Thanh Thanh “hừ” một tiếng, lạnh nhạt hỏi: “Sao không đuổi theo mà vẫy tay nữa đi?”
Viên Thừa Chí ngẩn ra, không hiểu câu này ý nghĩa ra sao. Thanh Thanh giận dữ nói: “Lưu luyến mãi không muốn chia tay như thế, sao không đi cùng cô ấy cho xong?”
Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu. Chàng bèn nói: “Lúc nhỏ ta từng gặp nguy nan, được mẹ cô ấy cứu giúp. Hai ta từ nhỏ đã cùng chơi với nhau rồi.”
Thanh Thanh càng tức giận hơn, cầm một cục đá đập loạn xạ trên bậc thềm, đập đến nỗi tóe lửa ra. Nàng nhăn mặt hỏi: “Cái đó gọi là… thanh mai trúc mã chứ gì?”
Rồi nàng lại hỏi: “Khi huynh phá Ngũ Hành Trận, sao không dùng binh khí gì khác, nhất định phải dùng cây ngọc trâm của cô ấy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta muốn dùng một cây ngọc trâm đụng vào là gãy ngay, để năm vị gia gia của muội không kiêng nể mà xuất thủ tấn công. Khi họ xuất thủ tấn công, thì trong Ngũ Hành Trận mới lộ ra sơ hở. Nếu họ chỉ phòng thủ không tấn công, thì trận này không thể phá được.”
Thanh Thanh gằn giọng hỏi: “Chẳng lẽ muội không có trâm hay sao?”
Nói xong, nàng rút cây ngọc trâm trên đầu xuống, bẻ làm hai khúc, liệng xuống đất rồi lấy chân xéo lên.
Viên Thừa Chí cảm thấy nàng gây chuyện vô cớ, đành im lặng không đáp.
Thanh Thanh giận dữ nói: “Khi có mặt cô ấy thì huynh có cười có nói, có vui có giận. Khi chỉ với muội thì huynh lặng lẽ, chẳng vui vẻ gì cả.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao muội nói ta không vui?”
Thanh Thanh không đáp, lại nói: “Mẹ của người ta tốt, lúc huynh còn nhỏ đã cứu giúp huynh, thương yêu huynh. Còn muội chỉ là một đứa không có mẹ.”
Nhắc đến mẫu thân, nàng lại cúi mặt xuống khóc tức tưởi.
Viên Thừa Chí lo lắng dỗ: “Muội đừng tức giận như thế nữa. Chúng ta còn phải bàn chuyện sau này sẽ làm gì.”
Thanh Thanh nghe nói “bàn chuyện sau này”, mặt bỗng ửng hồng. Nhưng nàng vẫn tức giận nói: “Sau này ư? Huynh cứ đuổi theo Tiểu Huệ muội muội của huynh đi. Người khổ mạng như muội, cứ để phiêu bạt chân trời góc bể cũng được rồi.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sắp xếp cho đại cô nương này như thế nào, thật sự không phải đơn giản.”
Thanh Thanh thấy chàng không nói gì, đứng dậy bưng hũ tro cốt của mẹ lên, quay lưng đi ngay. Viên Thừa Chí vội hỏi: “Muội đi đâu vậy?”
Thanh Thanh đáp: “Cứ mặc kệ muội.” Nàng đi về hướng Bắc.
Viên Thừa Chí không biết làm gì, đành phải đi theo. Suốt dọc đường Thanh Thanh không nói chuyện với chàng. Viên Thừa Chí hỏi sao thì hỏi, nàng cũng không trả lời.
Đến Kim Hoa, hai người tá túc trong một khách sạn. Thanh Thanh đi chợ mua y phục nam nhân, lại cải nam trang. Viên Thừa Chí biết nàng đột ngột rời khỏi nhà, không mang theo nhiều tiền bạc, nên nhân lúc nàng ra ngoài mà bỏ hai thỏi vàng vào túi áo nàng. Khi Thanh Thanh trở về, nàng bĩu môi một cái rồi quẳng trả hai thỏi vàng vào phòng chàng.
Đêm đó nàng ra ngoài gây án, vào nhà một phú hộ đánh cắp được năm trăm lượng bạc. Sáng sớm hôm sau thành Kim Hoa đã xôn xao bàn tán. Viên Thừa Chí biết đây là kiệt tác của nàng, không khỏi chau mày. Chàng hoàn toàn không hiểu tại sao nàng đột nhiên nổi giận vô cớ, nên cũng không biết phải đối phó thế nào. Nếu dùng lời lẽ ngọt ngào mềm mại để dỗ dành, thì không biết phải dỗ dành cô nàng như thế nào mới đúng. Còn nếu mặc kệ nàng, thì cảm thấy để thiếu nữ côi cút này một mình bôn ba trong chốn giang hồ không khỏi có phần bất nhẫn. Chàng nghĩ đi nghĩ lại cũng không biết phải làm sao.
Ngày đó, hai người rời khỏi Kim Hoa, đi về hướng Nghĩa Ô. Thanh Thanh cứ hầm hầm đi trước, Viên Thừa Chí theo sau.
Đi được hơn ba mươi dặm, đột nhiên mây đen kéo đầy trời. Hai người phải rảo bước đi nhanh hơn. Chưa đầy năm dặm, mưa to đã trút xuống. Viên Thừa Chí có đem theo dù, còn Thanh Thanh chê vướng víu không đem. Nàng liền thi triển khinh công chạy về phía trước. Quanh đó không có nhà cửa, cũng không có chùa chiền đình miếu gì.
Viên Thừa Chí mang cây dù chạy nhanh đến trước mặt đưa cho nàng. Thanh Thanh gạt ra, chàng bèn nói: “Thanh đệ! Chúng ta là anh em kết nghĩa, đã thề đồng sinh cộng tử, phúc họa cùng chia. Sao muội giận ta lâu thế?”
Sắc mặt Thanh Thanh có vẻ dịu hơn. Nàng nói: “Huynh muốn muội không giận thì rất dễ, chỉ cần hứa với muội một việc.”
Viên Thừa Chí nói: “Muội nói đi. Đừng nói là một việc, mười việc ta cũng làm theo.”
Thanh Thanh nói: “Được, huynh nghe đây! Từ nay về sau, huynh không được gặp An cô nương và mẹ của cô ấy nữa. Nếu huynh đồng ý, muội lập tức xin lỗi huynh ngay.” Nói xong nàng khẽ mỉm cười.
Viên Thừa Chí hết sức bối rối. Hai mẹ con họ An đã có ơn với chàng, sau này phải tìm cách báo đáp. Nếu vô duyên vô cớ tránh mặt không gặp người ta, thì còn ra thể thống gì nữa? Chuyện này không dễ hứa, nên chàng ngần ngừ một lúc.
Thanh Thanh cau mặt lại, giận dữ nói: “Muội biết, huynh không dễ gì bỏ rơi Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu.”
Nàng quay phắt đi, chạy như điên về phía trước. Viên Thừa Chí kêu lớn: “Thanh đệ, Thanh đệ!”
Thanh Thanh bịt tai lại không nghe. Chạy qua mấy khúc quanh, thấy bên đường có một gian đình nhỏ, nàng liền chạy vào trong. Viên Thừa Chí cũng chạy vào theo, thấy nàng ướt sũng cả người. Lúc này tiết trời đang nóng, y phục nàng đã mỏng manh lại bị nước mưa thấm ướt, trông rất bất nhã. Thanh Thanh vừa hổ thẹn vừa lo lắng, phục lên lan can trong đình, vừa khóc vừa kêu: “Huynh ăn hiếp muội, huynh ăn hiếp muội!”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Lạ quá, mình ăn hiếp cô ấy hồi nào?” Nhưng chàng không phân trần gì cả, cởi trường bào của mình ra phủ lên người cho nàng. Viên Thừa Chí có dù che mưa, nên áo quần không bị ướt.
Chàng nghĩ: “Rốt cuộc nàng muốn gì, mình thật không hiểu. Tiểu Huệ muội muội không đắc tội gì với nàng, sao nàng lại đòi mình từ nay về sau không được gặp Tiểu Huệ? Chẳng lẽ vì Tiểu Huệ tới đòi vàng mà liên lụy hại chết mẹ của nàng hay sao? Việc đó đâu thể trách Tiểu Huệ được?”
Viên Thừa Chí đánh cho bọn Lữ Thất tiên sinh, Ôn thị ngũ lão đại bại tới kinh hồn vỡ mật, chưa phải là khó lắm. Nhưng cô chiêu Thanh Thanh này lúc hân hoan lúc nhõng nhẽo, mới khóc đã cười, khiến chàng có gãi chảy máu đầu đi nữa cũng không hiểu được. Viên Thừa Chí từ nhỏ đến giờ chưa từng giao thiệp với những cô nương trẻ tuổi. Thanh Thanh lại yêu sách quá mức, nên chàng thật không biết phải làm gì.
Thanh Thanh lại nghĩ đến cái chết thê thảm của mẫu thân, cứ khom người khóc rống lên. Viên Thừa Chí nhức đầu nhức óc. Hồi lâu mưa từ từ ngớt, nhưng Thanh Thanh vẫn khóc mãi không thôi. Nàng lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, thấy chàng cũng đang nhìn mình, bèn xoay ánh mắt sang chỗ khác, càng khóc lớn hơn. Viên Thừa Chí dứt khoát nghĩ: “Để xem cô còn bao nhiêu nước mắt cho biết.”
Tình hình đang bế tắc, đột nhiên nghe tiếng bước chân, một nông phu trẻ dìu một bà lão bước vào gian đình. Dường như bà lão đang bệnh, rên rỉ không dứt. Nông phu đó là con của bà, cố dùng lời lẽ dịu dàng an ủi mẹ.
Thanh Thanh thấy có người lạ vào đình mới chịu ngưng khóc. Viên Thừa Chí chợt nảy ra sáng kiến: “Để ta thử xem phương pháp này dùng được hay không.”
Chẳng bao lâu, mẹ con nông phu rời khỏi đình, đi tiếp. Thanh Thanh thấy mưa đã dứt hẳn, định lên đường thì bỗng nghe Viên Thừa Chí kêu: “Úi chà! Trời ơi!”
Thanh Thanh giật mình kinh hãi, quay lại nhìn thì thấy Viên Thừa Chí ôm bụng cúi rạp dưới đất. Nàng vội chạy tới xem. Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, lập tức trên trán tươm ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu.
Thanh Thanh sợ hãi hỏi: “Sao rồi? Đau bụng phải không?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Đã giả vờ thì phải giả vờ cho đến cùng.” Chàng tiếp tục vận khí, bế những huyệt đạo trên tay. Thanh Thanh sờ vào tay chàng thấy lạnh như băng, hoảng sợ đến nỗi không biết làm gì, rối rít hỏi: “Huynh sao rồi? Sao rồi?”
Viên Thừa Chí rên rỉ lớn tiếng hơn, vẫn không trả lời. Thanh Thanh lo quá, bắt đầu khóc lớn.
Viên Thừa Chí vừa rên vừa nói: “Thanh đệ! Ta… ta bệnh thế này, không khỏi được đâu. Thanh đệ cứ mặc kệ ta, đi một mình đi.”
Thanh Thanh hỏi: “Tại sao đang mạnh khỏe mà đột nhiên phát bệnh?”
Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Từ nhỏ ta đã có tật không chịu được người khác giận mình. Nếu có ai tức giận ta, trong lòng ta lo lắng là lập tức đau bụng ngay. Úi chà! Trời ơi! Đau chết đi được. Hôm qua ta lại ác đấu với năm vị gia gia của Thanh đệ, bay giờ đuối sức rồi. Trời ơi! Đau quá!…”
Thanh Thanh kinh hãi, vòng tay ôm chầm lấy chàng, xoa nhè nhẹ trước ngực cho chàng. Viên Thừa Chí được nàng ôm, cảm thấy vừa dễ chịu vừa khó chịu.
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Thừa Chí đại ca! Muội không phải rồi, huynh đừng giận nữa.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu mình không tiếp tục giả vờ, nàng chắc chắn sẽ coi mình là đồ lợi dụng”. Lỡ phóng lao thì phải theo lao, chàng chỉ còn cách gục xuống rên rỉ: “Ta không sống nổi nữa rồi. Sau khi ta chết, nhờ Thanh đệ an táng rồi báo cho đại sư ca một tiếng.”
Viên Thừa Chí càng giả vờ càng giống, nhưng trong bụng cười thầm.
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Huynh không được chết! Huynh không hiểu, muội chỉ giả vờ tức giận để trêu tức huynh. Trong lòng của muội… muội từ lâu đã thích huynh. Thấy huynh tử tế với Tiểu Huệ muội muội, muội thấy khó chịu, cứ tưởng huynh không thích muội. Nếu huynh chết đi thì muội sẽ cùng chết với huynh.”
Viên Thừa Chí kinh hãi, thì ra cô gái này đã yêu mình. Từ nhỏ đến giờ, đây là lần đầu tiên Viên Thừa Chí được nếm mùi vị ôn nhu. Trong lòng chàng nổi lên một cảm giác khó tả, vừa ngọt ngào vừa xấu hổ, cứ ngẩn ngơ không nói được gì.
Thanh Thanh nghĩ chàng sắp chết, nên ôm càng chặt thêm, kêu lên: “Đại ca! Huynh không thể chết. Không có huynh thì muội không sống nổi.”
Viên Thừa Chí cảm thấy hơi thở nàng dịu dàng thoang thoảng như hoa lan, thân thể mềm mại tựa sát vào mình. Chàng không khỏi thần hồn điên đảo.
Thanh Thanh lại nói: “Muội chỉ giả vờ tức giận, huynh đừng coi là thật.”
Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Huynh chỉ giả vờ bệnh, muội đừng coi là thật.”
Thanh Thanh ngơ ngác, đột nhiên nhảy bật dậy, tát một phát thẳng tay lên mặt Viên Thừa Chí. Nghe một tiếng “bốp”, trước mắt Viên Thừa Chí như có ngàn sao nhấp nháy. Thanh Thanh xoay mặt lại, bỏ đi ngay.
Viên Thừa Chí lại ngơ ngác: “Nàng vừa nói là thích mình, không có mình thì không sống nổi, sao đột nhiên đánh mình rồi bỏ đi?” Chàng không hiểu tâm sự của Thanh Thanh, chỉ còn cách lẽo đẽo theo sau.
Sau phen vui mừng, Thanh Thanh đã quên hết chuyện ghen tị với An Tiểu Huệ. Thấy trên má trái của Viên Thừa Chí có năm vết ngón tay đỏ ửng, nàng bất giác vừa áy náy vừa có phần đắc ý. Nghĩ đến mình đã thổ lộ tâm sự rồi, nàng lại khó chịu trong lòng.
Hai người đều có chuyện khó nói, nên suốt dọc đường không hề trò chuyện gì với nhau. Có lúc ánh mắt chạm nhau, cả hai đều đỏ mặt quay đi tránh né, nhưng trong lòng đều cảm thấy ngọt ngào. Họ đi mấy chục dặm đường trên mặt đất, mà cảm giác như phiêu lãng trên mây.
Xế chiều hôm đó đã đến Nghĩa Ô. Thanh Thanh tìm khách sạn để nghỉ lại, Viên Thừa Chí cũng theo vào. Thanh Thanh liếc chàng một cái, nói: “Tên vô lại này, theo người ta mãi, thật là đáng ghét.”
Viên Thừa Chí sờ lên má, mỉm cười rồi nói: “Đau bụng là giả, nhưng đau má là thật.”
Thanh Thanh cũng mỉm cười, đáp: “Nếu huynh chịu không nổi thì cứ tát trả muội một tát đi.”
Hai người lại hòa như trước, ăn cơm xong nói chuyện một hồi rồi mới về phòng nghỉ ngơi. Thanh Thanh thấy mình đã thổ lộ tâm tình mà chàng vẫn giữ lễ độ, không nhắc gì đến chuyện đó, nên đỡ phải bối rối. Nhưng nàng nhịn không nổi, lại phải nghĩ: “Mình đã nói là thích huynh ấy, thế mà huynh ấy chẳng nói gì cả. Không biết lòng dạ huynh ấy đối với mình thế nào? Huynh ấy thích mình không, hay là không thích?” Suốt đêm nàng cứ trăn qua trở lại, không sao ngủ yên giấc được, cứ băn khoăn không biết Viên Thừa Chí có thích mình không.
Sáng hôm sau thức dậy, tiếp tục lên đường. Thanh Thanh hỏi chàng đã phát hiện hài cốt của phụ thân mình trong trường hợp nào. Viên Thừa Chí bèn kể lại tỉ mỉ hai con vượn phát hiện sơn động đó, rồi chàng chui vào trong động, thấy bộ hài cốt, đào hộp sắt lên, phát hiện đồ phổ. Sau đó chàng kể đến chuyện Trương Xuân Cửu và tên trọc giữa đêm đánh lén lên đỉnh núi rồi gặp họa.
Thanh Thanh nghe mà dựng tóc gáy lên, nói: “Trương Xuân Cửu là đồ đệ của Tứ gia gia, gian ác có tiếng. Còn Vương Thất Động là đồ đệ của Nhị gia gia. Cứ mười sáu tháng giêng hằng năm là năm lão gia gia của muội phái con cháu đồ đệ ra ngoài tìm kiếm. Không hiểu tìm ai hay tìm vật gì, mọi người đều giấu giếm không nói cho muội biết. Nhưng khi trở về thì ai cũng ra vẻ ủ rũ, nhất định chưa tìm được gì cả. Bây giờ nghĩ lại, đích thị là họ đi tìm tung tích của phụ thân muội rồi.”
Nàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Phụ thân của muội đã chết mà vẫn có thể dùng kế giết địch, thật không thể ngờ được.”
