Cuối hồi trước, đang nói chuyện Trương Phi rút gươm ra sắp tự vẫn, Lưu Bị trông thấy vội vàng bước lên giật lấy gươm, vứt xuống đất rồi nói:
– Xưa có câu rằng “Anh em như chân tay; vợ con như áo mặc”. Áo rách còn dễ may; chân tay gãy, chắp sao được? Ba anh em ta kết nghĩa với nhau ở vườn đào, đã thề cùng sống chết với nhau. Nay dù mất thành trì vợ con nữa, sao nỡ để anh em nửa đường chết đi cho đành. Phương chi thành trì không phải của ta; vợ con ta bị hãm ở trong thành, nhưng ta chắc Lã Bố không nỡ giết, cũng còn nghĩ kế cứu được. Hiền đệ nhầm một lúc, việc gì đã đến nỗi quyên sinh?
Lưu Bị nói xong rỏ nước mắt khóc. Quan, Trương cũng khóc cả.
Viên Thuật biết rằng Lã Bố đã cướp Từ Châu, sai người đến nói với Bố rằng: Hễ Bố cùng giúp đánh Lưu Bị sẽ đưa cho năm vạn hộc lương, năm trăm ngựa, một vạn lạng vừa vàng vừa bạc, một nghìn tấm vóc nhiễu.
Bố ưng ý lắm, sai ngay Cao Thuận dẫn năm vạn quân đến đánh mé sau Lưu Bị.
Lưu nghe tin ấy, nhân khi mưa dầm rút quân bỏ Vu Thai chạy, muốn về lấy Quảng Lăng.
Khi Cao Thuận đến nơi, Lưu Bị đã đi rồi. Thuận vào ra mắt Kỷ Linh, đòi những đồ Viên Thuật đã hứa cho. Linh nói:
– Ông cứ về. Để tôi vào nói với chúa công tôi.
Thuận từ giã Kỷ Linh, về thuật lại với Lã Bố. Bố còn đang hồ nghi, chợt có thư của Viên Thuật đưa đến, trong thư nói rằng:
“Cao Thuận tuy có đến giúp, nhưng Lưu Bị chưa trừ được. Đợi khi nào bắt được Lưu Bị, bấy giờ tôi sẽ đưa các đồ đã hứa cho ngài.”
Bố giận lắm, cho Viên Thuật là đồ thất tín, muốn kéo quân sang đánh, Trần Cung can rằng:
– Không nên! Viên Thuật giữ Thọ Xuân, binh nhiều lương rộng. Chớ nên khinh địch. Không bằng mời Lưu Bị lại về đóng quân ở Tiểu Bái để làm vây cánh cho ta. Về sau sai Lưu Bị làm tiên phong, trước đánh Viên Thuật sau đánh Viên Thiệu rồi có thể tung hoành thiên hạ được.
Bố nghe lời, sai người đem thư đi mời Lưu Bị.
Bấy giờ Lưu Bị đã kéo quân về đông lấy đất Quảng Lăng, bị Viên Thuật vào cướp trại, quân lính hao hụt quá nửa, gặp sứ của Lã Bố đến, đưa thư mời về Tiểu Bái. Lưu Bị mừng lắm. Quan, Trương nói:
– Lã Bố là đứa vong ân bội nghĩa, không nên tin.
Lưu Bị nói:
– Nó lấy bụng tử tế đãi ta, việc gì phải nghi?
Ba anh em lại kéo quân về Từ Châu. Lã Bố sợ Lưu Bị còn nghi hoặc, trước hết sai người đưa trả lại gia quyến. Cam phu nhân và Mi phu nhân về gặp Lưu Bị, kể hết sự tình, nói rằng Lã Bố thường sai người giữ cửa nhà, cấm không cho ai được vào, lại thường thường sai thị thiếp đưa đồ ăn, thức dùng đến, không bao giờ phải thiếu thốn. Lưu Bị mới bảo Quan, Trương rằng:
– Ta đã biết Lã Bố tất không hại gia quyến ta!
Lưu Bị vào thành để tạ Lã Bố. Trương Phi không chịu theo vào, đem hai chị về Tiểu Bái trước.
Lưu Bị vào ra mắt lạy tạ Lã Bố. Bố nói:
– Tôi không phải muốn cướp thành. Bởi vì Trương Phi ở đây, hay say rượu giết người, tôi e xảy ra chuyện bất trắc, nên tôi lại giữ hộ đấy thôi!
Lưu Bị nói:
– Tôi vẫn muốn nhường anh đã lâu.
Bố giả dạng nhường lại cho Lưu Bị. Lưu Bị nhất quyết không chịu, về đóng ở Tiểu Bái.
Quan, Trương trong bụng không bằng lòng.
Lưu Bị nói:
– Nhún mình yên phận, để đợi thời; không thể cưỡng lại số mệnh được!
Lã Bố thường thường sai người đưa lương ăn và vải lụa đến. Từ bây giờ hai bên lại hòa thuận với nhau.
Trong khi ấy thì Viên Thuật ở Thọ Xuân mở tiệc yến to, hội tướng sĩ lại ăn uống. Chợt có người báo rằng:
– Tôn Sách đi đánh thái thú Lư Giang là Lục Khang, thắng lợi trở về.
Thuật gọi Sách đến. Sách lạy ở dưới thềm. Thuật hỏi han chuyện trò xong rồi cho Sách ngồi dự tiệc.
Nguyên Tôn Sách từ khi bố mất, về ở Giang Nam kính người hiền, tôn kẻ sĩ, sau nhân Đào Khiêm cùng với cậu Sách, là thái thú Đang Dương tên là Ngô Cảnh không hòa với nhau, Sách mới đem mẹ và gia thuộc về Khúc A, mình thì sang ở với Viên Thuật.
