Đỗ Phủ (杜甫; 712 – 770), biểu tự Tử Mĩ (子美), hiệu Thiếu Lâm Diệp Lão (少陵野老), Đỗ Lăng dã khách (杜陵野客) hay Đỗ Lăng bố y (杜陵布衣). Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử (诗史) và Thi Thánh (诗圣).
Trong suốt cuộc đời của mình, tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng vì Loạn An Lộc Sơn năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Có một thời gian ngắn ông làm quan nhưng gần như suốt cuộc đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật. Ông thường cùng Lý Bạch được gọi là Lý Đỗ (李杜). Về sau, có Lý Thương Ẩn cùng Đỗ Mục trứ danh thời Vãn Đường, được gọi là Tiểu Lý Đỗ (小李杜) để phân biệt, vì vậy cặp Lý Bạch-Đỗ Phủ được gọi là Đại Lý Đỗ (大李杜). Từ thời nhà Thanh, Đỗ Phủ được gọi là Lão Đỗ (老杜) để phân biệt với Đỗ Mục.
Mặc dù không nổi tiếng từ đầu, nhưng những tác phẩm của ông gây ảnh hưởng nhiều đến cả văn hóa Trung Quốc và Nhật Bản. Đối với độc giả phương Tây, tầm vóc các tác phẩm của ông sánh ngang với Virgil, Horace, Ovid, Shakespeare, Milton, Burns, Wordsworth, Béranger, Hugo. Đến nay, bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca là bài thơ nổi tiếng nhất của ông.
10 bài thơ hay nhất của Đỗ Phủ
1. Thu hứng kì 1 (秋興其)
玉露凋傷楓樹林, 巫山巫峽氣蕭森。 江間波浪兼天湧, 塞上風雲接地陰。 叢菊兩開他日淚, 孤舟一繫故園心。 寒衣處處催刀尺, 白帝城高急暮砧。 Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
DỊCH nghĩa
Trong rừng phong, móc ngọc tơi bời,
Nơi núi Vu và kẽm Vu, khí ảm đạm hiu hắt.
Dưới lòng sông, sóng và trời (soi bóng) cùng dâng trào,
Ngoài ải, gió và mây tiếp nối với đất che mờ mịt.
Khóm cúc dày đã hai lần nở chảy ra dòng lệ ngày trước,
Con thuyền lẻ loi vẫn buộc chặt nỗi lòng nhớ quê nhà.
Nơi nơi giục giã dao thước may áo rét,
Thành cao Bạch Đế tiếng chày đập áo lúc chiều tối dồn dập.
2. Mao ốc vị thu phong sở phá ca (茅屋為秋風所破歌)
八月秋高風怒號, 卷我屋上三重茅。 茅飛渡江灑江郊, 高者掛罥長林梢, 下者飄轉沉塘坳。 南村群童欺我老無力, 忍能對面為盜賊。 公然抱茅入竹去, 唇焦口燥呼不得, 歸來倚杖自歎息。 俄頃風定雲墨色, 秋天漠漠向昏黑。 布衾多年冷似鐵, 驕兒惡臥踏裡裂。 床頭屋漏無干處, 雨腳如麻未斷絕。 自經喪亂少睡眠, 長夜沾濕何由徹! 安得廣廈千萬間, 大庇天下寒士俱歡顏, 風雨不動安如山! 嗚呼!何時眼前突兀見此屋, 吾廬獨破受凍死亦足! Bát nguyệt thu cao phong nộ hào, Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao. Mao phi độ giang sái giang giao. Cao giả quải quyến trường lâm sao, Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao. Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực, Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc. Công nhiên bão mao nhập trúc khứ, Thần tiều khẩu táo hô bất đắc. Qui lai ỷ trượng tự thán tức. Nga khoảnh phong định vân mặc sắc, Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc. Bố khâm đa niên lãnh tự thiết. Kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt. Sàng đầu ốc lậu vô can xứ, Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt. Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên, Trường dạ chiêm thấp hà do triệt. An đắc quảng hạ thiên vạn gian, Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan, Phong vũ bất động an như san. Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc, Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
dịch nghĩa
Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
Trở về, chống gậy, thở than.
Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!
3. Đăng cao (登高)
風急天高猿嘯哀, 渚清沙白鳥飛回。 無邊落木蕭蕭下, 不盡長江滾滾來。 萬里悲秋常作客, 百年多病獨登臺。 艱難苦恨繁霜鬢, 潦倒新停濁酒杯。 Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai, Chử thanh, sa bạch, điểu phi hồi. Vô biên lạc mộc tiêu tiêu há, Bất tận trường giang cổn cổn lai. Vạn lý bi thu thường tác khách, Bách niên đa bệnh độc đăng đài. Gian nan khổ hận phồn sương mấn, Lạo đảo tân đình trọc tửu bôi.
dịch nghĩa
Gió thổi gấp, trời cao, vượn kêu buồn,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay lượn vòng.
