Ôn Nam Dương nói: “Chuyện này đã hai mươi năm rồi, lúc đó ta mới hai mươi sáu tuổi. Gia gia bảo ta đi Dương Châu để giúp Lục thúc một tay.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nhà họ Ôn ở Tịnh Nham bây giờ còn Ngũ Tổ, thì ra trước kia có sáu anh em.”
Ôn Nam Dương tiếp: “Khi đến Dương Châu ta không gặp Lục thúc. Một đêm ta đi làm ăn, không cẩn thận nên thất thủ.”
Ôn Nghi lạnh nhạt hỏi: “Không biết làm ăn chuyện gì đây?”
Ôn Nam Dương giận dữ nói: “Nam tử hán đại trượng phu, dám làm chẳng lẽ không dám nói? Ta nhìn thấy một cô nương rất đẹp, nên ban đêm nhảy vào trang viện định bẻ hoa. Cô ả không chịu, nên ta dùng dao giết chết. Nào ngờ trước khi chết ả còn la lên một tiếng, người ta nghe thấy. Trong đám võ sư hộ viện ở đó có mấy tên cao thủ cùng lúc ùa tới. Hảo hán không địch nổi số đông, nên ta bị chúng bắt được.”
Viên Thừa Chí nghe hắn kể lại những chuyện tồi bại của mình mà không ra vẻ xấu hổ hối hận chút nào, thầm nghĩ: “Người này thật là vô sỉ đến cùng cực.”
Ôn Nam Dương lại nói: “Họ đánh ta một trận, rồi nhốt vào trong lao của nha môn. Ta chẳng sợ hãi gì, vì vụ án ta gây ra không phải là chuyện nhỏ, không bao lâu sẽ lan truyền rộng rãi. Ta biết Lục thúc đang ở Dương Châu. Võ công ông ấy cực cao, khi biết tin tất nhiên sẽ cứu ta vượt ngục. Nào ngờ chờ tới mười mấy ngày mà Lục thúc vẫn không thấy đến. Công văn thượng cấp đã đưa xuống, phán xử ta bị chém đầu. Khi ngục tốt nói cho biết, lúc đó ta mới hoảng sợ.”
Ôn Thanh Thanh “hứ” một tiếng rồi nói: “Ta cứ tưởng Thất bá không sợ chết.”
Ôn Nam Dương mặc kệ nàng, kể tiếp:
“Ba ngày sau, cai ngục mang tới cho ta một chén rượu to, một mâm thịt lớn. Ta biết ngày mai mình bị hành hình, nghĩ bụng: ai cũng có ngày phải chết, nhưng lão gia tuổi còn trẻ như vậy, chưa hưởng phúc đầy đủ mà đã tới số thì thật có phần đáng tiếc. Nghĩ thì cứ nghĩ, ta chén sạch hết rượu thịt của cai ngục đem vào, rồi lăn ra ngủ một giấc say sưa.
Ngủ đến nửa đêm, đột nhiên ta thấy có người nhẹ nhàng vỗ vào vai. Ta tung người ngồi dậy, nghe y kề tai nói nhỏ: “Đừng lên tiếng, ta cứu ngươi ra ngoài”.
Sau đó nghe “soạt soạt” mấy tiếng, gông xiềng trên tay chân ta đều bị binh khí cực kỳ sắc bén chém đứt. Y kéo tay ta, nhảy ra khỏi ngục. Khinh công của y cực giỏi, thủ kình lại mạnh, cứ kéo tay ta chạy trên đường, ta chẳng tốn sức chút nào.
Chạy đến một cái miếu hoang ở ngoại thành, y thắp sáng ngọn nến trên bàn bày hương án. Lúc đó ta mới nhìn rõ. Y còn nhỏ hơn ta mấy tuổi, mặt mày bảnh bao. Hừ…”
Nói đến đây, Ôn Nam Dương đưa mắt liếc xéo Ôn Nghi và Thanh Thanh, rồi giận dữ kể tiếp: “Sau đó, ta thi lễ rồi cảm ơn y. Người này kiêu ngạo vô cùng, không trả lễ mà chỉ nói: “Ta họ Hạ. Ngươi họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái phải không?” Ta gật đầu, nói phải. Lúc này ta mới thấy binh khí mà y đã dùng để chặt đứt xiềng xích, đang đeo trên thắt lưng y. Binh khí này giống như một thanh kiếm cong queo, nhưng mũi kiếm lại chia thành hai nhánh, trông rất cổ quái.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Chắc là Kim Xà Kiếm rồi.” Chàng không lên tiếng, cứ im lặng mà nghe.
Ôn Nam Dương nói:
“Ta hỏi danh tính của y. Y chỉ lạnh nhạt nói: “Ngươi không cần biết. Dù sao thì ngươi cũng không cảm kích ta đâu.”
Ta ngạc nhiên nói: “Các hạ vừa cứu mạng tại hạ, dĩ nhiên suốt đời tại hạ phải đem lòng cảm kích.”
Y nói: “Ta chỉ vì Lục thúc của ngươi là Ôn Phương Ngọc mà cứu ngươi ra. Theo ta!”
Ta theo y đến một con kênh đào, lên một chiếc thuyền. Y bảo thuyền phu cho thuyền chạy về hướng Nam. Khi thuyền rời khỏi Dương Châu mười mấy dặm đường, ta mới yên tâm trở lại, biết rằng quan phủ không thể truy đuổi được nữa. Ta hỏi mấy câu, nhưng y chỉ cười nhạt mà không trả lời. Đột nhiên, y lấy trong bọc áo ra một cặp Nghê nga mi thúy. Đó là binh khí của Lục thúc, trước giờ không để rời thân, sao lại nằm trong tay người này?
Ta đang ngạc nhiên thì y nói: “Lục thúc của ngươi là bạn cũ của ta. Ha ha…” Y cười nhạt mấy tiếng, trên mặt bỗng lộ ra sát khí. Ta bất giác rùng mình mấy cái.
Y bảo: “Ngươi mang cái rương này về nhà đi.” Nói xong, y trỏ tay vào trong khoang thuyền. Ta thấy cái rương đó rất lớn, đóng đinh chắc chắn, bên ngoài còn dùng dây thừng to buộc lại.
Y nói: “Ngươi mau mau trở về nhà, dọc đường không được ghé lại nơi nào. Cái rương này nhất định phải giao cho Đại bá bá của ngươi, để chính tay ông ấy mở ra.” Y nói gì ta cũng vâng dạ hết.
Y lại nói: “Trong vòng một tháng, ta sẽ ghé thăm nhà ngươi. Về dặn trưởng bối chuẩn bị đón tiếp ta cho tử tế.” Nghe y nói chuyện chẳng có đầu đuôi gì cả, ta không hiểu gì, nhưng chỉ còn cách vâng dạ. Dặn dò xong, đột nhiên y khom người nhấc bổng cái neo thuyền lên, rồi soạt soạt mấy tiếng, tuốt kiếm chặt cái neo đó thành bốn mảnh.”
Ôn Thanh Thanh nghe đến đây, không nén nổi kêu lên một tiếng: “Tuyệt diệu!”
Ôn Nam Dương bĩu môi, rồi nhổ phẹt xuống đất một bãi nước bọt. Thanh Thanh vốn thích sạch sẽ, thấy Ôn Nam Dương phỉ nhổ tòa tiểu đình ngắm hoa hồng do chính tay mình bài trí, trong lòng khó chịu vô cùng.
Viên Thừa Chí hiểu ý nàng, đưa chân xóa bãi nước bọt đó đi. Thanh Thanh nhìn chàng một cái, trong ánh mắt lộ vẻ cảm kích.
Ôn Nam Dương nói tiếp:
“Y biểu diễn võ công trước mặt ta, không biết có dụng ý gì. Chỉ thấy y hất cái neo đã bị chặt đứt vào trong khoang thuyền rồi nói: “Nếu ngươi không nghe lời ta dặn, lén mở rương ra xem, tự ý lấy đi báu vật bên trong; hoặc dọc đường tiếp tục gây án, thì cứ lấy cái neo này làm gương.” Rồi y lấy trong bọc ra một thỏi bạc, vất xuống sàn thuyền mà nói: “Đây là lộ phí của ngươi.”
Sau đó y nhổ hai cây sào cắm ở đầu thuyền, chống vào lòng sông một cái, thân hình đã bắn ra giữa không trung. Y buông sào ra, nhào lộn mấy vòng, thân pháp cực kỳ xảo diệu, nháy mắt đã đứng trên bờ. Bóng y khuất dần trong màn đêm, chỉ còn nghe tiếng cười xa xa vẳng lại.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Vị Kim Xà Lang Quân này thật là hào khí.” Chàng chỉ nghĩ thôi, còn Thanh Thanh lại công nhiên khen ngợi: “Đáng mặt anh hùng hào kiệt, oai phong khí khái vô cùng.”
Ôn Nam Dương tức giận nói:
“Anh hùng ư? Con mẹ cái anh hùng đó. Lúc đó ta chỉ coi y là ân nhân cứu mạng, nhưng khi nói chuyện thì ánh mắt y lại để lộ sát khí, ra vẻ chán ghét ta. Ta cứ tưởng tính khí của y kỳ lạ, nên không để ý lắm. Qua một đoạn sông khác, ta thuê một chiếc thuyền khác để về nhà. Suốt dọc đường, bọn phu khuân vác đều nói là chiếc rương này rất nặng.
Ta nghĩ bụng: “Lần này Lục thúc phát tài rồi, trong rương chất đầy kim ngân châu báu. Mình phải tốn biết bao hơi sức mới vận chuyển được về nhà, chắc chắn các vị bá bá thúc thúc sẽ chia cho mình nhiều hơn một chút.” Càng nghĩ ta càng khoái chí.
Khi trở về nhà, đúng là gia gia và các vị bá bá thúc thúc đều khen ta tài giỏi, mới lần đầu bước ra giang hồ đã hành động không tồi.”
Thanh Thanh xen vào: “Đúng là không tồi! Hạ sát một cô nương, mang về một cái rương.”
Ôn Nghi bảo: “Thanh Thanh đừng nhiều chuyện, nghe Thất bá bá nói tiếp đã.”
Ôn Nam Dương nói:
“Đêm đó đại sảnh thắp đầy đèn nến, hai tên gia đinh khiêng cái rương đó vào. Gia gia cùng các vị thúc bá ngồi giữa. Ta chính tay cắt đứt dây thừng trước, rồi nhổ từng cây đinh sắt đóng rương ra. Ta còn nhớ rõ ràng, lúc đó Đại bá bá mỉm cười nói: “Không biết lão Lục nhắm trúng cô nương nhà nào đây, quên mất cả đường về rồi. Cái rương quý thế này mà bảo Nam Dương mang về trước. Tới đây, chúng ta xem thử có những món bảo bối gì.”
Ta mở nắp rương ra, thấy bên trong chất rất đầy, trên phủ một lớp giấy. Trên giấy có một lá thư, ngoài phong bì viết: “Gửi Ôn thị huynh đệ.” Ta thấy mấy chữ đó không phải là bút tích của Lục thúc, bèn trao lá thư cho Đại bá bá.
Ông ấy không mở thư ra ngay, lại hỏi: “Phía dưới là cái gì vậy?” Ta mở lớp giấy đó ra, bên dưới là một cái bao vải vuông vức, dùng chỉ may rất chắc chắn.
Đại bá bá gọi: “Lục muội! Lục muội đem kéo đến đây để cắt ra đi. Không hiểu sao Lục đệ bỗng nhiên tỉ mỉ như thế?” Lục thẩm cắt đứt mấy sợi chỉ, vừa mở cái bao vải ra, đột nhiên trong bao “soạt soạt” bắn ra bảy tám cây độc tiễn.”
Thanh Thanh kinh hãi la lên một tiếng. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Đúng là thói quen của Kim Xà Lang Quân rồi.”
Ôn Nam Dương tiếp: “Mãi đến hôm nay, nhớ lại việc đó ta vẫn thấy rùng mình. Nếu lúc đó ta vội vã mở cái bao ra, thì cái mạng này đâu còn ở đây nữa? Mấy cây độc tiễn đó đều ghim hết vào da thịt Lục thẩm. Loại tên này tẩm thuốc độc vô cùng lợi hại, thấy máu là chết ngay. Lục thẩm lập tức đen kịt cả người, không rên được một tiếng, ngã nhào ra chết ngay.”
Nói đến đó hắn quay lại, tức giận nói với Thanh Thanh: “Đó chính là kiệt tác của thằng cha ngươi đấy. Sau khi sự việc xảy ra như vậy, mọi người trong đại sảnh nhốn nháo cả lên. Ngũ thúc đổ cho ta gây ra vụ này, ép ta mở cái bao đó ra. Ta phải đứng rất xa, lấy một cây thương dài khều mở cái bao, nhưng không có mũi tên nào bắn ra nữa. Theo ngươi thì trong bao có những trân châu, báu vật gì?”
Thanh Thanh hỏi: “Có cái gì vậy?”
Ôn Nam Dương lạnh lùng nói: “Đó là thi thể Lục gia gia của ngươi, đã bị chặt thành tám mảnh.”
Thanh Thanh giật bắn người, hoảng sợ đến nỗi môi cũng trắng bệch. Ôn Nghi vội đưa tay ôm lấy nàng.
Bốn người im lặng một hồi, Ôn Nam Dương mới nói tiếp: “Ngươi thấy con người này có ác độc hay không? Y giết Lục thúc thì thôi, còn gửi xác Lục thúc về nhà bằng cách đó.”
Ôn Nghi nói: “Tại sao y phải làm như vậy, huynh chưa kể.”
Ôn Nam Dương nói: “Hừ! Đương nhiên cô phải kể tiếp. Đã là hành động của người xưa thân ái, thì bất luận chuyện gì cô cũng thấy không sai.”
