Ðào Bách Tuế hắng giọng nói:
– Hồi trẻ, tại hạ cùng Ðiền Quy Nông cùng nhau làm nghề buôn bán không vốn…
Mọi người đều biết ông ta vốn là người trong giới lục lâm, là đại trại chủ của Ẩm Mã Xuyên sơn trại, nhưng không hề biết Ðiền Quy Nông cũng từng là cướp. Ai nấy đưa mắt nhìn nhau. Tào Vân Kỳ kêu lên:
– Nói bậy! Sư phụ ta là hào kiệt võ lâm. Lão đừng có ăn nói bừa bãi, làm bẩn thanh danh sư phụ ta!
Ðào Bách Tuế nghiêm giọng nói:
– Ngươi coi thường anh hùng hắc đạo ư? Nhưng anh hùng hắc đạo có coi bọn chó má nhát gan như ngươi ra gì? Bọn ta mở núi lập trại, dựa vào một thanh đao, một cây thương mà mưu sinh, so với công việc trông nhà giữ cửa, bảo tiêu làm quan của các ngươi, thử hỏi kém cạnh ở điểm nào?
Tào Vân Kỳ đứng lên toan cãi thì Ðiền Thanh Văn kéo áo hắn, nói nhỏ:
– Sư huynh, đừng cãi nữa, để cho lão kể tiếp đã nào!
Tào Vân Kỳ mặt đỏ tía tai, gườm gườm nhìn Ðào Bách Tuế rồi cũng ngồi xuống.
Ðào Bách Tuế lớn giọng nói:
– Ðào Bách Tuế ta từ nhỏ thân đã ở trong chốn lục lâm, chuyện đánh người cướp của xưa nay chưa từng giấu giếm nửa lời. Ðại trượng phu dám làm dám chịu, sợ cái quái gì chứ?
Miêu Nhược Lan thấy lão nói chệch sang chuyện khác, liền nói:
– Ðào bá bá, gia phụ cũng nói, trong chốn lục lâm cũng có anh hùng hào kiệt, chẳng ai dám coi thường đâu. Mời bá bá hãy kể tiếp chuyện Ðiền thúc phụ đi!
Ðào Bách Tuế chỉ mặt Tào Vân Kỳ nói:
– Ngươi nghe đó, Miêu đại hiệp cũng nói như vậy. Ngươi dám sân si với Miêu đại hiệp chăng?
Tào Vân Kỳ “hừ” một tiếng, nhưng không trả lời.
Ðào Bách Tuế đã bớt bực bội, nói:
– Hồi trẻ, Ðiền Quy Nông với tại hạ đã gây ra nhiều vụ án lớn, tại hạ luôn là trợ thủ của y. Sau khi ăn nên làm ra, y mới bỏ nghề, rửa tay không làm nữa. Nếu y coi khinh nhân vật hắc đạo thì sao chịu gả ái nữ độc nhất cho con trai tại hạ? Có điều, nói đi cũng cần nói lại, y kết thông gia với tại hạ chưa chắc đã thực sự có lòng tốt, mà là muốn bịt miệng tại hạ, muốn tại hạ giấu kín một việc quan trọng.
Cái ngày mà Ðiền Quy Nông và Phạm bang chủ chặn đường vợ chồng Hồ Nhất Ðao ở Thương Châu thì tại hạ vẫn còn là trợ thủ của y. Hồ Nhất Ðao ngồi trong xe phóng kim tiền tiêu ra, trong số những kẻ bị phi tiêu đánh trúng huyệt đạo có Ðào Bách Tuế ta. Sau đó Hồ phu nhân dùng dải lụa trắng đoạt đao, ném người đứng trên nóc nhà thì trong số người bị bà quăng khỏi nóc nhà cũng có Ðào Bách Tuế ta. Lúc Miêu Nhân Phượng thóa mạ đám người đó là lũ nhát gan, thì trong số đó cũng có tại hạ. Có điều năm ấy tại hạ chưa để râu, tóc chưa bạc, hình dạng khác hẳn bây giờ mà thôi.
Tình cảnh lúc sắp chết của hai vợ chồng Hồ Nhất Ðao, tại hạ có mặt ở đó nên chính mắt nhìn thấy, đúng như lời kể của Miêu cô nương và Bình A Tứ, còn lời kể của hoà thượng Bảo Thụ là hoàn toàn dối trá. Miêu cô nương có hỏi nếu Miêu đại hiệp biết Hồ Nhất Ðao không phải là kẻ thù giết cha mình thì sao còn đi tìm để tỉ thí? Hẳn các vị nghĩ, nhất định là Bảo Thụ có ác ý, không thông báo với Miêu đại hiệp biết mấy điều đó chứ gì?
Mọi người quả cũng nghĩ như vậy, chỉ ngại Bảo Thụ ngồi ở đó nên không tiện nói ra.
Ðào Bách Tuế lắc đầu nói:
– Lầm rồi, lầm rồi! Hồi ấy thầy lang chữa trật đả Diêm Cơ bản lãnh còn thấp kém, sao dám giở trò quỷ quái trước mặt hai vị Miêu, Hồ? Quả thật Diêm Cơ theo đúng lời dặn dò của Hồ Nhất Ðao, đi nói lại ba việc lớn đó, nhưng Miêu đại hiệp lại không được nghe. Khi Diêm Cơ lên ngôi nhà lớn đó thì Miêu đại hiệp có việc đi ra ngoài, chỉ có Ðiền Quy Nông tiếp y mà thôi. Diêm Cơ thuật lại đầy đủ cho Ðiền Quy Nông nghe. Lúc ấy tại hạ đứng bên cạnh, cũng nghe tất cả.
Ðiền Quy Nông bảo với Diêm Cơ:
– Rõ cả rồi, ngươi về đi, ta sẽ chuyển lời báo cho Miêu đại hiệp. Ngươi có gặp Miêu đại hiệp cũng không cần nhắc lại. Hồ Nhất Ðao có hỏi thì ngươi cứ bảo là đã trực tiếp báo với Miêu đại hiệp rồi. Lại bảo hắn mua sẵn ba cỗ quan tài, hai cỗ lớn, một cỗ nhỏ để khi các đại gia đến đỡ phải tốn tiền.
Nói xong, Ðiền Quy Nông thưởng cho Diêm Cơ ba chục lạng bạc. Diêm Cơ nhận số bạc đó, tất nhiên là cứ thế làm theo.
Sở dĩ Miêu đại hiệp còn đi tìm Hồ Nhất Ðao để tỉ thí vì Ðiền Quy Nông không hề nói lại cho ông biết ba sự việc lớn kia. Tại sao không thông báo? Hẳn các vị sẽ đoán: Ðiền Quy Nông căm thù Hồ Nhất Ðao nên muốn mượn tay Miêu đại hiệp giết quách ông ta đi. Ðoán như thế chỉ mới đúng có một nửa. Ðiền Quy Nông quả có mong Hồ Nhất Ðao mất mạng, nhưng y còn muốn mượn tay Hồ Nhất Ðao giết luôn Miêu đại hiệp.
Miêu đại hiệp bẻ gãy cây cung của y, lại nhục mạ y trước mặt mọi người, chẳng giữ thể diện cho y chút nào. Tại hạ hiểu tính Ðiền Quy Nông lắm, y rất hiếu thắng mà lại hay thù vặt. Miêu đại hiệp làm y mất mặt như thế, nên trong lòng y căm hận Miêu đại hiệp còn hơn cả căm hận Hồ Nhất Ðao nữa. Hôm đó, Ðiền Quy Nông giao cho tại hạ một hộp thuốc cao, bảo tại hạ tìm cách bôi lên hai thanh đao, kiếm của Hồ Nhất Ðao và Miêu đại hiệp dùng để tỉ thí. Việc như thế, thực lòng tại hạ không muốn làm, mà cũng chẳng dám làm, nhưng lại không trái lệnh được. Thế là tại hạ bèn giao cho Diêm Cơ đại phu, bảo y làm
Các vị thử nghĩ xem, công phu của Hồ Nhất Ðao cao đến mức nào? Nếu chỉ trúng độc thông thường thì làm sao chết ngay được? Diêm Cơ lúc bấy giờ cũng chỉ là thầy lang vườn, làm sao có thứ độc dược đến mức cao thủ trên giang hồ cũng khó lòng giải cứu? Hồ Nhất Ðao trúng phải chất độc gì? Đó là loại độc dược bí truyền có một không hai của Thiên Long môn. Thứ ám khí Truy Mệnh Ðộc Long Chuỳ mà nhân vật võ lâm nghe tên đều phải táng đởm kinh hồn, toàn nhờ loại độc dược này mà nổi danh đó. Sau này, tại hạ còn nghe nói trong hộp thuốc cao đó Ðiền Quy Nông còn trộn thêm cả độc dược của Ðộc Thủ Dược Vương, cho nên ứa máu nghẹn cổ, thật lợi hại vô cùng.
Mọi người vốn bán tin bán nghi, nghe đến đây thì đã tin đến tám chín phần. Họ liếc nhìn về phía bọn Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ đệ tử của Thiên Long môn. Bọn Nguyễn, Tào trong lòng giận lắm nhưng không dám phát tác.
Ðào Bách Tuế nói tiếp:
– Ngày hôm đó, Bắc tông của Thiên Long môn vừa hết hạn nắm quyền trông nom môn phái, Ðiền Quy Nông cũng chọn ngày này để bế môn phong kiếm. Y mở tiệc lớn mời đến mấy trăm anh hùng có tên tuổi trên giang hồ. Tại hạ với y vốn là huynh đệ, lại thông gia với nhau, tất nhiên là tại hạ đến trước mấy ngày để giúp y lo liệu mọi việc. Theo quy củ của Thiên Long môn, Bắc tông hết hạn thì kiếm phổ, tờ điệp của tổ tông các đời cùng với thanh bảo đao, bảo vật trấn môn của Thiên Long môn, thảy đều phải giao lại cho Nam tông coi giữ. Ân huynh, tại hạ nói thế không sai chứ?
Ân Cát gật đầu. Ðào Bách Tuế lại nói:
– Vị đại tài chủ Oai Chấn Thiên Nam Ân Cát này là chưởng môn Nam Tông của Thiên Long môn, y cũng đến trước mấy hôm. Vậy phải chăng Ðiền Quy Nông đã đem kiếm phổ, tờ điệp của tổ tông các đời, cùng với thanh bảo đao trao lại cho Ân huynh theo lời tổ tông dạy rồi, xin Ân huynh hãy nói thực cho.
