Hồi 20: Có muốn nhìn kĩ nữ khỏa thân

Giữa lúc đó, bỗng nhiên bên ngoài có tiếng gọi to:

– Nghi Lâm! Nghi Lâm!

Đúng là tiếng gọi của Định Dật sư thái.

Nghi Lâm giật mình sợ hãi định thưa. Khúc Phi Yên liền thổi tắt ngọn nến trong tay, tay trái quay lại bụm miệng Nghi Lâm rồi nói khẽ vào tai cô:

– Đây là chỗ nào? Tỷ tỷ đừng lên tiếng.

Nghi Lâm nhất thời hốt hoảng lo quýnh cả lên. Cô biết mình đang ở trong kỹ viện, nơi cực kỳ nhơ nhớp, nhưng đã nghe tiếng sư phụ gọi mà không lên tiếng thưa là một việc mà suốt đời cô không bao giờ dám làm.

Lại nghe tiếng Định Dật la to:

– Điền Bá Quang, mau ra đây ta bảo! Ngươi khôn hồn thì thả Nghi Lâm ra ngay!

Điền Bá Quang từ trong phòng phía Tây cười một tràng ha hả rồi mới đáp:

– Vị này là Định Dật sư thái tiền bối ở Bạch Vân am phái Hằng Sơn phải không? Vãn bối vốn muốn ra bái kiến nhưng bên mình đang có mấy giai nhân níu kéo nên không thể thất lễ được. Xin tiền bối miễn thứ cho. Ha ha, ha ha.

Tiếp theo có tiếng phụ nữ cười lên khanh khách, giọng cười rất dâm đãng; chính là những kỹ nữ trong kỹ viện. Có ả còn lên tiếng:

– Hảo tướng công đừng thèm lý luận với mụ đó. Hãy cưng thiếp một chút nào. Hi hi, hi hi.

Mấy ả kỹ nữ càng lúc càng nói những lời dâm đãng. Hiển nhiên là Điền Bá Quang bảo bọn họ chọc tức Định Dật.

Định Dật cả giận quát:

– Điền Bá Quang, ngươi không ra đây thì ta sẽ chặt ngươi làm trăm mảnh.

Điền Bá Quang cười nói:

– Vãn bối không chường mặt ra thì bị tiền bối chặt làm trăm mảnh mà vãn bối có chường mặt ra thì cũng bị chặt làm trăm mảnh. Vậy tốt hơn là không chường mặt ra. Định Dật sư thái, nơi này không phải là nơi người xuất gia bước chân vào, xin tiền bối về đi là tốt hơn. Lệnh cao đồ không có ở đây đâu. Cô ấy là một tiểu sư phụ rất biết giữ thanh quy giới luật, sao lại có thể đến đây được? Tiền bối lão nhân gia lại đến nơi như thế này mà tìm đồ nhi há không phải là kỳ cục lắm sao?

Định Dật sư thái cả giận quát:

– Phóng hỏa, phóng hỏa! Đốt cháy ổ chó này để xem hắn có chịu chường mặt ra hay không?

Điền Bá Quang cười nói:

– Định Dật sư thái, đây là nơi nổi tiếng nhất trong thành Hành Sơn, gọi là Quần Ngọc viện. Tiền bối phóng hỏa đốt nó đi cũng không sao nhưng người ta sẽ rêu rao trên giang hồ rằng Quần Ngọc viện là chốn ăn chơi vui vẻ của tỉ nh Hồ Nam đã bị bà Định Dật sư thái ở Bạch Vân am phái H ằng Sơn đốt trụi. Nhất định có người sẽ thắc mắc: “Định Dật là vị sư thái tuổi cao đức trọng, sao lại đến nơi này? Đệ tử phái Hằng Sơn sao lại đến Quần Ngọc viện?” Cứ như thế, người này một câu, kẻ nọ một câu thì thanh danh của quý phái sẽ bị tổn thương mà chẳng lợi ích gì. Vãn bối xin nói cho tiền bối hay, Vạn lý độc hành Điền Bá Quang này không sợ trời cũng chẳng sợ đất, trên trời dưới đất chỉ sợ có mỗi một mình lệnh cao túc. Hễ thấy cô ta thì vãn bối bỏ trốn còn không kịp, sao còn dám giấu cô ta ở đây làm gì?

Định Dật suy nghĩ thấy những lời hắn nói cũng có lý. Nhưng chính đệ tử về bẩm báo với sư thái là rõ ràng đã thấy Nghi Lâm đi vào kỹ viện này; còn bị Điền Bá Quang đả thương, lẽ nào là không có thật sao? Lão ni giận đến nỗi bóp nát vụn miếng ngói đang cầm trong tay, nhất thời không biết làm thế nào.

Bỗng nhiên trên mái nhà đối diện, có tiếng người lạnh lùng hỏi:

– Điền Bá Quang, Bành Nhân Kỳ đệ tử của ta có phải bị ngươi giết không?

Người này chính là Dư Thương Hải, chưởng môn phái Thanh Thành. Điền Bá Quang nói:

– Thất kính, thất kính! Ngay cả chưởng môn phái Thanh Thành cũng đại giá giáng lâm khiến Quần Ngọc viện thành Hành Sơn từ khi thành lập đến nay mới nổi danh khắp thiên hạ, làm ăn phát đạt, không kịp tiếp khách nữa. Tại hạ có giết một tên tiểu tử kiếm pháp thuộc loại mèo què, có vài chiêu giống như chiêu số của phái Thanh Thành, còn hắn có phải là Bành Nhân Kỳ gì gì đó hay không thì tại hạ hơi đâu mà hỏi.

Bỗng nghe vù một tiếng. Dư Thương Hải đã nhảy vào phòng, tiếp theo là tiếng đao kiếm giao nhau nghe chát chúa giống như pháo liên châu nổ. Trong phòng ngủ, Dư Thương Hải và Điền Bá Quang đang giao đấu với nhau. Định Dật sư thái đứng trên nóc nhà nghe tiếng đao kiếm của hai người giao đấu dữ dội, lòng ngấm ngầm khâm phục: Quả nhiên Điền Bá Quang có bản lĩnh thực sự. Mấy chiêu khoái đao của hắn có thể đối địch ngang hàng với kiếm pháp của chưởng môn phái Thanh Thành.

Bỗng nhiên nghe một tiếng binh, tiếng đao kiếm giao nhau lập tức dừng hẳn.

Nghi Lâm nắm chặt tay Khúc Phi Yên, lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi. Cô không biết Điền Bá Quang và Dư Thương Hải đấu với nhau, rốt cuộc ai thắng ai bại. Đáng lý ra, Điền Bá Quang đã mấy lần bắt nạt cô nên cô muốn hắn bị Dư Thương Hải đánh bại mới phải, nhưng bây giờ cô lại mong Dư Thương Hải bị Điền Bá Quang đánh bại để Dư Thương Hải và sư phụ của cô mau rời khỏi đây cho Lệnh Hồ Xung yên ổn dưỡng thương. Lúc này là thời khắc khẩn cấp cho sự sinh tử, tồn vong của đại ca; nếu Dư Thương Hải xông vào đúng phòng đại ca sẽ làm đại ca kinh hãi khiến vết thương bị chấn động thì có thể chết không chừng.

Lại nghe tiếng của Điền Bá Quang từ xa vọng lại rất to:

– Dư quán chủ, căn phòng này quá nhỏ, chân tay không khai triển được. Chúng ta ra ngoài khoảng đất rộng đại chiến ba bốn trăm hiệp nữa để xem cuối cùng ai lợi hại hơn. Nếu các hạ thắng thì nàng Ngọc Bảo xinh đẹp yêu kiều sẽ được nhường lại cho các hạ; còn giả sử như các hạ thua thì nàng Ngọc Bảo sẽ thuộc về tại hạ.

Dư Thương Hải giận muốn bể ngực. Những lời nói của tên dâm tặc này cho rằng lão và hắn cùng đấu với nhau vì ghen tuông muốn tranh giành một ả kỹ nữ trong Quần Ngọc viện tên là Ngọc Bảo gì gì đó. Vừa rồi đấu nhau ở trong phòng, chỉ chốc lát đã qua lại hơn năm mươi chiêu, đao pháp của Điền Bá Quang rất tinh kỳ, công thủ đều chuẩn mực. Dư Thương Hải tự biết võ công của đối phương thực sự không thua kém mình, nếu có đấu thêm ba bốn trăm chiêu nữa cũng chưa chắc đã nắm được phần thắng.

Bốn bề bỗng nhiên yên lặng. Nghi Lâm dường như nghe được tiếng đập loạn xạ của trái tim mình, cô cúi đầu xuống hỏi khẽ vào tai Khúc Phi Yên:

– Bọn… bọn họ không biết có vào đây không?

Kỳ thực tuy Khúc Phi Yên nhỏ hơn cô mấy tuổi nhưng khi tình hình khẩn cấp như thế này, Nghi Lâm hoàn toàn bị động. Khúc Phi Yên không trả lời, giơ tay bịt miệng Nghi Lâm lại.

Bỗng nghe tiếng Lưu Chính Phong nói:

– Dư quán chủ, Điền Bá Quang đã làm nhiều chuyện ác thì ngày sau tất không được chết dễ dàng đâu; chúng ta muốn thu phục hắn cũng không cần phải vội vàng lúc này. Đây là một kỹ viện ô uế, quán chủ có ý muốn tìm kiếm thì đợi Lưu mỗ bảo người đi tìm. Đại Niên, Vi Nghĩa đi vào trong lục soát cho ta, không để ai chạy thoát.

Hai gã đệ tử của Lưu môn là Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa đồng thanh đáp dạ. Tiếp theo nghe tiếng Định Dật sư thái truyền lệnh bảo các đệ tử bao vây chung quanh kỹ viện.

Nghi Lâm càng lúc càng hoảng sợ. Chỉ nghe bọn đệ tử của Lưu môn hô hoán, lục soát từng phòng một. Lưu Chính Phong và Dư Thương Hải đang đốc thúc, bọn Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa rượt đuổi bọn dắt mối, gái điếm và cả mèo chó; tiếng kêu la nổi lên inh ỏi. Bọn đệ tử phái Thanh Thành đập phá đồ dùng, chén bát, hũ rượu kêu loảng xoảng, bể tung tóe như hoa rơi nước đổ.

Nghe bọn đệ tử Lưu Chính Phong sắp sục sạo đến, Nghi Lâm sợ hãi muốn ngất đi, nghĩ thầm: Sư phụ đến cứu ta, ta lại không thưa, lại cùng với Lệnh Hồ đại ca chung phòng trong kỹ viện cả đêm. Tuy đại ca đang bị trọng thương, nhưng khi bọn đàn ông phái Hành Sơn và phái Thanh Thành xông vào thì ta dẫu có một trăm cái miệng cũng không sao giải thích được. Nếu ta làm liên lụy đến thanh danh của phái Hằng Sơn, ta… ta còn mặt mũi nào gặp lại sư phụ và các vị sư tỷ nữa đây?

Cô đưa tay rút cây kiếm sau lưng toan đâm vào cổ tự tử.

Khúc Phi Yên nghe tiếng rút kiếm ra khỏi vỏ, đã đoán được, liền xoay tay trái lại trong bóng tối chụp lấy tay Nghi Lâm, nói:

– Đừng làm vậy! Tiểu muội và tỷ tỷ xông ra ngoài đi.

Bỗng nghe tiếng sột soạt. Lệnh Hồ Xung từ từ ngồi dậy, nói khẽ:

– Đốt đèn sáng lên!

Khúc Phi Yên nói:

– Để làm gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta bảo ngươi đốt đèn sáng lên!

Giọng nói oai nghiêm. Khúc Phi Yên không dám hỏi nữa, lấy đá đánh cho ra lửa rồi đốt nến lên.

Nến vừa sáng, Nghi Lâm thấy sắc mặt của Lệnh Hồ Xung tái mét như người chết; cô không nhẫn nại được, khẽ kêu lên một tiếng kinh hãi.

Lệnh Hồ Xung chỉ vào cái chăn lớn trên đầu giường của mình rồi nói:

– Lấy chăn khoác… khoác lên người ta.

Nghi Lâm toàn thân run rẩy, cúi người xuống lấy chiếc chăn khoác lên người Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung kéo chiếc chăn ra phía trước để che các vết máu và vết thương ở trước ngực rồi nói:

– Cả hai cô lên giường nằm đi.

Khúc Phi Yên cười hi hi nói:

– Vui quá, vui quá!

Rồi cô kéo Nghi Lâm cùng chui vào chăn.

Lúc này mọi người ở ngoài đều đã thấy ánh sáng trong phòng, hối hả bảo nhau:

– Đến chỗ đó lục soát đi!

Bọn họ kéo ùa đến.

Lệnh Hồ Xung cố gắng lấy sức đóng cửa cài then, rồi quay người đến trước giường, vén màn lên nói:

– Cả hai chui cả vào trong chăn đi.

Nghi Lâm nói:

– Đại ca… đại ca đừng cử động, cẩn thận vết thương.

Lệnh Hồ Xung giơ tay trái đẩy Nghi Lâm chui vào trong chăn, tay phải kéo mái tóc dài của Phi Yên phủ lên trên đầu của cô. Hắn chỉ đẩy và kéo như vậy mà máu từ vết thương lại chảy ra, hai đầu gối mềm nhũn, phải ngồi trên giường.

Lúc này, trước cửa phòng đã có người đập cửa, có người quát:

– Đồ chó má, mở cửa!

Tiếp theo nghe rầm một tiếng, có người đạp tung cửa phòng ra, ba người cùng xông vào. Người đi trước chính là Hồng Nhân Hùng, đệ tử phái Thanh Thành. Gã vừa trông thấy Lệnh Hồ Xung thì vô cùng kinh hãi, quát:

– Lệnh Hồ… là Lệnh Hồ Xung…

Gã nói chưa xong thì vội nhảy lùi hai bước. Hướng Đại Niên và Mễ Vi Nghĩa không hề biết mặt Lệnh Hồ Xung nhưng nghe nói hắn đã bị La Nhân Kiệt giết rồi, bây giờ lại thấy hắn sống nhăn thì tâm thần chấn động, không hẹn mà cùng nhảy lùi về phía sau. Mọi người mở to mắt ra nhìn Lệnh Hồ Xung không chớp.

Lệnh Hồ Xung từ từ đứng lên, nói:

– Các ngươi… đến quá đông…

Hồng Nhân Hùng nói:

– Lệnh Hồ… Lệnh Hồ Xung! Thì ra… thì ra ngươi chưa chết ư?

Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:

– Ta làm sao mà chết dễ dàng như vậy được?

Dư Thương Hải vượt qua mọi người tiến về phía trước nói:

– Ngươi đúng là Lệnh Hồ Xung ư? Hay lắm, hay lắm!

Lệnh Hồ Xung liếc lão một cái nhưng không trả lời.

Dư Thương Hải nói:

– Ngươi vào trong kỹ viện để làm gì?

Lệnh Hồ Xung cười ha hả, nói:

– Đã biết rồi mà còn bày đặt hỏi. Vào kỹ viện không làm việc ấy thì còn làm cái gì nữa?

Dư Thương Hải lạnh lùng hỏi:

– Ta thường nghe môn quy của phái Hoa Sơn rất nghiêm, ngươi là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, là truyền nhân chính tông của Quân tử kiếm Nhạc tiên sinh, sao lại lén lút đến kỹ viện mà chơi bời? Thật là đẹp mặt.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Môn quy của phái Hoa Sơn thế nào là chuyện của phái Hoa Sơn ta, không cần người khác xía vào.

Dư Thương Hải kiến thức sâu rộng, thấy sắc mặt của Lệnh Hồ Xung không còn chút máu, thân người run rẩy, hiển nhiên là người đang bị trọng thương. Phải chăng chuyện này có sự giả dối?

Lão lại nghĩ sang chuyện khác: Tiểu ni cô phái Hằng Sơn nói hắn đã bị La Nhân Kiệt giết, kỳ thực hắn đâu có chết. Rõ ràng là tiểu ni cô đã nói dối để gạt mọi người. Nghe cô ta nói, thì một tiếng Lệnh Hồ đại ca, hai tiếng Lệnh Hồ đại ca, tình cảm lai láng, không chừng bọn chúng nó đã kết tư tình với nhau. Có người trông thấy tiểu ni cô vào trong kỹ viện này, mà sao bây giờ lại chẳng thấy bóng dáng đâu, chắc có lẽ đã bị đem giấu đi rồi. Hừ, Ngũ Nhạc kiếm phái ỷ mình là danh môn chính phái trong võ lâm lại coi thường phái Thanh Thành của ta. Nếu ta lôi được con tiểu ni cô này ra thì không những đã làm nhục hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn mà cả Ngũ Nhạc kiếm phái cũng bị bẽ mặt; khiến cho chúng từ đây không thể khua môi múa mép trên giang hồ được nữa.

Lão đảo mắt nhìn bốn phía, không thấy có người khác ở trong phòng, nghĩ bụng: Xem ra tiểu ni cô này được giấu ở trên giường.

Lão nhìn Hồng Nhân Hùng nói:

– Nhân Hùng, vạch màn ra xem trên giường có cái trò gì không?

Hồng Nhân Hùng đáp:

– Dạ!

Rồi hắn bước lên trước hai bước. Hắn đã từng ăn đòn củ a Lệnh Hồ Xung nên trong tình hình này, hắn không dám nhìn thẳng vào Lệnh Hồ Xung, nhất thời cũng không dám khua chân bước tới trước, Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngươi không muốn sống nữa chắc?

Hồng Nhân Hùng khựng người một chút, nhưng vì có sư phụ yểm trợ phía sau nên hắn không sợ Lệnh Hồ Xung như trước nữa. Soạt một tiếng, hắn rút trường kiếm ra.

Lệnh Hồ Xung nhìn Dư Thương Hải hỏi:

– Lão muốn làm gì ở đây?

Dư Thương Hải nói:

– Một tên nữ đệ tử của phái Hằng Sơn bị mất tích, có người thấy cô ta ở trong kỹ viện này. Chúng ta muốn kiểm tra.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện của Ngũ Nhạc kiếm phái thì việc gì đến phái Thanh Thành của lão mà lão phải nhọc công?

Dư Thương Hải nói:

– Chuyện ngày hôm nay phải kiểm tra cho rõ ràng mới được. Nhân Hùng, động thủ đi!

Hồng Nhân Hùng đáp:

– Dạ!

Nghi Lâm và Khúc Phi Yên ôm lấy nhau núp kín trong chăn, nghe Lệnh Hồ Xung và Dư Thương Hải đối đáp từng câu rất rõ, lòng chỉ biết than khổ, toàn thân run cầm cập. Nghe Hồng Nhân Hùng vén màn ra thì cả hai hồn xiêu phách lạc.

Tấm màn vừa được vén ra, mọi người đều đưa mắt chăm chú nhìn lên giường, chỉ thấy trong cái chăn gấm màu đỏ thêu đôi uyên ương có người nằm, trên gối có làn tóc xanh phủ dài. Cái chăn gấm không ngừng rung động, rõ ràng người ở trong chăn vô cùng sợ hãi.

Dư Thương Hải vừa thấy làn tóc dài ở trên gối thì vô cùng thất vọng. Rõ ràng người trong chăn không phải là tiểu ni cô trọc đầu, thì ra Lệnh Hồ Xung đang ngủ với kỹ nữ!

Lệnh Hồ Xung lạnh lùng nói:

– Dư quán chủ, lão tuy là người xuất gia nhưng nghe nói đạo sĩ của phái Thanh Thành có quyền lấy vợ; vợ già vợ trẻ của lão thật không ít. Lão yêu sắc đẹp như tính mạng của mình, nếu muốn nhìn rõ con gái trong kỹ viện khỏa thân thế nào sao không mau mau mở tung chăn ra mà nhìn cho sướng mắt? Hà tất lão phải lấy cớ tìm kiếm nữ đệ tử của phái Hằng Sơn làm gì?

Dư Thương Hải quát:

– Cái miệng chó của ngươi thật thối tha!

Lão hô lên một tiếng rồi vung chưởng đánh ra. Lệnh Hồ Xung nghiêng mình né tránh chưởng phong của lão, nhưng do đang bị trọng thương nên chuyển động không mau lẹ được. Phát chưởng của Dư Thương Hải rất lợi hại, Lệnh Hồ Xung bị chưởng phong của lão đánh tạt qua người nên đứng không vững nữa, ngã chúi xuống giường. Lệnh Hồ Xung cố sức chống đỡ lại đứng dậy được, miệng phun ra một ngụm máu tươi, người loạng choạng lắc lư, lại phun ra một ngụm máu nữa. Dư Thương Hải muốn ra tay lần nữa, bỗng nhiên nghe ngoài cửa sổ có tiếng người nói to:

– Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm!

Tiếng “mặt” nói chưa dứt, Dư Thương Hải đã xoay chưởng đánh về hướng cánh cửa, thân người cũng vọt theo phát chưởng đến bên ngoài cửa sổ. Ánh sáng trong phòng rọi ra, lão chỉ thấy một gã lưng gù xấu xí đang muốn trèo tường chạy trốn. Dư Thương Hải quát:

– Đứng lại!

Gã lưng gù đó chính là Lâm Bình Chi cải trang. Sau khi ở trong Lưu phủ chàng bị Dư Thương Hải chiếu tướng, nhân lúc Khúc Phi Yên xuất hiện, Dư Thương Hải chỉ lo chú ý đến cô bé này, chàng lập tức len lén rút lui.

Chàng núp ở bên góc tường, nhất thời không có ý định gì hết. Chàng chẳng biết làm sao để có thể cứu được gia gia, má má; trầm ngâm một hồi lâu mới nghĩ bụng: Ta cải trang làm người gù, mọi người trong đại sảnh đều đã thấy cả rồi, lại gặp người của phái Thanh Thành nữa, dễ mất mạng như chơi. Có nên phục hồi lại tướng mạo như cũ?

Chàng nhớ lại vừa rồi bị Dư Thương Hải tóm, toàn thân như mềm nhũn ra, không còn chút sức lực để chống cự. Tại sao trên đời lại có người võ công cao cường như vậy? Lòng chàng đã có ý sợ hãi, ngẩn người ra.

Không biết trải qua bao lâu, bỗng nhiên chàng nghe có người vỗ nhẹ lên vai. Lâm Bình Chi giật mình sợ hãi vội quay người lại. Thì ra đó là một người có cái lưng gù cao, chính là lão Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong. Lão ta cười nói: “Giả làm người gù có gì hay ho đâu? Sao ngươi phải mạo xưng là đồ tử đồ tôn của ta?”

Lâm Bình Chi biết tính khí của lão rất hung bạo, võ công lại cực kỳ cao thâm, nếu không khéo đối đáp thì dễ bị họa sát thân. Nhưng vừa rồ i ở trong đại sảnh, chàng đã lỡ khấu đầu lạy lão, còn nói lão hành hiệp trượng nghĩa, chứ chưa hề làm gì đắc tội với lão. Vậy chỉ nên ăn nói kiểu đó thì chắc lão không nổi giận được. Chàng nói:

– Vãn bối đã từng nghe rất nhiều người nói rằng Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp tiếng thơm lẫy lừng, sẵn lòng cứu giúp người hoạn nạn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Vãn bối vẫn một lòng ngưỡng mộ nên vô tình cải trang dáng dấp giống Mộc đại hiệp, vạn lần xin tiền bối xá tội.

Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:

– Cái gì giúp đỡ người khó khăn, nâng đỡ kẻ khốn cùng. Thật là ăn nói láo toét.

Lão biết rõ Lâm Bình Chi đang nói dóc nhưng những lời nói này nghe rất êm tai, bèn hỏi:

– Ngươi tên là gì? Môn hạ của ai?

Lâm Bình Chi đáp:

– Vãn bối họ Lâm, trong lúc vô ý mạo nhận họ của tiền bối.

Mộc Cao Phong cười nhạt nói:

– Cái gì là trong lúc vô ý? Ngươi chỉ muốn đem tên của gia gia ngươi ra để làm gạt gẫm kẻ khác. Dư Thương Hải là chưởng môn phái Thanh Thành, lão chỉ giơ đầu ngón tay ra thì lập tức ngươi bị toi mạng ngay. Một tiểu tử như ngươi lại dám đụng độ với lão thì thật là to gan.

Lâm Bình Chi vừa nghe đến tên của Dư Thương Hải, máu trong ngực như muốn sôi lên, lớn tiếng nói:

– Vãn bối nếu còn một hơi thở, nhất định sẽ chém chết lão gian tặc này.

Mộc Cao Phong lấy làm lạ hỏi:

– Dư Thương Hải với ngươi có thù oán gì?

Lâm Bình Chi chần chừ rồi nghĩ bụng: “Nếu lấy sức của một mình ta thì khó cứu được gia gia má má, dứt khoát phải bái lão thêm một bái nữa, cầu xin lão ra tay giúp đỡ”.

Chàng lập tức quỳ xuống khấu đầu nói:

– Phụ mẫu của vãn bối đã rơi vào tay gian tặc, khẩn cầu tiền bối trượng nghĩa cứu giúp.

Mộc Cao Phong chau mày lắc đầu lia lịa nói:

– Việc này không có lợi gì. Mộc đà tử trước nay chẳng bao giờ làm việc vô ích. Gia gia ngươi là ai? Cứu lão rồi thì ta được lợi gì?

Đang nói đến đây, bỗng nghe bên cửa có người nói rất nhỏ, ngữ khí thật khẩn cấp:

– Mau bẩm báo sư phụ, trong kỹ viện Quần Ngọc viện, có một người phái Thanh Thành bị người ta giết, lại có người phái Hằng Sơn bị thương trốn về.

Mộc Cao Phong nói khẽ:

– Chuyện của ngươi từ từ hãy nói. Trước mắt đang có chuyện náo nhiệt đáng xem, ngươi muốn mở rộng tầm mắt thì đi theo ta.

Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Đi theo lão thì sẽ có cơ hội cầu xin lão giúp mình, lập tức đáp:

– Dạ dạ, lão tiền bối đi đâu vãn bối sẽ xin đi theo đến đó.

Mộc Cao Phong nói:

– Chúng ta nói lại cái chuyện vừa rồi. Mộc đà tử này bất luận làm chuyện gì phải có lợi thì mới làm. Nếu ngươi lại làm cho gia gia ngươi thêm phiền phức, đừng nói thì tốt hơn.

Lâm Bình Chi ấm ớ vâng dạ. Bỗng nghe Mộc Cao Phong nói:

– Họ đi hết rồi, ngươi đi theo ta.

Chàng cảm thấy cổ tay phải bị lão nắm chặt, tiếp theo thân người bị nhấc bổng lên như không chạm đất, chạy nhanh trên đường phố thành Hành Sơn.

Đến bên ngoài Quần Ngọc viện, Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi núp ở phía sau gốc cây, quan sát động tĩnh của mọi người trong viện. Các tình huống Dư Thương Hải và Điền Bá Quang giao đấu với nhau, bọn Lưu Chính Phong sục sạo tìm kiếm, Lệnh Hồ Xung gắng gượng đứng dậy, cả hai người đều nghe thấy rõ tất cả. Đợi đến lúc Dư Thương Hải muốn đánh Lệnh Hồ Xung, Lâm Bình Chi nhịn không được nữa buột miệng la to tám chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm”.

Lâm Bình Chi vừa kêu lên, tự biết là mình lỗ mãng. Chàng quay người toan tìm chỗ ẩn núp, nào ngờ Dư Thương Hải cực kỳ nhanh nhẹn, la lên một tiếng “Đứng lại!” thì chưởng lực đã theo âm thanh chụp phủ lên toàn thân chàng. Chỉ cần lão thúc đẩy thêm nội lực thì có thể làm chàng nát tan phủ tạng, xương cốt gãy từng đoạn. Nhưng khi lão thấy tướng mạo của chàng thì không phát thêm nội lực nữa, chỉ cười nhạt nói:

– Thì ra là ngươi.

Lão hướng tầm mắt về phía Mộc Cao Phong đứng phía sau Lâm Bình Chi hơn một trượng, nói:

– Mộc đà tử, lão đã mấy lần sai bảo tiểu bối đến làm khó dễ ta là có dụng ý gì?

Mộc Cao Phong cười ha hả, nói:

– Hắn tự nhận là tiểu bối của ta nhưng Mộc đà tử này lại không nhận hắn. Hắn họ Lâm, ta họ Mộc, tiểu tử này với ta có liên hệ gì đâu? Dư quán chủ, Mộc đà tử không phải là sợ lão, chỉ vì không muốn gây oán thù với ai mà làm cái dù che cho một tên tiểu bối vô danh. Nếu làm cái dù che cho hắn thì có lợi ích gì đâu. Ngay đến vàng bạc châu báu có ào ạt đưa tới thì Mộc đà tử cũng phải cân nhắc nặng nhẹ, tính toán xem có đáng làm hay không. Nhưng trước mắt việc mua bán lỗ vốn không có lợi ích gì cả nên ta quyết không làm.

Dư Thương Hải nghe vậy, lòng mừng thầm bèn nói:

– Gã này với Mộc huynh đã không có liên hệ gì, lại còn huênh hoang mạo xưng là đồ tôn. Bần đạo bất tất phải làm khó dễ huynh nữa.

Lão nói xong toan vung chưởng ra, bỗng nghe trong cửa sổ có người nói:

– Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm!

Hồi 21: Tử Hà Công cứu mạng thiếu tiêu đầu

Dư Thương Hải quay đầu lại thấy một người đứng bên cửa sổ. Đó chính là Lệnh Hồ Xung. Dư Thương Hải càng tức giận nhưng tám chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ, cái đồ mặt mâm!” lại chính là câu nói khích bác hoàn toàn đúng. Võ công của hai tên này kém lão rất xa, nếu muốn giết chúng thì chỉ cần giơ tay lên một cái là xong, nhưng bốn chữ “Ỷ lớn hiếp nhỏ” dù thế nào lão cũng không tránh khỏi. Mà đã là “Ỷ lớn hiếp nhỏ” thì bốn chữ sau “cái đồ mặt mâm” ráp vào rất thuận miệng. Nhưng nếu bỏ qua thì nỗi tức giận này làm sao nuốt trôi được? Lão cười khẩy nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện của ngươi sau này ta sẽ tìm sư phụ của ngươi tính sổ.

Lão quay sang Lâm Bình Chi nói:

– Tiểu tử, ngươi là người của môn phái nào?

Lâm Bình Chi cả giận quát:

– Cẩu tặc, ngươi đã hại ta nhà tan cửa nát, bây giờ còn bày đặt hỏi ta ư?

Dư Thương Hải lấy làm lạ hỏi:

– Ta có bao giờ biết một người xấu xí như ngươi đâu? Cái gì mà nhà tan cửa nát, chuyện đó ở đâu ra?

Nhưng ở chỗ này đông người, có nhiều tai mắt, lão không muốn hỏi tiếp, bèn quay qua bảo Hồng Nhân Hùng:

– Nhân Hùng, ngươi giết tiểu tử này trước rồi hãy bắt Lệnh Hồ Xung.

Lão sai đệ tử phái Thanh Thành ra tay thì không ai nói được là “Ỷ lớn hiếp nhỏ”.

Hồng Nhân Hùng đáp dạ rồi rút kiếm xông lên.

Lâm Bình Chi giơ tay định rút thanh kiếm sau lưng, nhưng vừa nhấc tay thì trường kiếm sáng loáng của Hồng Nhân Hùng đã đâm tới trước ngực chàng. Lâm Bình Chi la to:

– Dư Thương Hải, Lâm Bình Chi ta…

Dư Thương Hải giật mình kinh hãi, tay trái vội phóng chưởng, chưởng phong làm thanh kiếm của Hồng Nhân Hùng bị chấn động bay chếch ra ngoài rồi văng đi.

Dư Thương Hải hỏi:

– Ngươi nói sao?

Lâm Bình Chi nói:

– Lâm Bình Chi ta có chết thành ma quỷ thì cũng phải tìm ngươi đòi mạng.

Dư Thương Hải nói:

– Ngươi… ngươi là Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục ư?

Lâm Bình Chi biết mình không còn cách nào giấu mặt được nữa, chàng muốn ngang nhiên nhận lấy cái chết oanh liệt cho thỏa chí. Hai tay chàng xé hết những miếng thuốc dán trên mặt rồi nói to:

– Đúng vậy, ta là Lâm Bình Chi của Phước Oai tiêu cục ở Phúc Châu. Nhi tử của lão chọc ghẹo gái nhà lành là do ta giết đấy. Lão hại ta nhà tan cửa nát; gia gia và má má của ta lão… lão… lão đem giam giữ ở đâu?

Chuyện phái Thanh Thành khiêu chiến với Phước Oai tiêu cục đã lan truyền khắp giang hồ. Chuyện Trường Thanh Tử trước kia thất bại dưới kiếm của Lâm Viễn Đồ, trong võ lâm không ai không biết. Người ta đều nói phái Thanh Thành quyết chí muốn cướp đoạt Tịch tà kiếm phổ nhà họ Lâm. Lệnh Hồ Xung đã nghe qua chuyện này, nên lúc trên Hồi Nhạn lâu mới dụ được La Nhân Kiệt khom người xuống nghe và lượm kiếm đâm chết hắn. Mộc Cao Phong cũng biết được tin này, bây giờ lại nghe gã lưng gù giả này nói là “Lâm Bình Chi ở Phước Oai tiêu cục” khiến Dư Thương Hải vừa nghe gã xưng tên ra đã vội phát chưởng gạt thanh trường kiếm của Hồng Nhân Hùng đi, vẻ mặt lại vô cùng quan tâm. Xem ra Tịch tà kiếm phổ đích xác ở trong tay chàng thanh niên này.

Dư Thương Hải đưa tay trái ra nắm chặt lấy cổ tay phải của Lâm Bình Chi, kéo Lâm Bình Chi qua hướng lão. Mộc Cao Phong quát:

– Khoan đã!

Lão phóng người ra, đưa tay nắm chặt cổ tay trái của Lâm Bình Chi kéo ngược về phía mình. Hai cánh tay của Lâm Bình Chi bị hai lão dùng kình lực mạnh kéo ra hai bên; các khớp xương kêu lên rắc rắc. Chàng đau quá, muốn ngất xỉu.

Dư Thương Hải biết nếu mình tăng thêm kình lực thì Lâm Bình Chi lập tức chết như chơi. Trường kiếm trong tay phải lão giơ lên nhằm Mộc Cao Phong đâm tới rồi quát:

– Mộc huynh buông tay ra!

Tay trái Mộc Cao Phong vung lên, choang một tiếng, gạt trường kiếm ra. Trong tay của lão đã cầm một thanh loan đao sáng.

Dư Thương Hải triển khai kiếm pháp, phát ra những âm thanh veo véo không ngớt, trong khoảnh khắc đã liên tiếp tấn công Mộc Cao Phong bảy tám chiêu. Lão nói:

– Mộc huynh, huynh với ta không thù không oán, hà tất vì tên tiểu tử này mà làm tổn thương hòa khí hai bên?

Tay của Dư Thương Hải vẫn nắm chặt tay phải của Lâm Bình Chi, không chịu buông ra.

Mộc Cao Phong sử loan đao gạt đỡ từng đường kiếm của Dư Thương Hải, miệng nói:

– Vừa rồi ở trước mặt nhiều người, tiểu tử này đã dập đầu lạy ta, gọi ta là “gia gia”, mọi người đều nghe thấy cả. Tại hạ và Dư quán chủ tuy xưa nay chưa có thù oán gì, nhưng Dư quán chủ bắt giết người gọi tại hạ bằng “gia gia” là làm cho tại hạ mất mặt. Làm gia gia mà không thể che chở được cho tôn tử thì sau này còn có ai gọi tại hạ là gia gia nữa?

Hai người vừa nói vừa đánh nhau, tiếng đao kiếm loảng choảng không ngừng, càng lúc càng nhanh.

Dư Thương Hải cả giận nói:

– Mộc huynh, tên này đã giết con của ta, mối thù giết con, sao có thể không trả?

Mộc Cao Phong cười ha hả nói:

– Được, tại hạ nể mặt Dư quán chủ, giúp Dư quán chủ báo thù. Nào, nào, nào! Các hạ kéo hắn về phía trước còn tại hạ lôi hắn về phía sau. Một, hai, ba! Chúng ta cùng xé tiểu tử này ra làm hai mảnh.

Nói xong lão lại hô to:

– Một, hai, ba!

Tiếng “ba” vừa ra khỏi miệng, lão liền gia tăng kình lực, xương cốt toàn thân Lâm Bình Chi kêu lên rắc rắc.

Dư Thương Hải sợ vô cùng. Lão nghĩ rằng để báo thù thì không nên nóng ruột, kiếm phổ còn chưa lấy được, quyết không thể làm tổn thương tính mạng Lâm Bình Chi. Lão lập tức buông tay ra. Lâm Bình Chi bị lôi qua phía Mộc Cao Phong.

Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:

– Đa tạ, đa tạ! Dư quán chủ thật là một hảo bằng hữu, giao tình tốt, nể mặt Mộc đà tử đến nỗi ngay cả mối thù giết con cũng bỏ qua. Trên giang hồ trọng nghĩa như vậy thật hiếm có người thứ hai.

Dư Thương Hải lạnh lùng nói:

– Mộc huynh biết vậy thì tốt rồi. Lần này tại hạ nhường một bước nhưng sau này sẽ không có lần thứ hai đâu.

Mộc Cao Phong cười hà hà nói:

– Cũng chưa chắc đâu. Dư quán chủ nghĩa khí cao tận mây xanh, không chừng lần thứ hai lại có thể nhường nhịn nữa đó.

Dư Thương Hải hừ lên một tiếng, khoát tay nói:

– Chúng ta đi thôi!

Nói xong, lão thống lãnh đệ tử bổn môn lập tức rút lui.

Lúc này Định Dật sư thái vì nóng lòng cứu Nghi Lâm, cùng với quần ni phái Hằng Sơn qua hướng Tây lục lạo tìm kiếm. Lưu Chính Phong thống lãnh bọn đệ tử qua hướng Đông. Bọn phái Thanh Thành đã đi khỏi, bên ngoài Quần Ngọc viện chỉ còn lại Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi.

Mộc Cao Phong cười hi hi nói:

– Ngươi không phải gù lưng mà là một tiểu tử tuấn tú. Tiểu tử, ngươi không cần gọi ta là gia gia nữa. Đà tử này rất mến ngươi, muốn thu nhận ngươi làm đồ đệ, ngươi thấy sao?

Vừa rồi, Lâm Bình Chi bị hai lão dùng nội lực thượng thừa lôi kéo, toàn thân đau đớn vô cùng. Chàng nghe Mộc Cao Phong nói vậy, bèn nghĩ bụng: Võ công của lão gù này cao thâm hơn gia gia mình gấp mười lần, Dư Thương Hải đối với lão cũng có phần kiêng kỵ. Mình muốn báo thù tuyết hận phải bái lão làm sư phụ thì mới có hy vọng. Nhưng lão thấy tên đệ tử phái Thanh Thành đó vung kiếm giết mình mà cứ lờ đi như không thấy gì hết, khi vừa nghe đến lai lịch của mình đã lập tức ra tay tranh đoạt với Dư Thương Hải. Bây giờ lão lại muốn nhận mình làm đệ tử, hiển nhiên không phải là có lòng tốt rồi.

Mộc Cao Phong thấy vẻ mặt chàng do dự, lại nói:

– Võ công, thanh danh của Tái Bắc minh đà ngươi đã biết rồi đó. Cho đến hôm nay, ta chưa từng thu nhận một tên đệ tử nào. Ngươi bái ta làm sư phụ thì sư phụ sẽ đem hết võ công tài nghệ truyền thụ cho ngươi; lúc đó, đừng nói bọn tiểu tử phái Thanh Thành quyết không phải là đối thủ của ngươi mà giả tỷ như ngươi muốn đánh bại Dư Thương Hải nào có khó gì? Tiểu tử, sao lại chẳng khấu đầu bái sư phụ?

Lão nói càng thiết tha bao nhiêu thì Lâm Bình Chi lại càng nghi ngờ bấy nhiêu. Chàng nghĩ: Nếu lão thật sự thương ta tại sao vừa rồi lại nắm chặt tay ta, dùng hết sức mà kéo, không có chút gì thương xót? Ác tặc Dư Thương Hải biết ta là kẻ đại thù sẽ giết lão về sau, mà vẫn không muốn kéo cho ta chết luôn. Rõ ràng bọn chúng vì Tịch tà kiếm phổ gì gì đó. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái có biết bao nhiêu kẻ sĩ chân chính, võ nghệ cao cường. Ta quyết không bái lão gù này làm sư phụ.

Mộc Cao Phong thấy chàng vẫn còn chần chừ thì nỗi bực tức trong lòng bốc lên, nhưng ngoài mặt vẫn cười giả lả, nói:

– Sao? Ngươi chê võ công của đà tử này quá thấp, không đáng làm sư phụ của ngươi sao?

Lâm Bình Chi thấy Mộc Cao Phong trong phút chốc nét mặt xám đen, thần sắc thật là đáng sợ. Nhưng lão chỉ giận lên một chút lại tỏ ra hiền hòa thân thiện ngay. Chàng biết mình đang ở trong hoàn cảnh vô cùng nguy hiểm, nếu không bái lão làm sư phụ, không chừng lão sẽ nổi giận, lập tức giết chết mình. Chàng liền nói:

– Mộc đại hiệp, đại hiệp chịu nhận vãn bối làm đồ đệ, đó là điều mà vãn bối có cầu cũng không được. Chỉ vì vãn bối học võ công gia truyền, nếu như khấu đầu nhận minh sư khác thì phải được gia phụ ưng thuận. Điều đó một là gia pháp, hai là quy củ trong võ lâm.

Mộc Cao Phong gật đầu nói:

– Ngươi nói cũng có lý, nhưng chút võ nghệ của ngươi chỉ để chơi thôi chứ không thể nói là công phu được. Gia gia của ngươi xem ra võ công cũng có giới hạn; lão nhân gia ta hôm nay nhất thời hứng khởi trong lòng, muốn nhận ngươi làm đồ đệ, chứ sau này ta chưa chắc đã có hứng như vậy đâu. Cơ duyên này tự nhiên gặp chớ không phải cầu mà được. Tiểu tử, ta thấy ngươi dường như có vẻ lanh lợi mà sao lại hồ đồ vậy? Thôi ngươi cứ khấu đầu bái sư trước, sau này ta sẽ nói với gia gia ngươi, chắc lão cũng không dám không thuận đâu.

Lâm Bình Chi đáp:

– Mộc đại hiệp, phụ mẫu của vãn bối rơi vào tay phái Thanh Thành, chưa rõ sống chết ra sao. Vãn bối cầu xin Mộc đại hiệp cứu phụ mẫu ra; lúc đó vãn bối sẽ cảm ân báo đáp, Mộc đại hiệp có điều chi dạy bảo thì vãn bối cũng xin tuân theo.

Mộc Cao Phong cả giận nói:

– Cái gì? Ngươi mặc cả với ta à? Tiểu tử, ngươi có cái gì nào, ta còn chưa nhận ngươi làm đồ đệ mà ngươi đã ra yêu sách với ta ư? Có lý nào như vậy, có lý nào như vậy?

Lão chợt nhớ lại Dư Thương Hải trước mặt mọi người còn nhượng bộ, không chịu xé đôi kẻ thù giết con mình, tất nhiên là có mưu đồ trọng đại khác. Dư Thương Hải là một con người như vậy, sao có thể dễ dàng bỏ qua mối thù cho được? Chắc có lẽ lời truyền tụng trên giang hồ không sai. Tịch tà kiếm phổ nhà họ Lâm xác thực là rất quý báu, chỉ cần thu nhận tiểu tử này làm đồ đệ thì bộ võ học bí truyền này sớm muộn gì cũng lọt vào tay ta.

Lão nói:

– Mau dập đầu lạy ba lạy. Khi ngươi đã là đệ tử của ta, Dư Thương Hải bắt phụ mẫu của đệ tử ta thì ta cứ đến mà bắt lão thả người ra, danh chánh ngôn thuận. Ta mà đến, lão dám không thả phụ mẫu ngươi ra ư?

Lâm Bình Chi dốc lòng muốn cứu cha mẹ, chàng nghĩ bụng: Gia gia, má má đang ở trong tay gian tặc, sống một ngày bằng cực nhục cả năm. Nói gì đi nữa cũng phải mau cứu cha mẹ ra. Ta nhất thời chịu khuất phục, bái lão làm sư phụ, chỉ cần lão cứu được gia gia má má thì dù có gặp chuyện tày trời ta cũng cam chịu.

Chàng lập tức quỳ xuống toan dập đầu lạy. Mộc Cao Phong sợ chàng đổi ý, liền đưa tay đặt lên đầu chàng ấn xuống.