Thuật yêu Sách lắm, thường vẫn than rằng:
– Giá ta có được đứa con như Tôn Lang, chết cũng không ân hận gì nữa.
Thuật cho Sách làm hoài nghĩa hiệu úy, sai đem binh sang đánh Tổ Lang ở Kinh Huyện.
Sách đánh được.
Thuật thấy Sách giỏi, lại sai sang đánh Lục Khang, cũng đánh được. Bấy giờ trở về.
Sách vào ăn tiệc. Khi tiệc đã tan, Sách về trại, nghĩ trong tiệc Thuật đã đãi mình khi ngạo bỉ một chút, trong bụng buồn bực, bèn lẩn đi bách bộ dưới bóng trăng ngoài sân. Nhớ đến sự ngày xưa, cha là Tôn Kiên thì anh hùng như thế mà minh thì lưu lạc thế này, bất giác hu hu cất tiếng khóc. Chợt có người ở ngoài đến cười to lên hỏi rằng:
– Bá Phù sao thế? Khi Tôn Công còn, việc gì cũng dùng dùng đến ta, nay anh có việc gì không quyết, sao chẳng hỏi ta mà lại khóc thế?
Sách trông xem ai, thì là Chu Trị, tên chữ là Quân Lý người ở Đan Dương; nguyên là tùng sự của Tôn Kiên ngày xưa.
Sách gạt nước mắt mời ngồi nói rằng:
– Tôi khóc là vì tôi giận tôi không nối được chí bố tôi ngày xưa.
Trị nói:
– Sao không tới với Viên Công Lộ, mượn binh kéo sang Giang Đông mượn tiếng là đi cứu Ngô Cảnh, nhưng sự thực là để mưu đồ nghiệp lớn, sao lại cứ chịu mãi ở dưới người ta?
Hai người đang bàn nhau, chợt lại có một người nữa ở đâu chạy vào nói rằng:
– Các ông bàn nhau việc gì tôi đã biết rồi, nay tôi có trăm quân lính tráng, xin giúp Bá Phù một tay.
Sách nhìn xem ai thì là mưu sĩ của Viên Thuật tên là Lã Phạm, tên chữ là Tử Hoành, người ở Nhữ Dương. Sách mừng lắm, mời cùng ngồi nói chuyện.
Lã Phạm nói:
– Tôi chỉ lo Viên Thuật không cho mượn quân.
Sách nói:
– Tôi có một vật báu để làm tin. Vật ấy là truyền quốc ngọc tỉ của cha tôi để lại cho.
Phạm nói:
– Công Lộ thèm được ngọc ấy đã lâu.
Hôm sau Sách vào ra mắt Viên Thuật, khóc nói rằng:
– Thù cha tôi chưa báo được, ngày nay cậu tôi là Ngô Cảnh lại bị thứ sử Dương Châu là Lưu Do bức bách. Mẹ già và vợ con ở cả Khúc A, e rằng sẽ bị hại. Vậy tôi xin mượn tướng quân vài nghìn hùng binh để sang sông cứu nạn, và để thăm nhà. Sợ minh công không tin, tôi xin đem ngọc tỉ của cha tôi để lại, để làm tin.
Thuật thấy ngọc tỉ vồ ngay lấy xem, mừng lắm nói rằng:
– Ta không phải cầu chi ngọc tỉ của ngươi, nhưng hãy tạm để đây, ta cho mượn ba nghìn binh, năm trăm ngựa, khi nào bình định rồi phải về ngay. Vả ngươi nay chức nhỏ ngồi thấp khó giữ được quyền lớn, ta cất cho người lên làm triết sung hiệu úy, điển khấu tướng quân.
Ngay ngày hôm ấy cho lĩnh quân đi.
Sách lạy tạ rồi dẫn quân mã, đem cả Chu Trì, Lã Phạm và tướng cũ của cha là Trình Phổ, Hoàng Cái, Hán Đương, chọn ngày khởi binh.
Đi đến Lịch Dương, gặp một toán quân, có một người đi trước, dáng điệu phong Lưu Bị, nghi dung đẹp đẽ, trông thấy Tôn Sách, nhảy xuống ngựa vái một cái.
Sách nhìn xem ai, thì là Chu Du, tự là Công Cẩn, người ở Thư Thành, quận Lư Giang.
Vốn khi Tôn Kiên đánh Đổng Trác, Du đem gia quyến về ở Thư Thành. Du với Sách hai người cùng một tuổi, chơi với nhau rất thân, kết làm anh em. Sách hơn Du có vài tháng, Du thờ làm anh.
Chú Chu Du là Chu Thượng làm Thái thú ở Đan Dương. Bữa ấy Du sang thăm chú, đi đến đấy gặp Tôn Sách.
Sách mừng lắm, đem sự tình kể với Du. Du nói:
– Tôn xin hết sức khuyển mã, để cùng anh mưu toan nghiệp lớn.
Sách nói:
– Ta nay được Du, việc lớn tất phải xong.
Rồi bảo Chu Trị, Lã Phạm cùng đến gặp Chu Du.
Du bảo Sách rằng:
– Anh nay muốn làm việc to, có biết Giang Đông có hai họ Trương không?
Sách hỏi:
– Ai vậy?
Du nói:
– Một người ở Bành Thành, tên là Trương Chiêu, tự là Tử Bố; một người ở Quảng Lăng, tên là Trương Hoành, tự là Tử Cương. Hai người ấy đều có tài ngang trời dọc đất; nhân tránh loạn đến ở đấy, sao anh không đón mời hai người ấy.
Sách sai người đem đồ lễ đến mời Trương Chiêu, Trương Hoành. Hai người đều từ chối không đến. Sách phải thân đến tận nơi, cùng hai người nói chuyện. Sách rất lấy làm bằng lòng cố mời đi mời lại mãi, hai người mới chịu vâng lời. Sách cho Trương Chiêu làm trưởng sử, kiêm chức phủ quân trung lang tướng; Trương Hoành làm tham mưu, chánh nghị hiệu úy.
