Thạch Phá Thiên thấy dưới đất còn vết máu loang lổ, mấy đoạn đao kiếm gãy vứt bỏ tại đó, đàn quạ bay lượn trên đầu réo lên quang quác. Chàng lượm con dao chặt củi lên, lớn tiếng gọi: “A Tú! A Tú!”, chạy lại sau gốc cây nhưng không thấy nàng ở đó nữa.
Thạch Phá Thiên tự hỏi: “Hay nàng về trước rồi?” Chàng lật đật chạy về hang núi, lại gọi luôn mấy tiếng: “A Tú! A Tú!” nhưng chẳng những không thấy A Tú mà cả Sử bà bà cũng bỏ đi rồi. Thạch Phá Thiên rất đỗi hoang mang. Chàng nhìn xuống mặt đất thấy mấy hình vẽ lộn xộn, song không biết đó là chữ, cũng không hiểu có ý nghĩa gì, chỉ đoán là Sử bà bà cùng A Tú đã rời khỏi đây.
Ban đầu Thạch Phá Thiên cảm thấy cô đơn vắng lặng, nhưng từ thuở nhỏ chàng đã quen với cảnh cô đơn lạnh lẽo, nên chỉ sau một lúc là trở lại bình tĩnh. Lúc này vết thương trước ngực đã ngưng chảy máu, chàng nghĩ: “Họ đi cả rồi, ta cũng đi thôi. Bây giờ ta lại đi kiếm má má cùng con A Hoàng.” Lúc này chẳng còn ai quấy nhiễu, chàng cảm thấy trong lòng thư thái nhẹ nhõm, nhưng khi nghĩ đến Sử bà bà cùng A Tú thì có chút luyến tiếc. Chàng cài con dao chặt củi lên lưng rồi đi ra bờ sông.
Thạch Phá Thiên ra đến bờ sông, chỉ thấy làn nước mênh mông, sóng vỗ bì bõm, ven bờ không có con thuyền nào, đành men theo bờ sông mà đi. Đảo Tử Yên không lấy chi làm lớn, Thạch Phá Thiên chạy mới một giờ là đã quanh hết một vòng, vẫn chẳng thấy thuyền bè chi hết, phóng tầm mắt nhìn ra ngoài xa cũng không thấy bóng một cánh buồm nào.
Chàng vẫn còn hy vọng Sử bà bà và A Tú đi một lúc rồi về, bèn quay về hang núi xem thử, nhưng vẫn chẳng có ai. Chàng liền đi tìm ít trái hồng để ăn cho qua cơn đói, khi đêm xuống lại ngủ trong động.
Thạch Phá Thiên ngủ đến nửa đêm, bỗng nghe ngoài sông có tiếng roạc roạc như xé lụa. Chàng đứng phắt dậy, nhắm hướng có tiếng động chạy ra bờ sông. Dưới ánh sao lờ mờ, chàng nhìn rõ một con thuyền lớn áp vào gần bờ, buồm rung phần phật trong gió.
Thạch Phá Thiên vừa kinh hãi vừa mừng thầm, chỉ sợ trên thuyền này có Đinh Bất Tam hay Đinh Bất Tứ, nên không dám mạo muội tiến đến ngay, bèn thụt người lại nấp vào sau gốc cây. Bỗng chàng nghe một tiếng vang lớn. Lần này chàng nhìn rõ buồm trên thuyền đã xoắn vào nhau, bị gió mạnh giật tung ra mà trên thuyền chẳng ai dòm ngó gì tới.
Thạch Phá Thiên thấy chiếc thuyền lay động rồi trôi ra xa bờ, vội chạy lại la gọi: “Trên thuyền có ai không?” Không nghe tiếng người đáp lại, chàng nhảy vọt lên đầu thuyền nhìn vào trong khoang, nhưng chỉ thấy tối đen, không rõ vật gì hết. Chàng liền chui vào khoang, chân bỗng vấp phải một người nằm trên sạp thuyền. Chàng vội cất tiếng xin lỗi rồi đưa tay ra nâng người đó dậy. Ngờ đâu tay đụng vào thấy lạnh ngắt, thì ra là một cái tử thi.
Thạch Phá Thiên giật mình kinh hãi, la lên một tiếng: “Úi chao!” Tay trái chàng sờ soạng lại đụng phải cánh tay một người khác cũng lạnh như băng, lại là một xác chết. Chàng run rẩy, lần mò đi vào khoang trong, chân lại dẫm phải một tử thi nữa. Khoang này cũng toàn là xác chết, cái nằm lăn ra, cái ngồi tựa mạn thuyền.
Thạch Phá Thiên hoảng sợ quá, cất tiếng la thật to: “Trong thuyền có ai không?” Chàng kinh hãi quá độ, âm thanh tuy vang dội nhưng đã lạc giọng. Thạch Phá Thiên run rẩy đi tới đằng lái. Dưới ánh sao lờ mờ chàng nhìn rõ có đến mười mấy người nằm ngổn ngang trên boong tàu. Người nào cũng cứng đờ, hiển nhiên đều là xác chết. Lúc này đang tiết trời thu. Gió thổi rất mạnh, mấy cánh buồm rách toang bị gió thổi vang lên những tiếng lạch phạch. Gió thổi rít qua những sào tre bị gãy trên thuyền, nghe như tiếng sáo hòa cùng tiếng hú của ma.
Thạch Phá Thiên tuy rất gan dạ, lại đã quen vói cảnh cô đơn yên tĩnh, nhưng đêm khuya một mình ở nơi hoang vắng, trong một chiếc thuyền đầy tử thi hoàn toàn không có một người sống, tai lại nghe thấy những tiếng động quái dị thì cũng không khỏi run rẩy. Chàng cứ tưởng như những thi thể này sắp sống lại, nhảy lên để bóp cổ mình. Chàng nhớ lại vụ bị xác chết đuổi bắt rồi toan mổ bụng ở Hầu Giám Tập mà cơ hồ nghẹt thở, mồ hôi toát ra như tắm, lông tóc dựng ngược, chỉ muốn nhảy lên bờ. Nhưng chàng vừa đặt chân lên mép thuyền, bỗng la hoảng vì con thuyền đã ra khỏi bờ quá xa rồi, đang thuận dòng trôi đi.
Thì ra con thuyền vô chủ này thuận dòng trôi đến đảo Tử Yên, loanh quanh mấy vòng rồi lại thuận dòng xuôi tiếp. Suốt đêm hôm ấy Thạch Phá Thiên không dám vào khoang thuyền, chỉ ngồi ở đằng lái ôm lấy cột buồm, chờ cho đến sáng.
Sáng sớm hôm sau lúc mặt trời vừa mọc, mọi vật đều trông thấy rõ ràng, Thạch Phá Thiên cũng đỡ khiếp sợ. Chàng nhảy xuống sàn thuyền, nhìn thấy trong khoang ngoài khoang có ít ra là năm sáu chục cái xác chết, thật khiến cho người ta phải hoảng sợ. Lạ ở chỗ trên mình thi thể nào cũng không có máu, cũng không có vết đao thương kiếm kích chi cả. Chàng không hiểu bọn họ vì sao mà chết.
Thạch Phá Thiên quay lại mũi thuyền thì thấy ngay giữa cửa khoang có treo hai cái bài đồng sáng lấp loáng, lớn bằng bàn tay. Một tấm khắc bộ mặt tươi cười, dung nhan hòa ái. Còn một tấm lại khắc bộ mặt dữ tợn như hung thần ác sát. Cả hai tấm bài đồng này được đóng vào tấm gỗ cửa khoang bằng đinh sắt rất dài, trông rất kỳ bí. Thạch Phá Thiên chăm chú nhìn hai tấm bài đồng thì thấy hai bộ mặt khắc vào đó linh động như người sống, bèn không dám nhìn lâu, quay đi chỗ khác. Chàng lại nhìn tới những xác chết thì tay người nào cũng cầm binh khí hoặc lưng giắt đao kiếm, hiển nhiên toàn là nhân vật võ lâm.
Thạch Phá Thiên nhìn kỹ hồi lâu, phát giác ra trên vai áo mỗi người đều thêu một con cá có cánh, rất sống động. Chàng đoán những người trên thuyền là cùng một bọn, nhưng không tài nào hiểu được họ gặp địch thủ đến thế nào mà bị giết hết.
* * *
Con thuyền cứ tiếp tục trôi theo dòng nước Trường Giang xuống hạ lưu, đến trưa thì thấy trước mặt có hai con thuyền đang song song ngược dòng đi lên. Người lái thuyền kia thấy con thuyền này cứ chênh chếch trôi xuống liền la lên: “Chống thuyền lại! Chống thuyền lại!” Nhưng con thuyền này không có ai bẻ lái, gặp chỗ nước chảy xiết bèn xoay ngang ra. Nghe sầm một tiếng, nó đã đụng vào hai thuyền kia. Tiếng người la ó om sòm lẫn với tiếng chửi rủa thô tục lập tức vang lên.
