Bọn đệ tử trong phái đã sớm được tin, cùng xuống chân núi cung kính nghênh đón. Thấy Lệnh Hồ Xung cả bọn đều bái lạy. Lệnh Hồ Xung vội đáp lễ, kể chuyện hai vị sư thái Định Nhàn và Định Dật tạ thế, ai cũng rất thương cảm. Lệnh Hồ Xung thấy Nghi Lâm đứng lẫn trong đám đệ tử, vẻ mặt tiều tụy, khác hẳn vẻ xinh tươi trước đây. Chàng bèn hỏi:
– Nghi Lâm sư muội, gần đây sư muội không được khỏe ư?
Khóe mắt Nghi Lâm ửng đỏ. Cô nói:
– Không sao.
Cô ngừng một lúc rồi nói tiếp:
– Chưởng môn sư thúc là chưởng môn nhân của bọn tiểu ni, thì không thể gọi tiểu ni là sư muội nữa.
Trên đường đi, bọn Nghi Hòa đều gọi Lệnh Hồ Xung là “Chưởng môn sư thúc”. Chàng bảo mọi người đổi cách gọi, mọi người cũng không nghe theo. Bây giờ nghe Nghi Lâm cũng gọi như vậy, bèn lớn tiếng nói:
– Các vị sư tỉ sư muội, Lệnh Hồ Xung thừa di mệnh tiền chưởng môn sư thái của bổn phái chấp chưởng môn hộ phái Hằng Sơn. Kỳ thực tại hạ vô đức vô tài, quyết không dám làm.
Bọn đệ tử đều nói:
– Chưởng môn sư thúc chịu gánh lấy trọng trách này, thực là đại phước cho bổn phái.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Nhưng mọi người phải hứa với tại hạ một chuyện.
Bọn Nghi Hòa nói:
– Chưởng môn nhân có điều chi dạy bảo, bọn đệ tử không dám không tuân.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tại hạ chỉ làm chưởng môn sư huynh của các vị chứ không làm chưởng môn sư thúc đâu.
Bọn Nghi Hòa, Nghi Thanh, Nghi Chân, Nghi Văn là các đại đệ tử bàn bạc to nhỏ với nhau mấy câu rồi thưa:
– Chưởng môn nhân đã khiêm tốn như vậy, đương nhiên bọn đệ tử tuân theo.
Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Như vậy thì hay lắm.
Tất cả cùng lên núi Hằng Sơn. Đỉnh núi Hằng Sơn rất cao, tuy cước trình của mọi người nhanh nhưng lên đến đỉnh Kiến Tính cũng mất hết hơn nửa ngày. Vô Sắc am, am chính của phái Hằng Sơn là một ngôi nhà nhỏ, bên am có hơn ba mươi gian nhà ngói dành cho chúng đệ tử ở. Lệnh Hồ Xung thấy toàn cảnh Vô Sắc am so với kiến trúc hùng vĩ của chùa Thiếu Lâm thì giống như con kiến và con voi. Lệnh Hồ Xung vào trong am, thấy giữa am thờ Bạch y Quan Âm, bốn bên không dính chút bụi trần, cực kỳ tinh khiết, cách bài trí rất đơn giản. Chàng không ngờ phái Hằng Sơn oai chấn giang hồ mà am đường chính lại đơn sơ mộc mạc như vậy.
Lệnh Hồ Xung quỳ lạy tượng Quan Thế Âm Bồ Tát, rồi Vu Tẩu dẫn chàng đến nơi tĩnh tu của Định Nhàn sư thái. Chàng chỉ thấy bốn bức tường vắng vẻ, dưới đất có một tấm bồ đoàn cũ, ngoài ra không có gì khác. Lệnh Hồ Xung rất thích náo nhiệt, thích uống thích ăn, làm sao có thể ở trong cái đấu thất lặng lẽ như nước hồ thu này mà thanh tu được? Nếu đem vò rượu, đùi chó nướng đến nơi này thì không khỏi quá tiết mạn. Chàng nói với Vu Tẩu:
– Tuy tại hạ đến làm chưởng môn phái Hằng Sơn nhưng không phải là người xuất gia, không thể làm ni cô. Sư tỷ sư muội trong phái đều là nữ lưu, một mình tại hạ là nam tử, nên ở trong am rất bất tiện. Vậy xin Vu Tẩu dọn một phòng ở chỗ xa, tại hạ cùng với Đào Cốc lục tiên ở đó thì mới tiện cho đôi bên.
Vu Tẩu nói:
– Dạ, trên ngọn núi phía Tây có ba gian nhà lớn vốn là phòng khách dành cho phụ mẫu của các nữ đệ tử bổn phái lúc lên thăm có chỗ trú ngụ. Chưởng môn nhân tạm thời ở bên đó được không? Bọn đệ tử sẽ xây một ngôi nhà mới cho chưởng môn nhân ở.
Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:
– Vậy thì còn gì hơn nữa, đâu cần phải xây nhà mới.
Chàng nghĩ bụng: Chẳng lẽ suốt đời ta làm chưởng môn nhân phái Hằng Sơn ư? Ta phải chọn một người thích hợp trong bổn phái, chỉ cần bọn đệ tử đều khâm phục thì ngôi vị chưởng môn nhân sẽ được truyền ngay cho cô ta. Ta vỗ mông mà đi tiêu dao khoái lạc trên giang hồ.
Lệnh Hồ Xung đến phòng khách trên ngọn núi phía Tây, thấy chăn, màn, giường, bàn ghế giống như nhà của một phú nông, tuy thô sơ nhưng cũng không tẻ nhạt trống không như Vô Sắc am.
Vu Tẩu nói:
– Mời chưởng môn nhân ngồi, đệ tử đi lấy rượu cho chưởng môn nhân uống.
Lệnh Hồ Xung vui mừng hỏi:
– Trên núi có rượu ư?
Chuyện này khiến chàng vui mừng quá độ. Vu Tẩu mỉm cười nói:
– Không những có rượu mà còn có rượu ngon nữa. Nghi Lâm tiểu sư muội nghe nói chưởng môn nhân sắp lên Hằng Sơn, sư muội nói với đệ tử nếu không có rượu chỉ e rằng chưởng môn nhân không ở được mấy ngày. Bọn đệ tử giữa đêm khuya phái người xuống núi mua mấy chục vò rượu ngon.
Lệnh Hồ Xung hơi ái ngại, cười nói:
– Người bổn phái ai cũng vất vả, vì tại hạ mà tốn kém nhiều, thật là khó nói quá.
Nghi Thanh mỉm cười nói:
– Hôm đó, số lượng bạc hóa duyên ở nhà Bạch Bát Bì tuy đã đem một nửa cứu giúp người nghèo nhưng cũng còn nhiều lắm. Sau đó, lại đem bán mấy chục con ngựa của quan quân thì chưởng môn sư huynh có uống mười năm, hai mươi năm cũng chưa hết tiền.
