Theo sử Trung Hoa thì trước kia đời Nghiêu, Thuấn vợ thứ hai của vua Ðế Cốt là Giảng Ðịnh đi cầu con ở gò Cao Mai trông thấy chim én đẻ rơi trước mặt. Bà Giảng Ðịnh cho là điềm lành, liền lấy trứng chim én ấy nuốt vào bụng. Quả nhiên vì nuốt trứng, bà thọ thai sinh được một trai đặt tên là Khiết.
Khiết lớn lên phò vua Nghiêu, rồi đến vua Thuấn, được phong làm chức Tư Ðồ. Vì có công dạy dân, về sau Khiết được phong làm Lạc Ấp, và làm chúa một xứ.
Dòng dõi ông Khiết vẫn nối chức cai trị Thái Ấp cho đến đời ông Thái Ất, tức là Thành Thang.
Thành Thang là người nhân đức và trung hậu, nghe đồn ông Y Doãn là người tài trí, thất thời ẩn cư cày ruộng nơi Sằn Dã, liền đến rước về, dâng cho vua Kiệt, nhà Hạ dùng. Ấy là vì lòng trung, Thành Thang không dám dùng riêng người tài cho mình.
Ai ngờ vua Kiệt bất trí, không biết dùng người tài, nghe lời dua mị, không trọng dụng Y Doãn. Y Doãn bỏ vua Kiệt trở về với Thành Thang.
Bấy giờ vua Kiệt càng ngày càng đắm say tửu sắc. Giết quan Long Phùng là một vị gián quan có công với nước, nên chẳng ai dám ra can ngăn nữa.
Hành động của vua Kiệt mỗi lúc một thối nát hơn. Ông Thành Thang thấy vậy sai người qua khóc lóc để khuyên can. Vua Kiệt đã không nghe còn bắt ông Thành Thang giam tại Hạ Ðài suốt một thời gian mới thả về.
Trong lúc vua Kiệt ham dâm, độc ác như vậy thì ông Thành Thang lại tỏ cho thiên hạ thấy ông là một người nhân hậu có tiếng.
Một hôm, ông Thành Thang ra ngoài đồng thấy người đi săn bủa lưới bốn phía, và vái:
– Trên trời sa xuống, dưới đất chun lên, tất cả bốn phương đều vô mảnh lưới.
Ông Thành Thang nghe lời vái ấy than thầm:
– Nếu vậy muôn cầm đìểu thú đều bị bắt hết còn gì?
Ông bèn truyền mở ba phía lưới ra, rồi khiến các thợ săn vái rằng:
Muốn lại thì lại, muốn qua thì qua
Ở trên trời sa xuống, có cánh bay xa
Ở dưới đất chun lên, có chân chạy ra
Con nào liều mạng, thì vào lưới ta
Cầm thú đều ra khỏi lưới hết. Bởi vậy đời sau người ta thường nói: “Mở lưới Thành Thang ” tức là ý muốn nhắc đến tích ấy.
Giăng lưới để bắt cầm thú để ăn thịt mà chỉ giăng một mặt, chừa chỗ cho con thịt thoát ra thì lòng nhân còn gì hơn. Bởi vậy tiếng đồn tới cõi Hớn Nam, thiên hạ đều khen Thành Thang đức lớn, hơn bốn mươi nước đều theo.
Ðến sau, vua Kiệt vô đạo, hại dân gần chết, ông Y Doãn phò Thành Thang đánh đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào.
Các chư hầu hội đũ mặt, tôn Thành Thang lên làm Thiên tử, Thành Thang vẫn từ chối, chỉ muốn nhận bổn phận chư hầu thôi, nhưng vì các chư hầu khác ép buộc, Thành Thang cực chẳng đã phải thuận lời lên ngôi Thiên tử lập Kinh đô nơi đất Bạt vào năm Ất Mùi mở đầu nhà Thương.
Vua Thành Thang bỏ các điều luật ác hiểm của vua Kiệt, đặt ra những việc dân ưa, dân mến, lấy đức trị dân, nên ai nấy đều theo về cả.
Trong thời gian đầu, vì vua Kiệt bất nhân, nên trời hạn hán suốt bảy năm, vua Thành Thang mới cầu mưa thì trời liền mưa xuống.
Vua trị dân nhân đức, dân coi vua như cha mẹ, trong nước không xảy ra điều gì cần phải xài đến luật pháp nữa.
Vua Thành Thang trị vì được 13 năm, thọ được 100 tuổi, rồi truyền xuống con cháu đến 28 đời, tổng cộng là 564 năm, đến đời Ân Thọ (vua Trụ) thì nhà Thương mới mất.