Thạch Phá Thiên kinh hãi vô cùng, bụng bảo dạ: “Thuyền của người ta bị thuyền này đụng phải, chắc họ sẽ làm khó dễ mình. Không chừng họ còn buộc mình vào tội giết chết bấy nhiêu người trên thuyền, lúc đó thì biết làm thế nào?” Gặp phải tình trạng cấp bách, chàng đánh liều chui vào trong khoang, lật ván lên nằm nép xuống đáy thuyền.
Lúc này ba con thuyền đã áp vào nhau, rồi có người nhảy sang, những tiếng la hoảng lại vang lên. Có người lớn tiếng kêu: “Là người của Phi Ngư Bang, sao… sao đã chết cả rồi?” Lại có người la lên: “Bang chúa… bang chúa Thành Đại Dương cũng chết ở đây.” Đột nhiên ngoài mũi thuyền có người la hoảng, lắp bắp: “Đây là Thưởng Thiện… Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh…”
Tiếng người này không to lắm, nhưng thanh âm run lên bần bật ra chiều khủng khiếp đến cực độ. Câu này chưa nói xong mà thì mọi người đã im bặt, trong thuyền yên lặng không một tiếng động. Thạch Phá Thiên tuy nấp dưới đáy khoang, không nhìn thấy mặt ai, nhưng chàng cũng biết họ khiếp sợ đến cùng cực.
Hồi lâu, mới có người nói: “Năm nay lại đến kỳ Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh tái xuất giang hồ rồi. Đây chắc là hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác phụng mệnh đi tuần. Phi Ngư Bang này từ trước đến giờ đã gây nên nhiều tội ác… Hỡi ơi!” Hắn buông tiếng thở dài rồi không nói nữa.
Một người khác cất tiếng hỏi: “Hồ đại ca! Nghe nói Thưởng Thiện Phạt Ác Lệnh vốn không phải giết hại người ta ngay lúc đó, chỉ là triệu tập đến… đến Hiệp Khách Đảo, đến đó rồi mới xét xử phải không?”
Người nói trước đáp: “Nếu ai ngoan ngoãn tuân lệnh thì đúng là như vậy. Nhưng đã đi là chết, không đi cũng chết, chết sớm muộn một chút cũng chẳng khác gì. Chắc là Thành Đại Dương bang chúa không chịu phụng mạng, cùng toàn bang kháng cự cho nên… cho nên mới có kết cục như thế.”
Một người hỏi hết sức nhỏ: “Hai vị Thưởng Thiện Phạt Ác đó thật sự thần thông quảng đại như thế ư? Chẳng lẽ trong võ lâm không ai địch nổi họ sao?”
Hồ đại ca gì đó hỏi ngược lại: “Ngươi nói thử xem có ai không?”
Người kia im lặng một chút, mới nói nhỏ nhẹ: “Sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác trở lại giang hồ, thì các bang các phái đều khó mà tránh khỏi đại kiếp này.”
Thạch Phá Thiên sực nhớ tới một chuyện, ngấm ngầm la hoảng: “Những xác chết trên thuyền này đều là người Phi Ngư Bang gì đó, có cả bang chúa, thật là chuyện không hay. Chẳng hiểu hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác nào đó có tìm đến bang Trường Lạc hay không?”
Chàng nghĩ tới đây bất giác lòng nóng như lửa đốt, nghĩ bụng: “Mình phải chạy mau về tổng đà báo tin cho Bối tiên sinh hay, để bọn họ chuẩn bị trước.” Sở dĩ chàng quyết định như vậy là vì từ lúc bị người ta nhận lầm là Thạch bang chúa của Trường Lạc Bang đã phải chịu đựng rất nhiều phiền não, lại mấy phen suýt nguy đến tính mạng, chỉ có bang Trường Lạc từ trên xuống dưới là kính cẩn lễ phép với chàng. Dù ở đó có một người tên là Triển Phi toan hạ sát chàng, nhưng đó chỉ là chuyện hiểu lầm mà thôi. Lúc này chàng nghe đến câu: “Các bang các phái đều khó mà tránh khỏi đại kiếp này”, nghĩ đến chuyện an nguy của mọi người ở bang Trường Lạc, chàng hết sức quan tâm.
Thạch Phá Thiên lại càng lắng tai nghe mọi người trong thuyền nói chuyện. Bỗng nghe tiếng một người khác hỏi: “Hồ đại ca! Đại ca xem vụ này có liên quan gì đến chúng ta không? Hai sứ giả đó có tìm đến Thiết Xoa Hội của chúng ta không?”
Hồ đại ca đáp: “Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã đi tuần, thì bất cứ bang hội nào trên giang hồ cũng khó tránh khỏi tiêu điều. Chuyện này cũng còn tùy chúng ta hên xui thế nào.” Y im lặng một lúc lâu rồi tiếp: “Bây giờ ngươi ngấm ngầm phái người đi bẩm với Tổng đà chúa, rồi hết thảy anh em trong hai thuyền đều tụ tập cả vào đây, bất luận là ai cũng không được nhúc nhích. Chúng ta dùng thuyền này để tới xóm chài nhỏ ngoài cảng Hồng Liễu. Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã tới thuyền này diệt sạch nhân vật đầu não bang Phi Ngư, thì chắc không trở lại đây nữa.”
Người kia mừng rõ nói: “Đúng lắm! Đúng lắm! Kế của Hồ đại ca thật là tuyệt diệu. Hai vị sứ giả Thiện Ác mà có thấy lại thuyền này thì cũng cho là thuyền đầy xác chết của Phi Ngư Bang, chắc không lên đây. Tại hạ xin đi truyền lệnh ngay.” Chẳng bao lâu sau, có rất nhiều người đi qua chiếc thuyền này.
Thạch Phá Thiên nằm phục dưới đáy thuyền, lắng tai nghe những người trên khoang thì thào bàn tán, tưởng chừng như đại họa đến nơi rồi. Có người nói: “Thiết Xoa Hội chúng ta không có điều chi đắc tội với Hiệp Khách Đảo, hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác vị tất đã tìm đến bọn mình.”
Một người khác nói: “Chẳng lẽ Phi Ngư Bang lại cả gan đắc tội với Hiệp Khách Đảo hay sao? Theo ta thì giang hồ cứ mười năm lại gặp một lần kiếp nạn, chỉ sợ rằng lần này… lần này…”
Bỗng có người ngắt lời: “Lão Lý! Hay là chúng ta cầu xin Tổng đà chúa tuân lệnh qua đó, thử xem thế nào?”
Lão Lý hắng giọng một tiếng rồi đáp: “Đương nhiên là một đi không trở lại. Ba mươi năm trước, các vị bang chúa, hội chủ, chưởng môn tuân lệnh đến Hiệp Khách Đảo, đã có ai trở về được đâu? Tổng đà chúa từ trước đến giờ đối xử với chúng ta cũng không đến nỗi tồi, chẳng lẽ chúng ta lại ham sống sợ chết để lão nhân gia đơn phương độc mã vào nơi nguy hiểm mà chịu mất mạng ư?”
Lại người khác nói: “Phải đấy! Bây giờ chỉ có cách tạm lánh đi là hơn. May mà chúng ta phát giác ra sớm, xem ra cũng nhờ ông trời che chở Thiết Xoa Hội của chúng ta qua khỏi kiếp vận này. Xóm chài ở ngoài cảng Hồng Liễu là nơi rất kín đáo, chúng ta đến đó tạm lánh thì hai vị sứ giả có tai thính mắt tinh đến đâu cũng khó mà phát giác ra được.”
Hồ đại ca nói: “Ngày trước Tổng đà chúa sửa sang xóm chài này là để dùng vào việc như hôm nay. Đó là nơi để trốn hết nợ của thế gian… chẳng khác gì chốn đào nguyên ngoài cõi tục.”
Bỗng một giọng ồ ồ bỗng cất lên: “Thiết Xoa Hội của chúng ta vùng vẫy trên sóng Trường Giang, không biết sợ trời sợ đất là gì, ngay đức Hoàng Đế cũng phải làm ngơ. Thế mà vừa nghe đến hai tên sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác gì gì đó, cả bọn chúng ta lại hoảng sợ cụp đuôi, vội chui vào xóm chài hẻo lánh ngoài cảng Hồng Liễu bắt chước con rùa rút đầu, thật chẳng ra làm sao. Giả tỉ lần này trốn tránh được, nhưng sau này có kẻ hỏi tới thì bọn ta biết đem những cái mặt mo này giấu đi đâu? Chi bằng cứ quyết đấu với chúng một trận, con mẹ nó, chưa chắc gì đã mất cái mạng già nua này.”
Lão này nói năng thật là khí phách anh hùng, nhưng cả thuyền không có ai dám hưởng ứng. Qua một hồi lâu, Hồ đại ca nói: “Không sai! Chúng ta đã quen ăn miếng cơm giang hồ, hứng máu trên lưỡi đao mà uống. Con mẹ nó! Lại đầu quy Vương lão lục nào có biết sợ ai? Ha ha!”