Lâm Bình Chi vốn đã muốn cúi đầu bái lạy nhưng bị lão dùng lực đè như vậy thì chàng lại phát sinh ý thức trái ngược, cổ của chàng cứng ngắc, không để cho lão đè xuống tiếp. Mộc Cao Phong cả giận nói:

– Hừ, ngươi không chịu dập đầu lạy sao?

Lão tăng thêm kình lực. Lâm Bình Chi vốn là người tâm cao khí ngạo, làm thiếu tiêu đầu đã quen, bình thường chỉ có người phụng thừa, trước giờ chưa chịu khuất phục ai. Giờ vì nóng lòng muốn cứu phụ mẫu nên chàng quyết ý khấu đầu bái sư nhưng Mộc Cao Phong lại ra chiều ức hiếp, khiến cho bản tính quật cường của chàng nổi lên. Chàng nói lớn:

– Khi nào tiền bối cứu được cha mẹ của vãn bối ra thì vãn bối mới bái tiền bối làm sư phụ. Bây giờ muốn vãn bối khấu đầu thì vạn lần cũng không được.

Mộc Cao Phong nói:

– Vạn lần không được ư? Thử xem, có quả thật là vạn lần không được chăng?

Lão tăng thêm một phần kình lực. Lâm Bình Chi cố sức ngay lưng ra muốn đứng dậy nhưng trên đầu như có tảng đá ngàn cân đè xuống làm sao có thể đứng dậy được? Hai tay chàng chống xuống đất, ra sức cựa quậy. Mộc Cao Phong lại tăng thêm một phần kình lực nữa. Lâm Bình Chi nghe xương cổ của mình kêu lên rắc rắc. Mộc Cao Phong cười ha hả nói:

– Ngươi có chịu lạy hay không? Ta mà tăng thêm một phần kình lực nữa thì cái cổ của ngươi gãy ngay.

Đầu của Lâm Bình Chi bị lão ấn xuống từng tấc, còn cách đất không quá nửa thước. Chàng cố sức la lên:

– Ta không lạy là không lạy!

Mộc Cao Phong nói:

– Để xem ngươi có lạy hay không?

Lão ấn tay xuống, trán của Lâm Bình Chi bị lão đè sát đất thêm hai tấc nữa.

Bỗng nhiên, Lâm Bình Chi cảm thấy trên lưng mình có luồng hơi nóng, một lực đạo ôn hòa truyền vào người chàng khiến áp lực trên đầu chàng nhẹ hẳn đi. Hai tay đang chống dưới đất dùng sức bật mạnh, đứng dậy được.

Chuyện này vượt ra ngoài sự tiên liệu của Lâm Bình Chi, riêng Mộc Cao Phong lại càng kinh hãi. Vừa rồi, một luồng kình lực xông đến tay lão, dường như là Tử hà công của phái Hoa Sơn nổi tiếng trong võ lâm. Nghe nói môn nội công này khó luyện vô cùng, nó mềm mại như mây tím nhưng lại tiềm ẩn một kình lực vô cùng thâm hậu, về sau bao phủ cả trời đất, thế lực cực mạnh không thể ngờ được. Hai chữ Tử hà cũng từ đó mà ra.

Mộc Cao Phong vô cùng kinh ngạc. Lão lại đưa tay rất nhanh đặt lên đầu Lâm Bình Chi; lòng bàn tay vừa đụng đến đỉnh đầu Lâm Bình Chi thì trên đỉnh đầu của chàng xông ra một luồng nội công ôn hòa. Hai luồng kình lực đụng nhau làm cho cánh tay của Mộc Cao Phong phát tê, ngực lão cũng ngấm ngầm đau nhức. Lão lùi ra sau hai bước, cười ha hả rồi nói:

– Nhạc huynh phái Hoa Sơn phải không? Sao lại lén núp bên chân tường đùa giỡn với đà tử?

Ở sau góc tường có tiếng cười to, một thư sinh mặc áo bào màu xanh nhẹ nhàng bước ra; tay phe phẩy cây quạt lông, tinh thần rất thoải mái, cười nói:

– Mộc huynh, nhiều năm không gặp, dáng vẻ vẫn như xưa. Thật đáng mừng!

Mộc Cao Phong thấy người trước mặt quả nhiên là Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn. Trước giờ đối với Nhạc Bất Quần, lão rất úy kỵ. Bây giờ vừa lúc lão ra tay uy hiếp gã tiểu bối võ công bình thường này thì lại giáp mặt Nhạc Bất Quần ra tay cứu hắn. Bất giác lão lúng túng, giả bộ tươi cười, nói:

– Nhạc huynh, huynh càng ngày càng trẻ ra, đà tử thật muốn bái huynh làm sư phụ để học cái thuật Âm dương thái bổ của huynh.

Nhạc Bất Quần “hừ” một tiếng rồi cười nói:

– Đà tử ăn nói càng ngày càng tẻ nhạt, gặp mặt cố nhân không nói chuyện tâm tình mà lại nói những lời vẩn vơ. Tiểu đệ có biết gì về công phu tà môn ấy đâu!

Mộc Cao Phong cười nói:

– Huynh nói là không biết công phu thái bổ, không ai tin đâu. Tại sao huynh đã gần sáu mươi tuổi rồi mà bỗng nhiên phản lão hoàn đồng, xem ra giống như thuộc hàng con cháu của đà tử này vậy?

Lúc Mộc Cao Phong buông tay ra, Lâm Bình Chi liền nhảy lùi mấy bước, nhìn thấy một vị thư sinh có năm chòm râu dài, vẻ mặt như ngọc, đầy vẻ chính khí, lòng chàng ngưỡng mộ vô cùng. Chàng biết vừa rồi người này đã ra tay cứu mình. Nghe Mộc Cao Phong gọi người này là Nhạc huynh phái Hoa Sơn, chàng nghĩ thầm trong bụng: Nhân vật này trông như thần tiên, phải chăng là Nhạc tiên sinh, chưởng môn phái Hoa Sơn? Nhưng nhìn lão lại không quá bốn mươi tuổi, thì xem ra không phải vậy. Gã Lao Đức Nặc kia là đệ tử của lão nhưng lại già hơn lão nhiều.

Khi nghe Mộc Cao Phong khen lão có thuật trụ nhan, chàng mới nghĩ ra: Mình đã từng nghe mẫu thân nói qua, những cao thủ trong võ lâm luyện nội công đến mức tinh thâm thì không những trường thọ bất lão mà còn có thể phản lão hoàn đồng. Vị Nhạc tiên sinh này có lẽ đã luyện được công phu đến mức đó.

Lâm Bình Chi nghĩ đến đây, không kìm được sự khâm phục.

Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:

– Mộc huynh vừa gặp mặt đã chẳng có lời nào hay ho. Mộc huynh, chàng thiếu niên này là một hiếu tử, lại đầy lòng hiệp nghĩa, tất có ngày thành danh, chẳng trách Mộc huynh yêu thích hắn. Ngày nay, hắn gặp nhiều hoạn nạn cũng chỉ vì ngày trước ở Phúc Châu đã trượng nghĩa cứu giúp tiểu nữ Linh nhi mà ra. Tiểu đệ không thể không ra tay giúp hắn, mong Mộc huynh hãy nể mặt tiểu đệ mà nương tay cho hắn.

Mộc Cao Phong lộ vẻ kinh ngạc nói:

– Cái gì? Tiểu tử này bản lĩnh có chút xíu như vậy mà có thể cứu được Linh nhi điệt nữ ư? Những l ời này phải nói ngược lại mới đúng, Linh nhi điệt nữ có con mắt tinh đời như nam tử…

Nhạc Bất Quần biết lão gù này ăn nói thô tục, để lão nói tiếp nữa thì chẳng có lời hay ho nào nên chặn họng lão lại, bèn nói:

– Đồng đạo trên giang hồ gặp lúc nguy nan, ai cũng nên ra tay tương trợ, dù thịt nát xương tan cũng là cứu mà một lời nói đỡ cũng là cứu, không màng đến võ công cao hay thấp. Mộc huynh, nếu huynh quyết ý nhận hắn làm đồ đệ thì nên để cho thiếu niên này bẩm lại phụ mẫu rõ, rồi đến quy đầu làm môn hạ của quý phái, há không vẹn toàn cho cả hai bên sao?

Mộc Cao Phong thấy Nhạc Bất Quần đã nhúng tay vào thì chuyện hôm nay khó đạt như ý nguyện bèn lắc đầu nói:

– Đà tử nhất thời hứng khởi muốn nhận hắn làm đồ đệ, bây giờ thì đã mất hứng rồi. Tiểu tử này có dập đầu lạy một vạn cái thì tiểu đệ cũng không nhận nữa đâu.

Lão nói xong liền phóng chân trái đá bốp một cái, Lâm Bình Chi lộn nhào văng ra mấy trượng. Chuyện này vượt ra ngoài sự phỏng đoán của Nhạc Bất Quần, lão hoàn toàn không ngờ Mộc Cao Phong nhấc chân lên là đá, lại không có một chút dấu hiệu báo trước nên không kịp ra tay cản trở.

Lâm Bình Chi ngã nhào về phía sau rồi lập tức đứng dậy, dường như chưa bị thương tích gì.

Nhạc Bất Quần nói:

– Mộc huynh sao lại cư xử như bọn trẻ con? Tiểu đệ phải nói huynh là phản lão hoàn đồng mới đúng.

Mộc Cao Phong cười nói:

– Nhạc huynh yên tâm, đà tử này có to gan đến đâu cũng không dám đắc tội với vị… vị… của huynh… ha ha… Tiểu đệ cũng không biết vị này là cái gì của Nhạc huynh. Tạm biệt, tạm biệt, thật không ngờ uy danh lừng lẫy như phái Hoa Sơn mà vẫn còn thèm khát Tịch tà kiếm phổ.

Lão vừa nói vừa vung tay thoái lui.

Nhạc Bất Quần tiến lên, lớn tiếng nói:

– Mộc huynh, huynh nói cái gì vậy?

Gương mặt lão hiện lên sắc tía, nhưng chỉ trong khoảnh khắc những sắc tía vừa xuất hiện lại tàn đi ngay, sắc mặt trở lại như cũ.

Mộc Cao Phong thấy mặt lão đầy sắc tía, lòng không khỏi hồi hộp, nghĩ bụng: Quả nhiên là Tử hà công của phái Hoa Sơn rồi. Kiếm pháp của Nhạc Bất Quần đã cao minh, lại luyện được môn nội công thần kỳ này, đà tử ta không thể đắc tội với lão được.

Lão lập tức cười hi hi nói:

– Tiểu đệ không biết Tịch tà kiếm phổ là cái thứ gì, chỉ thấy lão Dư Thương Hải phái Thanh Thành bất chấp tính mệnh mà tìm mọi cách để chiếm đoạt nên thuận miệng nói càn vài câu. Nhạc huynh bất tất để bụng làm chi.

Lão nói xong liền xoay người vọt đi.

Nhạc Bất Quần nhìn theo Mộc Cao Phong cho đến lúc bóng y mất hút. Lão thở dài, lẩm bẩm:

– Trong võ lâm, những người có công phu như hắn rất là hiếm thấy. Vậy mà y cam tâm làm thứ…

Lão nén lại hai chữ “hạ lưu” không nói ra rồi lại lắc đầu thở dài.

Bỗng nhiên Lâm Bình Chi chạy đến, quỳ hai gối xuống đất, dập đầu lia lịa, nói:

– Kính xin sư phụ thu nhận vào môn tường. Đệ tử nguyện tuân theo lời giáo huấn, nghiêm giữ môn quy, quyết không dám có một chút phản bội sư mệnh.

Nhạc Bất Quần mỉm cười nói:

– Nếu ta thâu nhận ngươi làm đồ đệ thì khó tránh khỏi bị Mộc đà tử nói lén sau lưng rằng ta cướp đoạt đồ đệ của lão.

Lâm Bình Chi khấu đầu nói:

– Đệ tử vừa thấy sư phụ lòng đã vô cùng ngưỡng mộ. Đệ tử thành tâm thành ý cầu khẩn.

Chàng nói xong, lại dập đầu liên tục.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Được rồi. Ta thu nhận ngươi làm đệ tử thì không khó; có điều ngươi chưa bẩm rõ với phụ mẫu, không biết hai vị có bằng lòng hay không.

Lâm Bình Chi nói:

– Nếu được ân sư thu nạp đệ tử vào môn tường thì gia phụ, gia mẫu sẽ rất vui mừng, quyết không có lý do gì mà không đồng ý. Gia phụ, gia mẫu đang bị bọn ác tặc Thanh Thành giam cầm, xin sư phụ ra tay cứu giúp.

Nhạc Bất Quần gật đầu nói:

– Đứng lên đi! Được, chúng ta đi tìm song thân của ngươi ngay.

Lão quay đầu lại gọi:

– Đức Nặc, A Phát, San nhi! Tất cả ra đây!

Từ sau góc tường, một đám đông đi ra, chính là bọn đệ tử của phái Hoa Sơn. Thì ra những người này đã đến đây từ lâu rồi; Nhạc Bất Quần bảo họ núp ở sau cho đến lúc Mộc Cao Phong bỏ đi mới xuất hiện để Mộc Cao Phong khỏi cảm thấy bẽ bàng khi gặp quá nhiều người. Bọn Lao Đức Nặc hớn hở chúc tụng:

– Chúc mừng sư phụ thu nhận thêm đệ tử.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Bình Chi, đây là những sư ca mà ngươi đã gặp trong quán trà nhỏ rồi. Ngươi hãy làm lễ ra mắt các vị sư ca đi.

Lão già là nhị sư huynh Lao Đức Nặc; hán tử tướng mạo cao lớn là tam sư huynh Lương Phát; gã ăn mặc như phu khuân vác là tứ sư huynh Thi Đới Tử; gã lúc nào cũng cầm bàn tính là ngũ sư huynh Cao Căn Minh. Còn lục sư huynh Lục Đại Hữu là nhân vật đặc biệt, ai thấy một lần cũng sẽ khó quên. Ngoài ra, còn có thất sư huynh Đào Điếu, bát sư huynh Anh Bạch La là hai đệ tử còn rất trẻ. Lâm Bình Chi lần lượt đến bái kiến mọi người. Bỗng nhiên sau lưng Nhạc Bất Quần vang lên một tràng cười trong trẻo:

– Gia gia, hài nhi là sư tỷ hay là sư muội của y?

Lâm Bình Chi ngây người ra, nhận ra đó là tiếng nói của thiếu nữ bán rượu ở thành Phúc Châu mà các môn hạ phái Hoa Sơn đều gọi cô ta là “tiểu sư muội”. Thì ra cô ta là con gái của sư phụ. Chỉ thấy phía sau áo bào xanh của Nhạc Bất Qu ần ló ra nửa khuôn mặt trái xoan trắng như tuyết; con mắt bên trái đen tròn lúng liếng nhìn chàng từ đầu đến chân rồi lại ẩn vào phía sau lưng Nhạc Bất Quần. Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Thiếu nữ bán rượu dung nhan thật xấu xí, mặt đầy vết sẹo đậu mùa, tại sao lại trở thành xinh đẹp như vậy? Cô ta ló đầu ra rồi lại thụt vào, trời lại còn tối, trăng sáng mờ mờ nên không cách nào nhìn rõ được. Nhưng thiếu nữ này dung nhan xinh đẹp là điều không thể nghi ngờ gì nữa.

Chàng lại nghĩ: Cô ta nói là cô ta cải trang đến ngoại thành Phúc Châu bán rượu; Định Dật sư thái lại nói cô ta cải trang thành một người xấu xí. Vậy thì cái bộ dạng xấu xí đó là do cô ta cố ý cải trang mà ra.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Các vị sư huynh nhập môn sau hài nhi đều gọi hài nhi là tiểu sư muội. Số phận làm sư muội của hài nhi đã được định rồi, vậy thì tất nhiên hài nhi cũng là tiểu sư muội thôi.

Thiếu nữ cười nói:

– Hài nhi không chịu đâu. Từ nay về sau, hài nhi phải làm sư tỷ. Gia gia, Lâm sư đệ phải gọi hài nhi là “sư tỷ”; sau này gia gia có thâu nhận thêm một hay hai trăm đệ tử nữa cũng đều phải gọi hài nhi là sư tỷ hết.

Cô vừa nói vừa cười, từ sau lưng Nhạc Bất Quần đi ra. Dưới ánh trăng mờ ảo, Lâm Bình Chi thấy thấp thoáng khuôn mặt vô cùng khả ái, đôi mắt đen láy nhìn đăm đăm vào mặt chàng. Lâm Bình Chi xá dài rồi nói:

– Nhạc sư tỷ, tiểu đệ hôm nay được ân sư mở lòng thâu nhận làm môn hạ. Người nào vào môn hạ trước là lớn, tiểu đệ tất nhiên là sư đệ của sư tỷ rồi.

Nhạc Linh San vui mừng quay người lại phụ thân nói:

– Gia gia, y tự nguyện gọi hài nhi là sư tỷ chứ không phải do hài nhi ép buộc đâu.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Người ta mới nhập môn mà hài nhi lại nói đến hai chữ “ép buộc”. Nếu người nào trong môn hạ ta đều giống như hài nhi, ỷ lớn hiếp nhỏ, há không làm cho y sợ sao?

Nghe lão nói vậy, bọn đệ tử cùng cười rần lên. Nhạc Linh San nói:

– Gia gia, đại sư ca ẩn vào nơi này để dưỡng thương lại bị lão đạo sĩ thối tha Dư Thương Hải đánh cho một chưởng e rằng vô cùng nguy hiểm. Chúng ta mau đi xem đại ca ra sao.

Nhạc Bất Quần chau mày, lắc đầu nói:

– Căn Minh, Đới Tử! Hai ngươi đi khiêng đại sư ca ra đây.

Cao Căn Minh và Thi Đới Tử cùng đồng thanh dạ một tiếng rồi nhảy qua cửa sổ vào phòng. Lát sau cả hai gã đều nói:

– Sư phụ, đại sư ca không có ở đây, phòng trống trơn.

Tiếp theo, ánh sáng xuyên qua cửa sổ. Hai người đã đốt đèn lên. Nhạc Bất Quần cau tít cặp chân mày. Lão không muốn bước vào kỹ viện là nơi ô uế bẩn thỉu, bèn bảo Lao Đức Nặc:

– Ngươi vào trong xem sao.

Lao Đức Nặc đáp:

– Dạ!

Rồi nhảy vào cửa sổ.

Nhạc Linh San nói:

– Hài nhi cũng đi xem sao.

Nhạc Bất Quần xoay tay nắm chặt cổ tay Nhạc Linh San, nói:

– Đừng quấy rầy! Hài nhi không được phép vào những nơi như thế này.

Nhạc Linh San sốt ruột đến muốn khóc, nói:

– Nhưng… nhưng đại ca đang bị trọng thương… e rằng tính mạng của đại ca nguy hiểm.

Nhạc Bất Quần nói nhỏ:

– Đừng đau lòng. Hắn đã được bôi Thiên hương đoạn tục giao của phái Hằng Sơn, không chết đâu mà lo.

Nhạc Linh San vừa sợ hãi vừa vui mừng, hỏi:

– Gia gia! Gia gia làm sao mà biết được?

Nhạc Bất Quần nói:

– Nói nhỏ thôi, đừng có nhiều lời.

Lệnh Hồ Xung đã bị trọng thương, lại bị thêm một chưởng của Dư Thương Hải khiến vết thương càng thêm đau đớn. Hắn hộc ra hai ngụm máu, nhưng thần trí vẫn còn tỉnh táo. Hắn nghe Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải giao đấu với nhau, rồi khi mọi người ra đi, lại biết được có sư phụ tới. Lệnh Hồ Xung không sợ trời không sợ đất, chỉ sợ có sư phụ thôi. Hắn nghe tiếng Mộc Cao Phong và sư phụ đối đáp với nhau, liền nghĩ: Mình đã gây thù oán với nhiều người, không biết sư phụ sẽ trách phạt ra sao.

Nhất thời quên đi vết thương đang đau nhức, hắn quay người về phía giường nói khẽ:

– Đại họa rồi! Sư phụ ta đến, chúng ta phải trốn cho mau.

Hồi 22: Dạ ngọc không dưng nổi sóng lòng

Lệnh Hồ Xung nói xong lập tức vịn tường đi ra khỏi phòng.

Khúc Phi Yên kéo Nghi Lâm từ từ chui ra khỏi chăn đi theo Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung lảo đảo, hai người vội chạy lại đỡ. Lệnh Hồ Xung cắn chặt răng, đi xuyên qua dãy hành lang, thầm nghĩ tai mắt của sư phụ rất linh mẫn, chỉ cần đi ra thì lập tức sư phụ phát giác ngay.

Hắn thấy bên mé phải có một gian phòng lớn, lập tức lẻn vào rồi nói:

– Đóng… đóng cửa sổ lại.

Khúc Phi Yên nghe lời đi đóng cửa sổ. Lệnh Hồ Xung không gắng gượng được nữa liền ngã người lên giường, thở dồn dập.

Cả ba người im thin thít. Một lúc sau, mới nghe giọng nói của Nhạc Bất Quần từ xa:

– Hắn không có ở đây, chúng ta đi thôi.

Lệnh Hồ Xung thở phào nhẹ nhõm, lòng cảm thấy yên ổn.

Lại qua một lúc nữa, bỗng nghe có tiếng bước chân người từ trong sân đi tới, gọi khẽ:

– Đại sư ca, đại sư ca!

Đó là Lục Đại Hữu. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Xét cho cùng, chỉ có Lục hầu nhi là tốt với ta nhất.

Lệnh Hồ Xung muốn lên tiếng đáp lại, chợt thấy tấm màn trên giường rung động. Thì ra Nghi Lâm nghe tiếng có người gọi tìm, sợ hãi run lên. Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta lên tiếng trả lời thì sẽ làm liên lụy đến thanh danh của vị tiểu sư muội này.

Nghĩ vậy, hắn không lên tiếng, lắng tai nghe Lục Đại Hữu đi ngang qua cửa sổ, vừa đi vừa gọi khẽ: “Đại sư ca, đại sư ca”. Tiếng gọi xa dần, xa dần rồi không còn nghe thấy nữa.

Khúc Phi Yên bỗng nói:

– Chao ôi, Lệnh Hồ Xung đại ca chết chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Ta làm sao có thể chết được? Nếu ta chết thì sẽ làm tổn thương danh dự của phái Hằng Sơn, rất có lỗi với họ.

Khúc Phi Yên lấy làm lạ hỏi:

– Tại sao vậy?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Linh dược trị thương của phái Hằng Sơn ta đã được trong uống ngoài thoa. Nếu trị không hết, Lệnh Hồ Xung này vô cùng có lỗi… có lỗi với vị sư muội của phái Hằng Sơn.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Đúng vậy, nếu đại ca mà chết đi thì quá tội lỗi với người ta đấy.

Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung bị thương nặng như vậy mà còn nói đùa được, cô khâm phục sự gan dạ của hắn và cũng an tâm hơn một chút. Cô nói:

– Lệnh Hồ đại ca, lão Dư quán chủ lại đánh đại ca một chưởng. Để tiểu muội xem lại vết thương của đại ca ra sao.

Lệnh Hồ Xung chống tay muốn ngồi dậy. Khúc Phi Yên nói:

– Không cần khách khí, đại ca cứ nằm đi.

Lệnh Hồ Xung hoàn toàn kiệt sức, có muốn ngồi dậy cũng không nổi, đành phải nằm dài trên giường.

Khúc Phi Yên thắp ngọn nến lên. Nghi Lâm thấy áo của Lệnh Hồ Xung đầy máu. Không kiêng kỵ gì nữa, cô nhẹ cởi trường bào của Lệnh Hồ Xung ra, lấy chậu rửa mặt và khăn tay treo trên giá giặt cho sạch sẽ rồi lau chùi vết máu trên người của Lệnh Hồ Xung. Cô lấy Thiên hương đoạn tục giao trong người ra bôi hết lên vết thương. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Linh dược quý báu này đem dùng một cách lãng phí cho tại hạ, thật là đáng tiếc.

Nghi Lâm nói:

– Lệnh Hồ đại ca vì tiểu muội mới bị trọng thương như vậy, đừng nói dược vật nhỏ nhoi này, mà cả… mà cả…

Cô nói đến đây thì cảm thấy khó nói hết được, ấp úng một lúc rồi nói tiếp:

– Ngay cả sư phụ của tiểu muội cũng khen đại ca là thiếu niên anh hùng, có nghĩa khí, dũng cảm cho nên sư phụ mới sinh sự với Dư quán chủ.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tại hạ không muốn được khen ngợi, chỉ mong sư thái lão nhân gia tha thứ, không trách mắng tại hạ thì đã cám ơn trời đất lắm rồi.

Nghi Lâm nói:

– Sư phụ của tiểu muội sao… sao lại trách mắng đại ca được. Đại ca nên tịnh dưỡng mười hai canh giờ, vết thương không bị chấn động thì không có gì đáng lo nữa.

Cô lại lấy ra ba viên Bạch vân hùng đảm hoàn đưa cho Lệnh Hồ Xung uống. Khúc Phi Yên bỗng nhiên nói:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ ở đây chăm sóc đại ca, đề phòng có người xấu đến hãm hại. Gia gia đang đợi tiểu muội, tiểu muội phải đi đây.

Nghi Lâm vội nói:

– Đừng, đừng! Tiểu muội đừng đi. Một mình ta ở đây làm sao được?

Khúc Phi Yên cười nói:

– Lệnh Hồ Xung không phải đang ở đây sao? Đâu phải chỉ một mình tỷ tỷ.

Cô nói xong liền quay người đi ngay. Nghi Lâm hốt hoảng nhảy lên phía trước, chụp tay trái Khúc Phi Yên lại. Cô sử cầm nã thủ của phái Hằng Sơn, nắm chặt tay Khúc Phi Yên rồi nói:

– Tiểu muội đừng đi!

Khúc Phi Yên cười nói:

– Chao ôi! Tỷ tỷ muốn động võ ư?

Nghi Lâm đỏ mặt, buông tay ra rồi năn nỉ:

– Hảo tiểu muội, tiểu muội ở lại đây với ta đi.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Được rồi, được rồi. Tiểu muội ở lại đây với tỷ tỷ được chưa. Lệnh Hồ Xung đâu phải là người xấu, tỷ tỷ làm sao sợ đại ca đến như vậy?

Nghi Lâm an tâm một chút nói:

– Xin lỗi Khúc muội muội. Ta chụp tiểu muội có đau không?

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu muội đâu có đau, nhưng Lệnh Hồ Xung thì đau lắm đó.

Nghi Lâm nghe vậy kinh hãi, chạy đến mở màn ra xem, thấy hai mắt Lệnh Hồ Xung nhắm lại, đã ngủ từ lúc nào. Cô đưa tay lên mũi Lệnh Hồ Xung, cảm thấy hơi thở đều đặn, nên rất yên tâm.

Bỗng nghe Khúc Phi Yên cười khanh khách rồi có tiếng cửa sổ mở. Nghi Lâm vội quay người lại thì Khúc Phi Yên đã phóng qua cửa sổ đi rồi.

Nghi Lâm vô cùng kinh hãi, nhất thời không biết làm thế nào, bèn chạy đến trước giường gọi:

– Lệnh Hồ đại ca! Lệnh Hồ đại ca! Cô ấy… cô ấy đi rồi.

Nhưng lúc này dược lực đang phát tác, Lệnh Hồ Xung hôn mê ngủ li bì, không trả lời được. Toàn thân Nghi Lâm run cầm cập, sợ hãi khôn xiết. Một hồi lâu, cô mới đi đóng cửa sổ lại, nghĩ bụng: Đại ca bị trọng thương nguy hiểm như vậy, bây giờ chỉ một đứa nhỏ cũng có thể giết chết đại ca. Tại sao ta không ở lại chăm sóc đại ca mà định bỏ đi?

Trong đêm tối, chỉ nghe tiếng chó sủa từ những ngõ hẻm xa xa vọng lại, rồi tất cả lại chìm trong tĩnh mịch. Mọi người trong kỹ viện đã trốn hết rồi. Cô tưởng chừng như trên thế gian này, ngoài Lệnh Hồ Xung đang ngủ trong màn ra thì không còn người nào khác nữa.

Nghi Lâm ngồi trên ghế không dám nhúc nhích, một lúc lâu sau nghe tiếng gà gáy vang lên bốn phía. Trời sắp sáng, Nghi Lâm lại sốt ruột, thầm nghĩ: Trời sáng rồi sẽ có người đến, ta biết làm sao đây?

Cô xuất gia từ thuở nhỏ, tất cả mọi việc đều do Định Dật sư thái lo liệu hết nên cô không có một chút kinh nghiệm ứng biến. Bây giờ, ngoài sự sốt ruột ra, cô không nghĩ được cách nào khác. Trong cơn hoảng loạn, cô bỗng nghe có tiếng bước chân người đi qua đường hẻm. Tiếng bước chân nghe rất rõ vì bốn bề rất yên ắng, tĩnh mịch. Mấy người này đi đến trước cửa Quần Ngọc viện thì dừng lại.

Một người nói:

– Hai người tìm kiếm phía Đông, ta và hai người tìm kiếm phía Tây. Nếu thấy Lệnh Hồ Xung thì bắt sống hắn; hắn bị trọng thương không chống cự nổi bọn ta đâu.

Lúc đầu, Nghi Lâm nghe có tiếng người đến đã vô cùng hoảng sợ, giờ lại nghe hắn nói đến chuyện bắt Lệnh Hồ Xung, lập tức cô nảy ra ý nghĩ: Bằng mọi cách ta phải bảo vệ Lệnh Hồ đại ca chu toàn, quyết không để đại ca rơi vào tay bọn bất lương này.

Quyết định chủ ý rồi, nỗi sợ hãi của cô vụt tan biến, đầu óc cô hoàn toàn tỉnh táo. Cô chạy đến bên giường, kéo cái chăn đơn quấn lấy Lệnh Hồ Xung rồi ôm xốc lên, thổi tắt ngọn nến, nhè nhẹ mở cửa phòng trốn ra ngoài.

Cô không cần phân biệt phương hướng, cứ chạy ngược hướng với nơi phát ra tiếng người. Trong khoảnh khắc, cô đã vượt qua vườn rau đến cửa sau. Cánh cửa khép hờ, thì ra mọi người trong Quần Ngọc viện hốt hoảng chạy đi, mở cửa sau rồi quên không đóng lại. Cô ôm ngang Lệnh Hồ Xung chạy ra khỏi cửa, chạy hết đường hẻm thì đến bên tường thành. Nghi Lâm nghĩ thầm: Ta phải ra khỏi thành vì trong thành Hành Sơn này, Lệnh Hồ đại ca có rất nhiều kẻ thù.

Cô men theo tường thành chạy thật nhanh, đến cửa thành liền vội chạy ra ngoài.

Nghi Lâm chạy một mạch bảy tám dặm rồi rẽ vào một vùng hoang sơn cho đến khi không còn đường đi nữa thì đã đến trước một sơn động. Lòng an định lại, cô cúi xuống nhìn Lệnh Hồ Xung thì thấy Lệnh Hồ Xung đã tỉnh, mặt hắn lộ vẻ tươi cười đang nhìn mình đăm đăm. Thấy vẻ mặt tươi cười của Lệnh Hồ Xung, lòng cô đột nhiên hoang mang, hai tay phát run lên, sẩy tay đánh rơi Lệnh Hồ Xung xuống. Cô kêu lên “chao ôi!” một tiếng rồi vội sử chiêu Kính phụng bảo kinh cúi mình xuống đưa tay nâng Lệnh Hồ Xung lên.

Cô sử chiêu thức này rất nhanh, không để Lệnh Hồ Xung rơi xuống đất. Nhưng hạ bàn cô không vững, người loạng choạng, liền chạy về phía trước mấy bước rồi mới đứng lại được. Cô nói:

– Xin lỗi đại ca, vết thương đại ca có đau không?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp:

– Không đau! Tiểu sư muội nghỉ một chút đi!

Vừa rồi Nghi Lâm vì phải chạy trốn sự truy nã của bọn đệ tử phái Thanh Thành, tâm ý của cô chỉ nghĩ làm sao cho Lệnh Hồ Xung thoát nạn, không lọt vào bàn tay độc ác của đối phương nên cô hoàn toàn không thấy mệt nhọc. Giờ cô đã định thần, cảm thấy tứ chi rã rời, nhè nhẹ đặt Lệnh Hồ Xung xuống trên đám cỏ rồi đứng không vững nữa. Cô ngồi phịch xuống đất, thở hồng hộc.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Tiểu muội chỉ có lo chạy, lại quên không điều vận hơi thở. Đó là điều… điều… đại… đại kỵ của người học võ. Cứ như thế thì rất dễ… dễ bị tổn thương lắm.

Nghi Lâm đôi má ửng hồng, nói:

– Đa tạ Lệnh Hồ đại ca chỉ dạy. Sư phụ tiểu muội cũng đã có dạy qua rồi nhưng tiểu muội nhất thời hoang mang nên quên mất.

Cô ngưng lại một chút rồi hỏi:

– Vết thương của Lệnh Hồ đại ca thế nào rồi?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không còn đau nữa, chỉ thấy hơi ngưa ngứa thôi.

Nghi Lâm vui mừng nói:

– Hay quá, hay quá! Vết thương bị ngứa là hiện tượng thuyên giảm, thật không ngờ lại mau lành như vậy.

Lệnh Hồ Xung thấy cô vui mừng thì lòng cũng có chút cảm động, bèn cười nói:

– Đó là nhờ sự công hiệu từ linh dược của quý phái.

Bỗng nhiên Lệnh Hồ Xung thở dài, nói với giọng đầy tức giận:

– Chỉ đáng tiếc là ta bị trọng thương để cho bọn chuột nhắt khinh nhờn. Vừa rồi, nếu ta bị lọt vào tay mấy tên tiểu tử phái Thanh Thành thì chết cũng không sợ, chỉ sợ bị chúng làm nhục.

Nghi Lâm nói:

– Thì ra đại ca nghe thấy hết rồi ư?

Cô nghĩ đến việc mình đã ôm Lệnh Hồ đại ca chạy lâu như vậy mà cũng không biết đại ca mở mắt nhìn mình từ lúc nào, bất giác mặt cô lại đỏ lên như ráng chiều.

Lệnh Hồ Xung không biết tại sao cô lại mắc cỡ. Hắn cho là vì cô chạy quá lâu, hao tổn nhiều sức lực, bèn nói:

– Sư muội, sư muội ngồi xuống đây một chút, dùng tâm pháp của quý phái điều hòa nội tức để khỏi bị nội thương.

Nghi Lâm dạ một tiếng, lập tức ngồi xếp bằng rồi vận dụng tâm pháp. Sư phụ đã truyền cho cô tâm pháp để điều hòa nội tức, nhưng tâm ý cô bồn chồn, không có cách nào an tịnh được. Không bao lâu, cô mở mắt liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, xem thương thế của y biến chuyển ra sao, rồi lại xem đại ca có nhìn mình không. Khi Nghi Lâm liếc nhìn lần thứ tư thì đúng lúc Lệnh Hồ Xung mở mắt nhìn cô. Cô giật nẩy người, vội vàng nhắm mắt lại. Lệnh Hồ Xung cười lên ha hả.

Nghi Lâm hai má ửng hồng, bẽn lẽn hỏi:

– Tại… tại sao cười?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không có gì. Sư muội còn nhỏ tuổi, công phu còn non nớt, nhất thời không định thần được, bất tất phải miễn cưỡng. Định Dật sư bá nhất định đã dạy cho tiểu muội lúc luyện tập mà tinh tiến dũng mãnh quá thì cũng đáng ngại. Việc điều hành nội tức nên bình tâm tĩnh trí mới thực hiện được.

Lệnh Hồ Xung nghĩ một chút rồi nói tiếp:

– Tiểu muội an tâm, nguyên khí của ta đang từ từ hồi phục, bọn tiểu tử phái Thanh Thành có đuổi theo đến đây, chúng ta cũng không sợ chúng nữa. Ta sẽ cho bọn chúng từng tên một Thí cổ hướng hậu…

Nghi Lâm mỉm cười nói:

– Từng tên phái Thanh Thành bình sa lạc nhạn.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đúng vậy. Thật là tuyệt diệu. Cái gì Thí cổ hướng hậu… nói ra thì hơi bất nhã. Chúng ta gọi nó là Bình sa lạc nhạn thức của phái… Thanh Thành nghe hay hơn.

Lệnh Hồ Xung nói những tiếng sau cùng thì nổi lên một cơn ho dài, dường như muốn nghẹt thở.

Nghi Lâm nói:

– Đại ca đừng nói nhiều, hãy ngủ thêm một chút nữa đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sư phụ của ta đã đến thành Hành Sơn rồi! Ta hận mình không đứng dậy đi được để đến phủ Lưu sư thúc xem cuộc náo nhiệt này.

Nghi Lâm thấy đôi môi Lệnh Hồ Xung khô rang, hai mắt ráo hoảnh. Cô biết Lệnh Hồ Xung mất máu quá nhiều, cần phải uống nhiều nước, bèn nói:

– Tiểu muội đi tìm một ít nước cho đại ca uống. Nhất định đại ca khát nước lắm phải không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta thấy trên đường ở mé trái đám ruộng có nhiều dưa hấu. Tiểu muội đi hái mấy trái đi! Nghi Lâm đáp dạ một tiếng rồi đứng dậy sờ lên người. Một đồng cũng không có.

Cô liền hỏi:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca có tiền không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Để làm gì?

Nghi Lâm nói:

– Để đi mua dưa.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Mua cái gì? Tiện tay thì hái. Gần đó không có người, người trồng dưa nhất định ở rất xa, tiểu muội hỏi ai mà mua?

Nghi Lâm chần chừ rồi nói:

– Không cho mà lấy là… trộm cắp rồi. Đây là giới cấm thứ hai trong ngũ giới, không được đâu. Nếu không có tiền thì xin một trái, chắc họ cũng cho.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy khó chịu nói:

– Tiểu…

Lệnh Hồ Xung định mắng cô ta là “Tiểu ni cô lẩn thẩn” nhưng nghĩ đến cô vừa tận lực cứu mình, nên vừa nói ra chữ “Tiểu” thì lập tức nín lại.

Nghi Lâm thấy sắc mặt Lệnh Hồ Xung không vui, nên cô không dám nói nữa. Cô đành nghe lời đi tìm. Cô đi hơn hai dặm quả nhiên thấy mấy đám dưa hấu, từng dây lúc lỉu những trái. Trên ngọn cây, tiếng ve kêu râm ran, bốn bề không có một bóng người. Cô nghĩ thầm: L ệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu, nhưng vật có chủ, làm sao ta có thể tùy tiện trộm cắp của người ta được.

Nghi Lâm đi thêm hơn một dặm nữa, đứng bên một gò cao rồi nhìn bốn phía vẫn không thấy một bóng người; ngay cả một ngôi nhà của nông dân cũng không có. Cô đành quay về đứng trong ruộng dưa. Chần chừ một lúc, toan đưa tay hái một trái nhưng lại thụt tay về. Nghi Lâm nhớ lại giới luật sư phụ đã dạy, quyết không thể ăn trộm đồ của người khác. Cô đã muốn bỏ đi nhưng trong đầu lại hiện lên vẻ mặt tiều tụy, miệng đắng môi khô của Lệnh Hồ Xung. Nghi Lâm bặm miệng, chấp hai tay lâm râm khấn nguyện:

– Bồ Tát từ bi xin chứng giám cho đệ tử. Đệ tử không dám có ý ăn trộm nhưng vì Lệnh Hồ đại ca… Lệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu…

Nhưng rồi cô chợt nghĩ lại tám chữ “Lệnh Hồ đại ca muốn ăn dưa hấu” không phải là lý do chính đáng, lòng cô rất nóng nảy, hai dòng lệ tự nhiên tuôn trào. Cô cúi xuống, hai tay ôm trái dưa lên; cuống dưa đứt lìa. Cô thầm nghĩ: Người ta đã cứu tính mạng ngươi thì ngươi có vì người ta mà đọa xuống địa ngục, vĩnh viễn chịu đau khổ trong luân hồi cũng chẳng hề hấn gì. Chuyện ta làm thì ta chịu. Nghi Lâm này đã phạm vào giới luật chứ Lệnh Hồ đại ca không có liên can gì đến cả.

Nghi Lâm ôm trái dưa hấu chạy về bên Lệnh Hồ Xung.

Trước nay, Lệnh Hồ Xung chẳng hề để ý đến lễ pháp giáo điều của thế tục, thấy Nghi Lâm đi một lúc lâu mới hóa duyên trái dưa hấu của người ta, hắn chỉ cho rằng tiểu ni cô này còn nhỏ tuổi không hiểu việc đời. Hắn không ngờ rằng cô ta vì hái trộm một trái dưa mà trong thâm tâm đã nổi lên một cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội, phải chịu đựng nhiều điều ấm ức. Thấy cô ôm trái dưa về, hắn vui mừng cất tiếng khen:

– Hảo sư muội, sư muội thật là một cô nương ngoan ngoãn.

Nghi Lâm thình lình nghe Lệnh Hồ Xung khen mình như vậy, lòng chấn động, suýt làm rơi trái dưa. Cô vội túm trái dưa vào trong vạt áo. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sao sư muội lại hoang mang như vậy? Tiểu muội ăn trộm dưa bị người ta rượt theo ư?

Má Nghi Lâm lại đỏ lên, nói:

– Không, không ai rượt theo tiểu muội cả.

Cô nói rồi từ từ ngồi xuống.

Trời vừa sáng, mặt trời mọc lên ở phía Đông. Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm vẫn ngồi trong bóng núi, ánh mặt trời không thể chiếu tới được. Sau cơn mưa cây cối quanh núi cành lá xanh tươi, ngọn gió thanh lương thật dễ chịu.

Nghi Lâm đã định thần lại, rút cây kiếm gãy sau lưng ra, nhìn chỗ đầu kiếm bị gãy, nghĩ thầm: Tên ác nhân Điền Bá Quang võ công thật lợi hại. Nếu hôm đó không có Lệnh Hồ đại ca xả thân cứu ta thì bây giờ làm sao ta có thể bình yên mà ngồi ở đây.

Cô liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, thấy hai mắt hắn sâu hoắm, khuôn mặt trắng bệch không còn giọt máu. Cô tự nhủ: Vì đại ca, dẫu ta có phạm thêm nhiều đại ác nghiệp cũng không hề hối hận, chỉ mới ăn trộm một trái dưa thì có sao đâu?

Cô nghĩ đến đây thì những điều bất an trong lòng sau khi phạm giới vụt tan biến hết. Cô dùng vạt áo lau sạch lưỡi kiếm gãy rồi xẻ trái dưa ra; mùi thơm man mác xông lên mũi.

Lệnh Hồ Xung ngửi thấy mùi thơm, kêu lên:

– Dưa ngon quá!

Rồi hắn nói:

– Sư muội, ta chợt nhớ ra một câu chuyện vui. Rằm nguyên tiêu năm nay, bọn sư huynh sư muội ta tụ tập để uống rượu. Linh San sư muội đưa ra một câu đố, cô nói: “Bên trái là một con chó, bên phải là một trái dưa, hãy đoán xem đó là chữ gì?” Lúc đó ngồi bên trái cô ta là Lục Đại Hữu Lục sư đệ, người sư đệ tối hôm qua đã vào kỹ viện tìm ta; còn ta thì ngồi bên phải cô.

Nghi Lâm mỉm cười nói:

– Cô ta đưa ra câu đố là để trêu đại ca và vị Lục sư huynh kia rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy. Câu đố này không khó đoán, đó là chữ “Hồ” trong cái tên Lệnh Hồ Xung của ta. Cô ta đưa ra câu đố vui như vậy là do lấy từ sách mà ra. Hay là chỗ Lục Đại Hữu ngồi ở bên trái còn ta thì ngồi ở bên phải. Thật là trùng hợp, bây giờ bên cạnh một bên ta là con chó nhỏ, bên kia là một quả dưa to.

Lệnh Hồ Xung vừa nói vừa chỉ vào trái dưa rồi chỉ vào Nghi Lâm, nét mặt tươi cười. Nghi Lâm mỉm cười, nói:

– Hiểu rồi, đại ca nói vòng vo là để ám chỉ tiểu muội là một con chó nhỏ.

Nghi Lâm cắt trái dưa ra thành từng miếng, bỏ vỏ rồi lần lượt đưa cho Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung nhận dưa cắn một miếng, cảm thấy mùi dưa thơm ngọt, bèn ăn hết một miếng lớn. Nghi Lâm thấy đại ca ăn một cách ngon lành, lòng cô rất vui sướng, lại thấy hắn nằm ăn khiến nước dưa nhỏ ướt cả vạt áo trước, nên cô cắt miếng dưa sau ra thành từng cục nhỏ, đặt vào tay hắn. Lệnh Hồ Xung cho gọn vào miệng, nước dưa không nhỏ lên áo nữa. Thấy đại ca ăn dưa, mỗi lần đưa tay lên không tránh khỏi làm động đến vết thương, cô không đành lòng, bèn đút từng miếng dưa nhỏ vào miệng Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung ăn gần hết nửa trái dưa mới nghĩ đến Nghi Lâm chưa ăn miếng nào, bèn nói:

– Tiểu muội nên ăn một chút đi.