Thanh âm nàng đầy vẻ thán phục. Nàng lại tiếp: “Nếu phụ thân còn sống, thấy huynh đánh cho bọn ác nhân ở Ôn gia thua tơi bời, nhất định sẽ rất vui mừng… À, mẹ đã chính mắt nhìn thấy, nhất định sẽ kể cho phụ thân biết. Huynh cho muội nhìn bút tích của phụ thân một lát nữa đi.”
Viên Thừa Chí lấy tấm bản đồ đưa nàng, bảo: “Đây là bút tích của phụ thân muội, phải trả cho muội mới đúng.”
Thanh Thanh nhìn di bút của cha mình, vừa đau lòng vừa hoan hỉ.
Hôm đó, hai người đến Tùng Giang. Thanh Thanh bỗng nói: “Khi đến Nam Kinh, gặp sư phụ của huynh xong, chúng ta hãy đi tìm bảo bối.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Bảo bối gì?”
Thanh Thanh nói: “Tấm bản đồ này của phụ thân, không phải bản đồ kho báu hay sao? Gia gia còn nói, người tìm được kho báu này phải tặng cho má má của muội mười vạn lượng vàng. Má má cũng nói, đây là kho của hoàng cung, không biết chứa đựng bao nhiêu kim ngân châu báu.”
Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Muội nghĩ như vậy cũng đúng. Nhưng bây giờ chúng ta làm việc chính trước đã.” Chàng chỉ nghĩ đến việc tìm gặp sư phụ, sau đó đi trả thù cho cha.
Thanh Thanh nói: “Theo bản đồ này đi tìm kho báu, chưa chắc đã tốn nhiều thời gian.”
Viên Thừa Chí lộ vẻ không vui, bảo: “Nếu chúng ta tìm được kim ngân châu báu thì có ích gì? Thanh đệ! Ta khuyên Thanh đệ nên đứng đắn hơn, bớt tham tiền một chút thì tốt.”
Nghe vậy Thanh Thanh bĩu môi tức giận, bỏ không ăn cơm tối.
Sáng hôm sau lên đường, Thanh Thanh mới nói: “Muội chỉ lấy có hai ngàn lượng vàng của Sấm Vương mà họ đã lo sốt vó, khiến đại sư ca của huynh phải đích thân đi đòi lại. Sao Sấm Vương nhỏ mọn đến thế?”
Viên Thừa Chí cãi: “Sấm Vương không nhỏ mọn đâu. Ta đã gặp rồi, ông ấy đối xử với người khác rất trọng nghĩa khí. Ông muốn trừ khổ cho thiên hạ, chính mình thì vô cùng tiết kiệm, đáng mặt là đại anh hùng, đại hào kiệt. Hai ngàn lượng vàng này chắc Sấm Vương đang cần sử dụng, nên mới không dễ dàng bỏ mất.”
Thanh Thanh nói: “Đúng vậy. Nếu chúng ta có thể tặng cho Sấm Vương hai chục vạn lượng vàng, thậm chí hai trăm vạn lượng, ba trăm vạn lượng thì sao? Huynh thấy việc này có được không?”
Viên Thừa Chí bỗng nghĩ ra, cả mừng nắm chặt đôi tay Thanh Thanh mà nói: “Thanh đệ! Ta thật là hồ đồ, may mà được muội nhắc nhở.”
Thanh Thanh hất tay chàng ra nói: “Muội không cần huynh tử tế đâu. Từ nay về sau, huynh bớt mắng người ta một chút là tốt rồi.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Nếu chúng ta tìm được số kim ngân châu báu này, đem tặng Sấm Vương, thì cứu được không biết bao nhiêu sinh linh đồ thán.”
Hai người ngồi bên vệ đường, lấy tấm bản đồ ra xem tỉ mỉ. Giữa tấm bản đồ có một vòng tròn màu đỏ, bên cạnh ghi chú bốn chữ: Ngụy Quốc Công Phủ. Hai người nhìn chung quanh tường tận, rồi Viên Thừa Chí nói: “Kho báu chôn dưới một căn nhà, kế bên Ngụy Quốc Công Phủ.”
Thanh Thanh nói: “Sau khi đến Nam Kinh, chúng ta chỉ cần tìm được Ngụy Quốc Công phủ là xong. Ngụy Quốc Công là phong hiệu của tướng quân Từ Đạt. Ông ấy là đệ nhất đại công thần của bản triều, phủ đệ nhất định rất nguy nga, chắc cũng dễ tìm.”
Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Phủ đệ của đại tướng quân chắc chắn phòng bị nghiêm ngặt khác hẳn nhà của bá tính. Dù có thể lẻn vào trong, nhưng muốn đào bới châu báu thì chẳng dễ dàng đâu.”
Thanh Thanh nói: “Bây giờ mình đoán mò chỉ vô ích. Cứ đến Nam Kinh, rồi tùy cơ mà ứng biến.”
*
* *
Mấy ngày sau hai người đã đến Nam Kinh. Thạch Đầu Thành ở Kim Lăng là tòa thành lớn nhất thiên hạ, nơi kiến đô khai quốc của Thái Tổ năm xưa, nay vẫn dùng tên cũ gọi là Ưng Thiên phủ. Ở đây nhà cửa san sát, đường sá quy hoạch đàng hoàng, lan can cầu được sơn son thiếp vàng, trên cầu có nhiều người đang ca hát. Dù là đường lớn hay hẻm nhỏ, dân cư vẫn ăn mặc rất bảnh bao. Các bậc vương tôn thế gia tập trung cư ngụ ở đây rất nhiều. Tuy thời thế đang loạn, nhưng sự xa xỉ so với trước kia không giảm bao nhiêu.
Sau khi tìm khách sạn nghỉ ngơi, Thừa Chí liền theo địa chỉ mà đại sư ca đã dặn để đi tìm sư phụ. Khi hỏi thì biết Mục Nhân Thanh đã tới An Khánh phủ rồi, còn An Khánh phủ ở nơi nào thì ngay cả người đưa tin cũng không biết. Thừa Chí rầu rĩ tỏ vẻ không vui. Thanh Thanh kéo chàng ra ngoài thăm viếng các nơi thắng cảnh nhưng chàng chẳng còn lòng dạ nào đi dạo, chỉ ngồi trong khách sạn mà thở dài thở ngắn.
Thanh Thanh gọi tiểu nhị vào phòng để hỏi thăm Ngụy Quốc Công phủ ở đâu. Tên tiểu nhị ngẩn ra, lắc đầu nói: “Ở Nam Kinh làm gì có Ngụy Quốc Công phủ?”
Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Ngụy Quốc Công là đệ nhất danh thần của bản triều, chẳng lẽ không có phủ đệ?”
Tiểu nhị nói: “Nếu có, tướng công hãy tự mà đi tìm. Tiểu nhân là dân bản địa, ở Nam Kinh hơn bốn mươi năm rồi, nhưng chưa từng nghe thấy.”
Thanh Thanh trách hắn ăn nói vô lễ, đưa tay định đánh, nhưng Viên Thừa Chí cản lại. Tên tiểu nhị vừa bỏ ra ngoài vừa lầm bầm một lúc.
Hai người tìm kiếm ở Nam Kinh bảy tám ngày trời, hoàn toàn không được chút manh mối nào. Viên Thừa Chí đòi đi An Khánh phủ tìm sư phụ, nhưng Thanh Thanh nói: “Đã đến Nam Kinh rồi, thì phải điều tra cho rõ mới chịu thôi.”
Lại dò hỏi năm sáu ngày nữa, có người nói: “Vào đời Vĩnh Đạt, hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã thay đổi tước hiệu thành Định Quốc Công, nghe nói phủ đệ bây giờ ở Thuần Thiên phủ thành Bắc Kinh.” Có người nói: “Sau khi đại tướng quân tạ thế, được truy hiệu là Trung Sơn Vương. Ở Nam Kinh có Trung Sơn Vương phủ, hai vị tới xem thử.” Lại có người nói: “Thủ Bị Quốc Công của Nam Kinh cũng họ Từ, ở Thủ Bị phủ. Còn Ngụy Quốc Công phủ thì không biết ở đâu.” Hai người tới Trung Sơn Vương phủ và Thủ Bị phủ xem xét, nhưng thấy địa thế khác hẳn hình vẽ trên bản đồ.
Đêm hôm ấy hai người thuê một chiếc thuyền để giải khuây trên sông Tần Hoài. Viên Thừa Chí nói: “Phụ thân của muội bản lãnh bằng trời, đã được tấm bản đồ mà cũng chưa tìm ra kho báu. Như thế đủ biết chuyện này rất phiêu lưu.”
Thanh Thanh nói: “Rõ ràng phụ thân đã viết như vậy, làm gì có sai sót. Không phải là chuyện một hai lượng bạc, dĩ nhiên không dễ lấy vào tay.”
Viên Thừa Chí nói: “Chúng ta tìm thêm một ngày nữa, nếu không có manh mối thì phải đi thôi.”
Thanh Thanh nói: “Tìm thêm ba ngày.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được, cứ theo lời muội, ba ngày thì ba ngày. Muội tưởng ta không muốn tìm ra kho báu hay sao?”
Trên mặt sông vẳng tiếng xướng ca, mái chèo khua nhẹ, đèn nến mông lung. Hình như trong gió thoảng có mùi hương son phấn. Không khí ủy mị sang trọng thế này, Thừa Chí dĩ nhiên chưa thấy, mà Thanh Thanh sống nơi Chiết Đông xa xôi cũng chưa từng gặp. Nàng uống mấy ly, mặt đã hơi đỏ, nghe từ thuyền bên cạnh vọng đến tiếng ca hát cười đùa, không khỏi nổi chí tò mò.
Thanh Thanh mỉm cười nói lớn: “Đại ca! Chúng ta gọi hai cô gái đến hát ca chuốc rượu có được không?”
Viên Thừa Chí lập tức đỏ mặt hỏi: “Đệ uống say rồi phải không? Sao bừa bãi như vậy?”
Gã thuyền phu đang chèo chiếc du thuyền liền nói: “Các vị tướng công đến du ngoạn trên sông Tần Hoài này, chẳng ai là không gọi các cô đến cùng uống rượu. Nếu hai vị tướng công có ai quen biết, thì tiểu nhân đi gọi.”
Thừa Chí xua tay loạn lên, đáp: “Không cần, không cần.”
Thanh Thanh mỉm cười hỏi thuyền phu: “Trên sông này có vị cô nương nào nổi tiếng?”
Thuyền phu đáp: “Nói về danh tiếng thì có Biện Ngọc Quân, Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển, Lý Hương Quân. Cô nào cũng tài mạo song toàn, biết làm thơ lại biết ca hát.”
Thanh Thanh nói: “Thế thì ngươi gọi giúp hai cô Liễu Như Thị, Đổng Tiểu Uyển gì gì đó đi.”
Thuyền phu lè lưỡi nói: “Nhất định tướng công mới đến Nam Kinh lần đầu.”
Thanh Thanh hỏi: “Thì đã sao?”
Thuyền phu nói: “Muốn gặp những cô nương nổi tiếng đó, không phải là vương tôn công tử thì phải là bậc danh sĩ văn chương. Người buôn bán thì có khiêng cả núi vàng đến cũng chưa chắc được gặp họ một lần. Làm sao tiểu nhân gọi họ đến đây được!”
Thanh Thanh bĩu môi nói: “Ca kỹ mà cũng phách lối đến thế ư?”
Thuyền phu nói: “Trên sông Tần Hoài này còn nhiều cô nương rất khá. Để tiểu nhân gọi hai cô đến cho hai vị tướng công.”
Thừa Chí nói: “Chúng ta sắp về rồi, để hôm khác hãy gọi.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Nhưng đệ đi chơi chưa đã.” Rồi nàng bảo thuyền phu: “Ngươi gọi đi.”
Tên thuyền phu đang đợi câu này, nhanh nhẩu ngoác miệng ra kêu mấy tiếng. Lập tức một chiếc thuyền hoa từ bờ sông chèo vội ra. Hai người ca kỹ theo cầu ván bước sang, chắp tay chào Viên Thừa Chí và Thanh Thanh. Viên Thừa Chí đứng dậy trả lễ, thần sắc đầy vẻ ngượng nghịu.
Thanh Thanh ngồi ngay tại chỗ ra vẻ nhà quan, chẳng động đậy gì mà chỉ mỉm cười. Thấy Viên Thừa Chí bối rối như thế, nàng buồn cười nghĩ bụng: “Thì ra chàng quá thật thà. Giả tỉ trong lòng có thương yêu mình, chắc chàng cũng không biết đường mà nói.”
Hai người ca kỹ này dung mạo chỉ bình thường. Một cô cầm sáo thổi bài Chiết Quế Lệnh, nghe cũng khá êm tai. Thanh Thanh biết bài này lẽ ra phải thổi bằng ống địch, nhưng nữ nhân thì thổi sáo trông văn nhã hơn.
Một cô hỏi Thanh Thanh: “Tướng công! Bọn muội cùng hát bài Quá Chi Nhi cho tướng công nghe, có được hay không?”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hay lắm!”
Người ca kỹ đó nâng đàn tỳ bà, hát giọng nam:
“Ta bảo muội gọi ca ca; Thủy chung muội không chịu gọi; Lẽ ra không chờ ta nói; Gọi ca ca mới chân tình.
Muốn nghe muội gọi ca ca; Muội cứ lắc đầu đỏ mặt; Chờ mãi không nghe muội nói; Chắc là không thương ta rồi.
Nếu muội thương ta thật lòng; Sao không gọi ta như vậy?”
Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình quen gọi nàng là Thanh đệ, còn nàng chẳng gọi mình là ca ca bao giờ. Nàng chỉ thường gọi là Thừa Chí đại ca, cùng lắm là gọi đại ca.” Bất giác chàng liếc qua Thanh Thanh, thấy nàng mặt đỏ ửng lên, cũng đang liếc mình. Ánh mắt hai người vừa chạm nhau đều cảm thấy thiếu tự nhiên, vội vã quay đi.
Người ca kỹ lại hát tiếp:
“Oan gia ơi là oan gia; Ta không muốn nghe muội xạo; Nếu trong lòng muội không thương; Thì thôi đừng gọi cho rồi.
Đã gọi phải gọi dịu dàng; Nghe mà lòng sôi hừng hực; Còn nếu giả vờ tình cảm; Thì thôi đừng gọi hay hơn.”
Người ca kỹ cầm sáo hát giọng nữ đáp lại:
“Oan gia ơi là oan gia; Muốn muội gọi thì muội gọi; Nhưng nếu muội không mở lời; Xin ca ca đừng lo lắng.
Gọi ca ca ở ngoài miệng; Thương ca ca để trong lòng; Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”
Tiếng hát cực kỳ nhu mì uyển chuyển, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe mà không khỏi điên đảo thần hồn.
Hai cô hòa giọng hát lại câu cuối: “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương.”
Tiếng tỳ bà vẫn dạo tình tang, dịu dàng lưu loát, khêu động lòng người; hòa vào ca từ ngọt như đường mật, thơm như son phấn, đầy vẻ kiêu sa.
Từ nhỏ đến lớn Viên Thừa Chí chỉ bạn cùng đao kiếm. Trước khi quen với Thanh Thanh, chàng kết giao toàn là nam nhi sảng khoái hào phóng, chưa hề nghĩ rằng một tiếng gọi “ca ca” mà có nhiều nội dung đến thế. Nghĩ đến tình ý triền miên trong ca từ, tim chàng bỗng đập rộn lên nghe thình thịch.
Mắt Thanh Thanh nhìn xuống, cầm lấy ống sáo trong tay người ca kỹ. Nàng lấy khăn tay thấm một ít rượu, lau chùi sạch sẽ lỗ sáo rồi đưa lên miệng mà thổi.
Trước đây Viên Thừa Chí từng nghe nàng thổi sáo trên đồi hoa hồng ở Tịnh Nham; bây giờ lại nghe trên sông nước, dưới trăng trên sóng, hương rượu nồng, phấn son thoang thoảng, lại có một cảm giác khác biệt. Tiếng sáo uyển chuyển du dương, chính là khúc Quá Chi Nhi vừa rồi. Nghe đến câu “Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương”, chàng ngắm nhìn khuôn mặt Thanh Thanh diễm lệ dưới ánh nến hồng, không nén nổi tâm thần say đắm.
Viên Thừa Chí nghe đến xuất thần, không nhận thấy một chiếc thuyền hoa lớn đã chạy tới sát thuyền mình. Bỗng có người cười ha hả, hô lớn: “Tiếng tiêu hay quá, tiếng tiêu hay quá!” Rồi có ba người bước sang.
Thanh Thanh thấy có người quấy nhiễu, nổi giận bỏ ống sáo xuống, đưa mắt liếc nhìn. Trong ba người bước lên thuyền, người đầu tiên cầm quạt xếp, mặc gấm vóc, khoảng hơn ba mươi tuổi, cặp mắt ti hí, da còn trắng hơn cả hai người ca kỹ. Phía sau là hai tên gia đinh cầm lồng đèn, trên đèn viết ba chữ: Tổng đốc phủ.
Viên Thừa Chí đứng dậy chắp tay nghênh đón, hai người ca kỹ khấu đầu, còn Thanh Thanh thì mặc kệ.
Người đó vừa cười lớn vừa tiến vào khoang thuyền, nói: “Làm phiền các vị rồi.” Nói xong, hắn tỉnh bơ ngồi xuống.
Viên Thừa Chí lên tiếng: “Xin hỏi tôn tính đại danh?”
Hắn chưa kịp trả lời, một người ca kỹ đã đáp hộ: “Đây là Mã công tử ở Tổng đốc phủ huyện Phượng Dương này, là một thiếu gia hào phóng có tiếng trên sông Tần Hoài.”