Ôn Nghi nhìn lên những ngôi sao trên bầu trời một cách xuất thần, chậm rãi nói:
“Y là phu quân của ta. Dù chúng ta chưa từng bái thiên địa, nhưng trong lòng ta thì y là phu quân thân ái của ta. Thanh Thanh! Lúc đó ta nhỏ hơn con bây giờ hai tuổi, tính tình trẻ nít hơn con bây giờ, lại không thích học võ, cái gì cũng không hiểu cả. Các vị thúc bá trong nhà rất hung dữ, việc ác nào cũng dám làm, trước nay ta vẫn không thích họ. Khi thấy xác Lục thúc, thật sự trong lòng ta không thấy buồn bã gì. Lúc đó ta chỉ cảm thấy ngạc nhiên, tại sao Lục thúc võ công giỏi như vậy mà cũng bị giết chết?
Sau đó Đại bá bá mở thư ra, đọc lớn cho mọi người cùng nghe. Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi, nhưng tình hình đêm hôm đó ta nhớ rất rõ ràng. Những lời nói trong thư, ta vẫn nhớ từng chữ một.
Đại bá bá tức đến nỗi mặt không còn sắc máu, đọc thư mà thanh âm có phần run rẩy. Bức thư như sau: “Anh em họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái hãy nghe đây. Ta gửi tặng các ngươi thi thể của Ôn Phương Ngọc, đệ đệ của các ngươi, hãy nhận lấy. Người này năm xưa đã làm nhục rồi giết chết chị ruột của ta, sau đó lại giết hết một nhà năm người, cha mẹ và các anh của ta. Một mình ta chạy thoát ra ngoài, bây giờ quay lại trả thù. Nợ máu phải đòi gấp mười lần mới giải được hận. Ta nhất định phải giết năm chục nhân mạng, làm nhục mười nữ nhân trong gia đình các ngươi. Không đủ con số đó, ta thề không làm người. Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi lập thệ.”
Đọc xong lá thư đó, Ôn Nghi thở ra một hơi rồi hỏi Ôn Nam Dương: “Thất ca! Lục thúc giết sạch nhà y, việc này có hay không?”
Ôn Nam Dương ngạo mạn nói: “Nam tử hán đại trượng phu chúng ta đã vào hắc đạo thì cướp tài đoạt sắc, phóng hỏa giết người là chuyện rất bình thường. Lục thúc thấy tỷ tỷ của y xinh đẹp, dùng bạo lực mà cô ả không chịu, rút dao giết chết thì đã sao nào? Lẽ ra không cần phải giết cả nhà, nhưng nhất định Lục thúc đã lộ mặt nên phải giết người diệt khẩu. Tiếc là lúc đó để thằng nhãi con chạy thoát, để lại hậu hoạn vô cùng.”
Ôn Nghi thở dài nói: “Nam nhân các người ra ngoài gây ra tội nghiệt lớn như thế, bọn nữ nhân trong nhà làm sao biết được?”
Ôn Nam Dương nói: “Đại bá bá đọc xong lá thư này, cười ha hả mà nói: “Thằng giặc đó tìm đến đây, thật là tuyệt diệu. Không thì chúng ta muốn đi tìm hắn cũng không biết hắn trốn ở chỗ nào.” Nói thì nói vậy, nhưng ông ấy lại khẽ hỏi ta tỉ mỉ về tướng mạo và võ công của tên gian tặc này. Bắt đầu từ đêm đó mọi người cảnh giới nghiêm mật, lại phái người đi ngay trong đêm mời Thất thúc và Bát thúc từ Kim Hoa và Nghiêm Châu về.”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ: “Sao huynh đệ nhà này đông tới như thế?”
Thanh Thanh cũng hỏi: “Má má! Ở nhà còn có Thất gia gia và Bát gia gia, sao con không biết?”
Ôn Nghi đáp: “Đó cũng là anh em của gia gia con, nhưng trước nay không ở đây. Nhà họ Ôn có tám người, nên mới gọi là Bát Đức Đường.”
Thanh Thanh cười khẩy: “Có đức gì mà gọi là Bát Đức?”
Ôn Nam Dương nói: “Trước nay Thất thúc vẫn ở Kim Hoa, còn Bát thúc ở Nghiêm Châu. Tuy là người một nhà, nhưng bên ngoài ít người biết đến. Nào ngờ Kim Xà gian tặc điều tra tin tức rất giỏi. Thất thúc và Bát thúc vừa mới khởi hành, đã bị y giết chết dọc đường. Tên gian tặc này thần xuất quỷ nhập, không hiểu lúc nào đã lấy cắp được một mớ thẻ tre mà nhà ta vẫn sử dụng khi thu thuế lúa gạo. Gian tặc hễ giết chết một người chúng ta lại cắm một cái thẻ tre lên xác chết. Xem ra y chưa cắm đủ năm chục thẻ tre thì không chịu buông tay.”
Thanh Thanh nói: “Gia đình chúng ta trên dưới có hơn trăm người, sao không cản nổi? Còn ông ấy có bao nhiêu người?”
Ôn Nam Dương đáp:
“Y chỉ có một mình. Gian tặc này xưa giờ không công khai lộ diện, bình thường không biết trốn ở nơi nào. Nhưng chỉ cần người nhà chúng ta lơi lỏng một chút là y ra tay hại chết. Đại bá bá đã mời mấy chục hảo hán giang hồ đến làm khách, cả ngày ngồi nhà ăn uống để đợi tên gian tặc đến. Còn ngoài cổng thì dán một tờ bố cáo lớn, mời y đến để quyết đấu một cách quang minh chính đại. Nhưng tên gian tặc đó mặc kệ, hễ thấy chúng ta đông người thì không xuất hiện.
Hơn nửa năm sau, cao thủ giang hồ từ từ giải tán. Tam ca ở chi thứ nhất và Ngũ đệ ở chi thứ năm đột nhiên chết chìm trong ao, trên người có cắm thẻ tre. Thì ra tên gian tặc rất biết nhẫn nại, đã im lặng chờ thời hơn nửa năm, bây giờ có cơ hội mới ra tay. Liên tiếp mười mấy ngày, trong nhà ngày nào cũng có người mất mạng. Tiệm bán quan tài ở thị trấn Tịnh Nham làm không kịp, phải đến Cù Châu để mua. Người bên ngoài đồn đãi là nhà họ Ôn gặp phải ôn thần. Nghi muội! Những ngày đáng sợ đó, cô còn nhớ chứ?”
Ôn Nghi nói: “Thời gian đó cả thị trấn bàng hoàng, còn gia đình chúng ta thì ngày đêm đều có người canh gác. Gia gia và các vị thúc bá thay phiên tuần tra cả ngoài lẫn trong. Đàn bà con nít tập trung trong nhà, không dám bước ra khỏi cổng một bước.”
Ôn Nam Dương nghiến chặt răng nói: “Đã vậy mà hai người chị dâu ở chi thứ tư vẫn bị y bắt cóc giữa đêm. Lúc ấy chúng ta tưởng họ bị giết rồi. Nào ngờ hơn một tháng sau, hai vị tẩu tẩu đó từ Dương Châu nhắn tin về, nói là đã bị tên gian tặc bán vào kỹ viện, ép tiếp khách cả tháng trời. Tứ thúc tức giận đến nỗi suýt ngất tại chỗ. Ông ấy mặc kệ hai đứa con dâu, đích thân đi giết sạch toàn bộ kỹ nữ, khách mua hoa, tú bà và bọn phục dịch trong kỹ viện đó. Đương nhiên hai vị tẩu tẩu cũng bị giết chết. Tứ thúc còn phóng hỏa, thiêu rụi tám tòa kỹ viện ở Dương Châu.”
Viên Thừa Chí nghe mà dựng cả tóc gáy lên, trong lòng nghĩ: “Kim Xà Lang Quân trả thù cho cha mẹ và anh chị là phải, nhưng giết chết hung thủ chủ chốt đã đủ rồi, làm như thế có phần quá đáng.” Chàng lại nghĩ: “Ôn Phương Thi thì trút giận lên đầu người khác, giết luôn hai cô con dâu.” Nghĩ đến đó chàng bất giác lắc đầu một cái, cảm thấy uất ức trong lòng.
Ôn Nam Dương tiếp: “Lại còn một việc khiến cho người ta tức tối. Mỗi năm đến tết Đoan Ngọ, Trung Thu, Nguyên Đán là y lại gửi thư tới, ghi rõ còn nợ bao nhiêu nhân mạng, bao nhiêu nữ nhân, cứ như kê đơn vậy. Kỳ Tiên Phái ngang dọc giang hồ mười mấy năm trời, thế mà bị tên gian tặc hại cho thê thảm đến thế. Mọi người vừa nơm nớp lo âu vừa nghiến răng căm hận, thề quyết trả mối thù này. Nhưng bản lãnh gian tặc quá cao, gia gia và các vị thúc bá đã giao thủ mấy lần với y mà không giết nổi. Khi chúng ta phòng thủ nghiêm ngặt thì mấy tháng trời y cũng không đến, chỉ cần lơi lỏng chút xíu thì lập tức có chuyện. Chúng ta ngoài sáng còn y trong bóng tối, thật sự không làm gì được. Trong vòng hai năm, nhà họ Ôn chúng ta bị y giết tổng số ba mươi tám mạng lớn có nhỏ có. Thanh Thanh! Ngươi nói đi, chúng ta có nên hận tên gian tặc đó không?”
Thanh Thanh hỏi: “Về sau thì sao?”
Ôn Nam Dương nói: “Để má má của ngươi kể tiếp.”
Ôn Nghi nhìn Viên Thừa Chí một cái, ủ rũ nói: “Hài cốt của y đã được vị Viên tướng công này mai táng. Vì thế ta không cần giấu giếm gì nữa, chỉ mong Viên tướng công sẽ kể lại tình hình lúc y tạ thế để hai mẹ con ta biết.”
Nói đến đó giọng bà nghẹn hẳn đi, hồi lâu mới nói tiếp được:
“Lúc đó ta không hiểu tại sao y lại hung hãn đến thế, thật sự không hiểu nổi. Gia gia không cho phép mọi người ra khỏi cổng một bước. Ta rất buồn bực, ngày nào cũng chỉ quanh quẩn trong vườn. Gia gia còn nói, nếu không có các vị ca ca ở cạnh thì bọn con gái dù là ban ngày ban mặt cũng không được vào vườn chơi.
Lúc đó là tháng Ba, tiết xuân rực rỡ. Hương hoa cải trong vườn theo gió thổi vào cửa sổ từng đợt, từng đợt. Ta những muốn lên đồi để ngắm hoa, thưởng thức hương vị ruộng đồng tươi mát. Chỉ vì Kim Xà Lang Quân, tên ác độc hại người đó, mà ta bị nhốt trong nhà buồn bã lúc trời đẹp thế này. Ta muốn lẻn ra ngoài một lát, nhưng nghĩ đến bộ mặt nghiêm trọng của gia gia lại không dám nữa.
Hôm đó, ta và Tam tỉ tỉ, Ngũ tẩu tẩu của chi thứ hai, lại còn huynh Nam Dương này và huynh Thiên Ba, cả thảy năm người đang chơi ở trong vườn. Ta trèo lên một cái đu, càng đu càng cao, thân thể như bay bổng hẳn lên. Lúc bay cao hơn đầu tường, nhìn ra ngoài thấy dương liễu xanh mơn mởn, hoa đào nở rộ, ta sung sướng vô kể. Nhưng đột nhiên huynh Thiên Ba kêu lên một tiếng kỳ lạ, rồi ngã xuống nằm ngẩng mặt lên trời. Ta giật mình hoảng hốt, sau này mới biết trước ngực huynh ấy đã bị phóng trúng một mũi Kim Xà Truy, chết ngay tức khắc. Còn huynh Nam Dương… Ta nhớ lúc đó huynh lập tức chạy trốn vào nhà, để mặc ba nữ nhân chúng ta ở ngoài vườn.”
Ôn Nam Dương đỏ ửng mặt lên, biện bạch: “Ta đánh không lại y, nếu không chạy đi, chẳng lẽ chết uổng mạng? Ta chạy vào nhà là để gọi người đến cứu.”
Ôn Nghi nói:
“Chẳng lẽ ta không hiểu chuyện đó hay sao? Chỉ thấy trên đầu tường có một người nhảy vào, đạp lên cái đu của ta. Y ôm chặt ngang hông ta, vận sức nhún mạnh, cái đu bay tít lên trời. Ta cảm thấy mình bay ra ngoài như đằng vân giá vũ, cứ tưởng phen này hai người sẽ cùng ngã chết. Nào ngờ tay trái y ôm lấy ta, tay phải chụp vào một cành cây to ở ngoài tường, rồi lại bắn người lên, nhẹ nhàng rơi ra xa mấy trượng.
Lúc đó ta hoảng sợ đến nỗi hồ đồ, đưa tay đấm loạn xạ lên mặt của y. Y đưa đầu ngón tay điểm vào dưới nách ta một cái, thân thể ta lập tức bủn rủn, không động đậy được nữa. Phía sau có nhiều người lớn tiếng hò hét đuổi theo, nhưng âm thanh càng lúc càng xa.
Y cứ ôm ta chạy hơn nửa ngày, lên một ngọn núi cao, chui vào sơn động trên vách núi dựng đứng. Y giải huyệt đạo cho ta, rồi nhìn ta cười rất dễ sợ. Ta bỗng nhớ đến hai vị tẩu tẩu, nghĩ bụng: “Nếu bị sỉ nhục như vậy, thì chết đi trong trắng còn hơn.” Thế là ta đập đầu vào núi đá. Y nắm lưng ta kéo lại, nên ta mới không chết, chỉ để lại một cái sẹo ở đây.”