Đột nhiên người vừa lên tiếng hô hào bỗng rú lên một tiếng thảm khốc, nhưng mọi người trong khoang thuyền hoàn toàn im lặng. Thạch Phá Thiên nghe những tiếng tí tách, rồi cảm thấy từng giọt nước nhỏ xuống lưng bàn tay mình. Chàng đưa tay lên mũi ngửi thấy mùi tanh sặc sụa, biết ngay là máu từ trên nhỏ xuống. Thạch Phá Thiên bây giờ mới hiểu bọn họ ngồi ngay bên trên mình, nên không dám động đậy chút nào, đành để máu tươi tiếp tục nhỏ xuống người mình.
Bỗng nghe Hồ đại ca lớn tiếng hỏi: “Ngươi trách ta về chuyện giết Lại đầu quy ư?”
Một người run run đáp: “Không… không có… Vương lão lục quả là ăn nói lỗ mãng, chẳng trách Hồ đại ca phải nổi nóng. Có điều… gã đối với bản hội… trước nay vẫn một dạ trung thành.”
Hồ đại ca nói: “Thế thì ngươi không phục cách xử trí của ta phải không?”
Người kia vội nói: “Không… không phải…” Y chưa dứt lời, bỗng nghe một tiếng rú thê thảm vang lên, hiển nhiên lại bị gã họ Hồ hạ sát rồi. Thạch Phá Thiên lại nghe máu nhỏ từng giọt từ trên khoang thuyền xuống đáy. May mà người này không ngồi ngay trên chỗ chàng nấp nên máu không rơi vào người chàng.
Gã Hồ đại ca kia giết liền một lúc hai người, rồi lại nói: “Không phải là ta tâm địa hiểm độc, thủ đoạn tàn ác, chẳng nghĩ gì đến nghĩa khí anh em. Nhưng thật sự là vụ này quan hệ đến mạng sống của mấy ngàn người trong bang hội. Vụ này mà chỉ tiết lộ ra một chút thì hết thảy chúng ta đều giống như các bằng hữu Phi Ngư Bang. Lại đầu quy Vương lão lục cứ tự cho mình là anh hùng hảo hán, la ó om sòm. Hắn coi thường tính mạng hắn đã đành, chẳng lẽ bắt cả tổng đà chúa và hết thảy anh em chúng ta mất mạng theo hắn hay sao?”
Mọi người đều nói: “Phải lắm! Phải lắm!”
Gã họ Hồ lại nói: “Người nào không muốn chết, thì chỉ có cách ngồi yên trong khoang thuyền. Tiểu Tống! Ngươi ra ngoài bẻ lái, nhớ lấy một mảnh buồm rách che lên mình, đừng để người ta nhìn thấy.”
Thạch Phá Thiên nằm phục dưới đáy thuyền, tai nghe tiếng nước chảy kế bên. Mọi người trong khoang thuyền chẳng ai nói năng gì, Thạch Phá Thiên lại càng không dám phát ra một chút âm thanh. Trong lòng chàng vẫn thắc mắc: “Không hiểu Hiệp Khách Đảo là chỗ nào, sao trên đảo lại phái đi hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác hung hãn ác độc đến thế, giết sạch những người trên thuyền. Cũng khó mà trách được bọn người Thiết Xoa Hội này lại hoảng sợ đến như vậy.”
Qua một hồi lâu, chàng cảm thấy rất mệt mỏi, mơ mơ màng màng chỉ muốn nhắm mắt ngủ một giấc, nhưng lại nghĩ lỡ mình ngủ mơ mà phát ra những tiếng động để bọn người phía trên phát giác thì sẽ ra sao, chắc là khó giữ được tính mạng. Nên chàng cứ cố mở to mắt, bất luận thế nào cũng không dám nhắm mắt lại. Rất lâu sau, chàng lại nghe thấy những tiếng lách cách rồi tiếng xích sắt khua, con thuyền không ngớt lắc lư, thì ra đã được người ta neo lại.
Lại nghe Hồ đại ca nói: “Mọi người sau khi vào nhà, bất cứ ai cũng không được ra ngoài, cứ im lặng chờ Tổng đà chúa mà nghe hiệu lệnh của lão gia.” Mọi người đều thấp giọng vâng dạ tuân lời, rồi len lén lên bờ. Chỉ trong khoảng khắc mọi người lên hết, trong thuyền chẳng còn một ai.
Thạch Phá Thiên lại chờ một lúc nữa, đoán chừng mọi người đã vào nhà hết, mới dám mở ván thuyền thò đầu lên. Chàng để ý nhìn quanh một lượt không thấy có người, bèn lén lút bò lên khoang thuyền, thấy xác chết vẫn còn nằm la liệt.
Thạch Phá Thiên lượm một thanh đao giắt vào sau lưng, đổi con dao chẻ củi hoen rỉ của mình. Chàng lại thò tay vào bọc một tử thi, lần mò lấy ít tiền để lên bờ mua cơm ăn. Thạch Phá Thiên đi lại đằng lái, nhẹ nhàng nhảy lên bờ. Chàng khom lưng theo bãi sông chạy lẹ về phía trước, chừng hơn một dặm mới rẽ lên bờ, đi vào một con đường nhỏ.
Chàng nghĩ bây giờ vẫn chưa thoát khỏi vòng nguy hiểm, càng đi xa hơn càng tốt, lại co giò cố chạy thật nhanh. May mà thôn chài này cực kỳ hẻo lánh, trong vòng mười dặm không có căn hộ nào cả, chàng chưa gặp một ai.
Thạch Phá Thiên mừng thầm, cứ tưởng mình gặp vận may. Chàng không biết, lúc trước ở vùng này lác đác cũng có nhà dân, nhưng đều bị Thiết Xoa Hội ngấm ngầm phóng độc giết sạch. Những người vừa dọn tới chưa được bao lâu cũng bị trúng độc mà chết. Dân chúng trong vùng đều cho là Hồng Liễu Cảng này có ma quái dễ sợ, có thể truyền nhiễm ôn dịch. Sau bảy tám năm, mọi người đều lánh đi xa, nơi đây biến thành sào huyệt cực kỳ bí mật của Thiết Xoa Hội.
* * *
Thạch Phá Thiên chạy xa thôn chài này thêm mấy dặm, đã cảm thấy bụng đói như cào. Chàng liền chạy vào rừng rậm định tìm quả dại, nhưng vừa đi được mấy bước bỗng nghe có tiếng sột soạt. Một con heo rừng từ trong bụi cỏ rậm nhảy ra, cúi đầu lao thẳng đến chàng. Thạch Phá Thiên nghiêng người đi một chút, tay phải rút đơn đao thuận tay phóng chiêu Trưởng Giả Chiết Chi trong Kim Ô đao pháp, chỉ soạt một tiếng đã chặt đứt đầu nó. Con heo rừng này cực kỳ hung mãnh, tuy đầu đã rơi xuống đất rồi mà nó vẫn chạy thêm mười mấy bước nữa mới lăn ra chết.
Thạch Phá Thiên cả mừng, trước đây chưa học Kim Ô đao pháp thì chàng gặp heo rừng chỉ có cách chạy trốn, đâu dám nghĩ đến chuyện giết nó. Chàng tìm một khối đá đen ở bên rừng, lấy sống đao ghè xuống cho tia lửa bắn tóe ra, đốt lên một đống lửa. Chàng chặt lấy bốn đùi heo rừng đem đến khe suối rửa sạch vết máu rồi xách về bên đống lửa. Chàng nung nóng thanh đao, dí vào đùi heo cho cháy lông đi, đoạn lấy cành cây xiên qua đùi heo, nướng lên đống than. Chẳng mấy chốc, mùi thịt heo chín đã bay thơm phức.
Giữa lúc Thạch Phá Thiên đang nướng thịt thì đột nhiên nghe thấy ngoài mười trượng có tiếng người nói: “Thơm quá! Thơm quá! Thật khiến cho người ta phải chảy nước miếng.”
Một giọng khác nói: “Bên đó có người đang nướng thịt thú gì đó. Chúng mình đến đó thương lượng với họ, lấy một ít mà ăn, không biết có được hay không.”
Người nói trước nói: “Đúng thế.” Rồi hai người từ từ đi tới. Thạch Phá Thiên thấy một người thân thể cao lớn mặt tròn tai to, mình mặc áo đoạn màu hồng, vẻ mặt niềm nở hòa ái rất dễ thân cận. Còn người kia thì thân hình đã cao nghễu cao nghều lại gầy khẳng gầy kheo, khoác trường bào màu thanh thiên. Mặt hắn ốm không bằng một nửa người kia, lại để một chùm râu đuôi chuột, vẻ mặt rất âm trầm hiểm độc.
Gã béo mập cười ha hả nói: “Tiểu huynh đệ! Chuyện này…”
Thạch Phá Thiên đã nghe hai người bàn nhau từ trước, liền nói: “Con heo rừng này nhiều thịt lắm, mười mấy người ăn cũng không hết. Hai vị cứ việc ăn uống cho thỏa thích”.