Đêm đó, Lệnh Hồ Xung và Đào Cốc lục tiên uống một trận no say. Sáng sớm hôm sau, chàng cùng với bọn Vu Tẩu, Nghi Thanh, Nghi Hòa bàn bạc với nhau làm thế nào để nghinh đón hài cốt của hai vị sư thái về rồi tìm cách báo thù cho ba vị sư thái.
Nghi Thanh nói:
– Chưởng môn sư huynh tiếp nhiệm ngôi vị này phải thông báo cho đồng đạo trong võ lâm biết và cũng nên phái người đi bẩm cho minh chủ Tả sư bá Ngũ Nhạc kiếm phái biết.
Nghi Hòa tức giận nói:
– Hừ, sư phụ ta bị bọn gian tặc phái Tung Sơn giết hại, chắc hai vị sư thúc cũng do bọn chúng hạ độc thủ. Báo cho bọn chúng biết để làm gì?
Nghi Thanh nói:
– Lễ nghi thì không thể thiếu. Đợi chúng ta điều tra rõ ràng, nếu ba vị sư tôn đúng là do phái Tung Sơn gia hại thì lúc đó chưởng môn sư huynh thống lãnh mọi người lên hỏi tội chúng.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Nghi Thanh sư tỷ nói có lý. Nhưng chức chưởng môn nhân này tại hạ làm thì đã làm rồi, cũng không cần điển lễ làm gì.
Lệnh Hồ Xung nhớ lúc còn nhỏ, sư phụ tiếp nhiệm chưởng môn phái Hoa Sơn, lễ nghi cực kỳ phiền phức, đồng đạo võ lâm lên núi xem lễ không biết bao nhiêu mà kể. Chàng lại nhớ đến chuyện rửa tay gác kiếm của Lưu Chính Phong phái Hành Sơn, thành Hành Sơn quần hào đến đông nghẹt. Phái Hằng Sơn, Hoa Sơn và Hành Sơn cùng nổi tiếng như nhau, chàng nhậm chức chưởng môn, nếu người đến chúc mừng le hoe vài mạng thì không khỏi mất mặt, nhưng người đến chúc mừng quá đông mà thấy một nam tử lên làm chưởng môn của một đám nữ ni thì không khỏi cười chê.
Nghi Thanh biết rõ tâm ý của chàng, bèn nói:
– Chưởng môn sư huynh không muốn làm kinh động bằng hữu trong võ lâm, vậy lúc đó không mời tân khách lên núi dự lễ là được rồi. Nhưng chúng ta phải chọn ngày tiếp nhiệm chính thức để mọi người cùng biết.
Lệnh Hồ Xung nghĩ phái Hằng Sơn là một trong Ngũ Nhạc kiếm phái, nếu nhậm chức chưởng môn nhân mà quá sơ sài thì không khỏi làm thương tổn đến oai danh của phái. Chàng gật đầu khen phải.
Nghi Thanh lấy một cuốn lịch mở ra xem một lúc rồi nói:
– Ngày mười sáu tháng hai, ngày tám tháng ba, ngày hai mươi bảy tháng ba, ba ngày này đều là ngày hoàng đạo tốt lành, đại kiết đại lợi. Chưởng môn sư huynh xem ngày nào thích hợp nhất?
Lệnh Hồ Xung không tin cái gì là ngày hoàng đạo tốt lành, ngày hắc đạo hung hiểm, lòng chỉ mong điển lễ cử hành càng sớm thì người lên núi dự càng ít để đỡ lúng túng. Chàng bèn hỏi:
– Tháng giêng có ngày nào tốt không?
Nghi Thanh nói:
– Trong tháng giêng ngày tốt cũng nhiều, nhưng đều có lợi cho việc xuất hành, động thổ, hôn nhân, khai trương…, phải đến tháng hai mới có ngày tốt có lợi cho việc tiếp ấn, tọa nha.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Tại hạ đâu có làm quan, cái gì là tiếp ấn, tọa nha?
Nghi Hòa cười nói:
– Chưởng môn sư huynh đã không từng làm đại tướng quân sao? Làm chưởng môn nhân cũng là tiếp ấn, tọa nha vậy.
Lệnh Hồ Xung không muốn làm phật ý mọi người bèn nói:
– Nếu đã là như vậy thì chọn ngày mười sáu tháng hai.
Chàng liền phái đệ tử lên chùa Thiếu Lâm nghinh đón xá lợi của hai vị sư thái về, gởi thông tri đến các môn các phái, dặn bảo bọn đệ tử xuống núi vạn lần không nên phô trương chuyện này. Lệnh Hồ Xung nói:
– Các vị bẩm rõ với chưởng môn nhân của các phái: Định Nhàn sư thái viên tịch, đại thù chưa báo, bọn đệ tử phái Hằng Sơn đang trong thời kỳ có tang, nên không cử hành đại điển tiếp nhiệm chưởng môn nhân. Xin đừng cử người lên núi dự lễ chúc mừng.
Sau khi dặn bọn đệ tử xuống núi truyền tin, Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ta đã làm chưởng môn phái Hằng Sơn vậy phải đem võ công kiếm pháp phái Hằng Sơn rèn luyện cho bọn quần ni mới phải.
Chàng liền triệu tập chúng đệ tử lên núi, ra lệnh cho mọi người thử diễn võ công kiếm pháp, từ công phu cơ bản nhập môn trở lên. Sau cùng, Nghi Hòa và Nghi Thanh hai đại đệ tử cùng chiết chiêu, thi triển chiêu thức thượng thừa trong Hằng Sơn kiếm pháp.
Lệnh Hồ Xung thấy Hằng Sơn kiếm pháp nghiêm cẩn, sở trường là phòng ngự, đợi lúc người ta sơ suất mà đột ngột hạ thủ. Kiếm pháp cẩn mật nhưng không lợi hại lắm, chính là võ công phù hợp cho phụ nữ. Cao thủ nhiều đời phái Hằng Sơn đều là nữ lưu, võ công đương nhiên luyện không oai mãnh hung hãn bằng nam tử. Nhưng Hằng Sơn kiếm pháp có thể nói là một loại kiếm pháp ít có chỗ sơ hở nhất, nếu nói về phòng thủ nghiêm mật thì thua Thái Cực kiếm pháp của phái Võ Đang một chút nhưng đột ngột xuất chiêu tấn công thì lại hơn Thái Cực kiếm pháp. Phái Hằng Sơn thành danh trong võ lâm đương nhiên có chỗ độc đáo của nó.