Mã công tử không thèm hỏi danh tính Viên Thừa Chí. Hắn cố giương cặp mắt ti hí lên, mê mẩn nhìn ngắm Thanh Thanh, cười hỏi: “Vị này ở ban nhạc nào vậy? Thổi sáo cực hay, sao không qua đây hầu hạ đại gia? Hà hà, hà hà…”
Thanh Thanh thấy hắn coi mình như một tên nhạc công nào đó, dựng ngược lông mày lên, muốn phát tác ngay. Thừa Chí vội đưa mắt ra hiệu rồi nói: “Đây là huynh đệ của tại hạ. Bọn tại hạ đến Nam Kinh để tìm bằng hữu.”
Mã công tử mỉm cười nói: “Tìm bằng hữu làm chi? Hôm nay tình cờ gặp nhau, kết Mã công tử này làm bằng hữu là được ăn nhậu không bao giờ dứt.”
Thừa Chí rất giận, nhưng chỉ lạnh lùng hỏi: “Các hạ làm chức quan gì trong Tổng đốc phủ vậy?”
Mã công tử mỉm cười đáp: “Tổng đốc Mã đại nhân chính là gia thúc.”
Từ chiếc thuyền hoa đó lại có một người bước qua. Người này mặc trường bào màu cánh sen, thân hình lùn tịt, bên mép vắt hai chòm râu, thần sắc rất hòa nhã. Hắn mỉm cười hỏi Mã công tử: “Công tử! Huynh đệ này thổi sáo không tệ phải không?”
Nhìn bộ điệu tên này, Viên Thừa Chí đoán hắn là loại khách bám theo Mã công tử để ăn nhậu. Mã công tử bảo: “Cảnh Đình! Ngươi nói với họ mấy câu đi.”
Người ấy vâng dạ lia lịa, tự xưng mình họ Dương tên Cảnh Đình, rồi nói với Viên Thừa Chí và Hạ Thanh Thanh: “Mã công tử là cháu ruột của Mã đại nhân, tổng đốc huyện Phượng Dương. Công tử rất nhiệt tâm kết giao bằng hữu, kim ngân ngàn lượng coi như không. Ai kết được người bạn như thế như nhặt được hũ vàng, chuột sa chĩnh nếp. Mã đại nhân thương yêu nhất là đứa cháu này, thương hơn cả con ruột. Vị huynh đệ này muốn tìm bằng hữu phải không? Tốt nhất là dọn ngay vào trong phủ Mã công tử mà ở.”
Viên Thừa Chí nghe chúng buông lời vô lễ, lại sợ Thanh Thanh nổi giận. Nào ngờ nàng lại nhoẻn cười mà nói: “Thế thì tuyệt diệu! Chúng ta lên bờ đi.”
Mã công tử cả mừng, đưa tay toan nắm tay Thanh Thanh. Thanh Thanh lùi lại, đẩy một người ca kỹ tới chỗ hắn. Thừa Chí kinh ngạc, nhưng nhất thời không lên tiếng.
Thanh Thanh đứng dậy, nói với Mã công tử: “Tiểu đệ muốn thưởng hai vị cô nương và thuyền gia này, mỗi người năm lượng bạc.”
Mã công tử nói: “Dĩ nhiên ta sẽ lo liệu. Ngày mai các ngươi đến nhà ta để lãnh thưởng.”
Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Thưởng ngay bây giờ, há chẳng sảng khoái hơn sao?”
Mã công tử gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, đúng vậy!”
Hắn vẫy tay một cái, bọn gia đinh lấy ra mười lăm lượng bạc. Thuyền phu và ca kỹ khấu đầu đa tạ.
Mã công tử trố mắt nhìn Thanh Thanh không chớp, mặt mày rạng rỡ, miệng cười toe toét. Dường như hắn đang ngứa ngáy khó chịu, như lượm được một món kỳ trân dị bảo trên trời rơi xuống vậy.
Chỉ một lát sau, thuyền đã ghé vào bờ. Dương Cảnh Đình nói: “Để tại hạ đi gọi kiệu.”
Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Trời ơi! Tiểu đệ còn một món đồ để ở nhà, bây giờ phải đi lấy ngay.”
Mã công tử nói: “Để ta sai gia nhân đi lấy là được rồi. Hiền đệ đang trú ở đâu vậy?”
Thanh Thanh nói: “Bọn đệ đang ngụ trong một ngôi chùa ở ngõ Phúc Châu, cửa Thái Bình. Món đồ đó không thể để mất được.”
Dương Cảnh Đình kề vào tai Mã công tử khẽ nói: “Hãy theo sát, đừng để con gà xinh đẹp này chạy mất.”
Mã công tử nháy mắt đáp: “Đúng thế!” Rồi hắn quay lại bảo Thanh Thanh: “Hiền đệ! Ta đi cùng hiền đệ.”
Nói xong, hắn đưa tay ôm choàng lấy vai nàng. Thanh Thanh cười khúc khích, tránh qua một bên.
Mã công tử thần hồn điên đảo, nói với Dương Cảnh Đình: “Cảnh Đình! Nếu huynh đệ này mặc y phục nữ nhân, chắc chắn không có cô nương nào trong thành Kim Lăng này sánh được. Quả nhiên trên đời có một thiếu niên tuyệt sắc đến thế. Hôm nay ta gặp được, thật là tổ tông tích đức.”
Thanh Thanh nói: “Đại ca, chúng ta đi thôi!”
Nói xong, nàng nắm tay Viên Thừa Chí đi ngay. Mã công tử đảo mắt một cái, cả bốn người đều đi theo. Mã công tử bước tới mấy bước để cười giỡn với Thanh Thanh. Nàng cũng đối đáp với hắn, câu được câu mất.
Vì vụ tìm kiếm Ngụy Quốc Công phủ mà Thanh Thanh và Viên Thừa Chí đã lục lạo khắp nội thành, ngoại thành Nam Kinh mười mấy ngày nay, lội hết đường lớn hẻm nhỏ, nên rất quen thuộc đường sá nơi này. Viên Thừa Chí thấy nàng đi về phía đồng hoang hẻo lánh, biết nàng nổi sát khí rồi.
Chàng nghĩ bụng: “Tuy tên Mã công tử này hành vi không tốt, lại có mắt không tròng, nhưng chưa đến nỗi đáng tội chết. Sư phụ thường nói, người học võ không nên lạm sát. Ta phải cản trở thôi.” Chàng bèn dừng chân lại nói: “Thanh đệ, đừng giỡn với Mã công tử nữa. Chúng ta về khách sạn ở cửa Tây Thủy đi.”
Thanh Thanh mỉm cười bảo: “Huynh về một mình trước đi.”
Mã công tử cả mừng nói: “Đúng thế, đúng thế, huynh đệ về trước đi. Huynh đệ cần tiền xài không?”
Thừa Chí lắc đầu than thở, thầm nghĩ: “Ta đã nói là về khách sạn ở cửa Thủy Tây, cố ý nói cho hắn biết không có ngôi chùa nào ở ngõ Phúc Châu hết. Tên này chết đến gáy rồi còn chưa tỉnh ngộ.”
Vừa đi vừa nói chuyện, cuối cùng đã đến một khu nghĩa địa. Mã công tử mệt muốn đứt hơi, hào hển hỏi: “Sắp… sắp… đến chưa?”
Thanh Thanh cười rộ lên đáp: “Đến rồi.”
Mã công tử ngơ ngác nghĩ: “Đến khu nghĩa địa này để làm gì?”
Dương Cảnh Đình cũng thấy tình hình có vẻ không êm, nhưng nghĩ phe ta có tới bốn người, hai tên gia đinh lại có sức khỏe, chắc hai thiếu niên mảnh dẻ này không thể bày gian kế được. Hắn bèn nói: “Tiểu huynh đệ đừng đùa nữa. Mọi người hãy về phủ công tử uống mấy ly rượu nóng, vui vẻ một phen, tiểu huynh đệ hát mấy bài cho mọi người vui một chút, há chẳng tốt hơn sao?”
Thanh Thanh chỉ cười gằn. Viên Thừa Chí quát lên: “Các ngươi mau mau về đi. Sống đàng hoàng một chút thì đỡ gặp rắc rối.”
Dương Cảnh Đình giận dữ nói: “Tên này thật là đáng ghét. Chính ngươi sao không về trước đi? Đừng để Mã công tử tức giận.”
Mã công tử giả vờ kiếm chác, bèn nói: “Hiền đệ, ta mỏi rồi. Hiền đệ dìu ta một chút đi.”
Hắn tựa mình vào người Thanh Thanh, đưa cánh tay phải quàng qua vai nàng.
Thanh Thanh lạng người ra tránh, đột nhiên hỏi Viên Thừa Chí: “Đại ca! Cái gì đằng kia vậy?” Nàng đưa tay chỉ về hướng Đông.
Thừa Chí vừa quay đi nhìn, bỗng sau lưng nghe “xoẹt” một tiếng. Chàng vội vã quay đầu lại, thì cái thủ cấp hồ đồ của Mã công tử đã lăn xuống đất, vòi máu trên cổ vẫn còn phun ra. Dương Cảnh Đình và hai tên gia đinh ngẩn ngơ đứng đó, Thanh Thanh bước lên cho mỗi người một kiếm.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đã giết một tên thì phải diệt cỏ tận gốc, tránh khỏi hậu hoạn.” Vì thế chàng không ngăn cản nữa.
Thanh Thanh lau thanh kiếm vấy máu vào người Mã công tử, rồi cười khanh khách.
Viên Thừa Chí nói: “Loại người này thì đánh cho một trận, dạy cho một bài học cũng đủ rồi. Thanh đệ làm vậy là hơi nhẫn tâm.”
Thanh Thanh lườm một cái, giận dữ nói: “Hai chúng ta đang thổi sáo nghe hát trên sông thật là thú vị, tên này bỗng tới quấy nhiễu làm mất hứng. Huynh thấy hắn có đáng chết không?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu chỉ có tội quấy nhiễu làm mất hứng, dĩ nhiên không thể nói là đáng chết. Nhưng loại người như Mã công tử và Dương Cảnh Đình quen dựa thế mà hoành hành bá đạo, chắc chắn đã làm không ít chuyện thương thiên hại lý. Giết hắn không thể nói là lạm sát người vô tội được.” Chàng bèn nghiêm giọng nói: “Bọn khốn nạn thế này, muốn giết thì cứ giết. Nhưng nếu sau này Thanh đệ giết bừa một người tốt, thì giao tình giữa chúng ta sẽ chấm dứt.”
Thanh Thanh lè lưỡi ra nói: “Muội không dám.”
Hai người đá bốn cái xác vào trong lùm cỏ. Đang định quay về khách sạn, Viên Thừa Chí đột nhiên kéo tay áo của Thanh Thanh khẽ nói: “Có người!”
Hai người lập tức khom xuống, nấp vào sau một ngôi mộ.
Xa xa có tiếng bước chân vang lên, từ hai phía Đông Tây đều có người đi tới. Hai người từ sau phần mộ ghé mắt nhìn ra, thấy mỗi bên có mười mấy người, có cầm theo lồng đèn phất giấy dầu. Hai bên tới gần nhau, phía Đông vỗ tay ba tiếng, dừng một lúc lại vỗ hai tiếng. Phía Tây cũng vậy, vỗ tay ba tiếng rồi dừng một lúc vỗ hai tiếng. Sau đó họ đến gần nhau, tụ lại một nơi, ngồi quanh một ngôi mộ lớn. Chỗ họ ngồi cách Viên Thừa Chí và Thanh Thanh hơn mười trượng, nói nghe không rõ.
Thanh Thanh nổi dạ hiếu kỳ, muốn lại gần để nghe. Viên Thừa Chí kéo tay áo nàng, khẽ bảo: “Đợi đã.”
Thanh Thanh hỏi: “Đợi gì?”
Viên Thừa Chí xua tay ra hiệu đừng lên tiếng, Thanh Thanh bèn ngoan ngoãn chờ đợi.
Khoảng uống xong tách trà, một cơn gió thổi qua. Cỏ dại bốn bề xào xạc, những cành tùng bách mọc bên mộ cũng cọ vào nhau phát ra âm thanh lạ tai. Thừa Chí đưa tay phải đỡ lấy cánh tay phải Thanh Thanh, tay trái vòng qua hông nàng, thi triển khinh công vọt đi nhưng không tung người lên. Chàng chạy mười mấy trượng mà chân hầu như không chấm đất, đến một ngôi mộ sau lưng đám người đó rồi nằm rạp xuống. Cơn gió vẫn chưa dứt, những người kia hoàn toàn không phát giác.
Hai người vừa nằm xuống, Thừa Chí lập tức rút cả hai tay về. Thanh Thanh thầm nghĩ: “Chàng đúng là bậc quân tử chí thành, nhưng không khỏi quá cổ hủ.”
Lúc này Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cách đám người kia không quá ba trượng. Nghe rõ một giọng hơi khàn nói: “Các vị đại ca từ xa đến đây rút đao tương trợ, tại hạ vô cùng cảm kích.”
Một giọng khác nói: “Sư phụ tại hạ đã nói, Mẫn lão sư đã triệu tập thì lẽ ra phải đích thân đến đây. Nhưng lão nhân gia đã ngã bệnh hơn một tháng rồi, không rời khỏi giường được, nên sai Vạn sư thúc dẫn mười hai đệ tử bọn tại hạ đến đây để Mẫn lão sư sai khiến.”
Người có giọng khàn khàn nói: “Thì ra lệnh sư Long lão gia thọ bệnh, chỉ mong lão gia sớm bình phục. Xong việc ở đây, tại hạ nhất định sẽ đến Vân Nam vấn an, cảm tạ Long lão gia. Truy phong kiếm Vạn sư huynh kiếm pháp thần thông, oai chấn thiên nam. Tại hạ vừa thấy Vạn sư huynh đến đây, tảng đá lớn đè nặng trong lòng lập tức được dỡ bỏ.”
Một người nói rất nhỏ nhẹ: “Khách sáo rồi! Chỉ sợ phái Điểm Thương chúng ta không đủ sức giúp Mẫn lão sư.”
Viên Thừa Chí động tâm, nhớ lại sư phụ khi đàm luận về kiếm pháp thiên hạ từng nói: “Võ lâm hiện nay có tứ đại kiếm phái là Nga Mi, Hoa Sơn, Côn Luân, Điểm Thương. Nhân tài bốn phái này hưng thịnh, trong kiếm pháp có chỗ bí truyền độc đáo. Còn những môn phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, thì tuy võ học thâm sâu nhưng không chuyên về kiếm thuật.” Người họ Vạn này có ngoại hiệu là Truy Phong Kiếm, lại là cao thủ trong phái Điểm Thương, kiếm thuật nhất định vô cùng tinh xảo. Ông ấy vượt ngàn dặm xa xôi đến Kim Lăng, không biết có đại sự gì.
Hai bên khách sáo mấy câu, xa xa lại có tiếng vỗ tay vọng đến. Bên này lại vỗ tay đáp lại. Chẳng bao lâu đã có thêm ba nhóm nhân vật. Nghe họ gặp nhau nói chuyện, một nhóm là tăng chúng Thanh Lương Tự trên Ngũ Đài Sơn tỉnh Sơn Tây, do giám tự Thập Lực đại sư đích thân dẫn dắt. Một nhóm là hải tặc ở vùng duyên hải Chiết Giang, Phúc Kiến, do tổng minh chủ Bích hải trường kình Trình Khởi Vân của bảy mươi hai đảo dẫn dắt. Nhóm thứ ba là ba người anh em kết nghĩa phái Thái Bạch vùng Tần Lãnh tỉnh Thiểm Tây, gọi chung là Thái Bạch Tam Anh. Ba người này mang tên Sử Bính Quan, Sử Bính Vân và Lê Cương.
Viên Thừa Chí càng nghe càng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Những người này đều là nhân vật có thể diện trong võ lâm cả, sư phụ từng nhắc đến tên tuổi họ rồi. Sao tự nhiên họ tụ tập tới thành Nam Kinh này? Người họ Mẫn không ngừng đa tạ, hiển nhiên những người này đều do ông ấy mời đến.”
Thanh Thanh thấy hành tung những người này khó hiểu, muốn hỏi Viên Thừa Chí, nhưng nàng nghe khẩu khí thì biết đây không phải những kẻ tầm thường, mình chỉ phát ra một chút xíu âm thanh là nhất định bị họ phát giác ngay, nên thở cũng không dám thở mạnh.
Người họ Mẫn cất cao giọng nói: “Các vị tiền bối, sư huynh, sư đệ từ ngàn dặm xa xôi, muôn trùng cách trở đến đây trợ giúp, nghĩa khí sâu nặng. Tại hạ Mẫn Tử Hoa thật sự vô cùng cảm kích. Xin nhận một lạy này.”
Nghe tiếng thì biết y quỳ xuống khấu đầu thật sự. Mọi người vội vã dìu y dậy, lên tiếng khiêm nhường: “Mẫn nhị ca, đừng làm như thế.”
Hoặc: “Làm khổ tiểu đệ rồi. Làm sao đệ dám nhận lễ này?”
Hoặc: “Dọc đường gặp chuyện bất bình rút đao tương trợ là bổn phận của nhân vật võ lâm. Mẫn huynh không cần khách sáo.”
Loạn xạ lên một lúc, rồi Mẫn Tử Hoa lại nói: “Trong vài ngày tới, Trương Tấn sư huynh phái Côn Luân, mấy vị đạo trưởng phái Nga Mi, mấy vị sư huynh phái Hoa Sơn có thể đến đây.”
