Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi ba người cưỡi ba con tuấn mã do đại tài chủ tặng, thẳng đường cái quan phi về phía nam.
Hàn Lâm Nhi đối với giáo chủ hết mực cung kính, không dám đi sánh vai, mà tụt lại rất xa đằng sau; dọc đường lo nấu nước bưng trà hầu hạ Trương, Chu hai người như một kẻ nô bộc. Trương Vô Kỵ thấy vậy rất áy náy, nói:
– Hàn đại ca, chúng ta cùng trong bản giáo, đệ rất kính trọng đại ca; trong công việc thì đại ca phải nghe lệnh của đệ thật; còn thường ngày đối xử với nhau ta cứ coi như ngang vai, như bằng hữu là được.
Hàn Lâm Nhi hoảng hốt nói:
– Thuộc hạ đối với giáo chủ vô cùng kính ngưỡng, coi nhau ngang hàng sao được? Bình thời không có duyên được gần giáo chủ, bây giờ tiểu nhân có dịp hầu hạ, quả là vinh hạnh lớn đối với thuộc hạ.
Chu Chỉ Nhược mỉm cười nói:
– Muội không phải là giáo chủ của đại ca, đại ca đừng cung kính với muội như thế nữa.
Hàn Lâm Nhi nói:
– Chu cô nương là tiên nữ, tiểu nhân được trò chuyện với cô nương vài câu cũng là nhờ phúc tu từ kiếp trước. Tiểu nhân nói năng thô lỗ, xin cô nương đừng trách.
Chu Chỉ Nhược nghe y nói thành thực, ánh mắt lộ vẻ sùng kính, quả thật y coi nàng như thiên thần. Nàng tự biết mình dung mạo xinh đẹp, thanh niên nam tử ai gặp nàng cũng xiêu lòng, nhưng sùng bái hết mức như Hàn Lâm Nhi thì chưa hề có, là thiếu nữ ai mà chẳng thích được như thế.
Trương Vô Kỵ hỏi nàng bị Cái Bang bắt giữ như thế nào. Chu Chỉ Nhược kể, hôm ấy chàng đi khỏi khách điếm chưa lâu, Tạ Tốn đột nhiên toàn thân run rẩy, miệng lảm nhảm. Nàng sợ quá, cố an ủi ông, nhưng Tạ Tốn tựa hồ không nhận ra nàng nữa, cứ lồng lộn trong phòng, rồi nằm lăn ra đất, ngất lịm đi. Đúng lúc đó có sáu, bảy cao thủ Cái Bang cùng xộc vào, nàng chưa kịp rút kiếm ra chống cự, đã bị họ điểm huyệt, rồi họ đưa Tạ Tốn và nàng đến Lư Long.
Trương Vô Kỵ hồi còn nhỏ đã biết nghĩa phụ vì luyện “Thất Thương quyền” nên tâm mạch bị chấn thương, cộng với nỗi đau cả nhà bị Thành Côn giết hại, nên thi thoảng ông nổi cơn điên; có điều không ngờ lại phát tác đúng hôm đó, nên không thể chống cự bọn Cái Bang. Hai người bàn tính mãi, vẫn chưa biết hiện giờ Tạ Tốn ở đâu, chẳng lần ra chút manh mối gì.
Trương Vô Kỵ nói:
– Kinh sư là nơi các lộ anh hùng tụ họp, đường xuôi nam của ta cũng qua đó, vậy ta hãy tới Đại Đô dò xét tin tức xem sao. Ta nghĩ rằng Thanh Dực Bức Vương Vi huynh thể nào cũng có manh mối.
Chu Chỉ Nhược bĩu môi, cười nói:
– Chàng tới Đại Đô có thực là để gặp Vi Nhất Tiếu hay chăng?
Trương Vô Kỵ hiểu ý nàng định bóng gió điều gì, thì bất giác đỏ mặt, nói:
– Cũng chưa chắc gặp được Vi huynh. Giả dụ gặp được Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng, thì họ sẽ giúp mình được phần nào.
Chu Chỉ Nhược mỉm cười, nói:
– Có một vị thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, chàng tới Đại Đô tìm gặp thì thể nào cũng giúp được rất nhiều. Dương tả sứ, Khổ đầu đà, Bành hòa thượng làm sao sánh kịp trí thông minh của nàng ta kia chứ?
Trương Vô Kỵ hoàn toàn chưa dám kể nàng biết chuyện gặp Triệu Mẫn, giờ nghe nàng nhắc đến thì không khỏi ngượng ngùng, nói:
– Nàng không thể quên được Triệu cô nương, thành ra hễ cao hứng lại châm chọc ta vài câu.
Chu Chỉ Nhược cười, nói:
– Thiếp không quên, hay là người bên cạnh không quên? Lòng chàng toan tính những gì, tưởng thiếp không biết hay sao?
Trương Vô Kỵ nghĩ mình với Chu Chỉ Nhược đã ước hẹn đá vàng, từ nay sống chết có nhau, chẳng thể hai lòng, bất cứ chuyện gì cũng không nên giấu, bèn nói:
– Chỉ Nhược, có một chuyện ta nên nói với nàng, nàng đừng giận nghe.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chuyện đáng giận thì cứ giận, chuyện không đáng giận thì thôi.
Trương Vô Kỵ chột dạ, nghĩ thầm mình đã thề độc với nàng, nhất định sẽ giết Triệu Mẫn để báo thù cho biểu muội Ân Ly, nhưng khi gặp lại Triệu Mẫn, chàng chẳng những không giết Triệu Mẫn, mà còn cùng nàng ta qua đêm với nhau nơi hoang sơn, cưỡi chung một con ngựa, những chuyện ấy mới khó ăn khó nói làm sao. Chàng không quen giả dối, nên tự cảm thấy ngượng ngập, mặt mày mất hết vẻ tự nhiên.
Chàng còn đang nghĩ, thì đã tới một thị trấn, thấy trời sắp tối, liền tìm một khách điếm nhỏ nghỉ qua đêm. Ăn tối xong, chàng lại xoa bóp các huyệt đạo ở lưng cho Chu Chỉ Nhược một hồi lâu. Cách giải huyệt tuy không hợp, nhưng thời gian bị điểm huyệt đã quá lâu, thành ra sau khi xoa bóp cho khí huyết lưu thông, huyệt đạo bị phong bế cuối cùng sẽ tự mở ra. Chàng nghĩ thầm: “Các vị trưởng lão Cái Bang tuy võ công chưa phải cực cao, song thủ pháp điểm huyệt của họ thật là thần diệu. Chỉ Nhược tâm tính cao ngạo, trong bữa tiệc không chịu hé miệng nhờ họ giải huyệt, kẻ ra tay điểm huyệt cũng làm như không nhớ ra. Hì hì, mấy lão ăn xin ấy còn cố giữ thể diện, đã thua liểng xiểng rồi, còn cố tỏ ra lợi hại hơn về phương diện điểm huyệt”.
Chu Chỉ Nhược không thích mùi hôi trong khách điếm, nên nói:
– Mình ra ngoài dạo chơi một lát cho thoáng đi.
Trương Vô Kỵ nói:
– Phải đấy.
Rồi nắm tay nàng đi ra vùng ngoại vi thị trấn.
Lúc này mặt trời vừa lặn, ráng chiều đỏ như máu, hai người thả bộ một hồi, rồi ngồi xuống một gốc cây lớn, nhìn cảnh trời tối dần. Trương Vô Kỵ lấy hết can đảm, kể cho Chu Chỉ Nhược nghe chuyện ở miếu Di Lặc chàng gặp Triệu Mẫn thế nào, phát hiện xác Mạc Thanh Cốc ra sao, gặp lại huynh đệ Tống Viễn Kiều ở đâu, theo ám hiệu hình ngọn lửa của Minh giáo chạy một vòng khắp vùng Ký Bắc thế nào. Kể xong, chàng nắm hai tay Chu Chỉ Nhược, nói:
– Chỉ Nhược, nàng là vị hôn thê của ta, hai ta phu thê nhất thể, ta không giấu nàng bất cứ chuyện gì. Triệu cô nương một mực đòi gặp nghĩa phụ ta bằng được, bảo là có mấy câu cần hỏi cho ra lẽ. Ta lúc ấy cũng nghi nghi, bây giờ nhớ lại, càng thấy đáng sợ hơn.
Câu sau cùng, giọng chàng trở nên run run.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chàng sợ cái gì?
Trương Vô Kỵ cảm thấy hai bàn tay thon nhỏ của nàng trong tay mình lạnh như băng, cũng hơi run run, liền nói:
– Ta nghĩ nghĩa phụ ta có bệnh mất trí, hễ lên cơn là không còn biết gì nữa. Năm xưa có lần lên cơn, ông đã bóp cổ mẹ ta suýt chết, chính vì thế mẹ ta đã phải dùng kim châm bắn ông mù hai mắt. Hôm ta chào đời, ông lên cơn, toan giết cha mẹ ta, may mà nghe thấy tiếng khóc của ta mới tỉnh táo trở lại. Ta sợ… Ta quả thật sợ rằng…
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chàng sợ cái gì?
Trương Vô Kỵ thở dài, đáp:
– Kể ra không nên nói, nhưng quả thật ta lo rằng biểu muội ta bị… bị… nghĩa phụ giết.
Chu Chỉ Nhược đứng bật dậy, run run nói:
– Tạ đại hiệp nhân hiệp trượng nghĩa, đối với bọn hậu bối chúng ta càng hết mực thương yêu, sao lại có chuyện giết Ân cô nương?
Trương Vô Kỵ nói:
– Là ta đoán chừng thế thôi, chưa có gì chuẩn xác. Nếu biểu muội ta đúng là do nghĩa phụ giết, thì chẳng qua chỉ vì bệnh cũ của ông tái phát, như kẻ nằm mơ, chứ đâu phải bản ý của lão nhân gia. Ôi, bao nhiêu món nợ đều do tên ác tặc Thành Côn mà ra cả.
Chu Chỉ Nhược ngẫm nghĩ một hồi, lắc đầu nói:
– Không, không đúng! Chẳng lẽ cả bọn bị trúng “Thập hương nhuyễn cân tán” cũng là bởi tay nghĩa phụ đầu độc hay sao? Ông lấy đâu ra thuốc độc kia chứ? Một kẻ tâm trí đột nhiên mê muội, ra tay giết người thì cũng chưa phải là lạ, nhưng làm sao có thể rành rọt tính toán hạ độc vào thức ăn kia chứ?
Trương Vô Kỵ thấy trước mắt như có mây mù che phủ, không nhìn ra chút manh mối nào. Chỉ nghe Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói tiếp:
– Vô Kỵ ca ca, chàng cứ cố tìm đủ mọi cách để chạy tội cho Triệu Mẫn.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nếu Triệu cô nương đúng là hung thủ, thì cô ta chạy trốn nghĩa phụ còn chưa kịp, cớ gì cứ khăng khăng đòi gặp nghĩa phụ, bảo là để nói vài câu cho ra lẽ?
Chu Chỉ Nhược cười nhạt, nói:
– Triệu cô nương cơ biến vô song, nàng ta muốn chối tội thì nàng ta không nghĩ ra được cách khôn ngoan hay sao?
Giọng nàng bỗng trở nên dịu dàng, nàng ngả đầu vào vai chàng, nói:
– Vô Kỵ ca ca, chàng là người thật thà trung hậu nhất trên đời này, nói về thông minh cơ trí, làm sao có thể là đối thủ của Triệu Mẫn kia chứ?
Trương Vô Kỵ thở dài, nghĩ lời này quả có lý, đưa tay ôm nhẹ thân thể mềm mại của nàng vào lòng, dịu giọng nói:
– Chỉ Nhược, ta cảm thấy thế sự phiền não quá chừng, đến thân thiết như nghĩa phụ mà ta còn phải nghi ngờ. Ta chỉ ước gì sau khi đuổi sạch bọn Thát tử rồi, hai chúng mình sẽ ẩn cư nơi thâm sơn, hưởng phúc thanh nhàn, không màng sự đời nữa.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chàng là giáo chủ Minh giáo, nếu trời cho được như nguyện, đuổi sạch bọn Thát tử rồi thì đại sự thiên hạ đều do Minh giáo lo liệu cả, làm sao chàng có thể hưởng thanh nhàn kia chứ?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta chưa đủ tài cán mà làm giáo chủ, càng không muốn làm giáo chủ. Nếu Minh giáo phải đảm nhiệm trọng quyền, thì giáo chủ phải để một vị anh hùng sáng suốt đảm trách.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chàng tuổi còn trẻ, hiện giờ tài cán chưa đủ, nhưng đâu phải là không thể học được? Hơn nữa, thiếp là chưởng môn phái Nga Mi, gánh vác cũng rất nặng nề. Khi sư phụ giao cho thiếp cái nhẫn chưởng môn này, có dặn thiếp phải làm rạng danh môn phái, e rằng dù chàng có được ẩn cư chốn rừng sâu núi thẳm, thì thiếp cũng không có cái diễm phúc ấy.
Trương Vô Kỵ vuốt ve cái nhẫn trên ngón tay nàng, nói:
– Khi ta thấy cái nhẫn này ở trong tay Trần Hữu Lượng, ta lo quá chừng, chỉ sợ nàng bị kẻ gian làm nhục, ta hận không có cánh để bay tới bên nàng. Chỉ Nhược, ta không đủ tài cứu nàng thoát hiểm sớm hơn, khiến mấy ngày đó nàng phải chịu thiệt thòi chèn ép. Cái nhẫn này bọn họ trả cho nàng cách nào vậy?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Đó là do thiếu hiệp Tống Thanh Thư phái Võ Đang trả cho thiếp đấy.
Trương Vô Kỵ nghe nàng nhắc đến cái tên Tống Thanh Thư, bỗng nhớ lại cái cảnh nàng ngồi kề vai Tống Thanh Thư bên bàn tiệc trong đại sảnh Cái Bang, bèn hỏi:
– Tống Thanh Thư đối với nàng tốt lắm phải không?
Chu Chỉ Nhược nghe giọng nói của Trương Vô Kỵ có vẻ khác thường, bèn hỏi lại:
– Chàng hỏi vậy là có ý gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Chẳng có ý gì cả. Ta thuận miệng hỏi thế thôi. Tống Thanh Thư vì nàng mà phản bội môn phái, đối nghịch phụ thân, mưu hại sư tổ sư thúc, chỉ tốt với một mình nàng thôi.
Chu Chỉ Nhược nhìn vầng trăng non mới mọc ở phía đông, buồn bã nói:
– Giá như chàng đối với thiếp chỉ bằng một nửa của y, thì thiếp cũng đã thỏa nguyện lắm rồi.
Trương Vô Kỵ đáp:
– Ta không thể si tình được như Tống sư ca; nếu muốn bắt ta phải vì nàng mà làm những việc bất hiếu bất nghĩa ấy, ta cũng không đời nào làm.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Vì thiếp chàng không thể, nhưng vì Triệu cô nương thì chàng làm được lắm. Hồi ở trên đảo, chàng đã lập trọng thệ quyết giết con yêu nữ để trả thù cho Ân cô nương. Nhưng chàng vừa gặp nàng ta đã quên biến luôn lời thề.
Trương Vô Kỵ nói:
– Chỉ Nhược, nếu ta tra xét đúng là thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên là do Triệu Mẫn lấy trộm, biểu muội của ta đúng là bị nàng ta giết hại, thì ta sẽ quyết không tha. Còn như nàng ta trong trắng vô tội, làm sao ta có thể vô cớ giết nàng ta kia chứ?
Không chừng lời thề của ta ở trên đảo là nhầm lẫn cũng nên.
Chu Chỉ Nhược im lặng. Trương Vô Kỵ hỏi:
– Ta nói sai chăng?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Không! Thiếp đang nghĩ, hôm đứng trên tháp cao chùa Vạn An, thiếp cũng từng lập trọng thệ với sư phụ thiếp. Chỉ hận là khi trên đảo hứa hôn với chàng, thiếp đã không nói cho chàng biết lời thề đó.
Trương Vô Kỵ kinh hãi, hỏi:
– Nàng… thề thế nào?
Chu Chỉ Nhược đáp:
– Thiếp thề với sư phụ, nếu sau này lấy chàng làm chồng, cha mẹ thiếp dưới suối vàng cũng không yên ổn, sư phụ thì sẽ hóa thành ma quỷ ám ảnh thiếp ngày đêm; nếu thiếp có con với chàng, con trai thì đời đời làm đầy tớ, con gái thì mãi mãi làm xướng kỹ.
Trương Vô Kỵ nghe những lời thề độc địa ấy, bất giác rùng mình, hồi lâu mới nói:
– Chỉ Nhược, lời thề đó sẽ không linh nghiệm, không thể linh nghiệm được, bởi vì sư phụ nàng cứ ngỡ Minh giáo là tà ma, chuyên làm điều ác, cứ ngỡ ta là một tên dâm tặc gian tà vô sỉ, nên mới ép buộc nàng thề độc như vậy. Lão nhân gia khi biết rõ sự thật, sẽ không bắt nàng giữ lời thề ấy nữa đâu.
Chu Chỉ Nhược nước mắt đầm đìa, thổn thức nói:
– Thế nhưng… thế nhưng lão nhân gia đâu còn biết được nữa.
Nói rồi nàng gục đầu vào lòng chàng mà khóc nức nở.
Trương Vô Kỵ vuốt mái tóc mềm mại của nàng, an ủi:
– Sư phụ nàng dưới suối vàng nếu biết, sẽ không trách nàng làm trái lời thề. Chẳng lẽ ta đúng là một tên dâm tặc vô sỉ hay sao?
Chu Chỉ Nhược ôm lưng chàng, nói:
– Hiện tại thì chưa phải, nhưng mai sau bị Triệu Mẫn dụ dỗ mê hoặc, không chừng… không chừng sẽ thành là một tên dâm tặc gian tà vô sỉ.
Trương Vô Kỵ giơ ngón tay búng nhẹ vào má nàng, cười nói:
– Sao nàng coi khinh ta như vậy? Phu quân của nàng đâu phải hạng người đó?
Chu Chỉ Nhược ngẩng lên, mấy giọt nước mắt trên má nàng long lanh như ngọc, mắt đã ánh lên nụ cười, nói:
– Không biết ngượng, chàng là phu quân của thiếp từ hồi nào? Chàng mà còn lén lút qua lại với tiểu yêu nữ Triệu Mẫn, thì thiếp khỏi cần đến chàng. Biết đâu một ngày kia chàng cũng giống như gã Tống Thanh Thư, chỉ vì một thiếu nữ mà làm đủ trò xấu xa đê tiện.
Trương Vô Kỵ cúi xuống hôn nhẹ vào má nàng, nói:
– Ai bảo nàng đẹp như tiên giáng trần, để những kẻ phàm phu tục tử như ta cầm lòng không đậu. Cha mẹ nàng có lỗi, sinh ra nàng quá đẹp, khiến nam giới bọn ta mê mệt đó mà.
Bỗng nhiên từ sau một thân cây to ở cách xa hai trượng, có hai tiếng cười khẩy vọng tới. Trương Vô Kỵ đang ôm Chu Chỉ Nhược trong lòng, còn đang kinh ngạc, đã thấy một bóng đen thoáng hiện ra rồi vụt đi xa.
