Hồi 10: Phái Hoa Sơn theo dõi bọn Thanh Thành

Lao Đức Nặc kể tiếp:

– Ta lại hỏi sư phụ: “Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm có oai lực rất lớn phải không? Tại sao phái Thanh Thành ngày đêm dụng tâm tập luyện như vậy?” Sư phụ không trả lời, nhắm mắt suy nghĩ một lúc rồi mới nói: “Đức Nặc, trước khi nhập môn, ngươi đã phiêu bạt giang hồ nhiều năm. Trong võ lâm, ngươi có nghe ai bình luận về võ công của Lâm Chấn Nam, tổng tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục ra sao không?” Ta liền đáp: “Các bằng hữu trong võ lâm đều khen rằng Lâm Chấn Nam là một người rộng rãi, giao tình với bạn bè rất có nghĩa khí, mọi người đều chịu ơn nên không đụng đến công việc bảo tiêu của lão. Còn các thủ hạ của lão võ công thực sự ra sao đệ tử cũng không rõ!” Sư phụ nói: “Đúng vậy! Mấy năm gần đây Phước Oai tiêu cục làm ăn thịnh vượng là nhờ bằng hữu trên giang hồ nể mặt. Ngươi có từng nghe nói sư phụ của Dư quán chủ là Trường Thanh Tử lúc còn thiếu niên đã bị Tịch tà kiếm pháp của Lâm Viễn Đồ hạ không?” Ta đáp: “Lâm… Lâm Viễn Đồ ư? Là phụ thân của Lâm Chấn Nam phải không?” Sư phụ nói “Không, Lâm Viễn Đồ là tổ phụ của Lâm Chấn Nam; Phước Oai tiêu cục là do một tay lão gầy dựng nên. Năm đó, Lâm Viễn Đồ dùng bảy mươi hai đường Tịch tà kiếm pháp để gây dựng nên tiêu cục, trở thành một cao thủ vô địch trong phe hắc đạo. Thuở đó, anh hùng của bạch đạo thấy lão oai phong quá mức, bèn đi tìm lão để tỉ thí võ nghệ. Trường Thanh Tử vì thế mà bị thua mấy chiêu Tịch tà kiếm pháp của lão. Ta đáp: “Nếu nói như vậy, Tịch tà kiếm pháp quả nhiên vô cùng lợi hại?” Sư phụ nói: “Hai bên đều giữ kín việc Trường Thanh Tử bị thua mấy chiêu, vì thế không ai trong võ lâm biết cả. Tiền bối Trường Thanh Tử và sư tổ của ngươi là bạn thân với nhau nên đã kể lại cho sư tổ của ngươi biết. Lão còn tự nhận đây là sự nhục nhã lớn nhất trong đời lão, nhưng lão biết mình không địch nổi Lâm Viễn Đồ, mối thù này khó mà báo được. Sư tổ ngươi và lão cùng chiết giải Tịch tà kiếm pháp để giúp lão tìm ra chỗ sơ hở trong kiếm pháp này. Bảy mươi hai đường kiếm pháp này bề ngoài thì thấy bình thường nhưng bên trong lại chứa đựng nhiều sự biến hóa huyền diệu mà người ngoài không hiểu nổi. Thời gian trôi qua, hai vị tiền bối nghiên cứu kiếm pháp đã mấy tháng mà vẫn không tìm được chỗ sơ hở để phá giải. Lúc đó ta mới nhập môn, còn là một thiếu niên chưa quá mười tuổi, đứng một bên hầu trà nên được xem rất tỉ mỉ. Ngươi chỉ cần diễn một chiêu thức thì ta biết ngay đây là Tịch tà kiếm pháp. Than ôi, tháng năm trôi như nước chảy, chuyện mới đây mà đã thành chuyện mấy chục năm rồi!”

Lâm Bình Chi từ khi bị đệ tử phái Thanh Thành đánh đến nỗi không còn khí lực để chống đỡ, đã hoàn toàn mất lòng tin về võ công gia truy ền của nhà họ Lâm mình, chỉ muốn tìm một vị minh sư khác thụ giáo để trả mối thù này. Lúc này, chàng nghe Lao Đức Nặc nói về oai phong của tằng tổ Lâm Viễn Đồ, bất giác tinh thần phấn chấn. Chàng nghĩ: Thì ra Tịch tà kiếm pháp của nhà mình quả nhiên không phải tầm thường, đến nỗi nhân vật đầu não của phái Hoa Sơn và phái Thanh Thành cũng không tìm ra được chỗ sơ hở. Nếu vậy thì tại sao gia gia lại địch không nổi mấy gã hậu sinh tiểu tử của phái Thanh Thành? Chắc có lẽ gia gia chưa học đến chỗ tinh vi huyền diệu của kiếm pháp.

Lao Đức Nặc kể tiếp:

– Ta hỏi sư phụ: “Về sau tiền bối Trường Thanh Tử có trả được mối thù này không?” Sư phụ đáp: “Tỉ thí mấy chiêu thực ra cũng không có thể gọi là oán thù. Huống hồ lúc đó Lâm Viễn Đồ đã thành danh nhiều năm rồi, người trong võ lâm đều khâm phục lão như một vị tiền bối anh hùng còn Trường Thanh Tử chỉ là một tiểu đạo sĩ vừa xuất đạo. Kẻ hậu sinh tiểu tử thua dưới tay bậc tiền bối là chuyện bình thường. Sư tổ của ngươi khuyên giải lão một phen, rồi việc này cũng không đề cập đến nữa. Về sau, Trường Thanh Tử sống được ba mươi sáu tuổi thì qua đời, không chừng vì lão bực tức chuyện này mà chết. Chuyện xảy ra cách đây đã mấy chục năm, nay Dư Thương Hải đột nhiên hướng dẫn b ọn đệ tử luyện Tịch tà kiếm pháp là vì cớ gì? Đức Nặc, ngươi thử nghĩ xem?” Ta nói: “Đệ tử thấy tình hình mọi người luyện kiếm trong Tùng Phong quán, thần sắc ai cũng trịnh trọng. Lẽ nào Dư quán chủ muốn kéo bè kéo đảng đến đánh Phước Oai tiêu cục để báo thù cho người đời trước?” Sư phụ gật đầu, nói: “Ta cũng nghĩ như vậy. Trường Thanh Tử bụng dạ hẹp hòi, tự cao tự đại nên chuyện bị thua dưới kiếm Lâm Viễn Đồ nhất định canh cánh bên lòng, chắc có lẽ trước lúc lâm chung đã di lệnh cho Dư Thương Hải điều đó. Lâm Viễn Đồ chết trước Trường Thanh Tử. Dư Thương Hải nếu muốn báo thù cho sư phụ chỉ còn tìm con trai của Lâm Viễn Đồ là Lâm Trọng Hùng nhưng không hiểu tại sao đợi cho đến ngày hôm nay mới ra tay hành động. Dư Thương Hải thâm trầm kín đáo, lập mưu rồi mới hành động sau, lần này phái Thanh Thành và Phước Oai tiêu cục có thể xảy ra một trận đại chiến!” Ta hỏi sư phụ: “Sư phụ đoán xem cuộc tranh đấu này ai thắng ai bại?” Sư phụ cười nói: “Võ công của Dư Thương Hải cũng như màu xanh từ màu lam mà ra nhưng lại xanh hơn màu lam; nên đẳng cấp cao hơn Trường Thanh Tử. Võ công của Lâm Chấn Nam thì ta khó biết được cặn kẽ nhưng có lẽ không bằng tổ phụ y. Một bên thì hơn, một bên thì kém; hơn nữa phái Thanh Thành ở trong bóng tối mà Phước Oai tiêu cục ở ngoài ánh sáng. Khi chưa động thủ, Phước Oai tiêu cục đã thấy thua đến bảy thành rồi. Nếu Lâm Chấn Nam biết trước được chuyện này, mời được Kim đao Vương Nguyên Bá ở Lạc Dương tương trợ, thì mới có thể địch lại. Đức Nặc, ngươi muốn đi xem cuộc náo nhiệt này không?” Ta liền vui mừng phụng mệnh ngay. Sư phụ bèn dạy cho ta mấy chiêu kiếm pháp đắc ý của phái Thanh Thành để phòng thân.

Lục Đại Hữu nói:

– Úi chao, sư phụ cũng biết sử kiếm pháp của phái Thanh Thành ư? A! Đúng rồi, năm đó Trường Thanh Tử cùng với gia gia của sư tổ chúng ta chiết giải, phải dùng Thanh Thành kiếm pháp để đối phó với Tịch tà kiếm pháp. Sư phụ đứng bên cạnh nên thấy hết!

Lao Đức Nặc nói:

– Lục sư đệ, về lai lịch võ công của sư phụ, chúng ta là đệ tử không nên suy đoán. Sư phụ lại ra lệnh cho ta không nên nói cho các vị đồng môn nghe, để khỏi tiết lộ ra ngoài. Nhưng tiểu sư muội tinh ranh quá trời, biết hết mọi chuyện, cứ quanh quẩn bên sư phụ để xin cùng đi với ta. Ta và sư muội cải trang làm người bán rượu ở ngoại thành Phúc Châu, mỗi ngày đến Phước Oai tiêu cục xem thử có động tĩnh gì không. Nhưng không thấy gì cả, chỉ thấy Lâm Chấn Nam dạy con trai là Lâm Bình Chi luyện kiếm. Tiểu sư muội nhìn thấy lắc đầu nói với ta: “Đó không phải là Tịch tà kiếm pháp. Bọn Thanh Thành mới là Tịch tà kiếm pháp, tà ma đến nơi, vị Lâm công tử này càng tránh xa càng tốt!”

Bọn đệ tử phái Hoa Sơn cười rần cả lên. Mặt Lâm Bình Chi đỏ như gấc, chàng hổ thẹn không biết núp vào đâu, nghĩ bụng: Thì ra hai người đã đến dòm ngó tiêu cục mình nhiều lần. Nhà mình không hề hay biết gì, quả thật là vô dụng.

Lao Đức Nặc kể tiếp:

– Hai sư huynh sư muội ta ở ngoại thành Phúc Châu chưa được mấy ngày thì bọn đệ tử phái Thanh Thành lục tục kéo đến. Trước hết là hai gã Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào. Hai gã này mỗi ngày đều đến tiêu cục để thám thính, ta và tiểu sư muội sợ gặp phải họ, bèn không đi nữa. Ngày hôm đó cũng vừa đúng dịp vị Lâm công tử chiếu cố đại bảo hiệu của ta và sư muội mới mở ra. Tiểu sư muội đành phải đem rượu cho gã uống. Lúc đó, chúng ta chỉ lo bị gã phát hiện, nhưng khi nghe gã nói mấy câu thì mới biết gã hoàn toàn chẳng biết gì cả. Con em nhà quyền quý mà cái gì cũng không hiểu, một chút xíu hoài nghi cũng không có. Ngay lúc đó, phái Thanh Thành có hai gã đệ tử vô lại là Dư Nhân Ngạn và Giả Nhân Đạt cũng đến chiếu cố đại bảo hiệu của chúng ta…

Lục Đại Hữu vỗ tay nói:

– Nhị sư ca, sư ca và tiểu sư muội khai trương đại bảo hiệu thực đúng là sinh ý thông ra bốn biển, tài nguyên thịnh suốt ba sông. Hai vị ở Phúc Kiến đại phát tài rồi.

Thiếu nữ cười đáp:

– Còn phải nói nữa. Nhị sư ca đã sớm thành vị chủ quán phát tài; tiểu muội cũng nhờ dư phước của đại chủ nhân mà “kiếm chác” được không ít dầu mỡ!

Mọi người cười phá lên.

Lao Đức Nặc nói:

– Đừng có xem nhẹ võ công tầm thường của Lâm thiếu tiêu đầu. Gã không đáng làm đồ đệ của tiểu sư muội chúng ta nhưng có khí phách. Tiểu nhi tử vô dụng của Dư Thương Hải là Dư Nhân Ngạn càng đui mù hơn nữa, dám động tay động chân với tiểu sư muội, buông ra những lời sàm sỡ. Lâm công tử thấy vậy ôm mối bất bình, liền ra tay đánh hắn.

Lâm Bình Chi vừa hổ thẹn vừa phẫn nộ, chàng nghĩ bụng: Thì ra phái Thanh Thành đã có dụng tâm từ lâu, nên động thủ với tiêu cục mình là để báo thù rửa nhục cho người bại kiếm đời trước. Kỳ thực, bọn chúng đến Phúc Châu không chỉ có bọn Phương Nhân Trí bốn người. Việc ta giết hay không giết Dư Nhân Ngạn cũng không liên can gì cả.

Chàng càng nghĩ càng phiền não. Lao Đức Nặc thuật lại chuyện chàng giết chết Dư Nhân Ngạn ra sao, chàng cũng không để lọt vào tai. Nhưng nghe Lao Đức Nặc nói, bọn người kia cười rộ, rõ ràng là chúng chế giễu võ công thấp kém của chàng, cho rằng những chiêu thức của chàng hoàn toàn là chiêu thức mèo què.

Lao Đức Nặc kể tiếp:

– Đêm hôm đó, ta và tiểu sư muội lại đến Phước Oai tiêu cục để quan sát, chỉ thấy Dư quán chủ thống lãnh bọn Hầu Nhân Anh, Hồng Nhân Hùng và hơn mười đại đệ tử đã đến đó rồi. Chúng ta sợ bị người phái Thanh Thành phát giác nên đứng xa xa mà nhìn cuộc náo nhiệt. Trước tiên, chúng giết từng tiêu đầu và tên cầm cờ trong tiêu cục. Tiêu cục phái mấy tiêu đầu đi ra ngoài cầu viện cũng đều bị chúng giết chết cả, bao nhiêu xác chết đều được đưa trả về tiêu cục. Chúng hạ thủ thật tàn bạo. Lúc đó ta nghĩ đời trước Trường Thanh Tử của phái Thanh Thành tỉ kiếm với Lâm Viễn Đồ mà thất bại, Dư quán chủ muốn trả mối thù này chỉ nên tỉ kiếm với hai cha con Lâm Chấn Nam, thắng họ là được rồi, sao lại phải hạ thủ tàn bạo như thế? Nhất định là chúng báo thù cho Dư Nhân Ngạn. Nhưng chúng lại tha không giết hai vợ chồng Lâm Chấn Nam và Lâm Bình Chi, chỉ làm mọi cách để buộc họ rời khỏi tiêu cục. Ba người nhà họ Lâm và mọi người trong tiêu cục ra khỏi tiêu cục xong, Dư quán chủ mới tiến vào, ngang nhiên đi thẳng đến đại sảnh ngồi vào chiếc ghế thái sư. Phước Oai tiêu cục coi như đã bị phái Thanh Thành của lão chiếm giữ!

Lục Đại Hữu nói:

– Phái Thanh Thành của lão tiếp tục tiêu diệt những phân cục khác. Dư Thương Hải muốn làm tổng tiêu đầu!

Lao Đức Nặc nói tiếp:

– Phái Thanh Thành đã sớm biết ba người nhà họ Lâm cải trang trốn khỏi tiêu cục. Ba tên Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào, Giả Nhân Đạt phụng mệnh sư phụ đuổi theo bắt lại. Tiểu sư muội nhất định đòi xem cuộc náo nhiệt này, vì thế hai người chúng ta lại đi theo sau bọn Phương Nhân Trí. Đến một quán cơm nhỏ dưới chân núi phía Nam thành Phúc Châu, Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào, Giả Nhân Đạt đưa bộ mặt thật ra, bắt giữ ba người nhà họ Lâm. Tiểu sư muội nói: “Sở dĩ Lâm công tử giết Dư Nhân Ngạn là vì tiểu muội mà ra, chúng ta không thể thấy chết mà không cứu!” Ta hết sức ngăn cản, nói lỡ chúng ta ra tay nhất định sẽ làm mất hòa khí giữa hai phái Thanh Thành và Hoa Sơn, huống chi Dư quán chủ đang ở Phúc Châu, hai chúng ta không nên xuất đầu lộ diện.

Lục Đại Hữu nói:

– Nhị sư ca lớn tuổi hơn nên làm việc gì cũng thận trọng, há không làm cụt hứng của tiểu sư muội sao?

Lao Đức Nặc cười nói:

– Tiểu sư muội cực kỳ cao hứng, nhị sư ca có muốn làm cụt hứng cũng không được. Lúc đó, tiểu sư muội vào nhà bếp trước, đánh Giả Nhân Đạt lỗ đầu phun máu la oai oái. Hai gã Phương, Vu chạy vào; tiểu sư muội lại vòng ra phía trước để cứu Lâm công tử, đưa hắn ta lên ngựa chạy trốn.

Lục Đại Hữu vỗ tay nói:

– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Ta biết rồi, tiểu sư muội cứu tiểu tử họ Lâm kia chẳng qua là có dụng ý khác. Hay lắm, hay lắm!

Thiếu nữ nói:

– Tiểu muội có dụng ý gì nào? Sư ca lại nói bậy bạ nữa rồi.

Lục Đại Hữu nói:

– Ta vì phái Thanh Thành mà bị sư phụ đánh đòn, tiểu sư muội không khỏi tức giận muốn đánh người phái Thanh Thành để trả hận cho ta. Đa tạ.

Gã vừa nói vừa đứng lên hướng về thiếu nữ xá một cái thật dài.

Thiếu nữ cười khúc khích xá lại gã một cái, rồi cười nói:

– Lục hầu nhi, sư ca không cần đa lễ!

Gã cầm bàn tính cười nói:

– Tiểu sư muội đánh đệ tử phái Thanh Thành có phải là vì Lục sư ca hay không thì phải xét lại, vì lúc sư phụ đánh đòn Lục Đại Hữu ta không thấy tiểu sư muội tức giận chút nào.

Lao Đức Nặc cười nói:

– Lần này Lục sư đệ nói đúng rồi. Tiểu sư muội đánh gã Giả Nhân Đạt đích thực là để trả mối tức giận cho Lục sư đệ. Sau này sư phụ có hỏi, tiểu sư muội cũng trả lời thật như vậy.

Lục Đại Hữu xua tay lia lịa nói:

– Món nhân tình này ta không dám nhận đâu. Đừng để ta bị đòn thêm nữa!

Gã cao người hỏi:

– Vậy hai gã Phương Nhân Trí và Vu Nhân Hào không truy đuổi sao?

Thiếu nữ nói:

– Sao không đuổi. Nhưng nhị sư ca đã học qua Thanh Thành kiếm pháp, một chiêu Hồng phi minh minh phát ra thì trường kiếm của hai gã đã bay tuốt lên trời. Chỉ đáng tiếc là lúc đó Nhị sư ca dùng tấm vải đen che mặt nên hai gã Phương, Vu không biết đã bị môn hạ của phái Hoa Sơn đánh bại.

Lao Đức Nặc nói:

– Không biết thì tốt hơn, vì biết thì đã có thể xảy ra một trận đại phong ba. Nếu chỉ dựa vào công phu thực sự thì ta cũng chưa chắc đấu lại hai gã Phương, Vu; chỉ vì ta bỗng nhiên sử kiếm pháp phái Thanh Thành tấn công vào chỗ sơ hở của chúng khiến sư huynh, sư đệ chúng phải một phen kinh hoàng, nên mới chiếm được thượng phong.

Bọn đệ tử phái Hoa Sơn xôn xao bàn tán, cho rằng nếu đại sư ca biết được chuyện này thì nhất định sẽ mười phần cao hứng.

Ngoài trời, mưa càng lúc càng to. Một lão già gánh hoành thánh từ ngoài chạy vào quán trà trú mưa. Lão gõ hai thanh tre kêu lóc cóc; nước sôi trong nồi bốc lên nghi ngút.

Bọn đệ tử phái Hoa Sơn đã đói bụng cả rồi, thấy gánh hoành thánh đến thì hết sức vui mừng.

Lục Đại Hữu gọi:

– Lão già, làm cho chúng ta bảy bát hoành thánh, cho thêm trứng gà vào!

Lão già đáp:

– Dạ dạ!

Lão mở nắp bỏ hoành thánh vào nồi nước lèo đang sôi, chẳng mấy chốc đã nấu xong năm bát nóng hổi bưng lên.

Lục Đại Hữu rất biết khuôn phép. Bát thứ nhất bưng cho nhị sư ca Lao Đức Nặc; bát thứ hai bưng cho tam sư huynh Lương Phát; rồi cứ theo thứ tự bưng cho tứ sư huynh Thi Đới Tử, ngũ sư huynh Cao Căn Minh. Bát thứ năm đáng lẽ là bát của gã nhưng gã lại bưng đặt trước mặt thiếu nữ rồi nói:

– Tiểu sư muội, sư muội ăn trước đi.

Thiếu nữ vẫn hay nói đùa với gã, kêu gã là Lục hầu nhi nhưng khi thấy gã bưng bát hoành thánh đến liền đứng dậy nói:

– Đa tạ sư ca!

Từ bàn bên cạnh, Lâm Bình Chi liếc trộm qua, nghĩ bụng: Có lẽ khuôn phép sư môn của bọn này rất nghiêm. Bình thường tuy họ cười nói giỡn cợt với nhau nhưng vẫn không quên vai vế lớn nhỏ.

Thiếu nữ đợi cho Lục Đại Hữu và các sư huynh đều có hoành thánh, cô mới cùng ăn.

Lương Phát hỏi:

– Nhị sư ca, hồi nãy sư ca nói Dư quán chủ đã chiếm được Phước Oai tiêu cục rồi. Sau đó thì sao?

Lao Đức Nặc đáp:

– Tiểu sư muội cứu Lâm thiếu tiêu đầu xong, còn định âm thầm theo dõi bọn Phương Nhân Trí để tìm cơ hội cứu vợ chồng Lâm Chấn Nam. Ta khuyên tiểu sư muội rằng: “Dư Nhân Ngạn ngày đó vô lễ với sư muội, Lâm thiếu tiêu đầu đã trượng nghĩa ra tay, tiểu muội cảm kích cái tình của gã mà cứu mạng là đã đủ báo đáp rồi. Phái Thanh Thành và Phước Oai tiêu cục đã có thù oán từ đời trước, chúng ta nhúng tay vào làm gì?” Tiểu sư muội nghe lời. Sau đó, hai chúng ta quay về thành Phúc Châu, thấy mười mấy tên đệ tử phái Thanh Thành canh gác nghiêm mật từ trước ra sau Phước Oai tiêu cục. Chúng ta rất lấy làm kỳ. Mọi người trong tiêu cục đã đi tứ tán, ngay cả vợ chồng Lâm Chấn Nam cũng bỏ đi, phái Thanh Thành còn kiêng dè gì nữa? Ta và tiểu sư muội đoán không ra nguyên do sâu kín bên trong nên tò mò muốn đi quan sát. Chúng ta nghĩ bọn đệ tử phái Thanh Thành canh giữ nghiêm mật như vậy, ban đêm đột nhập cũng không dễ nên thừa lúc bọn chúng thay người để ăn cơm tối, hai chúng ta đột nhập vườn rau và núp trong đó. Vừa nhảy vào tiêu cục, chúng ta đã thấy rất nhiều đệ tử phái Thanh Thành đang lục soát khắp nơi. Chúng cạy hòm, đục tường, khoét vách, mở bồ, khiến cho cả Phước Oai tiêu cục từ trước ra sau đều bị đảo lộn cả lên. Trong tiêu cục có rất nhiều vàng bạc châu báu chưa mang đi kịp, nhưng bọn chúng vẫn bỏ sang một bên, không thèm đoái hoài đến. Ta nghĩ: “Chúng đang lục tìm một thứ gì đó vô cùng quan trọng. Vậy đó là vật gì?”

Ba bốn tên đệ tử phái Hoa Sơn cùng nói:

– Đó là Tịch tà kiếm phổ!

Lao Đức Nặc nói:

– Đúng vậy. Ta và tiểu sư muội cũng nghĩ như vậy. Rõ ràng, sau khi chiếm được Phước Oai tiêu cục thì chúng lập tức sục sạo tứ tung. Chúng ra sức đào bới đến độ mồ hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng cũng vô ích.

Lục Đại Hữu hỏi:

– Sau đó, chúng có sục sạo nữa không?

Lao Đức Nặc nói:

– Ta và tiểu sư muội đều muốn xem cho tận tường. Mấy gã đệ tử phái Thanh Thành sục sạo khắp nơi, đến cái hố xí cũng không chừa. Ta và tiểu sư muội không còn chỗ ẩn núp, đành phải rút lui.

Ngũ đệ tử Cao Căn Minh hỏi:

– Nhị sư ca, lần này Dư Thương Hải đích thân xuất mã, có phải là lão nhân chuyện nhỏ mà làm to ra không?

Lao Đức Nặc nói:

– Sư phụ của Dư quán chủ đã bị thua dưới Tịch tà kiếm pháp của Lâm Viễn Đồ. Xét cho cùng, Lâm Chấn Nam là con cháu dù có sút kém nhưng còn dựa vào oai danh của cha ông, người ngoài không biết thực hư. Nếu Dư quán chủ chỉ phái mấy tên đệ tử đến tìm vật gì đó thì phải nói là quá ư cao ngạo. Lão đích thân xuất mã, trước tiên là đôn đốc đệ tử luyện kiếm, chuẩn bị kỹ rồi mới ra tay lật đổ tiêu cục cũng không thể xem là chuyện nhỏ mà làm to được. Theo ta thấy, lão đến Phúc Châu để báo thù là vấn đề phụ, chủ yếu là lão đi tìm bộ Tịch tà kiếm phổ.

Tứ đệ tử là Thi Đới Tử nói:

– Nhị sư ca! Sư ca ở Tùng Phong quán thấy được chúng luyện Tịch tà kiếm pháp; đường kiếm này đã biết sử rồi thì hà tất chúng phải đi tìm kiếm phổ? Không chừng chúng muốn đi tìm thứ gì khác.

Lao Đức Nặc lắc đầu đáp:

– Chưa chắc, vì Dư quán chủ là một cao nhân, ngoài bí quyết võ công ra, trên đời này còn có vật gì đáng để lão quan tâm nữa? Sau đó, ở Ngọc Sơn tỉnh Giang Tây, ta và tiểu sư muội lại gặp bọn chúng. Ta nghe Dư quán chủ tra hỏi các đệ tử ở Triết Giang, Quảng Đông có tìm thấy vật đó không. Thần sắc cả bọn đầy lo âu, xem ra không ai tìm thấy được.

Thi Đới Tử vẫn chưa hiểu, lại hỏi:

– Rõ ràng là chúng biết sử dụng kiếm pháp rồi, sao lại đi tìm kiếm phổ để làm gì nữa. Thật là kỳ quái.

Lao Đức Nặc nói:

– Tứ đệ thử nghĩ xem, ngày trước Lâm Viễn Đồ có thể đánh bại Trường Thanh Tử, kiếm pháp của lão chắc chắn phải cao minh vô cùng. Nhưng lúc Trường Thanh Tử ghi nhớ trong lòng để truyền lại cho đệ tử thì tất nhiên chiêu thức Tịch tà kiếm pháp là thứ tầm thường. Bây giờ, Dư quán chủ tận mắt trông thấy võ công của cha con họ Lâm càng chẳng ra gì cả. Vậy trong vấn đề này nhất định có cái gì đó không bình thường.

Thi Đới Tử hỏi:

– Sao lại không bình thường?

Lao Đức Nặc đáp:

– Ta nghĩ rằng trong Tịch tà kiếm pháp của nhà họ Lâm còn có bí quyết nào đó; chiêu thức kiếm pháp tuy như vậy nhưng oai lực lại cực kỳ dũng mãnh, và Lâm Chấn Nam chưa học được bí quyết này.

Thi Đới Tử suy nghĩ một lúc rồi gật đầu nói:

– Thì ra là vậy. Nhưng khẩu quyết kiếm pháp đều do chính sư phụ khẩu truyền. Lâm Viễn Đồ đã chết mấy chục năm rồi, giờ có tìm ra quan tài của lão, lôi tử thi ra thì cũng chẳng ích gì.

Lao Đức Nặc nói:

– Kiếm quyết của bổn phái là do sư phụ khẩu truyền, không thể lạc mất văn tự nhưng võ công các nhà, các phái khác chưa chắc đã như vậy.

Thi Đới Tử nói:

– Nhị sư ca, đệ vẫn chưa hiểu rõ. Nếu trước đây chúng muốn đi tìm bí quyết của Tịch tà kiếm pháp thì còn có lý. Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng, muốn thắng được Tịch tà kiếm pháp thì cần phải hiểu bí quyết. Nhưng trước mắt, phái Thanh Thành đã bắt vợ chồng Lâm Chấn Nam đi rồi; tổng cục Phước Oai tiêu cục cùng các phân cục khác đều bị chúng phá sạch sành sanh rồi, còn gì nữa mà đòi báo thù? Cứ coi như trong Tịch tà kiếm pháp thực sự có bí quyết thì chúng tìm để làm gì nữa?

Lao Đức Nặc hỏi:

– Tứ đệ, võ công phái Thanh Thành so với Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta như thế nào?

Thi Đới Tử đáp:

– Tiểu đệ không biết.

Một lúc sau gã lại nói:

– E rằng không bằng.

Lao Đức Nặc nói:

– Đúng vậy. Sư đệ thử nghĩ xem Dư quán chủ là người tâm cao khí ngạo, tại sao không muốn nở mày nở mặt, hơn hẳn người khác trong võ lâm? Nếu chính xác có bí quyết nằm trong nhà họ Lâm thì những chiêu bình thường của Tịch tà kiếm pháp có thể sẽ biến thành những chiêu thức có oai lực kỳ lạ. Nếu đem bí quyết này dùng vào trong kiếm pháp của phái Thanh Thành thì sẽ ra sao?

Thi Đới Tử ngẩn người ra một lúc rồi bỗng nhiên vỗ mạnh xuống bàn, nói lớn:

– Ta hiểu rồi. Thì ra Dư Thương Hải muốn không một ai trong võ lâm có thể địch lại kiếm pháp của phái Thanh Thành.

Hồi 11: Lão ni cô truy tầm tên bại hoại

Bỗng nghe tiếng bước chân trên đường vọng lại. Có một đám người chạy đến, cước bộ rất nhẹ nhàng, rõ ràng là người trong võ lâm. Mọi người quay đầu nhìn ra đường, ch ỉ thấy qua làn mưa, có hơn mươi người đang tới. Thì ra là một đoàn ni cô. Lão ni cô đi đầu dáng người tầm thước, đứng trước quán trà quát lớn:

– Lệnh Hồ Xung, mau chường mặt ra đây!

Bọn Lao Đức Nặc nhìn thấy người này đều nhận ra đây là Định Dật, am chủ Bạch Vân am phái Hằng Sơn. Chưởng môn phái Hằng Sơn là sư tỷ của Định Dật, đạo hiệu là Định Nhàn sư thái.

Không những phái Hằng Sơn oai danh rất lớn mà trong võ lâm ai cũng kiêng sợ mụ ba phần. Bọn Lao Đức Nặc lập tức đứng dậy cúi mình cung kính hành lễ.

Lao Đức Nặc dõng dạc nói:

– Xin tham kiến sư thúc.

Định Dật sư thái quét mắt nhìn hết mọi người rồi lớn tiếng quát:

– Lệnh Hồ Xung trốn ở đâu? Mau chường mặt ra đây cho ta bảo!

Tiếng mụ nghe thô kệch hơn cả tiếng đàn ông. Lao Đức Nặc nói:

– Khải bẩm sư thúc, Lệnh Hồ sư huynh không có ở đây. Bọn đệ tử cũng đang chờ đại sư ca. Đại sư ca vẫn chưa đến.

Lâm Bình Chi nghĩ thầm: Thì ra chúng nói cả nửa ngày mới hay tên của người đại sư ca là Lệnh Hồ Xung. Người này cũng thật đa sự, không biết tại sao lại đắc tội với lão ni cô này?

Định Dật quét mắt khắp quán trà một lượt, khi mụ liếc mắt nhìn đến mặt thiếu nữ, bèn hỏi:

– Ngươi là Linh nhi phải không? Tại sao ngươi phải cải trang thành người có bộ mặt xấu xí vậy?

Thiếu nữ đáp:

– Có kẻ ác muốn làm khó tiểu điệt nhi nên tiểu điệt nhi đành phải cải trang để lánh mặt hắn.

Định Dật hừ một tiếng rồi đáp:

– Môn quy của phái Hoa Sơn càng ngày càng lỏng lẻo; gia gia của ngươi đã dễ dãi để cho các đệ tử ra ngoài quậy phá, gây nên những việc hồ đồ. Việc ở đây xong rồi, ta sẽ đích thân đến núi Hoa Sơn để hỏi cho ra lẽ.

Linh nhi lo lắng nói:

– Sư thúc, xin sư thúc đừng đi. Mới đây, đại sư ca vừa bị gia gia đánh ba mươi côn đến nỗi đi không được. Sư thúc đến nói với gia gia, sư ca lại bị đánh thêm sáu mươi côn nữa thì làm sao sống nổi?

Định Dật nói:

– Cái đồ súc sinh ấy đánh chết càng sớm càng tốt. Linh nhi, ngươi đừng nói dối ta. Tại sao Lệnh Hồ Xung đi không nổi? Hắn đi không nổi thì tại sao lại bắt tiểu đồ đệ của ta đi?

Lão ni vừa nói ra, bọn đệ tử phái Hoa Sơn đều thất sắc. Linh nhi lo lắng cơ hồ muốn bật khóc, vội nói:

– Sư thúc, không phải vậy đâu. Đại sư ca dù to gan đến đâu cũng quyết không dám mạo phạm đến sư tỉ của quý phái. Nhất định là có người bịa đặt nhảm nhí để chọc giận sư thúc đó.

Định Dật lớn tiếng nói:

– Ngươi còn dám cãi chày cãi cối ư? Nghi Quang đâu, người phái Thái Sơn đã nói với ngươi cái gì?

Một ni cô trung niên bước lên một bước nói:

– Các sư huynh ở phái Thái Sơn nói: Thiên Tùng đạo trưởng ở trong thành Hành Dương tận mắt nhìn thấy Lệnh Hồ Xung sư huynh và Nghi Lâm sư muội cùng uống rượu trên một tửu lâu. Tửu lâu này gọi là Hồi Nhạn lâu. Nghi Lâm sư muội rõ ràng là đã bị Lệnh Hồ Xung sư huynh dọa dẫm, không dám không uống, tinh thần… tinh thần rất là khổ não. Cùng uống rượu với hai người còn có… một gã… một gã… không có việc gì ác độc mà không dám làm. Đó là Điền… Điền Bá Quang!

Định Dật đã biết chuyện này, nhưng lúc mụ nghe kể lại vẫn còn tức giận, giơ tay đập xuống bàn một cái thật mạnh. Hai bát hoành thánh văng tưng lên, rơi xuống đất vỡ tan tành, phát ra mấy tiếng loảng xoảng.

Bọn đệ tử phái Hoa Sơn vô cùng bối rối. Linh nhi đau lòng đến nỗi nước mắt ứa ra rơi từng giọt, run run nói:

– Nhất định là họ nói dối. Không phải vậy… không phải vậy. Thiên Tùng sư thúc nhìn lầm người rồi.

Định Dật lớn tiếng nói:

– Thiên Tùng đạo nhân là người trong phái Thái Sơn làm sao mà nhìn lầm, cũng không thể nói thêm nói bớt được. Tên súc sinh Lệnh Hồ Xung rõ ràng là đã đi với tên ác đồ Điền Bá Quang ăn chơi trụy lạc, còn ra thể thống gì nữa? Sư phụ của ngươi cưng chiều gã quá đáng; ta gặp gã nhất quyết không tha. Trên giang hồ, Vạn lý độc hành Điền Bá Quang rất ác độc, lão ni quyết vì thiên hạ mà trừ đi đại họa này. Lúc ta được tin Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung bắt cóc Nghi Lâm đi rồi, ta… ta… đến khắp nơi tìm chúng nhưng không thấy…

Lão ni nói đến câu cuối thì giọng khàn đi, liên tục dậm chân bịch bịch, than trời trách đất:

– Chao ôi! Nghi Lâm hài tử! Nghi Lâm hài tử!

Bọn đệ tử phái Hoa Sơn tim đập thình thịch, nghĩ thầm: Đại sư ca dẫn ni cô môn hạ phái Hằng Sơn đến tửu lâu uống rượu là làm bại hoại thanh danh của người xuất gia, đã vi phạm môn quy; lại còn kết giao với tên hạ lưu Điền Bá Quang thì càng bại hoại hơn nữa.

Một lúc lâu, Lao Đức Nặc mới lên tiếng:

– Sư thúc, có thể Lệnh Hồ Xung sư huynh và Điền Bá Quang ngẫu nhiên gặp nhau thôi chứ không phải là kết giao. Mấy ngày nay, Lệnh Hồ sư huynh uống rượu đến độ say khướt, thần trí mê muội; người say mà làm chuyện gì thì không khỏi có chỗ sai lầm.

