Chớp mắt lại mấy ngày trôi qua, tiết trung thu đã đến. Chiều hôm ấy Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố, Thái Uy, Cơ Hiểu Phong ba người đến phủ Phúc Khang An tham dự đại hội chưởng môn nhân.
Hồ Phỉ lần này lại hóa trang khác trước. Hàm râu quai nón đã được cắt ngắn và nhuộm vàng, da mặt cũng vàng nhạt như người mắc bệnh gan, nhưng cả người áo gấm rực rỡ, miệng ngậm ống thuốc bằng phỉ thúy, nhẫn ngọc đeo tay, tay cầm cây quạt lớn hoa vàng. Cách phục sức vừa hào nhoáng lại vừa thô tục. Trình Linh Tố hóa trang làm một phu nhân đứng tuổi, lưng còng, mặt mũi nhăn nheo. Chẳng ai dám bảo y là một cô nương mới mười bảy, mười tám tuổi. Hồ Phỉ bảo Thái Uy là sư phụ dặn dò không được lộ chân tướng ở đại hội. Thái Uy chỉ vâng dạ chứ không hỏi nhiều.
Mọi người vào cổng lớn phủ Phúc Khang An thì bọn thị vệ đã rút lui hết, chỉ có tám người lễ tân đứng đón khách. Hồ Phỉ đưa văn thư lên. Bọn chúng liền kính cẩn mời bốn người vào ngồi bàn ở phía đông.
Tại bàn này còn mấy người nữa. Chào hỏi nhau mới biết họ là người của “Hầu Quyền Đại Thánh môn”. Trình Linh Tố thấy vị chưởng môn đã già, đầu cao, miệng nhọn, má đỏ tay dài, tướng mạo có phần giống khỉ thì không khỏi cười thầm.
Lúc này trong sảnh đường tân khách đã tới quá nửa, mà ngoài cửa vẫn còn người lục tục tiến vào. Những người tiếp khách trong sảnh đường đều là võ quan thủ hạ của Phúc Khang An. Có người vào hạng quan viên tam tứ phẩm, đi ra ngoài đều là những đại quan hách dịch, nhưng ở phủ đại soái thì chỉ là những tùy viên mời khách, chẳng khác gì tôi tớ hầu hạ.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn quanh bỗng thấy Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc sóng vai đi tới. Hai lão mặt mày hớn hở, sắc phục và mũ đội đều đổi khác, hiển nhiên là đã thăng quan. Chu, Uông đi tới trước mặt Hồ Phỉ và Trình Linh Tố nhưng không nhận ra hai người.
Chợt nghe hai tên võ quan khác nhìn Chu, Uông cười hì hì nói:
– Cung hỷ Chu đại ca và Uông đại ca, đêm qua đã lập công rất lớn.
Uông Thiết Ngạc sướng quá ngoác miệng ra cười, đáp:
– Cái đó chẳng qua là gặp may, chứ bản lãnh có gì đáng kể đâu?
Lại một tên võ quan khác tiến lại, nói:
– Một vị được thăng tổng binh, một vị đã thực sự là phó tướng. Hà hà! Hay quá! Hay quá! Trong những nhân vật may mắn ở phủ Phúc đại soái, hai vị được xem là thăng quan lẹ nhất.
Chu Thiết Tiêu cười mát, đáp:
– Bình đại ca lại nói giỡn rồi. Anh em tại hạ vô công mà hưởng lộc, bì thế nào được với Bình đại ca lập chiến công ngoài trận mạc?
Tên võ quan kia nghiêm mặt nói:
– Chu đại ca dũng cảm cứu tướng quốc phu nhân, Uông đại ca ra sức bảo vệ công nương. Đức vạn tuế gia tự miệng gia phong, tiểu đệ bì sao nổi?
Chu Thiết Tiêu và Uông Thiết Ngạc đi đến đâu bọn võ quan đều xúm nói mấy câu chúc mừng tâng bốc. Bọn chưởng môn nghe thấy cũng động tính hiếu kỳ, hỏi về vụ hai người lập công cứu chủ thế nào. Bọn võ quan bèn thêm dầu thêm mỡ để thuật lại câu chuyện cho tăng thêm phần hấp dẫn.
Hồ Phỉ đứng cách xa chỉ loáng thoáng nghe đại khái câu chuyện: Đêm hôm qua, Hồ Phỉ xông vào Phúc phủ, cướp hai thằng nhỏ. Chu Thiết Tiêu mưu mẹo sâu xa, chẳng những hóa giải được một trường tai họa, mà nghe được phong thanh từ trước nên lập mưu giành lại được tướng quốc phu nhân từ tay Hồ Phỉ, lại kêu sư đệ là Uông Thiết Ngạc đến bảo vệ công chúa.
Tướng quốc phu nhân là tình nhân của vua Càn Long, công chúa là ái nữ của Hoàng đế. Công lao giải cứu này thật dễ dàng, nhưng trong mắt nhà vua lại khó khăn hơn việc xung phong hãm trận ngoài chiến trường cả trăm lần. Vì thế hai lão được triệu vào kim điện bệ kiến, gia thăng liền mấy cấp. Tướng công phu nhân cùng Công chúa và Phúc Khang An cũng ban thưởng rất nhiều vàng bạc châu báu. Trong một đêm Chu, Uông hai người vận đã đỏ lại càng thêm đỏ. Ai cũng bảo mấy trăm tên thích khách nửa đêm xông vào tập kích Phúc phủ. Nếu không được hai vị Chu, Uông lực chiến thì tánh mạng tướng quốc phu nhân và công chúa khó nỗi bảo toàn.
Bọn vệ sĩ, để che giấu sự bất lực, khai ra bọn thích khách mỗi lúc một đông đến nỗi chúng lâm vào tình cảnh lấy ít đánh nhiều, phải liều mạng chống chọi mới bảo vệ được Phúc Khang An vô sự. Kết quả vụ này ai cũng có công. Phúc Khang An tuy mất hai đứa con, trong lòng rất phiền não, nhưng nghĩ tới mười năm trước gặp nguy nan trong tay “Hồng Hoa hội” thì đêm rồi chỉ phải một phen kinh hãi chứ không nguy hiểm, thích khách lại bị đánh lui nên ban thưởng rất nhiều cho bọn vệ sĩ. Lệ quan trường xưa nay vẫn vậy, cứ dối trên lừa dưới thì tất cả đều vui vẻ.
Hồ Phỉ cùng Trình Linh Tố liếc mắt nhìn nhau, không khỏi cười thầm trong bụng. Hai người đều là tay mưu kế sâu xa cũng không thể nghĩ nổi Chu Thiết Tiêu, trong một vụ bình thường như vậy, mà lại khai thác được một trường phú quí.
Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Lão này mưu kế sâu xa, thủ đoạn tàn độc ắt tương lai rộng mở, bước tiến thân trong chốn quan trường là vô hạn.
Nhốn nháo một lúc, bất giác mấy chục bàn đầy đủ khách ngồi. Hồ Phỉ nhẩm tính có cả thảy sáu mươi hai bàn, mỗi bàn tám người chia làm hai phái, như vậy là một trăm hai mươi bốn vị chưởng môn. Chàng nghĩ bụng:
– Những môn phái võ công trong thiên hạ không ngờ nhiều đến thế, ấy là chưa kể số được mời mà không đến cũng chẳng phải là ít.
Có một số bàn chỉ có bốn người, lại có mấy bàn bỏ trống, khiến chàng sực nhớ tới Viên Tử Y, tự hỏi:
– Chẳng hiểu bữa nay nàng có tới đây không?
Trình Linh Tố thấy chàng ra chiều nghĩ ngợi, khóe mắt chàng lộ vẻ ôn nhu, đã đoán ra chàng đang nghĩ tới Viên Tử Y thì không khỏi chua xót trong lòng.
Bỗng cô thấy da bên má chàng động đậy, vẻ mặt biến đổi, hai mắt phừng phừng lửa giận, hướng theo mục quang chàng mà nhìn thì thấy một lão già thân thể to lớn, ngồi ở bàn thứ tư về phía tây. Lão này tay cầm hai trái thiết đảm, cặp mắt lấp loáng láo liêng nhìn mọi chỗ. Hắn chính là Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.
Trình Linh Tố vội kéo tay áo Hồ Phỉ. Lập tức chàng sực tỉnh quay đầu lại, bụng bảo dạ:
– Mi đã tới đây thì đừng hòng thoát khỏi tay ta. Chà! Tên ác tặc Phụng Thiên Nam, mi tưởng ta sau khi đại náo Phúc phủ, quyết chẳng dám tham dự cuộc đại hội chưởng môn, có ngờ đâu ta vẫn tới.
Giờ ngọ bắt đầu. Các bàn đâu đã vào đấy, Hồ Phỉ đảo mắt nhìn quanh thấy chính giữa đại sảnh treo một bức trướng gấm đính tám chữ lớn: “Dĩ võ hội hữu, quần anh tất chí”.
Dưới bức trướng gấm có đặt bốn cái bàn, mỗi bàn chỉ có một ghế dài phủ da hổ mà chưa có ai ngồi. Chàng chắc đây là chỗ ngồi của những bậc vương công quý nhân.
Trình Linh Tố nói:
– Y vẫn chưa tới…
Hồ Phỉ biết là cô nói Viên Tử Y, nhưng cũng thuận miệng hỏi lại:
– Ai chưa tới?
Trình Linh Tố không đáp, tự nói một mình:
– Y đã làm tổng chưởng môn chín phái rưỡi thì không thể không đến được.
Lại qua một lúc, bỗng thấy một vị tướng quân mang hàm nhị phẩm đứng dậy, cất giọng oang oang như chuông đồng, nói:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch.
Bọn vệ sĩ cũng hô truyền theo nhau:
– Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch! Mời tứ đại chưởng môn nhân nhập tịch!
Quần hào trong sảnh đường đều không hiểu:
– Những nhân vật dự đại hội này, ngoài bọn đệ tử tùy tùng và những nhân viên tiếp khách bên chủ, ai cũng là chưởng môn nhân, sao lại còn phân làm tứ đại, tứ tiểu?
Lúc này trong sảnh đường đều yên lặng. Bỗng thấy hai ba vị võ quan tam phẩm đi trước dẫn bốn người tiến vào sảnh đường, đi thẳng tới bên những ghế bọc da hổ mời họ ngồi xuống.
Người đi đầu là một nhà sư già lông mày bạc trắng, tay cầm thiền trượng bằng gỗ huỳnh dương, mặt mũi hiền lành, nếu chưa đến một trăm thì cũng ngoài chín chục tuổi rồi. Nhân vật thứ hai là một đạo nhân ước chừng bảy mươi tuổi, nước da đen sì, cặp mắt lim dim nửa nhắm nửa mở, coi bộ ốm yếu. Hai người một tăng một đạo mà tướng mạo trông khác hẳn nhau. Nhà sư thì cao lớn uy nghiêm, thoạt nhìn cũng đủ biết là một vị cao tăng đắc đạo. Còn đạo nhân thì giống như một đạo sĩ tầm thường đi thí pháp hóa duyên, vẽ bùa chú bịp người. Không hiểu sao lão cũng đứng vào một trong bốn vị “Tứ đại chưởng môn nhân”?
Người thứ ba là một lão già tinh thần quắc thước, ngoài sáu chục tuổi cả, cặp mắt lấp loáng, huyệt thái dương nhô lên, hiển nhiên là nội công thâm hậu. Lão vừa bước vào đã mỉm cười chắp tay chào hỏi hết người này đến người khác, tưởng chừng trong một trăm vị chưởng môn thì có đến chín chục quen lão. Thật là một nhân vật giao du khắp thiên hạ. Người gọi lão là “Thang đại gia”, kẻ kêu bằng “Thang đại hiệp”, chỉ có mấy vị võ lâm danh túc tuổi cao đức trọng mới gọi bằng “Cam Lâm huynh”.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Vị này chắc ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” tên gọi là Thang Bái. Má má của Viên cô nương đã được lão thu nạp. Tiếng nhân hiệp của lão truyền bá khắp nơi, người trong võ lâm đều bảo lão là bậc nhân nghĩa hơn đời. Không ngờ bữa nay lão cũng bị Phúc Khang An lung lạc.
Lão chưa ngồi vào ghế ngay, còn đi qua các bàn có những người quen biết hàn thuyên đôi lời, nào nắm tay, nào vỗ vai ra chiều cực kỳ thân thiết.
Khi lão đi qua bàn Hồ Phỉ, liền nắm lấy chưởng môn Đại thánh hầu quyền môn, cười nói:
– Lão hầu nhi, lão cũng tới ư? Hà hà! Bàn này sao lại không dự bị trước một mâm đào?
Lão chưởng môn kia cung kính, cười đáp:
– Thang đại hiệp, đã bảy năm rồi không gặp lão nhân gia. Tại hạ chưa kịp lại vấn an, thực đáng đánh đòn. Lão nhân gia càng già càng tráng kiện, thật là hiếm người có được.
Thang Bái vươn tay vỗ vai lão, cười hỏi:
– Những hầu tử hầu tôn, hầu bà hầu nữ của lão ở động Thủy Liêm trên Hoa Quả sơn đều bình yên cả chứ?
Vị chưởng môn kia đáp:
– Nhờ hồng phúc của Thang đại hiệp, cả nhà lão phu đều bình yên.
Thang Bái cười ha hả quay sang nhìn Cơ Hiểu Phong hỏi:
– Cơ lão tam không đến ư?
Cơ Hiểu Phong khom lưng thi lễ thỉnh an, rồi đáp:
– Gia phụ không đến. Thường nhật lão nhân gia vẫn nhắc tới Thang đại hiệp và bảo rằng sau khi uống viên “Nhân sâm dưỡng vinh hoàn” của Thang đại hiệp tặng, tinh thần rất sảng khoái.
Thang Bái hỏi:
– Phải chăng ngươi ở trong phủ của Văn thị lang? Sáng mai ta lại gởi cho ngươi một ít.
Cơ Hiểu Phong khom lưng tạ ơn.
Thang Bái đưa mắt nhìn Hồ Phỉ, Trình Linh Tố và Thái Uy gật đầu mấy cái rồi qua bàn khác.
Vị chưởng môn ở Đại Thánh Hầu Quyền môn nói:
– Thang đại hiệp ngoại hiệu là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, thực ra há phải chỉ bảy tỉnh mà thôi đâu. Có một năm lão phu bảo hộ một món tiêu ngân mười tám vạn lạng bị thất lạc trên đường Cao Lương. Cả nhà hốt hoảng còn thiếu nước nhảy xuống giếng tự tử, nếu không được Thang đại hiệp đứng ra can thiệp, dùng biện pháp vừa cứng rắn vừa mềm dẻo thì Tửu Toàn Tam Hổ đời nào trả lại món tiêu ngân đó.
Lão kể lại chuyện năm xưa một cách say sưa, phun cả nước bọt tung tóe. Nguyên lão chịu ơn sâu của Thang Bái suốt đời không quên, nên hễ gặp cơ hội là lão lại tuyên dương công đức của họ Thang.
Thang Bái tiến vào đại sảnh như một vị đại tướng quân lẫm liệt uy phong. Ai cũng chăm chú nhìn lão. Lão làm cho hình ảnh hai vị đại chưởng môn kia lu mờ hẳn đi.
Vị chưởng môn nhân thứ tư ăn mặc như võ quan, mũ mang hàm tứ phẩm. Trong nhà đại soái còn nhiều võ quan hàm cao hơn y, nhưng bộ pháp y vững vàng, khí độ oai nghiêm ra vẻ đại tôn sư một phái. Tuổi y lối năm mươi, mặt vuông tai lớn, hai hàng lông mày dựng lên. Y lẳng lặng tiến vào ngồi trên ghế thứ tư, tư thế mênh mông như biển cả, lại sừng sững như non cao, ngưng thần chuyên chú, tựa hồ như chẳng nghe chẳng thấy những việc xảy ra quanh mình.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
– Đây cũng là một nhân vật phi thường.
Lúc chàng mới tiến vào đại hội, trong lòng tràn ngập hùng tâm không coi ai vào đâu, nhưng từ lúc nhìn thấy bốn vị đại chưởng môn, không khỏi có phần úy kỵ, nghĩ thầm:
– Thang đại hiệp và vị võ quan kia, bất cứ vị nào ta cũng chưa chắc thủ thắng. Thế mà lão hòa thượng và đạo nhân còn ở trên hai người đó thì dĩ nhiên không phải tầm thường. Bữa nay ta quyết không để lộ thân phận. Đừng nói hàng trăm vị chưởng môn đều là cao thủ tuyệt đỉnh, mà ngay bốn vị “Tăng, Đạo, Hiệp, Quan” kia muốn chế phục ta cũng dư sức.
Hồ Phỉ sinh lòng e ngại, chỉ ngồi bốc hạt dưa cắn, chàng không dám ngang nhìn ngửa, sợ bọn thủ hạ của Phúc Khang An phát giác.
Sau một lúc, Thang Bái chào hỏi mọi người rồi trở về chỗ ngồi của mình. Lại thấy rất nhiều kẻ vãn bối hậu sinh đến trước lão dập đầu vấn an.
Thang Bái là gia tư hào phú, lại trượng nghĩa khinh tài, những môn nhân đệ tử đứng sau lưng lão đều mang sẵn những phong bao đỏ. Hễ cứ có một kẻ vãn bối chưa từng thấy mặt đến sụp lạy là lão lại thưởng cho bốn lạng gọi là lễ ra mắt. Trong phòng nhốn nháo một lúc mới xong cuộc bái kiến.
Bỗng nghe tên võ quan nhị phẩm hô:
– Rót rượu!
Những bộc dịch chầu chực các bàn đều rót rượu đầy vào các chung.
Tên võ quan kia nâng chung rượu lên, dòng dạc hô:
– Các vị chưởng môn cùng các vị tiền bối võ sư ở các bang phái lặn lội đường xa đến dự đại hội ở kinh thành, Phúc đại soái nhiệt liệt hoan nghênh. Bây giờ tại bạ xin kính mừng các vị một chung trước. Lát nữa Phúc đại soái sẽ thân hành đến chúc rượu các vị.
Hắn nói rồi uống một hơi cạn hết. Mọi người cũng cạn chung theo.
Tên võ quan lại nói:
– Bữa nay, những người có mặt đều là những bậc anh hùng hào kiệt võ lâm, thật là một thịnh sự cổ kim chưa từng có. Phúc đại soái càng cao hứng hơn nữa khi mời được bốn vị đại chưởng môn nhất tề quang lâm. Tiểu đệ xin được giới thiệu.
Y trỏ vào nhà sư già mày bạc ở ghế thứ nhất, nói:
– Đây là Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn, tỉnh Hà Nam. Cả ngàn năm nay, phái Thiếu Lâm đã là nguồn gốc võ học khắp thiên hạ, vì thế cuộc đại hội chưởng môn này phải suy cử Đại Trí thiền sư ngồi vào ngôi thủ tịch là đúng lẽ.
Quần hào đều vỗ tay như sấm dậy.
Phái Thiếu Lâm có nhiều phân chi rất rộng lớn. Những người đến tham dự cuộc đại hội chưởng môn bữa nay thì đã có đến một phần ba bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, nên quần hào thấy võ quan tôn sùng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm ai nấy đều hoan hỉ.
Tên võ quan lại trỏ vào vị đạo nhân ở ghế thứ hai nói:
– Ngoài phái Thiếu Lâm ra, dĩ nhiên phải suy tôn phái Võ Đương. Vị này là Vô Thanh Tử đạo trưởng, quán chủ Thái Hòa cung ở núi Võ Đương.