Nghi Lâm nói:

– Đợi đại ca ăn no xong, tiểu muội mới ăn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta ăn đủ rồi, tiểu muội ăn đi.

Nghi Lâm cảm thấy khát nước từ lâu, lại đút thêm cho Lệnh Hồ Xung vài miếng nữa rồi mới cắt một miếng nhỏ ăn. Cô thấy Lệnh Hồ Xung nhìn mình không chớp mắt, mắc cỡ quay người lại, lưng hướng về Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung đột nhiên khen:

– A! Thật là đẹp!

Giọng nói của Lệnh Hồ Xung đầy ý tán thưởng. Nghi Lâm mắc cỡ, không hiểu tại sao đại ca bỗng nhiên khen mình đẹp. Cô muốn đứng dậy chạy trốn nhưng nhất thời lại bỏ ý định đó, chỉ cảm thấy toàn thân nóng ran. Cô mắc cỡ đến nỗi ngay cả cái cổ cũng đỏ lên.

Lệnh Hồ Xung lại nói:

– Tiểu muội nhìn kìa, thật là đẹp! Tiểu muội có thấy gì không?

Nghi Lâm từ từ xoay người nhìn theo hướng tay Lệnh Hồ Xung đang chỉ về phía Tây, thấy xa xa có một cầu vồng xuất hiện phía sau rừng cây với bảy sắc màu biến ảo vô cùng rực rỡ. Bấy giờ, cô mới biết Lệnh Hồ Xung nói “Thật là đẹp” là để khen cầu vồng. Vừ a rồi cô đã hiểu lầm, bất giác cô lại mắc cỡ. Nhưng lần mắc cỡ này hàm chứa một chút thất vọng, so với lúc trước là cái tâm tình thẹn thùng ngấm ngầm vui sướng thì có chỗ bất đồng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu muội lắng tai thử có nghe thấy gì không?

Nghi Lâm nghiêng tai lắng nghe. Từ nơi xa xa hướng cầu vồng mọc vọng lại tiếng nước chảy. Cô nói:

– Dường như có thác nước.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy. Trời mưa mấy ngày liền, trong khe núi nhất định có thác nước. Chúng ta đi đến đó xem đi.

Nghi Lâm nói:

– Đại ca… đại ca còn phải tịnh dưỡng thêm nhiều nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chỗ này toàn là đá lởm chởm, phong cảnh không đẹp chút nào. Chúng ta đi xem thác nước hay hơn.

Nghi Lâm không nỡ làm trái ý đại ca, bèn đỡ hắn đứng dậy. Khuôn mặt cô lại b ỗng nhiên đỏ bừng. Cô nghĩ: Ta đã ôm đại ca hai lần rồi, lần thứ nhất đại ca đã chết, lần thứ hai thì đang bị trọng thương nguy hiểm đến tính mạng nên ta phải ôm chạy. Lúc này, đại ca tuy đang bị trọng thương nhưng thần trí rất tỉnh táo, ta làm sao dám ôm đại ca thêm một lần nữa? Ý đại ca muốn đến bên thác nước đó, phải chăng… phải chăng… muốn ta…

Trong lúc cô ta do dự thì Lệnh Hồ Xung đã lượm một khúc cây làm gậy, chống xuống đất, chầm chậm bước đi về phía trước. Thì ra cô đã nghĩ sai.

Nghi Lâm vội chạy đến, đưa tay dìu Lệnh Hồ Xung, lòng tự trách: Ta làm sao vậy? Lệnh Hồ đại ca là một chính nhân quân tử, hôm nay sao tâm trí ta lại thất thường, ý nghĩ lại chao đảo như vậy? Dù sao, một mình ta ở bên cạnh một nam tử thì cũng phải đề phòng cẩn thận. Nhưng đại ca và Điền Bá Quang tuy cùng là nam tử lại khác nhau một trời một vực. Sao ta có thể ghép cả hai người một duộc như nhau?

Lệnh Hồ Xung tuy bước không vững nhưng vẫn cố tự chống chọi mà đi. Được một quãng, thấy một tảng đá to, Nghi Lâm dìu Lệnh Hồ Xung đến đó ngồi xuống nghỉ ngơi. Cô nói:

– Ở đây cũng đẹp vậy. Đại ca nhất định muốn đi xem thác nước ư?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội nói ở đây đẹp thì ta với tiểu muội ở đây ngắm cảnh một chút.

Nghi Lâm nói:

– Được rồi. Phong cảnh ở bên kia đẹp, đại ca muốn tới đó thưởng thức, lòng khoan khoái thì vết thương sẽ lành nhanh hơn.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười, đứng lên.

Hai người đi chầm chậm đến một thung lũng thì nghe tiếng nước chảy róc rách; lại đi thêm một đoạn nữa, tiếng nước chảy nghe càng rõ hơn. Sau khi đi xuyên qua một rừng tùng, họ thấy một thác nước giống như con bạch long từ vách núi đổ xuống. Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Bên Ngọc Nữ phong của Hoa Sơn ta cũng có một thác nước lớn hơn thác nước này, hình dạng cũng gần giống như vậy. Linh San sư muội và ta thường đến bên thác nước luyện kiếm. Có lúc cô ấy nghịch ngợm, còn chui vào trong thác nước nữa.

Nghi Lâm nghe Lệnh Hồ Xung nhắc đến “Linh San sư muội” lần thứ hai bỗng nhiên cô tỉnh ngộ: Đại ca bị trọng thương, lại nhất định muốn đến bên thác nước không phải để thưởng ngoạn phong cảnh mà là để nhớ đến Nhạc Linh San sư muội của đại ca.

Không hiểu sao, tim cô nhói đau giống như bị ai đánh một chùy thật mạnh. Lệnh Hồ Xung lại nói:

– Có một lần luyện kiếm bên thác nước, cô ấy bị sẩy chân trượt ngã suýt chút nữa té xuống dòng nước sâu. May mà ta chụp được y lại, thật là nguy hiểm.

Nghi Lâm lạnh lùng hỏi:

– Đại ca có nhiều sư muội không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Phái Hoa Sơn ta tổng cộng có bảy nữ đệ tử; Linh San sư muội là con gái của sư phụ. Bọn chúng ta đều gọi y là tiểu sư muội; còn sáu người kia đều là đệ tử của sư mẫu.

Nghi Lâm nói:

– Ờ. Thì ra cô ta là tiểu thư của Nhạc sư bá. Cô ta… cô ta… cô ta và đại ca thân nhau lắm phải không?

Lệnh Hồ Xung từ từ ngồi xuống, nói:

– Ta là một đứa bé côi cút không cha không mẹ, mười lăm năm về trước được ân sư và sư mẫu thâu nhận làm môn hạ. Lúc đó, tiểu sư muội mới có ba tuổi. Ta lớn tuổi hơn nhiều, thường ẵm tiểu sư muội đi hái trái rừng, đi bắt thỏ, sống chung một nhà từ nhỏ đến lớn. Sư phụ sư mẫu không có con trai nên coi ta như con ruột, tiểu sư muội chẳng khác nào em ruột của ta.

Nghi Lâm ồ một tiếng rồi một lúc sau mới nói:

– Tiểu muội cũng là một đứa bé côi cút không cha không mẹ, từ ấu thơ được ân sư nuôi dưỡng nên xuất gia từ nhỏ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đáng tiếc, đáng tiếc!

Nghi Lâm quay đầu nhìn Lệnh Hồ Xung, ánh mắt lộ vẻ hoài nghi. Lệnh Hồ Xung nói:

– Nếu như tiểu muội không phải là môn hạ của Định Dật sư bá thì ta sẽ cầu xin sư mẫu nhận tiểu muội làm đệ tử. Sư huynh, sư đệ, sư muội, sư tỷ của chúng ta rất đông, có đến hai mươi mấy người; mọi người rất vui vẻ. Sau giờ luyện công, bọn ta cùng nhau kết bạn đi chơi; sư phụ sư mẫu cũng không quản lý. Tiểu muội mà gặp tiểu sư muội của ta nhất định sẽ rất thích và có thể hai người sẽ trở thành đôi bạn thân.

Nghi Lâm nói:

– Đáng tiếc là tiểu muội không có được cái phước như vậy, nhưng sống trong Bạch Vân am, sư phụ và các sư tỷ đối với tiểu muội rất tốt. Tiểu muội… tiểu muội… tiểu muội cũng sống rất vui.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phải, phải. Ta nói sai rồi. Kiếm pháp của Định Dật sư thái rất thần diệu. Lúc sư phụ và sư mẫu ta bàn luận đến kiếm pháp của các phái, đối với sư phụ của tiểu muội thì hai vị rất khâm phục kiếm pháp của lão nhân gia. Phái Hằng Sơn đâu có thua gì phái Hoa Sơn ta?

Nghi Lâm nói:

– Lệnh Hồ đại ca, hôm đó đại ca nói với Điền Bá Quang là đánh đứng thì Điền Bá Quang đứng thứ mười bốn trong thiên hạ, còn Nhạc sư bá đứng thứ tám. Vậy thì sư phụ của tiểu muội đứng hàng thứ mấy?

Lệnh Hồ Xung cười lên rồi nói:

– Đó là ta nói gạt Điền Bá Quang, làm gì có chuyện ấy? Võ công mạnh hay yếu đều thay đổi mỗi ngày, có người ngày càng tiến bộ, có người tuổi già sức yếu thì ngày càng suy thoái, làm sao có thể sắp đặt thứ bậc trong thiên hạ được? Điền Bá Quang tuy võ công cao cường nhưng nói là đứng thứ mười bốn trong thiên hạ thì chưa chắc. Ta cố ý xếp hắn vào hạng cao một chút cốt để hắn vừa lòng.

Nghi Lâm nói:

– Thì ra đại ca gạt hắn.

Nghi Lâm nói xong, ngẩn ngơ nhìn thác nước một lúc rồi lại hỏi:

– Đại ca thường nói gạt người ta lắm sao?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Còn phải tùy tình hình chứ không phải “thường” đâu. Có những người có thể gạt được, có những người không thể gạt được. Sư phụ và sư mẫu hỏi chuyện gì, ta tất nhiên không dám lừa dối.

Nghi Lâm ồ lên một tiếng rồi nói:

– Vậy còn trong sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội đồng môn của đại ca thì sao?

Ý cô muốn hỏi: “Đại ca có lừa dối Linh San sư muội của đại ca không?” nhưng không hiểu sao cô lại không dám hỏi thẳng ra như vậy. Lệnh Hồ Xung cười đáp:

– Điều đó còn phải tùy người tùy việc. Bọn ta thường đùa giỡn với nhau, nói chuyện mà không bịp nhau thì còn chi là thú vị nữa?

Cuối cùng Nghi Lâm hỏi:

– Ngay cả Linh San tỷ tỷ, đại ca cũng gạt ư?

Lệnh Hồ Xung từ trước tới giờ chưa nghĩ qua chuyện này. Hắn chau mày, trầm ngâm một lúc, nghĩ lại trong cuộc đời mình từ trước đến giờ có việc nào đã lừa gạt cô ấy, rồi nói:

– Nếu là việc quan trọng thì dĩ nhiên không thể gạt y được, nhưng lúc giỡn chơi, nói dối để làm trò cười thì thế nào cũng phải có.

Nghi Lâm sống trong Bạch Vân am, sư phụ giữ giới luật rất nghiêm, không cho phép đùa giỡn bao giờ; các vị sư tỷ ai cũng lạnh nhạt ít nói. Tuy mọi người rất thương yêu đùm bọc nhau nhưng không ai nói đùa lấy một câu, chuyện vui nhộn thì càng rất hiếm thấy. Môn hạ của hai vị sư bá Định Tĩnh và Định Nhàn có không ít đệ tử tục gia còn trẻ, nhưng họ cũng hiếm khi cùng với người xuất gia đồng môn nói cười. Từ lúc còn nhỏ, Nghi Lâm đã sống nơi tịch mịch lạnh lẽo này, ngoài giờ luyện võ ra là gõ mõ tụng kinh. Bây giờ nghe Lệnh Hồ Xung nói bọn đồng môn phái Hoa Sơn náo nhiệt như vậy, cô bất giác cao hứng, nghĩ bụng: Nếu mình có thể cùng với đại ca đi đến Hoa Sơn chơi thì thích thú biết mấy.

Nhưng cô lập tức nghĩ lại: Ra khỏi Bạch Vân am lần này ta đã gặp phong ba như vậy, chắc chắn sau khi trở về am thì sư phụ không cho phép xuất môn nữa. Ta đến Hoa Sơn vui chơi cái gì, sao lại si tâm vọng tưởng như vậy được?

Lòng cô bỗng nhiên se lại, mắt đỏ lên suýt nữa rơi lệ.

Lệnh Hồ Xung hoàn toàn không để ý đến cô, nhìn thác nước rồi nói:

– Ta và tiểu muội đang nghiên cứu một bộ kiếm pháp mượn sức mạnh của thác nước mà thi triển chiêu thức. Sư muội, sư muội biết có hiệu dụng gì không?

Nghi Lâm lắc đầu đáp:

– Tiểu muội không biết.

Giọng nói của cô đã có một chút nghẹn ngào nhưng Lệnh Hồ Xung vẫn không để ý đến điều đó.

Hắn tiếp tục nói:

– Chúng ta cùng với người động thủ, nếu người đó nội công rất thâm hậu thì đao kiếm và quyền chưởng thường đi đôi với nội lực. Nội lực vô hình hữu chất, có thể đánh văng kiếm của chúng ta đi. Ta và tiểu sư muội luyện kiếm trong thác nước, mong có thể dùng lực nước để xung kích nội lực của đối phương mà còn dùng chính lực của đối phương để đánh lại đối phương.

Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung nói rất hứng khởi bèn hỏi:

– Hai vị đã luyện thành kiếm pháp ấy chưa?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Chưa, chưa được. Tự sáng chế ra một bộ kiếm pháp đâu dễ dàng như vậy? Vả lại, chúng ta đâu có sáng chế ra chiêu kiếm nào đâu mà chỉ nghĩ ra từ kiếm pháp bổn môn đã được sư phụ truyền dạy rồi chế ra thôi. Cứ coi như có một chút sáng chế mới, đó cũng chỉ để vui chơi, lúc gặp địch thủ thì chẳng hiệu dụng chút nào. Nếu không thì ta làm sao lại bị Điền Bá Quang đánh cho te tua, không còn sức chống đỡ?

Lệnh Hồ Xung đưa tay ra vạch một đường xuống đất, hớn hở nói:

– Ta lại nghĩ ra được một chiêu, đợi sau khi vết thương lành rồi, trở về sẽ cùng với tiểu sư muội chiết giải thử.

Nghi Lâm dịu dàng hỏi:

– Hai vị gọi bộ kiếm pháp này là gì?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta đã nói rồi, bộ kiếm pháp này không thể đặt cái tên khác. Nhưng tiểu sư muội nhất định phải đặt cho nó một cái tên; gọi là Hồ – Linh kiếm pháp vì bộ kiếm pháp này do ta và sư muội cùng chế ra.

Nghi Lâm nói:

– Hồ – Linh kiếm pháp, Hồ – Linh kiếm pháp. Ôi, trong kiếm pháp này có tên đại ca và tên của cô ta, truyền đến đời sau, ai ai cũng biết là hai vị… hai vị đã cùng sáng chế ra.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội của ta tính như con nít nên mới gọi như vậy thôi chớ chúng ta một chút bản lĩnh cũng không có, chẳng có tư cách gì, làm sao tự chế ra kiếm pháp được? Tiểu muội đừng có nói với ai, nếu mà người ta biết thì chắc họ cười chúng ta đến trẹo quai hàm mất.

Nghi Lâm nói:

– Dạ, tiểu muội quyết sẽ không nói cho ai biết.

Cô ngừng lại một chút rồi mỉm cười:

– Chuyện đại ca tự sáng chế ra kiếm pháp, người ta đã biết cả rồi.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi nói:

– Sao? Linh San sư muội đã nói với người ta ư?

Nghi Lâm cười nói:

– Chính đại ca nói với Điền Bá Quang mà. Đại ca không phải nói là tự mình sáng chế ra một bộ kiếm pháp ngồi đâm ruồi nhặng sao?

Lệnh Hồ Xung cười lớn nói:

– Ta nói vớ nói vẩn với hắn mà tiểu muội cũng nhớ được ư?

Lệnh Hồ Xung cười lớn làm động đến vết thương; hắn đau quá phải chau mày lại. Nghi Lâm nói:

– Chao ôi, tiểu muội thật ngớ ngẩn đã làm cho vết thương của đại ca đau. Thôi đừng nói nữa, đại ca nên nằm ngủ một chút đi.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt lại, nhưng chỉ một lúc thì lại mở mắt ra nói:

– Ta chỉ biết phong cảnh ở đây đẹp nhưng bên thác nước lại không thấy cầu vồng đâu.

Nghi Lâm nói:

– Thác nước thì có cái đẹp của thác nước; cầu vồng có cái đẹp của cầu vồng.

Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:

– Tiểu muội nói thật không sai, trên đời này nào có chuyện thập toàn thập mỹ. Có người chịu trăm đắng ngàn cay để đi cầu tìm một vật, khi được vật đó rồi thì không chừng lại muốn liệng đi.

Nghi Lâm mỉm cười nói:

– Lệnh Hồ đại ca, những câu nói của đại ca ẩn chứa Thiền cơ, nhưng đáng tiếc tiểu muội tu còn nông cạn, không hiểu rõ đạo lý trong đó. Nếu sư phụ nghe được, nhất định sẽ giải thích cho tiểu muội rõ.

Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Cái gì là Thiền cơ với không Thiền cơ, ta không hiểu gì hết. Ui chao, ta mệt quá!

Lệnh Hồ Xung nói xong từ từ nhắm mắt lại, dần dần hơi thở trầm xuống. Hắn đã chìm vào trong giấc mộng. Nghi Lâm ngồi cạnh bên. Cô bẻ một cành cây, nhẹ nhàng xua ruồi muỗi cho đại ca ngủ yên. Cô ngồi hơn một canh giờ, cảm thấy hơi mệt mỏi, mơ hồ nhắm mắt muốn ngủ , bỗng nhiên lại nghĩ: Đợi lúc đại ca tỉnh dậy, nhất định rất đói bụng mà ở đây lại không có gì ăn. Ta đi hái thêm mấy trái dưa nữa, để có thể vừa giải khát vừa ăn cho no.

Thế là cô nhanh bước chạy về hướng đám dưa, hái thêm một trái. Cô sợ lúc mình đi khỏi có người hay dã thú đến xâm phạm Lệnh Hồ Xung nên vội vàng chạy nhanh về. Thấy đại ca vẫn còn an giấc, cô mới yên tâm, nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung mở mắt ra, mỉm cười nói:

– Ta tưởng tiểu muội về rồi.

Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:

– Tiểu muội về đâu?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sư phụ và các sư tỷ của tiểu muội đang tìm kiếm tiểu muội đó. Họ nhất định rất nhớ tiểu muội.

Nghi Lâm không hề nghĩ đến chuyện này, nghe đại ca nói như vậy, cô sốt ruột vô cùng, lại nghĩ: Sáng mai về gặp sư phụ, không biết sư phụ lão nhân gia có trách phạt mình không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu muội, đa tạ tiểu muội đã chăm sóc cho ta nửa ngày. Cái mạng của ta đã được tiểu muội cứu sống rồi, tiểu muội nên đi về sớm một chút đi!

Nghi Lâm lắc đầu nói:

– Không, nơi hoang sơn dã lĩnh để đại ca ở một mình, không có người bên cạnh chăm sóc thì làm sao được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu muội đến phủ Lưu sư thúc ở thành Hành Sơn, nói nhỏ với các sư đệ của ta, bọn họ sẽ đến đây chăm sóc ta.

Nghi Lâm xót xa, nghĩ bụng: Thì ra đại ca chỉ muốn tiểu sư muội của đại ca chăm sóc thôi, nên muốn đuổi ta về nhanh để mau gọi cô ta đến.

Nghi Lâm cầm lòng không được, nước mắt rơi xuống từng giọt. Lệnh Hồ Xung thấy cô ta bỗng nhiên rơi lệ, lấy làm lạ hỏi:

– Tiểu muội… tiểu muội… sao lại khóc. Tiểu muội sợ về bị sư phụ trách mắng phải không?

Nghi Lâm lắc đầu. Lệnh Hồ Xung lại nói:

– A, phải rồi, tiểu muội sợ trên đường lại đụng phải tên Điền Bá Quang. Không phải sợ, từ nay về sau hắn mà thấy tiểu muội thì chuồn ngay, không dám gặp mặt tiểu muội nữa đâu.

Nghi Lâm lại lắc đầu, nước mắt càng rơi xuống nhiều hơn. Lệnh Hồ Xung thấy cô ta càng khóc nhiều, lòng dâng trào cảm xúc, bèn nói:

– Được rồi, được rồi. Ta đã nói sai rồi, ta xin lỗi tiểu muội. Tiểu sư muội, sư muội đừng giận nữa.

Nghi Lâm nghe giọng nói của Lệnh Hồ Xung rất dịu dàng, lòng cô vơi bớt tủi buồn. Nhưng cô lại nghĩ: Đại ca nói những lời dịu dàng này rõ ràng là thói quen thường dùng để xin lỗi tiểu sư muội, lúc này y thuận miệng nói ra thôi.

Bỗng nhiên cô khóc òa lên, một lát sau mới nói:

– Tiểu muội đâu phải là tiểu sư muội của đại ca… Đại ca… lòng của đại ca chỉ nhớ đến tiểu sư muội của đại ca thôi!

Câu nói vừa thốt ra thì cô lập tức nghĩ lại: Mình là người xuất gia, sao lại có thể nói với đại ca những lời như vậy, quá trớn lắm rồi. Bất giác, mặt cô thẹn đỏ lên, quay đi hướng khác.

Lệnh Hồ Xung thấy cô bỗng nhiên đỏ mặt mà nước mắt chưa dứt, cứ tuôn rơi như những giọt nước lấp lánh nhỏ bé văng tung tóe bên thác nước, yêu kiều tươi đẹp không sao tả xiết, nghĩ thầm: Cô ta thật đẹp, không thua kém gì Linh San tiểu sư muội.

Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra một lát rồi dịu dàng nói:

– Tiểu muội nhỏ tuổi hơn ta nhiều. Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta đồng khí liên chi, mọi người đều là sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội của nhau. Tiểu muội tất nhiên là tiểu sư muội của ta rồi, ta có chỗ nào lầm lỗi với tiểu muội, tiểu muội nói cho ta nghe có được không?

Nghi Lâm đáp:

– Đại ca không có điều gì lầm lỗi với tiểu muội cả. Tiểu muội biết đại ca muốn tiểu muội mau mau rời khỏi đây để đại ca khỏi nhìn thấy thêm bực mình, làm đại ca bị xui xẻo. Đại ca đã nói rồi mà hễ gặp ni cô thì đánh bạc…

Cô nói đến đây lại òa lên khóc tiếp. Lệnh Hồ Xung không nhịn được tức cười, nghĩ bụng: Thì ra cô chiêu này còn ấm ức những câu mình nói trên Hồi Nhạn lâu. Kiểu này không xin lỗi thì không xong rồi. Hắn bèn nói:

– Lệnh Hồ Xung ta thật là đáng chết, ăn nói không biết lựa lời. Ngày hôm đó ở Hồi Nhạn lâu, ta đã nói năng bậy bạ, đắc tội cùng toàn thể quý phái từ trên xuống dưới, thật đáng đánh đòn, đáng đánh đòn.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền giơ tay tự tát vào mặt mình hai cái bốp bốp. Nghi Lâm vội quay người lại nói:

– Đừng… đừng đánh… tiểu muội… không trách đại ca. Tiểu muội… tiểu muội chỉ sợ làm liên lụy đến đại ca.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thật là đáng đánh!

Bốp một tiếng, hắn lại tát vào mặt mình một cái tóe lửa. Nghi Lâm vội nói:

– Tiểu muội đâu có giận. Lệnh Hồ đại ca, đại ca… đại ca đừng đánh nữa.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu muội nói là không giận ta nữa ư?

Nghi Lâm lắc đầu. Lệnh Hồ Xung lại nói:

– Tiểu muội không cười, đó không phải là còn đang giận ta ư?

Nghi Lâm đành miễn cưỡng cười lên, nhưng bỗng nhiên không hiểu sao lòng cô quặn đau không tả xiết. Cô không cầm được nữa, nước mắt chảy dài trên má, lại vội quay người đi. Lệnh Hồ Xung thấy cô cứ khóc hoài, liền buông tiếng thở dài. Nghi Lâm từ từ nín khóc, sụt sùi hỏi:

– Đại ca… sao đại ca lại thở dài?

Lệnh Hồ Xung cười thầm trong bụng: Quả nhiên con cừu non này đã trúng kế mình rồi.

Lệnh Hồ Xung làm bạn với Nhạc Linh San từ nhỏ. Nhạc Linh San thỉnh thoảng hay giở tính trẻ con, lúc bực mình là òa lên khóc, khóc dai ơi là dai, bất luận nói gì hay dỗ dành thế nào cô ta cũng không nín. Những lúc như vậy, Lệnh Hồ Xung bèn làm “khổ nhục kế” giống khi nãy, khiến cô ta tò mò quay lại hỏi. Nghi Lâm từ tấm bé chưa hề có thói nhõng nhẽo với ai, nên lại càng dễ rơi vào mưu kế của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung lại thở dài, quay người đi không nói.

Nghi Lâm hỏi:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca giận rồi sao? Vừa rồi tiểu muội có lỗi với đại ca, đại ca… đại ca đừng để bụng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đâu có, tiểu muội đâu có lỗi lầm gì với ta.

Nghi Lâm thấy nét mặt Lệnh Hồ Xung vẫn u sầu, nào biết trong bụng hắn đang cảm thấy tức cười mà ngoài mặt làm ra bộ buồn bã. Cô sốt ruột nói:

– Tiểu muội đã hại đại ca phải tự đánh mình, tiểu muội… tiểu muội phải đền cho đại ca.

Cô nói xong liền nhấc tay lên bốp một tiếng, tự tát vào má phải của mình một cái, cái tát thứ hai toan đánh thì Lệnh Hồ Xung vội quay người lại, giơ tay nắm chặt lấy cổ tay cô, nhưng hắn dùng lực mạnh khiến vết thương trên người đau nhói, chịu không được khẽ rên lên một tiếng. Nghi Lâm vội nói:

– Ui chao! Mau… mau nằm xuống, đừng làm vết thương bị đau.

Cô nói xong liền đỡ Lệnh Hồ Xung nằm xuống, rồi tự trách:

– Tiểu muội thật là ngu ngốc, chuyện gì làm cũng không đúng. Lệnh Hồ đại ca, đại ca… đại ca đau lắm phải không?

Hồi 23: Ngàn công chúa không ai bằng tiểu muội

Chỗ vết thương của Lệnh Hồ Xung đau đến quặn người, nếu bình thường thì hắn quyết không thừa nhận, nhưng lúc này hắn lại nghĩ ra một kế: Chỉ có như vậy thì cô ta mới chịu nín khóc mà cười lên.

Hắn liền chau mày lại, rên hừ hừ mấy tiếng. Nghi Lâm vô cùng hốt hoảng, nói:

– Chỉ cần không… không để máu chảy nữa mới được.

Cô đưa tay sờ lên trán đại ca. May thay, hắn không sốt. Qua một lúc sau, cô nhẹ nhàng hỏi:

– Có bớt đau chút nào không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Còn đau lắm.

Nét mặt Nghi Lâm rầu rĩ, không biết nên làm thế nào. Lệnh Hồ Xung lại la lên:

– Ui chao đau quá! Lục… Lục sư đệ có ở đây thì đỡ biết mấy.

Nghi Lâm nói:

– Sao? Y có thuốc giảm đau ư?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phải đấy, cái miệng của hắn chính là liều thuốc giảm đau. Trước đây ta cũng từng bị thương, đau đớn vô cùng. Lục sư đệ nói chuyện khôi hài, ta nghe rất vui, nên quên hết mọi đau đớn. Nếu hắn có ở đây thì tốt biết mấy. Trời ơi… sao mà đau thế này… đau quá… Trời ơi là trời!

Nghi Lâm vô cùng khó xử . Là môn hạ của Định Dật sư thái, người nào cũng nghiêm mặt tụng kinh niệm Phật hay ngồi luyện công luyện kiếm, trong Bạch Vân am e rằng cả tháng hiếm khi nghe được một hai câu nói đùa. Muốn cô nói đùa một câu thì thật khó quá. Cô nghĩ bụng: Lục Đại Hữu sư huynh không có ở đây. Lệnh Hồ đại ca lại muốn nghe chuyện cười thì chỉ có mình ta kể cho đại ca nghe thôi, nhưng… nhưng… một mẩu chuyện cười ta cũng không biết.

Bỗng nhiên linh cơ xúc động, cô nghĩ ra một câu chuyện, bèn nói:

– Lệnh Hồ đại ca, nói đùa thì tiểu muội không biết nói nhưng trong Tàng kinh các, tiểu muội đã đọc qua một quyển kinh rất thú vị gọi là Bách dụ kinh. Đại ca đọc qua chưa?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Chưa đọc, cái gì ta cũng không đọc, kinh Phật lại càng không đọc.

Má Nghi Lâm từ từ ửng hồng, nói:

– Tiểu muội thật là ngu, hỏi toàn lời ngớ ngẩn. Đại ca không phải là đệ tử của Phật môn, tất nhiên không hề đọc kinh sách rồi.

Cô ngừng một chút rồi nói tiếp:

– Bộ Bách dụ kinh đó là do một cao tăng ở nước Thiên Trúc soạn ra, trong đó có rất nhiều cố sự vui.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Hay quá, ta thích nghe những cố sự vui. Tiểu muội hãy kể vài chuyện cho ta nghe đi.

Nghi Lâm tủm tỉm cười. Trong Bách dụ kinh có vô số cố sự, bây giờ, từng câu chuyện lại hiện ra trong đầu cô. Cô nói:

– Được rồi, để tiểu muội kể câu chuyện “Dĩ lê đả phá đầu dụ” (chuyện lấy lưỡi cày đánh lên đầu). Ngày xưa có một người đầu bị hói ngay từ lúc sơ sinh, trên đầu không có một sợi tóc. Người hói đầu này và một người cày ruộng khác không biết tại sao lại tranh cãi với nhau. Người cày ruộng cầm lưỡi cày trong tay liền giơ lên đánh xuống đầu người đầu hói khiến y bị thương, chảy máu. Nhưng người đầu hói đó ngậm miệng chịu đau, không né tránh mà còn phát cười lên. Những người chứng kiến thấy vậy lấy làm kỳ lạ, hỏi sao lão không né tránh mà lại cười. Người đầu hói nói: “Tên cày ruộng này là một người ngu, thấy trên đầu ta không có sợi tóc nào cho là đầu ta cứng như đá, nên hắn dùng lưỡi cày đập lên. Nếu ta né tránh, há không phải là dạy cho hắn trở thành thông minh ư?”

Cô kể đến đây, Lệnh Hồ Xung cười to lên, rồi khen:

– Câu chuyện hay quá! Gã đầu hói này thật là thông minh, thông minh đến nỗi bị người ta đánh bất luận thế nào cũng không né tránh.

Nghi Lâm thấy Lệnh Hồ Xung cười rất tự nhiên, lòng cô cũng rất vui, bèn nói:

– Tiểu muội kể tiếp câu chuyện “Y dữ ngọc nữ dược, lệnh xuất trường đại dụ” (chuyện ông thầy thuốc dùng thuốc khiến một cô gái mau lớn). Ngày xưa có một ông vua sinh một cô công chúa. Ông vua rất nóng tính, thấy cô ta còn bé quá, muốn cho cô ta lớn nhanh lên bèn gọi ngự y vào, truyền ngự y điều chế ra một loại linh dược cho công chúa uống để công chúa lập tức mau lớn.

Ngự y tâu: “Linh dược thì có thể chế được nhưng phải tìm rất nhiều loại dược thảo, lại phải luyện chế rất công phu. Bây giờ thần xin đưa công chúa về nhà, đồng thời gấp rút bào chế thuốc, xin bệ hạ đừng nên thúc bách”. Quốc vương nói: “Rất tốt, quả nhân không thúc khanh đâu”. Ngự y liền ẵm công chúa về nhà, mỗi ngày bẩm báo với quốc vương rằng linh dược đang được luyện chế.

Qua hai mươi năm sau, ngự y tâu: “Muôn tâu bệ hạ, linh dược đã luyện chế xong rồi, hôm nay đã cho công chúa uống”. Thế rồi ngự y dẫn công chúa đến trước mặt quốc vương. Quốc vương thấy cô công chúa bé nhỏ năm xưa giờ đã lớn thành một thiếu nữ thướt tha, long tâm hớn hở, khen ngự y y đạo tinh thông, uống một liều linh dược mà có thể khiến cho ái nữ của ngài mau lớn, bèn ra lệnh ban thưởng cho ngự y vô số vàng bạc châu báu.

Lệnh Hồ Xung lại cười ha hả rồi nói:

– Tiểu muội nói quốc vương này tính tình nóng nảy nhưng kỳ thực lão không nóng nảy chút nào. Không phải lão ta đã đợi được hai mươi năm sao? Nếu ta là viên ngự y đó, ta chỉ cần một ngày công phu thì có thể đem công chúa bé nhỏ biến thành một thiếu nữ công chúa thướt tha mười bảy mười tám tuổi ngay.

Nghi Lâm mở to mắt hỏi:

– Đại ca dùng phương pháp gì?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Bên ngoài thì bôi Thiên hương đoạn tục giao, trong thì cho uống Bạch vân hùng đảm hoàn.

Nghi Lâm cười nói:

– Đó là dược vật để trị thương, làm sao có thể khiến cho con người ta mau lớn được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Trị hay không trị được vết thương ta không cần biết, chỉ cần tiểu muội bằng lòng giúp ta là được rồi.

Nghi Lâm cười nói:

– Đại ca muốn tiểu muội giúp ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy, sau khi ta ẵm cô công chúa bé nhỏ về nhà, ta sẽ mời bốn người thợ may…

Nghi Lâm càng ngạc nhiên hỏi:

– Mời bốn người thợ may để làm gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Để may một bộ xiêm y mới. Ta muốn họ đo kích cỡ người của tiểu muội, trong một đêm phải may xong bộ xiêm y cho công chúa để sáng sớm hôm sau tiểu muội mặc vào; đầu đội mũ Linh lung phụng, mình mặc Bách hoa cẩm y, chân đi hài thêu chỉ vàng. Dáng vẻ lộng lẫy, dung nhan yêu kiều diễm lệ, tiểu muội đi tới trước Kim loan điện, tung hô vạn tuế ba lần, cúi người xuống bái lạy rồi thưa: “Muôn tâu phụ vương, sau khi hài nhi uống linh đan diệu dược của ngự y Lệnh Hồ Xung, trong một đêm đã cao lớn như thế này đây”. Quốc vương thấy công chúa vô cùng xinh đẹp, khả ái như vậy, lòng sẽ vui sướng, đâu còn hỏi công chúa thật hay giả. Ngự y Lệnh Hồ Xung ta tất nhiên sẽ được trọng thưởng.

Nghi Lâm không nhịn được, nghe hắn nói xong là cười đến lộn cả ruột, vẹo cả người, một lúc sau mới nói:

– Đại ca quả nhiên thông minh hơn vị ngự y trong Bách dụ kinh nhiều, nhưng đáng tiếc tiểu muội… tiểu muội xấu như thế này, chẳng giống công chúa chút nào.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nếu tiểu muội mà xấu thì trong thiên hạ này không còn ai đẹp cả. Từ xưa đến nay, hàng ngàn hàng vạn công chúa đâu có thấy ai đẹp như tiểu muội đâu?

Nghi Lâm nghe hắn cứ khen ngợi mình, lòng rất vui. Cô cười nói:

– Đại ca đã thấy được hàng ngàn hàng vạn công chúa rồi sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tất nhiên rồi, ở trong mộng ta đều gặp qua từng người.

Nghi Lâm cười nói:

– Đại ca là người gì mà sao nằm mơ chỉ thấy toàn là công chúa vậy?

Lệnh Hồ Xung cười sảng khoái, rồi nói:

– Ngày nghĩ sao, đêm chiêm bao…

Nhưng hắn lập tức nghĩ lại, không nói nữa. Nghi Lâm là một nữ ni nhỏ tuổi trong trắng hồn nhiên, hắn cứ nói đùa hoài là đã phạm vào giới luật sư môn của cô ta, sao còn dám nói với cô ta những lời cợt nhả? Hắn nghĩ đến đây, bỗng sắc mặt nghiêm nghị giả bộ ngáp dài một cái.

Nghi Lâm nói:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca mệt rồi, nhắm mắt ngủ một lúc đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hay quá, câu chuyện vui của tiểu muội thật hiệu nghiệm, vết thương của ta quả nhiên không đau nữa.

Hắn muốn Nghi Lâm nói chuyện vui để cô nín khóc mà cười lên. Bây giờ, cô đã nói cười vui vẻ, xem như hắn đã thành công, liền từ từ nhắm mắt lại.

Nghi Lâm ngồi bên cạnh Lệnh H ồ Xung, cầm cành cây nhè nhẹ phe phẩy xua ruồi nhặng. Tiếng ếch nhái kêu vang từ trong khe núi xa xa vọng lại giống như khúc nhạc ru. Đến lúc này Nghi Lâm đã rất mỏi mệt, cảm thấy đôi mắt nặng trĩu mở lên không được nữa; cô mơ màng đi vào cõi mộng.

Trong giấc mộng, cô thấy mình mặc xiêm y rực rỡ của công chúa, bước vào một cung điện nguy nga tráng lệ, bên cạnh là một thanh niên tuấn tú dắt tay mình. Chàng thanh niên này từa tựa như Lệnh Hồ Xung, ở dưới chân họ có đám mây nâng hai người nhẹ bay lên không trung, cô cảm thấy hạnh phúc không sao nói được. Bỗng nhiên, có một lão ni chống gậy đuổi đến, trừng mắt giận dữ, đó là sư phụ của cô. Nghi Lâm giật mình sợ hãi khi nghe tiếng sư phụ quát:

– Tiểu súc sinh, ngươi không giữ thanh quy giới luật, lại to gan dám đi làm công chúa, còn kề cận với tên lãng tử này nữa.

Lão ni nắm chặt cánh tay cô, dùng lực kéo mạnh một cái. Lúc này trước mắt cô tối đen, Lệnh Hồ Xung biến đâu mất, sư phụ cũng chẳng thấy đâu, chỉ còn mình trong đám mây tối đen đang rơi lộn nhào xuống. Nghi Lâm sợ quá la to:

– Lệnh Hồ đại ca! Lệnh Hồ đại ca!

Cô cảm thấy toàn thân mềm nhũn, tay chân không sao nhúc nhích được.

Cô thét lên vài tiếng, giật mình tỉnh dậy, thì ra chỉ là một giấc mơ. Cô thấy Lệnh Hồ Xung đang mở to mắt nhìn mình.

Nghi Lâm thẹn đỏ cả hai má, ấp úng nói:

– Tiểu muội… tiểu muội…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu muội nằm mơ phải không?

Mặt Nghi Lâm lại đỏ lên, cô đáp:

– Tiểu muội cũng không biết có phải là nằm mơ không.

Bỗng nhiên, cô thấy thần sắc của Lệnh Hồ Xung vô cùng kỳ lạ; dường như hắn đang kìm chế sự đau đớn. Cô vội hỏi:

– Đại ca… vết thương của đại ca đau lắm phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không sao!

Hắn nói vậy nhưng giọng lại run run, những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu lấm tấm trên trán. Hắn có vẻ vô cùng đau đớn, không cần hỏi cũng đã biết rồi.

Nghi Lâm hoảng sợ, nói lắp bắp:

– Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?

Cô lấy khăn ra lau mồ hôi trên trán của Lệnh Hồ Xung, ngón tay của cô đụng lên trán hắn cảm thấy nóng như lửa. Cô nghe sư phụ nói sau khi người bị thương bởi đao kiếm, nếu phát sốt thì tình thế vô cùng nguy hiểm, trong lúc hoảng hốt này, cô không tự chủ được nữa, bèn cất tiếng niệm kinh:

– Nếu có vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh chịu khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dẫu vào trong lửa lớn, lửa cháy chẳng đặng. Vì do sức oai thần của Bồ Tát này đặng như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát, tức thời liền đặng chỗ cạn…

Cô niệm Diệu pháp Liên hoa kinh Quán Thế Âm Bồ Tát phổ môn phẩm lúc đầu giọng còn run run, nhưng niệm một lúc thì tinh thần dần dần trở lại ổn định.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng niệm kinh của Nghi Lâm trong trẻo mà thanh thoát, cô càng niệm càng hòa mình vào an tịnh, dường như đầy tín tâm đối với thần thông của kinh văn. Chợt nghe Nghi Lâm niệm tiếp:

– Nếu có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng đoạn, mà được giải thoát. Nếu có quỷ Dạ xoa, La sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì các quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống làm hại được? Dẫu lại có người có tội hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền được giải thoát.

Lệnh Hồ Xung càng nghe càng thấy buồn cười, cuối cùng không nín được nữa, bèn hà một tiếng rồi phát cười lên.

Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:

– Đại ca cười… cười cái gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta mà sớm biết như vậy thì hà tất học võ công làm chi cho mệt. Nếu có kẻ thù muốn đến giết hại ta, ta… ta chỉ cần xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì đao gậy của ác nhân đó sẽ gãy thành từng đoạn, há không phải là bình yên… bình yên cát tường ư?

Nghi Lâm nghiêm sắc mặt nói:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca không được khinh thường Bồ Tát, nếu tâm không thành thì niệm kinh cũng vô ích thôi.

Nói xong cô tiếp tục cất tiếng:

– Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Do sức niệm Quán Âm

Vội vàng bỏ chạy thẳng

Rắn độc cùng bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Do sức niệm Quán Âm

Theo tiếng tự bỏ đi

Mây sấm nổ sét đánh

Tuôn giá xối mưa lớn

Do sức niệm Quán Âm

Liền đặng tiêu tan cả

Chúng sanh bị khổ ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán Âm sức trí diệu

Năng cứu khổ thế gian…

Lệnh Hồ Xung nghe Nghi Lâm niệm với cả tấm lòng thành, tiếng niệm kinh tuy nhỏ nhưng biểu thị toàn tâm toàn ý cầu xin Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Dường như toàn bộ tâm linh của cô đều hướng về Bồ Tát tha thiết kh ẩn cầu, muốn Bồ Tát hiển đạt thần thông để giải thoát nỗi khổ đau của mình. Hình như cô đang nói:

– Quán Thế Âm Bồ Tát! Cầu xin ngài giải bỏ sự đau khổ trên người Lệnh Hồ đại ca, đem tất cả sự đau khổ của đại ca chuyển sang người đệ tử. Đệ tử có biến thành súc sinh hay vào địa ngục cũng cam lòng, chỉ cầu xin Bồ Tát giải thoát cho Lệnh Hồ đại ca tai qua nạn khỏi…

Đến lúc sau Lệnh Hồ Xung không còn nghe được ý nghĩa của kinh văn, chỉ nghe thanh âm từng câu từng câu cầu nguyện rất thành khẩn, rất thiết tha. Không hiểu sao mắt hắn đẫm lệ. Hắn từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ, tuy sư phụ sư mẫu có ân sâu với hắn nhưng hắn quá bướng bỉnh nên bị trách phạt hơn là yêu thương; các sư huynh sư đệ, sư tỷ sư muội đều tôn kính hắn là đại sư huynh nên không ai dám trái ý hắn. Tuy hắn và sư muội Nhạc Linh San có mối giao tình nhưng trước nay, Linh San vẫn không lần nào quan tâm đến hắn như vậy, lại không thể tình nguyện đem ngàn vạn nỗi khổ của thế gian đặt lên người mình để cho hắn được bình yên, khoái lạc. Bất giác máu nóng trong ngực Lệnh Hồ Xung như muốn dâng tràn, trong ánh mắt hắn, dường như toàn thân Nghi Lâm ẩn hiện một vừng hào quang tinh khiết.

Tiếng niệm kinh của Nghi Lâm càng lúc càng nhẹ nhàng thanh thoát. Trước mắt cô dường như đang có một Bạch y đại sĩ tay cầm nhành dương vẫy nước Cam lồ, cứu khổ cứu nạn. Mỗi câu niệm “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát” đều hướng về Bồ Tát thành khẩn cầu nguyện cho Lệnh Hồ Xung.

