Lúc này hai người rất mệt, phân ra ngồi dựa vào vách đá nhắm mắt dưỡng thần.
Không bao lâu, Lệnh Hồ Xung đã ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, chàng bỗng mơ thấy Doanh Doanh tay cầm ba con ếch nướng đưa cho mình hỏi: “Ngươi quên ta rồi phải không?” Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói: “Đâu có quên, đâu có quên! Cô nương… cô nương đi đâu vậy?” Hình bóng của Doanh Doanh bỗng tan biến, chàng vội la lên: “Cô nương đừng đi! Ta có rất nhiều điều muốn nói với cô nương”. Lại thấy đao thương kiếm kích tới tấp đâm đến, chàng thét lên một tiếng rồi tỉnh lại. Hướng Vấn Thiên cười hì hì hỏi:
– Mơ thấy tình nhân phải không? Muốn nói rất nhiều điều phải không?
Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, không biết trong mơ đã nói gì mà lão nghe được. Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, nếu huynh đệ muốn gặp lại người tình thì phải dưỡng thương cho khỏe, trị khỏi bệnh mới có thể đi tìm cô ta.
Lệnh Hồ Xung ủ rũ nói:
– Tiểu đệ… tiểu đệ chưa có người tình. Vả lại thương thế của tiểu đệ trị không khỏi đâu.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Ta thiếu nợ huynh đệ một lần cứu mạng, tuy là huynh đệ nhưng lòng ta vẫn còn áy náy. Ta phải trả một cái mạng cho huynh đệ mới được. Ta dẫn huynh đệ đi đến một nơi, ở đó nhất định có thể trị khỏi thương thế cho huynh đệ.
Tuy Lệnh Hồ Xung chẳng màng gì đến chuyện sống chết, nhưng không thể thản nhiên khi nghe Hướng Vấn Thiên nói thương thế của mình có thể trị khỏi. Nếu lời này từ miệng người khác nói ra thì chưa chắc tin được nhưng Hướng Vấn Thiên tài trí hơn người, võ công lại cao cường, ngoài thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương ra, bình sinh chàng chưa thấy ai như lão. Lão chỉ nói phớt một câu mà rất có trọng lượng khiến lòng chàng vô cùng hưng phấn. Chàng lắp bắp nói:
– Tiểu đệ… tiểu đệ…
Lệnh Hồ Xung nói hai tiếng “tiểu đệ” thì không nói được nữa. Lúc này mảnh trăng lưỡi liềm chiếu xuống miệng vực, ánh sáng tỏa khắp nơi, dưới vực thẳm tuy âm u nhưng trong ánh mắt của Lệnh Hồ Xung đầy ngập ánh dương quang.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Chúng ta đi gặp một người. Người này tính tình rất cổ quái, sự việc đừng nói trước cho lão biết. Huynh đệ, nếu huynh đệ tin ta thì nhất thiết phải để ta sắp đặt.
Lệnh Hồ Xung nói:
– Có gì đâu mà không tin? Ca ca muốn tìm cách trị thương cho tiểu đệ, đó là chuyện cải tử hoàn sinh mà tiểu đệ vốn không còn hy vọng nữa. Nếu trị khỏi bệnh thì tạ ơn trời đất, trị không khỏi thì cũng là chuyện thường tình mà thôi.
Hướng Vấn Thiên thè lưỡi liếm môi nói:
– Không biết cái đùi ngựa biến đâu rồi? Mẹ kiếp, giết không biết bao nhiêu thằng nhãi mà ở dưới đáy vực này lại chẳng thấy cái xác nào cả.
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói, biết lão muốn tìm xác chết để ăn. Lòng chàng cảm thấy kinh sợ, không dám nói nhiều, liền nhắm mắt ngủ.
Sáng sớm hôm sau, Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, ở đây ngoài cỏ xanh và rong rêu ra thì không có cái gì khác. Chúng ta sống lây lất ở đây e phải đi tìm xác chết mà ăn, nhưng ngày hôm qua mấy tên rớt xuống đáy vực này vừa già vừa gầy, ta nghĩ huynh đệ ăn vào cũng chẳng thấy ngon lành gì.
