Đoàn Dự mê đi không biết đã bao lâu. Lúc chàng hồi tỉnh, giương mắt lên nhìn thì vật đầu tiên nhìn thấy là nóc màn, nhận ra mình đang nằm trên giường có đầy đủ chăn gối. Thần trí chàng chưa hoàn toàn tỉnh táo, ngẫm nghĩ một lúc mới nhớ ra mình bị Cưu Ma Trí ám toán, không hiểu tại sao bây giờ lại nằm trên giường. Chàng nghĩ mãi không ra, cảm thấy khát nước như cháy họng, đã toan ngồi dậy, nhưng vừa nhúc nhích thì trước ngực lại đau nhói không chịu nổi phải la lên một tiếng.
Bên ngoài có tiếng reo: “Đoàn công tử tỉnh lại rồi! Đoàn công tử tỉnh lại rồi!” Thanh âm này là của một thiếu nữ đầy vẻ mừng vui. Đoàn Dự nghe rất quen tai, chàng đang ngẫm nghĩ cố nhớ xem người nói là ai, thì thấy một thiếu nữ áo xanh bước vội vào.
Thiếu nữ này mặt tròn trĩnh, má lúm đồng tiền, chính là người mà chàng đã gặp mấy năm trước trong đại sảnh trên Vô Lượng Cung, tên gọi Chung Linh.
Phụ thân nàng là Kiến nhân tựu sát Chung Vạn Cừu đã kết mối thâm thù với phụ thân Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, lúc nào cũng toan bày kế để hại ông. Nhưng lúc Đoàn Dự ở trong thạch thất đi ra, tay chàng lại đang bồng Chung Linh áo quần xốc xếch. Chung Vạn Cừu định hại người mà hóa ra tự hại mình, tức chết đi được. Giữa lúc mọi người cố níu kéo lẫn nhau trong địa đạo ở Vạn Kiếp Cốc, Đoàn Dự trong lúc mơ màng đã hấp thu không ít nội lực của họ, rồi sau đó không lâu lại bị Cưu Ma Trí bắt đến Trung Nguyên. Mấy năm trước Đoàn Dự và Chung Linh tạm biệt, ngờ đâu đến bây giờ mới gặp lại nhau.
Mục quang của hai người vừa chạm nhau, mặt Chung Linh bỗng ửng hồng, tựa như cười mà không phải cười, cất tiếng hỏi: “Huynh đã sớm quên muội rồi ư? Có còn nhớ tên muội chăng?”
Đoàn Dự sực nhớ lại bức họa sống động lúc nàng ngồi vắt vẻo trên xà nhà, hai chân buông thõng đưa đi đưa lại, miệng cắn hạt dưa. Nhưng hôm đó nàng đi đôi giày xanh biếc, trên mũi giày có thêu hoa vàng, mà lúc này lại đi đôi giày khác. Bất giác chàng buột miệng hỏi:”Đôi giày thêu hòa vàng ngày trước của cô nương đâu?”
Chung Linh đỏ mặt lên mừng rỡ, mỉm cười đáp:”Huynh vẫn còn nhớ cả chuyện ấy ư? Thế là huynh… huynh chưa quên ta.” Đoàn Dự lại cười hỏi:”Sao bây giờ cô nương không cắn hạt dưa?” Chung Linh đáp: “Hay nhỉ! Mấy bữa nay người ta phải chầu chực huynh dưỡng thương, lo lắng muốn chết, tâm trí đâu mà cắn hạt dưa?” Câu “lo lắng muốn chết” vừa ra khỏi miệng, nàng biết mình tự thổ lộ tâm tình, bất giác thẹn đỏ mặt lên.
Đoàn Dự sửng sốt, chăm chú nhìn nàng hồi lâu, chợt nghĩ tới chuyện trước kia nàng suýt là vợ mình, bây giờ lại biến thành muội muội, bất giác thở dài rồi hỏi: “Hảo muội tử! Tại sao muội lại ở đây?” Chung Linh lại đỏ mặt lên, đôi mắt long lanh chiếu ra những tia sáng vui mừng, khẽ đáp: “Hôm đó huynh đi khỏi Vạn Kiếp Cốc rồi, không thèm đến thăm muội lần nào, muội giận huynh lắm.” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao lại giận ta?” Chung Linh lườm chàng một cái rồi đáp: “Giận huynh đã quên người ta rồi.”
Đoàn Dự thấy ánh mắt cộ nàng đầy vẻ chân tình, trong lòng xúc động khẽ gọi: “Hảọ muội tử!” Chung Linh nửa như giận nửa như cười, đáp: “Gọi thì nghe thân thiết lắm, thế mà không tới thăm muội lần nào. Khi đó muội giận lắm, mới qua Trấn Nam Vương phủ hỏi dò, biết huynh bị một tên ác hòa thượng bắt đi. Muội… muội lo lắng vô cùng, bèn quyết đi tìm huynh.”
Đoàn Dự nói: “Mẫu thân của muội chưa kể cho muội nghe chuyện của người với gia gia ta hay sao?” Chung Linh đáp: “Chuyện gì mà kể? Hôm đó cha con huynh đi rồi, mẫu thân của muội ngất xỉu, rồi sau thành bệnh, lần nào gặp muội cũng chảy nước mắt. Muội cũng cố hỏi tại sao, nhưng mẫu thân không thèm nói một tiếng.”
Đoàn Dự nói: “Ối chao! Mẫu thân không chịu nói, thì… thì muội làm sao mà biết được?” Chung Linh hỏi lại: “Biết chuyện gì mới được chứ?” Đoàn Dự ấp úng đáp: “Biết ta là… ta là…”
Mặt Chung Linh đỏ bừng lên, cúi đầu xuống không dám nhìn chàng, thì thầm: “Muội mà không biết ư? Hôm đó huynh bồng muội từ thạch thất ra, bỗng nhiên muội thấy rất nhiều người, vừa hoảng sợ vừa xấu hổ phải nhắm mắt lại, nhưng gia gia huynh nói gì thì muội… muội nghe rất rõ ràng.”
Nàng và Đoàn Dự cùng nhớ đến lúc ra khỏi căn phòng đá, Đoàn Chính Thuần đã nói với Chung Vạn Cừu như sau: “Lệnh ái ở trong thạch thất cùng Dự nhi bầu bạn mấy ngày mấy đêm. Cô nam quả nữ, quần áo xốc xếch, cùng ở trong căn phòng tối thế này thì lắm trò hay ho, làm gì còn trong trắng cho nổi? Con ta là Thế tử của Trấn Nam Vương, tuy chưa chắc đã lấy con gái Cốc chủ làm chính phi được, song làm trai năm thê bảy thiếp vẫn được chứ sao? Tại hạ với Cốc chủ thế cũng là chỗ thông gia rồi còn gì?”
Đoàn Dự thấy đôi má nàng đỏ như mận chín, cũng ngượng ngùng nói: “Hảo muội tử… Thì ra muội còn chưa biết nguyên do bên trong. Hảo muội tử, như thế… như thế không được đâu…” Chung Linh vội xen vào: “Mộc tỉ tỉ không chịu phải không? Mộc tỉ tỉ đâu rồi?” Đoàn Dự đáp: “Không phải thế. Cô ấy… cô ấy cũng là…” Chung Linh mỉm cười đáp: “Gia gia huynh đã nói làm trai năm thê bảy thiếp gì gì đó, đâu phải là muội không chịu nhường nhịn tỉ ấy? Mộc tỉ tỉ hung hãn như vậy, làm sao muội tranh giành cho nổi?” Nàng nói xong, thè lưỡi ra vẻ sợ hãi.
Đoàn Dự thấy nàng cực kỳ ngây thơ khả ái, chợt thấy trong lòng đau nhói. Lúc này chàng thấy chưa tiện mà cũng chưa nỡ nói ra sự thật, bèn kiếm chuyện khác hỏi: “Thế sao muội lại đến đây?” Chung Linh đáp: “Muội đi tìm huynh khắp Trung Nguyên, tìm từ đông sang tây cũng chẳng nghe được chút tin tức nào. May mà mấy hôm trước đây, muội gặp đồ đệ của huynh là Nhạc Lão Tam, nghe lão đang nói chuyện với người ta là phen này anh hùng hảo hán khắp nơi đều tụ hội tại chùa Thiếu Lâm, sẽ có một trường náo nhiệt, lão cũng phải đến. Còn gã ác nhân Vân Trung Hạc lại trêu chọc lão, nói là lão mong nhớ sư phụ mà đi tìm gặp. Nhạc Lão Tam nổi trận lôi đình, tuyên bố hễ lão gặp huynh là vặn cổ gãy kêu cắc ngay. Muội vừa mừng vừa lo, lén lút đi theo đến đây, lại sợ Nhạc Lão Tam và Vân Trung Hạc nhìn thấy nên không dám theo quá gần. Muội đi lung tung dưới núi, gặp ai cũng hỏi thăm tin tức của huynh, chỉ muốn nhắn huynh phải cẩn thận đề phòng đồ đệ bẻ cổ. Muội thấy khu này có một căn nhà bỏ trống, không có ai ở, liền vào trú tạm.”
Đoàn Dự nghe nàng kể, lại thấy mặt nàng dày dạn phong sương thì thương cho cô bé vô tư vì tìm mình mà phải một mình lưu lạc giang hồ, hẳn đã chịu đắng cay không ít. Thật là tình ý của nàng đối với mình vô cùng tha thiết. Chàng không nhẫn nại được nữa, đưa tay ra cầm lấy tay nàng nói nhỏ: “Hảo muội tử! May sao ông trời còn thương, cho ta gặp được muội.”
Chung Linh mỉm cười đáp: “May sao ông trời có mắt, ta còn gặp được muội! Ha ha! Đây không phải là câu nói lấy lòng đấy chứ? Huynh đã gặp được muội, dĩ nhiên muội cũng gặp được huynh.” Nàng ngồi xuống bên giường rồi hỏi: “Huynh đến đây làm chi?”
Đoàn Dự giương to mắt lên nhìn nàng đáp: “Ta cũng đang muốn hỏi muội, vì sao ta lại đến đây? Ta chỉ nhớ mình bị một lão ác tăng ám toán, trước ngực trúng đao khí vô hình bị thương rất nặng, hôn mê, rồi sau không biết gì nữa.”
Chung Linh chau mày đáp: “Thế thì kỳ thật! Hôm qua vào lúc hoàng hôn, muội ra vườn nhổ rau về, xuống bếp rửa xong xuôi, đang sắp nấu ăn, bỗng nghe trong phòng có tiếng người rên rỉ. Muội sợ quá liền cầm con dao thái rau chạy lên phòng thì thấy có người nằm trên giường. Muội hỏi luôn mấy câu: “Ai đó? Ai đó?” nhưng không có tiếng đáp lại, liền nghĩ là người xấu, vung dao lên toan chém xuống. May mà… may mà huynh đang nằm ngửa, dao chém chưa tới nơi thì muội đã nhìn thấy mặt huynh rồi. Lúc đó muội suýt ngất đi, con dao rớt xuống hồi nào cũng không hay biết.” Nàng kể đến đây, vừa giơ tay lên khẽ vỗ vào ngực, tựa như nghĩ tới tình thế nguy hiểm lúc đó hãy còn khủng khiếp.
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Nơi đây cách chùa Thiếu Lâm không xa lắm. Chắc là sau khi mình bị thương thì có người đưa vào đây.”
Chung Linh lại nói: “Muội gọi huynh luôn mấy tiếng thì chỉ thấy rên hừ hừ mà không nói tiếng nào. Muội sờ vào áo huynh thấy có nhiều vết máu thì biết là huynh bị trọng thương, liền cởi áo ra để xem xét vết thương rồi băng bó hẳn hoi. Muội chờ lâu, lâu lắm, vẫn không thấy huynh tỉnh lại. Trời ơi! Muội vừa vui mừng lại vừa lo lắng, mà không biết phải làm gì.” Đoàn Dự nói: “Để cho muội phải lo lắng, huynh thật là áy náy!”
Chung Linh đột nhiên làm mặt giận, cất tiếng mắng: “Huynh không phải là người tốt. Nếu muội sớm biết huynh là hạng vô lương tâm, thì chẳng thèm nghĩ đến huynh làm gì. Bây giờ muội cũng không muốn nhìn, mặc kệ huynh sống hay chết cũng được.”
Đoàn Dự vội hỏi: “Tại sao lại thế? Sao muội lại giận ta?” Chung Linh hứ một tiếng, rồi tức tối đáp: “Huynh đã tự hiểu rồi, còn phải hỏi làm gì?” Đoàn Dự vội nói: “Ta… ta không biết thật. Hảo cô nương! Hảo muội tử! Muội nói cho ta nghe đi!” Chung Linh giậm chân đáp: “Thôi đi! Ai là hảo cô nương, hảo muội tử của huynh? Huynh nằm mơ đã nói những gì? Sao còn phải hỏi muội?” Đoàn Dự ôn tồn hỏi: “Ta nằm mơ đã nói những gì ư? Đó là những lời mê sảng trong cơn mộng mị, có chi là chuẩn xác? À, phải rồi! Chắc là ta nằm mộng thấy Linh muội, mừng quá rồi ăn nói lỗ mãng mà mạo phạm đến Linh muội chứ gì?”
Chung Linh đột nhiên sa nước mắt, hằn học đáp: “Đến bây giờ mà huynh còn định lừa gạt muội ư? Lúc nằm mơ huynh đã thấy gì?” Đoàn Dự thở dài nói: “Sau khi ta bị thương, mê man chẳng biết chi hết, thực tình không nhớ đã thấy những gì.” Chung Linh hỏi như quát lên: “Vương cô nương là ai? Vương cô nương là ai? Tại sao trong lúc mê man mà huynh cứ gọi Vương cô nương mãi thế?”
Đoàn Dự cảm thấy trước ngực đau nhói lên, hỏi lại: “Ta đã gọi Vương cô nương ư?” Chung Linh đáp: “Chứ còn gì nữa? Huynh nằm mê vẫn gọi đến tên nàng, hừ, thế là huynh tưởng nhớ đến nàng lắm chứ gì? Được rồi! Bây giờ huynh gọi Vương cô nương đến trông nom đi, muội không thèm ngó ngàng đến huynh nữa.” Đoàn Dự thở dài nói: “Trong lòng Vương cô nương không nghĩ gì đến ta đâu. Dù ta có nghĩ đến nàng cũng chỉ vô ích thôi.” Chung Linh hỏi: “Tại sao lại thế?” Đoàn Dự đáp: “Nàng chỉ say mê biểu huynh của nàng, đối với ta thì nàng chẳng để lọt vào mắt xanh.”
Chung Linh đổi giận làm mừng, cười nói: “Tạ ơn trời đất. Ác nhân tất hữu ác nhân trị.” Đoàn Dự hỏi: “Ta mà là ác nhân ư?” Chung Linh nghiêng đầu cho mái tóc xõa ra, cười nói: “Đồ đệ của huynh là Nhạc Lão Tam, một trong bốn tên đại ác. Đồ đệ đã là ác nhân thì sư phụ dĩ nhiên còn ác hơn nhiều.” Đoàn Dự cười hỏi: “Thế còn sư nương thì sao? Nhạc Lão Tam cũng cứ luôn mồm gọi muội là sư nương đấy thôi.” Chàng vừa nói xong, lại cảm thấy rất hối hận: “Sao ta lại đùa giỡn với muội tử của mình như thế?”
Chung Linh mặt đỏ lên, chúm môi thổi ra, dường như trong lòng rất cao hứng. Nàng đứng lên, chạy xuống bếp bưng lên một bát canh gà rồi nói: “Nồi canh này đã nấu nửa ngày trời để chờ huynh tỉnh lại, cứ phải để lửa hoài.” Đoàn Dự nói: “Ta không biết phải cảm ơn Linh muội như thế nào mới đủ!” Chàng thấy Chung Linh bưng bát canh vào, toan gượng ngồi dậy, nhưng vết thương nơi ngực đau quá không chịu được lại rên lên một tiếng.
Chung Linh vội nói:”Huynh đừng dậy nữa. Để muội đút canh cho ông nội của tiểu ác nhân.” Đoàn Dự bật cười hỏi: “Sao lại gọi huynh như thế?” Chung Linh cười đáp: “Huynh là sư phụ của ác nhân, thế chẳng phải ông nội của tiểu ác nhân là gì?” Đoàn Dự cười nói: “Thế thì Linh muội…” Chàng đang nói dở câu thì Chung Linh cầm thìa canh đưa tới trước mặt, làm mặt giận ngắt lời: “Huynh lại sắp nói nhăng gì đó? Muội lại đổ thìa canh nóng này vào mặt bây giờ.” Đoàn Dự thè lưỡi ra nói: “Không dám! Không dám! Nhưng tiểu ác nhân quả là lợi hại!” Chung Linh bật cười, suýt làm đổ chén canh gà xuống người Đoàn Dự. Nàng vội lấy lại binh tĩnh, từ từ đút canh cho chàng.