Cùng nhau bàn mưu sang đánh Lưu Do.
Lưu Do, tự là Chính Lễ, người ở Mâu Bình quận Đông Lai, cũng là Tôn thân nhà Hán, châu quan thái úy Lưu Sủng, em quan thứ sử Duyện Châu Lưu Đại. Trước làm thứ sử Dương Châu, đóng ở Thọ Xuân, sau bị Viên Thuật đuổi sang Giang Đông, cho nên đến Khúc A ở.
Bấy giờ Lưu Do nghe thấy quân Tôn Sách đến, vội vàng họp các tướng để bàn.
Bộ tướng là Trương Anh nói:
– Tôi xin lĩnh một cánh quân, đóng đồn Ngưu Chử, quân giặc dẫu có trăm vạn cùng không dám đến gần.
Nói chưa dứt lời, dưới trướng, có một người kêu to lên rằng:
– Tôi xin làm tiền bộ tiên phong!
Các tướng nhìn xem ai, thì la Thái Sử Từ, người ở Đông Lai.
Từ, tự khi giải được vây Bắc Hải cho Khổng Dung, sang với Lưu Do. Do giữ lại ở dưới trướng.
Do bảo:
– Ngươi còn ít tuổi, chưa nên làm đại tướng, hãy nên ở tả hữu ta để nghe mệnh lệnh.
Từ không bằng lòng lui ra.
Trương Anh lĩnh quân đến Ngưu Chử, chứa mười vạn hộc lương ở Lầu Các.
Tôn Sách dẫn quân đến. Trương Anh ra địch.
Hai bên hội quân ở trên bãi sông Ngưu Chử.
Trương Anh ra ngựa chửi mắng, Hoàng Cái ra đánh nhau với Trương Anh, chưa được vài hiệp, bỗng thấy trong quân Trương Anh bối rối, rồi thấy nói: “Trong trại có người phóng hỏa.”
Anh vội rút quân về. Tôn Sách thừa thế đánh dấn, Trương Anh thế cùng phải bỏ Ngưu Chử chạy trốn vào trong núi sâu.
Người phóng hỏa ở trong trại nguyên là hai viên kiện tướng. Một là Tưởng Khâm, tự là Công Địch, người ở Thọ Xuân xứ Cửu Giang, một là Chu Thái, tự là Ấu Bình, người ở Hạ Sái xứ Cửu Giang. Hai người gặp phải thời loạn, tụ quân trong sông Dương Tử, cướp bóc kiếm ăn; vốn nghe tiếng Tôn Sách là người hào kiệt ở Giang Đông, hay cầu người hiền, vời kẻ sĩ, cho nên dẫn đồ đảng hơn ba trăm người đến theo. Sách mừng lắm, dùng làm tướng tiền hiệu úy, thu được cả tiền lương khí giới ở Ngưu Chử, lại thêm được hơn bốn nghìn quân hàng, liền tiến binh lên đóng ở Thần Đình.
Trương Anh thua trở về vào ra mắt Lưu Do. Do giận muốn đem chém, lại có các mưu sĩ là Trích Dung và Tiết Lễ can mãi mới tha, sai Trương Anh đem quân đóng ở thành Linh Lăng để chống giặc. Do tự lĩnh quân ra mé nam núi Thần Đình cắm trại.
Tôn Sách đóng ở phía Bắc núi ấy.
Hôm sau Sách gọi người ở đấy hỏi rằng:
– Ở gần đây có miến nào thờ vua Hán Quang Vũ chăng?
Người ấy thưa:
– Có miếu ở trên đỉnh núi.
Sách nói:
– Đêm ta chiêm bao thấy vua Quang Vũ gọi ta vào tương kiến. Ta định lên miếu ấy cầu.
Trưởng sử là Trương Chiêu can rằng:
– Không nên đi! Mé nam núi này có trại Lưu Bị Do. Ngộ nó có phục binh làm thế nào?
Sách nói:
– Ta đã có thần thánh phù hộ, việc chi còn phải sợ?
Nói xong liền mặc áo giáp, cầm giáo lên ngựa, rồi đem bọn Trình Phổ, Hoàng Cái, Hàn Dương, Tưởng Khâm và Chu Thái cả thảy mười ba người cùng cưỡi ngựa lên núi. Đến miếu xuống ngựa, vào thắp hương lễ bái, Sách quỳ xuống khấn rằng:
– Tôi là Tôn Sách. Xin nguyện rằng nếu lập được nghiệp lớn ở đất Giang Đông, khôi phục lại được cơ đồ của cha tôi ngày xưa, xin sửa sang lại đình miếu bốn mùa lễ bái.
Sách khấn vái xong đi ra miếu, lên ngựa ngoảnh lại bảo các tướng:
– Ta muốn qua bên kia núi, dòm xem dinh trại Lưu Do đóng ra làm sao?
Các tướng ai cũng ngăn:
– Không nên!
Sách không nghe, cứ việc đi. Các tướng cũng phải đi theo. Đến phía Nam núi, đứng trên trông xuống rừng rú và trại Lưu Do đóng. Có quân canh đường, chạy về báo với Lưu Do. Do nói:
– Đây hẳn là mẹo Tôn Sách đến dử mình đây, không nên ra đánh.
Thái Sử Từ nhả lên nói rằng:
– Lúc này không bắt Tôn Sách thì còn đợi đến lúc nào?
Nói xong không đợi lệnh Lưu Do, tự mặc ngay áo giáp, lên ngựa cầm giáo ra ngoài trại, hô lên:
– Ai có gan thì theo ta!