Lòng Lệnh Hồ Xung vừa cảm kích vừa được an ủi. Tiếng niệm Phật dịu dàng của Nghi Lâm đã đưa hắn đi vào giấc mộng không biết tự bao giờ.

Hồi 24: Bọn Tung Sơn uy hiếp Lưu gia

Sau khi Nhạc Bất Quần thâu nhận Lâm Bình Chi vào môn tường liền dẫn đệ tử đi thẳng đến Lưu phủ phó hội. Lưu Chính Phong nghe được tin này, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Quân tử kiếm chưởng môn phái Hoa Sơn tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm lại thân hành giá lâm đến phủ. Lão vội ra ngoài xa nghênh đón, miệng không ngớt lời cảm tạ. Nhạc Bất Quần rất khiêm tốn hòa nhã, vẻ mặt tươi cười nói những lời chúc mừng rồi cùng Lưu Chính Phong nắm tay nhau đi vào cổng. Thiên Môn đạo nhân, Định Dật sư thái, Dư Thương Hải, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất… cùng xuống thềm nghênh tiếp.

Dư Thương Hải lòng dạ đen tối, nghĩ bụng: Chưởng môn phái Hoa Sơn thân hành đến đây chắc không phải nể mặt Lưu Chính Phong mà vì ta mà đến. Ngũ Nhạc kiếm phái của lão người đông thế mạnh, ta không nên gây sự với lão. Nếu Nhạc Bất Quần nói những lời không khiêm nhường thì ta sẽ hỏi trước vụ đệ tử Lệnh Hồ Xung của lão ngủ với kỹ nữ trong kỹ viện là hành vi gì? Nếu lão trở mặt thì bấy giờ đành phải động thủ.

Nào ngờ khi thấy Dư Thương Hải, Nhạc Bất Quần vòng tay xá dài rồi cung kính nói:

– Dư quán chủ, đã lâu không gặp, quán chủ ngày càng khang kiện hẳn ra.

Dư Thương Hải cung tay trả lễ rồi nói:

– Nhạc tiên sinh! Kính chào Nhạc huynh!

Mọi người nói với nhau mấy câu xã giao. Trong Lưu phủ lại có các vị tân khách từ các lộ lục tục kéo đến. Hôm nay là ngày chính thức “rửa tay gác kiếm” của Lưu Chính Phong. Đến giờ Tỵ hai khắc, Lưu Chính Phong quay vào nội đường; các đệ tử môn hạ của lão lo chiêu đãi tân khách.

Gần đến giờ Ngọ, năm sáu trăm vị tân khách từ xa kéo đến như nước chảy. Phó bang chủ Cái bang Trương Kim Ngao; Hạ lão phụng sư trong Lục hợp môn ở Trịnh Châu dẫn theo ba người con rể; Thiết lão lão trên đỉnh Thần Nữ dãy Tam Hạp Xuyên Ngạc; bang chủ Phan Hống bang Hải Sa, Đông Hải; Khúc Giang, Nhi Hữu, Thần đao Bạch Khắc và Thần bút Lô Tây Tư… lần lượt kéo đến.

Trong những người này, có người đã từng quen biết, có người chỉ hâm mộ danh tiếng mà trước nay chưa từng gặp qua Lưu Chính Phong. Lúc này, trên đại sảnh, mọi người chào hỏi nhau, làm quen với nhau, không khí rất huyên náo.

Thiên Môn đạo nhân và Định Dật sư thái vào nghỉ trong sương phòng riêng biệt, không muốn chào hỏi mọi người. Cả hai cùng nghĩ bụng: Trong những vị tân khách đến hôm nay, có người cố nhiên là có danh vị trên giang hồ, cũng có những người chẳng ra sao cả. Lưu Chính Phong là cao thủ phái Hành Sơn, sao lại không biết tự trọng mà kết giao bừa bãi như vậy, há chẳng làm bại hoại thanh danh của Ngũ Nhạc kiếm phái?

Tên của Nhạc Bất Quần tuy gọi là “Bất Quần” (không thích kết bạn) nhưng lại rất thích kết giao bằng hữu. Trong những vị tân khách đến có nhiều người vô danh tiểu tốt hoặc những đồ đệ danh tánh không rõ ràng, chỉ cần chủ động đến nói chuyện với lão thì Nhạc Bất Quần cũng nói cười vui vẻ chứ không chút gì lộ vẻ ta đây là chưởng môn của phái Hoa Sơn, một cao nhân nhất đẳng trên giang hồ.

Bọn đệ tử Lưu phủ chỉ huy nhà bếp phục dịch, trong ngoài sắp đặt hai trăm bàn tiệc. Thân thích của Lưu Chính Phong là Môn Khách, Trương Phong và bọn đệ tử của Lưu môn là Hướng Đại Niên, Mễ Vi Nghĩa cung kính mời các vị tân khách nhập tiệc. Theo địa vị và danh vọng trong võ lâm thì Thiên Môn đạo nhân, chưởng môn phái Thái Sơn lên ngồi ghế chủ tiệc. Nhưng Ngũ Nhạc kiếm phái đã kết minh với nhau; Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần, Định Dật sư thái đều có một nửa tư cách chủ nhân nên không ai tiện ngồi trên. Các vị tiền bối đều nhường nhau, không ai chịu ngồi vào ghế chủ tiệc.

Bỗng nghe hai tiếng cồng chiêng xèng xèng, tiếp theo là tiếng nhạc xập xình, tiếng loa thét oang oang dẹp đường, hiển nhiên là có quan nha gì đó đến trước cổng. Quần hùng lấy làm ngạc nhiên, chợt thấy Lưu Chính Phong mình mặc trường bào mới toanh, vội vàng từ nội đường chạy ra. Quần hùng hoan hô chúc mừng nhưng Lưu Chính Phong cung tay vái chào qua loa rồi đi thẳng ra ngoài cổng. Một lúc sau, lão cung kính đón tiếp một vị quan viên mình mặc công phục đi vào. Quần hùng cảm thấy kỳ lạ, tự hỏi:

– Lẽ nào viên quan này cũng là một cao thủ trong võ lâm?

Họ thấy viên quan này tuy mang phẩm phục của triều đình, nhưng hai mắt lờ đờ, mặt đầy tửu khí, hiển nhiên không phải là người có võ công. Nhạc Bất Quần nghĩ bụng:

– Lưu Chính Phong là đại thân sĩ ở thành Hành Sơn, lão thường kết giao với bọn quan nha. Hôm nay là ngày đại hỷ của lão, quan viên địa phương đến mừng cũng không có gì là lạ.

Viên quan ngang nhiên đi thẳng vào, bệ vệ đứng ở giữa, nha đầu quỳ xuố ng phía sau gã, hai tay giơ cao trình lên một cái khay có phủ gấm vàng, trong khay đặt một cuốn tròn. Viên quan cúi người tiếp lấy cuốn tròn đó rồi lớn tiếng nói:

– Thánh chỉ đến, Lưu Chính Phong hãy tiếp chỉ!

Quần hùng vừa nghe đều giật mình sợ hãi, nghĩ:

– Hôm nay là ngày rửa tay vào chậu vàng của Lưu Chính Phong. Treo kiếm quy ẩn là chuyện trên giang hồ, đâu có liên can gì đến triều đình, sao hoàng đế lại hạ thánh chỉ? Lẽ nào Lưu Chính Phong có mưu đồ đại nghịch, bị triều đình phát hiện? Nếu lão có gì nguy nan, bọn ta phải ra tay tương trợ.

Mọi người không hẹn mà đều có chung ý nghĩ, đứng dậy không nói gì, tay cầm sẵn đao kiếm. Họ liệu đoán viên quan đã đến đây tuyên chỉ thì nhất định có bọn quan binh bí mật bố trí bốn phía Lưu phủ, một trận đại chiến khó tránh khỏi xảy ra. Bọn họ và Lưu Chính Phong là chỗ thâm giao, quyết không thể khoanh tay đứng nhìn được. Bọn họ đã đến Lưu phủ dự tiệc tức nhiên cũng là người trong bọn nghịch đảng, có thể thờ ơ sao được? Bọn họ chỉ đợi Lưu Chính Phong biến sắc quát mắng thì cùng nhảy vào, băm nát tên quan chó má này nát như tương.

Nào ngờ Lưu Chính Phong vẫn rất bình tĩnh. Lão quỳ gối xuống, hướng về phía viên quan khấu đầu lạy ba lạy rồi lớn tiếng nói:

– Kẻ vi thần là Lưu Chính Phong xin nghe thánh chỉ, kính chúc hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!

Quần hùng thấy vậy vô cùng kinh ngạc.

Viên quan mở cuộn vải tròn ra, tuyên đọc:

– Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: “Theo Tuần phủ tỉnh Hồ Nam tấu, thứ dân Lưu Chính Phong ở huyện Hành Sơn chăm lo việc nghĩa, giỏi về cung mã; ở quê nhà kham tài đại dũng. Vậy phong chức tham tướng để từ nay vì triều đình gắng sức báo đáp, không phụ lòng trẫm. Khâm thử”.

Lưu Chính Phong lại khấu đầu đáp:

– Vi thần Lưu Chính Phong bái tạ hồng ân, kính chúc hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.

Rồi lão đứng dậy hướng về viên quan khom người nói:

– Đa tạ Trương đại nhân đã chiếu cố đề bạt.

Viên quan vuốt râu mỉm cười nói:

– Chúc mừng, chúc mừng! Lưu tướng quân, từ nay tướng quân và ta đều cùng là bề tôi, hà tất phải khách khí như vậy.

Lưu Chính Phong đáp:

– Tiểu tướng nguyên là kẻ thảo dân thất phu, hôm nay được triều đình phong quan là nhờ ân trạch sâu dày của hoàng thượng, khiến cho tiểu tướng rạng rỡ tổ tông. Đó cũng là nhờ tuần phủ đại nhân và Trương đại nhân đã hết dạ tiến cử.

Viên quan cười nói:

– Không dám, không dám!

Lưu Chính Phong quay lại hỏi Phương Thiên Câu:

– Phương hiền đệ, lễ vật phụng kính Trương đại nhân đâu?

Phương Thiên Câu đáp:

– Tiểu đệ đã chuẩn bị sẵn cả rồi.

Gã nói xong liền quay người bưng ra một chiếc mâm, trên mâm đựng một bọc gấm.

Lưu Chính Phong giơ hai tay nhận lấy rồi cười nói:

– Chút lễ mọn này không đủ tỏ lòng thành, kính mong Trương đại nhân nhận cho.

Gã Trương đại nhân cười nói:

– Là huynh đệ với nhau, Lưu đại nhân đừng đa lễ như vậy.

Gã nói rồi đưa mắt ra hiệu cho tên sai đầu bên cạnh tiếp lấy. Lúc sai đầu nhận chiếc mâm, hai tay hắn trĩu xuống, rõ ràng lễ vật trong mâm không nhẹ, không phải bạc mà là vàng. Trương đại nhân cười híp mắt nói:

– Tiểu đệ đang thi hành công vụ, không ở lại lâu được. Nào, nào, nào; hãy rót ba bát rượu, chúc mừng Lưu tướng quân hôm nay được phong quan nhận chức. Chẳng bao lâu tướng quân lại được thăng quan tấn tước, ân trạch của hoàng thượng rộng lớn không biết bao nhiêu mà lường.

Tả hữu rót rượu mang đến. Trương đại nhân liên tiếp uống cạn ba bát rượu rồi cung tay chào, quay người đi ra cửa. Lưu Chính Phong nét mặt hớn hở tiễn đưa ra tận cổng lớn. Tiếng chiêng trống lại vang lên, Lưu phủ ngưng lễ tiễn khách.

Màn kịch này vượt ra ngoài ý nghĩ của quần hùng. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không biết nói thế nào, vẻ mặt vừa bẽn lẽn vừa kinh ngạc.

Các vị tân khách đến Lưu phủ tuy không phải là người trong hắc đạo, cũng không phải là người tác loạn phạm thượng, nhưng họ đều có danh vọng trong võ lâm, là những nhân vật tự coi mình rất cao. Đối với quan nha, họ đã không coi ra gì; giờ thấy Lưu Chính Phong xu phụ quyền thế, được hoàng đế phong chức tham tướng, chẳng qua chỉ là chức quan võ nhỏ bằng hạt mè hạt đậu mà lão đã cảm kích vô cùng, làm những điệu bộ hành vi trâng tráo, lại ngang nhiên đưa hối lộ thì lòng họ rất coi thường lão. Có người không nhịn được, vẻ khinh khi lộ rõ trên mặt. Còn những vị tân khách lớn tuổi thì nghĩ: Xem tình hình này thì áo mũ của lão nhất định là dùng vàng bạc mà mua rồi, không biết lão xài hết bao nhiêu mới mua được việc tiến cử của quan tuần phủ. Lưu Chính Phong xưa nay là người chính trực, không hiểu sao đến lúc già còn tham danh vọng, lại dùng thủ đoạn đê hèn để mua một chức quan?

Lưu Chính Phong đi đến trước quần hùng, mặt mày đầy vẻ hân hoan, chào mời các vị tân khách. Không có ai ngồi thủ tọa, chiếc ghế thái sư đó vẫn để trống, ghế đầu bên trái là Hạ lão quyền sư ở      Lục hợp môn là người cao niên nhất, ghế đầu bên phải là phó bang chúa Cái bang Trương Kim Ngao. Trương Kim Ngao tuy không phải là người võ nghệ cao cường nhưng Cái bang là bang hội lớn nhất trên giang hồ. Bang chủ Cái bang là Giải Phong võ công danh vọng rất cao, nên ai cũng kính nể.

Quần hùng lục tục ngồi xuống, người của Lưu phủ đến rót rượu. Hướng Đại Niên đưa lên một trà kỷ trên phủ gấm hoa. Rồi hắn bưng một cái chậu bằng vàng sáng loáng dài khoảng nửa thước, đựng đầy nước để lên trà kỷ. Bỗng nghe ngoài cổng vang lên ba tiếng cồng bong bong bong, tiếp theo là tám tiếng nổ đùng đùng của pháo đại. Bọn hậu bối đệ tử đang ở hậu sảnh hay ngồi trong hoa sảnh đều chạy đến xem rất náo nhiệt.

Lưu Chính Phong cười hoan hỉ đi vào sảnh đường cung tay vái chào một vòng. Quần hùng đều đứng lên đáp lễ.

Lưu Chính Phong lớn tiếng nói:

– Thưa các vị tiền bối anh hùng, thưa các vị hảo hán bằng hữu, thưa các vị thanh niên bằng hữu! Các vị đã chẳng ngại đường xa đến đây, Lưu Chính Phong này hân hạnh vô cùng, cảm kích khôn xiết. Hôm nay tiểu đệ rửa tay chậu vàng, từ nay không còn hỏi han đến những chuyện trên giang hồ nữa như các vị đã biết. Huynh đệ đã chịu ân điển của triều đình, làm một chức quan nho nhỏ. Người ta thường nói: “Hưởng lộc của vua thì phải hết đạo trung quân”. Hành vi trên giang hồ xét cho cùng là vì nghĩa; còn việc quốc gia là việc công, phải tuân giữ phép nước để báo ân vua; hai con đường này gần như mâu thuẫn với nhau làm cho Lưu Chính Phong này rất lấy làm khó nghĩ. Từ nay về sau, Lưu mỗ ra khỏi võ lâm, môn hạ đệ tử của Lưu mỗ nếu muốn gia nhập vào môn phái khác đương nhiên vẫn là bạn tốt của Lưu mỗ. Bao nhiêu ân oán thị phi trong võ lâm, Lưu mỗ sẽ không hỏi han tới nữa.

Lão nói xong lại cung tay vái xuống.

Quần hùng đã liệu đoán trước là lão sẽ nói như vậy, bèn nghĩ: Thâm tâm của lão muốn làm quan; người đã có ý chí như vậy thì miễn cưỡng sao được? Dù sao thì lão cũng không có lời gì với bọn mình. Vậy thì từ nay trong võ lâm, cứ xem như không có tên của lão mà thôi.

Có người lại nghĩ: Những năm gần đây, trên giang hồ, Ngũ Nhạc kiếm phái luôn luôn hành hiệp trượng nghĩa, được mọi người ngưỡng mộ khâm phục. Lưu Chính Phong lại bày ra chuyện này, đương nhiên trước mặt người ta không dám nói, nhưng sau lưng thì không tránh khỏi sự chê cười.

Người khác lại nghĩ: Người ta nói Ngũ Nhạc kiếm phái là môn phái hiệp nghĩa, nay vừa gặp thăng quan phát tài đã vội khép nép khấu đầu trước bọn quan nha thì còn đề cao hai chữ “hiệp nghĩa” làm gì nữa?

Mỗi người đều có những suy nghĩ khác nhau, trên đại sảnh yên lặng không một tiếng động. Đáng lý ra trước tình cảnh này thì mọi người đều hỏi thăm chúc mừng Lưu Chính Phong, nào là “Phúc thọ toàn quy”; “Cấp lưu dũng thoái”; “Đại trí đại dũng”… mới phải, nhưng hơn một ngàn người trên sảnh đường không ai nói một lời.

Lưu Chính Phong quay người nhìn ra ngoài rồi lớn tiếng nói:

– Đệ tử Lưu Chính Phong được ân sư thâu nhận làm môn hạ, truyền thụ võ nghệ, chưa làm rạng rỡ được môn phái Hành Sơn, đệ tử vô cùng xấu hổ. May thay có Mạc sư ca chủ trì bổn môn, Lưu Chính Phong này bất tài vô dụng, thì có thêm một Lưu mỗ cũng không phải nhiều, mà bớt đi một Lưu mỗ cũng không phải ít. Từ nay về sau, Lưu mỗ đã rửa tay chậu vàng, chuyên tâm làm quan, quyết không dùng võ nghệ ân sư truyền cho để cầu thăng quan tiến chức; những ân oán thị phi trên giang hồ hoặc tranh chấp môn phái Lưu mỗ quyết không hỏi tới, nếu trái lời thì xin như lưỡi kiếm này.

Lão xoay tay phải rút thanh trường kiếm trong tay áo ra khỏi vỏ, hai tay bẻ “cách” một tiếng, thanh kiếm gãy thành hai đoạn. Lão bẻ trường kiếm rồi thuận tay liệng hai đoạn kiếm xuống thềm, leng keng hai tiếng nhẹ, hai phần kiếm gãy đã cắm hút vào viên gạch xanh.

Quần hùng vô cùng kinh hãi khi nghe tiếng hai đoạn kiếm gãy cắm sâu vào viên gạch xanh. Lưỡi kiếm này hiển nhiên là một loại khí giới nát ngọc tan vàng, Lưu Chính Phong vận kình lực của ngón tay bẻ gãy kiếm không có gì lạ. Đằng này lão bẻ gãy bảo kiếm một cách nhẹ nhàng, không phí một chút sức lực thì công phu nội lực của lão thật là lợi hại, xứng đáng là cao thủ số một về chỉ pháp trong võ lâm.

Văn tiên sinh thở dài nói:

– Đáng tiếc, thật là đáng tiếc!

Chẳng biết Văn tiên sinh tiếc cho lưỡi bảo kiếm hay tiếc cho Lưu Chính Phong, một vị cao thủ lại cam tâm đi làm quan cho hoàng đế.

Lưu Chính Phong vẻ mặt hớn hở, xắn hai tay áo toan nhúng vào chậu vàng. Bỗng nghe có người ngoài cổng lớn lên tiếng:

– Dừng lại! Khoan đã!

Lưu Chính Phong hơi giật mình kinh hãi, ngẩng đầu lên nhìn thấy ngoài cổng lớn có bốn gã hán tử mình mặc áo vàng. Bốn gã vừa vào đến cửa đã chia ra đứng hai bên, lại có một hán tử dáng người rất cao, mình mặc áo vàng hiên ngang đi vào. Trong tay hắn cầm một lá cờ gấm thêu ngũ sắc, trên cờ điểm xuyết đầy trân châu bảo thạch, bay phấp phới phát ra những tia sáng rực rỡ. Rất nhiều người đã nhận ra lá cờ vàng, sợ hãi la lên:

– Cờ lệnh của minh chủ Ngũ Nhạc kiếm phái đã đến!

Gã hán tử cao người đi đến trước mặt Lưu Chính Phong, giơ cờ lên rồi nói:

– Lưu sư thúc, đệ tử phụng mệnh minh chủ cầm cờ lệnh của Ngũ Nhạc kiếm phái đến đây, mong đại lễ rửa tay chậu vàng của Lưu sư thúc tạm thời dừng lại.

Lưu Chính Phong khom người đáp:

– Không biết hiệu lệnh của minh chủ có dụng ý gì?

Gã hán tử đó nói:

– Đệ tử phụng mệnh hành sự, quả thật không biết ý chỉ của minh chủ là gì. Xin Lưu sư thúc thứ tội cho.

Lưu Chính Phong mỉm cười nói:

– Bất tất phải khách khí như vậy. Hiền điệt là Thiên trượng tùng Sử hiền điệt phải không?

Mặt lão tuy lộ vẻ tươi cười nhưng giọng nói run run, rõ ràng chuyện này đến quá đột ngột. Dù lão là người đã cầm kiếm xông pha trăm trận nhưng cũng không tránh khỏi bị chấn động tâm thần.

Gã hán tử đó chính là Thiên trượng tùng Sử Đăng Đạt, đệ tử của phái Tung Sơn. Gã nghe Lưu Chính Phong biết tên tự và ngoại hiệu của mình thì vô cùng đắc ý, khom lưng nói:

– Đệ tử Sử Đăng Đạt xin bái kiến Lưu sư thúc.

Gã bước lên trước vài bước hướng về Thiên Môn đạo nhân, Nhạc Bất Quần, Định Dật sư thái… hành lễ rồi nói:

– Đệ tử môn hạ phái Tung Sơn bái kiến các vị sư bá, sư thúc.

Bốn gã hán tử áo vàng cùng cúi người hành lễ.

Định Dật sư thái rất vui mừng, nghiêng người đáp lễ rồi nói:

– Sư phụ của ngươi đứng ra ngăn cản việc này thật không có gì hay bằng. Theo ta, chúng ta là người học võ, lấy nghĩa hiệp làm trọng, giao du tự tại trên giang hồ, việc gì phải nhọc sức ra làm quan? Nhưng ta thấy Lưu Chính Phong hiền đệ đã an bài tất cả, quyết không thèm nghe lời khuyên của lão ni này nên ta cũng không rườm lời làm gì cho mỏi miệng.

Lưu Chính Phong trịnh trọng nói:

– Năm xưa Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta kết minh, ước định tương trợ, bảo vệ chính khí trong võ lâm, gặp việc có liên quan đến năm phái, mọi người phải nghe theo hiệu lệnh của minh chủ. Lá cờ ngũ sắc này do năm phái cùng chế ra, thấy cờ lệnh như thấy minh chủ, dĩ nhiên là như vậy. Nhưng hôm nay, rửa tay chậu vàng là chuyện riêng của Lưu mỗ, đã không vi phạm quy chế đạo nghĩa của võ lâm, càng không liên can gì đến Ngũ Nhạc kiếm phái, nên không thể nhận sự ràng buộc của cờ lệnh minh chủ. Xin Sử hiền điệt bẩm lại với tôn sư, Lưu mỗ không tuân theo cờ lệnh, mong Tả sư huynh miễn tội cho.

Lão nói xong liền đi về phía chậu vàng.

Sử Đăng Đạt lạng người một cái, vọt lên đứng chắn trước chậu vàng. Tay phải gã giơ cao lá cờ, nói:

– Lưu sư thúc, sư phụ của đệ tử dặn đi dặn lại, cố xin sư thúc hoãn việc rửa tay chậu vàng. Sư phụ của đệ tử nói Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, mọi người vẹn tình huynh đệ. Sư phụ của đệ tử truyền cờ lệnh này là muốn vẹn toàn tình nghĩa của Ngũ Nhạc kiếm phái và cũng vì để duy trì chính khí trong võ lâm, muốn mọi điều tốt đẹp cho sư thúc.

Lưu Chính Phong nói:

– Ta không sao hiểu nổi. Thiệp Lưu mỗ báo tin vui rửa tay gác kiếm đã sớm cung kính phân công người đem đến phái Tung Sơn; ngoài ra Trương Hàm cũng đã bẩm cáo với Tả sư huynh. Nếu như Tả sư huynh thật sự có hảo ý, sao không sớm can ngăn chuyện này? Đến giờ phút này mới phát cờ lệnh ra ngăn cản không phải là muốn ta nói lời rồi lại nuốt lời trước mặt các vị anh hùng trong thiên hạ khiến cho hảo hán trên giang hồ chế nhạo ta ư?

Sử Đăng Đạt nói:

– Sư phụ đệ tử đã dặn dò rằng Lưu sư thúc là hảo hán tử lừng danh của phái Hành Sơn, nghĩa hiệp cao ngất trời xanh, đồng đạo trong võ lâm trước nay đối với Lưu sư thúc rất tôn kính. Sư phụ của đệ tử cũng vô cùng khâm phục, dặn đệ tử vạn vạn lần không được thất lễ, nếu trái lời sẽ trừng trị nghiêm khắc không tha thứ. Đại danh của Lưu sư thúc vang dội khắp giang hồ, về chuyện này sư thúc bất tất phải lo.

Lưu Chính Phong mỉm cười nói:

– Đó là Tả minh chủ quá khen thôi, Lưu mỗ có danh phận gì đâu?

Định Dật sư thái thấy hai người cứ giằng co không dứt khoát, không nhịn được nữa, bèn nói xen vào:

– Lưu hiền đệ, việc này tạm gác lại có sao đâu. Hôm nay mọi người ở đây đều là hảo bằng hữu, thì có ai mà cười sư đệ nữa? Giả sử có một hai kẻ không biết gì, nói lời giễu cợt dù hiền đệ không trách họ nhưng bần ni sẽ không buông tha chúng đâu.

Lưu Chính Phong gật đầu nói:

– Định Dật sư thái cũng nói vậy thì xin hoãn việc rửa tay chậu vàng, đến giờ Ngọ ngày mai sẽ cử hành lại. Xin các vị bằng hữu đừng ai bỏ đi, hãy ở lại Hành Sơn hàn huyên thêm một ngày, chờ tại hạ giải thích tận tường cho các vị hiền điệt phái Tung Sơn rõ.

Lúc này bỗng nghe có tiếng con gái ở hậu đường la lên:

– Úi chao, ngươi làm gì vậy? Ta thích chơi với ai thì mặc kệ ta, ngươi quản được ta à?

Quần hùng sửng sốt vì nghe giọng nói cô ta. Thì ra cô bé này chính là Khúc Phi Yên, ngày hôm qua đã công kích Dư Thương Hải.

Lại nghe tiếng nói của một nam tử:

– Ngươi làm ơn ngồi yên ở đây cho ta nhờ, đừng chạy qua chạy lại lung tung, đợi một chút nữa, ta sẽ thả ngươi đi chơi.

Khúc Phi Yên nói:

– Thật là kỳ cục, đây đâu phải là nhà của ngươi, ta muốn theo Lưu tỷ tỷ đến hậu viên sao ngươi lại cản không cho ta đi?

Người đó nói:

– Thôi được! Ngươi muốn đi thì đi một mình, xin Lưu cô nương nán lại đây một chút.

Khúc Phi Yên nói:

– Lưu tỷ tỷ thấy bộ mặt ngươi là đã phát ghét; ngươi mau tránh xa ra cho ta đi. Lưu tỷ tỷ lại không biết ngươi là ai, ai khiến ngươi ở đây gây rắc rối.

Lại nghe giọng nói một cô gái khác:

– Muội muội, chúng ta đi, đừng lý luận với hắn nữa.

Gã đó nói:

– Lưu cô nương, xin cô nán lại đây một chút.

Lưu Chính Phong càng nghe càng tức mình. Lão nghĩ bụng:

– Tên cuồng đồ to gan nào dám đến phủ ta mà sỗ sàng, lại vô lễ với Tinh nhi của ta?

Đệ tử thứ hai của Lưu môn là Mễ Vi Nghĩa nghe vậy vội chạy ngay vào hậu đường, thấy sư muội và Khúc Phi Yên dắt tay nhau đứng ở trong sân, một gã thanh niên áo vàng giang hai tay ra ngăn chặn hai cô. Mễ Vi Nghĩa vừa thấy sắc phục người đó thì biết ngay là đệ tử phái Tung Sơn. Không dằn được tức giận, hắng giọng một cái rồi lớn tiếng nói:

– Vị sư huynh môn hạ của phái Tung Sơn, sao không vào đại sảnh ngồi chơi?

Gã đó ngạo nghễ nói:

– Không cần đâu. Ta phụng mệnh minh chủ đứng đây canh chừng quyến thuộc của Lưu gia, không cho một người nào trốn thoát.

Câu nói dù thanh âm không lớn nhưng lại kiêu căng khác thường; quần hùng trên đại sảnh đều nghe thấy và biến đổi sắc mặt.

Lưu Chính Phong cả giận, nhìn Sử Đăng Đạt hỏi:

– Các ngươi làm trò gì vậy?

Sử Đăng Đạt nói:

– Vạn sư đệ ra đây đi, ăn nói cẩn thận một chút. Lưu sư thúc đã đồng ý không rửa tay rồi.

Hán tử ở hậu đường đáp:

– Dạ! Vậy thì hay biết mấy.

Gã nói xong, từ hậu đường đi ra, hướng về Lưu Chính Phong khẽ khom lưng nói:

– Đệ tử Vạn Đại Bình, môn hạ phái Tung Sơn, tham kiến Lưu sư thúc.

Lưu Chính Phong giận đến run người, lớn tiếng nói:

– Phái Tung Sơn có bao nhiêu đệ tử đến đây, xin mời ra mặt hết đi!

Lão vừa nói dứt lời, trên nóc nhà, ngoài cổng lớn, trong góc sảnh, trong hậu viện, trước sau trái phải, mấy chục người đồng thanh đáp:

– Đệ tử phái Tung Sơn tham kiến Lưu sư thúc.

Giọng nói của mấy chục người đồng thời cất lên, âm thanh vang dội lại rất bất ngờ khiến quần hùng đều giật mình kinh hãi. Phía trên nóc nhà có hơn mười người mình mặc áo vàng canh giữ.

Những người trong đại sảnh đều ăn mặc đủ kiểu, hiển nhiên là bọn chúng đã sớm trà trộn vào trong hơn một ngàn tân khách ngấm ngầm theo dõi Lưu Chính Phong, nên không ai phát giác được.

Định Dật sư thái là người đầu tiên không kìm được tức giận, lớn tiếng quát:

– Đây… đây là ý đồ gì? Các ngươi khinh người quá lắm!

Sử Đăng Đạt đáp:

– Xin Định Dật sư bá thứ tội cho. Sư phụ đệ tử đã truyền hiệu lệnh dù bất cứ giá nào cũng phải khuyên răn cho được Lưu sư thúc, không thể để Lưu sư thúc rửa tay gác kiếm. Sư phụ sợ Lưu sư thúc không tuân phục hiệu lệnh nên mới đắc tội như vậy.

Tiếp đó, mười mấy người từ hậu đường đi ra, gồm phu nhân của Lưu Chính Phong, hai người con cùng với bảy tên đệ tử của Lưu phủ. Sau lưng mỗi người đều có một tên đệ tử phái Tung Sơn cầm trủy thủ chĩa vào lưng từng người.

Lưu Chính Phong to tiếng nói:

– Thưa các vị bằng hữu, không phải Lưu mỗ tự ý hành động. Hôm nay, Tả sư huynh lại uy hiếp như vậy, nếu Lưu mỗ khuất phục uy lực thì còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Tả sư huynh không cho Lưu mỗ rửa tay gác kiếm, hà hà, Lưu mỗ đầu có thể rơi nhưng ý chí không thể khuất phục.

Lão nói xong bước lên một bước, hai tay toan nhúng vào chậu vàng.

Sử Đăng Đạt liền thét to:

– Dừng lại!

Gã cầm cờ lệnh phất ra, chắn trước mặt lão. Lưu Chính Phong phóng song chỉ, đâm thẳng vào hai mắt của gã. Sử Đăng Đạt giơ tay gạt ra, Lưu Chính Phong rút tay trái lại, song chỉ tay phải lại đâm thẳng vào hai mắt của gã. Sử Đăng Đạt không sao đỡ được đành phải thối lui. Lưu Chính Phong bức gã phải lùi lại, hai tay tiếp tục nhúng xuống chậu vàng. Bỗng nghe sau lưng có tiếng gió, có hai người xông đến. Lưu Chính Phong vẫn không quay đầu lại, chân trái đá ngược về sau.

Bốp một tiếng, một tên đệ tử phái Tung Sơn đã bị đá văng xa ra. Tay phải của lão chụp ngực của một tên đệ tử khác của phái Tung Sơn rồi thuận thế nhấc bổng lên ném về hướng Sử Đăng Đạt. Chân trái lão phản cước, tay phải chụp lấy người, hai động tác này diễn ra chỉ trong nháy mắt, vị trí chuẩn xác, động tác lại nhanh nhẹn, lão đích thực là một nội gia cao thủ phi thường.

Bọn đệ tử phái Tung Sơn sửng sốt, nhất thời không ai dám tiến lên. Tên đệ tử phái Tung Sơn đứng phía sau con trai của lão la lên:

– Lưu sư thúc, nếu sư thúc không dừng tay, đệ tử sẽ giết công tử của sư thúc ngay.

Lưu Chính Phong quay đầu lại liếc nhìn con trai rồi lạnh lùng nói:

– Anh hùng thiên hạ ở đây, ngươi dám to gan đụng đến một cọng lông của hài nhi ta thì mấy chục tên đệ tử phái Tung Sơn các ngươi sẽ bị băm nát như tương.

Lão nói lời này không phải chỉ là lời hăm dọa. Nếu bọn đệ tử phái Tung Sơn thực sự làm tổn thương đến con trai của lão thì nhất định sẽ gây nên sự công phẫn; quần hùng sẽ nổi lên đánh lại thì bọn đệ tử phái Tung Sơn khó mà chạy thoát. Lão quay người, hai tay đưa về phía chậu vàng, những tưởng lần này không ai có thể cản ngăn. Bỗng nhiên, lóe sáng một cái, một ám khí nhỏ xíu bay vút đến. Lưu Chính Phong lùi hai bước, chỉ nghe keng một tiếng nhỏ, ám khí đã đánh vào thành chậu vàng. Chiếc chậu vàng bị nghiêng rồi đổ lật úp xuống đất, nước chảy ra lênh láng.

Trên nóc nhà thấp thoáng một cái bóng vàng, một người nhảy xuống, giơ chân phải đạp lên chiếc chậu khiến chậu vàng bẹp dí. Gã này khoảng bốn mươi tuổi, dáng người tầm thước, thân thể gầy đét, hai chòm râu trên môi như râu chuột, cung tay nói:

– Lưu sư huynh; tiểu đệ phụng mệnh minh chủ không cho sư huynh rửa tay gác kiếm!

Lưu Chính Phong nhận ra gã này là tứ sư đệ Phí Bân của Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Y là một cao thủ nổi danh trong võ lâm, có ngoại hi ệu là Đại tung dương thủ. Lưu Chính Phong biết trong tình hình này, phái Tung Sơn trước sau gì cũng đối phó với lão, không chỉ riêng gì gã đệ tứ đại đệ tử này. Chậu vàng đã bị hắn đạp dẹp, việc rửa tay gác kiếm không thể cử hành được nữa. Trước mắt chỉ có hai con đường là tận lực chiến đấu hay cam chịu nhẫn nhục. Lão lại nghĩ: phái Tung Sơn đang nắm giữ Ngũ Nhạc minh kỳ. Bọn chúng uy hiếp người như vậy, lẽ nào hơn một ngàn anh hùng hảo hán ở đây lại không ai đứng lên nói được một câu công bằng?

Lão cung tay đáp lễ, nói:

– Phí sư huynh đến đây sao không uống một bát rượu nhạt mà lại núp trên nóc nhà để phải khổ vì trời nắng thế này? Phái Tung Sơn đã đưa nhiều cao thủ bậc nhất khác đến đây, xin mời hiện thân hết đi. Nếu đối phó với Lưu mỗ thì một mình Phí sư huynh cũng đã thừa sức rồi; còn nếu muốn đối phó với các anh hùng hào kiệt ở đây thì e rằng phái Tung Sơn không đủ sức đâu.

Phí Bân mỉm cười nói:

– Lưu sư huynh sao lại nói ra những lời khiêu khích dễ xa nhau như vậy? Cứ coi như tại hạ là địch thủ của Lưu sư huynh, tại hạ cũng không chống lại được một chiêu Tiểu lạc nhạn thức vừa rồi của Lưu sư huynh. Phái Tung Sơn quyết không dám gây hấn với các vị anh hùng hảo hán ở đây, thậm chí ngay cả Lưu sư huynh cũng không dám đắc tội. Nhưng chỉ vì tính mệnh thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm nên tại hạ cầu mong Lưu sư huynh không nên rửa tay gác kiếm.

Gã vừa nói xong, tất cả quần hùng trên sảnh đều kinh ngạc, nghĩ thầm: Lưu Chính Phong có rửa tay gác kiếm hay không thì tại sao lại có liên can đến tính mệnh của các thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm?

Lưu Chính Phong đáp:

– Phí sư huynh nói như vậy, chẳng phải là đã quá đề cao tiểu đệ ư? Lưu mỗ chỉ là một kẻ tầm thường trong phái Hành Sơn, con cái còn nhỏ, môn hạ cũng chỉ thu được tám chín tên đệ tử không thành tài, thực sự không đủ để đánh giá hơn thua. Nhất cử nhất động của Lưu mỗ làm sao có thể liên quan đến tính mệnh thân gia và hàng vạn đồng đạo trong võ lâm?

Định Dật sư thái nói xen vào:

– Đúng vậy! Lưu hiền đệ rửa tay gác kiếm để đi làm một chức quan nhỏ như hạt đậu, thực sự mà nói, bần ni cũng thấy rất uổng phí. Nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, hiền đệ muốn thăng quan phát tài, chỉ cần không làm hại đến trăm họ, không làm bại hoại nghĩa khí đồng đạo võ lâm thì người ngoài cũng không thể cản trở được. Ta thấy Lưu hiền đệ cũng không có bản lĩnh to tát để có thể làm hại nhiều đồng đạo trong võ lâm.

Phí Bân nói:

– Định Dật sư thái, sư thái là người tu hành trong Phật môn tất nhiên không hiểu rõ được mánh lới ma giáo của người khác. Nếu cái mưu đồ lớn lao này mà trót lọt, không những đồng đạo trong võ lâm bị hại vô số kể mà trăm họ lương thiện trong thiên hạ còn bị vạ lây. Xin các vị nghĩ xem, Lưu tam gia phái Hành Sơn là một bậc anh hùng hào kiệt lừng danh trên giang hồ, tại sao có thể cam tâm hạ mình đi làm một cẩu quan hẹp hòi bẩn thỉu như vậy? Gia sản của Lưu tam gia lắm của nhiều tiền, còn muốn thăng quan phát tài nữa làm gì? Trong chuyện này, tất còn có nguyên nhân không thể nói cho người khác biết được.

Quần hùng nghĩ bụng: Gã nói cũng có lý. Ta đã sớm hoài nghi một con người như Lưu Chính Phong lại đi làm chức quan võ nhỏ bé như vậy thật là chẳng ra trò trống gì cả.

Lưu Chính Phong chẳng những không giận mà còn cười, nói:

– Phí sư huynh, sư huynh muốn ngậm máu phun người cũng nên xem lời nói có đúng vậy không. Các vị sư huynh khác của phái Tung Sơn xin mời hiện thân ra đi.

Chỉ nghe phía Đông, phía Tây, trên nóc nhà đồng loạt có tiếng người đáp:

– Được!

Hai cái bóng vàng thoáng qua, hai người đã đứng trước cửa sảnh đường, công phu khinh thân của họ cũng giống như Phí Bân nhảy xuống vừa rồi. Gã đứng phía Đông là một người mập mạp, cao to bệ vệ. Bọn Định Dật sư thái nhận ra gã là nhị sư đệ Thác tháp thủ Đinh Miễn của chưởng môn nhân phái Tung Sơn. Gã đứng phía Tây gầy nhom như cây tre là Tiên hạc thủ Lục Bách, ngồi ghế thứ ba trong phái Tung Sơn. Hai người cùng cung tay nói:

– Xin chào Lưu tam gia, xin chào các vị anh hùng.

Hai gã Đinh Miễn và Lục Bách trong võ lâm uy danh vang lừng, quần hùng đều đứng dậy đáp lễ. Họ thấy các tay cao thủ của phái Tung Sơn lần lượt đến thì trong lòng ngấm ngầm lo ngại, biết chuyện hôm nay không dễ gì êm xuôi được, chỉ sợ Lưu Chính Phong khó lòng tránh khỏi thất bại.

Định Dật sư thái nói với giọng tức giận:

– Lưu hiền đệ, hiền đệ không cần phải sợ hãi. Chuyện thiên hạ không thể qua được chữ “lý”, đừng nhìn người ta có thế đông người mà sợ. Lẽ nào bằng hữu các phái Thái Sơn, Hoa Sơn, Hằng Sơn đến đây lại để mặc ai muốn làm gì thì làm sao?

Lưu Chính Phong cười với vẻ khổ não, nói:

– Định Dật sư thái, chuyện này vốn là chuyện của phái Hành Sơn, nói ra thật xấu hổ, lại làm cho các vị bằng hữu phải bận tâm. Bây giờ, Lưu mỗ đã hiểu rồi. Chắc là Mạc Đại sư ca của Lưu mỗ đã đưa cáo trạng lên Tả minh chủ phái Tung Sơn, nói Lưu mỗ làm nhiều chuyện không hay không phải, để các huynh đệ phái Tung Sơn đến đây hỏi tội. Được lắm, được lắm, Lưu mỗ thất lễ nhiều với Mạc sư ca, để Lưu mỗ nhận tội với Mạc sư ca là xong.

Phí Bân đưa mắt đảo khắp đại sảnh một lượt, ánh mắt của gã tạo thành một làn tinh quang sáng chói, rõ ràng là nội công rất thâm hậu. Gã nói:

– Việc này tại sao lại có liên quan đến Mạc Đại tiên sinh? Xin mời Mạc Đại tiên sinh ra đây để cho mọi người hiểu rõ.

Gã nói mấy câu này xong, đại sảnh lặng yên như tờ, một lúc sau cũng không thấy Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh xuất hiện.

Lưu Chính Phong cười nhăn nhó nói:

– Sư huynh sư đệ Lưu mỗ bất hòa, các vị bằng hữu trong võ lâm đều biết rồi thì cũng không nên giấu giếm làm chi nữa. Tiểu đệ nhờ di sản của tiền nhân để lại, nên trong phủ tương đối sung túc, còn Mạc sư huynh thì gia cảnh lại bần hàn. Đã là bằng hữu với nhau thì tiền tài là chuyện bình thường, huống hồ lại là sư huynh sư đệ? Nhưng Mạc sư ca lại tỵ hiềm điều này, tuyệt đối không bước chân đến nhà tiểu đệ. Sư huynh sư đệ Lưu mỗ đã nhiều năm không qua lại, không gặp nhau thì hôm nay Mạc sư ca dĩ nhiên không quang lâm rồi. Lòng Lưu mỗ không phục ở chỗ là Tả minh chủ chỉ nghe lời nói một bên của Mạc sư ca mà phái nhiều vị sư huynh đến để đối phó với tiểu đệ; ngay cả hiền thê và nhi tử của Lưu mỗ cũng đều trở thành tù nhân dưới thềm kia. Vậy… vậy đây không phải là chuyện nhỏ mà xé ra to ư?

Hồi 25: Vì tình bạn, toàn gia bị giết

Phí Bân nhìn Sử Đăng Đạt nói:

– Giơ cao cờ lệnh lên!

Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi giơ cao cờ lệnh đi đến đứng bên cạnh Phí Bân. Phí Bân nghiêm nghị nói:

– Lưu sư huynh, chuyện hôm nay không có liên can gì đến Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn; sư huynh không nên kéo Mạc Đại tiên sinh vào. Tả minh chủ dặn dò bọn tiểu đệ đến điều tra để biết giữa Lưu sư huynh và Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại có ngấm ngầm câu kết với nhau không, có bày ra âm mưu gì để đối phó với Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta cũng như với các chính phái đồng đạo võ lâm không?