Lệnh Hồ Xung vội nói:
– Dứt khoát chẳng có chút mùi vị gì.
Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Chúng ta phải tìm đường ra khỏi đây. Ta cải trang cho huynh đệ trước đã.
Lão đến vũng bùn bốc một nắm bôi lên mặt Lệnh Hồ Xung, rồi đưa tay tự bôi lên mặt mình. Lão bôi mạnh quá, bôi đến đâu thì tóc rụng đến đó. Xong lão đưa hai tay lên vò đầu, mái tóc hoa râm của lão đã rụng trọc lóc. Lệnh Hồ Xung thấy trong khoảnh khắc tướng mạo lão đã hoàn toàn thay đổi, hắn vừa tức cười vừa khâm phục. Hướng Vấn Thiên lại bốc một ít bùn đắp cho mũi to lên, hai má cũng dày lên, bây giờ có đứng đối mặt nhìn kỹ cũng không thể nhận ra lão nữa.
Hướng Vấn Thiên đi trước dẫn đường. Lão để hai tay lọt vào trong tay áo để che kín sợi dây xích trên cổ tay lại, chỉ cần lão không động thủ thì không ai nhận ra được cái lão mập đầu láng bóng là Hướng Vấn Thiên oai phong quắc thước.
Hai người đi quanh quẩn đến giờ ngọ, thấy ở thung lũng có một cây đào dại, trái còn xanh, bỏ vào miệng nhai vừa chua vừa chát. Hai người bụng đã quá đói, liền hái ăn đến kỳ no. Nghỉ ngơi hơn một canh giờ, họ lại đi tiếp. Đến lúc hoàng hôn, Hướng Vấn Thiên đã tìm được lối ra khỏi hang, nhưng phải vượt qua một vách núi dài mấy trăm thước. Lão cõng Lệnh Hồ Xung trên lưng trèo lên vách.
Lúc leo lên trên vách núi, họ nhìn thấy một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, hai bên đường cỏ mọc rậm rạp. Cảnh vật hoang dã, ngay cả vết chân chim thú cũng không hề thấy. Hai người đều thở dài.
Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng Đông đến một thị trấn lớn. Hướng Vấn Thiên lấy trong túi một miếng vàng lá bảo Lệnh Hồ Xung đi đến tiệm đổi thành bạc, sau đó tìm đến một khách điếm thuê phòng. Hướng Vấn Thiên gọi thức ăn, bảo tiểu nhị đem đến một vò rượu lớn, cùng Lệnh Hồ Xung uống hết nửa vò thì đã say mèm, không ăn cơm nữa. Một người nằm phục trên bàn ngủ, còn một người thì nằm lăn ra giường. Đến hôm sau, khi mặt trời rọi vào khe cửa cả hai mới tỉnh dậy. Hai người nhìn nhau cười, hồi tưởng lại cuộc ác đấu mấy ngày trước ở quán lương đình và trên chiếc cầu đá, tưởng chừng như đã qua một kiếp người.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Huynh đệ, huynh đệ ở đây nghỉ đi, ta đi ra ngoài một lúc.
Lão đi ra ngoài hơn một canh giờ . Lệnh Hồ Xung đang lo lắng, sợ lão gặp phải địch nhân, lại thấy hai tay lão cầm bao lớn bao nhỏ, kẹp thêm bên người rất nhiều đồ đạc. Sợi dây xích trên tay lão đã biến mất, chắc lão đã bảo thợ rèn chặt bỏ rồi. Hướng Vấn Thiên mở bao ra, bao nào cũng đựng đầy quần áo sang trọng. Lão nói:
– Hai huynh đệ ta đều cải trang thành đại phú thương, càng ra vẻ phong lưu càng tốt.
Lão và Lệnh Hồ Xung liền thay đổi cả quần trong áo ngoài. Lúc ra khỏi điếm, đã thấy tiểu nhị dẫn hai con ngựa cao to, yên mới cáu cạnh. Ngựa này cũng do Hướng Vấn Thiên mua về.