Lệnh Hồ Xung nhớ lại lúc lên hậu động trên ngọn núi sám hối Hoa Sơn đã từng thấy trên vách có khắc Hằng Sơn kiếm pháp, biến chiêu tinh kỳ, vượt xa kiếm pháp của Nghi Hòa và Nghi Thanh. Nhưng bộ kiếm pháp đó cũng bị người phá giải được, sau này phái Hằng Sơn muốn phát dương quang đại trong võ lâm thì kiếm thuật cơ bản của bổn phái phải được cải tiến. Chàng lại nhớ đã từng thấy Định Tĩnh sư thái động thủ với người, nội công của bà thâm hậu, chiêu thức lão luyện, hơn xa bọn đệ tử Nghi Hòa. Nghe nói võ công của Định Nhàn sư thái còn cao hơn. Xem ra, hơn một nửa đệ tử chưa học được công phu của ba vị tiền bối sư thái. Ba vị sư thái trong vòng mấy tháng đều tạ thế hết, có lẽ công phu tinh diệu của phái Hằng Sơn từ nay bị thất truyền.
Nghi Hòa thấy Lệnh Hồ Xung ngơ ngẩn xuất thần, không ừ không hử đối với kiếm pháp của bọn đệ tử, bà bèn nói:
– Chưởng môn sư huynh, xin chưởng môn chỉ điểm thêm cho.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Có một bộ kiếm pháp phái Hằng Sơn, không biết ba vị sư thái đã truyền cho các vị chưa?
Chàng nhận kiếm từ tay Nghi Hòa, rồi đem kiếm pháp phái Hằng Sơn khắc trên vách đá, sử ra từng chiêu rất chậm để chúng đệ tử thấy rõ.
Lệnh Hồ Xung sử vài chiêu thì quần đệ tử đều hoan hô, thấy mỗi chiêu chàng sử ra đều bao hàm tinh yếu của kiếm pháp bổn phái nhưng biến hóa rất kỳ lạ, so với các bộ kiếm pháp mà bọn họ thường học đều cao minh hơn rất nhiều. Mỗi chiêu mỗi thức, ai ai nhìn thấy huyết mạch cũng rạo rực, tinh thần phấn chấn. Bộ kiếm pháp khắc trên vách đá là vật chết, lúc Lệnh Hồ Xung sử từng chiêu liền mạch lại, lại có cả thêm một chút ý mới mà chàng nghĩ ra. Lệnh Hồ Xung sử xong, quần đệ tử reo hò, cúi người bái phục. Nghi Hòa nói:
– Chưởng môn sư huynh, đây rõ ràng là kiếm pháp của phái Hằng Sơn chúng ta, nhưng bọn đệ tử chưa bao giờ thấy qua, chỉ e sư phụ và hai vị sư thúc cũng không biết. Không biết chưởng môn sư huynh học được ở đâu?
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tại hạ thấy trên vách đá trong sơn động, nếu các vị muốn học thì tại hạ truyền cho các vị được chăng?
Quần đệ tử vui mừng, liên tục cám ơn.
Hôm ấy Lệnh Hồ Xung truyền cho bọn đệ tử ba chiêu, đem chỗ ảo diệu trong ba chiêu nói cặn kẽ, chỉ bảo các đệ tử tự luyện tập.
Tuy chỉ ba chiêu kiếm pháp nhưng là ba chiêu tinh thâm vô cùng, dù là bọn đại đệ tử Nghi Thanh, Nghi Hòa cũng phải mất hết bảy tám ngày mới lãnh hội được. Còn như bọn Trịnh Ngạc, Nghi Lâm, Tần Quyên thì khó lĩnh hội hơn. Đến ngày thứ chín, Lệnh Hồ Xung lại truyền thêm hai chiêu kiếm pháp cho bọn họ. Bộ kiếm pháp khắc trên vách đá, chiêu số không nhiều nhưng cũng mất hơn một tháng mới truyền thụ xong, còn lĩnh hội hết hay không thì phụ thuộc vào sự tu tập và bản lãnh của mỗi người.
Trong hơn một tháng này, chúng đệ tử xuống núi truyền tin lần lượt quay về. Phần nhiều các cô không vui, lúc bẩm báo với Lệnh H ồ Xung thì nói ấp a ấp úng. Lệnh Hồ Xung biết bọn họ chắc bị người ta chế giễu, sỉ nhục, nói bọn họ là một quần ni cô mà lại muốn một nam tử làm chưởng môn. Chàng không tiện hỏi cặn kẽ, chỉ an ủi mấy câu, bảo bọn họ chia nhau đi hỏi các vị sư tỷ để luyện kiếm pháp mà chàng đã truyền thụ, gặp chỗ nào không hiểu thì chàng sẽ đích thân chỉ điểm thêm.
Đưa thư lên phái Hoa Sơn do Vu Tẩu và Nghi Văn là hai đệ tử lão thành trầm tính đảm nhiệm. Hoa Sơn và Hằng Sơn cách nhau không xa, đáng lý họ phải về từ lâu nhưng đến giờ vẫn bặt vô âm tín. Ngày mười sáu tháng hai đã gần kề mà vẫn không thấy bóng dáng của Vu Tẩu và Nghi Văn, Lệnh Hồ Xung liền phái hai đệ tử là Nghi Quang và Nghi Thức đi tiếp ứng.
Quần đệ tử đoán rằng các môn các phái không ai lên núi dự lễ chúc mừng, nên cũng không chuẩn bị thức ăn và chỗ nghỉ cho tân khách. Mọi người chỉ nhổ cỏ, quét dọn sạch sẽ mấy chục gian nhà, may áo mới, sắm giày mới. Bọn Trịnh Ngạc may một trường bào màu đen cho Lệnh Hồ Xung, đợi ngày tiếp nhiệm bổn môn. Hằng Sơn thuộc Bắc Nhạc trong Ngũ Nhạc, sắc phục là màu đen.
Sáng sớm ngày mười sáu tháng hai, Lệnh Hồ Xung thức dậy đi ra, thấy nhà cửa trên ngọn Kiến Tính đều treo đèn kết hoa, bầu không khí rất phấn khởi. Bọn nữ đệ tử tính rất cẩn thận, ngay cả chuyện nhỏ như một mảnh giấy, sợi dây họ cũng đều sắp đặt đâu vào đó. Lệnh Hồ Xung vừa hổ thẹn vừa cảm kích. Chàng thầm nghĩ: Chỉ vì ta làm liên lụy khiến hai vị sư thái bị chết thảm, bọn họ không những không trách ta mà còn coi trọng ta như vậy. Nếu Lệnh Hồ Xung không thể báo thù cho ba vị sư thái thì thật chẳng đáng làm người.
Bỗng nghe sau thung lũng có người lớn tiếng nói:
– A Lâm, A Lâm, gia gia nhìn thấy ngươi rồi, ngươi có khỏe không? A Lâm, gia gia của ngươi đến đây.