Hai mươi tám đời vua nhà Thương truyền nối như sau:
1 – Thành Thang
2 – Thái Giáp
3 – Óc Ðinh
4 – Thái Canh
5 – Tiển Giáp
6 – Ứng Kỷ
7 – Thái Hậu
8 – Trọng Ðỉnh
9 – Ngoại Nhâm
10 – Hà Ðản Giáp
11 – Tổ Ất
12 – Tổ Tân
13 – Óc Giáp
14 – Tổ Ðinh
15 – Nam Canh
16 – Ðương Giáp
17 – Bàn Canh
18 – Tiểu Tân
19 – Tiểu Ất
20 – Võ Ðinh
21 – Tổ Canh
22 – Tổ Giáp
23 – Lâm Tân
24 – Canh Ðịnh
25 – Thái Ðỉnh
27 – Ðế Ất
28 – Ân Thọ (Trụ Vương).
Truyện này nói về cuối đời nhà Thương, lúc Trụ Vương mất nước, và nhà Châu lên kế vị.
Vua Trụ là con thứ ba của vua Ðế Ất. Vua Ðế Ất có ba người con là Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Ân Thọ.
Nhân khi vua Ðế Ất ngự ngoài vười xem hoa mẫu đơn với các quan, thấy lầu Phi Vân gãy mất một kèo, liền truyền các quan thay cây kèo ấy. Các quan xúm lại đỡ không nổi.
Bấy giờ có Ân Thọ đi theo, thấy vậy một mình xốc lại, một tay đỡ cây kèo, một tay nhổ cột lên thay.
Các quan trông thấy sức mạnh của Thọ Vương ai cũng quỳ lạy chúc mừng.
Thừa Tướng Thương Dung và quan Ðại Phu Mai Bá, Triệu Khải đồng quỳ tâu với vua Ðế Ất:
– Thọ Vương tuy là con út nhưng tài năng như vậy có thể làm rạng rỡ nhà Thương sau này, xin Bệ hạ phong làm Thái Tử, để nối ngôi.
Ðế Ất bằng lòng, lập Ân Thọ lên làm Thái Tử.
Vua Ðế Ất trị vì được ba mươi năm thì băng hà. Lúc lâm chung có phú thác Thọ Vương cho Thái Sư Văn Trọng, nên sau đó Thọ Vương được lên ngôi Thiên tử tức Trụ Vương, đóng đô tại Triều Ca.
Hai người anh của vua Trụ tuy không được nối ngôi, song vẫn một lòng hiếu thuận, không hiềm khích, hoặc có ý ganh tỵ. Bởi vậy từ trong đến ngoài đều an lạc.
Văn thì có Thái Sư Văn Trọng đủ tài trị nước, võ thì có Trấn Quốc Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ đủ tài trấn áp các nước chư hầu.
Trong cung ba bà cung hậu như Chánh Cung Khương hoàng Hậu, Tây Cung Hoàng Thị (em Hoàng Phi Hổ), Ninh Khánh Cung Ðương thị đều có đức hạnh, trinh chính, hòa nhã, hiền lành.
Vua Trụ ngồi hưởng thái bình, muôn dân lạc nghiệp, mưa hòa gió thuận, tưởng không có gì sung sướng hơn.
Bấy giờ nhà Thương cầm đầu một số chư hầu gồm bảy trăm Trấn chia làm bốn Cõi có một chư hầu lớn thay mặt nhà Thương điều khiễn.
Bốn Trấn chư hầu lớn gồm có:
1 – Ðông Bá Hầu Khương Hoàng Sở (cha của Khương Hoàng Hậu).
2 – Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ
3 – Tây Bá Hầu Cơ Xương (Văn Vương)
4 – Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ.
Mỗi Trấn chư hầu lớn cai trị gần một trăm chư hầu nhỏ, cộng bảy trăm Trấn chư hầu.
Sau khi Trụ Vương lên ngôi được bảy năm thì có một số chư hầu nhỏ phía Bắc do Viên Phước Thông cầm đầu nổi loạn. Thái Sư Văn Trọng phải tuân lệnh đi đánh dẹp.
Văn Trọng ra đi, việc triều chính thiếu người định đoạt, nên vua Trụ thường gần gũi hai tên Vưu Hồn và Bí trọng, là hai tên xu nịnh, trước kia đã nhiều lần Văn trọng can không cho vua Trụ gần hai tên ấy.
Một hôm vào tiết tháng ba, vua Trụ ngự triều, Thừa Tướng Thương Dung tâu:
– Ngày mai là ngày rằm, nhằm vía bà Nữ Oa, xin bệ hạ đi dâng hương cầu phước.
Vua Trụ hỏi:
– Bà Nữ Oa là người thế nào đến nỗi Trẫm phải bỏ ngai vàng đi dâng hương?