Đoàn Dự nuốt mấy thìa canh gà, chợt nhìn thấy vẻ mặt Chung Linh tươi như ánh nắng mai, trên mũi dọng mấy giọt mồ hôi lấm tấm. Đang tiết trời tháng sáu nóng bức, cánh tay nhỏ nhắn của Chung Linh thò ra ngoài tay áo, trắng trong như ngọc. Đoàn Dự mơ màng nghĩ bụng: “Giả tỉ lúc này Vương cô nương đút canh cho ta, thì dù ta có phải nát hết gan ruột cũng thấy cam lòng.”
Chung Linh thấy chàng ngẩn ngơ nhìn mình, hoàn toàn không biết chàng đang nghĩ đến người khác. Nàng vẫn tủm tỉm cười hỏi: “Nhìn gì mà nhìn lắm thế?” Đoàn Dự toan đáp, bỗng nghe tiếng kẹt cửa rồi có hai người tiến vào, là một chàng trai và một cô gái. Thiếu nữ lên tiếng: “Chúng mình hãy vào đây nghỉ một lúc.” Chàng trai đáp lại: “Được lắm! Tại hạ bắt cô nương phải mệt nhọc cõng trên lưng, thật là áy náy vô cùng!” Thiếu nữ nói: “Đừng rườm lời nữa.”
Đoàn Dự nghe thanh âm thì biết ngay đây là A Tử và Bang chủ Cái Bang là Trang Tụ Hiền. Chàng chưa chào hỏi A Tử lần nào, nhưng đã nghe bọn Chu Đan Thần nói cô nương này là con gái tư sinh của phụ thân mình, thì với mình cũng là anh em cùng cha khác mẹ. Cảm ơn trời đất, mình trước nay chưa có dính dáng gì tới cô ta. Cô muội tử này từ nhỏ đã theo Tinh Tú Lão Nhân học võ, bị tiêm nhiễm tính khí tà ác, hành sự bướng bỉnh. Chử Vạn Lý là một trong Tứ đại hộ vệ của Trấn Nam Vương phủ đã bị cô ta làm nhục mà chết. Đoàn Dự từ nhỏ đã thân thiết với Tứ đại hộ vệ Chử, Cổ, Phó, Chu, nghĩ tới cái chết của Chử Vạn Lý mà không muốn nhìn mặt cô em tàn ác bướng bỉnh này. Huống chi, hôm qua chàng đã giúp Tiêu Phong đánh Trang Tụ Hiền, lúc này mà để gã thấy mặt thì tính mạng khó mà đảm bảo. Đoàn Dự vội đưa ngón tay lên, ra hiệu cho Chung Linh phải im lặng.
Chung Linh gật gật đầu, tay vẫn cầm bát canh gà không dám đặt xuống bàn, sợ phát ra tiếng động lọt vào tai mấy người ngoài kia. Bỗng nghe phía ngoài A Tử cất tiếng gọi: “Có ai trong ấy không?” Chung Linh đưa mắt nhìn, thấy Đoàn Dự không trả lời thì nghĩ thầm: “Không chừng đây là Vương cô nương, cô nàng đang đi cùng biểu huynh nên Đoàn công tử không muốn gặp mặt.” Nàng rất muốn nhìn xem Vương cô nương nguyệt thẹn hoa nhường thế nào mà khiến cho Đoàn Dự phải điên đảo thần hồn nhưng lại không dám cử động. Nàng nghĩ: “Đoàn công tử mà thấy mặt Vương cô nương tất sẽ có chuyện không hay. Ta cứ để mặc cô nàng kêu gọi là hơn, chắc không thấy ai rồi sẽ cùng biểu huynh bỏ đi thôi.”
A Tử càng gọi lớn hơn: “Nhà này chết sạch rồi hay sao mà không thấy ai ra? Nếu không chịu ra, bản cô nương sẽ phóng hỏa đốt nhà!” Chung Linh nghĩ thầm: “Con nhãi Vương cô nương này hung dữ thật!” Bỗng Du Thản Chi khẽ nói: “Đừng lên tiếng! Lại có người đến!” A Tử hỏi: “Ai vậy? Bọn Cái Bang phải không?” Du Thản Chi đáp: “Có đến bốn năm người, chắc là bọn Cái Bang. Chúng ở phía này đi tới.” A Tử nói: “Mấy tên trưởng lão Cái Bang đã sinh lòng phản bội công tử. Nếu gặp bọn chúng thì hai ta đều nguy mất!” Du Thản Chi hỏi: “Bây giờ biết làm thế nào?” A Tử đáp: “Hãy vào trong ẩn nấp rồi sẽ tính. Công tử bị thương nặng lắm, không thể động thủ với chúng được đâu.”
Đoàn Dự thầm kêu khổ, vội vẫy tay ra hiệu cho Chung Linh tìm cách lẩn tránh. Nhưng đây chỉ là một căn nhà bé nhỏ thô sơ của nông phu, buồng trong rất hẹp, người ngoài vào tới nơi là nhìn thấy ngay, không có chỗ nào nấp được. Chung Linh nhìn khắp bốn phía, chưa biết ẩn vào đâu thì đã nghe tiếng bước chân, hai người ngoài nhà trước đang tiến lại phía cửa buồng. Nàng khẽ bảo Đoàn Dự: “Nấp vào dưới gầm lò sưởi vậy.” Rồi nàng không đợi trả lời, bế xốc chàng lên, cả hai chui vào gầm lò sưởi. Trên núi Thiếu Thất, từ tháng mười trở đi khí trời rất lạnh, cư dân ở đây phải đốt lò sưởi cho ấm. Hiện giờ đang giữa mùa hạ, lò sưởi để không, nhưng dưới gầm lò cũng đầy tro than. Đoàn Dự vừa chui vào, hít phải bụi than suýt nữa hắt hơi, phải cố nhịn.
Chung Linh để chàng tựa vào mình rồi nhìn ra ngoài, thì thấy đôi chân nhỏ đi giày bằng đoạn tía tiến vào phòng. Bỗng nghe chàng trai nói: “Hỡi ơi! Tại hạ bắt cô nương cõng trên lưng, chạy lui chạy tới như vậy thật là mạo phạm quá rồi.” Thiếu nữ nói: “Tình trạng của chúng ta hiện giờ đúng là người mù cõng người què, phải nương tựa vào nhau mà sống.” Chung Linh hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Té ra Vương cô nương là người mù. Cô nàng cõng biểu huynh trên lưng, nên mình không trông thấy chân của gã.” A Tử đặt Du Thản Chi xuống giường Rồi nói: “Ối chà! Cái giường này vừa có người nằm, hãy còn nóng hổi.”
Bỗng nghe đánh sầm một tiếng, cửa ngoài bị đạp tung ra rồi mấy người tiến vào. Một người lên giọng ồm ồm: “Trang Bang chủ! Đại sự trong bang còn chưa xong, Bang chủ đã vội bỏ đi là nghĩa làm sao?” Người này chính là Tống trưởng lão, lão dẫn hai tên đệ tử bảy túi, hai tên sáu túi đến vùng này tìm Du Thản Chi.
Lúc cha con họ Tiêu, cha con họ Mộ Dung, quần tăng chùa Thiếu Lâm cùng quần hùng Trung Nguyên ầm ập chạy lên chùa Thiếu Lâm rồi, bọn Cái Bang thấy hôm nay đã mất hết thể diện, nếu không gấp rút tìm biện pháp xử lý thì bang hội lớn nhất Trung Nguyên khó lòng còn đất đứng trong võ lâm. Họ thấy mối thù oán lâu năm giữa cha con họ Tiêu và Mộ Dung Bác không liên quan gì đến mình, nên không muốn nhúng tay vào. Tuy họ muốn phục thù trận đấu khẩu với Bao Bất Đồng, cũng muốn tìm Tiêu Phong, nhưng đành tạm thời gác lại để thương lượng kế hoạch về sau. Mọi người đều nhất trí là phải lập được một vị Bang chủ anh hùng để lãnh đạo công cuộc phục hưng danh dự cho Cái Bang. Lúc họ đi tìm Trang Tụ Hiền thì không biết trong lúc lộn xộn gã đã trốn đâu rồi. Quần cái nghĩ rằng hai chân y đã bị gãy, không thể chạy xa được, liền chia đi các ngả để tìm kiếm, cũng chưa tính đến chuyện sau khi gặp gã sẽ xử trí thế nào. Nhưng dù sao thì Trang Tụ Hiền cũng không thể tiếp tục làm Bang chủ Cái Bang được nữa, về điểm này quần cái đã chúng khẩu đồng từ, không ai dị nghị. Mọi người đều lớn tiếng kể tội hắn, nào là vứt bỏ danh dự Cái Bang mà đi bái Tinh Tú Lão Quái làm sư phụ, nào là đã giết huynh đệ bản bang, nhất định phải bắt về tính sổ. Toàn Quan Thanh thì trước đó đã bị Tống Ngô hai vị trưởng lão hợp lực bắt trói lại, chờ tìm được Trang Tụ Hiền sẽ xử lý luôn thể.
Tống trưởng lão dẫn bốn tên đệ tử đi về phía đông nam núi Thiếu Thất để tìm kiếm. Lão trông thấy từ dằng xa có bóng áo tía thấp thoáng tiến vào một căn nhà. Mọi người đuổi theo, nhìn rõ là A Tử, mà trên lưng nàng lại cõng một người hao hao giống Trang Tụ Hiền, liền rượt đến tận nơi, xông vào trong buồng thì quả nhiên thấy Trang Tụ Hiền cùng A Tử đang ngồi trên lò sưởi.
A Tử lạnh lùng đáp: “Tông trưởng lão! Trưởng lão vẫn xưng hô là Bang chủ, sao lại la gọi ầm ĩ, không giữ qui củ của thuộc hạ muốn yết kiến Bang chủ?” Tống trưởng lão ngẩn ra, biết lời nàng cũng có lý, liền đáp: “Bang chủ! Mấy ngàn huynh đệ bọn thuộc hạ đều đang ở trên núi Thiếu Thất, bây giờ phải đi theo ai? Xin Bang chủ chỉ thị cho!” Du Thản Chi đáp: “Các ngươi còn coi ta là Bang chủ nữa không, hay chỉ muốn tìm ta về để giết cho hả giận? Nếu thế thì ta không đi đâu.” Tống trưởng lão vẫy tay bảo mấy tên đệ tử: “Các ngươi mau đi báo cho huynh đệ bản bang biết là Bang chủ ở đây.” Bốn tên đệ tử “Vâng” rồi quay người toan đi. A Tử bỗng quát lên: “Hạ thủ!” Du Thản Chỉ lập tức phóng chưởng. Chung Linh cùng Đoàn Dự ở dưới gầm lò sưởi, bỗng thấy trong phòng nổi lên một luồng gió lạnh thấu xương, bốn tên đệ tử Cái Bang không kịp la một tiếng đã chết lăn dưới đất. Tống trưởng lão vừa kinh hãi vừa tức giận, đưa tay lên trước ngực thủ thế rồi nói: “Ngươi… ngươi… Đối với huynh đệ trong bang mà ngươi lại tàn nhẫn đến thế ư?” A Tử nói: “Giết lão để bịt miệng.” Du Thản Chi lại phóng chưởng đánh ra. Tống trưởng lão giơ chưởng lên đỡ, chỉ thấy người lão bị hất tung ra ngoài, đâm vào cánh cửa nghe “sầm” một tiếng.
A Tử cười khanh khách nói: “Lão già này không sống được nữa rồi! Công tử có đói không? Chúng ta đi kiếm cái gì để ăn đã.” Nói xong, nàng cõng Du Thản Chi xuống bếp, đem cơm canh của Chung Linh đã nấu ra ăn.
Chung Linh ghé vào tai Đoàn Dự,nói thầm: “Hai đứa mặt dày kia ăn mất canh gà của muội nấu cho huynh rồi.” Đoàn Dự khẽ nói: “Bọn chúng thủ đoạn độc ác, cất tay là giết người. Khi chúng ăn xong chắc lại vào nhà, chúng ta nhân lúc này, theo cổng sau chuồn đi là hơn.” Chung Linh vốn không muốn để Đoàn Dự gặp Vương cô nương, nghe chàng nói vậy thì đúng là cầu còn chưa được.
Hai người nhẹ nhàng từ gầm lò sưởi chui ra. Chung Linh thấy Đoàn Dự mặt mũi lem luốc đầy tro bụi, không nín cười được phải giơ tay lên bịt miệng. Hai người ra khỏi cửa buồng, đi vòng ra cổng sau, bỗng dưng Đoàn Dự không nhịn được nữa, lên tiếng hắt hơi.
Du Thản Chi nghe tiếng, la lên: “Có người!” Chung Linh đưa mắt nhìn bốn mặt, không thấy chỗ nào trốn được, chỉ có kho củi đằng sau nhà bếp là kín đáo nhất, liền kéo Đoàn Dự vào nấp trong đống củi. A Tử cất tiếng hỏi: “Người nào thế? Là ma quỉ gì thì cũng chui ra đây mau!” Du Thản Chi nói: “Chắc hẳn là bọn nhà quê làm ruộng, ta bất tất phải để ý làm gì.” A Tử nói: “Sao lại không để ý? Công tử sơ sót như vậy là hay lỡ việc lắm đấy! Đừng có lên tiếng!” Từ khi A Tử bị đui mắt, thính giác nàng tinh tế hơn người, nghe có tiếng sột soạt liền nói: “Ở đây có người.”
Chung Linh bỗng thấy có giọt nước rơi vào má, giơ tay sờ thử thấy hơi đặc, mũi lại ngửi thấy mùi máu tanh, bất giác cả kinh hỏi: “Vết thương của huynh ra sao rồi?” Đoàn Dự khẽ nói: “Đừng lên tiếng!”
A Tử chỉ vào kho củi, kêu lên: “Ở hướng đó.” Du Thản Chi phóng chưởng nghe “vù” một tiếng, đánh vào kho củi. Những tiếng răng rắc vang lên, ván cửa vỡ nát, gỗ vụn và củi khô bay ra tứ tán.
Chung Linh la lên: “Đừng đánh! Đừng đánh! Để chúng ta ra!” Nàng dìu Đoàn Dự từ đống củi ra. Thì ra Đoàn Dự bị Cưu Ma Trí phóng Hỏa Diệm Đao trúng ngực, bị thương rất nặng. Chàng từ trên lò sưởi chui xuống gầm, rồi lại từ gầm lò sưởi chạy ra nấp trong kho củi, di chuyển mấy lần nên vết thương vỡ ra, máu tươi lại chảy. Lúc chàng chui từ trong đống củi ra, toàn thân bê bết máu tươi lẫn với tro than lem luốc, trông rất thảm hại.
A Tử hỏi: “Lại có thanh âm con bé nào thế?” Du Thản Chi đáp: “Có một chàng trai và một cô gái nấp trong đống củi. Chàng trai đầy mình những máu, còn cô gái thì đang trợn mắt lên nhìn cô nương.” A Tử từ khi bị đui mắt rất ghét ai nói đến tiếng “mắt”, nghe Du Thản Chi nói vậy liền động tâm, hỏi lại: “Con bé đó đang trợn mắt nhìn ta ư? Mắt nó có đẹp không?” Du Thản Chi không hiểu tâm sự nàng đang bực tức, liền đáp: “Người cô ta dơ dáy, chắc là con gái nhà nông. Nhưng mắt cô ta lại đen láy, linh hoạt vô cùng.” Chung Linh vừa nấp dưới gầm lò sưởi nên đầu tóc mặt mũi đều lem luốc, nhưng cặp mắt vẫn trong như nước hồ thu.
A Tử ghen tức, đột nhiên dã tâm nổi lên, nói: “Trang công tử, móc tròng mắt nó ra đi.” Du Thản Chi thất kinh hỏi: “Tại sao lại móc mắt cô ta?” A Tử liền nói: “Cặp mắt ta đã bị Đinh Lão Quái làm cho đui mù. Vậy công tử móc mắt con bé này mà lắp vào, cho ta được nhìn thấy ánh mặt trời. Như vậy chẳng tốt hay sao?”
