Mọi người nghe chuyện nửa ngày trời, càng thấy khâm phục con người Hồ Nhất Ðao. Ðược biết Tuyết Sơn Phi Hồ là con trai ông ta, trong lòng ai nấy đều dấy lên một tình cảm khác thường. Tuy gặp chàng chưa chắc đã có lợi gì, nhưng bất giác mọi người đều khao khát được gặp một lần, lại nghĩ chủ nhân nơi đây mời các cao thủ khắp nơi để chuẩn bị nghênh chiến, thì e rằng bản lãnh của chàng hẳn cũng không thua kém gì phụ thân.
Miêu Nhược Lan bỗng hoảng hốt nói:
– Ôi chao! Các cao thủ được chủ nhân nơi này mời đến cùng với gia phụ đều chưa lên núi! Nếu họ gặp Tuyết Sơn Phi Hồ ở dưới núi, ắt sẽ động thủ. Gia phụ không biết Hồ huynh là con trai của Hồ bá bá, nếu ông giết mất Hồ huynh thì biết làm thế nào đây?
Bình A Tứ cười nhạt, nói:
– Miêu đại hiệp tuy có tiếng đánh khắp thiên hạ không ai địch nổi, nhưng nếu bảo chỉ một nhát kiếm là giết được Hồ tướng công thì e rằng cũng chưa chắc!
Khi cười, vết sẹo dài kéo các cơ bắp lên càng khiến khuôn mặt gã thêm xấu xí đáng sợ.
Bình A Tứ lại nói:
– Hôm nay Hồ tướng công lên núi, một là do vận rủi của chủ nhân nơi này, hai là muốn tìm Miêu đại hiệp tỉ thí báo thù. Chỉ vì tiểu nhân tận mắt thấy mối giao tình thân thiết giữa hai vị Hồ, Miêu năm xưa, biết kẻ mưu hại Hồ đại gia thực ra là người khác. Nên tiểu nhân có khuyên Hồ tướng công đừng làm khó dễ Miêu đại hiệp, nhưng tướng công nói chỉ muốn hỏi trực tiếp Miêu đại hiệp cho rõ ràng mà thôi. Về sau khi ở dưới núi, tiểu nhân thấy vị Diêm đại phu đây. Tuy xa cách đã hơn hai chục năm nhưng tiểu nhân vẫn nhận ra được y. Thế là tiểu nhân theo lên núi, đốt thừng, đổ hết lương thực để cho mọi người cùng chết đói nơi này, cũng kể là báo đáp được ơn nghĩa của Hồ đại gia đối với tiểu nhân.
Mấy lời đó khiến mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau, thầm nghĩ năm xưa Bảo Thụ tham của hại người, nay phải chết cũng là đáng lắm. Có điều những người khác chẳng liên quan gì tới chuyện đó mà cũng phải bỏ mạng nơi này thì thật là oan uổng quá.
Nhìn nét mặt của mọi người, Bảo Thụ biết họ rất oán trách mình, lão bèn đứng lên cầm lấy bảo đao và cái hộp sắt, nói to:
– Việc hôm nay, chúng ta chỉ còn cách đồng tâm hiệp lực, cùng tìm cách xuống núi thôi. Còn tên ác đồ này…
Nói chưa dứt, bỗng nghe tiếng vỗ cánh, một con bồ câu trắng bay vào đại sảnh, đậu trên bàn.
Miêu Nhược Lan mừng rỡ nói:
– A! Con chim đáng yêu quá!
Nàng bước tới đưa tay nhẹ nhàng nâng con chim lên, vuốt ve lưng chim. Chợt thấy chân chim buộc một sợi dây, sợi dây từ chân chim thòng ra tận ngoài cửa. Miêu Nhược Lan bèn kéo vào. Sợi dây rất dài, kéo một hồi mà vẫn chưa thấy đầu dây. Nàng nảy ý tò mò, dùng luôn hai tay kéo dây, nhưng sợi dây này dường như dài vô tận. Ðiền Thanh Văn bước tới kéo giúp. Hai người kéo được mấy chục trượng, bỗng thấy dây hơi nằng nặng, xem ra đầu dây phía kia có buộc vật gì đó.
Vu quản gia mừng quá, kêu to:
– Chúng ta được cứu rồi!
Mọi người đồng thanh hỏi:
– Sao?
Vu quản gia đáp:
– Con bồ câu trắng này do bản trang nuôi, dùng để liên lạc tin giữa trên núi với dưới núi. Nhất định là người của bản trang ở dưới núi phát hiện dây leo núi đã bị đứt nên thả chim cho bay lên, đầu dây buộc một vật gì đó để cứu chúng ta xuống núi đây.
Nghe câu đó, Bình A Tứ biến sắc mặt, gầm lên một tiếng rồi nhào tới toan giật đứt sợi dây. Ân Cát đứng gần nhào người ra chận ngay trước mặt, hai tay gạt ngã Bình A Tứ.
Ðiền Thanh Văn nói:
– Muội muội, cẩn thận không thì đứt dây đấy!
Miêu Nhược Lan gật đầu. Sợi dây tuy mảnh, nhưng rất bền chắc, hai người càng kéo càng thấy nặng tay mà sợi dây không hề đứt. Kéo một lát nữa, Miêu Nhược Lan đã cảm thấy mỏi, Ðào Tử An nói:
– Miêu cô nương nghỉ đi, để tại hạ kéo cho.
Nói rồi, Tử An bước tới đón lấy sợi dây.
Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ, Lưu Nguyên Hạc và mấy người nữa đã chạy ra ngoài cửa từ nãy để xem sợi dây kia buộc vật gì cứu họ.
Ðào Tử An và Ðiền Thanh Văn kéo một lúc nữa thì chợt nghe ngoài cửa có tiếng reo mừng ầm ĩ. Tay họ lập tức nhẹ bỗng, xem chừng vật buộc kia đã được kéo lên. Mọi người còn trong sảnh kéo hết ra ngoài. Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ đứng ở mép vực, tay họ luân phiên lên xuống bận rộn khác thường, thì ra vẫn còn đang kéo dây. Sợi dây mảnh nối với một sợi dây to hơn, khi sợi dây to hơn thu hết thì kéo theo một dây thừng rất lớn.