Ân Cát liền đứng dậy, nói:
– Việc này nếu Ðào trại chủ không nêu ra thì tại hạ cũng không tiện nói rõ cho người ngoài. Tuy nhiên trong việc này có nhiều điều đáng ngờ. Nếu tại hạ giấu đi không nói thì mỗi ngờ đó khó mà giải tan được. Ngày hôm đó, Ðiền sư huynh đãi khách xong trở vào nhà trong. Theo lệ xưa nay, y phải triệu tập người của hai chi Nam, Bắc lại, làm lễ trước bài vị của Sấm vương, các vị tổ sáng lập và chưởng môn các đời, sau đó mới truyền giao bảo đao cho tại hạ. Nào ngờ Điền sư huynh vào nhà trong mãi chẳng thấy ra. Tại hạ sốt ruột quá, chờ cho đến nửa đêm. Khách khứa các nơi đều đã về hết, điệt nữ Thanh Văn bỗng từ nhà trong đi ra bảo tại hạ rằng gia phụ không được khỏe, việc trao kiếm phổ xin chờ ngày mai sẽ tiến hành.
Tại hạ lấy làm lạ quá, vừa mới thấy Ðiền sư huynh tiếp khách, mời rượu, nét mặt không chút mệt mỏi, sao bỗng nhiên lại cảm thấy khó ở trong người? Hơn nữa, truyền phổ trao đao cũng chỉ cần vái lạy chư vị tổ tông một lát là xong, mọi việc đâu đã vào đấy, hà tất phải chờ đến hôm sau? Chẳng lẽ Ðiền sư huynh không muốn giao lại bảo đao, cố ý mượn cớ trì hoãn?
Nguyễn Sĩ Trung nói xen vào:
– Ân sư huynh, cái lối suy bụng ta ra bụng người đó không đúng đâu! Ngày hôm ấy nếu sư huynh chỉ có việc đến nhận phổ, nhận đao rồi đi thì Ðiền sư ca đã trao cho huynh từ lâu rồi. Nhưng huynh lại mời rất nhiều cao thủ của các phái khác tới, rõ ràng là không có ý tốt.
Ân Cát cười nhạt, nói:
– Hừm, ta có tâm địa gì xấu chứ?
Nguyễn Sĩ Trung nói:
– Huynh định một khi nắm được phổ, điệp và bảo đao thì ép buộc hai chi Nam, Bắc quy về một mối, để huynh làm chưởng môn duy nhất chứ gì! Lúc ấy Ðiền sư huynh đã phong kiếm rồi, không thể ra tay động võ với ai, người của huynh lại đông, há chẳng phải muốn làm gì thì làm ư?
Ân Cát hơi đỏ mặt, nói:
– Thiên Long môn chia làm hai tông Nam, Bắc vốn là theo kế quyền biến. Năm ấy, khi Ðiền sư huynh mới nhận chức chưởng môn Bắc tông, há lại không muốn thôn tính Nam tông sao? Cứ như tại hạ đây, nếu có ý muốn hợp nhất hai tông lại, làm cho chúng ta thêm hiển hách thì đó cũng là một việc hay. Dù sao như thế vẫn còn hơn chuyện Nguyễn sư huynh cứ ra sức lấn át Tào Vân Kỳ để hòng tự mình lên làm chưởng môn.
Mọi người nghe họ lật tẩy nhau, hoá ra cả hai bên đều có mưu đồ riêng tư, nên trừ người của Thiên Long môn ra, ai nấy vừa nghe xong vừa cười khúc khích, như sung sướng thấy người ta gặp nạn vậy.
Miêu Nhược Lan không muốn nghe thêm về cuộc tranh giành giữa các tông phái trong võ lâm, nên khẽ lên tiếng hỏi:
– Chuyện đó về sau ra sao?
Ân Cát đáp:
– Tại hạ trở về phòng bàn bạc với các sư đệ của Nam tông. Mọi người đều nói Ðiền sư huynh tất có ý khác, chúng ta không thể để mặc cho y lừa dối, thế là họ cử tại hạ đi dò xét hư thực.
Lúc ấy, tại hạ đến phòng ngủ của Ðiền sư huynh để thăm hỏi bệnh tình. Thanh Văn điệt nữ khóc sưng đỏ cả mắt, ngăn tại hạ ở cửa, nói: “Gia phụ đã ngủ rồi, xin Ân thúc thúc hãy trở về, đa tạ thúc thúc quan tâm!”. Tại hạ thấy thần sắc của thị có vẻ khang khác, nghĩ bụng nếu Ðiền sư huynh thực sự không được khỏe, thì cũng chẳng phải là bệnh nặng khó chữa, sao thị lại khóc lóc ghê gớm đến thế. Chuyện này hẳn có gì lạ đây! Sau đó tại hạ trở về phòng đợi chừng nửa canh giờ, thay quần áo, lại đến ngoài phòng Ðiền sư huynh thăm hỏi sức khoẻ…
Nguyễn Sĩ Trung đập mạnh xuống bàn quát:
– Hừm, thăm hỏi sức khoẻ? Đứng bên ngoài mà thăm hỏi được sao?
Ân Cát cười nhạt đáp:
– Cứ kể như tại hạ nghe trộm đi thì đã sao nào? Tại hạ nấp bên ngoài cửa sổ, nghe Ðiền sư huynh nói: “Ngươi không cần phải bức ta. Hôm nay ta đã bế môn phong kiếm, trước mặt hào kiệt trên giang hồ đã trao lại quyền chưởng môn Bắc tông Thiên Long môn cho Vân Kỳ rồi, làm sao thay đổi được? Ngươi bức ta nhường địa vị chưởng môn cho ngươi lúc này là muộn rồi!”. Tại hạ lại nghe Nguyễn sư huynh nói: “Đệ đâu dám bức bách sư ca? Chỉ nghĩ rằng Vân Kỳ cùng Thanh Văn đã làm ra chuyện đó, con thì cũng đẻ ra rồi. Việc thương phong bại tục như thế là phạm vào đại giới dâm, thử hỏi kẻ trên người dưới trong chúng ta, ai còn phục hắn nữa?”.
Ân Cát nói đến đây thì bỗng nghe “ầm” một tiếng, cả người lẫn ghế ngồi của Ðiền Thanh Văn lật ngửa ra phía sau, nàng đã ngất xỉu. Ðào Tử An rút đao ra nhằm đầu Tào Vân Kỳ chém xuống; trong tay Tào Vân Kỳ không có vũ khí, đành giơ ghế lên đỡ. Ðào Bách Tuế nghe nói nàng dâu chưa cưới của mình làm chuyện xấu xa đó thì giận quá hét lớn, rồi cùng vớ lấy chiếc ghế giơ lên quật xuống đầu Tào Vân Kỳ.
Người của Thiên Long môn vốn một lòng đối phó với người ngoài, nhưng lúc này thấy năm người của mình vạch mặt lẫn nhau thì chẳng ai nghĩ tới việc tương trợ Tào Vân Kỳ cả. “Bốp” một tiếng, lưng Tào Vân Kỳ đã ăn chiếc ghế của Ðào Bách Tuế một đòn nặng. Cảnh tượng trên sảnh lúc này thật rối loạn. Miêu Nhược Lan kêu lên:
– Xin các vị chớ động thủ, mọi người hãy ngồi xuống cả đi!
Lời của nàng uy nghiêm khiến người nghe khó cưỡng nổi. Ðào Tử An ngẩn người, thu đao lại. Ðào Bách Tuế vẫn giận giữ điên cuồng, vung ghế đánh tới. Ðào Tử An phải giữ chặt lấy chiếc ghế của phụ thân, nói:
– Gia gia, chúng ta không nên động thủ vội, hãy để các vị có mặt ở đây nhận xét đúng sai, phải trái trước đã!
Thấy gã nói có lí, Ðào Bách Tuế mới dừng tay.
Miêu Nhược Lan gọi:
– Cầm Nhi! Muội hãy đỡ Ðiền cô nương vào phòng trong nghỉ đi!
Lúc này, Ðiền Thanh Văn đã dần tỉnh lại, nét mặt tái nhợt, nàng cúi đầu tự đi vào phòng trong. Mọi người dồn mắt nhìn Ân Cát, muốn nghe kể đoạn sau. Ân Cát nói:
– Tại hạ nghe Ðiền sư huynh thở dài một tiếng, nói: “Oan nghiệt, oan nghiệt! Báo ứng, báo ứng!”. Ông ta cứ nhắc đi nhắc lại luôn mồm: “Oan nghiệt, báo ứng!”. Một lúc lâu sau mới nói: “Việc này ngày mai sẽ bàn tiếp. Ngươi đi đi, gọi Ðào Tử An đến đây! Ta có chuyện muốn nói với hắn!”.
Ân Cát liếc nhìn cha con họ Ðào một cái, rồi nói tiếp:
– Nguyễn sư huynh còn định cãi lại thì Ðiền sư huynh đập giường quát: “Ngươi định bức tử ta có phải không?”. Lúc này Nguyễn sư huynh mới thôi không nói nữa, đẩy cửa bước ra. Tại hạ nghe họ nói đến chuyện xấu xa trong nhà mà chẳng liên quan gì đến Nam tông nhà mình, lại sợ Nguyễn sư huynh đi ra bắt gặp, khó xử cho hai bên bèn rút lẹ về phòng.
Nguyễn Sĩ Trung cười nhạt:
– Tối hôm ấy, tại hạ nói chuyện xong với Ðiền sư ca, lúc ra về thấy một bóng đen lướt qua mới quát hỏi: “Con chó nào nghe trộm đây?”. Lúc đó không có tiếng trả lời, tại hạ nghĩ hắn là tên cẩu tạp chủng nào, té ra lại là Ân sư huynh, thật là đắc tội!
Nói xong, Nguyễn Sĩ Trung vái Ân Cát một cái. Cử chỉ bên ngoài là tạ tội mà thực ra là chửi khéo rất nặng.
Ân Cát hơi biến sắc mặt, song công phu hàm dưỡng của lão cực tốt nên cũng vái trả, rồi mỉm cười nói:
– Người không biết thì không có lỗi, nói hay lắm! Nói hay lắm!
