi, tội nghiệp mày, người ta giết mày mà tao… không cứu mày sống lại được.

Phạm Lãi sai vệ sĩ:

– Đem hai mảnh con Lão Bạch gói lại, chôn tại bên nhà cô gái, nghe chưa!

A Thanh đứng lên, trên gò má vẫn hai hàng lệ rơi nhưng trong mắt đã hiện nỗi mừng, nói:

– Phạm Lãi, ông… ông không đem Lão Bạch làm thịt ăn đấy chứ?

Phạm Lãi nòi:

– Dĩ nhiên là không rồi. Đây là con Lão Bạch ngoan ngoãn, yêu quí của cô, ai lại ăn thịt nó.

A Thanh thở dài:

– Ông tốt bụng quá. Tôi rất ghét ai đem dê của tôi xẻ ra ăn thịt. Nhưng mà má tôi bảo là không bán dê cho người ta thì mình đâu có tiền mua gạo.

Phạm Lãi nói:

– Thôi từ giờ trở đi, để ta cho người mang gạo, vải tới cho mẹ cô, dê cô nuôi không cần phải bán cho ai nữa.

A Thanh mừng quá, ôm chặt lấy Phạm Lãi, kêu lên:

– Ông tốt bụng quá!

Bọn vệ sĩ thấy cô gái ngây thơ, lại cứ gọi đích danh tên Phạm Lãi, ngay giữa đường ôm chặt lấy ông ta, nực cười quá đều quay đầu ra chỗ khác, nhưng không dám cười thành tiếng.

Phạm Lãi nắm tay cô, tưởng chừng cô là tiên nữ trên trời xuống trần, chỉ thoắt một cái đã có thể biến mất. Hai người đi giữa đàn dê kêu be be, cùng lững thững đi về phủ.

A Thanh lùa dê đi vào phủ đệ Phạm Lãi, kinh hãi kêu lên:

– Nhà ông sao mà lớn thế, một mình ông ở sao cho hết được?

Phạm Lãi mỉm cười:

– Chính là ta thấy nhà rộng quá, nên định mời má cô và cô đến ở luôn, có được không? Trong nhà cô còn ai nữa?

A Thanh đáp:

– Chỉ có má tôi với tôi hai người thôi. Nhưng không biết má tôi có chịu không. Má tôi thường dặn tôi là đừng nói chuyện nhiều với đàn ông. Nhưng ông là người tốt, không định làm hại chúng tôi đâu.

Phạm Lãi bảo A Thanh lùa dê vào vườn hoa, rồi gọi đầy tớ dọn bánh trái, hoa quả điểm tâm ra nhà mát khoản đãi cô gái. Bọn người nhà thấy đàn dê tha hồ ăn mẫu đơn, thược dược, chi lan, hồng… cùng các loại kỳ hoa dị thảo khác mà Phạm Lãi chỉ cười khì khì, đều ngạc nhiên.

A Thanh uống trà, ăn bánh, rất lấy làm thích thú. Phạm Lãi nói chuyện với cô hồi lâu, thấy cô ngôn ngữ ấu trĩ, hoàn toàn chẳng hiểu việc đời, sau cùng mới hỏi:

– A Thanh cô nương, vị sư phụ nào dạy cô kiếm thuật thế?

A Thanh trợn tròn đôi mắt, hỏi lại:

– Kiếm thuật nào? Tôi làm gì có sư phụ.

Phạm Lãi nói:

– Cô chỉ dùng một thanh trúc mà đâm mù mắt tám tên đê tiện, cái đó là kiếm thuật đấy, ai dạy cô vậy?

A Thanh lắc đầu:

– Không ai dạy tôi hết, tôi tự biết đấy thôi.

Phạm Lãi thấy cô thái độ chân thực, không tỏ vẻ gì là dối trá, trong lòng lấy làm lạ: “Không lẽ dị nhân giáng trần thật sao?” nên hỏi tiếp:

– Thế cô từ bé đã biết múa gậy ư?