Vừa nói bà vừa chỉ vào vết sẹo trên trán của mình. Viên Thừa Chí thấy vết sẹo đó bị mái tóc che khuất một phần, nhưng lộ ra ngoài đến hơn một tấc, dài đến tận đỉnh đầu. Vết thương lúc đó đúng là không nhẹ.
Ôn Nghi than thở:
“Nếu ta đập đầu vào đá mà chết, thì tốt cho y hơn nhiều. Y kéo ta lại một cái, chính là rước khổ vào mình. Lúc đó ta ngất xỉu tại chỗ, khi tỉnh dậy thì trên người có phủ một tấm chăn. Ta giật bắn mình, suýt ngất lần nữa. Nhìn lại thấy y phục trên người mình còn rất đàng hoàng, ta mới yên tâm hơn một chút, nghĩ bụng: “Chắc là thấy mình tự sát, tên ác nhân này đã phát thiện tâm nên chưa ra tay hãm hại.”
Ta nhắm nghiền mắt lại, không nhìn y, cũng không dám nghĩ đến những chuyện đang xảy ra. Y sợ ta tự sát nữa, nên canh giữ suốt hai ngày đêm, ngồi bên nói chuyện với ta. Dĩ nhiên ta không thèm nói gì. Y nấu cho ta ăn, ta cứ khóc, không ăn bất luận thứ gì.
Đến sáng ngày thứ tư, ta đói đến nỗi hoa cả mắt. Y nấu cho ta một chén canh thịt rất lớn, nhẹ nhàng dỗ ta uống, nhưng ta không uống. Y đột nhiên túm lấy ta, bóp mũi ta rồi đổ tô canh thịt vào miệng, ép ta nuốt hơn nửa chén canh. Tay y vừa buông lỏng, ta lập tức phun một búng canh vào giữa mặt y.
Ta muốn chọc y nổi giận, chém ta một đao chết đi cho xong, để khỏi bị bức hiếp rồi bán vào kỹ viện, khổ sở như hai vị tẩu tẩu. Nào ngờ y không giận, chỉ mỉm cười rồi lấy tay áo chùi nước canh trên mặt. Y ngẩn ra nhìn ta, không ngớt thở dài.”
Viên Thừa Chí và Thanh Thanh bất giác nhìn nhau một cái. Thanh Thanh đỏ hẳn mặt lên.
Ôn Nghi tiếp: “Đêm đó y nằm ngoài cửa động, hỏi ta: “Ta hát một bài cho cô nghe có được không?” Ta gắt: “Không thích nghe.” Y mừng đến nhảy chồm lên, nói: “Ta cứ tưởng cô bị câm, thì ra cũng biết nói.” Ta lại mắng: “Ai bị câm? Nhưng gặp người xấu thì ta không thèm nói chuyện.” Y không nói chuyện nữa, hoan hỉ ngồi hát những khúc sơn ca. Hát đến nửa đêm, tới khi mặt trăng ló lên y vẫn còn hát. Từ nhỏ đến lớn ta sống trong một đại gia, chưa từng nghe loại sơn ca như vậy.”
Ôn Nam Dương hét lên: “Cô vừa sợ lại vừa muốn nghe phải không? Ta không đủ kiên nhẫn để nghe cô kể những chuyện làm mất thể diện nữa.” Nói xong, hắn sải bước đi ra khỏi đình.
Thanh Thanh nói: “Nhất định bá bá đi mách các vị gia gia.”
Ôn Nghi đáp: “Cứ để ông ấy đi mách, bây giờ ta không cần gì nữa.”
Thanh Thanh nói: “Má má! Má má kể tiếp đi.”
Ôn Nghi kể tiếp:
“Sau đó ta ngủ thiếp đi, sáng sớm hôm sau tỉnh dậy không thấy y đâu. Ta muốn trốn về nhà, nhưng sơn động này ở trên đỉnh một ngọn núi cao dốc đứng, không có đường xuống. Chỉ có những người giỏi khinh công như y mới lên xuống được. Mãi đến giữa trưa y mới quay lại, mang về cho ta rất nhiều đồ trang sức, vàng bạc, phấn son. Ta không nhận, quẳng hết xuống vực sâu. Nhưng y không giận, đến đêm lại hát cho ta nghe.
Một hôm y đem một mớ gà con, mèo con, rùa con lên đỉnh núi. Y biết ta không nhẫn tâm ném những con vật dễ thương này xuống vực. Suốt ngày y ngồi cạnh ta, chơi với những con mèo, đút cho lũ rùa con ăn, rồi lại hát. Buổi tối ta ngủ trong sơn động, y không bước vào một bước.
Ta thấy y không xúc phạm mình nên yên tâm hơn, bắt đầu chịu ăn uống. Trong suốt một tháng ta không thèm nói chuyện, nhưng y thủy chung vẫn rất dịu dàng, đối xử hòa nhã với ta. Ngay cả gia gia và má má cũng không chiều chuộng ta như thế.
Mấy ngày sau bỗng nhiên y nhăn mặt, nhìn ta một cách hung dữ. Lúc đó ta sợ hãi bật khóc lên. Y thở ra một hơi, rồi dỗ ngọt cho ta nín khóc. Đêm hôm ấy ta nghe tiếng y khóc, khóc rất thương tâm. Lát sau trời đổ mưa lớn, nhưng y không vào trong động. Ta không nỡ, gọi y vào sơn động tránh mưa, y cũng mặc kệ.
Ta hỏi: “Tại sao ngươi khóc?” Y thô lỗ đáp: “Ngày mai là ngày giỗ của gia gia, má má, ca ca, tỷ tỷ của ta. Hôm đó cả nhà ta đã bị gia đình cô hại chết. Dù sao thì ngày mai ta cũng phải giết một người để trả thù. Nhưng bây giờ trong nhà cô phòng bị rất nghiêm mật, lại còn mời Lý Thác đạo nhân phái Không Động và Thanh Minh thiền sư ở Thập Phương Tự đến giúp. Tuy hai người này rất lợi hại, nhưng chẳng lẽ ta chịu buông tay hay sao?”
Y vừa nói vừa nghiến răng ken két, rồi đội mưa mà chạy xuống núi. Đến xế chiều hôm sau, y vẫn chưa trở lại. Lúc đó ta có phần nhớ y, lại mong y được bình yên trở về.”
Nghe đến đây Thanh Thanh lén nhìn Viên Thừa Chí một cái, xem thử chàng có khinh rẻ mẹ con mình hay không. Nhưng nàng thấy Viên Thừa Chí vẫn cung kính ngồi yên, chú ý lắng nghe. Nàng bỗng cảm thấy nhẹ nhàng, thở ra một hơi.
Ôn Nghi nói:
“Lúc đó trời sắp tối. Thỉnh thoảng ta lại nhìn xuống núi, không biết bao nhiêu lần nữa. Cuối cùng cũng thấy trên đỉnh núi đối diện có bốn người đang rượt đuổi nhau, thân pháp cực nhanh. Ta cố gắng nhìn kỹ, người đầu tiên quả nhiên là y. Đuổi theo y là một đạo sĩ, một hòa thượng, và người thứ tư là gia gia của ta. Y cầm Kim Xà Kiếm một mình đánh với ba người, vừa đánh vừa chạy.
Được một hồi, hòa thượng dùng thiền trượng quét ngang đầu y. Thấy y không có đường tránh né, ta lo lắng trong lòng, bất giác kêu lớn. Nào ngờ y hoành Kim Xà Kiếm trở lại, chặt đứt một khúc thiền trượng của hòa thượng đó. Gia gia nghe tiếng kêu, quay lại nhìn thấy ta, bèn không đánh nữa mà chạy về hướng ngọn núi này.
Y lộ vẻ lo lắng, xuất hai chiêu kiếm ép hòa thượng và đạo nhân kia lùi lại, rồi đuổi gấp theo. Bây giờ thì gia gia của ta chạy trước, y chạy giữa, một tăng một đạo chạy sau cùng, chẳng bao lâu bốn người đã chạy xuống thung lũng. Y đuổi kịp gia gia, cố cản trở không để ông ấy chạy tới ngọn núi này.
Đánh được mấy hiệp thì một tăng một đạo đã đuổi tới nơi. Gia gia được rảnh tay, lại trèo lên ngọn núi ta đang đứng. Bốn người vừa đánh vừa rượt đuổi nhau, chốc lát đã đến nơi. Ta thật sự vui mừng, gọi lớn: “Gia gia! Mau mau đến đây.” Lúc đó y giống như người điên, nhảy xổ tới xuất liền ba chiêu kiếm, ép gia gia lùi lại. Gia gia đánh không lại y, sắp gặp nguy thì hai người tăng đạo đến giải vây.
Gia gia hô lớn: “A Nghi, ngươi ra sao rồi?” Ta đáp: “Con không sao. Gia gia yên tâm đi.” Gia gia nói: “Được! Để ta xử lý xong tên gian tặc này rồi nói chuyện.” Ba người lại vây y vào giữa.
Đạo nhân lớn tiếng nói: “Kim Xà Lang Quân! Phái Không Động chúng ta không thù không oán với các hạ, chỉ vì thấy các hạ quá đáng nên mới đứng ra giải hòa. Ta không muốn giúp bên nào. Nếu các hạ đồng ý dừng tay, từ nay về sau không kiếm chuyện với nhà họ Ôn nữa, thì vụ này có thể chấm dứt ở đây.”
Y quát trả: “Thù giết cha, mẹ, anh, chị, ta không thể không trả.”
Hòa thượng nói: “Thí chủ đã giết rất nhiều người, tưởng đã đủ rồi. Bần tăng khuyên thí chủ hãy nể mặt hai người xuất gia này mà dừng tay đi.”
Y đột ngột vung kiếm đâm tới hòa thượng, thế là bốn người tiếp tục ác đấu. Đạo nhân dùng thứ binh khí gì trông lạ mắt, chiêu thức khác thường. Còn thiền trượng của hòa thượng đã cụt một nửa, nhưng vung ra cũng nổi gió vù vù, kình lực rất mãnh liệt.
Y càng đánh càng không thành chiêu thức gì nữa, mồ hôi toát đầy đầu. Đột nhiên y bước hụt chân, loạng choạng suýt nữa té nhào. Hòa thượng vung thiền trượng đập xuống, y né qua một bên tránh được. Khi y nghiêng người như vậy, vô tình nhìn thấy mặt ta. Sau này y kể lại: “Lúc đó ta đã kiệt sức rồi, nhưng khi thấy muội lộ vẻ lo lắng cho mình, đột nhiên tinh thần phấn chấn hẳn lên.”
Y múa kiếm càng lúc càng nhanh. Lúc đó sương trong thung lũng bắt đầu bốc lên dày đặc, trong đám sương mù chỉ còn thấy kiếm quang lấp loáng. Bỗng nghe y hô lớn: “Ôn cô nương đừng sợ! Xem đây!”
Hòa thượng đột nhiên la lên một tiếng rồi lăn xuống vực thẳm, thì ra sau gáy bị trúng một mũi Kim Xà Truy. Gia gia của ta và đạo nhân đều giật mình kinh hãi. Thừa lúc y phóng kiếm đâm vào gia gia của ta, đạo nhân tập kích sau lưng. Y bỗng quát lên một tiếng, đưa ngược hai ngón tay trái ra sau, đâm vào cặp mắt đạo nhân. Đạo nhân vừa cúi đầu xuống, y vung kiếm quét ngang qua trúng vào giữa lưng, thế là đạo nhân bị chặt thành hai khúc.”
Thanh Thanh sợ hãi la lên một tiếng.
Ôn Nghi kể tiếp:
“Y thu kiếm về, đâm tới gia gia của ta. Gia gia thấy hai tay trợ thủ cao cường liên tiếp bị giết, hoảng sợ đến nỗi kinh tâm động phách, cương trượng mỗi lúc một vụng về chậm chạp. Ta liền chạy ra khỏi động, la lên: “Dừng tay, dừng tay!” Y vừa nghe đã dừng tay lại ngay. Ta nói: “Đây là phụ thân của ta.” Y giận dữ nhìn gia gia một cái rồi bảo: “Đi đi! Ta tha mạng ông.” Gia gia lộ vẻ bất ngờ, quay lưng đi ngay.
Ta suốt ngày chưa được ăn gì, lại phải chứng kiến trận đấu kinh hồn vừa rồi. Khi thấy y tha mạng gia gia, ta mừng quá, đột nhiên loạng choạng té xuống. Y vội chạy tới đỡ ta dậy. Ta nhìn qua vai y ra ngoài, thấy vẻ mặt gia gia đầy sát khí, rồi gia gia đột nhiên đưa cương trượng lên, nhằm đánh vào sau gáy y.
Y đang chăm chú xem ta có bị thương hay không, hoàn toàn không đề phòng gia gia đánh lén. Ta nhịn không được, bất giác la lên: “Cẩn thận!” Y lập tức nghiêng người, nhưng chỉ né được cái đầu, đưa lưng hứng lấy phát trượng. Y quay lại giật lấy cương trượng quẳng xuống vực sâu, đưa song chưởng lên định đánh ra. Gia gia biết mình không đỡ nổi, nhắm mắt chờ chết. Bỗng y quay lại nhìn ta một cái, thở dài rồi bảo gia gia: “Ông mau rời khỏi đây đi, kẻo ta đổi ý kiến lại không tha nữa.” Gia gia vội vã bỏ chạy xuống núi.
Lưng y bị cương trượng đả thương rất nặng. Gia gia vừa đi khuất, y đã ọe ra một ngụm máu tươi, phun ướt cả ngực áo ta.”
Thanh Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Gia gia không còn biết thể diện là gì nữa. Quang minh chính đại đánh nhau không lại, lén hạ độc thủ sau lưng.”