Mọi người reo hò rồi cùng xúm tay buộc sợi dây thừng vào hai cây thông lớn bên bờ vực.
Lưu Nguyên Hạc nói:
– Chúng ta xuống thôi! Ðể tại hạ xuống trước!
Nói rồi hai tay nắm lấy sợi dây thừng, toan thả mình xuống núi. Ðào Bách Tuế vội quát:
– Khoan đã! Sao lại là ngươi xuống trước? Ai biết ngươi xuống tới dưới sẽ làm cái trò quỷ quái gì?
Lưu Nguyên Hạc tức giận, vặn lại:
– Nếu đúng như lời ngươi nói thì sao nào?
Ðào Bách Tuế sững người ra, thầm nghĩ người nào trên đỉnh núi này cũng có mưu đồ, chẳng ai tin ai, bất kể ai xuống trước thì người xuống sau đều khó yên lòng. Nếu lão bị hỏi một câu như vậy thì thật cũng khó trả lời.
Tào Vân Kỳ nói:
– Ðể mấy vị cô nương xuống trước, còn nam tử chúng ta phải rút thăm để phân định trước sau.
Hùng Nguyên Hiến nhỏ nhẹ nói:
– Thế này nhé! Thiên Long môn, Ẩm Mã Xuyên sơn trại cùng Bình Thông tiêu cục tại hạ, mỗi phái luân phiên xuống núi một người. Mọi người cùng giám sát thì chẳng còn sợ ai gian trá được nữa.
Nguyễn Sĩ Trung nói:
– Thế cũng được! Bảo Thụ đại sư, xin ngài trả lại cái hộp sắt đi.
Nói rồi bước sấn tới một bước, chìa tay về phía Bảo Thụ.
Lúc đầu mọi người chỉ lo đến sống chết an nguy, bây giờ đại nạn đã qua mới lại nghĩ đến bảo vật đó. Vốn dĩ mọi người chỉ biết cái hộp sắt là bảo vật khác thường trong võ lâm, nhưng rút cục khác thường thế nào, quý báu đến mức nào thì họ đều không biết. Ðến khi biết đấy là thanh quân đao của Sấm Vương để lại thì biết vật này không phải tầm thường, lại nghe Bình A Tứ nói thanh quân đao ấy có liên quan đến đại bảo tàng của Sấm Vương, mọi người lại càng nóng ruột, háo hức. Các cụ già kháo nhau rằng sau khi Sấm Vương tiến vào kinh thành thì bộ thuộc của bọn đại tướng Lưu Tông Mẫn vơ vét nhà các đại thần tông thất triều nhà Minh, ngọc ngà châu báu lấy được chất cao như núi. Chẳng bao lâu Sấm Vương bị đánh bại, từ đó số ngọc ngà châu báu này cùng với kho tàng nhiều năm của hoàng thất trong cung nhà Minh đều không biết biến đi đâu. Nếu nhờ thanh đao và cái hộp sắt này mà tìm được bảo tàng thì trên đời này còn có của cải nào sánh bằng?
Bảo Thụ cười nhạt:
– Thiên Long Môn các ngươi có tài đức gì mà đòi độc chiếm bảo đao? Thanh đao này Thiên Long Môn đã nắm giữ hơn một trăm năm rồi, bây giờ cũng nên đổi chủ đi thôi!
Nguyễn Sĩ Trung ngạc nhiên, mắt lộ hung quang. Ân Cát, Tào Vân Kỳ không hẹn mà cùng sấn tới một bước, đứng bên cạnh Nguyễn Sĩ Trung.
Bảo Thụ ngửa mặt lên trời cười, nói:
– Các ngươi muốn động võ phải không? Nhớ năm nào Thiên Long Môn được của báu ở đao, nay mất của báu ở đao cũng công bằng lắm mà!
Bọn Nguyễn Sĩ Trung cả giận, chỉ muốn nhào tới băm chém lão sư già này thành mấy khúc rồi đoạt lấy bảo đao, nhưng vì sợ võ công cao siêu của lão nên không dám động thủ. Trước ánh mắt sáng quắc có thần nhìn chằm chằm của lão, họ đành phải lui lại mấy bước.
Trong một lúc, trên đỉnh Tuyết sơn yên lặng như tờ, bỗng Cầm Nhi, nha đầu của Miêu Nhược Lan chỉ xuống núi, kêu lên:
– Tiểu thư trông kìa, hình như có người đang lên!
Mọi người hốt hoảng, nghĩ thầm:
– Sao chúng ta chưa xuống núi mà lại có người lên thế nhỉ?
Họ ùa cả tới bên mép vực nhìn xuống dưới, thấy trên sợi dây thừng có bóng trắng đang vun vút phóng lên. Ðịnh thần nhìn kỹ thì ra là một hán tử mặc áo trắng.
Ðiền Thanh Văn nói:
– Miêu cô nương, phải lệnh tôn không?
Miêu Nhược Lan lắc đầu:
– Không phải, gia phụ không bao giờ mặc áo trắng cả.
Trong lúc hai cô nương nói chuyện, người mặc áo trắng đã lên tới gần thêm. Vu quản gia gọi to:
– Này, tôn giá là ai?
Chợt nghe lưng chừng núi vang một tràng cười, tiếng cười sang sảng làm chấn động cả sơn cốc. Trong chốc lát, khắp núi dường như đâu đâu cũng vang tiếng cười.