A Thanh đáp:

– Thực ra thì tôi không biết đâu, năm tôi mười ba tuổi, ông Bạch lại cưỡi dê, tôi không cho ông ấy cưỡi, lấy gậy trúc ngăn lại. Ông ấy cũng lấy một cây gậy đánh tôi, hai bên đánh lẫn nhau. Lúc đầu ông ấy đánh trúng tôi, tôi không đánh được ông ấy. Ngày nào tôi và ông ấy cũng lấy gậy đùa chơi, gần đây tôi đánh trúng được ông Bạch rồi, đánh ông ấy đau lắm mà ông ấy không đánh tôi được. Thành ra hồi này ông ấy không thèm tới đùa với tôi nữa.

Phạm Lãi vừa mừng vừa sợ, nói:

– Ông Bạch ông ấy ở đâu? Cô dẫn ta tới gặp ông Bạch được không nào?

A Thanh nói:

– Ông ấy sống ở trong núi, kiếm không được đâu. Ông ấy lại kiếm tôi được mà tôi không kiếm ra ông ấy.

Phạm Lãi hỏi:

– Thế ta muốn gặp ông ấy thì làm cách nào?

A Thanh ngẫm nghĩ một hồi:

– À, chỉ có cách ông đi chăn dê với tôi, mình cùng đi đến chân núi đợi ông ấy ra. Thế nhưng đâu có biết ông ấy ra lúc nào đâu.

Nói rồi thở dài:

– Đã lâu lắm rồi không thấy ông ấy ra chơi.

Phạm Lãi nghĩ thầm:

– Vì nước Việt, vì Di Quang, theo cô ta đi chăn dê đã làm sao nào! Kiếm thuật của A Thanh, nhất định là do vị ẩn sĩ trong núi Bạch công công này truyền thụ. Có lẽ là ông Bạch thấy cô nhỏ tuổi, thuần phác, nên mới lấy gậy trúc đùa với cô ta. Một cô bé quê mà còn học được kiếm thuật tinh vi đến thế, mời về đạy cho võ sĩ nước Việt, việc phá Ngô ắt phải thành.

Nghĩ vậy, Phạm Lãi bèn nói:

– Tốt lắm, để ta đi theo cô chăn dê, chờ ông Bạch nhé.

Sau khi đãi A Thanh ăn cơm, Phạm Lãi theo cô đến chân núi ở bên ngoài thành để cùng chăn dê. Bộ thuộc, thủ hạ không ai hiểu nguyên nhân, nên lấy làm quái lạ. Luôn mấy ngày, Phạm Lãi tay cầm gậy trúc, cùng A Thanh đến chân núi, hát xướng, chờ ông Bạch ra.

Đến ngày thứ năm, Văn Chủng đến Phạm phủ thăm bạn, thấy người phu khiêng kiệu mặt rầu rầu, mới hỏi:

– Sao lâu nay không thấy Phạm đại phu, khiến cho đại vương khắc khoải, nên sai ta đến thăm. Hay là Phạm đại phu không được khỏe chăng?

Người phu đáp:

– Bẩm Văn đại phu, Phạm đại phu khỏe mạnh bình thường, chỉ có… chỉ có điều…

Văn Chủng hỏi gặng:

– Chỉ sao?

Người phu khiêng kiệu đáp:

– Văn đại phu là bạn thân của Phạm đại phu, bọn chúng tôi là người dưới không dám nói, mong Văn đại phu khuyên bảo giùm.

Văn Chủng càng thêm kỳ quái, hỏi:

– Phạm đại phu có chuyện gì thế?

Người phu đáp:

– Phạm đại phu mê cái… mê cái cô nhà quê biết đánh gậy, ngày nào cũng theo cô ta đi chăn dê, lại không cho vệ sĩ đi theo, tới tối mịt mới về. Tiểu lại có việc muốn gặp cũng chẳng ai dám đến quấy rầy cả.

Văn Chủng cười ha hả, nghĩ thầm:

– Hồi Phạm hiền đệ còn ở tại nước Sở, người ta vẫn gọi là gã Phạm khùng. Y hành sự khác người, người thường không sao hiểu nổi.