Định Dật tức giận nói:

– Hễ say thì cũng phải có mấy phần tỉnh. Ngay cả phải trái, tốt xấu cũng không phân biệt được sao?

Lao Đức Nặc nói:

– Dạ, dạ! Không biết Lệnh Hồ sư huynh đang ở nơi nào, bọn sư điệt đợi sốt cả ruột. Khi sư ca đến, sư điệt sẽ lấy đại nghĩa mà phiền trách, nhưng trước tiên, sư điệt xin dập đầu tạ tội với sư thúc rồi sẽ bẩm báo lại sư phụ để phạt nặng đại sư ca.

Định Dật tức giận nói:

– Ta đến đây để canh chừng sư huynh của các ngươi sao?

Mụ đột nhiên đưa tay nắm lấy cổ tay của Linh nhi. Cổ tay của Linh nhi tưởng chừng như bị một cái đai sắt kẹp vào. Nàng á lên một tiếng, hoảng sợ lắp bắp:

– Sư… sư thúc!

Định Dật quát:

– Phái Hoa Sơn của các ngươi đã bắt Nghi Lâm của ta đi; ta cũng bắt một tên nữ đệ tử của phái Hoa Sơn các ngươi làm con tin. Các ngươi thả Nghi Lâm của ta ra thì ta cũng sẽ thả Linh nhi của các ngươi về.

Nói xong, lão ni quay người lôi Linh nhi đi. Linh nhi cảm thấy nửa người đau ê ẩm, không tự chủ được, loạng choạng đi theo.

Lao Đức Nặc và Lương Phát cùng tiến lên đứng chặn trước mặt Định Dật sư thái. Lao Đức Nặc khom người nói:

– Sư thúc, đại sư ca của tiểu điệt đắc tội với sư thúc, chẳng trách sư thúc nổi giận. Chỉ có điều tiểu sư muội hoàn toàn không có liên can gì đến chuyện này, xin sư thúc giơ cao đánh khẽ.

Định Dật quát:

– Được, ta “giơ cao đánh khẽ” đây!

Lão ni giơ tay phải lên phát ra một chưởng. Lao Đức Nặc và Lương Phát cảm thấy một luồng kình phong cực kỳ mãnh liệt ập tới như muốn ngộp thở; thân không tự chủ được bị hất về phía sau. Sống lưng Lao Đức Nặc đụng mạnh vào cánh cửa đối diện với quán trà nghe rầm một cái, cánh cửa đã bị gãy làm đôi. Lương Phát lại bị bay dạt về phía gánh hoành thánh. Trong nháy mắt, nồi nước sôi sẽ bắn ra tung tóe khắp người, gã khó tránh khỏi bị trọng thương. Lão già bán hoành thánh vội giơ tay trái ra đỡ lưng Lương Phát; giúp gã đứng xuống đất một cách an toàn.

Định Dật sư thái quay đầu lại trừng mắt nhìn lão bán hoành thánh một cái rồi nói:

– Thì ra là ngươi!

Lão già cười nói:

– Đúng vậy. Chính là tại hạ. Sư thái nóng tính quá!

Định Dật nói:

– Việc gì đến ngươi mà ngươi xen vào?

Giữa lúc đó có hai người che dù, tay cầm đèn lồng, bước nhanh đến lớn tiếng hỏi:

– Xin hỏi có phải vị này là thần ni của phái Hằng Sơn không?

Định Dật đáp:

– Không dám! Định Dật ở Hằng Sơn đây. Tôn giá là ai?

Hai người đó cầm đèn lồng, trên đèn viết hai chữ đỏ “Lưu phủ”. Gã đi trước nói:

– Vãn bối phụng mệnh nghiệp sư, mời Định Dật sư bá và các vị sư tỷ đến tệ phủ thọ trai. Vãn bối chưa hay các vị đã đến Hành Sơn nên không kịp ra cổng thành nghênh đón. Xin tha lỗi, tha lỗi!

Nói xong, liền cúi mình hành lễ.

Định Dật nói:

– Không nên đa lễ. Hai vị là đệ tử của Lưu tam gia phải không?

Gã kia đáp:

– Dạ, vãn bối là Hướng Đại Niên, còn đây là sư đệ Mễ Vi Nghĩa. Xin thỉnh an sư bá.

Hướng Đại Niên nói xong cùng Mễ Vi Nghĩa cung kính hành lễ. Định Dật thấy hai gã rất chu đáo, trong bụng cả mừng, nói:

– Được. Chúng ta đang định đến phủ bái yết Lưu tam gia đây.

Hướng Đại Niên nhìn bọn Lương Phát hỏi:

– Các vị là…

Lương Phát đáp:

– Tại hạ là Lương Phát ở phái Hoa Sơn.

Hướng Đại Niên vui mừng nói:

– Thì ra là Lương tam ca phái Hoa Sơn. Tại hạ hâm mộ tiếng tăm đã lâu, xin mời các vị cùng đến tệ xá. Sư phụ đã dặn bọn tiểu đệ đi khắp nơi trên các đường phố để nghênh tiếp các vị anh hùng hảo hán nhưng vì người đến quá đông nên tiếp đãi không được chu đáo, để đắc tội với các bằng hữu. Nào, xin mời các vị!

Lao Đức Nặc nói:

– Bọn tiểu đệ định đợi đại sư ca rồi cùng đi đến vấn an Lưu tam sư thúc.

Hướng Đại Niên nói:

– Vị này chắc là Lao nhị sư ca. Sư phụ vẫn thường khen ngợi các vị sư huynh anh hùng dưới trướng Nhạc sư bá của phái Hoa Sơn, nhất là Lệnh Hồ sư huynh càng xứng đáng là anh tài kiệt xuất. Bây giờ, Lệnh Hồ sư huynh chưa đến, các vị đi trước cũng được.

Lao Đức Nặc nghĩ bụng: Tiểu sư muội bị Định Dật sư thúc kéo đi rồi, xem ra lão ni chẳng chịu buông tha. Chúng ta chỉ còn cách đi theo bọn họ. Hắn bèn nói:

– Xin cảm phiền các sư huynh vậy.

Hướng Đại Niên nói:

– Các vị nhọc công đến Hành Sơn là niềm hân hạnh cho bọn tiểu đệ, sao còn nói những lời khách khí như vậy? Xin mời, xin mời!

Định Dật chỉ tay vào lão bán hoành thánh hỏi:

– Vị này có mời không?

Hướng Đại Niên nhìn lão già một lúc, bỗng nhiên nhớ ra, khom người nói:

– Thì ra là Hà sư bá ở núi Nhạn Đãng, thật là thất lễ. Xin mời Hà sư bá giá lâm tệ xá.

Gã đoán được lão già bán hoành thánh là cao thủ Hà Tam Thất thuộc núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang. Lão này từ thuở nhỏ sống bằng nghề bán hoành thánh, sau khi học xong võ công, lão vẫn gánh hoành thánh đi khắp giang hồ . Cái gánh hoành thánh này có thể nói là tiêu ký của lão. Lão tuy là người có võ công nhưng cam chịu sống thanh đạm, lấy gánh hàng rong làm kế sinh nhai, người trong võ lâm ai cũng quý trọng. Từ hang cùng, ngõ hẻm cho đến các thị trấn, có đến hàng vạn người bán hoành thánh nhưng đã bán hoành thánh mà lại là người trong võ lâm thì chỉ có Hà Tam Thất mà thôi.

Hà Tam Thất cười ha hả nói:

– Chính Hà mỗ cũng định đến quấy nhiễu quý phái đây.

Nói xong lão thu dọn mấy cái bát trên bàn. Lao Đức Nặc nói:

– Vãn bối có mắt mà không nhìn thấy Thái Sơn. Xin Hà tiền bối đừng trách.

Hà Tam Thất cười nói:

– Không trách đâu, không trách đâu. Các vị đã chiếu cố gánh hoành thánh của ta là đem lại cơm áo cho ta rồi, sao mà trách được? Bảy bát hoành thánh, mười quan tiền một bát, tổng cộng bảy mươi quan tiền.

Nói xong lão xòe tay ra.

Lao Đức Nặc vô cùng bối rối, không biết Hà Tam Thất nói đùa hay nói thật. Định Dật nói:

– Ăn hoành thánh thì phải trả tiền. Hà Tam Thất đâu có bao giờ đãi khách.

Hà Tam Thất cười nói:

– Phải đấy, ta buôn bán nhỏ, vốn liếng ít ỏi nên rất cần tiền để làm vốn. Dù bạn bè thân thiết cũng phải trả tiền.

Lao Đức Nặc nói:

– Dạ, dạ.

Hắn không dám trả nhiều, chỉ lấy đủ bảy mươi quan tiền, hai tay kính cẩn đưa lên.

Hà Tam Thất nhận tiền xong, quay về phía Định Dật xòe tay ra nói:

– Lão ni đánh bể hai cái bát và hai chiếc muỗng của tại hạ, tất cả là mười bốn quan. Xin đền cho.

Định Dật bật cười nói:

– Đồ quỷ, ngay cả người xuất gia mà ngươi cũng giễu cợt. Nghi Quang đâu, bồi thường cho lão đi!

Nghi Quang đếm đủ mười bốn quan, hai tay kính cẩn đưa trả. Hà Tam Thất nhận tiền bỏ vào trong ống trúc treo bên gánh hoành thánh, quảy gánh lên rồi nói:

– Đi thôi!

Hướng Đại Niên nhìn chủ quán trà nói:

– Tiền trà ở đây sẽ tính sau. Cứ ghi vào sổ cho Lưu tam gia.

Chủ quán cười nói:

– Ha, khách quý của Lưu tam gia. Ha, tiểu quán muốn còn không được, sao dám tính tiền trà?

Hướng Đại Niên đưa dù cho khách rồi đi trước dẫn đường. Định Dật dắt Linh nhi phái Hoa Sơn cùng với Hà Tam Thất sánh vai ra đi, bọn đệ tử phái Hằng Sơn và phái Hoa Sơn theo sau.

Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Ta phải bám theo bọn này để xem có thể trà trộn vào trong nhà Lưu Chính Phong chăng.

Mọi người đi đến góc đường, chàng lập tức đứng dậy chạy theo, thấy mọi người đi về hướng Bắc. Trời vẫn mưa rất to, chàng men theo mái hiên nhà mà đi. Đi qua ba con đường, thấy đầu mé trái có một tòa nhà rất lớn, ngoài cổng treo bốn chiếc đèn lồng; mười mấy người cầm đuốc, trương dù vội vã nghênh đón khách. Bọn Định Dật, Hà Tam Thất đi vào cổng, cùng lúc có rất nhiều tân khách từ hai đầu đường đi đến.

Lâm Bình Chi đánh bạo đi tới trước cổng. Lúc đó đang có hai hào khách giang hồ do đệ tử của Lưu môn tiếp đón tiến vào cổng; Lâm Bình Chi không nói lời nào, lặng lẽ đi theo sau. Người tiếp khách tưởng chàng là tân khách nên niềm nở đón chào, nói:

– Xin mời vào uống trà.

Chàng đi vào đại sảnh, nghe tiếng người ồn ào. Trong sảnh lúc này đã có hơn hai trăm người, ai nấy đều tự nhiên nói cười. Lâm Bình Chi định thần lại, nghĩ bụng: Ở đây có nhiều người quá, chẳng ai thèm để ý đến mình. Ta nên lân la đến chỗ các tên ác đồ phái Thanh Thành mới có thể dò tìm tung tích của gia gia má má.

Chàng liền ngồi vào một chiếc bàn nhỏ đặt trong góc tối của đại sảnh; chẳng mấy chốc đã có gia đinh đem trà xanh, đồ điểm tâm, khăn nóng đặt lên bàn. Chàng đưa mắt nhìn khắp nơi, thấy quần ni phái Hằng Sơn ngồi ở chiếc bàn bên mé trái; bọn đệ tử phái Hoa Sơn ngồi ở một bàn khác đặt kế bên; thiếu nữ tên Linh nhi cùng ngồi với các huynh đệ. Xem ra, Định Dật đã buông tha cho cô rồi. Bọn Định Dật và Hà Tam Thất cũng ngồi trong đám này. Lâm Bình Chi liếc nhìn từng bàn một, bỗng nhiên lòng chàng chấn động, máu trong người như sôi lên khi thấy hai gã Phương Nhân Trí, Vu Nhân Hào và một đám người đang ngồi quanh hai chiếc bàn đặt gần đó. Hiển nhiên, chúng đều là đệ tử của phái Thanh Thành, nhưng phụ thân và mẫu thân chàng lại không có ở đó, không biết bị chúng giam giữ ở nơi nào. Lâm Bình Chi vừa đau lòng, vừa tức giận lại vừa lo lắng. Chàng chỉ sợ cha mẹ đã bị chúng hạ độc thủ. Chàng muốn đến ngồi gần để lén nghe chúng nói chuyện, nhưng nghĩ lại: Mình trà trộn vào đây không phải d ễ, nếu có mộ t chút manh động, bị bọn Phương Nhân Trí nhận ra thì hỏng hết, không những tất cả công sức bỏ ra đều vô ích mà còn có thể bị họa sát thân.

Hồi 12: Lệnh Hồ Xung cấu kết tà ma

Giữa lúc đó đột nhiên trước cổng nhốn nháo cả lên. Mấy tên hán tử mặc áo xanh khiêng hai cánh cửa vội vàng tiến vào. Hai xác người nằm trên hai cánh cửa, trên mình phủ vải trắng thấm đầy máu. Mọi người trong đại sảnh vừa nhìn thấy đều chạy ra xem. Có người nói:

– Đúng là người của phái Thái Sơn.

– Thiên Tùng đạo nhân của phái Thái Sơn bị trọng thương. Còn người kia là ai vậy?

– Là đệ tử của Thiên Môn chân nhân, chưởng môn phái Thái Sơn. Gã họ Trì, không rõ chết chưa?

– Gã chết rồi. Ngươi xem, một nhát dao đâm từ trước ngực xuyên thấu ra sau lưng thì không chết sao được?

Mọi người bàn tán xôn xao. Một người chết, một người bị trọng thương; cả hai đều được khiêng vào phía hậu sảnh. Nhiều người cùng đi theo.

Mọi người trong đại sảnh bàn tán xôn xao:

– Thiên Tùng đạo nhân là cao thủ trong phái Thái Sơn, kẻ nào to gan dám đánh lão đến trọng thương?

– Người đánh Thiên Tùng đạo nhân trọng thương dĩ nhiên võ công phải cao cường hơn lão. Người có võ công cao cường thì to gan, không có gì là kỳ lạ cả.

Trong lúc mọi người đang bàn bạc ngoài đại sảnh thì Hướng Đại Niên vội vã đi ra. Gã đến bàn của bọn đệ tử phái Hoa Sơn, nhìn vào Lao Đức Nặc nói:

– Lao sư huynh, sư phụ tiểu đệ mời sư huynh vào nói chuyện.

Lao Đức Nặc đáp:

– Vâng!

Hắn liền đứng dậy đi theo gã vào trong nội đường, xuyên qua một dãy hành lang tới một tòa hoa sảnh. Trong hoa sảnh chỉ thấy ở thượng vị bày năm cái ghế thái sư; bốn cái còn trống, chỉ có một cái ở phía Đông đã có một người ngồi đó. Người này là một đạo nhân mặt đỏ, dáng vóc cao to.

Lao Đức Nặc biết năm cái ghế này dành cho năm vị chưởng môn của Ngũ Nhạc kiếm phái là Tung Sơn, Hằng Sơn, Hoa Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn. Chưởng môn nhân của bốn phái kia chưa tới; vậy đạo nhân mặt đỏ đó là Thiên Môn đạo nhân, chưởng môn phái Thái Sơn. Ngồi hai bên có đến mười tám, mười chín nhân vật đều vào hàng tiền bối võ lâm. Định Dật sư thái phái Hằng Sơn, Dư Thương Hải phái Thanh Thành, Hà Tam Thất núi Nhạn Đãng tỉnh Triết Giang đều ở trong số này. Phía dưới, ngồi ở ghế chủ vị là một hán tử trung niên, người mập lùn, mình mặc áo lụa màu nâu vàng giống như một nhà giàu. Người đó chính là chủ nhân Lưu Chính Phong. Trước tiên, Lao Đức Nặc hướng về Lưu Chính Phong hành lễ, sau đó bái Thiên Môn đạo nhân rồi nói:

– Đệ tử là Lao Đức Nặc phái Hoa Sơn xin khấu kiến Thiên Môn sư bá.

Thiên Môn đạo nhân mặt đầy sát khí, dường như lão vô cùng phẫn nộ. Tay trái lão đập xuống ghế thái sư một cái rầm rồi quát:

– Lệnh Hồ Xung đâu?

Giọng lão quát thật to, nghe như tiếng sấm nổ. Những người ngồi rất xa trong đại sảnh nghe rõ tiếng lão quát đều rúng động, tái mặt.

Thiếu nữ tên Linh nhi kinh hãi nói:

– Tam sư ca, họ lại muốn tìm đại sư ca nữa kìa!

Lương Phát gật đầu không nói lời nào, một lúc sau gã mới khẽ nhắc:

– Mọi người im đi. Trên đại sảnh các lộ anh hùng đều đang tụ tập, đừng để người ta coi thường phái Hoa Sơn mình.

Lâm Bình Chi nghĩ bụng: Chúng lại tìm kiếm gã Lệnh Hồ Xung. Cái gã Lệnh Hồ Xung này gây ra thật lắm chuyện rắc rối.

Lao Đức Nặc bị Thiên Môn đạo nhân giận dữ quát to đến nỗi hai tai hắn lùng bùng, ù cả màng nhĩ.

Hắn quỳ dưới đất một lúc mới đứng dậy nói:

– Khải bẩm sư bá, Lệnh Hồ sư huynh và vãn bối chia tay ở Hành Dương, có hẹn gặp lại ở thành Hành Sơn để cùng đến phủ Lưu sư thúc chúc mừng. Hôm nay nếu đại sư ca không đến, có lẽ ngày mai sẽ đến.

Thiên Môn đạo nhân tức giận quát:

– Hắn còn dám vác mặt đến à? Lệnh Hồ Xung là đại đệ tử của chưởng môn phái Hoa Sơn, cũng có thể coi như một nhân vật danh môn chính phái. Tại sao hắn lại cùng đi với tên Điền Bá Quang, một tên thái hoa dâm tặc, giết người cướp của, không việc gì ác mà không làm?

Lao Đức Nặc nói:

– Theo như đệ tử biết thì đại sư ca với Điền Bá Quang vốn không hề quen biết. Đại sư ca ngày thường thích uống dăm ba chén rượu, có lẽ không biết tên đó là Điền Bá Quang, vô tình gặp hắn rồi tụm lại uống rượu mà thôi.

Thiên Môn đạo nhân dậm chân đứng phắt dậy, giận dữ quát:

– Ngươi còn cãi bướng để bênh vực cho tên cẩu tặc tử Lệnh Hồ Xung sao? Thiên Tùng sư đệ, sư đệ… sư đệ nói cho hắn nghe sư đệ vì sao mà bị thương? Lệnh Hồ Xung có quen biết Điền Bá Quang hay không?

Trên hai tấm cửa để ở dưới đất mé Tây, một tấm đặt một tử thi, còn tấm trên kia là một đạo nhân râu dài, sắc mặt nhợt nhạt, râu nhuộm đầy máu tươi. Lão thều thào:

– Sáng sớm hôm nay… sư đệ… sư đệ và đám sư điệt đang ở Hành Dương. Sư đệ và bọn chúng vừa vào Hồi Nhạn lâu, thấy Lệnh Hồ Xung, Điền Bá Quang và một tiểu ni cô…

Nói đến đây, lão thở phì phò, không còn khí lực nữa.

Lưu Chính Phong nói:

– Lao hiền điệt! Hiền điệt, Lệnh Hồ hiền điệt và các vị đồng môn từ xa đến đây chúc mừng ta, ta rất cảm kích thịnh tình của Nhạc sư huynh và các hiền điệt. Nhưng ta không biết Lệnh Hồ hiền điệt cùng Điền Bá Quang quen biết kết giao như thế nào. Chúng ta nên tìm hiểu cho rõ ràng, nếu đúng là Lệnh Hồ hiền điệt không phải như vậy thì Ngũ Nhạc kiếm phái của chúng ta vốn là một nhà, nên khuyên hắn một phen mới là…

Thiên Môn đạo nhân nổi giận, nói:

– Còn khuyên cái cóc gì nữa! Thanh lý môn hộ, cắt mẹ cái đầu hắn đi!

Lưu Chính Phong nói:

– Trước nay, môn quy của Nhạc sư huynh cực nghiêm. Danh dự của phái Hoa Sơn trên giang hồ là đệ nhất. Nhưng lần này Lệnh Hồ hiền điệt quá trớn lắm rồi!

Thiên Môn đạo nhân giận dữ nói:

– Sư đệ còn gọi hắn là “hiền điệt” ư? Hiền! Hiền! Hiền cái cục cứt!

Lão vừa nói câu này ra khỏi miệng thì cảm thấy trước mặt Định Dật sư thái, một lão ni, mà ăn nói thô lỗ bất nhã kiểu đó thì không khỏi tổn hại oai danh của một tôn sư đại phái. Nhưng lời nói đã lỡ phun ra rồi, không thể rút lại được nữa. Lão giả bộ hừ một tiếng tỏ vẻ tức giận, thở hồng hộc rồi ngồi phịch xuống ghế.

Lao Đức Nặc nói:

– Lưu sư thúc, việc này là thế nào, xin sư thúc nói cho tiểu điệt rõ?

Lưu Chính Phong nói:

– Vừa rồi, Thiên Tùng đạo huynh nói: Sáng sớm hôm nay, đạo huynh cùng đệ tử lên Hồi Nhạn lâu ở Hành Dương uống rượu thì đã thấy ba người ngồi sẵn ở đó vừa ăn vừa uống rượu. Ba người đó là dâm tặc Điền Bá Quang, Lệnh Hồ sư điệt cùng với cao đồ của Định Dật sư thái là Nghi Lâm tiểu sư điệt. Thiên Tùng đạo huynh vừa nhìn qua đã cảm thấy vô cùng chướng mắt, tuy không nhận ra nhưng chỉ coi sắc phục là đã biết được một người là đệ tử phái Hoa Sơn, một người là đệ tử phái Hằng Sơn. Xin Định Dật sư thái chớ phiền não, rõ ràng là Nghi Lâm sư điệt bị người ta cưỡng ép không tự chủ được mình, đó là điều mà ai cũng hiểu. Thiên Tùng đạo huynh tả lại rằng gã Điền Bá Quang là một tên trai tráng khoảng dưới ba mươi tuổi. Đạo huynh không biết người này là ai, sau đó nghe Lệnh Hồ hiền điệt nói: “Điền huynh, huynh tuy khinh công độc bộ thiên hạ, nhưng tửu lượng còn thua kém đệ mấy phần. Khinh công có thể luyện cao hơn nữa nhưng uống rượu thì không được đâu”. Hắn đã là họ Điền, lại được khen là khinh công độc bộ thiên hạ, tất nhiên là gã Vạn lý độc hành Điền Bá Quang rồi. Thiên Tùng đạo huynh là người vốn coi kẻ ác như kẻ thù, nay sư huynh lại thấy ba người cùng ngồi uống rượu thì giận như muốn bốc lửa.

Lao Đức Nặc đáp:

– Dạ!

Hắn nghĩ bụng: Trên Hồi Nhạn lâu, ba người cùng uống rượu. Một người là tên dâm tặc ác độc khét tiếng, một người là tiểu ni cô đã xuất gia, còn một người là đại đệ tử phái Hoa Sơn mình, thiệt chẳng ra cái thể thống gì cả.

Lưu Chính Phong nói:

– Đạo huynh nghe gã Điền Bá Quang nói: “Điền Bá Quang này qua lại một mình, ngang dọc giang hồ, chẳng biết sợ ai. Dù sao chúng ta cũng đã gặp tiểu ni cô này rồi, tạm để cho cô ta ở đây bồi rượu”.

Lưu Chính Phong nói đến đây, Lao Đức Nặc liếc nhìn lão một cái rồi lại nhìn Thiên Tùng đạo nhân, nét mặt lão lộ vẻ hoài nghi. Lưu Chính Phong hiểu ý, bèn nói:

– Thiên Tùng đạo huynh đang bị trọng thương, không kể lại được rõ ràng nên Lưu mỗ phải nói giúp, nhưng đại ý đúng như vậy. Thiên Tùng đạo huynh, có phải vậy không?

Thiên Tùng thều thào:

– Đúng… đúng vậy. Không… không sai!

Lưu Chính Phong nói:

– Lúc đó, Trì Bách Thành hiền điệt không còn nhẫn nại được nữa, đập bàn quát: “Ngươi là dâm tặc Điền Bá Quang phải không? Mọi người trong võ lâm đều muốn giết ngươi mới hả dạ mà ngươi lại còn dám ở đây vỗ ngực xưng danh, không sợ toi cái mạng chó của ngươi ư?” Hiền điệt nói xong liền rút đao ra độ ng thủ, không may bị Điền Bá Quang giết chết. Bậc thiếu niên anh hùng lại chết dưới tay gian tặc, thật là đáng tiếc. Thiên Tùng đạo huynh lập tức tiến lên, nổi lòng hiệp nghĩa muốn giết chết tên dâm tặc. Sau khi đấu được mấy trăm hiệp, vì sơ ý một chút, đạo huynh bị Điền Bá Quang dùng thủ đoạn hèn hạ đâm trúng ngực một đao. Lệnh Hồ sư điệt vẫn cùng ngồi uống rượu với tên dâm tặc Điền Bá Quang không khỏi làm mất đi nghĩa khí liên minh của Ngũ Nhạc kiếm phái.

Thiên Môn đạo nhân tức giận nói:

– Cái gì mà nghĩa khí của liên minh Ngũ Nhạc kiếm phái? Hừ, người học võ chúng ta phải phân biệt rõ ràng việc trắng đen, phải trái. Hắn đi với tên dâm tặc… đi với tên dâm tặc như vậy…

Lão tức giận mặt đỏ như máu, dường như chòm râu dài của lão sợi nào cũng muốn dựng đứng cả lên. Bỗng nghe ngoài cửa có người nói:

– Sư phụ, đệ tử có việc khải bẩm.

Thiên Môn đạo nhân nghe tiếng của đồ nhi liền nói:

– Vào đây. Chuyện gì vậy?

Một gã hán tử khoảng ba mươi tuổi tràn đầy hào khí bước vào, trước tiên hướng về chủ nhân Lưu Chính Phong hành lễ rồi sau đó quay về các vị tiền bối hành lễ. Gã thưa với Thiên Môn đạo nhân:

– Sư phụ, Thiên Bách sư thúc đã truyền tin đến, bảo rằng sư thúc đang dẫn đệ tử bản môn ở Hành Dương truy tìm hai tên dâm tặc Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung nhưng chưa tìm được tung tích…

Lao Đức Nặc nghe gã liệt đại sư ca của mình vào hàng dâm tặc thì xấu hổ vô cùng. Nhưng đại sư ca của hắn đúng là hòa mình với Điền Bá Quang thì còn biết làm thế nào nữa?

Chỉ nghe gã đệ tử phái Thái Sơn nói tiếp:

– Nhưng ở ngoại thành Hành Dương lại phát hiện một thi thể; bụng dưới bị đâm bằng… cây trường kiếm của dâm tặc Lệnh Hồ Xung…

Thiên Môn đạo nhân vội hỏi:

– Người chết đó là ai?

Gã đệ tử nhìn về phía Dư Thương Hải nói:

– Đó là một vị sư huynh, môn hạ của Dư sư thúc. Lúc đó, bọn đệ tử cũng không nhận ra, sau khi đem thi thể về đến thành Hành Dương mới có người nhận ra là La Nhân Kiệt sư huynh…

Dư Thương Hải “ủa” lên một tiếng, lập tức đứng phắt dậy nói:

– La Nhân Kiệt ư? Thi thể ở đâu rồi?

Bỗng nghe ngoài cổng có người tiếp lời:

– Ở đây này!

Dư Thương Hải rất trầm tĩnh; tuy nghe tin sét đánh bên tai, người chết là La Nhân Kiệt, một trong bốn đại đệ tử Anh, Hùng, Hào, Kiệt của bổn môn nhưng lão vẫn không thay đổi sắc mặt, nói:

– Cảm phiền hiền điệt khiêng thi thể vào đây.

Ngoài cửa có người đáp:

– Dạ!

Hai người khiêng một cánh cửa tiến vào. Đó là một đệ tử của phái Hành Sơn và một đệ tử của phái Thanh Thành.

Bụng dưới của người chết nằm trên cánh cửa cắm một cây trường kiếm. Kiếm đâm từ bụng dưới xuyên lên. Cây trường kiếm dài ba thước mà lưỡi kiếm cắm vào thi thể còn chừa không quá một thước. Chiêu thức tàn nhẫn từ dưới đâm lên trên như thế này thật hiếm thấy trong võ lâm. Dư Thương Hải lẩm bẩm:

– Lệnh Hồ Xung, ngươi… ngươi thật là độc ác.

Gã đệ tử phái Thái Sơn nói:

– Thiên Bách sư thúc phái người đưa tin đến, nói sư thúc còn đang truy tìm hai tên dâm tặc, cần thêm một hai vị sư bá, sư thúc ở đây tương trợ.

Định Dật và Dư Thương Hải cùng nói:

– Ta đi!

Bỗng nhiên, ngoài cửa có một giọng trong trẻo cất lên:

– Sư phụ, đệ tử đã về đây!

Định Dật tái mặt, quát:

– Nghi Lâm hả? Mau vào đây!

Mọi người đều chăm chú nhìn ra ngoài cửa để nhìn xem tiểu ni cô đã ngang nhiên cùng với hai tên dâm tặc uống rượu trên tửu lâu là nhân vật như thế nào.

Rèm cửa vừa vén lên, trước mặt mọi người sáng lòa. Một tiểu ni cô nhẹ nhàng bước vào hoa sảnh, dáng đi thanh tú thoát tục, khuôn mặt sáng bừng, đúng là một mỹ nhân tuyệt thế. Cô mới khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thân hình yểu điệu, tuy mặc chiếc áo nâu rộng thùng thình nhưng vẫn không giấu được vẻ thướt tha duyên dáng. Cô ta đến trước mặt Định Dật, lạy phục xuống rồi thưa:

– Sư phụ…

Cô vừa nói được hai tiếng thì nghẹn ngào khóc òa lên.

Định Dật xám mặt nói:

– Ngươi làm… ngươi làm chuyện hay quá! Sao còn quay về đây làm gì?

Nghi Lâm vừa khóc vừa nói:

– Sư phụ, lần này đệ tử tưởng không còn có thể gặp lại lão nhân gia nữa.

Giọng nói của cô uyển chuyển ngọt ngào; hai bàn tay thon thả trắng hồng nắm lấy tay áo Định Dật. Trong lòng mọi người đều nghĩ:

– Một cô gái đẹp như vậy sao lại đi làm ni cô?

Dư Thương Hải chỉ liếc cô ta một cái rồi vẫn chăm chú nhìn thanh kiếm cắm trên thi thể của La Nhân Kiệt, thấy trên chuôi kiếm có tua thao xanh; chuôi kiếm khắc năm chữ nhỏ “Hoa Sơn Lệnh Hồ Xung”. Lão đảo mắt nhìn thanh kiếm sau lưng Lao Đức Nặc cũng thấy có tua thao xanh giống như vậy. Đột nhiên lão bước nhanh về phía trước, tay trái phóng song chỉ bất ngờ đâm thẳng vào hai mắt Lao Đức Nặc. Trong nháy mắt đầu ngón tay nhọn của lão đã chạm vào đến mi mắt Lao Đức Nặc rồi.

Lao Đức Nặc thất kinh vội sử chiêu Cử hỏa liêu thiên, giơ hai tay lên cao gạt đi. Dư Thương Hải cười nhạt, tay trái quay một vòng tròn nhỏ nắm chặt hai tay Lao Đức Nặc; tay phải vươn tới nghe soạt một tiếng, lão đã rút được trường kiếm sau lưng Lao Đức Nặc ra. Lao Đức Nặc bị nắm chặt hai tay, cố giật mạnh nhưng đối phương vẫn không nhúc nhích; mũi kiếm đã chĩa ngay vào ngực hắn. Hắn kinh hãi la lên:

– Không… việc này không liên quan đến tiểu điệt!

Dư Thương Hải nhìn thanh kiếm, thấy trên chuôi kiếm có khắc năm chữ nhỏ “Hoa Sơn Lao Đức Nặc” giống như chuôi kiếm của Lệnh Hồ Xung. Lão hạ thấp cổ tay xuống, chĩa mũi kiếm vào bụng dưới của Lao Đức Nặc rồi gằn giọng hỏi:

– Thế kiếm đâm từ dưới xiên lên là chiêu thức gì trong Hoa Sơn kiếm pháp của quý phái?

Lao Đức Nặc toát mồ hôi hột, run run nói:

– Tiểu điệt… kiếm pháp của phái Hoa Sơn tiểu điệt không… không có chiêu thức này.

Dư Thương Hải nghĩ bụng: Chiêu kiếm giết La Nhân Kiệt đâm vào bụng dưới, lưỡi kiếm xiên thẳng đến yết hầu. Lẽ nào Lệnh Hồ Xung cúi thấp người xuống mà đâm ngược lên trên? Sau khi giết người, tại sao hắn không rút trường kiếm ra mà cố ý để lại vật chứng? Phải chăng hắn có ý khiêu khích phái Thanh Thành của ta?

Bỗng nghe Nghi Lâm nói:

– Dư sư bá, chiêu này của Lệnh Hồ đại ca không phải là kiếm pháp của phái Hoa Sơn đâu.

Dư Thương Hải quay người lại, khuôn mặt lạnh như băng, nhìn Định Dật sư thái nói:

– Sư thái, sư thái có nghe lệnh cao đồ gọi tên ác tặc kia là gì không?

Định Dật tức giận nói:

– Ta không có lỗ tai sao mà lão phải nhắc lại?

Định Dật nghe Nghi Lâm gọi Lệnh Hồ Xung là “Lệnh Hồ đại ca” thì lòng đã tức giận rồi. Nếu Dư Thương Hải chưa hỏi câu này thì lão ni cũng sẽ mắng Nghi Lâm, nhưng bị Dư Thương Hải hỏi móc họng, lời lẽ lại rất vô lễ, lão ni liền quay lại vỗ về đồ nhi, nói:

– Đồ nhi ta chỉ thuận miệng gọi vậy, đâu có chi đáng nói. Ngũ Nhạc kiếm phái kết nghĩa liên minh, môn hạ của năm phái đều là sư huynh, sư đệ, sư muội, sư tỉ; có gì kỳ lạ đâu?

Dư Thương Hải cười nói:

– Hay lắm, hay lắm!

Lão vận chân khí từ huyệt Đan điền lên, tay trái phóng nội lực ra, hất Lao Đức Nặc đi. Chỉ nghe bịch một tiếng, Lao Đức Nặc va mạnh vào tường; bụi bặm trên nóc nhà rơi xuống mù mịt. Lão quát:

– Đồ khốn nạn! Trên đường đi các ngươi đã ngấm ngầm rình rập ta là có ý gì?

Lao Đức Nặc bị lão hất mạnh, lục phủ ngũ tạng dường như đảo lộn cả lên; hai tay cố chống đỡ cho khỏi ngã, hai đầu gối đau buốt như muốn long ra, chỉ muốn ngồi phịch xuống đất. Hắn gắng sức gượng dậy, chợt nghe Dư Thương Hải nói như vậy, ngấm ngầm than khổ:

– Hóa ra ta và tiểu sư muội theo dõi hành động của bọn chúng đã sớm bị lão đạo sĩ lùn xảo quyệt này phát hiện.

Định Dật nói:

– Nghi Lâm, lại đây với ta. Ngươi làm sao bị chúng cầm giữ, nói rõ cho sư phụ nghe đi.

Lão ni kéo tay Nghi Lâm đi ra khỏi sảnh. Mọi người đều nghĩ một tiểu ni cô mỹ miều như vậy mà rơi vào tay tên thái hoa dâm tặc Điền Bá Quang thì đâu còn giữ được sự trong trắng nữa. Đó là nguyên do không tiện nói ra trước mặt mọi người nên Định Dật sư thái muốn dẫn Nghi Lâm đến một chỗ vắng người để hỏi cho cặn kẽ.

Bỗng một bóng xanh thoáng qua. Dư Thương Hải lạng người ra trước cửa, chặn đường nói:

– Việc này có liên can đến hai nhân mạng thì xin Nghi Lâm tiểu sư điệt cứ ở đây mà nói.

