Ngày hôm sau Viên Thừa Chí ngủ đến khi mặt trời lên ba sào mới chịu thức dậy. Tiêu Uyển Nhi đích thân bưng chậu rửa mặt và đồ điểm tâm vào phòng. Viên Thừa Chí vội đứng dậy đa tạ. Hồng Thắng Hải ở bên phục vụ cho Viên Thừa Chí.
Vừa rửa mặt xong, Mộc Tang đạo nhân đã cầm bàn cờ, Thanh Thanh cầm gói quân cờ, hai người cùng vào trong phòng. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hai người mê ngủ quá, mãi đến giờ này mới chịu thức dậy, bắt đạo trưởng chờ đợi nóng ruột đến phát điên. Mau mau dậy chơi cờ đi.”
Viên Thừa Chí nhìn nàng một cái, rồi mỉm cười. Thanh Thanh hỏi: “Cười cái gì vậy?”
Chàng vừa cười vừa hỏi lại: “Đạo trưởng cho Thanh đệ cái gì mà Thanh đệ ra sức giúp đạo trưởng tìm đối thủ?”
Thanh Thanh đáp: “Đạo trưởng vừa dạy cho muội một công phu. Công phu này rất kỳ diệu, người ta dùng tay đánh chân đá mình, mình chỉ cần chơi trò rượt bắt, chạy bên này né bên kia là người ta đừng hòng đánh trúng.”
Viên Thừa Chí chợt động tâm, liếc nhìn Mộc Tang đạo nhân, thấy lão đã nhặt hai quân cờ đen đặt lên góc bàn cờ, trên tay cầm một quân nữa gõ nhẹ lên bàn cờ phát ra những tiếng tinh tang, khóe miệng lộ ra một nét cười. Lúc trước chơi cờ trên Hoa Sơn, Viên Thừa Chí đã từng nhường Mộc Tang ba nước, nhưng bây giờ thì chơi ngang tay.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Cuộc hẹn với Nhị sư ca, Nhị sư tẩu ở Ngũ Hoa Đài đêm nay, không thể không đi. Nhìn thần sắc của Nhị sư tẩu, e rằng không thể không động thủ, mà mình lại không thể đánh với họ. Nhị sư ca xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, mình dốc toàn lực cũng chưa chắc thắng. Giả tỉ nhường nhịn thì chắc chắn bị trọng thương, sơ sót thì mất luôn cả mạng. Đạo trưởng truyền thụ võ công cho cô ấy, hình như có thâm ý sâu xa.” Chàng bèn nói: “Chơi cờ thì chơi, nhưng đạo trưởng phải truyền cho con công phu đó mới được.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Được rồi! Ai có mặt, người đó có phần. Thế là ca ca hiểu biết quy luật trong hắc đạo rồi.”
Nói giỡn mấy câu rồi Viên Thừa Chí ngồi xuống chơi cờ với Mộc Tang đạo nhân. Lúc này chàng cũng đã ít nhiều từng trải giang hồ, không hiếu thắng như thuở nhỏ nữa, đương nhiên hạ thủ lưu tình để Mộc Tang đạo nhân thắng cho khoái chí.
Sau bữa cơm trưa, Viên Thừa Chí cùng Thôi Thu Sơn ngồi ôn lại những chuyện từ lúc xa nhau. Viên Thừa Chí thì biết thế lực Sấm Vương mở rộng, không bao lâu sẽ tấn công vào kinh thành; còn Thôi Thu Sơn thì thấy người bạn nhỏ năm xưa đã học võ thành tài, cả hai đều cảm thấy vui mừng. Lát sau họ lại nói đến chuyện Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ mất vàng.
Thanh Thanh không ngớt ra hiệu với Viên Thừa Chí, gọi chàng ra. Thôi Thu Sơn mỉm cười nói: “Bạn ngươi gọi kìa, mau mau tới đi.”
Viên Thừa Chí đỏ ửng mặt lên, không vui lắm nhưng cũng rời khỏi đó. Thôi Thu Sơn cười cười đứng dậy đi chỗ khác.
Thanh Thanh cười nói: “Qua đây nhanh lên, để muội dạy lại công phu của đạo trưởng cho. Lúc đạo trưởng dạy cho muội, muội chẳng hiểu gì, nhưng đạo trưởng bảo là cố gắng nhớ lấy, sau này sẽ hiểu. Muội sợ để lâu lại quên mất hết.”
Nàng vừa nói vừa dùng tay chỉ trỏ, đem bộ khinh công tuyệt đỉnh Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ lại cho Viên Thừa Chí.
Khinh công và ám khí của Mộc Tang đạo nhân đã độc bộ thiên hạ, pho khinh công Thần Hành Bất Biến này lại càng ảo diệu nhất. Trước đây trên núi Hoa Sơn, võ học của Thừa Chí còn nông cạn, không thể lãnh hội được, nên lão chưa dạy cho chàng.
Võ công Thanh Thanh tuy không giỏi lắm, nhưng trí nhớ của nàng cực tốt, suy nghĩ lại linh hoạt, biết Mộc Tang đạo nhân dạy mình là phụ, dạy cho Thừa Chí mới là chuyện chính. Nàng không hiểu tại sao lão phải bắt mình làm trung gian, nhưng đã cố gắng nhớ như chôn vào ruột, bây giờ nàng lặp lại y khuôn từng khẩu quyết, cách vận khí và bộ pháp. Viên Thừa Chí càng nghe càng lộ vẻ vui thích ra mặt.
Viên Thừa Chí đã tập luyện khinh công của Mộc Tang đạo nhân nhiều năm rồi. Bộ khinh công Thần Hành Bất Biến này biến hóa ảo diệu hơn nhiều, cần nội công thâm hậu để làm nền tảng, nhưng đạo lý cơ bản so với những môn khinh công trước đây chàng đã học thì không khác lắm. Lúc này võ công chàng đã có nhiều tiến bộ, nên vừa nghe yếu quyết là lãnh hội được ngay.
Có mấy chỗ Thanh Thanh không hiểu kỹ, Thừa Chí hỏi lại không biết đường trả lời, nàng phải chạy vào trong để hỏi Mộc Tang đạo nhân. Đến khi nàng lặp lại lần thứ hai thì Thừa Chí đã hoàn toàn hiểu rõ, lập tức chiếu theo khẩu quyết mà tập luyện trong đại sảnh.
Pho khinh công này chuyển biến thật là linh hoạt, giống như cá đang bơi trong nước vậy. Khi động thủ với người khác, nếu chỉ mong bảo vệ bản thân mình thì binh khí quyền cước của đối thủ không sao chạm vào được. Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu dụng ý của Mộc Tang đạo nhân. Nhưng chàng biết võ công của Nhị sư ca rất tinh tuyền. Năm trước sư phụ từng nói, Đại sư ca là người hoạt kê hay đùa giỡn, không tránh khỏi có phần không chắc chắn. Còn Nhị sư ca thì thâm trầm mộc mạc, dụng công rèn luyện nên võ công rất có căn bản. Nhất định công lực của Nhị sư ca hơn hẳn Đại sư ca. Công phu này mới luyện chưa nhuần nhuyễn, chưa chắc đã tránh né thành công.
Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ hồi lâu, đột nhiên nhớ đến lần đầu sư phụ truyền thụ võ công cho mình, dạy bộ Thập Đoạn Cẩm. Lúc đó chàng dùng hết sở học bình sinh cũng không sờ được chéo áo của sư phụ. Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân linh hoạt vô cùng, nhưng từ đầu đến cuối đều là những chiêu tránh né, không hề phản kích. Do đó đối phương chẳng phải kiêng nể gì hết. Nếu kết hợp với công phu bản môn để cùng sử dụng, trong phòng ngự lại có tấn công, nhất định đối thủ phải phân tâm chia sức ra thủ thế. Lúc đó phòng ngự sẽ có hiệu quả hơn.
Viên Thừa Chí ngồi trong thư phòng nhắm mắt trầm tư, suy niệm lại từng chiêu thức một. Mọi người đều giữ ý không vào quấy nhiễu chàng. Đến khoảng giờ Thân, chàng đã nghĩ thông suốt hết, nhưng vẫn ngại có gì trục trặc nên muốn thử luyện tập một phen. Chàng bèn nhờ Tiêu Uyển Nhi cùng mười mấy huynh đệ, mỗi người xách một thùng nước lớn, đứng vây quanh luyện võ trường, mình đứng vào chính giữa rồi giơ tay làm hiệu.
Mọi người xung quanh dùng gáo múc nước, nhắm chàng mà tạt. Chàng hết nhảy lên lại hạ xuống, tránh tả né hữu, đến khi mười mấy thùng nước tạt hết, chỉ có tay áo bên phải và chân bên trái hơi ướt một chút. Mọi người đều bước lên khen tặng, chúc mừng chàng lại luyện thành một tuyệt kỹ mới.
Mộc Tang đạo nhân mặc kệ, cứ nằm ngáy o o trong phòng như chẳng biết gì.
Ăn tối xong, Viên Thừa Chí đi phó ước ở Ngũ Hoa Đài. Cha con Tiêu Công Lễ, Tiêu Uyển Nhi muốn đi theo để giải thích, Thanh Thanh thì muốn đi theo trợ giúp, nhưng Viên Thừa Chí đều lựa lời từ chối.
Thanh Thanh dẩu môi, ra vẻ không hài lòng. Viên Thừa Chí bèn nói: “Họ là sư ca, sư tẩu của ta. Tối nay ta chỉ bị đòn, không thể đánh trả được. Nếu Thanh đệ nhìn thấy tất sẽ nổi giận, há chẳng làm hỏng việc của ta?”
Thanh Thanh hỏi: “Huynh nhường họ ba chiêu là được rồi, chẳng lẽ không đánh trả từ đầu chí cuối?”
Viên Thừa Chí nói: “Ta sẽ đem công phu của Thanh đệ mới dạy ra áp dụng, xem thử sư ca sư tẩu có đánh trúng hay không.”
Thanh Thanh vỗ tay mỉm cười nói: “Thế thì Thanh đệ lại càng phải đi, chính mắt xem tên đồ đệ ngoan ngoãn biểu diễn võ công. Huynh sợ Thanh đệ đắc tội với sư ca sư tẩu của huynh, thì Thanh đệ không nói một câu nào là xong.”
Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Thanh đệ chịu giả câm hay sao?”
Thanh Thanh đáp: “Muội không giả vờ. Muội bẩm sinh đã bị câm.” Rồi nàng quơ tay ra dấu, miệng ú ớ giống hệt người câm. Thừa Chí phì cười, đành phải để nàng đi cùng.
Chàng vào trong cáo từ Mộc Tang đạo trưởng, nhưng thấy lão nằm trên giường quay mặt vào tường, kêu mấy tiếng vẫn không dậy. Thôi Thu Sơn thì đi đâu từ trước rồi.
*
* *
Hai người mượn nhà họ Tiêu hai con ngựa khỏe, khoảng canh hai đã tới Ngũ Hoa Đài, thấy bốn phía không có ai, liền xuống ngựa chờ đợi. Đợi khoảng nửa giờ, thấy phía đông có hai người chạy tới. Họ vỗ tay hai tiếng, Thừa Chí vỗ tay trả lời. Một người hỏi: “Viên sư thúc đến chưa?”
Nghe giọng biết là Lưu Bội Sinh, Viên Thừa Chí bèn đáp: “Ta đang ở đây chờ sư ca, sư tẩu.”
Lưu Bội Sinh cùng Mai Kiếm Hòa vừa đến gần, xa xa lại có tiếng một nữ nhân la lên: “Hay lắm! Thì ra ngươi đã đến.”
Nói vừa dứt câu, hai bóng người đã chạy tới trước mặt. Thanh Thanh giật mình nghĩ bụng: “Thân pháp hai người này nhanh quá”.
Mai và Lưu bước ra một bước nhường chỗ cho hai bóng người đó xông vào vòng chiến, đúng là vợ chồng Quy Tân Thụ và Quy nhị nương. Từ xa lại có người chạy tới, Viên Thừa Chí nhìn dáng dấp biết là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Công phu của ả kém sư phụ sư nương rất nhiều, chạy một hồi lâu mới đến nơi. Trên tay ả đang ẵm một đứa bé, chính là con của vợ chồng họ Quy.
Quy nhị nương lạnh lùng nói:
“Viên gia đúng là người giữ chữ tín. Vợ chồng ta còn việc quan trọng phải làm, đừng mất thời gian. Ra chiêu ngay đi.”
Viên Thừa Chí khom người thi lễ, cung kính nói: “Hôm nay tiểu đệ đến đây thỉnh tội sư ca, sư tẩu. Tiểu đệ đã làm gãy thanh bảo kiếm của sư tẩu, nhưng lúc đó thật sự không biết nên mới mạo muội. Xin sư ca sư tẩu nể mặt sư phụ mà rộng lòng bao dung.”
Quy nhị nương cười nhạt rồi nói: “Ngươi có phải là sư đệ của chúng ta hay không, bây giờ chưa biết. Qua chiêu rồi hẵng nói.”
Viên Thừa Chí vẫn thoái thác không chịu ra tay. Quy nhị nương thấy chàng cứ nhịn hoài, bèn nghĩ: “Nếu không phải đồ giả mạo, sao lại hèn nhát run sợ đến thế?” Mụ đột nhiên đưa tay trái lên, từ trên vỗ xuống.
Viên Thừa Chí vội ngửa người ra sau cho chưởng phong lướt qua trên đầu mũi, nghĩ thầm: “Không ngờ bà ta là nữ nhân mà chưởng pháp lợi hại như thế.”
Quy nhị nương đánh một chưởng không trúng, tay trái lại đưa lên, thi triển một chiêu trong Phá Ngọc Quyền của phái Hoa Sơn.
Loại quyền pháp này Viên Thừa Chí đã thuộc nằm lòng, nắm chắc phần thắng nên thõng hai tay xuống, ép sát vào người, tỏ ý tuyệt đối không đánh trả. Chàng lắc người một cái, triển khai khinh công Thần Hành Bất Biến dung hòa với công phu Thập Đoạn Cẩm, tìm chỗ sơ hở mà chạy qua chạy lại dưới cơn mưa quyền cước của Quy nhị nương. Mụ càng điên tiết, đánh luôn mười mấy chiêu liên hoàn gấp rút, thế như gió bão, nhưng đều bị chàng uốn mình tránh khỏi.
Quy Tân Thụ đứng bên nhìn thấy không khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ: “Võ công của thiếu niên này sao lại tinh diệu như thế? Khinh công của hắn đúng là thân pháp bản môn, nhưng lại có mấy chỗ khác hẳn. Chẳng lẽ hắn là gian đồ phái khác, không hiểu làm cách nào học lén được võ công thượng thừa của bản môn?” Y lập tức chăm chú tinh thần theo dõi, chỉ sợ vợ mình bị thiệt thòi.
Quy nhị nương thấy Viên Thừa Chí không đánh trả, nghĩ thầm: “Ngươi coi thường ta như thế, phải cho ngươi biết mùi lợi hại!” Song quyền mụ vung lên như gió, càng đánh càng nhanh. Đối phương không đánh trả nên mụ hoàn toàn không cần phòng thủ, chiêu nào thức nào cũng là chiêu thức tấn công.
Viên Thừa Chí âm thầm kêu khổ, không ngờ lộ Phá Ngọc Quyền được Nhị sư tẩu sử dụng lợi hại như vậy, lại chỉ tấn công chứ không phòng thủ nên oai lực càng tăng. Chàng nghĩ bụng: “Tới lúc né tránh không nổi nữa, không chừng ta phải đưa tay ra mà đỡ mấy chiêu.”
Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí buông thõng hai tay, mặc kệ cho sư nương mình công kích, nhưng đánh mãi cũng không trúng chiêu nào. Ả càng xem càng tức, liếc qua thấy Thanh Thanh đứng bên đang vui vẻ mỉm cười, bèn lập tức giao tiểu sư đệ trong tay cho Mai Kiếm Hòa, rút soạt trường kiếm tung người nhảy đến, đâm vào trước ngực Thanh Thanh.
Thanh Thanh giật mình, vội vàng né tránh. Nàng nghe lời Viên Thừa Chí dặn dò nên phen này không mang theo binh khí. Tôn Trọng Quân chém thêm mấy kiếm vun vút, tay chân Thanh Thanh lập tức loạng choạng. Võ công nàng vốn đã không bằng Tôn Trọng Quân, huống hồ lúc này tay không lại càng nguy hiểm muôn phần.
Viên Thừa Chí nghe nàng kinh hãi la lên, rất muốn chạy tới cứu viện, nhưng bị Quy nhị nương trói buộc không sao thoát ra được.
Quy Tân Thụ nhìn Tôn Trọng Quân, quát bảo: “Đừng hại mạng người ta.”
Tôn Trọng Quân nói: “Sư phụ! Tên này chính là con trai của Kim Xà Lang Quân. Hắn thiếu niên khinh bạc, từng gây họa rất nhiều.”
Quy Tân Thụ từng nghe võ lâm Giang Nam nói Kim Xà Lang Quân ra tay ác độc chẳng tử tế gì, nên không nói gì nữa. Tôn Trọng Quân thấy sư phụ thầm cho phép, nên ra chiêu vừa cấp bách vừa hiểm độc hơn. Bạch quang nháy động liền liền, rõ ràng Thanh Thanh sắp mất mạng trong khoảnh khắc.
Viên Thừa Chí thấy tình thế gấp rút, đột nhiên tung hai chân lên. Hai tay chàng vẫn ép vào bên hông, nhưng hai chân liên hoàn, trái trước phải sau đá liền sáu cước. Cả sáu cước đều sắp chạm vào người Quy nhị nương là lập tức thu hồi, ép mụ lùi luôn sáu bước. Nhờ đó mà Viên Thừa Chí thoát khỏi sự quấy rầy của Quy nhị nương.
Chàng tung người lên không, phóng lên phía trước, chĩa hai ngón tay trái ra điểm tới sau lưng Tôn Trọng Quân, toan đoạt lấy trường kiếm trong tay ả. Đột nhiên kế bên có một tiếng hú dài, kình phong quét tới ngang hông rất gấp. Thừa Chí không kịp tấn công nữa, phải lo đỡ đòn trước. Chàng đưa hữu chưởng móc lấy cổ tay người đó, tiện tay kéo tới. Nào ngờ người kia không nhúc nhích gì, còn chính chàng lại bị đẩy hất ra ngoài.
Viên Thừa Chí từ khi xuống núi đến nay chưa từng gặp ai có công lực đến thế. Chàng biết Nhị sư huynh đã xuất thủ, không khỏi kinh hãi nghĩ bụng: “Mình đã biết võ công của Nhị sư ca không phải tầm thường, nhưng không ngờ thân hình huynh ấy ốm nhỏ như vậy mà kình lực phi thường.”
Khi Viên Thừa Chí rơi xuống, thân hình chàng như một cây trụ cắm thẳng xuống đất, không lung lay chút nào. Chàng hô lớn: “Nhị sư ca! Tiểu đệ đắc tội.”
Tiếng hô chưa dứt, tả chưởng của Quy Tân Thụ đã đánh tới nơi. Lần này Viên Thừa Chí đã đề phòng, hơi nghiêng người một chút cho phát chưởng lệch đi. Đây chính là thân pháp hôm nay mới học, một trong những chiêu Thần Hành Bất Biến.
Vừa rồi xô đẩy một cái, Quy Tân Thụ đã nhận ra nội kình của Viên Thừa Chí hoàn toàn là Hỗn Nguyên Công của bản môn. Chiêu thức có thể học lén, nội lực thì phải đích thân truyền thụ. Chỉ trong khoảnh khắc một cái xô đẩy, y đã biết Viên Thừa Chí chính là tiểu đồ đệ mà sư phụ mình mới nhận. Chiêu thứ hai y ra tay như sấm sét, thấy rõ mình sắp đánh trúng vào vai Viên Thừa Chí. Y sợ mình đả thương sư đệ sẽ bị sư phụ la rầy, nên định khi phát chưởng trúng đích sẽ chuyển lực ngang qua một bên, chỉ để lại ba phần công lực. Nào ngờ đối phương linh hoạt dị thường, trong khoảng cách không chen được sợi tóc vẫn có thể né ra.