Gã béo mập lại mỉm cười nói: “Như thế thì chúng ta cũng không khách sáo nữa.” Hai người liền ngồi xuống. Dưới ánh lửa bập bùng họ nhìn thấy y phục của Thạch Phá Thiên rất sang trọng nhưng lem luốc, chẳng những xốc xếch mà lại dính máu bê bết thì lộ vẻ kinh ngạc. Nhưng họ chỉ nhìn thoáng qua rồi bốn con mắt lại nhìn hau háu vào mấy cái đùi heo đang nướng trên đống lửa, không để ý gì đến chàng nữa.
Mỡ ở đùi heo nhỏ giọt xuống đống lửa, hòa lẫn với mùi nhựa thông rất thơm tho. Tuy chưa ai ăn vào miệng, nhưng cũng cảm thấy mùi vị thật là tuyệt vời. Gã cao gầy lấy cái bầu màu lam đeo ở sau lưng, mở nút ra ghé miệng vào uống một hơi rồi nói: “Rượu ngon!” Gã béo mập cũng lấy trên lưng xuống chiếc bầu sắc đỏ, lắc mấy cái rồi mở nút ra uống. Gã cũng khen: “Rượu ngon!”
Thạch Phá Thiên khi còn đi theo Tạ Yên Khách đã từng được uống rượu. Bây giờ chàng ngửi thấy mùi rượu thơm phức, cũng muốn uống một hớp. Nhưng chàng thấy hai người mạnh ai nấy uống, không hề có ý mời mình. Suốt đời chàng nhất quyết không cầu xin ai cả, chỉ đành nuốt nước miếng mà thôi. Một lúc nữa, bốn cái đùi heo đã chín tới. Chàng liền nói: “Thịt heo chín rồi. Xin mời!”
Hai gã một ốm một mập đồng thời thò tay ra cầm lấy một chiếc đùi heo. Chúng đưa vào miệng toan cắn thì Thạch Phá Thiên cười nói: “Hai cái đùi ấy tuy lớn thật, nhưng đều là đùi sau, mùi vị không bằng đùi trước.”
Gã béo mập mỉm cười nói: “Chú bé này cũng có lương tâm lắm.” Đoạn gã đổi lấy đùi heo trước cắn ăn. Còn gã gầy nhom cầm đùi sau đã lỡ cắn một miếng rồi, hắn ngần ngừ không tiện đổi nữa.
Hai người ăn mấy miếng, lại uống một hớp rượu rồi cất tiếng khen: “Rượu ngon!” Rồi hai gã cùng đậy nút lại, đeo bầu vào sau lưng.
Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Hai người này thật là tiết kiệm, chỉ uống hai hớp rồi cất rượu đi. Chẳng lẽ rượu này lại quý đến thế hay sao?” Chàng liền nhìn gã béo nói: “Đại gia, rượu trong hồ lô này ngon lắm phải không? Tại hạ cũng muốn uống vài hớp.” Lời nói của chàng tuy không phải là xin của người ta, nhưng cái ý xin rượu thì đã rõ.
Gã béo lắc đầu nói: “Không được! Không được! Cái này không phải rượu, chú không uống được. Chúng ta đã ăn thịt heo rừng của chú, lát nữa sẽ có lễ vật tặng lại.”
Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Đại gia nói giỡn rồi. Chính miệng đại gia vừa khen rượu ngon, mà tại hạ cũng ngửi thấy mùi rượu.” Chàng lại quay sang hỏi gã gầy nhom: “Còn trong hồ lô của vị đại gia này, chắc chắn là rượu đấy chứ?”
Gã gầy nhom đảo cặp mắt, trợn lòng trắng lên nói: “Đây là rượu độc. Ngươi có gan thì cứ uống đi!” Gã nói xong, cởi hồ lô ra đặt xuống đất.
Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Nếu đây là thuốc độc thì sao đại gia uống vào không chết?” Chàng nhắc lấy cái hồ lô rồi mở nút, mùi rượu xông lên thơm ngát.
Gã béo mập hơi biến sắc nói: “Vô duyên vô cớ sao chúng ta lại gạt ngươi? Mau đặt xuống đi, mau đặt xuống đi.” Gã liền giơ năm ngón tay ra chụp vào cổ tay chàng, toan cướp lấy cái hồ lô. Ngờ đâu, gã vừa chạm vào cổ tay Thạch Phá Thiên liền cảm thấy một luồng đại lực mãnh liệt xô ra, hất văng ngón tay gã đi. Gã béo mập giật mình kinh hãi, “Úi chà” một tiếng rồi nói: “Té ra là thế! Chúng ta đã nhìn lầm người. Vậy thì mời chú uống rượu!”
Thạch Phá Thiên cầm ngay chiếc hồ lô kê vào miệng, nuốt ừng ực hai hơi dài. Chàng nghĩ gã gầy ốm xem chừng tiếc rượu, nên không dám uống nhiều, liền đậy nút bình lại nói: “Đa tạ!” Trong nháy mắt, một luồng khí lạnh buốt từ đan điền chàng bốc lên, như một khối băng lạnh cứ lan ra mãi. Chỉ trong khoảng khắc, Thạch Phá Thiên cảm thấy toàn thân đều bị lạnh cứng, cả người run lên, hai hàm răng khua vào nhau lập cập. Chàng vội vận nội lực để chống lại, luồng hơi lạnh dần dần tan đi rồi khắp mình mẩy chân tay cảm thấy thư thái vô cùng. Chẳng những chàng không thấy giá lạnh nữa mà trong người lại rất ấm áp. Bất giác chàng lớn tiếng khen: “Rượu ngon!”
Chàng không nhịn được lại nhắc bầu lên, mở nút ra uống hai hớp nữa. Rồi chàng lại vận nội lực cho luồng hơi lạnh tiêu tan, cảm thấy trong người càng khoan khoái hơn. Thạch Phá Thiên thích quá, trầm trồ khen: “Tại hạ chưa từng được uống rượu ngon như thế này. Tiếc là loại rượu này quý báu quá, nếu không thì tại hạ nhất định phải uống sạch.”
Sắc mặt của hai gã kia đều lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa sợ hãi. Gã béo nói: “Tiểu huynh đệ! Nếu chú quả có tửu lượng hơn người thì cứ uống cạn cả bầu rượu này cũng được, đừng ngại chi hết.”
Thạch Phá Thiên cả mừng nói: “Đại gia nói thật đấy chứ? Nhưng tuy đại gia rộng lượng mà tại hạ cũng thấy ngại.”
Gã gầy nhom lạnh lùng nói: “Rượu độc trong bầu đỏ của ông kia còn ngon hơn nữa. Ngươi có muốn uống thử không?”
Thạch Phá Thiên đưa mắt nhìn gã béo mập, cũng có ý muốn thử một chút. Gã béo mập thở dài nói: “Tuổi còn nhỏ mà nội công đã cao cường đến thế, bây giờ bỗng dưng chết uổng thì thật là đáng tiếc!” Gã vừa nói vừa cởi cái bầu rượu đỏ chóe ra đặt xuống đất.
Thạch Phá Thiên nghĩ thầm: “Hai người này cũng ưa nói giỡn. Nếu là rượu độc thật thì sao chính họ lại uống vào?” Chàng cầm bầu rượu đỏ lên mở nút ra, một mùi thơm ngào ngạt đưa lên mũi. Chàng liền uống một hơi. Lần này chàng không cảm thấy giá lạnh, lại ruột nóng như lửa đốt.
Thạch Phá Thiên kinh hãi la lên một tiếng: “Úi chao!” rồi không chịu được phải nhảy vọt lên. Chàng vội huy động nội lực trấn áp, quả nhiên dẹp được cơn nóng, tựa hồ ngọn lửa hồng bị tắt ngấm. Chàng la lên: “Thứ rượu này ghê gớm quá!” Nhưng lạ thay, luồng nhiệt khí trong bụng vừa tiêu tan, toàn thân lại khoan khoái vô cùng.
Gã béo mập nói: “Nội lực của chú rất thâm hậu. Nếu bây giờ chú uống hết cả hai bầu rượu này thì dũng chẳng sao.”
Thạch Phá Thiên cười nói: “Một mình tại hạ đâu dám uống hết? Ba người chúng ta hôm nay có duyên hội ngộ, nếu chúng ta kết bạn với nhau rồi cùng uống rượu ăn thịt có hay hơn không? Nào! Xin mời đại gia!” Chàng nói xong, cầm bầu rượu đưa sang.
Gã béo mập mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ thật sự muốn thử sức ta hay sao? Vậy ta phải xả thân để bồi tiếp người quân tử.” Gã nói xong, đón lấy bầu rượu giơ lên uống một hớp rồi đưa bầu lại cho Thạch Phá Thiên nói: “Chú uống nữa đi!”
Thạch Phá Thiên lại uống một hớp, rồi cầm bầu rượu đưa cho gã gầy nhom nói: “Xin mời đại gia!”
Gã gầy nhom biến sắc đáp: “Ta chỉ uống rượu của ta thôi!” Gã cầm bầu rượu màu lam lên, uống một hớp rồi đưa cho Thạch Phá Thiên.
