Hạng vương thấy Ngu Cơ khóc sướt mướt, cầm tay nói:
– Tướng sĩ nay đã trốn hết, quân Hán vây đánh rất ngặt. Ta định từ giã nàng, liều mình xông ra trận. Tuy nhiên, lòng lại không nỡ, vì hai ta sống với nhau đã bao năm, chưa từng rời nhau sớm tối, dẫu trong thiên binh vạn mã cũng vẫn có nhau. Nay một phút muốn vĩnh biệt với nàng, lòng ta thấy quyến luyến.
Ngu Cơ khóc nghẹn ngào, và nói:
– Thiếp đội ơn Ðại vương thương tưởng, nguyện khắc cốt ghi lòng. Nay chẳng may trên bước đường ly loạn, dẫu chết cũng khó rời nhau.
Bá vương lau nước mắt, truyền quân bày tiệc rượu ở trung quân để cùng với Ngu Cơ đối ẩm.
Hơi men không sưởi ấm được lòng người trong phút não nề, Hạng Vương buồn bã ngâm nấy câu thơ:
Tấm thân lấp biển, vá trời
Thanh gươm yên ngựa một đời dọc ngang
Giờ đây mưa gió phũ phàng
Anh hùng mạt lộ giang san tiêu điều
Hạng vương ngâm thơ xong, mời Ngu Cơ uống mấy chén rượu.
Ngu Cơ cũng ngâm lên mấy câu thơ buồn như sau:
Cát đằng nương bóng cội cùng
Bấy lâu khăng khít thủy chung một lòng
Tơi bời vì ngọn gió Ðông
Cội tùng xiêu vẹo, cát đằng bơ vơ
Bá vương cùng Ngu Cơ uống rượu ngâm thơ mãi cho đến lúc tàn canh, bên ngoài trời rạng sáng.
Chu Lan và Hoàn Sở từ bên ngoài bước vào giục:
– Trời sắp sáng rồi, xin Ðại vương lo khởi hành.
Hạng vương đứng dậy, từ biệt Ngu Cơ nói:
– Thôi! Ðã đến lúc tôi phải đi, ngự thê ở lại bảo trọng lấy thân thể.
Ngu Cơ quỳ gối nói:
– Thiếp xin theo Ðại vương, để cùng nhau sinh tử.
Hạng vương nói:
– Trong chốn muôn quân nghìn tướng, phận liễu bồ làm sao chịu được cực nhọc. Trước kia binh tướng còn nhiều có người bảo vệ, nay ta đơn thương độc mã làm sao có thể mang nàng theo được.
Hạng vương rút thanh kiếm đeo bên mình, đưa cho Ngu Cơ. Ngu Cơ tiếp lấy, đứng dậy nói:
– Thiếp mang ơn Ðại vương không biết lấy gì đền đáp. Nay trong cơn nguy khốn, nếu thiếp đi theo Ðại vương không khỏi làm cho Ðại vương bận bịu, mang hại vào thân.
Nói xong, đâm lưỡi gươm vào cổ tự vận.
Hạng vương đau lòng, hét lên một tiếng, toàn thân run rẩy.
Chu Lan và Hoàn Sở bước lại đỡ Hạng vương và nói:
– Xin Ðại vương lấy giang san làm trọng, đừng quá bi lụy như thế.
Hạng vương nghiến răng, vung đao lên ngựa ra khỏi dinh, cùng tám trăm quân xông vào trận địch.
Quân Hán được tin, chạy về trung quân phi báo.
Hàn Tín liền thống xuất đại binh, hợp với các tướng kéo đến phủ vây.
Hạng vương một mình, cời ngựa Ô Truy, vung đao xông đến, gặp tướng đánh tướng, gặp quân chém quân, như vào chỗ không người. Ai nấy thấy vậy sợ hãi, không dám ngăn cản.
Hạng vương thoát ra được tám vòng vây, ngoảnh lại thấy Chu Lan và Hoàn Sở đã lạc đâu mất, sau lưng mình chỉ còn vài mươi quân kỵ.
Hạng vương vẫn không nản lòng, vừa giục ngựa xông tới, vừa đâm chém.