Uy danh phái Võ Đương cực kỳ hưng thịnh. Phái này là tỵ tổ môn quyền kiếm nội gia, những quần hào thấy đạo nhân vóc người thấp lùn, tướng mạo tầm thường thiếu vẻ uy phong thì trong lòng đều ngấm ngầm lấy làm lạ. Những bậc danh túc kiến văn quảng bác đều nghĩ thầm:
– Từ ngày chưởng môn phái Võ Đương là Mã Ngọc qua đời mười mấy năm trước, kế đó cao thủ là Hỏa Phán Quan Trương Triệu Trọng lại chết ở Hồi Cương, thì không nghe nói tới nhân vật nào làm chưởng môn của phải này. Cái tên Vô Thanh Tử làm quán chủ Thái Hòa cung cũng chưa từng nghe ai nhắc tới.
Vị thứ ba là đại hiệp Thang Bái nổi tiếng ai ai cũng biết, kể ra không cần giới thiệu, nhưng tên võ quan kia vẫn lên tiếng:
– Vị này là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh” Thang đại hiệp, chưởng môn phái Tam Tài kiếm. Thang đại hiệp oai danh chấn động thiên hạ, nghĩa nhân trùm đời, chẳng ai không biết. Tiểu đệ bất tất phải rườm lời.
Gã vừa mới nói mấy câu quần hào đã đồng thanh hoan hô như sấm dậy. Tình trạng này so với lúc giới thiệu Vô Thanh Tử thật khác nhau, cả Đại Trí thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không bì kịp.
Hồ Phỉ nghe một lão già ở bàn bên cạnh nói khẽ:
– Trong võ lâm có môn phái làm rạng rỡ cho người, lại có người làm rạng rỡ môn phái. Vị Thanh gì gì đạo trưởng đó chỉ nhân làm quán chủ Thái Hòa cung núi Võ Đương mà được kể là một trong bốn vị đại chưởng môn. Lão phu coi chừng chưa chắc đã có chân tài thực học gì. Còn như Tam Tài kiếm mà không sản xuất được nhân tài như Thang đại hiệp, một nhân vật trăm năm khó kiếm, thì làm sao chiếm nổi địa vị này trong võ lâm?
Một tên tráng hán tiếp lời:
– Sư thúc dạy phải lắm.
Hồ Phỉ cũng ngấm ngầm gật đầu.
Quần hào lộn xộn một lúc rồi đưa mục quang nhìn vị võ quan ngồi ở ghế thứ tư.
Tên võ quan giới thiệu nói tiếp:
– Vị này là đấng anh hùng ở Mãn Châu, Hải Lan Bật Hải đại nhân, chưởng môn Hắc Long môn ở Liêu Đông, đồng thời là Tá Lãnh đội Kiêu kỵ doanh thuộc đạo Hoàng kỳ.
Quan chức Hải Lan Bật kể ra cũng còn kém tên võ quan, nên đến lúc tên võ quan nhị phẩm gọi tới, hắn liền đứng dậy nghiêm trang, ra vẻ kính cẩn.
Lão già ngồi gần Hồ Phỉ lại xì xầm với người cùng bàn:
– Vị này lại dùng quan chức để đề cao môn phái. Hắc Long môn ở Liêu Đông, hà hà… chưa từng nghe ai trong võ lâm nhắc tới, mà cũng là một trong Tứ đại chưởng môn ư? Có điều bốn vị đại chưởng môn mà là người Hán cả, không chen một nhân vật Mãn Châu vào thì Phúc đại soái không được đẹp mặt. Hải đại nhân đây nhiều lắm chỉ là có sức mạnh mấy trăm cân của người man di, thì bì với những danh gia cao thủ của chính phái ở võ lâm Trung nguyên thế nào được?
Tên tráng hán ngồi lại nói:
– Lời sư thúc thật chí phải.
Nhưng lần này Hồ Phỉ không cho là lão nói đúng. Chàng nghĩ bụng:
– Lão đừng coi thường vị hảo hán Mãn Châu này. Hắn anh hoa nội liễm, khí phách ngưng trọng, e rằng người như lão còn thua hắn xa.
Bốn vị đại chưởng môn đứng dậy mời rượu quần hào, mỗi người nói mấy câu khiêm tốn. Đại Trí thiền sư khí độ ung dung, quả có phong độ một nhân vật lãnh tụ. Thang Bái nói năng lưu loát, chỉ mới nói có bảy, tám câu đã khiến quần hào phải ba lần nổi lên những tràng cười rộ. Vô Thanh Tử và Hải Lan Bật ăn nói vụng về. Vô Thanh Tử nói khẩu âm Hồ Bắc rất khó nghe, quá nửa số người không hiểu lão nói cái gì.
Chàng ngấm ngầm lấy làm lạ tự hỏi:
– Vị đạo trưởng này phát âm không đủ trung khí mà sao lại làm được chưởng môn một đại môn phái như Võ Đương? Chắc là võ nghệ lão tuy tầm thường, nhưng thân phận cao mà lại có uy tín lớn nên được đệ tử bản phái khâm phục mà suy tôn lên chăng?
Đúng lúc đó nhà bếp lần lượt đưa thức ăn vào. Phúc đại soái thiết yến đãi khách quả nhiên không phải tầm thường. Nguyên những vò rượu “Trạng Nguyên Hồng” đời Thiệu Hưng để lâu trên hai chục năm đã là thứ mỹ tửu rất quý hiếm rồi.
Hồ Phỉ cứ việc rượu đưa đến là uống cạn. Chàng uống một lúc hơn hai chục chung. Trình Linh Tố thấy chàng uống rượu rất hào, chỉ biết nhếch mép mỉm cười. Thỉnh thoảng cô quay đầu nhìn Phụng Thiên Nam, sợ hắn chuồn mất.
Quần hào ăn xong bảy, tám món trên bàn tiệc, bỗng nghe đoàn thị vệ lớn tiếng hô:
– Phúc đại soái tới!
Các võ quan trong đại sảnh đều nhất tề dời chỗ ngồi, ra đứng nghiêm trang. Chỉ trong nháy mắt, ai nấy đều trông như những pho tượng đá không nhúc nhích. Chưởng môn các phái đều là hào khách võ lâm, chưa thấy kỷ luật quân thần nghiêm cẩn như thế bao giờ, đều giật mình kinh hãi bất giác cũng lục tục đứng lên.
Bỗng nghe tiếng giày lẹp kẹp, có mấy người tiến vào đại sảnh. Bọn võ quan đồng thanh hô:
– Tham kiến đại soái!
Chúng nhất tề quỳ nửa chân, khom lưng cúi mình xuống.
Phúc đại soái khoát tay nói:
– Được rồi! Các vị đứng lên đi!
Bọn võ quan đáp:
– Tạ ơn đại soái!
Mấy tiếng lách cách vang lên, bọn võ quan đứng thẳng người dậy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Phúc Khang An trị quân nghiêm minh, quả không phải hạng tầm thường. Thảo nào hắn xuất chinh mấy lần đều đánh đâu thắng đấy.
Nhưng chàng thấy hắn mặt mày hớn hở, lại nghĩ thầm:
– Hắn thật là người chẳng có lương tâm. Hai đứa con bị cướp đi mà hắn vẫn thản nhiên như không.
Phúc Khang An sai người rót một chung rượu, rồi nói:
– Các vị võ sư tới kinh sư nên bản soái bày tiệc tẩy trần. Xin mời các vị cạn chung.
Hắn nâng chung rượu lên uống cạn, quần hào nhất loạt uống cạn theo. Lần này Hồ Phỉ chỉ để chung rượu lên môi mà không uống, vì trong lòng phẫn hận Phúc Khang An tàn ác, đã biết mẫu thân hạ độc Mã Xuân Hoa mà không giải cứu, nên chàng không muốn cạn chung với hắn.
Phúc Khang An lại nói:
– Cuộc đại hội chưởng môn khắp thiên hạ bữa nay đức Vạn tuế cũng biết rõ. Ngài mới tuyên triệu bản soái vào bái kiến và ban cho hai mươi bốn cái chung để bản soái chuyển cho hai mươi bốn vị chưởng môn nhân.
Hắn vẫy tay một cái, bọn thị vệ bưng ba chiếc hộp gấm đặt lên bàn phủ vải đoạn, rồi mở hộp lấy chung ra. Trong hộp thứ nhất đựng tám cái chung ngọc, hộp thứ nhì đựng tám cái chung vàng, hộp thứ ba đựng tám cái chung bạc, được chia làm ba hàng bày trên bàn. Ngọc khí lóng lánh, kim sắc rực rỡ, ngân quang chói lọi. Trên chung rượu chạm khắc những hoa văn lồi lõm, đứng từ xa mà nhìn chỉ biết đó là những vật cực kỳ tinh xảo. Những chung này đều do thợ khéo ở đại nội chế tạo nên đều có vẻ khác thường.
Lại nghe Phúc Khang An nói tiếp:
– Chung ngọc khắc hình rồng gọi là Ngọc Long bôi, cực kỳ trân quý. Chung vàng khắc hình chim phượng đang bay, gọi là Kim Phụng bôi, chung bạc khắc hình cá chép đang nhảy là Ngân Lý bôi.
Quần hào nhìn hai mươi bốn chung ngự bôi đều tự hỏi:
– Trong cuộc đại hội này cả thảy hơn trăm vị chưởng môn mà chỉ có hai mươi bốn chung ngự bôi thì biết ban cho những ai? Không lẽ lại rút thăm? Ngọc Long bôi quý hơn Ngân Lý bôi rất nhiều, vậy thì ai lãnh ngọc bôi, ai lãnh ngân bôi?
Bỗng thấy Phúc Khang An cầm bốn chung ngọc, tự tay trao cho bốn vị đại chưởng môn và nói:
– Các vị là những thủ lãnh võ lâm, mỗi vị lãnh một chiếc Ngọc Long bôi.
Bọn Đại Trí thiền sư đều khom lưng cảm tạ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Ở đây còn lại hai chục chiếc ngự bôi, bản soái xin mời các vị phô trương tuyệt nghệ. Bốn vị võ công cao nhất sẽ được chia nhau bốn chiếc ngọc bôi. Bốn vị này hợp với bốn môn phái Thiếu Lâm, Võ Đương, Tam Tài Kiếm, Hắc Long môn xưng làm “Ngọc Long bát môn” là những môn phái lớn nhất thiên hạ. Thứ nhì đến tám vị chưởng môn chia nhau tám chung vàng, đó là “Kim Phụng bát môn”. Sau nữa là tám vị chia nhau tám chung bạc hợp thành “Ngân Lý bát môn”. Từ nay các môn phái chia thành đẳng cấp, có thứ bậc trên dưới, do đó trong võ lâm sẽ bớt đi những sự phân tranh. Bốn vị Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang đại hiệp, Hải tham lãnh sẽ bình luận võ công cao thấp để định ngôi thứ. Các vị có còn điều chi dị nghị chăng?
Những vị chưởng môn có kiến thức đều nghĩ bụng:
– Làm vậy đâu có thể giảm bớt được những cuộc phân tranh? Các môn phái mà chia đẳng cấp thì trong võ lâm sẽ lập tức xảy ra nhiều họa hoạn vô cùng. Ngay hai mươi bốn chiếc Ngự chung này đã đẩy người ta vào thế tranh chấp rồi. Bọn học võ trong thiên hạ từ đây lại càng đánh nhau vì chữ danh, tự tàn sát nhau gây cảnh máu chảy đầu rơi chẳng còn ngày nào yên tĩnh nữa.
Nhưng vì Phúc đại soái đã nói vậy rồi thì còn ai dám dị nghị nữa? Nhiều người còn lên tiếng phụ họa, hoan hô ầm ĩ.
Phúc Khang An lại nói tiếp:
– Những vị được các chiếc ngự bôi này thì dĩ nhiên phải lo giữ gìn. Nếu cho các môn phái khác đoạt được hoặc lấy trộm thì danh hiệu “Ngọc Long bát môn”, “Kim Phụng bát môn”, “Ngân Lý bát môn” đã được đại hội định sẽ chẳng còn nữa!
Hắn nói lần này ý đồ đã lộ liễu thêm một mức nữa, nhưng vẫn có một ít người reo cười phụ họa.
Hồ Phỉ nghe Phúc Khang An tuyên bố tới đây liền nhớ tới ngày trước Viên Tử Y đã đoán chỗ dụng ý của hắn khi mở về cuộc đại hội chưởng môn, liền nhủ thầm:
– Ban đầu ta tưởng hắn đứng ra mời anh hùng hào Kiệt trong thiên hạ để thu dụng, ngờ đâu chỗ dụng tâm của hắn còn nham hiểm hơn nhiều. Hắn cố ý khêu gợi sự phân tranh giữa các môn phải võ lâm, làm cho những kẻ võ học chỉ vì chút hư danh mà tàn sát lãn nhau, không còn sức đâu mà nghĩ đến cuộc phản kháng nhà Mãn Thanh nữa.
Chàng vừa nghĩ tới đây, bỗng thấy Trình Lình Tố chấm ngón tay vào chung trà viết lên bàn chữ “Nhị” rồi chữ “Đào”. Viết xong có lại dùng ngón tay xóa ngay.
Hồ Phỉ khẽ gật đầu. Câu chuyện “Nhị đào sát tam tử”, chàng đã từng nghe người ta kể, nên nghĩ thầm:
– Ngày trước, Án Anh dùng kỳ kế “Nhị đào sát tam tử”, chỉ dùng hai trái đào mà khiến ba tay dũng sĩ kiệt ngạo phải tự tàn sát nhau mà chết. Bữa nay, Phúc Khang An lại học theo Án Anh, có điều dụng tâm hắn còn lớn hơn nhiều. Hắn chỉ dùng hai mươi bốn chiếc ngự bôi để triệt hạ hết bọn học võ trong thiên hạ.
Chàng đảo mắt nhìn quanh thấy bọn võ nhân tuổi trẻ lộ vẻ hăng hái, nôn nóng muốn phô trương thân thủ. Nhưng cũng có một số ít chưởng môn nhân đứng tuổi và già cả lộ vẻ bất bình. Hiển nhiên họ nghĩ tới việc tranh giành ngự bôi sẽ phát sinh hậu hoạn không ít.
Quần hào trong đại sảnh nghị luận xôn xao khiến không khí trở nên ồn ào.
Bàn bên cạnh chàng có người lên tiếng:
– Vương lão gia! Thần quyền của lão gia bạt tụy xuất chúng, trong thiên hạ ít người địch nổi, nhất định lão gia sẽ đoạt được một chiếc Ngọc Long bôi.
Người kia khiêm nhượng đáp:
– Ngọc Long bôi thì chẳng dám nghĩ tới, nếu như được chiếc Kim Phụng bôi đưa về cũng đã dễ ăn nói với bọn đệ tử.
Một người khác cười lạt, nói khẽ:
– Chỉ e đến Ngân Lý bôi cũng không sờ vào được mới thật là mất mặt.
Lão họ Vương tức giận trừng mắt nhìn, vì người nói mát mẻ vẫn thản nhiên như không, chẳng lý gì đến lão.
Trong lúc nhất thời, bàn nào cũng ghé tai thì thầm về hai mươi bốn chiếc ngự bôi.
Bỗng thấy người tùy tùng đứng bên Phúc Khang An vỗ tay ba cái, cất tiếng hô:
– Xin các vị hãy yên lặng. Phúc đại soái còn có lời muốn nói.
Những tiếng bàn tán ồn ào dần dần yên lại, vì quần hùng trước nay không chịu bó buộc như trong quân ngũ, hễ lệnh ban ra là mọi nguời phải tuân theo. Mãi một lúc sau mới hoàn toàn yên lặng.
Phúc Khang An tuyên bố:
– Xin các vị hãy uống mấy chung rượu nữa. Khi nào cơm no rượu say rồi sẽ phô trương tuyệt nghệ. Còn phương pháp tỷ thí xin các vị hãy nghe An đề đốc trình bày.
An đề đốc đứng bên cạnh Phúc Khang An là một vị tướng quân người Mãn Châu, lưng thô mình lớn, tướng mạo uy võ, cất tiếng:
– Xin các vị hãy cứ ăn uống cho thỏa thích. Yến tiệc xong, tại hạ sẽ giải thích. Nào! Xin kính các vị một chung.
Hắn rót đầy một chung rượu lớn, rồi nâng lên uống một hơi cạn sạch.
Quần hào nguyên là những tay tửu lượng rất cao, nhưng cứ nghĩ rằng sau bữa tiệc sẽ diễn ra một trường kịch đấu nên chẳng ai dám uống nhiều. Trừ một số ít cao thủ quyết định không ra tay tranh đoạt ngự bôi, còn toàn những người đưa chung lên miệng rồi lại đặt xuống.
Bữa tiệc ở Phúc phủ cực kỳ thịnh soạn, nhưng quần hào lòng đầy toan tính, chẳng ai còn lòng dạ nào để thưởng thức những món sơn hào hải vị mà chỉ chờ cơ hội động thủ. Có điều trước khi tỷ đấu cần phải ăn no, nên bao nhiêu võ sư trong đại sảnh mười phần có đến tám chín đều no cơm mà không say rượu.
Bữa tiệc kết thúc, An đề đốc kia vỗ tay ba cái. Những kẻ bộc dịch trong phủ khiêng tám cái ghế Thái sư bày ra chính giữa đại sảnh. Đông sảnh và Tây sảnh cũng đặt tám cái. Nhưng tám cái ghế trong đại sảnh đều trải đoạn thêu chỉ hồng, ghế ở đông sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu lục, ghế ở tây sảnh thì đặt đệm bằng đoạn màu trắng.
Ba tên vệ sĩ bưng những chiếc Ngọc Long bôi, Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi chia ra đặt trên ba cái kỷ trà ở đại sảnh, đông sảnh và tây sảnh.
An đề đốc thấy mọi việc đã bố trí xong xuôi liền dõng dạc hô:
– Chúng ta bữa nay “dĩ võ hội hữu”, cứ điểm tới là thôi, đừng ai oán thù gì nhau, hay hơn hết là đừng để chuyện chảy máu chết người. Có điều là trong lúc động thủ ra chiêu, thì đao thương không có mắt, khó mà tránh cho khỏi lỡ tay. Phúc đại soái đã truyền dạy, kẻ nào bị thương nhẹ sẽ được tặng năm chục lạng bạc để làm tiền thuốc thang. Bị trọng thương thì được ba trăm lạng. Bất hạnh hơn nếu táng mạng, Phúc đại soái gia ơn tặng món tiền phủ tuất một ngàn lạng. Ai lỡ tay đã thương người thì không bị trách phạt.
Quần hào nghe nói đều lạnh người, nghĩ thầm:
– Rõ ràng đây là cuộc đấu trí mạng, chứ còn gì nữa?
An đề đốc ngừng lại một chút rồi nói tiếp:
– Cuộc tỷ võ sắp bắt đầu. Mời bốn vị đại chưởng môn an tọa.
Bốn tên vệ sĩ dẫn Đại Trí thiền sư, Vô Thanh Tử, Thang Bái và Hải Lan Bật vào ngồi trên bốn ghế Thái sư đặt ở đại sảnh chính giữa. Trong tám ghế, đã có bốn người ngồi, còn bỏ trống mỗi bên hai ghế.
An đề đốc lại mỉm cười nói:
– Bây giờ xin các vị chưởng môn và cao thủ các gia các phái phô trương tuyệt nghệ trước mặt Phúc đại soái. Hãy tự lượng tư cách mình có thể lãnh Ngân Lý bôi thì xin qua ngồi bên tây sảnh. Còn ai có hy vọng lãnh Kim Phụng bôi thì xin sang ngồi phía đông sảnh. Nếu ai tự tin tài nghệ mình áp đảo được đương trường sánh ngang vai với bốn vị đại chưởng môn thì xin mời đến ngồi ở chính giữa tòa đại sảnh. Sau khi hai mươi bốn vị chưởng môn đã nhập tọa rồi, vị nào không phục thì tùy theo sức mình mà khiêu chiến với từng hạng. Người thua phải rút lui cáo thoái, nhường chỗ cho người thắng, bao giờ hết người khiêu chiến mới thôi. Các vị thử nghĩ xem biện pháp này có thích hợp chăng?