Giọng nói oang oang làm chấn động sơn cốc vọng lại bất tuyệt:
– A Lâm… A Lâm… gia gia ngươi… gia gia ngươi…
Nghi Lâm nghe tiếng gọi vội chạy ra. Cô gọi:
– Gia gia, gia gia!
Sau thung lũng xuất hiện một hòa thượng cao to khôi ngô, chính là Bất Giới hòa thượng, phụ thân của Nghi Lâm, sau lưng lão lại có một hòa thượng nữa. Hai người đi rất nhanh, trong khoảnh khắc đã đến gần. Bất Giới hòa thượng lớn tiếng nói:
– Lệnh Hồ công tử, công tử bị trọng thương mà không chết, còn được làm chưởng môn nhân của con gái ta thì hay quá.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Đó là nhờ hồng phúc của đại sư.
Nghi Lâm đi đến, kéo tay phụ thân rất thân thiết. Cô cười nói:
– Gia gia, gia gia biết hôm nay là ngày tốt, Lệnh Hồ đại ca tiếp nhiệm chưởng môn phái Hằng Sơn nên gia gia đến chúc mừng phải không?
Bất Giới cười nói:
– Chúc mừng thì không cần, ta đến để đầu nhập vào phái Hằng Sơn. Mọi người đều cùng một nhà thì có gì đâu mà chúc mừng?
Lệnh Hồ Xung giật mình hỏi:
– Đại sư muốn đầu nhập phái Hằng Sơn ư?
Bất Giới nói:
– Đúng vậy, con gái của ta là môn hạ phái Hằng Sơn, ta là lão tử của nó thì dĩ nhiên cũng là người phái Hằng Sơn. Tổ mẹ nó, có một tên thối mồm chế giễu công tử, nói công tử là một đại nam nhân mà làm chưởng môn nhân của một bầy ni cô và cô nương. Tổ mẹ nó, bọn chúng không biết công tử đa tình đa nghĩa, có tấm lòng đặc biệt…
Lão cười híp mắt, vô cùng thích thú. Lão liếc nhìn con gái rồi nói tiếp:
– Lão tử cho một quyền đánh rớt răng của hắn rồi quát: “Ngươi biết cái chó gì! Tại sao phái Hằng Sơn chỉ có ni cô và cô nương? Lão tử chính là người của phái Hằng Sơn, lão tử cạo trọc đầu mà ngươi cũng dám xem lão tử là ni cô hả? Để lão tử cởi quần cho ngươi xem nhé!”. Rồi ta đưa tay cởi quần, tiểu tử sợ đến nỗi quay đầu chạy tuốt. Ha ha, ha ha!
Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm đều cười to lên. Nghi Lâm cười nói:
– Gia gia, gia gia làm chuyện thô lỗ như vậy mà không sợ người ta cười ư?
Bất Giới nói:
– Không cho hắn xem rõ ràng thì chỉ e tiểu tử đó không biết lão tử là ni cô hay là hòa thượng. Lệnh Hồ huynh đệ, ta đã nhập vào phái Hằng Sơn, còn dẫn thêm một đồ tôn đến. Bất Khả Bất Giới, mau đến tham kiến Lệnh Hồ chưởng môn.
Lúc lão nói thì hòa thượng đi theo lão lên núi vẫn đứng quay lưng không nhìn Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm. Bây giờ gã quay người lại, vẻ mặt rất lúng túng, nhìn Lệnh Hồ Xung cười cười.
Lệnh Hồ Xung cảm thấy tướng mạo của hòa thượng này rất quen, nhất thời không nhớ ra là ai. Chàng ngẩn người một lát mới nhận ra gã là Vạn lý độc hành Điền Bá Quang, bất giác chàng rất kinh ngạc, há hốc miệng hỏi:
– Là… là Điền huynh ư?
Hòa thượng này chính là Điền Bá Quang. Gã cười gượng, cúi người hướng về Nghi Lâm hành lễ rồi nói:
– Tham… tham kiến sư phụ.
Nghi Lâm cũng rất kinh ngạc. Cô hỏi:
– Ngươi… tại sao ngươi xuất gia? Cải trang thôi phải không?
Bất Giới đại sư dương dương đắc ý cười nói:
– Hàng thật giá đúng, không lừa dối người già trẻ con, chính xác hắn là hòa thượng. Bất Khả Bất Giới, pháp danh của ngươi gọi là gì, nói cho sư phụ nghe đi.
Điền Bá Quang cười gượng nói:
– Sư phụ, thái sư phụ đặt pháp danh cho đệ tử là cái gì “Bất Khả Bất Giới”.
Nghi Lâm ngạc nhiên hỏi:
– Cái gì Bất Khả Bất Giới? Làm gì có cái pháp danh dài như vậy?
Bất Giới nói:
– Ngươi biết cái gì? Trong kinh Phật tên của Bồ Tát còn dài hơn nhiều. “Đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”, tên này không dài sao? Tên của hắn chỉ có bốn chữ mà dài là dài cái gì?
Nghi Lâm gật đầu nói:
– Thì ra là vậy. Tại sao hắn lại xuất gia? Gia gia, gia gia nhận hắn làm đồ đệ ư?
Bất Giới cười nói:
– Không. Hắn là đồ đệ của ngươi, ta là tổ sư gia của hắn. Nhưng ngươi là tiểu ni cô, hắn bái ngươi làm sư phụ, nếu hắn không làm hòa thượng thì rất có hại cho thanh danh phái Hằng Sơn. Cho nên ta khuyên hắn làm hòa thượng.
Nghi Lâm cười nói:
– Gia gia khuyên hắn cái gì? Nhất định là gia gia ép hắn xuất gia có phải không?
Bất Giới nói:
– Hắn tự nguyện, xuất gia không thể ép buộc được. Người này cái gì cũng tốt, mà bản tính lại không tốt, cho nên ta đặt pháp danh cho hắn là Bất Khả Bất Giới.
Mặt Nghi Lâm hơi ửng đỏ. Cô biết rõ dụng ý của gia gia. Con người của Điền Bá Quang tham hoa hiếu sắc, trước đây không biết tại sao hắn bị gia gia cô bắt được, tha mạng chứ không giết, lại đem nhiều hình phạt cổ quái trút lên người hắn. Lần này lại ép hắn làm hòa thượng.
Bất Giới hòa thượng lớn tiếng nói:
– Pháp danh của ta là Bất Giới nên bất cứ thanh quy giới luật gì cũng không giữ. Nhưng Điền Bá Quang này làm nhiều chuyện bại hoại trên giang hồ, nếu không bắt hắn giữ giới thì sao có thể làm môn hạ đệ tử của ngươi được? Lệnh Hồ công tử cũng không thích đâu. Sau này hắn muốn được ta truyền y bát vì vậy trong pháp danh của hắn cũng phải có hai chữ “Bất Giới”.
