Đêm ấy Vi Tiểu Bảo và Song Nhi nghỉ lại trong phòng ngủ ở phủ Tổng đốc, lò sưởi đốt thật lớn, chăn đơn nệm gấm, lai láng tình xuân.
Đây là nơi y từng đi qua, mở nắp cái rương lớn cạnh giường lên nhìn, thấy trong rương có quân phục và súng. Song Nhi mỉm cười nói “Tướng công nhìn tới cái rương, lại mong công chúa La Sát chui ra, phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô là công chúa Trung Quốc, so với công chúa La Sát còn hay hơn nhiều”. Song Nhi cười nói “Đáng tiếc là công chúa Trung Quốc đang ở Bắc Kinh chứ không phải ở đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Song Nhi ngoan, hôm nay chúng ta có tính là đại công cáo thành chưa?”. Song Nhi nhoẻn miệng cười, hai má đỏ lên, nàng tuy làm vợ chồng với Vi Tiểu Bảo đã lâu nhưng lúc chồng nói đùa vẫn có ý xấu hổ.
Vi Tiểu Bảo ôm chặt lưng nàng, hai người cùng ngồi lên giường. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô chắp tấm bản đồ, tốn không ít tâm huyết, rốt lại chúng ta cũng đã tới núi Lộc Đỉnh, hoàng thượng phong ta làm Lộc Đỉnh công, tòa thành này có quá nửa cũng sẽ giao cho ta thống quản. Dưới núi này có cất giấu vô số vàng bạc châu báu, chúng ta thong thả đào lên, Vi Tiểu Bảo ta có thể đổi tên là Vi Đa Bảo rồi”. Song Nhi nói “Tướng công đã có rất nhiều vàng bạc, dùng mấy đời cũng không hết, có nhiều châu báu hơn cũng chỉ vô dụng. Ta thấy thôi cứ làm Vi Tiểu Bảo cũng được”.
Vi Tiểu Bảo khẽ hôn lên má nàng một cái, nói “Đúng, đúng! Trong mấy hôm nay ta đã quyết định chủ ý, nếu muốn đào lấy châu báu, chỉ sợ đào đứt long mạch của người Mãn Châu, hại chết hoàng đế. Trước nay hoàng đế đối xử với ta rất tốt, nếu hại chết y thì không khỏi có chỗ không phải với y. Nếu không đào thì lại cảm thấy tiếc. Thôi thế này, chúng ta tạm thời không đào kho báu lên, chờ khi nào hoàng thượng ngự giá lên trời, chúng ta lại thiếu cơm ăn, lúc ấy hãy đào cũng không muộn”.
Nói tới đó chợt nghe trong chiếc rương gỗ có tiếng lách cách khẽ vang lên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, chăm chú nhìn vào cái rương nhưng qua một lúc cũng không thấy có động tĩnh gì. Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ vào tay Song Nhi ba cái, Song Nhi bước ra mở cửa phòng, bốn tên thân binh canh cửa khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo chỉ vào cái rương gỗ, hạ giọng nói “Trong đó có người!”.
Bốn tên thân binh giật nảy mình, sấn tới cạnh cái rương, giở nắp ra, nhưng thấy trong rương chứa đầy đồ vật quần áo. Vi Tiểu Bảo lấy tay ra hiệu, bọn thân binh bới đồ vật ra, bới tới đáy rương thì lộ ra một miệng hang, đúng lúc ấy bình một tiếng vang rền, dưới hang có một phát súng bắn ra. Một tên thân binh a một tiếng, vai bị trúng đạn, ngã ngửa ra phía sau.
Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo một cái ra phía sau mình. Vi Tiểu Bảo chỉ chỉ cái lò sưởi, ra hiệu lật lại. Một tên thân binh bước qua bưng cái lò sưởi lên, trút luôn xuống miệng hang.
Chỉ nghe trong hang có người la lên bằng tiếng La Sát “Đừng trút than xuống, đầu hàng!”, kế ho sặc sụa không ngớt. Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát nói “Vứt súng lên trước, rồi bò lên sau”, trong miệng hang có một khẩu súng ngắn vứt lên, kế đó một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc y kéo lên, một tên thân binh khác đưa đao kề vào cổ y, tên lính ấy hàm râu bị cháy vẫn chưa tắt, rát quá kêu be be ầm lên, vô cùng thảm hại bò ra. Vi Tiểu Bảo nói “Ở dưới còn có ai không?”, dưới hang có người kêu lên “Còn một người nữa! Đầu hàng, đầu hàng”. Vi Tiểu Bảo quát “Ném võ khí lên” ở miệng hang bạch quang chớp lên, một thanh mã đao ném ra, kế đó một đám than lửa nhô lên, nguyên là tên lính La Sát ấy đầu tóc bị cháy.
Bọn thân binh bảo vệ ngoài cửa nghe trong đại soái có chuyện, lại mấy người nữa chạy vào. Bảy tám tên thân binh giữ chặt hai tên quân La Sát, phủi tắt lửa trên tóc trên râu hai người, trói quặt hai tay ra sau lưng.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên chỉ vào một tên quân La Sát kêu lên “Ồ, ngươi là Vương Bát Tử Kê”, tên quân ấy trên mặt lộ vẻ vui mừng, nói “Vâng, vâng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là Hoa Bá Tư Cơ”, tên La Sát còn lại cũng kêu lên “Đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta… ta là Tề Lạc Nặc Phu”. Vi Tiểu Bảo nhìn y chăm chú hồi lâu, thấy bộ râu của y bị cháy lỗ chỗ, trên mặt của bị bỏng vừa đỏ vừa sưng, nhưng cuối cùng cũng nhận ra được, cười nói “Phải rồi, ngươi là Trư La Nhụ Phu!”, Tề Lạc Nặc Phu cả mừng kêu lên “Đúng, đúng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là bạn cũ của ngươi”.
Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là vệ sĩ của công chúa Tô Phi Á. Năm trước họ cùng đi với Vi Tiểu Bảo từ thành Nhã Khắc Tát lên Mạc Tư Khoa.
Hai người cùng quân hỏa thương trong Lạp cung tạo phản, lập được công lao không nhỏ. Sau khi công chúa Tô Phi Á chấp chưởng quốc chính, ban thưởng cho họ, tất cả vệ sĩ của mình đều được thăng làm Đội trưởng, trong đó có bốn người tới phương đông định lập công cướp bóc. Lúc thua quân mất thành, một người chết trận, một người chết cóng. Còn lại hai người rón rén chui vào địa đạo, định ra thành bỏ trốn, nào ngờ miệng địa đạo ngoài thành đã bị lấp kín, hai người tiến thoái đều khó, rốt lại hình tích bị bại lộ. Năm xưa Vi Tiểu Bảo gọi hai người bọn họ là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu(1). Hai người làm sao biết được ý tứ, chỉ nói là trẻ con Trung Quốc phát âm không đúng, gọi thì cũng lên tiếng. Nghe công chúa gọi y là “Trẻ con Trung Quốc”, lúc đầu cũng gọi theo như thế, đến khi Vi Tiểu Bảo lập công, công chúa phong tước vị cho y, các vệ sĩ lại gọi y là “Đại nhân trẻ con Trung Quốc”.
Vi Tiểu Bảo hỏi rõ chuyện đã qua, sai thân binh cởi trói, mang rượu thịt ra khoản đãi.
Bọn thân binh sợ dưới địa đạo còn có gian tế, bèn xuống lục soát một lượt, biết rõ trong phòng ngoài chỗ này ra thì không còn địa đạo tường đôi nào khác, lúc ấy mới lui ra. Đội trưởng thân binh trong lòng sợ sệt, luôn miệng nhận tội, nghĩ thầm quả là may mắn bằng trời, nếu hai tên quân La Sát này nửa đêm từ địa đạo chui ra định trốn, đâm chết Vi đại soái, thì mình không bị cả nhà chết chém tịch biên gia sản không xong.
Hôm sau Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Lạc và Tề Lạc Nặc Phu hai người tới hỏi han tình hình của công chúa Tô Phi Á gần đây. Hai người nói công chúa điện hạ tổng lý triều chính, vương công đại thần, tướng quân chủ giáo toàn nước La Sát ai cũng không dám chống đối. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, mọi chuyện đều nghe lời chị. Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ rất nhớ đại nhân trẻ con Trung Quốc, dặn bọn ta nghe ngóng tin tức của ngươi, bảo bọn ta gặp được ngươi thì mời ngươi tới Mạc Tư Khoa chơi, công chúa sẽ có trọng thưởng”.
Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ không biết đại nhân trẻ con Trung Quốc đem quân tới đây đánh nhau, nếu không thì mọi người thân thiết, là bạn bè tốt, trận này cũng không cần đánh nhau nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bịa đặt, lừa dối!”. Hai người đều thề thốt, nói đó là sự thật, quyết không phải giả.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng vốn muốn mình nghĩ cách giảng hòa với nước La Sát, không ngại gì sai hai thằng đầy tớ này về nói với công chúa Tô Phi Á”. Bèn nói “Ta muốn viết một lá thư, các ngươi đưa về cho công chúa, có điều ta không biết chữ La Sát ngoằn ngoèo như con giun, các ngươi viết thay ta thôi”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngớ mặt nhìn nhau, đều có vẻ khó khăn, hai người bọn họ chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn nói tới việc cầm bút viết chữ thì cũng một khiếu không thông. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đại nhân trẻ con Trung Quốc muốn viết thư tình, thì hai người bọn ta không làm được. Bọn ta… bọn ta đi tìm giáo sĩ viết giúp”, Vi Tiểu Bảo ưng thuận, sai thân binh dắt hai người đi tìm trong bọn tù binh La Sát.
Qua không bao lâu, hai người dắt một giáo sĩ râu quai nón xồm xoàm tới. Lúc ấy phần lớn quân lính La Sát đều không biết chữ, giáo sĩ theo quân ngoài việc cầu nguyện Thượng đế, khích lệ sĩ khí, còn có một chức trách trọng yếu khác là viết giúp thư gửi về nhà cho tướng sĩ. Viên giáo sĩ kia mặc trang phục quân Thanh, quần áo quá chật, bó sát vào người, trông rất buồn cười. Y sợ sệt run rẩy, theo hai viên Đội trưởng tham kiến Vi Tiểu Bảo, nói “Thượng đế ban phúc cho đại tướng quân đại tước gia Trung Quốc, cầu cho đại tướng quân Trung Quốc cả nhà bình an”.
Vi Tiểu Bảo cho y ngồi, nói “Ngươi viết cho ta một lá thư, gửi công chúa Tô Phi Á của các ngươi”. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ. Thân binh đã bày văn phòng tứ bảo ra trên bàn. Viên giáo sĩ cầm bút lông, giở giấy ra, cong cong queo queo viết chữ La Sát lên, nhưng cảm thấy bút lông quá mềm, nét bút lúc to lúc nhỏ, nói không hết sự khó khăn, nhưng không dám có nửa câu bình luận về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị tướng quân Trung Quốc này nổi giận.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi viết thế này: Từ sau khi chia tay, thường nghĩ tới công chúa, chỉ mong cưới được công chúa làm vợ…”. Viên giáo sĩ hoảng sợ giật nảy mình, bàn tay lỏng ra, ngọn bút lông quẹt lên tờ giấy một vệt mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vị đại nhân trẻ con Trung Quốc này rất được công chúa điện hạ Tô Phi Á ưa thích. Công chúa điện hạ rất yêu thương y, thường nói người tình Trung Quốc hơn người tình La Sát gấp hàng trăm lần”. Y muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không khỏi có chỗ nói tăng thêm lên. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ, nói “Vâng, vâng, hơn gấp hàng trăm lần, hàng trăm lần”. Y tâm thần bất định, văn tứ bế tắc, nhưng lại không dám cầm bút ngẫm nghĩ, chỉ đành dùng lối ăn nói sáo rỗng thường ngày viết ra, đều là lời lẽ lẳng lơ của tướng sĩ La Sát gởi cho vợ con, người tình ở quê thường ngày. Nào là “Quả tim thân yêu”, “Đêm qua anh mơ thấy em”, “Hôn em một vạn cái”, không như nhau mà đầy đủ.
Vi Tiểu Bảo thấy y ngòi bút chạy như bay, vô cùng thỏa mãn, nói “Quân La Sát cô tới chiếm đất đai Trung Quốc, giết chết rất nhiều bách tính Trung Quốc. Đại hoàng đế Trung Quốc rất tức giận, sai ta đem quân tới, bắt sống hết quân tướng của cô. Ta muốn chặt họ ra từng mảnh từng mảnh, nướng lên làm món Hà thư ni khắc…”. Viên giáo sĩ lại giật nảy mình, a một tiếng, nói “Lạy Chúa tôi!” Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Có điều nể mặt công chúa cô, tạm thời không cắt không nướng. Nếu cô ưng thuận từ nay về sau quân La Sát không xâm phạm cương giới Trung Quốc ta nữa, Trung Quốc và La Sát sẽ làm bạn tốt. Nếu ngươi không nghe lời, ta sẽ sai quân tới giết sạch đàn ông La Sát, cô sẽ không còn có người đàn ông La Sát nào để ngủ chung nữa. Cô muốn có đàn ông ngủ chung, thì thiên hạ chỉ có người Trung Quốc thôi”.
Viên giáo sĩ trong lòng rất không cho là đúng, nghĩ thầm “Thiên hạ ngoài đàn ông La Sát không phải chỉ có đàn ông Trung Quốc, câu này rất không có lý”. Lại cảm thấy loại ngôn ngữ vô lễ như thế quyết không thể nói với công chúa, quyết ý đổi viết thành mấy câu vừa cung kính vừa thân mật, đoán là vị tướng quân Trung Quốc này cũng không sao biết được. Nhưng y là người cẩn thận, sợ bị nhìn ra chỗ sơ hở, nên mấy câu ấy đều viết thành tiếng Lạp Đinh, viết xong bất giác trên mặt lộ nét tươi cười.
Vi Tiểu Bảo lại nói “Bây giờ ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu đưa thư này tới cho cô, lại tặng lễ vật cho cô. Cô muốn làm tình nhân hay địch nhân của ta, là do tự cô quyết định thôi”.
Viên giáo sĩ lại sửa câu cuối cùng thành cực kỳ cung kính, viết “Tiểu thần Trung Quốc nhớ nhung ngưỡng mộ hậu ân của điện hạ, kính cẩn dâng cống vật, để tỏ lòng trung. Tiểu thần còn sống năm nào, cũng đều là bề tôi trung thành của điện hạ. Chỉ mong hai nước hòa hiếu, những quân dân La Sát bị bắt làm tù binh được trở về nước cũ, thì đó là ân đức vô lượng của điện hạ”. Câu cuối cùng là xuất phát từ lòng riêng của y, nghĩ nếu hai nước hòa nghị không thành, thì mình và đám hàng quân La Sát thế ắt chết nơi đất khách quê người, vĩnh viễn không được về nước.
Vi Tiểu Bảo đợi y viết xong, nói “Hết rồi. Ngươi đọc lại một lượt cho ta nghe”. Viên giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đọc, đọc tới những câu mình sửa vẫn nói theo nguyên ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo vốn cũng chỉ biết tiếng La Sát rất có hạn, nghe ra tựa hồ cũng không sai gì lắm, đâu ngờ tới việc y dám tùy ý sửa đổi? Bèn gật gật đầu nói “Tốt lắm”. Rồi lấy ấn vàng “Phủ viễn đại tướng quân chi ấn” ra đóng mực son lên lá thư. Lá thư này là thư tình không ra thư tình, công văn không ra công văn hợp thành.
Vi Tiểu Bảo sai giáo sĩ ra ngoài lãnh thưởng, sai sư gia trong đại doanh cho lá thư vào phong bì, trên phong bì viết tên công chúa Tô Phi Á bằng chữ Trung Quốc. Viên sư gia kia chấm đẫm mực ngòi bút, dòng thứ nhất viết “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi phụng thư”, dòng thứ hai viết “Ngạc La Tư quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố luân trưởng công chúa điện hạ”. Hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là ma quỷ, dùng gọi nước Nga là có ý khinh thường, nên trong văn thư đều gọi là “Ngạc La Tư”. Viên sư gia kia lại biết ba chữ “Tô Phi Á” rất không trang nhã, chữ Phi kia khiến người ta nghĩ tới câu “Phương thảo phi phi” (Cỏ thơm bời bời), tựa hồ châm chọc nàng toàn thân đầy lông, vì thế viết thành Tô Phi Hà, đã hợp với điển “Lạc hà dữ cô vụ tề phì” (Ráng chiều và cò lẻ cùng bay), lại có nghĩa “Phi hà phốc diện” (Ráng bay trùm mặt). “Cố luân trưởng công chúa” là phong hiệu tôn quý nhất của các công chúa nhà Thanh, chị hoàng đế là trưởng công chúa, con gái hoàng đế là công chúa, cô gái này là Nhiếp chính vương, lại là chị của hai vị Sa hoàng, tự nhiên là công chúa đứng đầu. Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo cười nói “Công chúa La Sát có một chuyện với ta, mấy năm không gặp, không biết cô ta ra sao?”. Viên sư gia liền viết sau phong bì hai hàng “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phúc dã. Như lạc chi hòa, vô sở bất giai, thỉnh dữ tử lạc chi” (Phàm hòa với Nhung Địch, là phúc của nước vậy. Nếu vui chuyện hòa, không gì không hay, xin cùng người cùng vui), nghĩ đây là câu trong Tả truyện, chỉ tiếc La Sát là nước Nhung Địch, chưa chắc đã hiểu được kinh truyện của Trung Hoa thượng quốc mình, ý nghĩa song quan trong đó lại càng không hiểu được, lông mày đẹp cho thằng mù ngó, không khỏi có chỗ đáng tiếc ngọc sáng vứt ra chỗ tối.
Vi Tiểu Bảo không những không hiểu được hàm nghĩa của chữ Trung Quốc trong câu “Ngạc La Tư quốc Cố luân trưởng công chúa Tô Phi Hà”, mà ngay cả câu “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi”, ngoài chữ Vi họ của mình và chữ Đại thì không biết chữ nào, thấy viên sư gia viết sau phong bì hai hàng chữ, bèn nói “Đủ rồi, đủ rồi. Ngươi viết chữ rất đẹp, hơn cả gã râu xồm La Sát”.
Y dặn viên sư gia chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, may là đều lấy được trong thành Nhã Khắc Tát, không phải tốn kém gì. Lại gọi hai viên Đội trưởng Hoa Bá Tư Cơ, Tề Lạc Nặc Phu tới bảo họ chọn trong đám hàng binh La Sát lấy một trăm người làm hộ vệ, lập tức đưa thư về Mạc Tư Khoa. Hai viên Đội trưởng mừng rỡ quá lòng mong mỏi, không ngừng khom lưng cám ơn, lại nắm tay Vi Tiểu Bảo, liên tiếp hôn vào mu bàn tay y. Vi Tiểu Bảo mu bàn tay bị râu hai người cọ vào vừa nhột vừa ngứa, nhịn không được hô hô cười rộ.
Thành Nhã Khắc Tát nhỏ, không đủ cho đại quân đóng, lúc ấy Vi Tiểu Bảo bàn bạc với Khâm sai và Sách Ngạch Đồ, sai hai người Lang Thân, Lâm Hưng Châu dẫn hai ngàn quân giữ thành, đại quân kéo về nam chia đóng ở hai thành Ái Hồn và Hô Mã Nhĩ chờ chỉ dụ. Vi Tiểu Bảo lúc lên đường trịnh trọng dặn hai tướng Lang Thân, Lâm Hưng Châu quyết không được đào giếng, đào địa đạo trong thành Nhã Khắc Tát.
Đại quân về nam. Bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở thành Ái Hồn, Tát Bố Tố suất lãnh một cánh quân khác đóng ở thành Hô Mã Nhĩ. Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát đổi mặc trang phục quân Thanh, sai người dạy tiếng Trung Quốc cho, bắt họ học thật thuộc những câu “Hoàng đế vạn tuế vạn vạn tuế”, “Thánh thiên tử vạn thọ vô cương”, “Hoàng đế Trung Quốc đức ban bốn bể, hoàng ân hạo đãng”, sau đó sai quân áp giải về Bắc Kinh, muốn họ hô lớn trên đường phố ở kinh thành, lúc triều kiến Khang Hy lại càng phải lớn tiếng reo hò, nói nếu hô càng vang rền, hoàng thượng ban thưởng càng trọng hậu.