Du Thản Chi ngấm ngầm kinh hãi, nghĩ thầm: “Giả tỉ nàng lại nhìn rõ, nàng sẽ thấy mình xấu như quỷ sứ, nhất định không thèm để ý đến mình nữa. Không chừng nàng nhận ra mình là Thiết Sửu thì lại cực kỳ rắc rối. Việc này vạn vạn lần không thể được.” Gã nghĩ vậy liền nói: “Giả tỉ tại hạ mà chữa được cặp mắt cho cô nương thì tốt quá rồi. Tại hạ chỉ sợ phương pháp này không thành công mà thôi.”
A Tử cũng biết rõ không thể móc mắt người khác mà lắp vào mắt mình để nhìn rõ được, nhưng sau khi nàng bị đui mù, trong lòng đầy oán hận, cứ muốn tất cả thiên hạ cũng dui mù như mình mới hả dạ. Nàng liền bảo: “Công tử cứ thử xem, không chừng được thì sao? Mau mau động thủ đi, móc mắt con bé đó ra!” A Tử cõng Du Thản Chi trên lưng, rảo bước tiến tới. Chung Linh nghe hai người đối đáp thì khiếp sợ vô cùng, vội bỏ chạy như điên, chớp mắt đã cách xa mười trượng. A Tử đã đui mắt lại cõng Du Thản Chi trên lưng, dĩ nhiên không thể đuổi kịp Chung Linh. Nàng không thấy gì, chỉ dùng tai nghe phương hướng, rất dễ lầm lẫn.
A Tử nghe tiếng chân Chung Linh đã đi xa, biết không đuổi kịp, bèn la lên: “Con nhãi kia đã chạy thoát, vậy bọn ta đánh chết thằng lỏi kia cũng được rồi!”
Chung Linh nghe thấy bất giác cả kinh, liền dừng chân quay đầu nhìn lại thì thấy Đoàn Dự nằm lăn dưới đất, bên mình chàng máu tươi đã chảy thành vũng. Nàng đành chạy trở lại quát lên: “Con mù kia! Mi dám sát hại chàng ư?” Lúc này nàng đứng đối diện với A Tử, nhìn rõ diện mạo cô này xinh đẹp, quả nhiên là một tiểu mỹ nhân. Nàng không hiểu tại sao người đẹp thế này mà lòng dạ lại tàn ác thế kia.
A Tử bỗng quát lên: “Điểm huyệt con bé này đi!” Du Thản Chi tuy không muốn, nhưng A Tử bảo gì thì gã không dám trái lệnh. Lúc gã còn ở phủ Nam Viện đại vương tại Nam Kinh nước Đại Liêu đã thế rồi, về sau làm Bang chủ Cái Bang cũng vẫn thế. Gã bèn giơ ngón tay ra điểm đánh “véo” một tiếng, Chung Linh ngã lăn ra đất.
Chung Linh la lên: “Vương cô nương! Cô nương dứt khoát không nên đả thương y. Lúc nằm mơ… y vẫn gọi tên cô nương đó! Đối với cô nương, y quả có chân tình một lòng một dạ.” A Tử lấy làm kỳ, hỏi: “Ngươi nói cái gì? Ai là Vương cô nương?” Chung Linh đáp: “Cô… cô không phải là Vương cô nương ư? Vậy cô là ai?”
A Tử tủm tỉm cười nói: “Lúc nãy ngươi thóa mạ ta là con mù. Bây giờ thì chính ngươi sắp mù lòa rồi, còn hỏi lăng nhăng gì nữa? Ta khuyên ngươi, trong lúc còn cặp mắt thì phải tranh thủ nhìn chung quanh càng nhiều càng tốt.” Rồi nàng đặt Du Thản Chi xuống đất, ra lệnh: “Móc mắt con bé kia đi!”
Du Thản Chi “Vâng” một tiếng rồi vươn tay ra nắm lấy đầu Chung Linh. Chung Linh hốt hoảng kêu rú lên: “Đừng móc mắt ta! Đừng móc mắt ta!”
Đoàn Dự nằm thẳng cẳng dưới đất, thần trí không tỉnh táo lắm, nhưng cũng biết rằng hai người kia đang định móc mắt Chung Linh để gắn cho A Tử. Chàng cũng biết Chung Linh đã thoát thân rồi, chỉ vì muốn cứu mình mà bị bắt, liền hít mạnh một hơị chân khí rồi la lên: “Các ngươi… móc luôn cả mắt ta đây nữa! Chúng ta là người một nhà… thêm vào càng tốt…”
A Tử không hiểu chàng nói gì, cũng không hỏi nữa, lên tiếng giục Du Thản Chi: “Sao ngươi chưa động thủ?” Du Thản Chi không biết làm gì hơn, lại “Vâng” một tiếng, rồi kéo Chung Linh lại gần, giơ ngón tay giữa ra toan móc mắt nàng.
***
Bỗng nghe thanh âm nữ nhân la lên: “Trời ơi! Các ngươi làm gì vậy?” Du Thản Chi ngẩng đầu lên, lập tức sắc mặt xám ngắt. Gã thấy dưới gốc cây liễu bên khe suối có hai chàng trai và bốn cô gái đang đi tới. Hai chàng trai là Tiêu Phong và Hư Trúc. Còn bốn cô gái là Tứ kiếm: Mai, Lan, Cúc, Trúc.
Tiêu Phong nhanh mắt, vừa nhìn đã thấy ngay Đoàn Dự nằm dưới đất. Chàng vội nhảy vọt tới bế Đoàn Dự lên, chau mày nói: “Vết thương lại vỡ, ra nhiều máu lắm!”. Tiêu Phong quì chân trái xuống, để người chàng dựa lên đùi mình, xem xét vết thương. Hư Trúc chạy lại gần nhìn rồi nói: “Đại ca bất tất phải hoang mang. Tiểu đệ có Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn, trị thương rất linh nghiệm.” Hư Trúc nói xong, giơ tay ra điểm vào vết thương Đoàn Dự để cầm máu, rồi lấy Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn cho chàng uống.
Đoàn Dự khẽ gọi: “Đại ca! Nhị ca! Đừng… đừng để chúng móc mắt Chung cô nương! Chung cô nương là hảo muội tử của… của đệ.” Tiêu Phong và Hư Trúc đồng thời quay nhìn Du Thản Chi, gã này trong lòng sợ hãi, đang nắm đầu Chung Linh vội buông ra.
A Tử nhận ra thanh âm của Tiêu Phong, liền hỏi: “Tỉ phu! Tỉ tỉ lúc lâm tử đã dặn tỉ phu những gì? Tỉ phu đã đánh chết tỉ tỉ, mà cả những lời tỉ tỉ dặn dò cũng quên hết rồi sao?” Tiêu Phong nghe A Tử nhắc đến A Châu thì vừa thương tâm vừa oán hận, chàng hắng giọng một tiếng chứ không trả lời. A Tử lại nói: “Tỉ phu chẳng chiếu cố gì đến muội. Đinh Lão Quái làm muội đui mắt, tỉ phu cũng chẳng quan tâm. Tỉ phu! Ai cũng bảo tỉ phu là đệ nhất anh hùng trong thiên hạ, thế mà chẳng bảo vệ được cho đứa em bé nhỏ. Chẳng lẽ tỉ phu không có bản lĩnh đáng kể chăng? Hừ! Đinh Lão Quái rõ ràng không địch nổi tỉ phu kia mà? Có điều tỉ phu chẳng muốn quan tâm chiếu cố đến muội mà thôi.”
Tiêu Phong nói: “Ngươi đột nhiên không từ biệt bỏ đi thì ta biết là ngươi đi đâu? Nhưng cặp mắt ngươi đã mù, mà ta bảo vệ không chu toàn, thì cũng không phải với ngươi.”
Lúc đầu Tiêu Phong thấy A Tử tàn ác sai người móc mắt Chung Linh thì trong lòng tức giận vô cùng, nhưng thấy cặp mắt nàng lờ đờ, lại nhớ ngay tới lời dặn của A Châu lúc lâm tử mà không bao giờ chàng quên được. Thảm kịch trong dĩ vãng lại hiện ra trước mắt. Hôm ấy trời mưa to gió lớn, A Châu bị chàng đánh lầm một đòn chí mạng bên cây cầu đá xanh. Nàng đã dặn: “Tiểu muội chỉ có một đứa em cùng cha khác mẹ, từ thuở nhỏ hai chị em không được ở với nhau, khẩn cầu Kiều ca ca chiếu cố cho nó. Tiểu muội vẫn lo lắng là nó đi nhầm đường.” Chàng đã đáp: “Đừng nói một điều, cho dù cả trăm ngàn điều, tiểu huynh cũng ưng chịu.” Thế mà A Tử suốt đời đi theo tà đạo, lại hỏng cả hai mắt rồi. Chàng lẩm bẩm: “Bất luận nó làm nên tội vạ gì, mà mình không bảo vệ được chu đáo, thì cũng là không giữ lời hứa với A Châu” Tiêu Phong nghĩ tới đây, trong lòng chua xót, nét mặt dịu lại.
A Tử tuy không nhìn thấy mặt Tiêu Phong, nhưng nàng hiểu rất rõ, chỉ cần nhắc đến A Châu thì dù việc khó đến đâu, chàng cũng thuận theo. Nàng căm hận Chung Linh mắng mình là “con mù” bèn rủa thầm: “Ta phải cho mi nếm mùi vị đui mù mới được.” Nàng liền làm mặt buồn rười rượi, thở dài, nhìn Tiêu Phong nói: “Tỉ phu ơi! Mắt tiểu muội đui mù rồi, chẳng nhìn thấy gì hết, thà chết đi còn hơn.”
Tiêu Phong an ủi nàng: “Ngươi hãy theo gia gia quay về Đại Lý. Vương phủ cực kỳ phú quý, có trăm ngàn kẻ hầu người hạ, thì dù ngươi đui mắt cũng không đến nỗi khó chịu cho lắm.” A Tử nói: “Mẫu thân tiểu muội không phải là Vương phi thật sự. Tiểu muội về Đại Lý, không chừng lại gặp những chuyện bất ngờ phiền phức. Huống chi muội đã đui mù, khó mà đề phòng được kẻ khác âm mưu ám hại.” Tiêu Phong thấy nàng nói cũng có lý, liền bảo: “Vậy ngươi theo ta về Nam Kinh để ta phái người phục thị, thì chẳng còn lo gì nữa. Như thế không tốt hơn là trôi nổi trên chốn giang hồ nguy hiểm sao?” A Tử nói: “Lại trở về Vương phủ của tỉ phu ư? Trời ơi! Trước kia, tiểu muội chưa bị đui mắt mà còn buồn đến sinh bệnh, bây giờ còn về đó làm chi nữa? Tỉ phu lại chẳng giống như Trang Bang chủ nhất nhất nghe lời tiểu muội. Tiểu muội thà phiêu bạt giang hồ điên đảo, còn có được một chút sinh thú.”
Tiêu Phong liếc nhìn Du Thản Chi, nghĩ bụng: “Mình chẳng nên dây vào việc này nữa. Xem chừng A Tử thân thiết với tên Trang Bang chủ Cái Bang lắm rồi.” Chàng chợt cảm thấy chán ghét Du Thản Chi, nhìn ra phía khác rồi hỏi: “Ngươi đã hỏi rõ lai lịch của Trang huynh chưa?” A Tử đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội đã hỏi rồi. Nhưng nghe người ta tự kể lai lịch mình thì chưa chắc đã tin hoàn toàn được. Trước kia tỉ phu làm Bang chủ Cái Bang, có chịu nói cho người ta biết mình là người Khất Đan không?”
Tiêu Phong thấy nàng cứ mở miệng là châm chọc mình thì rất khó chịu, đằng hắng một tiếng rồi không nói gì nữa. Chàng chưa quyết định được là có nên bỏ mặc cho A Tử đi theo Trang Tụ Hiền hay không.
A Tử lại hỏi: “Tỉ phu! Tỉ phu không chiếu cố gì đến tiểu muội nữa ư?” Tiêu Phong chau mày hỏi lại: “Ngươi muốn ta làm gì bây giờ?” A Tử đáp: “Việc này dễ lắm! Tỉ phu móc cặp mắt con bé kia, gắn vào cho tiểu muội.” Ngừng một lát nàng nói tiếp: “Trang Bang chủ đã nghe lời tiểu muội, chịu làm việc này. Nếu tỉ phu không đến phá đám thì đã xong xuôi rồi. Hừ! Tiểu muội biết tỉ phu đối với tiểu muội rất tốt. Trước kia, tỉ phu bế tiểu muội ra Quan Đông để chữa thương, ngày ấy tiểu muội bảo gì, tiểu phu cũng chiều ý mà làm. Chúng ta cùng ở trong lều, tỉ phu ôm tiểu muội suốt ngày suốt đêm không rời nửa bước. Thế mà bây giờ tỉ phu quên hết rồi ư?”
Du Thản Chi nghe nàng nói vậy thì nổi ghen, quắc mắt nhìn Tiêu Phong đầy vẻ hung dữ, tựa như muốn bảo: “A Tử cô nương là của ta. Từ đây về sau, ngươi đừng có đụng vào.”
Tiêu Phong không để ý đến gã, thản nhiên đáp: “Ngày ấy, ngươi bị trọng thương, ta phải truyền chân khí để duy trì mạng sống cho ngươi. Ngươi có sống thì mới tìm thầy chữa thuốc được, nên ta phải chiều theo ý ngươi. Bây giờ thì cô nương này là bạn của nghĩa đệ ta, hà cớ gì ta lại đi móc mắt cô để ghép cho ngươi? Huống chi trên đời làm gì có thứ y thuật này, làm sao ghép mắt được? Ngươi quên chuyện đó đi.”
Đột nhiên Hư Trúc nói xen vào: “Tiểu đệ thấy cặp mắt Đoàn cô nương chỉ bị hư hỏng bên ngoài thôi, nếu có mắt người sống thay vào, thì không chừng lại trông rõ cũng nên.” Phái Tiêu Dao vốn có y thuật thần thông, tỉ như sư điệt Hư Trúc là Diêm vương địch Tiết Thần Y chẳng hạn. Hư Trúc tuy không hiểu biết nhiều về y thuật, nhưng y từng đi theo Thiên Sơn Đồng Mỗ mấy tháng, đã được nghe mụ kể về những vụ nối tay, ghép chân.
A Tử reo lên mệt tiếng vui mừng, hỏi: “Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh nói thật hay là gạt ta?” Hư Trúc đáp: “Người xuất gia không biết nói dối…” Y chưa dứt lời, sực nhớ ra mình không còn là người xuất gia nữa thì thẹn đỏ mặt lên, nói tiếp: “Tại hạ không lừa gạt cô đâu, bất quá… bất quá…” A Tử hỏi ngay: “Bất quá cái gì? Hư Trúc tiên sinh! Tiên sinh đã cùng tỉ phu ta kết nghĩa kim lan, vậy chúng ta là người một nhà. Tiên sinh vừa nghe tỉ phu ta nói đó, người thương ta lắm. Tỉ phu! Tỉ phu! Bất luận thế nào, tỉ phu cũng phải nhờ nghĩa đệ chữa mắt cho tiểu muội!” Hư Trúc nói: “Tại hạ từng nghe sư bá bảo: Nếu mắt ai chưa bị hư hỏng hoàn toàn, thì có thể lấy tròng mắt người sống thay vào cho sáng được. Nhưng tại hạ lại chưa biết cách đổi mắt.”
A Tử nói: “Thế thì nhất định sư bá tiên sinh biết cách chữa. Xin tiên sinh năn nỉ lão nhân gia chữa trị cho ta.” Hư Trúc thở dài nói: “Sư bá tại hạ đã bất hạnh qua đời rồi.” A Tử giậm chán la lên: “Té ra tiên sinh chỉ cố ý làm ta mừng hụt thôi.” Hư Trúc lắc đầu lia lịa đáp: “Không phải thế! Không phải thế! Tại cung Linh Thứu núi Phiêu Diểu có rất nhiều sách thuốc, chắc là sách dạy cách thay mắt cũng cất trong cung này. Bất quá… bất quá…” A Tử vừa mừng rỡ, vừa băn khoăn hỏi: “Tiên sinh là đại trượng phu thì phải ăn nói cho dứt khoát, sao cứ bất quá bất quá hoài?” Hư Trúc đáp: “Nhưng mỗi người cũng chỉ có một đôi mắt, ai mà chịu đổi cho cô nương?” A Tử cười hì hì đáp: “Ta cứ tưởng chuyện gì khó lắm, chứ tìm mắt của người sống thì dễ quá. Tiên sinh cứ móc mắt của vị tiểu cô nương kia là được.”