Thương Dung tâu:
– Bà Nữ Oa là em gái của vua Phục Hy, hiện là một vị thần linh hiển lắm. Trước kia Cung Công làm phản, đụng đầu vào núi Bất Châu, đất bị nghiêng sụp, bà Nữ Oa bèn lấy năm sắc đá vá trời. Bởi có công với đời như vậy, nên mấy triều vua đều lập miễu phụng thờ. Nơi nào thờ miễu Bà thì nơi ấy mưa thuận gió hòa, mối nước được yên, dân gian khỏe mạnh. Xin bệ hạ đến đó dâng hương, chẳng nên khinh dễ.
Vua Trụ nhận lời:
– Nếu vậy mai Trẫm sẽ đến đó dâng hương cầu phước, sẵn dịp du ngoạn một chuyến.
Hôm sau, vua trụ truyền long giá ra đi, các quan đi theo phò tá rất đông. Ba ngàn binh kỵ mã, tám trăm quân Ngự Lâm do Hoàng Phi Hổ điều khiển, trước sau đông nghẹt.
Xa giá đến đâu dân chúng đều thắp nhang đèn trước cửa vọng bái.
Khi đến trước đền thần Nữ Oa, vua Trụ bước xuống xe đến nơi chính điện đặt một đĩnh trầm, và các quan đồng lạy.
Vua Trụ trông thấy trong điện trang nghiêm lắm, những hình tượng toàn bằng vàng ngọc đứng hầu hai bên. Những cặp con trai cầm phướng đúc vàng, những tượng con gái chạm bằng ngọc đứng dâng hương. Trên điện không thiếu gì hạc múa loan xòe, rồng bay phượng lộn, đèn chưng như sao mọc, khói tỏa như mây mờ, uy nghiêm chẳng khác gì đền vua.
Trụ Vương đang say mê, thì bỗng một luồn gió nhẹ thổi qua làm bức màn vẹt qua, vua trông thấy tượng bà Nữ Oa rất rõ, hình dung như một người sống chẳng khác gì một nàng tiên, hương trời sắc nước không đâu bì kịp.
Lời xưa thường nói:
– Nước gần mất thì có yêu nghiệt hiện ra.
Vua Trụ nhìn tượng thần Nữ Oa không nháy mắt tự nhủ với lòng:
– Ta tuy làm vua giàu có bốn biển, nhưng trong tam cung lục viện không thấy có người nào được cái nhan sắc như vậy.
Nghĩ rồi truyền thị vệ đem bút mực đến, và đề một bài thơ ngay trên vách tường:
Lạnh lùng trướng phủ xõa màn loan
Bóng sắc khen ai khéo điểm trang
Liễu uốn mày ngài khoe sắc lục
Xiêm tung sóng nưóc điểm non vàng
Hải đường sương đượm màu tươi tốt
Thược dưọc mưa nhuần bóng vẻ vang
Ðem về cung điện dựa thiên nhan
Thừa Tướng Thương Dung thấy vua Trụ đề thơ như vậy thất kinh quỳ tâu:
– Bà Nữ Oa là thần thánh đời thượng cổ. Tôi tưởng bệ hạ chỉ nên dâng hương cầu phước cho mưa thuận gió hòa, sóng trong biển lặng. Còn việc đề thơ có ý trêu cợt như vậy không nên. Xin bệ hạ truyền lấy nước rửa đi kẻo thiên hạ trông thấy truyền ngôn cho bệ hạ không có đức chánh.
Vua Trụ nói:
– Trẫm thấy tượng thần xinh đẹp, đề một bài thơ tán thưởng chớ chẳng có ý gì khác. Vả lại Trẫm là thiên tử cũng nên để lại mấy vần thơ này cho thiên hạ rõ nhan sắc của bà, và chiêm ngưỡng vần thơ của Trẫm chứ?
Dứt lời truyền hồi loan. Các quan không ai dám nói lời nào nữa. Về đến đền Long Ðức, các quan chúc mừng rồi ai về dinh nấy.
Bấy giờ nói đến bà Nữ Oa đi lên cung Hỏa Vân chầu ba Thánh là: Phục Hy, Thần Nông, và Hoàng Ðế.
Khi chầu xong bà Nữ Oa trở về đền, lên ngồi nơi chánh điện. Hai bên gái ngọc trai vàng làm lễ, bà Nữ Oa nhìn qua bên vách thấy bài thơ của vua trụ, nổi giận nói:
– Ân Thọ hôn quân! Không lo sửa mình trị thiên hạ lại sanh tâm tà bậy, không sợ luật trời. Thật đáng ghét! Trước kia vua Thành Thang đuổi vua Kiệt thu thiên hạ, hưởng dư sáu trăm năm đến nay tuần thời đã hết. Nếu ta không báo ứng sao gọi là linh.