Chu Chỉ Nhược đứng bật dậy, mặt tái đi, run run nói:
– Triệu Mẫn đấy! Yêu nữ ấy cứ bám theo chúng ta.
Trương Vô Kỵ nghe hai tiếng cười đúng là giọng nữ giới, nhưng không dám chắc là Triệu Mẫn; trong bóng đêm không phân biệt được hình dáng sau lưng, ngần ngừ hỏi:
– Là nàng ta thật ư? Nàng ta bám theo chúng mình để làm gì?
Chu Chỉ Nhược bực tức nói:
– Thì cô ả đó mê chàng, chàng còn giả bộ không biết. Hay là hai người đã hẹn hò với nhau, giở trò ma mãnh để chọc ghẹo thiếp đây?
Trương Vô Kỵ rối rít kêu oan. Chu Chỉ Nhược đứng sững trong gió lạnh, nghĩ ngợi thế nào, tự dưng nước mắt chảy ròng ròng.
Trương Vô Kỵ tay trái ôm nhẹ vai nàng, tay phải lấy tay áo lau nước mắt cho nàng, dịu dàng nói:
– Sao nàng lại khóc? Ta mà có hẹn Triệu Mẫn đến đây thì bị trời tru đất diệt. Nàng thử nghĩ xem, nếu ta có tình ý gì với Triệu Mẫn, lại biết nàng ta đang ở gần đâu đây, lẽ nào ta lại thân mật âu yếm với nàng như thế? Như thế có phải là ta cố ý chọc tức, làm cho nàng ta đau lòng hay chăng?
Chu Chỉ Nhược thở dài:
– Không sai. Vô Kỵ ca ca, lòng thiếp không thể nào bình tĩnh lại được.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Sao thế?
Chu Chỉ Nhược nói:
– Thiếp vẫn không thể quên lời thề độc với sư phụ. Thiếp lại nghĩ đến chuyện Triệu Mẫn không buông tha thiếp, mà cả võ công lẫn mưu trí thì thiếp đều thua xa nàng ta.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta sẽ tận tâm kiệt lực bảo hộ cho nàng chu toàn. Ta quyết không để cho cô ấy động tới một sợi tóc ái thê của ta.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Nếu thiếp có chết bởi tay nàng ta thì thôi, chỉ tại cái số thiếp hẩm hiu. Thiếp chỉ sợ chàng bị nàng ta mê hoặc, chàng đi tin vào lời lẽ ngon ngọt, mắc bẫy của nàng ta rồi ra tay giết thiếp, thì thiếp chết không nhắm mắt được.
Trương Vô Kỵ cười nói:
– Nàng chớ nên lo hão lo huyền như thế. Trên đời này có bao nhiêu kẻ hại ta, đắc tội với ta, ta còn không giết, sao ta lại đi giết nàng làm gì?
Chàng vạch vạt áo, để lộ vết sẹo trên ngực, cười nói:
– Vết kiếm nàng đâm còn đây, nàng đâm càng sâu, ta càng yêu nàng hơn.
Chu Chỉ Nhược đưa tay xoa xoa vết sẹo với cảm giác thương yêu vô hạn, đột nhiên nàng tái mặt, nói:
– Ác giả ác báo, sau này chàng có lấy kiếm đâm thiếp chết, thiếp cũng không hối tiếc gì cả.
Trương Vô Kỵ ôm nàng vào lòng, nói nhỏ nhẹ:
– Đợi khi mình tìm thấy nghĩa phụ, sẽ nhờ lão nhân gia làm chủ hôn, rồi từ đấy hai đứa mình không rời xa nhau một bước, sống với nhau đến lúc bạc đầu. Nếu muốn, nàng cứ việc đâm ta vài nhát kiếm nữa, ta cũng không nặng lời với nàng. Như thế nàng đã vừa lòng chưa?
Chu Chỉ Nhược kề má vào lồng ngực ấm áp của chàng, nói khẽ:
– Chỉ mong chàng là bậc đại trượng phu, không quên những gì đã nói với thiếp hôm nay.
Hai người rủ rỉ hồi lâu, mãi đến khuya, khi sương lạnh xuống nhiều, mới trở lại khách điếm, ai về phòng nấy ngủ.
*
* *
Sáng hôm sau ba người tiếp tục đi về phương nam, dọc đường không thấy tung tích Triệu Mẫn, ít ngày sau đã tới Đại Đô. Khi vào thành, trời đã gần tối, chỉ thấy ai nấy vẩy nước, quét dọn đường lớn hẻm nhỏ thật sạch sẽ, nhà nhà bày hương án trước cửa.
Bọn Trương Vô Kỵ vào khách điếm rồi, hỏi họ trong thành có đại sự gì. Điếm tiểu nhị nói:
– Quan khách từ xa tới không biết, nhưng như thế là cũng gặp may, mai là ngày đại du hoàng thành đấy.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Đại du hoàng thành là thế nào?
Điếm tiểu nhị nói:
– Mai là ngày mỗi năm một lần hoàng thượng đại du hoàng thành. Hoàng thượng sẽ đến chùa Khánh Thọ dâng hương, có hàng vạn nam thanh nữ tú nô nức du hành, kéo dài phải đến ba, bốn chục dặm, cứ gọi là ngựa xe nườm nượp. Quan khách tối nay ngủ sớm một chút, sáng mai dậy sớm, đến bên ngoài cửa điện Ngọc Đức mà kiếm một chỗ cho tốt, nếu tinh mắt sẽ được nhìn rõ hoàng thượng, hoàng hậu, quý phi, thái tử, công chúa, tất cả đủ mặt. Các vị nghĩ thử, mình là dân đen, nếu không lên kinh sư, làm sao có phúc được nhìn thấy hoàng thượng?
Hàn Lâm Nhi nghe vậy cả giận, nói xẵng:
– Nhận giặc làm cha, đồ Hán gian vô liêm sỉ! Hoàng đế Thát tử có cái đếch gì đáng xem?
Điếm tiểu nhị trợn mắt, chỉ y, nói:
– Ngươi… ngươi nói thế chẳng phải muốn làm phản sao? Ngươi không sợ mất đầu ư?
Hàn Lâm Nhi nói:
– Mi là người Hán, Thát tử giết hại bao nhiêu dân ta, mi còn luôn mồm hoàng thượng thế này, hoàng thượng thế nọ, thật không còn chút khí phách gì nữa.
Điếm tiểu nhị thấy y hùng hổ, định bỏ chạy. Chu Chỉ Nhược giơ tay điểm huyệt đạo sau lưng hắn, nói:
– Gã này chạy ra thể nào cũng kể lung tung, e rằng chẳng mấy chốc quan binh sẽ đến vây bắt người.
Đoạn nàng dùng chân đẩy hắn vào gầm giường, cười nói:
– Cho gã đói vài hôm, lúc nào mình rời khỏi đây hãy thả gã ra.
Chợt nghe có tiếng chưởng quỹ réo gọi ở bên ngoài:
– A Phúc, bớ A Phúc, ngươi rờ rẫm ở đâu mãi thế? Mau đem nước rửa mặt cho quý khách ở buồng số ba!
Hàn Lâm Nhi nghe vậy tức cười, đập bàn, quát:
– Mau bưng cơm rượu lên đây, các đại gia đói lắm rồi!
Lát sau, một điếm tiểu nhị khác bưng thức ăn lên, lẩm bẩm nói một mình:
– Cái thằng A Phúc chắc đến hoàng thành xem đốt pháo bông rồi. Việc nhà không lo, chỉ ham chơi.
Sáng sớm hôm sau, Trương Vô Kỵ vừa thức dậy, đã nghe bên ngoài đầy tiếng huyên náo. Chàng ra cửa, thấy ngoài đường vô số nam nữ, ai nấy quần áo sặc sỡ, ùn ùn kéo về phía bắc, vừa đi vừa cười đùa, xem ra còn tưng bừng hơn cả ngày Tết. Tiếng pháo nổ đì đùng tứ phía không ngớt. Chu Chỉ Nhược cũng đã ra cửa, nói:
– Chúng mình cũng đi coi xem sao.
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta từng động thủ với các võ sĩ của Nhữ Dương Vương, không thể để bọn chúng nhận ra ta; nếu muốn đi xem phải cải trang khác đi mới được.
Ba người liền cải trang thành người nhà quê, lấy đất xoa lên mặt mũi chân tay, rồi hòa vào dòng người đổ tới hoàng thành.
Lúc này vào khoảng cuối giờ Mão đầu giờ Thìn, trong ngoài hoàng thành người đông như kiến, không còn chỗ trống. Trương Vô Kỵ đưa tay ra phía trước khẽ gạt mọi người, mở đường tiến vào bậc thềm cao dưới hàng hiên một tòa nhà lớn ngoài cửa Đình Xuân. Đứng đó xem rất tiện lợi. Đứng chưa lâu, đã nghe tiếng thanh la nổi lên, mọi người reo to:
– Đến rồi! Đến rồi!
Ai nấy vươn cổ ra xem.
Tiếng thanh la to dần, càng lúc càng tới gần. Đấy là một trăm lẻ tám đại hán lực lưỡng, mặc áo xanh, tay trái giơ chiếc thanh la đường kính phải đến ba thước, tay phải cầm dùi gõ thật đều nhịp. Tiếng một trăm lẻ tám cái thanh la được gõ cùng vang lên, nghe điếc cả tai. Tiếp sau đội thanh la là đội trống gồm ba trăm sáu chục người; kế đến đội thổi sáo của người Hán, đội đàn tì bà người Tây Vực, đội tù và người Mông Cổ, mỗi đội ít cũng hơn trăm người, nhiều phải tới dăm trăm người. Các đội nhạc đi qua rồi, thấy hai lá cờ lớn bằng gấm đỏ giương cao đi tới. Một lá trên đề “An bang hộ quốc”, lá kia đề “Trấn tà phục ma”, với nhiều chữ Phạn nhỏ dát vàng lấp lánh. Trước sau mỗi lá cờ có hai trăm kỵ binh Mông Cổ đi hộ vệ, đao dài sáng loáng, các cây thương tua tủa. Bốn trăm người cùng cưỡi ngựa trắng. Dân chúng thấy cảnh oai hùng đó liền vỗ tay hoan hô.
Trương Vô Kỵ than thầm: “Dân chúng khắp nơi đều hận thù quan binh Mông Cổ đến tận xương, thế mà dân kinh sư lại không cảm thấy cái nhục vong quốc nô, có lẽ vì mấy chục năm qua ngày ngày họ nhìn thấy uy phong của triều đình Mông Cổ, nên đã quên đi thân phận nô lệ của mình”.
Hai lá cờ lớn vừa đi qua, đột nhiên từ phía tây, chỗ đông người, có vệt sáng loang loáng, hai hàng phi đao phóng ra, trúng hai cán cờ. Mỗi hàng phi đao gồm bảy chiếc, chiếc nào chiếc nấy cắm thẳng vào cán cờ. Cán cờ tuy lớn, nhưng bị cả bảy thanh đao chém vào, lắc lư rồi gãy gục, nghe lụp bụp mấy tiếng, từ trên cao ập xuống. Nhiều tiếng kêu oai oái, hơn mười người bị cán cờ đè lên. Đám đông kêu la ầm ỹ, vội dạt tránh, gây nên cảnh hỗn loạn.
Sự việc xảy ra đột ngột, bọn Trương Vô Kỵ cũng hoàn toàn bị bất ngờ. Hàn Lâm Nhi cả mừng, định reo to hoan hô, thì có một bàn tay mềm mại bịt miệng y lại, đó là Chu Chỉ Nhược ngăn không cho y reo hò.
Lập tức bốn trăm tên lính Mông Cổ tay lăm lăm vũ khí xông vào đám đông tra xét. Trương Vô Kỵ thấy mười bốn cây phi đao được phóng ra hết sức lợi hại, đúng là thủ pháp của hảo thủ võ lâm; do đám đông che khuất, nên không nhìn thấy là ai phóng. Chàng đã nhìn không thấy, thì bọn quan binh Mông Cổ làm sao thấy được, chúng sẽ chỉ nhắm mắt làm bừa. Lát sau có bảy tám hán tử trong đám đông bị lôi ra, người nào cũng kêu oan, nhưng đao kiếm của bọn lính Mông Cổ đã đâm họ chết ngay tại chỗ.
Hàn Lâm Nhi căm giận nói:
– Người phóng phi đao đã chạy đi từ đời nào, lũ bị thịt kia làm sao bắt được? Chúng quay ra giết người vô tội cho bõ tức.
Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:
– Hàn đại ca, đừng nhiều lời. Chúng ta đi xem đại du hoàng thành, chứ có phải đến gây đại náo hoàng thành đâu.
Hàn Lâm Nhi đáp:
– Vâng ạ!
Y không dám nói thêm câu nào nữa.
Loạn xạ một hồi xong, ở phía sau lại nổi lên tiếng nhạc, đội xiếc người Tây Vực diễu qua, kẻ nuốt đao, người phun lửa, khiến dân chúng hoan hô ầm ỹ, tựa hồ đã quên luôn cái thảm kịch máu me vung vãi vừa rồi. Tiếp đó là đoàn múa rối, điều khiển các hình nhân trong chậu đủ trò, kế đến là các cỗ xe hoa do ngựa kéo, trên mỗi xe có các đồng nam đồng nữ xinh đẹp diễn các tích “Đường Tam Tạng Tây Thiên thỉnh kinh”, “Đường Minh Hoàng du Nguyệt cung”, “Lý Tồn Hiếu đả hổ”, “Lưu Quan Trương tam chiến Lã Bố”, “Trương Sinh nguyệt hạ hội Oanh Oanh”, họ biểu diễn khéo léo, vô cùng hấp dẫn. Bọn Trương Vô Kỵ ba người vốn sống ở vùng quê hẻo lánh, chưa bao giờ thấy xem những cảnh phồn hoa như thế, nên hôm nay thầm nghĩ đúng là được một phen sáng mắt.
Trên mỗi xe có cắm cờ thêu, chỗ thì “Thần Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng mỗ mỗ cống phụng”, chỗ thì “Thần Giang Chiết hàng tỉnh hữu thừa tướng mỗ mỗ cống phụng”. Càng về sau, quan tước của những kẻ tiến cống càng cao, xe hoa càng lộng lẫy, các diễn viên trên xe trang phục càng sang trọng, nhiều ngọc ngà châu báu. Các vương công đại thần Mông Cổ trước là muốn làm đẹp lòng hoàng đế, sau là muốn khoe khoang giàu sang, nên đều không tiếc công tô điểm cho chiếc xe của mình thật hào nhoáng.
Trong tiếng nhạc dìu dặt, một cỗ xe diễn vở “Lưu Trí Viễn bạch thố ký” diễu qua, bỗng nhiên tiếng nhạc thay đổi, âm điệu cổ xưa, trên xe căng một tấm vải trắng viết dòng chữ “Chu Công lưu phóng Quản Sái”. Trong xe, một Hán tử trung niên tay cầm thẻ ngà, sắm vai Chu Công, ngồi bên cạnh là một cậu bé ăn mặc giả thiên tử, đóng vai Thành Vương. Quản Thúc, Sái Thúc hai người chụm đầu vào nhau, chỉ chỉ trỏ trỏ Chu Công. Liền đó là cỗ xe khác, trên lá cờ đề “Vương Mãng giả nhân giả nghĩa”, trên xe người sắm vai Vương Mãng mặt bôi phấn trắng, hai tay cầm nhiều vàng bạc, đang bố thí cho đám hàn sĩ. Đằng sau có bốn lá cờ vải trên viết bốn câu thơ:
Chu Công uy hiếp triều đình,
Cầu hiền, Vương Mãng hạ mình khiêm cung.
Hỡi ôi nếu thế là xong,
Đời sau ai biết nịnh trung thế nào.
Trương Vô Kỵ tự nhủ: “Trong thiên hạ, phải trái trắng đen không dễ gì biết được. Chu Công là bậc đại thánh nhân, khi ông đày Quản Thúc, Sái Thúc hai người, ai cũng bảo ông mưu đồ soán ngôi. Còn Vương Mãng là đại gian thần, nhưng thoạt đầu hắn mua chuộc lòng người, nên ai ai cũng ca tụng công đức của hắn. Hai câu chuyện xưa này, năm xưa trên Băng Hỏa đảo, nghĩa phụ đều đã kể cho ta nghe. Có câu, “Đường xa mới biết ngựa hay”, rồi câu “Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân”. Sự việc đúng sai, thật giả, không phải một sớm một chiều mà biết được”. Chàng lại nghĩ thầm: “Hai cỗ xe này khác hẳn những xe khác, bên trong hẳn có ẩn ý gì đây; người nào bày ra, hẳn là người có học thức”. Bèn lẩm nhẩm đọc đi đọc lại bốn câu thơ kia.
Chợt nghe có mấy tiếng thanh la vang động, rồi một cỗ xe do hai con ngựa còm kéo qua. Cỗ xe này không kết hoa, không trang hoàng gì hết, dân chúng nhìn rồi bật cười, nói:
– Cái thứ xe tã như thế kia mà cũng đòi du ngoạn hoàng thành, không sợ người ta chê cười hay sao?
Cỗ xe tới gần, Trương Vô Kỵ nhìn rõ thì cả kinh, thấy một đại hán tóc vàng phủ xuống vai, hai mắt nhắm nghiền, ngồi xếp bằng trên giường, chẳng phải đóng giả Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn thì còn ai vào đấy? Bên cạnh có một thiếu nữ xinh xắn mặc áo xanh, tay bưng hầu chén trà với vẻ ân cần, tuy diện mạo không thanh tú xinh đẹp bằng Chu Chỉ Nhược, nhưng trang phục và hành vi thì giống y hệt khi nàng ở chùa Vạn An.
Hàn Lâm Nhi lạc cả giọng, nói:
– Chu cô nương, thiếu nữ kia giống cô nương quá.
Chu Chỉ Nhược hừ một tiếng, không trả lời. Trương Vô Kỵ ngoảnh nhìn, thấy nàng tái mặt, ngực phập phồng, biết nàng đang rất tức giận, bèn cầm lấy tay phải nàng, nhất thời chưa đoán cỗ xe kia có dụng ý gì.
Cỗ xe ấy đi qua, lại có cỗ xe thứ hai giống hệt, cũng một nam một nữ đóng giả Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược. Thiếu nữ cười hì hì, bước tới sau lưng, giơ hai ngón tay chọc vào lưng người đóng giả Tạ Tốn, Tạ Tốn giả kêu “ối” một tiếng, gục xuống giường, thiếu nữ giơ chân chặn xuống, vung kiếm định giết. Dân chúng xem cảnh đó reo to:
– Hay, hay quá! Giết nó đi!
Cỗ xe thứ ba vẫn có hai người đóng giả Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược, nhưng có thêm sáu, bảy bang chúng Cái Bang vây bắt hai người.
Trương Vô Kỵ lúc này không còn hồ nghi gì nữa, biết ba cỗ xe này là do Triệu Mẫn bày ra cho người diễn, đoán chừng chàng và Chu Chỉ Nhược sẽ tới Đại Đô, nên bày trò làm nhục nàng một phen. Chàng cúi nhặt mấy viên sỏi dưới chân, dùng ngón giữa búng ra, bắn mù mắt hai con ngựa kéo cỗ xe thứ ba. Hòn sỏi xuyên vào óc, hai con ngựa hí lên mấy tiếng thảm thiết, rồi gục xuống. Cỗ xe đổ nghiêng, những kẻ đóng giả trên xe ngã nhào xuống đường; dân chúng lại náo loạn lên một hồi.