Nguyễn Sĩ Trung thấy Bảo Thụ tay bưng hộp sắt đứng bên bờ vực, bèn khẽ kéo tay Tào Vân Kỳ, chỉ vào lưng Bảo Thụ rồi vai phải nhún lên làm động tác hích. Tào Vân Kỳ hiểu ý, biết sư thúc ra lệnh cho mình hích lão ngã xuống núi, thầm nghĩ lão trọc này dù bản lãnh cao cường đến mấy, từ đỉnh núi cao vạn trượng ngã xuống, làm sao giữ nổi cái mạng? Hộp sắt với bảo đao có rơi xuống cũng không hỏng, lần sau xuống núi tìm là được. Nguyễn Sĩ Trung, Tào Vân Kỳ gật đầu với nhau rồi cùng nhấc chân xông mạnh tới sau lưng Bảo Thụ. Lúc này, Bảo Thụ chỉ cách mép vực chừng hai gang tay, đang chăm chú nhìn xuống núi, không hề biết có người đang đột ngột ám toán ở phía sau.
Ðến khi nghe tiếng chân thì Nguyễn, Tào hai người đã xông tới ngay sau lưng. Bảo Thụ đang kinh ngạc trước thần thái, thân pháp leo núi của hán tử áo trắng thì chợt cảm thấy bị đánh lén từ đằng sau. Trong lúc nguy cấp, lão bèn thi triển ngay công phu “Thiết bản kiều”, ngả người về bên trái. Công phu “Thiết bản kiều” này vốn là tuyệt chiêu cứu mạng tránh ám khí của kẻ địch. Thông thường lúc thấy ám khí đến quá nhanh, không kịp vọt lên hoặc tránh sang bên cạnh, đành gồng người rồi bất thần ngả người ra phía sau để ám khí trượt qua mặt, còn hai chân vẫn trụ chắc trên mặt đất. Công phu càng cao thì lưng càng sát đất, điều cốt yếu là lên xuống thật nhanh, người phải thẳng, như thế gọi là “chân như thép đúc, người thẳng như ván, vòng lên như cầu”. Chiêu “Thiết bản kiều” này của Bảo Thụ lại khác với các chiêu người ta thường dùng, lão không ngửa người về đằng sau mà lại nghiêng sang trái, hai chân như đóng đinh trên bờ vực, người treo lơ lửng, non một nửa người nhô ra khỏi đỉnh Tuyết sơn.
Nguyễn Sĩ Trung và Tào Vân Kỳ vừa chạm được lưng Bảo Thụ, đang mừng vì tập kích đúng lúc, chợt thấy vai mình hích tới mà trước mắt không hề có chỗ chịu lực. Nguyễn Sĩ Trung võ công tinh thâm, vội vàng lộn một vòng lăn sang bên cạnh. Tào Vân Kỳ không kịp thu chân, cứ xông thẳng tới nên rơi luôn xuống dưới núi.
Mọi người hoảng hốt kêu lên. Bảo Thụ vươn lưng đứng thẳng lại, miệng nói:
– A di đà Phật! Tội nghiệp, tội nghiệp!
Lưng lão đã toát mồ hôi lạnh. Ðiền Thanh Văn sợ hãi, ngã xuống đất ngất xỉu. Ðào Tử An đứng bên cạnh vội đưa tay đỡ.
Nhìn theo thân hình cao lớn của Tào Vân Kỳ lao thẳng xuống dưới, không ai là không kêu thất thanh. Ai nấy đều chắc chắn thân hình hắn sẽ nát vụn. Bỗng thấy người áo trắng quặp chặt dây thừng bằng hai chân, tay trái ấn vào vách đá, dây thừng cùng với thân hình gã như đánh đu, bay nhanh về phía Tào Vân Kỳ.
Lúc này, thời cơ và sức vận ra đều đúng mức. Người áo trắng vươn tay phải chộp ngay lưng áo Tào Vân Kỳ. Ngờ đâu, gã quá nặng, thế rơi rất nhanh, chỉ nghe soạt một tiếng, áo rách toạc, gã lại lao xuống. Trong lúc nghìn cân treo sợi tóc, người áo trắng vươn mình giơ tay, nắm ngay được chân bên phải của Tào Vân Kỳ.
Nhưng hai người vẫn rơi nhanh, thân hình họ càng thấy nhỏ dần, sau mấy chục trượng thì càng rơi nhanh hơn. Người áo trắng dù có võ công cao đến mấy thì sức của hai chân cũng không quặc nổi dây thừng, xem ra chỉ có buông Tào Vân Kỳ thì mới giữ được mạng sống. Trong lúc mọi người đầu choáng mắt hoa, bỗng người áo trắng vung tay phải, quăng Tào Vân Kỳ về phía dây thừng.
Tào Vân Kỳ tuy hồn vía lên mây nhưng hai tay chạm vào dây thừng thì lập tức túm chặt ngay lấy. Phàm ai sắp chết đuối thì dù có vớ được cọng cỏ cũng sẽ nắm thật chắc, đến chết cũng không chịu buông, đó là do bản năng cầu sống. Lúc này, Tào Vân Kỳ cũng vậy. Võ công của hắn vốn không đủ sức để nắm chắc lấy dây thừng, tránh cho hai người khỏi phải rơi nhanh, nhưng trong lúc nguy cấp, không biết sức lực ở đâu mà phút chốc tăng lên gấp mấy lần. Dây thừng lạng đi, mang theo hai người bay sang phía trái. Người áo trắng vận sức ở lưng, lộn người lại là tay trái đã nắm được dây thừng. Hắn nói câu gì đó bên tai Tào Vân Kỳ rồi vỗ vỗ vào lưng gã. Hồn vía chưa định nhưng Tào Vân Kỳ vừa nghe mấy câu đó chẳng khác nào tiếp được thánh chỉ, vội vàng hai tay luôn phiên nắm dây thừng leo lên.
Ðứng bên bờ vực, mọi người tận mắt thấy cảnh nguy hiểm kinh hồn đó, ai nấy miệng há hốc. Tào Vân Kỳ leo lên đến bờ vực, Ân Cát và Chu Vân Dương lao ngay tới túm chặt hai tay gã kéo lên, rồi cùng hỏi:
– Người áo trắng là ai vậy?
Tào Vân Kỳ thở hổn hển, đáp:
– Vị anh hùng đó bảo tại hạ lên báo rằng… Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ đã tới!