Thạch Phá Thiên nhận lấy rồi uống một hớp lớn, cảm thấy sau khi uống hớp rượu nóng rồi lại uống một hớp rượu lạnh, hai dòng nóng lạnh hòa lẫn nhau trong bụng thì mùi vị lại càng ngon hơn. Chàng thấy cả hai gã trợn mắt lên nhìn mình, hiểu ý ngay liền mỉm cười nói chữa thẹn: “Xin lỗi nhé! Tại hạ uống hớp rượu này tham quá.”
Gã gầy nhom vẫn lạnh nhạt nói: “Ngươi muốn trổ tài hảo hán thì càng nốc nhiều càng hay.”
Thạch Phá Thiên mỉm cười đáp: “Nếu uống chưa thỏa thích thì chúng ta tới thị trấn trước mặt kia, mua một hũ lớn uống cho kỳ thích. Tại hạ đã có bạc đây, có điều e rằng không tìm đâu được thứ rượu ngon như thế này.” Chàng nói xong, lại cầm bầu rượu giơ lên uống một hớp rồi đưa cho gã mập.
Gã mập ngồi xếp bằng dưới đất, ngấm ngầm vận công lực rồi mới uống một hơi. Gã thấy Thạch Phá Thiên uống hết hớp lớn này đến hớp lớn khác mà không sao cả, thì càng lúc càng kinh ngạc. Gã mập và gã gầy cứ nhìn nhau, trên sắc mặt đều lộ vẻ kinh dị. Thì ra hai người này đều là những tay cao thủ võ công tuyệt đỉnh, nhưng mỗi người luyện công hoàn toàn trái ngược nhau.
Gã béo mập luyện theo đường lối dương cương, còn gã gầy nhom lại theo lối âm nhu. Trong bầu rượu của mỗi người đều đựng rượu thuốc để hỗ trợ cho việc luyện công. Trong bầu rượu màu đỏ đựng rượu thuốc có tính rất nóng, dùng Liệt Hỏa Đan ngâm vào rượu mạnh. Còn rượu trong bầu lam thì có tính cực hàn, dùng Cửu Cửu Hoàn ngâm thành.
Liệt Hỏa Đan và Cửu Cửu Hoàn đều bào chế từ không ít những loại linh đan diệu dược. Trong Cửu Cửu Hoàn chứa tới tám mươi mốt loại độc thảo, trong Liệt Hỏa Đan thì thuốc độc ít hơn nhưng lại có Hạc Đỉnh Hồng, Khổng Tước Đảm là những loại kịch độc. Hai gã đã mất nhiều năm và tốn lắm công phu mới luyện được. Dược tính của hai loại rượu này cực kỳ mãnh liệt, nên người thường chỉ cần nhỏ vài giọt lên đầu lưỡi là mất mạng ngay. Hai gã này công lục rất cao thâm, nhưng khi uống vẫn phải thêm một thứ thuốc để hòa hoãn bớt phần mãnh liệt của dược liệu mới uống được mấy hớp mà không đến nỗi trúng độc. Nhưng nếu gã mập uống lầm phải rượu lạnh, hay gã gầy uống lầm phải rượu nóng, thì lập tức mất mạng ngay.
Hai gã thấy Thạch Phá Thiên uống vừa bừa bãi vừa nhiều như vậy mà không sao hết, thì sao mà không kinh hãi? Kiến thức của họ rất rộng rãi, võ học trong thiên hạ mười phần biết đến tám chín, nhưng thật sự không đoán ra Thạch Phá Thiên đã gặp kỳ duyên. Chàng đã luyện nội công thuần âm trước, rồi sau lại luyện thuần dương. Hai thứ nội công một âm một dương ấy lẽ ra phải xung khắc nhau làm chàng tẩu hỏa nhập ma mà chết, nhưng chàng gặp được kỳ tích may mắn, nên chúng lại hỗ tương cho nhau, phát sinh ra uy lực khiến cho công lực của chàng tiến bộ rất nhanh. Sau đó chàng nhờ bộ tượng La Hán của Đại Bi Lão Nhân tặng cho mà luyện thành La Hán Phục Ma Thần Công, lại được rượu thuốc của Đinh Bất Tam làm cho nội lực âm dương giao hòa thành một, dĩ nhiên có thể chống đỡ được bất cứ thứ độc dược nào, bất kể là hàn hay nhiệt.
Thạch Phá Thiên uống rượu của hai gã, cảm thấy băn khoăn trong dạ. Chàng nướng thêm thịt heo rừng, dành những miếng ngon lành nhất cho hai gã, lại luôn miệng mời họ uống rượu. Hai gã lại cho là chàng cố ý uống rượu độc để tỉ thí nội lực với mình. Khi nào họ chịu thua trận đầu hàng, đành miễn cưỡng cùng chàng đối ẩm mỗi người một hớp. Nhưng họ ngấm ngầm lấy thuốc giải độc ra, lén bỏ vào miệng của mình.
Lúc nào hai gã cũng ngó Thạch Phá Thiên chằm chặp, nhưng thấy chàng hoàn toàn không uống một thứ thuốc gì khác để hóa giải loại rượu độc này. Thần công Thạch Phá Thiên thật là hiếm có trên đời, khiến hai gã phải kinh ngạc không hiểu chàng thiếu niên anh hùng này từ đâu xuất hiện.
Gã béo mập thấy Thạch Phá Thiên uống một hớp rượu trong bầu đỏ, rồi lại đưa sang cho mình. Gã đón lấy cái bầu rồi nói: “Nội lực của tiểu huynh đệ cao thâm khôn lường, khiến cho ta phải khâm phục. Vậy tiểu huynh đệ cho biết quý tính đại danh?”
Thạch Phá Thiên chau mày nói: “Vấn đề này thật khiến cho tại hạ phải điên đầu. Ai đã biết tại hạ đều tưởng là người họ Thạch, còn ai chưa biết là hỏi ngay họ tên. Thực ra tại hạ không phải họ Thạch, hay đúng hơn là không họ không tên, nên câu hỏi này không thể trả lời được.”
Gã béo mập bụng bảo dạ: “Thằng lỏi này giả ngây giả dại, tìm cách thoái thác không chịu xưng tên.” Gã lại hỏi: “Vậy tiểu huynh đệ đã bái ai làm sư phụ, ở môn phái nào?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Sư phụ tại hạ ở họ Sử, thường kêu bằng Sử bà bà. Đại gia đã gặp gia sư bao giờ chưa? Lão gia là tổ sư sáng lập ra phái Kim Ô, còn tại hạ là đại đệ tử đời thứ hai.”
Cả hai gã mập, ốm cùng đều nghĩ: “Chỉ nói bậy bạ. Tất cả các môn phái trong thiên hạ chúng ta đều biết, làm gì có phái Kim Ô quỷ quái nào? Có ai là Sử bà bà đâu? Thằng lỏi này thật chỉ kiếm chuyện nói bừa.”
Gã mập nhân cơ hội đang đối đáp, không uống rượu nữa. Gã cầm bầu rượu đưa lại cho Thạch Phá Thiên rồi nói: “Té ra tiểu huynh đệ là đệ tử phái Kim Ô mới sáng lập, thảo nào bản lãnh phi thường! Mời uống rượu đi!”
Thạch Phá Thiên thấy gã chưa uống đã đưa bầu rượu cho mình thì nghĩ thầm: “Y mải nói chuyện quên cả uống rượu.” Chàng liền nhắc: “Đại gia chưa uống mà.”
Gã mập hơi đỏ mặt lên nói: “Vậy ư?” Gã cố ý trốn vòng, uống ít đi một hớp để chiếm lợi thế, nào ngờ bị Thạch Phá Thiên phát hiện, trong lòng không khỏi có chút hổ thẹn. Gã có biết đâu Thạch Phá Thiên chỉ vì hảo ý mà nhắc gã, sợ gã uống ít rượu ngon thì bị thua thiệt.
Gã mập bèn đưa bầu rượu lên uống, nhưng gã đã uống tới tám hớp rượu thuốc là quá sức rồi, cho dù có uống thuốc để kiềm chế thì cũng có hại cho cơ thể. Gã liền kê bầu rượu vào miệng, cổ họng thì giả vờ nuốt ừng ực nhưng hai hàm răng lại cắn chặt. Khi gã hạ bầu rượu xuống, rượu lại chảy vào bầu.
Gã béo mập chơi kiểu này, dĩ nhiên không qua mắt gã gầy nhom được. Gã gầy nhom cũng uống theo kiểu gã béo mập, tức là không để rượu trôi xuống cổ họng. Như vậy, bề ngoài thì chú một hớp anh một hớp, mà thực ra hai bầu rượu đầy thì mười phần có đến bảy, tám đã chui vào bụng Thạch Phá Thiên.
Tửu lượng chàng cũng không khá lắm, nhờ có nội lực thâm hậu mới chống đỡ được. Rượu độc này tuy chưa có hại gì cho chàng, song uống nhiều quá cũng ngà ngà say, rồi tửu nhập ngôn xuất, mỗi lúc chàng nói một nhiều. Chàng kể hết chuyện A Tú sang chuyện Đinh Đinh Đang Đang… Hai gã nghe mà chẳng hiểu gì hết.