Qua hơn hai mươi ngày, Khang Hy ban chiếu thư xuống, khen ngợi tướng sĩ xuất chinh, thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Lộc Đỉnh công, các tướng sĩ còn lại đều được thăng thưởng. Khâm sai truyền chỉ đưa một cái hộp gỗ sơn đen cho Vi Tiểu Bảo, là hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở nắp hộp ra, không kìm được ngẩn người. Trong hộp là một cái bát ăn cơm bằng vàng, trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, chính là cái bát năm xưa Thi Lang tặng y, chỉ là hoa văn vết chữ đều bị sứt mẻ, lại được tu sửa hoàn chỉnh.
Vi Tiểu Bảo nhớ năm xưa cái chén vàng này để trong phủ Bá tước ở Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, đêm ấy lúc hoảng sợ chạy trốn hoàn toàn không mang theo, vừa ngưng thần nhớ lại đã hiểu lý do. Nhất định là đêm ấy sau khi phủ Bá tước bị pháo bắn tan nát, quân sĩ Tiền phong doanh đã lập biên bản thu nhặt những đồ vật trong phủ trình lên hoàng đế. Cái bát vàng này tuy bị hư hại nhưng chưa vỡ nát. Khang Hy sai thợ tu bỗ, lại ban cấp cho y, ý tứ tự nhiên là nói: Cái bát vàng của ngươi đã bị vỡ một lần, lần này phải bưng cho khéo, đừng để vỡ nữa. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với mình rốt lại cũng có nghĩa khí, chúng ta có qua có lại, mình cũng không đào long mạch của y”. Đêm ấy mở đại yến khoản đãi Khâm sai, các tướng cùng ngồi bồi tiếp, ăn tiệc xong đánh bạc.
Lại qua hơn một tháng, Khang Hy lại có thượng dụ gởi tới, lần này thì nghiêm khắc quở phạt, nói Vi Tiểu Bảo làm việc bậy bạ, muốn quân La Sát hô lớn “Vạn thọ vô cương” thì rất vô vị. Trong thượng dụ nói “Làm bậc nhân quân chăn dân phải thể theo lòng trời, yêu thương lê dân. La Sát tuy là nước man di ngoài giáo hóa, nhưng tiểu dân cũng là người, đã hàng phục quy thuận, không nên khinh khi làm nhục. Ngươi là đại thần, phải khuyên nhà vua nhân đức thương dân. Nếu trẫm có ban ơn cho mọi người thì không đáng gọi là minh quân, nhưng nếu kiêu nịnh tàn ngược, thì vạn thọ vô cương chỉ làm khổ thiên hạ mà thôi. Đại thần xiểm nịnh, đặt nhà vua vào chỗ bất đức thì không tội gì lớn hơn, nên lấy đó làm răn”.
Vi Tiểu Bảo lần này vỗ mông ngựa lại thành sờ dái ngựa, rất là mất mặt, may là y da mặt dày, cũng không để ý gì, trước mặt viên Khâm sai truyền chỉ lớn tiếng chửi mình đáng chết, nghĩ thầm “Thiên hạ lại có người không thích đội mũ cao à? Nhất định lần này quân La Sát nói tiếng Trung Quốc không hay, hoàng thượng nghe thấy lăng líu không ra sao, nên y mới tức giận”. Bèn gọi mấy viên giáo thụ dạy tiếng Hoa cho quân La Sát tới chửi cho một trận. Sau khi chửi xong lại mở sòng đánh bạc với họ, gieo được vài ván xúc xắc, đã quên hết những lời giáo huấn của Khang Hy.
Thấm thoắt vài tháng, đông qua xuân tới. Vi Tiểu Bảo đóng quân ở thành Ái Hồn tuy thoải mái, nhưng nhớ bọn vợ con là A Kha, Tô Thuyên và Hổ Đầu, nhiều lần sai thân binh đưa lễ vật về nhà. Sáu vị phu nhân cũng đều gởi quần áo thức ăn tới. Mọi người biết y không biết chữ, nên cũng không gửi thư, chỉ sai thân binh nhắn miệng, nói trong nhà lớn nhỏ đều bình an, mong đại soái sớm khải hoàn trở về.
***
Hôm ấy trong kinh lại có thượng dụ ban xuống, sai Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm Nghị hòa đại thần, bàn bạc ký kết hòa ước với nước La Sát, lại phái Đô thống Hán quân Liêm Hoàng kỳ Nhất đẳng công Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Nê, Tả Đô Ngự sử Mã Tề bốn người cùng tới giúp đỡ.
Đông Quốc Cương tuyên chỉ xong, lại lấy ra một tờ công văn tuyên đọc, chính là quốc thư của hai vị tiểu Sa hoàng nước La Sát gởi Khang Hy, lúc ấy đã được giáo sĩ Hà Lan truyền giáo ở Bắc Kinh dịch ra chữ Hán. Trong quốc thư nói:
“Kính phụng thượng quốc Hoa Hạ, hoàn vũ mênh mông, suất lãnh hiền thần cùng lo trị nước, chia vạch cương thổ, Mãn Hán kiêm quản, thanh danh lẫy lừng, đại thánh hoàng đế nói: Trước đây giao cho A Liệt Khắc Tịch Mễ Hãn La làm đại hãn, từng sai bọn Ni Quả Lai mang thư và lễ vật tới thông hiếu với thiên triều, vì không biết điển lễ Trung Quốc, lời lẽ cử chỉ thô lậu không văn nhã, đã khoan hồng tha tội cho. Còn như ca ngợi hoàng đế, thì sơ xuất thất lễ, cũng vì là người ở xa, điển lễ vốn chưa nhìn thấy, may không trách tội. Thư của hoàng đế ban cho ngày trước, hạ quốc không ai hiểu được, chưa hiểu lý do. Đến khi bọn Nê Quả Lai trở về hỏi lại, chỉ nói đại thần thiên triều không chịu trả bọn Căn Đặc Mộc Nhĩ bỏ trốn, lại kết tội quấy nhiễu biên cảnh. Gần đây nghe hoàng đế ra quân, nhọc nhằn tới biên giới, có chỗ mất ý thông hiếu. Nếu quả dân ở biên giới của hạ quốc gây hấn làm loạn, thiên triều sai sứ tỏ ý, tự nhiên sẽ nghiêm trị tội ấy, cần gì phải nhọc công dấy động can qua? Nay được chiếu chỉ mới hiểu rõ đầu đuôi, đã ra lệnh cho tướng sĩ hạ quốc phái đi đến lúc ấy không được giao phong. Kính xin trả lại những người làm loạn ở nước tôi, sẽ mang về chính pháp, sai sứ thần tới bàn việc phân định biên giới, trước hết sai bọn Mạt Khởi, Phật Nhi Ngụy Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa ngày đêm mang lễ vật và thư tới. Xin triệt thoái quân đang vây thành Nhã Khắc Tát, viết thư rõ ràng, hiểu dụ cho hạ quốc, thì mọi sự êm đẹp, vĩnh viễn hòa mục. Đại thần thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ, năm xưa có quen biết với Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á điện hạ hoàng tỷ của ta, giá lâm tới kinh sư Mạc Tư Khoa, giúp đỡ dẹp loạn, có công lớn với hạ quốc, đó là ơn huệ của thượng quốc, vua tôi hạ quốc thật không dám quên. Kính dâng đại thánh hoàng đế bệ hạ lễ vật trọng hậu, lễ vật kém trọng hậu hơn thì dâng cho đại thần Vi Tiểu Bảo các hạ, để tỏ ý thành tín hòa mục của hạ quốc” (2).
Đông Quốc Cương đọc xong quốc thư, sư gia giải thích ý tứ trong lá thư cho Vi Tiểu Bảo và các tướng. Đây là thông lệ trong quân, văn thư qua lại, chữ nghĩa có lúc sâu sắc khó hiểu, có nhiều tướng lĩnh cầm quân không biết chữ, cho dù học hành vài năm thì hiểu biết cũng rất có hạn, văn thư qua lại trong quân lại có liên quan tới quân cơ đại sự, nếu hiểu lầm thì can hệ rất lớn, vì thế trong quân chế Mãn Châu có quy định chức sư gia giải thích văn thư.
Đông Quốc Cương cười nói “Vị nữ vương Nhiếp chính nước La Sát này rất nhớ tình nghĩa cũ của Vi đại soái, lễ vật gởi tới quả không ít. Hoàng thượng sai huynh đệ mang theo ở đây, giao cho đại soái thu nạp”, Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Đa tạ, đa tạ”, lại nói “Người La Sát không hiểu lễ tiết, không nói lễ vật của mình nhỏ mọn mà lại khoe khoang nói lễ vật rất trọng hậu, lễ vật tặng cho hoàng thượng rất trọng hậu, lễ vật tặng ta thì không trọng hậu bằng, cũng không sợ người ta chê cười”.
Đông Quốc Cương nói “Vâng. Bọn hàng binh La Sát mà Vi đại soái dâng về kinh, hoàng thượng đích thân tra hỏi, phát hiện trong bọn quân sĩ có một viên quan lớn La Sát…”. Vi Tiểu Bảo a một tiếng, kêu lên “Có chuyện đó à?”. Đông Quốc Cương nói “Người này mười phần giảo hoạt, trà trộn trong đám quân sĩ, hoàn toàn không động thanh sắc. Hôm ấy hoàng thượng thẩm vấn đám hàng binh, có một giáo sĩ truyền giáo người Hà Lan làm thông dịch, hỏi tới đoạn sau, hoàng thượng nói mấy câu bằng tiếng Lạp Đinh với viên giáo sĩ. Trong bọn hàng binh La Sát có một tên trên mặt đột nhiên có vẻ kinh ngạc. Hoàng thượng hỏi y có biết tiếng Lạp Đinh không, tên quân ấy không ngừng lắc đầu. Hoàng thượng dùng tiếng Lạp Đinh nói: Lôi tên này ra chém đầu. Tên lính ấy biến sắc, quỳ xuống xin tha, nhận là biết tiếng Lạp Đinh”.
Vi Tiểu Bảo hỏi “Tiếng Lạp Đinh là tiếng gì? Lời người La Sát bọn họ nói lúc kéo trang đinh (3) gánh quân lương thì làm sao hoàng thượng biết được?”. Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, không gì không biết. Lời người La Sát nói lúc kéo trang đinh cũng biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao tiếng người La Sát nói lúc bình thời thì hoàng thượng không biết, mà lúc họ kéo trang đinh hoàng thượng lại biết?”.
Đông Quốc Cương không sao trả lời, cười nói “Đạo lý ở trong đó thì chúng ta đều không hiểu. Lần sau đại soái triều kiến hoàng thượng, cứ tự mình dập đầu thỉnh vấn thôi”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, hỏi “Vậy người La Sát ấy về sau thế nào?”, Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn tỉ mỉ, người ấy cuối cùng không sao che giấu, lần lượt thổ lộ tất cả. Nguyên là người ấy tên Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, là Đô Tổng đốc của cả hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát”.
Mọi người nghe thấy đều không kìm được cùng a một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Chức quan của thằng đầy tớ ấy không nhỏ đâu”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Trong những quan lại nước La Sát phái tới phương đông thì y là lớn nhất. Hôm thành Nhã Khắc Tát bị hạ, nhất định là y đổi mặc y phục quân sĩ, đến nỗi bị y qua mặt”, Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói “Hôm hạ thành Nhã Khắc Tát, tướng quân, quân sĩ, quan lớn, quan nhỏ người La Sát đều cởi hết quần áo, nhìn đi nhìn lại thì người nào cũng thế, quả thật không có gì khác nhau. Không biết được là làm quan lớn nhỏ thế nào, nói năng cũng như nhau. Huynh đệ… huynh đệ không nhận ra được đại quan của họ, cũng không phải là lỗi lầm của bọn ta”.
Các tướng hô hô cười rộ, giải thích cho Đông Quốc Cương biết tình hình hôm hạ thành Nhã Khắc Tát.
Đông Quốc Cương cười nói “Té ra là thế, thế thì cũng không trách được. Hoàng thượng nói: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô Tổng đốc hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát, công lao không nhỏ, có điều y lại cho rằng người này là quân sĩ bình thường, làm việc cũng quá hồ đồ, lấy công trừ tội, chuyện này không thưởng cũng không phạt”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, cung kính nói “Ân điển của hoàng thượng, nô tài vô cùng cảm kích”
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn A Nhĩ Thanh Tư Cơ, hỏi liên tiếp sáu ngày, quân chính đại sự, cương vực vật sản của nước La Sát đều hỏi tỉ mỉ. Hoàng thượng quả thật là trời sinh anh minh, lại phát hiện được trên người A Nhĩ Thanh Tư Cơ một bí mật. Theo Vi đại soái nói, người ấy lúc bị bắt, trên không có mảnh vải nào, không ngờ y lại có cách giấu giếm một văn kiện bí mật”.
Vi Tiểu Bảo chửi “Con bà nó, con gà chết này thật là quỷ kế đa đoan, lần sau mà gặp y, không nhìn kỹ y không được. Văn kiện bí mật ấy là cất giấu ở chỗ nào, chẳng lẽ ở… ở…”.
Đông Quốc Cương nói “Trước khi hàng binh La Sát triều kiến hoàng thượng, tự nhiên đều bị Ngự tiền thị vệ lục soát khắp người, râu tóc đều bị sờ hết, tất cả quần và giày cũng đều phải cởi ra. Người Phiên bang lòng dạ khó lường, nếu giấu giếm hung khí trong người, thì làm sao được? Gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ này đương nhiên cũng bị lục soát, trên thân thể cũng không có vật gì lạ. Nhưng hoàng thượng quan sát tỉ mỉ, thấy trên vai phải y có một khối lồi lên, lại thỉnh thoảng liếc mắt vào đó, bèn hỏi y trên tay trái có vật gì. A Nhĩ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên, trên tay băng bó, nói là bị thương lúc ở thành Nhã Khắc Tát. Hoàng thượng bảo y bước tới gần, dùng sức bóp cánh tay y một cái. A Nhĩ Thanh Tư Cơ ối chao một tiếng, nhưng trong thanh âm lại không tỏ vẻ đau đớn gì lắm”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Thú vị thật, thú vị thật! Vậy thì gã La Sát ấy bị thương chỉ là giả”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Hoàng thượng lập tức sai thị vệ cởi lớp băng trên cánh tay y ra. A Nhĩ Thanh Tư Cơ mặt xám như tro, hoảng sợ run bắn cả người. Vi đại soái, ngươi đoán trong lớp băng là giấu vật gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi vừa nói là văn kiện bí mật, chẳng lẽ là bó trong lớp băng ấy sao?”. Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói “Đúng thế. Chẳng trách hoàng thượng thường khen ngươi thông minh, quả nhiên đoán một lần là đúng ngay. Dưới lớp băng của gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ rõ ràng là một văn kiện, là mật dụ của Sa hoàng nước La Sát gởi y. Hoàng thượng bảo giáo sĩ Hà Lan dịch ra, phó bản của bản sao ở đây”, rồi rút trong bọc ra một tờ công văn, cao giọng đọc:
“Ngươi nên nói với hoàng đế Trung Quốc: Đại quân chủ hoàng đế thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư kiêm đại vương nhiều nước Nga hoàng bệ hạ, oai danh vang tới nơi xa, đã có quân vương nhiều nước chịu thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Hoàng đế Trung Quốc y cũng nên xin nhận ân huệ của đại quân chủ thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Đại hoàng đế bệ hạ nhất định sẽ thương yêu hoàng đế Trung Quốc trong hoàng ân hạo đãng, lại che chở cho, để khỏi bị địch nhân xâm chiếm, hoàng đế Trung Quốc y cứ một mình thần phục đại quân chủ bệ hạ, chịu ở dưới sự thống trị tối cao của Nga hoàng bệ hạ, vĩnh viễn không thay đổi, tiến cống phú thuế cho đại quân chủ, đại quân chủ hoàng đế bệ hạ sẽ ưng chuẩn cho những người thần thuộc tự do buôn bán ở Trung Quốc và trong hai nước, vì thế hoàng đế Trung Quốc y nên để cho sứ thần của đại hoàng đế bệ hạ đi lại không ngăn trở, lại gửi thư phúc đáp cho đại hoàng đế bệ hạ” (4).
Đông Quốc Cương đọc một câu, Vi Tiểu Bảo chửi một tiếng “Đánh rắm!”. Đến khi y đọc xong, Vi Tiểu Bảo đã chửi hơn mười tiếng “Đánh rắm”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng: Người La Sát dã tâm sôi sục, rất là vô lễ. Hoàng đế gởi đạo mật dụ ấy là cha của hai Sa hoàng hiện nay, y đã chết rồi. Lúc ấy y không biết người Trung Quốc chúng ta lợi hại. Bây giờ người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không còn dám ngông cuồng như trước nữa. Có điều lúc họ nghị hòa, nhất định sẽ vừa cứng vừa mềm, không thể coi thường”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Hoàng thượng đã dặn dò rồi, chúng ta hung dữ đánh vài tát, đá vài cước, rồi sẽ vỗ vỗ vai, vuốt vuốt lưng họ”. Đông Quốc Cương nói “Nhiếp chính nữ vương gì đó rất giảo hoạt, cô ta giả như không biết thành Nhã Khắc Tát đã bị chúng ta hạ, nói đã hạ lệnh cho quân La Sát không được giao phong với chúng ta. Nhưng trong quốc thư lại để lòi đuôi, xin hoàng thượng giao lại những người La Sát bị bắt cho họ chính pháp”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Làm gì có chuyện tiện nghi như thế? Cô ta đưa tới cho ta mấy tấm da điêu, mấy viên bảo thạch, mà lại muốn chúng ta thả hết quan quân của cô ta à?”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dặn người La Sát đã xin giảng hòa thì nghị hòa với họ cũng không hề gì, có điều chúng ta phải mang đại quân tới, thề ước dưới thành”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cái gì là thề ước dưới thành?”. Đông Quốc Cương nói “Hai nước giao binh, quân chúng ta bao vây thành trì Phiên bang, Phiên bang cầu hòa, soạn thảo hòa ước ngay dưới thành, như thế gọi là thề ước dưới thành. Bọn Phiên bang tuy nói đầu hàng nhưng vẫn không chịu nhận thua đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thật ra nếu chúng ta ra quân đánh thành Ni Bố Sở, cũng không phải chuyện khó”.
Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng đánh thắng La Sát thêm vài trận nữa vốn là việc đã nắm chắc. Có điều La Sát là nước lớn hiện nay, thống hạt rất nhiều nước nhỏ. Nếu họ thua to ở phương đông, mất hết oai phong, các nước nhỏ thần thuộc sẽ không phục. Đến lúc ấy thì nước La Sát không mang đại quân tới báo thù không xong, sẽ chiến tranh liên miên, gây ra tai họa, không biết đánh nhau đến năm nào tháng nào mới xong. Hoàng thượng tra hỏi Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, biết phía tây nước La Sát có một nước lớn khác, gọi là Thụy Điển, hiện có thế đụng nhau là đánh lớn với nước La Sát. Nếu nước La Sát đồng thời đánh nhau với cả hai phía đông tây thì rất đau đầu. Chúng ta nhân cơ hội này buộc họ ký hòa ước thì nhất định có thể chiếm phần tiện nghi, ít nhất cũng có thể giữ cho phương bắc thái bình được một trăm năm”.
Vi Tiểu Bảo sau khi đại thắng, rất muốn một hồi trống thừa thế hạ luôn thành Ni Bố Sở, nghe hoàng thượng ưng thuận cho La Sát cầu hòa, thấy không thỏa mãn, nhưng đây là quyết sách của hoàng đế, cũng là anh vợ mình, y muốn cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài vạn dặm, mình cũng khó có thể trái chỉ, lại xoay chuyển ý nghĩ “Ngươi là cậu hoàng thượng, cũng là cậu vợ ta, tính vai vế thì là bậc trưởng bối của ta, ngươi là Nhất đẳng công, ta chỉ là mới được thăng Nhị đẳng công. Lần này nghị hòa với La Sát, hoàng thượng lại phái ngươi làm phó cho ta, thì hoàng thượng đã cho ta có thể diện nhiều lắm rồi”.