Hàn Tín cùng các tướng Hán thấy vậy bảo nhau:
– Hạng Vương có sức mạnh như thần, lại gặp lúc cùng quẫn, nếu chết khó ai địch nổi. Chi bằng vây hai tướng Chu Lan, Hoàn Sở để cho Hạng vương hoàn toàn cô lập
Các tướng liền bỏ Hạng vương xúm lại vây Chu Lan và Hoàn Sở.
Chu Lan và Hoàn Sở sức yếu làm sao địch lại, chống đỡ một lúc, biết không thể thoát được, ngửa mặt lên trời nói lớn:
– Ðại vương ôi! Chúng tôi đã kiệt sức rồi.
Nói xong, hai tướng rút gươm tự sát.
Giữa lúc đó, Hạng Vương thoát ra khỏi trận theo sau chỉ con hơn vài chục tên quân, nhắm hướng Ðông mà chạy.
Chạy được mấy dặm, đến vùng Sảm Lăng đường sá ngoằn ngoèo, không rõ phương hướng, chung quanh toàn là sông ngòi và bụi bờ mù mịt.
Chợt gặp một lão nông đang đứng bên đường, Hạng vương hỏi:
– Sang Giang Ðông đi về phía nào?
Lão nông trông thấy người áo mũ khác thường, đoán biết Bá vương, nghĩ thầm:
– Ông ta đóng đô nơi Bành Thành đã mấy năm, chẳng có ân đức gì với bá tánh, chỉ chuyên dùng vũ lực chém giết đánh đập, dân chúng phải chịu nhiều tai ương thảm họa, nay bị quân Hán đuổi, ta không nên chỉ đường làm gì.
Trong lúc lão nông đang ngẫm nghĩ, chưa kịp đáp, Hạng vương hỏi tiếp:
– Ông lão đừng sợ, ta đây là Bá vương. Vì lâm trận bị quân Hán đuổi rất gấp, muốn tìm sang Giang Ðông, nhưng không thuộc đường.
Lão nông giả vờ trỏ tay về phía tả, là con đường cùng, nói:
– Nên chạy ngả ấy.
Hạng vương theo lời, giục ngựa dong ruổi. Ði được vài dặm, đường bị nghẽn, con ngựa sa xuống một vũng lầy rất lớn. May nhờ con ngựa Ô truy phi mình nhảy thoát.
Vừa lúc đó lại gặp một cánh quân Hán kéo đến, cầm đầu là Dương Hỷ.
Hạng vương gọi Dương Hỷ nói:
– Ta sa xuống vũng lầy vừa thoát khỏi, người mỏi ngựa mệt không thể đánh nhau được nữa, nhà ngươi trước kia đã từng theo ta mấy năm, nay lại phò Hán làm gì, hãy theo ta về Giang Ðông để chiêu tập binh mã, mong việc phục hưng. Lúc đó ta sẽ phong cho nhà ngươi làm Vạn Hộ hầu, giàu sang sung sướng.
Dương Hỷ nói:
– Ðại vương bạc ác, nhiều kẻ cản ngăn, nhưng không chịu nghe. Nay cớ sự như vầy, dẫu tôi có theo Ðại vương đến Giang Ðông, Ðại vương cũng không làm gì nên chuyện. Chi bằng theo tôi về hàng Hán, chắc Ðại vương không mất ngôi công hầu.
Hạng vương nổi giận, vung đao đâm Dương Hỷ, Dương Hỷ đưa thương ra đỡ. Ðánh được hai mươi hiệp, Hạng vương rút cây roi đeo sau lưng vụt Dương Hỷ một cái Dương Hỷ né không kịp bị sa xuống ngựa.
Hạng vương toan vung đao chém đầu thì có hai tướng Hán là Dương Võ, Lã Mã Thông đến kịp, cản lại cứu Dương Hỷ.
Hạng vương lại cùng hai tướng giao tranh.
Ðàng sau, Anh Bố, Bành Việt, Chu Bột chia quân vây bọc, Hạng vương không dám ham đánh, quảy ngựa chạy về hướng Ðông, ngoảnh trông lại còn có mười tên tùy tốt.