Chung Linh thét lên: “Không được! Không được! Các ngươi không được móc mắt ta.” Hư Trúc nói: “Đúng lắm! Cứ suy bụng ta ra bụng người, cô nương không muốn đui mắt thì Chung cô nương cũng không muốn đui mắt. Tuy rằng tiền thân của Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát, có thể đem bố thí cho người cả da thịt, đầu tóc, mắt mũi, tay chân, não tủy, nhưng Chung cô nương làm sao so sánh được với Đức Như Lai? Hơn nữa Chung cô nựơng lại rất thân thiết với tam đệ của ta…” Y nói đến hai chữ thân thiết thì trong lòng thốt nhiên rung động, la thầm: “Trời ơi! Hỏng rồi! Ngày nọ ở cung Linh Thứu, mình cùng tam đệ uống rượu thổ lộ tâm tình, thì ra ý trung nhân của y chính là Mộng Cô của mình. Bây giờ xem chừng Chung cô nương với tam đệ lại rất thân thiết, đến mức y bảo A Tử móc mắt y chứ đừng làm hại đến nàng. Trong ngũ quan tứ chi của con người thì mắt là trọng yếu hơn cả, tam đệ đã vì Chung cô nương mà chịu hy sinh đôi mắt thì đủ biết tình ý đối với nàng thắm thiết đến đâu. Không lẽ Chung cô nương lại là Mộng Cô đã gặp mình ba đêm trong thời gian ở nhà hầm nước đá?”
Hư Trúc nghĩ tới đây thì toàn thân run lên, quay lại nhìn trộm Chung Linh, thấy mặt nàng đầy tro bụi lem luốc, nhưng cũng không che giấu được vẻ xinh đẹp. Hư Trúc cùng Mộng Cô tuy gặp nhau những lúc khá lâu, nhưng ở trong hầm nước đá, ngày cũng tối như đêm, nên diện mạo Mộng Cô ra sao, y chẳng biết chút nào. Giả tỉ y được đưa tay ra sờ vào mặt nàng thì có thể cảm giác được, nhưng bây giờ là lúc thanh thiên bạch nhật, bao nhiêu cặp mắt nhìn vào, khi nào y dám đưa tay ra sờ mặt Chung Linh? Hư Trúc nhất thời bàng hoàng, không có chủ định.
Nghe thanh âm thì Chung Linh và Mộng Cô có chỗ khác nhau, nhưng y lại nghĩ rằng khi trước Mộng Cô chỉ thì thầm êm dịu bằng một giọng ôn nhu, còn bây giờ Chung Linh hoảng sợ thét lên thì dĩ nhiên là thanh âm không giống, về điểm này chẳng có chi là lạ. Hư Trúc chú ý nhìn Chung Linh, trong lòng tưởng tượng mình đưa tay ra nhẹ nhàng vuốt lên má nàng. Y chẳng hiểu đây có phải là Mộng Cô hay không, song nghĩ tới nàng mà rạo rực trong lòng, vẻ mặt cũng tự nhiên biến thành ôn hòa, khả ái.
Chung Linh thấy vẻ mặt Hư Trúc ôn hòa, chắc không đến nỗi móc mắt mình, nên cũng tạm yên lòng. A Tử lại nói: “Hư Trúc tiên sinh! Ta là muội tử của tam đệ tiên sinh, còn Chung cô nương bất quá mới là bạn y. Vậy muội tử với bạn hữu thì ai thân hơn, chắc tiên sinh cũng biết rồi.”
Đoàn Dự sau khi uống Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu một lúc, thì vết thương không rỉ máu ra nữa. Thần trí chàng dần dần hồi tỉnh nhưng chuyện đổi mắt gì đó chàng chỉ nghe lờ mờ, tới mấy câu sau cùng của A Tử chàng mới hiểu rõ. Chàng không nhịn được, hắng giọng rồi hỏi: “Té ra ngươi đã biết ta là huynh trưởng cùng dòng máu, thế mà sao còn kêu người toan hại mạng ta?”
A Tử cười đáp: “Muội chưa từng nói chuyện với ca ca thì làm sao biết được thanh âm của ca ca? Hôm qua nghe song thân nói chuyện, muội mới biết huynh cùng với tỉ phu muội và Hư Trúc tiên sinh đã kết thành nghĩa huynh nghĩa đệ. Thì ra vị đại anh hùng đã đánh Mộ Dung công tử tơi tả chính là ca ca của muội. Cả tỉ phu lẫn ca ca của muội đều là đại anh hùng, thật là tuyệt diệu, không thể hơn được nữa.” Đoàn Dự xua tay nói: “Đại anh hùng cái gì? Ta vừa trốn chui trốn nhủi, chỉ sợ người khác nhìn thấy, thật là xấu hổ.” A Tử cười nói: “Ái chà, ca ca đừng khách khí. Ai bảo ca ca nấp vào trong kho củi, tiểu muội có biết đâu? Cặp mắt của tiểu muội đui mù rồi chẳng nhìn thấy gì, đến lúc nghe ca ca gọi tỉ phu của muội là đại ca thì mới nhận ra.” Đoàn Dự nghe nàng nói hợp lý, liền bảo: “Nếu nhị ca biết cách chữa mắt, thì chắc chắn y sẽ tìm cách chữa cho ngươi. Còn đôi mắt của Chung cô nương thì nhất định không được đụng đến, vì cô ấy cũng là muội muội thân ái của ta!”
A Tử cười khúc khích, hỏi: “Vừa rồi ở bên kia núi Thiếu Thất, tiểu muội đã nghe ca ca liều mạng để lấy lòng Vương cô nương, thế mà sao mới trong nháy mắt, đã lại thân thiết với Chung cô nương đến thế?” Đoàn Dự nghe A Tử nói, thẹn đỏ mặt, gạt đi: “Ngươi nói nhăng nói cuội gì thế?” A Tử đáp: “Giả tỉ Chung cô nương là tẩu tẩu tiểu muội thì dĩ nhiên không thể đụng đến. Nhưng nàng không phải là tẩu tẩu, thì tại sao lại không đụng đến mắt nàng được? Tiểu muội xin hỏi ca ca: Chung cô nương có phải là tẩu tẩu tương lai của tiểu muội không?”
Hư Trúc liếc mắt nhìn Đoàn Dự, trống ngực đánh thình thình. Y chưa biết rõ Chung Linh có phải là Mộng Cô không, nếu không phải thì chẳng nói làm chi, nhưng nếu đúng là tình nhân trong mộng của mình mà Đoàn Dự lấy làm vợ thì sao được? Y đợi câu trả lời của Đoàn Dự mới trong nháy mắt mà tưởng như lâu đến hàng giờ.
Chung Linh cũng nóng lòng chờ Đoàn Dự trả lời. Nàng nghĩ thầm: “Té ra cô bé đui mù này là em gái Đoàn công tử. Chính nó cũng bảo chàng đã cố lấy lòng Vương cô nương, thì đúng là chàng yêu mến Vương cô nương thật. Thế mà vừa rồi chàng còn bảo mình là sư nương của Nhạc lão tam, lại còn chịu đem cặp mắt của chàng thay vào, cho gã kia khỏi móc mắt ta.”
Bỗng nghe Đoàn Dự đáp: “Dù sao, ta cũng không để ngươi làm hại Chung cô nương. Ngươi còn nhỏ tuổi mà đã làm những chuyện càn rỡ hung tàn. Ngay cả Chử Vạn Lý ở Đại Lý cũng bị ngươi trêu tức mà chết. Nếu ngươi còn có lòng dạ đen tối thì nhị ca ta không chữa mắt cho ngươi đâu.” A Tử bĩu môi nói: “Ca ca lại lên mặt huynh trưởng giáo huấn người ta rồi!”
Tiêu Phong thấy thần sắc Đoàn Dự hãy còn mỏi mệt, nhưng đã nói liền được mấy câu, chứng tỏ trung khí đã khá nhiều. Chàng biết rằng Cửu Chuyển Hùng Xà Hoàn của cung Linh Thứu thật là thánh dược, và tính mạng của Đoàn Dự không có gì đáng lo ngại nữa. Tiêu Phong liền nói: “Tam đệ! Chúng ta hãy vào trong nhà nghỉ một lúc rồi hãy tính.” Đoàn Dự đáp: “Phải đấy!” Rồi chàng đứng dậy. Chung Linh vội la lên: “Trời ơi! Công tử không nên cử động, kẻo vết thương lại vỡ ra mất.” Giọng nói của nàng cực kỳ quan thiết. Tiêu Phong cả mừng nói: “Nhị đệ! Thuốc trị thương của nhị đệ thật là thần diệu vô cùng!”
Hư Trúc ầm ừ mấy tiếng, trong lòng đang bâng khuâng về mấy câu nói của Chung Linh tỏ vẻ quan hoài đến Đoàn Dự. Tâm thần y cơ hồ chao đảo, mà cũng dường như có một cái gì mất mát.
Mọi người tiến vào trong nhà. Đoàn Dự lên giường ngồi, bọn Tiêu Phong ngồi xuống trước giường. Tứ kiếm Mai Lan Cúc Trúc, kẻ pha trà, người thổi cơm, đem lên cho Tiêu Phong, Đoàn Dự, Chung Linh và Hư Trúc, chứ không ngó gì đến Du Thản Chi cùng A Tử. A Tử trong lòng căm hận vô cùng, giả tỉ lúc bình thường, nếu nàng không ám hại bốn ả thị tì này thì cũng rũ áo bỏ đi ngay. Nhưng lúc này, nàng nghĩ tới việc chữa mắt cho sáng là quan trọng nhất, cần phải cầu khẩn đến Hư Trúc, nên đành nén lửa giận xuống không nói gì.
Tiêu Phong vốn là người hào sảng, chẳng để ý đến A Tử có tức giận hay không. Chàng tiện tay kéo cái ngăn bàn ở bên cạnh ra xem, bất giác lộ vẻ sửng sốt. Du Thản Chi cùng Hư Trúc thấy vẻ mặt chàng khác lạ, đều để ý nhìn vào ngăn kéo thì thấy bên trong toàn đồ chơi của trẻ nít như con cọp đẽo bằng gỗ, con chó nặn bằng đất, hai cái lồng đựng dế, ngoài ra còn mấy con dao nhỏ. Đó là những vật thường thấy ở nhà nông, chẳng có chi kỳ dị, nhưng Tiêu Phong cầm con hổ lên, ngẩn ra mà nhìn.
A Tử không biết chàng làm gì. Nàng vốn thích được người ta chiều chuộng, thích người ta để ý đến mình. Nhưng Tiêu Phong và Hư Trúc vì chán ghét Du Thản Chi mà hờ hững cả với nàng, không nói gì đến. Nàng tức quá, vung tay lên đập một cái trúng vào cái guồng xe sợi, bèn đưa tay ra sau lưng, rút kiếm chém chiếc guồng này đứt làm đôi.
Tiêu Phong mặt biến sắc quát lên: “Ngươi… ngươi làm gì thế?” A Tử đáp: “Cái xe này làm đau tay tiểu muội, chém nó vỡ ra thì đã sao?” Tiêu Phong tức giận thét lên: “Ngươi cút đi! Sao ngươi lại phá hủy đồ vật trong nhà này?”
A Tử xẵng giọng: “Đi thì đi!” Rồi hồng hộc bỏ đi thật. Không ngờ đang lúc nóng giận nàng đi lẹ quá, va đầu vào cửa đánh “binh” một tiếng. Nàng vẫn không nói gì, sờ soạng tìm đường rồi hấp tấp chạy tiếp. Tiêu Phong thấy thế không khỏi đau lòng, nhảy tới nắm lấy vai nàng, ôn tồn hỏi: “A Tử! Ngươi có đau không?” A Tử quay lại, nhảy xổ vào lòng chàng rồi khóc rống lên.
Tiêu Phong vỗ nhẹ vào lưng nàng, nói nhỏ: “A Tử! Ta nóng nảy với ngươi như thế là không phải.” A Tử vừa khóc vừa nói:”Tỉ phu đổi tính rồi! Tỉ phu đối với tiểu muội không tốt như trước nữa.” Tiêu Phong nói: “Ngươi hãy ngồi xuống đây uống trà đã.” Rồi bưng chén trà kề vào miệng A Tử, tay trái quàng lấy lưng nàng. Ngày trước A Tử bị Tiêu Phong đánh gãy xương sườn, chàng đã săn sóc nàng hơn một năm trời, đút cơm rót nước, thay quần áo, chải đầu, bất cứ việc gì chàng cũng tự tay làm. Một là do nhớ tới di ngôn của A Châu, hai là tự trách mình quá nặng tay làm nàng bị thương, nên chàng tận tâm phục thị, coi nàng như em gái, tuyệt không nghĩ đến tư tình nam nữ. Ngày ấy A Tử bị gãy xương không thể ngồi được, khi chàng đổ thuốc cho A Tử phải dùng tay giữ nàng ngồi. Đã thành thói quen, bây giờ cho nàng uống trà chàng cũng giữ như vậy. A Tử ngồi trong vòng tay Tiêu Phong uống trà, sung sướng mỉm cười hỏi: “Tỉ phu! Bây giờ tỉ phu còn đuổi muội đi nữa không?”
Tiêu Phong buông nàng ra, quay lại đặt chén trà lên bàn. Lúc này trời đã gần tối, đột nhiên mắt chàng chạm phải mục quang hung dữ chiếu thẳng vào mặt chàng như hai ngọn đèn. Tiêu Phong hơi giật mình nhìn lại, thì ra là Du Thản Chi đang ngồi dưới đất trong góc nhà, nghiến răng ken két, mũi thở phập phồng, đường như chỉ muốn nhảy xổ lại mà cắn. Tiêu Phong tự hỏi: “Không hiểu gã này lai lịch ra sao, thái độ của gã thật là cổ quái.” Bỗng nghe A Tử hỏi: “Tỉ phu! Tiểu muội phá vỡ cái guồng, sao tỉ phu lại giận dữ như thế?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Đây là nhà nghĩa phụ, nghĩa mẫu ta. Ngươi chém hỏng cái guồng xe sợi của nghĩa mẫu ta, khiến ta đau lòng.” Mọi người giật mình kinh hãi.
Tiêu Phong cầm con cọp nhỏ bằng gỗ trên tay, chăm chú nhìn. Ngọn đèn tù mù hắt cái bóng to lớn của chàng lên bức tường đất. Mấy ngón tay chàng dịu dàng ve vuốt trên lưng con cọp gỗ, mặt lộ vẻ yêu thương, rồi cất tiếng nói: “Con cọp này là do nghĩa phụ đẽo cho ta. Hồi đó ta mới năm tuổi, nghĩa phụ… khi đó, ta gọi bằng gia gia… ngồi bên ngọn đèn dầu này mà gọt đẽo, còn má má ngồi bên chiếc guồng này. Ta ngồi dưới chân gia gia, thấy ông khắc con cọp đã có tai có mũi, trong lòng hết sức hứng thú…”
Đoàn Dự cất tiếng hỏi: “Đại ca! Có phải đại ca đã cứu tiểu đệ đến đây hay chăng?” Tiêu Phong gật đầu đáp: “Đúng thế.”
***
Thì ra lúc vị lão tăng vô danh kia đang thuyết pháp cho mọi người nghe, Cưu Ma Trí đột nhiên hạ độc thủ đả thương Đoàn Dự. Vị lão tăng liền phất tay áo bào hất Cưu Ma Trí ra xa mấy trượng, lão không dám chần chừ, băng mình xuống núi chạy trốn mất.
Tiêu Phong thấy Đoàn Dự bị trọng thương, vội vàng lại cứu cấp. Huyền Sinh đại sư chùa Thiếu Lâm đã cho linh dược trị thương, nhưng Đoàn Dự trúng Hỏa Diệm Đao cực kỳ lợi hại của Cưu Ma Trí. Giả tỉ nội lực chàng không thâm hậu, kình lực không tự nhiên phát sinh đề kháng, thì chiêu đao này phải giết chết chàng ngay tại chỗ.
Tiêu Phong thấy giữa nơi hoang dã, gió núi thổi rất mạnh, người bị thương mà gặp phải gió này thì không tốt. Chàng liền ẵm Đoàn Dự chạy về căn nhà cũ ngày xưa, đặt lên lò sưởi, rồi lập tức quay lại để gặp phụ thân, đồng thời bố trí cho mười tám võ sĩ Khất Đan đã theo mình đến đây. Chàng không ngờ nhà của nghĩa phụ nghĩa mẫu vốn bỏ hoang mà mấy hôm nay lại có người đến ở, người đó lại có quan hệ với Đoàn Dự.