Lão ngừng một lát rồi tiếp:

– Trì Bách Thành hiền điệt là người trong Ngũ Nhạc kiếm phái. Môn hạ của ngũ phái đều là sư huynh, sư đệ của nhau. Trì Bách Thành đã bị Lệnh Hồ Xung giết rồi, có khi phái Thái Sơn không cần nói tới. Nhưng đồ nhi La Nhân Kiệt của tại hạ thì không có hô huynh gọi đệ gì với Lệnh Hồ Xung hết.

Nghe xong câu này, cặp chân mày lá liễu nhợt nhạt của Định Dật lập tức dựng đứng lên.

Lưu Chính Phong biết Định Dật sư thái tính khí rất nóng nảy, đôi chân mày của lão ni lại dựng đứng lên; lão lo đôi bên sẽ xảy ra chuyện động thủ. Lão ni và Dư Thương Hải đều là hai cao thủ bậc nhất trong võ lâm hiện nay, hễ hai người ra tay thì mọi việc sẽ náo động cả lên. Lão vội vàng bước ra phía trước, vái dài xuống đất, nói:

– Hai vị đã đại giá quang lâm đến tệ xá của Lưu mỗ thì đều là khách quý của tại hạ, xin hãy nể mặt tại hạ mà đừng để xảy ra xung đột làm mất hòa khí. Tất cả đều do Lưu mỗ tiếp đãi không được chu đáo. Xin hai vị miễn thứ cho.

Lão nói xong lại xá dài một lần nữa.

Hồi 13: Quyết ra tay giải cứu Nghi Lâm

Định Dật sư thái cười ha ha, nói:

– Lưu tam gia nói nghe tức cười quá. Chuyện nổi nóng của bần ni không liên quan gì tới tam gia cả. Lão không cho ta đi thì ta lại càng muốn đi. Nếu lão cản đường ta, có muốn ta ở lại cũng không được.

Dư Thương Hải đối với Định Dật sư thái cũng có mấy phần kiêng nể, nếu lão cùng với lão ni giao đấu thì chưa chắc đã nắm phần thắng. Vả lại lão ni còn có sư tỷ Định Nhàn tuy là người hiền hòa dễ thân cận nhưng võ công cao cường; cho dù hôm nay có thắng được Định Dật, thì chưởng môn sư tỷ quyết sẽ không bỏ qua. Như vậy là đắc tội với phái Hằng Sơn, tất nhiên không tránh khỏi hậu hoạn. Lão lập tức cười ha ha, nói:

– Bần đạo chỉ mong Nghi Lâm tiểu sư điệt nói rõ sự thật cho mọi người nghe. Dư Thương Hải là người gì mà dám cản đường am chủ Bạch Vân am của phái Hằng Sơn?

Lão nói xong liền nép qua một bên rồi quay về chỗ ngồi.

Định Dật sư thái nói:

– Tôn giá biết vậy thì tốt.

Lão ni nói xong, kéo tay Nghi Lâm quay về chỗ ngồi, hỏi:

– Hôm đó sau khi thất tán, đã xảy ra chuyện gì?

Lão ni sợ Nghi Lâm còn nhỏ tuổi không hiểu việc đời, sẽ đem những chuyện xấu của sư môn nói huỵch toẹt ra, bèn nói thêm:

– Ngươi chỉ nói những điểm cần thiết, những gì không cần thiết thì không nên nói ra.

Nghi Lâm đáp ngay:

– Dạ! Đệ tử không dám làm chuyện gì trái với sư huấn. Chỉ tại tên ác tặc Điền Bá Quang, hắn… hắn… hắn…

Định Dật gật đầu nói:

– Ngươi không cần nói nữa, ta biết rồi. Ta định giết hai tên ác tặc Điền Bá Quang và Lệnh Hồ Xung để ngươi vừa lòng.

Đôi mắt sáng đẹp của Nghi Lâm tròn xoe, mặt lộ vẻ ngạc nhiên, nói:

– Lệnh Hồ đại ca ư? Đại ca… đại ca…

Đột nhiên cô rơi lệ, nghẹn ngào nói:

– Đại ca… đại ca đã chết rồi!

Mọi người nghe vậy đều kinh hãi. Thiên Môn đạo nhân nghe nói Lệnh Hồ Xung đã chết, lòng tức giận nguội hẳn đi. Lão lớn tiếng hỏi:

– Hắn làm sao mà chết? Ai giết hắn?

Nghi Lâm đáp:

– Chính là… chính là tên ác tặc này của phái Thanh Thành.

Nói xong cô giơ tay chỉ vào thi thể La Nhân Kiệt.

Dư Thương Hải cũng không khỏi cảm thấy đắc ý, lão nghĩ: Thì ra, ác tặc Lệnh Hồ Xung đã bị Nhân Kiệt giết. Có thể nói, cả hai cùng đến ngày tận số. Được, Nhân Kiệt hài tử, ta đã biết ngươi thuộc hạng không vừa, quả nhiên không để mất oai danh của phái Thanh Thành.

Lão trừng mắt nhìn Nghi Lâm cười nhạt nói:

– Ngũ Nhạc kiếm phái của ngươi gồm toàn người tốt, còn phái Thanh Thành của ta gồm toàn người xấu.

Nghi Lâm rơi lệ nói:

– Tiểu điệt… tiểu điệt không biết. Tiểu điệt không dám nói đến Dư sư bá mà chỉ nói đến hắn. Nói xong cô lại chỉ vào thi thể La Nhân Kiệt.

Định Dật nhìn Dư Thương Hải hỏi:

– Lão làm gì mà hầm hầm dọa nạt con nít? Nghi Lâm không sợ, tên này bại hoại như thế nào, cứ nói ra. Có sư phụ ở đây, ai dám làm khó dễ gì ngươi?

Lão ni nói xong lườm Dư Thương Hải một cái.

Dư Thương Hải nói:

– Người xuất gia không nói dối. Tiểu sư điệt, tiểu sư điệt có dám thề trước Đức Quan Âm Bồ Tát không?

Lão sợ Nghi Lâm bị sư phụ giật dây, đem những hành vi tồi bại của La Nhân Kiệt mà nói toạc ra. Đệ tử của lão và Lệnh Hồ Xung đều chết hết rồi, không còn ai để đối chất, chỉ còn tin vào lời nói một chiều của Nghi Lâm mà thôi.

Nghi Lâm nói:

– Tiểu điệt không bao giờ dám nói dối với sư phụ.

Cô liền quỳ xuống hướng ra ngoài, hai tay chắp lại, mắt rủ xuống nói:

– Đệ tử là Nghi Lâm bẩm báo sư phụ và các vị sư bá, sư thúc. Đệ tử quyết không dám nói sai nửa lời. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát thần thông quảng đại, xin mở lòng từ bi chứng giám cho đệ tử.

Mọi người nghe cô nói thành khẩn, dáng vẻ đau thương, nên ai cũng có thiện cảm với cô. Một lão râu đen có vẻ nho nhã từ nãy giờ đứng bên cạnh cô, chưa nói lời nào, bây giờ mới lên tiếng:

– Tiểu sư điệt đã thề như vậy thì ai cũng tin lắm rồi.

Định Dật nói:

– Lão mũi trâu kia nghe rõ chưa? Văn tiên sinh nói như vậy, còn có gì giả trá nữa không?

Lão ni biết lão râu đen này họ Văn, mọi người đều gọi là Văn tiên sinh. Lão ni cũng không biết lão tên gì, chỉ biết lão người ở Thiểm Nam, sử đôi phán quan bút xuất thần nhập hóa, là một tay cao thủ điểm huyệt và đả huyệt.

Mọi người đều chăm chú nhìn vào mặt Nghi Lâm, thấy cô tươi đẹp như hạt minh châu, tinh khiết không một chút tỳ vết. Ngay cả Dư Thương Hải cũng nghĩ thầm: Xem ra tiểu ni cô này không biết nói dối.

Trên hoa sảnh yên tĩnh không có tiếng động, mọi người chỉ chờ nghe Nghi Lâm kể chuyện.

Cô nói:

– Chiều hôm qua, tiểu ni theo sư phụ và các sư tỷ đi Hành Dương, được nửa đường thì trời đổ mưa. Lúc xuống núi, tiểu ni bị trượt chân, nên đưa tay vịn vào vách núi, tay lấm đầy bùn và rêu xanh, khi xuống đến chân núi, tiểu ni đến khe suối để rửa tay. Bỗng nhiên tiểu ni nhìn xuống mặt nước, thấy bên cạnh hình dáng của mình lại có thêm một hình dáng của một nam tử. Tiểu ni giật mình sợ hãi, vội vàng đứng dậy, bỗng nghe sau lưng đau buốt, thì ra đã bị hắn điểm đúng huyệt đạo. Tiểu ni vô cùng sợ hãi, muốn la lên để sư phụ đến cứu nhưng la không thành tiếng. Hắn bồng tiểu ni đi mấy trượng vào trong một sơn động. Một lúc sau tiểu ni nghe ba vị sư tỷ ở ba nơi gọi: “Nghi Lâm, Nghi Lâm, sư muội ở đâu vậy?” Tên đó cười nói khẽ: “Nếu bọn họ tìm đến đây, thì ta sẽ bắt ráo!” Ba vị sư tỷ đi khắp nơi tìm kiếm tiểu ni, rồi lại quay về. Một lúc sau, hắn biết ba sư tỷ đã đi xa rồi, mới giải huyệt đạo cho tiểu ni. Tiểu ni lập tức hướng ra ngoài cửa động để chạy trốn, nào ngờ thân pháp hắn nhanh hơn tiểu ni rất nhiều. Tiểu ni vừa xông ra ngoài, không ngờ hắn đã chặn ngay cửa động, đầu của tiểu ni va vào ngực hắn. Hắn cười ha hả rồi nói: “Tiểu ni cô chạy trốn được sao?” Tiểu ni vội vàng lùi lại, rút thanh trường kiếm muốn đâm hắn một nhát nhưng lại nghĩ người này cũng chưa làm hại mình; người xuất gia lấy từ bi làm gốc, sao lại làm tổn thương sinh mạng của hắn? Trong Phật môn của tiểu ni, sát sinh là giới cấm thứ nhất. Vì vậy tiểu ni không đâm nữa mà hỏi: “Ngươi chặn ta lại để làm gì? Nếu ngươi không tránh ra, thì lưỡi kiếm của ta sẽ… sẽ đâm chết ngươi đó”. Hắn chỉ cười rồi nói: “Tiểu sư phụ, tiểu sư phụ là người có lương tâm, tiểu sư phụ sẽ không nỡ giết ta phải không?” Tiểu ni nói: “Ta với ngươi không thù không oán, sao lại phải giết ngươi?” Hắn nói: “Rất tốt, chúng ta hãy ngồi xuống nói chuyện”. Tiểu ni nói: “Sư phụ và các sư tỷ đang tìm kiếm ta, vả lại sư phụ không cho phép ta tùy tiện nói chuyện với đàn ông”. Hắn nói: “Dù sao thì tiểu sư phụ cũng đã nói rồi, nói thêm hay bớt vài câu thì có khác biệt gì đâu?” Tiểu ni nói: “Mau tránh đường ra, ngươi có biết sư phụ của ta lợi hại lắm không? Sư phụ lão nhân gia thấy ngươi vô lễ như vậy, không chừng đánh gãy hai chân của ngươi đó”. Hắn nói: “Tiểu sư phụ muốn đánh gãy hai chân của ta thì ta để cho tiểu sư phụ đánh. Còn sư phụ của tiểu sư phụ già khú đế rồi, ta không khoái chút nào”.

Định Dật quát:

– Ăn nói lung tung. Những lời điên khùng như vậy mà ngươi cũng nhớ được ư?

Mọi người không nhịn được cười, chỉ vì kiêng dè Định Dật sư thái nên không ai dám để lộ ra trên mặt mà cố nén lại.

Nghi Lâm nói:

– Hắn nói như vậy thật đó.

Định Dật nói:

– Thôi được rồi, những lời điên khùng đó không cần đề cập đến. Ngươi chỉ nói ngươi gặp Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn thế nào thôi.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, hắn nói rất nhiều. Hắn không cho tiểu ni đi, hắn nói tiểu ni… tiểu ni xinh đẹp, muốn tiểu ni ngủ chung với hắn.

Định Dật quát:

– Im đi! Tiểu hài tử không biết giữ mồm giữ miệng, những lời như vậy cũng nói được sao?

Nghi Lâm nói:

– Hắn nói vậy đó. Đệ tử không thèm trả lời, cũng không ngủ với hắn đâu.

Định Dật càng quát to hơn:

– Im đi!

Một tên đệ tử phái Thanh Thành khiêng xác La Nhân Kiệt vào không nhịn được nữa, bật cười ha hả. Định Dật cả giận, chụp lấy chén trà, vung tay hất chén trà nóng về phía gã. Mụ đã sử dụng nội lực đích truyền của phái Hằng Sơn, vừa nhanh vừa chuẩn xác. Gã đệ tử không kịp né tránh, bị chén trà nóng hất thẳng vào mặt, đau quá thét lên oai oái.

Dư Thương Hải nổi giận nói:

– Đệ tử của lão ni nói như vậy nên đệ tử của tại hạ mới tức cười. Tại sao lão ni lại ngang ngược quá vậy?

Định Dật sư thái liếc xéo Dư Thương Hải, nói:

– Định Dật phái Hằng Sơn đã ngang ngược mấy chục năm rồi, hôm nay ngươi mới biết sao?

Nói xong, lão ni quơ lấy hai chén trà không, muốn ném vào Dư Thương Hải. Dư Thương Hải nhìn qua hướng khác chứ không nhìn thẳng vào lão ni. Định Dật sư thái thấy lão có vẻ ỷ mình chứ không tỏ ra kiêng dè sợ hãi. Lão ni biết võ công của chưởng môn phái Thanh Thành rất cao siêu nên không dám lỗ mãng. Lão ni để chén trà xuống, nhìn Nghi Lâm bảo:

– Ngươi kể tiếp đi! Những lời nào không cần thiết thì đừng kể lại.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, thưa sư phụ, đệ tử muốn chạy ra khỏi sơn động nhưng hắn nhất định chặn lại, không cho đệ tử đi. Thấy trời đã gần tối rồi, đệ tử sốt ruột quá bèn chĩa kiếm muốn đâm vào hắn. Thưa sư phụ, đệ tử không dám phạm sát giới, không phải là đệ tử muốn giết hắn thật đâu mà chỉ hăm dọa thôi. Đệ tử sử chiêu Kim châm độ kiếp, không ngờ tay trái hắn đưa qua túm lấy… túm lấy người đệ tử. Đệ tử giật mình kinh hãi, tránh qua một bên, trường kiếm trong tay đã bị hắn đoạt lấy rồi. Võ công của hắn thật lợi hại; tay phải cầm chuôi kiếm, ngón cái và ngón trỏ của tay trái kẹp chặt mũi kiếm, chỉ bẻ nhẹ nghe cắc một tiếng, mũi kiếm của đệ tử bị gãy khoảng một tấc.

Định Dật hỏi:

– Mũi kiếm bị bẻ gãy khoảng một tấc ư?

Nghi Lâm đáp:

– Dạ!

Định Dật và Thiên Môn đạo nhân nhìn nhau rồi nghĩ thầm: Nếu như trường kiếm bị tên Điền Bá Quang bẻ gãy ở giữa thì chẳng lấy chi làm lạ, nhưng dùng chỉ lực mà bẻ gãy mũi kiếm bằng thép khoảng một tấc thì thật không phải tầm thường.

Thiên Môn đạo nhân giơ tay ra rút thanh trường kiếm ở sau lưng của một tên đệ tử, ngón cái và ngón trỏ tay trái kẹp chặt mũi kiếm, nhẹ bẻ cắc một tiếng. Mũi kiếm bị bẻ gãy dài hơn một tấc.

Lão hỏi:

– Có phải như vậy không?

Nghi Lâm đáp:

– Dạ phải. Thì ra sư bá cũng biết làm như vậy.

Thiên Môn đạo nhân đằng hắng một tiếng rồi tra thanh kiếm vào vỏ kiếm của đệ tử. Tay trái lão đập một cái chát lên ghế; đầu đoạn kiếm gãy dài hơn một tấc đã ngập sâu bằng bặn vào mặt ghế.

Nghi Lâm hào hứng nói:

– Công phu này của sư bá thật tuyệt, đệ tử đoán chắc là gã ác tặc Điền Bá Quang nhất định không thể làm được.

Bỗng nhiên thần sắc cô ủ rũ, mắt nhìn xuống nhẹ thở dài, nói:

– Chao ôi! Đáng tiếc sư bá không có ở đó, nếu không thì Lệnh Hồ đại ca đã không bị trọng thương.

Thiên Môn đạo nhân hỏi:

– Sao, hắn bị trọng thương à? Không phải ngươi nói hắn đã chết rồi sao?

Nghi Lâm đáp:

– Dạ phải, bởi vì Lệnh Hồ đại ca bị trọng thương nên mới bị gã ác nhân La Nhân Kiệt phái Thanh Thành đâm chết.

Dư Thương Hải nghe cô gọi Điền Bá Quang là “ác nhân” lại gọi đệ tử của mình cũng là “ác nhân”. Thì ra môn hạ của phái Thanh Thành và tên dâm tặc xấu xa bị xếp chung một duộc. Lão hừ một tiếng tỏ vẻ khó chịu.

Mọi người th ấy đôi mắt đẹp của Nghi Lâm ứa lệ dường như cô muốn khóc, nên không ai hỏi gì thêm. Thiên Môn đạo nhân, Lưu Chính Phong, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất và tất cả nhữ ng vị trưởng bối đều đem lòng thương mến cô. Nếu cô không phải là người xuất gia thì họ đã đưa tay vuốt lưng hay xoa đầu để an ủi cô rồi.

Nghi Lâm đưa tay áo lên lau nước mắt, nghẹn ngào nói:

– Tên ác nhân Điền Bá Quang o ép đệ tử, đưa tay kéo áo kéo quần đệ tử. Đệ tử phát chưởng đánh gã nhưng bị gã túm hai tay. Ngay lúc đó, ngoài động bỗng nhiên có tiếng người cười ha ha ha! Người ấy cười ba tiếng liên tục, ngưng một chút, lại cười thêm ba tiếng nữa. Điền Bá Quang hỏi lớn: “Ai đó?” Người bên ngoài lại cười ha ha ha liên tục ba tràng như vậy. Điền Bá Quang lớn tiếng chửi: “Biết điều thì tránh xa ta ra, nếu để Điền đại gia nổi nóng thì cái mạng chó của ngươi không còn đấy!” Người bên ngoài lại cười thêm ba tiếng ha ha ha nữa. Điền Bá Quang không thèm để ý đến người ngoài cửa động, lại định kéo quần áo đệ tử thì người ở ngoài sơn động lại cười lên. Người ấy cười để chọc giận Điền Bá Quang; còn đệ tử chỉ mong người ấy mau đến cứu đệ tử. Nhưng vì người ấy biết võ công Điền Bá Quang rất lợi hại nên không dám tiến vào động, chỉ ở ngoài sơn động cười không ngớt.

Điền Bá Quang tức giận chửi bới người ấy. Hắn điểm huyệt đệ tử, hô lên một tiếng rồi xông ra ngoài. Nhưng người ấy đã ẩn núp rồi. Điền Bá Quang tìm kiếm một lúc rồi quay về động, vừa mới đi đến bên cạnh đệ tử thì người ở ngoài sơn động lại cười ha ha ha. Đệ tử cảm thấy thích thú, không nhịn được cũng bật cười.

Định Dật sư thái nguýt cô một cái rồi hỏi:

– Ngươi đang ở bên bờ vực sống chết mà còn cười được ư?

Má Nghi Lâm ửng hồng. Cô đáp:

– Dạ, đệ tử cũng nghĩ không nên cười, nhưng lúc đó không hiểu tại sao lại bật cười. Điền Bá Quang cúi thấp người xuống nhè nhẹ đi ra cửa động, chỉ chờ người kia cười lên thì xông ra.

Nhưng người ngoài cửa động nhanh trí vô cùng, không để phát ra nửa tiếng động. Điền Bá Quang nhè nhẹ bước từng bước đi ra ngoài; đệ tử nghĩ bụng nếu như người ấy bị hắn bắt giữ thì tiêu đời, nên đệ tử la lên: “Cẩn thận, hắn ra đó!” Người ấy lại cười ha ha ha rồi nói: “Đa tạ tiểu sư muội. Hắn đuổi không kịp ta đâu, công phu khinh công của hắn còn kém cỏi lắm”.

Mọi người nghĩ thầm: Ngoại hiệu của Điền Bá Quang là Vạn lý độc hành; công phu khinh công siêu việt nổi tiếng trên giang hồ. Người ấy nói là “công phu khinh công của hắn còn kém cỏi lắm” là cố ý khiêu khích, chọc giận hắn.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Ác nhân Điền Bá Quang bỗng nhiên quay lại, bẹo má đệ tử, đệ tử đau quá la lên. Hắn bước ra ngoài quát to: “Đồ cẩu tặc, ngươi có ngon thì ra đây tỉ thí khinh công với ta!” Nào ngờ khi hắn vừa bước ra, người ấy lẻn vào ngay. Thì ra người ấy đã sớm núp bên sườn sơn động. Người ấy nói khẽ: “Đừng sợ, tại hạ đến cứu đây, hắn đã điểm những huyệt đạo nào?” Đệ tử nói: “Ở vai phải và sau lưng, hình như là huyệt Kiên trinh và huyệt Đại thôi, tôn giá là…?” Người ấy nói: “Giải huyệt đạo rồi hãy nói”. Người ấy bèn đưa tay giải hai huyệt Kiên trinh và Đại thôi cho huyết mạch lưu thông. Nhưng có lẽ đệ tử nói vị trí huyệt đạo không đúng nên tuy người đó dùng hết công lực để giải huyệt, cuối cùng vẫn giải không được, bên tai lại nghe tiếng Điền Bá Quang không ngớt chửi bới. Hắn lại quay vào. Đệ tử nói: “Tôn giá mau trốn đi, hắn mà trở về có thể giết chết luôn tôn giá đó”. Người đó nói: “Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Sư muội gặp hoạn nạn, ta không cứu làm sao được!”

Định Dật hỏi:

– Hắn cũng là người trong Ngũ Nhạc kiếm phái ư?

Nghi Lâm đáp:

– Dạ. Sư phụ, người đó là Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ đại ca.

Định Dật và Thiên Môn đạo nhân, Dư Thương Hải, Hà Tam Thất, Văn tiên sinh, Lưu Chính Phong đều ủa lên một tiếng. Lao Đức Nặc thở phào nhẹ nhõm.

Trong số bọn họ , có mấy người đã đoán được người ấy là Lệnh Hồ Xung, nhưng đợi chính miệng Nghi Lâm nói ra họ mới tin chắc.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Đệ tử nghe tiếng Điền Bá Quang gào thét biết hắn về gần tới. Lệnh Hồ đại ca nói “Xin lỗi” rồi ẵm đệ tử chạy ra khỏi sơn động, núp trong bụi cỏ. Mới vừa ngồi xuống thì Điền Bá Quang đã chạy vào sơn động. Hắn tìm không thấy đệ tử thì vô cùng tức giận, chửi bới luôn mồm, toàn là những lời rất khó nghe, đệ tử cũng không hiểu ý tứ ra sao. Hắn nhặt thanh kiếm gãy của đệ tử, phát loạn xạ trong đám cỏ. May sao tối hôm đó trời mưa, trăng sao mờ mịt, hắn không nhìn thấy bọn đệ tử. Nhưng hắn đoán chắc bọn đệ tử chạy không xa, nhất định ẩn núp gần đây, cho nên hắn không ngừng tay phát cỏ tìm kiếm. Có một lần thật nguy hiểm, lưỡi kiếm phát ngang qua đỉnh đầu đệ tử chỉ cách vài tấc. Hắn phát cỏ một hồi, miệng liên tục chửi bới, cứ thế tiến về trước để tìm kiếm. Bỗng nhiên, có vài giọt nước nóng hổi rơi lên má đệ tử. Đệ tử nghe được mùi máu tanh, vô cùng sợ hãi, hỏi khẽ: “Đại ca bị trọng thương hả?” Lệnh Hồ đại ca đưa tay bịt miệng đệ tử lại, chờ cho tiếng phát cỏ của Điền Bá Quang càng lúc càng xa, mới nói khẽ: “Không có gì đáng ngại” rồi buông tay. Máu rơi lên má đệ tử càng lúc càng nhiều. Đệ tử nói: “Đại ca bị thương rất nặng, nên cầm máu mới được, tiểu ni có đem Thiên hương đoạn tục giao đây”. Đại ca nói: “Đừng lên tiếng kẻo bị hắn phát hiện” rồi đưa tay ra bịt vết thương lại. Một lúc sau, Điền Bá Quang lại quay về. Hắn la to: “Ha ha! Thì ra các ngươi ở đây! Ta nhìn thấy các ngươi rồi, mau đứng dậy đi!” Đệ tử nghe Điền Bá Quang nói đã thấy bọn đệ tử, lòng thầm than khổ, bèn muốn đứng dậy nhưng chân không cử động được.

Định Dật sư thái nói:

– Vậy là ngươi mắc mưu của hắn rồi. Điền Bá Quang lừa bọn ngươi đó, hắn chưa nhìn thấy ngươi đâu.

Nghi Lâm nói:

– Đúng rồi, sư phụ. Lúc đó sư phụ không có ở đó, làm sao sư phụ biết vậy?

Định Dật nói:

– Có gì khó đoán đâu? Nếu như hắn thực sự nhìn thấy bọn ngươi thì đã hớt một kiếm chém chết Lệnh Hồ Xung rồi, hà tất phải la to lên như vậy? Lệnh Hồ Xung cũng không có kiến thức gì.

Nghi Lâm lắc đầu nói:

– Không phải, Lệnh Hồ đại ca cũng đoán được. Đại ca giơ tay bụm miệng đệ tử lại, sợ đệ tử sợ hãi mà la lên. Điền Bá Quang kêu la một hồi lâu, không nghe có tiếng trả lời liền tiếp tục phát cỏ, tìm kiếm nữa. Lệnh Hồ đại ca đợi hắn đi xa rồi mới khẽ nói: “Sư muội, nếu chúng ta có thể ở đây thêm nửa canh giờ nữa thì huyệt đạo của sư muội sẽ được giải khai, khí huyết sẽ lưu thông. Ta có thể chờ huyệt đạo sư muội được giải khai nhưng Điền Bá Quang nhất định sẽ quay trở lại, thì e rằng khó bề trốn thoát. Chúng ta liều mạng, tìm vào sơn động để ẩn tránh đi!”

Nghi Lâm kể đến đây, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất, Lưu Chính Phong không hẹn mà cùng vỗ tay.

Văn tiên sinh nói:

– Giỏi, có đởm lược, có kiến thức lắm!

Nghi Lâm kể tiếp:

– Đệ tử nghe nói đi vào trong sơn động lần nữa thì vô cùng sợ hãi, nhưng lúc đó đệ tử rất khâm phục Lệnh Hồ đại ca, đại ca đã nói như vậy thì chắc là không sai nên đệ tử nói “Được”. Đại ca liền bồng đệ tử đi vào sơn động, đặt đệ tử xuống đất, đệ tử nói: “Trong áo của tiểu muội có Thiên hương đoạn tục giao là linh dược trị thương, xin đại ca… xin đại ca lấy ra bôi lên vết thương đi!” Đại ca nói: “Bây giờ ta lấy thì không tiện, đợi sau khi tay chân sư muội cử động được thì hãy lấy đưa cho ta”. Đại ca rút lưỡi kiếm cắt đứt một mảnh vải tay áo, buộc vào vai trái. Lúc này đệ tử mới hiểu rõ, thì ra đại ca vì bảo vệ đệ tử, lúc núp trong bụi cỏ bị một nhát kiếm của Điền Bá Quang chém trúng đầu vai trái. Đại ca vẫn không nhúc nhích, không một tiếng kêu đau, nên Điền Bá Quang không phát hiện được. Lòng đệ tử rất xót xa, không hiểu lấy thuốc có cái gì mà không tiện…

Định Dật hừ lên một tiếng rồi nói:

– Nói như vậy thì Lệnh Hồ Xung là một chính nhân quân tử.

Đôi mắt đẹp của Nghi Lâm mở to sáng ngời, thần sắc lộ vẻ ngạc nhiên hỏi:

– Lệnh Hồ đại ca tất nhiên là người tốt bậc nhất, đại ca chưa bao giờ quen biết đệ tử, mà lại không kể gì đến sự an nguy tính mạng mình để cứu đệ tử.

Dư Thương Hải lạnh lùng nói:

– Ngươi với hắn tuy chưa từng quen biết nhưng có lẽ hắn đã gặp qua ngươi rồi, nếu không thì tại sao hắn lại tốt như vậy?

Ý lão muốn nói là Lệnh Hồ Xung vì sắc đẹp mỹ miều tha thướt của cô mới quên mình như thế. Nghi Lâm nói:

– Không phải, đại ca nói từ trước đến giờ chưa gặp qua đệ tử. Lệnh Hồ đại ca quyết không nói dối với đệ tử, nhất định đại ca không biết.

Cô nói rất quả quyết, giọng nói tuy dịu dàng nhưng ý rất kiên định. Mọi người thấy cô nói đoan chắc như vậy nên cũng tin vào lời nói của cô.

Dư Thương Hải nghĩ bụng: Lệnh Hồ Xung to gan lớn mật làm những chuyện không sợ trời không sợ đất nhưng mà không phải vì sắc đẹp. Chắc chắn, hắn muốn khiêu chiến với Điền Bá Quang là để được nổi danh trong võ lâm.

Hồi 14: Gặp ni cô đánh bạc tất thua

Nghi Lâm kể tiếp:

– Khi buộc vết thương xong, Lệnh Hồ đại ca giải khai huyệt đạo bên vai và sau lưng để đả thông huyết mạch cho đệ tử. Không bao lâu, nghe tiếng sột soạt ở ngoài động càng lúc càng gần. Điền Bá Quang lại vung kiếm phát cỏ; hắn tiến gần đến cửa sơn động. Trống ngực của đệ tử đập thình thịch. Hắn đi vào trong động rồi ngồi xuống đất, không nói gì cả. Đệ tử nín thở, không dám phà hơi ra miệng. Bỗng nhiên lúc đó, đầu vai của đệ tử đau nhói, đệ tử vô ý khẽ rên lên. Trời ơi, thôi rồi! Điền Bá Quang cười ha hả, bước về phía đệ tử; Lệnh Hồ đại ca ngồi bên cạnh vẫn không nhúc nhích. Điền Bá Quang cười, nói: “Thì ra con cừu non còn núp ở trong động này”.

Hắn đưa tay định chụp vào người đệ tử, thì đánh véo một tiếng, hắn đã bị Lệnh Hồ đại ca đâm trúng một kiếm. Điền Bá Quang sợ hãi, thanh kiếm gãy cầm trong tay rơi xuống đất. Đáng tiếc là nhát kiếm của Lệnh Hồ đại ca không đâm trúng chỗ hiểm của hắn. Điền Bá Quang vội nhảy lùi về phía sau, hắn rút thanh đao sau lưng ra, vung đao chém Lệnh Hồ đại ca. Choang một tiếng, đao kiếm giao nhau, hai người đã động thủ rồi. Cả hai người đều không ai thấy ai, tiếng đao kiếm chiết chiêu xoang xoảng, rồi cả hai cùng lùi ra phía sau. Đệ tử chỉ nghe được tiếng thở của họ, lòng đã muốn chết điếng.

Thiên Môn đạo nhân hỏi xen vào:

– Lệnh Hồ Xung và hắn đấu với nhau bao nhiêu hiệp?

Nghi Lâm đáp:

– Lúc đó đệ tử hoang mang, thực sự không biết hai người đấu đến bao lâu. Nhưng đệ tử nghe Điền Bá Quang cười nói: “A ha, ngươi là người phái Hoa Sơn! Kiếm pháp của phái Hoa Sơn không địch lại đao pháp của ta đâu. Ngươi tên là gì?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Phái Hoa Sơn cũng vậy, phái Hằng Sơn cũng thế đều muốn tiêu diệt tên dâm tặc như ngươi…” Đại ca chưa nói xong, Điền Bá Quang đã tấn công tới tấp. Thì ra hắn dụ Lệnh Hồ đại ca nói ra để hắn biết đại ca ở chỗ nào. Hai người giao đấu với nhau mấy hiệp nữa. Lệnh Hồ đại ca kêu á lên một tiếng vì đã bị thương. Điền Bá Quang cười nói: “Ta đã nói rồi, Hoa Sơn kiếm pháp không phải là đối thủ của ta, cho dù sư phụ của ngươi là Nhạc lão nhi đến đây cũng đánh không lại ta đâu”. Lệnh Hồ đại ca không nói gì với hắn. Lúc nãy đầu vai của đệ tử đau nhói, thì ra huyệt đạo trên vai được giải rồi. Lúc này, huyệt đạo ở lưng lại đau buốt, đệ tử gắng gượng từ từ bò dậy, đưa tay mò thanh kiếm gãy dưới đất. Lệnh Hồ đại ca nghe có tiếng động, vui mừng nói: “Huyệt đạo của sư muội đã được giải rồi. Mau chạy đi! Mau chạy đi!” Đệ tử nói: “Sư huynh phái Hoa Sơn, sư muội và sư huynh cùng đánh tên ác nhân này”. Đại ca nói: “Sư muội mau chạy đi! Hai người chúng ta có hợp lực cũng không địch lại hắn đâu”. Điền Bá Quang cười nói: “Ngươi biết vậy thì tốt, hà tất phải chiến đấu cho uổng tính mạng? Này, ta khâm phục ngươi là một anh hùng hảo hán. Ngươi tên là gì?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi hỏi tôn tính đại danh của ta à? Ta nói cho ngươi biết cũng chẳng hề gì, nhưng ngươi hỏi ta vô lễ như vậy thì lão tử không thèm nói cho ngươi biết”. Sư phụ, sư phụ coi có tức cười không? Lệnh Hồ đại ca không phải là gia gia của hắn nhưng lại tự xưng là “lão tử”.

Định Dật hừ một tiếng rồi đáp:

– Đây là lời nói thô tục để chửi nhau chứ không phải là “lão tử” thật đâu.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, thì ra là như vậy. Lệnh Hồ đại ca nói: “Sư muội, sư muội mau chạy đến thành Hành Sơn đi. Bằng hữu của chúng ta đều đang ở đó, chắc tên ác tặc này không dám đến Hành Sơn kiếm sư muội đâu!” Đệ tử nói: “Tiểu muội đi, hắn giết đại ca thì tiểu muội biết làm sao?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Hắn giết ta không được đâu! Ta đang cầm chân hắn, sao sư muội còn không mau chạy đi. Úi chao!” Hai tiếng choang choang vang lên, hai người đã tái đấu. Lệnh Hồ đại ca lại bị thêm một vết thương, vội la to: “Sư muội không đi, ta sẽ chửi sư muội đó!” Lúc đó, đệ tử đã mò được thanh kiếm gãy ở dưới đất, nói to: “Hai người chúng ta đánh một mình hắn”. Điền Bá Quang cười nói: “Lại càng hay! Điền Bá Quang này một đao cùng đấu với cả hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn”. Lệnh Hồ đại ca chửi đệ tử thật. Đại ca chửi: “Tiểu ni cô này thật là ngu dốt, lại rất lộn xộn, còn không chạy mau đi ư? Ngươi không chịu đi, lần sau gặp ngươi, ta sẽ xẻo tai ngươi đó”. Điền Bá Quang cười nói: “Tiểu ni cô này không nỡ xa ta nên không muốn đi”. Lệnh Hồ đại ca sốt ruột quát:“Ngươi có chịu đi không?” Đệ tử nói: “Không đi!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi mà không đi ta sẽ chửi sư phụ của ngươi đó! Lão ni cô Định Nhàn là một bà lão hồ đồ, dạy ngươi cũng hồ đồ luôn!” Đệ tử nói: “Định Nhàn sư bá không phải là sư phụ của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, thế thì ta chửi Định Tĩnh sư thái”. Đệ tử nói: “Định Tĩnh sư bá cũng không phải là sư phụ của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Trời ơi! Ngươi vẫn không đi, ta chửi Định Dật là mụ già hồ đồ…”

Gương mặt Định Dật cau lại trông thật khó coi.

Nghi Lâm vội nói:

– Sư phụ, xin sư phụ đừng giận. Lệnh Hồ đại ca vì muốn cứu đệ tử, không phải muốn chửi sư phụ thật đâu. Đệ tử nói: “Chính tiểu muội hồ đồ chứ không phải là do sư phụ dạy đâu!” Bỗng nhiên, Điền Bá Quang lạng người đi một cái, đưa tay định điểm huyệt đệ tử. Trong bóng tối, đệ tử vung kiếm chém loạn xạ mới khiến cho hắn phải lùi lại.