Ôn Nghi thở dài rồi nói:
“Đúng ra thì y là đại cừu nhân, giết liên tiếp mấy chục mạng trong gia đình ta. Nhưng khi thấy y bị bao vây, tấn công, ám toán, ta không nén nổi lòng mình hướng về y. Đúng là oan nghiệt từ kiếp trước.
Y lảo đảo bước vào trong động, lấy thuốc trị thương ra uống, lại oẹ ra rất nhiều máu tươi. Ta sợ quá, chỉ biết khóc chứ không làm gì được. Bị thương mà thần sắc y lại vui vẻ, hỏi ta: “Ai làm gì cô nương mà khóc?” Ta vừa khóc vừa nói: “Ngươi bị thương nặng đến thế này…” Y mỉm cười hỏi: “Cô nương vì ta mà khóc đấy ư?” Ta không nói gì được, vừa đau lòng vừa khó xử.
Hồi lâu y mới nói: “Từ khi cả nhà ta bị Lục thúc của cô hại chết, chưa có ai quan tâm đến ta. Hôm nay, ta giết được một ông anh họ của cô, tổng số đã bốn mươi người rồi, lẽ ra còn phải giết mười người nữa. Nhưng trừ vào chỗ nước mắt của cô, từ nay ta sẽ dừng tay.” Ta chỉ biết khóc.
Y lại nói: “Nữ nhân trong gia đình cô, ta cũng không hại nữa. Đợi vết thương lành, ta sẽ đưa cô về nhà.” Ta không lý giải được cảm xúc của mình như thế nào, nhưng thấy y hứa không giết người nữa đã là tốt rồi. Vì thế mấy ngày sau, ta nấu canh nấu cơm, quan tâm phục vụ cho y. Y thỉnh thoảng lại phun máu ra, có lúc nửa mê nửa tỉnh, luôn mồm kêu má má.
Có một hôm, suốt ngày y hết hôn mê lại nói lảm nhảm mãi đến xế chiều. Ta thấy không làm gì được nữa, khóc đến nỗi mắt sưng vù lên. Y đột nhiên mở mắt ra, mỉm cười rồi nói: “Không sao, ta không chết đâu.” Hai ngày sau, quả nhiên y dần dần bình phục.
Sau này y nói với ta: “Hôm đó trúng một đòn cương trượng, lẽ ra ta không sống nổi nữa. Nhưng sau khi ta chết, muội bị nhốt trên đỉnh núi cao không thể leo xuống, người nhà muội lại sợ ta mà không dám đến tìm, muội chắc chắn phải chết đói. Vì nghĩ đến muội mà ta cố sống.””
Thanh Thanh nói xen vào: “Má má! Phụ thân đối với má rất tốt, rất có lương tâm.” Nói xong, nàng giận dữ nhìn Viên Thừa Chí. Mặt chàng nóng bừng lên, rồi quay đầu đi, không dám để ánh mắt mình chạm vào ánh mắt nàng nữa.
Ôn Nghi lại nói: “Thân thể y dần dần hồi phục, kể lại rất nhiều chuyện hồi nhỏ, được cha mẹ cưng chiều thế nào, anh chị yêu mến ra sao. Có lần y bệnh, mẹ y ngồi bên giường y ba ngày ba đêm không ngủ. Thế mà chỉ trong một đêm, gia đình y bị Lục thúc giết sạch. Con người này tuy thủ đoạn tàn độc, nhưng khi kể đến người thân của mình thì ngữ khí lại rất lương thiện hiền hòa. Y lại lấy một cái yếm màu đỏ có thêu hoa cho ta xem, nói là mẹ thêu hồi mới thôi nôi.”
Kể đến đây, Ôn Nghi lấy trong bọc ra một cái yếm của trẻ nít, đặt lên bàn. Viên Thừa Chí thấy cái yếm này may bằng đoạn đỏ, thêu một đứa bé mập mạp đang ngủ trên một tàu lá chuối. Đứa bé mập mạp sống động trông rất dễ thương, mũi thêu tinh tế. Có thể thấy khi thêu cái yếm này, người mẹ đã dồn hết tình yêu con vào đó.
Viên Thừa Chí từ nhỏ đã mất cha mẹ. Khi nhìn cái yếm, chàng nghĩ đến thân phận mình, không nén nổi chua xót trong lòng.
Ôn Nghi nói tiếp:
“Y thường hát những khúc sơn ca cho ta nghe, lại lấy gỗ khắc thành chó con, ngựa con, búp bê cho ta chơi, cứ nói ta giống như trẻ nít chẳng hiểu biết gì. Sau này vết thương lành hẳn, y càng lúc càng lộ vẻ không vui. Ta nhịn không nổi phải hỏi tại sao, thì y nói: “Ta không nỡ xa nàng.” Ta đáp: “Thế thì ta ở đây với ông.” Y rất vui mừng, vừa hò hét vừa nhào lộn giữa hai ngọn cây lớn trên đỉnh núi, hệt như một con khỉ vậy.
Y kể: “Ta có một tấm bản đồ, vẽ nơi chôn giấu một kho báu cực lớn, chứa kim ngân châu báu nhiều đến mức không tưởng tượng nổi. Trước đây Yến Vương soán vị, đánh từ Bắc Kinh đến Nam Kinh. Kiến Văn hoàng đế vội vàng chạy trốn, phải giấu toàn bộ trân châu bảo bối trong nội phủ vào một chỗ bí mật ở Nam Kinh. Khi Yến Vương tiếp vị, lục nát thành Nam Kinh mà cũng không tìm được. Yến Vương đã phái Tam Bảo thái giám tới quần đảo Nam Dương mấy lần, một là để điều tra tung tích Kiến Văn hoàng đế, hai là để tìm kiếm số châu báu này.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Thì ra tấm bản đồ giấu trong Kim Xà Bí Kíp là bản đồ kho báu đó.”
Ôn Nghi tiếp: “Y nói là Thành Tổ hoàng đế suốt đời không tìm được tấm bản đồ, thế mà mấy trăm năm sau y lại tình cờ có được. Đại thù đã báo, y phải đi tìm kho báu này, sau khi tìm được sẽ đến đón ta. Bây giờ y tạm đưa ta về nhà trước.”
Kể đến đây, giọng bà khẽ hẳn đi: “Y không nỡ rời ta. Thật ra trong lòng ta cũng có phần không nỡ, nhưng… nhưng… ta không thể tùy tiện đi theo y như vậy. Sau khi ta về nhà, mọi người không coi ta ra gì cả. Ta rất giận dữ. Họ đã không đủ bản lãnh bảo vệ con gái nhà mình, thế mà khi ta trở về thanh bạch, mọi người lại kéo đến sỉ nhục ta. Nhưng ta cứ mặc kệ, không nói gì đến họ.”
Thanh Thanh nói: “Đúng lắm! Má má có làm gì sai đâu?”
Ôn Nghi nói: “Ta ở nhà đợi mất ba tháng, rồi một đêm đột nhiên nghe dưới cửa sổ có tiếng hát. Ta vừa nghe giọng là biết ngay y đến, liền mở cửa sổ cho y vào, hai người gặp nhau mừng mừng rỡ rỡ. Đêm đó ta trao thân cho y, nên có đứa bé này. Đó là do ta tình nguyện, mãi đến bây giờ vẫn không hối hận chút nào. Người ta nói là y cưỡng bức ta, nhưng không phải vậy. Thanh nhi! Phụ thân của con đối xử với má má rất tốt. Chẳng những ông ấy yêu thương mà còn tôn trọng má má. Thủy chung ông ấy chưa làm trái ý má má lần nào.”
Viên Thừa Chí âm thầm thán phục dũng khí của bà. Nghe nhắc đến mối tình thâm hậu, bất giác trong lòng chàng nảy ra mối cảm thông.
Đột nhiên Thanh Thanh hát nhỏ: “Một bầy chim nhạn, đến từ phương Nam. Con bay thành đôi, con bay đơn lẻ. Nhạn bay đôi vui vẻ, nhạn đơn côi vất vả. Nhìn nhạn đơn côi, ta nghĩ đến chàng. Ta buồn như chàng, chàng buồn như ta.”
Giọng hát của Thanh Thanh uyển chuyển dịu dàng, tràn đầy u uất.
Ôn Nghi ủ rũ nói: “Đó là bài hát mà phụ thân của Thanh Thanh thường hát cho ta nghe. Thanh Thanh hồi nhỏ được ta bồng bế, thường nghe bài hát này. Nó nghe mãi, quả nhiên đã thuộc mấy khúc.”
Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó chắc Hạ tiền bối đã tìm được kho tàng rồi?”
Ôn Nghi đáp:
“Y nói là chưa tìm được, nhưng đã có đôi chút manh mối, chỉ vì lúc nào cũng nhớ ta nên không muốn vì tìm kho báu mà đến trễ. Khi y nói đến chuyện kho báu, ta không để ý nghe lắm. Hai ta bàn bạc, định sáng hôm sau lén lút trốn đi. Lúc đó ta hoan hỉ vô cùng, không phòng bị gì cả, không ngờ mình nói gì cũng bị nghe trộm hết.
Sáng hôm sau, trời chưa sáng hẳn, ta đã thu dọn quần áo rồi viết thư để lại cho gia gia, đang định lẻn đi thì bỗng có người gõ cửa. Dĩ nhiên ta rất sợ. Y bèn nói: “Không sao! Dù có thiên binh vạn mã, hai ta cũng phải rời khỏi đây.” Y cầm Kim Xà Kiếm, ra mở cửa phòng. Đại bá bá, Nhị bá bá và gia gia bước vào. Ba người đều khoác trường bào, tay không binh khí, trên mặt mỉm cười, hoàn toàn không ra vẻ thù địch. Chúng ta thấy vậy không khỏi kinh ngạc.
Gia gia nói: “Việc của hai ngươi, chúng ta biết cả rồi. Đây cũng là oan nghiệt kiếp trước. Lần trước ngươi không giết ta, ta đã hiểu rồi. Từ nay về sau chúng ta kết thành thân thích, quyết không động đao thương nữa.”
Y tưởng gia gia sợ mình tiếp tục giết người, bèn nói: “Ông yên tâm, ta đã hứa với lệnh tiểu thư từ lâu rồi, không làm hại gia đình ông nữa.”
Gia gia nói: “Nhưng lén lút trốn đi thế này thì không được. Ngày mai phải cưới gả đàng hoàng, bái đường nghiêm chỉnh.” Y lắc đầu không tin, gia gia bèn nói: “A Nghi là đứa con gái thương yêu độc nhất của ta. Ta không thể để nó bỏ trốn với người khác, suốt đời không ngẩng đầu lên được.” Y thấy câu này có lý, nào ngờ vì nghĩ đến ta mà bị gạt.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Lệnh tôn lừa gạt ông ấy, không phải thật lòng ư?”
Ôn Nghi gật đầu, lại nói:
“Gia gia dọn phòng khác cho y nghỉ ngơi, để chuẩn bị lo đám cưới. Y không tin tưởng, nên thức ăn và rượu gia đình ta bưng tới, y đều cho chó ăn trước. Chó ăn vào hoàn toàn vô sự, thế mà y vẫn không yên tâm, hoàn toàn không chạm môi vào. Đến khuya y đem đổ hết, rồi chạy lên thị trấn Tịnh Nham mua thức ăn.
Một đêm, mẹ của ta đem một chén chè hạt sen tới, bảo ta: “Con bưng chén chè này cho huynh ấy ăn đi.” Ta không biết, lại nghĩ mẹ thương mình, nên hoan hỉ bưng vào phòng. Y thấy ta đích thân bưng vào, vui vẻ chẳng phòng hờ gì cả. Ăn mấy miếng, đang nói chuyện, đột nhiên sắc mặt y đổi hẳn, lập tức đứng dậy quát lên: “A Nghi! Sao cô ác thế?” Ta hoảng sợ hỏi lại: “Chuyện gì?” Y hỏi: “Sao cô hạ độc ta?”
“Sao cô hạ độc ta?” Câu này được Ôn Nghi nói ra nhẹ nhàng, nhưng người ta nghe mà phát sợ. Viên Thừa Chí nghĩ đến lúc đó Kim Xà Lang Quân vừa tức giận vừa đau lòng thế nào, bất giác chàng dựng tóc gáy lên, Thanh Thanh cũng vậy. Nước mắt của Ôn Nghi rơi lã chã xuống vạt áo, bà không nói tiếp được nữa.
Trong màn đêm vắng lặng, đột nhiên ngoài đình vang lên những tiếng cười độc ác. Ba người quay lại, thấy năm lão già họ Ôn sánh vai nhau bước đến, phía sau còn khoảng hai ba chục người tay cầm binh khí.
Ôn Phương Sơn hét lên: “A Nghi! Ngươi đem chuyện xấu xa của mình nói cho người ngoài nghe, còn biết thể diện là gì không?”
Ôn Nghi đỏ mặt lên muốn trả lời ngay, nhưng bà cố nén, quay lại bảo Thừa Chí: “Mười chín năm nay, ta chưa nói một câu nào với gia gia. Từ nay về sau, ta cũng không nói chuyện với ông ấy. Ta không muốn ở trong nhà họ Ôn này từ lâu rồi, nhưng đã có Thanh Thanh nên chẳng đi đâu được. Hơn nữa ta vẫn mong y chưa chết, sẽ có ngày đến đây tìm ta. Nếu ta rời khỏi đây, thì làm sao y tìm ta được? Bây giờ y đã chết rồi, ta không còn gì phải lo lắng nữa. Ta không sợ họ. Viên tướng công có sợ họ không?”
Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Thanh Thanh đã cướp lời: “Nhất định Thừa Chí đại ca không sợ.”
Ôn Nghi nói: “Được! Vậy ta kể tiếp.”