Chu Chỉ Nhược cắn môi, nói nhỏ:
– Con yêu nữ ấy làm nhục thiếp đến thế, thiếp… thiếp…
Giọng nàng nghẹn lại. Trương Vô Kỵ cảm thấy tay nàng lạnh ngắt, thân hình run rẩy, vội an ủi:
– Chỉ Nhược, con yêu nữ ấy trò gì cũng nghĩ ra được, nàng đừng bận tâm làm gì. Chỉ cần ta thật tâm với nàng, kẻ khác có xúi bẩy gì, ta cũng chẳng tin.
Chu Chỉ Nhược ngẫm nghĩ một lát, bỗng nói:
– À, thiếp nghĩ ra rồi. Hôm đó nghĩa phụ đang khỏe mạnh bình thường, đột nhiên lảo đảo, ngã lăn ra, miệng lảm nhảm liên hồi, không lẽ… không lẽ con yêu nữ ấy ẩn ở một chỗ trong khách điếm, bắn ám khí vào sau lưng nghĩa phụ chăng?
Trương Vô Kỵ trầm ngâm, đáp:
– Giả dụ nàng ta có ra tay, rồi chạy đến miếu Di Lặc thì cũng vẫn kịp; song với võ công như nàng ta, chỉ e không ám toán nổi nghĩa phụ đâu; không chừng đó là do Huyền Minh nhị lão ám toán.
Trong lúc hai người nói chuyện, quan binh Mông Cổ đã gạt dân chúng sang bên, thu dọn hai con ngựa chết, để các cỗ xe từ phía sau tiếp tục diễu qua. Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược mải nghĩ tới tình cảnh vừa rồi, chẳng còn thiết xem các xe diễn trò gì nữa. Các cỗ xe đi hết rồi, thì nghe đọc kinh tiếng Phạn ê a, một đội phiên tăng mặc áo cà sa đỏ đi bộ tới. Kế đó là đội thiết giáp, hai ngàn lính ngự lâm mặc áo giáp, tay cầm trường mâu, thẳng hàng diễu qua; tiếp theo là ba ngàn lính cung nỏ. Hết đội cung nỏ, thì thấy khói hương mù mịt, từng pho tượng thần được các phu kiệu mặc áo gấm rước qua. Nào là thần thổ địa, thành hoàng, linh quan, vi đà, thần tài, đông nhạc, tổng cộng ba trăm sáu chục tượng thần, cuối cùng là Quan Thánh đế quân. Dân chúng lầm rầm niệm Phật, có kẻ quỳ xuống mà vái.
Hết các tượng thần, thì tới đội nghi trượng, tay cầm kim qua, kim chùy, quạt lông, lọng vàng, từng đôi một diễu qua. Dân chúng liền reo lên:
– Hoàng thượng đến kìa! Hoàng thượng đến kìa!
Từ đằng xa, ba mươi hai tên cẩm y thị vệ khiêng một chiếc kiệu lớn sơn son thiếp vàng đi tới. Trương Vô Kỵ căng mắt nhìn gã hoàng đế Mông Cổ, thấy y mặt mày tiều tụy, dáng vẻ lờ đờ, chỉ thoáng nhìn đã biết ngay là do tửu sắc quá độ. Hoàng thái tử cưỡi ngựa đi một bên, lưng đeo cung bịt vàng nạm ngọc, trông khá oai hùng, lộ rõ bản sắc trai Mông Cổ.
Hàn Lâm Nhi ghé tai Trương Vô Kỵ nói thầm:
– Giáo chủ cho phép thuộc hạ xông ra chém chết gã hoàng đế Mông Cổ, trừ mối hại cho trăm họ được chăng?
Trương Vô Kỵ nói:
– Không, huynh đệ đừng nhảy ra. Xung quanh hoàng đế Mông Cổ tất có rất nhiều cao thủ hộ vệ, phải để ta may ra…
Một người đứng ngay bên trái Trương Vô Kỵ liền nói:
– Không ổn, không ổn. Lấy bạo thay bạo, chắc gì đã hay.
Trương Vô Kỵ, Hàn Lâm Nhi và Chu Chỉ Nhược ba người giật mình, liếc sang người kia, thấy là một thầy lang bán thuốc dạo trạc ngũ tuần, lưng đeo túi thuốc, tay phải cầm một bàn chân hổ. Người đó đặt hai ngón tay cái trên ngực làm hình ngọn lửa cháy của Minh giáo, nói nhỏ:
– Bành Oánh Ngọc tham kiến giáo chủ. Giáo chủ quý thể an khang, vui mừng xiết bao!
Trương Vô Kỵ cả mừng, nói:
– Thì ra là Bành…
Người đó chính là Bành Oánh Ngọc, y hóa trang thật khéo, đứng ngay bên cạnh đã lâu, mà ba người không hề hay biết. Bành Oánh Ngọc thấp giọng nói:
– Đây không phải là nơi trò chuyện. Hoàng đế Thát tử không nên trừ khử.
Trương Vô Kỵ biết y là người kiến thức sâu rộng, gật đầu, không nói thêm, chỉ cầm tay y bóp nhẹ vài cái.
Hoàng đế và hoàng thái tử đi qua rồi, lại tới ba ngàn tên thiết giáp ngự lâm quân, sau đó là hàng ngàn hàng vạn dân chúng lũ lượt đi xem hội. Những người đứng xem hai bên đường đều nói:
– Đi xem hoàng hậu nương nương, công chúa nương nương thôi!
Mọi người ùn ùn kéo về phía tây. Chu Chỉ Nhược nói:
– Mình cũng đi xem đi!
Bốn người liền chen vào đám đông, theo họ đi tới bên ngoài điện Ngọc Đức, thấy bảy tòa lầu kết hoa sặc sỡ, bên ngoài có lính ngự lâm tay cầm dây chão ngăn không cho mọi người tràn vào. Người tuy đông thật, nhưng bọn Trương Vô Kỵ chen được lên trên cũng chả có gì khó. Họ tới ngay hàng đầu. Tòa lầu ở giữa cao hơn cả, có hoàng đế ngồi giữa, hai bên là hai hoàng hậu, đều thân hình mập mạp, tuổi trung niên, người đeo đủ các thứ trang sức bằng ngọc, đầu đội chiếc mũ cao trông thật kỳ dị. Hoàng thái tử ngồi bên dưới, phía trái; còn bên dưới, phía tay phải có một thiếu nữ trạc hai mươi tuổi, mình mặc cẩm bào, hẳn là công chúa.
Trương Vô Kỵ đưa mắt nhìn sang tòa lầu thứ hai ở bên trái, thấy một thiếu nữ mặc áo lông, cổ đeo vòng ngọc trai, nói cười nhí nhảnh, ánh mắt long lanh, chính là Triệu Mẫn. Ngồi giữa tòa lầu ấy là một vương gia râu dài, tướng mạo uy nghiêm, là Nhữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ, phụ thân của Triệu Mẫn. Anh trai nàng là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ thì đang đi đi lại lại trên lầu, dáng đi như hổ, mắt sắc như ưng, trông thật dữ tợn.
Lúc này các phiên tăng đang diễn “Thiên ma đại trận” ngay phía trước dãy lầu, năm trăm người múa các loại pháp khí, khi qua trái, lúc sang phải, khi chồm lên, lúc phục xuống, biến đổi trận pháp cực kỳ huyền ảo. Dân chúng thán phục, hoan hô từng chập như sấm dậy.
Chu Chỉ Nhược nhìn Triệu Mẫn một hồi, thở dài nói:
– Về thôi!
*
* *
Bốn người chen ra khỏi đám đông, trở về khách điếm. Bành Oánh Ngọc làm lễ tham kiến Trương Vô Kỵ, đôi bên hàn huyên một hồi. Trương Vô Kỵ hỏi thăm tin tức Tạ Tốn, nhưng Bành Oánh Ngọc vừa từ miền Hoài Tứ tới Đại Đô, chưa biết chuyện Kim Mao Sư Vương đã về Trung nguyên. Y kể lại chiến công đánh thành chiếm đất của bọn Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đang làm cho uy danh của Minh giáo lên rất cao.
Hàn Lâm Nhi hỏi:
– Bành đại sư, hồi nãy nếu chúng ta xông lên lầu, một đao chém chết hoàng đế Thát tử, có phải chỉ mất công một lần mà được lợi lâu dài rồi không?
Bành Oánh Ngọc lắc đầu:
– Gã hoàng đế ấy ngu tối tầm thường, chính là kẻ giúp ta rất nhiều, sao lại giết hắn đi?
Hàn Lâm Nhi lấy làm lạ, hỏi:
– Hoàng đế Thát tử ngu tối, làm khổ trăm họ, sao lại bảo là giúp chúng ta rất nhiều?
Bành Oánh Ngọc đáp:
– Hàn huynh đệ có điều chưa hiểu. Hoàng đế Thát tử tin dùng bọn phiên tăng, triều chính rối loạn, lại sai Giả Lỗ vét sông Hoàng Hà, làm dân chúng khổ sở, hao tiền tốn của, khiến cho trời giận người oán. Mấy năm qua chúng ta đánh cho bọn Thát tử tơi bời, đâu phải vì đội quân ô hợp của chúng ta giỏi hơn tinh binh tung hoành khắp thiên hạ của Mông Cổ, mà chỉ là nhờ gã hoàng đế ngu xuẩn kia không trọng dụng người tài. Nhữ Dương Vương giỏi dùng binh, nhưng hoàng đế Thát tử lại nghi ngờ, bác bỏ các kế sách của ông ta, chỉ sợ ông ta lập công quá lớn sẽ cướp mất ngôi, cho nên liên tiếp hạn chế binh quyền của ông ta, sai bọn giá áo túi cơm, chỉ giỏi xu nịnh ra cầm quân đánh trận; cứ cái đà này, quân giỏi sẽ bị tướng ngu nướng chết hết cả. Hoàng đế Thát tử chẳng phải giúp ta rất nhiều là gì?
Những lời này khiến Trương Vô Kỵ gật gù khen phải. Bành Oánh Ngọc nói tiếp:
– Nếu chúng ta giết gã hoàng đế này đi, hoàng thái tử sẽ lên thay, xem ra hoàng thái tử là một kẻ rất lợi hại, mà dẫu có là hôn quân, thì cũng còn hơn thằng cha hồ đồ của hắn rất nhiều. Lỡ hắn cử một viên tướng có tài chinh chiến đánh chúng ta, thì thật là nguy to!
Trương Vô Kỵ nói:
– Cũng may có đại sư kịp thời nhắc nhở, nếu không hôm nay chúng tôi hành sự thô lỗ, e làm hỏng đại sự.
Hàn Lâm Nhi liên tiếp tự vả vào miệng mình, nói:
– Đáng chết, đáng chết! Để xem từ rày mi còn nói năng bậy bạ, đưa ra những ý kiến hồ đồ nữa thôi?
Trương Vô Kỵ, Chu Chỉ Nhược, Bành Oánh Ngọc cùng bật cười. Bành Oánh Ngọc nói:
– Tấm thân giáo chủ đáng ngàn vàng, hai vai gánh vác trọng nhiệm đánh đuổi Thát Lỗ, phục quốc, không nên mạo hiểm nhảy ra tấn công. Thuộc hạ thấy xung quanh hoàng đế có rất nhiều cao thủ hộ vệ. Giáo chủ tuy thần dũng tuyệt luân, cũng phải đề phòng “quả bất địch chúng”, lỡ sơ sảy một chút thì sẽ thế nào?
Trương Vô Kỵ vòng tay nói:
– Xin lĩnh giáo lời vàng ngọc của đại sư.
Chu Chỉ Nhược thở dài:
– Bành đại sư nói không sai chút nào, làm sao chàng lại có thể dễ dàng mạo hiểm đến thế? Nên nhớ, một khi đại sự của chúng ta thành công, thì người sẽ ngồi chiếc ghế rồng ở lầu hoa đó chính là Trương giáo chủ.
Hàn Lâm Nhi vỗ tay reo lên:
– Khi đó Trương giáo chủ sẽ làm hoàng đế, Chu cô nương là hoàng hậu nương nương, Dương tả sứ và Bành đại sư làm tả hữu thừa tướng, thế mới hay đấy!
Chu Chỉ Nhược hai má đỏ bừng, thẹn thùng cúi đầu, nhưng ánh mắt long lanh không giấu được vẻ sung sướng.
Trương Vô Kỵ xua xua tay, nói:
– Hàn huynh đệ, những lời đó không được nhắc lại nữa. Ta chỉ mong cứu trăm họ thoát cảnh dầu sôi lửa bỏng, sau khi thành công ta sẽ thoái lui, không tham phú quý, thế mới là đại trượng phu quang minh lỗi lạc.
Bành Oánh Ngọc nói:
– Trương giáo chủ nghĩ thế thật cao cả hơn người, nhưng khi hoàng bào đã khoác lên người, giáo chủ có muốn từ chối cũng chả được. Khi làm binh biến ở Trần Kiều, Triệu Khuông Dẫn đâu có nghĩ mình sẽ trở thành hoàng đế?
Trương Vô Kỵ vẫn nói:
– Không được! Không được! Ta mà mơ tưởng làm hoàng đế, thì trời tru đất diệt, chết không yên lành.
Chu Chỉ Nhược thấy chàng khăng khăng cự tuyệt, mặt hơi biến sắc, thẫn thờ nhìn ra cửa sổ, không nói gì.
Bốn người trò chuyện một hồi, dùng bữa xong, Trương Vô Kỵ nói:
– Ta và Bành đại sư ra ngoài nghe ngóng tin tức nghĩa phụ xem sao.
Chàng lại nghĩ Hàn Lâm Nhi tính nết bộc trực, thấy việc bất bình là giơ quả đấm ra, rất dễ chuốc họa, bèn dặn:
– Hàn huynh đệ, ngươi và Chỉ Nhược tối nay chớ ra ngoài, hãy ở trong khách điếm nghỉ ngơi.
Hàn Lâm Nhi đáp:
– Vâng, xin giáo chủ cẩn thận giữ gìn.
Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc hẹn nhau một người đi về phía đông, một người đi về phía tây, trước canh hai sẽ trở về khách điếm gặp lại.
*
* *
Trương Vô Kỵ ra khỏi khách điếm liền đi về hướng tây, dọc đường nghe dân chúng bàn tán râm ran về các trò vui trong cuộc đại du hoàng thành hôm nay. Có người nói:
– Minh giáo nổi loạn ở phương Nam, hôm nay trong cuộc du hành, Quan Đế Bồ Tát mặt đầy sát khí, phản tặc thể nào cũng bị tiêu diệt.
Người khác nói:
– Minh giáo có Di Lặc Bồ Tát phù hộ, xem ra giữa Quan Thánh Đế Quân và Phật Di Lặc sẽ có đánh nhau to.
Lại có người nói:
– Giả Lỗ đại nhân đem người đi khơi dòng Hoàng Hà, đào được bức tượng đá người độc nhãn, sau lưng khắc hai câu thơ:
Tượng đá một mắt đừng chê,
Đào sông, thiên hạ tứ bề nổi lên.
Như thế là số trời đã định, chẳng thể cưỡng lại.
Trương Vô Kỵ không muốn nghe thêm lời bàn tán của đám dân ngu ấy làm gì, bèn rảo bước đi nhanh, càng đi càng thấy vắng vẻ; ngẩng nhìn lên, thấy mình đứng trước cái tửu điếm nhỏ hôm nào chàng từng ngồi uống rượu với Triệu Mẫn. Chàng chột dạ: “Sao mình tự dưng lại đến chốn này? Không lẽ lòng ta vẫn còn lưu luyến không dứt với Triệu cô nương sao?”
Chàng thấy cánh cửa chỉ mở một nửa, bên trong lặng lẽ, tựa hồ không có người khách nào. Chàng ngần ngừ một lát rồi đẩy cửa bước vào, thấy cạnh quầy có một tên điếm tiểu nhị ngồi ngủ gật. Chàng đi vào gian trong, thấy một cái bàn vuông trên đặt ngọn nến lúc mờ lúc tỏ, có một người khách ngồi quay mặt vào trong. Chiếc bàn kia chính là nơi chàng cùng Triệu Mẫn đã ngồi uống với nhau. Trong tửu điếm trừ người kia, không còn vị khách nào khác.
Người kia nghe tiếng bước chân liền đứng dậy, ánh nến lung linh chiếu lên mặt, chính là Triệu Mẫn.
Cả nàng lẫn Trương Vô Kỵ đều không ngờ hai người gặp lại nhau ở đây, không hẹn cùng reo “a” lên một tiếng.
Triệu Mẫn nói nhỏ:
– Chàng… chàng sao lại tới đây?
Giọng nàng run run, chứng tỏ trong lòng vô cùng xúc động. Trương Vô Kỵ đáp:
– Ta đi dạo qua, tiện đường ghé vào, không ngờ…
Chàng tới bên bàn, thấy ở phía đối diện với nàng có một chén rượu cùng bát đũa, liền hỏi:
– Có ai sắp tới chăng?
Triệu Mẫn đỏ mặt, nói:
– Không có ai cả. Hai lần trước ta uống rượu với công tử ở đây, công tử ngồi trước mặt, thành thử… ta bảo điếm tiểu nhị dọn thêm một bộ chén đũa.
Trương Vô Kỵ cảm kích trong lòng, thấy trên bàn bày bốn món ăn, đúng những thức mà nàng từng gọi hôm đầu tiên hai người ngồi ở đây. Chàng hiểu ngay thâm ý và nhu tình của nàng, không dằn lòng được bèn đưa tay nắm lấy tay nàng, run run nói:
– Triệu cô nương!
Triệu Mẫn buồn bã nói:
– Chỉ hận là muội sinh ra trong một gia đình Mông Cổ quyền quý, làm kẻ đối đầu với công tử…
Bỗng từ ngoài cửa sổ vọng vào hai tiếng cười khẩy, một vật gì đó bay tới làm tắt phụt ngọn nến, trong phòng lập tức tối đen như mực. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn nghe tiếng cười, biết ngay là Chu Chỉ Nhược, nhất thời bàng hoàng. Tai nghe tiếng chân lướt nhẹ trên mái nhà, Chu Chỉ Nhược đã như một ngọn gió lướt đi.
Triệu Mẫn hỏi nhỏ:
– Chàng và cô ta đã ước hẹn trăm năm phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Phải, lẽ ra ta không nên giấu cô nương.
Triệu Mẫn nói:
– Hôm trước ở sau gốc cây, nghe chàng nói với cô ta những lời ngọt ngào, muội chỉ muốn chết đi cho xong, chỉ hận sao mình còn sinh ra trên đời này. Hôm ấy muội cười khẩy hai tiếng, nay cô ta trả lại hai tiếng cười đó. Có điều là… là chàng chưa từng nói với muội một lời nào muội thích.
Trương Vô Kỵ cay đắng nói:
– Triệu cô nương, lẽ ra ta không nên tới đây, cũng không nên gặp lại cô nương mới phải. Lòng ta đã thuộc về người khác, không được làm cho cô nương buồn phiền. Nàng là cành vàng lá ngọc, từ nay hãy quên cái kẻ dân dã cục mịch này đi cho rồi.