Lệnh Hồ đại ca quát: “Ta còn có rất nhiều lời khó nghe muốn chửi sư phụ của ngươi, ngươi có sợ hay không?” Đệ tử nói: “Đại ca đừng chửi! Chúng ta cùng trốn đi”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Ngươi còn đứng cạnh ta khiến ta vướng tay vướng chân lắm. Hoa Sơn kiếm pháp của ta cực kỳ lợi hại; ngươi còn đứng đây thì ta không phát huy được. Ngươi đi đi cho ta giết tên ác ôn này”. Điền Bá Quang cười ha hả, nói: “Ngươi đối với tiểu ni cô này cũng quá đa tình đa nghĩa, chỉ đáng tiếc ngay cả tên của ngươi cô ta cũng không biết”. Đệ tử nghĩ tên ác ôn này nói không sai. Đệ tử bèn nói: “Thưa sư huynh phái Hoa Sơn, đại danh của sư huynh là gì vậy? Tiểu muội đến Hành Sơn sẽ trình với sư phụ là sư huynh đã cứu tính mạng của tiểu muội”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đi nhanh đi! Đi nhanh đi! Sao mà lẩn thẩn quá vậy. Ta họ Lao, tên Đức Nặc!”

Lao Đức Nặc nghe đến đó, không khỏi sợ hãi, thầm nghĩ: Tại sao đại sư ca lại mạo xưng tên mình?

Văn tiên sinh gật đầu nói:

– Lệnh Hồ Xung làm việc thiện mà không cầu danh, vốn là bản sắc của đạo hiệp nghĩa chúng ta vậy.

Định Dật sư thái liếc nhìn Lao Đức Nặc lẩm bẩm:

– Tên Lệnh Hồ Xung này thật vô lễ, dám cả gan chửi cả đến ta. Hừ, chắc là hắn sợ sau chuyến này bị ta truy cứu nên đem tội lỗi đổ hết lên đầu người khác.

Nói xong lão ni nhìn Lao Đức Nặc nói:

– Hừm, có phải ngươi là người trong sơn động đã chửi ta hồ đồ không?

Lao Đức Nặc vội khom người đáp:

– Không, không phải! Đệ tử không dám!

Lưu Chính Phong mỉm cười nói:

– Định Dật sư thái, Lệnh Hồ Xung mạo xưng tên của sư đệ Lao Đức Nặc là có đạo lý riêng. Lao hiền điệt biết võ nghệ rồi mới bái sư, vai vế tuy thấp, nhưng tuổi tác lại cao, râu dài như vậy, Lao hiền điệt tính ra đáng làm tổ phụ của Nghi Lâm sư điệt.

Lúc này Định Dật mới chợt hiểu ra Lệnh Hồ Xung muốn bảo vệ thanh danh cho Nghi Lâm. Trong hang động tối đen không rõ mặt nhau, sau khi Nghi Lâm thoát thân, cô sẽ nói là Lao Đức Nặc phái Hoa Sơn đã cứu cô ta. Người này là một lão già khô đét, người ngoài sẽ không hơi đâu mà đồn đãi này nọ. Cách mạo xưng đó không những bảo toàn được thanh danh trong trắng cho Nghi Lâm mà còn bảo toàn được oai danh của phái Hằng Sơn nữa. Lão ni nghĩ đến đây, không thể giấu được niềm vui trên gương mặt, gật đầu nói:

– Tiểu tử này nghĩ thật chu đáo. Nghi Lâm, sau đó thì sao?

Nghi Lâm đáp:

– Lúc đó đệ tử vẫn không chịu đi. Đệ tử nói: “Lao đại ca, đại ca vì cứu tiểu muội mà sa vào chỗ nguy hiểm, tiểu muội sao có thể gặp lúc khó khăn mà bỏ trốn? Nếu sư phụ mà biết tiểu muội không có nghĩa khí với đồng đạo nhất định sẽ giết tiểu muội ngay. Ngày thường sư phụ giáo huấn rằng phái Hằng Sơn của chúng ta tuy đều là hạng nữ lưu nhưng tinh thần hiệp nghĩa thì không thể thua hạng nam tử hán”.

Định Dật vỗ tay nói lớn:

– Hay! Ngươi nói phải đó! Chúng ta là người học võ, nếu bất chấp nghĩa khí giang hồ thì sống không bằng chết, bất luận nam hay nữ đều như nhau cả.

Mọi người nghe lão ni nói mấy câu đầy hào khí, nghĩ bụng: Khí khái của lão ni cô này không thua gì đấng mày râu.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Lệnh Hồ đại ca lại tiếp tục chửi to hơn nữa: “Tiểu ni cô khốn nạn du thủ du thực cứ đứng đây lôi thôi rắc rối khiến cho ta không phát triển được kiếm pháp thiên hạ vô địch của phái Hoa Sơn. Cái mạng già này thế nào cũng lọt vào tay của Điền Bá Quang rồi. Thì ra ngươi và Điền Bá Quang thông đồng với nhau, cố ý hãm hại ta. Lao Đức Nặc này thật là xui xẻo, vừa ra cửa đã gặp ni cô, mà là một tiểu ni cô khốn nạn, tuyệt tử tuyệt tôn, tuyệt đến mười tám đời con cháu đã hại lão tử. Lão tử là một người không có gì không phá nổi mà hôm nay không phát huy được oai lực kiếm pháp tuyệt diệu, lại sợ kiếm pháp lợi hại này làm tổn thương tính mạng cô ta nên không thể đem ra sử dụng được. Trời ơi! Điền Bá Quang! Ngươi cho ta một đao để ta chết cho rồi, lão tử hôm nay đã tới số rồi!”

Mọi người nghe Nghi Lâm nói năng lưu loát, giọng điệu mềm mại trong trẻo. Cô thuật lại những lời chửi bới thô tục của Lệnh Hồ Xung mà ai nấy nghe rất dễ lọt tai.

Nghi Lâm lại kể tiếp:

– Đệ tử nghe đại ca nói như vậy, tuy biết đại ca chửi đệ tử là giả, nhưng lại nghĩ võ nghệ của đệ tử còn thấp không thể giúp gì được cho đại ca, ở lại trong sơn động chỉ làm vướng tay vướng chân đại ca, khiến đại ca không phát triển được sự tinh xảo trong Hoa Sơn kiếm pháp…

Định Dật hừ một tiếng rồi nói:

– Tiểu tử này khoác lác quá! Hoa Sơn kiếm pháp của hắn chẳng qua cũng chỉ vậy thôi, làm sao có thể nói là thiên hạ vô địch?

Nghi Lâm nói:

– Sư phụ, đại ca nói khoác để dọa Điền Bá Quang, làm cho hắn biết khó mà rút lui. Đệ tử nghe đại ca càng chửi càng hăng, mới nói: “Lao đại ca, tiểu muội đi đây! Sau này có ngày gặp lại”. Đại ca chửi: “Cút đi đồ thối tha, tránh ta ra càng xa càng tốt! Hễ ta gặp ni cô thì đánh bạc thua sạch túi. Trước giờ, ta chưa gặp ngươi, sau này vĩnh viễn ta cũng không muốn gặp ngươi. Lão tử bình sinh thích nhất là đánh bạc, gặp ngươi nữa để làm gì?”

Định Dật đột nhiên nổi nóng, đập bàn quát:

– Tiểu tử thật là khốn nạn! Lúc đó ngươi còn chưa đi sao?

Nghi Lâm đáp:

– Đệ tử sợ đại ca giận nên đành phải đi. Vừa ra khỏi sơn động thì đã nghe trong động tiếng đao kiếm giao đấu chạm nhau loảng choảng. Nhưng đệ tử sợ đại ca xui xẻo, đánh bạc sẽ thua, vậy là đệ tử mím miệng lấy hơi chạy thật nhanh, bụng nghĩ sẽ đuổi kịp sư phụ lão nhân gia để xin sư phụ giúp đỡ đại ca bắt tên ác tặc Điền Bá Quang.

Định Dật ừ một tiếng, gật đầu.

Nghi Lâm đột nhiên hỏi:

– Sư phụ, Lệnh Hồ đại ca sau đó không may chết đi có phải là vì… là vì… đã gặp đệ tử, nên thời vận mới xui xẻo như vậy?

Định Dật tức giận nói:

– Cái gì “Hễ gặp ni cô thì đánh bạc thua”. Toàn là những lời bậy bạ mà ngươi cũng tin được ư? Ở đây có nhiều người đều đã gặp thầy trò ta, lẽ nào bọn họ ai cũng thời vận xui xẻo?

Mọi người nghe đều mỉm cười, nhưng không ai dám cười ra tiếng.

Nghi Lâm nói:

– Dạ, đệ tử chạy cho đến khi trời sáng thì đã thấy thành Hành Dương mới yên tâm một chút, nghĩ bụng chắc có thể gặp được sư phụ ở Hành Dương, nào ngờ tên Điền Bá Quang lại đuổi đến. Đệ tử vừa thấy hắn chân đã mềm nhũn ra, chạy được mấy bước liền bị hắn túm lấy. Đệ tử nghĩ hắn đã đuổi đến nơi đây thì đại ca Lao Đức Nặc của phái Hoa Sơn nhất định đã bị hắn giết trong sơn động rồi, lòng đau đớn không sao tả được. Điền Bá Quang thấy người đi đường rất đông nên không dám vô lễ với đệ tử. Hắn nói: “Tiểu ni cô đi cùng ta, ta sẽ không động tay động chân với cô. Nếu cô ngoan cố không nghe, ta lập tức lột hết quần áo cô ra để làm trò cười cho mọi người đi đường”. Đệ tử sợ quá không dám phản kháng, đành đi theo hắn vào thành.

Đến trước quán rượu Hồi Nhạn lâu, hắn nói: “Tiểu sư phụ, cô là nàng tiên… nhan sắc chim sa cá lặn. Hồi Nhạn lâu vì cô mà mở ra. Vậy chúng ta lên đó uống một bữa cho thật say để chúc mừng ngày gặp gỡ này”. Đệ tử nói: “Người xuất gia không ăn mặn, không uống rượu. Đây là giới luật của Bạch Vân am ta”. Hắn nói: “Giới luật của Bạch Vân am nhà cô sao lắm chuyện vậy, thực sự có giữ được nổi không? Tý nữa ta sẽ giúp ngươi phá giới. Những gì được gọi là thanh quy giới luật đều chỉ đặt ra để dối gạt người. Sư phụ ngươi… sư phụ ngươi…”

Cô nói đến đây liếc trộm Định Dật một cái rồi không dám nói tiếp nữa.

Định Dật nói:

– Tên ác nhân ăn nói càn bậy, không cần đề cập đến hắn. Ngươi chỉ nói sau đó thì ngươi nói thế nào thôi.

Nghi Lâm nói:

– Dạ! Sau đó đệ tử nói: “Ngươi đừng nói tầm bậy tầm bạ! Sư phụ ta từ trước đến giờ không bao giờ lén lút uống rượu và ăn thịt chó đâu”.

Mọi người nghe cô nói nhịn không nổi, cười ồ cả lên. Nghi Lâm tuy không thuật hết những lời nói của Điền Bá Quang nhưng từ câu trả lời của cô, ai cũng biết Điền Bá Quang đã bảo Định Dật thường lén lút uống rượu và ăn thịt chó!

Định Dật sa sầm nét mặt, nghĩ bụng:

– Hài tử thật là ngây thơ, nói năng không biết giữ mồm giữ miệng chút nào.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Tên ác nhân giơ tay chụp lấy vạt áo của đệ tử rồi nói: “Ngươi không lên lầu bồi rượu cho ta thì ta sẽ xé toạc áo quần của ngươi đó”. Đệ tử không còn cách nào khác đành theo hắn lên lầu. Tên ác nhân gọi đem rượu ra. Hắn thật tồi tệ, đệ tử đã nói là đệ tử ăn chay nhưng hắn cứ kêu toàn là đồ ăn mặn như thịt bò, thịt heo, thịt gà, cá, tôm. Hắn bảo nếu đệ tử không ăn thì hắn sẽ xé rách quần áo của đệ tử. Sư phụ, đệ tử nhất định không ăn, quyết không phạm giới cấm của nhà Phật. Gã xấu xa này muốn xé quần áo của đệ tử nhưng không được nữa. Ngay lúc đó có một người đi lên tửu lâu, lưng đeo trường kiếm, sắc mặt nhợt nhạt, áo quần dính đầy máu. Người ấy đến bên cạnh đệ tử ngồi xuống, không nói một lời, bưng lấy bát rượu trước mặt đệ tử uống cạn. Người ấy tự rót thêm một bát nữa, nâng lên nhìn Điền Bá Quang nói “Xin mời!” rồi nhìn đệ tử nói “Xin mời!” rồi lại uống cạn. Đệ tử vừa nghe giọng nói của người ấy bất giác vừa sợ hãi vừa vui mừng. Thì ra, đó là Lao đại ca, người đã cứu đệ tử trong sơn động. Cám ơn Trời Phật, đại ca không bị Điền Bá Quang giết chết. Nhưng trên người đầy vết chém, đại ca vì cứu đệ tử mà bị thương tích khắp mình mẩy.

Điền Bá Quang nhìn đại ca chăm chú từ trên xuống dưới rồi nói: “Là ngươi à?” Đại ca nói: “Là ta!”

Điền Bá Quang nhìn đại ca rồi giơ ngón tay cái lên, khen rằng: “Hảo hán tử!” Đại ca cũng nhìn Điền Bá Quang rồi đưa ngón tay cái lên khen ngợi: “Hảo đao pháp!” Cả hai đều cười ha hả, rồi cùng uống bát rượu. Đệ tử lấy làm kỳ. Tối hôm qua, hai người choảng nhau kịch liệt như vậy, tại sao bây giờ bỗng nhiên biến thành bằng hữu? Đại ca không chết, đệ tử rất vui mừng; nhưng thấy đại ca lại là bằng hữu của tên ác nhân Điền Bá Quang, đệ tử không an lòng chút nào.

Điền Bá Quang nói: “Ngươi không phải là Lao Đức Nặc! Lao Đức Nặc là một lão già xấu xí, đâu có phong lưu tráng kiện như ngươi?” Đệ tử trộm nhìn đại ca, ước đoán đại ca không quá hai mươi tuổi. Thì ra tối hôm qua, đại ca nói cái gì là “lão gia sống đã mấy chục năm rồi” đều là để gạt Điền Bá Quang. Đại ca cười nói: “Ta không phải là Lao Đức Nặc”. Điền Bá Quang vỗ bàn nói: “Đúng rồi, ngươi là Lệnh Hồ Xung, nhân vật số một trong hàng đệ tử của phái Hoa Sơn, cao thủ giang hồ”. Lệnh Hồ đại ca thừa nhận, cười nói: “Các hạ quá lời! Lệnh Hồ Xung đã thất bại dưới tay các hạ, thật hổ thẹn!” Điền Bá Quang nói: “Không đánh thì không biết nhau. Chúng ta kết giao bằng hữu, được chăng? Lệnh Hồ huynh đã thích tiểu ni cô xinh đẹp mỹ miều này, tại hạ nhường cho huynh đó. Trọng sắc đẹp mà khinh tình bằng hữu thì đâu phải là hành vi của tại hạ?”

Định Dật tái mặt, nói:

– Tên ác tặc đáng chết, thật đáng chết!

Nghi Lâm nước mắt lưng tròng nói:

– Sư phụ, Lệnh Hồ đại ca bỗng nhiên chửi đệ tử. Đại ca nói: “Tiểu ni cô này mặt mày không còn chút máu, suốt ngày chỉ ăn rau cải và đậu hũ, tướng mạo có gì tươi tốt đâu. Điền huynh, bình sinh tại hạ hễ thấy ni cô thì phát bực, chỉ hận là không giết hết ni cô trong thiên hạ!” Điền Bá Quang cười hỏi: “Tại sao lại như vậy?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Không giấu gì Điền huynh, bình sinh tiểu đệ có một sở thích là đánh bạc, coi trọng việc đánh bạc hơn cả sinh mạng mình, chỉ nhìn thấy con xúc xắc thôi thì ngay cả đến họ tên mình cũng không nhớ. Nhưng nếu xui xẻo gặp ni cô thì ngày hôm đó không dám đánh bạc nữa vì đánh đâu thua đó, đã thử nhiều lần nhưng lần nào cũng vậy. Không chỉ riêng tại hạ đâu, các sư huynh sư đệ của phái Hoa Sơn người nào cũng gặp như vậy. Vì thế đệ tử phái Hoa Sơn hễ thấy sư bá, sư thúc, sư muội, sư tỷ của phái Hằng Sơn ngoài mặt tuy giả bộ cung kính nhưng trong lòng than thầm xui xẻo!”

Định Dật tức giận, quay lại đánh một chưởng. Chỉ nghe bốp một tiếng, Lao Đức Nặc đã bị tát một cái tóe lửa. Lão ni xuất thủ vừa nhanh vừa mạnh, Lao Đức Nặc không kịp né tránh, chỉ cảm thấy đầu váng mắt hoa, suýt chút nữa thì té nhào.

Hồi 15: Thua cuộc là do phép đánh ngồi

Lưu Chính Phong cười nói:

– Có gì đâu mà sư thái phải nổi giận như vậy? Lệnh Hồ hiền điệt vì muốn cứu lệnh cao túc nên mới nói càn bậy với Điền Bá Quang; lời nói điêu ngoa xảo trá mà sư thái cũng cho là thật ư?

Định Dật ngẩn ngơ, hỏi lại:

– Tam gia nói là vì hắn muốn cứu Nghi Lâm sao?

Lưu Chính Phong nói:

– Tại hạ đoan chắc là như vậy. Nghi Lâm sư điệt, có phải vậy không?

Nghi Lâm cúi đầu đáp:

– Lệnh Hồ đại ca là người tốt, chỉ vì… chỉ vì ăn nói hơi vô lễ và thô tục nên sư phụ giận. Đệ tử không dám kể tiếp nữa.

Định Dật quát:

– Ngươi kể tiếp, nói rõ từng chi tiết đi. Ta muốn biết hắn có ý tốt hay là muốn xiên xỏ. Nếu thằng ranh con vô lại xấu xa đó chết rồi, ta cũng sẽ tính chuyện với Nhạc lão nhi nữa.

Nghi Lâm ấp a ấp úng, không dám kể tiếp. Định Dật quát:

– Nói đi, không phải úy kỵ gì nữa. Dù tốt hay xấu, lẽ nào chúng ta không phân biệt được sao?

Nghi Lâm đáp:

– Dạ! Lệnh Hồ đại ca lại nói: “Điền huynh, chúng ta là người học võ, cả đời sống trên lưỡi kiếm lưỡi đao, tuy người có võ nghệ cao cường luôn chiếm ưu thế, nhưng chung quy vẫn là ở vận số. Điền huynh nghĩ xem có đúng vậy không? Khi gặp đối thủ võ công tương đương thì sự sinh tử, tồn vong đều do vận số quyết định. Đừng nói tiểu ni cô này ốm nhom như con mắm, nhấc lên không được ba lạng, mà ngay đến tốt tươi như tiên nữ hạ phàm, Lệnh Hồ Xung này cũng không thèm nhìn mặt. Con người ta ai cũng coi trọng tính mạng. Trọng sắc đẹp mà khinh bằng hữu tất nhiên là đã trật rồi; còn trọng sắc đẹp mà xem thường tính mạng của mình thì người đó là đại ngu ngốc. Tiểu ni cô vạn lần muốn gặp ta cũng không được”. Điền Bá Quang cười nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ biết huynh là một hảo hán tử không sợ trời sợ đất, tại sao đối với ni cô mà huynh kiêng kỵ nhiều điều như vậy?” Lệnh Hồ Xung đáp: “Đúng, cả cuộc đời tiểu đệ sau khi vướng phải ni cô thì gặp rất nhiều chuyện xui xẻo không sao tưởng tượng nổi. Huynh nghĩ coi, tối hôm qua tiểu đệ còn lành lặn đầy đủ, ngay cả khuôn mặt của tiểu ni cô cũng không trông thấy nhưng mới chỉ nghe giọng nói của cô ta thôi thì đã bị huynh chém lên người ba nhát, xém chút nữa là toi mạng. Đó không là xui xẻo thì thế nào mới là xui xẻo?” Điền Bá Quang cười ha hả, rồi nói: “Như vậy thì quả là xui xẻo thật!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Điền huynh, tiểu đệ không muốn nói chuyện với ni cô này nữa. Chúng ta là nam tử hán đại trượng phu cứ uống rượu cho thỏa thích. Huynh bảo tiểu ni cô này cút xéo đi! Tiểu đệ chân thành khuyên huynh chớ đụng vào cô ta, nếu không thì lập tức vận xui sẽ bao trùm cuộc đời ngay. Sau này khắp chốn giang hồ, đâu đâu huynh cũng gặp xui xẻo, trừ khi huynh xuất gia cạo đầu làm hòa thượng thì mới hết. Ni cô là một món trong Thiên hạ tam độc, sao Điền huynh không tránh xa cô ta ra?” Điền Bá Quang hỏi: “Cái gì mà Thiên hạ tam độc?” Lệnh Hồ đại ca giả bộ sửng sốt đáp: “Điền huynh đã ngang dọc giang hồ nhiều năm, kiến thức rộng rãi, mà sao ngay cả “Thiên hạ tam độc” cũng không biết? Người ta thường nói: Ni cô, Tỳ sương, Kim tuyến xà, dù lớn gan hay nhỏ mật cũng xin chớ đụng vào! Ni cô là món độc thứ nhất, Tỳ sương là món độc thứ hai, Kim tuyến xà là món độc thứ ba. Trong thiên hạ tam độc, ni cô đứng đầu tiên; bọn nam đệ tử trong Ngũ Nhạc kiếm phái thường nhắc nhở với nhau như vậy”.

Định Dật nổi giận giơ tay đập mạnh xuống bàn trà rồi chửi to:

– Mẹ nó! Đồ chó…

Lão ni định chửi “đồ chó ỉa” nhưng may mắn ghìm lại được. Lao Đức Nặc đã bị lão ni làm cho đau khổ mấy lần nên hắn cố đứng xa xa và tránh qua một bên. Hắn thấy lão ni mặt đỏ bừng bừng thì lại thụt lùi về sau thêm vài bước nữa.

Lưu Chính Phong thở dài nói:

– Lệnh Hồ sư điệt tuy là có ý tốt nhưng buột miệng thốt ra những lời như vậy thì phải nói là quá đáng. Nhưng có thể hiểu là khi nói chuyện với hạng người đại ác như Điền Bá Quang mà không thiên hô bách sát như vậy thì không dễ gạt cho hắn tin được.

Nghi Lâm hỏi:

– Lưu sư thúc, sư thúc nói những lời như vậy là do Lệnh Hồ đại ca cố ý bịa ra để dối gạt gã họ Điền ư?

Lưu Chính Phong đáp:

– Tất nhiên là như vậy. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái, đâu có những câu vừa nhạt nhẽo vừa vô lễ như vậy? Còn một hôm nữa là tới ngày đại lễ rửa tay gác kiếm của Lưu mỗ, tại hạ muốn tất cả mọi người đều được tốt đẹp vui vẻ. Nếu đối với quý phái có điều cấm kỵ kiêng dè thì Lưu mỗ làm sao dám cung kính thỉnh mời Định Dật sư thái và các vị hiền điệt quang lâm tệ xá?

Định Dật nghe lão nói mấy câu, sắc mặt dịu bớt, lại hừ lên một tiếng rồi chửi tiếp:

– Tiểu tử Lệnh Hồ Xung thối mồm thối miệng, không biết là do tên thất đức nào đã dạy hắn phun ra những lời như vậy?

Lão ni nói vậy là có ý ám chỉ sư phụ của Lệnh Hồ Xung. Xem ra, mụ chửi luôn cả chưởng môn phái Hoa Sơn. Lưu Chính Phong nói:

– Sư thái không nên phiền trách, võ công của Điền Bá Quang rất lợi hại. Lệnh Hồ sư điệt đấu không lại hắn, thấy Nghi Lâm hiền điệt đang ở trong hoàn cảnh cực kỳ nguy hiểm, đành phải bịa chuyện nói bậy nói bạ mới có thể lừa gạt được tên ác tặc để hắn buông tha cho Nghi Lâm. Thử nghĩ xem, Điền Bá Quang qua lại khắp nơi trên giang hồ, hiểu biết rộng rãi, sao lại có thể dễ bị lừa gạt được? Người phàm tục không biết các sư thái là người xuất gia sống như thế nào nên dễ có cách nhìn sai lệch. Đó cũng là chuyện bình thường và Lệnh Hồ sư điệt đã nhân cơ hội mà nói ra những lời như vậy. Chúng ta là người trên giang hồ, lời nói hay việc làm cũng có lúc phải tùy cơ ứng biến. Nếu Lệnh Hồ sư điệt thực sự không xem trọng phái Hằng Sơn thì mới quy lỗi là do Nhạc tiên sinh của phái Hoa Sơn mà ra. Còn nếu không có lòng kính trọng khâm phục ba vị lão sư thái thì tại sao Lệnh Hồ sư điệt lại phải tận tâm tận lực cứu đệ tử của quý phái như vậy?

Định Dật gật đầu nói:

– Lưu tam gia nói hơi quá lời rồi.

Rồi quay qua nhìn Nghi Lâm hỏi:

– Có phải vì vậy mà Điền Bá Quang thả ngươi ra?

Nghi Lâm lắc đầu nói:

– Không phải. Lệnh Hồ đại ca nói: “Huynh tuy khinh công độc bộ thiên hạ nhưng nếu gặp lúc vận khí xui xẻo thì dù khinh công có giỏi đến đâu cũng không thể nào phát huy được”.

Điền Bá Quang nhất thời chưa hiểu hết chủ ý, hắn nhìn đệ tử rồi lắc đầu nói: “Điền Bá Quang tự đến tự đi, ngang dọc giang hồ nào biết kiêng dè ai? Dù sao chúng ta cũng lỡ gặp tiểu ni cô rồi, cứ để cô ta ở lại bồi rượu”. Ngay lúc đó, bàn bên cạnh có một hán tử còn trẻ rút trường kiếm ra, xông đến trước mặt Điền Bá Quang, quát: “Ngươi… ngươi chính là Điền Bá Quang phải không?” Điền Bá Quang nói: “Thế nào?” Hán tử nói: “Ta phải giết ngươi, đồ dâm tặc! Ai ai trong võ lâm cũng đều muốn giết ngươi mới hả dạ. Ngươi lại còn ở đây mà ti toe cái lỗ miệng. Ngươi không sợ chết sao?”. Hán tử nói xong liền phóng kiếm đâm Điền Bá Quang, nhìn chiêu thức thì biết ngay là kiếm pháp của phái Thái Sơn. Chính là vị sư huynh này đây.

Nói xong, cô chỉ tay vào cái xác được đặt nằm trên cánh cửa.

Thiên Môn đạo nhân gật đầu nói:

– Trì Bách Thành hài tử được lắm!

Nghi Lâm kể tiếp:

– Điền Bá Quang né người tránh khỏi, tay đã cầm thanh đơn đao, cười nói: “Mời ngồi, mời ngồi! Uống rượu, uống rượu!” Khi hắn đút đao vào trong vỏ thì vị sư huynh phái Thái Sơn đã bị trúng một đao trước ngực từ lúc nào không rõ, máu tươi phun ra. Sư huynh trừng mắt nhìn Điền Bá Quang, loạng choạng mấy cái rồi té xuống sàn gác.

Nghi Lâm đưa mắt nhìn Thiên Tùng đạo nhân rồi nói:

– Vị sư bá phái Thái Sơn này liền nhảy đến trước mặt Điền Bá Quang, quát lớn rồi phóng kiếm ra chiêu. Chiêu thức của sư bá vô cùng lợi hại nhưng Điền Bá Quang vẫn không đứng dậy. Hắn ngồi yên trên ghế rút đao chống đỡ. Sư bá tấn công hai, ba chục chiêu kiếm nhưng hắn vẫn ngồi chứ không hề đứng dậy.

Thiên Môn đạo nhân sầm mặt đưa mắt nhìn sư đệ đang nằm trên cánh cửa rồi hỏi:

– Sư đệ, võ công của ác tặc đó lợi hại đến như vậy sao?

Thiên Tùng đạo nhân thở dài, từ từ quay đầu đi.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Lệnh Hồ đại ca phóng kiếm đâm Điền Bá Quang. Điền Bá Quang quay đao đứng dậy đỡ chiêu kiếm.

Định Dật nói:

– Ngươi nói không đúng rồi. Thiên Tùng đạo trưởng liên tiếp đánh hắn hai ba chục chiêu mà hắn không đứng dậy; Lệnh Hồ Xung chỉ phóng một kiếm thì hắn đứng dậy ngay. Võ công của Lệnh Hồ Xung làm sao có thể cao bằng Thiên Tùng đạo trưởng được?

Nghi Lâm nói:

– Điền Bá Quang hành động như vậy là có lý do. Hắn nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ với Lệnh Hồ huynh là bằng hữu, huynh phóng kiếm tấn công tiểu đệ, nếu tiểu đệ vẫn ngồi bất động là coi thường huynh rồi. Võ công của tiểu đệ tuy cao hơn huynh nhưng lòng tiểu đệ vẫn kính trọng huynh, vì vậy bất luận thắng hay bại đều phải đứng dậy tiếp chiêu. Còn đối với lão mũi… mũi trâu kia… thì không cần phải đứng dậy làm gì”. Lệnh Hồ đại ca hừ một tiếng rồi nói: “Được huynh để mắt tới thì Lệnh Hồ Xung này vô cùng hân hạnh”. Véo, véo, véo; Lệnh Hồ đại ca liên tiếp tấn công hắn liền ba chiêu. Sư phụ, ba chiêu kiếm này rất lợi hại, xung quanh Điền Bá Quang bao phủ một làn kiếm quang dày đặc.

Định Dật gật đầu nói:

– Đây là kiệt tác đắc ý của Nhạc lão nhi, gọi cái gì là Thái nhạc tam thanh phong; chiêu thứ hai mãnh liệt hơn chiêu thứ nhất, chiêu thứ ba mãnh liệt hơn chiêu thứ hai. Điền Bá Quang chiết giải ra sao?

Nghi Lâm nói:

– Điền Bá Quang tiếp một chiêu, lui một bước rồi lui liên tiếp ba bước, reo lên “hảo kiếm pháp”. Rồi quay qua nhìn Thiên Tùng sư bá, hắn nói: “Lão mũi trâu, tại sao ngươi không tiếp tục tấn công ta?”

Lệnh Hồ đại ca vừa phóng kiếm, Thiên Tùng sư bá thụt lùi rồi đứng sang một bên. Sư bá lạnh lùng nói: “Ta là chính nhân quân tử của phái Thái Sơn, tại sao có thể liên thủ với hạng tà dâm?” Đệ tử không nhịn được nữa bèn nói: “Sư bá đừng nói oan cho Lệnh Hồ sư huynh, sư huynh là người tốt!” Thiên Tùng sư bá cười nhạt nói: “Hắn là người tốt ư? Hà hà! Hắn kéo bè cùng gã Điền Bá Quang hoang dâm ô trọc như vậy mà cũng gọi là người tốt được sao?” Bỗng nhiên Thiên Tùng sư bá thét to một tiếng, hai tay ôm ngực, thần sắc trông thật khó coi. Điền Bá Quang tra đao vào vỏ rồi nói: “Ngồi xuống, ngồi xuống! Uống rượu! Uống rượu đi!”

Đệ tử thấy máu từ các kẽ tay của Thiên Tùng sư bá ứa ra. Không biết Điền Bá Quang sử đao pháp gì, phóng đao nhanh như chớp, đệ tử hoàn toàn không thấy hắn động thủ mà ngực của Thiên Tùng sư bá đã bị trúng đao rồi. Đệ tử sợ quá la lên: “Đừng… đừng giết sư bá!” Điền Bá Quang cười nói: “Tiểu mỹ nhân bảo không giết thì ta không giết”. Thiên Tùng sư bá ôm vết thương loạng choạng chạy xuống cầu thang.

Lệnh Hồ đại ca đứng dậy định chạy theo để giúp đỡ sư bá nhưng Điền Bá Quang giữ lại và nói:“Lệnh Hồ huynh, lão mũi trâu này kiêu ngạo quá đáng, để cho lão chết, huynh không cần giúp đỡ. Tại sao huynh cứ mang cái khổ vào thân, chẳng thú vị tý nào cả”.

Lệnh Hồ đại ca lắc đầu cười nhăn nhó, uống một hơi hai bát rượu. Thưa sư phụ, lúc đó đệ tử nghĩ: trong giới cấm lớn của Phật môn chúng ta, giới thứ năm là cấm uống rượu. Lệnh Hồ đại ca tuy không phải là đệ tử Phật môn, nhưng uống rượu không ngừng nghỉ thì không hay chút nào cả. Nhưng đệ tử không dám đem chuyện ấy ra nói với đại ca, sợ đại ca lại chửi đệ tử cái gì “Hễ thấy ni cô…”.

Định Dật nói:

– Lệnh Hồ Xung ăn nói điên khùng như vậy, sau này không nên nhắc đến các lời ấy nữa.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ!

Định Dật nói:

– Sau đó thì thế nào?

Nghi Lâm kể tiếp:

– Điền Bá Quang nói: “Lão mũi trâu này võ công không phải tầm thường. Nhát đao của tiểu đệ phóng nhanh như vậy mà lão lại có thể kịp thời co mình lại ba tấc, nên không đủ làm cho lão chết được. Võ nghệ của phái Thái Sơn rốt cuộc còn được hai người. Lệnh Hồ huynh, lão mũi trâu này không chết thì từ nay về sau huynh còn gặp lắm điều phiền phức. Vừa rồi tiểu đệ có ý muốn giết lão để tránh hậu hoạn cho huynh nhưng đáng tiếc một đao của đệ không giết được lão”.

Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Trong cuộc đời của tiểu đệ, chuyện phiền phức ngày nào cũng có. Mặc kệ lão, mặc kệ ni cô này. Uống rượu, uống rượu đi! Điền huynh, nếu một đao của huynh đâm trúng ngực tiểu đệ, võ công của đệ không bằng Thiên Tùng sư bá, thì ắt là đệ tránh không kịp rồi”.

Điền Bá Quang cười nói: “Lúc tiểu đệ phóng đao, thực sự tiểu đệ đã nương tình. Đó là nhằm báo đáp tình nghĩa của Lệnh Hồ huynh tối hôm qua ở trong động đã không nỡ giết tiểu đệ”. Đệ tử nghe xong rất lấy làm kỳ . Nếu nói vậy thì tối hôm qua, hai người đấu với nhau trong sơn động, Lệnh Hồ đại ca đã chiếm được thượng phong và đã tha mạng cho hắn.

Mọi người nghe đến đây đều tỏ vẻ không hài lòng, cho rằng Lệnh Hồ Xung không nên giao tình với tên vạn ác dâm tặc này như vậy.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Lệnh Hồ đại ca nói: “Tối qua trong sơn động, tiểu đệ đã dùng hết sức mà võ nghệ cũng không bằng huynh, đâu dám nói đến chuyện kiếm hạ lưu tình như vậy”. Điền Bá Quang cười ha hả, nói: “Lúc huynh và tiểu ni cô trốn ở trong sơn động; tiểu ni cô gây ra tiếng động nên bị tiểu đệ phát hiện, nhưng huynh lại nín thở. Tiểu đệ có đoán đến vạn lần cũng không ngờ được có người khác ở bên cạnh ni cô. Tiểu đệ kéo tiểu ni cô định phá thanh quy giới luật của cô ta. Huynh chỉ cần chờ một chút nữa đợi lúc tiểu đệ tâm thần mê mẩn không để ý đến, thì chỉ một nhát kiếm, huynh đã có thể lấy được cái mạng của tiểu đệ rồi. Lệnh Hồ huynh, huynh không phải là con nít thì điều tất yếu đó sao lại không biết? Tiểu đệ biết huynh đường đường là một bậc trượng phu không muốn đánh lén hại người, vì vậy mà mũi kiếm đó, ha ha, chỉ đâm lướt qua bả vai của tiểu đệ”.

Lệnh Hồ đại ca nói: “Nếu tiểu đệ đợi thêm một chút nữa thì tiểu ni cô này làm sao tránh khỏi chuyện bị huynh làm nhục! Tiểu đệ nói Điền huynh hay: đệ thấy cái bộ mặt ni cô này là tức giận ngay nhưng phái Hằng Sơn cũng là một trong Ngũ Nhạc kiếm phái, huynh lại ức hiếp cô ta thì làm sao tiểu đệ có thể dung thứ?” Điền Bá Quang cười nói: “Nói là như vậy, nhưng nếu lưỡi kiếm của huynh đâm sâu thêm ba bốn tấc thì cánh tay của tiểu đệ sẽ bị tàn phế. Tại sao sau khi huynh phóng kiếm đâm đệ rồi, huynh lại rút kiếm về?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tiểu đệ là đệ tử phái Hoa Sơn, sao có thể bắn lén tên để hại người? Huynh đã chém một đao vào vai tiểu đệ trước; tiểu đệ liền trả một kiếm vào vai của huynh, xem như huề. Nếu giao đấu một cách đường đường chính chính thì không ai chiếm lợi thế của ai cả”. Điền Bá Quang cười ha hả đáp: “Hay lắm huynh đệ! Ta kết tình bằng hữu. Nào, nào, nào! Uống một bát đi!”