Bọn tùy tốt nói:
– Ðại vương giao chiến suốt ngày, người đói, ngựa khát trời lại sắp tối, chi bằng tìm chỗ ẩn thân để dưỡng sức. Chúng tôi đoán chừng nơi đây cây cối rậm rạp, quân Hán chưa dám mạo hiểm vào đây xáp chiến.
Hạng vương theo lời, gò ngựa lại, trông xa trong khóm rừng thấy có ánh đèn thấp thoáng, liền dẫn quân đến đó.
Khi đến nơi, thấy đó không phải nhà ở của dân chúng mà là một cổ viện.
Hạng vương nói:
– Tuy không phải nhà thường dân song cũng tạm nghỉ được.
Bọn tùy tốt theo Hạng vương bước vào trong.
Bên trong có tiếng suối róc rách chảy. Hạng vương lần đến thấy một cái khe nước trong vắt.
Hạng vương bảo bọn tùy tốt dắt ngựa cho uống nước và mài thanh bảo kiếm của mình để chuẩn bị rạng ngày chiến đấu.
Bọn tùy tốt yếu sức, không mang nổi thanh kiếm, Hạng vương phải tự mình đến suối cầm thanh kiếm liếc vào một tảng đá lớn.
Chỗ ấy là viện Hưng Giáo cách Ô Giang mười lăm dặm. Hạng vương lần theo hành lang bước vào trong viện, không thấy một bóng người nào.
Lần ra phía sau thì thấy một vài ông lão đang ngồi quanh một lò sưởi.
Một tên lính hỏi:
– Sao trong viện hiu quạnh thế?
Một ông già đáp:
– Bản viện nguyên trước có vài người ở. Gần đây nghe Sở – Hán tranh hùng, sợ hãi trốn đi hết. Chúng tôi là người trong thôn ấp sợ viện bỏ vắng lỡ mất trộm chăng nên lén ra đây coi chừng. Chẳng hay đêm khuya các người ra đây có chuyện gì?
Tên lính nói:
– Nay có Tây Sở Bá vương bị quân Hán đuổi đến đây, bữa cơm tối chưa kịp dùng, định vào nghỉ tạm trong viện này một đêm, sáng mai sẽ đi sớm. Các ông có cơm thì đem dâng cho Bá Vương dùng.
Các ông lão nghe nói có Hạng Vương đến lật đật đứng dậy ra cửa phục xuống đất, mời Hạng vương vào nhà trong, nói:
– Chúng tôi là những kẻ nông phu ở thôn dã, không hiếu lễ xin Ðại vương tha thứ cho.
Hạng vương nói:
– Các ngươi ở đây có sẵn gạo không? Ði thổi cơm cho mọi người ăn một bữa. Nếu bình được giặc, ta chẳng quên ơn.
Một ông lão tâu:
– Tâu Ðại Vương, nơi đây thuộc đất Sở, Ðại Vương lâm nguy đến đây dùng chút lương gạo của chúng tôi có gì là ân huệ.
Nói xong, vào trong lấy ra một thạch gạo, đem nấu cho Hạng Vương và tùy tốt ăn.
Ăn xong, Hạng vương dựa lưng vào ghế đá nghỉ.
Chợt thấy một vầng mặt trời đỏ ối nổi lên mặt sông. Kế đó lại thấy Hán Vương cỡi mây năm sắc lờ lững đến nơi, ôm vầng mặt trời vào lòng, rồi lại cưỡi mây mà đi. Dưới chân hàng ngàn tia sáng tiếp nối không dứt. Hạng vương thấy Hán ôm vầng mặt trời bay lên, vội cởi áo nhảy ùm xuống nước, chực cướp lại, chẳng ngờ bị Hán vương co chân đạp vào mặt, Hạng vương ngã lăn xuống nước. Hán vương vẫn chậm rãi ôm mặt trời đi về hướng Tây.
Hạng vương giật mình thức giấc, thì ra đó là giấc mộng, lòng sợ hãi, thở dài nói:
– Ôi! Mệnh trời đã vậy, không thể cưỡng lại được.