Mọi người nghĩ bụng:
– Vụ này có khác gì cuộc đả lôi đài?
Tuy quần hào biết rằng diễn ra cuộc hỗn chiến thì số người thương vong không phải là ít nhưng kẻ mạnh sẽ thắng, điều đó rất công bình. Số đông võ sư đều lớn tiếng đồng ý và không có ai dị nghị.
Phúc Khang An ngồi trên một cái ghế lớn ở đầu mé tả. Hai bên có mười tám tên vệ sĩ cao thủ. Chu Thiết Tiêu và Vương Kiếm Anh cũng ở trong đám này. Cuộc hộ vệ nghiêm mật vì sợ trong đám võ sư rắn, rồng lẫn lộn, có trà trộn thích khách.
Trình Linh Tố khẽ huých khuỷu tay Hồ Phỉ và đưa môi ra phía trước. Hồ Phỉ nhìn theo ánh mắt cô thấy trong góc nhà đầy vệ sĩ sắp hàng và tay cầm binh khí. Cuộc phòng vệ trong phủ Phúc Khang An bữa này còn nghiêm mật hơn cả nội viện ở Hoàng cung. Xung quanh phủ đệ cũng đầy những vệ sĩ tinh nhuệ.
Hồ Phỉ tự nhủ:
– Bữa nay mình tìm được tông tích của tên ác tặc Phụng Thiên Nam là mãn nguyện rồi, nhưng không thể để lộ hành tích, nếu không thì khó lòng bảo toàn được tính mạng. Nếu mình giúp cho Hoa Quyền môn đoạt được một chiếc Ngân lý bôi cũng là tỏ lòng với Cơ huynh. Có điều ta càng chậm xuất thủ càng hay để mọi người khỏi chú ý.
Chàng có biết đâu mình tính vậy thì những người kia cũng cùng một chủ ý, chỉ khác ở chỗ một đằng sợ lộ chân tướng, còn một đằng mong người khác chiến đấu đến sức cùng lực kiệt rồi mình ra tay sau cùng để thủ lợi. Vì thế An đề đốc hô luôn mấy câu “mời các vị vào ngồi!” mà vẫn chẳng thấy một ai lên chiếm hai mươi chiếc ghế bỏ trống, chẳng ai tiến lên ngồi.
Ngạn ngữ đã có câu “Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị”. Đã là văn nhân thì không ai dám tự hào văn chương mình đứng đầu thiên hạ, nhưng các võ sĩ, trừ những tay cao thủ dày công tu dưỡng, chẳng một ai cam chịu kém người, huống chi những người dự cuộc đại hội này đều là những người đứng đầu môn phái, xưa nay vẫn luôn quen thói tự cao tự đại. Ngay cả những người coi nhẹ chữ danh nhưng đã chấp chưởng một môn phái thì quyết không để uy danh phải tiêu tan. Nếu lỡ thua trong đại hội này thì các đệ tử của bản môn đi lại trong chốn giang hồ không dám ngẩng đầu lên, mà bản thân mình về lại bản môn cũng chẳng còn mặt mũi mà nhìn người khác.
Ai cũng nghĩ bụng:
– Nếu mình không ra tay, rồi đây còn có cớ biện minh. Bằng đã động thủ rồi thì phải đoạt Ngọc Long bôi, chứ lấy chiếc Kim Phụng bôi hay Ngân Lý bôi thì có chi đáng kể?
Vì thế các võ sư đều chăm chú nhìn vào bốn cái ghế Thái sư còn trống ở nhà đại sảnh chính giữa, chẳng ai để ý tới những chiếc Kim Phụng bôi và Ngân Lý bôi.
An đề đốc thấy tình thế căng trì còn kéo dài liền cười gằn một tiếng rồi nói:
– Các vị đều khiêm tốn hay là chờ người khác mỏi mệt rồi mới ra tay để chiếm phần tiện nghi? Như vậy tưởng không hợp với thân phận của các bậc đại sư võ học.
Hắn nói mấy câu này tựa hồ bỡn cợt, mà thực ra đã đánh vào tâm lý mọi người để khích tướng. Quả nhiên hắn vừa dứt lời, trong đám đông liền có hai người bước ra ngồi vào hai ghế bỏ trống. Một đại hán thân hình cao lớn như hộ pháp chẳng nói năng gì ngồi xuống ghế thái sư bằng gỗ tử đàn làm bật lên tiếng lách cách.
Còn người nữa thân hình tầm thước, dưới cằm có bộ râu vàng, cười hỏi:
– Lão huynh! Anh em mình bất quá chỉ liệng gạch ra để dụ kim ngọc, làm cái bung xung cho những lão võ sư và các đại cao thủ, chẳng lẽ lại hy vọng ôm Ngọc Long bôi đem về nhà được ư? Lão huynh đừng làm gãy ghế, nên lưu lại cho người khác ngồi.
Hắc đại hán kia “hừ” một tiếng, có vẻ không vừa lòng về câu nói đùa hán tử râu vàng.
Một tên võ quan đầu đội mũ tứ phẩm tiến ra, trỏ vào Hắc đại hán dõng dạc giới thiệu:
– Vị này là Hoàng Hy Tiết lão sư, chưởng môn Nhị Lang quyền.
Lại trỏ hán tử râu vàng nói:
– Vị này là Âu Dương Công Chính lão sư, chưởng môn Yến Thanh quyền.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bàn bên cạnh nói:
– Hay quá! “Thiên Lý Độc Hành Hiệp Âu Dương Công Chính” mà cũng muốn đoạt Ngọc Long bôi.
Hồ Phỉ lòng hơi chấn động. Nguyên Âu Dương Công Chính lấy ngoại hiệu là “Thiên lý độc hành hiệp”, nhưng thực ra hắn vốn là một tên “Độc cước đại đạo”, chỉ có tiếng hiệp đạo suông mà sự thực không phải. Dù hắn có tên tuổi trong vô lâm, song thanh danh cũng chẳng tốt đẹp gì. Hồ Phỉ đã từng nghe qua tên của hắn.
Tiếp theo hai người, một đạo nhân tiến lên. Lão là Tây Linh Đạo nhân chưởng môn phái Côn Luân đao. Mặt lão tươi cười. Bên mình không đeo binh khí, dường như lão đã nắm chắc phần thắng.
Mọi người lấy làm lạ tự hỏi:
– Đạo sĩ này là chưởng môn phái Côn Luân đao mà sao không mang đơn đao?
Quần hùng chăm chăm nhìn vào một chiếc ghế nữa ở sảnh đường chính bỏ trống không biết ai sẽ là người bước ra để lên ngồi.
An đề đốc hỏi:
– Còn một chiếc Ngọc bôi, không có ai muốn lãnh ư?
Bỗng nghe trong đám đông có tiếng người hô:
– Hay lắm! Để đấy cho con ma men ta đựng rượu uống!
Một hán tử cao gầy loạng choạng bước ra, một tay cầm bầu rượu, tay kia cầm chung đi tới giữa khách sảnh, đột nhiên xoay mình trượt chân té ngã về phía sau, rơi đúng vào cái ghế trống. Thân pháp rất nhẹ nhàng, đúng là một tay võ công rất cao thâm.
Trong đại sảnh không ít người có kiến văn quảng bác, có người cất tiếng hô:
– Chiêu “Trương Quả Lão đảo kỵ lư suất tại cao kiều thượng” thật hay quá!
Nguyên người này là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy ông, chưởng môn phái Túy Bát Tiên. Có điều nhìn gã áo quần lam lũ, lại sặc sụa hơi men nên khiến người ta khó lòng đoán được trình độ gã cao thâm đến đâu.
An đề đốc nói lớn:
– Bốn vị lão sư đây đều là những bậc kiến thức và đởm lược hơn người, đức cao vọng trọng. Nếu vị lão sư nào tự tin bản lãnh cao hơn bất cứ ai trong bốn vị này thì xin ra khiêu chiến. Bằng không còn ai khiêu chiến thì Nhị Lang quyền, Yến Thanh quyền, Côn Luân đao và Túy Bát Tiên được dự vào hàng “Ngọc Long bát môn”.
Bỗng thấy người ở mé đông bước ra nói:
– Tiểu nhân là Chu Long muốn gặp Thiên lý độc hành Âu Dương lão sư một trận.
Người này khắp mình cơ bắp nổi lên cuồn cuộn, thân hình thấp lùn mà kiêu dũng, dáng vẻ như con bò mộng. Hồ Phỉ không quen biết những nhân vật võ lâm này, nên hoàn toàn phải dựa vào những lời giải thích của lão già bên cạnh. May ở chỗ lão biết nhiều hiểu rộng, mà lão biết điều gì là nói ra ngay.
Bỗng nghe lão nói:
– Chu lão sư đây là chường môn Kim Cương quyền, mà lại là Tổng tiêu đầu Hưng Long tiêu cục ở Phủ Đại Đồng tỉnh Sơn Tây. Nghe nói Âu Dương Công Chính cướp tiêu của y, thành ra hai bên có chuyện xích mích. Lão phu xem chừng Chu lão sư ra tay lần này chủ ý không phải vì chiếc ngọc long bôi.
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
– Những mối ân oán trong võ lâm cực kỳ phức tạp. Chẳng hạn như mình đây đến tham dự đại hội chỉ vì tên ác tặc Phụng Thiên Nam, thì giữa các môn phái kết thành cừu hận chồng chất với nhau đã mấy trăm năm cũng không phải ít. Không lẽ chỉ trong một ngày đại hội hôm này mà giải quyết hết được ư?
Nghĩ tới đây chàng không khỏi liếc mắt nhìn Phụng Thiên Nam, thấy tay hắn không ngớt chuyển động trái thiết đảm, còn thần sắc tỏ ra rất bình tĩnh.
Hồ Phỉ đại náo Phúc phủ hai đêm liền, Phụng Thiên Nam mười phần chắc chín chàng đã trốn khỏi Bắc Kinh mà cao chạy xa bay. Hắn có ngờ đâu chàng là người anh hùng gan dạ vẫn trà trộn trong cuộc đại hội chưởng môn, là nơi đầm rồng hang cọp?
Chu Long ra khiêu chiến, Âu Dương Công Chính cười hề hề, bước ra khỏi ghế hỏi:
– Chu tổng tiêu đầu, gần đây làm ăn phát tài, buôn bán thịnh vượng chứ?
Năm trước Chu Long bảo vệ món tiêu ngân trên năm vạn lạng bạc bị lão cướp mất, phải bồi thường đến khuynh gia bại sản. Tiền của gom góp mấy chục năm hết sạch trong một sớm một chiều thì trách sao gã chẳng căm hận thấu xương? Gã không nói không rằng ra ngay chiêu “Song phách song tràng” đánh liền. Âu Dương Công Chính đáp lại bằng chiêu “Thoát ngoa chuyện thản” trong Yến Thanh quyền. Hai người mở đầu trận kịch đấu. Chu Long hơn về sức mạnh, chiêu thức trầm trọng, hạ bàn vững chãi, còn Âu Dương Công Chính sở trường về quyền chiêu linh động, thân pháp nhẹ nhàng.
Chu Long chuyên khổ luyện ngoại công, thấy địch nhân vung chiêu đá tới cũng không né tránh. Đầu vai và trước ngực gã liên tiếp trúng ba quyền. Gã đằng hắng một tiếng, đột nhiên vung quyền đánh vụt ra. Đó là chiêu “Nghinh phong đả” trong Kim Cương quyền. Âu Dương Công Chính bật cười né tránh, đồng thời phóng cước đá vào đùi đối phương. Chu Long sử thân pháp “Sang bối đại tam phách” lăn mình dưới đất rồi lại đứng lên.
Hai người qua lại bốn năm chục chiêu, Chu Long đã bị trúng hơn chục chiêu quyền cước. Bây giờ gã không kịp đề phòng, mũi trúng tiếp một quyền, máu tươi đỏ ròng ròng ướt cả vạt áo.
Âu Dương Công Chính cười nói:
– Chu lão sư! Bất quá ta chỉ cướp tiêu ngân của lào sư chứ không đoạt vợ. Ta tưởng trừ mối thù giết cha cướp vợ ra thì mọi chuyện khác đều là thường không đáng kể.
Chu Long chẳng nói nửa lời nhảy xổ lại đánh nữa. Âu Dương Công Chính nhờ khinh công trác tuyệt, liền nghiêng người né tránh. Miệng lão không ngớt thốt ra những lời khinh bạc, cố ý chọc giận đối phương.
Cuộc chiến đang hăng, Chu Long lại bị trúng một cước vào giữa bụng. Tay trái hắn ôm bụng, vẻ mặt cực kỳ đau đớn. Đột nhiên tay mặt hắn ra chiêu “Kim câu quải ngọc” tiến thêm một bước phóng đòn “Một già la” đánh trúng ngực địch nhân một cú như chùy giáng. Bỗng nghe một tiếng rắc vang lên Âu Dương Công Chính bị gãy mấy rẽ xương sườn. Người lão lảo đảo, miệng phun máu tươi.
Lão biết Chu Long căm hận thấu xương, bây giờ thắng được một chiêu, tất hạ độc thủ nữa mà lúc này lão không còn sức kháng cự. Lão đành gắng gượng nhịn đau lạng người lùi lại, nhăn nhó cười gượng nói:
– Lão sư thắng rồi…
Chu Long muốn tiến đánh nữa, nhưng Thang Bái lên tiếng:
– Chu lão sư! Phân thắng bại rồi, không được động thủ nữa. Mời lão sư ngồi đây.
Chu Long nghe Thang Bái tuyên bố, không dám phản kháng, liền chắp tay đáp:
– Tiểu nhân không dám tranh đoạt Ngọc Long bôi!
Rồi hắn trở về chỗ ngồi. Phần đông bọn võ sư đều không thích tư cách của Âu Dương Công Chính nên khi thấy Chu Long khổ chiến thắng trận, liền tới tấp đến hỏi han.
Âu Dương Công Chính đầy vẻ thẹn thùng mà không dám bỏ về. Lão tự biết mình rất nhiều cừu nhân mà lúc này lão đang bị trọng thương, nếu ra khỏi Phúc phủ là lập tức bị người theo sau hạ thủ, trong đó Chu Long là người bám theo trước tiên. Lão liền lấy thuốc trị thương hòa với rượu uống, gắng gượng nhịn đau ngồi không nhúc nhích. Đối với những lời châm chọc của khách bàng quan, lão lờ đi như không nghe thấy.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Chu Long coi bộ lù đù mà thật ra rất thông minh, xét về bản lĩnh thì gã quyết chẳng thể đoạt được Ngọc Long bôi. Gã chiến thắng rồi rút lui ngay để bảo toàn danh dự. Kim Cương quyền tuy không được liệt vào hàng “Ngọc Long bát môn”, nhưng trên chốn giang hồ chẳng ai dám coi thường.
Thang Bái cất tiếng hỏi:
– Chu lão sư chí không ở chén ngọc, vậy mời vị lão sư nào lên đây ngồi.
Chiếc ghế trống này không đánh mà được đỡ phải tốn một phen khí lực. Có hai hán tử muốn chiếm tiện nghi bèn từ hai bên tả hữu chạy xông tới. Khoảng cách của hai gã đến ghế Thái Sư đều tương tự nhau, ai nhanh chân là được. Không ngờ cả hai người đều hấp tấp chạy đến trước ghế, hai vai đụng nhau mỗi người lùi lại hai bước. Giữa lúc ấy nghe vù một tiếng, một người trong đám đông bước ra, vung giang hai tay nhảy vọt tới như con chim khổng lồ, rồi nhẹ nhàng ngồi xuống ghế. Y vọt ra sau mà đến trước hai hán tử kia. Khinh công quả nhiên tuyệt diệu. Mọi người cất tiếng reo hò như sấm.
Hai hán tử vừa đụng nhau, thấy có người đoạt mất ghế liền ngửa mặt lên nhìn, đều bật tiếng la:
– Ủa! Lão đấy ư?
Hai người không hẹn mà cùng xông tới đánh. Người ngồi trên ghế không đứng dậy, vung chân trái đá “binh” một cái khiến hán tử bên trái lăn long lóc. Lão vươn tay phải ra chụp cổ áo hán tử bên phải xoay một vòng rồi ném ra. Người lão vẫn ngồi yên trên ghế mà thuận tay hạ luôn hai địch nhân.
Quần hào đều kinh hãi lẩm bẩm:
– Bản lãnh người này quả nhiên lợi hại.
An đề đốc không hiểu tên họ, liền tiến lại hỏi:
– Tôn tính đại danh các hạ là gì, làm chưởng môn nhân của phái nào?
Người kia chưa kịp trả lời đã thấy hai hán tử vừa rồi lồm cồm đứng dậy miệng rống be be, buông lời thóa mạ rồi vung quyền đánh tới. Theo những lời quát tháo, thóa mạ của hai hán tử thì dường như người kia chỉ muốn trêu cợt hai gã thôi, mà đã đủ khiến chúng nếm mùi đau khổ.
Người này dùng cách tá lực dẫn lực, tay trái vung chưởng đấm vào lưng hán tử bên trái, chân phải vung ra đá “bốp” một cái vào đít hán tứ trước mặt. Hai gã không tự chủ được bèn chúi người về phía trước. May mà chúng biến thế mau lẹ, không chờ đụng đầu vào nhau đã vội giơ hai tay đón đỡ, nhưng thế đẩy mạnh quá, cả hai không đứng vững đều ngã lăn ra.
Hán tử bên trái la lên:
– Tề lão nhị! Món nợ này giữa chúng ta ngày sau sẽ tính. Bữa nay hãy chung lưng giải quyết tên kia rồi sẽ liệu.
Hán tử bên phải đáp:
– Phải lắm!
Chúng nhảy vọt lên, rút thanh chủy thủ ở bên hông ra.
Hồ Phỉ lại nghe lão già bên cạnh lẩm bẩm một mình:
– Phiên Giang Kiêu ở Áp Hình môn chết đi để lại hai gã đệ tử chẳng ra gì.
Rồi lão buông tiếng thở dài không nói thêm gì nữa. Hồ Phỉ thấy hai gã hán tử thân pháp cổ quái bất giác động tính hiếu kỳ, liền chấp tay hỏi:
– Xin hỏi tiền bối, hai vị đó ở Áp Hình môn ư?
Lão già cười hỏi lại:
– Sắc mặt các hạ sao có vẻ căng thẳng quá. Xin hỏi tôn tính đại danh?
Hồ Phỉ chưa kịp đáp thì Thái Uy đã đứng dậy nói:
– Để tại hạ giới thiệu hai vị. Vị này là chưởng môn mới nhậm chức ở tệ môn, húy danh là Trình Linh Hồ lão sư. Vị này là Quách Ngọc Đường lão sư, chưởng môn Tiên Thiên quyền. Xin hai vị làm quen nhau đi.
Quách Ngọc Đường đã quen Thái Uy. Lão biết là ở Hoa Quyền môn không hiếm nhân tải, Hoa Quyền môn là một đại môn phái ở Bắc phương về quyền thuật, nên lão nảy lòng cung kính Hồ Phỉ. Lão vội đứng dậy mời ngồi, miệng nói:
– Trình lão sư! Bàn của tại hạ chỉ có bốn người, xin mời các vị qua bên này ngồi được chăng?
Hồ Phỉ đáp:
– Hay lắm!
Chàng chắp tay xin lỗi chưởng môn giống như con khỉ của Đại Thánh môn, rồi cùng Trình Linh Tố, Cơ Hiểu Phong và Thái Uy cầm chung rượu, đưa chén sang ngồi cùng bàn với Quách Ngọc Đường.