Bỗng nghe một người nói:
– Bất Giới hòa thượng và Bất Khả Bất Giới đầu nhập vào phái Hằng Sơn thì bọn Đào Cốc lục tiên ta cũng đầu nhập vào phái Hằng Sơn.
Đào Cốc lục tiên vừa đến. Người nói là Đào Cán Tiên.
Đào Căn Tiên nói:
– Bọn ta gặp Lệnh Hồ Xung trước nhất cho nên sáu huynh đệ bọn ta là đại sư huynh, Bất Giới hòa thượng là tiểu sư đệ.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Phái Hằng Sơn đã có Bất Giới đại sư và Điền Bá Quang, lại thu thêm Đào Cốc lục tiên nữa cũng được. Trên giang hồ khỏi phải nói Lệnh Hồ Xung là chưởng môn một bầy ni cô, cô nương.
Hắn nói:
– Lục vị Đào huynh chịu gia nhập phái Hằng Sơn thì tốt quá. Sư huynh sư đệ sắp theo thứ bậc thì phiền phức lắm, mọi người miễn dùm cho.
Đào Diệp Tiên bỗng nói:
– Đệ tử của Bất Giới gọi là Bất Khả Bất Giới, tương lai nếu Bất Khả Bất Giới thu nhận đệ tử thì pháp danh gọi là gì?
Đào Thực Tiên nói:
– Đệ tử của Bất Khả Bất Giới thì trong pháp danh phải có bốn chữ Bất Khả Bất Giới nên có thể gọi là “Đương Nhiên Bất Khả Bất Giới”.
Đào Chi Tiên hỏi:
– Vậy đệ tử của Đương Nhiên Bất Khả Bất Giới pháp danh gọi là gì?
Lệnh Hồ Xung thấy Điền Bá Quang rất bẽn lẽn, bèn nắm tay gã nói:
– Tiểu đệ có mấy câu muốn hỏi Điền huynh.
Điền Bá Quang đáp dạ.
Hai người bước nhanh ra ngoài mấy trượng, lại nghe Đào Cán Tiên nói ở sau lưng:
– Pháp danh của hắn có thể là Lý Sở Đương Nhiên Bất Khả Bất Giới.
Đào Hoa Tiên hỏi:
– Vậy thì đệ tử của Lý Sở Đương Nhiên Bất Khả Bất Giới pháp danh gọi là gì?
Điền Bá Quang cười gượng nói:
– Lệnh Hồ chưởng môn, ngày hôm đó tại hạ bị thái sư phụ bức ép đến Hoa Sơn mời Lệnh Hồ chưởng môn đi gặp tiểu sư thái. Chuyện này thật khó nói hết…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Tiểu đệ chỉ biết lão bá buộc Điền huynh uống độc dược, lại nói gạt đã điểm tử huyệt của Điền huynh.
Điền Bá Quang nói:
– Chuyện này phải nói từ đầu. Ngày hôm đó ở ngoài Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, tại hạ đánh lộn với Dư Thương Hải, lòng nghĩ hảo thủ trong hắc đạo ở Hồ Nam quá nhiều, nên không thể chần chờ được nữa, liền đi về hướng Bắc lên Hà Nam. Nói ra thật xấu hổ, bệnh cũ lại tái phát, đêm tối ở Khai Phong phủ, tại hạ mò đến khuê phòng của một tiểu thư nhà phú hộ. Tại hạ vén rèm đưa tay mò mẫm, lại mò nhằm cái đầu trọc lóc.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Không ngờ là một ni cô.
Điền Bá Quang cười gượng nói:
– Không phải, một hòa thượng.
Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:
– Trong chăn hoa của tiểu thư là một hòa thượng đang ngủ, không ngờ vị tiểu thư này lén lút ăn ở với một hòa thượng.
Điền Bá Quang lắc đầu nói:
– Không phải! Vị hòa thượng đó chính là thái sư phụ. Thì ra thái sư phụ đang tìm tại hạ, nên nghe được chút manh mối liền tìm đến phủ Khai Phong. Ban ngày, tại hạ quanh quẩn rình mò nhà người ta đã bị thái sư phụ nhìn thấy. Thái sư phụ lão nhân gia đoán tại hạ không có ý tốt nên nói với người ta, bảo tiểu thư đi chỗ khác để thái sư phụ lão nhân gia ngủ ở trên giường đợi tại hạ.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Phen này Điền huynh xui xẻo rồi.
Điền Bá Quang cười gượng nói:
– Còn phải nói nữa! Lúc tại hạ mò đến đầu của thái sư phụ thì biết là không may rồi, lại cảm thấy bụng dưới tê chồn, thì ra đã bị điểm trúng huyệt đạo. Thái sư phụ nhảy xuống giường đốt đèn lên, hỏi tại hạ muốn chết hay muốn sống. Tại hạ biết cả đời mình làm chuyện ác, cuối cùng sẽ có ngày gặp báo ứng, liền nói: “Muốn chết”. Thái sư phụ rất lấy làm lạ hỏi tại hạ: “Tại sao muốn chết?”. Tại hạ nói: “Ta không cẩn thận nên bị lão chế ngự, chẳng lẽ ta còn có thể sống được hay sao?”. Thái sư phụ tức giận nói: “Ngươi nói ngươi không cẩn thận bị ta chế ngự, còn nếu ngươi cẩn thận một chút thì sẽ không bị ta chế ngự ư? Được lắm”. Thái sư phụ nói chữ “Được lắm” rồi liền đưa tay ra giải khai huyệt đạo cho tại hạ.
Tại hạ ngồi xuống hỏi: “Có gì dạy bảo?”. Thái sư phụ nói: “Ngươi có đem theo đao sao không chém ta? Ngươi có chân sao không vọt qua cửa sổ chạy trốn đi?”. Tại hạ nói: “Điền mỗ là nam tử hán đại trượng phu, làm sao mà hành động kiểu tiểu nhân vô sỉ như vậy?”. Thái sư phụ cười ha hả nói: “Ngươi không phải là hạng tiểu nhân vô sỉ ư? Ngươi đã hứa bái con gái ta làm sư phụ, sao còn chối cãi?”. Tại hạ rất lấy làm lạ hỏi: “Con gái của lão ư?”. Thái sư phụ nói: “Lúc ở trên tửu lâu, ngươi và tên tiểu tử phái Hoa Sơn đánh cuộc, nói nếu thua thì bái con gái ta làm sư phụ. Chẳng lẽ là giả ư? Ta lên Hằng Sơn tìm con gái ta, nó đã kể tất cả từ đầu đến cuối cho ta nghe hết rồi”. Tại hạ nói: “Thì ra là như vậy. Tiểu ni cô đó là con gái của đại hòa thượng, cũng thật kỳ lạ”. Thái sư phụ hỏi: “Có gì đâu mà lạ?”.