Gã béo mập suy nghĩ: “Gã thiếu niên này nhất định đã luyện được một kỳ công nào đó để chuyên môn đối phó với hai người chúng ta. Hắn không lộ vẻ gì, chỉ nói chuyện bừa bãi, thật là cực kỳ nham hiểm. Đợi lát nữa động thủ, sợ rằng hai chúng ta phải mất mạng vào tay hắn.” Gã lại nghĩ: “Hôm nay hai chúng ta lấy hai chống một vẫn chưa chắc thắng nổi. Nội lực tên này thật cao thâm đến mức hiếm thấy trên đời. Để ta thử tăng lượng thuốc vào, xem thử hắn còn chống đỡ nổi hay không.” Gã nghĩ vậy, liền đưa mắt ra hiệu cho gã gầy nhom.
Gã gầy nhom hiểu ý, liền thò tay vào bọc lấy ra một viên Cửu Cửu Hoàn bọc sáp, bóp nát vỏ ngoài rồi cầm trong lòng bàn tay. Gã chờ Thạch Phá Thiên uống một hớp rồi đưa cái bình rượu màu lam qua mình, giả vờ uống một hớp rồi đưa tay ra làm như lau nước bọt dính ở miệng bầu, mà thực ra là bỏ viên Cửu Cửu Hoàn vào trong bình. Gã cầm bầu rượu lắc mấy cái, miệng tấm tắc khen: “Rượu ngon! Thật là rượu ngon!”
Lúc gã gầy nhom hành động thì gã béo mập cũng lấy trong bọc ra viên Liệt Hỏa Đan lén bỏ vào trong rượu. Thạch Phá Thiên cứ tưởng mình đã gặp được hai ông bạn rộng lượng và sảng khoái. Chàng cứ vô tư vừa uống rượu vừa ăn thịt. Kinh nghiệm giang hồ của chàng đã chẳng đáng gì, lúc này lại đã ngà ngà nên hoàn toàn không phát giác được hai gã này lại ngấm ngầm bỏ thuốc vào trong rượu.
Bỗng nghe gã béo mập nói: “Tiểu huynh đệ! Trong bầu còn ít rượu lắm, mà tửu lượng chú lại rất cao. Vậy chú cứ uống một hơi cạn sạch đi!”
Thạch Phá Thiên mỉm cười nói: “Hay lắm. Hai vị đã có lòng tốt thì tại hạ cũng không dám khách sáo.” Chàng cầm cái bầu màu lam lên toan uống, nhưng chợt nhớ ra một chuyện bèn nói ngay: “Lúc tại hạ ngồi thuyền trên sông Trường Giang có nghe Đinh Đinh Đang Đang kể chuyện, nếu bên trai bên gái tình đầu ý hợp thì kết nghĩa phu thê, còn nam nhân với nam nhân vừa gặp nhau đã thân mật như tình cố cựu thì kết nghĩa làm huynh đệ. Nếu hai vị đại gia không rẻ bỏ tại hạ, thì ba chúng ta sau khi uống cạn hai bình rượu này sẽ kết làm huynh đệ, để rồi đây lại cùng nhau uống rượu. Hai vị thấy có được không?”
Hai người mập và ốm này khí phách ngời ngời, lúc bình thường thì Thạch Phá Thiên chắc không dám nghĩ tới chuyện kết bái huynh đệ, mà cho dù có nghĩ tới cũng không dám mở miệng, nhưng lúc này chàng đã ngà ngà say nên thuận miệng nói ra.
Gã béo mập nghe chàng nói chuyện càng lúc càng thân mật, lại cảm thấy câu nào cũng là nói kháy. Gã nghĩ rằng chỉ trong chốc lát là hai bên động thủ, mà nội lực của mình chắc khó mà chống đỡ được, chỉ còn cách dùng thuốc cực mạnh để phá hủy nội lực của chàng. Tuy cách làm này không quang minh chánh đại lắm, nhưng xem ra tâm địa của thằng lỏi này rất hiểm ác, phải lấy độc trị độc thôi. Hắn chỉ sợ chàng không chịu uống nữa, vội nói: “Hay lắm! Hay lắm! Như thế thì còn gì bằng. Chú uống cạn bầu rượu này đi đã.”
Thạch Phá Thiên quay lại hỏi gã gầy nhom: “Còn vị đại gia đây thì nghĩ sao?”
Gã gầy nhom đáp: “Cung kính không bằng tuân mệnh. Tiểu huynh đệ đã có mỹ ý như thế, ha ha, thật là chúng ta cầu mong cũng không được.” Thạch Phá Thiên lúc này mười phần đã say đến tám chín. Chàng đầu óc mơ hồ nhưng cao hứng vô cùng, ngửa mặt dốc bầu rượu lên uống một hơi cạn sạch. Nhưng bây giờ chàng không cảm thấy giá lạnh khó chịu như trước nữa.
Gã béo mập vỗ tay nói: “Hảo tửu lượng! Hảo tửu lượng! Trong bầu rượu của ta cũng còn một hai hớp rượu. Chú uống cạn nốt đi, rồi chúng ta kết bái thành huynh đệ.” Thạch Phá Thiên lơ mơ đón lấy bầu rượu màu đỏ, chẳng cần suy nghĩ gì, uống cạn nốt.
Hai gã đưa mắt nhìn nhau, trong bụng nghĩ thầm: “Một viên Cửu Cửu Hoàn hay Liệt Hỏa Đan phải hòa với sáu bầu rượu. Một bầu rượu phải uống một tháng, mỗi ngày phải vận công hóa giải từ từ thì mới hữu ích mà vô hại. Một viên Cửu Cửu Hoàn lại thêm một viên Liệt Hỏa Đan thì phải hòa trong mười hai bầu rượu, hai người chúng ta phải uống trong nửa năm. Hắn uống hết lượng rượu một năm của chúng ta chỉ trong chốc lát, nếu còn có thể chống đỡ được thì thật là một điều vô lý nhất trong thiên hạ”.
Hai gã còn đang ngẫm nghĩ, đột nhiên Thạch Phá Thiên kêu lớn: “Úi cha! Nguy rồi! Tại hạ đau bụng dữ quá.” Chàng ôm bụng, gập lưng xuống mà rên la không ngớt.
Hai gã một mập một gầy đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Gã mập giả vờ hỏi: “Cái gì? Chú bị đau bụng ư? Chắc vì ăn nhiều thịt heo rừng quá đấy thôi.”
Thạch Phá Thiên nói: “Không phải. Trời ơi! Không được rồi.” Chàng vừa la vừa nhảy vọt lên mấy trượng.
Hai gã cũng đứng dậy. Chúng nghĩ bụng: “Chắc thằng lỏi này biết mình sắp chết, sẽ dùng hết sức để đánh một đòn.” Hai gã ngầm vận nội lực, chuẩn bị sẵn sàng đối phó. Chúng cho rằng công lực của chàng ghê gớm, thế công tất phải mãnh liệt phi thường.
Không ngờ Thạch Phá Thiên lại vung chưởng đánh vào một cây lớn ở kế bên. Chàng càng la dữ dội hơn: “Trời ơi! Đau… đau chết ta mất!” Ruột chàng đau như bị ai vặn đứt ra, vội vận nội lực để hóa giải một khối gì đó đang vò xé trong bụng. Ngờ đâu Cửu Cửu Hoàn và Liệt Hỏa Đan không phải là những loại thuốc tầm thường, chàng càng vận khí thôi thúc thì cơn đau càng dữ dội. Thạch Phá Thiên đau quá, cơ hồ sắp ngất xỉu, toàn thân co rúm lại, chân tay run bần bật.
Giữa lúc đau không chịu nổi, chàng vung quyền trái đấm mạnh vào một gốc cây lớn. Vừa đánh xong quyền này, chàng cảm thấy cơn đau bụng giảm đi một chút. Tay phải chàng lại đánh ra một chưởng, làm cho lá cây rơi lả tả. Một quyền một chưởng phóng ra rồi, chàng cảm thấy bớt đau nhiều, nhưng chỉ dừng tay lại một chút là bụng lại đau như đã nuốt đến muôn ngàn lưỡi đao kiếm vào.
Thạch Phá Thiên miệng thì la lối, chân tay thì múa loạn xạ, thi triển lộn xộn tất cả các loại võ công mà trước nay đã học, tuy chẳng ra đường lối gì mà uy thế mãnh liệt phi thường. Chàng càng đánh càng nhanh, cảm thấy mỗi lần phát ra một quyền một chưởng thì cơn đau trong bụng giảm đi một chút, tựa như theo nội lực vận hành mà phát tiết ra ngoài.
Hai gã một mập một gầy nhìn nhau, từng bước lùi ra sau. Chúng biết Thạch Phá Thiên là một cao thủ võ lâm, đã trúng chất kịch độc thì trước khi chết chắc chắn phải giải tỏa công lực toàn thân, cũng giống như một con mãnh thú điên khùng. Nếu có thể, phải ôm chặt được chàng thì mới có thể thoát khỏi kiếp nạn này. Chúng thấy quyền cước của Thạch Phá Thiên lộng gió ầm ầm, chiêu thức phần thì giống Tuyết Sơn kiếm pháp, phần lại như quyền chưởng của nhà họ Đinh, lại có cả gia số của Ma Thiên cư sĩ Tạ Yên Khách lẫn vào. Nhưng thứ nào cũng có vẻ giống mà lại không giống hẳn, thật sự là từ trước đến giờ chúng chưa từng thấy. Chúng sinh nghi tự hỏi: “Hay gã là đồ đệ phái Kim Ô nào đó thực?”