Đông Đồ Lại cha Đông Quốc Cương là cha Hiếu Khang hoàng hậu mẹ ruột Khang Hy, là người Hán, vì thế huyết thống của Khang Hy là nửa Mãn nửa Hán. Lúc ấy Đông Đồ Lại đã chết, Đông Quốc Cương được tập phong là Nhất đẳng công. Đông Đồ Lại năm xưa đã sớm quy phục nhà Mãn Thanh ngoài cửa quan, thuộc đạo Liêm Hoàng kỳ, quân công hiển hách, oai vọng lẫy lừng, Vi Tiểu Bảo lại nghe sai tên y là Đổ Lại, Đổ Lại nói rõ là đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại, đường đường là quốc trượng mà như thế thì có gì hay? Tối hôm ấy sau tiệc tiếp khách, các đại thần dưới sự đề xướng của Vi đại soái đánh bạc vài ván. Đông Quốc Cương quả nhiên thua, nhưng đẩy ngân phiếu sáu trăm lượng bạc ra không hề để ý, hoàn toàn không có ý muốn giở trò vô lại. Vi Tiểu Bảo thấy y thua rất sảng khoái, không hề có phong thái của cha, không kìm được vô cùng kinh ngạc, lúc trở về phòng, lên giường đi ngủ mới sực nghĩ ra “Y tên Đông Cốt Quang, nói rõ là chơi bài xương thì phải thua sạch. Người này phẩm chất cờ bạc rất tốt, có thể kết giao với y” (5).
Hôm sau Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần, mọi người nói nếu đã phải thề ước dưới thành thì không ngại gì đem quân tới đó, dĩ dật đãi lao. Vi Tiểu Bảo gật đầu khen phải, ra lệnh hai đạo quân ở thành Ái Hồn và thành Hô Mã Nhĩ cùng xuất phát, hội sư dưới thành Ni Bố Sở. Lúc ấy đã vào mùa hè, trời ấm tuyết tan, hành quân rất tiện.
Hôm ấy tới cạnh sông Hải Lạp Nhĩ Hà, quân tiên phong báo về là có một toán quân La Sát nhỏ kéo tới, hai viên Đội trưởng đứng đầu xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền kiến, té ra là hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo mừng nói “Hay lắm, hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu”. Hai người khom lưng làm lễ, dâng thư trả lời của công chúa Tô Phi Á.
Viên giáo sĩ La Sát lúc ấy vẫn còn trong đại doanh quân Thanh để chờ khi cần tới. Khang Hy vì việc soạn thảo văn kiện nghị hòa, lại phái thêm một giáo sĩ Hà Lan tới giúp đỡ. Vi Tiểu Bảo truyền gọi hai viên giáo sĩ vào trướng, bảo họ dịch thư trả lời của công chúa.
Viên giáo sĩ La Sát hôm trước sửa đổi nguyên ý lá thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc ấy trong lòng hồi hộp, chỉ sợ trong thư trả lời của công chúa để lộ ra, vội cầm lá thư đọc qua một lượt, lúc ấy mới yên tâm. Viên giáo sĩ Hà Lan lập tức dịch chữ La Sát trong thư ra tiếng Hoa.
Trong thư nói: Từ khi chia tay đến nay, vẫn thường tưởng nhớ, mong sau khi hòa ước đã thành, Vi Tiểu Bảo sẽ tới Mạc Tư Khoa một chuyến để tâm tình với cố nhân. Vi Tiểu Bảo được vua hai nước sủng ái, nên nói rõ những chuyện hiểu lầm bên trong, xóa bỏ ngăn cách, xây dựng nền tảng cho sự hòa hiếu giữa hai nước hiện nay. Trong thư lại nói: Trung Quốc và La Sát chia ở hai phía đông tây, đều là nước lớn, nếu liên thủ kết minh thì có thể cầm quyền thiên hạ, cho dù nước nào cũng không thể kháng cự. Nếu hòa nghị không thành, chiến tranh kéo dài thì không khỏi lưỡng bại câu thương. Vi thế mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến hoàn thành việc này, đối với Trung Hoa dĩ nhiên là lập được công lớn, nhưng nước La Sát cũng sẽ có báo đáp trọng hậu. Lại xin Vi Tiểu Bảo tâu với hoàng đế Trung Quốc thả các tướng sĩ La Sát bị bắt về cho họ được đoàn tụ cùng gia đình vân vân.
Viên giáo sĩ Hà Lan dịch xong, Vi Tiểu Bảo thấy hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu liên tiếp đưa mắt ra hiệu, biết còn có chuyện khác, lúc ấy sai hai viên giáo sĩ lui ra, hỏi “Các ngươi còn có lời gì muốn nói?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn bọn ta nói với đại nhân trẻ con Trung Quốc là công chúa điện hạ rất nhớ người, đàn ông La Sát không tốt, chỉ có đại nhân trẻ con Trung Quốc tốt nhất trên đời, mời người nhất định phải tới Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, ngàn vạn lần không tin được”.
Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ còn có mấy việc muốn nhờ đại nhân trẻ con Trung Quốc thu xếp. Đây là công chúa điện hạ gởi cho người”. Nói xong lấy trên cổ ra một cái vòng đồng, dưới cái vòng có buộc một cái bao da, Hoa Bá Tư Cơ cũng làm như vậy. Chắc là hai người lặn lội đường xa, sợ bị thất lạc nên dùng vòng đồng đeo bao da vào cổ. Miệng hai cái bao da đều dùng khóa đồng khóa chặt. Hoa Bá Tư Cơ lấy ở hông ra một cái chìa khóa bước tới mở khóa trên cái bao da của Tề Lạc Nặc Phu, Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy ra một cái chìa khóa mở khóa trên cái bao da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người cung cung kính kính đặt cái bao da lên cái bàn trước mặt Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo trút ngược cái bao da, tiếng leng keng vang lên, mấy mươi viên bảo thạch lăn ra, màu sắc hình dạng khác nhau, rực rỡ lấp lánh, đều là hồng bảo thạch, lam bảo thạch, hoàng bảo thạch cực lớn, trong cái bao kia thì đựng đầy toàn thạch và phỉ thúy. Lập tức cả trướng sáng ngời, thật mờ cả mắt.
Vi Tiểu Bảo bình sinh đã nhìn thấy vô số châu báu, nhưng rất nhiều viên bảo thạch lớn cùng ở một chỗ thế này thì chưa từng thấy qua, cười nói “Công chúa tặng ta lễ vật trọng hậu thế này, quả thật không thể nhận được” (6).
Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ nói nếu đại nhân trẻ con Trung Quốc làm xong việc lớn, sẽ còn có lễ vật quý trọng hơn tặng cho người, lại có gái đẹp mười nước Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ca Tát Khắc, Đạt Đán, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Nhật Nhĩ Man, Đan Mạch, mỗi nước một người, người nào cũng trẻ tuổi xinh đẹp, người nào cũng là xử nữ, quyết không phải là gái góa, nhất tề tặng cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”.
Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Bảy người vợ của ta đã ứng phó không xong, lại thêm mười cô gái đẹp nữa thì đại nhân trẻ con Trung Quốc sẽ lập tức một mạng ô hô”, Hoa Bá Tư Cơ luôn miệng nói “Không sao đâu, không sao đâu, mười xử nữ xinh đẹp, công chúa điện hạ đã chuẩn bị rồi, bọn ta đã chính mắt nhìn thấy, người nào dung mạo cũng như hoa mai côi, da trắng như sữa, giọng nói như tiếng chim oanh”. Vi Tiểu Bảo đột nhiên động tâm, hỏi “Công chúa điện hạ muốn ta làm chuyện gì?”.
Tề Lạc Nặc Phu nói “Chuyện thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định biên giới công bằng, từ nay không đánh nhau nữa”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đang muốn như thế, chuyện này thì làm được”, liền cau cau mày, nói “Phía tây nước La Sát các ngươi có nước Thụy… Thụy gì đó phái sứ giả tới muốn bọn ta cùng xuất binh, đông tây giáp công La Sát, chia đôi nước các ngươi. Lúc ấy thì các loại mỹ nữ Nga La Tư lớn, Nga La Tư nhỏ, Nga La Tư vừa vừa không lớn không nhỏ, Nga La Tư đen, Nga La Tư trắng, Nga La Tư đủ màu lốm đốm gì đó muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu, cũng không cần công chúa điện hạ các ngươi tặng nữa. Huống hồ mỗi loại chỉ tặng có một người, thật nhỏ mọn quá!”.
Hai viên Đội trưởng La Sát vừa nghe thấy đều giật nảy mình. Lúc ấy vua Tra Lý thứ mười một của Thụy Điển là một nhà vua trẻ tuổi anh minh có tài, chỉnh đốn quân đội chấn hưng võ bị, rất có ý đông chinh đánh nước La Sát, hàng ngày quân mã ùn ùn tiến về phía đông. Đại thần văn võ trong triều đình Mạc Tư Khoa đang lo lắng chuyện ấy, không ngờ Thụy Điển lại nghĩ tới việc muốn liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy mạnh, nhưng nếu trước mặt sau lưng đều thù địch, thì vô cùng nguy hiểm.
Vi Tiểu Bảo nhìn sắc mặt hai người, biết mình ra hư chiêu đã có hiệu quả, liền nói “Nhưng ta và công chúa điện hạ là bạn thân, làm sao ưng thuận bọn Man tử nước Thụy gì đó được? Hiện hoàng đế Trung Quốc bọn ta còn chưa quyết định chủ ý, nếu quả thật nước La Sát thật lòng cẩu hòa, thì ta có thể đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về nước”.
Hai viên Đội trưởng cả mừng, luôn miệng nói “Nước La Sát mười phần thật lòng, không có chút nào giả trá. Xin đại nhân trẻ con Trung Quốc mau đuổi sứ giả Thụy Điển về, hay tốt nhất là cứ một đao chém đầu y đi”.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đầu sứ giả thì không chém được. Huống chi y đã tặng ta rất nhiều bảo thạch, mười mấy mỹ nữ, nhát đao ấy cũng không chém được, đúng không?”. Hai viên Đội trưởng luôn miệng khen phải, nghĩ thầm “Té ra nước Thụy Điển cố ý lấy lòng, đưa hàng trước, thu tiền sau, chiêu này còn khôn ngoan hơn bọn mình”. Lại nghĩ “May mà đại nhân trẻ con Trung Quốc là người tình của công chúa bọn mình, nếu không thì chuyện này quả thật hỏng bét”.
Vi Tiểu Bảo hỏi “Công chúa điện hạ còn muốn ta làm chuyện gì nữa?”. Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười nói “Chuyện công chúa điện hạ thật lòng muốn đại nhân trẻ con Trung Quốc làm là muốn mời người tới làm việc trong tẩm thất của công chúa ở cung Khắc Lý Mụ Lâm tại Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo cười hắc lên một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, nói tắt là thuốc La Sát, uống được không tin được”. Bèn cười nói “Té ra đàn ông La Sát các ngươi đều vô dụng”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Cũng không phải là đàn ông La Sát vô dụng, chẳng qua là công chúa điện hạ đặc biệt nhớ nhung đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lại một chén thuốc La Sát nữa”. Liền hỏi “Nếu thế thì công chúa không còn chuyện gì khác muốn ta làm phải không?”.
Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn xin hoàng đế bệ hạ Trung Quốc ưng thuận cho thương nhân hai nước có thể qua lại hai nước, tự do thông thương”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Thương nhân hai nước qua lại thường xuyên, công chúa cũng tiện thỉnh thoảng gởi thư tặng quà cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con mẹ nó, lại một chén nữa”, rồi nói “Nói thế thì hai nước thông thương là công chúa vì chuyện riêng chứ không phải vì chuyện công à?”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vâng, vâng, hoàn toàn là vì đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta đã không phải là trẻ con, các ngươi không được gọi là đại nhân trẻ con Trung Quốc gì đó nữa”. Hai người nhất tề khom lưng thật thấp, nói “Vâng, vâng, đại nhân các hạ Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo cười khẽ một tiếng, nói “Được, các ngươi lui ra nghỉ ngơi đi. Bọn ta định tới Ni Bố Sở, các ngươi đi cùng là được”.
Hai người cùng giật nảy mình, nhìn nhau một cái, nghĩ thầm “Đại quân Trung Quốc tới Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ là tới đánh thành sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi yên tâm. Ta đáp ứng công chúa, hai nước hòa hiếu, không đánh nhau nữa là được”. Hai người nhất tề khom lưng, nói “Đa tạ đại nhân trẻ…, không phải, các hạ Trung Quốc”.
Hoa Bá Tư Cơ lại nói “Công chúa nghe nói cầu ở Trung Quốc xây dựng rất tốt, bất kể mặt sông lớn rộng thế nào cũng có thể dùng đá lớn xây cầu, bên dưới không cần trụ đá. Công chúa yêu thích đại nhân các hạ Trung Quốc, cũng yêu thích đồ vật của Trung Quốc, nên xin đại nhân phái vài kỹ sư giỏi xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây vài chiếc cầu đá Trung Quốc thần kỳ. Công chúa điện hạ hàng ngày nhìn thấy cầu đá Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu, cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thuốc La Sát cứ đổ hết chén này tới chén khác, uống nữa thì mình phải ói ra mất. Công chúa đặc biệt vừa ý cầu đá Trung Quốc chúng ta, vì lý do gì? Trong này ắt có chuyện kỳ lạ, không thể mắc lừa con hồ ly La Sát này được”. Liền nói “Công chúa nhớ nhung ta thì không cần xây cầu đá, công trình lớn quá. Để ta gởi cô ta mấy cái chăn, mấy cái gối bằng gấm Trung Quốc là được, cho cô ta hàng đêm ôm ấp nằm ngủ, giống như đêm nào cũng có đại nhân các hạ Trung Quốc bầu bạn với cô ta”.
Hai viên Đội trưởng La Sát nhìn nhau một cái, trên mặt đều có vẻ nhăn nhó. Tề Lạc Nặc Phu nói “Như thế… giống như…”. Hoa Bá Tư Cơ đầu óc mau lẹ hơn, nói “Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh, ôm chăn ôm gối Trung Quốc ngủ cũng rất hay. Có điều chăn gối bằng gấm qua vài năm sẽ cũ rách, không vững chắc bằng cầu đá, vì thế mới xin đại nhân phái kỹ sư tới xây dựng cầu đá”.
Vi Tiểu Bảo nghe khẩu khí của hai người thì triều đình La Sát có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ sư xây dựng cầu đá, đoán ắt là có âm mưu quỷ kế. Y không biết đương thời kỹ thuật xây cầu của Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, người ngoại quốc tới Trung Quốc nhìn thấy cầu đá quy mô bề thế ắt tặc lưỡi khen lạ, tán thưởng không thôi, làm sao có thể bắc cầu qua mặt sông rộng mà phía dưới không cần trụ cầu, càng cảm thấy thần kỳ không lường được. Người La Sát mong mỏi học được cách thức xây cầu ấy rốt lại là xuất phát từ lòng hâm mộ khoa học kỹ thuật Trung Quốc chứ hoàn toàn không có âm mưu gì. (7)
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi càng cần thì lão tử càng không cho”, bèn nói “Biết rồi, lui ra đi!”
Hai viên Đội trưởng không dám nói nữa, làm lễ lui ra.
***
Chẳng bao lâu, Khâm sai đại thần nước La Sát là Phí Yếu Đa La ở thành Ni Bố Sở được tin quân Thanh kéo tới, vội sai người đưa thư, xin quân Thanh đóng lại ở chỗ cũ, y sẽ lập tức tới gặp (8).
Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ để bọn ta tới chào khách thôi!”. Quân Thanh ùn ùn cuồn cuộn kéo tới dưới thành Ni Bố Sở. Tát Bố Tố, Bằng Xuân, Mã Lạt chia nhau thống lãnh người ngựa, đi vòng quanh đóng giữ các đường yếu đạo phía bắc, phía nam, phía tây thành Ni Bố Sở, đã chặn đường rút lui của quân La Sát, lại cản trở viện binh phía tây. Vi Tiểu Bảo đích thân thống lãnh trung quân đóng ở phía đông thành. Pháo lưu tinh trong trung quân bắn lên không, pháo hiệu bốn phía cùng vang lên ầm ầm.
Đại thần, võ quan, sĩ tốt La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh đông nghịt như mây vây thành, quân dung hùng tráng, không ai không mất hết khí thế. Phí Yếu Đa La lập tức sắp xếp lễ vật sai người đưa tới quân Thanh, lại gởi thư cho Khâm sai đại thần Trung Quốc nói hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, lần này gặp nhau cốt để bàn định hòa ước, quân đội hai bên không nên cách nhau quá gần, để tránh dẫn tới xung đột, làm tổn thương tới ý hòa hiếu của hai nước.
Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần. Mọi người đều nói Trung Hoa thượng quốc không thể ngang ngược, phải nên tiên lễ hậu binh. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh lui lại vài dặm, đóng từ sông Thập Nhĩ Khách qua phía đông, lại sai quân Thanh ở ba phía bắc, tây, nam thành Ni Bố Sở lui vào rừng núi chờ lệnh.
Phí Yếu Đa La thấy quân Thanh lui lại, cũng hơi yên tâm, lại viết một văn thư đề ra bốn điều kiện khi hội kiến: thứ nhất là chỗ hội kiến phải ở giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khách, thứ hai là hôm hội kiến Khâm sai mỗi nước đều dắt theo bốn mươi tùy viên, thứ ba là hai nước đều đem năm trăm quân ra, quân Nga đóng ở ngoài thành Ni Bố Sở, quân Thanh đóng ở bờ sông Thập Nhĩ Khách, thứ tư là thân binh tùy tùng nghi vệ của Khâm sai mỗi nước mang theo chỉ giới hạn trong số hai trăm sáu mươi người, ngoài đao kiếm không được mang theo hỏa khí. Sở dĩ y đề ra bốn điều kiện ấy, vì quân Thanh thế mạnh, quân Nga ít người, nếu hai bên không giới hạn nhân số, thì quân Nga sẽ rơi vào thế hạ phong. Nhưng hỏa khí của quân La Sát lợi hại, nếu so sánh đôi bên thì quân Nga chiếm ưu thế, đoán là đối phương không chịu, nên đề ra trước, quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Trong văn thư lại đề nghị hôm sau sẽ hội kiến.
Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần xong, đều thấy là được, lập tức tiếp nhận, sai quân liền đêm dựng trướng làm chỗ hội kiến.
Sáng sớm hôm sau, bọn Khâm sai Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn các tùy viên, mang theo hai trăm sáu mươi quân khiên mây tới chỗ hội sở. Chỉ thấy chỗ cổng thành Ni Bố Sở mở ra, có hơn hai trăm kỵ binh Ca Khắc Tát cầm trường đao hộ tống một đám quan viên La Sát phi ngựa tới.
Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm lẫm, quân khiên mây Trung Quốc đều là bộ binh, so ra thanh thế kém xa.
Đông Quốc Cương chửi “Con bà nó, bọn quỷ La Sát giảo hoạt thật, bước đầu tiên chúng ta đã mắc lừa rồi. Đã nói rõ là mỗi bên chỉ mang theo hai trăm sáu mươi vệ binh, chỉ là quên nói kỵ binh hay bộ binh. Họ nhiều hơn chúng ta hai trăm sáu mươi con ngựa”. Sách Ngạch Đồ nói “Chuyện này nhắc nhở chúng ta, lúc bàn bạc với người La Sát phải dốc hết hai trăm vạn phần tinh thần, chỉ sơ suất nửa phần là mắc lừa đấy”.
Trong lúc nói chuyện, quân La Sát đã phi ngựa tới. Đông Quốc Cương nói “Chúng ta tuân lời hoàng thượng dặn dò, chuyện gì cũng phải nghĩ tới Trung Hoa thượng quốc là nước lễ nghĩa, mọi người xuống ngựa đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, mọi người xuống ngựa”. Mọi người nhất tề xuống ngựa, chắp tay đứng nghiêm. Khâm sai La Sát Phí Yếu Đa La nhìn thấy tình hình như thế, lập tức ra lệnh một tiếng, các quan viên cũng đều xuống ngựa, khom lưng làm lễ, đôi bên đi tới gần nhau.