Lệnh Hồ đại ca nói: “Võ công của đệ không bằng huynh, nhưng tửu lượng thì huynh không bằng đệ”. Điền Bá Quang nói: “Tửu lượng của đệ không bằng huynh sao? Chưa chắc đâu, chúng ta uống thi đi. Nào, mỗi bên uống mười bát to rồi hãy nói”. Lệnh Hồ đại ca chau mày nói: “Điền huynh, đệ biết huynh là một bậc hảo hán không chiếm phần tiện nghi nên mới cùng huynh uống rượu thi. Nào ngờ, huynh không phải là người như vậy làm cho tiểu đệ quá thất vọng”.

Điền Bá Quang ngó nghiêng Lệnh Hồ đại ca rồi hỏi: “Tiểu đệ chiếm phần tiện nghi chỗ nào?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Huynh đã biết tiểu đệ rất kiêng cữ ni cô, vừa thấy ni cô thì lòng đã khó chịu, ăn uống không ngon thì đấu rượu với huynh sao được?” Điền Bá Quang lại cười to lên, nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ biết huynh tìm trăm phương ngàn kế để cứu tiểu ni cô này. Nhưng Điền Bá Quang yêu sắc đẹp như tính mạng mình, đã gặp tiểu ni cô thiên kiều bá mỵ như vậy thì dù huynh có nói gì đi nữa, Điền mỗ cũng không buông tha cho cô ta đi đâu. Nếu huynh muốn tiểu đệ thả cô ta ra thì phải chịu một điều kiện”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, Điền huynh nói ra đi. Trên có núi đao nhọn, dưới có vạc dầu sôi, L ệnh Hồ Xung này cũng xin chấp thuận, nếu tiểu đệ chau mày thì không phải là bậc hảo hán”.

Điền Bá Quang cười hi hi, rót đầy hai bát rượu rồi nói: “Huynh uống bát rượu này, rồi tiểu đệ sẽ nói với huynh”. Lệnh Hồ đại ca bưng bát rượu lên u ống cạn một hơi, nói: “Cạn rồi!” Điền Bá Quang cũng uống cạn bát rượu, cười nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ đã là bạn của huynh thì tất nhiên tuân theo quy luật giang hồ. Vợ của bạn thì không được trêu ghẹo. Nếu như huynh chịu lấy ni cô… tiểu ni cô…”

Nghi Lâm nói đến đây, hai má đỏ ửng lên, mắt rủ xuống, giọng nói càng lúc càng nhỏ đi, đến lúc sau thì không ai còn nghe được.

Định Dật đập tay lên bàn, quát:

– Nói năng xằng bậy, càng nói càng tệ hại. Sau đó thì sao?

Nghi Lâm đáp khẽ:

– Điền Bá Quang vẫn nói tầm bậy tầm bạ. Hắn cười hi hi nói: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Nếu huynh chịu lấy… lấy cô ta làm vợ, tiểu đệ lập tức thả cô, còn vái lạy đền tội với cô ta nữa. Ngoài điều kiện này ra thì hàng vạn cách khác cũng đều không được”.

Lệnh Hồ đại ca hừ một tiếng, nói: “Huynh muốn tiểu đệ suốt đời xui xẻo sao? Việc này đừng nhắc đến nữa”. Điền Bá Quang lại càng nói bậy bạ hơn, nào là để tóc trên đầu thì không còn là ni cô nữa, rồi còn nói thêm rất nhiều lời điên khùng; đệ tử bịt tai lại không dám nghe hắn nói. Lệnh Hồ đại ca nói: “Im đi, huynh còn nói thêm những lời bỡn cợt như vậy thì Lệnh Hồ Xung đã bị huynh làm cho tức đến chết; còn đâu tính mạng mà ngồi đấu rượu với huynh? Huynh không thả cô ta, chúng ta lại phải quyết một phen tử chiến”. Điền Bá Quang cười nói: “Xin mời. Nhưng huynh đánh không lại tiểu đệ đâu”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đứng đánh thì tiểu đệ không phải là đối thủ của huynh, còn ngồi đánh thì huynh không phải là đối thủ của đệ”.

Trước đó mọi người đã nghe Nghi Lâm thuật chuyện Điền Bá Quang ngồi trên ghế, không thèm đứng dậy mà vẫn chống đỡ hai ba chục chiêu kiếm lợi hại của Thiên Tùng đạo nhân, cao thủ của phái Thái Sơn. Như vậy, hắn rất giỏi về phép tọa đấu. Bây giờ, Lệnh Hồ Xung lại nói “Đứng đánh thì tiểu đệ không phải là đối thủ của huynh, còn ngồi đánh thì huynh không phải là đối thủ của đệ”, câu nói này là cố ý khiêu khích hắn.

Hà Tam Thất gật đầu nói:

– Gặp phải hạng ác đồ dâm tặc này, trước tiên phải khiêu khích để hắn nổi giận đùng đùng, sau đó mới tùy cơ hạ thủ. Đó là diệu kế.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Điền Bá Quang nghe xong không tức giận, chỉ cười nói: “Lệnh Hồ huynh, Điền Bá Quang này khâm phục huynh ở chỗ có kiến thức, có hào khí chứ không phải là ở võ công”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Còn Lệnh Hồ Xung này khâm phục huynh ở chỗ đứng đánh phép khoái đao chứ không phải ở chỗ ngồi mà đánh”. Điền Bá Quang nói: “Được. Lệnh Hồ huynh không biết lúc còn nhỏ, hai đùi của tiểu đệ bị bại liệt, suốt hai năm trời tiểu đệ ngồi để luyện đao pháp. Ngồi đánh chính là trò chơi của tiểu đệ. Vừa rồi tiểu đệ và lão mũi… mũi… trâu đạo nhân kia chiết chiêu, tiểu đệ không đứng không phải là coi thường lão mà chỉ vì tiểu đệ ngồi sử đao đã quen nên không cần phải đứng dậy. Lệnh Hồ huynh, môn công phu này huynh không bằng đệ đâu”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Điền huynh, lúc còn niên thiếu bất quá Điền huynh chỉ bị bại liệt nên mới ngồi luyện đao pháp hai năm. Thời gian nhiều lắm cũng chỉ hai năm mà thôi. Công phu của tiểu đệ khác hẳn của huynh, thời gian ngồi sử kiếm pháp còn hơn huynh nhiều. Ngày nào tiểu đệ cũng ngồi để luyện kiếm pháp”.

Mọi người nghe đến đây đều đưa mắt nhìn Lao Đức Nặc nghĩ thầm: Không biết trong võ công của phái Hoa Sơn, có môn nào ngồi luyện kiếm như thế này không?

Lao Đức Nặc lắc đầu nói:

– Đại sư ca lừa bịp hắn đấy. Trong tệ phái không hề có môn công phu kỳ cục này.

Nghi Lâm nói:

– Điền Bá Quang lộ vẻ ngạc nhiên, nói: “Chuyện đó có thật không? Tiểu đệ không phải là người cô lậu quả văn, kiến thức không hẹp lắm nhưng sao lại chưa từng nghe loại kiếm pháp gì mà ngồi… ngồi đánh của phái Hoa Sơn?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Đây không phải là kiếm pháp của ân sư truyền thụ cho mà do tự tiểu đệ sáng chế ra”. Điền Bá Quang vừa nghe xong, mặt biến sắc, nói: “Thì ra là như vậy. Lệnh Hồ huynh đại tài khiến cho tiểu đệ vô cùng khâm phục”.

Mọi người biết Điền Bá Quang đổi sắc mặt là vì trong võ học, muốn sáng chế ra một đường quyền pháp hay kiếm pháp mới không phải là dễ. Nếu không phải võ công cao, lại có sở học tài trí hơn người thì khó tìm ra được con đường đi riêng cho mình để sáng chế ra chiêu thức mới. Phái Hoa Sơn đã được lập ra mấy trăm năm nay rồi, các chiêu thức võ công phải kinh qua hàng trăm ngàn lần rèn luyện; muốn cải biến một chiêu, một thức cũng cực kỳ khó khăn huống chi sáng chế ra một đường kiếm pháp.

Lao Đức Nặc nghĩ bụng: Thì ra đại sư ca đã âm thầm sáng chế ra một loại kiếm pháp, tại sao không trình lên cho sư phụ biết?

Nghi Lâm kể tiếp:

– Lúc đó Lệnh Hồ đại ca cười hi hi rồi nói: “Đường kiếm pháp này thúi đến tận trời xanh, có gì đâu mà Điền huynh khâm phục”. Điền Bá Quang càng kinh ngạc hơn nữa, hỏi: “Sao lại thúi đến tận trời xanh?”

Đệ tử cũng cảm thấy kỳ cục. Kiếm pháp có cao minh hay không thôi chứ làm gì có mùi khó ngửi? Lệnh Hồ đại ca nói: “Không giấu gì Điền huynh, mỗi buổi sáng sớm, tiểu đệ thường vào ngồi trong cầu tiêu. Ruồi nhặng bay qua lại lung tung. Đệ tức muốn chết, bèn phóng kiếm đâm mấy con, lúc đầu đâm không trúng con nào nhưng càng lâu ngày càng chính xác, xuất kiếm ra là đâm trúng ruồi nhặng ngay. Dần dần tinh thần lĩnh hội, từ trong các chiêu kiếm dùng đâm ruồi nhặng, tiểu đệ ngộ được một đường kiếm pháp. Lúc sử kiếm pháp này, đệ vẫn ngồi trên bàn cầu, há không phải là hôi thúi đến khó ngửi ư?”

Đại ca nói đến đây khiến đệ tử nhịn không được phải bật cười. Lệnh Hồ đại ca quả thật khôi hài, trong thiên hạ đâu có kiểu luyện kiếm như vậy. Điền Bá Quang nghe xong xanh mặt, tức giận nói:“Lệnh Hồ huynh, đệ xem huynh như bằng hữu mà huynh lại nói lăng nhăng như vậy là coi thường đệ quá đáng. Huynh coi Điền Bá Quang này như ruồi nhặng trong cầu tiêu phải không? Được, đệ xin lĩnh giáo huynh đường kiếm pháp này”.

Mọi người nghe kể đến đây đều lặng lẽ gật đầu. Ai cũng biết khi các cao thủ thi đấu võ nghệ, nếu tâm ý bộp chộp thì có thể nói đã sút kém ba phần. Lệnh Hồ Xung nói mấy lời như vậy là rõ ràng có ý trêu tức đối phương, khiến Điền Bá Quang nổi giận, tức là hắn đã bị trúng kế rồi.

Định Dật nói:

– Tuyệt diệu! Sau đó ra sao?

Nghi Lâm đáp:

– Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tại hạ luyện đường kiếm pháp này chỉ xem là trò giải trí, không hề có ý đem ra để cùng người khác tranh đấu hơn thua. Vạn lần xin Điền huynh đừng hiểu lầm, tiểu đệ quyết không dám ví huynh như ruồi nhặng trong cầu tiêu đâu”. Đệ tử nghe Lệnh Hồ đại ca nói vậy nên không nhịn được bèn bật cười một tiếng nữa. Điền Bá Quang càng thêm bực tức, rút đơn đao ra đặt lên bàn, rồi nói: “Được. Trước mặt mọi người ngồi đây, chúng ta thử giao đấu một phen”. Đệ tử thấy mắt hắn phát ra những tia nộ khí thì rất sợ hãi, hiển nhiên hắn đã nổi khùng, có ý định giết người. Chắc hắn sẽ giết Lệnh Hồ đại ca mất.

Lệnh Hồ đại ca đáp: “Ngồi mà sử dụng đao kiếm, công phu của huynh không cao bằng đệ nên không địch lại đệ đâu. Lệnh Hồ Xung hôm nay vừa mới kết giao bằng hữu với Điền huynh, sao nỡ gây tổn thương hòa khí giữa hai ta được? Vả lại Lệnh Hồ Xung đường đường là đấng trượng phu, không thể lấy cái công phu trội nhất của mình để làm tiện nghi mà thắng bạn bè”. Điền Bá Quang nói: “Đây là do Điền Bá Quang cam tâm tình nguyện, không thể nói là huynh chiếm phần tiện nghi của đệ được”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Nói như thế thì Điền huynh nhất định muốn tỉ thí ư?” Điền Bá Quang đáp: “Nhất định muốn tỉ thí!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Nhất định muốn ngồi để tỉ thí ư?” Điền Bá Quang đáp: “Phải đấy, nhất định muốn ngồi để tỉ thí!” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Được, đã vậy thì chúng ta phải quy ước với nhau một điều: lúc chưa phân thắng bại, nếu ai đứng dậy trước thì coi như thua”. Điền Bá Quang nói: “Đúng vậy! Lúc chưa phân quyết thắng bại, nếu ai đứng dậy trước thì coi như thua”.

Lệnh Hồ đại ca lại hỏi: “Thua rồi thì phải làm sao?” Điền Bá Quang đáp: “Theo ý huynh thì phải thế nào?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Đợi tiểu đệ nghĩ xem. Có rồi, thứ nhất là người nào thua, từ nay về sau hễ thấy tiểu ni cô này thì không được nói năng hay hành động vô lễ; khi gặp cô ta thì phải đến trước mặt cung kính cúi mình hành lễ và nói: “Tiểu sư phụ, đệ tử Điền Bá Quang xin bái kiến”. Điền Bá Quang nói: “Úi chao! Huynh sao lại khẳng định là đệ thua? Nếu huynh thua thì sao?” Lệnh Hồ Xung nói: “Tiểu đệ cũng phải làm như vậy. Hễ ai thua thì người đó phải vào làm môn hạ của phái Hằng Sơn, làm đồ tôn của Định Dật lão sư thái và đồ đệ của tiểu ni cô này”. Sư phụ, sư phụ nghĩ xem Lệnh Hồ đại ca nói vậy có tức cười không? Hai người họ tỉ võ, nếu ai thua thì phải thay đổi môn phái, vào làm môn hạ phái Hằng Sơn. Làm sao đệ tử có thể thu nhận họ làm đồ đệ được?

Cô nói đến đây, nụ cười hé lộ trên môi. Trước đó, lúc nào cô cũng u sầu, giờ đây nụ cười hé nở càng tăng thêm nét yêu kiều.

Định Dật nói:

– Bọn hán tử thô lỗ trên giang hồ lời nào cũng nói được, sao ngươi cho đó là thật? Lệnh Hồ Xung cố tình chọc giận Điền Bá Quang đó.

Lão ni nói đến đây, ngẩng đầu lên lim dim hai mắt, suy nghĩ xem Lệnh Hồ Xung sẽ dùng cách gì để có thể giành phần thắng. Nếu hắn tỉ võ thua thì làm sao rút lời lại được? Ngẫm nghĩ một lúc, lão ni biết trí lực của mình so với bọn vô lại lưu manh còn thua xa, hà tất phải nghĩ nhiều cho mệt óc, liền hỏi:

– Rồi Điền Bá Quang trả lời thế nào?

Nghi Lâm đáp:

– Điền Bá Quang thấy Lệnh Hồ đại ca nói có vẻ chắc ăn, mặt hắn lộ vẻ chần chừ. Đệ tử đoán có lẽ hắn đang tự nhủ đại khái là phải chăng Lệnh Hồ Xung đúng là có sở trường ngồi sử kiếm hơn người chăng? Lệnh Hồ đại ca lại nói khích hắn: “Nếu huynh quyết chí vào làm môn hạ của phái Hằng Sơn thì chúng ta không cần phải tỉ đấu nữa”. Điền Bá Quang cả giận, nói: “Nói bậy! Được, cứ như vậy mà làm, ai thua thì bái tiểu ni cô này làm sư phụ”. Đệ tử nói: “Tiểu ni không thể thu nhận hai vị làm đồ đệ được vì công phu của tiểu ni còn non nớt, hơn nữa sư phụ của tiểu ni cũng không cho phép làm như vậy đâu. Phái Hằng Sơn của tiểu ni bất luận là người xuất gia hay người tục gia đều là giới nữ, làm sao có thể… làm sao có thể…”

Lệnh Hồ đại ca xua tay nói: “Ta và Điền huynh đã thương lượng và quyết định rồi, sư muội không muốn cũng phải nhận, đừng có lôi thôi. Sư muội nhất định phải làm sư phụ”. Đại ca quay qua Điền Bá Quang nói: “Điều thứ hai là người bị thua phải vung đao cắt một cái, tự biến mình thành thái giám”. Sư phụ, đệ tử không hiểu thế nào là “vung đao cắt một cái tự biến mình thành thái giám”?

Nghi Lâm hỏi như vậy khiến mọi người cười ồ cả lên. Nét mặt nghiêm khắc của Định Dật rốt cuộc cũng lộ vẻ nhu hòa. Lão ni không nhịn được, bật cười thành tiếng rồi nói:

– Đó chỉ là lời nói thô tục của bọn lưu manh. Hài tử, ngươi không hiểu thì đừng thắc mắc, chẳng có gì hay ho đâu.

Nghi Lâm nói:

– Trời ơi! Thì ra chỉ là lời thô tục, vậy mà đệ tử cứ tưởng chỉ có hoàng đế mới có thái giám. Điền Bá Quang đưa mắt lườm Lệnh Hồ đại ca rồi hỏi: “Lệnh Hồ huynh, huynh có nắm chắc phần thắng không?” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tất nhiên rồi! Đánh đứng thì trong võ lâm thiên hạ Lệnh Hồ Xung này được xếp vào hạng thứ tám mươi chín; còn đánh ngồi thì được xếp vào hạng thứ nhì”. Điền Bá Quang rất lấy làm ngạc nhiên, hỏi lại: “Lệnh Hồ huynh đứng hạng nhì vậy hạng nhất là ai?”. Lệnh Hồ đại ca đáp: “Người đó là Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại!”

Mọi người nghe cô nói đến tám chữ “Ma giáo giáo chủ Đông Phương Bất Bại” thì đều tái mặt.

Nghi Lâm quan sát thấy sắc mặt mọi người bỗng nhiên thay đổi, vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi, tưởng mình nói có gì nhầm lẫn, bèn hỏi:

– Sư phụ, lời nói đó không đúng phải không?

Định Dật đáp:

– Ngươi đừng đề cập tên người này nữa. Rồi Điền Bá Quang nói như thế nào?

Nghi Lâm nói:

– Điền Bá Quang gật đầu nói: “Huynh nói Đông Phương giáo chủ thuộc hạng nhất, tiểu đệ không có gì để nói nhưng Lệnh Hồ huynh lại tự cho mình thuộc hạng nhì thì e rằng hơi khoác lác. Lẽ nào huynh lại giỏi hơn cả tôn sư Nhạc tiên sinh?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Tiểu đệ nói đây là đánh ngồi. Còn đánh đứng thì sư phụ của tiểu đệ được xếp vào hạng thứ tám, tiểu đệ thuộc hạng thứ tám mươi chín, so với sư phụ lão nhân gia còn kém rất xa”. Điền Bá Quang gật đầu nói: “Thì ra là vậy! Thế đứng đánh thì tiểu đệ được xếp vào hạng thứ mấy? Ai là người đứng ra xếp hạng?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Đây là điều rất bí mật. Điền huynh, tiểu đệ với huynh nói chuyện với nhau rất hợp ý; đệ nói cho huynh nghe nhưng huynh không được tiết lộ chuyện này ra ngoài, nếu không thì nhất định sẽ xảy ra một trận phong ba bão táp trong võ lâm. Cách đây ba tháng, năm vị chưởng môn tôn sư của Ngũ Nhạc kiếm phái hội tụ ở Hoa Sơn, bàn bạc về những danh thủ trong võ lâm ngày nay. Năm vị tôn sư nhất thời cao hứng, bèn đem các cao thủ trong thiên hạ mà sắp đặt thứ bậc. Điền huynh, tiểu đệ không giấu gì huynh, năm vị tôn sư xét nhân phẩm của huynh thì thóa mạ cho rằng không đáng một xu, còn xét đến võ công của huynh thì năm vị thật sự khâm phục cho rằng nếu đánh đứng thì Điền huynh được xếp vào hạng thứ mười bốn.

Thiên Môn đạo nhân và Định Dật sư thái cùng nói:

– Lệnh Hồ Xung nói tầm bậy, làm gì có chuyện đó?

Nghi Lâm đáp:

– Nguyên là Lệnh Hồ đại ca muốn gạt hắn. Điền Bá Quang bán tín bán nghi, nói: “Chưởng môn nhân Ngũ Nhạc kiếm phái đều là cao nhân trong võ lâm, lại xếp Điền Bá Quang này hạng thứ mười bốn là đã quá khen rồi đó. Lệnh Hồ huynh, huynh đã thi triển bộ kiếm pháp khó ngửi của huynh trước mặt năm vị chưởng môn chưa? Nếu không thì sao các vị đó biết mà xếp huynh vào hạng thứ nhì đánh ngồi trong thiên hạ?”

Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Bộ kiếm pháp thúi tha này ư? Nếu đem ra thi triển trước mặt mọi người thì quá bất nhã, làm sao mà tiểu đệ dám biểu diễn trước năm vị tôn sư? Tư thế kiếm pháp này hơi khó xem nhưng rất lợi hại. Tiểu đệ đã đem vấn đề này ra thảo luận với các vị cao thủ trong tả đạo, ai cũng cho rằng ngoài Đông Phương giáo chủ ra, thì trong thiên hạ không ai có thể địch nổi. Nhưng thưa Điền huynh, hễ nói đi thì cũng phải nói lại, đường kiếm pháp của tiểu đệ tuy là tuyệt diệu, nhưng ngoài lúc ngồi cầu tiêu đâm mấy con ruồi con nhặng ra thì không còn giá trị thực tế gì nữa. Điền huynh nghĩ coi, đương lúc người ta động thủ tỉ võ công thì có ai dám ngồi yên bất động bao giờ? Cứ xem như đến lúc huynh thua rồi, tất nhiên huynh sẽ xấu hổ quá mà hóa giận, bèn đứng dậy động thủ. Huynh đánh đứng thuộc hạng thứ mười bốn trong thiên hạ thì chỉ cần một đao là hạ được tiểu đệ đánh ngồi đệ nhị thiên hạ mộ t cách dễ dàng. Vì vậy, Điền huynh đánh đứng vào hạng thứ mười bốn trong thiên hạ là thực chất, còn tiểu đệ xếp hạng đệ nhị đánh ngồi trong thiên hạ thì chỉ là hư danh mà thôi, không có gì đáng nói”.

Điền Bá Quang hừ lên một tiếng, nói: “Lệnh Hồ huynh, cái miệng của huynh thật là lắm chuyện. Sao huynh biết đệ đánh ngồi nhất định sẽ thua? Sao huynh biết được tiểu đệ xấu hổ quá mà hóa giận rồi đứng dậy để giết huynh?”

Lệnh Hồ đại ca nói: “Nếu huynh đáp ứng yêu cầu là sau khi thua không được giết tiểu đệ và làm đúng giao kèo là làm thái… thái giám thì huynh sẽ tuyệt tử tuyệt tôn, không có người nối dõi. Thôi đi! Không cần nói nhiều nữa, huynh động thủ đi!” Nói xong Lệnh Hồ đại ca hất tay một cái, các hũ rượu, bát đĩa và chiếc bàn cũng bay luôn. Hai người ngồi đối diện nhau, người cầm đao, người cầm kiếm.

Lệnh Hồ đại ca nói: “Xuất chiêu đi! Ai đứng dậy trước để mông rời khỏi ghế thì người đó thua”.

Điền Bá Quang nói: “Được, để xem coi ai đứng dậy trước!” Hai người sắp động thủ, Điền Bá Quang liếc đệ tử một cái rồi đột nhiên cười lên ha hả, nói: “Lệnh Hồ huynh, tiểu đệ khâm phục huynh rồi. Thì ra huynh đã ngấm ngầm mai phục kế mưu, cố ý đến đây gây khó dễ cho Điền Bá Quang này. Tiểu đệ và huynh ngồi đấu với nhau, không ai được rời mông khỏi ghế, chưa nói những tay giúp đỡ huynh kéo vào mà ngay cả tiểu ni cô này đứng ở sau lưng tiểu đệ động tay động chân thì không chừng sẽ bức ép tiểu đệ đứng dậy mất”.

Lệnh Hồ đại ca cũng cười ha hả rồi nói: “Chỉ cần có người ra tay giúp đỡ thì coi như Lệnh Hồ Xung này thua vậy. Tiểu ni cô, sư muội muốn ta thắng hay bại?” Đệ tử đáp: “Tất nhiên là muốn đại ca đánh thắng. Đại ca là đệ nhị đánh ngồi trong thiên hạ, quyết không thể thua hắn được”.

Lệnh Hồ đại ca nói: “Được, thế thì ta xin mời tiểu muội hãy ra đi, càng nhanh càng tốt, càng xa càng hay! Tiểu ni cô đầu trọc lóc đứng trước mặt ta thì Lệnh Hồ Xung này không cần đánh cũng đã thua rồi!” Lệnh Hồ đại ca không đợi Điền Bá Quang lên tiếng ngăn cản liền phóng kiếm đâm hắn.

Điền Bá Quang giơ đao đỡ gạt ra, cười nói: “Khâm phục, khâm phục! Đây là một diệu kế rất tuyệt để cứu ni cô thoát thân. Lệnh Hồ huynh, huynh cũng thật là… một người đa… thật là một người thuộc giống đa tình. Nhưng đây là một trận chiến đấu hung hiểm, hậu quả không thể lường được”. Lúc đó đệ tử mới hiểu ra Lệnh Hồ đại ca giao kết chuyện ai đứng lên trước là người đó thua là muốn đệ tử có cơ hội trốn thoát. Cái thân của Điền Bá Quang không thể rời khỏi ghế, tất nhiên không có cách nào bắt được đệ tử.

Mọi người nghe đến đây mới hiểu thấu chỗ dụng tâm sâu xa của Lệnh Hồ Xung, không khỏi ca ngợi cảm phục. Võ công của Lệnh Hồ Xung tuy không bằng Điền Bá Quang nên ngoài điều kiện này ra, thực sự không còn kế sách nào để cứu Nghi Lâm thoát thân.

Định Dật nói:

– Cái gì là “giống đa tình”, đều là những lời thô tục. Sau này cái miệng của ngươi đừng nên đề cập đến, ngay cả lòng ngươi cũng không được nghĩ tới nữa.

Nghi Lâm rủ mày, đáp:

– Dạ, thì ra đó cũng là lời thô tục. Đệ tử hiểu rồi.

Định Dật nói:

– Vậy là ngươi nên lập tức chạy đi, nếu không Điền Bá Quang giết Lệnh Hồ Xung xong thì ngươi khó mà thoát khỏi tên độc thủ này.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ, Lệnh Hồ đại ca lại thúc giục, đệ tử đành bái đại ca một bái rồi nói: “Đa tạ ơn cứu mạng của Lệnh Hồ đại ca” rồi quay người đi xuống lầu. Mới đi đến đầu cầu thang, bỗng nghe tiếng Điền Bá Quang quát: “Trúng rồi!”, đệ tử liền quay đầu lại. Hai giọt máu tươi văng đến dính trên vạt áo của đệ tử. Thì ra Lệnh Hồ đại ca bị trúng một đao trên bả vai.

Điền Bá Quang cười nói: “Thế nào? Tiểu đệ thấy kiếm pháp đánh ngồi đệ nhị thiên hạ của Lệnh Hồ huynh cũng tầm thường thôi!” Lệnh Hồ đại ca nói: “Tiểu ni cô này còn chưa đi, tiểu đệ làm sao mà đánh thắng Điền huynh? Cái mạng của tiểu đệ xui xẻo thật rồi”. Đệ tử tưởng Lệnh Hồ đại ca kiêng kỵ ni cô, nếu đệ tử chần chừ không đi thì sợ làm hại tính mạng của đại ca thật, nên vội vàng chạy xuống lầu. Khi xuống dưới đất, đệ tử lại nghe tiếng đao kiếm giao đấu kịch liệt ở trên lầu rồi Điền Bá Quang lại la to: “Trúng rồi!”

Đệ tử kinh hãi quá, đoán rằng Lệnh Hồ đại ca lại bị hắn chém trúng một đao nữa nhưng không dám lên lầu để xem. Đệ tử bèn chạy ra bên ngoài vịn tường leo lên nóc tửu lâu, nằm áp sát mặt vào mái ngói, từ lỗ hổng nhìn vào trong, thấy Lệnh Hồ đại ca vẫn cầm kiếm đấu điên cuồng, khắp người đầy máu; còn Điền Bá Quang không bị thương một chút nào cả.

Đấu thêm một hiệp thì Điền Bá Quang lại la lên: “Trúng rồi!” một đao nữa chém trúng vai trái Lệnh Hồ đại ca. Điền Bá Quang thu đao cười nói: “Lệnh Hồ huynh, chiêu này là tiểu đệ đao hạ lưu tình đấy!” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tất nhiên là tiểu đệ biết chứ, Điền huynh xuống tay mạnh một chút nữa thì cánh tay này của tiểu đệ đã bị huynh chặt rớt rồi”. Sư phụ, đã ra nông nỗi này mà đại ca còn cười được. Điền Bá Quang nói: “Lệnh Hồ huynh còn muốn đánh nữa không?” Lệnh Hồ đại ca đáp: “Đương nhiên là đánh nữa, tiểu đệ còn chưa đứng mà”. Điền Bá Quang nói: “Tiểu đệ khuyên Lệnh Hồ huynh nên chịu thua mà đứng dậy đi thôi. Những lời giao ước của chúng ta coi như xí xóa, Lệnh Hồ huynh không cần bái tiểu ni cô làm sư phụ”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Lời đã nói ra sao có thể xí xóa được?” Điền Bá Quang nói: “Tiểu đệ đã thấy qua rất nhiều hán tử kiên cường trong thiên hạ nhưng người như Lệnh Hồ huynh thì hôm nay Điền Bá Quang mới thấy lần đầu. Được, chúng ta sẽ không phân thắng bại, cả hai dừng tay thôi, được chứ?”

Lệnh Hồ đại ca nhìn hắn cười ha ha, không nói lời nào, máu tươi từ những vết thương trên người không ngừng rơi xuống sàn nhà tạo thành những tiếng tí tách. Điền Bá Quang liệng đơn đao xuống, muốn đứng dậy, bỗng nhiên nghĩ đến giao ước hễ đứng dậy là thua nên người hắn chỉ lạng một cái nhưng vẫn ngồi trên ghế, coi như chưa rời khỏi ghế. Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Điền huynh, huynh nhanh trí thật”.

Mọi người nghe đến đây đều thốt lên úi chà, hối tiếc giùm cho Lệnh Hồ Xung.

Nghi Lâm tiếp tục kể:

– Điền Bá Quang nhặt đơn đao lên rồi nói: “Tiểu đệ muốn sử đao thật nhanh, nếu chậm một chút nữa thì tiểu ni cô đó chạy trốn mất, có đuổi theo tìm cũng không kịp”. Nghe hắn nói còn muốn đuổi theo, đệ tử sợ đến nỗi toàn thân phát run, lại lo cho Lệnh Hồ đại ca đã bị hắn hạ độc thủ, không biết phải làm sao. Bỗng nhiên đệ tử lại nghĩ ra, sở dĩ Lệnh Hồ đại ca liều mạng quyết đấu với hắn chỉ vì để cứu đệ tử. Vậy chỉ còn cách đệ tử tự vẫn trước mặt hắn thì mới có thể làm cho Lệnh Hồ đại ca thoát chết. Đệ tử liền rút thanh kiếm gãy sau lưng ra, định nhảy xuống tửu lâu. Bỗng nhiên, đệ tử thấy Lệnh Hồ đại ca chao người, cả người và ghế đổ xuống sàn nhà, lại thấy hai tay của đại ca chống xuống đất, rồi lồm cồm bò dậy, cái ghế vẫn đè lên người đại ca. Đại ca bị thương rất nặng, nhất thời không đứng dậy được nữa.

Điền Bá Quang lấy làm đắc ý cười nói: “Ngồi đánh thì đệ nhị thiên hạ, còn nằm đánh thì đứng hạng mấy đây?” Vừa nói hắn vừa đứng dậy.

Lệnh Hồ đại ca cười ha hả rồi nói: “Điền huynh thua rồi!” Điền Bá Quang cười nói: “Lệnh Hồ huynh thua te tua như vậy mà còn bảo tiểu đệ thua ư?” Lệnh Hồ đại ca nằm sát xuống đất rồi hỏi: “Trước khi đánh nhau chúng ta đã giao ước như thế nào?” Điền Bá Quang nói: “Chúng ta giao ước là ngồi đánh, ai đứng lên trước, mông rời khỏi ghế thì… thì… thì…” Hắn nói liền ba chữ “thì” một lúc thì không nói được nữa, giơ tay trái chỉ vào Lệnh Hồ đại ca. Thì ra lúc này hắn mới biết là đã bị lừa. Hắn đã đứng dậy còn Lệnh Hồ đại ca vẫn chưa đứng, mông cũng chưa rời khỏi ghế, tuy bộ dạng rất thê thảm, nhưng theo lời giao ước thì coi như đã thắng.

Mọi người nghe đến đây không nhịn được, vỗ tay cười lớn reo lên:

– Thật là bậc thiếu niên anh hùng!

Dư Thương Hải hừ lên một tiếng rồi nói:

– Tiểu tử vô lại này dùng thủ đoạn lưu manh để lừa gạt dâm tặc Điền Bá Quang, há không làm mất đi thể diện của danh môn chính phái ư?

Định Dật tức giận nói:

– Cái gì là thủ đoạn lưu manh? Đại trượng phu đấu trí chứ không đấu sức. Bần ni chưa hề thấy trong phái Thanh Thành của các hạ có một thanh niên nào có nghĩa khí như vậy.

Lão ni nghe Nghi Lâm thuật lại chuyện Lệnh Hồ Xung quên mình giao đấu để bảo vệ thanh danh cho phái Hằng Sơn, lòng thật sự cảm kích. Trước đây, lão ni có ý oán giận Lệnh Hồ Xung, giờ thì nỗi oán giận đó đã tan hết rồi. Dư Thương Hải lại hừ lên một tiếng rồi nói:

– Gã thiếu niên anh hùng bò dưới đất thật là tuyệt diệu!

Định Dật lớn tiếng nói:

– Phái Thanh Thành ngươi…

Lưu Chính Phong sợ hai người lại xảy ra xung đột, vội vàng cắt ngang lời nói của Định Dật, hỏi Nghi Lâm:

– Hiền điệt, Điền Bá Quang có chịu thua hay không?

Nghi Lâm đáp:

– Điền Bá Quang đứng ngây người ra, nhất thời không biết nói gì. Lệnh Hồ đại ca gọi: “Tiểu sư muội phái Hằng Sơn, sư muội mau xuống đi, đại ca mừng cho tiểu muội mới thu nhận một vị cao túc”. Thì ra đại ca đã sớm biết tiểu đồ núp trên nóc nhà. Gã Điền Bá Quang này tuy độc ác, nhưng không đến nỗi là kẻ nói rồi nuốt lời. Nếu lúc đó hắn tiến một bước cầm đao giết Lệnh Hồ đại ca rồi quay lại đối phó với đệ tử thì xong ngay. Nhưng hắn lại gọi to: “Tiểu ni cô, ta cho ngươi biết, ngươi mà còn dám gặp mặt ta thì ta sẽ chém một đao là toi mạng”. Đệ tử vốn không muốn thu nhận tên ác nhân này làm đồ đệ, hắn nói như vậy chính là điều đệ tử có muốn cũng không được. Điền Bá Quang nói câu này xong, tra đao vào vỏ rồi sải bước xuống khỏi tửu lâu. Đệ tử nhảy xuống sàn nhà, đỡ Lệnh Hồ đại ca dậy, lấy Thiên hương đoạn tục giao ra bôi lên vết thương cho đại ca. Đệ tử đếm các vết thương lớn nhỏ trên người đại ca thì có đến hơn mười ba vết…

Dư Thương Hải bỗng nhiên xen vào:

– Định Dật sư thái! Xin chúc mừng, chúc mừng!

Định Dật sư thái trừng mắt nhìn lão nói:

– Chúc mừng cái gì?

Dư Thương Hải nói:

– Chúc mừng sư thái mới thu được một tên hảo đồ tôn võ công trác tuyệt, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ!

Định Dật cả giận, đập bàn một cái rầm, đứng dậy.

Thiên Môn đạo nhân nói:

– Dư quán chủ, quán chủ nói không đúng rồi. Chúng ta là những người tu hành trong Huyền môn, sao có thể nói với nhau những lời xiên xỏ buồn cười như vậy?