Ðào Tử An nói:
– Ðược, bây giờ đến lượt tại hạ kể. Mọi người đã vạch mặt nhau rồi, nên tại hạ… tại hạ cũng chẳng cần giấu giếm gì. Tại hạ… tại hạ…
Nói đến đây, Ðào Tử An nghẹn ngào, tâm tình kích động, nói chẳng nên lời, hai hàng nước mắt tuôn chảy.
Thấy hắn là một trang thiếu niên anh hùng mà không ngại tỏ ra yếu đuối trước mặt mọi người, ai nấy đều có ý bất nhẫn, vì vậy trong ánh mắt nhìn về phía Tào Vân Kỳ có xen cả phần tức giận lẫn oán trách.
Ðào Bách Tuế quát lên:
– Sao lại yếu mềm như thế? Ðại trượng phu đã ai dám chắc vợ hiền con hiếu chứ? May mà nó còn chưa cưới về, có điếm nhục thì cũng chẳng dây đến nhà họ Ðào ta!
Ðào Tử An đưa tay áo lên chùi nước mắt, định thần lại rồi nói:
– Trước đây, mỗi lần tại hạ đến Ðiền gia trang… đến nhà Ðiền bá phụ…
Tào Vân Kỳ thấy chàng ta ngập ngừng giây lát rồi đổi giọng nói Ðiền Quy Nông là “bá phụ” chứ không phải “nhạc phụ” thì mừng thầm, nghĩ bụng: “Hừ, thằng này nản rồi, không nhận Thanh muội làm vợ nữa, đúng là cầu còn không được!”.
Lại nghe Ðào Tử An nói tiếp:
– Hễ có người là Thanh muội đỏ mặt tránh đi, không chịu nói chuyện với tại hạ, nhưng khi chỉ có hai người tại hạ nói chuyện với nhau thì rất thân thiết. Lần nào, tại hạ cũng mang theo mấy thứ đồ chơi nho nhỏ tặng nàng, nàng cũng tặng lại tại hạ vài thứ, khi thì thêu cái túi nhỏ, khi thì cái áo cộc tay, chưa lần nào thiếu cái gì…
Vẻ mặt Tào Vân Kỳ dần dần trở nên khó coi, hắn thầm nghĩ:
– Hừ, lại còn có chuyện như vậy mà giấu ta!
Ðào Tử An nói tiếp:
– Lần này, Ðiền bá phụ bế môn phong kiếm, tại hạ phấn khởi theo gia phụ tới, vừa nhìn thấy Thanh muội liền cảm thấy dung nhan nàng tiều tụy như vừa trải qua cơn ốm nặng. Tại hạ thấy thương quá, thừa lúc vắng người an ủi nàng, hỏi xem bị ốm gì. Lúc đầu nàng ấp a ấp úng, tại hạ cứ hỏi mãi, nàng tức giận quát tại hạ mấy câu, từ đó tránh mặt tại hạ.
Tại hạ bị nàng mắng đến đờ người ra, đành buồn bực một mình. Hôm đó trong tiệc rượu tại hạ nhìn thấy nàng hóng mát trong đình ở vườn hoa phía sau, hai mắt đỏ mọng vì khóc. Bất kể ra sao, tại hạ liền tới xin lỗi nàng, nói: “Thanh muội, đều tại huynh không tốt, muội đừng giận huynh nữa!”. Nào ngờ nàng sa sầm nét mặt, nổi điên lên nói: “Hừ, nếu quả huynh không tốt thì xong rồi! Đằng này lại là người khác không tốt, muội chỉ muốn chết đi cho rảnh!”. Tại hạ càng ngơ ngác không hiểu, toan nói thêm mấy câu thì nàng đã quầy quậy bỏ đi.
Tại hạ trở về phòng nằm nghỉ một lát, càng nghĩ càng không yên tâm, thực sự không biết đã làm nàng phật ý ở điểm nào, bèn lẳng lặng trở dậy đi tới phòng nàng, khẽ búng ba cái ngoài cửa sổ. Trước đây, mỗi khi tại hạ và nàng hẹn gặp nhau đều búng ba cái như vậy làm hiệu. Nào ngờ tại hạ búng đến mấy lượt mà trong phòng vẫn im lặng như tờ. Lúc sau, tại hạ lại búng lần nữa, vẫn không nghe động tịnh gì.
Thấy lạ quá tại hạ bèn đẩy cửa sổ ra. Cửa không cài, đẩy một cái là mở liền. Trong phòng tối om, chẳng trông thấy gì. Đang muốn gặp nàng để nói chuyện tại hạ bèn nhảy qua cửa sổ mà vào…
Tào Vân Kỳ nghe tới đây thì cơn ghen xông lên tận cổ, không sao nén được. Hắn quát to:
– Ngươi nửa đêm khuya khoắt lẻn vào phòng người ta, định giở trò gì?
Ðào Tử An toan quát lại, thì thị tỳ của Miêu Nhược Lan là Cầm Nhi đã mau miệng bẻ lại:
– Người ta là vợ chồng chưa cưới, các hạ can thiệp được ư?
Ðào Tử An khẽ gật đầu mỉm cười với Cầm Nhi tỏ ý cám ơn, rồi nói tiếp:
– Tại hạ tới bên giường nàng, thấp thoáng thấy dưới giường có một đôi hài bèn đánh bạo vén màn, sờ tay vào …
Tào Vân Kỳ đỏ mặt tía tai toan chửi um lên nhưng thấy Cầm Nhi gườm gườm nhìn mình đành nuốt giận, thôi không nói nữa. Nghe Ðào Tử An kể tiếp:
– …Tay tại hạ như chạm phải cái bọc, còn Thanh muội thì không có trên giường. Lấy làm lạ, tại hạ sờ tay xem là cái bọc gì. Hình như trong bọc là đứa trẻ sơ sinh, khiến tại hạ giật nảy mình. Sờ kỹ chút nữa thì đúng là đứa trẻ sơ sinh! Có điều toàn thân đứa trẻ lạnh toát, đã chết từ lâu. Xem ra đứa trẻ chết vì bị tấm chăn bông chặn lên làm ngạt thở.
Chỉ nghe có tiếng nghẹn ngào, chén trà trên tay Miêu Nhược Lan tuột rơi xuống đất. Mặt cô tái nhợt, đôi môi run rẩy.
Ðào Tử An kể tiếp:
– Các vị bây giờ nghe còn cảm thấy sợ thì khi đó chính tay tại hạ sờ thấy trong bóng tối đủ biết kinh hãi nhường nào. Suýt nữa tại hạ buột miệng kêu lên. Ðúng lúc đó ngoài phòng có tiếng bước chân rồi có người vào phòng. Tại hạ vội vàng chui xuống gầm giường. Người ấy đi đến bên giường thì ngồi xuống mép giường khóc nức nở. Thì ra là Thanh muội. Nàng ôm xác đứa bé trong tay, hôn nó mãi, thì thầm nói: “Con ơi, con đừng trách má má phải ra tay giết con. Lòng má má nghe đau hơn dao cắt đây, chỉ vì nếu để con sống thì má má không sống nổi. Má má thật nhẫn tâm, xin con tha lỗi”.
Ở dưới gầm giường, tại hạ nghe thấy thế thì lạnh cả sống lưng. Lúc ấy mới biết thì ra nàng tư thông với thằng chó đẻ nào đó, đẻ ra đứa con này rồi lại hạ độc thủ giết hại nó. Nàng bế xác đứa trẻ khóc một hồi, hôn không ngừng. Cuối cùng đứng dậy, khoác trên người cái áo choàng che lấy đứa bé rồi ra khỏi phòng. Ðợi nàng đi rồi tại hạ mới chui ra, lẳng lặng theo sau. Lúc ấy tại hạ vừa buồn vừa hận, chỉ muốn tra xét xem kẻ tư thông với nàng là tên súc sinh nào.
Thấy nàng đi ra vườn sau, cầm lấy chiếc xẻng ngắn ở chân tường rồi vượt tường ra ngoài. Dọc đường, tại hạ bám theo từ xa. Nàng cầm chiếc xẻng ngắn đang tính đào hố chôn, chợt nghe cách khoảng mấy chục trượng có tiếng sắt thép va chạm đất đá.
Trong đêm khuya mà cũng có người khác đang đào đất. Nàng giật mình, vội vàng ngồi thụp xuống, một lúc sau mới khom lưng từ từ bò đến xem. Tại hạ nghĩ có lẽ kẻ đào mộ trộm nên cũng đi theo, thì thấy bên một ngôi mộ có ánh đèn leo lét, một bóng đen đang đào bới.
Tại hạ nhìn kĩ thì ra y không đào mộ mà moi một cái hố bên cạnh mộ nhưng không biết chôn giấu cái gì. Tại hạ thầm nghĩ: “Thế này thì lạ thật, lẽ nào cũng có ai đó đem chôn con đẻ hoang?”. Người kia đào một hồi rồi nâng cái bọc dài dài dưới đất lên, dài đúng bằng một đứa bé mới đẻ, bỏ xuống hố, xúc đất đắp lên.
Người đó nghoảnh đầu lại, dưới ánh đèn tại hạ nhìn thấy rõ ràng, thì ra chính là sư huynh Chu Vân Dương.
Vẻ mặt Chu Vân Dương vốn đã nhợt nhạt, nghe Ðào Tử An nói đến đây thì lại càng tái xanh.
Ðào Tử An kể tiếp:
– Lúc ấy tại hạ trong lòng hết sức nghi hoặc, thầm nghĩ: “Lẽ nào kẻ tư thông với Thanh muội lại là tên súc sinh này? Sao hắn cũng đến đây chôn đứa trẻ sơ sinh?”.
Thanh muội thấy hắn thì nép sát người xuống không dám ra gặp. Chu sư huynh lấp đất thật chặt rồi lại phủ cỏ lên, sau đó còn trải trên lớp cỏ một ít sỏi nữa để người khác không nhận ra. Xong xuôi y mới bỏ đi.
Chu sư huynh đi xa rồi thì Thanh muội vội vàng đào hố chôn xác đứa bé, sau đó mới gạt hết đất đá, moi cái hố của Chu sư huynh ra để xem chôn thứ gì. Tại hạ nghĩ thầm: “Nàng không ra tay thì ta cũng đào lên. Nay thì đỡ phải mất công rồi!”.