Phí Yếu Đa La nói “Khâm sai Nga La Tư Phí Yếu Đa La, phụng mệnh Sa hoàng, kính chúc hoàng đế nước Đại Thanh thánh thể an khang”. Vi Tiểu Bảo bắt chước y, cũng nói “Khâm sai nước Đại Thanh Vi Tiểu Bảo, phụng mệnh đại hoàng đế, kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang”, lại thêm một câu “Lại chúc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á công chúa điện hạ xinh đẹp sung sướng”. Phí Yếu Đa La cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Hoàng đế Đại Thanh chúc công chúa của bọn mình xinh đẹp sung sướng, câu chúc này kể cũng kỳ lạ hiếm có, có điều nếu công chúa nghe được, chắc sẽ rất vui vẻ”. Hai bên chúc tụng qua lại xong, giới thiệu Phó sứ. Người phiên dịch của hai bên dịch ra.
Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát nghiêm trang kính cẩn đứng nghe, lễ số cũng đầy đủ, nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc vẫn ngang nhiên ngồi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao, bày thành đội hình có dáng vẻ từ trên nhìn xuống, thấp thoáng có thế uy hiếp, càng nhìn càng tức giận, nói “Bọn vệ binh của các ngươi vô lễ quá, nhìn thấy đại nhân các hạ Trung Quốc, tại sao không xuống ngựa?”. Y nói đảo lộn ngữ pháp tiếng La Sát, từ ngữ lầm lẫn, nhưng trong cơn tức giận, không kịp chờ người phiên dịch, tiếng La Sát tuôn luôn ra miệng. Phí Yếu Đa La nói “Theo quy củ của tệ quốc, kỵ binh trong đội hình, cho dù gặp Sa hoàng bệ hạ, cũng không cần xuống ngựa”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đây là đất Trung Quốc, tới Trung Quốc thì phải theo quy củ Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Xin lỗi, các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư, không phải là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây rõ ràng là đất Trung Quốc, là các ngươi dùng sức mạnh chiếm đoạt thôi”. Phí Yếu Đa La nói “Xin lỗi, Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư. Thành Ni Bố Sở là người Nga La Tư xây lên”.
Lần này hai nước họp bàn vốn là để chia vạch địa giới, chỗ ấy thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư có quan hệ then chốt rất lớn. Hai viên Khâm sai đại thần vừa gặp mặt, còn chưa vào trướng bắt đầu đàm phán, đã tranh cãi rồi.
Vi Tiểu Bảo nói “Người La Sát các ngươi xây một ngôi thành trên đất Trung Quốc là nơi ấy kể như của các ngươi, trên đời có đạo lý nào như thế không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đây là đất Nga La Tư, người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành ở đây, điều đó chứng minh đây là thuộc nước Nga. Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ nói đây là đất Trung Quốc, không biết có chứng cứ nào không?”.
Một dải Ni Bố Sở trước nay không ai cai quản, biên giới hai nước Trung Nga cũng chưa từng phân chia rạch ròi, rốt lại thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư, vốn không ai có chứng cứ gì. Vi Tiểu Bảo nghe y hỏi câu ấy không kìm được nghẹn lời, đã định cãi bừa, khổ nỗi nói tiếng La Sát không diễn đạt được ý mình, trò chuyện bình thường cũng đã cảm thấy khó khăn, mà muốn khéo léo biện bác thì làm sao được? Trong lòng cả giận, liền nói “Đây là đất Trung Quốc, có rất nhiều chứng cứ”. Kế đó dùng giọng Dương Châu chửi “Mẹ kiếp, ta chửi tổ tông mười bảy mười tám đời bọn quỷ La Sát nhà ngươi”. Câu ấy buông ra xong, những câu chửi người thô tục ở Dương Châu thao thao bất tuyệt tuôn ra như suối, chửi từ bà cao tổ, bà tằng tổ cho tới bà nội, mẹ, chị em gái, bà ngoại, các dì, các cô của Phí Yếu Đa La tới mức tối mày tối mặt. Những người đàn bà họ Phí nước La Sát không ai thoát nạn.
Quan viên hai bên Trung Nga thấy đại thần Khâm sai Trung Quốc nổi giận, ai cũng hoảng sợ. Chỉ là y nói như pháo nổ liên thanh một tràng, đừng nói Phí Yếu Đa La không hiểu gì, ngay cả quan viên Trung Quốc và phiên dịch của đôi bên cũng ngơ ngác không hiểu. Những câu chửi người ấy của Vi Tiểu Bảo đều là những lời thô tục của bọn vô lại đầu đường xó chợ ở Dương Châu, các thân sĩ thục nữ ở Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được hai ba phần, bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương hoặc là người Bát kỳ, hoặc là võ quan ở phương bắc lâu ngày, cũng làm sao hiểu được?
Vi Tiểu Bảo chửi mắng một tràng xong, trong lòng thoải mái, nhịn không được hô hô cười rộ.
Phí Yếu Đa La tuy không hiểu lời y, nhưng qua dáng vẻ giọng nói, đoán ắt là y nổi giận, chợt thấy y buông tiếng cười rộ, lại càng không hiểu gì, hỏi “Xin hỏi thiên lý luận dài của quý sứ là chỉ giáo chuyện gì thế. Lời lẽ của quý sứ sâu sắc kín đáo, tệ nhân học vấn nông cạn, không sao hiểu được, xin ngươi thong thả nói lại từng câu một lượt, để tiện lãnh giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta nói ngươi quá không hiểu đạo lý. Ta muốn làm người tình, làm chồng của bà nội ngươi”.
Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Bà nội ta là mỹ nhân nổi tiếng ở Mạc Tư Khoa, là con gái Bá tước Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ. Té ra đại nhân các hạ Trung Quốc cũng nghe tiếng của bà nội ta, tệ nhân thật vinh hạnh khôn xiết. Chỉ tiếc là bà nội ta đã qua đời ba mươi tám năm rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì ta muốn mẹ ngươi làm người tình của ta, làm vợ của ta”.
Phí Yếu Đa La mặt mày rạng rỡ, lại càng vui vẻ, nói “Mẹ ta là con nhà danh môn vọng tộc, da dẻ vừa trắng trẻo vừa mịn màng, bà biết làm thơ bằng tiếng Pháp. Trong thành Mạc Tư Khoa có không ít các vương công tướng quân rất sùng bái bà. Nước Nga bọn ta có một vị đại thi nhân từng làm mấy mươi bài thơ ca tụng mẹ ta. Năm nay bà đã sáu mươi ba tuổi mà tướng mạo vẫn như các thiếu phụ hơn ba mươi tuổi. Sắp tới đại nhân các hạ Trung Quốc tới Mạc Tư Khoa, nhất định tệ nhân sẽ giới thiệu làm quen với mẹ ta. Muốn kết hôn thì e không được, còn muốn làm người tình, thì chỉ cần mẹ ta ưng thuận chắc cũng được thôi”. Nguyên theo phong tục người Tây dương, nếu có người khen ngợi mẹ mình, vợ mình xinh đẹp, thì không những không phật lòng, mà còn cảm thấy rất vinh dự, còn vui vẻ hơn là khen ngợi chính y.
Vi Tiểu Bảo lại cho rằng người này sợ mình, rõ ràng đã đem mẹ ruột dâng cho mình, có ý nhận mình làm cha nuôi, lửa giận đầy lòng lập tức tắt ngấm, cười nói “Tốt lắm, tốt lắm. Sau này nếu tới Mạc Tư Khoa, nhất định sẽ tới làm khách ở phủ ngươi” rồi kéo tay y, đi vào trong trướng.
Phó sứ và tùy viên đôi bên cũng vào theo. Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi một hàng phía đông, bọn Phí Yếu Đa La ngồi một hàng phía tây.
***
Phí Yếu Đa La nói “Nhiếp chính nữ vương công chúa điện hạ tệ quốc dặn dò, lần này bàn bạc chuyện phân chia ranh giới chúng ta phải hết sức thành thật, đôi bên đều phải công bằng, không được lấn lướt đối phương. Vì thế tệ quốc đề xuất, hai nước lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, phía nam sông thuộc về Trung Quốc, phía bắc sông thuộc về Nga La Tư. Chia vạch biên giới xong, quân Nga La Tư không được qua sông xuống bờ nam, quân Trung Quốc cũng không được qua sông lên bờ bắc”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Thành Nhã Khắc Tát là ở nam hay ở bắc sông?”. Phí Yếu Đa La nói “Là ở bắc sông. Thành này là do người Nga La Tư bọn ta xây lên, đủ thấy phía bắc Hắc Long Giang đều là thuộc nước ta”.
Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, lại lên cơn tức giận, hỏi “Trong thành Nhã Khắc Tát có một hòn núi nhỏ, ngươi biết tên là gì không?”. Phí Yếu Đa La quay lại hỏi tùy viên, rồi đáp “Là núi Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo biết trong tiếng La Sát Cao Thư Lược có nghĩa là Lộc, liền nói “Trong tiếng Trung Quốc bọn ta gọi là núi Lộc Đỉnh. Ngươi biết ta được phong tước gì không?”. Phí Yếu Đa La nói “Các hạ là Lộc Đỉnh công, nói theo tiếng La Sát của bọn ta thì là Công tước Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo nói “Như thế, thì ngươi có ý không tốt với ta rồi. Đã biết ta là Lộc Đỉnh công, lại muốn chiếm núi Lộc Đỉnh của ta, há không phải là muốn ta không làm được công tước nữa phải không?”. Phí Yếu Đa La vội nói “Không, không, quyết không có ý ấy”.
Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi là tước gì?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân là Hầu tước Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, vậy thì Lạc Mạc Nặc Sa Phạt là thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, lập tức mỉm cười nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt đất phong của tệ nhân ở phía tây Mạc Tư Khoa, làm sao là đất Trung Quốc được?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đất phong của ngươi gọi là Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp…”(9). Phí Yếu Đa La nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, tiếp tục nói “Từ kinh thành Bắc Kinh của bọn ta tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất cả bao nhiêu đường đất, phải đi trong bao lâu?”. Phí Yếu Đa La nói “Từ Lạc Mạc Nặc Sa Phạt tới Mạc Tư Khoa tất cả hơn năm trăm dặm, đi mất năm ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh, tất cả phải đi hơn ba tháng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế thì từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp thì phải đi ba tháng năm ngày, đường đi thật là xa quá”. Phí Yếu Đa La nói “Rất xa, rất xa”. Vi Tiểu Bảo nói “Đường sá như thế thì Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất nhiên không thuộc Trung Quốc ta rồi”. Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Lời công tước thật không gì đúng hơn”.
Vi Tiểu Bảo nâng chén rượu lên, nói “Mời uống rượu”. Người La Sát thích rượu như tính mạng, chén rượu đặt trước mặt Phí Yếu Đa La đã lâu, mùi rượu từng trận từng trận bốc lên, chủ nhân chưa bưng chén nên y không dám tùy tiện, lúc ấy thấy Vi Tiểu Bảo nâng chén trong lòng cả mừng, vội vàng uống cạn một hơi.
Tùy viên bên phía nước Thanh rót rượu cho y, lấy thức ăn trong hộp ra, đều là do các đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng. Lúc ấy nước La Sát khai hóa chưa lâu, phải tới về sau lúc Bỉ Đắc đại đế lớn lên, giành được quyền lực từ tay công chúa Tô Phi Á chị mình, giam Tô Phi Á vào nhà tu kín, sau đó mới tiến hành du nhập văn hóa Tây Âu rầm rộ. Thời Vi Tiểu Bảo tất cả khí vật chế độ, văn minh giáo hóa của nước La Sát đều thua kém Trung Quốc rất xa, còn như sự nấu nướng tinh tế thì đến hiện nay nước Nga vẫn còn thua Trung Quốc mười vạn tám ngàn dặm. Năm ấy ở ngoài thành Ni Bố Sở, Phí Yếu Đa La lần đầu tiên được nếm món ngon Trung Hoa, tự nhiên là trợn mắt há miệng, cơ hồ nuốt luôn cả lưỡi của mình vào bụng. Vi Tiểu Bảo bồi tiếp y nếm qua mấy món thức ăn, giải thích thế nào gọi là vây cá, thế nào gọi là yến sào, làm sao để biến chân vịt thành món ngon, làm sao để biến gân gà thành mỹ vị, chỉ khiến Phí Yếu Đa La vui mừng tán thưởng, vô cùng thích thú.
Vi Tiểu Bảo thuận miệng hỏi “Lần này quý sứ rời khỏi Mạc Tư Khoa hôm nào?”. Phí Yếu Đa La nói “Ngày mười hai tháng tư tệ nhân vâng lời dụ của công chúa điện hạ, lên đường từ Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm. Nào, uống thêm chén nữa. Vị Đông công gia kia của bọn ta tửu lượng rất cao, hai người các ngươi uống với nhau vài chén”. Lúc ấy Đông Quốc Cương hướng về phía Phí Yếu Đa La mời rượu, uống liền ba chén.
Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ tới thành Ni Bố Sở trong tháng này à?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân tới đây ngày mười lăm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, từ ngày mười hai tháng tư đến ngày mười lăm tháng bảy, đi đường mất hơn ba tháng”. Phí Yếu Đa La nói “Vâng, đi mất hơn ba tháng. May mà trời ấm, trên đường cũng không khó đi lắm”. Vi Tiểu Bảo giơ ngón tay cái lên, khen ngợi “Hay lắm! Lần này quý sứ nói rất thành thật, rốt lại đã thừa nhận Ni Bố Sở không phải thuộc đất La Sát”.
Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, đã hơi ngà ngà, ngạc nhiên nói “Ta… ta thừa nhận lúc nào?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp đi hơn ba tháng, đường đi rất xa, vì thế Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp không thuộc đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa tới Ni Bố Sở, ngươi cũng đi hơn ba tháng, đường đi cũng rất không gần, Ni Bố Sở tự nhiên cũng không thuộc đất La Sát”.
Phí Yếu Đa La mở tròn mắt, nhất thời không biết trả lời thế nào, ngẩn ra suốt nửa ngày mới nói “Nước Nga La Tư bọn ta rất rộng lớn, chuyện này khác chứ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nước Đại Thanh bọn ta cũng không nhỏ đâu”. Phí Yếu Đa La cười gượng nói “Quý sứ hay nói đùa quá, hai… hai chuyện này là… là không thể coi như nhau được”.
Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ nhất định nói Ni Bố Sở là đất La Sát, vậy chúng ta đánh đổi một phen. Để ta tới Mạc Tư Khoa, xin công chúa phong ngươi làm Bá tước Ni Bố Sở, phong ta làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Thành Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp ấy kể như thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La mặt mũi đỏ bừng, vội nói “Như thế… như thế thì làm sao được?”, không kìm được vô cùng lo sợ, nghĩ thầm công chúa là người tình của y, nếu bị y đổ thuốc mê Trung Quốc trên gối lại đồng ý trao đổi thì thật hỏng bét. Lại nghĩ “Đất Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của mình là ấp phong tổ tiên truyền lại, sản vật giàu có, nếu lại bị công chúa đổi phong ở Ni Bố Sở, chỗ này khí hậu lạnh lẽo, nhân đinh thưa thớt, thì xong cái mạng già của mình rồi. Huống hồ hiện tại mình là hầu tước, đổi phong là bá tước Ni Bố Sở, há không phải là bị giáng sao?”
Vi Tiểu Bảo thấy y có vẻ vô cùng lo lắng, cười nói “Ngươi muốn chiếm cả thành Nhã Khắc Tát đất phong của ta, cho ta không làm được Lộc Đỉnh công, thì ta còn cách nào? Chỉ có cách đi làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Tuy tên đất phong của ngươi rất là khó nghe, cái gì mà mèo già kéo phân, chó con vãi đái, nhưng cũng chỉ còn cách gắng chịu gắng chịu thôi”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Trung Quốc ngươi định chiếm Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của ta à? Có điều Vi Tiểu Bảo ngươi đã nhận tước phong của đế quốc Nga La Tư bọn ta, nếu lại tính cướp đất phong của ta thì cũng phiền phức. Bọn ta cũng không thật sự muốn có thành Nhã Khắc Tát, Nhã Khắc Tát đã bị các ngươi chiếm rồi, nếu muốn các ngươi rút lui, tất nhiên không chịu”. Lúc ấy lộ vẻ tươi cười, nói “Nếu thành Nhã Khắc Tát đã là đất phong của quý sứ, thì bọn ta có thể nhường một bước, lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, có điều thành Nhã Khắc Tát và khu vực mười dặm quanh thành là thuộc Trung Quốc. Đây là hoàn toàn vì nể mặt quý sứ, đã nhượng bộ rất nhiều rồi”.
Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi thua trận, lại còn ra vẻ. Nếu trận này người La Sát các ngươi mà thắng, chỉ e ngay cả thành Bắc Kinh cũng muốn chiếm làm đất của các ngươi luôn rồi”. Bèn nói “Chúng ta đánh nhau một trận, không biết các ngươi thắng hay bọn ta thắng?”. Phí Yếu Đa La cau mày nói “Mới đụng độ nhỏ, cũng không thể nói ai thắng ai thua. Công chúa điện hạ của bọn ta đã sớm có nghiêm lệnh, là để chu toàn sự hòa hiếu giữa hai nước, không cho đánh nhau, vì thế lúc quân đội của quý quốc tấn công, tướng sĩ của tệ quốc đều không đánh trả. Nếu không thì cục diện đã khác hẳn rồi”. Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả giận, nói “Té ra quân La Sát súng ống cùng bắn, không phải là đánh trả à?”. Phí Yếu Đa La nói “Bọn họ chẳng qua chỉ là bảo vệ đất đai của bản quốc, không thể kể là đánh trả. Người La Sát mà đánh nhau thật sẽ không có chuyện chỉ thủ mà không công. Nếu hai nước đại chiến thì hỏa thương thủ và kỵ binh Ca Tát Khắc của nước La Sát có thể tiến chiếm cả thành Bắc Kinh kia”.
Vi Tiểu Bảo giận quá, nghĩ thầm “Con bà ngươi, con quỷ lông vàng nhà ngươi lại còn lớn lối dọa người. Ta mà bị ngươi dọa, thì ta theo họ ngươi, làm con ngươi, chứ không phải là Vi Tiểu Bảo, mà gọi là Tiểu Bảo Phí Yếu Đa La”. Y từng qua Mạc Tư Khoa, biết tập quán của người La Sát gọi tên trước gọi họ sau, nhưng Phí Yếu Đa La là tên chứ không phải họ, y lại không biết, nói “Như vậy rất hay, chào đại nhân. Hầu tước đại nhân, ngươi có biết trong lòng ta mong mỏi điều gì nhất không?”.
Phí Yếu Đa La nói “Chuyện đó thì không biết, xin chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta là công tước, trong lòng chỉ mong được thăng quan tiến tước, phong làm quận vương, thân vương”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Gia quan tấn tước, thì ai lại không muốn?”. Bèn mỉm cười nói “Công tước đại nhân tinh minh tài cán, rất được hoàng đế quý quốc tin yêu, chỉ cần lập thêm vài công lao, thì chuyện được phong làm quận vương thân vương quả thật không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tệ nhân thành tâm thành ý kính chúc ngươi sớm thành công”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chuyện này phải nhờ ngươi giúp đỡ mới xong, nếu không thì e là không làm được”. Phí Yếu Đa La kinh ngạc, nói “Tệ nhân tự nhiên phải ra sức, chỉ có điều không biết là làm thế nào?”.
Vi Tiểu Bảo ghé miệng vào tai y, khẽ nói “Theo quy củ nước Đại Thanh bọn ta, chỉ cần thắng trận, lập được quân công mới có thể được phong vương. Hiện nay nước ta thái bình vô sự, bọn phản tặc đều đã bị tiêu diệt, chờ thêm hai ba mươi năm nữa cũng e không có đánh nhau, ta muốn phong vương quả thật rất khó. Lần này nghị hòa bàn chuyện chia vạch biên giới, chỉ cần các ngươi chuyện gì cũng không nhượng bộ, tốt nhất là phái quân tới khiêu chiến với bọn ta, giết đi một hai đại thần bọn ta ở đây. Hai nước chúng ta đánh lớn một trận. Ngươi phái quân hỏa thương, kỵ binh Ca Tát Khắc tới đánh Bắc Kinh. Bọn ta liên minh với nước Thụy Điển, phái quân tới đánh Mạc Tư Khoa, chỉ đánh nhau khói lửa mịt mù, máu chảy thành sông, lúc ấy ta sẽ được phong vương, xin gởi gắm, xin gởi gắm, ngàn vạn lần nhờ ngươi giúp đỡ cho. Ngươi nói khẽ thôi, đừng để người khác nghe thấy”.