Lai lịch Tiên Thiên quyền rất lâu đời. Phái này sáng lập từ thời nhà Đường, nhưng các vị quyền sư bao nhiêu đời truyền thụ võ thuật đều lưu lại chiêu số. Trải hơn ngàn năm không nẩy ra bậc anh tài bạt tụy, vì thế mà đến đời nhà Thanh đi dần vào chỗ suy vi.
Quách Ngọc Đường tự biết bản lãnh mình không đủ tranh thắng với những cao thủ danh gia của các môn phái khác, mà lão cũng không có ý tranh đoạt ngự bôi, nên cứ ung dung bình thản ngồi một bên uống rượu, xem cuộc tỷ đấu. Lúc này Hồ Phỉ hỏi tới, lão đáp:
– Áp Hình Quyền bộ dạng coi không đẹp mắt, nhưng mã bộ thấp vững, công phu trên mặt nước lại càng tuyệt diệu. Ngày trước Phiên Giang Phù còn tại thế đã xưng bá cả một vùng Hà Sóc. Lão chết rồi để lại hai tên đại đệ tử. Gã cầm chủy thủ tên gọi Tề Bá Đào. Gã cầm phá giáp chùy tên gọi Trần Cao Ba. Hai gã tranh nhau chức chưởng môn đã mười năm nay, chẳng ai chịu ai. Lần này Phúc đại soái mời chưởng môn các phái đến phó hội, hừ, thật đẹp mặt hai anh em tên mặt dày cùng tới cả!
Bỗng thấy Tề Bá Đào và Trần Cao Ba đều cầm khí giới ngắn chia thành hai mũi giáp công. Người kia ngồi trên ghế vẫn không đứng dậy, cất tiếng thóa mạ:
– Lũ vô dụng kia! Ở Lan Châu ta đã nói những gì? Ta đã bảo các ngươi đừng có đến Bắc Kinh, vậy mà sao các ngươi vẫn vác mặt tới?
Mọi người thấy lão đầu nhọn, gò má nhỏ cao, tay cầm cái điếu nhỏ rít thuốc sòng sọc, trên môi để hai chóp râu chuột màu vàng, ước chừng ngoài năm chục tuổi.
An đề đốc hỏi tên họ cùng môn phái mấy lần, lão vẫn chẳng lý gì đến. Hồ Phỉ thấy chân tay lão rất dài, tùy tiện đánh bên này đá bên kia, hóa giải dễ dàng những chiêu số của hai gã Tề, Trần. Bản lãnh lão dường như không cao thâm lắm, có điều chiêu thức cực kỳ quái đị. Hồ Phỉ liền hỏi Quách Ngọc Đường:
– Quách lão sư! Vị tiền bối này là ai?
Quách Ngọc Đường chau mày ấp úng:
– Cái đó… cái đó…
Có lẽ lão không biết nên không khỏi lộ vẻ bẽn lẽn. Người khác xấu hổ vì võ công không bằng người, còn lão lại xấu hổ vì không biết lai lịch của người ta.
Bỗng nghe lão kia ngồi hút thuốc, cất tiếng thóa mạ:
– Quân hạ lưu tiểu tử kia! Nếu ta không nể mặt người anh em đã quá cố Phiên Giang Phù, thì đã chẳng thèm đếm xỉa gì đến các ngươi. Phiên Giang Phù một đời nổi tiếng anh hùng mà đồ đệ lại ham chỗ nước đục này. Các ngươi có về hay không?
Trần Cao Bá phóng chùy đâm tới, quát lên:
– Sư phụ ta làm gì có hạng bằng hữu thối tha như lão? Ta làm môn hạ sư phụ đã năm sáu năm, chưa từng thấy lão khốn kiếp ngươi lần nào.
Lão già lại quát mắng:
– Phiên Giang Phù là bạn vọc bùn, bắt sâu với ta từ thuở nhỏ, ranh con như ngươi biết gì mà dám nói?
Đột nhiên lão vung tay trái đánh gã một bạt tai.
Lúc này Tề Bá Đào tấn công bên phải, lão già lại vung chân đá trúng mặt gã, quát mắng:
– Sư phụ mi chết rồi, ta phải thay y giáo huấn bọn ngươi mới được.
Quần hùng trong đại sảnh thấy ba người tỷ đấu một cách hoạt kê đều không khỏi phì cười. Nhưng Tề Bá Đào và Trần Cao Ba bản tính ngu độn, ai cũng thấy chúng không phải là đối thủ của lão già mà chúng vẫn giằng co hoài.
Lão già lại nói:
– Phúc đại soái kêu bọn ngươi đến, chẳng lẽ là vì hảo tâm ư? Y muốn khiêu khích cho bọn ngươi tàn sát lẫn nhau vì mấy cái chung rượu nhỏ không đủ để đựng nước tiểu, vậy mà cứ hùng hục đánh nhau kẻ sống người chết!
Lão nói câu này hiển nhiên để giáo huấn hai gã Tề, Trần nhưng thanh âm vang dội khiến những người trong đại sảnh ai cũng nghe rõ.
Hồ Phỉ thầm gật đầu, nghĩ bụng:
– Vị tiền bối này quả là người có kiến thức, xem ra lão phải lớn mật lắm mới dám nói vậy.
Quả nhiên An đề đốc nghe lão nói mấy câu không nhịn được, liền quát hỏi:
– Ngươi là ai mà dám đến đây hồ ngôn loạn ngữ để phá quấy?
Đó là hắn còn nể mặt quần hùng, coi lão là một tân khách được mời đến, không thì đã đánh lão một cái bạt tai rồi.
Lão già nhếch miệng cười, hỏi:
– Lão phu giáo huấn hai tên hậu bối, có liên can gì đến đại quan?
Lão vung cái tẩu hút thuốc bật ra hai tiếng choang choang đánh rớt thanh chủy thủ và cây phá giáp chùy trong tay hai gã Tề, Trần. Lão lại cài cái tẩu vào thắt lưng, tay mặt kéo tai trái của Tề Bá Đào, tay trái kéo tai mặt của Trần Cao Ba lôi đi.
Điều lạ là hai gã lại riu ríu tuân theo một phép không dám nói gì, chỉ mím môi, nhắm mắt chịu đau, vẻ mặt trông rất tức cười. Nguyên lão già kia đã dùng ngón cái và ngón trỏ nắm trái tai, còn ba ngón chĩa ra điểm vào hai huyệt “Cường giang” và “Phong phủ”, khiến chân tay chúng mềm nhũn không thể kháng cự được nữa.
Hồ Phỉ định bụng:
– Vị tiền bối này trông rõ sự việc, võ công lại cao cường. Mai sau gặp nhau trên chốn giang hồ, ta phải kết giao với lão mới được. Hai gã Tề, Trần mà được lão dạy dỗ trong mười năm, tương lai cũng không đến nỗi vô dụng như bây giờ.
An đề đốc thóa mạ:
– Quân đá cá lăn đưa đến phủ đại soái gây rối, chắc là hắn không muốn sống nữa…
Đột nhiên nghe đánh “bốp” một tiếng, một miếng thịt từ trong đám đông bay ra tống vào miệng hắn. Hắn khiếp sợ nuốt ực vào bụng, trợn mắt há miệng ngẩn cả người ra, không nói được nữa. Tuy rằng lưỡi hắn đã chạm vào mà không rõ mình vừa nuốt vật gì, cùng chẳng hiểu vật đó có chất độc không. Không ai hiểu miếng thịt đó do nhân vật nào ném ra. Việc này ai cũng thấy rõ An đề đốc há hốc miệng lộ vẻ kinh hoàng, rồi không dám thóa mạ nữa.
Thang Bái ngồi sau lưng An đề đốc nên cũng không nhìn thấy miếng thịt bay vào miệng hắn. Lão nói:
– Trên giang hồ chẳng thiếu gì kẻ sĩ ẩn dật chốn sơn lâm. Điều đó cũng chẳng có chi là lạ. Vị tiền bối này khí phách thanh cao, không muốn đi vào hàng ngũ phàm tục như chúng ta, thôi thì cũng được. Cỗ ghế còn bỏ trống này có vị lão sư nào khác muốn ngồi vào chăng?
Trong đám đông có người hô:
– Để đấy cho tại hạ!
Quần hào chỉ nghe tiếng chứ không thấy người. Sau một lúc, một người lùn từ giữa đám đông đi ra. Người này cao không tới ba thước, mặt đầy râu đâm tua tủa, tướng mạo cực kỳ hung dữ. Bọn võ sư trẻ tuổi thấy hắn lùn tịt, thân hình cổ quái, không nhịn được phải bật cười. Người lùn quay lại trợn mắt lên nhìn, nhãn quang của hắn lấp loáng trông rất oai nghiêm, mọi người không dám cười nữa.
Gã lùn đi đến trước mặt chưởng môn Nhị Lang Quyền là Hoàng Hy Tiết, ngắm nghía lão từ đầu xuống chân. Hoàng Ty Tiết ngồi sừng sững trên ghế như một tòa tháp sắt. Lão ngồi mà so với gã lùn đứng vẫn còn cao hơn nửa cái đầu. Gã lùn ngắm đối phương từ trên xuống dưới, rồi lại từ đưới lên trên, nhưng không nói gì.
Hoàng Hy Tiết hỏi:
– Nhìn gì vậy? Muốn tỷ thí với ta chăng?
Gã lùn ““hừ” một tiếng, rồi đi quanh ra sau lưng dãy ghế để ngắm gáy lão họ Hoàng. Hoàng Hy Tiết sợ gã lùn ám toán thình lình liền quay đầu lại. Gã lùn lại quanh ra phía trước và vẫn ngoẹo đầu ngoẹo cổ nhìn không chớp mắt.
Vị võ quan tứ phẩm lên tiếng:
– Vị này là Tôn Hùng lão sư, chưởng môn Địa Đường quyền ở Thiểm Tây!
Hoàng Hy Tiết bị lão dòm ngó hoài, tức mình đứng phắt dậy hỏi:
– Tôn lão sư! Tại hạ muốn lãnh giáo mấy tuyệt chiêu Địa Đường quyền của lão sư.
Ngờ đâu Tôn Hùng dí hai chân xuống, tung mình lên ngồi vào cái ghế bỏ trống bên cạnh.
Hoàng Hy Tiết cười ha hả nói:
– Lão sư không muốn quá chiêu với tại hạ càng hay.
Rồi lão lại ngồi xuống chỗ cũ. Tôn Hùng lại nhảy vọt ra khỏi ghế, đến trước Hoàng Hy Tiết ngoẹo cái đầu như trái dưa nhòm vào mặt Hoàng Hy Tiết, hết đứng bên trái lại chuyển bên phải.
Hoàng Ty Tiết tức giận hỏi:
– Ngươi nhìn gì vậy?
Tôn Hùng hỏi lại:
– Vừa rồi lúc uống rượu sao ngươi ngó ta một cái rồi nổi lên cười? Phải chăng lão cười ta thân hình bé nhỏ thấp lùn?
Hoàng Hy Tiết vừa cười vừa hỏi lại:
– Thân hình ngươi thấp lùn bé nhỏ thì có can hệ gì đến ta?
Tôn Hùng cả giận quát:
– Ngươi lại muốn chiếm phần tiện nghi của ta rồi!
Hoàng Hy Tiết ngạc nhiên hỏi:
– Ô hay! Ta làm gì mà chiếm phần tiện nghi của ngươi?
Tôn Hùng đáp:
– Ngươi bảo ta thân hình bé nhỏ thấp lùn không liên can gì đến ngươi ư? Ha ha! Trời sinh ra lão gia thấp lùn bé nhỏ thì chỉ có liên can đến cha của lão gia thôi, ngươi muốn làm cha của lão gia ư? Ngươi có phải là cha của lão gia đâu mà rắc rối?
Câu này vừa nói ra, lập tức cả đại sảnh phá lên cười rộ. Phúc Khang An đang uống một ngụm nước trà không nhịn được cười làm phun cả nước ra.
Trình Linh Tố phục xuống bàn ôm bụng mà cười nắc nẻ. Hồ Phỉ sợ cười lớn khiến hàm râu giả rơi ra nên phải ráng nhịn.
Hoàng Hy Tiết cười đáp:
– Không dám! Không dám! Con lão phu so với Tôn lão sư còn tuấn tú hơn nhiều.
Tôn Hùng không nói không rằng, vung quyền đánh vào bụng dưới Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết đã đề phòng trước, tuy người lão to lớn mà hành động lại mau lẹ phi thường. Lão nhảy vọt sang một bên để tránh.
Nghe “rắc” một tiếng, thoi quyền của Tôn Hùng đánh xuống làm chiếc ghế bằng gỗ tử đàn gãy thành từng mảnh vụn. Thoi quyền đánh ra rồi, tiếng cười trong đại sảnh lập tức ngưng bặt. Mọi người thấy lão tuy hình thù xấu xí, ăn nói tức cười nhưng thần lực kinh người, không ai dám coi thường lão nữa.
Tôn Hùng giáng thoi quyền không trúng đối phương, liền xoay người về phía sau phóng chân đá Hoàng Hy Tiết. Hoàng Hy Tiết co chân trái đứng thành thế “Anh hùng độc lập”, trả lại một chiêu “Đả bát thức đóa tử cước”. Tôn Hùng lăn mình tới sử dụng “Địa đường quyền”, quyền cước nhất tề phóng ra, đánh vào hạ bàn đối phương.
Hoàng Hy Tiết sử mấy chiêu “Tảo đường thối”, “Thoái độ khóa hổ thế”, “Khiêu tiễn bộ”, gồm cả thế công lẫn thế thủ. Nhưng Nhị Lang quyền của lão sở trường về quyền chứ không phải về cước pháp. Nếu đấu quyền với người thường, lão sử những tuyệt kỹ “Nhị Lang đảm sơn quyền”, “Cái mã tam quyền” thì quyền nhanh mà lực mạnh, địch nhân khó lòng chống trả nổi. Còn về cước pháp, lão cũng luyện những công phu “Oa tâm thối”, “Liêu âm thối”, chỉ dùng để đá vào thượng bàn hoặc trung bàn của đối phương. Hiện giờ gặp phải Tôn Hùng cứ lăn qua lăn lại dưới đất thành ra bao nhiêu công phu rèn luyện suốt bao nhiêu năm đều biến thành vô dụng. Chẳng những quyền chưởng không đánh tới mà chân đá cũng không có chỗ thi thố. Lão chỉ còn cách nhảy nhót để né tránh. Chẳng mấy chốc lão bị Tôn Hùng liên tiếp đá trúng mấy cước vào khuỷu chân. Lão vừa đau vừa tê chồn thì hai chân Tôn Hùng đã xoắn lại, khiến lão đứng không vững, té nhào xuống đất.
Tôn Hùng tung mình nhảy tới. Ngờ dâu Hoàng Hy Tiết ngã lăn ra rồi vẫn còn phóng được quyền ra đánh trúng vào vai đối phương, hất Tôn Hùng văng ra xa hơn một trượng. Tôn Hùng lại lăn người tới tấn công. Hoàng Hy Tiết quỳ chân dưới đất, tả chưởng hữu quyền đồng thời đánh ra, khiến Tôn Hùng phải nghiêng mình lăn đi để tránh. Hai người cứ sàn người sát mặt đất mà tỷ đấu, những tiếng “binh, binh” vang lên không ngớt, người nào cũng liên tiếp bị trúng đòn. Nhưng hai nhân vật này đều thuộc loại vai u thịt bắp, đủ sức chịu đựng. Kẻ trúng quyền người trúng cước, trong lúc nhất thời khó phân thắng bại.
Tỷ đấu cách này Tôn Hùng không chiếm được phần ưu thế. Đột nhiên Hoàng Hy Tiết giả vờ sơ hở, Tôn Hùng lăn mình vào định đánh một quyền thật nặng vào trước ngực địch nhân. Hoàng Hy Tiết liền vung hai tay chộp trúng cổ Tôn Hùng, rồi xoay người đè xuống.
Tôn Hùng liền vung quyền đánh thật mạnh hông Hoàng Hy Tiết, nhưng lão này phải vất vả lắm mới nắm được chỗ yếu hại của địch nhân thì đời nào lại chịu buông ra? Tôn Hùng bị nghẹt thở, gương mặt phồng lên bầm tím, những thoi quyền đánh ra dần dần vô lực.
Quần hùng thấy hai người tỷ đấu một cách thô lỗ như hạng đầu đường xó chợ, chẳng còn chi là thân phận của chưởng môn nhân, đều lắc đầu cười thầm. Tôn Hùng dần dần chống không nổi, thì bỗng trong đám đông vọt ra một đại hán vung quyền đấm xuống lưng Hoàng Hy Tiết.
An đề đốc vội hét:
– Lui lại ngay! Không thể hai người đánh một!
Nhưng thoi quyền của người kia đã đánh trúng lưng Hoàng Hy Tiết, lão đau điếng người phải buông tay ra. Tôn Hùng liền xoay mình nhảy lên. Trong đám đông lại có một người nữa vọt tới, vung quyền đánh bừa vào hán tử lớn. Nguyên hai người này một là đại đệ tử của Tôn Hùng, còn một là con Hoàng Hy Tiết nhảy ra để trợ quyền. Lúc này trong đại sảnh biến thành hai cặp đánh nhau.
Những người bàng quan reo hò trợ oai, vỗ tay hoan hô. Thế là cuộc tỷ võ giữa các chưởng môn nhân trong võ lâm biến thành sân khấu diễn kịch chẳng còn vẻ chi là trang nghiêm nữa.
Tôn Hùng đã bị một vố, không dám cầu may thủ thắng, thận trọng thủ kín môn hộ, cùng Hoàng Hy Tiết tỷ đấu giữ thế quân bình. Nhưng con Hoàng Hy Tiết chưa đủ kinh nghiệm lâm địch, liên tiếp bị đối phương đá mấy lần lăn long lóc. Gã tức giận rút đoản đao trong giày ra đâm địch nhân. Đệ tử của Tôn Hùng giật mình kinh hãi. Gã không đem binh khí bên mình liền chụp lấy cỗ ghế thái sư còn bỏ trống bên cạnh Thang Bái vung múa đỡ đòn.
Cuộc tỷ võ này chẳng còn ra thể thống gì nữa.
An đề đốc quát:
– Các ngươi làm trò gì vậy? Cả bốn người lùi lại đi!
Nhưng bọn Tôn Hùng đang hăng máu đánh nhau, chẳng ai để ý nghe lời hắn.
Hải Lan Bật đứng dậy hỏi:
– An đề đốc nói gì các vị có nghe thấy không?
Con Hoàng Hy Tiết phóng đao đâm không trúng, Hải Lan Bật vươn tay ra chụp lấy ngực gã, tiện đà ném ra ngoài. Tiếp theo lão co tay về chụp tên đệ tử của Tôn Hùng, ném tiếp ra ngoài sân.
Quần hùng đang ngơ ngác, lại thấy Hải Lan Bật một tay xách Hoàng Hy Tiết, một tay nắm Tôn Hùng đồng thời ném ra. Bốn người ngã chồng lên nhau thành một đống. Cả bọn đều mắt hoa đầu váng ôm lấy nhau, đấm đá loạn xạ. Sau mấy tên vệ sĩ chạy lại gỡ ra, họ mới ngừng lại. Bốn người mặt mũi sưng vù, tím bầm, vẫn còn ngoác miệng chửi bới nhau không ngớt.
Hải Lan Bạt phô trương thân thủ khiến quần hùng đều kinh hãi, nghĩ thầm:
– Lão này liệt vào hàng tứ đại chưởng môn quả nhiên bản lãnh cực cao. Lão ra tay nào chụp nào ném là hai gã Tôn, Hoàng văng đi như hai bó cỏ.
Nên biết Tôn Hùng và Hoàng Hy Tiết tuy đấu như bọn vô lại, nhưng đều có bản lãnh chân thực. Trên chốn giang hồ, cả hai đều có tên tuổi, kẻ tầm thường không sánh kịp.