Thanh muội vừa giơ xẻng đào được mấy nhát thì Chu sư huynh bỗng từ đằng sau mộ bước ra kêu lên: “Thanh muội, muội làm gì thế?”. Thì ra hắn suy tính rất chu đáo, chôn xong giả vờ bỏ đi, lát sau mới quay lại quan sát. Thanh muội giật nảy người, buông rơi xẻng xuống đất, không biết nói gì.
Chu sư huynh lạnh lùng lên tiếng: “Thanh muội, muội biết huynh chôn cái gì, mà huynh cũng biết muội chôn cái gì. Muốn giấu nhẹm thì cả hai đều giấu nhẹm, còn muốn vạch trần thì cả hai cùng vạch trần!”. Thanh muội nói “Ðược, vậy thì huynh thề đi!”. Chu sư huynh lập tức thề độc. Thanh muội cũng thề theo. Hai người hứa với nhau cùng giấu kín, rồi trở về.
Tại hạ nhìn vẻ mặt hai người dường như họ có tư tình gì đó nhưng lại có chút không giống. Xem ra thì đứa trẻ sơ sinh không phải là con của Chu sư huynh. Tại hạ bèn lẳng lặng theo sau họ, tay cầm ám khí tẩm độc, chỉ cần hai người tỏ vẻ thân mật với nhau, nói nửa câu nghe không lọt tai là tại hạ lập tức cho y chết ngay.
Kể ra vận số y còn đỏ, cả hai từ bãi tha ma về gia trang đều đi cách nhau một quãng xa, không nói với nhau câu nào.
Thanh muội về phòng riêng thì sụt sùi khóc mãi. Tại hạ đứng ngoài cửa sổ , nghĩ tới nghĩ lui đủ cách. Tại hạ toan xông vào chém chết nàng, thiêu trụi Ðiền gia trang và đem chuyện xấu xa của nàng nói cho mọi người đều biết, rồi lại toan chạy tới ôm lấy nàng khóc rống lên. Cuối cùng tại hạ quyết định, trước mắt hãy làm thinh, điều tra xem gian phu là ai hẵng hay.
Toàn thân tại hạ lạnh toát, trở về phòng thì gia phụ đã ngủ yên, còn tại hạ thì cứ đứng sững. Không biết bao lâu thì Nguyễn sư thúc tới gọi tại hạ, nói Ðiền bá phụ muốn gặp tại hạ nói gì đó. Tại hạ thầm nghĩ: “Ðến lúc phải nói rồi, để xem lão nói thế nào? Lão muốn ta đồng ý huỷ bỏ hôn ước hay tưởng ta không biết gì để gạt ta, tặng ta cặp sừng”. Nguyễn sư thúc nói đêm đã khuya không đi cùng tại hạ được, bảo tại hạ đi một mình. Tại hạ ngại có điều bất trắc bèn đánh thức gia phụ, bảo lão nhân gia đề phòng. Còn tại hạ mang theo binh khí, ám khí trong người, cả cung tên cũng giấu trong áo.
Ðến phòng Ðiền bá phụ, tại hạ thấy lão nằm trên giường, mắt ngây dại nhìn sững lên nóc giường, trong tay cầm một mảnh giấy trắng, không hề biết có tại hạ đã vào phòng. Tại hạ đằng hắng một tiếng rồi gọi “Nhạc phụ”. Lão giật mình, giấu tờ giấy xuống dưới đệm, nói: “A, Tử An đấy ư?”.Tại hạ nghĩ thầm: “Rõ ràng lão cho gọi ta mà còn cứ vờ vịt”. Nhưng nhìn thần sắc thì lão quả có vẻ rất kinh hoảng. Lão bảo tại hạ cài chặt cửa nhưng lại mở cửa sổ đề phòng có kẻ đứng ngoài nghe trộm.
Xong, lão mới run run nói: “Tử An, ta sắp gặp nguy hiểm trong sớm chiều, nhờ con cứu mạng cho ta. Con phải làm cho ta một việc này!”.
Tào Vân Kỳ cố nhịn nãy giờ, nghe đến đây thì đứng vụt dậy, chỉ thẳng tay vào mặt Tử An nói:
– Nói bậy nói bạ! Sư phụ ta công phu thế nào, còn một kẻ như ngươi thì có bản lãnh gì mà cứu lão nhân gia chứ?
Ðào Tử An không thèm để ý đến hắn, coi như trước mặt không hề có con người đó, chỉ hướng về phía Bảo Thụ và những người khác nói tiếp:
– Tại hạ nghe lão nói như vậy thì lấy làm lạ quá, vội thưa: “Xin nhạc phụ cứ sai bảo, dù có nhảy vào nước sôi lửa bỏng, tiểu tế cũng không chối từ”. Ðiền bá phụ gật đầu, lấy từ dưới chăn bông ra một cái bọc bằng gấm, trao vào tay tại hạ, nói: “Con cầm vật này đi suốt đêm ra quan ngoại, tìm chỗ vắng người chôn xuống. Nếu không để một ai biết được thì con đã cứu mạng ta rồi đó!”.
Tại hạ nhận lấy cái bọc vừa nặng vừa cứng tựa như bằng thép đó, hỏi:
“Thưa nhạc phụ, đây là cái gì? Ai toan làm hại nhạc phụ?”. Ðiền bá phụ xua tay liền mấy cái, ra chiều mỏi mệt lắm, nói: “Con mau đi thôi, ngay cả với phụ thân của con, con cũng đừng nói gì hết, chậm chốc lát là không kịp đó. Cái bọc này con nhất thiết cũng không được mở ra xem”. Tại hạ không dám hỏi nữa, quay người ra khỏi phòng. Vừa ra tới cửa thì Ðiền bá phụ lại nói: “Tử An, con giấu cái gì dưới áo bào thế?”. Tại hạ giật mình, thầm nghĩ: “Mắt lão tinh thật!”. Ðành nói thật rằng: “Vũ khí và cung tên. Hôm nay đông khách, tiểu tế sợ có kẻ xấu trà trộn vào nên phải mang phòng”. Ðiền bá phụ lại bảo: “Tốt, con sáng suốt giỏi giang lắm! Vân Kỳ học được ở con một chút thôi cũng là tốt rồi. Này, con đưa cung tên cho ta!”.
Tại hạ lấy cung tên từ trong áo đưa cho lão. Lão lấy ra một mũi tên ngắm nhìn giây lát rồi lắp vào cung, bảo tại hạ: “Con mau đi đi!”. Thấy bộ tịch lão như thế, tại hạ hơi hoảng, nghĩ thầm: “Lão chớ có bắn một phát vào lưng ta đấy nhé!”. Tại hạ khom lưng giả vờ vái chào rồi từ từ đi lùi trở ra, ra đến cửa mới quay ngoắt người lại. Từ ngoài cửa tại hạ nhìn thấy lão giương cung chĩa tên nhằm vào cửa sổ, rõ ràng là đề phòng kẻ thù đột nhập từ cửa sổ vào.
Tại hạ trở về phòng mình, lòng đầy nghi hoặc về chuyện vừa rồi. Thầm nghĩ sắc mặt Ðiền bá phụ có đến bảy phần kinh hoàng, ba phần bí mật, có thể đoán chắc lão chẳng hề có ý tốt gì đối với tại hạ. Tại hạ bèn kể lại sự việc đó cho gia phụ biết, nhưng lại sợ lão nhân gia nổi giận nên giấu không nói chuyện của Thanh muội. Gia phụ nói: “Hãy xem trong bọc này là cái gì đã”. Tại hạ cũng đang có ý định này, hai cha con bèn mở bọc, thì ra trong đó là cái hộp sắt này.
Năm xưa chính mắt gia phụ nhìn thấy Ðiền bá phụ cướp cái hộp sắt của Hồ Nhất Ðao, rồi cất thanh bảo đao, bảo vật trấn môn của Thiên Long môn vào trong chiếc hộp. Gia phụ nói: “Việc này lạ thật!”. Ông biết trong hộp sắt có cài mũi tên ngắn, cũng biết cách mở hộp nên ngay lúc đó theo đúng cách mà mở ra. Hai cha con vừa nhìn vào hộp thì nhìn nhau, không nói nên lời, bởi trong chiếc hộp trống không, chẳng có một vật gì. Gia phụ kêu lên: “Thế là thế nào?”.
Tại hạ nhận ra ngay có điều không ổn, rồi lập tức hiểu rõ mọi sự. Ðây ắt là một kế độc của Ðiền bá phụ hãm hại tại hạ. Lão giấu thanh bảo đao ở nơi khác rồi trao hộp không cho tại hạ. Lão tất sẽ sai người chặn tại hạ giữa đường. Sau khi bắt được tại hạ thì vu là đã trộm thanh bảo đao của lão rồi bắt tại hạ giao nộp. Tại hạ mà không giao nộp được đao thì nếu không giết cũng bắt tại hạ phải thôi chuyện hôn nhân với Thanh muội, để lão gả nàng cho Tào sư huynh. Gia phụ không biết căn nguyên việc này tất nhiên không thấy rõ độc kế đó. Tại hạ cũng không tiện nói rõ cho gia phụ biết nên ngẩn người ra hồi lâu. Hai cha con trao đổi một lúc mà vẫn không biết nên xử trí cách nào.
Tào Vân Kỳ nghe nói thế hét lớn:
– Ngươi giết chết sư phụ ta, ăn trộm vật chí bảo của Thiên Long môn mà còn dám nói bậy bạ. Chuyện bịa đặt đó cũng đừng hòng lừa nổi đứa trẻ lên ba!
Ðào Tử An cười nhạt:
– Tuy Ðiền bá phụ đã chết không thể đối chứng được, nhưng trong tay tại hạ còn có chứng cớ đây!
Tào Vân Kỳ lồng lộn lên, quát như sấm sét:
– Chứng cớ? Chứng cớ gì? Ðưa ra đây cho mọi người cùng thấy đi!
Ðào Tử An nói:
– Tới lúc cần tại hạ tự nhiên sẽ đưa ra, không cần ngươi sốt ruột. Thưa các vị, vị sư huynh họ Tào này cứ luôn ngắt lời tại hạ, chi bằng mời hắn nói vậy.
