Nhà thơ Lý Bạch (李白) (701-762) có tên tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士). Lý Bạch quê gốc ở Cam Túc, sinh ra ở Tứ Xuyên, dưới thời Võ Chu (Võ Tắc Thiên). Ông được người đương thời và hậu thế tán dương là “thi tiên”, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Do sở thích uống rượu mà ông còn được xưng tụng là Tửu Tiên, Trích Tiên hay Thiên Thượng Trích Tiên.
Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐詩三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Top 10 bài thơ hay nhất của Lý Bạch
1. Tĩnh dạ tứ (Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
Bài thơ Tĩnh dạ tứ được nhà thơ Lý Bạch sáng tác khi ông ở xa quê hương của mình. Bài thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương thấm thía của một người sống xa quê, xa nhà trong cảnh đêm trăng thanh tĩnh.
"Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi thị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương."
Dịch nghĩa
Đầu giường ánh trăng chiếu rọi
Ngỡ là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu ngắm trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ
Ánh trăng chiếu sáng đầu giường
Ngỡ là mặt đất phủ sương móc dày
Ngẩng đầu ngắm ánh trăng đầy
Cúi đầu bỗng nhớ những ngày cố hương
2. Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
Lý Bạch là người ít quan tâm đến thế sự nhân tình, ông thích cuộc sống phóng túng nay đây mai đó. Vì thế, thơ Lý Bạch cũng khác với các hồn thơ đương thơi. Nếu bạn từng đọc về thơ của ông sẽ thấy bộ 3 hình ảnh: trăng, rượu, thơ xuất hiện rất nhiều. Đó được xem là người bạn tri kỷ của ông. Bài thơ Nguyệt hạ độc chước kỳ 1 là một trong số đó. Trăng, thơ, rượu đã giúp hồn thơ Lý Bạch cất cánh bay lên.
Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. Nguyệt ký bất giải ẩm, Ảnh đồ tùy ngã thân. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi, Ngã vũ ảnh linh loạn. Tỉnh thì đồng giao hoan, Tuý hậu các phân tán. Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán.
DỊCH NGHĨA
Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đã không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo mình
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại
3. Nguyệt dạ giang hành ký thôi viên ngoại tông chi
Phiêu phiêu giang phong khởi Tiêu táp hải thụ thu Đăng lô mỹ thanh dạ Quải tịch di khinh chu Nguyệt tùy bích sơn chuyển Thủy hợp thanh thiên lưu Diểu như tinh hà thượng Đán giác vân lâm u Quy lộ phương hạo hạo Tồ xuyên khứ du du Đồ bi huệ thảo yết Phúc thính lăng ca sầu Ngạn khúc mê hậu phố Sa minh hám tiền châu Hoài quân bất khả kiến Lưu viễn tăng ly ưu
4. Đối tửu
Bồ đào tửu, Kim phả la, Ngô cơ thập ngũ tế mã đà. Thanh đại hoạ mi hồng cẩm ngoa, Đạo tự bất chính kiều xướng ca. Đại mội diên trung hoài lý tuý, Phù dung trướng để nại quân hà.
DỊCH NGHĨA
Rượu nho uống với chén vàng
Gái Ngô ngựa nhỏ tuổi chừng mười lăm
Mày xanh giày ủng gấm hồng
Giọng tuy chưa chuẩn thanh âm nhẹ nhàng
Tiệc đang dở bỗng say ngang
Trướng hoa bất tỉnh cô nàng cười chăng?
5. Bả tửu vấn nguyệt
Thanh thiên hữu nguyệt lai kỷ thì, Ngã kim đình bôi nhất vấn chi! Nhân phan minh nguyệt bất khả đắc, Nguyệt hành khước dữ nhân tương tuỳ. Kiểu như phi kính lâm đan khuyết, Lục yên diệt tận thanh huy phát Đãn kiến tiêu tòng hải thượng lai, Ninh tri hiểu hướng vân gian một. Bạch thố đảo dược thu phục xuân, Thường nga cô thê dữ thuỳ lân. Kim nhân bất kiến cổ thì nguyệt, Kim nguyệt tằng kinh chiếu cổ nhân. Cổ nhân kim nhân nhược lưu thuỷ, Cộng khan minh nguyệt giai như thử. Duy nguyện đương ca đối tửu thì, Nguyệt quang thường chiếu kim tôn lý.
Dịch nghĩa
Trời xanh có vầng trăng đã bao lâu rồi?
Nay ta ngừng chén hỏi trăng đây!
Người thường không thể vin với được vầng trăng sáng,
Trăng đi đâu thì vẫn cứ theo người.
Ánh sáng trắng như gương vút tận cửa son,
Khói biếc tan đi hết, để lộ vẻ trong trẻo lan tỏa ra.
Chỉ thấy ban đêm trăng từ biển tới,
Nào hay sớm lại tan biến giữa trời mây.