Hải Lan Bật sau khi ném bốn người xong liền quay về ngồi chỗ cũ.
Thang Bái lên tiếng ca ngợi:
– Hải đại nhân thân thủ phi thường, thật khiến người phải bội phục.
Hải Lan Bật cười đáp:
– Không bõ làm trò cười cho Thang đại hiệp. Bọn họ làm vậy chẳng còn ra thể thống gì.
Lúc này bọn bộc dịch đã thay cái ghế gãy rồi.
Chưởng môn Côn Luân Đao là Tây Linh đạo nhân từ nãy đến giờ chỉ mỉm cười. Nhưng khi thấy Hải Lan Bật thi triển công phu, tự biết không thể ngang hàng với lão, vậy mà dự vào hàng chưởng môn của Ngọc Long bát môn thì không khỏi thấp thỏm trong bụng.
Bên kia chưởng môn Túy Bát tiên là Thiên bôi cư sĩ Văn Túy Ông vẫn tự rót rượu uống một mình. Cặp mắt y lờ đờ tựa hồ chẳng nhìn thấy những gì xảy ra trước mắt.
An đề đốc nói:
– Phúc đại soái mời các vị đến đây là để tỷ giảo võ công, phân định cao thấp. Xin các vị ngàn vạn lần đừng đánh nhau loạn xạ như mấy vị mới đây để khỏi làm trò cười cho thiên hạ.
Bỗng nghe Tôn Hùng ngồi dưới mái hiên, quát hỏi:
– Cái gì mà làm trò cười cho thiên hạ? Ngươi có hiểu võ công hay không? Chúng ta cứ tỷ đấu một trận coi.
An đề đốc lờ đi như không nghe tiếng, lại hỏi:
– Đây còn hai cái ghế nữa. Có vị anh hùng hảo hán chân chính nào lên ngồi không?
Tôn Hùng đổ quạu, quát lớn:
– Ngươi nói vậy là chửi ta không phải chân anh hùng ư? Chàng lẽ ta lại là cẩu hùng?
Gã chẳng kể gì vừa bị Hải Lan Bật ném té nhào, cứ xăm xăm chạy về phía An đề đốc. Đột nhiên chân bước loạng choạng rồi té lăn xuống đất. Té ra có một tên vệ sĩ đưa chân ra gạt, khiến hắn té nhào. Tôn Hùng nổi nóng, quay lại nhìn xem ai đã ám toán mình, nhưng tên vệ sĩ kia đã ẩn lánh mất rồi. Hắn không tìm ra được người nào chơi khăm, đành cất tiếng chửi đổng.
Lúc này bao nhiêu con mắt đổ dồn vào hai chiếc ghế thái sư còn trống, chứ chẳng ai thèm nhòm ngó gì đến Tôn Hùng. Nguyên một nhà sư mặc tăng bào màu nguyệt bạch đã ngồi vào một chiếc ghế. Người này được tên võ quan xướng danh là Cáp Xích đại sư ở Mông Cổ. Còn một ghế trống có hai người ngồi chung. Hai người này tướng mạo giống hệt nhau. Cặp lông mày chênh chếch rủ xuống, mắt như gà chọi, hai tròng mắt như tựa vào hai bên sống mũi. Tuổi hai người ước chừng chưa qua bốn mươi, cách phục trang giống y hệt nhau, hiển nhiên là hai anh em sinh đôi. Tướng mạo của hai người này cũng chẳng có chi là khác thường, chỉ có cặp mắt như gà chọi nổi bật lên khiến gương mặt trở nên kỳ quái.
An đề đốc tủm tỉm cười nói:
– Hai vị này là chưởng môn Song Tử môn tên gọi Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu, biệt danh “Nghê thị song hùng”.
Mọi người nghe danh tự hai tên đó đều cười thầm. Họ nhìn lại thân hình cùng dung mạo hai người, giống nhau như hai giọt nước, cũng chẳng hiểu Nghê Bất Đại là anh hay Nghê Bất Tiểu là anh. Giả sử một người là “Nghê Đại”, một người là “Nghê Tiểu” thì lập tức phân biệt được ai lớn ai nhỏ ngay.
Nhưng “Bất Đại” dường như là nhỏ, mà “Bất Tiểu” lại tựa hồ là lớn. Thế cũng chưa hết: tay hai người này đều thủ trong áo, làm như trời rét quá chịu không nổi.
Quần hào chỉ trỏ bàn tán. Có người đánh cuộc với nhau Nghê Bất Đại là lớn, có người bảo Nghê Bất Tiểu là nhỏ, nhưng cũng chẳng người nào phân biệt được ai là Nghề Bất Đại, ai là Nghê Bất Tiểu. Thần sắc hai anh em cứ trơ như gỗ, bốn mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Cả hai đều không phải là người gầy, nhưng ngồi chung một ghế mà chẳng thấy khó chịu chút nào, tựa hồ như đã quen ngồi như vậy từ lúc nhỏ.
Phúc Khang An chăm chú nhìn hai gã này, nhoẻn miệng cười ra chiều hứng thú.
Quần hào còn đang nghị luận thì đột nhiên trước mặt như rực sáng. Một thiếu nữ từ trong đám đông tiến ra. Thiếu nữ mình mặc áo vàng lợt, quần xanh, chừng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi, nước da trắng nõn, ra chiều phong vận.
Viên võ quan báo danh hô lớn:
– Đây là Tang Phi Hồng cô nương, chưởng môn phái Ngũ Hồ ở phủ Phụng Dương.
Bọn võ sư đột nhiên thấy một vị cô nương xinh đẹp xuất hiện thì đều phấn khởi tinh thần.
Quách Ngọc Đường nhìn Hồ Phỉ nói:
– Đệ tử phái Ngũ Hồ đều làm nghề buôn bán để sinh nhai. Chưởng môn truyền đời của phái nhất định phải là nữ nhân. Còn nam đệ tử dù bản lãnh cao thâm đến đâu cũng không được làm chưởng môn. Tang Phi Hồng cô nương đây tuổi còn nhỏ quá, chưa rõ có công phu chân thực gì không?
Tang Phi Hồng đến trước mặt anh em họ Nghê, hai tay chống nạnh cười hỏi:
– Xin hỏi nhị vị Nghê gia, vị nào là lão đại?
Hai người đều lắc đầu không đáp.
Tang Phi Hồng lại cười hỏi:
– Dù là huynh đệ song sinh thì cũng có người ra trước ra sau để phân lão đại cùng lão nhị chứ?
Anh em họ Nghê vẫn lắc đầu quầy quậy như cũ.
Tang Phi Hồng nói:
– Chà, vụ này lạ đây!
Cô trỏ vào người bên trái, hỏi:
– Các hạ có phải là lão đại không?
Gã này vẫn cứ lắc đầu.
Tang Phi Hồng lại quay sang chỉ người ngồi bên phải, hỏi:
– Vậy thì các hạ chắc là lão đại?
Gã này cũng chỉ lắc đầu.
Tang Phi Hồng chau mày, nói:
– Chúng ta đều là người trong vỗ lâm, không được ăn nói dối trá.
Người ngồi bên phải mở miệng nói:
– Ai nói dối gì cô? Ta chẳng phải là ca ca của y, mà y cũng không phải là ca ca của ta.
Tang Phi Hồng hỏi lại:
– Hai vị phải chăng là anh em sinh đôi?
Hai người lại lắc đầu.
Quần hào trong sảnh đường thấy chúng lắc đầu hoài thì đều sửng sốt, hai người tướng mạo giống hệt nhau thì chẳng thể không phải là anh em sinh đôi.
Tang Phi Hồng đằng hắng một tiếng hô:
– Thế mà còn bảo không dối ư? Nếu hai vị chẳng phải huynh đệ song sinh thì cứ đem đầu ta ra mà chặt. Vậy vị nào là Nghê Bất Đại?
Gã ngồi bên trái đáp:
– Tại hạ là Nghê Bất Đại.
Tang Phi Hồng lại hỏi:
– Hay lắm! Vậy các hạ ra trước hay là y ra trước?
Nghề Bất Đại chau mày hỏi lại:
– Cô này rắc rối quá. Cô đã chẳng cầu thân với anh em ta thì hỏi cái đó làm gì?
Tang Phi Hồng đã quen bôn tẩu giang hồ, nên đối với những lời nói khinh bạc cũng không để ý, cô vỗ tay cười đáp:
– Hay lắm! Các vị đã tự thú nhận là anh em rồi đó nhé!
Nghê Bất Đại cãi:
– Chúng ta là anh em thật, nhưng không phải là huynh đệ song sinh.
Tang Phi Hồng giơ ngón tay trỏ chống vào bên má, lắc đầu nói:
– Ta không tin
Nghê Bất Đại đáp:
– Cô không tin thì mặc kệ cô. Ai cần cô tin?
Tang Phi Hồng là người cố chấp, lại hỏi nữa:
– Các vị là huynh đệ song sinh thì có gì là xấu mà lại không chịu thừa nhận?
Nghê Bất Tiểu đáp:
– Cô nhất định đòi biết rõ nguyên nhân bên trong, bọn ta nói cho hay cũng chẳng hề chi. Nhưng anh em ta đã có một quy củ, kẻ nào muốn biết điều bí mật về chỗ xuất thân của chúng ta thì phải để anh em ta đánh mỗi người ba chưởng. Nếu thấy không chịu nổi thì cứ đập đầu lạy ba cái cũng được.
Tang Phi Hồng càng động tính hiếu kỳ, nghĩ thầm:
– Bọn họ muốn đánh mình ba chưởng nhưng chưa chắc gì đánh trúng. Mình cứ nghe cho được điều bí mật này rồi hẵng hay.
Cô liền gật đầu đáp:
– Được rồi! Các vị nói đi!
Anh em họ Nghê đột nhiên đứng phắt dậy, tuyệt không có kẻ trước người sau, mà hành động đồng thời giống như một người.
Tang Phi Hồng nhơn nhơn đắc ý, nói:
– Thế mà còn bảo là không phải huynh đệ song sinh? Cái trò lừa này ai mà tin nổi!
Bỗng thấy hai người thò tay ra khỏi áo, ánh kim quang liền lấp lánh trước mắt. Nguyên mười ngón tay của hai người này đều được bọc bằng bao tay vàng vừa nhọn vừa dài. Nếu chúng dùng để chụp vào người thì đó là khí giới lợi hại khó lòng chống đỡ.
Nghê thị huynh đệ thân hình thấp thoáng, vươn tay ra nhắm Tang Phi Hồng chụp tới. Tang Phi Hồng cả kinh, tung mình nhảy lùi lại, quát hỏi:
– Các vị làm gì vậy?
Nghê Bất Đại đứng ở góc đông nam, Nghê Bất Tiểu đứng ở góc tây bắc. Cả hai người đều vươn tay ra, dùng những ngón tay bọc bao vàng nhọn hoắt dài đến sáu bảy tấc vây Tang Phi Hồng vào giữa.
An đề đốc vội can thiệp:
– Theo quy củ của đại hội, bữa nay chỉ được đơn đả độc đấu, không cho ỷ đông để thủ thắng.
Nghê Bất Tiểu giương cặp mắt gà chọi, nguyên trước ở hai bên sống mũi, đột nhiên phân ra hai bên lườm An đề đốc, lạnh lùng hỏi:
– An đại nhân! Đại nhân có biết anh em tại hạ ở môn phái nào không?
An đề đốc đáp:
– Hai vị ở Song Tử Môn tại Quý Châu.
Nghê Bất Đại hai tròng mắt cũng phân ra hai bên, nói:
– Song Tử môn của tại hạ trước nay chỉ thu đồ đệ nếu không là huynh đệ song sinh thì cũng là tỷ muội song sinh. Khi cùng người động thủ, chẳng bao giờ phải đơn đả độc đấu.
An đề đốc chưa kịp đáp, Tang Phi Hồng đã cướp lời:
– Rõ rồi! Các vị vừa nói không phải huynh đệ song sinh, bây giờ mới chịu thừa nhận.
Nghê Bất Đại không chịu, đáp:
– Chúng ta không phải là huynh đệ song sinh!
Quần hào nghe hai gã nói lằng nhằng mãi, mới biết đôi anh em quý hóa này là hạng si ngốc.
Tang Phi Hồng cười khanh khách, nói:
– Thôi đừng nói quẩn quanh nữa. Bản thân ta cũng không mong đoạt chiếc Ngọc Long bôi đâu!
Cô nói rồi toan lùi lại.
Nghê Bất Tiểu giang hai tay cản lại, nói:
– Cô đã hỏi rõ thân thế chúng ta rồi, thì muốn chịu ba phát chưởng của ta hay phải dập đầu lạy ba lạy?
Tang Phi Hồng chau mày đáp:
– Thủy chung các người vẫn không nói rõ. Lúc thì nhận là huynh đệ rồi lúc thì lại không nhận là huynh đệ song sinh. Xin mời các vị anh hùng trong thiên hạ ở đây thử bình luận lý lẽ này coi.
Nghê Bất Đại nói:
– Được rồi! Người nhất định đòi nghe thì ta nói cho hay.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Chúng ta là huynh đệ cùng một mẹ.
Nghê Bất Đại nói tiếp:
– Mẹ chúng ta sinh ra ba người!
Nghê Bất Tiểu nói tiếp:
– Chúng ta là hai người trong ba cái bào thai sinh ba đó.
Nghê Bất Đại lại nói:
– Vì thế mà chúng ta tuy là huynh đệ, nhưng không phải huynh đệ song sinh.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Đại ca ta vừa lọt lòng mẹ đã chết ngay.
Nghê Bất Đại tiếp:
– Hai chúng ta sinh cùng một lúc, không ai trước ai sau.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Cả đầu, vai và thân hình chúng ta dính liền với nhau.
Nghê Bất Đại nói:
– Một vị danh y đã dùng thần thuật tuyệt xảo tách hai huynh đệ ta ra.
Nghê Bất Tiểu nói:
– Vì thế mà hai người chúng ta chẳng thể phân biệt, ai là ca ca, ai là đệ đệ.
Nghê Bất Đại nói:
– Ta mà là Bất Đại thì y cũng là Bất Tiểu.
Hai gã mỗi người nói một câu liền thành một tràng, liên tục chẳng ngừng. Giọng nói đã tương tự mà cách nói cũng giống nhau. Giả tỷ có người cách một bức vách nghe tiếng, thì quyết không thể tin được là do hai người nói.
Quần hùng trong đại sảnh nghe xong vừa kinh ngạc, lại vừa buồn cười. Ai cũng cho là vụ này cực kỳ lạ lùng, nhưng cũng chẳng phải là hoàn toàn vô lý nên tự dưng ai nấy cũng đều cảm thấy thích thú.
Tang Phi Hồng cười nói:
– Té ra là vậy. Vụ kỳ lạ trong thiên hạ này, tại hạ mới được nghe lần đầu.
Nghê Bất Tiểu hỏi:
– Ngươi có chịu dập đầu lạy không?
Tang Phi Hồng đáp:
– Dập đầu dĩ nhiên là không rồi. Các ngươi muốn đánh thì cứ việc động thủ đi. Ta không hứa lời là không trả đòn đâu đấy.
Nghê thị huynh đệ không cần hô hoán cũng hiểu ý nhau. Đột nhiên ánh vàng lấp loáng, hai chục ngón tay đeo bao vàng nhọn hoắt cùng chụp lẹ tới. Tang Phi Hồng thân pháp rất linh diệu, chuyển động thân hình tránh khỏi hai mươi ngón tay dài khoằm. Nghê thị huynh đệ từ khi lọt lòng mẹ đến nay chưa từng rời nhau phút nào. Võ công của chúng thuần theo thuật phân tiến mà hợp kích. Hai người động thủ mà chẳng khác gì một người có bốn chân, bốn tay và hai mươi ngón tay. Hai người phối hợp với nhau rất đồng bộ, nhịp nhàng. Hễ tay trái của Nghê Bất Đại vươn ra chụp thì tay phải của Nghê Bất Tiểu đã từ một bên đánh tới. Tang Phi Hồng thân pháp cực kỳ linh hoạt, nhưng hơn chục chiêu vẫn chưa phản kích được chiêu nào. Cô thấy tình thế rất đỗi nguy cấp. Cục diện này không thể kéo dài, chỉ sơ tâm một chút là cô bị thương dưới tay Nghê thị huynh đệ ngay.
Quần hùng trong đại sảnh ngồi xem, nhiều người không nhịn được, lên tiếng quát tháo:
– Hai người đánh một là anh hùng hay là cẩu hùng?
– Hai đại nam nhân hợp lực đánh một cô gái nhỏ tuổi thật là quân mặt dày
– Người ta là gái lại tay không, mà hai gã ngón tay đều đeo binh khí nữa chứ.
– Tiểu huynh đệ! Ngươi ra giúp cô một tay, không chừng cô sẽ này cảm tình với ngươi đó. Ha ha!
Đang lúc huyên náo, Nghê Bất Đại và Nghê Bất Tiểu bỗng hô “ủa” một tiếng, rồi sóng vai nhảy qua mé trái. Chúng chăm chăm nhìn Phúc Khang An, mặt lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Quần hào nhìn theo ánh mắt của chúng thì thấy Phúc Khang An ngồi trên ghế đang cười hì hì. Tay hắn dắt hai đứa nhỏ, miệng đang thì thầm nói khẽ với chúng. Hai đứa nhỏ này trắng trẻo và kháu khỉnh, tướng mạo lại giống nhau như đúc. Hiển nhiên là huynh đệ song sinh. Có điều đem chúng so với Nghê thị huynh đệ thì vẻ xinh đẹp của chúng càng nổi bật thêm lên. Mọi người nhìn đều cảm thấy hứng thú.
Hồ Phỉ và Trình Linh Tố đều chấn động tâm thần. Nguyên hai đứa nhỏ này chính là con Mã Xuân Hoa, không hiểu sao chúng lại bị Phúc Khang An đoạt trở về.
Hai người đều tự nhủ:
– Hắn đã đoạt lại hai thằng nhỏ thì hành tung của mình đã bị bại lộ rồi.
Trình Linh Tố đưa mắt ra hiệu cho Hồ Phỉ tìm cơ hội chuồn sớm ra ngoài.
Hồ Phỉ gật đầu, nghĩ bụng:
– Nếu đối phương khám phá ra thì chúng đã ngầm bố trí cả rồi, có bỏ trốn cũng không thoát được, đành cứ tùy cơ ứng biến, rồi sẽ liệu.
Nghê thị huynh đệ cứ nhìn sững hai đứa nhỏ như ngây như dại.
Tang Phi Hồng cười hỏi:
– Hai đứa nhỏ này hay lắm! Các người muốn thu chúng làm đồ đệ chăng?
Câu này nói trúng vào tâm sự của Nghê thị huynh đệ. Nên biết trong võ lâm, môn đồ tầm sư là chuyện đã đành, mà thầy cũng phải đi tìm môn đồ nữa. Gặp được một bậc minh sư bản lĩnh cao thâm không phải là điều dễ dàng, nhưng thu nạp được một môn đồ thông minh đĩnh ngộ để tiếp thu được hết chân truyền sở học của thầy cũng là điều khó khăn không kém.
Võ công của Song Tử môn rất cần hai người đồng thời rèn luyện và sử dụng, thì thu nạp hai đồ đệ có tuổi tác, vóc đáng cùng tính tình tư chất suýt soát nhau để truyền nghệ là điều cần, nhưng nếu có được hai môn đệ sinh đôi là hay nhất. Vì hai anh em sinh đôi không những thần trí và vóc dáng giống nhau mà tâm ý cũng tương thông. Khi lâm địch tự nhiên phát huy được uy lực, ngoài sự tiên liệu của đối phương. Do vậy võ sư của Song Tử môn mà thu nạp được môn đồ đắc ý càng khó hơn phái khác gấp trăm lần.