Bà tiếp tục nói lớn tiếng: “Lúc đó ta khóc òa lên, không biết nói gì làm gì cho phải. Đột nhiên cửa phòng bị đá bật ra, rất nhiều người cầm đao thương ùa vào trong.”
Bà chỉ ra ngoài đình mà nói:
“Lúc đó chính là những người này đứng ở cửa phòng. Họ… họ… đều nắm sẵn ám khí. Dù sao gia gia đối với ta cũng còn chút xíu tình phụ tử, bèn kêu gọi: “A Nghi, ra đây!” Ta biết, họ chỉ đợi ta ra ngoài là lập tức phóng ám khí vào. Gian phòng nhỏ xíu, y trốn vào đâu được? Ta la lên: “Ta không ra! Muốn giết thì giết cả hai cùng lúc đi.” Ta đứng cản trước mặt y, trong lòng chỉ có một ý niệm: “Phải hứng hết ám khí cho chàng! Không để bọn ác nhân làm hại chàng.”
Y đang ngồi trên ghế chau mày suy nghĩ, tưởng ta cố ý hạ độc, vì thương tâm nên không muốn phản kháng gì nữa. Nghe ta nói vậy, đột nhiên y nhảy chồm dậy, mừng rỡ hỏi: “Muội không biết trong chén chè hạt sen này có thuốc độc à?”
Ta bưng cái chén đó lên, thấy trong chén còn một ít nước chè, vừa dốc vào miệng vừa nói: “Muội sẽ cùng chết với huynh.” Y vẫy tay đánh rơi cái chén, nhưng ta đã uống rồi.
Y mỉm cười nói: “Được! Hai ta chết chung, tuyệt diệu.” Rồi y quay lại mắng: “Các ngươi lén hạ độc, dùng thủ đoạn đê tiện như thế không biết xấu hổ hay sao?”
Đại bá bá giận dữ nói: “Ai hạ độc? Ai mà hạ độc thì không phải anh hùng hảo hán. Ngươi vẫn tự coi mình bản lãnh cao siêu, hãy ra đây tỉ đấu một phen.”
Y nói: “Được!”, rồi lập tức xông ra lấy một đánh năm. Đúng là trong chè hạt sen không có thuốc độc, nhưng có Túy Tiên Mật, thuốc gia truyền của nhà họ Ôn. Chỉ uống vào một chút là từ từ mất hết sức lực, ngủ say như chết, một ngày một đêm mới tỉnh dậy được. Những người này không dùng thuốc độc để hại chết y, chỉ muốn đánh thuốc mê để từ từ hành hạ. Họ… họ thật là anh hùng hảo hán!”
Nói đến đây, ngữ khí của Ôn Nghi đầy vẻ oán hận. Nhưng tính cách bà rất dịu dàng, không biết nói những lời ác độc để mắng chửi người khác.
Ôn Phương Thi ở ngoài đình lớn tiếng quát lên: “Con tiện nhân vô sỉ này lẽ ra đã chết lâu rồi. Chúng ta nuôi nó mãi đến hôm nay, nó lại lấy oán trả ơn như vậy!”
Thanh Thanh nói: “Đúng là mẹ con ta đã ăn mười mấy năm cơm gạo trong nhà họ Ôn này, nhưng… Tứ gia gia! Hai năm nay ta đã tìm được rất nhiều kim ngân châu báu cho các ông, cho dù một trăm đời người cũng không ăn hết được. Mẹ con ta mắc nợ nhà họ Ôn này bao nhiêu, đã trả sạch sẽ rồi.”
Ôn Phương Đạt không muốn vạch xấu cho người xem lưng nữa, bèn quát lên: “Này, họ Viên kia! Ngươi dám đấu với năm lão già này không?”
Hai hôm trước Viên Thừa Chí còn nể mặt họ là trưởng bối của Thanh Thanh, nên đối xử rất lễ phép. Bây giờ đã nghe Ôn Nghi kể những chuyện hiểm độc của nhà này, chàng không nén nổi mối phẫn hận trong lòng nữa, bèn quát trả: “Hừ! Đừng nói là năm người, dù có tới mười người ta cũng không sợ.”
Ôn Nghi cười nhạt rồi nói: “Đêm hôm đó, năm anh em họ liên thủ đánh một mình y. Lẽ ra y vẫn chống đỡ được, nhưng vì đã uống Túy Tiên Mật nên càng đánh tay chân càng bủn rủn. Năm anh em họ đã luyện xong Ngũ Hành Trận, khi đánh nhau phối hợp chặt chẽ năm người như một…”
Nghe đến ba chữ “Ngũ Hành Trận”, đột nhiên Viên Thừa Chí nhớ lại Kim Xà Bí Kíp đã nói tường tận về cách phá Ngũ Hành Trận. Chàng đột nhiên hiểu hết, thì ra là thế.
Ôn Phương Sơn hét lên: “Ngươi ăn cháo đá bát, tiết lộ bí mật gia truyền.”
Ôn Nghi mặc kệ cha hét gì thì hét, vẫn kể với Viên Thừa Chí: “Y ráng sức, cố mau mau đánh ngã một trong năm người để phá Ngũ Hành Trận. Nhưng mỗi lúc y một thêm choáng váng, bước chân lảo đảo. Lúc đó ta kêu: “Huynh chạy trốn nhanh lên! Muội vĩnh viễn không phụ huynh đâu.”
Bà kể ra câu này bằng một giọng thảm khốc, có lẽ hệt như tiếng kêu đêm ấy. Thanh Thanh hoảng sợ, la lên: “Má má!”
Thừa Chí nói: “Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi. Tiểu điệt nói chuyện với các vị gia gia và bá bá một lát, sáng mai sẽ đến thăm bá mẫu.”
Ôn Nghi nắm tay chàng kéo lại, la lên: “Không, không! Lòng ta đã uất ức mười chín năm rồi, đêm nay phải nói ra kỳ hết. Viên tướng công! Tướng công nghe ta nói hết đã.”
Viên Thừa Chí nghe thấy giọng bà đã pha nước mắt, bèn gật đầu đáp: “Tiểu điệt xin nghe tiếp.”
Ôn Nghi vẫn nắm chặt tay áo chàng không thả, kể tiếp:
“Họ muốn lấy mạng y, nhưng họ còn muốn phát tài hơn. Vì thế họ chỉ đánh cho y bị thương không gượng nổi, té ngã xuống đất rồi bắt lấy. Ta phóng lên người y, nhưng không biết vị thúc bá nào vung cước đá ta ra. Họ ép y giao ra tấm bản đồ vẽ kho báu. Y nói: “Bản đồ không ở trên người, ai giỏi thì theo ta mà lấy.” Họ lục lọi trên người y tỉ mỉ, quả nhiên không có bản đồ.
Họ đều thấy khó xử. Nếu thả y ra, khi thuốc mê tan hết thì không ai chế ngự được y nữa. Nhưng nếu giết y đi, thì kho báu đó vĩnh viễn không lọt vào tay mình. Cuối cùng, chính gia gia ta đưa ra ý kiến cao minh. Ha ha! Cao minh lắm, còn không phải hay sao? Lúc ấy y hôn mê ngất xỉu, ta cũng nằm bất tỉnh trên người y. Khi ta tỉnh lại thì họ đã cắt đứt hết gân tay gân chân của y rồi.
Dù y bản lãnh bằng trời, vĩnh viễn cũng không vận được kình lực ra ngoài nữa. Sau đó họ áp giải y đi lấy bản đồ, tìm kiếm báu vật. Ha ha! Cao minh lắm, có phải vậy không? Ha ha… ha ha…”
Thấy ánh mắt Ôn Nghi tán loạn, hơi thở gấp rút, thần trí có vẻ bất thường, Viên Thừa Chí bèn khuyên: “Bá mẫu! Bá mẫu về phòng nghỉ ngơi đi.”
Ôn Nghi nói: “Không! Tướng công mà đi khỏi đây là họ giết ta lập tức. Ta phải nói hết rồi mới chết được… Họ đem y rời khỏi đây, lại có hai hảo thủ phái Không Động đi theo. Ai cũng muốn tìm kiếm món hoạnh tài này. Không hiểu tại sao y vẫn thoát được. Chắc là y đã đưa họ một tấm bản đồ, nên họ vui mừng mà canh giữ lỏng lẻo hơn. Họ rất thông minh, nhưng lang quân của ta cũng chẳng dại gì. Bảy người bọn họ khi cầm được tấm đồ hình vẽ nơi chôn cất bảo tàng, sinh ra tranh đoạt lẫn nhau. Năm anh em lập kế, hại chết được hai người phái Không Động.”
Ôn Phương Thi giận dữ mắng: “A Nghi! Ngươi mà nói bừa bãi nữa thì coi chừng đấy.”
Ôn Nghi mỉm cười hỏi lại: “Ta cẩn thận làm chi nữa? Ông tưởng ta còn sợ chết hay sao?”
Bà quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Nào ngờ tấm bản đồ đó là đồ giả. Năm người đến Nam Kinh, tìm tới tìm lui hơn nửa năm trời, tốn hết mấy ngàn lạng bạc, nhưng một đồng xu mẻ cũng không tìm được. Ha ha! Thật không có gì hứng thú hơn nữa.”
Anh em họ Ôn từ ở phía ngoài đình giương mắt giận dữ nhìn vào, nhưng sợ Viên Thừa Chí nên không dám xông lên.
Ôn Nghi ngẩn ngơ xuất thần một lúc, rồi kể tiếp. Giọng bà vừa nhỏ vừa chậm hẳn đi: “Sau khi y trốn thoát, ta không nghe tin tức gì về y nữa. Gân tay gân chân bị đứt hết, y đã trở thành một phế nhân. Tâm khí y vốn cao ngạo, nếu không chết vì đau thì cũng chết vì tức tối.”
Ôn Phương Đạt la lên: “Họ Viên kia! Ngươi đã nghe con tiện nhân đó nói đến Ngũ Hành Trận rồi chứ? Có giỏi thì ra đây mà thử một phen.”
Ôn Nghi khẽ bảo: “Tướng công rời khỏi đây đi, đừng đấu với họ.”
Bà nhẹ nhàng thở ra một hơi, lại nói: “Mối oan khuất Kim Xà Lang Quân gặp phải, cuối cùng đã có người biết rồi.”
Viên Thừa Chí từng giao đấu với anh em họ Ôn, biết nếu đơn đả độc đấu thì không có lão nào là đối thủ của mình. Nhưng nếu năm lão cùng xuất thủ, lại có Ngũ Hành Trận tập luyện nhuần nhuyễn, e rằng khó chống đỡ. Trận pháp và cách phá Ngũ Hành Trận thì chàng đã học trong Kim Xà Bí Kíp, hiểu thấu hết rồi, không sợ gì lắm.
Nhưng năm ông lão họ Ôn này lại là tôn trưởng của Thanh Thanh. Phương pháp mà Kim Xà Lang Quân truyền thụ thì hiểm độc vô cùng, chàng không muốn dùng. Vì thế mà Viên Thừa Chí ngần ngừ một lúc.
Ôn Phương Thi lại la lên: “Sao? Không dám ư? Vậy thì ngoan ngoãn lạy mỗi người ba cái, chúng ta sẽ thả ngươi đi.”
Lão cười khẩy rồi tiếp: “Để lát nữa thì muốn lạy cũng không được đâu.”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình cần thì giờ để suy tính đàng hoàng.” Chàng vừa bước chân ra chốn giang hồ, kinh nghiệm còn rất nông cạn, không như những tay lão luyện giang hồ hễ gặp vấn đề nan giải là lập tức có đối sách ngay.
Chàng bèn dõng dạc nói: “Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn lợi hại vô cùng, vãn bối cũng muốn mở rộng kiến văn một chút. Nhưng bây giờ vãn bối đang rất mệt, xin nghỉ một giờ có được không?”
Ôn Phương Nghĩa lẹ miệng đáp ngay: “Một giờ thì một giờ, dù ngươi nghỉ tới mười ngày nửa tháng cũng không thoát được.”
Ôn Phương Sơn khẽ nói: “Coi chừng thằng lỏi này sử dụng ngụy kế gì.”
Ôn Phương Đạt nói: “Nhị đệ đã hứa rồi, cứ để nó sống thêm một giờ nữa, khỏi phải oán trách mà chết.”
Ôn Nghi lo lắng nói: “Viên tướng công! Tướng công đừng để họ lừa. Họ tàn ác đã quen, đâu có lòng tốt mà cho tướng công nghỉ ngơi một giờ? Nhiều năm nay họ vẫn không quên được kho báu đó. Họ muốn tìm cách ám hại tướng công, cắt đứt gân tay gân chân của tướng công, áp giải tướng công đi tìm kho báu. Tướng công mau dắt Thanh Thanh rời khỏi đây, chạy càng xa càng tốt.”
Ôn Phương Đạt nghe Ôn Nghi nói rõ dụng ý của mình, sắc mặt bỗng nửa xanh nửa trắng. Lão cười nhạt rồi nói: “Ba người bọn ngươi còn muốn chạy càng xa càng tốt nữa ư? Hừ, đâu có dễ thế? Họ Viên kia! Ngươi đến luyện võ sảnh mà nghỉ ngơi. Lát nữa chúng ta động thủ sẽ thuận tiện hơn.”
Viên Thừa Chí đáp: “Được!” Chàng lập tức đứng dậy, nghĩ bụng: “Xem ra không sử tuyệt chiêu thì không thoát thân được.”
Mẹ con Ôn Nghi đã biết Ngũ Hành Trận lợi hại, trong lòng rất lo lắng. Nhưng họ không có cách nào cản trở, đành theo chàng ra khỏi mái đình.