Có người hỏi: “Phái Hoa Sơn cũng có người đến hay sao? Thế thì hay quá. Không hiểu là môn hạ của vị nào?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Ông này hỏi hay quá, chính mình cũng đang muốn biết.”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Là mấy vị sư huynh, môn hạ của Thần Quyền Vô Địch.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra là đệ tử của Nhị ca.”
Lại có người hỏi: “Mẫn nhị ca có đi lại với phu phụ Quy nhị gia ư? Thế thì tuyệt diệu. Có phu phụ họ đứng sau lưng mình, còn sợ gì tên gian tặc họ Tiêu nữa?”
Mẫn Tử Hoa nói: “Tiền bối cao nhân như Quy thị phu phụ, tại hạ dĩ nhiên không với tới. Nhưng Mai Kiếm Hòa sư huynh, đại đồ đệ của họ thì có giao tình nồng hậu với tại hạ.”
Một người nói: “Mai Kiếm Hòa, chắc là Mạt Ảnh Tử đơn kiếm đánh bại Sơn Đông thất hùng rồi.”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Không sai, chính là ông ấy.”
Viên Thừa Chí nghe đến đây bèn nghĩ: “Đã có nhân vật bản môn tham dự, việc này chắc chắn là ngay thẳng, mình tạm thời không nên lộ diện. Nếu gặp cơ duyên, có thể âm thầm trợ giúp.”
Lại nghe Mẫn Tử Hoa nói: “Gia huynh năm xưa bỏ mạng, mười mấy năm nay tại hạ điều tra vẫn chưa biết kẻ thù là ai. Bây giờ may được huynh đệ họ Sử phái Thái Bạch nói cho biết, người hại chết gia huynh chính là tên gian tặc họ Tiêu. Thù này không trả, thề chẳng làm người.”
Khẩu khí rất bi phẫn, lại nghe “keng” một tiếng, chắc là tiếng binh khí gõ mạnh lên bia đá.
Một giọng già nua cất lên: “Thiết bối kim tiên Tiêu Công Lễ là một hán tử có tiếng trên giang hồ, danh tiếng của Kim Long Bang xưa nay cũng không tồi tệ. Không ngờ họ lại gây ra việc này. Không hiểu Sử thị huynh đệ từ đâu mà có tin tức?”
Dường như lão này có phần hoài nghi. Mẫn Tử Hoa không đợi anh em họ Sử trả lời, đáp hộ: “Sử thị huynh đệ đã kể lại tỉ mỉ tình hình gia huynh gặp nạn ở Sơn Đông. Việc này có bằng cớ hẳn hoi, Thập Lực đại sư không cần phải nghi ngờ.”
Một người khác nói: “Tiêu Công Lễ ở Nam Kinh đã mấy chục năm rễ sâu gốc vững, Kim Long Bang người đông thế mạnh. Tuy chưa nghe nói họ có cao thủ siêu quần, nhưng dù sao cũng là thổ địa. Lần này động thủ, chúng ta nhất định phải cẩn thận.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Đúng là như vậy. Tại hạ tự biết sức mình khó chống đỡ, nên mới cả gan mời đại giá các vị đến đây. Ngày mai giờ Dậu, tại hạ bày mấy bàn rượu nhạt ở Đại Công Phường để quý vị tẩy trần. Xin quý vị quang lâm.”
Mọi người đa tạ rồi nói: “Người trong nhà không cần khách sáo.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Phen này hảo bằng hữu đến rất nhiều, khó tránh khỏi kẻ địch phát giác. Ngày mai các vị đến nhà, xin đưa ra ba ngón tay: ngón giữa, ngón áp út, và ngón út để làm ký hiệu cho người đón tiếp trước cửa biết, và khẽ nói một câu: Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ. Như vậy để tránh bọn Kim Long Bang trà trộn vào chúng ta.”
Mọi người đều nói: “Đúng là phải làm như vậy. Viện thủ đến từ khắp nơi, đa số chưa quen biết. Sau này đối địch, chúng ta nên dùng ám hiệu này để nhận ra nhau.”
Bàn xong việc chính, mọi người đàm luận một lúc về tin tức thời sự, nghĩa quân Lý Tự Thành, Trương Hiến Trung các nơi đánh nhau với quan quân triều đình. Sau đó họ lục tục giải tán.
Mọi người đi hết, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới nằm xuống nghỉ ngơi. Thanh Thanh phải cúi hồi lâu không động đậy, bây giờ đôi chân hầu như tê liệt. Nàng hỏi: “Đại ca! Ngày mai chúng ta đi xem náo nhiệt chứ?”
Viên Thừa Chí đáp: “Xem một chút cũng không sao. Nhưng Thanh đệ phải nghe lời ta, không được gây chuyện.”
Thanh Thanh nói: “Ai nói muội thích gây sự với họ? Muội chỉ gây sự với huynh thôi, không gây với người khác đâu.”
Trưa ngày hôm sau, tin tức Mã công tử bị giết đã loan truyền xôn xao khắp thành Nam Kinh. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh trốn trong khách điếm suốt ngày không đi ra ngoài. Đến xế chiều, hai người mới thay đổi y phục theo kiểu những hán tử giang hồ tầm thường, đi bộ đến Đại Công Phường.
Ở đó có một căn nhà lớn, phía trước treo lồng đèn, khách khứa tấp nập kéo vào không ngớt. Căn nhà này khá rộng nhưng tường rào cũ kỹ, tam cấp đã mòn khuyết rất nhiều. Chỉ có trước cổng là mới được trang trí và quét vôi lại sơ sài, rõ ràng gấp rút nên trông rất tạm bợ.
Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đi đến trước cổng, đưa ba ngón tay rồi nói: “Giang hồ nghĩa khí, rút đao tương trợ.”
Một người khoác trường bào liền chắp tay thi lễ, một đại hán bên cạnh dẫn hai người vào trong, bưng trà ra mời rồi thỉnh giáo danh tính. Viên Thừa Chí cùng với Thanh Thanh thuận miệng bịa ra hai cái tên. Đại hán ấy nói: “Ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ trên giang hồ này đã nghe đại danh của hai vị từ lâu lắm rồi.”
Thanh Thanh cười thầm, nghĩ bụng: “Đại danh này thì chính ta cũng mới nghe lần đầu tiên vào đúng hôm nay, không hiểu ngươi đã nghe ở đâu.”
Khách đến càng lúc càng tấp nập. Đại hán ấy thấy hai người còn trẻ, nghĩ rằng đây là đệ tử phái nào đó theo sư trưởng đến đây, nên không xem trọng lắm. Hắn xin phép ra đón tiếp người khác.
Lát sau dọn tiệc, Viên Thừa Chí ngồi cùng Thanh Thanh một bàn. Đại diện chủ nhà ở bàn tiệc này là một tiểu đồ đệ phái Tiên Đô, ngồi trong bàn đều là môn nhân hậu bối cả.
Rót được ba tuần, Mẫn Tử Hoa đi quanh các bàn tiệc để mời rượu. Đến bàn này, Viên Thừa Chí thấy y khoảng ba mươi tuổi, gân xanh trên tay nổi vồng lên, cái nhìn rất tinh nhanh, cử chỉ và bước đi tỏ ra võ công không kém. Cặp mắt của y mọng đỏ, chắc là nghĩ đến mối thù huynh trưởng bị hại nên mấy ngày nay khóc nhiều.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người này có tình thủ túc chí thành, thật là đáng kính. Lần này y mời bằng hữu rất đông, chắc họ Tiêu kia và Kim Long Bang thế lực không nhỏ.”
Mẫn Tử Hoa chắp tay thi lễ mọi người, nói mấy câu cảm tạ rồi mới mời rượu. Những người ở bàn này đều là vãn bối cả, ai cũng đứng dậy thi lễ.
Mẫn Tử Hoa mời rượu hết các bàn rồi trở về chỗ. Vừa mới ngồi xuống, một tên đệ tử đi lẹ đến chỗ y, kề tai nói gì đó. Mẫn Tử Hoa sắc mặt mừng rỡ, bước vội ra ngoài. Chỉ chốc lát đã thấy y dẫn ba người khác vào, cung kính ngồi vào bàn thủ tọa.
Viên Thừa Chí nhìn thần sắc Mẫn Tử Hoa, biết lai lịch ba người này không nhỏ. Chàng nhìn kỹ, thấy người đầu tiên ăn mặc theo kiểu nho sinh, lưng mang trường kiếm, hai mắt hơi xếch, mặt hất lên trời đầy vẻ kiêu ngạo. Người thứ hai là một hán tử tráng kiện, cả hình tướng lẫn dung mạo đều ra vẻ chân thật. Người thứ ba là một thiếu nữ cao ráo khoảng hai hai hai ba tuổi, mặt mày xinh đẹp, lông mày rất thanh, nhưng cặp mắt sắc như dao.
Mẫn Tử Hoa nói: “Mai huynh kịp thời đến đây, tại hạ thật sự cảm kích vô cùng.”
Nho sinh kia nói: “Việc của Mẫn huynh, tại hạ lý nào không đến?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra người này chính là Mai Kiếm Hòa, đệ tử của Nhị sư ca. Sao thần sắc y ngạo mạn như thế?”
Mai Kiếm Hòa nói: “Tại hạ rước thêm chuyện phiền phức cho huynh, mời giúp huynh hai người đến trợ quyền. Đây là Tam sư đệ Lưu Bồi Sinh và Ngũ sư muội Tôn Trọng Quân của tại hạ.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Từ lâu đã biết oai danh Ngũ linh thủ Lưu huynh và Tôn nữ hiệp. Tại hạ thật vô cùng may mắn.” Ngoại hiệu của Tôn Trọng Quân là Phi Thiên Ma Nữ, nghe không thanh nhã lắm nên y không nhắc đến.
Mẫn Tử Hoa giới thiệu ba người với Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh, Trình Khởi Vân, Vạn Lý Phong. Mọi người gặp nhau chào hỏi, nói mấy câu ngưỡng mộ khách sáo rồi vui vẻ cụng ly.
Tiệc rượu đang nồng, một tên gia đinh cầm tấm thiệp đỏ chạy vào trong, trình lên chủ nhân. Mẫn Tử Hoa vừa xem đã đổi sắc mặt, cười khẩy rồi nói: “Họ Tiêu kia quả nhiên thần thông quảng đại. Chúng ta chưa mời hắn, hắn đã tìm đến trước rồi. Mai huynh! Các vị vừa tới mà họ đã có ngay tin tức.”
Mai Kiếm Hòa nhận lấy tấm thiệp, thấy trên bì thư ghi: “Hậu học Tiêu Công Lễ đốn thủ bách bái”. Trong thiệp viết đủ danh tính của Mẫn Tử Hoa, Thập Lực đại sư, Thái Bạch Tam Anh và những người đã thành danh. Tên của ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh và Tôn Trọng Quân ghi ở cuối cùng, mực chưa ráo hẳn, hiển nhiên mới viết thêm vào. Nội dung thiệp mời mọi người trưa mai đến dự yến ở nhà họ Tiêu.
Mai Kiếm Hòa ném tấm thiệp lên bàn, nói: “Tên thổ địa họ Tiêu này thật sự có bản lãnh, tin tức cực kỳ linh nhạy. Chúng ta không biết có làm nổi thiên tướng hay không, nhưng phải đấu với thổ địa một phen mới được.”
Mẫn Tử Hoa hỏi: “Bằng hữu đưa thiệp đến đâu rồi? Mời hắn vào đi.”
Gia đinh nhận lệnh đi ra. Mọi người dừng ăn uống, ánh mắt dồn hết ra trước cổng, thấy tên gia đinh đó dẫn vào một người khoảng hơn ba mươi tuổi, khoác trường bào.
Y chậm rãi đi vào, khom người thi lễ với bàn thủ tọa, chắp tay nhìn đủ bốn hướng rồi lên tiếng: “Sư phụ của tại hạ nghe tin các vị tiền bối giá lâm Nam Kinh, vội mời đại giá các vị trưa mai đến dự tiệc để tỏ lòng kính trọng.”
Mai Kiếm Hòa cười nhạt nói: “Tên họ Tiêu bày Hồng Môn Yến đấy.”
Rồi y quay lại hỏi người đưa thiệp: “Này, ngươi tên gì vậy?”
Y ăn nói vô lễ, nhưng người kia vẫn cung kính trả lời: “Tại hạ là La Lập Như.”
Mai Kiếm Hòa quát hỏi: “Tiêu Công Lễ mời bọn ta qua đó có quỷ kế gì? Ngươi có biết không?”
La Lập Như đáp: “Gia sư nghe tin các vị tiền bối đại giá đến đây, rất lấy làm ngưỡng mộ, chỉ muốn gặp các vị để tỏ mối tình địa chủ.”
Mai Kiếm Hòa nói: “Hừ, nói hay lắm. Ta hỏi ngươi, năm xưa Tiêu Công Lễ hại chết huynh trưởng Mẫn đại gia của Mẫn lão sư, ngươi có ở đấy không?”
La Lập Như nói: “Gia sư đã nói, ngày mai mời các vị đến nhà, một là tỏ ý ngưỡng mộ các vị tiền bối, hai là có lời tạ tội với Mẫn nhị gia, mong Mẫn nhị gia đại nhân đại lượng mà thu xếp mối bất hòa này.”
Mai Kiếm Hòa hét lên: “Đã giết người rồi, chẳng lẽ chỉ tạ tội là xong hay sao?”
La Lập Như nói: “Chuyện này có tiền nhân hậu quả, theo gia sư thì có những chỗ khó nói ra, liên quan đến thanh danh của danh môn đại phái, nên…”
Tôn Trọng Quân bỗng thét lên: “Ăn nói bừa bãi gì vậy? Sư ca của ta chỉ hỏi, lúc đó ngươi có ở hiện trường hay không.”
La Lập Như đáp: “Lúc đó tại hạ còn nhỏ, chưa bái sư nhập môn. Nhưng sư phụ của tại hạ xưa nay là con người cẩn thận đàng hoàng, nhất định không lạm sát người vô tội.”
Tôn Trọng Quân quát: “Hay lắm! Ngươi còn già mồm nữa ư? Theo ngươi nói thì Mẫn đại gia có tội, chết không đáng tiếc chứ gì?”
Ả vừa quát vừa vọt người ra như một mũi lao, tay phải cầm thanh trường kiếm sáng loáng, tay trái xuất chưởng đánh vào ngực La Lập Như. Họ La giật mình kinh hãi, tay phải ra chiêu Thiết Môn Tuyên gạt ngang, cản trở phát chưởng đánh tới.
Viên Thừa Chí khẽ kêu lên: “Hỏng rồi! Mất cánh tay phải.”
Lời chưa nói dứt, đã nghe La Lập Như la một tiếng thảm khốc, quả nhiên cánh tay phải đã bị chặt đứt lìa, máu tươi phun ra đầm đìa. Mọi người trong đại sảnh đều la lên, đứng bật dậy. Sắc mặt La Lập Như trắng bệch như tờ giấy, nhưng quyết không chịu ngất đi. Y dùng tay trái xé vạt áo buộc vào vai phải, cúi nhặt cánh tay bị chặt đứt, sải bước bỏ ra ngoài. Mọi người thấy y cứng cỏi như thế đều đem lòng thán phục, nhìn nhau không ai nói tiếng nào.
Tôn Trọng Quân chùi những vết máu rồi tra kiếm vào vỏ, thần sắc rất tự nhiên. Ả quay về chỗ, nâng ly rượu lên uống cạn. Chiêu kiếm này nhanh chóng gọn gàng, xuất thủ như sấm sét, nhưng mấy trăm người trong đại sảnh không ai cất tiếng hoan hô. Ai cũng cảm thấy bất luận đối phương lỗi phải thế nào, cũng không nên đối xử tàn độc với một sứ giả đến chuyển lời mời. Ngay cả Mẫn Tử Hoa cũng kinh hãi, quên mất phải khen một tiếng “tuyệt diệu” cho Tôn Trọng Quân được hài lòng.
Mẫn Tử Hoa nói: “Tên này hung hãn như thế, đủ thấy sư phụ của hắn hiểm ác thế nào. Ngày mai chúng ta có nên qua đó dự tiệc hay không?”
Vạn Lý Phong nói: “Đương nhiên là đi. Nếu không đi, chẳng lẽ để hắn coi thường hay sao?”
Trình Khởi Vân nói: “Tối nay chúng ta cho người đi dò xét trước, xem thử Tiêu Công Lễ đã mời những tay viện thủ nào, ngày mai Kim Long Bang có quỷ kế gì, có hạ độc trong rượu thịt hay không. Phòng bị trước thì đỡ bị lừa.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Trình đạo trưởng nói rất đúng. Tại hạ cũng nghĩ chúng sẽ phòng bị rất cẩn mật. Phải nhờ mấy vị huynh trưởng cực khổ một phen mới được.”
Vạn Lý Phong nói: “Tại hạ xung phong đi trước.”
Mẫn Tử Hoa đứng dậy, rót đầy một ly rượu bưng đến, lên tiếng: “Tại hạ kính trước một ly, chúc Vạn huynh mã đáo thành công.”
Hai người chạm ly rồi uống cạn.
*
* *
Tan tiệc, mọi người lần lượt cáo biệt trở về. Viên Thừa Chí kéo tay Hạ Thanh Thanh, dắt nàng âm thầm theo dõi Vạn Lý Phong. Lúc này đã khoảng canh một.
Vạn Lý Phong trở về khách sạn, thay y phục chẽn rồi chạy về hướng Đông. Hai người theo dõi xa xa, thấy y rẽ qua rẽ lại bảy tám con đường, ra phía sau một căn nhà khá lớn, rồi tung người nhảy vào trong. Viên Thừa Chí thấy thân pháp y khá nhanh, nghĩ bụng: “Thật không uổng ba chữ Truy Phong Kiếm.”