Lúc Tiêu Phong trở lại chùa Thiếu Lâm thì mọi chuyện đã xong. Mối tử thù mấy chục năm trời giữa Tiêu Viễn Sơn và Mộ Dung Bác đã được vị lão tăng vô danh đem Phật pháp ra điểm hóa. Chẳng những hai lão trút bỏ được mối thù xưa mà còn trở nên sư huynh, sư đệ.
Tiêu Viễn Sơn ở lại chùa Thiếu Lâm xuất gia thì những bí lục võ công phái Thiếu Lâm không bị rò rỉ truyền sang nước Liêu, quần hùng Trung Nguyên không phải lo gì đến hiểm họa này nữa. Tiêu Phong cùng Trang Tụ Hiền đã bỏ đi không thấy tăm tích. Mười tám võ sĩ Khất Đan thì được cung Linh Thứu che chở, chẳng ai gia hại được. Các lộ anh hùng thấy đại sự xong xuôi đều lục tục cáo từ xuống núi. Lúc Tiêu Phong trở lại chùa Thiếu Lâm thì quần hùng đang rút lui. Chàng không muốn lại gây tranh chấp, liền nấp vào một hang núi, chờ tối mịt mới vào chùa, định gặp phụ thân để hàn huyên cho thỏa mấy chục năm trời ly biệt.
Không ngờ tri khách tăng của chùa Thiếu Lâm vào bẩm rồi quay ra bảo Tiêu Phong: “Tiêu cư sĩ! Lệnh tôn đã ở lại bản tự xuất gia. Người bảo tiểu tăng ra nhắn lại, là từ đây người đã dứt lòng trần tục để trong tâm thanh thản, cư sĩ đừng lo nghĩ gì nữa. Chỉ mong sau này cư sĩ làm quan ở Đại Liêu thì cố giữ cho hai nước Tống, Liêu đừng xảy chuyện binh đao, nếu vua Liêu có ý xâm phạm đất Tống, thì xin cư sĩ mở dạ từ bi, nghĩ đến muôn vạn sinh linh hai nước.”
Tiêu Phong chắp tay kính cẩn đáp: “Xin tuân pháp dụ.” Trong lòng chàng không khỏi bùi ngùi, nghĩ thầm: “Phụ thân mình đã cao niên, bây giờ không được tương kiến thì ngày sau e rằng cũng khó lòng gặp lại.” Chàng đang làm Nam Viện đại vương nước Đại Liêu, nhận trọng trách trấn giữ biên cương, bây giờ định được chủ ý: “Nếu Đại Tống dẫn quân xâm lấn Đại Liêu thì mình điều binh khiển tướng, ngăn cản Nam quân không cho Bắc tiến. Còn hoàng thượng Đại Liêu có phát binh đánh Tống, thì mình phải cực lực can ngăn.”
Lúc đó bỗng nghe tiếng chân người, bảy tám vị lão tăng từ trong chùa đi ra. Chính là bọn Thần Sơn Thượng Nhân, Đạo Quang, Triết La Tinh, mấy vị khách tăng chia tay trở về bản tự. Bọn Huyền Tịch, Huyền Sinh theo ra tiễn chân. Ba La Tinh đứng ở phía sau Huyền Tịch. Ai nấy đều chắp tay tiễn khách.
Triết La Tinh nói: “Sư đệ! Hôm nay ta từ biệt trở về Thiên Trúc. Từ đây quan san muôn dặm, biết ngày nào mới được trùng phùng? Sư đệ quyết ý không trở về cố hương nữa, định bỏ mình ở Trung Nguyên hay sao?” Ba La Tinh cười đáp: “Sao sư huynh còn chưa giác ngộ? Thiên Trúc cũng là Trung Thổ mà Trung Thổ cũng là Thiên Trúc. Trước kia Đạt Ma tổ sư cũng đã đông lai đấy thôi!” Triết La Tinh trong lòng rung động nói: “Một lời của sư đệ chỉ điểm làm cho ta tỉnh ngộ. Ngươi không phải là sư đệ ta nữa, mà là sư phụ ta.” Ba La Tinh tươi cười nói: “Chẳng nên phân biệt nhập thiền trước hay sau, giác ngộ sớm hay muộn. Sớm cũng thế mà muộn cũng thế, hễ giác ngộ là được.” Sau đó hai người nhìn nhau cười rạng rỡ.
Tiêu Phong né qua một bên, chờ cho bọn Thần Quang, Đạo Thanh, Triết La Tinh xuống núi rồi, chàng mới từ từ theo sau. Chàng vừa đi được mấy bước thì trong chùa lại có một người nữa đi ra, chính là Hư Trúc. Hư Trúc thấy Tiêu Phong thì cả mừng, bước đến hỏi: “Đại ca! Tiểu đệ đang đi tìm đại ca khắp nơi. Tiểu đệ nghe nói tam đệ bị trọng thương mà không hiểu thương thế ra sao.” Tiêu Phong đáp: “Hay lắm! Tam đệ không sao đâu!” Hai người sóng vai mà đi được chừng mười trượng thì bốn cô Mai, Lan, Trúc, Cúc cũng từ trong rừng chạy theo. Hư Trúc hỏi đến quần nữ cung Linh Thứu và quần hào ba mươi sáu động bảy mươi hai đảo, thì đều đã xuống núi cả rồi. Mười tám võ sĩ Khất Đan cũng đi cùng, chắc quần hào Trung Nguyên không dám động đến. Tiêu Phong ngỏ lời cảm tạ, nghĩ bụng: “May mà tam đệ thay ta kết nghĩa kim lan với vị nghĩa đệ này, hết sức giúp ta trong cơn hoạn nạn.”
Hư Trúc còn nói đã đem Đinh Xuân Thu giao cho Giới Luật Viện chùa Thiếu Lâm quản cố. Cứ mỗi năm hai lần, vào tiết Đoan Ngọ và tiết Trùng Dương thì chùa Thiếu Lâm sẽ cho hắn uống thuốc của cung Linh Thứu để Sinh Tử Phù khỏi phát tác. Sinh mạng hắn nằm trong tay người, chắc không còn dám làm điều càn rỡ nữa. Tiêu Phong vỗ tay cả cười nói: “Nhị đệ! Nhị đệ đã trừ cho võ lâm được một mối hại lớn. Đinh Xuân Thu được Phật pháp rèn luyện, rồi đây sẽ trừ khử được ác tính cũng chưa biết chừng.” Hư Trúc rầu rầu nét mặt nói: “Tiểu đệ xuất gia tại chùa Thiếu Lâm thì bị sư tổ, sư phụ đuổi ra khỏi sơn môn, còn lão Đinh Xuân Thu kia làm những chuyện bạo thiên nghịch địa, tội ác ngập đầu, lại được ở chùa Thiếu Lâm thanh tu, như vậy thật là bất công.” Tiêu Phong tủm tỉm cười nói: “Nhị đệ! Ngươi ao ước được như Đinh Lão Quái, thì Đinh Lão Quái lại càng ao ước được như ngươi. Ngươi làm chủ nhân cung Linh Thứu, cầm đầu ba mươi sáu Động chúa, bảy mươi hai Đảo chúa, oai danh vang lừng thiên hạ, còn gì tốt đẹp bằng.”
Hư Trúc lắc đầu nói: “Cung Linh Thứu toàn là nữ nhân, chỉ có mình tiểu đệ là nhà sư trẻ, ở lẫn với họ có điều bất tiện.” Tiêu Phong cười ha hả nói: “Bây giờ nhị đệ có còn là tiểu hòa thượng nữa đâu?” Hư Trúc lại nói: “Bọn tiểu nhân chỉ biết khoác lác nịnh bợ của phái Tinh Tú cứ vây quanh người đệ, không biết làm thế nào để đuổi chúng đi.” Tiêu Phong đáp: “Những người này cũng không phải bẩm sinh như thế, chỉ vì chúng ở dưới trướng Tinh Tú Lão Quái, nếu không khoác lác nịnh bợ thì không tránh khỏi họa sát thân. Nhị đệ, sau này ngươi cứ nghiêm khắc giáo huấn, nếu chúng nhất định không chịu sửa đổi, thì cứ xách cổ từng tên một quẳng ra khỏi cửa là xong.”
Hư Trúc nghĩ đến song thân phụ mẫu vừa trùng phùng giây lát đã vĩnh viễn phân ly, bi thương không nhịn nổi, sắp rơi nước mắt. Tiêu Phong tìm lời an ủi: “Nhị đệ! Trên đời thường gặp chuyện bất như ý. Năm xưa tiểu huynh bị trục xuất khỏi Cái Bang, bị hết thảy anh hùng hào kiệt tìm cách tru diệt cho hả dạ, ta cũng thấy đau đớn vô cùng. Chỉ một thời gian là sẽ trở lại như thường.” Đột nhiên Hư Trúc nói: “Đúng rồi! Ngày xưa Như Lai đã từng thuyết pháp ở núi Linh Thứu thành Vương Xá, hai chữ Linh Thứu cũng có duyên với Phật pháp. Rồi sẽ có lúc chúng ta đổi tên Linh Thứu Cung thành Linh Thứu Tự, cho các bà bà, tẩu tẩu, cô nương đều xuất gia làm ni cô hết.”Tiêu Phong cả cười nói: “Lúc đó trong chùa của hòa thượng trụ trì mà lại toàn là ni cô, thật là quái sự trong thiên hạ.”
Hai người vừa đi vừa nói chuyện, về tới nhà của Kiều Tam Hòe đúng lúc Du Thản Chi sắp móc mắt Chung Linh, nên mới ngăn trở kịp thời.
***
Đoàn Dự hỏi: “Đại ca cùng nhị ca có thấy gia gia tiểu đệ đâu không?” Tiêu Phong đáp: “Không thấy đâu cả.” Hư Trúc nói: “Trong lúc hỗn loạn, quần hùng tranh nhau bỏ đi, tiểu huynh không được lạy chào lão bá, thật là thất lễ.” Đoàn Dự nói: “Nhị ca bất tất phải khách sáo. Có điều Đoàn Diên Khánh là kẻ đối đầu lợi hại với nhà tiểu đệ. Tiểu đệ sợ lão tìm đến gia phụ để sinh sự.” Tiêu Phong nói: “Việc đó quả là đáng lo. Tiểu huynh phải đi tìm lão bá để tiếp ứng.”
A Tử nói: “Sao tỉ phu cứ kêu người bằng lão bá tiểu bá, mà không gọi là nhạc phụ đại nhân?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Đó là một điều mà ta ân hận suốt đời, chẳng biết nói thế nào cho phải.” Chàng nói xong, đứng dậy đi ra khỏi phòng.
Giữa lúc ấy, Mai Kiếm bưng cháo lên cho Đoàn Dự, nghe mọi người bàn bạc liền nói: “Tiêu đại hiệp! Đại hiệp bất tất phải đi tìm. Tì nữ xin chủ nhân ra lệnh cho thuộc hạ cung Linh Thứu tìm kiếm khắp nơi. Nếu Đoàn Diên Khánh cố ý hành hung lão gia thì lập tức đốt pháo hoa làm hiệu, bọn nô tì đi tiếp viện. Như vậy có được không?” Tiêu Phong cả mừng đáp: “Thế thì hay lắm! Thuộc hạ cung Linh Thứu có đến hơn ngàn người, chia đi mọi nơi tìm kiếm thì mau lẹ hơn mấy người chúng ta nhiều.”
Mai Kiếm liền đi phát hiệu lệnh. Cung Linh Thứu đã có cách liên lạc rất mau chóng. Từ lúc Hư Trúc vào nghỉ trong nhà Kiều Tam Hòe, quần nữ bộ Huyền Thiên đã được tin rồi. Phù Mẫn Nghi đã điều động bộ này tới nơi, tản mác ra các vùng phụ cận để bảo vệ cho y.
Đoàn Dự vừa yên lòng đã lại nhớ tới Vương Ngữ Yên. Chàng lẩm bẩm: “Chuyến này Vương cô nương giận ta đến cực điểm, e rằng sau này có gặp, nàng cũng không ngó ngàng gì đến ta nữa.” Rồi chàng thở dài thườn thượt.
Chung Linh rất đỗi quan hoài, hỏi ngay: “Vết thương của huynh đau lắm ư?” Đoàn Dự đáp: “Không đau lắm đâu!” A Tử nói xen vào: “Chung cô nương! Xem chừng cô nương quan tâm đến ca ca ta lắm, nhưng cô chưa hiểu được tâm sự y. Ta xem chừng y đang ôm mối tương tư, lòng dạ cực kỳ bối rối!” Chung Linh nói: “Ta có nói với ngươi đâu mà ngươi chõ miệng vào?” A Tử cười nói: “Ta chõ miệng vào cũng chả sao. Ta chỉ sợ có cô nương nào xinh đẹp ôn nhu gấp mười ngươi chen vào, thì ca ca ta sẽ bỏ rơi ngươi ngay lập tức. Tại sao ca ca ta lại thở dài, ngươi có biết không? Người ta thở dài khi nào trong lòng chưa thỏa mãn. Tỉ như ngươi được phục thị bên mình ca ca ta, trong lòng ngươi lấy làm thỏa mãn nên không thở dài. Còn ca ca ta thở ngắn thở dài, dĩ nhiên là vì y đang mơ tới người khác.” A Tử không móc được mắt Chung Linh, vẫn còn ấm ức. Bây giờ nàng tìm cơ hội châm chọc đối phương đau lòng cho bõ ghét.
Chung Linh vốn rất căm hận A Tử, nhưng nghe nàng nói mấy câu có lý thì nỗi tức giận trở thành sầu muộn. Cô còn nhỏ tuổi, tính tình hoạt bát, tuy có nghĩ tới Đoàn Dự, nhưng chưa phải là mối tình quyến luyến khắc cốt ghi xương, chỉ khi quấn quít bên chàng thì trong lòng thấy vui mừng khôn tả. Đoàn Dự đem lòng nghĩ tới người khác, không hết lòng vì cô thì dĩ nhiên cô rất khó chịu, nhưng cũng chẳng biết làm sao.
Đoàn Dự vội nói: “Chung cô nương! Cô nương đừng nghe con nhỏ đui mù này nói nhăng.” A Tử từ sau khi bị đui mắt, căm hận nhất là hai chữ đui mù. Giả tỉ Đoàn Dự bảo là nàng ăn nói hồ đồ thì cũng không sao, nhưng chàng lại nói đến hai chữ đui mù, nên A Tử nổi giận, xẵng giọng hỏi: “Ca ca! Tiểu muội hỏi thật, ca ca yêu Vương cô nương hay yêu Chung cô nương hơn? Vương cô nương đã ước hẹn với tiểu muội là ngày mai sẽ gặp nhau. Ca ca nói câu gì, tiểu muội sẽ mách nàng câu đó.” Đoàn Dự nghe vậy, ngồi bật dậy hỏi: “Vương cô nương ước hẹn ngày mai gặp ngươi ư? Gặp ở đâu? Có việc gì thương nghị?” Chung Linh thấy Đoàn Dự hốt hoảng như vậy, thì không cần nói cũng biết ngay là chàng thương nhớ kẻ tình địch kia hơn mình nhiều. May mà Chung Linh tính tình đôn hậu, vừa nghe thấy rất lấy làm khó chịu, nhưng rồi tự biết phải dằn lòng. Giả tỉ Vương Ngữ Yên ở vào địa vị Chung Linh, biết ý trung nhân của mình chia xẻ mối tình với người khác thì dù ngoài mặt thản nhiên nhưng trong lòng sẽ thê thảm đến muốn tự tử. Nếu là Mộc Uyển Thanh thì sẽ lập tức chém Đoàn Dự một nhát. Nếu là A Tử thì sẽ tìm cách hạ sát tình địch. Nhưng Chung Linh lại dịu dàng bảo chàng:”Huynh đừng ngồi dậy, phải cẩn thận kẻo vết thương lại vỡ ra chảy máu.”