Triệu Mẫn cầm tay Trương Vô Kỵ, vuốt ve vết sẹo ở mu bàn tay chàng, nhẹ nhàng nói:
– Chỗ muội cắn chàng đây, dẫu chàng võ công cao mấy, y đạo giỏi chừng nào cũng không làm mất được vết sẹo. Cái sẹo trên tay chàng còn không trừ được, thử hỏi làm sao chữa nổi vết thương trong lòng muội?
Nói rồi hai tay vòng ra sau gáy chàng, đặt một nụ hôn nồng nàn lên môi chàng.
Trương Vô Kỵ cảm thấy làn môi mềm của nàng và hương thơm đưa lên mũi, trong lòng đê mê. Bỗng nhiên Triệu Mẫn cắn mạnh môi chàng một cái bật máu tươi, đẩy vai chàng ra, xoay người nhảy qua cửa sổ và nói vọng lại:
– Chàng là tiểu dâm tặc, muội hận chàng, muội hận chàng!
*
* *
Khi Trương Vô Kỵ và Bành Oánh Ngọc ra khỏi khách điếm, Hàn Lâm Nhi nói với Chu Chỉ Nhược:
– Chu cô nương nên đi nghỉ sớm một chút.
Y không dám nói thêm câu nào, đứng dậy bước ra. Chu Chỉ Nhược mỉm cười, nói:
– Hàn đại ca, huynh sợ muội lắm ư? Ngồi nán lại một chút cũng không dám.
Hàn Lâm Nhi đỏ mặt, vội nói:
– Không, không phải vậy.
Miệng nói thế, nhưng chân thì bước nhanh hơn. Y về ngay phòng mình, đóng cửa, cài then lại, trống ngực đập thình thình, cố định thần, lên giường nằm, nghĩ đến khuôn mặt thanh tú kiều diễm cùng giọng nói dịu dàng ấm áp của Chu Chỉ Nhược, nghĩ thầm: “Mai sau Chu cô nương trở thành giáo chủ phu nhân, mình hầu cận bên cạnh giáo chủ, sẽ gắng sức lập công, bấy giờ Chu cô nương sẽ khen: Hàn đại ca phen này vất vả quá! Được như thế Hàn Lâm Nhi ta cũng không uổng một đời”.
Y nghĩ ngợi miên man, mỉm cười, thiếp đi lúc nào không hay. Đang ngủ, bỗng có tiếng gõ cửa nhè nhẹ; y giật mình choàng dậy, hỏi:
– Ai đó?
Có tiếng Chu Chỉ Nhược ở bên ngoài trả lời:
– Muội đây, huynh mở cửa ra, muội có điều muốn nói với huynh.
Hàn Lâm Nhi vội nói:
– Vâng, vâng!
Rồi để chân trần chạy ra mở cửa, sau đó chạy vào thắp nến lên.
Chỉ thấy Chu Chỉ Nhược hai mắt sưng húp, thần sắc lạ lùng, Hàn Lâm Nhi hoảng hốt hỏi:
– Chu cô nương, cô… cô nương…
Y ấp úng không nói thành lời, đột nhiên nghĩ ra một cách, nói:
– Để thuộc hạ đi lấy nước cho cô nương rửa mặt.
Lát sau y lại chân trần bưng về một chậu nước. Chu Chỉ Nhược cười buồn, một tay chống cằm, mắt đăm đăm nhìn ngọn nến. Hàn Lâm Nhi nói:
– Cô… cô nương rửa mặt đi.
Chu Chỉ Nhược không nói gì, nhè nhẹ gật đầu, rồi tự dưng nước mắt chảy ròng ròng trên má. Hàn Lâm Nhi hoảng sợ ngây người ra, thõng tay đứng hầu một bên, y không biết vì sao nàng lại buồn khổ, cũng không biết nàng định nói gì với y.
Cứ thế hồi lâu, bỗng nhiên nghe “tách” một tiếng, ngọn lửa nến nổ tóe ra một cái. Chu Chỉ Nhược đang trầm tư chợt giật mình tỉnh lại, kêu “ôi” một tiếng nhỏ rồi đứng dậy. Hàn Lâm Nhi nói to:
– Chu cô nương, kẻ nào dám hỗn với cô nương, Hàn Lâm Nhi này sẽ vác đao đi hỏi tội hắn, dẫu có bỏ mạng cũng phải cho hắn vài nhát. Cô nương cứ nói tên hắn ra!
Chu Chỉ Nhược buồn bã lắc đầu, đi ra. Lúc nàng sang đây, tưởng sẽ trút hết bầu tâm sự, ngờ đâu chẳng nói gì cả, khiến gã Hàn Lâm Nhi phổi bò không hiểu đầu cua tai nheo thế nào, cứ đứng vò đầu bứt tai.
Y nghĩ mãi không ra chuyện gì, bỗng nghe có tiếng mõ cầm canh từ xa vọng tới, đã sang canh ba; y nghĩ thầm: “Tại sao giờ này Trương giáo chủ và Bành đại sư vẫn chưa về?” Y đành lên giường ngủ lại. Còn đang mơ màng, có tiếng lịch kịch, ở căn phòng phía đông, nơi ở của Chu Chỉ Nhược, hình như có tiếng bàn ghế đổ. Hàn Lâm Nhi vội nhảy ra khỏi phòng mình, dưới ánh trăng thấp thoáng, nhìn qua cửa sổ phòng phía đông, y thấy có một bóng người treo lơ lửng hơi giãy giụa.
Hàn Lâm Nhi cả kinh, gọi to:
– Chu cô nương, Chu cô nương!
Y đẩy cửa vào, cửa cài then bên trong. Y dùng vai huých mạnh cho gãy then, chạy xộc vào, vội đánh lửa châm nến, thấy Chu Chỉ Nhược hai chân lơ lửng trên không, treo cổ bằng một sợi dây thừng vắt qua xà ngang. Y sợ hết hồn, vội nhảy lên giật đứt sợi dây, đỡ Chu Chỉ Nhược nằm xuống giường, đưa tay thăm mũi, thấy chưa tắt thở. Y gọi to:
– Chu cô nương, Chu cô nương! Cô nương có… chuyện gì… mà đến nỗi… Bỗng có tiếng hỏi ở ngoài cửa:
– Hàn đại ca, chuyện gì thế?
Một người bước vào, chính là Trương Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ thấy tình cảnh đó, khác gì sét đánh ngang tai, vội đưa hai tay run run cởi sợi dây thừng chẹn ở cổ Chu Chỉ Nhược, sờ ngực nàng, thấy tim còn đập thoi thóp, mừng nói:
– Chưa sao, cứu được!
Chàng xoa nắn các huyệt đạo ở sau lưng và bụng dưới cho nàng, một luồng “Cửu dương chân khí” từ bàn tay truyền sang vận hành trong cơ thể nàng, Chu Chỉ Nhược bỗng khóc òa lên.
Hàn Lâm Nhi mừng rỡ, reo lên:
– May quá, may quá! Chu cô nương sống lại rồi.
Chu Chỉ Nhược mở mắt ra, thấy Trương Vô Kỵ, khóc nói:
– Chàng còn lý đến thiếp làm gì, cứ đánh thiếp chết đi cho xong.
Bỗng nàng nhìn thấy vết thương trên môi Trương Vô Kỵ, còn hằn rõ mấy vết răng, thì cơn giận bùng lên, liền giơ tay tát chàng thật mạnh.
Hàn Lâm Nhi kinh hãi, nghĩ thầm: “Chết chửa, sao Chu cô nương lại dám đánh giáo chủ?” Nhưng vì Chu Chỉ Nhược là người mà y sùng bái như thiên thần, nên nhất thời y cứ ngớ ra, chưa biết làm sao cho phải. Bỗng có người vỗ nhẹ lên vai y hai cái, y ngoảnh lại, thấy đó là Bành Oánh Ngọc, bèn vui mừng nói:
– Bành đại sư, đại sư về rồi đấy ư? Mau lại khuyên giải Chu cô nương!
Bành Oánh Ngọc cười hỏi:
– Khuyên cái gì?
Rồi quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
– Khải bẩm giáo chủ, thuộc hạ không dò la được tin tức gì về Kim Mao Sư Vương cả.
Trương Vô Kỵ ậm ừ, vẻ mặt ngượng ngùng. Bành Oánh Ngọc bảo Hàn Lâm Nhi:
– Hàn huynh đệ, ta ra ngoài dạo chơi một lát đi.
Hàn Lâm Nhi vội nói:
– Không, không được đâu, hai người sắp đánh nhau, Chu cô nương làm sao địch nổi giáo chủ?
Bành Oánh Ngọc cười ha hả:
– Thật đúng là một gã ngớ ngẩn! Không lẽ bọn mình lại giúp Chu cô nương đánh thắng Trương giáo chủ? Ta đoán rằng giáo chủ đánh không lại Chu cô nương đâu.
Nói xong nháy mắt, kéo Hàn Lâm Nhi ra khỏi phòng. Hàn Lâm Nhi vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại đầy vẻ lo lắng.
Chu Chỉ Nhược thấy thế bật cười, nhưng rồi lại gục xuống giường rấm rứt khóc. Trương Vô Kỵ ngồi bên cạnh, đưa tay vỗ vỗ nhẹ vai nàng, dịu dàng nói:
– Chỉ Nhược, ta quả thực không hẹn hò gì với nàng ta, chỉ tình cờ gặp nhau đó thôi.
Chu Chỉ Nhược đạp đạp hai chân, vừa khóc vừa nói:
– Thiếp không tin, thiếp không tin, từ nay dù chàng có nói gì đi nữa, cũng đừng hòng thiếp tin.
Trương Vô Kỵ thở dài:
Chu Công uy hiếp triều đình,
Cầu hiền, Vương Mãng hạ mình khiêm cung.
Hỡi ôi nếu thế là xong,
Đời sau ai biết nịnh trung thế nào.
Việc đời thật dễ làm cho người ta hiểu lầm…
Chu Chỉ Nhược liền ngồi dậy, nói:
– Ả quận chúa nương nương ấy dùng thơ chế giễu thiếp, vậy mà chàng cố nhớ cho kỹ để ngâm nga. Chàng thử nhìn môi chàng xem có ra cái thể thống gì không? Thật không biết ngượng!
Nói đến đây, mặt nàng hầm hầm.
Trương Vô Kỵ nghĩ chuyện hôm nay khó lòng biện bạch, mà mình đã quyết ý với Chu Chỉ Nhược thành vợ thành chồng, sống đến răng long đầu bạc, chỉ còn cách gợi lòng thương để nàng nguôi ngoai dần. Dưới ánh nến, thấy mặt nàng đỏ bừng, trên cổ còn hằn vết dây thừng, nghĩ thầm nếu Hàn Lâm Nhi không phát hiện và cứu kịp, đợi đến lúc chàng về thì e rằng đã hoa tàn ngọc nát, hết phương cứu vãn, thành nỗi hận suốt đời. Chàng không khỏi hổ thẹn, lại thêm yêu nàng, bèn ôm nàng vào lòng, thơm lên môi nàng. Chu Chỉ Nhược quay mặt tránh, giận dỗi nói:
– Chàng vừa tằng tịu với kẻ khác, lại còn về âu yếm thiếp, sao coi thường thiếp quá vậy?
Trương Vô Kỵ càng ôm chặt hơn, không cho nàng cựa quậy, cuối cùng cũng hôn được một cái thật lâu. Chu Chỉ Nhược vùng vẫy không nổi, lòng cũng nguôi dần.
Trương Vô Kỵ nghĩ mình với nàng tuy danh phận đã định, hai người đã là vợ chồng chưa cưới, nhưng canh khuya ở chung một phòng, khó tránh điều ong tiếng ve, không tiện với Bành Oánh Ngọc và Hàn Lâm Nhi, bèn buông nàng ra, nói:
– Chỉ Nhược, nàng ngủ đi, có gì ngày mai ta nói chuyện. Nếu ta còn giấu nàng đi gặp Triệu cô nương, thì nàng cứ việc đâm chém ta ngàn vạn nhát, ta chết cũng không oán trách.
Chu Chỉ Nhược đỏ mặt, ngực phập phồng, thở dồn dập, nói:
– Chàng nói lung tung gì vậy? Chàng thừa biết là thiếp không đời nào đâm chém chàng mà.
Trương Vô Kỵ cười nói:
– Vậy thì nàng chặt què chân ta đi vậy!
Chu Chỉ Nhược cúi đầu, nước mắt lại lăn xuống như những hạt ngọc.
Trương Vô Kỵ không đành đi ra, lại ngồi xuống bên cạnh, ôm hai vai nàng, âu yếm hỏi:
– Sao nàng lại đau lòng?
Chu Chỉ Nhược lặng lẽ khóc, không trả lời. Trương Vô Kỵ gặng hỏi mấy lần, không ngờ càng hỏi, nàng càng khóc già.
Trương Vô Kỵ bèn thề sống thề chết, hứa quyết không bao giờ thay lòng đổi dạ. Chu Chỉ Nhược hai tay ôm mặt, nói:
– Thiếp chỉ tủi cho số mệnh thiếp hẩm hiu, chứ đâu có trách chàng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Số mệnh tất cả chúng ta đều khổ. Bọn Thát tử tác oai tác quái ở Trung Quốc, ai ai cũng gặp số phận hẩm hiu. Mai này chúng mình thành vợ chồng rồi, lại đuổi bọn Thát tử đi, thì sẽ chỉ có sung sướng, không còn đau lòng nữa.
Chu Chỉ Nhược ngẩng đầu lên, nói:
– Vô Kỵ ca ca, thiếp biết chàng chân tình với thiếp, có điều là con tiểu yêu nữ Triệu Mẫn kia cứ quyến rũ chàng; không phải là chàng bụng nọ dạ kia, có điều… có điều là nàng ta thông minh trí tuệ, võ công cao cường; dung mạo, quyền thế, cái gì cũng hơn thiếp cả chục lần. Cuối cùng làm sao thiếp có thể giành giật thắng nàng ta. Như thế sẽ phải đau lòng suốt đời, chi bằng chết quách một lần cho xong. Nào ngờ cái gã Hàn Lâm Nhi ngốc nghếch lại cứu thiếp. Thiếp chết hụt một lần rồi, đâu còn can đảm chết lần thứ hai. Thiếp… thiếp phải học sư phụ, cắt tóc làm ni cô. Ôi, chưởng môn phái Nga Mi bấy nay chẳng một ai đi lấy chồng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Vậy là nàng vẫn chưa yên tâm. Thôi thì thế này, ngay sáng mai chúng ta sẽ đi Hoài Tứ, ta sẽ thành hôn với nàng.
Chu Chỉ Nhược nói:
– Chưa tìm thấy nghĩa phụ, hơn nữa, chàng từng bảo chưa diệt xong Hung Nô chưa thành gia thất kia mà? Xem chừng… xem chừng không xong.
Nói đoạn lại nước mắt ròng ròng.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nghĩa phụ thì dĩ nhiên phải ra sức đi tìm. Sau khi tập hợp các huynh đệ, việc tìm kiếm ông sẽ dễ hơn nhiều. Còn chuyện đánh đuổi quân Thát tử bao giờ đại thành, thật khó ai biết trước. Không lẽ đợi đến khi hai đứa mình thành ông già bà cả, bấy giờ mới lọm khọm làm lễ thành hôn? Ông lão bà cụ vái trời vái đất thì còn được đi, nhưng làm sao có thể sinh con đẻ cái, chẳng lẽ để họ Trương ta tuyệt tự hay sao?
Chu Chỉ Nhược đỏ mặt, cười nói:
– Gớm cái anh chàng lâu nay vốn thật thà, nay không biết học ai mà mồm miệng trơn như mỡ thế?
Bao nhiêu mây sầu sương thảm lập tức theo tiếng cười của hai người mà tiêu tan hết.
*
* *
Sáng hôm sau Trương Vô Kỵ dặn Bành Oánh Ngọc ở lại Đại Đô thêm ba ngày, nghe ngóng tin tức Tạ Tốn, còn mình thì cùng Chu Chỉ Nhược và Hàn Lâm Nhi đi về vùng Hoài Tứ ở phương nam.
Ba người tới Sơn Đông, thấy binh mã Mông Cổ thua chạy tơi tả như đàn ong tán loạn. Thấy tình hình đó, Trương Vô Kỵ bèn tránh đường lớn mà đi. Sau đó gặp một tên lính đi lẻ, chàng bèn bắt lại tra hỏi, thì biết Chu Nguyên Chương ở Hoài Bắc đánh bại quân Nguyên mấy trận lớn, làm cho đại đội binh mã của chúng tan vỡ. Ba người nghe cả mừng, cố đi thật nhanh, đến địa giới Lỗ Hoãn, thì đất đai đã thuộc quyền cai quản của nghĩa quân Minh giáo. Trong nghĩa quân có người nhận ra Hàn Lâm Nhi, vội phi báo về phủ nguyên soái.
Ba người tới gần thành Hào Châu, Hàn Sơn Đồng đã dẫn các đại tướng Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Đặng Dũ, Thang Hòa… ra ngoài ba mươi dặm nghênh tiếp. Mọi người cửu biệt trùng phùng, ai nấy cả mừng. Hàn Sơn Đồng nghe con trai kể bị Cái Bang bắt giữ, được Trương giáo chủ cứu thoát, lại càng luôn miệng cảm tạ. Trong tiếng chiêng trống rầm trời, binh giáp lóa mắt, nghĩa quân đón mừng giáo chủ vào thành Hào Châu.
Chu Chỉ Nhược cưỡi ngựa đi sau Trương Vô Kỵ, nhìn sang hai bên, thấy quang cảnh tuy không hoa lệ huy hoàng bằng cuộc “đại du hoàng thành” của hoàng đế hoàng hậu ở kinh đô, nhưng cũng phần nào thỏa nguyện bình sinh.
Trong mấy ngày Trương Vô Kỵ nghỉ ngơi ở Hào Châu, bọn Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính, Ân Dã Vương, Vi Nhất Tiếu, Thiết Quan đạo nhân, Thuyết Bất Đắc, Chu Điên, các chưởng kỳ sứ Ngũ Hành kỳ hay tin, lần lượt từ các nơi về gặp gỡ.
Trương Vô Kỵ kể lại cho mọi người biết việc Tạ Tốn trở về Trung nguyên, bị Cái Bang bắt, rồi lại mất tích lần nữa. Bọn Dương Tiêu, Phạm Dao, Ân Thiên Chính bàn đi tính lại, đều không tìm ra manh mối gì. Phạm Dao nói:
– Không biết hoàng y mỹ nữ lai lịch ra sao, không chừng hành tung của Tạ huynh có thể hỏi nàng ta sẽ biết.
Quần hào chưa ai nghe nhắc đến hoàng y mỹ nữ, chỉ khuyên Trương Vô Kỵ hãy cứ yên tâm, ai cũng cho rằng cứ như hành vi lời lẽ của hoàng y mỹ nữ đối với giáo chủ, thì nàng ta rõ ràng không có ác ý. Kim Mao Sư Vương rơi vào tay nàng ta, chắc hẳn không việc gì; cùng lắm là nàng ta chỉ muốn lục vấn về thanh đao Đồ Long mà thôi.
Trương Vô Kỵ vẫn cứ lo canh cánh, nhất thời chưa biết làm sao hơn, đành phái giáo chúng Ngũ Hành kỳ chia nhau đi các nơi thám thính. Hôm Bành Oánh Ngọc từ kinh đô về tới, cho biết cũng không nghe được chút tin tức nào về Tạ Tốn.