Quy Tân Thụ bất giác kinh hãi, la lên: “Thân pháp nhanh quá!”, rồi lại vung quyền đánh tới mấy chiêu liên tiếp. Quyền pháp của y giống hệt Quy nhị nương, nhưng công lực tùy ý mà thu phát, thật sự đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh.
Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa thán phục, trong lòng nghĩ: “Chẳng trách Nhị sư ca nổi danh đến thế, đồ đệ của huynh ấy bước ra giang hồ đều được cao thủ võ lâm cung kính lạ thường. Thì ra võ công huynh ấy thật sự cao thâm.” Lúc này chàng không dám sơ suất chút nào nữa. Thân pháp Thần Hành Bất Biến vừa mới học, còn chưa thuần thục lắm, đối phó với Quy nhị nương thì có thừa, nhưng nếu tiếp chiêu với Nhị sư ca thì e rằng không tránh nổi mười quyền. Chàng phải triển khai tuyệt nghệ của sư môn, dùng Phá Ngọc Quyền để đỡ chiêu.
Quyền pháp hai người giống nhau, mọi biến hóa đều thuộc nằm lòng. Họ càng đánh càng nhanh, ý vừa khởi lên chiêu đã thu về, chưa chạm đối phương quyền đã dừng trước, có thể nói là thuần thục vô cùng. Hồi Viên Thừa Chí luyện chiêu với sư phụ trên núi Hoa Sơn cũng hệt thế này. Nhưng khi đối chiêu với sư phụ thì chàng biết rõ không bị nguy hiểm, còn Nhị sư ca thì quyền nào chưởng nào cũng rất nặng nề, nhất định không thể để dính vào mình. Thanh Thanh đang nguy cấp, thế mà chàng không đủ thời gian để nhìn nàng một cái nào.
Chỉ trong chớp nhoáng, lưng Viên Thừa Chí đã thấm đẫm mồ hôi lạnh. Chàng gấp rút qua cứu Thanh Thanh, nên xuất chiêu bằng hết sức lực của mình, không nể nang tình nghĩa gì nữa. Chàng nghĩ bụng: “Nếu Thanh đệ mất mạng ở đây, thì huynh là sư ca mặc kệ, ta cũng phải giết.”
Bên kia Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí bị sư phụ mình ngăn trở, trong lòng mừng rỡ nên kiếm pháp càng lợi hại hơn. Lưu Bội Sinh và Mai Kiếm Hòa đồng thời kêu gọi: “Sư muội! Không được giết người!”
Tiếng kêu chưa dứt, Tôn Trọng Quân đã đưa kiếm đâm đến trước ngực Thanh Thanh rồi. Thanh Thanh vội vàng nhào ngửa ra sau, lộn một vòng tránh được. Tôn Trọng Quân xoay ngược kiếm chém ngang, Thanh Thanh cúi đầu xuống né. Khăn buộc đầu nàng bị chém rơi xuống, mái tóc dài xõa ra che hẳn khuôn mặt. Tôn Trọng Quân thấy Thanh Thanh là nữ nhân, hơi ngẩn ra một chút, nhưng vẫn phóng kiếm đâm nữa. Chiêu này thì Thanh Thanh hết đường tránh né.
Đột nhiên trên đỉnh đầu có một giọng già nua thét lên: “Con bé này quá ác độc!”
Một bóng đen từ ngọn cây phóng xuống, vung chân đá thanh trường kiếm bay đi. Tôn Trọng Quân kinh hãi lùi lại hai bước, dưới ánh trăng nhìn lại thấy đó là một đạo nhân râu mày bạc phếch, đứng cản trước mặt Thanh Thanh. Ả và hai người Mai, Lưu đều không biết lão đạo này là ai. Quy nhị nương nhận ra đây là Mộc Tang đạo nhân, hảo bằng hữu của sư phụ mình, lập tức bước đến thi lễ.
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười bảo: “Đừng thi lễ vội, xem hai huynh đệ chúng luyện võ đã.”
Quy nhị nương quay lại nhìn chồng mình, thấy hai bóng người nhảy qua nhảy lại lộng gió vù vù, ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Quy Tân Thụ thì kình lực mạnh, chiêu thức chậm; còn Viên Thừa Chí thì thân pháp linh hoạt. Một người thì thuần thục võ nghệ bản môn, một người thì học được sở trường ba phái. Hai bên tỉ đấu ngang tay, khó phân cao thấp.
Lúc đầu Viên Thừa Chí phải lo lắng đến Thanh Thanh, trong lòng không tránh khỏi phân tâm. Bây giờ chàng thấy Mộc Tang đạo nhân đã đến cứu viện, bèn tập trung lại tinh thần để đối chiêu với sư huynh. Trận đấu bây giờ không hung hãn nữa, nhưng mỗi lúc một khẩn trương. Phục Hổ Chưởng, Bích Thạch Quyền, Phá Ngọc Quyền, Hỗn Nguyên Chưởng, những môn võ công thượng thừa của bản môn đều được đem ra sử dụng. Dù sao công lực của Viên Thừa Chí cũng nông cạn hơn, tu tập không lâu bằng Quy Tân Thụ, nên đấu tới gần một ngàn chiêu thì chàng ở vào thế hạ phong.
Quy nhị nương thấy chồng mình mỗi lúc một công nhiều thủ ít, âm thầm mừng rỡ. Mụ thấy Viên Thừa Chí thuần thục công phu bản môn như vậy, biết chàng thật sự là sư đệ của mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Thấy quyền thuật chàng tinh diệu, mụ không khỏi phục thầm.
Đánh thêm mấy chục chiêu, Viên Thừa Chí đột nhiên thay đổi quyền pháp, thân hình như một con rắn nước lướt qua lướt lại. Đây chính là Kim Xà Du Thân Chưởng do Kim Xà Lang Quân sáng chế khi ngắm nhìn một con rắn nước đang bơi lội. Pho chưởng pháp này có rất nhiều chiêu số dùng biện pháp hiểm độc để thủ thắng, nhưng lúc này Viên Thừa Chí bỏ đi không dùng. Chàng pha thêm vào đó khinh công Thần Hành Bách Biến và Thập Đoạn Cẩm.
Viên Thừa Chí lúc tiến lúc lùi, đột nhiên phía này đột nhiên phía kia, mọi người đứng xem đều hoa cả mắt. Quyền pháp của Quy Tân Thụ tuy cao, nhưng y không hiểu thân pháp của đối thủ nên không biết xuất thủ đánh vào chỗ nào cho trúng. Y không khỏi cấp bách, lo lắng trong lòng: “Mình xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, nhưng đấu với tiểu sư đệ trên ngàn chiêu vẫn không làm gì được. Thế là ngoại hiệu của mình có phần quá đáng rồi.”
Viên Thừa Chí đang lạng qua lạng lại, đột nhiên Quy Tân Thụ nhảy ra ngoài kêu lớn: “Khoan đã!”
Viên Thừa Chí vội vã đứng lại, nói: “Vâng!” Chàng nghĩ: “Sư huynh đánh mãi không trúng mình, hai bên coi như ngang nhau, ngừng đấu để cùng giữ thể diện là hơn.”
Bỗng thấy Quy Tân Thụ chắp tay vái lạy lên không trung, hô lên: “Sư phụ! Lão nhân gia đã đến rồi.”
Viên Thừa Chí kinh hãi, lúc đó mới nhìn thấy trên cành cây có bốn người nối nhau tung người xuống, người đầu tiên đúng là ân sư Mục Nhân Thanh. Chàng cả mừng, vội chạy tới bái lạy. Khi đứng dậy, nhìn thấy phía sau sư phụ là Thôi Thu Sơn và đại sư huynh Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân, còn người cuối cùng chính là ông câm.
Viên Thừa Chí đột nhiên gặp gỡ ân sư và cố nhân, mừng rỡ đưa tay ra hiệu với ông câm mấy cái. Chàng nghĩ: “Dù sao kinh nghiệm mình cũng rất nông cạn, mải lo chiết chiêu với Nhị sư huynh mà không để ý tình thế xung quanh. Nếu người nấp trên cây không phải là sư phụ, không chừng mình phải trúng ám toán của người khác. Còn Nhị sư huynh thì mắt nhìn sáu phương tai nghe tám hướng, đại hành gia trên giang hồ rốt cuộc khác hẳn người thường.” Bất giác trong lòng chàng vô cùng thán phục.
Mục Nhân Thanh xoa đầu Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Đại sư ca của ngươi đã kể những chuyện ở Phù Châu, tỉnh Chiết Giang. Việc đó ngươi xử lý không đến nỗi tồi.”
Sau đó ông trầm hẳn mặt xuống, nghiêm giọng hỏi: “Còn trẻ sao không biết tôn kính tôn trưởng, đánh nhau với sư ca sư tẩu thế này?”
Viên Thừa Chí cúi đầu nói: “Đệ tử có điều không phải, lần sau nhất định không dám nữa.” Sau đó chàng đi tới trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ, khom lưng vái lạy mà nói: “Tiểu đệ xin thỉnh tội với sư ca, sư tẩu.”
Quy nhị nương tính tình thẳng thắn, bèn nói với Mục Nhân Thanh: “Sư phụ! Sư phụ đừng trách sư đệ động thủ. Đó là vợ chồng chúng con đã ép sư đệ. Chúng con trách sư đệ dùng võ công của phái khác để làm nhục mấy tên đồ đệ bất tài này.” Nói xong, mụ chỉ sang ba người Mai Kiếm Hòa.
Mục Nhân Thanh nói: “Nói đến chuyện môn hộ, ta lại không hiểu. Kiếm Hòa, qua đây ta hỏi. Viên sư thúc của ngươi động thủ với sư huynh, thì sư thúc không tốt. Còn ba người các ngươi, sao lại đối chiêu với sư thúc? Môn hộ chúng ta có tôn ti trật tự, chẳng lẽ mọi người không cần tuân thủ hay sao?”
Trước mặt sư tổ Mai Kiếm Hòa không dám giấu giếm, bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện Mẫn Tử Hoa mời mình đi báo thù. Khi nhắc đến việc Tôn Trọng Quân chặt đứt cánh tay người khác, hắn chỉ nói đơn giản là ả ra tay động thủ với một đồ đệ của Tiêu Công Lễ. Hắn nhấn mạnh vào chuyện Viên Thừa Chí đạp gãy thanh trường kiếm Quy nhị nương tặng Tôn Trọng Quân.
Thanh Thanh nhịn không nổi, nói xen vào: “Lão sư phụ! Vị Phi Thiên Ma Nữ này vô cớ phóng kiếm chặt đứt cánh tay người khác. Người đó chỉ phụng mạng sư phụ đến đưa thư mời khách, không hề phòng bị, tay không tấc sắt. Viên đại ca nói, môn nhân phái Hoa Sơn không thể lạm sát vô cớ. Huynh ấy nhìn thấy việc này, không thể không can thiệp, nếu bị sư phụ trách phạt cũng đành chịu, nên mới đứng ra. Huynh ấy còn nói, đắc tội với sư ca sư tẩu không khỏi trong lòng áy náy, nhưng không có cách gì khác.”
Nàng biết Viên Thừa Chí không giỏi nói năng mà cũng không thích tự biện minh cho mình, nên mới lên tiếng giùm chàng. Sau đó nàng quay qua khẽ nói với Viên Thừa Chí: “Kẻ câm đã mở miệng rồi. Xin lỗi nhé.”
Sắc mặt Mục Nhân Thanh lạnh băng như sương sớm, trầm giọng hỏi: “Có thật vậy không?”
Vợ chồng họ Quy không biết việc này, cùng nhìn Tôn Trọng Quân. Mai Kiếm Hòa khẽ đáp: “Sư tổ gia gia! Lúc đó Tôn sư muội tưởng hắn là kẻ xấu, nên ra tay không dung tình. Bây giờ sư muội đã hối hận rồi, xin sư tổ tha thứ.”
Mục Nhân Thanh nổi giận quát lên: “Giới luật lớn nhất của phái Hoa Sơn chúng ta, chính là không được lạm thương vô cớ. Tân Thụ! Khi ngươi nhận đứa đồ đệ này, có dạy cho nó biết hay không?”
Trước giờ Quy Tân Thụ chưa từng thấy sư phụ tức giận ghê gớm đến thế, vội quỳ xuống đáp: “Đệ tử dạy dỗ sơ sót, thật là không phải. Xin sư phụ bớt giận! Đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó đến nơi đến chốn.”
Bốn người Quy nhị nương, Mai, Lưu, Tôn cùng quỳ phía sau Quy Tân Thụ. Mục Nhân Thanh không bớt giận, mắng sang Viên Thừa Chí: “Ngươi đã gặp việc này, sao chỉ bẻ gãy kiếm rồi thôi, coi như xong việc? Sao không chặt đứt một cánh tay của ả? Chúng ta không tự tẩy rửa môn hộ, há chẳng để bằng hữu giang hồ sỉ vả chê cười?”
Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, đáp: “Vâng, vâng! Đệ tử xử trí không đúng.”
Mục Nhân Thanh lại nói: “Còn cô gái này…” Ông chỉ Thanh Thanh, hỏi Tôn Trọng Quân: “Cô gái này phạm vào tội ác nào không thể tha thứ, mà ngươi liên tiếp ra chín chiêu đoạt mạng, chưa giết người quyết chẳng chịu thôi? Ngươi qua đây.”
Tôn Trọng Quân hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, nhất định không dám bước qua. Ả nằm rạp xuống đất, vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Đồ tôn tưởng cô ấy là nam nhân, là loại sở khanh…”
Mục Nhân Thanh giận dữ nói: “Ngươi đã chém rớt khăn bịt đầu, thấy rõ cô ấy là nữ nhân rồi, nhưng vẫn tiếp tục hạ độc thủ. Hơn nữa, chẳng lẽ gặp nam nhân thì có thể lạm sát ư? Cứ nghe bốn chữ ngoại hiệu Phi Thiên Ma Nữ cũng biết cách xử thế từ xưa đến giờ của ngươi. Ngươi không chịu qua đây phải không?”
Quy nhị nương biết chắc sư phụ sẽ điểm huyệt cho Tôn Trọng Quân thành phế nhân, tước bỏ võ công. Mụ bèn khấu đầu năn nỉ: “Sư phụ! Xin lão nhân gia bớt giận. Khi trở về, đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó nặng nề.”
Mục Nhân Thanh bảo: “Ngươi chặt đứt cánh tay của nó đi, ngày mai cầm qua nhà họ Tiêu mà thỉnh tội.”
Quy nhị nương không dám nói gì nữa. Viên Thừa Chí lên tiếng: “Đồ nhi đã xin lỗi gia đình họ Tiêu, còn giúp họ một việc lớn, cứu mạng bang chủ của họ, lại hứa dạy một môn võ công cho nạn nhân. Về phía nhà họ Tiêu thì không cần lo lắng nữa.”
Mục Nhân Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Rất may Mộc Tang đạo huynh không phải người ngoài, không thì ông ấy phải cười cho. Ông ấy thật là thông minh, biết sợ loại học trò mất dạy, nên suốt đời không chịu nhận đồ đệ để tránh khỏi chết vì tức giận. Các ngươi đứng dậy cả đi.”
Sau khi mọi người đứng dậy, Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn Tôn Trọng Quân một cái. Tôn Trọng Quân hoảng sợ, chân nhũn ra lại quỳ xuống. Mục Nhân Thanh bảo: “Đưa kiếm tới đây.”
Tim Tôn Trọng Quân đập nghe ầm ầm, nhưng ả chỉ còn cách hai tay bưng kiếm đặt lên đỉnh đầu, dâng lên sư tổ.
Mục Nhân Thanh nắm lấy chuôi kiếm, rung tay một cái. Tôn Trọng Quân thấy tay trái nhói lên, máu tươi chảy đầm đìa, thì ra ngón tay út đã bị sư tổ chém rơi xuống đất. Mục Nhân Thanh rung tay một cái nữa, thanh trường kiếm lập tức gãy thành hai khúc. Ông quát lên: “Từ nay về sau không cho phép ngươi dùng kiếm nữa.”
Tôn Trọng Quân ráng nén cơn đau, trả lời: “Vâng! Đồ tôn biết lỗi.” Ả vừa sợ hãi vừa xấu hổ, nước mắt chảy ào ra.
Quy nhị nương xé một góc áo, bó vết thương cho ả rồi nhỏ nhẹ dỗ dành: “Được rồi, sư tổ không phạt con thêm nữa đâu.”
Mai Kiếm Hòa nhìn thấy sư tổ rung tay mà trường kiếm gãy lìa, bây giờ mới biết Viên Thừa Chí liên tiếp chấn gãy trường kiếm trong tay mình đúng là công phu của bản môn. Hắn nghĩ thầm: “Thì ra võ thuật bản môn tinh diệu đến thế. Mình chỉ học được tí xíu ngoài da đã ra ngoài diễu võ giương oai rồi.” Hắn nghĩ đến những chuyện cuồng vọng ngạo mạn trước đây, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, lại sợ sư tổ trách phạt, không kìm nổi mồ hôi lạnh toát đầy người.
Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn hắn một cái, không nói gì. Ông quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Ngươi đã hứa truyền thụ công phu cho người ta, thì phải dạy dỗ đàng hoàng. Ngươi dạy cái gì?”
Viên Thừa Chí đỏ mặt lên đáp: “Đệ tử chưa được sư phụ đồng ý, không dám đem võ công bản môn dạy cho người khác, định truyền cho y bộ Độc Tí Đao Pháp. Đó là một môn tạp học mà đệ tử vô ý học được.”
Mục Nhân Thanh nói: “Tạp học của ngươi hơi bị nhiều rồi đấy. Vừa rồi ta thấy ngươi đối chiêu với Nhị sư ca, hình như đã dùng công phu Thần Hành Bách Biến của Mộc Tang đạo trưởng. Có một vị kỳ hữu kế bên trợ giúp, Nhị sư ca dĩ nhiên không làm gì được ngươi.”
Nói xong ông cười ha hả. Mộc Tang đạo nhân mỉm cười hỏi: “Thừa Chí! Ngươi dám nói dối trước mặt sư phụ hay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đệ tử không dám.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Được, vậy ta hỏi ngươi! Từ khi rời khỏi Hoa Sơn, ta có dạy võ công cho ngươi hay không? Nghe cho kỹ, ta có dạy cho ngươi hay không?”
Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu, Mộc Tang đạo nhân nhờ Thanh Thanh truyền thụ vì sợ sư phụ và Nhị sư ca trách móc. Vị đạo trưởng này linh mẫn, lắm mưu nhiều trí, hình như đoán trước được toàn bộ sự việc rồi. Chàng bèn đáp: “Trên núi Hoa Sơn đạo trưởng đã truyền cho đệ tử không ít công phu, đệ tử cảm kích không bao giờ hết. Từ lúc xuống núi Hoa Sơn, đạo trưởng chưa đích thân dạy cho đệ tử võ công. Lần này gặp mặt chỉ mới chơi hai ván cờ.”
Chàng nghĩ: “Tuy câu này không phải là nói dối, nhưng hàm ý vẫn là dối trá, ít ra cũng có chỗ gian xảo. Nhưng bây giờ nói rõ thì Nhị sư ca chắc chắn sẽ trách đạo trưởng. Đợi lát nữa Nhị sư ca rời khỏi đây, ta phải kể rõ lại tình hình cho sư phụ biết.”
Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Vậy là đúng rồi. Ngươi tiếp tục luyện chiêu với sư ca đi. Tất cả võ công trước đây ta từng dạy, một chiêu ngươi cũng không được dùng.”
Viên Thừa Chí nói: “Nhị sư ca biệt hiệu là Thần Quyền Vô Địch, quả nhiên danh bất hư truyền. Đệ tử đã chống đỡ không nổi, chỉ còn biết tránh né. Đang định nhận thua, xin Nhị sư ca dừng tay, không ngờ Nhị sư ca đã nhìn thấy sư phụ. Lúc đệ tử đối chiêu, thật không đủ khả năng lo liệu đến những việc xung quanh.”
Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Được rồi, được rồi! Đạo trưởng đã bảo các ngươi luyện chiêu thì cứ luyện, xấu hổ một tí đã sao?”