Hai người cưỡi ngựa thong thả đi về hướng Đông. Đi được hai ngày, Lệnh Hồ Xung cảm thấy mệt, Hướng Vấn Thiên liền thuê một cỗ xe lớn để hắn ngồi. Đến bờ sông Vận Hà, hai người xuống ngựa lên thuyền đi về hướng Nam. Trên đường đi, Hướng Vấn Thiên tiêu tiền như nước, tưởng chừng như vàng lá bên người lão xài hoài không hết. Qua Trường Giang, hai bên bờ sông chợ búa phồn thịnh. Hướng Vấn Thiên lại mua thêm quần áo, càng lúc càng sang trọng hơn.
Đi thuyền lâu ngày, Hướng Vấn Thiên nhàn rỗi kể lại nhiều chuyện thú vị trên giang hồ. Lão kể nhiều chuyện mà Lệnh Hồ Xung chưa hề biết khiến chàng nghe một cách thích thú. Nhưng những chuyện liên quan đến Ma giáo trên Hắc Mộc Nhai, Hướng Vấn Thiên tuyệt không đề cập tới, Lệnh Hồ Xung cũng không hỏi.
Hôm ấy, thuyền đến Hàng Châu. Ở trong thuyền, Hướng Vấn Thiên lại cải trang cho Lệnh Hồ Xung và mình thật vừa ý rồi mới rời thuyền lên bờ. Lão mua hai con tuấn mã rồi cưỡi ngựa vào thành Hàng Châu.
Thời cổ, Hàng Châu gọi là phủ Lâm An, thời Nam Tống dựng thành kinh đô, xưa nay là nơi rất nổi tiếng. Vào trong thành, trên đường người đi đông nghẹt, ca nhạc xập xình khắp nơi. Lệnh Hồ Xung đi theo Hướng Vấn Thiên đến bờ Tây Hồ, thấy mặt hồ xanh biếc như gương, liễu rủ phất phơ, cảnh vật thơ mộng như cảnh thần tiên. Lệnh Hồ Xung nói:
– Người ta thường nói: thượng giới có thiên đàng, hạ giới có Tô Hàng. Tô Châu chưa đi qua không biết ra sao chứ hôm nay tận mắt thấy Hàng Châu, gọi đây là thiên đàng quả thực không sai.
Hướng Vấn Thiên cười. Cả hai cưỡi ngựa đi đến một ngọn núi nhỏ bên bờ hồ, cách bờ một con đê dài, phong cảnh rất yên tĩnh. Hai người xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây liễu bên bờ hồ rồi đi theo bậc tam cấp lên núi. Hướng Vấn Thiên dường như đã từng du ngoạn nơi đây, lão rất thông thuộc đường lối. Quẹo qua mấy khúc quanh, khắp nơi đều trồng mai. Những cây mai già vươn dài cành lá rậm rạp, giống như ngày đầu xuân hoa mai nở rộ, hương thơm ngào ngạt, sắc hoa trắng trông như một biển tuyết. Phong cảnh đẹp khiến người ta ngây ngất biết chừng nào.
Hai người đi xuyên qua rừng mai lên một con đường lát đá xanh rộng lớn, đi đến ngoài một đại trang viện có tường trắng, cổng sơn đỏ. Gần đến nơi, thấy ngoài cổng lớn đề hai chữ to “Mai trang”, bên cạnh đề bốn chữ “Ngu Doãn Văn đề”. Lệnh Hồ Xung ít đọc sách nên không biết Ngu Doãn Văn là đại công thần đã đánh tan giặc Kim đời Nam Tống, nhưng cũng cảm thấy trong mấy chữ nho nhã này tràn đầy anh khí.
Hướng Vấn Thiên đi đến trước cổng, nắm chiếc vòng bằng đồng lớn ở trên cửa, quay đầu lại nói khẽ:
– Nhất thiết phải nghe lời ta sắp đặt.
Lệnh Hồ Xung gật đầu thầm nghĩ: Cái tòa Mai trang này hiển nhiên là chỗ ở của nhà đại phú thành Hàng Châu. Chẳng lẽ đây là chỗ ở của một vị danh y đương thời sao?