Bảo Thụ lạnh lùng nói:
– Tào Vân Kỳ, con mẹ nó! Ngươi toan húc lão hoà thượng ta rơi xuống núi, lão nạp còn chưa tính sổ với ngươi! Con mẹ nó! Ngươi còn trừng mắt lên làm gì hả?
Tào Vân Kỳ lạnh gáy, không dám hó hé gì nữa. Ðào Tử An nói tiếp:
– Tại hạ biết rằng chỉ cần cầm cái hộp sắt này ra khỏi nhà họ Ðiền thì nếu không gặp họa lớn cũng tiêu tán thanh danh, bèn nói với gia phụ: “Phụ thân à, trong chuyện này dường như có điều quái lạ, để con đem cái bọc này trả lại cho nhạc phụ chứ không thể rước họa vào thân được”. Sau đó tại hạ gói cái hộp sắt vào trong tấm gấm, nhẩm tính sẵn mấy câu ngầm vạch trần quỷ kế của lão để hai bên hiểu nhau, không cần nói nhiều.
Khi tại hạ mang cái bọc tới ngoài phòng Ðiền bá phụ thì đèn trong phòng lão đã tắt, cửa sổ và cửa phòng đều đóng chặt. Tại hạ nghĩ việc này thế nào cũng sẽ phải xảy ra, không nên trì hoãn, nên đứng ở ngoài cửa sổ gọi to: “Nhạc phụ! Nhạc phụ!”. Trong phòng không có tiếng trả lời. Tại hạ ngờ vực, nghĩ thầm: “Võ công của Điền bá phụ cao như thế, dù có ngủ say cũng lập tức tỉnh giấc, không chừng lão ta cố ý không lên tiếng cũng nên”.
Tại hạ càng nghĩ càng sợ, cảm thấy đệ tử của Thiên Long môn đang mai phục ngay bên cạnh, lập tức xông ra bây giờ, buộc tại hạ phải nộp bảo đao. Tại hạ một mặt vừa gõ cửa, vừa nói rõ trước: “Nhạc phụ! Gia phụ bảo đem cái bọc này trả lại cho nhạc phụ. Con và gia phụ có việc gấp, không thể làm giúp việc nhạc phụ giao phó được. Cái bọc này con chưa hề mở ra đâu!”. Tại hạ gõ cửa liền mấy lượt, trong phòng vẫn im lặng như tờ. Tại hạ cuống lên, lấy đao cạy then cửa ra, đẩy cửa bước vào, đánh đá lửa thắp nến lên, bất giác hoảng hốt sững cả người. Thấy Ðiền bá phụ đã chết trên giường, một mũi tên dài cắm giữa ngực. Ðấy chính là mũi tên có gắn lông chim mà tại hạ thường dùng, còn cây cung thì đặt trên bàn. Vẻ mặt lão kinh hãi khác thường, dường như trước khi chết trông thấy yêu ma quỷ quái cực kỳ ghê gớm thì phải.
Tại hạ ngẩn người ra một lúc, không biết phải làm thế nào. Cửa sổ và cửa ra vào đều đóng chặt, không rõ hung thủ giết Ðiền bá phụ làm thế nào lọt vào được, sau khi hạ thủ thoát ra bằng lối nào? Tại hạ ngẩng nhìn mái nhà nhưng ngói lợp vẫn nguyên vẹn, không bị xô vỡ, vậy thì hung thủ cũng không vào ra bằng cách dỡ mái ngói.
Tại hạ muốn tra xét kỹ, chợt nghe ngoài hành lang có tiếng chân người đi tới. Tại hạ nghĩ Ðiền bá phụ chết dưới mũi tên của tại hạ, nếu lúc này có người vào đây, tại hạ làm sao thoát được mối liên can? Tại hạ vội vàng nhặt lấy cung tên trên chăn, đang định rút mũi tên trên ngực ông ta thì bỗng dưới ánh nến, tại hạ thấy trên giường còn có hai thứ nữa. Lần giật mình này còn hơn cả lần trước, tay tại hạ run bần bật, đài nến tuột rơi, tắt ngóm.
Hẳn các vị không thể đoán được tại hạ trông thấy vật gì. Vật thứ nhất là thanh bảo đao, vật thứ hai là xác đứa trẻ mà Thanh muội đem chôn. Lúc ấy tại hạ chỉ nghĩ đứa bé này không cam chịu chết oan nên chui từ mồ lên đòi mạng. Trong lúc hoảng loạn, tại hạ tiện tay vớ lấy bảo đao rồi chuồn. Vừa chạy tới cửa, tại hạ bỗng nhớ ra một việc, liền lộn trở lại giơ tay lần dưới nệm nằm của Ðiền bá phụ, quả nhiên sờ thấy mảnh giấy kia. Tại hạ đoán cái chết của lão hẳn có liên quan nhiều với mảnh giấy này nên nhét vào trong người. Ðang định giơ tay rút mũi tên thì tiếng chân người đến gần, đã có ba người đi đến cửa. Tại hạ thầm kêu: “Nguy to! Lần này cửa bị chẹn, tính mạnh Ðào Tử An ta phen này nguy mất!”.
Trong lúc nguy cấp, thấy không có chỗ nào trốn được, tại hạ đành chui đại xuống gầm giường. Tại hạ nghe ba người đẩy cửa vào, thì ra là Nguyễn sư thúc và hai sư huynh Tào, Chu. Nguyễn sư thúc gọi: “Sư ca, sư ca!”. Không thấy tiếng trả lời, ông gọi Chu sư huynh thắp nến lên. Tại hạ nghĩ đợi khi thắp được nến, thấy Ðiền bá phụ chết uổng, thế nào họ cũng lục soát, vậy thì tính mạng tại hạ đi đời, chi bằng nhân lúc tối tăm mình chuồn ra là hơn. Nguyễn sư thúc và Tào sư huynh đều là bậc cao thủ, một mình tại hạ không sao địch nổi hai người, nhưng xuất kì bất ý may ra thoát được.
Lúc này cần phải quyết đoán, không thể chần chừ được, nghĩ thế nên tại hạ từ từ bò ra tới mép giường đang tính vọt chạy thì chợt tay tại hạ chạm phải mặt một người. Thì ra dưới gầm giường đã có người chui xuống trước tại hạ.
Tại hạ suýt nữa kêu thất thanh thì người kia đã giơ tay bấm chặt mạch môn của tại hạ. Tại hạ thầm kêu đau, người đó bèn khẽ nói vào tai tại hạ: “Ðừng lên tiếng, cùng xông ra!”. Tại hạ đang mừng thầm thì đúng lúc đó trước mắt sáng bừng, Chu sư huynh đã xách đèn lồng đi vào.
Bỗng nghe “bụp” một tiếng, người kia đã tung ám khí làm đèn phụt tắt, rồi lật tay đoạt thanh bảo đao trong tay tại hạ. Tại hạ lăn tròn ra khỏi gầm giường xông gấp ra ngoài. Người dưới gầm giường cũng chạy theo sau. Nguyễn sư thúc kêu lên: “Bọn giặc giỏi nhỉ!” rồi vung chưởng đánh.
Nguyễn sư thúc võ công cực cao, xem chừng người kia không thể thoát thân, Tại hạ vội vàng chạy về phòng gọi gia phụ, ngay đêm đó trốn khỏi Ðiền gia.
Ðầu đuôi sự việc là như thế. Cái hộp sắt này do chính tay Ðiền bá phụ trao cho tại hạ, bảo tại hạ đem chôn ngoài biên ải, tại hạ làm theo lời dặn của lão. Các sư thúc, sư huynh Thiên Long môn thấy mũi tên có cánh trên ngực Ðiền bá phụ, tất nhiên ngờ tại hạ hạ thủ giết hại, điều đó cũng không đáng trách. Chỉ tiếc rằng tại hạ không biết người dưới gầm giường ra sao. Nếu không có thể tìm hắn để làm chứng. Nhưng dù không tìm được người đó, tại hạ cũng biết được hung thủ giết hại Ðiền bá phụ là ai. Xin các vị xem đây, mảnh giấy này là mảnh giấy Ðiền bá phụ giấu dưới nệm khi trông thấy tại hạ. Ông sợ kẻ thù đến giết hại ông nên giương cung lắp tên nhắm ra cửa sổ đợi kẻ đó đến. Nhưng rốt cục kẻ thù đó cũng đến, còn Ðiền bá phụ thì không thoát nổi độc thủ của hắn.
Nói đến đây, Ðào Tử An rút trong người ra một cái túi thêu hoa. Mọi người thấy túi đó thêu rất tinh xảo, đoán là Ðiền Thanh Văn làm ra nên đều quay đầu nhìn cả vào Tào Vân Kỳ. Thấy hắn tức giận đến mức mắt như bắn ra lửa, ai nấy đều cười thầm. Ðào Tử An mở túi rút ra một mảnh giấy, đang định đưa cho Bảo Thụ thì hơi ngần ngừ, lại đưa cho Miêu Nhược Lan.
Mảnh giấy đó gấp vuông vắn, Miêu Nhược Lan đỡ lấy mở ra xem thì khẽ “ồ” lên một tiếng. Thấy trên giấy viết hai hàng chữ đậm như sau:
“Chúc mừng Ðiền lão tiền bối bế môn phong kiếm, phúc thọ ven toàn.
Vãn sinh Hồ Phỉ kính bái“.
Hai dòng chữ này nét bút cứng cáp, giống hệt nét chữ trong tờ thiếp do hai đứa tiểu đồng lúc nãy mang lên, hẳn là do chính tay Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ viết. Bàn tay Miêu Nhược Lan cầm tờ giấy run run, khẽ nói: “Lẽ nào lại là chàng?”.
Nguyễn Sĩ Trung cầm mảnh giấy trong tay Miêu Nhược Lan lên xem, nói:
– Ðây chính là nét bút của Hồ Phỉ. Như thế là chúng ta đã trách lầm Tử An rồi!
Lão bỗng quay người lại nhìn Lưu Nguyên Hạc rồi nói:
– Lưu đại nhân, thế đại nhân núp dưới gầm giường Ðiền sư huynh của tại hạ làm gì? Đại nhân mai phục sẵn cho Tuyết Sơn Phi Hồ có phải không?