Vô vàn lá xào xạc rụng xuống,
Dòng sông dài cuồn cuộn chảy vô tận.
Xa nhà vạn dặm, vẻ thu hiu hắt, mãi vẫn làm khách xứ người,
Cuộc đời lắm bệnh, một mình lên đài cao.
Gian nan, khổ hận, tóc mai dày nhuốm màu sương gió,
Thân già ốm yếu nên mới phải thôi cạn chén rượu đục.
4. Nguyệt Dạ (月夜)
今夜鄜州月, 閨中只獨看。 遙憐小兒女, 未解憶長安。 香霧雲鬟濕, 清輝玉臂寒。 何時倚虛幌, 雙照淚痕乾? Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can?
dịch nghĩa
Vầng trăng ở Phu Châu đêm nay
Trong phòng khuê chỉ một người đứng nhìn
Ở xa thương cho con gái bé bỏng
Chưa hiểu nỗi nhớ Trường An
Sương thơm làm ướt mái tóc mai
Ánh trăng trong sáng làm giá lạnh cánh tay ngọc
Bao giờ được tựa bên màn mỏng
Để trăng chiếu cả đôi ta cho ngấn lệ ráo khô?
5. Xuân Vọng (春望)
國破山河在, 城春草木深。 感時花濺淚, 恨別鳥驚心。 烽火連三月, 家書抵萬金。 白頭搔更短, 渾欲不勝簪。 Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm. Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hoả liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thăng trâm.
dịch nghĩa
Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.
6. Nguyệt dạ ức xá đệ (月夜憶舍弟)
戍鼓斷人行,
秋邊一雁聲。
露從今夜白,
月是故鄉明。
有弟皆分散,
無家問死生。
寄書長不達,
況乃未休兵。
Thú cổ đoạn nhân hành,
Thu biên nhất nhạn thanh.
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Hữu đệ giai phân tán,
Vô gia vấn tử sinh.
Ký thư trường bất đạt,
Huống nãi vị hưu binh.
dịch nghĩa
Tiếng trống nơi đồn thú vang lên, không còn ai dám qua lại,
Một tiếng nhạn kêu ở chốn biên thuỳ mùa thu.
Từ đêm nay trở đi, sương móc rơi trắng xoá,
Trăng vẫn sáng tại quê nhà.
Có các em trai, nhưng đều ly tán,
Không còn nhà để mà hỏi thăm chúng còn sống hay đã chết.
Gửi thư về, nhưng thư thường không tới nơi,
Huống chi chiến tranh vẫn còn chưa thôi.
7. Kỷ thượng nhân mao trai (巳上人茅齋)
巳公茅屋下, 可以賦新詩。 枕簟入林僻, 茶瓜留客遲。 江蓮搖白羽, 天棘夢青絲。 空忝許詢輩, 難酬支遁詞。 Kỷ công mao ốc hạ, Khả dĩ phú tân thi. Chẩm điệm nhập lâm tích, Trà qua lưu khách trì. Giang liên dao bạch vũ, Thiên cức mạn thanh ti. Không thiểm Hứa Tuân bối, Nan thù Kỳ Độn tì (từ).
dịch nghĩa
Dưới mái tranh của hoà thượng Kỷ,
Có thể làm bài thơ mới được.
Gối với chiếu vào rừng hẹp,
Trà với dưa có thể giữ khách được lâu.
Sen dưới sông rung rung bộ lông trắng,
Cây gai trời giăng nhiều tơ xanh.
Chẳng kém bọn Hứa Tuân,
Và cũng khó đáp lại lời Chi Kỳ Độn.
(Năm 741)
8. Ẩm trung bát tiên ca (飲中八仙歌)
知章騎馬似乘船, 眼花落井水底眠。 汝陽三斗始朝天, 道逢麹車口流涎。 恨不移封向酒泉, 左相日興費萬錢。 飲如長鯨吸百川, 銜杯樂聖稱世賢。 宗之瀟灑美少年, 舉觴白眼望青天。 皎如玉樹臨風前, 蘇晉長齋繡佛前。 醉中往往愛逃禪, 李白一斗詩百篇。 長安市上酒家眠, 天子呼來不上船。 自稱臣是酒中仙, 張旭三杯草聖傳。 脫帽露頂王公前, 揮毫落紙如雲煙。 焦遂五斗方卓然, 高談雄辨驚四筵。 Tri Chương kỵ mã tự thừa thuyền, Khán hoa lạc tỉnh thuỷ để miên. Nhữ Dương tam đấu thuỷ triều thiên. Đạo phùng khúc xa khẩu lưu diên. Hận bất di phong hướng Tửu Tuyền. Tả tướng nhật hứng phí vạn tiền, Ẩm như trường kình hấp bách xuyên. Hàm bôi lạc thánh xưng tị hiền. Tông Chi tiêu sái mỹ thiếu niên, Cử trường bạch nhãn vọng thanh thiên, Hiệu như ngọc thụ lâm phong tiền. Tô Phổ trường trai tú Phật tiền, Tuý trung vãng vãng ái đào thiền. Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên, Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thướng thuyền. Tự xưng thần thị tửu trung tiên. Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền, Thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền. Huy hào lạc chỉ như vân yên. Tiêu Toại ngũ đẩu phương trác nhiên, Cao đàm hùng biện kinh tứ diên.