Dư Thương Hải một là biết mình đuối lý, hai là đối với Thiên Môn đạo nhân lão mười phần kiêng kỵ. Lão liền quay đầu đi giả bộ như chẳng nghe thấy gì.

Hồi 16: Thí cổ hướng hậu Bình sa lạc nhạn

Nghi Lâm tiếp tục kể:

– Đệ tử săn sóc vết thương cho Lệnh Hồ đại ca, đỡ đại ca ngồi lên ghế. Lệnh Hồ đại ca thều thào nói: “Cảm phiền sư muội rót cho ta một bát rượu”. Đệ tử rót đầy bát rượu đưa cho đại ca. Bỗng nhiên dưới thang lầu nghe có tiếng bước chân, rồi hai người bước lên. Một người chính là hắn.

Nghi Lâm đưa tay chỉ vào cái xác La Nhân Kiệt, đệ tử của phái Thanh Thành rồi nói:

– Còn người kia cũng ác ôn như La Nhân Kiệt. Chúng nhìn đệ tử rồi nhìn Lệnh Hồ đại ca, rồi lại quay nhìn đệ tử; ánh mắt rất vô lễ.

Mọi người nghĩ tất nhiên bọn La Nhân Kiệt thấy người Lệnh Hồ Xung đầy máu và một tiểu ni cô dung mạo mỹ miều ngồi trên tửu lâu, mà tiểu ni cô lại rót rượu cho hắn uống, dĩ nhiên cho là chuyện kỳ cục, nên chúng nhìn một cách vô lễ cũng chẳng có gì là lạ.

Nghi Lâm kể tiếp:

– Lệnh Hồ đại ca liếc nhìn La Nhân Kiệt rồi hỏi: “Sư muội, sư muội có biết sở trường tối cao của phái Thanh Thành là công phu gì không?” Đệ tử đáp: “Tiểu muội không biết, nghe nói phái Thanh Thành có nhiều công phu cao minh”. Lệnh Hồ đại ca nói: “Đúng vậy, công phu cao minh của phái Thanh Thành thì rất nhiều nhưng trong đó có một chiêu cao minh nhất, hà hà… Để khỏi tổn thương hòa khí, ta không thèm nói nữa”. Đại sư ca nói xong trợn mắt nhìn La Nhân Kiệt. La Nhân Kiệt sấn sổ tiến đến quát: “Cao minh nhất là cái gì? Ngươi nói thử xem?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Tại hạ vốn không muốn nói ra, nhưng các hạ nhất định muốn tại hạ phải nói. Đó là chiêu Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức”. La Nhân Kiệt giơ tay đập bàn quát: “Nói tầm bậy, cái gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức (Chổng đít ra sau, rơi như con nhạn bay xuống bãi cát)? Trước nay, ta chưa hề nghe”.

Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Đây là chiêu thức giữ nhà của quý phái, sao các hạ lại chưa nghe qua? Các hạ quay người lại, tại hạ diễn cho các hạ xem”. La Nhân Kiệt chửi vài câu, vung quyền đánh Lệnh Hồ đại ca. Lệnh Hồ đại ca muốn đứng dậy né tránh nhưng vì bị mất máu quá nhiều, một chút khí lực cũng không còn, toàn thân loạng choạng lập tức té ngồi xuống, bị hắn đánh cho một quyền trúng mũi, máu tươi chảy ra. La Nhân Kiệt định đánh quyền thứ hai thì đệ tử vội đưa tay ra cản, nói: “Đừng đánh nữa, người này đang bị trọng thương, các hạ không thấy sao? Các hạ ăn hiếp người đã bị thương thì đâu phải là anh hùng hảo hán?” La Nhân Kiệt chửi: “Tiểu ni cô thấy tiểu tặc này đẹp trai mà động lòng phàm tục ư? Mau tránh ra. Ngươi không tránh thì ta sẽ đánh cả ngươi luôn”. Đệ tử nói: “Ngươi mà dám đánh ta, ta sẽ thưa lên sư phụ của ngươi là Dư quán chủ cho coi”. Hắn nói: “Ha ha, ngươi không giữ thanh quy, đã phạm dâm giới thì người trong thiên hạ ai cũng đánh được”. Sư phụ, hắn nói như vậy thì chết đâu có oan uổng? Hắn giơ tay trái chụp lấy đệ tử, đệ tử đưa tay ra đỡ, không ngờ đây chỉ là hư chiêu. Bỗng nhiên, tay phải của hắn đưa ra véo lên má trái đệ tử một cái rồi còn cười một cách ma quái nữa. Đệ tử vừa tức giận vừa nôn nóng liền đánh ra ba chưởng nhưng hắn né tránh được hết.

Lệnh Hồ đại ca nói: “Sư muội, muội đừng động thủ , ta vận khí một chút nữa là được rồi”. Đệ tử quay đầu nhìn đại ca thấy khuôn mặt đại ca không chút máu. Lúc đó, La Nhân Kiệt chạy đến muốn đánh đại ca. Lệnh Hồ đại ca tay trái thủ chưởng, xoay người nửa vòng, phóng cước đá trúng… mông đít của hắn. Cước này vừa nhanh vừa chuẩn xác, tuyệt diệu vô cùng. La Nhân Kiệt đứng không vững bay nhào xuống lầu.

Lệnh Hồ đại ca nói khẽ: “Sư muội, đây chính là chiêu số cao minh nhất của phái Thanh Thành, được gọi là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức. Thí cổ hướng hậu là chuyên chổng đít ra sau còn bình sa lạc… lạc… nhạn thì tiểu sư muội nhìn thấy rồi đó, có giống không?” Đệ tử muốn bật cười, nhưng thấy sắc mặt của đại ca càng lúc càng tái đi, đệ tử rất đau lòng, bèn khuyên: “Đại ca nghỉ một chút đi, đừng nói nữa”. Đệ tử thấy các vết thương của đại ca rướm máu, hiển nhiên vừa rồi đã dùng quá sức đá một cước làm cho các miệng vết thương rách ra.

Gã La Nhân Kiệt sau khi bị rớt xuống lầu lập tức chạy lên lại, tay đã cầm thanh kiếm quát: “Ngươi là Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn phải không?” Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Cao thủ của quý phái đã được ta thi triển chiêu Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức đến các hạ đã là người thứ ba, đừng trách… đừng trách…” Đại ca nói tới đó thì ho lên sù sụ. Đệ tử sợ La Nhân Kiệt hại đại ca, bèn rút kiếm ra đứng bên cạnh bảo vệ.

La Nhân Kiệt nói với gã sư đệ: “Lê sư đệ, sư đệ đối phó với tiểu ni cô này”. Gã ác nhân họ Lê liền dạ, rồi rút trường kiếm tấn công đệ tử, đệ tử xuất chiêu để đỡ. La Nhân Kiệt vung kiếm lia lia nhắm Lệnh Hồ đại ca mà đâm. Lệnh Hồ đại ca gắng hết sức giơ kiếm lên đỡ chiêu kiếm của hắn, tình thế rất là nguy cấp. Vừa đánh được mấy chiêu, trường kiếm của Lệnh Hồ đại ca đã bị đánh rớt. La Nhân Kiệt phóng trường kiếm chỉ vào trước ngực của đại ca cười nói: “Ngươi gọi ta ba tiếng “Gia gia phái Thanh Thành” thì ta sẽ tha mạng cho”. Lệnh Hồ đại ca cười nói: “Được, để ta gọi! Sau khi ta gọi rồi, ngươi có chịu truyền hay không truyền cho ta chiêu thức Thí cổ hướng hậu bình sa…” Đại ca chưa dứt lời, thì bị tên ác nhân La Nhân Kiệt phóng kiếm đâm mạnh vào ngực. Tên ác nhân này thật là độc ác.

Cô nói đến đây, những giọt nước mắt long lanh chảy dài trên má rồi rơi xuống. Cô nghẹn ngào kể tiếp:

– Đệ tử… đệ tử… đệ tử thấy tình cảnh như vậy, liền nhảy vào ngăn cản nhưng lưỡi kiếm của La Nhân Kiệt đã… đã đâm vào ngực của Lệnh Hồ đại ca rồi.

Tòa hoa sảnh yên tĩnh không một tiếng động.

Dư Thương Hải cảm giác có rất nhiều ánh mắt nhìn mình với vẻ phẫn nộ và khinh bỉ. Lão nói:

– Ngươi nói những lời đó chưa chắc đúng sự thật. Ngươi nói La Nhân Kiệt đã giết Lệnh Hồ Xung rồi thì tại sao La Nhân Kiệt lại chết dưới kiếm của hắn?

Nghi Lâm đáp:

– Sau khi Lệnh Hồ đại ca bị đâm, đại ca vẫn còn cười, nói khẽ với đệ tử: “Tiểu sư muội, ta… ta có một bí mật, nói cho muội nghe. Là Tịch tà… Tịch tà kiếm phổ của Phước… Phước Oai tiêu cục ở… ở…” Đại ca nói càng lúc càng nhỏ, đệ tử không nghe được gì, chỉ thấy miệng đại ca mấp máy…

Dư Thương Hải nghe cô ta nhắc đến Tịch tà kiếm phổ của Phước Oai tiêu cục thì bất giác tâm thần chấn động, không tự chủ được, vẻ mặt vô cùng hồi hộp, bèn hỏi:

– Ở chỗ…?

Lão muốn hỏi ở chỗ nào nhưng lập tức nghĩ lại câu hỏi này vạn lần không nên nói ra trước mặt mọi người nên ngừng lại ngay, nhưng trống ngực đập loạn xạ cả lên. Lão chỉ mong Nghi Lâm còn nhỏ không biết gì sẽ nói ra hết, nếu không sau sự việc này, Định Dật sư thái sẽ hỏi thêm cho tận tường, lão ni sẽ biết được tầm quan trọng của Tịch tà kiếm phổ, thì lão không còn cơ hội để nghe điều cơ mật này nữa.

Nghi Lâm kể tiếp:

– La Nhân Kiệt đối với kiếm phổ gì đó dường như vô cùng quan tâm, liền đi đến, cúi thấp người xuống để nghe cho rõ Lệnh Hồ đại ca nói kiếm phổ đó ở chỗ nào. Bỗng nhiên, Lệnh Hồ đại ca chụp thanh kiếm ở dưới sàn nhà lên đâm vào bụng dưới của La Nhân Kiệt. Tên ác nhân này ngẩng mặt lên trời rồi té nhào, tay chân co rút lại, không bò dậy nổi nữa. Hóa ra… hóa ra… sư phụ… Lệnh Hồ đại ca cố ý lừa hắn đến gần, giết hắn để báo thù.

Nghi Lâm kể xong câu chuyện, tinh thần không chịu đựng được nữa, toàn thân lảo đảo rồi ngất xỉu. Định Dật sư thái đưa cánh tay ôm lấy lưng cô rồi nhìn Dư Thương Hải với cặp mắt không chút thiện cảm.

Mọi người mặc nhiên không nói lời nào, tưởng tượng lại cuộc đấu kinh tâm động phách ở trên gác Hồi Nhạn lâu. Trong mắt của các cao thủ Thiên Môn đạo nhân, Lưu Chính Phong, Văn tiên sinh, Hà Tam Thất, võ công của Lệnh Hồ Xung và La Nhân Kiệt tất nhiên không có gì cao cường cả, nhưng trận ác đấu biến ảo thảm khốc như thế này thì chưa từng nghe thấy trên giang hồ. Câu chuyện này lại do chính miệng tiểu ni cô Nghi Lâm yêu kiều, ngây thơ kể lại, hiển nhiên không có chút gì giả dối cả.

Lưu Chính Phong nhìn gã đệ tử phái Thanh Thành họ Lê hỏi:

– Lê thế huynh, lúc đó thế huynh cũng ở hiện trường, có tận mắt nhìn thấy đúng như vậy không?

Gã họ Lê đệ tử phái Thanh Thành không trả lời, đưa mắt nhìn Dư Thương Hải. Mọi người thấy sắc mặt của gã thì biết ngay sự tình xảy ra đúng như vậy; nếu không, Nghi Lâm chỉ cần nói dối nửa câu là gã tất đã lên tiếng cãi lại.

Dư Thương Hải đưa mắt nhìn Lao Đức Nặc, sắc mặt lão xanh lè, lạnh lùng hỏi:

– Lao hiền điệt, phái Thanh Thành của ta đã làm gì đắc tội với quý phái mà lệnh sư huynh lại vô cớ sinh sự với đệ tử phái Thanh Thành?

Lao Đức Nặc lắc đầu đáp:

– Đệ tử không biết. Đó là Lệnh Hồ đại ca và La sư huynh của quý phái có xích mích vì chuyện riêng tư chứ chẳng liên can gì đến mối giao tình giữa hai phái Thanh Thành và Hoa Sơn cả.

Dư Thương Hải cười khẩy nói:

– Tuyệt đối không có liên can gì! Hiền điệt tưởng chối là xong…

Hồi 17: Diễn biến bất ngờ trong đại sảnh

Lão nói chưa dứt lời, bỗng nghe két một tiếng, cửa sổ phía Tây mở ra, một người bay vào. Mọi người trên hoa sảnh là cao thủ, ứng biến thần tốc, né ra hai bên để tránh. Ai cũng xuất quyền, vung chưởng tự hộ thân, còn chưa thấy rõ người bay vào là ai. Lại nghe két một tiếng, thêm một người bay vào n ữa. Hai người này ngã xuống đất, nằm dài bất động. Cả hai đều mặc trường bào màu xanh, màu áo của đệ tử phái Thanh Thành. Trên áo, chỗ ngang mông còn in rõ vết chân đầy bùn.

Bỗng nghe ở ngoài cửa có tiếng một người nào đó la lớn:

– Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức! Ha ha! Ha ha!

Dư Thương Hải lạng người một cái, song chưởng đánh ra, đồng thời người lão cũng lao theo thế chưởng luồn ra ngoài cửa sổ, tay trái vin vào cánh cửa sổ làm thế nhảy lên nóc nhà, chân trái vừa đặt trên mái ngói thì đôi mắt đã quan sát bốn phương. Nhưng lão chỉ thấy trời tối đen thăm thẳm, mưa lất phất rơi, không có một bóng người nào cả. Lão nghĩ bụng: Người này quyết không thể trong nháy mắt mà biến mất không để lại dấu vết. Nhất định hắn ẩn núp ở gần đâu đây thôi.

Lão biết người này là kình địch, liền giơ tay rút thanh trường kiếm, triển khai nội lực toàn thân, chạy khắp Lưu phủ một cách thần tốc dị thường.

Thiên Môn đạo nhân tự trọng thân phận của mình, vẫn ngồi bất động trên ghế; còn Định Dật sư thái, Hà Tam Thất, Văn tiên sinh, Lưu Chính Phong, Lao Đức Nặc và những người khác đều đã nhảy lên nóc nhà, chỉ thấy một đạo nhân thân người lùn tịt nhỏ bé, cầm kiếm chạy rất nhanh. Trong đêm tối mắt mọi người thấy ánh kiếm sáng loáng, tạo thành một luồng bạch quang huyền ảo bao quanh mười nóc nhà của Lưu phủ. Ai cũng ngấm ngầm khâm phục công phu khinh thân của Dư Thương Hải.

Dư Thương Hải tuy chạy rất nhanh nhưng bốn phía các nóc nhà của Lưu phủ từ tàn cây, bụi cỏ không chỗ nào có thể lọt qua mắt lão. Không thấy có bất cứ cái gì khác thường, lão lập tức nhảy xuống hoa sảnh, thấy hai tên đệ tử của mình vẫn nằm lăn dưới đất, trên mông của chúng vẫn còn in rõ dấu chân. Lão tưởng chừng như mọi đôi mắt của bọn hào sĩ giang hồ đang cười nhạo làm phái Thanh Thành mất hết thể diện.

Dư Thương Hải đưa tay lật một tên đệ tử lại, thấy đó là Thân Nhân Tuấn. Người kia không cần lật lại nhưng từ phía sau ót vẫn thấy được bộ râu quai nón thì lão biết ngay là Cát Nhân Thông, bạn rất thân của Thân Nhân Tuấn. Lão đưa tay giải khai huyệt đạo ở hai bên ngực của Thân Nhân Tuấn rồi hỏi:

– Ngươi bị ai đá vậy?

Thân Nhân Tuấn há miệng muốn nói nhưng nói không ra tiếng. Dư Thương Hải giật mình kinh hãi. Vừa rồi, hai cái điểm giải khai huyệt đạo của lão tưởng chỉ là rất nhẹ nhàng, không dùng sức nhiều nhưng kỳ thực lão đã vận dụng hết nội lực thượng thừa của phái Thanh Thành mà huyệt đạo Thân Nhân Tuấn vẫn không giải khai được. Lão ngấm ngầm vận nội công truyền hết nội lực vào huyệt Linh đài ở sau lưng Thân Nhân Tuấn. Một lúc lâu sau, Thân Nhân Tuấn mới ú ớ nói:

– Sư… sư phụ!

Dư Thương Hải không đáp, tiếp tục truyền thêm nội lực. Thân Nhân Tuấn nói:

– Đệ… đệ tử không thấy được đối thủ là ai.

Dư Thương Hải hỏi:

– Hắn hạ thủ ở đâu?

Thân Nhân Tuấn đáp:

– Đệ tử và Cát sư đệ cùng đi ra ngoài chơi, bỗng dưng đệ tử cảm thấy sau lưng tê nhức thì mới biết đã bị tên rùa đen chó má nào đó hạ thủ.

Dư Thương Hải trầm nét mặt nói:

– Người ta là cao thủ võ lâm, không nên hồ đồ mà chửi bới.

Thân Nhân Tuấn đáp:

– Dạ!

Dư Thương Hải nhất thời không hiểu được đối phương gốc gác thế nào, lão ngẩng lên chỉ thấy Thiên Môn đạo nhân mặt lạnh như gỗ đá, đối với chuyện này dường như hoàn toàn chẳng quan tâm.

Lão nghĩ thầm: Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, Nhân Kiệt đã giết Lệnh Hồ Xung rồi. Xem ra lão Thiên Môn này sắp cự nự ta đây.

Bỗng nhiên lão nghĩ ra: Có lẽ người hạ thủ đang ở trong đại sảnh.

Lão lập tức vẫy Thân Nhân Tuấn, chạy nhanh vào đại sảnh.

Mọi người trên sảnh đang xôn xao bàn tán, phỏng đoán ai đã hạ độc thủ gây ra cái chết bất đắc kỳ tử cho một đệ tử phái Thái Sơn, một đệ tử phái Thanh Thành. Bỗng nhiên thấy Dư Thương Hải tiến vào, có người nhận ra lão là chưởng môn phái Thanh Thành, có người không nhận ra, thấy tướng lão không quá năm thước, nhưng lại có khí phách của bậc tôn sư võ học. Lão không giận nhưng tướng mạo, cử chỉ vẫn rất oai nghiêm, nên tất cả đều im lặng.

Dư Thương Hải đảo mắt nhìn mặt từng người. Mọi người trong sảnh đều là nhân vật hạng nhì trong võ lâm, tuy lão không nhận ra nhiều nhưng nhìn vào sắc phục của từng người thì mười phần cũng đoán được tám chín họ thuộc môn phái nào. Lão đoán trong các đệ tử đời thứ hai của bất cứ môn phái nào cũng không thể có hảo thủ có nội lực thâm hậu như vậy, người này nếu ở trong đại sảnh tất nhiên phải khác hẳn mọi người. Lão nhìn từng người, từng người một rồi đột nhiên ánh mắt sắc bén như dao của lão dừng lại ở một người.

Người này hình dáng cực kỳ dị hợm, da thịt trên mặt co rúm lại, cái lưng gù lên. Hóa ra đó là một người gù.

Dư Thương Hải bỗng nhớ đến một người, bất giác sợ hãi, nghĩ thầm:

– Chẳng lẽ là hắn? Nghe nói Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong ở nơi giá lạnh, không bao giờ vào Trung Nguyên và không hề có giao tình gì với Ngũ Nhạc kiếm phái, sao lại đến tham dự lễ rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong? Nếu không phải là hắn thì trong võ lâm đâu có người thứ hai đã gù lưng mà tướng mạo lại xấu xí như vậy?

Mọi người trong đại sảnh theo hướng của Dư Thương Hải cùng nhìn thẳng về phía gã lưng gù. Có mấy vị tiền bối hiểu chuyện xưa trong võ lâm đều không khỏi kinh ngạc ồ lên một tiếng. Lưu Chính Phong vội đi đến, vái dài một cái rồi nói:

– Không biết tôn giá quang lâm nên không kịp nghinh tiếp. Thật là đắc tội!

Kỳ thực người lưng gù đó nào có muốn trở thành dị nhân trong võ lâm gì đâu! Chàng chính là Lâm Bình Chi, thiếu tiêu đầu của Phước Oai tiêu cục. Chàng rất sợ bị người khác nhận ra mình nên vẫn cúi đầu thấp xuống ngồi co rút trong góc đại sảnh, nếu không phải là Dư Thương Hải nhận ra tướng mạo kỳ dị của chàng thì sẽ không ai thèm chú ý đến chàng. Lúc này bỗng nhiên mọi người đưa mắt nhìn chằm chằm vào chàng. Lâm Bình Chi lúng túng, vội vàng đứng dậy đáp lễ Lưu Chính Phong, nói:

– Không dám, không dám!

Lưu Chính Phong biết Mộc Cao Phong là cao thủ người phương Bắc, nhưng trước mặt lão, người này lại nói khẩu âm phương Nam, tuổi tác thua kém rất xa nên lão không thể không hoài nghi. Nhưng biết Mộc Cao Phong hành sự xuất quỷ nhập thần, không thể phỏng đoán theo lẽ thường tình được nên lão vẫn cung kính nói:

– Tại hạ Lưu Chính Phong, không dám thỉnh giáo cao danh quý tính của các hạ…

Lâm Bình Chi không ngờ rằng có người lại hỏi đến họ tên mình, chàng ấp úng, nhất thời không đáp. Lưu Chính Phong nói:

– Các hạ cùng với Mộc đại hiệp…

Lâm Bình Chi nhạy cảm, nghĩ ra: Mình họ Lâm, tách chữ Lâm ra chỉ dùng một nửa thì xưng đại họ Mộc cũng được.

Chàng bèn buột miệng nói:

– Tại hạ họ Mộc…

Lưu Chính Phong nói:

– Mộc tiên sinh quang lâm Hành Sơn, thật là hân hạnh cho Lưu mỗ. Không biết các hạ với Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp xưng hô ra sao?

Lão thấy Lâm Bình Chi tuổi còn rất trẻ, đồng thời trên mặt lại dán mấy miếng thuốc cao, hiển nhiên là cố ý che giấu diện mạo, quyết không phải là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong đã nổi danh mấy chục năm.

Lâm Bình Chi trước giờ chưa nghe đến mấy chữ “Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp”, chỉ nghe giọng nói của Lưu Chính Phong đối với người họ Mộc này rất tôn kính. Nhưng Dư Thương Hải đang đứng bên cạnh nhìn chàng với cái nhìn không thiện cảm nên chàng không thể để lộ tung tích, nếu để lộ thì lập tức toi mạng dưới chưởng của lão ngay. Tình thế rất cấp bách chàng đành phải thuận miệng nói qua loa cho xong:

– Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp ư? Đó là… đó là trưởng bối của tại hạ.

Chàng nghĩ người đó được gọi là “đại hiệp”, đương nhiên có thể gọi là “trưởng bối”.

Dư Thương Hải nhìn thấy trong sảnh đường không có người nào dị dạng như vậy, thì lão đoán ngay đệ tử Thân Nhân Tuấn và Cát Nhân Thông nhất định là bị người này ra tay hạ nhục. Nếu Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong thân hành đến đây thì lão cũng có chút kiêng dè, sợ sệt; gã này chẳng qua chỉ là con cháu của Mộc Cao Phong nên lão cũng không để tâm làm gì. Nhưng vì hắn muốn đến đây sinh sự với phái Thanh Thành, thì lão làm sao có thể nuốt được nỗi căm tức này?

Lão lạnh lùng hỏi:

– Phái Thanh Thành và Tái Bắc Mộc tiên sinh không có liên quan gì với nhau, không hiểu có chỗ nào đắc tội với các hạ?

Lâm Bình Chi và đạo nhân thấp lùn đứng đối diện với nhau. Chàng nghĩ những ngày qua, tiêu cục bị tàn phá, nhà tan cửa nát, phụ mẫu bị giam cầm đến nay không biết sống chết ra sao, tất cả đều do tên đạo nhân nhỏ con, lùn tịt này gây ra. Tuy biết võ công của lão cao hơn mình gấp trăm lần, nhưng bầu nhiệt huyết trong lòng sục sôi, chàng chỉ muốn rút kiếm đâm lão. Mấy ngày nay trải qua nhiều ưu phiền, lo lắng, chàng đã không còn tìm lại được những ngày niên thiếu quần lụa áo là đi săn, đá gà như hồi ở Phúc Châu nữa. Chàng nén lửa giận đang bốc lên, nói:

– Phái Thanh Thành đã làm nhiều việc tốt đẹp quá! Trên đường, Mộc đại hiệp thấy chuyện bất bình, đã ra tay. Lão nhân gia đạo cả lòng thành ra tay dẹp bọn hung tàn và giúp đỡ người yếu đuối, hà tất các hạ phải quan tâm chuyện đắc tội hay không đắc tội với lão nhân gia?

Lưu Chính Phong nghe qua, lòng không khỏi cười thầm. Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong võ công tuy cao cường nhưng nhân phẩm lại đê hèn; ba chữ “Mộc đại hiệp” chỉ vì tiện miệng gọi ra mà thôi, chứ nếu lấy con người Mộc Cao Phong ra mà luận bàn thì đừng nói đến hai chữ “đại hiệp” mà ngay chỉ một chữ “hiệp” cũng không xứng. Tính lão ưa xu phụ quyền thế, không có tín nghĩa, chỉ vì võ công của lão cao cường, người lại linh mẫn, nếu gây hấn kết thù với lão thì không biết đâu mà đề phòng. Đối với lão người trong võ lâm thường úy kỵ và muốn lánh xa, không ai có ý tôn kính lão thật sự cả.

Lưu Chính Phong nghe Lâm Bình Chi nói như vậy thì tin rằng chàng là tử điệt của Mộc Cao Phong. Lão sợ Dư Thương Hải ra tay làm tổn thương chàng gù nên lập tức cười nói:

– Dư quán chủ, Mộc huynh! Hai vị đã đến tệ xá thì đều là khách quý của tại hạ, vậy xin hai vị hãy vì Lưu mỗ cùng uống chén rượu trong hòa khí. Người đâu, mang rượu ra đây!

Bọn gia đinh dạ ran, rót rượu đem đến.

Dư Thương Hải đối với gã thanh niên lưng gù trước mặt tuy không rời khỏi mắt, nhưng lão nghĩ đến tiếng đồn nghe đầy cả hai tai về thành tích vô lại của Mộc Cao Phong trên giang hồ nên không dám mạo muội trở mặt. Thấy gia đinh của Lưu phủ rót rượu mang đến, lão không đưa tay tiếp rượu, muốn xem hành động của đối phương ra sao.

Lâm Bình Chi vừa giận vừa sợ, nhưng mối căm hận vẫn nhiều hơn. Chàng nghĩ thầm: Không chừng giờ phút này gia gia và má má của mình đã bị tên đạo nhân lùn tịt này hạ độc thủ rồi. Mình dù có thể bị lão cho một chưởng chết ngay ở đương trường cũng quyết không cùng uống chén rượu với lão.

Ánh mắt chàng bốc lên lửa giận ngùn ngụt. Chàng trừng mắt nhìn Dư Thương Hải, không thèm đưa tay tiếp ly rượu. Chàng còn muốn nhục mạ lão mấy câu nhưng lại sợ uy thế của lão nên không dám chửi ra thành lời.

Dư Thương Hải thấy Lâm Bình Chi đối với mình đầy ý thù địch, lửa giận cũng bốc lên ngùn ngụt. Lão bèn đưa tay ra thi triển cầm nã thủ pháp, nắm chặt cổ tay của Lâm Bình Chi rồi nói:

– Được. Hay lắm, hay lắm! Theo thông lệ trước mặt Lưu tam gia, không ai được vô lễ ở Lưu phủ. Mộc huynh đệ, chúng ta hãy thân cận với nhau đi.

Lâm Bình Chi dùng hết sức cựa quậy nhưng không thể rút tay ra được, chỉ nghe lão nói đến chữ “cận” thì cảm thấy đau buốt cổ tay, xương cổ tay kêu rắc rắc, dường như bị lão bẻ gãy rồi. Dư Thương Hải ngưng lại, đợi cho Lâm Bình Chi lên tiếng xin tha. Nào ngờ đối với lão Lâm Bình Chi có mối thâm thù đại hận, tuy xương cổ tay đau buốt nhưng chàng vẫn không rên lên một tiếng.

Lưu Chính Phong đứng bên cạnh thấy những giọt mồ hôi to như hạt đậu đổ ra trên trán chàng nhưng thần sắc chàng vẫn rất ngạo nghễ, không tỏ ra khuất phục tí nào. Đối với người thanh niên kiên cường này, lão không khỏi có phần khâm phục, bèn nói:

– Dư quán chủ!

Lão đang tìm lời để giải hòa đôi bên, bỗng nghe có tiếng người thét lên rất chói tai:

– Dư quán chủ, sao Dư quán chủ cao hứng mà đi bắt nạt tôn tử của Mộc Cao Phong này vậy?

Mọi người cùng quay đầu nhìn lại thì thấy ở cửa đại sảnh có một lão già lưng gù béo phị đứng đó, mặt đầy lang ben trắng bệch lấm chấm xen lẫn những cục u đen, lại thêm cái lưng gù cao lên trông thật cổ quái và cực kỳ xấu xí. Đa số người trên sảnh chưa thấy qua chân tướng thật của Mộc Cao Phong, nay nghe lão tự xưng tên họ mình, lại thấy tướng mạo cổ quái của lão, bất giác ai cũng biến sắc mặt.

Lão gù mập ú nặng nề nhưng hành động cực kỳ mau lẹ. Chỉ trong nháy mắt, mọi người đã thấy lão đứng bên cạnh Lâm Bình Chi vỗ vai chàng rồi nói:

– Hảo tôn tử! Thừa tôn nhi! Ngươi ca ngợi gia gia nào là hành hiệp trượng nghĩa, đánh dẹp lũ cường hung, giúp đỡ người yếu hèn khiến gia gia nghe sướng hai lỗ tai lắm!

Lão nói xong lại vỗ nhẹ vào vai chàng.

Khi lão vỗ cái thứ nhất, Lâm Bình Chi cảm thấy toàn thân bị chấn động. Cánh tay của Dư Thương Hải cũng nóng lên, suýt nữa phải buông ra, nhưng lập tức lão vận công lực nắm chặt lại. Một cái vỗ của Mộc Cao Phong không làm cho năm ngón tay của Dư Thương Hải buông ra; lão vừa nói với Lâm Bình Chi vừa ngấm ngầm vận nội công. Lúc lão vỗ cái thứ hai lên vai chàng, lão đã sử dụng hết mười thành công lực. Lâm Bình Chi thấy trước mặt chợt tối đen, cổ họng muốn phát nôn, máu tươi chỉ chực trào ra miệng. Chàng ngậm lại, ực một tiếng nuốt ngược vào trong bụng.

Hổ khẩu của Dư Thương Hải muốn rách, không nắm được nữa đành phải buông tay Lâm Bình Chi ra, lùi lại một bước. Lão nghĩ bụng: Thủ đoạn lão lưng gù này thật lợi hại, quả nhiên danh bất hư truyền. Lão vì muốn ta phải buông tay ra mà lại làm cho cháu lão phải bị nội thương.

Lâm Bình Chi dùng hết sức cười lên ha hả, nhìn Dư Thương Hải nói:

– Dư quán chủ, võ công của phái Thanh Thành lão chẳng qua cũng chỉ tầm thường vậy thôi, so với Tái Bắc minh đà Mộc đại hiệp thì còn kém xa lắm. Tại hạ thấy quán chủ nên quy đầu làm môn hạ của Mộc đại hiệp, xin lão gia chỉ điểm cho mấy chiêu, cũng có thể… cũng có thể… có một chút tiến… tiến…

Người chàng bị nội thương, lúc nói một hơi dài như vậy thì tinh thần lại quá kích động nên cảm thấy lục phủ ngũ tạng dường như đảo lộn cả lên. Chàng cố nói cho hết lời nhưng không còn chút khí lực, người lảo đảo muốn té.

Dư Thương Hải nói:

– Được, ngươi bảo tại hạ quy đầu làm môn hạ của Mộc tiên sinh để học thêm một ít bản lĩnh, đó chính là điều mà Dư Thương Hải này có muốn cũng không được. Ngươi là môn hạ của Mộc tiên sinh, bản lĩnh nhất định rất cao thâm. Tại hạ xin muốn được lĩnh giáo.

Lão chỉ muốn khiêu chiến với Lâm Bình Chi nhưng lại muốn Mộc Cao Phong tụ thủ bàng quan, không được tham dự vào.

Mộc Cao Phong lùi về sau hai bước, cười nói:

– Tiểu tôn tử, ta chỉ sợ ngươi luyện tập chưa đạt đến thượng thừa, không phải là đối thủ của chưởng môn phái Thanh Thành. Ngươi mà tỷ đấu với lão tất sẽ bị uổng mạng, gia gia khó mà có được một hảo tôn tử vừa gù lưng vừa tuấn tú như vậy nên không đành để ngươi bị sát hại được. Nếu ngươi quỳ xuống dập đầu lạy gia gia, xin gia gia thay thế ngươi ra tay, thì gia gia làm ngay.

Lâm Bình Chi liếc Dư Thương Hải rồi nghĩ bụng: Nếu ta mạo muội tiến ra động thủ với lão họ Dư trong lúc lão đang nổi cơn tức giận thì chỉ cần một chiêu của lão là ta đã toi mạng rồi. Tính mạng không còn thì còn nói gì đến chuyện báo thù cho gia nương? Nhưng Lâm Bình Chi ta đường đường là đấng nam tử, sao có thể vô duyên vô cớ đi gọi lão lưng gù này là gia gia? Nếu ta quỳ trước mặt lão thì phải nương nhờ vào nhà Tái Bắc minh đà không thể tự lập được nữa.

Nhất thời tâm thần bất định, toàn thân chàng phát run, phải đưa tay chống vào chiếc bàn.

Dư Thương Hải nói:

– Ta xem ngươi chẳng ra làm sao cả! Nếu muốn nhờ người thay thế ngươi ra tay thì phải dập đầu lạy mấy câu, có gì nhục nhã đâu?

Lão đã phát hiện giữa Lâm Bình Chi và Mộc Cao Phong có mối quan hệ khác thường, rõ ràng là Mộc Cao Phong không phải là gia gia của chàng thật, nếu không thì tại sao nãy giờ Lâm Bình Chi chỉ xưng lão là “tiền bối” mà không gọi một tiếng “gia gia” nào cả? Mộc Cao Phong sẽ không bảo tôn nhi của mình dập đầu lạy, lão dường như nói vậy chỉ để khiêu khích, muốn Lâm Bình Chi nhịn không được mà tự mình ra tay, để tiện cho lão có thời gian trốn thoát.

Lâm Bình Chi chuyển đổi ý nghĩ rất nhanh. Chàng nghĩ trong những ngày vừa qua, Phước Oai tiêu cục đã bị phái Thanh Thành ức hiếp quá rồi, phải chịu biết bao sỉ nhục, trong đầu chàng chồng chất rất nhiều ưu tư. Chàng nghĩ thầm: Bậc đại trượng phu việc nhỏ không nhịn được thì sẽ hỏng việc lớn. Để ngày sau có thể mở mày mở mặt thì hôm nay phải chịu một chút nhục nhã cũng chẳng sao.

Chàng lập tức quay người lại, quỳ gối hướng về Mộc Cao Phong liên tiếp dập đầu lạy và nói:

– Gia gia, lão Dư Thương Hải này lạm sát người vô tội, cướp đoạt tài vật, trong võ lâm ai ai cũng muốn giết lão, xin gia gia chủ trì công đạo, vì đại nghĩa giang hồ mà trừ mối đại họa này.

Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải không ngờ chàng làm vậy. Việc ấy vượt quá sự liệu định của cả hai lão. Gã thanh niên lưng gù này vừa rồi bị Dư Thương Hải nắm chặt cổ tay, dùng nội lực cưỡng bức, nhưng vẫn cứng cỏi bất khuất, có thể thấy rằng chàng rất có khí phách. Nào ngờ trước chỗ đông người như thế này chàng lại dập đầu van xin. Quần hào đều tưởng gã thanh niên lưng gù này là cháu của Mộc Cao Phong, nếu không phải là con cháu thân thích thì cũng là đồ tôn, điệt tôn. Chỉ có Mộc Cao Phong mới biết gã thanh niên này với mình tuyệt nhiên không có chút quan hệ gì; còn Dư Thương Hải tuy đã khám phá ra được phần nào chỗ sơ hở nhưng không đoán được mối quan hệ thật giữa hai người. Lão chỉ biết Lâm Bình Chi bái Mộc Cao Phong hai tiếng gia gia là rất miễn cưỡng, chắc vì chàng tham sống sợ chết mà phải gọi như vậy.