Mọi người nghe nói đều giật mình, cả Tào Vân Kỳ và Chu Vân Dương cũng chẳng hiểu ra sao. Ðêm ấy, trong bóng tối, người ở dưới gầm giường giao đấu vài hiệp với Nguyễn Sĩ Trung rồi chạy luôn, sau đó ba người cùng đoán nhưng rốt cuộc không biết là ai, sao lúc này họ Nguyễn đột nhiên lại hỏi Lưu Nguyên Hạc như vậy?
Lưu Nguyên Hạc chỉ cười nhạt một tiếng, chứ không trả lời. Nguyễn Sĩ Trung lại nói:
– Ðêm ấy trong bóng tối, tại hạ không kịp nhìn rõ diện mạo của bậc quân tử dưới dưới gầm giường, nhưng trong bụng thầm phục võ nghệ tài giỏi của ông ta. Ba chú cháu ta chẳng những không chặn nổi mà cả đến lai lịch gốc gác của ông ta cũng chẳng biết mảy may, quả thật là bất tài. Hôm nay, trận tỉ thí trên tuyết, tại hạ được giao đấu cùng Lưu đại nhân, mới nhận ra đúng là thân thủ của bậc quân tử dưới gầm giường ngày ấy. Hà hà, may mắn gặp gỡ! Hà hà, đáng tiếc, đáng tiếc!
Chu Vân Dương biết sư thúc lúc này cần có người đỡ lời, chẳng khác gì vai phụ trong cuộc đấu khẩu, nếu không thì không nói tiếp được nên mới hỏi:
– Sư thúc, đáng tiếc cái gì thế?
Nguyễn Sĩ Trung nhướn mày, cao giọng nói:
– Ðáng tiếc đường đường một vị ngự tiền thị vệ như Lưu đại nhân mà lại bất chấp danh phận, làm cả những trò trèo tường khoét gạch, cắp chó trộm gà như vậy!
Lưu Nguyên Hạc cười ha hả, nói:
– Nguyễn đại ca mắng hay lắm, mắng hay lắm! Ðêm ấy, núp dưới gầm giường Ðiền Quy Nông đúng là tại hạ. Nguyễn đại ca mắng tại hạ là cắp chó trộm gà cũng đúng!
Nói đến đây, vẻ mặt Lưu Nguyên Hạc lộ vẻ đắc ý. Lão nói tiếp:
– Chỉ có điều tại hạ cắp chó trộm gà lại là phụng thánh chỉ của Hoàng thượng mà làm đó thôi!
Mọi người lấy làm lạ, ngờ lão nói nhăng nói cuội, nhưng nghĩ lại, lão là thị vệ trong cung nhà Thanh, e rằng thật sự đã phụng chỉ đối phó với Thiên Long môn cũng chưa biết chừng. Người của Thiên Long môn ai cũng đều có gia sản, đều làm ăn buôn bán giàu có, nghe thế bất giác chột dạ. Ân Cát là một đại tài chủ nổi tiếng của Lưỡng Quảng nên càng lo sợ hơn.
Lưu Nguyên Hạc thấy chỉ một câu đã khiến cả bọn rụt đầu thì càng dương tự đắc nói thêm:
– Việc đến thế này tại hạ cần phải nói rõ cho các vị biết, lát nữa có khi phải nhờ vả các vị. Có một vật này hoặc giả các vị chưa từng thấy bao giờ chăng?
Nói xong lão lấy từ trong người ra một túi lớn màu vàng, ngoài có đề hai chữ “mật lệnh”. Lão mở miệng túi lấy ra một tờ giấy vàng, đọc to lên:
“Phụng mật dụ. Lệnh cho Ngự tiền nhất đẳng thị vệ Lưu Nguyên Hạc y theo kế mà thi hành, không được có sơ sót. Trại tổng quản “.
Ðọc xong, lão trải tờ giấy vàng trên bàn cho mọi người cùng xem.
Bọn Ân Cát, Ðào Bách Tuế là người hiểu nhiều biết rộng, thấy trên tờ giấy vàng có dấu son đỏ chói thì biết ngay đó quả thật là mật lệnh của quan tổng quản thị vệ Trại Thượng Ngạc gửi xuống. Trại tổng quản xưa nay có tiếng là đệ nhất cao thủ Mãn Châu, vốn được vua Càn Long xem trọng. Lưu Nguyên Hạc nói:
– Nguyễn đại ca không cần trợn mắt vễnh râu với tại hạ. Việc này là do lệnh sư huynh là Ðiền Quy Nông gây ra từ đầu. Có một hôm Trại tổng quản mời mười tám tên thị vệ bọn tại hạ đến phủ tổng quản ăn cơm tối. Mười tám người trong bọn tại hạ được bằng hữu bên ngoài phủ tặng cho một ngoại hiệu là “Đại nội thập bát cao thủ”. Thực ra, dựa vào chút bản lãnh mèo quào ba chân của bọn tại hạ thì sao xứng đáng với hai chữ “cao thủ”? Chẳng qua bằng hữu thích gọi như thế, thích tâng bốc bọn tại hạ nên cũng đành chịu, phải không nào?
Bọn tại hạ vừa tới thì Trại tổng quản bảo hôm nay muốn giới thiệu một vị danh tiếng nổi như cồn trong võ lâm. Trại tổng quản vào nhà trong dẫn ra một người. Người này lưng thẳng đứng, dánh đi mạnh, hai mắt sáng, quả nhiên phong thái đáng mặt cao thủ võ lâm. Tóc mai tuy đã muối tiêu nhưng diện mạo vẫn cực kỳ tuấn tú, hẳn hồi trẻ phải là một mỹ nam tử. Trại tổng quản cao giọng nói: “Các vị huynh đệ, vị này là chưởng môn phái Bắc Tông của Thiên Long môn, nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, Ðiền Quy Nông đại ca!”.
Bọn tại hạ nghe xong đều hơi sửng sốt. Mọi người đều biết danh tiếng Ðiền Quy Nông, có điều Thiên Long môn xưa nay vốn ít qua lại với quan phủ, không biết Trại tổng quản nhờ đâu mà mời được ông ta đến. Trong bữa ăn, Ðiền đại ca cũng khách khí lắm, nói rất nhiều lời khách sáo về mối giao tình, nhưng không hề hé một câu nào về nguyên nhân y tới kinh. Cho tới khi ăn uống xong, Trại tổng quản mời mọi người sang phòng bên uống trà, Trại tổng quản và y mới nói nguyên nhân vì sao.
Thì ra Ðiền đại ca tuy thân tại giang hồ nhưng lòng trung quân báo quốc thì không kém gì bọn tại hạ là người đang tại chức. Lần này y tới kinh là vì có một kho tàng muốn dâng lên Hoàng thượng. Kho tàng này là kho vàng bạc châu báu mà tên phản nghịch Lý Tự Thành vơ vét được ở Bắc Kinh. Ðiền đại ca cho biết muốn tìm kho tàng này phải có đủ hai đầu mối, ghép hai đầu mối này lại mới có thể tìm ra được. Một đầu mối là thanh bảo đao của Lý Tự Thành hiện do Thiên Long môn nắm giữ, Điền đại ca đang mang theo bên mình. Một đầu mối nữa còn khó tìm, đó là bản đồ chỉ nơi cất giấu kho tàng, vốn là vật truyền từ đời này sang đời khác của nhà họ Miêu. Chỉ có bảo đao mà không có bản đồ thì cũng không thể biết kho tàng ở chỗ nào. Nếu có hai vật này hợp lại thì việc tìm kho tàng dễ như lấy đồ trong túi vậy.
Bọn tại hạ tuy làm quan nhưng ai nấy vốn đều xuất thân võ lâm. Vừa nghe tới ba chữ “Miêu gia kiếm” đều nghĩ: “Kim Diện Phật Miêu Nhân Phượng nổi danh “Ðả biến thiên hạ vô địch thủ” lợi hại như thế, ai dám gây sự với ông ta?”.
Ðiền đại ca thấy bọn tại hạ có vẻ ngần ngại thì mỉm cười nói:
– Nếu tại hạ không nghĩ ra kế sách đối phó Miêu Nhân Phượng thì làm sao dám khinh xuất đến đây làm kinh động các vị?
Trại tổng quản vội hỏi kế sách gì, Ðiền đại ca liền trình bày một hồi, khiến người nghe đều gật gù, đồng thanh khen là diệu kế. Diệu kế đó rốt cuộc là gì, khi nào đến lúc, các vị tất biết cả thôi, lúc này không cần nói nhiều.
Ngày hôm sau, Ðiền đại ca từ biệt, rời kinh. Trại tổng quản liền sai bọn tại hạ y theo kế hoạch mà hành động. Trại tổng quản suy nghĩ về việc này thấy Ðiền đại ca không muốn làm quan, cũng không màng của cải, sao vô duyên vô cớ lại biếu không một lễ vật lớn lao như vậy? Trong thiên hạ làm gì có người tốt đến thế? Trại tổng quản ngờ trong việc này phải có nguyên do khác, bèn bí mật cử mấy người rời kinh đi do thám. Tại hạ rời kinh không bao lâu thì nghe tin Ðiền đại ca bế môn phong kiếm, bèn chuẩn bị lễ vật đến nhà chúc mừng.
Lúc gặp mặt Ðiền đại ca, ông tỏ ra rất vui, nói rằng quý khách đến nhà thật chẳng mấy khi, sau đó lẳng lặng nhờ tại hạ làm giúp một việc. Ân đại ca, việc này nói ra xin đại ca đừng giận, đó là bảo tại hạ đến phủ quan vu cho Ân đại ca một tội danh nào đó, rồi nhốt đại ca vào nhà ngục vài ba năm hẵng hay.
Ân Cát giật nảy người, toàn thân nổi gai ốc, giọng run run hỏi:
– Thì ra Ðiền sư huynh là con người như vậy. May mà được Lưu đại nhân soi xét, không nỡ bắt tội, tại hạ thế nào cũng phải báo đáp cho xứng đáng.
Lưu Nguyên Hạc cười nói:
– Nói hay lắm! Nói hay lắm! Lúc ấy tại hạ hỏi y có thù oán thế nào với Ân đại ca, y nói không có thù oán gì cả, có điều theo quy củ của Thiên Long môn thì thời hạn chưởng môn Bắc tông nắm giữ bảo đao đã hết, thanh bảo đao trấn môn đó phải chuyển cho Nam tông, không trì hoãn được. Một khi bảo đao đã lọt vào tay Ân đại ca, muốn đòi lại thì không khỏi rắc rối.