Viên Thừa Chí không còn cách nào thoái thác, bèn đi đến trước mặt Quy Tân Thụ, chắp tay nói: “Xin Nhị sư ca chỉ giáo.”
Quy Tân Thụ chắp tay đáp: “Không cần khách sáo.” Y quay lại bẩm với Mục Nhân Thanh: “Chúng con có sai sót gì, xin sư phụ chỉ điểm thêm.” Hai người lại bắt đầu tỉ thí.
Trận đấu này khác hẳn vừa rồi. Trước mặt Mộc Tang đạo nhân, sư phụ, đại sư huynh cùng bọn đồ đệ, Quy Tân Thụ quyết không chịu mất mặt. Lúc y tấn công thì nhanh mạnh như sấm chớp, lúc thủ thế thì vững chắc như núi cao, thân thủ danh gia quả nhiên cao diệu.
Viên Thừa Chí cũng có công có thủ, dùng toàn tuyệt kỹ của sư môn. Trong vòng một trăm chiêu, quyền pháp hai người hoàn toàn không sơ suất chút nào. Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng bên cùng vuốt râu mỉm cười.
Mộc Tang nói: “Đúng là trong cửa danh sư ắt có cao đồ, dưới tay tướng mạnh không có quân hèn. Xem hai vị hiền đồ, lão đạo này phải ghen đến đỏ mắt lên, hối hận năm xưa sao không dạy dỗ mấy đứa đồ đệ đàng hoàng.”
Mới nói có thế, hai đối thủ đã qua lại thêm mấy chục chiêu. Quy Tân Thụ đánh mãi vẫn không hạ được đối phương, nên dần dần gia tăng kình lực, thế công dũng mãnh hơn. Viên Thừa Chí thấy tỉ thí đã lâu, tới lúc mình nên nhường nhịn. Nhưng chiêu nào của Quy Tân Thụ cũng vô cùng lợi hại, nếu không ra sức đón đỡ thì lập tức trọng thương ngay. Chàng muốn nhường sư huynh một chiêu, thật là vô cùng khó.
Cầm cự một lát nữa, chàng bỗng nghĩ: “Vừa rồi sư phụ có ý trách mình tham lam, thích nghiên cứu tạp học phái khác, không tán đồng lắm. Lúc nãy mình sử dụng hoàn toàn quyền pháp bản môn, sau mấy trăm chiêu phải ở thế hạ phong, đến khi dùng công phu của Mộc Tang đạo trưởng và Kim Xà Lang Quân thì hơi thắng thế. Bây giờ nếu mình chỉ thi triển võ công bản môn mà chịu thua, há chẳng phải nói võ công phái khác giỏi hơn võ công phái mình? Bây giờ mình phải dùng võ công phái khác để thua huynh ấy. Đạo trưởng đã không cho phép mình dùng võ công của ông ấy, thế thì mình thi triển võ công của Kim Xà Lang Quân vậy.” Chàng lập tức thay đổi đấu pháp, sử dụng bộ Kim Xà Chế Hạc Quyền.
Quy Tân Thụ thấy chiêu đỡ chiêu, thế công vẫn không chậm trễ. Viên Thừa Chí đột nhiên xuất liền bốn quái chiêu, y mới hơi kinh hãi, thu quyền về cản trở. Viên Thừa Chí hít được một hơi chân khí, liền vận khí sẵn sàng sau lưng.
Quy Tân Thụ thấy sau lưng sư đệ có chỗ sơ suất, lập tức tấn công ngay theo phản xạ của người học võ. Y không kịp suy nghĩ sâu hơn, phát chưởng đánh trúng vào giữa lưng đối thủ. Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn, vọt người tới trước, loạng choạng bốn năm bước rồi quay lại nói: “Tiểu đệ thua rồi.”
Quy Tân Thụ vừa phóng chưởng đã hối hận ngay, sợ sư đệ bị trọng thương nên vội chạy tới đỡ. Thấy Viên Thừa Chí không sao, y vừa kinh ngạc vừa nổi dạ nghi ngờ. Thì ra Viên Thừa Chí đã vận khí thủ sẵn sau lưng, thừa thế phóng lên phía trước để tiêu giảm chưởng lực của đối phương, lại được cái áo kim ti của Mộc Tang đạo nhân tặng cho bảo hộ. Tuy trên lưng chàng hơi đau, nhưng chưa bị nội thương.
Khi Viên Thừa Chí quay người lại, mọi người đều thấy lưng áo chàng rách bươm. Một cơn gió thổi qua, những mảnh vải vụn bay phất phơ như đàn bướm. Thanh Thanh vô cùng lo lắng, vội chạy tới hỏi: “Có sao không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Thanh đệ yên tâm.”
Mục Nhân Thanh bảo Quy Tân Thụ: “Công phu của ngươi đúng là có tiến bộ. Nhưng chiêu này hơi ác, ngươi có biết không?”
Quy Tân Thụ đáp: “Vâng! Võ công Viên sư đệ rất giỏi, đệ tử cũng phải thán phục.”
Mục Nhân Thanh nói: “Công lực bản môn của sư đệ không tinh thuần bằng ngươi, còn kém rất xa.” Ông dừng một lát rồi nói tiếp: “Trước đây ta từng nghe nói vợ chồng ngươi chiều chuộng đồ đệ, bên ngoài tai tiếng rất nhiều. Ta vẫn nghĩ vợ ngươi không hiểu đạo lý, chứ ngươi thì chưa phải loại người như vậy. Nhưng vừa rồi thấy ngươi đối phó với sư đệ của mình… Hừ!”
Quy Tân Thụ cúi đầu xuống nói: “Đệ tử biết lỗi rồi.”
Mộc Tang vội lên tiếng: “Tỉ võ chiết chiêu, ra tay chẳng ai dung tình được. Thừa Chí lại không bị thương, lão già kia còn nói gì nữa?”
Nghe vậy Mục Nhân Thanh mới im không nói tiếp.
Phu phụ Quy Tân Thụ thành danh đã lâu, hiện nay rõ ràng là lãnh tụ võ lâm Giang Nam. Lần này bị sư phụ trách mắng trước mặt đông người như vậy, vì sư ân sâu nặng nên họ không dám trách cứ sư phụ, bèn đem mối hận trút qua Viên Thừa Chí. Quy Tân Thụ cũng biết sư đệ có ý nhường nhịn, nhưng bị sư phụ trách mắng nên y không nghĩ đến hảo ý đó nữa.
Mục Nhân Thanh lên tiếng: “Mùa thu năm nay Sấm Vương sẽ cử sự. Các ngươi hãy triệu tập môn hạ, lập tức ra tay liên lạc với võ lâm hào kiệt Giang Nam. Khi quân khởi nghĩa của Sấm Vương tiến về hướng nam, phải lập tức phất cờ hưởng ứng.”
Phu phụ Quy Tân Thụ lên tiếng vâng dạ.
Mục Nhân Thanh nhìn sang Quy Tân Thụ, sắc mặt ra vẻ từ hòa, dịu dàng nói: “Tân Thụ! Ngươi đừng nghĩ ta thương tiểu sư đệ hơn. Tuy rằng tuổi ngươi không còn nhỏ, nhưng trong lòng ta thì ngươi vẫn là một tên tiểu đồ đệ, chẳng khác gì năm xưa mới lên núi Hoa Sơn.”
Quy Tân Thụ cúi đầu xuống, trong lòng cảm thấy ấm áp ngay. Y nói: “Đệ tử quyết không nghĩ đến chuyện sư phụ thiên ái sư đệ.”
Mục Nhân Thanh nói: “Tính tình của ngươi xưa nay thẳng thắn. Ba mươi năm nay ngươi chuyên tâm luyện võ, những việc bên ngoài càng ít suy nghĩ tới. Nhưng việc trong thiên hạ, không chỉ dựa vào võ công cao cường mà lo liệu được. Khi gặp đại sự phải suy nghĩ tiền nhân hậu quả, tuyệt đối không được dễ dàng tin lời người khác.”
Quy Tân Thụ nói: “Vâng! Đệ tử sẽ cố ghi nhớ những điều sư phụ chỉ dạy.”
Mục Nhân Thanh quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Ngươi và người bạn nhỏ này hãy đi Bắc Kinh thám thính động tĩnh của triều đình, nhưng tuyệt đối không được vạch cỏ động rắn làm kinh động người khác, cũng không được hại mạng hoàng đế và các đại thần trong triều. Nếu thám thính được tin tức gì quan trọng, hãy tới Thiểm Tây để báo tin.”
Viên Thừa Chí vâng dạ.
Mục Nhân Thanh lại nói: “Tối nay ta còn phải đi gặp Minh chủ Thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân và Thập Lực đại sư của Thanh Lương Tự. Nghe nói Thập Lực đại sư vừa nhận được pháp chỉ của trụ trì Thanh Lương Tự Ngũ Đài Sơn, phái đi tiếp nhận chức trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở tỉnh Hà Nam. Một là ta đến chúc mừng, hai là muốn thương lượng cùng ông ấy một số việc về võ lâm tỉnh Hà Nam. Đạo huynh! Còn đạo huynh đi đâu?”
Mộc Tang đạo nhân đáp: “Các vị là trung thần nghĩa sĩ vì nước vì dân, suốt ngày bận rộn như ngựa không dừng vó. Còn lão đạo này giống như dã hạc nhàn vân. Ta muốn làm chậm trễ tiểu đồ đệ của ông mấy ngày, có được không?”
Mục Nhân Thanh mỉm cười đáp: “Dù sao nó cũng đã hứa dạy người ta võ công, phải ở lại Nam Kinh mấy ngày. Ông cứ ở lại mà chơi với nó mấy ván cờ, còn bao nhiêu bản lãnh về kỳ đạo và võ công thì tiện thể đem ra dạy nó một thể cho rồi.”
Mộc Tang đạo nhân bỗng dưng ủ rũ, ảm đạm nói: “Sau mấy ván cờ này, không biết sau này còn được chơi nữa hay không?”
Mục Nhân Thanh ngơ ngác hỏi: “Sao đạo huynh lại nói thế? Trước mắt dân chúng còn bị vùi trong dầu sôi lửa bỏng, đại sự chỉ vài tháng nữa là có thể thành công. Sau này bốn phương yên ổn, thiên hạ thái bình, bá tính an cư lạc nghiệp, chúng ta không có việc để làm. Đừng nói là Thừa Chí, ngay cả ta cũng có thể chơi cờ với đạo huynh hàng ngày.”
Mộc Tang lắc đầu nói: “Chưa chắc, chưa chắc! Biến cũ vừa xong, biến mới lại phát sinh. Trong bàn cờ còn có cờ trắng cờ đen, thì vạn kiếp tuần hoàn không bao giờ tận.”
Mục Nhân Thanh cười rộ lên nói: “Nhiều ngày không gặp, đạo huynh ngộ đạo càng cao thâm. Huyền cơ đó thì bọn phàm tục chúng ta không sao hiểu nổi.”
Ông vừa cười ha hả vừa chắp tay từ biệt. Hoàng Chân và Thôi Thu Sơn đi theo, còn ông câm đưa tay ra hiệu muốn đi cùng Thừa Chí. Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Ngươi nhớ người bạn nhỏ thì cứ đi theo nó.”
Ông câm cả mừng, chạy qua ôm Viên Thừa Chí lên, tung chàng lên cao, đợi chàng rơi xuống rồi đưa tay đón lấy. Đó là một trò đùa quen thuộc của hai người khi ở Hoa Sơn. Bây giờ Thừa Chí đã lớn, thân hình to nặng, nhưng ông câm thần lực kinh người, vẫn có thể ném chàng lên rất cao.
Thanh Thanh hoảng sợ nhảy chồm lên, dưới ánh trăng nhìn rõ gương mặt Viên Thừa Chí đầy vẻ hân hoan, mới biết ông câm hoàn toàn không có ác ý.
Sau đó ông câm mở cái bọc trên lưng, lấy ra một thanh kiếm giao cho Viên Thừa Chí. Đó chính là cây Kim Xà Kiếm. Thì ra lần trước y từng theo Viên Thừa Chí vào sơn động, cắm trả thanh Kim Xà Kiếm về chỗ cũ. Lần này rời núi, nghe Mục Nhân Thanh nói là đi gặp Viên Thừa Chí, y nghĩ: “Trên núi không còn ai, không khéo thanh bảo kiếm này sẽ bị trộm mất.” Y bèn chui vào trong động, rút thanh kiếm ra giấu vào trong bọc, ngay cả Mục Nhân Thanh cũng không biết.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thanh kiếm này là di vật của phụ thân Thanh đệ, mình tạm thời cất giữ. Sau này mình sẽ truyền Kim Xà Kiếm Pháp cho nàng, rồi trả kiếm luôn một thể.”
Thanh Thanh cầm thanh kiếm lên ngắm nghía, nghĩ đến phụ thân cùng mẫu thân, trong lòng rầu rĩ không sao tả xiết.
Viên Thừa Chí cùng sư phụ mới gặp mặt đã chia tay, lưu luyến không nỡ rời xa. Mục Nhân Thanh mỉm cười nói: “Ngươi giỏi lắm! Ta rất mừng, không uổng một phen dạy dỗ.” Ông phất tay áo bào một cái, khuất vào trong bóng tối.
Phu phụ Quy Tân Thụ chắp tay tiễn đưa. Đợi sư phụ cùng đại sư huynh rời khỏi, họ chắp tay hướng về Mộc Tang đạo nhân khom lưng vái lạy, không nói tiếng nào, ôm con dẫn ba đồ đệ đi ngay.
Mộc Tang đạo nhân bảo Viên Thừa Chí: “Trong lòng họ đã hận ngươi rồi đấy. Công phu hai người này khá lợi hại, sau này gặp phải cẩn thận một chút.”
Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. Phen này phải đắc tội với nhị sư huynh, trong lòng chàng rất buồn. Về tới nhà họ Tiêu, chàng lăn ra giường ngủ ngay.
*
* *
Sáng hôm sau chàng vừa thức dậy, Thanh Thanh đã vừa kêu réo om sòm vừa bước vào. Nàng bưng một cái hộp gỗ, mỉm cười hỏi: “Huynh đoán thử, đây là cái gì?”
Viên Thừa Chí không hào hứng chút nào, hỏi: “Có khách đến tìm phải không?”
Thanh Thanh mở nắp hộp ra, cười tươi như hoa nở. Trong hộp là một tấm thiếp đỏ rất lớn, viết: “Ngu đệ Mẫn Tử Hoa bái”. Nàng giở tấm thiệp lên, bên dưới là một quyển khế ước nhà, một tờ giấy liệt kê đồ đạc.
Thế là Mẫn Tử Hoa tôn trọng lời hứa, đem tặng căn nhà đó. Viên Thừa Chí cảm thấy áy náy, liền khoác trường bào qua đó để đa tạ. Nào ngờ người nhà họ Mẫn đã đi hết, chỉ để lại hai gia nhân đang quét dọn khắp nơi. Viên Thừa Chí hỏi, họ nói là Mẫn nhị gia đã dẫn gia quyến và bằng hữu rời khỏi đó từ sáng sớm, đi đâu thì không biết.
Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh lấy tấm di đồ của Kim Xà Lang Quân ra, đối chiếu với căn nhà này. Phòng ốc và hành lang có chút ít thay đổi, nhưng kiến trúc cơ bản thì rất phù hợp. Hai người mừng rỡ, biết tòa nhà Ngụy Quốc Công Tứ Đệ này đúng là nơi bản đồ đã chỉ. Theo ký hiệu ghi trên bản đồ mà tìm kiếm, thì ra nơi chứa kho báu là một gian nhà chất củi ở phía sau vườn hoa.
Chiều hôm đó Tiêu Uyển Nhi sai người qua giúp đỡ quét dọn bố trí. Nàng gửi cả hai cô tì nữ đến phục thị Thanh Thanh, ngoài ra đầu bếp, gác cửa, làm vườn, mã phu… tất cả đều đầy đủ. Hồng Thắng Hải được Viên Thừa Chí phong làm tổng quản.
Viên Thừa Chí nói: “Tiêu cô nương tuổi tác còn trẻ như vậy, thế mà suy nghĩ rất chu đáo.”
Thanh Thanh dẩu môi ra rồi cười: “Nếu cô ấy đích thân đến đây chủ trì nội trợ, lại càng vô cùng chu đáo. Lúc đó muội… muội…” Mặt nàng bỗng đỏ ửng lên, nửa câu sau không nói tiếp được.
Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, nghĩ bụng: “Cô này cái gì cũng được, chỉ có tính hay ghen là hơi dở.” Chàng mỉm cười, không nói gì.
Canh hai đêm đó Viên Thừa Chí gọi ông câm dậy. Hai người dọn hết củi rơm trong kho củi ra, lấy cuốc xẻng đào xới nền nhà. Thanh Thanh cầm kiếm đứng canh giữ phía ngoài. Đào hơn nửa giờ, bỗng nghe một tiếng keng, cuốc sắt đụng phải đá. Quét dọn hết đất cát bên trên thì lộ ra một phiến đá lớn. Hai người hợp sức nhấc phiến đá đó lên, bên dưới là một hang động lớn.
Thanh Thanh nghe thấy tiếng hô mừng rỡ, vội chạy vào xem. Viên Thừa Chí nói: “Đúng là ở đây rồi.”
Chàng đốt hai bó rơm ném vào trong động, đợi uế khí bay hết mới đưa tay ra hiệu bảo ông câm canh giữ bên ngoài, rồi cùng Thanh Thanh men theo bậc thang bằng đá đi xuống. Bên dưới có mười chiếc rương sắt lớn, xếp thành một dãy. Mười chiếc rương này đều khóa bằng những ổ khóa lớn, nhưng tìm mãi cũng không thấy chìa khóa đâu.
Viên Thừa Chí lấy đồ hình ra xem tỉ mỉ, thấy ở góc trái có vẽ một con rồng nhỏ. Chàng nảy ra một ý, bèn cầm cuốc theo phương hướng đó đào xuống. Đào chẳng bao lâu thì thấy một cái hộp sắt, cái hộp này không khóa. Viên Thừa Chí nhớ đến độc tiễn trong cái hộp mà Kim Xà Lang Quân giấu bí kíp giả, bèn dùng dây buộc chặt vào nắp hộp sắt, đứng xa xa mà nắm dây giật nắp ra. Hồi lâu không thấy gì, chàng mới đưa đuốc tới xem. Trong hộp có hai tờ giấy và một xâu chìa khóa.
Chàng cầm lên đọc, thấy trong một tờ giấy có viết: “Hoàng thúc của trẫm làm phản, đại thần đầu hàng hết. Chỉ có Ngụy quốc công Từ Huy Tổ xứng với bậc công thần dựng nước, trung nghĩa đáng khen. Gấp rút không kịp mang theo trọng bảo, gửi lại trong nội phủ. Ngụy công giữ giúp trẫm, sau này quang phục tông miếu xã tắc sẽ lấy làm kinh phí. Tháng sáu Canh Thân năm Kiến Văn thứ tư, ngự bút.”
Viên Thừa Chí xem xong bất giác rùng mình, nghĩ bụng: “Quả nhiên đây là trọng bảo Kiến Văn Đế để lại hồi Yến Vương soán vị.”
*
* *
Lúc triều Minh khai quốc, có công lớn nhất là đại tướng quân Từ Đạt. Từ Đạt cùng Minh Thái Tổ là bạn thân thời áo vải chưa khởi sự. Sau khi làm hoàng đế, Chu Nguyên Chương vẫn gọi ông là Từ huynh. Từ Đạt dĩ nhiên không dám hô huynh gọi đệ với hoàng đế, lúc nào cũng cung kính, cẩn thận giữ mồm giữ miệng.
Có một hôm Minh thái tổ Chu Nguyên Chương ngồi uống rượu với ông, nói: “Từ huynh công lao rất lớn, vẫn chưa có chỗ an cư. Tặng huynh ngôi nhà cũ của ta.” (Nguyên văn trong Từ Đạt truyện, Minh sửviết là: “Từ huynh công đại, vị hữu ninh cư, khả tứ dĩ cựu đệ”.)