Phí Yếu Đa La càng nghe càng sợ, nghĩ thầm gã thiếu niên này lớn mật làm càn, vì muốn được phong vương mà không tiếc khơi lên cuộc chiến tranh giữa hai nước, lại còn muốn liên minh với Thụy Điển, trận đánh nhau này mà xảy ra, tương lai ai thắng ai bại tuy là không biết, nhưng lúc ấy họ đông mình ít, số quân hai bên chênh lệch, thì trước mắt nhất định phải chịu thua thiệt, trong lòng rất hối hận, quả thật không nên lên tiếng dọa dẫm, nói nào là quân hỏa thương, nào là kỵ binh Ca Tát Khắc đánh chiếm Bắc Kinh, gã thiếu niên này tưởng là thật, không những không sợ, mà lại mừng mừng rỡ rỡ, thế này thật là khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ ý khiếp nhược thì không khỏi bị y coi thường, nhất thời bất giác luống cuống.
Vi Tiểu Bảo lại nói “Mạc Tư Khoa cách đây rất xa, quân Đại Thanh mở cuộc tấn công, quả thật không nắm chắc, biết đâu sẽ bị thua trận, hoàng thượng lại trách phạt ta…”. Phí Yếu Đa La vừa nghe có cơ hội xoay chuyển lại, trên mặt lộ vẻ mừng rỡ, vội nói “Đúng, đúng. Xin các hạ đừng nên mạo hiểm là hơn”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta chỉ là muốn lập công phong vương, chứ không muốn tiêu diệt nước La Sát, đất đai quý quốc rất rộng, ta cũng không có bản lãnh mà tiêu diệt được”. Phí Yếu Đa La lại luôn miệng khen phải. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thế này đi, ngươi phát binh đánh Bắc Kinh, ta sẽ phát binh đánh Ni Bố Sở, hai chúng ta mỗi người đánh một nơi, đánh được Bắc Kinh là công lao của ngươi, đánh được Ni Bố Sở là công lao của ta. Ngươi thấy kế sách ấy có hay không?”.
Phí Yếu Đa La ngấm ngầm kêu khổ, trong tay mình chỉ có hơn hai ngàn người ngựa, muốn đánh chiếm lại thành Nhã Khắc Tát cũng không đủ sức lại còn nói tấn công thành Bắc Kinh, nghĩ thầm nếu không nhận là sai, biết đâu gã thiếu niên này sẽ lộng giả thành chân, chỉ đành cười gượng nói “Xin công tước đừng để bụng. Mới rồi ta nói quân hỏa thương và quân Ca Tát Khắc tấn công Bắc Kinh không phải là thật, là ta nói sai, xin rút lời lại”.
Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Lời nói đã ra miệng làm sao rút lại được?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân năn nỉ công tước đại nhân, xin ngươi quên câu ấy đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế là quân La Sát các ngươi không tấn công thành Bắc Kinh à?”. Phí Yếu Đa La nói “Không, nhất định không”. Vi Tiểu Bảo nói “Còn thành Ni Bố Sở các ngươi nhất định không cần phải không?”. Phí Yếu Đa La sửng sốt, nói “Thành Ni Bố Sở là lãnh địa của Sa hoàng bọn ta. Xin công tước đại nhân bỏ qua”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Người Tô Châu nói Ra giá trên trời, trả giá sát đất. Mình đòi Ni Bố Sở thì không đòi được. Cứ đòi y vùng đất từ thành Ni Bổ Sở qua phía tây, xem y nói thế nào”. Liền nói “Lần này chúng ta nghị hòa, nhất định phải mua bán sòng phẳng, già trẻ không lừa, không ai phải chịu thiệt, đúng không?”. Phí Yếu Đa La gật đầu nói “Đúng thế. Hai nước thành tâm thành ý chia vạch cương giới, xây dựng nền hòa bình vĩnh viễn”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì tốt quá. Nếu đường biên giới này quá gần Mạc Tư Khoa, thì người La Sát các ngươi chịu thiệt, nếu quá gần Bắc Kinh, thì người Trung Quốc bọn ta chịu thiệt. Cách tốt nhất là vạch ra ở giữa. Cứ chia năm năm”.
Phí Yếu Đa La hỏi “Chia năm năm là thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh đại khái đi khoảng ba tháng, có đúng không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng”. Vi Tiểu Bảo nói “Ba tháng chia đôi là bao nhiêu thời gian?”. Phí Yếu Đa La không hiểu ý y, bèn thuận miệng đáp “Là một tháng rưỡi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi. Chúng ta không cần bàn nhiều nữa, mọi người cứ trở về kinh thành nước mình. Sau đó ngươi từ Mạc Tư Khoa lên đường đi về phía đông, ta từ thành Bắc Kinh lên đường đi về phía tây, mỗi bên đi một tháng rưỡi, tự nhiên là sẽ gặp nhau, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Phải. Nhưng không biết đại nhân làm như thế là có dụng ý gì?”.
Vi Tiểu Bảo nói “Đó là cách chia vạch biên giới công bằng nhất đấy. Chỗ chúng ta gặp nhau, chính là biên giới giữa hai nước. Chỗ đó cách Mạc Tư Khoa một tháng rưỡi ngày đường, cách Bắc Kinh cũng một tháng rưỡi ngày đường. Các ngươi không chiếm tiện nghi, bọn ta cũng không chiếm tiện nghi. Nhưng trận này giữa chúng ta kể như đánh suông. Tính ra thì các ngươi vẫn còn chiếm tiện nghi, đúng không?”.
Phí Yếu Đa La mặt mày đỏ bừng, nói “Cái này… cái này… cái này…”, rồi đứng lên.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi cũng cảm thấy cách này rất công bằng, đúng không?”. Phí Yếu Đa La xua tay lia lịa, nói “Không, không, tuyệt đối không thể được. Nếu chia vạch biên giới như thế, há không phải là một nửa đất đai đế quốc Nga La Tư phải cắt cho các ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không tới một nửa đâu. Từ Mạc Tư Khoa qua phía tây, các ngươi còn nhiều đất đai lắm, chỗ đất đai ấy không cần chia năm năm với Trung Quốc, cần gì phải khách khí?”.
Phí Yếu Đa La tức giận tới mức thở phì phì, qua một lúc lâu mới nói “Công tước đại nhân, nếu ngươi thành tâm nghị hòa, thì lẽ ra phải đề ra chủ trương thông tình đạt lý, chứ… chứ cách thức thế này, lại muốn cắt một nửa đất đai nước ta, vậy thì… vậy thì khinh người quá lắm”. Nói xong tức giận thở hồng hộc ngồi xuống ghế ầm một tiếng.
Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thật ra chuyện nghị hòa chia vạch biên giới chẳng có gì hay, chúng ta cứ đánh nhau một trận trước, ngươi nói có hay không?”.
Phí Yếu Đa La không ngừng thở hổn hển, nhịn không được đập bàn đứng lên, cao giọng nói “Đánh nhau thì đánh nhau!”, nhưng nghĩ đánh nhau một trận xong, hậu quả quả thật rất nghiêm trọng, bên mình không có hy vọng thắng được, chỉ đành cố nhịn, im lặng không nói gì nữa.
Vi Tiểu Bảo đột nhiên đưa tay đập bàn một cái, cười nói “Có cách rồi, có cách rồi, ta có một cách thức công bằng khác”. Rồi đưa tay vào bọc, lấy ra hai hạt xúc xắc, thổi một hơi vào gieo xuống mặt bàn, nói “Ngươi muốn đánh nhau chứ không muốn chia năm năm, chúng ta cứ gieo xúc xắc. Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa cứ tính là một vạn dặm, chúng ta chia làm mười phần, mỗi phần một ngàn dặm, ta và ngươi gieo xúc xắc mười ván, mỗi ván đánh bằng một ngàn dặm đất đai. Nếu ngươi may mắn thắng được hết cả mười ván, vậy thì đất đai cho tới thành Bắc Kinh cũng đều thuộc người La Sát”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Thế nếu ta thua cả mười ván thì sao?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Vậy thì tự ngươi nói đi”. Phí Yếu Đa La nói “Chẳng lẽ núi sông ngàn dặm phía đông Mạc Tư Khoa đều thuộc về Trung Quốc cả à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta đoán là ngươi cũng không rủi ro quá như thế, trong mười ván cũng không đến nỗi không thắng được ván nào. Ngươi chỉ cần thắng được một ván là giữ gìn được một ngàn dặm đất đai, thắng hai ván thì giữ được hai ngàn dặm, nếu thắng sáu ván là chiếm tiện nghi rồi”. Phí Yếu Đa La tức giận nói “Chiếm tiện nghi cái gì? Từ Mạc Tư Khoa về phía đông sáu ngàn dặm vốn là thuộc nước ta, bảy ngàn dặm tám ngàn dặm cũng đều thuộc nước ta”.
Vi Tiểu Bảo và Phí Yếu Đa La hai người không ngừng trao đổi, giáo sĩ người Hà Lan làm phiên dịch bên cạnh không ngừng hạ giọng dịch ra tiếng Trung Quốc. Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ nghe thấy, lúc đầu cảm thấy Phí Yếu Đa La ngang ngược vô lý, lại đòi lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, lấn sát tới đất Liêu Đông của Trung Quốc, đây là đất long hưng của người Mãn Châu, làm sao có thể để cho Di Địch tới gần? Trong lòng đều cảm thấy tức giận, về sau nghe Vi Tiểu Bảo nói muốn đánh nhau lập công để được cắt đất phong vương, sứ thần nước Nga lập tức tỏ vẻ khép nép, không dám khoe khoang, lại nghe Vi Tiểu Bảo lôi đông kéo tây, nào là đánh đổi đất phong, nào là chia năm năm, nào là gieo xúc xắc chia vạch biên giới, mỗi ván là một ngàn dặm đất đai, rõ ràng là ăn nói bừa bãi, nhất định đối phương sẽ không ưng thuận, nhưng Phí Yếu Đa La khí thế đã bị giảm sút, đều nghĩ “Người La Sát ương ngạnh đúng là danh bất hư truyền, nếu đàm phán đứng đắn với họ, thì không rơi vào thế hạ phong không xong. Hoàng thượng lại phái Vi Công tước tới chủ trì hòa nghị, quả thật sáng suốt biết người, gã phiên bang này là người ngang ngược, thì cũng chỉ có loại lưu manh đầu đường xó chợ bất học vô thuật như Vi Tước gia mới có thể đối phó với y, lấy ngang ngạnh trị ngang ngạnh”.
Bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ ngoài mặt đối với Vi Tiểu Bảo tuy mười phần cung kính khách khí nhưng trong lòng quả thật không coi y ra gì, đều cảm thấy y chẳng qua chỉ là một thằng hề được hoàng thượng sủng ái, ngôn ngữ cử chỉ hàng ngày vẫn thường để lòi cái xấu, lại cứ điềm nhiên không biết nhục, khoe khoang đắc ý, lần này mà chịu nhục với sứ thần nước ngoài trên tiệc, khó mà không để ngoại bang chê cười, làm mất thể diện quốc gia, nào ngờ hoàng thượng chọn tài mà dùng, lại dám sai y, nếu không sai một nhân vật mặt dày như y đi làm chuyện sai sử này thì trong các đại thần văn võ trong triều quả thật tìm không ra được người thứ hai. Các đại thần càng nghe càng khâm phục, càng thấy hoàng thượng anh minh duệ trí, các bề tôi không sao bằng được.
Sách Ngạch Đồ nghe tới đó, đột nhiên chen vào “Mạc Tư Khoa vốn là đất Trung Quốc bọn ta”.
Giáo sĩ Hà Lan dịch câu ấy ra. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói bừa bãi thì cũng thôi, sao lão già như ngươi cũng mặt dày nói bừa, nói Mạc Tư Khoa kinh thành nước ta là đất Trung Quốc các ngươi?”.
Sách Ngạch Đồ lại nói “Theo cách nói của quý sứ, thì chỉ cần đất đai mà người La Sát tạm thời chiếm được thì tính là đất La Sát rồi, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Vốn là phải như thế đấy. Quý sứ lại nói Mạc Tư Khoa là đất của quý quốc, ha ha, thật là buồn cười”. Sách Ngạch Đồ nói “Nhân dân nước La Sát có người Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại có người Ca Tát Khắc, Đạt Đán vân vân, đó đều là người La Sát”. Phí Yếu Đa La nói “Không sai chút nào, nước ta đất đai rộng lớn, nhân dân rất đông. Sách Ngạch Đồ nói “Bách tính nước ta cũng rất nhiều chủng loại, có người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán, người Miêu, người Hồi, người Tạng vân vân”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng thế. Nước ta là lớn, Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là lớn nhất trên đời hiện nay”.
Sách Ngạch Đồ nói “Vệ binh quý sứ mang theo lần này dường như đều là kỵ binh Ca Tát Khắc”. Phí Yếu Đa La mỉm cười một tiếng, nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc anh dũng vô địch, là dũng sĩ lợi hại nhất trong thiên hạ”. Sách Ngạch Đồ nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc lợi hại hơn người Nga La Tư à?”. Phí Yếu Đa La nói “Cũng không thể nói như thế. Ca Tát Khắc là người La Sát, Nga La Tư cũng là người La Sát, không hề phân biệt. Cũng như người Mãn Châu là người Trung Quốc, người Mông Cổ, người Hán cũng là người Trung Quốc, không hề phân biệt”. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói “Vậy thì đúng rồi. Vì thế nên Mạc Tư Khoa là thuộc đất Trung Quốc bọn ta”.
Vi Tiểu Bảo nghe hai người bọn họ nói tới đó, cũng không hiểu rõ dụng ý của Sách Ngạch Đồ, y biết rõ Mạc Tư Khoa cách đó hàng vạn dặm xa xôi, quyết không phải là đất Trung Quốc, nhưng nghe Sách Ngạch Đồ trò chuyện giống như có ý e dè, mà Phí Yếu Đa La thì trán nổi gân xanh, mặt lúc xám xanh lúc đỏ bừng, rõ ràng trong lòng giận dữ như điên, liền chen vào “Mạc Tư Khoa là đất Trung Quốc, chuyện đó thì nửa điểm cũng không sai, Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng, cho các ngươi Lưu Bị mượn Kinh Châu, một lần cho mượn thì mãi mãi không chịu trả”.
Phí Yếu Đa La tự nhiên không biết “Lưu Bị mượn Kinh Châu” là ý gì, chỉ cảm thấy bọn Man tử Trung Quốc này không biết lý lẽ, ăn nói hoàn toàn không giống người văn minh, cười nhạt nói “Trước đây ta nghe nói Trung Quốc có lịch sử lâu đời, người Trung Quốc rất có học vấn, nào ngờ… ha ha lại chuyên thích nói những chuyện không có bằng cứ”.
Sách Ngạch Đồ nói “Quý sứ là đại thần nước La Sát, cho dù không có học vấn gì thì chắc cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?”. Phí Yếu Đa La nói “Lịch sử nước ta đều có sách vở làm bằng chứng, viết ra rõ ràng trên giấy trắng mực đen, quyết không phải là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa”. Sách Ngạch Đồ nói “Vậy thì tốt lắm, Trung Quốc trước đây có một vị hoàng đế gọi là Thành Cát Tư Hãn…”.
Phí Yếu Đa La nghe tới bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác “Ái chà” một tiếng, trong lòng kêu thầm “Hỏng bét, hỏng bét, tại sao mình lại hồ đồ, quên mất chuyện lớn này nhỉ?”.
Sách Ngạch Đồ nói tiếp “Vị Thành Cát Tư Hãn này, Trung Quốc chúng ta gọi là Nguyên Thái tổ, vì y là Thái tổ khai sáng nhà Nguyên. Y là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói qua, người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán đều là người Trung Quốc, không hề phân biệt. Lúc ấy kỵ binh Mông Cổ tây chinh, từng đánh nhau với quân La Sát mấy trận. Lịch sử quý quốc có sách vở làm chứng, tất cả đều có ghi chép rõ ràng, quyết không thể là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa. Trận đánh nhau lớn ấy không biết là người Trung Quốc bọn ta thắng hay là người La Sát quý quốc thắng?.
Phí Yếu Đa La im lặng không nói, qua một lúc lâu mới nói “Là người Mông Cổ thắng”. Sách Ngạch Đồ nói “Người Mông Cổ là người Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La hai mắt trợn lên suốt nửa ngày rồi từ từ gật đầu.
Vi Tiểu Bảo không biết trước đó có chuyện gì, nhưng vừa nghe thấy thế, lập tức tinh thần phấn chấn, nói “Người Trung Quốc đánh nhau với người La Sát, nhất định người La Sát phải thua không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lãnh của các ngươi quả thật kém lắm, lần sau đánh nhau bọn ta chỉ dùng một tay là được. Nếu không đôi bên chênh lệch quá nhiều, đánh nhau chẳng có gì thú vị”.
Phí Yếu Đa La trừng mắt nhìn, nghĩ thầm “Nếu không phải là công chúa đã có nghiêm lệnh là lần này chỉ được hòa không được đánh, thì bằng vào mấy câu ngươi hạ nhục người La Sát bọn ta, ta cũng phải quyết đấu với ngươi”.
Vi Tiểu Bảo cười hì hì hỏi Sách Ngạch Đồ “Sách đại ca, Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát thế nào?”.
Sách Ngạch Đồ nói “Năm ấy Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân tây chinh, tất cả hai vạn người ngựa, đánh bại liên quân La Sát mười mấy vạn người. Cháu nội Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô cũng là một vị đại anh hùng, suất lãnh quân đội đánh quân La Sát như nước chảy hoa rơi, chiếm được Mạc Tư Khoa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, qua sông Đa Não. Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc La Sát đều phải nghe lời người Trung Quốc chúng ta. Lúc ấy anh hùng Mông Cổ Trung Quốc chúng ta đóng trong lều trướng dát vàng. Đại công tước Mạc Tư Khoa thường tới dập đầu với người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đánh vào mông là đánh vào mông, muốn tát vào mặt là tát vào mặt, người La Sát còn cười hì hì nói là đánh rất hay, nếu không thì không làm được công tước”(10).
Vi Tiểu Bảo nghe tới mức mặt mày rạng rỡ, đập bàn khen lớn “Ông chủ rồng ngoan ngoãn! Té ra Mạc Tư Khoa quả nhiên là thuộc Trung Quốc”.
Phí Yếu Đa La mặt lúc xanh lúc trắng, lời Sách Ngạch Đồ đúng là sự thật, hoàn toàn không phải giả trá, chỉ là người La Sát trước nay không thừa nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Lúc ấy Mông Cổ thuộc Trung Quốc, từ đó suy ra nói Mạc Tư Khoa từng thuộc về người Trung Quốc cũng không phải là không có bằng cứ.
Vi Tiểu Bảo nói “Hầu tước các hạ, ta thấy chúng ta không cần bàn chuyện biên giới nữa, xin ngươi trở về hỏi công chúa, lúc nào thì trả Mạc Tư Khoa lại cho Trung Quốc. Ta cũng phải về gấp Bắc Kinh mua da bò và vàng để tiện may mấy cái lều chóp vàng, sau đó đập tan cung Khắc Lý Mụ Lâm, dựng Kim trướng lên, mời công chúa Tô Phi Á tới ngủ, hô hô, hô hô!”.
Phí Yếu Đa La nghe tới đó, không nhịn được nữa, đứng phắt lên bỏ ra ngoài trướng, chỉ nghe y giận dữ quát tháo như sấm, lớn tiếng ra lệnh, kế đó có tiếng vó ngựa rầm rập, hơn hai trăm kỵ binh nhất tề xông tới.
***
Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, kêu lên “Ái chà, gã này muốn đánh nhau, chúng ta tháo thân là quan trọng”.
Đông Quốc Cương thân trải trăm trận, vô cùng trầm tĩnh, quát “Vi Công gia đừng sợ, muốn đánh thì đánh, ai sợ họ chứ”.
Chỉ nghe kỵ binh Ca Tát Khắc đồng thanh reo hò ngoài trướng. Vi Tiểu Bảo sợ tới mức toàn thân run bắn lên, cúi đầu chui xuống gầm bàn. Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngớ mặt nhìn nhau, trong lòng không kìm được hoảng sợ.