Nghĩa quân Minh giáo đánh mấy trận lớn, tuy đều chiến thắng, song tổn thất rất nặng nề, trong vòng vài ba tháng tới nghĩa quân ắt phải nghỉ ngơi chỉnh đốn, chiêu mộ tân binh, không thể tung ra đánh quân Nguyên.
Bành Oánh Ngọc hôm rồi thấy Chu Chỉ Nhược tự tận, tuy không biết nguyên do cụ thể, nhưng cũng đoán ra giữa hai người hẳn là có chuyện ghen tuông. Bọn Phạm Dao thì cũng biết quan hệ giữa Trương Vô Kỵ với Triệu Mẫn rất không bình thường, giả sử giáo chủ Minh giáo lấy quận chúa Mông Cổ làm vợ, thì công cuộc kháng Nguyên phục quốc sẽ bị tổn hại không nhỏ, thấy hiện tại chưa có việc gì hệ trọng, họ bèn khuyên Trương Vô Kỵ hãy sớm thành hôn với Chu Chỉ Nhược. Mà Trương Vô Kỵ cũng đã nói trước với Chu Chỉ Nhược, nên bằng lòng ngay. Dương Tiêu chọn ngày rằm tháng Ba là ngày hoàng đạo, toàn thể Minh giáo từ trên xuống dưới ai cũng vui mừng.
Lúc này thanh thế Minh giáo lẫy lừng thiên hạ, cánh quân phía đông của Hàn Sơn Đồng đã kiểm soát các đô thị lớn cả một vùng Hoài Tứ, cánh quân phía tây của Từ Thọ Huy tại Ngạc Bắc, Dự Nam cũng liên tiếp đánh bại quân Nguyên. Tin mừng về lễ thành hôn của giáo chủ truyền ra, các nhân sĩ võ lâm tới tấp gửi quà mừng. Các phái Côn Luân, Không Động vốn có thù oán với Minh giáo, nhưng một là ở chùa Vạn An họ đã được Trương Vô Kỵ cứu thoát, chịu ơn với chàng; thứ nữa Chu Chỉ Nhược là chưởng môn phái Nga Mi, nên các vị chưởng môn phái ai ai cũng sai người mang lễ đến mừng, riêng quà của Không Động ngũ lão vô cùng hậu hĩ.
Trương Tam Phong tự tay viết bốn chữ “Giai nhi giai phụ” vào một bức trướng, một bộ Thái cực quyền kinh do chính Trương lão chép tay, sai Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Ân Lê Đình ba đại đệ tử mang đến mừng. Lúc này Dương Bất Hối đã thành hôn với Ân Lê Đình, cũng theo chồng tới Hào Châu. Trương Vô Kỵ ra đón, mỉm cười, lớn tiếng chào.
Dương Bất Hối đỏ mặt, nắm tay chàng, nhớ lại chuyện xưa, vừa vui mừng, vừa thương cảm.
Trương Vô Kỵ sợ Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư chưa từ bỏ gian kế, thừa cơ làm hại, bèn phái Vi Nhất Tiếu làm sứ giả đi lên núi Võ Đang tạ ơn. Chàng kể tỉ mỉ cho Vi Nhất Tiếu biết việc Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư giết hại Mạc Thanh Cốc, mưu toan đầu độc Trương Tam Phong. Chàng dặn Vi Nhất Tiếu tới bái kiến Trương Tam Phong, cùng với Du Đại Nham và Trương Tòng Khê hợp lực đề phòng Trần Hữu Lượng, Tống Thanh Thư; chờ khi huynh đệ Tống Viễn Kiều trở về núi hãy cáo biệt.
Vi Nhất Tiếu hầm hầm nói:
– Từ khi tuân hành huấn dụ của giáo chủ, thuộc hạ không dám hút máu người nữa; nhưng kỳ này nếu gặp hai tên gian tặc ấy, thuộc hạ phải hút hết máu chúng mới xong.
Trương Vô Kỵ vội nói:
– Đối với Trần Hữu Lượng, thuận tiện thì Vi huynh cứ việc diệt trừ; riêng Tống Thanh Thư là đứa con độc nhất của đại sư bá ta, là chưởng môn tương lai của phái Võ Đang, hãy để phái Võ Đang tự thanh lý môn hộ, khỏi tổn thương tình cảm của Tống đại sư bá ta.
Vi Nhất Tiếu vâng lệnh, bái biệt ra đi.
Ngày mồng mười tháng Ba, các nữ hiệp phái Nga Mi mang lễ vật tới Hào Châu, riêng Đinh Mẫn Quân nhờ người khác mang quà, còn mình thì không tới.
*
* *
Ngày rằm tháng Ba, người của Minh giáo từ trên xuống dưới ai ai cũng mặc quần áo mới. Lễ bái thiên địa được bố trí trong một sảnh đường của một đại phú gia ở Hào Châu, nơi đây treo đèn kết hoa, trang hoàng rực rỡ. Bức trướng viết bốn chữ lớn “Giai nhi giai phụ” của Trương Tam Phong tặng được treo ở chính giữa. Ân Thiên Chính làm chủ hôn đằng trai, Thường Ngộ Xuân làm chủ hôn đằng gái. Thiết Quan đạo nhân làm tổng tuần hành thành Hào Châu, thống lĩnh bộ hạ Minh giáo đi tuần tra bốn phía, đề phòng kẻ địch trà trộn vào quấy phá. Thang Hòa thì chỉ huy tinh binh nghĩa quân đóng ở bên ngoài thành để sẵn sàng chống địch.
Buổi sáng, các phái Thiếu Lâm, Hoa Sơn cũng cử người mang lễ vật tới mừng.
Giờ Thân là giờ lành, pháo hiệu nổ đì đùng liên hồi. Tất cả quan khách đều tới đại sảnh, theo tiếng xướng của người tán lễ, Tống Viễn Kiều và Ân Dã Vương đưa Trương Vô Kỵ bước ra. Tiếng đàn sáo nổi lên, tám thiếu nữ trẻ tuổi phái Nga Mi theo hầu Chu Chỉ Nhược uyển chuyển đi ra đại sảnh. Chu Chỉ Nhược mặc bộ đại hồng cẩm bào, đầu đội mũ phượng, mặt trùm khăn đỏ. Nam tả nữ hữu, tân lang và tân nương đứng sánh vai. Người tán lễ cao giọng xướng:
– Vái trời!
Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược vừa định quỳ xuống chiếu cạp điều để lễ, bỗng từ ngoài cổng có một giọng nói trong trẻo kêu to:
– Hãy khoan!
Thoáng một cái bóng xanh, một thanh y thiếu nữ đã đứng tủm tỉm cười giữa sân, đó chính là Triệu Mẫn.
Quần hào vừa thấy nàng ta, lập tức ồn ào cả lên. Không ít cao thủ của Minh giáo và các đại môn phái từng bị khổ vì nàng ta, không ngờ nàng ta dám một mình vào nơi hiểm địa. Những người nóng tính đã toan bước ra động thủ với nàng ta.
Dương Tiêu dang hai tay, cũng nói to:
– Hãy khoan!
Rồi quay sang nói với mọi người:
– Hôm nay là ngày đại hỷ của giáo chủ tệ giáo và chưởng môn phái Nga Mi, Triệu cô nương đến chúc mừng, tức là khách của chúng ta. Xin các vị nể mặt phái Nga Mi và Minh giáo, tạm gác mọi chuyện đã qua sang một bên, không nên vô lễ với Triệu cô nương.
Nói xong, Dương Tiêu đưa mắt cho Bành Oánh Ngọc và Thuyết Bất Đắc, hai người kia hiểu ý, liền quay vào hậu đường, rồi ra ngoài tra xét xem Triệu Mẫn dẫn theo bao nhiêu cao thủ.
Tiếp đó Dương Tiêu nói với Triệu Mẫn:
– Xin Triệu cô nương qua bên này ngồi xem lễ, sau đó tại hạ sẽ mời cô nương ba chén rượu nhạt.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Bổn cô nương có vài lời muốn nói với Trương giáo chủ, nói xong là đi liền, dịp khác sẽ uống rượu cùng các vị.
Dương Tiêu nói:
– Triệu cô nương có chuyện gì, đợi làm lễ xong hãy nói cũng chưa muộn.
Triệu Mẫn nói:
– Làm lễ xong thì đã muộn.
Dương Tiêu và Phạm Dao nhìn nhau, biết hôm nay Triệu Mẫn tới đây để phá đám, bất kể thế nào cũng phải ngăn nàng ta lại ngay, để ngày cưới khỏi bẽ bàng, mất hết cả vui. Dương Tiêu liền tiến lên hai bước, nói:
– Bữa nay chúng tôi đã tận lễ chủ khách, Triệu cô nương hãy tự trọng.
Dương Tiêu định bụng, nếu Triệu Mẫn cố tình phá bĩnh sẽ lập tức ra tay điểm huyệt nàng để chế ngự rồi tính sau.
Triệu Mẫn nói với Phạm Dao:
– Khổ đại sư, người ta định ra tay với ta đấy, đại sư có giúp ta hay chăng?
Phạm Dao cau mày, nói:
– Quận chúa, trên đời này mười điều có đến tám, chín điều không vừa ý, đã đến nước này, mong đừng ương ngạnh.
Triệu Mẫn nói:
– Ta cứ ương ngạnh thì sao?
Rồi quay sang nói với Trương Vô Kỵ:
– Trương Vô Kỵ, huynh là giáo chủ Minh giáo, nam tử hán đại trượng phu, nói rồi có giữ lời hay chăng?
Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn tới, trống ngực đã đập thình thình, chỉ mong Dương Tiêu có thể cứu vãn tình thế, khuyên nàng bỏ đi, đột nhiên nghe nàng hỏi chính mình, đành trả lời:
– Lời ta đã nói, tất nhiên ta sẽ giữ lời.
Triệu Mẫn nói:
– Hôm muội cứu mạng cho Du tam bá và Ân lục thúc của huynh, huynh bằng lòng làm cho muội ba việc, quyết không thất hứa, đúng thế chứ?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đúng thế. Cô nương bảo ta đi mượn thanh đao Đồ Long cho cô nương xem, cô nương không những đã xem, mà còn lấy trộm đi luôn.
Mấy chục năm qua người người trên giang hồ đều quan tâm đến thanh đao Đồ Long “võ lâm chí tôn” kia ở đâu, nay nghe nó đã rơi vào tay Triệu Mẫn, thì ai nấy rúng động. Triệu Mẫn nói:
– Thanh đao Đồ Long rốt cuộc ở trong tay ai thì chỉ có Kim Mao Sư Vương Tạ đại hiệp mới biết, công tử cứ hỏi thẳng ông ta khắc rõ.
Việc Tạ Tốn đã về tới Trung nguyên, quần hào võ lâm ít ai hay biết, nay nghe nàng nhắc tới Kim Mao Sư Vương, tiếng ồn ào trong sảnh lập tức im bặt.
Trương Vô Kỵ nói:
– Nghĩa phụ ta hiện giờ ở đâu, ta ngày đêm lo lắng, mong Triệu cô nương làm ơn cho biết.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Muội muốn công tử làm ba việc, chỉ cần không trái với đạo hiệp nghĩa trong võ lâm, thì công tử phải làm ngay. Việc mượn thanh đao Đồ Long để xem, tuy không hay ho gì lắm, song muội cũng đã nhìn thấy nó, sau đó bảo đao bị lấy cắp đi, cũng không thể trách công tử. Vậy cứ coi như việc thứ nhất công tử đã hoàn tất. Bây giờ muội muốn công tử làm việc thứ hai. Trương Vô Kỵ, trước mặt anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, công tử không thể nói rồi nuốt lời.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Cô nương muốn ta làm việc gì?
Dương Tiêu liền xen vào:
– Triệu cô nương, cô nương muốn giáo chủ tệ giáo làm việc gì cũng phải hẹn trước, chỉ cần không trái với đạo hiệp nghĩa của võ lâm, chẳng riêng Trương giáo chủ sẽ bằng lòng, mà tệ giáo từ trên xuống dưới cũng phải tận tâm thực hiện. Hiện tại là giờ tốt ngày lành để Trương giáo chủ và tân phu nhân tham bái trời đất, mọi việc khác hãy tạm gác qua một bên, xin đừng nhiều lời cản trở.
Câu sau cùng, giọng nói của Dương Tiêu rất kiên quyết.
Triệu Mẫn thản nhiên như không, coi vị Quang Minh tả sứ danh chấn giang hồ này của Minh giáo chẳng là gì hết, nhơn nhơn nói:
– Việc của ta còn cấp thiết hơn, trì hoãn một khắc cũng không được.
Nàng đột nhiên tiến lên mấy bước, đến ngay trước mặt Trương Vô Kỵ, kiễng chân ghé tai chàng nói nhỏ:
– Việc thứ hai là muốn công tử hôm nay không bái đường thành thân với Chu cô nương.
Trương Vô Kỵ sững sờ hỏi:
– Cái gì?
Triệu Mẫn nói:
– Đó là việc thứ hai. Còn việc thứ ba, khi nào nghĩ ra, muội sẽ nói cho biết sau.
Mấy câu vừa rồi nàng nói rất khẽ, song Chu Chỉ Nhược và những người đứng gần như Tống Viễn Kiều, Ân Lê Đình cùng tám thiếu nữ phái Nga Mi phù dâu nghe rất rõ, ai nấy không khỏi biến sắc. Tám thiếu nữ phái Nga Mi tay đã kín đáo nắm lại thành quyền, nếu Triệu Mẫn còn nói thêm một lời làm nhục chưởng môn của họ, thì họ sẽ lập tức cho nàng biết tay.
Trương Vô Kỵ lắc đầu nói:
– Việc này, xin lỗi, không thể tuân lệnh.
Triệu Mẫn nói:
– Vậy là công tử nói rồi không giữ lời ư?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Đôi bên đã nói rõ từ trước, không được trái với đạo hiệp nghĩa. Ta và Chu cô nương đã ước hẹn thành vợ chồng, nếu phải làm theo lời cô nương, tức là trái với chữ “nghĩa”.
Triệu Mẫn cười khẩy:
– Nếu công tử thành hôn với nàng ta, thì mới là bất hiếu bất nghĩa. Khi du hoàng thành ở Đại Đô, chẳng lẽ công tử chưa nhìn thấy nghĩa phụ của công tử bị ai ám toán hay sao?
Trương Vô Kỵ lửa giận bừng bừng, quát to:
– Triệu cô nương, hôm nay ta nể cô nương là khách, nhịn cô nương ba phần; nếu cô nương còn nói nhăng nói cuội, đây có đắc tội thì đừng trách.
Triệu Mẫn nói:
– Việc thứ hai này, công tử không chịu nghe lời bổn cô nương phải không?
Trương Vô Kỵ nghĩ nàng ở địa vị quận chúa cao quý, vậy mà phải xuất đầu lộ diện trước mặt quần hào cầu khẩn chàng đừng làm lễ thành hôn, chẳng qua là vì quá si mê chàng, không khỏi mềm lòng, ôn tồn nói:
– Triệu cô nương, sự đến nước này, sao cô nương vẫn còn… chưa hiểu kia chứ. Trương Vô Kỵ ta là một thất phu nơi thôn dã, không xứng… không xứng…
Triệu Mẫn nói:
– Được, vậy công tử hãy xem đây là cái gì?
Nàng mở bàn tay phải ra, chìa vào trước mặt chàng.
Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy đã kinh hoàng, toàn thân run rẩy, giọng run run hỏi:
– Đây… cái này ta…
Triệu Mẫn lập tức nắm tay lại, bỏ vật đó vào túi, nói:
– Việc thứ hai bổn cô nương đã nói, công tử làm theo hay không, hoàn toàn là tùy ở công tử.
Nói xong nàng quay mình đi ra cổng.
Trong tay nàng cầm vật gì khiến Trương Vô Kỵ vừa nhìn thấy đã kinh hoàng, không ai trông rõ cả. Chu Chỉ Nhược mặt bị tấm khăn trùm che lấp, chỉ nghe thấy lời đối đáp giữa Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn, chứ hoàn toàn không nhìn thấy gì.
Trương Vô Kỵ hấp tấp gọi theo:
– Triệu… Triệu cô nương, xin hãy đứng lại đã.
Triệu Mẫn nói:
– Công tử muốn theo bổn cô nương thì theo, bằng không thì ở lại mà làm lễ tơ hồng với tân giai nhân. Là nam nhi mà hồ nghi không quyết đoán, sẽ ôm hận suốt đời đấy.
Nàng ta miệng nói, chân vẫn cứ đi thẳng ra cổng. Trương Vô Kỵ vội gọi to:
– Triệu cô nương hãy dừng bước, mọi việc để bàn tính kỹ lại đã.
Chàng thấy Triệu Mẫn rảo bước thêm, thì bèn chạy ra chắn trước mặt, nói:
– Được, ta nghe theo cô nương, hôm nay không thành hôn nữa.
Triệu Mẫn đứng lại, nói:
– Vậy công tử hãy đi theo bổn cô nương.
Trương Vô Kỵ ngoảnh lại, thấy Chu Chỉ Nhược đứng sững, thì hết sức phân vân, toan giải thích với nàng vài lời, nhưng thấy Triệu Mẫn lại đi ra cổng, sự việc vô cùng gấp gáp, phải quyết định ngay mới được, thế là đành nghiến răng đuổi theo Triệu Mẫn.
Trương Vô Kỵ đuổi tới bên cổng, đột nhiên thấy bên cạnh chàng một bóng hồng vút qua, một người đã đuổi tới sát phía sau Triệu Mẫn, từ trong ống tay áo đỏ vươn ra một bàn tay thuôn thuôn búp măng, năm ngón chộp xuống đỉnh đầu Triệu Mẫn. Biến cố diễn ra như chim cắt vồ mồi, nhanh không thể tả, người ra tay chính là cô dâu Chu Chỉ Nhược.
Trương Vô Kỵ giật mình: “Chiêu này lợi hại quá! Chỉ Nhược học ở đâu ra môn võ công tinh diệu thế này?” Chàng thấy bàn tay Chu Chỉ Nhược sắp chụp xuống đầu Triệu Mẫn, nếu năm ngón chọc xuống, thể nào Triệu Mẫn cũng vỡ sọ mà chết, thì không kịp nghĩ, liền vọt tới nắm lấy mạch môn Chu Chỉ Nhược.
Chu Chỉ Nhược thúc cùi chỏ bên trái về phía sau, nghe “hịch” một tiếng, trúng ngay ngực chàng. “Cửu dương thần công” trong cơ thể chàng lập tức phát động, hóa giải kình lực của cú thúc ấy, song cũng cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, chân hơi loạng choạng.
Phạm Dao thấy tình thế nguy cấp, động lòng cứu chủ cũ, vội giơ chưởng lên đẩy vào vai Chu Chỉ Nhược, Chu Chỉ Nhược khẽ phẩy tay một cái, Phạm Dao đã thấy cổ tay tê dại, không thể làm gì được nữa.
Nhờ sự ngăn trở vừa rồi, Triệu Mẫn tiến được nửa bước, tránh khỏi cú chộp nguy hại xuống đỉnh đầu, song vai nàng đau nhói lên: thì ra năm ngón tay của Chu Chỉ Nhược đã cắm xuống vai, sát gáy Triệu Mẫn. Trương Vô Kỵ kêu “A” một tiếng, giơ tay đẩy Chu Chỉ Nhược ra.