Vào đến luyện võ sảnh, Ôn Phương Đạt sai người thắp mấy ngọn nến lớn, rồi nói: “Khi nến cháy hết, chắc ngươi đã nghỉ ngơi đủ rồi.”
Viên Thừa Chí gật đầu, ngồi xuống một chiếc ghế đặt giữa sảnh. Ôn thị ngũ lão mỗi người lấy một chiếc ghế, ngồi thành vòng tròn bao vây chàng vào giữa. Năm lão cũng nhắm mắt nghỉ ngơi. Lại còn Ôn Nam Dương, Ôn Chính cùng mười mấy cao thủ của Kỳ Tiên Phái chia nhau ngồi trên mười sáu chiếc ghế thấp hơn, vây ở phía ngoài thành một vòng tròn lớn.
Viên Thừa Chí thấy mười sáu người này ngồi theo phương vị bát quái, đúng là phụ trợ cho Ngũ Hành Trận. Ngoài Ngũ Hành Trận lại còn Bát Quái Trận, phá trận khó càng thêm khó. Chàng ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ lại tỉ mỉ tất cả các loại võ công của sư môn. Càng nghĩ chàng càng thấy bị hai mươi mốt cao thủ này tấn công thì khó khăn lắm mới tự bảo vệ được. Muốn phá trận thoát thân còn khó hơn nhiều. Thời gian kéo dài, tinh thần khí lực mình suy giảm đi, chắc chắn phải thất bại.
Giả tỉ có thể dùng khinh công Mộc Tang đạo nhân đã truyền thụ mà thoát ra khỏi trận, thì số vàng kia làm sao đoạt lại? Hai mẹ con Ôn Nghi ở lại, khó mà tránh được họa sát thân. Bây giờ phải làm sao? Ngoài việc dùng bí pháp phá trận đã chép trong Kim Xà Bí Kíp, thật không còn cách nào khác.
Lúc chàng theo bí kíp mà luyện tập, ngoài việc cảm thấy thủ pháp quá ác độc ra, còn không hiểu tại sao võ công quá phức tạp, thậm chí có nhiều chiêu thức giống như rắn bò. Trong thực chiến cho dù võ công của địch thủ cao đến đâu, đông người đến mức nào, mình cũng không thể bị tấn công cùng lúc từ bốn phương tám hướng, nên lẽ ra không cần phòng thủ tới mức không lộ chút sơ hở nào như vậy. Bây giờ chàng bị vây khốn thế này mới tỉnh ngộ ra.
Thì ra năm xưa Kim Xà Lang Quân trúng phải gian kế, bị phế tay chân. Ông trốn thoát rồi trút hết tâm trí mà sáng tạo ra bộ võ công này, là để chuyên phá Ngũ Hành Trận. Dĩ nhiên ông muốn đến Tịnh Nham để trả thù, nhưng tiếc là gân ở tay chân đều bị cắt đứt, không vận được kình lực. Ông đành suy tính tỉ mỉ, ghi lại chiêu thức vào bí kíp, hy vọng người sau làm mình hả dạ.
Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ: “Mình vô tình mà học được bộ võ công này, nhờ thế mà hôm nay có thể thoát hiểm, lại có thể trút nỗi oán hận giúp vị ân sư chưa từng gặp mặt. Nếu dưới cửu tuyền mà ông ấy biết, nhất định sẽ rất vui mừng, không uổng một phen khổ tâm ngày trước.”
Chàng hoan hỉ mở mắt ra nhìn, thấy những ngọn nến trên bàn còn không đến một tấc. Ôn thị ngũ lão thấy mặt chàng khi lo âu khi mừng rỡ, không biết chàng đang suy tính gì. Nhưng họ nghĩ Ngũ Hành Bát Quái Trận này oai lực vô cùng nên không thèm để ý, chỉ giương mười con mắt nhìn khắp căn phòng, chỉ sợ có sơ hở để chàng chạy thoát.
Viên Thừa Chí nhắm mắt, ôn lại tỉ mỉ từ đầu đến cuối những chiêu thức phá trận ghi lại trong bí kíp. Nghĩ đến chiêu Khoái Đao Trảm Loạn Ma quyết thắng cuối cùng, chàng bỗng rùng mình một cái, mồ hôi lạnh đầy đầu, thầm la trong bụng: “Hỏng rồi! Chiêu này cố tình để lộ sơ suất, dẫn dụ đối thủ tấn công, rồi theo chỗ hở của trận pháp mà đột kích, nhưng muốn không mất mạng trước thì trên tay phải có bảo đao bảo kiếm để tự vệ. Kim Xà Lang Quân tính toán dựa theo Kim Xà Kiếm của ông. Bây giờ tay mình không có Kim Xà Kiếm, trong chốc lát làm sao tìm được bảo đao hay bảo kiếm?”
Thanh Thanh đứng bên chăm chú nhìn, bỗng thấy trên mặt chàng lộ vẻ lo lắng, mồ hôi đẫm trán. Nàng biết chưa giao đấu mà trong lòng đã chán nản khiếp sợ thì nắm chắc phần thua, nên bất giác lo lắng cho chàng.
Nến đã lụn, ngọn lửa nhấp nháy rung động, sắp tắt tới nơi. Viên Thừa Chí vẫn chưa nghĩ ra phương pháp phá trận, càng lo lắng hơn. Ngay lúc đó một đứa a hoàn bưng một chén trà tới, lên tiếng: “Tướng công! Xin dùng chén trà đường này.”
Chàng vốn đã khát nước từ lâu. Bây giờ tâm trí dồn hết về việc làm sao tìm được bảo kiếm để dùng, nên nghe mời trà là chàng nhận ngay, mơ hồ đặt lên môi, mở miệng định uống. Đột nhiên tay chàng rung động một cái, chén trà bị một mũi tụ tiễn đánh trúng, rơi loảng choảng rồi nát vụn. Thừa Chí nhìn lại thấy tay của Thanh Thanh chưa thu về kịp, biết mũi tên này do nàng phát ra. Chàng kinh hãi trong lòng, thầm la lên: “Nguy hiểm quá! Sao mình hồ đồ như thế, không đề phòng họ cho uống Túy Tiên Mật gì gì đó?”
Ôn Phương Ngộ thấy quỷ kế của mình bị Thanh Thanh lật tẩy, giận dữ không sao nhịn được. Lão ngoác mồm ra thóa mạ: “Con mẹ nó! Đẻ ra một đứa con gái đê tiện, ăn cháo đá bát thế này, đúng là tổ tông nhà họ Ôn không tích đức.”
Miệng lưỡi Thanh Thanh quyết không chịu thua người khác. Nàng nói ngay: “Tổ tông nhà họ Ôn tích nhiều đức lắm chứ? Sửa cầu, làm đường, cứu tế người nghèo, việc tốt nào cũng làm. Lại còn không cướp của, không giết người, không phóng hỏa, tuyệt đối không gian dâm bắt cóc.”
Ôn Phương Ngộ giận dữ, nhảy chồm lên định đánh. Ôn Phương Đạt vội cản: “Ngũ đệ, khoan đã! Cẩn thận thằng lỏi này.”
Thì ra lúc này, mặt mày Viên Thừa Chí rạng rỡ hẳn lên. Mũi tụ tiễn của Thanh Thanh đã nhắc chàng nghĩ đến chuyện dùng ám khí. Nhìn thấy mấy ngọn nến chập chờn, hai ngọn đã tắt ngấm, chàng bèn đứng dậy lên tiếng: “Được rồi, xin các vị chỉ giáo. Lần này phân thắng bại xong thì sao?”
Ôn Phương Đạt nói: “Nếu ngươi thắng thì cứ đem số vàng đó đi. Nếu ngươi không thắng, thì không cần phải nói nhiều.”
Viên Thừa Chí biết nếu mình thua thì dĩ nhiên tính mạng không giữ được. Chàng chỉ sợ nếu mình thắng thì họ tìm cách cãi chối, bèn nói: “Các vị hãy đem vàng ra đây. Phá trận xong là vãn bối lấy đi ngay.”
Ôn thị ngũ lão thấy chàng kề cận cái chết mà còn nói cứng, nghĩ bụng: “Cao thủ như Kim Xà Lang Quân còn bị Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn bắt được. Bây giờ chúng ta thêm mười mấy năm trời chuyên tâm nghiên cứu, sáng tạo thêm Bát Quái Trận để phụ trợ, thì làm sao ngươi trốn nổi?”
Trận thế này họ đã luyện rất thuần thục, đối phó với ba bốn chục hảo thủ vẫn còn thừa sức. Đây quả là bảo vật trấn phái của Kỳ Tiên Phái, rất ít khi sử dụng để khỏi bị người khác biết chỗ lợi hại. Lần này chỉ vì Viên Thừa Chí võ công quá cao, năm anh em người nào cũng mang tuyệt kỹ mà thảm bại trong vòng hai chiêu ba thức. Năm lão họ Ôn chỉ còn cách đem bản lãnh trấn sơn này ra sử dụng, không hơi đâu mà nghĩ đến chuyện người khác nói mình lấy đông hiếp ít.
Ôn Phương Đạt gọi gia nhân thay nến, rồi bảo Thanh Thanh: “Đem vàng ra đây.”
Thanh Thanh hối hận nghĩ: “Biết trước thế này thì đem vàng trả cho huynh ấy là xong.” Bây giờ nàng muốn trả cũng không kịp nữa, bèn xách cái bao đựng đầy vàng vào luyện võ sảnh, đặt lên bàn. Nàng nghĩ đến Viên Thừa Chí đang gặp nguy hiểm thế này mà vẫn không quên đoạt lại vàng cho An Tiểu Huệ, bất giác cơn tức giận lại nổi lên.
Ôn Phương Đạt vung tay trái quét qua cái bàn, hất cái bao đựng vàng ra. Liên tiếp những tiếng loảng xoảng, mấy chục thỏi vàng rải đầy mặt đất, sáng lóe cả mắt. Lão cười nhạt nói: “Nhà họ Ôn tuy nghèo, nhưng chừng đó vàng chưa đủ để vào trong mắt. Họ Viên kia! Nếu ngươi có bản lãnh phá được Ngũ Hành Trận thì cứ việc lấy đi.”
Nghe lão lớn tiếng, mọi người đều rút binh khí ra vây chặt Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí bỗng giật mình, nghĩ bụng: “Ngay cả trên mái nhà, họ cũng bố trí rồi. Thế thì trận pháp này làm sao hóa giải được?”
Nhưng chàng bỗng nghe Ôn Phương Thi la lên: “Trên mái nhà có người! Ai ở trên đó, mau xuống đây gặp ta.”
Trên mái nhà có người vừa cười ha hả vừa đáp: “Năm vị lão gia! Vinh mỗ đến chịu tội đây.”
Hai mươi mấy người vừa reo hò vừa nhảy xuống, người đầu tiên chính là bang chủ Du Long Bang, Vinh Thái.
Viên Thừa Chí lập tức nhẹ nhõm. Chàng nhìn Thanh Thanh một cái, thấy nàng hơi đổi sắc mặt, khẽ cắn môi.
Ôn Phương Đạt hỏi: “Lão Vinh nửa đêm quang lâm tệ xá, có gì chỉ giáo không? Ái chà! Lữ Thất tiên sinh cũng đến rồi.” Vừa nói lão vừa chắp tay chào một ông lão đứng phía sau Vinh Thái.
Ông lão đó trả lễ rồi nói: “Thì ra các vị huynh đệ đều khỏe mạnh cả. Đã lâu năm chúng ta không gặp mặt nhau.”
Vinh Thái mỉm cười nói: “Năm vị lão gia thật là có phước, sinh được một đứa cháu gái võ công đã cao, mưu kế lại khá. Không những Sa lão đại và mười mấy huynh đệ mất mạng dưới tay cô ấy, ngay cả Vinh mỗ cũng chịu phần thua thiệt.”
Ôn thị huynh đệ chưa biết chuyện xích mích giữa Thanh Thanh với những người này. Bình thường Kỳ Tiên Phái cùng Du Long Bang có đi lại với nhau. Lúc này cường địch trước mắt, dĩ nhiên họ không muốn gặp thêm phiền phức.
Ôn Phương Đạt bèn nói: “Lão huynh! Cháu gái ta có lỗi gì với lão huynh, chúng ta nhất định không bao che. Giết người thường mạng, thiếu nợ trả tiền, thế có được không?”
Vinh Thái nghe mà ngẩn ra, nghĩ bụng: “Mấy lão này từ xưa đến giờ cường hung bá đạo, sao hôm nay lại ăn nói dễ nghe đến thế? Chẳng lẽ họ sợ Lữ Thất tiên sinh hay sao?”
Y đảo mắt nhìn quanh, chợt thấy Viên Thừa Chí lại càng không hiểu nổi. Nhà họ Ôn có đại cao thủ này ở đây, Lữ Thất tiên sinh cũng chưa chắc thắng được, xem ra mình xử nhũn là hơn. Y bèn nói: “Du Long Bang cùng quý phái trước nay chưa hề xích mích. Tại hạ trước nay vẫn kính trọng các vị lão gia. Dù sao Sa lão đại cũng chết rồi, không thể sống lại được, chỉ trách hắn học nghệ không tinh. Nhưng số vàng này…”
Y đưa mắt nhìn những thỏi vàng rải rác dưới đất, nói tiếp: “Du Long bang bọn tại hạ đã theo dõi mấy trăm dặm đường, tốn không ít tâm huyết, lại có người vì đó mà mất mạng. Mọi người chúng ta đều kiếm miếng ăn trên chốn giang hồ…”
Nghe y nói đến đây dừng lại, Ôn Phương Đạt hiểu y chỉ nhắm vào đống vàng, bèn nói: “Vàng ở đây cả. Nếu huynh cần thì cứ lấy hết đi, không sao.”