Các tướng không ai nhúc nhích. Chỉ có một tiểu tướng bước ra nói:
– Thái Sử Từ thế mới gọi là tướng giỏi. Ta nên đi giúp một tay.
Nói rồi lên ngựa đi theo Thái Sử Từ. Các tướng đều tủm tỉm cười.
Tôn Sách ngắm xem độ nửa giờ mới quay ngựa trở về. Vừa đi qua được đỉnh núi nghe thấy đằng sau có người thét:
– Tôn Sách đừng chạy nữa!
Sách ngoảnh lại thấy hai tướng cưỡi ngựa chạy đến. Sách gạt mười hai tướng ra, một mình cầm ngang ngọn giáo, cưỡi ngựa đứng đợi ở dưới núi.
Thái Sử Từ hỏi to:
– Người nào là Tôn Sách?
Sách hỏi:
– Mày là thằng nào?
Từ đáp:
– Ta là Thái Sử Từ ở Đông Lai, ta lại đây chỉ cốt để bắt Tôn Sách.
Sách cười nói:
– Đây! Tôn Sách đây! Cho cả hai thằng chúng bay lại đánh một mình ta, ta không sợ. Nếu ta sợ, sao gọi là Tôn Bá Phù?
Từ nói:
– Tất cả chúng mày đều đến, ta cũng không sợ.
Nói xong thúc ngựa múa kích vào đánh Tôn Sách. Sách vác giáo địch lại. Hai ngựa giao nhau, đánh được hơn năm mươi hiệp, được thua chưa phân, lũ Trình Phổ đứng ngoài khen thầm rằng giỏi. Từ thấy Sách đánh giáo không hở miếng nào. Giả cách thua chạy để dử cho Tôn Sách đuổi ra xa. Từ không đi đường cũ lên núi, lại rẽ về sau núi mà chạy, Sách vừa đuổi vừa thét to:
– Chạy không phải là hảo hán!
Từ trong bụng nghĩ thầm:
– Nó có mười hai người đi theo, ta chỉ trọi một mình. Vì dù bắt được nó, cũng bị chúng cướp mất. Phải dử cho nó đi một đường nữa, để cho chúng không biết đường nào mà tìm, bấy giờ ta sẽ ra tay.
Bởi thế vừa đánh vừa lùi. Sách cũng cứ đuổi, đuổi nhau mãi đến chỗ bằng phẳng, bấy giờ Từ mới quay lại đánh. Đánh nhau được hơn năm mươi hiệp nữa, Sách phóng ngọn giáo lại. Từ tránh ngay được, lại trở tay bắt được giáo. Từ lại phóng giáo lại. Sách cũng tránh được và giơ tay bắt lấy giáo, rồi nắm chặt lấy. Từ chạy lại giằng kích, hai người kéo co nhau rồi, cùng nhảy cả xuống ngựa. Để ngựa chạy đi đâu không biết nữa.
Lôi kéo nhau chán rồi hai người cùng buông cả giáo ra, túm lấy nhau mà đánh. Hai bên, bên nào áo chiến cũng tan nát. Sách nhanh tay vớ được cái kích gài ở lưng Từ; Từ giật ngay được mũ đâu mâu của Sách. Sách cầm kích đâm Từ, Từ lấy mũ che đỡ.
Giữa lúc ấy có tiếng reo ầm ầm kéo đến, quân tiếp ứng của Lưu Do, ước hơn nghìn người.
Sách đã làm nguy, may đâu bọn Trình Phổ mười hai tướng cưỡi ngựa cũng vừa tìm được đến.
Hai người bấy giờ mới buông nhau ra.
Từ lên một con ngựa khác, lại cầm lấy giáo trở về.
Ngựa của Tôn Sách, Trình Phổ bắt được, Sách cũng nhặt lấy kích rồi lên ngựa.
Một nghìn quân Lưu Do cùng mười hai tướng Tôn Sách hai bên đánh nhau. Đánh lần quanh mãi đến tận dưới núi Thần Đình.
Bấy giờ lại thấy tiếng reo, Chu Du kéo quân đến. Lưu Do lại dẫn đại quân xuống núi. Khi ấy trời đã vàng vàng rồi, tự dưng nổi cơn mưa gió, hai bên cùng thu quân về.
Hôm sau, Tôn Sách dẫn quân đến trước trại Lưu Do. Do cũng đem quân ra đón.
Khi hai bên bầy trận rồi, Tôn Sách lấy cái kích nhỏ rút được của Từ hôm trước, đem buộc ở đầu giáo, cầm ra giễu ở trước trận, rồi sai quân hô to lên rằng:
– Giá Thái Sử Từ không chạy mau chân thì đã bị kích này đâm chết.
Từ cũng đem mũ đâu mâu của Sách ra trước trận, sai quân hô lên rằng:
– Đầu Tôn Sách đã ở đây rồi!
Hai bên nhạo báng lẫn nhau, reo ầm cả lên. Bên cậy khỏe, bên khoe tài. Thái Sử Từ phóng ngựa ra định cùng Tôn Sách quyết phân thắng bại.
Sách sắp sửa ra. Trình Phổ nói:
– Chúa công lọ là phải khó nhọc. Tôi xin ra bắt nó.
Trình Phổ ra trận. Từ nói:
– Mà không đáng địch với ta. Về gọi Tôn Sách ra đây!
Trình Phổ tức lắm, vác giáo xông vào đánh Từ. Hai ngựa giao đấu được hơn ba mươi hiệp, bỗng thấy Lưu Do khua chiêng thu quân.
Từ hỏi Lưu Do:
– Tôi đã sắp bắt được tướng giặc sao lại thu quân về?