Hai người cũng vượt tường sau nhảy vào, thấy một gian phòng có ánh đèn rọi ra. Theo khe cửa sổ nhìn vào, thấy trong phòng có ba người. Ngồi quay mặt ra ngoài là một người trạc ngũ tuần, sắc mặt đỏ hồng, trán đầy nếp nhăn. Ông ngồi chau mày ủ rũ, mặt hiện rõ vẻ âu lo.
Ông thở ra một hơi rồi hỏi: “Lập Như sao rồi?”
Một người đứng đối diện đáp: “La sư ca ngất đi mấy lần, nhưng bây giờ đã cầm máu rồi.”
Nghe đối đáp, Viên Thừa Chí biết người lớn tuổi là Tiêu Công Lễ, thầy trò đang bàn đến vết thương của La Lập Như.
Lại nghe một người khác nói: “Sư phụ! Chúng ta hãy cử mấy huynh đệ tuần tra quanh nhà thì hơn, chỉ sợ đối phương cho người đến quấy rối.”
Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Có đến hay không cũng vậy thôi, ta tới số rồi. Sáng sớm mai, các ngươi hãy đưa sư nương, sư muội và tiểu sư đệ đến nhà họ Ngô ở Tường Châu.”
Người đệ tử ấy nói: “Sư phụ! Tuy đối thủ lợi hại, nhưng lão nhân gia không nên nản chí. Bang chúng bản bang trong thành Nam Kinh có tới hơn hai ngàn huynh đệ. Mọi người cùng sống mái một phen, xem chúng làm gì được?”
Tiêu Công Lễ than thở: “Những người được đối phương mời đến đều là hảo thủ trong giang hồ. Anh em trong bang đối địch với họ chỉ uổng phí tính mạng mà thôi. Ôi! Sau khi ta chết, các ngươi phải thị phụng sư nương cho đàng hoàng. Sư đệ và sư muội cũng nhờ các ngươi giáo dục nên người.” Ông không nén nổi, nước mắt lăn xuống má.
Một đệ tử nói: “Sư phụ đừng nói vậy. Lão nhân gia võ công cái thế, oai chấn Giang Nam, dù không chắc thắng cũng chẳng chắc thua. Sư huynh đệ chúng con có hai mươi lăm người, trừ La sư ca còn lại hai mươi bốn. Lão nhân gia giao tình khắp thiên hạ, cũng có thể mời bằng hữu đến đây để đánh nhau một trận. Họ có bạn bè, chẳng lẽ chúng ta không có hay sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Năm xưa ta huyết khí phương cương, tính tình nóng nảy như ngươi bây giờ vậy, nên đã gây ra mối hận này. Bây giờ ta để cho họ giết, trả món nợ máu đó coi như xong việc.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy đều cảm thấy bất nhẫn, nghĩ thầm: “Tiêu Công Lễ hình như không phải loại cùng hung cực ác. Trước đây ông ấy làm sai một việc, bây giờ đã thành tâm hối cải.”
Lát sau bỗng nghe một đồ đệ kêu lên: “Sư phụ!”
Tiêu Công Lễ hỏi: “Sao?”
Người ấy nói: “Sư phụ không muốn đối địch với họ thì chúng ta khởi hành ngay đêm nay, tạm thời tránh né một phen. Đại trượng phu biết co biết duỗi…”
Đồ đệ kia vội nói: “Như vậy sao được? Anh danh một đời sư phụ, chẳng lẽ sợ họ mà bỏ trốn?”
Tiêu Công Lễ nói: “Anh danh hay không thì ta không nghĩ đến nữa, nhưng muốn tránh cũng không tránh kịp. Hơn nữa, bang chủ Kim Long Bang mà co đầu rút cổ bỏ chạy như thế thì mấy ngàn huynh đệ trong Kim Long Bang còn có thể đứng thẳng làm người hay không? Sáng sớm mai các ngươi rời khỏi đây hết, một mình ta ở lại đối phó với họ.”
Hai đồ đệ đều giật mình, đồng thanh nói: “Con ở lại đây với sư phụ.”
Tiêu Công Lễ giận dữ nói: “Cái gì? Đại nạn ngay trước mắt, các ngươi còn cãi lời của ta nữa ư?”
Hai đồ đệ không dám nói nữa. Tiêu Công Lễ bảo: “Các ngươi đi giúp sư nương thu thập đồ đạc, xem thử xe cộ đã xong chưa. Không cần mang quá nhiều đồ, lên đường sớm mới là quan trọng.”
Hai người miệng thì vâng dạ, nhưng vẫn đứng yên không động đậy. Tiêu Công Lễ thở dài nói: “Thôi được! Gọi hết vào đây.”
Hai người cả mừng mở cửa chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh vội rúc vào một góc tường, đang cúi xuống thì thấy ở góc tường phía Tây cũng có hai người đang nấp. Nhìn dáng người thì một là Truy phong kiếm Vạn Lý Phong, người kia là nữ nhân thân hình thon thả, chính là Tôn Trọng Quân.
Viên Thừa Chí tức giận ả này vừa rồi ra tay ác độc, muốn giáo huấn một phen, bèn khẽ bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ ở đây, đừng nhúc nhích.”
Thanh Thanh uốn vai một cái, khẽ đáp: “Muội mỏi quá thì phải nhúc nhích mấy cái chứ?”
Viên Thừa Chí mỉm cười. Thấy Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân đang tập trung nhìn vào bên trong, chàng lướt tới chỗ Tôn Trọng Quân, tiện tay rút lấy thanh kiếm cài trên lưng ả. Động tác này cực kỳ nhanh chóng nhẹ nhàng. Khi trường kiếm ra khỏi vỏ cũng có một tiếng động nhỏ, nhưng lúc đó Tôn Trọng Quân đang dồn hết tinh thần quan sát Tiêu Công Lễ, nên ả không phát giác.
Khi Viên Thừa Chí quay lại, Thanh Thanh thấy chàng ra tay đoạt kiếm của một cô nương khác, lộ vẻ không vui. Viên Thừa Chí bèn đưa thanh kiếm cho nàng, khẽ bảo: “Muội giữ lấy.”
Thanh Thanh hân hoan nhận lấy, cài vào sau lưng.
Hai người lại từ khe cửa sổ nhìn vào trong phòng, thấy hai mươi mấy người liên tục tiến vào. Người lớn tuổi nhất đã gần bốn mươi, người trẻ nhất chỉ khoảng mười sáu mười bảy, xem ra đều là đệ tử của Tiêu Công Lễ. Đám đệ tử thi lễ với sư phụ rồi thõng tay đứng đó, mặt ai cũng tỏ ra giận dữ.
Tiêu Công Lễ sắc mặt tái xanh, cất tiếng: “Thời trẻ ta ở chốn lục lâm. Bây giờ không cần giấu giếm các ngươi nữa.”
Viên Thừa Chí thấy đám đệ tử đều lộ vẻ kinh ngạc, nghĩ thầm: “Thì ra họ không biết lai lịch của sư phụ.”
Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:
“Bây giờ kẻ thù đã tìm đến rồi, ta phải nói rõ nguyên do cho các ngươi biết.
Năm đó, ta lập trại ở sông Long Cương. Anh em thám thính được Khưu Đạo Đài ở tỉnh Sơn Đông cáo lão hồi hương, đưa gia quyến về quê, sẽ đi ngang sông Long Cương, mang theo tiền bạc rất nhiều. Chúng ta là người lục lâm, đương nhiên kiếm cơm bằng cách cướp tiền người khác, gặp bọn tham quan ô lại là sướng nhất. Một là bọn tham quan vơ vét rất nhiều, cướp một tên tham quan còn hơn cướp một trăm thương khách tầm thường. Hai là cướp của bọn tham quan không tổn âm đức. Tiền của chúng là tiền bất nghĩa, cướp lại của chúng là chuyện hợp đạo lý.
Nhưng khi điều tra rõ thì người hộ tống là một nhân vật có danh. Đó là Mẫn Tử Diệp, tổng tiêu đầu Hồi Mẫn tiêu cục ở phủ Tế Nam tỉnh Sơn Đông, chính là huynh trưởng của Mẫn Tử Hoa.”
Nghe đến đây Viên Thừa Chí và Thanh Thanh đã hiểu nguyên nhân hai bên xích mích. Tiêu Công Lễ muốn cướp tiền, còn Mẫn Tử Diệp đi bảo tiêu. Chắc là hai bên giao đấu, Mẫn Tử Diệp đánh thua bị giết.
Viên Thừa Chí vừa lắng nghe Tiêu Công Lễ kể chuyện trong phòng, vừa liếc xem động tĩnh của Vạn Lý Phong và Tôn Trọng Quân. Đột nhiên chàng thấy Tôn Trọng Quân đưa tay sờ lên lưng rồi giật bắn người. Ả phát hiện thanh kiếm của mình đã bị rút mất, liền đưa tay ra hiệu với Vạn Lý Phong. Hai người không dám ở lại nữa, nhảy qua tường bỏ chạy. Viên Thừa Chí không khỏi buồn cười.
Lại nghe Tiêu Công Lễ nói tiếp: “Mẫn Tử Diệp rất có danh tiếng trên giang hồ, là cao thủ phái Tiên Đô.”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra Mẫn thị huynh đệ đều ở phái Tiên Đô. Nghe sư phụ nói, phái Tiên Đô là nội gia chính tông, bắt nguồn từ Võ Đang, có thể gọi là một chi nhánh của Võ Đang. Chưởng môn phái này xưa nay đều thích kết giao bằng hữu, trao đổi tin tức với các môn phái khác. Chẳng trách Mẫn Tử Hoa mời được nhiều nhân vật nổi danh như vậy.”
Tiêu Công Lễ nói:
“Ta nghe tên Mẫn Tử Diệp, bèn không dám ra tay bừa bãi mà đích thân đi dò xét. Đêm đó ta lẻn vào khách sạn của họ để xem động tĩnh, tình cờ nghe một chuyện khiến người ta phải tức vỡ bụng mà chết.
Thì ra tên Mẫn Tử Diệp này tham hoa háo sắc, thấy Nhị tiểu thư của Khưu Đạo Đài có nhan sắc liền bày gian kế. Hắn âm thầm hẹn ước với Trương trại chủ Phi Hổ Trại, bảo chúng ra tay đánh cướp Khưu Đạo Đài. Mẫn Tử Diệp sẽ giả vờ cố sức kháng cự nhưng không địch nổi số đông, để Trương trại chủ giết chết cả nhà Khưu Đạo Đài, cướp hết tài sản, bắt luôn Nhị tiểu thư đi.
Sau đó Mẫn Tử Diệp sẽ đơn thân vào sào huyệt địch để cứu tiểu thư này ra. Tất cả tiền tài sản vật sẽ thuộc về Phi Hổ Trại, còn Khưu nhị tiểu thư thì gia đình tan nát, không nơi nương tựa, lại có ơn phải trả, đương nhiên sẽ nhận lời làm vợ Mẫn Tử Diệp. Trương trại chủ muốn lấy lòng Mẫn Tử Diệp, lại tham tài vật, nên đồng ý với mưu kế của hắn.
Hai người bàn tính trong phòng kín, không ngờ lọt vào tai ta hết. Ta cực kỳ giận dữ, liền trở về triệu tập huynh đệ, mai phục gần Phi Hổ Trại. Đến giờ hẹn, đoàn người Khưu Đạo Đài quả nhiên đến đó.”
Chuyện này thật sự làm Viên Thừa Chí bị bất ngờ. Lại nghe Tiêu Công Lễ kể tiếp:
“Lúc đó ta nghĩ, dù sao chúng ta cũng là nhân vật võ lâm. Tuy đường cùng mạng bạc mà bị vùi thân vào hắc đạo, làm nghề buôn không vốn, nhưng về chữ Sắc thì phải quang minh lỗi lạc mới không hổ mặt nam tử hán đại trượng phu. Nào ngờ Mẫn Tử Diệp lại vô sỉ đến thế. Hắn là đệ tử danh môn chính phái, nổi tiếng trên giang hồ, lại đang là tổng tiêu đầu, thế mà bày mưu hạ tiện.
Chính mắt ta thấy Trương trại chủ dẫn bọn lâu la đến cướp. Mẫn Tử Diệp giả vờ quát tháo, vung kiếm đâm chém loạn xạ nhưng chẳng trúng ai. Ta tức giận không chịu nổi, bèn nhảy ra can thiệp. Kiếm pháp của Mẫn Tử Diệp không tệ, lẽ ra ta không phải là đối thủ của hắn. Nhưng ta vừa đánh vừa la, lật tẩy hết quỷ kế mưu đồ của hắn. Hắn hổ thẹn lại giận dữ, không sao định thần được, rốt cuộc bị ta một đao chém chết…”
Một đệ tử kêu lên: “Sư phụ! Người này rất đáng chết, chúng ta hà tất phải sợ. Đợi ngày mai đối thủ đến đây, mọi người phải nói rõ ràng. Không chừng Mẫn Tử Hoa vẫn muốn trả thù cho huynh trưởng, nhưng những người khác chưa chắc đã không phân biệt thị phi.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Không sai! Nếu họ Tiêu thật sự thấy chuyện bất bình mà giết Mẫn Tử Diệp, võ lâm chẳng ai trách ông ấy. Nhưng đây chỉ là lời nói từ một phía, chưa chắc đáng tin. Cũng có thể ông ấy nói thật, nhưng bên trong còn có ẩn tình khác thì sao?”
Tiêu Công Lễ thở ra một hơi rồi nói:
“Sau khi giết họ Mẫn, đâu phải ta không biết rước đại họa vào thân? Hắn là một nhân vật hữu danh trong phái Tiên Đô. Sư phụ của hắn là Hoàng Mộc đạo nhân chắc chắn không chịu bỏ qua, sẽ dẫn đệ tử tìm ta trả thù. Dù ta có ba đầu sáu tay cũng không đỡ nổi. May mà lúc đó thủ hạ của ta bắt được Trương trại chủ. Ta buộc Trương trại chủ viết một bản cung, ghi ra đầy đủ âm mưu gian xảo của Mẫn Tử Diệp.
Dĩ nhiên Khưu Đạo Đài vô cùng cảm kích, muốn tặng ta hai ngàn lượng bạc. Ta vốn định cướp sạch tiền của lão, nhưng đang là một tên cường đạo mà bỗng phát thiện tâm, hành hiệp trượng nghĩa như thế này, nghĩ lại thật là hiếm có. Vì thế ta không nhận của lão một lượng bạc nào.
Khưu Đạo Đài vạn lần cảm tạ, viết lời chứng kể rõ tình hình đã xảy ra, còn gọi hai tiêu đầu của Hồi Mẫn tiêu cục đến ký tên và lăn dấu tay, coi như nhân chứng. Hai tiêu đầu này vốn không biết nội tình, nghe Trương trại chủ và đồng bọn Phi Hổ Trại khai rõ ra mới biết. Họ đều thóa mạ Mẫn Tử Diệp là đồ vô sỉ, suýt nữa bị hắn bán đứng, nếu không có ta thì đã bỏ mạng ở đây rồi. Họ rối rít cảm ơn, rất có tình cảm.
Sau vụ này, ta biết không thể sống trong hắc đạo nữa, bèn giải tán chúng huynh đệ, cầm hai lá thư lên Long Hổ Quán trên núi Tiên Đô xin gặp Hoàng Mộc đạo nhân.
Lúc đó môn nhân Tiên Đô Phái đã biết tin, không để ta lên núi mà giữa đường chặn lại làm khó dễ. Khí thế mọi người vô cùng hung hãn, không cho ta cơ hội biện minh. May mà có một kỳ hiệp giang hồ đi ngang qua đó, rút kiếm tương trợ, hộ tống ta lên núi gặp Hoàng Mộc đạo nhân, ba mặt một lời nói chuyện rõ ràng.
Hoàng Mộc đạo nhân rất biết thể diện, ra lệnh cho môn nhân vĩnh viễn không được tìm ta trả thù. Nhưng vì thanh danh phái Tiên Đô, lão xin ta đừng kể chuyện này ra ngoài. Dĩ nhiên ta đồng ý. Từ khi xuống núi, xưa nay ta không nhắc đến chuyện này, nên trên giang hồ hiếm ai hiểu rõ nguyên do sự việc. Mẫn Tử Hoa là tiểu đệ của Mẫn Tử Diệp, lúc đó còn rất trẻ, chắc là không biết nội tình. Người phái Tiên Đô dĩ nhiên không nói cho y biết.”
Một đệ tử hỏi: “Sư phụ! Hai lá thư đó sư phụ còn giữ hay không?”
Tiêu Công Lễ lắc đầu đáp: “Chuyện này thì phải trách ta có mắt không tròng, nhìn không biết người. Mùa thu năm ngoái, có bằng hữu nhắn ta là em trai của Mẫn Tử Diệp đã học nghệ thành tài, rời phái Tiên Đô xuống núi, biết ta là kẻ thù giết anh nên muốn đến trả thù. Sau này ta phát hiện giữa Thái Bạch Tam Anh và Mẫn Tử Hoa có quan hệ không phải là sơ. Tam Anh với ta là chỗ tri giao, tuy đã mười mấy năm không gặp, nhưng từng cùng vào sinh ra tử trong chốn lục lâm hồi tuổi trẻ. Vì thế ta đi tìm anh em họ Sử trong Thái Bạch Tam Anh…”
Một đệ tử nói xen vào: “À! Tháng chạp năm ngoái sư phụ đi Thiểm Tây, Tết cũng không về, chính vì việc này phải không?”