Lý do đó cũng đúng, nhưng tại hạ bất giác cảm thấy càng nghi ngờ hơn. Lúc ấy tại hạ chỉ vâng vâng dạ dạ, không ra nhận lời mà cũng không hẳn là từ chối, chỉ đứng sang một bên để xem sự thể ra sao.
Sau bữa tiệc, tại hạ nghĩ thanh bảo đao của Ðiền đại ca thế nào cũng phải chuyển giao, khó mà thoái thác được. Tại hạ có cách giúp y trong việc này. Nếu tại hạ ngầm lấy bảo đao đi, Ðiền đại ca ắt không thể bàn giao được. Ân đại ca dù có bất mãn thì cũng chẳng làm gì được. Ðây đúng là cơ hội tốt để tại hạ lập đại công thánh ân, sao có thể dễ dàng bỏ qua? Thế là tại hạ lẳng lặng lẻn vào phòng Ðiền đại ca, đang định tìm bảo đao thì nghe ngoài cửa có tiếng chân người, thì ra là Ðiền đại ca trở về phòng. Ðang lúc cấp bách, tại hạ đành nấp dưới gầm giường.
Ðiền đại ca về đến phòng thì mở hòm lấy cái hộp sắt ra. Bỗng ông thất thanh kêu lên: “Ủa, đao đâu rồi?”. Tại hạ nghe tiếng kêu ấy rất hoảng hốt, chắc không phải giả vờ. Xem ra thanh bảo đao đã bị ai đó trộm mất rồi. Ông lập tức gọi con gái vào hỏi. Ðiền cô nương không biết tí gì cũng cuống lên. Lát sau Nguyễn đại ca vào phòng, hai sư huynh sư đệ tranh cãi gay gắt về việc lập chưởng môn, đề cập chuyện ám muội giữa Tào Vân Kỳ và Ðiền cô nương. Một lúc sau, Ðiền đại ca bảo Nguyễn đại ca đi gọi Đào thế huynh đến.
Ðiền đại ca trao cái hộp sắt cho Ðào thế huynh, sai thế huynh đem đi chôn ở quan ngoại. Tại hạ núp dưới gầm giường nghe rõ mồn một, nghĩ bụng anh chàng ngốc Ðào Tử An phen này mệt rồi.
Ðào thế huynh đi rồi, tại hạ ở dưới gầm giường nghe tiếng Ðiền đại ca đập tay xuống giường, thở dài, miệng lẩm bẩm: ” Hồ Nhất Ðao, Miêu Nhân Phượng! Các ngươi gỏi lắm”. Lúc ấy, tại hạ không biết Hồ Nhất Ðao là ai, lại tưởng Miêu Nhân Phượng trộm thanh đao. Nhưng hoá ra ông nhận được tờ thiếp của Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ, con trai Hồ Nhất Ðao, Điền đại ca tự biết khó tránh khỏi cái chết, nên rất hoảng sợ. Chẳng may đúng lúc này thanh bảo đao lại bị mất trộm, y không thể cao bay xa chạy, bỏ mặc mọi chuyện được.
Rồi Ðiền cô nương quay trở lại phòng, nói: “Gia gia, hài nhi tìm ra tung tích thanh bảo đao rồi!”. Ðiền đại ca bật dậy, kêu lên: “Ở đâu?”. Ðiền cô nương bước đến gần, nói khẽ: “Chu sư huynh lấy trộm rồi!”. Ðiền đại ca nói: “Thật ư? Hắn ở đâu? Ðao ở đâu?”.
Ðiền cô nương đáp: “Chính mắt hài nhi trông thấy Chu sư huynh đem bảo đao chôn ở một nơi”.
Ðiền đại ca bảo: “Tốt lắm, con mau đi đào lên!”.
Ðiền cô nương nói:” Gia gia, hài nhi làm chuyện này, xin gia gia đừng trách”.
Điền đại ca hỏi:
– Chuyện gì?
Điền cô nương nói:
– Gia gia cho gọi Chu sư huynh đến, hài nhi nấp sau cửa. Phụ thân hỏi sư huynh xem có trộm bảo đao không. Nếu sư huynh nhận, hài nhi phóng Ðộc Long Chuỳ vào lưng sư huynh.
Tại hạ thầm nghĩ, thủ đoạn của vị cô nương thật độc ác. Lại nghe Ðiền đại ca nói:
– Ta đánh gãy hai chân của gã là được rồi, không cần phải lấy mạng gã!.
Ðiền cô nương lại nói:
– Nếu phụ thân không theo lời hài nhi, thì hài nhi không đi lấy đao đâu!
Ðiền đại ca lưỡng lự giây lát, rồi nói:
– Thôi được, con mau đi lấy đao về đây, xong rồi tuỳ con xử trí gã thế nào cũng được.
Thế là Ðiền cô nương quay người bước ra. Lúc ấy tại hạ không biết Ðiền cô nương có thù oán gì với Chu sư huynh. Hôm nay nghe Ðào thế huynh kể, tại hạ mới biết Ðiền cô nương muốn giết người diệt khẩu. Hà, ghê gớm thật! Một đại cô nương danh giá mà chôn đứa con hoang, chuyện ấy cho người khác biết được sao?
Lưu Nguyên Hạc nói đến đây thì mọi người đều chuyển ánh mắt sang Chu Vân Dương. Chỉ thấy hắn mặt mày tái mét, mắt chớp liên hồi.
Lại nghe Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Tại hạ quyết định nằm bẹp dưới gầm giường đợi xem màn kịch giết người này, hơn nữa, tại hạ còn phải đợi thanh bảo đao. Huống hồ Ðiền đại ca đang thức nằm trên giường, tại hạ làm sao ra khỏi phòng sao được? Ðợi không lâu sau thì Ðiền cô nương hấp tấp trở vào:
– Phụ thân! Thanh đao bị hắn đào lên đem đi rồi! Con thật hồ đồ, để chậm một bước. Hắn… hắn còn…
Ðiền đại ca vừa kinh hoảng vừa tức giận, hỏi:
– Hắn còn làm gì?
Thực ra Ðiền cô nương toan nói: “Hắn còn đào cả xác con trai con nữa”. Nhưng câu này nói ra sao được? Điền cô nương lặng đi một lát, nói:
– Ðể con đi tìm hắn!
Nói xong, cô lập tức phóng đi ngay. Chắc vì quá hoảng sợ nên chạy vừa đến cửa thì Điền cô nương trượt chân ngã nhào.
Tại hạ nằm mọp dưới gầm giường nghe muốn ngạt thở, bảo đao không rõ ở đâu nữa rồi! Tại hạ toan thừa cơ hội, đánh tắt nến để chuồn ra, nào ngờ Ðiền đại ca thấy con gái ngã thì chỉ thở dài chứ không xuống giường ra đỡ dậy. Ðiền cô nương đứng lên, vịn vào khung cửa thở dốc một lát mới đi.
Ðiền đại ca xuống giường đến đóng chặt cửa sổ, ngồi trên ghế. Y đặt thanh trường kiếm lên bàn, tay cầm cung tên, mặt đanh lại, trông thần sắc cực kỳ đáng sợ. Tại hạ cũng thấp thỏm không yên, nếu để y phát hiện, hẳn sẽ trở mặt vô tình. Võ công của tại hạ vốn không bằng y, e rằng tính mạng khó bảo toàn.
Ðiền đại ca ngồi im trên ghế chẳng hề động đậy, người đơ ra, nhưng ánh mắt cứ chớp chớp, rõ ràng trong lòng rất buồn bực không yên. Bốn bề lặng như tờ, chỉ nghe xa xa thoang thoảng có tiếng chó sủa, rồi gần đó có tiếng chó sủa inh ỏi. Chợt con chó ấy kêu “ẳng” một tiếng rồi im bặt, tựa như bị ai đó đánh chết bằng một thủ pháp cực nhanh. Ðiền đại ca đứng vụt dậy, ngay lúc đó nghe có mấy tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa đến nhanh thật, vì tiếng chó sủa vang lên cách đấy cũng phải mấy chục trượng. Ðủ biết người vừa đánh chết chó trong nháy mắt đã đi tới cửa.
Ðiền đại ca trầm giọng hỏi:
– Hồ Phỉ, người đến rồi ư?
Người ngoài cửa nói:
– Ðiền Quy Nông, có nhận ra tiếng ta không?
Ðiền đại ca mặt nhợt nhạt, run run nói:
– Miêu… Miêu đại hiệp!
Người ngoài cửa nói:
– Không sai, ta đây!
Ðiền đại ca hỏi:
– Miêu đại hiệp, đại hiệp đến đây làm gì?
Người ngoài cửa đáp:
– Hừ, ta đưa mấy thứ đến cho ngươi đây!
Ðiền đại ca chần chừ giây lát rồi đặt cung tên xuống, bước ra mở cửa. Thấy một hán tử vừa cao vừa gầy, mặt vàng như nghệ bước vào.
Dưới gầm giường, tại hạ để ý nhìn bộ dạng của ông ta, thầm nghĩ:
– Người mang ngoại hiệu “Đả biến thiên hạ vô địch thủ”, nhân vật đệ nhất võ lâm đương kim, quả nhiên không cần nổi giận mà vẫn có uy, khí thế thật đáng sợ!.
Tại hạ thấy tay ông ta cầm hai thứ đặt trên bàn, nói:
– Ðây là bảo đao của huynh, còn đây là cháu ngoại của huynh!
Thì ra một cái bọc dài dài là xác đứa trẻ sơ sinh. Ðiền đại ca rùng mình, ngã người ngồi xuống ghế.
Miêu đại hiệp nói:
– Ðồ đệ ngươi giấu ngươi đem đao đi chôn, con gái ngươi cũng giấu ngươi đem chôn đứa con đẻ hoang. Cả hai đều bị ta thấy được, giờ ta đào lên đem trả cho ngươi.
Ðiền đại ca nói:
– Đa tạ. Gia môn bất hạnh, nói ra thêm xấu hổ.