Do nói:
– Có người báo rằng: Chu Du đã đem quân đánh úp lấy Khúc A, vì có người ở Lư Giang, tên là Trần Vũ tiếp ứng cho nó vào thành. Cơ nghiệp nhà ta đã mất, không nên ở mãi đây; phải kíp sang Mạt Lăng, hội cả quân mã của Tiết Lễ, Trích Dung lại để tiếp ứng.
Thái Sử Từ theo Lưu Do lui quân. Tôn Sách không đuổi cũng thu quân về. Trưởng sử Trương Chiêu nói:
– Bên nó bị Chu Du lừa lấy Khúc A, không dám ham đánh, đêm nay ta nhân thế nên đến cướp trại.
Sách ưng ý, đang đêm chia quân làm năm đường, kéo đến lấy trại Lưu Do. Quân Do thua to, chạy tán loạn cả. Thái Sử Từ một mình chống không nổi, dẫn hơn mười quân kị mã ngay đêm hôm ấy chạy sang Kinh Huyện.
Tôn Sách lại vừa được thêm một tay phụ tá nữa là Trần Vũ, biểu tự Tử Liệt. Vũ mình cao bảy thước, mặt vàng, con ngươi đỏ, hình dung cổ quái. Sách yêu lắm cho làm hiệu úy; sai đi tiên phong đánh Tiết Lễ. Vũ dẫn hơn mười kị mã, xông vào trong trận chém hơn năm mươi đầu giặc. Tiết Lễ thấy vậy đóng chặt cửa thành không dám ra nữa.
Sách đang đánh phá thành, có người báo rằng:
– Lưu Do hội với Trích Dung sang lấy Ngưu Chử.
Sách giận lắm, tự để đại quân kéo về Ngưu Chử. Lưu Do, Trích Dung, hai người cùng cưỡi ngựa ra đón đánh. Tôn Sách nói:
– Ta nay đã đến đây sao chúng bay không hàng ngay đi?
Ở sau Lưu Do bỗng có một người vác giáo cưỡi ngựa ra, đó là bộ tướng tên là Vu Mi, cùng Sách đánh nhau chưa được ba hiệp, bị Sách bắt sống rồi quay ngựa trở về trận. Tướng Lưu Do là Phàn Năng, thấy Vu Mi bị bắt liền vác giáo đuổi theo, ngọn giáo đâm gần chạm đến lưng Tôn Sách, quân Sách thấy vậy mới kêu to lên rằng:
– Sau lưng có người đâm trộm!
Sách quay đầu lại, thấy Phàn Năng đã đến gần, quát to một tiếng như tiếng sét. Phàn Năng khiếp đảm, ngã quay xuống vỡ đầu ra chết. Sách về đến cửa cờ, đem Vu Mi bỏ xuống đất, thì ra Vu Mi bị cắp ở nách đã chết kẹp tự bao giờ.
Cùng một lúc, cắp chết một tướng, quát chết một tướng, từ đấy ai cũng gọi Tôn Sách là Tiểu Bá Vương (Hạng Võ ngay xưa gọi là Bá Vương).
Lưu Do thua to. Quân sĩ hàng Sách quá nửa. Sách lại chém được hơn một vạn thủ cấp.
Do và Trích Dung chạy sang Dự Chương, đi theo Lưu Biểu.
Tôn Sách đem quân về lại đánh Mạt Lăng. Đến cạnh bờ hào, Sách đứng chiêu dụ Tiết Lễ hàng, chợt có một mũi tên ở trên thành bắn xuống trúng ngay vào đùi trái Tôn Sách. Tôn Sách ngã ngựa. Các tướng vội vàng đến cứu, đời Sách dậy đem về trại nhổ tên ra, lấy thuốc dấu rịt vào.
Sách nhân thể cho quân đi nói phao lên rằng bị tên bắn chết. Cả cánh quân làm lễ cử ai, nhổ trại kéo về.
Tiết Lễ tưởng Tôn Sách chết thật, đêm hôm ấy liền khởi cả quân trong thành cùng với kiêu tướng là Trương Anh, Trần Hoàng, kéo ra thành đuổi đánh. Bỗng đâu quân phục bốn mặt trổ ra, Tôn Sách đứng đầu đi trước gọi to lên rằng:
– Tôn lang ở đây mà!
Quân giặc trông thấy mất vía vứt cả gươm giáo, phục xuống đất lạy. Sách truyền lệnh không được giết một người nào.
Trương Anh quay ngựa chạy về bị Trần Vũ đâm chết ở trong đám loạn quân.
Sách vào Mạt Lăng, phủ dụ cho dân yên nghiệp rồi đem quân sang Kinh Huyện để bắt Thái Sử Từ.
Thái Sử Từ chiêu được hai nghìn quân tinh tráng và quân cũ của mình, toan lại báo thù cho Lưu Do.
Tôn Sách với Chu Du bàn nhau kế bắt sống Thái Sử Từ.
Chu Du ra lệnh bao vây ba mặt, để chừa một mặt cửa đông huyện cho Từ chạy. Cách huyện hai mươi lăm dặm phục binh ba nơi. Từ ra khỏi thành chạy được đến đấy, người mệt, ngựa mỏi, tất nhiên bị bắt.
Nguyên những quân của Thái Sử Từ dụ được quá nửa là người ở rừng núi, chưa biết kỉ luật nhà binh. Vả thành Kinh Huyện lại không được cao. Đêm hôm ấy Tôn Sách sai Trần Vũ mặc áo ngắn cầm dao, trèo lên mặt thành trước đốt lửa. Từ thấy trên thành lửa cháy, lên ngựa chạy ra cửa đông. Tôn Sách đem quân lại đuổi, đuổi đến ba mươi dặm thì thôi. Từ chạy được năm mươi dặm, người ngựa đều đã mỏi mệt, giữa lúc ấy trong đám cỏ lau bên đường có tiếng reo nổi lên. Từ vội chạy, hai bên đường chằng chịt những dây, ngựa vướng cẳng ngã gục xuống. Thái Sử Từ bị bắt sống, giải về trại Tôn Sách.