Thỏ trắng giã thuốc mãi thu rồi lại xuân,
Thường Nga lẻ loi cùng ai bầu bạn?
Người ngày nay không thấy bóng trăng xưa.
Trăng nay thì đã từng soi người xưa.
Người xưa nay tựa như giòng nước chảy,
Cùng ngắm vầng trăng sáng như vậy đó.
Chỉ mong trong lúc ca say trước cuộc rượu,
Ánh trăng cứ mãi sáng soi vào chén vàng.
6. Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi, Kim triêu cánh cử thương. Cúc hoa hà thái khổ, Tao thử lưỡng trùng dương.
Dịch nghĩa
Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương.
7. Thanh bình điệu kỳ 1
Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung, Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng. Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến, Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng.
DỊCH NGHĨA
Nhìn mây nhớ đến xiêm áo, thấy hoa nhớ đến dung nhan,
Gió xuân thổi nhẹ qua hiên, sương hoa nồng nàn.
Nếu không phải người ở mé núi Quần Ngọc,
Thì cũng là thấy ở dưới trăng chốn Dao Đài.
8. Anh Vũ Châu
Anh vũ lai quá Ngô giang thuỷ, Giang thượng châu truyền Anh Vũ danh. Anh vũ tây phi Lũng sơn khứ, Phương châu chi thụ hà thanh thanh. Yên khai lan diệp hương phong khởi, Ngạn giáp đào hoa cẩm lãng sinh. Thiên khách thử thời đồ cực mục, Trường châu cô nguyệt hướng thuỳ minh?
DỊCH NGHĨA
Chim anh vũ xưa bay đến sông Ngô
Bãi trên sông mới truyền lại tên Anh Vũ
Chim anh vũ đã bay về Tây qua núi Lũng
Bãi thơm cây xanh biếc làm sao!
Khói toả ra từ lá cây lan làm gió thơm nổi dậy
Bờ liền với hoa đào, sóng gấm sinh
Lúc ấy người đi đày trông hoài cõi xa
Trên bãi dài mảnh trăng cô đơn còn soi sáng cho ai
9. Bá Lăng hành tống biệt
Bá Lăng hành tống biệt Tống quân Bá Lăng đình, Bá thuỷ lưu hạo hạo. Thượng hữu vô hoa chi cổ thụ, Hạ hữu thương tâm chi xuân thảo. Ngã hướng Tần nhân vấn lộ kỳ, Vân thị Vương Xán nam đăng chi cổ đạo. Cổ đạo liên miên tẩu Tây kinh, Tử khuyết lạc nhật phù vân sinh. Chính đương kim tịch đoạn trường xứ, "Ly ca" sầu tuyệt bất nhẫn thính.
DỊCH NGHĨA
Tiễn ông nơi đình Bá Lăng,
Sông Bá chảy mênh mông.
Trên cây cổ thụ không thấy hoa,
Dưới đất cỏ xuân như lộ vẻ thương tâm.
Tôi hỏi đường người đất Tần tại ngã rẽ chia tay,
Đáp rằng chính là con đường xưa Vương Xán đi về nam.
Đường cũ xa vời vợi dẫn tới Tây kinh,
Mây chiều đang nổi trên hoàng cung.
Đúng vào lúc chiều tà chia tay buồn đứt ruột,
Ai hát bài “Ly Ca” không còn lòng dạ đâu mà nghe.
10. Cổ ý
Quân vi nữ la thảo, Thiếp tác thố ti hoa. Khinh điều bất tự hành, Vị trục xuân phong tà. Bách trượng thác viễn tùng, Triền miên thành nhất gia. Thuỳ ngôn hội diện dị, Các tại thanh sơn nha (nhai). Nữ la phát hinh hương, Thố ty đoạn nhân trường. Chi chi tương củ kết, Diệp diệp cánh phiêu dương. Sinh tử bất tri căn, Nhân thuỳ cộng phân phương. Trung sào song phỉ thuý, Thượng túc tử uyên ương. Nhược thức nhị thảo tâm, Hải triều diệc khả lường.
DỊCH NGHĨA
Chàng là loài cỏ nữ la
Thiếp là loài hoa thố ti
Cành nhỏ nhắn không thể tự đi
Nghiêng ngả theo gió xuân
Gởi thân nơi cây tùng trăm trượng xa xôi
Lâu ngày thành chung một nhà
Ai bảo gặp nhau đã dễ
Mỗi bên ở một bên sườn núi xanh
Cỏ nữ la toả mùi thơm ngát
Hoa thố ti làm người ta đứt ruột
Cành cành kết lại với nhau chằng chịt
Lá lá phất phơ theo gió
Sinh con chẳng biết đến rễ
Nhờ ai mà cùng thơm
Bên trong là tổ phỉ thuý
Bên trên đôi uyên ương đậu
Ví như biết được tấm lòng của hai loài cỏ ấy
Thì có thể đo được nước triều ở biển.