Vừa dứt lời, một tên tùy tốt chạy vào cấp báo:
– Quân Hán đã kéo đến cửa rừng rồi, xin Ðại vương tìm đường thoát hiểm.
Hạng vương vội vã mặc áo giáp lên ngựa, dẫn mười tên tùy tốt lánh ra cửa rừng.
Trời tang tảng sáng, quân Hán chia làm hai cánh đánh bọc vào. Tướng đi đầu là Quán Anh xông đến chém.
Hạng vương hét lên một tiếng, con ngựa của Quán Anh sợ hãi thối lui mười bước.
Ðàng sau, Dương Võ, Lã Thắng, Sài Võ, Ngân Hấp đồng xông vào một lượt. Hạng Vương vung đao vun vút, đánh dẹp, cả quân Hán, không tướng nào dám đến gần.
Tuy nhiên, biết mình cô thế, Hạng Vương không ham đánh, bảo vệ bọn tùy tốt thoát vòng vây chạy trốn.
Chạy đặng mười dặm đến sông Ô Giang. Ðàng sau quân Hán đuổi theo, gươm giáo như rừng, tiếng reo hò dậy đất.
Hạng Vương đưa mắt nhìn một lúc, sực nhớ giấc mộng vừa rồi, thở dài nói với ba quân:
– Cơ trời đã muốn tuyệt Sở, dẫu chống lại cũng chẳng ích chi. Tuy nhiên với sức mạnh của ta, chờ đến lúc kiệt quệ, ta cũng còn có thể thắng địch quân mấy trận nữa. Vậy để ta chém tướng địch mở vòng vây cho các ngươi thoát nạn, hẹn đêm nay gặp nhau nơi chân núi Ðông Sơn.
Bọn tùy tốt vâng lệnh. Liền lúc đó quân Hán đã ồ ạt kéo đến vây phủ. Hạng Vương lui tới một mình chém luôn ba tướng Hán, và mấy trăm quân. Quân Hán sợ hãi phải lùi lại. Hạng Vương nói với bọn tùy tốt:
– Sao chúng bay không chạy ra ngoài thoát nạn?
Bọn tùy tốt đồng nói:
– Chúng tôi xin theo phò đại vương cho đến phút cuối cùng.
Lời nói ấy như an ủi lòng kẻ mạt lộ, Hạng Vương lại vung đao đánh liều với quân Hán.
Ngày hôm ấy, Hạng Vương đánh cả thảy chín trận, giết chín tướng Hán và chém chết một ngàn quân Hán, thoát ra khỏi vòng vây, cùng bọn tùy tốt chạy đến bờ phía Bắc Ô giang.
Quân Hán không dám đuổi theo gấp như trước nữa. Hạng vương gò ngựa đi thong thả, hỏi bọn tùy tốt:
– Ta đánh với quân Hán như thế nào?
Bọn tùy tốt tâu:
– Ðại vương sức địch muôn người, thật là bậc anh hùng cái thế.
Ðến bờ sông, Hạng Vương muốn qua đò, và người Ðình trưởng Ô giang cũng đã cắm thuyền đợi sẵn nơi đó.
Hạng vương hỏi:
– Sao ngươi biết ta đến đây đem thuyền đón?
Người đình trưởng thưa:
– Tôi nghe Ðại vương thất trận, cơ đồ chỉ còn một con thuyền này, vì vậy đem thuyền đợi rước. Giang Ðông tuy nhỏ, nhưng đất vuông nghìn dặm, có thể làm chỗ phục hưng. Ðại vương sang đó, chiêu tập hào kiệt, tích thảo đồn binh thì cái cơ lấy lại thiên hạ không khó. Xin Ðại vương kíp sang đò, đừng để lỡ dịp.
Hạng vương thở dài, lắc đầu nói:
– Ta từ lúc khởi binh đến nay bách chiến bách thắng, nay lâm nguy chạy trốn thực là nhục.
Ðình trưởng nói:
– Hay Ðại Vương sợ quân Hán đuổi theo, không thoát được? Ở đây chỉ có một con thuyền của tôi mà thôi.