Chính lúc đó Phạm Lãi đang ngồi trên bãi cỏ ở triền núi, kể chuyện Tương phi và sơn quỉ nước Sở. A Thanh ngồi bên cạnh chăm chú nghe, cặp mắt đen láy, nhìn không chớp mắt, bỗng nhiên hỏi:

– Bộ Tương phi thực sự đẹp đến thế sao?

Phạm Lãi chậm rãi nói:

– Mắt nàng so với nước suối kia còn trong hơn, còn sáng hơn…

A Thanh lại hỏi:

– Thế trong mắt cô ấy có cá bơi không?

Phạm Lãi vẫn nói tiếp:

– Da nàng so với mây trắng trên trời cao còn mềm mại hơn, ấm áp hơn.

A Thanh hỏi:

– Chẳng lẽ cũng có chim bay trong đó ư?

Phạm Lãi vẫn nói:

– Miệng nàng so với đóa hoa hồng còn mịn màng hơn, diễm lệ hơn. Môi nàng ướt át, so với giọt sương trên cánh hoa còn óng ánh hơn. Tương phi đứng bên bờ nước, bóng nàng in trên sông Tương, hoa mọc ở đây thẹn thùng mà khô héo cả, cá cũng không dám đến bơi trong giòng, sợ sẽ làm rung động tan mất bóng của nàng. Bàn tay trắng muốt khua trong nước, mềm mại đến nỗi tưởng như tan vào giòng sông…

A Thanh hỏi:

– Phạm Lãi, ông đã gặp cô ấy rồi, phải không? Sao ông biết rành rọt thế?

Phạm Lãi thở dài, nói:

– Ta đã gặp, đã ngắm nàng rất là kỹ càng.

Người chàng nói đến là Tây Thi chứ không phải Tương phi. Phạm Lãi quay đầu hướng về phương Bắc, nhìn giòng sông cuồn cuộn, nghĩ đến người con gái mỹ lệ đó đang ở tại thành Cô Tô nước Ngô giờ này ra sao? Đang kề cận bên Ngô vương chăng? Hay đang nghĩ đến ta?

A Thanh lại hỏi:

– Phạm Lãi, râu ông trông kỳ cục quá, cho tôi vuốt một cái được không?

Phạm Lãi nghĩ thầm, không biết nàng lúc này đang cười hay đang khóc. A Thanh lại nói:

– Phạm Lãi, râu của ông có hai sợi trắng, thật là vui, trông giống lông dê của tôi quá.

Phạm Lãi nghĩ tiếp:

– Ngày chia tay, nàng gục đầu vào vai ta mà khóc, nước mắt nàng thấm ướt một bên vạt áo ta. Chiếc áo đó ta không bao giờ giặt, trong nước mắt nàng có lẫn cả nước mắt ta.

A Thanh nói:

– Phạm Lãi, tôi muốn nhổ một sợi râu của ông để nghịch chơi, có được không? Tôi chỉ nhổ khe khẽ thôi, không làm đau ông đâu.

Phạm Lãi nghĩ tiếp:

– Nàng nói rằng nàng thích nhất được ngồi trên thuyền trên sông, trên hồ chầm chậm theo nước mà bơi. Đợi khi nào đoạt được nàng về, chức đại phu ta cũng chẳng màng, chỉ mong được mỗi ngày cùng nàng ngồi trên thuyền, bơi dạo khắp sông hồ.

Bỗng nhiên thấy cằm đau nhói, A Thanh đã nhổ được một sợi râu của chàng. Chỉ thấy A Thanh cười khanh khách, nhưng tiếng cười chưa dứt đã reo lên:

– Ông đến rồi!

Như một làn khói nhấp nháy, A Thanh đã chạy vụt ra. Thế là một bóng xanh, một bóng trắng quấn quít nhanh vô tả, hai bên đã đấu với nhau. Phạm Lãi mừng quá: “Ông Bạch tới rồi!”.