Khí thế của người áo trắng khiến mọi người đều hoảng, sững người ra một lúc. Chợt có ai đó kêu lên “ối chao” rồi chạy vội vào trong trang.
Chẳng còn kịp nghĩ ngợi, mọi người cùng tranh nhau chạy vào cửa lớn. Ðào Bách Tuế, Lưu Nguyên Hạc, Nguyễn Sĩ Trung cả ba cùng lúc tới đại môn, người nọ chen đẩy người kia tranh nhau vào trước. Tào Vân Kỳ nhanh chân đến đỡ Ðiền Thanh Văn, trong lúc vội vàng đó, gã cùng với Ðào Tử An còn choảng nhau mấy quyền. Sau một hồi náo loạn, người ngoài cửa lớn đã chạy vào hết. Vu quản gia và Cầm Nhi đỡ Miêu Nhược Lan chạy vào sau cùng, thì cửa lớn vừa đóng.
Thấy Hùng Nguyên Hiến đóng cửa lớn. Ân Cát lập tức mang chốt ra tra ngay vào. Ðào Bách Tuế còn sợ chưa đủ chắc, lấy thêm cột chống chèn thật chặt.
Lúc này, Ðiền Thanh Văn đã tỉnh, nói:
– Tên Tuyết Sơn Phi Hồ đó vốn không quen biết gì chúng ta, việc gì phải sợ hắn?
Nguyễn Sĩ Trung lừ mắt, nói:
– Không quen biết à? Hừm, phụ thân ngươi là đại cừu nhân của phụ thân hắn, hắn chịu tha cho ngươi chắc?
Lưu Nguyên Hạc cũng nói:
– Chúng ta làm Bình A Tứ bị thương, tên Tuyết Sơn Phi Hồ ấy chịu bỏ qua cho ư?
Ðào Tử An bỗng chỉ tay ra phía đầu tường, nói:
– Chúng ta chặn chắc cửa lớn, hắn không thể vào bằng lối kia sao?
Nguyễn Sĩ Trung nói:
– Ðúng rồi! Ðào thế huynh mau lên trên cao canh chừng đi!
Ðào Tử An cười nhạt nói:
– Nguyễn sư thúc võ công cao, xin mời lão nhân gia hãy lên trên đó!
Lời vừa dứt, bỗng nghe rắc rắc mấy tiếng cực lớn, cột chống và gióng cửa đều gãy tan, rồi ầm một tiếng nữa, hai cánh cửa lớn đã bị đẩy tung. Mọi người sợ hãi kêu to, ùa chạy cả vào trong, chỉ loáng một cái ở đại sảnh đã chẳng còn một ai.
Lúc đầu quần hào mới nghe Bình A Tứ kể những chuyện trước kia của Hồ Nhất Ðao, ai cũng đều muốn gặp người con mồ côi còn sống sót của ông, nhưng khi chính Tuyết Sơn Phi Hồ thực sự lên núi, tận mắt thấy thân thủ của chàng cao siêu như thế thì ai nấy không khỏi rùng mình sởn gáy, lại thấy trong bọn có người bỏ chạy, liền ùa cả nhau mà chạy. Bao nhiêu hào khí hùng phong thường ngày đều bay lên chín tầng mây.
Vu quản gia muốn tìm Bảo Thụ ra chống chọi một trận, nhưng nhìn quanh chẳng thấy Bảo Thụ đâu, không biết lão núp vào xó nào rồi, thầm nghĩ:
– Chủ nhân giao mọi việc trên trang cho ta, thôi thì dù phải liều chết cũng phải bảo toàn thể diện của chủ nhân.
Vu quản gia bèn khẽ nói với Miêu Nhược Lan:
– Miêu cô nương mau vào phòng phu nhân, cùng phu nhân tránh vào mật thất dưới hầm, đừng để cho ai thấy. Bọn người ở đây chẳng ai có tâm địa tốt cả, để tiểu nhân ra gặp Tuyết Sơn Phi Hồ.
Miêu Nhược Lan liếc nhìn Trịnh Tam Nương và Ðiền Thanh Văn, nói:
– Tiểu nữ đưa hai vị này cùng xuống hầm nhé!
Vu quản gia vội vàng lắc đầu, nói nhỏ:
– Đừng, hai người đàn bà này chắc gì là người tốt. Cô nương và phu nhân đều là bậc thiên kim, xin đừng lo cho người khác.
Miêu Nhược Lan nói:
– Nếu họ Hồ muốn giết người phóng hỏa, đại thúc ngăn cản được ư?
Vu quản gia đưa tay chạm vào cán thanh đao giắt ở lưng, buồn bã đáp:
– Hôm nay là ngày Vu mỗ lấy cái chết để báo ơn chủ. Chỉ cần phu nhân và cô nương bình an vô sự là tiểu nhân không hổ thẹn với chủ nhân rồi.
Miêu Nhược Lan nghĩ ngợi giây lát, nói:
– Tiểu nữ đi cùng đại thúc ra gặp y đi.
Vu quản gia cuống lên, vội nói:
– Miêu cô nương, cô nương không nghe lão hoà thượng đó nói rằng lệnh tôn Miêu đại hiệp có mối thù giết phụ thân với hắn đó sao! Nếu cô nương không chịu tránh, rơi vào tay hắn thì… thì…
Miêu Nhược Lan cắt ngang:
– Từ khi tiểu nữ nghe gia phụ kể chuyện cũ của Hồ bá bá, tiểu nữ luôn mong cho con của bá bá còn sống trên đời và cũng mong thế nào cũng có ngày gặp mặt. Việc gặp hôm nay tuy nguy hiểm nhưng nếu từ đây không còn được gặp mặt nhau thì tiểu nữ sẽ ôm hận một đời.
Mấy lời này của nàng tuy ôn hoà dịu dàng nhưng ý tứ thì rất kiên định. Vu quản gia biết không thể ngăn cản, thầm nghĩ:
– Vị cô nương này sức chẳng đủ trói gà mà sao dũng cảm kiên quyết đến thế. Thật không thẹn là con gái Miêu đại hiệp Kim Diện Phật! Cái gì là Trấn Quan Ðông, Uy Chấn Thiên Nam, danh hiệu nghe kêu đấy, nhưng so với Miêu cô nương nếu bọn họ không xấu hổ mà chết thì cũng toàn là một lũ mặt dày!