Bỗng mắt Miêu đại hiệp hoe đỏ, dường như muốn khóc, nhưng ngay sau đó mặt đầy sát khí, gằng từng tiếng hỏi:
– Nàng tại sao chết?
Bỗng nghe “choang” một tiếng, tách trà trên tay Miêu Nhược Lan rơi xuống đất vỡ tan tành. Cử chỉ của nàng vốn tao nhã điềm đạm, không hiểu sao vừa nghe câu đó lại xúc động đến thế. Cầm Nhi vội vàng rút khăn tay ra lau nước trà đổ trên người nàng, khẽ nói:
– Tiểu thư vào phòng nghỉ một lát đi, đừng nghe nữa!
Miêu Nhược Lan đáp:
– Không, ta phải nghe cho hết đã!
Lưu Nguyên Hạc liếc nhìn nàng, rồi kể tiếp:
– Ðiền đại ca nói: “Hôm ấy nàng bị lạnh, cảm ho. Tại hạ mời đại phu chẩn trị, đại phu bảo không việc gì, chỉ bị cảm phong hàn nhẹ thôi, uống một thang thuốc, ra mồ hôi hạ sốt là khỏi. Nhưng nàng nói thuốc đắng quá, đổ cả thuốc vừa sắc đi, cũng chẳng chịu ăn cơm cháo gì. Thế là bệnh ngày một nặng. Tại hạ mời liên tiếp mấy đại phu nhưng nàng chẳng chịu uống thuốc của ai, lại cũng không ăn gì, khuyên thế nào cũng không nghe”.
Miêu Nhược Lan nghe đến đây, không ghìm lòng được, bèn thút thít khóc. Bọn Hùng Nguyên Hiến đều lấy làm lạ, không biết người đàn bà không chịu ăn, không chịu uống thuốc ấy là ai, có liên quan gì với cả ba người là Ðiền Quy Nông và hai cha con Miêu đại hiệp. Còn cha con họ Ðào và người của Thiên Long môn thì biết đó là phu nhân tục huyền của Ðiền Quy Nông. Nhưng tại sao Miêu đại hiệp quan tâm đến chuyện đó, tại sao Miêu Nhược Lan đau buồn thì họ đều không rõ nguồn cơn. Họ đều nghĩ: “Lẽ nào Ðiền phu nhân là thân thích của nhà họ Miêu? Sao bấy lâu nay chúng ta chưa hề nghe nói đến?”.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Lúc ấy nằm dưới gầm giường, tại hạ nghe mà chẳng hiểu gì hết, không hiểu họ đang nói về ai. Thầm nghĩ Miêu Nhân Phượng lật đật đến đây chẳng qua vì muốn hỏi bệnh tình của một người. Người ấy không chịu uống thuốc, cũng chẳng chịu ăn, chẳng phải là làm nư sao? Nhưng Miêu đại hiệp lại hỏi :
– Nói như thế thì nàng không muốn sống nữa rồi?
Ðiền đại ca đáp:
– Sau đó tại hạ quỳ thụp xuống đất van xin nàng, nói đến hết hơi khản tiếng mà nàng vẫn cứ trơ trơ.
Miêu đại hiệp hỏi:
– Nàng có dặn lại gì không?
Ðiền đại ca đáp:
– Nàng bảo tại hạ sau khi nàng chết thì đem hỏa táng rồi rải tro cốt trên đường đi cho mọi người giày xéo!
Miêu đại hiệp nhảy dựng lên, nghiêm giọng hỏi:
– Ngươi có làm theo lời nàng không?
Ðiền đại ca đáp:
– Tại hạ hỏa tang xong, cốt tro vẫn giữ ở đây.
Nói rồi, y đứng lên, lấy từ trong giường ra một cái hũ sứ nhỏ, đặt lên bàn. Miêu đại hiệp nhìn cái hũ sứ, vẻ mặt vừa đau buồn vừa phẫn nộ. Tại hạ liếc một cái là không dám nhìn vào mặt ông nữa. Ðiền đại ca lại lấy từ trong người ra một cái thoa ngọc đầu phượng đặt lên bàn, nói:
– Nàng dặn tại hạ trả cái thoa ngọc này cho đại hiệp, hoặc giao cho Miêu cô nương, bảo đây là vật của nhà họ Miêu.
Nghe kể đến đây, ai nấy đều nhìn Miêu Nhược Lan. Chiếc thoa ngọc đầu phượng cài trên mái tóc nàng hơi rung rung. Ðầu chim phượng chạm trổ tinh xảo vô cùng, mấy hạt ngọc cũng tròn trịa trơn tru, có điều ngọc đã hơi ngả màu vàng, tựa như là đồ cổ đã lâu đời.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Miêu đại hiệp cầm chiếc thoa ngọc lên rồi nhổ một sợi tóc trên đầu mình, thong thả xâu sợi tóc vào mỏ con phượng, sợi tóc xuyên từ đó ra tới đầu nhọn của thoa, thì ra thân thoa rỗng. Ông cầm hai đầu sợi tóc kéo nhẹ một cái, một bên đầu con phượng bật ra. Miêu đại hiệp nghiêng chiếc thoa ngọc, trong đầu phượng rơi ra một viên giấy nhỏ. Ông vuốt thẳng viên giấy ra rồi lạnh lùng nói: “Thấy chưa?”. Ðiền đại ca mặt mày xám xịt, một hồi lâu mới thở dài.
Miêu đại hiệp nói:
– Ngươi nghĩ ra trăm phương ngàn kế để lấy cho được bản đồ này nhưng rốt cuộc nàng đã nhận ra bộ mặt thật của ngươi, không chịu nói cho ngươi biết điều cơ mật, vẫn trả chiếc thoa ngọc về cho nhà họ Miêu. Bản đồ bảo tàng ở ngay trong chiếc thoa này. Hừm, e rằng có nằm mơ ngươi cũng không nghĩ ra được!
Nói xong mấy câu đó, Miêu đại hiệp lại bỏ viên giấy vào một bên đầu chim phượng rồi dùng sợi tóc kéo cái lẫy lại như cũ. Ông đặt chiếc thoa lên bàn, nói:
– Ta đã chỉ ngươi cách mở đầu con chim phượng rồi đấy. Ngươi cầm lấy, theo bản đồ mà tìm kho tàng!
Ðiền đại ca đâu dám động đến, chỉ ngậm miệng không nói một lời. Tại hạ ở dưới gầm giường nhìn mà thấy rất nôn nóng. Bản đồ và thanh bảo đao chỉ cách tại hạ có vài thước, nhưng không làm sao đoạt được. Còn Miêu đại hiệp thì ngây người nhìn cái hũ sứ rồi thong thả giơ hai tay bưng cái hũ sứ lên đặt vào lòng. Mặt ông trông thật đáng sợ.
Một tiếng rên khẽ vang lên, Miêu Nhược Lan phục xuống bàn khóc nức nở, chiếc thoa ngọc đầu phượng cài bên mái tóc rung mãi không thôi. Mọi người nhìn nhau, chẳng hiểu ra sao.
Lưu Nguyên Hạc kể tiếp:
– Ðiền đại ca đập tay xuống bàn nói: “Miêu đại hiệp, hạ thủ đi, tại hạ chết cũng không oán”.
Miêu đại hiệp cười gằn, nói:
– Ta việc gì phải giết ngươi? Người sống chưa chắc đã bằng kẻ chết. Nhớ năm nào, ta và Hồ Nhất Ðao tỉ võ, đánh nhau đến mấy ngày, cuối cùng cả hai vợ chồng họ đều chết mà ta thì sống. Từ đấy ta luôn đau buồn, sau đó nghiệm ra vợ chồng người ta ân ái chung thủy, sống chết có nhau, so với ta sống vò võ một mình trên cõi đời này thì đúng là họ hạnh phúc hơn ta nhiều lắm. Hừ, hừ, tấm bản đồ ấy ở ngay bên ngươi bao nhiêu năm mà ngươi chẳng hề biết, lại tự tay đưa trả lại cho ta, ta hà tất phải giết ngươi? Cứ để cho ngươi bực tức cả đời, như thế chẳng hay hơn sao?
Nói xong Miêu đại hiệp cầm lấy chiếc thoa ngọc, rảo bước ra khỏi phòng. Tuy Ðiền đại ca có cung tên, đao kiếm bên mình, nhưng sao dám động thủ?
Ðiền đại ca thở dài, đặt cái xác đứa bé lẫn thanh đao lên giường rồi quay ra cài chặt cửa, lẩm bẩm nói:
– Người sống chưa chắc đã sung sướng bằng kẻ chết!
Ông ngồi trên giường gọi to:
– Nam Lan ơi Nam Lan! Nàng sẩy chân vì ta, mà ta cũng lỡ bước vì nàng, sao lại khổ đến thế?
Ngay sau đó nghe “sựt” một tiếng, giống như vật nhọn cắm phập vào da thịt. Ðiền đại ca giãy trên giường mấy cái rồi không động đậy.
Tại hạ giật nảy người, vội chui ra, thấy ông đã tự đâm mũi tên có gắn lông chim vào tim, đã tắt thở. Các vị, Ðiền đại ca tự tử chết chứ không phải bị người bắn chết đâu.
Người khiến y chết chẳng phải là Ðào Tử An, càng không phải là Hồ Phỉ, mà là chính y. Tại hạ không quen biết hai người họ Ðào, họ Hồ này nên chẳng cần phải gỡ tội cho họ.
Tại hạ thấy y chết rồi liền thổi tắt nến, đang định cầm lấy thanh bảo đao rồi đánh bài chuồn là thượng sách. Nhưng Ðào thế huynh đã đứng bên ngoài đập cửa, tại hạ đành chui lại vào gầm giường. Sự việc sau đó thì Ðào thế huynh đã kể rồi. Ðào thế huynh cầm lấy bảo đao trốn ra quan ngoại. Tại hạ nín thở nằm dưới gầm giường gần nửa ngày trời, lẽ nào để uổng công? Thêm vào đó, Hùng sư đệ của tại hạ xưa nay vốn có qua lại với Ẩm Mã Xuyên, thế là huynh đệ tại hạ cùng đến.
Lưu Nguyên Hạc nói xong, hai tay phủi phủi trên người, trên tóc tựa hồ vừa mới từ dưới gầm giường chui ra vậy. Ông ta uống hai ngụm trà, thần sắc rất thoải mái, đắc ý.