Ðại Vương xuống thuyền tôi dong ra giữa vời, tức là coi như Ðại vương đã ngồi trên ngai vàng bệ ngọc, không sợ gì nữa.
Hạng Vương nói:
– Trời đã muốn cho ta tận diệt, ta còn sang sông làm gì. Dẫu trở về Giang Ðông, dân chúng còn yêu ta, để ta làm vua, ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy họ nữa.
Ðình trưởng thở dài, lặp bặp nói:
– Thành bại không luận anh hùng. Ðã có chí lớn chớ nên câu nệ việc nhỏ. Ðại vương đừng thẹn vì thất trận mà nên lo cho cái nhục mất nước. Xin Ðại vương sang sông kẻo muộn.
Hạng Vương nhìn người Ðình trưởng, lòng bùi ngùi cảm động nói:
– Ta đã không thể sống nhục thì dẫu có sống cũng chẳng làm được việc gì nữa. Nhà ngươi nên bằng lòng vậy.
Người Ðình trưởng cắm thuyền phàn nàn mãi.
Hạng Vương biết là kẻ có chí lớn, song tự thấy mình không đủ can đảm để sống nhục nên cầm tay người Ðình trưởng nói:
– Ta có con ngựa quí, dùng đã mấy năm trong việc chiến chinh. Một ngày đi nghìn dặm, nó là một con thần mã rất khôn ngoan. Nay sợ quân Hán bắt được, mà giết đi thì không nỡ. Nhà ngươi nên đưa nó sang sông, đem về nuôi dưỡng. Sau này thấy nó cũng như thấy ta.
Dứt lời, sai tên tùy tốt dắt ngựa xuống thuyền.
Ngựa hí lên mấy tiếng, đưa mắt nhìn Hạng Vương, ra vẻ quyến luyến không nở rời, Hạng Vương lòng đau như cắt.
Vừa bước xuống thuyền người Ðình trưởng sắp buông chèo thì ngựa chúm bốn vó nhảy ùm xuống nước mất dạng.
Ai nấy kinh hồn, nhìn làn sóng của tràng giang như muốn ghi vào đáy những dòng lịch sử bất diệt.
Ðàng sau quân Hán reo hò kéo đến. Thuyền xuôi mái ra giữa dòng, Hạng Vương chống gươm đứng nơi mé bờ, đưa mắt nhìn địch quân hùng hổ bao vây.
Bọn tùy tốt nói:
– Ðại vương đã không chịu qua sông, bây giờ phải làm cách nào để đối địch?
Hạng Vương không đáp, vung kiếm nhảy tới chém chết một lúc mấy trăm quân Hán.
Chợt thấy trong đám Hán tướng có Ðại tướng Lã Mã Thông vừa đến, Hạng vương gọi lớn:
– Nhà ngươi có phải là cố nhân của ta chăng?
Lã Mã Thông đáp:
– Phải, tôi cùng Ðại vương khởi binh ở Cối Kê, nay vắng cách đã lâu; lẽ ra tôi phò Ðại vương, nhưng vì Ðại vương lấy uy lực áp đảo sanh linh, lấy bạo lực trị thiên hạ, chính sách đó không thuận lòng trời, hợp lòng người. Hán vương tuy không có uy vũ, song đạo đức tràn đầy, ai ai cũng mến. Trời dành thiên hạ cho kẻ có đức chứ không phải cho kẻ có uy vũ, do đó Ðại vương thất bại là phải. Tôi phò Hán không phải bội phản Ðại vương mà theo nguyện vọng của tôi.
Hạng vương nói:
– Ngày nay lòng ngươi đối với ta như thế nào?
Lã Mã Thông nói:
– Tôi vẫn khâm phục cái tài kinh thiên vĩ địa của Ðại Vương. Nếu trời không giúp Hán, thì không thể nào Ðại Vương mất nước được. Tôi tuy theo bước đường lý tưởng, chuộng đạo đức, diệt bạo tàn, song vẫn xem Ðại Vương là cố nhân.
Hạng vương nói:
– Lòng ngươi còn nhớ nghĩa xưa, ta không lấy gì đến đáp. Nghe rằng Hán Vương treo giải trong quân, ai lấy được đầu ta phong làm vạn hộ. Vậy ta cho ngươi chiếc đầu của ta đem về lập công.