Tiêu Công Lễ nói:
“Không sai, ta đến nhà họ Sử ở núi Thái Bạch vùng Tần Lĩnh tỉnh Thiểm Tây. Ta cứ nghĩ tháng chạp, năm hết Tết đến, anh em họ nhất định ở nhà, nào ngờ lại không gặp. Thì ra họ đã đi Liêu Đông, nói là lo một món buôn bán lớn. Ta ở lại nhà họ đợi hơn mười ngày, anh em Sử Bính Quan, Sử Bính Vân mới trở về. Bạn bè lâu năm gặp mặt, ai cũng vui mừng.
Ta đem chuyện kết thù với nhà họ Mẫn kể họ nghe. Sử lão đại lập tức vỗ ngực, đảm bảo là vô sự. Ta liền giao lá thư của Khưu Đạo Đài và tờ cung của Trương trại chủ cho hắn. Anh em họ Sử đều nói, chỉ cần đưa hai lá thư này cho Mẫn Tử Hoa xem, dĩ nhiên Mẫn lão nhị chẳng còn lòng dạ nào tìm ta trả thù nữa. Không chừng y còn phải thân hành đến tạ tội, và thỉnh cầu ta đừng kể chuyện xấu xa của huynh trưởng ra ngoài.
Huynh đệ nhà họ Sử tiếp đãi ta rất ân cần. Ta rảnh rỗi chẳng có việc gì làm, nên ngày nào cũng cùng họ đi săn, nghe hát. Hai anh em từ Liêu Đông mang về không ít nhân sâm và da điêu, tặng ta một mớ.
Một hôm ba người đang uống rượu, Sử lão đại bỗng nói: “Khí số Đại Minh đã hết. Huynh đệ chúng ta đều có võ công đầy mình, sao không tìm minh chủ đầu quân để làm khai quốc công thần?”
Ta đáp: “Đến chỗ Sấm Vương đầu quân để gây sự nghiệp cũng không đến nỗi tồi.”
Hắn cười rộ lên ha hả, nói: “Lý Tự Thành là đồ thổ phỉ cướp đường, làm gì được? Nhà Mãn Thanh đang thế hùng lực mạnh, chỉ một thời gian ngắn là có thể nhập quan. Nếu Tiêu huynh chịu cùng góp sức, Sử mỗ có thể nói lời giới thiệu trước mặt Cửu vương gia Mãn Thanh.”
Ta lập tức nổi giận, mắng chúng quên mất mình là người Hán. Sao không chịu làm hào kiệt Đại Minh, lại đi đầu hàng bọn man di mọi rợ, há chẳng biến thành Hán gian vô liêm sỉ hay sao? Sau khi chết rồi, còn mặt mũi nào nhìn thấy tổ tiên nữa?”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, nghĩ bụng: “Tiêu Công Lễ xuất thân đạo tặc, thế mà thị phi phân biệt rõ ràng, gặp chuyện lớn chẳng hàm hồ gì cả.”
Tiêu Công Lễ kể tiếp:
“Lúc đó ta đập bàn thóa mạ, ba người cãi nhau một hồi. Hôm sau anh em họ Sử xin lỗi ta. Sử lão đại nói là đêm qua uống say quá, không biết đã nói những chuyện hồ đồ gì, bảo ta đừng để tâm. Chúng ta là bằng hữu lâu năm, cãi vã xong vẫn có thể bỏ qua. Họ ân cần chiêu đãi ta như trước, hoàn toàn không nhắc đến việc đó nữa. Ta ở lại Thiểm Tây thêm mười mấy ngày rồi trở về Nam Kinh.
Nào ngờ anh em họ Sử là bọn lòng lang dạ sói, chẳng những không đi giải thích với Mẫn Tử Hoa, lại còn chơi trò đòn xóc hai đầu, hoạch định kế sách, hẹn người đông đúc. Kế hoạch này đã chuẩn bị nửa năm trời, nhưng ta hoàn toàn bị che mắt chẳng hiểu tí gì, một chút phong thanh cũng không nghe thấy. Ta cứ nghĩ rằng huynh đệ Sử gia đã nói rõ đầu đuôi với Mẫn Tử Hoa, mọi chuyện yên rồi. Đột nhiên trời quang nổi sấm, rất nhiều võ lâm cao thủ kéo đến Nam Kinh.
Nhất định huynh đệ họ Sử không đưa Mẫn Tử Hoa xem hai lá thư đó. Chuyện này đã qua nhiều năm, những người có mặt lúc đó nếu chưa chết thì cũng không biết đã giải tán phương nào. Bây giờ ta có biện minh thế nào đi nữa, Mẫn Tử Hoa cũng không thể tin được. E rằng lại làm y giận dữ hơn, kết tội ta phao tin đồn nhảm, phỉ báng người anh quá cố của y.
Ta chỉ có một điều không hiểu. Ta cùng anh em họ Sử đã kết bạn lâu năm như thế, dù có lần cãi vã cũng không thể coi là đoạn tuyệt tình nghĩa. Hà tất chúng phải sắp đặt âm mưu, tập trung rất nhiều cao thủ cùng lúc đến đây? Xem cách bố trí thế này, rõ ràng là chúng muốn giết ta cho tận tuyệt. Ta đã đắc tội chuyện gì với họ, ta nghĩ mãi không ra.”
Đám đệ tử nghe xong đều nổi giận đùng đùng. Mỗi người một câu huyên náo hẳn lên, quyết chí liều chết đánh nhau với anh em họ Sử.
Tiêu Công Lễ xua tay bảo: “Các ngươi ra đi. Những chuyện tối nay ta kể, tuyệt đối không được nói lộ một câu ra ngoài. Ta từng thề trước mặt Hoàng Mộc đạo trưởng là không để lộ chuyện Mẫn Tử Diệp cho mọi người biết, nhưng chúng ta là người một nhà, kể một chút cũng không sao. Ai bất nghĩa mặc ai, ta quyết không làm con người bất tín. Sau khi ta chết, không ai được nuôi dạ báo thù. Ai nhắc tới hai chữ báo thù, người đó có lỗi với ta. Mọi người trong Kim Long Bang đều phải nhớ lấy chuyện này.”
Ông thở ra một hơi rồi xuống giọng nói: “Gọi sư đệ, sư muội vào đây.”
Đám đệ tử đều lộ vẻ bi phẫn, lùi bước ra ngoài.
Sau đó màn cửa vén lên. Một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi và một chú bé khoảng bảy tám tuổi đi vào. Dung mạo thiếu nữ đó khá xinh đẹp, mặt trái xoan, sống mũi cao, rất có anh khí, trên má có vết nước mắt. Nàng kêu một tiếng “gia gia”, rồi sà vào lòng Tiêu Công Lễ.
Tiêu Công Lễ xoa đầu con gái, hồi lâu chẳng nói gì. Thiếu nữ cứ thút thít khóc trong lòng cha, còn cậu bé thì giương mắt lên nhìn, không biết tại sao chị mình lại thương tâm như thế.
Tiêu Công Lễ hỏi: “Đồ đạc của mẹ đã dọn xong chưa?” Thiếu nữ gật đầu.
Tiêu Công Lễ dặn: “Sau khi em trai lớn lên, con hãy dạy em học chữ rồi làm ruộng nuôi thân, đừng thi cử làm quan, lại càng không nên học võ.”
Thiếu nữ vừa khóc vừa nói: “Đệ đệ phải học võ chứ? Nhất định sau này phải trả thù cho gia gia.”
Tiêu Công Lễ giận dữ quát lên: “Nói bậy! Con muốn trêu ta tức chết hay sao? Hai chữ trả thù không được nhắc tới.”
Ông ngừng một lúc, lại nói dịu dàng: “Oan oan tương báo trong võ lâm chẳng bao giờ chấm dứt. Thà làm một người dân an phận thủ thường, còn được hưởng tuổi già tử tế. Em trai của con tư chất không tốt, học võ không luyện được một nửa công phu của ta đâu. Ngay cả ta, hôm nay cũng bị bức bách đến thế này, không còn lối thoát… Ôi! Chỉ tiếc chưa gặp nơi nào tử tế để con thành gia thất, để ta bớt một nỗi lo… Con dặn mọi người, sau khi ta chết thì mọi việc của Kim Long Bang giao cho phó bang chủ Cao thúc thúc xử lý.”
Thiếu nữ nói: “Để con cho người đến Phượng Dương gọi Cao thúc thúc đến ngay.”
Tiêu Công Lễ sắc mặt trầm xuống, nói: “Con vẫn chưa hiểu được tâm tư của ta hay sao? Nếu gọi Cao thúc thúc đến đây, ông ấy tính nóng như lửa, làm sao đứng nhìn người bức hiếp ta được? Như vậy chắc chắn phải động can qua, không biết tổn thương bao nhiêu nhân mạng. Cho dù ta thoát chết, mà bắt mấy trăm huynh đệ chết vì mình, ta có nhẫn tâm như vậy được không? Con đi đi.”
Ông ôm lấy con trai, hôn lên má nó, mỉm cười rồi bảo: “Con trai ngoan! Từ nay về sau con phải nghe lời tỉ tỉ.”
Cậu bé đáp: “Con nhớ rồi. Sao gia gia lại khóc?”
Tiêu Công Lễ gượng cười nói: “Ta có khóc đâu?”
Ông đặt cậu bé xuống đất, sờ lên đỉnh đầu nó, ánh mắt chứa chan tình cảm. Cảnh sinh ly tử biệt này quá đau lòng, chẳng ai nỡ nhìn lâu.
Tiêu cô nương nước mắt đầm đìa, nắm tay em dẫn ra ngoài. Đến trước cửa, nàng dừng chân quay lại hỏi: “Gia gia! Chẳng lẽ ngoài cái chết ra không có cách nào khác hay sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Bất cứ cách gì ta cũng nghĩ tới rồi. Nếu có thể không chết, chẳng lẽ ta không muốn hay sao? Ôi! Bây giờ chỉ còn một người có thể cứu mạng ta. Nhưng chắc ông ấy đã tạ thế trước rồi.”
Sắc mặt Tiêu cô nương đột nhiên rạng rỡ lên, bước tới hai bước hỏi: “Gia gia, người ấy là ai? Nếu ông ấy còn sống thì sao?”
Tiêu Công Lễ nói: “Vị ân công này họ Hạ, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nghe vậy, vô cùng kinh ngạc.
Tiêu Công Lễ lại nói: “Ông ấy là một kỳ hiệp giang hồ. Ta đã kể lại đầu đuôi vụ giết Mẫn Tử Diệp cho ông ấy biết rõ ràng. Năm xưa, mười một đệ tử phái Tiên Đô làm khó ta, ông ấy một mình đẩy lùi họ, hộ tống ta lên núi Tiên Đô để gặp Hoàng Mộc đạo nhân. Hoàng Mộc đạo nhân đã rời núi đi vân du, nhiều năm nay không biết ở đâu, chắc tạ thế từ lâu rồi. Mười mấy năm trước ta nghe nói Kim Xà Lang Quân đã bị ám toán, không biết hư thực ra sao. Ân đức này chưa báo đáp, trong lòng ta vẫn thường cảm thấy không yên. Nếu ông ấy còn sống… Ôi! Các con đi đi.”
Tiêu cô nương ủ rũ dẫn em ra ngoài.
Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu với Thanh Thanh, hai người âm thầm theo sau hai chị em. Đến một vườn hoa, thấy xung quanh không có ai, Viên Thừa Chí vọt đến cạnh Tiêu cô nương, hỏi nhỏ: “Tiêu cô nương! Cô muốn cứu mạng gia gia không?”
Tiêu cô nương giật mình quát hỏi: “Ai thế?”
Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô muốn cứu gia gia thì hãy đi theo ta.”
Nói xong chàng tung người nhảy lên, nhẹ nhàng lướt ra ngoài tường. Thanh Thanh phải nhảy liền ba cái mới ra theo được. Tiêu cô nương không ngờ thiếu niên này giỏi khinh công đến thế, trước nay nàng chưa từng thấy. Nàng kinh ngạc trong lòng, cầm kiếm nhảy qua tường đuổi theo.
Đuổi được một đoạn, nàng bắt đầu nổi dạ nghi ngờ, đột nhiên dừng bước lại không đuổi nữa, muốn quay về. Mới quay người lại, bỗng có một cơn gió thổi qua, dây thắt lưng phất phới bay lên, rồi nàng cảm thấy cổ tay hơi tê một cái, ngón tay thả lỏng, trường kiếm đã bị Viên Thừa Chí đoạt lấy.
Tiêu cô nương kinh hãi. Vũ khí đã tuột khỏi tay, đường lùi lại bị cản trở, nàng không biết phải làm gì. Viên Thừa Chí vội nói: “Cô nương đừng sợ! Nếu ta muốn đả thương cô thì dễ như trở bàn tay. Ta là bạn của gia đình cô.”
Nói xong, chàng hai tay cầm kiếm trả lại cho nàng. Tiêu cô nương nhận kiếm, khẽ gật đầu một cái.
Viên Thừa Chí thấy nàng vẫn còn bán tín bán nghi, bèn nói: “Gia gia của cô nương đang gặp cơn hoạn nạn. Cô có chịu mạo hiểm cứu ông ấy hay không?”
Cặp mắt Tiêu cô nương đỏ hẳn lên, nói: “Chỉ cần cứu được gia gia, dù xương tan thịt nát muội cũng cam lòng.”
Viên Thừa Chí nói: “Gia gia cô rất tốt, thà hy sinh tính mạng chứ không muốn động binh đao, làm hại những người vô tội. Ta phải giúp đỡ ông ấy một phen.”
Tiêu cô nương nghe Viên Thừa Chí nói rất thành khẩn, hơn nữa trong lúc nguy cấp thế này, một tia hy vọng nhỏ nhoi cách mấy cũng không nên bỏ phí. Nàng toan quỳ xuống.
Viên Thừa Chí nói: “Xin cô nương đừng đa lễ. Chuyện này thành công hay không, ta chưa nắm chắc lắm.”
Tiêu cô nương cảm thấy Viên Thừa Chí đỡ mình ra vẻ nhẹ nhàng, nhưng luồng lực đạo cực lớn, mình không thể nào quỳ xuống được. Nàng lại thêm phần tin tưởng Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí bảo: “Nhờ cô dẫn ta vào nhà, ta cần viết một lá thư cho gia gia cô.”
Tiêu cô nương hỏi: “Xin hỏi cao tính đại danh hai vị? Nhờ hai vị khuyên can gia gia của muội một chút có được không?”
Viên Thừa Chí nói: “Danh tính của ta tạm thời khoan nhắc đến. Gia gia của cô nương nhìn thấy lá thư này, nhất định sẽ từ bỏ ý niệm liều chết. Chúng ta phải lo xong việc này rồi hãy nói tiếp.”
Tiêu cô nương mừng rỡ nói: “Mời hai vị theo muội.”
Ba người nhảy qua tường trở vào trong nhà. Tiêu cô nương dẫn hai người vào một thư phòng nhỏ, lấy bút nghiên giấy mực. Nàng mài mực rồi ra xa ngồi, thấy Viên Thừa Chí cầm bút không biết viết những gì. Thanh Thanh ngồi cạnh chàng, sắc mặt tỏ vẻ kinh ngạc.
Viên Thừa Chí gấp tờ giấy đó thành một phong thư, lấy hồ dán lại, giao cho Tiêu cô nương rồi nói: “Mau đem lá thư này tới chỗ gia gia. Nhưng cô nương phải hứa với ta một việc.”
Tiêu cô nương nói: “Tôn giá đã dặn dò, dĩ nhiên muội phải tuân mạng.”
Viên Thừa Chí nói: “Cô nương không được đem tuổi tác, tướng mạo của ta nói cho gia gia biết.”
Tiêu cô nương ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại thế?”
Viên Thừa Chí đáp: “Nếu cô nói ra, thì ta không thể giúp cô được nữa.”
Tiêu cô nương nói: “Được, muội đồng ý.”
Viên Thừa Chí nói: “Ngày mai giờ Mão, mời cô đến phòng số ba dãy chữ Hoàng trong Hưng Long khách điếm ở cửa Thủy Tây, ta sẽ thương lượng với cô về việc giải trừ nguy nan cho lệnh tôn. Việc này tuyệt đối phải giữ bí mật.”
Tiêu cô nương gật đầu đồng ý.
Viên Thừa Chí kéo tay Thanh Thanh bảo: “Được rồi. Chúng ta đi thôi!”
Tiêu cô nương nhìn theo hai người lướt qua tường mà ra, trong lòng vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, nhưng phần vui mừng lại nhiều hơn. Nàng lập tức chạy tới phòng của phụ thân. Thấy cửa phòng đóng chặt, nàng vừa gõ cửa vừa lớn tiếng gọi: “Gia gia, mở cửa!”
Rất lâu không nghe tiếng gì, nàng lo lắng bèn vòng qua cửa sổ, phóng chưởng đẩy gãy chốt cửa, rồi theo cửa sổ nhảy vào. Tiêu Công Lễ đang thần sắc ủ rũ, tay nâng ly rượu kề lên miệng. Tiêu cô nương la lên: “Gia gia! Gia gia xem thư đã.”
Tiêu Công Lễ vẫn ngơ ngác không nói gì. Tiêu cô nương mở phong thư ra, đưa cho phụ thân mình.
Tiêu Công Lễ vừa nhìn đã ngẩn ra, rồi run rẩy toàn thân không kìm nổi. Tay ông buông lỏng, cái ly vỡ nát loảng xoảng dưới đất. Tiêu cô nương hoảng sợ nhảy lùi ra, nhưng Tiêu Công Lễ lại đầy vẻ vui mừng, run giọng hỏi: “Thư này từ đâu gửi đến? Ai đưa cho con? Ông ấy… ông ấy đã đến rồi sao? Đã đến thật rồi sao?”