Vinh Thái nghe lão nói chuyện hào phóng như vậy, cứ tưởng đó là một lời nói ngược để trêu chọc. Nhưng y nhìn lại thấy mặt lão không có chút ác ý nào, bèn đáp: “Nếu Ôn lão gia chịu tặng cho bọn tại hạ một nửa, coi như trợ cấp cho những huynh đệ thương vong của tệ bang, thì tại hạ cảm kích không ít.”
Ôn Phương Sơn bảo: “Huynh cứ lấy đi.”
Vinh Thái chắp tay lại nói: “Thế thì xin đa tạ.”
Tay y vừa buông xuống, một tên đại hán đứng sau lưng lập tức khom người xuống, nhặt những thỏi vàng. Nhưng ngón tay vừa chạm đến vàng, đột nhiên vai hắn bị đẩy một cái. Hắn cảm thấy một luồng đại lực ập tới, đứng không vững phải lùi mấy bước, ngẩng đầu lên thì thấy Viên Thừa Chí đứng trước mặt.
Viên Thừa Chí nói: “Vinh lão gia! Số vàng này là quân lương của Sấm Vương, lão gia muốn lấy thì có phần không ổn.”
Ở phương Bắc thì dĩ nhiên danh tiếng của Sấm Vương vang như sấm động, nhưng nhân vật giang hồ ở Giang Nam không biết ông lắm. Vinh Thái quay lại, mỉm cười nói với Lữ Thất tiên sinh: “Hắn định đem cái tên Sấm Vương ra hù dọa chúng ta.”
Lữ Thất tiên sinh đang cầm một ống điếu to lớn khác thường. Lão rít một hơi rồi phà khói ra, từ từ quay mình lại nhìn chòng chọc Viên Thừa Chí, ra vẻ hỏi: “Ngươi biết ta không?”
Viên Thừa Chí thấy lão vô lễ, trong lòng đã tức giận. Nhưng nhìn khí phách của lão, chàng biết đây là một nhân vật đã thành danh trong võ lâm, nên không dám khinh mạn. Chàng chắp tay thi lễ rồi hỏi: “Dường như tiền bối họ Lữ? Xin thứ lỗi, vãn bối mới đến Giang Nam nên chưa được quen biết.”
Lữ Thất tiên sinh phà khói thẳng vào mặt Viên Thừa Chí, lại rít một hơi nữa. Hai làn khói từ trong mũi lão bay ra như hai con rắn trắng, tụ lại hồi lâu không chịu tan.
Viên Thừa Chí vẫn rất bình tĩnh, không nói gì. Trên mặt Thanh Thanh tỏ vẻ tức giận, định mở miệng nói gì đó, nhưng Ôn Nghi đã vuốt nhẹ vai nàng. Thanh Thanh quay lại, thấy mẹ mình chầm chậm lắc đầu, bèn nuốt lại câu thóa mạ vào trong bụng.
Lữ Thất tiên sinh từ từ gõ ống điếu xuống nền gạch nghe lóc cóc một hồi lâu, dỗ hết tàn thuốc ra, lại từ từ nhét một ít sợi thuốc vào.
Bây giờ ngay cả Ôn thị ngũ lão cũng không nhịn nổi nữa. Họ cũng biết lão này thành danh đã lâu, năm xưa từng dùng Hạc Thần Quyền đánh bại vô số cao thủ, ống điếu trên tay lão là một món vũ khí kỳ lạ dùng để đả huyệt, cũng có thể đoạt binh khí của người khác. Nhưng bản lãnh lão thật sự như thế nào thì họ chưa được thấy.
Ôn thị ngũ lão đều mong hai bên nói chuyện không hợp rồi động thủ. Nếu Lữ Thất tiên sinh thắng thì đương nhiên là tốt, không thì lão cũng tiêu hao bớt sức lực của Viên Thừa Chí.
Lữ Thất tiên sinh từ từ lấy đá lửa trong bọc ra, gõ lách cách mấy cái. Thuốc lá còn chưa bén lửa, đột nhiên trên mái nhà có người hét lên: “Mau trả vàng cho ta!”
Một thiếu nữ và một thanh niên to lớn nhảy xuống, tiếp theo là một hán tử trung niên trạc ngoại ngũ tuần, ăn mặc kiểu người buôn bán, dáng vẻ trông rất buồn cười, tay trái cầm bàn tính, tay phải cầm cây bút. Ông này chậm rãi từ trên đầu tường nhảy xuống, không biết võ công cao thấp thế nào.
Viên Thừa Chí nhận ra thiếu nữ đó là An Tiểu Huệ, vừa mừng lại vừa lo. Chàng mừng vì có người đến giúp, nhưng lo vì không biết võ công của hai người đi cùng nàng như thế nào. Địch thủ trước mắt, ngoài Kỳ Tiên Phái lại có thêm Du Long Bang và Lữ Thất tiên sinh. Mẹ con Ôn Nghi và Thanh Thanh đã va chạm ra mặt với Ôn thị ngũ lão, tình cảnh cực kỳ nguy hiểm, không thể không cứu. Giả tỉ bản lãnh của hai người mới tới chỉ tương tự An Tiểu Huệ, thì chàng phải phân tâm lo lắng, lại càng rắc rối hơn.
Trong đám nhà họ Ôn có người bước ra chặn hỏi. Thanh niên to cao bèn la lớn: “Mau mau trả vàng lại cho chúng ta.” Y thấy những thỏi vàng rải trên mặt đất, cả mừng nói: “Ha ha! Thì ra ở đây cả.” rồi cúi xuống nhặt ngay.
Viên Thừa Chí chau mày, nghĩ bụng: “Người này hành sự lỗ mãng, e rằng công phu có giới hạn.”
Ôn Nam Dương thấy y khom xuống, bèn nhảy ra phóng cước đá vào mông. An Tiểu Huệ vội kêu lên: “Thôi sư ca, cẩn thận!”
Y nghiêng người tránh né rồi lập tức tấn công, song chưởng đẩy ra rất nhanh. Ôn Nam Dương tránh không kịp, cũng đưa song chưởng ra chống đỡ. Một tiếng “chát”, bốn chưởng giao nhau, hai bên đều lui mấy bước.
Thanh niên đó lại muốn bước lên, nhưng người ăn mặc kiểu nhà buôn bỗng gọi: “Hy Mẫn, khoan đã!”
Viên Thừa Chí nhớ lại An Tiểu Huệ đã nói, có một người sư ca họ Thôi cùng nàng hộ tống món vàng này, chỉ vì dọc đường hai người gây chuyện chia tay, nên mới sơ suất để Thanh Thanh trộm mất. Chàng đoán thanh niên này chính là cháu của Thôi Thu Sơn, tên là Thôi Hy Mẫn. Thế thì nhà buôn trông tức cười này chính là đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân rồi. Cây bút bên tay phải của ông phát ra ánh vàng lấp loáng, quả nhiên được đúc bằng đồng. Còn bàn toán bên tay trái thì đen sì, chắc là làm bằng sắt.
Chàng cực kỳ mừng rỡ, liền nhảy tới ngay, quỳ xuống khấu đầu rồi nói: “Tiểu đệ Viên Thừa Chí bái kiến đại sư ca.”
Người đó chính là Hoàng Chân. Ông đưa hai tay đỡ Viên Thừa Chí dậy, ngắm nghía tỉ mỉ rồi vui vẻ nói: “Chào sư đệ. Thì ra sư đệ còn trẻ như thế. Thật không ngờ được gặp ở đây.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Đại sư ca! Ân sư hiện đang ở đâu? Lão nhân gia có mạnh khỏe không?”
Hoàng Chân đáp: “Lúc này ân sư đang ở Nam Kinh. Lão nhân gia rất khỏe.”
An Tiểu Huệ bước tới nói: “Thừa Chí đại ca! Đây chính là Thôi sư ca mà muội đã nói.”
Viên Thừa Chí gật đầu chào một cái. An Tiểu Huệ thấy trên lưng Viên Thừa Chí có dính mấy cọng cỏ khô bèn đưa tay nhặt giúp, chàng mỉm cười ra vẻ cảm tạ. Thôi Hy Mẫn thấy vậy, sắc mặt bất bình thấy rõ.
Hoàng Chân quát bảo: “Hy Mẫn, sao vô lễ thế? Mau qua khấu đầu với sư thúc đi.”
Thôi Hy Mẫn thấy Viên Thừa Chí còn nhỏ hơn mình mấy tuổi, trong lòng không phục nhưng cũng chậm rãi bước tới, ra vẻ muốn quỳ. Viên Thừa Chí vội nói: “Không dám!”, đưa tay cản lại.
Thôi Hy Mẫn lập tức không quỳ nữa, chỉ chắp tay hô lớn: “Tiểu sư thúc!”
Hoàng Chân lại mắng: “Cái gì mà tiểu sư thúc, đại sư thúc? Dù ngươi lớn hơn sư thúc, thì sư thúc vẫn là trưởng bối. Ta già hơn ngươi, sao ngươi không kêu ta là lão sư phụ?”
Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi Thôi Hy Mẫn: “Thúc thúc của huynh có khỏe không? Ta rất nhớ ông ấy.”
Thôi Hy Mẫn đáp: “Thúc thúc rất khỏe.”
Lữ Thất tiên sinh thấy mấy người này gặp nhau chào hỏi, cứ liên hồi sư huynh đệ, sư thúc điệt, hoàn toàn không đếm xỉa gì tới những người đứng bên. Bây giờ lão nhịn không nổi nữa, bèn ngửa mặt nhìn lên mái nhà mà hỏi: “Loại người nào đến đây vậy?”
Lão vừa lên tiếng, mọi người đều giật mình. Thanh âm của lão chói tai kỳ lạ, vừa khàn khàn vừa nhọn hoắt, rất khó nghe.
Thôi Hy Mẫn bước lên một bước, nói: “Chỗ vàng này là của chúng ta, bị các ông đánh cắp đến đây. Bây giờ sư phụ dẫn chúng ta đến đây lấy lại.”
Lữ Thất tiên sinh vẫn ngẩng mặt nhìn trời, miệng phun khói trắng, cười nhạt mấy tiếng.
Thôi Hy Mẫn thấy lão này ỷ già nhìn người bằng nửa con mắt, tức tối nói: “Có chịu trả vàng hay không, ông nói rõ một câu đi. Còn nếu ông không chủ trương được, thì để người có thể làm chủ bước ra nói chuyện.”
Lữ Thất tiên sinh lại cười hai tiếng quái dị, rồi quay lại bảo Vinh Thái: “Ngươi nói đi, bảo thằng bé này biết ta là ai.”
Vinh Thái hét lên: “Ngươi nghe đừng hoảng sợ, vị này là Lữ Thất tiên sinh lừng danh đã lâu. Tuổi còn trẻ sao dám vô lễ như vậy?”
Thôi Hy Mẫn không biết Lữ Thất tiên sinh là ai, dĩ nhiên không hoảng sợ. Y quát lên: “Thất tiên sinh, Bát tiên sinh gì gì ta cũng mặc kệ. Hôm nay chúng ta đến đây là để đòi vàng.”
Vừa rồi Ôn Nam Dương giao đấu với y chưa phân thắng bại, trong lòng còn ray rứt, bèn nhảy ra hét lớn: “Muốn lấy vàng thì rất dễ. Nhưng phải xem thử các ngươi có bản lãnh gì không, thắng được ta rồi nói chuyện sau.”
Hắn không đợi đối phương trả lời, lập tức phóng tới đánh ra một quyền. Thôi Hy Mẫn nhất thời không đề phòng, bị đánh trúng vào vai. Y cả giận, xuất quyền đánh vào bụng Ôn Nam Dương nghe “bình” một tiếng. Hai người bị đau cùng nhảy ra, giương mắt nhìn nhau, rồi lại nhảy xổ vào.
Những tiếng bình bịch nổi lên loạn xạ, mỗi bên chớp nhoáng đã trúng mười mấy quyền. Cách đánh của hai người giống hệt nhau, phòng thủ sơ hở, tấn công liều mạng.
Viên Thừa Chí âm thầm than thở, nghĩ bụng: “Sao đồ đệ do đại sư ca dạy dỗ lại hỏng bét thế này? Nếu gặp hảo thủ, trên người trúng một hai quyền thì còn gì nữa? Chẳng lẽ Thôi thúc thúc cũng không chỉ điểm cho cháu mình được mấy chiêu hay sao?”
Chàng chưa biết Thôi Hy Mẫn tính tình thẳng thắn nóng nảy, lại không chú tâm học võ. May mà thân thể y rất khỏe mạnh, chịu vài cú đấm cũng không sao. Trong lúc hỗn chiến, y bỗng dùng hữu quyền phóng một hư chiêu. Ôn Nam Dương vừa né sang trái, tả quyền của y lập tức móc tới, đánh trúng ngay dưới cằm đối thủ. “Bình” một tiếng, Ôn Nam Dương té nhào xuống đất, ngất xỉu tại chỗ.
Thôi Hy Mẫn đắc ý nhìn sang sư phụ, chắc mẩm được khen. Nhưng y lại thấy sư phụ ra vẻ giận dữ, nên thật sự không hiểu, thầm nghĩ: “Mình thắng rồi, sao sư phụ lại trách?”
Tiểu Huệ thấy miệng y sưng vù, tai bên phải chảy máu đầm đìa, liền lấy khăn tay để lau máu cho. Nàng khẽ hỏi: “Sao huynh không tránh né, cứ nhắm mắt mà đánh như vậy?”
Thôi Hy Mẫn gắt: “Tránh né cái gì? Nếu lo tránh né thì làm sao đánh trúng hắn được?”
Lữ Thất tiên sinh vừa ồm ồm vừa the thé cất giọng: “Đánh ngã một tên lỗ mãng, có gì là đắc ý? Ngươi còn muốn vàng hay không?”