Hai người đấu một lúc, thân pháp chậm lại, chàng không nhịn được phải kêu “A” lên một tiếng. Kẻ đang đấu với A Thanh không phải người mà là một con vượn trắng.

Con vượn cũng cầm trong tay một cây gậy trúc, múa tít đấu với cây gậy trong tay A Thanh. Con vượn đó ra chiêu cực kỳ xảo diệu, kình đạo lợi hại, mỗi lần vung ra có tiếng kêu vù vù. Thế nhưng chiêu nào nó đánh ra A Thanh cũng đỡ được, nàng còn tùy thời mà phản kích lại, tung ra những chiêu lợi hại không kém.

Mấy hôm trước, khi A Thanh đấu với bọn kiếm sĩ nước Ngô trên đường cái, mỗi lần vung gậy ra đều đâm mù mắt một tên, nhưng lần nào ra chiêu cũng như lần nào. Đến bây giờ Phạm Lãi mới thực thấy sự tinh xảo về kiếm thuật của cô gái. Tuy sở học về đánh kiếm của chàng không nhiều, nhưng vì vẫn thường xem các vệ sĩ nước Việt luyện kiếm, kiếm ai hay, kiếm ai dở chỉ liếc mắt là biết ngay. Khi hai bên kiếm sĩ Ngô Việt đấu với nhau, chàng đã hết sức bội phục, nay xem A Thanh đấu với con vượn, tuy chỉ cầm cành tre, nhưng chiêu pháp tinh kỳ, kiếm thuật của bọn kiếm sĩ hai nước Việt Ngô xem như trò trẻ.

Cây trúc trong tay con vượn trắng mỗi lúc một nhanh, A Thanh thỉnh thoảng lại đứng im không động đậy, chỉ lâu lâu lại phóng gậy ra, nhanh như một ánh điện chớp, ép cho con vượn phải lùi lại.

A Thanh đẩy cho bạch viên lùi được ba bước, lại thu gậy đứng nhìn. Con vượn trắng hai tay cầm gậy, nhảy vọt lên cao, dùng hết sức từ trên cao đánh xuống. Phạm Lãi thấy tình hình cực kỳ nguy cấp, sợ quá, kêu lên:

– Coi chừng!

Đã thấy A Thanh vung gậy tạt ra, nghe hai tiếng lách cách, cây gậy của con vượn đã rơi xuống đất.

Con vượn trắng hú lên một tiếng dài, nhảy phắt lên cây, nhún vài cái, đã ra ngoài hơn mười trượng. Chỉ nghe tiếng kêu não nề, mỗi lúc một xa. Trong sơn cốc tiếng vượn hú đáp lại, hồi lâu không dứt.

A Thanh quay đầu lại, thở dài, nói:

– Ông Bạch gãy hai cánh tay rồi, từ nay không còn ra ngoài chơi đùa với tôi được nữa.

Phạm Lãi ú ớ:

– Cô đánh gãy hai cánh tay của y ư?

A Thanh gật đầu:

– Sao hôm nay ông Bạch hung tợn quá, liên tiếp ba lần định xông vào giết ông đó.

Phạm Lãi giật mình:

– Y… y định đâm chết tôi ư? Sao lại thế?

A Thanh lắc đầu:

– Tôi cũng chẳng biết tại sao.

Phạm Lãi thấy rờn rợn trong lòng:

– Nếu không phải A Thanh cản được nó thì con vượn này muốn giết ta thật dễ như trở bàn tay.

Sáng sớm hôm sau, trong phòng luyện kiếm của Việt vương, A Thanh cầm một thanh gậy trúc đứng trước hai chục kiếm sĩ cao thủ hạng nhất nước Việt. Phạm Lãi biết cô ta không biết cách dậy người khác sử kiếm, nên chỉ còn cách để cho kiếm sĩ nước Việt bắt chước kiếm pháp của cô ta.

Thế nhưng không một kiếm sĩ nào đỡ được đến ba chiêu. Mỗi lần A Thanh giơ gậy lên, hoặc là bị đâm trúng cổ tay, rơi kiếm, hoặc trúng chỗ yếu hại lăn quay ra đất.