Nghê thị huynh đệ vừa thấy hai đứa nhỏ song sinh trong tay Phúc Khang An mà tư chất căn cơ của chúng đều vào hàng thượng phẩm, nên trong lòng rạo rực, nói hoan hỷ không bút nào tả xiết.
Phúc Khang An cười hì hì, khẽ nói:
– Các con nhìn hai vị sư phụ kia cũng là huynh đệ song sinh đó. Tướng mạo hai vị giống hệt nhau, phải không nào? Các con thử đoán xem vị nào là ca ca?
Nguyên Phúc Khang An đoạt được hai con về, trong lòng cao hứng vô cùng. Hắn thấy Nghê thị huynh đệ hình thù quái dị, liền sai người đem hai đứa nhỏ ra xem chơi.
Hai đứa nhỏ chăm chăm nhìn Nghê thị huynh đệ. Chúng là huynh đệ song sinh nên có những cảm giác mà người ngoài không hiểu được, do đó có thể phân biệt dễ dàng ai là anh ai là em. Nhưng Nghê thị huynh đệ cùng sinh một lúc, thân thế liển nhau sau mới tách ra nên hai đứa nhỏ cũng không sao phân biệt được.
Quần hùng hết nhìn Nghê thị huynh đệ lại ngó hai đứa nhỏ, không ngớt cười khi rồi thì thầm bàn tán.
Đột nhiên Nghê thị huynh đệ đồng quát lên một tiếng, rồi chia ra bên tả hữu chạy tới trước mặt Phúc Khang An. Phúc Khang An giật mình kinh hãi, chưa kịp nghĩ tới chuyện né tránh thì hai vệ sĩ đứng bên đã xông ra nghinh địch. Ngờ đâu thân pháp Nghê thị huynh đệ cực kỳ quái dị. Đang nhảy tới nửa chừng thì Nghê Bất Đại đang ở bên trái đột nhiên chuyển qua bên phải, Nghê Bất Tiểu ở bên phải lại chuyển qua bên trái, chỉ trong chớp mắt đã bỏ hai tên vệ sĩ lại phía sau. Hai gã tập kích Phúc Khang An chỉ là hư chiêu. Một người vung chân trái, một người vung chân phải, hai chân đều đá tới đánh “binh” mội tiếng, trúng vào cái ghế ngồi của Phúc Khang An.
Phúc Khang An té nhào xuống. Bọn vệ sĩ kinh hãi la rầm lên. người thì chạy ra cản đối phương, người thì đứng bảo vệ trước mắt Phúc Khang An, kẻ thì lo đỡ Phúc Khang An dậy. Nghê thị huynh đệ mỗi người cắp một đứa nhỏ dưới nách, xoay mình nhảy ra ngoài.
Quần hùng trong đại sảnh lập tức rối loạn cả lên, chỉ nghe những tiếng binh binh và tiếng la oai oái. Bốn tên vệ sĩ chặn đường bị Nghê thị huynh đệ đá ngã nhào.
Nghê thị huynh đệ cắp hai đứa nhỏ toan chạy ra khỏi sảnh đường, bỗng bóng người thấp thoáng, hai người vọt lẹ tới, vung tay đánh vào hậu tâm Nghê thị huynh đệ. Hai người này xuất chiêu khác nhau. Hải Lan Bật chụp sau gáy Nghê Bất Tiểu vừa mau vừa chuẩn đích. Thang Bái lại phóng chưởng đánh vào hông Nghê Bất Đại. Hai chiêu cương nhu khác nhau, nhưng đều là những chiêu số cực kỳ lợi hại, khiến địch nhân chẳng thể không tự cứu.
Nghê thị huynh đệ nghe tiếng gió sau lưng rít lên, vội vàng xoay chưởng đón đỡ. Hai tiếng “bốp bốp” vang lên. Nghê Bất Đại thân hình lảo đảo. Nghê Bất Tiểu chân tay loạng choạng, miệng phun ra một búng máu tươi.
Cả hai đồng thời buông hai đứa nhỏ xuống. Vương Kiếm Anh và Chu Thiết Tiêu không dám chần chừ một khắc, cùng song song nhảy lại bế hai đứa nhỏ.
Phúc Khang An vừa mới hoàn hồn đã quát lớn:
– Bọn cuồng đồ lớn mật, bắt lại cho ta!
Hải Lan Bật và Thang Bái bước tới hai bước. Một người dùng “Cầm nã thủ”, một người dùng “Tỏa cốt pháp” vung ra bắt hai anh em Nghê thị. Hai gã vừa tiếp một chưởng đã bị thương, nên lúc này không còn cách gì kháng cự được nữa.
Hải, Thang bắt xong hai địch thủ, vừa toan xoay người để đem vào trong sảnh đường, bỗng trên mái nhà có bóng người thấp thoáng rồi có hai người nhẹ nhàng phi thân xuống. Đèn đuốc trong đại sảnh sáng rực như ban ngày, quần hào vừa nhìn thấy hai người này ai nấy đều sởn gáy, giống như đêm khuya đang đi giữa vùng núi vắng bỗng gặp ma quỷ.
Hai người mới đến thân hình cao lêu khêu, cặp lông mi nhìn chếch xuống, đôi gò má vừa ốm vừa dài, giống như loại quỷ vô thường chuyến đi bắt hồn người theo truyền thuyết dân gian. Càng kỳ lạ hơn nữa là tướng mạo hai người này giống hệt nhau như là huynh đệ song sinh. Hai người thân pháp nhanh như điện, vung chưởng tấn công Hải Lan Bật và Thang Bái ngay. Hải, Thang hai người vội vung chưởng nghinh địch. Bốn chưởng vừa chạm nhau bỗng nghe xương cốt toàn thân Hải Lan Bật kêu rắc rắc, còn Thang Bái thì thân hình dao động liền mấy cái.
***
Quần hào còn đang kinh ngạc thì Túy Bát Tiên chưởng môn là Văn Túy Ông từ nãy tới giờ vẫn ngồi trên ghế thái sư, nhảy vọt ra la thất thanh:
– Hắc Vô Thường! Bạch Vô Thường!
Hai người cao gầy vừa vung tay tiếp chưởng cùng hai lão Hải, Thang, vừa đưa mắt sáng như điện nhìn vào mặt Văn Túy Ông. Người đứng bên phải lạnh lùng hỏi:
– Ngươi làm ác đã nhiều, bữa nay còn nghĩ đến chuyện trốn thoát ư?
Đột nhiên hai người kia nhả chưởng lực ra, hai lão Hải, Thang lùi lại một bước. Khi hai lão vung chưởng phản kích thì hai người kia đã cướp được Nghê thị huynh đệ rồi.
Người cao gầy bên phải nói:
– Hai gã này đối với hai anh em ta vốn vô thân vô cố, song cũng là huynh đệ song sinh nên phải cứu mạng cho chúng!
Người đứng bên trái chắp tay xoay một vòng, dõng dạc nói:
– Anh em Thường Hách Chí và Thường Bá Chí ở Hồng Hoa hội xin chào các vị anh hùng thiên hạ!
Hai lão Thang, Hải vừa đối chưởng xong đều thấy khí huyết nhộn nhạo, trong lòng đã ngấm ngầm kinh dị, vội vàng điều tức. Đúng vào lúc hai lão toan tiến lên tái đấu thì nghe đối phương xưng danh là “Thường Hách Chí” và “Thường Bá Chí”, cả hai không tự chủ được, cùng “ủa” một tiếng rồi dừng bước lại.
Thường thị huynh đệ gật đầu chào rồi cắp Nghê thị huynh đệ nhảy lên mái nhà, bỗng nghe những tiếng “bốp”, “hự”, cùng những tiếng rú “ối, ái” vang lên mỗi lúc một xa, rồi không thấy gì nữa. Đó là những vệ sĩ canh gác trên nóc nhà bị Thường thị huynh đệ đánh dạt ra hoặc hất ngã xuống.
Hải Lan Bật và Thang Bái cảm thấy bàn tay tê chồn, giơ lên nhìn lại không nhịn được khẽ “ối” lên một tiếng ra chiều kinh hãi. Nguyên hai lão thấy bàn tay mình biến thành tím đen, sực nghĩ tới “Hắc Sa chưởng” khét tiếng thiên hạ của Tây Xuyên Song Hiệp Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường. Hai lão nghe tiếng tuyệt kỹ này đã lâu, mãi đến bữa nay mới được lĩnh giáo, quả nhiên không phải tầm thường.
Phúc Khang An mở cuộc đại hội chưởng môn này, dụng ý đầu tiên là để đối phó lại quần hùng ở Hồng Hoa hội. Không ngờ dưới bao nhiêu con mắt thao láo, Thường thị huynh đệ chợt đến chợt đi như vào chỗ không người. Trong lòng hắn cực kỳ phẫn nộ, nét mặt sa sầm, chẳng nói nửa lời.
Phúc Khang An lại liếc nhìn mấy ghế thái sư thấy Đại Trí Thiền Sư chùa Thiếu Lâm cặp lông mày rủ thấp, sắc mặt vẫn điềm nhiên. Vô Thanh Tử phái Võ Đương lộ vẻ hoang mang, tựa hồ sợ sệt. Văn Túy Ông đứng sững không nhúc nhích, hai mắt trợn lên nhìn ra phía trước. Thường thị huynh đệ đi đã xa rồi mà dường như lão vẫn chưa hết kinh hãi.
Hồ Phỉ đã nhìn rõ màn kịch này, lại nghe ba chữ “Hồng Hoa hội” trống ngực chàng đập thình thình. Chàng thấy Thường thị huynh đệ nói đến là đến, muốn đi là đi, coi anh hùng thiên hạ trong đại sảnh không vào đâu, tâm thần chàng như say sưa ngây ngất, miệng lẩm bẩm:
– Có thế mới là bậc anh hùng hào kiệt.
Tang Phi Hồng vẫn đứng một bên coi náo nhiệt. Cô thấy Văn Túy Ông nói mấy câu khiến toàn thể hội trường sửng sốt, cô còn nhỏ tuổi lại hiểu sự, liền vươn tay khẽ đẩy vai lão một cái, cười nói:
– Ngồi xuống đi! Đôi Vô Thường Quỷ đi rồi!
Ngờ đầu có vừa đẩy một cái, Văn Túy Ông đã ngã quay ra không dậy được nữa. Tang Phi Hồng cả kinh. Cô giật mình kinh hãi, cúi đầu xuống thấy mặt lão xanh xám, thì ra lão sợ quá nên vỡ mật chết từ lâu rồi.
Cô liền la hoảng:
– Chết rồi! Chết rồi! Lão sợ chết khiếp rồi!
Quần hùng trong đại sảnh nhốn nháo một hồi. Lúc trước Văn Túy Ông ngồi trên ghế thái sư rót ruợu uống khề khà, chẳng coi ai vào đâu, tựa hồ mình là kẻ đệ nhất thiên hạ, chẳng ngờ Thường thị huynh đệ vừa tới, chỉ nói có một câu mà lão đã sợ chết khiếp rồi.
Quách Ngọc Đường thở dài, nói:
– Chết cũng chưa hết tội! Chết cũng chưa hết tội!
Hồ Phỉ hỏi:
– Quách tiền bối, Văn Túy Ông bình sinh phẩm hạnh không tốt ư?
Quách Ngọc Đường lắc đầu đáp:
– Há phải chỉ phẩm hạnh không tốt mà thôi đâu, lão còn gian dâm, cướp bóc, chẳng từ điều gì. Đáng lẽ lão phu không muốn nói xấu người chết, nhưng sự thực đã bày ra đó nên lão phu tiên liệu lão chẳng được chết yên lành. Có điều vì lão sợ hai anh em “Hắc Bạch Vô Thường” đến nỗi vỡ cả mật mà chết là một điều không ai nghĩ tới!
Một người khác xen vào:
– Chắc là Thường thị huynh đệ kiếm hắn đã lâu rồi, bữa nay oan gia lại chạm trán trên quãng đường hẹp.
Quách Ngọc Đường đáp:
– Chắc trước kia lão Văn đã bị Thường thị huynh đệ tóm được, không chừng lão còn phát điều trọng thệ gì đó.
Người kia lắc đầu nói:
– Tự mình làm nên tội nghiệt thì không thể sống được
Quách Ngọc Đường đáp:
– Cái đó gọi là: “Thị phi chỉ vị đa khai khẩu, phiền não giai nhân cưỡng xuất đầu”. Nếu lão tự biết mình một chút, không ham Ngọc Long ngự bôi, cứ ẩn trong đám đông thì Tây Xuyên song hiệp cũng không tìm thấy được.
Mấy người đang nói chuyện, bỗng một lão già từ trong đám đông chạy ra, sau lưng cài tẩu thuốc đen nhánh. Lão đến bên thi thể Văn Túy Ông, vừa khóc vừa nói:
– Văn nhị đệ! Không ngờ bữa nay nhị đệ lại chết về tay phường chuột nhắt.
Hồ Phỉ nghe lão thóa mạ “Tây Xuyên Song Hiệp” là lũ chuột nhắt thì trong lòng tức giận, khẽ hỏi:
– Quách tiền bối! Lão này là ai vậy?
Quách Ngọc Đường đáp:
– Lão là Thượng Quan Thiết Sinh, chưởng môn Huyền Chỉ môn ở phủ Khai Phong. Lão tự phong cho mình ngoại hiệu là “Yên Hà tản nhân” gì đó. Lão cùng Văn Túy Ông cùng một giuộc, hợp xưng là “Yên tửu nhị tiên”.
Hồ Phỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh mặc áo bóng loáng đầy vết khói bám, mà cây dọc tẩu cài sau lưng cũng có vẻ đặc biệt. Cái bầu để nhồi thuốc lớn bằng nắm tay, chắc là lão nghiện nặng. Chàng hừ một tiếng rồi nói:
– Loại quỷ nghiện thuốc cũng tự xưng là “tiên” được ư?
Thượng Quan Thiết Sinh ôm thi thể Văn Túy Ông khóc mấy tiếng rồi đứng đấy, quắc mắt nhìn Tang Phi Hồng hỏi:
– Ngươi làm gì mà đẩy chết Văn nhị đệ của ta?
Tang Phi Hồng ngạc nhiên đáp:
– Rõ ràng lão sợ quá mà chết, sao lại bảo do ta đẩy?
Thượng Quan Thiết Sinh nói:
– Hà hà! Một người đang mạnh khỏe sao lại sợ quá mà chết được? Nhất định ngươi đã ngấm ngầm hạ độc thủ sát hại Văn nhị đệ của ta.
Nguyên lão thấy Văn Túy Ông sợ quá chết, nếu vụ này đồn đại ra ngoài giang hồ thì mất hết thanh danh, từ nay phái Túy Bát Tiên không sao ngóc đầu lên được nữa, nên lão gán bừa cho Tang Phi Hồng đã ngấm ngầm hạ độc thủ. Nên biết những nhân vật võ lâm bị người sát hại là chuyện thường, không tổn hại gì đến thanh danh.
Tang Phi Hồng còn nhỏ tuổi, không hiểu dụng ý của Thượng Quan Thiết Sinh giá họa cho mình. Cô tức giận phân bua:
– Giữa ta với lão vốn không quen biết, thì việc gì ta lại sát hại lão? Ở đây có cả hàng trăm hàng ngàn con mắt đều thấy rõ vì lão sợ quá mà chết.
Cáp Xích đại sư người Mông Cổ từ nãy tới giờ cứ ngồi ngẩn người trên ghế thái sư bây giờ bỗng xen vào:
– Vị cô nương này không hạ độc thủ. Chính mắt lão phu cũng thấy rõ là hai tên ác quỷ vừa tới đã làm cho Văn lão gia sợ quá mà chết. Lão phụ cũng nghe tiếng Văn lão gia hô “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”.
Giọng nói của Cáp Xích đại sư rất lớn, khi nói đến sáu chữ “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường” lão cố bắt chước cho giống giọng của Văn Túy Ông khiến âm thanh càng thêm cổ quái. Quần hùng trong đại sảnh cười rộ cả lên:
Cáp Xích đại sư không hiểu mọi người cười vì lẽ gì, liền lớn tiếng hỏi:
– Chẳng lẽ lão phu nói sai ư? Hai con quỷ vô thường đó mặt mũi hung ác xấu xa, hình thù quái dị làm cho người ta sợ chết là thường. Các hạ không nên trách cô đây.
Tang Phi Hồng hỏi theo:
– Được chưa? Đại sư đây cũng công nhận là y sợ quá mà chết, chứ có liên quan gì đến ta?
Thượng Quan Thiết Sinh rút cây dọc tẩu bên hông ra, nhét đầy sợi thuốc vào, quẹt lửa lên hút hai hơi rồi đột nhiên nhả khói trắng vào mặt Tang Phi Hồng, quát hỏi:
– Con tiện tỳ kia! Rõ ràng ngươi là hung thủ giết người, sao còn chối cãi?
Tang Phi Hồng thấy khói trắng phun tới, vội né tránh nhưng không kịp, mũi hít phải liền thấy đầu óc hơi choáng váng, lại nghe lão mở miệng mắng người, thì không nhẫn nại được liền mắng lại:
– Lão quỷ hồ đồ kia! Chẳng lẽ ta sợ ngươi ư? Ngươi bảo ta giết hắn, thì ta giết cả ngươi nữa đã sao?
Tay trái cô đánh dứ ra một chưởng, chân phải đá vào hông của lão.
Cáp Xích đại sư lớn tiếng la:
– Lão kia! Đừng đổ oan cho người ngay. Chính mắt ta trông thấy Văn lão gia rõ ràng bị hai tên ác quỷ đó làm cho sợ quá mà chết!
Hồ Phỉ thấy nhà sư tuy ngớ ngẩn nhưng tính tình ngay thẳng, có điều lão mở miệng là nói đến “ác quỷ” nghe không thuận tai chút nào. Chàng tức mình muốn tìm cách khiến lão nếm mùi đau khổ một chút.
Bỗng thấy một thư sinh trẻ tuổi từ mé tây tòa sảnh đi thẳng về hướng Cáp Xích đại sư. Thư sinh này ước chừng hai mươi lăm, hai mười sáu tuổi, thân hình bé nhỏ gầy gò, cách ăn mặc tuấn nhã, tay mặt phe phẩy cây quạt. Gã đến trước mặt Cáp Xích nói:
– Đại hòa thượng Hòa thượng nói một câu sai trật cần phải sửa lại.
Cáp Xích trợn mắt lên hỏi:
– Câu nào sai trật?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó không phải là “ác quỷ” mà là “Tây Xuyên song hiệp” Thường thị huynh đệ tiếng tăm lừng lẫy. Tướng mạo hai vị tuy có khác thường, nhưng võ công cao cường, chuyên hành hiệp trượng nghĩa nên trên khắp giang hồ ai ai cũng khâm phục.
Gã nói mấy câu này rất vừa lòng Hồ Phỉ. Chàng nghĩ thầm:
– Chàng thư sinh kia biết nói mấy câu này thì nhân phẩm không phải tầm thường. Ta phải giao kết với y mới được.
Cáp Xích hỏi:
– Văn lão gia đã chẳng gọi chúng là “Hắc Võ Thường, Bạch Vô Thường” đó sao? “Hắc Vô Thường” và “Bạch Vô Thường” mà không phải là ác quỷ ư?
Thư sinh đáp:
– Hai vị đó họ Thường. Còn tên một vị có chữ “Hách”, một vị có chữ “Bá”. Vì thế mà các bậc bằng hữu tiền bối gọi đùa là “Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường”. Cái ngoại hiệu đó nếu chẳng phải là bậc tiền bối nổi danh thì không thể tùy tiện mà xưng hô được.