Gã vừa nói xong, quần hùng đều sửng sốt biến sắc, không ít người có ý sợ hãi la thầm trong bụng. Ma giáo và anh hùng trong bạch đạo xưa nay không đội trời chung với nhau, hai bên đã kết oán thù mấy trăm năm, những chuyện tranh đấu với nhau diễn ra không ngừng và mỗi bên đều có thắng có bại. Có thể nói ít nhất trong hơn một ngàn người trên đại sảnh thì một nửa đã bị bọn Ma giáo làm hại; có người phụ huynh bị giết, có người sư trưởng bị hại, nên vừa nghe đề cập đến hai chữ “Ma giáo”, ai ai cũng nghiến răng căm phẫn. Ngũ Nhạc kiếm phái kết minh với nhau mục đích lớn nhất cũng là để đối phó với bọn Ma giáo. Ma giáo thế mạnh người đông, võ công cao cường; các danh môn chính phái tuy mỗi phái đều có võ nghệ tuyệt luân nhưng cũng không phải là đối thủ của họ. Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại được tôn xưng là cao thủ đệ nhất đương thời, tên của lão gọi là Bất Bại bởi vì từ khi luyện thành tuyệt nghệ đến nay, lão chưa hề thất bại lần nào. Lão thật là một nhân vật phi thường. Quần hùng nghe Phí Bân chỉ trích Lưu Chính Phong cấu kết với Ma giáo, chuyện này xác thực có liên quan đến tính mệnh thân gia của mọi người, sự đồng cảm trước đây với Lưu Chính Phong bây giờ tiêu tan hết.

Lưu Chính Phong nói:

– Lưu mỗ chưa từng gặp qua Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại; cái gọi là cấu kết, âm mưu từ đâu mà có?

Phí Bân nghiêng đầu nhìn tam sư huynh Lục Bách, chờ gã nói. Lục Bách chậm rãi nói:

– Lưu sư huynh, lời huynh nói vừa rồi e rằng không được thành thật. Trong Ma giáo có một người hộ pháp trưởng lão tên là Khúc Dương, không hiểu Lưu sư huynh có quen biết lão hay không?

Lưu Chính Phong vốn là người rất bình tĩnh nhưng khi nghe gã đề cập đến hai chữ “Khúc Dương” lập tức biến sắc. Lão mím chặt môi, không đáp.

Gã mập Đinh Miễn từ lúc vào đại sảnh chưa nói câu nào, lúc này bỗng dưng lớn tiếng hỏi:

– Lưu sư huynh có quen Khúc Dương không?

Giọng nói của lão vang dội như bảy tám người cùng nói ra một lúc khiến mọi người ù cả tai. Gã đứng trân không nhúc nhích; thân người gã vốn đã cao to vạm vỡ kỳ lạ, bây giờ mở miệng nói ra, trong mắt mọi người dường như gã bỗng nhiên cao to hơn một thước, uy mãnh phi thường không thể tả xiết.

Lưu Chính Phong vẫn chưa đáp, hơn một ngàn người đưa mắt chăm chú nhìn vào mặt lão. Mọi người đều cho rằng Lưu Chính Phong trả lời hay không cũng như nhau, lão không nói ra tức là đã mặc nhiên thừa nhận rồi. Một lúc lâu sau, Lưu Chính Phong gật đầu đáp:

– Đúng vậy! Khúc Dương đại ca với Lưu mỗ không những quen biết mà còn là hảo bằng hữu, là tri kỷ duy nhất trong đời Lưu mỗ.

Đại sảnh nhốn nháo cả lên, quần hùng bàn tán xôn xao vì câu nói của Lưu Chính Phong vượt ra ngoài dự đoán của họ. Mọi người cứ nghĩ là nếu lão thừa nhận thì chỉ thừa nhận đã cùng với Khúc Dương có chuyện gặp nhau một lần, không ngờ lão lại nói Ma giáo trưởng lão là hảo bằng hữu, tri âm tri kỷ của lão.

Khuôn mặt Phí Bân lộ ra vẻ hớn hở, nói:

– Lưu sư huynh đã thừa nhận như vậy thì hay lắm. Bậc đại trượng phu mình làm mình chịu. Lưu sư huynh, Tả minh chủ đã vạch ra hai con đường để sư huynh lựa chọn.

Lưu Chính Phong hình như không nghe lời nói của Phí Bân, thần sắc lão vẫn điềm nhiên. Lão từ từ ngồi xuống, tay phải nhấc hũ rượu rót đầy một bát rồi đưa lên miệng chầm chậm uống cạn, tay áo không một chút rung động, đủ biết định lực của lão vô cùng cao thâm, giữa lúc khẩn cấp nghiêm trọng mà vẫn thản nhiên như không có gì xảy ra. Bản sắc và võ công của lão đã đạt đến mức thượng thừa; cả hai điều này mà khuyết một cũng không được. Mọi người càng ngấm ngầm bội phục.

Phí Bân dõng dạc nói:

– Tả minh chủ nói: Lưu Chính Phong là nhân tài hiếm có trong phái Hành Sơn, nhất thời sai lầm đi vào đường rẽ kết giao với người của tà giáo. Nếu lão có thể tự ăn năn hối cải thì ta là một hảo bằng hữu trong chánh giáo, sao không mở ra cho lão một con đường mới để quay về chánh nghĩa? Tả minh chủ dặn dò huynh đệ chuyển lời đến Lưu sư huynh như vậy. Nếu sư huynh chấp nhận con đường này, minh chủ hạn định cho Lưu sư huynh trong vòng một tháng phải giết chết Ma giáo trưởng lão Khúc Dương mang đầu về nộp thì những chuyện lầm lỡ không cần truy cứu nữa. Từ nay mọi người vẫn là hảo bằng hữu, hảo huynh đệ của nhau.

Quần hùng nghĩ bụng: Hai phe chính tà không thể đội trời chung với nhau; bọn bàng môn tả đạo của Ma giáo và các nhân vật trong chính giáo hễ gặp mặt nhau thì phải kẻ sống người chết. Tả minh chủ buộc Lưu Chính Phong phải giết Khúc Dương để tự chứng minh mình trong sạch thì yêu cầu này cũng không có gì là quá đáng.

Nét mặt Lưu Chính Phong thoáng một nụ cười thê lương. Lão nói:

– Khúc đại ca và Lưu mỗ vừa gặp nhau đã là cố nhân, dốc hết tâm sự cùng kết giao với nhau. Lão và Lưu mỗ đã gặp nhau hơn mười lần, ngẫu nhiên đề cập đến sự khác biệt về cái nhìn của các tông phái môn hộ, Khúc đại ca thở dài, cho rằng hai bên tranh đấu như vậy thật là vô vị. Lưu mỗ và Khúc đại ca kết giao với nhau chỉ để nghiên cứu thảo luận âm luật. Đại ca là cao thủ thất huyền cầm, tại hạ say mê thổi sáo; cả hai gặp nhau, phần lớn thời gian dành cho việc hợp tấu đàn sáo, trước nay không hề bàn bạc gì đến chuyện võ công.

Lão nói đến đây, tủm tỉm cười rồi nói tiếp:

– Các vị không tin thì thôi chứ trên thế gian này, Lưu Chính Phong cho là đánh đàn thì không ai bằng Khúc đại ca, mà thổi sáo thì Lưu mỗ cũng không chịu đứng vào hàng thứ hai. Khúc đại ca tuy là người trong Ma giáo nhưng qua tiếng đàn của đại ca, Lưu mỗ đã ngầm biết được tính khí cao khiết của đại ca, xứng đáng là bạn của trăng thanh gió mát. Lưu Chính Phong này đối với đại ca không những đã khâm phục mà còn ngưỡng mộ. Lưu mỗ tuy là kẻ thất phu quê mùa cũng quyết không thể làm hại người quân tử.

Quần hùng càng nghe càng lấy làm lạ, không thể tin được rằng lão và Khúc Dương lại kết giao với nhau qua tiếng đàn điệu sáo. Nhưng nghe lão nói rất thành khẩn, tuyệt không có một chút gì giả dối, thì họ cho rằng trên giang hồ có rất nhiều kẻ sĩ làm nhiều chuyện đặc biệt. Trước nay, thanh sắc khiến con người mê đắm nên chuyện Lưu Chính Phong đam mê âm nhạc cũng là chuyện bình thường. Những người biết rõ nội tình của phái Hành Sơn lại nghĩ: Cao thủ nhiều đời của phái Hành Sơn đều say mê âm nhạc, đương kim chưởng môn nhân Mạc Đại tiên sinh có ngoại hiệu là Tiêu Tương dạ vũ, cây hồ cầm không rời khỏi tay, giang hồ đã có tám chữ “Cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm”. Lưu Chính Phong do mê thổi sáo mà kết giao với Khúc Dương là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra.

Phí Bân nói:

– Tả minh chủ đã biết rõ Lưu sư huynh và Khúc ma đầu do âm luật mà kết giao với nhau. Tả minh chủ nói: “Lòng dạ Ma giáo ác độc khôn lường, chúng biết Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta những năm gần đây rất hưng vượng, khó mà đối kháng được nên chúng dùng trăm phương ngàn kế để phá ngay từ trong nội bộ chúng ta, gây nên sự ly gián. Chúng không từ một mặt nào hết, hoặc dùng tiền bạc, hoặc dùng mỹ sắc. Lưu sư huynh vốn là người giữ mình nghiêm cẩn, hai mặt này không phải là sở thích của Lưu sư huynh, nên chúng phái Khúc Dương là một tay giỏi âm luật đến kết bạn. Lưu sư huynh, cái đầu của Lưu sư huynh nên tỉnh táo một chút. Trước đây, Ma giáo đã giết hại quá nhiều người của chúng ta, sao Lưu sư huynh bị bọn chúng dùng mánh lới mê hoặc mà không có một chút tỉnh ngộ?

Định Dật sư thái nói:

– Phải rồi, những lời của Phí sư đệ rất đúng đắn. Ma giáo thật là đáng sợ, võ công không những âm độc mà còn trùng trùng quỷ kế khiến người ta không biết đâu mà đề phòng. Lưu sư đệ, sư đệ là bậc chính nhân quân tử, còn hắn là tên tiểu nhân đê hèn thì làm sao có thể kết bạn với nhau được? Sư đệ hãy mau chém chết tên Khúc Dương ma đầu kia thì mọi chuyện sẽ rõ ràng ngay. Ngũ Nhạc kiếm phái ta đồng khí liên chi, không thể để bị người của Ma giáo gây ra sự xích mích làm tổn thương đến nghĩa khí của đồng đạo.

Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:

– Lưu sư đệ, người quân tử có lỗi cũng như mặt trăng mặt trời tạm thời bị mây che khuất; ai ai cũng biết có lỗi thì có thể sửa không phải là điều tốt lành sao? Sư đệ nên giết lão ma đầu họ Khúc kia, người trong chính giáo ai cũng sẽ giơ ngón tay cái mà khen: “Lưu Chính Phong phái Hành Sơn quả nhiên là một hảo hán tử thiện ác phân minh”. Chúng ta là bằng hữu với hiền đệ cũng cảm thấy hãnh diện.

Lưu Chính Phong không đáp, hướng mắt về Nhạc Bất Quần hỏi:

– Nhạc sư huynh, sư huynh là bậc quân tử hiểu rõ điều phải trái, ở đây có nhiều vị cao thủ võ lâm đều ép tiểu đệ bán đứng bằng hữu, Nhạc sư huynh nghĩ sao?

Nhạc Bất Quần nói:

– Lưu hiền đệ, nếu đích thực là bằng hữu thì bọn người trong võ lâm có vì bằng hữu mà bị đao xuyên vào xương sườn cũng không chau mày. Có điều lão họ Khúc trong Ma giáo hiển nhiên là “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không đao”. Lão tìm mọi cách để kết giao với hiền đệ thật là hiểm độc vô cùng. Mục đích của lão là hại Lưu hiền đệ phải thân bại danh liệt, tan cửa nát nhà, tâm địa lão độc ác không sao nói hết được. Hạng người này mà cũng gọi là bằng hữu, há không phải là làm ô nhục hai chữ “bằng hữu” ư? Cổ nhân vì đại nghĩa mà giết cả người thân; người thân có thể giết đi, huống hồ đại ma đầu, đại gian tặc? Loại người này không thể xem là bằng hữu được.

Quần hùng nghe Nhạc Bất Quần nói dõng dạc như vậy liền bàn tán nhao nhao cả lên:

– Lời nói của Nhạc tiên sinh thật là minh bạch. Đối với bằng hữu tất nhiên phải có nghĩa khí, đối với kẻ địch thì phải tru diệt tận gốc, cần chi nói đến nghĩa khí nữa.

Lưu Chính Phong thở dài, đợi cho tiếng người lắng dịu xuống rồi mới chậm rãi nói:

– Lúc đầu Lưu mỗ và Khúc đại ca kết giao với nhau đã đoán được chuyện xảy ra ngày hôm nay. Gần đây ngấm ngầm theo dõi tình thế, Lưu mỗ đoán được không bao lâu nữa, giữa Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta và Ma giáo sẽ có một trận tranh đấu khốc liệt. Một bên là sư huynh đệ đồng minh, một bên là bằng hữu chi giao, Lưu mỗ không thể đứng về bên nào cho nên mới nghĩ ra kế sách rửa tay gác kiếm để muốn nói với đồng đạo thiên hạ rằng Lưu mỗ từ nay rút khỏi võ lâm, đặt mình ra ngoài mọi chuyện, không muốn nghe đến ân oán giết hại trên giang hồ. Chấp nhận một chức quan võ nhỏ bé như hạt mè hạt đậu, Lưu mỗ biết là đã tự làm hoen ố mình để che tai mắt của người. Nào ngờ Tả minh chủ thần thông quảng đại, nước cờ của Lưu mỗ không qua được mắt minh chủ.

Quần hùng nghe lão nói vậy mới hiểu ra, nghĩ bụng: Thì ra lão rửa tay gác kiếm vì đã ngấm ngầm có thâm ý này. Bọn ta trước đây không hiểu tại sao một cao thủ của phái Hành Sơn lại cam tâm đi làm một chức quan nhỏ xíu. Lời Lưu Chính Phong giải thích thêm khiến mọi người đều tự hào mình đã sáng suốt nhận định đúng.

Phí Bân, Đinh Miễn và Lục Bách ba người đưa mắt nhìn nhau, ra chiều đắc ý, nghĩ: Nếu không phải Tả minh chủ khám phá ra gian kế của lão để kịp thời cản ngăn, thì lão đã đạt được mục đích rồi.

Lưu Chính Phong nói tiếp:

– Ma giáo và chánh giáo chúng ta đã hơn một trăm năm tranh đấu tàn sát nhau; phải trái, đúng sai nhất thời không nói hết được. Lưu mỗ chỉ mong muốn rút khỏi những cuộc ác đấu gió tanh mưa máu, từ đây quy ẩn chốn lâm tuyền, thổi sáo dạy con, làm một lương dân an phận thủ thường. Lưu mỗ cho rằng tâm nguyện này chẳng có gì vi phạm đến quy củ của bổn môn và minh ước của Ngũ Nhạc kiếm phái.

Phí Bân cười nhạt nói:

– Nếu ai ai cũng giống như Lưu sư huynh, lúc nguy nan lâm trận đều bỏ trốn, há không phải để bọn Ma giáo tự do hoành hành trên giang hồ, làm hại nhân gian ư? Lưu sư huynh muốn đặt mình ra ngoài vòng phiền lụy, quyết không nhúng tay vào, nhưng Khúc ma đầu kia có chịu đặt mình ra ngoài vòng phiền lụy không?

Lưu Chính Phong mỉm cười đáp:

– Khúc đại ca đã sớm nói cho Lưu mỗ biết rằng đại ca đã lập lời trọng thệ trước Ma giáo tổ sư gia, từ nay về sau bất luận Ma giáo và bạch đạo có cuộc tranh đấu thế nào đi nữa thì Khúc đại ca nhất định đặt mình ra ngoài, quyết không nhúng tay vào. Người đã không xúc phạm ta thì ta cũng không xúc phạm người.

Phí Bân cười nhạt nói:

– Hay cho câu “Người đã không xúc phạm ta thì ta cũng không xúc phạm người”! Nếu người trong bạch đạo chúng ta muốn xúc phạm hắn thì Lưu sư huynh nghĩ sao?

Lưu Chính Phong đáp:

– Khúc đại ca đã nói rằng: Đại ca hết sức nhân nhượng, quyết không cùng người tranh thắng, gắng sức điều giải mối hiềm khích giữa đôi bên. Sáng sớm hôm nay, đại ca còn phái người đến báo tin cho Lưu mỗ hay rằng Lệnh Hồ Xung, đệ tử của phái Hoa Sơn vì cứu người mà bị thương nguy cấp đến tính mạng, đã được đại ca ra tay cứu sống.

Lưu Chính Phong vừa nói xong, quần hùng đều kinh ngạc, nhất là bọn người phái Hoa Sơn, phái Hằng Sơn và phái Thanh Thành. Họ chụm đầu kề tai bàn tán. Nhạc Linh San phái Hoa Sơn không nhịn được, bèn hỏi:

– Lưu sư thúc, đại sư ca của đệ tử bây giờ ở đâu? Có thật là… tiền bối… tiền bối họ Khúc đã cứu tính mạng của đại ca không?

Lưu Chính Phong đáp:

– Khúc đại ca đã nói như vậy chắc không phải là giả dối. Sau này gặp Lệnh Hồ hiền điệt, ngươi có thể trực tiếp hỏi hắn thì sẽ biết.

Phí Bân cười khẩy, nói:

– Điều đó có gì kỳ lạ đâu? Người trong Ma giáo đã tìm cách ly gián, thủ đoạn nào mà bọn chúng không dùng đến? Hắn đã tìm trăm phương ngàn kế để lôi kéo Lưu sư huynh thì tất nhiên hắn sẽ tìm trăm phương ngàn kế để lôi kéo đệ tử phái Hoa Sơn. Nói không chừng, Lệnh Hồ Xung do điều này mà đem lòng cảm kích, muốn báo đáp ơn cứu mạng của hắn, trong Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta lại có thêm một tên phản đồ.

Gã nói xong, quay sang Nhạc Bất Quần nói:

– Nhạc sư huynh, tiểu đệ nói như vậy chỉ là ví dụ, xin sư huynh đừng trách!

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Ta không trách sư đệ đâu!

Lưu Chính Phong giương cặp lông mày lên, ngang nhiên hỏi:

– Phí sư huynh, sư huynh nói “lại có thêm một tên phản đồ”, chữ “lại” là có dụng ý gì?

Phí Bân cười nhạt nói:

– Có tật thì giật mình, Lưu sư huynh đã biết rồi, hà tất phải hỏi làm chi?

Lưu Chính Phong nói:

– Hừ, Phí sư huynh chỉ thẳng Lưu mỗ ta là kẻ phản đồ của bổn phái. Lưu mỗ kết giao bằng hữu là chuyện riêng tư của Lưu mỗ, người ngoài không can thiệp vào được. Lưu Chính Phong không khi sư diệt tổ, bội phản phái Hành Sơn thì hai chữ “phản đồ” xin gói lại kính hoàn cho sư huynh.

Lưu Chính Phong vốn là người ôn tồn lễ độ như một lão nhà giàu quê mùa, vừa có tính khí của một bá hộ, lại có một chút sĩ khí. Nhưng lúc này hào khí của lão bỗng nhiên tràn trề, khác hẳn lúc bình thường. Quần hùng thấy lão ở vào tình thế vô cùng bất lợi mà vẫn biện luận sắc bén, đấu lý với Phí Bân không chịu nhường một câu đều thầm khâm phục sự gan dạ của lão.

Phí Bân nói:

– Nếu nói như vậy có nghĩa là Lưu sư huynh không chịu con đường thứ nhất, không chịu trừ gian diệt tà, giết tên đại ma đầu Khúc Dương sao?

Lưu Chính Phong đáp:

– Nếu Tả minh chủ đã có hiệu lệnh thì Phí sư huynh có thể động thủ ngay bây giờ, giết toàn gia của Lưu mỗ đi!

Phí Bân nói:

– Lưu sư huynh không nên ỷ mình thế mạnh mà không sợ. Sư huynh tưởng anh hùng hảo hán trong thiên hạ đang làm tân khách trong Lưu phủ thì Ngũ Nhạc kiếm phái của ta phải úy kỵ, không thể thanh lý môn hộ chăng?

Lão vừa nói dứt lời liền vẫy tay cho Sử Đăng Đạt rồi nói:

– Ngươi lại đây!

Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi tiến lên ba bước. Phí Bân đón lấy cờ lệnh Ngũ Nhạc kiếm phái, giơ cao lên nói:

– Lưu Chính Phong nghe đây! Tả minh chủ có lệnh: nếu trong vòng một tháng mà ngươi không giết Khúc Dương thì Ngũ Nhạc kiếm phái đành phải lập tức thanh lý môn hộ để tránh hậu hoạn. Diệt cỏ phải diệt tận gốc quyết không dung tình. Ngươi nghĩ kỹ đi.

Lưu Chính Phong cười đau đớn nói:

– Lưu mỗ kết giao bằng hữu, quý ở chỗ chân thành với nhau, sao có thể giết hại bằng hữu để giữ thân mình được? Tả minh chủ đã không lượng thứ cho, Lưu Chính Phong này thế cô lực bạc làm sao có thể chống chọi với Tả minh chủ được? Phái Tung Sơn của sư huynh đã sớm bố trí tất cả rồi, e rằng ngay cả quan tài của Lưu mỗ cũng đã mua giùm. Phí huynh muốn động thủ thì động thủ ngay đi, còn đợi gì nữa?

Phí Bân phất cờ lớn tiếng nói:

– Thiên Môn sư huynh phái Thái Sơn, Nhạc sư huynh phái Hoa Sơn, Định Dật sư thái phái Hằng Sơn, các vị sư huynh sư điệt phái Hành Sơn! Tả minh chủ có dặn: Trước nay chính tà không thể cùng sống chung; Ma giáo và Ngũ Nhạc kiếm phái thù sâu như biển. Lưu Chính Phong kết giao tà giáo, chạy sang hàng ngũ kẻ địch, Ngũ Nhạc đồng môn ta phải ra tay trừ khử. Ai tuân lệnh xin đứng qua mé trái!

Thiên Môn đạo nhân đứng dậy, rảo bước sang mé trái, không liếc nhìn Lưu Chính Phong. Sư phụ của Thiên Môn đạo nhân năm xưa mất mạng trong tay của m ột nữ trưởng lão Ma giáo nên lão căm giận Ma giáo đến tận xương tủy. Lão vừa đi sang mé trái thì các đệ tử môn hạ cũng đi qua theo.

Nhạc Bất Quần cũng đứng dậy nói:

– Lưu hiền đệ, hiền đệ chỉ cần gật đầu một cái, Nhạc Bất Quần này sẽ vì hiền đệ lo liệu việc Khúc Dương được chăng? Hiền đệ nói đại trượng phu không thể đắc tội với bằng hữu, lẽ nào trong thiên hạ này chỉ có một mình Khúc Dương mới là bằng hữu của hiền đệ? Ngũ Nhạc kiếm phái chúng ta và nhiều vị anh hùng hảo hán có mặt ở đây đều không phải là bằng hữu của hiền đệ sao? Hơn một ngàn đồng đạo võ lâm nghe tin hiền đệ rửa tay gác kiếm đều vượt ngàn dặm đến đây, thành ý chúc mừng hiền đệ, coi như đã là mối tình giao hảo rồi. Lẽ nào tính mạng của cả nhà hiền đệ, ân nghĩa sư hữu của Ngũ Nhạc kiếm phái, mối giao tình của hơn một ngàn đồng đạo võ lâm góp lại cũng không bằng một lão Khúc Dương kia?

Lưu Chính Phong lắc đầu đáp:

– Nhạc sư huynh, sư huynh là người học nhiều, hiểu rộng, biết có những điều mà bậc trượng phu không thể làm được. Lưu mỗ cảm kích vô cùng trước những lời khuyên chân thành của sư huynh. Người ta bức bách Lưu mỗ phải sát hại Khúc Dương, Lưu mỗ vạn vạn lần không thể nào làm việc ấy. Giả sử nếu có người bức bách Lưu mỗ phải giết Nhạc sư huynh hay bất kỳ một vị bằng hữu nào ở đây thì dù cho toàn gia gặp nạn, Lưu mỗ cũng quyết không gật đầu. Khúc đại ca là bạn tri âm tri kỷ là điều chắc chắn rồi, cũng như Nhạc sư huynh là hảo bằng hữu của Lưu mỗ. Nếu Khúc đại ca nói một câu muốn ám hại một vị bằng hữu nào của Lưu mỗ trong Ngũ Nhạc kiếm phái thì Lưu mỗ sẽ khinh bỉ con người của đại ca và quyết không làm bằng hữu với đại ca nữa.

Lời nói của Lưu Chính Phong vô cùng thành khẩn khiến quần hùng không khỏi cảm động. Võ lâm lấy nghĩa khí làm trọng; Lưu Chính Phong cố bảo toàn mối giao tình với Khúc Dương, những hán tử giang hồ tuy không cho rằng như vậy là đúng nhưng lòng vẫn ngấm ngầm thán phục nghĩa khí của lão.

Nhạc Bất Quần lắc đầu nói:

– Lưu hiền đệ, hiền đệ nói như vậy là không đúng. Lưu hiền đệ muốn bảo toàn nghĩa khí bằng hữu khiến cho ai cũng khâm phục, nhưng hiền đệ không phân biệt chính tà, bất luận thị phi. Bọn Ma giáo làm nhiều chuyện ác độc, tàn hại rất nhiều chính nhân quân tử trên giang hồ và trăm họ vô tội. Lưu hiền đệ vì nhất thời đam mê tiếng đàn điệu sáo, nỡ đem tính mạng toàn gia giao cho hắn là đã hiểu sai hai chữ “nghĩa khí” rồi.

Lưu Chính Phong cười nhạt nói:

– Nhạc sư huynh, sư huynh không thích âm luật nên chưa hiểu được tấm lòng của tiểu đệ. Ngôn ngữ, văn tự có thể giả dối được nhưng tiếng đàn, điệu sáo là tiếng nói đích thực của tâm hồn, vạn vạn lần không thể giả dối được. Tiểu đệ và Khúc đại ca kết giao với nhau lấy tiếng đàn điệu sáo giao hòa nên tâm ý tương thông. Tiểu đệ xin tình nguyện lấy tính mạng của toàn gia ra bảo đảm rằng Khúc đại ca tuy là người trong Ma giáo nhưng tuyệt đối không mang tính khí tà ác của Ma giáo chút nào.

Nhạc Bất Qu ần thở dài rồi đi đến bên cạnh Thiên Môn đạo nhân. Bọn Lao Đức Nặc, Nhạc Linh San, Lục Đại Hữu đều đi theo.

Định Dật sư thái nhìn Lưu Chính Phong, hỏi:

– Từ nay về sau, ta gọi hiền đệ là Lưu hiền đệ hay là Lưu Chính Phong?

Mặt Lưu Chính Phong tràn đầy vẻ đau khổ. Lão cười tê tái, nói:

– Tính mệnh Lưu Chính Phong chỉ còn trong khoảnh khắc, sau này sư thái cũng không còn gọi đến tên Lưu mỗ nữa.

Định Dật sư thái chấp tay niệm:

– A Di Đà Phật!

Rồi lão ni từ từ bước đến bên Nhạc Bất Quần, nói:

– Nghiệp chướng nặng nề; tội lỗi, tội lỗi!

Các đệ tử môn hạ của lão ni cũng đều lần lượt đi theo.

Phí Bân nói:

– Đây là chuyện của một mình Lưu Chính Phong, không có liên can gì đến các đệ tử của phái Hành Sơn. Ai không muốn theo tên phản nghịch thì đứng sang mé trái.

Trong đại sảnh phút chốc lặng yên. Một tên trẻ tuổi nói:

– Lưu sư bá, bọn đệ tử xin đắc tội với sư bá.

Tên đệ tử trẻ vừa nói xong thì hơn ba mươi đệ tử phái Hành Sơn lũ lượt đi đến bên cạnh quần ni phái Hằng Sơn. Những người này đều là hàng sư điệt của Lưu Chính Phong, còn những đệ tử ruột của lão thì không ai đi.

Phí Bân lại nói:

– Đệ tử thân truyền của Lưu môn cũng đi qua mé trái hết đi.

Hướng Đại Niên lớn tiếng nói:

– Bọn đệ tử chịu ân trọng của sư môn, nghĩa bất tương phụ, đệ tử Lưu môn nguyện đồng sinh cộng tử với ân sư.

Lưu Chính Phong mắt tràn ngấn lệ, nói:

– Hay lắm, giỏi lắm! Đại Niên, ngươi nói vậy khiến cho sư phụ rất vui. Các ngươi đi qua đó đi. Một mình sư phụ kết giao bằng hữu, không có liên quan gì đến các ngươi cả.

Soạt một tiếng, Mễ Vi Nghĩa rút thanh trường kiếm ra nói:

– Một mình Lưu môn không thể địch lại Ngũ Nhạc kiếm phái, chuyện hôm nay chỉ còn liều chết mà thôi. Kẻ nào muốn hại ân sư của ta thì trước tiên phải bước qua xác Mễ Vi Nghĩa này.

Gã nói xong liền đứng chắn trước mặt Lưu Chính Phong.

Đinh Miễn giơ tay lên, vèo một tiếng, một làn sóng bạc phóng ra. Lưu Chính Phong giật mình, phóng nội lực đẩy mạnh vào vai phải của Mễ Vi Nghĩa. Mễ Vi Nghĩa ngã về bên trái, tia sáng bạc bay thẳng về hướng ngực Lưu Chính Phong. Hướng Đại Niên bảo vệ ân sư, vọt người đến đỡ cho sư phụ. Chỉ nghe Hướng Đại Niên la lên một tiếng, mũi ngân châm đã bắn trúng vào tim gã khiến gã chết ngay tức khắc.

Lưu Chính Phong đưa tay trái đỡ lấy thi thể của Hướng Đại Niên. Lão sờ lên mũi đệ tử thấy đã tắt thở, liền quay đầu nhìn Đinh Miễn nói:

– Đinh lão nhị, phái Tung Sơn của lão đã giết đệ tử của Lưu mỗ trước rồi.

Đinh Miễn dõng dạc nói:

– Đúng vậy, chúng ta động thủ trước thì đã sao nào?

Lưu Chính Phong nhấc thi thể của Hướng Đại Niên lên, vận kình lực muốn ném về hướng Đinh Miễn. Đinh Miễn thấy tư thế vận kình lực của lão thì biết nội công của phái Hành Sơn có chỗ độc đáo, Lưu Chính Phong là một tay cao thủ nhất đẳng trong phái Hành Sơn thì thế ném ra không phải tầm thường. Hắn ngấm ngầm chuẩn bị nội lực, định đón lấy thi thể rồi lập tức ném ngược lại phía lão. Nào ngờ Lưu Chính Phong nhấc thi thể Hướng Đại Niên lên, rõ ràng muốn ném về phía trước, đột nhiên lão nghiêng người, hai tay đưa lên ném vào ngay ngực Phí Bân. Lão cử động mau lẹ vô cùng. Gặp đòn bất ngờ, phản xạ tự nhiên của Phí Bân là đưa song chưởng vận kình lực để ngăn cản thi thể nhưng ngay lúc đó, hắn cảm thấy hai bên sườn tê tái, thì ra đã bị Lưu Chính Phong điểm trúng huyệt đạo rồi.

Lưu Chính Phong đánh một chiêu thành công, tay trái cướp lấy cờ lệnh trong tay hắn; tay phải rút trường kiếm chĩa thẳng vào yết hầu, khuỷu tay trái thúc liên tiếp phong tỏa ba huyệt đạo sau lưng hắn, để mặc cho thi thể của Hướng Đại Niên rơi xuống đất. Động tác của Lưu Chính Phong biến ảo mau lẹ vô cùng đến nỗi Phí Bân bị kiềm chế, cờ lệnh Ngũ Nhạc bị đoạt mất, mọi người mới tỉnh ngộ, hiểu ra dụng ý của Lưu Chính Phong. Lưu Chính Phong thi triển công phu này chính là tuyệt chiêu của phái Hành Sơn, gọi là Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức. Mọi người đã nghe tiếng từ lâu, nhưng đây là lần đầu mở rộng tầm mắt.

Năm xưa, Nhạc Bất Quần đã từng nghe sư phụ nói qua Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức là do một vị cao thủ đời trước của phái Hành Sơn sáng chế ra. Vị cao thủ này đi khắp giang hồ làm trò ảo thuật, bán võ nghệ để sinh nhai. Lão chuyên biến hóa đánh Đông kích Tây, hư hư thực thực, biến ảo khôn lường để che tai mắt người. Lúc về già, võ công của lão càng cao thâm, kỹ năng ảo thuật càng ngày càng xảo diệu, lại dùng công phu nội gia đưa vào trong trò ảo thuật nên khắp nơi ai xem qua cũng đều ca ngợi tán thưởng. Về sau, lão đem trò ảo thuật này đưa vào trong bản lĩnh của võ công, không ngừng xuất hiện trong Ngũ hoa bát môn. Vị cao thủ này tính tình lại rất khôi hài, khi sáng chế ra bộ võ công này chỉ để du hý làm vui cho bản thân, không ngờ lại truyền đến hậu thế, trở thành một trong ba đại tuyệt kỹ của phái Hành Sơn.

Công phu biến hóa của bộ võ công này tuy là cổ quái nhưng lúc lâm địch lại không hiệu dụng gì mấy. Khi ra chiêu, cao thủ nào cũng cảnh giác, phòng bị toàn thân không để sơ hở, mà mấy chiêu này chỉ nhằm lòe người nên việc sử dụng cũng khó thành công. Vì vậy phái Hành Sơn cũng không xem trọng công phu này, nếu thấy đồ đệ là người cao ngạo nhẹ dạ thì lại càng không truyền thụ để tránh cho chúng khỏi chuyên về biến ảo mà khiếm khuyết căn bản công phu thực sự.

Lưu Chính Phong là một người thâm trầm ít nói, nên học được công phu này từ sư phụ. Bình thường, lão chưa bao giờ sử, gặp lúc nguy cấp như hôm nay lão mới đem ra. Lão vừa tấn công lập tức đã chế ngự được một tên lừng danh là Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Tung Sơn mà võ công thực sự của tên này quyết không thua kém lão. Tay phải Lưu Chính Phong giơ cao cờ lệnh của Ngũ Nhạc kiếm phái, tay trái cầm trường kiếm chĩa vào yết hầu của Phí Bân, lão trầm giọng nói:

– Đinh sư huynh, Lục sư huynh! Lưu mỗ to gan cướp đoạt cờ lệnh của Ngũ Nhạc, nhưng không dám uy hiếp hai vị, chỉ mong năn nỉ hai vị ban cho Lưu mỗ một ân điển.

Đinh Miễn và Lục Bách đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: Phí sư đệ đang bị lão ám toán, đành phải nghe lão nói cái gì.

Đinh Miễn nói:

– Ngươi muốn nói gì?

Lưu Chính Phong nói:

– Ta cầu xin hai vị bẩm cáo với Tả minh chủ cho phép toàn gia Lưu mỗ quy ẩn, từ nay không can dự vào bất cứ chuyện gì trong võ lâm. Lưu mỗ và Khúc Dương đại ca từ nay không gặp nhau nữa, các vị sư huynh bằng hữu cũng… cũng chia tay từ đây. Lưu mỗ dẫn gia nhân đệ tử cao chạy xa bay, ẩn cư nơi hải ngoại, còn sống ngày nào tuyệt không bước một bước vào đất Trung Nguyên.

Đinh Miễn ngần ngừ một chút rồi nói:

– Chuyện này ta và Lục sư đệ không thể quyết định được, phải về bẩm cáo với Tả sư ca, xem sư ca chỉ thị thế nào.

Lưu Chính Phong nói:

– Chưởng môn của hai phái Hoa Sơn và Thái Sơn đang ở đây; phái Hằng Sơn có Định Dật sư thái có thể thay thế chưởng môn sư tỷ. Ngoài ra các vị anh hùng hảo hán chứng kiến cũng đủ rồi.

Lưu Chính Phong đảo mắt nhìn mọi người một lượt rồi trầm giọng nói:

– Lưu mỗ cầu xin các vị để cho Lưu mỗ vẹn toàn nghĩa khí bằng hữu, bảo toàn tính mạng gia quyến và đệ tử.

Định Dật sư thái ngoài mặt thì cứng rắn nhưng bụng dạ lại hiền hòa, tính khí tuy nóng nảy nhưng tâm địa rất từ bi nên lên tiếng trước:

– Như vậy tốt rồi, khỏi phải làm tổn thương hòa khí giữa mọi người. Đinh sư huynh, Lục sư huynh! Chúng ta nên đáp ứng lời cầu xin của Lưu hiền đệ đi. Lưu hiền đệ đã không kết giao với người của Ma giáo nữa, lại còn rời khỏi Trung Nguyên, khác gì trên thế gian này không còn nữa, hà tất còn muốn tạo thêm sát nghiệp?

Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:

– Như vậy cũng phải. Nhạc hiền đệ, hiền đệ nghĩ sao?

Nhạc Bất Quần nói:

– Lưu hiền đệ một lời nói ra nặng như núi, hiền đệ đã nói như vậy, mọi người cũng nên tin. Nào, nào, chúng ta hãy biến can qua thành ngọc bạch. Lưu hiền đệ, hiền đệ thả Phí Bân hiền đệ ra đi. Chúng ta cùng uống một bát rượu giải hòa; sáng sớm ngày mai, hiền đệ dẫn gia nhân đệ tử rời khỏi thành Hành Sơn được rồi.

Lục Bách lại nói:

– Hai vị chưởng môn phái Thái Sơn và Hoa Sơn đều nói như vậy, Định Dật sư thái càng hết sức vì Lưu Chính Phong mà mở một lối thoát, bọn tại hạ làm sao dám trái ý các vị? Nhưng lúc này Phí sư đệ đang bị Lưu Chính Phong ám toán, nếu bọn tại hạ liền đáp ứng đầy đủ ngay các yêu cầu của Lưu Chính Phong thì người người trên giang hồ tất sẽ nói phái Tung Sơn bị Lưu Chính Phong uy hiếp, đã cúi đầu chịu thua. Nếu cứ truyền rộng ra như vậy thì phái Tung Sơn còn mặt mũi nào tồn tại nữa?

Định Dật sư thái nói:

– Lưu hiền đệ cầu xin phái Tung Sơn chứ không phải là uy hiếp bức bách. Cho nên nói “cúi đầu chịu thua” thì người cúi đầu chịu thua là Lưu Chính Phong chứ không phải là phái Tung Sơn. Huống chi các vị sư huynh đã giết một tên đệ tử của Lưu môn.

Lục Bách hừ một tiếng rồi nói:

– Địch Tu, hãy chuẩn bị!

Địch Tu, đệ tử của phái Tung Sơn đáp dạ một tiếng, đoản kiếm trong tay gã nhẹ đưa đến chạm vào làn da sau lưng trưởng tử của Lưu Chính Phong.

Lục Bách nói:

– Lưu Chính Phong, ngươi muốn cầu xin thì đi với chúng ta đến Tung Sơn gặp Tả minh chủ để chính miệng ngươi cầu xin minh chủ. Chúng ta phụng mệnh minh chủ, không thể tự quyết được. Ngươi lập tức trả cờ lệnh lại đây và thả Phí sư đệ của ta ra.

Lưu Chính Phong cười một cách đau đớn, nhìn hài nhi nói:

– Hài nhi, ngươi có sợ chết không?

Lưu công tử đáp:

– Hài nhi nghe lời gia gia, quyết không sợ!

Lưu Chính Phong nói:

– Hảo hài tử!

Lục Bách quát:

– Giết đi!

Đoản kiếm của Địch Tu đâm thẳng từ sau lưng Lưu công tử thấu vào tim. Đoản kiếm vừa rút ra, Lưu công tử ngã gục xuống đất, máu từ vết đâm sau lưng trào ra lênh láng.

Lưu phu nhân thét lên, nhào đến hướng thi thể con trai.

Lục Bách quát:

– Giết đi!

Địch Tu phát kiếm tới, lại một kiếm đâm thẳng vào sau lưng Lưu phu nhân.

Định Dật sư thái cả giận, phóng một chưởng vào Địch Tu rồi chửi:

– Đồ cầm thú!

Đinh Miễn vọt lên trước, cũng đánh ra một chưởng. Song chưởng giao nhau, Định Dật sư thái bị đẩy lùi ba bước. Lão ni cảm thấy lợm miệng, một ngụm máu tươi muốn trào ra, nhưng bản lĩnh lão ni vốn hiếu thắng, kiên cường, lão ni cố nuốt ngược máu xuống.

Đinh Miễn tủm tỉm cười rồi nói:

– Đa tạ sư thái đã nhân nhượng.

Chưởng lực vốn không phải là sở trường của Định Dật sư thái. Cho nên khi mới phát một chưởng định đánh Địch Tu, vì là người lớn đánh nhỏ nên sư thái chưa sử dụng hết công lực, một chưởng này cũng không định đánh chết hắn. Không ngờ Đinh Miễn bỗng nhiên ra tay, chưởng của hắn lại vận đến mười thành công lực. Song chưởng giao nhau, Định Dật sư thái định thúc đẩy thêm nội lực nhưng cũng không xong. Chưởng lực của Đinh Miễn như dời non lấp biển nên Định Dật sư thái bị thương thổ huyết. Lão ni cả giận định đánh chưởng thứ hai ra nhưng vừa vận công thì cảm thấy huyệt Đan điền đau như dao cắt, biết là mình đã bị trọng thương, trước mắt không có cách gì kháng cự lại được. Lão ni vẫy các đệ tử, hầm hầm nói:

– Chúng ta đi thôi!

Nói xong lão ni bước chân đi ra ngoài cổng, quần ni tiếp bước theo sau.

Lục Bách quát:

– Giết nữa đi!

Hai tên đệ tử phái Tung Sơn phóng đoản kiếm tới, lại giết thêm hai đệ tử của Lưu môn. Lục Bách nói:

– Đệ tử Lưu môn nghe đây, nếu muốn sống hãy quỳ xuống đất cầu xin, lên án Lưu Chính Phong thì ta tha chết cho.

Lưu Tinh, con gái của Lưu Chính Phong, giận dữ mắng:

– Đồ gian tặc, phái Tung Sơn của các ngươi gian ác gấp vạn lần Ma giáo.

Lục Bách quát:

– Giết!

Vạn Đại Bình giơ trường kiếm lên, chém một nhát từ vai phải thẳng xuống lưng Lưu Tinh. Sử Đăng Đạt và bọn đệ tử phái Tung Sơn cũng chém mỗi người một nhát; các đệ tử của Lưu môn đã bị điểm huyệt đạo từ trước đều bị giết hết.

Quần hùng trên đại sảnh tuy đều hạng người sống trên đầu đao mũi kiếm, từng quen với cảnh giết chóc thê thảm, nhưng thấy thảm cảnh tàn sát này cũng không khỏi kinh hoàng. Có mấy vị anh hùng tiền bối muốn đứng ra can ngăn, nhưng phái Tung Sơn động thủ quá nhanh, chỉ do dự một chút thì xác chết đã nằm ngổn ngang khắp sảnh đường. Mọi người lại nghĩ: Xưa nay tà chính không đội trời chung, hành động này của phái Tung Sơn không phải là trả thù riêng tư Lưu Chính Phong mà là nhằm đối phó với Ma giáo. Tuy họ ra tay tàn nhẫn nhưng cũng không phải là nặng tội. Hơn nữa phái Tung Sơn đã khống chế toàn cục, ngay cả Định Dật sư thái của phái Hằng Sơn cũng đã bị thương mà bỏ đi, trước mắt chỉ còn Thiên Môn đạo nhân và Nhạc Bất Quần là hai bậc cao thủ đều im hơi lặng tiếng. Đây là chuyện riêng của Ngũ Nhạc kiếm phái, mình là người ngoài nếu miễn cưỡng xuất đầu lộ diện can thiệp vào, tất khó tránh khỏi họa sát thân, nên tự bảo vệ mình là hơn.

Bọn đệ tử của Lưu môn đã bị giết sạch, chỉ còn lại ấu tử mười lăm tuổi mà Lưu Chính Phong yêu mến nhất gọi là Lưu Cần. Lục Bách nhìn Sử Đăng Đạt nói:

– Ngươi hỏi tiểu tử này xem có cầu xin không? Nếu không cầu xin thì trước tiên xẻo mũi của nó, rồi xẻo tai, rồi khoét mắt để nó chịu muôn phần đau đớn.

Sử Đăng Đạt đáp dạ rồi quay người qua Lưu Cần hỏi:

– Ngươi có van xin không?

Lưu Cần sợ hãi, sắc mặt nhợt nhạt, toàn thân run cầm cập. Lưu Chính Phong nói:

– Hảo hài tử! Ca ca, tỷ tỷ của hài nhi chết một cách oanh liệt biết bao. Chết thì chết, hài nhi sợ cái gì?

Lưu Cần run run nói:

– Nhưng… gia gia, họ muốn… xẻo mũi hài nhi, khoét… mắt hài nhi…

Lưu Chính Phong cười ha hả nói:

– Đến nước này, lẽ nào ngươi còn muốn bọn chúng buông tha chúng ta ư?