Đột nhiên lão nhảy lên đứng trên hai thỏi vàng, ống điếu trên tay ấn xuống một thỏi khác, rồi nói: “Bất kể ngươi dùng quyền đánh hay dùng chân đá, chỉ cần lấy được ba thỏi vàng dưới tay chân ta, thì tất cả những thỏi vàng này đều là của ngươi.”
Câu này vừa nói ra, mọi người đều cảm thấy lão quá ngông cuồng. Ai cũng thấy võ công Thôi Hy Mẫn không cao, nhưng kình lực khá mạnh. Chỉ dùng ống điếu đè lên thỏi vàng mà cho rằng không ai lấy được, e rằng quá xem thường người khác.
Thôi Hy Mẫn tức giận nói: “Ông đã nói rồi thì không được nuốt lời.”
Lữ Thất tiên sinh ngẩng mặt lên trời cười lớn, bảo Vinh Thái: “Ngươi có nghe không? Nó sợ ta nuốt lời kìa.”
Vinh Thái chỉ có cách cười theo, nhưng trong lòng không khỏi nghi ngờ.
Thôi Hy Mẫn nói: “Được, ta đến đây!”
Y nhảy tới ba bước, nhắm ngay vào thỏi bạc bị đè dưới ống điếu, dồn hết sức vào chân phải, ra chiêu Tảo Đường Thối đá quét ngang.
Viên Thừa Chí thấy rất rõ ràng, thầm nghĩ: “Phát đá này tối thiểu cũng nặng tới hai ba trăm cân. Công lực của Lữ Thất tiên sinh cao tới đâu cũng không thể dùng một cái ống điếu mà đè thỏi vàng không cho động đậy, trừ khi lão sử dụng yêu pháp ma thuật gì.”
Khi Thôi Hy Mẫn sắp đá tới, ống điếu của Lữ Thất tiên sinh bỗng hất nhẹ một cái, điểm vào đầu gối của y. Chân phải của Thôi Hy Mẫn lập tức tê liệt, nên phát đá giữa chừng bỗng nhiên bủn rủn rồi khom gối quỳ xuống. Lữ Thất tiên sinh chắp tay lại, vừa mỉm cười vừa nói: “Không dám! Tiểu huynh đệ hà tất đa lễ như thế.”
An Tiểu Huệ kinh hãi, vội chạy tới đỡ Thôi Hy Mẫn dậy, dẫn y đến trước mặt Hoàng Chân rồi nói: “Hoàng bá bá! Lão này giở trò gian xảo, sư bá dạy lão một phen đi.”
Thôi Hy Mẫn ngoác mồm ra thóa mạ: “Lão già này chuyên nghề ám toán, không phải là anh hùng hảo hán.”
Hoàng Chân đưa tay xoa vào hông Thôi Hy Mẫn, vỗ lên đùi giải khai huyệt đạo, rồi nói: “Chẳng lẽ ngươi trúng phải ám toán mới là anh hùng hảo hán hay sao? Thật là thán phục, thật là thán phục!”
Ông thấy thủ pháp của Lữ Thất tiên sinh thần tốc như thế, không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Không ngờ ở vùng Chiết Giang hẻo lánh này lại có hảo thủ đả huyệt như thế.” Tay trái Hoàng Chân sử dụng Thiết Toán Bàn làm binh khí, chuyên môn phong tỏa đoạt lấy binh khí của đối phương, còn tay phải dùng cây Đồng Bút, dĩ nhiên cũng giỏi về đả huyệt.
Ông đưa tay gảy lên bàn toán rồi nói: “Món nợ này ta ghi vào đây. Thời buổi này giao dịch bằng tiền mặt, không cho thiếu nợ. Lữ Thất tiên sinh, ra trả nợ đi.” Ông chĩa cây Đồng Bút ra trước, bước lên để đòi nợ cho đồ đệ của mình.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình là sư đệ, chắc phải lên trước.” Chàng bèn nói: “Đại sư ca, cho tiểu đệ lên trước. Nếu tiểu đệ thất bại, sư ca hãy xuất thủ.”
Hoàng Chân thấy tuổi chàng rất trẻ, thầm nghĩ: “Dù sư đệ đã học hết võ công bản môn thì hỏa hầu cũng chưa đủ. Chưa chắc sư đệ hơn Thôi Hy Mẫn bao nhiêu, nhất định không phải là đối thủ của Lữ Thất tiên sinh. Sư phụ tuổi già mới nhận một đứa đồ đệ nhỏ như thế, nhất định thương yêu vô cùng. Nếu sư đệ gặp phải chuyện gì, sư phụ há chẳng đau lòng? Chuyện này khác hẳn Thôi Hy Mẫn ra trận vừa rồi. Tên đồ đệ bảo bối của mình võ công đã tầm thường mà tính tình lại lỗ mãng tự cao. Bắt nó chịu khổ một tí, thì sau này luyện võ có phần tốt hơn.”
Ông bèn nói nhỏ: “Sư đệ! Để sư ca lên trước.”
Viên Thừa Chí cũng nói nhỏ: “Đại sư ca! Hảo thủ bên họ rất nhiều. Năm lão già kia có một bộ Ngũ Hành Trận rất lợi hại, lát nữa còn phải ác đấu. Sư ca là chủ tướng bên mình, để tiểu đệ lên trước là hơn.”
Hoàng Chân thấy Viên Thừa Chí cố chấp đòi lên trước, thầm nghĩ: “Nghé con không biết sợ cọp, mình không nên làm cậu bé này mất hứng.” Ông bèn bảo: “Thế thì sư đệ phải cẩn thận.”
Viên Thừa Chí gật đầu rồi bước lên một bước, nói với Lữ Thất tiên sinh: “Vãn bối cũng muốn đá một cái, có được không?”
Lữ Thất tiên sinh và mọi người đều kinh ngạc nghĩ thầm: “Vừa rồi tên thanh niên to lớn kia đã nếm mùi rồi, sao ngươi còn chưa sợ chết?”
Lữ Thất tiên sinh thấy chàng trẻ hơn cả Thôi Hy Mẫn, lại càng không để vào lòng. Lão mỉm cười nói: “Được thôi! Nhưng chúng ta phải nói trước, ngươi mà thi hành đại lễ thì ta không dám nhận đâu.” Vừa nói lão vừa đưa ống điếu đè lên một thỏi vàng.
Viên Thừa Chí làm hệt như Thôi Hy Mẫn, bước lên ba bước, đưa chân phải đá quét ngang qua. Thôi Hy Mẫn thấy vậy lo lắng, la lên: “Tiểu sư thúc, kiểu này không được. Ông lão đó biết điểm huyệt.”
Năm anh em họ Ôn đã biết Viên Thừa Chí còn trẻ nhưng võ công cực cao. Họ thấy chàng đi theo vết xe đổ của Thôi Hy Mẫn, đều cảm thấy kỳ lạ. Chẳng lẽ chàng có thể giấu được huyệt đạo trên người, không sợ người ta điểm trúng?
Ánh mắt mọi người đều dồn vào chân của Viên Thừa Chí. Hoàng Chân chuyển cây Đồng Bút sang tay trái, chuẩn bị hễ thấy Viên Thừa Chí thất lợi là lập tức ra tay cứu sư đệ trước, rồi mới tấn công kẻ địch sau.
Chân phải Viên Thừa Chí quét ngang qua, sắp đá trúng thỏi vàng. Ống điếu của Lữ Thất tiên sinh nhanh như điện chớp đưa ra, điểm vào đùi Viên Thừa Chí. Nào ngờ phát cước này chỉ là hư chiêu, khi tay đối phương vừa động thì chân mình đã thu hồi. Lữ Thất tiên sinh điểm không trúng, ống điếu thừa thế đưa về phía trước. Chân phải Viên Thừa Chí vạch nửa vòng tròn, vừa tránh khỏi ống điếu vừa khều nhẹ một cái, hất thỏi vàng đó lên.
Lữ Thất tiên sinh lập tức biến chiêu, đưa ống điếu điểm vào sau lưng đối thủ. Viên Thừa Chí nghiêng người sang phải, tay trái đỡ lấy thỏi vàng, lại ném lên trời. Đồng thời chàng dùng chân trái quét vào đôi chân Lữ Thất tiên sinh đang giẫm lên hai thỏi vàng. Hai thỏi vàng đó lập tức bay lên, Lữ Thất tiên sinh loạng choạng một cái, lùi bước mới đứng vững được.
Hai tay Viên Thừa Chí bắt lấy hai thỏi vàng, vỗ vào nhau. Nghe “chát” một tiếng, hai thỏi vàng đó đã kẹp trúng thỏi vàng đang từ trên không rơi xuống. Chàng mỉm cười nói: “Ba thỏi vàng này vãn bối đã lấy được. Lời nói của lão tiền bối không có gì thay đổi chứ?”
Mấy động tác này nhanh chóng vô cùng. Mọi người hoa mắt lên một cái, khi hai đối thủ tách ra thì ba thỏi vàng đã nằm gọn trong tay Viên Thừa Chí rồi. Lúc này Thanh Thanh cười tươi như hoa, Hoàng Chân vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, An Tiểu Huệ và Thôi Hy Mẫn vỗ tay khen ngợi. Ngay cả đám Kỳ Tiên Phái cũng không nén nổi phải hoan hô vang dội.
Mặt của Lữ Thất tiên sinh đỏ tận mang tai, không nói được tiếng nào. Tả chưởng lão “vù” một tiếng, rít gió đánh vào người Viên Thừa Chí. Chưởng vừa phát ra, chân trái lại xoay nửa vòng tròn, mượn đà đá tới hông của đối phương. Đây chính là quái chiêu của Hạc Hình Quyền. Hai chưởng giống như hai cánh của một con tiên hạc đang bay tới, hai chân co rút lại lúc dài lúc ngắn, giống hệt những con bạch hạc đang đánh nhau. Lão đã giấu cái ống điếu vào tay áo bên phải, hai chưởng xoay ngược lại, xòe ra cụp vào thật là linh động.
Viên Thừa Chí chưa từng gặp phải loại quái quyền này, cũng chưa nghe sư phụ nhắc đến. Nhất thời chàng không dám đến gần, chỉ chạy vòng quanh lão, càng chạy càng nhanh.
Lữ Thất tiên sinh thấy Viên Thừa Chí không dám đến gần mình, nghĩ bụng: “Thằng lỏi này chỉ có thân thủ nhanh nhạy, còn công lực thì nông cạn.” Lão lại nổi lòng khinh thị, cười ha hả rồi lấy cái ống điếu trong tay áo ra, rít một hơi dài, phà một làn khói trắng.
Chạy được mấy vòng, Viên Thừa Chí đã hơi hiểu chưởng pháp của đối thủ. Thấy lão hút thuốc khinh địch rất hợp với tâm ý của mình, chàng đột nhiên tung người lên, tống ngay một quyền vào giữa sống mũi của lão.
Lữ Thất tiên sinh giật mình đưa ống điếu ra cản trở, nhưng quyền của Viên Thừa Chí đã biến thành chưởng, áp lên ống điếu rồi xoay tay nắm lại. Lữ Thất tiên sinh vội vận sức kéo về. Viên Thừa Chí biết trước, nhân lúc lão kéo ngược về để lộ sơ hở dưới nách phải, bèn đưa tay điểm trúng huyệt Thiên Phủ của lão.
Lữ Thất tiên sinh vừa đau nhói vừa tê chồn, té nhào xuống đất, ống điếu đã rời khỏi tay.
Viên Thừa Chí liếc lại thấy Thanh Thanh mỉm cười nhìn mình, bèn nghĩ: “Để cô ấy vui vẻ một chút.” Chàng bèn xoay ngược ống điếu lại, kề vào bộ râu của Lữ Thất tiên sinh. Tẩu thuốc vừa được lão rít một hơi, lửa còn hừng, nên chòm râu của lão lập tức bén lửa, một làn khói xanh bay lên.
Hoàng Chân la lên: “Chết rồi! Hỏng bét! Lữ Thất tiên sinh lấy râu làm thuốc hút.”
Viên Thừa Chí hé miệng thổi vào tẩu thuốc. Tro bụi, tàn lửa và râu cháy dở cùng lúc bay lên, dính đầy mặt Lữ Thất tiên sinh.
Hoàng Chân cười ha hả, nhảy tới vừa vỗ vừa nắm vào người Lữ Thất tiên sinh để giải khai huyệt đạo. Ông tiện tay giật lấy cái ống điếu, nhét trở vào trong tay lão.
Lữ Thất tiên sinh lồm cồm đứng dậy, ngẩn ra một lúc. Lão thấy mọi người nhìn mình ra vẻ như cười mà không phải là cười, tức đến xanh mặt, quẳng ống điếu xuống đất, lập tức quay lưng bỏ chạy.
Vinh Thái la lên: “Lữ Thất tiên sinh!” Y nhặt cái ống điếu, đuổi theo nắm lấy tay áo của lão, nhưng bị lão dùng sức hất ra. Vinh Thái loạng choạng rồi đứng lại. Còn Lữ Thất tiên sinh thì cắm đầu chạy thẳng, nhất quyết không dừng bước.
Thôi Hy Mẫn hỏi: “Sư phụ! Lão đó thua trận thì thôi, sao lại quẳng cả ống điếu đi?”
Hoàng Chân trả lời rất nghiêm chỉnh: “Lão cai thuốc rồi.”
Thôi Hy Mẫn gãi gãi đầu, không hiểu được tại sao thua trận lại phải bỏ hút thuốc. Y không dám hỏi sư phụ nữa, bèn nhìn An Tiểu Huệ mong nàng giải thích cho mình biết. Nhưng An Tiểu Huệ cứ đứng nhìn theo Lữ Thất tiên sinh đang bỏ chạy mà cười khanh khách.