Tiêu cô nương đưa mắt nhìn xem, thấy trên tờ giấy không viết chữ nào, chỉ vẽ một thanh trường kiếm. Thân kiếm quanh co như con rắn, mũi kiếm là cái đầu rắn, lưỡi thè ra chẻ thành hai nhánh.
Nàng không hiểu tại sao phụ thân vừa thấy cây kiếm này đã vui mừng đến thế, liền hỏi: “Gia gia, đây là cái gì vậy?”
Tiêu Công Lễ đáp: “Chỉ cần ông ấy đến đây là cái mạng già này được cứu rồi. Con có thấy ông ấy không?”
Tiêu cô nương hỏi: “Ai thế?”
Tiêu Công Lễ nói: “Người vẽ thanh kiếm này.”
Tiêu cô nương gật đầu rồi nói: “Ông ấy hẹn con ngày mai gặp mặt.”
Tiêu Công Lễ hỏi: “Ông ấy có bảo ta đi hay không?”
Tiêu cô nương đáp: “Ông ấy không nói.”
Tiêu Công Lễ nói: “Vị kỳ hiệp này tính khí có phần cổ quái, đã dặn thì chúng ta không thể không tuân. Ngày mai con cứ đi một mình. Ôi! Con mà đến trễ một chút thì gia gia đã không gặp con được nữa.”
Tiêu cô nương kinh hãi, bây giờ mới hiểu ly rượu vừa rồi có thuốc độc. Nàng vội lấy chổi quét dọn, rồi lo liệu cho phụ thân nghỉ ngơi.
Tiêu phu nhân và đám đệ tử nghe nói cứu tinh đã đến, vẫn nghĩ: “Bất luận người đó võ công cao cường đến mức nào, nhưng chỉ một mình thì khó mà chống nổi rất nhiều cao thủ đối phương.” Nhưng họ thấy Tiêu Công Lễ yên tâm chắc phải có lý do, nên đều cảm thấy an ủi. Tiêu Công Lễ đang bắt họ giải tán đi bốn phương lánh nạn. Mọi người vốn không muốn làm vậy, dĩ nhiên bây giờ không ai chịu bỏ đi nữa.
Trên đường từ nhà họ Tiêu trở về, Thanh Thanh hỏi: “Huynh vẽ thanh kiếm đó là ý gì vậy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tiêu Công Lễ nói, trên thế gian này chỉ có phụ thân của muội mới cứu được mạng ông ấy. Thanh kiếm ta vẽ chính là Kim Xà Kiếm mà phụ thân của muội vẫn dùng.”
Thanh Thanh gật đầu, im một lúc mới hỏi: “Tại sao ca ca phải cứu ông ấy?”
Viên Thừa Chí nói đáp: “Tiêu Công Lễ không phải người xấu, bị bạn bè bán đứng, bị bức ép khốn khổ như thế, chẳng lẽ ta thấy chết mà không cứu hay sao? Huống chi ông ấy lại là bạn của phụ thân Thanh đệ.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội cứ tưởng huynh thấy con gái của ông ấy xinh đẹp, nên muốn lấy lòng cô nương đó.”
Viên Thừa Chí tức giận hỏi: “Thanh đệ coi ta là loại người như thế nào?”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Úi chà, đừng nổi nóng! Thế thì huynh hẹn cô ấy đến khách sạn để làm chi?”
Thừa Chí cũng cười nói: “Bụng dạ hẹp hòi của Thanh đệ thật là hết thuốc chữa. Thôi, đừng nói nhiều nữa, theo ta đi nhanh lên.”
Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa theo chàng đi về hướng Tây, chẳng bao lâu đã tới nhà Mẫn Tử Hoa ở Đại Công Phường. Hai người vượt tường nhảy vào trong, nép vào một góc tường, im lặng quan sát động tĩnh xung quanh.
Viên Thừa Chí khẽ nói: “Trong nhà này có không biết bao nhiêu cao thủ. Nếu bị phát giác, mọi việc chắc chắn không thành công được.”
Thanh Thanh mỉm cười nói nhỏ: “Huynh muốn giúp đỡ cô nương xinh đẹp đó, nhưng muội không muốn, chỉ muốn phá hỏng kế hoạch của huynh. Muội đang muốn la làng đây.”
Viên Thừa Chí mỉm cười, mặc nàng muốn nói gì thì nói.
Đợi một lát không thấy động tĩnh gì, hai người mới bắt một tên phục dịch, hỏi rõ nơi ở của anh em họ Sử. Sau đó Viên Thừa Chí điểm á huyệt của hắn, rồi mang giấu vào lùm cây.
Hai người đi tới cửa sổ phòng ngủ của anh em họ Sử hoàn toàn không phát ra tiếng động, bẻ gãy chốt cửa rồi nhảy vào trong. Anh em họ Sử không phải tay vừa, lập tức tỉnh giấc. Nhưng chúng chưa kịp quát hỏi, đã bị điểm trúng huyệt đạo rồi.
Viên Thừa Chí lấy mồi lửa đốt nến lên, cùng Thanh Thanh lục lọi khắp nơi, dưới gối, trong hộc tủ, cả những bao đồ đạc, nhưng chỉ thấy toàn là y phục, tiền bạc, ám khí, vũ khí. Đang muốn lục nữa thì nghe ngoài cửa phòng có tiếng bước chân rất nhẹ. Viên Thừa Chí lập tức thổi tắt nến, thò tay vào bọc áo của anh em họ Sử, lôi ra một mớ giấy tờ và thư từ. Chàng hoan hỉ nhét hết vào trong bọc, khẽ nói: “Có rồi!”
Thanh Thanh nói: “Đi thôi! Hình như ngoài cửa có người.”
Viên Thừa Chí bảo: “Đợi một chút.” Rồi chàng cầm một thanh trủy thủ của anh em họ Sử, viết mò năm chữ lớn trên bàn: “Tiêu Công Lễ kính bái”.
Đột nhiên ngoài cửa có người quát hỏi: “Ai?”
Hai người theo cửa sổ nhảy ra, lập tức phóng tới chân tường. Những tiếng vỗ tay vang lên tứ phía, bên này vỗ bên kia đáp. Họ biết đối phương đã bố trí nghiêm ngặt, cao thủ phục kích từ trong tới ngoài, nên chưa dám mạo hiểm xông ra. Hai người cứ khom người dưới chân tường không động đậy, theo dõi tiếng chân tuần tra trên mái nhà.
Thanh Thanh đột nhiên khẽ gọi: “Huynh xem này!”
Nàng nắm tay chàng đặt xuống chân tường. Viên Thừa Chí đưa tay sờ, thì thấy dưới chân tường hình như có khắc chữ, nhưng rêu xanh phủ kín nên không nhìn thấy. Chàng đưa đầu ngón tay dò theo nét khắc lõm xuống, thấy quanh co uốn khúc như kiểu chữ triện. Chàng không biết chữ triện, bèn khẽ hỏi: “Chữ gì vậy?”
Thanh Thanh đáp: “Chữ Đệ, như đệ nhất đệ nhị.”
Sờ tiếp lên trên, lại có một chữ khác. Thanh Thanh nói đó là chữ Tứ, nghĩa là ban tặng. Trên nữa là chữ Công, trên nữa là chữ Quốc. Chữ ở trên cùng nhiều nét rối rắm, Thanh Thanh đọc mãi mới ra chữ Ngụy. Viên Thừa Chí ráp từ trên xuống dưới, đúng là năm chữ: Ngụy Quốc Công Tứ Đệ.
Tòa Ngụy Quốc Công phủ mà hai người tìm kiếm mười mấy ngày trời không ra manh mối, lại chính là nơi ở của đối phương. Đúng là đi rách đế giày tìm không thấy, tìm ra chẳng tốn chút công phu. Mấy chữ này lâu năm bị rêu xanh che phủ hết, nhất định hậu nhân của Từ Đạt tướng quân đã bán ngôi nhà này, không chừng còn đổi chủ mấy lần, nên mới không ai biết.
Viên Thừa Chí đang mừng rỡ, đột nhiên cảm thấy sau gáy nhột nhạt, thì ra Thanh Thanh đang hà hơi trêu ghẹo. Chắc nàng tìm được Ngụy Quốc Công phủ, hoan hỉ đến nỗi quên mất mình đang ở đâu. Viên Thừa Chí rụt cổ lại, nói nhỏ: “Đừng giỡn nữa.”
Lát sau nghe tiếng vỗ tay từ phía Tây từ từ di chuyển về phía Nam, chàng bảo: “Đi thôi!”
Hai người tung người nhanh như chớp lên đầu tường phía Tây rồi nhảy ra ngoài, chạy về khách sạn.
Về tới khách sạn thì đã sang canh tư rồi. Thanh Thanh thắp nến, Viên Thừa Chí lôi mớ giấy tờ văn kiện ra, chọn xem hai lá thư cũ kỹ nhất, giấy đã ngả màu vàng. Quả nhiên đó là tờ cung của Trương trại chủ và lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài.
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Không biết cô ấy sẽ lấy gì để cảm ơn huynh đây?”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Cô nào?”
Thanh Thanh cười khúc khích, đáp: “Dĩ nhiên là Tiêu đại tiểu thư rồi!”
Viên Thừa Chí bĩu môi, mặc kệ nàng, đọc kỹ hai lá thư đó rồi nói: “Tiếc là Tiêu Công Lễ nói câu nào cũng thật. Nếu ông ấy có lòng mờ ám thì mình có thể phủi tay không lo tới, khỏi phải đắc tội với rất nhiều tiền bối giang hồ. Trong đó lại có đệ tử của Nhị sư ca nữa.”
Thanh Thanh nửa như cười nửa như không, nói: “Phi Thiên Ma Nữ xinh đẹp tuyệt vời, không nên đắc tội là phải.”
Viên Thừa Chí nói: “Ả này lòng dạ hẹp hòi, ra tay hiểm ác, hành sự không biết nặng nhẹ, vô duyên vô cớ chặt tay người khác.”
Chàng suy nghĩ một lúc, lại tiếp: “Nếu không sợ Nhị sư ca trách móc, lúc đó ta đã ra tay để dạy cho ả một bài học. Ta dặn Tiêu cô nương đến đây gặp mặt, vì sợ mình để lộ tung tích. Nếu xảy ra hiềm khích giữa sư huynh đệ, thì có lỗi với ơn dưỡng dục của sư phụ.”
Thanh Thanh thấy chàng thần sắc nghiêm túc, không dám đùa giỡn nữa. Viên Thừa Chí lại mở mấy lá thư khác ra xem, đột nhiên giận dữ kêu lên: “Thanh đệ xem này.”
Thanh Thanh trước giờ chưa thấy Viên Thừa Chí phẫn nộ đến thế. Cho dù đối diện đại địch chàng vẫn ung dung tự tại, thế mà bây giờ đỏ mặt tía tai, gân xanh nổi vồng trên trán. Nàng không khỏi hoảng sợ, liền cầm lá thư đó xem. Thì ra đó là mật hàm do thư ký của Đa Nhĩ Cổn, Cửu vương gia Mãn Thanh, viết cho anh em họ Sử. Hắn dặn bọn này giết Tiêu Công Lễ rồi thừa cơ đoạt lấy Kim Long Bang, tạo thế lực ở Giang Nam, thám thính tin tức, liên lạc hảo hán giang hồ. Khi Thanh binh nhập quan, chúng có thể khởi sự ở Giang Nam làm nội ứng. Cuối lá thư có hai dấu ấn son rất lớn. Dấu trên là năm chữ lệ: Đại Thanh Nhuệ Thân Vương, còn dấu dưới là ba chữ triện: Đa Nhĩ Cổn. May mà Thanh Thanh đọc được nhiều thể chữ.
Nhất thời Thanh Thanh ngẩn ra không nói tiếng nào, càng nghĩ càng tức, muốn xé vụn lá thư đó. Viên Thừa Chí vội giữ tay nàng lại, bảo: “Không thể xé được.”
Thanh Thanh lập tức tỉnh ngộ, nói: “Không sai! Đây đúng là chứng cớ to bằng trời.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Thanh đệ nghĩ xem, tại sao anh em họ Sử đã lấy được hai lá thư của Tiêu Công Lễ mà không hủy đi?”
Thanh Thanh đáp: “Chúng muốn dùng để kiềm chế Mẫn Tử Hoa.”
Viên Thừa Chí nói: “Nhất định là thế. Ta định cứu Tiêu Công Lễ xong rồi phủi tay không lo tiếp nữa, nào ngờ trong này lại có gian mưu to lớn. Đừng nói là đắc tội với Nhị sư ca, ô dù lớn hơn nữa ta cũng không sợ.”
Thanh Thanh nhìn chàng đầy vẻ ngưỡng mộ, nói: “Dĩ nhiên chúng ta phải nhúng tay vào. Cho dù Nhị sư ca mách lên sư phụ, lão nhân gia cũng sẽ nói là huynh đúng. Bây giờ chúng ta mời Đại sư ca của huynh đến đây, nhờ ông ấy dùng Thiết Toán Bàn mà tính một với một là hai, xem huynh có lý hay Nhị sư ca có lý.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Được rồi, đi nghỉ đi. Ta phải suy nghĩ đàng hoàng, tìm cách đối phó với bọn gian tặc này.”
Thanh Thanh cười nói: “Muội muốn ngồi cạnh, cùng suy nghĩ với huynh.”
Viên Thừa Chí dứt khoát lắc đầu. Thanh Thanh vừa cười vừa quay về phòng mình.
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí thức dậy ngồi trên giường luyện khí, điều hòa hô hấp, ý thủ đơn điền, đưa nội tức vận hành qua mọi huyệt đạo trong cơ thể. Chàng cảm thấy luồng khí nóng từ đơn điền đưa lên, hoan hỉ vì biết gần đây công lực mình tiến bộ nhiều.
Mới bước xuống giường, chàng đã thấy trên bàn có hai chén sữa đậu nành, một đĩa bánh quẩy. Thanh Thanh vừa cười khúc khích vừa từ sau cánh cửa chui ra, hỏi: “Lão hòa thượng tham thiền xong rồi chứ?”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Thanh đệ dậy sớm quá!”
Hai người vừa dùng xong điểm tâm, tiểu nhị đã dẫn một người vào. Miệng hắn cứ cằn nhằn: “Cô tìm hai vị này phải không? Đi tìm mà người ta họ gì cũng không biết!”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh chưa nhìn đã biết Tiêu cô nương đến. Nàng đợi tiểu nhị ra khỏi cửa rồi lập tức quỳ xuống khấu đầu. Viên Thừa Chí vội trả lễ. Thanh Thanh nắm tay nàng kéo dậy.
Tiêu cô nương thấy thiếu niên tuấn tú này tự nhiên nắm tay mình, xấu hổ đến mặt đỏ ửng lên, nhưng người ta có ơn cứu cha mình nên nàng không tiện giật lại ngay. Lát sau nàng mới nhẹ nhàng rút tay về.
Thanh Thanh hỏi: “Tiêu cô nương! Cô nương tên gì?”
Tiêu cô nương đáp: “Muội là Uyển Nhi. Xin hỏi quý tính hai vị?”
Thanh Thanh trỏ Viên Thừa Chí, cười nói: “Ông này dữ như sói, không cho ta nói. Cô nương tự hỏi ông ấy đi.”
Tiêu Uyển Nhi biết nàng nói đùa, cũng mỉm cười rồi trang trọng nói: “Hai vị đã cứu mạng gia gia muội. Đại ơn đại đức này, dù xương tan thịt nát cũng khó mà đền đáp.”
Viên Thừa Chí nói: “Lệnh tôn là bậc tiền bối giang hồ, cao phong hiệp nghĩa, xứng đáng để người ta khâm phục. Vãn bối chỉ góp chút sức nhỏ mọn, không cần đa lễ. Cô nương hãy trở về, bẩm báo với lệnh tôn là trưa nay cứ đãi khách bình thường. Đây có hai gói đồ, nhờ cô nương chuyển cho lệnh tôn. Đợi tình hình khẩn cấp hãy mở ra trước mặt mọi người, chắc chắn có hiệu quả. Vật trong gói vô cùng quan trọng, hãy đề phòng giữa đường có người cướp đoạt.”
Tiêu Uyển Nhi thấy một gói dài dài, trọng lượng khá nặng, hình như là binh khí gì đó. Còn gói kia thì nhỏ xíu nhẹ nhàng. Nàng dùng cả hai tay nhận lấy, rồi bái tạ.
Đợi nàng ra khỏi cửa phòng, Viên Thừa Chí bảo: “Chúng ta phải âm thầm theo sau bảo vệ, đừng để kẻ xấu đoạt mất.”
Hai người khóa cửa phòng đi ra, chợt thấy Tiêu Uyển Nhi đang ngồi trong phòng khách. Họ lùi lại tránh, ngạc nhiên không biết nàng nán lại khách điếm này để làm gì. Bỗng nghe Tiêu Uyển Nhi dõng dạc nói: “Bảo chưởng quỹ đến đây. Kim long thám trảo, tiêu lôi trấn không.”
Viên Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Cô ấy nói gì vậy?”
Thanh Thanh khẽ đáp: “Chắc là ám hiệu của Kim Long Bang.”
Tên tiểu nhị vừa rồi lầm bầm giận dữ, bây giờ vừa nghe đã giật mình, khom lưng vâng dạ.
Chưởng quỹ chạy tới cũng khom lưng cung kính nói: “Cô nương có gì dặn dò? Tiểu nhân lập tức đi lo.”
Tiêu Uyển Nhi nói: “Ta là Tiêu đại cô nương. Phiền ông đến nhà ta, nói ta có việc quan trọng, mời các vị sư ca đến đây.”