Vu quản gia trong lòng vốn cũng sợ hãi, nhưng thấy Miêu Nhược Lan thần sắc điềm tĩnh thì nỗi sợ giảm đi liền. Ông ta buộc chặt lại dây lưng, đặt hai bát có nắp bằng sứ hoa xanh lên khay trà, rót nước trà vào rồi bưng ra ngoài sảnh. Miêu Nhược Lan đi theo sau.
Vu quản gia bước ra sảnh đường, thấy người áo trắng nghoảnh mặt ra ngoài, hai tay chống nạnh, ngẩng đầu nhìn trời, bèn cao giọng nói:
– Hồ đại gia từ xa đến mà bản trang không ra ngoài nghênh đón, xin thứ lỗi.
Nói xong, dâng trà tới. Người áo trắng nghe tiếng Vu quản gia liền quay đầu lại, nhìn thấy ngay Miêu Nhược Lan. Một thiếu nữ văn nhã thanh tú, dáng dấp yếu ớt nhưng yêu kiều, mắt sáng long lanh như sao sa, ngượng ngùng e thẹn đứng đó, khiến chàng bất giác ngẩn người.
Miêu Nhược Lan thấy người này râu quai nón đâm tua tủa như rễ tre, tóc rậm mà không tết bím, để lật ngang dựng ngược như cỏ rối thì cũng kinh ngạc. Từ nhỏ nàng đã có tình cảm thương xót, tiếc nuối người con trai Hồ Nhất Ðao; mỗi khi nghĩ đến đều thương y bị người ta khinh khi, ngược đãi đủ điều. Nay mới được gặp mặt, không ngờ y lại là một trang nam tử uy mãnh như vậy, trong lòng không khỏi kinh dị, lại vừa bàng hoàng, vừa thất vọng. Nhưng nàng lại nghĩ thầm:
– Hồ Nhất Ðao bá bá dung mạo oai nghiêm, con trai bá bá sinh ra cũng phải như vậy, có gì là lạ? Chỉ vì lâu nay mình tưởng tượng lầm về chàng mà thôi.
Nghĩ vậy, nàng liền bước tới cúi chào, miệng khẽ nói:
– Tướng công vạn phúc!
Tuyết Sơn Phi Hồ Hồ Phỉ lần này lên núi cầm chắc sẽ có một trận long tranh hổ đấu với các cao thủ tụ tập trên đỉnh núi, nào ngờ người trên sơn trang ra gặp lại là một thiếu nữ rất đỗi xinh đẹp thì không kiềm được ngạc nhiên, thầm nghĩ: “Cứ để xem bọn họ giở quỷ kế gì!”.
Nghĩ đoạn cũng vái chào lại, nói:
– Tại hạ Hồ Phỉ bái kiến! Dám hỏi cô nương quý tính là gì?
Vu quản gia đưa mắt ra hiệu cho Miêu Nhược Lan, ngầm bảo nàng bịa đại một cái họ giả, ngàn vạn lần không được để lộ mình là con gái Miêu Nhân Phượng. Nào ngờ Miêu Nhược Lan dường như không hiểu ý, nói luôn:
– Hồ thế huynh, chúng ta thuộc hai họ có mối giao tình nhiều đời nay, đáng tiếc là chưa từng gặp mặt nhau bao giờ đấy thôi. Tiểu nữ họ Miêu.
Hồ Phỉ cảm thấy ớn lạnh trong lòng nhưng không hề để lộ ra nét mặt, hỏi tiếp:
– Cô nương xưng hô như thế nào với Kim Diện Phật đại hiệp?
Vu quản gia đứng bên cạnh Miêu Nhược Lan, cuống lên, vội giật vạt áo nàng. Nhưng nàng vẫn làm như không hay biết, đáp:
– Kim Diện Phật là gia phụ.
Hồ Phỉ giật mình, nghĩ thầm: “Thì ra là nàng”. Miệng nói:
– Sao lệnh tôn không ra tương kiến?
Vu quản gia sờ tay vào cán đao, sợ Hồ Phỉ xuất thủ hại nàng. Ông liếc mắt nhìn Miêu Nhược Lan, thấy thần sắc nàng vẫn như thường, bất giác than thầm:
– Vị cô nương này nhỏ tuổi không hiểu biết gì thật! Ðứng trước mặt là kẻ có mối thù giết cha, thế mà nàng ta vẫn chẳng biết trời cao đất dày là gì, cứ nói toạc chân tướng của mình!
Lại nghe nàng đáp:
– Gia phụ chưa lên núi. Nếu ông biết Hồ thế huynh là con trai của cố nhân thì dù có việc lớn như trời cũng sẽ gác lại để tới đây gặp mặt.
Hồ Phỉ lấy làm lạ, hỏi:
– Cô nương biết thân thế của tại hạ mà lệnh tôn lại không biết, xin hỏi là cớ làm sao?
Miêu Nhược Lan nói:
– Cũng chỉ vừa nghe vị đại thúc họ Bình nói mới biết đó thôi!
Hồ Phỉ nói:
– A, thì ra Bình Tứ thúc thúc đến đây rồi. Thúc thúc đâu rồi?
Vu quản gia sững người, liếc nhìn quanh đại sảnh nhưng không thấy bóng dáng Bình A Tứ đâu. Vết máu tươi loang trên đất vẫn chưa khô, gã thầm nghĩ:
– Từ lúc chim bồ câu tha dây lên bay vào đây, ai nấy chỉ nghĩ đến việc xuống núi thoát thân nên quên bẵng hắn. Hắn là ân nhân cứu mạng của Hồ Phỉ, nếu có chuyện gì bất trắc, hẳn tai vạ càng lớn hơn!.