Hôm thứ hai, ba mươi kiếm sĩ bị cô ta đánh bại. Hôm thứ ba, lại thêm ba mươi võ sĩ bị cô ta dùng thanh gậy trúc đánh què tay, gẫy vai. Đến ngày thứ tư, khi Phạm Lãi yêu cầu cô ta tái đấu với võ sĩ nước Việt thì không còn thấy cô đâu nữa. Tìm đến nhà, chỉ thấy nhà trống không và mươi con dê. Phạm Lãi sai vài trăm bộ thuộc đi khắp trong ngoài thành Cối Kê, khắp hoang sơn, thôn xóm để tìm nhưng không ai thấy tung tích gì của cô ta cả.

Tám mươi kiếm sĩ nước Việt không người nào học được chiêu thức nào của A Thanh, nhưng người nào cũng tận mắt nhìn thấy hình ảnh của thần kiếm. Ai nấy đều biết rằng, quả thực trên thế gian này có loại thần kỳ kiếm pháp đó. Tám mươi người chỉ miễn cưỡng tìm ra được một chút manh mối về thân pháp phiêu phiêu hốt hốt đem truyền thụ lại cho người khác. Chỉ có thế mà kiếm pháp võ sĩ nước Việt đã trở thành vô địch thiên hạ rồi.

Trong khi đó, Phạm Lãi ra lệnh cho Tiết Chúc đốc thúc thợ giỏi, đúc ra hàng nghìn, hàng vạn thanh kiếm tốt.

Ba năm sau, Câu Tiễn hưng binh phạt Ngô, đụng trận tại bờ Ngũ Hồ. Năm nghìn quân Việt cầm kiếm đi trước, quân Ngô chặn lại. Hai bên giao tranh, trường kiếm quân Việt lấp lánh, quân Ngô tan tác. Vua Ngô Phù Sai phải lui về núi Dư Hàng. Việt binh truy kích, quân Ngô không cách nào đương cự với lối đánh kiếm thần tốc của quân Việt. Phù Sai thua trận tự sát. Quân Việt tiến vào kinh thành Cô Tô nước Ngô.

Phạm Lãi tự mình dẫn một ngàn binh cầm kiếm, đi thẳng vào Quán Oa cung của Ngô vương. Đây chính là nơi Tây Thi ở. Chàng dẫn vài tên vệ sĩ, chạy vào cung, gọi:

– Di Quang! Di Quang!

Phạm Lãi chạy tới một hành lang dài, mỗi bước chân vang lại tiếng trong trẻo êm tai, hóa ra dưới chân là lòng đất rỗng. Tây Thi bước chân rất êm, mỗi bước đi uyển chuyển chẳng khác chi tiếng cầm tiếng sắt. Phù Sai làm đường hầm này, chỉ để nghe tiếng chân nàng thay tiếng nhạc.

Ở đầu phía bên kia, vang lại tiếng chân người. Mỗi bước chân tiếng nhạc lại tấu lên, vui mừng như tiếng sắt, trong trẻo như tiếng dao cầm. Một giọng nói nhỏ nhẹ cất lên:

– Thiếu Bá, có phải chàng đấy không?

Phạm Lãi thấy máu trong ngực sôi lên, vội đáp:

– Chính ta đây! Chính ta đây! Ta đến đón nàng đây!

Chàng thấy chính giọng mình cũng xúc động, nghe như giọng ai khác văng vẳng từ đâu đến. Chàng xăm xăm bước tới. Tiếng nhạc trong đường hầm càng dồn dập hơn, một thân hình mềm mại ngả vào lòng chàng.

Đêm xuân êm đềm, mùi hoa thơm từ vườn bay xuyên qua rèm cửa, tỏa đầy Quán Oa cung. Phạm Lãi và Tây Thi hai người tận hưởng những ngày mong nhớ.

Bỗng dưng trong đêm thanh vắng, nghe đâu văng vẳng tiếng dê kêu be be. Phạm Lãi mỉm cười:

– Nàng vẫn không quên phong vị quê hương, trong cung thất mà cũng nuôi dê sao?