Cựu đệ là tòa phủ đệ hồi Thái Tổ còn làm Ngô Vương đã ở; sau khi đăng quang, dĩ nhiên y đã xây cung điện khác. Từ Đạt nghĩ, Thái Tổ từ Ngô Vương lên ngôi hoàng đế, nếu mình vào ở trong nhà cũ của Ngô Vương thì phạm điều cấm kỵ, nhất định bị nghi ngờ. Ông biết bệnh đa nghi của Thái Tổ rất nặng, nên lúc đó vội vã đa tạ khước từ, nói sao thì nói cũng không chịu nhận.
Thái Tổ quyết định thử một lần nữa, mấy hôm sau bèn triệu Từ Đạt đến cựu đệ của mình uống rượu. Y không ngớt chuốc rượu cho ông say mèm, rồi sai người hầu khiêng ông vào phòng, đặt lên chiếc giường trước đây mình từng ngủ. Sau khi tỉnh rượu, Từ Đạt thấy vậy vô cùng kinh hãi, vội nhảy xuống giường, phủ phục dưới đất mà vái lạy, luôn mồm nói là “tử tội, tử tội”; rồi ngồi suốt đêm dưới đất, không dám leo lên giường ngủ nữa.
Hôm sau bọn người hầu kể lại, Thái Tổ nghe mà mừng rỡ, nghĩ bụng: “Người này lấy chữ trung làm đầu, hoàn toàn không có ý phản nghịch”. Y lập tức hạ chỉ, cho xây một ngôi nhà lớn trước tòa cựu đệ để ban cho Từ Đạt, đích thân viết hai chữ Đại Công để làm tên phường có tòa nhà lớn này. Đó là nguồn gốc Đại Công Phường và Ngụy Quốc Công Tứ Đệ ở Nam Kinh.
Theo sử đã ghi, Từ Đạt tinh thông mưu lược, giỏi phép dùng binh, đánh trận bách chiến bách thắng, nên dù ông cung kính cách nào Thái Tổ vẫn sợ ông tạo phản. Vào năm Hưng Võ thứ mười tám, lưng Từ Đạt nổi nhọt. Nghe nói người nổi nhọt sau lưng mà ăn thịt ngỗng là chết ngay. Thái Tổ cho người đến thăm bệnh, gửi tặng một con ngỗng hầm. Từ Đạt nhìn mà nước mắt giàn giụa, bèn ăn sạch con ngỗng hầm trước mặt sứ giả. Đêm đó ông phát độc mà chết.
Không rõ người bị nhọt sau lưng (giống như bệnh ung thư) mà ăn ngỗng hầm có chắc chết hay không. Nhưng Thái tổ Chu Nguyên Chương ban tặng con ngỗng hầm này, đồng nghĩa với ban tặng cái chết. Giả tỉ Từ Đạt ăn hết con ngỗng mà vô sự, cũng phải uống thuốc độc tự vẫn mà thôi. Chuyện này chính sử không ghi, không rõ hư thực thế nào.
Từ Đạt có bốn trai ba gái. Ba đứa con gái đều là vương phi của các con Thái Tổ. Trưởng nữ là vương phi của Yến Vương, sau này trở thành hoàng hậu của Thành Tổ. Thứ nữ là vương phi của Đài Vương, tam nữ là vương phi của An Vương. Khi Yến Vương tạo phản, trưởng tử Từ Huy Tổ của Từ Đạt trung thành với Kiến Văn Đế, đem binh kháng cự Yến Vương. Con trai út của Từ Đạt là Từ Tân Thọ lại âm thầm cấu kết với anh rể mình là Yến Vương. Khi Yến Vương đưa quân tới thành Nam Kinh, Kiến Văn Đế triệu Từ Tân Thọ đến chất vấn. Từ Tân Thọ không chịu trả lời, bị Kiến Văn Đế đích thân vung kiếm chém chết.
Sau khi Thành Tổ soán vị, Từ Huy Tổ dọn vào từ đường của phụ thân mà ở, không chịu vào triều. Thành Tổ phái quan đến tra hỏi, Từ Huy Tổ viết mấy chữ: “Phụ thân là khai quốc công thần, con cái miễn tội chết” để trả lời. Thành Tổ nhìn thấy vô cùng giận dữ; nhưng y mới lên ngôi hoàng đế, muốn thu phục nhân tâm, nên tha không giết.
Từ Huy Tổ một mực trung thành với Kiến Văn Đế, trước sau vẫn mưu đồ phục hồi ngôi vị. Hậu nhân của ông nối tước Ngụy Quốc Công, đời đời thống lĩnh binh tướng phòng thủ thành Nam Kinh, mãi đến khi nhà Minh bị diệt. Vào đời Minh, quan Thủ Bị thành Nam Kinh có quyền hành rất lớn, dân chúng Nam Kinh chỉ biết Từ công gia là quan Thủ Bị chứ không biết tước Ngụy Quốc Công, nên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới dò hỏi không ra.
Thành Tổ cảm niệm Từ Tân Thọ chết vì mình, truy phong cho y là Định Quốc Công. Vì thế con cháu Từ Đạt có hai tước hiệu là Ngụy Quốc Công và Định Quốc Công. Hậu duệ của hai vị công tước này, một ở Nam Kinh một ở Bắc Kinh.
Từ Huy Tổ đắc tội với Thành Tổ, con cháu của ông không dám ở lại tòa Tứ Đệ ở Đại Công Phường, nên dọn ra ngoài xây nhà khác mà ở, tòa Tứ Đệ này đổi chủ mấy lần. Sau hai trăm bốn mươi mấy năm, người đời sau không hiểu được lai lịch của ngôi nhà cũ này nữa. Những chuyện bể dâu đó, dĩ nhiên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không hiểu.
*
* *
Viên Thừa Chí mở tờ giấy thứ hai ra xem, thấy đó là một bài thơ luật: “Lao lạc Tây Nam tứ thập thu; Tiêu tiêu bạch phát kỷ doanh đầu; Càn khôn hữu hận gia hà tại; Giang hán vô tình thủy tự lưu; Trường lạc cung trung vân khí tán; Triều nguyên các thượng vũ thanh thu; Tân bồ tế liễu niên niên lục; Giả lão khốn thanh khốc vĩnh hưu.”
(Tạm dịch: Luân lạc Tây Nam bốn chục thu; Phong sương tóc đã bạc phơ đầu; Ôm hận càn khôn nhà đã mất; Vô tình sông đổ nước về đâu; Mây tản bốn bề cung Trường Lạc; Mưa thu thổn thức chốn sân chầu; Năm nào hàng liễu còn xanh ngắt; Lão vẫn khôn nguôi nhỏ lệ sầu.”
Bút tích giống hệt lá thư trước, nhưng có phần mạnh mẽ và thoáng đạt hơn. Bài thơ này do Kiến Văn Đế sáng tác sau bốn mươi năm long đong lưu lạc các nơi vùng Tây Nam như Phúc Kiến, Quảng Châu, Tứ Xuyên. Trải qua các triều Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ), Hồng Hy (Minh Nhân Tông), Tuyên Đức (Minh Tuyên Tông), Chính Tống (Minh Anh Tông); khi trở về ông đã hơn sáu mươi tuổi, ý muốn khôi phục ngôi vị đã mất. Quay về Ngụy Quốc Công Phủ nhìn lại vật xưa, ông không nén nổi lòng cảm khái, viết bài thơ này rồi từ đó phiêu diêu xuất thế, không biết đi đâu về đâu.
Những chuyện bên trong, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không sao biết được. Thừa Chí đọc không hiểu bài thơ này nói gì. Thanh Thanh thì nóng ruột muốn xem báu vật trong rương, chỉ liếc qua bài thơ rồi đặt sang một bên.
Viên Thừa Chí lấy chìa khóa, mở những cái rương sắt ra. Vừa mở nắp rương là ánh sáng chói chang làm hoa cả mắt, nguyên cái rương lớn toàn là bảo ngọc trân châu. Mở một cái rương khác, lại là đồ mã não phỉ thúy, không có món nào giá dưới vạn lượng. Thanh Thanh giật mình khẽ la lên, bất giác đổi hẳn sắc mặt, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Lục tiếp trong cái rương này, dưới đáy chất đầy những thỏi vàng. Cả mười cái rương đều như vậy cả.
Viên Thừa Chí nói: “Những bảo vật này là năm xưa Minh Thái Tổ vơ vét của bá tính trong thiên hạ. Chúng ta làm gì đây?”
Thanh Thanh ở lâu hiểu ý, biết mình chỉ cần tham lam một chút là không tránh khỏi bị Viên Thừa Chí coi thường. Nàng bèn đáp: “Chúng ta đã nói rồi, sau khi tìm được báu vật phải ủng hộ Sấm Vương để mưu cầu đại sự. Dĩ nhiên tài sản của dân phải đem dùng cho dân.”
Viên Thừa Chí vô cùng mừng rỡ, nắm chặt tay nàng mà nói: “Thanh đệ! Muội thật là tri kỷ của ta.”
Từ nhỏ Viên Thừa Chí đã biết phụ thân mình tận tụy lo việc nước, quên ăn quên ngủ, chẳng những không tham tiền tài, mà ngay cả những chuyện vui vẻ với gia đình hay bằng hữu cũng khó mà hưởng được. Năm xưa Ưng Tùng dạy chàng học chữ, từng dạy một bài văn của Viên Sùng Hoán diễn tả tâm trạng của mình, trong đó có đoạn: “Mười năm nay cha mẹ ta không được nhận tình cảm của con, vợ ta không được nhận tình cảm của chồng, anh em ta không được nhận tình cảm của thủ túc, bạn bè ta cũng không được nhận tình cảm của bằng hữu. Ta là loại người gì vậy? Nói thẳng ra, chỉ là một kẻ vong mạng ở Đại Minh.”
Hồi đó Viên Thừa Chí còn nhỏ, không thể lĩnh hội hết tinh thần tận tâm tận lực canh giữ đất đai, phòng chống kẻ địch của cha mình. Sau khi trưởng thành, mỗi khi nhớ đến câu “là một kẻ vong mạng ở Đại Minh” chàng không khỏi sôi bầu nhiệt huyết, quyết chí noi gương phụ thân.
Mỗi khi tặng chữ cho người khác, Viên Sùng Hoán thường viết hai câu: “Tâm tư phải cùng trời đất không đổi, ngôn hành phải cho con cái noi gương.” Di vật của cha mình, Viên Thừa Chí chỉ còn giữ được mấy chữ này. Lúc này nhìn thấy vô số kim ngân tài bảo, suy nghĩ đầu tiên của chàng dĩ nhiên là noi gương phụ thân, dùng chỗ trân báu này để bảo vệ quốc gia, giúp đỡ muôn dân.
Thanh Thanh thì xuất thân trong nhà ăn cướp. Xưa giờ hễ thấy tiền là nàng cất giữ ngay, bất kể tiền đó có chủ hay vô chủ, hợp với đạo nghĩa hay không. Huống chi số châu báu giá trị liên thành này là dựa vào tấm di đồ của Kim Xà quái hiệp, cha của nàng mà có được. Nếu nàng không có mối tình thâm hậu với Viên Thừa Chí, nhất định đã giữ làm của riêng. Bây giờ nghe Viên Thừa Chí gọi mình là tri kỷ, nàng không nén nổi một cơn ngọt ngào khởi lên tự đáy lòng. Bất giác nàng nhớ tới hai câu thơ cổ: “Bảo vật dễ tìm; Tình lang khó kiếm”.
Viên Thừa Chí nói: “Mình đã được số tài sản này, có thể đến Bắc Kinh làm chuyện lớn rồi. Hoàng đế triều Minh uổng công vơ vét bảo vật về đây, chắc không ngờ sau này dùng để giúp Sấm Vương lật đổ triều Minh.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đây gọi là lấy mâu của ngươi đâm thuẫn của ngươi.”
Viên Thừa Chí cười nói: “Không sai! Vốn liếng Nho học của Thanh đệ đâu phải là tồi?”
*
* *
Đến chiều hôm sau, Viên Thừa Chí sai Hồng Thắng Hải đến nhà họ Tiêu mời La Lập Như đến.
Vết thương bị chặt tay của họ La còn rất đau, nhưng y vừa nghe Viên Thừa Chí muốn gặp là lập tức nhờ người dìu mình đến. Sau khi gặp mặt, y muốn hành lễ bái sư. Viên Thừa Chí kiên quyết không chịu, bảo y ngồi, rồi giảng tỉ mỉ cho hiểu một bộ Độc Tí Đao Pháp.
Võ công của La Lập Như vốn có căn bản, Viên Thừa Chí lại dạy từng chiêu từng thức đàng hoàng. Dạy liền năm ngày, La Lập Như đã hiểu chắc, chỉ đợi vết thương lành hẳn là có thể tập luyện. Bộ đao pháp này Viên Thừa Chí học được từ Kim Xà Bí Kíp, khác hẳn những loại đao pháp dùng cho người cụt tay đang lưu truyền trên chốn giang hồ. Chiêu nào cũng hiểm trở, thức nào cũng nhanh chóng, thật sự vô cùng lợi hại.
Tuy rằng La Lập Như mất một cánh tay, nhưng đổi được một tuyệt kỹ đủ để nổi tiếng trong giang hồ, có thể nói là trong họa tìm được phước. Y hoan hỉ vô cùng. Trong đám đệ tử môn hạ nhà họ Tiêu, sau này võ công của y là số một.
Sau khi thực hiện xong lời hứa, Viên Thừa Chí liền thuê xe, chuẩn bị lên đường đến kinh thành. Cha con Tiêu Công Lễ cùng môn đồ bày tiệc rượu đưa tiễn ân cần. Viên Thừa Chí nhờ Tiêu Công Lễ chuyển thư cho Mẫn Tử Hoa, trả lại khu nhà ở Đại Công Phường.
Tiêu Công Lễ cả mừng, cảm thấy Viên Thừa Chí xử sự thật là viên mãn, vừa giữ được thể diện vừa nể mặt bằng hữu giang hồ. Còn bọn Hán gian Thái Bạch Tam Anh đã giao cho quan phủ xử lý.
Hôm đó khí trời tốt đẹp, cây xanh mơn mởn. Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải tạm biệt Mộc Tang đạo nhân, đưa mười mấy chiếc rương sắt lên những cỗ xe lớn, khởi hành về hướng Bắc. Cha con Tiêu Công Lễ cùng đệ tử tiễn chân qua khỏi Trường Giang, ra ngoài ba mươi dặm mới tạm biệt quay về.
Giang Bắc vẫn là vùng ảnh hưởng của Kim Long Bang. Tiêu Công Lễ đã cho người đưa tin từ mấy ngày trước, nên đến bến bãi nào cũng có người ân cần đón tiếp tiễn đưa.
Đi được mười mấy ngày thì đến ranh giới tỉnh Sơn Đông. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Từ đây không phải là địa phận của Kim Long Bang nữa. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải lưu ý hơn một chút.”
Thanh Thanh hỏi: “Cái gì? Có người cả gan dám đụng đến Thái Tuế hay sao?”
Hồng Thắng Hải nói: “Lúc này đạo tặc trong thiên hạ vô cùng đông đúc. Cường bạo ở Sơn Đông càng đặc biệt nhiều, lợi hại nhất là hai bang phái.”
Thanh Thanh nói: “Chắc một là Bột Hải Phái của ngươi rồi.”
Hồng Thắng Hải mỉm cười đáp: “Bột Hải Phái chuyên mua bán trên mặt biển. Còn đồ đạc ở trên đất liền, dù là hoàng kim châu báu để rơi dưới đất, bọn tại hạ nhìn thấy cũng không lượm.”
Thanh Thanh cười nói: “Thì ra không có quý phái trong đó. Thế hai bang phái đó là gì?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Một là Thiên Liễu Trang ở Thương Châu, thuộc hạ của Chử Hồng Liễu đại gia.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta cũng đã nghe sư phụ nói đến. Chử Hồng Liễu có môn Chu Sa Chưởng rất nổi tiếng trong giang hồ.”
Hồng Thắng Hải nói: “Đúng vậy! Còn bang kia lập nghiệp ở Ác Hổ Câu. Đại đương gia là Âm dương phiến Sa Thiên Quảng võ công cao cường, người đông thế mạnh.”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Từ nay trở đi, chúng ta cẩn thận lưu ý hơn. Mỗi đêm chúng ta cử một người thay phiên canh gác.”
Hai ngày sau, đến giờ Ngọ bỗng nghe tiếng chuông leng keng phía trước, hai con ngựa phi nhanh tới, lướt qua mặt mọi người. Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Chắc sắp có chuyện rồi.”
Y nghĩ bụng, võ công Viên Thừa Chí cực cao, mà chính mình cũng không phải tay vừa, bọn trộm vặt này không cần phải để vào mắt. Chưa đầy một giờ sau, quả nhiên hai con ngựa đó từ phía sau chạy ngược lại, lại lướt qua mặt đoàn xe.
Thanh Thanh cười nhạt. Hồng Thắng Hải nói: “Không ngoài mười dặm, phía trước chắc chắn có cường đạo cản đường.”
Không ngờ đi thêm mười mấy dặm vẫn bình yên vô sự. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi tại sông Thạch Bổ. Hồng Thắng Hải tặc lưỡi, ngạc nhiên nói: “Chẳng lẽ con mắt giang hồ của tại hạ bị lé rồi sao?”
Sáng hôm sau đi tiếp, chưa tới năm dặm đã thấy phía sau có bốn kỵ sĩ xa xa theo dõi. Hồng Thắng Hải nói: “Đúng rồi! Hôm qua chúng chưa điều động đủ người. Hôm nay chắc chắn sẽ có chuyện.”
Ăn cơm trưa xong, lại có hai kỵ sĩ phi tới xem xét tình hình. Hồng Thắng Hải nói: “Chuyện này thật là kỳ lạ. Sai người thám thính tin tức, trước nay đâu cần đông đến thế?”
Đi được nửa ngày, lại có hai con ngựa lướt qua. Hồng Thắng Hải chau mày suy nghĩ, bỗng la lên: “Đúng rồi!” Y quay sang nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Đêm nay chúng ta phải đến kịp một thị trấn lớn để nghỉ ngơi.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao phải thế?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Theo dõi chúng ta, không chỉ có nhân mã của một sơn trại mà thôi.”
Viên Thừa Chí hỏi lại: “Có phải vậy không? Đã có mấy trại chủ ngắm nghía món hàng của chúng ta rồi?”
Hồng Thắng Hải nói: “Nếu mỗi phái cử hai người, thì trước sau đã có năm bang phái rồi.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thế thì vô cùng náo nhiệt.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao họ biết chúng ta mang theo kim ngân tài bảo? Nếu mười mấy cái rương sắt này đựng đầy đất đá, thì năm đại trại chủ đó há chẳng cực khổ một phen vô ích?”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Huynh đúng là dân ngoại đạo. Xe chở vàng bạc thì dấu vết bánh xe, tiếng xe đi dọc đường, ngay cả bụi bặm bay lên nhìn thấy khác hẳn. Đừng nói mười chiếc rương sắt này đập vào mắt người ta, Tiểu Huệ muội muội của huynh chỉ đem có hai ngàn lượng vàng cũng bị tên cướp vặt này nhìn thấy.”
Viên Thừa Chí cười nói: “Bái phục, bái phục!”
Hồng Thắng Hải nghĩ bụng: “Chẳng lẽ tiểu cô nương dịu dàng này cũng là đồng nghiệp của mình hay sao?”
Đang nói chuyện, lại có hai con ngựa phi ngang qua mặt. Thanh Thanh cười nhạt nói: “Muốn ra tay lại không dám, cứ cưỡi ngựa chạy qua chạy lại không biết để làm gì. Bọn vô dụng như thế, có đông đúc cũng không doạ được ai.”
Hồng Thắng Hải nghiêm chỉnh nói: “Tiểu thư! Hảo hán cũng khó địch số đông. Tuy chúng ta không sợ, nhưng đồ vật trong rương nhiều như thế, nếu muốn hoàn toàn không mất mát thì phải phí một phen tâm sức.”
Viên Thừa Chí nói: “Ngươi nói không sai. Hôm nay chúng ta bớt lại mấy chục dặm đường, nghỉ đêm tại Thạch Giao Trấn.”