Hồ Phỉ thấy Vu quản gia nhìn vết máu tươi trên mặt đất, rồi mặt tái đi thì quát lớn:
– Máu của Bình thúc thúc có phải không?
Vu quản gia không dám nói dối, đành lên tiếng đáp:
– Vâng!
Hồ Phỉ cha mẹ mất sớm, từ nhỏ nhờ Bình A Tứ nuôi dưỡng cho đến khi khôn lớn, tình cảm sâu nặng như cha con, lẽ nào nghe thấy thế mà chẳng thất kinh? Liền nhảy vọt đến trước mặt, giơ tay ra chộp lấy cánh tay phải Vu quản gia, nghiêm giọng quát:
– Thúc thúc ta ở đâu? Ông… ra… sao rồi?
Vu quản gia cảm thấy cánh tay đau đớn khác thường, chẳng khác gì hai gọng kìm sắt kẹp chặt, nghiến răng gắng sức chịu đau, mồ hôi trán rỉ ra to bằng hạt đậu, nhưng không nói được lời nào.
Miêu Nhược Lan từ tốn nói:
– Hồ thế huynh bất tất phải nổi nóng, Bình thúc vẫn bình yên ở trong kia!
Nói xong, nàng chỉ tay vào gian phòng mé tây, Hồ Phỉ buông cánh tay Vu quản gia ra liền quăng người phóng đi, “bình” một tiếng, đá tung cửa phòng đó ra. Thấy Bình A Tứ nằm trên giường thở nặng nhọc, Hồ Phỉ cả mừng, gọi:
– Tứ thúc, không sao chứ?
Bình A Tứ ở trong phòng từ nãy giờ đã nghe tiếng Hồ Phỉ, thì thào nói:
– Không việc gì đâu, thiếu gia cứ yên tâm!
Hồ Phỉ nhào tới, thấy Bình A Tứ mặt vàng như nghệ, hơi thở yếu ớt thì nỗi mừng vừa nãy chuyển ngay thành nỗi lo. Chàng hỏi:
– Sao thúc thúc bị thương vậy? Vết thương có nặng lắm không?
Bình A Tứ đáp:
– Việc này nói ra dài lắm. Nếu không có Miêu cô nương cứu thì đời này lão không còn gặp được thiếu gia nữa rồi!
Thì ra lúc mọi người thấy chim bồ câu trắng kéo dây thừng lên bèn ùa cả ra ngoài sảnh như ong vỡ tổ. Miêu Nhược Lan thừa cơ, cùng Cầm Nhi vực Bình A Tứ vào gian phòng mé Tây. Sau đó, Bảo Thụ toan hại tính mạng Bình A Tứ nhưng tìm không thấy. Lúc đó tình thế khẩn cấp chẳng kịp tìm kĩ, nhờ đó mà Bình A Tứ mới còn sống.
Hồ Phỉ gật đầu, lấy trong túi ra một viên thuốc màu đỏ, bỏ vào miệng Bình A Tứ, nói:
– Tứ thúc hãy uỗng viên thuốc trị thương này.
Thấy Bình A Tứ đã nuốt viên thuốc, Hồ Phỉ mới yên tâm trở ra ngoài sảnh, vái dài Miêu Nhược Lan một cái, nói:
– Ða tạ cô nương đã cứu mạng Bình tứ thúc.
Miêu Nhược Lan vội vái đáp lễ, nói:
– Bình tứ thúc là người nhiệt thành, tiểu muội lấy làm khâm phục. Chút công nhỏ có gì đáng mà nhắc tới?
Hồ Phỉ nói:
– Sống chết là việc lớn, sao lại là công nhỏ được? Tại hạ cảm kích vô cùng.
Miêu Nhược Lan thấy dáng vẻ chàng thô kệch, nhưng nói năng rất nho nhã, bèn nói:
– Hồ thế huynh từ xa đến mà sơn trang lại không có gì khoản đãi. Cầm Nhi, mau mang rượu ra đây!
Hồ Phỉ nói:
– Chủ nhân nơi này có hẹn sẽ gặp vào chiều nay, sao đến bây giờ vẫn còn chưa ra gặp mặt?
Miêu Nhược Lan đáp:
– Chủ nhân vì có việc gấp phải xuống núi, có thể giữa đường gặp chuyện gì đó không trở về kịp nên lỡ hẹn với thế huynh, tiểu muội xin tạ lỗi trước.
Hồ Phỉ thấy nàng ứng đối phải phép, càng lấy làm lạ, thầm nghĩ:
– Họ Miêu, Phạm, Ðiền xưa nay vẫn cho là lắm nhân tài, sao bọn nam tử đều rút phía sau để cho một thiếu nữ chân yếu tay mềm như thế này ra chống đỡ? Vị cô nương này lại tỏ ra không hề sợ ta, lẽ nào nàng một thân võ nghệ mà cố ý không để lộ ra?
Nghĩ tới đây, thấy Cầm Nhi tay bưng khay gỗ, trên khay là một hồ rượu lớn và một chén uống rượu. Cầm Nhi tay trái đỡ khay, tay phải rót rượu ra chén, tươi cười nói:
– Hồ tướng công! Gà, vịt, thịt ,cá, rau quả trên núi đều bị Bình tứ gia của Hồ tướng công đổ đi hết rồi. Xin lỗi, đành mời Hồ tướng công chén rượu suông này vậy!
Hồ Phỉ thấy cái khay gỗ vừa vặn ở giữa chàng và Miêu Nhược Lan, liền giơ tay trái ra khẽ đẩy nhẹ mép khay, cái khay gỗ xô thẳng vào vai Miêu Nhược Lan. Cú đẩy này tuy tựa như xuất thủ rất nhẹ, nhưng kỳ thực là mượn kình lực đánh người. Người bị đánh nếu không biết cách chống đỡ thì chẳng khác nào bị binh khí sát thương. Miêu Nhược Lan không biết võ nghệ, chỉ theo lẽ tự nhiên mà hơi né tránh, chứ không biết xuất chiêu hoá giải kình lực đó, xem ra lần này nàng không tránh khỏi bị trọng thương.