Lệnh Hồ Xung cười nói:
– Chuyện này vốn đã rất kỳ lạ. Người ta sinh con rồi mới làm hòa thượng, Bất Giới đại sư lại làm hòa thượng rồi mới sinh con. Pháp danh của đại sư là Bất Giới, nên thanh quy giới luật gì đại sư cũng không tuân giữ.
Điền Bá Quang nói:
– Đúng vậy. Lúc đó tại hạ nói: “Chuyện đánh cuộc là lời nói giỡn, sao cho là thật được? Tại hạ đã thua là đúng, nhưng tại hạ cũng không làm phiền vị tiểu sư thái đó nữa là được rồi”. Thái sư phụ nói: “Không được. Ngươi đã nói phải bái sư thì nhất định phải bái sư. Ngươi phải bái con gái ta làm sư phụ mới được. Ta không thể sinh con gái ra rồi lại để cho người ta giỡn mặt. Ta đi tìm ngươi, hao tốn khá nhiều công sức. Ngươi luồn lách rất hay, nếu ngươi không làm trò thái hoa bậy bạ này thì muốn bắt được ngươi thật không dễ đâu”. Tại hạ thấy thái sư phụ cứ nói loanh quanh, liền ba chân bốn cẳng vọt ra ngoài cửa sổ chạy đi. Tại hạ tự cho rằng khinh công của mình rất cao cường, thái sư phụ nhất định đuổi không kịp. Không ngờ nghe tiếng bước chân phía sau, thái sư phụ đã đuổi kịp rồi. Tại hạ la lên: “Đại hòa thượng, vừa rồi hòa thượng không giết ta, bây giờ ta cũng không giết hòa thượng. Hòa thượng mà đuổi theo nữa thì ta không khách khí đâu”.
Thái sư phụ cười ha hả nói: “Tại sao ngươi không khách khí?” Tại hạ rút đao quay người lại, chém về hướng thái sư phụ. Nhưng võ công của thái sư phụ thật cao cường; thái sư phụ dùng tay không chiết chiêu với tại hạ, khoái đao của tại hạ bị phong tỏa không cách nào ra chiêu được. Sau khi chiết được bốn mươi chiêu, thái sư phụ chụp cổ tay tại hạ, giật lấy đơn đao rồi hỏi: “Phục chưa?”. Tại hạ nói: “Phục rồi, hòa thượng cứ giết ta đi”. Thái sư phụ nói: “Ta giết ngươi thì có ích gì? Mà cũng không cứu sống được con gái ta”. Tại hạ giật mình hỏi: “Tiểu sư thái chết rồi ư?”. Thái sư phụ nói: “Bây giờ thì chưa chết nhưng cũng chẳng khác gì đã chết rồi. Ta gặp nó ở Hằng Sơn, nó ốm nhom chỉ còn da bọc xương, thấy ta là khóc. Ta hỏi rõ chuyện của nó, thì ra đều là do ngươi mà ra”. Tại hạ nói: “Hòa thượng muốn giết thì giết, bình sinh Điền Bá Quang này quang minh lỗi lạc, không nói dối ai. Ta đã vô lễ với tiểu thư của hòa thượng nhưng cô ta được Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn cứu rồi, Điền mỗ chưa xúc phạm đến tiểu thư thì cô ta vẫn là một vị cô nương băng thanh ngọc khiết”. Thái sư phụ nói: “Tổ mẹ ngươi, băng thanh ngọc khiết làm cái đếch gì? Khuê nữ của ta tương tư đến ốm o vàng vọt, nếu Lệnh Hồ Xung không lấy nó thì nó sống không nổi nữa. Nhưng ta nhắc đến chuyện này thì khuê nữ ta lại cự nự, nói cái gì là người xuất gia thì không động lòng trần, nếu không thì Bồ Tát sẽ quở trách, sau khi chết bị đày xuống mười tám tầng địa ngục”. Thái sư phụ nói một lúc, bỗng quay đầu lại chửi tại hạ: “Đồ tiểu tử hôi thúi, tất cả đều do ngươi hết. Ngày hôm đó nếu không phải ngươi vô lễ với con gái ta thì Lệnh Hồ Xung sẽ không ra tay cứu giúp, con gái ta sẽ không đến nỗi ốm o gầy mòn như vậy”. Tại hạ nói: “Cũng chưa chắc đâu. Tiểu sư thái đẹp như tiên trên trời, ngày hôm đó dù ta không vô lễ với tiểu sư thái thì Lệnh Hồ Xung nhất định sẽ kiếm cớ gì đó để dan díu với tiểu sư thái”.
Lệnh Hồ Xung chau mày nói:
– Điền huynh, Điền huynh nói mấy câu đó không khỏi quá trớn.
Điền Bá Quang cười nói:
– Xin lỗi đã đắc tội với Lệnh Hồ chưởng môn, nhưng tình thế lúc đó nguy cấp, nếu tại hạ không nói như vậy thì thái sư phụ quyết sẽ không buông tha cho tại hạ. Quả nhiên thái sư phụ vừa nghe liền đổi giận thành vui. Thái sư phụ nói: “Tiểu tử thúi tha, ngươi nghĩ coi, cả đời ngươi làm biết bao nhiêu chuyện xấu? Nếu ngươi không vô lễ với con gái ta thì lão tử đã sớm bóp nát đầu ngươi rồi”.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Điền huynh vô lễ với con gái lão mà sao lão lại khoái?
Điền Bá Quang nói:
– Đó không phải là khoái mà là thái sư phụ khen tại hạ có con mắt tinh đời. Lệnh Hồ Xung càng chẳng hiểu ra sao.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ đưa tay trái túm tại hạ đưa lên cao, tay phải tát tại hạ mười bảy mười tám cái tóe lửa, tại hạ bị thái sư phụ tát đến ngất xỉu. Thái sư phụ đem tại hạ dìm xuống rạch cho tại hạ tỉnh lại, thái sư phụ nói: “Ta hẹn ngươi trong vòng một tháng phải đi mời Lệnh Hồ Xung đến Hằng Sơn gặp con gái ta, dù nhất thời không thể cưới nó, để hai đứa chúng tâm sự với nhau. Tính mạng con gái ta phải được an toàn. Sư phụ lâm nạn, ngươi là đồ đệ sao không biết cứu?”. Thái sư phụ điểm mấy huyệt đạo của tại hạ bảo là tử huyệt, lại buộc tại hạ uống một viên độc dược, nói nếu trong vòng một tháng mời được chưởng môn đi gặp tiểu sư thái thì mới cho thuốc giải. Nếu không, chất kịch độc phát tác, không thuốc gì cứu chữa được.