Một người trợn mắt la lối, một người dùng lời văn nhã giải thích. Bên kia Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đã động thủ với nhau.
Đừng xem Tang Phi Hồng vừa rồi bị Nghê thị huynh đệ bức bách mà cho rằng cô chỉ có đón đỡ né tránh chứ không phản kích được. Thực ra võ công hai người hợp kích của Song Tử môn rất quái dị. Bây giờ cô trao đổi chiêu số với Thượng Quan Thiết Sinh chẳng hề rơi vào thế hạ phong chút nào. Thượng Quan Thiết Sinh coi bề ngoài tựa hồ tay không, nhưng thực ra trong tay lão cầm cây dọc tẩu bằng thép đúc, trở thành vũ khí dùng để điểm huyệt. Huyền chỉ môn sở trường về đánh vào ba mươi sáu đại huyệt, nhưng thân pháp của Tang Phi Hồng linh hoạt, thủy chung Thượng Quan Thiết Sinh vẫn không điểm trúng được. Mấy lần lão để lộ sơ hở bị cô vung chân đá trúng.
Lại nghe lão rít một hơi thuốc sòng sọc, rối nhả khói mịt mù, ống dọc tẩu bị lão rít một hơi dài, dần dần biến thành màu đỏ. Té ra trong ống có giấu than tinh chất, khi lão hít hơi vào rồi phun ra khiến ống dọc tẩu từ từ nóng đỏ lên. Sau một lúc như vậy, cái dọc tẩu bình thường biến thành một thứ khí giới cực kỳ lợi hại. Lão mới đánh tới bên người cô, Tang Phi Hồng đã cảm thấy tay và mặt mày nóng ran, gấu quần cô bị cháy xém rồi. Trong lúc cô đang hoang mang, thủ cước rối loạn thì đột nhiên bị Thượng Quan Thiết Sinh phun một làn khói trắng vào mặt. Tang Phi Hồng cảm thấy đầu óc choáng váng, người cô lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Nguyên trong thuốc của Thượng Quan Thiết Sinh có hòa một loại thuốc mê cực mạnh. Một là lão hút quen rồi, hai là trong mũi đã có thuốc giải, nên không sao.
Gã thư sinh đối thoại với Cáp Xích hòa thượng chẳng lý gì đến chuyện đánh nhau bên cạnh, nhưng đột nhiên gã ngửi thấy mùi khác lạ, biết là một thứ mê hương của phe hắc đạo, bất giác nổi cơn thịnh nộ. Gã liếc mắt nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh dùng cây dọc tẩu đỏ hồng để điểm huyệt vào gối Tang Phi Hồng. Xèo một tiếng! Khói đen bốc lên mùi khét lẹt. Quần của cô đã bị cháy thủng một lỗ. Tang Phi Hồng bị thương rú lên một tiếng. Thượng Quan Thiết Sinh lại toan đánh xuống hông cô một đòn nữa.
Thư sinh giận dữ quát lớn:
– Dừng tay!
Thượng Quan Thiết Sinh sửng sốt. Thư sinh vừa cong lưng một cái đã lột được đôi giày của Cáp Xích hòa thương, rồi xoay lại kẹp lấy cây dọc tẩu đỏ hồng của Thượng Quan Thiết Sinh. Thân thủ của thư sinh nhanh như điện chớp.
Cáp Xích hòa thượng hoảng kinh, la lên:
– Ngươi… ngươi tụt giày ta làm chi?
Lão la chưa dứt tiếng thì thư sinh đã dùng đế giày kẹp được cái dọc tẩu bằng sắt đỏ hồng. Gã xoay mình lại phía sau Thượng Quan Thiết Sinh. Tiếp theo mấy tiếng xèo xèo, tay áo Thượng Quan Thiết Sinh đã bị cháy. Tay mặt hắn đau quá phải buông ra.
Thư sinh vất cả đôi giày và dọc tẩu ra ngoài, vọt tới chỗ Tang Phi Hồng, thấy cô hai mắt nhắm nghiền, hôn mê bất tỉnh.
Hai tiếng chát chát vang lên, đôi giày của Cáp Xích rớt xuống bàn tiệc. Nước canh bắn tung tóe. Dọc tẩu bay về phía Quách Ngọc Đường, kình lực vẫn còn rất mãnh liệt. Quách Ngọc Đường rú lên một tiếng:
– Úi chao!
Lão muốn tránh nhưng dọc tẩu bay tới rất nhanh, lại quá đỗi đột ngột nên nhất thời không sao né kíp, đành trợn mắt nhìn ống tẩu đỏ hồng bay đập vào trước mặt. Hồ Phỉ đưa đôi đũa lên, vận kình lực ra đầu đũa kẹp lấy. Những diễn biến cao thâm khôn lường khiến quân hào trong đại sảnh đều ngơ ngác một lúc rồi hoan hô vang dậy.
Vị thư sinh nhìn Hồ Phỉ gặt đầu mỉm cười để tạ ơn chàng đã giúp mình tránh khỏi việc vô ý đả thương người. Gã quay lại chau mày nhìn Tang Phi Hồng không biết giải cứu bằng cách nào liền quay sang Thượng Quan Thiết Sinh quát:
– Nơi đây quần hào tỷ thí võ nghệ mà lão lại dùng thuốc mê là cớ làm sao? Mau lấy thuốc giải ra đây!
Thượng Quan Thiết Sinh vừa bị thư sinh đoạt dọc tẩu, biết gã xuất thủ cực kỳ thần tốc, trong tay lão lại không có bình khí nên không dám ương bướng, chỉ cất giọng ầm trầm hỏi:
– Ai dùng thuốc mê? Con nha đầu này định lực kém quá, xoay chuyển mấy vòng rồi ngất xỉu còn trách ai được?
Mọi người bàng quan không rõ chân tướng, nên chẳng biết ai phải ai trái. Bỗng thấy một phụ nhân đứng tuổi lưng còng từ mé tây tiến ra, tay cầm một chung rượu, mụ hớp một hớp rồi phun vào mặt Tang Phi Hồng.
Thư sinh hỏi:
– Ủa! Cái này… cái này là thuốc giải ư?
Phu nhân kia không đáp, lại phun thêm một búng rượu nữa, mụ phun đến lần thứ ba thì Tang Phi Hồng dần dần hồi tỉnh. Trong lúc nhất thời cô chưa hiểu đầu đuôi ra sao.
Thượng Quan Thiết Sinh hỏi:
– Ha ha! Con nha đầu chẳng đã tỉnh lại rồi ư? Sao ngươi dám nói càn là ta dùng thuốc mê? Ở trong phủ Phúc đại soái nghiêm trang thế này, nói năng phải cẩn thận.
Thư sinh xoay tay lại tát hắn một cái rồi quát:
– Trước hết hãy đánh tên gian đồ này một phát đã.
Thượng Quan Thiết Sinh cúi đầu thấp xuống, phát chưởng đánh không trúng.
Thư sinh ra tay rất xảo diệu, mà Yên Hà tản nhân né tránh cũng rất linh động.
Tang Phi Hồng vừa tỉnh, đưa tay lên dụi mắt, ngay lập tức nhảy xổ tới vung tay trái đánh vào ngực Thượng Quan Thiết Sinh, miệng quát mắng:
– Ngươi đã phun khói độc vào mặt ta!
Thượng Quan Thiết Sinh nghiêng mình tránh khỏi, trợn mắt nhìn phụ nhân trung niên, hắn vừa kinh hãi vừa tức giận, tự hỏi:
– Sao mụ này giải được thuốc mê độc môn của ta? Giữa ta với mụ vốn không thù oán, sao mụ lại rỗi hơi can thiệp vào việc của người khác vậy?
Tang Phi Hồng nhìn thư sinh, gật đầu nói:
– Đã tạ tướng công đã ra tay tương trợ.
Thư sinh trỏ vào phụ nhân, nói:
– Chính nữ hiệp đây đã cứu tỉnh cô đó.
Phụ nhân lạnh lùng nói:
– Không phải ta cứu cô đâu.
Mụ xoay tay đón lấy đôi đũa trong tay Hồ Phỉ, kẹp ống dọc tẩu bằng thép trao vào tay Thượng Quan Thiết Sinh, cất tiếng khàn khàn, nói:
– Lần này thì nhớ giữ cho chắc.
Gã thư sinh, Tang Phi Hồng, Thượng Quan Thiết Sinh đếu hồ đồ chẳng hiểu phụ nhân đứng về phe nào. Mụ đã cứu tỉnh Tang Phi Hồng, lại giao trả dọc tẩu lại cho Thượng Quan Thiết Sinh. Chẳng lẽ mụ là hảo nhân ba phải chỉ biết làm việc tốt mà không phân biệt phải trái?
Mọi người thấy mụ mái tóc hoa râm, da mặt vàng ủng, thể chất suy nhược, không có gì ra vẻ là người biết võ công. Sau một lúc, mụ xoay mình về lại chỗ ngồi. Phụ nhân này chính là Trình Linh Tố đã cải trang. Nên biết nếu không phải là cao đồ của Độc Thủ Dược Vương thì chỉ trong khoảnh khắc quyết chẳng thể giải được thuốc mê độc môn của Thượng Quan Thiết Sinh.
Cáp Xích lại luôn miệng la lối:
– Trả lại giày ta! Trả lại giày ta!
Nhưng mọi người trong lòng đều có những ý nghĩ riêng, chẳng ai lý gì đến lão. Cáp Xích tức quá đưa tay ra nắm lấy sau lưng thư sinh, quát hỏi:
– Có trả giày ta không thì bảo?
Thư sinh xoay mình né tránh, cười đáp:
– Đại hòa thượng! Giày của đại hòa thượng cháy mất rồi!
Cáp Xích chân không, rất đỗi ngượng ngùng, chạy lại bàn tiệc để tìm thì thấy đôi giày đã ướt đẫm, cả trong lẫn ngoài đều dính đầy dầu mỡ. Nhưng không đi giày cũng không xong, nên lão miễn cưỡng xỏ giày vào chân rồi quay lại tìm gã thư sinh để trút giận. Không ngờ chẳng thấy bóng gã đâu nữa, chỉ thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng đang tỷ đấu.
Lão chạy quanh mấy vòng không tìm thấy thư sinh đâu đành quay về ngồi lại trên cỗ ghế thái sư, miệng lẩm nhẩm thóa mạ:
– Con bà nó! Bữa nay thật là xui quá. Đã gặp một cặp quỷ vô thường lại chạm trán một tên quỷ tú tài.
Lão chửi bới một hồi không ngớt miệng. Lão nhìn thấy Thượng Quan Thiết Sinh và Tang Phi Hồng càng đánh càng hăng, khó phân thắng bại trong chốc lát, thì muốn im tiếng, nhưng cảm thấy đôi giày dưới chân dầu mỡ rất khó chịu nên không nhịn được, lại ngoác miệng ra chửi tiếp.
Đột nhiên lão nghe mọi người nổi lên cười ha hả, liền trừng mắt nhìn, không hiểu họ cười gì. Lão lại thấy mục quang mọi người ngó vào mình chằm chặp liền sờ mặt mũi rồi cúi xuống y phục thì thấy ngoài đôi giày dơ dáy, không còn chỗ nào khác lạ. Lão tức giận quát hỏi:
– Cười cái gì? Có gì mà cười?
Mọi người lại càng cười lớn hơn.
Cáp Xích bụng bảo dạ:
– Giỏi lắm! Lũ con rùa! Các ngươi cười thì mặc thây các ngươi, lão gia không thèm lý đến nữa.
Lão ngồi ngay ngắn trên ghế, nghĩ bụng mình chẳng có gì đáng để cười thì mọi người có cười một lúc rồi tự nhiên sẽ hết cười. Nào ngờ tiếng cười trong đại sảnh mỗi lúc càng vang dội. Cả Tang Phi Hồng đang chiến đấu kịch liệt, thỉnh thoảng cũng quay đầu lại toét miệng ra cười.
Cáp Xích trợn mắt há miệng, lòng dạ rối bời chẳng hiểu mọi người cười cái gì. Lão nhìn ngang nhìn ngửa, tình trạng trông rất hoạt kê.
Cuối cùng Tang Phi Hồng không nhịn được, cười ồ lên và gọi:
– Đại hòa thượng! Sau lưng lão có cái gì vậy?
Cáp Xích nhảy ra khỏi ghế, rồi quay lại nhìn thì thấy thư sinh đang ngồi chễm chệ ngay sau lưng, vung chân múa tay, biểu diễn kịch câm để chọc mọi người cười.
Nguyên gã ngồi trên lưng ghế của Cáp Xích lẳng lặng làm đủ mọi trò hề.
Cáp Xích nổi giận đùng dùng, la lớn:
– Con quỷ tú tài kia! Ngươi sao lại phá ta?
Gã thư sinh so vai, đưa tay làm hiệu, ý nói:
– Tại hạ có làm gì đại sư đâu?
Cáp Xích lại quát hỏi:
– Ngươi ngồi chỗ này để làm gì?
Gã thư sinh ngón tay chỉ vào tám chiếc phế Ngọc Long bôi trên kỷ trà, ý nói:
– Tại hạ muốn đoạt một chiếc Ngọc Long bôi.
Cáp Xích lại hỏi:
– Ngươi định tranh đoạt ngự bôi ư?
Thư sinh gật đầu.
Cáp Xích hỏi:
– Đây còn ghế bỏ trống sao ngươi không ngồi?
Thư sinh trỏ quần hào trong sảnh đường, tay trái huơ lên liên tục, tay mặt nắm thành quyền đấm dứ vào đầu mình rồi so vai rụt cổ, ra chiều khiếp sợ.
Quần hào lại ầm lên cười.
Cáp Xích hỏi:
– Ngươi sợ người ta đánh không dám ngồi, sao lại ngồi trên lưng ghế của ta?
Thư sinh vung chân đá hờ một phát, lại phóng song chưởng đánh dứ một đòn rồi tụt xuống ngồi vào ghế, ý tứ của gã hiển nhiên là muốn nói:
– Tại hạ sẽ đá văng lão đi, để chiếm lấy cái ghế của lão.
Gã vừa tụt người ngồi xuống ghế, cả sảnh đường lập tức cười ồ cả lên. Phúc Khang An, An đề đốc thấy tỷ võ trường biến thành một nơi diễn trò, mất hết ý nghĩa ban đầu thì trong lòng đều rất khó chịu, nhưng lại thấy gã thư sinh điêu ngoa cổ quái, mà Cáp Xích lại ngây ngô thật thà, hai người tựa hồ như đang diễn một vở kịch hài rất ăn khớp nhau, cũng không nhịn được phải mỉm cười.
Lúc này hai đứa nhỏ song sinh đã được Vương kiếm Anh và Vương Kiếm Kiệt đưa vào hậu viện, nếu không thì chúng cũng phải vỗ tay cười ha hả.
Trình Linh Tố nhìn Hồ Phỉ khẽ nói:
– Gã kia khinh công cực kỳ xảo diệu.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Thân pháp gã đặc biệt linh hoạt tạo thành một phái riêng, suốt đời đại ca chưa từng thấy ai được như thế!
Trình Linh Tố nói:
– Dường như gã cố ý đến đây quấy phá!
Hồ Phỉ thong thả gật đầu rồi không nói nữa.
Lúc này những người có kiến thức trong đại hội đã nhận ra gã thư sinh muốn chọc phá Cáp Xích, mà thực ra là để phá rối cuộc đại hội chưởng môn của Phúc Khang An, biến cuộc đại hội anh hùng đầy vẻ trang nghiêm thành nơi diễn trò hề.
Bỗng thấy thư sinh lấy ra một cây quạt, trỏ vào Cáp Xích nói:
– Cáp Xích hòa thượng! Hòa thượng không được vô lễ với ta! Trong cái quạt này có ẩn giấu tổ tông của hòa thượng đó!
Cáp Xích nghiêng đầu dòm ngó cây quạt, chẳng thấy có gì khác lạ, liền lắc đầu đáp:
– Không thể tin lời ngươi được!
Thư sinh đột nhiên mở quạt giơ lên cho lão thấy, vẻ mặt nghiêm nghị hỏi:
– Ngươi không tin ư? Vậy ngươi thử nhìn xem!
Mọi người trông cây quạt đều lăn ra mà cười. Nguyên trên mặt cây quạt giấy vẽ một con rùa cực lớn. Con rùa này nằm ngửa bụng hướng lên trời, đang thò cổ ra cố gắng lật mình lại mà lật không được, hình dáng trông rất hoạt kê.
Hồ Phỉ không nhịn được, vừa cười vừa nhìn Trình Linh Tố. Hai người xác định chắc chắn thư sinh đã chuẩn bị để đến đây quấy phá, bất giác ngấm ngầm sinh lòng bội phục.
Nên biết ở giữa chốn long đầm hổ huyệt, lại trước mặt anh hùng thiên hạ mà dám quậy phá như vậy, tất phải là một nhân vật đởm lược hơn người.
Cáp Xích nổi giận, gầm lên như sấm:
– Ngươi thóa mạ ta là con rùa ư? Tên tú tài thối tha này không muốn sống nữa rồi!
Thư sinh thản nhiên hỏi lại:
– Làm con rùa có chi là không hay? Rùa và hạc sống rất thọ, ta muốn nói lão sống lâu trăm tuổi đó mà.
Cáp Xích nói:
– Nói bậy! Con rùa là tiếng để thóa mạ người ta. Vợ đi ngủ trộm với trai tức là làm con rùa.
Thư sinh nói:
– Thất kính! Thất kính! Té ra đại hòa thương đã có vợ! Không hiểu hòa thượng đã lấy vợ mấy lần rồi?
Thang Bái thấy nét mặt Phúc Khang An mỗi lúc một thêm vẻ bực dọc muốn ra can thiệp thì đột nhiên Cáp Xích gầm lên một tiếng, vươn tay chụp vào lưng thư sinh.
Thư sinh không né tránh kịp bị lão xách bổng người lên ném mạnh xuống đất.
Nguyên Cáp Xích đại sư vốn là một tay cao thủ về đô vật ở Mông Cổ. Kỹ thuật đánh vật của người Mông Cổ gồm đủ ba môn tuyệt kỹ: đại trảo, trung trảo, tiểu trảo, mỗi thứ đều có một tuyệt kỹ lợi hại riêng.
Cáp Xích là chưởng môn Trung Trảo môn, sở trường về sử kình ở hông và bắp đùi. Lão mà chụp vào trước ngực hay sau lưng đối phương, thì trăm phát trúng cả trăm.
Thư sinh bị lão chụp ném ra, xem chừng dập cả mặt mày. Ngờ đâu sống lưng gã hướng xuống, vậy mà lúc chạm đất thì gã lại đứng hai chân xuống trước.
Chân gã như đặt lò xo, vừa chấm đất lập tức nảy lên. Gã cười hề hề nói:
– Lão vật ta không ngã đâu.
Cáp Xích nói:
– Lại đây!
Thư sinh đáp:
– Hay lắm! Lại thì lại!
Gã đi lại gần, đột nhiên vươn hai tay chụp lấy trước ngực lão.
Quần hào đều rất lấy làm lạ vì thân hình Cáp Xích cao lớn quá cỡ, còn thư sinh lại nhỏ bé gầy nhom, huống chi Cáp Xích lại chuyên nghề đô vật. Ai cũng nhìn thấy thư sinh tỷ đấu với lão, chẳng thi triển khinh công thì cũng dùng quyền chiêu xảo diệu để thủ thắng, mà sao lúc này gã lại đem sở đoản của mình đọ với sở trường của địch?
Cáp Xích liền vươn tay chụp đầu vai thư sinh, vung chân quét ngang khiến thư sinh ngã chúi người về phía trước. Gã ôm lấy cái cổ to bè của Cáp Xích, vung hai chân cùng lúc đá vào đầu gối lão. Hai chân Cáp Xích nhũn ra, người ngã quỵ tới trước.