Cửa viên môn mở tung, một viên tướng sải chân bước vào, chính là Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây, cao giọng nói “Bẩm đại soái…”, nhưng không thấy đại soái đâu. Vi Tiểu Bảo dưới gầm bàn nói “Ta… ta… ta ở đây. Mọi người phải mau… mau mau chạy trốn thôi”. Lâm Hưng Châu ngồi xổm xuống, nói với Vi đại soái dưới gầm bàn “Bẩm đại soái, quân La Sát khí thế hung hăng, chúng ta không thể tỏ ra khiếp nhược, muốn đánh thì đánh con mẹ nó luôn”.
Vi Tiểu Bảo nghe y nói rất cương dũng, tâm thần lập tức trấn tĩnh, lúc ấy bò ra khỏi gầm bàn, mới rồi chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi núp xuống gầm bàn, thật ra y cũng không phải chỉ có khiếp sợ, vỗ ngực nói “Đúng, muốn đánh thì đánh con bà nó luôn, lão tử đích thân đi đầu quân sĩ, dũng cảm xông lên không… không tiền. Không đúng, dũng cảm xông lên đáng tiền” (y tưởng dũng cảm xông lên mới đáng tiền(11), không dũng cảm xông lên không đáng tiền) rồi nắm tay Lâm Hưng Châu bước ra ngoài trướng.
Vừa ra tới cửa trướng, chỉ thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc giơ trường đao, cỡi ngựa khỏe phóng quanh trướng diễu võ dương oai, một vòng tròn không ngừng phi nhanh. Phí Yếu Đa La ra lệnh một tiếng, bọn kỵ binh phóng ra xa xa, cách hơn hai trăm trượng lại xếp thành đội ngũ, hai trăm sáu mươi con ngựa một hàng, một hàng kỵ binh xếp ngay ngắn, đột nhiên quát tháo ầm ĩ, phóng mau về phía Vi Tiểu Bảo.
Vi Tiểu Bảo kêu lên “Mẹ ơi!”, đang định chui trở vào trướng, chợt xoay chuyển ý nghĩ “Nếu bọn quỷ La Sát muốn giết mình, thì có chui vào trướng cũng bị họ lôi ra, mà lại rất mất mặt”. Lúc ấy toàn thân run bắn lên, mặt xám như tro, nhưng vẫn đứng yên bất động.
Lâm Hưng Châu quát “Quân khiên mây bảo vệ đại soái! Tới đây!”.
Hai trăm sáu mươi quân khiên mây đồng thanh ứng tiếng “Dạ”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Vi Tiểu Bảo và các đại thần.
Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, nghĩ thầm “Nếu bọn quỷ La Sát muốn động võ thật, thì mọi người liều mạng đánh nhau một trận, cũng không thể không nghĩ tới nghĩa khí”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Sách Ngạch Đồ, kêu lên “Sách đại ca đừng sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi”.
Sách Ngạch Đồ là văn quan, đã sớm sợ tới mức hồn bất phụ thể, nói “Toàn… toàn nhờ cậy vào huynh đệ”.
Nhìn thấy mười hàng kỵ binh Ca Tát Khắc xông tới, còn cách quân Thanh năm trượng, viên Đội trưởng đi đầu vung trường đao chém hờ, quát lớn một tiếng, đám kỵ binh đều kìm ngựa lại, hai trăm sáu mươi con ngựa đồng thời đứng im bất động. Viên Đội trưởng kia lại quát một tiếng, đám kỵ binh chia làm hai, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía bắc, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía nam, phóng ra vài mươi trượng, lượn quanh một vòng, lại quay lại đứng cách trướng hơn hai trăm trượng, đội hình hoàn toàn không chút rối loạn, hai trăm sáu mươi người ngựa mà như một người một ngựa, quả nhiên là tinh binh được huấn luyện rất thuần thục.
Phí Yếu Đa La hô hô cười rộ, cao giọng gọi “Công tước đại nhân, ngươi thấy quân La Sát bọn ta thế nao?”.
Vi Tiểu Bảo đến lúc ấy mới biết y chẳng qua chỉ thị uy, trong lòng cả giận, quát “Đây là bọn khỉ diễn trò trên ngựa, chứ đem đánh nhau thì hoàn toàn vô dụng”.
Phí Yếu Đa La tức giận nói “Bọn ta lại xông tới đấy!”, nghĩ thầm “Lần này cứ xông tới trước mặt ngươi, xem ngươi có bỏ chạy hay không?”, quát “Giật hết mũ của quân Trung Quốc”. Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc quát một tiếng, hai trăm sáu mươi tên kỵ binh xông mau tới.
Vi Tiểu Bảo quát “Chém chân ngựa!”. Lâm Hưng Châu kêu lên “Tuân lệnh! Chém chân ngựa, không đả thương người!”.
Chỉ nghe tiếng vó ngựa như sấm, hai trăm sáu mươi con ngựa dần dần phi tới gần, trường đao trong tay kỵ binh Ca Tát Khắc lấp lóe ánh mặt trời, nhìn thấy đã phóng tới trước mặt còn cách ba mươi trượng, hai mươi trượng, mười trượng… Vẫn chưa dừng lại, lại phóng lên bốn năm trượng nữa. Lâm Hưng Châu quát “Cổn Đường đao, xông lên!”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây nhất tề tiến lên, lăn tròn xuống đất. Hai trăm sáu mươi người này đều là hảo thủ Địa Đường đao do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, thân pháp đao pháp đều rất thuần thục, lăn tròn tới trước, dùng khiên mây che kín người, không hề lộ ra một chút bóng đao.
Trong khoảnh khắc, hàng kỵ binh thứ nhất đã gặp quân khiên mây, đột nhiên đàn ngựa hí ran, nhao nhao đổ xuống. Quân khiên mây đao sắc chém ra, một nhát đao chém đứt một chân ngựa, khiên mây che người không ngừng lăn tròn qua. Trong tiếng người kêu ngựa hí của quân La Sát, quân khiên mây đã lăn qua mười hàng kỵ binh, chém đứt một trăm bảy tám mươi cái chân ngựa, bày thành đội ngũ phía sau quân La Sát. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây rảo chân chạy mau trở về, lại dàn hàng trước mặt bọn Vi Tiểu Bảo. Trong hai trăm sáu mươi người chỉ có hơn mười người bị ngựa giẫm bị thương, nhưng thương thế đều nhẹ, người bị thương gắng gượng nhịn đau, vẫn đứng thẳng trong đội hình.
Hai trăm sáu mươi kỵ binh Ca Tát Khắc có quá nửa ngã ngựa, có người bị ngựa đè, nằm dưới đất kêu gào rên rỉ, chỉ có vài mươi người nhảy ra khỏi ngựa, phần lớn đều đứng dưới đất, tay chân luống cuống. Đám kỵ binh này cả đời sống trên lưng ngựa, chỉ có cưỡi trên lưng ngựa mới ngang tàng kiêu dũng, nhưng hai chân vừa chạm đất lại như cá ra khỏi nước, không có gì để nhờ cậy.
Vi Tiểu Bảo kêu lên “Chia một nửa quân bao vây đại quan La Sát”. Lâm Hưng Châu ra lệnh, liền có một trăm quân khiên mây sấn lên vây chặt mười mấy viên quan bọn Phí Yếu Đa La, một trăm thanh đại đao kết thành một vòng, mũi đao chớp chớp, chỉ cần một tiếng ra lệnh, một trăm thanh đại đao đồng thời phóng tới, bọn Phí Yếu Đa La lại không trở thành nhân bánh bao La Sát sao?
Viên Chánh Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc thấy tình hình như thế, sải chân chạy tới, kêu lên “Không được đả thương người, không được đả thương người!”.
Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn Song Nhi cải trang làm thân binh đứng bên cạnh “Qua điểm huyệt bọn họ đi!”. Song Nhi nói “Được!”, rồi vọt người ra, nghiêng người sấn vào sau lưng viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc, vươn tay điểm vào huyệt đạo trên lưng y, kế đó lại điểm huyệt viên Phó Đội trưởng.
Một tên Tiểu Đội trưởng thò tay vào bọc, rút ra một khẩu đoản thương, quát “Không được động đậy!”. Song Nhi chụp một tên quân La Sát kéo ra che trước mặt, sấn tới vài bước. Viên Tiểu Đội trưởng kia không dám nổ súng, lại quát “Không được động đậy!”. Song Nhi nhấc tên lính La Sát kia ném vào y. Viên Tiểu Đội trưởng giật mình, nghiêng người tránh qua, Song Nhi đã vọt ra, điểm vào huyệt đạo trên ngực và hông y, vươn tay giật khẩu đoản thương của y chĩa lên trời bóp cò bình một tiếng.
Vi Tiểu Bảo lớn tiếng nói “Hay lắm, đôi bên đã nói rõ là không được mang hỏa khí, bọn quỷ La Sát các ngươi thật không biết giữ chữ tín”. Rồi bước lên mấy bước, nói với Phí Yếu Đa La “Này, ngươi bảo thủ hạ buông hết đao kiếm, tất cả xuống ngựa xếp hàng, móc tất cả hỏa khí trong người ra ném xuống”. Phí Yếu Đa La thấy trước mắt không còn cách nào kháng cự, bèn theo lời ra lệnh.
Kỵ binh Ca Tát Khắc chỉ đành ném hết đao kiếm, xuống ngựa đứng xếp hàng. Vi Tiểu Bảo sai một trăm sáu mươi quân khiên mây bao vây bốn phía, lục soát người quân La Sát. Trong người hai trăm sáu mươi người, lục soát được hai trăm tám mươi khẩu đoản thương, có người một mình mang hai khẩu.
Quân La Sát dưới thành Ni Bố Sở nhìn thấy tình thế ở xa có biến, từ từ tiến lên. Quân Thanh ở phía đông cũng lục tục kéo tới. Đôi bên còn cách nhau vài trăm bước, bày trận đối diện. Quân La Sát thấy chủ soái bị bao vây, chỉ đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám làm gì.
Vi Tiểu Bảo hỏi Phí Yếu Đa La “Hầu tước đại nhân, ngươi mang rất nhiều hỏa khí tới để làm gì vậy?”. Phí Yếu Đa La buông tay cúi đầu, nói “Rất xin lỗi, bọn vệ binh của ta không tuân mệnh lệnh, ngầm mang hỏa khí, lúc trở về ta sẽ trừng phạt thật nặng”. Vi Tiểu Bảo gọi “Quân khiên mây, cởi áo ra cho họ nhìn xem các ngươi có mang hỏa khí không?”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây ném khiên mây xuống, dùng tay trái cởi áo, tay phải vẫn giơ cao đại đao đề phòng đối phương có hành động gì khác. Mọi người cởi áo ra, để lộ ngực trần, nhảy lên mấy cái, quả nhiên không ai mang theo hỏa khí. Phí Yếu Đa La trong lòng xấu hổ, cúi đầu không nói gì.
Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát cao giọng nói “Người La Sát làm việc không biết xấu hổ, lột hết quần áo của họ ra, xem họ có mang hỏa khí hay không?”. Phí Yếu Đa La cả kinh, vội nói “Công tước đại nhân, xin ngươi ra ơn. Ngươi… nếu ngươi lột quần áo của ta, thì ta… ta chỉ còn cách tự sát thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Quần thì không lột ra không được”. Phí Yếu Đa La nói “Xin ngươi tha thứ cho một lần, tất cả mọi chuyện nhất thiết đều theo ngươi phân phó”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi kỵ binh của ngươi xông qua, làm ta hoảng sợ chui vào gầm bàn, mất hết thể diện của công tước đại nhân, chuyện ấy tính sao?”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Là ngươi nhát gan, ta làm thế nào được?”. Nhưng mũi đao của quân Thanh đang chớp chớp trước mặt, chỉ đành nói “Tệ nhân tình nguyện bồi thường tổn thất”.
Vi Tiểu Bảo trong lòng vui sướng, tự nhủ “Cái ống tre La Sát tự tới cửa rồi”. Nhưng nhất thời không nghĩ ra là đòi y bồi thường thế nào, liền ra lệnh “Cắt hết thắt lưng của quan lớn lính nhỏ La Sát”.
Quân khiên mây lớn tiếng đáp “Tuân lệnh!”, rồi nhấc mũi đao lẽn rọc vào thắt lưng người La Sát, lưỡi đao hướng ra ngoài, kéo xuống một cái, thắt lưng lập tức bị cắt đứt.
Từ Phí Yếu Đa La trở xuống, người La Sát ai cũng hoảng sợ hồn bất phụ thể, hai tay giữ chặt lưng quần, chỉ sợ tuột xuống. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, ra lệnh “Áp giải người La Sát, đắc thắng về dinh!”.
Lúc ấy quan binh La Sát người nào cũng sợ quần bị tuột xuống, không hề kháng cự, theo quân Thanh xếp hàng đi về phía đông.
Đông Quốc Cương cười nói “Diệu kế của Vi đại soái quả thật khiến người ta khâm phục, cắt đứt thắt lưng, chỉ trong khoảnh khắc mà trói chặt hai tay của hai trăm sáu mươi quan binh La Sát”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đàn ông La Sát sợ bị cởi quần, đàn bà La Sát lại không sợ, như thế không kỳ quái à?”. Bọn Đông Quốc Cương đều cười hô hố.
Đoàn người họp với đại quân, quân Thanh đẩy ra hơn bốn trăm khẩu đại pháo, lột hết vải che, chĩa pháo vào quân La Sát. Lúc ấy nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, nhưng ở phương đông thì không chuẩn bị chu đáo bằng Khang Hy, đã dốc hết một nửa đại pháo trong nước điều lên Ni Bố Sở, bất kể về binh lực hay hỏa lực thì quân Thanh cũng đều mạnh hơn gấp mấy lần. Quân La Sát đột nhiên thấy rất nhiều đại pháo, đều ngớ mặt nhìn nhau, vô cùng khiếp sợ. Viên tướng thống lãnh vội ra lệnh rút về thành, đóng chặt cửa thành lại. Quân Thanh cũng không đánh thành.
Lúc ấy Đội trưởng, Phó Đội trưởng và một viên Tiểu Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc bị điểm huyệt vẫn không động đậy được. Ba người vẫn như tượng đất đứng trên bãi đất trống. Lúc quân La Sát rút về thành Ni Bố Sở vô cùng hớt hải, chưa từng lưu ý, lúc ấy trên thành nhìn xuống đều thấy kinh ngạc, nhưng đều không dám ra thành để cứu. Qua hơn nửa giờ, thấy ba người vẫn cứng đờ không hề động đậy, liền có một đội kỵ binh Ca Tát Khắc ra thành tới cứu, nhưng chỉ đi được hơn mười trượng, đại pháo của quân Thanh đã bắn luôn mấy phát. Viên tướng giữ thành vội ra lệnh thổi kèn lui quân, gọi đội kỵ binh ấy trở về, sợ quân Thanh đổ tới, thì cả quân trong thành ra cứu cũng bị vây hãm.
Trên thành dưới thành, quân sĩ đôi bên nhìn thấy ba người đứng đờ ra không động đậy ở xa xa, tư thế rất kỳ dị. Quân Thanh vỗ tay cười ầm, còn quân La Sát đều vô cùng khiếp sợ.
***
Vi Tiểu Bảo mời bọn Phí Yếu Đa La vào quân trướng, chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì không nói gì.
Phí Yếu Đa La tức giận nói “Công tước đại nhân, ngươi không cần đem ta làm trò đùa, muốn giết thì cứ giết đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta với ngươi là bạn bè, tại sao lại giết ngươi? Chúng ta còn phải đàm phán điều khoản về biên giới”. Y nghĩ lúc này đại thần hoạch định biên giới của đối phương đã rơi vào tay mình, bất kể mình đề ra điều kiện thế nào, đối phương cũng rất khó cự tuyệt.
Không ngờ Phí Yếu Đa La xuất thân là quân nhân, tính nết mười phần quật cường, ngang nhiên nói “Ta là tù binh của ngươi, không phải là sứ thần hoạch định biên giới ngang hàng với nhau nữa. Ta bị ngươi uy hiếp, không thể bàn bạc bất cứ điều khoản nào. Cho dù bàn xong, ký tên vào, cũng không có hiệu lực”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không có hiệu lực?”. Phí Yếu Đa La nói “Tất cả điều khoản đều do ngươi đặt ra, còn bàn bạc gì nữa? Ngươi không thể ép ta đàm phán với ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không thể ép ngươi đàm phán?”. Phí Yếu Đa La nói “Ta quyết không khuất phục. Ngươi vung đao chém ta, nổ súng bắn ta, cứ việc động thủ đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Còn nếu ta sai lột quần của ngươi ra thì sao?”.
Phí Yếu Đa La cả giận, đứng phắt lên quát “Ngươi…”, chỉ nói được chữ “Ngươi”, quần đã tuột xuống, vội đưa tay giữ lại. Thắt lưng của y đã bị cắt đứt, ngồi trên ghế thì không cần dùng tay giữ, nhưng lúc thịnh nộ đứng phắt lên lại quên mất chuyện ấy, may mà kịp thời chụp được, mới không để lòi cái xấu. Đại quan tùy tùng phía quân Thanh trong trướng, ai cũng cười ầm lên.
Phí Yếu Đa La tức giận tới mức sắc mặt trắng bệch, hai tay giữ lưng quần, dáng vẻ rất thảm hại, vốn là định nói một tràng lời lẽ khảng khái kích ngang, khổ nỗi hai tay không thể vung vẩy để làm điệu bộ phụ họa thêm thanh thế, muốn khảng khái kích ngang tới mức nào cũng chỉ rất có hạn, phì mạnh một tiếng, ngồi xuống trở lại, nói “Ta là Khâm sứ của Sa hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không được hạ nhục ta”.
Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi yên tâm, ta không hạ nhục ngươi đâu. Chúng ta cứ bình tĩnh bàn chuyện hoạch định biên giới thôi”.
Phí Yếu Đa La lấy trong túi áo ra một cái khăn tay bịt miệng mình lại, thắt mối ra sau gáy, tỏ ý là quyết không đàm phán gì cả. Vi Tiểu Bảo sai thân binh đưa rượu ngon nhắm tốt lên, bày ra trên bàn, rót rượu vào chén, cười nói “Mời, mời, không cần khách khí”. Phí Yếu Đa La nghe mùi rượu thịt thơm phức, không nhịn được nữa, cởi khăn tay ra, nhấc chén rượu lên uống. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước lại dùng miệng à?”. Phí Yếu Đa La uống rượu ăn thịt, không hề trả lời, tỏ ý là chỉ dùng miệng để ăn chứ không làm việc khác. Vi Tiểu Bảo không ngừng mời rượu, nghĩ thầm đồ cho y say, hoặc giả có thể bắt y khuất phục, nào ngờ Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, ăn mấy tảng thịt bò xong thì lấy khăn tay chùi miệng, tự bịt miệng lại như cũ.
Vi Tiểu Bảo thấy tình hình như thế cũng cảm thấy buồn cười, sai thân binh dẫn y ra sau trướng nghỉ ngơi, canh giữ cẩn thận, rồi cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương bàn bạc kế sách đối phó.
Đông Quốc Cương nói “Người này quật cường như thế, kiên quyết không chịu đàm phán trong quân chúng ta, nhưng nếu cứ thế thả y về thì lại thật không cam tâm”. Sách Ngạch Đồ nói “Cứ nhốt y mười bữa nửa tháng, mỗi ngày mổ bụng một tên quỷ La Sát trước mặt y, xem y có quật cường được nữa không”. Đông Quốc Cương nói “Nếu bức tử y thì chuyện này không khỏi trở nên căng thẳng. Chúng ta dùng võ lực bắt sống đại thần hoạch định biên giới của đối phương, biết đâu hoàng thượng sẽ trách phạt”. Sách Ngạch Đồ nói “Đông công gia nói rất đúng, nếu cứ dùng biện pháp cứng rắn với y, cũng không phải cách hay”
Các đại thần bàn bạc hồi lâu vẫn không tìm được kế sách nào hay. Hôm nay bắt được Phí Yếu Đa La, tuy là một trận thắng, nhưng quyết không phải là bản ý giảng hòa của hoàng thượng, có thể nói là làm trái kế sách của triều đình, chỉ cần có một chuyện xử lý không hay là sẽ trở thành trọng tội làm trái ý chỉ, nói tới nói lui, các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo thả Phí Yếu Đa La vế.