Lúc quân lính sắp giải Từ đến nơi. Sách biết trước ra tận cửa dinh, quát đuổi quân lính, tự ra cởi trói rồi đem áo cẩm bào mặc cho Từ, mời vào trong trại nói rằng:
– Ta biết Tử Nghĩa là một đấng trượng phu. Bởi Lưu Do ngu xuẩn, không biết dùng Tử Nghĩa làm đại tướng cho nên đến nỗi thua trận này.
Từ thấy Sách đối đãi mình tử tế, xin xuống hàng, Sách cầm lấy tay Từ nói rằng:
– Khi đánh nhau ở Thần Đình, giá thử ông bắt được tôi, thì có hại nhau không?
Từ cũng cười đáp rằng:
– Cũng chưa biết chừng!
Sách cười ầm lên, mời vào trướng, mời lên ngồi trên sai mở tiệc yến khoản đãi, Từ đứng dậy nói rằng:
– Lưu quan mới thua, lòng quân tan rã, tôi xin về để thu nhặt tàn quân để giúp minh công. Không biết minh công có tin không?
Sách đứng dậy tạ mà nói rằng:
– Bụng tôi vẫn ước như thế. Nay xin hẹn với ông, trưa mai tôi xin đợi ông trở lại.
Từ vâng lời rồi đi.
Các tướng ngạc nhiên nói rằng:
– Thái Sử Từ đi chuyến này tất không trở lại đâu!
Sách nói:
– Từ là người chính nghĩa không trái ước với ta.
Các tướng chẳng ai tin. Hôm sau cắm một cây nêu để đo đóng mặt trời ở trước cửa trại, rồi các tướng cùng xúm cả chung quanh để đợi giờ Ngọ. Cây nêu vừa đứng bóng, thấy Thái Sử Từ dẫn hơn một nghìn quân đến.
Các tướng đều chịu Tôn Sách là biết người.
Tôn Sách tụ được vài vạn quân, bình trị được Giang Đông, vỗ yên dân chúng, người kéo về theo vô số. Dân Giang Đông ai cũng gọi Sách là Tôn Lang.
Nghe tin quân Tôn Sách đến, dân chúng đều sợ hãi bỏ chạy cả, nhưng khi Sách đến nơi, không cho phép người nào cướp bóc của dân, cho đến gà chó cũng không kinh động. Nhân dân thấy thế ai cũng mừng, đem trâu rượu đến trại để mừng. Sách lại đem vàng, đem lụa ra thưởng lại. Tiếng vui mừng, hân hoan vang khắp đồng nội. Phàm những quân cũ của Lưu Do, ai muốn theo thì cho theo, ai không muốn theo thì cấp thưởng cho về làm ruộng.
Dân Giang Nam ai cũng khen Tôn Sách là người nhân đức. Bởi vậy quân thế mỗi ngày một thịnh.
Bấy giờ Sách mới rước mẹ, chú và các em cùng về Khúc A; sai em là Tôn Quyền cùng với Chu Thái giữ Tuyên Thành. Sách thì lĩnh binh sang Nam để lấy Ngô Quận.
Bấy giờ Nghiêm Bạch Hổ, tự xưng là Đông Ngô Đức vương, giữ ở Ngô Quận. Bạch Hổ sai bộ tướng giữ Ô Trình và Gia Hưng. Bấy giờ nghe tin quân Tôn Sách đến, Bạch Hổ sai em là Nghiêm Dư đem quân ra.
Hai bên gặp nhau ở Phong Kiều. Dư vác dao cưỡi ngựa đứng trên cầu. Sách muốn ra đánh, Trương Hoành can rằng:
– Chủ tướng là vận mệnh của ba quân, ai cũng trông cậy cả vào, không nên khinh thường quân tiểu khấu. Xin tướng quân tự cẩn thận.
Sách tạ nói rằng:
– Lời tiên sinh nói như vàng đá. Nhưng nếu tôi không chịu xông vào mũi tên hòn đạn thì tướng sĩ ai chịu dùng sức!
Bèn sai Hàn Đương cưỡi ngựa ra.
Khi Hàn Đương đi lên đến cầu, đã thấy Tưởng Khâm, Trần Vũ bơi thuyền nhỏ theo bờ sông, lượn sang được bên kia cầu, bắn tên tua tủa lên quân đứng trên bờ, hai người nhảy lên đánh giết, quân Nghiêm Dư phải lùi chạy. Hàn Đương kéo quân thẳng đến cửa thành. Giặc chạy cả vào trong thành. Sách chia quân, đường thủy đường lục cùng tiến, vây bọc cả lấy Ngô Thành. Vây luôn ba ngày không ai dám ra đánh.
Sách dẫn quân đến dưới cửa thành để chiêu dụ. Trên thành, một viên tì tướng, tay trái cầm chắc thanh ván giơ lên, tay phải trỏ xuống chửi mắng.
Thái Sử Từ ngồi trên ngựa giương cung đặt tên xong rồi ngoảnh lại bảo chư tướng rằng:
– Xem ta bắn trúng vào tay trái thằng kia nhé!
Nói chưa dứt lời, dây cung tách một tiếng, quả nhiên trúng giữa bàn tay trái tên tướng trên thành, lại xuyên qua tay cắm chắc vào tấm ván.
Người trên thành dưới thành ai cũng reo ồ lên.
Họ vội vàng cứu tướng ấy đem xuống thành. Bạch Hổ trông thấy thất kinh nói rằng:
– Quân nó có người tài như thế, ta địch sao được?
Bàn nhau muốn cầu hòa.