Vu quản gia thất kinh. Tự biết võ công của mình thua kém Hồ Phỉ rất xa, dù có bất chấp tính mạng xông tới cứu viện cũng chẳng được việc, đành kêu to:
– Ôi chao!
Chỉ thấy hai ngón tay trái của Hồ Phỉ nhanh nhẹn phi thường níu cái khay gỗ lại. Ðộng tác phối hợp cực chuẩn, mép khay chỉ vừa hơi chạm nhẹ vào áo khoác ngoài của Miêu Nhược Lan thì lập tức bị giật về. Nàng không hề biết rằng chỉ trong nháy mắt đó, nàng đã đi một vòng qua cõi tử sinh.
Hồ Phỉ nói:
– Lệnh tôn đánh khắp thiên hạ không địch thủ, sao lại không truyền võ công cho cô nương? Vốn từng nghe trong Miêu gia kiếm môn, con trai con gái đều được truyền như nhau mà?
Miêu Nhược Lan đáp:
– Gia phụ quyết ý hoá giải mối oán thù rối rắm hơn trăm năm nay, cho nên kiếm pháp của nhà họ Miêu đến gia phụ thì dứt, không còn truyền cho con cháu nữa.
Hồ Phỉ rất ngạc nhiên, tay cầm chén rượu dừng nửa chừng một lát rồi đưa lên miệng uống cạn, nói lớn:
– Miêu Nhân Phượng, Miêu đại hiệp! Hay lắm, quả là xứng đáng với hai chữ “đại hiệp”!
Miêu Nhược Lan nói:
– Tiểu muội từng nghe gia phụ kể chuyện của lệnh tôn ngày trước. Lúc ấy lệnh đường mời gia phụ uống rượu, người xung quanh đều nói đề phòng trong rượu có độc. Gia phụ nói: “Hồ Nhất Ðao là anh hùng trong thiên hạ, quang minh lỗi lạc, sao có thể giở thủ đoạn đê tiện đó?”. Hôm nay tiểu muội mời thế huynh uống rượu. Hồ thế huynh cũng điềm nhiên uống cạn, lẽ nào không sợ người khác ám hại hay sao?
Hồ Phỉ cười, lấy từ trong miệng ra một viên thuốc màu vàng, nói:
– Tiên phụ trúng gian kế của kẻ khác mà chết, nếu tại hạ không đề phòng chẳng phải là quá ngu ngốc ư? Viên thuốc này giải độc rất tốt, chất độc nào cũng không xâm hại được. Có điều vừa nãy nghe cô nương nói, hoá ra lòng dạ tại hạ hẹp hòi rồi!
Nói xong, chàng tự rót thêm chén rượu nữa và uống cạn. Miêu Nhược Lan nói:
– Trên núi không có gì để nhắm, thực là thất lễ. Tiểu muội tửu lượng kém, lại không thể bồi tiếp bậc quân tử. Người xưa đọc Hán Thư để uống rượu, nay tiểu muội có một cây đàn, xin gẩy một khúc trợ tửu hứng, nhưng chỉ e làm bẩn tai thôi.
Hồ Phỉ vui vẻ nói:
– Xin được nghe nhã tấu!
Cầm Nhi không đợi chủ nhân sai bảo, đã vào phòng trong ôm ra một cây đàn cổ, đặt lên bàn, lại thay một lò hương mới.
Miêu Nhược Lan buông lỏng cổ tay, “tình tang, tình tang” dạo lên mấy tiếng, rồi tiếng đàn nổi lên, nàng vừa khe khẽ hát theo điệu nhạc:
Ngày sau gặp đại hạn
Miệng khát và lưỡi khan
Hôm nay được vui vẻ
Ðều nên cùng hân hoan
Trải qua khắp non cao
Cỏ chi bay phơi phới
Gặp tiên nhân Vương Kiều
Xin cho thuốc một hoàn
Hát đến đây, tiếng đàn còn ngân mà lời hát đã dứt.
Hồ Phỉ trải qua bao khổ nạn thời niên thiếu, chỉ biết chuyên tâm luyện võ, hơn hai mươi tuổi mới đọc sách, nhưng nghe bài ca thiếu nữ này hát cũng hiểu bài hát là khúc “Thiện tai hành”, đó là một bài cổ thi có nội dung chủ khách đáp tặng nhau trong yến hội. Từ đời Hán, Nguỵ trở về sau ít có người tấu khúc nhạc này, không ngờ hôm nay lên núi báo thù lại được thưởng thức phong vị cổ xưa này. Trong tám câu nàng hát, bốn câu trước khuyên mời khách tận hứng mà uống rượu, bốn câu sau chúc tụng khách trường thọ. Lúc nãy, Hồ Phỉ ngậm viên thuốc giải độc trong miệng thì vừa khéo trong câu hát cũng có nhắc đến Linh Chi tiên dược, thế là hàm hai nghĩa vậy. Chàng bèn vỗ nhẹ lên bàn, ngâm theo:
Tiếc thay tay áo ngắn
Để cánh tay lạnh tê
Thẹn không có vật lạ
Báo đáp Triệu Tuyên kia.
Lời ngâm này có nghĩa chủ nhán ân cần tiếp đãi khiến khách tự thẹn không có vật gì xứng đáng để báo đáp. Thời Xuân Thu, Linh Triệt lâm vào chịu cảnh đói rét, Triệu Tuyên Tử đem rượu thịt tới tặng, lại để cho Linh Triệt lấy thêm về cho mẹ. Về sau, Triệu Tuyên Tử gặp nạn, Linh Triệt liều mình cứu thoát.
Miêu Nhược Lan nghe chàng đáp lại cũng bằng lời ca trong khúc “Thiện tai hành” thì rất vui, thầm nghĩ: “Người này văn võ song toàn, nếu gia gia biết Hồ bá bá có người con nối dõi như thế ắt là sung sướng lắm!”.
Tiếp đó nàng hát nối:
Trăng tà treo chênh chếch
Bắc Đẩu tựa lan can
Bạn thân đến nơi cửa
Dẫu đói chẳng kịp ăn.