Vi Tiểu Bảo nói “Được! Chúng ta cứ giữ y lại ở đây một đêm, sáng mai sẽ thả y về là xong”. Y trở về tẩm trướng, đi qua đi lại ngẫm nghĩ, đột nhiên nghĩ ra “Đầu tiên đã học Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, đại thắng ở thành Nhã Khắc Tát rồi, lão tử lại học màn Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán vậy”, ngẫm nghĩ tính toán một hồi, đã có kế sách.
Y trở ra quân trướng, mời viên giáo sĩ Hà Lan làm thông dịch tới, thì thào bàn bạc với y một lúc, lại bảo y dạy cho hai mươi câu tiếng La Sát, đọc đi đọc lại thật chính xác, không lầm chữ nào, rồi truyền gọi bốn viên tướng và Đội trưởng thân binh tới, dặn dò như thế như thế. Mọi người vâng lệnh ra đi.
***
Phí Yếu Đa La ở sau trướng, trong lòng ý nghĩ cuồn cuộn dâng lên, lúc thì sợ sệt, lúc thì hối hận, làm sao ngủ được. Lăn qua lăn lại đến nửa đêm, chỉ nghe chỗ cửa trướng tiếng ngáy như sấm, ba tên thân binh canh gác đều đã ngủ say. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nếu không đáp ứng điều khoản của thằng Man tử Trung Quốc này thì nhất định rất khó thoát thân. Sáng mai nếu thằng tiểu quỷ này lên cơn tức giận, lôi mình ra giết, há không oan uổng sao? May mà ba tên vệ binh này đều ngủ say, sao không mạo hiểm trốn đi?”. Rồi nhón chân bước xuống giường, cởi áo ra buộc vào ngang hông để quần khỏi tuột xuống, rón rén bước ra của trướng, chỉ thấy ba tên thân binh đang nằm chỗ cột lều ngay cửa trướng, đang ngủ rất say.
Y đưa tay sờ lên lưng một tên thân binh, định rút thanh bội đao, tên thân binh ấy đột nhiên hắt hơi một cái. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, vội rút tay lại, chờ qua một lúc, không thấy có động tĩnh gì, lại định tới lấy bội đao của một tên thân binh khác. Tên thân binh ấy đột nhiên ưỡn lưng một cái, nói mớ vài câu. Phí Yếu Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra khỏi trướng, may mà ba tên thân binh đều không hay biết gì.
Y đi tới ngoài trướng, co người trong bóng tối, thấy phía ngoài có vệ binh tay cầm đèn lồng, cầm đao tuần tra, ba phía bắc, đông, nam đều có quân đi tuần, chỉ có phía tây tối om tựa hồ không có ai. Lúc ấy bèn từng bước từng bước đi về phía đó, mỗi khi thấy quân đi tuần thì co người lại núp phía sau trướng, may mà suốt trên đường đi đều được thái bình vô sự. Vừa tới sau một ngôi trướng, đột nhiên phía tây có một toán quân đi tuần kéo tới, Phí Yếu Đa La vội núp vào phía sau trướng, nghe trong trướng có người nói chuyện, là nói bằng tiếng La Sát.
Chỉ nghe người ấy nói “Công tước đại nhân quyết ý đánh thẳng tới Mạc Tư Khoa cũng không phải không được, chỉ có điều đường sá xa xôi, mười phần nguy hiểm”. Phí Yếu Đa La cả kinh, lập tức bò rạp xuống, vén vải dưới chân trướng nhìn vào bên trong, vừa nhìn thấy, lập tức tim đập thình thịch.
Trong trướng đèn lửa soi sáng như ban ngày, Vi Tiểu Bảo thân khoác áo choàng, mặc nhung trang ngồi chính giữa, hai bên có hơn mười viên đại tướng đứng, dưới trướng có mấy mươi tên thân binh tay cầm đại đao. Cạnh bàn Vi Tiểu Bảo là viên giáo sĩ người Hà Lan làm thông dịch đang đứng, nói chuyện với y.
Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát “Chúng ta uống rượu, nói chuyện với Phí Yếu Đa La ở đây là giả, không phải là thật, có bàn bạc một tháng hai tháng, bàn lui bàn tới cũng đều là giả, đại quân cứ lặng lẽ tiến về phía tây. Công chúa La Sát thỉnh thoảng lại nhận được báo cáo của thằng ngốc Phí Yếu Đa La, nói đang đàm phán với chúng ta, cô ta không sợ, hàng ngày vẫn vui vẻ khiêu vũ, ngủ nghê. Đại quân Trung Quốc đột nhiên tới dưới thành Mạc Tư Khoa, tấn công, tấn công kỳ lạ, bắt hết hai Sa hoàng, công chúa Tô Phi Á. Người La Sát khóc lóc, quỳ xuống, đầu hàng!”. Viên giáo sĩ Hà Lan nói “Chuyện hành quân đánh nhau thì ta không biết. Có điều một mặt nghị hòa với người La Sát, một mặt lại lén tới đánh úp kinh thành của họ, như thế không phải là không giữ tín nghĩa sao? Đạo lý của Chúa dạy chúng ta không nên lừa dối, không nên bịa đặt”. Vi Tiểu Bảo nói “Hô hô, là người La Sát lừa dối người ta trước. Y cắn ta một cái, ta cắn lại y hai cái, cắn thật mạnh!”.
Viên giáo sĩ cười hắc lên một tiếng, qua một lúc lại nói “Ta khuyên công tước đại nhân không nên đánh nhau thì hay. Hai nước đánh nhau, người chết đều là con dân của Chúa…”. Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Đừng nhiều lời nữa. Ta chỉ tin Bồ tát, không tin Chúa trời, nếu gã Phí Yếu Đa La kia đàm phán công bằng, để Trung Quốc chiếm một phần đất đai thì vốn cũng có thể nghị hòa được. Nhưng y một dặm đất cũng không chịu nhường. Đợi chúng ta hạ thành Mạc Tư Khoa xong, tất cả đàn ông La Sát sẽ lên thiên đường, tất cả đàn bà sẽ làm vợ người Trung Quốc”.
Phí Yếu Đa La càng nghe càng khiếp sợ, nghĩ thầm “Lạy Chúa tôi, thằng Man tử Trung Quốc này thật vô pháp vô thiên, lớn mật làm bậy”.
Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Hôm nay ta phái một tên thân binh dùng ngón tay xỉa mấy cái vào người ba viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc khiến họ không thể động đậy, ngươi nhìn thấy không?”. Viên giáo sĩ nói “Ta có nhìn thấy, đó là ma thuật gì vậy, thật là vô cùng kỳ quái”. Vi Tiểu Bảo nói “Ma thuật của Trung Quốc là do Thành Cát Tư Hãn truyền lại. Thành Cát Tư Hãn dùng cách thức này, đánh cho người La Sát phải quỳ xuống đất đầu hàng, bọn ta lại dùng cách này đánh họ, nước La Sát, lại chết rồi!”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Năm xưa người Mông Cổ có hai vạn người ngựa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, thiên hạ không ai ngăn chặn được, xem ra nhất định là có ma thuật. Người phương đông rất cổ quái, nếu họ lại sử dụng pháp thuật, thì… thì làm sao là tốt?”.
Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu người La Sát từ xa nổ súng, thì ma thuật của các ngươi vô dụng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng thế, vì thế nên ta phải giả đàm phán ở đây, còn quân đội thì tới đánh Mạc Tư Khoa, cũng như ăn trộm, lén vào trong thành. Ta đã tới Mạc Tư Khoa rồi, trong thành rất nhiều người Đạt Đán. Quân của bọn ta hóa trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn vào thành, quân La Sát canh giữ nhất định không sao phát hiện được”.
Phí Yếu Đa La trên lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Độc kế của thằng tiểu quỷ Trung Quốc này quả thật rất lợi hại. Quân Trung Quốc cải trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn tiến vào kinh thành, thi triển ma thuật, thì làm sao chống cự được?”. Y không biết thuật điểm huyệt của Song Nhi là một loại võ công cao thâm, phải luyện nội công tới cảnh giới thượng thừa mới có thể sử dụng, quan binh của quân Thanh có mấy vạn người nhưng chỉ có một mình nàng biết công phu điểm huyệt mà thôi. Phí Yếu Đa La lại cho rằng ma thuật ấy chỉ cần truyền thụ qua một lần thì mọi người đều biết sử dụng, giơ ngón tay ra xỉa một cái là đối phương không sao động đậy, mấy vạn quân Trung Quốc dùng phép thuật ấy tập kích Mạc Tư Khoa thì La Sát chỉ e phải mất nước diệt chủng.
Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn tiến vào thành Mạc Tư Khoa, dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại khống chế quân La Sát, vậy thì sẽ bắt sống được hai vị Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương, rõ ràng là có thể thành công. Có điều… có điều chuyện này phải mười phần bí mật, lúc đại quân tiến về phía tây, không thể để cho người La Sát biết. Công tước đại nhân, hiện nay nước La Sát đã mười phần lớn mạnh, khác hẳn với lúc người La Sát đánh nhau với Thành Cát Tư Hãn trước kia rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta từng tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát đều hiểu rất rõ, sáng sớm ngày mai bọn ta sẽ thả Phí Yếu Đa La về, sau đó đàm phán với y, đều là giả thôi, y không chịu ưng thuận đâu. Bọn ta ở đây đàm phán thêm một ngày thì quân Trung Quốc rút ngắn được một ngày lộ trình tới Mạc Tư Khoa”. Viên giáo sĩ nói “Vâng, vâng, đại nhân nhất thiết đều nên cẩn thận, chuyện này nguy hiểm lắm đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Biết rồi. Ngươi không được nói ra, không được để Phí Yếu Đa La nảy ý ngờ vực”. Viên giáo sĩ vâng dạ lui ra.
Vi Tiểu Bảo quát “Gọi Vương Bát Tử Kê, Trư La Nhụ Phu vào đây”. Bọn thân binh ra khỏi trướng, dắt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào. Vi Tiểu Bảo nói với hai người “Ngày mai ta sai hai đội quân tới Mạc Tư Khoa, mang rất nhiều rất nhiều lễ vật, tặng cho công chúa Tô Phi Á, trên đường rất nhiều trộm cướp, nên phải phái nhiều quan binh hộ tống”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Từ đây tới Mạc Tư Khoa, chỉ có một đoạn ngắn là có bọn cường đạo người Đạt Đán, cũng không hung dữ gì lắm, xin Công tước đại nhân cứ yên tâm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi không biết. Bọn cướp Đạt Đán có toán tám chín ngàn người, có toán hai mươi một ngàn người, ba mươi một ngàn người”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nhìn nhau một cái, đều có vẻ không tin.
Vi Tiểu Bảo nói “Hai đoàn người của ta, chia làm hai đường nam bắc tới Mạc Tư Khoa, Vương Bát Tử Kê dẫn đường cho toán phía bắc, Trư La Nhụ Phu dẫn đường cho toán phía nam. Hai đường đi, như thế nào?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Theo đường phía bắc thì từ đây đi qua phía tây tới Xích Tháp, qua Ô Tư Ô Đức, vòng qua đầu phía nam hồ Bối Gia Nhĩ đi về phía tây qua các thành Thác Mộc Tư Khắc, Ngạc Mộc Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đường phía nam lúc bắt đầu đi cũng thế, qua hồ Bối Gia Nhĩ thì chia ra, đi về phía tây nam qua vùng người Ha Tát Khắc cư trú, thẳng về phía tây, qua các xứ Áo Tư Khắc, Ô Lạp Nhĩ Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”.
Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Không sai, cứ thế đi thôi. Lễ vật, thư của ta sẽ do sứ giả Trung Quốc giao cho công chúa, hai người các ngươi dẫn đường. Dẫn đường tốt, có thưởng, nhiều đấy. Dẫn đường không tốt, tướng quân Trung Quốc chém đầu các ngươi. Lui ra đi!”.
Hai viên Đội trưởng La Sát lui ra xong, Vi Tiểu Bảo cầm lệnh tiễn bằng vàng lên ban bố hiệu lệnh, các viên đại tướng Trung Quốc lần lượt khom người nhận lệnh. Phí Yếu Đa La không biết họ nói những gì, chỉ thấy các viên đại tướng Trung Quốc nhận lệnh đều dáng vẻ khảng khái kích ngang, vỗ ngực nắm tay, chỉ trời thề thốt, rõ ràng là đảm bảo với chủ soái, nói thế nào cũng sẽ phải đại công cáo thành, có người còn xòe tay chặt chặt vào cổ mình, có người rút chủy thủ đâm hờ vào ngực mình, miệng không ngừng nói “Mạc Tư Khoa, Mạc Tư Khoa”, chắc là nói nếu không hạ được Mạc Tư Khoa, thà là tự sát.
Vi Tiểu Bảo ky lý cô lô nói một tràng, bốn tên thân binh cầm một tấm bản đồ lớn trên bàn lên, vừa khéo đối diện với Phí Yếu Đa La.
Chỉ thấy ngón tay Vi Tiểu Bảo từ thành Ni Bố Sở di động về phía tây, dọc theo một đường màu đỏ, chỉ tới một vòng tròn màu đỏ. Phí Yếu Đa La tuy không biết chữ Trung Quốc trên bản đồ, nhưng nhìn vị trí, cũng biết đó là Mạc Tư Khoa. Vi Tiểu Bảo nói một hồi, ngón tay lại chỉ dọc theo một con đường tới Mạc Tư Khoa. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Thằng Man tử Trung Quốc này thật rất đáng ghét, té ra bọn họ lòng mang dã tâm, đã sớm chuẩn bị đánh Mạc Tư Khoa rồi”
Vi Tiểu Bảo lại nói một lúc, kế đó liên tiếp nói tên “Phí Yếu Đa La” các tướng vừa nghe thấy, đều cười ầm lên.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nhất định các ngươi cười ta ngu ngốc, lừa được ta đàm phán hoạch định biên giới, kéo dài thời gian, ngấm ngầm đánh úp Mạc Tư Khoa. Hừ ta không mắc lừa đâu”. Rồi từ từ đứng lên, nghĩ thầm “Nhờ Chúa phù hộ, cho mình phát hiện quỷ kế của thằng Man tử Trung Quốc này. Đủ thấy đế quốc Nga La Tư mình được Thượng đế thương xót, nhất định vận nước sẽ hưng thịnh. Dù sao thì ngày mai y cũng sẽ thả mình, đêm nay không cần mạo hiểm bỏ trốn”. Chỉ thấy phía tây quân tuần tra đi lại không ngớt, phía đông thì tối om không người, rón rén quay trở lại, may mà quân Thanh không hề phát hiện, về tới ngoài trướng của mình, chỉ thấy ba tên thân binh vẫn đang ngủ say, lúc ấy vào trướng đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau Phí Yếu Đa La ăn sáng xong, theo thân binh tới trướng trung quân. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước đại nhân, tối qua ngủ có ngon không?”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Vệ binh của ngươi bảo vệ chu đáo, tự nhiên là ta ngủ rất ngon”.
Vi Tiểu Bảo nói “Hôm nay ngươi không tức giận nữa đấy chứ? Chúng ta bàn bạc về việc hoạch định biên giới được không?”. Phí Yếu Đa La không đáp, lấy khăn tay trong người ra, lại buộc lên miệng. Vi Tiểu Bảo cả giận, quát “Ngươi cứng cổ như thế, ta sẽ giết ngươi lập tức”. Phí Yếu Đa La không hề sợ sệt, nghĩ thầm “Ngươi định hôm nay thả ta ra, còn làm ra vẻ giận dữ như thế, ai sợ ngươi chứ?”.
Vi Tiểu Bảo nổi giận một lúc, thấy y thủy chung vẫn không chịu khuất phục, không biết làm sao, đành nói “Được! Ngươi can đảm như thế, ta rất khâm phục. Thả cho ngươi về thôi. Ngươi về xin cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Sau mười ngày nữa ta sẽ bàn chọn địa điểm khác để thương nghị, hoạch định biên giới”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Ngươi ra sức kéo dài, lúc này chỉ e quân đội đánh úp Mạc Tư Khoa đã lên đường rồi. Ta quyết không mắc lừa ngươi đâu”. Liền nói “Ngươi thả ta về, thì rất cám ơn. Để bày tỏ thành ý giữa chúng ta, ta đề nghị chiều hôm nay có thể bắt đầu đàm phán, không cần chờ sau mười hôm nữa”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chuyện ấy không gấp, mọi người cứ nghỉ ngơi, từ từ đàm phán là được”. Phí Yếu Đa La nói “Vua hai nước đều mong mỏi việc đàm phán thành công sớm, cứ ký kết điều ước hoạch định biến giới trước, rồi sẽ nghỉ ngơi cũng không muộn”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng của bọn ta cũng chẳng gấp gáp gì, vậy thì sau năm ngày chúng ta sẽ đàm phán thôi”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Không cần nấn ná, cứ bàn luôn trong hôm nay”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay sau ba hôm nữa đi”. Phí Yếu Đa La nói “Không, hôm nay!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay ngày mai nhé?”. Phí Yếu Đa La nói “Hôm nay!”.
Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Ngươi kiên quyết như thế, ta chỉ còn cách nhượng bộ. Có điều ta cảnh cáo ngươi, lúc bàn tới việc hoạch định biên giới giữa hai nước, thì ta quyết không tùy tiện nhượng bộ đâu. Chúng ta sẽ ra giá trả giá về từng thước từng tấc đấy”.
Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Hoạch định biên giới giữa hai nước thì phải bàn kỹ từng thước từng tấc, nhưng đến khi bàn xong thì các ngươi đã đánh tới Mạc Tư Khoa rồi. Ngươi nói ta là thằng ngốc thật à?”. Lập tức đứng lên, nói “Vậy thì tệ nhân cáo từ, đa tạ Công tước đại nhân mời rượu”. Vi Tiểu Bảo đưa y ra cửa trướng, sai một đội quân khiên mây hộ tống y về thành Ni Bố Sở. Nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc thì không thả về.
Phí Yếu Đa La ra khỏi trướng, chỉ thấy chỗ trại quân đóng san sát hôm qua đã vắng vẻ không còn gì, đại đội quân Thanh đã nhổ trại kéo đi. Y ngấm ngầm hoảng sợ “Thằng Man tử Trung Quốc này nói là làm, quả thật đáng sợ”.
Đoàn người đi tới trước trướng chỗ hội đàm hôm qua, chỉ thấy ba viên Đội trưởng Ca Tát Khắc vẫn đứng ngẩn ra ở đó, tư thế vẫn giống hệt hôm qua, không hề nhúc nhích. Trong toán quân Thanh có một tên quân sĩ nhỏ thó nhảy ra, bước tới trước mặt ba viên Đội trưởng, cao giọng niệm thần chú, quát lớn “Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn”, rồi vỗ mấy chưởng vào người ba người. Ba viên Đội trưởng từ từ cử động được, chỉ là đứng suốt nửa ngày một đêm, quả thật đã rất mệt mỏi, hai chân tê dại, nhất tề ngồi phệch xuống đất. Sáu tên quân khiên mấy bước lên đỡ dậy, dìu đi vài mươi trượng, ba viên Đội trưởng mới tự mình đi được.
Phí Yếu Đa La lại càng khiếp sợ “Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng trách năm xưa y tung hoành thiên hạ, không ai chống nổi. May mà hiện đã phát minh ra hỏa khí, có thể không để địch nhân tới sát người, nếu không bọn giáo đồ dị giáo Trung Quốc lại muốn thống trị toàn thế giới, giáo đồ Chính thống giáo bọn ta đều phải biến thành nô lệ”.
Quân khiên mây hộ tống Phí Yếu Đa La tới trước cửa đông thành Ni Bố Sở, rồi quay trở về.
Phí Yếu Đa La hỏi ba viên Đội trưởng về tình hình bị trúng ma thuật. Ba viên Đội trưởng đều nói lúc ấy chỉ thấy hậu tâm và trước ngực tê rần lên một cái, lập tức toàn thân không sao động đậy. Phí Yếu Đa La nói “Trên người các ngươi có mang Thập tự giá không?”. Ba viên Đội trưởng cởi áo ngoài ra, đều lộ ra Thập tự giá đeo trên cổ, trong đó một người còn đeo thêm một tấm ảnh Gia tô.