Tây Thi cười lắc đầu, chính nàng cũng lạ, sao lại có tiếng dê kêu ở đây. Thế nhưng đang ở bên ý trung nhân, chỉ có tình yêu êm đềm, mọi ý niệm khác đều tan biến trong khoảnh khắc. Nàng chậm rãi đưa tay nắm lấy bàn tay Phạm Lãi. Một luồng máu nóng cùng dâng lên trong huyết quản của hai người.

Đột nhiên trong đêm khuya tĩnh mịch, tiếng một người con gái ở đâu vang lại từ xa:

– Phạm Lãi, ngươi gọi Tây Thi của ngươi ra, ta muốn giết cô ta đi!

Phạm Lãi giật mình nhỏm dậy. Tây Thi thấy tay chàng bỗng dưng lạnh ngắt. Phạm Lãi đã nhận ra đó chính là tiếng của A Thanh. Tiếng kêu của cô vượt qua tường cao chung quanh Quán Oa cung, lọt vào tận đây.

– Phạm Lãi, Phạm Lãi, ta muốn giết Tây Thi của ngươi, chạy không thoát đâu. Ta nhất định sẽ giết cho bằng được Tây Thi.

Phạm Lãi vừa sợ hãi, vừa bàng hoàng:

– Tại sao cô ta lại muốn giết Di Quang? Di Quang từ trước tới nay đã phạm tội lỗi gì với cô ta đâu.

Nhưng chỉ một khoảnh khắc, mọi việc đều rõ ràng:

– Cô ta không phải hoàn toàn chỉ là một cô gái quê, không hiểu chuyện đời. A Thanh đã yêu ta.

Càng thấy bàng hoàng, càng thấy sợ hãi. Phạm Lãi trong đời đã từng gặp nhiều chuyện lớn, quyết đoán những việc hồ nghi, trải qua không biết bao nhiêu gian hiểm. Năm trước tại Cối Kê sơn bị quân Ngô vây hãm, lương thực hết, viện binh không, thế nhưng không hoang mang như lúc này. Tây Thi thấy lòng bàn tay chàng đầy mồ hôi lạnh, lại thấy tay run run.

Nếu như A Thanh muốn giết chính bản thân chàng, Phạm Lãi hẳn không sợ hãi, thế nhưng người nàng muốn giết lại là Tây Thi.

– Phạm Lãi, Phạm Lãi, ta muốn giết Tây Thi của ngươi, chạy không thoát đâu.

Tiếng của A Thanh khi bên đông, khi bên tây, từ ngoài tường thành vọng vào. Phạm Lãi trấn tĩnh lại, nói:

– Để ta đi ra ngoài gặp người này.

Chàng nhẹ buông tay Tây Thi ra, nhanh nhẹn đi ra ngoài cửa cung. Mười tám vệ sĩ lập tức theo sau. Tiếng gọi của A Thanh ai ai đều nghe, thấy nàng đứng ngoài cửa cung kêu tên tục người anh hùng phá Ngô Phạm đại phu, lấy làm lạ lùng.

Phạm Lãi ra đến ngoài cửa cung, ánh trăng sáng giãi đầy mặt đất. Nhìn quanh, không thấy bóng người, lớn tiếng nói:

– A Thanh cô nương, mời cô lại đây, ta có chuyện muốn nói.

Bốn bề tĩnh mịch, không một âm thanh. Phạm Lãi nói tiếp:

– A Thanh cô nương, lâu không gặp, cô có được khỏe không?

Thế nhưng không nghe tiếng trả lời. Phạm Lãi đứng đợi hồi lâu nhưng chẳng thấy A Thanh xuất hiện.

Chàng quay lại dặn nhỏ vệ sĩ, lập tức điều một nghìn tên giáp sĩ, một nghìn kiếm sĩ, chia ra thủ ngự mặt trước, mặt sau Quán Oa cung.