Hướng Vấn Thiên gõ bốn tiếng vào cái vòng đồng; ngừng một lúc lại gõ hai cái nữa, ngừng một lúc lại gõ thêm năm cái. Rồi lão lại ngừng một lúc, gõ thêm ba cái nữa. Sau đó, lão buông vòng đồng ra, đứng lùi về một bên.
Một lúc sau, cánh cổng lớn từ từ mở ra, có hai lão gia nhân ăn mặc chỉnh tề sánh vai đi ra. Lệnh Hồ Xung hơi giật mình. Ánh mắt hai lão này sáng quắc, bước đi nghiêm trang, hiển nhiên là người có võ công cao cường, sao lại chịu ở đây làm phận nô bộc? Người bên trái cúi người nói:
– Hai vị giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Môn hạ phái Tung Sơn và đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn có chuyện muốn cầu kiến Giang Nam tứ hữu bốn vị tiền bối.
Người đó nói:
– Gia chủ tại hạ xưa nay không tiếp khách.
Lão nói xong liền muốn đóng cửa.
Hướng Vấn Thiên thò tay vào bọc, lấy ra một vật. Lệnh Hồ Xung kinh hãi vì trong tay lão là một cây cờ ngũ sắc, có đính nhiều hạt minh châu. Hắn biết đây là Ngũ Nhạc minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn. Minh kỳ đi đến đâu cũng như Tả minh chủ thân hành đến đó. Người trong Ngũ Nhạc kiếm phái từ bậc tôn sư đến bọn đệ tử, không ai không tuân lệnh của người cầm cờ.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chắc Hướng đại ca đã dùng thủ đoạn bất chính cướp được lá cờ nầy, không chừng đại ca đã giết người phái Tung Sơn. Đại ca còn xưng là đệ tử Tung Sơn, không hiểu mưu đồ chuyện chi đây.
Chàng đã hứa mọi chuyện nghe theo cách bố trí của lão nên lẳng lặng không nói gì.
Hai lão gia nhân nhìn thấy Ngũ Nhạc minh kỳ, sắc mặt thay đổi, hỏi:
– Phải chăng đây là minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn?
Hướng Vấn Thiên đáp:
– Đúng vậy!
Gã gia nhân đứng bên phải nói:
– Giang Nam tứ hữu và Ngũ Nhạc kiếm phái trước nay không hề qua lại. Dù có Tả minh chủ đến đây thì… thì… chưa chắc…
Rồi lão không nói tiếp nữa nhưng ý nghĩa câu nói đã rất rõ ràng: “Dù Tả minh chủ có thân hành đến thì chủ nhân của tại hạ cũng chưa chắc chịu tiếp kiến”.
Tả minh chủ phái Tung Sơn là một nhân vật đức cao vọng trọng, người này không muốn mở miệng nói lời coi thường nhưng rõ ràng lão cho rằng địa vị của Giang Nam tứ hữu còn cao hơn Tả minh chủ nhiều.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Giang Nam tứ hữu này là những nhân vật nào? Nếu bọn họ thực là những nhân vật sừng sỏ trong võ lâm thì sao ta chưa từng nghe sư phụ và sư nương đề cập đến bọn họ? Ta hành tẩu trên giang hồ từng nghe nhiều người nói đến những bậc tiền bối cao nhân trong võ lâm đương thời, nhưng chưa từng nghe ai đề cập đến bốn chữ “Giang Nam tứ hữu”.
Hướng Vấn Thiên mỉm cười, xếp cờ lệnh bỏ vào túi nói:
– Tả sư điệt của ta không phải đem cờ lệnh này đến để dọa người. Bốn vị tiền bối ở Giang Nam là những nhân vật thế nào, tất không coi lá cờ lệnh này vào đâu.
Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão nói “Tả sư điệt” ư? Lão lại mạo xưng là sư thúc của Tả minh chủ, càng lúc lão càng chẳng ra làm sao cả.
Lại nghe Hướng Vấn Thiên nói tiếp:
– Có điều tại hạ không có danh phận gì e khó được bái kiến bốn vị tiền bối Giang Nam nên đưa cờ lệnh này ra, chẳng qua chỉ để làm tín vật mà thôi.