Mộc Cao Phong cười ha hả rồi nói:

– Hảo tôn nhi! Thừa tôn nhi! Thế nào, chúng ta chơi thử một cuộc được chăng?

Miệng lão tán tụng Lâm Bình Chi mà mặt lại hướng về phía Dư Thương Hải; mấy chữ “Hảo tôn nhi, Thừa tôn nhi” dường như là để đùa cợt Dư Thương Hải.

Dư Thương Hải phẫn nộ vô cùng, nhưng lão biết cuộc chiến hôm nay không những liên hệ đến sự sinh tử, tồn vong của mình mà còn liên quan lớn đến sự hưng suy, vinh nhục của phái Thanh Thành. Lão lập tức ngấm ngầm định thần chuẩn bị, cười khẩy nói:

– Mộc tiên sinh có ý muốn phô trương huyền quang công phu tuyệt thế trước mặt các vị bằng hữu khiến cho chúng ta mở rộng thêm tầm mắt thì bần đạo xin được liều mạng để bồi tiếp quân tử.

Vừa rồi, hai cái vỗ của Mộc Cao Phong đã khiến lão bị chấn động cánh tay, Dư Thương Hải biết nội công của lão gù rất thâm hậu, nội lực của lão mười phần bá đạo. Bây giờ, lão trực diện đánh nhau, nhất định sẽ mạnh như sấm sét, như dời non lấp biển. Lão nghĩ thầm: Từ trước đến nay, ta nghe nói lão lưng gù này mười phần tự phụ, nhất thời lão không thắng nổi ta, tất sẽ đi đến chỗ tâm thần phù động, sẽ vận chân khí táo bạo để tấn công. Trong một trăm chiêu đầu, ta chỉ nên thủ chớ không công, giữ cái thế không phân thắng bại. Đợi đến một trăm chiêu sau, ta sẽ có cách tìm chỗ sơ hở của lão để thủ thắng.

Ngược lại, Mộc Cao Phong thấy thân hình lão đạo nhân thấp lùn này giống như một hài đồng, lấy tay nhấc lên chỉ sợ chưa được tám mươi cân, nhưng lão đứng thủ thế vững vàng tự tin, có cái phong độ của một tôn sư đại phái, hiển nhiên nội công rất thâm hậu. Lão nghĩ bụng: Lão tiểu đạo sĩ này quả nhiên có một chút tà môn. Nhưng phái Thanh Thành đời nào cũng có danh thủ , lão mũi trâu này làm chưởng môn, quyết không phải là hạng tầm thường. Lão gù ta hôm nay nếu không thể lật thuyền trong ngòi lạch được thì thanh danh một đời sẽ trôi theo dòng nước.

Lão đăm đăm nhìn Dư Thương Hải, nhất thời chưa dám mạo muội xuất chiêu.

Hồi 18: Tiểu cô nương nhục mã đạo sĩ lùn

Giữa lúc Mộc Cao Phong và Dư Thương Hải đang thủ thế chờ cơ hội xuất chiêu, bỗng nghe tiếng kêu la, hai người từ phía sau vọt ra nghe đánh phịch một cái, rơi xuống nằm sấp dưới đất không nhúc nhích. Hai người này mặc trường bào màu xanh, chỗ mông đít còn in dấu chân đá. Bỗng nghe giọng nói trong trẻo của một cô gái nhỏ tuổi nói:

– Đây là bản lĩnh giữ nhà của phái Thanh Thành gọi là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức!

Dư Thương Hải cả giận, vội quay người lại, không kịp nhìn xem rõ là ai, bèn nhảy vọt về phía phát ra tiếng nói. Chỉ thấy một ti ểu cô nương mặc áo màu lục đứng bên bức mành sáo. Lão đưa tay nắm chặt cổ tay của cô. Cô kêu to hai tiếng má ơi rồi khóc òa lên. Dư Thương Hải giật mình sợ hãi. Lão tưởng cô ta nói ra những lời vũ nhục, trong lúc tức giận như điên không kịp suy nghĩ, liền nhận định hai tên đệ tử phái Thanh Thành bị đá nhất định có liên quan đến cô. Lão sử dụng luồng lực đạo rất mạnh nắm chặt tay cô. Khi nghe cô khóc la lên, mới hiểu ra người này chẳng qua chỉ là một tiểu cô nương, lão xử sự với cô nặng tay như vậy thì trước mặt anh hùng thiên hạ đã tự mình làm tổn thất thân phận chưởng môn của phái Thanh Thành rồi. Lão vội vàng buông tay cô ra, nào ngờ tiểu cô nương càng khóc to hơn. Cô vừa khóc vừa la:

– Lão làm gãy xương ta rồi! Má ơi! Hài nhi bị gãy tay rồi! Hu hu, đau quá, đau quá! Hu hu!

Chưởng môn phái Thanh Thành đã kinh qua trăm trận, ứng phó với vô vàn phong ba bão táp, nhưng bây giờ lại vô cùng bối rối trước một tình huống xưa nay chưa bao giờ xảy ra. Hàng trăm con mắt đang đăm đăm nhìn vào mặt lão lộ vẻ trách móc khinh bỉ. Bất giác mặt lão đỏ lên, chân tay luống cuống. Lão dỗ dành cô bé:

– Đừng khóc, đừng khóc nữa! Không gãy tay đâu! Không gãy tay đâu!

Tiểu cô nương vừa khóc vừa nói:

– Đã gãy rồi. Lão ăn hiếp người ta, người lớn mà ăn hiếp con nít xem đẹp mặt chưa! Đau quá, hu hu hu!

Mọi người thấy tiểu cô nương này chừng mười ba, mười bốn tuổi, mặc áo màu lục, da trắng nõn nà như tuyết, gương mặt trái xoan thanh tú trông rất dễ thương nên ai cũng có ý thương mến.

Có mấy người thô lỗ ngoác miệng chửi:

– Trói lão mũi trâu lại!

– Đánh chết đạo sĩ lùn beo đó đi!

Dư Thương Hải cuống quýt lên, biết mình phạm lỗi làm cho mọi người tức giận, không dám mở miệng chửi lại. Lão khẽ nói:

– Tiểu muội muội đừng khóc nữa! Cho ta xin lỗi, cho ta xem cánh tay của tiểu muội có bị thương không?

Lão nói xong liền vén tay áo cô bé lên. Cô bé không chịu, la lớn:

– Không, không, đừng đụng đến ta! Má má, má má, lão đạo sĩ thấp lùn này đánh gãy cánh tay của hài nhi rồi.

Dư Thương Hải đang lúc không biết phải làm sao thì trong đám đông một gã hán tử áo xanh chạy ra. Người đó chính là Phương Nhân Trí, con người cơ trí nhất của phái Thanh Thành. Gã nhìn cô bé rồi nói:

– Tiểu cô nương thật giỏi đóng kịch, tay của sư phụ ta không động đến tay áo của cô thì làm sao có thể đánh gãy cánh tay của cô được?

Tiểu cô nương la lên:

– Má má, lại có người nữa đến đánh hài nhi kìa!

Định Dật sư thái đứng bên thấy vậy cả giận, bước đến giơ tay tát vào mặt Phương Nhân Trí một cái bốp rồi quát:

– Người lớn ăn hiếp con nít mà không biết nhục ư?

Phương Nhân Trí giơ cánh tay muốn gạt nhưng tay phải của Định Dật rất nhanh nắm được tay của gã, rồi tay trái bẻ chặt cổ tay vào cánh tay. Lão ni chỉ cần vận sức thêm một chút nữa thì xương tay của Phương Nhân Trí sẽ bị gãy từng đoạn. Dư Thương Hải phóng ngón tay vào sau lưng Định Dật định điểm huyệt. Định Dật đành phải buông Phương Nhân Trí, xoay tay lại xuất chưởng chống đỡ. Dư Thương Hải không muốn đánh nhau với lão ni, bèn nói:

– Tại hạ xin lỗi!

Rồi lão nhảy lùi lại hai bước.

Định Dật cầm tay tiểu cô nương, ôn hòa nói:

– Hảo hài tử, hài tử đau ở đâu? Để ta xem rồi ta trị thương cho.

Lão ni sờ nắn cánh tay của tiểu cô nương, thấy không bị gãy, cũng yên tâm. Lão ni vén tay áo của cô bé lên thì thấy trên cánh tay trắng nõn nà như tuyết còn in rõ bốn dấu ngón tay xanh lè. Định Dật cả giận nhìn Phương Nhân Trí quát:

– Tiểu tử nói láo! Sư phụ của ngươi không đụng đến cánh tay của cô bé thì dấu bốn ngón tay này là do ai nắm vào đây?

Tiểu cô nương nói:

– Là con rùa đen nắm, là con rùa đen nắm!

Cô vừa nói vừa chỉ vào sau lưng Dư Thương Hải.

Bỗng nhiên, mọi người cười ầm cả lên; có người cười đến nỗi nước trà trong miệng văng tung tóe, có người cười bò lăn bò càng. Trong đại sảnh chỗ nào cũng có tiếng cười rần rần.

Dư Thương Hải không biết mọi người cười cái gì, bụng nghĩ tiểu cô nương này chửi mình là con rùa đen, nhưng chẳng qua là hài tử bị đau đớn nên tiện miệng thốt ra, có gì đáng cười đâu.

Nhưng lão thấy ai cũng nhìn mình mà cười thì luống cuống cả lên, xấu hổ vô cùng. Phương Nhân Trí nhảy ra, chạy đến sau lưng Dư Thương Hải, lấy ra một mảnh giấy từ trên áo của lão rồi vo tròn lại.

Dư Thương Hải tiếp lấy mở ra xem, thấy mảnh giấy vẽ một con rùa đen to, chắc là do cô bé đã dán sau lưng mình. Dư Thương Hải tức giận, nghĩ bụng: Con rùa đen này đã được vẽ từ trước rồi, nhưng người khác quyết không thể dán vào lưng mình được. Nhất định là con bé to mồ m này nhân lúc ta bối rối liền dán lên. Như vậy hẳn là trong bóng tối có người lớn chỉ dẫn cho nó rồi.

Lão đưa mắt nhìn Lưu Chính Phong một cái rồi nghĩ bụng: Con bé này chính là người của Lưu gia. Thì ra Lưu Chính Phong ngấm ngầm giở trò ma với ta.

Lưu Chính Phong bị lão liếc nhìn như vậy, lập tức hiểu ra ngay, biết lão có ý nghi ngờ mình. Lão liền tiến lên một bước, nhìn cô bé hỏi:

– Tiểu muội muội, tiểu muội muội là hài tử của nhà ai? Gia gia và má má của tiểu muội muội đâu?

Lão hỏi hai câu này, một là biểu thị lời thanh minh với Dư Thương Hải, hai là chính lão cũng hoài nghi, muốn biết tiểu cô nương này là do người nào dẫn tới.

Tiểu cô nương đáp:

– Gia gia, má má của tiểu nữ có việc đi rồi, bảo tiểu nữ ngồi ở đây cho ngoan đừng có đi lung tung và nói chút xíu nữa sẽ được coi hý kịch: sẽ có hai người bay đi nằm im không nhúc nhích, đó là bản lĩnh giữ nhà của phái Thanh Thành, gọi cái gì gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn thức. Quả nhiên kịch rất hay!

Cô nói xong liền vỗ tay. Những giọt nước mắt long lanh trên má cô vẫn còn nguyên, chưa kịp lau thì đã cười lên giòn giã.

Mọi người thấy vậy đều mừng thầm, biết rằng đó là lời xỉa xói phái Thanh Thành. Trước mắt, hai tên đệ tử củ a phái Thanh Thành vẫn còn nằm bất động, đít chổng lên trời, mông đít vẫn còn in rõ vết chân, là nỗi xấu hổ lớn nhất của phái Thanh Thành.

Dư Thương Hải giơ tay vỗ lên người đệ tử, mới phát hiện cả hai đều bị điểm huyệt đạo, cũng giống như Thân Nhân Tuấn và Cát Nhân Thông. Nếu lão vận nội lực giải khai huyệt đạo thì nhất thời bị tiêu hao công lực, không những Mộc Cao Phong đang đứng bên cạnh nhìn gườm gườm như con cọp đang rình mồi mà sẽ còn có kẻ khác ngấm ngầm tìm cách đối đầu với lão nữa. Lúc này, lão không thể giải huyệt đạo cho đệ tử để khỏi hao tổn nội công. Lão nói khẽ với Phương Nhân Trí:

– Khiêng chúng đi đi.

Phương Nhân Trí vẫy tay cho các đồng môn. Mấy tên đệ tử Thanh Thành chạy đến khiêng hai đồng môn ra khỏi sảnh.

Tiểu cô nương bỗng nhiên la lên:

– Người của phái Thanh Thành thật là đông! Một người “bình sa lạc nhạn” thì có hai người khiêng; hai người “bình sa lạc nhạn” thì có bốn người khiêng!

Dư Thương Hải sắc mặt xanh lè, nhìn tiểu cô nương hỏi:

– Gia gia của tiểu cô nương họ gì? Những câu nói vừa rồi phải chăng là gia gia dạy cho?

Lão nghĩ hai câu nói của cô bé này rất là châm chọc, nếu không phải người lớn dạy cho thì cô bé nhỏ tuổi thế này quyết sẽ không biết nói như vậy. Lão lại nghĩ: Cái gì là Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn th ức? Chính là do thằng nhóc bịp bợm Lệnh Hồ Xung đặt ra. Chắc có lẽ phái Hoa Sơn không nhịn được việc Lệnh H ồ Xung bị La Nhân Kiệt giết nên tìm cách đả thương người của phái Thanh Thành ta. Người điểm huyệt này võ công rất cao cường, chẳng lẽ… chẳng lẽ… chưởng môn Nhạc Bất Quần đã ngấm ngầm giở trò ma quỷ?

Lão nghĩ đến việc Nhạc Bất Quần ngấm ngầm ám hại mình; người này không những võ công rất thâm hậu mà còn liên minh với Ngũ Nhạc kiếm phái, nếu hôm nay cùng động thủ với lão, nhất định phái Thanh Thành sẽ thất bại ê chề. Nghĩ tới đó, thần sắc lão biến đổi thấy rõ.

Trả lời câu hỏi của lão, tiểu cô nương cười nói:

– Một lần hai là hai, hai lần hai là bốn, hai lần ba là sáu, hai lần bốn là tám, hai lần năm là mười… Cô đọc thuộc lòng bảng cửu chương từ một đến chín.

Dư Thương Hải hỏi:

– Ta hỏi tiểu cô nương đó!

Giọng lão rất nghiêm khắc. Tiểu cô nương há miệng khóc òa rồi úp mặt vào lòng Định Dật sư thái.

Định Dật vỗ nhè nhẹ vào lưng an ủi cô bé:

– Đừng sợ, đừng sợ! Hảo hài tử đừng sợ!

Nói xong lão ni quay qua nhìn Dư Thương Hải nói:

– Các hạ làm bộ hung tợn như vậy để hù dọa con nít ư?

Dư Thương Hải hứ lên một tiếng, nghĩ bụng: Ngũ Nhạc kiếm phái hôm nay có thể đụng độ với phái Thanh Thành ta, cho nên ta phải thận trọng.

Tiểu cô nương từ trong lòng Định Dật thò đầu ra nói:

– Lão sư thái, hai lần hai là bốn, hai người phái Thanh Thành “Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn” có bốn người khiêng; hai lần ba là sáu, ba người “Thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn” thì được sáu người khiêng; hai lần bốn là tám.

Cô bé không nói nữa, cười lên khanh khách.

Mọi người thấy tiểu cô nương này động một tí là khóc, sau khi khóc lại cười. Bỗng cười bỗng khóc là chuyện thường ngày của những đứa trẻ bảy tám tuổi, còn tiểu cô nương này xem vóc dáng cũng đã mười ba mười bốn tuổi, thân hình rất cao, huống hồ mỗi câu nói của cô bé đều nhằm xỉa xói Dư Thương Hải, rõ ràng không phải là những lời ngây thơ của trẻ con. Nhất định trong bóng tối còn có người lớn xui khiến, giật dây; điều đó không còn nghi ngờ gì nữa.

Dư Thương Hải nói to:

– Đại trượng phu hãy hành động cho quang minh lỗi lạc. Vị bằng hữu nào có điều xích mích với bần đạo xin cứ hiện thân đi chớ đừng có lén lút giấu đầu lòi đuôi, dạy cho con nít nói ra những lời vô vị như vậy thì đâu phải là phong độ bậc anh hùng hảo hán?

Lão tuy thấp lùn, nhưng lời nói phát ra từ huyệt Đan điền trung khí tràn đầy, thanh âm hùng tráng, lọt vào tai người nghe oang oang. Quần hào nghe lão nói vậy bỗng nhiên đem lòng kính trọng chứ không còn lộ vẻ khinh khi như trước nữa.

Lão nói xong đại sảnh yên lặng, không có tiếng người đáp trả.

Một lúc lâu sau, bỗng nhiên tiểu cô nương nói:

– Thưa lão sư thái, lão đó hỏi anh hùng hảo hán ở môn phái nào vậy? Phái Thanh Thành của lão không phải là anh hùng hảo hán ư?

Định Dật là nhân vật tiền bối của phái Hằng Sơn, tuy đối với phái Thanh Thành có phần bất mãn nhưng không thể công nhiên phỉ báng cả môn phái, liền trả lời mập mờ:

– Phái Thanh Thành… đời trước có rất nhiều anh hùng hảo hán.

Tiểu cô nương lại hỏi:

– Vậy ngày nay thì sao? Họ còn anh hùng hảo hán nào không?

Định Dật trề môi nhìn Dư Thương Hải rồi nói:

– Cái đó ngươi hãy hỏi Dư quán chủ đây.

Cô gái quay lại hỏi Dư Thương Hải:

– Dư quán chủ, cầm kiếm giết một người khi người đó đã bị trọng thương có phải là anh hùng hảo hán không?

Nghi Lâm nghe cô bé hỏi thì chấn động cả lòng. Bản tính cô hiền hòa, lại kính trọng người trên vì dù sao Dư Thương Hải cũng là bậc tiền bối nên không tiện hỏi. Bây giờ tiểu cô nương này lại thay cô nói ra những lời ẩn ức trong lòng; cô không kìm được nỗi đau đớn ngậm ngùi, nước mắt lã chã.

Dư Thương Hải trầm giọng hỏi khẽ:

– Ai đã dạy tiểu cô nương câu hỏi này?

Tiểu cô nương đáp:

– Có một người tên La Nhân Kiệt phái Thanh Thành là đệ tử của đạo trưởng phải không? Hắn thấy người ta bị trọng thương mà người ta lại là người tốt, chẳng những đã không cứu người ta mà ngược lại, còn đâm cho người ta một kiếm. Đạo trưởng nói xem La Nhân Kiệt có phải là anh hùng hảo hán không? Đây không phải là bản lĩnh hiệp đạo của phái Thanh Thành mà đạo trưởng đã dạy cho hắn ư?

Các câu hỏi này do chính miệng cô bé nói ra, nhưng cô nói một cách lanh lẹ, có ý bức ép dồn người vào thế bí.

Dư Thương Hải không còn biết phải trả lời thế nào, bèn la lớn:

– Rốt cuộc là ai đã chỉ bảo ngươi hỏi ta? Phụ thân của ngươi là người phái Hoa Sơn phải không?

Tiểu cô nương quay qua Định Dật hỏi:

– Lão sư thái, lão đó hù dọa ăn hiếp tiểu nữ, có phải là bậc đại trượng phu quang minh lỗi lạc không?

Định Dật thở dài đáp:

– Ta không thể trả lời được câu này.

Mọi người càng nghe càng lấy làm kỳ. Những lời nói trước đây của tiểu cô nương có lẽ do người lớn đã dạy cho, nhưng những câu hỏi vừa rồi rõ ràng là cô nắm bắt lời nói của Dư Thương Hải mà vặn lại, có ý châm chích mười phần cay độc, hiển nhiên là cô đã tùy cơ ứng biến. Họ không ngờ cô còn nhỏ tuổi mà miệng lưỡi đã sắc bén lợi hại đến như vậy.

Nghi Lâm nước mắt ràn rụa. Cô nhìn cái dáng thon thả của tiểu cô nương từ phía sau lưng bèn nhớ lại:

– Hình như ta đã gặp tiểu muội muội này ở đâu đây?

Cô nghiêng đầu suy nghĩ chợt nhớ ra:

– Đúng rồi. Ngày hôm qua trên Hồi Nhạn lâu, cô bé này có mặt ở đó.

Những hình ảnh ngày hôm qua lần lượt hiện lên trong đầu Nghi Lâm. Sáng sớm hôm qua, cô bị Điền Bá Quang bức bách lên tửu lâu thì ở đây đã có bảy tám cái bàn đầy khách ngồi uống rượu. Sau đó có hai người phái Thái Sơn khiêu chiến, rồi Điền Bá Quang đâm chết một người, các tửu khách sợ hãi bỏ chạy tán loạn; tửu bảo cũng không dám lên rót rượu. Nhưng ở trong góc tửu lâu, có một cái bàn nhỏ ngồi nhìn ra đường, một hòa thượng thân người cao to ngồi đó. Lại có hai người ngồi bên cạnh một cái bàn nhỏ khác. Cho đến lúc Lệnh Hồ Xung bị giết, cô ôm thi thể của Lệnh Hồ đại ca xuống lầu, lão hòa thượng và hai người đó vẫn chưa rời khỏi bàn. Lúc đó, lòng cô bàng hoàng kinh sợ vô cùng, mọi chuyện cứ dồn dập đến, còn lòng dạ nào để lưu tâm đến lão hòa thượng cao to và hai người kia nữa. Bây giờ, thấy hình ảnh sau lưng của cô bé cũng giống như hình bóng còn lưu lại trong trí thì cô mới nhớ rõ lại rằng ngày hôm qua, một trong hai người ngồi ở bàn nhỏ chính là tiểu cô nương này. Cô bé ngồi quay lưng về hướng cô nên cô chỉ nhớ được hình bóng sau lưng của cô bé. Ngày hôm qua, cô bé mặc áo màu vàng nhạt; bây giờ, cô lại mặc áo màu lục. Nếu như lúc này cô bé không quay lưng lại thì Nghi Lâm đã không thể nhớ ra.

Nhưng còn người kia nữa là ai? Cô chỉ nhớ chắc chắn đó là một nam tử, còn nam tử ấy già hay trẻ, ăn mặc thế nào thì cô không nhớ rõ. Cô còn nhớ được lúc lão đại hòa thượng bưng bát rượu lên uống, Điền Bá Quang bị Lệnh Hồ đại ca phỉnh gạt phải chấp nhận thất bại, lão đại hòa thượng đã cười ha hả. Lúc đó, tiểu cô nương này cũng cười theo; tiếng cười của cô ta rất giòn giã. Bên tai cô như vọng lên tiếng “đúng là cô ta, chính là cô ta!”. Lão đại hòa thượng là ai? Tại sao hòa thượng cũng uống rượu?

Toàn bộ tâm thần của Nghi Lâm đều chìm ngập trong tình cảnh ngày hôm qua. Trước mặt cô, dường như lại xuất hiện nét mặt tươi cười của Lệnh Hồ Xung. Lúc đại ca sắp chết, đã lừa La Nhân Kiệt đến gần rồi giơ kiếm đâm vào bụng dưới của địch nhân. Cô ôm thi thể của Lệnh Hồ Xung loạng choạng đi xuống lầu, lòng vô cùng hoang mang, không biết mình đang ở nơi nào. Cô lững thững ra khỏi thành Hành Dương rồi loạng choạng đi trên đường…

Cô cảm thấy thi thể Lệnh Hồ Xung đang ôm trong tay từ từ lạnh dần. Cô không cảm thấy nặng chút nào, cũng không đau lòng, lại càng không biết phải ôm cái thi thể này đến phương nào nữa.

Khi cô đến bên một đầm sen, trông hoa sen nở tươi thắm, ngực cô như bị ai đánh một chùy. Cô không chịu đựng được nữa, cả cô và thi thể Lệnh Hồ Xung cùng nhào xuống rồi cô ngất đi…

Đến khi cô tỉnh dậy, thấy mặt trời sáng tỏa, cô vội choàng tay ôm thi thể Lệnh Hồ Xung thì chẳng thấy đâu cả. Cô sợ hãi vùng dậy, thấy mình vẫn ở bên cạnh đầm sen, hoa sen vẫn tươi thắm ngọt ngào, nhưng thi thể của Lệnh Hồ Xung lại biến mất đâu rồi. Cô vô cùng kinh hoàng, chạy một vòng quanh đầm sen. Thi thể đại ca ở đâu? Cô không tìm thấy chút dấu vết gì. Cô cúi xuống nhìn những vệt máu còn lấm tấm trên áo mình, rõ ràng biết mình không phải đang nằm mơ, suýt nữa cô lại ngất đi. Nhưng cô định thần lại, tìm kiếm bốn phía thêm một lần nữa, cái thi thể như sống lại mà bay đi mất tiêu rồi. Thấy nước trong đầm sen rất cạn, cô liền bước xuống mò tìm cũng chẳng thấy tăm tích gì cả.

Cô đành thất thểu đến thành Hành Sơn, hỏi đường đến Lưu phủ để tìm sư phụ. Lòng cô lúc nào cũng canh cánh tự hỏi: Thi thể Lệnh Hồ đại ca ở đâu? Có người qua đường đã đem đi chôn cất rồi hay đã bị dã thú tha mất?

Cô nghĩ đến Lệnh Hồ đại ca đã vì cứu cô mà không màng đến tính mạng, vậy mà ngay cả thi thể của Lệnh Hồ đại ca cô cũng không chăm sóc chu toàn, nếu thự c sự bị dã thú tha mất thì chính cô không muốn sống nữa. Nhưng dù có tìm được thi thể của Lệnh Hồ Xung nguyên vẹn thì cô cũng không muốn sống nữa.

Bỗng nhiên, từ tận đáy lòng cô ẩn hiện một ý niệm, mà ý niệm đó cô không hề dám nghĩ tới. Thế nhưng cái ý niệm này cứ lướng vướng trong đầu cô suốt cả ngày. Cô cố nén nó xuống, nghĩ bụng: Tại sao ta không định tâm được? Tại sao ta lại nghĩ vớ vẩn thế này? Thật là quá vớ vẩn! Không, quyết không thể có chuyện như vậy được!

Nhưng lúc này, đầu óc cô lại không đè nén được ý niệm đó nữa, nó đang trỗi dậy mãnh liệt trong cô: Lúc ôm thi thể của Lệnh Hồ đại ca trong tay, lòng ta vô cùng bình thản, thậm chí còn cảm thấy vui vui, giống như đang ngồi luyện công, lòng không nghĩ ngợi gì cả. Dường như ta muốn được ôm thi thể đại ca để cả đời có được một người mà người đó không tùy tiện đi lại trên chốn giang hồ, vĩnh viễn không rời xa ta. Dù gì đi nữa cũng phải tìm cho được thi thể của đại ca về. Vậy thì phải làm sao? Sao có thể không đau thương được khi thi thể của đại ca bị dã thú tha mất? Không, không thể. Ta muốn ôm thi thể của đại sư ca chạy loạn trên đường, đến bên đầm sen yên tĩnh để ngơi nghỉ. Sao ta lại ngất đi? Thật là đáng chết! Thôi ta không nên nghĩ như vậy; sư phụ không cho phép, Bồ Tát cũng không tha thứ. Đây là ý niệm ma chướng, ta không nên giữ lại trong lòng. Nhưng… nhưng thi thể của Lệnh Hồ đại ca đâu rồi?

Đầu cô bấn loạn cả lên, có khi nhìn thấy Lệnh Hồ đại ca nhếch mép cười, nụ cười hồn nhiên; có lúc lại thấy đại ca chửi: “Tiểu sư muội xui xẻo” với vẻ mặt cau có khó chịu. Lòng cô đau nhói như bị dao cắt.

Giọng nói của Dư Thương Hải lại vang lên:

– Lao Đức Nặc, tiểu cô nương này có phải là người phái Hoa Sơn các ngươi không?

Lao Đức Nặc đáp:

– Không phải, đệ tử hôm nay mới gặp tiểu muội muội này lần đầu; cô không phải là người của tệ phái.

Dư Thương Hải nói:

– Được, ngươi không thừa nhận thì thôi.

Bỗng nhiên lão vung tay, ánh sáng lóe lên, một mũi phi tiêu đã bắn về hướng Nghi Lâm, miệng quát lớn:

– Tiểu sư điệt, ngươi xem đây là cái gì?

Nghi Lâm còn đang ngẩn ngơ, không ngờ Dư Thương Hải lại phóng ám khí vào mình.

Lòng cô bỗng nhiên nghĩ ra một ý tưởng rất hạnh phúc: Lão muốn giết ta thì tốt lắm. Ta vốn không muốn sống nữa, lão giết ta càng hay!

Cô không có ý muốn né tránh. Trước mắt cô, ngọn phi tiêu vù vù bay tới; mấy người hô toáng lên:

– Cẩn thận đó, ám khí!

Không hiểu sao, Nghi Lâm lại cảm thấy hạnh phúc nói không nên lời. Cô thấy sống trên đời đầy rẫy đau khổ, khó mà chịu đựng được sự quạnh quẽ thê lương này. Mũi phi tiêu giết cô chính là điều mà cô mong muốn.

Định Dật đẩy nhẹ cô bé, phóng người ra chắn trước mặt Nghi Lâm. Đừng tưởng lão ni già lụ khụ mà chậm chạp, chỉ trong nháy mắt lão ni phóng người nhanh đến kỳ lạ. Mũi phi tiêu tuy bay chậm nhưng cũng là một loại ám khí; Định Dật nhảy ra sau nhưng lại đến trước, kịp thời đưa tay ra định chụp lấy.

Định Dật sư thái đưa tay để đón mũi phi tiêu, nào ngờ phi tiêu bay đến cách lão ni hai tấc thì rơi xuống, keng một tiếng đã nằm dưới đất. Định Dật chụp hụt, vậy là đã bị thua một chiêu trước mặt mọi người. Bất giác, khuôn mặt lão ni đỏ lên nhưng không phản ứng gì. Ngay lúc đó, Dư Thương Hải lại giơ tay lên liệng cục giấy vo tròn vào mặt cô bé. Cục giấy này là từ mảnh giấy vẽ con rùa đen vo lại. Định Dật nghĩ bụng:

– Lão mũi trâu này phóng phi tiêu, thì ra là hắn muốn giương Đông kích Tây đánh lừa ta chớ không phải cố ý đả thương Nghi Lâm.

Cục giấy nhỏ liệng tới thế bay rất nhanh, còn nhanh hơn thế bay của phi tiêu vừa rồi, trong đó hàm chứa nội lực rất lớn. Nếu nó đập vào trúng mặt tiểu cô nương thì cô không khỏi bị thương. Lúc này, Định Dật đang đứng bên Nghi Lâm; sự việc xảy ra quá nhanh, nên lão ni không kịp ngăn đỡ, chỉ kêu lên được một chữ “Ngươi…”. Bỗng thấy cô bé cúi thấp người xuống đất, khóc to gọi:

– Má má! Má má! Người ta muốn đánh chết hài nhi kìa!

Cô lùi lại rất nhanh, kịp thời né tránh cục giấy. Rõ ràng cô là người có võ công, và lại muốn chọc tức họ Dư. Mọi người đều cảm thấy buồn cười. Dư Thương Hải cũng cảm thấy không nên bức bách cô bé nữa, bụng lão lại đầy mối hoài nghi, không thể lý giải được.

Định Dật sư thái thấy Dư Thương Hải lộ vẻ bối rối. Lão ni cười thầm cho rằng hôm nay phái Thanh Thành bị bêu xấu như vậy cũng đủ rồi, không nên gây thêm phiền phức cho lão nữa, bèn nói với Nghi Lâm:

– Nghi Lâm, cha mẹ của tiểu cô nương này không biết đi đâu. Ngươi dẫn cô bé đi tìm, để không có ai chăm nom dễ bị người ta hiếp đáp.

Nghi Lâm đáp:

– Dạ!

Cô nắm tay cô bé dẫn đi. Cô bé nhìn cô cười rồi cùng ra khỏi sảnh. Dư Thương Hải cười nhạt một tiếng, biết không thể cản được liền quay qua nhìn Mộc Cao Phong.

Hồi 19: Vào kĩ viện cứu người hào kiệt

Nghi Lâm và cô bé đi ra bên ngoài sảnh. Nghi Lâm hỏi:

– Tiểu muội, quý tính cao danh của muội muội là gì?

Cô bé cười nói:

– Tiểu muội họ Lệnh Hồ, tên gọi là Xung!

Trái tim Nghi Lâm như muốn nhảy vọt ra ngoài, sắc mặt trầm xuống, cô nói:

– Ta hỏi thật tiểu muội, sao tiểu muội lại nói đùa với ta?

Cô bé cười nói:

– Sao lại nói đùa với tỷ tỷ? Lẽ nào chỉ có một mình người bạn của tỷ tỷ mới có tên là Lệnh Hồ Xung? Tiểu muội đặt tên đó không được sao?

Nghi Lâm thở dài, lòng đau xót không kìm được, hai hàng nước mắt tuôn rơi, nói:

– Vị Lệnh Hồ đại ca này là đại ân nhân đã cứu mạng ta, rốt cuộc đã vì ta mà chết. Ta… ta không đáng là bạn của đại ca.

Cô mới nói đến đây, thấy hai người lưng gù vội vàng từ dãy hành lang ngoài đại sảnh đi qua. Đó chính là Tái Bắc minh đà Mộc Cao Phong và Lâm Bình Chi. Cô bé cười hi hi rồi nói:

– Thiên hạ thật có lắm chuyện kỳ cục, đã có một lão lưng gù xấu đến nỗi ai nhìn cũng phải sợ, giờ lại có thêm một gã lưng gù trẻ nữa.

Nghi Lâm nghe cô bé cười nhạo người khác, lòng rất phiền não, bèn nói:

– Tiểu muội, muội tự đi tìm gia gia má má có được không? Ta đau đầu quá, trong người rất khó chịu.

Cô bé cười nói:

– Đau đầu khó chịu ư? Thật khéo giả bộ. Tiểu muội biết tỷ tỷ nghe tiểu muội mạo xưng tên của Lệnh Hồ Xung nên lòng tỷ tỷ không được vui. Tỷ tỷ, sư phụ của tỷ tỷ bảo tỷ tỷ đi với tiểu muội, tại sao không quan tâm mà đuổi tiểu muội đi? Nếu tiểu muội bị người ta hiếp đáp, sư phụ của tỷ tỷ sẽ quở trách tỷ tỷ cho coi.

Nghi Lâm nói:

– Tiểu muội bản lĩnh cao hơn ta nhiều, lại còn nhanh trí, khéo léo; ngay cả Dư quán chủ là nhân vật nổi danh khắp thiên hạ cũng phải e dè tiểu muội. Muội muội không ăn hiếp người ta thì người ta đã phải cám ơn trời đất rồi, ai mà dám đến ăn hiếp tiểu muội nữa?

Cô bé cười khanh khách, kéo tay Nghi Lâm nói:

– Tỷ tỷ cứ nói móc tiểu muội không hà. Vừa rồi nếu không phải sư phụ của tỷ tỷ bảo vệ muội muội thì lão mũi trâu đã sớm đánh tiểu muội rồi. Tỷ tỷ ơi, muội muội họ Khúc, tên là Phi Yên. Gia gia gọi muội là Phi Phi, tỷ tỷ cũng gọi tiểu muội là Phi Phi nghe.

Nghi Lâm nghe cô bé nói thật tên họ, lòng mới dịu trở lại, chỉ cảm thấy kỳ lạ là tại sao cô bé biết mình đang nhớ đến Lệnh Hồ Xung mà lấy tên của Lệnh Hồ Xung ra làm trò đùa? Cô nghĩ có lẽ lúc trong hoa sảnh, cô đã thuật cho sư phụ và mọi người nghe thì tiểu cô nương ranh mãnh này đã núp ở ngoài cửa sổ để lén nghe. Cô nói:

– Khúc tiểu muội, chúng ta đi tìm gia gia má má của tiểu muội đi. Tiểu muội đoán xem họ đã đến những chỗ nào rồi?

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu muội biết họ ở chỗ nào rồi. Tỷ tỷ muốn tìm thì tự đi tìm đi, tiểu muội không đi đâu.

Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:

– Tại sao muội muội lại không đi?

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu muội nhỏ tuổi thế này làm sao mà đi được, nhưng tỷ tỷ thì khác. Tỷ tỷ đã quá đau lòng nên sớm đi mới phải.