Phí Yếu Đa La cau mày, nghĩ thầm “Ma thuật của Thành Cát Tư hãn quả thật lợi hại, ngay cả Thập tự giá của Gia tô Cơ đốc cũng không ngăn chặn được”. Lúc ấy lập tức viết ba đạo tấu chương, sai mười lăm tên kỵ binh chia làm ba đường, cáo cấp với Mạc Tư Khoa là quân đội Trung Quốc đã lên đường tới đánh úp, sẽ hóa trang làm mục dân người Đạt Đán, trà trộn vào kinh thành, xin tăng cường đề phòng.
Đến giữa trưa, ba toán đưa thư trước sau đều quay về, nói đường đi về phía tây đều đã bị quân Trung Quốc cắt đứt, vừa thấy kỵ binh La Sát từ xa đã bắn tên rào rào, quả thật khó mà đi lọt. Phí Yếu Đa La trong lòng lo sợ, nghĩ thầm “Chỉ có thỏa thuận điều ước hoạch định biên giới với thằng Man tử Trung Quốc này thật mau, thì họ mới triệt hồi binh mã”.
***
Đến giờ Mùi, Phí Yếu Đa La dắt mười mấy tùy viên tới chỗ sứ thần hai bên bàn bạc. Lần này y hoàn toàn không mang theo kỵ binh Ca Tát Khắc, để tỏ rõ là quyết không có ý gì khác, huống chi cho dù có mang theo vệ binh, cũng không chống đỡ được “Ma thuật Thành Cát Tư Hãn” của quân Trung Quốc, cũng là vô dụng. Phí Yếu Đa La học vấn uyên bác, làm việc tài giỏi, vốn không phải dễ dàng bị người ta đánh lừa, nhưng người La Sát đối với Thành Cát Tư Hãn có mối lo sợ thâm căn cố đế, thuật điểm huyệt của Song Nhi lại mười phần tinh diệu, y chính mắt nhìn thấy, không thể không tin.
Y tới trướng trước, không lâu sau các đại thần phía nhà Thanh là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương cũng tới. Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không mang theo vệ binh, liền sai quân khiên mây hộ vệ lui về.
Hai bên nói vài câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc tới chuyện hôm qua, lập tức bàn bạc việc hoạch định biên giới. Phí Yếu Đa La muốn đàm phán thật nhanh, chuyện gì cũng nhượng bộ, khác hẳn với thái độ hôm qua. Vi Tiểu Bảo trong bụng cười thầm, biết kế sách “Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán” đã thành công, y đối với việc hoạch định biên giới thì một khiếu cũng không thông, lúc ấy bèn để Sách Ngạch Đồ qua sự phiên dịch của viên giáo sĩ bàn bạc điều khoản với đối phương.
Chỉ thấy Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La hai người trải một tấm bản đồ lớn ra bàn, ngón tay của Sách Ngạch Đồ không ngừng chỉ lên phía bắc, Phí Yếu Đa La cau mày, ngón tay cứ từng tấc từng tấc lui về phía bắc. Một tấc ấy lui lại trên bản đồ là thêm hơn mấy trăm dặm đất đai thuộc về Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe một lúc, trong lòng phát chán, bèn ngồi ra một cái bàn khác, sai thị tùng mang thức ăn ra, ngồi bắt chéo chân, từ từ nhấm nháp các thức quà bánh điểm tâm, trong mũi ư ử điệu Thập bát mô.
Phí Yếu Đa La quyết tâm nhượng bộ, Sách Ngạch Đồ sợ xảy ra biến cố, cũng không ép người quá đáng. Nhưng chữ nghĩa trong điều ước rất nghiêm ngặt, giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch ra tiếng Lạp Đinh, trao đổi bàn bạc cũng mất rất nhiều thời gian. Đến trưa hôm thứ tư, Điều ước Ni Bố Sở gồm sáu điều đã bàn bạc ổn thỏa.
Vi Tiểu Bảo được Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thích, nói nội dung điều ước này rất có lợi cho Trung Quốc, phần đất cắt về Trung Quốc rất rộng lớn, còn hơn rất nhiều so với trong chỉ dụ của Khang Hy. Điều ước có tất cả bốn bản, một bản chữ Trung Quốc, một bản chữ La Sát, hai bản chữ Lạp Đinh, có chú rõ là nếu văn tự đôi bên có chỗ nào ý nghĩa không phù hợp thì lấy bản chữ Lạp Đinh làm chuẩn.
Lúc ấy tùy tùng mài mực thật đậm, thấm đẫm ngòi bút, cung kính mời Khâm sai đại thần đứng đầu phía Trung Quốc ký tên.
Vi Tiểu Bảo biết được ba chữ tên mình, chỉ có điều có lúc nhìn chữ Chương ra chữ Vi, chữ Mãi ra chữ Bảo, ba chữ viết liền một chỗ thì không đến nỗi sai lắm, nhưng nói tới chuyện viết thì chữ Tiểu còn có thể miễn cưỡng đối phó được, chứ hai chữ kia thì bất kể thế nào cũng không viết được. Y bình sinh rất khó mà đỏ mặt, nhưng lúc ấy mặt lại đỏ như chu sa, không phải tức giận, không phải say rượu, mà quả thật là có ba phần xấu hổ.
Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của y, liền nói “Loại văn tự hợp đồng này, chỉ cần đóng dấu hoa áp lên cũng được. Vi đại nhân cứ viết bừa một chữ Tiểu, cũng kể như đã ký tên rồi”.
Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.
Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.
Lúc ấy Vi Tiểu Bảo đều vẽ chữ vào bốn bản điều ước, trên văn bản tiếng La Sát vẽ một nét sổ cực lớn, sau đó Phí Yếu Đa La, Sách Ngạch Đồ và Phó sứ phía Nga đều ký tên vào. Bản điều ước đầu tiên giữa hai nước Trung Nga như vậy đã ký xong.
Đây là bản điều ước đầu tiên được ký kết giữa Trung Quốc và nước ngoài, nhờ Khang Hy trù tính chu đáo, ra sức thu xếp, mà những người được sai đi đều mười phần đắc lực, nên việc hoạch định biên giới trong điều ước Ni Bố Sở thì Trung Quốc chiếm tiện nghi rất lớn. Trong điều ước quy định phía bắc lấy rặng núi Hưng An làm ranh giới, toàn bộ đất đai tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải thuộc Tô Liên ngày nay đều thuộc Trung Quốc, phía đông và đông nam thì tới biển. Lúc đôi bên hoạch định biên giới khu vực ấy vốn không thuộc về bên nào, đất đai Trung Quốc chiếm cũng không phải thuộc La Sát, mà nơi La Sát đã xây thành di dân thì sau khi ký điều ước bắt buộc phải triệt thoái, quả thật là một thắng lợi quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Đất đai được cắt về Trung Quốc trong điều ước lên tới khoảng hai trăm vạn cây số vuông, to hơn gấp đôi các tỉnh vùng Đông bắc Trung Quốc hiện nay. Điều ước ấy ký kết xong, khiến biên giới Trung Quốc ở phía Đông bắc được yên ổn hơn một trăm năm mươi năm, mà việc xâm lấn về phía đông của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng tan tành. Sau các triều Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, các Điều ước của nhà Thanh với người ngoại quốc không gì là không mất quyền mất đất, việc đại chấn hùng phong quốc gia của Khang Hy và Vi Tiểu Bảo năm ấy về sau không còn thấy nữa (12).
Theo tập quán đương thời, đôi bên đồng thời nổ pháo, hướng lên trời lập thệ, thủ tín giữ lời. Hơn bốn trăm khẩu đại pháo của quân Thanh đồng thời nổ vang ở bốn phía đông tây nam bắc thành Ni Bố Sở, mặt đất rung chuyển. Đại pháo của bên Nga chỉ có hơn hai mươi khẩu, tiếng pháo rời rạc, mạnh yếu cách nhau không biết bao nhiêu dặm. Phí Yếu Đa La thầm lấy làm may, nếu hòa nghị không thành, chiến sự nổ ra thì phía Nga không một phen thua tan nát không xong.
Lúc ấy sứ thần hai nước tặng nhau lễ vật. Phí Yếu Đa La tặng cho bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, kính thiên lý, đồ bạc, da điêu, các loại đao kiếm. Vi Tiểu Bảo tặng sứ thần đối phương ngựa, yên cương, chén uống rượu bằng vàng, quần áo gấm đoạn, the lụa, ngoài ra còn tặng mỗi kỵ binh Ca Tát Khắc hai mươi lượng bạc để bồi thường việc bị quân Thanh cắt đứt thắt lưng.
Đếm ấy mở tiệc lớn, ăn mừng đã ký kết xong điều ước. Phí Yếu Đa La vẫn rất lo lắng, không biết quân Thanh đi đánh úp Mạc Tư Khoa trước đó đã được gọi về chưa, không ngừng dùng lời dò xét, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ làm ra vẻ không biết gì.
Qua hai hôm, Phí Yếu Đa La được tin báo có đại đội quân Thanh tứ phía tây kéo tới, y lên thành dùng kính thiên lý nhìn ra, quả thấy từng từng đội quân Thanh từ phía tây kéo tới, qua phía đông sông Ni Bố Sở hạ trại. Phí Yếu Đa La cả mừng, biết quân Thanh kéo về phía tây đã triệt thoái. Y nào biết đại đội quân Thanh ấy chỉ đóng lại cách phía tây thành Ni Bố Sở hơn hai trăm dặm chờ lệnh, vừa nghe tiếng pháo nổ, đã lập tức nhổ trại từ từ rút về.
Lại qua vài hôm, trụ đá cắm mốc ranh giới đã làm xong. Trên trụ đá có năm loại chữ Mãn Châu, Hán, Mông Cổ, Lạp Đinh và La Sát.
Bia cắm mốc ranh giới chia dựng ở bờ phía đông sông Cách Nhĩ Tất Tề, bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, cho tới các nơi trong rặng núi Uy Y Khắc A Lâm Đại phía đông bắc. Trên bia khắc rõ hai nước lấy sông Cách Nhĩ Tất Tề làm ranh giới “Lên tới tận vùng núi non không có cây cỏ ở thượng lưu, có tên là Đại Hưng An cho tới bờ biển, phàm tất cả những sông ngòi chảy vào sông Hắc Long Giang phía nam núi đều thuộc Trung Quốc, tất cả những sông ngòi phía bắc núi, đều thuộc Nga La Tư”, lại viết rõ “Lấy sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp chảy vào sông Hắc Long Giang làm ranh giới, bờ nam sông thuộc về Trung Quốc, bờ bắc sông thuộc về Nga La Tư. Quân phòng trú của Nga La Tư ở cửa sông Mi Lặc Nhĩ Khắc ở bờ nam, dời lên bờ bắc”, lại viết rõ “Tất cả người Nga La Tư cư trú ở thành Nhã Khắc Tát đều phải rút về đất Sát Hãn Hãn”, lại viết rõ “Phàm những người đi săn bắn không được vượt qua ranh giới, nếu có ai tụ họp cầm khí giới giết người cướp của sẽ lập tức bắt về chính pháp, không để chuyện nhỏ làm hỏng việc lớn, để việc giao hảo giữa hai nước chúng ta không phát sinh tranh chấp”.
Khâm sai hai nước sai phái thuộc hạ tra xét địa hình không lầm lẫn, cắm bia nêu ranh giới. Những đất cắm bia ấy vốn phải là ranh giới bất di bất dịch giữa hai nước Trung Nga, nhưng hơn một trăm mấy mươi năm sau, nước Nga nhân Trung Quốc suy yếu, từng bước tằm ăn dâu xâm chiếm, không đếm xỉa gì tới biên giới đã hoạch định năm ấy, thôn tính một vùng đất màu mỡ rộng lớn của Trung Quốc. Người sau đọc sử tới đó, thường ngậm ngùi than rằng “Làm sao dựng được Khang Hy, Vi Tiểu Bảo dưới đất lên, để đánh đuổi người La Sát tham lam lấy lại đất đai của chúng ta?”.
Dựng bia cắm mốc biên giới xong, Khâm sai hai nước làm lễ từ biệt, cùng lên đường về kinh phục mệnh.
Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu tới, bảo hai người dâng lễ vật lên công chúa Tô Phi Á, trong đó có chăn gấm, lại có gối thêu hoa. Phương bắc hoang vu thô lậu, những sản vật này không tìm đâu ra, đều là vật của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu công chúa quả thật nhớ tới ta, thì cứ ôm những chăn gối này mà ngủ”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Tình ý của công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ là thiên trường địa cửu, chăn gấm gối bông rất dễ hư nát, xin đại nhân cứ phái vài kỹ sư xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây cầu đá, như thế thì vĩnh viễn không hư hỏng”.
Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta đã nghĩ tới chuyện ấy, các ngươi không cần chót chét”. Rồi sai thân binh vác ra một cái rương gỗ lớn, dài tám thước rộng bốn thước, giống như một cái quan tài lớn, tám tên thân binh dùng kiệu lớn khiêng ra, rõ ràng bên trong rất nặng, phía ngoài rương có dây sắt buộc chặt, dán dấu niêm phong, dùng sơn đen gắn lại. Vi Tiểu Bảo nói “Lễ vật này không phải tầm thường, các ngươi phải giữ gìn cho tốt, không được để hư hỏng, công chúa nhìn thấy nhất định sẽ vui lòng, tình ý thiên trường địa cửu ấy cũng bền vững như cầu đá Trung Quốc vậy”.
Hai viên Đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, nhận lãnh cái rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ ấy nặng cả ngàn cân, từ Ni Bổ Sờ xa xôi chờ tới Mạc Tư Khoa, trên đường đi vô cùng vất vả.
Công chúa Tô Phi Á nhận được mở rương ra, thì là một pho tượng Vi Tiểu Bảo khỏa thân bằng đá, tươi cười rạng rỡ, sinh động như thật.
Nguyên Vi Tiểu Bảo sai thợ làm bia đá cắm mốc biên giới tạc bức tượng ấy, lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết mấy chữ La Sát “Ta mãi mãi yêu cô” khắc trước ngực pho tượng. Công chúa Tô Phi Á vừa nhìn thấy, dở khóc dở cười, nghĩ tới thằng nhỏ Trung Quốc này quỷ quái khôn ngoan, đàn ông La Sát không sao bằng được, bất giác tình ý miên man, hồn bay vạn dặm.
Pho tượng đá ấy cất trong cung Khắc Lý Mụ Lâm, về sau Bỉ Đắc đại đế phát động chính biến, đuổi công chúa Tô Phi Á ra khỏi cung, đập nát pho tượng đá ấy, chỉ có một phần tàn khuyết được quân sĩ mang ra, các phụ nữ La Sát ngu dốt trong dân gian tới đó cầu khấn xin con, vuốt ve hạ thể của pho tượng đá, nghe nói rất là linh nghiệm.
—
(1) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Vương Bát Tử Kê” có nghĩa là “Gà chết khốn khiếp”, “Trư La Nhụ Phu” có nghĩa là “Thằng hèn con heo”, đây là Vi Tiểu Bảo có ý trêu chọc xỏ xiên.
(2) Xét : Đây là sao chép từ sử tịch trong văn kiện giao thiệp với Nga La Tư tại Đồ thư quán, chính xác không sai, duy đoạn cuối cùng có liên quan tới Vi Tiểu Bảo thì e là lời của nhà tiểu thuyết, có khi chưa thể tin được.
(3) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lạp Đinh” là phiên âm tiếng Hoa từ “Latin”, Vi Tiểu Bảo lại hiểu là “kéo trang đinh”.
(4) Xét : Đây là văn kiện có thật, năm ấy Khang Hy bắt được sứ thần nước Nga, giam cầm nửa tháng rồi cho giải về nước, tịch thu được văn kiện này cất ở hồ sơ trong cung. Bức ảnh bản kiện này xem trong “Cố cung Nga văn sử liệu”.
(5) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch, Vi Tiểu Bảo nghe “Đồ Lại” thành “Đổ Lại”, và hiểu là “đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại”, “Quốc Cương” thành “Cốt Quang” và hiểu là “chơi bài xương thì phải thua sạch”.
(6) Xét: Theo Lưu Tuyển Dân trong bài Trung Nga tảo kỳ mậu dịch khảo trên Yên Kinh học báo số 25, nước Nga phái đại sứ Phí Yếu Đa La Quả La Văn đàm phán việc phân định biên giới, hoạt động thông thương với Trung Quốc. Quả La Văn dọc đường qua phía đông, lại nhận được mật chỉ của triều đình ra lệnh, trịnh trọng chỉ thị : Nếu có thể giành được mối lợi thông thương với Trung Quốc thì không ngại gì nhường thành Nhã Khắc Tát cho Trung Quốc, ngoài ra trong phạm vi hoàn toàn không làm tổn thương sự oai nghiêm của Sa hoàng, cứ bí mật tặng biếu hối lộ thật hậu cho đại biểu Trung Quốc.
(7) Xét : Năm Khang Hy thứ mười lăm, nước Nga phái Tư Ba Tháp Lôi N. G. Spatuary làm Khâm sai, dẫn theo các chuyên gia về bảo thạch và dược liệu tới Bắc Kinh, đề xuất nhiều yêu cầu, trong đó có một điều là “Trung Quốc ưng thuận cho Nga quốc mượn kỹ sư xây câu”. Nhưng vì viên Khâm sai này không chịu dập đầu lạy Khang Hy, nên bị triều đình nhà Thanh đuối về nước.
(8) Xét : Khâm sai nghị hòa của nước La Sát tên Phí Yếu Đa La Quả La Văn Fedor A. Golovin, đương thời không biết tập quán người phương Tây là tên trước họ sau, nên sử sách Trung Quốc gọi là Phí Yếu Đa La.
(9) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lão Miêu Lạp My Pháp” trong tiếng Hoa có nghĩa là “Cách mèo già giàu cứt”, ở đây Vi Tiểu Bảo đặt ra để xỏ xiên chế nhạo viên Khâm sứ người Nga
(10) Xét : Năm 1238 đại tướng Mông Cổ Bạt Đô công hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ, trong hai trăm bốn mươi năm từ 1240 đến 1480 người Mông Cổ thống trị lãnh thổ rộng lớn của Nga Ba Tư, xây dựng Kim trướng Hãn quốc. Đại Anh bách khoa toàn thư ghi chép về từ Nga La Tự như sau “Vương công tử tước ở Mạc Tư Khoa đều phải tới thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia triều kiến Khả hãn Mông Cổ trong hoàng kim trướng, tiếp nhận phong hiệu. Họ thường phải chịu đựng đủ chuyện nhục mạ, sau khi triều bái trở về Mạc Tư Khoa, thì có thể nộp thuế cho người Thát Đát, khinh rẻ các chư hầu nước nhỏ chung quanh”.
(11) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch. Nguyên thành ngữ này là “Dũng vãng bất tiền” (Dũng cảm xông lên, không ai đi trước được mình), Vi Tiểu Bảo lại tưởng chữ “tiền” (trước) là “tiền” (tiền bạc) nên sửa lại như thế.
(12) Xét : Chữ ký của Vi Tiểu Bảo trên điều ước kỳ lạ không thế nhận ra được, các sử gia đời sau chỉ biết được chữ ký của Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La, các nhà khảo cổ học như bọn Quách Mạt Nhược biết giáp cốt văn, mà không biết trong Điều ước Ni Bố Sở có thêm chữ Tiểu, nên đại danh của Vi Tiếu Bảo đến nay bị mai một. Sử sách đời sau đều nói người ký kết Điều ước Ni Bố Sở là Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La. Từ xưa đến nay, chỉ có độc giả sách Lộc Đỉnh ký mới biết trên đời có Vi Tiểu Bảo thôi. Việc ký kết và nội dung Điều ước Ni Bố Sở thuật trong sách này, ngoài nhân vật Vi Tiểu Bảo bổ sung cho những điều thiếu sót trong sử sách thì đều căn cứ vào những ghi chép trong thư tịch.
(*) Chú : “Đô hộ” là chức Tổng đốc quân chính do nhà Hán đặt ra để thống trị các nước Tây Vực, “Ngọc Môn quan” là đường yếu đạo thông qua tây vực thời Hán, câu “Ngọc Môn không đặt” ý nói cương vực rộng lớn, Ngọc Môn đã không thể trở thành cửa ải hiểm yếu. “Đồng trụ còn nêu” là nói việc sau khi Mã Viện nhà Đông Hán chinh phục Giao Chỉ (An Nam), khai thương thác thố, dựng cột đồng làm ranh giới, có ý là cắm mốc biên giới khác có lợi cho Trung Quốc.