Hư Trúc ngồi bên để ý quan sát mấy người, nghĩ thầm: “Chung cô nương thương yêu tam đệ sâu sắc như vậy thì chắc nàng không phải là Mộng Cô của ta. Nếu nàng đúng là Mộng Cô mà nghe tiếng ta nói thì không có lý nào lại thản nhiên được.” Nhưng rồi y lại nghĩ: “Cũng không phải! Từ sư bá Đồng Mỗ, sư thúc Lý Thu Thủy, đến Dư bà, Thạch tẩu, Phù cô nương, bao nhiêu nữ nhân đều có con mắt khác bọn nam tử hán chúng ta. Không chừng Chung cô nương chính là Mộng Cô, nàng nhận ra ta rồi mà vẫn không lộ vẻ gì, nên che mắt được ta.”
Đoàn Dự cứ hỏi dồn A Tử là ngày mai nàng hẹn gặp Vương Ngữ Yên ở đâu. A Tử thấy chàng sốt ruột thì cứ muốn trêu chọc chơi, biết đâu lại thu được gì đó. Nghĩ vậy, nàng cứ kéo dài câu chuyện.
Lúc ấy, Lan Kiếm vào báo rằng bộ Huyền Thiên đã truyền hiệu lệnh đi rồi, xin Đoàn Dự cứ yên lòng. Đoàn Dự nói: “Đa tạ tỉ tỉ đã nhọc lòng, tại hạ hết sức cảm kích.” Lan Kiếm thấy chàng là Vương tử Đại Lý, địa vị cao sang mà ăn nói không chút kiêu kỳ thì phát sinh hảo cảm. Nàng nghe Đoàn Dự hỏi mãi A Tử về cuộc ước hẹn ngày mai, không nhịn được nữa cũng nói xen vào: “Đoàn công tử! Lệnh muội nói đùa mà công tử cũng cho là thật ư?” Đoàn Dự hỏi lại: “Sao tỉ tỉ lại biết là xá muội nói đùa?” Lan Kiếm cười đáp: “Nô tỳ nói ra, chỉ sợ Đoàn cô nương trách mình nhiều chuyện. Không hiểu chủ nhân có cho phép chăng?”
Đoàn Dự vội hỏi Hư Trúc: “Nhị ca! Nhị ca bằng lòng cho vị tỉ tỉ này nói thật chứ?” Hư Trúc gật đầu, quay lại bảo Lan Kiếm: “Vị này là huynh đệ kết nghĩa với ta, cũng như chính ta vậy. Có việc gì, các ngươi bất tất phải giấu giếm.”
Lan Kiếm cười nói: “Chính mắt chủ nhân cũng nhìn thấy rồi mà! Mộ Dung công tử cùng đoàn tùy tùng đã nói là lên đường sang nước Tây Hạ, cả Vương cô nương cũng đi theo biểu huynh nàng. Hiện giờ, có lẽ bọn họ đã đi xa đến mấy trăm dặm rồi. Như vậy có lý nào lại ước hẹn cùng Đoàn cô nương tương hội ngày mai được?”
A Tử chu miệng ra nói: “Con nha đầu thối tha kia! Mi đã biết là ta sẽ mắng mi nhiều chuyện, sao còn dám nói leo? Bốn đứa bọn mi thật là lẻo mép, chủ nhân mi đang nói chuyện mà bọn mi cũng chõ miệng vào.”
Ngoài cửa sổ bỗng có thanh âm thiếu nữ nói vọng vào: “Đoàn cô nương! Sao cô nương lại mắng tỉ tỉ của ta? Cô nương nên biết, chính ta giữ chìa khóa Thần Nông Các trong cung Linh Thứu. Nếu chủ nhân của ta muốn chữa mắt cho cô nương, thì dứt khoát sẽ sai ta về Thần Nông Các để tìm sách.” Người nói câu này chính là Cúc Kiếm.
A Tử run lên, nghĩ thầm: “Chỉ sợ con nha đầu thối tha này nói thực. Thằng trọc chết đâm chết chém kia còn chưa chữa mắt cho ta, thì ta không thể chọc giận con nha đầu này được. Không chừng nó có thể thọc gậy bánh xe, ngấm ngầm giấu sách đổi thuốc là hỏng bét. Chà! Để chữa mắt xong rồi ta sẽ cho bọn mi biết thế nào là thủ đoạn của bản cô nương.”
Đoàn Dự nhìn Lan Kiếm nói: “Đa tạ tỉ tỉ đã cho hay. Bọn họ đi Tây Hạ thật ư, để làm gì vậy?” Lan Kiếm đáp: “Nô tì không nghe họ nói đi Tây Hạ để làm gì.”
Hư Trúc nói: “Tam đệ! Vụ này tiểu huynh biết rõ. Tiểu huynh nghe Công Dã tiên sinh kể với mấy trưởng lão Cái Bang, dọc đường họ gặp một đệ tử Cái Bang đem một tấm bản văn từ Tây Hạ về Trung Nguyên. Bản văn đó là của quốc vương Tây Hạ, nói công chúa đã tới tuổi cập kê, định kén rể vào ngày trung thu tháng tám, mời anh hùng hào kiệt khắp thiên hạ thi văn diễn võ, kén kẻ sĩ tài mạo song toàn vào làm phò mã.”
Trúc Kiếm đứng ngoài cửa cũng nói chõ vào: “Sao chủ nhân không qua Tây Hạ thử coi? Nếu Tiêu đại hiệp cùng Đoàn công tử không tranh đoạt thì chủ nhân trúng tuyển làm phò mã Tây Hạ dễ như trở bàn tay.”
Bốn cô Mai Lan Cúc Trúc tính tình vui vẻ, Đồng Mỗ tuy là chủ nhân mà thực ra đối xử với bốn cô theo tình bà cháu. Trước kia Đồng Mỗ nghiêm khắc, bốn cô này còn sợ hãi không dám nói năng bừa bãi, nhưng Hư Trúc hiền hòa, lại có vẻ kính trọng họ, nên mấy cô không còn úy kỵ gì nữa.
Hư Trúc nghe Trúc Kiếm nói vậy thì xua tay gạt đi: “Không được! Không được! Ta là người xuất…” Y muốn nói là người xuất gia nhưng chưa dứt lời thì trong phòng Lan Kiếm, Trúc Kiếm, ngoài phòng Mai Kiếm, Cúc Kiếm đã đồng thời cười rộ. Hư Trúc thẹn quá đỏ mặt lên, ngoảnh lại nhìn trộm Chung Linh thì thấy nàng đang ngơ ngẩn nhìn Đoàn Dự, dường như không để ý gì đến câu nói của mình. Đột nhiên y động tâm tự nghĩ: “Mình đã cùng Mộng Cô gặp nhau tại nhà hầm nước đá, trong hoàng cung nước Tây Hạ. Không chừng lúc này Mộng Cô còn ở Linh Châu cung. Tam đệ không chịu nói cho mình biết nàng ở đâu, chi bằng mình qua Tây Hạ để dò la tin tức.”
Hư Trúc còn đang ngẫm nghĩ thì Đoàn Dự hỏi: “Nhị ca! Cung Linh Thứu của nhị ca ở gần nước Tây Hạ. Nay nhị ca có trở về thì cũng nên qua Tây Hạ một chuyến xem sao. Trúc Kiếm tỉ tỉ muốn nhị ca đi làm phò mã thì chỉ là chuyện nói đùa, nhưng tiểu đệ nghĩ đến ngày rằm tháng tám, hào kiệt bốn phương đều tụ hội ở Linh Châu, thật là náo nhiệt. Kể cả đại ca bất tất phải về Nam Kinh vội làm chi. Chúng ta cùng nhau đi Tây Hạ chơi một chuyến, rồi lúc về ghé qua cung Linh Thứu để ngắm phong cảnh Thiên Sơn, thưởng thức hảo tửu của Đồng Mỗ đã cất giữ trăm năm, thật là khoái lạc.”
Lúc Tiêu Phong lên đường từ Nam Kinh đến núi Thiếu Thất thì mười tám võ sĩ Khất Đan có chứa rượu vào bì da để đem theo. Nhưng hai ngày nay bọn võ sĩ không ở bên mình, nên chàng không được uống rượu. Tiêu Phong nghe Đoàn Dự rủ lên cung Linh Thứu để uống hảo tửu đã trăm năm của Thiên Sơn Đồng Mỗ để lại, bất giác thèm nhỏ dãi, trên mặt lộ một nụ cười.
A Tử đứng lên giục: “Tỉ phu! Chúng ta cũng đi chứ?” Nàng biết rằng muốn chữa cặp mắt đui mù thì phải theo Hư Trúc đến cung Linh Thứu. Nhưng dù Tiêu Phong không cản Hư Trúc chữa, thì bốn tên nha đầu lẻo mép thủ hạ của y cũng làm khó dễ, lâu ngày không khỏi sinh chuyện, làm sớm ngày nào hay ngày ấy. Nàng thấy Tiêu Phong trầm ngâm không trả lời, thì nghĩ bụng: “Tỉ phu tuy ngoài mặt thô hào mà trong lòng tinh tế, lúc này chắc đã hiểu chỗ dụng tâm của mình rồi. Chi bằng mình nói huỵch toẹt ra, không chừng tỉ phu nể lời mà ưng thuận.” Nghĩ vậy, nàng liền đứng lên kéo tay áo Tiêu Phong, năn nỉ: “Tỉ phu! Nếu tỉ phu không đưa tiểu muội lên cung Linh Thứu thì cặp mắt tiểu muội không còn hy vọng gì phục hồi được nữa, e rằng suốt đời không được thấy ánh mặt trời.”
Tiêu Phong nghĩ bụng: “Chữa cặp mắt cho cô bé này cũng là chuyện phải làm.” Rồi chàng lại nghĩ: “Mình ở Đại Liêu tuy địa vị cao quý nhưng không có một người bạn thân nào để hàn huyên tâm sự, còn hào kiệt ở Trung Nguyên đều thù nghịch với mình. May mà mình kết giao được với hai vị huynh đệ hào hiệp khẳng khái, nhất định phải ở với họ thêm mấy ngày cho thỏa chí bình sinh.” Tiêu Phong liền nói: “Phải đó! Nhị đệ cùng tam đệ! Chúng ta cùng đi Tây Hạ một chuyến, rồi lên cung Linh Thứu uống rượu của nhị đệ mấy ngày cho hả dạ, lại còn nhờ nhị đệ chữa mắt cho Đoàn cô nương nữa.”
Hôm sau, mọi người chuẩn bị lên đường. Hư Trúc lại đến trước cổng chùa Thiếu Lâm để quì lạy bái biệt, lâm râm khấn nguyện, một là bái tạ ân đức của Phật tổ, hai là bái tạ các vị sư phụ trong chùa đã dưỡng dục, giáo huấn mình suốt hai mươi năm, ba là cáo biệt vong linh của phụ thân Huyền Từ và mẫu thân Diệp Nhị Nương.
Vừa xuống đến chân núi thì quần nữ cung Linh Thứu đã thuê xe lừa để Đoàn Dự và Du Thản Chi nằm dưỡng bệnh. Du Thản Chi trong lòng rất đỗi buồn phiền, nhưng cũng cố nhẫn nhục chịu đựng, còn hơn là phải chia lìa A Tử. Mỗi ngày gã chỉ mong A Tử mở rèm xe nói chuyện mấy câu là đã thỏa lòng, khoan khoái được đến nửa ngày. Nhưng A Tử lại cưỡi ngựa, lúc nào cũng đi bên cạnh Tiêu Phong. Trong lòng gã khó chịu vô cùng, nhưng không dám hé răng tỏ ý bất bình.
Đoàn người đi được hai ngày thì các bộ của cung Linh Thứu đến hội họp dần dần. Thủ lĩnh bộ Loan Thiên báo cho Hư Trúc cùng Đoàn Dự hay rằng họ đã gặp Trấn Nam Vương, thương thế ông đã gần lành hẳn không có gì đáng ngại. Trấn Nam Vương rất yên tâm, nhờ bộ Loan Thiên nhắn Đoàn Dự sớm về Đại Lý để ông khỏi mong chờ. Quần nữ còn nói thêm: “Bọn Trấn Nam Vương đi về phía đông bắc, Đoàn Diên Khánh cùng Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc lại chạy rất nhanh về phía tây, thế thì hai bên không tài nào đụng đầu nhau được.” Đoàn Dự cả mừng, ngỏ lời cảm tạ quan nữ bộ Loan Thiên.
Chung Linh hỏi: “Đoàn công tử! Lệnh tôn dặn công tử mau trở về Đại Lý, mà sao ông lại đi về phía đông bắc?” Đoàn Dự mỉm cười, chưa kịp trả lời thì A Tử đã cười nói: “Gia gia ta nhất định bị má má lôi đi, không cho về Đại Lý. Chung cô nương! Nếu cô nương muốn nắm giữ trái tim của ca ca ta, thì phải học hỏi má má ta nhiều.”
Trong hai ngày nay, lúc nào Đoàn Dự cũng suy nghĩ, không biết có nên nói rõ Chung Linh là muội tử của mình hay không. Chàng thấy mở miệng nói ra cũng khó, làm đau lòng Chung Linh, lại tổn hại đến danh dự của phụ thân, tạm thời không nói rõ là hơn.
Chung Linh cũng hiểu rõ Đoàn Dự muốn đi Tây Hạ là cốt để được gặp Vương cô nương. Nhưng mấy ngày nay nàng được kề cận bên Đoàn Dự, thỏa mãn tâm nguyện phần nào. Nàng không cần biết sau này Đoàn Dự gặp mặt Vương cô nương rồi sẽ ra sao, nên dù A Tử cố ý nói móc mà nàng cũng không để ý.
***
Tiết trời mùa hạ cực kỳ nóng bức, lúc giữa ngọ lại càng nóng như lửa,.Từ giờ đến trung thu hãy còn lâu, nên mọi người chỉ đi vào lúc sáng sớm hay xế chiều, cứ đi chừng sáu bảy chục dặm lại nghỉ ngơi. Dọc đường, thương thế Đoàn Dự bình phục rất nhanh. Hư Trúc đã tiếp xương chỗ chân gãy cho Du Thản Chi, xem chừng có nhiều hy vọng bình phục như cũ. Du Thản Chi chẳng nói với ai nửa lời, được Hư Trúc chữa chân mà trong lòng vẫn hằn học căm giận.
Một hôm mọi người đi tới Hàm Dương. Đoàn Dự kể cho bọn Tiêu Phong nghe sự tích Lưu Bang cùng Hạng Võ tranh bá đồ vương ở vùng này. Tiêu Phong cùng Hư Trúc đều ít đọc sách, nghe Đoàn Dự kể chuyện anh hùng hào kiệt ngày xưa đều cảm thấy hứng thú.
Thốt nhiên có tiếng vó ngựa dồn dập, từ phía sau có hai người cưỡi ngựa đi nhanh đến. Bọn Tiêu Phong rẽ ngựa ra hai bên để nhường đường, nhưng A Tử lại tiến ra giữa đường cản lối. Hai người cưỡi ngựa vừa đến sau lưng, nàng liền giơ roi lên quất vào đầu con ngựa đi sau. Người cưỡi ngựa đằng sau cũng vung roi lên đón lấy ngọn roi của A Tử đánh tới, rồi cất tiếng gọi: “Đoàn công tử! Tiêu đại hiệp! Hãy dừng bước đã!”
Đoàn Dự quay đầu nhìn lại, thì ra người đi trước là Ba Thiên Thạch, người đi sau là Chu Đan Thần. Ba Thiên Thạch vừa cầm roi ngựa gạt ngọn roi của A Tử đánh ngựa của Chu Đan Thần, đã vội xuống ngựa đến trước Đoàn Dự phục lạy. Đoàn Dự tuy ở thân phận chủ nhân, nhưng vẫn coi Ba, Chu hai người vào hàng trưởng bối, cũng vội vàng xuống ngựa đáp lễ, hỏi: “Gia gia ta vẫn bình yên chứ?” Bỗng một tiếng “véo” vang lên, A Tử cầm roi ngựa quất xuống đầu Ba Thiên Thạch.
Ba Thiến Thạch chưa đứng dậy, y vẫn quì dưới đất, chỉ né người đi một chút cho ngọn roi của A Tử vụt trệch đi, rồi lấy đầu gối đè lên ngọn roi. A Tử ra sức giật lại mà ngọn roi không nhúc nhích, nàng biết nếu dùng nội lực để tranh chấp thì nhất định mình không bằng đối phương, liền buông tay ra cho ngọn roi hất về phía Ba Thiên Thạch. Ba Thiên Thạch căm hận nàng đã làm nhục Chử Vạn Lý đến chết, đối với nàng lúc nào cũng dè dặt đề phòng. Ngờ đâu A Tử tuy đui mắt mà hành động cực kỳ cơ biến, đầu ngọn roi của nàng hất lại rất mau. Ba Thiên Thạch vừa nghe tiếng gió vội né tránh, tuy tránh được ngọn roi không vụt vào đầu, nhưng cũng vụt trúng vai đánh “chát” một tiếng.