Chu Chỉ Nhược vẫn để nguyên tấm khăn hồng trùm đầu mặt, nghe hơi gió liền hất tả chưởng về phía sau chém cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ hoàn toàn không muốn động thủ với nàng, chỉ vì thấy nàng xuất chiêu quá hiểm độc, chỉ một chiêu đã định lấy mạng Triệu Mẫn, nên chàng không còn cách nào khác, đành phải ra tay ngăn cản. Chu Chỉ Nhược đứng nguyên tại chỗ, hai tay liên tiếp tung ra tám chiêu hiểm ác, Trương Vô Kỵ vội sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di” mới chống đỡ được. Tám chiêu tấn công, tám chiêu chống đỡ, diễn ra chỉ trong giây lát. Quần hào trong đại sảnh ai nấy nín thở, ngẩn người kinh hãi.
Triệu Mẫn bị trọng thương ở vai, ngã khuỵu xuống đất, máu từ năm lỗ thủng chảy ra như suối, nhuộm đỏ cả nửa cái áo.
Chu Chỉ Nhược ngừng tấn công, nói:
– Trương Vô Kỵ, chàng bị con yêu nữ kia mê hoặc, tính bỏ thiếp mà đi phải không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Chỉ Nhược, mong nàng hiểu cho nỗi khổ tâm của ta. Ước định hôn nhân của hai ta, Trương Vô Kỵ ta quyết không hối hận, chỉ là tạm hoãn ít hôm…
Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:
– Chàng mà đi thì đừng hòng quay lại, mong chàng sau này đừng có hối tiếc.
Triệu Mẫn nghiến răng đứng dậy, không nói một lời, lảo đảo đi ra, máu từ vai chảy nhỏ giọt xuống đất.
Quần hào từng chứng kiến không ít chuyện lạ trên giang hồ, nhưng hôm nay mới thấy cái cảnh “hai nàng tranh một chàng”, máu đỏ phòng hoa, cô dâu đầu còn trùm khăn hồng mà dùng võ công thần kỳ đả thương tình địch, khiến ai nấy kinh hoàng không biết nói sao.
Trương Vô Kỵ giậm chân một cái, nói:
– Nghĩa phụ đối với ta ơn nặng tày non, Chỉ Nhược, Chỉ Nhược, nàng hãy lượng thứ cho ta.
Nói rồi chàng đi theo Triệu Mẫn.
Ân Thiên Chính, Dương Tiêu, Du Liên Châu, Ân Lê Đình mọi người chẳng ai hiểu sự tình thế nào, nên không dám ngăn cản.
Chu Chỉ Nhược giơ tay giật phắt tấm khăn hồng che mặt, cao giọng nói:
– Các vị chính mắt thấy đó, là chàng ta phụ tiểu nữ, chứ không phải tiểu nữ phụ chàng ta. Từ nay Chu Chỉ Nhược với gã họ Trương kia ân đoạn nghĩa tuyệt.
Rồi nàng gỡ chiếc mũ phượng khỏi đầu, dùng hai tay bóp nát các viên trân châu rơi lả tả như cám, nói:
– Chu Chỉ Nhược ta mà không rửa được mối hận hôm nay, thì cũng sẽ như các viên ngọc này.
Ân Thiên Chính, Tống Viễn Kiều, Dương Tiêu đều muốn lên tiếng khuyên nàng nên chờ Trương Vô Kỵ quay về, hỏi cho rõ lẽ hãy hay; nhưng họ thấy Chu Chỉ Nhược hai tay xé một cái, nghe “xoẹt” một tiếng, chiếc áo đại hồng trường bào thêu hoa vàng đã rách thành hai mảnh; nàng ném áo xuống đất, phi thân đi, ở trên không xoay mình một cái, đã bay vọt lên mái nhà.
Dương Tiêu, Ân Thiên Chính cả bọn cùng đuổi theo, chỉ thấy nàng phiêu diêu như một cụm mây hồng bay nhanh về hướng đông. Khinh công của nàng đẹp thế kia, xem ra đâu kém gì Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu. Mọi người nghĩ rằng có đuổi cũng không kịp, đứng ngẩn ngơ một hồi, rồi trở vào đại sảnh.
Lễ cưới đang vui vẻ bị Triệu Mẫn đến phá rối, trong giây lát bị rã đám, người của Minh giáo từ trên xuống dưới ai nấy mặt mày ủ rũ, khách khứa đến chúc mừng cũng mất cả vui. Người ta xôn xao bàn tán, không biết Triệu Mẫn chìa cho Trương Vô Kỵ xem cái gì để đến nỗi chàng phải hấp tấp đi theo, nghe chàng nói thì hình như việc đó gắn liền với Tạ Tốn, song sự thực thế nào thì không một ai hay biết.
Các nữ hiệp phái Nga Mi thì thầm trao đổi với nhau mấy câu, rồi nhăn nhó cáo từ. Ân Thiên Chính luôn miệng xin lỗi, nói thể nào cũng sẽ dẫn Trương Vô Kỵ lên Nga Mi Kim Đỉnh tạ tội, sắp xếp lại việc cưới hỏi, nhất thiết xin chớ làm mất hòa khí hai nhà. Phái Nga Mi không đáp lời, chia nhau đi tìm Chu Chỉ Nhược, miệng lẩm bẩm chửi bọn đàn ông bạc tình.
*
* *
Nguyên cái thứ mà Triệu Mẫn nắm trong tay, mở ra cho Trương Vô Kỵ nhìn thấy, là một lọn tóc màu vàng. Trương Vô Kỵ nhìn qua, nhận ngay ra là tóc của Tạ Tốn. Nội công của Tạ Tốn luyện đã khác người, cộng với sự bẩm sinh cũng lạ, nên từ trung niên trở đi, cả mái tóc dài của Tạ Tốn biến thành màu vàng nhạt, song không giống kiểu tóc vàng của người sắc tộc ở Tây Vực. Trương Vô Kỵ cho rằng Tạ Tốn đã bị Triệu Mẫn cắt đi một lọn tóc, tức là ông đã rơi vào tay nàng, nếu chàng thành thân với Chu Chỉ Nhược, thì Triệu Mẫn sẽ tức giận quay về không giết Tạ Tốn, thì cũng làm điều bất lợi cho ông ta, thành thử chàng không kịp giải thích nỗi khổ tâm của mình cho Chu Chỉ Nhược nghe trước mặt quần hào. Nên biết khách khứa ngày hôm nay, trừ người của Minh giáo và của phái Võ Đang ra, ai ai cũng muốn bắt giữ Tạ Tốn, trước là để báo thù cái tội ông ta giết người bừa bãi ngày xưa, thứ nữa là để chiếm đoạt thanh đao Đồ Long. Thành thử khi thấy Triệu Mẫn bỏ đi, chàng liền đuổi theo nàng ta, dù biết rằng làm như thế rất không phải với Chu Chỉ Nhược, nhưng rốt cuộc thì tính mạng của nghĩa phụ là hệ trọng.
Chàng ra khỏi cổng, thấy Triệu Mẫn đang cố chạy, máu tươi từ vai vẫn tiếp tục nhỏ xuống đường. Chàng hít một hơi, vọt lên mấy trượng, chắn trước mặt nàng, nói:
– Triệu cô nương, cô nương đừng ép ta trở thành một kẻ bất nghĩa, để cho anh hùng thiên hạ chê cười.
Triệu Mẫn bị thương nặng ở vai, lúc đầu chỉ nhờ chân khí mà còn gắng chạy được, nghe chàng nói vậy bèn há miệng đáp:
– Chàng… chàng…
Chân khí tiết thoát, nàng lập tức ngã xuống. Trương Vô Kỵ cúi xuống hỏi:
– Cô nương nói đi, nghĩa phụ của ta hiện đang ở đâu?
Triệu Mẫn nói:
– Chàng mang muội đi cứu ông ấy, muội sẽ… sẽ… chỉ đường cho.
Trương Vô Kỵ nói:
– Tính mạng lão nhân gia không sao chứ?
Triệu Mẫn hữu khí vô lực, nói:
– Nghĩa phụ… chàng… rơi vào tay Thành Côn.
Trương Vô Kỵ nghe hai tiếng “Thành Côn” thì rụng rời chân tay, người ấy võ công cao siêu, mưu kế thâm độc, Tạ Tốn với lão ta thù sâu như biển, rơi vào tay lão ta thật hung hiểm muôn phần.
Triệu Mẫn nói:
– Một mình chàng không xong đâu, hãy gọi… bọn Dương Tiêu đi cùng…
Nói rồi đưa tay chỉ về hướng tây, đột nhiên đầu ngật ra sau, ngất lịm đi.
Trương Vô Kỵ hình dung nghĩa phụ giờ này nguy nan khổ sở, ruột gan nóng như lửa đốt, vội ôm Triệu Mẫn lên, xé vạt áo băng bó vết thương cho nàng, giơ tay vẫy một giáo đồ Minh giáo đứng bên đường lại, nói:
– Ngươi mau bẩm báo với Dương tả sứ, bảo ông ấy dẫn mọi người đi về phía tây, nói là ta có việc gấp cần sai họ làm.
Gã giáo đồ tuân lệnh vội chạy đi bẩm báo.
Trương Vô Kỵ nghĩ mình sớm chút nào hay chút đó, sự đời khôn lường, không chừng chỉ cần chậm nửa khắc là hết cứu được nghĩa phụ, chàng bèn ôm Triệu Mẫn chạy ra phía cửa thành, sai sĩ tốt canh gác ở đó đem lại một con tuấn mã, phi thân lên ngựa, phóng ngay về hướng tây.
Chạy được vài dặm, chàng cảm thấy thân thể Triệu Mẫn lạnh dần, giơ tay thăm mạch, thấy mạch đập rất yếu, chàng hoảng sợ vội cởi vải bó vết thương ra xem, thấy năm lỗ ngón tay sâu vào tận xương, da thịt xung quanh tím ngắt, rõ ràng đã trúng chất kịch độc. Chàng hồ nghi: “Chỉ Nhược là đệ tử phái Nga Mi, làm sao lại biết sử dụng loại công phu âm độc thế này? Nàng xuất chiêu xem ra còn hiểm độc hơn cả Diệt Tuyệt sư thái là vì cớ gì?” Nếu không cứu chữa ngay, chất độc phát tác, Triệu Mẫn có thể bị mất mạng như chơi; chàng thì đang mặc quần áo chú rể, đâu có thuốc men gì trong người?
Nghĩ một chút, chàng bèn xuống ngựa, ôm Triệu Mẫn chạy lên triền núi bên trái, nhìn tứ phía tìm các loại thảo dược, nhưng nhất thời không thấy bất cứ thảo dược nào, dẫu là loại tầm thường nhất.
Chàng lo lắng chạy qua mấy cái thung lũng, miệng lẩm bẩm cầu trời phù hộ; đột nhiên nhìn thấy bên cạnh một ngọn thác nhỏ ở phía trước có bốn năm đóa hoa nhỏ màu đỏ, gọi là hoa “Phật tòa tiểu hồng liên” có tác dụng khử độc rất mạnh. Tuy hiện thời đang là giữa mùa xuân, trăm hoa đua nở, nhưng gặp được loài hoa này ở đây phải gọi là ơn trời phù hộ. Chàng cả mừng, ôm Triệu Mẫn nhảy qua hai khe suối, hái các đóa hoa ấy bỏ vào miệng nhai, một nửa mớm cho Triệu Mẫn, nửa kia đắp vào vết thương ở vai nàng, rồi lại ôm nàng chạy về phía tây.
Chạy khoảng ba chục dặm, Triệu Mẫn rên lên một tiếng, tỉnh lại, nói nhỏ:
– Muội… muội còn sống ư?
Trương Vô Kỵ thấy hoa “Phật tòa tiểu hồng liên” có tác dụng, cả mừng, hỏi:
– Cô nương thấy trong người thế nào?
Triệu Mẫn đáp:
– Ở vai ngứa quá! Ôi, võ công của Chu cô nương quả là ghê gớm!
Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng đặt nàng xuống đất, xem lại vết thương ở vai, thấy vệt bầm tím chưa đỡ chút nào, chỉ có mạch đập đã không còn yếu như trước. Chàng ngẫm nghĩ, biết dược tính của “Phật tòa tiểu hồng liên” quá chậm, chưa đủ để khử độc, bèn cúi xuống ghé miệng vào vết thương mà hút máu độc từng ngụm ra nhổ đi, mùi hôi tanh thật lợm giọng.
Triệu Mẫn nhìn chàng, giơ tay vuốt tóc chàng, thở dài nói:
– Vô Kỵ ca ca, nguyên do bên trong thế nào, chàng đã biết chưa?
Trương Vô Kỵ hút hết máu độc, lại bên dòng suối súc miệng, quay về ngồi bên cạnh Triệu Mẫn, hỏi:
– Nguyên do gì kia?
Triệu Mẫn nói:
– Chu cô nương là đệ tử danh môn chính phái, sao lại biết thứ võ công tà môn âm độc thế này?
Trương Vô Kỵ nói:
– Ta cũng thấy lạ, không biết ai dạy cho nàng ta vậy.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Chắc là tiểu tặc của tà phái Ma giáo dạy cho nàng ta.
Trương Vô Kỵ cũng cười, nói:
– Trong Ma giáo tuy có nhiều ma đầu, nhưng không ai biết môn võ công ấy. Chỉ có Thanh Dực Bức Vương hút máu cổ người ta và Trương Vô Kỵ hút máu vai người khác là hơi giống nhau thôi.
Chàng hỏi tiếp:
– Nghĩa phụ của ta rơi vào tay Thành Côn như thế nào? Hiện giờ ông đang ở đâu?
Triệu Mẫn đáp:
– Muội sẽ đưa chàng đi cứu ông ta. Còn đang ở đâu, thì muội cũng giống như Bố Đại hòa thượng Thuyết Bất Đắc. Muội mà nói ra, chàng sẽ bay ngay đi tìm, quẳng muội ở lại đây mất.
Trương Vô Kỵ thở dài, nói:
– Ta lại là kẻ vô tình vô nghĩa như thế sao?
Triệu Mẫn nói:
– Vì nghĩa phụ của chàng mà chàng còn bỏ rơi cả cô dâu đẹp như ngọc tươi như hoa, nữa là muội?
Nói rồi nàng thong thả tựa vào người chàng, hỏi:
– Hôm nay muội làm lỡ cả dịp động phòng hoa chúc của chàng, chàng có trách muội không?
Không hiểu vì sao lúc này lòng Trương Vô Kỵ vô cùng vui sướng, ngoài việc lo lắng cho sự an nguy của Tạ Tốn, hiện thời chàng lại cảm thấy thoải mái bình an hơn cả lúc bái đường thành thân với Chu Chỉ Nhược. Tại sao như vậy thì chàng không biết. Nhưng nếu thừa nhận rằng mình thích bị Triệu Mẫn phá hỏng đám cưới, thì chàng cũng không dám mở miệng ra, nên chỉ nói:
– Dĩ nhiên là ta giận cô nương. Khi nào cô nương bái đường thành thân với một anh chàng quận mã anh hùng nào đấy, ta cũng sẽ đến đại náo một phen, quyết không để cho cô nương được yên lành làm cô dâu.
Khuôn mặt tái xanh của Triệu Mẫn chợt ửng hồng, nàng cười nói:
– Chàng mà đến phá đám, muội sẽ cho chàng một nhát kiếm.
Trương Vô Kỵ bỗng dưng thở dài, im lặng buồn bã. Triệu Mẫn hỏi:
– Sao chàng lại thở dài?
Trương Vô Kỵ nói:
– Không biết cái anh chàng quận mã kia kiếp trước làm điều thiện gì lớn mà có diễm phúc như thế.
Triệu Mẫn cười:
– Bây giờ chàng tu tỉnh thì vẫn còn kịp mà.
Trương Vô Kỵ rung động trong lòng, hỏi lại:
– Cái gì?
Triệu Mẫn đỏ mặt, không đáp.
Nói tới đây, cả hai người đều ngượng, không dám đẩy câu chuyện đi xa hơn. Sau khi nghỉ một lát, Trương Vô Kỵ lại đắp thuốc vào cho nàng, rồi ôm nàng đi về hướng tây. Triệu Mẫn dựa vào vai chàng, má kề má bên trái của chàng, Trương Vô Kỵ ngửi mùi phấn, mùi da thịt nàng, trong vòng tay là tấm thân ngọc ngà mềm mại, bất giác tâm viên ý mã, hồn phách phiêu diêu; nếu không phải đang gấp đi cứu nghĩa phụ, thì chàng chỉ muốn đi thật chậm, cứ quanh quẩn mãi thế này giữa chốn hoang sơn dã lĩnh.
*
* *
Đêm ấy hai người ngủ lại ở vùng núi hoang ngoại vi phía tây thành Hào Châu. Sáng hôm sau đến một tiểu trấn, mua hai con ngựa khỏe. Chất độc trong người Triệu Mẫn khó mà trừ hết, cơ thể yếu ớt, không đủ sức cưỡi ngựa một mình, nàng đành ngồi chung một ngựa với Trương Vô Kỵ, tựa vào người chàng. Đi như thế năm ngày thì tới địa phận tỉnh Hà Nam.
Hôm ấy hai người đang đi, bỗng thấy phía trước bụi bay mù mịt, khoảng hơn hai trăm người phi ngựa tới, tiếng giáp sắt chạm nhau lanh canh, chính là kỵ binh Mông Cổ. Trương Vô Kỵ đánh ngựa sang một bên, nhường đường cho bọn chúng.
Đội kỵ binh Mông Cổ qua rồi, vài chục trượng đằng sau lại có một đội cưỡi ngựa khác, chừng hơn hai chục người, nhưng đám này không có hàng lối gì cả. Trương Vô Kỵ thấy có cả “Thần tiễn bát hùng” trong số đó, thì giật mình kêu thầm “Hỏng rồi!” vội quay mặt ra chỗ khác.
Đám người kia thấy chàng ăn mặc sang trọng, lại ôm một thiếu nữ, cả hai quay mặt đi, nên họ cũng không để ý, cũng không một ai trong số “Thần tiễn bát hùng” nhận ra chàng. Đợi cả đám đi qua, Trương Vô Kỵ mới quay đầu ngựa, đang tính đi tiếp, thì bỗng nghe tiếng vó ngựa rộn rã, ba kỵ sĩ phi tới như bay. Người đi giữa cưỡi con ngựa trắng, thân mặc cẩm bào, đầu đội mũ vàng, đi kèm hai bên là hai con ngựa màu hạt dẻ, ngồi trên yên chính là Huyền Minh nhị lão, Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông.
Trương Vô Kỵ toan quay đi, thì Lộc Trượng Khách đã nhìn thấy hai người, nói:
– Quận chúa nương nương đừng lo, có chúng tôi tới cứu giá đây.
Hạc Bút Ông liền lập tức hú lên một tiếng dài, bọn “Thần tiễn bát hùng” nghe thấy liền quay ngựa chạy trở lại, vây tròn hai người vào giữa.