Hai gia nhân ồ một tiếng, nghe trong lời nói của lão có vẻ đề cao thân phận Giang Nam tứ hữu thì nét mặt họ hòa dịu lại một chút.
Một người nói:
– Các hạ là sư thúc của Tả minh chủ ư?
Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Đúng vậy. Tại hạ là hạng vô danh tiểu tốt trong võ lâm nên hai vị dĩ nhiên không quen. Nghĩ lại năm xưa, Đinh huynh ở dưới núi Tà Liên đơn chưởng đánh tứ bá, một kiếm phục song hùng; Thi huynh ở Hồ Bắc tung hoành giang hồ cứu kẻ cô thế, một thanh tử kim bát quái đao giết được mười ba tên đầu sỏ của Thanh Long bang, máu nhuộm một vùng Hán Thủy. Hình ảnh oai hùng như vậy khiến tại hạ vẫn ghi nhớ trong lòng.
Hai người ăn mặc như gia nhân, một người tên là Đinh Kiên, người kia là Thi Lệnh Oai. Trước khi quy ẩn ở Mai trang, họ là những nhân vật nửa chính nửa tà, trên giang hồ hành sự rất độc ác. Tính khí của hai người rất giống nhau, sau khi làm chuyện gì tuyệt không lưu danh cho nên tuy võ công họ cao cường nhưng tên tuổi thì ít ai biết đến. Hướng Vấn Thiên nói đến hai chuyện này chính là những kiệt tác đắc ý trong cuộc đời hai lão. Một là đối thủ rất cao cường mà hai lão lại lấy ít địch nhiều nhưng thủ thắng một cách oanh liệt; hai là hai chuyện này đối phương đều sai quấy còn hai lão đã hành hiệp trượng nghĩa, những hành động bình sinh hai lão rất ít khi làm.
Phàm làm việc gì tốt, tuy không cố ý tuyên dương để ai cũng biết, nhưng nếu có người vô tình biết đến thì hai lão rất khoái chí. Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai nghe Hướng Vấn Thiên nói một lèo như vậy, bất giác mặt hai lão lộ vẻ hớn hở. Đinh Kiên mỉm cười nói:
– Chuyện nhỏ nhặt này đâu có chi đáng kể. Kiến văn của các hạ rất rộng.
Hướng Vấn Thiên nói:
– Trong võ lâm, kẻ tranh danh đoạt lợi rất nhiều còn kẻ sĩ thanh cao có chân tài thực học, làm nên đại sự mà không muốn tuyên dương thật khó có được. Nhất tự điện kiếm Đinh đại ca và Ngũ lộ thần Thi cửu ca là những tên tuổi mà tại hạ ngưỡng mộ đã lâu. Tả sư điệt từng nói, có chuyện gì nên đến thỉnh giáo Giang Nam tứ hữu ở Hàng Châu. Tại hạ quy ẩn đã lâu, lòng nghĩ chưa chắc được gặp Giang Nam tứ hữu nhưng nếu có thể gặp được hai vị Nhất tự điện kiếm và Ngũ lộ thần thì coi như không uổng chuyến đi cho nên mới đồng ý đến Hàng Châu một chuyến. Tả sư điệt nói: nếu Tả sư điệt đích thân đến chỉ sợ bốn vị tiền bối không chịu tiếp kiến vì mấy năm gần đây trên giang hồ hắn làm nhiều chuyện thái quá, e rằng các tiền bối coi thường hắn. Còn tại hạ lâu nay ít đi ra ngoài, nói không chừng được các vị chiếu cố. Ha ha, ha ha!
Hai lão Đinh, Thi nghe Hướng Vấn Thiên đã tâng bốc Giang Nam tứ hữu lại còn đề cao hai người mình nên rất cao hứng, cùng cười bồi theo mấy tiếng. Họ thấy cái tướng mập, cái đầu láng bóng của Hướng Vấn Thiên tuy khó ưa nhưng lời nói cử chỉ tỏ ra rất có phong độ , xác thực lão không phải là nhân vật tầm thường. Lão đã là sư thúc của Tả Lãnh Thiền võ công tất nhiên rất cao, trong lòng hai lão cũng đã có mấy phần kính nể.