Võ công hai gã này hết sức cao thâm, chiêu thức của Thạch Phá Thiên dù quái dị đến đâu chúng cũng chẳng coi ra gì. Có điều quyền cước của chàng phát ra những luồng kình phong ghê gớm khiến người ta phải ngấm ngầm kinh dị. Về sau chúng thấy Thạch Phá Thiên càng đánh càng nhanh, kình phong mỗi lúc một thêm mãnh liệt. Hai gã bất giác đưa mắt nhìn nhau mỉm cười, đều nghĩ bụng: “Nội lực của thằng lỏi này tuy rất mạnh, nhưng võ công lại chẳng ra gì. Cho dù Cửu Cửu Hoàn và Liệt Hỏa Đan không giết được gã, thì gã cũng không phải là địch thủ của hai người chúng ta. Lúc trước mình thấy nội lực của gã ghê gớm, lại tưởng lầm là võ công gã cũng cao thâm vô cùng.”
Hai gã nghĩ vậy, rồi đâm ra tiếc hai bầu rượu thuốc và hai viên độc hoàn. Giả tỉ biết sớm thế này thì chúng đã ra tay hạ sát chàng rồi, khỏi phí mất bao nhiêu dược vật quý báu. Hai luồng dược tính đó rất mãnh liệt, âm dương tương phản đã dung hòa với nhau. Thì ra đó là công hiệu chính của La Hán Phục Ma Công mà Thạch Phá Thiên đã luyện. Nếu chàng chỉ uống loại rượu thuốc cực nhiệt của gã mập, hoặc chỉ uống loại rượu thuốc cực hàn của gã ốm, thì cho dù nội lực của chàng có cao hơn cũng phải mất mạng. Hai tên mập ốm này đồng thời ra tay là sai lầm, hai loại rượu độc mãnh liệt như nhau, nên hai loại kịch độc âm dương này lại khắc chế tương hỗ cho nhau.
Hai gã mập ốm này hoàn toàn không biết trước đây Tạ Yên Khách cũng đã từng gia hại chàng như thế. Lão cũng muốn hại mạng chàng, nhưng đã làm cho chàng biết được phương pháp chống đỡ. Thạch Phá Thiên múa quyền cước một lúc, những chất kịch độc trong bụng cũng theo nội lực từ từ ép ra bàn tay, những cơn đau bụng cũng theo đó mà giảm. Đến lúc bao nhiêu chất kịch độc bị thúc đẩy hết ra khỏi nội tạng thì chàng không thấy đau nữa.
Thạch Phá Thiên loạng choạng quay về bên đống lửa, mỉm cười nói: “Úi chà! Vừa rồi tại hạ thật phải một phen hú vía. Không hiểu những cơn đau bụng từ đâu kéo đến, khiến cho tại hạ tưởng như đứt từng khúc một, mất mạng tới nơi.”
Hai gã một mập một gầy trong lòng vẫn chưa hết kinh hãi, bụng bảo dạ: “Nội công của người này quái lạ, thật sự khó mà ngờ được.” Gã béo mập hỏi: “Bây giờ trong bụng chú còn đau nữa không?”
Thạch Phá Thiên đáp: “Tại hạ hết đau rồi.” Chàng đưa tay ra cầm lấy một miếng thịt heo rừng đã bị nướng cháy, dưới ánh lửa bỗng nhìn rõ giữa lòng bàn tay của mình có một chấm đỏ lớn bằng đồng tiền, xung quanh lại có vô số những chấm xanh nhỏ li ti. Chàng bất giác ồ lên một tiếng rồi nói: “Cái này… cái này là thế nào?” Chàng lại nhìn tới lòng bàn tay bên trái thì thấy cũng như vậy. Thì ra chàng đã thúc đẩy những chất kịch độc từ trong bụng ra lòng bàn tay, nhưng không biết cách vận nội lực đẩy hẳn chất độc ra khỏi thân thế, nên vẫn còn ngưng tụ lại ở trong lòng bàn tay thành những dấu chấm.
Gã mập và gã gầy đương nhiên là hiểu rõ nguyên nhân ngay, bất giác càng yên tâm hơn, tự nhủ: “Té ra thằng lỏi này có nội công thâm hậu mà không biết vận dụng, như vậy lại càng chẳng có chi đáng sợ. Nếu không phải gã được trời cho tư chất đặc biệt, thì cũng vô tình được ăn tiên thảo linh chi gì đó, thì nội lực mới mãnh liệt đến thế.” Vừa rồi họ tưởng trong lòng chàng có ác ý, nên mới xuất thủ gia hại. Nào ngờ chàng chỉ múa quyền chưởng đánh vào cây to, tuy trong lúc cơn đau phát tác mà trong ánh mắt cũng hoàn toàn không có chút thù hằn nào. Hai người biết mình hiểu lầm, đều cảm thấy dùng thủ đoạn này với một thằng nhỏ thì trong cũng không khỏi áy náy, thật là mất đi thân phận của cao thủ võ lâm.
Bỗng nghe Thạch Phá Thiên nói: “Vừa rồi chúng ta đã nói đến chuyện kết nghĩa kim lan. Tại hạ không hiểu vị nào tuổi lớn hơn, cũng chưa được biết tôn tính đại danh.” Hai gã một mập một gầy yên trí là Thạch Phá Thiên uống thuốc độc vào rồi sẽ mất mạng ngay lập tức, nên mới mở miệng đồng ý cùng chàng kết bái huynh đệ, ngờ đâu thuốc độc lại không giết chết chàng được. Hai gã này vốn rất tự phụ, từ ngày học thành bản lãnh cao cường chưa bao giờ đã nói ra mà lại không thực hiện. Tuy chúng không muốn kết bái với thằng ngốc này, nhưng cũng không muốn nuốt lời.
Gã mập hắng giọng một tiếng rồi nói: “Ta là Trương Tam, nhiều tuổi hơn huynh đệ Lý Tứ đây một chút. Tiểu huynh đệ! Chú đã không họ không tên thì làm sao kết giao với chúng ta?”
Thạch Phá Thiên nói: “Tên họ của tại hạ chẳng dễ nghe gì, nên sư phụ đã đặt cho một cái tên là Sử Ức Đao. Hai vị cứ gọi tại hạ bằng cái tên này cũng được.”
Gã béo mập mỉm cười nói: “Vậy ba chúng ta hôm nay sẽ kết nghĩa làm huynh đệ.” Gã nói xong, quỳ một gối xuống dõng dạc tuyên bố: “Trương Tam và Lý Tứ cùng Sử Ức Đao bái kết đệ huynh, từ đây có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Nếu Trương Tam trái lời thề này thì ngày sau sẽ bị chết thảm như con heo rừng, để cho người ta nướng thịt mà ăn. Ha ha! Ha ha!” Hai chữ Trương Tam dĩ nhiên là tên của rất nhiều người, miệng gã chỉ nói hai chữ Trương Tam, không nói rõ là “Trương Tam ta”. Như vậy là gã chẳng có thành ý chút nào.
Gã gầy nhom cũng quỳ xuống, vừa cười vừa nói: “Lý Tứ và Trương Tam cùng Sử Ức Đao hôm nay kết làm huynh đệ, tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, mong được chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Nếu trái lời thề này Lý Tứ sẽ bị loạn đao đâm chém, vạn tiễn xuyên thân. Ha ha! Ha ha!” Gã cười nhạt luôn mấy tiếng, đủ biết là giả dối.
Thạch Phá Thiên không biết Trương Tam, Lý Tứ chỉ là cách xưng hô phù phiếm, hoàn toàn không phát giác được thần sắc của họ là giả dối. Chàng quỳ hai gối dưới đất, nói rất thành thật: “Tiểu đệ cùng hai vị ca ca Trương Tam, Lý Tứ kết làm huynh đệ. Có rượu ngon thịt ngon, đệ tất nhường hai vị ca ca xơi trước. Có kẻ muốn giết hai vị ca ca, tiểu đệ sẽ đương đầu trước. Nếu không nhớ những lời thề này thì ông trời sẽ phạt tiểu đệ hàng ngày phải đau đớn như vừa rồi.”
Hai gã một mập một gầy nghe Thạch Phá Thiên thề thốt chân thành thì không khỏi cảm thấy đôi chút hổ thẹn. Gã béo mập đứng dậy nói: “Tam đệ! Hai chúng ta có việc gấp cần phải đi ngay. Vậy bây giờ chúng ta chia tay thôi.”
Thạch Phá Thiên nói: “Bây giờ hai vị ca ca lại đi đâu? Vừa rồi Trương đại ca đã nói, chúng ta sau khi kết nghĩa huynh đệ thì có họa cùng chịu, có phúc cùng hưởng. Lúc này tiểu đệ cũng không có việc gì, xin đi theo nhị vị ca ca”.