Trương Vô Kỵ sững sờ, đưa mắt nhìn Triệu Mẫn đang nằm trong lòng chàng, như có ý hỏi: “Cô nương bố trí phục binh thế này định hại ta chăng?” Nhưng thấy vẻ mặt hoảng hốt của nàng, chàng biết là mình đã trách nhầm, thì cảm thấy yên tâm, chỉ nghe Triệu Mẫn lên tiếng:
– Ca ca, không ngờ lại gặp ca ca ở đây, gia gia mạnh khỏe chứ?
Trương Vô Kỵ nghe nàng gọi hai tiếng “ca ca”, mới để ý nhìn người thanh niên mặc áo gấm cưỡi con bạch mã, nhận ra y là Khố Khố Đặc Mục Nhĩ, anh trai của Triệu Mẫn, có tên Hán là Vương Bảo Bảo. Trương Vô Kỵ từng gặp y hai lần ở Đại Đô, vừa rồi chàng chỉ chú ý đến Huyền Minh nhị lão, nên chưa nhận ra y.
Vương Bảo Bảo nhìn thấy em gái, không khỏi vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, y lại không biết Trương Vô Kỵ, nên cau mày nói:
– Hiền muội, muội… muội…
Triệu Mẫn nói:
– Ca ca, muội bị địch nhân ám toán, cơ thể trúng độc rất nặng, may nhờ Trương công tử đây cứu giúp, nếu không chắc chẳng còn dịp gặp được ca ca hôm nay.
Lộc Trượng Khách ghé tai Vương Bảo Bảo nói nhỏ:
– Tiểu vương gia, gã kia là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ.
Vương Bảo Bảo từng nghe danh Trương Vô Kỵ từ lâu, nghĩ rằng Triệu Mẫn đang bị chàng kiềm chế, uy hiếp bắt nói như vậy, nên y phất tay một cái, Huyền Minh nhị lão liền chia ra hai bên vọt tới cách Trương Vô Kỵ dăm thước, bốn người trong “Thần tiễn bát hùng” thì lắp tên giương cung nhắm vào lưng chàng.
Vương Bảo Bảo nói:
– Trương giáo chủ, các hạ làm chủ một giáo phái, là một hào kiệt thành danh trong võ lâm, vậy mà lại ăn hiếp một thiếu nữ yếu đuối như xá muội, không sợ người của quý giáo chê cười hay sao? Mau mau thả xá muội ra, hôm nay ta sẽ tha chết cho giáo chủ.
Triệu Mẫn nói:
– Ca ca, sao lại nói thế? Trương công tử quả có ơn với muội, sao ca ca lại dùng hai chữ “ăn hiếp”?
Vương Bảo Bảo cho rằng em gái y đúng là đang bị kẻ địch đe dọa, đành phải nói như thế, nên y lớn thở dài nói:
– Trương giáo chủ, ngươi võ công giỏi mấy, song một mình khó địch nổi số đông, hãy mau thả xá muội ra, hôm nay đôi bên coi như không xâm phạm nhau, Vương Bảo Bảo ta nói sao đúng vậy, khỏi cần nghi ngại.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Triệu Mẫn trúng độc rất nặng, nếu theo mình bôn ba ngàn dặm, khó mà trị khỏi; chi bằng để nàng theo anh trai về vương phủ, có các danh y điều trị cho nàng thì hay hơn”, bèn nói:
– Triệu cô nương, lệnh huynh muốn đón cô nương về, vậy thì hai ta từ biệt ở đây, chỉ mong cô nương cho biết chỗ của nghĩa phụ ta, để ta tìm cách cứu ra. Hai ta sẽ gặp lại nhau sau vậy.
Nói đến đây chàng bất giác buồn bã, thừa biết hai bên kẻ Hán người Mông, quan dân cách biệt, thù oán quá sâu, lúc biệt ly không khỏi bồi hồi lưu luyến.
Không ngờ Triệu Mẫn nói:
– Muội ngay từ đầu không nói cho chàng biết Tạ đại hiệp đang ở đâu là có thâm ý, muội chỉ bằng lòng dẫn chàng đi tìm, chứ không cho biết chỗ ấy đâu.
Trương Vô Kỵ ngẩn ra, nói:
– Cô nương bị trọng thương chưa khỏi, theo ta đi xa thật bất tiện, cô nương nên theo lệnh huynh về nhà thì hơn.
Triệu Mẫn vẻ mặt quả quyết, nói:
– Nếu chàng bỏ muội xuống thì sẽ không bao giờ biết chỗ của Tạ đại hiệp. Muội càng ngày càng thấy đỡ, đi đường rất dễ chịu, về vương phủ muội buồn chết đi được.
Trương Vô Kỵ nói với Vương Bảo Bảo:
– Nhờ tiểu vương gia khuyên lệnh muội giùm.
Vương Bảo Bảo lấy làm lạ, nhưng hiểu ra, cười khẩy:
– Hừ, ngươi đừng có giả bộ vờ vịt! Tay ngươi đặt vào tử huyệt trên người xá muội, nên nó phải nghe lời ngươi, nói lăng nhăng cho qua chuyện.
Trương Vô Kỵ liền nhảy xuống đất, hai tay cung “Thần tiễn bát hùng” lại ngỡ chàng tập kích Vương Bảo Bảo, bèn phóng hai mũi tên về phía chàng, mũi tên xé gió vút đi. Trương Vô Kỵ sử dụng thần công “Càn khôn đại na di”, tay trái hất hai mũi lang nha tiễn bay ngược trở lại, kình phong còn ghê gớm hơn, nghe “cách cách” hai tiếng, làm gãy luôn hai cây cung của chủ nhân, hai người ấy mà không né tránh nhanh thì cũng đã bị thương rồi. Dư thế của hai mũi tên còn mạnh, sau khi cắm thẳng xuống đất, đuôi mũi tên còn rung bần bật. Mọi người ai nấy cả kinh.
Trương Vô Kỵ rời xa Triệu Mẫn rồi, nói:
– Triệu cô nương, cô nương hãy về phủ dưỡng thương đi, mình sẽ tìm cách gặp lại sau.
Triệu Mẫn lắc đầu:
– Ở vương phủ không có ai y đạo cao minh như công tử. Công tử đã làm ơn thì hãy làm cho trót.
Vương Bảo Bảo thấy Trương Vô Kỵ đã rời xa chỗ em gái y, mà Triệu Mẫn cứ đòi đi theo, thì không khỏi kinh ngạc, nhưng lại bực bội, nói với Huyền Minh nhị lão:
– Phiền hai vị bảo hộ xá muội, ta đi thôi!
Huyền Minh nhị lão đáp lời:
– Tuân lệnh!
Rồi đi tới bên ngựa của Triệu Mẫn. Triệu Mẫn nói to:
– Lộc, Hạc hai vị tiên sinh, ta có việc cần đi theo Trương giáo chủ để làm cho xong, đang hiềm thế cô lực nhược, hai vị tiên sinh đi với chúng ta thì tốt.
Lộc Trượng Khách nhìn Vương Bảo Bảo, rồi nói:
– Đại ma đầu của Ma giáo hành sự tà bí, quận chúa không nên qua lại nhiều với y, hãy theo tiểu vương gia về phủ thì hơn.
Đôi lông mày thanh tú của Triệu Mẫn hơi cau lại, nàng nói:
– Hai vị bây giờ chỉ vâng lời ca ca ta, không vâng lời ta nữa hả?
Lộc Trượng Khách cười nịnh, nói:
– Tiểu vương gia chỉ vì muốn ái hộ quận chúa đó thôi.
Triệu Mẫn hừ một tiếng, quay sang Vương Bảo Bảo, nói:
– Ca ca, muội hành tẩu giang hồ, là đã được gia gia cho phép từ lâu, ca ca khỏi cần lo hộ, muội tự lo liệu được. Khi nào ca ca gặp lại gia gia, hãy cho muội gửi lời vấn an.
Vương Bảo Bảo biết cha mình vốn sủng ái em gái y hết mực, vốn không định ép nàng, song nếu để cho nàng một thân một mình đi theo gã giáo chủ thì không thể yên lòng, thấy nàng nằm phục trên yên ngựa, dường như không còn chút hơi sức nào, nhưng lại toan giục ngựa chạy về hướng tây, thì y dang hai tay cản lại, nói:
– Hiền muội, gia gia ở phía sau sắp tới bây giờ, muội hãy chịu khó chờ một chút, bẩm rõ với gia gia rồi đi cũng chưa muộn.
Triệu Mẫn cười nói:
– Gia gia tới thì muội còn đi sao được. Ca ca, muội không xen vào việc của ca ca, ca ca cũng đừng nên xen vào việc của muội.
Vương Bảo Bảo quay sang nhìn kỹ Trương Vô Kỵ, thấy chàng cao lớn, mặt mày anh tuấn, nghe giọng điệu của em gái y, rõ ràng là say mê gã giáo chủ, nghĩ bụng Minh giáo làm loạn, là quân phản nghịch mà triều đình không thể tha thứ, nay em gái y lại bị tên ma đầu này quyến rũ, thật là mối họa không nhỏ, bèn phất tay trái một cái, quát:
– Hãy bắt lấy tên ma đầu kia đã!
Lộc Trượng Khách múa cây gậy sừng hươu, Hạc Bút Ông múa cây bút mỏ hạc thành một vòng hàn quang, hai vòng hắc khí, cùng tấn công Trương Vô Kỵ.
Triệu Mẫn biết rõ sự lợi hại của Huyền Minh nhị lão, Trương Vô Kỵ võ công tuy cao, nhưng lấy một địch hai, trong tay lại không có binh khí, sợ chàng bị thương, bèn kêu lên:
– Huyền Minh nhị lão, hai vị mà đả thương Trương giáo chủ, ta sẽ bẩm với cha ta, không tha cho các vị đâu.
Vương Bảo Bảo giận dữ nói:
– Loạn thần tặc tử, ai ai cũng có quyền tru diệt. Huyền Minh nhị lão, hai vị giết được tên ma đầu kia, phụ vương và ta đều sẽ trọng thưởng.
Y ngừng lời một chút, rồi nói tiếp:
– Lộc tiên sinh, tiểu vương sẽ tặng tiên sinh thêm bốn mỹ nữ, tiên sinh chắc chắn sẽ vừa lòng.
Hai anh em, một kẻ bảo phải giết, một người bảo không được đả thương, khiến Huyền Minh nhị lão lúng túng khó nghĩ. Lộc Trượng Khách quay sang nháy mắt với sư đệ, nói nhỏ:
– Bắt sống nó!
Trương Vô Kỵ đột nhiên sử dụng công phu thánh hỏa lệnh, nửa thân trên hơi nghiêng, tay phải vòng qua, chuyển phương vị một cách kỳ diệu, chỉ nghe bốp một tiếng, Lộc Trượng Khách bị một cái tát tai rất mạnh, Trương Vô Kỵ quát:
– Ngươi thử bắt ta coi!
Lộc Trượng Khách bất ngờ bị đòn nặng, vừa sợ vừa giận, nhưng lão thuộc loại đệ nhất cao thủ, tâm thần không loạn, múa tít cây gậy sừng hươu khiến cho mưa không lọt, gió không qua. Trương Vô Kỵ muốn đánh lén thêm một đòn nữa cũng chưa có cách gì.
Triệu Mẫn giục cương cho ngựa chạy đi. Vương Bảo Bảo quất roi vút một cái, đánh trúng vào mắt trái con ngựa nàng cưỡi. Con vật đau quá, hí một tiếng dài, chân trước chồm lên. Triệu Mẫn bị thương sức yếu, suýt nữa thì bị hất từ trên yên xuống đất, nàng tức giận nói:
– Ca ca, ca ca nhất định ngăn cản muội phải không?
Vương Bảo Bảo nói:
– Hiền muội, muội nghe lời ta đi, về nhà rồi ta sẽ tạ tội với muội.
Triệu Mẫn nói:
– Ca ca, nếu ca ca nhất định ngăn cản muội, thì hẳn sẽ có một người phải bỏ mạng tại đây. Trương giáo chủ từ nay sẽ hận muội thấu xương, muội… muội chẳng còn thiết sống nữa.
Vương Bảo Bảo nói:
– Muội nói vậy là sao? Ở phủ Nhữ Dương Vương thiếu gì cao thủ, họ sẽ bảo hộ muội chu toàn. Tên ma đầu kia đừng nói việc xuất thủ làm hại muội, ngay hắn có muốn gặp mặt muội cũng chẳng được.
Triệu Mẫn thở dài:
– Muội chính vì sợ không còn được gặp chàng ta, mà muội… không thiết sống nữa.
Huynh muội hai người bao lâu nay hết mực thương yêu, chuyện gì cũng kể với nhau. Triệu Mẫn lúc này trong lúc gấp gáp chẳng còn giấu giếm gì nữa, nói thẳng ra tấm tình của mình đối với Trương Vô Kỵ.
Vương Bảo Bảo giận nói:
– Muội thật hồ đồ. Muội là người của vương tộc Mông Cổ, đường đường kim chi ngọc diệp, làm sao có thể sánh đôi với gã cẩu tặc mọi rợ kia được? Để gia gia biết chuyện, chẳng hóa ra làm cho gia gia tức chết đi sao?
Y vẫy tay trái một cái, lại thêm ba hảo thủ tiến lên giáp công. Trương Vô Kỵ và Huyền Minh nhị lão lúc này đang vận thần công, nội kình phóng ra trong vòng mấy trượng hết sức hung hiểm, ba hảo thủ kia làm sao xen vào được?
Triệu Mẫn gọi:
– Trương công tử, chàng muốn cứu nghĩa phụ, hãy cứu muội trước!
Vương Bảo Bảo thấy em gái không hề chuyển ý, thì sốt ruột, ôm luôn lấy nàng đặt lên lưng ngựa, dùng hai chân mình kẹp giữ, toan phóng ngựa đi. Võ công của Triệu Mẫn vốn cao hơn anh trai, nhưng sau khi bị thương mất hết khí lực, đành chỉ há miệng kêu to:
– Trương công tử cứu muội, Trương công tử cứu muội với!
Trương Vô Kỵ vù vù đánh ra hai chưởng, sử đến mười thành kình lực, buộc Huyền Minh nhị lão thoái lui ba bước, rồi chàng thi triển khinh công đuổi theo ngựa của Vương Bảo Bảo. Huyền Minh nhị lão và ba hảo thủ cả kinh, vội đuổi theo sau. Trương Vô Kỵ đợi năm người đó tới gần, liền đánh ngược về phía sau mấy chưởng, uy lực của “Cửu dương thần công” thật lợi hại, mỗi chưởng của chàng đánh ra, Huyền Minh nhị lão đều phải tránh né, không dám đối địch. Sau ba lần như thế, Trương Vô Kỵ đuổi kịp con ngựa, tung mình nhảy lên, túm lấy gáy Vương Bảo Bảo. Trảo này ngầm chứa thủ pháp điểm huyệt, khiến Vương Bảo Bảo cảm thấy nửa thân trên tê dại, hai tay phải buông Triệu Mẫn, thân hình bị Trương Vô Kỵ nhấc bổng lên, ném về phía Lộc Trượng Khách. Lộc Trượng Khách vội đưa tay đón lấy, thì Trương Vô Kỵ đã ôm Triệu Mẫn rời khỏi lưng ngựa, chạy bộ lên triền núi bên trái.
Hạc Bút Ông và các hảo thủ còn lại cùng la lối đuổi theo. Ngọn núi này cao mấy trăm trượng, đuổi chạy lên cao là một cách thi tài khinh công. Huyền Minh nhị lão nội lực tuy cao cường, khinh công lại không phải hạng nhất, thành thử bốn người kia chạy vượt lên trước Hạc Bút Ông và Lộc Trượng Khách. Trương Vô Kỵ nhặt mấy cục đá liên tiếp ném xuống, lập tức có người trúng phải, gãy xương lăn xuống sườn núi. Những người còn lại thầm kinh hãi, nhưng vì có mặt tiểu vương gia, nên không dám dừng chân, nhưng cũng đã chạy chậm lại.
Họ thấy Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn chạy càng lúc càng lên cao, không còn cách nào đuổi kịp. Vương Bảo Bảo lớn tiếng chửi bới, quát:
– Bắn tên, bắn tên!
Chính y cũng giương cung, nhắm sau lưng Trương Vô Kỵ phóng tên đi, cung lực của y cực mạnh, nhưng vì khoảng cách quá xa, mũi tên còn cách chàng cả trượng đã rơi xuống đất.
*
* *
Triệu Mẫn ôm cổ Trương Vô Kỵ, thấy bọn kia không thể đuổi kịp nữa, mới yên tâm, thở dài nói:
– Cũng may muội khôn ngoan, không nói cho chàng biết nơi chốn của Tạ đại hiệp, bằng không cái tay tiểu ma đầu vô lương tâm này đã chẳng hết lòng cứu muội.
Trương Vô Kỵ đi vòng sang một thung lũng, chân không chậm lại chút nào, nói:
– Cô nương nghe lời ta, về phủ dưỡng thương, có phải tốt đẹp cả không? Tội gì vừa đắc tội với huynh trưởng, lại vừa khổ sở vì đi theo ta?
Triệu Mẫn nói:
– Muội đã quyết ý theo chàng chịu khổ, còn huynh trưởng thì sớm muộn gì cũng phải đắc tội thôi. Muội chỉ sợ chàng không cho muội đi theo, còn mọi thứ khác muội đều không cần.
Trương Vô Kỵ tuy biết nàng rất tốt đối với chàng, song có lúc chàng nghĩ đó chẳng qua chỉ là thứ tình cảm của thiếu nữ mới lớn, nhất thời ý động; nào ngờ nàng lại vứt bỏ hết mọi vinh hoa phú quý, có mối thâm tình như vậy. Chàng cúi xuống, thấy khuôn mặt xanh xao tiều tụy lộ đầy tình ý, ánh mắt long lanh, thật không còn gì âu yếm hơn, chàng không nhịn nổi liền hôn lên đôi môi run run của nàng.
Nụ hôn ấy khiến đôi má Triệu Mẫn hồng lên, nàng xúc động, lại ngất đi. Trương Vô Kỵ hiểu rõ y lý, biết là không có gì nguy hiểm, trong lòng càng thêm cảm kích, đột nhiên nghĩ thầm: “Chỉ Nhược đối với ta làm sao tốt được như thế này!”
Triệu Mẫn ngất đi một hồi, tỉnh lại, thấy chàng đang mải nghĩ, bèn hỏi:
– Chàng nghĩ gì vậy? Chắc là nghĩ đến Chu cô nương phải không?
Trương Vô Kỵ cũng chẳng cần giấu, gật đầu, nói:
– Ta nghĩ mình quả thật có điều không phải với nàng ta.
Triệu Mẫn hỏi:
– Chàng có hối hận không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Lúc ta bái đường thành thân cùng nàng ta, nghĩ đến cô nương thì không khỏi đau lòng; còn bây giờ nghĩ đến nàng ta, ta lại thấy nàng tội nghiệp.
Triệu Mẫn mỉm cười, nói:
– Như thế là trong lòng chàng yêu muội nhiều hơn, phải không nào?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Thú thật, đối với cô nương, ta vừa yêu vừa hận; còn đối với Chu Chỉ Nhược, thì ta vừa kính vừa sợ.
Triệu Mẫn cười nói:
– Muội chỉ muốn chàng đối với muội vừa yêu vừa sợ, còn đối với nàng ta thì vừa kính vừa hận.