Lệnh Hồ Xung hiểu ra. Ngày đó Điền Bá Quang đến Hoa Sơn mời mình xuống núi, trong bụng có nhiều điều khó nói, gã cũng không chịu nói rõ, làm sao chàng đoán được việc này lại có nhiều tình tiết ly kỳ như vậy.
Điền Bá Quang nói tiếp:
– Tại hạ đến Hoa Sơn mời chưởng môn đại giá, lại bị chưởng môn đánh cho một trận thất bại te tua, nghĩ rằng phen này khó mà bảo toàn tính mạng. Không ngờ thái sư phụ không yên tâm, đích thân đưa tiểu sư thái lên Hoa Sơn tìm chưởng môn, lại ban cho tại hạ thuốc giải. Tại hạ nghe lời khuyên của chưởng môn, từ đó không làm chuyện thái hoa bậy bạ nữa. Nhưng trời sanh Điền Bá Quang này bản tính hiếu sắc, không thể sống thiếu phụ nữ được. Bên người xúng xính vàng bạc, muốn tìm những góa phụ lẳng lơ, ca kỹ dâm đãng thì cũng không khó. Nửa tháng trước, thái sư phụ lại tìm tại hạ, nói chưởng môn đã tiếp nhiệm phái Hằng Sơn lại bị người ta gièm pha sau lưng, bị nhiều tai tiếng trên giang hồ. Thái sư phụ thương con gái nên… quý chàng rể…
Lệnh Hồ Xung chau mày:
– Điền huynh, những lời tào lao như vậy xin đừng nói ra nữa.
Điền Bá Quang nói:
– Dạ, dạ. Tại hạ chỉ tường thuật những lời của thái sư phụ mà thôi. Thái sư phụ nói thái sư phụ muốn nhập vào phái Hằng Sơn, bảo tại hạ cùng đi. Bước thứ nhất, thái sư phụ thay con gái mà nhận đồ đệ. Tại hạ không đồng ý, thái sư phụ liền vung quyền đánh. Tại hạ đánh thì không lại, chạy trốn cũng không xong, đành cúi đầu làm lễ bái sư.
Hắn nói đến đây, mặt mày buồn xo, rất khó coi.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Dù bái sư cũng không cần thiết phải làm hòa thượng. Phái Thiếu Lâm vẫn có nhiều đệ tử tục gia đó.
Điền Bá Quang lắc đầu, nói:
– Thái sư phụ có lý lẽ riêng. Thái sư phụ nói: “Ngươi là kẻ rất hiếu sắc, đầu nhập vào phái Hằng Sơn, bọn sư bá sư thúc đều là ni cô mĩ miều, để ngươi quậy thì không ổn. Diệt cỏ thì diệt tận gốc mới là thượng sách”. Thái sư phụ điểm ngã tại hạ, kéo quần tại hạ ra vung lên cắt một cái, đã hớt hết một nửa “thằng nhỏ” của tại hạ.
Lệnh Hồ Xung giật mình, ồ lên một tiếng, lắc đầu lia lịa, cảm thấy chuyện này thật đáng thương. Nhưng chàng nghĩ Điền Bá Quang đã hại biết bao lương gia phụ nữ, đó cũng là một cách báo ứng.
Điền Bá Quang lắc đầu nói:
– Lúc đó, tại hạ ngất xỉu. Tỉnh dậy, thái sư phụ đã rịt thuốc cho rồi, vết thương đã ngậm miệng, bảo tại hạ dưỡng thương mấy ngày. Sau đó, thái sư phụ cạo râu tóc tại hạ, buộc phải làm hòa thượng, đặt pháp danh cho tại hạ là Bất Khả Bất Giới. Thái sư phụ nói: “Ta đã cắt một nửa thằng nhỏ của ngươi thì ngươi không thể thái hoa bậy bạ được nữa, đáng lẽ cũng không cần làm hòa thượng. Ta bảo ngươi làm hòa thượng lấy pháp danh là Bất Khả Bất Giới để mọi người đều biết là vì thanh danh của phái Hằng Sơn. Xưa nay người làm hòa thượng mà ở chung với bọn ni cô thì rất bất tiện, nhưng đưa ra chiêu bài “Bất Khả Bất Giới” thì không còn gì là không nghiêm trang.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Thái sư phụ của Điền huynh tính toán thật chu đáo.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ muốn tại hạ nói rõ chuyện này với chưởng môn, còn muốn tại hạ xin chưởng môn đừng trách sư phụ tại hạ.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ nói:
– Tại sao tiểu đệ trách sư phụ của Điền huynh? Hoàn toàn không có chuyện này đâu.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ nói, mỗi lần gặp sư phụ của tại hạ, sư phụ ốm đi một chút, sắc mặt càng ngày càng tiều tụy, lúc hỏi sư phụ thì sư phụ chỉ khóc chứ không nói câu nào. Thái sư phụ nói nhất định là chưởng môn hà hiếp sư phụ.
Lệnh Hồ Xung giật mình nói:
– Đâu có! Từ trước đến nay tiểu đệ chưa bao giờ nói nặng với sư phụ của Điền huynh một câu. Hơn nữa, cái gì nơi cô ta cũng tốt, tiểu đệ làm sao mà trách mắng cô ta được?
Điền Bá Quang nói:
– Vì chưởng môn chưa bao giờ trách mắng sư phụ của tại hạ một câu, cho nên sư phụ của tại hạ mới khóc.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chuyện này tiểu đệ thật không hiểu.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ vì chuyện này mà đánh tại hạ một trận nên thân.
Lệnh Hồ Xung gãi đầu, lòng nghĩ Bất Giới đại sư này thật quá ư rắc rối, chẳng khác gì Đào Cốc lục tiên.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ nói năm xưa thái sư phụ và thái sư mẫu lấy nhau thì lúc nào cũng gây gổ với nhau, càng chửi nhau nhiều chừng nào thì càng ân ái nhiều chừng đó. Chưởng môn không trách mắng sư phụ của tại hạ tức là không muốn lấy sư phụ của tại hạ làm vợ.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Chuyện này… sư phụ của Điền huynh là người xuất gia nên tiểu đệ chưa bao giờ nghĩ tới.
Điền Bá Quang nói:
– Tại hạ cũng nói như vậy thì thái sư phụ vô cùng tức giận liền đánh tại hạ một trận tơi bời. Thái sư phụ nói: “Thái sư mẫu của tại hạ cũng là ni cô, thái sư phụ vì muốn lấy thái sư mẫu nên mới làm hòa thượng. Nếu người xuất gia không thể làm vợ chồng thì trên đời này làm sao có sư phụ của tại hạ? Nếu trên đời này không có sư phụ của tại hạ thì làm sao có tại hạ?”.