Đến Thạch Giao Trấn, mọi người tìm một khách điếm lớn ở lại. Viên Thừa Chí sai khiêng mười chiếc rương sắt vào trong phòng mình, ngủ chung với ông câm. Vừa khiêng rương xong đã thấy hai đại hán đi vào khách điếm, nhìn Viên Thừa Chí một cái rồi nói với chưởng quỹ là muốn trú lại. Tiểu nhị vừa dẫn hai người vào trong, lại thêm hai hán tử thô lỗ đầy hào khí đi vào.
Viên Thừa Chí gật đầu, khẽ bảo: “Ăn cơm tối xong, mọi người cứ về phòng mà nghỉ.”
Đến giữa đêm, nghe trên mái nhà có tiếng động nhỏ, biết bọn cướp đã đến, chàng liền thức dậy thắp đèn, mở rương sắt ra. Chàng hốt ra một mớ minh châu, bảo thạch, phỉ thúy, mã não, ngồi ngắm nghía dưới ánh nến. Những kỳ trân dị bảo này lập lòe ánh sáng, thu hút được không biết bao nhiêu cặp mắt thèm thuồng ghé sát vào khe cửa nhìn trộm.
Hồng Thắng Hải cũng nghe động, không yên tâm bèn vào phòng Viên Thừa Chí xem xét. Y vừa đến gần, mười mấy tên thám tử đều ẩn núp hết. Hồng Thắng Hải cười nhạt, khẽ gõ cửa phòng. Viên Thừa Chí bảo: “Vào đi!”
Hồng Thắng Hải vừa đẩy, cửa phòng đã mở nghe “két” một tiếng, thì ra không cài chốt. Y vào là thấy ngay châu quang bảo thúy trên bàn óng ánh chói mắt, bất giác ngẩn ra. Đến gần nhìn rõ những hạt trân châu tròn trịa lớn bằng đầu ngón tay cái, cây san hô đỏ tươi dài tới hai thước, những thỏi bích ngọc màu xanh trong veo rất lớn. Ngoài ra còn có hồng bảo thạch, kim cương, tử ngọc… không món nào không phải là báu vật.
Hồng Thắng Hải chưa biết trong mười chiếc rương sắt đựng những thứ gì, cứ tưởng là vàng bạc. Chỉ thế cũng đủ khơi gợi lòng tham của bọn đạo tặc rồi, nào ngờ lại nhiều đồ trân báu như thế. Hồng Thắng Hải lăn lộn giang hồ nhiều năm, kiến thức khá rộng, nhưng báu vật quý như thế, nhiều như thế, thì xưa nay chưa từng gặp.
Y đến bên Viên Thừa Chí, hạ giọng nói: “Tướng công! Để tại hạ đem cất được không? Bên ngoài có người đang nhìn lén.”
Viên Thừa Chí khẽ đáp: “Ta đang muốn cho họ xem một tí.” Chàng cầm một chuỗi trân châu lên, lớn tiếng hỏi: “Nếu đem xâu chuỗi này đến kinh thành, ngươi nghĩ bán được bao nhiêu?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Mỗi hạt châu này khoảng ba trăm lạng bạc, giá đó là thấp nhất rồi. Ở đây tổng cộng hai mươi bốn hạt, ít ra cũng bán được một vạn năm ngàn lạng bạc.”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại một vạn năm ngàn?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Một hạt châu óng ánh, tròn trịa, to lớn như thế đã là hiếm thấy. Hai mươi bốn hạt này to hệt như nhau, hoàn toàn không có tì vết gì cả, lại càng khó có trên đời. Một hạt đáng giá ba trăm lạng bạc, thế thì hai mươi bốn hạt tối thiểu cũng đáng giá một vạn năm ngàn lạng.”
Câu nói này khiến cho bọn đạo tặc ngoài phòng càng ngứa ngáy trong lòng, vô cùng khó chịu, chỉ muốn nhảy vào giành giật ngay. Nhưng thủ lĩnh của chúng đã có lệnh cấm, vì có quá nhiều sơn trại nhìn ngắm món hàng này, mọi người phải thương lượng đàng hoàng mới ra tay. Không ai được hành động trước để khỏi tổn thương hòa khí đồng nghiệp.
Viên Thừa Chí vẫy tay chào Hồng Thắng Hải rồi đi ngủ. Chàng không tắt đèn, châu báu cũng không cất giữ, cứ rải đầy trên mặt bàn, làm bọn đạo tặc phía ngoài tía tai đỏ mặt, nghe rõ cả tiếng nuốt nước miếng ừng ực.
Từ khi phát hiện bọn trộm cướp tập hợp đông đúc, có ý cướp đoạt, Viên Thừa Chí suốt dọc đường đã tính toán kế hoạch đối phó. Đúng như Hồng Thắng Hải đã nói, hảo hán khó địch đông người, châu báu trong rương nhiều như thế, muốn hoàn toàn không mất mát thì phải tốn một phen sức lực. Chàng đã nghĩ, nếu Kim Xà Lang Quân gặp việc này thì sẽ đối phó thế nào?
Viên Thừa Chí nhớ lại, Kim Xà Lang Quân từng bị phái Không Động và Ôn Thị Ngũ Lão bắt được. Ông dùng kho báu cực lớn này làm mồi nhử cho hai bên tranh chấp. Ôn Thị Ngũ Lão ra tay giết hết bằng hữu phái Không Động mà chúng mời đến, nên Kim Xà Lang Quân thừa cơ chạy thoát. Chàng lại nghĩ, đêm mà Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động của Kỳ Tiên Phái lên núi Hoa Sơn, chúng vì cuốn bí kíp giả có tẩm thuốc độc mà giết cả sư huynh đệ của mình. Du Long Bang vì tranh đoạt món vàng của Sấm Vương với Thanh Thanh mà tranh đấu, mất mạng không ít. Như vậy đủ thấy, khi trước mắt có món lợi lớn thì loại người thấy lợi quên nghĩa nhất định tàn sát lẫn nhau. Bọn trộm cướp này đang nhiều, để chúng giết lẫn nhau thì nhân số sẽ ít đi.
Chàng nghĩ vậy nên cố ý để lộ báu vật trong khách điếm, cho rằng báu vật càng quý, bọn cường đạo tàn sát lẫn nhau càng kịch liệt.
Đi tiếp hai ngày nữa, đã qua khỏi địa giới phủ Tế Nam. Bọn cướp bám theo đoàn xe mỗi ngày một đông. Hồng Thắng Hải biết có mặt Viên Thừa Chí thì không phải sợ gì, nhưng thấy bọn cường đạo đã lâu không chịu ra tay, không biết chúng đang sắp xếp gian mưu gì, nên không sao yên lòng nổi. Y ra sức khuyên Viên Thừa Chí đi theo đường thủy: “Bằng hữu trên thủy đạo của tại hạ rất đông. Thuê thuyền khởi hành từ Thiên Băng đi đến Bắc Kinh, tuy phải đi vòng tốn thời gian hơn, nhưng đảm bảo không xảy ra sự cố.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đang muốn dùng số châu báu này để kết giao với anh hùng hảo hán trong thiên hạ, dù dùng hết cũng không sao. Tiền tài là vật ngoại thân, chỉ có nhân nghĩa là đáng nói.”
Hồng Thắng Hải nghe vậy, nửa tin nửa ngờ nhưng không tiện khuyên can nữa.
Viên Thừa Chí lại suy nghĩ: “Ta muốn dụ bọn cường đạo tự giết lẫn nhau để tranh giành châu báu, nhưng tính tới cũng phải tính lui. Nếu trong bọn chúng có một tay lão thành như Tiêu Công Lễ, thì chúng sẽ tránh khỏi việc tàn sát lẫn nhau. Lúc đó, mình phải đối phó như thế nào?”
Khi chàng được số bảo vật này, vẫn muốn theo lời sư phụ mà dùng để kết giao anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, giúp Sấm Vương một tay mưu đồ đại sự. Nếu bọn cường đạo có nghĩa khí, thì có thể đem tài bảo trong rương sắt ra, chia cho mọi người để kết giao bằng hữu. Vì thế chàng không lo nhiều đến việc quần đạo dòm ngó, cũng không lo nhiều đến châu báu mất còn. Nhưng chàng bỗng nghĩ: “Nếu bọn cường đạo này bất cần nghĩa khí, tên nào cũng gian manh tự tư tự lợi, tham lam tiền bạc như Ôn Thị Ngũ Lão của Kỳ Tiên Phái, đòi đoạt hết toàn bộ tiền tài báu vật, lại còn đối địch với Sấm Vương thì hỏng bét.”
Chàng biết Thanh Thanh vốn cũng nghề này, hành tung của Ngũ Lão Kỳ Tiên Phái thì nàng hiểu rõ nhất, liền gọi nàng tới hỏi: “Thanh đệ! Chắc bọn cường đạo này cũng như Thanh đệ lúc chưa quen biết ta, chưa có giao tình. Nếu Thanh đệ thấy nhiều tài bảo như thế, Thanh đệ sẽ làm gì?”
Thanh Thanh liếc chàng một cái, đáp: “Thế thì có gì cần khách sáo? Muội phải ra tay cướp đoạt ngay.”
Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta muốn kết giao với Thanh đệ thì sao? Chia cho họ một số châu báu, thì họ có chịu làm bạn với ta hay không? Có chịu nghe lời ta hay không?”
Thanh Thanh nói: “Huynh không cần chia tiền tài báu vật cho muội. Muội không những làm bạn tốt với huynh, lại còn kết bái với huynh, gọi huynh là đại ca. Muội không những nghe lời huynh, mà sống chết cũng đi theo huynh, vĩnh viễn không muốn tách rời.”
Trong ngữ khí của nàng có phần đùa giỡn, nhưng nghe vẫn rõ tấm lòng chân thật. Viên Thừa Chí vô cùng cảm động, đưa tay ra nắm chặt tay nàng, khẽ nói: “Ta cũng thế.”
Thanh Thanh nói: “Nhưng bọn cường đạo kia thì không kết bái với huynh đâu. Chúng nhìn thấy nhiều kim ngân tài bảo như thế, mắt đỏ lên lập tức. Dù huynh là cha mẹ đi nữa, chúng cũng quyết không chịu nghe lời.”
Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì chúng ta tiên lễ hậu binh, nói chuyện tình cảm trước, không đả thương người để tránh gây thù oán. Nhưng bọn cường đạo này rất đông, nếu không muốn đả thương người, không tổn thương hòa khí thì vô cùng khó.”
Thanh Thanh nói: “Gặp việc trước mắt, trầm tĩnh là hơn. Huynh phải nhận ra người cầm đầu bọn cường đạo đó, rồi ra tay khống chế ngay. Bọn tiểu lâu la nhất định không dám động đậy nữa.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bắt giặc bắt kẻ cầm đầu trước. Ý này hay lắm.”
Suốt cả ngày hôm sau, bọn thám thính diễu qua diễu lại không dứt, cả gan đi sát đến gần, hoàn toàn không coi Viên Thừa Chí ra gì. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Cứ nhìn bọn chúng như thế, chắc chắn hôm nay có chuyện.”
Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó ngươi chỉ cần chú ý đoàn xe, đừng để lừa ngựa kinh hãi chạy loạn lên. Còn cường địch thì ba người chúng ta đối phó.”
Hồng Thắng Hải vâng dạ. Viên Thừa Chí ra dấu với ông câm, dặn y nhìn rõ hiệu của mình rồi mới ra tay bắt người. Ông câm gật đầu đồng ý.
*
* *
Đoàn người đi tiếp, đến khoảng giờ Mùi thì sắp đến Trương Trang. Trước mặt là một khu rừng rậm rạp, đột nhiên nghe thấy trên đầu vang lên những tiếng “u u”, mấy mũi tên có gắn sáo bay tới. Phía trước có tiếng thanh la vang dội, rồi trong khu rừng rậm mấy trăm đại hán kéo ra. Tên nào cũng quấn vải xanh trên đầu, áo quần toàn màu đen, tay nắm chặt binh khí, im lặng đứng chặn giữa đường.
Bọn phu xe biết là có chuyện, vội nắm cương lừa ngựa dừng xe lại, rồi ôm đầu ngồi bệt xuống đất. Đây là quy luật giang hồ, chỉ cần phu xe không chạy lung tung thì bọn cướp đường nhất định không làm hại họ.
Lại nghe tiếng sáo liên hồi, rồi tiếng vó ngựa vang lên. Từ trong rừng phóng ra mấy chục kỵ sĩ, chạy vòng ra chặn phía sau đoàn xe của Viên Thừa Chí, thế là trước sau đều bị cản trở. Sau đó bốn bề yên lặng, hoàn toàn không một tiếng động.
Viên Thừa Chí thấy tám người xếp thành một dãy trước mặt. Một người mặt trắng hơn năm mươi tuổi tách ra bước lên phía trước. Y không cầm vũ khí, chỉ cầm một cây quạt xếp, nhẹ nhàng nói: “Chào Viên tướng công.”
Viên Thừa Chí thấy bước chân y vững chãi, nghĩ thầm: “Võ công người này không yếu. Y cầm quạt xếp có nan bằng sắt, chắc chắn giỏi về điểm huyệt.” Chàng chắp tay lại nói: “Chào trại chủ.”
Trại chủ đó hỏi: “Viên tướng công từ xa đến đây, cực nhọc quá nhỉ?”
Viên Thừa Chí giả vờ khờ khạo, đáp: “Chắc trại chủ cũng mệt mỏi lắm rồi. Tiểu đệ đi đường chẳng có gì cực nhọc, chỉ có điều hành lý nặng nề. Kim ngân châu báu quá nhiều, mang theo thật là mệt.”
Trại chủ bật cười rồi hỏi: “Viên tướng công lên kinh thành, có phải để dự thi hay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ học hành chẳng ra gì, thi tới thi lui cũng không lên được bảng vàng. Chỉ còn cách hối lộ quan trên để kiếm chút công danh. Đúng là bút mực trong bụng không nhiều, tài vật trong tay không ít. Ha ha… Thật là xấu hổ, thật là xấu hổ.”
Trại chủ mỉm cười nói: “Các hạ thật là thẳng thắn, không giống bọn nho sĩ hủ lậu chút nào.”
Viên Thừa Chí cười nói: “Thì tiểu đệ có đỗ đạt gì đâu? Hôm qua có nhiều bằng hữu nói cho biết, hôm nay sẽ có rất nhiều trại chủ đón tiếp tiểu đệ dọc đường, người nào cũng là hào kiệt cả. Tiểu đệ vô cùng mừng rỡ, nghĩ bụng phen này náo nhiệt, kết giao được nhiều bạn tốt. Suốt dọc đường tiểu đệ không dám lơ đãng chút nào, cứ mải ngó đông ngó tây chờ đợi, chỉ sợ làm mất cơ hội tốt. Quả nhiên được gặp trại chủ ở đây, đúng là tam sinh hữu hạnh. Các hạ ăn mặc thế này, cũng muốn lên kinh hay sao? Chúng ta cùng đi có được không? Dọc đường có thể nói chuyện tâm tình, uống rượu tiêu khiển, không còn cô đơn buồn chán nữa.”
Trại chủ thầm nghĩ: “Thì ra tên này chỉ là một con mọt sách.” Y mỉm cười nói: “Viên tướng công ngồi nhà đọc sách chẳng tốt hơn ư, sao phải ra ngoài bôn ba vất vả? Tướng công nên biết giang hồ vô cùng hiểm ác.”
Tên này là trại chủ Ác Hổ Câu tỉnh Sơn Đông, tên là Sa Thiên Quảng. Lần này đến cướp đoàn xe của Viên Thừa Chí, có tất cả tám trại hợp tác với nhau, trong đó Ác Hổ Câu người đông thế mạnh nhất. Võ công của Sa Thiên Quảng cũng giỏi nhất trong đám, nên hắn đương nhiên trở thành thủ lĩnh của Sơn Đông bát trại.
Viên Thừa Chí nói: “Lúc ở nhà tiểu đệ cũng từng nghe nói, trên giang hồ có rất đông bọn lừa gạt cướp bóc ác ôn gì gì đấy. Nào ngờ đi hơn ngàn dặm vẫn chưa gặp được người nào. Xem ra đó chỉ là chuyện để dọa người mà thôi, không phải là thật. Rất đông bằng hữu xếp hàng ở đây để làm gì vậy? Có phải trại chủ đang duyệt binh hay không? Thế thì thú vị đấy.”
Bảy tên trại chủ kia nghe Viên Thừa Chí nói mãi những chuyện nửa ngu nửa dại, nhẫn nại không nổi nữa, không ngừng liếc mắt nhìn Sa trại chủ, bảo hắn mau mau hạ lệnh. Sa trại chủ đột nhiên tắt nụ cười, hú dài một tiếng, xòe cây quạt trên tay ra. Trên cây quạt trắng vẽ một cái đầu lâu màu đen, giữa miệng đầu lâu cắn ngang một con dao nhỏ, trông rất đáng sợ.
Thanh Thanh nhìn thấy, bất giác rùng mình một cái, khẽ la lên kinh hãi. Viên Thừa Chí tuy tài cao mật lớn, nhưng vẫn cảm thấy một luồng khí lạnh âm u. Sa trại chủ cười khành khạch, vẫy cây quạt một cái. Mấy trăm tên đạo tặc lập tức phóng tới chỗ đoàn lừa ngựa.
Viên Thừa Chí đang định nhảy xổ ra để bắt Sa trại chủ, đột nhiên nghe trong rừng vọng ra một tiếng sáo trúc nhọn hoắt. Sa trại chủ vừa nghe là sắc mặt đột nhiên thay đổi, lại vẫy quạt một cái. Bọn cường đạo lập tức dừng lại.
Từ trong rừng có hai con ngựa bước ra. Đi trước là một ông lão, râu mày bạc trắng. Phía sau là một thiếu nữ mặc áo xanh, tóc búi ngược, chỉ nhìn thoáng qua đã thấy nhan sắc tuyệt trần. Hai người chầm chậm tiến đến khoảng giữa rồi dừng ngựa.
Sa trại chủ trừng mắt, nói: “Đây là địa giới tỉnh Sơn Đông.”
Ông lão hỏi: “Có ai nói là không phải đâu?”
Sa trại chủ nói: “Năm xưa chúng ta từng mở đại hội anh hùng ở Thái Sơn. Khi ấy đã hẹn nhau những gì?”
Ông lão đáp: “Thanh Trúc Bang chúng ta không đến Sơn Đông gây án, còn các vị không lên Hà Bắc ra tay.”
Sa trại chủ nói: “Đúng vậy! Thế thì hôm nay cơn gió nào thổi Trình lão gia đến đây?”
Ông lão nói: “Nghe nói có một món hàng cần đưa đến Hà Bắc, nên chúng ta đến đây một là đón khách, hai là xem thử hàng hóa ra sao.”
Sa trại chủ sầm mặt xuống nói: “Đợi khi món hàng đó đi vào địa giới của Trình lão gia, thì lão gia hãy xem cũng chưa muộn.”
Ông lão cười ha hả rồi nói: “Sao lại không muộn? Lúc đó hàng đã nằm gọn trong trại Ác Hổ Câu của lão đệ rồi. Lão nhi đâu có tư cách đến đó mà xem? Nếu làm như vậy, mới thật là không còn nghĩa khí giang hồ gì nữa.”
Viên Thừa Chí, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải nhìn nhau thầm nghĩ: “Thì ra bọn đại đạo ở Hà Bắc cũng nhận được tin, đến đây đòi chia một phần. Bây giờ phải xem chúng thương lượng ra sao đã.”
Quần đạo Sơn Đông rộ lên, người này một tiếng, người kia một tiếng, la ó om sòm: “Trình Thanh Trúc! Ngươi thật là mọi rợ, không biết đạo lý gì cả.” “Con mẹ nó! Nếu ngươi biết điều nghĩa khí thì đừng đến địa giới tỉnh Sơn Đông này.” “Ngươi có giữ quy luật trong hắc đạo hay không?” “Thật chẳng có chút danh dự nào!”
Ông lão Trình Thanh Trúc nghiêng tai nghe ngóng rồi hỏi: “Mọi người nói năng loạn xạ gì vậy? Lão nhi tuổi tác đã cao, tai không còn tốt, nghe không rõ. Các bằng hữu Sơn Đông khen ngợi lão nhi nghĩa khí ngất trời có phải không? Thế thì xin đa tạ quý vị.”