Gã béo mập tức Trương Tam cười ha hả nói: “Chúng ta phải đi mời khách, cũng chẳng có gì vui thú. Ngươi bất tất phải theo chúng ta làm chi?” Gã nói xong, quay gót băng băng đi luôn.
Thạch Phá Thiên thấy mình bỗng kết giao được với những người bạn tốt. Suốt đời chàng chưa từng có một người bạn, hôm nay cùng lúc được kết nghĩa cùng hai vị ca ca, thật sự rất mừng. Chàng thấy họ gấp rút bỏ đi, cũng có phần không nỡ liền nhanh chân chạy theo nói: “Thế thì tiểu đệ tiễn chân hai vị ca ca một đoạn đường vậy. Hôm nay ly biệt, chẳng hiểu ngày nào chúng ta lại được gặp nhau để cùng uống rượu ăn thịt?”
Gã gầy nhom tức Lý Tứ vẻ mặt cứ lầm lì chẳng nói chẳng rằng. Trương Tam cũng không vui vẻ gì, hỏi lại: “Tiểu huynh đệ! Tiểu đệ nói là được sư phụ đặt cho cái tên Sử Ức Đao. Vậy trước khi sư phụ đặt tên thì tên thật của chú là gì? Chúng ta đã kết nghĩa kim lan, chẳng lẽ chú lại còn giấu giếm hai vị ca ca nữa hay sao?”
Thạch Phá Thiên bối rối cười nói: “Không phải là muốn giấu giếm ca ca, nhưng nói ra rất khó nghe. Má má chỉ kêu tiểu đệ là Cẩu Tạp Chủng.”
Trương Tam cười ha hả nói: “Cẩu Tạp Chủng! Cẩu Tạp Chủng! Cái tên này quả nhiên kỳ lạ.” Hai gã Trương Tam và Lý Tứ đi trước, cứ nhìn thì tưởng chừng không nhanh lắm, nhưng chúng đã ngấm ngầm thi triển khinh công, cây cối hai bên đường vùn vụt lùi lại rất mau.
Thạch Phá Thiên chỉ ngần ngừ một chút mà hai gã đã bỏ chàng lại xa mấy trượng. Chàng vội lao mình đuổi theo thật nhanh. Ba người hai trước một sau, cách quãng chừng ba bước. Trương Tam, Lý Tứ chỉ muốn rời xa chàng ngốc này, liền vận toàn lực thi triển khinh công đến tột độ. Nhưng Thạch Phá Thiên vẫn theo rất sát phía sau, bỗng cất tiếng ca ngợi: “Khinh công hai vị ca ca thật là tuyệt diệu, chẳng phí mảy may hơi sức mà đi nhanh được đến thế! Tiểu đệ phải cố gắng lắm mới đuổi theo được.”
Kể về dáng vẻ thì khinh công ba người này khác nhau rất xa. Trương Tam, Lý Tứ vẫn giữ được thái độ ung dung nhàn hạ không có vẻ gì lật đật hấp tấp, còn Thạch Phá Thiên thì sải bước thật dài, hai tay vung vẩy, người cúi lom khom, chẳng khác người bị giặc đuổi phải chạy thục mạng tháo thân. Có điều hai gã kia thấy chàng đang chạy gấp như vậy mà giọng nói vẫn khoan thai như lúc bình thường, thì không khỏi đem lòng thán phục nội lực của chàng.
Thạch Phá Thiên thấy hai gã chạy theo con đường chàng đã đi qua, tức là đường dẫn tới thôn chài của bọn Thiết Xoa Hội đang ẩn trốn. Hai gã cứ đi mỗi lúc một gần tới đó, chàng không chịu được liền lên tiếng nhắc: “Nhị vị ca ca! Trước mặt là nơi nguy hiểm, không đi được đâu. Chúng ta nên tìm đường khác mà đi, kẻo mất mạng oan.”
Trương Tam, Lý Tứ cùng dừng bước, xoay mình lại. Lý Tứ cất tiếng hỏi: “Tại sao ngươi nói phía trước là chỗ nguy hiểm?”
Thạch Phá Thiên cũng dừng lại nói: “Phía trước là một xóm chài nhỏ bé gọi là Hồng Liễu Cảng. Tại đó có nhiều hán tử giang hồ đang ẩn nấp, không muốn để người ngoài hay biết hành tung. Nếu họ thấy chúng ta thì không chừng sẽ hạ sát ngay để khỏi bị tiết lộ bí mật.”
Lý Tứ mặt lạnh như tiền hỏi: “Ngươi làm sao biết được?” Thạch Phá Thiên liền đem những chuyện mình vì sao mà lên chiếc thuyền đầy tử thi, nấp dưới đáy thuyền nghe bọn người Thiết Xoa Hội nói chuyện ra sao, theo thuyền vào tới thôn chài thế nào, lược thuật lại một lượt.
Lý Tứ lại nói: “Bọn họ trốn trong xóm chài là vì khiếp sợ hai vị sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác. Chuyện đó có liên can gì đến chúng ta đâu, họ giết ba người chúng ta làm gì chứ?”
Thạch Phá Thiên xua tay lia lịa nói: “Không! Không! Bọn người đó cực kỳ hung dữ, động tay là giết người. Vì họ sợ bí mật này bị lộ ra ngoài mà hạ sát cả người cùng hội. Ca ca hãy xem đây. Tiểu đệ sở dĩ mình mẩy vấy đầy máu, là vì bọn họ giết chính hai người trong bọn, rồi máu nhỏ xuống quần áo của tiểu đệ. Lúc đó tiểu đệ đang trốn dưới đáy thuyền, không dám nhúc nhích chút nào.”
Lý Tứ nói: “Tiểu đệ đã sợ như thế, thì đừng đi theo chúng ta nữa là xong.”
Thạch Phá Thiên nói: “Hai vị ca ca cũng đừng đi nữa thì hơn. Vụ này… vụ này… chẳng phải chuyện chơi đâu”.
Trương Tam, Lý Tứ quay mình lại không nói gì nữa, cứ đi về phía trước, bụng bảo dạ: “Thật uổng cho thằng lỏi này nội lực thâm hậu. Võ công nó đã kém cỏi mà lại nhát gan như chuột nhắt.” Ngờ đâu hai gã vừa đi được vài trượng, lại thấy Thạch Phá Thiên rảo bước đuổi theo. Trương Tam hỏi: “Ngươi đã sợ bọn Thiết Xoa Hội giết người, thì còn theo chúng ta làm chi?”
Thạch Phá Thiên nói: “Chúng ta đã có lời thề, có nạn cùng chịu có phước cùng hưởng. Hai vị ca ca đã nhất định đi, dĩ nhiên tiểu đệ phải đi theo để cùng hai vị chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Nam tử hán đại trượng phu đã nói ra rồi, không thể nuốt lời được.”
Lý Tứ trầm giọng hỏi: “Hừ! Mấy chục mũi cương xoa của bọn Thiết Xoa Hội sẽ cùng phóng tới, cắm vào mình ngươi giống như một con nhím. Ngươi không sợ ư?” Thạch Phá Thiên nhớ tới tiếng rú thê thảm của hai người trong Thiết Xoa hội bị giết lúc chàng trốn dưới đáy thuyền, bất giác dựng tóc gáy. Lúc này trong xóm chài trước mặt có ít ra là một hai trăm người đang ẩn nấp. Dù hai vị huynh trưởng mới kết nghĩa võ công có cao cường đến đâu, nhưng phe mình cả thảy chỉ có ba người, nhất định phải lâm vào tình trạng quả bất địch chúng.
Lý Tứ thấy Thạch Phá Thiên sợ xám mặt lại, liền cười lạnh nói: “Hai chúng ta tự ý dấn thân vào chỗ chết, chẳng muốn lôi theo một người nữa làm chi. Ngươi hãy ngoan ngoãn nghe lời ta quay về đi. Nếu chuyến này mà chúng ta không chết, thì mười năm sau lại được trùng phùng.”
Thạch Phá Thiên xua tay nói: “Hai vị ca ca có thêm một tay phụ lực há chẳng tốt hơn ư? Chúng ta ít người không địch nổi số đông, nếu gặp nguy cấp thì cứ chạy trốn, đâu có nhất định phải chết?”
Lý Tứ chau mày nói: “Đánh thua bỏ chạy thì đâu phải là anh hùng hảo hán? Hay nhất là ngươi đừng đi theo để làm mất mặt chúng ta.”
Thạch Phá Thiên nói: “Được! Nếu vậy thì tiểu đệ không bỏ chạy là xong.”
Trương Tam, Lý Tứ không còn cách nào bỏ rơi Thạch Phá Thiên được, đành nhìn nhau gượng cười rồi cất bước. Trong lòng chúng vẫn nghĩ: “Thì ra thằng ngốc này cũng rất có nghĩa khí, chịu dấn thân vào chỗ nguy hiểm, còn hơn rất nhiều anh hùng hào kiệt đã thành danh trong võ lâm”.
Chẳng mấy chốc, ba người đã đi đến xóm chài.