Lệnh Hồ Xung không nhịn được tức cười, lòng nghĩ gã còn lớn tuổi hơn Nghi Lâm nhiều, hai chuyện hoàn toàn khác nhau, làm sao có thể kéo lại làm một được? Điền Bá Quang nói tiếp:
– Thái sư phụ còn nói: “Nếu chưởng môn không muốn lấy sư phụ của tại hạ thì tại sao lại làm chưởng môn phái Hằng Sơn?”. Thái sư phụ nói: “Nữ nhi Hằng Sơn tuy nhiều nhưng không có ai xinh đẹp bằng sư phụ của tại hạ. Chưởng môn không vì sư phụ của tại hạ thì là vì ni cô nào?”.
Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm kêu khổ. Chàng thầm nghĩ: Năm xưa, Bất Giới hòa thượng muốn lấy một ni cô nên mới đi làm hòa thượng. Lão cho rằng người khắp thiên hạ ai ai cũng có bụng dạ như lão. Câu nói này mà lọt ra ngoài há không hỏng bét hết sao?
Điền Bá Quang cười gượng, nói:
– Thái sư phụ hỏi tại hạ: Sư phụ của tại hạ có phải là cô gái xinh đẹp nhất trên đời không? Tại hạ nói: “Dù không đẹp nhất thì cũng là rất đẹp”. Thái sư phụ liền vung quyền đánh rớt hai cái răng của tại hạ, tức giận đùng đùng nói: “Tại sao không phải là đẹp nhất? Nếu con gái ta không đẹp thì hôm đó ngươi có ý đồ vô lễ với con gái ta làm gì? Tiểu tử Lệnh Hồ Xung tại sao liều mạng cứu nó?”. Tại hạ vội nói: “Rất đẹp, rất đẹp. Thái sư phụ lão nhân gia hạ sinh ra cô nương thì có lý nào mà không đẹp nhất thiên hạ?”. Thái sư phụ nghe vậy cao hứng, khen tại hạ có con mắt tinh đời.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Nghi Lâm tiểu sư muội dung mạo rất đẹp, cũng chẳng trách Bất Giới đại sư quá xưng tụng.
Điền Bá Quang vui mừng nói:
– Chưởng môn cũng khen tướng mạo của sư phụ tại hạ rất đẹp thì tuyệt quá.
Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ hỏi:
– Tại sao tuyệt quá?
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ giao cho tại hạ một nhiệm vụ, một chuyện rất khó xử, muốn tại hạ tìm cách khuyên chưởng môn… khuyên chưởng môn…
Lệnh Hồ Xung nói:
– Khuyên tiểu đệ cái gì?
Điền Bá Quang cười nói:
– Khuyên chưởng môn làm sư công của tại hạ.
Lệnh Hồ Xung ngẩn người nói:
– Điền huynh, Bất Giới đại sư yêu con gái vô hạn. Tuy nhiên chuyện này Điền huynh cũng biết là làm không được.
Điền Bá Quang nói:
– Đúng vậy. Tại hạ đã nói là khó vô cùng, nói chưởng môn đã từng vì Nhậm đại tiểu thư của thần giáo mà thống lĩnh quần hùng lên chùa Thiếu Lâm. Tại hạ nói: “Tướng mạo của Nhậm đại tiểu thư không bằng một phần của sư phụ tại hạ nhưng Lệnh Hồ công tử có duyên với cô ta, đã bị cô ta mê hoặc rồi, người ngoài không cản nổi”. Chưởng môn, trước mặt thái sư phụ tại hạ, tại hạ không thể không nói như vậy, để giữ lại mấy cái răng ăn cháo, xin chưởng môn đừng phiền trách.
Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:
– Tiểu đệ hiểu rồi.
Điền Bá Quang nói:
– Thái sư phụ bảo: “Chuyện này thái sư phụ cũng biết, người bảo rất dễ làm, cứ tìm cách giết Nhậm đại tiểu thư đi, không để cho chưởng môn biết là được. Tại hạ liền can không được, nếu giết hại Nhậm đại tiểu thư, Lệnh Hồ công tử nhất định tự sát. Thái sư phụ nói: “Ngươi nói cũng phải. Tên Lệnh Hồ Xung mà chết thì con gái ta góa bụa một đời, há không phải là xui xẻo lắm sao? Thôi thế này, ngươi cứ bảo Lệnh Hồ Xung lấy con gái ta làm lẽ cũng chẳng sao”. Tại hạ nói:“Thái sư phụ, sư phụ của đệ tử đường đường là thiên kim tiểu thư của người, làm sao có thể lại lép vế như vậy được?”. Thái sư phụ than: “Ngươi không hiểu đâu, con gái ta không gả được cho Lệnh Hồ Xung thì sớm muộn gì cũng chết, chẳng sống lâu nữa đâu”. Thái sư phụ nói đến đây, nước mắt chảy dài. Ôi! Tấm lòng của cha đối với con gái rộng như trời biển, chân tình biểu lộ không màu mè chút nào.
Hai người nhìn nhau, cảm thấy bẽn lẽn. Điền Bá Quang nói:
– Lệnh Hồ chưởng môn, lời thái sư phụ dặn dò tại hạ, tại hạ đã nói hết cho chưởng môn nghe. Tại hạ biết chuyện này có chỗ khó xử, nhất là chưởng môn lại lên làm chưởng môn phái Hằng Sơn thì càng thêm khó xử. Nhưng tại hạ khuyên chưởng môn đối với sư phụ của tại hạ nên nói dịu dàng mấy câu để sư phụ của tại hạ vui, khuôn mặt sư phụ tươi tỉnh lên một chút.
Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:
– Phải.
Chàng nhớ mỗi lần gặp Nghi Lâm, quả thật thấy cô ta ngày càng gầy guộc đi, thì ra là vì cô ốm tương tư. Nghi Lâm có tình ý với mình, điều đó Lệnh Hồ Xung biết. Nhưng cô ta là người xuất gia, tuổi lại còn nhỏ, chàng nghĩ rằng chỉ là mối tình thoáng qua, rồi một thời gian sẽ quên đi. Về sau trên Tiên Hà Lĩnh gặp lại cô ta, đi từ Phúc Kiến đến Giang Tây, chàng vẫn chưa hề nói chuyện riêng với cô ta một câu. Phen này lên Hằng Sơn thì càng phải tránh sự nghi ngờ. Thanh danh của chàng đã tàn tạ, người đời có khinh miệt cũng không để tâm nhưng không thể làm bại hoại thanh danh của phái Hằng Sơn. Ngoài việc truyền thụ kiếm pháp cho đệ tử ra, ngày thường Lệnh Hồ Xung rất ít nói chuyện với ai, giả bộ như không được khỏe để rũ sạch mọi chuyện. Bây giờ nghe Điền Bá Quang nhắc lại chuyện Nghi Lâm đối với chàng bằng cả một tình yêu thầm lặng, Lệnh Hồ Xung cảm thấy xao xuyến, bồi hồi vô hạn.