Cáp Xích tuy thua mà chưa loạn, xoay tay chụp lấy sau lưng thư sinh, rồi đè lên người gã.
Thư sinh la lớn:
– Không được! Không được!
Gã luồn đầu xuống dưới nách lão thò ra, lè lưỡi làm trò quỷ.
Lúc này bọn cao thủ như Hồ Phỉ, Thang Bái, Hải Lan Bật đều hiểu rõ gã thư sinh giỏi về điểm huyệt, Cáp Xích tuyệt nhiên không phải là đối thủ của gã. Còn về môn đô vật, thư sinh cũng rất thuần thục. Tuy tý lực gã không bằng Cáp Xích, nhưng chân tay linh hoạt, mỗi khi lâm vào tuyệt cảnh vẫn có thể thoát ra được. Gã không muốn đánh té Cáp Xích vì đối với lão không có ý thù địch, mà chỉ muốn mượn lão để làm trò vui khiến cho Phúc Khang An và bốn đại chưởng môn phải mất mặt.
Bên kia Tang Phi Hồng thi triển công phu tiểu xảo cùng Thượng Quan Thiết Sinh tỷ đấu không ngừng. Ngũ Hồ Môn của cô ở phủ Phụng Dương chuyên về môn “Thiết liên công”. Mũi giày bọc sắt nhọn nếu đá trúng yếu huyệt ai là có thể lấy mạng ngay.
Thượng Quan Thiết Sinh phiêu bạt giang hồ đã mấy chục năm, làm gì không biết đến sự lợi hại của cô? Mỗi khi mũi giày cô đá tới, hắn vội nghiêng mình né tránh.
Thượng Quan Thiết Sinh là nhân vật thành danh trên chốn giang hồ, đấu với cô gái nhỏ tuổi gần trăm chiêu mà vẫn không chiếm được thế thượng phong chút nào. Lão thấy cô không ngớt tung ra các thế đá nào là “Uyên ương thối”, “Quải tử thối”, “Khuyến đàn thối”, “Câu đảo thối”, nào là “Xuyên tâm thối”, “Tràng tâm thối”, “Đơn phi thối”, “Song phi thối” mỗi lúc một mau lẹ thì thấy bồn chồn trong dạ. Lão xem ra muốn thủ thắng thì chỉ còn cách dùng lại mánh khóe cũ.
Lão nghĩ vậy bèn cười ha hả, nói:
– Đá ngang đá dọc thì làm được gì?
Lão ra vẻ không cần, lại cầm dọc tẩu rít một hơi. Tang Phi Hồng thấy lão hút thuốc vội tránh ngay đầu gió, để phòng lão thở hơi ra.
Sau khi Thượng Quan Thiết Sinh rít một hơi thuốc rồi qua lại mấy chiêu. Hai mắt lão từ từ trợn trừng lên, chiếu ra những tỉa hung quang như con chó điên. Đột nhiên lão gầm lên những tiếng “ô ô” rồi về nhảy phía Tang Phi Hồng.
Tang Phi Hồng thấy bộ dạng lão như vậy trong lòng đã khiếp hãi, không dám tỷ đấu trực diện mà vội lạng mình né sang một bên.
Thượng Quan Thiết Sinh chân không dừng bước, vẫn tiếp tục xông thẳng về phía trước, miệng vẫn gầm “ô ô”, nhưng lại nhảy về phía Phúc Khang An.
Vệ sĩ đứng bên cạnh Phúc Khang An là Tăng Thiết Âu ở Ưng Trảo Nhạn Hành môn chợt thấy Thượng Quan Thiết Sinh phạm thượng làm loạn, vội nhảy tới nắm cổ tay lão hất mạnh ra ngoài.
Thượng Quan Thiết Sinh loạng choạng suýt ngã. Lão trợn ngược hai mắt lên, xông tới bàn tiệc ở mé đông, nào chộp nào đánh loạn xạ cả lên như một kẻ điên khùng.
Hồ Phỉ liếc mắt nhìn Trình Linh Tố, thấy cô tựa như cười mà không phải cười, chàng liền hiểu ngay vừa rồi cô cầm dọc tẩu đưa lại cho Thượng Quan Thiết Sinh là có dụng ý. Chỉ trong khoảnh khắc, cô đã bỏ một loại thuốc mê rất lợi hại vào dọc tẩu, dùng cách gậy ông đập lưng ông, khiến cho kẻ một đời dùng mê dược hại người là Thượng Quan Thiết Sinh trúng lại phải chính mê dược đó. Khi gã hít phải mê dược này vào phổi, thần trí lập tức mê loạn, như điên như khùng, cả viên thuốc giải gã ngậm trong miệng cũng vô tác dụng.
Những cao thủ ở bàn tiệc phía Đông thấy lão xông tới cũng ra tay đối phó. Thượng Quan Thiết Sinh đang lăn mình dưới đất, đột nhiên ôm lấy chân bàn, cắn lấy cắn để.
Quần hào thấy tình trạng này đều ngấm ngầm kinh hãi, không cười ra tiếng được. Chẳng ai hiểu vì lẽ gì mà gã đột nhiên biến thành kẻ điên khùng như vậy.
Trong lúc nhất thời mọi người đều yên lặng, không ai nói gì. Trong nhà đại sảnh chỉ nghe tiếng Cáp Xích thóa mạ “Tiểu súc sinh, tặc tú tài” không ngớt.
Thư sinh kia nói:
– Ta khuyên lão không nên chửi bới nữa!
Cáp Xích giận dữ quát:
– Ta thóa mạ ngươi thì đã sao? Tặc tú tài!
Thư sinh nói:
– Chắc lão không dám thóa mạ Phúc đại soái. Lão có giỏi thì thử mắng một tiếng Tặc đại soái nghe coi.
Cáp Xích tức giận đến cực điểm, chẳng nghĩ ngợi gì nữa, buột miệng mắng liền:
– Tặc đại soái!
Câu mắng chửi vừa ra khỏi miệng, lão đã biết là không ổn, vội đổi giọng:
– Không… không phải là ta thóa mạ y… mà là… thóa mạ ngươi!
Thư sinh cười hỏi:
– Ta không làm đại soái, lão lại thóa mạ ta là “Tặc đại soái” để làm chi?
Cáp Xích mắc bẫy, sợ Phúc Khang An quở trách, trán nổi gân xanh nét mặt đỏ bừng, nhảy xổ lại. Thư sinh nhân lúc tâm thần lão hoang mang, nghiêng mình né tránh, nắm lấy bả vai phải của lão mượn sức đẩy một cái, cả thân hình to lớn của Cáp Xích bị bắn tung đi.
Thượng Quan Thiết Sinh đang điên cuồng ôm chiếc bàn ngoạm lấy ngoạm để thì người Cáp Xích rơi đánh bình một tiếng, đè lên lưng gã. Thượng Quan Thiết Sinh miệng cứ gào “ô ô”, ôm chặt lấy hai vai Cáp Xích, đưa miệng ngoạm vào cái đầu trọc của lão.
Cáp Xích bị đau vung tay muốn hất ra, không ngờ Thượng Quan Thiết Sinh đang lúc thần trí hồ đồ nên sức lực rất ghê gớm. Tý lực của Cáp Xích tuy mạnh hơn hắn nhiều mà không sao thoát ra được. Lão bị hắn cắn, máu tươi đầm đìa cả đầu. Lão đau quá thét lên ầm ĩ.
Thư sinh cười hô hố reo lên:
– Hay quá! Hay quá!
Gã vừa vỗ tay vừa lùi dần về phía tám chiếc Ngọc Long bôi đặt trên kỷ trà.
Đột nhiên gã phất tay áo chụp lấy hai cái chén ngọc, nhìn Tang Phi Hồng nói:
– Đã lấy được ngự bôi rồi, chúng ta đi thôi:
Tang Phi Hồng sửng sốt. Cô vốn không quen biết thư sinh, nhưng thấy gã đối với mình rất đỗi thân thiết nên không tự chủ được, liền gật đầu rồi theo gã vọt ra ngoài.
Sáu bảy tên vệ sĩ đứng bên Phúc Khang An lớn tiếng hô:
– Bắt gian tế! Bắt gian tế!
– Chặn lại ngay!
– Phải bắt bọn giặc ăn cắp ngự bôi!
Rồi chúng ùn ùn đuổi theo như ong vỡ tổ.
Quần hùng thấy gã thư sinh trước mặt đám đông mà dám lớn mật lấy ngự bôi đem đi đều không khỏi kinh hãi.
Có người chạy theo bọn vệ sĩ quát tháo:
– Để ngự bôi lại!
– Tên nào dám náo loạn vậy?
– Hắn ở môn phái nào?
Vừa rồi Thường Hách Chí và Thường Bá Chí từ trên nóc nhà nhảy xuống xông vào giải cứu Nghê thị huynh đệ ở Song Tử môn nên bây giờ trong phủ Phúc Khang An tăng cường thêm nhiều vệ sĩ đến canh gác. Bọn chúng nghe trong đại sảnh có tiếng quát tháo ầm ĩ, mấy gã vệ sĩ cạnh cửa liền đóng cửa lại.
An đề đốc hạ lệnh cho mấy chục tên vệ sĩ bao vây gã thư sinh và Tang Phi Hồng.
Gã thư sinh cười nói:
– Kẻ nào dám xông tới là ta đập chén ngọc, coi nó có bể không?
Bọn vệ sĩ không dám mạo muội xông vào, vì sợ gã liều mạng làm càn đập bể ngự bôi, nên chúng chỉ lăm le binh khí vây kín hai người vào giữa tưởng chừng gió cũng không qua lọt.
Tang Phi Hồng đến tham dự đại hội chưởng môn chỉ vì mục đích muốn coi náo nhiệt chứ chẳng có ý gì khác. Đột nhiên cô bị tai bay vạ gió, sắc mặt lợt lạt, tim đập thình thình cơ hồ nhảy ra khỏi lồng ngực.
Hồ Phỉ nhìn Trình Linh Tố thấy cô từ từ lắc đầu. Hai người tuy có hảo cảm với thư sinh, nhưng lúc này gã bị hãm trong trùng vây, nếu mình ra tay tương trợ thì chỉ uổng thêm hai mạng nữa chứ chẳng ích gì. Cục diện này không có cách nào chống chọi được nữa.
Hải Lan Bật rảo bước tiến lại. Lão mà ra tay thì thư sinh và Tang Phi Hồng đều không chống nổi.
Gã thư sinh nâng cao chén ngọc, cười hì hì, nói:
– Tang cô nương! Lần này chúng ta phải thay đổi chủ ý. Nếu cô ném ngọc bôi đi thì không chừng chén chưa chạm đất đã có người nhanh tay lẹ chân đón lấy. Chi bằng thế này, cô hãy nghe tại hạ hô: Một hai ba. Hễ hô đến ba thì bóp bể chén ngọc trong tay nhé.
Tang Phi Hồng không tự chủ được, khẽ gật đầu, nhưng trong bụng tự mắng thầm:
– Tại sao mình không quen biết gã mà việc gì cũng để gã sai khiến?
Hải Lan Bật tiến thêm một bước. Lão chờ sẵn, hễ chén ngọc liệng ra là nhanh tay đoạt lấy. Nhưng bây giờ nghe thư sinh nói câu này lão lập tức dừng bước lại.
Thang Bái cười khanh khách, tiến đến trước mặt thư sinh hỏi:
– Tiểu huynh đệ! Quý tính đại danh là gì? Cuộc đại hội anh hùng thiên hạ bữa nay, tiểu huynh đệ mới lộ diện có một lần mà đã làm chấn động võ lâm, nếu không lưu tên họ thì còn ra thế nào nữa?
Thư sinh cười đáp:
– Tại hạ một là đã chẳng vì danh, hai là cũng không vì lợi, nhưng thấy chiếc chén này đẹp mắt muốn đem về nhà thưởng thức chơi. Xem chán rồi lại đem đến trả.
Tháng Bái cười nói:
– Tiểu huynh đệ! Võ công của tiểu huynh đệ thật là đặc dị, lão ca ca đã cố tâm quan sát cả nửa ngày trời mà vẫn không nhận ra được là võ công môn phái nào. Tôn sư là vị nào vậy? Không chừng hai bên đã có mối giao tình với nhau… Con người trẻ tuổi giở trò đùa giỡn thì có gì đâu mà làm to chuyện. Phúc đại soái có khi nể mặt ca ca, không trách tội tiểu huynh đệ cũng nên. Vậy chúng ta lại nhập tiệc uống rượu quách.
Dứt lời lão quay về bọn vệ sĩ nói:
– Anh em lùi cả lại! Huynh đệ đây là vị hảo bằng hữu muốn đùa chơi một chút. Cứ lao sư động chúng thế này, chẳng phải để mọi người cười chúng ta quá đỗi hẹp hòi ư?
Bọn vệ sĩ nghe lão nói vậy liền lùi lại hai bước.
Thư sinh cười đáp:
– Lão Thang kia! Ta không mắc vào cạm bẫy của kẻ “nam mô một bồ dao găm” như lão đâu. Lão mà tiến lại thêm một bước nữa thì ta bóp nát chén ngọc ngay lập tức. Nếu lão quả thực đại lượng thì ta mượn chén ngọc đem về nhà ngắm nghía ba bữa, rồi ta đưa đến hoàn trả.
Mọi người đều nghĩ thầm:
– Ngươi mà đem chén ngọc ra khỏi cửa, còn biết đi đâu kiếm ngươi?
– Ngươi hẹn ba ngày đem trả ai mà tin được?
Mọi người đưa mục quang nhìn Thang Bái xem lão trả lời ra sao.
Thang Bái cười khanh khách hỏi:
– Cái đó có chi quan hệ? Tiểu huynh đệ! Có điều chiếc chén ngọc trong tay tiểu huynh đệ chưa định rõ danh phận về ai. Lão ca ca nhờ ân điển của Phúc đại soái, được ban thưởng trước một chén ngọc. Cái chén này lão ca ca sẽ cho tiểu huynh đệ mượn. Tiểu huynh đệ muốn thưởng ngoạn đến bao giờ cũng được. Khi nào tiểu huynh đệ chơi chán rồi thì cứ báo tin cho lão ca ca đến lấy về.
Lão nói rồi đến trước kỷ, trước hết lấy một mảnh gấm đoạn phủ lên tay trái, sau đó mới cầm ngọc bôi đặt trên mảnh gấm, trịnh trọng đi tới trước mặt thư sinh nói:
– Tiểu huynh đệ hãy cầm lấy!
Hành động này của lão hoàn toàn nằm ngoài sự tiên liệu của mọi người. Ai cũng tưởng lão nói ngon nói ngọt để thừa cơ đoạt lại ngọc bôi trong tay thư sinh, không ngờ lão lấy ngọc bôi cho mượn thật.
Thư sinh cũng rất đỗi ngạc nhiên, cười đáp:
– Ngoại hiệu của đại hiệp là “Cam Lâm Huệ thất tỉnh”, quả nhiên khảng khái hơn người. Hai chén ngọc giống hệt nhau, hà tất phải đổi nữa. Ngọc bôi của Tang cô nương đây xem ra cũng là của Hải đại nhân cho mượn. Thang đại hiệp! Nhờ đại hiệp bảo lãnh cho vụ này. Này Hải đại nhân! Xin Hải đại nhân yên tâm. Sau ba bữa mà Tang cô nương không hoàn lại chén ngọc, xin đại nhân cứ hỏi Thang đại hiệp là ra.
Thang Bái cười đáp:
– Được lắm! Cứ đem trách nhiệm đổ lên đầu Thang mỗ, Thang mỗ sẽ hết sức đảm đương. Tang cô nương! Cô nương đừng bảo Thang mỗ làm khó dễ nhé!
Lão nói rồi tiến gần đến Tang Phi Hồng thêm một bước.
Tang Phi Hồng ấp úng:
– Ta… ta…
Cô nghếch mắt nhìn thư sinh không biết đáp thế nào cho phải.
Thang Bái đột nhiên động khuỷu tay đánh vào cổ tay phải của Tang Phi Hồng. Tang Phi Hồng kinh hãi ối lên một biếng, chiếc ngọc bội tuột ra bay tung lên. Giữa lúc ấy Thang Bái tay mặt chụp lại chiếc ngọc bôi để trên tấm gấm đoạn, thì tay trái vung mảnh gấm ra chụp được thiếu niên thư sinh. Ngón tay trỏ bên phải lão cách một mảnh gấm đoạn vẫn điểm trúng ba huyệt “Vân môn”, “Khúc trì” và “Hợp cốc” trên người gã.
Tiếp theo lão vươn tay đón lấy chung ngọc trên không rớt xuống, lại vung chân trái đá ngã Tang Phi Hồng. Tiện đà lão vung đầu ngón chân điểm vào đầu gối cô.
Huyệt “Vân môn” ở bả vai, Khúc trì ở khuỷu tay, “Hợp cốc” ở ngón cái, gã thư sinh bị điểm ba huyệt đạo từ vai đến đầu ngón tay đều tê bại không còn sức, muốn bóp vỡ chén ngọc cũng không được nữa.
Mấy cử động này mau lẹ dị thường như trò ảo thuật. Quần hùng chưa ai kịp nhìn rõ mà Thang Bái đã đánh ngã hai người, tay phải cầm ba chén ngọc bôi đặt lại trên kỷ trà. Đợi đến khi lão cười hì hì ngồi vào ghế thái sư, quần hào mới cất tiếng hoan hô vang dội.
Quách Ngọc Đường sờ hàm râu, ca ngợi không ngớt lời:
– Chỉ trong chớp mắt đã đánh ngã hai người là một việc cực khó. Khó hơn nữa là ba chiếc ngọc bôi lại ở trong tay ba người, chỉ xuất thủ sai một ly thì bất kỳ là ai cũng làm hỏng các chiếc ngọc bôi, khiến cho đại hội kém phần hoàn mỹ. Võ công Thang đại hiệp cao thâm khỏi cần phải nói, về đởm lược của lão nhân gia lại càng đáng phục. Trình lão đệ! Lão đệ nghĩ có đúng không?
Hồ Phỉ gật đầu đáp:
– Thật là hiếm có!
Màn kịch vừa rồi diễn ra chớp nhoáng như sét đánh khiến chàng bất giác phấn khởi hùng tâm, tự nhủ:
– Lão họ Thang quả nhiên tài nghệ bất phàm. Nếu có cơ duyên ta phải cùng lão tỷ đấu một phen.
Chàng lại tự nhủ:
– Gã thiếu niên thư sinh kia và Tang cô nương lỡ tay bị bắt, dù có bảo toàn được tính mạng cũng phải chịu hành hạ khổ sở. Ta phải tìm cách gì cứu họ mới được.
Lúc này bọn vệ sĩ đã lấy dây thừng cột thư sinh và Tang Phi Hồng đẩy đến trước mặt Phúc Khang An để chờ hắn phát lạc.
Phúc Khang An vẫy tay truyền lệnh:
– Hãy để chúng sang một bên rồi từ từ sẽ tra hỏi sau để khỏi cản trở hứng thú của các vị anh hùng. An đề đốc! Đề đốc mời các vị tiếp tục tỉ đấu đi.
An đề đốc dạ một tiếng rồi truyền lệnh cho quần hào tiếp tục tỉ thí.
Hồ Phỉ thấy bọn người này đấu lui đấu tới mà chưa thấy ai là người kiệt xuất.
Chàng mải nghĩ tới hai đứa con của Mã Xuân Hoa không hiểu sao chúng lại bị đoạt về, không rõ Mã Xuân Hoa có gặp nguy nan gì không, nên chẳng còn tâm trí đâu mà xem người ta tỷ thí nữa.
Đã có hơn mười người tỷ đấu qua lại. Bỗng nhiên ngoài cửa có vệ sĩ lớn tiếng hô:
– Thánh chỉ đến!