Sa trại chủ vẫy quạt lia lịa, bọn cường đạo mới ngậm miệng lại. Y nói: “Chúng ta đã hẹn trước rồi. Sao Trình lão gia lại nuốt lời, không giữ chữ tín, không giữ nghĩa khí? Không sợ các vị hảo hán trên giang hồ chê cười hay sao?”
Trình Thanh Trúc không đáp, quay lại hỏi thiếu nữ đứng bên: “A Cửu! Lúc ở nhà ta đã nói gì với ngươi?”
Thiếu nữ đáp: “Lão nhân gia nói là chúng ta đang rảnh rỗi, chi bằng đến Sơn Đông dạo chơi một vòng, tiện thể xem thử món hàng đó ra sao.”
Nghe thanh âm dịu dàng thanh thoát, vô cùng êm ái dễ nghe, Thanh Thanh liền quay lại nhìn kỹ. Cô gái này khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thần sắc rất ngây thơ, hai má ửng hồng, da dẻ trắng trẻo, cặp mắt vừa to đen vừa trong sáng; nhan sắc đã rất tú lệ, phong độ lại cao nhã, thật sự đẹp hơn cả những mỹ nữ được vẽ trong tranh. Không ngờ trong đám đạo tặc này lại có một con người sáng như minh châu đẹp như mỹ ngọc, diễm lệ vô cùng.
Thanh Thanh trước nay vẫn rất tự phụ về vẻ đẹp của mình, nhưng tự so sánh thì cảm thấy mình có nhiều chỗ không bằng cô gái này, quả là xưa nay chưa từng gặp. Nàng nhịn không nổi, liếc Viên Thừa Chí một cái để xem thần sắc anh chàng thế nào.
Trình Thanh Trúc mỉm cười hỏi: “Ta có nói là định ra tay gây án ở đây không?”
A Cửu đáp: “Đâu có? Lão nhân gia nói là chúng ta đã ước hẹn với bằng hữu ở Sơn Đông. Trong địa giới tỉnh Sơn Đông, dù có núi vàng núi bạc để ngay trước mắt, Thanh Trúc Bang cũng không lấy một xu. Như thế mới gọi là nói lời phải giữ lấy lời.”
Trình Thanh Trúc quay lại hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ đã nghe chưa? Ta đâu có định gây án trong địa phận tỉnh Sơn Đông?”
Khuôn mặt Sa trại chủ đang nhăn nhó lập tức duỗi ra. Y mỉm cười rồi nói: “Thế thì hay quá! Như vậy mới là nghĩa khí. Trình lão gia từ xa đến đây, lát nữa sẽ được chia một ít.”
Trình Thanh Trúc mặc kệ y, lại hỏi A Cửu: “A Cửu! Ở nhà ta còn nói gì nữa không?”
A Cửu đáp: “Lão nhân gia còn nói, món hàng này không ít. Nếu dọc đường mất mát gì thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Còn nếu người ta thuận tay lấy hết, thì chúng ta không khỏi mất mặt.”
Trình Thanh Trúc hỏi: “Ừ, nhưng nếu người ta không nể mặt mà cứ lấy thì sao?”
A Cửu đáp: “Lão nhân gia đã nói, khi ở Hà Bắc thì chúng ta kiếm lời bằng con đường hắc đạo. Khi vào tỉnh Sơn Đông phải đổi nghề thành bảo tiêu cho mới mẻ. Nếu người khác nhất quyết ra tay cướp tiêu, dĩ nhiên chúng ta không khuyên can họ được. Nhưng nếu bị ép lên Lương Sơn, thì chúng ta chỉ còn cách ra tay bảo vệ.”
Trình Thanh Trúc mỉm cười khen: “Ngươi còn nhỏ tuổi, trí nhớ quả nhiên rất khá. Ta nhớ là mình có nói như thế.”
Lão quay đầu lại, hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ hiểu chưa? Chúng ta đã hứa không gây án trong tỉnh Sơn Đông, mà hứa thì phải giữ. Nhưng bây giờ Thanh Trúc Bang chuyển nghề làm bảo tiêu. Trên đại hội Thái Sơn, ta đâu có hứa với lão đệ là không đi bảo tiêu trong tỉnh Sơn Đông?”
Sa trại chủ xanh hẳn mặt, nói: “Ông không cho chúng ta ra tay, đợi món hàng này đi vào địa phận Hà Bắc rồi tự mình ra tay. Có phải vậy không?”
Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy! Ở đại hội Thái Sơn đã hẹn ước rồi. Hà Bắc là xứ sở của chúng ta. Về tới đó, mặt mũi đâu mà chúng ta làm tiêu cục để cản đường phát tài của huynh đệ đồng hương?”
Bọn cường đạo nghe ông lão này nói toàn những câu cưỡng từ đoạt lý, xoay qua xoay lại vẫn là muốn cướp đoạt số châu báu này, không ai là không giận dữ. Thấy bên địch chỉ có hai người, một ông già, một thiếu nữ, chúng nhốn nháo ùa lên, chỉ muốn loạn đao phanh thây.
A Cửu đặt hai mảnh lá tre lên môi, thổi một tiếng nhẹ nhàng. Trong rừng đột nhiên có mấy trăm đại hán ùa ra. Bọn này mặc áo quần đủ màu sắc, nhưng trên đầu đều cài một cành tre xanh dài khoảng năm tấc, còn cả lá tre.
Sa trại chủ giật mình kinh hãi, thì ra lão già này bố trí sẵn rồi, đem rất nhiều nhân mã vào địa giới Sơn Đông. Quân thám thính bên mình đúng là đồ ăn hại, chẳng phát hiện được chút xíu tin tức gì. Y suy nghĩ một chút rồi vẫy cây quạt xếp. Bảy trại chủ kia cùng hai trại chủ Ác Hổ Câu thống lĩnh nhân mã tám trại, bày thành trận thế.
Rõ ràng sắp xảy ra loạn đấu. Nhân số của quần đạo Sơn Đông vẫn nhiều hơn, nhưng Thanh Trúc Bang đến đây đã chuẩn bị chu đáo, chọn toàn những hán tử tinh nhanh, mạnh khỏe. Nếu thật sự giao đấu, chưa chắc họ phải chịu thế hạ phong.
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau mỉm cười. Thanh Thanh khẽ nói: “Hàng chưa lấy vào tay mà bọn chúng đã lo tranh chấp rồi. Thật là tức cười.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cứ để hai bên tranh nhau chết sống đã. Chúng ta làm ngư ông đắc lợi, thật là thú vị.”
Quần đạo Sơn Đông dàn ra chuẩn bị loạn đấu, nhưng để lại mấy chục người giám sát đoàn xe của Viên Thừa Chí, đề phòng những cỗ xe vận chuyển báu vật này thừa lúc lộn xộn mà chạy trốn.
Viên Thừa Chí vẫy tay gọi Hồng Thắng Hải tới. Đợi y đến gần, chàng hỏi: “Thanh Trúc Bang hư thực ra sao?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Địa giới Hà Bắc là phạm vi thế lực của Thanh Trúc Bang. Lão già Trình Thanh Trúc chính là bang chủ. Đừng thấy lão vừa ốm vừa già mà coi thường, công phu của lão thật sự lợi hại.”
Thanh Thanh hỏi: “Còn cô gái kia thì sao? Là cháu gái của lão phải không?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Nghe nói tính tình Trình Thanh Trúc cổ quái, suốt đời không cưới vợ, lẽ ra không có con cháu. Không chừng là cháu nuôi.”
Thanh Thanh gật đầu một cái, không hỏi nữa. Nàng thấy A Cửu thần sắc tự nhiên, hoàn toàn không lộ vẻ hoảng sợ, bèn nghĩ: “Chắc cô ấy cũng biết võ công. Ta hãy xem hai bên thắng bại ra sao đã.”
Lúc này tiếng sáo hiệu của Thanh Trúc Bang nổi lên liên tục. Mấy trăm người đã xếp thành bốn đội. Trình Thanh Trúc và A Cửu giục ngựa quay về trận, đứng trước mặt bốn đội này, trong tay vẫn không cầm binh khí.
*
* *
Hai bên đã kiếm tuốt cung giương, chỉ cần một tiếng hô là xông vào loạn đả. Đột nhiên phía Nam vang lên tiếng nhạc ngựa, ba kỵ sĩ gấp rút phi tới. Người đi đầu hô lớn: “Mọi người đều là hảo bằng hữu cả! Hãy nể mặt tại hạ, khoan ra tay đã.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người giảng hòa đã đến, chắc tình hình có thay đổi.”
Ba con ngựa đó chạy tới gần, nhìn rõ người vừa hô là một ông mập khoảng năm mươi tuổi, mặc trường bào bằng cẩm đoạn có thêu hoa lớn, tay cầm ống điếu rất to, mặt mày tròn trịa, nhìn là biết ngay một tay hào phú ở địa phương. Phía sau ông ta là hai đại hán khỏe mạnh.
Ông mập cho ngựa đi tới giữa hai đội nhân mã, cầm ống điếu vẫy ra một cái, dõng dạc hỏi: “Giữa huynh đệ có chỗ hiểu lầm, sao không nói chuyện đàng hoàng mà phải động đao thương? Không sợ bằng hữu giang hồ cười chê hay sao?”
Sa trại chủ nói: “Chử trang chủ! Trang chủ nghe thử vụ này xem sao.” Y bèn kể lại sơ lược chuyện Thanh Trúc Bang vượt biên gây án. Trình Thanh Trúc chỉ cười nhạt, không nói xen vào câu nào.
Hồng Thắng Hải nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Sa Thiên Quảng trại chủ có biệt hiệu là Âm Dương Phiến, cùng Chử Hồng Liễu trang chủ là Lưỡng Bá ở tỉnh Sơn Đông.”
Thanh Thanh nói: “Đúng rồi, trước đây ngươi đã nhắc tới hai người này.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao Chử Hồng Liễu lại là trang chủ gì gì đó?”
Hồng Thắng Hải nói: “Sa Thiên Quảng thì khai sơn lập trại, ra mặt cướp bóc. Còn Chử Hồng Liễu thì êm ấm ở nhà làm viên ngoại, có cả một trang trại. Trước sau trang trại đó trồng cả ngàn cây liễu, nên gọi là Thiên Liễu Trang. Thật ra y là một tay độc hành đại đạo, khi ra ngoài gây án thường đi một mình, nhiều lắm chỉ mang theo hai ba người giúp việc.”
Thanh Thanh nghĩ bụng: “Thì ra là đồng nghiệp với năm lão gia của mình, hành nghề buôn không có vốn. Hồi trước ta cũng là đồng nghiệp, nhưng hình như ông mập không biết vị tiểu muội này.”
Chử Hồng Liễu lên tiếng: “Trình đại ca! Chuyện này nghĩ đi nghĩ lại cũng là đại ca không đúng. Năm trước đại hội trên đỉnh Thái Sơn, các vị cũng đã nể mặt mà mời tại hạ tham dự. Mọi người đều nói là không được vượt qua ranh giới để gây án mà?”
Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta đâu phải đến đây để gây án? Thanh Trúc Bang chỉ đùa giỡn một chút, đổi nghề đi bảo tiêu một phen. Luật pháp Đại Minh đâu có cấm người ta đi bảo tiêu? Chử lão đệ! Tin tức của lão đệ cũng thật linh thông. Ở đâu có thể nhúng tay vào, thì cái tẩu thuốc kia thò ngay tới đó.”
Chử Hồng Liễu cười rộ lên ha hả, chỉ hai hán tử đi sau mình rồi nói: “Hai vị này là Hoài Âm Song Kiệt, mấy hôm trước đã ghé qua trang trại, nói là có một món tiền muốn tặng cho tại hạ. Thân hình tại hạ ngày càng mập mạp, tính lại sợ nóng, vốn không muốn động đậy. Nhưng huynh đệ họ quá sức nhiệt tâm, tại hạ chỉ còn cách ra đây xem thử thế nào. Nào ngờ quý vị ở cả đây, thật là náo nhiệt.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau một cái, cùng nghĩ: “Hay quá! Lại thêm ba con mèo ăn đêm nữa.”
Sa Thiên Quảng biết họ Chử võ công cao cường, muốn liên kết để cùng đối phó với Thanh Trúc Bang. Y bèn nói: “Chử trang chủ là người cùng địa giới tỉnh Sơn Đông, muốn chia phần thì dĩ nhiên chẳng ai nói được gì. Nhưng người tỉnh khác nhúng tay vào, nếu lần này chúng ta nhường nhịn thì sắp tới anh em trong tỉnh Sơn Đông còn có cơm ăn nữa hay không?”
Chử Hồng Liễu hỏi: “Trình đại ca nói sao đây?”
Trình Thanh Trúc đáp: “Chúng ta khó khăn lắm mới lãnh được một chuyến tiêu, Sa trại chủ đã nhất định không nể mặt thì còn biết nói gì? Thôi thì mọi người mau lẹ một chút, lấy đao thương mà tìm chân lý.”
Chử Hồng Liễu quay lại hỏi: “Sa lão đệ thấy sao?”
Sa Thiên Quảng đáp: “Hảo hán Sơn Đông chúng ta không thể để người ngoài kéo tới bức hiếp.” Câu này rõ ràng kéo Chử Hồng Liễu vào cùng bè với mình.
Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta cùng xông lên một lúc, hay là lấy một đánh một? Sa trại chủ cứ đưa ra điều kiện, ta nhất định vâng lời.”
Âm dương phiến Sa Thiên Quảng xòe cây quạt ra, cười nhạt hai tiếng rồi hỏi Chử Hồng Liễu: “Chử trang chủ muốn thế nào?”
Vừa được Hoài Âm Song Kiệt đến báo tin là Chử Hồng Liễu khởi hành ngay, muốn một mình nuốt trôi chỗ trân bảo này. Nhưng y được tin trễ nên đã chậm chân, bây giờ lại ít người yếu thế, chỉ mong chia được một phần. Y biết hảo thủ trong Thanh Trúc Bang không phải là ít, bang chủ Trình Thanh Trúc nổi tiếng nhiều năm không phải tay vừa, không nên để xảy ra hiềm khích nặng nề.
Chử Hồng Liễu bèn nói: “Chuyện đã vậy rồi, không tránh khỏi tỉ thí một phen. Nếu loạn đấu thì tổn thương nhân mạng rất nhiều. Mọi người không thù không oán, hà tất phải làm mất hòa khí? Tại hạ có ý kiến này, không hiểu có dùng được không.”
Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đồng thanh nói: “Chử trang chủ cứ nói đi.”
Chử Hồng Liễu đưa tẩu thuốc lên, chỉ vào mấy cỗ xe lớn rồi nói: “Ở đây có mười cái rương. Sơn Đông và Hà Bắc mỗi bên cử ra mười người, tỉ thí tổng cộng mười trận. Điểm trúng là dừng, không được hại mạng, bên nào thắng một trận thì lấy một cái rương. Thế là công bằng nhất. Chúng ta cứ coi như đang rảnh rỗi, ấn chứng võ công một chút để học hỏi lẫn nhau. Nếu lấy được rương, đó là tiền thưởng. Nếu không lấy được, dù sao cũng không phải vật của mình, không đến nỗi xót ruột mà tổn thương tì vị. Hai vị xem thử có được hay không.”
Trình Thanh Trúc cảm thấy phương pháp này rất tốt, nên đồng ý ngay. Sa trại chủ thì đối với Trình Thanh Trúc đã có phần kiêng nể, lại thấy Thanh Trúc Bang đến đây có chuẩn bị trận mạc nghiêm chỉnh, hơn hẳn quần đạo ô hợp bên tỉnh Sơn Đông, nếu hỗn chiến chưa chắc mình thắng được. Y lại nghĩ: “Bảy trại kia, mỗi trại phái một người ra trận. Nếu họ đủ bản lãnh mà thắng, thì cũng như mình định chia cho họ. Còn nếu họ thua thì không liên quan gì đến trại mình. Mình và Đàm lão nhị ra trận nhất định không thua, thế là đoạt được hai cái rương. Còn cái rương cuối cùng thì để Chử trang chủ tự lấy.” Y cũng lập tức đồng ý.
Sau đó hai bên thu quân về, thương lượng đưa người ra tỉ đấu. Chử Hồng Liễu sai người dùng đất màu vàng viết những chữ Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý lên mười chiếc rương sắt để làm ký hiệu.
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mặc kệ cho quần đạo làm bừa. Trình Thanh Trúc thấy hai người này không hoảng sợ chút nào, bất giác nổi dạ nghi ngờ, không tự chủ được phải nhìn Viên Thừa Chí và Thanh Thanh thêm mấy cái.
Bọn cường đạo đứng thành một vòng tròn lớn. Chử Hồng Liễu bước vào chính giữa để làm trọng tài.
Trận đầu tiên Sơn Đông phái người ra trước, hai bên thi thố về quyền thuật. Hai đấu thủ đều thân hình to lớn, sức khỏe kinh người. Đánh nhau bình bịch hồi lâu, người bên Hà Bắc bị đối phương dùng chân móc một cái té nhào xuống đất. Khi người bên Sơn Đông muốn nhảy tới đánh bồi, Chử Hồng Liễu lập tức vẫy tay cản trở. Sau đó, y tới cái rương sắt có ghi chữ Giáp, viết thêm một chữ Lỗ. (Lỗ là tên tắt của tỉnh Sơn Đông, còn Hà Bắc gọi là Trực). Sơn Đông thắng trận đầu tiên, quần đạo hoan hô như sấm động.
Trận thứ hai, Hà Bắc phái người ra. Sa Thiên Quảng biết đó là một hảo thủ Thiết Sa Chưởng, bên mình có Đàm nhị trại chủ giỏi hơn một bậc. Y nghĩ: “Không thể để mất cơ hội này”, liền bảo Đàm nhị trại chủ ra trận. Chưởng pháp gia số hai bên chẳng khác nhau bao nhiêu, nhưng công lực của Đàm nhị trại chủ thâm hậu hơn. Được vài chục chiêu, y đánh trúng vai đối phương một chưởng. Cánh tay người đó không đưa lên được nữa, thế là Sơn Đông thắng thêm một trận.
Quần đạo Sơn Đông đắc ý, nào ngờ sau đó thua liền bốn trận ba, tư, năm và sáu. Thế là trên bốn cái rương sắt có ghi chữ Trực. Đến trận thứ bảy tỉ thí về binh khí, Hậu trại chủ trại Sát Báo Cương bên tỉnh Sơn Đông vác cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra trận, oai phong lẫm liệt. Quả nhiên y vừa xuất thủ đã trúng ngay, chặt đứt một cánh tay của đối phương.
Chử Hồng Liễu nghĩ: “Trước mắt chỉ còn lại ba chiếc rương sắt. Nếu mình không ra trận, để hai bên chia sạch, chẳng lẽ mình không có gì? Trận thứ tám Thanh Trúc Bang đưa người ra trước, mình phải đại diện bên Sơn Đông ra nghênh chiến để lấy một cái rương rồi tính tiếp.” Y bèn nói với Sa Thiên Quảng: “Sa lão đệ! Đối phương càng lúc càng lợi hại, trận tiếp theo lão đệ cho ta thử một phen.”
Sa Thiên Quảng biết lão này nhất định không chịu về tay không, bèn nói: “Nhất định Chử trang chủ sẽ giữ vững oai danh cho tỉnh Sơn Đông chúng ta.”
Khi bên đối phương có người bước ra, Chử Hồng Liễu bất giác ngơ ngác. Thì ra đối thủ chính là cô thiếu nữ A Cửu, xem ra chỉ mười sáu mười bảy tuổi, tay cũng không cầm binh khí, chỉ nắm hai cây tre nhỏ xíu.
Chử Hồng Liễu nghĩ thầm: “Ta là đại hào kiệt võ lâm, tỉ đấu với tiểu cô nương này há chẳng mất đi thân phận?” Y đã bước ra mấy bước, đột nhiên quay về bảo Sa Thiên Quảng: “Lão đệ phái người khác đi, trận tiếp theo để ta.”