Lưu Cần đáp:

– Gia gia, gia gia… đồng ý giết Khúc… Khúc bá bá… đi.

Lưu Chính Phong cả giận quát:

– Thúi lắm! Tiểu súc sinh, ngươi nói sao?

Sử Đăng Đạt giơ thanh trường kiếm lên, lưỡi kiếm đưa tới đưa lui trước mũi của Lưu Cần rồi nói:

– Tiểu tử, ngươi không quỳ xuống van xin thì lưỡi kiếm của ta sẽ xẻo mũi ngươi ngay tức khắc. Nào một… hai…

Hắn còn chưa đếm đến “ba”, Lưu Cần đã run bần bật, quỳ mọp xuống đất tha thiết van xin:

– Đừng… đừng giết cháu… cháu…

Lục Bách cười nói:

– Tốt lắm, ngươi muốn ta tha thì không khó. Chỉ cần ngươi tố cáo những điều lầm lỗi của Lưu Chính Phong trước các vị anh hùng trong thiên hạ ở đây mà thôi.

Lưu Cần nhìn phụ thân với ánh mắt cầu xin tha thiết.

Lưu Chính Phong vốn là người rất bướng bỉnh, tuy thấy vợ con chết trước mặt mà mặt lão vẫn không hề rung động nhưng lúc này, lão không kiềm chế được phẫn nộ, quát:

– Tiểu súc sinh, ngươi hèn nhát như vậy thì còn mặt mũi nào nhìn mẫu thân của ngươi nữa?

Lưu Cần nhìn thi thể của mẫu thân, ca ca, tỷ tỷ nằm trong vũng máu, lại thấy trường kiếm của Sử Đăng Đạt không ngừng quơ qua quơ lại trước mặt. Hắn sợ đến vỡ mật, nhìn Lục Bách khẩn cầu:

– Cầu xin lão gia tha cho cháu, tha… tha cho gia gia của cháu.

Lục Bách nói:

– Gia gia của ngươi cấu kết với ác nhân trong Ma giáo, ngươi nói có đúng không?

Lưu Cần khẽ lắp bắp:

– Không… không đúng.

Lục Bách nói:

– Người như vậy có đáng giết không?

Lưu Cần cúi đầu xuống không dám trả lời. Lục Bách nói:

– Tiểu tử này không chịu nói, phóng một kiếm giết hắn đi!

Sử Đăng Đạt đáp dạ. Hắn biết Lục Bách nói câu này có ý hăm dọa, nên đưa kiếm lên, tư thế như định chém xuống.

Lưu Cần vội đáp:

– Đáng… đáng giết.

Lục Bách nói:

– Hay lắm, từ nay về sau ngươi không phải là người của phái Hành Sơn, cũng không phải là con của Lưu Chính Phong nữa. Ta tha tính mạng cho ngươi đó.

Lưu Cần vẫn quỳ mọp dưới đất, sợ hãi đến nỗi hai chân mềm nhũn không đứng dậy được nữa. Quần hùng thấy cảnh tượng này không cầm được xấu hổ, có người quay đầu đi, không dám nhìn Lưu Chính Phong.

Lưu Chính Phong thở dài, nói:

– Họ Lục kia, ngươi thắng ta rồi.

Nói xong, tay phải lão rung một cái, ném cờ lệnh Ngũ Nhạc qua cho hắn, chân trái giơ lên đá Phí Bân ra xa rồi lớn tiếng nói:

– Điều Lưu mỗ cầu xin không còn nữa, thôi cũng chẳng giết thêm người làm chi.

Tay trái lão cầm ngang thanh trường kiếm toan đâm vào cổ tự tử.

Ngay trong giây phút đó, trên hiên nhà bỗng nhiên thấp thoáng một bóng người mặc áo đen hành động nhanh như gió, vươn tay chụp cổ tay trái của Lưu Chính Phong rồi quát:

– Quân tử báo thù mười năm chưa muộn. Chúng ta đi!

Tay trái lão xoay về phía sau thành một vòng, lôi Lưu Chính Phong chạy vội ra ngoài.

Lưu Chính Phong giật mình nói:

– Khúc đại ca… đại ca…

Quần hùng nghe lão kêu ba tiếng “Khúc đại ca” thì biết người áo đen đó là Ma giáo trưởng lão Khúc Dương, họ đều giật mình sợ hãi.

Khúc Dương nói:

– Không cần nói nhiều.

Lão gia tăng kình lực, chạy được ba bước thì Đinh Miễn và Lục Bách cùng phóng bốn chưởng ra nhắm đánh vào sau lưng của hai người. Khúc Dương giục Lưu Chính Phong “Chạy mau đi” rồi lão xuất chưởng đẩy lưng Lưu Chính Phong, đồng thời vận kình lực ra sau lưng gánh chịu song chưởng của hai cao thủ Đinh Miễn và Lục Bách. Rầm một tiếng, thân người của Khúc Dương bay ra ngoài. Khúc Dương phun ra một ngụm máu tươi. Lão xoay tay lại vung lên một cái, một nắm kim đen bay ra như mưa.

Đinh Miễn la lên:

– Hắc huyết thần châm, tránh mau!

Hắn vội nép người né tránh. Quần hùng thấy Khúc Dương liệng những mũi kim đen này và họ cũng đã từng nghe đến tên của Hắc huyết thần châm Ma giáo từ lâu, nên không ai không kinh hãi. Kẻ lui, người tránh loạn xạ cả lên. Chỉ nghe:

– Chao ôi!

– Nguy rồi!

Hơn mười người cùng la hoảng lên. Người trên sảnh tụ tập rất đông mà Hắc huyết thần châm liệng ra vừa nhiều vừa nhanh, không ít người bị trúng độc châm.

Trong lúc hỗn loạn, Khúc Dương và Lưu Chính Phong đã chạy xa rồi.

Hồi 26: Bách biến thiên ảo Hành sơn vân vụ thập tam thức

Lệnh Hồ Xung tuy bị vết kiếm đâm trầm trọng, nhưng bên ngoài đã được bôi Thiên hương đoạn tục giao, bên trong đã được uống Bạch vân hùng đảm hoàn là hai thứ thánh dược trị thương của phái Hằng Sơn, vả lại hắn đang lúc thanh niên trai tráng, nội công thâm hậu, nên chỉ ngủ một ngày hai đêm bên thác nước thì vết thương gần như đã hoàn toàn bình phục. Suốt hai đêm một ngày, hắn chỉ ăn toàn dưa hấu. Lệnh Hồ Xung yêu cầu Nghi Lâm đi bắt cá bắn thỏ, nhưng dù hắn nói sao cô cũng không chịu. Cô nói Lệnh Hồ Xung thoát chết lần này là hoàn toàn nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, tốt nhất là nên ăn chay trường một hai năm để tạ ân đức Quán Thế Âm Bồ Tát, còn bắt cô phá giới sát sanh thì vạn lần không thể được. Lệnh Hồ Xung cười thầm, cho là cô hủ lậu, tẻ nhạt nhưng không có cách nào nên đành phải ăn chay.

Trời đã chạng vạng tối, hai người dựa vào vách đá, nhìn trong đám cỏ thấy những bóng đom đóm lập lòe bay qua bay lại đẹp như những ngôi sao trên trời.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Mùa hạ năm ngoái, ta từng bắt mấy ngàn con đom đóm, đựng vào mười mấy túi vải the treo ở trong phòng, thật thú vị.

Nghi Lâm nghĩ tính tình Lệnh Hồ Xung phù động như vậy, quyết không thể tự đi may mười mấy cái túi vải the được. Cô hỏi:

– Nhạc sư muội của đại ca bảo đại ca bắt đom đóm phải không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu sư muội thật thông minh, đoán trúng chóc. Sao tiểu muội biết Linh San sư muội bảo ta bắt đom đóm?

Nghi Lâm mỉm cười nói:

– Đại ca nóng tính như vậy, lại không phải là con nít, không thể chịu khó đi bắt mấy ngàn con đom đóm để chơi được.

Cô hỏi tiếp:

– Sau đó thì sao?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Linh San sư muội đem treo ở trong màn, nói là khắp giường đầy ánh sao lấp lánh, cũng giống như y đang ngủ ở trên mây, khi mở mắt ra thì bốn bề toàn những sao là sao.

Nghi Lâm nói:

– Tiểu sư muội của đại ca thật là biết chơi. Chỉ có một mình đại ca là sư ca mà y cũng thật biết pha trò. Giả tỷ y muốn đại ca lên bắt các vì sao trên trời, không chừng đại ca cũng chịu đi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Chuyện bắt đom đóm chơi cũng từ việc muốn bắt những vì sao trên trời mà ra. Tối hôm đó, ta và tiểu sư muội cùng đứng hóng mát, nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời. Tiểu sư muội bỗng thở dài rồi nói: “Thật là đáng tiếc, chút nữa phải đi ngủ rồi. Tiểu muội muốn ngủ ở ngoài trời, nửa đêm tỉnh dậy, thấy được những vì sao đầy trời đang lấp lánh nhìn tiểu muội thì vui biết mấy, nhưng mẫu thân nhất định không cho”. Ta liền nói: “Chúng ta đi bắt đom đóm rồi bỏ vào trong màn, thì cũng giống như những vì sao kia thôi”.

Nghi Lâm khẽ nói:

– Thì ra là chủ ý của đại ca.

Lệnh Hồ Xung tủm tỉm cười nói:

– Linh San sư muội nói: “Đom đóm ở trong màn bay qua bay lại trên mặt mình thì chán chết được. Đúng rồi, để tiểu muội đi may một ít túi vải the, bắt đom đóm bỏ vào”. Thế rồi y ngồi may túi còn ta đi bắt đom đóm suốt một ngày một đêm. Đáng tiếc là chỉ chơi được có một đêm, sang ngày hôm sau tất cả đom đóm đều chết sạch.

Nghi Lâm giật mình, giọng run run hỏi:

– Mấy ngàn con đom đóm đều bị chết cả ư? Hai người… hai người sao…

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội nói chúng ta quá tàn nhẫn phải không? Úi chao, tiểu muội là đệ tử của Phật môn, lòng dạ từ bi hơn người. Sự thật thì khi gặp trời lạnh, những con đom đóm đều chết cóng hết; chúng chết sớm hay chết muộn hơn vài ngày cũng chẳng có gì quan trọng.

Một hồi lâu, Nghi Lâm sụt sùi nói:

– Thật ra kiếp người sống trên thế gian này đều như vậy cả thôi, có người chết sớm, có kẻ chết muộn, sớm muộn gì cuối cùng cũng phải chết. Đức Phật dạy mỗi con người đều không tránh khỏi bốn cái khổ Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Còn chuyện giác ngộ sâu rộng để tự giải thoát mình ra khỏi luân hồi không phải dễ làm đâu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy. Tiểu muội việc gì phải tâm niệm mãi những thanh quy giới luật đó? Việc gì mà không thể sát sinh, không thể trộm cắp. Nếu đức Bồ Tát mà mỗi chuyện đều phải để mắt đến thì thật phiền quá đi mất.

Nghi Lâm quay đầu đi. Cô không biết phải nói làm sao cho Lệnh Hồ Xung hiểu được. Giữa lúc đó, đầu ngọn núi phía trái có một ngôi sao băng rất nhanh, vạch thành một đường sáng dài trên bầu trời đêm mênh mông.

Nghi Lâm nói:

– Nghi Tĩnh sư tỷ có nói: “Người nào thấy được sao băng, nếu vừa thắt dải vạt áo vừa ước nguyện một điều, chỉ cần thắt dải vạt áo xong trước khi ngôi sao băng thì sẽ đạt được ước nguyện ấy”. Đại ca, có đúng như vậy không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta không biết. Chúng ta hãy thử làm xem, nhưng chỉ sợ động tác mình làm không nhanh được như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền cởi vạt áo ra rồi nói:

– Tiểu muội chuẩn bị đi, chậm một chút thì không kịp đâu.

Nghi Lâm cầm vạt áo, ngẩng nhìn lên bầu trời. Trời đêm mùa hạ sao băng rất nhiều, chỉ trong chốc lát có một vì sao băng vạch thành một đường dài trong không trung. Nhưng ngôi sao băng chỉ xẹt qua trong nháy mắt rồi tắt ngay. Ngón tay Nghi Lâm chỉ vừa động đậy thì sao băng đã tắt rồi. Cô khẽ kêu ối rồi lại đợi ngôi sao băng kế tiếp. Ngôi sao băng thứ hai từ hướng Đông sang hướng Tây kéo thành một đường dài. Động tác của Nghi Lâm rất mau lẹ, cô đã thắt được dải vạt áo.

Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Hay quá, hay quá, tiểu muội thắt được rồi. Có Quán Thế Âm Bồ Tát phù hộ, nhất định tiểu muội đã đạt được sở nguyện.

Nghi Lâm thở dài nói:

– Tiểu muội chỉ mới cố gắng thắt dải vạt áo nhưng lòng chưa kịp ước nguyện gì cả.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Vậy tiểu muội mau mau nghĩ ra điều ước nguyện trước đi, tâm niệm trước mấy lần để khỏi đến lúc thắt được dải vạt áo lại quên điều ước nguyện.

Nghi Lâm cầm dải vạt áo, nghĩ: Ta biết ước nguyện gì đây? Ta biết ước nguyện gì đây? Rồi cô liếc nhìn Lệnh Hồ Xung, bỗng hai má ửng hồng; cô vội quay đầu đi.

Lúc này trên bầu trời liên tục có mấy ngôi sao băng xẹt qua. Lệnh Hồ Xung luôn miệng kêu lên không ngớt:

– Lại một vì sao băng nữa. Ái chà, vì sao này dài thật, tiểu muội thắt dải vạt áo được chưa? Lần này lại không kịp rồi.

Tâm sự Nghi Lâm rối như tơ vò. Ẩn sâu tận đáy lòng cô là một khát vọng thiết tha nhưng chính cô cũng không dám nghĩ đến chứ đừng nói đến chuyện cầu xin đức Quán Thế Âm Bồ Tát cho được toại nguyện. Tim cô đập thình thịch, cảm thấy vừa sợ hãi vô cùng, vừa sung sướng khôn xiết.

Lệnh Hồ Xung lại hỏi:

– Tiểu muội đã nghĩ xong ước nguyện gì chưa?

Trong sâu thẳm, lòng cô như khẽ hỏi:

– Ta nên ước nguyện gì đây? Ta nên ước nguyện gì đây?

Từng vì sao băng trên bầu trời cứ lần lượt xẹt qua, cô ngẩng đầu lên nhìn rồi lại ngẩn người ra.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu muội không nói thì để ta đoán thử xem.

Nghi Lâm vội nói:

– Không, không, đại ca đừng đoán.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sao tiểu muội lại hoảng hốt lên như vậy? Ta chỉ thử đoán ba lần, xem có trúng không thôi mà.

Nghi Lâm đứng dậy nói:

– Đại ca cứ muốn đoán nữa thì tiểu muội đi đây.

Lệnh Hồ Xung cười, nói:

– Được rồi, ta không nói. Cho dù trong thâm tâm tiểu muội muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn thì điều đó cũng có gì là đáng xấu hổ đâu?

Nghi Lâm ngẩn ngơ một lát rồi nghĩ: Đại ca… đại ca đoán mình muốn làm chưởng môn phái Hằng Sơn ư? Xưa nay, mình chưa bao giờ có ý nguyện đó, mà mình thì sao làm được chưởng môn nhân? Bỗng nghe mấy tiếng tình tang từ xa vọng lại, dường như có ai đang đánh đàn. Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm nhìn nhau, cảm thấy kỳ lạ vô cùng.

Nơi hoang sơn dã lĩnh này sao lại có người đến đánh đàn? Tiếng đàn không ngớt vọng lại nghe rất u nhã; một lúc sau, có tiếng sáo nhu hòa dìu dặt nổi lên hòa với tiếng đàn. Âm điệu tiếng đàn thất huyền cầm dịu dàng, trung chính lẫn với tiếng sáo thanh cao véo von làm rúng động lòng người. Tiếng đàn tiếng sáo dường như một bên hỏi, một bên đáp, rồi từ từ đi đến gần.

Lệnh Hồ Xung nhích người đến, nói khẽ vào tai Nghi Lâm:

– Điệu nhạc này thật cổ quái, e rằng có điều bất lợi cho chúng ta. Bất luận có chuyện gì, tiểu muội cũng không được lên tiếng.

Nghi Lâm gật đầu, nghe tiếng đàn dần dần cao vút lên, còn tiếng sáo lại từ từ trầm xuống. Nhưng tiếng sáo hạ xuống thấp mà vẫn không dứt, du dương như làn gió thoảng mà liên miên bất tuyệt khiến người nghe không khỏi cảm thấy bâng khuâng, bùi ngùi trong dạ.

Từ sau tảng đá, có ba người xuất hiện. Lúc này, ánh trăng bị mây che khuất nhưng dưới ánh sáng mờ ảo, vẫn thấy được ba người, hai cao một thấp. Hai người cao là đàn ông, người thấp là một thiếu nữ. Hai người đàn ông khoan thai bước đến bên một tảng đá to rồi ngồi xuống; một người gảy đàn, một người thổi sáo; còn thiếu nữ thì đứng bên cạnh người gảy đàn. Lệnh Hồ Xung thu mình vào phía sau tảng đá, không dám ló mặt ra, sợ bị ba người phát hiện. Nghe tiếng đàn tiếng sáo du dương hài hòa, Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Bên thác nước, tiếng nước chảy rì rầm mà không át được tiếng đàn sáo dịu dàng, xem ra nội công của hai người đánh đàn thổi sáo không phải tầm thường. Phải rồi, sở dĩ họ đến đây hòa nhạc là vì nơi đây có thêm âm thanh của thác đổ. Như vậy thì không có liên can gì đến chúng ta.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy mới cảm thấy an tâm.

Bỗng dưng tiếng đàn phát ra những âm thanh gào thét, dường như có ý sát phạt nhưng tiếng sáo vẫn ôn hòa uyển chuyển. Một lúc sau, tiếng đàn trở lại êm dịu; hai âm điệu lúc trầm lúc bổng hòa quyện vào nhau. Bỗng nhiên tiếng đàn tiếng sáo biến đổi thình lình, dường như cùng một lúc có bảy tám cây đàn, bảy tám ống sáo cùng hòa tấu một nhạc khúc. Âm thanh của tiếng đàn tiếng sáo biến ảo vô cùng phức tạp, một tiếng phát ra chợt trầm bổng, chợt ngừng ngắt, vui tai nhưng vẫn khiến người ta xúc động nghẹn ngào. Lệnh Hồ Xung lắng nghe đến nỗi mạch máu căng lên, không kìm được muốn đứng dậy. Lại nghe một lúc nữa, tiếng đàn tiếng sáo biến đổi; tiếng sáo biến thành giai điệu lĩnh xướng, tiếng đàn thất huyền cầm chỉ phụ họa theo tình tang tình tang. Rồi tiếng sáo càng lúc càng cao vút lên. Lệnh Hồ Xung không hiểu sao lòng mình cảm thấy đau xót, nghiêng đầu nhìn Nghi Lâm, thấy tiểu ni cô nước mắt rơi lã chã. Đột nhiên cung đàn rít lên một tiếng cấp bách, tiếng đàn lập tức dừng lại; tiếng sáo cũng ngừng ngay. Bốn bề trở lại tĩnh mịch, chỉ còn vầng trăng ở trên bầu trời cao soi bóng những hàng cây xuống đất.

Chỉ nghe một người khoan thai nói:

– Lưu hiền đệ, ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây âu cũng do số trời định sẵn. Chỉ tại ngu huynh không ra tay sớm hơn một chút, khiến cho cả thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn. Lòng ngu huynh thực sự không yên.

Người kia nói:

– Huynh và đệ đã gan dạ kết giao với nhau, còn nói với nhau những lời đó làm gì…

Nghi Lâm nghe giọng nói của lão, lòng chợt dao động. Cô nói khẽ vào tai Lệnh Hồ Xung:

– Đó chính là Lưu Chính Phong sư bá.

Cả hai người tuyệt đã không biết chuyện thảm sát trong phủ của Lưu Chính Phong, bây giờ lại thấy Lưu Chính Phong xuất hiện nơi hoang dã này. Một người lại nói cái gì “Ta và hiền đệ hôm nay bỏ mạng tại đây”, cái gì “Thân quyến và đệ tử của hiền đệ đều bị nạn”, khiến cả hai đều kinh ngạc vô cùng.

Lưu Chính Phong tiếp tục nói:

– Con người sinh ra ai cũng phải chết, có được một người tri kỷ thì chết cũng không tiếc.

Người kia nói:

– Lưu hiền đệ, ta nghe trong tiếng sáo của hiền đệ có chút tình ý di hận, phải chăng là do lệnh lang gặp lúc nguy nan đã tỏ ra tham sống sợ chết làm hoen ố thanh danh của hiền đệ?

Lưu Chính Phong thở dài, nói:

– Khúc đại ca đoán không sai. Cần nhi là đứa con mà ngày thường tiểu đệ quá nuông chìu, thiếu sự giáo huấn, không ngờ trở nên hèn yếu không còn chút khí tiết nào hết.

Khúc Dương nói:

– Có khí tiết hay không có khí tiết cũng vậy thôi, một trăm năm sau cũng về với đất, có khác biệt gì đâu? Ngu huynh đã nằm phục trên nóc nhà từ lâu, đáng lý nên ra tay sớm một chút nhưng nghĩ rằng hiền đệ sẽ không tình nguyện vì cố nhân mà làm tổn thương hòa khí của Ngũ Nhạc kiếm phái, lại nghĩ rằng ngu huynh đã từng vì hiền đệ mà lập lời trọng thệ quyết không làm phương hại đến nhân sĩ trong bạch đạo, vì vậy nên ngần ngừ chưa muốn ra tay. Đâu ngờ Ngũ Nhạc minh chủ phái Tung Sơn lại ra tay tàn nhẫn như vậy.

Lưu Chính Phong lặng yên, thở dài rồi nói:

– Bọn chúng là người phàm tục, làm sao hiểu được huynh đệ chúng ta vì âm luật cao tình nhã chí mà kết giao với nhau? Bọn chúng lấy cái thường tình mà xét đoán, khẳng định rằng huynh đệ chúng ta kết giao với nhau để gây bất lợi cho bạch đạo và Ngũ Nhạc kiếm phái. Chao ôi, chúng không hiểu nên cũng không trách chúng được. Khúc đại ca, đại ca bị thương ở huyệt Đại truy làm chấn động tâm mạch phải không?

Khúc Dương nói:

– Đúng vậy. Nội công của phái Tung Sơn quả thật là ghê gớm, ta không ngờ đến nên đưa lưng ra nhận một chưởng, vận nội lực không đủ, lại làm cho tâm mạch của hiền đệ cũng bị chấn động đứt đoạn ra. Nếu ta sớm biết hiền đệ không tránh khỏi bị thương thì nắm Hắc huyết thần châm đó cũng không cần phải liệng ra để nhiều người vô tội bị tổn thương mà chẳng ích gì. May thay, mũi kim không tẩm thuốc độc.

Lệnh Hồ Xung nghe bốn chữ “Hắc huyết thần châm” thì lòng chấn động, nghĩ: Người này đã từng cứu tính mệnh ta, lẽ nào lão lại là cao thủ trong Ma giáo? Lưu sư thúc vì sao lại kết giao với lão?

Lưu Chính Phong cười khẽ rồi nói:

– Nhưng có vậy thì huynh đệ chúng ta mới có dịp hợp tấu khúc nhạc này. Từ nay về sau trên đời này sẽ không còn tiếng đàn tiếng sáo như vậy nữa.

Khúc Dương nghe vậy thở dài, nói:

– Ngày xưa, Kê Khang lúc sắp bị hành hình còn gảy khúc nhạc “Quảng Lăng tán” bi ai rồi từ đó cung đàn này không còn tồn tại trên thế gian. Ha ha, khúc “Quảng Lăng tán” tuy tinh diệu nhưng bì sao được với khúc “Tiếu ngạo giang hồ” của hai chúng ta? Nhưng năm đó, tâm tình của Kê Khang cũng giống như tâm tình của ta với hiền đệ lúc này.

Lưu Chính Phong cười nói:

– Vừa rồi Khúc đại ca còn rất thoáng đạt mà sao bây giờ lại cố chấp như vậy? Đêm nay, đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” phát huy đến chỗ lâm ly tận chí. Trên thế gian có khúc nhạc này thì đại ca và tiểu đệ đã hợp tấu rồi, một bản hợp tấu tuyệt nhất ở cõi đời thì còn ân hận gì nữa?

Khúc Dương vỗ tay khẽ nói:

– Hiền đệ nói phải lắm.

Một lúc sau lão lại thở dài. Lưu Chính Phong hỏi:

– Đại ca, sao đại ca thở dài? Đúng rồi, nhất định là đại ca không an tâm vì Phi Phi.

Nghi Lâm giật mình, nghĩ thầm: Phi Phi, chính cô bé Phi Phi kia ư?

Quả nhiên nghe tiếng Khúc Phi Yên nói:

– Gia gia, gia gia và Lưu công công từ từ tịnh dưỡng thương thế cho lành hẳn rồi chúng ta đến phái Tung Sơn giết sạch bọn ác đồ mà trả thù cho Lưu bà bà.

Đột nhiên, vách núi vang vọng một tràng cười dài. Tiếng cười chưa hết, một bóng đen từ sau vách núi đi ra, ánh thanh quang lấp loáng, hắn đã đứng trước mặt Khúc Dương và Lưu Chính Phong, tay cầm trường kiếm. Đó chính là Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Tung Sơn. Hắn lạnh lùng cười lên ha hả rồi nói:

– Con nhãi ranh kia, ngươi nói hay đấy. Muốn giết sạch cả phái Tung Sơn ư? Trên đời này đâu có những chuyện dễ toại ý đến như vậy được?

Lưu Chính Phong đứng dậy nói:

– Phí Bân, ngươi đã giết cả nhà ta; chính Lưu mỗ cũng bị chưởng lực của hai sư huynh ngươi đánh, nguy hiểm tính mạng trong khoảnh khắc. Ngươi còn muốn làm gì nữa đây?

Phí Bân cười hô hố rồi nói khích:

– Con nhãi ranh kia nói muốn giết sạch phái Tung Sơn, tại hạ đến đây để cho nó giết sạch. Con nhãi kia, ngươi qua đây chịu chết trước đi.

Nghi Lâm ngồi bên cạnh Lệnh Hồ Xung nói:

– Phi Phi và gia gia của cô ấy đã cứu đại ca; chúng ta phải tìm cách cứu họ mới được.

Lệnh Hồ Xung không đợi cô nói ra đã ngầm tính kế giải vây để báo đáp ơn cứu mạng của hai cha con Khúc Dương. Nhưng một là đối phương là cao thủ phái Tung Sơn, chính mình lúc chưa bị trọng thương cũng không phải là đối thủ của hắn; hai là bây giờ đã biết Khúc Dương là người trong Ma giáo, mà phái Hoa Sơn và Ma giáo lại thù địch với nhau, làm sao có thể cứu giúp kẻ địch được? Lòng hắn còn ngại, chưa thể quyết định, lại nghe Lưu Chính Phong nói:

– Họ Phí kia, ngươi cũng được coi như là một nhân vật có tiếng trong danh môn chính phái. Hôm nay, Khúc Dương và Lưu Chính Phong lọt vào tay của ngươi, ngươi muốn băm muốn vằm thế nào chúng ta cũng không oán hận; song ngươi lại hà hiếp một đứa con gái nhỏ tuổi thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa? Phi Phi, ngươi chạy mau đi!

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu nữ nguyện chết cùng gia gia và Lưu công, quyết không chịu tìm cái sống một mình.

Lưu Chính Phong thúc giục:

– Chạy mau đi! Chạy mau đi! Chuyện của người lớn, ngươi là con nít không có liên can gì đây cả.

Khúc Phi Yên đáp:

– Tiểu nữ không đi.

Loảng xoảng hai tiếng, cô rút hai thanh đoản kiếm từ sau lưng lạng ra cản trước Lưu Chính Phong rồi quát:

– Phí Bân, trước đây Lưu công tha chết cho ngươi mà ngươi lại lấy oán báo ân. Ngươi có còn biết hổ thẹn không đó?

Phí Bân hầm hầm nói:

– Con ranh này nói là muốn giết sạch phái Tung Sơn của chúng ta. Lẽ nào họ Phí ta chịu bó tay để bị ngươi phanh thây hay là cắm đầu chạy trốn.

Lưu Chính Phong kéo tay Khúc Phi Yên vội nói:

– Chạy mau đi, chạy mau đi!

Nhưng vì lão bị nội lực của phái Tung Sơn làm chấn động gần đứt hết kinh mạch, vừa rồi lại đem hết tâm lực ra diễn tấu khúc “Tiếu ngạo giang hồ” nên tay lão không còn chút nội lực nào. Khúc Phi Yên kéo nhẹ một cái đã thoát khỏi tay Lưu Chính Phong. Trước mặt cô thanh quang lấp loáng, trường kiếm của Phí Bân đã đâm tới.

Tay trái Khúc Phi Yên giơ đoản kiếm lên gạt, tay phải cầm kiếm phóng ra. Phí Bân cười gằn một tiếng, quay trường kiếm một vòng rồi chát một tiếng, hắn đánh xuống đoản kiếm bên tay phải của cô. Cánh tay Khúc Phi Yên tê nhức, hổ khẩu đau đớn, thanh đoản kiếm trên tay phải rớt xuống đất. Trường kiếm của Phí Bân chênh chếch đánh ngược lại, chát một tiếng nữa, đoản kiếm bên tay trái của cô lại bị chấn động, rớt xuống văng xa mấy trượng. Phí Bân chỉ trường kiếm vào yết hầu cô bé, nhìn Khúc Dương cười nói:

– Khúc trưởng lão, tại hạ đâm đui mắt trái của hài nhi trưởng lão trước rồi xẻo mũi, xẻo tai cô ta sau.

Khúc Phi Yên thét to, nhảy xổ lao thẳng vào mũi trường kiếm của hắn. Phí Bân rút kiếm lại rất nhanh, hắn đưa ngón trỏ tay trái điểm huyệt Khúc Phi Yên rồi cười hô hố nói:

– Tà ma ngoại đạo làm nhiều chuyện gian ác, muốn chết cũng không dễ dàng đâu. Ta đâm mù mắt trái của ngươi trước đã.

Hắn giơ trường kiếm lên toan đâm vào mắt trái của Khúc Phi Yên, bỗng nghe đằng sau có tiếng người quát:

– Dừng tay!

Phí Bân giật mình kinh hãi, vội quay người lại, thủ kiếm hộ thân. Hắn không ngờ Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm đã sớm ẩn núp sau tảng đá không nhúc nhích, nếu không thì với nội công của hắn, quyết không thể có ai đến gần mà lại không phát giác được. Dưới ánh trăng, hắn chỉ thấy một hán tử trẻ tuổi, hai tay chống nạnh đang đứng đó.

Phí Bân quát hỏi:

– Ngươi là ai?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn tham kiến Phí sư thúc.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền khom người hành lễ, thân người loạng choạng không vững. Phí Bân gật đầu nói:

– À, thì ra đại đệ tử của Nhạc sư huynh. Ngươi làm gì ở đây?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu điệt bị đệ tử phái Thanh Thành đánh trọng thương nên ở đây để dưỡng thương, rất may mắn được bái kiến Phí sư thúc.

Phí Bân hừ lên một tiếng rồi nói:

– Ngươi đến đúng lúc lắm. Con ranh này là tà ma ngoại đạo trong Ma giáo, đáng bị tiêu diệt; nếu chính ta ra tay thì không tránh khỏi ỷ lớn hiếp nhỏ. Ngươi hãy giết con ranh này đi.

Hắn nói vậy rồi đưa tay chỉ vào Khúc Phi Yên.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu đáp:

– Gia gia của cô bé này và Lưu sư thúc kết giao với nhau, cứ tính như vậy thì cô bé này thấp hơn tiểu điệt một bậc. Nếu tiểu điệt giết cô ta thì trên giang hồ đồn đãi rằng phái Hoa Sơn ỷ lớn hiếp nhỏ, cứ vậy truyền rộng ra thì thanh danh rất thương tổn. Vả lại, Khúc tiền bối này và Lưu sư thúc đều đã bị trọng thương. Trước mặt hai vị mà ăn hiếp tiểu bối của hai vị quyết không phải là hành vi của bậc anh hùng hảo hán. Phái Hoa Sơn của tiểu điệt không thể làm việc này, xin Phí sư thúc lượng thứ cho.

Lệnh Hồ Xung nói như vậy ý tứ rất rõ ràng. Chuyện phái Hoa Sơn không muốn làm mà phái Tung Sơn cứ làm, thì hiển nhiên là phái Tung Sơn không sánh bằng phái Hoa Sơn được.

Đôi mày Phí Bân dựng ngược, ánh mắt lộ hung quang. Hắn gằn giọng:

– Thì ra ngươi và gian nhân Ma giáo cũng đã ngấm ngầm câu kết với nhau. Phải rồi, vừa rồi Lưu Chính Phong có nói gian nhân họ Khúc đã trị thương cho ngươi, cứu tính mạng ngươi. Không ngờ ngươi đường đường là đại đệ tử phái Hoa Sơn cũng quy đầu Ma giáo nhanh như vậy.

Trường kiếm trong tay hắn rung động, lưỡi kiếm sáng loáng, dường như chỉ muốn đâm Lệnh Hồ Xung.

Lưu Chính Phong nói:

– Lệnh Hồ hiền điệt, hiền điệt và bọn ta không có liên can gì, không nên đến đây rước thêm mối nhục nhã, mau mau rời khỏi nơi này để khỏi làm khó cho sư phụ của hiền điệt.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Lưu sư thúc, từ xưa đến nay bạch đạo của chúng ta và tà ma ngoại đạo không đội trời chung với nhau. Hai chữ “hiệp nghĩa” có ý nghĩa gì? Ức hiếp người đang bị trọng thương cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Tàn sát đứa bé gái vô tội cũng được coi là hiệp nghĩa ư? Nếu những chuyện này đều làm được thì ta có khác gì tà ma ngoại đạo đâu?

Khúc Dương than thở:

– Những chuyện như vậy, Ma giáo chúng ta cũng không làm. Lệnh Hồ huynh đệ, chính miệng huynh đệ đã nói ra đó, phái Tung Sơn thích làm những chuyện này thì cứ để cho hắn tự do làm đi.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu điệt không muốn đi. Đại tung dương thủ Phí Bân trên giang hồ danh tiếng lẫy lừng, là bậc anh hùng hảo hán nhất nhì trong phái Tung Sơn. Sư thúc chẳng qua chỉ nói vài câu hăm dọa cô bé thôi, chứ không thể làm những chuyện xấu xa như vậy được. Phí sư thúc quyết không phải là hạng người như vậy.

Lệnh Hồ Xung nói xong, hai tay khoanh trước ngực, dựa lưng vào gốc cây. Mặt Phí Bân bừng bừng sát khí. Hắn cười lên một tràng dài man rợ rồi nói:

– Ngươi tưởng có thể dùng ba tấc lưỡi làm xiêu lòng ta, có thể lung lạc ta tha cho ba tên gian nhân này ư? Ha ha, ngươi đừng có ngu si mộng tưởng. Ngươi đã đầu quân vào Ma giáo, Phí mỗ này giết ba người hay giết thêm cả ngươi nữa cũng vậy thôi.

Nói rồi hắn khoa chân bước lên một bước.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của hắn rất hung tợn, lòng không khỏi kinh hãi nhưng vẫn ngấm ngầm tìm kế sách để giải vây. Lệnh Hồ Xung vẫn cố làm ra vẻ bình thản, nói:

– Phí sư thúc, ngay cả tiểu điệt sư thúc cũng muốn giết để bịt miệng phải không?

Phí Bân nói:

– Ngươi thông minh thật, câu này không sai!

Hắn nói xong lại tiến gần thêm một bước. Bỗng nhiên từ sau tảng đá hiện ra một nữ ni nhỏ tuổi. Cô nói:

– Phí sư thúc, khổ hải vô biên hồi đầu thị ngạn (biển khổ mênh mông, quay đầu là thấy bến). Bây giờ sư thúc định làm chuyện bại hoại, nhưng việc chưa ra tay mà biết gò cương dừng ngựa thì cũng chưa muộn.

Ni cô này chính là Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung bảo cô cứ núp sau tảng đá, không được để ai nhìn thấy, nhưng trước mắt, Lệnh Hồ Xung đang lâm vào tình thế nguy cấp; không kịp suy nghĩ cô đành đánh bạo đi ra, nghĩ có thể lấy lời nói phải để khuyên răn Phí Bân dừng tay.

Phí Bân giật mình kinh hãi nói:

– Ngươi là đồ đệ phái Hằng Sơn phải không? Sao lại lén lút núp ở đây?

Mặt Nghi Lâm ửng hồng, cô ấp úng nói:

– Đệ tử… đệ tử…

Khúc Phi Yên bị điểm huy ệt đạo, đang nằm dưới đất, không nhúc nhích được, nghe giọng Nghi Lâm cô liền lớn tiếng nói:

– Nghi Lâm tỷ tỷ, tiểu muội sớm đoán được tỷ tỷ cùng đi với Lệnh Hồ đại ca. Quả nhiên tỷ tỷ đã trị lành vết thương cho đại ca, chỉ đáng tiếc… chỉ đáng tiếc chúng ta đều sắp chết hết rồi.

Nghi Lâm lắc đầu nói:

– Không đâu, Phí sư thúc là bậc anh hùng hào kiệt tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, có khi nào lại đi giết hại những người đang bị trọng thương và một tiểu cô nương như muội muội.

Khúc Phi Yên cười gằn hỏi:

– Lão thật đúng là đại anh hùng, đại hào kiệt ư?

Nghi Lâm đáp:

– Phái Tung Sơn là minh chủ của Ngũ Nhạc kiếm phái, là lãnh tụ bạch đạo trên giang hồ; bất luận làm chuyện gì, phái này cũng phải lấy hiệp nghĩa làm đầu.

Cô nói mấy câu này với tất cả tấm lòng chân thành, nhưng Phí Bân nghe lại hoàn toàn cho là lời chế giễu. Hắn nghĩ bụng: Một là không làm, hai là không nghĩ; nếu hôm nay còn một tên sống sót thì thanh danh Phí mỗ từ đây sẽ bị ô nhục. Tuy ta giết gian nhân trong Ma giáo nhưng giết đang lúc chúng bị trọng thương thì không phải là hành vi của bậc anh hùng hào kiệt, tất bị người ta coi thường. Hắn nghĩ vậy liền vung trường kiếm lên chỉ vào Nghi Lâm nói:

– Ngươi đã không bị trọng thương, cũng không phải là tiểu cô nương không biết võ công, ta giết ngươi được chứ?

Nghi Lâm giật mình sợ hãi, lùi lại mấy bước, run run nói:

– Đệ tử… đệ tử… Sao sư thúc lại muốn giết đệ tử?

Phí Bân nói:

– Ngươi cấu kết với gian nhân Ma giáo, gọi nhau là tỷ muội, cũng đã là cùng một phe với gian nhân, tất nhiên không thể dung tha được.

Hắn nói xong, khua chân bước lên một bước, giơ kiếm toan đâm thẳng vào Nghi Lâm. Lệnh Hồ Xung vội lạng người cản trước mặt Nghi Lâm, rồi la lên:

– Sư muội mau chạy đi, mời sư phụ đến cứu mạng.

Lệnh Hồ Xung biết nước xa khó cứu được lửa gần, hắn bảo Nghi Lâm đi cầu cứu viện binh chẳng qua là muốn cô rời xa chỗ này cho khỏi mất mạng.

Trường kiếm của Phí Bân lay động, mũi kiếm đâm về phía bên phải Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vội nghiêng người né tránh. Phí Bân đánh ba đường kiếm liên hoàn véo véo, rất nguy hiểm cho Lệnh Hồ Xung. Nghi Lâm vội rút thanh kiếm gãy sau lưng ra, nhắm vai Phí Bân đâm tới. Cô la lên:

– Lệnh Hồ đại ca, đại ca bị trọng thương, mau mau lùi lại đi.

Phí Bân cười ha hả nói:

– Tiểu ni cô động lòng phàm tục rồi, thấy thiếu niên anh tuấn thì không kể chi đến sinh mạng.

Nói xong, hắn đưa kiếm đỡ. Choang một tiếng, song kiếm giao nhau, thanh kiếm gãy trong tay Nghi Lâm bị văng đi; trường kiếm của Phí Bân phóng tới ngực Nghi Lâm. Phí Bân muốn giết cả năm người, tuy người nào cũng chẳng còn sức lực chống lại hắn nhưng hắn sợ đêm dài sinh lắm mộng, chỉ cần một tên chạy thoát thì hậu hoạn vô cùng, nên hắn phải ra tay tuyệt diệt.

Lệnh Hồ Xung vọt đến, tay trái phóng song chỉ đâm vào mắt Phí Bân. Phí Bân vội đứng lại, rồi nhảy lùi ra sau. Lúc hắn rút trường kiếm về, thừa thế lia một cái, vạch một đường dài lên cánh tay trái của Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung liều mình xông vào để cứu nguy cho Nghi Lâm, nhưng hắn đã thở lên hồng hộc, thân người lảo đảo muốn té nhào. Nghi Lâm vội nhảy lên trước đỡ lấy Lệnh Hồ Xung, nghẹn ngào nói:

– Để lão giết chúng ta hết đi.

Lệnh Hồ Xung vừa thở vừa giục:

– Tiểu muội… tiểu muội chạy mau đi…

Khúc Phi Yên cười nói:

– Ông ngốc ơi, đến nước này mà ông còn chưa hiểu rõ bụng dạ người ta. Người ta muốn vì ông mà chết đó.

Câu nói của Khúc Phi Yên chưa xong thì trường kiếm của Phí Bân đã phóng đến, đâm thẳng vào tim cô. Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung, Nghi Lâm cùng giật mình kinh hoàng.

Phí Bân nở một nụ cười man rợ, khoa chân bước lên một bước hướng về Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm, rồi tiến lên một bước nữa; lưỡi kiếm của hắn nhỏ máu tươi từng giọt.

Lệnh Hồ Xung suy nghĩ loạn xạ: Hắn… hắn đã giết tiểu cô nương này, chẳng khác nào hạng lang sói, ta đây cũng phải chết. Tại sao Nghi Lâm sư muội muốn vì ta mà chết? Tuy ta đã cứu nàng nhưng nàng cũng đã cứu lại ta, xem như ân tình đã báo đáp đủ rồi. Trước đây ta và nàng không hề quen biết, chẳng qua chỉ là sư huynh sư muội trong Ngũ Nhạc kiếm phái, muốn giữ đạo nghĩa trên giang hồ cũng không cần lấy tính mạng mà đền đáp như vậy. Không ngờ đệ tử môn hạ phái Hằng Sơn lại vẹn toàn nghĩa khí võ lâm; Định Dật sư thái thật là một nhân vật hiếm có. Ôi, Nghi Lâm sư muội lại muốn cùng chết với ta, tại sao không phải là Linh San tiểu sư muội? Nàng… nàng bây giờ đang làm gì?

Trước mắt Lệnh Hồ Xung, nét mặt hung tợn cùng nụ cười man rợ của Phí Bân đang tiến đến gần. Lệnh Hồ Xung mỉm cười, thở dài rồi nhắm mắt lại.

Bỗng nghe tiếng hồ cầm từ xa xa vọng lại. Tiếng đàn thê lương, ai oán, giống như đang khóc tỉ tê, lại như đang run bần bật, phát ra những âm điệu lúc đứt lúc nối giống như những hạt mưa nhỏ rơi xuống trên lá cây. Lệnh Hồ Xung sửng sốt, mở to mắt ra nhìn.

Phí Bân giật mình nghĩ:

– Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã đến rồi!

Tiếng hồ cầm càng lúc càng thê lương não nuột, Mạc Đại tiên sinh vẫn đứng sau gốc cây chưa chịu xuất hiện. Phí Bân gọi to:

– Mạc Đại tiên sinh, sao chưa hiện thân tương kiến?

Tiếng hồ cầm bỗng nhiên im bặt. Từ sau gốc cây tùng, một người gầy nhom bước ra. Lệnh Hồ Xung nghe danh tiếng Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh đã lâu nhưng chưa bao giờ thấy qua mặt lão. Lúc này dưới ánh trăng, chàng chỉ thấy lão gầy còm như que củi, hai vai nhô lên giống như một người bệnh lao nặng có thể ngã ra chết ngay bất cứ lúc nào. Lệnh Hồ Xung không ngờ chưởng môn phái Hành Sơn lừng danh khắp giang hồ lại là một người có bộ dạng cổ quái đến như vậy. Tay trái Mạc Đại tiên sinh kẹp cây hồ cầm, hai tay cung lại, hướng về Phí Bân nói:

– Phí sư huynh, Tả minh chủ có khỏe không?