Thi Lệnh Oai đã quyết định đi vào bẩm báo, lão quay sang Lệnh Hồ Xung hỏi:
– Vị này là môn hạ của phái Hoa Sơn ư?
Hướng Vấn Thiên cướp lời nói:
– Vị này là Phong huynh đệ, sư thúc của Nhạc Bất Quần, đương kim chưởng môn phái Hoa Sơn.
Lệnh Hồ Xung nghe lão nói liều như vậy, hắn đã sớm đoán được lão muốn đặt cho mình một cái tên và một thân phận nhưng hắn không ngờ rằng lão lại nói mình là sư thúc của sư phụ. Tuy Lệnh Hồ Xung không màng đến mọi chuyện nữa nhưng nếu hắn mạo nhận là trưởng bối của ân sư thì trong lòng rất áy náy. Hắn không khỏi giật mình, may mà trên mặt hắn đã trét một lớp phấn dày nên vẻ khích động không bị lộ ra ngoài chút nào.
Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai liếc nhìn nhau, lòng đều có chút hoài nghi:
– Vị này tuy không biết bao nhiêu tuổi nhưng có lẽ không quá bốn mươi, sao có thể là sư thúc của Nhạc Bất Quần được?
Hướng Vấn Thiên tuy đã trang điểm diện mạo cho Lệnh Hồ Xung già đi rất nhiều nhưng lại khó hóa trang cho hắn thành một lão già, nếu hóa trang thêm nữa thì không khỏi bị lộ tẩy. Lão liền tiếp lời nói:
– Vị Phong huynh đệ này so với Nhạc Bất Quần thì vẫn còn ít tuổi, nhưng là truyền nhân duy nhất về Độc Cô kiếm pháp của Phong sư huynh Phong Thanh Dương, kiếm thuật tinh thâm, trong phái Hoa Sơn ít ai bì kịp.
Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi: Tại sao Hướng đại ca biết mình là truyền nhân của Phong thái sư thúc tổ?
Nhưng chàng liền hiểu ra: Kiếm pháp của Phong thái sư thúc tổ tuyệt diệu như vậy, năm xưa nhất định uy chấn giang hồ. Hướng đại ca kiến thức bất phàm, sau khi thấy kiếm pháp của mình thì tự suy luận ra được. Phương Sinh đại sư đã nhìn ra được thì tất nhiên Hướng đại ca cũng nhìn ra được.
Đinh Kiên ồ lên một tiếng. Lão là danh gia sử kiếm, nghe nói kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung tinh thông, lão cảm thấy ngứa nghề, nhưng thấy người này da mặt vàng vọt, sưng húp, tướng mạo bần tiện, thật chẳng giống là một người tinh thông kiếm pháp chút nào. Lão bèn hỏi:
– Không biết phải xưng hô đại danh hai vị thế nào?
Hướng Vấn Thiên nói:
– Tại hạ họ Đồng tên gọi là Đồng Hóa Kim, vị Phong huynh đệ này có đại danh là Phong Nhị Trung.
Hai lão Đinh, Thi đều cung tay nói:
– Ngưỡng mộ, ngưỡng mộ!
Hướng Vấn Thiên cười thầm. Lão tự xưng là Đồng Hóa Kim có ý nói đồng mà hóa thành vàng tức là đồ giả. Còn hai chữ “Nhị Trung” tức là chữ Xung tách rời ra. Trong võ lâm làm gì có hai người này, vậy mà hai lão này lại nói “ngưỡng mộ, ngưỡng mộ”, không biết ngưỡng mộ cái gì?
Đinh Kiên nói:
– Mời hai vị vào sảnh dùng trà, đợi tại hạ đi bẩm báo với tệ chủ nhân. Còn các vị lão gia có chịu tiếp kiến hay không cũng khó mà nói được.