dịch nghĩa
Tri Chương cưỡi ngựa mà giống như lên thuyền,
Mải coi hoa nên sa chân xuống giếng nước, ông ngủ luôn dưới đáy giếng.
Nhữ Dương phải uống ba chén trước khi vào cung chầu vua.
Trên đường trông thấy xe chở men rượu mà nước miếng chảy rào rào,
Giận rằng mình không được bổ nhiệm nơi Suối Rượu.
Tả tướng trong ngày hứng lên tiêu tiền rượu đến vạn đồng.
Uống như con cá kình lớn hút luôn tới cả trăm con sông.
Nâng chén tự xưng là thánh yêu đời, người hiền đi ở ẩn.
Thôi Tông Chi thời nhỏ rất thanh tao, đẹp trai,
Nâng ly lên là trên đời không thấy ai là tri kỷ, chỉ thấy trời cao xanh,
Trắng đẹp như cây ngọc trước làn gió.
Tô Phổ, người trai giới thờ Phật,
Khi say thì quên luôn cả việc ngồi tham thiền.
Lý Bạch chỉ cần một ly thôi là hàng trăm bài thơ ra,
Nơi phố chợ Trường An, tại quán rượu say ngủ khì.
Nhà vua cho thuyền tới đón mà không chịu lên,
Còn nói rằng mình là vị tiên say rượu.
Trương Húc uống ba chén rượu là người đời tôn là vị thánh viết chữ,
Tụt khăn, để đầu trần trước mặt các quan lớn,
Vung bút trên giấy như mây khói vờn.
Tiêu Toại vừa mới làm độ năm ly,
Là nói thao thao khiến bốn bên trên bàn tiệc phải kinh nể.
9. Du Long Môn Phụng Tiên tự (遊龍門奉先寺)
已從招提遊, 更作招提境。 陰壑生虛籟, 月林散清影。 天闕象緯逼, 雲臥衣裳冷。 欲覺聞晨鐘, 金人發深省。 Dĩ tòng chiêu đề du, Canh tác chiêu đề cảnh. Âm hác sinh hư lại, Nguyệt lâm tán thanh ảnh. Thiên khuyết tượng vĩ bức, Vân ngọa y thường lãnh. Dục giác văn thần chung, Kim nhân phát thâm tỉnh.
dịch nghĩa
Đã đi thăm chùa,
Còn được ngủ lại đêm ở chùa.
Trong hang âm u mát lạnh có những âm thanh mơ hồ,
Trăng chiếu trong rừng tạo những hình ảnh trong sáng.
Sao nơi cổng trời như gần ngay bên mình,
Nằm trong mây nên quần áo lạnh toát.
Chờ nghe tiếng chuông ban mai,
Khiến người ta thức tỉnh lẻ thâm sâu của đạo pháp.
(Năm 736)
10. Đăng Duyện Châu thành lâu (登兗州城樓)
東郡趨庭日, 南樓縱目初。 浮雲連海岱, 平野入青徐。 孤嶂秦碑在, 荒城魯殿餘。 從來多古意, 臨眺獨躊躇。 Đông Quận xu đình nhật, Nam lâu túng mục sơ. Phù vân liên Hải Đại, Bình dã nhập Thanh Từ. Cô chướng Tần bi tại, Hoang thành Lỗ điện dư. Tòng lai đa cổ ý, Lâm diễu độc trù trừ.
dịch nghĩa
Ngày đến Đông Quận thăm cha
Lên lầu phía nam phóng mắt nhìn
Mây nổi nối liền Đông Hải và Đại Sơn
Đồng bằng tít tắp đến Thanh Châu, Từ Châu
Ngọn núi chơ vơ còn tấm bia Tần
Trong thành hoang vẫn sót lại điện Lỗ
Nơi này xưa nay nhiều ý vị cổ kính
Đứng ngắm mà lòng cảm khái dùng dằng.