Phí Bân thấy lão không có ác ý, lại biết lão và Lưu Chính Phong bất hòa, bèn nói:

– Đa tạ Mạc Đại tiên sinh, Tả sư ca vẫn khỏe. Lưu Chính Phong của quý phái và gian nhân Ma giáo kết giao với nhau, muốn gây bất lợi cho Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta. Mạc Đại tiên sinh, theo tiên sinh thì nên xử trí thế nào?

Mạc Đại tiên sinh bước đến hai bước gần Lưu Chính Phong, dõng dạc nói hai tiếng:

– Đáng giết!

Tiếng “giết” vừa nói ra khỏi miệng, ánh thanh quang lấp loáng, tay lão đã cầm một thanh trường kiếm vừa mỏng vừa nhỏ như lá lúa, phát chiêu rất nhanh, đâm thẳng vào ngực Phí Bân. Chiêu kiếm cực kỳ nhanh song lại như mộng như ảo, chính là một tuyệt chiêu trong Bách biến thiên ảo Hành Sơn vân vụ thập tam thức. Phí Bân lúc ở Lưu phủ đã từng biết qua môn võ công này của Lưu Chính Phong, bây giờ hắn lại bị lãnh đủ, kinh hãi không kịp trở tay. Hắn vội lùi ra sau thở hồng hộc, ngực hắn đã bị lưỡi kiếm lợi hại vạch một đường dài, áo bị rách toạc, lưỡi kiếm rạch vào da thịt, tuy vết thương không nặng nhưng hắn kinh hãi, nhuệ khí mất hẳn.

Phí Bân lập tức xoay kiếm đâm trả nhưng Mạc Đại tiên sinh đã chiếm được tiên cơ nên cứ liên tục phóng kiếm đánh tới. Thanh kiếm của tiên sinh như con linh xà, rung động không ngớt, luồn lách vào làn kiếm quang của Phí Bân mà đâm tới, ép Phí Bân phải liên tục thối lui, nửa câu chửi cũng không mở miệng phát ra được.

Kiếm pháp của Mạc Đại tiên sinh biến ảo trước mắt Khúc Dương, Lưu Chính Phong, Lệnh Hồ Xung; giống như ma như quỷ khiến cả ba không khỏi kinh tâm loạn phách. Ngay Lưu Chính Phong từng là đồng môn học nghệ, làm sư huynh sư đệ với nhau mấy chục năm cũng không ngờ kiếm thuật của sư huynh lại tinh thâm đến vậy.

Từng giọt máu tươi từ giữa hai thanh kiếm nhỏ xuống. Phí Bân không ngừng chuyển dịch né tránh, cố sức chống đỡ vẫn không thoát khỏi làn kiếm quang của Mạc Đại tiên sinh, máu tươi nhỏ xuống chung quanh hai người thành một vòng đỏ lòm. Bỗng nghe Phí Bân thét một tiếng đau đớn rồi nhảy vọt lên cao. Mạc Đại tiên sinh lùi ra sau hai bước, nhét trường kiếm vào đáy hồ cầm rồi quay người đi. Khúc Tiêu Tương dạ vũ từ sau cây tùng vọng lại rồi xa dần…

Phí Bân nhảy lên rồi lập tức ngã xuống, máu từ vết thương trước ngực hắn phun ra như suối. Trong trận kịch chiến vừa rồi, hắn vận nội lực chính tông của phái Tung Sơn, sau khi bị kiếm đâm vào ngực mà nội lực vẫn chưa tan, nên nội lực ép máu tươi trong vết thương phụt ra ngoài, trông vừa kỳ dị vừa đáng sợ.

Hồi 27: Trao hào kiệt Tiếu Ngạo giang hồ

Nghi Lâm đỡ bên vai Lệnh Hồ Xung, trái tim trong lồng ngực cô đập loạn cả lên vì sợ hãi. Cô hỏi khẽ:

– Đại ca không bị thương chứ?

Khúc Dương thở dài nói:

– Lưu hiền đệ, hiền đệ nói sư huynh và hiền đệ bất hòa; không ngờ đến lúc hiền đệ lâm nguy thì lão ra tay cứu giúp.

Lưu Chính Phong nói:

– Sư ca của tiểu đệ hành động cổ quái khiến cho người khác khó đoán được. Tiểu đệ và sư ca bất đồng quyết không phải vì chuyện bần phú nhỏ nhoi, chỉ vì tính nết không hợp nhau mà thôi.

Khúc Dương lắc đầu nói:

– Kiếm pháp của lão tinh thâm như vậy nhưng tiếng hồ cầm lại thê lương não nuột, khiến người nghe phải rơi lệ. Lão chưa thoát được vòng trần tục, chưa ra khỏi được cái lẩn quẩn của đời thường.

Lưu Chính Phong nói:

– Đúng vậy, sư ca tấu hồ cầm chỉ có đi mà không có lại, khúc điệu vô cùng não nuột bi ai, cứ thế mà đi mãi. Ca từ diễn đạt cái vui vẻ mà không dâm, bi ai mà không ảm đạm, nhưng khúc điệu lại không được như vậy. Tiểu đệ vừa nghe tiếng hồ cầm của sư ca thì chỉ muốn tránh xa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm:

– Hai người này mê âm nhạc quá mức, đang lúc hai chân sắp bước vào quan tài mà còn thảo luận cái gì bi ai mà không ảm đạm, cái gì phong nhã với tục khí. May mà Mạc Đại sư bá kịp thời đến cứu tính mệnh chúng ta, nhưng đáng tiếc tiểu cô nương họ Khúc lại bị Phí Bân giết chết rồi.

Lại nghe Lưu Chính Phong nói:

– Nhưng nói đến kiếm pháp võ công, tiểu đệ vạn lần cũng không bằng sư ca. Lúc bình thường tiểu đệ thất kính với sư ca, bây giờ nghĩ lại thật là hổ thẹn.

Khúc Dương gật đầu nói:

– Chưởng môn phái Hành Sơn quả thật danh bất hư truyền.

Nói xong lão quay đầu nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đệ, ta có một chuyện muốn thỉnh cầu, không biết tiểu huynh đệ có thể đáp ứng không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiền bối có điều gì sai bảo, vãn bối xin nghe theo.

Khúc Dương liếc nhìn Lưu Chính Phong rồi nói:

– Ta và Lưu hiền đệ say mê âm luật, đem mấy chục năm công lực ra để sáng chế khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, một khúc nhạc kỳ diệu xưa nay chưa từng có. Từ nay về sau trên thế gian này nếu có được Khúc Dương thì không thể có Lưu Chính Phong; nếu có Lưu Chính Phong thì không thể có Khúc Dương. Cứ coi như hai nhân vật Khúc Dương và Lưu Chính Phong tuy không sinh cùng ngày nhưng đã có duyên tương ngộ nên kết giao bằng hữu. Hai người đã tinh thông âm luật, lại có nội công thâm hậu, sở thích giống nhau, lao tâm khổ trí cùng sáng tác ra khúc nhạc này, ta và Lưu hiền đệ dẫu thác về chín suối cũng không khỏi ngậm ngùi.

Lão nói đến đây, lấy từ trong bọc ra một cuốn sách rồi nói:

– Đây là cầm phổ và tiêu phổ của “Tiếu ngạo giang hồ”. Xin tiểu huynh đệ hãy niệm tình nghĩ đến tâm huyết của hai ta mà đem cầm phổ và tiêu phổ này đi khắp thế gian, kiếm tìm cho được truyền nhân.

Lưu Chính Phong nói:

– Khúc “Tiếu ngạo giang hồ” này nếu có thể truyền lại được cho thế gian thì ta và Khúc đại ca mới yên lòng nhắm mắt.

Lệnh Hồ Xung khom lưng nhận khúc phổ từ tay Khúc Dương, cất vào trong túi của mình rồi nói:

– Hai vị tiền bối hãy an tâm, vãn bối xin tận lực.

Trước đó, Lệnh Hồ Xung nghe Khúc Dương nói có chuyện khẩn cầu thì tưởng là chuyện khó khăn nguy hiểm, trong thâm tâm hắn đã nghĩ ra cách để giải quyết, chỉ sợ phải vi phạm môn quy, đắc tội với đồng đạo trong chính phái. Nhưng hắn không ngờ Khúc Dương chỉ muốn hắn tìm giúp hai người học gảy đàn thổi sáo, lúc này hắn mới an tâm, nhẹ thở phào một cái.

Lưu Chính Phong nói:

– Lệnh Hồ hiền điệt, khúc nhạc kỳ lạ này không những là tất cả tâm huyết của hai chúng ta tạo nên mà lại có liên quan đến một vị tiền nhân. Trong “Tiếu ngạo giang hồ” có đoạn viết cho đàn là do Khúc đại ca dựa vào khúc “Quảng Lăng tán” của Kê Khang đời Tấn mà cải biên thành.

Đối với chuyện này, Khúc Dương rất đắc ý. Lão mỉm cười nói:

– Ngàn xưa đã tương truyền, sau khi Kê Khang chết, khúc “Quảng Lăng tán” không còn nữa. Tiểu huynh đệ có đoán ra ta kiếm được nó từ đâu không?

Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Đạo lý của âm luật ta chẳng hiểu một chút nào cả, huống hồ hai người này hành sự không giống ai, ta làm sao mà đoán được. Hắn bèn nói:

– Xin tiền bối chỉ giáo cho.

Khúc Dương cười nói:

– Kê Khang là người có tính cách rất đặc biệt. Sử thư khen Kê Khang là “Văn từ trang nghiêm, từ thuở trẻ đã thấm nhuần tư tưởng của Lão Trang”, tính cách của Kê Khang rất hợp với ta. Chung Hội lúc đó làm quan lớn, ngưỡng mộ danh tiếng của Kê Khang tìm đến thăm; Kê Khang cứ chuyên chú đánh kiếm, không cần biết đến sự có mặt của Chung Hội. Chung Hội muốn hỏi một điều nhưng không còn hứng thú nữa, bèn bỏ đi. Kê Khang hỏi Chung Hội: “Ngươi nghe cái gì mà đến, đã thấy cái gì mà đi?” Chung Hội nói: “Ta nghe cái đã nghe mà đến, thấy cái đã thấy mà đi”. Chung Hội được coi là một kẻ sĩ thông minh tài trí, nhưng đáng tiếc tính tình lại nhỏ nhen, vì chuyện này mà ấm ức trong lòng, sàm tấu Kê Khang với Tư Mã Chiêu. Tư Mã Chiêu bèn bắt Kê Khang đem giết. Lúc Kê Khang sắp bị hành hình bèn gảy lên một khúc nhạc tràn đầy khí phách, nhưng Kê Khang lại nói: “Quảng Lăng tán từ đây không còn nữa”. Người hậu thế nghe được câu nói này. Nên nhớ rằng khúc nhạc này không phải do Kê Khang sáng tác. Kê Khang là người đời Tây Tấn, khúc nhạc này sau đời Tây Tấn thì bị thất truyền, như vậy nó phải có trước đời Tây Tấn chứ?

Lệnh Hồ Xung không hiểu bèn hỏi:

– Trước đời Tây Tấn ư?

Khúc Dương nói:

– Đúng vậy. Ta không phục câu nói của Kê Khang, bèn tìm cách đi quật mộ phần của hoàng đế và đại thần hai triều Tây Hán và Đông Hán. Liên tục quật hai mươi chín ngôi mộ cổ, tới ngôi mộ cuối cùng ở Thái Ưng thì ta tìm được khúc phổ “Quảng Lăng tán”.

Lão nói xong cười ha hả, rất lấy làm đắc ý.

Lệnh Hồ Xung kinh hãi, nghĩ thầm:

– Lão này vì một khúc nhạc viết cho đàn mà lớn gan đi quật hai mươi chín ngôi mộ cổ!

Chợt thấy trên mặt Khúc Dương nụ cười biến mất, thần sắc ủ rũ, nói:

– Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ là đại đệ tử trong danh môn chính phái; ta vốn không muốn ủy thác việc này cho tiểu huynh đệ, nhưng tình thế rất cần cấp nên ta phải nhờ đến tiểu huynh đệ, xin đừng trách.

Lão nói xong quay sang Lưu Chính Phong nói:

– Lưu hiền đệ, chúng ta có thể đi được rồi đấy.

Lưu Chính Phong dạ một tiếng rồi đưa tay ra. Hai người nắm chặt tay nhau, cùng cất lên một tràng cười dài, vận nội lực khắp người, làm đứt đoạn nội tức lẫn tâm mạch. Cả hai cùng nhắm mắt đi về thế giới bên kia.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la to:

– Tiền bối, sư thúc!

Hắn đưa tay sờ lên mũi của hai người thì không còn thấy hơi thở nữa.

Nghi Lâm sợ hãi lắp bắp:

– Họ… họ chết hết rồi ư?

Lệnh Hồ Xung gật đầu, nói:

– Sư muội, chúng ta mau đem bốn thi thể này chôn đi, để tránh khỏi bị người tìm ra sẽ sinh thêm chuyện. Chuyện Phí Bân bị Mạc Đại tiên sinh giết nhất thiết không được tiết lộ ra ngoài.

Lệnh Hồ Xung nói đến đây, hạ nhỏ giọng:

– Nếu chuyện này mà tiết lộ ra ngoài, Mạc Đại tiên sinh sẽ biết do hai chúng ta nói ra thì tai họa không nhỏ đâu.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, nếu sư phụ hỏi, tiểu muội có nên nói không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bất kỳ ai hỏi cũng không được nói. Tiểu muội mà nói thì Mạc Đại tiên sinh sẽ đến so kiếm với sư phụ của tiểu muội, há không phải hỏng bét sao?

Nghi Lâm nghĩ đến chuyện vừa được chứng kiến kiếm pháp của Mạc Đại tiên sinh thì không kìm được sợ hãi, vội nói:

– Tiểu muội không nói đâu.

Lệnh Hồ Xung cúi người xuống nhặt trường kiếm của Phí Bân lên, đâm mười bảy mười tám nhát trên thi thể của hắn.

Nghi Lâm cảm thấy bất nhẫn, liền nói:

– Lệnh Hồ đại ca, người ta đã chết rồi, hà tất đại ca còn hận thù mà giày xéo thi thể người ta như vậy?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Lưỡi kiếm của Mạc Đại tiên sinh vừa nhỏ vừa mỏng, người qua đây thấy vết thương của Phí sư thúc thì biết ngay là ai đã hạ thủ. Ta không phải muốn hành hạ thi thể của Phí sư thúc, mà chỉ muốn làm cho các vết thương trên người lão loạn xạ cả lên để ai nhìn cũng không nhận ra người hạ thủ mà thôi.

Nghi Lâm thở dài rồi nghĩ: Giang hồ có quá nhiều chuyện dối trá, thật… thật là khó đoán.

Lệnh Hồ Xung liệng trường kiếm xuống, nhấc một cục đá đặt lên thi thể của Phí Bân, nói:

– Tiểu muội đừng động lòng, ngồi xuống nghỉ ngơi đi.

Nói xong chàng nhấc cục đá đặt nhè nhẹ lên thi thể của Phí Bân, dường như nghĩ thi thể cũng có tri giác, hắn chỉ sợ thi thể bị đau.

Nghi Lâm nhặt đá lần lượt lấp hết bốn thi thể của bọn Lưu Chính Phong. Lúc lấy đá lấp đi thi thể Khúc Phi Yên, cô nói:

– Tiểu muội muội, nếu tiểu muội không vì ta thì đâu gặp nguy nan như thế này. Ta mong tiểu muội được lên tiên giới hưởng phúc; kiếp sau đầu thai lại làm thân nam tử, tích nhiều công đức để cuối cùng có thể đến được cõi Tây phương cực lạc. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát…

Lệnh Hồ Xung ngồi trên tảng đá, nghĩ đến ân cứu mạng của Khúc Phi Yên, nghĩ đến cô bé tuổi còn nhỏ mà sớm gặp bất hạnh, lòng rất thương cảm. Chàng vốn không tin đạo Phật, nhưng cũng ráng niệm vài câu “Nam mô A Di Đà Phật” với Nghi Lâm.

Một lúc sau, vết thương của Lệnh Hồ Xung đau buốt. Hắn lấy từ trong người ra khúc phổ “Tiếu ngạo giang hồ”, mở ra xem chỉ thấy toàn là những văn tự cổ quái, một chữ cũng không đọc ra. Sở học, văn tự của hắn vốn có hạn, không biết cầm phổ của thất huyền cầm vốn là kỳ hình quái tự ; còn văn tự trong tiêu phổ lại cổ xưa và bí hiểm, chính hắn chưa hề thấy qua. Tiện tay, hắn gấp cuốn sách cất vào trong túi, ngẩng đầu lên trời thở dài, rồi nghĩ: Lưu sư thúc kết giao bằng hữu khiến tính mệnh toàn gia bị diệt. Tuy sư thúc kết giao với trưởng lão trong Ma giáo nhưng cả hai đều gan dạ nghĩa khí, không hổ thẹn là những bậc hảo hán tử oanh liệt, thật khiến cho người đời khâm phục. Ngày Lưu sư thúc rửa tay gác kiếm muốn rút ra khỏi võ lâm không biết như thế nào mà kết oán thù với phái Tung Sơn. Thật là kỳ lạ.

Hồi 28: Hẻm Hướng Dương phố Phúc Châu

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bỗng thấy thanh quang lấp loáng ở góc Tây Bắc, ánh sáng ngang dọc, vừa nhìn đã biết ngay là có trận chiến quyết liệt, dường như cao thủ của bổn môn và người đang giao đấu. Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu sư muội, tiểu muội ngồi đây đợi ta một chút, ta đi một lát rồi về ngay.

Nghi Lâm đang lấy đất đắp mộ, không thấy được ánh thanh quang đó, chẳng biết đại ca muốn đi đâu chốc lát, cô bèn gật đầu.

Lệnh Hồ Xung chống gậy bước được mười mấy bước, nhặt lấy trường kiếm của Phí Bân đeo vào sau lưng rồi tiến về phía phát ra thanh quang. Đi được một lúc, đã nghe được loáng thoáng tiếng đao kiếm giao đấu kịch liệt, nhanh như pháo liên châu. Chàng nghĩ thầm: Không hiểu vị tôn trưởng nào của bổn môn đã cùng người động thủ? Đấu với nhau như vậy, rõ ràng đối phương là một cao thủ.

Lệnh Hồ Xung nép thấp người xuống, từ từ di chuyển đến gần. Khi nghe tiếng đao kiếm giao đấu không xa, hắn núp vào phía sau một gốc đại thụ, nhìn ra. Dưới ánh trăng, một vị nho sinh tay cầm trường kiếm đứng yên một chỗ, chính là sư phụ Nhạc Bất Quần. Một đạo nhân thấp bé chạy vòng ngoài vô cùng mau lẹ bao vây Nhạc Bất Quần; trường kiếm trong tay lão phóng rất nhanh, mỗi vòng chạy phóng ra đến mười mấy kiếm. Đó chính là Dư Thương Hải, chưởng môn phái Thanh Thành.

Lệnh Hồ Xung bất ngờ thấy sư phụ và người động thủ, đối thủ lại là chưởng môn phái Thanh Thành, bất giác cảm thấy cao hứng. Phong cách của sư phụ nhàn nhã, mỗi kiếm của Dư Thương Hải đâm tới sư phụ chỉ tiện tay gạt ra. Dư Thương Hải chuyển đến sau lưng sư phụ, sư phụ cũng không quay người lại, chỉ quơ kiếm hộ thân ở phía sau. Dư Thương Hải phóng kiếm càng lúc càng nhanh, Nhạc Bất Quần chỉ thủ mà không xuất chiêu. Lệnh Hồ Xung rất khâm phục, thầm nghĩ: Trong võ lâm, sư phụ ta được tôn xưng là Quân tử kiếm, quả nhiên phong độ ung dung nho nhã; cùng người động thủ ra chiêu mà cũng không có một chút bá đạo nào.

Hắn xem một lúc, lại nghĩ: Sở dĩ sư phụ không nổi nóng bởi vì phong độ sư phụ không những rất nhàn nhã mà võ công lại rất cao thâm.

Nhạc Bất Quần ít động thủ với ai. Trước nay, Lệnh Hồ Xung thường thấy lão chỉ ra chiêu tỉ thí với sư mẫu hoặc truyền dạy cho bọn đệ tử nhưng cũng chỉ là đánh giả, bây giờ hắn mới được xem sư phụ chiến đấu thực sự, tất nhiên là không giống vậy. Lại thấy Dư Thương Hải phóng kiếm đều phát ra những tiếng rít veo véo đủ biết nội lực của lão rất mạnh. Lệnh Hồ Xung lo thầm, nghĩ: Ta trước nay vẫn coi thường phái Thanh Thành, nào ngờ lão đạo sĩ thấp bé này lại lợi hại như vậy. Nếu ta không bị thương, quyết cũng không thể là đối thủ của lão. Lần sau có gặp lão, ta nên cẩn thận; tốt hơn hết là sớm tránh xa.

Lại xem thêm một lúc nữa, hắn thấy Dư Thương Hải càng chuyển động càng nhanh, vòng quay của lão hóa thành một bóng xanh xoay quanh Nhạc Bất Quần. Song kiếm giao nhau rất nhanh, tiếng trước tiếp liền sau thành một chuỗi âm thanh kéo dài vô tận. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nếu mấy chục chiêu kiếm kia đều phóng vào mình, e rằng một chiêu mình đỡ cũng không nổi, toàn thân sẽ bị lão đâm mười mấy vết ngay. Đạo sĩ lùn này còn hơn cả Điền Bá Quang, dường như ra tay mà không cần phải trù tính gì cả.

Thấy sư phụ vẫn không chuyển thế công, bất giác chàng ngấm ngầm sợ hãi: Kiếm pháp của đạo sĩ lùn này thật lợi hại; sư phụ mà sơ hở một chút thì sẽ thất bại dưới kiếm của lão ngay.

Bỗng nghe một tiếng choang rất nhanh, Dư Thương Hải bay vọt về phía sau hơn một trượng, đứng lại. Không biết lão đã tra kiếm vào vỏ từ lúc nào. Lệnh Hồ Xung giật mình nhìn sư phụ, cũng thấy trường kiếm của sư phụ đã tra vào vỏ rồi, vẫn đứng bất động. Biến cố này diễn ra quá nhanh. Lệnh Hồ Xung không biết ai thắng ai bại, cũng không biết có người nào bị nội thương hay không.

Nhạc Bất Quần và Dư Thương Hải đứng lặng người nhìn nhau một lúc. Dư Thương Hải lạnh lùng hừ một tiếng rồi nói:

– Được, sau này có dịp gặp lại.

Nói xong lão xoay người hướng về mé phải vọt đi. Nhạc Bất Quần lớn tiếng nói:

– Dư quán chủ khoan hãy đi! Vợ chồng Lâm Chấn Nam thế nào rồi?

Lão nói rồi phóng người đuổi theo, dư âm chưa dứt, bóng của hai người đã mất hút.

Lệnh Hồ Xung biết được sư phụ đã thắng Dư Thương Hải, lòng thầm vui mừng. Chàng đang bị trọng thương lại đứng lâu nên cảm thấy rất mệt, nghĩ bụng: Sư phụ đuổi theo Dư Thương Hải, cả hai triển khai khinh công, trong nháy mắt chắc đã chạy xa đến mấy dặm.

Lệnh Hồ Xung chống gậy, quay về hướng Nghi Lâm, bỗng nghe mé trái khu rừng phát ra tiếng kêu thảm thiết, thanh âm rất thê lương. Lệnh Hồ Xung giật mình, đi thêm vài bước về hướng khu rừng, nhìn thấy một bức tường màu vàng ẩn hiện, dường như là một ngôi miếu. Chàng lo bọn sư đệ, sư muội đồng môn và bọn đệ tử phái Thanh Thành loạn đấu với nhau bị thương, liền bước nhanh về hướng bức tường.

Đi đến cách ngôi miếu khoảng mấy trượng, bỗng nghe trong miếu có một giọng nói chát chúa của một lão già:

– Bây giờ Tịch tà kiếm phổ đang ở đâu? Ngươi nên ngoan ngoãn nói cho ta biết, ta sẽ vì vợ chồng ngươi mà báo thù, thay ngươi đi tru diệt toàn phái Thanh Thành cho.

Lúc Lệnh Hồ Xung nằm ở trên giường trong Quần Ngọc viện đã từng nghe giọng người này nói.

Chàng biết lão già đang nói là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong, thầm nghĩ: Sư phụ mình đang đi tìm vợ chồng Lâm Chấn Nam bị thất lạc, thì ra hai người này rơi vào tay Mộc Cao Phong.

Lại nghe tiếng một người đàn ông nói:

– Ta không biết Tịch tà kiếm phổ là cái gì. Tịch tà kiếm pháp được truyền qua mấy đời của nhà họ Lâm ta đều là khẩu quyết chứ không có kiếm phổ.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Lão này nhất định là phụ thân của Lâm sư đệ, tổng tiêu đầu Lâm Chấn Nam của Phước Oai tiêu cục rồi.

Lại nghe Lâm Chấn Nam nói:

– Tiền bối muốn vì tại hạ mà báo thù, tại hạ cảm kích vô cùng. Dư Thương Hải phái Thanh Thành đã làm nhiều chuyện bất nghĩa, ngày sau tất có họa báo, dù hắn không bị tiền bối giết thì cũng sẽ chết dưới đao kiếm của một vị anh hùng hảo hán khác.

Mộc Cao Phong nói:

– Ngươi nói như vậy là không tin vào ta lắm. Danh tiếng Tái Bắc minh đà chắc ngươi đã được nghe nhiều.

Lâm Chấn Nam nói:

– Mộc tiền bối oai trấn giang hồ, không ai không biết, không ai không nghe.

Mộc Cao Phong nói:

– Hay lắm, hay lắm! Oai trấn giang hồ, thật không dám! Nhưng họ Mộc này ra tay rất tàn nhẫn, trước nay không hề nương tình, chắc là ngươi cũng đã nghe qua rồi.

Lâm Chấn Nam nói:

– Ý của Mộc tiền bối là dùng cường lực để đối phó với Lâm mỗ, chuyện này Lâm mỗ cũng đã liệu trước rồi. Đừng nói nhà họ Lâm ta không có Tịch tà kiếm phổ, mà nếu có thật đi nữa thì bất luận người nào có uy hiếp dụ dỗ đến đâu, Lâm mỗ cũng quyết không nói ra. Lâm mỗ bị phái Thanh Thành giam cầm, không có ngày nào mà không chịu cực hình; võ công của Lâm mỗ tuy thấp nhưng xương cốt lại rất cứng rắn.

Mộc Cao Phong nói:

– Đúng rồi, đúng rồi, đúng rồi!

Lệnh Hồ Xung đứng ngoài miếu nghe vậy, bèn nghĩ: Cái gì là “Đúng rồi, đúng rồi, đúng rồi!” Thì ra là như vậy. Quả nhiên nghe Mộc Cao Phong nói tiếp:

– Ngươi khoác lác tự cho mình có xương cốt cứng rắn, chịu đựng nổi cực hình, bất luận lão mũi trâu lùn beo phái Thanh Thành tra tấn thế nào vẫn kiên quyết không khai. Nếu nhà họ Lâm ngươi vốn không có Tịch tà kiếm phổ thì khi ngươi không khai có nghĩa là không thể khai được, đừng cho rằng xương cốt cứng hay là không cứng. Phải rồi, Tịch tà kiếm phổ của ngươi là có thật, có nói sao cũng không chịu đưa ra.

Một lúc sau, lão thở dài nói:

– Ta thấy ngươi thật ngu xuẩn. Lâm tổng tiêu đầu, tại sao ngươi chịu chết mà không chịu đưa kiếm phổ ? Kiếm phổ này chẳng ích lợi gì cho ngươi cả. Theo ta thấy, kiếm pháp ghi trên kiếm phổ này có lẽ rất tầm thường, nếu không thì tại sao ngay cả đệ tử phái Thanh Thành ngươi cũng đấu không lại? Loại võ công như vậy không cần đề cập đến nữa.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đúng rồi, Mộc tiền bối nói không sai. Đừng nói ta không có Tịch tà kiếm phổ, cứ coi như có thật đi thì bộ kiếm pháp mèo què này cũng tầm thường thôi, đến cả tính mạng người thân trong nhà của mình cũng không bảo vệ được. Mộc tiền bối để mắt tới kiếm phổ làm gì?

Mộc Cao Phong cười nói:

– Ta chỉ hiếu kỳ thôi. Lão mũi trâu lùn beo kêu nhiều người đến đánh, tìm mọi cách tra tấn ngươi, vậy thì trong kiếm phổ tất có điều gì kỳ lạ. Nói không chừng kiếm pháp ghi trong kiếm phổ rất cao thâm, mà tư chất của ngươi lại ngu muội nên không có cách lĩnh ngộ được, mới làm ô nhục thanh danh của tổ tiên nhà họ Lâm ngươi. Ngươi mau đem ra đi để cho lão nhân gia xem một chút, chỉ ra những điểm hay của Tịch tà kiếm pháp nhà họ Lâm cho anh hùng thiên hạ đều biết, há không phải là tốt đẹp cho thanh danh nhà họ Lâm ngươi sao?

Lâm Chấn Nam nói:

– Hảo ý của Mộc tiền bối tại hạ xin tâm lãnh. Tiền bối lục soát khắp người tại hạ thử xem có Tịch tà kiếm phổ hay không?

Mộc Cao Phong nói:

– Không cần phải vậy. Ngươi bị phái Thanh Thành giam cầm đã nhiều ngày chỉ sợ chúng đã lục soát trên người của ngươi không mười lần thì cũng tám lần. Lâm tổng tiêu đầu, ta cảm thấy ngươi ngu xuẩn lắm, ngươi có biết không?

Lâm Chấn Nam nói:

– Tại hạ quả thật là ngu xuẩn, không cần đến tiền bối chỉ điểm, tại hạ đã biết từ lâu rồi.

Mộc Cao Phong nói:

– Không đúng, ngươi không biết. Hoặc giả Lâm phu nhân có thể biết rõ chăng cũng không biết chừng. Tấm lòng yêu con của từ mẫu bao giờ cũng lớn hơn nghiêm phụ.

Lâm phu nhân thét lên:

– Mộc tiền bối nói sao? Chuyện đó với Bình nhi ta đâu có liên can gì? Bình nhi thế nào? Hắn… hắn ở đâu?

Mộc Cao Phong nói:

– Tiểu tử Lâm Bình Chi thông minh lanh lợi, lão phu vừa thấy là đã thích lắm rồi. Hài tử cũng rất hiểu võ công của lão lợi hại liền bái sư vào làm môn hạ của lão phu.

Lâm Chấn Nam nói:

– Thì ra hài tử của ta bái Mộc tiền bối làm sư phụ, thật là may mắn cho hắn. Hai vợ chồng tại hạ đã chịu nhiều cực hình, thân bị trọng thương, tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Cầu mong Mộc tiền bối cho kêu hài nhi đến đây để gặp hai vợ chồng tại hạ lần cuối.

Mộc Cao Phong nói:

– Ngươi muốn hài tử đến để vĩnh biệt nhau cũng là chuyện thường tình của con người, chuyện này không khó.

Lâm phu nhân nói:

– Bình nhi ở đâu? Mộc tiền bối, ta cầu xin tiền bối mau bảo hài nhi đến đây, đại ân đại đức này ta vĩnh viễn không bao giờ quên.

Mộc Cao Phong nói:

– Được, để ta đi kêu hắn. Có điều trước nay, Mộc Cao Phong này không chịu để ai sai khiến; ta đi gọi hài nhi của ngươi đến, việc đó dễ như trở bàn tay, song trước hết các ngươi hãy ngoan ngoãn nói chỗ để Tịch tà kiếm phổ cho ta nghe đã.

Lâm Chấn Nam thở dài nói:

– Mộc tiền bối thật sự không tin thì tại hạ cũng không biết làm sao. Tính mệnh vợ chồng tại hạ như chỉ mành treo chuông, muốn gặp mặt hài nhi lần cuối chắc khó đạt được ý nguyện. Nếu quả thật có Tịch tà kiếm phổ, thì tiền bối không cần hỏi, tại hạ cũng sẽ cầu xin tiền bối chuyển lời cho hài nhi tại hạ.

Mộc Cao Phong nói:

– Đúng vậy. Ta nói ngươi ngu xuẩn lắm vì đến giờ phút này, tâm mạch của ngươi đã bị đứt hết, ta không cần chỉ một đầu ngón tay lên trên người của ngươi thì ngươi cũng sống không được một giờ ba khắc nữa. Ngươi chết cũng không chịu nói chỗ để kiếm phổ, vậy là sao? Tất nhiên là ngươi muốn bảo toàn công phu tổ truyền của họ Lâm, nhưng sau khi ngươi chết, họ Lâm chỉ còn lại một hài nhi Lâm Bình Chi. Nếu ngay cả hắn cũng chết đi thì trên đời này có kiếm phổ cũng không có con cháu của Lâm gia luyện kiếm; kiếm phổ này có còn trên thế gian thì đối với nhà họ Lâm ngươi cũng vô dụng!

Lâm phu nhân sợ hãi nói:

– Hài nhi của ta… hài nhi của ta bình an chứ?

Mộc Cao Phong nói:

– Bây giờ tất nhiên là bình an vô sự. Hai ngươi hãy nói chỗ để kiếm phổ, sau khi lấy được, ta bảo đảm sẽ giao hài nhi của các ngươi ra. Nếu hắn không hiểu rõ, ta có thể ở bên cạnh chỉ điểm để khỏi giống như Lâm tổng tiêu đầu nghiên cứu Tịch tà kiếm pháp cả đời mà đến lúc già vẫn chưa hiểu cái kỳ diệu của nó, một chút cũng không thông. Còn không thì ta phải đánh một chưởng cho hài nhi của ngươi chết còn hay hơn.

Tiếp theo chỉ nghe rầm một tiếng, hiển nhiên là lão vung chưởng đánh đổ một vật gì lớn ở trong miếu.

Lâm phu nhân kinh hãi hỏi:

– Sao… sao lại vung chưởng đánh chết con trai của ta?

Mộc Cao Phong cười ha hả nói:

– Lâm Bình Chi là đồ nhi của ta, ta muốn hắn sống thì hắn sống, muốn hắn chết thì hắn chết. Khi nào ta thích vung một chưởng đánh chết hắn thì cứ vung chưởng lên.

Lại nghe mấy tiếng loảng xoảng, lão dùng chưởng lực đánh đổ tiếp một vật gì đó.

Lâm Chấn Nam nói:

– Nương tử không cần nói nhiều. Hài nhi của chúng ta không nằm trong tay lão đâu, nếu có thì tại sao lão lại không đem đến đây để uy hiếp chúng ta?

Mộc Cao Phong ha hả nói:

– Ta nói ngươi ngu, quả nhiên ngươi ngu như bò. Tái Bắc minh đà muốn giết hài nhi của ngươi có gì là khó đâu. Có thể nói bây giờ hắn không ở trong tay ta nhưng nếu ta quyết chí đi tìm để giết hắn lẽ nào ta không làm được? Bằng hữu của họ Mộc này có khắp thiên hạ, tai mắt rất nhiều, muốn tìm đứa con bảo bối của ngươi thì chẳng phí tâm lực chút nào hết.

Lâm phu nhân nói nhỏ:

– Tướng công, nếu lão thực sự muốn tìm hài nhi của chúng ta để giết cho hả giận…

Mộc Cao Phong tiếp:

– Đúng vậy, hai ngươi hãy nói ra, nếu tính mạng hai ngươi mất đi thì còn có Lâm Bình Chi sống để tiếp tục hương khói không phải là điều tốt sao?

Lâm Chấn Nam cười hà hà, nói:

– Phu nhân ơi, nếu chúng ta nói ra chỗ để Tịch tà kiếm phổ cho lão nghe thì lão gù này trước hết là đi lấy kiếm phổ, sau đó là giết con chúng ta. Nếu ta không nói thì lão gù này muốn được kiếm phổ phải bảo hộ tính mạng Bình nhi được chu toàn, một ngày mà Bình nhi chưa nói ra thì lão sẽ không giết hắn. Chuyện đó ai cũng biết.

Lâm phu nhân nói:

– Đúng vậy, lão gù kia mau đem vợ chồng ta giết đi!

Lệnh Hồ Xung nghe đến đây, nghĩ rằng Mộc Cao Phong chắc giận lắm, nếu không tìm cách dẫn dụ lão đi thì khó bảo toàn tính mạng vợ chồng Lâm Chấn Nam. Chàng lớn tiếng nói:

– Mộc tiền bối, Lệnh Hồ Xung đệ tử phái Hoa Sơn phụng mệnh sư phụ xin thỉnh Mộc tiền bối dời gót ra đây có chuyện cần bàn bạc.

Mộc Cao Phong vô cùng tức giận, vung chưởng lên định đánh vào đầu Lâm Chấn Nam, bỗng nghe tiếng Lệnh H ồ Xung nói ngoài miếu, không kìm được kinh sợ. Bình sinh, lão chưa hề nhân nhượng ai nhưng đối với chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần thì lão có lòng kiêng dè, nhất là khi ở Quần Ngọc viện, lão đã được nếm qua Tử hà công lợi hại của Nhạc Bất Quần. Lão uy hiếp vợ chồng Lâm Chấn Nam là hành động danh môn chính phái không bao giờ làm, sư đồ Nhạc Bất Quần có lẽ đang ở bên ngoài miếu nghe hết ráo rồi. Lão nghĩ: Nhạc Bất Quần bảo ta có chuyện bàn bạc gì đây? Lão muốn dùng lời hay để khuyên ta hay dùng lời mỉa mai châm biếm để sỉ nhục ta. Hảo hán không thể thụ nhục, tốt nhất là nên chuồn khỏi đây ngay. Lão liền nói:

– Mộc mỗ đang bận việc khác, không thể nào tuân theo lời mời được. Ngươi hãy bẩm báo với tôn sư, lúc nào rảnh rỗi xin mời đến Tái Bắc chơi, Mộc mỗ sẽ quét sạch cửa ngõ để đón tiếp.

Lão vừa nói hai chân vừa lùi từ trong miếu ra ngoài sân, chân trái nhẹ điểm xuống đất phóng người lên trên nóc miếu rồi nhảy ra phía sau. Lão sợ bị Nhạc Bất Quần cản lại chất vấn nên vọt đi như một làn khói.

Lệnh Hồ Xung biết lão đã đi xa, lòng vui mừng, nghĩ thầm: Thì ra lão gù này sợ sư phụ ta gần chết. Nếu quả thật lão không chịu đi mà kiếm chuyện với ta thì thật nguy hiểm cho ta vô cùng.

Lệnh Hồ Xung chống gậy đi vào trong miếu thổ địa, trong điện tối thui không có đèn lửa nhưng chàng vẫn thấy hai bóng người một nam một nữ nửa nằm nửa ngồi cùng tựa lưng vào ghế. Chàng khom lưng nói:

– Tiểu điệt là Lệnh Hồ Xung, môn hạ của phái Hoa Sơn, cùng với Bình Chi sư đệ có nghĩa đồng môn, xin ra mắt Lâm bá phụ và Lâm bá mẫu.

Lâm Chấn Nam vui mừng nói:

– Tiểu hiệp chớ đa lễ, ta không dám nhận đâu. Hai vợ chồng ta đang bị trọng thương, khó đáp lễ lại, xin tha lỗi. Hài nhi của ta có thật là đã bái Nhạc đại hiệp để làm môn hạ của phái Hoa Sơn không?

Lão nói đến chữ cuối cùng thì giọng đã run run. Oai danh của Nhạc Bất Quần trong võ lâm cao hơn Dư Thương Hải gấp bội. Lâm Chấn Nam vì muốn kết thân với Dư Thương Hải nên hàng năm đều phái người đưa tặng lễ vật, nhưng đối với các chưởng môn nhân trong Ngũ Nhạc kiếm phái của bọn Nhạc Bất Quần thì lão tự biết không thể kết giao được, ngay cả lễ vật cũng không dám đưa tặng. Trước mắt, lão thấy Mộc Cao Phong hung hãn như vậy mà vừa nghe đến tên Nhạc Bất Quần phái Hoa Sơn thì lập tức bỏ chạy có cờ. Hài nhi của lão may mắn bái sư làm môn hạ phái Hoa Sơn, thật không có gì vui bằng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, lão gù Mộc Cao Phong đã ép buộc lệnh lang làm đồ đệ nhưng lệnh lang quyết không chịu. Lão gù đó đang muốn gia hại y thì được sư phụ của tiểu điệt giải cứu. Lệnh lang đã cầu xin, mong được đầu nhập vào môn phái của tiểu điệt; sư phụ thấy y rất thành khẩn, lại có thể trở thành nhân tài bèn nhận lời. Vừa rồi, sư phụ của tiểu điệt và Dư Thương Hải đấu kiếm, sư phụ đánh cho lão thua phải bỏ chạy. Sư phụ của tiểu điệt đuổi theo muốn hỏi lão chỗ giam giữ bá phụ bá mẫu. Không ngờ hai vị lại ở đây.

Lâm Chấn Nam nói:

– Ta mong… mong gặp Bình nhi ngay mới được, chậm… chậm thì không kịp nữa.

Lệnh Hồ Xung nghe giọng nói của lão rất yếu ớt, rõ ràng tính mạng của lão lâm nguy trong khoảnh khắc, bèn nói:

– Thưa Lâm bá phụ, tiểu điệt còn chưa nói, sư phụ của tiểu điệt sau khi giải quyết xong Dư Thương Hải sẽ đến đây tìm bá phụ ngay. Sư phụ lão nhân gia tất có cách trị thương cho bá phụ.

Lâm Chấn Nam cười đau đớn, nhắm đôi mắt lại, một lúc sau nói khẽ:

– Lệnh Hồ hiền điệt… ta… ta… không thể sống được nữa rồi. Bình nhi được làm môn hạ của phái Hoa Sơn khiến ta thật sự vui sướng, xin… xin hiền điệt ngày sau… chăm sóc, chỉ vẽ thêm cho y.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Bá phụ hãy an tâm, bọn tiểu điệt là đồng môn học nghệ thì coi nhau như huynh đệ ruột thịt. Hôm nay, tiểu điệt chịu lời ủy thác của bá phụ, tất nhiên phải hết sức chiếu cố cho Lâm sư đệ.

Lâm phu nhân nói vào:

– Hai vợ chồng ta có về nơi chín suối cũng không lúc nào quên đại ân, đại đức của Lệnh Hồ thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Xin hai vị đừng nói nữa, hãy ngưng thần tịnh dưỡng.

Lâm Chấn Nam thở gấp, hơi thở đứt đoạn, nói:

– Xin… xin hiền điệt dặn lại cho hài nhi của ta rõ: Trong hẻm Hướng Dương thành Phúc Châu, có một vật còn lại trong ngôi nhà cũ là… là vật tổ truyền của nhà họ Lâm ta, gã nên… nên giữ gìn cẩn thận. Nhưng… nhưng tằng tổ Viễn Đồ Công có di huấn: “Phàm là con cháu ta thì không được mở ra xem, nếu không sẽ gặp rất nhiều hoạn nạn”. Gã phải… phải nhớ kỹ lời dạy này.

Lệnh Hồ Xung gật đầu đáp:

– Được. Tiểu điệt sẽ chuyển những lời di ngôn này đến y.

Lâm Chấn Nam nói:

– Đa… đa… đa…

Chữ “tạ” cuối cùng vẫn chưa nói được thì lão đã tắt thở rồi. Trước đây, lão gắng gượng chống chọi, chỉ mong có thể gặp mặt hài nhi để nói ra những lời quan trọng này. Bây giờ, được Lệnh Hồ Xung đồng ý chuyển lời, lại biết hài nhi đã được nhận vào làm môn hạ phái Hoa Sơn thì lão rất vui mừng, không còn lo lắng gì nữa, mới an tâm mà đi.

Lâm phu nhân nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp, mong thiếu hiệp nói với hài nhi của ta đừng bao giờ quên mối thâm thù của phụ mẫu.

Nói xong, bà nghiêng người cố sức đập đầu vào cột đá. Bà vốn đã bị trọng thương, một cái đập đầu nhẹ cũng đủ qua đời.

Lệnh Hồ Xung thở dài nghĩ thầm:

– Dư Thương Hải và Mộc Cao Phong bức bách lão nói ra chỗ để Tịch tà kiếm phổ nhưng lão thà chịu chết chứ không nói, đợi đến bây giờ biết mình gần chết mới bất đắc dĩ ủy thác cho ta chuyển lời. Nhưng lão sợ ta đi lấy kiếm phổ của nhà họ Lâm nên nói “không được mở ra xem, nếu không thì sẽ gặp rất nhiều hoạn nạn”. Ha ha… Lệnh Hồ Xung ta là hạng người như thế nào mà đi dòm ngó kiếm phổ của nhà họ Lâm? Thật là lấy tấm lòng của tiểu nhân…

Lệnh Hồ Xung đã thấm mệt, liền ngồi d ựa vào cột, nhắm mắt dưỡng thần. Một lúc lâu sau, nghe tiếng Nhạc Bất Quần ở ngoài miếu nói:

– Chúng ta vào trong miếu xem sao.