Nói rồi liền đằng vân bay vào triều, cố vật chết vua Trụ để rửa hờn. Nhưng vừa lướt đến phía ngoài hậu cung Nữ Oa gặp hai đạo hào quang xông đến cản lại.
Hai đạo hào quang này là của Ân Hồng và Ân Giao (Nguyên vua Trụ có hai người con trai, người anh là Ân Hồng, người em là Ân Giao, sau này đều được phong thần, nên mới có hào quang như vậy). Hôm ấy hai anh em vào hậu cung chầu vua Trụ. Bà Nữ Oa bị hào quang cản trở, tính ra mới biết vua Trụ còn hai mươi tám năm nữa mới tận số, nên đằng vân trở về miễu.
Tuy nhiên, lòng vẫn căm tức không nguôi, bà liền gọi Thể Vân đồng tử lấy bầu vàng đem ra để giữa sân giở nút, rồi đưa tay chỉ một cái, tức thì trong bầu bay ra một đạo hào quang trắng phau như giải lụa, dài hơn năm trượng. Ðạo hào quang lại hiện ra hình một cậy phướng ngũ sắc tua tủa khắp một vùng.
Phướng này gọi là phướng chiếu yêu. Trong giây phút sa mù bao phủ, gió lộng áo ào, các yêu đều hiện đến.
Bà Nữ Oa ra lệnh cho Thể vân đồng tử bảo các yêu trở về động hết, chỉ chừa lại ba con yêu tại mả Huỳnh Ðế và cho vào ra mắt.
Ba yêu vâng lệnh, vào quỳ lạy xưng:
– Chúng tôi là hồ ly ngàn năm, chim trĩ chín đầu và đàn tỳ bà bằng đá ngọc thạch đến chầu nương nương.
Bà Nữ Oa nói:
– Nay cơ nghiệp Thành Thang đã mỏi mòn, vua Trụ sắp đến ngày mất nước. Núi Kỳ Sơn phụng gáy nhà Tây Châu, người đó là khí số do trời định. Ba chị em bây hãy dấu mình yêu quái, trà trộn vào cung điện, làm cho Trụ vương điêu đứng. Ðợi cho Võ vương đánh trụ thành công, ta cho chúng bay thành thần. Song ta cấm một điều là không được tàn hại bá tánh, chỉ trả thù Trụ Vương thôi.
Ba yêu vâng lệnh lui ra, đằng vân về động.
Vua Trụ từ khi dâng hương đền Nữ Oa trở về, mê bóng sắc pho tượng đến nỗi đêm ngủ không ngon, ngày ăn không được, coi ba cung sáu viện như cỏ rác, chẳng đoái hoài đến. Tâm tư canh cánh bên lòng buồn bã không muốn nói chuyện với ai nữa.
Ngày kia Trụ Vương đến đền Hiển Thánh, có các hoạn quan theo phò trong lúc buồn bã, Trụ Vương sực nhớ đến Vưu Hồn, Bí Trọng, hai tên này thường nói nhiều điều vui tai, vua có thể nhờ hai người này tìm cách giải khuây được, bèn cho đòi Bí Trọng đến.
Bí Trọng lúc này là Trung Gián Ðại Phu, nghe vua đòi liền ứng hầu ngay, và tâu:
– Bệ hạ có việc gì cần sai khiến hạ thần?
Trụ vương buồn bã nói:
– Vừa rồi Trẫm có đi dâng hương đền Nữ Oa thấy tượng Nữ Oa xinh đẹp đến nỗi trong tam cung lục viện của Trẫm cũng không có kẻ nào bằng. Nếu sắc đẹp ấy Trẫm không được thưởng thức thì dầu Trẫm có làm vua cũng không toại nguyện. Khanh có cách gì giải buồn cho Trẫm không?
Bí Trọng tâu:
– Bệ hạ giàu có bốn biển, đức sánh Thuấn, Nghiêu. Mọi vật trên đời này đều là của bệ hạ hết, có gì mà bệ hạ không toại nguyện? Nếu bệ hạ cần một sắc đẹp tuyệt mỹ thì bệ hạ chỉ cần xuống lệnh cho bốn Trấn chư hầu tuyển bốn trăm mỹ nữ đem dâng thì thiếu gì kẻ tuyệt sắc.
Trụ Vương nghe tâu rất đẹp dạ, phán:
– À, thế mà Trẫm như ngu độn không nghĩ ra. Thôi để ngày mai Trẫm sẽ truyền như vậy.
Rồi Trụ Vương trở về triều.