Đoàn Dự quát lên: “Tử muội! Ngươi lại ngang ngược rồi.” A Tử đáp: “Muội có ngang ngược gì đâu? Y muốn lấy chiếc roi ngựa, nên muội hất lại cho y.” Ba Thiên Thạch là người trầm tĩnh, chỉ cười hì hì nói: “Đa tạ cô nương đã cho ngọn roi này.” Y không muốn nói gì về vụ này nữa, liền móc trong bọc ra một phong thư, hai tay đưa lên cho Đoàn Dự.
Đoàn Dự đón lấy, thấy ngoài phong bì đề ba chữ: “Dự nhi lãm”, thì ra chính là thư của phụ thân. Chàng liền hai tay nâng bức thư lên cao, chỉnh đốn y phục, kính cẩn mở xem. Bức thư này Đoàn Chính Thuần viết để bảo chàng đi Tây Hạ. Trong thư nói: “Nước Đại Lý ta ở miền Nam Cương hẻo lánh, nước nhỏ binh yếu, khó chống ngoại xâm, nếu được cùng cường quốc Tây Hạ kết nghĩa Tấn Tần tức là thượng sách để giữ nước yên dân. Hài nhi phải lấy cơ nghiệp tổ tôn làm trọng, lấy xã tắc nhân dân làm quý, mà đem hết tâm lực để thực hiện việc này.”
Đoàn Dự đọc thư xong, sắc mặt biến đổi, lúc hồng lúc trắng, lẩm bẩm: “Cái này… cái này…”
Ba Thiên Thạch lấy ra một phong thư nữa, nói: “Đây là thủ bút của Vương gia, gửi sang quốc vương nước Tây Hạ để cầu thân. Khi công tử tới Linh Châu thì trình thư này lên quốc vương bệ hạ.” Chu Đan Thần cũng cười hì hì nói: “Công tử! Tại hạ kính chúc công tử mã đáo thành công, lấy được nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường đưa về Đại Lý, để củng cố giang sơn nước nhà vững chắc như bàn thạch.” Đoàn Dự bẽn lẽn hỏi: “Tại sao gia gia biết ta đi Tây Hạ?” Ba Thiên Thạch đáp: “Vương gia biết Mộ Dung công tử đến Tây Hạ cầu thân, nên đoán rằng công tử… cũng đến đó để… tham dự cuộc náo nhiệt này… Vương gia còn dặn công tử phải lấy đại sự quốc gia làm trọng, nên coi rẻ tư tình nhi nữ.”
A Tử cười khoái chí, nói xen vào: “Không trách người ta thường nói: “Biết con chẳng ai bằng cha.” Gia gia nghe nói Mộ Dung Phục đi Tây Hạ, Vương cô nương tất đi cùng, lão nhân gia liền đoán được ngay cậu quý tử cũng lần mò đi theo. Hừ! Thật là cha nào con nấy. Gia gia khuyên bảo lấy đại sự quốc gia làm trọng, coi rẻ tư tình nhi nữ ư? Thế sao gia gia bỏ nước ra đi bấy lâu vẫn không trở về?”
Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng Đoàn Dự thấy A Tử ăn nói bất kính với phụ vương thì đều kinh hãi thất sắc. Nàng nói như vậy tuy thực tình đúng lý, nhưng đạo làm thần tử có lý đâu lại dám bài bác đấng quân phụ?
A Tử lại nói tiếp: “Ca ca! Trong thư gia gia nói gì vậy? Có nhắc đến tiểu muội không?” Đoàn Dự đáp: “Gia gia không biết Tử muội cùng ở với ta.” A Tử nói: “Hừ! Đúng là gia gia không biết. Nhưng gia gia có dặn ca ca đi kiếm tiểu muội không? Gia gia dặn ca ca chiếu cố cho đứa em đui mù không?”
Trong thư, Đoàn Chính Thuần không đề cập đến chuyện này, nhưng Đoàn Dự nghĩ rằng nếu nói thực tình thì cô em phải đau lòng. Chàng liền đưa mắt ra hiệu cho Ba Thiên Thạch và Chu Đan Thần để bọn họ nói rằng phụ thân có bảo họ đi tìm kiếm A Tử, nào ngờ hai người giả vờ không hiểu. Chu Đan Thần nói: “Trấn Nam Vương sai bọn tại hạ đi tùy tùng công tử qua Tây Hạ cầu thân. Nếu không có kết quả thì khi trở về Đại Lý, tuy chẳng bị Vương gia hỏi tội, nhưng chúng ta cũng chẳng còn mặt mũi gặp ai nữa.” Câu nói của Chu Đan Thần tỏ ý vâng lệnh Đoàn Chính Thuần đi giám thị Đoàn Dự, phải cố chiếm cho bằng được ngôi phò mã nước Tây Hạ.
Đoàn Dự cười khổ đáp: “Ta vốn không hiểu võ nghệ, huống chi lại bị thương chưa khỏi, chân khí không vận lên được, thì làm sao so bì được với anh hùng hảo hán trong thiên hạ?”
Ba Thiên Thạch lại nói: “Trấn Nam Vương sai tiểu nhân đến bái kiến Tiêu đại hiệp cùng Hư Trúc tiên sinh, xin hai vị vì nghĩa chi lan giúp công tử một tay. Vương gia còn nói, lần hội kiến vừa qua trên núi Thiếu Thất thời gian ngắn ngủi, người chưa được cùng hai vị chuyện trò, nên sai tiểu nhân kính dâng lễ mọn.” Ba Thiên Thạch nói xong, lấy ra một viên ngọc bích chạm hình sư tử, hai tay dâng lên Tiêu Phong, còn Chu Đan Thần thì lấy trong bọc ra một chiếc quạt ngà, trên quạt có bút tích của Đoàn Chính Thuần đề tặng Hư Trúc.
Hai người tạ ơn, nhận lễ rồi nói: “Công việc của tam đệ, dĩ nhiên bọn tại hạ phải hết sức giúp đỡ, hà tất Vương gia phải căn dặn. Vương gia ban cho báu vật, bọn tại hạ thật lòng không dám nhận.” A Tử nói: “Hai vị xem gia gia ta có hảo tâm không? Gia gia bảo thế để hai vị đừng có tranh ngôi phò mã của tiểu ca ca. Hai vị mà nhận lời là mắc mưu gia gia đó.”
Tiêu Phong thở dài nói: “Tỉ tỉ cô nương chết rồi, khi nào ta còn có ý nghĩ đi lấy người khác nữa?” A Tử nói: “Tỉ phu ngoài miệng tuy nói vậy, nhưng ai biết được lòng dạ thế nào? Hư Trúc tiên sinh trung hậu thực thà, không giống tiểu ca ca quen nết phong lưu. Ta vẫn để ý, thấy tiên sinh chưa vướng bận tình duyên với cô nào. Bây giờ tiên sinh qua Tây Hạ lấy công chúa, có phải tuyệt diệu không?” Hư Trúc thẹn đỏ mặt lên, xua tay lia lịa nói: “Không, không! Tại hạ nhất quyết không làm thế. Tại hạ sẽ cùng đại ca ráng giúp cho tam đệ trong cuộc cầu thân này.”
Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi cùng phục lạy nói: “Đa tạ hai vị có lòng chiếu cố cho công tử của bọn tiểu nhân.” Hào kiệt võ lâm đã nói ra là không nuốt lời, Tiêu Phong cùng Hư Trúc đã nhận lời giúp đỡ rồi, Chu, Ba lại trịnh trọng nhắc lại thêm một lần nữa, thế là vừa không sợ hai người hối tiếc mà đổi ý, vừa khiến cho Đoàn Dự khó lòng thoái thác.
***
Đoàn người đi về hướng Tây. Khi gần tới Linh Châu, trên đường càng lúc càng thấy lui tới nhiều nhân vật võ lâm.
Nước Tây Hạ tuy không lớn bằng Đại Tống, Đại Liêu nhưng cũng là một nước lớn ở phía Tây, lúc này quốc vương Tây Hạ cũng đã xưng đế hiệu. Đương kim hoàng đế Tây Hạ Lý Càn Thuận được sử sách gọi là Sùng Tôn Thánh Văn Đế, lấy niên hiệu là Thiên Hựu Dân An, triều chính thanh bình, quốc thái dân an.
Người võ lâm mà lấy được công chúa nước này thì thật là vinh hoa phú quý đến cùng cực, trên đời chẳng còn việc nào may mắn hơn được nữa. Tuy nhiên những nhân vật đã nổi tiếng trong võ lâm thì hầu hết đã có vợ con, còn hạng thiếu niên mới nổi thì chẳng mấy người võ công cao thâm. Trong bọn hào kiệt có cả những vị lão anh hùng dẫn con cháu cùng đồ đệ đi cầu thân, những tay giang dương đại đạo, hào khách các bang hội, lại có cả những người lẻ loi cô độc. Số đông nghĩ rằng: “Nhân duyên ngoài ngàn dặm đều là tiền định, chưa chắc võ công giỏi hơn người khác đã được sánh duyên cùng công chúa. Hễ công chúa ưng ý ai là người đó được làm phò mã.”
Dọc đường gặp không biết bao nhiêu là hào kiệt thiếu niên, ai cũng áo xiêm rực rỡ, binh khí cũng tề chỉnh sáng choang, giống như đi thi võ trạng nguyên. Trong dân gian thường nói “cùng văn phú võ”, người nào có con học võ thì gia đình cũng không đến nỗi nghèo, mà phẩm hạnh không được đoan chính thì lại càng dễ kiếm tiền. Vì thế bọn thiếu niên võ sĩ đi Tây Hạ phải đến chín phần mười trang phục diêm dúa rực rỡ, để cố giành lấy tình cảm của công chúa. Trên đường đi, những người quen biết gặp nhau cũng chỉ cười cợt bên ngoài, hỏi thăm công chúa diện mạo thế nào, dung nhan ra sao, võ nghệ cao hay thấp. Còn những ai không quen biết thì nhìn nhau trừng trừng giận dữ, coi đối phương như là địch thủ.
Một hôm, bọn Tiêu Phong đang lỏng cương cho ngựa đi từ từ, bỗng nghe có tiếng vó ngựa dồn dập, một người cưỡi ngựa từ phía trước phóng lại. Y phục kỵ sĩ rách tươm, trên cổ quấn một miếng vải trắng, thần sắc cực kỳ kinh hoảng. Bọn Tiêu Phong không để ý, chỉ cho là người này nếu không bị ngã thì bị đả thương, chẳng có chi là lạ. Ngờ đâu, lát sau lại có ba người cưỡi ngựa đi qua. Những người này đều bị trọng thương, sắc mặt xám ngắt ra vẻ bẽ bàng, cúi đầu xuống cho ngựa đi mau, không dám ngẩng nhìn mặt bọn Tiêu Phong. Mai Kiếm lẹ miệng lên tiếng: “Phải chăng phía trước có cuộc ẩu đả? Không thì sao lại lắm người bị thương thế này?”
Nàng chưa dứt lời, lại có hai người đi tới. Hai người này đi bộ chứ không cưỡi ngựa, mặt đầm đìa những máu. Một người đầu trùm vải xanh, máu không ngớt thấm ra ngoài. Trúc Kiếm gọi hỏi: “Trời ơi! Ngươi có cần thuốc trị thương không? Làm sao mà bị thương?” Người này mặt mũi hung dữ, trợn mắt nhìn nàng rồi nhổ nước miếng đánh toẹt một cái, cắm đầu đi ngay. Cúc Kiếm cả giận, rút kiếm đánh “soạt” một tiếng, muốn đuổi theo hắn. Hư Trúc lắc đầu nói: “Mặc kệ người ta! Hắn đã bị thương nặng, chẳng nên giận hắn làm gì.” Mai Kiếm nói: “Trúc muội vì lòng tốt hỏi hắn có cần thuốc trị thương không, mà hắn lại tỏ vẻ vô lễ, để hắn chết đi cho đáng kiếp.”
Giữa lúc ấy, lại có bốn con ngựa chạy như bay tới nơi, bên tả hai người, bên hữu hai người. Họ đang trỏ tay vào mặt mà mắng chửi nhau. Một người nói: “Chỉ tại ngươi là con cóc ghẻ mà muốn ăn thịt thiên nga. Sao không biết tự lượng bản lĩnh mà đòi đến Linh Châu để làm phò mã?” Người bên kia mắng lại: “Ngươi có bản lĩnh thì sao không qua được cửa quan? Bây giờ bị thua rồi lại sừng sộ với ta?” Người đối diện lại mắng: “Giả tỉ không có kẻ phóng ám tiễn hại người, thì làm gì ta đến nỗi bị thua?” Bốn người này vừa phóng ngựa rất nhanh vừa nói, nên chưa ai nghe rõ đầu đuôi câu chuyện ra sao. Lát sau, bọn chúng đã tới trước mặt, nhưng thấy bọn Tiêu Phong nhiều người, không dám giành đường, liền rẽ ngựa sang hai bên. Nhưng họ vẫn giơ tay chỉ trỏ mắng nhiếc nhau, đi xa rồi vẫn nghe nói vọng lại. Thì ra, bốn người này đều đến Linh Châu tranh ngôi phò mã nước Tây Hạ, nhưng dường như có một cửa quan nào đó mà bốn người này không vượt qua được, lại bị đả thương nên phải cụp đuôi chạy về.
Đoàn Dự nói: “Đại ca! Tiểu đệ xem ra…” Chàng chưa dứt lời thì trước mặt lại có mấy người chạy bộ đến nơi, có người bị thương ở tay chân, có người sứt đầu chảy máu. Chung Linh không nén nổi hiếu kỳ, phóng ngựa tới hỏi: “Ôi chao! Người giữ cửa quan phía trước ghê gớm lắm phải không?” Một đại hán trung niên hắng giọng đáp: “Cô là nữ nhân, đi qua không bị họ ngăn trở đâu. Còn bọn nam nhân thì quay về đi là hơn.” Bọn Tiêu Phong, Hư Trúc nghe câu này đều lấy làm kỳ, đồng thanh nói: “Chúng ta thử đi xem!” Rồi mọi người giục ngựa chạy thật nhanh.
Đoàn người đi được chừng bảy, tám dặm thì thấy đường núi gập ghềnh, vòng vèo đi lên, chỉ lọt một người cưỡi ngựa. Qua mấy khúc quanh thì thấy một đám đầu người đen sì, bọn Tiêu Phong ruổi ngựa lại gần, thấy trên cao có hai đại hán sóng vai nhau mà đứng giữa đường. Cả hai người đều cao đến hơn sáu thước, to lớn dị thường, một gã cầm cây Thiết chử, một gã nắm cặp Đồng chùy. Hai gã nét mặt hầm hầm, nhìn mọi người đứng phía trước.
Bọn người tụ tập ở đây ít ra phải đến bảy tám chục người, đang bàn tán nhốn nháo, mỗi người nói một câu. Có người nói: “Chúng tôi muốn đến Linh Châu, xin hai vị mở đường cho.” Có người hỏi: “Hai vị ở đây lấy tiền mãi lộ chăng? Không hiểu mỗi người hai lạng hay một lạng? Xin hai vị cứ nói đi, rồi chúng ta thương lượng.” Có người nói: “Nếu hai ngươi không mở đường thì sẽ bị đại họa.” Lại có người nói: “Hai vị tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt, sao không đến Linh Châu xin ứng tuyển làm phò mã, để nàng công chúa nguyệt thẹn hoa nhường lọt vào tay kẻ khác thì chẳng đáng tiếc ư?” Tha hồ cho bọn này muốn nói gì thì nói, hai đại hán thủy chung vẫn không nói gì.
Đột nhiên trong đám đông có tiếng quát: “Tránh ra!” Rồi hào quang lấp loáng, một người vung kiếm lên, nhằm đâm vào đại hán bên tả. Gã này thân hình to lớn, lại mang khí giới cực nặng, ngờ đâu thân thủ mau lẹ vô cùng. Gã múa cặp chùy đánh lại, ép thanh trường kiếm vào giữa. Mỗi quả chùy nặng tới bốn chục cân, chỉ đập mạnh một cái là thanh kiếm gãy làm hai đoạn. Gã lại phóng cước đá ra trúng vào bụng đối phương. Người kia kêu to lên một tiếng, bị hất tung ra xa bảy tám trượng, nằm sóng sượt dưới đất, một lát sau mới cố lồm cồm bò mãi mà không dậy được.