Hôm sau Bạch Hổ sai Nghiêm Dư ra thành vào ra mắt Tôn Sách. Sách mời Dư vào trướng uống rượu. Rượu đã say, Sách hỏi Dư:
– Ý lệnh huynh muốn thế nào?
Dư nói:
– Muốn cùng tướng quân chia đôi Giang Đông.
Sách nổi giận mắng rằng:
– Đàn chuột nhắt lại đòi ngang hàng với ta à!
Mắng rồi thét đem Nghiêm Dư ra chém.
Dư rút gươm đứng dậy, Sách phóng gươm trúng người Nghiêm Dư gục xuống, cắt ngay lấy đầu, sai người đưa vào thành.
Bạch Hổ biết chừng không địch nổi, bỏ thành chạy, Sách kéo quân đuổi theo.
Hoàng Cái đánh lấy được Gia Hưng; Thái Sử Từ đánh lấy được Ô Trình, mấy châu đều bình định cả. Bạch Hổ chạy về Dư Hàng, cướp bóc ở dọc đường, lại bị người thổ dân ở đấy tên là Lăng Tháo đem người làng ra đánh, Bạch Hổ phải tìm quân về Cối Kê.
Hai bố con Lăng Tháo lại đi đón Tôn Sách. Sách cho làm Tông trinh Thiệu úy, cũng dẫn quân sang qua sông. Bạch Hổ tụ quân, dân khắp ở bến sông phía tây. Trình Phổ đánh một trận lại thắng đuổi mãi đến thành Cối Kê.
Thái thú Cối Kê tên là Vương Lãng, muốn đem quân ra cứu Bạch Hổ, có người can rằng:
– Không nên cứu, Tôn Sách dùng quân nhân nghĩa. Bạch Hổ là một tướng bạo ngược. Nên bắt Bạch Hổ đem dâng Tôn Sách.
Lăng nhìn xem ai bàn kế ấy; thì là Ngu Phiên, tự là Trọng Tường, người ở Cối Kê, hiện đương làm quận lại. Lãng giận mắng Phiên. Phiên thở dài trở ra.
Lãng đem binh hội với Bạch Hổ, dàn quân ở cánh đồng Sơn Âm; hai bên đối trận. Tôn Sách cưỡi ngựa ra bảo Vương Lãng rằng:
– Ta cất quân nhân nghĩa đi dẹp Triết Giang, sao mày dám hùa với giặc?
Lãng mắng rằng:
– Bụng mày tham không có chừng đã được Ngô Quận rồi lại còn muốn chiếm nốt bờ cõi ta. Nay ta quyết báo thù cho họ Nghiêm!
Tôn Sách giận lắm, sắp ra đánh nhau thì Thái Sử Từ ra lúc nào rồi. Vương Lãng múa đao tế ngựa, đánh nhau với Từ chưa được vài hiệp, tướng Lãng là Chu Hân nhảy ra đánh đỡ. Bên này Hoàng Cái cũng tế ngựa ra tiếp ứng, đánh với Chu Hân.
Hai bên trống đánh vang lừng đánh nhau quyết liệt. Tự nhiên thấy đằng sau trận Vương Lãng bối rối. Một toán quân đâu từ sau lưng đánh lại. Lãng thất kinh kịp quay ngựa trở lại đón đánh.
Quân đánh tập hậu ấy là Chu Du và Trình Phổ, trong khi hai bên đánh nhau, đi tắt lẻn mặt sau.
Đằng trước đằng sau đánh dập lại. Quân Lãng ít không chống xuể, cùng với Bạch Hổ, Chu Hân cố đánh để mở lấy một đường máu chạy vào thành, cất cầu lên, đóng vững cửa thành lại.
Đại quân Tôn Sách thừa kế, sấn đến mãi dưới thành, chia quân ra bốn cửa. Vương Lãng ở trong thành thấy Sách đánh kíp lắm, lại muốn kéo quân ra quyết đánh một trận sống chết cũng đánh. Bạch Hổ can rằng:
– Thế quân Tôn Sách to lắm, túc hạ chỉ nên thành cao hào sâu cho vững. Không đầy một tháng, quân kia hết lương tất phải chạy. Bấy giờ ta thừa thế ra đuổi, có thể chẳng phải đánh cũng phá tan được.
Lãng nghe kế ấy, cứ giữ vững thành không ra.
Tôn Sách đánh luôn mấy hôm không phá được thành bèn cùng chư tướng bày mưu kế. Tôn Tỉnh nói:
– Vương Lãng cậy hiểm giữ thành, khó phá ngay được. Tiền lương đất Cối Kê quá nửa chứa ở Tra Độc. Ở đây cách đấy chỉ vài mươi dặm, không bằng ta hãy đem binh giữ lấy Tra Độc trước. Trong binh pháp có nói rằng: “Đánh chỗ không phòng bị, ra nơi không ngờ” là thế đó.
Sách mừng nói:
– Mẹo hay của chú đủ phá được giặc.
Liền hạ lệnh sai các cửa thành đốt lửa giả cắm cờ hiệu để làm nghi binh, rồi đêm hôm ấy bỏ bao vây, kéo quân sang mặt nam.
Chu Du hiến một kế rằng:
– Chúa công kéo cả quận, Vương Lãng tất ra thành đuổi theo. Nếu nó ra ta nên dựng kì binh mà đánh.
Sách nói:
– Ta đã sắp sẵn cả rồi. Lấy thành chỉ nội đêm nay.
Bèn hạ lệnh cho quân mã đi.
Vương Lãng nghe tin báo Tôn Sách rút quân mã đi, liền dẫn quân lên chòi canh trông xem, thấy dưới thành khói lửa vẫn ngùn ngụt, tinh li kì đâu vẫn đấy, trong bụng còn nghi hoặc, Chu Hân nói:
– Tôn Sách chạy rồi, bày ra mẹo này để đánh lừa ta thế thôi, nên đem quân ra đuổi đánh.