Hướng Vấn Thiên cười nói:
– Hai vị và Giang Nam tứ hữu tuy là chủ tớ mà tình chẳng khác gì huynh đệ, nên chắc bốn vị tiền bối sẽ nể mặt hai vị.
Đinh Kiên mỉm cười nép qua một bên. Hướng Vấn Thiên liền bước vào trong, Lệnh Hồ Xung đi theo sau.
Đi qua một cái sân lớn, hai bên tả hữu có trồng hai cây mai già, cành cứng như sắt, đúng là lão mai. Đến đại sảnh, Thi Lệnh Oai mời hai người ngồi còn lão đứng một bên bồi tiếp, Đinh Kiên vào trong bẩm báo.
Hướng Vấn Thiên thấy Thi Lệnh Oai đứng mà mình lại ngồi thì không khỏi bất bình cho lão, nhưng ở trong Mai trang thân phận lão là nô bộc nên không thể mời lão cùng ngồi, bèn nói:
– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ xem bức họa này tuy chỉ có vài nét sơ sài mà khí thế thể hiện thật bất phàm.
Hướng Vấn Thiên vừa nói vừa đứng dậy đi đến trước bức họa treo ở đại trung đường trong sảnh.
Lệnh Hồ Xung và lão đồng hành nhiều ngày rồi nên biết lão tuy thông minh cơ trí vô cùng nhưng đối với văn mặc thư họa lão chẳng biết gì cả. Lúc này bỗng nghe lão tấm tắc khen bức họa, biết ngay lão đang có thâm ý khác. Chàng liền dạ một tiếng rồi đi đến trước bức họa. Bức họa vẽ một tiên nhân quay lưng ra, nét mực tràn trề, bút lực hùng tráng, tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu về thư họa nhưng cũng biết xác thực đây là bức họa dùng lực tác thành. Lại thấy phía trên bức họa có đề tám chữ “Đan Thanh sinh đại túy hậu pháp mặc”, bút pháp nghiêm mật, từng nét cứng cỏi như nét khắc họa của trường kiếm. Lệnh Hồ Xung xem một lúc nói:
– Đồng huynh, tiểu đệ thấy chữ “Túy” trên bức họa này thì vô cùng thích thú. Trong mấy chữ đề trên bức họa dường như ẩn chứa một bộ kiếm thuật cực kỳ cao minh.
Lệnh Hồ Xung thấy bút pháp của tám chữ này và thủ thế y chiết của tiên nhân trong bức họa, bỗng nghĩ đến kiếm pháp khắc trên vách đá trong hậu động trên ngọn núi sám hối.
Hướng Vấn Thiên chưa trả lời thì Thi Lệnh Oai đứng sau hai người nói:
– Phong gia quả nhiên là một kiếm thuật danh gia. Tứ trang chủ tệ gia là Đan Thanh lão gia nói: ngày hôm đó, sau khi lão gia say túy lúy đã vẽ bức họa này. Trong lúc vô tình tiên sinh đem kiếm pháp đưa vào thư pháp, đây là kiệt tác đắc ý nhất trong đời lão gia. Sau khi tỉnh rượu, lão gia có muốn vẽ thêm một bức nữa cũng không được. Phong gia lại có thể coi bức họa mà nhìn ra kiếm ý, tứ trang chủ nhất định sẽ coi Phong gia là tri kỷ. Tại hạ đi báo cho lão gia biết.
Lão nói xong liền hớn hở chạy đi.
Hướng Vấn Thiên đằng hắng một tiếng rồi nói:
– Phong huynh đệ, thì ra huynh đệ hiểu được cả thư họa.
Lệnh Hồ Xung đáp:
– Tiểu đệ có hiểu gì đâu, chỉ nói bừa vài câu không ngờ lại trúng. Nếu vị Đan Thanh tiên sinh này đàm luận thư họa với tiểu đệ thì tiểu đệ chắc bị lộ tẩy.
Bỗng nghe ngoài cửa có người lớn tiếng nói:
– Hắn xem bức họa của ta mà nhìn ra kiếm pháp ư? Nhãn quan của người này thật hiếm có.
Người này vừa lớn tiếng nói vừa đi vào, râu lão dài đến bụng, tay trái cầm một bát rượu, vẻ mặt say sưa ngây ngất.