Sa Thiên Quảng biết y không muốn giao đấu với cô bé này vì thắng cũng không hay, bèn hô lớn: “Huynh đệ nào cao hứng tỉ thí một trận với cô gái này?”
Trong quần đạo có một người bước ra. Tên này cao lớn, vai rộng, mặt mày trắng trẻo, cầm một đôi phán quan bút, chính là trại chủ Tần Đống của trại Hoàng Thập Ba trong Sơn Đông Bát Trại. Hắn tự cho mình là phong lưu, thấy thiếu nữ xinh đẹp vô cùng, tuy còn nhỏ mà nhan sắc đã nổi bật phi thường, nãy giờ đã bứt rứt trong lòng. Vừa nghe Sa Thiên Quảng kêu gọi, hắn lập tức xông ra.
Sa Thiên Quảng mỉm cười nói: “Bên chúng ta, chỉ có lão đệ là xứng đáng.”
Tần Đống cố ý khoe mẽ, đột nhiên tung người nhảy lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt A Cửu. Hắn muốn biểu diễn khinh công một chút, rồi buông mấy câu chọc ghẹo. Nào ngờ chân vừa chạm đất, trước mặt đã thấy bóng xanh nháy động, một thanh tre đâm tới yếu huyệt trước ngực của mình. Thế đâm như gió, nhanh chóng vô cùng.
Tần Đống sử phán quan bút, dĩ nhiên biết phép đả huyệt. Hắn vô cùng kinh hãi, vội đưa tả bút gạt ra, thấy thanh tre bên tay trái đối phương lại đến. Hắn vội vã nhào sấp xuống đất mới tránh né được, nhưng đầu đầy bụi đất, cả người toát mồ hôi lạnh.
Quần đạo Sơn Đông thấy A Cửu tuổi còn nhỏ mà võ công lại khá như thế, ai cũng phải kinh ngạc. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cũng bất ngờ, nhìn nhau mấy cái.
A Cửu sử dụng hai cây tre trong tay như một cặp song thương. Nhưng thanh tre mềm dẻo, có thể vẫy ngang ra điểm huyệt, nên thỉnh thoảng nàng lại thi triển những chiêu số nhuyễn tiên.
Tần Đống thầm nghĩ: “Một con bé nhỏ xíu như vậy mà ta không thu dọn được, thì làm sao đứng vững trong hắc đạo tỉnh Sơn Đông nữa?” Hắn lo lắng trong lòng, múa cặp phán quan bút càng lúc càng khẩn trương hơn.
A Cửu đột nhiên chống thanh tre bên trái xuống đất, tung người nhảy lên. Thanh tre bên phải chấm tiếp xuống đất, nàng vọt lên cao hơn nữa, thanh tre bên trái từ trên cao đánh xuống địch thủ. Tần Đống không biết phải chống đỡ thế nào, phải lùi bước liên tục. Hắn sơ sẩy một chút, bị A Cửu dùng thanh tre điểm trúng huyệt Kiên Trinh, cánh tay trái tê liệt, bút rơi xuống đất, đỏ mặt tía tai thua trận bước về.
A Cửu đang lùi lại, Chử Hồng Liễu bỗng sải bước tiến ra, hô lớn: “Cô nương giỏi quá! Để ta lãnh giáo vài chiêu xem thử được không?”
A Cửu mỉm cười nói: “Bản cô nương đang cao hứng, đánh chưa đã tay. Chử gia chịu chỉ giáo vài chiêu thì thật là tuyệt diệu. Chử gia sử dụng binh khí gì?”
Chử Hồng Liễu cười nói: “Người lớn đùa với trẻ con, lại cần tới binh khí hay sao? Ta dùng tay không tiếp chiêu.”
Y đứng bên theo dõi trận chiến vừa rồi, trong lòng tính toán: “Con bé này đã lợi hại như thế, chắc hai trận tiếp theo đối phương còn có cao thủ mạnh hơn. Chi bằng ta cản nó lại đánh một trận, thủ một cái rương rồi hãy tính tiếp.”
Thanh Trúc Bang sợ A Cửu đấu liền hai trận ắt phải mệt mỏi, ba người đồng thời nhảy ra muốn thay cho nàng. Nhưng A Cửu tuổi trẻ hiếu thắng, nói ngay: “Ta đã nhận lời với Chử gia rồi.” Ba người đó đành lùi lại.
Trình Thanh Trúc vẫy tay gọi, A Cửu vội tung người nhảy tới. Trình Thanh Trúc kề tai nàng dặn dò gì đó. A Cửu gật đầu rồi quay lại vòng đấu, khom lưng thi lễ. Nàng huy động hai thanh tre bảo vệ toàn thân, không vội ra chiêu tấn công.
Chử Hồng Liễu chậm chạp từng bước đến gần. Đột nhiên y phóng tả chưởng ra, tấn công vào tay phải đối thủ. A Cửu chống hai thanh tre dưới đất, bay người tránh né. Khi quay trở lại, nàng đưa thanh tre ra, thanh bên phải vừa đánh tới, thanh bên trái đến theo lập tức, thế công như cuồng phong vũ bão.
Chỉ trong chốc lát, trong khối bóng màu xanh đó phóng ra một thanh tre, đâm trúng vào dưới xương vai Chử Hồng Liễu. Bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, nhưng Chử Hồng Liễu lại không lộ vẻ gì đau đớn. Màu chu sa trên mặt y đã đỏ đến tận cổ, vẫn từ từ tiến công từng bước.
Thân pháp A Cửu vô cùng linh hoạt, bay qua nhảy lại, chỉ cần đối phương sơ suất một tí là tấn công chớp nhoáng. Chử Hồng Liễu cậy vào thân hình to mập, chỉ lo bảo vệ yếu huyệt của mình. Tay chân, thậm chí vai lưng hắn đã bị mấy thanh tre đánh trúng, nhưng chẳng hề gì.
Viên Thừa Chí bảo Thanh Thanh: “Tên này lớn tuổi như thế, lại đi bức hiếp một tiểu cô nương. Y sắp hạ độc thủ rồi.”
Thanh Thanh lo lắng nói: “Để muội đi cứu cô ấy.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Hai bên đều muốn cướp đoạt tài vật của chúng ta, đi cứu làm gì?”
Thanh Thanh nói: “Tiểu cô nương này rất dễ thương, để cứu cô ấy rồi hãy tính tiếp. Đại ca! Đại ca ra tay đi.”
Thừa Chí mỉm cười rồi gật đầu.
Bên trong hai người càng đánh càng ác liệt. Da mặt Chử Hồng Liễu đỏ nhừ, như sắp ứa máu ra. Một lát sau, cánh tay y cũng từ từ đỏ ửng lên. Viên Thừa Chí nói: “Đến khi cánh tay của y đỏ hẳn, tiểu cô nương đó sẽ gặp nguy hiểm ngay.”
Lúc này Chử Hồng Liễu lại trúng liên tiếp mấy thanh tre. Y không nói tiếng nào, cứ từng chưởng phát ra chậm rãi, vừa ổn định vừa hung dữ. A Cửu dần dần thất thế, bị chưởng phong của đối phương ép cho khó thở, thân pháp không nhanh nhẹn như trước nữa.
Trình Thanh Trúc la lên: “A Cửu! Quay lại, Chử gia thắng rồi.”
A Cửu toan lùi ra, nhưng Chử Hồng Liễu không cho nàng thoát khỏi vòng chiến. Y hét lên: “Đã đánh trúng ta nhiều như vậy, muốn bỏ chạy hay sao?”
Y xuất thủ tuy chậm chạp, nhưng A Cửu vẫn không thể nào thoát khỏi màn lưới chưởng phong bao trùm. Thấy bàn tay y càng lúc càng đỏ, Trình Thanh Trúc giật lấy hai thanh tre trong tay thuộc hạ, tung người nhảy vào giữa Chử Hồng Liễu và A Cửu để cản trở, kêu lên: “Thắng bại đã rõ. Chử huynh từng nói điểm trúng là dừng, xin hạ thủ lưu tình.”
Sa Thiên Quảng la lên: “Hai người đánh một hay sao?” Y lập tức cầm cây quạt sắt nhảy ra, bay tới điểm vào huyệt đạo Trình Thanh Trúc. Họ Trình vội đưa thanh tre gạt ra.
Chử Hồng Liễu cười nhạt nói: “Điểm trúng là dừng, đương nhiên là vậy. Nhưng bây giờ ta chưa điểm trúng.” Y lại tăng thêm kình lực vào song chưởng.
Trình Thanh Trúc muốn cứu A Cửu, nhưng bị Sa Thiên Quảng giữ chân. Lão không biết phép phân thân, chỉ còn cách tập trung tinh thần ứng chiến với Sa Thiên Quảng. A Cửu mồ hôi đầy đầu, vất vả chống chọi hai bên trái phải, rõ ràng sắp trọng thương dưới bàn tay Chử Hồng Liễu.
Viên Thừa Chí đột nhiên kêu lớn: “Trời ơi! Không được rồi, không được rồi! Ngựa điên, cứu mạng, cứu mạng!” Chàng giục ngựa xông vào vòng chiến, chen vào giữa Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng.
Trình, Sa dĩ nhiên phải nhảy qua hai bên tránh né. Viên Thừa Chí ngồi trên lưng ngựa lắc lư lảo đảo, hai tay ôm lấy cổ ngựa, đột nhiên lộn nhào xuống bụng ngựa rồi lại trèo ngược lên, hai chân đạp loạn xạ, dáng vẻ bối rối thảm hại.
Khi con ngựa chạy thẳng đến chỗ A Cửu, đứng chặn giữa nàng và Chử Hồng Liễu, Viên Thừa Chí mới vừa thở hổn hển vừa bò xuống ngựa. Chàng loạng choạng như sắp té nhào, miệng la oai oái: “Nguy hiểm vô cùng! Phen này thế là thoát chết. Súc sinh ơi là súc sinh, ngươi muốn lấy mạng đại gia hay sao?”
Nhờ chàng cản trở mà A Cửu thoát nạn. Nàng lau mồ hôi trán, thu lại thanh tre, hổ thẹn lùi về. Tuy Chử Hồng Liễu không cam lòng, nhưng y không dám đuổi vào trong trận đối phương.
Trình Thanh Trúc nói: “Sa trại chủ! Lão phu còn muốn lãnh giáo Âm Dương Bảo Phiến của Sa trại chủ.”
Sa Thiên Quảng nói: “Đúng vậy! Còn cái rương cuối cùng, hai người chúng ta quyết một phen thắng bại.”
Hai người vừa giao đấu mười mấy chiêu chưa phân cao thấp, phen này đánh tiếp không dung tình gì nữa, hai bên đều hạ sát thủ. Hai thanh tre của Trình Thanh Trúc rất dài, chiêu thuật kỳ lạ. Cây quạt sắt của Sa Thiên Quảng đánh mãi vẫn chưa thể áp sát vào người đối thủ.
Lúc này mặt trời đỏ bầm đã nghiêng về phía tây, từng bầy quạ bay ngang trời kêu quang quác điếc tai. Đánh thêm mấy chiêu nữa, Sa Thiên Quảng dần dần rơi vào thế hạ phong, bước chân có phần loạng choạng.
Chử Hồng Liễu la lên: “Hai bên sức lực cầm đồng, khó phân thắng bại. Chiếc rương cuối cùng này, chúng ta chia đều nhau đi.”
Trình Thanh Trúc cười dài một tiếng, quét ngang thanh tre là là mặt đất. Sa Thiên Quảng vội nhảy lên tránh né. Hai tay Trình Thanh Trúc thu về đánh ra nhanh như chớp giật, liên tiếp quất luôn mấy phát. Sa Thiên Quảng đang lơ lửng trên không, khó mà tránh né, chân trái trúng ba đòn liên tiếp. Khi hạ xuống đất y đứng không vững nữa, té lăn ra.
Trình Thanh Trúc chắp tay nói: “Đa tạ lão đệ nhường nhịn.” Lão thu lại thanh tre, quay về đội ngũ phe mình.
Sa Thiên Quảng nghiến răng lại, ấn vào một cái nút trên cây quạt. Năm mũi cương đinh trong cán quạt bắn vèo vèo tới sau lưng Trình Thanh Trúc. Khi họ Trình nghe tiếng gió thì không kịp tránh né nữa, bị cả năm mũi cương đinh ghim trúng vào lưng.
Lão mới đau nhói lên đã tê chồn ngay, biết là hỏng rồi, lập tức vận hết hơi tàn, không nói tiếng nào tung người nhảy đến. Hai thanh tre phóng ra rất nhanh, điểm vào bụng dưới Sa Thiên Quảng. Chiêu này phát xuất trong lúc vô cùng căm phẫn, nên đã dùng hết kình lực bình sinh. Sa Thiên Quảng lập tức ngất xỉu tại chỗ.
Quần đạo tỉnh Sơn Đông vội xách binh khí ùa lên cứu giúp. Nhưng chúng chưa đến gần thì Trình Thanh Trúc đã không gượng nổi nữa, ngã ngửa xuống đất, nằm ngẩng mặt lên trời. Khi lão té xuống, năm mũi cương đinh lại ghim vào sâu thêm một khúc. A Cửu tức tốc chạy tới, dìu lão về bổn trận.
Bang chúng Thanh Trúc Bang không biết bang chủ của mình sống chết thế nào, chẳng ai là không giận dữ. Bốn đội nhân mã lập tức ào lên, hỗn chiến với quần đạo tỉnh Sơn Đông. Lúc này không giống ấn chứng võ công chút nào nữa. Chỉ trong chốc lát là hai bên đều có chết có bị thương, máu tươi bắn tóe ra bốn phía.
Chử Hồng Liễu chụp lấy tay Đàm nhị trại chủ của Ác Hổ Câu, kêu lớn: “Mau mau bảo anh em dừng tay!”
Đàm nhị trại chủ lấy còi sừng ra, thổi mấy tiếng tu tu, quần đạo tỉnh Sơn Đông lùi lại. Bên kia tiếng sáo tre cũng vang lên, bang chúng Thanh Trúc Bang cũng lùi về. Thì ra A Cửu thấy Trình Thanh Trúc đã hồi tỉnh, biết có hỗn chiến cũng không thể ổn định cục diện được. Nàng thấy đối phương thu quân về, cũng lo ổn định bang chúng của mình lại.
Chử Hồng Liễu đứng giữa hai bên, cất tiếng hô lớn: “Mọi người đừng để tổn thương hòa khí nữa. Chúng ta phân chia những rương sắt này đi, còn chuyện xích mích thì từ từ rồi tính.”
Đàm nhị trại chủ nói: “Cái rương cuối cùng là của chúng ta.”
Thanh Trúc Bang nhao nhao lên nói: “Các ngươi có đếm xỉa đến mặt mũi nữa không? Ám toán người khác mà gọi là hảo hán ư?”
Hai bên chửi mắng om sòm, chỉ muốn tiếp tục giết nhau.
Chử Hồng Liễu nói: “Thôi thì mở cái rương này ra, chia đều.”
Hai bên thấy thủ lĩnh đều bị thương nặng, không dám trái ý Chử Hồng Liễu. Dù sao trong tay họ đã có không ít trân báu, khá thỏa mãn rồi. Họ bèn phái người ra khiêng rương về.
A Cửu la lên: “Rương thứ tám là do ta thắng. Ta không cần lấy. Để lại cho vị khách này, không ai được đụng vào.”
Chử Hồng Liễu hỏi: “Sao lại thế?”
A Cửu đáp: “Nếu không nhờ con ngựa của huynh ấy nổi điên, thì ta trọng thương dưới chưởng của Chử gia rồi. Để lại một rương, coi như cảm tạ.”
Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Cô bé này cũng biết ân oán phân minh. Được thôi, mọi người khiêng đi! Trên rương đã viết sẵn chữ rồi, đừng khiêng nhầm.”
Quần đạo kéo tới định khiêng rương sắt, Viên Thừa Chí đột nhiên lên tiếng: “Các vị vừa luyện võ phải không? Xem vui lắm, thật là thích mắt, giống hệt những người trổ tài mãi võ kiếm sống trên giang hồ. Bây giờ các vị làm gì nữa đây?”
A Cửu cười khúc khích, hỏi: “Huynh không biết hay sao? Bây giờ chúng ta phải khiêng những cái rương này.”
Viên Thừa Chí nói: “Chuyện này thì không dám phiền đến các vị, ta đã thuê đủ phu xe rồi. Các vị nhiệt tình thật, nhưng mới gặp nhau dọc đường, ta đâu dám phiền hà quá đáng?”
A Cửu mỉm cười nói: “Không phải chúng ta khiêng giùm huynh, mà là khiêng cho mình.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc nói: “Úi chà, thế thì lạ quá. Hình như những cái rương này của ta mà? Chẳng lẽ quý vị nhận lầm rồi sao?”
Một tên trộm cướp Sơn Đông vừa chửi vừa nói: “Loại công tử bột này chỉ biết ăn cơm rồi đi đại tiện, nói nhiều với hắn làm chi? Lần này hắn còn giữ được cái mạng nhỏ xíu, coi như tổ tiên tích đức lắm rồi.” Nói xong, hắn cúi xuống khiêng rương.
Viên Thừa Chí la lên: “Trời ơi, không được đâu!”
Chàng lóp ngóp bò lên cái rương. Lúc đang trèo, một chân đạp ra, đại hán kia bị hất văng ra ngoài. Viên Thừa Chí ngã phịch lên mặt rương, quơ tay quơ chân, kêu la liền miệng: “Trời ơi! Cứu mạng, cứu mạng!”
A Cửu tưởng chàng té thật, bèn nhảy tới nắm tay kéo chàng đứng dậy, nửa cười nửa mắng: “Con người này thật là…”
Quần đạo thấy chàng thảm hại như thế, tưởng phát đá vừa rồi chỉ là may mắn, lại đi khiêng rương tiếp.
Viên Thừa Chí xua hai tay lia lịa, kêu lên: “Khoan đã, khoan đã! Quý vị khiêng rương đi đâu thế?”
A Cửu đáp: “Dĩ nhiên là khiêng về nhà rồi.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Còn ta thì sao?”
A Cửu mỉm cười nói: “Huynh nhìn cũng sáng sủa, sao đầu óc ngu muội đến thế? Ngoan ngoãn trở về nhà đi, kẻo mất mạng dọc đường.”
Viên Thừa Chí lập tức gật đầu, nói: “Cô nương nói câu này thật là chí lý. Bây giờ ta sẽ mang rương về nhà.”
Gã đại hán vừa bị đá một cước đã bò dậy. Hắn vô cùng giận dữ, vung tay đánh mạnh lên vai Viên Thừa Chí, mồm quát lên: “Cút con mẹ mày đi!”
Mắng chưa dứt câu, lưng hắn đã bị Viên Thừa Chí nắm chặt lấy. Chàng vung tay, quăng đại hán đó bay tuốt lên trời, vẽ một vòng tròn rồi rơi lên ngọn cây ngoài xa bảy tám trượng. Hắn cố hết sức ôm được một cành cây, kêu cứu ầm ĩ. Một đàn quạ đang đậu trên cành kinh hãi vỗ cánh, vừa kêu vừa bay loạn xạ trên đầu hắn.
Lúc này quần đạo mới biết thiếu niên trước mặt thân mang tuyệt kỹ. Dáng vẻ bối rối yếu đuối như công tử chỉ là giả bộ để đùa giỡn với mình. Nhưng chúng ỷ người đông thế mạnh, không nể nang chàng chút nào.
Năm mũi cương đinh trên lưng Trình Thanh Trúc đã được thuộc hạ nhổ ra. Lão tự biết mình bị thương không nhẹ, lo vận khí bảo vệ vết thương, chỉ đợi chia xong bảo vật là lập tức rút lui. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí hiển lộ võ công cao thâm, trước mắt không ai là địch thủ. Lão không nén nổi kinh hãi, vội vẫy tay gọi A Cửu đến nói nhỏ: “Người này võ công cực cao, phải hết sức cẩn thận.”
A Cửu gật đầu một cái, vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Kinh ngạc vì không ngờ vị tướng công tú tài này lại là cao thủ võ lâm, còn hoan hỉ vì nghĩ đến lúc nãy chàng giục ngựa giải vây cho mình, không phải may mắn tình cờ mà là có lòng cứu giúp. Nàng không khỏi âm thầm cảm kích.