Chưởng quỹ nghe nàng xưng là Tiêu đại cô nương, lại càng hoảng sợ. Y lập tức nhảy lên lưng ngựa, đích thân chạy đi. Chỉ khoảng ăn xong bữa cơm là ngoài tiệm đã có hai mươi mấy võ sư ùa tới, tay đều cầm binh khí, bảo vệ Tiêu Uyển Nhi rời khỏi đó.
Viên Thừa Chí nói: “Thế lực Kim Long Bang ở đây rất lớn, chúng ta không cần phải đi theo. Lát nữa đến nhà họ Tiêu ăn tiệc là được rồi.”
*
* *
Giờ Ngọ sắp đến, hai người từ từ đi đến Tiêu phủ, thấy khách đang lục tục kéo vào. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh theo mọi người vào trong, khi đến trước cửa cũng được Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ. Tiêu Công Lễ tưởng đây là môn nhân tiểu bối của đối phương, nên không để ý đến.
Đến giờ Ngọ thì khách khứa đến đủ, ngồi vào bàn tiệc. Khí thế hôm nay rực rỡ khác hẳn hôm Mẫn Tử Hoa đãi khách. Kim Long Bang tiền nhiều thế mạnh, tiếp đãi rất long trọng. Bàn nào cũng phủ khăn đỏ thêu chỉ vàng, tô chén bằng sứ tinh tế, đũa ngà. Thức ăn cũng không phải tầm thường, dĩ nhiên không thể thiếu món vịt quay nổi tiếng ở Nam Kinh. Đầu bếp nấu nướng đều là người có tiếng ở đất Nam Kinh này. Rượu đang rót đã thấy sắc đỏ như son, chính là Thiệu tửu lâu năm.
Mẫn Tử Hoa cùng các vị danh túc phái Côn Luân, Thập Lực đại sư, Trình Khởi Vân, Trương Tâm Nhất, Mai Kiếm Hòa, Vạn Lý Phong, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân ngồi ở thủ tọa. Tiêu Công Lễ đích thân ngồi cùng, ân cần mời rượu. Bọn Mai Kiếm Hòa đều không chịu uống, còn quan sát sắc mặt Mẫn Tử Hoa.
Đột nhiên Mẫn Tử Hoa cầm ly rượu lên quẳng xuống đất vỡ nát, nghe “choang” một tiếng. Y quát lên: “Họ Tiêu kia! Hôm nay rất nhiều bằng hữu võ lâm đã nể mặt Mẫn mỗ đến đây. Mối thù giết huynh trưởng của ta phải xử lý thế nào, ngươi hãy nói đi.”
Mới mở miệng đã nói ngay chuyện chính, Tiêu Công Lễ nhất thời không biết đáp sao. Đại đệ tử Ngô Bình của ông bèn đứng dậy nói: “Mẫn nhị gia! Huynh trưởng của nhị gia thấy nữ sắc động tà khí, bại hoại quy luật võ lâm. Sư phụ tại hạ…”
Ngô Bình chưa nói hết, đột nhiên thấy một luồng kình phong đến trước mặt, phải gấp rút nghiêng đầu né. “Phụp” một tiếng, một cây đinh bằng thép hình tam giác, dài chừng năm tấc, ghim vào mặt bàn. Ngô Bình thấy mũi đinh này do Tôn Trọng Quân phát ra, lập tức nộ khí đằng đằng, rút đơn đao ra la lớn: “Ái chà! Mụ la sát này đã ám toán chặt tay La sư đệ của ta, còn muốn hại thêm người khác nữa sao?”
Y lập tức nhảy ra, toan động thủ. Tiêu Công Lễ vội cản lại, quát lên: “Trước mặt các vị tân khách, không được vô lễ.”
Ông quay lại mỉm cười nói với Tôn Trọng Quân: “Tôn cô nương là cao thủ phái Hoa Sơn, hà tất phải chấp nhất tiểu đồ…”
Mẫn Tử Hoa đỏ rực mắt lên, chụp lấy một đôi đũa trước mặt mình, nhằm vào cặp mắt Tiêu Công Lễ phóng tới, hét lên: “Hôm nay ta phải thí mạng với tên lão tặc này.”
Tiêu Công Lễ đưa đôi đũa ra, nhẹ nhàng kẹp lấy hai chiếc đũa đang bay tới mặt. Ông đặt hết xuống bàn, ôn tồn nói: “Mẫn nhị gia! Sao lại nổi giận như thế? Có gì chúng ta hãy nói từ từ. Người đâu? Đem cho Mẫn nhị gia một đôi đũa sạch.”
Mẫn Tử Hoa thấy võ công ông tinh diệu, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Chẳng trách ca ca của ta mất mạng dưới tay hắn.”
Mai Kiếm Hòa thấy Mẫn Tử Hoa đã thua một chiêu, liền đưa tay ra toan nắm lấy cánh tay của Tiêu Công Lễ, lên tiếng: “Tiêu bang chủ bản lãnh phi thường. Hai chúng ta hãy làm quen một chút.”
Tiêu Công Lễ thấy tay hắn đến quá nhanh, bèn nghiêng người tránh ra ngoài. Bàn tay Mai Kiếm Hòa nắm trúng lưng ghế, nghe “rắc” một tiếng lưng ghế đã gãy rời.
Tiêu Công Lễ thấy tình hình căng thẳng, bên họ Mẫn đã có người xắn áo xoa tay, có người rút binh khí ra. Bang chúng bên mình cũng trừng mắt lên nhìn, đề phòng nghiêm ngặt. Cuộc loạn đấu có thể xảy ra ngay, thế mà chưa thấy Kim Xà Lang Quân đến giải vây. Tình thế nguy cấp thế này, nếu hai bên động thủ thì nhất định sẽ tổn thương rất nhiều nhân mạng. Họ Tiêu lo lắng, bèn đưa mắt ra hiệu cho con gái.
Tiêu Uyển Nhi đang ôm hai cái gói, cũng đã sốt ruột từ lâu. Nàng vừa nhìn thấy ánh mắt của phụ thân, lập tức mở cái gói dài ra. Thấy trong gói là một thành trường kiếm, nàng liền đem tới đặt trước mặt cha mình.
Tiêu Công Lễ không hiểu thanh kiếm này có công dụng gì. Ông đang thắc mắc, Tôn Trọng Quân đã nhận ra binh khí của mình. Ả vừa xấu hổ vừa giận dữ, lập tức vọt tới đoạt lấy, cất tiếng mắng luôn: “Có bản lãnh thì cứ minh bạch mà tỉ đấu. Lén ăn cắp đồ, có gì đáng gọi anh hùng hảo hán?”
Tiêu Công Lễ lại càng không hiểu. Tôn Trọng Quân bước tới hai bước, mũi kiếm lóe ra những tia sáng xanh, đâm ngay vào trước ngực Tiêu Công Lễ.
Khi để Tiêu Công Lễ trả kiếm cho Tôn Trọng Quân, Viên Thừa Chí nghĩ: “Ả biết đêm qua người ta hạ thủ lưu tình, nhất định sẽ cảm kích mà ra sức giải hòa. Không ngờ ả lại hung dữ đến thế.” Chàng không khỏi vừa hối hận vừa giận dữ.
Tiêu Công Lễ thấy đối phương ra chiêu ác độc, vội lùi hai bước. Một đệ tử đưa cho ông cây Chiết thiết đao. Tiêu Công Lễ đón lấy, nhưng cố nhịn chưa đánh trả. Tôn Trọng Quân xuất thủ rất nhanh, vừa trượt một chiêu lại rung động mũi kiếm đâm tới yết hầu đối thủ. Nếu Tiêu Công Lễ không chống đỡ, thì dứt khoát phải mất mạng dưới nhát kiếm này. Ông đành đưa cây Chiết thiết đao ra chém vào lưỡi kiếm.
Thanh kiếm của Tôn Trọng Quân trầm xuống dưới như để tránh né lưỡi đao. Nào ngờ khi xuống tới hạ bàn, nó đột nhiên hất ngược lên nhanh như điện chớp, đâm vèo tới bụng dưới đối phương. Chiêu kiếm này đã nhanh lại chuẩn xác, dù Tiêu Công Lễ đã luyện mấy chục năm công phu đao pháp cũng không thể kịp xoay đao lại đỡ. Ông vội vã tung người nhảy lên, bay qua đầu những người kế bên mà ra khỏi vòng chiến, tránh được chiêu kiếm đâm tới bụng mình. Nhưng “xoẹt” một tiếng, ống quần của ông đã bị mũi kiếm quẹt rách.
Tiêu Công Lễ thầm la lên: “Nguy hiểm quá!” Ông quay đầu lại xem đối thủ có đuổi theo hay không, nhưng đột nhiên vui mừng không tả nổi. Ông vừa thấy con gái đang cầm hai lá thư trước đây đã bị Thái Bạch Tam Anh lừa lấy mất.
Lúc này hai đồ đệ của ông đang múa đao ngăn cản Tôn Trọng Quân. Hai người này tức giận cô ả chặt đứt cánh tay La sư ca, nên đao rít gió cuồn cuộn, liều mạng mà phóng tới. Khóe miệng Tôn Trọng Quân vẫn cười nhạt, tay trái chống hờ vào hông, trường kiếm bên tay phải chỉ cần đưa nhè nhẹ đã đủ bắt hai đại hán tay chân rối loạn, đón đỡ loạn xạ.
Tiêu Công Lễ cầm lấy hai lá thư, kêu lớn: “Dừng tay, dừng tay! Ta có câu này muốn nói.”
Hai đệ tử nghe sư phụ gọi liền thu đao lùi lại. Một người lùi hơi chậm, trước ngực trúng cước của Tôn Trọng Quân nghe “bình” một tiếng. Y loạng choạng lùi luôn mấy bước, ọe ra một ngụm máu tươi, mặt lập tức xanh lại.
Tiêu Công Lễ liếc xéo Tôn Trọng Quân một cái, cố nén cơn giận. Ông hô lớn: “Các bằng hữu hãy nghe ta nói một câu.”
Đại sảnh đang hỗn loạn, phải một lúc mới từ từ yên tĩnh lại. Tiêu Công Lễ nói: “Vị Mẫn bằng hữu này trách ta hại huynh trưởng của y. Không sai, Mẫn Tử Diệp là do ta giết.”
Nghe thấy câu này, đại sảnh lập tức im phăng phắc, không ai mở miệng.
Mẫn Tử Hoa nghẹn ngào nói: “Thiếu nợ trả tiền, giết người đền mạng.”
Những võ sư bên họ Mẫn đều ồ lên. Mỗi người mỗi câu ầm ĩ: “Không sai, giết người phải đền mạng.” “Giết một mạng đền một mạng.” “Tiêu Công Lễ, ngươi tự kết liễu đi.”
Tiêu Công Lễ đợi cho tiếng ồn ào giảm xuống, rồi dõng dạc nói: “Ở đây có hai lá thư, muốn nhờ mấy vị tiền bối đức cao vọng trọng xem qua. Nếu các vị này xem thư xong mà nói Tiêu mỗ phải đền mạng, Tiêu mỗ sẽ lập tức tự vẫn. Chau mày một tí cũng không xứng là hảo hán.”
Mọi người nổi dạ hiếu kỳ, ai cũng muốn tới đọc thư. Tiêu Công Lễ nói: “Khoan đã! Nhờ Mẫn nhị gia đề cử ba vị tiền bối đến xem.”
Mẫn Tử Hoa muốn biết trong thư viết gì, bèn hô lớn: “Được! Thế thì nhờ ba vị Thập Lực đại sư, Trình đảo chủ và Mai đại ca.”
Ba người nhận lấy thư, để lên bàn khẽ đọc. Thái Bạch Tam Anh tái xanh cả mặt, thì thào bàn tán với nhau.
Người đầu tiên đọc xong là Thập Lực đại sư. Lão lên tiếng: “Theo ý lão nạp, Mẫn nhị gia hãy bỏ vụ xích mích này, đổi địch thành bạn là tốt nhất.”
Thập Lực đại sư có danh vọng rất cao trong võ lâm. Cả kiến thức lẫn võ công của lão đều được mọi người thán phục. Câu này vừa nói ra, trong đại sảnh ai cũng ngạc nhiên.
Mẫn Tử Hoa đón lấy thư, đọc tờ cung của Trương trại chủ trước. Trương trại chủ viết chẳng trôi chảy gì, sai rất nhiều chữ, nhưng đọc xong vẫn hiểu một phần sự việc. Xem tới lá thư cảm tạ của Khưu Đạo Đài, thì hành văn lưu loát, kể lại mọi chuyện rõ ràng.
Mẫn Tử Hoa mới đọc một nửa đã vừa xấu hổ vừa khó chịu, ngơ ngác đứng yên không biết nói gì. Đột nhiên y hiểu ra rất nhiều việc trước nay không sao hiểu được:
“Thái Bạch Tam Anh đến nói với mình, người hại chết ca ca là Tiêu Công Lễ ở Kim Long Bang. Khi mình đi mời các vị sư ca giúp trả thù, ai cũng tìm cách thoái thác. Đại sư ca Thủy Vân còn nói, phải tìm sư phụ để lão nhân gia chủ trì sự việc. Mọi sư ca trước nay rất tốt với mình, sao lần này không có nghĩa khí đồng môn? Chỉ có một mình Động Huyền sư đệ chịu theo mình đến đây.
Tiên Đô Phái người đông thế mạnh, gặp đại sự này mà nhân vật bản môn lại không lộ diện, buộc mình phải đi mời người ngoài tương trợ, thật chẳng ra thể thống gì cả. Thì ra năm xưa ca ca đã gây một chuyện không thể đưa ra ánh sáng, nhất định các vị sư ca đã biết rõ nên không chịu giúp mình. Nhưng họ sợ làm mình mất mặt, nên mới trút trách nhiệm qua sư phụ đã mất tích nhiều năm. Chỉ có Động Huyền sư đệ còn nhỏ, không biết…”
Đột nhiên nghe tiếng Mai Kiếm Hòa quát lên: “Đồ giả mạo, lừa gạt được ai?” Hắn đưa tay giật lấy hai lá thư, xé nát vụn.
Tiêu Công Lễ thật sự không ngờ hắn dám xé thư trước mặt mọi người. Thế là bùa hộ mạng của mình đã mất. Ông vừa lo vừa giận, đỏ mặt tía tai quát hỏi: “Họ Mai kia! Ngươi biết danh dự là gì không?”
Mai Kiếm Hòa lạnh nhạt nói: “Chưa biết ai mới không cần danh dự. Đã hại huynh trưởng người ta rồi, còn giả tạo mấy lá thư văn tự không thông suốt để vu oan người chết. Tiếc rằng người chết không đối chứng được, để mặc cho ngươi ăn nói bừa bãi như thế. Loại thư thế này, ta đóng cửa một ngày là viết được hàng trăm lá. Ngươi có tin không? Nếu ngươi muốn vu oan Thập Lực đại sư phạm đủ loại tội ác, muốn vu oan Trình đảo chủ đã giết huynh trưởng của Mẫn nhị gia, loại thư như vậy ta cũng viết được.”
Thập Lực Đại sư và Trình Khởi Vân vốn đã thấy Mẫn Tử Hoa đuối lý, nhưng nghe Mai Kiếm Hòa nói một hồi lại sinh ra trù trừ, không biết hai lá thư này thật hay giả. Hai người nhìn nhau, nhất thời không quyết đoán được.
Ngô Bình thấy sư phụ bị sỉ nhục như thế, giận dữ vô cùng. Y phóng ào tới, vừa quát lên vừa múa đao chém Mai Kiếm Hòa. Họ Mai hơi nghiêng người một chút, rút kiếm nhanh như điện chớp. Bạch quang nhấp nháy, Ngô Bình quát chưa dứt tiếng, đơn đao đã tuột khỏi tay. Mai Kiếm Hòa chỉ mũi kiếm vào yết hầu y, thét lên: “Quỳ xuống! Mai đại gia sẽ tha cái mạng nhỏ xíu của ngươi.”
Ngô Bình lùi luôn ba bước, nhưng mũi kiếm của địch thủ vẫn không rời khỏi yết hầu. Mai Kiếm Hòa cười gằn nói: “Ngươi không chịu quỳ thì ta phải đâm tới.”
Ngô Bình quát trả: “Đâm nhanh lên đi, đứng đó nói nhiều làm gì?”
Đệ tử môn nhân nhà họ Tiêu cầm binh khí kéo ùa vào trong sảnh. Đám võ sư bên họ Mẫn, đa số là loại chỉ biết nhắm mắt đánh nhau, liền rút binh khí chia nhau đón đánh. Lập tức những tiếng loảng xoảng vang lên, vô cùng náo nhiệt.
Tiêu Công Lễ nhảy lên ghế đứng, quát lớn: “Mọi người dừng tay! Nhìn ta đây.”
Ông xoay ngược cổ tay, đưa cây Chiết thiết đao kề ngang cổ họng mình, kêu lên: “Oan có đầu, nợ có chủ. Hôm nay ta đền mạng cho Mẫn Tử Diệp là xong. Các ngươi mau lui ra cho ta.”
Đám môn đồ nghe lệnh nhanh chóng lùi ra, đứng ủ rũ nhìn sư phụ. Tiêu Uyển Nhi vội la lên: “Gia gia, khoan đã! Lá thư đó đâu? Ông ấy nói sẽ đến cứu gia gia mà?”
Tiêu Công Lễ lấy ra một tờ giấy trắng, giơ lên trước mặt. Mọi người thấy trên giấy có vẽ một thanh kiếm kỳ lạ, chẳng ai biết ý nghĩa ra sao.
Bỗng nghe Tiêu Công Lễ kêu lên: “Kim Xà đại hiệp! Đại hiệp đến trễ một bước rồi.” Rồi ông vận sức, ấn mạnh vào thanh Chiết thiết đao đang kề ngang cổ.