Nghiêm Bạch Hổ nói:
– Tôn Sách chuyến này đi, chắc là đến Tra Độc. Tôi xin đem bộ binh cùng Chu tướng quân đuổi theo.
Lãng nói:
– Tra Độc là chỗ ta chứa lương, cần phải đề phòng cẩn thận. Ngươi đi trước, ta theo sau để tiếp ứng.
Bạch Hổ cùng Chu Hân dẫn năm nghìn quân ra thành đuổi theo.
Bấy giờ mới canh một. Đi khỏi thành được hơn hai mươi dặm, bỗng đâu trong rừng rậm, có một tiếng trống nổi, rồi lửa đuốc sáng rực cả lên. Bạch Hổ thất kinh, liền quay ngựa trở lại, thì có một tướng chắn ngang đường.
Chính là Tôn Sách.
Chu Hân múa đao lại đánh, bị Sách đâm một mũi giáo chết. Quân thấy thế xuống hàng cả. Bạch Hổ cố chết mở một đường, rồi chạy về Dư Hàng.
Vương Lãng nghe tiền quân đã thua, không dám vào thành, dẫn bộ binh chạy ra góc biển đi trốn.
Tôn Sách thu quân trở lại, thừa thế lấy ngay thành trì, vỗ yên nhân dân.
Được mấy hôm có người mang đầu Bạch Hổ đến dâng. Tôn Sách nhìn người ấy, mình cao tám thước, mặt vuông, mồm rộng; hỏi tên họ là gì, thì người ấy xưng tên là Đổng Tập, tự là Nguyên Đại, người ở Cối Kê.
Sách mừng lắm cho làm biệt bộ tư mã.
Từ đó xứ đông bình định được cả. Sách sai chú là Tôn Tinh giữ ở đấy; sai Chu Trị làm thái thú Ngô quận còn mình thì thu quân về Giang Đông.
Em Sách là Tôn Quyền cùng với Chu Thái giữ ở Tuyên Thành. Chợt có giặc núi bốn mặt kéo đến. Bấy giờ đêm đã khuya, không kịp kháng cự. Thái ôm Quyền lên ngựa để chạy. Giặc vác dao xông vào chém. Thái cởi trần ra, xuống ngựa đi bộ, cầm dao đánh nhau với giặc, tế ngựa vác giáo nhảy xổ vào để giết Chu Thái, Thái nắm ngay được giáo, đẩy giặc ngã xuống, cướp được ngựa giặc, đánh riết mở được đường ra, cứu được Tôn Quyền.
Giặc thấy vậy chạy cả, Thái bị cả thảy mười hai vết thương nặng, sưng lên, gần chết. Sách nghe tin lo lắm, Đổng Tập nói:
– Tôi đã nhiều phen đánh nhau với giặc bể, bị thương may có một người quận lại ở Cối Kê, tên là Ngu Phiên tiến cửa một thầy thuốc, chữa cho chỉ nửa tháng là khỏi.
Sách hỏi:
– Ngu Phiên có phải là Ngu Trọng Tương không?
Tập thưa:
– Phải.
Sách nói:
– Người ấy là hiền sĩ, ta nên dùng.
Liền sai Trương Chiêu, Đổng Tập đến mời Ngu Phiên. Phiên đến, Sách thết đãi cực hậu, cho làm công tào. Nhân nói chuyện thầy thuốc, Phiên nói rằng:
– Người ấy là người Tiêu Quận, nước Bái, tên là Hoa Đà, tự là Nguyên Hóa, thực là thần y, bấy giờ tôi xin đưa đến để yết kiến.
Được mấy bữa Phiên đem Hoa Đà đến.
Sách thấy người mặt còn trẻ, mà tóc bạc phơ phơ tựa như một ông tiên, tiếp đãi làm một thượng khách rồi mời xem bệnh cho Chu Thái. Hoa Đà xem rồi nói:
– Bệnh này chữa thực dễ.
Cho thuốc rịt một tháng Chu Thái khỏi hẳn.
Sách mừng lắm, hậu tạ Hoa Đà rồi tiến binh tiểu trừ giặc núi. Giang Nam bình định cả. Sách chia cho các tướng giữ các cửa ải, một mặt viết biểu tâu về triều đình, một mặt kết giao với Tào Tháo, một mặt đưa thư cho Viên Thuật để đòi lại ngọc tỉ.
Viên Thuật từ khi nắm được ngọc tỉ, có ý muốn giữ lấy để xưng hoàng đế, khi tiếp được thư Tôn Sách, liền đưa thư đáp lại tìm cớ thoái thác không trả, rồi kíp triệu trưởng sử là Dương Đại Tướng; đô đốc là Trương Huân, Kỷ Linh, Kiều Di; thượng tướng là Lôi Bạc, Trần Lan, cả thảy hơn ba mươi người, bàn với nhau rằng:
– Tôn Sách mượn quân mã của ta để khởi sự, nay đã lấy hết được đất Giang Đông, đã quên ơn ta, lại dám đòi lại ngọc tỉ, thực là xấc láo, có phương kế gì trị nó đi chăng?
Dương đại tướng nói:
– Tôn Sách giữ chỗ hiểm sông Trường Giang, binh giỏi, lương nhiều, cũng chưa dễ trị được. Nay ta nên hãy đánh Lưu Bị trước để báo thù xưa vô cớ sang đánh ta đã. Rồi sau ta hãy sửa Tôn Sách cũng không muộn. Nay tôi xin dâng một kế làm cho Lưu Bị phải bị bắt ngay lập tức.
Thế là:
Chẳng tới Giang Đông tìm hổ báo!
Lại sang Từ Quận bắt giao long!
Chưa biết kế của Dương đại tướng hiến ra làm sao, xem tới hồi sau sẽ hiểu.