Viên Thừa Chí lớn tiếng nói: “Các vị đánh nhau mất nửa ngày trời, lại viết những gì Giáp Ất Bính Đinh trên rương của ta, còn viết thêm Lỗ Trực gì gì đó. Bây giờ đùa giỡn đã đủ chưa? Ha ha! Ta phải xóa rồi đây.”
Chàng lập tức túm cổ một đại hán đứng gần, nhấc bổng lên xoay ngang lại, quơ một vòng trên mấy cái rương sắt. Chàng dùng hắn làm giẻ lau, chùi sạch những chữ Giáp Ất Bính Đinh Lỗ Trực, rồi vung tay một cái, quẳng hắn lên một ngọn cây khác.
Mười mấy người trong quần đạo Sơn Đông lớn tiếng hò hét, cầm binh khí phóng tới. Viên Thừa Chí tay đấm chân đá, lập tức trên trời đầy binh khí và những gã đại hán bị ném tung lên. Tiếng người la kinh hãi hòa vào tiếng quạ kêu quang quác. Chỉ nháy mắt là mười mấy đại hán đã bị Viên Thừa Chí trước sau nắm lấy, ném lên các ngọn cây xung quanh. Chàng ra tay rất vừa phải, không có tên nào rớt xuống đất bị thương.
Quần đạo Sơn Đông và Thanh Trúc Bang đều loạn hẳn trận mạc, bây giờ mới bắt đầu kinh hãi. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đã bị thương nặng, chúng cùng nhìn về phía Chử Hồng Liễu, đợi hắn chủ trương đại cuộc.
Chử Hồng Liễu hừ một tiếng rồi dõng dạc nói: “Thì ra các hạ cũng là võ lâm đồng đạo, thế thì phải thỉnh giáo danh tính rồi. Không hiểu các hạ là môn hạ của vị nào?”
Viên Thừa Chí đáp: “Vãn sinh họ Viên. Sư phụ của vãn sinh là lão phu tử Cơ Lý Cô Lỗ. Lão nhân gia là một đại sư về Kinh Dịch, đối với Lễ Ký và Xuân Thu lại càng tâm đắc. Còn một vị Lý lão phu tử, đã dạy dỗ vãn sinh môn Bát Cổ Văn. Nói đến các phép chuyển thừa khởi hợp…”
Chử Hồng Liễu tức giận ngắt lời: “Bây giờ còn giả bộ làm gì nữa? Mau mau nói rõ sư môn ra. Nếu giữa chúng ta có nguồn gốc liên quan, thì mọi người ở đây không phải là không biết nghĩa khí giao tình.”
Viên Thừa Chí nói: “Thế thì tuyệt diệu. Nguồn gốc liên quan thì trước đây không có, nhưng hôm nay gặp nhau ở đây, còn không phải là có duyên gặp gỡ ư? Chuyện buôn bán của các vị không thành, nhưng vẫn còn nhân nghĩa. Tuy không kiếm được chút lãi nào, nhưng đâu có bị mất vốn? Trời không còn sớm nữa, xin mời, xin mời! Bây giờ tại hạ phải đi thôi.”
Hậu trại chủ của trại Sát Báo Cương lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Y xách cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra, xuất chiêu Phong Tảo Bại Dịch chém vào vai Viên Thừa Chí. Thân hình chàng hơi nghiêng một chút, cửu hoàn đao chém trượt qua kế bên. Chiêu này dùng sức cực mạnh, đao thế không thu về được, chém thẳng vào trước ngực Chử Hồng Liễu.
Trong tiếng quần đạo la hoảng, Chử Hồng Liễu đảo người né tránh, đưa ngón trỏ và ngón giữa tay trái ra kẹp lấy sống đao. Y giật tay một cái, lưỡi đao lập tức dừng lại. Hậu trại chủ mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng nói: “Chử trang chủ! Xin… xin lỗi.”
Chử Hồng Liễu mỉm cười lỏng ngón tay ra, quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Dựa vào công phu này, xứng đáng lấy một cái rương của ngươi đấy chứ?”
Viên Thừa Chí hỏi: “Công phu đó gọi là gì vậy?”
Chử Hồng Liễu nói đầy vẻ đắc ý khoe khoang: “Đó là Giải Kiềm Công. Nếu ngươi biết công phu này thì ta phục ngươi sát đất.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Giải kềm giải búa cái gì? Ta không thấy gì cả.”
Chử Hồng Liễu vô cùng giận dữ, hét lên: “Ta vừa dùng hai ngón tay kẹp chặt lưỡi đại đao, chẳng lẽ ngươi mù rồi sao?”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “À, thì ra là chuyện đó. Đó là hai người đã sắp xếp trước rồi, có chi kỳ lạ đâu? Thanh đệ qua đây, chúng ta luyện thử chiêu đó xem sao.”
Thanh Thanh cười khúc khích, nhặt dưới đất một thanh đơn đao, từ từ chém tới. Đao tới càng gần càng chậm, cuối cùng nhẹ nhàng để yên lưỡi đao trước mặt Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí quơ tay loạn lên một hồi, rồi nắm lấy sống đao. Thanh Thanh giả vờ dùng sức giãy giụa một hồi nhưng không giật được đao về. Nàng buông tay, hô lớn: “Úi chà! Giải Kiềm Công lợi hại quá!”
Thấy hai người chọc ghẹo Chử Hồng Liễu, A Cửu không nén nổi phải cười khanh khách. Quần đạo Hà Bắc và Sơn Đông đều không nhịn được, buông tiếng cười rộ.
Chử Hồng Liễu một đời tung hoành trong tỉnh Sơn Đông, xưa nay chỉ quen sai sử người khác, làm sao nhịn nổi hai kẻ hậu sinh tiểu bối chọc ghẹo mình? Y bèn đưa tay đoạt lấy thanh đao của Hậu trại chủ, cầm đưa cho Viên Thừa Chí rồi bảo: “Ngươi dùng thanh đao này chém ta một đao thử xem. Không phải bàn tính trước đấy chứ?”
Y vừa thấy Viên Thừa Chí ném quần đạo lên cây, võ công cực cao, nếu động thủ tay chân với chàng thì chưa chắc đã thắng. Nhưng dựa vào Giải Kiềm Công đã luyện tập mấy chục năm trời, thì hy vọng có thể hạ độc thủ lấy mạng thằng nhóc không biết lợi hại này.
Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta chém chết ông thì không có mạng để đền. Ông không được đi báo quan phủ. Nếu định thưa kiện thì ta không thử đâu.”
Chử Hồng Liễu lại càng nổi giận, đã khởi sát tâm. Khuôn mặt y vừa nhăn nhúm vừa tím đen lại, nói: “Bất luận ai chết cũng không đền mạng.”
Viên Thừa Chí hô lớn: “Cẩn thận! Ta chém đây.” Đột nhiên chàng xoay tay lại, hớt lưỡi đao ngang qua.
Chử Hồng Liễu không sao ngờ được chiêu đao đến từ phương vị này, kinh hãi vội cúi đầu xuống; cái mũ bị chém rơi xuống đất. Quần đạo lại cười vang lên một hồi.
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Đâu? Giải Kiềm Công của ông đâu rồi? Hình như ta chưa nhìn thấy.”
Chàng vừa nói vừa vung đao chém là là dưới đất. Chử Hồng Liễu tung người gấp rút nhảy lên, lưỡi đao chém sượt dưới giày. Bịch bịch hai tiếng, cặp đế giày rơi xuống. Nếu chiêu đao này chém lên trên ba tấc, thì Chử trang chủ đã biến thành trang chủ của “Vô Cước Trang” rồi.
Viên Thừa Chí nói: “Đúng rồi! Cao quá không được, thấp quá không xong, nhanh quá ông cũng không tránh được. Thế thì ta từ từ chém vào quãng giữa cho ông dễ chụp.”
Nói xong, chàng bắt chước Thanh Thanh lúc nãy, từ từ đưa thanh đao tới trước mặt Chử Hồng Liễu. Họ Chử đưa hai ngón tay trái ra, chuẩn bị kẹp được binh khí đối phương là lập tức phóng hữu chưởng đánh cho mặt mày Viên Thừa Chí không phân biệt được đâu là mũi đâu là miệng nữa. Không ngờ khi lưỡi đao của Viên Thừa Chí đến gần, đột nhiên chàng trở ngược quét ngang một cái. Lưỡi đao quẹt nhẹ qua hai ngón tay họ Chử, lập tức máu tươi chảy đầm đìa.
Ba chiêu đao này cao thấp, nhanh chậm, biến hóa không thể lường được, trông như trò đùa mà bao hàm võ công cao thâm, hơn nữa kình lực lại rất chuẩn xác. Chiêu đao cuối cùng nếu nặng hơn một chút thì đã chặt đứt hai ngón tay Chử Hồng Liễu rồi.
Chử Hồng Liễu giận dữ điên cuồng, hét lên: “Tên giặc chuột kia! Thử nếm mấy chưởng của ta.”
Viên Thừa Chí vung tay ném thanh đao đi. Một đại hán đang leo từ trên ngọn cây xuống, thanh đao bay tới chặt đứt cành cây hắn định đặt chân. Hắn lộn một cái, té phịch từ trên cao xuống đất.
Giữa tiếng la hét ầm ĩ của mọi người, Viên Thừa Chí hít một hơi, vận Hỗn Nguyên Công, xách từng rương sắt ném chồng lên nhau. Chàng chồng mười chiếc rương lên nhau thành cột cao khoảng ba trượng, rồi nói: “Tỉ thí thì tỉ thí, nhưng ta phải đề phòng mình đang đánh nhau cao hứng thì bị khiêng trộm mấy cái rương này. Mặt mũi các vị ở đây đều trông như trộm cướp cả.”
Chàng nhảy lên đỉnh chồng rương, lớn tiếng hô: “Lên đây mà tỉ thí!”
Chử Hồng Liễu thấy chàng ném những cái rương sắt nặng nề càng lúc càng cao, đã kinh hãi thần lực. Khi thấy chàng nhảy lên nhẹ nhàng như vậy, y biết khinh công mình không thể bằng được, lại càng sợ hơn. Y không dám nhảy lên để chuốc họa vào thân, bèn quát trả: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.”
Viên Thừa Chí đứng tít trên cao la lớn: “Ngươi có giỏi thì lên đây.”
Chử Hồng Liễu bước tới một bước, đưa tay ôm lấy chiếc rương sắt dưới cùng, lắc lắc mấy cái. Viên Thừa Chí từ trên cao té nhào xuống, đầu dưới chân trên. Quần đạo đồng loạt hoan hô.
Nhưng khi rơi gần tới đầu Chử Hồng Liễu, đột nhiên Viên Thừa Chí xuất chiêu Thương Ưng Bát Thố, tả chưởng từ trên không chụp xuống. Chử Hồng Liễu kinh hãi, vội phóng hữu chưởng ra đánh trả. Viên Thừa Chí xoay tay tóm được ngay cổ tay của y. Khi hai chân vừa chạm tới đất, chàng quát: “Lên!”, lập tức cái thân thể nung núc những thịt của Chử Hồng Liễu bị quẳng lên trời, rơi ngay trên đỉnh cái chồng rương sắt đó.
Mười cái rương này vốn đã xếp không ngay ngắn lắm, vừa rồi lại bị họ Chử xô đẩy lệch đi. Bây giờ có thêm một người mập ở trên, chồng rương lập tức lắc lư qua lại. Chử Hồng Liễu đứng trên đó quơ hai tay loạn lên, bối rối đến thảm hại. Cuối cùng y không chịu nổi nữa, bèn cúi rạp xuống ôm lấy nắp rương. Quần đạo vừa kinh hãi vừa không khỏi tức cười.
Thanh Thanh hét lên: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.” A Cửu nghĩ đến câu nói vừa rồi, bất giác che miệng mỉm cười.
Chỗ tinh yếu của võ công Chử Hồng Liễu nằm trong bốn chữ: ổn, hậu, chẩn, nhẫn. Vừa rồi tỉ võ với A Cửu, y đã dùng hết sở trường của bốn yếu quyết này. Y thân hình mập mạp, biết mình biết người, trước giờ ít luyện tập khinh công, lấy sự ổn định để chống cái nhanh của người khác, lấy sự dày dặn chịu đòn để thay thế cái tinh xảo. Chưởng pháp y tuy thô kệch nhưng rất hiệu quả. Bây giờ đột nhiên ở tít trên cao, đúng là phạm vào đại kỵ của mình, võ công đầy người mà không sao sử dụng được. Vừa rồi Viên Thừa Chí xem y xuất thủ đã thấy rõ khuyết điểm, nên cố ý bố trí cái bẫy này để làm khó dễ y.
Viên Thừa Chí cũng muốn kết giao với bọn cường đạo này, nhưng vừa rồi thấy Chử Hồng Liễu truy sát cô bé A Cửu, tâm địa nham hiểm, ra tay tàn độc, nên mới trừng phạt y một chút. Một là bắt y giảm đi khí thế, hai là ra oai để bắt quần đạo phải tâm phục khẩu phục.
Quần đạo không ai dám bước tới chỗ mười cái rương sắt, chỉ sợ động đậy làm rương trên cao rơi xuống, không chỉ thiệt mạng Chử Hồng Liễu mà còn đè chết thêm nhiều người, nên lùi ra đứng khá xa.
Hai bên im lặng một hồi, Sa Thiên Quảng bỗng thều thào nói: “Đàm hiền đệ! Bao vây thằng lỏi đó, tấn công dứt điểm trước đi.”
Đàm nhị trại chủ được câu nói này nhắc nhở, lập tức thổi ám hiệu lên. Quần đạo tỉnh Sơn Đông rút binh khí ra, tấn công về phía Viên Thừa Chí. Ông câm, Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải kéo tới chống đỡ. Thanh Thanh cầm kiếm, Hồng Thắng Hải sử đao, vung lên chém giết. Viên Thừa Chí cùng ông câm lại dùng tay không, nắm lấy những tên chạy tới quăng loạn ra ngoài. Bọn quần đạo từ khi ra ngoài trộm cướp chưa từng thấy cách đánh kiểu này. Hai người đi đến chỗ nào, quần đạo chạy trốn tới đó.
Viên Thừa Chí chỉ nhảy vài bước đã xông đến chỗ Sa Thiên Quảng đang nằm dưới đất, có hai tên chăm sóc. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí chạy tới, một tên vung đao lên chém, còn tên kia cõng Sa Thiên Quảng chạy đi chỗ khác. Viên Thừa Chí cúi đầu xuống, khom người luồn dưới lưỡi đao, chụp lấy đầu của tên chạy trước. Hắn đau quá la ầm lên, buông tay thả Sa Thiên Quảng xuống. Viên Thừa Chí đưa tay chụp lấy, tung người nhảy lên một cỗ xe lớn, quát to: “Các ngươi muốn giữ cái mạng này không?”
Quần đạo nhìn thấy thủ lĩnh bị bắt, lập tức ngẩn ra đứng yên, không tên nào dám động thủ nữa.
Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu, ông câm liền chạy về phía Thanh Trúc Bang. Bang chúng Thanh Trúc Bang đang khoanh tay đứng xem, đột nhiên thấy ông câm chạy tới, vội vàng cầm binh khí cản trở. Ông câm đã theo Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh nhiều năm, bọn võ sư tầm thường không thể chống nổi. Mặc cho đao thương đâm chém loạn xạ xung quanh, ông câm chỉ dùng hai bàn tay không đã chạy đến sát bên Trình Thanh Trúc.
Viên Thừa Chí đứng trên cao nhìn thấy ông câm đắc thủ, đang vui mừng thì bỗng thấy A Cửu ôm lấy Trình Thanh Trúc nằm sát dưới đất, khóc rống lên. Chuyện này khiến chàng phải bất ngờ. Nếu Trình Thanh Trúc chết, Thanh Trúc Bang như rắn không đầu, muốn giữ yên chẳng dễ dàng gì. Chàng vội kêu lớn: “Thắng Hải! Mau mau đi gọi lão huynh về đây.”
Hồng Thắng Hải bỏ rơi đối thủ, chạy vội tới ra hiệu. Ông câm quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí đang đứng trên nóc một cỗ xe lớn vẫy tay, bèn lập tức lùi về. Viên Thừa Chí giao Sa Thiên Quảng nửa sống nửa chết cho ông câm, tung người nhảy vào giữa vòng vây của Thanh Trúc Bang, hỏi vội: “Sao rồi?”
A Cửu vừa khóc vừa kêu: “Sư phụ ta chết rồi.”
Viên Thừa Chí cúi người xem xét, quả nhiên Trình Thanh Trúc đã ngừng thở. Chàng sờ vào trước ngực thì thấy tim lão vẫn còn đập yếu ớt. Lật người lão lên, thấy năm lỗ nhỏ trên lưng tuy đã cầm máu nhưng đều đúng vào yếu huyệt. May mà nội công của Trình Thanh Trúc thâm hậu, không thì lão không thể gượng nổi đến lúc này.
Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, điểm vào huyện Thiên Phủ và Dũng Tuyền dưới bàn chân lão, truyền nội lực qua người Trình Thanh Trúc. Huyết khí lão bắt đầu chuyển động, từ từ hồi tỉnh, mở mắt ra. A Cửu mừng rỡ, lớn tiếng kêu lên: “Sư phụ, sư phụ!”
Trình Thanh Trúc khẽ gật đầu một cái. Viên Thừa Chí nói: “Yên tâm đi, vết thương của sư phụ cô có thể trị khỏi.”
Trên khuôn mặt sáng ngời của A Cửu vẫn còn mấy giọt nước mắt, nhưng đôi mắt trong veo đã tràn ngập vẻ vui mừng. Nàng khẽ nói: “Đa tạ tướng công.”
Lúc này ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đang kiềm chế Sa Thiên Quảng lùi vào giữa trận Thanh Trúc Bang. Quần đạo tỉnh Sơn Đông thấy thủ lĩnh bị bắt, muốn chạy tới cứu người, nhưng bang chúng Thanh Trúc Bang đã ra tay cản trở. Hai bên hò hét ầm ĩ, loạn đấu với nhau. Những tiếng loảng choảng vang lên kịch liệt, chỉ khoảnh khắc là mỗi bên đã mất mấy chục người trọng thương hoặc chết.
Thanh Thanh nói: “Nếu đánh tiếp nửa giờ nữa, chắc hai bên cùng chết rất nhiều.” Viên Thừa Chí chỉ mong kiềm chế được trận ác đấu để tránh khỏi tổn thương nhân mạng.
Đột nhiên Chử Hồng Liễu đang đứng trên chồng rương sắt bỗng vung tay lên, hô lớn: “Không xong rồi! Quan binh kéo đến, phải mấy ngàn người. Mọi người nhanh chóng rút lui… Không! Có cả vạn người… Chạy thôi, chạy thôi…”
Y đứng trên cao, dĩ nhiên nhìn thấy đầu tiên. Mọi người nghe hô hoán như vậy, ai cũng kinh hãi, nên đao thương đều dừng hết. Chỉ nháy mắt đã thấy ba kỵ sĩ phi nhanh tới, hai là của quần đạo tỉnh Sơn Đông cử đi thám thính, còn một là người thăm dò của Thanh Trúc Bang. Cả ba đều kêu réo om sòm, bảo mọi người rút lui, đại đội quan binh đã đến.
Chử Hồng Liễu không kể gì tới nguy hiểm nữa, tung người nhảy bừa xuống. Y đứng không vững phải lăn dưới đất mấy vòng, khi bò dậy thì hai chân sưng vù lên đau đớn. Y giật lấy một con ngựa, dẫn quần đạo tỉnh Sơn Đông rút lui.
Viên Thừa Chí ra dấu bảo ông câm trả Sa Thiên Quảng cho họ. Quần đạo tỉnh Sơn Đông đón lấy, đặt thủ lĩnh trên lưng ngựa rồi chạy vào rừng rậm. Bên Thanh Trúc Bang cũng nổi sáo tre liên tiếp, nhanh tay khiêng đồng bọn bị thương và chết đang nằm dưới đất, chia thành bốn đội chạy đi. Trong chốc lát, giữa khoảng đất trống chỉ còn lại đoàn xe của Viên Thừa Chí.