Trương Vô Kỵ cười nói:
– Hiện thời lại khác rồi, ta đối với cô nương vừa hận vừa sợ, hận vì cô nương phá đám, cản trở mối lương duyên của ta; sợ vì lo cô nương không chịu đền cho ta.
Triệu Mẫn hỏi:
– Đền cái gì?
Trương Vô Kỵ cười đáp:
– Hôm nay cô nương phải đem thân ra thay, đền cho ta một đêm động phòng hoa chúc.
Triệu Mẫn đỏ bừng cả mặt, vội nói:
– Không, chưa được đâu! Phải để muội thưa chuyện với cha muội… chờ muội nói rõ với anh trai muội, rồi hãy… rồi mới…
Trương Vô Kỵ nói:
– Nhỡ phụ thân cô nương nhất định không chịu thì sao?
Triệu Mẫn thở dài:
– Nếu thế thì muội đành phải… trốn theo gã tiểu ma đầu, làm tiểu ma bà, chứ biết làm sao.
Trương Vô Kỵ giả bộ nghiêm mặt, quát:
– Yêu nữ thật to gan, dám theo tên dâm tặc Trương Vô Kỵ tạo phản làm loạn, đáng phạt tội gì?
Triệu Mẫn cũng giả bộ nghiêm trang, nói:
– Phạt hai đứa bay khi ở trên thế gian thì làm một cặp vợ chồng sung sướng đến đầu bạc răng long, nhưng chết đi sẽ phải xuống mười tám tầng địa ngục, vạn kiếp không được siêu sinh.
Hai người nói đến đây cùng phá lên cười ha hả.
*
* *
Bỗng nghe phía trước có tiếng người dõng dạc nói:
– Quận chúa nương nương, tiểu tăng cung kính chờ ở đây đã lâu.
Chỉ thấy từ sau núi bước ra hơn hai chục phiên tăng, tất cả đều mặc áo bào màu đỏ. Trương Vô Kỵ nhận ra một số phiên tăng này là bọn đêm nọ ở chùa Vạn An đã ra tay ngăn chặn chàng, võ công của họ rất cao cường, may nhờ Vi Nhất Tiếu đến phủ Nhữ Dương Vương phóng hỏa, mới dụ được họ tản đi, nếu không khó lòng cứu thoát quần hào của sáu đại môn phái.
Gã phiên tăng đi đầu chắp tay hành lễ, cúi mình nói:
– Tiểu tăng phụng mệnh vương gia tới đón quận chúa về phủ.
Triệu Mẫn hỏi:
– Các ngươi ở đây làm gì?
Gã phiên tăng ấy đáp:
– Quận chúa bị thương, vương gia vô cùng lo lắng, sai tiểu tăng nghênh tiếp phương giá của quận chúa.
Nói xong gã giơ con chim câu trắng đang cầm trong tay. Triệu Mẫn biết là anh trai nàng đã dùng chim câu truyền tin cho phụ thân nàng, để ông sai bọn phiên tăng ngăn chặn, bèn hỏi:
– Cha ta hiện ở đâu?
Gã phiên tăng đáp:
– Vương gia đang ở dưới chân núi đón chờ, rất nóng lòng muốn biết quận chúa bị thương nặng nhẹ thế nào.
Trương Vô Kỵ biết nói thêm cũng chỉ vô ích, bèn hùng dũng xông tới, quát:
– Muốn sống mau tránh đường, nếu không đừng trách ta ra tay không nể nang.
Hai gã phiên tăng kề vai tiến lên một bước, mỗi gã đều giơ hữu chưởng lên trước ngực mà đẩy ra. Trương Vô Kỵ dùng tay trái dẫn đẩy chưởng lực của hai gã đó ngược trở lại.
Hai gã phiên tăng cùng kêu lên:
– A mễ a mễ hống, A mễ a mễ hống!
Nghe như câu niệm chú hoặc như một câu chửi rủa. Triệu Mẫn cũng không chịu kém, kêu to:
– Ngươi mới là A mễ a mễ hống!
Hai gã phiên tăng phải thối lui liền ba bước, hai phiên tăng ở phía sau liền giơ lòng bàn tay phải đỡ vào lưng hai gã đầu, đẩy chúng về phía trước. Hai gã phiên tăng ở phía trước vẫn không đổi chiêu, tiếp tục dùng “Bài sơn chưởng” đẩy ra. Trương Vô Kỵ không muốn dùng ngạnh công chống chọi với họ để khỏi hao phí chân lực; mà sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di” hóa giải kình lực của hai phiên tăng, ngờ đâu ngón tay chàng vừa chạm mép bàn tay họ thì như sắt gặp nam châm, liền bị dính chặt vào tay họ. Hai gã phiên tăng lại kêu:
– A mễ a mễ hống! A mễ a mễ hống!
Trương Vô Kỵ giựt tay ra hai lần không thoát, đành vận “Cửu dương thần công” phản kích.
Song lần này chàng không đẩy hai phiên tăng ra; chỉ thấy hai mươi hai phiên tăng khác phía sau xếp thành hai hàng, mỗi gã đều giơ hữu chưởng đặt vào lưng gã đằng trước. Hai mươi tư phiên tăng xếp thành hai hàng. Trương Vô Kỵ chợt nhớ lại: “Từng nghe thái sư phụ kể rằng ở Thiên Trúc có môn võ gọi là “Tính thể liên công”; hai mươi tư phiên tăng này hợp lực đối chưởng với ta, nội lực của ta dẫu mạnh đến mấy, cũng không thể địch nổi hợp lực của chúng”.
Chàng sợ còn có thêm truy binh khác đuổi tới, bèn hú lên một tiếng, tăng thêm ba thành kình lực vào tay, đột nhiên đẩy xéo sang một bên, thân hình né qua bên trái, khiến cho lực đạo của hai mươi tư phiên tăng không còn đẩy thành một đường thẳng nữa; sáu phiên tăng đằng trước không kịp giữ chân lại, thân hình đổ nhào về phía trước. Trương Vô Kỵ hai tay liên tiếp đánh ra, bốp bốp liền sáu tiếng, cả sáu gã đều ngã xuống đất, mồm hộc máu. Vậy mà hai tên phiên tăng thứ bảy, thứ tám còn xông tới múa chưởng đánh ra.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Bộ các ngươi muốn chết cả sao?” Hữu chưởng liền đẩy ra chống lại hai chưởng của hai phiên tăng kia, vận sức một chút, đang định đẩy xéo đi, bỗng nghe tiếng chân bước rất nhẹ tới phía sau, có kẻ đã vung chưởng đánh tới. Chàng dùng tay trái phẩy ngược ra đằng sau, định hóa giải chưởng lực của địch, thế nhưng tâm pháp “Càn khôn đại na di” của chàng hoàn toàn lấy “Cửu dương thần công” làm gốc, lúc này bao nhiêu hơi sức chàng đều dồn ra đối phó với hợp lực của hai mươi tư phiên tăng; nên chưởng đánh về sau chỉ bằng hai thành lúc bình thường. Chỉ cảm thấy một luồng khí âm hàn từ bàn tay trái chạy lên, toàn thân lập tức run rẩy, người lảo đảo, ngã xuống. Thì ra đó là Lộc Trượng Khách vừa dùng Huyền Minh thần chưởng đánh lén chàng.
Triệu Mẫn kinh hoàng kêu lên:
– Lộc tiên sinh, dừng tay!
Nàng nhào tới, lấy thân mình che cho Trương Vô Kỵ, quát to:
– Còn kẻ nào dám động thủ nữa thì bảo?
Lộc Trượng Khách đang định giáng thêm một chưởng để lấy mạng kình địch số một trên đời, nhưng thấy quận chúa che đỡ như thế, đành phải lui ra. Lão hú một tiếng dài, báo tin đã chiến thắng, gọi đồng bọn mau tới, rồi nói:
– Quận chúa nương nương, vương gia chỉ mong quận chúa về phủ, chứ không có ý gì khác. Tên này là kẻ phản nghịch hết sức ghê gớm, sao quận chúa lại phải khổ như vậy?
Triệu Mẫn đau đớn, chỉ muốn chửi mắng lão ta một phen, nhưng nghĩ lại, nếu làm cho lão ta tức giận, lão ta có thể giết chết Trương Vô Kỵ, nàng bèn cố nhịn, bậm môi đỡ chàng dậy.
Lát sau, có tiếng nhạc ngựa vang lên, có ba người cưỡi ngựa từ sơn đạo chạy tới, một người là Hạc Bút Ông, một người là Vương Bảo Bảo, người cuối cùng chính là Nhữ Dương Vương thân chinh tới xem xét. Ba người tới nơi, nhảy xuống ngựa, Nhữ Dương Vương cau mày, hỏi:
– Triệu Mẫn, con sao thế? Cớ gì không vâng lời anh con, lại ở đây quấy rối là thế nào?
Triệu Mẫn rưng rưng nước mắt, nói:
– Cha, sao cha lại để cho kẻ khác hiếp đáp con như vậy?
Nhữ Dương Vương bước tới vài bước, giơ tay định kéo nàng, thì Triệu Mẫn đã thò tay vào bọc rút ra một con dao găm sáng loáng, chĩa vào ngực, nói:
– Cha, nếu cha không đáp lời con, thì hôm nay con đành chết trước mặt cha.
Nhữ Dương Vương hoảng hốt lùi lại hai bước, run giọng hỏi:
– Ấy, có gì cứ nói, chứ đừng làm thế! Con… con muốn gì nào?
Triệu Mẫn kéo áo, gỡ băng vải ở vai phải, để lộ năm lỗ ngón tay, lúc này chất độc đã hết, nhưng vết thương chưa lành, máu thịt bầy nhầy trông mà ghê. Nhữ Dương Vương thấy vết thương nặng như thế, xót xa thương con, cứ luôn miệng hỏi:
– Trời ơi, sao đến nỗi thế? Sao con bị thương thế này?
Triệu Mẫn chỉ Lộc Trượng Khách, nói:
– Gã đó có dã tâm, gã muốn gian dâm nữ nhi, con thà chết không chịu. Gã… gã… liền chộp vào con như thế đấy, xin cha… cha phân xử cho.
Lộc Trượng Khách sợ hết hồn, vội nói:
– Tiểu nhân to gan đến mấy cũng không dám, làm sao… sao có chuyện đó được?
Nhữ Dương Vương quắc mắt nhìn lão ta, hừ một tiếng, nói:
– Ngươi quả là lớn mật! Chuyện Hàn cơ, ta đã rộng lượng không tra cứu, bây giờ ngươi lại dám mạo phạm con gái ta. Bắt lấy hắn!
Lúc này các võ sĩ theo hầu Nhữ Dương Vương đã tới đủ, nghe vương gia hạ lệnh bắt người, tuy biết Lộc Trượng Khách võ công lợi hại, song cũng có bốn võ sĩ xông lên. Lộc Trượng Khách vừa hoảng vừa tức, nghĩ bụng: “Cha con người ta cốt nhục tình thâm, quận chúa giận mình đả thương tình lang của nàng ta, nên vu vạ cho mình. Cổ nhân có câu “Sơ bất gián thân”[127]; quận chúa lại ngụy kế đa đoan, mình cãi lại sao nổi?” Bèn vung chưởng đẩy lùi bốn vệ sĩ, thở dài, nói:
– Sư đệ, mình đi thôi!
Hạc Bút Ông còn chần chừ, Triệu Mẫn liền nói:
– Hạc tiên sinh, tiên sinh là người tốt, không phải hạng hiếu sắc như sư huynh, hãy mau bắt sư huynh lại, cha ta sẽ thăng chức cho tiên sinh làm đại quan, trọng thưởng thật hậu.
Huyền Minh nhị lão võ công trác tuyệt, chỉ vì ham lợi lộc công danh mà chịu đầu thân đệ nhất cao thủ của mình vào vương phủ cho người ta sai khiến. Hạc Bút Ông vốn biết sư huynh tham dâm hiếu sắc, nghe Triệu Mẫn nói cũng tin đến bảy, tám phần; việc thăng thưởng quan tước cũng khiến lão động tâm, có điều lão với Lộc Trượng Khách là đồng môn chí thân, nên không nỡ ra tay, nhất thời còn do dự.
Lộc Trượng Khách tái mặt, run run nói:
– Sư đệ, nếu muốn thăng quan phát tài, thì cứ đến bắt ta đi!
Hạc Bút Ông thở dài:
– Sư ca, thôi mình đi vậy!
Đoạn sánh vai cùng Lộc Trượng Khách mà đi.
Huyền Minh nhị lão uy chấn kinh sư, các võ sĩ trong phủ Nhữ Dương Vương coi họ như người nhà trời, ai dám đứng ra ngăn cản? Nhữ Dương Vương liên tiếp quát tháo, song các võ sĩ chỉ hư trương thanh thế, giả bộ hùng hổ, đành để Huyền Minh nhị lão đi xuống núi.
Nhữ Dương Vương nói:
– Mẫn Mẫn, con đã bị thương, mau theo cha về để chữa trị.
Triệu Mẫn chỉ Trương Vô Kỵ nói:
– Vị công tử này thấy Lộc Trượng Khách ăn hiếp con nên bất bình, ra tay cứu giúp, ca ca không rõ nguồn cơn, lại bảo chàng là quân phản tặc đại nghịch. Cha ơi, con có một việc hệ trọng cần theo Trương công tử đi làm, bao giờ xong con sẽ cùng chàng quay về bái kiến cha.
Nhữ Dương Vương nghe nàng nói, thấy ý nàng muốn sánh duyên với gã trai kia, nghe con trai ông nói, thì gã là giáo chủ Minh giáo. Phen này ông rời kinh đô xuống phương nam cũng là để điều binh khiển tướng đối phó với bọn phản tặc Minh giáo suốt một dải Hoài Tứ, Dự Ngạc, lẽ nào lại để cho con gái đi theo gã kia. Ông bèn hỏi:
– Anh con bảo người này là giáo chủ Ma giáo, chẳng lẽ không phải thế?
Triệu Mẫn đáp:
– Anh con nói đùa đấy. Cha xem, chàng ta được bao nhiêu tuổi mà có thể cầm đầu bọn phản tặc?
Nhữ Dương Vương nhìn kỹ Trương Vô Kỵ, thấy chàng chỉ độ hăm mốt, hăm hai tuổi, sau khi bị thương mặt mày tiều tụy, không có vẻ gì là anh tuấn siêu quần, càng không giống một người thống lĩnh mấy chục vạn quân. Nhưng ông biết con gái mình giảo hoạt, túc trí đa mưu, lại nghĩ Minh giáo là họa lớn của quốc gia, nếu gã trai kia không phải là giáo chủ, ắt cũng là một nhân vật trọng yếu của Ma giáo, không thể thả đi được, bèn nói:
– Cứ đưa y vào thành, rồi tra xét sau. Nếu y không phải kẻ theo Ma giáo, ta sẽ còn ban thưởng cho y.
Ông nói vậy đã là giữ thể diện cho con gái, cốt để nàng không thể làm nũng trước mặt mọi người.
Bốn tên võ sĩ vâng lệnh tới gần. Triệu Mẫn khóc, nói:
– Cha, cha quả thật định bức tử con hay sao?
Nói rồi ấn luôn mũi dao vào ngực đến nửa tấc, máu tươi lập tức thấm đỏ một mảng áo. Nhữ Dương Vương sợ hãi, nói:
– Mẫn Mẫn, không được làm bậy!
Triệu Mẫn lại khóc, nói:
– Cha ơi, đứa con gái bất hiếu của cha đã lén làm vợ Trương công tử. Cha cứ coi như không có đứa con này mà tha cho con đi. Bằng không thì con đành chết ngay trước mặt cha cho xong.
Nhữ Dương Vương tay trái cứ vò vò hàm râu, trên trán lấm tấm mồ hôi lạnh. Ông điều binh khiển tướng, giữa trận tiền xông pha chỉ một lời đã quyết, vậy mà hôm nay gặp phải chuyện khó xử của đứa con gái yêu, ông lại đành bó tay.
Vương Bảo Bảo nói:
– Hiền muội, muội và Trương công tử đều bị thương, cứ tạm theo cha về phủ, gọi danh y chữa trị, sau đó cha sẽ chủ trì hôn phối cho muội. Cha có được một chàng con rể tài ba, huynh cũng có một đứa em rể anh hùng, còn gì tốt bằng?
Vương Bảo Bảo nói thật ngọt ngào, nhưng Triệu Mẫn thừa biết đó chỉ là kế hoãn binh. Trương Vô Kỵ mà rơi vào tay Vương Bảo Bảo, còn gì mạng sống, chỉ phút chốc sẽ bị đem ra xử tử liền. Nàng bèn nói:
– Cha ơi, sự đã rồi, con lấy ai thì phải theo chồng, dù sống hay chết, con cũng sẽ theo Trương công tử. Cha và anh có mưu kế gì đều không giấu được con đâu, chỉ uổng công mà thôi. Hiện tại chỉ có hai đường, nếu cha chịu tha mạng cho con, thì con được nhờ; còn nếu cha muốn con chết, thì quá dễ, cha khỏi phí hơi sức.
Nhữ Dương Vương tức giận nói:
– Mẫn Mẫn, con nên suy nghĩ cho kỹ. Nếu con đi theo tên phản tặc kia, từ rày sẽ không còn là con ta nữa.
Triệu Mẫn lòng đau như cắt, thực không thể nào bỏ cha và anh, nghĩ bình thời phụ huynh vẫn cưng chiều nàng biết chừng nào. Nhưng chỉ cần nàng chần chừ, thì tính mạng Trương Vô Kỵ khó toàn, hiện thời phải cứu tình lang trước, ngày sau sẽ xin cha anh lượng thứ, bèn nói:
– Gia gia, ca ca, tất cả đều là do Mẫn Mẫn không ra gì, cha… cha và anh hãy tha tội cho.
Nhữ Dương Vương thấy con gái không đổi ý, ân hận là mọi khi nuông chiều nàng quá đỗi, để cho nàng tùy tiện hành tẩu giang hồ, nên mới đến cơ sự này. Ông cũng biết tính nàng bướng bỉnh từ nhỏ, nếu như ép buộc, ắt nàng sẽ tự đâm vào ngực mà chết, ông đành thở dài não nuột, ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:
– Mẫn Mẫn, nhớ bảo trọng, cha đi đây… con… con phải cố giữ gìn.
Triệu Mẫn gật đầu, không dám nhìn cha thêm nữa.
Nhữ Dương Vương quay người chậm rãi đi xuống núi. Tả hữu dắt ngựa lại, ông làm như không thấy, không nhảy lên ngựa, đi bộ hơn chục trượng rồi, ông đột nhiên quay lại hỏi:
– Mẫn Mẫn, vết thương của con không sao chứ? Trong người có mang tiền không?
Triệu Mẫn nuốt lệ gật đầu.
Nhữ Dương Vương nói với tả hữu:
– Đem hai con ngựa của ta cho quận chúa.
Vệ sĩ vâng lệnh, dắt ngựa lại chỗ Triệu Mẫn, rồi đi theo Nhữ Dương Vương xuống núi. Sáu gã phiên tăng ngã gục dưới đất, không thể tự đứng dậy nổi; bọn phiên tăng còn lại phải hai người đỡ một gã, dìu nhau đi xuống sau.
Chẳng mấy chốc, ai nấy đã đi cả, chỉ còn lại Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn mà thôi.