Lệnh Hồ Xung gọi:

– Sư phụ, sư phụ!

Nhạc Bất Quần vui mừng nói:

– Xung nhi phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp dạ rồi chống gậy chầm chậm đứng dậy. Lúc này, trời đã bình minh. Nhạc Bất Quần tiến vào trong miếu, nhìn thi thể hai vợ chồng Lâm Chấn Nam, chau mày nói:

– Vợ chồng Lâm tổng tiêu đầu đây ư?

Lệnh Hồ Xung đem chuyện Mộc Cao Phong bức bách vợ chồng Lâm Chấn Nam thế nào, tự mình lấy tên của sư phụ dọa lão làm lão sợ hãi bỏ đi ra sao, tình trạng vợ chồng Lâm Chấn Nam qua đời như thế nào lần lượt kể hết ra. Di ngôn sau cùng của Lâm Chấn Nam cũng được hắn bẩm báo rõ cho sư phụ nghe hết.

Nhạc Bất Quần trầm ngâm nói:

– Hừ, Dư Thương Hải đã uổng công hao tâm tổn sức một phen mà chẳng được gì, lại gây ra tội nghiệt không nhỏ.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sư phụ, lão thấp lùn họ Dư đã đắc tội với sư phụ ư?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Dư quán chủ có trình độ khinh công cực kỳ nhanh, ta đuổi theo rất lâu mà không thể đuổi kịp, lão chạy càng lúc càng xa. Khinh công của phái Thanh Thành quả thật cao hơn khinh công của phái Hoa Sơn ta một bậc.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Công phu Thí cổ hướng hậu rồi bỏ trốn của phái Thanh Thành vốn cao thâm hơn các phái khác.

Nhạc Bất Quần sa sầm nét mặt, mắng:

– Xung nhi, ngươi ăn nói khinh bạc, lời lẽ chẳng đứng đắn chút nào, làm sao có thể làm gương cho các sư đệ, sư muội được?

Lệnh Hồ Xung quay đầu, lè lưỡi rồi dạ một tiếng.

Nhạc Bất Quần nói:

– Ngươi trả lời thì trả lời, còn lè lưỡi ra là có ý gì?

Lệnh Hồ Xung lại dạ. Chàng được Nhạc Bất Quần nuôi dưỡng từ nhỏ đến lớn như phụ tử nên đối với sư phụ có phần kính sợ. Chàng cười hỏi:

– Sư phụ, sao sư phụ biết đệ tử lè lưỡi?

Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng, nói:

– Da dưới tai ngươi rung động, không phải lè lưỡi thì là cái gì? Ngươi buông tuồng bừa bãi, lần này lại bị lộ tẩy rồi. Thương thế có đỡ chút nào không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ, đã đỡ nhiều rồi.

Chàng lại nói:

– Một lần thất bại là một lần khôn ra.

Nhạc Bất Quần hừ lên một tiếng rồi nói:

– Ngươi khôn quá hóa thành yêu tinh rồi, còn nói chưa đủ khôn sao?

Lão lấy trong túi ra cây hỏa pháo, đến giữa sân bật lửa châm ngòi rồi ném lên trời.

Cây hỏa pháo bay vút lên, nổ đùng một tiếng ở lưng chừng trời, biến thành một thanh trường kiếm sắc bạc, lơ lửng trong không trung một lúc rồi mới từ từ rơi xuống. Khi rơi xuống cách mặt đất khoảng hơn mươi trượng thì hóa thành những vì sao tỏa khắp một vùng. Đây là tín hiệu của chưởng môn phái Hoa Sơn triệu tập các đồ đệ.

Thời gian qua chừng một bữa ăn, nghe xa xa có tiếng bước chân người vọng lại hướng về phía miếu thổ địa. Không bao lâu Cao Căn Minh đã ở ngoài miếu gọi:

– Sư phụ, sư phụ lão nhân gia có đây không?

Nhạc Bất Quần đáp:

– Ta ở trong miếu đây.

Cao Căn Minh tiến vào trong miếu, khom người chào sư phụ, thấy Lệnh Hồ Xung ở bên cạnh. Hắn vui mừng nói:

– Đại sư ca, đại sư ca mạnh giỏi chứ? Ở đại sảnh Lưu phủ nghe nói đại sư ca bị trọng thương, bọn tiểu đệ lo lắng vô cùng.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Coi như ta to mạng, thoát được cái chết.

Trong lúc nói chuyện, lại nghe thấp thoáng tiếng bước chân từ xa. Lần này là Lao Đức Nặc và Lục Đại Hữu. Lục Đại Hữu vừa thấy Lệnh Hồ Xung, chưa kịp vấn an sư phụ, đã chạy đến ôm đại sư ca, vừa kêu réo vui mừ ng khôn xiết. Tiếp đến là tam đệ tử Lương Phát và tứ đệ tử Thi Đới Tử đi vào miếu. Khoảng thời gian chừng uống cạn tuần trà; thất đệ tử Đào Điếu, bát đệ tử Anh Bạch La, con gái Nhạc Bất Quần là Nhạc Linh San và tên đệ tử mới nhập môn là Lâm Bình Chi cũng kéo đến.

Lâm Bình Chi vừa trông thấy thi thể của song thân liền chạy đến, phủ phục ôm lấy khóc lóc thảm thiết. Bọn đồng môn thấy vậy ai cũng đau xót rơi lệ.

Nhạc Linh San thấy Lệnh Hồ Xung bình yên vô sự, cô vừa kinh ngạc vừa vui mừng khôn xiết. Nhưng thấy Lâm Bình Chi đau thương như vậy nên cô không tiện nói lời vui mừng với Lệnh Hồ Xung. Cô đi đến gần, nhẹ nắm tay phải của hắn hỏi nhỏ:

– Đại ca… đại ca không sao chứ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không sao.

Mấy hôm nay, Nhạc Linh San quá lo lắng cho đại sư ca, bây giờ bỗng nhiên tương phùng. Những xót xa, buồn lo không thể nào kìm được nữa, cô kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung rồi khóc òa lên.

Lệnh Hồ Xung nhẹ nhàng vỗ vai cô, khẽ hỏi:

– Tiểu sư muội, sao vậy? Ai ăn hiếp tiểu sư muội cứ nói ra để đại ca đánh hắn một trận cho tiểu sư muội vừa lòng.

Nhạc Linh San không trả lời, chỉ khóc hoài. Một lúc sau, thấy lòng đã nhẹ nhàng hơn, cô kéo tay áo của Lệnh Hồ Xung lên lau nước mắt rồi nói:

– Đại ca không chết, đại ca không chết thật chứ?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Ta không chết đâu.

Nhạc Linh San nói:

– Nghe nói đại ca bị Dư Thương Hải phái Thanh Thành đánh cho một chưởng. Tồi tâm chưởng của lão giết người không thấy máu, chính mắt tiểu muội thấy lão giết khá nhiều người, nên tiểu muội rất lo sợ, tiểu muội… rất…

Cô nghĩ tới những ngày vừa qua ruột gan quặn đau, tâm thần khổ sở, không kìm được, nước mắt lại rơi xuống.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Rất may, chưởng của lão không đánh trúng ta. Vừa rồi sư phụ đánh Dư Thương Hải chạy bán mạng, ta rất vui mừng, đáng tiếc là sư muội không được chứng kiến.

Nhạc Bất Quần nói:

– Các ngươi không được nói chuyện này ra cho người ngoài biết.

Lệnh Hồ Xung và bọn đệ tử cùng đáp dạ.

Nước mắt đầm đìa, Nhạc Linh San nhìn Lệnh Hồ Xung, chỉ thấy lờ mờ khuôn mặt tiều tụy của đại sư ca không còn một chút huyết sắc. Lòng đau xót, cô nói:

– Đại sư ca, lần này… lần này đại sư ca bị thương không nhẹ đâu. Sau khi về núi phải an dưỡng rất lâu mới được.

Nhạc Bất Quần thấy Lâm Bình Chi vẫn còn nằm phục ôm song thân khóc lóc thống thiết bi ai, lão nói:

– Bình nhi đừng khóc nữa. Lo liệu hậu sự cho song thân của ngươi là việc quan trọng hơn hết.

Lâm Bình Chi đứng dậy, thấy đầu và mặt của mẫu thân đầy máu, không kìm lòng được, nước mắt lại chảy dài. Chàng nghẹn ngào nói:

– Gia gia, má má lìa đời, ngay cả giây phút cuối cùng cũng không gặp được đệ tử, không biết… không biết người có di ngôn gì muốn dặn dò lại đệ tử không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lâm sư đệ, lúc lệnh tôn và lệnh đường sắp lâm chung, ta ở đây. Hai vị lão nhân gia muốn ta chăm sóc, chiếu cố cho sư đệ. Đó là điều tất nhiên, dù hai vị không dặn, ta đây cũng phải chăm sóc chiếu cố cho sư đệ. Lệnh tôn còn có lời muốn ta chuyển lại cho sư đệ.

Lâm Bình Chi cúi người nói:

– Đại sư ca, đại sư ca… Lúc gia gia và má má của tiểu đệ sắp lâm chung, có được đại sư ca ở bên cạnh không đến nỗi tứ cố vô thân. Tiểu đệ… tiểu đệ cảm kích vô cùng.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lệnh tôn và lệnh đường bị bọn ác đồ phái Thanh Thành tra tấn, bức hiếp để hỏi chỗ giấu Tịch tà kiếm phổ. Hai vị lão nhân gia quyết không khuất phục, nên bị chúng làm chấn động đứt đoạn tâm mạch. Sau đó lão Mộc Cao Phong lại bức bách hai vị lão nhân gia. Mộc Cao Phong vốn là kẻ có hành động tiểu nhân; Dư Thương Hải cũng không xứng đáng làm tôn sư một phái. Những hành vi đê tiện của họ sẽ bị anh hùng thiên hạ chê cười.

Lâm Bình Chi nghiến răng nói:

– Mối thù này không trả thì Lâm Bình Chi không bằng giống cầm thú.

Chàng vung quyền lên đánh mạnh vào cột miếu. Tuy võ công của chàng bình thường nhưng lòng đầy căm phẫn nên xuất quyền rất mạnh; cây cột rung động, cát bụi trên miếu đổ xuống.

Nhạc Linh San nói:

– Lâm sư đệ, chuyện này có thể nói do ta gây nên tai họa. Sư đệ muốn báo thù, sư tỷ quyết sẽ không phủi tay đâu.

Lâm Bình Chi cúi người nói:

– Đa tạ sư tỷ.

Nhạc Bất Quần thở dài rồi nói:

– Phái Hoa Sơn ta xưa nay có tôn chỉ: “Người không phạm đến ta thì ta không phạm đến người” nên ngoài sự đối đầu tử chiến với Ma giáo ra, phái ta tưởng đã không hiềm khích với các môn phái trong võ lâm. Nhưng từ nay về sau, phái Thanh Thành… phái Thanh Thành… Ôi, đã dấn thân vào chốn giang hồ, không muốn đắc tội với người khác thật chẳng dễ dàng.

Lao Đức Nặc nói:

– Tiểu sư muội, Lâm sư đệ! Chuyện tai họa này không phải là do Lâm sư đệ bất bình giết tên nghiệt tử của Dư Thương Hải mà hoàn toàn do Dư Thương Hải dòm ngó Tịch tà kiếm phổ gia truyền của Lâm sư đệ mà ra. Năm xưa, chưởng môn phái Thanh Thành là Trường Thanh Tử đã bị bại dưới Tịch tà kiếm pháp của tằng tổ Viễn Đồ Công của Lâm sư đệ. Mối họa này bắt nguồn từ đó.

Nhạc Bất Quần nói:

– Đúng vậy, trong võ lâm chuyện tranh cường hiếu thắng xưa nay khó tránh khỏi. Khi nghe tới bí cấp võ lâm gì đó thì dù không biết thật hay giả, người ta vẫn không từ một thủ đoạn nào để cướp đoạt cho bằng được. Kỳ thực, Dư quán chủ và Tái Bắc minh đà là hai tay cao thủ có địa vị trong võ lâm thì không nên tham lam, mưu đồ chiếm đoạt kiếm phổ của Lâm gia mới phải.

Lâm Bình Chi đáp:

– Thưa sư phụ, trong nhà đệ tử thực sự không có Tịch tà kiếm phổ gì cả. Bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp là do gia gia của đệ tử truyền miệng cho, muốn đệ tử phải dụng tâm để ghi nhớ lấy. Nếu có kiếm phổ gì thì gia gia của đệ tử không tiết lộ cho người ngoài nhưng quyết không có lý nào lại giữ bí mật không nói cho đệ tử biết.

Nhạc Bất Quần gật đầu nói:

– Ta vốn cũng không tin có Tịch tà kiếm phổ gì gì đó. Nếu không thì Dư quán chủ đã không phải là đối thủ của gia gia ngươi. Chuyện này cũng đã rõ cả rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lâm sư đệ, di ngôn của lệnh tôn nói là: “Ở hẻm Hướng Dương thành Phúc Châu…”

Nhạc Bất Quần khoát tay nói:

– Đây là di ngôn của lệnh tôn Bình nhi, ngươi chỉ nên nói riêng cho Bình nhi thôi. Người khác không được nghe.

Lệnh Hồ Xung đáp dạ. Nhạc Bất Quần nói tiếp:

– Đức Nặc, Căn Minh! Hai ngươi đi vào thành Hành Sơn mua hai cỗ quan tài.

Hồi 29: Lâm Bình Chi lên núi Hoa Sơn

Sau khi khâm liệm vợ chồng Lâm Chấn Nam, phái Hoa Sơn thuê người khiêng hai cỗ quan tài ra bờ sông rồi lên thuyền đi về hướng Bắc. Đến Dự Tây thì bỏ thuyền đi đường bộ. Lệnh Hồ Xung nằm trong cỗ xe lớn để dưỡng thương, thương thế ngày càng thuyên giảm.

Một ngày kia đến chân ngọn Ngọc Nữ, Hoa Sơn. Hai cỗ quan tài của vợ chồng Lâm Chấn Nam tạm quàn lại trong ngôi miếu nhỏ bên núi để định ngày mai táng.

Cao Căn Minh và Lục Đại Hữu lên núi trước báo tin, hơn hai mươi đệ tử phái Hoa Sơn đều xuống núi bái kiến sư phụ. Lâm Bình Chi thấy những đệ tử lớn tuổi đã quá tam tuần, người nhỏ không quá mười lăm mười sáu tuổi, trong đó có nữ đệ tử vừa thấy Nhạc Linh San là ríu rít nói cười không ngớt. Lao Đức Nặc dẫn Lâm Bình Chi đi yết kiến từng người. Theo quy củ của phái Hoa Sơn thì ai nhập môn trước là sư huynh, ai nhập môn sau là sư đệ, cho nên Dư Kỳ là người nhỏ tuổi nhất nhưng Lâm Bình Chi cũng phải kêu hắn bằng sư huynh. Chỉ có Nhạc Linh San là ngoại lệ, cô là con gái của Nhạc Bất Quần nên không xếp theo thứ tự của các môn đồ, đành phải dựa vào tuổi mà xưng hô, ai lớn tuổi hơn cô thì gọi cô là “sư muội”. Cô vốn nhỏ hơn Lâm Bình Chi mấy tuổi nhưng nhất định đòi làm sư tỷ, mà Nhạc Bất Quần đã không cản nên Lâm Bình Chi phải kêu cô bằng “sư tỷ”.

Đoàn người lên đến đỉnh núi. Lâm Bình Chi đi theo sau các sư huynh. Chàng trông thấy thế núi hiểm trở, cây cối âm u, chim hót líu lo, nước chảy róc rách, bốn năm tòa nhà lớn vách tường trắng dựa theo sườn núi, cái cao cái thấp.

Một thiếu phụ trung niên xinh đẹp bước đến gần; Nhạc Linh San chạy đến nhảy vào lòng bà gọi:

– Má má, hài nhi vừa có một tên sư đệ. Cô vừa cười vừa chỉ tay vào Lâm Bình Chi.

Lâm Bình Chi đã nghe các sư huynh nói sư nương Nhạc phu nhân Ninh Trung Tắc và sư phụ vốn là sư huynh sư muội đồng môn; kiếm thuật bà tinh thâm không kém gì sư phụ. Chàng vội tiến lên trước khấu đầu nói:

– Đệ tử Lâm Bình Chi xin bái kiến sư nương.

Nhạc phu nhân tươi cười nói:

– Hay lắm, đứng dậy, đứng dậy đi.

Bà nhìn Nhạc Bất Quần rồi cười nói:

– Mỗi lần tướng công xuống núi, nếu không thu được vài món bảo bối về thì nhất định không chịu nổi. Lần này đi dự lễ rửa tay gác kiếm ở Hành Sơn, thiếp đoán ít nhất trượng phu phải thu được ba bốn tên đệ tử, sao chỉ thu có một?

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Phu nhân thường nói: quân quý là ở tinh nhuệ chứ không phải ở số đông, phu nhân thấy gã thế nào?

Nhạc phu nhân cười nói:

– Tướng mạo gã tuấn tú, không giống người luyện võ. Chi bằng tướng công cho gã học Tứ thư, Ngũ kinh để sau này thi tú tài, trạng nguyên hay hơn.

Mặt Lâm Bình Chi ửng hồng, chàng thầm nghĩ: Sư nương thấy mình giống một thư sinh yếu đuối thì có ý khinh thị. Mình phải nỗ lực dụng công, quyết phải theo kịp các vị sư huynh để đừng ai xem thường mình mới được.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Vậy cũng được. Nếu trong phái Hoa Sơn có được một trạng nguyên thì cũng là giai thoại thiên cổ hiếm thấy.

Nhạc phu nhân trừng mắt nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Ngươi lại đánh lộn với người ta rồi bị thương phải không? Sao sắc mặt khó coi thế này? Bị thương có nặng không?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp:

– Đệ tử đã đỡ nhiều rồi. Nếu lần này mà cái mạng không lớn thì e rằng Xung nhi không gặp được sư mẫu nữa.

Nhạc phu nhân lại trừng mắt nói:

– Có vậy ngươi mới biết ngoài trời còn có trời, mình hơn người thì có người hơn mình. Thua như vậy đã biết ăn năn chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Khoái đao của Điền Bá Quang thật lợi hại, Xung nhi đỡ không nổi, đang muốn xin sư nương chỉ giáo cho.

Nhạc phu nhân nghe Lệnh Hồ Xung nói bị thương dưới tay của Điền Bá Quang, sắc mặt bà mới vui, gật đầu nói:

– Hay lắm, thì ra ngươi đánh nhau với tên ác tặc Điền Bá Quang. Ta cứ tưởng ngươi đi sinh sự với ai khác để rước họa vào thân. Khoái đao của hắn thế nào? Chúng ta hãy chuẩn bị sẵn một cây đao để lần sau đánh thắng hắn.

Trên đường về Hoa Sơn, Lệnh Hồ Xung đã mấy lần hỏi sư phụ biện pháp chiết giải khoái đao của Điền Bá Quang nhưng Nhạc Bất Quần nhất định không nói, bảo hắn về thỉnh giáo sư nương. Quả nhiên Nhạc phu nhân vừa nghe thì cao hứng vô cùng.

Mọi người đi vào phòng riêng của Nhạc Bất Quần rồi kể lại chuyện xảy ra sau khi chia tay. Sáu nữ đệ tử nghe Nhạc Linh San thuật lại những chuyện ở Phúc Châu và Hành Sơn đều lấy làm thích thú. Lục Đại Hữu thì khoa trương với các sư đệ về cuộc tỉ đấu giữa đại sư ca và Điền Bá Quang thế nào; đại sư ca đâm La Nhân Kiệt ra sao. Hắn thêm mắm thêm muối, dường như Điền Bá Quang bị đại sư ca đánh bại chứ không phải là đại sư ca bị Điền Bá Quang đánh thua te tua đâu.

Mọi người ăn điểm tâm rồi uống trà. Nhạc phu nhân thì muốn Lệnh Hồ Xung diễn tả lại đao pháp của Điền Bá Quang, lại hỏi cách chiết giải thế nào.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đao pháp của Điền Bá Quang thần diệu vô cùng. Lúc đó, đệ tử bị hoa cả mắt, hết sức chống đỡ còn không xong, nào dám nói chi đến chuyện chiết giải?

Nhạc phu nhân nói:

– Ngươi đã chống đỡ không nổi, vậy nhất định đã sử dụng ngụy kế vô lại để chuồn đi.

Lệnh Hồ Xung từ thuở nhỏ được bà nuôi dưỡng đến lớn, bản lĩnh tính cách của hắn thế nào bà biết quá rõ.

Lệnh Hồ Xung đỏ mặt, mỉm cười nói:

– Lúc đấu với nhau ở sơn động, vị sư muội phái Hằng Sơn đã trốn đi rồi, đệ tử không còn lo lắng gì nữa bèn dốc hết toàn lực để giao đấu với Điền Bá Quang. Không ngờ đấu không được bao lâu, hắn đã sử phép khoái đao. Đệ tử chỉ đỡ được hai chiêu thì bụng đã kêu trời: “Phen này chắc mạng ta tiêu rồi”. Đệ tử liền cười ha hả lên. Điền Bá Quang thu đao về rồi hỏi: “Có gì đâu đáng cười? Ngươi có đỡ nổi Phi sa tẩu thạch thập tam thức đao pháp của ta không?” Đệ tử cười nói: “Thì ra Điền Bá Quang danh tiếng lẫy lừng thiên hạ lại là đồ bỏ đối với phái Hoa Sơn ta. Không ngờ, quả thật không ngờ. Đúng rồi, nhất định là phẩm chất ngươi xấu xa nên bị bổn phái trục xuất ra khỏi môn tường”. Điền Bá Quang nói: “Cái gì là đồ bỏ của phái Hoa Sơn? Đừng ăn nói hồ đồ. Võ công của Điền mỗ là của riêng Điền mỗ, không liên can gì với các món thúi hoắc của phái Hoa Sơn ngươi”. Đệ tử cười nói: “Đường đao pháp của ngươi có mười ba thức phải không? Cái gì là Phi sa tẩu thạch, tự mình bịa cái tên dễ nghe dữ. Ta đã từng thấy sư phụ và sư nương chiết giải rồi. Đao pháp này là do lúc ngồi thêu, sư nương ta bỗng nhiên nghĩ ra. Hoa Sơn ta có ngọn Ngọc Nữ, ngươi có nghe qua chưa?” Điền Bá Quang nói: “Ngọn Ngọc Nữ ở Hoa Sơn ai mà không biết. Vậy thì sao nào?” Đệ tử nói: “Kiếm pháp do sư nương ta sáng chế gọi là Ngọc nữ kim châm thập tam kiếm, trong đó có các chiêu Xuyên châm dẫn tuyến, Thiên y vô phùng, Dạ tú uyên ương”. Đệ tử vừa nói, vừa đếm đầu ngón tay rồi nói tiếp: “Đúng rồi, chiêu đao pháp của ngươi vừa rồi là từ chiêu thứ tám gọi là Chức Nữ xuyên thoa, do sư nương ta sáng chế rồi biến hóa ra. Ngươi đường đường là một tay hảo hán oai phong lẫm liệt, lại học cái dáng thướt tha của sư nương ta, giống như Chức Nữ trên trời ngồi dệt vải bên khung cửi; tay ngọc thon thả cầm con thoi từ bên này ném sang bên kia lại từ bên kia ném lại bên này, thật là ngộ nghĩnh, há không khiến cho người ta buồn cười sao?”

Lệnh Hồ Xung nói chưa dứt thì Nhạc Linh San và bọn nữ đệ tử đều bật cười khanh khách.

Nhạc Bất Quần mỉm cười:

– Vớ vẩn, vớ vẩn quá.

Nhạc phu nhân phì một tiếng rồi nói:

– Miệng lưỡi của ngươi thật ranh mãnh, cái gì cũng nói được, sao lại kéo cả sư nương của ngươi vào? Thật đáng đánh đòn.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Sư nương không biết đâu. Tên Điền Bá Quang rất tự phụ, nghe đệ tử đem hắn ra so sánh với đàn bà, lại nói là bộ đao pháp thần kỳ của hắn là do sư nương sáng chế ra cốt để hắn suy nghĩ đặng kéo dài thời gian, không giết đệ tử ngay. Quả nhiên hắn đem bộ đao pháp từ từ sử lại từng chiêu một, cứ sử một chiêu thì hắn hỏi một câu: “Chiêu này có phải do sư nương ngươi sáng chế không?”; đệ tử làm ra vẻ bí mật, trầm ngâm không đáp, lòng ngấm ngầm ghi nhớ đao pháp của hắn. Đợi hắn sử hết mười ba chiêu rồi, đệ tử mới nói: “Bộ đao pháp của ngươi và bộ kiếm pháp của sư nương ta sáng chế tuy có một chút khác biệt nhưng cơ bản đều giống nhau. Ngươi làm sao mà học lóm kiếm pháp của phái Hoa Sơn, thật kỳ lạ vô cùng”. Điền Bá Quang cả giận nói: “Ngươi đỡ không nổi đao pháp của ta, lại khua môi múa mép để kéo dài thời gian, muốn xem rõ chiêu thức đao pháp của ta, ta há không biết sao? Lệnh Hồ Xung, ngươi nói ở quý phái có đao pháp này, xin mời thi triển ra để Điền mỗ mở rộng tầm mắt”.

Đệ tử nói: “Tệ phái sử kiếm chứ không sử đao. Vả lại, bộ Ngọc Nữ kim châm kiếm của sư nương ta chỉ truyền cho nữ đệ tử không truyền cho nam đệ tử. Chúng ta đường đường là nam tử hán đại trượng phu, lại đi sử kiếm pháp của bọn nữ nhi, há không khiến cho bằng hữu trong võ lâm chế giễu ư?” Điền Bá Quang càng tức giận, nói: “Chế giễu cũng vậy mà không chế giễu cũng vậy, hôm nay nhất định ngươi phải thừa nhận phái Hoa Sơn thực sự không có bộ đao pháp như thế này. Lệnh Hồ Xung, Điền mỗ khâm phục ngươi là một hảo hán, ngươi không nên nói năng xằng bậy giỡn mặt ta”.

Nhạc Linh San nói xen vào:

– Quân ác tặc vô liêm sỉ này ai cần hắn khâm phục? Chẳng qua giỡn mặt hắn một lúc mà chơi thôi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nhưng nhìn tình cảnh lúc đó, nếu ta không bịa đặt đem bộ Ngọc Nữ kim châm kiếm ra, thì lập tức sẽ toi mạng ngay, đành phải dựa vào đao pháp của hắn, õng à õng ẹo mà hóa chiêu loạn xạ cả lên để đánh ra.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại sư ca õng à õng ẹo hóa chiêu như vậy, có giống hắn không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ngày thường, ta nhìn tiểu muội sử kiếm rất nhiều, có lý nào nhại lại mà không giống?

Nhạc Linh San nói:

– Ui chao, đại ca cười người ta sử kiếm õng à õng ẹo. Tiểu muội ba ngày không thèm nhìn mặt đại ca nữa đâu.

Nhạc phu nhân nãy giờ vẫn trầm ngâm, lúc này mới lên tiếng:

– Linh nhi, ngươi đưa kiếm cho đại sư ca đi.

Nhạc Linh San rút thanh trường kiếm ra, chuyển chuôi kiếm lại đưa cho Lệnh Hồ Xung rồi cười nói:

– Má má muốn xem đại ca õng à õng ẹo sử kiếm không giống ai.

Nhạc phu nhân nói:

– Xung nhi, đừng thèm nghe những lời vớ vẩn của Linh nhi nữa. Lúc đó ngươi sử kiếm ra sao?

Lệnh Hồ Xung biết sư nương muốn xem đao pháp của Điền Bá Quang, liền nhận lấy trường kiếm, hướng về sư phụ sư nương cúi người hành lễ rồi nói:

– Sư phụ, sư nương, đệ tử xin thử diễn đao chiêu của Điền Bá Quang.

Nhạc Bất Quần gật đầu. Lục Đại Hữu nói với Lâm Bình Chi:

– Lâm sư đệ, quy củ của môn phái chúng ta là tiểu bối trước khi sử quyền động kiếm trước mặt tôn trưởng phải xin phép trước.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, đa tạ Lục sư ca chỉ giáo.

Lệnh Hồ Xung giả bộ uể oải ngáp dài, hai tay yếu ớt giơ lên tựa hồ như muốn vươn vai, đột nhiên hắn rung cổ tay phải một cái, liên tục chém ra ba kiếm nhanh như chớp, nghe veo véo. Bọn đệ tử giật mình kinh hãi, mấy tên nữ đệ tử không hẹn mà cùng la lên một tiếng. Lệnh Hồ Xung sử trường kiếm loạn xạ cả lên chẳng theo chương pháp nào cả, nhưng trong mắt của Nhạc Bất Quần và Nhạc phu nhân, mấy chục chiêu đều nhìn ra rất rõ; chỉ thấy mỗi nhát đâm, mỗi nhát chém đều lợi hại và chuẩn xác. Bỗng nhiên, Lệnh Hồ Xung thu kiếm đứng lại, hướng về sư phụ và sư nương cúi mình hành lễ.

Nhạc Linh San hơi thất vọng, nói:

– Nhanh đến như vậy sao?

Nhạc phu nhân gật đầu nói:

– Nên nhanh như vậy mới được. Khoái đao thập tam thức này, mỗi thức có ba bốn chiêu biến hóa, chỉ trong khoảnh khắc sử được hơn bốn mươi chiêu thì thật là loại đao pháp hiếm có trên thế gian.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Điền Bá Quang sử đao còn nhanh hơn đệ tử sử kiếm rất nhiều.

Nhạc phu nhân và Nhạc Bất Quần nhìn nhau, lòng có ý thán phục. Nhạc Linh San nói:

– Đại sư ca, sao không thấy đại sư ca õng ẹo chút nào?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Mấy ngày này, lúc nào ta cũng nghĩ đến phép khoái đao, lúc sử chiêu pháp tất nhiên phải rất thần tốc. Lúc ở trong hoang sơn nhìn Điền Bá Quang diễn thử không mau lẹ như vậy là do ta muốn cố ý không sử đúng đao pháp của hắn, còn thêm vào điệu bộ uốn éo của đàn bà nên càng chậm hơn nữa.

Nhạc Linh San cười nói:

– Đại ca hôm đó uốn éo ra sao? Mau diễn lại cho tiểu muội xem chơi một chút.

Nhạc phu nhân nghiêng người, rút thanh trường kiếm ở sau lưng một tên nữ đệ tử, nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Sử khoái đao đi!

Lệnh Hồ Xung đáp dạ.

Véo một tiếng, trường kiếm xoay một vòng quanh Nhạc phu nhân, mũi kiếm hướng về phía lưng bà ta rồi móc ngược trở lại. Nhạc Linh San giật mình sợ hãi la lên:

– Má má, cẩn thận!

Nhạc phu nhân nhảy vọt ra, không để ý gì tới nhát kiếm từ phía sau của Lệnh Hồ Xung đang đâm tới, trường kiếm trong tay bà đâm vào trước ngực Lệnh Hồ Xung cũng rất nhanh. Nhạc Linh San lại hốt hoảng la lên:

– Đại sư ca, cẩn thận!

Lệnh Hồ Xung cũng không đỡ gạt mà đâm ngược lại một kiếm rồi nói:

– Sư nương, hắn hoàn đao còn nhanh hơn nhiều.

Nhạc phu nhân chém vèo vèo ba kiếm, Lệnh Hồ Xung cũng đồng thời đánh trả lại ba kiếm. Hai người đều đánh rất nhanh, lấy công làm thủ, không có chiêu nào gạt đỡ để phòng thân. Chỉ trong chớp mắt hai thầy trò đã chiết giải hơn hai mươi chiêu.

Lâm Bình Chi chỉ há hốc miệng đứng nhìn, nghĩ thầm: Đại sư ca ăn nói và xử sự có vẻ điên rồ nhưng võ công lại tuyệt diệu vô cùng. Sau này mình phải từng giờ từng phút cố gắng luyện công, không lơi lỏng mới khỏi bị người coi thường.

Giữa lúc ấy, Nhạc phu nhân phóng kiếm nghe vèo một tiếng, mũi kiếm đã chỉ vào yết hầu của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung không còn cách nào né tránh bèn nói:

– Hắn đỡ được chiêu này.

Nhạc phu nhân nói:

– Hay lắm!

Thanh trường kiếm trong tay bà như rồng bay phượng múa, sau vài chiêu lại chỉ vào ngực Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung vẫn nói:

– Hắn vẫn đỡ được chiêu này.

Ý hắn muốn nói đao pháp của Điền Bá Quang nhanh hơn nhiều, hai chiêu này hắn đều có thể gạt được.

Hai người càng đấu càng nhanh, càng về sau Lệnh Hồ Xung không còn rảnh để nói câu “Hắn vẫn đỡ được”, mỗi khi bị Nhạc phu nhân dùng kiếm chế ngự, chàng chỉ lắc đầu biểu thị rằng chiêu kiếm này vẫn không thể đâm chết được Điền Bá Quang. Trường kiếm của Nhạc phu nhân càng sử càng cao hứng, đột nhiên bà la lên một tiếng, mũi kiếm lấp loáng bất định, vây quanh người Lệnh Hồ Xung mà đâm tới, ngân quang nhảy múa, mọi người nhìn thấy đều hoa cả mắt. Bà phát mạnh một kiếm đâm thẳng đến trước ngực Lệnh Hồ Xung như sét đánh, thế kiếm như sấm động. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la lên.

– Sư nương!

Kỳ thực mũi kiếm đã đâm rách áo của hắn. Tay phải Nhạc phu nhân đâm thẳng về phía trước, trường kiếm đã đụng đến da trước ngực của Lệnh Hồ Xung rồi xuyên vào ngực hắn đến tận chuôi.

Nhạc Linh San thất kinh la lên:

– Má má!

Chỉ nghe tiếng loảng xoảng không dứt, từng mảnh kiếm gãy dài khoảng một tấc rớt xuống bên chân Lệnh Hồ Xung. Nhạc phu nhân cười vang, rút tay về, thanh trường kiếm trong tay bà chỉ còn lại cái chuôi kiếm.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Sư muội, nội lực của sư muội đã tinh tiến đến vậy khiến ngay cả ta cũng bị lừa nữa.

Vợ chồng lão vốn là đồng môn kết thành chồng vợ, thời còn trẻ đã quen gọi như vậy, sau khi thành vợ chồng vẫn xưng hô với nhau là sư huynh sư muội.

Nhạc phu nhân cười nói:

– Đại sư huynh quá khen, mấy chiêu nhỏ nhoi này đâu có chi đáng kể.

Lệnh Hồ Xung nhìn những đoạn kiếm gãy dưới đất, lòng thực sự kinh hãi, mới hay lúc sư nương phóng kiếm đâm tới đã sử dụng hết toàn lực, nếu nội lực không đủ thì xuất kiếm khó thần tốc như vậy. Nhưng mũi kiếm vừa đụng đến da, bà lập tức chuyển luồng nội lực hùng hậu từ thế đâm thẳng biến thành thế chấn động ngang làm trường kiếm bị gãy thành từng đoạn cho đến tận chuôi. Trong nháy mắt, bà đã vận dụng nội kình tuyệt xảo, thật đã đến mức xuất quỷ nhập thần khiến Lệnh Hồ Xung vô cùng khâm phục. Hắn bèn nói:

– Đao pháp của Điền Bá Quang có nhanh hơn nữa cũng quyết khó tránh khỏi chiêu kiếm này của sư nương.

Lâm Bình Chi thấy áo của Lệnh Hồ Xung chỗ nào cũng bị thủng, đều là do trường kiếm của Nhạc phu nhân đâm rách. Gã nghĩ bụng: Trên thế gian này lại có thứ kiếm thuật cao minh như vậy, ta phải học cho bằng được thì mới có thể báo thù cho phụ mẫu.

Gã lại nghĩ tiếp: Phái Thanh Thành và Mộc Cao Phong đều là những kẻ tham lam mưu đồ chiếm đoạt Tịch tà kiếm phổ của nhà ta. Kỳ thực Tịch tà kiếm pháp của nhà ta so với kiếm pháp của sư nương thì cách biệt một trời một vực.

Nhạc phu nhân rất đắc ý nói:

– Xung nhi, ngươi đã nói chiêu kiếm này có thể đâm chết được Điền Bá Quang thì phải dụng công cho tốt, ta sẽ truyền thụ cho ngươi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đa tạ sư nương.

Nhạc Linh San nói:

– Má má, hài nhi cũng muốn học nữa.

Nhạc phu nhân lắc đầu nói:

– Nội công của hài nhi chưa đủ trình độ, học không được đâu.

Nhạc Linh San trề môi, lòng nghĩ má má không muốn dạy mình, bèn nói:

– Nội công của đại sư ca không hơn hài nhi bao nhiêu, tại sao đại sư ca có thể học được còn hài nhi thì không thể học được?

Nhạc phu nhân mỉm cười không nói. Nhạc Linh San kéo tay áo phụ thân nói:

– Gia gia, gia gia truyền cho hài nhi công phu phá giải chiêu kiếm này, để sau khi đại sư ca học xong chiêu kiếm này sẽ không ăn hiếp được hài nhi.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười nói:

– Chiêu kiếm này của má má ngươi gọi là “Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm thiên hạ vô địch” ta làm sao có pháp môn để phá giải.

Nhạc phu nhân cười nói:

– Đại sư huynh nói giỡn để trêu ghẹo sư muội cũng không sao, nhưng nếu truyền ra ngoài thì đồng đạo võ lâm có thể cười sư muội đến rớt cả răng.

Chiêu kiếm này do bà nhất thời sáng chế ra, kỳ thực trong đó bao hàm tuyệt kỹ kiếm pháp và nội công của phái Hoa Sơn cộng thêm với sự thông minh tài trí riêng của bà, lợi hại không thể so sánh được, nhưng do sáng chế vội nên chưa đặt tên cho nó. Nhạc Bất Quần vốn muốn đặt cho nó cái tên là “Nhạc phu nhân vô địch kiếm”, nhưng lão nghĩ lại vợ mình tính khí cao ngạo, sau khi thành hôn, vẫn thích đồng đạo võ lâm gọi bà là “Ninh nữ hiệp”, chứ không thích gọi là “Nhạc phu nhân”. Phải biết ba chữ “Ninh nữ hiệp” là tên gọi thể hiện bản lãnh hành vi của chính bà, còn ba chữ “Nhạc phu nhân” thì không tránh khỏi dựa vào thanh danh lừng lẫy của chồng mà có. Tuy ngoài miệng bà trách móc chồng nhưng trong lòng đối với tám chữ “Vô song vô đối, Ninh thị nhất kiếm” thì rất thích thú. Bà ngấm ngầm khen chồng là người có học, đặt cho chiêu kiếm của mình một cái tên rất hay. Lời nói có vẻ giận dỗi nhưng trong lòng lại ngầm thích thú.

Nhạc Linh San nói:

– Gia gia, khi nào gia gia cũng sáng chế ra mấy chiêu “Vô tỷ vô địch, Nhạc gia thập kiếm” truyền cho hài nhi, để hài nhi và đại sư ca đấu ngang cơ với nhau.

Nhạc Bất Quần lắc đầu cười nói:

– Không được đâu, gia gia không thông minh bằng má má của ngươi, không sáng chế ra được chiêu kiếm mới nào.

Nhạc Linh San kề sát miệng vào tai phụ thân nói nhỏ:

– Không phải gia gia sáng chế không được, mà vì gia gia sợ vợ nên không dám sáng chế.

Nhạc Bất Quần cười ha hả, đưa tay bẹo nhẹ vào má cô rồi nói:

– Chỉ được cái nói năng bậy bạ!

Nhạc phu nhân nói:

– Linh nhi, ngươi đừng làm rộn gia gia nữa. Đức Nặc, ngươi đi sắp đặt hương án để Lâm sư đệ bái linh vị liệt đại tổ sư của bổn phái.

Trong khoảnh khắc, mọi thứ đã sắp đặt xong, Nhạc Bất Quần dẫn mọi người đến hậu đường. Lâm Bình Chi thấy ở giữa xà nhà treo một tấm biển viết bốn chữ to “Dĩ khí ngự kiếm”, trên sảnh đường bày biện trang nghiêm, hai sợi dây thao của hai thanh trường kiếm đã biến thành màu đen, hai thanh kiếm đã cũ lắm, có thể đoán được đó là những phục kiếm các tôn sư đời trước của phái Hoa Sơn. Gã nghĩ thầm: Ngày nay thanh danh phái Hoa Sơn trong võ lâm đã vang dội, không biết có bao nhiêu kẻ gian tà ác tặc đã táng mạng ở dưới trường kiếm của các vị tôn sư đời trước.

Nhạc Bất Quần quỳ xuống trước hương án lạy bốn lạy, khấn vái:

– Đệ tử là Nhạc Bất Quần hôm nay thu nhận Lâm Bình Chi ở Phúc Châu làm đồ đệ. Cúi xin liệt đại tổ tông ở trên trời linh thiêng phù hộ, dạy dỗ Lâm Bình Chi dụng công học nghệ, giữ mình trong sạch, tuân thủ môn quy của bổn phái, không làm bại hoại thanh danh của phái Hoa Sơn.

Lâm Bình Chi nghe sư phụ khấn như vậy vội cung kính quỳ xuống.

Nhạc Bất Quần đứng dậy, dõng dạc nói:

– Lâm Bình Chi, hôm nay ngươi vào làm môn hạ phái Hoa Sơn, phải biết giữ môn quy, nếu vi phạm hoặc chống lại thì chiếu theo tình tiết nặng nhẹ để xét xử, nếu phạm tội đại ác thì giết chứ không nương tình. Bổn phái đã đứng vững trong võ lâm mấy trăm năm rồi, võ công tuy có cùng tranh cao thấp với phái khác, nhưng nhất thời mạnh yếu thắng bại không đáng để nói. Điều cốt lõi là đệ tử của bổn phái ai cũng phải giữ gìn thanh danh của sư môn, ngươi nên ghi nhớ cho kỹ.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, đệ tử xin nhớ lời sư phụ giáo huấn.

Nhạc Bất Quần nói:

– Lệnh Hồ Xung, ngươi đã thông thuộc môn quy của bổn phái, nên dạy cho Lâm Bình Chi biết.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ. Lâm sư đệ nghe đây. Giới đầu tiên của bổn phái là khi sư diệt tổ, bất kính tôn trưởng. Giới thứ hai là ỷ mạnh hiếp yếu, gia hại kẻ vô tội. Giới thứ ba là gian dâm hiếu sắc, trêu ghẹo phụ nữ. Giới thứ tư là ghen ghét đồng môn, tàn sát lẫn nhau. Giới thứ năm là thấy lợi quên nghĩa, trộm cắp tài vật. Giới thứ sáu là kiêu ngạo tự đại, đắc tội đồng đạo. Giới thứ bảy là kết giao với địch, cấu kết gian tà. Đây là Hoa Sơn thất giới, đệ tử bổn phái đều phải tuân theo.

Lâm Bình Chi đáp:

– Dạ, tiểu đệ xin ghi nhớ Hoa Sơn thất giới mà đại sư ca vừa chỉ dạy, nỗ lực tuân hành, không dám vi phạm.

Nhạc Bất Quần cười nói:

– Được rồi, chỉ có bấy nhiêu thôi. Bổn phái không giống với những phái khác có lắm thanh quy giới luật. Ngươi nên tuân theo thất giới này, lúc nào cũng phải nhớ rằng nhân nghĩa là trên hết để trở thành một chính nhân quân tử, sư phụ sư nương sẽ rất vui mừng.

Lâm Bình Chi đáp dạ, hướng về sư phụ sư nương cúi đầu tạ ơn, rồi quay qua hướng các vị sư huynh sư tỷ cung tay xá dài hành lễ.

Nhạc Bất Quần nói:

– Bình nhi, trước tiên chúng ta hãy an táng cho phụ mẫu ngươi để ngươi trọn đạo làm con, sau đó mới truyền thụ công phu căn bản của bổn môn cho ngươi.

Lâm Bình Chi rơi lệ, lạy phục xuống rồi nói:

– Đa tạ sư phụ sư nương.

Nhạc Bất Quần đưa tay ra đỡ dậy, ôn tồn nói:

– Trong bổn phái, mọi người thân thiết với nhau như ruột thịt, bất luận người nào gặp chuyện, ai ai cũng phải chung lo giúp đỡ. Từ nay về sau ngươi không nên đa lễ.