Lại thấy một người múa song đao xông tới. Đao quang như một bức màn trắng xóa hộ vệ toàn thân, tưởng chừng như nước mưa cũng không rơi vào được. Khi đến trước mặt hai gã đại hán, người này quát lên một tiếng thật to rồi đột nhiên biến đổi đao pháp, vung song đao nhằm chém vào đùi hai gã. Đại hán bên hữu không thèm nhìn đến đường đao biến hóa ra sao, cứ vung Thiết chử lên đập vào giữa làn bạch quang. Chỉ nghe một tiếng rú, song đao của người kia đã bị Thiết chử đánh gãy. Y bị mũi đao gãy đâm vào ngực, máu chảy đầm đìa khắp người, rồi ngã lăn long lóc xuống chân núi.
Hai gã đại hán đánh trọng thương hai người, những người khác không dám tiến lên nữa. Lại nghe có tiếng vó câu lộp cộp, một người cưỡi lừa đi lên. Đó là một thiếu niên thư sinh mới độ mười tám mười chín tuổi, mặc áo bào rộng thùng thình, vẻ người nho nhã, tướng mạo anh tuấn phi thường. Người cưỡi lừa chạy đến bên bọn Tiêu Phong thì ai nấy đều nhận thấy gã này khác hẳn những hào khách giang hồ, bất giác đều quay lại nhìn y. Đoàn Dự đột nhiên la lên một tiếng: “Ôi chao!”, rồi ấp úng: “Ngươi… ngươi…” Nhưng chàng thư sinh này không thèm đưa mắt nhìn, cứ ngồi trên lưng lừa chạy qua mặt chàng.
Chung Linh ngạc nhiên hỏi: “Huynh nhận ra vị tướng công này ư?” Đoàn Dự đỏ mặt đáp:”Không! Ta nhận lầm người. Y… y là nam nhân. Ta có biết y là ai đâu?” Chàng nói câu này thật là ngớ ngẩn. A Tử cười khì một tiếng rồi nói: “Ca ca! Té ra ca ca chỉ biết nữ nhân chứ không biết nam nhân.” Nàng ngừng một lát rồi hỏi: “Chẳng lẽ người vừa đi qua là nam nhân ư? Rõ ràng là nữ nhân mà?” Đoàn Dự hỏi: “Ngươi cũng bảo y là nữ nhân ư?” A Tử đáp: “Đúng là nữ nhân! Người cô ta tiết ra một mùi hương, đúng là của nữ nhân.” Đoàn Dự nghe đến chữ “hương” thì trống ngực đập thình thình, tự hỏi: “Phải chăng đúng là nàng?”
Lúc này thư sinh cưỡi lừa đã đến trước mặt hai gã đại hán, lớn tiếng quát: “Tránh ra!”Thanh âm rất trong trẻo, rõ ràng là giọng một thiếu nữ. Đoàn Dự không còn nghi ngờ gì nữa, cất tiếng gọi: “Mộc cô nương! Uyển Thanh muội tử! Ngươi… ngươi… Ta… ta…” Miệng chàng ấp úng gọi loạn lên, giục ngựa tiến lại. Hư Trúc vội la lên:”Tam đệ! Cẩn thận vết thương…” Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần cùng phóng ngựa đuổi theo.
Thiếu niên thư sinh cưỡi lừa vẫn trừng mắt nhìn hai gã đại hán, không quay đầu lại. Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần nhìn nghiêng thấy nửa mặt nàng, đã nhận ra con người xinh đẹp này đúng là người mà Đoàn Dự đã đưa về Trấn Nam Vương phủ nước Đại Lý, chính là Mộc Uyển Thanh. Hai người lẩm bẩm: “Chúng ta thật có mắt như mù, không bằng cô bé đui mắt kia.” Thì ra A Tử tuy mắt chẳng nhìn thấy gì, nhưng thính mũi hơn người thường. Mộc Uyển Thanh có một mùi hương khác lạ, nàng vừa đi qua, A Tử đã ngửi thấy ngay. Còn mọi người thì mắt nhìn rõ ràng là một thiếu niên thư sinh, nhất thời chẳng ai để ý xem xét đó là nam hay nữ.
Đoàn Dự phóng ngựa đến bên, vươn tay nắm lấy vai nàng, dịu dàng nói: “Muội tử! Từ ngày ấy đến nay muội ở đâu? Tiểu huynh nhớ muội quá chừng.” Mộc Uyển Thanh rụt vai lại, né tránh tay Đoàn Dự. Nàng quay đầu hững hờ nhìn chàng, thản nhiên hỏi: “Ngươi nhớ ta ư? Tại sao lại nhớ ta? Ngươi có nhớ ta thật không?” Đoàn Dự ngẩn người ra, cả ba câu hỏi này đều quá khó với chàng.
Đại hán đứng đối diện cười ha hả rồi nói: “Ái chà! Té ra là một cô chiêu! Ta cho cô qua đấy!” Đại hán kia cũng nói: “Nữ nhân thì chúng ta cho qua, còn bọn nam nhân thối tha thì không được đâu. Thằng lỏi kia cút đi!” Hắn trỏ vào mặt Đoàn Dự, nói tiếp: “Cái loại mặt trơn trán bóng kia, lão gia vừa nhìn thấy là ghét cay ghét đắng rồi. Ngươi mà tiến thêm một bước thì lão gia bằm ra làm mắm, đừng có trách ai!” Đoàn Dự nói: “Tôn huynh nói nghe lạ quá! Đường cái là để cho người ta đi lại, tôn huynh không cho đi là vì lẽ gì? Xin được lĩnh giáo!”
Đại hán đáp: “Tôn Tán Vương tử nước Thổ Phồn có lệnh: cửa ải này đóng lại mười ngày, qua khỏi Trung Thu sẽ mở trở lại. Trước ngày Trung Thu chỉ có nữ nhân mới được qua, còn nam nhân thì không được. Ngoài ra, tăng nhân được qua, người phàm tục không được qua; người già được qua, người trẻ không được qua; người chết được qua, người sống không được qua. Cái luật này gọi là Tứ Quá Tứ Bất Quá.” Đoàn Dự hỏi: “Như vậy thì còn nghĩa lý gì?” Đại hán lớn tiếng nói: ” Ngươi hỏi nghĩa lý gì ư? Chẳng có nghĩa lý gì hết. Cặp Đồng chùy của lão gia và cây Thiết chử của lão nhị, chính là nghĩa lý. Tôn Tán vương tử đã hạ lệnh, chính là nghĩa lý. Ngươi là nam nhân, không phải hòa thượng, cũng không phải lão già, thì phải biến thành xác chết mới qua cửa quan này được.”
Mộc Uyển Thanh nói: “Ái chà! Sao lại có hạng người nói chuyện càn rỡ đến thế?” Nàng vung tay phải lên một cái, hai mũi tên bay vèo vèo nhằm vào hai gã đại hán. Chỉ nghe hai tiếng bịch bịch như bắn vào da thuộc, rõ ràng ám tiễn đã bắn trúng ngực mà hai gã này chẳng tổn thương chi hết. Đại hán cầm Thiết chử tức giận quát to: “Cô bé kia thật không biết điều! Sao lại phóng ám khí vào bọn ta?” Mộc Uyển Thanh giật mình kinh hãi nghĩ bụng: “Có lẽ hai tên này măc áo giáp bằng da, tên độc của ta không bắn thủng được.” Đại hán cầm Thiết chử vươn bàn tay to như cái quạt ra, toan nắm lấy Mộc Uyển Thanh. Người gã cao lớn, Mộc Uyển Thanh ngồi trên lưng lừa mà gã chỉ vươn tay ra đã tới trước ngực nàng.
Đoàn Dự la lên:”Tôn huynh không được vô lễ.” Chàng vội đưa tay trái lên chặn lại. Gã liền xoay tay nắm chặt lấy cổ tay Đoàn Dự. Đại hán sử song chùy reo lên: “Hay lắm! Chúng ta hãy xé thằng lỏi mặt trắng này thành hai mảnh.” Gã đưa hữu chùy sang tay trái, tay phải nắm lấy tay kia của Đoàn Dự toan kéo mạnh.
Mộc Uyển Thanh vội quát: “Không được hại ca ca ta!” Mấy mũi ám tiễn lại phóng ra veo véo rồi mất tích như đá quăng xuống biển. Mộc Uyển Thanh phóng ám tiễn vào thân thể chúng không ăn thua gì, lại muốn bắn vào mắt mũi chúng, nhưng ở giữa còn có Đoàn Dự, nên lại sợ trúng phải chàng. Hai bên lối đi này là hai vách núi dựng đứng. Hư Trúc, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần bị Mộc Uyển Thanh và Đoàn Dự cưỡi ngựa chặn mất lối đi, không thể tiến lên cứu ứng được.
Hư Trúc tung mình nhảy lên, rời khỏi yên ngựa, lao tới tên đại hán cầm Thiết chử, toan giơ tay ra điểm vào sườn gã. Đoàn Dự bỗng cười ha hả nói: “Nhị ca bất tất phải hoang mang. Bọn chúng không hại tiểu đệ được đâu.”
Thân hình cao lớn của hai gã đại hán bỗng dần dần run rẩy, hai cái đầu to tướng lắc lư không dừng được, lát sau cả hai đồng thời ngã huỵch xuống đất. Nội lực Bắc Minh Thần Công trong mình Đoàn Dự chuyên hút chân khí địch nhân, nội lực hai gã đại hán bị hút hết, thần lực trời sinh cũng bằng vô dụng, liền ngã lăn ra. Đoàn Dự nói: “Các ngươi đã đánh chết cùng đả thương nhiều người, nên bây giờ phải chịu trừng phạt như thế này. Từ đây về sau không được càn rỡ thế nữa!”
Chung Linh lúc đó cũng tới nơi, liền cười nói: “E rằng bọn chúng không còn bản lĩnh để càn rỡ nữa” Nàng quay đầu lại nhìn Mộc Uyển Thanh nói: “Mộc cô cô! Không ngờ lại chính là cô cô!” Mộc Uyển Thanh lạnh lùng hỏi: “Ngươi là muội tử ta, sao lại gọi ta bằng cô cô?” Chung Linh ngạc nhiên hỏi: “Mộc cô cô nói giỡn rồi! Sao điệt nữ lại là muội tử của cô cô được?” Mộc Uyển Thanh trỏ vào Đoàn Dự nói: “Ngươi cứ hỏi y sẽ rõ.” Chung Linh quay lại nhìn Đoàn Dự, chờ chàng giải thích.
Mặt Đoàn Dự đỏ bừng lên, chàng ấp úng một hồi mà không nói được tiếng nào. May mà lúc đó hai gã đại hán kia đã ngã, những người vốn bị ngăn cản ào ạt kéo qua để tiến vào Linh Châu.
A Tử cất tiếng hỏi: “Ca ca! Vị cô nương thơm phức kia cũng là người quen cũ của ca ca ư? Sao ca ca không giới thiệu với tiểu muội?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi đừng nói lăng nhăng. Đó là… tỉ tỉ ngươi đó. Ngươi lại bái kiến đi!” Mộc Uyển Thanh tức giận nói: “Ta làm gì có phúc khí lớn như thế?” Rồi nàng quất roi vào mông cho lừa chạy về phía trước.
Đoàn Dự đuổi theo hỏi: “Từ bấy đến nay, muội tử ở đâu? Muội… muội trông gầy ốm đi nhiều.” Mộc Uyển Thanh tính tình vừa cao ngạo vừa hung hãn, động tay là giết người, nhưng chỉ nghe một câu nói dịu dàng của Đoàn Dự đã thấy chua xót trong lòng. Hơn một năm nay nàng phiêu bạt giang hồ, dạn dày mưa gió, nghĩ lại cực kỳ đau khổ. Bao nhiêu thảm trạng trong chớp mắt lại hiện ra, nàng không còn ngăn được đôi dòng lụy nhỏ xuống như mưa. Đoàn Dự lại nói: “Muội tử! Bọn chúng ta đông người, có đủ vật dụng. Muội đi cùng với bọn ta nhé!” Mộc Uyển Thanh vùng vằng nói: “Ai cần huynh chiếu cố? Không có huynh thì ta không sống được hay sao?” Đoàn Dự nói: “Tiểu huynh có nhiều chuyện muốn nói với muội. Muội có chịu đi theo ta không?” Mộc Uyển Thanh vẫn hằn học nói: “Huynh còn gì để nói với ta nữa? Chẳng qua lại là mấy câu nói nhăng nói cuội chứ gì?” Tuy nàng không ưng chịu, nhưng khóe miệng đã lộ nét cười. Đoàn Dự cả mừng nói: “Hảo muội tử! Tuy muội có gầy đi đôi chút, nhưng càng lớn lên lại càng xinh đẹp.”
Mộc Uyển Thanh sầm mặt nói: “Huynh là huynh trưởng của ta, từ nay không được nói như thế nữa!” Hiện giờ, lòng dạ Mộc Uyển Thanh rối bời. Nàng biết rõ Đoàn Dự là huynh trưởng cùng cha khác mẹ của mình, thế mà lòng yêu mến nhớ nhung chẳng những không phai nhạt, mà mỗi ngày lại mỗi tăng thêm.
Đoàn Dự cười nói: “Ta khen muội tử càng lớn lên càng xinh đẹp, thì có gì là sai đâu? Hảo muội tử! Muội cải dạng nam trang đến Linh Châu để thi tuyển làm phò mã ư? Muội trông rất giống một chàng thư sinh thiếu niên anh tuấn, công chúa nước Tây Hạ mà nhìn thấy thì phải điên đảo thần hồn.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Còn huynh đến Linh Châu làm chi?” Đoàn Dự đỏ mặt lên đáp: “Ta chỉ muốn đến xem cuộc náo nhiệt này, không có ý gì khác cả.” Mộc Uyển Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Huynh đừng dối muội nữa. Gia gia bảo huynh đến ứng tuyển làm phò mã, lại sai hai gã Ba, Chu đưa huynh đi. Huynh tưởng muội không biết hay sao?”
Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi: “Ô hay! Sao muội lại biết thế?” Mộc Uyển Thanh đáp: “Mẫu thân của muội vừa gặp gia gia. Muội cùng đi với mẫu thân, nên nghe nói thế.” Đoàn Dự nói: “Té ra là vậy! Muội biết ta đi Linh Châu nên cũng đi xem phải không?” Mộc Uyển Thanh đỏ mặt lên vì Đoàn Dự nói câu này rất đúng tâm sự nàng, nhưng chỉ bĩu môi đáp: “Muội đi xem ca ca làm chi? Muội chỉ muốn xem công chúa nước Tây Hạ đẹp đến cỡ nào mà làm náo loạn cả thiên hạ.” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Công chúa Tây Hạ chỉ đẹp bằng nửa muội cũng là tốt lắm rồi.” Nhưng chàng nhận ra câu này nói với tình nhân thì được, nói với muội tử thì không nên, bèn không nói ra nữa. Mộc Uyển Thanh lại nói: “Tiểu muội cũng muốn đi xem Đoàn Vương tử nước Đại Lý cầu hôn có thành công hay chăng.” Đoàn Dự khẽ nói: “Ta không làm phò mã nước Tây Hạ đâu. Nhưng muội muội chớ nên tiết lộ với ai, nếu gia gia bức bách thì ta sẽ trốn biệt.”
Mộc Uyển Thanh hỏi: “Chẳng lẽ lệnh của gia gia mà huynh dám cãi ư?” Đoàn Dự nói: “Ta không cãi lệnh, mà chỉ bỏ trốn thôi.” Mộc Uyển Thanh cười nói: “Bỏ trốn với cãi lệnh thì khác gì nhau? Người ta là công chúa cành vàng lá ngọc, sao huynh lại không muốn lấy?” Từ lúc gặp nhau, bây giờ Mộc Uyển Thanh mới hé miệng cười. Đoàn Dự cả mừng nói: “Muội muội tưởng ta cũng giống gia gia, gặp người nào là yêu người nấy, rồi không dứt ra được hay sao?”
Mộc Uyển Thanh nói: “Hừ! Tiểu muội thấy huynh giống hệt gia gia, chẳng khác chút nào, đúng là cha nào con ấy. Có điều huynh không được tốt phúc bằng gia gia thôi. Rồi nàng thở dài nói tiếp: “Sau lưng thì má má tiểu muội trách móc gia gia đủ điều, mà hễ gặp mặt là tha thứ hết. Nhưng các cô nương trẻ tuổi bây giờ không được rộng lượng như má má tiểu muội đâu”.