Mấy câu này ý nói tuy trời đã tối, nhưng có khách đến thăm, chủ nhà mừng quá ra đón chẳng kịp ăn cơm.
Hồ Phỉ cũng tiếp lời hát:
Đời thường lắm buồn khổ
Lại quá ít ngày vui
Lấy gì để khuây khỏa
Rượu, đàn, hát ca thôi
Hoài Nam, tiên tám vị
Vui đạo quên phiền ưu
Xe sáu rồng đều cưỡi
Cùng dạo chốn mây trôi.
Bốn câu cuối cùng ngỏ ý chúc tụng chủ nhân trường thọ thành tiên, đối ứng với lời chúc lúc đầu của chủ nhân.
Hồ Phỉ ngâm xong nâng chén rượu uống cạn, rồi cung tay đứng lên. Miêu Nhược Lan cũng ngừng đàn, đứng lên. Hai người nhìn nhau mà thi lễ.
Hồ Phỉ đặt chén lên bàn, nói:
– Chủ nhân chưa về kịp, vậy ngày mai tại hạ lại đến thăm.
Nói xong, chàng rảo bước sang gian phòng phía Tây, cõng Bình A Tứ lên lưng, khẽ cúi chào Miêu Nhược Lan, rồi ra khỏi đại sảnh. Miêu Nhược Lan ra cửa tiễn thì chỉ thấy bóng lưng chàng thấp thoáng bên bờ vực rồi, chàng nắm dây tuột xuống chân núi.
Nàng lặng lẽ ngây người nhìn tuyết trắng phủ khắp núi. Cầm Nhi lên tiếng, nhắc:
– Tiểu thư nghĩ gì thế? Mau vào nhà đi, kẻo lạnh đấy!
Miêu Nhược Lan đáp:
– Ta không thấy lạnh.
Thực ra trong lòng đang nghĩ gì nàng cũng không biết. Cầm Nhi giục đến lần thứ hai, nàng mới chậm rãi trở vào trong.
Vào tới đại sảnh, thấy mọi người ngồi đầy cả sảnh. Vừa nãy họ trốn mất tăm mất tích, trong chốc lát không biết lại từ đâu kéo ra. Ai nấy nhao nhao hỏi:
– Hắn đi rồi à?
– Hắn nói gì?
– Hắn bảo khi nào quay lại?
– Hắn lên núi để báo thù phải không?
– Hắn muốn tìm ai?
Miêu Nhược Lan thầm khinh lũ người nhát gan này. Khi nguy cấp ai nấy đều bỏ chạy, để mặc một mình nàng, thiếu nữ yếu đuối, đối phó với đại địch, bèn chỉ nhạt nhẽo đáp:
– Y chẳng nói gì hết!
Bảo Thụ bảo:
– Lão nạp không tin. Cô nương tiếp hắn ở đại sảnh lâu như vậy, thế nào cũng phải nói gì chứ?
Miêu Nhược Lan vốn không thích nhiều chuyện. Nhưng lúc này trong lòng nàng đang vui sướng, trái tim đang lâng lâng thổn thức, nên muốn trêu mọi người. Thấy ai nấy thần sắc đều quái dị, bèn nói:
– Hồ thế huynh bảo lần này lên núi là để báo thù cho phụ thân, nhưng tiếc rằng kẻ thù đã lánh mặt. Hiện giờ Hồ thế huynh chờ ở dưới núi, đợi cừu nhân xuống núi, xuống một người, giết một người, xuống hai người, giết hai người.
Mọi người giật thót người sợ hãi, đều nghĩ:
– Trên núi không có lương thực, dưới núi lại có thái tuế hung sát đợi sẵn, biết làm sao đây?
Miêu Nhược Lan nói:
– Hồ thế huynh có nói số người trên núi ai cũng có thù với huynh ấy, chỉ là thù ít hay thù nhiều mà thôi. Huynh ấy ân oán phân minh, thù sâu thì trả nặng, thù ít báo ít, không bao giờ hại lầm người tốt. Huynh ấy có nhờ tiểu nữ hỏi các vị vì sao lại cùng đến nơi giá rét quan ngoại này, phải chăng là muốn hợp sức hại huynh ấy?
Trừ Bảo Thụ ra, mọi người đều nhất loạt đáp:
– Trước đây bọn tại hạ chưa bao giờ nghe cái tên Tuyết Sơn Phi Hồ thì làm gì có thù oán với y? Càng làm gì có chuyện hợp lực hại y?
Miêu Nhược Lan nói với Ðào Bách Tuế:
– Ðào bá bá, điệt nữ có một việc không rõ, xin được thỉnh giáo.
Ðào Bách Tuế đáp:
– Cô nương cứ nói.
Miêu Nhược Lan nói:
– Vừa nãy, Bình tứ gia kể Hồ Nhất Ðao bá bá có nhờ Bảo Thụ đại sư chuyển lời cho gia phụ ba việc lớn, nhưng gia phụ kể lại đầu đuôi sự việc thì không hề nhắc tới chi tiết này. Bá bá từng nói biết rõ nguyên do, không biết có thể nói cho điệt nữ nghe được không?
Ðào Bách Tuế đáp:
– Cô nương dù không hỏi, tại hạ cũng đang định kể đây!
Rồi chỉ vào bọn Nguyễn Sĩ Trung, Ân Cát, Tào Vân Kỳ, lão lớn tiếng nói:
– Mấy vị anh hùng của Thiên Long môn này vu cáo cho con ta giết chết thân gia Ðiền Quy Nông! Hừm, hừm!
Lão vốn thường nói lớn, lúc này đang tức giận nên tiếng nói vang như lệnh vỡ:
– Tại hạ sẽ kể câu chuyện đó từ đầu, xin các vị công tâm nhận xét phải trái, đúng sai hộ cho!
Ân Cát nói:
– Hay lắm, hay lắm! Bọn tại hạ đang muốn thỉnh giáo Ðào trại chủ đây!