Nghi Lâm run lên nói:

– Tiểu muội nói gia gia má má của tiểu muội…

Khúc Phi Yên đáp:

– Gia gia má má của tiểu muội sớm đã bị người ta giết hại rồi; tỷ tỷ muốn tìm họ thì đến âm phủ mà tìm.

Nghi Lâm rất khó chịu, nói:

– Gia gia má má của tiểu muội đã mất rồi, tại sao có thể đem chuyện đó ra để đùa giỡn được? Ta không đi với muội muội nữa đâu.

Khúc Phi Yên nắm lấy tay trái của Nghi Lâm, năn nỉ:

– Tỷ tỷ ơi, tiểu muội côi cút vất vưởng một mình, không có ai chơi với tiểu muội. Tỷ tỷ đi với tiểu muội một chút đi.

Nghi Lâm nghe cô bé nói thật đáng thương, bèn nói:

– Được rồi, ta đi với tiểu muội một chút nhưng tiểu muội không được ăn nói đùa giỡn một cách vô vị nữa. Ta là người xuất gia, tiểu muội gọi ta là tỷ tỷ cũng không đúng.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Mỗi người có một cách nghĩ khác nhau. Có những lời nói tỷ tỷ cho là vô vị nhưng tiểu muội rất lấy làm thú vị. Tỷ tỷ lớn tuổi hơn tiểu muội, tiểu muội gọi tỷ tỷ là là “tỷ tỷ” có gì đâu mà không đúng? Lẽ nào tiểu muội gọi tỷ tỷ là “muội muội”? Nghi Lâm tỷ tỷ, tỷ tỷ đừng làm ni cô nữa có được không?

Nghi Lâm không kìm được sửng sốt, thụt lùi một bước. Khúc Phi Yên buông tay cô ra rồi cười nói:

– Làm ni cô có gì hay đâu? Đã không ăn cá tôm, thịt gà, thịt vịt, thịt bò, thịt dê, suốt đời chỉ biết rau dưa. Tỷ tỷ, trời đã ban cho tỷ tỷ nhan sắc mỹ miều, mà lại phải cạo cái đầu trọc lóc làm giảm bớt dung nhan đi. Nếu tỷ tỷ giữ lại mái tóc dài óng mượt thì nhìn mới đẹp.

Nghi Lâm nghe cô bé nói quá hồn nhiên, cô cười nói:

– Ta đã gửi mình vào chốn Thiền môn, tứ đại giai không thì còn kể chi đến dung mạo bên ngoài xấu đẹp nữa.

Khúc Phi Yên nghiêng đầu ngắm nghía khuôn mặt Nghi Lâm một lúc lâu. Lúc này mưa đã tạnh, mây dần dần tan ra, ánh trăng lờ mờ soi lên mặt cô thành một làn sáng bạc mờ mờ càng tôn thêm vẻ yêu kiều diễm lệ. Khúc Phi Yên thở dài nói:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ thật đẹp. Thảo nào người ta tơ tưởng đến tỷ tỷ nhiều như vậy.

Nghi Lâm thẹn đỏ mặt:

– Tiểu muội nói gì vậy? Tiểu muội lại nói đùa nữa thì ta bỏ đi bây giờ.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Được rồi, tiểu muội không nói nữa. Tỷ tỷ, tỷ tỷ cho tiểu muội xin một ít Thiên hương đoạn tục giao, tiểu muội muốn đi cứu một người.

Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:

– Tiểu muội đi cứu ai vậy?

Khúc Phi Yên cười nói:

– Người này rất quan trọng, bây giờ không thể nói cho tỷ tỷ nghe được.

Nghi Lâm nói:

– Tiểu muội muốn lấy thuốc để cứu người, đáng lý ta nên đưa cho tiểu muội, nhưng sư phụ đã có lời nghiêm huấn. Sư phụ bảo: “Thiên hương đoạn tục giao này điều chế rất khó; nếu người xấu bị thương thì không nên cứu”.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, nếu như có người vô lễ, dùng những lời khó nghe để thóa mạ sư phụ của tỷ tỷ và phái Hằng Sơn thì đó là người tốt hay xấu?

Nghi Lâm nói:

– Người nào thóa mạ sư phụ ta và phái Hằng Sơn tất nhiên là người xấu, làm sao có thể coi là tốt được?

Khúc Phi Yên cười nói:

– Thật là kỳ lạ. Có một người hễ mở miệng ra thì nói: “Gặp ni cô thật là xui xẻo, đánh bạc tất thua”. Người này đã thóa mạ sư phụ của tỷ tỷ, lại chửi cả tỷ tỷ và cả phái Hằng Sơn. Nếu loại “người xấu” đó bị trọng thương thì…

Nghi Lâm không đợi Phi Yên nói hết, mặt biến sắc, quay đầu định bỏ đi. Khúc Phi Yên lạng người đứng chặn trước mặt cô, dang hai tay ra cản đường không cho Nghi Lâm đi.

Bỗng nhiên Nghi Lâm nghĩ: Ngày hôm qua trên Hồi Nhạn lâu, cô bé này và một người đàn ông đang ngồi ở đó. Cho đến lúc Lệnh Hồ đại ca chết, mình ôm thi thể Lệnh Hồ đại ca chạy xuống tửu lâu, hình như cô bé vẫn còn ngồi ở đó, nên tất cả mọi việc cô bé đã nhìn thấy chớ không phải nghe lén mình thuật lại. Không biết cô bé có theo dõi mình không?

Nghi Lâm muốn hỏi Phi Phi một câu nhưng mặt cô đỏ bừng, nói không thành lời.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, tiểu muội biết tỷ tỷ muốn hỏi tiểu muội là “Thi thể của Lệnh Hồ đại ca ở đâu?” đúng không?

Nghi Lâm nói:

– Đúng vậy. Nếu tiểu muội biết nói cho ta hay, ta… ta cảm kích vô cùng.

Khúc Phi Yên nói:

– Tiểu muội không biết nhưng có một người biết; người này đang bị trọng thương, tính mạng rất nguy hiểm. Nếu tỷ tỷ có thể dùng Thiên hương đoạn tục giao cứu y sống lại thì y có thể sẽ nói cho tỷ tỷ biết thi thể của Lệnh Hồ đại ca hiện đang ở đâu.

Nghi Lâm hỏi:

– Tiểu muội không biết thật ư?

Khúc Phi Yên thề:

– Nếu Khúc Phi Yên này biết thi thể Lệnh Hồ Xung ở đâu thì sáng mai sẽ chết trong tay Dư Thương Hải, sẽ bị trường kiếm của lão đâm lên người mười bảy mười tám nhát.

Nghi Lâm vội nói:

– Ta tin rồi, không cần thề. Vậy người đó là ai?

Khúc Phi Yên nói:

– Người này có cứu được hay không là tùy ở tỷ tỷ và nơi mà chúng ta sẽ đến không phải là nơi tử tế gì.

Nghi Lâm vì muốn tìm thi thể Lệnh Hồ Xung thì dù có phải vượt qua núi đao rừng kiếm cô cũng không màng, sá chi nơi tử tế hay không tử tế. Nghi Lâm liền gật đầu nói:

– Chúng ta cứ đi đến đó đi.

Hai người đi đến cổng lớn thì trời đổ mưa, có mấy chục cây dù che mưa để bên cửa. Nghi Lâm và Khúc Phi Yên mỗi người lấy một cây dù, rồi ra khỏi cổng đi về góc đường hướng Đông Bắc. Trời đã vào khuya, người qua lại trên đường rất ít, hai người đi vào trong ngõ hẻm thì có tiếng chó sủa vang. Nghi Lâm thấy Khúc Phi Yên dẫn mình vào một con hẻm nhỏ hẹp nhưng lòng cô chỉ nghĩ tới nơi có thi thể Lệnh Hồ Xung nên dẫn đi đâu cô cũng không hề thắc mắc.

Đi một lúc, bỗng Khúc Phi Yên lại quẹo vào một con hẻm rất nhỏ, chỉ thấy trên cửa nhà bên trái treo một cái đèn lồng màu đỏ . Khúc Phi Yên gõ cửa ba cái, có người từ trong viện thò đầu ra xem rồi mới mở cửa. Khúc Phi Yên thì thầm vài câu vào tai người đó rồi nhét một vật gì đó vào tay gã. Người đó nói:

– Dạ, dạ, xin mời tiểu thư vào.

Khúc Phi Yên quay lại vẫy tay, Nghi Lâm theo cô bé đi vào. Người đó thấy Nghi Lâm tỏ vẻ ngạc nhiên vô cùng.

Gã đi trước dẫn đường, qua một cái sân rộng, gã vén bức mành nhà ngang phía Đông rồi nói:

– Xin mời tiểu thư và sư phụ ngồi ở đây.

Mành cửa vừa vén lên, mùi son phấn dầu thơm xông vào mũi nồng nặc. Nghi Lâm vòng ra phía sau, thấy trong phòng đặt một chiếc giường lớn, chăn gối trên giường đều thêu bằng gấm năm màu, đó chính là hàng thêu ở Hồ Nam nổi tiếng khắp thiên hạ. Trên tấm chăn gấm thêu một đôi uyên ương lượn lờ trong nước, sắc màu rực rỡ sống động như thật. Từ nhỏ Nghi Lâm đã xuất gia và sống ở Bạch Vân am, chỉ đắp chăn bằng vải bố thô sơ, cô chưa bao giờ thấy chăn đệm xa hoa lộng lẫy như vậy. Cô chỉ liếc nhìn thoáng qua rồi quay đầu đi. Trên bàn nhỏ, thắp một cây đèn đỏ; bên cây đèn đỏ là một tấm gương, một hộp son phấn; phía trước giường có hai đôi giày thêu hoa, một đôi dành cho đàn ông, một đôi dành cho đàn bà. Cả hai đôi đều sắp đặt rất ngay ngắn.

Nghi Lâm bỗng giật nẩy người. Ngẩng đầu lên, cô th ấy trước mặt xuất hiện một gương mặt trái xoan đỏ hồng, vừa bẽn lẽn, bối rối lại vừa sửng sốt. Đó chính là dung nhan của cô trong gương.

Có tiếng bước chân ở sau lưng, một nữ tỳ tươi cười bưng trà đến. Người nữ tỳ này ăn mặc rất gọn ghẽ, trông rất yêu kiều nhã nhặn. Nghi Lâm càng lúc càng thấy sợ hãi. Cô khẽ hỏi Khúc Phi Yên:

– Đây là đâu vậy?

Khúc Phi Yên tủm tỉm cười, rồi cúi mặt nói vào tai cô nữ tỳ một câu. Cô nữ tỳ đáp:

– Dạ.

Rồi giơ tay bụm miệng cười khúc khích, õng ẹo đi ra.

Nghi Lâm nghĩ bụng:

– Người con gái này làm bộ làm tịch, nhất định không phải là người đàng hoàng.

Cô lại hỏi Khúc Phi Yên:

– Tiểu muội dẫn ta đến đây để làm gì? Đây là đâu vậy?

Khúc Phi Yên mỉm cười nói:

– Đây là nơi nổi tiếng nhất trong thành Hành Sơn, gọi là Quần Ngọc viện.

Nghi Lâm lại hỏi:

– Quần Ngọc viện là gì?

Khúc Phi Yên nói:

– Quần Ngọc viện là đại kỹ viện đếm trên đầu ngón tay trong thành Hành Sơn.

Nghi Lâm nghe hai chữ “kỹ viện” thì trống ngực đập thình thịch, cơ hồ muốn ngất đi. Cô thấy cách bày biện trong phòng đã sớm ngấm ngầm cảm thấy có điều không ổn, nhưng vạn lần không ngờ đây lại là kỹ viện. Cô tuy không biết rõ kỹ viện là “viện” như thế nào, nhưng cô nghe các sư tỷ đồng môn nói kỹ nữ là đàn bà dâm dật nhất trong thiên hạ; họ bồi tiếp bất cứ người đàn ông nào, chỉ cần người đó có tiền. Khúc Phi Yên dẫn cô vào kỹ viện không chừng là muốn buộc cô làm kỹ nữ! Lòng cô bồn chồn suýt phát khóc lên.

Bỗng nhiên, trong phòng kế bên có tiếng đàn ông cười ha hả, mà giọng cười lại rất quen. Đó chính là ác nhân Vạn lý độc hành Điền Bá Quang. Hai chân Nghi Lâm mềm nhũn; cô ngồi phịch trên ghế, mặt không còn giọt máu.

Khúc Phi Yên sợ hãi vội hỏi cô:

– Tỷ tỷ sao vậy?

Nghi Lâm nói nhỏ:

– Điền… Điền Bá Quang!

Khúc Phi Yên cười khúc khích nói:

– Đúng vậy, tiểu muội cũng nhận ra giọng cười của hắn. Hắn là đồ đệ Điền Bá Quang ngoan ngoãn của tỷ tỷ mà.

Điền Bá Quang ở phòng bên la to:

– Ai nhắc đến tên của lão tử đó?

Khúc Phi Yên nói:

– Nầy, Điền Bá Quang. Sư phụ của ngươi đang ở đây, mau mau ra bái yết sư phụ đi.

Điền Bá Quang cả giận nói:

– Sư phụ nào? Tiểu cô nương nói càn nói bậy, ta sẽ vả tét cái miệng thúi của cô bây giờ.

Khúc Phi Yên nói:

– Khi còn ở Hồi Nhạn lâu thành Hành Dương, không phải ngươi đã bái Nghi Lâm tiểu sư thái của phái Hằng Sơn làm sư phụ sao? Cô ta đang ở đây, mau qua đây bái kiến.

Điền Bá Quang nói:

– Cô ta làm sao mà biết chỗ này. Ui chao! Ngươi… sao ngươi biết? Ngươi là ai? Ta giết ngươi bây giờ.

Giọng nói của gã có ý sợ hãi.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Ngươi qua đây khấu đầu bái yết sư phụ của ngươi rồi hãy nói chuyện.

Nghi Lâm vội nói:

– Đừng, đừng. Tiểu muội đừng kêu hắn qua đây.

Điền Bá Quang giật mình kêu lên “Trời ơi!” một tiếng, tiếp theo một cái độp, hiển nhiên là gã đã từ trên giường nhảy xuống đất. Rồi nghe tiếng một người phụ nữ nói:

– Đại gia, đại gia làm sao vậy?

Khúc Phi Yên kêu to:

– Điền Bá Quang, ngươi đừng có mà trốn! Sư phụ của ngươi vén mùng tìm ngươi đây! Điền Bá Quang thóa mạ:

– Sư phụ, đồ nhi cái gì? Lão tử ta ngang hàng với tiểu tử Lệnh Hồ Xung. Tiểu ni cô mà bước qua đây một bước, lão tử lập tức giết ngay.

Nghi Lâm run run:

– Phải, ta không đi qua đó; ngươi cũng đừng qua đây.

Khúc Phi Yên nói:

– Điền Bá Quang, trên giang hồ ngươi cũng được coi là một nhân vật có tiếng tăm, sao đã nói mà không biết giữ lời? Bái sư phụ rồi bây giờ không thừa nhận là cớ vì sao? Mau qua đây bái yết sư phụ ngươi!

Điền Bá Quang hừ một tiếng không đáp.

Nghi Lâm nói:

– Ta không muốn hắn bái yết cũng không muốn thấy hắn. Hắn… hắn không phải là đồ đệ của ta đâu.

Điền Bá Quang vội nói:

– Đúng vậy! Vị tiểu sư phụ này vốn không muốn gặp ta.

Khúc Phi Yên nói:

– Được, thôi gạt chuyện ngươi qua một bên đi. Ta nói cho ngươi biết, lúc hai chúng ta vừa bước vào đây, có hai tiểu tặc lén lút rình rập bọn ta. Ngươi mau đi phát lạc chúng đi. Ta và sư phụ của ngươi nghỉ ở đây, ngươi ở bên ngoài canh giữ, không cho ai được phép vào đây làm phiền bọn ta. Ngươi làm tốt việc này thì chuyện ngươi bái tiểu sư phụ phái Hằng Sơn làm sư phụ sau này ta tuyệt đối không nhắc đến nữa; bằng không ta sẽ hô hoán khắp thiên hạ cho ai ai cũng biết.

Bỗng nhiên Điền Bá Quang quát:

– Tiểu tặc, to gan thật!

Chỉ nghe cánh cửa sổ kêu kẹt một tiếng, một người phóng nhanh ra. Cánh cửa sổ lại kẹt một tiếng, Điền Bá Quang đã nhảy về phòng rồi nói:

– Ta đã giết một tên là tiểu tặc phái Thanh Thành; còn một người nữa chạy thoát rồi.

Khúc Phi Yên nói:

– Ngươi thật là đồ vô dụng. Sao để một tên chạy thoát?

Điền Bá Quang nói:

– Người đó không thể giết được. Đó là… là một ni cô phái Hằng Sơn.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Thì ra sư bá của ngươi, tất nhiên không thể giết được rồi.

Nghi Lâm giật mình sợ hãi, nói khẽ:

– Là sư tỷ của ta ư? Phải làm sao bây giờ?

Điền Bá Quang hỏi:

– Tiểu cô nương, ngươi là ai?

Khúc Phi Yên cười nói:

– Ngươi không cần hỏi, hãy ngoan ngoãn đừng nói gì nữa. Sư phụ của ngươi vĩnh viễn không đến tìm ngươi đâu.

Quả nhiên Điền Bá Quang không nói thêm một tiếng nào.

Nghi Lâm nói:

– Khúc tiểu muội, chúng ta mau đi thôi.

Khúc Phi Yên nói:

– Người bị thương còn chưa gặp mà. Không phải tỷ tỷ nói muốn nói chuyện với người ta sao? Nếu tỷ tỷ sợ sư phụ thấy sẽ trách phạt thì tỷ tỷ lập tức về đi, cũng không ai ngăn cản đâu.

Nghi Lâm trầm ngâm nói:

– Dù sao cũng đã đến đây rồi, thôi thì chúng ta… chúng ta đi xem người đó đi.

Khúc Phi Yên cười nhẹ một tiếng rồi đi đến bên giường, giơ tay đẩy bức tường phía Đông một cái. Cánh cửa từ từ mở ra, thì ra trên tường có lắp cửa ngầm. Khúc Phi Yên vẫy tay một cái rồi đi vào bên trong.

Nghi Lâm cảm thấy kỹ viện này càng lúc càng kỳ dị bí hiểm. May mà Điền Bá Quang ở trong phòng phía Tây, lòng cô cứ nghĩ càng xa cách hắn càng tốt nên cô bặm gan đi theo vào. Bên trong cũng là một gian phòng nhưng không có đèn nến gì hết, phải nhờ ánh sáng từ phòng ngoài soi vào lờ mờ mới thấy được.

Căn phòng này rất nhỏ, cũng có một cái giường, tấm màn phủ xuống, đứng ngoài chỉ thấy thấp thoáng hình như trên giường có người nằm ngủ. Nghi Lâm đến bên cửa rồi cô không dám đi vào nữa.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ lấy Thiên hương đoạn tục giao ra trị cho người ta đi.

Nghi Lâm chần chừ hỏi:

– Có thật hắn… hắn biết chỗ để thi thể của Lệnh Hồ đại ca không?

Khúc Phi Yên nói:

– Có thể biết, có thể không biết. Tiểu muội không thể nói được.

Nghi Lâm vội nói:

– Vừa rồi tiểu muội nói y biết rõ mà.

Khúc Phi Yên cười nói:

– Tiểu muội đâu phải là bậc đại trượng phu, những lời đã nói coi như không cần kể đến. Tỷ tỷ thử xem nếu không có gì trở ngại thì trị thương cho y đi; nếu không thì tỷ tỷ cứ quay về ngay, không ai ngăn cản tỷ tỷ đâu.

Nghi Lâm nghĩ thầm: Bất luận thế nào, muốn tìm được thi thể của Lệnh Hồ đại ca thì dù là cơ hội mong manh cũng không thể bỏ qua được.

Cô liền nói:

– Được, để ta trị thương cho y.

Nói rồi cô quay ra phòng ngoài cầm cây nến đi đến trước giường, vén màn lên, thấy một người đang nằm ngửa, trên mặt phủ một chiếc khăn gấm màu lục. Chiếc khăn phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở nhè nhẹ. Nghi Lâm không thấy được mặt người này, hơi yên tâm. Cô quay lại hỏi

Khúc Phi Yên:

– Người này bị thương ở chỗ nào?

Khúc Phi Yên nói:

– Ở trước ngực, vết thương rất nặng, suýt chút nữa là vào trúng tim.

Nghi Lâm nhẹ nhàng kéo cái chăn đắp trên ngực người này ra, thấy người này ở trần, giữa ngực bị một vết thương lớn, máu đã ngừng chảy nhưng vết thương rất nặng, hiển nhiên là vô cùng nguy hiểm. Nghi Lâm định thần lại, nghĩ bụng: Bất luận thế nào ta cũng phải cứu sống tính mạng của người này.

Cô đưa cây nến cho Khúc Phi Yên cầm, rút túi lấy ra một cái hộp gỗ đựng Thiên hương đoạn tục giao, mở nắp hộp ra, đặt trên cái bàn nhỏ ở đầu giường. Cô đưa tay bóp nhẹ chung quanh vết thương người đó.

Khúc Phi Yên nói khẽ:

– Huyệt đạo của người này đã sớm bị điểm rồi, nên máu ngừng chảy, nếu không thì sao y có thể sống được đến bây giờ?

Nghi Lâm gật đầu. Cô phát hiện những huyệt đạo chung quanh vết thương của người này sớm bị phong tỏa, cách điểm huyệt vô cùng tinh xảo, cao thâm hơn mình nhiều. Cô từ từ rút miếng bông nhét miệng vết thương ra. Miếng bông vừa được lấy, lập tức máu tươi ứa ra.

Ở sư môn Nghi Lâm đã từng học qua phép cứu thương. Tay trái cô giữ miệng vết thương, tay phải lấy Thiên hương đoạn tục giao bôi vào vết thương rồi đặt miếng bông lại cho kín. Thiên hương đoạn tục giao là thần dược trị thương của phái Hằng Sơn, vừa bôi lên vết thương không bao lâu thì máu lập tức ngừng lại. Nghi Lâm nghe hơi thở người này dồn dập, không biết có thể sống nổi không, cô bèn hỏi:

– Thưa anh hùng, bần ni có chuyện xin thỉnh giáo, mong anh hùng vui lòng nói cho.

Bỗng nhiên Khúc Phi Yên nghiêng người đi, cây nến cũng nghiêng theo, ánh sáng tắt phụt. Trong phòng lúc này tối đen như mực, Khúc Phi Yên la lên một tiếng “Trời ơi” rồi nói:

– Nến bị tắt rồi.

Nghi Lâm xòe tay ra cũng không thấy gì, lòng rất hoang mang thầm nghĩ: Đây là nơi không được sạch sẽ gì, người xuất gia sao lại vào đây? Ta hỏi ngay cho rõ chỗ để thi thể của Lệnh Hồ đại ca rồi lập tức rời khỏi nơi đây ngay.

Cô run run hỏi:

– Thưa anh hùng, bây giờ anh hùng đã thấy bớt đau được chút nào không?

Người đó rên một tiếng, không đáp.

Khúc Phi Yên nói:

– Người ta đang sốt, tỷ tỷ sờ thử trán người ta xem sao lại nóng dữ vậy?

Nghi Lâm chưa kịp trả lời, tay phải đã bị Khúc Phi Yên nắm lấy r ồi đặt lên trán người bị thương. Chiếc khăn gấm phủ trên mặt người này đã bị Khúc Phi Yên giở ra rồi; Nghi Lâm chỉ cảm thấy chỗ mình chạm tay vào nóng như lửa, bất giác cô nổi lòng trắc ẩn, nói:

– Ta còn có thuốc uống để trị nội thương, phải cho y uống mới được. Khúc muội muội, phiền muội đốt sáng ngọn nến lên.

Khúc Phi Yên nói:

– Được, tỷ tỷ ở đây đợi, tiểu muội đi tìm lửa.

Nghi Lâm nghe cô bé nói muốn đi khỏi phòng, cô sợ hãi vội kéo tay áo cô bé lại rồi nói:

– Đừng, đừng, tiểu muội đừng đi. Tiểu muội bỏ ta lại đây một mình, ta biết làm sao?

Khúc Phi Yên tủm tỉm cười rồi nói:

– Tỷ tỷ, tỷ tỷ đem thuốc uống trị nội thương ra đi.

Nghi Lâm lấy trong người ra một cái bình sứ, mở nắp bình ra, đổ ra ba viên để trong lòng bàn tay rồi nói:

– Thương dược đã lấy ra rồi. Muội muội cho người ta uống đi.

Khúc Phi Yên nói:

– Tối đen như thế này đừng làm rơi mất thương dược, tính mạng con người rất hệ trọng, không phải trò đùa. Tỷ tỷ, tỷ tỷ không dám ở lại đây một mình thì tiểu muội ở lại đây đợi. Tỷ tỷ đi đốt nến đi.

Nghi Lâm nghe cô bé nói mình phải tự đi lung tung trong kỹ viện thì cô càng sợ hãi, vội nói:

– Không, không, ta không đi đâu.

Khúc Phi Yên nói:

– Đưa Phật phải đưa đến Tây Thiên, cứu người phải cứu đến nơi đến chốn. Tỷ tỷ lấy thương dược nhét vào miệng người ta, cho người ta uống vài ngụm trà có được không? Trong bóng tối, người ta không thấy được tỷ tỷ là ai, có gì mà phải sợ? Này, này, trà đây, cầm cẩn thận nghe, đừng để đổ.

Nghi Lâm từ từ đưa tay đón lấy chung trà, chần chừ một chút rồi nghĩ bụng: Sư phụ thường dạy người xuất gia lấy lòng từ bi làm gốc, cứu một mạng người còn hơn xây bảy cảnh chùa. Cứ coi như người này không biết chỗ để thi thể Lệnh Hồ đại ca nhưng tính mệnh y đang nguy cấp thì ta cũng nên cứu.

Thế là cô giơ tay phải, đặt lưng bàn tay lên trán của người đó rồi xoay bàn tay nhét ba viên Bạch vân hùng đảm hoàn trị nội thương đưa vào miệng người đó. Người đó há miệng ngậm lấy, đợi Nghi Lâm đưa chén trà đến bên miệng liền uống vài ngụm, miệng ú ớ nói: “Đa tạ”.

Nghi Lâm nói:

– Thưa anh hùng, anh hùng bị trọng thương cần được yên tĩnh nghỉ ngơi, nhưng bần ni có một chuyện gấp muốn hỏi. Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ hiệp sĩ đã bị người ta giết chết, thi thể…

Người đó nói:

– Sư phụ… sư phụ hỏi Lệnh Hồ Xung?

Nghi Lâm nói:

– Đúng vậy! Các hạ có biết di thể của Lệnh Hồ Xung anh hùng ở chỗ nào không?

Người đó mơ hồ nói:

– Cái… cái gì di thể?

Nghi Lâm nói:

– Phải rồi, các hạ có biết di thể của Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ hiệp sĩ lạc ở nơi nào?

Người đó mơ hồ nói ra mấy tiếng, giọng lại rất nhỏ nên hoàn toàn không thể nghe được. Nghi Lâm lại hỏi thêm một lần nữa rồi áp tai xuống gần mặt người đó thì nghe hơi thở của y rất dồn dập, rốt cuộc cũng không nói ra được điều gì.

Nghi Lâm đột nhiên nghĩ: Thiên hương đoạn tục giao và Bạch vân hùng đảm hoàn của bản môn rất hiệu nghiệm, dược tính lại cực mạnh; nhất là Bạch vân hùng đảm hoàn sau khi uống thì bị hôn mê cả nửa ngày. Đó chính là thuốc trị thương trong tình trạng khẩn cấp, nếu ta nhân lúc này mà thúc ép hỏi han người ta thì coi sao được?

Cô nhẹ thở dài, chui đầu ra khỏi màn, vịn vào chiếc ghế ở đầu giường ngồi xuống, nói khẽ:

– Đợi y khỏe một chút rồi hãy hỏi thăm sau.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, tính mệnh người này có còn nguy hiểm nữa không?

Nghi Lâm nói:

– Ta mong cho y bớt đau, nhưng vết thương của y rất nặng. Khúc Phi Yên, vị này là ai?

Khúc Phi Yên không đáp, một lúc sau mới nói:

– Gia gia của tiểu muội nói cái gì tỷ tỷ cũng không biết hết thì không thể làm ni cô được.

Nghi Lâm lấy làm lạ hỏi:

– Gia gia của tiểu muội biết ta sao? Lão… lão nhân gia sao biết được cái gì ta cũng không biết?

Khúc Phi Yên nói:

– Ngày hôm qua ở trên Hồi Nhạn lâu, gia gia và tiểu muội thấy các vị và Điền Bá Quang đánh nhau.

Nghi Lâm ồ lên một tiếng rồi hỏi:

– Người ngồi cùng với tiểu muội là gia gia của tiểu muội ư?

Khúc Phi Yên cười nói:

– Đúng vậy. Vị Lệnh Hồ đại ca của tỷ tỷ có cái miệng thật là lém lỉnh. Y nói y đánh ngồi được xếp hạng đệ nhị thiên hạ khiến tiểu muội và gia gia cũng hơi tin, còn cho là y thật sự có một bộ kiếm pháp gì đó đã luyện trong lúc đi cầu, và còn cho là Điền Bá Quang đấu không lại y nữa. Hi hi.

Trong bóng tối, Nghi Lâm không nhìn thấy được mặt cô bé, nhưng vẫn tưởng tượng ra được gương mặt cô đang cười tươi rói. Khúc Phi Yên càng vui cười hớn hở bao nhiêu thì lòng Nghi Lâm càng đau xót bấy nhiêu.

Khúc Phi Yên nói tiếp:

– Sau đó Điền Bá Quang chạy trốn, gia gia nói gã tiểu tử này chẳng ra trò trống gì, đã giao ước nếu thua thì phải dập đầu bái tỷ tỷ làm sư phụ. Vậy đúng ra hắn phải chấp nhận cúi đầu bái sư, sao lại có thể bỏ trốn?

Nghi Lâm nói:

– Lệnh Hồ đại ca vì cứu ta nên phải dùng xảo kế này, chứ thực sự đâu có thắng nổi Điền Bá Quang đâu.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, tấm lòng của tỷ tỷ tốt quá. Tiểu tử Điền Bá Quang này đã ăn hiếp tỷ tỷ như vậy mà tỷ tỷ còn nói tốt cho hắn nữa. Sau khi Lệnh Hồ đại ca bị gã họ La kia đâm chết, tỷ tỷ ôm thi thể của y chạy loạn trên đường. Gia gia tiểu muội nói: “Tiểu ni cô này cũng giống đa tình, chỉ sợ không khéo cô ta phát điên lên. Chúng ta hãy theo dõi họ xem sao”. Thế rồi hai chúng ta bám theo tỷ tỷ, thấy tỷ tỷ cứ ôm người chết đi hoài không nỡ bỏ xuống. Gia gia tiểu muội nói: “Phi Phi, ngươi xem tiểu ni cô này đau lòng biết dường nào, nếu tiểu tử Lệnh Hồ Xung không chết thì không chừng tiểu ni cô này sẽ hoàn tục để xuất giá làm vợ của y”.

Nghi Lâm thẹn thùng, mặt đỏ bừng lên. Trong bóng tối, cô cảm thấy miệng khô lưỡi ráo.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ, gia gia của tiểu muội nói vậy có đúng không?

Nghi Lâm nói:

– Vì ta đã hại chết đại ca, kẻ đáng chết là ta chứ không phải là đại ca. Nếu Bồ Tát đại từ đại bi bảo ta phải chết thay cho Lệnh Hồ đại ca để đại ca được sống trở lại trên dương thế, ta… ta… ta dù có bị đày ải xuống tận mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không thể siêu sinh cũng cam tâm tình nguyện.

Lúc này, người nằm trên giường bệnh rên nhẹ lên một tiếng.

Nghi Lâm vui miệng nói:

– Y… y đã tỉnh rồi. Khúc muội muội, muội muội hỏi người ta xem có đỡ chút nào chưa?

Khúc Phi Yên nói:

– Tại sao lại phải tiểu muội hỏi mới được? Tỷ tỷ không có miệng sao?

Nghi Lâm chần chừ một lúc rồi đi đến trước giường, đứng ngoài màn hỏi:

– Thưa anh hùng, các hạ có thấy…

Cô nói chưa hết câu, lại nghe người đó rên lên mấy tiếng. Nghi Lâm nghĩ: Lúc này y đang đau đớn, ta làm sao có thể làm phiền y được?

Cô đứng lặng yên một lúc, nghe hơi thở của người đó đã điều hòa, hiển nhiên là thuốc đã phát huy tác dụng khiến y ngủ thiếp đi.

Khúc Phi Yên nói khẽ:

– Tỷ tỷ, tại sao tỷ tỷ lại muốn vì Lệnh Hồ Xung mà chết? Có phải tỷ tỷ thật sự yêu thương anh ta phải không?

Nghi Lâm nói:

– Không, không! Khúc muội muội, ta là người xuất gia, tiểu muội đừng có nói những lời tiết mạn Phật tổ như vậy. Lệnh Hồ đại ca và ta vốn không quen biết, lại vì cứu ta mà chết. Ta… ta chỉ cảm thấy vạn lần có lỗi với đại ca.

Khúc Phi Yên nói:

– Nếu như Lệnh Hồ Xung có thể sống lại được thì bất cứ chuyện gì tỷ tỷ cũng có thể vì y mà làm không?

Nghi Lâm đáp:

– Đúng vậy, ta vì đại ca mà chết một ngàn lần cũng không một lời oán trách.

Khúc Phi Yên đột nhiên cười lên tiếng nói:

– Lệnh Hồ đại ca! Đại ca nghe rõ chưa, chính miệng Nghi Lâm tỷ tỷ nói là…

Nghi Lâm giận nói:

– Tiểu muội đùa cợt cái gì vậy?

Khúc Phi Yên tiếp tục la to:

– Tỷ tỷ nói chỉ cần đại ca không chết, bất cứ chuyện gì tỷ tỷ cũng có thể làm vì đại ca hết đó.

Nghi Lâm nghe giọng cô bé nói dường như không phải đùa cợt. Đầu cô choáng váng, mắt hoa lên, trống ngực đập thình thịch. Cô nói:

– Muội… muội…!

Chỉ nghe hai tiếng cách, cách, ánh sáng lóe lên, Khúc Phi Yên đã bật lửa đốt ngọn nến rồi vén màn lên, tươi cười nhìn Nghi Lâm vẫy vẫy tay. Nghi Lâm từ từ tiến đến gần, bỗng nhiên mắt cô hoa lên, người chúi về phía sau.

Khúc Phi Yên đưa tay đỡ lưng Nghi Lâm để cô không bị ngã, rồi cười nói:

– Tiểu muội biết trước tỷ tỷ sẽ giật mình kinh hãi. Tỷ tỷ xem người này là ai?

Nghi Lâm lắp bắp:

– Y… y…

Giọng cô yếu ớt, dường như hơi thở không thông.

Người nằm trên giường hai mắt đang nhắm lại nhưng khuôn mặt vuông chữ điền, cặp lông mày thẳng như hai thanh kiếm và đôi môi mỏng dính. Đó chính là Lệnh Hồ Xung mà cô đã gặp ngày hôm qua ở trên Hồi Nhạn lâu.

Nghi Lâm đưa tay nắm chặt cánh tay Khúc Phi Yên run run hỏi:

– Đại… đại ca còn sống ư?

Khúc Phi Yên cười đáp:

– Bây giờ thì còn sống, nhưng nếu thuốc của tỷ tỷ không công hiệu thì không chừng sẽ chết.

Nghi Lâm vội nói:

– Không chết được đâu. Đại ca nhất định không thể chết được, đại… đại ca không thể chết được!

Cô vừa mừng vừa sợ hãi, bỗng nhiên khóc òa lên. Khúc Phi Yên lấy làm lạ hỏi:

– Ô hay, Lệnh Hồ đại ca không chết sao tỷ tỷ lại khóc?

Hai chân của Nghi Lâm mềm nhũn ra, đứng không vững được nữa, ngã phục xuống trước giường. Cô khóc thút thít nói:

– Ta vui lắm! Khúc muội muội, ta cám ơn muội muội vô cùng. Thì ra, thì ra muội đã cứu… cứu Lệnh Hồ đại ca.

Khúc Phi Yên nói:

– Tỷ tỷ cứu đấy chứ, tiểu muội không có bản lãnh lớn như vậy đâu, lại không có Thiên hương đoạn tục giao nữa.

Bỗng nhiên Nghi Lâm sực nhớ ra, từ từ đứng dậy, kéo tay Khúc Phi Yên nói:

– Gia gia của tiểu muội đã cứu đại ca. Đúng là gia gia của tiểu muội đã cứu đại ca rồi.