Thi Lệnh Oai đi theo sau lão nói:
– Hai vị này là Đồng gia phái Tung Sơn và Phong gia phái Hoa Sơn. Vị này là tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh của Mai trang. Tứ trang chủ, vị Phong gia này vừa thấy nét mực, bút pháp của trang chủ thì nói trong bức họa có ẩn chứa một bộ kiếm thuật cao minh.
Tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh nghiêng mắt say khướt nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi hỏi:
– Các hạ hiểu được thư họa ư? Biết sử kiếm ư?
Hai câu này lão hỏi rất vô lễ.
Lệnh Hồ Xung thấy trong tay lão cầm một cái chén màu xanh biếc, đúng là chén Phỉ thúy, lại ngửi được mùi rượu Lê hoa ở trong chén. Chàng bỗng nhớ tới lời nói của Tổ Thiên Thu trên sông Hoàng Hà, bèn nói:
– Bạch Lạc Thiên ở Hàng Châu lúc cao hứng có thơ rằng: “Hồng tụ chức lăng khoa thị diệp. Thanh kỳ khiết tửu sấn lê hoa”. Uống rượu Lê hoa nên dùng chén Phỉ thúy. Tứ trang chủ quả đúng là một tay uống rượu sành sỏi.
Lệnh Hồ Xung ít đọc sách, cái gì thi từ ca phú hắn chẳng hiểu, nhưng tính vốn thông minh, chỉ cần người khác nói qua thì hắn nhớ nằm lòng ngay. Lúc này hắn nhớ lời Tổ Thiên Thu nên nói ra thôi.
Đan Thanh tiên sinh vừa nghe, lão trố hai mắt lên, bỗng ôm lấy Lệnh Hồ Xung rồi lớn tiếng reo:
– A ha, hảo bằng hữu đến rồi! Nào nào, chúng ta cùng uống ba trăm chén đi. Phong huynh đệ, lão phu hảo tửu, hảo thư, hảo kiếm, nên người ta gọi là tam tuyệt. Trong tam tuyệt, lấy tửu làm đầu, thứ hai là họa, còn kiếm thì sau cùng.
Lệnh Hồ Xung vui mừng thầm nghĩ: Thư họa mình chẳng biết gì hết, mình đến để cầu danh y trị thương, cũng không nên tỉ kiếm động thủ với người ta. Còn việc uống rượu lại là việc chẳng mong.
Lệnh Hồ Xung liền đi theo Đan Thanh tiên sinh vào trong, Hướng Vấn Thiên và Thi Lệnh Oai đi theo sau. Đi qua một dãy hành lang, đến một gian phòng ở đầu mé Tây, vén rèm cửa ra, mùi rượu thơm xông lên nức mũi.
Lệnh Hồ Xung từ nhỏ đã thích rượu, nhưng vì sư phụ sư nương không cho hắn nhiều tiền tiêu xài nên rượu đến thì uống ngay, cũng không cần phân biệt người mời rượu là hạng tốt hay xấu. Từ hôm hắn nghe Lục Trúc Ông ở Lạc Dương tỉ mỉ luận về tửu đạo, lại được lão mời uống nhiều thứ rượu ngon, một là tính khí hợp nhau, hai là được danh sư chỉ điểm. Từ đó về sau, hắn thưởng thức giám định rất tinh, vừa ngửi được hương rượu thì reo lên:
– Hay quá, ở đây có cả rượu Phần lâu năm. Ồ, Bách thảo tửu chỉ e cất được bảy mươi lăm năm, Hầu nhi tửu lại càng hiếm có.
Lệnh Hồ Xung ngửi đến hương Hầu nhi tửu thì chợt nhớ đến Lục sư đệ Lục Đại Hữu, không kìm được lòng chua xót.
Đan Thanh tiên sinh vỗ tay cười, lớn tiếng reo lên:
– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Phong huynh đệ vừa vào tửu thất của ta thì đã nói đúng tên ba loại rượu quý mà ta cất giấu, thật là một đại danh gia. Tài thật, tài thật!