Phạm Lãi về gặp lại Tây Thi, ngồi xuống nắm lấy tay nàng, không nói một câu. Trên đường đi từ cửa cung đến phòng, trong đầu chàng nổi lên bao nhiêu ý niệm:

– Hay là đưa một cung nữ giả làm Di Quang, để cho A Thanh giết? Hay là ta cùng nàng hóa trang thành giáp sĩ nước Việt, trốn khỏi Ngô cung, từ nay ẩn tính mai danh? Hay khi A Thanh đến ta tự sát trước mặt nàng, xin nàng tha mạng cho Di Quang? Hay ta điều hai ngàn cung thủ bảo vệ cửa cung, A Thanh tiến vào, lập tức bắn ra giết nàng ta đi?

Thế nhưng kế nào xem ra cũng có chỗ sơ hở, không vẹn toàn. A Thanh có đại công với nước Việt, lẽ nào lại giết cô ta. Chàng lặng nhìn Tây Thi bỗng nhiên trong lòng nảy sinh một ý niệm ấm áp: “Thôi hai người cùng chết với nhau, thế là tốt hơn cả. Hai người được chết cùng nhau một chỗ, còn gì hơn”.

Thời gian dần dần trôi. Tây Thi thấy tay Phạm Lãi ấm lại. Chàng không còn sợ hãi nữa mà trên khuôn mặt đã nở một nụ cười. Từ ngoài song cửa, ánh mặt trời đã le lói chiếu vào.

Bỗng từ ngoài vang lên những tiếng quát tháo cùng những tiếng loảng xoảng, leng keng kéo dài bất tuyệt, rõ ràng là tiếng binh khí rơi xuống đất. Âm thanh đó từ cung môn tới, tưởng như một con rắn dài, trườn vào thật nhanh. Trong hầm cũng đã nghe tiếng binh khí loảng xoảng rơi. Một ngàn giáp sĩ cùng một ngàn kiếm sĩ cũng không ngăn nổi A Thanh.

Bỗng nghe tiếng A Thanh kêu lên:

– Phạm Lãi, ngươi ở đâu?

Phạm Lãi nhìn Tây Thi rồi lớn tiếng nói:

– A Thanh, ta ở đây.

Tiếng “đây” chưa dứt, đã nghe “binh” một tiếng, cửa phòng mở tung, một bóng xanh bay vụt vào. Chính là A Thanh. Cây gậy trúc trên tay nàng chỉ thẳng vào ngực Tây Thi.

Nàng ngưng lại ngắm dung mạo Tây Thi, sát khí trên mặt dần dần dịu xuống, biến thành nỗi thất vọng, buồn rầu, rồi biến thành nỗi lạ lùng, hâm mộ, sau cùng trở nên cung kính, lẩm bẩm:

– Trong… trong đời này, sao lại có người… có người đẹp đến thế? Phạm Lãi, cô ấy còn đẹp hơn những gì ông mô tả.

Nàng uốn chiếc eo thon, hú lên một tiếng trong trẻo rền vang, vượt cửa sổ ra ngoài. Tiếng hú thoáng đã thật xa, mỗi lúc một nhỏ dần, nhưng dư âm còn vang động chưa dứt.

Mấy chục vệ sĩ vội chạy đến trước cửa. Vệ sĩ trưởng khom lưng thưa:

– Đại phu không sao chứ?

Phạm Lãi xua tay, mọi người lui ra. Chàng cầm tay Tây Thi, nói:

– Chúng mình thay quần áo dân thường, đến Thái Hồ bơi thuyền, không trở lại đây nữa.

Ánh mắt Tây Thi sáng lên, tỏa ra một niềm vui vô bờ bến. Bỗng nhiên, nàng hơi nhíu mày, đưa tay ôm lấy ngực. Đường gậy của A Thanh tuy chưa đánh trúng, nhưng kình lực từ đầu gậy đã khiến nàng bị thương nơi tâm khẩu.

“Tây Thi ôm ngực”, hơn mấy ngàn năm qua, ai ai cũng biết đó là hình ảnh đẹp nhất giữa cõi nhân gian.