Nói xong, rút gươm đâm cổ tự vận.
Bọn Dương Hỷ, Dương Vó, Vương Ê, Lã Thông đều xông đến cắt đầu Hạng vương đem về dâng cho Hán vương.
Hạng vương sanh năm Tần Thủy Hoàng thứ mười lăm, đến năm Hán Cao Tổ thứ năm thì tự vận ở Ô Giang thọ ba mươi mốt tuổi.
Người sau có thơ rằng:
Sức mạnh kinh thiên vạn cổ truyền
Vẫy vùng yên mã đoạt giang biên
Hạ thành ai luận anh hùng sự
Mãnh hổ sa cơ cũng phải hèn
Lã Mã Thông cùng năm tướng xách đầu Hạng vương về dinh nạp cho Hán vương.
Hán vương trông thấy khóc òa, nói:
– Tôi cùng nhà vua kết làm anh em, sau vì tranh thiên hạ mà trở nên hiềm khích. Song nhà vua tuy bắt Thái Công, Lã hậu mà vẫn nuôi dưỡng tử tế, không hề xúc phạm, đó là hành động của bậc trượng phu, tôi không bằng được. Không ngờ nay nhà vua chết đi như vậy, tôi tiếc thương biết chừng nào.
Các tướng thấy lòng nhân đạo của Hán vương đều cảm phục.
Hạng vương đã chết, đất Sở đã định, Hán vương phong cho Lã Mã Thông làm Trung Thủy hầu, Vương Ê làm Ðỗ Diễn hầu, Dương Hỷ làm Xích Toàn hầu, Dương Võ làm Ngô Phòng hầu, Lã Thắng làm Niết Dương hầu.
Sai lập miếu thờ Hạng Vương ở bến Ô Giang, bốn mùa tế lễ.
Nhắc lại, Hạng Bá bỏ Sở sang đầu Trương Lương, Trương Lương vì thấy đang lúc binh nhung bận rộn, không dám tâu với Hán vương, nay Sở đã diệt, liền dẫn Hạng Bá vào yết kiến, và tâu:
– Hạng Bá trong khi quân Sở tan rã, có đến xin đầu ở dinh hạ thần. Hạ thần trộm nghĩ Hạng Bá vốn có tình cũ, lại là người có công ở Hồng Môn năm xưa nên lưu lại trong dinh, chờ Ðại vương xét định.
Hán vương nói:
– Hạng công đã từng giúp ta nhiều việc lớn. Ta đang định sai người đi tìm, chẳng ngờ Hạng công đến đây thật là may mắn.
Liền phong cho Hạng Bá làm Ðịch Vương Hầu, cải là họ Lưu.
Hạng Bá mừng rỡ tạ ơn.
Bấy giờ các nơi đã dẹp yên, duy còn nước Lỗ ở Sơn Ðông chưa bình được.
Hán vương nói:
– Lỗ là nước nhỏ, chẳng đáng kể, lúc nào kéo quân đến là lấy được ngay. Nay hãy bàn việc đóng đô đã.
Trương Lương tâu:
– Ðại vương không nên rút quân về vội. Nước Lỗ tuy nhỏ, nhưng có ẩn một mối hậu hoạn. Nếu không để ý e sau này hối không kịp.
Hán vượng ngạc nhiên hỏi:
– Một nước nhỏ như vậy, có gì tai hại về sau?
Trương Lương đến gần Hán vương tâu nhỏ:
– Lỗ là một nước trị dân bằng lễ nghĩa, dân chúng được thuận hòa. Năm xưa, Sở Hoài vương phong cho Hạng vương làm Lỗ công, mà nước Lỗ lại là đất cũ của Hạng vương, dân chúng nước ấy có thể vì Hạng vương khởi binh báo thù. Các tay hào kiệt ở Ðông Ngô cũng nhiều, nếu họ kéo đến Kinh Sở, chiếm lấy Hồ Tương, ta không dễ gì dẹp đặng.
Hán vương thất kinh, nói:
– Nếu không có tiên sinh ta đã lầm việc lớn.